TẠNG LUẬN
SỐ 1598 -NHIẾP ĐẠI THỪA LUẬN THÍCH (2)
Tác giả: Bồ-tát Vô Tánh. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Phần thứ 1: NÊU TỔNG QUÁT VỀ CƯƠNG YẾU
Phần thứ 2, (Đoạn 1): CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 2, (Đoạn 2): CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 2, (Đoạn 3): CHỖ DỰA CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 3, (Đoạn 1): TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 3, (Đoạn 2): TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 4: NHẬP TƯỚNG CỦA ĐỐI TƯỢNG NHẬN THỨC
Phần thứ 7: GIỚI HỌC TĂNG THƯỢNG
Phần thứ 8: TÂM HỌC TĂNG THƯỢNG
Phần thứ 9: TĂNG THƯỢNG HUỆ HỌC
Phần thứ 10, (Đoạn 2): QUẢ TRÍ
Kính lạy Đại giác, chư Như Lai,
Chánh pháp Vô thượng Thánh chúng thật,
Vì lợi tự tha pháp trụ mãi,
Nên con lược thích Nhiếp Đại thừa.
Luận nói: "Trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, đức Bạc-già-phạm, trước đã khéo nhập Đại thừa Bồ-tát, vì hiển thể lớn lao của Đại thừa cho nên nói".
Giải thích: Muốn lấy mười nghĩa để thâu tóm hết thảy yếu nghĩa của Đại thừa, nghĩa đó có thể hiển thể tánh của luận này, là Thánh giáo, dùng Thánh giáo nầy làm cửa mà nói câu mở đầu "Kinh Đại thừa A-tỳ-đạtma…". Vì chọn lựa nhân của pháp, hoặc cùng chung hiểu biết, nên A-tỳ-đạt-ma lấy tưởng làm cờ hiệu. "Kinh Đại thừa", là để lựa riêng với các kinh luận khác. Nếu giải thích sơ lược thì cũng là thừa, cũng là đại, hoặc là thừa đại tánh, nên gọi là Đại thừa, vì nhân quả lớn, vì nghiệp vận chuyển đầy đủ.
Quả là mười Địa, nếu giải thích rộng thì có bảy thứ tánh đại cùng chung tương ưng, nghĩa là Bồ-đề phần, Ba-la-mật-đa và tướng học trì... kết nối thông suốt do đó gọi là Kinh, ở đây thì tùy trong tám thời, trực thuyết và phi trực thuyết trên thức của người nghe, tụ tập hiển hiện lấy làm thể tánh. Nếu như thế thì làm sao bồ-tát có thể nói không phải thức của người nghe? Vì Bồ-tát kia có thể nói, Bồ-tát kia sinh tăng thượng nên khởi nói như vậy, ví như lực tăng thượng của chư Thiên… Khiến cho trong mộng được Luận, được thần chú…
Nếu lìa Thức thì Phật làm sao nói những câu trong Khế Kinh? Ngữ (câu nói) làm tự tánh cũng không xứng lý, vì mỗi mỗi chữ là chủ thể nêu giảng hiển nghĩa thì không xứng lý, thứ tự mà sinh thì không đồng thời trụ, vì không có tụ tập. Như vậy thì không đắc tự tánh của thức, vì ngữ không có chuyển nên không xứng lý. Lại nữa, không phải không có chữ (tự) chuyển biến mà có ít danh chủ thể nêu giảng, nên các Khế Kinh gọi là tự tánh cũng không xứng lý, do đó quyết định như chỗ thuyết kinh, tự tánh xứng lý trong chỗ thuyết kinh Đại thừa Atỳ-đạt-ma nầy.
"Đức Bạc-già-phạm", là phá các ma, có thể phá bốn thứ đại ma oán, nên gọi là đức Bạc-già-phạm. Bốn thứ ma oán: 1. Ma phiền não. 2. Ma uẩn. 3. Ma thiên. 4. Ma tử. Nương vào Tam-ma-địa không, có thể phá tất cả thô trọng ma phiền não, trụ tướng chuyển y thì vô lượng thiện căn tùy thuận chứng đắc, hoặc lại nương tựa tinh tấn lực huệ lực, có thể phá ma uẩn, nương vào đẳng trì từ có thể phá ma thiên, nương vào tu thần túc có thể phá ma tử. Vì có khả năng phá bốn ma như vậy, nên gọi là đức Bạc-già-phạm. Lại nữa, công đức của các tự tại tương ưng nên nói Phật là đức Bạc-già-phạm. Tại sao vậy? Vì phải tuyên thuyết Phật Thế Tôn, đối với những điều trước kia, hiển thị Phật khai thuyết thừa nhận có thể lưu thông rộng, thân cận đối với Đại sư không có gì nào khác, như kinh Thập Địa, người đã có thể khéo nhập Đại thừa, hoặc nương vào dấu vết của đức, hoặc cùng chung biết rõ, là người kia đã có thể khéo nhập Đại thừa, hoặc đối với người nầy đã cực kỳ khéo nhập, nên gọi là "Đã có thể khéo nhập Đại thừa", hiển thị người ấy đã đắc các công đức Đà-la-ni biện tài, đối với nghĩa của Đại thừa có thể thọ trì và có thể mở rộng ra, nên nương vào nghĩa nầy mà nói tên đức Bạc-già-phạm như vậy.
Nói "Bồ-tát" là Bồ-đề Tát-đỏa làm cảnh đối tượng nên gọi là Bồ-tát, dựa vào những lời hoằng thệ mà lập Bồ-tát thanh (tiếng phát âm Bồ-tát), cũng thấy các Kinh Luận khác dùng cảnh đối tượng mà nói tên đó. Như bất tịnh… là cảnh đối tượng, thì hai Tam-ma-địa gọi là Bất tịnh, gọi là Không, hoặc ngay trên tâm đó, vì cầu Bồ-đề mà có chí, có khả năng, nên gọi là Bồ-tát.
"Vì hiển thể lớn lao của Đại thừa", là thậm thâm cao rộng Vô thượng nên gọi là thể lớn lao. Thể thanh (tiếng phát âm thể) tức là nói tác dụng của tự tánh, cũng như thế gian nói sức nóng ấm của lửa làm thể, cái hại của độc làm thể. Thể nầy lớn nên gọi là thể lớn lao. "Hiển", là khai thị chỗ chưa hiểu biết của người khác. "Vì", là vì muốn.
Luận nói: "Nói nương Đại thừa mà chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng ngữ thù thắng: 1. Chỗ dựa của đối tượng nhận thức thù thắng thù thắng ngữ. 2. Tướng của đối tượng nhận thức thù thắng thù thắng ngữ. 3. Nhập tướng của đối tượng nhận thức thù thắng thù thắng ngữ. 4. Nhập nhân quả ấy thù thắng thù thắng ngữ. 5. Nhân quả tu sai biệt ấy thù thắng thù thắng ngữ. 6. Ngay trong tu sai biệt như vậy giới tăng thượng thù thắng thù thắng ngữ. 7. Ngay trong tu sai biệt như vậy tâm tăng thượng thù thắng thù thắng ngữ. 8. Ngay trong tu sai biệt như vậy huệ tăng thượng thù thắng thù thắng ngữ. 9. Quả đoạn ấy thù thắng thù thắng ngữ. 10. Quả trí ấy thù thắng thù thắng ngữ. Do điều nói này, các câu trong Khế Kinh của chư Phật Thế Tôn hiển thị Đại thừa đúng là lời của Phật".
Giải thích: Nói "thanh (tiếng)", tức là lược nêu chỗ nói nghĩa của mười thắng xứ. "Nương Đại thừa", là những gì làm nói không phải là Thanh-văn thừa, cũng không phải là thế gian, mà nêu ra Đại thừa để làm nghĩa quyết định. "Hiển chỗ dựa", tức thừa nầy không phải thừa nào khác, nương vào thế gian là do các tướng khác, khác với lời Phật nói. Như tụng nói:
Đế ngữ mà không giận,
Thí ít không mong cầu.
Như vậy, nếu nương vào Thanh-văn, thì do các tướng khác nên khác với Đại thừa.
Như có tụng nói:
Các hành vô thường,
Pháp có sinh diệt,
Như vậy, nên nêu lại
Đại thừa là xứng lý.
"Có mười", là lấy số hiển số lượng Phật ngữ thù thắng, để an lập thể của luận.
"Tướng", là chủng loại, tức tướng nầy lần lượt có sai biệt không xen tạp nên gọi là thù thắng, hoặc lại đối chiếu với các pháp của Thanh-văn Độc giác kia, rất xa xôi và mơ hồ. Lại nữa, vì tăng thượng nên gọi là thù thắng, có thể dẫn phát đại Bồ-đề, là do mười tướng nầy là thù thắng. Ngữ thù thắng kia, do đó nói có mười tướng thù thắng, ngữ thù thắng.
"Phật Thế Tôn", là đã diệt tận nhiễm ô, bất nhiễm ô, nơi hai thứ si và thuỳ miên. Đối với trí của tất cả đối tượng nhận thức là nghĩa khai phát, nên gọi là Phật, như Sĩ phu tỉnh thức, như hoa sen nở. Như có người nói: "Tỉnh thức nghĩa khai phát, có khi nghiệp Phật giới". Như vậy v.v...
Luận nói: "Lại nữa, làm sao có thể hiển mười xứ nầy, đối với Thanh-văn thừa chưa từng thấy nói, chỉ có trong Đại thừa các Kinh Luận đều thấy nói. Nói thức Alại-da là chỗ dựa của đối tượng nhận thức thể. Ba thứ tự tánh là: 1. Tự tánh Y tha khởi. 2. Tự tánh Biến kế sở chấp. 3. Tự tánh Viên thành thật. Ba tánh nầy gọi là thể tướng của đối tượng nhận thức, duy tánh thức gọi là nhập tướng của thể đối tượng nhận thức, sáu Ba-la-mật-đa gọi là bỉ nhập thể của nhân quả, Bồ-tát mười địa gọi là thể của nhân quả tu sai biệt, Bồ-tát luật nghi gọi là giới thể tăng thượng trong đây, các Tam-ma-địa Thủ-lăng-giàma, hư không tạng, gọi là tâm thể tăng thượng, trong đây, Trí vô phân biệt gọi là Thể huệ tăng thượng, trong đây Niết-bàn Vô trụ gọi là Thể quả đoạn. Ba thứ thân Phật là: 1. Thân tự tánh. 2. Thân thọ dụng. 3. Thân biến hóa. Ba thân nầy gọi là của thể quả trí, do chỗ nói mười xứ nầy hiển thị Đại thừa khác với Thanh-văn thừa. Lại nữa, hiển thị tối thắng, đức Thế Tôn chỉ vì Bồ-tát mà tuyên thuyết, nên phải biết chỉ nương vào Đại thừa, chư Phật Thế Tôn có mười tướng thù thắng, ngữ thù thắng".
Giải thích: Chỗ đáng nên biết gọi là đối tượng nhận thức, y là chỗ dựa. Thanh nơi chỗ dựa nầy lựa riêng lấy chủ thể dựa, là các pháp Hữu vi tạp nhiễm và thanh tịnh, không coi là vô vi, vì vô vi không có nghĩa sở y. Chỗ dựa tức là thức A-lại-da, là nhân của vô vi, có thể dẫn phát vô vi, như chỗ thích ứng của nó, nếu như thế thì đối tượng nhận thức là nơi tựa của đối tượng nhận thức, vì thức dị thục là của tánh đối tượng nhận thức nên không trái nhau, chỗ dựa của đối tượng nhận thức nầy tức là thù thắng, vì thù thắng ấy nên ngữ cũng thù thắng, tức là chư Phật Thế Tôn trước đã nói: "Tất cả xứ tùy chuyển".
Tướng của đối tượng nhận thức, là của tự tánh đối tượng nhận thức, vì là tướng của đối tượng, nương vào nghiệp vận hành nói là đối tượng nhận thức, đối tượng được đoạn trừ, đối tượng được chứng đắc… của Đa-trílỗ-trà, hoặc nương vào sự vận hành đủ lấy Biến kế sở chấp nơi tướng không có tướng của đối tượng để tiêu biểu về vô tánh, tánh Viên thành thật là cộng tướng của nó, tánh Y tha khởi là tự tướng của nó. Nghĩa của ngã, hữu tình thì thức lần lượt có riêng khác, như địa giới… lấy tánh cứng rắn của nó làm tướng có thể biểu thị, tuy không có dị tánh nhưng nói là tướng, cũng như tuyên nói tướng đại Sĩ phu, thì sư của Kinh Bộ… sinh ra các tướng, do nhân duyên nầy, hoặc đối tượng nhận thức là tướng, hoặc tướng của đối tượng nhận thức, do đó gọi là tướng của đối tượng nhận thức, vì nói không có dị tánh, dị tánh và không có dị tánh, như điều thích ứng của nó nên tướng nầy cũng vậy.
Nhập tướng của đối tượng nhận thức, là có thể nhập chỗ cần biết nơi tướng nầy, hoặc là chủ thể nhập của tướng của đối tượng nhận thức. Nhập, là hiện quán nhập nơi tướng của đối tượng nhận thức, tức là tánh duy thức, đây tức là thù thắng, vì thù thắng nầy nên ngữ cũng thù thắng.
Nhập nhân quả ấy, là tánh duy thức gọi là nhập hạnh thắng giải Địa, khi tu gia hạnh Ba-la-mật-đa chưa tịnh của thế gian gọi là nhập nhân. Khi đã chứng nhập tức là ý lạc thanh tịnh tăng thượng gồm thâu Ba-la-mật-đa xuất thế gian, gọi là Nhập quả. Nhập nhân quả kia tức là thù thắng, vì thù thắng nầy nên ngữ thù thắng.
Nhân quả ấy tu sai biệt, tức là nhân quả của tánh duy thức, luôn luôn luyện tập nhân quả nầy nên gọi là tu, từng phần khác nhau nên gọi là sai biệt. Nhập nhân quả ấy tu tánh sai biệt tức là mười địa, là thù thắng, vì thù thắng nầy nên ngữ cũng thù thắng. Ngay trong các địa Ba-la-mật-đa tu sai biệt thâu lấy rồi sau đó siêng năng tu học, tức là các địa nầy làm chỗ dựa an lập ba học:
1. Giới học tăng thượng, là chỗ dựa giới mà chánh cần tu học, do đó gọi là giới học tăng thượng, tức luật nghi của Bồ-tát trong các địa: Xa lìa các ác, tạo lợi ích cho hữu tình, thâu tóm tất cả thiện, là ba thứ tịnh giới chỗ thọ Thi-la, để phòng hộ các nghiệp thân khẩu… sinh trụ… trong quá khứ. Như người điều phục ngựa, rất khéo chế ngự nên gọi là luật nghi. Như vậy tức nương vào Thi-la tăng thượng mà tu học chánh hạnh nên gọi là học. Vì giới nầy tức thù thắng, vì thù thắng ấy nên ngữ cũng thù thắng.
2. Tâm học tăng thượng là chỗ dựa tâm mà chánh cần tu học, do đó gọi là tâm học tăng thượng, tánh của tâm nầy tức là các Tam-ma-địa như hư không tạng… chữ đẳng (vân vân…) Là bao gồm Tam-ma-địa vương của hiền hộ… Lại nữa, trong tâm học tăng thượng nói:
Ngay các Tam-ma-địa,
Đại sư nói là tâm,
Màu sắc do tâm vẽ,
Như sự nghiệp đã làm.
3. Huệ học tăng thượng, là chỗ dựa huệ nầy mà chánh cần tu học, do đó gọi là huệ học tăng thượng, tánh của huệ nầy tức là Trí vô phân biệt, đối trị tất cả hý luận phân biệt. Trong ấy Trí vô phân biệt gia hạnh căn bản chỗ dựa tức là Trí vô phân biệt, Căn bản hậu đắc nương dựa, nương dựa như vậy không phải là chỗ nói kế tiếp. Như vậy ba thứ học giới tâm huệ là thể tánh của đạo. Hai thứ của quả kia là: 1. Đoạn. 2. Trí. Vì huệ nầy thù thắng nên ngữ cũng thù thắng.
Quả đoạn kia, là các học quả kia gọi là bỉ quả. Bỉ quả tức là đoạn nên gọi là quả kia đoạn. Tánh của đoạn nầy là đó chướng chỉ là khách, lìa trói buộc, chân như giải thoát, Niết-bàn Vô trụ, vì thấy tịch tĩnh đó nên sinh tử tức Niết-bàn, là quả kia làm duyên, không có nhiễm chấp, không phải Niết-bàn giới Vô dư y nên là Vô trụ.
Vì đoạn nầy là thù thắng, vì thù thắng ấy nên ngữ cũng thù thắng.
Quả trí kia, là các học quả kia gọi là bỉ quả, bỉ quả tức là trí nên gọi là quả trí kia. Tánh của trí nầy tức là ba thứ thân Phật: 1. Thân tự tánh, tức là trí vô cấu không trở ngại, là nghĩa của pháp thân. Hiện tại quả trí nầy cùng với Trí vô phân biệt kia có sai biệt gì? Vì cả thảy phân biệt của hai thứ như vậy đều không hiện hành, Trí vô phân biệt kia có đối trị, có tạo tác, quả trí nầy là chỗ tạo tác đã làm xong của trí kia, tức có sai biệt như vậy. 2. Thân thọ dụng, tức là trí hậu đắc, do lực thù thắng của trí nầy và các chúng đại Bồ-tát thù thắng cùng chung thọ diệu pháp lạc bất cộng, làm xong các sự thọ dụng như vậy nên gọi là thân thọ dụng. Nếu không có Trí thanh tịnh ngoài như vậy, thì việc làm của Bồ-tát và tư lương khác đáng lẽ phải không viên mãn. 3. Thân biến hóa, tức là sai biệt của trí hậu đắc, ngay trên chủ thể biến hóa gọi là thân biến hóa, sự hiển hiện của lực tăng thượng nầy tức là sự sai biệt của trí, tức do trí hậu đắc nầy mà có thể hàng phục các Luận khác, và cùng thọ pháp lạc với Bồtát không có đoạn dứt. Các chúng Bồ-tát làm xong nghiệp ban đầu, thì đó là việc nên làm của các Thanhvăn, Độc giác. Ví như nhãn thức, lãnh thọ rõ các sắc, nếu không có nhãn thức thì các sắc nầy cũng phải không có. Đây là thù thắng, vì thù thắng ấy nên ngữ cũng thù thắng. Do đây đã nói mười xứ, là mười xứ này và những cái khác là nghĩa chung của Đại thừa. Xứ nghĩa là sự. Khác với Thanh-văn thừa, là đối với họ, không nói sự nầy. Lại nữa, "hiển bày tối thắng", là nói rốt ráo về đạo của quả Phật. "Thế Tôn chỉ vì Bồ-tát mà nói", là trong đây nên nói cho Bồ-tát, chỉ vì Bồ-tát mà nói, do Phật hiện thấy sự khai phát thừa nhận của Phật mà nói, gọi là Thế Tôn nói. Như các Kinh mười Địa… nên đầu tiên là nói đức Bạc-già-phạm.
Luận nói: "Lại nữa, mười tướng thù thắng nầy là gì? Vì Như Lai ngữ thù thắng nên hiển đối với Đại thừa, đúng là Phật ngữ ngăn cản Thanh-văn thừa. Tánh Đại thừa đó từ mười xứ nầy, đối với Thanh-văn thừa chưa từng thấy nói, chỉ có các kinh luận trong Đại thừa là nói đến. Nói mười xứ nầy là khả năng tối thượng dẫn khởi tánh đại Bồ-đề, là khéo thành lập tùy thuận không trái nghịch, vì có thể chứng đắc trí của Nhất thiết trí. Ở đây có hai bài tụng:
Sở tri y và sở tri tướng,
Bỉ nhập nhân quả, bỉ tu dị,
Ba học, bỉ quả đoạn và trí,
Tối thượng thừa thâu tóm thù thắng.
Thuyết nầy, các thừa thấy, không thấy,
Nhân Bồ-đề, tối thắng do đây,
Nên nhận Đại thừa là Phật ngữ,
Do nói mười xứ mà thù thắng.
Giải thích: "Lại nữa, thế nào là do mười tướng thù thắng này"? Cũng chưa có tín giải nên đặt ra câu vấn nạn nguyên nhân ấy. Tạo sao? Không phải sáu trong Thanhvăn thừa sáu cú nghĩa chưa từng thấy nói, trong các luận của Phệ-thế sư đều thấy nói, tức khiến cho luận của Phệ-thế sư đúng là Phật ngữ. Câu đáp đầu tiên dung chứa được vấn nạn của người ngoài như vậy, nên sau đó nói chung, mười xứ nầy là khả năng tối thượng dẫn khởi tánh đại Bồ-đề. Cũng giác cũng đại nên gọi là đại Bồ-đề, hoặc giác ngộ đại tánh nên gọi là đại Bồ-đề. Đại Bồ-đề nầy, trí đoạn thù thắng lấy nó làm tự tướng thù thắng. Như nói phiền não, đối tượng nhận thức chướng đoạn. Do chướng kia đoạn nên đắc trí vô cấu không trở ngại. Như vậy bốn thứ gọi chung là Bồ-đề. "Khả năng dẫn khởi tối thắng", là nói mười xứ nầy là tánh có thể chứng đắc, không phải sáu cú nghĩa, hoặc tối thắng… do đó luận kia không phải thật là Phật ngữ. "Khéo thành lập", là mười xứ như vậy chỗ tùy của chánh lượng, như đang quyết đoán rộng. "Tùy thuận", là chủ thể đối hướng, là có thể thuận nghĩa. "Không trái nghịch", là không có lỗi trái nghịch, không giống như tà trí của sáu cú nghĩa, hoặc Thanh-văn thừa có lỗi nên trái nghịch Phật quả. Hai bài tụng trong đây, là bài tụng đã giải thích và đang giải thích.
"Thuyết nầy, các thừa thấy, không thấy", là thuyết mười xứ thù thắng ngữ nầy trong các Kinh Luận của Đại thừa đều thấy nói, trong các kinh khác Tiểu thừa đều chưa từng thấy nói.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao nói mười xứ nầy theo thứ tự như vậy? Là các Bồ-tát đối với các pháp mà nhân trước hết phải làm cho xong, rồi đối với duyên khởi phải đắc thiện xảo. Sau đó duyên sinh ra phải biết rành tướng của nó, phải khéo xa lìa lỗi nhị biên là tăng ích và tổn giảm. Rồi lại khéo tu, như vậy Bồ-tát nên thông đạt đúng. Giả chọn lấy tướng khiến từ các chướng mà tâm được giải thoát. Sau đó đã thông đạt tướng của đối tượng nhận thức rồi, trước hết phải hành vị Gia hạnh, do đó chứng đắc sáu Ba-la-mật-đa, càng phải thành mãn ý lạc tăng thượng, mà đắc thanh tịnh. Sau đó ý lạc thanh tịnh gồm thâu sáu Ba-la-mật-đa. Trong mười địa, từng phần sai biệt cần phải siêng năng tu tập, là phải trải qua ba vô số đại kiếp, tiếp theo đối với chỗ học của tam Bồ-đề phải khiến viên mãn. Đã viên mãn rồi thì quả Niết-bàn kia và chánh đẳng Bồ-đề phải hiện đồng chứng, cho nên nói mười xứ theo thứ tự như vậy. Lại nữa, trong đây nói tất cả Đại thừa đều đắc cứu cánh".
Giải thích: Để biện luận do mười xứ nầy tiến đến đại Bồ-đề, cho nên khai thị lại thứ lớp phương tiện và cái nhân cần thiết, là các Bồ-tát trước hết đối với nhân đắc thiện xảo xong rồi mới đối với duyên khởi phải đắc thiện xảo, biết từ nhân nầy mà có quả kia, lại biết quả kia phải từ nhân nầy, nên không phải lìa nhân nầy mà nói giáo có thể biết rõ. Nhân kia tức là thức A-lại-da, do thuyết nầy mà liền xả vô nhân và nhân bất bình đẳng. Sau đó đối với pháp do duyên sinh phải hiểu rõ tướng của nó, xa lìa bên tăng ích và tổn giảm. Đối với cái không không có nhân gượng lập là có nên gọi là tăng ích. Đối với có, không có nhân thì gượng bác là không có, nên gọi là tổn giảm, như vậy tăng ích và tổn giảm đều gọi là bên, đó là nghĩa rơi rớt. Khi hai bên nầy chuyển thì hư mất trung đạo. Do khéo luyện tập quán chân thật nên đối với hai bên nầy xa lìa thiện xảo. Đối với Biến kế sở chấp thì chỉ có tăng ích không có tổn giảm, đều không có, vì phải đối với có mới khởi tổn giảm. Đối với Y tha khởi thì không có tăng ích, vì có thể nên đối với chẳng phải hữu mới có tăng ích, cũng không có tổn giảm, vì chỉ là hư vọng có. Đối với Viên thành thật thì không có tăng ích, vì là thật có nên chỉ có tổn giảm, do quán chân thật nầy, hoặc đối với hai bên ấy mà "Khéo có thể xa lìa lối nhị biên bên tăng ích và tổn giảm", là đối với tánh Y tha khởi, thì tăng ích thật ra không có tánh Biến kế sở chấp, tổn giảm thì thật ra có tánh Viên thành thật.
Lại nữa, như trong kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: "Này từ thị! Ý ông thế nào? Trong các Biến kế sở chấp không phải thật có tánh, là sắc hay phi sắc? Không phải như vậy, bạch Thế Tôn! Trong các Y tha khởi chỉ có danh và tưởng nêu đặt ngôn thuyết, tánh là sắc hay phi sắc thì không phải như vậy, bạch Thế Tôn! Không. Tánh vô ngã kia trong các Viên thành thật là sắc hay phi sắc, không phải như vậy, bạch Thế Tôn! Này từ thị! Vì môn nầy nên phải biết như vậy, các Biến kế sở chấp quyết định là chẳng phải, các tánh Y tha khởi thì chỉ có danh tướng nêu đặt nói năng, các Viên thành thật thì tánh không, vô ngã, là có chân thật. Ta nương đây mà mật ý nói Viên thành thật kia không có hai tâm sở, chỉ là sắc… Như vậy là giải thoát lỗi nhị biên".
Đối với ba tự tánh đắc thiện xảo xong. Do tánh duy thức, phải khéo thông đạt tướng nhập của đối tượng nhận thức, tức là thông đạt làm chứng, hoặc do đấy nên thuận với thông đạt, sau đó thì thuận với tánh Duy thức. Thể của thông đạt nhập vào chỗ tu sáu Ba-la-mật-đa, do thắng nghĩa, càng phải chứng đắc ý lạc thanh tịnh, càng phải thâu nhận dục và thắng giải, gọi là ý lạc. Hai thứ nầy lúc đó tuy không có tăng thêm tâm sở, nhưng chứng tịnh thâu tóm do đó nói là thanh tịnh, sau đấy thì mười xứ kia trong mười địa, đối với ba học siêng năng tu học, ba vô số kiếp tu tập nên phải khiến cho viên mãn. Tiếp theo thì hai chướng phiền não, đối tượng nhận thức của quả kia vĩnh viễn đoạn, trí vô cấu không trở ngại và trí của Nhất thiết trí càng phải chứng đắc. Như vậy chỗ biện luận về thứ lớp phương tiện và chỗ nhân cần thiết là có thể thuận với tánh đại Bồ-đề, tức do thứ lớp như vậy được nói ra, chỉ có mười xứ bất tăng bất giảm. Như thế thích chủ đã tùy thuận hai luận, do đó phải biết, đạo của Thanh-văn thừa tức là đạo của Phật thừa thì không đúng đạo lý. Nếu thế thì quả của nó không có sai biệt. Lại nữa, trong tất cả Thanh-văn thừa chưa từng có xứ, chỉ vì các Bồ-tát mà rộng nói Phật đạo. Lại cũng không thừa nhận Phật và Thanh-văn không có sai biệt. Thầy trò truyền nhau kiến lập lẽ ra không có, vì thuyết nầy có hai đạo sai biệt, do đó nói mười xứ nầy gồm thâu hết Đại thừa, cả thảy Cương yếu Đại thừa không có nói riêng.
-----------------------------------
Luận: "Trong đây đầu tiên hay nói chỗ dựa của đối tượng nhận thức, tức là thức A-lại-da. Đức Thế Tôn trong kinh luận nào nói thức A-lại-da là thức A-lại-da? Là đức Bạc-già-phạm trong Dà-tha (kệ) của kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma đã nói:
Giới vô thỉ đến nay,
Tất cả pháp cùng nương,
Do đây có các cõi,
Và Niết-bàn chứng đắc".
Giải thích: Đây là dẫn A-cấp-ma chứng minh thức A-lại-da gọi là chỗ dựa của đối tượng nhận thức. "Vô thỉ đến nay", là chỗ bắt đầu không có, "giới" là nhân, tức là chủng tử. Là nhân chủng của ai? Là nhân chủng của tất cả pháp chỉ có tạp nhiễm, không phải thanh tịnh, sau sẽ nói chỗ dựa của huân tập đa văn không phải chỗ gồm thâu của thức A-lại-da. Nếu như thức A-lại-da thành chủng tử thì chỗ gồm thâu của tác ý như lý là chỗ khởi của tợ pháp tợ nghĩa. "Tất cả pháp cùng nương", là có thể thâu giữ nên không phải tánh của nhân, nghĩa là chủ thể nhận giữ, nghĩa là chỗ dựa, không phải nghĩa là tánh của nhân. Tánh của chủ thể dựa vào và chỗ dựa mỗi mỗi đều khác nhau, nếu không phải như vậy, thì giới thanh (tiếng giới) đã hết không có gì mượn để nói.
"Do đây có các cõi và Niết-bàn chứng đắc" là như chỗ chọn lựa sẽ rộng phân biệt, là sinh các tạp nhiễm… các Na-lạc-ca (địa ngục)…, nếu lìa thức A-lại-da thì đều không có những thứ sinh nầy. Tạp nhiễm rốt ráo ngừng dứt gọi là Niết-bàn, nếu lìa thức A-lại-da thì không phải chứng đắc.
Luận nói: "Trong đây lại nói tụng:
Do thâu chứa các pháp,
Hết thảy chủng tử thức,
Nên gọi A-lại-da,
Thắng giả, ta khai thị".
Giải thích: Lại dẫn điều mà Thánh ngôn nói, để làm chứng thức A-lại-da gọi là A-lại-da. Có thể thâu chứa các pháp, đó là nghĩa đối tượng được huân tập, là nghĩa tập khí, không giống như đại… hiển rõ pháp tánh. Trong tạng tối thắng, thức A-lại-da thâu chứa các pháp cũng lại như vậy, vì nói gọn nghĩa nó, nên nói hết thảy chủng tử thức, vì cùng hết thảy chủng tử sinh diệt. Thức A-lại-da cùng với các thức chuyển làm duyên lẫn nhau, lần lượt thâu chứa, nên gọi là thức A-lại-da, không giống như tối thắng, tức là hiển rõ tánh, vì hiển tự để lựa riêng yếu kém. "Thắng giả, ta khai thị", tức là đại Bồ-tát có thể gắng nhận nên gọi là thắng giả, vì đại Bồ-tát mà khai thị, không phải vì các hàng yếu kém khác.
Luận nói: "Như vậy lại dẫn A-cấp-ma làm chứng. Duyên cớ gì mà thức nầy gọi là thức A-lại-da? Tất cả hữu sinh phẩm pháp tạp nhiễm, đối với thức nầy thâu chứa làm quả tánh. Lại nữa, ngay thức nầy đối với pháp tạp nhiễm kia thâu chứa làm nhân tánh, nên gọi là thức A-lại-da, hoặc các hữu tình thâu chứa thức nầy làm tự ngã, nên gọi là thức A-lại-da".
Giải thích: "Tất cả hữu sinh", là các hữu vi. "Phẩm pháp tạp nhiễm", là lựa riêng với pháp thanh tịnh, không phải pháp thanh tịnh là tánh tạp nhiễm, là chỗ đối trị kho tàng chứa của tất cả tạp nhiễm, chỗ thâu chứa của thể tánh chủng tử, có thể trị tạp nhiễm kia mà không trái nghịch lẫn nhau, làm tánh của nhân quả là đúng đạo lý, nhưng được làm chỗ dựa. Nếu xứ có đối tượng đối trị thì cũng có chủ thể đối trị. Đối với thâu chứa nầy hiển chủ thể duy trì tập khí, vì không phải chỉ có tập khí gọi là thức A-lại-da, phải chủ thể duy trì tập khí như luận trên nói ý thức: "Hoặc các hữu tình thâu chứa thức nầy làm tự ngã", là nghĩa chấp giữ.
Luận nói: "Lại nữa, thức nầy cũng gọi là A-đà-na thức". Trong đây A-cấp-ma, như kinh Giải Thâm Mật nói:
"Thức A-đà-na sâu, vi tế,
Hết thảy chủng tử như dòng thác,
Ta đối phàm ngu không khai diễn,
Vì sợ phân biệt chấp làm ngã".
Giải thích: Lại dẫn tên khác mà giáo khác nói, để khai thị kiến lập thức A-lại-da khiến nó hết sức rõ. Nói "Thậm thâm", là vì người thông thái ở đời với tất cả giác huệ của họ cũng tới cùng đáy không được. Nói "vi tế", là các Thanh-văn khó biết rõ, do đó không vì Thanh-văn, Độc giác mà khai thị thức nầy, vì họ không cầu trí của thảy trí. "Hết thảy chủng tử như dòng thác", là từng sátna lần lượt nối tiếp như dòng thác chảy. "Ta đối phàm ngu không khai diễn", là đối với những người giữ chặt ngã kiến không khai diễn. "Vì sợ phân biệt chấp làm ngã", làm sao mà dung chứa được phân biệt kế chấp cùng biên vực sinh tử đó được, chỉ là một loại hành tướng không có thay đổi!
Luận nói: "Duyên gì mà thức nầy gọi là thức A-đàna? Vì chấp thọ tất cả hữu sắc căn, vì tất cả tự thể nắm lấy chỗ dựa. Tại sao vậy?
Vì các hữu sắc căn do thức nầy chấp thọ mà không bị hoại mất, hết thọ mạng thì tùy chuyển. Lại nữa, khi tương tục chánh kết sinh, thì nắm lấy thức nầy mà sinh nên chấp thọ tự thể, do đó thức nầy cũng gọi là thức Ađà-na".
Giải thích: "Vì chấp thọ tất cả căn hữu sắc…" là hiển nhân của thanh chuyển lấy chủ thể chấp thọ, tất cả các căn hữu sắc của nhãn… cùng chung an nguy, thọ mạng hết thì tùy chuyển, nên gọi là thức A-đà-na. Nếu không như thế thì đáng lẽ giống như thân chết, tức là liền hoại mất. "Vì tất cả tự thể nắm lấy sở y…", là hết thảy, hoặc một hoặc nhiều, hết thảy tự thể nắm lấy tánh chỗ dựa. Nếu các căn của sắc chưa sinh khởi, hoặc tự thể của vô sắc giới sinh khởi gọi là "Tương tục". Thâu nhận tự thể kia nên gọi là "Chánh kết sinh". Vì thọ tự thể kia mà sinh, tinh huyết hợp chung, không phải không có thức A-lại-da mà có tự thể chấp thọ một thời kỳ, ví như hiên nhà ở thâu lấy ánh sáng, là chỗ huân tập tập khí nơi tự thể trong một thời kỳ.
Luận nói: "Thức nầy cũng là tâm, như đức Thế Tôn nói ba thứ tâm ý thức. Ý trong đây có hai thứ: Đệ nhất ý cùng làm chỗ dựa nơi tánh của duyên đẳng vô gián. Vô gián diệt, thức có thể cùng với ý thức làm chỗ dựa để sinh khởi. Đệ nhị ý nhiễm ô cùng với bốn phiền não hằng tương ưng chung: 1. Tát-ca-da kiến. 2. Ngã mạn. 3. Ngã ái. 4. Vô minh. Bốn phiền não nầy tức là chỗ dựa nơi thức của thức tạp nhiễm, lại do đệ nhất ý kia nương vào sinh khởi, vì đệ nhị tạp nhiễm có nghĩa là biết rõ biệt cảnh, do nghĩa đẳng vô gián, nghĩa tư lương, mà ý thành hai thứ".
Giải thích: "Thức nầy cũng gọi là tâm", là dẫn các giáo khác đã đặt tên khác, khiến cho lý nầy kiên cố. "Đệ nhị nhiễm ô ý", là sự nhiễm ô của bốn phiền não là Tátca-da kiến… Trong đây, Tát-ca-da kiến là chấp trước một cách bền chắc tánh của ngã, ngã sở. Do thế lực của chấp nầy, khởi ngã mạn, ỷ lại vào ngã và ngã sở mà tự đề cao. Có hai thứ nầy nên liền khởi ngã tham, gọi là ngã ái. Ba thứ nầy đều do vô minh làm nhân. Vô minh, tức là không có trí để hiểu rõ chỗ đối trị, vô minh nầy tức là chỗ dựa của thức nhiễm ô. Trong các vị thiện của định và bất định, đều không trái nhau vì hằng hiện hành. Đó là những gì? Là vì khi tâm thiện cũng có chấp ngã. Do "ý đệ nhất nương vào sinh", là do ý đẳng vô gián diệt. Do "Đệ nhị ý nhiễm ô", là do bốn phiền não tương ưng với ý, vì kế chấp ngã… có thể khởi nhiễm ô. "Nghĩa biết rõ biệt cảnh", là nghĩa có thể nắm lấy tợ hiện cảnh, đây là giải thích tên của thức. "Vì nghĩa vô gián, nghĩa tư lương nên ý thành hai thứ", đây là giải thích tên của ý. Nếu lìa nghĩa đạo lý của âm thanh lời nói, huấn từ và giải thích, rốt cùng không thể khiến cho người khác sinh hiểu biết.
Luận nói: "Lại nữa, làm sao biết được có ý nhiễm ô? Là ý nầy nếu không có bất cộng, thì vô minh không được có, vì thành lỗi. Lại nữa, năm pháp đồng cũng không có được, vì thành lỗi. Tại sao vậy? Vì năm thức thân phải có nhãn… làm chỗ dựa cùng hiện hữu. Lại nữa, các ngôn từ huấn thích cũng không có được, vì thành lỗi. Lại nữa, sai biệt của định vô tưởng và định diệt tận cũng không có, vì thành lỗi, là vì chỗ hiển của ý nhiễm của định vô tưởng, không phải định diệt tận. Nếu không như thế thì hai định nầy đáng lẽ không có sai biệt. Lại nữa, trời vô tưởng trong một thời kỳ sinh thì phải không có nhiễm ô, vì thành lỗi, trong đó hoặc không có ngã chấp và ngã mạn. Lại nữa, tất cả thời ngã chấp hiện hành, vì hiện có thể đắc, là trong tâm thiện, bất thiện và vô ký, nếu không như thế thì chỉ có tâm bất thiện tương ưng với ngã chấp kia, nên có phiền não của ngã, ngã sở hiện hành, không phải thiện và vô ký, do đó nếu lập cùng có hiện hành, không phải tương ưng hiện hành thì không có lỗi nầy. Trong đây có tụng:
Nếu vô minh bất cộng,
Cùng với năm pháp đồng,
Huấn từ, hai định, khác,
Không có, đều thành lỗi.
Vô tưởng chủ yếu không,
Ngã chấp chuyển thành lỗi,
Ngã chấp hằng đeo đuổi,
Hết thảy chủng không có.
Lìa ý nhiễm không có,
Hai, ba thành trái nhau,
Không có các sự nầy,
Thì ngã chấp không có.
Chân nghĩa tâm đang sinh,
Thường hay làm chướng ngại,
Đồng hành tất cả phần,
Là vô minh bất cộng.
Ý nhiễm ô nầy là tánh hữu phú vô ký, cùng với bốn phiền não thường chung tương ưng. Như hai phiền não triền, phược của sắc giới và vô sắc giới, chính là thuộc về tánh hữu phú vô ký. Triền, phược của sắc giới và vô sắc giới bị Xa-ma-tha thâu chứa, vì ý nầy tất cả thời đều gắn liền với vi tế
Giải thích: Vì dẫn chánh lý để thành lập ý nhiễm ô, lại lược nêu nói thẳng các bài Dà-tha. Nói nếu ý nhiễm ô nầy không có thì vô minh bất cộng không thể có… Nếu không nói có ý nhiễm ô thì vô minh bất cộng không được có. Vô minh bất cộng sẽ nói tướng của nó, là hay chướng ngại chân trí mà sinh ngu. Vô minh nầy, đối với năm thức không được nói có, vì năm thức đó không có chủ thể đối trị. Nếu năm thức có chủ thể đối trị thì vô minh nầy có đối tượng đối trị, không phải trong năm thức có chủ thể đối trị kia, vì đối với kiến đạo không sinh khởi, không phải có trong ý thức bất nhiễm. Do bỉ, thử nên tạo thành tánh nhiễm, cũng không phải có trong ý thức nhiễm ô. Khi cùng với các phiền não tương ưng chung thì tên vô minh bất cộng không được thành. Nếu lập ý thức do phiền não kia tạo thành nhiễm ô, tức phải rốt ráo thành tánh nhiễm ô thì các tâm thí… Đáng lẽ không trở thành thiện, vì các phiền não kia hằng tương ưng nhau.
Nếu lại nói tâm thiện cùng chuyển mà có phiền não, tức là hoàn toàn tương ưng với phiền não kia, các tâm khác thì không có được. Ý thức nhiễm ô nầy dẫn sinh đối trị là không đúng đạo lý. Hoặc có người nói ý nhiễm ô đồng thời có riêng tâm thiện, có khả năng dẫn sinh đối trị chủ thể đối trị, thì đối tượng đối trị liền diệt mới đúng đạo lý. Nếu như thế thì vô minh bất cộng được lập cũng không thành tựu, vì cùng với các phiền não khác của thân kiến hằng tương ưng. Vấn nạn bất bình của ông là không phải tôi nói vô minh kia cùng với các phiền não khác không tương ưng nên gọi là bất cộng. Nhưng nói hoặc kia là chỗ không có trong phiền não khác nên gọi là bất cộng, ví như mười tám pháp bất cộng của Phật. Trước đã nói "Cùng với các phiền não khác tương ưng thì tên vô minh bất cộng không được thành", là xét chỗ lập của người khác để hiển lỗi đó. Lại nữa, năm pháp đồng cũng không, nên có lỗi. Đây là phá nghĩa chỉ lập từ sáu duyên đến hai duyên mà sáu thức chuyển, năm thức cùng với ý thức kia có đồng pháp tánh, là từ hai duyên mà được sinh khởi. Ý nhiễm ô nếu không có, thì trái với duyên nầy. Điều gọi là cùng sinh chỗ dựa nơi duyên tăng thượng không riêng có. Lại nữa, năm thức mỗi mỗi đều có đủ hai duyên, đều là tánh thức. Như vậy, tánh thức cùng có năm thức chuyển y riêng biệt, chỉ có duyên tăng thượng không phải nhân duyên, đây là làm chủ thể dụ. Ý thức cũng như thế, phải có chỗ dựa sai biệt như vậy. Thức A-lại-da tuy là chỗ dựa cùng sinh của ý thức nhưng không nên lập ý thức là chỗ dựa riêng, vì là chỗ dựa chung, vì là tánh của nhân duyên. Chỗ lập của kinh bộ là sắc làm chỗ dựa riêng của ý thức cùng sinh, điều nầy không thành tựu, không đúng đạo lý. Vì ngay nơi xét chọn theo niệm phân biệt, đáng lẽ tất cả thời đều không có phân biệt. Do nghĩa nầy mà chỗ lập sắc vật, ý thức trong tâm điểm của bộ khác đều nương riêng biệt, cũng không thành tựu. Như điều nói lỗi hằng đeo đuổi, ví như các thức chỗ dựa sắc căn, vấn đề khó thông như vậy phải chọn lựa rộng. Lại nữa, các huấn từ giải thích cũng không nên có lỗi thành. Như đã nói huấn thích ý ở trước gọi là dựa nơi tánh tư lương. Nếu không lập có ý nhiễm ô thì dựa nơi tánh tư lương nầy nương chỗ nào? Sáu thức đã lui mất không nên lập thành ý thức, vì thể diệt mất không còn. Lại nữa, do định vô tưởng cùng với định diệt tận sai biệt không có lỗi thành. Nếu có định vị có ý nhiễm ô, thì có nầy thì tại phàm tương tục và vô nầy thì tại Thánh tương tục. Như thứ lớp của nó mà đạo lý sai biệt của hai định được thành tựu. Nếu không như thế thì đồng thời với tưởng thọ diệt… Có thức hiện hành, phải không có sai biệt, không thể nói tại đệ tứ tĩnh lự hay tại đệ nhất tĩnh lự có địa sai biệt, vì tĩnh lự xuất ly trụ nơi cõi dục sai biệt. Hai định sai biệt là do hai tự tướng không có sai biệt. Tâm và tâm pháp cùng diệt thì nào có khác gì? Hiện tại sự quyết chọn nầy đối với các sư kinh bộ có tương cận chút ít. Chỗ lập của các bộ kia là hành bất tương ưng không phải do thật vật mà có, thì làm thế nào được hai định thật có sai biệt? Lại nữa, trong một thời kỳ sinh của trời vô tưởng, không có ngã chấp chuyển đáng lẽ thành lỗi. Nói "Vô tưởng", là nếu sinh trong trời vô tưởng thì tâm và tâm pháp diệt mất. Khi bắt đầu tiếp tục sinh thì có ngã chấp kia tạm khởi, từ đây về sau tương tục tùy chuyển. Nếu không thừa nhận trời vô tưởng kia có ý nhiễm ô, thì trong một thời kỳ sinh đáng lẽ không có ngã chấp. "Chưa từng thấy có đủ phiền não", là trong một thời kỳ sinh không có ngã chấp. Lại nữa, vì chư Thánh hiền đồng chê trách, không phải sinh sát-na mà hiện khởi ý thức, chỗ dựa của ngã chấp làm thế lực dẫn phát, gọi là có ngã chấp chưa vĩnh viễn đoạn, như có mắc bệnh cuồng thì mới đúng đạo lý. Chỗ dựa của ngã chấp đều diệt mất, thế lực dẫn phát cũng không có chỗ dựa khác là không đúng đạo lý. Tập khí của ngã chấp tại thân tương tục cũng không đúng đạo lý, vì sắc pháp thọ nhận huân tập cũng không đúng đạo lý, vì không có từ năng lực nhận. Lại nữa, sư kinh bộ không nói chỉ có sắc gọi là tâm pháp, đây là chỗ không có duyên đẳng vô gián, vì bốn duyên định của tâm và tâm pháp. Nếu nói riêng thường có tâm cùng khởi, thì chỗ dựa của ngã chấp ở đây không có lỗi. "Lại nữa, ngã chấp đeo đuổi mọi lúc là không đúng đạo lý", là nếu không nói có ý nhiễm ô thì nghĩa của mọi lúc không phù hợp. Thiện của thí… thành lập cũng có ngã chấp, thường là chỗ đeo đuổi theo tự mình, là nói: "Ta có thể tu hạnh thí…". Không phải lìa vô minh ngã chấp mà đeo đuổi, không phải lìa y chỉ mà có vô minh, vì là tâm pháp, chỗ dựa nầy lìa ý nhiễm ô thì quyết định là không có, không phải là tâm thiện, mà là chỗ dựa của vô minh mới đúng đạo lý. Như nói:
Như vậy ý nhiễm ô,
Là chỗ dựa của thức,
Chưa diệt phược của thức,
Rốt cùng chưa giải thoát.
"Không có hai", là vô minh bất cộng và năm pháp đồng. "Ba thứ thành trái nhau", là ngôn từ, huấn thích, hai định sai biệt và sinh trời vô tưởng mà ngã chấp đeo đuổi, ba thứ như vậy đều thành trái nhau. Trước đã lược nêu vô minh bất cộng, hiện tại vì giải thích rộng nên nói "Chân nghĩa, tâm đang sinh…", là có thể chướng ngại nghĩa thấy chân thật, vì đây nếu hiện hữu thì kia không sinh. "Đồng hành tất cả phần", là trong các vị thiện, bất thiện và vô ký, có nghĩa là luôn tùy chuyển.
Luận nói: "Tâm thể thứ ba, nếu lìa thức A-lại-da thì không thể đắc riêng, nên thành tựu thức A-lại-da lấy làm thể, do thức nầy làm chủng tử ý và thức chuyển".
Giải thích: "Tâm thể thứ ba nếu lìa thức A-lại-da thì không thể đắc riêng", là như ý tiếng nói là ý nhiễm ô, ý vô gián diệt tiếng thức thì nói là sáu thứ chuyển thức, như vậy tiếng tâm lìa hai thứ vô thể thì có thể đắc. Không phải vô thể mà có chủ thể nêu giảng, cũng không phải hai tiếng của ý thức dị môn, vì đối tượng được nêu giảng khác nhau. Trong đây thể tiếng ý nắm lấy đối tượng được nêu giảng, "Cho nên thành tựu thức A-lại-da", hiển thức A-lại-da là đạo lý quyết định đối tượng được nêu giảng của tiếng tâm.
Luận nói: "Nhân duyên gì mà cũng gọi là tâm? Vì do chỗ tích tập của vô số pháp huân tập chủng tử".
Giải thích: "Do vô số pháp", là do vô số phẩm loại chuyển thức. "Chỗ thâu tóm các pháp huân tập chủng tử", là chỗ huân tập thành công năng sai biệt. "Chỗ tích tập", là chủng loại xen tạp tích tập trong đó. "Vì", tức là nghĩa môn và nghĩa dựa vào, đây là hiển thị chuyển nhân của tiếng tâm.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao trong Thanh-văn thừa, không nói tâm nầy là thức A-lại-da, mà gọi là thức Ađà-na"? Vì chỗ thâu tóm của cảnh sâu vi tế nầy. Tại sao vậy? Vì Thanh-văn không đối với tất cả cảnh, trí, xứ chuyển, do đó đối với cảnh, trí, xứ kia tuy lìa thuyết nầy, nhưng trí thì được thành, giải thoát thành tựu, nên không nói cho Thanh-văn. Nếu các Bồ-tát quyết định đối với tất cả cảnh, xứ, trí chuyển, thì vì họ mà nói. Nếu lìa trí nầy, không dễ gì chứng đắc trí của hết thảy trí".
Giải thích: "Do chỗ thâu tóm của cảnh sâu vi tế này", đây là hiển thức A-lại-da cũng là sâu xa vi tế cũng là của cảnh đối tượng nhận thức. Do sâu vi tế nên không thể nói cho các Thanh-văn, vì chỗ gồm thâu của họ là cảnh của đối tượng nhận thức thô thiển, là chỗ ứng hoá nên cảnh trí sâu xa vi tế đối với họ không có ân gì. "Vì các Thanh-văn không đối với tất cả cảnh trí xứ chuyển", đây là hiển họ không có công năng hy vọng nơi xứ tướng. "Do đó đối với cảnh trí xứ kia tuy lìa thuyết này", là đối với Thanh-văn tuy lìa nói thức A-lại-da, cho họ nhưng vì cảnh giới của sắc… là thô thiển, tánh của khổ tập… là các hạnh vô thường, khi chánh quán sát thì liền có thể vĩnh viễn đoạn tất cả phiền não. Vì nghĩa nầy mà họ nương vào điều Thế Tôn dạy, siêng tu phạm hạnh. Nói sắc thô thiển, là thể tướng của các sắc thô thiển. Hành tướng các pháp đối tượng duyên của thọ… Có thể dễ phân biệt, vì hành tướng thô, cùng với đối tượng duyên nầy trái nghịch nhau, như chỗ thích ứng đó mà thức A-lại-da gọi là sâu xa vi tế. Như nói: "Ta không nói một pháp cho người chưa thông đạt và chưa biến tri", đây là mật ý nói, không đoạn phiền não mà lấy tiếng biệt tướng nói xứ của tổng tướng, không phải các phiền não mỗi mỗi đều có đoạn diệt riêng, hoặc lấy các hành nơi cộng tướng vô thường nên không vì đó nói, thức A-lạida cũng không có lỗi. Hoặc các Bồ-tát quyết định đối với tất cả cảnh trí xứ chuyển, là hiển Bồ-tát có uy lực của chủng tánh, vì cùng với công năng hy vọng nơi xứ tướng có đủ tương ưng. Tánh Nhất thiết trí làm thời kỳ nơi xứ khác nhau, điều nầy không thể làm nghĩa lợi cho người khác. Tại sao vậy? Vì không phải Nhất thiết trí không có sự gắng nhận tùy thuận biết ý lạc của người khác. Lĩnh vực tùy miên căn hơn kém, cơ năng lực, không năng lực thời phần có sai biệt, đủ làm nghĩa lợi của tất cả người khác. Các sự như vậy là chỗ cầu của Bồ-tát, cho nên vì Bồ-tát mà nói thức A-lại-da. "Nếu lìa trí này", là nếu lìa thức A-lại-da thì trí không thể đoạn vĩnh viễn, đối với nghĩa biến kế thì trí kia không đoạn, thì Trí vô phân biệt không được có chấp, vì có nghĩa Biến kế sở chấp. Do nhân duyên nầy thì "Không dễ chứng đắc trí của Nhất thiết trí". Tại sao vậy? Có thể chứng cộng tướng của tất cả đối tượng nhận thức, là trí phân biệt đó biết tự tướng phân biệt của nghĩa biến kế lần lượt bất đồng vì vô biên, quyết định không có khả năng để chứng đủ tất cả. Nếu biết trí phân biệt nầy chỉ có thức A-lại-da, có thể sinh lực chuyển biến của tập khí thì nghĩa hữu tình ngã hiển hiện mà chuyển. Lúc đó giác tri không có chỗ giữ lấy nghĩa, như vậy chủ thể nhận thức cũng không có chủ thể giữ lấy, do đây mà chứng đắc Trí vô phân biệt. Kế tiếp trí hậu đắc như chỗ tập quen mà thông đạt pháp tánh, do chỗ hiển cộng tướng của tất cả pháp, chân như nhất vị biết hết thảy pháp, trong một sát-na cũng dễ chứng đắc, vì hết thảy cảnh trí không phải vô biên, nhưng lại nói: "Phải trải qua ba vô số kiếp", đây là hiển tích tập tư lương rộng lớn mới có thể chứng đắc thù thắng rộng lớn, là nhất thiết chủng tướng với quả trí vi diệu. Như điều nói ấy thì quả trí tư lương không lìa cảnh vô ngã của chủ thể chứng pháp, nên nói tụng:
Không phải hết thảy cảnh sở tri,
Không đoạn sở chấp pháp phân biệt,
Mà có thể chứng Nhất thiết trí,
Cho nên tuyên thuyết pháp vô ngã.
Vì không khéo thông đạt lý giáo như vậy nên có tụng nói:
Do tương tục kia có gắng nhận,
Nên biết như lửa ăn tất cả,
Phải nên nhận Nhất thiết trí ấy,
Hay khởi tất cả, biết tất cả.
Do đó đối với những người biết và không biết thức A-lại-da nầy, thì dễ chứng hoặc khó chứng Nhất thiết trí, quyết định nương vào tông ấy mà khởi nói như vậy. Không phải người biết hết thảy pháp vô ngã gọi là Nhất thiết trí, vì trí đó tuy là Nhất thiết trí nhưng không phải là hết thảy chủng trí.
Luận nói: "Lại nữa, trong Thanh-văn thừa cũng lấy mật ý của dị môn, đã nói thức A-lại-da, như tăng nhất Acấp-ma nói: "Thế gian ái A-lại-da, lạc A-lại-da, mừng A-lại-da, vui A-lại-da, vì đoạn A-lại-da như vậy, khi thuyết chánh pháp, cung kính gồm thâu vào tai, trụ cầu hiểu tâm, pháp tùy pháp hạnh, Như Lai xuất thế như vậy là chánh pháp rất hy hữu xuất hiện nơi thế gian. Đối với Thanh-văn thừa, Như Lai xuất hiện trong kinh bốn đức, do dị môn nầy mà mật ý đã hiển thức A-lại-da, trong đại chúng bộ, A-cấp-ma cũng lấy mật ý của dị môn nói thức nầy gọi là thức căn bản, như thân cây nương trên gốc rễ. Trong hóa địa bộ cũng lấy mật ý của dị môn nói thức này là cùng sinh tử uẩn. Có chỗ có khi thấy sắc và tâm đoạn, không phải chủng tử kia trong thức A-lại-da có đoạn".
Giải thích: "Trong Thanh-văn thừa cũng lấy mật ý của dị môn đã nói thức A-lại-da", đây là nếu chỗ thành lập chung của các bộ khác để hiển thức A-lại-da thênh thang như đường của vua đi. Trước hết trình bày chung về thức A-lại-da kia "như tăng nhất A-cấp-ma nói", là trong Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ nói "Ái A-lại-da", đây là nói chung tham chấp thức A-lại-da; "Lạc A-lại-da" là thức A-lại-da ưa thích đời hiện tại. "Mừng A-lại-da", là mừng đời quá khứ đã sinh thức A-lại-da; "Vui nơi A-lạida", là vui đời vị lai sẽ sinh thức A-lại-da, tánh nầy đối với A-lại-da kia rất hy vọng, do lạc vui mừng nên gọi chung là ái A-lại-da. "Vì đoạn A-lại-da như vậy", là vĩnh viễn dứt A-lại-da kia. "Khi thuyết chánh pháp", là thuyết chánh giáo pháp. "Cung kính", là ưa thích muốn nghe. "Thâu vào tai", là lập nguyện để nghe, đây là nói chính tánh nghe đó là chỗ thành trí. "Trụ cầu hiểu tâm", là điều nghe nghĩa mà cầu hiểu biết quyết định, đây là nói chính tư duy là chỗ thành trí. "Pháp tùy pháp hạnh", chỗ chứng gọi là pháp, đạo gọi là tùy pháp, là tùy thuận với pháp kia. Lại nữa, đạo xuất thế gọi là pháp, đạo thế gian gọi là tùy pháp, hành là hành tự tâm kia tương tục, vì dựng lập thêm các hành kia, khiến cho các hành kia hiện tiền đắc tự tại, đây là nói tu đó là chỗ thành trí. "Như Lai xuất hiện trong kinh bốn đức, do dị môn nầy mà mật ý đã hiển thức A-lại-da", là trong kinh này nói: Như Lai xuất hiện ở đời, có bốn thứ đức xứng đáng tán thán. "Trong đại chúng bộ, A-cấp-ma…", là làm thành thức nầy, trong bộ đó như đường của vua đi. "Thức căn bản", là nhân của các thức khác, ví như thân và gốc rễ là nhân của cành nhánh. "Hóa địa bộ", là ba thứ uẩn trong bộ đó: 1. Uẩn niệm khoảnh, là pháp có sinh diệt trong một sát-na. 2. Uẩn nhất kỳ sinh, là pháp hằng tùy chuyển cho đến khi chết. 3. Uẩn cùng sinh tử, là pháp hằng tùy chuyển cho đến khi đắc định Kim Cương Dụ, điều này nếu là trừ thức A-lại-da, thì các thức khác không nên có, chỉ có dị danh gọi là thức A-lại-da, như gọi các uẩn là quyết định không có cùng sinh tử. Kia hỏi như thế nào, đây đáp là hữu xứ, có khi thấy có xứ, đối với giới có khi đối với phần, đối với vô sắc giới thì các sắc gián đoạn, đối với trời Vô tưởng và hai Định phần thì các tâm gián đoạn, không phải nói đối với các chủng tử của sắc tâm trong thức A-lại-da, cho đến đạo đối trị chưa sinh lại, có khi gián đoạn không phải lường tính, tùy chỗ thích ứng mà có chánh nghĩa, vì có lường tính theo nghĩa bên cạnh thì trái vượt chánh nghĩa, là không đúng đạo lý.
Luận nói: "Như vậy chỗ dựa của đối tượng nhận thức, nói thức A-lại-da làm tánh, thức A-đà-na làm tánh, tâm làm tánh, A-lại-da làm tánh, căn bản thức làm tánh uẩn cùng sinh tử làm tánh… Do dị môn nầy mà thức Alại-da trở nên đường đi của vua".
Giải thích: Đồng là bậc Thánh trong thượng toạ bộ, hữu phần tiếng cũng nói thức nầy, vì thức A-lại-da là có nhân, như nói sáu thức không tử không sinh, hoặc do hữu phần, hoặc do nghịch duyên mà chết, và do ý thức dị thục mà sinh. Như vậy chủ thể dẫn phát, chỉ là ý thức nên nói như thế, năm thức đối với pháp không có hiểu biết rõ ràng, chỉ là đối tượng được dẫn phát. Ý giới cũng như thế, chỉ có bình đẳng tầm cầu kiến, chỉ có chiếu soi lời dạy bảo. Bình đẳng quán triệt, là được trí quyết định an lập, là có thể khởi ngữ phân biệt, sáu thức chỉ có thể tùy khởi oai nghi, không thể thọ nghiệp đạo thiện và bất thiện, không thể nhập định, không thể xuất định, uy lực dụng đều có thể tác khởi. Do chủ thể dẫn phát từ thùy (ngủ) mà giác (thức dậy), do uy lực dụng nên quán chỗ mộng sự, các sự như vậy phân biệt nói, bộ cũng nói, thức nầy gọi là thức hữu phần do các sự như vậy, các bộ Thánh giáo như vậy làm định lượng thì thức A-lại-da như đường đi của vua.
Luận nói: "Lại có một loại tâm ý thức, nghĩa đồng văn khác, là nghĩa đó không thành. Ý và thức hai nghĩa khác nhau thì có thể được, phải biết nghĩa của tâm cũng phải có khác nhau. Lại có một loại, là điều mà đức Bạcgià-phạm đã nói, chúng sinh ái A-lại-da, cho đến nói rộng, trong đây năm thủ uẩn gọi là A-lại-da. Có chỗ khác nói tham cùng sinh lạc thọ gọi là A-lại-da. Có chỗ khác lại nói Tát-ca-da kiến gọi là A-lại-da. Các điều ấy do giáo và chứng, thiếu hiểu biết về thức A-lại-da mà chư sư khởi chấp như thế. Như vậy an lập A-lại-da là tùy Thanh-văn thừa, an lập đạo lý cũng không tương ưng. Nếu người không ngu nắm lấy thức A-lại-da, an lập thuyết kia tên thức A-lại-da, an lập như vậy là tối thắng. Thế nào là Tối thắng? Như năm thủ uẩn (bám lấy năm uẩn) gọi là A-lại-da, khổ xứ hoàn toàn sinh trong cõi ác rất chán ngán, chúng sinh hoàn toàn không khởi ưa thích, trong đó mà chấp tàng là không đúng đạo lý, vì họ thường cầu mau chóng xả. Nếu tham đi với lạc thọ gọi là A-lại-da, thì đệ bốn tĩnh lự trở lên là không có A-lạida, có đủ những thứ đó thì hữu tình cõi kia thường có chán ngán, trong đó mà chấp tàng cũng không đúng đạo lý. Nếu Tát-ca-da kiến gọi là A-lại-da, thì tín giải vô ngã trong chánh pháp nầy hằng có chán ngán, trong đó chấp tàng cũng không đúng đạo lý. Tánh nội, ngã của thức Alại-da thâu tóm, tuy sinh cõi ác, nhưng hoàn toàn từ khổ xứ cầu lìa khổ uẩn, nhưng ngã tánh kia theo mãi ngã ái của thức A-lại-da mà trói buộc, chưa từng cầu lìa. Tuy sinh đệ tứ tĩnh lự trở lên, đối với tham cùng kết với lạc thọ hằng có chán ngán, nhưng tánh ngã kia theo mãi ngã ái của thức A-lại-da mà trói buộc. Trong chánh pháp nầy tin hiểu vô ngã là chán ngán ngã kiến, nhưng ngã tánh kia theo mãi ngã ái của thức A-lại-da mà trói buộc, nên an lập thức A-lại-da gọi là A-lại-da thành tựu tối thắng".
Giải thích: "Lại có một loại tâm ý thức, nghĩa đồng văn khác", đây là hiển tà chấp, là như đã nói tên của tâm ý thức đều đồng một nghĩa. "Nghĩa đó không thành", là nghĩa phi lý. "Ý và thức hai nghĩa khác nhau thì có thể được", là tự tướng của hai âm thanh, hai nghĩa, chủ thể nêu giảng và đối tượng được nêu giảng khác nhau, là thân của sáu thức đi qua không gián đoạn gọi là ý. Phân biệt rành đối tượng gọi là thức, danh nghĩa của ý và thức có khác nhau, như vậy thì nghĩa của tâm phải biết cũng có khác nhau. "Lại có một loại, là điều mà đức Bạc-giàphạm" đã nói đây là hiển các sư khác đối với việc ái thức A-lại-da… khởi chấp nghĩa khác. Nói "Ngũ thủ uẩn gọi là A-lại-da", là vì các chúng sinh gồm thâu nó làm ngã. "Tham cùng sinh với lạc thọ gọi là A-lại-da", là tham và thọ đồng hành gọi chung là A-lại-da, vì thọ nầy là chỗ tùy tăng trưởng thuỳ miên của tham, hoặc mỗi mỗi đều riêng gọi là A-lại-da vì chỗ nhiễm chấp khác nhau. "Tátca-da kiến gọi là A-lại-da", là thân nầy lấy A-lại-da kia làm ngã tánh. "Đó là các sư do giáo và chứng, thiếu hiểu biết đối với thức A-lại-da nên khởi chấp như vậy", nghĩa là các sư đó có giáo ác, có chứng ác, thiếu hiểu biết thức A-lại-da, hoặc các sư kia không có giáo thân cận, không tự tìm hiểu, thiếu hiểu biết thức A-lại-da. "Tùy Thanhvăn thừa an lập đạo lý cũng không tương ưng", là tùy tự tông kia cũng không đúng đạo lý, như Thắng Luận đã lập… Thật ra đồng với tự tông kia, không phải vì thắng luận có lỗi. "An lập như vậy là tối thắng", vì không có lỗi, vì có thắng đức, vì muốn vạch rõ lỗi của Biến kế sở chấp. Lại hỏi "Thế nào là tối thắng? Nếu cho rằng năm thủ uẩn gọi là A-lại-da, khổ xứ hoàn toàn sinh trong cõi ác", sinh vào nại-lạc-ca, bàng sinh, ngạ quỉ gọi là "sinh cõi ác", vì chỉ có khổ, tợ khổ hiện nên gọi là "Khổ xứ hoàn toàn", vì khổ xứ kia chưa từng có chút vui, nên "hết sức chán ngán", vì mọi lúc khổ tràn đầy. "Chúng sinh hoàn toàn không khởi ưa thích", là không phải nghĩa bất ái mà có chấp tàng cùng với nghĩa chấp giữ không tương ưng. "Trong đó mà chấp giữ là không đúng đạo lý, vì chúng sinh kia thường cầu mau chóng xả ly", là nghĩa đối với khổ uẩn hằng thương cảm, làm sao phải khiến cho ngã không có khổ uẩn, khỏi phải cầu mau chóng lìa chấp giữ kia mới đúng đạo lý vì không trái nhau! Các cõi đệ tứ tĩnh lự và cõi Vô sắc trên, không có tham đi với thọ mãi, thường có chán ngán là nhân của chán nên đáng chán ngán. "Có đủ những thứ đó", thì đệ tứ tĩnh lự trở lên, hữu tình có đủ các loại A-lại-da kia, nên hữu tình xứ kia trong đó mà chấp giữ cũng không đúng đạo lý, vì không có. "Tín giải vô ngã trong chánh pháp này", thường cực chán ngán, Tát-ca-da kiến là phải đoạn. Người thấy vô ngã thì Tát-ca-da kiến kia không có, chỉ nắm lấy tín giải mà hằng cầu đoạn, nó trong đó chấp giữ cũng không đúng đạo lý. Như vậy đã làm rõ lỗi của người khác chấp, lại làm rõ thắng đức của tự tông. "Nội ngã tánh của thức A-lại-da thâu tóm", là chúng sinh vọng chấp là thể của nội ngã, tuy hai âm thanh làm trùng, để ngăn ngừa thuyết vọng chấp của người khác. Nại-lạcca… gọi là sinh cõi ác, hoàn toàn xứ khổ tuy đối với khổ uẩn thường cầu xa lìa, nhưng tánh ngã kia hằng đối với thức A-lại-da, ngã ái như sợi tơ trói buộc không lìa, chưa từng trong khởi không có ái, do xả thọ tương ưng nên không phải đáng chán ngán. Tại sao vậy? Vì tánh ngã kia hy vọng mong cầu làm sao phải khiến cho các khổ uẩn của ngã đều là không có, nhưng đối với tự ngã chưa từng cầu lìa ngã kiến, vì đối trị chưa có nên các cõi khác cũng không có. Nếu đối với các uẩn có chỗ mong cầu ưa thích, thì sự ưa thích nầy là sức mạnh của A-lại-da, không phải đối với ý thức có ngã ái nầy mới đúng đạo lý, vì ngã ái trong cõi ác cùng với khổ thọ kia hằng tương ưng. Do đạo lý nầy mà trong các cõi khác đối với sự mong cầu kia cũng không tương ưng. Tuy sinh đệ tứ tĩnh lự trở lên, đối với tham cùng lạc hằng có chán ngán, nhưng nội ngã ái đi theo trói buộc không lìa. Như vậy ngã ái nương vào pháp khác mà chuyển nương vào Alại-da, không phải đối với ý thức, vì A-lại-da cho đến đạo đối trị chưa sinh lại thì không có biến dịch mà chuyển. Ý thức thì không như thế, nó có gián đoạn với định Vô tưởng, Vô tưởng diệt định. Không phải có ý thức mà không có thọ đồng thời thành hữu. "Trong chánh pháp nầy tin hiểu vô ngã", là tuy hằng chán ngán phân biệt ngã kiến, nhưng có ngã kiến cùng sinh đi theo trói buộc. Ngã kiến cùng sinh nầy trói buộc chỗ nào? Là ngã kiến kia chỉ đối với thức A-lại-da khinh suất nghe âm thanh, thì liền chấp nội ngã và sự kinh sợ phát sinh. Duyên gì không thừa nhận ngay nơi các uẩn có ngã ái? Vì nếu các uẩn kia có ngã ái, thì ngã ái nầy chính là thức A-lại-da. Do có thể phân biệt đối tượng duyên và hành tướng, bốn thứ vô sắc uẩn đối với trời vô tưởng, hai vô tâm định không tương tục. Nếu như thế thì A-la-hán tuy chán nghịch thân kiến nhưng cũng phải có được. Như vậy ngã ái đoạn thì ngã kiến không có, vì tất cả ngã kiến của A-la-hán đều vĩnh viễn đoạn nên không có lỗi nầy. Do đó nói A-la-hán đã chuyển đối với thức A-lại-da, lại càng không có ngã ái nầy nên an lập thức A-lại-da gọi là thức A-lại-da quyết định thành tựu, không có các lỗi mà có các thắng đức, nên nói thành tựu tối thắng.
Luận nói: "Như vậy đã nói thức A-lại-da an lập dị môn, an lập tướng nầy làm sao thấy được? An lập tướng nầy lược nói có ba thứ: 1. An lập tự tướng. 2. An lập nhân tướng. 3. An lập quả tướng. Trong đây an lập tự tướng của thức A-lại-da, là nương vào tất cả huân tập của phẩm Pháp Tạp Nhiễm, làm nhân sinh cho tạp nhiễm kia do chủ thể thâu giữ chủng tử tương ưng. Trong đây an lập tướng nhân của thức A-lại-da, tức thức A-lại-da của tất cả chủng tử như vậy trong mọi lúc cùng với các pháp phẩm loại tạp nhiễm kia hiện tiền làm nhân. Trong đây an lập tướng quả của thức A-lại-da, tức là nương vào phẩm Pháp Tạp Nhiễm kia, cả thảy huân tập từ vô thỉ đến nay, thức A-lại-da tương tục mà sinh".
Giải thích: Như vậy đã nói an lập dị môn, tiếp theo là an lập tướng, chỉ do tên của chính nó, chưa có thể phân biệt rõ được tự tướng của thức nầy. Kế tiếp cần phải nói tướng tự tướng ưng lược có ba thứ, là phân tích tướng tự tướng ưng của thức nầy. Vì cho rằng hai thứ nhân quả khác nhau, nương vào tự tướng của thức mà nói như vậy, tức là nương vào tất cả huân tập của phẩm Pháp Tạp Nhiễm, tức là tham, sân… gọi là tất cả phẩm Pháp Tạp Nhiễm, với chủ thể huân tập kia cùng sinh cùng diệt mà được thành chủng tử, tức là công năng nầy đối chiếu với tạp nhiễm đang sinh kia có thể làm nhân sinh. "Do chủ thể thâu giữ chủng tử tương ưng", là đối với đệ năm xứ nói là đệ tam chuyển, là vì có nghĩa chủ thể thâu giữ chủng tử tương ưng. Trong đây thâu giữ chủng tử tương ưng là pháp hữu sinh cùng sinh cùng diệt nên thành huân tập. Huân tập thâu giữ chủng tử như vậy mới đúng đạo lý. Đây là tương ưng nên có thể sinh đối với chủng tử kia, không phải tối thắng… có như chỗ nói thâu giữ chủng tử tương ưng, cũng không phải duyên đẳng vô gián… chủng tử kia tuy có thể thâu nhận nhưng không phải là nhân tối thắng, vì thâu giữ chủng tử không tương ưng. Nhân tối thắng, là chủng tử nơi thức A-lại-da, có thể thâu giữ nhân tối thắng nầy nên cùng với chủng tử kia làm nhân sinh khởi, không phải chỉ có thâu nhận, phải do công năng gồm thâu huân tập mới làm nhân. Tướng nhân tức là tác dụng tăng thêm sung thịnh, công năng huân tập có thể làm tánh nhân, vì có thể sinh hiện tiền pháp tạp nhiễm. Tướng quả tức là do thức chuyển thâu tóm, tham… hiện hành các pháp tạp nhiễm, sự huân tập giữ vững gọi là tướng quả. Nhân quả của thức A-lạida thì bất định, nên phải nói:
Nói do huân tập sinh, Các pháp nầy từ nó
Dị thục và chuyển thức Làm duyên sinh lẫn nhau.
Luận nói: "Lại nữa, những gì gọi là huân tập? Là huân tập chủ thể nêu giảng. Cái gì làm đối tượng được nêu giảng? Là nương vào pháp kia cùng sinh cùng diệt, trong đây có thể sinh nhân tánh kia. Gọi là đối tượng được nêu giảng, như trong cừ thắng có hoa huân tập, cừ thắng sinh diệt với hoa, là cừ thắng đó liên đới làm nhân của hương kia mà sinh. Lại nữa, như sự lập các hành của tham sân… là tham sân… huân tập nương vào tham sân… kia mà cùng sinh cùng diệt, tâm nầy liên đới với nhân sinh kia sinh. Hoặc đa văn, là huân tập đa văn, nương vào văn mà tác ý cùng sinh cùng diệt, là tâm nầy liên đới với nhân ký kia mà sinh, vi huân tập nầy có thể thâu giữ, gọi là trì pháp. Đạo lý huân tập của thức A-lạida, phải biết cũng như thế".
Giải thích: Lại nữa, những gì gọi là huân tập? Vì muốn quyết định rõ ràng tự tướng của huân tập, nên trịnh trọng trình bày vấn nạn khó hiểu rõ. "Là nương vào pháp kia cùng sinh cùng diệt, trong đây có thể sinh nhân tánh kia", là sở huân nầy cùng với chủ thể huân kia đồng thời sinh diệt, nhân theo kia mà đây có, tùy thuận có thể sinh, có khả năng huân chủng loại tập khí của pháp quả, đều nói là lựa riêng thời mà sinh diệt, vì riêng thường trụ. Đây là hiển huân tập tướng khác với các suy lường tính khác. Dựa là nhân, đối với nhân mà kiến lập tự duyên như vậy, như nói nương vào mây mà có mưa, nêu ra tánh nhân của nó để hiển trong đây có nhân thể có thể tùy thuận sinh quả. "Như trong cừ thắng có hoa huân tập", là nêu pháp khác cùng chung làm thành để thí dụ cho nghĩa của tự tông, vì từ chỗ thấy cừ thắng cùng với hoa đều là tâm biến hiện, như cừ thắng kia cùng với các hoa hương cùng sinh cùng diệt, do đó mà làm nhân tùy thuận có thể sinh. Sau đó thì tương tục từng sát-na liên đới hương thơm của hoa cừ thắng. Tánh nhân nầy cũng vậy. "Lại nữa, như chỗ lập các hành của tham sân… là tham sân… huân tập…", đây là nêu chung thành huân tập của các bộ khác, để thí dụ nghĩa của tự tông.
Luận nói: "Lại nữa, trong thức A-lại-da, các chủng tử của phẩm Pháp Tạp Nhiễm là trụ riêng khác hay là không riêng khác? Không phải chủng tử kia có thật vật riêng, trụ trong đây cũng không phải không khác, nhưng thức A-lại-da như vậy mà sinh, có thể sinh công năng sai biệt kia, gọi là hết thảy chủng tử thức".
Giải thích: Hết thảy chủng tử là công năng sai biệt của thức A-lại-da, như pháp tác dụng cùng với các pháp thể không phải một không phải khác. Hết thảy chủng tử nầy cũng như vậy.
Luận nói: "Lại nữa, thức A-lại-da cùng với các pháp tạp nhiễm kia, đồng thời làm nhân lẫn nhau, làm sao thấy được? Như ngọn đèn và tim đèn đồng thời đốt cháy lẫn nhau. Lại nữa, như bó lau nương giữ lẫn nhau đồng thời không đổ ngã. Phải quán đạo lý làm nhân trong đây cũng vậy, như thức A-lại-da làm nhân của các pháp tạp nhiễm, các pháp tạp nhiễm cũng làm nhân của thức A-lại-da, chỉ an lập nhân duyên như vậy, các nhân duyên khác thì không thể thủ đắc".
Giải thích: Ví như đèn sáng trong một thời gian, tim đèn và ngọn đèn đốt cháy, làm nhân quả lẫn nhau. Thức A-lại-da cùng với thức chuyển, trong một thời gian làm nhân quả lẫn nhau, tánh của nó cũng vậy. Như vậy bó lau nương giữ lẫn nhau khiến đứng vững không ngã. Nếu trong khi đó đây có thể giữ kia khiến đứng vững không ngã, thì lúc đó kia có thể giữ đây khiến đứng vững không ngã. "Chỉ có như vậy mà an lập nhân duyên", là chính điều nói trước thâu giữ chủng tử tương ưng, không phải thuyết nào khác. "Ngoài ra các nhân duyên khác thì không thể thủ đắc", nghĩa là các pháp khác thâu giữ chủng tử không tương ưng. Nếu nói năm nhân làm nhân duyên, tức là thuyết của dị môn, thức A-lại-da đồng loại, biến hành, dị thục ba nhân, hoặc lìa tánh nhân của huân tập nhận giữ vì không tương ưng, huân tập nếu lìa thức A-lại-da thì không thể có. Nhân của tương ưng, là tâm và tâm pháp đối đãi lẫn nhau, cảnh giới thọ dụng có tự công năng, cũng như thương khách không phải lìa công năng. Thức A-lại-da có thể nương vào chủng tử mà khởi ý nghĩa của nhân câu hữu, tức là thức A-lại-da và các thức chuyển nếu lìa nhân câu hữu gồm thâu như vậy, thì chủng tử nội ngoại thức A-lại-da, những nhân duyên khác quyết định là không thể đạt được.
Luận nói: "Thế nào là huân tập không khác, không tạp mà có thể cùng với thức A-lại-da kia có khác và có tạp? Các pháp làm nhân, như có nhiều dụng cụ dệt áo, đang lúc dệt thì chưa thấy xen tạp khác nhau, không phải một phẩm loại, sau khi được đưa vào đồ nhuộm, lúc đó trên áo liền có tạp khác, không phải một phẩm loại, màu nhuộm và các hoa văn hiển hiện. Thức A-lại-da cũng lại như vậy, sự huân tập của tạp khác có thể huân vào, khi huân tập thì tuy chưa có thấy tạp khác, nhưng có thể có sinh quả, đồ nhuộm đã hiện tiền, sau đó liền có tạp khác, vô lượng phẩm loại các pháp hiển hiện".
Giải thích: thế nào là huân tập không khác? Ngay nơi lý mà đặt vấn nạn, thì nương vào lý mà nói thông suốt, như có nhiều vật dụng dệt áo, trên áo có nhiều màu đậm nhạt sai biệt, nhưng đang lúc dệt thì không có khác không có tạp, hoa văn hình tượng hiển hiện, quả sinh tức là vật nhuộm, nên gọi là quả sinh vật nhuộm, duyên chỗ thâu nhận nên gọi là nhập. Thức A-lại-da như sự nhuộm áo, như nhuộm dính nhiều hình tượng các pháp hiển hiện.
Luận nói: "Như vậy duyên khởi trong Đại thừa rất vi tế và thâm diệu, nếu lược nói thì có hai duyên khởi: 1. Duyên khởi phân biệt tự tánh. 2. Duyên khởi phân biệt ái phi ái. Trong đây dựa vào thức A-lại-da mà pháp thức sinh khởi, gọi đó là duyên khởi phân biệt tự tánh, vì có thể phân biệt vô số tự tánh làm duyên tánh. Lại có mười hai chi duyên khởi, gọi đó là duyên khởi phân biệt ái phi ái, vì đối với các cõi thiện và cõi ác có thể phân biệt ái và phi ái, vô số tự thể làm tánh duyên".
Giải thích: "Như vậy duyên khởi trong Đại thừa rất vi tế", là các thế gian khó hiểu rõ. "Thậm thâm", là các Thanh-văn khó đến tận đáy.
"Duyên khởi", có nghĩa là nhân mà có nhân khởi, phải nhớ ở sau nhân đặt xong một tụ duyên. "Phân biệt tự tánh", là đối với thế lực của phân biệt, hoặc đối với phân biệt có chỗ cần thiết nên gọi là phân biệt, tức là tự tánh có thể phân biệt của thức A-lại-da, vì có thể phân tích tất cả hữu sinh, tánh của pháp tạp nhiễm khiến cho sai biệt. "Phân biệt ái phi ái", là vô minh… Nơi mười hai chi phần, có thể phân tích cõi thiện và cõi ác, hoặc đáng mừng vui, hoặc không đáng mừng vui, trong vô số tự thể sai biệt sinh làm duyên tối thắng. Từ các hành của thức A-lại-da khi sinh thì do thế lực của vô minh… khiến cho phước, phi phước và bất động có sai biệt.
Luận nói: "Trong thức A-lại-da nếu ngu về duyên khởi đệ nhất, hoặc có phân biệt tự tánh làm nhân, hoặc có phân biệt tạo tác từ trước làm nhân, hoặc có phân biệt tự tại biến hóa làm nhân, hoặc có phân biệt thật ngã làm nhân, hoặc có phân biệt không nhân không duyên. Nếu ngu nơi duyên khởi đệ nhị, thì lại có phân biệt ngã là tác giả, ngã là thọ giả. Ví như có nhiều sĩ phu mới sinh đã mù chưa từng thấy voi, có người đem voi đến dạy cho họ, những người mù bẩm sinh kia có người sờ vòi, có người sờ ngà, có người sờ tai, có người sờ chân, có người sờ đuôi, có người sờ lưng. Có người hỏi voi có tướng gì? Thì có người nói voi như cái cán, có người nói voi như cái chày, hoặc có người nói như cái ky xúc đất, có người nói như cái cối đá, có người nói như cái chổi, có người nói như hòn đá núi. Nếu không hiểu rõ hai duyên khởi nầy thì vô minh sinh mù cũng lại như vậy. Có kế chấp tự tánh là nhân, có kế chấp sự tạo tác từ trước làm nhân, hoặc có kế chấp tự tại là nhân, có kế chấp thật ngã là nhân, có kế chấp không nhân không duyên, có kế chấp ngã là tác giả, là thọ giả. Tự tánh, tánh nhân và tánh quả của thức A-lại-da, giống như sự không hiểu rõ tự tánh của voi".
Giải thích: Do hai thứ nghĩa ngu về duyên khởi, ví như người mù bẩm sinh. Hoặc có kế chấp sự tạo tác từ trước làm nhân, là tổn giảm sĩ dụng nên trở thành tà chấp.
Luận nói: "Lại nữa, nếu lược nói thức A-lại-da, dùng hết thảy chủng tử của thức dị thục làm tự tánh của nó thì có thể thâu tóm tất cả cõi tất cả tự thể của tam giới".
Giải thích: Vì hiển bản sinh tự tánh phân biệt, lại nói "Nếu lược nói", là trong đời đời kiếp kiếp, do nghiệp thiện và nghiệp bất thiện huân tập, đối tượng chỗ giữ lấy và chủ thể giữ lấy phân biệt chấp trước, chủng tử sinh hữu tình lấy nơi dị thục bản sự làm tánh, thức A-lại-da cùng với chủng tử của các pháp tạp nhiễm làm tự tướng của nó. "Có thể gồm thâu tam giới", là có thể gồm thâu dục triền, sắc triền và vô sắc triền. "Tất cả tự thể", là có thể gồm thâu tất cả hữu tình tương tục. "Tất cả cõi", là có thể gồm thâu cõi trời… "Có thể nhiếp", là thường tướng tương tục. Tại sao vậy? Như thức chuyển của sắc có xứ có thời tương tục gián đoạn, thức A-lại-da thì không phải vậy, cho đến trị sinh hằng thời, tất cả khắp các ngôi vị.
Luận nói: "Trong đây có năm bài tụng:
Ngoại nội không biết rõ,
Hai thứ duy thế tục,
Các chủng tử thắng nghĩa,
Phải biết có sáu thứ.
Sát-na diệt cùng có,
Phải biết hằng tùy chuyển,
Quyết định chờ nhiều duyên,
Chỉ năng dẫn tự quả.
Bền vô ký, khả huân,
Cùng năng huân tương ưng,
Sở huân không khác đây,
Đó là tướng huân tập.
Sáu thứ không tương ưng,
Ba sai biệt trái nhau,
Hai niệm không cùng có,
Loại làm lệ lỗi khác.
Chủng tử ngoại nội nầy,
Phải biết chủ thể sinh dẫn,
Khô chết do chủ thể dẫn,
Sau đó tùy ý diệt".
Giải thích: Trước đã nói chung tất cả chủng tử, để hiển chủng tử sai biệt như vậy, bây giờ lại nói năm bài tụng. "Nội ngoại", các hạt lúa thóc… gọi là chủng tử ngoài, thức A-lại-da gọi là chủng tử nội. "Bất minh liễu", là vô ký. "Nhị chủng", là chủng tử ngoại và nội, hoặc quả và nhân, hai chủng nầy đồng thời với Duy thức do trì giữ tánh nhân mà hai pháp tạp nhiễm và thanh tịnh chuyển. Có bản tụng nói "Đối với nhị", là kia đối với nhân đối với quả chấp ngoại chủng lúa… gọi là thế tục, vì là chỗ biến hiện của thức A-lại-da. "Thắng nghĩa", thức A-lại-da là thật chủng tử, là thật tánh nhân duyên của tất cả chủng tử, và làm thể của chủng tử, hai chủng tử nầy có sáu thứ sai biệt.
"Sát-na diệt", là đã sinh ra rồi thì liên tục diệt hoại, không có thường trụ mà được thành chủng tử, vì trong mọi lúc không có sai biệt, tuy diệt từng sát-na nhưng không phải đã diệt mất. Cái gì cùng hiện hữu với quả đã diệt sinh? Vì không đúng lý, như gà chết gáy, nên phải thừa nhận chủng tử cùng với quả đồng thời trụ, vì chủng tử nầy cùng với quả không trái nhau, như gốc hoa sen, tuy cùng hiện hữu nhưng không phải trụ một, hai, ba sátna, cũng như ánh chớp. Cái gì phải biết? Hằng tùy chuyển nầy chuyển, chuyển từng sát-na, vì trải qua nhiều thời hằng tùy chuyển. Tại sao vậy? Vì gốc của nó tăng ích, tổn giảm, cành nhánh đều đồng, nếu hằng tùy chuyển thì không phải thừa nhận thiểu phần lạc làm chủng tử. Nhân duyên gì mà không từ hết thảy hết thảy cùng sinh? Để tránh vấn nạn nầy nên nói quyết định, tuy hằng tùy chuyển nhưng vì công năng của các chủng tử quyết định, không từ hết thảy hết thảy cùng sinh. Nếu như thế thì tại sao không mọi lúc thường hay sinh quả? Để tránh lỗi nầy, nên nói phải chờ nhiều duyên, không phải mọi lúc sẽ gặp nhiều duyên nên không có lỗi. Hiện tại chủng tử là chủng tử nào? Để đáp câu hỏi nầy chỉ có thể dẫn tự quả. Nói "Duy", là nếu trong lúc nầy có thể sinh tự quả, thì ngay lúc đó gọi là chủng tử. Chủng và hữu chủng đều là vô thỉ, như chữ "Duy" nầy là ngăn cản tương tục làm thể của chủng tử, như đã nói pháp chủng tử không tương ưng, phải chờ đối tượng được huân tập cùng chủ thể huân tập tương ưng thì tánh của chủng và hữu chủng mới lập.
Để phân tích rõ đối tượng được huân tập nên nói "Kiên". Nếu pháp tương tục tùy chuyển kiên trụ, thì như cừ thắng mới là đối tượng được huân, không phải không kiên trụ, cũng như âm thanh… không phải chỉ có kiên trụ. Lại tánh vô ký mới là đối tượng được huân tập, như bình đẳng hương và thọ huân tập, không phải vật rất thơm như trầm hương, xạ hương…, không phải vật rất hôi như tỏi hẹ… "Có thể huân tập" là nếu vật có thể huân hoặc có thể thọ huân, thì từng phần lần lượt càng hoà hợp trộn lẫn mới gọi là có thể huân tập, không phải vàng đá… có thể thọ huân tập, vì không thể từng phần hoà hợp trộn lẫn, không phải chỉ có thể huân tập chủ yếu cùng với khả năng tương ưng mới gọi là đối tượng được huân tập, không phải trụ riêng biệt. Đồng thời đồng xứ, bất tức, bất ly, gọi là tương ưng. Có đủ các đức nầy mới gọi là đối tượng được huân tập. "Không khác đây", không phải âm thanh ngăn cản tất cả thức chuyển là đối tượng được huân tập tánh, như ở trên đã nói nghĩa trái nhau. Thể của thức A-lại-da kiên trụ, cho đến chỗ đối trị sinh tương tục tùy chuyển chưa từng đoạn, nên tánh chỉ có vô ký, không phải thiện và ác. Tánh phải có thể huân tập hoặc có thể thọ huân tập vì không phải thường trụ, vì chủ thể huân tập tương ưng với cùng sinh cùng diệt. "Đó là tướng huân tập", là pháp kia nên đối tượng được huân tập làm tướng của chủ thể, huân tập làm tướng của đối tượng.
Lại nữa, nếu thức chuyển quyết định không phải đối tượng được huân tập, thì sáu thức đó không có quyết định tương ưng. Tại sao vậy? Vì sáu thứ sai biệt trái nghịch lẫn nhau. Nếu sáu thức chuyển quyết định cùng hiện hữu, thì không thành sáu thứ chỗ dựa, đối tượng duyên và tác ý mỗi mỗi đều riêng biệt. Vì mỗi mỗi đều riêng biệt nên sáu thứ thức chuyển không quyết định cùng sinh. Vì không cùng sinh nên không quyết định tương ưng. Vì không tương ưng nên đâu có tánh đối tượng được huân tập hay của chủ thể huân tập gì! Nếu nói tiền niệm huân vào hậu niệm là thành huân tập, thì nghĩa nầy không đúng. Vì hai niệm đó không đồng thời có, đây là cũng hiển thị do sáu sát-na không cùng hiện hữu nên không quyết định tương ưng, vì không có tương ưng nên không có tánh của đối tượng được huân tập và chủ thể huân tập. Nếu nói dựa vào chủng loại cú nghĩa thì sáu thứ thức chuyển hoặc hai sát-na đồng một loại thức, hoặc loại sát-na không có sai biệt, vì phẩm khác nhau, hoặc ngay nơi thức kia, hoặc sát-na kia, có huân tập lẫn nhau không phải tất cả, điều nầy không đúng lý, vì chủng loại làm lệ thành các lỗi khác. Tâm A-la-hán không ra khỏi loại thức, thì tâm đó đáng lẽ cũng là đối tượng được huân tập của bất thiện, vì một loại pháp. Hoặc loại làm lệ thành lỗi khác, nghĩa là làm ví dụ có lỗi của các loại khác. Nghĩa nầy thế nào? Là tánh của sắc căn thanh tịnh nơi nhãn… là sự đuổi theo của chủng loại căn, ý căn cũng phải trở thành tánh tạo sắc, vì căn nghĩa bình đẳng. Lại có chỗ huân tập kế chấp khác như thế, hoặc nói sáu thức lần lượt huân tập lẫn nhau, hoặc nói tiền niệm huân hậu niệm, hoặc nói huân tập thức nơi chủng loại sát-na, như vậy tất cả đều không đúng lý, nên chỉ nói thức A-lại-da là đối tượng được huân tập, không phải các thức khác, đó là khéo thuyết giảng.
Như vậy hai chủng tử ngoại nội đều làm nhân sinh và làm nhân dẫn. Nếu ngoại chủng tử gần gũi mong muốn làm nhân năng sinh cho mầm, chuyển mong muốn… làm nhân năng dẫn với thân lá. Thức A-lại-da là nội chủng tử, gần gũi mong danh sắc làm nhân năng sinh, chuyển mong sáu xứ cho đến lão tử làm nhân năng dẫn. Nhân sinh lại như vậy, thế nào là nhân dẫn? Để đáp câu hỏi nầy nên nói "Khô chết". Câu nói "Do năng dẫn", là nếu hai chủng tử chỉ làm nhân sinh mà không phải nhân dẫn, thì thu tóm đặt vào kho hạt giống lúa…, không nên thời gian lâu tương tợ tương tục. Sau khi chết thì thi hài ngã màu xanh sình… phần vị tùy chuyển cũng không nên có. Cái gì khi mới chết thì liền diệt hoại? Tại sao ví dụ như mặc tình sau khi diệt, ví như bắn tên, sức của dây cung phóng tên đi là nhân năng sinh, thân cung khiến cho mũi tên đi cất lên không rơi xuống đất là nhân dẫn của mũi tên, khiến cho mũi tên đi xa tới trước, không phải chỉ có giương dây cung mà lực đi có thể sinh rồi liền rơi xuống, cũng không phải do thế chuyển động lần lượt đẩy nhau khiến cho không rơi xuống, đã rời dây cung đi xa có chỗ đến, nên biết trong ấy có hai lực vận hành, là chủ thể sinh và chủ thể dẫn. Có câu tụng "Sau đó tùy ý diệt", là ý đó lấy thẳng lý nhân dẫn tăng ích, khỏi phải nói thí dụ. Tại sao vậy? Dầu và tim đèn đều hết là không chờ ngoại duyên, ngọn đèn tùy ý sau đó dần dần mới diệt, không phải ban đầu liền diệt. Do đạo lý nầy quyết định phải có công lực chủ thể dẫn, hiện tại chưa hết các hành của nội pháp thì cũng phải gây tạo thế lực như vậy lần lượt năng dẫn khiến không đoạn tuyệt.
Luận nói: Để hiển nội chủng không giống như ngoại chủng, lại nói hai bài tụng:
Ngoại hoặc không huân tập,
Không nội chủng phải biết,
Nghe huân tập không có,
Quả sinh phi đạo lý.
Tác, bất tác, được, mất,
Lỗi nên trái nhau,
Ngoại chủng, nội làm duyên,
Do y thức kia huân.
Giải thích: Như vậy đã biện luận chủng tử ngoại và chủng tử nội, tánh thô của nó thì đồng mà hiển thì bất đồng. Lại nói ngoại hoặc không có huân tập, hoặc là nghĩa phân biệt không quyết định, gọi là chủng tử ngoại, hoặc có huân tập, hoặc không có huân tập, như từ tro, phân trâu, lông… Tùy thứ tự của nó mà sinh, màu xanh của cừ thắng kia, gốc của hoa sen, cho đến cỏ bồ… không phải cừ thắng, cùng với tro… kia cùng sinh cùng diệt, huân tập lẫn nhau mà từ đó thức kia sinh. Như vậy ngoại chủng hoặc không có huân tập, như cừ thắng và hoa man… cùng sinh cùng diệt. Do huân tập nên sinh hương thơm, như vậy ngoại chủng hoặc có huân tập, như vậy phân biệt ngoại chủng không quyết định, do đó nói hoặc là nội chủng tử, tức tất cả pháp huân tập trong thức A-lại-da, như vậy chủng tử phải biết quyết định do huân tập mà có. Tại sao vậy? Nếu không có sự giữ vững huân tập văn thì quả đa văn không thấy có. Lại nữa, chủng tử ngoại hoặc là lúa thóc, hoặc có tuy gieo trồng mà bị hoại mất, như lúa trời không gieo trồng mà lại được sinh. Thế nào là nội chủng không giống như ngoại chủng? Có tạo tác hoặc không tạo tác sinh thì bị lỗi, nên tiếp theo đáp: "Do đó thành trái nhau". Vì chủng tử nội và chủng tử ngoại không đồng pháp, gọi là mâu thuẫn. Nếu chủng tử ngoại và chủng tử nội có sai biệt thì tại sao không trái nghịch với đoạn văn đã nói trước? Thức A-lại-da là chủng tử chân thật của tất cả pháp, vì tránh vấn nạn nầy nên nói "ngoại chủng, nội làm duyên…", vì lúa thóc… là chủng tử của ngoại pháp, đều là chủng tử của chúng sinh chiêu cảm nghiệp thọ dụng huân tập, nương vào lực biến hiện của A-lại-da, do đó ngoại chủng lìa nội chủng không khác. Như có tụng:
Trời, đất, gió, hư không,
Ao nước cùng đại hải,
Đều là nội sở tác,
Phân biệt không ở ngoài.
Các loại như vậy có vô lượng bài tụng.
Luận nói: "Lại nữa, các thức chuyển khác rộng khắp đối với tất cả tự thể các cõi phải biết gọi là chủ thể thọ dụng, như luận trung biên phân biệt nói bài Dà-tha:
Một gọi là duyên thức,
Hai gọi là thọ giả,
Năng thọ dụng trong đây,
Phân biệt, xét tâm pháp".
Giải thích: "Các cõi", là các cõi trời… "Có thể thọ dụng", tức là sáu thức chuyển làm thọ dụng, từ duyên sinh của cảnh giới đối tượng duyên có thể phân biệt, để hiển nghĩa nầy nên dẫn luận trung biên phân biệt làm chí giáo lượng. "Trong đây", là trong các thức nầy. "Có thể thọ dụng", là thọ uẩn. "Có thể phân biệt", là tưởng uẩn. "Có thể suy xét", là hành uẩn. Tư có thể suy xét tâm, đối với các tâm pháp kia chuyển thành tối thắng, nói như vậy thì ba uẩn đều là khả năng trợ tâm, thọ dụng cảnh giới nên gọi là tâm pháp.
Luận nói: "Như vậy hai thức làm duyên lẫn nhau, như trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói Dà-tha:
Các pháp nơi thức giữ,
Thức nơi pháp cũng vậy,
Lẫn nhau làm tánh,
Cũng thường làm tánh nhân".
Giải thích: Trong đây là hiển thức A-lại-da và các thức chuyển, làm duyên lẫn nhau, lại dẫn A-cấp-ma khiến cho lý đó kiên cố, nên nói Các pháp nơi thức tàng…". Lại nữa, như trong phần thâu tóm quyết chọn của luận du-già sư địa nói: "Thức A-lại-da cùng với các thức chuyển làm hai tánh duyên: 1. Làm chủng tử của thức kia. 2. Làm chỗ dựa của thức kia. Làm chủng tử, là chỗ có thiện, bất thiện và vô ký, khi thức chuyển chuyển, tất cả đều dùng thức A-lại-da làm chủng tử. Làm chỗ dựa, là do thức A-lại-da chấp thọ sắc căn, thân của năm chủng thức nương vào đó chuyển, không phải không có chấp thọ. Lại nữa, do thức A-lại-da nên có được Mạt-na, do Mạt-na nầy làm chỗ dựa nên ý thức được chuyển, ví như dựa nơi năm căn nhãn… mà thân của năm thức chuyển không phải không có năm căn. Ý thức cũng vậy, không phải không có ý căn. Lại nữa, các thức chuyển và thức A-lại-da làm hai tánh duyên: 1. Trong hiện pháp có thể trưởng dưỡng các chủng tử kia. 2. Trong hậu pháp làm cho chủng tử kia được sinh, vì thâu tóm gây tạo chủng tử kia. Trong hiện pháp trưởng dưỡng các chủng tử kia, là như chỗ dựa thức A-lại-da, khi thiện, bất thiện, vô ký và thức chuyển chuyển, như vậy như vậy đối với tất cả chỗ dựa đồng sinh đồng diệt, huân tập thức A-lạida. Do nhân duyên nầy, sau các thức chuyển, tánh thiện bất thiện vô ký chuyển lại càng chuyển tăng trưởng, lại càng chuyển sung thịnh, lại càng thấu rõ mà chuyển. Trong hậu pháp nầy làm cho chủng tử kia được sinh vì thâu tóm gây tạo chủng tử, là sự huân tập chủng loại có thể dẫn thâu dị thục của thức A-lại-da vô ký trong vị lai, như vậy vì làm chủng tử kia, vì làm chỗ dựa, vì trưởng dưỡng chủng tử, vì thâu tóm chủng tử, phải biết kiến lập thức A-lại-da cùng với các thức chuyển làm duyên tánh lẫn nhau.
Luận nói: "Như trong duyên khởi thứ nhất, như vậy hai thức xen nhau làm nhân duyên, thì trong duyên khởi thứ hai lại là duyên gì? Là duyên tăng thượng. Như vậy sáu thức có bao nhiêu duyên được sinh? Duyên tăng thượng, duyên sở duyên và duyên đẳng vô gián. Như vậy ba thứ duyên khởi là cùng sinh tử nơi cõi ái phi ái và chủ thể thọ dụng có đủ bốn duyên".
Giải thích: "Nếu trong duyên khởi thứ nhất", là trong duyên khởi phân biệt tự tánh. "Như vậy hai thức làm nhân duyên lẫn nhau", như trên đã nói. "Trong duyên khởi thứ hai", là trong duyên khởi phân biệt ái phi ái. "Là duyên tăng thượng", vì tối thắng nên do lực tăng thượng của vô minh… Khiến hành của nó đối với cõi thiện, cõi ác chiêu cảm quả dị thục. "Như vậy sáu thức có ba duyên sinh", trong đây nhãn thức làm duyên tăng thượng, sắc làm duyên sở duyên, thức vô gián diệt làm duyên đẳng vô gián. Như nói nhãn thức từ ba duyên sinh, như vậy nhĩ thức… mỗi mỗi thức chuyển đều từ ba duyên sinh riêng khác. Nghĩa của sinh bình đẳng như nhãn thức ở trước. Tự tánh của phân biệt chỉ có nhân duyên sinh, các duyên khác ngoài ba duyên ra thì không phải là chánh có. "Như vậy ba thứ duyên khởi là cùng sinh tử… Có đủ bốn duyên", đây là tùy chỗ thích ứng mà không phải mỗi mỗi đều có đủ bốn duyên, phải biết chỉ có tâm và tâm pháp có đủ bốn duyên.
Luận nói: "Như vậy đã an lập dị môn và tướng của thức A-lại-da. Lại làm thế nào để quyết định biết dị môn như vậy và tướng như vậy? Chỉ ở tại thức A-lại-da mà không phải tại thức chuyển, vì nếu xa lìa an lập như vậy thì tạp nhiễm và thanh tịnh của thức A-lại-da đều không được thành, là phiền não tạp nhiễm, hoặc nghiệp tạp nhiễm, hoặc sinh tạp nhiễm đều không được thành. Thế gian thanh tịnh và xuất thế gian thanh tịnh cũng không được thành".
Giải thích: Đã dẫn Thánh giáo về tự tha để thành lập thức A-lại-da, phải nương vào chánh lý mà trịnh trọng thành lập, nên khởi vấn đáp sơ lược như vậy. Chánh lý của Thánh giáo mỗi mỗi đều có khả năng nên có tụng nói:
Thánh giáo và chánh lý,
Mỗi riêng có công năng,
Vì sinh nơi tín huệ,
Không một nào chẳng thành".
Vì nếu lìa thức A-lại-da nầy, muốn đối với xứ khác an lập tướng và dị môn như vậy, thì tạp nhiễm và thanh tịnh đều không thể có, nên quyết định biết có thức A-lạida. "Tạp nhiễm", là nghĩa lẫn lộn, ô trược, bất tịnh. "Thanh tịnh", là nghĩa tươi tốt, sạch sẽ, quét sạch. Tạp nhiễm có ba thứ: 1. Do phiền não tạo tác. 2. Do nghiệp tạo tác. 3. Do sinh tạo tác. Thanh tịnh có hai thứ: 1. Thế gian thanh tịnh, vì đạo hữu lậu tạm thời tổn giảm, điều phục phiền não hiện tại. 2. Xuất thế thanh tịnh, vì đạo vô lậu đoạn diệt rốt ráo tùy miên.
Luận nói: "Thế nào là phiền não tạp nhiễm không thành? Vì sự tạo tác huân tập của các phiền não và tùy phiền não, thể của chủng tử kia đối với sáu thức thân không đúng lý. Tại sao vậy? Nếu lập nhãn thức thì… phiền não và tùy phiền não như tham... cùng sinh cùng diệt, đây là do các nhãn thức kia huân tập thành chủng tử không phải pháp nào khác, tức là nhãn thức nếu đã lui mất thì đó là chỗ gián đoạn của các thức khác. Như vậy chỗ dựa của huân tập, huân tập không thể đạt được, từ đây trước hết là diệt chỗ gián đoạn của các thức khác, hiển hiện không có thể, nhãn thức cùng với tham… kia cùng sinh là không đúng lý, vì tham… kia quá khứ hiển hiện vô thể, như từ quá khứ hiển hiện nghiệp vô thể mà quả dị thục sinh là không đúng đạo lý. Lại nữa, nhãn thức và tham… này cả thảy huân tập cùng sinh cũng không thành tựu, nhưng huân tập nầy không trụ trong tham, vì tham dục kia là chủ thể dựa, không kiên trụ, cũng không được trụ trong các thức khác, vì chỗ dựa của các thức kia riêng khác. Lại nữa, không có quyết định cùng sinh cùng diệt, cũng lại không được trụ trong tự thể, do tự thể kia quyết định không có cùng sinh cùng diệt, nên sự huân tập tập của nhãn thức… các phiền não và tùy phiền não như tham... là không đúng đạo lý. Lại nữa, thức nầy không phải là sự huân tập của thức, như nói nhãn thức, thì các thức chuyển khác cũng lại như vậy, phải biết như thế".
Giải thích: Lại nương vào thức chuyển, trước hết biện luận về phiền não tạp nhiễm không thành, nên nói các câu "nếu lập nhãn thức…", ngay trên nhãn thức nầy, tức là tham… sự huân tập nhãn thức. "Chỗ gián đoạn của các thức khác", là chỗ gián đoạn của nhĩ thức… Huân tập như vậy, và chỗ dựa của thức đã lui mất nên đều không thể đạt được. "Nhãn thức với tham… kia cùng sinh", sau đó thì nhãn thức cùng với tham sân si xen tạp lẫn nhau cùng khởi, do không nhân nên không đúng đạo lý, vì nhãn thức quá khứ kia không có thể thì không thể làm nhân, như từ quá khứ hiển hiện nghiệp vô thể mà quả dị thục sinh là không đúng đạo lý", là như quá khứ vô thể của các sư thuộc kinh bộ, chính quả dị thục đó là hiển hiện chỗ dẫn phát của huân tập, từ nghiệp quá khứ nơi quả dị thục sinh của sư Tỳ-bà-sa thì điều nầy không nên thừa nhận. Tại sao vậy? Vì quá khứ không có, do thí dụ tâm tham… này sinh là không đúng đạo lý. Như vậy đã nói lại còn thừa nhận tham… cùng sinh nhãn thức là sự huân tập của tham…, các thức khác khởi gián đoạn, sau đó nhãn thức, tham… cùng sinh là không đúng đạo lý. Bây giờ sẽ biện luận thêm nữa tức là các tham… này cùng sinh, cả thảy sự huân tập của nhãn thức cũng không được thành, nên nói các câu "Lại nữa, nhãn thức này…", nhưng huân tập nầy không trụ trong tham, nhưng âm thanh là nghĩa thứ lớp, lại còn huân tập nầy không được trụ trong tham, vì tham nương vào thức, tham hệ thuộc thức, thức thì không nương vào tham, không phải chủ thể dựa tham thọ nhân chỗ dựa là sự huân tập, đúng ra chánh đạo lý là chủ thể huân tập. "Vì không kiên trụ", ngăn cản tham dục là tánh của đối tượng được huân tập. "Cũng không được trụ trong các thức khác", là không được trụ trong nhĩ thức… "Vì chỗ dựa của các thức kia riêng khác", chỗ dựa là nhĩ căn…, vì căn riêng khác nên thức riêng khác. Dựa vào nhãn căn thức làm sao có thể huân tập dựa vào các thứ như nhĩ… thức? Cũng không cùng nên chẳng cùng, có đắc thì có tánh của đối tượng được huân tập và tánh của chủ thể huân tập. Đây là hiển thị không có tướng huân tập. "Cũng lại không được trụ trong tự thể", là không phải ngay nơi nhãn thức mà lại huân tập vào nhãn thức, tác giả của chủ thể huân tập và đối tượng được huân tập, vì tác nghiệp có lỗi tương tạp. "Lại nữa, thức nầy không phải là sự huân tập của thức", có nghĩa là nhãn thức nầy không phải chỗ huân tập tập của nhĩ thức, vì chỗ dựa khác nhau, như trước đã nói, chỉ có lý nghĩa như vậy mới có thể lập nên nhất thiết chủng kia đều không đúng lý. "Phải biết như thế", là đạo lý lập phá của các thức chuyển còn lại, tùy chỗ thích ứng của nó mà tất cả phải biết.
Luận nói: "Lại nữa, từ vô tưởng… Lên các địa trên, chết rồi sinh lại cõi nầy, lúc đó là phiền não và tùy phiền não nhiễm ô thức ban đầu. Thức nầy khi sinh thì đáng lẽ không có chủng tử, vì chỗ nương dựa và huân tập kia đều đã trở thành quá khứ, hiện tại thì không có thể".
Giải thích: "Từ cõi vô tưởng… lên các địa rên, chết rồi sinh lại cõi này", là từ cõi trên rên, chết rồi sinh lại cõi Dục, "Lúc đó là phiền não và tùy phiền não", là tham, sân… "Nhiễm ô thức ban đầu", là tiếp tục khi sinh thì có thức ban đầu, vì lúc đó là chỗ nhiễm ô tất cả phiền não của tự địa, không phải dục triền và tâm quá khứ đã đoạn của sư thuộc kinh bộ, là có thể đắc từ thức ban đầu kia bây giờ hiện hành trở lại, không phải thức kia không có tâm làm chỗ dựa nầy mới đúng đạo lý. Vì thức kia, chết rồi thì tâm cũng không thành. Nếu như thế thì tại sao không nói ngay thức kia? Vì thức kia không quyết định là nhiễm ô. Lại nữa, tâm nầy cùng với thức kia không có sai biệt, mà nói kia nói đây lại có ý gì khác?
Luận nói: "Lại nữa, đối trị phiền não, là nếu thức đã sinh tất cả thế gian, thì các thức khác đã diệt, lúc đó nếu lìa thức A-lại-da thì chủng tử của phiền não và tùy phiền não khác trong đối trị thức nầy là không đúng đạo lý. Vì tự tánh của đối trị thức nầy là giải thoát, nên cùng với các phiền não khác không đồng thời sinh diệt. Lại, sau đó thế gian thức sinh, lúc đó nếu lìa thức A-lại-da thì các huân tập và chỗ dựa kia đi qua đã lâu và hiện hành không có thể, đáng lẽ không có chủng tử mà lại được sinh, nên nếu lìa thức A-lại-da thì phiền não tạp nhiễm đều không được thành".
Giải thích: "Đối trị phiền não nếu đã sinh", là như quả hướng dự lưu đầu tiên, kiến đoạn phiền não đối trị sinh khởi, tất cả các thức khác của thế gian đã diệt, lúc đó nếu không có thức A-lại-da thì tu đoạn trừ phiền não hết thảy tùy miên, chỗ nào mà nương trụ? Không phải đối trị thức liên đới với chủng tử kia mới đúng đạo lý, vì tự tánh của đối trị thức nầy là giải thoát, tức là nghĩa tự tánh hết sức thanh tịnh. "Cùng với các phiền não khác không đồng thời sinh diệt", là chủ thể đối trị và đối tượng được đối trị trái nghịch lẫn nhau, cũng như sáng và tối, đây là hiển thị phiền não cùng với tướng chủng tử kia không tương ưng. "Lại sau đó", là kiến đạo sau vị tu đạo. "Đi qua đã lâu và hiện hành không có thể", đây là phá vị quá khứ không có thật nghĩa. Phiền não đắc của sư thuộc Tỳ-bà-sa và các sư thuộc kinh bộ đã phá xong, nên không phá lại nữa. Nhưng huân tập theo chỗ dựa của thuộc sư kinh bộ đều không có thể, có lỗi về chỗ tùy thuộc nên không đúng lý, do đó nếu lìa thức A-lại-da thì phiền não tạp nhiễm đều không được thành", đây là kết chỗ luận trên để quyết đoán về đạo lý.
Luận nói: "Thế nào là nghiệp tạp nhiễm không thành? Vì hành làm duyên thức không tương ưng, điều nầy nếu không có, thì thủ làm duyên hữu cũng không tương ưng".
Giải thích: "Vì hành làm duyên thức không tương ưng", đây là nói đối với nghiệp tạp nhiễm của thức chuyển không thành, là hành làm duyên cho tham… cùng sinh, nhãn… các thức thừa nhận làm thức chi, điều nầy không đúng lý. Thức duyên danh sắc vì có Thánh ngôn. Tại sao vậy? Vì nhãn… các thức từng sát-na mau chóng hoại, diệt mất đã lâu làm duyên của danh sắc là không đúng đạo lý. Nếu sợ lỗi nầy mà thừa nhận tương tục sinh thức làm thức chi thì điều nầy cũng không đúng. Khi tương tục sinh, thì hành phước, hành phi phước và hành bất động diệt mất đã lâu, không phải từ lâu diệt mất rồi ở đây phải sinh lại. Lại nữa, tương tục sinh tâm không phải là tánh vô ký, vì ái và sân đồng thời nên không phải vô ký, vì hành làm duyên là không đúng đạo lý. Nếu nói thức chuyển cùng với hành tương ưng, do đây làm duyên thức A-lại-da thì có thể duy trì huân tập gọi là thức chi mới đúng đạo lý. "Điều nầy nếu không có, thì thủ làm duyên hữu cũng không tương ưng", là chủng tử dị thục nơi các nghiệp của vị huân tập hiện tiền chuyển gọi là hữu, hoặc lại chuyển đắc công năng sinh quả gọi là hữu, chỗ huân tập thức của hành nếu không thành tựu thì xứ nào an lập nghiệp của chủng tử kia mà lại được nói là sinh! Quả hiện tiền chuyển gọi là hữu, nên nếu lìa thức A-lại-da, thì nghiệp tạp nhiễm nầy cũng không được thành.
Luận nói: "Thế nào là sinh tạp nhiễm không thành? Vì khi kết tương tục không tương ưng".
Giải thích: Bây giờ để hiển thị nếu không có thức A-lại-da thì sinh thể của tạp nhiễm cũng không được thành, vì nói khi kết tương tục không tương ưng.
Luận nói: "Nếu hữu đối với thức nầy phi địa đẳng dẫn đã mất, thì khi sinh nương vào ý của vị trung hữu, mà khởi ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, ý thức nhiễm ô nầy diệt mất trong trung hữu, thức Yết-la-lam trong thai mẹ càng hoà hợp lẫn nhau. Nếu ý thức cùng với Yếtla-lam kia hoà hợp, đã hoà hợp rồi thì dựa vào thức nầy mà trong thai mẹ có ý thức chuyển. Nếu như thế tức phải có hai ý thức đồng thời chuyển trong thai mẹ. Lại nữa, thức cùng với Yết-la-lam hoà hợp là tánh ý thức thì không đúng đạo lý, vì nương vào nhiễm ô, lúc đó không có đoạn diệt, vì đối tượng duyên của ý thức không thể thủ đắc. Nếu thức hoà hợp tức là ý thức làm hoà hợp ý thức nầy, tức là hết thảy chủng tử thức nương dựa, chỗ sinh ý thức khác của thức nầy là hết thảy chủng tử thức.
Nếu thức hoà hợp nầy là hết thảy chủng tử thức thì đó là thức A-lại-da. Ông lấy tên khác lập làm ý thức, nếu chủ thể dựa chỉ thức là hết thảy chủng tử thức thì đó là chỗ dựa nơi nhân thức, không phải hết thảy chủng tử thức, năng y quả thức là hết thảy chủng tử thức, là không đúng lý, cho nên thành tựu thức hòa hợp nầy, không phải ý thức, chỉ là thức dị thục là hết thảy chủng tử thức".
Giải thích: "Phi địa đẳng dẫn", là gọi cõi Dục. "Mất", là chết mất. "Nương vào ý của vị trung hữu", là nương vào trung gian của hai hữu sinh và tử mà trung hữu chuyển tâm. "Mà khởi nhiễm ô", là cùng với ái sân đồng thời có điên đảo. "Ý thức", các thức khác lúc đó diệt mất đã lâu, liên tục giữ vững mà sinh nên gọi là "Tương tục", thâu tóm sự thọ sinh nên gọi là "Kết sinh". "Ý thức nhiễm ô này", là do duyên sinh mà có. "Diệt mất trong trung hữu", vì thức nầy nếu không diệt thì không có sinh hữu. "Thức Yết-la-lam trong thai mẹ càng hoà hợp lẫn nhau", là khi thức nầy diệt thì trong mẫu thai có thức dị thục cùng với màu đỏ trắng của nó đồng nhất an nguy, khiến cho hòa tạp lẫn nhau thành Yết-la-lam. Như Thế Tôn nói: "Này A-nan-đà! Thức nếu không nhập thai mẹ thì không nên hoà hợp Yết-la-lam để thành thể tánh của Yết-la-lam. "Nếu ngay ý thức", là thức nầy không phải thức A-lại-da. "Đã hoà hợp rồi", là đã thọ sinh. "Dựa vào thức này", là nương vào thức dị thục. "Có ý thức chuyển", là có thức chuyển khác cùng với tín… tham… tương ưng, lạc thọ và khổ thọ đồng thời với phân biệt ý thức. "Nếu như thế tức là phải có hai ý thức đồng thời chuyển trong thai mẹ", là bản sự của hữu tình nơi thể dị thục, không chờ gia hạnh hiện thời chuyển. Ý thức vô ký và hành tướng của đối tượng duyên có thể biết rõ về lạc thọ, khổ thọ… tương ưng với ý thức, là hai ý thức phải ở trong một thân đồng thời chuyển, nhưng không nên thừa nhận kinh nói trái nhau. Như vậy tụng nói:
Không xứ không chứa,
Không trước không sau,
Đồng thân đồng loại,
Hai thức cùng sinh.
Lại nữa, không nên thừa nhận hai ý thức nầy, vì là một tự tánh phân biệt. Lại nữa, thức dị thục không nên gián đoạn, vì đã kết tương tục rồi thì sau đó phải ở chỗ khác kết sinh. Lại nữa, thể dị thục chỉ hằng tương tục lại không có cõi khác nữa. "Lại nữa, thức cùng với Yết-la-lam hoà hợp là tánh ý thức thì không đúng đạo lý, vì nương vào nhiễm ô, lúc đó không có đoạn diệt", là do lập tông môn để hiển cùng với tự tướng của pháp kia trái nhau, là cùng chung quyết định nếu ý thức thì không phải tất cả xứ, không phải tất cả chủng, không phải tất cả thời, nương vào nhiễm ô, sau đó cũng như hết thảy ý thức. Như vậy, khi thức kết sinh tương tục, thì đối với tất cả xứ, tất cả cả chủng loại và tất cả thời phân, đều nương vào nhiễm ô, trung hữu gồm thâu, tâm sau làm chỗ dựa, chỗ dựa là tâm nầy sinh cảnh hữu vi, vì đối với tất cả xứ tất cả cả chủng loại tất cả thời phần là nhiễm ô. Thức chủ thể dựa không phải là ý thức, vì thức chủ thể dựa nầy siêu vượt pháp ý thức, hoặc có người nói: "Cùng với bốn phiền não hằng tương ưng tâm gọi là gọi là dựa vào nhiễm ô, đã là tâm tương tục phải trở thành nhiễm ô, thì nhiễm ô nầy đã thành lập, thừa nhận làm tánh dị thục vô ký, do tánh dị thục lúc đó không gián đoạn, do đây cũng ngăn cản tánh ý thức. "Vì đối tượng duyên của ý thức là không thể thủ đắc", nghĩa nầy lại tăng thêm ngăn cản nhân ý thức. Nếu là ý thức thì quyết định có thể đắc tự cảnh của đối tượng duyên của nó, là có thể biết rõ như vị trung hữu, tối hậu ý thức đã là tâm tương tục, cảnh giới đối tượng duyên không thể biết rõ nên không phải ý thức. Không nên lấy tâm định trụ diệt kia mà đặt vấn nạn nầy, vì không thể thừa nhận tâm định trụ diệt kia là tánh ý thức. Như vậy, trong đây chỉ nói đối tượng duyên là bất khả đắc và khó hiểu được, không phải hoàn toàn không có, vì trong lúc đó không phải không có pháp, dù nó có đó nhưng không thể biết. Từ câu "nếu thức hoà hợp tức là ý thức", cho đến câu cuối "Chỉ là thức dị thục, là hết thảy chủng tử thức", là song song quan hệ trình bày chất vấn lập chánh phá tà, kết quy về nghĩa gốc, văn đó dễ hiểu, không cần giải thích rộng.
Luận nói: "Lại nữa, đã kết sinh tương tục rồi, nếu lìa thức dị thục chấp thọ nơi sắc căn thì cũng không thể được, cùng chung các thức khác mỗi mỗi đều nương riêng, vì không kiên trụ, các sắc căn đó không nên lìa thức".
Giải thích: "Đã kết sinh tương tục rồi", là đã đắc tự thể. "Nếu lìa thức dị thục", là lìa thức A-lại-da. "Chấp thọ", là có thể thâu giữ. "Sắc căn", là trừ ý căn ra. "Thì cũng không thể được", là các thức chuyển khác đều không thể đắc chấp thọ sắc căn. Tại sao vậy? Vì các sắc căn khác mỗi mỗi đều nương riêng, đây là hiển thị sáu căn như nhãn... không có một pháp nào có thể chấp thọ khắp hết. Lại như nhãn thức chỉ nương vào nhãn, như vậy các thức khác như nhĩ… chỉ nương vào nhĩ… Nếu là chỗ dựa nầy chỉ có chủ thể chấp thọ nầy, nếu không phải chỗ dựa nầy, đây là không thể chấp thọ. "Vì không kiên trụ", đây là niệm niệm gián đoạn, kia một mình sinh khởi, vì đối với vô tưởng… có gián đoạn, lúc đó nhãn… không có chủ thể chấp thọ, đáng lẽ không có giác thọ, có nói thân căn làm chủ thể chấp thọ, do vì khắp thể, nghĩa nầy không đúng, vì thân căn cũng là đối tượng được chấp thọ. Nếu thân căn nầy là chủ thể chấp thọ, thì càng không có chấp thọ khác chấp thọ nầy, cũng không được thành. Lại nữa, nên nói: "Xả ly thân căn lúc đó gọi là tử", không nên nói: "Thọ (mạng) noãn cùng với thức nếu khi xả ly thân như vậy, do đó thân căn là chủ thể chấp thọ", là không đúng đạo lý.
Luận nói: "Nếu lìa thức dị thục thì thức cùng với danh sắc nương lẫn nhau, ví như bó lau nương lẫn nhau mà chuyển, điều nầy cũng không thành".
Giải thích: Như đức Thế Tôn nói: "Thức duyên danh sắc". Trong đây danh sắc, không phải sắc bốn uẩn. Sắc, tức là tánh Yết-la-lam, hai thứ sắc nầy đều dùng thức làm nhân duyên. Thức lại nương vào sát-na chuyển chuyển tương tục nầy mà chuyển. "Thức", là không thể lìa thức A-lại-da. Tại sao vậy? Chỗ nêu ra chữ danh đã gồm thâu thức chuyển, chỗ nêu ra chữ thức thì cái gì gồm thâu? Lại như kinh nói: "Cùng thức thối hoàn". Thức tức là tự thể của thức A-lại-da, vì nương vào vô gián mà chuyển, do đó nói danh sắc nầy làm duyên. Lại nữa, như kinh nói: "A-nan-đà! Hoặc nam hoặc nữ, nếu người có thức bị đoạn hoại diệt, thì danh sắc có được tăng trưởng không? Bạch Thế Tôn! Không"! Như vậy ở đây nếu muốn lìa thức A-lại-da thì lý không thể thành.
Luận nói: "Nếu đã lìa thức dị thục rồi sinh hữu tình, thì thức thực không thành. Tại sao vậy? Vì trong sáu thức tùy lấy một thức, trong tam giới đã sinh hữu tình, có thể tạo sự ăn uống không thể được".
Giải thích: "Đã sinh hữu tình, thức thực không thành", là vì các thức chuyển là tánh thiện, ác và vô ký, vì có nghĩa không hằng trưởng dưỡng các hữu. Lại nữa, đối với hai định và trời vô tưởng đều không có, chỗ khởi sự ăn uống không khắp tam giới, không phải nhập định thì các tâm và tâm pháp mới có thể gọi là thực (ăn), kinh không có nói, vì đã diệt mất không còn, tâm và tâm pháp diệt cũng không phải là thực, vì số của đoạn thực, xúc thực… Đã quyết định.
Luận nói: "Nếu từ đây mà chết, khi địa đẳng dẫn chánh thọ sinh, thì do phi đẳng dẫn theo ý thức nhiễm ô kết sinh tương tục, đây là tâm của phi đẳng dẫn nhiễm ô, là chỗ gồm thâu của địa đẳng dẫn kia, lìa thức dị thục thì các thể chủng tử khác quyết định không thể được".
Giải thích: Như vậy đã biện luận trong cõi Dục, nếu lìa thức A-lại-da thì sự kết sinh tương tục không thành, đối với cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng không được thành, bây giờ sẽ hiển thị. "Nếu từ đây mà chết, khi địa đẳng dẫn chánh thức thọ sinh", là nghĩa khi ở cõi Dục chết rồi sinh lên cõi trên. "Do phi đẳng dẫn ý thức nhiễm ô", là cùng với phiền não tham định vị của địa kia tương ưng. "Lìa thức dị thục thì các thể chủng tử khác quyết định không thể được", không phải là dục triền tâm mất có thể chủng tử kia, vì sinh diệt không đồng thời, không phải định địa sinh tâm là thể chủng tử kia, tức là đối với một tâm chủng mà có chủng tánh bất tương ưng, không phải trong đời sống khác, trước hết chỗ đạt được sắc triền cùng với tâm làm thể chủng tử, nắm giữ sắc triền kia huân tập các thức không có khác, không phải sắc tương tục làm thể chủng tử, vì không nhân duyên, nên quyết định nương vào thức A-lại-da, trong đó hằng hữu từ vô thỉ đến nay, chỗ gồm thâu của địa kia là tâm nầy huân tập.
Luận nói: "Lại nữa, sinh cõi Vô sắc, nếu lìa hết thảy chủng tử thức dị thục tâm nhiễm ô thì đáng lẽ không có chủng tử, tâm nhiễm ô thiện đáng lẽ không có chỗ nương giữ".
Giải thích: "Sinh cõi Vô sắc", là đối với cõi kia đã được thọ sinh. "Tâm thiện nhiễm ô", là vị có thể ái và tâm đẳng chí. "Đáng lẽ không có chủng tử", nghĩa là không có chủng tử thức. "Đáng lẽ không có chỗ nương", nghĩa là không có thức dị thục, lúc đó tất cả tâm và tâm pháp đều đáng lẽ không có, nên phải thừa nhận hết thảy chủng tử và thức dị thục quyết định là có, nhân và chỗ nương quyết định phải có.
Luận nói: "Lại nữa, ngay đối với kia, nếu tâm xuất thế đang hiện tiền thì các tâm thế gian khác đều diệt tận, lúc đó liền được diệt lìa cõi kia".
Giải thích: "Lại nữa, ngay đối với kia", là đối với cõi Vô sắc. "Nếu tâm xuất thế", là tâm vô lậu. "Đang hiện tiền", là sinh vô lậu. "Thì các tâm thế gian khác", là hữu lậu. "Đều diệt tận", là tất cả vĩnh viễn diệt mất. "Lúc đó liền được diệt lìa cõi kia", là chỗ gồm thâu dị thục của cõi kia không có, nên không do công dụng mà tự nhiên đáng đắc niết bàn vô dư, chủ thể đối trị hiện tiền thì tất cả sự đối trị đều vĩnh viễn đoạn.
Luận nói: "Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Vô sở hữu xứ, khi xuất tâm thế gian hiện tiền, tức là phải hai cõi đều diệt lìa. Thức xuất thế nầy không lấy Phi tưởng phi phi tưởng xứ làm cõi của chỗ dựa, cũng không nên lấy Vô sở hữu xứ làm cõi của chỗ dựa, cũng không phải Niết-bàn làm cõi của chỗ dựa".
Giải thích: "Nếu sinh Phi tưởng phi phi tưởng xứ", là sinh vào đệ nhất hữu, khi muốn đoạn các phiền não của các địa kia, vì tưởng suy yếu nên tự địa không có đạo, vì địa Vô sở hữu xứ sáng rõ nên khởi tâm vô lậu kia hiện tiền. "Lúc đó hai cõi đồng thời phải diệt lìa", là hai cõi đệ nhất hữu và vô sở hữu phải diệt lìa, lúc đó hữu tình phải trở thành tử diệt, vì chỗ dựa của hai cõi đều không có. Không phải pháp vô lậu là chỗ gồm thâu của cõi, vì nó không bị trói buộc, vì đối trị cõi. "Cũng không phải Niết-bàn làm cõi của chỗ dựa", là vì trụ Niết-bàn giới hữu dư y. Lại nữa, vì tất cả cõi vĩnh viễn diệt lìa thì Niết-bàn gọi là cõi của phi cõi, như vậy đều không có tự thể dị thục có thể làm chỗ dựa của thức xuất thế.
Luận nói: "Lại nữa, khi sắp chết mà tạo thiện, tạo ác, chỗ dựa hoặc hạ hoặc thượng lạnh dần, nếu không tin có thức A-lại-da thì đều không được thành. Cho nên nếu lìa hết thảy chủng tử thức dị thục, thì đời nầy sinh tạp nhiễm cũng không được thành".
Giải thích: "Khi sắp chết", là khi sắp chết mất. "Tạo thiện", tức là đối với phần dưới của thân mình lạnh dần. "Tạo ác", thì ngược với tạo thiện. Nếu không tin có thức A-lại-da thì điều nầy không thành tựu. Tại sao vậy? Vì lúc đó ý thức thì không xứ không hữu, thức A-lại-da thì có xứ không hữu, vì nương vào tợ xứ trụ biến thì phương xứ hiển hiện lẫn nhau.
Luận nói: "Thế nào là thế gian thanh tịnh không thành? Là chưa lìa dục triền tham. Chưa đắc sắc triền tâm, tức là tâm thiện dục triền, vì lìa dục triền tham nên siêng tu gia hạnh, tâm dục triền gia hạnh nầy cùng với sắc triền tâm không đồng thời sinh diệt, không phải chỗ huân tập của sắc triền tâm làm chủng tử của sắc triền tâm là không đúng đạo lý. Lại nữa, sắc triền tâm nhiều đời quá khứ các tâm khác ngăn cách, không phải là tâm định nơi chủng tử hiện tại, chỉ vì không có nên thành tựu hết thảy chủng tử nơi quả dị thục thức của sắc triền tâm lần lượt truyền lại làm nhân duyên hiện tại. Tâm thiện gia hạnh làm duyên tăng thượng. Trong tất cả địa ly dục như vậy phải biết như thế, thế gian thanh tịnh như vậy nếu lìa hết thảy chủng tử thức dị thục thì lý không được thành".
Giải thích: Như vậy đã biện luận 3 thứ tạp nhiễm, đối với lý của các thức chuyển không được thành, nay muốn biện luận rõ thế gian thanh tịnh cũng không thành. Nói chưa lìa dục triền tham… là hai thứ triền gia hạnh tâm thiện của dục và sắc không có nghĩa cùng sinh cùng diệt, nên sở huân năng huân không đúng đạo lý. Lại nữa, dục triền tâm không phải vô ký nên cũng không phải chỗ huân tập, vì hệ địa khác nhau nên không phải nhân duyên, chỗ đắc tâm thiện sắc triền của những đời khác trong vô thỉ sinh tử không phải chủng tử của tâm thiện sắc triền hiện tại, vì là chỗ ngăn cách dục triền nhiều tâm của nhiều đời trong quá khứ. Quá khứ và hiện tại của sư thuộc kinh bộ không có thể, có thể làm chủng tử của tâm thiện sắc triền là không đúng đạo lý. "Cho nên thành tựu…", là kết những điều trên để hỏi vặn công năng của đạo lý, làm chứng quyết định có thức A-lại-da làm nhân duyên, đối với hiện tại, dục triền gia hạnh tâm thiện làm duyên tăng thượng, vì không chung với nhân nên uy lực thù thắng, thứ tự của nó như vậy. "Trong tất cả địa ly dục như vậy phải biết như vậy", là tất cả địa trên mỗi mỗi đều riêng lìa tâm thiện dục gia hạnh, đều tùy chỗ thích ứng mà phá tà lập chánh phải biết làm chuẩn như trên.
Luận nói: "Vì sao xuất thế thanh tịnh không thành? Như Thế Tôn nói: "Nương vào ngôn âm bên ngoài và bên trong mà mỗi mỗi đều tác ý như lý riêng biệt, do đây làm nhân mà chánh kiến được sinh". Do lời nói kẻ khác tác ý như lý nầy, là huân tập nhĩ thức hay là huân tập ý thức hay là huân tập cả hai? Nếu đối với pháp kia mà như lý tư duy, thì lúc đó nhĩ thức không được khởi, ý thức cũng bị các thứ tán động, các thức khác thì bị gián đoạn. Nếu khi cùng với tác ý như lý tương ưng sinh, thì sự huân ý thức của văn (nghe) cùng với tác ý kia huân tập, diệt thành quá khứ đã lâu và quyết định không có thể. Thế nào trở lại làm chủng tử? Có thể sinh sau khi tâm của tác ý như lý tương ưng. Lại nữa, tác ý như lý tương ưng nầy là tâm thế gian, chánh kiến tương ưng kia là tâm xuất thế gian, chưa từng có khi nào cùng sinh cùng diệt, nên tâm nầy không phải là sự huân tập của thức kia, đã không bị huân tập làm chủng tử là không đúng đạo lý, nên xuất thế thanh tịnh nếu lìa hết thảy chủng tử quả thức dị thục cũng không được thành. Trong đây văn huân tập vì thâu nhận chủng tử kia không tương ưng".
Giải thích: Bây giờ vì muốn biện luận thêm đối với sự không thành của sáu thức chuyển và xuất thế thanh tịnh nên nói những câu: "Thế nào là xuất thế…", các văn đều dễ hiểu, khỏi nhọc giải thích lại. "Vì thâu nhận chủng tử kia không tương ưng", như trước đã nói sự thâu nhận chủng tử xuất thế thanh tịnh, là không đúng lý.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là hết thảy chủng tử quả thức dị thục làm nhân tạp nhiễm, trở lại làm chủng tử xuất thế có thể đối trị của tâm tịnh kia? Lại nữa, tâm xuất thế xưa kia chưa từng tu tập, thì tâm xuất thế kia huân tập quyết định là phải không có, đã không có huân tập thì từ chủng nào mà sinh? Do đó phải đáp là từ pháp giới đẳng lưu tối thanh tịnh, là chỗ sinh của chủng tử chánh văn huân tập".
Giải thích: "Lại nữa, thế nào là…" đến "Tâm tịnh chủng tử kia"? Đây là hiển đạo lý rốt ráo không có, chưa từng thấy có chất độc làm cam-lộ. Thức A-lại-da cũng như độc dược, làm sao có thể sinh tâm xuất thế cam-lộ thanh tịnh? "Lại nữa, tâm xuất thế…" cho đến "Từ chủng nào mà sinh"? Đây là hiển tâm tịnh chưa từng đắc, thì làm sao vô nhân khinh suất được sinh? "Từ tối thanh tịnh…" đến chủng tử chánh văn huân tập", đây là hiển tâm tịnh có riêng chủng tử, quyết định không từ chủng tử của thức A-lại-da mà sinh. Thế nào là có riêng chủng tử? Là pháp giới đẳng lưu tối thanh tịnh chánh văn huân tập. "Pháp giới tối thanh tịnh", là pháp giới của chư Phật vĩnh viễn lìa tất cả nơi chướng khách trần. "Đẳng lưu", là từ chỗ khởi giáo pháp của pháp giới, giáo pháp như vậy vì không có nghe điên đảo gọi là chánh văn, nương vào chánh văn nầy khởi huân tập, gọi đó là huân tập, ngay huân tập nầy có thể sinh tâm xuất thế vô lậu, đó là chủng tử, chủng tử như vậy không phải thức A-lại-da là không có được.
Luận nói: "Văn huân tập nầy là tự tánh của thức Alại-da, hay là không phải tự tánh của thức A-lại-da? Nếu là tự tánh của thức A-lại-da, thì thế nào là đối trị chủng tử của thức A-lại-da kia? Nếu không phải là tự tánh của thức A-lại-da, thì chỗ dựa của văn huân tập chủng tử nầy làm sao thấy được? Cho đến chứng đắc Bồ-đề của chư Phật, văn huân tập nầy tùy theo chỗ dựa chuyển xứ của một chủng tử, gởi trong thức dị thục, cùng với thức Alại-da kia hoà hợp đồng thời chuyển cũng như nước và sữa, nhưng không phải thức A-lại-da là đối trị tánh chủng tử của thức A-lại-da kia".
Giải thích: "Văn huân tập này…" cho đến "Làm sao thấy được"? Đây là trình bày những câu hỏi vặn về chỗ dựa riêng. "Cho đến chứng đắc Bồ-đề của chư Phật", là cho đến chứng đắc cõi của chỗ dựa nơi trí vô cấu vô ngại. "Văn huân tập nầy", là không có nghe điên đảo chỗ dẫn huân tập của giáo pháp trong các kinh. "Tùy theo chỗ dựa chuyển xứ của một chủng tử", là tùy theo chuyển xứ tương tục của một chủng tử gởi trong thức dị thục. "Cùng với thức A-lại-da hoà hợp đồng thời chuyển cũng như nước và sữa", văn huân tập nầy tuy không phải là thức A-lại-da kia, nhưng ký gởi trong thức và cùng với thức đồng thời chuyển. "Nhưng không phải thức A-lại-da", văn huân tập nầy là chủng tử của tâm xuất thế, tự tánh của không phải thức A-lại-da cũng không phải chủng tử đó, chỉ có đồng thời chuyển mà không có tánh tương ly, thừa nhận là Duy thức. "Là đối trị tánh chủng tử của thức A-lại-da kia", là đối trị của thức A-lại-da, là tánh nhân của Trí vô phân biệt, ý nghĩa cũng như các thứ vật hoà hợp xen tạp trong kho chứa, cũng như sự pha trộn xen tạp các thứ độc của tiên dược, cũng như có nhiều bệnh uống thuốc a-già-đà, tuy cùng với uế độc có nhiều thời gian đồng thời chuyển, nhưng lương dược thì không phải tự tánh của độc kia, cũng không phải chủng tử của độc. Chủng tử của văn huân tập nầy cũng vậy.
Luận nói: "Trong đây nương vào hạ phẩm, huân tập làm thành trung phẩm huân tập, nương vào trung phẩm huân tập làm thành thượng phẩm huân tập, nương vào đa phần tu tập văn tư tu được tương ưng".
Giải thích: Các câu phẩm hạ trung thượng huân tập, đã phân minh dễ hiểu, không cần giải thích lại.
Luận nói: "Lại nữa, chánh văn huân tập chủng tử nầy, phẩm hạ trung thượng phải biết cũng là chủng tử của pháp thân, cùng với thức A-lại-da trái nhau, là không phải sự gồm thâu của phi thức A-lại-da, vì là tánh của pháp giới xuất thế gian tối thanh tịnh đẳng lưu, tuy là thế gian nhưng là tánh chủng tử của tâm xuất thế. Lại nữa, có thể tùy thuận phụng sự tất cả chư Phật Bồ-tát, tuy là thế gian phải biết ban đầu tu nghiệp thiện sự đắc của Bồtát cũng là pháp thân gồm thâu. Điều mà Thanh-văn, Độc giác đắc chỉ là thân giải thoát thâu tóm. Lại nữa, không phải thức A-lại-da của văn huân tập nầy là pháp thân và thân giải thoát thâu tóm. Như vậy như vậy huân tập phẩm hạ trung thượng thứ lớp tăng dần, như vậy như vậy thức của quả dị thục thứ lớp giảm dần, ngay nơi chuyển chỗ dựa đã là chỗ dựa chuyển của hết thảy chủng rồi, ngay trên thức của quả dị thục và hết thảy chủng tử không có chủng tử mà chuyển, vì hết thảy chủng đã vĩnh viễn đoạn".
Giải thích: "Lại nữa, chánh văn…" cho đến "Chủng tử của pháp thân", là lược nêu từ hạ phẩm để giải thích rộng. "Cùng với thức A-lại-da trái nhau, là chỗ gồm thâu của không phải thức A-lại-da", vì không phải tự tánh của phẩm kia. "Tuy là thế gian", vì tợ hữu lậu. "Nhưng là tánh chủng tử của tâm xuất thế", là tánh tư lương của tâm vô lậu. Trong đây, chứng tướng gọi là pháp thân, nương vào thế gian mà sinh nên gọi là thế gian, vì trong thức A-lại-da xen tạp lẫn nhau mà cùng chuyển. Vì muốn hiển chỗ hơn, có thể đạt của huân tập nầy nên nói "Tâm xuất thế tuy khi chưa sinh nhưng đã có thể đối trị phiền não triền, đây là nhân đồng loại lần lượt tương tục, uy lực trong một sát-na có thể làm đối trị, như lửa đốt cháy, đã có thể đối trị các cõi hiểm ác". Như có tụng nói:
Các hữu thành thế gian,
Bậc chánh kiến thượng phẩm,
Tuy trải qua ngàn đời,
Nhưng không đọa cõi ác.
Trước hết, là thế lực của việc làm hạnh ác, hoặc đọa cõi ác nên kế tiếp nói: "Đã tạo tác tất cả nghiệp ác, hủ hoại đối trị đã tạo nghiệp ác từ vô thỉ đến nay", văn huân tập nầy làm tổn giảm công năng đó, nên gọi là hủy hoại đối trị.
"Pháp thân nhiếp", vì là nhân của văn huân tập, thân giải thoát gồm thâu cũng lại nói như vậy. Trong đây, pháp thân và thân giải thoát có sai biệt. Thân giải thoát, là chỉ có vĩnh viễn lìa trói buộc của phiền não chướng, như người trong thôn ấp lìa chỗ có cấm chế gông cùm, trừ dứt mọi khổ nhưng không có giàu vui tự tại thù thắng tăng thượng tương ưng. Pháp thân, thì giải thoát tất cả trói buộc của hai thứ chướng phiền não và đối tượng nhận thức và gồm các tập khí, chỗ trang nghiêm là mười Lực, Vô uý… vô lượng các công đức hy hữu kỳ diệu, là chỗ nương của tất cả giàu vui tự tại, chứng đắc tự tại tối thắng đệ nhất, tùy lạc mà hành, ví như vương tử, đầu tiên là được làm lễ quán đảnh, có chút ít sai phạm giam tại nhà lao, vừa được giải thoát thì liền cùng với tự tại tối thắng đệ nhất giàu vui tương ưng. "Ngay nơi chuyển chỗ dựa", cũng như uống thuốc tiên mà chuyển thân chỗ dựa, tuy không có chết mạng để thọ sinh nhưng có chuyển xả yếu kém và đắc thù thắng. "Không có chủng tử mà chuyển", phải biết thức của quả dị thục chỉ không có hết thảy chủng tử tạp nhiễm, nên nói đoạn hết thảy chủng. "Đã vĩnh viễn đoạn", là hết thảy phẩm loại chủng tử đã đoạn.
Luận nói: "Lại nữa, thế nào là cũng như nước và sữa? Là không phải thức A-lại-da cùng với thức A-lạida đồng xứ đồng thời chuyển, nhưng hết thảy chủng của thức A-lại-da diệt tận, không phải hết thảy chủng của thức A-lại-da tăng, ví như ngỗng uống sữa trong nước. Lại như thế gian khi được lìa dục, không phải địa đẳng dẫn huân tập dần giảm, chính là địa đẳng dẫn huân tập dần tăng mà đắc chuyển y".
Giải thích: Ví như ngỗng uống sữa trong nước, lại như thế gian lìa dục đắc chuyển y… văn đó dễ hiểu khỏi nhọc giải thích lại.
Luận nói: "Lại nữa, nhập định diệt, thức không lìa thân mà bậc Thánh đã nói, trong đó thức dị thục đáng lẽ trở thành không lìa thân, không phải do trị thức nầy mà định diệt sinh".
Giải thích: Như vậy đã nói tạp nhiễm và thanh tịnh không thành đạo lý, làm chứng quyết định có thức A-lạida. Lại dẫn định diệt không thành nhân duyên. Vì để hiển phát lực trước nên nói "Lại nữa, nhập định diệt…", là trừ Phật và Độc giác ra, hoặc A-la-hán, hoặc quả bất hoàn và các Bồ-tát bất thối vị… Ngoài ra thì không ai nhập được. Để hiển định diệt và chết sai biệt nên nói "Thức không lìa thân", chữ thức là không lìa thức A-lại-da. Tại sao vậy? Vì định diệt không thể đối trị thức nầy, không phải vì trị thức nầy mà sinh định diệt, vì hành tướng nơi đối tượng duyên khó hiểu. Không phải vì đối trị thức không biết rõ mà nhập định diệt, vì tánh không tịch tĩnh khó hiểu rõ, nên định diệt không thể đối trị thức A-lạida. Nếu không có đối trị thì thức nầy không diệt, vì đối trị thức chuyển nên định nầy sinh, vì tánh bất tịch tĩnh của hành tướng đối tượng duyên dễ hiểu, nên định nầy chỉ có diệt thức chuyển, trong đó không diệt thức A-lạida.
Luận nói: "Lại nữa, không phải xuất định thì thức nầy sinh lại, vì thức dị thục đã gián đoạn, lìa kết tương tục thì không sinh lại nữa".
Giải thích: Có chấp các thức trong định tuy diệt mất, nhưng khi xuất định thì thức sinh lại nên nói "Không lìa thân". Để ngăn cản nghĩa nầy nên nói các câu: "Lại nữa, không phải xuất định…", văn đó dễ hiểu không cần giải thích lại.
Luận nói: "Lại nữa, hoặc có chấp rằng có ý thức nên định diệt có tâm, tâm nầy không thành thì định không được thành, vì hành tướng đối tượng duyên không thủ đắc, phải có lỗi thiện căn tương ưng, vì bất thiện và vô ký thì không đúng lý, phải có lỗi tưởng và thọ hiện hành, vì xúc thì có thể đạt, vì đối với Tam-ma-địa thì có công năng, phải có lỗi chỉ có diệt tưởng, phải có lỗi các thiện căn tư, tín… của nó hiện hành, vì dứt trừ chủ thể dựa kia khiến lìa chỗ dựa là không đúng đạo lý. Có ví dụ, nếu như không phải biến hành thì tưởng thọ nầy không có.
Giải thích: "Lại nữa, hoặc có chấp lấy ý thức mà định diệt có tâm, tâm nầy không thành", là trong định nầy thức không lìa thân quyết định không phải ý thức. "Định không được thành", là nghĩa tưởng và thọ đồng thời không diệt, do ý thức cùng với các đại địa quyết định không lìa nhau, hai thứ tưởng và thọ đồng thời không diệt nên định không được thành. Lại nữa, thức trong đây quyết định không phải ý thức, vì hành tướng đối tượng duyên thì không thể đạt, tất cả ý thức không lìa hành tướng đối tượng duyên thì khả đắc, vì trong đó không có ý thức nên hành tướng đối tượng duyên kia không thành có. Lại nữa, thức trong đó quyết định không phải ý thức, vì nếu có thì phải có lỗi thiện căn hiện hành, do định tâm nầy quyết không phải bất thiện, cũng không phải vô ký. Thế nào là chỉ có thiện? Là tâm thiện lìa vô tham… quyết định không nên có, vì tương ưng nên thiện là tông kia. Thiện căn đã có thì hai thứ tưởng và thọ làm sao không hiện hành? Lại nữa, vô tham… quyết không lìa xúc, nên xúc là khả đắc, chỗ sinh của định thì xúc và khinh an làm tướng, thuận với lạc thọ và xả thọ nên phải có thọ với xúc cùng sinh. Có thọ, tưởng… như Thánh nói, do đó phải không có định diệt, hoặc nói rằng trong đây chán lo tưởng thọ, như chán ung nhọt máu mủ… mà sinh định diệt, trong định nầy chỉ có tưởng thọ diệt. Để ngăn cản kế chấp nầy nên lại nói các câu "Vì đối với Tam-ma-địa thì có công năng…", là trong Tam-ma-địa chỗ chán lo không phải chỉ có diệt nầy. Tại sao vậy? Do tiền phương tiện trong định vô tưởng, lực của Tam-mađịa, phải có lỗi là chỉ có tưởng diệt. Nếu chỗ chán lo chỉ có diệt nầy, trước định vô tưởng thì chỉ có chán lo tưởng, trong định vô tưởng thì phải chỉ có tưởng diệt, nhưng ông không thừa nhận. Lại nữa, nếu như lìa chỗ dựa là diệt, thì quyết định không có chủ thể dựa diệt, trong đây tâm cũng phải diệt.
Định diệt như vậy, nếu tâm không diệt thì phải có các thiện căn của tư tín… Hiện hành, nếu tư tín kia diệt thì tâm quyết định phải diệt, nên không phải chỉ có diệt chủ thể dựa, đã có chỗ dựa dứt trừ chủ thể dựa kia là không đúng lý. "Có ví dụ", là có định vô tưởng thí dụ trong đó, như sự dứt trừ kia không đúng lý nên chủ thể dựa chỗ dựa nầy phải đồng thời diệt. Hoặc có thí dụ đại chủng tạo tác, như các đại chủng kia không lìa nhau. Lại nữa, các thiện không phải biến hành, vì đại địa là định dị, có thể đối với tất cả tâm không phải là có khắp, vì hai pháp tưởng và thọ là đại địa, quyết định an trụ trong loại biến hành, nên có thức thì hai thứ tưởng thọ nầy không có là không đúng lý. Để hiển ý nầy nên lại nói "nếu như không phải biến hành thì tưởng thọ nầy không có".
Luận nói: "Lại nữa, trong định nầy do ý thức mà chấp có tâm, thì tâm nầy là thiện bất thiện và vô ký không được thành, nên không đúng lý".
Giải thích: Lại nữa, thức không lìa thân trong định nầy quyết không phải ý thức, vì tánh thiện, bất thiện và vô ký đều không thành. Nếu là ý thức thì quyết định hoặc là thiện hoặc là bất thiện hoặc là vô ký, nhưng ý thức nầy lại không phải là thiện, vì phải có lỗi thiện căn tương ưng, như trước đã nói "Thế nào là tâm thiện lìa vô tham…, các tâm nầy. Thế nào phải lìa xúc, tâm nầy lại làm sao phải lìa biến hành". Thọ… Các tâm pháp, hoặc lại có chấp, vì chỗ dẫn phát của gia hạnh tâm thiện, vì định tâm là thiện không do lực tương ưng của thiện căn. Luận nầy cùng với luận kia nói do lực tương ưng mà tâm được thành thiện, sự an lập trái nghịch. Lại nữa, trong đây có định gì mà duyên tâm gia hạnh của nó? Do vô tham… Tương ưng nên thiện, không phải đối với tâm định của quả đẳng lưu nầy. Lại nữa, không phải tâm nầy là tự tánh thiện, vì tự tánh thiện chỉ có thiện căn… nhập vào niệm của nó. Lại nữa, tâm thiện nầy không phải là thiện thắng nghĩa, vì chỉ có giải thoát là quyết định. Hoặc có trở lại, là nếu có thể hoà hợp thì gọi là hoà hợp xúc, không phải tất cả xúc đều có thể hoà hợp. Hiện tại, trong xúc nầy đối với chủ thể sinh thọ không có chỗ gắng nhận, khi định gia hạnh thì đối với các thọ, tưởng… kia đã chán lo. Phá tà chấp nầy xong, như trước đã nói, là kia thì đáng lẽ chỉ có diệt đây, nên ý thức trong đây không có thọ là không đúng đạo lý. Lại nữa, trong đây có nhân duyên gì, nếu hành ngữ của tầm tứ diệt thì ngữ không chuyển, hành ý của tưởng thọ… diệt mất mà ý cũng còn chuyển, không thể làm lệ ví dụ? "Như hành thân diệt thì thân đó còn trụ", nên hành ý diệt thì ý cũng phải trụ, do đức Bạc-già-phạm lìa ngoài hành thân mà nói có nhân khác khiến cho thân an trụ, điều gọi là thức ẩm thực nơi mạng căn, do đó tuy không có thở vào thở ra mà thân cũng còn trụ. Lìa tưởng, thọ… Chưa từng thấy nói có biệt ý hành, nên trong đây lìa tưởng thọ… Mà an lập có ý là không đúng đạo lý, nên trong định nầy là thức không phải ý thức. Lại nữa, thức trong đây cũng không phải bất thiện, vì định là thiện, trong định vô tưởng cũng không thừa nhận có tất cả bất thiện, huống chi tiến đến giải thoát thứ tự siêu vượt hành định trung gian, trong định diệt tận thì có được bất thiện. Lại nữa, vì trong lúc đó các sự công xảo không có được, ba vô ký trong đó đều không có. Nếu thừa nhận trong đây có thức dị thục thì đó là thành lập thức A-lại-da. Lại nữa, nếu nói riêng có một loại không phải hành dị thục chuyển gọi là vô ký thứ năm, thì sở chấp như vậy chỉ có danh và tưởng, lỗi như trước đã nói, đều không thể lìa.
Luận nói: "Hoặc lại có chấp sắc tâm vô gián sinh, là chủng tử của các pháp, chủng tử nầy không được thành, như trước đã nói. Lại nữa, từ cõi Vô sắc, trời vô tưởng chết, từ định diệt… mà xuất là không đúng đạo lý. Lại nữa, hậu tâm của A-la-hán không thành, chỉ có thể có được duyên đẳng vô gián".
Giải thích: "Hoặc lại có chấp", đây là sư thuộc kinh bộ khởi chấp như vậy. "Sắc tâm vô gián sinh", là các sắc và tâm trước sau thứ tự như vậy tương tục sinh. "Là chủng tử của các pháp", các hữu vi đó có thể sinh tánh nhân, các sư kia chấp từ sắc của sát-na trước, trong đây đạo lý nhân quả thành tựu. Dùng pháp gì lại cho thức Alại-da là nhân của các pháp? Để ngăn sự chấp nầy nên kế tiếp nói "Chủng tử nầy không được thành, như trước đã nói", là như nói hai niệm không đồng thời có… Lại có lỗi gì mà nói mắt ở cõi Vô sắc sinh ở cõi Sắc? Là chủng tử của sắc trước có thể sinh sắc hiện tại, là lý không được thành, vì đoạn diệt đã lâu. Khi từ trời vô tưởng chết mà tâm tưởng sinh, và khi định diệt… xuất mà tâm sinh, thì chủng tử của tâm trước có thể sinh tâm sau đều là không đúng lý, vì đoạn diệt đã lâu. Lại nữa, nếu lìa cùng sinh cùng diệt đó, thì thâu nhận chủng tử là tương ưng đạo lý, nhưng chấp chỉ có tâm của sát-na trước có thể làm chủng tử, dẫn sinh tâm vô gián của sátna sau, tức là hậu tâm của A-la-hán không thành, không thể được nhập Niết-bàn giới hữu dư y và vô dư y vi diệu, do tâm tối hậu có thể làm chủng tử nơi duyên đẳng vô gián sinh các tâm khác, như vậy là phải không có Niếtbàn giới vô dư y vi diệu, do đó sắc và tâm trước sau tương sinh, chỉ nên có duyên đẳng vô gián và duyên tăng thượng, không có nhân duyên.
Luận nói: "Như vậy nếu lìa hết thảy chủng tử nơi thức của quả dị thục thì tạp nhiễm thanh tịnh đều không được thành, nên thành tựu như đã nói tướng ở trước, thức A-lại-da quyết định là có".
Giải thích: Như vậy nếu lìa hết thảy chủng tử nơi thức của quả dị thục, như trước đã nói các chỗ đeo đuổi của các thứ lỗi, tuy không có các tự sự dục lạc trùng lập, nhưng phải thừa nhận thức A-lại-da quyết định là có, như vậy gọi là nguyên tắc hỏi ngược lại, trong đây cũng có đạo lý thuận thành, vì tướng che lấp hiển thị nhân phương tiện, lấy tổng tướng chánh luận không hư dối mà thành lập Đại thừa chân thật là Phật ngữ, nói giáo Đại thừa chân thật là Phật ngữ, vì hết thảy không trái nghịch Bổ-đặc-già-la tánh vô ngã. Thức A-lại-da là giáo của chủ thể nêu giảng, vì xứng với nghĩa nêu giảng mà Phật đã nói, như những câu nói "Sát-na mau diệt…". Như những lời nói khác của Phật "Lại nữa, định của các Đại thừa là thù thắng", vì cùng với pháp giới không trái nhau. Như nói "Các giáo duyên khởi thâm diệu…". Ngoài ra rộng chọn lựa, thì phải biết như lý mà giải thích vấn nạn và thành lập vấn nạn.
Luận nói: "Trong đây có ba bài tụng:
Bồ-tát nơi tâm tịnh,
Xa lìa nơi năm thức,
Tâm chuyển y vô dư,
Ông nên làm thế nào?
Nếu đối trị chuyển y,
Phi đoạn nên không thành,
Nhân quả không sai biệt,
Vĩnh viễn đoạn thành lỗi.
Không chủng hoặc vô thể,
Nếu nhận làm chuyển y,
Không có hai không đó,
Chuyển y không xứng lý".
Giải thích: Lại nữa, nếu không tin có thức A-lại-da, thì như trụ thức Chuyển Chuyển Y không thành, vì kết các câu tụng có ba bài tụng trình bày vấn nạn. Tụng là Bồ-tát nơi tâm tịnh… "Nơi tâm tịnh", là đối với thức thiện. "Xa lìa nơi năm thức", là đối với ý thức. "Vô dư", là trừ ác và vô ký ra thì không còn thừa ý thức thiện hữu lậu khác, là trong vô lậu lìa các hữu lậu khác nên nói là vô dư, không phải ngay trong chủ thể đối trị mà có chỗ đối trị tùy miên. "Tâm chuyển y", là sự chuyển y của tâm. "Ông nên làm thế nào", là nếu không tin có thức Alại-da thì ông phải làm thế nào để khởi chuyển y nầy? Nếu thừa nhận đối trị là chuyển y, thì đối trị kia không phải đoạn nên lý không được thành. Không phải chủ thể đối trị là vĩnh viễn đoạn thì cái gì là nhân đoạn? Do vĩnh viễn đoạn là quả của chủ thể đối trị, là chuyển thể y. Nếu thừa nhận chủ thể đối trị là vĩnh viễn đoạn thì quả đó cùng với nhân phải không có thành lập sai biệt, vì nhân của chủ thể đối trị tức là đoạn quả. "Không chủng hoặc không thể, nếu nhận làm chuyển y", là hiển sự thừa nhận riêng biệt kia, nên nói hoặc nhiều thứ tạp nhiễm tích tập tại tâm, hoặc không chủng kia thừa nhận làm chuyển y, hoặc thể chủng không thừa nhận làm chuyển y. "Không có hai không đó, chuyển y không xứng lý", nếu có hai không thì có thể nói là không chủng, hoặc nói không thể không phải không có hai không kia, có thể nói vô chủng không thể, không phải tâm xuất thế chánh hiện tiền thì mới có nhị vô khả đắc kia, thì làm thế nào có thể nói hai không đó không có chủng tử, hoặc thể đoạn diệt!
Luận nói: "Lại nữa, thức A-lại-da nầy khác nhau ra sao? Lược nói phải biết có ba thứ hoặc bốn thứ. Trong đây ba thứ là ba thứ huân tập sai biệt: 1. Danh ngôn huân tập sai biệt. 2. Ngã kiến huân tập sai biệt. 3. Hữu chi huân tập sai biệt. Bốn thứ là: 1. Dẫn phát sai biệt. 2. Dị thục sai biệt. 3. Duyên tướng sai biệt. 4. Tướng mạo sai biệt".
Giải thích: "Thức A-lại-da nầy sai biệt như thế nào", là đã tin hiểu nghĩa thành tựu của thức A-lại-da tướng mà lại hỏi về sai biệt, đáp hoặc có ba thứ hoặc có bốn thứ.
"Danh ngôn huân tập sai biệt, là dụng của ngã và pháp nhiều lời, có ngã của nhân và thiên… pháp của nhãn và sắc, qua lại ứng dụng huân tập sai biệt, do bóng ảnh của ngã pháp nơi dụng nầy mà các thức sinh khởi công năng sai biệt.
"Ngã kiến huân tập sai biệt", là sự ý nhiễm ô của bốn phiền não, vì lực của Tát-ca-da kiến trong thức A-lại-da có thể chấp ngã huân tập sai biệt. "Hữu chi huân tập sai biệt", là lực tăng thượng của hành phước phi phước và bất động, trong các cõi của chư thiên có vô minh… cho đến lão tử, đều huân tập sai biệt.
Luận nói: "Dẫn phát sai biệt, là mới khởi huân tập. Nếu không có sai biệt nầy thì hành làm duyên thức, thủ làm duyên hữu đáng lẽ không được thành. Trong đây dị thục sai biệt, là hành và hữu làm duyên. Dị thục sai biệt trong các cõi, nếu không có sai biệt nầy thì không có chủng tử. Sau đó có các pháp sinh đáng lẽ không thành. Duyên tướng sai biệt tức là ngay trong ý, ngã chấp duyên tướng. Nếu không có sai biệt nầy thì đối tượng duyên của ngã chấp trong ý đáng lẽ không được thành".
Giải thích: Ba thứ đang giải thích, lại giải thích bốn thứ nên nói câu "Trong đây dẫn phát"… "Dẫn phát sai biệt là mới khởi huân tập", đầu tiên là sự sinh khởi từ huân tập của danh ngôn, gọi là dẫn phát sai biệt, là do huân tập nầy dẫn phát mà sinh. Nếu không có sai biệt nầy thì hành làm duyên thức, thủ làm duyên hữu, "Đáng lẽ không được thành", là thức A-lại-da nầy chờ lực của các phiền não tùy miên sinh khởi hiện tiền trụ gọi là hữu. "Dị thục sai biệt là hành và hữu làm duyên, dị thục sai biệt trong các thú", là chỗ dẫn dị thục sai biệt kia. "Nếu không có sai biệt nầy thì không có chủng tử. Sau đó có các pháp sinh đáng lẽ không thành", là nếu lìa căn gốc, thì không có cành nhánh. "Duyên tướng sai biệt, tức là ngay trong ý, ngã chấp duyên tướng", tức là thức A-lạida, là chỗ khởi thế lực của Tát-ca-da kiến trong ý nhiễm ô, khi duyên chấp ngã thì ngã chấp duyên tướng. "Nếu không có sai biệt nầy thì đối tượng duyên của ngã chấp trong ý đáng lẽ không được thành", là nếu không có duyên tướng thức A-lại-da sai biệt thì ngã chấp đối tượng duyên trong ý không thành.
Luận nói: "Trong đây tướng mạo sai biệt, là thức nầy có cộng tướng, có bất cộng tướng, tướng không thọ sinh chủng tử, tướng có thọ sinh chủng tử… Cộng tướng là chủng tử của khí thế gian, bất cộng tướng là chủng tử của nội xứ mỗi mỗi đều riêng biệt. Cộng tướng tức là chủng tử không thọ sinh, bất cộng tướng tức là chủng tử có thọ sinh. Khi đối trị sinh khởi thì chỉ có chỗ đối trị diệt của bất cộng tướng, cộng tướng thì làm chỗ duy trì của tha phân biệt, chỉ thấy thanh tịnh. Như du-già sư địa trong một vật mà vô số thắng giải, vô số kiến văn, đều được thành lập. Trong đây có hai bài tụng:
Khó đoạn, khó biết khắp,
Phải biết là kết chung,
Du-già là tâm khác,
Vì do ngoại tướng đại.
Tịnh chỗ tuy không diệt,
Mà trong đó thấy tịnh,
Lại thanh tịnh Phật độ,
Do Phật thấy thanh tịnh.
Lại có bài tụng khác, đối với chỗ dẫn ở trước về vô số thắng giải, vô số kiến văn ở trước đều được thành lập:
Các sư du-già nơi một vật,
Vô số thắng giải đều bất đồng,
Vô số kiến văn đều được thành,
Biết sự giữ lấy chỉ có thức.
"Nếu không có thức nầy thì khi thế gian, hữu tình thế gian và sự sinh khởi sai biệt đáng lẽ không được thành".
Giải thích: Tướng mạo sai biệt có nhiều chủng loại bất đồng, là chủng chủng sai biệt của cộng tướng… trong đây "Cộng tướng là chủng tử của khí thế gian", là nhân thức ảnh hiện khí thế gian. Lại nữa, cộng tướng, là chỗ gọi tương tợ tự nghiệp của dị thục với lực tăng thượng, tất cả những pháp nào có thể có chủ thể thọ dụng thì đều có ảnh hiện tương tợ thức sinh. Lại nữa, "bất cộng tướng là chủng tử của nội xứ mỗi mỗi đều riêng biệt", vì là đối tượng duyên của ngã chấp mỗi mỗi đều riêng khác, các nhãn xứ… Trong thân do đó gọi là nội xứ, tức là nghĩa nhân của nội xứ mỗi mỗi đều riêng biệt gọi là chủng tử. "Cộng tướng tức là chủng tử không thọ sinh", là có thể sinh khởi không khổ lạc…, không tổn giảm không tăng ích nhân nơi chỗ dựa, vì không phải khí thế gian có các sự khổ lạc… và tổn ích. Lại nữa, "bất cộng tướng tức là chủng tử có thọ sinh", là có thể sinh khởi nhân nơi chỗ dựa của khổ thọ lạc thọ… "Khi đối trị sinh khởi", là khi đạo đế sinh. "Thì chỉ có chỗ đối trị diệt của bất cộng tướng", là các chủng tử riêng biệt trong nội xứ diệt, vì trái nhau. "Cộng tướng thì làm chỗ duy trì của tha phân biệt, chỉ thấy thanh tịnh. Do cộng tướng này là khí thế gian nên người tu hành dù vĩnh đoạn nơi xứ phân biệt nhưng vẫn còn giữ tiếp tục cái tha phân biệt, chỉ có thể chứng thấy quán thanh tịnh với nó. Thanh tịnh đó như hư không, không bị nước làm rã, không dựa vào đảnh, không bị đốt cháy, không bị gió thổi. Vì sao thắng được thanh tịnh nơi có nghĩa?" Vì sợ bị kẻ khác hỏi nên tiếp đó nói "Như du-già sư địa trong một vật… có vô số thắng giải", là tuy theo các thứ kim, ngân, cỏ cây… mà có thắng giải sai biệt. "Vô số kiến văn", là chỉ có chỗ thấy gọi là kiến văn, đối với nghiệp thì phần nhiều gọi là Lỗtrá duyên. "Đều được thành lập", là tùy theo kiến văn mà các thứ kim ngân cây cỏ… Riêng biệt đều được thành lập. "Khó đoạn, khó biết khắp", là cái phải đoạn nên gọi là đoạn, cái phải biết khắp nên gọi là biến tri. Đoạn và biến tri là cần khổ rất lớn, sự chưa phân rõ nên nói là khó. "Kết", là kết những cái khó có thể đoạn. Tại sao vậy? Vì có chung, nghĩa là có nhân chung. "Tâm dị", vì chủng chủng thắng giải mỗi mỗi đều bất đồng. "Vì do ngoại tướng lớn", nghĩa là khí thế gian an bày bố trí to lớn. "Kẻ tịnh ", là người đã chuyển y. "Tuy không diệt", tức là đối với kẻ tịnh nầy, ngoài ra các hữu tình khác thì phân biệt nhận giữ nên không thể diệt hoàn toàn. "Lại cõi Phật thanh tịnh, do Phật thấy thanh tịnh", tức là đối với hữu tình kia chưa đoạn sắc phân biệt… là chỗ thấy của dị sinh như bùn lầy, cát đá, gạch ngói, cao thấp, lồi lõm, phân đất… Trong các uế độ. Đã đoạn phân biệt các sắc, đã thành cõi Phật thanh tịnh, Như Lai thấy nhiều vật báu kim ngân… Như ở trong vùng cấu uế thì thấy như vườn rừng thanh tịnh sạch sẽ. "Nếu không có thức này" tức là nếu không có cộng tướng và bất cộng tướng nầy, "thì khi thế gian của thức A-lại-da, hữu tình thế gian và sự sinh khởi sai biệt đáng lẽ không được thành", là tịnh và uế sai biệt, khổ và lạc sai biệt đều không được thành. Luận nói: "Lại có tướng thô trọng và tướng khinh an. Tướng thô trọng là chủng tử phiền não, tướng khinh an là chủng tử pháp thiện hữu lậu. Nếu không có tướng nầy thì chiêu cảm dị thục không có chỗ gắng nhận lấy, có chỗ gắng nhận lấy thì chỗ dựa sai biệt phải không được thành. Lại có tướng hữu thọ tận và tướng vô thọ tận. Tướng hữu thọ tận là đã thành thục quả dị thục, chủng tử thiện và bất thiện. Tướng vô thọ tận là chủng tử danh ngôn huân tập, vì từ vô thỉ đến nay, các thứ chủng tử hý luận lưu chuyển. Nếu không có tướng nầy, thì hai nghiệp thiện, ác đã khởi và quả thọ tận phải không được thành. Lại nữa, danh ngôn mới huân tập sinh khởi cũng không được thành. Lại có tướng thí dụ, là huyễn, diệm, mộng, mắt mờ, để thí dụ cho thức A-lại-da nầy. Nếu không có tướng nầy thì do chủng tử biến kế không thật mà duyên điên đảo tương ưng không được thành. Lại có tướng cụ túc và tướng không cụ túc, là đủ mọi trói buộc thì gọi là tướng cụ túc. Thế gian lìa dục gọi là tướng tổn giảm. Thanh-văn hữu học và các Bồ-tát gọi là tướng nhất phần đoạn hẳn. A-la-hán, Độc giác và chư Như Lai thì gọi là tướng phiền não chướng hoàn toàn dứt trừ. Như sự thích ứng đó, nếu lìa các tướng nầy thì thứ tự tạp nhiễm và hoàn diệt như vậy phải không được thành".
Giải thích: "Tướng thô trọng", là xấu ác nên gọi là thô, bị xấu ác nầy nhận chìm nên gọi là thô trọng, tức là hết thảy chủng tử của phiền não và tùy phiền não. "Nếu không có tướng này" thì hết thảy thô trọng không có tánh gắng nhận lấy không thể được có. "Tướng khinh an", như nói trái lại là khinh mà an ổn có tánh gắng nhận, gọi là tướng khinh an. "Tướng hữu thọ tận, là đã thành thục quả dị thục…", là loại thiện, ác đã thành thục rồi, không thể thành thục lại vì thọ dụng đã hết, cũng như chủng tử đã sinh mầm rồi thì không thể sinh lại nữa. "Tướng vô thọ tận là chủng tử của danh ngôn huân tập", là chủng tử tùy duyên mà tăng trưởng, có khả năng khởi nhân của danh ngôn, hý luận. "Nếu không có tướng này", thì hoặc là không có hai tướng của thức A-lại-da. "Đã khởi đã khởi" là đã khởi thiện và đã khởi ác. "Và quả thọ tận", nghĩa là sự thọ dụng cùng với quả đã hoại hết, đây là phá "Nếu không có tướng thọ tận". "Lại nữa, danh ngôn mới huân tập sinh khởi cũng không được thành", là danh ngôn thế gian vốn không có và hiện tại đều không có được, tất cả danh ngôn đều nhân theo chủng tử của danh ngôn vốn đã có, đây là phá "Nếu không có tướng vô thọ tận này". "Tướng thí dụ ", là do huyễn… các sự có thể thí dụ mà hiển tướng thí dụ, như huyễn sự… có thể khởi nhân kiến không thật. Thức A-lại-da cũng lại như vậy. "Nếu không có tướng này", là nếu không có tướng đã dụ của thí dụ thì thức A-lại-da đáng lẽ không có tướng duyên điên đảo không thật, chỉ phải có thể có tướng duyên thật kiến. Văn còn dễ hiểu không cần giải thích lại.
Luận nói: "Do nhân duyên gì mà pháp thiện và bất thiện có thể chiêu cảm dị thục, và nhân duyên gì mà quả dị thục của nó là Vô phú vô ký? Do quả dị thục Vô phú vô ký cùng với thiện và bất thiện trái nhau. Vì thiện và bất thiện trái nhau, nên nếu quả dị thục là tánh thiện hoặc tánh bất thiện, thì tạp nhiễm và hoàn diệt phải không được thành. Do đó thức dị thục chỉ có Vô phú vô ký".
Giải thích: Như vậy đã giải thích hết thảy cú nghĩa của thức A-lại-da, dị môn, huấn từ, thể tướng, quyết chọn và cùng với sai biệt. Lại muốn hiển những thứ nầy có thể thuận chánh hạnh, cho nên đặt ra vấn đáp. "Vì nhân duyên gì… Vô phú vô ký", là nghĩa vô nhiễm, vô ký. "Do quả dị thục…", là phân rõ nhân duyên vô ký. "Vô phú vô ký cùng với thiện và bất thiện trái nhau", là chỗ nương chung nên khởi nghiệp vô gián… thế gian lìa dục… đều đồng có chung. Do đó thức dị thục không phải thiện hoặc bất thiện, không nên cùng với hai nhân quả trái nghịch nhau.
Luận nói: "Đã nói chỗ dựa của đối tượng nhận thức, tướng của đối tượng nhận thức làm sao thấy được? Tướng nầy lược có ba thứ: 1. Tướng Y tha khởi. 2. Tướng Biến kế sở chấp. 3. Tướng Viên thành thật".
Giải thích: "Đã nói chỗ dựa của đối tượng nhận thức" là sẽ không nói lại nữa. "Tướng này", là chỉ cho tướng của đối tượng nhận thức. "Lược có ba thứ", là tất cả pháp phải có điều nên biết, cái nên đoạn, cái nên chứng khác nhau. "Tướng Y tha khởi", là y theo đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy của nghiệp phiền não, kế chấp khắp hết tùy hợp với pháp khác mà được khởi, như vậy tướng gì tiêu biểu để biết gọi là tướng Y tha khởi?.
"Tướng Biến kế sở chấp" là vĩnh viễn vô tướng. Vĩnh viễn vô tướng là Biến kế sở chấp, đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy nơi Bổ-đặc-già-la và tướng của đối tượng nơi pháp hữu tánh, thế nào là phi hữu có thể làm tướng của đối tượng? Do đức Bạc-già-phạm nói những lời như vậy, cho đến thật hữu không biết thật hữu, cho đến phi hữu không biết phi hữu, như vậy thật hữu biết là thật hữu, hoặc phi thật hữu biết là phi thật hữu.
"Tướng Viên thành thật", tức là đối với đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy của Biến kế sở chấp, hoặc tánh của ngã, hoặc tánh pháp vô tánh, dùng tánh đó làm lượng cho chỗ thấy rõ tánh cảnh thì biến tri kia mới có thể phân biệt rõ, Biến kế sở chấp quyết định là phi hữu, vì có tánh trái nhau nên không phải làm tánh cảnh.
Luận nói: "Trong đây cái nào là tướng Y tha khởi? Là thức A-lại-da làm chủng tử, chỗ gồm thâu các thức là phân biệt hư vọng. Thức nầy lại là thế nào? Là thân thức, thức thân giả, thức thọ giả, thức bỉ sở thọ, thức bỉ năng thọ, thế thức, số thức, xứ thức, thức ngôn thuyết, thức tự tha sai biệt, thức cõi thiện cõi ác, nơi tử sinh. Trong đây hoặc thức thân, thân giả, thọ giả, hoặc thức bỉ sở thọ, thức bỉ năng thọ, hoặc thế thức, số thức, xứ thức, thức ngôn thuyết, thì những thức nầy do chủng tử của danh ngôn huân tập. Nếu tự tha sai biệt thức, thì thức nầy do chủng tử của ngã kiến huân tập. Hoặc thức của cõi thiện, cõi ác nơi sinh tử, thì thức nầy do chủng tử hữu chi huân tập, vì những thức nầy là chỗ gồm thâu của tất cả giới cõi tạp nhiễm, tướng Y tha khởi phân biệt hư vọng đều được hiển hiện. Như vậy các thức nầy đều thuộc về phân biệt hư vọng, chỉ thức làm tánh, là vô sở hữu, không phải nghĩa chân thật hiển hiện chỗ dựa, như vậy gọi là tướng Y tha khởi. Trong đây cái gì là tướng Biến kế sở chấp? Là trong vô nghĩa chỉ có thức tợ nghĩa hiển hiện. Ở đây cái gì là tướng Viên thành thật? Tức là đối với tướng Y tha khởi, do tợ nghĩa tướng mà vĩnh viễn không có tánh".
Giải thích: "Là thức thân, thân giả, thọ giả", là sáu nội giới như nhãn... Làm tánh, như sự thích ứng mà chỗ dựa nơi ý giới của nhãn… năm thức gọi là thức thân giả. Chỗ dựa nơi ý giới của ý thức thứ sáu gọi là thức thọ giả. "Thức bỉ sở thọ ", là sắc… nơi sáu ngoại giới. "Thức bỉ chủ thể thọ ", là sáu thức giới. "Thế thức", là ảnh hiện tợ ba thời. "Số thức", là ảnh hiện tợ nhất đẳng toán số. "Xứ thức", là ảnh hiện tợ xóm làng vườn rừng. "Thức ngôn thuyết", là ảnh hiện tợ kiến văn, giác tri ngôn thuyết. "Thức tự tha sai biệt", là thức của các thân, ngã ngã sở chấp tương tục, không đoạn chấp ngã ngã sở, tha tha sở… có sai biệt. "Thức cõi thiện, cõi ác nơi sanh tử", là ảnh hiện tợ tử sinh của thiên, nhân, Nại-lạc-ca, bàng sinh và ngạ quỉ. "Trong đây hoặc thân, thân giả cho đến thức ngôn thuyết, những thức nầy do chủng tử danh ngôn huân tập", các thức kia đều do chủng tử danh ngôn huân tập, sự biến hiện của thức không có riêng khác. "Hoặc tự tha sai biệt thức, thì thức nầy do chủng tử ngã kiến huân tập", là ngã kiến của ý nhiễm ô huân tập làm nhân biến hiện. "Hoặc thức cõi thiện, cõi ác nơi sanh tử, thì thức nầy do chủng tử hữu chi huân tập", là do hữu chi huân tập làm nhân biến hiện. "Các thức như vậy đều là thuộc về phân biệt hư vọng", là như đã nói trước, đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy của thân, thân giả, thọ giả, phân biệt hư vọng an lập làm tánh. "Chỉ thức làm tánh", là do hai phần của phân biệt tà hiển hiện, thật ra chỉ là thức. Trong các pháp thiện tuy không có chấp tà, nhưng do lực duyên khởi nên có hai phần hiển hiện, cũng chỉ là thức. "Thì vô sở hữu, không phải nghĩa chân thật hiển hiện chỗ dựa", chỗ giữ lấy sắc gọi là vô sở hữu, chủ thể giữ lấy thức gọi là phi chân thật, hai thứ nầy đều là Biến kế sở chấp, đều là danh làm nghĩa. Phân biệt hư vọng đã gồm thâu các thức là hai thứ đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy nầy hiển hiện nhân duyên, nên gọi là chỗ dựa. "Như vậy gọi là tướng Y tha khởi", như trên đã biện luận thức A-lại-da làm chủng tử, đều gọi là tướng Y tha khởi. "Là trong không nghĩa chỉ có thức tợ nghĩa hiển hiện", thật ra không có nghĩa của đối tượng được giữ lấy và chủ thể giữ lấy nghĩa, mà chỉ có sự gồm thâu của phân biệt hư vọng, Biến kế chỗ giữ lấy trong vô số thức tợ nghĩa hiển hiện. "Tức là đối với tướng Y tha khởi, do tợ nghĩa tướng mà vĩnh viễn không có tánh", là đối với duyên khởi tâm và tâm pháp, trong chỗ hiện ảnh do hoành kế tướng (tướng chấp càn bướng) vĩnh viễn không có chỗ hiển hiện chân như thật tánh, đây tức là tướng Viên thành thật. Lại nữa, tất cả pháp từ nhân duyên sinh, Duy thức làm tánh, phải biết đều gọi là tướng Y tha khởi. Tợ nghĩa của điên đảo hoành kế hiển hiện, phải biết đều gọi là tướng Biến kế sở chấp. Biến kế sở chấp trên Y tha khởi vĩnh viễn không có chỗ hiển hiện, là chân như thật tánh, phải biết đều gọi là tướng Viên thành thật. Ví như lực khát nước tương tục của nai mà an lập tương tợ thuỷ, phải biết tà biến kế tánh của đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy gọi là tướng Y tha khởi hoành kế thật hữu, phải biết tướng thuỷ hiển hiện gọi là tướng Biến kế sở chấp, tức là trong lực khát nước tương tục của nai như vậy mà khởi chấp càn bướng có tướng thuỷ, rốt cùng là không có tánh, phải biết gọi đó là tướng Viên thành thật.
Lại nữa, tướng Biến kế sở chấp tức là tự tánh Biến kế sở chấp, tướng Y tha khởi tức là tự tánh Y tha khởi, cũng gọi là phân biệt tự tánh, tướng Viên thành thật tức là tự tánh Viên thành thật, cũng gọi là pháp tánh tự tánh. Ba thứ như vậy tức là 3 pháp tuyên nói phải biết, phải đoạn và phải chứng. Như trong kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mậtđa cũng nói: "Phật bảo Bồ-tát từ thị: Nếu trong các sự hành tướng kia, biến làm sắc, làm thọ, làm tưởng, làm hành, làm thức cho đến làm chỗ dựa của tất cả pháp Phật, gọi là tưởng nêu đặt ngôn thuyết biến kế, lấy làm tự tánh của các sắc, cho đến tự tánh của tất cả pháp Phật gọi đó là Biến kế sở chấp sắc, cho đến Biến kế sở chấp tất cả pháp Phật, nếu trong sự hành tướng kia chỉ có pháp tánh phân biệt an lập, thì phân biệt làm duyên khởi các hý luận, giả lập gọi đó là tưởng nêu đặt ngôn thuyết. Là làm sắc cho đến làm hết thảy pháp Phật, gọi đó là phân biệt sắc cho đến phân biệt tất cả pháp Phật. Hoặc chư Như Lai xuất hiện nơi đời, nếu không xuất hiện, thì pháp tánh an lập và pháp giới an lập là do Biến kế sở chấp sắc kia. Phân biệt sắc nầy thường thường, hằng hằng là tánh chân như, tánh vô tự tánh, tánh pháp vô ngã, tánh thật tế, gọi đó là pháp tánh sắc, cho đến do Biến kế sở chấp tất cả pháp Phật kia, phân biệt hết thảy pháp ấy thường thường, hằng hằng cho đến gọi đó là pháp tánh tất cả pháp Phật". Nói rộng như trong kinh.
Luận nói: "Trong đây thức thân, thân giả, thọ giả, phải biết tức là sáu nội giới như nhãn…. thức bỉ sở thọ tức là sắc nơi bỉ sở ngoại giới. Thức bỉ năng thọ phải biết tức là sáu thức giới như nhãn... ngoài ra các thức khác là sai biệt của các thức này".
Giải thích: "Các thức này", là như trước nói thân thức… làm đầu, bỉ chủ thể thọ thức làm cuối. "Sai biệt", tức là có tánh sai biệt trong thức hữu vi nầy, có cái đã hành, hiện đang hành và sẽ hành, nương vào đó mà kiến lập thức thế ảnh hiện. Đối với các thức nầy đều có tánh nhất đẳng sai biệt, nương vào đó mà kiến lập thức số ảnh hiện. Đối với chỗ thọ nhận thức có tánh sai biệt là hạ đẳng và thượng đẳng khác nhau, nương vào đó mà kiến lập thức xứ ảnh hiện. Các loại còn lại thì phải biết.
Luận nói: "Lại nữa, các thức nầy đều là chỉ có thức, vì đều là không nghĩa. Trong đây lấy gì làm dụ để hiển thị? Phải biết mộng… làm dụ để hiển thị, là như trong mộng đều không có nghĩa đó, chỉ riêng có thức, tuy các thứ sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhà, rừng, đất, núi… ảnh hiện tợ nghĩa, trong đây đều không có nghĩa, do thí dụ nầy hiển phải tùy theo đó để hiểu rõ. Tất cả thời xứ đều chỉ có thức, do những câu nói nầy phải biết lại có các thí dụ huyễn, cuống, lộc, ái, mắt mờ… nếu khi giác (tỉnh thức) tất cả thì thời xứ đều như mộng… chỉ có thức, là như từ mộng thức tỉnh liền giác ngộ trong mộng đều chỉ có thức. Khi giác thì tại sao không chuyển như vậy? Khi giác ngộ chân như thì cũng chuyển như vậy, như trong mộng thì giác nầy không chuyển, khi tỉnh giác từ trong mộng thì giác nầy mới chuyển, như vậy khi chưa đắc chân trí giác thì giác nầy không chuyển, khi đắc chân trí giác thì giác nầy mới chuyển".
Giải thích: "Hết thảy Duy thức đều không có nghĩa, nêu các thí dụ mộng… Để hiển thị", là thành lập chung do đó như trong mộng… Văn dễ hiểu không cần giải thích lại.
Luận nói: "Ai chưa đắc chân trí giác, thì trong Duy thức làm sao có thể so sánh biết? Do giáo và lý nên có thể so sánh biết. Trong đây, như kinh thập địa, đức Bạcgià-phạm nói: "Như vậy tam giới đều chỉ có tâm". Lại nữa, đức Bạc-già-phạm trong kinh Giải Thâm Mật cũng nói như vậy, là trong kinh đó: "Từ Thị Bồ-tát hỏi Thế Tôn: Ảnh tượng nơi đối tượng hành của các Tam-mađịa, ảnh tượng kia cùng với tâm nầy, nên nói là khác hay nên nói là không khác. Phật bảo từ thị: Nên nói không khác. Tại sao vậy? Vì ảnh tượng kia chỉ là thức, ta nói thức của đối tượng duyên, Duy thức hiện bày. Bồ-tát Từ Thị nói: Bạch Thế Tôn! Nếu ảnh tượng nơi đối tượng hành của Tam-ma-địa cùng với tâm nầy không có khác thì làm sao tâm nầy trở lại nắm lấy tâm nầy? Này Từ Thị! Không có ít pháp nắm lấy ít pháp, nhưng ngay nơi tâm nầy khi sinh như vậy thì có ảnh tượng như vậy hiển hiện. Như chất làm duyên trở lại thấy bản chất, mà nói: Ta nay thấy ảnh. Và nói: Lìa chất riêng có chỗ thấy. Ảnh tượng hiển hiện tâm nầy cũng vậy. Khi sinh như vậy là tương tợ có ảnh tượng sự thấy khác, tức là do giáo lý nầy cũng hiển hiện. Tại sao vậy? Vì trong định tâm tùy điều quán thấy ảnh tượng nơi xanh sình… tất cả không riêng khác. Các sự xanh sình… Chỉ thấy trong tự tâm, do đạo lý nầy mà Bồ-tát trong tất cả thức có thể so sánh biết, đều là chỉ có thức, không có cảnh giới. Lại nữa, trong xanh sình… Như vậy, không phải thức nhớ giữ thấy cảnh của đối tượng duyên hiện tiền trụ, chỗ thành hai thức nhớ giữ của văn và tư cũng lấy quá khứ làm đối tượng duyên. Chỗ hiện ảnh tượng được thành Duy thức là do tỷ lượng nầy, Bồ-tát tuy chưa đắc chân trí giác cũng đáng có thể so sánh mà biết".
Giải thích: "Do giáo và lý", là do chí giáo lượng và do tỷ lượng, tuy chưa chứng đắc chân trí Duy thức, nhưng có thể so sánh nhận biết Duy thức không có cảnh. "Kinh Thập địa", trong kinh nầy tuyên nói nghĩa Bồ-tát có mười thứ địa. Kinh ấy tức là an lập hành tướng với mười địa danh cú, văn thân, sự biến hiện của thức tụ tập làm thể. "Các bậc Thánh kia", là sự biến hiện ảnh tượng của kim cương tạng thức làm duyên tăng thượng. "Văn", là ảnh hiện trên thức trong thân tương tợ pháp môn kia, như vậy lần lượt truyền lại đến nay, gọi là giáo. "Chỉ có tâm", tâm thức là một, chỉ có âm thanh làm nghĩa để dứt trừ cảnh đã giữ lấy, do sự giữ lấy không có nên chủ thể giữ lấy cũng không, không ngăn cản tâm pháp do sự giữ lấy kia cùng với tâm không trái nhau, như nói nếu không có tâm sở hữu pháp, thì tâm chưa từng chuyển. Nếu như thế thì định diệt tại sao chỉ có tâm? Đó là lỗi của tông kia. Tông Đại thừa của ta, nếu đã có tâm thì nhất định cũng có tâm tương ưng pháp, nếu đã không có tâm tương ưng pháp thì tâm nhất định cũng không, như vậy tam giới đều chỉ có tâm, câu nói nầy hiển thị tam giới Duy thức. "Tam giới", là cùng với dục… ái kết tương ưng ở tại tam giới. Những câu nói Duy thức nầy thành lập chỉ có các tâm và tâm pháp, không có tam giới là đối tượng duyên càn bướng, câu nói nầy không loại trừ chân như của đối tượng duyên và y tha đối tượng duyên, là đạo đế gồm thâu, là đối tượng duyên của hai thứ trí Căn bản và trí Hậu đắc. Do chân như kia không bị ái chấp trước, vì không phải sở trị, không phải mê loạn, không phải tam giới gồm thâu, cũng không lìa thức nên không nói đối đãi. Nếu như thế thì phải nói hai giới như vậy. Kinh Bộ cho trong cõi Vô sắc chỉ có tâm và tâm pháp, câu nạn nầy không đúng, vì chỗ giữ lấy nghĩa của thức đều là vô nghĩa, nên không phải chỉ có cõi Sắc và cõi Vô sắc gọi là Duy thức. Cái gì cũng vô? Chỗ giữ lấy nghĩa của thức hư không khác, các sư thuộc kinh bộ thừa nhận cõi Vô sắc, các tâm và tâm pháp là không sắc tướng, không có thể, không có thật. Chỗ giữ lấy cảnh nghĩa hiển hiện chỗ dựa, sợ rằng sư thuộc kinh bộ kia chấp làm phi tâm pháp phi tâm nên nói tam giới đều chỉ có tâm. Chỗ thuyết minh ý nghĩa sâu xa của kinh Giải Thâm Mật, cũng như Thập địa giải thích, kinh là giáo pháp. "Tam-ma-địa", là có thể khiến cho tâm trụ một cảnh tánh, tâm pháp làm thể, cảnh của đối tượng duyên nầy gọi là chỗ hành hóa, cảnh căn bản gọi là chất. "Tợ kia hiện", gọi là ảnh tượng. "Ta nói thức là đối tượng duyên, Duy thức hiện bày", là ta nói cảnh nơi đối tượng duyên của thức tại bên ngoài, chỉ là chỗ hiển hiện của nội thức, tức là thức của cảnh nơi đối tượng duyên làm nghĩa của tự tánh. Ý nầy nói cảnh đối tượng duyên của thức chỉ là chỗ hiện ảnh tượng trên thức không có riêng thể. "Làm sao tâm nầy trở lại nắm lấy tâm này"? Đấy là hiển tác dụng đối với tự nó trái nhau. "Này Từ Thị! Không có ít pháp nắm lấy ít pháp", đấy là giải thích câu vấn nạn trước, vì không có tác dụng, nên tác dụng nơi tác giả của tất cả pháp đều không thành. "Khi sinh như vậy", là vì oai lực lớn của các pháp duyên khởi, tức là trên một thể có hai ảnh tượng sinh, đối chiếu lẫn nhau bất tức bất ly. Các tâm, tâm pháp do lực duyên khởi, tánh pháp nhĩ của nó như vậy mà sinh. "Như chất làm duyên trở lại thấy bản chất", ví như nương vào chất mặt mình, trở lại thấy bản chất trong gương, do mê loạn nên nói "Ta thấy ảnh". Do gương duyên vào oai lực lớn, tuy không có dị ảnh mà tợ riêng có ảnh tượng hiển hiện, tâm nầy cũng thế. "Khi sinh như vậy", là các thứ ức niệm, phân biệt… của tâm tâm pháp duyên có công năng lớn. Khi sinh như thế, tuy không có ảnh tượng nơi chốn hành của Tam-ma-địa khác, mà tợ riêng có ảnh tượng hiển hiện. "Tức là do giáo lý nầy cũng hiển hiện", là trong giáo ấy cũng bao gồm việc hiển đạo lý tỷ lượng. "Tại sao vậy? Vì trong định tâm", là trình bày trong giáo có nghĩa lý riêng, là xanh bầm không lìa tâm, tùy chỗ thích muốn mà hiển hiện, ví như đã thấy xanh bầm trong mộng. "Lại nữa, trong xanh bầm … như vậy, không phải thức nhớ giữ…", là sợ sư thuộc kinh Bộ kia có dị chấp, nên nói như vậy, là nếu ai khởi chấp như vậy, là do người đó trước hết đối với nẻo vắng lặng thấy cốt toả… Hiện tại cũng còn nhớ, làm ảnh tượng nơi chốn hành của Tam-ma-địa, để ngăn cản kế chấp nầy nên nói "Trong xanh bầm… như vậy, không phải thức nhớ nghĩ thấy cảnh nơi đối tượng duyên hiện tiền mà trụ". Nếu đối tượng duyên nầy tức là sự nhớ giữ xưa kia, như chỗ thấy phương xứ quyết định xưa cũ, như sự thọ nhận đáng nhớ như vậy xưa kia, nhưng không tu tập tạo thành trí như thế, là cảnh giới phân minh hiện tiền mà chân hiện lượng đã thấy, không phải thức nhớ nghĩ có các sự như vậy. Nếu như thế thì chỗ thành thức tương ưng của văn huệ và tư huệ ghi nhớ chuyện xưa thì hai nẻo hành kia phải lìa, đối với thức nầy cũng không phải như thế. Do hai thức nhớ nghĩ của văn tư kia, vì duyên quá khứ. Quá khứ đã không có ảnh tượng của chỗ duyên đều chỉ là thức, ví như nhớ xưa kia mình còn thiếu niên, nên thức nầy hiện sự nhớ nghĩ, đều chỉ có chỗ niệm trống rỗng của thức. Như người hành quán sự tưởng hiện tiền, ảnh tượng nữ nhân cốt toả bất tịnh, do ngữ nghĩa của các tỷ lượng nầy phân minh, không cần giải thích lại.
Luận nói: "Như vậy đã nói chủng chủng các thức, như các thí dụ mộng… ngay trong đây thức của nhãn thức… có thể thành Duy thức. Các thức như nhãn… đã là hữu sắc, cũng chỉ có thức, làm sao thấy được? Điều nầy cũng như trước là do giáo và lý".
Giải thích: Giáo tức là kinh Thập địa, Giải thâm mật. Lý tức là đạo lý trong kinh đã nói, là ảnh tượng nơi chốn hành của Tam-ma-địa và các thí dụ mộng… đều như đã nói trước.
Luận nói: "Nếu các thức nầy thể cũng là thức, thì tại sao tánh tợ sắc hiển hiện? Một loại kiên trụ tương tục mà chuyển, vì cùng với các pháp tạp nhiễm điên đảo… làm chốn nương dựa. Nếu không như thế thì trong phi nghĩa khởi lên nghĩa điên đảo phải không có được. Nếu không có điên đảo nầy, thì tạp nhiễm của phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng phải không có được. Nếu không có điên đảo nầy, thì các pháp thanh tịnh cũng phải không có, nên các thức phải chuyển như vậy. Trong đây có tụng:
Tướng loạn và thể loạn,
Phải nhận làm thức sắc,
Và cùng thức phi sắc,
Hoặc vô dư cũng vô".
Giải thích: "Nếu các thức nầy thể cũng là thức…", đây là hỏi nhân của sắc thức kiên trụ tương tục chuyển. "Một loại", nghĩa là tương tợ. Trước sau một loại không có biến khác, cũng không có gián đoạn nên gọi là "Kiên trụ". Ngay trên kiên trụ nầy gọi là "Tương tục mà chuyển". "Cùng với các pháp tạp nhiễm điên đảo… làm chốn nương dựa", chữ đẳng (vân vân…) tức là đồng lấy phiền não nghiệp sinh các pháp tạp nhiễm. Nhãn… Các thức cùng với các pháp tạp nhiễm của điên đảo… Là chốn nương dựa. "Chốn nương dựa", nghĩa là nhân. "Vì", có nghĩa là cần thiết. Quan sát ý của câu hỏi đó mà trả lời như vậy, là trong vô nghĩa mà hiển hiện tương tợ đối với nhãn… các thức. Một loại kiên trụ tương tục mà chuyển, là do loại nầy khởi pháp của sự điên đảo… kia. "Nếu không như thế" là nếu không chuyển như vậy, thì trong phi nghĩa khởi lên nghĩa điên đảo phải không có được. Nếu không có điên đảo nầy, thì tạp nhiễm của phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng phải không có được, vì không có nhân duyên. Nếu không có tạp nhiễm ấy, thì thanh tịnh cũng không có, phải dứt mất tạp nhiễm để hiển thanh tịnh. "Cho nên các thức phải chuyển như vậy", là các thức như nhãn… Phải chuyển như vậy.
Vì không có lực của nhân mà các pháp được sinh không cần lực hay sao? Không phải tùy hỏi mà đáp như vậy, vì câu hỏi kia hỏi chỗ cần thiết, không phải hỏi loại nhân, do câu hỏi kia không chấp riêng có các sắc, chỉ hỏi cần gì mà thức A-lại-da không những đã biến làm thức mà còn biến làm các sắc, nên nói tụng để đáp câu nầy. Tướng loạn thừa nhận làm tợ sắc biến thức, thể loạn thừa nhận làm phi sắc biến thức. Thuận kết theo pháp làm tụng nên văn có vượt cách khoảng, nghĩa thì gồm thuộc lẫn nhau. Nếu không có chỗ biến nhân thức của tợ sắc, thì quả thức của phi sắc không có được, vì nếu vô cảnh thì hữu cảnh cũng không có.
Luận nói: "Tại sao thức thân, thân giả, thọ giả, thức sở thọ, thức năng thọ, trong tất cả thân đồng thời có hoà hợp chuyển? Vì có thể sinh sự hiển bày của thọ dụng viên mãn".
Giải thích: "Tại sao thân… như câu hỏi trên", "Vì có thể sinh… như câu đáp trên", là do năm thức nầy trong tất cả thân, không có thức nào mà không đầy đủ, sự hiển bày của thọ dụng nếu thiếu một chi tức không được viên mãn.
Luận nói: "Tại sao như nói thế… các thức sai biệt mà chuyển? Vì từ vô thỉ đến nay sinh tử lưu chuyển không dứt đoạn, vì các hữu tình giới vô số lượng, vì các giới khí thế vô số lượng, vì các chỗ tạo tác sự tiếp nối nơi ngôn thuyết cùng vô số lượng, vì mỗi mỗi riêng thọ dụng sai biệt vô số lượng, vì các ái phi ái nghiệp nơi quả dị thục thọ dụng sai biệt vô số lượng, vì sở thọ nhận tử sinh đủ loại sai biệt vô số lượng".
Giải thích: "Tại sao như nói thế… các thức… như câu hỏi trên", chữ đẳng (vân vân) Là đồng lấy thức số, thức xứ, thức ngôn thuyết, thức tự tha sai biệt, cõi thiện cõi ác và tử sinh, là sáu thứ thức biến hiện. "Vì từ vô thỉ đến nay…" Cho đến câu cuối "Chỗ thọ nhận tử sinh đủ loại sai biệt vô số lượng", là như số thứ tự mà hiển quả cần phải nói của… các thức nơi thế gian.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao an lập các thức như vậy? Để làm thành tánh Duy thức lược có ba tướng: 1. Do Duy thức không có nghĩa.
2. Do hai tánh có hai thức riêng khác là hữu tướng và hữu kiến. 3. Do vô số hành tướng mà sinh khởi. Tại sao vậy? Vì tất cả thức nầy không có nghĩa, vì được thành Duy thức có tướng kiến, được thành hai loại, như năm thức là nhãn… lấy sắc… các thức làm tướng, lấy thức của nhãn thức làm kiến, cho đến lấy thức của thân thức làm kiến. Nếu ý thức, lấy tất cả nhãn làm tối sơ, pháp làm tối hậu, các thức làm tướng, lấy thức của ý thức làm kiến, vì ý thức nầy có phân biệt, tương tợ tất cả thức mà sinh khởi. Trong đây có tụng:
Duy thức hai vô số,
Ý người quán giỏi nhập,
Do ngộ nhập duy tâm,
Thức kia cũng đều lìa".
Giải thích: "Lại nữa, tại sao an lập các thức như vậy", là y theo lý trên, lấy thêm lý khác trình bày các câu hỏi. "Do Duy thức", có nghĩa là vô nghĩa, nên kế đó nói là "Không có nghĩa". Sự nói "Duy", là chuyên làm nghĩa loại trừ. Lý của vô nghĩa đã nói ít phần và ít phần sẽ nói. "Do hai tánh", là do tướng và kiến, là hữu tướng và hữu kiến trong tất cả thức, hai phần đồng thời chuyển, hai phần tướng kiến bất tức bất ly, bắt đầu từ nhãn thức cho đến thân thức, tùy loại mà mỗi mỗi đều riêng biệt biến thành sắc… chủng chủng tướng thức gọi là Tướng phần, các thức như nhãn… Phân biệt cảnh giới có thể thấy nghĩa biên gọi là Kiến phần. Lại nữa, phần của sự giữ lấy gọi là tướng, phần của chủ thể giữ lấy gọi là kiến, đó gọi là hai tánh. "Do vô số", là vì vô số hành tướng mà sinh khởi. Trong một thức, một phần biến dị tợ tướng được giữ lấy, một phần biến dị tợ chủ thể giữ lấy kiến. Hai phần nầy mỗi thứ đều có nhiều thứ hành tướng sai biệt, cùng lúc mà khởi. Nếu người không thừa nhận một thức cùng lúc có mọi thứ tương ưng thì không có cùng lúc nhận biết mọi cảnh. "Nếu ý thức, lấy tất cả nhãn làm tối sơ…", là ý thức đó có thể cùng một lúc nắm lấy tất cả nghĩa, tăng thượng thế lực nhãn thức làm đầu, pháp thức làm sau cùng. Sự an lập là Tướng phần của nó, tức phân biệt rõ nghĩa biên của ý thức nầy gọi là Kiến phần. Do ý thức nầy phân biệt khắp, nên tợ tất cả thức sinh khởi, cho nên ý thức gọi là tướng, gọi là kiến, cũng gọi là đủ loại. Trong Dà-đà, các sư Du-già có thể nhập hai tánh đủ loại của Duy thức, loại trừ cảnh giới bên ngoài, cuối cùng là chế phục lìa xa tâm là chủ thể giữ lấy, vì đối tượng duyên không có, thức là chủ thể duyên cũng không có được. Vì phân biệt không có nên người phân biệt cũng không, không phải không có phân biệt mà có người phân biệt, không có tướng cảnh giới thì không có sự phân biệt, cũng gọi là hữu cảnh nơi tâm có thể phân biệt. Hoặc tâm xuất thế tuy lìa chủ thể giữ lấy đối tượng giữ lấy của phân biệt, nhưng có Thánh trí nội chứng làm chỗ dựa thì chủ thể duyên và đối tượng duyên ở tại tánh bình đẳng.
Luận nói: "Lại nữa, trong đây có một loại sư nói một ý thức, căn kia nương vào chuyển mà được tên, như nghiệp ý tư gọi là nghiệp thân ngữ ".
Giải thích: "Lại nữa, trong đây có một loại sư nói một ý thức…", đây là hiển sự thấy sai biệt của các sư, nói có một loại Bồ-đề-tát-đỏa muốn khiến chỉ có một tánh ý thức, nương vào nhãn… kia sinh thì được tên, chỗ gọi là nhãn thức cho đến ý thức, trong đây không có riêng chủng loại của các thức khác. Thức nầy như những gì mà giống nghiệp ý tư? Như một ý tư tại xứ sở của thân, phát động nơi thân thì gọi là thân nghiệp; tại xứ sở của ngữ phát động thì gọi là ngữ nghiệp, cùng với ý tương ưng thì gọi là ý nghiệp. Ý thức cũng vậy.
Luận nói: "Lại nữa, khi tất cả chỗ dựa chuyển, thì tợ hai ảnh tượng của vô số tướng chuyển, là ảnh tượng chỉ nghĩa và ảnh tượng phân biệt. Lại nữa, tất cả xứ cũng lấy chỗ tiếp xúc ảnh tượng mà chuyển. Trong giới hữu sắc thì ý thức nầy nương vào thân, cũng như các sắc căn khác nương vào thân".
Giải thích: Hoặc nói, nếu lúc đó ý thức như vậy đáng lẽ không có phân biệt vì chỗ dựa trì độn, như nhãn… nơi các thức. Nói về chủ thể dựa, đều thuận với chỗ dựa, như ý nhiễm ô làm chỗ dựa nhiễm ô, ý thức đồng thời chuyển cũng thành tạp nhiễm, để giải thích vấn nạn nầy, nên nói "Đối với tất cả chỗ dựa chuyển". "Tất cả sở y", là nhãn…
"Khi chỗ dựa chuyển", là khi sinh khởi. "Thì tợ hai ảnh tượng của vô số tướng chuyển", là tợ hai ảnh tượng của chủ thể giữ lấy chỗ giữ lấy chuyển, để giải thích hai ảnh tượng nầy nên tiếp theo nói, là chỉ có nghĩa… chỉ có một ý thức, một phần thì ảnh tượng tợ nghĩa hiển hiện, phần thứ hai thì đối với nghĩa phân biệt mà sinh, do đó không có lỗi vô phân biệt. "Lại nữa, tất cả xứ tương tợ chỗ tiếp xúc ảnh tượng mà chuyển", là trong định lãnh nạp phân biệt các xúc nặng nhẹ… mà không phải tán loạn, vì tùy thuận. "Trong cõi Hữu sắc", không phải đối với cõi Vô sắc. Tại sao vậy? "Vì ý thức nầy nương vào thân, cũng như các sắc căn khác nương vào thân", là như nhãn… các căn hữu sắc khác dựa thân, tức là đối với thân nầy có thể khởi tổn giảm tăng ích, ý thức cũng vậy, vì trong cõi Hữu sắc nương vào thân, tức là đối với thân nầy lãnh nạp phân biệt, có thể khởi tổn giảm và tăng ích.
Luận nói: "Trong đây có tụng:
Nếu viễn hành độc hành,
Không thân ngủ trong hang,
Điều khó điều tâm nầy,
Ta nói chân phạm chí".
Giải thích: Nói một ý thức nơi Bồ-đề-tát-đỏa, dẫn phát lời làm chứng, như đi xa du lịch hết thảy cảnh mà mình biết, gọi là "Viễn hành". Để làm chứng nghĩa nầy lại nói "Độc hành", vì không có người thứ hai. "Không thân", là không có hình chất. "Ngủ trong hang", là ở tại bên trong. "Điều", là đối với tâm mà khởi tự tại. "Khó điều tâm nầy", là vì tánh bi thảm.
Luận nói: "Lại nữa, như kinh nói: "Như vậy sở hành cảnh giới của năm căn, ý mỗi mỗi đều có thể thọ, ý làm chỗ y của cảnh giới kia".
Giải thích: Lại dẫn đệ nhị Thánh giáo làm chứng. "Như vậy cảnh giới của nẻo hành nơi năm căn, ý mỗi mỗi đều có thể thọ", là cảnh giới của nẻo hành nơi năm căn chỉ là ý thức, mỗi mỗi đều có thể riêng lãnh thọ nghĩa. "Ý làm chỗ dựa của cảnh giới kia", là do tăng thượng mà cảnh giới kia sinh khởi.
Luận nói: "Lại nữa, như trong mười hai xứ, đã nói sáu thức thân đều gọi là ý xứ".
Giải thích: Lại dẫn đệ tam Thánh giáo làm chứng. "Nói sáu thức thân đều gọi là ý xứ", đó gọi là nói về sự nơi ý thức.
Luận nói: "Nếu xứ an lập thức A-lại-da làm nghĩa thức, phải biết trong đây tất cả thức khác là tướng thức của nó. Nếu ý thức nhận thức và chỗ dựa là kiến thức của nó, do tướng thức kia là tướng duyên của thức nầy sinh, khi tợ nghĩa hiện thì có thể làm kiến thức sinh sự nương dựa, như vậy gọi là an lập các thức thành tánh Duy thức.
Giải thích: "Nếu xứ an lập thức A-lại-da làm nghĩa thức", nghĩa là nghĩa của nhân, tức là an lập thức A-lạida lấy làm nhân thức. "Tất cả thức khác", là thân, thức thân giả… "Là tướng thức của nó", là tướng đối tượng duyên, là nẻo hành. "Nếu ý thức nhận thức và chỗ dựa ", thì là đệ sáu thức và chỗ dựa, ý quá khứ vô gián và cùng với ý nhiễm ô, hai ý nầy có thể làm sinh khởi tánh nơi chỗ dựa tạp nhiễm. "Là kiến thức của nó", là vì có thể phân biệt. "Do tướng thức kia là tướng duyên của thức nầy sinh", là chỗ tướng biến dị của thức A-lại-da, là hai kiến, thức sinh duyên tướng. "Khi tợ nghĩa hiện", là khi ý thức, kiến thức hiển hiện tợ nghĩa. "Thì có thể làm kiến thức sinh sự nương dựa", là nhãn… thức có thể cùng với kiến thức khởi sinh các sự nương dựa.
Luận nói: "Các nghĩa hiện tiền phân minh hiển hiện, nhưng không phải là có. Làm sao biết được? Như Thế Tôn nói: "Nếu chư Bồ-tát thành tựu bốn pháp thì có thể tùy theo đó ngộ nhập tất cả Duy thức, đều không có nghĩa: 1. Thành tựu trí thức tướng trái nhau, như ngạ quỉ, bàng sinh và chư thiên nhân, đồng nơi một sự mà sự nhận thức của họ thấy có sai biệt. 2. Thành tựu trí không chỗ duyên thức hiện khả đắc, như mộng ảnh của quá khứ vị lai trong duyên những cái có được. 3. Thành tựu trí nên lìa công dụng không điên đảo, như trong hữu nghĩa có thể duyên nghĩa thức, đáng lẽ không có điên đảo, không do công dụng, vì nhận biết chân thật. 4. Thành tựu diệu trí nơi ba loại thắng trí tùy chuyển. Những gì là ba loại thắng trí: 1. Tất cả Bồ-tát đắc tâm tự tại đắc tĩnh lự, là tùy lực thắng giải mà các nghĩa hiển hiện. 2. Người đắc pháp quán Xa-ma-tha, là khi vừa khởi ý thì các nghĩa hiển hiện. 3. Người đã đắc Trí vô phân biệt, là khi Trí vô phân biệt hiện tiền thì tất cả các nghĩa đều không hiển hiện". Do đó, đã nói ba loại thắng trí, tùy chuyển diệu trí và đã nói ba loại nhân duyên ở trước mà đạo lý của các nghĩa và vô nghĩa thành tựu".
Giải thích: Lại vì thành lập nghĩa không có cảnh nên dẫn các giáo và các đạo lý khác. Nói "Nếu chư Bồ-tát thành tựu bốn pháp… trí trái nhau thức tướng", là trái nghịch nhau nên gọi là trái nhau. Trái nhau do thức gọi là thức trái nhau, nhân sinh ra thức nầy gọi là tướng, biết rõ tướng nầy thì chỉ có nội tâm hiện khắp. Nghĩa ngoại thì không thành, nên không có nghĩa gọi là trí. "Như ngạ quỉ, bàng sinh và chư thiên, nhân", là đối với tự nghiệp biến khác nơi lực tăng thượng của ngạ quỉ, mà thấy dòng sông là tròn đầy mủ máu; cá, rùa… Bàng sinh thì thấy là nhà ở, dạ chơi theo đường đi; chư thiên thì thấy là đất có các thứ vật báu trang nghiêm; nhân loại thì thấy là nước chảy sóng gợn sạch mát. Nếu nhập định hư không vô biên xứ, là ngay xứ đó chỉ thấy hư không, một vật thật có thì trở thành trái nhau, không phải một phẩm loại trí sinh tánh nhân là không đúng đạo lý. Làm sao trong một dòng sông nầy, đã có phân tiểu đầy ắp, loài người cầm dao gậy hai bên bờ phòng thủ, lại có các thứ nhà ở sạch sẽ, đường sá thanh tịnh, có nhiều vật báu trang nghiêm trên đất, nước mát sạch gợn sóng chảy xiết, cảnh của định hư không, nếu thừa nhận ngoại vật đều không có tánh thật, thì tất cả đều từ nội tâm biến hiện, nhiều sự đều thành. Như có tụng nói:
Nơi một thân dâm nữ đoan nghiêm,
Xuất gia đắm dục và ngạ cẩu,
Xác thối sáng rõ ăn uống ngon,
Ba thứ phân biệt đều bất đồng.
"Trí không chỗ duyên thức hiện có thể đắc", là quá khứ vị lai đều không phải thật có. Kinh nầy cùng với kinh Bộ cùng thừa nhận thành tựu. Cảnh mộng thật ra không có cảnh biết chung, ảnh tượng nơi chỗ hành của Tam-ma-địa đã nói là phi hữu, cũng không phải nhớ nghĩ. Trong cảnh nước… ảnh tượng của gương mặt đều là không có gì, như trước đã nói. Trong đây không có cảnh mà thức được thành trí nên bị lìa công dụng không điên đảo. Bản văn tuy rõ nhưng có ít trợ thuyết. Nếu muốn khiến như nghĩa chứng đắc tức là chân thật hữu, thì phải không cần dụng công mà tự nhiên giải thoát, vì tất cả hữu tình đều thấy thật. "Đắc tâm tự tại", là đắc tâm điều thuận đủ năng chỗ tạo tác. "Đắc tĩnh lự", là các Thanh-văn, Độc giác hoặc đã chứng đắc tĩnh lự thanh tịnh, tâm tánh một cảnh, vì lạc tư lự tịnh gọi là tĩnh lự. "Là tùy lực thắng giải mà các nghĩa hiển hiện", là tùy ý giải tăng thượng với uy lực như điều có được nguyện lạc, muốn khiến cho đất… biến thành nước… đều sẽ hiển hiện. "Người đắc Xa-ma-tha" là đã chứng đắc định Xa-ma-tha, thấm nhuần tương tục khiến tâm tịch tĩnh. Gọi là "Tu", là không cảnh tương ưng, hoặc đối tượng duyên tương ưng của bốn Thánh đế. Chỉ quán song vận nên gọi là tương ưng, cùng với chỉ quán nầy tương ưng nên gọi là tu. "Pháp quán", là từ đây về sau được quán chánh pháp diệu huệ của khế kinh. "Là khi vừa khởi ý thì các nghĩa hiển hiện", là trong pháp giáo chánh của khế kinh, tùy theo nghĩa của một loại vô thường, mà tánh sát-na diệt nhanh chóng của tư duy tác ý như như, như vậy như vậy không phải một phẩm loại cảnh giới hiển hiện khi Trí vô phân biệt hiện tiền. "Tất cả các nghĩa đều không hiển hiện", Trí vô phân biệt sẽ giải thích sau. Nghĩa nếu thật có, thì trí nầy đáng lẽ không có, không phải có hữu phân biệt thì vô phân biệt được thành. Nghĩa nếu là thật có thì Trí vô phân biệt sinh không nên không hiển hiện, vì trí nầy như thật duyên nghĩa nơi cảnh, do trí nầy đã nói đạo lý vô gián và đã nói ba thứ nhân duyên ở trước, thì các nghĩa đều không có đạo lý thành tựu.
Luận nói: "Nếu tự tánh Y tha khởi thật chỉ có thức, thì chỗ dựa của tợ nghĩa hiển hiện, làm thế nào thành Y tha khởi? Nhân duyên gì mà gọi là Y tha khởi? Từ chỗ sinh của tự chủng tử huân tập, nương vào duyên khác mà khởi nên gọi là Y tha khởi, sinh sau sát-na, không có công năng, tự nhiên mà trụ, gọi là Y tha khởi".
Giải thích: "Làm thế nào thành Y tha khởi", đây là hỏi phương pháp giải thích. "Nhân duyên gì mà gọi là Y tha khởi", đây là hỏi phẩm giải và phẩm bất giải của chỗ giải thích từ ngữ, do sự quan hệ song song nầy mà có thể hiểu rõ nghĩa, ngoài ra hai câu hỏi về hai tự tánh cũng vậy. Nương vào các câu hỏi nầy mà từng cặp từng cặp giải đáp. "Từ chỗ sinh của tự chủng tử huân tập", là từ Biến kế sở chấp, danh ngôn được chủng tử huân tập mà sinh. Vì nương vào tự chủng tử mà cái khác được sinh ra, nên gọi là Y tha khởi, đây là nói thể kia nương vào y tha mà sinh. "Sinh sau sát-na không có công năng tự nhiên mà trụ", đây là nói thể kia nương vào y tha mà sinh, do hai nhân nầy nên gọi là Y tha khởi.
Luận nói: "Nếu tự tánh Biến kế sở chấp nương vào Y tha khởi thì thật là không có gì, tợ nghĩa hiển hiện, làm sao thành Biến kế sở chấp? Nhân duyên gì mà gọi là Biến kế sở chấp? Vô lượng hành tướng nơi ý thức biến kế điên đảo sinh tướng nên gọi là Biến kế sở chấp. Tự tướng thật ra không có, chỉ có Biến kế sở chấp là có thể đắc, do đó gọi là Biến kế sở chấp".
Giải thích: "Nương vào Y tha khởi", là nương vào tánh của Y tha khởi Duy thức. "Thì thật là không có gì, tợ nghĩa hiển hiện", là thật không có thể, chỉ tương tợ nghĩa và tướng mạo của nó mà hiển hiện. Nếu thể thật không có, thì tại sao gọi là nghĩa? Vì để tránh vấn nạn nầy nên nói tợ nghĩa hiển hiện, là do danh ngôn được chủng tử huân tập, tuy không có thể thật nhưng tương tợ có nghĩa và tướng mạo hiển hiện, nên gọi là nghĩa như ảnh tượng huyễn… tợ hữu hiển hiện. "Hiển hiện", là hiển rõ nghĩa không có, mà dường như có rõ ràng hiện tiền, nên gọi là hiển hiện. Ngay nơi tợ nghĩa nầy làm tự tánh của Y tha khởi, như tự tánh thọ. "Vô lượng hành tướng", là vô số ảnh tượng nơi cảnh giới ngã pháp. "Ý thức biến kế", là ngay nơi ý thức gọi là biến kế. "Điên đảo sinh tướng", là đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy của thức loạn, vì nghĩa tướng sinh nhân. "Cho nên gọi là Biến kế sở chấp", là ngay nơi nghĩa tướng của Biến kế sở chấp mà gọi là tự tánh Biến kế sở chấp. "Tự tướng thật ra không có, chỉ có Biến kế sở chấp là có thể đắc", là trong thật vô ngã và pháp, chỉ có ảnh tượng tướng mạo của Biến kế sở chấp là có thể đắc, do đây nên gọi là Biến kế sở chấp.
Luận nói: "Nếu tự tánh Viên thành thật là Biến kế sở chấp thì vĩnh viễn không có tướng, làm sao thành Viên thành thật được? Nhân duyên gì gọi là Viên thành thật? Vì không có biến khác tánh nên gọi là Viên thành thật. Lại nữa, vì tánh của đối tượng duyên là thanh tịnh, vì hết thảy pháp thiện là tánh tối thắng, do nghĩa tối thắng mà gọi là Viên thành thật".
Giải thích: "Vì không có tánh biến khác nên gọi là Viên thành thật", phải biết tánh nầy thường không biến đổi. Lại nữa, do tánh thanh tịnh của đối tượng duyên, hết thảy pháp thiện là tánh tối thắng và thành tựu chân viên mãn thật làm tánh.
Luận nói: "Lại nữa, có chủ thể Biến kế, có đối tượng Biến kế, thì tự tánh Biến kế sở chấp mới thành. Trong đây cái gì là chủ thể Biến kế? Cái gì là đối tượng Biến kế? Cái gì là tự tánh Biến kế sở chấp? Phải biết ý thức là chủ thể Biến kế, vì có phân biệt. Tại sao vậy? Vì ý thức nầy dùng tự huân tập danh ngôn làm chủng tử, và dùng hết thảy thức với huân tập danh ngôn làm chủng tử, do đó ý thức có vô biên hành tướng phân biệt mà chuyển, trùm khắp đối với tất cả phân biệt lường tính, gọi là Biến kế. Lại nữa, tự tánh Y tha khởi gọi là sở Biến kế. Lại hoặc do tướng nầy khiến cho tự tánh Y tha khởi thành sở biến kế, thì trong đây gọi là tự tánh Biến kế sở chấp. Vì tướng nầy là như nghĩa nầy. Lại nữa, thế nào là biến kế có khả năng lường tính trùm khắp? Duyên vào cảnh giới nào? Nắm giữ tướng mạo gì? Do đâu mà chấp trước? Do đâu mà khởi ngữ? Do đâu mà ngôn thuyết?
Thế nào là chỗ tăng ích? Duyên gọi là cảnh, trong tự tánh Y tha khởi nắm lấy tướng mạo đó, do kiến mà chấp trước, do tầm mà khởi ngữ, do bốn thứ ngôn thuyết kiến, văn, giác, tri mà khởi ngôn thuyết, trong vô nghĩa mà tăng ích làm hữu, do biến kế nầy mà có thể lường tính trùm khắp.
Giải thích: "Lại nữa, có chủ thể biến kế…", đây là muốn phân biệt Biến kế sở chấp nên nói những câu nầy. Phải biết ý thức là chủ thể biến kế, vì có phân biệt", là do hiển chỗ xen tạp của tùy niệm phân biệt "Dùng tự danh ngôn được huân tập làm chủng tử", là hết thảy ý thức trong vô thỉ sinh tử, hý luận danh ngôn chủng tử huân tập làm nhân sinh ý thức nầy. "Và dùng hết thảy thức với danh ngôn được huân tập làm chủng tử", là dùng ảnh thức với danh ngôn làm chủng tử huân tập của vô biên sắc làm nhân, tương tợ danh ngôn kia mà sinh, do đó ý thức có vô biên hành tướng phân biệt mà chuyển. "Lại nữa, tự tánh Y tha khởi gọi là đối tượng biến kế", vì đây là một phần trong các tướng của nhãn… là đối tượng kế nghiệp. "Lại hoặc do tướng nầy khiến cho tự tánh Y tha khởi thành đối tượng biến kế, thì trong đây gọi là tự tánh Biến kế sở chấp", là do phẩm loại tướng duyên nầy mà gọi đó là tự tánh Biến kế sở chấp. "Là như nghĩa này", là như nghĩa của phẩm loại tướng duyên ấy. "Lại nữa, thế nào là biến kế có khả năng lường xét trùm khắp", đây là đặt câu hỏi để phát khởi, vì muốn nói lên sự sai biệt của tự tánh Biến kế sở chấp. "Duyên gọi là cảnh", là các cõi thiên của sắc thọ… với cùng danh đối với nghĩa tương ưng mà khởi các biến kế, nói hành tướng dị là thức thì danh đó không phải không có danh, để có thể đối với nghĩa đó để khởi các phân biệt. "Trong tự tánh Y tha khởi nắm lấy tướng mạo đó", là chấp nghĩa của tự tướng, vì chủ thể giữ lấy tướng gọi là tưởng, như những gì được tưởng mà khởi ngôn thuyết như vậy, hoặc trong tự tánh Y tha khởi nắm lấy các tướng của nhãn… "Do kiến mà chấp trước", là do năm phẩm loại suy cầu mà hành chuyển khởi các chấp trước, vì nắm lấy tướng mạo là đã khởi chấp trước. Do đó nghĩa tướng mạo chấp trước chặc do kiến tầm cầu đối với nghĩa quyết định, khởi chấp trước là đã muốn nói cho người khác. "Do tầm khởi ngữ", như khế kinh nói: "Do tầm do từ mà khởi ngữ ngôn, không phải không có tâm từ mà có thể phát khởi nói năng". "Do bốn thứ ngôn thuyết kiến văn giác tri khởi nói năng", là do bốn thứ ngôn thuyết của kiến văn giác tri mà khởi nói năng, như bám lấy các tướng mạo giống như rắn, như sợi dây… rồi nắm lấy các thứ tướng mạo cong queo như rắn, tự chấp trước xong muốn cho người khác biết, nên nói như vầy: Ta đã thấy rắn! Ta đã thấy rắn! Bốn thứ ngôn thuyết nầy cũng vậy, người khác đã nghe rồi thì lại càng thêm tăng ích, cho là thật có.
Luận nói: "Lại nữa, ba tự tánh nầy là khác hay là không khác? Đáng lẽ nói không khác, chẳng phải không khác, là tự tánh Y tha khởi, do dị môn nên thành Y tha khởi, tức tự tánh nầy do dị môn mà thành Biến kế sở chấp, tức tự tánh nầy do dị môn mà thành Viên thành thật. Do dị môn nào mà Y tha khởi nầy thành Y tha khởi? Là nương vào sự huân tập chủng tử khác mà khởi. Do dị môn nào mà ngay nơi tự tánh ấy thành Biến kế sở chấp? Là do tướng sở duyên của Biến kế sở chấp, cũng là Biến kế sở chấp. Do dị môn nào mà ngay tự tánh nầy thành Viên thành thật? Là vì như sự biến kế rốt ráo không có như vậy".
Giải thích: "Không khác", là tánh Y tha khởi cùng với Biến kế sở chấp là có và không có. Có mong đối với có, có thể được nói là khác, không phải mong không có như sự không có của sừng thỏ. "Chẳng phải không khác", là có cùng với không có không thành Một nên tánh Y tha khởi cùng với Viên thành thật cũng lại như vậy, vì tánh bất thanh tịnh và thanh tịnh. Bây giờ lại nương vào ý nghĩa của dị môn mà ba tự tánh nầy hoặc là thành một tánh, hoặc là thành khác tánh. "Là do tướng sở duyên của Biến kế sở chấp, cũng là Biến kế sở chấp", là do Y tha khởi, các ngã sắc… đó là chỗ nương dựa của Biến kế sở chấp. Lại nữa, Y tha khởi, các ngã sắc… đó là sự Biến kế của ý thức biến kế, do ý nghĩa nầy mà mượn nói Y tha khởi là Biến kế sở chấp. "Là vì như sự biến kế rốt ráo không có như vậy", là đối với như sự hiển hiện của Y tha khởi là rốt ráo không có. Như vậy tức là nói ba thứ tự tánh không hoàn toàn thành khác, cũng không phải không khác, vì sự quán chờ riêng khác. Nếu lúc đó quán chờ chỗ sinh của chủng tử huân tập thì nghĩa biên trở thành Y tha khởi, không phải do nơi sự trở thành nầy mà có hai tánh khác. Lúc đó nếu quán chờ đối tượng duyên của biến kế thì trở thành biến kế chấp, không phải do nơi sự trở thành nầy mà có hai tánh khác. Nếu lúc đó quán chờ Biến kế sở chấp thì rốt cùng vô biên thành Viên thành thật, không phải do nơi sự trở thành nầy mà có hai tánh khác.
Luận nói: "Ba tự tánh nầy, từng món có bao nhiêu thứ? Nói Y tha khởi lược có hai thứ: 1. Y tha chủng tử huân tập mà sinh khởi. 2. Y tha với tánh tạp nhiễm thanh tịnh bất thành. Do hai thứ y tha riêng biệt nầy nên gọi là Y tha khởi. Biến kế sở chấp cũng có hai thứ: 1. Tự tánh biến kế chấp. 2. Sai biệt biến kế chấp. Do hai thứ nầy mà gọi là Biến kế sở chấp. Tánh Viên thành thật cũng có hai thứ: 1. Tự tánh Viên thành thật.
2. Thanh tịnh Viên thành thật. Do hai thứ nầy mà làm thành tánh Viên thành thật".
Giải thích: "Y tha chủng tử huân tập mà sinh khởi", là do nương gá vào nhân duyên mà được sinh nên gọi là Y tha khởi. "Y tha với tánh tạp nhiễm thanh tịnh bất thành", là do khi phân biệt thì thành tánh tạp nhiễm, khi không có phân biệt thì trở thành tánh thanh tịnh, nương vào hai phần đó nên gọi là Y tha khởi. "Tự tánh biến kế chấp", là chấp giữ chung sự thể hữu pháp của nhãn… "Sai biệt biến kế chấp", là chấp giữ riêng nghĩa biệt pháp của nghĩa thường, vô thường… "Tự tánh Viên thành thật", là chân như hữu cấu. "Thanh tịnh Viên thành thật", là chân như ly cấu.
Luận nói: "Lại nữa, biến kế có bốn thứ: 1. Tự tánh biến kế. 2. Sai biệt biến kế. 3. Hữu giác biến kế. 4. Vô giác biến kế. Hữu giác là danh ngôn thiện. Vô giác là danh ngôn bất thiện".
Giải thích: "Danh ngôn thiện", là hành tự ý hướng trước lời nói, lãnh thọ hiểu rõ đầy đủ nên gọi là hữu giác, trái nghịch với hữu giác gọi là vô giác.
Luận nói: "Biến kế như vậy lại có năm thứ: 1. Y danh biến kế nghĩa tự tánh, là danh như vậy có nghĩa như vậy. 2. Y nghĩa biến kế danh tự tánh, là nghĩa như vậy có danh như vậy. 3. Y danh biến kế danh tự tánh, là biến kế lường xét chưa hiểu rõ nghĩa danh. 4. Y nghĩa biến kế nghĩa tự tánh, là biến kế lường xét chưa hiểu rõ danh nghĩa. 5. Y hai biến kế hai tự tánh, là biến kế lường xét danh nầy nghĩa nầy thể tánh như vậy".
Giải thích: "Y danh biến kế nghĩa tự tánh", là người sinh sống tại châu da tử, nghe nói tiếng trâu, họ không hiểu nghĩa là gì, mà niệm niệm phân biệt tiếng trâu như vậy. "Y nghĩa biến kế nghĩa tự tánh", là chưa từng luyện tập tưởng cùng với hữu tưởng tương ưng lẫn nhau, chợt thấy thân trâu, niệm niệm phân biệt nghĩa trâu như vậy. "Y hai biến kế hai tự tánh", là nương vào sự giả lập chủ thể và đối tượng nêu giảng mà phân biệt hai thứ.
Luận nói: "Lại nữa, thâu tóm chung tất cả phân biệt, lược có mười thứ: 1. Căn bản phân biệt, là thức A-lạida. 2. Tướng duyên phân biệt, là thức sắc… 3. Hiển tướng phân biệt, là nhãn thức… Gồm thức sở y. 4. Tướng duyên biến dị phân biệt, là sự biến dị của lão… biến dị của lạc thọ… biến dị của tham… biến dị của thời tiết thay đổi mất, còn, bức hại… biến dị của các cõi như Nại-lạc-ca… và biến dị của cõi dục nơi tam giới. 5. Hiển tướng biến dị phân biệt, là sự có biến dị như đã nói biến dị trước. 6. Tha dẫn phân biệt, là nghe loại phi chánh pháp phân biệt và nghe loại chánh pháp phân biệt. 7. Bất như lý phân biệt, là các ngoại đạo nghe loại phi chánh pháp phân biệt. 8. Như lý phân biệt, là trong chánh pháp nghe loại chánh pháp phân biệt. 9. Chấp trước phân biệt, là loại tác ý không đúng như lý, Tát-ca-da kiến làm gốc, sáu mươi hai kiến cõi tương ưng phân biệt. 10. Tán động phân biệt, là mười thứ phân biệt của các Bồ-tát".
Giải thích: "Căn bản phân biệt", là thức A-lại-da, là phân biệt căn bản nơi tự tánh khác cũng là phân biệt nên gọi là căn bản phân biệt. "Tướng duyên phân biệt", là phân biệt sắc… có tướng duyên như vậy. "Hiển tướng phân biệt", là nhãn thức… gồm thức sở y hiển hiện tợ của tướng đối tượng duyên kia. "Tướng duyên biến dị phân biệt", là tợ sắc… chỗ khởi phân biệt của ảnh thức biến dị. "Biến dị của lão…", là tướng của sắc thức… tợ lão mà khởi các thứ biến dị. Tại sao vậy? Vì ngoại sắc và nội sắc đều có tướng lão chuyển biến. "Đẳng (vân vân…)", là đồng lấy các biến dị bệnh và tử. "Biến dị của lạc thọ…", là do lạc thọ nên thân tướng biến dị. "Lạc", là mặt mũi đoan nghiêm. "Đẳng (vân vân…)", là đồng lấy khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. "Biến dị của tham…", là do tham mà thân tướng biến dị. "Đẳng (vân vân…)", là đồng lấy sân, si, phẫn… nói phẫn là nói hình sắc xấu xí. "Biến dị của thời tiết thay đổi mất còn bức hại…", là giết hại trói buộc… Khiến cho thân tướng sinh khởi biến dị, thời tiết thay đổi cũng khiến cho các sắc của nội thân ngoại thân hình tướng biến đổi, như khi thời tiết lạnh… bức bách thì thân… biến dị. "Biến dị của các cõi như Nại-lạc-ca…", chữ đẳng (vân vân…) là đồng lấy tất cả cõi ác, sắc của các cõi kia biến dị thì cùng chung hiểu rõ. "Và biến dị của dục nơi tam giới", chữ đẳng (vân vân…), là đồng lấy trong cõi Sắc và cõi Vô sắc, vì không có ảnh tượng thức của tợ sắc, trong chư thiên và trong tĩnh lự cũng có hữu tình và khí sắc… các thứ biến dị, như sức oai thần của hạt châu mạt-ni mà vô số ánh sáng màu sắc tịnh diệu biến dị. "Hiển tướng biến dị phân biệt", là do căn nơi chỗ dựa của nhãn… khiến cho ảnh tượng của tợ sắc… hiển hiện mà các thứ nhãn thức… biến dị, tức là trong đấy khởi các phân biệt, cũng như đã nói biến dị của lão… ở trước, tùy chỗ thích ứng của nó mà khởi biến dị. Tại sao vậy? Như nói căn của nhãn… có lợi và độn, thức có minh và ám, như chỗ dựa của vô biểu sắc biến dị thì vô biểu sắc kia cũng biến dị, do lạc thọ… biến dị cũng như thế. Nói lạc là vì an định, nói khổ là vì tâm tán động. Tham... Thời tiết thay đổi bức hại biến dị cũng như thế. Nại-lạc-ca… Và cõi Dục… nương vào thân biến dị, thức cũng biến dị phải biết như vậy. Trong cõi Vô sắc cũng có sự tạo tác của thọ… biến dị. "Các thức phân biệt tha dẫn phân biệt" là sự khởi của thiện hữu, ác hữu thân cận, cùng nghe chánh pháp và phi chánh pháp làm nhân phân biệt, tức là ngoại đạo Ca-tỷ-la… và hết thảy sự phân biệt của Tao-yết-đa trong chánh pháp gọi là "Phân biệt bất như lý" và "Phân biệt như lý". Hai thứ như vậy tùy theo chỗ thích ứng của nó mà có thể sinh tà kiến, chánh kiến tương ưng hai thứ phân biệt. Tát-ca-da kiến làm nhân đã khởi sáu mươi hai kiến tương ưng phân biệt, tức là tiền tế, trung tế và hậu tế trong kinh Phạm võng, cho ngã quá khứ đã từng có hay sao? Các phân biệt như vậy gọi là phân biệt chấp trước. "Kiến thú", là nghĩa phẩm loại. "Tán động phân biệt", là tán loạn nhiễu động nên gọi là tán động, tán động nầy tức là phân biệt nên gọi là tán động phân biệt. Đây tức là nhiễu loạn Trí vô phân biệt. Tại sao vậy? Vì do tán động nầy nhiễu loạn Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Trí vô phân biệt tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. "Là mười thứ phân biệt của các Bồ-tát", là các Bồ-tát có thể phát khởi ngữ ngôn tha dẫn mà chuyển là không xứng với mười thứ phân biệt của chân lý. Tại sao vậy? Vì chứng ngộ chân lý nếu đang hiện tiền thì bất khả thuyết.
Luận nói: "1. Vô tướng tán động. 2. Hữu tướng tán động. 3. Tăng ích tán động. 4. Tổn giảm tán động. 5. Tánh tán động. 6. Dị tánh tán động. 7. Tự tánh tán động. 8. Sai biệt tán động. 9. Như danh thủ nghĩa tán động. 10. Như nghĩa thủ danh tán động. Để đối trị mười thứ tán động nầy, trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói Trí vô phân biệt. Chủ thể đối trị, đối tượng được đối trị như vậy phải biết, gồm thâu đủ nghĩa của Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Trong tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có nói đủ mười thứ đối trị tán động như vậy, như nói: "Bạch Thế Tôn! Bồ-tát phải hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như thế nào? Xá-lợi tử! Là Bồ-tát thật có Bồ-tát là không thấy có Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì tự tánh sắc không không phải do không, sắc không không phải sắc, sắc chẳng lìa không, sắc tức là không, không tức là sắc. Tại sao vậy? Xá-lợi tử! Sắc nầy chỉ có danh, gọi đó là sắc… tự tánh nầy vô sinh, vô diệt, vô nhiễm, vô tịnh, giả lập khách danh, riêng biệt đối với pháp mà khởi phân biệt, giả lập khách danh mà tùy khởi ngôn thuyết, như như ngôn thuyết, như vậy như vậy, sinh khởi chấp trước, tất cả Bồtát như vậy không thấy, do không thấy nên không sinh chấp trước. Như nói đối với sắc cho đến đối với thức, phải biết cũng vậy".
Trong đây vì đối trị vô tướng tán động, nên kinh nầy nói "Không thấy có Bồ-tát…", tức là tự tánh Biến kế sở chấp vĩnh viễn không có. Để đối trị tăng ích tán động, ngay trong kinh nầy nói "Sắc tự tánh không", tức là tự tánh Biến kế sở chấp vĩnh viễn không có. Để đối trị tổn giảm tán động, ngay trong kinh nầy nói "Không phải do không…", nói pháp tánh kia là thật có nên để đối trị nhất tánh tán động, ngay trong kinh nầy nói "Sắc không không phải sắc…", vì cảnh tịnh và cảnh bất tịnh mỗi mỗi đều riêng biệt. Để đối trị dị tánh tán động, ngay trong kinh nầy nói "Sắc chẳng lìa không", vì tự tánh Biến kế sở chấp là vô sở hữu tức là không. Để đối trị tự tánh tán động, ngay trong kinh nầy nói "Sắc nầy chỉ có danh nên gọi đó là sắc. Để đối trị sai biệt tán động, ngay trong kinh nầy nói "Vô sinh, vô diệt…". Để đối trị như danh thủ nghĩa tán động, ngay trong kinh nầy nói "giả lập khách danh, riêng biệt đối với pháp mà khởi phân biệt…". Để đối trị như nghĩa thủ danh tán động, ngay trong kinh nầy nói "giả lập khách danh mà tùy khởi ngôn thuyết, như như ngôn thuyết, như vậy như vậy sinh khởi chấp trước, tất cả Bồ-tát như vậy không thấy, do không thấy nên không sinh chấp trước". Đây là có ý nói, đối với danh, đối với nghĩa biết rõ như thật, không có chấp trước hư vọng.
Luận nói: "Nếu do dị môn thì tự tánh Y tha khởi có ba tự tánh. Thế nào là ba tự tánh không thành vô sai biệt? Nếu do dị môn thành Y tha khởi, thì không do ngay chỗ thành nầy mà thành Biến kế sở chấp và Viên thành thật. Nếu do dị môn thành Biến kế sở chấp, thì không do ngay chỗ thành nầy mà thành Y tha khởi và Viên thành thật. Nếu do dị môn mà thành Viên thành thật, thì không do ngay chỗ thành nầy mà thành Y tha khởi và Biến kế sở chấp".
Giải thích: Nghĩa nầy giống như trước, không cần giải thích lại.
Luận nói: "Làm sao được biết, như tự tánh Y tha khởi, tự tánh Biến kế sở chấp, hiển hiện mà không xứng với thể? Do danh tiền giác vô xứng thể tương vi, do danh hữu chúng đa, đa thể tương vi do danh bất quyết định tạp thể tương vi. Trong đây có hai bài tụng:
Do danh tiền giác không,
Đa danh bất quyết định,
Thành xứng thể, nhiều thể
Vì tạp thể trái nhau.
Pháp không mà khả đắc
Không nhiễm mà có tịnh,
Phải biết đều như huyễn…
Cũng lại tợ hư không".
Giải thích: Như Y tha khởi và Biến kế sở chấp, tuy phần hiển hiện khả đắc, nhưng không xứng với thể của nó, để hiển hiện nghĩa nầy nên nói "Danh tiền giác vô…". Nếu Y tha khởi cùng với Biến kế sở chấp đồng nhất tướng, thì lìa danh được giữ lấy của nó đối với Biến kế sở chấp đáng lẽ sinh giác, nếu như không thể nói chỗ lãnh thọ của tự mình, trong chỗ đắc Y tha khởi của hiện lượng, thì không chờ đối với danh mà sinh giác, đã không có sự nầy, nên Y tha khởi và Biến kế sở chấp, thể của nó thì tương xứng, cùng với lý thì trái nhau. "Do danh hữu chúng đa, đa thể tương vi", là do lực ý giải trong Y tha khởi lường xét đối với nghĩa, trong một nghĩa lập nhiều danh, như sách Ni-kiền-đồ, chỉ một vật mà đặt nhiều tên, trên một con bò mà lập vô số danh, không phải đối với một vật có nhiều tự tánh mà không trái nhau. Y tha khởi và Biến kế sở chấp không đồng một tướng. "Do danh bất quyết định tạp thể tương vi", là đối với nhiều vật loại tùy theo chỗ muốn của nó mà kiến lập một danh. Lại nữa, một loại danh, tùy xứ tùy thời mà riêng làm đề mục cho các nghĩa. Nếu danh và nghĩa đồng một tướng, thì nghĩa phải xen tạp lẫn nhau. Đã không có sự nầy, nên không như danh mà có nghĩa của nó. Trong Dà-tha, bài Dà-tha thứ nhất lược tóm nghĩa nói trên cho dễ nhớ chắc. Bài Dà-tha sau thì ngay Biến kế sở chấp và Viên thành thật mà giải thích chung vấn nạn.
Luận nói: "Lại nữa, tại sao như đã hiển hiện thật là không có, mà tự tánh Y tha khởi không phải hết thảy chủng? Hết thảy chủng đều là không có, nếu không có Y tha khởi nầy thì tánh Viên thành thật cũng là không có, nếu không có Y tha khởi nầy thì hết thảy chủng đều không có. Nếu Y tha khởi và tánh Viên thành thật không có, thì phải thành lỗi không có nhiễm, tịnh, đã hiển hiện tạp nhiễm và thanh tịnh khả đắc nên không phải hết thảy chủng đều là không có. Trong đây có tụng:
Nếu không Y tha khởi,
Viên thành thật cũng không,
Hết thảy chủng nếu không,
Thì luôn không nhiễm tịnh".
Giải thích: "Không phải hết thảy chủng đều là không có", là không phải hết thảy chủng hiển hiện căn bản của chỗ dựa nơi đối tượng duyên đều là không có. "Lại nữa, hết thảy chủng", là tất cả thời. "Tánh Viên thành thật cũng là không có", nếu không có tạp nhiễm thì thanh tịnh cũng không.
Hỏi: hai tánh nếu không có, thì tánh Viên thành thật đáng nên thành tựu, tại sao lại nói không có?
Đáp: Tự tánh thanh tịnh thì tánh Viên thành thật cũng được như thế. Lìa cấu thanh tịnh thì tánh Viên thành thật không được như thế. Văn tụng dễ hiểu, không cần giải thích lại.
Luận nói: "Chư Phật Thế Tôn trong Đại thừa thuyết giáo pháp phương quảng, trong giáo pháp đó nói: "Tại sao phải biết tự tánh Biến kế sở chấp? Phải biết dị môn nói không có. Thế nào phải biết tự tánh Y tha khởi? Phải biết ví như huyễn, diệm, mộng, tượng, quang, ảnh, tiếng vang, trăng dưới nước, biến hóa. Thế nào phải biết tự tánh Viên thành thật? Phải biết tuyên thuyết bốn pháp thanh tịnh. Những gì là bốn pháp thanh tịnh? 1. Tự tánh thanh tịnh, là chân như không, thật tế pháp giới vô tướng thắng nghĩa. 2. Ly cấu thanh tịnh, tức là lìa hết thảy chướng cấu nầy. 3. Đắc thử đạo thanh tịnh, tức là tất cả phần pháp Bồ-đề Ba-la-mật-đa… của Bồ-tát. 4. Sinh thử cảnh thanh tịnh, là chánh pháp giáo vi diệu của các Đại thừa, vì duyên nơi pháp giáo thanh tịnh nầy không phải tự tánh Biến kế sở chấp, vì pháp giới đẳng lưu tối thanh tịnh không phải tự tánh Y tha khởi, bốn pháp như vậy gồm thâu chung hết tất cả pháp thanh tịnh. Trong đây có hai bài tụng:
Huyễn… nói đối với sinh,
Nói không kế sở chấp,
Nếu nói bốn thanh tịnh,
Đó là Viên thành thật.
Tự tánh và lìa cấu,
Đạo thanh tịnh sở duyên,
Hết thảy pháp thanh tịnh,
Là bốn tướng thâu tóm".
Giải thích: Trong Đại thừa giáo, muốn phương tiện nói ba thứ tự tánh nên đặt câu hỏi "Phải biết dị môn nói không có", là nói Biến kế sở chấp tức là dị môn, nói vô sở hữu là rốt ráo không có. Tự tánh Y tha khởi như huyễn, diệm…, nghĩa sai biệt sẽ nói sau. "Tự tánh thanh tịnh", tự tánh nầy trong vị trí Dị sinh (phàm phu) cũng là thanh tịnh. "Chân như", là tánh không biến đổi, là cộng tướng bình đẳng của tất cả pháp, tức là do chân như nầy mà trong Thánh giáo nói tất cả hữu tình đều có Như Lai tạng. "Không", là Biến kế sở chấp trên Y tha khởi, vĩnh viễn không có chỗ hiển lý tánh chân thật. "Thật tế", là chân nên gọi là thật, cứu cánh nên gọi là tế, chữ tế nầy tức là biên tế (biên vực). "Vô tướng", là vĩnh viễn lìa tất cả tướng của sắc. "Thắng nghĩa", tức là chỗ chứng nghĩa của thắng trí. "Pháp giới", tức là tất cả nhân của pháp tịnh. Pháp giới nầy là nhân của pháp giới, như nói kim cương giới… "Lìa cấu thanh tịnh", văn đó dễ hiểu, không cần giải thích lại. "Đắc đạo thanh tịnh ấy" là có khả năng chứng đắc nghĩa chân như lìa cấu đạo thanh tịnh. "Bồ-đề" là vĩnh viễn đoạn phiền não và sở tri chướng. Vô cấu, vô ngại là tự tánh, tùy thuận với Bồ-đề kia nên gọi là phần, tức là ba mươi bảy phẩm như bốn niệm trụ…, và cùng với mười thứ Ba-la-mật-đa. Ba-lamật-đa phần sau sẽ nói rộng. "Đẳng (vân vân…) Là đồng lấy tất cả Thánh đạo. "Sinh cảnh thanh tịnh ấy", tức là đã nói Thánh đạo của Bồ-đề phần ở trước. Văn hai bài tụng còn lại, nghĩa dễ hiểu, không cần giải thích lại.
Luận nói: Lại nữa, như kinh đã nói, là nhân duyên gì mà đối với tự tánh Y tha khởi nói các thí dụ huyễn…? Đối với tự tánh Y tha khởi, vì trừ nghi hư vọng của kẻ khác. Kẻ khác lại làm sao nổi nghi cho rằng tự tánh Y tha khởi là hư vọng? Vì họ đối với Y tha khởi nầy có nghi như vậy. Thế nào là thật vô nghĩa mà thành cảnh giới chỗ hành? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ sự huyễn. Thế nào là vô nghĩa mà tâm, tâm pháp chuyển? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ dương diệm (nắng chói lóa). Thế nào là vô nghĩa mà có thọ dụng ái phi ái sai biệt? Vì trừ nghi nầy mà nói thí dụ mộng. Thế nào là vô nghĩa mà nghiệp tịnh, bất tịnh, quả ái phi ái sai biệt sinh? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ ảnh tượng. Thế nào là vô nghĩa mà vô số thức chuyển? Vi trừ nghi nầy nên nói quang ảnh. Thế nào là vô nghĩa mà vô số hý luận ngôn thuyết chuyển? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ về tiếng vang nơi hang sâu. Thế nào là vô nghĩa mà có thật nắm lấy cảnh của nơi hành của các Tam-ma-địa chuyển? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ về trăng dưới nước. Thế nào là vô nghĩa mà có các Bồ-tát tâm không điên đảo? Vì phân rõ các sự lợi lạc của hữu tình nên tư và thọ sinh, vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ biến hóa".
Giải thích: "Nghi hư vọng", là đã khởi các nghi đối với nghĩa hư vọng. "Thế nào là thật vô nghĩa mà khi Biến kế sở chấp hiển hiện phân minh tợ cảnh nơi chỗ hành trì? Vì trừ nghi nầy nên nói thí dụ sự huyễn. Như thật không có hình tượng mà cảnh giới đối tượng duyên của hình tượng huyễn. Y tha khởi cụng lại như vậy, dù không có sáu xứ đối tượng sắc... nhưng khi suy tính khắp thì dường như hiện rõ sáu thứ đối tượng. Lại nữa, như dương diệm (sóng nắng giống như dòng nước) khi dao động thì thật không có nước mà có biết về nước. Ngoại khí thế gian cũng lại như vậy. Lại nữa, như trong mộng đã khởi trong khi ngủ, tâm và tâm pháp tụ trở nên rất hôn mê mờ ám, tuy không có các thứ nghĩa cảnh của nữ nhân mà có thọ dụng của ái và phi ái, khi giác cũng vậy. Lại nữa, như ảnh tượng trong gương, thấy trở lại bản chất mà cho ta hiện đang riêng thấy ảnh tượng. Ảnh tượng nầy thật ra là không có, không phải tư nghiệp thiện, ác của địa đẳng dẫn. Bản chất vì duyên ảnh tượng, quả sinh cũng lại như vậy. Lại nữa, như quang ảnh do người giỡn bóng, che khuất ánh sáng đó mà khởi các thứ bóng, vô số thức trong địa của các định đối với nghĩa không thật sai biệt mà chuyển. Lại nữa, như tiếng vang nơi hang, thật không có âm thanh mà khiến cho người nghe, tợ như nghe nhiều thứ cảnh giới nói năng, vô số ngữ nghiệp của nói năng cũng vậy. Lại nữa, như trăng trong nước, do tánh của nước nhuận láng trong lặng, tuy không có trăng mà trăng có thể nắm lấy, duyên sự huân tập tu thấm nhuần của cảnh thật nghĩa là tánh, ý của các Tam-mađịa tương ưng cũng lại như vậy. Tuy không có đối tượng là cảnh giới thật nghĩa nhưng mà dường như có chuyển. Cảnh giới nầy và ảnh tượng có gì sai biệt? Địa định và địa bất định có sai biệt, có người nói mặt trăng nhiều duyên hoà hợp, bóng ảnh của mặt trăng trong gương nước phân minh có thể nắm lấy, như Pha-chi-ca nhiều màu có các thứ màu sắc sinh, không phải sự giữ lấy sai biệt như vậy hay sao? Như lìa gương nước mà bóng của mặt trăng phân minh khả đắc, thì sự hiện nhiều màu sắc của pha-chi-ca không như vậy, nên không phải đồng dụ. Lại nữa, không phải chúng ta thừa nhận có nước, mà các thứ thật nghĩa hữu pháp không thành, nên không phải tỷ lượng. Lại nữa, như biến hóa, nương vào biến hóa nầy mà gọi là biến hóa, tuy không có thật nhưng có thể biến hóa không có điên đảo, đối với việc giáo hóa, nó có công siêng làm, Bồ-tát cũng như thế, tuy không có Biến kế sở chấp, nhưng hữu tình đối với Y tha khởi, các loại hữu tình do thương xót mà đến các chỗ sinh kia thâu nhận tự thể. Phải biết trong đây chỉ có chỗ nghi hư vọng như vậy, gọi là thọ dụng nội ngoại sai biệt, thân nghiệp, ngữ nghiệp và ba loại ý nghiệp không phải địa đẳng dẫn. Nếu địa đẳng dẫn không có điên đảo thì đối với tám sự nầy mà các Phật Thế Tôn nói tám thứ thí dụ. Các bậc có trí nghe những điều nói đó, trong nghĩa của địa định và địa bất định có thể hiểu biết đúng đắn.
Luận nói: "Nương vào mật ý nào mà trong kinh Phạm vấn Thế tôn nói: "Như Lai không đắc sinh tử, không đắc Niết-bàn, trong tự tánh Y tha khởi, nương vào tự tánh Biến kế sở chấp và tự tánh Viên thành thật, mà sinh tử và Niết-bàn không có mật ý sai biệt". Tại sao vậy? Tức tự tánh Y tha khởi nầy, do Biến kế sở chấp chia thành sinh tử, do Viên thành thật chia thành Niết-bàn".
Giải thích: "Thế tôn nương vào mật ý nào" cho đến "Không có mật ý sai biệt", đoạn văn hoặc hỏi hoặc đáp, nghĩa của nó đều dễ hiểu, không cần giải thích lại. "Tại sao vậy"? Câu sau giải thích câu trước, sinh tử và Niếtbàn không có mật ý sai biệt. Nếu loại trừ biến kế vĩnh viễn không có, thì ngoài ra không đắc sinh tử. Khi không đắc sinh tử nầy liền được quán thấy Niết-bàn tịch tịnh, nhưng trong đó chỉ nói thiên về một bên, nên không thành tánh sai biệt. Vì xua trừ điên đảo chấp trước sai biệt của ngu phu và tánh định, cũng tức là hiển thị nghĩa Y tha khởi nên nương vào hai tự tánh mà không quyết định.
Luận nói: "Trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, đức Bạc-già-phạm nói pháp có ba thứ: 1. Phần tạp nhiễm. 2. Phần thanh tịnh. 3. Cả hai phần kia. Nương vào mật ý nào Ngài nói như vậy? Trong tự tánh Y tha khởi, thì tự tánh Biến kế sở chấp là phần tạp nhiễm, tự tánh Viên thành thật là phần thanh tịnh, ngay Y tha khởi là cả hai phần kia, nương vào mật ý nầy mà nói như vậy. Trong nghĩa nầy lấy thí dụ gì để hiển? Lấy vàng ẩn giấu nơi đất làm dụ để hiển. Ví như trong vàng ẩn giấu nơi đất của thế gian có ba pháp có thể được: 1. Địa giới. 2. Đất. 3. Vàng. Đất trong địa giới không phải thật có mà hiện có thể được. Khi đốt lửa luyện thì tướng đất không hiện mà tướng vàng hiển hiện. Lại nữa, khi đất của địa giới nầy hiển hiện là hư vọng hiển hiện, khi vàng hiển hiện là chân thật hiển hiện, nên địa giới là cả hai phần. Thức cũng như vậy, khi trí lửa vô phân biệt chưa đốt luyện thì trong thức nầy, hết thảy hư vọng tự tánh Biến kế sở chấp hiển hiện, hết thảy tự tánh Viên thành thật không hiển hiện. Thức nầy, khi được trí lửa vô phân biệt đốt luyện thì trong thức nầy, cả thảy tự tánh Viên thành thật chân thật hiển hiện, cả thảy tánh Biến kế sở chấp hư vọng không hiển hiện, nên thức phân biệt hư vọng nầy là tự tánh Y tha khởi có hai phần kia, như cả thảy địa giới trong vàng ẩn giấu nơi đất.
Giải thích: Ba pháp khả đắc trong vàng ẩn giấu nơi đất là thí dụ cho ba tự tánh. "Địa giới", là dùng kiên là tánh. "Tàng", là chủng tử của vàng đất. "Vàng đất", là hiển sắc và hình sắc, như thứ tự do đại chủng tạo của nó mà làm thể của ba pháp. "Khi đất của địa giới nầy hiển hiện là hư vọng hiển hiện", vì không phải tánh của nó. "Khi vàng hiển hiện là chân thật hiển hiện", là tánh của nó. "Cho nên địa giới là cả hai phần kia", là hai thứ phần đất và vàng. Địa giới thì dụ cho tánh Y tha khởi, đất thì dụ cho tự tánh Biến kế sở chấp, vàng thì dụ cho tánh Viên thành thật. "Thức cũng như vậy", là lấy pháp thí dụ chung, vì tánh Duy thức là Y tha khởi, Biến kế sở chấp và Viên thành thật là tánh phần nầy. Khi được lửa trí vô phân biệt thiêu luyện thì hai thứ tánh phần chân thật và hư vọng, theo thứ tự của nó mà một hiển hiện, một không hiển hiện.
Luận nói: "Có nơi Thế tôn nói tất cả pháp là thường, có nơi nói tất cả pháp là vô thường, có nơi nói tất cả pháp là phi thường phi vô thường. Nương vào mật ý nào mà nói như vậy? Là tự tánh Y tha khởi do tánh Viên thành thật chia là thường, do tánh Biến kế sở chấp chia là vô thường, do hai phần kia chia là phi thường phi vô thường, nương vào mật ý nầy mà nói như vậy. Như vậy thường vô thường không hai, khổ lạc không hai, tịnh, bất tịnh không hai, không, bất không không hai, ngã, vô ngã không hai, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh không hai, hữu tự, tánh vô tự tánh không hai, sinh, bất sinh không hai, diệt, bất diệt không hai, bản lai tịch tĩnh, phi bản lai tịch tĩnh không hai, tự tánh Niết-bàn, phi tự tánh Niết-bàn không hai, sinh tử, Niết-bàn không hai cũng như thế. Những sai biệt như vậy, tất cả ngữ ngôn mật ý của chư Phật, do ba tự tánh nên phải theo đó mà quyết định hiểu rõ, như đã nói các thường, vô thường ở trước… trong đây có nhiều bài tụng:
Như pháp thật không có,
Như hiện không phải một,
Phi pháp phi phi pháp,
Cho nên nói vô nghĩa.
Nương một phần khai hiển, Hoặc có hoặc không có, Nương hai phần mà nói, Phi hữu, phi phi hữu.
Như hiển hiện phi hữu, Cho nên nói là không, Do như vậy hiển hiện, Cho nên nói là có.
Tự nhiên tự thể không, Tự tánh không kiên trụ, Như chấp thủ bất có, Là nhận tự tánh không. Do vô tánh mà thành, Chỗ nương dựa sau đó, Vô sinh diệt bản tịch, Tự tánh bát Niết-bàn".
Giải thích: "Có nơi nói Thế tôn tất cả pháp là thường…", là pháp tánh chân như của Y tha khởi, thể là thường trụ, biên thể của phần tự tánh Biến kế sở chấp là vô thường. Biến kế nầy thường không có nên tánh nầy thường không có, do đó gọi là vô thường, không phải có sinh diệt mà gọi là vô thường. Chỗ dựa của hai phần là vô thường cũng là phi vô thường, là tánh vô hai (không hai). "Lạc", tức là phần Viên thành thật. "Khổ", tức là phần Biến kế sở chấp. "Không hai", là phần Y tha khởi. Như vậy "Tịnh, bất tịnh, không, bất không, ngã, vô ngã, tịch tĩnh, bất tịch tĩnh, hữu tự tánh, vô tự tánh, sinh, bất sinh, diệt, bất diệt, bản lai tịch tĩnh, phi bản lai tịch tĩnh, tự tánh Niết-bàn, phi tự tánh Niết-bàn, sinh tử, Niết-bàn không hai…", như sự thích ứng của nó đều nương vào ba tánh để giải thích sai biệt. Vì khiến cho hữu tình dễ thọ trì, nên lại nói tụng. "Như pháp thật không có…", câu kết của văn trường hàng thì dễ hiểu, là như đã hiển hiện, vì không phải hữu tánh nên phi pháp, nhưng hiển hiện được nên phi phi pháp, do phi pháp phi phi pháp nầy mà nói nghĩa không hai. Như vậy phải giải thích nương vào một phần để khai hiển, hoặc là có hoặc là không có, như sự hiển hiện không có như vậy mà có hiển hiện, nên nương vào hai phần mà nói là phi hữu cũng phi phi hữu, vì tánh vô nhị. Như trước phải biết "Như hiển hiện phi hữu", là đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy của ngã tánh và pháp tánh, những thể như vậy đều là không có tánh, là chỗ chứng của phi lượng nên nói là không. "Do như vậy hiển hiện", là như Tát-ca-da kiến, thật ra không có ngã và ngã sở, chỉ từ vô thỉ đến nay, do lực của hý luận huân tập chuyển biến, tương tợ có mà hiển hiện.
Thức nầy cũng vậy nên nói là có, do thanh vô nhị (tiếng không hai) của môn tĩnh lự chuyển không giống như dị loại. Nếu như thế thì thành bất đồng luận ly hệ. Há có tương tợ kia nương vào tà kiến, đây nương vào chánh kiến, kia chấp tánh trái nhau không phải một, chỉ vì không muốn trái với tất cả chỗ nhận biết nên nói vô nhị. Tánh Y tha khởi trong pháp Phật nầy, trong hai tánh không quyết định thuộc một, nên nói vô nhị, do đó lý của kia, đây rất xa. "Tự nhiên tự thể không", là vì dựa vào nhiều duyên nên tự nhiên không có, sát-na đã sinh trước nên không phải mới, gọi là tự thể vô tự tánh. "Không kiên trụ", là một sát-na sau thì tánh diệt hoại. Đây là lý cộng vô tự tánh vì chung với Thanh-văn. "Như chấp giữ không có cho nên chấp nhận vô tự tánh", đây là lý bất cộng vô tự tánh, như có chấp điên đảo thì có ngã… như vậy sự chấp các pháp đều là không có của ngu phu, trong Đại thừa thì thừa nhận tất cả pháp đều vô tự tánh. "Do vô tánh mà thành", là do vô tự tánh mà đạo lý của vô sinh diệt thành lập. "Chỗ dựa sau đó" là do vô tự tánh nên không có sinh, do không có sinh nên không có diệt. Vì vô sinh diệt nên bản lai tịch tĩnh, vì xưa nay tịch tĩnh nên tự tánh Niết-bàn. Phải biết trong đây, những câu sau cùng nương vào các câu trước mà được giải thích. Như vậy bốn thứ phương tiện thắng hạnh tùy thuận có thể nhập hiện quán của Bồ-tát, ví như các hạnh vô thường… của Thanh-văn.
Luận nói: "Lại có bốn thứ ý thú và bốn thứ bí mật, tất cả lời Phật nói phải tùy theo đó mà quyết định hiểu rõ.
Bốn thứ ý thú: 1. Bình đẳng ý thú, là như nói: "Ta khi xưa đã từng đối với thời gian kia, phần kia", gọi là bậc thắng quán chánh đẳng giác.
2. Biệt thời ý thú, là như nói rằng: "Nếu người tụng danh hiệu Như Lai đa bảo, thì liền đối với chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng đã đắc quyết định". Lại nữa, như nói rằng: "Chỉ do phát nguyện thì liền vãng sinh thế giới cực lạc". 3. Biệt nghĩa ý thú, là như nói rằng: "Nếu đã phụng sự các Phật nhiều như số cát sông Hằng, thì mới có thể hiểu nghĩa pháp Đại thừa". 4. Bổ-đặc-già-la ý thú, là như làm một Bổ-đặc-già-la trước hết phải tán thán bố thí, sau đó thì trở lại chê trách bố thí. Như vậy Thi-la và tu một phần phải biết cũng vậy, như thế gọi là bốn loại ý thú.
Bốn bí mật: 1. Khiến nhập bí mật, là trong Thanhvăn thừa, hoặc trong Đại thừa, nương vào lý của thế tục đế mà nói có Bổ-đặc-già-la và có các pháp với tự tánh sai biệt. 2. Tướng bí mật, là nơi xứ kia nói các pháp tướng hiển bày ba tự tánh. 3. Đối trị bí mật, là nơi xứ kia nói tám vạn bốn ngàn hạnh đối trị. 4. Chuyển biến bí mật, là nơi xứ kia lấy biệt nghĩa của nó, thì những lời những chữ liền hiển biệt nghĩa. Như có tụng nói:
"Giác bất kiên làm kiên,
Khéo trụ trong điên đảo,
Cực phiền não sở não,
Đắc tối thượng Bồ-đề".
Giải thích: Quán xa nơi người khác có ý muốn đều dắt họ, gọi là ý thú. Quán gần đối với người khác, muốn khiến cho ngộ nhập, gọi là bí mật. "Bình đẳng ý thú", có Luận nói Phật do tư lương… tương tợ lẫn nhau, nói: "Ta khi xưa đã từng trong thời gian đó…", nếu như có ý duyên lẫn nhau thì tánh tương tợ khởi nói như vầy: "(Phật) kia tức là ta", nhưng không phải Phật Tỳ-bát-thi khi xưa, tức là Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật ngày nay. "Biệt thời ý thú", là quán về biếng trễ, là người không khả năng tu học pháp tinh cần, nên nói như vầy: "Nếu người tụng danh hiệu Như Lai Đa Bảo, liền đắc quyết định, chỉ do phát nguyện thì liền vãng sinh thế giới cực lạc ". Ý nầy là trưởng dưỡng thiện căn lúc trước, như thế gian nói chỉ do một đồng tiền mà được cả ngàn đồng tiền.
"Biệt nghĩa ý thú", là tướng chứng pháp nghĩa Đại thừa rất khác với tướng giáo pháp nghĩa Đại thừa. Do ý thú nầy mà nói như vầy: "Nếu đã phụng sự các Phật nhiều như số cát sông Hằng, thì mới có khả năng hiểu nghĩa vô cùng cao xa pháp Đại thừa". Đối với pháp Đại thừa chọn lấy bậc Thánh là tự trong nội chứng, chọn lựa bỏ, tùy theo lời hiểu rõ nghĩa.
"Bổ-đặc-già-la ý thú", là trước kia vì xan tham mà khen ngợi bố thí, sau đó vì ưa thích bố thí mà chê trách bố thí. Trước kia vì phạm giới mà tán thán Thi-la, sau đó vì trì giới mà chê trách Thi-la, là vì muốn khiến cho tu phẩm Thiện Thù Thắng. "Tu một phần", là thế gian tu. "Khiến nhập bí mật", là có kinh Luận nói Bổ-đặc-già-la và hết thảy pháp tự tánh sai biệt, vì khiến cho ngộ nhập lý của thế tục đế, như trong Thanh-văn thừa nói có hoá sinh các hữu tình…, như trong Đại thừa vì hoá độ nổi kinh sợ đoạn diệt nơi các hữu tình, nên nói tâm thường… "Tướng bí mật", là vì khiến cho ngộ nhập tướng của đối tượng nhận thức. "Đối trị bí mật", là vì đối trị chỗ cần đối trị tham… nơi tám vạn bốn ngàn các hạnh sai biệt. "Chuyển biến bí mật", là đối với nghĩa của chữ chuyển biến sai biệt. "Giác bất kiên làm kiên", cương cường lưu tán gọi là kiên, không phải giác nầy kiên (chắc) nên gọi là bất kiên, tức điều nhu không có định tán loạn, là trong đây khởi huệ giác kiên cố đó là kiên. "Khéo trụ trong điên đảo", là đối với bốn điên đảo có khả năng khéo an trụ, như vậy điên đảo quyết định không có động. "Cực phiền não sở não", là vì sự hoá độ hữu tình tinh tấn cần cù mà mệt nhọc, như có tụng nói: "Nơi sinh tử não lâu, chỉ do nơi đại bi…". "Đắc Bồ-đề tối thượng", là đắc nghĩa tam Bồ-đề của các Phật.
Luận nói: "Nếu có người muốn tạo giải thích pháp Đại thừa, thì lược có ba tướng phải tạo giải thích đó: 1. Do thuyết duyên khởi. 2. Do thuyết từ duyên khởi sinh pháp tướng. 3. Do thuyết ngữ nghĩa.
Giải thích: Vì muốn khai thị cho người tạo giải thích để giải thích đạo lý nên nói sơ lược do ba tướng.
Luận nói: "Trong đây thuyết duyên khởi, như nói:
Nói huân tập sinh khởi, Các pháp đây nương kia, Dị thục và thức chuyển, Làm duyên sinh lẫn nhau".
Giải thích: Như vậy duyên khởi và pháp duyên sinh, nơi chỗ dựa của đối tượng nhận thức xứ đã phân rõ tướng của nó, đã giải thích ba thứ tướng duyên khởi, bây giờ trong đây lược hiển thức A-lại-da cùng với thức chuyển của nó làm nhân quả lẫn nhau, nên trong Dà-tha nói những câu "Nói huân tập sinh khỏi…"
Luận nói: "Lại nữa, tướng pháp của thức chuyển kia, là thức hữu tướng hữu kiến làm tự tánh. Lại nữa, thức chuyển kia lấy nơi dựa làm tướng, Biến kế sở chấp làm tướng, pháp tánh làm tướng. Do đây hiển thị tướng ba tự tánh, như nói:
Từ hữu tướng hữu kiến, Phải biết ba tướng kia.
Lại nữa, làm sao giải thích tướng kia? Là tướng Biến kế sở chấp trong tướng Y tha khởi thật ra là không có, tướng Viên thành thật trong đó thì thật có, do hai thứ nầy mà phi hữu và hữu, phi đắc và đắc, người chưa thấy chân đã thấy chân đồng thời. Nói trong tự tánh Y tha khởi vì không có Biến kế sở chấp, có Viên thành thật, khi các tánh nầy chuyển, nếu đắc kia thì không đắc đây, nếu đắc đây thì không đắc kia, như nói:
Y tha, sở chấp không,
Thành thật trong đó có,
Cho nên đắc, bất đắc,
Trong đó hai bình đẳng".
Giải thích: "Thức hữu tướng hữu kiến làm tự tánh", điều nầy như trước đã nói, tự tánh của tướng thức, là sắc thức… Và nhãn thức… tự tánh của kiến thức là căn thức thức… "Lại nữa, thức chuyển kia lấy chốn dựa làm tướng", tướng Y tha khởi là chỗ nương dựa của hai tự tánh. "Biến kế sở chấp làm tướng", tức là tự tánh Biến kế sở chấp. "Pháp tánh làm tướng", tức là đối với phần tịnh được an lập nầy. Vì hiển nghĩa nầy nên nói nửa bài tụng:
Từ hữu tướng hữu kiến,
Phải biết ba tướng kia.
"Người chưa thấy chân đã thấy chân đều đồng thời", là nếu lúc người chưa thấy chân trong tự tánh Y tha khởi thấy Viên thành thật không có, Biến kế sở chấp thì có, ngay lúc đó người đã thấy chân thì thấy Biến kế sở chấp không có, Viên thành thật thì có. Xứ nào người nào không có y tha? Người không có sở chấp, vì trong Y tha khởi, Biến kế sở chấp không có. Trong đó làm sao có thành thật? Trong đó có, là vì trong Y tha khởi thì có Viên thành thật. Trong đây vọng thấy ngu phu, là do kiến điên đảo, không có thấy là có, có thấy là không có. Chân thật thấy Thánh là do kiến vô đảo, có thấy là có, không thấy là không. Để hiển nghĩa nầy nên nói nửa bài tụng sau:
Cho nên đắc bất đắc, Trong đó hai bình đẳng.
Luận nói: "Nói về nghĩa là trước hết nói câu đầu tiên, sau đó lấy câu khác để phân biệt hiển thị, hoặc do đức xứ hoặc do nghĩa xứ".
Giải thích: Như vậy không xét người nói dùng ý thú giải thích các nghĩa đã xong, bây giờ phải tùy thuận người nói dùng ý thú giải thích ngữ nghĩa. "Hoặc do đức xứ hoặc do nghĩa xứ", là đức ý thú, do nghĩa ý thú, đã đắc tự tại đã đắc lợi ích viên mãn nên gọi là đức, chưa đắc tự tại mà đã đắc tùy thuận hướng cầu nên gọi là nghĩa.
Luận nói: "Do xứ đức, là nói công đức giác ngộ tối thanh tịnh của Phật, hiện hành bất nhị tiến đến pháp vô tướng, trụ nơi Phật trụ, đắc tánh bình đẳng của hết thảy Phật, đến xứ vô chướng, pháp không thể chuyển, việc làm vô ngại, sự an lập bất khả tư nghì, dạo chơi trong pháp tánh ba đời bình đẳng. Thân đó lưu hành khắp tất cả thế giới, đối với tất cả trí pháp không có vướng mắc, đối với tất cả hạnh thành tựu Đại giác, đối với tất cả trí pháp không còn nghi hoặc. Phàm là sự hiện thân thì không thể phân biệt, là trí cầu đạt được của tất cả Bồtát… đắc trụ vô nhị nơi bờ giác thù thắng của Phật, là diệu trí giải thoát cứu cánh không xen tạp, chứng Phật địa bình đẳng không biên giữa, cùng cực đối với pháp giới, tánh hư không, tận cùng biên vực vị lai, là bậc giác ngộ tối thanh tịnh. Phải biết những câu nầy do các câu khác phân biệt hiển thị, như vậy mới thành pháp tánh thiện thuyết.
"Giác ngộ tối thanh tịnh: Là giác ngộ tối thanh tịnh của Phật Thế Tôn, phải biết là hai mươi mốt thứ công đức của Phật là: Công đức hiểu biết hoàn toàn không chướng ngại chuyển đổi. Công đức đối với hữu vô không có hai tướng có thể hội nhập nơi chân như thanh tịnh tối thắng. Công đức, trụ nơi hành không công dụng Phật sự không dừng nghỉ. Công đức trong pháp thân làm chỗ dựa cho ý lạc tác nghiệp không sai biệt. Công đức tu tập đối trị hết thảy chướng ngại. Công đức hàng phục tất cả ngoại đạo. Công đức sinh tại thế gian không bị thế gian ngăn ngại. Công đức an lập chánh pháp. Công đức thọ ký. Công đức đối với mọi thế giới thị hiện thân thọ dụng thân biến hóa. Công đức đoạn trừ mọi nghi. Công đức khiến nhập vào vô số hạnh. Công đức nơi pháp vị lai sinh khởi diệu trí. Công đức như chỗ thắng giải thị hiện đầy đủ. Công đức nơi vô lượng chỗ dựa gia hạnh điều phục hữu tình. Công đức nơi pháp thân bình đẳng thành tựu viên mãn Ba-la-mật-đa. Công đức tùy chỗ thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt. Công đức hiện ba thứ thân Phật nơi phương xứ không phần hạn. Công đức tận cùng biên vực sinh tử thường hiện lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình. Công đức vô tận".
Giải thích: "Giác ngộ tối thanh tịnh: Đây là câu đầu tiên do các câu khác khai hiển nghĩa của nó, như vậy mới gọi là khéo nói pháp tánh, là lấy nhiều đức để biện thuyết một đức.
"Công đức hiểu biết hoàn toàn không chướng ngại chuyển đổi: Đây là khai thị hiện hành bất nhị, là trí hoàn toàn không chướng ngại của Phật đối với tất cả phẩm loại sai biệt vô nhiễm, vô ngại, không phải như trí của Thanh-văn, Độc giác có hai thứ có xứ có chướng và có xứ không chướng, hoặc hai xứ hiện hành, còn Phật thì không có chỗ nói hai thứ hiện hành như vậy, nên gọi là hiện hành bất nhị, do đây gọi là giác ngộ tối thanh tịnh, vì có trí đoạn đại công năng viên mãn. Nơi các câu sau đều phải biết phối thuộc lẫn nhau như vậy. Công đức "Đối với hữu vô không có hai tướng có thể hội nhập nơi Chân như thanh tịnh tối thắng". Đây là khai thị chỗ hướng tới pháp vô tướng, là chân như nầy có tướng Viên thành thật, không có tướng Biến kế sở chấp. Do đạo lý nầy, gọi là không hai tướng, vì vô hữu vô tướng là thật có, sự chấp về vô hữu, hữu tướng là không có. "Công đức thanh tịnh tối thắng có thể nhập", tức là chân như thanh tịnh tối thắng, là đệ nhất trong tất cả pháp, vì xa lìa tất cả khách trần cấu uế, đối với chân như nầy tự có thể nhập, cũng có thể giúp cho người khác nhập, nên gọi là công đức thanh tịnh tối thắng có thể hội nhập. Do đây phải biết phối thuộc như trước, vì đã mình đã thanh tịnh cũng khiến cho người khác thanh tịnh. "Công đức trụ nơi hành không công dụng thực hiện Phật sự". Đây là khai thị trụ nơi Phật trụ, là không khởi công dụng đối với tất cả Phật sự, trong hữu tình không có gián đoạn, tùy chỗ thích ứng mà hằng an trụ đúng vào Thánh trụ, thiên trụ và phạm trụ, không giống như Thanh-văn phải khởi công dụng mới làm xong sự lợi hữu tình, không giống như ngoại đạo có chỗ trụ mà không phải thiên trụ thù thắng, tức là bốn thứ tĩnh lự, phạm trụ, tức là bốn vô lượng như bi... Thánh trụ tức là không, vô tướng… công đức "Trong pháp thân chỗ dựa cho ý lạc tác nghiệp không sai biệt", tức là khai thị đắc đến tất cả Phật tánh bình đẳng. "Chỗ dựa không sai biệt", là tất cả đều nương vào trí thanh tịnh. "Ý lạc không sai biệt", là tất cả đều có lợi ích an lạc cho mọi hữu tình đạt ý lạc thù thắng. "Tác nghiệp không sai biệt", là tất cả đều khởi thân thọ dụng và thân biến hóa làm lợi cho kẻ khác, không giống như Thanhvăn, Độc giác chỉ có chỗ dựa. "Công đức tu tập đối trị mọi thứ chướng ngại", tức là khai thị đến xứ vô chướng, là đã tập quen tất cả sự đối trị của Thánh đạo về phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng, hết thảy chủng trí tánh định tự tại đã đến chỗ dựa chốn nương dựa vĩnh viễn xa lìa mọi nẻo chướng ngại. Công đức hàng phục hết thảy ngoại đạo: Tức là khai thị pháp không thể chuyển, là hai pháp giáo và chứng đều không bị người khác lay chuyển, không có pháp nào khác vượt hơn pháp nầy. Công đức sinh tại thế gian, không bị pháp thế gian cản trở, ấy là khai thị việc làm không bị cản trở, trong đó chỗ thường hiện bày giảng thuyết gọi là chốn hành hóa, tuy hành tại thế gian nhưng không bị các thế gian pháp như Lợi, Suy… Ái, Sân… gây chướng ngại. Như có tụng nói:
Chư Phật thường du hành thế gian,
Lợi lạc tất cả loài hữu tình,
Tám pháp, gió nóng, phân biệt tà.
Không thể chướng ngại, không lay động.
"Công đức" an lập chánh pháp: Là khai thị chỗ an lập của chánh pháp đó là bất khả tư nghì, mười hai phần giáo của khế kinh gọi là chỗ an lập. An lập các tự tướng và cộng tướng kia, an lập như vậy không phải cái biết, làm của các kẻ thiếu học, là xuất thế gian nên bất khả tư nghì, sự an lập nầy bất khả tư nghì, tức là sự phối hợp thuộc về công đức như trước. "Công đức thọ ký ", là khai thị sự du hóa trong pháp tánh bình đẳng nơi ba đời là đối với pháp tánh bình đẳng ba đời có thể dạo chơi khắp, vì trong tánh bình đẳng của ba đời có thể tùy hiểu rõ các sự quá khứ vị lai đã từng chuyển và sẽ chuyển đều như hiện tại mà thọ ký. Công đức "Đối với hết thảy thế giới thị hiện thân thọ dụng thân biến hóa", đây là khai thị các thân lưu hành khắp trong tất cả thế giới, là tùy chỗ hoá độ khắp thế giới, thị hiện hai thân tạo lợi lạc cho các hữu tình. Công đức "Đoạn trừ nghi", là khai thị về tất cả trí pháp không vướng mắc, vì đối với tất cả cảnh khéo quyết định, không phải đối với các pháp tự không quyết định mà còn có thể quyết định nghi của kẻ khác, vì không phải lìa quyết định mà có thể đoạn nghi. Công đức "Khiến nhập vô số hạnh", là khai thị đối với tất cả hạnh thành tựu Đại giác. Công đức nơi "Pháp vị lai sinh diệu trí", là khai thị đối với các pháp trí, không có nghi hoặc, là bảo các Thánh Thanh-văn rằng: "Đây là toàn phần thiện, không có phần ít thiện căn mà xả bỏ"! Đức Phật Bạc-già-phạm biết Thanh-văn ấy về sau pháp thiện sẽ sinh, hiện tại chứng biết Thanh-văn kia đời khác là chỗ đeo đuổi của chủng tử thiện căn nhỏ ít. Công đức "Như thắng giải thị hiện đầy đủ", là khai thị hễ hiện thân thì không thể phân biệt, là tùy vô số thắng giải của hữu tình mà hiện kim sắc, tuy hiện thân nầy mà không phân biệt, như ngọc Mạt-ni và Tiêu địch… nói rộng như trong kinh Như Lai mật. Công đức nơi "Vô lượng chỗ dựa gia hạnh điều phục hữu tình": là khai thị tất cả sự cầu đạt trí của Bồ-tát, là do vô lượng chỗ dựa của Bồ-tát, vì muốn điều phục các hữu tình nên phát khởi diệu lực gia hạnh tăng thượng của Phật, lấy sự nghe pháp làm đầu để đắc diệu trí, dị loại Bồ-tát thâu nhận phó chúc, lần lượt nối tiếp, vô gián mà chuyển, do đây mà chứng đắc tất cả trí cầu đạt tới của Bồ-tát. Công đức nơi pháp thân bình đẳng thành tựu viên mãn các Ba-la-mật-đa", là khai thị đắc trụ không hai nơi bờ giác thù thắng của Phật, là không hai nên bình đẳng, nương vào pháp bình đẳng thân mà quả vị Ba-la-mật-đa thành mãn. Hoặc bình đẳng, là không giảm không tăng, trong pháp thân tất cả Ba-la-mật-đa được thành mãn, trong đó không có hoặc tăng hoặc giảm, không giống như Ba-la-mật-đa trong địa Bồ-tát kia có tăng có giảm.
Công đức "Tùy thắng giải thị hiện cõi Phật sai biệt", là khai thị diệu trí giải thoát cứu cánh của Như Lai không gián đoạn xen tạp là quán chúng sinh giải thoát sai biệt, hiện vô số cõi Phật với vàng, bạc không xen tạp. Khi thắng giải của Thế Tôn hiện tiền thì tùy mọi người ưa thích những gì đều được hiển hiện, không điều gì không biết rõ, nên gọi là diệu trí giải thoát của Như Lai hoàn toàn rốt ráo, thắng giải ở đây là nói giải thoát.
Công đức nơi ba thứ thân Phật hiện hữu khắp phương xứ không phần hạn", là khai thị chứng Phật địa bình đẳng, không biên giữa. Là như thế giới không có trung tâm và biên giới, Phật địa cũng vậy, công đức và phương xứ không có phần hạn, hoặc là phương xứ của thế giới vô biên, ngay trong ba thân của các Phật cũng xứng với thế giới vô lượng đầy khắp bình đẳng vì pháp thân thường trụ, như vậy trong các thế giới không phải nơi nào khác, hoặc pháp thân bình đẳng hiện khắp trong Phật địa, không có trung tâm, không có biên giới, không có phần hạn, pháp thân nầy hiện khắp tất cả xứ, vì các chúng sinh hiện khởi lợi ích, nhưng tự tánh không phải vô trung, vô biên.
Công đức tận cùng biên vực sinh tử thường hiện lợi ích an lạc cho mọi loài hữu tình, là khai thị cùng cực đối với pháp giới, vì pháp giới nầy tối thanh tịnh, có thể khởi các pháp của khế kinh đẳng lưu, cùng cực pháp giới nầy đối với tất cả hữu tình trong đời vị lai, như sự thích ứng của họ, thường có thể hiện khởi lợi ích an lạc.
"Công đức vô tận…" là khai thị tánh tận hư không, là hư không kia lấy vô chướng ngại làm tánh, đối với vật có đối lập lấy không chướng làm nghiệp. "Tánh", là giới
(cõi), vì giữ lấy tự tướng, không phải một khoảng hang trống sáng tối làm tận cùng của tánh, như vậy hư không làm đề mục cho tánh, không biên vô tế như hư không kia, không tận không giảm, không sinh không diệt, không có biến dịch, trong tất cả thời hiện tiền dung chứa lãnh thọ tất cả chất ngại, pháp thân cũng vậy, thường hiện tiền khởi tất cả lợi lạc cho hữu tình làm tướng, tận cùng tất cả cõi, làm các sự làm lợi ích của chúng sinh không có ngơi nghỉ. "Đẳng (vân vân…)", là đồng lấy công đức cứu cánh, là khai thị cùng tận đời vị lai, là công đức cùng tận đời vị lai nầy thường không gián đoạn, cùng tận nơi vị lai, không có bờ mé của biên vực, là hiển công đức của Phật vĩnh viễn không có cùng tận, chỗ giáo hoá hữu tình vĩnh viễn không có cùng tận.
Sự trang nghiêm của công đức nầy, là giác ngộ tối thanh tịnh, đã làm sáng tỏ sự giác ngộ tối thắng của đức Bạc-già-phạm khác với Thanh-văn, Độc giác và Bồ-tát. Làm thế nào mà đắc giác ngộ tối thanh tịnh nầy? Cho nên tiếp theo là nói "hiện hành bất nhị". Các Thanh-văn, Độc giác đối với cảnh nơi đối tượng nhận thức có hai hiện hành, gọi là chánh trí không nhiễm vô trí, Phật không có trí nầy nên trí đức viên mãn. Vì hiển đoạn đức của Như Lai viên mãn nên tiếp theo nói "Tiến đến pháp vô tướng không trụ tướng sinh tử, Niết-bàn". Dùng phương tiện gì để đắc Niết-bàn nầy? Tiếp theo nói "Trụ nơi Phật trụ". Do đức Bạc-già-phạm đối với đại bi không khéo an trụ nên không trụ sinh tử, không trụ Niết-bàn. Như vậy Phật trụ cùng với các vị khác trụ là cộng hay là bất cộng? Tiếp theo nói "Đắc tánh bình đẳng của tất cả
Phật", tất cả hành tướng của các Phật lần lượt hoà hợp đan xen mà trụ. Như vậy đã nói tự lợi viên mãn, sau đó phải rộng nói lợi tha viên mãn. Để hiển đắc tất cả chỗ hoá đối trị chướng ngại, do đấy tiếp theo nói "Đến xứ vô chướng". Có các ma chướng…, có thể làm thối chuyển pháp, có thể chuyển hữu tình làm việc nghĩa lợi, hiện tại ở đây không có các sự đó, nên tiếp theo nói "Pháp không thể chuyển". Trong mọi việc làm lợi ích an lạc cho hữu tình, không có cao thấp có thể gây chướng ngại, nên tiếp theo nói "Việc làm vô ngại". Nương vào phương tiện nầy có thể làm chuyện lợi ích cho hữu tình, vì thế tiếp theo nói "Chỗ an lập bất khả tư nghì". Như vậy Gia hạnh, chư Phật Thế Tôn làm tánh bình đẳng, vì mỗi thứ đều sai biệt. Nếu không như thế thì thân nào giáo hóa trong pháp tánh bình đẳng ba đời? Ba đời chư Phật làm việc lợi ích cho hữu tình đều tương tợ, như vậy thì sự làm lợi ích cho hữu tình, thì trong từng thế giới thứ tự dấy khởi hay sao? Nếu không như thế thì thân nào lưu hành khắp tất cả thế giới, mau chóng trong tất cả các thế giới hiện thành Phật. Vì làm rõ khả năng đoạn trừ đối với chỗ sinh khởi nghi của các xứ kia, nên tiếp theo nói "Đối với tất cả pháp trí không có nghi vướng". Vì chỗ hoá độ hữu tình với chủng tánh riêng khác, như chỗ thích ứng của nó mà theo phương tiện hoá độ chỉ dẫn. Để làm rõ trí phương tiện nầy, nên tiếp theo nói "Đối với tất cả hạnh thành tựu Đại giác", tức là nương vào sự hoá độ hữu tình như vậy hữu năng vô năng và thiện xảo sai biệt, vì thế phần tiếp theo nói "Đối với tất cả pháp trí không có nghi hoặc" là đối với sự hoá độ hữu tình trong tà, chánh và cùng hành, sự hiển hiện tướng bất khả phân biệt. Để hiển sự nầy, phần tiếp theo nói "Hễ là hiện thân thì không thể phân biệt". Dẫn phát nắm giữ chủng tánh bất định nơi hàng Thanhvăn Bồ-tát nên tán thán Đại thừa. Để hiển sự nầy, phần tiếp theo nói "Chỗ cầu đạt trí của tất cả Bồ-tát…". Vì ngăn cản mà các loài hữu tình được giáo hoá đã gán cho Đại sư nghi Nhất thiết trí không phải Nhất thiết trí, nên phần tiếp theo nói "Đắc trụ vô nhị nơi bờ giác tối thắng của Phật". Nghe những lời của chư Phật đắc bình đẳng, tức là tất cả phải đồng một tánh. Để ngăn cản nghi nầy, nên tiếp theo nói "Giải thoát cứu cánh diệu trí của Như Lai không xen tạp". Tướng của phi nhất phi dị là thế nào? Để đáp câu hỏi nầy nên tiếp theo nói "Chứng Phật địa không trung biên, bình đẳng nơi thường-vô thường…". Tất cả đều là tướng hai biên gồm thâu. Thế nào là vô tướng? Để tránh vấn nạn nầy nên tiếp theo nói "cùng cực đối với pháp giới". Nói tối thanh tịnh lìa các hý luận, là tướng pháp giới, chủng loại như vậy, tạo sự lợi ích chúng sinh, để hiển trải qua bao nhiêu thời gian nên tiếp theo nói: "Tận tánh hư không cùng tận đời vị lai".
Luận nói: "Lại nữa, do xứ nghĩa, nếu như nói các Bồ-tát thành tựu ba mươi hai pháp nên gọi là Bồ-tát, là vì đối với tất cả hữu tình khởi lợi ích an lạc tăng thượng ý lạc, giúp họ nhập trí của Nhất thiết trí. Tự biết ta nay nhờ vào trí nào, điều phục kiêu ngạo, ý lạc thù thắng bền vững, không phải giả thương xót, tâm bình đẳng đối với người thân và không thân, vĩnh viễn làm bạn tốt cho đến Niết-bàn làm hậu biên, vì xứng với lượng mà nói, vì mỉm cười trước khi nói, vì đại bi vô hạn, vì đối với việc mà mình nhận không yếu kém thối lui, vì không có ý mỏi mệt, vì nghe nghĩa không chán, đối với tự mình làm tội thì thấy thấy lỗi sâu xa, đối với người khác phạm tội thì không sân hận mà dạy bảo, trong tất cả oai nghi hằng tu trị tâm Bồ-đề, không mong dị thục mà hành thí, không nương vào tất cả cõi Hữu mà hành giới. Đối với các hữu tình không có nóng giận chướng ngại mà hành nhẫn. Muốn thâu nhận tất cả pháp thiện mà siêng năng tinh tấn. Xả cõi Vô sắc nên tu tĩnh lự, phương tiện tương ưng mà tu Bát-nhã, do bốn nhiếp sự mà gồm thâu mọi phương tiện. Đối với trì giới phá giới thiện hữu không hai, tâm ân cần tôn trọng nghe chánh pháp, tâm ân cần tôn trọng trụ A-luyện-nhã, không ưa thích tạp sự thế gian. Đối với các thừa thấp kém chưa từng ưa thích. Trong đại bi thấy công đức sâu xa. Xa lìa bạn ác, thân cận thiện hữu, hằng tu trị bốn phạm trụ. Thường du hí với năm thần thông, trí y thú, đối với các hữu tình trụ chánh hạnh và không trụ chánh hạnh đều không xả bỏ, vì nói quyết định, vì trọng đế thật, tâm đại Bồ-đề hằng làm đầu. Những câu như vậy phải biết đều là sự sai biệt của câu đầu tiên, là đối với tất cả hữu tình khởi ý lạc tăng thượng đem lại lợi ích an lạc.
"Câu ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc nầy có mười sáu nghiệp sai biệt, phải biết mười sáu nghiệp trong đây là: 1. Nghiệp lần lượt gia hạnh. 2. Nghiệp không điên đảo. 3. Nghiệp tự nhiên gia hạnh không chờ người thỉnh. 4. Nghiệp bất động hoại. 5. Nghiệp không cầu nhiễm, nghiệp nầy phải biết có ba câu sai biệt, là vì không nhiễm buộc, đối với ân và phi ân không có ái giận, đời đời hằng tùy chuyển. 6. Nghiệp tương xứng ngữ thân, nghiệp nầy phải biết có hai câu sai biệt. 7. Nghiệp bình đẳng trong lạc trong khổ trong vô nhị. 8. Nghiệp không thấp kém. 9. Nghiệp không thối chuyển. 10. Nghiệp tóm thâu phương tiện. 11. Nghiệp không chán ác đối trị, nghiệp nầy phải biết có hai câu sai biệt.
12. Nghiệp không tác ý vô gián. 13. Nghiệp hành thắng tấn, nghiệp nầy phải biết có bảy câu sai biệt, là sáu Ba-la-mật-đa chánh gia hạnh, và bốn nhiếp sự chánh gia hạnh. 14. Nghiệp gia hạnh thành mãn, nghiệp nầy phải biết có sáu câu sai biệt, là thân cận thiện sĩ, nghe chánh pháp, trụ A-luyện-nhã, lìa tầm từ ác, tác ý công đức, công đức nầy lại có hai câu sai biệt. Trợ bạn công đức, công đức nầy phải biết lại có hai câu sai biệt. 15. Nghiệp thành mãn, nghiệp nầy phải biết có ba câu sai biệt: Vô lượng thanh tịnh, đắc đại oai lực, chứng đắc công đức. 16. Nghiệp an lập, nghiệp nầy phải biết có bốn câu sai biệt: Các công đức, quyết định không nghi giáo thọ dạy bảo, tài pháp hợp nhất, tâm tịnh vô nhiễm. Những câu như vậy phải biết đều là sai biệt của câu đầu tiên".
Giải thích: ba mươi hai pháp do mười sáu nghiệp hiển thị phân biệt nói những nghiệp đó.
"Ý lạc tăng thượng lợi ích an lạc", hoặc là có lợi ích mà không phải an lạc, như người đầy tham mà gượng tu phạm hạnh, hoặc có an lạc mà không phải lợi ích, như người lạc dục, thọ dụng tất cả các thứ cảnh giới có tội, hoặc có lợi ích cũng là an lạc, như người bị nhiễm ít trần thích tu phạm hạnh. Trong đó Bồ-tát khởi tâm như vậy, làm thế nào để khiến cho tất cả hữu tình sẽ đắc lợi ích an lạc Vô thượng. "Ý lạc", là lấy dục và thắng giải làm tự tánh, vì ý lạc nầy thù thắng nên gọi là ý lạc tăng thượng.
"Giúp nhập trí của Nhất thiết trí" là sự giải thích về nghiệp lần lượt gia hạnh, ví như một ngọn đèn mỗi đốt cho hàng ngàn ngọn đèn khác, do nghiệp nầy mà lợi ích an lạc nơi ý lạc tăng thượng được hiển hiện. Như vậy trong những câu sau, ý nghĩa lợi ích an lạc nơi ý lạc tăng thượng đều phải phối hợp để giải thích.
"Tự biết ta nay nhờ vào trí nào", là sự giải thích vì nghiệp không điên đảo, hoặc có lợi lạc nơi ý lạc tăng thượng mà là điên đảo, nên phải "Tự biết ta nay nhờ vào trí nào", do trí nầy nên nói nghiệp không điên đảo, là ta chỉ có văn huệ như vậy, biết rõ giáo, tự chứng có thể nhận lãnh, khởi tùy chỗ thích ứng gia hạnh vô đảo. Như có tụng nói:
Chư hữu tự xứng lượng,
Dốc cầu nơi mình cầu,
Kia không đợi lao nhọc,
Có thể đến chỗ đến.
Những bài tụng như vậy sẽ nói rộng.
"Tồi phục kiêu ngạo", là sự giải thích về nghiệp tự nhiên gia hạnh không chờ người khác thỉnh, người khác tuy không thỉnh nhưng tự nhiên đến chỗ đó nói giảng chánh pháp cho họ.
"Thắng ý lạc bền vững", là sự giải thích về nghiệp bất động hoại, vì sinh tử và các khổ không thể động hoại sự phát tâm.
"Không phải giả thương xót, vì tâm bình đẳng đối với người thân và không thân. Vĩnh viễn làm bạn tốt cho đến Niết-bàn làm hậu biên", là sự giải thích ba thứ sai biệt của nghiệp không cầu nhiễm, nếu có ái nhiễm trói buộc là do nhân ái nhiễm, giả thương xót tạm thời thâu nhận; nếu không có ái nhiễm trói buộc thì không phải giả thương xót, vì trong tất cả thời hằng không xả ly, nếu nương vào ái nhiễm mà khởi thương xót, thì đối với người thân và không thân có yêu có sân, tâm không bình đẳng. Nếu không có tâm nhiễm thì đối với hai phẩm bình đẳng mà chuyển. Nếu có ái nhiễm mà khởi thương xót, thì chỉ đến khi mạng chung thì sự thương xót mới tùy chuyển. Nếu không có ái nhiễm mà sinh sự thương xót, thì tâm sự thương xót trong đời đời hằng tùy chuyển, do đó Bồ-tát đến Niết-bàn mới vĩnh viễn làm thiện hữu.
"Xứng với lượng mà nói, vì mỉm cười trước khi nói", đây là hai thứ tướng lợi ích an lạc nơi ý lạc tăng thượng, là sự giải thích về xứng thân nghiệp và ngữ nghiệp.
"Đại bi vô hạn" là sự giải thích về nghiệp bình đẳng. Nếu chỉ vì khổ mà khởi đại bi, thì một phần của nghiệp phi lạc, phi xả, phi bình đẳng chuyển. Đại bi của Bồ-tát đối với lạc đối với khổ và phi khổ lạc, sự giáo hóa hữu tình bị các khổ sinh tử đeo đuổi, đều thương xót bình đẳng không có sai biệt, nên nói nghiệp nầy là nghiệp bình đẳng.
"Đối với sự đã nhận không yếu kém thối lui" là sự giải thích về nghiệp không yếu kém, chuyên vì cứu độ tất cả hữu tình, cũng như cái gánh nặng, thấy gánh nặng nầy tâm không khiếp nhược sợ sệt, không từ bỏ cần cù khổ nhọc, như sức gánh vác mà làm xong việc, nên nói là nghiệp không yếu kém.
"Không có ý chán mệt" là sự giải thích về nghiệp không thối chuyển, sự hoá độ hữu tình có kẻ hành tà ác vẫn không khả năng làm mình thối chuyển, vì lợi ích an lạc nơi ý lạc tăng thượng.
"Nghe nghĩa không nhàm chán" là sự giải thích về nghiệp thâu tóm phương tiện, nghe là chỗ nghe các pháp của khế kinh, không phải nghe tràn lan, nghĩa là nghĩa được nêu giảng của kinh pháp, đối với sự nghe nghĩa nầy thường không chán đủ, đây là tánh phương tiện thiện xảo có thể thành thục hữu tình nên gọi là nghiệp thâu tóm phương tiện, nghe nghĩa không đủ như khả năng có thể lãnh nhận, phải đúng đạo lý mà hoá độ dẫn dắt.
"Đối với mình, phạm tội thì thấy thấy lỗi sâu xa, đối với người khác phạm tội thì không sân hận mà dạy bảo", đây là sự giải thích về nghiệp chán ác đối trị, cái phải đối trị trong đây là tham, sân… vì muốn khiến xa lìa nên gọi là chán ác. Nếu đối với mình phạm tội mà thấy lỗi sâu xa thì mau chóng chán lìa, mới có thể điều phục được việc không nên làm của người khác, lời nói, oai nghi đều nghiêm túc nên không phải ngoài khả năng điều phục. Như khế kinh nói:
Nếu tự sống tà hạnh, Thì bị người chê trách, Người đó rốt không thể,
Điều phục lỗi người khác.
Thế tục cũng nói:
Nếu tự phạm tội lỗi, Nhiều lần không quán sát,
Không như lý xa lìa, Kiêu mạn không giữ đức.
Nếu ôm lòng giận dữ mà dạy bảo sự sai phạm của người là không lợi ích, phi phương tiện, lời nói không có oai nghi nghiêm túc thì người kia chuyển nghịch lại mà khởi các hạnh tà. Như có tụng nói:
Thương xót như con một,
Chỉ dạy chỗ sai phạm,
Quyết định khiến thọ trì,
Sau đó không phạm nữa.
"Trong tất cả oai nghi, hằng tu trị tâm Bồ-đề", đây là sự giải thích về nghiệp tác ý vô gián, khắp trong tất cả việc đã làm, liên tục tu trị tâm Bồ-đề, như trong khế kinh sở hành thanh tịnh nói:
Nếu khi thấy ngồi,
Phát tâm như vầy,
Nguyện các chúng sinh,
Ngồi toà Bồ-đề.
Những bài tụng như vậy nên nói rộng.
"Không mong dị thục mà hành thí" cho đến "Do bốn nhiếp sự mà thâu tóm phương tiện", đây là sự giải thích bảy câu sai biệt về nghiệp hành thắng tấn, tức là sáu Ba-la-mật-đa và bốn nhiếp sự, lìa như đã thuyết và đã trị lỗi… trong địa cực hỷ và các địa sau chuyển đắc tăng thắng hướng tới thành mãn. Nhân gọi là nghiệp, là việc đã tạo tác.
Trong đây có bốn thứ Ba-la-mật-đa dễ hiểu nên không giải thích, có sai biệt thì bây giờ sẽ lược giải thích.
"Xả bỏ cõi Vô sắc nên tu tĩnh lự" là Bồ-tát không sinh trong cõi Vô sắc, vì đối với cõi đó không thấy có thể làm lợi lạc cho hữu tình, cũng không niệm nhập đẳng chí vô sắc, vì không thấy chỗ dựa của xứ đó có nhiều công đức, xả nghĩa là lìa.
"Phương tiện tương ưng mà tu Bát-nhã" là đại bi tương ưng tu tập diệu huệ, có khả năng làm các sự lợi lạc cho hữu tình. Nếu không có phương tiện nầy, thì đối với các sự lợi ích an lạc hữu tình đáng lẽ không có.
Chuyên vì sự nầy mà cầu quả Phật, như có tụng nói:
Song tu tập huệ bi,
Giỏi làm lợi cho người,
Hạnh lợi tha chánh đạo,
Hoàn toàn đến Bồ-đề.
"Bốn nhiếp sự" là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự. Do bố thí nên có thể thâu nhận người khác, do ái ngữ nên có phương tiện khai thị vì họ mà thuyết pháp tướng, do lợi hành nên tùy chỗ thích ứng mà khuyến khích người kia tu thiện, do đồng sự nên đến cuối cùng khiến người kia đồng đắc công đức bất cộng. Hoặc do bố thí có thể khiến thành pháp khí, do ái ngữ nên đắc pháp thắng giải, do lợi hành nên nương vào pháp thắng giải mà phát chánh hạnh, do đồng sự có thể khiến cho sự khởi hành chuyển đắc thanh tịnh, chuyển thành vi diệu. Do bốn nhiếp nầy mà gồm thâu đủ tự tánh phương tiện.
"Đối với trì giới, phá giới đều coi thiện hữu, vô nhị" cho đến "Vì thân cận thiện hữu", đây là sự giải thích sáu câu sai biệt về nghiệp gia hạnh thành mãn. Do gia hạnh nầy có thể khiến thành mãn nên gọi là gia hạnh thành mãn. Đây tức là nghiệp, do sáu câu thân cận thiện sĩ…, giải thích sự nói tám câu của kinh. Công đức tác ý và công đức trợ bạn, mỗi giải thích đều có hai câu, là Thila thiện nên gọi là trì giới, là ác Thi-la nên gọi là phá giới, người đối với hai thứ nầy có thể thuyết pháp là vì nghe pháp, vì cung kính pháp nên khởi thiện hữu tưởng, không có sai biệt nên nói "Thiện hữu vô nhị". Do nhân duyên đó, đối với người phá giới không nên hoàn toàn lìa bỏ họ, cho là phi thiện hữu. Như có tụng nói:
Nếu có đủ giới tuy yếu kém,
Nhưng giỏi biện thuyết lợi nhiều người,
Như Phật Đại sư nên cúng dường,
Thích kia khéo thuyết nên tương tợ.
"Tâm ân cần tôn trọng nghe chánh pháp" là như trong sự nói rộng nghĩa… do mười sáu hạnh phải nghe chánh pháp.
"Tâm ân cần tôn trọng trụ nơi A-luyện-nhã", là lìa xa xóm làng hơn một Câu-lô-xá gọi là A-luyện-nhã, dừng lại trong A-luyện-nhã đó gọi là trụ, như thích ứng mà trụ. Không có kiêu mạn và trì hươn gọi là tâm ân cần tôn trọng.
"Đối với tạp sự nơi thế gian không ưa thích" là không thích các thứ tạp sự như ca múa cười đùa của thế gian, tức là xa lìa dục… tương ưng với tầm tư bất chánh.
"Công đức tác ý " là Thanh-văn, Độc giác thừa thì xả ái, công đức Đại thừa thì tương ưng ái.
"Công đức trợ bạn", là xa lìa ác hữu, thân cận thiện hữu.
"Hằng tu trị bốn phạm trụ, thường du hí năm thần thông, trí y thú", đây là giải thích về nghiệp thành mãn, tướng thành mãn gọi là nghiệp thành mãn. Nghiệp thanh (tiếng nghiệp) trong đây là biệt danh của tướng, ba câu vô lượng thanh tịnh, đắc đại oai lực, chứng đắc công đức, là giải thích ba câu hằng tu trị bốn phạm trụ. Bốn thứ vô lượng từ bi hỷ xả gọi là bốn phạm trụ. Do đây có thể biết hết thảy nội đức thành mãn thanh tịnh nên đắc tướng thanh (tiếng tướng), du hí năm thần thông gọi là oai lực, trí thông lậu tận là trí giải thoát gọi là đại oai lực, hoặc coi thần thông tăng thượng của Bồ-tát gọi là đại oai lực, như vậy cũng gọi là tướng của thành mãn.
"Công đức chứng đắc" là đã chứng đắc hiện tiền tự tại, đây là giải thích trí y thú, mỗi mỗi đều nội chứng riêng gọi là trí y thú, không chỉ đối với nghĩa y thú, mà còn đối với thức phi tịch tĩnh, đối với trụ chánh hạnh và không trụ chánh hạnh…
"Nghiệp an lập", là sự giải thích của bốn câu sai biệt, do đấy mà an lập lợi ích an lạc nơi ý lạc tăng thượng, đây tức là nghiệp, nên gọi là an lập nghiệp đó.
"Dẫn dắt các công đức" là đối với hữu tình phạm giới và trì giới mà xua đuổi và thâu nhận, đều muốn khiến ra khỏi xứ bất thiện mà an lập xứ thiện gọi là không từ bỏ.
"Ngôn từ quyết định" là quyết định không nghi ngờ giáo thọ dạy bảo, là vì lời nói oai nghi nghiêm túc. Nếu lời nói bất định thì không có oai nghi nghiêm túc.
"Trọng đế thật" là tài pháp hợp nhất, tức là tài và pháp thâu tóm thành một, tích tụ tài pháp không phân biệt khác nhau, bình đẳng phân bố như điều đã hứa trước kia, thí như vậy và trừ bỏ chỗ hiện tại không có. Như có tụng nói:
Tài cúng dường khiến cho,
Chúng sinh tận thọ mạng,
Pháp cúng dường khiến cho,
Thiên cứu cánh tịch tĩnh.
"Tâm đại Bồ-đề hằng làm đầu". Đây là sự giải thích về tâm không tạp nhiễm, do sự thâu nhận của tâm Bồ-đề nên hễ có sự tạo tác thì rốt cùng không tham cầu sự cúng dường của người khác, chỉ cầu chứng đắc Bồ-đề Vô thượng.
Luận nói:
"Như nói: Vì do câu đầu tiên,
Câu chủng loại đức riêng,
Vì do câu đầu tiên,
Câu sai biệt nghĩa riêng".
Giải thích: Trong Dà-tha (kệ) nầy, nghĩa dễ hiểu, không nhọc giải thích lại.
Luận nói: "Như vậy đã nói về tướng của đối tượng nhận thức, nhập tướng của đối tượng nhận thức lam sao để thấy? Nơi dựa của đa văn huân tập không phải chỗ gồm thâu của thức A-lại-da, nếu như thức A-lại-da thành chủng tử, thì chỗ thâu tóm của tác ý như lý về tợ pháp tợ nghĩa mà sinh, tợ chỗ giữ lấy sự việc nơi ý ngôn hữu kiến".
Giải thích: Bồ-tát đã tu tập nghiệp như vậy rồi, là tướng mà người nhập hiện quá phải biết. Bây giờ sẽ nói rõ. "Nơi dựa của huân tập đa văn", là đối với Đại thừa mà khởi đa văn, nghe pháp nghĩa rồi huân vào nơi dựa tương tục của tâm, tâm pháp, người nghe ít thì không được nhập quán ấy. Như trong kinh Bạc-già-phạm giáo thọ tôn giả La-hỗ-la, La-hỗ-la nói: "Cúi mong Thế Tôn dạy cho con hiện quán". Thế tôn bảo: "Con đã thọ trì chánh pháp tạng chưa"? La-hỗ-la nói: "Bạch Thế Tôn! Chưa". Thế tôn bảo: "Con bây giờ phải thọ trì pháp tạng"!
"Không phải chỗ gồm thâu của thức A-lại-da" là chỗ dựa của đa văn huân tập nầy từ pháp giới tối thanh tịnh lưu xuất, đối trị chủng tử kia, không phải tánh của chủng tử ấy thâu tóm chỗ trái nhau. "Nếu như thức A-lại-da thành chủng tử" là như thức A-lại-da có khả năng trở thành nhân của tất cả pháp tạp nhiễm thì tánh chỗ dựa nầy có thể làm nhân của tất cả pháp thanh tịnh, chỉ có tánh nhân đồng nên được làm thí dụ, không phải nhất thiết chủng. Như có tụng nói:
Vì muốn lợi ích thường phóng dật,
Người mù không thấy tự mình vui,
Chư Phật giáng thần hiện thế gian,
Vì nhằm tuyên thuyết pháp vi diệu,
Ví như báu mạt-ni vô giá,
Giỏi trừ các độc không nghĩ bàn.
"Tợ pháp" là khế kinh, như kinh Thập địa… "Tợ nghĩa" là đối tượng nêu giảng về tánh vô ngã…, tương tợ hành tướng ấy mà sinh khởi, lấy làm tợ pháp, tợ nghĩa mà sinh. "Tợ sự việc được giữ lấy", là giống như chỗ giữ lấy kia mà hiển hiện. "Hữu kiến", là nhĩ thức đồng thời. "Ý ngôn", là ý thức hoặc cùng với Kiến phần đồng thời tánh đã giữ lấy và tánh chủ thể giữ lấy, đây tức là an lập tự tánh chỗ dựa của chủ thể giữ lấy và sở thủ. Như trước đã nói.
Luận nói: "Trong đây ai có khả năng ngộ nhập tướng mà mình phải biết? Đại thừa đa văn huân tập, tương tục đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở đời, đã được hoàn toàn quyết định giải thoát, đã khéo tích tập của thiện căn, khéo làm đầy đủ tư lương phước trí Bồ-tát".
Giải thích: Dụng và dụng cụ đều chờ tác giả, nên hỏi người nhập là ai có khả năng ngộ nhập, để đáp câu hỏi nầy nên nói: "Đại thừa đa văn huân tập tương tục…", là nương vào pháp Đại thừa mà khởi đa văn huân tập. "Tương tục đã được gặp và phụng sự vô lượng chư Phật xuất hiện ở đời", là do tương tục nầy nên được hiện tiền gặp và phụng sự chư Phật xuất hiện nơi đời. "Đã được hoàn toàn quyết định giải thoát", là do phụng sự Phật mà đối với Đại thừa sinh tín giải sâu xa, không phải do các bạn ác dẫn dắt khiến do dự, do ba nhân duyên của Đại thừa đa văn nầy nên có thể khéo tích tập thiện căn, gọi là "Khéo làm đầy đủ tư lương phước trí Bồ-tát".
Luận nói: "Có khả năng nhập chỗ nào? Tức là hữu kiến, tợ pháp, tợ nghĩa, ý ngôn, là chỗ sinh khởi của pháp tướng Đại thừa. Trong địa hạnh thắng giải, kiến đạo, tu đạo, đạo cứu cánh, đối với tất cả pháp chỉ có tánh thức, vì tùy theo văn mà sinh thắng giải, như lý mà thông đạt, đối trị hết thảy chướng, lìa hết thảy chướng".
Giải thích: "Có khả năng nhập chỗ nào", đây là hỏi cảnh đối tượng nhập và vị trí của chủ thể nhập. "Tức là hữu kiến… kia", là đối với sự sinh khởi của pháp tướng Đại thừa mà quyết định hành tướng tợ pháp, tợ nghĩa, ý ngôn kia có thể nhập vào pháp giới nầy. Chủ thể nhập là dụng, đối tượng nhập là cảnh giới, là nghiệp là trì. Đối với ý ngôn nầy, hoặc có chủ thể nhập trong địa hạnh thắng giải, trong tất cả pháp chỉ có tánh thức, nên chỉ có tùy nghe mà sinh thắng giải. Hoặc có chủ thể nhập trong kiến đạo, như lý mà thông đạt ý ngôn nầy. Trong đây như lý mà thông đạt là thông đạt phi pháp và phi nghĩa, vì phi chỗ giữ lấy và phi chủ thể giữ lấy. Hoặc có năng nhập trong tu đạo, do chủ thể nhập nầy mà tu tập đối trị phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng. Hoặc có chủ thể nhập trong đạo cứu cánh, thanh tịnh cùng cực lìa các chướng. Bốn thứ như vậy là vị trí của chủ thể nhập.
Luận nói: "Do cái gì có khả năng nhập? Do sự nhận giữ của lực thiện căn, là ba tướng của rèn luyện tâm, vì đoạn bốn xứ, vì duyên cảnh của pháp nghĩa thường hành chỉ quán, ân cần tôn trọng gia hạnh không có phóng dật". Giải thích: "Do cái gì có khả năng nhập". Đây là hỏi nguyên nhân để nhập, là do nhân gì đối với chỗ nhận biết nầy mà có thể nhập được? "Do chỗ nhận giữ của lực thiện căn", là tuy có lực thiện căn nhưng tâm hoặc bị thối khuất, nên nói ba tướng của rèn luyện tâm.
Luận nói: "Vô lượng các thế giới, vô lượng người, hữu tình, từng sát-na chứng biết chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, là rèn luyện tâm thứ nhất. Do ý lạc nầy có thể hành thí Ba-la-mật-đa, ta đã được ý lạc như vậy, ta do đây mà dụng công lực thêm ít nữa tu tập thí Ba-la-mậtđa, sẽ được viên mãn, đó là rèn luyện tâm thứ hai. Nếu có kẻ thành tựu các hữu còn có thiện chướng ngại, khi mạng chung thì liền ở nơi tất cả tự thể viên mãn khả ái sinh khởi, ta có thiện diệu, thiện vô chướng ngại thì sao lại không đạt được tất cả viên mãn, đó gọi là rèn luyện tâm thứ ba".
Giải thích: "Vô lượng các thế giới", câu nói nầy chỉ rõ việc rèn luyện tâm thứ nhất, đã dẫn người khác làm mẫu khiến cho tâm tăng thêm sung thịnh không có thối khuất. "Do ý lạc này", là làm rõ rèn luyện tâm thứ hai. "Ta đã được ý lạc như vậy", là làm rõ ý lạc nầy đã lìa sự che lấp và trói buộc, ý lạc nầy xa lìa bỏn sẻn, xa lìa tầm dục, xa lìa sân tầm, xa lìa biếng trễ, xa lìa hôn trầm và thuỳ miên, xa lìa vô minh. "Ta do đây nên dùng thêm ít công lực nữa tu tập thí Ba-la-mật-đa, sẽ được viên mãn", là đã đạt được ý lạc thù thắng, liền có thể tùy ý tu hành thí nhanh chóng khiến cho viên mãn. "Nếu có thành tựu", là làm rõ việc rèn luyện tâm thứ ba. "Các thiện có chướng ngại", là có thành tựu các thiện thế gian, vì chưa có thể vĩnh viễn đoạn đối tượng đối trị chướng, nên gọi là có chướng. "Ta có thiện diệu…", là ta có thể vĩnh viễn đoạn cái chướng cần đối trị, do không có chướng ngại thiện mà thành thiện, thì làm sao trong vị lai không chứng được quả Phật viên mãn. "Rèn luyện tâm", là rèn luyện tâm khiến cho mãnh lợi, để đối trị tâm thối khuất.
Luận nói: "Trong đó có tụng:
Các hữu tình cõi người,
Xứ số đều vô lượng,
Niệm niệm chứng đẳng giác,
Vậy không nên thối khuất.
Các tâm tịnh ý lạc,
Giỏi tu hạnh bố thí,
Thắng giả nầy đã đắc,
Đắc tùy lạc tự mãn,
Thắng thiện do vĩnh đoạn,
Viên mãn làm sao không?
Giải thích: Lại dùng Dà-tha để thâu tóm các nghĩa như vậy. "Các hữu tình cõi người…", tâm của loài nầy khiếp nhược gọi là tâm thối khuất, khuyến khích các loài kia không nên sinh tâm thối khuất, nói "Ta không thể chứng biết chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng thì gọi là tâm khiếp nhược", khiến cho chúng sinh kia không nên tự mình cho là không có công năng, nên không có thối khuất. Như có tụng nói:
Vô lượng mười phương các hữu tình,
Niệm niệm đã chứng quả thiện thệ,
Kia đã trượng phu, ta cũng vậy,
Không nên tự khinh mà thối khuất.
"Các ý lạc tịnh tâm, giỏi tu hạnh bố thí…", là không phải tâm bất thiện và vô ký mà hành thí… chỉ có tâm thiện nên gọi là tâm tịnh, nếu như trong thế gian có tâm bất thiện vô ký và tán loạn, cũng hành thí… mong muốn các hữu và tiền, địa vị, Bồ-tát thì không như vậy, chỉ cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. "Ý lạc", là có thể tu nhân của thí vô ngại… như trước đã nói. "Thắng giả nầy đã đắc, vậy có thể tu thí…", các Bồ-tát gọi là thắng giả, trước hết đã đắc ý lạc thù thắng nầy, do đây nên các Ba-la-mật-đa như thí… tùy ý mà chuyển, như nói mà tu nên gọi là đã đắc, do đây quyết định xả chỗ đối trị, vì xả chỗ đối trị nên không do công dụng, thì đối với thí… đó tùy ý chuyển. "Đẳng (vân vân…)", là đồng lấy thí cho đến huệ Ba-la-mật-đa. "Thiện giả khi mạng chung", là do thiện thế gian mà thành thiện giả, khi mạng chung thì "Đắc tùy lạc tự mãn", là đắc tùy chỗ ái lạc tự viên mãn quả của thế gian, là cho đến đắc nghĩa sinh hữu đảnh. "Thắng thiện do vĩnh đoạn", là do vĩnh viễn đoạn chướng ngại nơi thiện kia mà thành nghĩa thiện. "Viên mãn làm sao không", là tùy hỗ lạc viên mãn quả Phật làm sao không có nghĩa?!
Luận nói: "Do lìa tác ý của Thanh-văn, Độc giác, vì đoạn tác ý, do lìa nghi đối với các nghi về Đại thừa, vì có thể vĩnh viễn đoạn nghi dị huệ, do lìa ngã chấp và ngã sở chấp trong pháp được văn, tư, đoạn pháp chấp; do hiện tiền trụ an lập tất cả tướng, không tác ý, không có sự phân biệt, đoạn phân biệt, cho nên trong đây có tụng:
Hiện tiền tự nhiên trụ,
An lập hết thảy tướng,
Trí giả không phân biệt,
Đắc Bồ-đề tối thượng.
Giải thích: Bây giờ sẽ chỉ rõ việc đoạn trừ bốn xứ. "Đoạn tác ý" là đoạn trừ phần dẫn khởi tác ý của hai thừa. "Vì có thể vĩnh viễn đoạn nghi dị huệ" là đối với Đại thừa thâm diệu quảng đại, không khởi dị huệ điên đảo và nghi. "Đoạn pháp chấp" là trong pháp đạt được do văn tư, có thể vĩnh viễn đoạn trừ ngã chấp và ngã sở chấp, là ta có thể nghe, ta có thể tư duy hiểu biết, sự nghe văn cú của Ta, sự tư duy nghĩa của ta, những chấp trước như vậy tất cả đều không có, nhờ thắng nghĩa đó mà chứng hiện quán. "Đoạn phân biệt" là đối với hiện tiền tùy ý chuyển, hiện trụ của sắc và khởi công dụng, định tịnh của cốt toả… An lập các tướng cảnh giới của tất cả đối tượng duyên. Tác ý phân biệt đều có thể vĩnh viễn đoạn, cho đến Ba-la-mật-đa của tất cả chư Phật Bồ-tát. Các tướng như vậy, phân biệt chấp trước đều có thể vĩnh viễn lìa. Nghĩa của bài tụng đó chỉ rõ, không cần giải thích lại.
Luận nói: "Do cái gì và làm sao mà được ngộ nhập"?
Giải thích: Trong đây là hỏi cả hai vật dụng tạo tác và cái đã tạo tác, do có tác giả nhập nghiệp tạo tác, phải biết quyết định có công cụ của chủ thể nhập, tự tướng hiện quán là sự tạo tác sự việc, quyết định phải có như vậy như vậy phương tiện tạo tác, nên nay sẽ giải thích cả hai.
Luận nói: "Do chủng loại của văn huân tập, là sự gồm thâu tợ pháp tợ nghĩa ý ngôn hữu kiến của tác ý như lý".
Giải thích: Trong đây trước hết là chia rõ chủng loại thanh (tiếng) là công cụ của chủ thể nhập, tức là nhân theo ngôn thuyết mà làm nghĩa của nhân.
Luận nói: "Do bốn tầm tư: Là do tự tánh danh nghĩa sai biệt giả lập tầm tư và bốn thứ như thật biến khắp, trí là do danh sự tự tánh sai biệt giả lập hiển bày khắp về như thật. Trí như vậy đều đồng với không thể đắc, vì các Bồ-tát như thật như vậy, để nhập Duy thức mà khuyến tu gia hạnh, tức là đối với ý ngôn tợ văn tợ nghĩa, suy cầu văn danh chỉ là ý ngôn, suy cầu nghĩa nương vào văn danh nầy cũng chỉ có ý ngôn. Suy cầu tự tánh sai biệt danh nghĩa thì chỉ là giả lập. Nếu lúc đó chứng đắc chỉ có ý ngôn, lúc đó chứng biết hoặc danh hoặc nghĩa, tự tánh sai biệt đều là giả lập, tự tánh sai biệt nghĩa tướng không có. Đồng với không thể đạt là do bốn tầm tư và do bốn thứ biến tri như thật, đối với ý ngôn tợ văn tợ nghĩa nầy liền có thể ngộ nhập tánh duy hữu thức".
Giải thích: "Do bốn tầm tư và do bốn thứ biến tri như thật" y theo như trước đã nói, có thể ngộ nhập đầy đủ, phát khởi phương tiện tạo tác như thật. Khi gia hạnh thì tìm cầu hạnh kiến giả có mà thật không. Phương tiện tướng nhân gọi là tầm tư, biết rõ cái đắc được là giả có thật không, quyết định hạnh trí, tướng quả phương tiện gọi là như thật trí. Danh trong đây là sắc, thọ… cũng gồm thâu danh nhân, gọi là tầm tư của các quả cú…, danh nầy chỉ có tánh ý ngôn, chỉ có giả, không phải thật, không lìa ngôn danh ý mà gọi là tầm tư. Tầm tư nghĩa, như đối tượng được sự nêu dẫn của danh thân… mà đắc uẩn giới xứ. Suy cầu tánh nầy chỉ có giả không phải thật. Nếu như có từng chủng loại tương ưng khả đắc, thì từng đối tượng được nêu giảng tương ưng như vậy không đúng lý. "Suy cầu nghĩa nương vào văn, danh nầy cũng chỉ có ý ngôn" là tầm từ nương vào danh, là cái biểu lộ bên ngoài, chỉ có tánh ý ngôn, tư duy nghĩa nầy tợ ngoại tướng chuyển, thật ra chỉ ở bên trong. "Suy cầu tự tánh danh nghĩa sai biệt thì chỉ là giả lập", danh nghĩa của tầm tư hai thứ tự tánh chỉ có tướng giả lập, tự tánh danh nghĩa của sắc, thọ… thật ra chỉ là không có. Giả lập tự tánh, ví như giả lập Bổ-đặc-già-la thì danh nghĩa hai thứ tự tánh sai biệt của tầm tư cũng là tướng giả lập, là danh nghĩa sai biệt của vô thường… chỉ là giả lập. "Hoặc danh hoặc nghĩa, tự tánh sai biệt đều là giả lập", chứng biết bốn thứ hư vọng hiển hiện Y tha khởi gồm thâu, vì tự tánh sai biệt nghĩa tướng không có. "Đồng với không thể đạt", là hiểu rõ bốn thứ nghĩa của Biến kế sở chấp đều không thể đắc, phải biết bốn thứ phương tiện trong đây gọi là tầm tư, bốn thứ trí quả gọi là bốn thứ biến trí như thật. Nói suy cầu danh chỉ là giả lập, thật không thể đạt gọi là tầm tư. Nếu khi ngay trên trí quả mà sinh thì quyết định biết rõ giả có thật không gọi là trí như thật. Như vậy đối với sự tự tánh sai biệt, giả có thật không, suy cầu quyết định thì nói cũng như vậy.
Luận nói: "Trong sự ngộ nhập tánh Duy thức nầy, những gì là ngộ nhập? Ngộ nhập như thế nào? Nhập tánh Duy thức, tướng kiến hai tánh và vô số tánh. Hoặc danh hoặc nghĩa tự tánh sai biệt, giả mượn nghĩa sai biệt của tự tánh, như vậy sáu thứ nghĩa đều không có. Tánh của đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy hiện tiền, thì đồng thời hiện tợ vô số tướng nghĩa mà sinh khởi, như trong tối sợi dây hiện ra như con rắn, ví con rắn trên sợi dây không phải chân thật, vì không có. Nếu đã biết rõ nghĩa kia không có, thì sự nhận biết về rắn tuy diệt mất, nhưng sự nhận biết về sợi dây vẫn còn. Nếu lấy phẩm loại vi tế để phân tích, thì đây cũng là sắc, hương, vị, xúc hư vọng làm tướng của nó, sự nhận biết nầy vì nương vào sự nhận biết về sợi dây phải nên diệt. Như vậy đối với tợ văn tợ nghĩa sáu tướng ý ngôn kia, khi trừ diệt sáu tướng với nghĩa không thật thì tánh biết của Duy thức cũng như biết về rắn, đều phải xua trừ, do giác của tự tánh Viên thành thật".
Giải thích: Trong sự ngộ nhập tánh Duy thức nầy, muốn chỉ rõ sự nhập và nhập ví dụ nên đặt câu hỏi nầy. Nếu nghĩa không có trong sự ngộ nhập tánh Duy thức, thì ngộ nhập chỗ nào? Ý vấn nạn, tánh Duy thức nầy tức là nghĩa của nó, thì nghĩa không có thì làm sao ngăn cản vấn nạn nầy? Cho nên trước hết nói: "Nhập tánh Duy thức", là nghĩa của thức nầy cũng là tánh vô nghĩa, không phải chỉ có nghĩa bên ngoài là không có. Nếu không có tánh nghĩa thì làm sao có mười hai xứ giáo? Làm sao thế gian có nghĩa ngôn thuyết để ngăn cản vấn nạn nầy? Cho nên tiếp theo nói "Tướng, kiến hai tánh", tuy không có thật nghĩa, nhưng thức tương tợ hai nghĩa nội ngoại mà hiển hiện. Sức huân tập của ngôn thuyết từ vô thỉ, thức tợ nghĩa chuyển, tợ phân biệt dụng, gọi là "Kiến", nên không trái nhau vì chỉ ngộ nhập tợ tướng tợ kiến. Thức khác chủng loại thì không như vậy hay sao? Để đáp câu hỏi nầy nên nói "Và vô số tánh", là chỉ có một thức. Tánh của đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy sai biệt, trong một lúc mà phân làm hai thứ. Lại nữa, trong một thức mà tương tợ có ba tướng hiện, là đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy và phần tự chứng gọi là ba tướng, ba tướng như vậy thì phần nghĩa của một thức không phải một không phải khác, như các nơi đã biện luận. Trên một thức mà có nhiều tướng hiện nên gọi là "Vô số", gọi là cùng sáu tướng, không có nghĩa cùng… giải thích ba thứ trước. Để đáp câu hỏi trước "Như thế nào là ngộ nhập" nên lại nói "Như sợi dây trong tối hiện ra giống con rắn, do thí dụ nầy mà thành lập thông đạt ba thứ tự tánh. "Như con rắn trên sợi dây là không phải chân thật, vì không có", như vậy tợ danh, tợ nghĩa, ý ngôn, trên Y tha khởi gọi là cùng sáu tướng. Biến kế sở chấp cũng không phải chân thật, vì không có. Lại nữa, trong đây nhờ biết đó là sợi dây nên không cho nó là rắn nữa. Chỗ dựa như vậy thì Duy thức hiển hiện, cái biết của Y tha khởi bỏ đối với 6 nghĩa, cái biết của biến kế chấp như nương vào sắc… Là biết của phần tế dứt trừ cái biết về sợi dây, chỗ dựa như vậy thì cái biết của Viên thành thật xua trừ cái biết của mê loạn của Y tha khởi. Như có tụng nói:
Trí coi đây là rắn,
Thấy dây nghĩa không có,
Khi chứng thấy phần kia,
Biết rắn ấy trí loạn.
"Khi trừ diệt sáu tướng nghĩa không thật", là không có nghĩa, vì 6 thứ phi thật nghĩa thì không phải tướng hữu vi.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát ngộ nhập tợ nghĩa tướng ý ngôn, nên ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp, ngộ nhập Duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi. Làm sao ngộ nhập tánh Viên thành thật? Nếu đã trừ tưởng về ý ngôn, văn pháp theo chủng loại huân tập của Duy thức, thì lúc đó Bồ-tát đã loại trừ tưởng nghĩa, tất cả tợ nghĩa không được sinh nên tợ Duy thức cũng không được sinh. Do nhân duyên đó mà trụ hết thảy nghĩa danh vô phân biệt, trong pháp giới liền được hiện thấy tương ưng mà trụ. Lúc đó, Bồ-tát bình đẳng bình đẳng, nơi đối tượng duyên chủ thể duyên Trí vô phân biệt đã được sinh khởi, do đây nên gọi là Bồ-tát đã ngộ nhập tánh Viên thành thật".
Giải thích: "Vì ngộ nhập ý ngôn tợ nghĩa tướng, nên ngộ nhập tánh Biến kế sở chấp", là biết rõ ý ngôn, tợ nghĩa tướng hiện không có thật nghĩa của Biến kế sở chấp, do đây nên gọi là ngộ nhập tự tánh Biến kế sở chấp. "Ngộ nhập Duy thức nên ngộ nhập tánh Y tha khởi" là biết rõ Duy thức tiếp xúc với vô minh nên trong vô nghĩa mà tợ nghĩa tướng hiện, do đây mà ngộ nhập tánh Y tha khởi. Để làm rõ ngộ nhập tánh Viên thành thật nên lại nói "Đã loại trừ nghĩa tưởng", tức đã có thể trừ nghĩa của nghĩa tưởng. "Tất cả tợ nghĩa không được sinh", tức là đều không có chủ thể tợ nghĩa để sinh khởi nghĩa. "Cho nên tợ Duy thức cũng không được sinh", sự giữ lấy không có nên chủ thể giữ lấy cũng không, tức là chỗ thành nghĩa của Duy thức cũng không chuyển nghĩa. "Trụ hết thảy nghĩa danh vô phân biệt" gọi hết thảy pháp là khế kinh… gọi là chỗ dựa hạnh xứ, gọi là hết thảy nghĩa. Danh có mười thứ, 9 thứ trước gọi là hữu sở phân biệt, danh thứ mười là đối với hết thảy nghĩa không có phân biệt. An trụ như vậy đối với tất cả nghĩa danh vô phân biệt, như nói tất cả chỉ có danh của nó, tức danh như vậy có thể khởi tất cả, trong đây tợ danh hiển hiện thức… mượn nói là danh. "Trong pháp giới liền được hiện thấy tương ưng mà trụ", là trong pháp giới nội chứng tương ưng khởi thắng giải. "Bình đẳng bình đẳng", là như các đối tượng duyên đều là không có, như vậy chủ thể duyên cũng không có, do đó cả hai thứ đều bình đẳng bình đẳng. "Do đây nên gọi là Bồ-tát đã ngộ nhập tánh Viên thành thật", ngộ nhập tự tánh Biến kế sở chấp và tánh Y tha khởi là hữu dư nên cũng có tác giả, tác dụng chưa dứt nên chỉ gọi là ngộ nhập. Hiện tại tác giả và tác dụng trong đây đã diệt mất rốt ráo nên gọi là "Đã ngộ nhập".
Luận nói: "Trong đây có tụng:
Pháp Bổ-đặc-già-la,
Pháp nghĩa, tánh lược rộng,
Bất tịnh, tịnh cứu cánh,
Là việc làm sai biệt".
Giải thích: Như đã nói trước là trụ nơi tất cả danh vô phân biệt, bây giờ lấy Dà-tha để hiển thị tự cảnh sai biệt của danh nầy. Chữ "Pháp" đầu bài tụng, là sắc, thọ… "Bổ-đặc-già-la", là thiên thọ… tùy theo tín hạnh, là danh trong Phật giáo. Chữ "Pháp" kế sau, là những điều đáng tán thán trong khế kinh. "Nghĩa danh", là đối tượng được nêu giảng nầy sát hại đối với phụ mẫu, tru diệt quốc và tùy các hạnh… "Lược danh", là hết thảy pháp đều vô ngã. "Quảng danh", là sắc vô ngã. "Tánh danh", là các chữ A… là nhân của từ và cú. "Bất tịnh danh", là các dị sinh bị phiền não cấu nhuộm vào. "Tịnh danh", là các hiền Thánh vĩnh viễn đoạn cấu. "Cứu cánh danh", là tổng đối tượng duyên tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa và mười địa, lấy nghĩa tổng quát và tóm lược làm đối tượng duyên.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát ngộ nhập tánh Duy thức, ngộ nhập tướng của đối tượng nhận thức, ngộ nhập tướng nầy nên ngộ nhập địa cực hỷ, khéo thông đạt pháp giới, sinh vào nhà Như Lai, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả hữu tình, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả Bồ-tát, đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả chư Phật, đó gọi là Bồtát kiến đạo".
Giải thích: "Khéo thông đạt pháp giới", là đối với pháp giới chứng đắc sâu xa. "Sinh vào nhà Như Lai", pháp Phật gọi là nhà Như Lai, chứng ngộ pháp Phật nầy gọi là sinh. Chỗ đối tượng duyên sinh thắng trí, vì chuyển chỗ dựa ban đầu sinh các chỗ dựa khác, nối tiếp Phật chủng khiến cho không đoạn tuyệt, như sự tương tục sinh khác, chúng đồng phận khác, sở sinh, chủ thể sinh tương tục không đoạn, gởi vào nhà chỗ sinh như vậy là Bát-nhã Ba-la-mật-đa, chứng pháp giới của Phật, gọi là sinh trong đó, gọi là chân Phật tử. Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa nầy, đối với pháp giới của Phật có khả năng chứng đàng hoàng, dựng lập hiện tiền tự tương tục tự tại nên gọi là sinh. Như có thuyết nói:
Nhất thiết hùng mãnh, Lợi lạc người khác, Sinh mẫu, dưỡng mẫu, Chỗ sinh, chỗ nuôi.
"Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả hữu tình", là thấy khắp tất cả đều vô ngã, như có kinh Luận nói: "Tất cả pháp đều là Như Lai tạng".
Như vậy "Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả Bồ-tát", là đắc tánh ý lạc bình đẳng của Bồ-tát. "Đắc tâm tánh bình đẳng của tất cả chư Phật", là đắc tánh pháp thân bình đẳng của Phật. Đây gọi là Bồ tát Kiến đạo, cái thấy trước chưa thấy thắng pháp giới ví như kiến đạo của Thanh-văn, Độc giác.
Luận nói: "Lại nữa, vì nghĩa gì mà nhập tánh Duy thức? Do duyên pháp chung nơi trí chỉ quán xuất thế, do trí nầy mà sau đó đắc vô số tướng thức trí. Vì đoạn các tướng chủng tử và tướng thức A-lại-da, vì trưởng dưỡng chủng tử có thể tiếp xúc pháp thân, vì chuyển chỗ dựa, vì muốn chứng đắc hết thảy pháp Phật, vì muốn chứng đắc Nhất thiết trí để nhập tánh Duy thức, nên trí Hậu đắc đối với tất cả chỗ sinh của thức A-lại-da, trong tất cả tướng phân biệt, thấy tánh như huyễn không có đảo chuyển, cho nên Bồ-tát ví như huyễn sư trong các tướng của các huyễn sự, và nói nhân quả thường không có điên đảo".
Giải thích: "Lại nữa, vì nghĩa gì mà nhập tánh Duy thức", đây là hỏi chỗ cần thiết để nhập Duy thức. Tiếp theo phải đáp rằng, vì muốn chứng đắc trí của Nhất thiết trí, thì phương tiện ban đầu là như đã nói, để khai thị nên thứ tự nói, để đem lợi ích cho các loài được hoá độ có thể lãnh thọ. "Do duyên tổng pháp", là duyên tổng tướng chỗ hiển chân như của tất cả pháp làm cảnh. Hết thảy pháp mà trong Đại thừa giáo đã nói đều là chân như làm tánh, duyên chân như tức là hiểu rõ hết thảy pháp tánh. Nếu không như thế thì dù trải nhiều thời gian tu hành, nhưng Trí vô phân biệt cũng không sinh. "Xuất thế", là vô lậu, vì vô phân biệt. "Trí chỉ quán", là do trí tam-matư-đa không điên đảo trí. "Vô số tướng thức trí", là an lập tánh nhân tánh quả, hữu thượng Vô thượng… của các pháp, tức là phần nghĩa của đối tượng được giữ lấy và chủ thể giữ lấy. "Vì đoạn các tướng chủng tử của và tướng thức A-lại-da", là đoạn các pháp tướng tợ sắc… trong thức A-lại-da và tướng chủ thể huân tập. Đây là nói đoạn nhân quả của chủng tử. "Vì trưởng dưỡng chủng tử có thể tiếp xúc pháp thân", là muốn tăng trưởng tất cả huân tập đa văn của Đại thừa, do đây mà đầu tiên được đắc pháp thân. Vì chuyển sở y", là thông đạt chân như, các tâm tâm pháp sinh lìa cấu, hoặc là chân như thiện thanh tịnh. "Vì muốn chứng đắc hết thảy pháp Phật", là muốn sinh khởi mười lực, bốn vô uý… các pháp Phật. "Vì muốn chứng đắc trí của hết thảy trí", là muốn chứng đắc trí chư Phật vô cấu vô ngại. Lại nữa, trí
Hậu đắc, là hiển trí Hậu đắc có chỗ tác dụng. "Đối với tất cả sở sinh của thức A-lại-da", đây là nêu ra sở sinh để nắm lấy nhân của nó. "Trong tất cả tướng liễu biệt", đây là hiển quả của nó trong phần chủ thể giữ lấy và phần của đối tượng giữ lấy. "Thấy tánh như huyễn không có đảo chuyển", là quán như thật thấy tánh Y tha khởi, như huyễn sự… vì không có mê loạn. "Ví như huyễn sư trong các tướng của các huyễn sự", là trong nhân huyễn hoặc của cây cỏ… thấy như thật không có điên đảo, trong tướng huyễn hoặc của voi ngựa, thấy như thật cũng không có điên đảo. Bồ-tát thấy chân thật như vậy, như thật hiện thấy, không có tự tánh đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy, thì Viên thành thật đã khởi sau khi đắc, có khả năng phát ngữ ngôn tịnh trí thế tục, biết thời nhân quả, và biết thời nói pháp thường không có điên đảo. Người nghe tuy có điên đảo, nhưng văn huân tập huân tập tương tục, thứ tự dần dần đắc không điên đảo. Đó là do người kia đã làm xong điều nên làm. Trí hậu đắc nầy không có sai biệt cũng không có nhiễm ô.
Luận nói: "Đây là khi ngộ nhập tánh Duy thức, có bốn thứ Tam-ma-địa, là bốn thứ thuận phần quyết trạch nương dựa. Làm sao biết được? Phải biết do bốn tầm tư trong nhẫn vô nghĩa phẩm Hạ, có minh tăng thêm Tamma-địa, là chỗ dựa của Noãn thuận phần quyết trạch. Trong nhẫn vô nghĩa phẩm thượng, có minh tăng Tamma-địa, là chỗ dựa của Đảnh thuận phần quyết trạch. Lại do bốn thứ biến trí như thật đã nhập Duy thức, trong vô nghĩa đã được quyết định, có nhập chân nghĩa một phần Tam-ma-địa, là chỗ dựa của đế thuận nhẫn, từ vô gián nầy có thể chế phục tưởng Duy thức, có vô gián Tamma-địa, là chỗ dựa của pháp thế đệ nhất. Phải biết các Tam-ma-địa như vậy là hiện quán biên".
Giải thích: Khi tất cả xứ nhập hiện quán, thì đều có bốn thứ thuận phần quyết trạch, là tướng trước, hiện quán đã rõ nên không giải thích lại. "Do bốn tầm tư", là như trước đã nói suy cầu danh nghĩa tự tánh sai biệt giả lập làm thể. "Trong nhẫn vô nghĩa phẩm hạ", là trong ái lạc giác huệ của phẩm hạ các nghĩa đều là không có. "Minh", là trí có thể chiếu nghĩa không có, sự mong cầu quả đều toại ý nên gọi là đắc. Định nầy ban đầu đắc trí minh vô nghĩa, nên đắc minh là đắc tên của Tam-ma-địa, ví như ban đầu là cầu được lửa. Noãn, tức là thiện căn của Noãn phẩm, ví như kéo cây lấy lửa thì tướng ban đầu của nó là Noãn, ở đây cũng vậy, chân trí là tướng ban đầu. "Nương dựa", có nghĩa là nhẫn. Nói quyết trạch tức là hiện quán, phần nầy là pháp nhẫn vô ngã, dẫn phát thiện căn ấy nên gọi là thuận, chiếm chỗ trên hết nên gọi là đảnh. "Lại do bốn thứ biến trí như thật", là như trước đã nói không thể đạt được trong danh sự, đã được quyết định rồi. Khi chuyển như vậy thì ngộ nhập Duy thức, tợ danh… hiện quyết định biết rõ đều không có nghĩa. "Nhập chân nghĩa một phần Tam-ma-địa", là chỉ có chủ thể thông đạt, chỗ giữ lấy thì không có, nên gọi là "Nhập một phần", do thấu đạt nghĩa không có trong đây, nên chưa có khả năng chế ngự chủ thể giữ hành tướng Duy thức kia, khiến cho nó không có, nên nói danh nầy là chỗ định nương dựa của đế thuận nhẫn. Thuận là thân cận nương vào, đối tượng giữ lấy không có nên chủ thể giữ lấy cũng không. "Phải biết các Tam-ma-địa như vậy là hiện quán biên", phải biết tức là gần với nghĩa chuyển kia.
Luận nói: "Như vậy Bồ-tát đã nhập địa, đã đắc kiến đạo, đã nhập Duy thức. Trong tu đạo làm thế nào để tu hành? Như trong điều đã nói an lập mười địa, gồm thâu tất cả kinh đều hiện tiền, do duyên chung nơi pháp xuất thế trí Hậu đắc chỉ quán, trải qua vô lượng trăm ngàn câu-chi na-du-đa-kiếp, niệm niệm tu tập do đó mà đắc chuyển y. Vì muốn chứng đắc ba thân Phật nên tinh tấn tu hành".
Giải thích: "Như trong điều đã an lập mười địa", là tùy các hý luận ngôn thuyết, tự tướng và cộng tướng trong mười địa. "Do duyên pháp chung", là duyên xen tạp nhau, không có duyên pháp riêng tu chánh trí. Nếu không như thế thì chỗ tập hợp tư lương của Trí vô phân biệt không có được. "Xuất thế", là Trí vô phân biệt hậu đắc, tức là trí thanh tịnh xuất thế gian có thể an lập, vì hậu đắc nầy là cảnh thanh tịnh hữu tướng. "Thế gian mà đắc chuyển y", là trải qua nhiều kiếp tu hành Trí vô phân biệt, hậu đắc mà đắc chuyển y, là tâm, tâm pháp tương tục thanh tịnh. "Vì muốn chứng đắc ba thân Phật nên tinh cần tu hành", sau đây sẽ nói rộng.
Luận nói: "Hiện quán của Thanh-văn và hiện quán của Bồ-tát, có gì sai biệt? Là hiện của Bồ-tát khác với Thanh-văn. Do mười một thứ sai biệt phải biết: 1. Do đối tượng duyên sai biệt, Bồ-tát lấy pháp Đại thừa làm sở duyên. 2. Do tư trì sai biệt, lấy hai thứ tư lương đại phước, trí làm tư trì. 3. Do thông đạt sai biệt, do có thể thông đạt pháp Bổ-đặc-già-la là vô ngã. 4. Do Niết-bàn sai biệt, thâu nhận vô trụ đại Niết-bàn.
5. Do địa sai biệt, nương vào mười địa mà xuất ly. 6. 7. Do thanh tịnh sai biệt, đoạn phiền não tập khí, làm thanh tịnh cõi Phật. 8. Do đối với tự tha đắc tâm bình đẳng sai biệt, thành thục hữu tình mà gia hạnh không ngơi nghỉ. 9. Do sinh sai biệt, sinh vào nhà Như Lai. 10. Do thọ sinh sai biệt, thường trong hội đại tập của chư Phật mà thâu giữ sinh. 11. Do quả sai biệt, là mười lực, bốn vô uý, pháp Phật bất cộng, vì vô lượng công đức thành mãn nơi quả.
Giải thích: Hiện quán khác nhau của Thanh-văn và Bồ-tát, lược có mười thứ hoặc mười một thứ. Trong "Đối tượng duyên sai biệt", hiện quán của Bồ-tát lấy pháp Đại thừa làm văn huệ nơi ba thứ đối tượng duyên. Hiện quán của Thanh-văn thì lấy pháp Thanh-văn thừa làm đối tượng duyên. Trong "Tư trì sai biệt, tư lương phước là ba thứ gia hạnh thí, giới nhẫn. Tư lương trí, là tinh tấn, tĩnh lự và văn huệ… tư lương là trải qua chỗ vận chuyển tập hợp trong vô lượng kiếp. "Thông đạt sai biệt", là hiện quán của Thanh-văn chỉ có chủ thể thông Bổ-đặc-già-la không nơi lý vô ngã, hiện quán Bồ-tát thì đồng thời có thể thông đạt Bổ-đặc-già-la là pháp không vô ngã. Trong "Niết-bàn sai biệt", hiện quán của Bồ-tát thâu nhận bi huệ làm phương tiện tư lương, sinh tử và Niết-bàn không có chỗ trụ giữ lấy làm Niết-bàn. Hiện quán của Thanh-văn chỉ có trụ nơi vô vi lấy làm Niết-bàn. Trong "Địa sai biệt", hiện quán của Bồ-tát nương vào mười địa mà được xuất ly, trong Thanh-văn thừa không có các địa kiến lập như vậy. Trong "Thanh tịnh sai biệt", hiện quán của Bồtát vĩnh viễn đoạn phiền não gồm các tập khí và có thể thanh tịnh Phật độ báu. Hiện quán của Thanh-văn tuy đoạn phiền não, nhưng chưa trừ tập khí không thể tịnh mọi báu cõi Phật. Nói tập khí, tuy không có phiền não nhưng việc làm của nó tương tợ có phiền não. Trong "Tự tha đắc tâm bình đẳng sai biệt", là hiện quán của Bồ-tát chứng đắc tự tha bình đẳng pháp tánh, thành thục hữu tình mà gia hạnh không dứt. Hiện quán của Thanh-văn phân biệt tự tha chỉ tu tự lợi, không tu lợi tha. Trong "Sinh sai biệt", hiện quán của Bồ-tát sinh trong nhà pháp giới của Như Lai, là chân Phật tử, như nhà của luân vương sinh con có đủ tướng, không giống như Thanhvăn đồng ở với hạng con của nô tỳ vô trí hèn mọn. Trong "Thọ sinh sai biệt", hiện quán của Bồ-tát thường trong đại tập hội của chư Phật, trên đài liên hoa ngồi kiết-già cho đến thành Phật hằng thọ hoá sinh. Gọi là hội đại tập của chư Phật ấy, là quốc độ giới vô lậu của chư Phật, không giống như Thanh-văn ở trong thai mẹ. "Quả sai biệt", là hiện quán của Bồ-tát, mười lực, bốn vô uý… có nhiều chỗ trang nghiêm của các công đức, có thể không công dụng mà tác khởi tất cả sự lợi ích cho hữu tình, chứng đắc pháp thân lấy làm thắng quả, các dụng vô lậu còn lại chuyển sinh làm quả.
Luận nói: "Trong đây có hai bài tụng:
Danh sự cùng làm khách,
Tánh nó xứng tầm tư,
Hai thứ cũng nên suy,
Duy lượng và duy giả.
Trí thật quán vô nghĩa,
Chỉ có ba phân biệt,
Kia không, nên đây không,
Thì liền nhập ba tánh".
Giải thích: Lấy hai bài Dà-tha để gồm thâu chung về tầm tư và quả tầm tư, khiến cho dễ hiểu. "Danh sự cùng làm khách, tánh nó xứng tầm tư", là danh đối với sự làm khách, sự đối với danh cũng vậy, không giống như một loại, là thanh và nghĩa tương xứng nhau mà sinh, hệ thuộc lẫn nhau. "Hai thứ cũng nên suy, duy lượng và duy giả", là trong tự tánh và sai biệt cũng phải suy ra tầm chỉ có phân biệt, chỉ có giả lập. Sự thì như thế nào? Là hai thứ nầy chỉ có phân biệt, chỉ có giả lập sai biệt ngôn thuyết, đều không có tự tánh sai biệt chân thật. "Thật trí", là chỗ sinh bốn thứ như thật biến trí của tầm tư. "Quán vô nghĩa", là quán nghĩa của nó xưa nay không có. "Chỉ có ba phân biệt", quán thấy chỉ có ba thứ phân biệt, là danh phân biệt, tự tánh giả lập phân biệt, sai biệt giả lập phân biệt. "Kia không, nên đây không", là nghĩa không có nên quán ba thứ phân biệt nầy cũng không có. "thì liền nhập ba tánh", như đã nói trên, tức là ngộ nhập ba thứ tự tánh. Nửa bài tụng thứ nhất quán danh và sự cùng nhau là khách, tức là ngộ nhập tự tánh Biến kế sở chấp, nửa bài kế quán hai thứ tự tánh sai biệt của danh sự kia, chủng tử của phân biệt, chỉ có giả lập, tức là ngộ nhập tự tánh Y tha khởi. Trong bài tụng thứ hai thì ngộ nhập tự tánh Viên thành thật, trong đây chỉ loại trừ Biến kế sở chấp mỗi mỗi đều có riêng tâm, cảnh, ngầm trừ phân biệt đều không có sự đó. Nếu không như thế thì trói buộc và giải thoát đều không được thành, tịnh và bất tịnh đều không có.
Luận nói: "Lại có hai bài tụng giáo thọ, như luận phân biệt Du-già nói:
Bồ-tát trong định vị, Quán ảnh chỉ là tâm, Nghĩa tưởng đã diệt trừ, Quán chỉ có tự tưởng.
Như vậy trụ nội tâm, Biết chỗ giữ lấy phi hữu, Kế, năng thủ cũng không, Sau, xúc vô sở đắc.
Giải thích: Ai có thể tầm tư đắc quả như vậy? Giáo thọ như vậy lại là ai? Để đáp hai câu hỏi nầy nên nói hai bài tụng.
"Bồ-tát trong định vị, quán ảnh chỉ là tâm", là quán hết thảy tợ pháp tợ nghĩa, quyết định nẻo hành ảnh chỉ là nội tâm. Như kinh nói: "Ta nói sở duyên của thức là sở hiện của Duy thức". "Bồ-tát", tức là nói chủ thể quán. "Trong định vị", tức là tâm trụ một cảnh. "Nghĩa tưởng đã diệt trừ", là do ảnh kia loại trừ nghĩa tưởng của nó. "Quán chỉ có tự tưởng", là quán sát tướng của tợ pháp tợ nghĩa như vậy chỉ là do tâm định biến hiện. "Như vậy trụ nội tâm", là tâm lúc đó liền trụ nơi nghĩa của tự tâm. "Biết chỗ giữ lấy phi hữu, kế chủ thể giữ lấy cũng không", trước đã biết rõ đối tượng được giữ lấy là không có, như tánh đối tượng giữ lấy đã không có thì tánh của chủ thể giữ lấy trên chỗ giữ lấy tánh cũng không được thành. "Sau xúc vô sở đắc", là từ đó về sau là chỗ đắc chân như tánh vô nhị.
Luận nói: "Lại có năm bài Dà-tha hiện quán, như luận trang nghiêm của kinh Đại thừa nói:
Phước đức, trí huệ, hai tư lương, Bồ-tát khéo đủ vô biên vực,
Với pháp tư lương đã khéo quyết, Nên biết nghĩa lý chỉ ngôn loại. Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn, Tức tợ trụ lý duy tâm kia,
Lại hay hiện chứng chân pháp giới, Do đó hai tướng đều dứt trừ.
Biết rõ lìa tâm không riêng vật, Do đây liền hiểu tâm phi hữu, Người trí hiểu rõ cả hai không,
Đồng trụ chân pháp giới hai không. Người huệ, trí lực không phân biệt, Bình đẳng chu biến thường thuận hành, Diệt y ngăn ngại các tụ tội,
Như đại lương dược giải các độc. Phật thuyết pháp diệu khéo thành lập, Đặt huệ gồm trong căn pháp giới,
Biết rõ niệm cõi chỉ phân biệt,
Dũng mãnh nhanh về bờ biển đức".
Giải thích: "Phước đức, trí huệ, hai tư lương, Bồ-tát khéo đủ vô biên vực", là thí, giới, nhẫn ba thứ Ba-la-mậtđa ấy gọi là tư lương phước, Bát-nhã Ba-la-mật-đa thứ sáu gọi là trí tư lương, tinh tấn gồm tu nên thông cả hai thứ, tĩnh lự cũng vậy. Nếu vô lượng duyên thuộc tư lương phước, thì những thứ còn lại thuộc trí. Phước trí tích tập nên gọi là tư lương. "Khéo đủ", có nghĩa là tròn đủ, trải qua vô số thời gian sai biệt viên mãn gọi là gọi là vô biên tế. "Với pháp tư lương đã khéo quyết", là đối với pháp của tất cả khế kinh, do định hậu trí rất khéo quyết định không có do dự. "Nên biết nghĩa lý chỉ ngôn loại", do đó có thể hiểu rõ tất cả nghĩa lý, chỉ dùng ý ngôn phân biệt làm nhân. "Nếu biết các nghĩa chỉ là ngôn. Tức tợ trụ lý duy tâm kia", là nếu biết rõ tất cả tướng nghĩa chỉ là ý ngôn, thì có thể an tâm trụ tướng tợ nghĩa, các thứ biến hiện chỉ được quyết định trong tâm lý. Đây là nửa bài đầu của tụng thứ hai, hiển thị Bồ-tát tại phần quyết trạch vị, bài tụng thứ nhất hiển thị vị nầy là vị gia hạnh. Lại hay hiện chứng chân pháp giới, do đó hai tướng đều dứt trừ", là do trước đã thông đạt nghĩa không có, vì trụ duy tâm nên có thể trừ hai tướng đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy, hiện chứng chân pháp giới không hai, khéo quyết định, trí nương vào đây mà sinh. Đây là nửa bài tụng trước và bài tụng thứ ba sau hiển vị kiến đạo. Như đã hiện chứng, kế đó sẽ hiển thị. "Biết rõ lìa tâm, không riêng vật, do đây liền hiểu tâm phi hữu", là biết lìa tâm thì không có riêng tất cả cảnh giới đối tượng duyên. Do đối tượng duyên kia không có, nên chủ thể duyên tâm tánh cũng không thành. "Người trí hiểu rõ cả hai không", là thắng huệ tương ưng nên gọi là trí giả, vì đối với hai vô tánh có thể quyết định biết nên gọi là thấu đạt Biến kế sở chấp. Đối tượng duyên và chủ thể duyên xưa vô tánh nên gọi là "Cả hai không". "Đồng trụ chân pháp giới vô nhị", là an trụ bình đẳng nên gọi là "Đồng trụ", đối tượng giữ lấy và chủ thể giữ lấy đều xa lìa nên nói "Nhị vô". Như vậy pháp giới hiện chứng, không phải chân pháp giới hư danh. "Người huệ, lực Trí vô phân biệt", là hết thảy công năng của các Bồtát nơi Trí vô phân biệt. "Bình đẳng chu biến thường thuận hành", là tổng quát cả nội ngoại nên gọi là "Chu biến", nếu như đối tượng giữ lấy không có thì chủ thể giữ lấy cũng vậy, nên gọi là "Bình đẳng", tùy thuận quán sát tánh bình đẳng của các pháp trong khế kinh ví như hư không nên gọi là "Thuận hành", vì luôn luôn nên gọi là "Thường". "Diệt", là trừ diệt. "Y", là nhân của tất cả pháp tạp nhiễm, vì khó có thể ngộ nhập nên thí dụ như "Ngăn ngại", các pháp tạp nhiễm gọi là "Lỗi lầm", tập khí tích tập gọi là "Khối". "Như đại lương dược giải các độc", nghĩa của câu nầy dễ hiểu, là giỏi trừ các tội lỗi nhập vào từ xa nên giống như thuộc A-yết-đà, đây là bài tụng thứ bốn hiển thị tu đạo. "Phật thuyết pháp diệu khéo thành lập", là sự thuyết chánh pháp rất khéo thành lập của mâu-ni tôn. "Đặt huệ gồm trong căn pháp giới", là đem huệ đó đặt vào pháp được thuyết giảng khéo thành lập, gồm cả trong chân pháp giới căn bản của nó. "Căn", đây là nhân của giác, hoặc tổng duyên nơi pháp gọi là căn bản, là tất cả kinh đều lấy mười địa làm căn bản, pháp nương vào mười địa đó mà chuyển nên gọi là pháp giới, tức là các pháp không. "Biết rõ niệm cõi chỉ phân biệt", tức là trí Hậu đắc nương vào pháp giới mà chuyển, biết rõ niệm cõi chỉ là phân biệt, lìa ngoài phân biệt ra thì không có pháp được niệm, là các pháp được niệm kia của khế kinh, và Ba-la-mật-đa đáng niệm và gồm cả các quả, ví tánh Biến kế sở chấp đều không có. "Dũng mãnh nhanh về bờ biển đức", là các Bồ-tát do trước đã dần dần tu tập hiện quán, nên Trí vô phân biệt và hậu đắc, có thể nhanh chóng chứng đắc tất cả công đức nơi Phật quả viên mãn. Công đức của địa Như Lai siêu vượt vô biên nhân vị gọi là bờ biển đức. Như có tụng nói:
Khi chứng tam Bồ-đề,
Mau thành quả viên mãn,
Vượt vô biên biển đức,
Đến vị vô đẳng đẳng.
"Mau", là nhanh chóng. Trải qua vô lượng kiếp mới thành quả Phật, thời gian đã lâu, tại sao nói là mau? Nghĩa nầy không đúng, thời kiếp lâu xa nhưng chỉ có phân biệt. Như có tụng nói:
Ở trong mộng là năm,
Ngủ chỉ trong chốc lát,
Tuy thời gian vô lượng,
Nhưng chỉ một sát-na.
Lại nữa, tinh tấn của Phật rất dũng mãnh, tuy trải qua nhiều kiếp nhưng là ít thời gian. Như có tụng nói:
Ngu tu tuy ít thời,
Tâm nghi biếng trễ lâu,
Phật trong vô lượng kiếp,
Cần dũng là chốc lát.
Dũng mãnh là lực trí huệ, vì thành Trí vô phân biệt và trí Hậu đắc, không có chỗ khiếp sợ nên gọi là dũng mãnh. Tụng nầy hiển thị nghĩa đạo vị cứu cánh tôn cao tối thắng thứ nhất
Luận nói: "Như vậy đã nói nhập tướng của đối tượng nhận thức. Nhập nhân quả thì làm sao thấy được? Là do thí, giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự và Bát-nhã, sáu thứ Ba-la-mật-đa. Thế nào là do sáu Ba-la-mật-đa mà được nhập Duy thức? Và thế nào là sáu Ba-la-mật-đa thành nhập quả kia? Là Bồ-tát nầy không vướng mắc tài vị, không phạm Thi-la, đối với khổ không động, đối với tu không biếng trễ. Trong các nhân tán động đó, khi không hiện hành thì tâm chuyên một cảnh, liền có thể như lý chọn lựa các pháp được nhập Duy thức, Bồ-tát nương vào Ba-la-mật-đa nhập Duy thức rồi thì chứng đắc sáu thứ ý lạc thanh tịnh tăng thượng đã gồm thâu các Ba-lamật-đa, nên ở đây nếu lìa sáu Ba-la-mật-đa mà hiện khởi gia hạnh, thì nhờ Thánh giáo đắc thắng giải và do ái trọng, tùy hỷ và tác ý hân lạc, hằng vô gián tương ưng phương tiện tu tập sáu Ba-la-mật-đa, nhanh chóng đắc viên mãn".
Giải thích: Nhập nhân Duy thức, là khi gia hạnh thì sáu thứ Ba-la-mật-đa của thế gian, bây giờ sẽ hiển thị. "Là Bồ-tát nầy không vướng mắc tài vị", là không có mọi tham cầu, nên gọi là không vướng mắc tham chấp, tức là bỏ sự đối trị, đây là sự đối trị chướng của thí Ba-la-mật-đa, năm Ba-la-mật-đa sau cũng vậy. "Không phạm Thi-la", hủy phạm là sự đối trị chướng của giới Ba-la-mật-đa. "Đối với khổ không động", nhẫn động là sự đối trị chướng của nhẫn Ba-la-mật-đa. "Đối với tu không biếng trễ", biếng trễ là sự đối trị chướng của tinh tấn Ba-la-mật-đa. "Tâm chuyên một cảnh", là sự đối trị chướng của tĩnh lự Ba-la-mật-đa, xa lìa mọi nhân tán động, giữ tâm không lay động khiến nó được định. "Liền có thể như lý chọn lựa các pháp", là Bát-nhã Ba-la-mậtđa. Do sáu Ba-la-mật-đa nầy mà được nhập Duy thức, đã được nhập Duy thức rồi thì chứng đắc sáu thứ Ba-lamật-đa, thâu tóm phần thắng quả của ý lạc thanh tịnh tăng thượng, nên ở đây nếu lìa sáu Ba-la-mật-đa mà hiện khởi gia hạnh, hằng thường vô gián tu tập sáu chủng Ba-la-mật-đa nhanh chóng được viên mãn là không phải như thế hay sao? Nếu đối với Thi-la Ba-la-mật-đa không khởi gia hạnh thì đáng lẽ là phạm giới, nghĩa nầy không đúng, vì không khởi gia hạnh một cách miễn cưỡng. Nếu đối với Thi-la không khởi gia hạnh thì đáng lẽ có lỗi nầy, không phải không phát khởi miễn cưỡng gia hạnh mà có lỗi nầy, do đối với Thánh giáo được thắng giải… tùy ý gia hạnh, do đó không có lỗi. Trong đây "Đối với Thánh giáo đắc thắng giải", là đối với Ba-la-mật-đa tương ưng với Thánh giáo, tuy rất sâu xa nhưng có thể tin hiểu. "Tác ý ái trọng", là đối với thọ vị công đức đã đắc Ba-la-mậtđa. "Tác ý tùy hỷ", là đối với mười phương thế giới trong tha tương tục, hoặc trong mỗi mỗi riêng tự tương tục Ba-la-mật-đa, thâm tâm vui mừng. "Tác ý hân lạc", là đối với vị lai nguyện ta cùng với pháp nầy thường không lìa nhau và chuyển thù thắng.
Luận nói: "Trong đây có ba bài tụng:
Đã viên mãn pháp trắng,
Và đắc nhẫn lợi tật,
Bồ-tát nơi tự thừa,
Giáo thâm diệu quảng đại,
Đẳng giác chỉ phân biệt,
Đắc Trí vô phân biệt,
Mong cầu thắng giải tịnh,
Nên ý lạc thanh tịnh.
Trước và pháp lưu nầy,
Đều được thấy chư Phật,
Biết rõ gần Bồ-đề,
Vì không khó chứng đắc.
"Ba bài tụng nầy chỉ rõ chung về ý lạc thanh tịnh tăng thượng có tám thứ tướng là: Tư lương, gắng nhận, đối tượng duyên, tác ý, đối trị, tự thể, đoan tướng, thắng lợi. Phải biết như thứ tự của nó mà các câu Dà-tha (kệ) đã chỉ ra".
Giải thích: Trong đây nói rõ ý lạc thanh tịnh tăng thượng, cả thảy tư lương, gắng nhận, đối tượng duyên, tác ý, đối trị, tự thể, đoan tướng, thắng lợi. "Đã viên mãn pháp trắng", là trước hết đối với địa hạnh thắng giải khéo đủ tư lương, pháp trắng viên mãn đó là tư lương. "Và đắc nhẫn lợi tật", là lựa riêng trong nhuyến (mềm) chỉ lấy phẩm thượng, quán sát kỹ càng pháp nhẫn, khi nhẫn nầy chuyển tức là gắng nhận. "Bồ-tát nơi tự thừa, thậm diệu quảng đại giáo", là bám lấy Thánh giáo sâu rộng của Đại thừa, nghĩa của Đại thừa vi tế gọi là thậm diệu, tức là pháp vô ngã thù thắng. Oai đức tương ưng gọi là quảng đại, tức là các hư không tạng của Tam-ma-địa, đó là đối tượng duyên. "Đẳng giác chỉ phân biệt", là giác ngộ tất cả pháp chỉ có phân biệt, đó là tác ý. "Đắc Trí vô phân biệt", tức là đối trị. "Mong cầu thắng giải tịnh, nên ý lạc thanh tịnh", tức là tự thể do ý lạc nầy lấy tín và dục làm tự thể. "Trước và pháp lưu nầy, đều được thấy chư Phật", tức là đoạn tướng. "Trước", là ý lạc thanh tịnh, nó ở trước trong Tam-ma-địa nầy. "Pháp lưu", là nói tại Tam-ma-địa, trong định thấy chư Phật, nên "Biết rõ gần Bồ-đề, vì không khó chứng đắc", là do thấy Phật mà biết Bồ-đề đã gần. Để giải thích nghĩa nầy nên nói là không khó chứng đắc, tức là thắng lợi. Trong vị nầy vì thấy Bồđề đã gần, mà đã có thể đắc phương tiện thù thắng nầy, nên chứng đắc không khó. Tu tập uy lực của tư lương, thành thục có năng lực thọ nhận. Như vậy ba bài tụng tổng giải thích tám tướng sai biệt của ý lạc thanh tịnh tăng thượng.
Luận nói: "Nhân duyên gì mà Ba-la-mật-đa chỉ có sáu số? Thành lập sự đối trị chướng của đối trị, chứng nơi chốn nương dựa của các pháp Phật, tùy thuận thành thục các hữu tình, vì muốn đối trị nhân không phát hướng, nên lập thí và giới Ba-la-mật-đa, nhân không phát hướng là vướng mắc tài vị và vướng mắc gia thất. Vì muốn đối trị tuy đã phát hướng nhưng lại sinh nhân thối hoàn nên lập nhẫn và tấn Ba-la-mật-đa, nhân thối hoàn là ở trong sinh tử hữu tình trái phạm, sinh ra nhiều khổ và thời gian lâu dài trong phẩm thiện gia hạnh phát sinh chán mệt. Vì muốn đối trị đã sinh phát hướng không thối lui nhưng có nhân mất hoại, nên lập định và huệ Ba-la-mật-đa, nhân mất hoại là các thứ tán động và huệ tà ác. Như vậy thành lập chỗ đối trị chướng của đối trị, chỉ lập có sáu số. Lại nữa, bốn Ba-la-mật-đa trước là nhân không tán động, một Ba-la-mật-đa kế đó là thành tựu không tán động. Vì không tán động nầy làm chỗ dựa như thật Đẳng giác chân nghĩa của các pháp, liền có thể chứng đắc tất cả các pháp Phật, chứng chốn nương dựa của các pháp Phật, như vậy nên chỉ có sáu số. Do thí Ba-la-mật-đa mà các hữu tình có thể thâu nhận đúng. Do giới Ba-la-mật-đa mà có thể dẫn dắt hữu tình. Do nhẫn Ba-la-mật-đa tuy bị huỷ hại nhưng có thể nhẫn thọ. Do tinh tấn Ba-la-mật-đa mà có thể trợ giúp kinh doanh chỗ đáng làm của người kia, tức là do dẫn dắt nhân duyên lợi như vậy, khiến cho các hữu tình khi thành sự dị thục có khả năng gắng sức gánh vác. Từ đây về sau, những người tâm chưa định thì khiến họ đắc định, những người tâm đã định thì khiến họ được giải thoát. Khi khai ngộ thì những người đó được thành thục, như vậy tùy thuận thành thục tất cả hữu tình, phải biết chỉ lập sáu số".
Giải thích: Kế đó phải khai thị phần tối hậu trong bài tụng, số tương đồng với nghĩa, trước hết phải nương vào sự lập số mà nói những lời như vậy. "Thành lập sự đối trị chướng của đối trị", là ba nhân duyên Ba-la-mậtđa, số chỉ có sáu không hơn không kém. Trước hết phải khai thị thành lập sự đối trị chướng của đối trị. "Vì muốn đối trị nhân không phát hướng, nên lập thí giới Ba-lamật-đa", cho đến "Vì muốn đối trị nhân hoại mất, nên lập định huệ Ba-la-mật-đa". Nhân mất hoại, là các tán động và huệ tà ác, điên đảo chấp lấy các trí xấu ác gọi là huệ tà ác. Như các ngoại đạo là nhân mất hoại, các câu còn lại như văn dễ hiểu. "Chứng nơi nương dựa của các pháp Phật", đây là nhân duyên thứ hai kiến lập sáu số Ba-la-mật-đa, là vì nhân của tất cả pháp Phật, Ba-la-mậtđa chỉ có sáu số không tăng không giảm. Nghĩa đó như thế nào? Bốn Ba-la-mật-đa trước là nhân không tán động, có thể khiến cho sự đối trị tán động không còn nên tĩnh lự Ba-la-mật-đa không tán động thành tựu, khiến cho không tán động được viên mãn. Nương vào tĩnh lự Ba-la-mật-đa nầy mà như thật đẳng giác chân nghĩa của các pháp, vì có khả năng đối với chỗ duyên chánh biến tri. "Chư pháp Phật", là mười lực… "Chứng" là làm thành xong. "Tùy thuận thành thục các hữu tình", là nhân duyên thứ ba thành lập sáu số. Do thí Ba-la-mật-đa đối với các hữu tình có thể thâu nhận đúng. Do giới Ba-lamật-đa đối với các hữu tình có thể không huỷ hại; không sinh não nên do nhẫn Ba-la-mật-đa tuy bị huỷ hại vẫn có thể nhẫn thọ, vì có thể nhẫn thọ nên có thể tạo lợi ích người khác, vì không báo thù. Do tinh tấn Ba-la-mật-đa mà trợ giúp việc làm của người kia. Do tĩnh lự Ba-lamật-đa, người tâm chưa định thì khiến cho đắc định, do huệ Ba-la-mật-đa, người tâm đã định khiến giải thoát. "Khi khai ngộ", là khi truyền dạy người kia khiến ngộ nhập cảnh giới. "Được thành thục", là người đối với cảnh giới đã được thành thục. "Thành thục", là sự đối trị chướng tiêu tan, như mụt nhọt đã muồi. Hoặc chủ thể đối trị thành mãn khả dụng như thực phẩm nấu chín.
Luận nói: "Sáu tướng nầy, làm sao thấy được? Do sáu thứ tối thắng: 1. Do chỗ dựa tối thắng, là tâm Bồ-đề làm chỗ dựa. 2. Do sự tối thắng, là hiện hành đầy đủ. 3. Do xứ tối thắng, là tất cả sự lợi ích an lạc của hữu tình làm chỗ tựa. 4. Do phương tiện thiện xảo tối thắng, là chỗ thâu nhận của Trí vô phân biệt. 5. Do hồi hướng tối thắng, là hồi hướng chánh Bồ-đề Vô thượng. 6. Do thanh tịnh tối thắng, là hai chướng phiền não và đối tượng nhận thức không có chỗ tập hợp phát khởi. Thí là Ba-la-mậtđa hay Ba-la-mật-đa là thí? Có thí nhưng không phải Ba-la-mật-đa phải đặt bốn trường hợp. Như đối với thí này, các Ba-la-mật-đa khác cũng đặt bốn trường hợp như vậy".
Giải thích: Nương vào lập tướng mà nói các câu như vậy, là do sáu thứ tối thắng… Văn của sáu thứ tối thắng dễ hiểu, không cần giải thích riêng. "Hiện hành đầy đủ", là các sự nội ngoại tất cả chủng loại đều có thể xả. "Chỗ thâu nhận của vô phân biệt trí", là ba luân thanh tịnh, tất cả phân biệt người thí, người thọ và vật thí đều xa lìa. Các văn còn lại dễ hiểu. Có loại là "Thí nhưng nhưng không phải Ba-la-mật-đa", là lìa sáu thứ tối thắng mà tu bố thí. Có loại là "Ba-la-mật-đa mà nhưng không phải thí", là chỗ tập hợp giới… của sáu thứ tối thắng. Có loại cũng là thí cũng là Ba-la-mật-đa", là chỗ tập hợp bố thí của sáu thứ tối thắng. Có loại là "Không phải thí cũng không phải Ba-la-mật-đa", là lìa sáu thứ tối thắng mà tu giới… như vậy đối với thí làm bốn trường hợp, đối với năm Ba-la-mật-đa còn lại, theo chỗ thích ứng của nó đều khéo an lập, nên có tụng nói:
Sừng lân giác dụ không có,
Sáu Ba-la-mật đa,
Duy ngã tối thắng tôn,
Thượng phẩm đến bờ giác.
Luận nói: "Nhân duyên gì mà nói sáu thứ Ba-lamật-đa thứ tự như vậy? Là Ba-la-mật-đa trước tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau".
Giải thích: "Tùy thuận sinh Ba-la-mật-đa sau", là đối với tài vị không tham chấp thì đã có thể giữ Thi-la, đã đầy đủ Thi-la thì liền có thể nhẫn thọ. Đã có khả năng nhẫn thọ thì có thể nhẫn nại chịu đựng những thứ trái ngược, nên phát khởi tinh tấn. Đã phát khởi tinh tấn thì tâm liền được định. Tâm đã đắc định rồi thì có thể như thật mà biết, nên sáu thứ nầy phải thứ tự như vậy.
Luận nói: "Lại nữa, các danh ngôn và huấn thích của các Ba-la-mật-đa nầy, làm sao có thể thấy được? Đối với thiện căn thí… của các thế gian, Thanh-văn, Độc giác, rất thù thắng vì có thể đến bờ giác, nên gọi chung là Ba-la-mật-đa. Và có khả năng phá trừ bần cùng bỏn sẻn, có thể dẫn đắc tài vị, tư lương phước đức rộng lớn nên gọi là thí. Lại nữa, có thể dứt trừ cõi ác ác giới, và có thể giữ vững được các cõi thiện nên gọi là giới. Lại nữa, có thể diệt tận phẫn nộ oán thù và có thể khéo trụ tự tha an ổn nên gọi là nhẫn. Lại nữa, có thể xa lìa hết thảy biếng trễ xấu ác, pháp bất thiện, có thể xuất sinh vô lượng pháp thiện khiến cho pháp thiện đó tăng trưởng nên gọi là tinh tấn. Lại nữa, có thể tiêu trừ hết thảy tán động và có thể dẫn đắc nội tâm an trụ nên gọi là tĩnh lự. Lại nữa, có thể khiển trừ tất cả kiến cõi, các huệ tà ác và có thể phẩm chân thật riêng biết pháp nên gọi là huệ".
Giải thích: Giải thích tổng danh, là đối với thiện căn thí… của các thế gian, Thanh-văn, Độc giác rất thù thắng, có thể đến bờ giác, nên gọi chung là Ba-la-mậtđa. Đến bờ giác là nghĩa tối thắng. Giải thích biệt danh, là đối với thời nhân có thể phá bỏn xẻn, có thể dẫn rộng tư lương phước đức, và đối với thời quả có thể phá trừ bần cùng mà đắc đại tài vị nên gọi là thí. Các biệt danh còn lại văn đó cũng dễ hiểu.
Luận nói: "Làm sao phải biết tu tập Ba-la-mật-đa như thế? Phải biết tu nầy lược có năm thứ: 1. Tu hiện khởi gia hạnh. 2. Tu thắng giải. 3. Tu tác ý. 4. Tu phương tiện thiện xảo. 5. Tu thành mọi việc làm. Trong đây bốn tu như trước đã nói. Tu thành mọi việc làm, là Như Lai làm Phật sự tùy ý không lúc nào ngơi nghỉ, đối với Ba-la-mật-đa viên mãn lại càng phải tu tập sáu pháp đến bờ giác. Lại nữa, tác ý tu, là tu chỗ gồm thâu ái trọng, tùy hỷ, hân lạc và tác ý của sáu thứ ý lạc: 1. Quảng đại ý lạc. 2. Trường thời ý lạc. 3. Hoan hỷ ý lạc. 4. Đội ân ý lạc.
5. Đại chí ý lạc. 6. Thuần thiện ý lạc. Hoặc Bồ-tát cho đến bao nhiêu vô số đại kiếp hiện chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, trải qua thời gian như thế, trong mỗi sát-na, giả sử xả tất cả thân mạng, lấy thế giới nhiều như số cát sông Hằng chứa đầy bảy báu phụng thí Như Lai, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề, Bồ-tát bố thí như vậy ý lạc cũng không chán đủ. Trải qua thời gian như thế, trong mỗi sát-na, giả sử lửa cháy rực đầy trong tam thiên đại thiên thế giới, đối với bốn oai nghi thường thiếu tất cả vật dụng nuôi sống, các tâm giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã hằng hiện hành cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề, cả thảy như vậy giới, nhẫn, tinh tấn, tĩnh lự, Bát-nhã của Bồ-tát ý lạc cũng không chán đủ, gọi đó là Bồ-tát ý lạc quảng đại. Lại nữa, các Bồ-tát ngay trong đây ý lạc không chán, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề thường không gián đoạn, gọi đó là Bồ-tát trường thời ý lạc. Lại nữa, các Bồ-tát lấy sáu thứ Ba-la-mật-đa tạo lợi ích hữu tình, do việc làm nầy mà sinh hoan hỷ sâu xa, được lợi ích hữu tình không không gì sánh được, đó gọi là Bồ-tát ý lạc hoan hỷ. Lại nữa, các Bồ-tát lấy sáu thứ Ba-la-mậtđa lợi ích cho hữu tình, thấy họ đối với mình có đại ân đức, không thấy mình có ân đức gì với họ, đó gọi là Bồtát ý lạc đội ân. Lại nữa, các Bồ-tát lấy sự tích tập thiện căn của sáu thứ đến bờ giác, thâm tâm hồi hướng thí cho tất cả hữu tình, khiến đắc quả dị thục khả ái thù thắng, đó gọi là Bồ-tát ý lạc đại chí. Lại nữa, các Bồ-tát lại lấy như vậy sự tích tập thiện căn của sáu đến bờ giác, cùng các hữu tình hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, đó gọi là Bồ-tát ý lạc thuần thiện, như vậy Bồtát tu đã gồm thâu tác ý ái trọng của sáu thứ ý lạc nầy. Lại nữa, Bồ-tát đối với sáu thứ ý lạc của các Bồ-tát khác tu tập tương ưng vô lượng thiện căn, thâm tâm tùy hỷ. Như vậy Bồ-tát tu đã gồm thâu tác ý tùy hỷ của sáu thứ ý lạc nầy. Lại nữa, các Bồ-tát thâm tâm vui mừng sáu thứ ý lạc đã gồm thâu sáu pháp Ba-la-mật của tất cả hữu tình, cũng nguyện tự thân cùng với sáu pháp Ba-la-mật nầy mãi không lìa nhau, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề. Bồ-tát như vậy tu đã thuộc tác ý hân lạc của sáu thứ ý lạc. Nếu có người đã nghe sự thuộc về tác ý tu sáu thứ ý lạc của Bồ-tát nầy, thì nên khởi chỉ một niệm tín tâm, sẽ phát sinh vô lượng phước tụ, các nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu diệt, huống gì là Bồ-tát"?
Giải thích: Tu là hằng luyện tập. Sai biệt của hiện khởi tu… có năm thứ: 1. Hiện khởi gia hạnh tu, là đối với thí… không có điên đảo chuyển. Như có tụng:
Thí là thù thắng,
Tín… thì đầy đủ,
Cung kính đúng thời,
Tự tay bố thí.
Lại nữa, như tụng nói:
Lợi tha gia hạnh nơi hữu tình,
Không lựa hữu lực hoặc vô lực,
Nơi tất cả thời, tất cả thí,
Tùy năng lực rộng tạo nhiêu ích.
2. Tu thắng giải, là do tín dục mà sinh thắng giải, đối với Thánh giáo của Phật in sâu tùy thuận, vì sinh lạc dục. Như có tụng nói:
Tuy nơi lợi nghiệp không công dụng,
Nhưng nơi Phật giáo sinh thắng giải,
Do tín và dục cùng tương ưng,
Ý lạc thường tu không bỏ phế.
3. Tu tác ý, là sự thâu tóm tu tập của tác ý ái trọng, hoan hỷ, hân lạc, như trước đã nói.
4. Tu phương tiện thiện xảo, là Trí vô phân biệt thâu nhận tu tập, cũng như trước đã nói.
5. Tu thành xong việc làm, là pháp đến bờ giác của các Như Lai tuy cực viên mãn, nhưng vì lực của bản nguyện tạo lợi ích lợi tha, không khởi công dụng, tùy theo khả năng của hữu tình kia mà hiện hành… các việc nên làm như thế... Ngay nơi việc tu của người nầy là việc tu của người kia nên gọi là tu.
Lại nữa, muốn nói tác ý trước có nghĩa sai biệt là tu chỗ thâu tóm của sáu thứ ý lạc, cho đến ý lạc cũng không chán, văn đó dễ hiểu, có nhiều chỗ nói. "Không chán đủ", là không có mệt nhọc, trong mỗi sát-na trong thời gian trải qua như thế, hoặc có thuyết nói trải qua thời gian như thế làm một sát-na, là trải qua ba vô số kiếp làm một sát-na, sát-na như vậy tích tập cho đến chứng đắc đại Bồ-đề, mỗi mỗi sát-na trong thời gian trải qua như thế, nghĩa đó dễ hiểu. "Lửa cháy rực đầy trong đó", là hiển sự thiếu thốn, ít có nơi thù thắng. "Thường thiếu tất cả vật dụng nuôi sống", là hiển không có, vật dụng nuôi sống để đối trị khổ, vì đối trị các khổ mà dẫn dắt. "Đối với bốn oai nghi", là hiển chí quảng đại, tuy thiếu thắng xứ và vật dụng nuôi sống, nhưng trong tất cả oai nghi tu hành giới… Ba-la-mật, tâm thường hiện tiền. "Ý lạc trường thời", là đối với thời gian lâu dài không gián đoạn. "Ý lạc đội ân", là tín giải sâu xa. "Những người đến cầu", là thiện hữu, đây tức là tin những người đến cầu, đã thí cho mình diệu quả dị thục khả ái, do đó tự mang ân. "Ý lạc đại chí", là đại chí của ý lạc nầy tương ưng, vì muốn tạo lợi ích cho các hữu tình, đã hồi hướng thiện căn thí cho tất cả ý lạc như vậy rất thù thắng, nên gọi là ý lạc đại chí. "Ý lạc thuần thiện", nghĩa của nó là một. "Lập biệt danh", là nếu bố thí… hồi hướng cầu tiền, địa vị viên mãn nơi ba cõi, như vậy là ý lạc mong cầu món khổ, dường như có tội, nên không gọi là thuần thiện. Nếu bố thí… cùng với các hữu tình hồi hướng cầu quả Phật, ý lạc như vậy là không cầu vật dụng khổ, đều không có tội nên gọi là thuần thiện. Tu chỗ thâu tóm ba thứ tác ý của sáu thứ ý lạc nầy, lời văn dễ hiểu, không phiền giải thích lại. "Nghiệp chướng các ác cũng sẽ tiêu diệt", là vì khiến cho không quả, hoặc trị cõi ác.
Luận nói: "Sai biệt của các Ba-la-mật-đa nầy làm sao thấy được? Phải biết từng thứ Ba-la-mật-đa đều có ba phẩm. Ba phẩm thí: 1. Pháp thí. 2. Tài thí. 3. Vô uý thí. Ba phẩm giới: 1. Luật nghi giới. 2. Nhiếp pháp thiện giới. 3. Tạo lợi ích hữu tình giới. Ba phẩm nhẫn: 1. Nhẫn nại oán hại. 2. Nhẫn an thọ khổ. 3. Nhẫn đế sát pháp. Ba phẩm tinh tấn: 1. Tinh tấn bị giáp. 2. Tinh tấn gia hạnh. 3. Tinh tấn không khiếp nhược không thối chuyển không hỷ túc. Ba phẩm tĩnh lự: 1. tĩnh lự an trụ. 2. tĩnh lự dẫn phát. 3. tĩnh lự xong việc phải làm. Ba phẩm huệ: 1. Huệ không phân biệt gia hạnh. 2. Huệ không phân biệt. 3. Huệ không phân biệt hậu đắc".
Giải thích: Từng thứ Ba-la-mật-đa nầy đều có ba phẩm để chỉ rõ sự khác nhau. "Pháp thí", là không có tâm nhiễm, như thật nói các pháp của khế kinh. "Tài thí", là không có tâm nhiễm, xả bỏ dụng cụ nuôi sống. "Vô uý thí", là ngưng dứt sự tổn hại, cứu giúp những người sợ hãi. Lại nữa, pháp thí, là vì muốn giúp ích các thiện căn người khác, tài thí, là vì muốn giúp ích thân của người khác, vô uý thí, là vì muốn giúp ích tâm của người khác. "Luật nghi giới", là pháp có khả năng xa lìa mọi bất thiện và phòng hộ thọ trì, do có thể phòng hộ các ác và các thân ngữ nghiệp bất thiện nên gọi là luật nghi.
Ngay nơi giới nầy có thể kiến lập hai Thi-la sau, do tự phòng hộ, có thể tu cúng dường thiện căn của Phật và có thể tạo lợi ích cho các hữu tình. "Nhiếp pháp thiện giới", là có thể khiến cho chứng đắc mười lực, bốn vô uý… nơi tất cả pháp Phật. "Tạo lợi ích hữu tình giới", là có thể trợ giúp cho hữu tình sống như pháp, bình đẳng phân bố, tác nghiệp không có tội thành thục hữu tình.
"Nhẫn nại oán hại", là nhân chuyển thành thục của các hữu tình. "Nhẫn an thọ khổ", là nhân thành Phật, nên các loại nóng lạnh đói khát… nơi các thứ sự khổ đều có thể nhẫn thọ không thối chuyển.
"Nhẫn đế sát pháp", là chỗ dựa của hai nhẫn trước, là vì pháp thâm diệu quảng đại của gắng nhận.
"Tinh tấn bị giáp", là lần đầu tiên bắt đầu tự cố gắng, ta phải làm các sự như vậy, tức là giải thích chỗ nêu các câu ban đầu có uy thế trong khế kinh. "Tinh tấn gia hạnh", là khi tu gia hạnh, như chỗ ý thích mà siêng tu gia hạnh, tức là giải thích đã nói các câu kế đó có cần siêng năng trong khế kinh. "Tinh tấn không khiếp nhược không thối chuyển không hỷ túc", là tùy ý thích mà làm các sự thiện, cho đến an toạ toà diệu Bồ-đề cuối cùng không buông xả, trước mọi khổ nhọc, tâm mình không thối khuất, gọi là không khiếp nhược, Người khác bức hại mình, tâm không dao động gọi là không thối chuyển, cho đến khoảng trung gian chưa đắc Bồ-đề, tấn tu phẩm thiện thường không biếng nhác bỏ phế gọi là không hỷ túc. Ba câu như vậy, giải thích như niệm đã nói trong khế kinh. Có câu dũng mãnh đối với các pháp thiện không xả bỏ ách thiện. "Tĩnh lự an tru", là đắc trụ hiện pháp lạc, lìa mạn, kiến và ái mà đắc thanh tịnh. "Tĩnh lự dẫn phát", là có thể dẫn phát công đức thù thắng của các đại thần thông. "Tĩnh lự làm xong việc phải làm", là muốn tạo lợi ích cho loại hữu tình, vì có thể ngừng dứt các sự khổ não kinh sợ, đói nghèo bệnh tật. "Huệ không phân biệt gia hạnh", là chân quán trí thắng phương tiện trước. "Huệ vô phân biệt", là trí chân quán. "Huệ vô phân biệt hậu đắc", là hiện quán biên các trí thế tục, có thể phát khởi vô số sự thuyết pháp.
Luận nói: "Tướng gồm thâu như vậy làm sao thấy được? Do đây có thể thâu tóm tất cả pháp thiện, vì chính là tướng, là tùy thuận, là đẳng lưu".
Giải thích: "Do đây có thể gồm thâu tất cả pháp thiện", câu đáp nầy phi lý vì không đúng như câu hỏi. Trước đã hỏi chung: "Tướng gồm thâu như vậy làm sao thấy được", là không có lỗi phi lý nầy, vì nói tướng gồm thâu ấy có thể gồm thâu tất cả pháp thiện, nghĩa của nó đã nói rồi. "Tướng gồm thâu kia cũng gồm thâu tất cả pháp thiện này", là Thí…, Tín…, các Niệm trụ…, Lực… đặt ở sau. "Vì chính là tướng", chính là gồm thâu thể tướng, là những thí… này cùng với những thí… kia gồm thâu lẫn nhau. "Là tùy thuận", chính là gồm thâu tùy thuận với chỗ tu pháp thiện của tín… tâm thiện của thí…, vì các pháp thiện kia tùy chuyển trong thí. Tín là các thiện, đại thí và niệm trụ… là phần pháp Bồ-đề. "Là đẳng lưu", là gồm thâu đẳng lưu, là không tranh… Và mười Lực…, là quả Đẳng lưu đến bờ giác. Như có tụng nói:
Địa và đến bờ kia,
Chỗ dựa của pháp Phật,
Chuyển y của pháp thân
Các công đức làm quả.
Luận nói: "Chỗ đối trị như vậy, thâu tóm các tạp nhiễm làm sao thấy được? Là tướng nầy, là nhân nầy, là quả nầy".
Giải thích: Như vậy sự đối trị keo kiệt, phạm giới, phẫn hận, biếng trễ, tán động và huệ ác, làm thế nào có thể thâu tóm tất cả tạp nhiễm? "Là tướng này", là thâu tóm sai biệt của… Vì tự tánh lìa tha tánh. "Là nhân này", là tà kiến của bất tín… đặt ở sau nhân của keo kiệt…
Luận nói: "Như vậy sáu thứ Ba-la-mật-đa, thắng lợi của nó có làm sao thấy được? Là các Bồ-tát lưu chuyển nơi sinh tử vì phú quí thâu tóm, vì đại sinh thâu tóm, chỗ thâu tóm của đại bằng hữu quyến thuộc, chỗ thâu tóm của sự nghiệp quảng đại thành tựu gia hạnh, chỗ thâu tóm của tánh không não hại dứt hết mọi trần cấu, chỗ thâu tóm của khéo nhận biết tất cả công luận minh xứ, thắng sinh vô tội cho đến an toạ toà Bồ-đề, thường hiện làm tất cả nghĩa lợi của tất cả hữu tình, đó là thắng lợi".
Giải thích: Bây giờ sẽ nói hiển thị công đức thắng lợi của Ba-la-mật-đa. "Vì phú quí thâu tóm", là sự đắc thắng lợi của thí Ba-la-mật-đa. Từ câu "Thắng sinh vô tội" cho đến "Đó là thắng lợi", là đối với tất cả chỗ phải phối thuộc khắp hết. "Vì đại sinh thâu tóm", là sự đắc thắng lợi của giới Ba-la-mật-đa, vì cõi thắng thiện thâu tóm nên gọi là đại sinh. "Chỗ thâu tóm của đại bằng hữu quyến thuộc thuộc", là sự đắc thắng lợi của nhẫn Ba-lamật-đa, bằng là thân tộc, thuộc là nô tỳ. "Chỗ thâu tóm của sự nghiệp quảng đại thành tựu gia hạnh", là sự đắc thắng lợi của tinh tấn Ba-la-mật-đa. Sự nghiệp quảng đại là luân vương, trong đây khuyến khích cố gắng gọi là gia hạnh. Việc làm đều xong nên gọi là thành tựu, do sự thâu tóm nầy mà không có chướng ngại, không có não hại. "Sự thâu tóm của tánh không não hại, dứt sạch trần cấu", là sự đắc thắng lợi của tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Do tĩnh lự mà cảm chiêu cảm oai lực nầy. "Sự thâu tóm của khéo biết tất cả công luận minh xứ", là sự đắc thắng lợi của huệ Ba-la-mật-đa. "Thắng sinh vô tội", tuy đồng với thế gian đạt đời sống thù thắng, nhưng không như đời sống của thế gian có tội, đã không có tội thì cũng là không có biến, tương tục vô gián cho đến Bồ-đề, không giống như thế gian chỉ tự lợi ích, nên thường thể hiện làm tất cả nghĩa lợi của tất cả hữu tình.
Luận nói: "Như vậy sáu thứ Ba-la-mật-đa quyết chọn lẫn nhau làm sao thấy được? Đức Thế Tôn đối với tất cả sáu thứ Ba-la-mật-đa nầy, có chỗ thì dùng tiếng thí để nói, hoặc có chỗ thì dùng thanh giới để thuyết, hoặc có chỗ thì dùng tiếng nhẫn để nói, hoặc có chỗ thì dùng tiếng cần để nói, hoặc có chỗ thì dùng tiếng định để nói, hoặc có chỗ thì dùng tiếng huệ để nói. Những điều được nói ấy có ý nghĩa sâu xa gì? Là trong tất cả Ba-la-mậtđa tu gia hạnh đều có tất cả Ba-la-mật-đa cùng nhau trợ thành, là ý nghĩa như vậy".
Giải thích: "Là trong tất cả Ba-la-mật-đa tu gia hạnh thì đều có tất cả Ba-la-mật-đa cùng nhau trợ thành, là ý nghĩa như vậy", tức trong mỗi mỗi tu gia hạnh liền có sự tương trợ lẫn nhau, là khi tu thí thì có giới cấm, phòng hộ, nhẫn thọ, tinh cần, chuyên tâm, khéo hiểu nghiệp quả, phụ thuộc lẫn nhau. Như thế ngay trong thí có các Ba-la-mật-đa khác chuyển, hoặc khi tu giới thì xa lìa keo kiệt, phẫn hận, biếng nhác, tán động, tà kiến, như vậy ngay trong giới có các Ba-la-mật-đa khác chuyển. Tu tập các Ba-la-mật-đa khác cũng nói như thế. Như có tụng nói:
Khi thí, không tham, không phạm giới,
Không ganh, không sân, khởi tâm từ,
Những người đến cầu liền thí cho,
Không định, không loạn, không dị kiến.
Lại có tụng nói:
Trong tánh thí hiện có,
Sáu Ba-la-mật-đa,
Chỗ gồm của pháp thí,
Tài thí, vô uý thí.
Luận nói: Trong đây có một bài tụng:
Số tướng và thứ lớp,
Huấn từ, tu sai biệt,
Thâu công đức chỗ trị,
Phải biết quyết chọn nhau.
Giải thích: Gồm thâu chung các văn trước, nghĩa giải thích như trên.
-------------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói nhập nhân quả ấy, tu sai biệt kia làm sao thấy được? Do mười địa Bồ-tát. Những gì là mười? 1. Địa Cực hỷ. 2. Địa Ly cấu. 3. Địa Phát quang. 4. Địa Diệm huệ. 5. Địa Nan thắng. 6. Địa Hiện tiền. 7. Địa Viễn hành. 8. Địa Bất động. 9. Địa Thiện huệ. 10. Địa Pháp vân. Các địa như vậy an lập làm mười địa, làm sao thấy được? Đó là nhằm đối trị chỗ trị chướng của mười thứ vô minh. Tại sao vậy? Vì đối với mười tướng nhận biết về pháp giới có trụ nơi chỗ trị chướng của mười vô minh. Thế nào là chỗ nhận biết về pháp giới của mười tướng? Là trong địa thứ một do nghĩa biến hành, trong địa thứ hai do nghĩa tối thắng, trong địa thứ ba do nghĩa thắng lưu; trong địa thứ bốn do nghĩa không thâu nhận, trong địa thứ năm do nghĩa tương tục không sai biệt, trong địa thứ sáu do nghĩa không tạp nhiễm thanh tịnh, trong địa thứ bảy do nghĩa vô số pháp không sai biệt, trong địa thứ tám do nghĩa bất tăng bất giảm, nghĩa tướng tự tại y chỉ, nghĩa độ (cõi) tự tại nương dựa; trong địa thứ chín do nghĩa trí tự tại y chỉ, trong địa thứ mười do nghĩa của nghiệp tự tại nương dựa, nghĩa nương dựa của Đà-ra-ni môn Tam-ma-địa môn tự tại. Trong đây có ba bài tụng:
Nghĩa biến hành, tối thắng,
Cùng với nghiệp thắng lưu,
Như vậy nghĩa không gồm
Nghĩa tương tục vô biệt.
Nghĩa không tạp nhiễm, tịnh,
Nghĩa vô số vô biệt,
Nghĩa bất tăng, bất giảm,
Nghĩa bốn tự tại dựa.
Trong pháp giới có mười,
Không nhiễm ô vô minh.
Trị chỗ trị chướng nầy,
Nên an lập mười địa.
Lại nữa, phải biết vô minh như vậy đối với Thanhvăn, Độc giác thì không phải nhiễm ô, còn đối với các Bồ-tát thì có nhiễm ô".
Giải thích: Vì muốn chỉ rõ sự gồm thâu Ba-la-mậtđa của nhân quả nhập tướng của đối tượng nhận thức, tùy chỗ phải khéo tu tập của nó, đã có thể trừ chỗ chướng đáng đoạn của kiến đoạn và tu đoạn, nên luận biện vị trí tu khác nhau của nhân quả. "Do mười địa Bồ-tát", là các Bồ-tát trong địa nầy tu tập hiện quán, lìa lỗi lìa tham tu Bồ-đề phần, quán sát các đế, quán sát duyên khởi, trong vô tướng, có công dụng hoặc không công dụng, đắc thắng biện tài, đến chân quán đảnh, trừ diệt sở tri chướng và phiền não chướng, nên tu tập nầy có mười địa riêng biệt. "Vì đối với mười tướng", là biến hành… "Pháp giới được nhận biết", là do chỗ hiển pháp giới của mười tướng. "Có trụ nơi chỗ trị chướng của mười vô minh", là đối với mười tướng có mười chỗ đối trị chướng của mười vô minh làm chướng mà trụ, vì đoạn chướng nầy nên tu mười tướng trí, do mười tướng trí mà được nhập vào pháp mười địa nơi trí vô ngã. Phần vị gọi là địa. "Trong địa thứ một do nghĩa biến hành", tức là tất cả pháp không trong địa thứ một, không có một chút pháp nào mà không phải là không nên gọi là biến hành, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ một. "Trong địa thứ hai do nghĩa tối thắng", là lý không nầy trong tất cả pháp rất thù thắng, như nói lìa dục rất thù thắng, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ hai. "Trong địa thứ ba do nghĩa thắng lưu", là chỗ lưu hành giáo pháp nầy rất thù thắng, xả thân mạng để cầu khéo nói nầy không lấy làm khó, biết rõ nghĩa ấy nầy thì được nhập địa thứ ba. "Trong địa thứ bốn do nghĩa không thâu nhận", là các đoạn pháp ái của khế kinh, không có chấp chỗ gồm thâu phi tự phi tha của ngã sở quán, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ bốn. "Trong địa thứ năm do nghĩa tương tục không sai biệt", là biết rõ nghĩa nầy không phải tương tục sai biệt như sắc, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ năm. "Trong địa thứ sáu do nghĩa không tạp nhiễm thanh tịnh", là biết tự tánh xưa nay không có tạp nhiễm cũng không có thanh tịnh. Vì tạp nhiễm trước sau đều có thể tịnh, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ sáu. "Trong địa thứ bảy do nghĩa vô số pháp không sai biệt", là như vô số pháp riêng biệt của khế kinh, vô số pháp nầy không phải như vậy, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ bảy. "Trong địa thứ tám do nghĩa bất tăng bất giảm", là ngoại pháp không dụng nên bất tăng, các pháp không hoại nên bất giảm, hoặc khi pháp nhiễm giảm thì pháp nầy không giảm, hoặc khi pháp tịnh tăng thì pháp nầy không tăng. "Nghĩa tướng tự tại nương dựa, nghĩa độ (cõi) tự tại nương dựa", là ngay trong địa thứ tám nầy, chỗ chứng pháp giới là hai tự tại, chốn nương dựa tùy chỗ cầu tướng muốn khiến cho hiện tiền, như thắng giải đó có thể liền hiện tiền gọi là tướng tự tại, tùy chỗ mong cầu cõi báu kim, ngân… như thắng giải đó có thể liền hiện tiền gọi là cõi tự tại. Trong các địa trước tuy cũng được trụ vô sai biệt nầy, nhưng sau khi khởi công dụng mới được thành. Trong địa nầy thì có thể không có công dụng mà tùy ý muốn thì liền thành nên gọi là tự tại, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ tám. "Trong địa thứ chín do nghĩa trí tự tại nương dựa", là trong địa nầy đắc chốn dựa của vô ngại biện, từng phần chứng đắc trí Ba-la-mật-đa, đối với tất cả pháp không tùy theo ngôn ngữ của nó mà có thể khéo hiểu biết rõ ràng về ý nghĩa sâu xa, như thật thành thục hữu tình thọ pháp lạc thù thắng, biết rõ nghĩa nầy thì được nhập địa thứ chín. "Trong địa thứ mười do nghĩa nương dựa của nghiệp tự tại, nghĩa nương dựa…", là tùy sự muốn mà được công dụng thân nghiệp ngữ ý tự tại, trong năm thần thông tự tác nghiệp đều có thể thành tựu, vì được văn nghĩa giữ vững các lực tự tại của Đà-la-ni, có khả năng nhớ chắc, không quên tất cả văn nghĩa mà Phật nói, vì đắc lực tự tại của Tam-ma-địa, đối với các đẳng chí có thể duy trì, có thể đoạn dứt, tùy theo chỗ muốn đó mà các Tam-ma-địa Tam-ma-bát-để của hư không tạng có thể hiện tiền. Pháp giới đã chứng trong địa thứ mười, như vậy các Tam-ma-địa nầy là chỗ dựa của tự tại. Biết rõ nghĩa nầy thì được nhập mười địa. "Vô minh như vậy đối với Thanh-văn, Độc giác thì không phải nhiễm ô", vì không phải chỗ đoạn. Không phải chỗ đoạn thì không nhập nơi chủ thể trị, nên đối với Niết-bàn của Thanh-văn, Độc giác không bị chướng. "Đối với các Bồ-tát là nhiễm ô", vì nó là đối tượng được đoạn trừ. Là đối tượng được đoạn trừ thì chính là nhập chủ thể đối trị địa, Bồ tát cầu hết thảy chủng trí, như vậy vô minh có khả năng gây chướng ngại. Khi đã nhập sơ địa thì đắc thông đạt hết thảy pháp giới, vì sao lại lập các sai biệt sau? Vì muốn hiển thị các trụ hiện hành nên lập các địa sai biệt sau, là vì an trụ như sự đắc pháp giới phẩm thắng trụ hiện hành riêng của nó, không phải chỉ chứng đắc thì liền sinh hỷ túc (mừng đủ) rồi thản nhiên mà trụ.
Luận nói: "Lại nữa, vì sao Sơ địa gọi là Cực hỷ? Do địa nầy đầu tiên đắc chủ thể thành tựu công đức tự tha nghĩa lợi thù thắng. Tại sao hai địa gọi là Ly cấu? Do xa lìa cấu uế phạm giới. Tại sao ba địa gọi là Phát quang? Do chỗ dựa của đẳng trì, đẳng chí không thối chuyển, vì chỗ dựa của đại pháp quang minh. Tại sao bốn địa gọi là Diệm huệ? Do các phần pháp Bồ-đề đốt cháy hết mọi chướng. Vì sao năm địa gọi là Cực nan thắng? Do trí chân đế và trí thế gian trái nghịch lẫn nhau, hoà hợp cái khó hợp nầy khiến chúng tương ưng. Tại sao sáu địa gọi là Hiện tiền? Do trí duyên khởi làm chỗ dựa, có thể khiến cho Bát-nhã Ba-la-mật-đa hiện tiền. Tại sao bảy địa gọi là Viễn hành? Vì đến hành công dụng tối hậu biên. Tại sao tám địa gọi là Bất động? Do tất cả tướng hành có công dụng không thể lay động. Tại sao chín địa gọi là Thiện huệ? Do đắc trí vô ngại tối thắng. Tại sao mười địa gọi là Pháp vân? Do đắc tổng duyên trí hết thảy pháp, hàm chứa tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, ví như đám mây lớn có thể che khuất hư không rộng khắp, lại cũng đối với pháp thân có thể viên mãn".
Giải thích: Nương vào nhân của tiếng chuyển mà khởi nói như vậy. Do đây mà đầu tiên đắc có thể thành tựu công năng tự tha nghĩa lợi thù thắng nên nói: "Như khi Bồ-tát nhập hiện quán thì đắc có thể thành tựu công năng tự tha nghĩa lợi tối thắng sinh cực hoan hỷ", không giống như Thanh-văn, Độc giác khi nhập hiện quán thì chỉ đắc có thể thành tựu công năng tự lợi. Sinh hỷ như vậy nên không gọi đó là địa Cực hỷ. Nếu trong sơ địa không tương ưng thì các địa sau cũng không tương ưng, vì đây là địa đầu tiên. "Do xa lìa cấu uế phạm giới " là vì trong địa nầy đã thành tựu tánh giới, xa lìa tất cả uế cấu huỷ giới. "Do chỗ dựa của đẳng trì, đẳng chí không thối chuyển", là trong địa nầy chứng định hy hữu, có thể phát trí quang soi rõ các pháp nên gọi là phát quang, đã đắc không mất nên gọi là không thối chuyển, các định tĩnh lự gọi là đẳng trì, các định vô sắc gọi là đẳng chí. Hoặc nói đẳng trì là tâm một cảnh tướng, nói đẳng chí là chánh thọ hiện tiền. "Chỗ dựa của Đại Pháp quang minh", là trong địa nầy cùng với định tương ưng không có thối chuyển. Đối với các pháp của khế kinh Đại thừa đắc trí quang minh, thì địa nầy là nhân của chỗ dựa nơi trí quang minh kia, nên gọi là phát quang. "Diệm huệ", vì trong địa nầy huệ rực rỡ nên gọi là Diệm huệ. Địa nầy là tất cả phần pháp Bồ-đề nên gọi là diệm, đốt cháy hết mọi chướng nên Bồ-đề phần nầy phần nhiều khi an trụ thì khiến cho các phiền não đều thành tro tàn. "Cực nan thắng", là rất khó có thể thắng được, là nói trí chân đế không phân biệt, tất cả trí về công luận, in, sách vở của thế gian là có phân biệt. Trí chân đế và trí tục đế trái nghịch nhau, khó dẫn phát khiến chúng tương ưng. Địa nầy có thể hoà hợp khiến cho không trái nghịch, nên gọi là cực nan thắng. "Hiện tiền", là Bát-nhã tối thắng đến bờ giác trụ hiện tiền, là trong địa nầy chứng trụ duyên khởi, trí lực duyên khởi, khiến cho Bát-nhã tối thắng không phân biệt trụ nơi đến bờ giác, tự tại hiện tiền, biết tất cả pháp không nhiễm không tịnh. "Viễn hành", vì đến hành công dụng tối hậu biên, là trong địa nầy các hành công dụng rất rốt ráo, tất cả pháp tướng tuy không thể lắc động, nhưng đối với vô tướng thì cũng vẫn còn có công dụng. "Bất động", là hết thảy tướng và hạnh đều không thể động tâm đó. Trong đệ thất địa tuy là chỗ không thể động của tất cả tướng, vì không hiện hành, nhưng không tự tại tùy ý chuyển, vì còn có gia hạnh. Trong đệ bát thì tùy ý mà chuyển, vì không khởi gia hạnh, không công dụng, đó gọi là sự khác nhau của hai địa đệ thất và đệ bát. "Thiện huệ", là đắc bốn trí vô ngại giải tối thắng, vô ngại giải trong các trí là thù thắng nhất, trí tức là huệ nên gọi là thiện huệ. "Tứ vô ngại", là pháp, nghĩa, từ và biện. Do pháp vô ngại tự tại nên biết rõ tất cả pháp cú. Do nghĩa vô ngại tự tại nên thông đạt tất cả nghĩa lý. Do từ vô ngại mà tự tại phân biệt tất cả ngôn từ. Do biện vô ngại mà khắp mười phương tùy chỗ thích nghi biện thuyết tự tại. Tối sơ chứng đắc trong địa nầy, vì trước kia chưa từng đắc trí vô ngại giải nên gọi là thiện huệ. "Pháp vân", là do đắc tổng duyên trí nhất thiết pháp, tổng duyên pháp của tất cả khế kinh, không lìa chân như, đây là cảnh trí nơi cộng tướng của tất cả pháp, ví như vầng mây lớn môn Đà-la-ni môn Tam-ma-địa, cũng như trí tịnh thuỷ có thể tàng chứa các môn kia, như mây chứa nước có thể sinh công năng thù thắng. Lại nữa, như đám mây lớn có thể che khuất hư không. Như vậy tổng duyên tất cả pháp trí che khuất hai chướng như hư không rộng lớn vô biên là hoặc chướng và trí chướng. "Che khuất", có nghĩa là ngăn cách, có nghĩa là đoạn dứt. Lại nữa, như đám mây lớn mưa xuống nước mát sạch đầy khắp hư không, như vậy tổng duyên hết thảy pháp trí xuất sinh vô lượng công đức thù thắng, sung mãn chỗ dựa và chỗ chứng đắc của pháp thân.
Luận nói: "Đắc các địa nầy làm sao có thể thấy được? Do bốn thứ tướng: 1. Đắc thắng giải, là đắc tín giải sâu xa nơi các địa. 2. Đắc chánh hạnh, là đắc tương ưng mười chủng hạnh chánh pháp của các địa. 3. Đắc thông đạt, là đối với sơ địa khi đạt pháp giới thì có thể thông đạt khắp tất cả địa. 4. Đắc thành mãn, là tu các địa đến cứu cánh".
Giải thích: Nương vào chỗ đắc các địa mà nói những lời như vậy. Do bốn thứ tướng. "1. Đắc thắng giải, là đắc tín giải thâm sâu của các địa", là đối với giáo pháp của địa quyết định chứng nhận chân thật như vậy. "2. Đắc chánh hạnh, là đắc tương ưng mười thứ hạnh chánh pháp của các địa", là đắc đối với giáo pháp, mười thứ pháp hạnh, là đối với các địa tương ưng giáo pháp, biên chép cúng dường, chuyển thí, nghe phân tích, đọc thọ trì, mở bày, phúng tụng, tư duy tu tập. "3. Đắc thông đạt, là đối với sơ địa khi đạt pháp giới thì có thể thông đạt khắp tất cả địa", là nếu khi sơ địa chánh thức thông đạt thì có thể nhanh chóng thông đạt tất cả địa sau, các chủng loại nầy nên có tụng nói:
Như tre chẻ mắt đầu,
Thì đoạn khác phá nhanh,
Đắc chân trí sơ địa,
Các địa mau được thành.
"4. Đắc thành mãn, là tu các địa đến cứu cánh", là phần quả thành mãn trong từng địa, hoặc thành mãn tối hậu.
Luận nói: "Tu các địa nầy làm sao thấy được? Là các Bồ-tát trong từng địa tu Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na đều do năm tướng tu. Những gì là năm tướng? Là tu tập tổng, tu vô tướng, tu không công dụng tu, tu xí thịnh, tu vô hỷ túc, năm tu như vậy khiến cho các Bồ-tát làm thành xong năm quả, là trong niệm niệm tiêu dung mọi nương dựa thô trọng, lìa các thứ tưởng, đắc nơi vườn lạc pháp, có khả năng chánh biết rõ đúng tướng chu biến vô lượng, vô phần hạn. Đại pháp quang minh thuận phần thanh tịnh, không có sự phân biệt, hiện hành vô tướng, vì khiến cho pháp thân thành tựu viên mãn có thể thâu nhận đúng các thắng nhân sau".
Giải thích: "Trong từng địa", là các địa không phải một nên nói từng địa. "Xa-ma-tha", là chủ thể đối trị các định tán động. "Tỳ-bát-xá-na", là chủ thể đối trị các huệ điên đảo. Trong từng địa tu hai thứ nầy đều do năm tướng niệm niệm tu tập. Năm tướng tức là tu tập tổng… "Tu tập tổng", là tập hợp tất cả phần chung làm một tụ, lựa riêng pháp yếu để tu tập, ngoài ra các sự và cảnh giới quán của các cốt toả khác cũng tập hợp tất cả phần chung làm một tụ chính yếu để tu tập. Vì lựa riêng với tu tập tổng nên gọi là tu vô tướng. Trong chân pháp giới ly chúng tướng, để khiển trừ sự sai biệt mà tu tập, tuy vô tướng tu hoặc có công dụng, để hiển tu nầy không dựa vào công lực mà chuyển tùy ý. Lại nữa, "Tu không công dụng ", là lìa tạo công dụng tùy ý vận chuyển, tuy không có công dụng nhưng tùy ý mà tu, hoặc hơn hoặc kém hai thứ bất định. Lại nữa, thứ tư là "Tu xí thịnh", xí thịnh tức là tăng thắng, tuy tu xí thịnh hoặc ít sở đắc thì liền sinh hỷ túc, nhưng tu hỷ túc nầy để làm gì, nên cuối cùng là nói "Tu không hỷ túc", không phải chỉ có vô tướng và vô công dụng, xí thịnh mới là tu. Cái gì để chứng đắc quả Phật tối thượng cần phải siêng năng tu tập. "Tiêu dung tất cả nương dựa thô trọng", thức A-lại-da gọi là nương dựa thô trọng, tổn hoại các tụ kia nên gọi là tiêu dung, như đại lương dược làm tiêu dung các khối u. "Lìa các thứ tưởng, đắc vườn lạc pháp ", là lìa các tướng tưởng ngã, lìa pháp, lìa Phật. "Vườn", là trong đó có thể dạo chơi. "Pháp", là pháp giới. Pháp là vườn nên gọi là vườn pháp, trong vườn pháp nầy hân hoan nên gọi là vườn lạc pháp, chứng tới đây cho nên gọi là đắc pháp uyển lạc, như vườn hoa thượng diệu bên ngoài cung vua, dạo chơi trong đó cảm nhận các hỷ lạc thù thắng, pháp giới cũng vậy. "Có thể nhận biết rõ đúng về tướng chu biến vô lượng vô phần hạn. Đại pháp quang minh", là chánh thông đạt tướng mười phương vô biên, vô lượng chiếu soi rõ hạnh nên gọi là pháp quang minh, như quang minh khéo tụng tập văn tự. "Thuận phần thanh tịnh không chỗ phân biệt hiện hành vô tướng", quả Phật trong vị lai gọi là phần thanh tịnh, phần nầy có khả năng dẫn quả kia nên gọi là thuận. Không chỗ phân biệt hiện hành vô tướng, như cái lọng trắng tốt đẹp của Phật và luân vương. "Vì khiến cho pháp thân thành tựu viên mãn có thể thâu nhận đúng các nhân thắng sau", đệ mười địa gọi là "Viên mãn", hoặc tại địa Phật gọi là "Thành tựu", chiêu cảm nhân nầy rất thù thắng nên gọi là "Nhân thắng", chỗ chiêu cảm tập hợp các nhân trước nên nói là "Sau". Như vậy năm tu tùy theo số lượng của nó mà đắc năm quả.
Luận nói: "Do tăng thắng nên nói trong mười địa riêng tu mười thứ Ba-la-mật-đa. Chỗ tu sáu thứ Ba-lamật-đa đối với sáu địa trước, như trước đã nói. Chỗ tu bốn Ba-la-mật-đa đối với bốn địa sau là: 1. Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa, là chỗ tích tập thiện căn của sáu Ba-la-mật-đa trước, cùng chung nơi các hữu tình hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. 2. Nguyện Ba-la-mật-đa, là phát vô số đại nguyện vi diệu dẫn gồm thâu tương lai với các duyên thù thắng của Ba-la-mật-đa. 3. Lực Ba-la-mật-đa, là do tư duy chọn lựa tu tập hai thứ lực, khiến cho sáu Ba-la-mật-đa trước hiện hành liên tục. 4. Trí Ba-la-mật-đa, là do sáu Ba-la-mật-đa trước, thành lập diệu trí, thọ dụng pháp lạc để thành thục hữu tình. Lại nữa, bốn thứ Ba-la-mật-đa nầy, phải biết Bát-nhã Ba-la-mật-đa ấy là Trí vô phân biệt, trí Hậu đắc thâu tóm. Lại nữa, trong tất cả địa không phải không tu tập tất cả Ba-la-mật-đa, pháp môn như vậy là chỗ gồm thâu của tạng Ba-la-mật-đa".
Giải thích: "Do tăng thắng nên nói trong mười địa riêng tu mười thứ Ba-la-mật-đa", là quyết định nói nghĩa tu sai biệt là không đúng như vậy hay sao? Trong mỗi mỗi địa tu đủ mười thứ Ba-la-mật-đa, nên không phải chỉ quyết định nói địa nầy tu Ba-la-mật-đa nầy, do lời nói tăng thắng không có lỗi ấy, trong đây chỉ nói nghĩa tu tăng thắng, không ngăn cản tu Ba-la-mật-đa khác, như khế kinh nói: "Sơ địa thì bố thí Ba-la-mật-đa rất tăng thắng", ngoài ra tất cả Ba-la-mật-đa đều không phải không tu tập, tùy sức tùy phần cho đến nói rộng. "Chỗ tu sáu thứ Ba-la-mật-đa đối với sáu địa trước, như trước đã nói", là địa cực hỷ… trong sáu địa trước, tu bố thí nơi sáu thứ Ba-la-mật. "Chỗ tu bốn Ba-la-mật-đa đối với bốn địa sau", là địa viễn hành… trong bốn địa sau, tu phương tiện… nơi bốn Ba-la-mật. "Phương tiện thiện xảo", là không bỏ sinh tử mà cầu Niết-bàn, đó gọi là phương tiện thiện xảo. Nếu lấy chỗ tích tập thiện căn của sáu Ba-lamật-đa trước, cùng chung các hữu tình vì muốn tạo lợi ích cho họ mà không bỏ họ, phải biết tức là không bỏ sinh tử. Nếu đem thiện nầy hồi hướng cầu chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, thì phải biết là mong cầu Niết-bàn, là phát các thứ đại nguyện vi diệu. "Là phát vô số đại nguyện vi diệu dẫn dắt đương lai với các duyên thù thắng của Ba-la-mật-đa", là cầu nhân duyên đến bờ giác của đời vị lai, cũng là tạo lợi ích cho các hữu tình và vì mau chóng chứng Niết-bàn quả Phật mà khởi nguyện: "Nếu là xứ có duyên Ba-la-mật, thì nguyện ta nơi vị lai sẽ sinh đối với duyên kia". Những nguyện như vậy vô lượng vô biên nên nói là "Vô số". "Là do tư duy chọn lựa tu tập hai thứ lực", là trong lực nầy lại nói hai thứ, ngoài ra các lực khác cũng gồm thâu trong đó. "Là do sáu Ba-la-mậtđa trước thành lập diệu trí thọ dụng pháp lạc, thành thục hữu tình", là do sáu Ba-la-mật-đa trước thành lập trí nầy, lại do trí nầy thành lập sáu Ba-la-mật-đa trước, nói số cùng bằng vô số phẩm loại gọi là thọ dụng pháp lạc, do diệu trí ấy có thể hiểu rõ chính xác thí nầy, giới nầy, nhẫn, tấn này… như sự nghe pháp mà tạo lợi ích cho tất cả loài hữu tình, đó gọi là tạo lợi ích hữu tình. "Lại nữa, bốn thứ Ba-la-mật-đa này" cho đến "Trí hậu đắc gồm thâu", đây là chỗ nói phương tiện nơi… bốn Ba-la-mậtđa sau là Trí vô phân biệt hậu đắc thâu tóm. Nếu lập mười thứ Ba-la-mật-đa thì thứ sáu Bát-nhã Ba-la-mật-đa là trí Căn bản vô phân biệt. Nếu lập sáu thứ Ba-la-mậtđa thì thứ sáu Bát-nhã Ba-la-mật-đa là chỗ gồm thâu của hai trí, Trí vô phân biệt và trí Hậu đắc. Trong trí Hậu đắc, bốn Ba-la-mật cũng gồm thâu tại pháp thứ sáu là Bát-nhã. "Pháp môn như vậy là chỗ thâu tóm của tạng Ba-la-mật-đa", tất cả giáo pháp của Đại thừa đều gọi là tạng Ba-la-mật-đa, như vậy pháp môn mười địa là chỗ gồm thâu của tạng đó, vì mỗi mỗi địa đều sự gồm thâu của tất cả tạng Ba-la-mật-đa, lấy đấy chứng biết trong tất cả địa tu đủ tất cả Ba-la-mật-đa.
Luận nói: "Lại nữa, trải qua bao nhiêu thời gian tu hành các địa mới được viên mãn? Có năm Bổ-đặc-giàla trải qua ba vô số đại kiếp, là hạnh thắng giải Bổ-đặcgià-la trải qua vô số đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn. Hạnh thanh tịnh ý lạc tăng thượng Bổ-đặc-già-la và hạnh hữu tướng hạnh vô tướng Bổ-đặc-già-la, đối với sáu địa trước và đệ thất địa trải qua vô số đại kiếp thứ hai, thứ ba tu hành viên mãn, tức là hạnh vô công dụng Bổ-đặcgià-la. Từ đây trở lên đến đệ mười địa trải qua ba vô số đại kiếp tu hành viên mãn. Trong đây có tụng:
Lực thanh tịnh tăng thượng,
Tâm kiên cố thăng tiến,
Là Bồ-tát mới tu,
Vô số ba đại kiếp.
Giải thích: "Có năm Bổ-đặc-già-la trải qua ba vô số đại kiếp", phải biết chỉ có một vị Bổ-đặc-già-la sai biệt mà kiến lập năm thứ, là chỗ nói hạnh thắng giải… Ở sau. "Hạnh thắng giải", là chưa chứng chân như, chỉ nương vào thắng giải mà siêng năng tu các hạnh, hạnh nầy trải qua vô số đại kiếp thứ nhất tu hành viên mãn. "Hạnh tăng thượng ý lạc thanh tịnh", là đắc ý lạc thanh tịnh tăng thượng, siêng tu các hạnh, hạnh nầy tại sáu địa gọi là hạnh hữu tướng, tại đệ thất địa gọi là hạnh vô tướng. Hai thứ Bổ-đặc-già-la như vậy. Trải qua vô số đại kiếp thứ hai tu hành viên mãn. Từ đây trở lên đến đệ mười địa thì hạnh nầy đổi tên gọi là hạnh không công dụng, trải qua vô số đại kiếp thứ ba tu hành viên mãn, hạnh vô công dụng trong đệ bát địa cũng chưa được thành mãn, trong đệ cửu địa thì hạnh nầy mới được thành mãn, đây chỉ có một Bổ-đặc-già-la, các vị khác tương ưng thành năm vị. Như dự lưu… từ vô thỉ đến nay sinh tử lưu chuyển, bằng vào đâu để nói đầu tiên tu hành ba vô số kiếp? Để đáp câu hỏi nầy, nên nói Dà-tha. "Lực thanh tịnh tăng thượng", lực thiện căn gọi là lực thanh tịnh, đây là nói người có lực thiện căn, nếu đại nguyện gọi là lực tăng thượng, ý nầy nói người có lực đại nguyện, vì có lực thiện căn nên có thể hàng phục những gì cần đối trị, có lực đại nguyện nên thường gặp thiện trí thức. "Tâm kiên cố thăng tiến", tuy bị bạn ác dùng phương tiện phá hoại, nhưng rốt cuộc không buông bỏ tâm Bồ-đề, chỗ tu pháp thiện trong hiện đời và vị lai càng ngày càng tăng trưởng cuối cùng không thối giảm. Như vậy nếu lúc đó đầy đủ lực thiện căn và lực đại nguyện thì tâm đại Bồ-đề kiên cố không thối chuyển, chỗ tu pháp thiện niệm niệm tăng tiến không sinh hỷ túc, thuận theo xưa mà cùng đó gọi là đầu tiên tu hành ba vô số kiếp.
----------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói nhân quả tu sai biệt, trong đây giới tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Như trong địa Bồ-tát chánh thọ luật nghi Bồ-tát nói: "Lại nữa, phải biết sơ lược là do bốn thứ thù thắng, nên thù thắng, là: 1. Do sai biệt thù thắng. 2. Do cộng học xứ bất cộng thù thắng. 3. Do quảng đại thù thắng. 4. Do thậm thâm thù thắng".
Giải thích: Nương vào giới tăng thượng mà học nên gọi là giới học tăng thượng. "Như trong địa Bồ-tát chánh tho luật nghi Bồ-tát nói", là như trong Thi-la Ba-la-mậtđa phẩm đó nói: "Lại nữa, phải biết sơ lược là do bốn thứ thù thắng". Các thù thắng nầy sẽ giải thích rộng sau. Luận nói: "Sai biệt thù thắng, là giới Bồ-tát có ba phẩm riêng biệt: 1. Giới luật nghi. 2. Giới nhiếp pháp thiện. 3. Giới nhiêu ích hữu tình. Trong đây, giới luật nghi phải biết là hai giới kiến lập nghĩa, giới nhiếp pháp thiện phải biết là tu tập tất cả pháp Phật kiến lập nghĩa, giới nhiêu ích hữu tình phải biết là thành thục tất cả hữu tình mà kiến lập nghĩa.
Giải thích: sai biệt thù thắng là các Bồ-tát có đủ ba thứ giới, tức là giới luật nghi, giới nhiếp pháp thiện, giới nhiêu ích hữu tình. Thanh-văn thừa thì chỉ có một thứ luật nghi Thi-la, nên Bồ-tát mong luật nghi thù thắng kia. Giới luật nghi, là chánh thọ xả lìa tất cả phẩm loại pháp ác pháp bất thiện. Giới nhiếp pháp thiện, là chánh thức tu tập mười lực, vô uý… tất cả pháp Phật. Giới nhiêu ích hữu tình, là không đoái hoài vui thú riêng mình, tùy khả năng gánh vác khiến cho nhập ba thừa, bỏ khổ sinh tử, chứng vui Niết-bàn. "Luật nghi giới phải biết là hai giới kiến lập nghĩa", là nhân của hai giới, nếu người phòng giữ thân ngữ ý thì có thể tu tập thuận hợp tất cả pháp Phật thanh tịnh, cũng có thể thành thục tất cả hữu tình khiến nhập ba thừa, các giới khác thì không được như thế.
Luận nói: "Học xứ cộng bất cộng thù thắng, là tất cả tánh tội của các Bồ-tát không hiện hành nên cộng với Thanh-văn, tương ưng tợ ngăn che tội có hiện hành nên bất cộng với Thanh-văn. Đối với học xứ nầy có giới Thanh-văn phạm mà Bồ-tát không phạm. Có giới Bồ-tát phạm mà Thanh-văn không phạm. Bồ-tát thì có đủ giới của thân ngữ tâm, Thanh-văn thì chỉ có hai giới thân ngữ, nên tâm giới của Bồ-tát cũng có phạm, không giống như Thanh-văn. Tóm lại, tất cả tạo lợi ích các hữu tình nghiệp thân, ngữ, ý vô tội, Bồ-tát thì tất cả đều phải hiện hành đều phải tu học. Phải biết như vậy gọi là thù thắng cộng, bất cộng".
Giải thích: Điều mà Sát, Đạo, Dâm… Tham sinh ra là tánh tội, cắt dứt cỏ tươi… không phải chỗ sinh của tham… gọi là giá tội, Bồ-tát trong đó quán thấy có lợi ích mà không có tội thì tất cả đều phải tu, Thanh-văn thì không như thế. Lại nữa, "Tâm giới của các Bồ-tát cũng có phạm không giống như các Thanh-văn", là chỉ có các tầm tư ác bên trong khởi dục, sân, hại… không bị phát khởi hai nghiệp thân ngữ. "Tất cả tạo lợi ích cho hữu tình nghiệp thân ngữ ý vô tội", là có thể tạo lợi ích an lạc cho hữu tình, không phát khởi phiền não của tự tha như tham… như vậy tất cả Bồ-tát đều phải tu.
Luận nói: "Quảng đại thù thắng, lại do bốn thứ quảng đại: 1. Vô số xứ vô học quảng đại. 2. Do thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại.
3. Do thâu nhận ý lạc tạo lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình quảng đại. 4. Do kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng quảng đại".
Giải thích: "Vô số xứ vô học quảng đại", là điều mà các Bồ-tát học là Thi-la, các thứ phẩm loại sai biệt vô lượng nên là quảng đại. "Thâu nhận vô lượng phước đức quảng đại", là Thi-la nầy có thể gồm thâu vô lượng tư lương phước đức. "Thâu nhận ý lạc tạo lợi ích an lạc cho hết thảy hữu tình quảng đại", là Thi-la nầy gồm thâu các hữu tình đời nầy đời khác thế gian, xuất thế gian xả ác, nhận thiện, hoặc nhân hoặc quả đều lợi ích an vui nên là quảng đại. "Kiến lập chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng quảng đại", là Thi-la nầy kiến lập đại Bồ-đề nên là quảng đại. Các Thanh-văn không có các sự như vậy nên Bồ-tát là thù thắng.
Luận nói: "Thậm thâm thù thắng, là các Bồ-tát do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó, hành sát sinh… nơi mười thứ tác nghiệp mà không có tội, sinh vô lượng phước mau chứng Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Lại nữa, các Bồ-tát hiện hành biến hóa hai nghiệp thân ngữ, phải biết cũng là Thi-la thậm thâm, do nhân duyên nầy hoặc làm quốc vương thị hiện các việc bức não hữu tình, để an lập hữu tình vào Tỳ-nại-da. Lại nữa, thị hiện vô số sự bản sinh, thị hiện làm bức não các hữu tình, nhưng là chân thật thâu nhận các hữu tình, trước hết khiến tâm của họ sinh tịnh tín sâu xa, sau đó thì chuyển thành thục, nên chỗ học Thi-la của Bồ-tát là thậm thâm thù thắng".
Giải thích: "Do phẩm loại phương tiện thiện xảo đó", là bi nguyện của các Bồ-tát tương ưng, sau đó đắc diệu trí. "Hành sát sinh… nơi mười thứ tác nghiệp mà không có tội…", là ưa thích pháp thiện, chán ghét bất thiện, thấy các tà tánh gọi là ba nghiệp sau, nương vào ba nghiệp sau nầy mà hành sát… nơi bảy nghiệp trước mà không có tội. "Sinh vô lượng phước mau chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng", hoặc là hành bảy nghiệp trước, không khởi ba nghiệp sau, tổng số là mười, hoặc đã phục trừ nhưng vì dò thử lực của nghiệp kia nên tâm tạm khởi, không thể chiêu cảm khổ nên không có tội, có thể trợ đạo nên sinh vô lượng phước. "Hiện hành biến hóa hai nghiệp thân ngữ", là nương vào Hóa thân mà phát khởi hai nghiệp, hoặc nương vào thật thân do hoá tâm phát khởi hai nghiệp thân ngữ. Ý nghiệp thì vô hình không thể biến hóa, hoặc tuy hiện có các sự Tham, Sân… nhưng đối với sự hoá độ hữu tình không có nghĩa lợi lớn nên không nói. "Để an lập hữu tình vào Tỳ-nại-da", là làm quốc vương chế ra pháp luật, thị hiện làm bức não khiến cho hữu tình trụ trong Tỳ-nại-da kia, hoặc dùng tất cả thiện có thể diệt trừ các ác, hoặc đại Niết-bàn diệt trừ sinh tử gọi là Tỳ-nại-da. "Lại nữa, thị hiện vô số sự bản sinh", là chỗ thị hiện các sự bản sinh biến hóa tâm của các Bồ-tát, hoặc thành Phật đã lâu thị hiện hành trở lại các sự bản sinh, tạo lợi ích cho hữu tình khiến Bồ-tát học, nên sau đó gọi là "chỗ học Thi-la của Bồ-tát".
Luận nói: "Do đây lược nói bốn thứ thù thắng, phải biết Thi-la luật nghi của Bồ-tát rất thù thắng, như vậy học xứ Bồ-tát sai biệt phải biết lại có vô lượng sai biệt, như trong Tỳ-nại-da Cù-Sa Khế Kinh Phương Quảng nói".
Giải thích: Hiện tại trong đây lược nói bốn thứ tướng thù thắng trong Tỳ-nại-da Cù-Sa Kinh có nói rộng: "Lại có vô lượng thù thắng". Kinh nầy tức là Bồtát tạng thâu tóm, nên gọi là Phương Quảng.
Luận nói: "Như vậy đã nói giới tăng thượng thù thắng, tâm tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Phải biết lược do sáu thứ sai biệt:
1. Do đối tượng duyên sai biệt. 2. Do chủng chủng loại sai biệt. 3. Do đối trị sai biệt. 4. Do gắng nhận sai biệt. 5. Do dẫn phát sai biệt. 6. Do tác nghiệp sai biệt".
Giải thích: Như giới tăng thượng đã khác với Thanh-văn thì tâm tăng thượng đó cũng phải có khác, do vậy mà đặt câu hỏi nầy, sáu thứ sai biệt là lược đáp câu hỏi, giải thích như sau.
Luận nói: "Đối tượng duyên sai biệt, là dùng pháp Đại thừa làm đối tượng duyên".
Giải thích: Pháp Đại thừa, là cả thảy giáo pháp thậm thâm quảng đại trong tạng Bồ-tát, quyết định không phải chỗ có thể duyên đến của Thanh-văn, Độc giác, nên là thù thắng.
Luận nói: "Chủng loại sai biệt, là các Tam-ma-địa của Đại thừa như quang minh, tập phước, định vương, hiền thủ, kiện hành… vì chủng loại vô lượng".
Giải thích: Chỗ đắc các Tam-ma-địa của các Bồ-tát là khác nhau vô lượng, trong đây lược nói các Tam-mađịa đứng đầu, so với Thanh-văn thừa Độc giác thừa khác cũng chưa nghe tên, huống chi có thể đắc.
Luận nói: "Đối trị sai biệt, là trí duyên nơi tổng tướng của hết thảy pháp dùng đạo lý đóng nêm, rút nêm để xua trừ tất cả thô trọng trong thức A-lại-da".
Giải thích: Chỗ duyên chân như của Trí vô phân biệt là chỗ hiển cộng tướng của tất cả pháp, nên nói trí nầy là duyên nơi tổng tướng. Định có thể phát khởi trí ấy có thể đối trị, cũng gọi là đối trị, Thánh đạo vi diệu giống như cái nêm nhỏ, tánh của chủng tử thô trọng nơi chỗ cần đối trị như cái nêm to.
Luận nói: "Kham năng sai biệt, là trụ lạc tĩnh lự, tùy theo chỗ muốn của nó mà thọ sinh".
Giải thích: Do tĩnh lự nầy tánh của nó điều thuận có chỗ gắng nhận lãnh, tùy chỗ muốn tạo lợi ích cho các hữu tình, không thối chuyển tĩnh lự mà trụ thọ sinh, trong Thanh-văn thừa không có sự như vậy, nên là thù thắng.
Luận nói: "Dẫn phát sai biệt, là có thể dẫn phát thần thông vô ngại của tất cả thế giới".
Giải thích: Do định lực nầy mà dẫn phát vô số loại thần thông vô ngại của tất cả thế giới.
Luận nói: "Tác nghiệp sai biệt, là có thể làm chấn động, rực cháy, đầy khắp, hiển thị chuyển biến, vãng lai, thâu mở, tất cả sắc tượng đều nhập trong đó, chỗ đi đến đồng loại hoặc hiển hoặc ẩn, chỗ tạo tác tự tại hàng phục thần thông của người khác. Thí biện, niệm lạc, phóng đại quang minh, dẫn phát đại thần thông như vậy".
Giải thích: Do định lực nầy dẫn phát tạo tác vô số thần thông. Hiển, là hiển hiện. Ẩn, là ẩn tàng. Tạo tác tự tại, là biến ma vương thành thân Phật. Hàng phục thần thông của người khác, là có thể ngăn đoạt sức thần thông của người khác. Vì người không có biện tài nên nêu bày về biện tài. Vì người không có niệm lạc nên nêu bày về niệm lạc, vì chiêu tập Bồ-tát trụ phương xa khác nên phóng đại quang minh. "Dẫn phát đại thần thông như vậy," là dẫn chỗ nói vô số thần thông ở trước, các loại như vậy Thanh-văn, Độc giác đều không có, nên là thù thắng.
Luận nói: "Lại nữa, có thể dẫn phát thâu tóm các khó làm, là mười nan hành. Đó là: 1. Nan hành tự thệ, là thệ nguyện thọ Bồ-đề Vô thượng. 2. Nan hành bất thối, là các khổ sinh tử không thể làm thối chuyển. 3. Nan hành bất bội, là tất cả hữu tình tuy hành tà hạnh nhưng không buông bỏ họ. 4. Nan hành hiện tiền là chỗ hiện làm mọi sự lợi ích đối với hữu tình thù oán. 5. Nan hành bất nhiễm. Là sinh tại thế gian mà không bị thế pháp làm nhiễm ô. 6. Nan hành thắng giải, Đại thừa tuy chưa hiểu rõ, nhưng đối với tất cả Đại thừa đều sinh tín giải thậm thâm quảng đại. 7. Nan hành thông đạt, là đủ chủ thể thông đạt pháp Bổ-đặc-già-la vô ngã. 8. Nan hành tùy giác, là đối với chỗ thuyết ngôn từ bí mật sâu xa của các Như Lai có thể theo đó mà giác ngộ. 9. Nan hành bất ly bất nhiễm, là không bỏ sinh tử nhưng không nhiễm. 10. Nan hành gia hạnh, là có thể tu an trụ giải thoát của chư Phật, tất cả chướng ngại cùng tận biên vực sinh tử không khởi công dụng, thường khởi tất cả hành nghĩa lợi của tất cả hữu tình".
Giải thích: Như nói Bồ-tát tu các nan hành, chỗ hiển tất cả nan hành có mười thứ. "1. Nan hành tự thệ: Là thệ nguyện thọ nhận nguyện đạt Bồ-đề Vô thượng", là không chú tâm đến niềm vui riêng mình, thệ nguyện thọ nhận tạo lợi ích tất cả hữu tình, rất khó. "Nan hành bất thối: Là sinh tử các khổ không thể làm thối chuyển", là ở lâu trong sinh tử. Các thứ khổ về bịnh tật... nó không thể làm thối chuyển, rất khó. "Nan hành bất bội: Là tất cả hữu tình tuy hành tà hạnh nhưng ta không buông bỏ họ", là đối với cha mẹ, anh em… làm hạnh tà ác, hoặc ở không đùa giỡn cho vui mắt, hai chân giẫm đạp, không quán sát lỗi đó mà khởi tạo lợi ích, rất khó. "Nan hành hiện tiền, là chỗ hiện làm sự lợi ích đối với kẻ thù oán", là tuy có thù oán nặng nhưng hiện là tạo lợi ích, rất khó. "Nan hành bất nhiễm, là sinh tại thế gian mà không bị thế pháp làm nhiễm ô" là thường ở trong thế gian mà tám pháp lợi suy… của thế gian không thể làm nhiễm ô, rất khó. "Nan hành thắng giải…" là đối với nghĩa thần lực vi diệu thù thắng tuy chưa hiểu rõ nhưng tín giải sâu xa, rất là khó. "Nan hành thông đạt…" là một nghĩa của đẳng giác thông đạt hiện quán có thể thông đạt đầy đủ, tất cả pháp của tánh Bổ-đặc-già-la Biến kế sở chấp đều là không có, rất khó. "Nan hành tùy giác…" là đối với chỗ thuyết giảng ngôn từ bí mật của Phật mà bỏ nghĩa theo chỗ nghe, giác ngộ nghĩa không nghe, rất khó. "Nan hành bất ly bất nhiễm…" là không bỏ sinh tử, không nhiễm lỗi sinh tử, rất khó. "Nan hành gia hạnh…", là đã đoạn và đã thoát tất cả phiền não chướng và sở tri chướng, hằng hiện tiền khởi làm tất cả sự lợi ích cho hữu tình, tận đời vị lai thường không ngơi nghỉ, vui thích tu hạnh nầy rất khó.
Luận nói: "Lại nữa, trong nan hành tùy giác, đối với chư Phật những gì là ngôn từ bí mật mà các Bồ-tát kia có thể giác ngộ? Là như trong kinh nói".
Giải thích: Nan hành thứ tám, nghĩa của nó chưa rõ, nên phải giải thích lại.
Luận nói: "Thế nào là Bồ-tát có thể hành huệ thí? Nếu các Bồ-tát đã thí không ít, mà đối với mười phương vô lượng thế giới rộng làm huệ thí. Thế nào là Bồ-tát thích hành huệ thí? Nếu các Bồ-tát đối với tất cả thí đều không ưa muốn, các Bồ-tát sinh tín giải sâu trong huệ thí. Nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí, Bồ-tát khuyên cố gắng việc thí? Nếu Bồ-tát trong huệ thí không tự cố gắng, các Bồ-tát say mê với thí? Nếu Bồ-tát không tạm thời có ít chỗ thí, Bồ-tát thí quảng đại?
Nếu các Bồ-tát trong huệ thí lìa tưởng lưu tán, Bồtát thí thanh tịnh? Nếu các Bồ-tát diệt trừ tâm keo kiệt muốn đủ, các Bồ-tát thí cứu cánh? Nếu các Bồ-tát không trụ cứu cánh, Bồ-tát thí tự tại? Nếu Bồ-tát trong huệ thí không tự tại chuyển. Thế nào là Bồ-tát thí vô tận? Nếu các Bồ-tát không trụ vô tận. Như đối với bố thí, đối với giới thì đặt trước, đối với huệ thì đặt sau, tùy chỗ thích đáng của nó phải biết cũng như vậy".
Giải thích: "Nếu các Bồ-tát đã thí không ít…", là các Bồ-tát thâu tóm cả thảy hữu tình làm thể của mình, vì thông đạt tánh tự tha bình đẳng, nên khi Bồ tát hành thí. Thí không ít gọi là giỏi hành thí. Lại nữa, lấy tất cả tài vật của mình thí cho tất cả hữu tình, nên gọi đó là "Đã thí không ít". Lại nữa, vật thí, người thí và người nhận, đều không thể đắc ba luân thanh tịnh, nên gọi là đã thí không ít. "Nếu các Bồ-tát không ưa muốn tất cả thí", thì đây đã là câu ngăn cản, là không ưa thích. Đối với người đến cầu thí cần cho ta cho trước cho ta cho, tất cả những thí nầy đều không ưa muốn, chỉ ưa thích duyên hợp an trụ nơi Niết-bàn mà hành huệ thí. "Nếu các Bồ-tát không tin Như Lai mà hành bố thí", là chứng pháp tánh tự hiểu tự tin mà hành huệ thí, không phải chỉ tin nơi người khác. "Nếu Bồ-tát trong huệ thí không tự cố gắng", là có khả năng tùy ý thường hành thí, không cần tự thúc đẩy mà có thể thúc đẩy khuyến khích người hành thí. "Nếu Bồtát không tạm thời có ít chỗ thí", nghĩa là tất cả thời và tất cả thí. "Nếu các Bồ-tát trong huệ thí lìa tưởng lưu tán", chữ Bà-lạc hiển bày rõ về kiên thật có mật nghĩa là lưu tán, hiện tại lấy mật nghĩa là tưởng lưu tán tức là Tam-ma-địa, nghĩa là tâm trụ định mà hành thí. "Nếu các Bồ-tát Ôn-ba-đà xan", chữ Ôn-ba-đà là hiển bày sự sinh khởi, mật nghĩa bạt túc, hiện tại lấy mật nghĩa là dứt trừ tâm keo kiệt muốn đủ mà hành huệ thí. "Nếu các Bồ-tát không trụ cứu cánh", không đồng với Thanh-văn hoàn toàn hướng đến tịch diệt, an trụ nơi cứu cánh Niết-bàn vô dư. "Nếu Bồ-tát trong huệ thí không tự tại chuyển", là khiến cho chỗ đối trị chướng của bố thí như keo kiệt... không tự tại chuyển. "Nếu các Bồ-tát không trụ vô tận", là đắc quả Phật cứu cánh viên mãn tăng thượng vô tận mà không an trụ. Cái gì là khởi biến hóa làm lợi ích cho người khác, thường hành huệ thí? Như đối với bố thí, đối với giới" cho đến "Phải biết cũng như vậy", là chung loại với năm loại khác. Như kinh nói: "Thế nào là Bồ-tát có thể đủ Thi-la? Nếu các Bồ-tát không gìn giữ ít giới, vì thấy tánh bình đẳng của tự tha, tha gìn giữ tịnh giới tức là tự mình có đủ Thi-la".
Luận nói: "Thế nào là có thể sát sinh? Nếu đoạn sự lưu chuyển sinh tử của chúng sinh. Thế nào là không cho mà lấy? Nếu các hữu tình không có người cho mà tự nhiên thâu lấy. Thế nào là Tà hạnh dục? Nếu đối với các dục biết rõ là tà thì tu chánh hạnh. Thế nào là hay vọng ngữ? Nếu trong vọng hay nói là vọng. Thế nào là Cụthú-ni (ly gián ngữ)? Nếu thường ở trong không tối thắng mà trụ. Thế nào là ba-lỗ-sư (thô ác ngữ)? Nếu khéo an trụ nơi chỗ nhận biết về bờ giác. Thế nào là ỷ gián ngữ? Nếu chánh thức thuyết pháp, phẩm loại sai biệt. Thế nào là có thể tham dục? Nếu có niệm niệm muốn tự chứng đắc tĩnh lự Vô thượng. Thế nào là có thể sân hận? Nếu trong tâm có thể chính thức ghét hại tất cả phiền não. Thế nào là có thể tà kiến? Nếu tất cả xứ hành khắp tánh tà đều thấy như thật".
Giải thích: Như trong kinh nói: "Này các bí-sô! Ta là người hay sát sinh". Ở đây hiển ý nghĩa sâu xa của sự nói kia. "Nếu đoạn nẻo lưu chuyển sinh tử của chúng sinh", đoạn nghĩa là sát, cùng với câu hỏi tương ưng. "Không ai cho mà tự nhiên thâu lấy", nghĩa là không cầu tìm nơi người khác mà tự thâu lấy lợi ích. "Nếu đối với các dục biết rõ là tà, tu chánh hạnh", là thật như biết hoặc cảnh giới dục hoặc phân biệt dục chỉ là tà loạn. Như có tụng nói:
Phật nói tham, sân, si,
Đều từ phân biệt khởi,
Tịnh, bất tịnh, điên đảo,
Đó cũng là duyên sinh.
Tịnh, bất tịnh, điên đảo,
Là do duyên mà có,
Tự tánh kia đều không,
Nên dục phi chân thật.
"Nếu trong vọng hay nói là vọng", nói vọng là vọng nên gọi là vọng ngữ. Như có tụng nói:
Tất cả pháp hư vọng,
Thế tôn như thật nói,
Trong các pháp hư vọng,
Các hạnh rất hư vọng.
"Nếu thường ở trong không tối thắng mà trụ" là y theo huấn thích văn từ đạo lý của thế gian để đáp chỗ câu hỏi Cụ-thú-ni trên. Cụ-thú-ni nầy là hiển bày về lời nói ly gián ngữ, mật ý là không thường thắng. Cụ là nêu rõ nghĩa thắng, thú là nêu nghĩa không, ni biểu hiện nghĩa thường, hiện tại lấy mật nghĩa để hỏi đáp được tương ưng, hiển nghĩa thì không như thế. "Ba-lỗ-sư…", nơi đạo lý huấn thích văn từ cũng như thế. Ba-lỗ-sư nầy, hiển bày về thô ác ngữ, mật ý là trụ nơi bờ giác, hiện tại lấy mật nghĩa nên nói: "Nếu khéo an trụ chỗ nhận biết bờ giác". Sự nhận biết ấy là Nhất thiết trí, Phật giỏi an trụ trong đó, gọi là Ba-lỗ-sư. "Nếu chánh thức thuyết pháp phẩm loại sai biệt" là giải thích về ỷ gián ngữ, nghĩa đó dễ hiểu. "Nếu có niệm niệm muốn tự chứng đắc tĩnh lự Vô thượng" như đạo lý huấn thích văn từ trên, cả thảy tĩnh lự trong thân của chư Phật gọi là Vô thượng. "Nếu trong tâm đó có thể ghét hại tất cả phiền não" đã diệt, đã đoạn là nghĩa ghét hại. "Nếu tất cả xứ hành khắp tánh tà đều thấy như thật", là thấy tất cả phân biệt hư vọng tà loạn làm tánh.
Luận nói: "Pháp Phật thậm thâm. Thế nào gọi là pháp Phật thậm thâm? Trong đây phải giải thích pháp thường trụ là pháp của chư Phật, vì pháp thân của chư Phật là thường trụ. Lại nữa, pháp đoạn diệt là của chư Phật, vì tất cả chướng vĩnh viễn đoạn diệt. Lại nữa, pháp sinh khởi là pháp của chư Phật, vì lấy thân biến hóa để hiện sinh khởi. Lại nữa, pháp có sở đắc là pháp của chư Phật, vì hạnh của tám vạn bốn ngàn hành của hữu tình và đối trị hạnh kia đều là khả đắc. Lại nữa, pháp có tham là pháp của chư Phật, vì tự thệ nguyện thâu nhận hữu tình có tham làm thể của mình. Lại nữa, pháp hữu sân là pháp của chư Phật, pháp hữu si là pháp của chư Phật, pháp dị sinh là pháp của chư Phật, phải biết cũng như thế. Lại nữa, pháp không nhiễm là pháp của chư Phật, vì thành mãn chân như, tất cả cấu uế chướng ngại không thể nhiễm. Lại nữa, pháp không ô là pháp của chư Phật, vì sinh tại thế gian mà các pháp thế gian không thể nhiễm ô. Do đó gọi là pháp Phật thậm thâm".
Giải thích: Pháp Phật thậm thâm mà khế kinh đã nói, nghĩa nó là gì? Các kinh khác nói: "Hoặc pháp thường trụ là pháp Phật", nói rộng cho đến "Lại nữa, pháp không ô là pháp của chư Phật". Mật ý trong đây bây giờ sẽ hiển thị. "Vì pháp thân của chư Phật là thường trụ", pháp thân tức là chuyển y làm tướng, lìa tất cả chướng, vì chân như thường trụ không biến đổi, hoặc vô cấu uế không có ngăn ngại nơi diệu trí Vô thượng, như cõi Vô sắc mà không phải dị thục, vì là vô lậu, đây cũng là chỗ gồm thâu của pháp thân thường trụ, vì không có sai biệt, không phải do nghiệp phiền não tạo ra. "Vì tám vạn bốn ngàn hành của hữu tình và đối trị hạnh kia đều là khả đắc", tám vạn bốn ngàn pháp uẩn có thể trị các phần hành của hữu tình có tham, có sân, có si. Bốn thứ, mỗi thứ đều có hai vạn một ngàn. "Lại nữa, pháp không nhiễm là pháp của chư Phật", vì hết thảy chướng cấu không thể nhiễm chân như thiện tịnh. Các nghĩa khác dễ hiểu, không cần giải thích. Phật nói ngôn từ bí mật như vậy, lại có kết quả gì? Là khiến cho người nói có thể dễ an lập nghĩa tổng quát do đó dễ vì người khác mà nói, tức là nhân này, có thể khiến cho người nghe dễ thọ trì, dễ đầy đủ tư lương. Thọ trì giáo, dễ đạt pháp tánh, tư lương đầy đủ, đắc chứng tịnh của Phật, đắc đại ngã. Pháp và tăng cũng như thế, là tối thắng. Do đây chứng đắc hiện pháp lạc trụ, hiểu biết pháp lạc kia, nên đối với luận nghĩa trước của bậc trí chọn lựa nhập vào niệm thông tuệ, vì mười lợi nầy nói lời bí mật. Trong Thanh-văn thừa cũng nói ngôn từ mật ý như "Sát hại đối với phụ mẫu…", mười lợi cũng như thế.
Luận nói: "Lại nữa, có thể dẫn phát tu Ba-la-mật, thành thục hữu tình, làm tịnh cõi Phật, pháp của chư Phật phải biết cũng là đẳng trì nơi tác nghiệp sai biệt của Bồtát".
Giải thích: Tam-ma-địa mà Bồ-tát đắc, lại có bốn thứ tác nghiệp sai biệt, là nương vào định nầy có thể tu tất cả Ba-la-mật-đa, thành thục tất cả các loài hữu tình, phát sinh thần thông phương tiện, dẫn khiến nhập chánh pháp, có thể làm tịnh cõi Phật, tùy ý muốn có thể trở thành các bảo vật như kim, ngân…, có thể chánh thức tu tập tất cả pháp Phật mười lực, bốn vô uý… đều không phải lìa chỗ thuyết đẳng trì như vậy, có thể tu tập xong Ba-la-mật… bốn thứ tác nghiệp như Thanh-văn, Độc giác.
--------------------------------------
Luận nói: "Như vậy, đã nói tâm tăng thượng thù thắng, huệ tăng thượng thù thắng làm sao thấy được? Là Trí vô phân biệt, hoặc tự tánh, hoặc chỗ dựa, hoặc nhân duyên, hoặc đối tượng duyên, hoặc hành tướng, hoặc nhận giữ, hoặc trợ bạn, hoặc ảnh tượng, hoặc đẳng lưu, hoặc xuất ly, hoặc đến cứu cánh, hoặc gia hạnh không phân biệt hậu đắc thắng lợi, hoặc sai biệt, hoặc không phân biệt hậu đắc thí dụ, hoặc tác sự không công dụng, hoặc trí thậm thâm nên biết vô phân biệt, gọi là huệ tăng thượng thù thắng".
Giải thích: Tâm đã ở tại định thì giỏi biết như thật, đẳng trì vô gián gọi là huệ học tăng thượng, không như thế sao? Thâu tóm lấy sự sáng tỏ của nó gọi là học, huệ và học phải không khác nhau, nếu như vậy thì nương vào đồng xứ mà giải thích. Nghĩa là huệ tăng thượng tức là sự học của nó. Nếu như thế thì trong đây không có nghĩa dựa, là dựa vào huệ khác mà khởi học, nên gọi là huệ học tăng thượng, như hai học trước là nương vào giới mà học, nương vào định mà học, không phải đối với trong đây nương vào huệ mà học. Huệ là học, phải nói như vầy: "Gia hạnh huệ của nó nương vào căn bản học, căn bản huệ của nó nương vào hậu đắc học, hậu đắc huệ của nó thì nương vào hai vô gián mà khởi tu học". Những gì gọi là huệ học tăng thượng? Là Trí vô phân biệt, hiện tại trong đây là tự tánh đầu tiên, thậm thâm tối hậu, rộng giải thích trí nầy.
Luận nói: "Trí vô phân biệt trong đây lìa năm thứ tướng lấy làm tự tánh: 1. Lìa không tác ý. 2. Lìa lỗi địa có tầm có từ. 3. Lìa tưởng thọ diệt tịch tĩnh. 4. Lìa tự tánh sắc. 5. Lìa chân nghĩa lường tính khác. Lìa năm tướng nầy, phải biết đó gọi là vô phân biệt trí".
Giải thích: Nương vào tự tánh của trí mà nói lìa năm tướng, do môn giá thuyên mà nói thể tướng của trí, vì môn biểu thuyên thì bất khả thuyết nên khiển trừ môn phân biệt. Trí vô phân biệt thì tướng của nó khá rõ. Nếu khác với trí nầy thì phải có phân biệt. Những gì là phân biệt? Sau sẽ nói rộng, không tác ý… nếu không tác ý là Trí vô phân biệt, thì ngủ mê, say rượu… không có sự tác ý đáng lẽ thành Trí vô phân biệt! Nhưng không nên thừa nhận do lìa công dụng nên đắc không điên đảo. Nếu lỗi địa tầm từ là Trí vô phân biệt, thì các địa của đệ hai tĩnh lự trở lên, tất cả dị sinh và Thanh-văn, Độc giác đáng lẽ thành Trí vô phân biệt, nhưng các loại đó đều không có Trí vô phân biệt. Nếu tưởng thọ diệt là Trí vô phân biệt, thì thể tướng của trí nầy khó có thể thành lập trong vô tưởng… vì lìa tâm thì không có các tâm pháp. Do ý thức diệt mà nói đó là vô tâm, như trước đã nói. Nếu như sắc của nó là Trí vô phân biệt, thì đáng lẽ không được thành Trí vô phân biệt, ví như chỗ tạo sắc của đại chủng. Nếu đối với chân nghĩa nơi lường tính dị tướng là Trí vô phân biệt, thì trí nầy không thành tánh vô phân biệt, vì đối với chân nghĩa lường tính dị tướng, nói đây là chân, là vô phân biệt, là hữu phân biệt.
Luận nói: "Trong thành lập tướng của điều nói Trí vô phân biệt nầy lại nói nhiều bài tụng".
Giải thích: Nương vào chỗ nói Trí vô phân biệt ở trước, sơ lược thành lập tướng, rộng nói nhiều bài tụng, thứ tự hiển riêng, để hiển tự tánh nên nói tụng thứ nhất.
Luận nói:
"Tự tánh của Bồ-tát,
Xa lìa năm thứ tướng,
Là Trí vô phân biệt,
Không dị chấp nơi chân".
Giải thích: Trong bài tụng nầy, ba câu đầu là ngăn cản năm thứ tướng, là phương tiện hiển thị Trí vô phân biệt, câu sau cùng là chánh thuyết về tự tánh. "Không dị chấp nơi chân", là đối với chân nghĩa không có kế chấp khác làm tự tánh, nghĩa của tự tánh tự thể không khác nhau, như nói vòng kim xuyến đeo tay thì vàng làm tự thể. Bài tụng tiếp theo là nói chỗ dựa của trí.
Luận nói:
Chỗ dựa của Bồ-tát,
Phi tâm mà là tâm,
Là Trí vô phân biệt,
Không phải nghĩa loại tư.
Giải thích: Trí là tâm pháp nên phải nương vào tâm, dựa vào tâm mà không có phân biệt thì không đúng đạo lý. Tiếng gọi tâm tức là tướng của suy nghĩ. Nếu nương vào phi tâm ví như nhiều sắc thì không được thành trí, để giải thích lỗi kết song song như vậy nên nói nửa bài tụng sau. "Không phải nghĩa loại tư", là chỗ dựa của Trí vô phân biệt không phải tâm, vì không phải nghĩa là tư, cũng không phải phi tâm vì làm chỗ chủng loại tâm nương dựa. Lấy tâm làm nhân, uy lực luyện tập quen mà dẫn đắc vị nầy gọi là tâm chủng loại. Đây là chỉ rõ tâm là chỗ dựa của trí, vượt ra khỏi tất cả tư lương phân biệt. Tiếp theo có một bài tụng hiển nhân duyên của trí.
Luận nói:
Nhân duyên của Bồ-tát,
Hữu ngôn văn huân tập,
Là Trí vô phân biệt,
Và tác ý như lý.
Giải thích: Nghĩa nhân duyên và nghĩa chủ thể tác nhân duyên là một. "Có lời nghe huân tập", là có Đại thừa ngôn âm đối với người khác nên gọi là có lời. Văn, là nghe, tức là ngôn âm kia không phải ngôn âm nào khác, do chỗ dẫn công năng sai biệt gọi là huân tập. "Và tác ý như lý", là tác ý nầy làm nhân sinh ý ngôn, tác ý như lý là thuận theo lý mà thanh tịnh nên gọi là như lý, vì có trí thì phải có cảnh. Tiếp theo một bài tụng nói đối tượng duyên của trí.
Luận nói:
Sở duyên của Bồ-tát,
Pháp tánh không thể nói,
Là Trí vô phân biệt,
Tánh vô ngã chân như.
Giải thích: "Pháp tánh không thể nói" là có thể nói pháp tánh vô tánh, là lìa nghĩa khả ngôn nơi tánh của tự tánh Biến kế sở chấp. Tánh vô ngã chân như", là làm thành nghĩa nầy khiến cho tánh của nó sáng tỏ, tức là chỗ hiển chân như của tất cả Bổ-đặc-già-la nơi các pháp vô tánh, giải thoát hai biên tăng ích và tổn giảm. Cảnh giới nơi đối tượng của Trí vô phân biệt, nếu có pháp của đối tượng duyên thì quyết định có hành tướng. Tiếp theo một bài tụng hiển hành tướng của trí.
Luận nói:
Hành tướng của Bồ-tát,
Lại ở trong sở duyên,
Là Trí vô phân biệt,
Sở tri kia vô tướng.
Giải thích: Trong đối tượng duyên, tương tợ mà hành nên gọi là hành tướng Trí vô phân biệt đối với cảnh chân như tương tợ mà hành. Đối tượng nhận thức kia vô tướng", là nói chỗ tạo tác hành tướng của trí nầy đối với cảnh chân như, ý nầy nói Trí vô phân biệt duyên cảnh chân như, lìa hành tướng tác ý của tất cả tướng lấy làm hành tướng. Tiếp theo nói hai bài tụng đối với đối tượng duyên và hành tướng của trí nói trên để giải thích nghi vấn chung.
Luận nói:
Nghĩa tự tánh tương ưng,
Chỗ phân biệt phi dư,
Chữ lần lượt tương ưng,
Đó là nghĩa tương ưng.
Không lìa năng thuyên kia,
Trí chuyển nơi sở thuyên,
Không phải thuyên không đồng,
Tất cả không thể nói.
Giải thích: Nếu thật không có nghĩa của sự phân biệt, thì sự phân biệt nào nói là ngôn? "Nghĩa tự tánh tương ưng, chỗ phân biệt phi dư", là các văn tự lần lượt tương ưng, tuyên xướng không dứt, các nghĩa biến kế duyên vào nghĩa nầy mà giả lập thành nghĩa biến kế làm chỗ phân biệt. Không có thật nghĩa nào khác làm chỗ phân biệt nên nói là "Phi dư". Nếu không có văn tự tuyên xướng tương tục thì phân biệt không có. Thế nào là các pháp đều không thể nói? Để hiển bày lý nầy nên nói như vầy: "Không phải lìa chủ thể nêu giảng trí kia đối với đối tượng được nêu giảng mà chuyển…". Nếu thật có nghĩa có thể nói năng được, lìa danh chủ thể nêu giảng thì đối với nghĩa kia đáng lẽ có tợ ngôn trí khởi, không phải chưa hiểu rõ danh chủ thể nêu giảng ngôn mà có trí nầy khởi, nên là bất khả ngôn, hoặc là ngoài nghĩa tuy quyết định là thật có, nhưng phải chờ trí chủ thể nêu giảng và trí đối tượng được nêu giảng khởi. Vì ngăn cản nghĩa nầy nên nói như vầy: "Vì không phải thuyên bất đồng", là khác nhau nên không phải thật chủ thể nêu giảng, vì danh chủ thể nêu giảng cùng với nghĩa của đối tượng được nêu giảng riêng tướng mà nắm giữ. Tướng của nó mỗi mỗi đều khác, làm thế nào mà được thành quyết định thật thuyên biểu? Tất cả là không thể nói. Do đạo lý nầy mà tất cả chủ thể nêu giảng và đối tượng được nêu giảng đều không thể nói, thì chỗ nào là nhậm trì của Trí vô phân biệt?
Luận nói:
Gắng nhận của Bồ-tát,
Là Trí vô phân biệt,
Các hạnh hậu sở đắc,
Làm tiến hướng tăng trưởng.
Giải thích: "Các hạnh hậu sở đắc", là chỗ đắc vô số các hạnh của Bồ-tát trong Trí vô phân biệt trí Hậu đắc. Các hạnh nầy đều lấy trí làm chỗ dựa. "Làm tiến hướng tăng trưởng" là làm tăng trưởng các hạnh của Bồ-tát. Đây là nói nhận giữ chỗ dùng có chủ yếu, vì không điên đảo nên có thể nhận giữ các hạnh. Ai làm trợ bạn của Trí vô phân biệt? Nếu chỉ có một thì không có chủ thể và đối tượng.
Luận nói:
Trợ bạn của Bồ-tát,
Nói là hai thứ đạo,
Là Trí vô phân biệt,
Năm Ba-la-mật giác tánh.
Giải thích: Hai thứ đạo: 1. Đạo tư lương. 2. Đạo y chỉ. Năm Ba-la-mật lấy làm tự tánh. Trong đây bốn Ba-la-mật-đa trước là đạo tư lương, thứ năm là tĩnh lự Ba-la-mật-đa thuộc đạo y chỉ. Nếu trụ tâm định thì trước đã nói các thiện của bốn thứ Ba-la-mật-đa giúp trợ liền có thể sinh trưởng Trí vô phân biệt. Trí nầy gọi là huệ Ba-la-mật-đa, từ khi chưa đắc quả Phật đến nay, Trí vô phân biệt ở nơi đâu mà chiêu cảm quả dị thục?
Luận nói:
Dị thục của Bồ-tát,
Trong hai hội của Phật,
Là Trí vô phân biệt,
Do gia hạnh chứng đắc.
Giải thích: "Trong hai hội", là trong hội của hai thân biến hóa và thọ dụng của chư Phật. "Do gia hạnh chứng đắc", là hiển có thể chiêu cảm nghĩa của quả dị thục. Đây không phải là nhân dị thục vì có thể đối trị quả dị thục kia, tức là quả tăng thượng giả danh dị thục. Do đây trợ giúp huân tập các nghiệp hữu lậu khác khiến chiêu cảm dị thục nên lập tên nầy. Nếu khi tu gia hạnh vô phân biệt, thì sinh trong chúng hội chỗ hiện thân biến hóa của chư Phật. Nếu lúc đó chứng đắc Trí vô phân biệt thì liền sinh trong chúng hội chỗ hiện thân thọ dụng của chư Phật. Cái gì là đẳng lưu của Trí vô phân biệt?
Luận nói:
Đẳng lưu của Bồ-tát,
Trong các đời sau nầy,
Là Trí vô phân biệt,
Tự thể chuyển tăng thắng.
Giải thích: Trí vô phân biệt trong các đời về trước, nơi sinh của các đời về sau lần lượt tăng thắng. Đẳng lưu quả đó, Trí vô phân biệt xuất ly như thế nào?
Luận nói:
Xuất ly của Bồ-tát,
Đắc thành biện tương ưng,
Là Trí vô phân biệt,
Phải biết nơi Thập địa".
Giải thích: Địa Cực hỷ thứ nhất khi nhập kiến đạo, thấy tất cả địa là lý vô phân biệt, ban đầu được xuất ly, sau đó trong tu đạo mới đắc các địa thành tựu tương ưng Trí vô phân biệt. Cái gì là cứu cánh của Trí vô phân biệt?
Luận nói:
Cứu cánh của Bồ-tát,
Đắc ba thân thanh tịnh,
Là Trí vô phân biệt,
Đắc tự tại tối thượng.
Giải thích: Ba thân thanh tịnh, là trong sơ địa tuy đắc ba thân nhưng chưa thanh tịnh, đến đệ mười địa mới được thanh tịnh, gọi là cứu cánh, nên nói lúc đó đắc ba thân thanh tịnh. "Đắc tự tại tối thượng" là trong lúc đó Trí vô phân biệt không phải chỉ đắc ba thân thanh tịnh, mà cũng đắc mười thứ tự tại tối thượng, nên gọi là Trí vô phân biệt cứu cánh. Như thế nào, từ đâu và do đâu mà vô nhiễm?
Luận nói:
Như hư không vô nhiễm,
Là Trí vô phân biệt,
Vô số cực trọng ác,
Do duy tín thắng giải.
Giải thích: Câu hỏi thứ nhất là như thế nào mà đắc không nhiễm, đáp là như hư không vô nhiễm. Câu hỏi kế đó là từ đâu mà đắc không nhiễm, đáp là vô số cực trọng ác. Câu hỏi sau cùng là do đâu mà đắc không nhiễm, đáp là do duy tín giải, là chỉ do tín, do huệ thắng giải lấy làm nhân mà đắc không nhiễm.
Luận nói:
Như hư không vô nhiễm,
Là Trí vô phân biệt,
Giải thoát tất cả chướng,
Đắc thành tựu tương ưng.
Giải thích: "Giải thoát tất cả chướng", là giải thoát phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng. "Đắc thành tựu tương ưng", là tại sơ địa cùng với đắc tương ưng, cho đến Phật địa thì thành tựu tương ưng.
Luận nói:
Như hư không vô nhiễm,
Là Trí vô phân biệt,
Thường hành nơi thế gian,
Không bị thế pháp nhiễm.
Giải thích: "Thường hành nơi thế gian, không bị thế pháp nhiễm", đây là hiển tám pháp lợi suy… của thế gian khắp xứ sinh và tất cả sinh xứ không nhiễm, như hoa sen hồng do xuất thế gian thâu gồm. Như vậy ba bài tụng hiển thị chỗ đắc thắng lợi của ba trí Gia hạnh, căn bản và hậu đắc.
Ba thứ Trí vô phân biệt, có gì sai biệt?
Luận nói:
Nghĩa như câm cầu thọ,
Nghĩa như câm chánh thọ,
Nghĩa như phi câm thọ,
Ba trí dụ như vậy.
Nghĩa như ngu cầu thọ,
Nghĩa như ngu chánh thọ,
Nghĩa như phi ngu thọ,
Ba trí dụ như vậy.
Nghĩa như năm cầu thọ,
Nghĩa như năm chánh thọ,
Nghĩa như Mạt-na thọ,
Ba trí dụ như vậy.
Như chưa hiểu luận nầy,
Cầu luận thọ nghĩa pháp,
Thứ lớp ví ba trí,
Phải biết các gia hạnh…
Giải thích: Nhằm làm rõ hành tướng sai biệt của ba trí mà nói các thí dụ như vậy. "Nghĩa như câm cầu thọ" là thí dụ như người câm muốn cầu hưởng thọ các cảnh giới nhưng chưa thọ mà cũng không thể nói được. Như vậy nơi Trí vô phân biệt gia hạnh cầu chứng chân như mà chưa chứng được, phải biết tịch lặng vô ngôn cũng vậy. "Nghĩa như câm chánh thọ" là ví như người câm đang thọ cảnh giới mà không có chỗ nói năng. Như vậy nơi trí Căn bản vô phân biệt đang chứng chân như lìa các hý luận, phải biết cũng vậy. "Nghĩa như phi câm thọ" ví như người không câm hưởng thọ các cảnh giới cũng khởi ngôn thuyết. Như vậy hậu đắc nơi Trí vô phân biệt phản chiếu chân như hiện chứng cảnh giới có thể khởi lên ngôn giáo, phải biết cũng như thế. Theo đạo lý nầy có thể giải thích bài tụng nghĩa như ngu. "Nghĩa như năm cầu thọ" ví như năm thức cầu thọ cảnh giới, tuy có chỗ cầu nhưng không có phân biệt. Như vậy gia hạnh với Trí vô phân biệt phải biết cũng vậy. "Nghĩa như năm chánh thọ" ví như năm thức đang thọ cảnh giới mà lìa các phân biệt. Như vậy, trí Căn bản vô phân biệt phải biết cũng vậy. "Nghĩa như Mạt-na thọ" ví như ý thức có thể thọ cảnh giới cũng có thể phân biệt, như vậy hậu đắc với Trí vô phân biệt, phải biết cũng vậy. "Như chưa hiểu luận nầy, cầu luận thọ nghĩa pháp" ví như người chưa hiểu luận, cầu đọc tụng luận mà chưa đọc tụng được, như vậy gia hạnh nơi Trí vô phân biệt phải biết cũng như thế, như ôn tập luận, hiểu nghĩa văn tự. Như vậy căn bản Trí vô phân biệt phải biết cũng vậy, như đã nghe quen rồi thì thông đạt nghĩa pháp, như vậy hậu đắc nơi Trí vô phân biệt phải biết cũng vậy. Do những thí dụ như thế, như số thứ tự mà thí dụ về ba trí sai biệt của các gia hạnh. Tiếp theo thí dụ sai biệt của trí Căn bản và trí Hậu đắc.
Luận nói:
Như người đang nhắm mắt,
Là Trí vô phân biệt,
Người kia lại mở mắt,
Trí hậu đắc cũng vậy.
Phải biết như hư không,
Là Trí vô phân biệt,
Trong đó hiện sắc tượng,
Trí hậu đắc cũng vậy.
Giải thích: Hai bài tụng nầy chỉ rõ sự sai biệt của Căn bản và Hậu đắc. Nhắm mắt, mở mắt, hư không và sắc tượng, đồng thời hiển hai trí là vô phân biệt, là bình đẳng và là bất bình đẳng, vì trí Gia hạnh của nó chưa có sự chứng nên lược bớt không nói. Lại nữa, trí Gia hạnh là nhân của trí Căn bản, trí Hậu đắc của nó là quả của bản trí. Do đó lại đủ Trí vô phân biệt thành tựu chỗ tạo tác. Trí vô phân biệt tu thành quả Phật. Đã không có phân biệt, thì làm sao có thể làm sự lợi hữu tình?
Luận nói:
Như mạt-ni thiên nhạc,
Vô tư thành tự sự,
Vô số Phật sự thành,
Thường lìa tư cũng vậy.
Giải thích: Nay trong tụng nầy, dẫn hai thí dụ mạtni và thiên nhạc để thành lập chỗ đắc Trí vô phân biệt, tuy không có phân biệt, không khởi công dụng nhưng thành tựu vô số, cũng như châu như ý và thiên nhạc tuy không có nghĩ như vầy "Ta sẽ phóng quang, ta sẽ phát ra tiếng", vì đều vô tư. Nhưng do sinh uy lực ý lạc phước nghiệp của hữu tình kia, không chờ kích tấu mà phóng các thứ ánh sáng, phát ra các thứ âm thanh. Trí vô phân biệt của chư Phật Bồ-tát, phải biết cũng vậy. Tuy lìa phân biệt và không khởi công dụng nhưng có thể tùy theo ý lạc phước lực mà hoá độ hữu tình kia mà hiện khởi các sự lợi lạc chuyển. Tiếp theo chỉ rõ cả thảy sự thậm thâm của Trí vô phân biệt. Cảnh giới của Trí vô phân biệt là thế nào? Là duyên phân biệt tánh Y tha khởi, hay là duyên cảnh tự thể khác cũng như thế? Là trí hay phi trí? Nếu như thế thì có lỗi gì? Nếu duyên phân biệt tánh Y tha khởi thì làm sao được thành Trí vô phân biệt? Nếu duyên cảnh khác, cảnh khác không có định, thì đối tượng duyên ở đâu? Nếu là trí thì phải có đối tượng nhận thức, nếu là phi trí thì làm sao được gọi là Trí vô phân biệt? Để lìa tất cả lỗi như vậy, nên nói tụng như sau.
Luận nói:
Chẳng đây cũng chẳng khác,
Phi trí mà là trí,
Cùng với cảnh không khác,
Trí thành vô phân biệt.
Giải thích: Trí vô phân biệt không duyên phân biệt tánh Y tha khởi. Vì không có phân biệt, không phải duyên phân biệt mà thành vô phân biệt, cũng không phải duyên chỗ khác để lấy làm cảnh giới, mà duyên pháp tánh phân biệt nầy làm cảnh giới. Pháp và pháp tánh, hoặc một hoặc khác đều không thể nói, nên trí nầy không thể quyết định nói duyên cảnh phân biệt hay cảnh phi phân biệt. Tự thể cũng vậy, không thể nói chắc là trí, như trí Gia hạnh và trí Hậu đắc không có phân biệt. Cũng không thể quyết chắc nói là phi trí, vì trí Gia hạnh làm nhân đầu tiên. "Cùng với cảnh không khác, trí thành vô phân biệt", không thể phân riêng đây là chủ thể nhận thức, đây là đối tượng nhận thức, vì chủ thể giữ lấy và đối tượng được giữ lấy không có phân biệt. Trí nầy cùng với cảnh không có tướng sai biệt, ví như hư không và cả thảy ánh sáng trong hư không, nên trí nầy thành vô phân biệt. Trong khế kinh khác nói tất cả pháp tánh không có phân biệt. Bây giờ sẽ giải thích.
Luận nói:
Phải biết tất cả pháp,
Bản tánh không phân biệt,
Không có chỗ phân biệt
Không phân biệt, trí không.
Giải thích: "Không có cái để phân biệt", nên nghĩa Biến kế sở chấp của cái để phân biệt vĩnh viễn không có. Trong khế kinh khác nói: "Tất cả pháp tánh không có phân biệt". Nếu tất cả pháp xưa nay tự tánh không có phân biệt, thì tại sao tất cả loài phi hữu tình từ xưa đến nay không khởi công dụng tự nhiên giải thoát, vì loài phi hữu tình kia không có Trí vô phân biệt. Do hữu tình kia đối với tất cả pháp tánh vô phân biệt hiện chứng chân trí xưa nay chưa sinh, nên các Bồ-tát… đối với vô số tánh của tất cả tánh pháp vô phân biệt làm nhân, chứng trí rồi mới sinh. Do đạo lý nầy nên các Bồ-tát… có thể đắc giải thoát, không phải các hữu tình khác. Tiếp theo sẽ hiển thị trí Gia hạnh… mỗi mỗi đều có ba thứ và năm thứ sai biệt.
Luận nói: "Trong đây trí Gia hạnh vô phân biệt có ba thứ sai biệt, là nhân duyên, dẫn phát và sổ tập (tập quen) nên sinh sai biệt".
Giải thích: Trí gia hạnh sinh khởi sai biệt do ba thứ lực: 1. Lực nhân duyên. 2. Lực dẫn phát. 3. Lực sổ tập. Lực nhân duyên là lực chủng tánh, hoặc có chủng tánh gặp duyên mạnh, nhanh chóng khởi gia hạnh. Như vậy chủng tánh của gia hạnh làm nhân mà được sinh khởi. Nói chủng tánh, là sáu xứ thù thắng từ vô thỉ đến nay, công năng của pháp nhĩ đắc quả Phật. Lực dẫn phát là trong đời trước đã luyện tập làm nhân mà phát khởi gia hạnh. Lực sổ tập lực là hiện tại niệm niệm tu tập, do lực sĩ dụng mà phát khởi gia hạnh.
Luận nói: "Trí căn bản vô phân biệt cũng có ba thứ sai biệt, là hỷ túc, vô điên đảo, và vô hý luận vô phân biệt".
Giải thích: Hỷ túc vô phân biệt, là đối với nghĩa thấp kém mà sinh vui mừng cho là đủ rồi. Đối với thắng tấn sau đó không mong cầu gọi là vô phân biệt, như đắc hai trí văn tư của thế gian, đối với ít phần nghĩa hoặc đã tin hiểu, hoặc đã quyết định rõ ràng thì liền sinh hỷ túc; hoặc như đã đắc tu huệ thế gian chứng đệ nhất các phiền não thô chấm dứt, coi việc đó là giải thoát cứu cánh thì liền sinh hỷ túc. Các loại như vậy đều gọi là trí hỷ túc vô phân biệt. Vô điên đảo vô phân biệt là các Thánh đệ tử kia do tu huệ, đối với khổ… nơi bốn đế khởi bốn hạnh vô đảo như vô thường…, không khởi thường… Phân biệt điên đảo, gọi là trí vô điên đảo vô phân biệt. Vô hý luận vô phân biệt là các Bồ-tát đối với vô thường… cũng không phân biệt, cho đến Bồ-đề cũng lìa hý luận, do lý vô phân biệt nơi tất cả pháp thoát khỏi tất cả nẻo danh ngôn, vượt qua tất cả cảnh giới của thế trí, do đó hý luận gọi là tiếng nói thế tục, thuộc về trí thế tục. Xa lìa trí nầy nên gọi là trí vô phân biệt không hý luận.
Luận nói: "Trí hậu đắc vô phân biệt có năm thứ là: Thông đạt, tùy niệm, an lập, hoà hợp, như ý và xét chọn về sai biệt".
Giải thích: Vì chỗ khởi riêng của nó, mà trí Hậu đắc nầy có năm thứ là thông đạt, tùy niệm…, tiếng xét chọn đều có trong mỗi thứ. Xét chọn thông đạt là đối với chân quyết định, đối với chân hiện quán nên gọi là thông đạt. Do trí Hậu đắc xét chọn chỗ đắc thông đạt như vậy, là do nó tự xét kỹ bên trong sự nầy như vậy, nên gọi là xét chọn thông đạt. Xét chọn tùy niệm là sau khi tùy niệm thông đạt, thì nghĩ: "Ta đã từng thông đạt sự này", nên gọi là xét chọn tùy niệm. Xét chọn an lập là từ tùy niệm lưu xuất, như chỗ thông đạt thì vì kẻ khác mà nói, nên gọi là xét chọn an lập. Xét chọn hoà hợp là quán duyên tổng tướng tất cả pháp, do quán nầy mà tiến đến chuyển y, hoặc đã chuyển y rồi khởi lại quán nầy, nên gọi là xét chọn hoà hợp. Xét chọn như ý là trí hiện tiền tùy chỗ tư duy, tất cả đều như ý, như khiến cho đất biến thành vàng, nên gọi là xét chọn như y. Tiếng xét chọn nầy, có ý muốn nói là trí ấy, trước đã nói bản tánh vô phân biệt của tất cả pháp, vì chỗ phân biệt không có. Làm sao biết được nghĩa của chỗ phân biệt thật ra là không có? Vì muốn thành lập cái không có kia nên nói nhiều bài tụng sau.
Luận nói:
Quỉ, bàng sinh, nhân, thiên,
Mỗi tùy chỗ thích ứng,
Sự đồng nhưng tâm khác,
Nhận nghĩa không chân thật.
Đối với sự quá khứ,
Mộng tượng trong hai ảnh,
Tuy sở duyên không thật,
Mà cảnh tướng thành tựu.
Nếu nghĩa tánh nghĩa thành,
Không Trí vô phân biệt,
Nếu không có quả Phật,
Chứng đắc không đúng lý.
Bồ-tát đắc tự tại,
Do lực của thắng giải,
Như muốn các địa thành,
Người đắc định cũng vậy.
Người lựa chọn thành tựu,
Người có trí đắc định,
Tư duy tất cả pháp,
Như nghĩa đều hiển hiện.
Trí vô phân biệt hành,
Các nghĩa đều không hiện,
Phải biết không có nghĩa,
Do đây cũng vô thức".
Giải thích: "Quỉ, bàng sinh, nhân, thiên", là đối với nhân loại thấy chỗ có nước thì ngạ quỉ thấy là lục địa cao nguyên, đối với nhân loại thấy nơi có phẩn uế, thì bàng sinh thấy là ẩm thực tịnh diệu, trong chỗ thấy vật bất tịnh của nhân loại thì ngạ quỉ, súc sinh thấy là thanh tịnh, chỗ thấy của nhân loại là ẩm thực tịnh diệu thì chư thiên thấy hôi dơ bất tịnh, không phải các sự trái nhau đồng tại một chỗ, nên nghĩa của Biến kế sở chấp không có. Nếu không có nghĩa, thì làm sao không cảnh thức được hiện hành? Tại sao chất vấn theo sư kinh Bộ của các ông? Các cảnh giới quá khứ và vị lai đều là không có thì làm sao trong đó được có trí chuyển? Lại nữa, các hình ảnh trong mộng hoàn toàn không có, thì làm sao trí khởi không phải trong chỗ nhỏ hẹp, mà tại một nơi dung chứa được chỗ duyên chân thật ảnh tượng sơn hà… của mộng trí. Lại nữa, chưa từng trải qua tự đoạn đứt đầu của mình thì làm sao mộng thấy nhớ thông được các sự việc trong đời trước? Lại nữa, trong mặt gương Tam-ma-địa, chỗ hiện hành của hai ảnh tượng không phải thật có, thì làm sao biết rõ được là tâm hiển hiện? Cho nên biết, ảnh tượng tự duyên nơi tâm "Mà cảnh tướng thành tựu", là tổng kết các cảnh của quá khứ và vị lai, dù không phải thật có, nhưng mà cảnh tướng thành tựu trong tự tâm. "Nếu nghĩa tánh nghĩa thành, không Trí vô phân biệt " là nếu nghĩa tánh của các cảnh nghĩa là thành thật, thì Trí vô phân biệt đáng lẽ không được thành, vì có phân biệt. "Nếu không có quả Phật, chứng đắc không đúng lý", là nếu trí thể vô phân biệt nầy không có, thì sự chứng đắc quả Phật là không đúng đạo lý, phải trở thành lỗi hại gốc, nên phải biết chỗ phân biệt nghĩa quyết định không phải thành thật. Lại nữa, cảnh nghĩa nầy quyết định không phải thật có. Tại sao vậy? "Bồ-tát đắc tự tại", là các Bồ-tát đắc đại tự tại. "Do lực của thắng giải", là do ý giải lực. "Như muốn các địa thành", là muốn đất thành vàng. "Người đắc định cũng vậy", trừ các Bồ-tát ra, là các Thanh-văn, Độc giác là người đắc tĩnh lự. "Người thành tựu chọn lựa", là người huệ đã thành mãn. "Người có trí", là người tương ưng với sự thành mãn chánh trí, nên Bồ-tát gọi là bậc có trí. "Đắc định" là đắc Tam-ma-địa. "Tư duy tất cả pháp" là chánh tư duy tất cả pháp đáng tán thán của khế kinh. "Như nghĩa đều hiển hiện" là lấy vô số hạnh vô ngã, như vậy như vậy tư duy các pháp của khế kinh, thì nghĩa của nó như vậy như vậy mà hiển hiện, nên phải biết ngay nơi tâm của tác ý như lý nầy tương tợ tướng của đối tượng giữ lấy và tướng của chủ thể giữ lấy nơi nó hiển hiện, các nghĩa ngoài đều là không có gì. "Trí vô phân biệt hành, các nghĩa đều không hiện", trong đây pháp tiếp theo chỗ nói trước thừa nhận nghĩa không phải lời nói chân thật, do Trí vô phân biệt của các Bồ-tát khi hiển hiện khởi hành thì tất cả nghĩa cảnh đều không hiển hiện, nên phải biết chỗ có nghĩa cảnh đều là không thật có. "Phải biết không có nghĩa, do đây cũng không thức", là kết khuyên phải biết nếu không có nghĩa cảnh thì do đó chủ thể là thức cũng không có. Không phải không có sở thức mà có năng thức mới đúng đạo lý. Trong phần rộng giải thích tướng của đối tượng nhận thức đã biện luận phân tích đầy đủ đạo lý như vậy.
Luận nói: "Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với Trí vô phân biệt không có sai biệt, như nói Bồ-tát an trụ Bátnhã Ba-la-mật-đa, là phi xứ tương ưng thì có thể đối với Ba-la-mật-đa chỗ khác mà tu tập viên mãn. Thế nào là phi xứ tương ưng tu tập viên mãn? Là do xa lìa năm thứ xứ (lĩnh vực): 1. Xa lìa xứ ngoại đạo ngã chấp. 2. Xa lìa xứ Bồ-tát chưa thấy chân như phân biệt. 3. Xa lìa xứ hai biên sinh tử, Niết-bàn. 4. Xa lìa xứ chỉ đoạn phiền não chướng sinh hỷ túc. 5. Xa lìa xứ không lưu tâm đến lợi ích an lạc của hữu tình trụ nơi quả là niết bàn vô dư y".
Giải thích: "Bát-nhã Ba-la-mật-đa cùng với Trí vô phân biệt không có sai biệt", vì tánh chất bằng nhau, là hết thảy Trí vô phân biệt tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong kinh đó nói như vầy: "Bồ-tát an trụ Bát-nhã Ba-la-mật-đa, là phi xứ tương ưng thì có thể đối với Ba-la-mật-đa khác mà tu tập viên mãn". Nghĩa nầy là sao? Là do xa lìa năm thức xứ, tức là xa lìa xứ ngoại đạo ngã chấp… sai biệt, trong đây nơi ở được gọi là xứ. "Xa lìa xứ ngoại đạo ngã chấp" là các ngoại đạo an trụ trong ngã chấp, họ nghĩ như vầy: "Ta có thể biết rõ đây là huệ của ta". Bồ-tát thì xa lìa các chỗ như vậy, không kế chấp ngã và ngã sở mà khởi Bát-nhã, Bồ-tát thì xa lìa các lĩnh vực như vậy, nên gọi là phi xứ tương ưng. "Xa lìa xứ Bồ-tát chưa thấy chân như mà phân biệt", là các chúng Bồ-tát chưa thấy chân như, đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Bồ-tát thì Trí vô phân biệt khởi các phân biệt "Đây là Bát-nhã Ba-la-mật-đa", Bồ-tát thì xa lìa các lĩnh vực như vậy, nên gọi là phi xứ tương ưng. Như có tụng nói:
Nếu có cái thấy,
Là ông bị trói,
Nếu không cái thấy,
Liền đắc giải thoát.
"Xa lìa xứ hai biên sinh tử Niết-bàn", là như thế gian trụ biên sinh tử, vì có ngã chấp, như Thánh đệ tử trụ biên Niết-bàn, vì đoạn phiền não. Bồ-tát thì không như thế, nên gọi là xa lìa xứ hai biên phi xứ tương ưng. "Xa lìa xứ chỉ đoạn phiền não chướng sinh hỷ túc", là Thanhvăn, Độc giác kế chấp tu tập lực đoạn phiền não chướng, tức là tất cả mọi cái cần làm đã làm đủ. Bồ-tát thì xa lìa các lĩnh vực như vậy, vì chúng có thể chướng ngại lợi ích an lạc cho các hữu tình. Như có tụng nói:
Không đến các cõi ác,
Cực chướng đại Bồ-đề,
Như trụ nơi Thanh-văn,
Và các địa Độc giác.
Bồ-tát xa lìa các lĩnh vực như vậy, nên gọi là phi xứ tương ưng "Xa lìa xứ không lưu tâm đến lợi ích an lạc của tất cả hữu tình, trụ nơi quả là Niết-bàn Vô dư y", là như Thanh-văn, Độc giác không đoái nhìn lợi ích an lạc của hữu tình, họ trụ trong cõi Niết-bàn Vô dư y, như lửa cháy củi, rốt ráo tịch diệt. Bồ-tát thì xa lìa các chỗ như vậy, Bát-nhã đại bi đầy đủ, có thể chánh an trụ Niết-bàn Vô trụ, do bỏ các xứ nầy, gọi là phi xứ tương ưng.
Luận nói: "Trí của Thanh-văn, Độc giác khác với trí của Bồ-tát chăng? Phải biết do năm thứ tướng khác: 1. Do không phân biệt sai biệt, là không phân biệt đối với pháp của các uẩn… 2. Do phi thiểu phần sai biệt, là đối với thông đạt chân như nhập tất cả loại cảnh giới nơi đối tượng nhận biết, rộng vì độ thoát tất cả hữu tình không phải ít phần. 3. Do vô trụ sai biệt, là Niết-bàn Vô trụ làm chỗ trụ. 4. Do tất cánh sai biệt, là trong cõi Niết-bàn vô dư y không có đoạn tận. 5. Do Vô thượng sai biệt, là trên thừa nầy không có thừa nào hơn nữa. Trong đây có tụng:
Các đại bi làm thể,
Do năm tướng thắng trí,
Trong thế xuất thế mãn,
Nói thừa nầy cao xa".
Giải thích: Trong đây chỉ rõ trí của Thanh-văn, Độc giác cùng với trí của Bồ-tát có năm tướng khác (sai biệt). "Không phân biệt sai biệt", là trí của Thanh-văn, Độc giác ngay trên bốn điên đảo gọi là vô phân biệt, trí của các Bồ-tát thì đối với tất cả pháp cho đến Bồ-đề đều là vô phân biệt, không phải phần ít sai biệt. Không phải phần ít sai biệt lại có ba thứ: 1. Thông đạt chân như phi thiểu phần sai biệt, là Thanh-văn, Độc giác khi nhập chân quán thì chỉ có thể thông đạt lý Bổ-đặc-già-la không, vô ngã, các Bồ-tát khi nhập chân quán thì thông đạt đầy đủ lý Bổ-đặc-già-la và hết thảy pháp không vô ngã. 2. Cảnh giới của đối tượng nhận thức không có phần ít sai biệt, là Thanh-văn, Độc giác chỉ có trí sinh trong khổ nơi bốn đế, thì gọi là chỗ làm đã đủ, các Bồ-tát thì rộng đối với tất cả cảnh giới đối tượng nhận thức mà trí vô đảo sinh mới gọi là tu tập chỗ làm đã đủ. 3. Chỗ hóa độ hữu tình không có phần ít sai biệt, là Thanh-văn, Độc giác chỉ cầu tự lợi, trí tận vô sinh, chánh cần tu hành; các Bồ-tát thì rộng vì tế độ tất cả các hữu tình mà cầu đại Bồ-đề. Đối với ba thứ không phần ít sai biệt nầy thì trí Thanh-văn và trí Bồ-tát có sai biệt. "Vô trụ sai biệt", là Thanh-văn, Độc giác chỉ trụ Niết-bàn; các Bồ-tát thì có đủ lực tăng thượng của bi huệ, lấy Niết-bàn Vô trụ làm chỗ trụ. "Tất cánh sai biệt", là hiển Thanh-văn, Độc giác cùng với các Bồ-tát trong Niết-bàn có sai biệt lớn, là Thanh-văn, Độc giác trụ trong Niết-bàn giới vô dư y, thân và trí vĩnh viễn hết sạch, như ngọn đèn đã tắt; các Bồ-tát khi được thành Phật thì chỗ chứng pháp thân cùng cõi sinh tử không có đoạn tận, như cõi Vô sắc tương tục không hoại, do trí sai biệt có sai biệt. "Vô thượng sai biệt", là trên Thanh-văn thừa có Độc giác thừa, trên Độc giác thừa có Đại thừa, Bồ-tát thừa đó tức là Phật thừa, không có thừa nào trên nữa. Do năm tướng nầy phải biết trí của Thanh-văn, Độc giác cùng với trí của Bồ-tát có sai biệt, lại lấy kệ để gồm thâu các nghĩa như vậy. "Năm tướng", tức là chỗ nói năm tướng sai biệt trên. "Trong thế, xuất thế mãn", là các tĩnh lự của cõi Vô sắc gọi là "Thế gian mãn". Chỗ đắc Niết-bàn của Thanh-văn thừa và Độc giác thừa gọi là xuất thế mãn, nhưng thừa nầy thù thắng hơn, nên nói "Cao xa".
Luận nói: "Nếu các Bồ-tát thành tựu như vậy, tăng thượng Thi-la, tăng thượng Chất-đa, tăng thượng Bátnhã, công đức viên mãn, đối với các tài vị đều đắc đại tự tại. Tại sao hiện thấy có các hữu tình thiếu thốn tài vị?
Vì thấy các hữu tình kia đối với tài vị có nghiệp chướng nặng, vì thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì chướng ngại việc sinh pháp thiện, vì thấy hữu tình kia nếu thiếu tài vị thì chán lìa hiện tiền, vì thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền tích tập nhân của pháp bất thiện, vì thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì liền khởi nhân tổn hại vô lượng hữu tình khác, nên hiện thấy có các hữu tình thiếu thốn tài vị (tiền của địa vị). Trong đây có tụng:
Thấy nghiệp chướng hiện tiền,
Vì tích tập tổn hại,
Hiện có các hữu tình,
Không cảm Bồ-tát thí".
Giải thích: Bây giờ sẽ hiển thị, do nhân duyên đó mà Bồ-tát tuy có tài vị tự tại nhưng không thí cho hữu tình kia, vì thấy họ có các tài vị có nghiệp chướng nặng" là các Bồ-tát thấy hữu tình kia đối với tài vị đó có nghiệp chướng nặng nên không thí cho, không làm cho huệ thí trống rỗng không có kết quả. Nếu có thí cho thì hữu tình kia cũng không nhận, nên cần gì phải thí. Như có tụng nói:
Như sữa mẹ nuôi con,
Một tháng qua không mệt,
Nếu cổ họng nghẹt, Thì
sữa mẹ làm gì!
"Vì thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì chướng ngại việc sinh pháp thiện", là các Bồ-tát thấy hữu tình kia tuy đối với tài vị không có nghiệp chướng nặng, nhưng nếu họ được tài vị viên mãn thì liền sinh phóng dật không khởi pháp thiện, Bồ-tát khởi nghĩ như vầy: "Thà là họ hiện pháp ít khi bần tiện, chớ để đời sau nhiều bần tiện", nên không thí chỗ có tài vị cho họ. "Vì thấy hữu tình kia nếu thiếu tài vị thì sự chán lìa hiện tiền", là các Bồ-tát thấy họ thiếu thốn tài vị thì tâm họ chán sinh tử liền hiện tiền, cầu muốn xuất ly. Nếu được phú quí thì liền sinh kiêu căng và phóng dật, nên không thí cho cho họ cả thảy tài vị, Bồ-tát nghĩ như vầy: "Thà là họ bần tiện mà tâm chán lìa sinh tử thường hiện tiền, chớ để cho họ phú quí thọ vui mà phóng dật, không chán sinh tử, không khởi pháp thiện". "Vì thấy họ nếu thí tài vị thì liền tích tập nhân của pháp bất thiện", là các Bồ-tát thấy họ nếu thí đầy đủ tài vị thì liền phóng dật, tích tập các thứ nghiệp ác bất thiện, nên không thí cho họ cả thảy tài vị. Như có tụng nói:
Thà là nghèo túng nơi tài vị,
Xa lìa cõi ác và hành ác,
Chớ để phú quí loạn các căn,
Chiêu cảm khổ khi nơi tương lai.
"Vì thấy hữu tình kia nếu thí tài vị thì họ liền khởi nhân tổn hại vô lượng hữu tình khác", là các Bồ-tát thấy họ nếu được phú quí thì liền tổn não vô lượng hữu tình, mà không thí tài vị cho họ, khởi nghĩ như vầy: "Thà hữu tình kia một thân thọ khổ bần tiện, chớ khiến cho tổn não nhiều hữu tình khác". Lại dùng kệ thâu tóm các nghĩa như vậy, nên nói thấy nghiệp chướng hiện tiền… Văn đó dễ hiểu không cần giải thích lại.
Luận nói: "Như vậy đã nói huệ tăng thượng thù thắng, quả đoạn thù thắng ấy làm sao thấy được? Đoạn là Bồ-tát đạt Niết-bàn Vô trụ, vì bỏ tạp nhiễm, không bỏ sinh tử, chuyển y của hai chỗ nương dựa làm tướng. Sinh tử trong đây là phần tạp nhiễm của tánh Y tha khởi, Niết-bàn là phần thanh tịnh của tánh Y tha khởi. Hai chỗ nương dựa là chung hai phần tánh Y tha khởi, chuyển y là ngay tánh Y tha khởi khi đối trị khởi là chuyển bỏ tạp nhiễm và chuyển đắc thanh tịnh phần ".
Giải thích: Trí vô phân biệt khả năng đối trị tất cả chỗ đối trị đã sinh, vì quyết định phải đoạn, vô gián nói là đoạn thù thắng. "Niết-bàn Vô trụ", không đồng với thế gian, Thanh-văn và Độc giác an trụ sinh tử hoặc Niếtbàn. "Vì bỏ tạp nhiễm, không bỏ sinh tử", là hại thế lực kia như độc chú và độc xà, tuy không buông bỏ nhưng không nhiễm. "Chuyển y của hai chỗ nương dựa làm tướng", hoặc giải Y chủ thích, hoặc giải thích Trì nghiệp, trụ chuyển y nầy như cõi Vô sắc, nếu nương vào tự lợi cùng với cộng tướng của huệ thù thắng tương ưng thì không dung chứa phiền não. Nếu nương vào lợi tha thì do cùng với cộng tướng của đại bi tương ưng nên hiện ở trong sinh tử mà không bỏ nó. Trong đây, cái gì là sinh tử và Niết-bàn? Nương vào chuyển y thì đều nên cần nói rõ. "Sinh tử là phần tạp nhiễm của tánh Y tha khởi", là phiền não mê loạn của tâm và tâm pháp, lỗi của sinh tử là tương tục bất tuyệt, là phần Biến kế sở chấp. "Niếtbàn là phần thanh tịnh của tánh Y tha khởi", là chuyển rốt ráo Biến kế sở chấp, là phần của Viên thành thật. "Hai chỗ nương dựa là chung hai phần tánh Y tha khởi", là tánh Y tha khởi của hai chỗ nương dựa. "Chuyển y là tánh Y tha khởi", là tánh Y tha khởi của tâm và tâm pháp, là các tạp nhiễm chuyển diệt chỗ dựa, lại cũng là chỗ dựa của tất cả pháp Phật. Như có người nói: "Đây là tất cả pháp Phật, là quả của các địa Ba-la-mật-đa. Các chỗ dựa làm sao chuyển y? Cái gì là chuyển y? Là tánh Y tha khởi khi khởi đối trị", là khi Trí vô phân biệt khởi. "Chuyển bỏ tạp nhiễm phần", là chuyển diệt tất cả tánh đối tượng giữ lấy và tánh chủ thể giữ lấy, chuyển đắc xa lìa đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy tự nội chứng, dứt bặt các hý luận tối phần thanh tịnh.
Luận nói: "Lại nữa, chuyển y nầy lược có sáu thứ: 1. Chuyển tổn lực ích chủ thể, là do lực thắng giải văn huân tập trụ, và do có hổ thẹn khiến cho phiền não ít phần hiện hành, hoặc không hiện hành. 2. Chuyển thông đạt, là các Bồ-tát đã nhập đại địa, đối với chân thật và phi chân thật mà hiển hiện và không hiển hiện, trụ hiện tiền cho đến sáu địa. 3. Tu tập chuyển, là có chướng, hết thảy tướng không hiển hiện, mà chân thật hiển hiện, cho đến mười địa. 4. Chuyển của quả viên mãn, là vĩnh viễn không có chướng, hết thảy tướng không hiển hiện mà chân thật tối thanh tịnh hiển hiện, đối với hết thảy tướng đắc tự tại. 5. Chuyển thấp kém, là Thanh-văn, Độc giác chỉ có thể thông đạt Bổ-đặc-già-la không, tánh vô ngã, hoàn toàn trái nghịch sinh tử, hoàn toàn bỏ sinh tử. 6. Chuyển quảng đại, là các Bồ-tát thông đạt gồm cả pháp không tánh vô ngã, là đối với sinh tử, thấy là tịch tĩnh, dù đoạn tạp nhiễm nhưng không xả nó. Nếu các Bồ-tát trụ nơi chuyển thấp kém thì có lỗi gì? Vì không chú tâm tới sự lợi ích an lạc của tất cả hữu tình, trái nghịch tất cả pháp Bồ-tát, cùng giải thoát thừa thấp, là lỗi đó. Nếu các Bồ-tát trụ chuyển quảng đại thì có công đức gì? Trong pháp sinh tử lấy tự chuyển y làm chỗ nương dựa vì đắc tự tại, đối với tất cả cõi thị hiện thân của tất cả hữu tình, các thứ điều phục trong sinh tối thắng và ba thừa, phương tiện thiện xảo an lập các hữu tình đã được mình dạy bảo, đó là công đức".
Giải thích: "Chuyển tổn lực ích năng", là do lực thắng giải và lực văn huân tập, tổn giảm nương dựa trong thức dị thục, phiền não huân tập tăng ích chỗ tu tập công năng của pháp tịnh. Lại nữa, do trụ nơi thắng giải văn huân tập có hổ thẹn, khiến cho phiền não ít phần hiện hành, hoặc không hiện hành.
"Chuyển thông đạt", là các Bồ-tát đã chứng nhập đại địa, đối với chân và phi chân hiện hoặc không hiện, Trí vô phân biệt có hữu gián và vô gián mà hiện hành, hoặc lúc đó là chân hiện, khi nhập quán thì hoặc là phi chân hiện, khi xuất quán thì phi chân và chân trong hai thời nầy theo thứ tự của nó mà nói hiện và không hiện, hiện và bất hiện nầy cho đến sáu địa.
"Chuyển tu tập", do sở tri chướng gọi là hữu chướng, vị chuyển y nầy cho đến mười địa các tướng đều không hiện, chỉ có chân mới hiển hiện.
"Chuyển quả viên mãn", do cả thảy chướng gọi là vô chướng, vì mọi chướng vĩnh viễn không có, đắc hết thảy tướng thì tướng đều không hiển hiện, đắc tối thanh tịnh thì chân thật hiển hiện, dựa vào chuyển y nầy mà đối với hết thảy tướng đắc đại tự tại, đối với các tướng đắc tự tại, tùy chỗ ưa thích mà lợi lạc hữu tình.
"Chuyển thấp kém…", lời văn đó dễ hiểu, khỏi phiền giải thích lại. "Chuyển quảng đại", là đoạn tạp nhiễm mà không bỏ nó, vì trong sinh tử đạt vô ngã, đoạn các tạp nhiễm tức là trong đó thấy rõ tịch tĩnh mà không xả. "Trụ nơi chuyển thấp kém thì có lỗi gì…", văn đó dễ hiểu. "Trụ nơi chuyển quảng đại thì có công đức gì…" là đối với tất cả pháp, đắc tự tại, đối với tất cả cõi thị hiện tất cả thân đồng phận, các thứ phương tiện thiện xảo điều phục, an lập chỗ hoá độ các hữu tình có chiêu cảm, đặt vào nơi sinh tối thắng và ba thừa. Sinh tối thắng, là xứ sinh an lạc của các thế gian. Phải biết đây là pháp công đức.
Luận nói: Trong đây có nhiều bài tụng:
Phàm phu che lấp chân,
Hoàn toàn hiển hư vọng,
Các Bồ-tát xả vọng,
Hoàn toàn hiển chân thật.
Phải biết hiển, bất hiển,
Chân nghĩa, phi chân nghĩa,
Chuyển y là giải thoát,
Tùy dục tự tại hành.
Trong sinh tử, Niết-bàn,
Nếu khởi trí bình đẳng,
Lúc đó do chứng nầy,
Sinh tử tức Niết-bàn.
Vì thế trong sinh tử,
Phi xả, phi bất xả,
Cũng tức là Niết-bàn,
Phi đắc, phi bất đắc.
Giải thích: Để hiển bày chuyển y nên lại nói nhiều bài tụng. "Phàm phu che lấp chân…", là vì phàm phu chưa đoạn vô minh, chân nghĩa không hiển nên gọi là "Che lấp ", vì lực vô minh nên tất cả hư vọng đều hiển hiện. Bồ-tát thì không như vậy, vì đã đoạn vô minh, thông đạt hư vọng đều là không có nên gọi là "Xả vọng", chỉ có chân nghĩa hoàn toàn hiển hiện. Do đạo lý nầy phải biết "Phải biết hiển, bất hiển, chân nghĩa, phi chân nghĩa", là chân nghĩa của Viên thành thật hiển hiện, phi chân thật nghĩa của Biến kế sở chấp đều không hiển hiện. "Chuyển y", là phi chân nghĩa đều không hiển hiện, cả thảy chân nghĩa đều hiển hiện, nên gọi là chuyển y. "Là giải thoát", thì chuyển y gọi là giải thoát. "Tùy dục tự tại hành", là chuyển y nầy giải thoát tự tại. Đối với thế gian, đắc tùy dục hành, do tùy chỗ mong muốn mà chỗ tạo tác tự tại nên gọi là giải thoát, không giống như bị chém đầu xả ly thân mạng gọi là giải thoát. "Trong sinh tử, Niếtbàn, nếu khởi trí bình đẳng", tự tánh Biến kế sở chấp gọi là sinh tử, tánh nầy tức vô tánh, vô tánh tức không, không tức Niết-bàn, là tánh Viên thành thật. "Do đó trong sinh tử, phi xả, phi bất xả…", tức sinh tử là Niết-bàn nên gọi là phi xả, không có sinh tử trở lại gọi là tưởng chuyển, nên gọi là phi bất xả, không phải lìa sinh tử riêng đắc Niết-bàn nên gọi là phi đắc, ngay trong phi đắc nầy mà chứng Niết-bàn nên gọi là phi bất đắc.
--------------------------------
Luận nói: "Như vậy đã nói quả đoạn thù thắng, quả trí thù thắng ấy làm sao thấy được? Phải biết là do ba thân Phật mà quả trí là thù thắng: 1. Do thân tự tánh. 2. Do thân thọ dụng. 3. Do thân biến hóa. Thân tự tánh trong đây là pháp thân của các Như Lai, vì nhất thiết pháp tự tại chuyển nơi chỗ nương dựa. Thân thọ dụng, là nương vào pháp thân chỗ hiển chúng hội của vô số chư Phật, lấy pháp lạc Đại thừa của cõi Phật thanh tịnh làm chỗ thọ nhận thân biến hóa cũng nương vào pháp thân, từ thiên cung Đỗ-sử-đa mà hiện và ẩn, thọ sinh, thọ dục, vượt khỏi thành xuất gia, đến chỗ tu khổ hạnh của các ngoại đạo, chứng đại Bồ-đề, chuyển đại pháp luân, nhập đại Niết-bàn".
Giải thích: Do đoạn cái cần đoạn trừ mà đắc trí vô cấu vô ngại, gọi là đoạn thù thắng vô gián, tiếp theo nói quả trí thù thắng. Trong thân tự tánh, vì không phải giả mượn chỗ lập nên gọi là tự tánh, là chỗ nương dựa nên gọi là thân, pháp tánh tức là thân nên gọi là pháp thân, hoặc là chỗ dựa của các pháp gọi là pháp thân. Nói "Nhất thiết pháp tự tại chuyển chỗ nương dựa", là đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển cũng là chỗ nương dựa nên gọi là nhất thiết pháp tự tại chuyển chỗ nương dựa, hoặc là nương vào giải thích trì nghiệp. Trong "Thân thọ dụng là nương vào pháp thân", là do có kia nên có đây. "Chỗ hiển chúng hội của vô số chư Phật", tức là có cõi Phật có đại Bồ-tát tụ tập nhiều như mây. Do đó mà hiểu rõ nên gọi là "Chỗ hiển", tức là cõi tây phương cực lạc… "Lấy pháp lạc Đại thừa của cõi Phật thanh tịnh làm chỗ thọ nhận", là trong cõi Phật thanh tịnh thọ dụng vô số pháp lạc Đại thừa, lãnh hội nghĩa lý, hoặc trong cõi Phật quốc độ thanh tịnh mà thọ dụng vô số các báu kim, ngân… chư Phật Bồ-tát lần lượt thọ dụng diệu pháp thân, lại thọ vô số nghĩa pháp của khế kinh, an lập tự tướng và cộng tướng. Cái gì là chỗ dựa, và cái gì dựa? Là trí vô cấu vô ngại trên, do lực tăng thượng của diệu trí nầy nên có thể khiến cho an trụ giải thoát bất khả tư nghì, đã nhập đại địa các đại Bồ-tát thì cõi Phật thanh tịnh pháp lạc Đại thừa tướng hiện trí sinh. Trong "Thân biến hóa cũng nương vào pháp thân", như trước đã nói, là do quả trí lực thù thắng, từ thiên cung đỗ-sử-đa mà hiện và ẩn, cho đến nhập Niết-bàn. Điều nầy có thể khiến cho trong sự tương tục khác cùng với người thức đồng phận tương ưng sinh khởi.
Luận nói: "Trong đây nói một bài tụng:
Tướng chứng đắc tự tại,
Nương dựa và thâu giữ,
Đức sai biệt thậm thâm,
Niệm nghiệp minh chư Phật".
Giải thích: Lược nêu nghĩa chung gọi là Ôn-đà-nam. "Chứng đắc…", là nghĩa được nêu lên.
Luận nói: "Pháp thân của chư Phật lấy gì làm tướng? Phải biết, pháp thân lược có năm tướng".
Giải thích: Ban đầu là nêu chung về tướng có năm thứ, sau lại thêm chuyển y… để giải thích riêng năm tướng.
Luận nói: "1. Chuyển y làm tướng, là chuyển diệt hết thảy chướng thuộc phần tạp nhiễm tánh Y tha khởi, chuyển đắc giải thoát hết thảy chướng, đối với pháp tự tại chuyển, hiện tiền phần thanh tịnh tánh Y tha khởi".
Giải thích: "Chuyển diệt hết thảy chướng thuộc phần tạp nhiễm tánh Y tha khởi", là chuyển phần tạp nhiễm nơi tánh Y tha khởi, tợ tướng của đối tượng giữ lấy và tướng của chủ thể giữ lấy, khiến vĩnh viễn không sinh. "Chuyển đắc giải thoát hết thảy chướng, đối với pháp tự tại chuyển hiện tiền phần thanh tịnh tánh Y tha khởi", là chuyển đắc chỗ hiển chân như ly cấu nơi tánh thành thật của vô tánh đối tượng giữ lấy, chủ thể giữ lấy và đắc đối với tất cả pháp tự tại mà chuyển, nhân hiện tiền cực thành phần thanh tịnh tánh Y tha khởi.
Luận nói: "2. Pháp trắng được tạo thành làm tướng, là sáu Ba-la-mật-đa viên mãn đắc mười tự tại. Trong đây thọ mạng tự tại, tâm tự tại, các vật dụng tự tại, đều do Thí Ba-la-mật-đa viên mãn, nghiệp tự tại, sinh tự tại, do Giới Ba-la-mật-đa viên mãn; thắng giải tự tại, do Nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn; nguyện tự tại, do Tinh tấn Ba-la-mật-đa viên mãn; thần lực tự tại thâu tóm của năm thông, do Tĩnh lự Ba-la-mật-đa viên mãn, trí tự tại và pháp tự tại, do Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn".
Giải thích: "Pháp trắng được thành làm tướng" là chỗ đắc chuyển y của các Thanh-văn chỉ là chỗ hiển phiền não vĩnh viễn đoạn, không có pháp trắng được thành làm tướng. Nếu chỗ đắc chuyển y của Bồ-tát tu tập sáu Ba-la-mật-đa cực viên mãn, thì mười thứ tự tại của tự tánh pháp trắng lấy làm tướng của nó, trong lúc đó không có một niệm nào là phần vô ký, huống chi là phần nhiễm ô. Từ đây trở xuống giải thích mười tự tại. "Thọ mạng tự tại", là tùy chỗ muốn mà có thể xả mạng. "Tâm tự tại", là đối với sinh tử không có nhiễm ô. Lại nữa, tùy ý lạc có thể chánh vì người khác mà dẫn thâu nhiều thứ vật dụng, trong đó tự tại vận chuyển tâm nên gọi là tâm tự tại. "Các vật dụng tự tại", là các thứ vật dụng ăn uống để nuôi sống, tùy ý ưa thích có thể tích tập. Nghĩa của các vật dụng và tư tài là một. "Do thí Ba-la-mật-đa viên mãn", là do pháp thí, tài thí và vô uý thí viên mãn, như cái cần đắc là quả nầy. "Nghiệp tự tại", là đối với các nghiệp đắc đại tự tại, chỉ làm thiện nghiệp, không làm nghiệp ác và nghiệp vô ký. Trong đó khuyến khích người làm thiện. "Sinh tự tại", là đối với tất cả xứng chỗ sinh, như chỗ muốn của nó là hiện thọ sinh. "Do Giới Ba-lamật-đa viên mãn", hai tự tại là quả Thi-la, vì người đủ giới chỉ tạo thiện nghiệp. Lại nữa, chỗ nguyện của người đủ giới đều được thành tựu. "Thắng giải tự tại", là đối với đất… mà phát khởi thắng giải khiến cho thành vàng…, như chỗ thắng giải mà đất… vàng… tùy theo thắng giải chuyển. "Do Nhẫn Ba-la-mật-đa viên mãn", vì tự tại nầy chính là quả của nhẫn, như nhân khi xưa ưa thích tu nhẫn, tùy theo chỗ ưa thích của tâm các hữu tình mà chuyển, bây giờ đạt được đất… Vàng… tùy theo thắng giải chuyển. "Nguyện tự tại", là tùy theo chỗ nguyện mà tất cả sự được thành. "Do Tinh tấn Ba-lamật-đa viên mãn", tự tại nầy là quả của tinh tấn, do nhân khi xưa tu tinh tấn, đối với các sự lợi lạc của các hữu tình không có biếng trễ bỏ phế, nên đến bây giờ thì chỗ nguyện được tự tại. "Thần lực tự tại chỗ thâu tóm của năm thông", là tùy ý lạc mà dẫn phát vô số thần thông tối thắng. "Do Tĩnh lự Ba-la-mật-đa viên mãn", tự tại nầy là quả của tĩnh lự, do nhân khi xưa ưa thích tu định, nên tùy chỗ đáng làm của các hữu tình mà chứng nhập vô số tĩnh lự đẳng chí, đến hiện tại thì đắc chỗ khởi thần thông tự tại của định. "Trí tự tại", là tùy chỗ có các thứ ngôn âm, trí hiện tiền. "Pháp tự tại", là tùy theo ý lạc mà nói các pháp đáng tán thán của khế kinh. "Do Bát-nhã Ba-la-mật-đa viên mãn", tự tại nầy là quả của Bát-nhã, do nhân khi xưa ưa thích tu tập huệ, tùy theo loại âm thanh mà nói chánh pháp, nên bây giờ được Bát-nhã thù thắng, khéo đạt ngôn âm, khéo nói chánh pháp.
Luận nói: "3. Vô nhị làm tướng, là có không vô nhị làm tướng, vì tất cả pháp là không có, nên chỗ hiển tướng của không là thật có. Hữu vi, vô vi, vô nhị làm tướng, không phải cái do nghiệp phiền não tạo tác. Tự tại thị hiện hữu vi làm tướng, Dị tánh, Nhất tánh, Vô nhị làm tướng, vì tất cả chỗ dựa của Phật vô sai biệt, nên vô lượng tương tục hiện đẳng giác. Trong đây có hai bài tụng:
Vì ngã chấp không có,
Trong đó không nương riêng,
Tùy năng chứng trước riêng,
Nên nêu bày có khác.
Chủng tánh dị, phi hư,
Viên mãn không ban đầu,
Vô cấu dựa vô biệt,
Nên phi nhất, phi đa.
Giải thích: "Có không vô nhị làm tướng", là không phải hữu tướng, vì tất cả pháp Biến kế sở chấp đều không có, cũng không phải vô tướng, vì chỗ hiển tự tánh của không là có. "Hữu vi, vô vi, vô nhị làm tướng, không phải cái do nghiệp phiền não tạo tác, nên không phải hữu tướng". Đối với nơi có thể thị hiện tợ pháp Hữu vi, đắc đại tự tại, nên niệm niệm thị hiện tợ hữu vi không phải tướng vô vi. "Dị tánh, nhất tánh vô nhị làm tướng", vì thể pháp thân của Phật chính là nhất, nên không phải dị tướng, vô lượng chỗ dựa mỗi mỗi đều chứng riêng nên không phải nhất tướng, đồng thời nhất, vô nên gọi là tướng vô nhị. Lại lấy hai bài tụng để thâu tóm nghĩa như vậy khiến cho dễ hiểu. "Vì ngã chấp không có…", là nếu tại nơi đó có ngã chấp của nó thì cho tự là ngã, cho bên ngoài là tha, tức là trong đó có phân biệt tự, tha, thử, bỉ mỗi mỗi khác. Trong pháp thân không có ngã chấp nên không có phân biệt, thử, bỉ, có, khác. Nếu vậy tại sao nói có nhiều Phật? "Tùy chủ thể chứng trước riêng, nên nêu bày có khác", là tùy vị năng chứng của Bồ-tát riêng khác mà nêu bày có khác. Tùy thuận danh ngôn của thế gian vô ngã nói đây là Thích-ca-mâu-ni, đây là Phật thắng quán… "Chủng tánh dị", là bản tánh nhân có sai biệt, không phải chỉ có một vị Phật. Chủng tánh có hai thứ: 1. Chủng tánh bản tánh trụ, là vô thỉ đến nay sáu xứ thù thắng, lần lượt tương ưng chỗ đắc của pháp nhĩ. 2. Chủng tánh tập sở thành, là lực thiện hữu… từ trước đến nay luôn luôn luyện tập tạo thành, vì chủng tánh bản tánh trụ có sai biệt. Chủng tánh tập sở thành có nhiều chủng loại, vì nhiều chủng tánh, chấp chỉ có một vị Phật, không có Phật nào khác nữa là không đúng đạo lý. "Phi hư", là có nhiều Bồ-tát nương vào chủng tánh trước, mỗi mỗi vị đều riêng tu tập tư lương Bồ-đề, nếu lìa một vị Phật một lần chứng Bồ-đề thì không có chỗ chứng nào khác, tu tập tư lương kia đáng lẽ trống rỗng không có quả là không đúng đạo lý. "Viên mãn", là chư Như Lai đối khắp với chỗ hoá độ hữu tình mỗi mỗi riêng biệt mà thành lập chánh sự lợi ích an lạc, là đối với ba thừa như phải an lập. Nếu chỉ có một vị Phật, thì không thể an lập hữu tình đặt vào Phật thừa, vì không có vị Phật thứ hai, thì việc làm Phật sự của Như Lai không được viên mãn, nên quyết định phải thừa nhận có nhiều Phật. "Không ban đầu", là các Như Lai trước khi xuất thế, cũng như sự sinh tử không có tối sơ, lìa tu tập tư lương kia thì tự nhiên thành Phật là không đúng đạo lý, vì lìa phụng sự Phật mà có thể tu tập tư lương là không đúng đạo lý. Do đấy, quyết định không phải chỉ có một vị Phật. Lại nữa, không nên chấp quyết định có nhiều Phật, vì chỗ dựa của vô cấu là vô sai biệt, pháp giới vô lậu gọi là chỗ dựa vô cấu, do trí thù thắng rốt ráo loại trừ khách trần cấu, trong chân pháp giới vô lậu nầy, không thể quyết định chấp chư Phật có khác nhau, nên chư Phật là phi nhất phi đa (không phải một, không phải nhiều).
Luận nói: "4. Thường trụ làm tướng, là tướng chân như thanh tịnh do bản nguyện dẫn khởi, sự nên làm không hẹn ngày xong".
Giải thích: Hằng không biến dị, tiếp nối không dứt, nên nói thường trụ là tướng. Do ba nhân duyên thành lập tướng nầy. "Tướng chân như thanh tịnh", đây là hiển tánh chân như thường không biến đổi, hiển thành quả Phật nói là tánh pháp thân. Nếu biến đổi thì không phải chân như, nên là thường trụ. "Do bản nguyện dẫn", là các Như Lai trước hết đều phát đại nguyện như vầy: "Ta sẽ độ thoát vô lượng hữu tình, giúp họ bát Niết-bàn, ai chưa bát Niết-bàn thì được bát Niết-bàn, nguyện chỗ dẫn quả tương tục bất tuyệt, nên là thường trụ. Bản nguyện dẫn khởi nầy lìa tương tục, thì đạo lý của thường không thành. "Sự nên làm không hẹn ngày xong", đại nguyện trên là sự nên làm không hẹn ngày xong, các loại hữu tình vô lượng vô biên, cho đến hữu tình tương tục bất tuyệt, sự đáng làm của Phật hằng không đoạn nên gọi là thường.
Luận nói: "5. Bất khả tư nghì là tướng, là chân như thanh tịnh tự nội chứng, không có thí dụ nào của thế gian có thể thí dụ được, vì không phải hành xứ của các tầm tư".
Giải thích: "Tư nghì", là nương vào đạo lý mà suy tư quan sát kỹ, khởi trí phân biệt chỗ thâu tóm của tầm tư để thí dụ chỗ hiển bày, chư Phật không phải xứ hành nầy nên bất khả tư nghì, vì vượt qua tất cả địa tâm tư, chỉ nên tin hiểu mà không nên xét bàn.
Luận nói: "Lại nữa, làm sao chứng đắc pháp thân đầu tiên như vậy? Là duyên vào tổng tướng nơi pháp Đại thừa với cảnh Trí vô phân biệt và trí Hậu đắc, khéo tu năm tướng, đối với tất cả địa khéo tập hợp tư lương, định kim cương dụ phá diệt các chướng vi tế khó phá, định nầy lìa tất cả chướng vô gián nên đắc chuyển y".
Giải thích: Tín giải cũng gọi là mới đắc pháp thân, pháp hạnh cũng vậy, để lựa riêng với tín giải kia nên nói là hiện chứng đắc, chỉ nói chứng đắc không phải sinh khởi, vì thể thường trụ. "Duyên vào tổng tướng…", nghĩa của câu nầy dễ hiểu. "Khéo tu năm tướng", là vô sinh vô diệt, xưa nay tịch tĩnh, tự tánh Niết-bàn và vô tự tánh gọi là năm tướng. Lại nữa, tập hợp chung về năm tướng khéo tu làm thành năm quả là trong niệm niệm tiêu tan tất cả chỗ dựa thô trọng, lìa các thứ tưởng đắc lạc pháp uyển, có thể hiểu biết khắp vô lượng, vô phần hạn tướng, đại pháp quang minh thuận phần thanh tịnh, không có sự phân biệt, không có tướng hiện hành. Vì khiến cho pháp thân thành tựu viên mãn, có thể thâu nhận đúng các nhân thắng. "Phá diệt các chướng vi tế khó phá", là hiển thị nhân của định kim cương dụ ví như kim cương, tánh nó kiên cố, có thể phá trừ các thứ khó phá, như vậy định nầy siêu vượt các loại định thấp, có thể phá trừ các thứ không khó phá nhiễm vô tri, có thể phát sinh trí đạo Vô thượng nên ví như kim cương. "Định nầy vô gián, lìa tất cả chướng nên đắc chuyển y", do Trí vô phân biệt và trí Hậu đắc chứng chuyển y và đắc pháp thân của Phật.
Luận nói: "Lại nữa, pháp thân do bao nhiêu tự tại mà đắc tự tại? Lược do năm thứ: 1. Tự thân tướng hảo vô biên âm thanh và tướng vô kiến đảnh tự tại, vì chuyển y sắc uẩn. 2. Do vô tội vô lượng lạc trụ quảng đại tự tại, vì chuyển y thọ uẩn. 3. Do biện thuyết hết thảy danh thân cú thân văn thân tự tại, vì chuyển y tưởng uẩn. 4. Do hiện hoá biến dịch dẫn dắt đại chúng dẫn dắt pháp trắng tự tại, vì chuyển y hành uẩn. 5. Do trí viên cảnh, bình đẳng, quán sát thành chỗ tạo tác tự tại, vì chuyển y thức uẩn".
Giải thích: Do chuyển y năm uẩn nên đắc năm tự tại. Các Thanh-văn, Độc giác sợ khổ nên đoạn các uẩn vĩnh viễn, giống như người ngu tự xả bỏ thân mạng. Nếu các Bồ-tát thâu tóm phương tiện xảo chuyển diệt sắc nơi năm uẩn có tội, chuyển khởi sắc nơi năm uẩn vô tội, giống như người bị bệnh phong hủi cầu lương dược, chuyển thân có bệnh thành thân không bệnh. Trong đây vì chuyển y sắc uẩn mà được thị hiện cõi Phật tự tại, như chỗ muốn hiện kim ngân nơi các cõi Phật thì có thể thị hiện tự thân tự tại, tùy chỗ tâm nghĩ đều có thể thị hiện. Trong các thứ hội đại tập đó, tùy chỗ hoá độ thích nghi của hữu tình mà mỗi mỗi đều hiện riêng. Đắc chủ thể thị hiện tướng hảo tự tại, là tùy chỗ ưa thích mà thị hiện các thứ diệu tướng hảo. Đắc chủ thể thị hiện vô biên âm thanh tự tại và tướng vô kiến đảnh tự tại, là thị hiện âm thanh của Phật vô lượng vô biên và thị hiện tướng đảnh của Phật không thể thấy. Vì chuyển y thọ uẩn, phải biết là đắc vô tội vô lượng lạc trụ quảng đại tự tại. Ở đây lìa phiền não nên gọi là vô tội, có rất nhiều nên gọi là vô lượng, vượt hơn tất cả lạc của ba cõi giới nên là lạc quảng đại. Vì chuyển y tưởng uẩn mà đắc chủ thể biện thuyết hết thảy danh thân cú thân văn thân tự tại, vì tướng của chủ thể giữ lấy là tự tánh của tưởng, do thâu tóm tư lương như vậy làm nhân mà chuyển đắc công chủ thể sai biệt như vậy, do công năng ấy có thể đối với các sự danh thân… tùy chỗ muốn có thể trụ tự tại. Vì chuyển y hành uẩn nên đắc chủ thể hiện hoá biến dịch dẫn dắt đại chúng dẫn dắt pháp trắng tự tại, vì tư trong hành uẩn rất thù thắng, do tư nầy nên đối với hiện hoá… tự tại. "Chủ thể chuyển hiện hoá tự tại", là như chỗ muốn đó mà có thể hiện hoá một cách tự tại. "Biến dịch tự tại", là như chỗ muốn đó mà chuyển biến đất… thành vàng… "Dẫn dắt đại chúng tự tại", là như chỗ ưa thích của ý có thể dẫn dắt đại chúng của chư thiên. "Dẫn dắt pháp trắng tự tại", là như chỗ ưa thích của ý mà khiến cho pháp vô lậu hiện tiền. "Do chuyển thức A-lại-da… tám sự thức uẩn, đắc bốn diệu trí như đại viên cảnh", như số thứ tự hoặc tùy chỗ thích ứng, phải biết trong đây vì chuyển thức A-lại-da nên đắc trí đại viên cảnh, tuy cảnh được nhận biết không hiện tiền nhưng có thể không quên suốt vô hạn thời và xứ, đối với tất cả cảnh thường không ngu mê, hành vô phân biệt có thể khởi thọ dụng ảnh tượng của trí Phật. Vì chuyển mạt-na nhiễm ô nên đắc trí bình đẳng tánh, khi bắt đầu hiện quán thì trước tiên đã chứng đắc đối với vị tu đạo chuyển thanh tịnh trở lại, do đây mà an trụ Niết-bàn Vô trụ, đại từ đại bi hằng tương ưng, có thể tùy chỗ ưa thích mà hiện ảnh tượng của Phật. Vì chuyển ý thức mà đắc trí diệu quán sát, đầy đủ tất cả môn Đà-la-ni, môn Tam-ma-địa, cũng như bảo tạng, trong hội đại tập có thể hiện tất cả tác dụng tự tại, có thể đoạn các nghi, có thể tuôn mưa pháp. Vì chuyển năm thức nên đắc trí thành sở tác, rộng khắp mười phương tất cả thế giới, có thể hiện biến hóa từ thiên cung Đỗ-sử-đa ẩn mất cho đến Niết-bàn, có thể hiện trụ giữ sự lợi lạc của tất cả hữu tình.
Luận nói: "Lại nữa, phải biết pháp thân do bao nhiêu thứ xứ nương dựa? Lược do ba xứ:
1. Do nương dựa vô số Phật trụ. Trong đây có hai bài tụng:
Chư Phật chứng đắc năm tánh hỷ,
Đều do đẳng chứng nơi tự giới,
Lìa hỷ do không chứng giới nầy,
Nên người cầu hỷ phải cùng chứng.
Do chủ thể vô lượng và sự thành,
Pháp vị, nghĩa đức đều viên mãn,
Đắc hỷ tối thắng không có lỗi,
Vì chư Phật thấy thường vô tận.
2. Do vô số thân thọ dụng nương dựa, là chỉ vì thành thục các Bồ-tát.
3. Do vô số thân biến hóa nương dựa, phần nhiều là vì thành thục Thanh-văn, Độc giác".
Giải thích: "Phải biết do bao nhiêu thứ xứ nương dựa", đây là hỏi pháp thân cùng với bao nhiêu thứ pháp làm chỗ nương dựa. "Lược do ba thứ", nói rộng tức là vô lượng công đức nương dựa, hiện tại là lược nói thì chỉ do ba xứ. "Do nương dựa vô số Phật trụ", là do chỗ đắc pháp thân của các Như Lai cùng với các thứ thiên trụ,
Thánh trụ, phạm trụ là chỗ nương dựa. Trong chư thiên trụ, Như Lai phần nhiều trụ tại đệ tứ tĩnh lự. Trong các Thánh trụ, Như Lai phần nhiều trụ tại môn giải thoát không. Trong các phạm trụ, Như Lai phần nhiều trụ tại bi. Như vậy vô số sở trụ của Như Lai là thù thắng hơn Thanh-văn, Độc giác. Để hiển chỗ chứng Niết-bàn của Như Lai thù thắng hơn chỗ đắc Niết-bàn của Thanh-văn, Độc giác nên nói tụng: Chư Phật chứng đắc năm tánh hỷ… "Chứng tự giới", là chứng tự pháp giới, đối với tu trị nầy đang là khởi chứng nên gọi là "Đẳng chứng". "Lìa hỷ" là nói các Như Lai chứng tự pháp giới, an trụ năm hỷ, chỗ chứng của các Thanh-văn, Độc giác cũng như bị chém đầu, Niết-bàn vĩnh viễn diệt mất, như vậy xa lìa hoan hỷ tối thắng. "Người cầu hỷ phải đồng chứng", là các Bồ-tát siêng cầu năm hỷ thì phải chánh cầu chứng chân pháp giới nầy. Những gì là năm? Vì chỗ cầu là thắng hỷ nên tiếp theo nói "Do có thể vô lượng và sự thành…", là vì nhân khác nhau nên chỗ hỷ cũng khác nhau. "Năng", là gắng nhận. "Vô lượng", là vượt hơn vô lượng số cát sông Hằng là cả thảy gắng nhận của chư Phật Như Lai, đồng nương pháp thân. Tất cả, hoà tạp đều bình đẳng không khác nhau, vì thấy khả năng vô lượng như vậy nên sinh đại hoan hỷ. "Và", có nghĩa là cùng chung lại. "Sự", là cái cần làm, là tất cả sự lợi lạc của hữu tình, tùy năng lực mà họ có, không điên đảo mà an lập vào ba thừa. "Thành", là thành tựu, là làm thành, trải qua vô lượng thời, chỗ tạo tác sự nầy chuyển biến vô ngại. Do thấy có thể gánh vác, nên cái cần làm cũng vô lượng, nên sinh đại hoan hỷ. "Pháp vị", là pháp vị Vô thượng của khế kinh, là chỗ đắc vị lý của chứng chân đế. "Nghĩa đức đều viên mãn", là công đức của các thần thông… được viên mãn, do thấy pháp vị cũng vô lượng, thấy nghĩa viên mãn cũng vô lượng, thấy đức viên mãn cũng vô lượng mà sinh đại hoan hỷ. Lại có chỗ nói, "Nghĩa" là Niết-bàn, "Đức" là tùy chỗ khởi công đức của lạc, đều viên mãn nên cùng sinh đại hoan hỷ. "Đắc hỷ tối thắng không có lỗi, vì chư Phật thấy thường vô tận", là các Như Lai thấy chân như trong tự thân là nhất vị, có khả năng bằng với vô lượng mà sinh đại hỷ. Dù nhập Niết-bàn nhưng cũng thường vô tận, nên nói "Tối thắng không có lỗi". Ra khỏi tam giới nên gọi là tối thắng, phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng cùng với tập khí đều đã vĩnh viễn đoạn nên gọi là "Không có lỗi". "Do vô số thân thọ dụng nương dựa…" là do pháp thân làm duyên tăng thượng mà thân thọ dụng kia được chuyển, nên gọi là nương dựa, không giống như nguyên lý ánh sáng mặt trời nương vào mặt trời, cùng với nghĩa thân biến hóa làm chỗ nương dựa, thì nghĩa đó cũng vậy. "Phần nhiều" là gồm thâu luôn Bồ-tát địa hạnh thắng giải, vì thắng giải của các Thanh-văn, Độc giác yếu kém, tuy thấy thân Phật nhưng không được thành thục. Bồ-tát mới hành nghiệp phải biết cũng vậy, các chúng Bồ-tát đã nhập đại địa thì không cần Hóa thân mới được thành thục, vì đã thông đạt pháp quảng đại sâu xa.
Luận nói: "Phải biết pháp thân do bao nhiêu sự thâu giữ của pháp Phật? Lược do sáu thứ: 1. Do thanh tịnh, là vì chuyển thức A-lại-da mà đắc pháp thân. 2. Do dị thục, là vì chuyển sắc căn mà đắc trí dị thục. 3. Do an trụ, là chuyển trụ của các hạnh dục, vì đắc trí trụ vô lượng. 4.
Do tự tại, là chuyển vô số thâu nhận nghiệp tự tại, vì đắc tất cả thế giới vô ngại với trí thần thông tự tại. 5. Do ngôn thuyết, là chuyển tất cả ngôn thuyết hý luận kiến văn giác tri, đắc khiến tất cả hữu tình tâm hỷ biện thuyết trí tự tại. 6. Do cứu giúp, là trí chuyển cứu độ hết thảy tai hoạ tội lỗi, đắc cứu độ tất cả hữu tình với mọi tai hoạ tội lỗi. Phải biết pháp thân do đây nói sáu thứ đã thâu giữ pháp Phật này".
Giải thích: Ngay nơi tự tánh thâu tóm để hiển tự tánh thâu giữ của pháp thân. "Do thanh tịnh", do tự tánh thanh tịnh thâu giữ tự tánh pháp thân, vì chính pháp thân đó là thể thanh tịnh. Tịnh cái gì và chuyển cái gì mà được thanh tịnh? Để đáp câu hỏi nầy nên nói "Vì chuyển thức A-lại-da mà đắc pháp thân", vì thức A-lại-da nắm giữ tất cả chủng tử tạp nhiễm, khi đối trị khởi thì chuyển diệt tất cả nhiễm chủng, như vậy mà chuyển đắc tùy thuận tất cả công đức vô tội viên mãn, ví như thuốc A-yết-đà của thế gian, có thể hoá giải các độc thành vô độc, nên gọi là chuyển. "Do dị thục", là do pháp Phật dị thục thâu giữ tự tánh pháp thân. "Chuyển sắc căn", là chuyển nhãn… chư căn hữu sắc. "Đắc trí dị thục", là sự chuyển xả là dị thục, mượn nói là chuyển đắc, cũng gọi là dị thục. Như trước kia chỗ đắc các căn của dị thục, bây giờ là đắc trí thiện, mượn gọi là dị thục. "Do an trụ", là do an trụ pháp Phật thâu giữ tự tánh pháp thân. "Chuyển trụ của các hành dục", là đồng lấy hạnh thắng giải… Do chuyển các hành dục kia nên trí chứng đắc diệt dứt mọi tai hoạn của hữu tình. "Do tự tại", là do pháp Phật tự tại thâu giữ tự tánh pháp thân. "Nghiệp thâu nhận", là các nghiệp thương mãi, kinh doanh, nông nghiệp, vương nghiệp… Do chuyển các nghiệp đó mà chứng đắc thần thông vô ngại tự tại. "Do ngôn thuyết", là do pháp Phật ngôn thuyết thâu giữ tự tánh pháp thân, do chuyển tất cả kiến văn giác tri ngôn thuyết hý luận, mà chứng đắc kiến văn giác tri tự tại, do đây mà chứng đắc đến hết thảy hữu tình diệu trí tâm hỷ. "Do cứu độ", là do pháp Phật cứu độ thâu giữ tự tánh pháp thân. "Tai hoạ tội lỗi", là như thế gian quốc vương… đã sinh ưu khổ, hoặc uy lực của thân hữu, hoặc lực tài bảo, có thể tiêu trừ, do chuyển các thứ đó nên chứng đắc diệu trí dứt trừ mọi thứ tai hoạ tội lỗi của tất cả hữu tình. Trí chuyển bỏ như vậy sáu thứ thế pháp, chuyển đắc như vậy sáu thứ pháp Phật.
Luận nói: "Pháp thân chư Phật phải nói có khác hay phải nói không khác? Vì chỗ dựa ý lạc và nghiệp không khác nhau, nên phải nói không khác, vì vô lượng nương vào thân mà hiện đẳng giác, nên phải nói có khác. Như nói pháp thân và thân thọ dụng của Phật cũng vậy. Vì ý lạc và nghiệp không khác nhau, nên phải nói không khác không do nương dựa, vô sai biệt nên vô lượng nương dựa, vì sai biệt chuyển. Phải biết thân biến hóa cũng nói như thân thọ dụng".
Giải thích: Pháp thân của chư Phật nương vào ý lạc và tác nghiệp vô sai biệt nên không có khác nhau, vì chân như của chư Phật không có khác nhau. Tất cả đều vì lợi ích an lạc cho mọi hữu tình, ý lạc đồng nên ý lạc vô sai biệt, tất cả đều đồng lấy lợi tha làm thù thắng mà hiện Đẳng chánh giác Bát Niết-bàn… vì vô số tác nghiệp nên nghiệp không khác nhau. "Vì vô lượng nương vào thân mà hiện đẳng giác, nên phải nói có khác", là do vô lượng sự riêng biệt nương vào thân, Bồ-đề-tát-đỏa hiện thành Phật đều khác nhau, như trước đã nói rộng, pháp thân và thân thọ dụng cũng vậy. Đây là nói ý lạc và nghiệp không khác nhau, mà không phải nói nương dựa không có sai biệt, vì vô lượng nương dựa sai biệt chuyển, là trong tất cả thế giới riêng, quốc độ, chúng hội, danh hiệu, thân lượng, tướng hảo, thọ pháp lạc… của chư Phật mỗi mỗi đều bất đồng, nên phải biết thân biến hóa của Phật cũng như vậy.
Luận nói: "Phải biết pháp thân có bao nhiêu đức tương ưng? Là công đức của tối thanh tịnh, bốn vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, nguyện trí không tránh, bốn vô ngại giải, sáu thần thông, ba mươi hai tướng đại sĩ, tám mươi tùy hảo, bốn hết thảy tướng thanh tịnh, mười lực, bốn vô uý, ba bất hộ, ba niệm trụ dứt trừ tập khí, pháp không quên mất đại bi, mười tám pháp Phật bất cộng, hết thảy tướng diệu trí… tương ưng".
Giải thích: Trong đây là hiển bày hết thảy công đức thanh tịnh thù thắng của chư Phật Thế Tôn chung với Thanh-văn, Độc giác.
"Tối thanh tịnh", là hiển công đức nầy vĩnh viễn đoạn phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng khởi trong thân, như vậy phải biết câu nói tối thanh tịnh có khắp trong mỗi mỗi công đức.
"Bốn vô lượng", là duyên vô lượng hữu tình làm cảnh, là từ bi hỷ xả.
"Giải thoát", là tám giải thoát, chỗ gọi là hữu sắc quán các sắc. "Thắng xứ", là tám thắng xứ.
"Biến xứ", là mười biến xứ.
"Nguyện trí không tranh", đổi lại là vô sai biệt.
"Bốn vô ngại giải", là pháp vô ngại giải, nghĩa vô ngại giải, huấn từ vô ngại giải, biện thuyết vô ngại giải.
"Sáu thần thông", là như ý thần thông đứng đầu, lậu tận thông đứng sau.
"Ba mươi hai tướng đại sĩ ", là có tướng diệu luân in trong tay chân…
"Tám mươi tùy hảo", là mũi cao thẳng…
"Bốn hết thảy tướng thanh tịnh", là chỗ dựa thanh tịnh, đối tượng duyên thanh tịnh, tâm thanh tịnh và trí thanh tịnh.
"Thập lực", là trí lực xứ phi xứ, trí lực nghiệp dị thục, trí lực tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí, trí lực căn hơn kém, trí lực vô số thắng giải, trí lực vô số giới, trí lực hành khắp cõi, trí lực túc trụ tùy niệm, trí lực sinh tử, trí lực lậu tận.
"Bốn vô uý", là chư Phật Thế Tôn tự phát lời thành thật nói: "Ta là bậc chánh đẳng giác chân thật, nếu có người vấn nạn: Đối với pháp như vậy là bất chánh đẳng giác. Với câu vấn nạn đó, ta chánh kiến không điều kiện, là đệ nhất vô uý". Lại phát lời thành thật: "Ta là bậc chân thật dứt hết các lậu, nếu có người vấn nạn: Các lậu như vậy như vậy chưa tận. Ta đối với vấn nạn chánh kiến không điều kiện, là đệ hai vô uý". Lại phát lời thành thật: "Ta vì đệ tử thuyết giảng đạo xuất ly, nếu có người vấn nạn: Tu đạo như vậy không phải là chánh thoát khổ. Ta đối với vấn nạn đó chánh kiến không điều kiện, là đệ ba vô uý". Lại phát lời thành thật: "Ta vì đệ tử nói pháp ngăn chận nhiễm chắc chắn là ngăn chận, nếu có người vấn nạn: Tuy nhiễm nhưng pháp đó không thể là chướng. Ta đối với vấn nạn đó chánh kiến không điều kiện, là đệ bốn vô uý". Trong bốn thứ nầy đều phải nói rộng, vì thấy rõ vấn nạn kia không có điều kiện mà đắc đại an ổn, vì đắc an ổn nên đều không có chỗ kinh sợ.
"Tam bất hộ", là các Như Lai hết thảy thân nghiệp thanh tịnh hiện hành đều thanh tịnh. Hiện hành thân nghiệp lo sợ người khác biết, nên cần phải bảo hộ, che giấu, như vậy gọi là đệ nhất bất hộ, như nói thân nghiệp ngữ nghiệp ý nghiệp, cũng như vậy mà là ba bất hộ.
"Ba niệm trụ", là khi các Như Lai giảng chánh pháp, một loại đệ tử cung kính lắng tai, trụ, phụng giáo, tinh tấn tu hành pháp, tùy pháp hành, Như Lai đối với đệ tử kia không vui không mừng tâm không hớn hở. Một loại đệ tử không sinh cung kính, trái nghịch nói rộng như trên, Như Lai đối với đệ tử đó không sinh nóng giận, không sinh bất nhẫn, không phải không bảo hộ nhận giữ. Một loại đệ tử cũng sinh cung kính, cũng không cung kính, cho đến nói rộng, Như Lai đối với các đệ tử đó tâm không hai, là tâm không vui mừng cũng không nóng giận, đối với họ, Ngài trụ vào diệu xả cho tất cả.
"Diệt trừ tập khí", là vĩnh viễn dứt trừ, tuy không có phiền não nhưng có chỗ làm tương tợ phiền não, như các sự nhảy múa…
"Pháp không quên mất", là đối với sự lợi lạc các hữu tình chánh niệm chánh tri không quá thời hạn.
"Đại bi", là đối với hữu tình lợi lạc, ý lạc đại nghĩa phải giảng nói.
"Mười tám pháp bất cộng của Phật", có nghĩa là bất đồng, có nghĩa là không cùng chung, tức là các Như Lai không có sai ầm như A-la-hán. Tuy tận các lậu, nhưng đó khất thực, do đó vào thành ấp xóm làng thì A-la-hán cùng một lúc đi chung với voi dữ, ngựa dữ, bò dữ, chó dữ cùng bước đi hay dừng, hoặc cùng một lúc, chân đạp bụi gai, các rắn độc đang bò quanh quẩn dưới chân, hoặc cùng một lúc vào các nhà và các làng ấp như vậy, không nương vào chánh lý mà khởi ngữ ngôn, hoặc trong rừng hoang dã, bỏ đường tốt mà đi đường xấu; hoặc cùng với oán tặc, sư tử, mãnh thú, và vợ con người khác đồng đi hay dừng. Hết thảy lầm lỗi của các A-la-hán như vậy, chư Phật đều không có.
Lại nữa, các Như Lai không có âm thanh vội vàng còn A-la-hán, hoặc cùng một lúc đi dạo trong rừng rồi quên mất đường về, hoặc vào nhà trống to tiếng kêu gọi, hoặc do tội lỗi của tập khí không nhiễm, hả miệng nhe răng mà cười hô hố, các A-la-hán với âm thanh vội vã như vậy, chư Phật đều không có.
Lại nữa, các Như Lai không lãng quên thất niệm, còn A-la-hán có bất nhiễm ô, chỗ tạo tác lâu xa, chỗ nói lâu xa, các niệm quên mất, như vậy chư Phật đều không có.
Lại nữa, các Như Lai không có các thứ tưởng, còn A-la-hán đối với sinh tử hữu dư, hoàn toàn khởi tưởng cực chán ngán; đối với Niết-bàn vô dư hoàn toàn khởi tưởng cực tịch tĩnh. Như Lai đối với sinh tử hữu dư và Niết-bàn vô dư kia, không có tưởng sai biệt, mà trụ xả tối thắng.
Lại nữa, các Như Lai không có tâm bất định, còn A-la-hán, thì phải thâu giữ tâm mới định, khi xuất định thì liền bất định, Như Lai đối với tất cả phần vị đó đều không có tâm bất định.
Lại nữa, các Như Lai đều lựa mới bỏ, còn A-la-hán không dùng trí huệ để chọn lựa các sự lợi lạc của hữu tình mà lại vứt bỏ, Như Lai không có chuyện không chọn lựa mà xả bỏ.
Lại nữa, các Như Lai không có sáu thứ thối thất như dục… như A-la-hán trong khả năng làm thanh tịnh hoàn toàn sở tri chướng có vị đắc thối (chưa đắc mà thối chuyển), là chí dục thối, tinh tấn thối, niệm thối, định thối, huệ thối, giải thoát thối, sáu thối chuyển như vậy chư Phật đều không có.
Lại nữa, các Như Lai nơi thân ngữ ý nghiệp có trí dẫn đường đi trước, tùy theo trí mà chuyển, còn A-lahán thì hoặc là trong một lúc thân nghiệp thiện chuyển, hoặc trong một lúc nghiệp vô ký chuyển, ngữ nghiệp và ý nghiệp, phải biết cũng vậy. Ba nghiệp của Như Lai trí làm tiền đạo, tùy trí chuyển nên không có vô ký, vì các trí khởi nên gọi là trí làm tiền đạo, trí đồng thời làm nên gọi là tùy trí chuyển.
Lại nữa, các Như Lai đối với cảnh của ba đời, hoặc biết hoặc thấy đều không nhiễm không ngại, còn A-lahán đối với các sự trong ba đời, không phải tạm khởi tâm thì liền hiểu được, nếu thấy nếu biết thì có vướng mắc, không thể tất cả đều hiểu rõ, thấy biết đều có ngại. Như Lai đối với các sự trong ba đời, khi tạm khởi tâm thì liền biết rõ khắp tất cả cảnh giới, nên thấy biết đều không có vướng mắc, không có ngại. Do nhân duyên nầy mà mười tám thứ mỗi mỗi đều gọi là pháp Phật bất cộng.
Tất cả tướng diệu trí: Là ở trong tất cả Uẩn, Giới, Xứ đều giỏi nhận biết. Tất cả hành tướng: Là đồng với vô lượng công đức khác, tương ưng với pháp thân.
Luận nói: "Trong đây có nhiều bài tụng:
Giải thích: Trong pháp thân nầy có thể nương vào các công đức bất cộng, lấy đạo lý của các câu kết nơi môn tán tụng để phân biệt khai thị.
Luận nói:
Thương xót các hữu tình,
Khởi hoà hợp xa lìa,
Thường không bỏ lợi lạc,
Bốn ý lạc quy lễ.
Giải thích: Hiện tại trong tụng nầy hiển bốn vô lượng. "Thương xót các hữu tình", là câu tổng quát. Khởi "Ý lạc hoà hợp", là hiển từ vô lượng, muốn khiến cho hữu tình vui vẻ hoà hợp. Khởi "Ý lạc xa lìa", là hiển bi vô lượng, vì muốn khiến cho hữu tình xa lìa các khổ. Khởi "Ý lạc thường bất xả", là hiển hỷ vô lượng, vì muốn khiến cho hữu tình không xả lợi lạc. Khởi "Ý lạc lợi lạc", là hiển xả vô lượng, vì muốn khiến cho hữu tình xả phiền não tùy miên của lạc thọ… mà không xả hữu tình. Lại nữa, trụ trong xứ gọi là xả, duyên công đức nầy mà quy y kính lễ pháp thân Phật, nên gọi là quy lễ. Các bài tụng còn lại căn cứ theo tụng nầy, tất cả phải biết.
Luận nói:
Giải thoát hết thảy chướng,
Mâu-ni thắng thế gian,
Trí chu biến sở tri,
Tâm giải thoát quy lễ.
Giải thích: "Giải thoát hết thảy chướng", câu nầy hiển giải thoát của chư Phật thù thắng hơn Thanh-văn, Độc giác. "Mâu-ni thắng thế gian", câu nầy hiển thị thắng xứ của chư Phật thù thắng hơn Thanh-văn, Độc giác. "Sở tri trí chu biến", câu nầy hiển thị biến xứ của chư Phật thù thắng hơn Thanh-văn, Độc giác, không giống như Thanh-văn thừa và Độc giác thừa ở đây chính có tám thứ giải thoát, tám thứ thắng xứ, mười thứ biến xứ, có giải thoát trước rồi mới có thắng xứ, có thắng xứ trước rồi mới có biến xứ. Do môn nầy nên tác ý tư duy giải thoát mọi thứ chướng, thù thắng hơn tất cả thế gian, trí trùm khắp tất cả cảnh. "Tâm giải thoát", có đủ ba đức như trên là tâm lìa trói buộc.
Luận nói:
Năng diệt các hữu tình,
Hết thảy hoặc không sót,
Trừ phiền não có nhiễm,
Thường xót thương quy lễ".
Giải thích: Tụng nầy hiển bày về vô tránh, trí thế tục làm tánh, không đồng với chỗ đắc vô tránh của Thanhvăn sắp vào thành ấp mà quán sát trước: "Nếu có một hữu tình đang duyên thân ta, tùy theo thân mà khởi một thứ phiền não tranh chấp, thì liền không vào thành ấp đó". Như Lai thì quán thấy tuy các hữu tình đang duyên thân Phật mà khởi các thứ phiền não, nếu họ có thể gánh vác thọ nhận sự hoá độ của Phật, thì Phật liền đến với họ dùng phương tiện điều phục họ, khiến diệt trừ phiền não. "Năng diệt các hữu tình, hết thảy hoặc không sót", là không giống như trụ định vô tránh của Thanh-văn, phương tiện xa lìa không khiến cho tự thân khởi ít hữu tình sinh duyên phiền não, chỉ có điều phục phiền não hữu sự của cõi Dục, không phải các phiền não khác nữa. Chư Phật thì không phải vậy, phương tiện có thể diệt trừ tất cả phiền não của tất cả hữu tình, khiến không còn thừa sót. "Trừ phiền não", là chỉ hại phiền não mà không hại hữu tình có nhiễm. Thường xót thương", nếu chư hữu tình có phiền não nhiễm, thì chư Phật thường xót thương mà không trách hại. Như có tụng nói:
Như chú quỉ, lương dược,
Trị chỗ mị của quỉ,
Chỉ trách hại quỉ mị,
Không phải người bị mị.
Như vậy đại bi tôn,
Trị chỗ mị phiền não,
Chỉ trách hại phiền não,
Không trách hại hữu tình.
Luận nói:
Vô công dụng, vô trước,
Vô ngại, thường định tịch,
Trong tất cả vấn nạn,
Năng giải thích quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển nguyện trí hơn hẳn Thanh-văn, Độc giác, vì năm tướng là vô công dụng nên không có nhiễm chấp, vì vô ngại nên thường tịch định, vì tất cả nghi ngờ vấn nạn đều có thể giải thích. Chỗ đắc nguyện trí của các Thanh-văn, Độc giác thì tùy chỗ nguyện mà nhập định, chỉ biết có cảnh giới nầy mà không biết các cảnh giới khác. Chư Phật thì không như vậy, do trí vô công dụng không khởi công dụng, như Mạt-ni, thiên nhạc, tùy nguyện mà có thể nhận biết tất cả cảnh giới, do trí vô trước đối với cảnh của đối tượng nhận thức đều không bị ngưng trệ, do trí vô ngại đoạn phiền não chướng gồm luôn tập khí, do thường tịch định mà định chướng đoạn. Như có tụng nói:
Na-già hành tịch định,
Na-già trụ tịch định,
Na-già toạ tịch định,
Na-già ngọa tịch định.
Do chỗ phát nguyện trí vi diệu nầy mà trong tất cả thời khéo có thể giải thích tất cả vấn nạn.
Luận nói:
Nơi chỗ dựa chủ thể y,
Chỗ nói ngôn và trí,
Năng thuyết huệ vô ngại,
Thường khéo thuyết quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị bốn vô ngại giải. "Chỗ dựa", là các giáo pháp, tức là các khế kinh. "Chủ thể dựa", là nghĩa lý được nêu giảng. Hai thứ như vậy đều gọi là được nói, vì là do nghiệp tạo tác. Hai thứ "Ngôn và Trí" đều là chủ thể giảng. "Chủ thể giảng", là tác giả, làm đầy đủ các chỗ phát khởi. "Huệ vô ngại", trong đây là trí vô thối chuyển. "Thường khéo nói", là do đủ bốn thứ vô ngại giải nên có thể thường khéo nói. Nếu đối với chỗ dựa mà có giác huệ vô ngại, thì gọi là pháp vô ngại, đối với môn pháp dị không có trở ngại. Nếu đối với chủ thể dựa mà có giác huệ vô ngại, thì gọi là nghĩa vô ngại, vì đối với tự tướng và cộng tướng của tất cả pháp không có trở ngại, hoặc vì đối với nghĩa lí sâu xa của các pháp khác không có trở ngại. Nếu đối với những lời nói đó mà có giác huệ vô ngại, thì gọi là huấn từ vô ngại, vì đối với vô số ngôn từ của mỗi mỗi cảnh giới riêng trong các quốc độ, tùy tự lần lượt dị tưởng, tùy nói mà không có trở ngại. Hoặc vì đối với các pháp huấn thích, ngôn từ không có trở ngại. Nếu trong trí phân tích các pháp mà có giác huệ vô ngại, thì gọi là biện thuyết vô ngại, vì trong khả năng biện biệt các pháp trí không có trở ngại.
Luận nói:
Vì các hữu tình kia,
Mà hiện, tri, ngôn hạnh,
Qua lại và xuất ly,
Bậc khéo giáo, quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị sáu thần thông. "Vì các hữu tình kia", đây là câu nêu tổng quát, "Bậc thiện giáo" trong mỗi mỗi câu đều có. "Thiện", là khéo diệu. "Giáo", là lời dạy, vì khiến cho thắng tấn nên nói lời dạy vi diệu, gọi là bậc khéo giáo. "Hiện bày thiện giáo", là như ý thông, tùy chỗ thích ứng hoá độ mà đến đó hiện đại thần biến khéo chỉ dạy các hữu tình kia. "Từ ngôn thiện giáo", là thiên nhĩ thông, là nghe xa, trụ tất cả âm thanh của ngôn từ có nghĩa, như chỗ thích ứng của hữu tình vì họ thuyết pháp. "Tri hành thiện giáo", là tâm sai biệt thông, biết tâm hơn kém, khéo chỉ dạy các hữu tình. "Tri vãng thiện giáo", là trí thông túc trụ tùy niệm, vì thông đạt quá khứ khéo chỉ dạy hữu tình. "Tri lai thiện giáo", là trí thông sinh tử, thấu đạt vị lai khéo chỉ dạy các hữu tình. "Tri xuất ly thiện giáo", là trí thông lậu tận, vì biết đoạn phiền não, khéo chỉ dạy hữu tình kia.
Luận nói:
Các chúng sinh thấy tôn,
Đều xét biết thiện sĩ,
Tạm thấy liền tin sâu,
Bậc khai đạo quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị các tướng tùy hảo, pháp thân là chỗ dựa của hiện tướng hảo, ngay trên tướng hảo mà quy lễ pháp thân. "Các chúng sinh thấy tôn, đều xét biệt thiện sĩ", là tất cả thế gian đều do thấy đức Thế Tôn có đủ các tướng tùy hảo, đều xét biết là bậc thiện sĩ. "Các chúng sinh", là thâu tóm chung những người có thể thọ giáo hoá thời đó và sau nầy. "Tạm thấy liền tin sâu", là chỉ mới thấy qua Thế Tôn có đủ tướng hảo thì liền thanh tịnh tin sâu, biết đó là bậc thiện khai đạo của thế gian.
Luận nói:
Thâu nhận trụ trì xả,
Hiện hoá và biến dịch,
Đẳng trì, trí tự tại,
Tùy chứng đắc quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị bốn nhất thiết tướng thanh tịnh. "Thâu nhận trụ trì xả", là hiển chỗ dựa thanh tịnh, nương vào tĩnh lự như chỗ muốn, tùy thích dài ngắn mà có thể đối với tự thân thâu nhận giữ chắc hay buông bỏ đều tự tại. Hiện hoá và biến dịch", là hiển đối tượng duyên thanh tịnh, hoá làm các thứ sắc chưa từng sinh gọi là hiện hoá, chuyển biến các thứ sắc đã từng sinh, thành kim, ngân… gọi là biến dịch, vì đối với tất cả phẩm loại biến hóa nầy đều đắc tự tại. "Đẳng trì trí tự tại", là hiển tâm thanh tịnh, tùy theo chỗ muốn mà môn Tam-ma-địa tự tại chuyển, mỗi mỗi sát-na như ý ưa thích của nó có thể nhập các định. "Trí tự tại", là hiển trí thanh tịnh, như chỗ muốn môn Đà-la-ni mà nhận giữ tự tại. "Tùy chứng đắc", là tùy theo đây chứng đắc bốn thanh tịnh trên.
Luận nói:
Phương tiện quy y tịnh,
Và Đại thừa xuất ly,
Đối với chúng sinh cuồng,
Bậc hàng ma, quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển mười lực, là đối với phương tiện của các nghiệp nơi cõi thiện và cõi ác, quy y với tịnh thế và tịnh xuất thế, là xuất ly Đại thừa trong bốn thứ nghĩa. Chúng sinh ma cuồng. Ở đây hiển nói nghiệp dụng của mười lực có thể hàng phục ma kia. "Phương tiện", nơi cõi thiện là các nghiệp thiện, phương tiện nơi cõi ác là các nghiệp bất thiện. Khi tuyên thuyết các phương tiện của cõi như vậy, thì ma trong đó cuồng hoặc mà trụ, nói: "Không phải như vậy, cùng với thuyết đó trái nhau". Nói: "Nghiệp bất thiện làm phương tiện của cõi thiện". Nói: "Các nghiệp thiện làm phương tiện của cõi ác". Hoặc nói: "Tất cả đều là vô nhân". Hoặc nói: "Tất cả là tự tại thiên… Làm nhân". Lực xứ và lực phi xứ có thể phá trừ các thuyết kia. Huấn thích từ, xứ gọi là nguyên do, có chỗ dung chứa thọ nhận. Nếu không có nguyên do, không có chỗ dung chứa thọ nhận thì gọi là phi xứ. Nói không có xứ thì không có dung chứa các loại chúng sinh. Vô nhân và nhân ác mà có được, thì điều ấy lại là thế nào? Do đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh, là vô minh duyên hành… không phải là Tự tại thiên, khiến cho thứ tự được sinh. "Quy y", là các nghiệp, như nói thế gian đều do tự nghiệp, nghiệp làm chỗ dựa, nghiệp làm chỗ quy y. Khi nói nghiệp nầy thì các ma trong đó cuồng hoặc mà trụ, rộng nói như trên. Do trí lực dị thục của nghiệp thứ hai có thể phá trừ các thuyết kia không có gì cản nỗi, là chỗ phân biệt cao thấp hơn kém của nghiệp nơi các hữu tình, không phải do vô nhân hay tự tại thiên, nói rộng như trên. "Tịnh", là thế gian tịnh và xuất thế gian tịnh, tạm thời rốt ráo chế phục các phiền não, vĩnh viễn trừ bỏ tùy miên. Do các tĩnh lự, đẳng trì đẳng chí và Thánh đạo, nên khi nói tịnh nầy thì ma trong đó cuồng hoặc mà trụ, nói rộng như trên. Do trí lực của đẳng trì đẳng chí, có thể điều phục các thuyết kia không có chỗ trở ngại. "Và Đại thừa xuất ly", đây là hiển nghiệp dụng chỗ tạo tác của các lực khác, là khi nói Đại thừa rốt ráo xuất ly quả Phật thì ma trong đó cuồng hoặc mà trụ, nói: "Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng nầy rất khó đắc, nên cầu xuất ly cứu cánh của Thanh-văn". Do bảy lực nầy có thể hàng phục các thuyết kia không có gì trở ngại.
Luận nói:
Năng thuyết trí và đoạn,
Xuất ly chủ thể chướng ngại,
Tự tha lợi, phi dư,
Ngoại đạo phục quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị bốn vô sở uý. "Năng thuyết trí", là Phật nói lời thành thật rằng: "Ta là bậc Chánh Đẳng Giác chân thật", tức là pháp biến tri tất cả. "Trí năng thuyết đoạn", là Phật nói lời thành thật: "Ta là bậc Chân thật dứt hết các lậu", tức là phiền não và các lậu vĩnh viễn tận. Như vậy hai thứ nương vào tự lợi mà nói. "Năng thuyết xuất ly", là Phật nói lời thành thật rằng: "Ta vì đệ tử mà giảng pháp xuất ly, là xuất ly chân thật". "Năng thuyết chủ thể chướng ngại", là Phật nói lời thành thật: "Ta vì đệ tử mà giảng pháp có thể ngăn chận, là chân thật có thể ngăn chận". Như vậy hai thứ nương vào lợi tha mà nói, bốn thứ như vậy gọi là tự tha lợi. "Phi dư ngoại đạo phục", là hiển lìa kinh sợ, giải thích nghĩa không sợ hãi, không phải điều mà các ngoại đạo khác có khả năng đè bẹp, do đó mà không sợ.
Luận nói:
Ở chúng năng phục thuyết,
Xa lìa hai tạp nhiễm,
Vô hộ, không quên mất,
Thâu ngự chúng quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị hộ, niệm trụ. "Ở chúng chủ thể phục thuyết", là ở trong đại chúng có thể hàng phục điều kẻ khác nói vì thân nghiệp và mọi oai nghi đều không có xấu ác phải che giấu vì sợ kẻ khác chê bai, cho nên sống trong chúng có khả năng hàng phục kẻ khác nói. Như vậy là thuyết minh ba thứ bất hộ. "Xa lìa hai tạp nhiễm", là cung kính nghe và không cung kính nghe, vì trong chúng đệ tử khéo trụ niệm, xa lìa yêu, giận, là thuyết minh ba thứ niệm trụ, do không hộ và không quên mất nầy, có thể khéo gom về dẫn dắt các chúng đệ tử.
Luận nói:
Khắp tất cả hành trụ,
Vô phi viên trí sự,
Tất cả thời biến tri,
Bậc thật nghĩa quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị dứt trừ tập khí. "Khắp tất cả hành trụ", là hành khất thực hoặc nơi xóm làng, hoặc nơi thành ấp, hoặc qua lại kinh hành dưới cây, bốn oai nghi của thân an tịnh mà trụ. "Vô phi viên trí sự", là sự trói buộc mà làm những việc như Trạo cử… như tôn giả đại Mục-kiền-liên, trong năm trăm đời thường làm loài khỉ lớn. Do bị tập khí đó trói buộc nên dù lìa phiền não nhưng khi nghe nhạc thì nhảy nhót như khỉ. Có một vị Độc giác, xưa kia trong nhiều đời đã từng làm dâm nữ, đời nay các tập khí còn sót, nên có khi trang điểm mặt. Các loại như vậy không phải là sự nên làm của Nhất thiết trí. Đức Thế Tôn đều không có, đó gọi là công đức bất cộng của Như Lai. "Tất cả thời biến tri bậc thật nghĩa", không giống như ngoại đạo Bồi-thích-noa ông ta, không phải là bậc Nhất thiết trí chân thật, nên nói Như Lai chính là bậc Nhất thiết trí thật nghĩa, thuận theo pháp kết tụng nên nói về điên đảo. Hoặc câu nghĩa nầy trước sau mỗi mỗi đều khác. "Tất cả thời biến tri", câu nầy hiển Phật là bậc hết thảy trí. "Bậc thật nghĩa", câu nầy hiển Phật là bậc có thật nghĩa, như người có gậy thì gọi là bậc cầm trượng.
Luận nói:
Các hữu tình lợi lạc,
Việc làm không quá thời,
Sự tạo tác không hư,
Không quên mất quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị pháp không quên mất. "Lợi lạc các hữu tình, việc làm không quá thời", là Phật Thế Tôn nếu có cần được giáo hoá, hoặc lúc đó có việc phải làm, thì Ngài liền vì họ ngay trong lúc ấy, làm việc đáng làm, rốt cuộc không mất thời cơ. Như có tụng nói:
Ví như nước biển lớn,
Thuỷ triều phải đúng thời,
Phật thương xót chúng sinh,
Cảm đến thường không mất.
"Sự tạo tác thường không hư", là việc làm của Phật không phải trống không, không kết quả. "Không quên mất", là việc làm đúng thời, thường không quên mất.
Luận nói:
Ngày đêm thường sáu lần,
Quán tất cả thế gian,
Cùng đại bi tương ưng,
Lợi lạc ý quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển đại bi, ý lạc lợi ích an lạc làm thể. "Đại", là chứng tư lương phước đức viên mãn, vì khiến cho thoát ba khổ làm hành tướng, vì hữu tình nơi ba cõi làm đối tượng duyên, vì tâm bình đẳng đối với các hữu tình, vì quyết định không có pháp nào hơn pháp nầy. "Ngày đêm thường sáu lần, quán tất cả thế gian", đây là hiển nghiệp dụng tạo tác của đại bi, là Phật Thế Tôn đối với các phần ngày đêm, mỗi mỗi ba thời quán tất cả thế gian, ai tăng pháp thiện, ai giảm pháp thiện, ai thiện căn thuần thục, ai thiện căn chưa thuần thục, ai có thể đảm nhận pháp khí thắng sinh, ai có thể đảm nhận thắng sinh định thắng, ai là kẻ gánh vác Phật thừa, ai là gánh vác các thừa khác. Như vậy…
Luận nói:
Do hành và do chứng,
Do trí và do nghiệp,
Trong tất cả ba thừa,
Bậc tối thắng quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển mười tám Bất pháp Phật cộng. "Do hành": Đây là nói do khi hành tất cả sự nghiệp, Như Lai không có sai lầm, cho đến không có không chọn lựa mà xả. "Và do chứng", khi trụ nơi sáu thứ vô thối chuyển, là dục vô thối cho đến thứ sáu là giải thoát vô thối. "Do trí", là đối với ba đời trí kiến vô trước, vô ngại mà chuyển. "Và do nghiệp", tức là nghiệp thân ngữ ý của Như Lai. Trí là tiền đạo, tùy theo trí mà chuyển. "Trong tất cả ba thừa bậc tối thắng", đây là hiển Phật đối với tất cả Thanh-văn thừa và Độc giác thừa Ngài là tối thù thắng, vì cùng với công đức của mười tám pháp bất cộng tương ưng đầy đủ.
Luận nói:
Do ba thân chí đắc,
Đủ tướng đại Bồ-đề,
Hết thảy xứ tha nghi,
Bậc tối thắng quy lễ.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị hết thảy tướng nơi tánh diệu trí. Hết thảy hành tướng đều là nhận biết rõ chân chánh nên gọi là diệu trí nhất thiết tướng. Thể của diệu trí nầy gọi là tánh của diệu trí nhất thiết tướng, tức là nhất thiết cảnh giới đối tượng nhận thức, là thể của trí nhất thiết hành tướng thù thắng. "ba thân", là thân tự tánh… Do ba thân nầy mà rốt ráo đắc đủ tướng nơi diệu trí vô cấu vô ngại, tự tánh quả đại Bồ-đề. "Đủ tướng", là đầy đủ hết thảy tướng, có chỗ nói… mười sáu thứ hành tướng như vô thường... Gọi là hết thảy tướng, Bồ-đề dùng mười sáu tướng đó làm nhân đầu tiên. Có kinh luận khác lại nói: "Ngay mười sáu tướng nầy và tất cả các pháp khác đều không có tự tánh, không sinh không diệt, bản lai tịch tịnh, tự tánh Niết-bàn tướng vô sở đắc gọi là hết thảy tướng. Có chỗ khác lại nói: "Không phải trong đây nói trị các phẩm loại tướng của chỗ đối trị, nhưng nói tất cả nghĩa lợi viên mãn, như châu như ý có đủ hết thảy tướng. Ta nay quán hết thảy tướng nầy tức là phẩm loại của tất cả chướng được đoạn trừ. Tại sao vậy? Vì vĩnh viễn đoạn phẩm loại của nhất thiết chướng, là đoạn tất cả phẩm sở tri chướng và đoạn tất cả phẩm tập khí. Lại nữa, đủ tướng đại Bồ-đề nầy tức là chánh tri về tất cả cảnh tướng, cho nên có khả năng đoạn tất cả nghi của người khác. "Hết thảy xứ", là nghi của người khác trong tất cả thế gian, tức là hết thảy nghi hoặc trong nhân, thiên, đối với tha nghi đều có thể đoạn, do đấy có thể đoạn tất cả tác dụng nghi hoặc của nhân, thiên để hiển diệu trí nhất thiết tướng thù thắng.
Luận nói: "Pháp thân chư Phật tương ưng với công đức như vậy, lại cùng với các tự tánh nơi nghiệp nhân quả khác tương ưng chuyển. Vì công đức tương ưng, do đó phải biết pháp thân của chư Phật là công đức Vô thượng. Trong đây có hai bài tụng:
Tôn thành thật thắng nghĩa,
Tất cả địa đều xuất,
Đến trên các chúng sinh,
Giải thoát các hữu tình.
Đức vô tận, vô đẳng,
Tương ưng hiện thế gian,
Và chúng hội được thấy,
Không thấy các nhân thiên.
Giải thích: Pháp thân tương ưng với công đức nầy, lại tương ưng với sáu công đức khác. Đây là lược nêu nghĩa của hai bài tụng để giải thích. "Tôn thành thật thắng nghĩa", là pháp thân của Phật là thắng nghĩa thành thật, chỗ hiển của chân như thì nghĩa nầy tức là nói công đức tương ưng của tự tánh pháp thân, nói lực sai biệt tương ưng không có lỗi, ví như nói đức nóng của lửa tương ưng. "Tất cả địa đều xuất", là địa Cực hỷ… cho đến tất cả mười địa đều là nghĩa xuất ly, đây là nhân của thắng nghĩa thành thật. "Đến trên các chúng sinh", là Nhất thiết trí tánh đối với các hữu tình là thù thắng, đây tức là quả của thắng nghĩa thành thật. "Giải thoát các hữu tình", tức là nghiệp của thắng nghĩa thành thật. "Đức vô tận, vô đẳng tương ưng", là cùng với các công đức tương ưng và hệ thuộc lẫn nhau, vô biên mười tám Pháp Bất cộng, mười Lực, bốn Vô uý…, đức vô tận vô đẳng tương ưng. "Hiện thế gian và chúng hội được thấy", là thân biến hóa xuất hiện tại thế gian và thân thọ dụng ở trong đại chúng hội, cả hai đều có thể thấy. "Không thấy chư Nhân, Thiên", là pháp thân của Phật không phải điều mà
Trời, người có thể thấy. Đây là nói ba thân sai biệt của Thế Tôn để hiển nghĩa chuyển. Chuyển là sự chuyển biến sai biệt của Thể tánh, trong ba thân, có hai thân có thể thấy, một thân thì không thể thấy.
Luận nói: "Lại nữa, pháp thân của chư Phật thậm thâm hết sức thậm thâm, tướng của thậm thâm nầy làm sao thấy được? Trong đây có nhiều bài tụng".
Giải thích: "Pháp thân của chư Phật thậm thâm", là nói tự tánh của pháp thân nầy khó biết đối với người thông minh ở đời. Hết thảy giác huệ còn không hiểu nỗi. "Hết sức thậm thâm", là nói sai biệt của pháp thân nầy khó biết, hết thảy giác huệ của Thanh-văn, Độc giác không thể thực hành. Thậm thâm như vậy, sẽ dùng mười hai bài tụng hiển thị tóm lược.
Luận nói:
Phật vô sinh là sinh,
Cũng vô trụ là trụ,
Các sự vô công dụng,
Đệ bốn thực làm thực.
Giải thích: Tụng nầy hiển sinh trụ và nghiệp trụ thâm diệu. "Phật vô sinh là sinh", là chư Phật vô sinh mà hiện có sinh, gọi là sinh thậm thâm. "Cũng vô trụ là trụ", là không trụ nơi sinh tử và Niết-bàn làm trụ, đây tức là an trụ nơi Niết-bàn Vô trụ, gọi là trụ thậm thâm. "Các sự vô công dụng", là không do công dụng mà khởi tất cả sự, cũng như Mạt-ni thiên nhạc của thế gian, gọi là nghiệp thậm thâm. "Đệ bốn thực làm thực", thực có bốn thứ: 1. Thực y chỉ bất thanh tịnh trụ, là đủ trói buộc, do đoạn, xúc, ý tư và thức thực khiến cho thân được an trụ. 2. Thực y chỉ tịnh bất tịnh trụ, là nếu sinh tại cõi Sắc, cõi Vô sắc thì do xúc, ý tư và thức thực mà an trụ, vì đã lìa cõi Dục nên không có đoạn thực. Dự lưu hướng… là hữu học nên cũng là thực trụ tịnh bất tịnh, đây là do an trụ tự thể của bốn thực. 3. Thực hoàn toàn y chỉ tịnh tru, là do bốn thực mà A-la-hán an trụ nơi tự thể. 4. Thực chỉ thị hiện y chỉ trụ, là Phật Thế Tôn thị hiện thọ dụng bốn thực như đoạn. Khi Như Lai thực, thật ra không phải thọ thực, cũng không phải mượn thực để an trụ tự thân, nhưng thuận theo thế gian mà thị hiện thọ thực, mượn thực để an trụ tự thân của ngài, thị hiện thọ đệ bốn thực mà được an trụ, gọi là trụ thậm thâm.
Luận nói:
Vô dị cũng vô lượng,
Vô số lượng một nghiệp,
Nghiệp bất kiên, nghiệp kiên,
Chư Phật đủ ba thân.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị an lập và số nghiệp thậm thâm. "Vô dị", là hiển an lập thậm thâm, vì vô sai biệt mà an lập. "Cũng vô lượng", là hiển số thậm thâm, đây là hiển an lập số của nó là vô lượng. "Vô số lượng một nghiệp", tuy có vô lượng nhưng không có sai biệt. Cái gì là một nghiệp? Là nghiệp biến hóa và nghiệp thọ dụng không khác nhau, vì thành tha lợi. "Nghiệp bất kiên, nghiệp kiên", tự tánh thân của nghiệp chính là kiên trụ, hai thân nghiệp còn lại là bất kiên trụ. Như vậy tất cả đều gọi là nghiệp thậm thâm.
Luận nói:
Hiện đẳng giác chẳng có,
Hết (thảy) giác không phải không,
Mỗi mỗi niệm vô lượng,
Chỗ hiển hữu phi hữu.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị hiện đẳng giác thậm thâm. "Hiện đẳng giác phi hữu", tánh Biến kế sở chấp trong Y tha khởi là không có. "Hết thảy giác không phải không", tánh Viên thành thật trong Y tha khởi là thật có. "Mỗi mỗi niệm vô lượng", là trong các thế giới nhiều hơn, vô lượng số cát sông Hằng, niệm niệm đồng thời có vô lượng Phật Hiện Đẳng Giác. "Chỗ hiển hữu phi hữu", các Như Lai là hữu phi hữu, vì chỗ hiển của tánh không thành tôn vị.
Luận nói:
Phi nhiễm, phi ly nhiễm,
Do dục được xuất ly,
Biết rõ dục vô dục,
Ngộ nhập pháp tánh dục.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị lìa dục thậm thâm. Thế nào là lìa nhiễm? Là đoạn trừ trói buộc của tham. "Phi ly nhiễm", không phải nhanh chóng đoạn tùy miên của tham. "Do dục được xuất ly", là do giữ lại Tùy miên tham như vậy mà đắc đại Bồ-đề. Nếu người đoạn Tùy miên tham như vậy, thì phải đồng với Thanh-văn, Độc giác nhanh chóng nhập Niết-bàn. "Biết rõ dục vô dục", là biết rõ tánh tham dục và vô dục của Biến kế sở chấp. "Ngộ nhập pháp tánh dục", là ngộ nhập khởi chứng chân như của dục pháp.
Luận nói:
Chư Phật vượt các uẩn,
An trụ trong các uẩn,
Cùng kia phi một, khác,
Không xả mà khéo tịch.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị đoạn uẩn thậm thâm. "Chư Phật vượt các uẩn", là các Như Lai siêu vượt tất cả sắc, thọ… các tụ của Biến kế sở chấp, quán thấy như thật Biến kế sở chấp là không nắm bắt được. "An trụ trong các uẩn", là Phật an trụ trong pháp tánh của uẩn. "Cùng uẩn phi một, khác", là pháp tánh của uẩn cùng với các uẩn của Biến kế sở chấp kia, không thể nói khác vì tánh của Biến kế sở chấp vốn không, không thể nói một vì Biến kế sở chấp thuận theo tạp nhiễm, là pháp cùng với pháp tánh chẳng phải một, chẳng phải khác. "Không xả mà khéo tịch", là không xả các uẩn của pháp tánh, tức là khéo đạt tịch diệt vĩnh viễn.
Luận nói:
Chư Phật sự tương tạp,
Cũng như nước biển lớn,
Ta đã, hiện, đang làm,
Nhưng không nghĩ tha lợi.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị thành thục thậm thâm. "Chư Phật sự tương tạp", là chỗ làm tất cả sự lợi ích an lạc cho hữu tình của các Như Lai, lần lượt hoà đồng hợp thành nhất vị không thể phân riêng.
Hỏi: Sự nầy giống như những gì?
Đáp: Cũng như nước trong biển lớn, là như nước của nhiều sông chảy về biển lớn đều đồng một vị không thể phân riêng, tất cả đều là lợi ích cho cá… "Ta đã hiện đang làm, nhưng không nghĩ tha lợi", là lìa tâm công dụng, suy nghĩ tha lợi ba thời đều khác nhau, nhưng có thể mặc tình tùy ý khởi sự lợi tha, như Mạt-ni thiên nhạc của đế thích… tuy không có nghĩ đến nhưng có tác dụng.
Luận nói:
Chúng sinh tội không hiện,
Như trăng trong chậu vỡ,
Đầy khắp các thế gian,
Pháp sáng như mặt trời.
Giải thích: Tụng nầy chỉ rõ hiển hiện thậm thâm.
Hỏi: Nếu thân của Như Lai là thường trụ, thì trong tất cả thời tại sao không hiện?
Đáp: "Chúng sinh tội không hiện, như trăng trong chậu vỡ", là nước trong chậu vỡ thì không còn bóng trăng, nhưng không hiện không phải là lỗi của trăng, là lỗi của cái chậu. Trong thân của chúng sinh không có nước Xa-ma-tha định trong lành, bóng của Phật không hiện không phải lỗi của Như Lai, mà là lỗi của chúng sinh. Nước dụ cho tánh của đẳng trì thanh nhuận, như nói Như Lai là pháp ảnh vô lậu chân diệu thiện, có cảm thì ảnh nầy hiện. Nếu không có cảm thì giống như mù bẩm sinh không thể thấy được. "Đầy khắp các thế gian, pháp sáng như mặt trời", mặt trời của chư Phật phóng ra chánh pháp của các khế kinh gọi là sáng, chiếu soi khắp tất cả thế gian hữu tình, ai có duyên thì thấy được ánh sáng nầy kẻ khác thì không thấy, đó chính là lỗi của họ không phải lỗi của Như Lai. Như mặt trời của thế gian toả sáng chiếu khắp, người có mắt thì thấy, người mù thì không thấy.
Luận nói:
Hoặc hiện đẳng chánh giác,
Hoặc Niết-bàn như lửa,
Điều nầy chưa từng không,
Vì thân chư Phật thường.
Giải thích: Tụng nầy chỉ rõ thị hiện Đẳng Giác Niếtbàn thậm thâm. "Hoặc hiện Đẳng Chánh Giác, hoặc Niết-bàn như lửa", là như lửa của thế gian có chỗ thì đốt cháy, có chỗ thì tắt mất chư Phật cũng như vậy. Đối với người các thiện căn chưa thành thục thì hiện đẳng chánh giác, khiến cho người đó nhanh chóng thành thục đắc giải thoát. Đối với những người thiện căn đã được thành thục, đã được giải thoát thì hiện bát Niết-bàn, vì không có gì để làm. "Điều nầy chưa từng không…", nghĩa của hai câu nầy dễ hiểu.
Luận nói:
Phật đối phi Thánh pháp,
Cõi người và cõi ác,
Trong pháp phi phạm hạnh,
Tự thể tối thắng trụ".
Giải thích: Tụng nầy hiển thị trụ thậm thâm. "Đối với phi Thánh pháp tối thắng tự thể trụ", là đối với các pháp bất thiện, do tự thể tối thắng trụ, thì trụ tối thắng tức là trụ không, trụ vô nguyện và trụ vô tướng, vì duyên pháp bất thiện mà an trụ. "Đối với cõi người và cõi ác, tự thể tối thắng trụ", là đối với cõi người và các cõi ác, do tự thể tối thắng trụ, thì trụ tối thắng tức là các trụ tĩnh lự và các trụ đẳng chí, vì do duyên các cõi kia mà an trụ. "Trong pháp phi phạm hạnh, tự thể tối thắng trụ ", là trong pháp phi phạm hạnh do tự thể tối thắng trụ, thì trụ tối thắng tức là bốn vô lượng, gọi là phạm trụ, vì duyên phi phạm hạnh mà an trụ.
Luận nói:
Phật hành tất cả xứ,
Cũng không hành xứ nào,
Hiện trong tất cả thân,
Không phải sáu căn hành.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị tự thể thậm thâm. Tự thể, tức là pháp giới thường trụ và chỗ thành tựu đức của Như Lai, tổng gọi là tự thể. "Phật hành tất cả xứ", là trí Hậu đắc đi khắp tất cả. Đi khắp những gì? Là các cảnh giới sai biệt của thiện, bất thiện, vô ký, hữu lậu. Vô lậu, hữu vi, vô vi… "Cũng không hành xứ nào", vì Trí vô phân biệt không có phân biệt, không đi khắp tất cả cảnh giới sai biệt. "Hiện trong tất cả thân", là thân biến hóa đối với tất cả xứ mà hiện thọ sinh. "Không phải sáu căn hành", là pháp thân thường trụ đệ nhất nghĩa, không phải đối tượng được giữ lấy, chủ thể giữ lấy của hữu tình đồng phận trong các xứ sinh, như Na-lạc-ca…
Luận nói:
Phiền não phục không diệt,
Như chú độc hại trừ,
Giữ hoặc, đến hoặc tận,
Chứng Nhất thiết trí Phật.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị đoạn phiền não thậm thâm. "Phiền não phục không diệt", là trong vị Bồ-tát phục trừ các phiền não nhưng chưa đoạn vĩnh viễn. "Như chú độc hại trừ", như có nhiều độc bị chú thuật thần nghiệm làm tổn hại, thân thể tuy chưa diệt mất nhưng không bị bệnh hoạn. Phiền não cũng vậy, do niệm lực và trí lực phục trừ các triền phược hiện hành, nhưng tùy miên thì tồn tại. Tại sao phiền não tùy miên còn tồn tại? Vì sợ giống với Thanh-văn thừa nhanh chóng nhập Niếtbàn, nên do đạo lý nầy mà phiền não làm nhân, đến phiền não hết thì đắc hết thảy trí. Như có tụng nói:
Bị lực niệm trí chế,
Phiền não chứng Bồ-đề,
Như chỗ trì độc chú,
Tội lỗi thành công đức.
Luận nói:
Phiền não thành giác phần,
Sinh tử làm Niết-bàn,
Vì đủ đại phương tiện,
Chư Phật bất tư nghì.
Giải thích: Tụng nầy hiển thị bất khả tư nghì thậm thâm, là các phiền não chuyển thành giác phần, sinh tử khổ não tức là Niết-bàn, bốn quả như vậy không phải lý của thế gian có thể nghĩ bàn được.
Luận nói: "Phải biết chỗ nói thậm thâm như vậy có mười hai thứ, là sinh trụ nghiệp trụ thậm thâm, an lập số nghiệp thậm thâm, hiện đẳng giác thậm thâm, ly dục thậm thâm, đoạn uẩn thậm thâm, thành thục thậm thâm, hiển hiện thậm thâm, thị hiện đẳng giác Niết-bàn thậm thâm, trụ thậm thâm, hiển thị tự thể thậm thâm, đoạn phiền não thậm thâm, tư nghì thậm thâm".
Giải thích: Vì mười hai thứ đều khó hiểu nên gọi là thậm thâm, mỗi mỗi biệt tướng của nó như trước đã nói. Luận nói: "Nếu các Bồ-tát niệm pháp thân của Phật, có bao nhiêu thứ niệm phải tu? Lược nói Bồ-tát niệm pháp thân của Phật do bảy thứ niệm phải tu niệm:
1. Chư Phật đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển, phải tu niệm nầy. Đối với tất cả thế giới đắc thông vô ngại, trong đây có tụng:
Hiện khắp giới hữu tình,
Đủ chướng mà thiếu nhân,
Hai thứ quyết định chuyển,
Chư Phật không tự tại.
2. Thân của Như Lai là thường trụ, phải tu niệm nầy. Chân như vô gián giải thoát cấu uế.
3. Như Lai tối thắng vô tội, phải tu niệm nầy, vì tất cả phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng đều lìa trói buộc.
4. Như Lai hành không công dụng, phải tu niệm nầy, vì không khởi công dụng mà tất cả Phật sự đều không ngơi nghỉ.
5. Như Lai thọ giàu vui lớn, phải tu niệm nầy, vì giàu vui lớn của cõi Phật thanh tịnh.
6. Như Lai lìa các nhiễm ô, phải tu niệm nầy, vì sinh tại thế gian mà tất cả thế pháp không thể làm nhiễm ô.
7. Như Lai có thể thành đại sự, phải tu niệm nầy, vì thị hiện đẳng giác, bát Niết-bàn… tất cả hữu tình chưa thành thục thì có thể khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho giải thoát. Trong đây có hai bài tụng:
Viên mãn thuộc tự tâm,
Đủ thanh tịnh thường trụ,
Không công dụng chủ thể thí,
Hữu tình đại pháp lạc.
Biến hành không nương dựa,
Bình đẳng lợi đa sinh,
Hết thảy Phật, trí giả,
Phải tu tất cả niệm.
Giải thích: Đây là hiển thị Bồ-tát tu niệm công đức pháp thân của chư Phật. "Chư Phật đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển", là các Như Lai đối với tất cả pháp do luyện tập quen nên đắc tự tại chuyển, tạm khởi dục lạc, tất cả công đức đều có thể viên mãn hiện tiền. Nếu các Như Lai rộng khắp trong vô lượng vô biên thế giới, thần thông vô ngại, thì nhân duyên gì mà tất cả hữu tình không Bát Niết-bàn? Do họ có chướng và không có nhân. Trước đã thuyết minh chung về Phật đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển, hiện tại riêng hiển thị Phật đối với hữu tình không đắc tự tại, nên nói Dà-tha. "Chu biến giới hữu tình, đủ chướng mà thiếu nhân", là đủ phiền não nghiệp, chướng dị thục nên gọi là đủ chướng, phiền não mãnh lợi, các nghiệp vô gián ngu si đần độn như thứ tự của nó, không có nhân Niết-bàn, gọi là thiếu nhân. "Hai thứ quyết định chuyển", là khởi quyết định trọng nghiệp và quyết định thọ dị thục. "Tác quyết định trọng nghiệp", là luôn luyện tập quen khiến cho nhân đồng loại và quả đẳng lưu quyết định tương tục, như Vị Sinh Oán hại Phụ vương… "Thọ dị thục quyết định", là khởi quyết định chiêu cảm nghiệp dị thục thì quyết định sẽ thọ các quả dị thục, như các người họ Thích quyết định phải bị vua Tỳ-lô-trạch-ca sát hại. Chư Phật đối với hữu tình đã nói, họ trên, đều không có tự tại, khiến đắc Niết-bàn, nên trước tuy nói chung Như Lai đối với tất cả pháp đắc tự tại chuyển, nhưng hiện tại phải nói riêng là "Chư Phật không tự tại".
"Thân của Như Lai thường trụ", là vì chân như tối thanh tịnh làm tự thể, vì không chuyển đổi, vì không biến dị. "Như Lai tối thắng vô tội", vì các tội của phiền não chướng và đối tượng nhận thức chướng đều đoạn trừ vĩnh viễn. "Như Lai vô công dụng", cũng như thiên nhạc, nghĩa đó dễ hiểu. "Như Lai thọ đại phú lạc", là vì thọ dụng cõi Phật quảng đại thanh tịnh, công đức đại pháp lạc trang nghiêm. "Như Lai lìa các nhiễm ô", là như hoa sen hồng, nghĩa đó dễ hiểu. "Như Lai giỏi thành đại sự", là hiện đẳng giác, bát Niết-bàn… Làm xong đủ nghĩa lợi quảng đại của hữu tình, như chỗ nhận lãnh khiến cho hữu tình kia thành thục được giải thoát. Như vậy bảy thứ tu niệm Phật, lại lấy hai bài tụng để lược thâu tóm nghĩa của nó. Câu viên mãn thứ nhất là quán thông tất cả. "Thuộc tự tâm viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ nhất đối với hết thảy pháp tự tại chuyển. "Đủ thường trụ viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ hai thân thường trụ. "Đủ thanh tịnh viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ ba tối thắng vô tội. "Vô công dụng viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ bốn vô công dụng. "Năng thí hữu tình đại pháp lạc viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ năm đại pháp lạc. "Biến hành vô nương dựa viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ sáu hết thảy thế pháp không thể nhiễm. "Bình đẳng lợi đa sinh viên mãn", đây là thâu tóm tướng thứ bảy giỏi thành tựu đại sự, có thể làm sự lợi lạc quảng đại. "Hết thảy Phật", là công đức viên mãn của chư Phật Như Lai. "Trí giả", là các Bồ-tát. "Phải tu tất cả niệm", là phải tu bảy thứ tùy niệm như vậy, ghi nhớ rõ ràng khiến không quên, đó chính là nghĩa niệm.
Luận nói: "Lại nữa, tướng thanh tịnh cõi Phật của chư Phật làm sao biết được? Như trong phẩm tựa của khế kinh bách thiên thuộc Bồ-tát tạng nói: "Đức Bạcgià-phạm trụ nơi quang diệu tối thắng bảy báu trang nghiêm, phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả vô biên thế giới, vô lượng phương sở khéo trang hoàng xen tạp giăng hàng, chu vi không có biên vực, lớn rộng khó lường, vượt hơn xứ hành của ba giới, hơn chỗ khởi thiện căn của xuất thế gian, tịnh thức tối cực tự tại làm tướng, chỗ đóng đô của Như Lai là chỗ vân tập của chúng đại Bồ-tát, là chỗ thường hộ trì của vô lượng Thiên, Long, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược, A-tố-lạc, Yết-lộ-đà, Khẩnnại-lạc, Ma-hô-lạc-già, Nhân, Phi nhân… từ chỗ duy trì của pháp vị hỷ lạc quảng đại, khởi tất cả nghĩa lợi của các chúng sinh, xua trừ tất cả phiền não tai hoạ, xa lìa chúng ma, chỗ dựa trang nghiêm của Như Lai vượt hơn các thứ trang nghiêm, đại niệm huệ hạnh dùng làm đường đi, đại chỉ diệu quán dùng làm xe cộ, đại không vô tướng, vô nguyện, giải thoát lấy làm cửa vào (môn), được trang nghiêm bằng vô lượng chúng công đức, sự kiến lập của Đại Bảo hoa vương, trong đại cung điện hiển thị cõi Phật thanh tịnh như vậy, hiển sắc viên mãn, hình sắc viên mãn, phần lượng viên mãn, phương sở viên mãn, nhân viên mãn, quả viên mãn, chủ viên mãn, tùy tùng viên mãn, quyến thuộc viên mãn, nhận trì viên mãn, sự nghiệp viên mãn, dẫn dắt lợi ích viên mãn, vô uý viên mãn, trụ xứ viên mãn, đạo lộ viên mãn, thừa viên mãn, môn viên mãn, dựa giữ viên mãn". Lại nữa, thọ dụng cõi Phật thanh tịnh như vậy, hoàn toàn tịnh diệu, hoàn toàn an lạc, hoàn toàn vô tội, hoàn toàn tự tại".
Giải thích: Đây là y theo cõi Phật thanh tịnh của chư Phật.
"Đức Bạc-già-phạm trụ nơi quang diệu tối thắng bảy báu trang nghiêm nơi đó", là Tịnh độ của Phật sáng chiếu tối thắng, dùng bảy thứ báu tô điểm trang nghiêm, hoặc ngay bảy báu là rực sáng tối thắng. Bảy báu là: 1. Kim. 2. Ngân. 3. Lưu ly. 4. Mâu-sa-lạc. 5. Át-thấp-ma-yết-sa. Báu nầy lại là những gì? Đó gọi là các báu của đế thanh đại thanh. 6. Xích chân châu. Sinh từ xích trùng gọi là xích chân châu. 7. Yết-kê-đát-nặc-ca.
"Phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả vô biên thế giới", là ngay trên bảy báu quang diệu tối thắng phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả vô biên thế giới, hoặc cõi Phật tịnh phóng đại quang minh chiếu khắp tất cả vô biên thế giới, thì thể của nó cũng trùm khắp vô biên thế giới. Hai câu trên là hiển thị tịnh độ của Phật và hiển thị sắc viên mãn.
"Vô lượng phương sở khéo trang hoàng đan xen giăng hàng", là tịnh độ của Phật khéo trang hoàng xen tạp giăng hàng, như huệ đầu tiên an bày trang sức xen tạp. Câu nầy hiển thị hình sắc viên mãn.
"Chu vi không có biên vực, lớn rộng khó lường", là tịnh độ của Phật lượng chu vi không có bờ mé rộng lớn khó lường, hoặc lượng vô biên vực nên chu vi khó lường. Câu nầy hiển thị phần lượng viên mãn. "Vượt hơn xứ hành của ba giới", là tịnh độ của Phật, phương xứ vượt hơn hành xứ của ba giới, vì không phải chỗ hành của ba giới ái, không phải các hệ thuộc nơi nghiệp quả dị thục. Câu nầy hiển thị phương sở viên mãn.
"Hơn chỗ khởi thiện căn của xuất thế gian", là thiện căn của xuất thế gian làm nhân, và thiện căn hậu đắc thắng làm nhân, tịnh độ sinh khởi, không phải các tự tại làm nhân của tịnh độ. Câu nầy hiển thị nhân viên mãn.
"Tịnh thức tối cực tự tại làm tướng", là tịnh độ của Phật, tâm thức thanh tịnh tự tại tột cùng làm thể tướng, vì Duy thức, không phải lìa ngoài thức mà riêng có các vật báu, ngay nơi tâm thức tịnh như vậy mà biến hiện tợ nhiều vật báu. Câu nầy hiển thị quả viên mãn.
"Chỗ đóng đô của Như Lai", Phật là chủ thành đô, không ai khác.
Câu nầy hiển thị chủ viên mãn.
"Là chỗ vân tập của chúng đại Bồ-tát", là chỉ có đại Bồ-tát đã nhập đại địa, dừng trụ trong đó để phò tá Như Lai không phải là Thanh-văn, Độc-giác. Câu nầy hiển thị tùy tùng viên mãn.
"Vô lượng Thiên, Long, Dược-xoa…", là chư thiên… Dừng trụ trong đó để làm quyến thuộc, đây là do biến hóa không phải thật. "Ma-hô-lạc-già", đây là gồm thâu luôn đại mãng. Câu nầy hiển thị quyến thuộc viên mãn.
"Từ chỗ duy trì của pháp vị hỷ lạc quảng đại", là trong tịnh độ, pháp vị Đại thừa hỷ lạc làm thực (thức ăn). Câu nầy hiển thị nhận giữ viên mãn, vì thực có thể nhận giữ các thân mạng.
"Khởi tất cả nghĩa lợi của các chúng sinh", là ăn thức ăn nầy xong thì khởi các sự lợi lạc của các hữu tình. Câu nầy hiển thị sự nghiệp viên mãn.
"Dứt trừ tất cả phiền não tai hoạ", là trong tịnh độ, không có chỗ khởi tai hoạ của các phiền não. Câu nầy hiển thị dẫn dắt lợi ích viên mãn.
"Xa lìa các ma", là lìa bốn thứ oán địch ma phiền não, ma uẩn, ma tử và ma thiên. Câu nầy hiển thị vô uý viên mãn.
"Chốn nương dựa trang nghiêm của Như Lai vượt hơn các thứ trang nghiêm", là vượt hơn tất cả trang nghiêm của Bồ-tát, là chốn nương dựa trang nghiêm của Như Lai. Câu nầy hiển thị trụ xứ viên mãn, vì tối thắng đối với các trụ xứ.
"Đại niệm huệ hạnh dùng làm đường đi", tư tạo thành huệ gọi là đại niệm, văn tạo thành huệ gọi là đại huệ, tu tạo thành huệ gọi là đại hạnh. Câu nầy hiển thị đạo lộ viên mãn, vì du lộ là dị danh của đạo.
"Đại chỉ diệu quán dùng làm xe cộ (thừa)", là ngồi xe (thừa) Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na dạo trên ba huệ lộ, đến vườn hướng tới, hơn chỗ thừa chỉ quán của Thanhvăn, Độc giác và Bồ-tát nên gọi là đại. Câu nầy hiển thị thừa viên mãn.
"Đại không, vô tướng, vô nguyện, giải thoát lấy làm cửa vào (môn)", là ba môn giải thoát, là chỗ tiến vào.
Môn, nghĩa là thông suốt. Đại, nghĩa giống như trên. Câu nầy hiển thị môn viên mãn.
"Chỗ trang nghiêm của vô lượng chúng công đức, chỗ kiến lập của đại bảo hoa vương", ví như các vật dụng trang nghiêm quí báu của thế gian, có nhiều vật báu trang nghiêm, là chỗ nương của tịnh độ Phật nầy là Đại Bảo hồng liên hoa vương. Chỗ trang nghiêm của vô lượng chúng công đức", là như địa luân… nương phong luân mà trụ, như vậy chỗ trang nghiêm vô lượng chúng công đức của tịnh độ, là chỗ kiến lập của Đại Bảo hoa vương. Hồng liên hoa nầy tối thắng trong nhiều hoa, nên gọi là Đại Bảo hoa vương, hoặc Như Lai gọi là Đại vương, Đại Pháp vương. Hồng liên hoa nầy là chỗ dựa của Phật, từ chủ mà đặt tên.
"Chỗ kiến lập", là tịnh độ của Phật nương vào hoa vương nầy, thời gian lâu dài tương tục không gián đoạn. Câu nầy hiển thị y trì viên mãn.
"Thọ dụng cõi Phật thanh tịnh như vậy hoàn toàn tịnh diệu", đều tịnh, vì lìa phẩn uế. "Hoàn toàn an lạc", vì không có khổ thọ và thọ trong xứ. "Hoàn toàn vô tội", vì không có bất thiện và vô ký. "Hoàn toàn tự tại", vì không chờ ngoại duyên, mà tạm khởi nơi tâm nhiều sự làm đủ.
Luận nói: "Lại nữa, phải biết pháp giới của chư Phật như vậy, trong tất cả thời có thể khởi năm nghiệp: 1. Cứu tế tất cả tai hoạ của hữu tình làm nghiệp, vì khi tạm thấy thì liền có thể cứu tế các tai hoạ như đui, điếc, cuồng… 2. Cứu tế cõi ác làm nghiệp, vì dắt kéo hữu tình nơi bất thiện đặt vào xứ thiện. 3. Cứu tế phi phương tiện làm nghiệp, vì khiến cho các ngoại đạo xả phi phương tiện cầu hạnh giải thoát mà đặt vào Thánh giáo của Như Lai. 4. Cứu tế Tát-ca-da làm nghiệp, vì họ truyền dạy cho đạo có thể siêu ba cõi. 5. Cứu tế thừa làm nghiệp, vì giúp kéo Bồ-tát muốn đến thừa khác, và giúp kéo chủng tánh bất định nơi Thanh-văn, Độc giác, đặt vào xứ an khiến họ tu hạnh Đại thừa. Đối với năm nghiệp nầy, phải biết nghiệp dụng của chư Phật là bình đẳng. Trong đây có tụng:
Nhân y sự tánh hạnh,
Sai biệt nên nghiệp khác,
Thế gian lực biệt nầy,
Không có, phi đạo sư".
Giải thích: Pháp giới của chư Phật tức là pháp thân, phải biết luôn luôn có thể khởi năm nghiệp.
"Cứu tế tất cả tai hoạ của hữu tình làm nghiệp", nguyên nhân sinh ra các thứ bệnh hoạn, ưu khổ… gọi là tai hoạ. "Vì khi tạm thấy thì liền có thể cứu tế các tai hoạ như đui, điếc, cuồng…", như khế kinh nói: "Nếu khi thấy Phật thì người mù được nhãn, người điếc được nhĩ, người cuồng được niệm…"
Hỏi: Như nói pháp thân không phải cảnh của sáu căn, tại sao hiện tại nói người mù được nhãn… có thể thấy pháp thân làm nghiệp của pháp thân?
Đáp: Người thấy pháp thân là do uy lực của đại nguyện khi xưa dẫn phát làm thành đầy đủ pháp thân, lần lượt phát khởi thân biến hóa, thân thọ dụng, do đây có thể khiến cho người mù được nhãn… Do uy lực của tư lương khi xưa dẫn phát chứng đắc pháp thân, tùy ý khởi dụng, như cơ quan của bánh xe, lấy ngọn quy về gốc. "Thấy pháp thân", thật ra chỉ có thấy Hóa thân.
"Cứu tế cõi ác làm nghiệp…", vì kéo dắt hữu tình nơi bất thiện đặt vào thiện xứ mới gọi là cứu tế. Nhân đó nếu không có thì quả cũng không.
"Cứu tế phi phương tiện làm nghiệp…", câu nầy ý nghĩa khá rõ ràng.
"Cứu tế Tát-ca-da làm nghiệp…", Ca-da gọi là thân. Hành vi hư giả gọi là tát. Thân hư vi gọi là Tát-ca-da, trong đó làm cho thân kiến chuyển, tức là các pháp hữu lậu của ba giới. Đối với Tát-ca-da kia truyền dạy phương pháp xuất ly nên gọi là cứu tế.
"Cứu tế thừa làm nghiệp…", vì khiến cho chủng tánh bất định nơi Bồ-tát và Thanh-văn, Độc giác chứng đại Bồ-đề, an lập những người đó vào chánh hạnh của Đại thừa, phải biết chư Phật đối với năm nghiệp đều bình đẳng.
Để hiển nghĩa nầy nên nói tụng:
"Nhân nương vào sự, tánh… Là nhân của thế gian sai biệt nên thừa nhận nghiệp khác", nhân của chư thiên khác với nhân của người, quỉ… mỗi mỗi đều khác nhau nên nghiệp có khác. Chư Phật thì không như thế, vì nhân không có riêng khác, nghiệp không phải khác.
"Thế gian dựa vào sai biệt nên thừa nhận nghiệp khác". Y là thân thể, thân thể kia sai biệt nên nghiệp khác, như chủ thiên kia dạy cho chư thiên ở đó cúng tế, dạy nương vào thân riêng khác, nên nghiệp đó mỗi mỗi khác nhau. Chư Phật thì không như thế, vì pháp thân không riêng khác nên nghiệp không phải khác.
"Thế gian sự sai biệt nên thừa nhận nghiệp khác": Sự là các sự sai biệt của chỗ tạo tác thọ dụng, mỗi mỗi đều riêng khác nên nghiệp, như các nghiệp kinh doanh nông sự của phàm phu khác biệt, các sự thương mãi khác biệt. Tất cả chư Phật đều không như thế, vì sự lợi ích cho chúng sinh không sai biệt nên nghiệp không phải khác.
"Thế gian tánh sai biệt nên thừa nhận nghiệp khác", tánh là ý lạc, như ý lạc lợi ích và ý lạc an lạc của thế gian, vì cảnh giới sai biệt nên nghiệp khác. Chư Phật thì không như thế, vì lợi ích an lạc tất cả hữu tình nhưng ý lạc không riêng biệt nên nghiệp không phải khác.
"Thế gian hành sai biệt nên thừa nhận nghiệp khác": Hành là công dụng, như công dụng nhỏ thì có thể khởi nghiệp nhỏ, nếu công dụng lớn thì khéo khởi nghiệp lớn, công dụng riêng biệt nên nghiệp khác. Chư Phật thì không như thế, vì tất cả chỗ tạo tác đều là vô công dụng nên nghiệp không phải khác.
"Biệt lực nầy không có nên không phải đạo sư", vì năm biệt lực của các nhân… không có nên không phải đạo sư nơi năm nghiệp sai biệt của thế gian.
Luận nói: "Nếu công đức viên mãn nầy tương ưng, thì pháp thân của chư Phật không chung với Thanh-văn và Độc giác thừa. Ý nghĩa sâu xa gì mà Phật thuyết nhất thừa? Trong đây có hai bài tụng:
Vì dẫn dắt một loại,
Và nhận giữ chỗ khác,
Do chủng tánh bất định,
Chư Phật nói Nhất thừa.
Pháp vô ngã giải thoát,
Đẳng nên tánh bất đồng,
Đắc hai ý lạc hoá,
Cứu cánh nói Nhất thừa.
Giải thích: Nương vào mật ý nầy mà Phật nói Nhất thừa, hai bài tụng hiển thị. "Vì dẫn dắt một loại", là biết rõ chủng tánh bất định nơi Thanh-văn tiến đến phương tiện giải thoát kia dẫn dắt khiến nương vào Đại thừa mà Bát Niết-bàn nên nói Nhất thừa. "Và nhận giữ chỗ khác", vì muốn nhận giữ các Bồ-tát chủng tánh bất định khác, sợ đối với Đại thừa họ hay thối chuyển nên nói Nhất thừa để nhận giữ khiến cho trụ, không để Bồ-tát đó nương vào Thanh-văn thừa mà bát Niết-bàn. "Pháp bình đẳng". Pháp là chân như, các Thanh-văn, Độc giác thừa tuy sai biệt nhưng đồng đến chân như, chỗ đến chân như không có sai biệt, nên nói Nhất thừa. "Vô ngã bình đẳng", vì Bổ-đặc-già-la vô ngã đồng nhau. Nếu thật có khác nhau thì Bổ-đặc-già-la có thể có thừa riêng khác, đây là Thanh-văn, đây là Bồ-tát, nhưng đã thật không có Bổđặc-già-la khác nên nói Nhất thừa. "Giải thoát bình đẳng", là đối với ba thừa thì phiền não chướng và giải thoát không khác nhau, như Thế Tôn nói: "Giải thoát, giải thoát không có sai biệt", do ý nghĩa nầy nên nói Nhất thừa. "Tánh bất đồng", vì chư Thanh-văn chủng tánh bất định có sai biệt, là trong thân của Thanh-văn hồi hướng Bồ-đề có đủ chủng tánh Thanh-văn và chủng tánh Phật, do đạo lý nầy nên nói Nhất thừa. "Đắc hai ý lạc", là đắc hai thứ ý lạc: 1. Chư Phật đối với tất cả hữu tình đắc đồng tự thể ý lạc, nói hữu tình kia tức là Ta, Ta tức là họ, do nhân duyên đó mà Phật nầy đã thành Phật thì hữu tình kia cũng thành Phật, nên gọi là đắc hết thảy ý lạc. 2. Thế tôn nơi hội pháp hoa, cùng với chư Thanh-văn, như tôn giả Xá-lợi-tử… được Phật thọ ký riêng biệt, vì khiến cho thâu đắc ý lạc như vầy: "Chúng ta cùng với Phật bình đẳng không hai".
Lại nữa, nơi hội nầy có các Bồ-tát cùng với các Thanh-văn kia tên đồng nhau, nhưng được thọ ký riêng biệt, một lời Phật nói, đều hàm chứa hai thứ lợi ích, là các Thanh-văn thâu đắc ý lạc đồng tự thể của Phật, và các Bồ-tát đắc thọ ký riêng biệt, do đạo lý nầy nên nói Nhất thừa. "Hoá", là như Thế Tôn nói: "Này các Tỳ-kheo! Ta nhớ khi xưa, vô lượng trăm lần, trở lại nương vào Thanh-văn thừa mà Bát Niết-bàn. Tại sao đã thành Phật, lại còn nương vào Thanh-văn mà bát Niết-bàn? Cho nên trong đây có ý nghĩa riêng, là vì điều phục chỗ hoá độ hữu tình của chủng tánh Thanh-văn là tự Hóa thân của mình, nên đồng với loại thừa của Thanh-văn kia thị hiện Bát Niết-bàn. Do nghĩa nầy, hoặc Thanh-văn thừa hoặc Độc giác thừa tức là Đại thừa, nên thành Nhất thừa. "Cứu cánh", là nương vào lý cứu cánh mà nói Nhất thừa, nhưng không phải không quy về riêng biệt, do ngoài Nhất thừa nầy, không có thừa nào thù thắng hơn, chỉ có Nhất thừa ấy là tối thắng, nên Phật nói Nhất thừa. Luận nói: "Như vậy chư Phật đồng một pháp thân, nhưng Phật thì có nhiều, duyên gì thấy được? Trong đây có tụng:
Trong một cõi không hai,
Đồng thời vô lượng tròn,
Thứ tự chuyển phi lý,
Cho nên có nhiều Phật".
Giải thích: "Trong một cõi không hai", là trong một thế giới không có hai Phật, nên phải nói chỉ có một Phật. "Đồng thời vô lượng tròn", là vô lượng Bồ-tát tu tập tư lương đồng thời viên mãn, hiện thành quả Phật trong nhiều thế giới, nên chư Phật phải nói là có nhiều. Hoặc có người nói: "Trong một thế giới thứ tự trước sau, có vô lượng Bồ-tát thành đẳng chánh giác, không phải nhiều thế giới đồng thời có nhiều Phật, để phá chấp nầy nên nói "Thứ tự chuyển phi lý", vì không có nhân duyên, vô lượng Bồ-tát tu tập tư lương đồng thời viên mãn, lần lượt đối đãi lẫn nhau thứ tự thành Phật nên chư Phật đồng thời có nhiều.
Luận nói: "Làm sao biết được Phật trong pháp thân không phải rốt ráo nhập Niết-bàn, cũng không phải rốt ráo không nhập Niết-bàn? Trong đây có tụng:
Vì thoát tất cả chướng,
Vì việc làm chưa xong,
Phật rốt ráo Niết-bàn,
Rốt ráo không Niết-bàn.
Giải thích: Có người Đại thừa cho Phật rốt ráo không bát Niết-bàn, đó là nói về Niết-bàn giới Vô dư y, còn như bảo Phật rốt ráo Niết-bàn, đó là nói Niết-bàn giới Hữu dư y. Hai ý nghĩa nầy quyết định là chấp phi lý, nếu đúng đắn thì phải nói chư Phật không phải quyết định rốt ráo nhập Niết-bàn, cũng không phải rốt ráo không nhập Niết-bàn, vì Phật đã giải thoát tất cả chướng nên rốt ráo Niết-bàn, nhưng các sự phải làm thì không hẹn ngày xong nên chư Phật rốt ráo không nhập Niếtbàn.
Luận nói: "Tại sao thân thọ dụng không phải là thân tự tánh? Do sáu nguyên nhân: 1. Vì sắc thân có thể thấy. 2. Vì chúng hội của vô lượng Phật có thể thấy. 3. Vì tùy thắng giải thấy tự tánh bất định có thể thấy. 4. Vì riêng biệt mà thấy tự tánh biến động có thể thấy. 5. Vì vô số chúng hội của Bồ-tát, Thanh-văn và chư thiên xen tạp có thể thấy. 6. Vì thức A-lại-da cùng với các thức chuyển y theo phi lý có thể thấy. Thân thọ dụng của Phật tức là thân tự tánh là không đúng đạo lý".
Giải thích: Sắc thân có thể thấy, là thân thọ dụng có sắc có thể thấy, không phải thân tự tánh có sắc có thể thấy, nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Lại nữa, vô lượng chúng hội của thân thọ dụng, thọ dụng sắc pháp sai biệt có thể thấy. Không phải thân tự tánh có những sai biệt nầy, nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Lại nữa, thân thọ dụng tùy thắng giải thấy tự tánh bất định, như khế kinh nói: "Hoặc có một loại thấy thọ dụng Phật, hoặc có một loại thấy là thiếu niên, hoặc có một loại thấy làm Đồng tử". Như vậy rộng nói, không phải thân tự tánh, vì có bất định nầy nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh.
Lại nữa, tự tánh của thân thọ dụng biến động sai biệt có thể thấy, một người có thể thấy thì trước hết trong cùng một lúc thấy thân thọ dụng hình tướng riêng khác, sau đó trong cùng một lúc lại thấy riêng khác, không phải thể của thân tự tánh biến động, nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Lại nữa, vô số chúng hội thân thọ dụng của Bồ-tát, Thanh-văn và chư thiên, thường là chỗ xen tạp, không phải thân tự tánh, phải có chúng hội xen tạp như vậy, nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Lại nữa, thấy chuyển y không đúng đạo lý, là chuyển thức A-lại-da đắc thân tự tánh, chuyển các thức chuyển đắc thân thọ dụng, nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh. Do sáu thứ nầy không xứng với chánh lý, cho nên thân thọ dụng không phải thân tự tánh.
Luận nói: "Nguyên nhân nào thân biến hóa không phải là thân tự tánh? Do tám nguyên nhân: Là các Bồ-tát từ lâu xa đến nay đắc định bất thối, sinh trong trời đỗsử-đa và nhân loại, là không đúng đạo lý.
Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay thường nhớ túc trụ, trong biên chép, toán số, ấn, công xảo luận và trong hành thọ dụng dục trần, không khả năng chánh tri là không đúng đạo lý.
Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã biết pháp giáo nói ác, nói thiện, mà đến chỗ ngoại đạo là không đúng đạo lý.
Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay, đã có thể khéo biết ba thừa chánh đạo, tu khổ hạnh tà là không đúng đạo lý.
Lại nữa, các Bồ-tát xả bỏ một trăm câu-chi các châu thiệm bộ, chỉ tại một xứ thành đẳng chánh giác, chuyển chánh pháp luân là không đúng đạo lý.
Nếu lìa sự thị hiện thành đẳng chánh giác, chỉ lấy Hóa thân đối với các xứ kia nêu bày Phật sự thì liền thích ứng, nhưng đối với thiên Đỗ-sử-đa thành chánh giác, tại sao không nêu bày khắp trong tất cả châu Thiệm Bộ? Đồng thời với Phật xuất hiện đã vô giáo vô lý, tuy có nhiều Hóa thân, nhưng không trái với câu nói: "Không có hai Như Lai xuất hiện nơi đời", vì bốn châu gồm thâu thế giới, như hai Luân vương không đồng xuất hiện nơi đời. Trong đây có tụng:
Hóa thân Phật vi tế,
Nhiều nhập thai bình đẳng,
Vì hiển nhất thiết chủng,
Thành đẳng giác mà chuyển.
Vì muốn tạo lợi lạc cho tất cả hữu tình, phát nguyện tu hành chứng đại Bồ-đề mà rốt ráo Niết-bàn là không đúng đạo lý, vì nguyện hạnh không kết quả lại trở thành lỗi.
Giải thích: Do tám nhân nên chứng thân Biến hóa, là thân tự tánh không xứng với chánh lý. Là các Bồ-tát từ lâu xa đến nay đắc định bất thối, đã từng không thối chuyển, sinh tại thiên Đỗ-sử-đa nơi cõi Dục cũng không xứng lý, huống chi sinh trong nhân loại, không phải trải qua nhiều kiếp, tu định bất thối đắc quả nơi cõi Dục mới phải chánh đạo lý, nên thân biến hóa khác với đạo lý thành tựu của thân tự tánh. "Lại nữa, các Bồ-tát từ lâu xa đến nay thường nhớ túc trụ…" Rộng nói cho đến "Tu khổ hạnh tà là không đúng đạo lý", văn đó dễ hiểu không phiền giải thích lại. "Lại nữa, các Bồ-tát xả bỏ một trăm Câu-chi các châu Thiệm bộ, chỉ tại một xứ thành Đẳng Chánh Giác, chuyển chánh pháp luân là không đúng đạo lý", vì tất cả xứ nầy đều là tương tợ, do đạo lý nầy mà thân Biến hóa đó không phải thân tự tánh. Hoặc là xa lìa các châu Thiệm bộ khác mà thị hiện thành Đẳng Giác, thì chỉ riêng trong châu Thiệm bộ nầy mà chân chứng chánh giác, đem thân Biến hóa nêu bày tác Phật sự khắp các xứ khác. Tại sao không thừa nhận thiên Đỗ-sử-đa là thật chứng Đẳng giác? Vì Hóa thân đến bốn châu nầy để nêu bày làm Phật sự. Nếu ý ông cho một châu Thiệm bộ thành Đẳng Chánh Giác, còn các xứ khác hiện Hóa thân là đều đúng lý. Nếu chỉ ở tại thiên Đỗ-sử-đa thành Đẳng Chánh Giác, thì tất cả bốn châu nội trong châu Thiệm bộ thị hiện Hóa thân đâu có lỗi gì? Nếu quyết định không thừa nhận tất cả bốn châu thị hiện đẳng chánh giác vô giáo, vô lý nên bất khả thuyết, thì có châu Thiệm bộ không có Phật xuất thế, vì không cùng với khế kinh kia trái nhau, như khế kinh nói: "Không có xứ, không có dung chứa, không phải trước, không phải sau, trong một thế giới có hai Như Lai xuất hiện nơi đời". Nếu thừa nhận một trong châu Thiệm bộ đồng thời có nhiều Phật xuất thế thì cùng với khế kinh kia trái nhau. Để tránh vấn nạn nầy nên nói rằng, tuy có nhiều Hóa thân nhưng không trái với khế kinh kia, không có hai Như Lai xuất hiện nơi đời… khế kinh kia nói: "Một bốn đại châu gọi là một thế giới, không phải một ngàn châu…". Tức là kinh đó nói, như hai Luân vương không đồng thời xuất hiện. Nếu không thừa nhận nhiều Phật cùng lúc xuất hiện trong nhiều bốn đại châu thì cũng không nên thừa nhận có nhiều Luân vương cùng lúc xuất hiện trong nhiều bốn đại châu. Nếu thừa nhận chỉ có trong một bốn đại châu không có hai Luân vương không đồng thời xuất hiện không phải một ngàn châu, thì cũng phải thừa nhận Phật trong một châu không có hai vị đồng thời xuất hiện không phải một ngàn châu. Lại lấy Dà-tha hiện nhiều Hóa thân, hiển đủ tướng giác. "Hóa thân Phật vi tế…", là như Hóa thân Phật thị hiện nhập thai mẹ, như vậy hoá làm Xá-lợi tử… nhiều chúng Thanh-văn, tướng đó mỗi mỗi đều khác, nhập vào tự thai mẹ đồng thời bình đẳng. Vì muốn hiển phát hết thảy chủng giác là tôn thắng, Phật khởi hiện Hóa thân đó, tiếp theo hiện Như Lai rốt ráo Niết-bàn là không đúng đạo lý, là vì lợi lạc cho tất cả hữu tình, phát nguyện tu hành chứng đại Bồ-đề, nguyện nầy hạnh nầy chỉ muốn lợi lạc cho tất cả hữu tình, sự cũng chưa xong, liền nương vào tất cánh Niết-bàn mà bát Niết-bàn là không đúng đạo lý, hai thứ hạnh nguyện đáng lẽ không có quả, vì hiện Niết-bàn là thân Biến hóa, không phải thân Tự tánh.
Luận nói: "Thân Thọ dụng và thân Biến hóa của Phật đã là vô thường, tại sao kinh nói thân của Như Lai là thường? Vì chỗ dựa nơi Pháp thân của hai thân kia là thường. Lại nữa, thân Đẳng lưu và thân Biến hóa vì hằng thọ dụng không bỏ phế, niệm niệm hiện hoá độ vĩnh viễn không dứt tuyệt, như thường thọ lạc, như thường thí thực, thân của Như Lai là thường, phải biết như vậy".
Giải thích: Có khế kinh nói: "Thân Như Lai là thường". Thân thọ dụng và thân biến hóa của Phật đã là vô thường, tại sao thân Như Lai là thường trụ? Hai thân nầy dù là vô thường, nhưng nương vào Pháp thân, vì Pháp thân là thường nên nó cũng nói là thường. Nói "Thân là thường", hoặc thể là thường, hoặc nương vào thân thường nên gọi là thân thường. Đây là hiển thân đẳng lưu và thân Biến hóa, là dị môn thường không phải tự tánh thường. Lại nữa, thân thọ dụng vì hằng thọ dụng không bỏ phế, như thường thọ lạc, cũng như thế gian nói thường thọ lạc, tuy không phải sự thọ lạc thường không gián đoạn, nhưng mà được nói đây là thường thọ lạc. Thân thọ dụng của Phật phải biết cũng như thế, tuy không phải thường trụ nhưng hoặc nói là thường, vì trong các chúng Bồ-tát kia thọ đại pháp lạc không bỏ phế. Thân Biến hóa của Phật, niệm niệm hiện hoá độ chúng sinh vĩnh viễn không dứt tuyệt, có mật ý nói là thường, như thường thí thực, cũng như thế gian nói thường thí thực, tuy không phải thí thực có thể thường không gián đoạn, nhưng trong niệm niệm bố thí nơi tâm không dứt, gọi là thường thí thực. Thân Biến hóa của Phật phải biết cũng như thế, không phải không có sinh diệt mà gọi là thường, tùy chỗ hoá độ chúng sinh mà niệm niệm thị hiện không dứt nên mật ý nói là thường.
Luận nói: "Do sáu nhân mà sự thị hiện Hóa thân của chư Phật Thế Tôn không phải là tất cánh trụ: 1. Vì chỗ tạo tác cứu cánh thành thục hữu tình đã giải thoát. 2. Vì khiến xả ly bất lạc Niết-bàn, để cầu thân Như Lai thường trụ. 3. Khiến xả ly khinh khi huỷ báng chư Phật, vì khiến ngộ chánh pháp giáo thậm thâm. 4. Khiến đối với Phật sinh khát ngưỡng sâu xa, vì sợ người thường thấy sinh chán lười. 5. Khiến đối với tự thân phát khởi tinh tấn, vì biết người chánh thuyết khó có thể đắc. 6. Vì các hữu tình mà nhanh chóng thành thục, khiến tự tinh tấn không xả bỏ ách. Trong đây có hai bài tụng:
Do việc làm cứu cánh,
Bỏ, không vui Niết-bàn,
Lìa khinh huỷ chư Phật,
Sinh khát ngưỡng sâu xa.
Trong tự phát chánh cần,
Vì nhanh chóng thành tựu,
Nên nhận Hóa thân Phật,
Không phải tất cánh trụ.
Giải thích: "Vì khiến bỏ, không vui Niết-bàn, để cầu thân Như Lai thường trụ", đây là hiển ý Như Lai nhập Niết-bàn, vì thân của Như Lai là vô thường, nên phải vui thích Niết-bàn, hoặc khi cầu thân thường trụ của Như Lai, thì liền trái nghịch Niết-bàn, Thế Tôn thị hiện diệt để hiển thân vô thường, khiến cho ưa thích Niết-bàn tất cánh thường. "Vì khiến xả ly khinh khi huỷ báng chư Phật, khiến cho ngộ chánh pháp giáo thậm thâm", là nếu thân của chư Phật thường trụ, thì đối với sự hiểu ngộ pháp giáo thậm thâm không cần phải có phương tiện tinh tấn, là bây giờ không ngộ thì sau đó quyết định sẽ ngộ. Nếu thường xuyên tra xét các chúng đệ tử thì liền sinh coi rẽ, chê bai chúng đệ tử tự chấp cho mình đã thấy, họ nói như vầy: "Ta do đấy mà quyết định tránh khỏi sự tra hỏi kia. Nếu Phật không trụ nơi đời thì nơi nào sẽ sinh coi thường chê bai? Đều nói chúng ta chưa đắc mật ý Thế Tôn Niết-bàn. Ai có khả năng không lộn lạo để khai ngộ cho chúng ta?" Cho nên đối với pháp mà dốc cầu giác ngộ, khiến tự thân phát tinh tấn. "Biết người chánh thuyết khó có thể được", là biết Thế Tôn sẽ bát Niết-bàn, liền đối với tự thân phát khởi tinh tấn. Phật là người chánh thuyết pháp của thế gian. Nếu không có Phật thì thế gian không có chỗ để nương tựa. Như vậy đã biết phát khởi tinh tấn. "Vì các hữu tình mà nhanh chóng thành thục, khiến cho tự tinh tấn không xả bỏ ách", là vì tu tinh tấn xả lìa ách thiện cho đến từ khi Thế Tôn chưa diệt độ tới nay, "Các thiện căn của ta quyết định phải cần thành thục". Do sáu nhân đó nên thân Biến hóa Phật không phải tất cánh trụ, để thâu tóm nghĩa nói trên, nên nói tụng: "Do sở tác…".
Luận nói: "Pháp thân của chư Phật từ vô thỉ đến nay vô biệt, vô lượng, không phải vì đắc mà trở lại khởi công dụng. Trong đây có tụng:
Phật đắc nhân vô biệt vô lượng,
Hữu tình nếu bỏ công dụng siêng,
Chứng đắc luôn luôn không thành nhân,
Đoạn nhân như vậy, không đúng lý.
Giải thích: Trong đây có vấn nạn: "Pháp thân của chư Phật từ vô thỉ đến nay là vô biệt, vô lượng khởi nhân chứng đắc, vì cầu quả Phật thì đâu cần thiết công dụng"! Lại có vấn nạn: "Pháp thân của chư Phật từ vô thỉ đến nay vô biệt vô lượng, một vị Phật thì có thể hoàn thành đầy đủ sự lợi lạc của tất cả hữu tình, không nên vì đắc mà trở lại khởi công dụng! Để đáp các vấn nạn nầy, nên nói tụng "Phật đắc…", nghĩa là chư Phật chứng đắc từ vô thỉ đến nay là vô biệt, vô lượng, nếu hữu tình đó vì cầu quả Phật mà bỏ nhân chánh cần, thì sự chứng đắc như vậy luôn luôn không thành nhân. Do Phật chứng đắc mà không phải hữu tình, vì cầu quả Phật mà bỏ nhân chánh cần, do đó không có vấn nạn nầy.
Nếu người lìa chánh cần mà đắc quả Phật, thì tất cả hữu tình xưa nay đều phải đắc, nên không phải đoạn nhân chánh cần. Lại nữa, pháp giới của Phật từ vô thỉ đến nay vô biệt vô lượng, rộng vì tất cả mà làm nhân chứng đắc, khiến cho bi nguyện gắn liền với tâm của Bồtát dốc cầu quả Phật, để làm lợi lạc hữu tình, cho nên cầu quả Phật mà phát khởi công dụng siêng năng.
Luận nói: "Nhiếp Đại thừa phẩm trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma, A-tăng-già tôi giải thích sơ lược xong".
Giải thích: Tôi (vô tánh) giải thích sơ lược Nhiếp Đại thừa đã xong. Lại nói tụng:
Tôi vô tánh đã phát,
Diệu nguyện cầu quả Phật,
Nơi cảnh tịnh giáo lý,
Bi huệ chứa trong tâm.
Chánh văn từ các sư,
Tín giải sâu như thật,
Vì huệ niệm hiện tiền,
Nói xong lược thích nầy.
Nơi thậm thâm quảng đại,
Mười nghĩa cần sinh phước,
Nguyện tất cả thế gian,
Đắc đủ tướng diệu trí.