TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ DU GIÀ

SỐ 1602 - LUẬN HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO

Tác giả: Bồ Tát Vô Trước. Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Tráng Đời Đường.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 1)

QUYỂN 2

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 2)

QUYỂN 3

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 3)

QUYỂN 4

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 4)

QUYỂN 5

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA THANH TỊNH (Phần 1)

QUYỂN 6

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 2)

QUYỂN 7

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 3)

QUYỂN 8

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 4)

QUYỂN 9

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH

QUYỂN 10

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 6)

QUYỂN 11

Phẩm 2: NHIẾP TỊNH NGHĨA (Phần 7)

QUYỂN 12

Phẩm 2: THÂU TÓM NGHĨA TỊNH (Phần 8)

QUYỂN 13

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 9)

QUYỂN 14

Phẩm 3: THÀNH THIỆN XẢO

Phẩm 4: THÀNH VÔ THƯỜNG

QUYỂN 15

Phẩm 5: THÀNH LẬP KHỔ

Phẩm 6: THÀNH LẬP KHÔNG

QUYỂN 16

Phẩm 6: THÀNH LẬP KHÔNG (Phần còn lại)

Phẩm 7: THÀNH LẬP VÔ TÍNH

Phẩm 8: THÀNH LẬP HIỆN QUÁN (Phần 1)

QUYỂN 17

Phẩm 8: THÀNH LẬP HIỆN QUÁN (Phần còn lại)

Phẩm 9: THÀNH LẬP DU-GIÀ

Phẩm 10: THÀNH LẬP BẤT TƯ NGHỊ

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 1)

QUYỂN 18

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 2)

QUYỂN 19

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 3)

QUYỂN 20

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 4)


QUYỂN 1

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 1)

Thiện Thệ khéo nói ba thân mầu,
Chứng giáo pháp, không sợ, không trôi.
Đức Mâu-ni thượng thừa chân thật,
Nay con chí thành trước lễ tán,
Cúi đầu lạy, bậc Đại Từ Tôn,
Bậc Vua pháp nối tiếp giống trí,
Đời không chỗ nương, quay về.
Giảng nói luận Du-già sư địa,
Xưa, con Vô Trước nghe từ Ngài,
Nay góp lời quan trọng của luận,
Làm sáng rỡ Thánh giáo, từ bi,
Văn gọn, nghĩa khắp nhưng dễ hiểu.
Nhiếp sự, nghĩa tịnh thành khéo léo
Vô thường, khổ không và vô tánh,
Hiện quán Du già không nghĩ bàn,
Nhiếp thắng chọn thành mười một phẩm.
Tất cả cõi tạo nhiễm,
Đế nương dựa phần giác,
Quả Bổ-đặc-già la,
Các công đức chín việc.

Luận chép: Chữ tất cả là chỉ cho năm pháp, nhiếp chung tạng Bồ-tát. Năm pháp ấy là? Tụng rằng:

Tâm, tâm sở hữu, sắc,
Bất tương ưng, vô vi.

Luận chép: Tâm là tên gọi chỉ sự khác nhau giữa tâm, ý, thức. Hỏi: Thức là gì?

Đáp: Thức có tám thứ là: Thức A-lại-da, nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân thức, ý và ý thức.

Thức A-lại-da là gì. Chủng tánh của nó là sự chứa nhóm và huân tập bằng những hý luận từ vô thỉ đến ngày nay, từ đó là duyên cho nghiệp phiền não đã làm từ đời trước, cứ tăng lớn thêm. Tự thể của nó là tất cả hạt giống nơi thức dị thục đã phát sinh. Thức dị thục nầy có khả năng giữ gìn và thọ nhận phân biệt rõ sắc căn, làm chỗ nương cho căn và những hý luận được huân tập. Đối với tất cả thời gian sinh diệt của một loại, không thể biết được, và thức nầy có thể duy trì, phân biệt rõ khí thế giới bên ngoài với cảm thọ không khổ, không vui, v.v… đều hoàn toàn tương ưng với tính chất vô phú, vô ky, làm chỗ nương gốc cho chuyển thức, cùng làm tăng trưởng thêm nhiễm hữu ở chuyển thức, v.v… làm nghiệp, lại có thể làm suy giảm thanh tịnh chuyển thức, v.v… làm nghiệp.

Làm sao biết có thức ấy?

Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Vì bị vô minh che lấp, ái kiết buộc chặt, nên kẻ ngu phu mới chiêu cảm được có thân có thức này".

Lời Phật vừa nói ấy, đã làm sáng tỏ có thức A-lại-da dị thục.

Lại nói: Như năm hạt giống, đó gọi là thức Hữu thủ. Lời nói ấy hiển bày: Có tất cả hạt giống thức A-lại-da.

Lại nói: Thức A-đà-na thật sâu kín nhỏ nhiệm, tất cả hạt giống trong ấy biến chuyển không ngừng như dòng thác đổ. Ta không nói cho phàm ngu nghe về nó, vì e họ sẽ phân biệt chấp là ngã.

Nhãn thức: Thức nầy được phát sinh từ hạt giống của thức A-lại-da. Dựa vào nhãn căn mà nhãn thức và thức A-lại-da cùng lúc chuyển biến. Tính chất của nó là biết một cách sáng tỏ khi bám vào cảnh giới sắc.

Như Đức Bạc-già-phạm nói: Phạm vi của nội nhãn không làm hư phạm vi của sắc bên ngoài lúc hiện tiền và nội nhãn đã sinh ra tác ý, ngay lúc phát sinh như vậy thì nhãn thức được sinh ra.

Lại nói: Nhãn thức phát sinh là nhờ duyên vào nhãn cầu và sắc.

Cũng thế nên biết: cho đến thân thức, trong đó có chỗ khác nhau là các thức đều nương vào căn và đều duyên vào cảnh của nó, đều rõ biết riêng. Tất cả hiện tượng nầy đều được dẫn giải ở hai bộ kinh trước.

Ý sinh ra từ hạt giống của thức A-lại-da, rồi lại bám vào thức A-lại-da, tương ưng với ngã si, ngã ái, chấp ngã, ngã sở, ngã mạn, hoặc không tương ưng với thức A-lại-da, lúc nào cũng nương cậy vào A-lại-da để khởi hiện hành, hoặc có khi cùng thức A-lại-da biến chuyển bình đẳng, phân biệt nhận biết rõ làm tánh.

Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Phạm vi của ý bên trong, không làm hư phạm vi của pháp bên ngoài. Giờ phút hiện tiền và nội ý phát sinh tác ý, ngay lúc phát sinh như vậy thì ý thức sinh ra".

Ý thức: Được sinh ra từ hạt giống A-lại-da, nương vào ý căn và chuyển biến cùng lúc với thức A-lại-da, duyên vào tất cả pháp chung và không chung làm cảnh rõ biết là tánh.

Pháp tâm sở hữu là: Nếu các pháp đều phát sinh từ hạt giống thức A-lại-da, thì chúng nương vào tâm sở mà hiện khởi và biến chuyển tương ưng với tâm.

Kia lại nói vì sao? Biến hành có năm là: Tác ý, xúc, thọ, tưởng, tư.

Biệt cảnh có năm là: Dục, thắng giải, niệm, Đẳng trì, tuệ. Thiện có mười một là: Tín, tàm, quí, vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, khinh an, không buông lung, xả, bất hại.

Phiền não có sáu thứ là: Tham, sân, mạn, vô minh, kiến, nghi. Tùy phiền não có hai mươi là: Phẫn, hận, phú, não, tật, san, cuống, siểm, hại, kiêu, vô tàm, vô quí, hôn trầm, trạo cử, bất tín, biếng nhác, buông lung, thất niệm, tâm loạn, bất chánh tri.

Bất định có bốn thứ là: ác tác, thùy miên, tầm, tứ.

Tác ý: Là từ hạt giống thức A-lại-da sinh ra, nương vào tâm sở khởi lên, biến chuyển tương ưng với tâm. Thể nó là tâm động, dẫn tâm làm nghiệp, do đó, cùng tâm đồng duyên một cảnh nên nói là hòa hợp, chứ chẳng phải không hòa hợp. Như trong kinh nói: Tác ý xảy ra ở đâu thì ở đó có sự phân biệt. Nơi nào có sự phân biệt thì nơi đó có tác ý. Vì vậy, hai tâm nầy thường hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp. Hai pháp nầy không thể lập ra sự chia riêng khác lạ.

Lại nói như vầy: Hoạt động của tâm và tâm pháp không thể nghĩ bàn. Lại nói: Do đã phát sinh tác ý, chính thức dấy khởi như vậy, mà các thức như nhãn thức, v.v... được sinh.

Xúc: Là ba sự kiện hòa hợp, phân biệt làm thể, nghiệp là cảm nhận và nương. Như kinh nói có sáu xúc thân. Lại nói: Mắt và sắc làm duyên để nhãn thức phát khởi. Vì ba pháp ấy nhóm họp hòa hợp nên có chỗ tiếp xúc, từ xúc mà thọ có duyên phát sinh.

Thọ: Tự thể lãnh nhận, nghiệp là duyên vào ái. Như kinh nói: Có sáu thọ thân. Lại nói thọ làm duyên cho ái phát sinh.

Tưởng: Là "danh cú văn, thân" huân tập làm duyên, được sinh ra từ hạt giống thức A-lại-da nương vào tâm sở khởi lên, cùng biến chuyển tương ưng với tâm, thể là tương ưng, nắm bắt hành tướng, nghiệp là phát ra lời nói, sự luận bàn. Như kinh nói có sáu tưởng thân. Lại nói: Như khi nghĩ tới chuyện gì thì mới phát ra lời nói và bàn luận.

Tư: Là khiến cho tâm tạo tác chỗ được, mất và câu phi (chẳng phải được, chẳng phải mất), ý nghiệp làm thể. Hoặc đi với ý, hoặc là đi riêng, hoặc theo sát với ý, hoặc vì tham ái, hoặc vì sân hận, hay bị xả bỏ, hoặc khởi lên sự tìm xét, hoặc khởi lên hai nghiệp là ngữ và thân, hoặc bị ô nhiễm hay hành động thanh tịnh, hoặc lấy thiện, bất thiện, không thiện ác làm nghiệp. Như kinh nói: Có sáu tư thân. Lại nói: Nên biết là ta nói hôm nay, sáu nơi tiếp xúc, chính là nghiệp mà tư đã tạo ra từ đời trước.

Biệt cảnh có năm thứ là:

1.     Dục (mong muốn): Là đối với cảnh mà mình ưa thích, thể nó là hy vọng, siêng năng nương dựa làm nghiệp. Như kinh nói: Dục là căn bản của tất cả các pháp.

2.     Thắng giải: Là sự quyết định đối với cảnh mình ưng ý, thể là hiểu biết một cách chắc chắn, nghiệp là sự cương quyết không thay đổi. Như kinh nói: Hôm nay, tâm chúng ta phát sinh thắng giải, nên ta biết sáu xứ nội chắc chắn là vô ngã.

3.     Niệm (nhớ nghĩ): Là tâm ghi nhớ rõ cảnh đã quá quen. Thể là không quên, nghiệp là làm chỗ nương cho định. Như kinh nói: Các niệm theo niệm, nhớ hoài không quên, không mất pháp nào. Tính là tâm ghi nhớ một cách sáng tỏ.

4.     Đẳng trì (Định): Thể là chuyên tâm duyên vào một cảnh của đối tượng được quán chiếu ấy với tâm không tán loạn. Nghiệp làm chỗ nương cho trí tuệ. Như kinh nói: Các người hãy khiến cho tâm mình an trụ trong bình đẳng, trụ yên, trụ gần và trụ ngay trong định, không loạn động, không tan mất. Tâm được thu nhiếp trong vắng lặng, ngưng dứt, giữ mãi tâm định duyên vào một cảnh duy nhất.

Tuệ: Thể là sự lựa chọn đối với cảnh mình đang quán chiếu. Nghiệp là vào trọn trong điều mình hiểu biết về cái gì đúng lý, không đúng lý, không phải như lý và chẳng phải không như lý. Như kinh nói: Lựa chọn các pháp, phương pháp lựa chọn thực đơn giản dễ hiểu từ xa đến gần, thông minh quán xét với trí sáng, giác ngộ tuệ hành Tỳ-bát-xá-na.

Tâm sở thiện có mười một pháp là:

1.     Tín (tin): Đối với những gì có thể, có đức, có khả năng, có tâm thanh tịnh, chịu đựng làm thể. Nghiệp là cắt đứt chướng ngại của tâm không tin tưởng, làm tư lương đầy đủ cho sự giác ngộ, đem lợi ích cho mình và người, là năng lực hướng đến đường lành, là làm thêm lớn tâm thanh tịnh. Như kinh nói: Có lòng tin vững chắc đối với Như lai.

2.     Tàm (Hổ): Biết làm cho mình và pháp có giá trị thêm lên. Thể là xấu hổ đối với tội lỗi, nghiệp là cắt đứt sự ngăn che của tâm không biết xấu hổ, là làm cho sự biết về xấu hổ thêm lớn, như kinh nói là xấu hổ các việc đáng xấu hổ, cho đến nói rộng.

3.     Quí (Thẹn): Y theo tăng thượng của thế gian, thể là xấu hổ đối với tội lỗi. Nghiệp là cắt đứt sự ngăn che của tâm không biết thẹn, là làm cho sự biết về hổ thẹn, thêm lớn như nói trước. Như kinh nói: Hổ thẹn cái đáng hổ thẹn, cho đến nói rộng.

4.     Vô tham (không tham): Thể là đối với cái có, có đầy đủ thì nhàm lìa không nắm giữ, không cất giấu, không yêu quí, không mê đắm. Nghiệp là cắt dứt sự ngăn che của tâm tham, làm cho sự hiểu biết về không tham thêm lớn như trước đã nêu. Như kinh nói: gốc lành vô tham.

5 Vô sân (không giận): Thể là tâm thương xót không làm tổn hại hữu tình. Nghiệp là cắt dứt sự ngăn che của giận dữ, làm cho sự hiểu biết về không giận thêm lớn như trước đã nêu. Như kinh nói: gốc lành vô sân.

6.     Vô si (không ngu tối): Thể là hiểu biết sáng tỏ chân chính. Nghiệp là cắt đứt sự ngăn che của tâm si, làm cho sự hiểu biết về không si thêm lớn như trước đã nêu. Như kinh nói: Gốc lành không si.

7.     Tinh tấn (siêng năng): Thể là tâm hăng hái không biếng trễ, không tự coi mình là hèn kém. Nghiệp của nó là cắt đứt sự ngăn che của tâm lười biếng, làm cho sự hiểu biết tinh tấn thêm lớn, như trước đã nêu. Như kinh nói: Khởi lên siêng năng là đứng vững trên thế lực, trên cần cù, trên sức mạnh, trên sự cương quyết, không buông xả ách thiện.

8.     Khinh an: Thể là tâm thư thái, buông xả sự nặng nhọc thô tháo của thân. Nghiệp nó là cắt đứt sự ngăn che của các thứ nặng nề, là làm cho sự hiểu biết khinh an thêm lớn, như trước đã nêu. Như kinh nói: Thân có cảm giác vừa ý vui vẻ thì tâm được yên.

9.     Không buông lung: Thể là gom thâu chúng nơi vô tham, vô sân, vô si, tinh tấn, dựa vào đó nên có khả năng cắt đứt điều ác và pháp bất thiện. Nghiệp là cắt dứt sự ngăn che của buông lung, có năng lực tu pháp lành đối trị pháp ác, làm cho sự hiểu biết không buông lung thêm lớn như trước đã nêu. Như kinh nói: Tất cả các pháp lành hiện có được phát sinh là nhờ ở gốc không buông lung.

10.   Xả (buông xả): Thể là gom hết về với không tham, không si, tinh tấn. Nương vào buông xả nầy nên tâm được bình đẳng, tâm được ngay thẳng, không tạo tác. Nghiệp là cắt dứt sự ngăn che của tâm khởi động tạo nghiệp làm cho sự hiểu biết về buông lìa thêm lớn như trước đã nêu. Từ chỗ không buông lung nên dứt trừ các pháp nhiễm ô. Từ chỗ buông xả kia nên yên trụ trong không cấu nhiễm khi xua tan cấu nhiễm. Như kinh nói: Tâm nương vào xả nên đã xua tan được tham, lo.

11.   Bất hại (không làm hại): Thể là lòng thương xót người, vật, do đó không làm tổn hại các hữu tình. Nghiệp là cắt dứt sự ngăn che của tâm hại, làm cho sự hiểu biết về không hại thêm lớn, như trước đã nêu. Như kinh nói: Do không hại, nên biết chúng thông minh, cho đến nói rộng.

Phiền não có sáu thứ là:

1.     Tham: Thể là che giấu, giữ gìn gắn chặt vào năm uẩn yêu thích. Nghiệp là ngăn che tâm không tham, hoặc phát sinh cùng lúc với thân mạng sinh hoặc phân biệt khởi lên. Nghiệp là làm tư lương đầy đủ cho sự chướng ngại quả giác ngộ, là làm tổn hại mình và người, là nhằm đưa hành động vào đường ác, là làm tâm ham muốn thêm lớn. Như kinh nói: Các sự tham ái, đều bị ngăn che làm khuất phục do lòng tham nầy.

2.     Sân: Thể là muốn khởi lên sự tổn hại đối với loài hữu tình. Nghiệp là ngăn che tâm không tức giận, hoặc sinh cùng lúc với thân mạng, hoặc là phân biệt mà khởi lên. Nghiệp là làm tăng thêm sự giận dữ, như trước đã nêu. Như kinh nói: Có các sự giận dữ của con người đều bị che lấp do lòng giận ấy.

3 Mạn: Thể là đề cao cử ỷ thị, cho kẻ khác là thấp kém, thua sút, chúng ta, hoặc câu sinh hoặc phân biệt khởi lên, lấy sự ngăn che tâm không kiêu mạn làm nghiệp, làm tăng thêm kiêu mạn, như trước đã nêu. Như kinh nói: Có ba thứ mạn là: Mạn cho mình hơn hết, mạn cho mình bằng với kẻ hơn và mạn cho kẻ khác kém mình.

4.  Vô minh: Thể là không hiểu biết tới lẽ chân thật, hoặc là câu sinh, hoặc phân biệt khởi lên. Nghiệp là ngăn che các sự hiểu biết chân chánh, làm tăng thêm vô minh, như trước đã nêu. Như kinh nói: Các thứ ngu si hiện có đều bị che lấp do vô minh ấy.

5.  Kiến: Thể là năm thứ kiến:

-     Một là Tát-ca-đa kiến (thân kiến): Là đối với thân năm uẩn nầy chấp cho là có ngã, ngã sở, gây cấu nhiễm cho tuệ làm thể, hoặc là câu sinh, hoặc phân biệt khởi lên. Nghiệp là ngăn che lý vô ngã, sự hiểu biết không điên đảo, là làm tăng thêm Tát-ca-đa kiến như trước đã nêu. Như kinh nói: Phải biết rõ Cũng thế là cắt đứt hẳn ba kiết: Thân kiến, giới cấm thủ, nghi.

-     Hai là Biên chấp kiến: Là đối với thân năm uẩn chấp là đoạn, là thường. Thể là làm ô nhiễm trí tuệ, hoặc là câu sinh hay phân biệt khởi lên. Nghiệp là ngăn che lý vô thường, lý không điên đảo, làm tăng thêm kiến biên chấp. Như kinh nói: Này Ca-đa-diễn-na! Tất cả thế gian đều nương vào hai thứ, hoặc có, hoặc không.

-     Ba là tà kiến: Là chê bai nhân quả, chê bai công dụng, phá hoại sự thật. Thể là làm trí tuệ bị ô nhiễm, chỉ do phân biệt mà khởi lên. Nghiệp là ngăn che chánh kiến, làm tăng thêm tà kiến, như trước đã nêu. Như kinh nói:

Người có tà kiến thì những gì họ chấp giữ đều là điên đảo, cho đến nói rộng.

-     Bốn là kiến thủ: Là đối với ba kiến tà trước cũng như đối với thân năm uẩn nầy thì kiến thủ cho là tối thượng, là bậc nhất. Thể là làm tuệ bị cấu nhiễm, chỉ có phân biệt khởi lên. Nghiệp là ngăn che sự hiểu biết về khổ, về bất tịnh, về không điên đảo, làm tăng thêm kiến thủ, như ở tâm sở trước đã nêu. Như kinh nói: Đối với những gì mình hiểu biết thì chấp giữ thật chặt, cho đến nói rộng.

-     Năm là giới cấm thủ: Là đối với các kiến ở trước và các uẩn nương, thì kiến nầy cho là thanh tịnh, giải thoát. Làm trí tuệ bị ô nhiễm là Thể, chỉ khởi lên do phân biệt. Nghiệp là ngăn che sự hiểu biết, về không điên đảo, là làm tăng thêm giới cấm thủ như tâm sở trước đã nêu. Như kinh nói: Kiết thủ bị ràng buộc do giới cấm thủ giới nầy.

6. Nghi: Thể là không quyết định, là do dự đối với chân đế, chỉ có phân biệt khởi. Nghiệp là ngăn che tâm không nghi, làm tăng thêm nghi ngờ, như tâm sở trước đã nêu. Như kinh nói: Do dự là nghi.

Tùy phiền não có hai mươi thứ là:

1.     Phẫn: Thể là khiến tâm giận phừng lên khi gặp cảnh trái với sự yêu thích. Nghiệp làm tăng thêm phẫn uất.

2.     Hận: Thể là kết oán, không buông xả đối với cảnh trái ý ở quá khứ. Nghiệp là ngăn che tâm không giận, làm tăng thêm hận thù.

3 Phú: Thể là bí mật giữ kín điều ác đã làm, dù có ai khuyên ngăn hay không đối với những sai phạm ấy. Nghiệp là ngăn che sự phát lồ sám hối, làm tăng thêm sự che giấu, như trước đã nói.

4. Não: Đối với lỗi đã phạm có ai khuyên can thì liền nói lời thô bỉ, tâm hừng hực không nhận chịu làm thể. Nghiệp là ngăn che bạn lành, làm tăng thêm bậc bội. 5. Tật: Thể là ganh ghét không vui khi thấy tất cả công đức, danh dự, cung kính, lợi dưỡng người khác có. Nghiệp là ngăn che tâm từ, là tăng thêm tính ganh ghét.

6.     San [keo kiệt]: Thể là chất chứa bủn xỉn, nghiệp là ngăn che tâm không tham, làm tăng thêm tính bỏn sẻn.

7.     Cuống: Thể là lòng gian trá, bày chuyện không thật để làm lung lạc, gạt gẫm kẻ khác. Nghiệp là ngăn che tâm ái kính, làm tăng thêm việc dối gạt.

8.     Siểm: Thể là tâm cong vạy, lừa gạt kẻ khác, tạo sự giả dối làm họ cung kính nghe theo. Nghiệp là ngăn che tâm ái kính, cho đến làm tăng thêm tính dua nịnh. Như kinh nói: Giận hận che giấu, não hại, ganh ghét, keo kiệt, lường gạt, dua nịnh.

9.     Kiêu: Thể là không kiêng nể, tâm ỷ lại tự cao đối với sự nghiệp phát triển ở thế gian. Nghiệp làm ngăn che tâm chán lìa, làm tăng thêm tính kiêu ngạo. Như kinh nói: Kẻ ngu không được nghe điều chân chánh, trẻ tuổi không bịnh, sống lâu chỉ là tạm mà rộng tâm kiêu hãnh buông lung cho đến nói rộng.

10.   Hại: Thể là không có tâm thương xót nên áp bức làm khổ não hữu tình. Nghiệp là ngăn che tâm không tổn hại, làm tăng thêm tâm gây hại. Như kinh nói: Ai có tâm hại thì gây tổn hại khổ não cho người.

11.   Vô tàm (không hổ): Là làm lẫy lừng mình và pháp, thể là không biết hổ thẹn việc ác đã làm. Nghiệp là ngăn che tâm hổ thẹn, cho đến làm tăng thêm tính không hổ thẹn. Như kinh nói: Không hổ thẹn điều đáng hổ thẹn. Không hổ thẹn nên điều ác và pháp bất thiện sinh, cho đến nói rộng.

12.   Vô quí (không Thẹn): Thể nó là không thẹn đối với điều ác đã làm hay những gì cao đẹp ở đời. Nghiệp là ngăn che tính biết xấu hổ, cho đến làm tăng thêm tính không hổ thẹn. Như kinh nói: Không thẹn điều đáng thẹn, do không thẹn nên điều ác, pháp bất thiện sinh khởi, cho đến nói rộng.

13.   Hôn trầm: Thể là tâm chìm nặng nên từ thân nặng nề, cam chịu không tiến lên cho đó là vui. Nghiệp là ngăn che tỳ-bát-xá-na cho đến làm tăng thêm hôn trầm. Như kinh nói: Thân ý người nầy sinh ra sự hôn trầm.

14.   Trạo cử: Là đi tìm các pháp bất chánh, hoặc nhớ lại những vui chơi thỏa thích cũ. Thể là tâm không lắng yên. Nghiệp là chướng ngại pháp tu xa-ma-tha, cho đến làm tăng thêm tính bồn chồn, lăng xăng. Như kinh nói: Ông bị dao động lắc lư, cũng lại là cao hứng, cho đến nói rộng.

15.   Bất tín: Thể là tâm không có tâm tin thanh tịnh đối với người có giới, có đức, có tài năng. Nghiệp là ngăn che tâm tin, cho đến làm tăng thêm tâm không tin. Như kinh nói: Nếu ai không an trụ, không có tâm tin trong sạch thì rốt ráo không có gì cả, tất cả pháp lành đều bị mất hết, cho đến nói rộng.

16.   Biếng nhác: Ham mê ngủ nghỉ, ưa thích nằm, dựa, sợ sự thúc đẩy tiến lên, tự xem thường mình, nên thể là tâm không chịu cố gắng. Nghiệp là ngăn cản sự siêng năng, cho đến làm tăng thêm tính biếng nhác. Như kinh nói: Nếu ai biếng nhác thì chắc chắn thoái tâm chánh cần, cho đến nói rộng.

17.   Buông lung: Thể là chung cho các tâm sở tham sân si, biếng nhác, tựa nương vào đó nên tâm không ngăn chế việc ác, pháp bất thiện, không tu tập pháp khác để đối trị nó. Nghiệp là ngăn cản tính không buông lung, cho đến làm tăng thêm tính buông lung. Như kinh nói: Người sống buông lung là để dấu vết của sự chết ngay trong khi sống, cho đến nói rộng.

18.   Thất niệm: Thể là không nhớ những việc đã làm từ lâu, những gì đã nói, những gì đã suy nghĩ, pháp hay nghĩa nhiễm ô. Nghiệp là quên mất, cho đến làm tăng thêm tính quên mất. Như kinh nói: Người quên mất thì không còn làm được chuyện gì, cho đến nói rộng.

19.   Tâm loạn: Đối với việc tu hành, tâm không vui thú, chỉ nương vào loạn động, nên thể là rong ruổi theo duyên phân tán bên ngoài. Nghiệp là ngăn cản định, cho đến làm tăng thêm tâm loạn. Như kinh nói: Nếu đối với năm dục, mà tâm tán loạn thì trôi lăn trong sinh tử, cho đến nói rộng.

20.   Bất chánh tri (không hiểu biết chân chánh): Hành động của thân miệng ý là không chánh đáng. Thể là sống với tuệ nhiễm ô. Nghiệp là cản ngăn sự hiểu biết đúng, cho đến làm tăng thêm sự không hiểu biết đúng đắn. Như kinh nói: Kẻ quên mất thì sống với không hiểu biết, cho đến nói rộng.

Tâm sở Bất định có bốn thứ:

1.     Ác tác: Thể là nhớ lại, muốn thay đổi đối với việc đã làm chưa làm, lành hay không lành, việc nhiễm hay bất nhiễm mà buồn buồn. Nghiệp là chướng ngại pháp tu chỉ, cho đến làm tăng thêm ăn năn. Như kinh nói: Nếu cứ ác tác hối tiếc thì tâm không yên ổn, cho đến nói rộng.

2.     Ngủ nghỉ: Thể là không được tự tại với những chuyển biến của tất cả những gì trong tâm. Nghiệp là ngăn cản pháp tu quán, cho đến làm tăng thêm việc ngủ nghỉ. Như kinh nói: Người ham mê vị ngon của ngủ nghỉ như cá lớn nuốt thức ăn.

3.     Tầm: Thể là khiến tâm xáo động mạnh có lúc đối với pháp suy tư tìm kiếm, tạo tác, hay có lúc lấy tuệ suy luận đối với pháp, tìm kiếm rong ruổi theo cảnh bên ngoài. Nghiệp là ngăn cản tâm tịnh bên trong, cho đến làm tăng thêm tính tìm kiếm.

4.     Tứ: Phát sinh từ hạt giống thức A-lại-da, nương vào tâm sở mà khởi lên, biến chuyển tương ưng với tâm. Đối với pháp đang xét tìm thì xét tìm qua cảnh bên ngoài, khiến tâm chuyển biến nhỏ nhiệm làm thể. Còn lại, như đã nói ở tâm sở tầm, cho đến làm tăng thêm tính rình xét làm nghiệp. Do tâm sở nầy đồng duyên vào một cảnh với tâm, nên nói là hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp. Như Đức Bạc-già-phạm nói: Nếu sự rình xét nơi nào thì nơi ấy sáng tỏ. Nếu nơi nào sáng tỏ thì ở đó có sự rình xét. Cho nên hai tâm sở nầy mãi hòa hợp, chẳng phải không hòa hợp. Không thể lập ra sự chia rẽ hai pháp này, làm cho chúng khác nhau được.

Lại nói như vầy: Hành vi của tâm và tâm pháp thật không thể nghĩ bàn. Dẫn chứng có hai A-cấp-ma nầy như Đức Bạc-già-phạm nói: Từ chỗ tầm tứ nên phát khởi lời nói, chứ chẳng phải không có tầm tứ.

Trong các tâm pháp, lược bớt không nói những tâm pháp nào tương ưng với tâm sở nào, nói rộng nên biết. Như các thức và tâm pháp không thể nghĩ bàn. Ấy là vì các tâm pháp nầy lần lượt cùng đối nhau, nên biết cũng vậy.

Sắc có mười lăm thứ là: Đất, nước, gió, lửa, Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thật, Thân, Sắc, Thanh, Hương, Vị, một phần Xúc và Pháp xứ thuộc về sắc.

Đất có hai thứ là nội và ngoại.

Nội là năm căn như nhãn căn, v.v… trong thân, mỗi cơ quan đều khác nhau, các nơi căn nương thì vị trí khác nhau. Sự cứng chắc thâu nhiếp trong nó tính chất giữ vững và chịu đựng. Lại có chứa nhóm tăng thượng. Cái gọi gọi là tóc, lông, răng, móng, chất bụi nhơ, da, thịt, gân, cốt, mạch, là bất tịnh cả, đều là đất bên trong của từng phần ở cơ thể nầy, nghiệp của đất ấy là thọ dụng.

-     Ngoài là sắc… bên ngoài của mỗi thân thể riêng và là nơi năm cảnh nương.

Sự cứng chắc thâu nhiếp trong nó, không phải chỉ có tính giữ vững, chịu đựng mà còn chứa nhóm tăng thượng nữa. Đó là các vật thể như gạch, đá, gò, núi, rừng cây, gạch nung, v.v… gặp nước lũ lụt thì những thứ ấy đều hư hoại. Đó là phần hình thể của đất bên ngoài. Thọ dụng làm nghiệp, dựa vào thọ dụng đó làm nghiệp, phá hoại thọ dụng đó làm nghiệp, đối trị nuôi dưỡng làm nghiệp.

Nước cũng có hai thứ là trong và ngoài.

-     Nước bên trong là năm căn như nhãn căn, v.v… trong thân, mỗi cơ quan đều khác nhau, các nơi căn nương thì vị trí khác nhau. Sự ẩm ướt thâu nhiếp nơi tính chất chấp thọ, lại có tính chứa nhóm tăng thượng. Các thứ như nước mũi, nước mắt, mồ hôi, tủy, mỡ đờm dãi đều là những thứ bất tịnh, đó là nước bên trong cơ thể. Nghiệp là thêm ướt, nhóm họp thọ dụng.

-     Nước bên ngoài là mỗi thân thể khác nhau và là nơi năm cảnh sắc nương. Sự ẩm ướt thâu nhiếp trong nó, không phải chỉ có tính giữ vững, chịu đựng mà còn thêm tính chất nhóm họp tăng thượng. Đó là các thứ nước suối, nước nguồn, nước khe, nước ao, nước sông biển bao la, gặp cơn lửa dậy thì chúng đều khô cạn. Đó là thể của nước bên ngoài. Thọ dụng làm nghiệp, biến hoại thọ dụng làm nghiệp, đối trị nuôi dưỡng làm nghiệp.

Lửa cũng có hai thứ là trong và ngoài.

-     Lửa trong là năm căn như nhãn căn, v.v… trong thân, mỗi cơ quan đều khác nhau, các nơi căn nương thì vị trí khác nhau. Sự nóng ấm thâu nhiếp tính chất chấp thọ, lại có tính chứa nhóm tăng thượng. Đó là những thứ làm cho hữu tình khắp nơi đều cảm thấy ấm áp hay nóng bức. Lại còn có năng lực tiêu hóa tất cả thức ăn uống. Những thứ vừa nói ấy đều là lửa trong cơ thể. Nghiệp là thành thục, hòa hợp, thọ dụng.

-     Lửa bên ngoài là mỗi thân riêng biệt và là nơi năm cảnh như sắc, v.v… nương. Sự ấm nóng thâu nhiếp trong nó, không phải chỉ có tính giữ vững, chịu đựng, mà còn thêm tính chất chứa nhóm tăng thượng. Đó là các thứ lửa. Đó là lửa bốc cháy từ nông thôn đến thành thị, tới bãi sông bờ nước, kể cả những nơi xa thẳm, cho đến khi hết chỗ nương thì nó sẽ tắt. Hoặc có thứ lửa lấy được từ khoan gỗ, đập đá. Thứ lửa nầy vừa hiện là tắt. Đó là thể của lửa bên ngoài. Nghiệp là biến hoại thọ dụng, là đối trị nuôi dưỡng.

-     Gió cũng có hai: là trong và ngoài.

-     Gió trong là năm căn như nhãn căn, v.v… trong thân, mỗi cơ quan đều khác nhau, nơi căn nương thì vị trí khác nhau. Sự động nhẹ thâu nhiếp có tính chất chấp thọ, lại có tính chứa nhóm tăng thượng. Đó là hơi thở ra vào lên xuống ngang dọc. Các động lực ấy là thể của gió bên trong. Nghiệp là phát động làm việc, thọ dụng.

-     Gió bên ngoài là mỗi thân riêng khác và là nơi năm cảnh như sắc, v.v… nương. Sự động nhẹ thâu nhiếp trong nó, chẳng phải chỉ có tính chất giữ vững, chịu đựng mà còn thêm tính chất chứa nhóm tăng thượng. Đó là các thứ gió xô ngã núi non, đánh bạt cây rừng nằm thành lớp. Nó phá hoại tất cả, không còn sức cản nào nên vắng lặng. Nếu tìm gió thì áo lay quạt phất là có. Không có lay động thì không có duyên nên gió tắt. Những động lực ấy là thể của gió ngoài. Nghiệp là nương giữ thọ dụng, là biến hoại thọ dụng, là đối trị nuôi dưỡng thọ dụng.

-     Mắt là tất cả hạt giống thức A-lại-da nắm giữ. Bốn đại đã tạo ra sắc là cảnh giới. Là chỗ thức nương, duyên vào. Thể là tịnh sắc căn. Sắc uẩn thâu nhiếp là tính chất không thấy mà có đối. Từ nhãn, nhĩ, tỷ, thật, thân đều như vậy. Trong đó, có khác nhau. Nghĩa là mỗi thứ hiện hành từ đối tượng chỗ duyên theo cảnh ấy là chỗ thức nương tựa.

Sắc là sở duyên hoạt động của mắt. Đối tượng của nhãn thức là sắc do bốn đại mà thành. Thể của sắc là hiển sắc, hoặc hình sắc, hoặc biểu sắc. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì có thấy có đối. Sắc nầy lại có ba thứ là diệu, không diệu và hai thứ trái nhau. Sắc ấy ra sao? Đó là xanh, vàng, đỏ, trắng v.v... là hiển sắc. Còn dài ngắn vuông tròn thô tế cao thấp, ngay, không ngay, khói, mây, bụi, sương mù, bóng ánh sáng, sáng tối, hoặc phần hiển sắc của hư không hoặc ảnh tượng hư không cũng là sắc. Tất cả các thứ trên đều là sắc.

-     Thanh: Là sở duyên của hoạt động của tai, nhĩ thức là âm thanh do bốn đại tạo thành, có thể nghe làm thể. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì không thấy, có đối. Âm thanh nầy cũng có ba thứ là: Vừa ý, không vừa ý, và hai thứ trái nhau. Tiếng hoặc là vỗ tay, hoặc tiếng khảy đàn, đánh trống, hoặc giao tiếp xã hội, hoặc mưu sinh, hoặc giảng Phật pháp phát khởi lời nói, hoặc tiếng vang từ núi cao, hang sâu. Như vậy, tiếng hoặc chính nơi tự tướng, hoặc do phân biệt hay âm vang đều gọi là âm thanh cả.

-     Hương là cảnh hoạt động của mũi. Sở duyên của tỷ thức là hương do bốn đại mà thành, có thể ngửi mùi của vật làm thể. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì có tính chất không thấy, có đối. Mùi (hương) này, lại có ba thứ là: Mùi thơm, mùi hôi, và hai thứ mùi trái nhau. Mùi thơm ấy ra sao? Đó là mùi thơm bay ra từ thân cây, từ cọng, từ vỏ, lá hoa quả, mùi xông lên từ khói hay dạng bột với nhiều loại, hoặc cùng sinh khởi, hoặc là hòa hợp, hoặc đổi khác, đều gọi là hương.

-     Vị là đối tượng hoạt động của lưỡi, chỗ duyên của thật thức là vị do bốn đại sinh ra. Thể là có thể nếm vị của vật. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì có tính chất không thấy, có đối. Vị ấy cũng có ba thứ là ngọt, không ngọt, và hai vị trái nhau. Vị ấy ra sao? Đó là vị dầu tươi, đường cát, mật ong, trái cây chín, hoặc vốn có, hoặc do hòa hợp, hoặc do đổi khác, đều gọi là vị cả.

-     Một phần Xúc là đối tượng hoạt động của thân sở duyên của thân thức là xúc do bốn đại sinh ra. Thể là có thể xúc chạm sự vật. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì tính chất không thấy, có đối. Xúc ấy có ba thứ là: đẹp, không đẹp và cả hai xúc trái nhau. Xúc ấy ra sao? Đó là những tiếp xúc nhám, trơn, nhẹ, nặng, nhanh chậm, ấm lạnh, đói khát, no nê, phiền muộn, mạnh, yếu, ghẻ, bịnh, già, chết, mệt mỏi, nghỉ ngơi, hăng say hoặc duyên vào ánh sáng, bóng hoặc không phải ánh sáng, bóng, hoặc duyên vào vật thể cứng, hay không cứng, hoặc duyên vào vật phải cầm giữ, hoặc duyên vào vật thể gồm nhiều thứ, hoặc duyên vào cảnh ngang trái hay thuận hợp, hoặc cùng sinh, hay do hòa hợp, hay do đổi khác, đều gọi là một phần Xúc.

-     Pháp xứ thuộc về sắc là đối tượng hoạt động của ý trong bất cứ lúc nào. Những thứ sắc uẩn thâu nhiếp thì không thấy, không đối. Sắc nầy có ba thứ là: sắc luật nghi, sắc không phải luật nghi, và sắc ở cảnh thuộc sở hành của Tam-ma-địa.

Sắc luật nghi là gì? Là sắc ngăn giữ nghiệp của thân và miệng. Sắc nầy giúp tăng thêm khả năng tạo tác của pháp tâm, tâm sở. Nương vào các pháp không hiện hành của sắc nầy để lập ra tính sắc.

-     Sắc không phải luật nghi là gì? Là sắc không ngăn giữ nghiệp của thân và miệng. Sắc nầy giúp tăng thêm khả năng tạo tác của pháp tâm, tâm sở. Nương vào các pháp hiện hành của sắc nầy để lập ra tính của sắc.

-     Sắc ở cảnh thuộc đối tượng hành của Tam-ma-địa là gì? Là do Tam-ma-địa hạ, trung, thượng đều vận chuyển tương ưng với tâm, tâm pháp, phát khởi sở duyên của sắc là ảnh tượng ở thể tính sắc, là sự tạo tác của sắc để thành tựu tánh sắc, nên gọi là pháp xứ.

-     Những thứ thuộc về sắc, tâm bất tương ưng hành là các hành và tâm không tương ưng. Đứng trên phần vị của tâm, tâm pháp và sắc pháp, giả nêu đặt tánh không thể nêu đặt cùng với các pháp của tâm là một hay khác.

-     Có hai mươi bốn thứ không tương ưng là: Đắc, định Vô tưởng, định Diệt tận, trời Vô tưởng, mạng căn, chúng đồng phần, sinh, già, trụ, vô thường, danh thân, cú thân, văn thân, dị sinh tính, trôi lăn, định dị, tương ưng, thứ đệ, thế tốc, thời, phương, số, hòa hợp, bất hòa hợp. Còn lại, còn có chủng loại khác nhau, cũng như vậy, nên biết.-Đắc gồm ba thứ:

Một là những tính chất khác nhau nối tiếp thuộc về hạt giống của các hành.

Hai là những tính chất khác nhau nối tiếp tự tại sinh khởi. Ba là những tính chất khác nhau nối tiếp tự tướng sinh khởi.

Định Vô tưởng: Là định đã xa lìa dục của Biến tịnh, nhưng chưa lìa khỏi dục của các cõi trên. Quán tưởng thân ta như đang bịnh ung nhọt, như mũi tên. Chỉ có cõi trời Vô tưởng mới thực là cảnh giới vắng lặng mầu nhiệm. Vì trời Vô tưởng phát sinh ý tưởng xuất ly, với tác ý là phương tiện trước không thường hiện hành nên tánh của tâm, tâm pháp vắng lặng.

-     Định Diệt tận: Là đã lìa khỏi dục của Vô sở hữu xứ, hoặc nhập định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, hay còn tiến lên nữa hoặc nhập định Vô tưởng, hay tiến lên thêm nữa, tạm thời ngưng tư tưởng, tác ý tìm phương tiện trước là ngưng dứt sở duyên. Không thường hiện hành các hoạt động của tâm, tâm pháp, và chỉ hiện hành một phần tính chất vắng lặng của tâm, tâm pháp.

-     Trời Vô tưởng: Là trước khi tới cõi này, đã được định Vô tưởng. Do đó, về sau sinh lên trời Vô tưởng hữu tình. Tâm, tâm pháp không còn hiện hành mà là vắng lặng.

-     Mạng căn: Là do nghiệp trước dẫn dắt dị thục cư trụ trong sáu xứ khi tánh quyết định.

-     Chúng đồng phần: Là tất cả hữu tình đều có tính chất giống nhau.

-     Dị sinh tính: Dị sinh có hai thứ là: Một là dị sinh tính của kẻ ngu, hai là dị sinh tính không hiểu biết.

-     Dị sinh tính của kẻ ngu là: Tính chất ngu muội đã có sẵn trong thân mỗi loài hữu tình từ vô thỉ đến nay.

-     Dị sinh tính không hiểu biết là: Các tính chất tà đạo ngoài giáo pháp của Như lai.

Sinh: Là tánh phát khởi tự tướng của các hành.

-     Già: Là tánh đổi khác của các hành trước sau.

-     Trụ: Khi các hành sinh ra đã mang sẵn tính nối nhau không dứt.

-     Vô thường: Là tính hoại diệt sau khi tự tướng của các hành sinh ra.

-     Danh thân: Giải thích tự thể pháp của các hành, với tánh giả lập danh hiệu, tư tưởng.

-     Cú thân: Là tập hợp các danh từ câu, hiển rõ nghĩa nhiễm, tịnh, là chỗ nương của lời nói.

-     Văn thân: Là chỗ nương về chữ nghĩa của hai thứ trước.

-     Trôi lăn: Là tánh của nhân quả trong các hành thường nối tiếp nhau, không dứt.

-     Định dị: Là nhân quả trong các hành có tính chất khác nhau.

-     Tương ưng: Là nhân quả trong các hành đều có tính tương ưng nhau.

-     Thế tốc: Là các hành có tính chất trôi lăn mau chóng.

-     Thứ đệ: Mỗi mỗi hành mang tính chất trôi lăn theo thứ lớp.

-     Thời: Các hành mang tính chất lần lượt vừa mới sinh liền diệt.

-     Phương: Các sắc, các hành đều có tính chung khắp và sai khác.

-     Số: Các hành đều có tính chất trôi lăn với thể tướng khác nhau nhưng đều tiếp nối mãi.

Hòa hợp: Các hành đều có tính chất duyên hợp.

-     Bất hòa hợp: Là tánh duyên trái với các hành.

-     Vô vi: Pháp nầy gồm có tám thứ là: Hư không, Phi trạch diệt, Trạch diệt Bất động, Tưởng thọ diệt, Chân như pháp thiện, Chân như pháp bất thiện và Chân như pháp vô ký.

-     Hư không vô vi: Là thể tánh của cảnh giới đối trị sắc bên ngoài là chỗ duyên của các tâm, tâm pháp.

-     Phi trạch diệt vô vi: Là nhân duyên không hội ngộ, qua đó, các hành tuy bất sinh diệt, nhưng chẳng phải là lìa bỏ tính chất ràng buộc.

-     Trạch diệt vô vi: Phương tiện từ tuệ hữu lậu nên các hành rốt ráo không còn sinh diệt, lìa xa tính chất ràng buộc.

-     Bất động vô vi: Buông bỏ dục Biến tịnh, chứng được tĩnh lự thứ tư, trong ấy đã lìa khỏi tánh trói buộc của khổ, vui.

-     Tưởng thọ diệt vô vi: Ra khỏi dục của Vô sở hữu xứ, nhập định Diệt tận, trong đó tâm, tâm pháp không còn hiện hành và thường hiện hành một phần tâm, tâm pháp vắng lặng, rời khỏi tánh trói buộc.

-     Pháp chân như của thiện, bất thiện, vô ký: Tức tánh của cảnh giới thanh tịnh đối với pháp thiện, bất thiện, vô ký. Lại nữa, trong năm pháp Cũng thế lại có ba tướng nên biết: Một là tướng tăng trưởng, hai là tướng nơi đối tượng khởi của sự tăng trưởng, ba là tướng pháp tánh.

Tướng tăng trưởng: Là tự tánh của biến kế sở chấp trong các pháp.

-     Tướng ở đối tượng khởi của sự tăng trưởng: Là tự tánh của y tha khởi thích ứng với tướng tăng trưởng trong các pháp.

-     Tướng pháp tánh: Là tự tính của viên thành thật trong các pháp.

Như vậy là đã nói xong tất cả cảnh giới, nay sẽ nói kệ:

Cõi là Dục, Sắc thảy Cùng với cõi Tam thiên.

Luận chép: Giới có hai thứ: Một là ba cõi như cõi Dục…, Hai là thế giới Tam thiên.

Ba cõi như cõi Dục, v.v… Một: Cõi Dục là cõi có nhiều thứ xe lẫn, chưa lìa khỏi dục, phiền não của các uẩn đều sai khác. Hai: Cõi Sắc là cõi đã lìa dục lìa các thứ xe lẫn, lìa các phiền não trong các uẩn sai khác. Ba: Cõi Vô sắc là cõi đã lìa khỏi các thứ xe lẫn, các thứ phiền não nơi các uẩn sai khác của cõi Dục, cõi Sắc.

-Trong ba cõi lại có năm thứ khác nhau là:

1. Tướng khác nhau.

2. Thô, nặng khác nhau.

3. Phương xứ khác nhau.

4. Thọ dụng khác nhau.

5. Nhậm trì khác nhau.

-     Tướng khác nhau: Các sắc trong cõi Dục, có nhiều thứ tướng, không tươi đẹp, vô số tướng xen lẫn.

Sắc trong cõi Sắc, có ít thứ tướng, tướng, tươi đẹp, không có các tướng xe lẫn. Trong cõi Vô sắc dù không có nghiệp, không có sắc được sinh, nhưng vẫn có sắc do định sinh là không thấy, không đối.

Lại nữa, trong cõi Dục có tướng khổ, thọ tương ưng, tướng giận dữ tương ưng. Tướng thường tương ưng theo phiền não. Trong cõi Sắc, cõi Vô sắc có tướng khổ thọ không tương ưng, tướng giận dữ không tương ưng, chỉ tương ưng với một ít tùy phiền não.

-     Thô nặng khác nhau: Là tướng thô nặng trong cõi Dục là thô và làm tổn hại, còn tướng thô nặng ở cõi Sắc, cõi Vô sắc thì nhỏ nhiệm và không làm tổn hại.

-     Phương xứ khác nhau: Là cõi Dục ở phương dưới, cõi Sắc thì ở phương trên, cõi Vô sắc thì không có phương xứ.

-     Thọ dụng khác nhau: Là thọ dụng của cõi Dục là cảnh giới của môn ngoài. Còn thọ dụng của cõi Sắc, cõi Vô sắc là cảnh giới của môn trong.

-     Nhậm trì khác nhau là người ở cõi Dục, các uẩn còn dựa vào bốn cách ăn để sống, còn ở cõi Sắc, cõi Vô sắc thì các uẩn phải dựa vào ba cách ăn để sống.

-     Thế giới tam thiên: Một: là Tiểu thiên thế giới. Hai: là Trung thiên thế giới. Ba: là Đại thiên thế giới.

-     Gọi là một thế giới là vì có một mặt trời, một mặt trăng chiếu soi. Cũng thế, trong ngàn thế giới có ngàn mặt trời, ngàn mặt trăng, ngàn núi chúa Tô-mê-lô, ngàn châu Thiệm-bộ, ngàn châu Tỳ-đề-ha, ngàn châu Cù-đàni, và ngàn châu Câu-lô, một ngàn trời Tứ đại vương chúng, một ngàn trời Tam Thập Tam, một ngàn trời Dạma, một ngàn trời Đổ-sử-đa, một ngàn trời Lạc Biến Hóa, một ngàn trời Tha hóa tự tại và một ngàn trời Phạm thế, cộng chung là một Tiểu thiên thế giới.

Một ngàn tiểu thiên thế giới như vậy là Trung thiên thế giới, một ngàn Trung thiên thế giới, là Đại thiên thế giới.

Hỏi: Vì sao Tiểu thiên thế giới được gọi là thấp nhỏ? Đáp: Như bò đực bị cưa hai sừng, vì thiếu giảm nên gọi là thấp nhỏ. Cũng vậy, từ trời Phạm Thế trở xuống, trong đó đã có một ngàn thế giới không giống như địa cầu này, nên gọi là thấp nhỏ.

Thế giới Tam thiên ấy đã bị ba tai họa phá hủy, là nạn nước, lửa, gió. Tai họa ấy lại có ba thứ: Ba đỉnh của tai họa là các cõi tĩnh lự hai, ba, bốn. Chư thiên của cõi tĩnh lự thứ tư theo pháp là cùng ở trong cung cùng sinh cùng diệt. Lại còn có ba trung kiếp khởi là kiếp đói khát, kiếp bịnh dịch, kiếp đao binh. Hai mươi trung kiếp thế gian là đang trong thời kỳ chính thức bị tan hoại. Sau khi hai mươi trung kiếp tan hoại, thì đến kiếp Trụ, là hai mươi trung kiếp thế gian được thành lập. Hai mươi trung kiếp đã thành lập là kiếp Trụ. Như vậy, cộng chung có tám mươi trung kiếp, gọi là đại kiếp. Ví như mưa lớn rơi từng giọt bằng trục xe, từ trời cứ rơi mãi không dứt. Như vậy, vô biên thế giới về phương Đông không xen hở hoặc thành hay hoại, hoặc chính thức tan hoại, hoặc hoại rồi đến trụ, hoặc chính thức thành lập, lập xong là trụ. Cứ như vậy, cho đến thế giới mười phương như đã nêu.

Về thế giới tạp nhiễm, nói tiếp bằng kệ:

Tính phiền não nghiệp sinh, Tướng tạp nhiễm, nên biết.

Luận chép: Tánh tạp nhiễm có ba thứ: Một: là phiền não tạp nhiễm. Hai: là nghiệp tạp nhiễm. Ba: là sinh tạp nhiễm.

1. Phiền não tạp nhiễm: Là tất cả phiền não và tùy phiền não, gọi chung là phiền não tạp nhiễm. Đại lược, phiền não có mười thứ: Một: là Tát-ca-da kiến. Hai: là Biên chấp kiến. Ba: là Tà kiến. Bốn: là Kiến thủ. Năm: là Giới cấm thủ. Sáu: là Tham. Bảy: là Sân. Tám: là Vô minh. Chín: là Mạn. Mười: là Nghi.

Hoặc chia làm hai thứ là: Một là phiền não do Kiến đạo dứt. Hai là phiền não do tu đạo dứt.

Hoặc chia làm ba thứ: Một: là Thuộc cõi Dục. Hai: là Thuộc cõi Sắc. Ba: là Thuộc cõi Vô sắc.

Hoặc chia làm bảy thứ hành điên đảo là: Một: là Tà giải hành. Hai: là Bất giải hành. Ba: là Phi giải phi bất giải hành. Bốn: là Chấp tà giải hành. Năm: là Bỉ nhân y xứ hành. Sáu: là Bỉ bố sinh hành. Bảy: là Nhậm vận khởi hành.

1.     Tà giải hành: Là tát-ca-đa kiến, biên chấp kiến, tà kiến, tức đối với những gì mình biết thì sinh tâm cố chấp tà vạy.

2.     Bất giải hành: Là vô minh, không hiểu biết.

3.     Phi giải phi bất giải hành: là nghi ngờ.

4.     Chấp tà giải hành: Là kiến thủ, giới cấm thủ và các kiến chấp làm chỗ sanh khởi cho tham.

5.     Bỉ nhân y xứ hành: Là các phiền não được dứt trừ do thấy khổ đế, tập đế.

6.     Bỉ bố sinh hạnh: Là các phiền não được dứt trừ do thấy diệt đế và đạo đế.

Nhậm vận khởi hạnh: Là các thứ phiền não do kiến đạo và Tu đạo dứt. Kiến đạo dứt trừ gồm một trăm mười hai thứ phiền não. Tu đạo dứt trừ gồm có mười sáu thứ phiền não. Cả hai thứ cộng chung có: Một trăm hai mươi tám phiền não. Vì chúng có vô số thứ khác nhau Cũng thế, nên lập ra vô số tên khác nhau. Những tên gọi như: Kiết phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, bộc lưu, ách, thủ, lệ thuộc cái gốc cây trơ trụi cấu nhiễm v.v... như lửa cháy, như giết hại, như mũi tên bắn, gây ra vô số hành vi ác độc hữu lậu, chứa đầy nóng bức, gây ra tranh chấp, như lửa hừng đốt cháy cả rừng dày, gây ra biết bao trở ngại. Có các tên gọi, ý nghĩa sai khác Cũng thế.

2.     Nghiệp tạp nhiễm: Là do phiền não sinh ra hoặc do phiền não làm duyên giúp đỡ cho pháp lành sinh ra. Chúng đã thích ứng với ba cõi về nghiệp của thân, ngữ, ý. Ba nghiệp nầy lại có hai thứ: Một: là tư (quán xét); hai: là Chỗ khởi của tư. Ba nghiệp nầy lại có nhiều thứ khác nhau, thế nên nếu thuộc về cõi Dục thì gọi là phước, chẳng phải phước. Nếu thuộc về cõi Sắc, cõi Vô sắc thì gọi là bất động.

Còn có Dẫn nghiệp là năng lực tạo tác và tăng trưởng, dẫn dắt các loài hữu tình ở thế gian nầy và khí thế gian đến quả và dị thục. Lại có sinh nghiệp, là nghiệp lực từ đời trước dẫn dắt, giúp đỡ khiến sinh ra.

3.     Sinh tạp nhiễm: Là do phiền não và nghiệp sinh ra các nơi sinh mới có khổ, khổ lại có nhiều thứ, như khổ đã ép ngặt từ bào thai, khổ về bịnh, chết, khổ vì oán ghét mà phải gặp mặt, khổ vì yêu mến phải chia lìa, khổ vì mong cầu không thành, khổ vì thân xác thô nặng cùng với sự sinh trưởng, khổ vì chết đi sống lại. Khổ vì sinh ra nạn, đó gọi là tạp nhiễm.

QUYỂN 2

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 2)

Như vậy, đã nói về tạp nhiễm, nay sẽ nói về đế, tụng rằng:

Các đế có sáu thứ.

Luận chép: Đế có sáu thứ là:

1. Thế tục đế.

2. Thắng nghĩa đế.

3. Khổ đế.

4. Tập đế.

5. Diệt đế.

6. Đạo đế.

1.     Thế tục đế: Là những từ ngữ, câu chữ, bài văn (Danh, Cú, Văn, Thân). Dựa vào nghĩa của Danh, Cú, Văn, Thân ấy mới có tất cả lời nói. Rồi từ những gì nói ra ấy mà hiểu nghĩa, lại biết được tâm, tâm pháp ở thời gian. Toàn bộ hệ thống chữ nghĩa kia làm cho ta hiểu giáo pháp.

2.     Thắng nghĩa đế: Là trí tuệ của bậc Thánh, bậc Thánh và nghĩa ở cảnh sở hành thuộc trí tuệ ấy tương ưng với tâm và tâm pháp.

Khổ đế: Có hai thứ khổ: Một là khổ thuộc về thế tục đế; hai là khổ thuộc về Thắng nghĩa đế.

-     Khổ thuộc về thế tục đế: Như trong kinh nói: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán thù gặp nhau là khổ, yêu thương chia lìa là khổ, mong cầu không được là khổ.

-     Khổ thuộc về Thắng nghĩa đế: Như trong kinh nói là: Gồm lược tất cả những gì thuộc về khổ năm thủ uẩn. 4. Tập đế: Có bốn thứ: Một là Toàn nhiếp; hai là Thắng nhiếp; ba là Thế tục đế nhiếp và bốn là Thắng nghĩa đế nhiếp.

-     Toàn nhiếp: Là tất cả phiền não, nghiệp trong ba cõi đều gọi là tập đế.

-     Thắng nhiếp: Là duyên đã được, chưa được, về tự thể cùng cảnh đã dấy khởi ái ở đời sau. Ái-Hỷ cùng hiện hành. Ái-Hỷ hiện hữu khắp các nơi, đều gọi là tập đế.

-     Thuộc về Thế tục đế: Là nếu cảm nhận khổ ở đời thì khổ ấy thuộc về khổ đế.

-     Thuộc về Thắng nghĩa đế: Là cảm nhận khổ ở thắng nghĩa thì khổ ấy thuộc về khổ đế.

5. Diệt đế là có bốn thứ, như trước đã nói: Toàn nhiếp là hoàn toàn thuộc về tập đế, dứt bỏ hết không sót. Nhổ ra lìa khỏi ái dục là dứt trừ hết, vắng lặng hoàn toàn. Thắng nhiếp là thắng nhiếp về tập đế, dứt bỏ hết không sót, nói rộng Cũng thế.

-     Thuộc về Thế tục đế: Là đối với thế tục đế đã thuộc về tập đế thì dứt bỏ hết không sót. Nói rộng Cũng thế.

-     Thắng nghĩa đế nhiếp: Là đối với thắng nghĩa đế đã thuộc về tập đế tức vứt bỏ hết không còn sót. Cứ Cũng thế có thể nói rộng.

6. Đạo đế cũng có bốn thứ, như ở trước đã nói là:-Toàn nhiếp: Là tất cả giác phần.

-    Thắng nhiếp: Là các chi thuộc tám Thánh đạo.

-    Thế tục đế nhiếp: Là đối với thế tục đế đã thuộc về khổ đế, tập đế, diệt đế, là sự hiểu biết bao trùm, là sự dứt trừ hẳn, là làm nên sự chứng ngộ.

Nhất thiết thánh đạo thắng nghĩa đế nhiếp là đối với thắng nghĩa đế đã thuộc về khổ đế, tập đế, diệt đế, là sự hiểu biết cùng khắp, nói rộng Cũng thế.

Khổ tập diệt đạo Thánh đế nghĩa: Là nơi nào có Thánh trí hiện hành thì ở đó có khổ, tập, diệt, đạo, là đế do các bậc Thánh đều cho đó là đế, nên gọi là Thánh đế.

Như vậy, đã nói về đế, nay sẽ nói về nương Kệ rằng:

Y chỉ tám và hai.

Luận chép: Có tám thứ y chỉ là: bốn tĩnh lự và bốn Vô sắc. Lại có hai thứ: tĩnh lự thứ nhất có hai thứ là thế gian và xuất thế gian. Cho đến Vô sở hữu xứ cũng có hai thứ là thế gian và xuất thế gian. Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chỉ là thế gian.

-     Sơ tĩnh lự thế gian là duyên vào ý tưởng lìa dục của cõi Dục khiến giáo pháp tăng thượng. Hoặc duyên vào ý tưởng lìa khỏi kia, do việc tăng thượng chỉ dạy truyền trao làm cảnh giới.

Nhờ con đường thế gian nên tác ý quán chiếu mạnh mẽ, rồi tu tập và được quả chuyển y. Nhưng do không nhập sâu vào nghĩa của đối tượng nhận biết nên không có khả năng phá trừ hẳn tùy miên, là chỗ dựa của phiền não ở tự địa, nên là pháp thoái lui, là chỗ nương dựa của tâm. Tâm pháp ở định của tự địa. Như Sơ tĩnh lự thế gian, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thế gian, đều muốn duyên vào việc lìa khỏi dục ở cõi dưới để làm tăng thượng giáo pháp. Nói rộng như trước.

-     Sơ tĩnh lự xuất thế gian: Là trước do làm như vậy, trạng thái như vậy, tướng như vậy, rồi tác ý nhập Sơ tĩnh lự. Nay, nếu không làm như vậy, không có trạng thái như vậy, không tác ý theo tướng như vậy thì đối với các pháp đã thuộc về sắc, thọ, tưởng, hành, thức nên suy tưởng chúng như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên. Nếu không tư duy như vậy thì chúng ngăn che sự lãnh hội về vô thường, khổ, không, vô ngã. Hoặc lại tư duy khổ là khổ, tập là tập, diệt là diệt, đạo là đạo. Hoặc lại tư duy về thật tế chân như pháp tánh. Cũng thế đối với các pháp, suy nghĩ như bệnh, cho đến thật tế.

Đã tư duy về các pháp như vậy nên tâm inh nhàm chán lo sợ. Khi biết nhàm chán, lo sợ thì thâu nhiếp tâm an trụ trong cảnh giải thoát hay thâu nhiếp tâm an trụ trong thật tế chân như, pháp tánh. Nơi ấy là trí vô phân biệt tương ưng với tâm và tâm pháp nương vào trí ấy mà được quả chuyển y. Do đã thâm nhập vào nghĩa của đối tượng nhận biết nên phá trừ hẳn tùy miên, không phải là chỗ nương của các phiền não, mà là pháp không bị thoái chuyển. Như vậy, gọi là Sơ tĩnh lự xuất thế gian, cho đến Vô sở hữu xứ, phải nên nói rộng.

Đối với các tĩnh lự và vô sắc, lại có bốn thứ nên biết: Một là Tạp nhiễm, hai là khiết bạch, ba là lập ra, bốn là thanh tịnh.

1. Tạp nhiễm là khởi vị rất yêu sắc, kiến, mạn, nghi của tĩnh lự trên.

-Vị của ái có mười thứ:

1.     Câu sinh tác ý ái vị (vị ái do tác ý cùng sinh khởi);

2.     Phân biệt sở khởi tác ý ái vị (vị ái do tác ý phân biệt chỗ khởi

3.     Tự địa tác ý ái vị (vị ái do tác ý của tự địa);

4.     Dị địa tác ý ái vị (vị ái do tác ý của địa khác);

5.     Quá khứ ái vị;

6.     Vị lai ái vị; 7. Hiện tại ái vị;

8.   Hạ ái vị;

9.   Trung ái vị;

10. Thượng ái vị.

2.     Khiết bạch là tịnh và vô lậu. Tịnh lại có ba thứ là: Một là dẫn phát; hai là thượng luyện; ba là trừ cấu sở nhiếp kham nhậm (Trừ bỏ những thứ liên lệ thuộc về cấu nhiễm).

Vô lậu cũng có ba thứ là: Một là vô lậu xuất thế gian; hai là vô lậu thử đẳng lưu; ba la vô lậu ly hệ.

3.     Lập ra, có bốn thứ là: Một là lập ra cận phần; hai là lập ra căn bản; ba là kiếp lập định; bốn là lập ra sinh.

-Lập ra cận phần và căn bản: Như trong kinh nói: Nghĩa là ở ngay thân nầy, sự thấm nhuần của ly sinh hỷ lạc có được, một sự nhuần thấm khắp nơi, một sự thích ý khắp nơi, hiện bày khắp chốn. Đó là trạng thái của Sơ tĩnh lự cận phần. Như kinh lại nói: "Trong thân nầy, các chỗ dù nhỏ nhất cũng lan khắp cái vui của ly sinh hỷ lạc, đó là căn bản của Sơ tĩnh lự".

Như trong kinh nói: "Trong thân nầy do định mà phát sinh sự thấm nhuần của hỷ lạc, một sự nhuần thấm hiện bày khắp nơi, một thích ý khắp nơi, tràn lan khắp chốn. Đó là tĩnh lự cận phần thứ hai". Như kinh nói: "Ở ngay khắp các chỗ thân nầy, không có một chút nào không tràn ngập hỷ lạc do định đem lại. Đó gọi là căn bản của tĩnh lự thứ hai". Như trong kinh nói: "Ở ngay thân nầy, cái lạc lìa hỷ nhuần thấm, một sự nhuần thấm khắp nơi, một sự thích ý khắp nơi, hiện bày khắp chốn. Đó gọi là tĩnh lự cận phần thứ ba". Trong kinh lại nói: "Khắp các chỗ trong thân nầy, chẳng có một chút nào không tràn ngập cái lạc lìa hỷ. Đó gọi là tĩnh lự căn bản thứ ba". Như trong kinh nói: "Ở ngay trong thân nầy tâm thanh tịnh, tâm trong trắng, ý hiểu biết đầy đủ bao trùm nên an trụ ở đấy. Đó là tĩnh lự cận phần thứ tư". Như trong kinh nói: "Ở ngay thân nầy, tất cả chỗ, dù nhỏ nhất cũng tràn ngập tâm thanh tịnh, và tâm trong trắng. Đó gọi là căn bản của tĩnh lự thứ tư".

Như trong kinh nói: "Vì đã vượt qua tất cả sắc tưởng, nên các tưởng có đối đều vắng bặt, các thứ tưởng không còn tác ý, nên chứng nhập vô biên hư không. Hư không vô biên xứ là vô biên hư không xứ cận phần". Như kinh nói: "An trụ đầy đủ là căn bản của hư không vô biên xứ".

Như trong kinh nói: "Vì vượt khỏi tất cả Hư không Vô biên xứ, vào Vô biên thức. Thức vô biên xứ đó gọi là Thức vô biên xứ cận phần". Như kinh lại nói: "An trụ đầy đủ là căn bản của Thức vô biên xứ".

Như trong kinh nói: "Vì vượt qua tất cả thức vô biên xứ nên nhập vào vô thiếu sở hữu Vô sở hữu xứ. Đó gọi là cận phần của Vô sở hữu xứ". Như kinh lại nói: "An trụ đầy đủ là căn bản Vô sở hữu xứ".

Như kinh nói: "Vì vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, vào phi hữu tưởng, phi Vô tưởng, Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ. Đó là cận phần của phi tưởng, phi Vô tưởng, xứ cân phần. Như kinh lại nói: "An trụ đầy đủ, đó là căn bản của Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ".

Lập ra định: Như trong kinh nói: "Vì lìa pháp dục ác bất thiện nên có tầm có tứ ở ly sinh hỷ lạc". Đó là Sơ tĩnh lự an trụ đầy đủ. Lìa dục là hoặc duyên vào ý niệm lìa bỏ dục của cõi Dục để làm tăng thượng giáo pháp. Hoặc duyên vào sự lìa dục kia, lấy sự chỉ dạy truyền trao làm cảnh giới, thì cắt đứt hết các phiền não tạp nhiễm ở cõi Dục. Lìa pháp ác bất thiện, là dứt trừ nghiệp cõi Dục. Do còn pháp tạp nhiễm có thể đọa vào đường ác, nên gọi là ác, gây chướng ngại cho pháp lành nên gọi là bất thiện.

Tầm: Nghĩa là có khả năng đối trị hai thứ tạp nhiễm. Là Tầm xuất li, Tầm không giận dữ, Tầm không não hại.

Tứ: Nghĩa là có khả năng đối trị hai thứ tạp nhiễm. Là Tứ xuất ly Tứ không giận dữ, Tứ không não hại.

Lìa là đã được chuyển y do tu tập đối trị và cắt đứt những thứ ngăn che.

Sinh: là từ đó sinh ra. Hỷ là được chuyển y, từ chỗ thức chuyển nên tâm được vui, tâm được mạnh mẽ, tâm được vừa ý, tâm được điều hòa, an ổn thích hợp thuộc về thọ của cảm thọ.

Lạc là đã chuyển y, nương thức A-lại-da chuyển nên có khả năng nhiếp về chỗ nương, khiến thân được vui vẻ, an ổn, vừa ý, thuộc về thọ của cảm thọ.

Sơ là thứ lớp trong định, định nầy được kể là sớm nhất.

Tịnh lự là đã cắt đứt các pháp tạp nhiễm của cõi Dục là chỗ dựa của ác tầm, tứ, hỷ, lạc. Từ chỗ chuyển y nên tâm an trụ vào tánh cảnh. Cụ túc là tu tập, đầy đủ an trụ tròn đầy, nghĩa là nhập định hay xuất định đều tùy ý muốn một cách tự tại.

Lại như trong kinh nói: Vì tầm, tứ đã vắng lặng, các thứ bên trong đã tịnh và vì định tâm vào một cõi duy nhất, không còn tầm và tứ, nên định sinh ra hỷ lạc. Đó là tĩnh lự thứ hai, an trụ đầy đủ.

Tầm, Tứ đã vắng lặng nghĩa là hoặc duyên xa lìa Sơ tĩnh lự muốn làm tăng thượng giáo pháp, hoặc duyên theo sự truyền dạy giáo pháp mà tới cảnh giới đó rồi, nên ở cõi Sơ tĩnh lự, Tầm, Tứ đã vắng bặt, không còn hiện hành nữa.

Các thứ bên trong đã tịnh: Là thâu nhiếp niệm nhận biết đúng đối trị với tầm, tứ, nơi nội thể của mình, tâm bỏ trụ, lìa khỏi pháp trần cấu của tầm, tứ nên gọi là các thứ bên trong đã tịnh. Tâm định vào một cõi duy nhất là: khi chứng nhập như vậy thì thường là an trụ nối tiếp, các pháp tầm, tứ không bao giờ còn hiện hành nữa.

Không còn tầm, tứ là chứng được pháp cắt đứt tầm, tứ.

Định (Tam-ma-địa) là đã chuyển y, tâm an trụ một tánh cảnh.

Sinh ra là từ định ra mừng vui, như ở trước đã nói.

Tịnh lự thứ hai là tầm, tứ đã vắng bặt, nội thể thanh tịnh tràn ngập, từ đó định sinh ra hỷ lạc làm chỗ dựa. Từ chỗ chuyển y mà tâm an trụ vào một tánh cảnh. Các phần còn lại, như ở trước đã nói.

Lại như kinh nói: Do lìa bỏ hỷ, an trụ trong xả niệm về chánh tri và ưa thích chánh thọ của thân. Bậc Thánh gọi là nêu bày thành tựu về xả niệm lạc tru, là nơi an trụ đầy đủ của tĩnh lự thứ ba.

Lìa hỷ là hoặc duyên lìa dục ở tĩnh lự thứ hai để làm cho giáo pháp tăng thượng hoặc duyên theo sự truyền dạy giáo pháp tạo nên cảnh giới đó, nhìn thấy lỗi của tướng hỷ thuộc tĩnh lự thứ hai.

Trụ nơi xả là nhận thức về hỷ và tác ý đã sinh nhưng không thể chịu đựng, vì có tâm chán lìa, nên an trụ vào tâm bất nhiễm ô, tâm bình đẳng, tâm ngay thẳng, không chuyển động mà an trụ vào tánh.

Niệm là quán xét một cách sáng tỏ thấy trạng thái hỷ không hiện hành khiến cho tưởng hỷ chắc chắn không còn hiện hành. Chánh tri là có lúc quên mất nên hỷ lại hiện hành, nên nhận biết đúng phân biệt rõ đối với tướng hỷ đang hiện hành.

Lạc là đã chuyển y, đã xa lìa ý niệm hỷ, ý niệm mạnh mẽ, an ổn và ý thích, nó thuộc về thọ của cảm thọ.

Thân là đã chuyển y, hoặc chuyển thức, hoặc thức A-lại-da, tâm tánh không còn dựa vào chung, riêng, nên gọi là thân.

Chánh thọ là đã chuyển y, có khả năng nhiếp thọ thâu, khiến thân ưa thích, nói chung lại là vui. Thân cảm nhận và ở yên trong cái vui ấy một cách chánh đáng, từ đó cảm nhận được chỗ vắng lặng cùng cực, mầu nhiệm hơn hết, không còn phân biệt cõi trên hay cõi dưới.

Thánh là Phật và đệ tử của Phật. Tuyên thuyết là hiểu bày, lập bày.

Thành tựu ý niệm buông xả lạc trụ là từ cõi nầy trở lên, không còn phần diệu lạc nào, các cõi dưới cũng không có. Như vậy, không còn phải đối trị với niềm vui vượt hơn và không còn niệm buông xả. Tịnh lự thứ ba đã xa lìa hỷ, đã buông xả niệm về chánh tri mà lạc nương, dựa vào chuyển y, nên tâm an trụ vào một tánh cảnh. Các cõi khác như trước đã nói.

Lại như kinh nói: Do dứt hết lạc và trước đã cắt đứt hết các khổ, mừng, lo nên không còn khổ, không còn vui, niệm buông xả đã lắng sạch. Đó là tĩnh lự thứ tư, an trụ đầy đủ.

Dứt hết lạc là khi chứng nhập vào tĩnh lự thứ tư. Trước đã cắt đứt các khổ là lúc chứng nhập vào tĩnh lự thứ hai. Trước đã dứt bỏ niệm mừng (hỷ) là lúc chứng nhập vào tĩnh lự thứ ba. Trước đã dứt trừ niệm lo (ưu) là lúc chứng nhập vào Sơ tĩnh lự. Không khổ, không vui là đã chuyển y, không phải vừa ý, chẳng phải không vừa ý, thuộc về thọ của thọ, là chỗ vắng lặng cao tột hơn hết của cõi Sắc, từ chỗ cao vượt ấy mà các thâu nhiếp không còn bị rung động.

Niệm buông xả đã lắng sạch là đã vượt qua hết các dao động của tầm, tứ, hỷ, lạc trong ba địa. Tâm đầy tính chất bình đẳng, đầy tính chất ngay thẳng, tâm không còn chuyển động nhưng có đủ tính chất an trụ.

Niệm đã lắng sạch là đã vượt qua hết tất cả dao động của tầm, tứ, hỷ, lạc trong ba địa, tâm không bị quên mất, nên vẫn giữ tính chất sáng tỏ. Địa thứ tư là theo thứ lớp trong định mà kể là thứ tư tĩnh lự là dứt hết niệm vui, không khổ, không vui, ấy là chỗ nương của niệm buông xả lắng sạch. Nương vào chuyển y nên tâm an trụ vào một tánh cảnh. Các phần khác như trước đã nói.

Lại như kinh nói: Do đã vượt qua các sắc tưởng, đã vượt qua hết các tưởng hữu đối, các tưởng không còn tác ý nên chứng nhập vô biên hư không, hư không vô biên xứ.

Trụ đầy đủ tất cả là tướng của các hành nghiệp. Sắc tưởng là tưởng về hiển sắc. Vượt qua là lìa bỏ ham muốn của cõi Dục, có nghĩa là vượt qua, ra khỏi. Dứt hết tưởng hữu đối, các tưởng khác còn không phát sinh tác ý, Cũng thế, nên biết.

Tưởng hữu đối là tưởng ấy dựa vào tưởng về bốn đại và những tưởng khác đã tạo nên tưởng sắc.

Các thứ tưởng là từ trong sắc được tạo nên do bốn đại và những tưởng khác có hình thù dài ngắn, thô, mịn, vuông tròn, cao thấp, ngay, không ngay, sáng, bóng sáng, sáng tối. Những giả sắc khác nhau như vậy thuộc về các thứ tưởng. Nếu khi hoàn toàn nhập vào vô biên hư không xứ thì tưởng hữu đối không hiện tiền. Vì đã dập tắt nên các tưởng không còn khởi tác ý. Do đó, nên khi vượt khỏi tưởng hữu đối, thì có thể nương vào tất cả tưởng sắc.

Vô biên là không còn phân biệt các tướng trạng trong mười phương.

Hư không là cảnh giới sở duyên đối trị sắc.

Hư không vô biên xứ là nơi chuyển y và có thể làm chỗ nương cho định. Những phần khác như trước đã nêu. Lại như kinh nói: Vượt qua tất cả hư không vô biên xứ, nhập vô biên thức, thức vô biên xứ, an trụ đầy đủ.

Vượt qua tất cả hư không vô biên xứ, là đã vượt qua cận phần và căn bản.

Vô biên thức là thức duyên vào hư không vô biên. Duyên vào đây làm cảnh giới.

Thức vô biên xứ là nơi chuyển y và có thể làm chỗ nương cho định, phần còn lại như trước đã nói.

Lại như kinh nói: Vượt qua tất cả thức vô biên xứ, nhập vô thiểu sở hữu, Vô sở hữu xứ, an trụ đầy đủ.

Vượt qua tất cả Thức vô biên xứ, là đã vượt qua cận phần và căn bản. Vô thiểu sở hữu là trên cảnh giới của thức xứ, thời gian truy tìm không được chút nào. Ngoài Vô sở hữu ra, không còn cảnh giới nào khác, do chỉ thấy mỗi cảnh giới nầy là vắng lặng tột cùng. Vô sở hữu xứ là nơi chuyển y và có thể làm chỗ nương cho định, phần khác như trước đã nêu.

Lại như kinh nói: Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ, nhập Phi hữu tưởng Phi Vô tưởng, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, an trụ đầy đủ.

Vượt qua tất cả Vô sở hữu xứ là đã vượt qua cận phần và căn bản.

Phi hữu tưởng là đã vượt qua Vô sở hữu tưởng.

Phi Vô tưởng là trên cảnh giới của Vô sở hữu xứ, thời gian truy tìm chỉ duyên được với tâm Vô sở hữu hết sức nhỏ nhiệm và tâm pháp. Vì chỉ thấy có mỗi cảnh giới nầy là vắng lặng tột cùng. Phi tưởng phi phi tưởng xứ là nơi chuyển y và có thể làm chỗ nương cho định, phần khác như trước đã nêu.

Lập ra sinh: Là trước trong khoảng thời gian nầy, tu tập qua ba phẩm địa hạ, trung, thượng.

Sơ tĩnh lự: Về sau sinh về nơi ấy được quả báo ba cõi trời, là trời Phạm thân, trời Phạm Phụ, trời Đại Phạm. Những ai khéo tu tập không tầm, có tứ là chứng được Sơ tĩnh lự, được quả báo sinh lên trời Đại phạm, vượt qua không khác gì cõi kia. Nếu trong khoảng thời gian nầy, trước tu tập theo hạ, trung, thượng là tĩnh lự thứ hai về sau sinh về nơi ấy, hưởng quả báo ở ba cõi trời là trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang và trời Cực Tịnh quang.

Nếu trong thời gian nầy, trước tu tập theo hạ, trung, thượng là tĩnh lự thứ ba, về sau sinh về xứ đó, hưởng quả báo ở ba cõi trời là trời Thiểu Tịnh, trời Vô Lượng tịnh và trời Biến tịnh.

Nếu trong khoảng thời gian nầy, trước tu tập theo hạ, trung, thượng là tĩnh lự thứ tư, về sau sinh về xứ đó hưởng quả báo nơi ba cõi trời là trời Vô Vân, trời Phước Sinh và trời Quảng Quả. Từ quả vị nầy trở lên là đã xa lìa tham sắc, không có phương hướng và vị trí khác nhau, nên dù có nhân tu tập theo hạ, trung, thượng nhưng vẫn không thể lập ra sinh quả khác nhau.

Nếu khi còn ở cấp hạ, trung, thượng tu tập Hư không Vô biên xứ thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Hư không vô biên xứ.

Nếu ở hạ, trung, thượng tu tập Thức vô biên xứ thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Thức vô biên xứ.

Nếu theo hạ, trung, thượng tu tập Vô sở hữu xứ thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Vô sở hữu xứ.

Nếu theo hạ, trung, thượng tu tập Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Do định vắng lặng nên có chỗ khác nhau và do thời gian an trụ mãn hạn hay không mãn hạn nên định ấy có khác nhau. Lại do thường trụ nơi ái vị của Sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nên không hưởng hết được mạng sống mà có chết yểu giữa chừng.

-     Nếu tu tập xe lẫn phẩm vị thấp của thế gian và vô lậu tĩnh lự thứ tư thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Vô Phiền tịnh cung.

-     Nếu tạp tu xe lẫn phẩm trung thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Vô Nhiệt tịnh cung.

-     Nếu tạp tu xe lẫn phẩm thượng thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Diệu Hiện tịnh cung.

-     Nếu tạp tu xe lẫn phẩm thượng cao hơn thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Diệu Kiến tịnh cung.

-     Nếu tạp tu xe lẫn phẩm tột thượng thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời Vô Ngại Cứu Cánh tịnh cung.

-     Nếu khéo tu pháp Tam-ma-địa vô lượng không thể nghĩ bàn của Bồ-tát sẽ được dẫn đến tĩnh lự thứ tư trong địa thứ mười và được quả báo sinh lên cõi trời Đại Tự tại, vượt qua cõi trời Tịnh cung.

Thanh tịnh là nơi bờ mé của Sơ tĩnh lự, từ chỗ ấy đưa đến sự phát sinh tất cả công đức cao quý và mau được thần thông như tướng thanh tịnh của Sơ tĩnh lự. Các tĩnh lự khác và các cõi Vô sắc, nên biết cũng như vậy. Trong ấy, có sự khác nhau của cõi Vô sắc nghĩa là làm phát sinh công đức giải thoát của bờ mé ở Sơ tĩnh lự. Như vậy, các tĩnh lự và định Vô sắc, khi đã không còn tạp nhiễm và trong sạch cũng thế thì chỗ lập ra thanh tịnh phải khác nhau, nên biết như vậy.

Đã nói xong về nghĩa nương dựa. Nay sẽ nói về phần giác. Kệ rằng:

Giác phần có nhiều thứ,
Trước nói ba mươi bảy.

Luận chép: Về phẩm loại của Bồ-đề phần gồm nhiều thứ, pháp vượt hơn trước có ba mươi bảy, là bốn niệm trụ v.v…, như kinh có nói rộng.

Bốn niệm trụ là: Thân niệm trụ là hoặc duyên vào thân, hoặc duyên vào thân để hiểu sâu thêm giáo pháp, hoặc duyên vào giáo pháp truyền dạy tạo nên cảnh giới rồi, rồi nhờ tu tập văn, tư nên trí tuệ phát sinh, hoặc chỉ nhờ ảnh tượng hay việc thành tựu, từ nơi đời sống của thân mà khéo an trụ trong chánh niệm, khiến thân lìa được các trói buộc. Như đối với thân thân niệm trụ, đối với các niệm trụ, Thọ, Tâm, Pháp nên biết cũng như vậy. Chỗ khác nhau trong ấy là mỗi niệm xứ tương ưng với đối tượng của nó. Từ đó mà ra khỏi các pháp trói buộc. Lại nữa, nên nói tất cả xứ và niệm tương ưng với tâm và tâm pháp, như vậy, lúc đó phát khởi tâm quán sát.

Cảnh sở duyên có bốn việc: Một: là việc mà tâm chấp; hai: là việc Tâm lãnh nhận; ba: là việc Tâm phân biệt; bốn: là việc nhiễm tịnh của tâm.

Bốn pháp chánh đoạn như kinh có nói rộng gồm:

Một: là pháp ác bất thiện đã sinh, phải khiến cho dứt bỏ, tức muốn khuyến tấn phát sinh chánh cần thì phải thúc đẩy tâm giữ lấy tâm. Đã sinh nghĩa là thuộc vào vòng trói buộc của phiền não thô.

-Pháp ác bất thiện là chúng có thể làm nổi dậy hành vi ác, đó là phiền não và tùy phiền não ở cõi Dục. Ác bất thiện: Về nghĩa thì trước đã nêu.

Phải cắt đứt nó là phải tu pháp đối trị, khiến chúng trở nên mỏng dần, nhỏ dần.

Sinh mong muốn: Là khởi chứng, ưa thích dứt trừ.

Muốn khuyến tấn: Là không thể chịu đựng điều ác, chỗ hướng tới là nhằm dứt trừ chúng.

Phát sinh chánh cần là dùng nhiều phương pháp tu vững chắc để đối trị pháp bất thiện.

Ba câu nói trên mở ra cho thấy văn tuệ và tư tuệ là pháp để đối trị phẩm vị thấp.

Thúc đẩy tâm là tu tập đối trị điều ác làm cho tuệ sáng tỏ. Nếu bị khuất chìm trong phiền não nhiễm ô thì thúc đẩy tâm vươn lên. Giữ lấy tâm là khi pháp đối trị nầy hiện hành thì phải giữ tâm vững chắc mà xua tan các thứ phiền não cấu uế.

Hai: Pháp ác bất thiện chưa sinh thì làm cho chúng bất sinh, cho đến nói rộng:

-     Chưa sinh: là những hưng thịnh thuộc về tùy miên là nguyên nhân làm phát sinh các trói buộc thô nặng.

Làm cho chúng bất sinh: Là khiến cho các trói buộc thô nặng kia không hiện hành được. Sinh mong muốn: Là khởi chứng về pháp ác không hiện hành.

Muốn khuyến tấn là an trụ nhưng không quên mất nên pháp bất thiện không hiện hành được. Đó là khéo an trụ trong chánh niệm. Phát sinh chánh cần, thúc đẩy tâm, giữ lấy tâm đều như trước đã nêu.

Ba: Các pháp lành chưa sinh thì làm cho sinh cho đến nói rộng:

-     Chưa sinh là chưa nắm bắt được.

Pháp lành là ba tuệ sinh ra từ văn, tư, tu. Lành nghĩa là không có lỗi.

-     Làm cho nó phát sinh là làm cho nó nhất định phải được.

-     Sinh mong muốn: Là khởi chứng đắc.

-     Muốn khuyến tấn là tìm phương tiện chân chánh để nhiếp thọ.

-     Phát khởi chánh cần là tu tập một cách ân cần, lâu dài.

Ba câu nói trên cho thấy các địa bất định dùng để đối trị pháp ác, bất thiện. Hai tuệ văn, tư là thuộc về các pháp lành.

-     Buộc tâm, giữ tâm có được, do tu tuệ, các pháp khác như trước đã nêu.

Bốn: Các pháp lành đã sinh thì khiến an trụ, không cho quên mất để sự tu tập ngày càng đầy đủ, càng gia tăng, càng thêm rộng lớn, sinh mong muốn, khuyến tấn cho đến nói rộng:

-     Đã sinh là pháp lành đã có được khiến an trụ là do văn tuệ. Khiến không quên mất là tư tuệ. Khiến cho sự tu tập đầy đủ là:

Tu tuệ.

Ba câu trên mở ra cho thấy chỉ nhằm giữ gìn pháp lành đã có, khiến cho sự tu tập ngày càng thêm lớn, ngày càng, rộng khắp. Cũng như thứ lớp, không chỉ với bấy nhiêu mà tưởng mình đã đầy đủ pháp lành.

-     Sinh mong muốn: Là khởi chứng đạt được chỗ mong muốn, các phần còn lại thì như trước đã nêu.

Bốn thần túc: Như kinh có nói rộng:

Một: Dục tăng thượng nên đạt Tam-ma-địa. Như có người tu hành đời trước đã tu tập căn lành thượng phẩm, được sống bên cạnh bậc Đại sư, hoặc ở chung với người có trí tuệ đồng Phạm hạnh, lòng tin phát sinh, muốn học hỏi chánh pháp thì sau đó phải lần lượt chứng đắc để tâm an trụ vào một tánh cảnh, do dục ấy nên Tam-ma-địa được thành tựu. Vì vậy, các pháp ác bất thiện đã sinh, chưa sinh cũng đều khiến đoạn dứt hết, không để chúng hiện hành. Sinh mong muốn cho đến buộc tâm, giữ tâm, v.v…

-     Nếu pháp lành chưa sinh thì hành giả phải đối trị pháp ác để khiến pháp lành phát sinh.

-     Nếu pháp lành đã sinh thì khiến chúng an trụ, không để quên mất, để sự tu tập ngày càng đầy đủ, ngày càng thêm lên, ngày càng rộng lớn. Hành giả làm theo thứ lớp: Bắt đầu là sinh mong muốn cho đến giữ tâm… Người tu hành lại phải sách tấn lòng tin, an trụ trong chánh niệm, chánh tri, suy tư để lìa bỏ tám thứ cần phải dứt trừ.

Nhờ dục ấy nên Tam-ma-địa được thành tựu, tức ở trong định được tự tại.

Các pháp ác, bất thiện đã sinh, chưa sinh là các triền hạ phẩm, trói buộc mỏng, nhỏ, thuộc về tùy miên, chưa làm tổn hại, cũng phải cắt đứt, không cho chúng khởi lên. Nghĩa là đã ra khỏi sự trói buộc của phẩm hạ và, chúng trở thành suy yếu mỏng dần.

Sinh mong muốn cho đến giữ tâm thì thứ lớp ấy, như trước có nói rộng.

-     Nếu điều thiện chưa sinh thì hành giả phải đối trị pháp ác để cho điều thiện phát sinh.

-     Nếu điều thiện đã phát sinh thì không để cho quên mất để sự tu tập ngày càng đầy đủ, ngày càng thêm lên, ngày càng rộng lớn hơn. Về chỗ sinh mong muốn cho đến giữ tâm… như trước có nói rộng nên biết.

Tu hành Cũng thế nghĩa là an trụ trong chánh niệm lâu dài.

-     Còn cố gắng tu tập và chứng ngộ là biết rõ các pháp bất thiện không hiện hành và bị dứt trừ.

-     Buộc khuyên: muốn làm nhân từ Xa-ma-tha (chỉ) và Tỳ-bát-xá-na (quán) khiến chánh cần phát sinh lên.

-     Tín là nhân mong muốn sinh dứt trừ pháp ác, đạt được pháp lành trong ấy, là do lòng tin quyết định.

-     An là nhờ cố gắng tu tập pháp lành nên các thô nặng của thân đều được giải trừ, khiến thân tâm chịu đựng được.

-     Chánh niệm là cố gắng giữ tâm ý không cho chìm theo phiền não, khiến tâm không bị quên mất.

-     Chánh tri là khi quên mất, hoặc khi tùy phiền não hiện hành thì phải phân biệt nhận biết đúng điều ấy.

-     Tư là hoạt động của tâm khi các thứ khác đều ngừng dứt.

-     Xả là tâm trụ yên không bị nhiễm, tâm bình đẳng, tâm ngay thẳng, tâm không còn tính chất chuyển động. Trong tất cả các thần túc Cũng thế.

Tám Dứt trừ hành nghiệp của tâm sở phiền não, cũng thế nơi tất cả các pháp thần túc, cần phải biết rõ, trong đó, có khác nhau.

Hai: Do siêng năng tu tập nên được Tam-ma-địa. Muốn thế người tu hành phải nương vào lời dạy bảo và khuyên răn, rồi hoặc ở chỗ vắng, hoặc ở dưới gốc cây, hoặc ở tĩnh thất, an trụ lâu dài cũng thế, hăng hái tu tập khiến chánh cần phát khởi mạnh, nên chứng ngộ, tâm an trụ vào tánh cảnh duy nhất. Do chánh cần mà Tam-mađịa thành tựu. Các pháp còn lại như ở trước đã nói.

Ba: Vì nhân duyên là tâm tăng thượng nên chứng được Tam-ma-địa. Như có người tu hành trước phải tu qua Xa-ma-tha. Nhờ biết tư duy pháp nội ấy, nên sớm chứng ngộ, tâm an trụ trong tánh cảnh duy nhất. Thế là do tâm tu tập mà Tam-ma-địa thành tựu. Các pháp khác như trước đã nói.

Bốn: Nhờ quán xét tăng lên nên đạt được Tam-mađịa. Cũng thế, người tu hành phải học hỏi rộng, chứa nhóm những hiểu biết ấy, rồi ở một mình nơi vắng vẻ, dùng tuệ để lựa chọn những pháp đã nghe. Lựa chọn tỉ mỉ rồi quán sát thấu đáo, do vậy nên chứng ngộ và an trụ tâm trong tánh cảnh duy nhất, do quán xét mà Tam-mađịa thành tựu. Các pháp còn lại như trước đã nêu.

Năm căn, như kinh có nói rộng:

Một là Tín căn: Từ trong đạo thế gian mà khiến tâm thanh tịnh không dấu vết, lìa mình khỏi tùy phiền não, an trụ vào bất động chuyển theo chân hiện lượng, dốc lòng quán sát làm phương tiện tu tập để dứt bỏ hết tùy miên, nhờ cách đối trị ấy nên lòng tin thêm lớn.

Hai là Chánh cần căn: Là nương vào tín căn, tăng thêm tinh tấn mạnh mẽ, hành đạo với đầy đủ lòng tin.

Ba là Niệm căn: Nương vào chánh cần một cách sáng tỏ, không quên, hành đạo đầy đủ với nó.

Bốn là Đẳng trì căn: Nương tự vào niệm căn, an trụ tâm vào một cảnh, thường đi chung với nó.

Năm là Tuệ căn: Nương vào Đẳng trì căn, lựa chọn các pháp, thường đi chung với nó.

Năm lực, như kinh có nói rộng: Tức tín căn, v.v… do khéo tu tập, thường tu tập nên không còn bị tạp loạn do các pháp như bất tín v.v...

Lại còn có khả năng đối trị các pháp tạp loạn. Lực có nghĩa là không còn bị ai làm cho khuất phục.

Bảy Biến giác chi, như kinh có nói rộng:

Một là Niệm biến giác chi là: Từ trong đời sống thế gian đạt được sức mạnh của điều lành, thấy đạo hiện ra trước mắt. Do trước tu tập niệm giác chi của thế gian dẫn đến chứng được trí vô phân biệt, không dụng công, biết rõ đạo, không quên đạo.

Hai là Trạch pháp Biến giác chi: Trước là do nương vào kết quả của trí vô phân biệt, không dụng công nên từng niệm nối nhau tu tập đầy đủ thấu rõ chân đế, giác ngộ chân đế.

Phân biệt trí, không dụng công, cái sau nương vào các trước rồi tu tập đầy đủ cả hai. Cũng cần biết rõ là trong ấy, có khác nhau.

Ba là Chánh cần Biến giác chi: Là tâm niệm hăng hái đối với chân đế.

Bốn là Hỷ Biến giác chi: Là tâm vui với chân đế.

Năm là An Biến giác chi: Là thân tâm đủ sức nhận lãnh chân đế.

Sáu là Tam-ma-địa Biến giác chi: Là tâm an trụ một cảnh trong chân đế.

Bảy là Xả Biến giác chi: Là tâm chân đế, tâm bình đẳng, tâm ngay thẳng, không có tiếng chuyển động.

Lại như kinh nói: Chính ở trong đó lại khéo tu tập, biết nương vào vắng lặng, cho đến nói rộng…

-Nương dựa vào sự vắng lặng là nương vào cảnh vắng lặng cõi Dục. Lìa khỏi sự nương vào cõi Dục nghĩa là lìa khỏi sự nương vào dục ở cõi Sắc và vô sắc. Dứt bỏ sự nương nghĩa là đã đạt đến chỗ dứt trừ hoàn toàn các sự nương vào uẩn, xứ, giới. Nhằm thẳng đến con đường buông xả, nghĩa là không còn nối tiếp nào vào uẩn, xứ, giới ở vị lai.

Tám chi Thánh đạo, như kinh nói rộng gồm:

Một: là Chánh kiến: Là trong kiến đạo, khi được Biến giác chi thì cái thấy thanh tịnh, và trong tu đạo, khi an lập xong thì chứng được biến giác chỉ thấy rõ thanh tịnh, gộp chung hai tên gọi ấy là chánh kiến.

Hai: là Chánh tư duy là do nương vào chánh kiến và đi chung với Chánh kiến suy nghĩ để lìa ý nghĩ ham muốn, lìa ý nghĩ giận dữ, lìa ý nghĩ não hại. Trong khi tu đạo thì tác ý nối nhau là suy nghĩ về các đế, tương ưng với tác ý vô lậu, đưa tâm vào chỗ sâu hơn nữa, để tìm cầu, mãi tìm cầu, hiện tiền tìm cầu sự giác ngộ, với sự tư duy, quán sát.

Ba: là Chánh ngữ là sự tu tập nương vào chánh tư duy, từ tác ý vô lậu nối nhau để quán xét các đế nên đạt được bốn thứ ngữ nghiệp, thuộc về ái giới của bậc Thánh, nên không còn cái vui bên ngoài, lìa bỏ cái vui ấy nên lìa bỏ dứt hết các thứ buông lìa. Phòng hộ một cách trong suốt với không hành, lìa khỏi hành, không hành động, không hủy bỏ, không sai phạm, là rường cột, là thuyền bè, xa lìa không trái vượt, không có các tính trái vượt.

Bốn: là Chánh nghiệp là trong tu tập, từ tác ý vô lậu nối nhau mà suy nghĩ các đế nên được ba thứ thân nghiệp, thuộc về giới được bậc Thánh, quí mến, nên không còn cái vui bên ngoài, lìa bỏ cái vui ấy, nên lìa bỏ, dứt trừ các thứ xa lìa, như đoạn trước có nói rộng.

Năm: là Chánh mạng là trong tu tập cho đến suy nghĩ các đế là lìa khỏi tà mạng, pháp ác, thuộc về giới được bậc Thánh yêu mến, như trước đã nêu.

Sáu: Chánh sách lệ (Chánh tinh tấn) là trong sự tu tập cho đến suy nghĩ các đế đối với các pháp niệm trụ chánh đoạn, thần túc, căn lực, để hưởng được cái vui chánh cần thì phải thúc đẩy mạnh mẽ hăng hái, phát khởi tính chất tinh tấn nối nhau trong việc khó là chế ngự tâm. Bảy: là Chánh niệm là trong tu tập cho đến suy nghĩ các đế hoặc nương vào đạo Xa-ma-tha, hoặc nương vào đạo Tỳ-bát-xá-na, hoặc nương cả hai đọa, phải luôn nắm giữ niệm, chánh niệm, tất cả các niệm, tùy niệm, với tính chất sáng tỏ và không quên mất đối với các pháp đã tu tập Trạch pháp, Chánh cần, Hỷ, An, Đẳng trì, v.v… không quên mất là trọn vẹn không bao giờ quên đối với tánh các pháp.

Tám: Chánh đẳng trì (Chánh định) là trong tu tập cho đến suy nghĩ các đế lại nương vào ba đạo. Nhờ tu tập nhiếp niệm nên tâm trụ, an trụ, cận trụ, đẳng trụ, không còn bị tán loạn, nhờ nhiếp giữ nơi Xa-ma-tha mà tâm an trụ vào một tánh cảnh.

Các chi đạo nầy, pháp sau nương vào pháp trước và đều tương ưng nhau, phát sinh cùng lúc, nên biết điều ấy.

Lại nữa, tụng rằng:

Trí và môn giải thoát,
Dấu hành và chỉ quán.

Luận chép: Trí tuệ là mười thứ trí, như trong kinh có nói rộng:

1.     Pháp trí: Là trí của cảnh giới vô lậu, đối với sự hiểu biết chung nó giúp hiểu rõ tất cả ý nghĩa của những hiểu biết ấy.

2.     Chủng loại trí: Là trí của cảnh giới vô lậu, đối với sự hiểu biết chung, nó không giúp hiểu rõ ý nghĩa của những hiểu biết ấy.

3.     Tha tâm trí: Là kết quả của tu tập, có khả năng nhận biết tâm người và tâm pháp, thế nên các Đức Như lai đều thâu rõ tâm chúng sinh, theo sự hiểu biết của họ, theo tùy miên của họ, để trao truyền dạy bảo, khiến họ chuyển khởi trí mầu nhiệm.

4.     Thế tục trí: Là trí tuệ thế gian. Từ nền tảng nầy mà các Đức Như lai nói pháp mầu nhiệm cho chúng sinh, tùy theo trình độ nhận hiểu, cũng như tùy miên của họ.

5.     Khổ trí: Là trí giác ngộ sáng tỏ có tính chất quán sát về các sự thấy, hiểu đối với các hành hữu lậu như vô thường, khổ, không, suy tư lìa ngã.

6.     Tập trí: Là trí thấy, biết nhân của các hành hữu lậu, quán xét về nhân của các hiện tượng hữu lậu, quán xét về nguyên nhân chứa nhóm phát sinh các hiện tượng, còn lại như trước đã nói.

7.     Diệt trí: Là trí thấy, biết về chỗ dứt trừ các hành hữu lậu, quán xét trạng thái vắng lặng, xa lìa tịch diệu, các trí các kiến thì như ở trước đã nói.

8.     Đạo trí: Là trí thấy, biết về khả năng dứt trừ các hành hữu lậu và phương pháp vô lậu thực hiện suy tư để ra khỏi luân hồi.

9.     Tận trí: Là trí thấy, biết về khổ đã biết, tập đã dứt, diệt đã chứng, đạo đã tu, nó duyên vào cảnh tận diệt hay đang tận diệt, hoặc trí hoặc kiến như trước đã nói.

10.   Vô sinh trí: Là trí thấy, biết về khổ đã biết, không còn biết nữa, tập đã dứt, không còn dứt nữa, diệt đã chứng, không còn chứng nữa, tạo đã tu, không còn tu nữa, trí nầy duyên vào cảnh vô sinh hoặc chính nó là vô sinh, hoặc trí hoặc kiến như trước đã nói.

Môn giải thoát: Là ba cửa giải thoát: Một: Môn không giải thoát; hai: Môn vô tướng giải thoát; ba: Môn vô nguyện giải thoát. Không, có hai thứ là:

1. Đối tượng nhận biết.

2. Trí.

Đối tượng nhận biết là đối với các hiện tượng, chúng sinh chấp theo tính biến kế của họ và các pháp có tính biến kế bị chấp, cả hai tính biến kế ấy đều đứng ngoài vô tính và toàn bộ chúng đều có tính vô ngã. Các hiện tượng có tính biến kế vốn là không, tức có tính chất vô ngã, vì các hiện tượng có tính chất vô ngã thì chúng không có tính biến kế. Thế nên, trong ấy là cảnh giới không còn phân biệt là có hay chẳng phải có hai tính đó. Trí là duyên vào cảnh giới không còn phân biệt đó với sự hiểu biết chân thật.

Vô tướng cũng có hai thứ: Một: là Đối tượng nhận biết; hai: là trí.

Chỗ nhận biết là cảnh Không bị biết. Từ cảnh nầy mà tất cả các tướng đều không còn hiện hành.

Trí như ở trước đã nói.

Vô nguyện cũng có hai thứ: Một: là Đối tượng nhận biết; hai: là trí.

Đối tượng nhận biết là do không có trí nên đã nhìn thấy một cách điên đảo các hành, các tướng mạo.

Trí là duyên vào các cảnh đó mà nhận biết rõ để chán lìa điều ác.

Hành không: Là các hành đều không có thật ngã, đối với các sự tướng do người đời phân chia điều là những pháp không thật có.

Hành Vô tướng: Là có thể nhận rõ tính vô ngã trong các hành nghiệp của chúng sinh, có thể nhận được tính vô ngã trong các tướng trạng do người đời phân chia. Và đối với cảnh giới hoàn toàn vắng lặng thì lìa khỏi hành nghiệp.

Hành Vô nguyện: Là vô thường, khổ, bất tịnh, như bệnh, như ung nhọt, như mũi tên bắn đi, nhân hiểu được nguyên do phát sinh đời sống, nên các hành đều duyên trí. Từ đó thực hành con đường ra khỏi sinh tử bằng cửa Không, bằng hăng hái tiến vào đạo. Đó cũng gọi là hành không. Thực hành ra khỏi sinh tử bằng cách duyên vào trí vô tướng, đi sâu vào đạo cũng gọi là hành vô tướng. Thực hành ra khỏi sinh tử bằng cách duyên vào trí vô nguyện, đi sâu vào đạo, đó cũng gọi là hành vô nguyện.

Nếu không sai khác thì gọi chung là không, vô tướng, vô nguyện, nên biết đây là trí tuệ thế gian và xuất thế gian, phát sinh từ sự thông nhau của văn, tự và tu.

-     Nếu gọi là Tam-ma-địa không, vô tướng, vô nguyện, nên biết đây là tuệ chung cho thế gian và xuất thế gian, là tuệ phát sinh chỉ từ tu, có cả thế gian, xuất thế gian nên biết.

-     Nếu gọi là môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện nên biết, đây là cho xuất thế gian.

Hành là bốn thứ hành như kinh nói rộng là:

1.     Khổ trì thông: Là hạng căn tánh chậm lụt, chưa được an trụ trong pháp lạc hiện có, đang tu đạo để diệt hết các lậu.

2.     Khổ tốc thông: Là hạng căn tánh nhạy bén. Các điều khác như ở trước đã nói.

3.     Lạc trì thông: Là hạng căn tánh chậm lụt đã được an trụ trong pháp lạc hiện có, đang tu đạo để diệt hết các lậu.

4.     Lạc tốc thông: Là hạng căn tánh nhạy bén. Các điều khác, như ở trước đã nói.

Tích là bốn pháp tích, như kinh có nói rộng:

1.     Vô tham tích: Là khả năng nắm chắc nghĩa của Pháp giới uẩn, nên gọi là dấu tích. Nếu ai chưa lãnh thọ giới pháp thì thúc đẩy khiến họ lãnh thọ. Những ai đã thọ thì khiến họ giữ gìn làm cho lớn rộng hơn lên.

2.     Vô sân tích: Như điều vừa nói ở vô tham.

3.     Chánh niệm tích: Là có khả năng giữ vững nghĩa pháp của Tam-ma-địa uẩn, nên gọi là dấu tích. Đối với ai chưa phát sinh chánh niệm thì thúc đẩy cho phát sinh, những ai đã phát sinh chánh niệm thì khiến cho thêm rộng lớn.

4.     Chánh đẳng trì tích: Là có năng lực giữ chắc tuệ uẩn giải thoát, giải thoát trí kiến uẩn, nên gọi là dấu tích. Những ai chưa phát sinh định, chưa chứng định thì thúc đẩy họ phát sinh và chứng được. Nếu những ai đã phát sinh và đã chứng định thì khiến họ tăng thêm rộng lớn.

Chỉ là tu hành chân chánh như văn tuệ và tư tuệ. Từ tác ý vào cảnh nơi ảnh tượng của Tam-ma-địa nên được an ổn trong Tam-ma-địa, trụ tâm trong nội thức.

Quán là tu hành chân chánh theo văn tuệ và tư tuệ. Từ tác ý vào cảnh nơi ảnh tượng của Tam-ma-địa nên được an ổn trong Tam-ma-địa, lựa chọn các pháp.

Lại nữa, tụng rằng:

Cư xứ và sở y,
Phát tâm và thương xót,
Các hành tính thông đạt,
Địa Ba-la-mật-đa.

Luận chép: Nơi cư trụ có bốn thứ, như kinh có nói rộng:

1.     Tuệ cư xứ: Là tuệ an lập ở thế gian, là phương tiện quán kỹ, còn chứng ngộ được chân đế là ý nghĩa của trí xuất thế.

2.     Đế cư xứ: Là trí tuệ xuất thế gian đã an lập để quán sát chắc chắn các đế, nhưng vẫn còn có ý nghĩa dứt trừ việc nhìn điên đảo.

3.     Xả cư xứ: Là việc trừ sự dứt nhìn điên đảo được an lập có ý nghĩa đã dứt trừ các phiền não không còn sót.

4.     Vắng lặng cư xứ: Là các phiền não được vắng lặng đã an lập, có ý nghĩa các khổ não không còn phát sinh nữa.

Chỗ nương có bốn thứ, như kinh có nói rộng:

1.     Dựa vào pháp, không dựa vào chúng sinh: Là giáo pháp do Như lai nói hoặc do đệ tử Như lai nói về mười hai phần giáo, tùy học tùy chuyển, chứ không theo những lối học và làm của chúng sinh trôi chuyển theo đó.

2.     Dựa vào nghĩa không dựa văn: Là nếu pháp không dùng văn từ trang sức với cái bóng bẩy trong văn cú, nhưng qua đó lại bộc lộ rõ về phạm hạnh đầy đủ trong sạch tươi mới thì phải cung kính tin hiểu. Chứ không tin theo văn làm trái ngược Phạm hạnh, không nêu rõ Phạm hạnh, chỉ chú trọng ở câu lời bóng bẩy thêu dệt.

3.     Dựa vào kinh liễu nghĩa không dựa vào kinh không liễu nghĩa: Là đối với pháp mà Như lai nói tương tự như tính không sâu mầu tương ưng với pháp duyên khởi, thuận theo các duyên, không nên chấp trước sai lầm. Như Như lai nói nghĩa cạn, cũng không nên cố chấp bên trong cần phải siêng năng tìm hiểu làm rõ kinh liễu nghĩa.

4.     Dựa vào trí không dựa vào thức: Là không phải chỉ mới nghe thấy mà cho là đã đầy đủ, không chịu tiến tu, pháp tùy pháp hành, nhưng vì dứt trừ các lậu, siêng năng suy tư bên trong để tới được trí sáng chân thật.

Phát tâm: là các Bồ-tát phát tâm Bồ-đề. Nếu các vị Bồ-tát an trụ trong pháp tánh Bồ-tát, vì muốn đem lợi lạc cho tất cả chúng sinh trong các thế giới mười phương, thì y theo nhân duyên cao quý của hình tướng hữu tình, phát đại nguyện chứng đắc Chánh đẳng Chánh giác vô thượng.

Thọ pháp phát tâm: Nghĩ rằng ta sẽ chứng đắc đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để hóa độ tất cả hữu tình trong mười phương, khiến họ lìa các phiền não và lìa các nạn khổ.

Thọ phát tâm nầy lại có hai thứ: Một là phát tâm thế tục; hai là phát tâm chứng pháp tánh.

1.     Phát tâm thế tục: Là như có người đứng trước vị có trí tuệ với niềm cung kính, khởi ý vươn lên cao, phát thệ nguyện rằng: "Xin các Trưởng già nhớ nghĩ cho", hay nói: "Xin Thánh giả nhớ nghĩ", hay nói: "Xin Ô-bađà-da (Hòa-thượng) con pháp danh là… từ hôm nay, con phát tâm cầu đạt đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là vì muốn đem lại lợi ích cho các hữu tình. Kể từ nay trở đi, tất cả pháp con tu tập như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, chánh cần, tĩnh lự và trí tuệ đều vì chứng ngộ quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Hôm nay con và các vị Bồ-tát cùng hòa hợp xuất gia, xin nguyện Đức Thế Tôn chứng biết cho, con là Bồ-tát. Lần thứ hai hay thứ ba cũng phát tâm cũng thế".

2.     Phát tâm chứng pháp tánh: Là như có người trải qua kiếp thứ nhất ở A-tăng-xí-da, đã chứng ngộ địa cực hỷ, là địa thứ nhất của Bồ tát đã thâm nhập định Bồ-tát ở quả vị vô sinh, đã biết rõ như thật về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và phương tiện Bồ-đề, đã biết rõ chính mình sắp gần bên quả vị Đại Bồ-đề, Bồ-tát ấy đã hiểu thấu giữa mình và người đều bình đẳng nên đạt ý của đại ngã vì đã không còn trong trôi lăn nên chứng được đạo Bồ-đề vắng lặng, đạt ý nguyện rộng lớn.

Do đó, nên đối với Đại Bồ-đề, Bồ-tát đã phát thệ nguyện không thoái chuyển. Đó là phát tâm chứng pháp tánh.

Thương xót: Là Bồ-tát đã phát tâm Cũng thế, nên đối với tất cả hữu tình trong các thế giới trong mười phương, có hữu tình đau khổ vì ba thứ thoái đọa, có hữu tình chắc chắn phải chịu khổ trong năm đường, hoặc có hữu tình chịu bốn thứ cực khổ, hoặc có hữu tình chịu sáu thứ khổ khổ nặng nề, hoặc có hữu tình chịu ba thứ thảm trạng khổ khổ, v.v… đối với các hữu tình phải chịu đủ các thứ khổ như vậy, thì vị Bồ-tát ấy sẵn sàng giúp đỡ cho họ thoát khổ, vui sống bằng cách không bao giờ não hại chúng sinh và lấy công hạnh vị tha đó làm tánh.

Các hành: Là mười pháp hành như trong kinh có nói rộng:

1.     Đối với Pháp tạng của Bồ-tát, Bồ tát dốc thể hiện công hạnh nhiều hay ít là thường tôn trọng, cung kính, biên chép, giữ gìn giáo pháp.

2.     Thực hiện các việc làm như sắm sửa các thứ cúng dường dù ngon dù dở để cúng dường giáo pháp.

3.     Hoặc làm công việc là tự mình sao chép, vì lòng thương xót nên đem giáo pháp bố thí cho người.

4.     Nếu các người tỏ lòng cung kính, tôn trọng giáo pháp thì Bồ-tát sẽ dùng âm thanh hay để đọc, nói lớn để người nghe kính mến tông chỉ một cách chắc thật, thực hành theo pháp.

5.     Phát tâm tin hiểu thanh tịnh với niềm cung kính tôn trọng đọc tụng pháp hành.

6.     Vì muốn tu tập đúng pháp, thuận theo pháp, nên theo thầy học đọc tụng pháp hành.

7.     Khi đọc tụng thuộc rồi phải giảng nói bằng lời hay ho để củng cố sức nhớ, ôn tập pháp hành.

8.     Vì tâm thương xót người khác nên trao truyền cho họ, tùy trình độ mà nói rộng hay hẹp, mở bày pháp hành.

9.     Ở riêng một mình chỗ thanh vắng để nghiền ngẫm thấu đáo chỗ đúng với chân đế, xem xét tư duy pháp hành.

10.   Từ chỗ tư duy tu chỉ và quán nhằm để thú nhập cho đến các chỗ cầu đạt ý nghĩa đều thành tựu do pháp hành.

QUYỂN 3

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 3)

Thông đạt, như trong kinh có nói rộng có bảy thứ thông đạt:

1.     Tự thông đạt: là không phân biệt ba mươi hai chữ, biết rõ như thật nghĩa tướng đã làm, trước đã khéo thực hành tu tâm tăng thượng pháp hành.

2.     Tự tướng thông đạt: Là phân biệt các chữ trên hình con sư tử, biết rõ như thật nghĩa tướng đã làm. Những điều còn lại như ở trước đã nói.

3.     Năng thủ thông đạt: Là tâm pháp tương ưng với sở duyên của nó biết rõ như thật chỉ là tướng thấu rõ. Phần còn lại như ở trước đã nói.

4.     Sở thủ thông đạt: Là đối với tất cả cảnh giới của thức mà biết rõ như thật là hình tướng của thức. Phần còn lại như trước đã nêu.

5.     Hệ phược thông đạt: Là biết rõ như thật đối với các hình tướng trói buộc cả đến sự trói buộc nặng nề. Còn lại, những điều khác như ở trước đã nói.

6.     Giải thoát thông đạt: Là biết rõ như thật đối với các hình tướng trói buộc, giải thoát và các trói buộc thô nặng cùng sự giải thoát. Phần còn lại như trước đã nói.

7.     Pháp tánh thông đạt: Là hiểu biết rõ như thật đối với hành duyên khởi các hiện tượng trói buộc, giải thoát, từ vô thỉ đến nay cũng như đối với chân như pháp tánh vắng lặng kia là do trước đã khéo hành và tu trị tăng thượng tâm đối với pháp hành.

Địa, như trong kinh có nói rộng, là mười địa:

1.     Địa Cực Hỷ: Là các Bồ-tát an trụ trong địa nầy thì trước đã khéo tu trị tăng thượng tâm đối với pháp hành nên vượt hơn tất cả hiện quán Thanh văn, Độc giác, chứng được hiện quán của Bồ-tát. Từ chứng chân thật mà được hiện quán vô thượng. Vì Bồ-tát an trụ trong địa nầy được hỷ tăng thượng, nên gọi là Cực hỷ.

2.     Địa Ly Cấu: Bồ-tát an trụ trong địa nầy do trước đã khéo tu trị ở Sơ địa nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác, chứng được kho tàng Thi-la rất trong sạch. Vì đối trị tới chỗ nhỏ nhiệm của việc phạm giới cấu uế, nên địa nầy gọi là Ly cấu.

3.     Địa Phát Quang: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ hai nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng Tam-mađịa rất trong sạch, làm chỗ nương cho trí sáng lớn tột cùng, nên gọi là Phát quang.

4.     Địa Diệm tuệ: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu, trị ở địa thứ ba nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu xa rất trong sạch, duyên theo từng phần giác ngộ, chọn lấy đối tượng, ngay hiện tại nói có khả năng thiêu hết phiền não, nên gọi là Diệm tuệ.

Địa Cực Nan Thắng: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ tư nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu mầu rất trong sạch, hiểu chắc chắn các pháp mình biết, thành tựu được việc hết sức khó thành tựu là ra khỏi sinh tử trôi lăn, trở về với Thánh đạo đã dứt trừ hết các thứ, nên gọi là Cực Nan Thắng.

5.     Địa Hiện Tiền: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ năm nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu sắc rất trong sạch, duyên theo các hành sinh ra hai thứ trí và phi trí, làm dứt trừ hết đối tượng của nó, trí sâu xa mầu nhiệm hiện diện nối tiếp một cách tự tại đối với các hữu tướng, nên gọi là Hiện tiền.

6.     Địa Viễn Hành: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ sáu nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu mầu rất trong sạch, giải thoát, giải thoát tri kiến. Do đã bước vào các tướng giải thoát đối với tất cả các hiện hành nên gọi là Viễn hành.

7.     Địa Bất Động: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ bảy nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu xa rất trong sạch, giải thoát, giải thoát tri kiến, giải thoát tất cả tướng, tự tại đối với các ngăn che, nối tiếp đạt được hành vô công dụng, là chỗ nương của đạo, nên gọi là Bất động. 9. Địa Thiện tuệ: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ tám nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu xa rất trong sạch, giải thoát, giải thoát tri kiến, giải thoát tất cả, lời nói không gì chướng ngại, là chỗ nương của trí tuệ rộng lớn không gì vượt hơn, nên gọi là Thiện tuệ.

10. Địa Pháp Vân: Bồ-tát an trụ trong địa nầy là trước đã khéo tu trị ở địa thứ chín nên vượt hơn tất cả địa Thanh văn, Độc giác mà chứng được kho tàng trí tuệ sâu mầu rất trong sạch, giải thoát, giải thoát tri kiến, giải thoát phát khởi đại thần thông xua tan các thứ ngăn che trí tuệ, làm chỗ nương cho pháp thân như mây tròn đầy, nên gọi là Pháp vân.

Ba-la-mật-đa, có mười Ba-la-mật như trong kinh có nói rộng:

1. Thí Ba-la-mật-đa: Là Bồ-tát nương vào tâm Bồđề, tâm bi dẫn đầu, lấy mười pháp hành giúp khéo tu, trị, lấy bảy thứ thông đạt làm cho gốc của tâm bi thêm vững chắc, thực hiện thí nầy bằng của cải, bằng chánh pháp, bằng vô úy, lấy năm thứ công đức thuộc về tính đại ngã đó là:

a. Không mê đắm cho nên xả.

b. Buông bỏ vì không coi trọng.

c. Buông bỏ vì không có lỗi.

d. Buông bỏ vì không còn phân biệt.

e. Buông bỏ vì hồi hướng.

Do làm như vậy, Bồ-tát đem của cải để thâu nhiếp các hữu hình. Rồi nhờ sống gần gũi với họ và tu tập nhiều Bồ-tát khiến họ có đầy đủ tư lương để họ chứng quả chánh biến tri vô thượng. Nên biết là giới cho đến tuệ cũng làm như bố thí Ba-la-mật-đa nầy, vì trong ấy có khác nhau.

2.     Giới Ba-la-mật-đa: Vì lìa điều ác, vì thâu nhiếp các pháp lành, vì mang lợi ích cho hữu tình Bồ-tát đưa tính của ba nghiệp thân, miệng, ý mình vào luật nghi giới. Do thực hiện các điều ấy, Bồ-tát thâu nhiếp hữu tình bằng thái độ không nổi giận, không bậc dọc.

3.     Nhẫn Ba-la-mật-đa: Do tu nhẫn nên phải nhận lãnh các sự gây thật hại, không trí tuệ của kẻ khác gây ra, hoặc nhận lãnh các khổ với tính chất không rối loạn, hoặc lấy trí tuệ chân chánh quán xét các pháp. Do thực hiện những việc như vậy nên Bồ-tát dùng tâm nhẫn nhận chịu tất cả các thật hại cho mình. Và chính những tổn hại mình chịu đã ấy cảm hóa được hữu tình.

4.     Cần Ba-la-mật-đa: Do mặc áo giáp phát tâm, do có phương tiện gia hạnh, do tính mạnh mẽ, gốc lành thuần thục nối tiếp mãi mãi vì lợi ích chúng sinh, vì thực hiện những việc như vậy, nên dù chưa trừ hết các thứ hoặc (phiền não), nhưng Bồ-tát vẫn có khả năng chuyên tu hoàn toàn các điều lành.

5.     Tĩnh lự Ba-la-mật-đa: Vì nhằm đối trị phiền não, do phát khởi công đức, để đem lại lợi ích cho hữu tình, nên tâm Bồ-tát duyên vào một chỗ duy nhất. Do thực hiện những việc như vậy nên Bồ-tát điều phục hết các phiền não, khiến chúng không còn pháp hiện hành.

6.     Tuệ Ba-la-mật-đa: Vì đối trị phiền não, vì phát khởi công đức, để làm lợi ích cho hữu tình nên Bồ-tát biết lựa chọn tính các pháp. Do thực hiện những việc như vậy nên Bồ-tát cắt đứt hẳn các hạt giống của chướng phiền não và chướng sở tri.

Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật-đa: Các vị Bồ-tát dùng phương tiện nầy nhằm cảnh thuận hợp, hoặc nhằm cảnh trái ngược, hoặc vì không cùng sở thích, hoặc để làm ơn, báo ơn, hoặc để thị uy, hoặc làm cho thanh tịnh, dùng ba thứ lợi ích để thâu nhiếp hữu tình về với mình, rồi đối với các nơi chốn tốt đẹp, khiến họ chấp nhận điều mình chỉ bảo, dẫn dắt, khiến họ được an trụ, đứng vững.

7.     Nguyện Ba-la-mật-đa: Là trong các Bồ-tát, do tính chất của từng vị, nếu ai nặng về phiền não biếng nhác thì nên phát nguyện chân chánh tu các hạnh lành: Nguyện cho tôi ở vị lai có được tự tính mạnh mẽ, siêng năng, khiến phiền não ngày một mỏng đi. Từ nhân ấy, rồi trong đời khác, Bồ-tát thực hành nguyện mình mong cầu có kết quả, trong việc tu pháp lành trở nên mạnh mẽ hơn.

8.     Lực Ba-la-mật-đa: Vì đối với việc tu các pháp lành, Bồ-tát đã làm cho nó thêm mạnh mẽ, nên nương vào sức mạnh ấy để mau phát khởi tĩnh lự Ba-la-mật-đa. 10. Trí Ba-la-mật-đa: Là các Bồ-tát thuộc về kho tàng của Bồ-tát với tĩnh lự Ba-la-mật-đa trí của họ làm người dẫn dắt tuệ thế gian. Nương vào tuệ, mà Bồ-tát có khả năng mau chóng phát khởi trí tuệ xuất thế gian không còn phân biệt, không còn mắc kẹt trong sinh tử, được thuộc về đạo vắng lặng, đó là tuệ Ba-la-mật-đa.

Trong tất cả địa, Bồ-tát tu tập đầy đủ hết mười Ba-la-mật-đa, nếu hành tăng thêm thì chỉ ở sơ địa hành bố thí Ba-la-mật-đa. Còn thứ lớp cho đến trí Ba-la-mật-đa là ở ngôi Thập địa, nên biết. Lại nữa tụng rằng:

Bồ-tát hành nhiếp sự,
Và Đà-la-ni kia,
Môn Tam-ma-địa thảy,
Vô lượng các tác ý.

Luận chép: Hạnh Bồ-tát, như trong kinh có nói rộng, có bốn thứ hạnh.

1.     Hạnh Đáo bỉ ngạn: Nói chung mười Ba-la-mật nầy là nhằm đưa đến bờ bên kia, giác ngộ tuyệt đối, có ý nghĩa xuất ly của toàn bộ Đại thừa.

2.     Hạnh Biến giác phần: Nói chung ba mươi bảy phần pháp Bồ-đề là nhằm thực hiện từng phần, đưa đến giác ngộ toàn diện, nghĩa là hiểu biết đúng như thật đối với tất cả những gì mình biết.

3.     Hạnh Thần thông: Là sáu pháp thần thông, nói chung là công hạnh thần thông, đều để dẫn dắt thâu nhiếp các hữu tình để giáo hóa, khiến sinh lòng cung kính đối với giáo nghĩa bậc Thánh.

4.     Hạnh Thành thục hữu tình: Là bốn việc thâu nhiếp nhằm mục đích làm cho hữu tình thành thục. Khi họ đã thâm nhập lời Thánh giáo hóa thì dùng hai thứ là tài thí và pháp thí. Trong đó, gom họ về bằng tài thí là một phương tiện giúp họ nên người. Còn pháp thí thì đây mới là sự thâu nhiếp có giá trị lớn, là phương tiện chuyển tâm hồn theo trình độ, khiến họ nên người có lòng tin.

Bốn lãnh vực Bồ-tát hoạt động gom hữu tình về để giáo hóa ấy gọi là nhiếp hành, vì được căn cứ vào năm hành động thâu nhiếp: Một: là khiến họ đi theo sự thâu nhiếp ấy. Hai: là khiến họ thâu nhiếp trong điều lành. Ba: là khiến họ được thâu nhiếp trong sự phát khởi điều lành, siêng năng. Bốn: là khiến họ được thâu nhiếp trong sự thuần phục nên người. Năm: là khiến họ được thâu nhiếp trong sự giải thoát hoàn toàn. Sự thâu nhiếp nầy, như trong kinh có nói rộng có bốn thứ, nên biết là để tạo dựng sự thành thục cho hữu tình.

Về Môn Đà-la-ni, như trong kinh nói: Các Bồ-tát có vô lượng môn Đà-la-ni. Có thể nói lược tướng mạo của Đà-la-ni là Bồ-tát thông thạo các thứ chữ, thông đạt như ý mình một các tự tại khi đọc đến từ ngữ hay câu văn. Được sự thông thái ấy là do Bồ-tát nhờ sức niệm trì thật vững chãi. Từ sức mạnh của niệm như vậy nên chỉ cần theo một chữ trong bất cứ câu nào, Bồ-tát cũng có khả năng phân tích giảng nói sáng tỏ ý nghĩa của các thứ pháp nhiễm tịnh, vì thế gọi là môn Đà-la-ni.

Môn Tam-ma-địa: Là Bồ-tát có vô lượng pháp môn Tam-ma-địa trong kinh có nói rộng. Nếu muốn nói lược lại có tám thứ là: Từ Sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, các Bồ-tát Ma-ha-tát đều nương vào Tamma-địa nầy một cách chắc chắn làm phát sinh ra vô lượng Tam-ma-địa khác. Các Thanh văn, Độc giác không đạt tới tên gọi nầy. Các việc nơi các Tam-ma-địa khác làm ở các thế giới mười phương đều đặt trên nền tảng của Tam-ma-địa nầy, nên gọi là môn Tam-ma-địa.

Tác ý vô lượng: Có năm tác ý vô lượng, trong kinh có nói rộng là:

1.     Vô lượng tác ý Hữu tình: Là Bồ-tát lấy pháp hành tăng thượng, từ chỗ khéo tu trị sinh ra ý niệm sâu xa là tư duy đến những thứ khác nhau của các thứ nghiệp báo không kể xiết của tất cả hữu tình trong các thế giới ở mười phương. Hữu tình một chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, hoặc có sắc, không sắc, hoặc có tưởng, không tưởng, phi hữu tưởng, phi Vô tưởng, hoặc ở cõi Dục, ở cõi Sắc, ở cõi Vô sắc, hoặc ở cõi Na-lặc-ca, bàng sinh, ngạ quỉ, người, trời hoặc sinh từ trứng, sinh từ ẩm ướt, sinh từ bào thai, sinh từ biến hóa. Bồ-tát tư duy và biết rõ như thật tất cả, các hữu tình ra đi và trở về cũng thế, ô nhiễm cũng thế thanh tịnh cũng thế tà hạnh cũng thế chánh hạnh cũng thế, cũng thế thực hành khác nhau, các dị thục sinh cũng thế, cũng thế.

2.     Vô lượng tác ý thế giới: Là Bồ-tát khởi ý niệm và tư duy đến hình tướng khi thế giới cho đến vô lượng thế giới khác trong mười phương. Đã tư duy và biết rõ như thật biết thế giới nầy nhiễm ô, thế giới kia thanh tịnh, đều biết rõ như thật, thấy đều là huyễn hóa, đều là những hình ảnh của phân biệt luống dối không thực, trôi nổi theo tướng của nó, từ đó mà xây lập ra hình mạo khác nhau về thành, hoại, về hơn, kém, về thô, tế, về xa, về gần, hay xa, hoặc lại phân tích cho đến cực vi, hoặc nói rộng hay nói sơ lược, hoặc đối với hiện hóa, hoặc đối với biến dị, hoặc đối với xa gần, hoặc đối với ẩn hiện. Các việc cũng thế, Bồ-tát đều biết rõ như thật một cách tự tại. 3. Vô lượng tác ý Pháp giới: Là Bồ-tát khởi ý niệm và tư duy đến tướng chung và tướng riêng của tất cả các pháp trong mười phương vô lượng thế giới. Đã tư duy và biết rõ như thật: pháp nầy là sắc, pháp kia phi sắc. Như sắc, phi sắc, cũng thế có kiến hay không có kiến, hữu đối hay vô đối, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi, vô vi, thiện, bất thiện, vô ký, có lỗi hay không lỗi, thuộc cõi

Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, Hữu học, Vô học, phi học, phi Vô học, kiến đoạn, tu đoạn, vô đoạn, pháp chuyển, pháp hoàn, pháp nhiễm, pháp tịnh, pháp trôi lăn, pháp vắng lặng, pháp dị sinh, pháp hiền thánh, pháp Thanh văn, pháp Độc giác và pháp Như lai. Bồ-tát biết rõ như thật đối với các pháp cũng thế.

4.     Vô lượng tác ý về chỗ được điều phục: Là các Bồ-tát cho đến tư duy đến các hành nghiệp, các tính khí của hữu tình do mình giáo hóa trong vô lượng thế giới ở mười phương. Hoặc chủng tánh Thanh văn, hoặc chủng tánh Độc giác, hoặc chủng tánh Như lai, các chủng tánh cũng thế, đều được điều phục, đã được tư duy, đã biết rõ như thật.

Người được Bồ-tát điều phục: Đó là ba trình độ là yếu kém, trung bình và khôn lanh. Đó là hạng hiểu biết kém hay hạng hiểu biết xuất sắc sâu rộng. Đây là căn tính tham và nghiệp tham A-thế-da (ý lạc). Đây là sân, nghiệp sân A-thế-da. Đây là si với nghiệp si A-thế-da, đây là A-thế-da không thăng tiến. Còn đây là thuộc về trần cấu nhỏ mỏng của A-thế-da Hiền thiện, đây là loại tùy miên tăng mạnh, kia là loại tùy miên mỏng manh, đây là tùy miên rất nhỏ nhiệm. Đây là tùy miên yếu kém, kia là tùy miên không yếu kém. Đây là tùy miên bao trùm, kia là tùy miên lẻ tẻ. Đây là trình độ hiểu nhờ nói rộng, kia là trình độ hiểu ngay. Đây là hạng bị ruồng bỏ đã bi điều phục, kia là hạng được thâu nhiếp do điều phục. Đây là hạng mềm mỏng đã được khuất phục, kia là hạng tính khí thô bỉ đã được điều phục. Đây là hạng thô tế đã được điều phục. Đây là hạng phải gác qua một bên mới điều phục được. Các căn cơ như vậy, Bồ-tát đều hiểu biết như thật.

5.     Vô lượng tác ý điều phục phương tiện: Là Bồ-tát khởi ý niệm và tư duy đến các phương tiện điều phục hữu tình do mình giáo hóa trong vô lượng thế giới ở mười phương. Đã tư duy đã hiểu biết như thật. Đây là hạng được điều phục bằng cách nói pháp bí mật, đây là hạng điều phục được bằng cách nói rõ. Đây là hạng dùng phương tiện thâu nhiếp, kia là hạng phải dùng phương tiện bẻ gãy các ương ngạnh của nó mới thâu nhiếp được. Đây là chuyển phương tiện, kia là theo đó mà chuyển phương tiện. Đây là hạng dễ nghe theo, kia là hạng trái ngược. Đây là hạng không đồng phần A-thế-da, đây là hạng làm ơn đền ơn, đây là hạng phải biểu thị nạt nộ uy hiếp. Đây là hạng thanh tịnh. Đây là hạng phải biểu thị bằng cách hiện phép lạ biến hóa. Đây là hạng được biểu thị bằng thọ ký đặc biệt. Đây là hạng được biểu thị bằng sự dạy bảo đặc biệt. Đây là hạng được biểu thị bằng các thứ uy thế. Đây là hạng được dạy bảo bằng nhiều lối dẫn dụ hay. Đây là hạng tướng thô bỉ. Đây là hạng tướng mềm mỏng. Đây là đủ hai tướng thô bỉ và mềm mỏng. Đây là hạng phải gác qua một bên. Đây là hạng được điều phục bằng cách nói lược giáo pháp quan trọng, các phương tiện nhiều như vậy, Bồ-tát đều hiểu biết đúng như thật.

Lại nữa, tụng rằng:

Tướng tác ý chân như,
Tin, hiểu không nghĩ bàn,
A-thế-da rộng lớn,
Nên biết các tự số.

Luận chép: Tác ý tướng chân như là tác ý duyên theo bảy thứ chân như hiện bày khắp, như trong kinh có nói rộng là:

1.     Tác ý Trôi lăn chân như: Là sau khi đã thấy được chân đế, các Bồ-tát dùng pháp hành tăng thượng để khéo tu trị. Lúc khởi ý đối với pháp nhiễm tịnh thì tư duy đến tính chất trôi nổi thật của các hành từ vô thỉ cho đến giờ. Đã tư duy như vậy rồi, Bồ-tát lìa khỏi ý niệm không nguyên nhân, ý niệm không bình đẳng.

2.     Tác ý thật tướng chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với pháp nhiễm tịnh mà tư duy các pháp, tư duy đến tính chất vô ngã của chúng sinh, và tính chất vô ngã của các pháp. Đã tư duy như vậy rồi Bồ-tát không còn khởi ý niệm về quan niệm cho thân là có ngã, và tư duy các tướng.

3.     Tác ý Duy thức chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với chỗ nương của pháp nhiễm tịnh, tư duy tính duy thức của các pháp. Đã tư duy và biết rõ như thật là chỉ vì tâm ta ô nhiễm nên chúng sinh mới ô nhiễm, một khi tâm ta hoàn toàn thanh tịnh thì chúng sinh được thanh tịnh.

4.     Tác ý An lập chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với thể của các pháp nhiễm ô thì tư duy khổ đế. Đã tư duy như vậy, vì muốn cho hữu tình biết rõ nên Bồ-tát nói cho hữu tình nghe.

5.     Tác ý Tà hạnh chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với nguyên nhân của các nhiễm ô thì tư duy đến tập đế. Đã tư duy như vậy rồi, vì muốn hữu tình cắt đứt nó nên Bồ-tát nói nguyên nhân của khổ.

6.     Tác ý Thanh tịnh chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với thể của pháp thanh tịnh thì tư duy diệt đế. Đã tư duy như vậy rồi vì muốn cho hữu tình chứng được Niết-bàn, nên Bồ-tát mới nói phương pháp đi tới đó.

7.     Tác ý Chánh hạnh chân như: Như nói ở trên, cho đến đối với pháp hành thanh tịnh thì tư duy đạo đế. Đã tư duy như vậy rồi thì muốn cho hữu tình tu tám chánh đạo, nên Bồ-tát nói cho hữu tình nghe.

Tin, hiểu không thể nghĩ bàn: Là như trong kinh nói rộng: Đối với những điều khó nghĩ tới thì Bồ-tát đã có lòng tin hiểu. Nếu muốn nói lược về tướng của lòng tin và sự hiểu biết thì có nghĩa là nói về nghĩa hết sức sâu xa của những gì mình hiểu biết. Như vậy là đã bước vào địa của các Bồ-tát và đã bước vào cảnh giới Như lai đã thực hiện. Và oai đức lớn tột cùng của Chư Phật và Bồtát đã làm phát sinh lòng tin thuần khiết kia. Vì oai đức ấy là một cảnh giới khó nghĩ bàn. Đã thấu ngộ rồi thì lòng tin và sự tin hiểu phát sinh.

A-thế-da rộng lớn: là A-thế-da đại ngã và A-thế-đa rộng khắp.

A-thế-da đại ngã là: Bồ-tát đã giác ngộ nên thấy mình và người bình đẳng, vì các hữu tình đều được giải thoát, thanh tịnh, có lòng tin và muốn tiến lên.

A-thế-đa rộng khắp là: Các Bồ-tát đạt tới chỗ hiểu biết không còn chia cắt, coi các thứ đều bình đẳng đối với sinh tử và Niết-bàn. Nhưng vì muốn đem ích lợi cho hữu tình, nên Bồ-tát không trụ ở cả hai cảnh giới sinh tử, Niết-bàn, thanh tịnh và lòng tin muốn tiến lên. Điều ấy nên biết.

Các tự số là: Là nên biết tự số của các phần giác, cũng thế, là đã nói phần giác ngộ. Về Bổ-đặc-già-la nay sẽ nói, Tụng rằng:

Bảy tùy tín hạnh thảy.
Còn tám thứ nên biết,
Và cực thất phản thảy
Thoái pháp thảy có sáu.

Luận chép: Nên biết Bổ-đặc-già-la có nhiều thứ. Nay giải thích trước bảy bậc Hiền Thánh, là tùy theo bảy điều như tín, hạnh, v.v… trong kinh có nói rộng:

1.     Tùy tín hành: Là như chỉ có một tính khí mềm mỏng đã quá quen, tồn tại từ trước đến giờ, lúc nào cũng hiểu biết và thực hành. Từ duyên gốc ấy mà hiện tại, đối với những sự thực hiểu và làm theo chiều hướng đế xét cái như thật.

2.     Tùy pháp hành: Là như chỉ có một khả năng lanh lợi tồn tại từ trước đến giờ, lúc nào cũng biết lựa chọn pháp để tu. Từ duyên gốc ấy mà hiện tại đối với những sự thực biết lựa chọn pháp để tu theo chiều hướng đế quán.

3.     Tin hiểu: Là theo lòng tin mà thực hành tu tập, đã thấy được chân đế của bậc Thánh đế.

4.     Kiến chí: tức Tùy pháp hành, đã thấy được bậc Thánh đế.

5.     Thân chứng: Là đối với tám pháp giải thoát, chính mình đã chứng đầy đủ, ở yên trong đó, nhưng đối với các lậu tận diệt không còn sót, mình chưa diệt hết.

6.     Tuệ giải thoát: Là diệt hết các lậu, không còn sót, nhưng chưa chứng ngộ đầy đủ và ở yên trong thân tám giải thoát.

7.     Câu giải thoát: Là đã diệt hết các lậu, không còn sót, và đã chứng ngộ đầy đủ, ở yên trong thân tám giải thoát.

Tám thứ: Là tám thú hướng quả như quả Dự lưu trong kinh đây nói rộng là:

1.     Dự lưu hướng: Là như có một trạng thái thuần phục nối tiếp, vượt hết địa dị sinh bên ngoài nhập vào chính tính, ly sinh, nếu chưa chứng được quả Dự lưu thì không bao giờ mất giữa chừng.

2.     Quả Dự lưu: Là nếu tùy thắng giải thì dứt hẳn ba kiết sử. Nếu thuộc hoàn toàn thắng giải thì dứt hẳn các mê lầm mà đạo kiến đã dứt. Từ đó, bậc Thánh đã thấy được sự thật (kiến đế) nên đầu tiên chứng được hành quả nghịch lưu.

3.     Nhất lai hướng: như có một hoặc đạo thế gian đã lìa bỏ tham cõi Dục gấp hai lần nhập vào chánh tư duy lìa sự sống chết, hoặc quả Dự lưu đã dứt trừ mê lầm phẩm thượng, phẩm trung cõi Dục, và tu hạnh đối trị.

4.     Quả nhất lai: Hoặc xa lìa gấp hai sự lìa dục rồi mà nhập vào chánh tánh ly sanh, rồi sau đó mới chứng đắc. Hay trong quả Dự lưu, tiến đến dứt trừ, hoặc phẩm thượng, trung của cõi Dục rồi mới chứng được. Dựa vào sự dứt trừ ấy gọi là tham sân si của cõi Dục mỏng nhỏ. Làm sao biết được? Khi ta trù tính tác ý quán xét cảnh giới tâm phát sinh ý niệm buông xả, không còn thói quen của tâm hướng về đắm nhiễm, hướng về cõi khác nhằm đến nơi nào. Nên biết ba độc của người ấy đã mỏng nhỏ.

5.     Bất Hoàn hướng: như có một hoặc đạo thế gian, trước đã lìa tham cõi Dục, nhập vào chánh tánh li sinh. Hoặc ở quả Nhất lai đã dứt trừ các phiền não còn sót ở cõi Dục rồi tu tạp hạnh đối trị.

6.     Bất Hoàn quả: Hoặc trước lìa tham dục, nhập vào chánh tánh ly sinh, lìa sống chết sau đó mới chứng được. Hoặc ở quả vị nhất lai đã dứt trừ các phiền não còn sót ở cõi Dục mà chứng được.

7.     A-la-hán hướng là như có một Hữu học, đã thấy dấu vết đạo vì đã dứt trừ phiền não cõi Phi tưởng Phi phi tưởng, rồi tu tập hạnh đối trị.

8.     Quả A-la-hán là dứt trừ hẳn phiền não ở cõi Phi tưởng phi Phi tưởng mới chứng được.

Cực thất phản (tối đa là bảy lần trở lại)… là mức cùng cực bảy lần trở lại, được lập ra từ tám y sinh như trong kinh có nói rộng:

1.     Cực thất phản là quả Dự lưu: Do khéo tu tập Thánh đạo nên sinh lên cõi trời hoặc ở nhân gian, hoặc ở cõi trời hay nhân gian, chịu bảy lần sống chết mà hết khổ tới biên giới cuối cùng.

2.     Gia gia là quả Dự lưu: Do khéo tu tập Thánh đạo nên sinh lên cõi trời hoặc ở nhân gian [phải sinh lại hai lần] như từ nhà nầy đến nhà khác mà hết khổ tới biên giới cuối cùng.

3.     Nhất gián tức quả Nhất lai: Do khéo tu tập Thánh đạo nên sinh lên cõi trời là chứng ngộ cảnh vắng lặng ngay chỗ ấy. Hay sinh vào loài người thì cũng chứng ngộ cảnh vắng lặng ở ngay đây.

Trung gian chứng vắng lặng: Là quả Bất Hoàn đã cắt đứt cội rễ của kiết tái sinh, nhưng chưa cắt hết ý niệm hướng đến đời sống trói buộc. Nhờ sức tu tập thượng phẩm Thánh đạo nên chứng được vắng lặng ngay trung hữu. Hoặc có người không hướng đến đời sống tái sinh nữa mà chứng được vắng lặng. Hoặc có người còn hướng đến đời sống, nhưng chưa đến đời sống ấy để chứng được vắng lặng.

4.     Sinh chứng vắng lặng: Là quả Bất Hoàn. Nhờ tu tập trung phẩm Thánh đạo tùy ý muốn nên sinh lên cõi trời nào đó, dù chưa dứt hết hai thứ sinh kiết. Và ngay lúc mới sinh ấy liền chứng vắng lặng.

5.     Vô hành chứng vắng lặng: Là bậc Thánh nầy chỉ thực hành ít công hạnh và tinh tấn vừa chứng vắng lặng. Còn lại, đều như các quả vị đã nói trước.

6.     Hữu hành chứng vắng lặng: Là quả Bất Hoàn. Do tu tập phẩm hạ Thánh đạo, tùy ý muốn nên sinh cõi trời nào đó, dù chưa dứt hai kiết sử. Tùy ý sinh về một chỗ nào, sinh lên cõi trời, thực hành nhiều hạnh rồi, và thường tinh tấn nêu chứng nhập vắng lặng.

7.     Thượng lưu là quả Bất Hoàn, tùy ý muốn nên sinh lên cõi trời nào đó, nhưng ở cõi ấy không có khả năng dứt hết các lậu, phải lên một bậc, sinh vào một thân khác mới chứng nhập vắng lặng.

Thoái pháp, v.v… có sáu thứ: Là pháp thoái lui của bậc Vô học, như trong kinh có nói rộng là:

1.     Thoái pháp: Là thành tựu căn tính mềm mỏng như vậy, rồi tư duy tự hại hay không tự hại, hoặc buông lung hay không buông lung, đều đưa đến mất mát trong pháp lạc trụ, không thích công đức thế gian, không rèn luyện các căn nên không thể làm phát sinh những công đức vượt trội.

2.     Tư pháp: Là thành tựu căn tính mềm mỏng như vậy, nếu nghĩ đến tự hại tức là không thoái chuyển. Lúc không nghĩ đến hại là có thể thoái chuyển. Vị ấy nghĩ rằng: Nếu ta thắng các ma, chứ không để ma thắng ta, nghĩ như vậy rồi liền nghĩ đến tự hại. Hạng nầy cũng không có khả năng rèn luyện các căn nên không thể làm phát sinh những công đức vượt trội.

3.     Hộ pháp: Là thành tựu căn tính mềm mỏng như vậy, dù không nghĩ đến tự hại, không sống buông lung không thể thoái chuyển. Nếu tâm ý buông lung thì có thể bị thoái chuyển, mất mát. Hạng nầy không có khả năng rèn luyện các căn nên không thể làm phát sinh những công đức vượt trội.

4.     Trụ Bất động: Là thành tựu căn tính mềm mỏng như vậy, dù không nghĩ đến tự hại, không sống buông lung nên không thể thoái chuyển. Hạng nầy không có khả năng rèn luyện các căn nên không thể làm phát sinh những công đức vượt trội.

5.     Kham năng thông đạt: Là thành tựu căn tính mềm mỏng như vậy, có khả năng không thoái chuyển, có khả năng rèn luyện các căn nên có thể làm phát sinh những công đức vượt trội.

6.     Bất Động pháp: Là từ trước đến giờ, thành tựu căn tính khôn lanh. Người nầy đối với các gốc lành, bù bị lung lạc do các pháp thoái chuyển, cũng không lay động do công đức cao quý phát sinh và rèn luyện các gốc lành, nên gọi là Bất động pháp.

Lại nữa, tụng rằng:

Bảy thứ nhuyến căn thảy.
Tại gia và, xuất gia,
Ba như Thanh văn thảy.
Có thể, không thể cứu.

Bảy thứ căn mềm mỏng gồm:

1.     Nhuyến căn: Là thành tựu năm căn như Tín căn, v.v… hoặc bản tính vốn mềm mỏng, hoặc chưa tăng trưởng nên khi cần vượt hơn thì gia hạnh chậm chạp.

2.     Lợi căn, nên biết là trái với căn trên.

3.     Tham hạnh là tham dục vốn tập quen từ đời trước, nhưng nay lại không tu tập phép đối trị lòng tham. Do vậy, ngay trong đời sống nầy khởi lên tham ái mạnh mẽ cứ tiếp nối, cho dù bắt gặp một cảnh giới đáng yêu thấp kém đi nữa, vẫn không nhàm chán xa lìa ham muốn. Đối với việc tu pháp lành, gia hạnh chậm lụt như hành vi tham.

4.     Sân hạnh.

5.     Si hạnh cũng thế. Trong ấy cũng có chỗ khác nhau là dù gặp chuyện đáng giận tầm thường cũng vẫn nổi giận, dù gặp chuyện tầm thường vẫn sinh ngu si dữ dội.

6.     Đẳng phần hành: Là đời trước không quen theo tham dục sân si phẩm thượng, nếu có bị thói quen đó thì biết lo tu tập pháp đối trị lại chúng. Do vậy, nên trong đời nầy nếu gặp ba thứ đáng yêu thì tùy hoàn cảnh thứ nào mà phát sinh những mê lầm trói buộc của tham sân si, tương ứng. Buông lìa nó không dễ cũng không khó, không phải khó chán hay dễ chán. Đối với việc tu tập pháp lành thì không tiến mau nhưng không chậm.

7.     Bạc trần hành: là như có ai đó, trong đời quá khứ không bị chi phối lâu với tham dục sân si, nhưng đã biết tu tập pháp đối trị chúng. Do vậy, ngay trong đời nầy, dù gặp cảnh đáng yêu tốt đẹp đi nữa vẫn không bị trói buộc do tham sân si kia. Dù có lúc tham dục sân si khởi lên ở phẩm trung, hạ, nhưng vẫn dễ nhàm chán lìa bỏ chúng, đối với việc tu tập pháp lành thì tiến tới mau chóng.

Tại gia: Là người bạch y ở nhà, thọ dụng năm dục, làm ăn lo sự nghiệp để nuôi sống mình.

Xuất gia: Là giữ tướng mạo của người xuất gia, xả bỏ cảnh sống thế tục, giữ giới đã thọ, sống đời trong sạch, khất thực nuôi sống.

Thừa Thanh văn gồm có ba là:

1.     Thừa Thanh văn là an trụ trong pháp tánh Thanh văn, là khiến mình chứng vắng lặng. Phát nguyện chính đáng rồi thì tu hạnh phương tiện.

2.     Thừa Độc giác là an trụ trong pháp tánh Độc giác là khiến mình chứng vắng lặng không do thầy dạy bảo. Phát nguyện chính đáng xong thì tu hạnh phương tiện.

3.     Đại thừa là an trụ trong pháp tánh Đại thừa, là mong mình và người cùng chứng vắng lặng, không do thầy dạy, phát nguyện chính chắn rồi, tu hạnh phương tiện.

Có thể cứu: là pháp tánh vắng lặng ba thừa.

Không thể cứu: là không có pháp tánh vắng lặng của ba thừa. Lại nữa, bài tụng rằng:

Chín nhập phương tiện thảy
Sinh, sai khác nên hai.
Lại do các cõi khác,
Nên biết mười ba thứ.

Luận chép: Chín thứ như nhập phương tiện, v.v… là

1.     Đã nhập phương tiện: Là có lòng tin vững chắc trong sạch đối với pháp Tỳ-nại-da do Đức Như lai tự giác tự nói. Đã thọ giới rồi, nghe chánh pháp, làm cho gốc lành thêm lớn, buông xả trần cấu, quên mình nhận thức ngay được chánh kiến.

2.     Chưa nhập phương tiện thì trái với điều nói trên.

3.     Hữu chướng: Là có ba chướng: Một là chướng phiền não; hai là chướng nghiệp; ba là chướng báo. Chúng đều gây trở ngại cho việc tu tập pháp lành.

4.     Vô chướng: Là trái với điều vừa nói trên.

5.     Chưa thành thục: Là chưa có được gốc lành, dù tu tập chứa nhóm nối tiếp nhiều ngày tháng, nhưng không chứng ngộ hiện pháp và không thấy rõ được chân đế, không chứng được vắng lặng của hiện pháp hạ, trung, thượng thừa.

6.     Đã thành thục là trái với pháp nói trên.

7.     Cụ phược: Là đầy đủ các trói buộc, đó là phàm phu.

8.     Bất cụ phược: Là gồm thứ sáu thứ Hữu học của bậc Thánh là từ quả Dự lưu cho đến bậc sáu thứ là A-lahán hướng.

9.     Không trói buộc: Là quả A-la-hán Vô học. Có hai thứ khác nhau: Một: là Cõi người là sinh vào loài người, được thành giống người. Hai: là Không phải cõi người là sinh vào các loài khác nhau như Na-lạc-ca, bàng sinh ngạ quỷ, các hàng trời, rồng, Dược-xoa, A-tố-lạc, Yếtlộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mâu-hô-lạc-đà.

Lại do các cõi khác nhau, nên biết có mười ba thứ:

1.     Cõi Dục dị sinh: Là những người sinh vào cõi Dục, chưa thấy được chân đế.

2.     Cõi Dục Hữu học: Là sinh vào cõi Dục rồi, thấy được chân đế bậc Thánh gồm sáu thứ Hữu học là từ quả Dự lưu cho đến bậc thứ sáu là A-la-hán hướng.

3.     Cõi Dục Vô học: Là quả A-la-hán ở cõi Dục.

4.     Cõi Sắc dị sinh: Là sinh vào cõi Sắc, chưa thấy được chân đế.

5.     Cõi Sắc Hữu học: Là sinh vào cõi Sắc rồi, thấy được chân đế bậc Thánh có hai thứ Hữu học: Một: là quả Bất Hoàn; Hai: là A-la-hán hướng. cõi Sắc Vô học: Là quả A-la-hán sinh vào cõi Sắc.

6.     Vô sắc dị sinh: Là sinh vào cõi Vô sắc, chưa thấy được chân đế.

7.     Vô sắc Hữu học: Là sinh vào cõi Vô sắc, đã thấy được chân đế có hai thứ Hữu học: Một: là quả Bất Hoàn; Hai: là A-la-hán hướng.

8.     Vô sắc Vô học: Là quả A-la-hán ở cõi Vô sắc. cõi Dục Độc giác: Là an trụ trong pháp tánh Độc giác. Đời trước chưa thấy chân đế hay đã thấy chân đế, đời nầy sinh vào cõi Dục, không do thầy dạy bảo, nhờ ở sự cố gắng ban đầu của mình, tu tập giác phần mà chứng ngộ, các kiết sử đều dứt. Độc giác nầy lại có hai loại:

Một: là như khiết già, đi một mình; Hai: là một mình vượt hơn các người mà đi.

9.     Cõi Dục Bồ-tát: Là sinh vào cõi Dục an trụ trong pháp tánh Bồ-tát. Vì muốn mình người đều chứng vắng lặng, nên phát nguyện chính đáng, tu tập các hạnh phương tiện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. cõi Sắc Bồ-tát: Là sinh ở cõi Sắc, an trụ trong pháp tánh Bồ-tát xa lìa vô sắc, tu tập các tĩnh lự nhằm làm cho mình, người đều chứng vắng lặng, đã phát chánh nguyện tu tập tất cả hạnh phương tiện Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

10.   Chư Phật Như lai Bất khả tư nghì: Là an trụ trong tu tập, không còn sinh tử, nhập vào đường vô phân biệt vắng lặng, đồng thời chứng như Chư Phật là quả chuyển y tràn khắp vô thượng thuộc thân pháp giải thoát, làm tất cả các ích lợi cho hữu tình trong thế giới ở mười phương, không bao giờ ngừng nghỉ. Như vậy đã nói xong. Nay sẽ nói về quả của Bổ-đặc-già-la, tụng rằng:

Quả đoạn có năm thứ,
Biến tri và thanh tịnh,
Quả tịnh, giới Bồ-đề,
Vô học do tự số.

Luận chép: Quả đoạn có năm thứ là năm thứ dứt trừ trong các quả:

1. Dứt trừ các trói buộc: Là nhờ bốn thứ đối trị mà lìa khỏi các phiền não trói buộc hiện hành. Bốn thứ đối trị gồm: Một: là Đối trị tán loạn; hai: là Đối trị sáng tỏ; ba: là Đối trị yếu kém; bốn: là Đối trị khuất phục.

-     Đối trị tán loạn: Là phương tiện tu tập trong tám pháp hành mầu nhiệm, hoặc còn tu tập phương tiện pháp lành đối với các cõi định khác.

-     Đối trị sáng tỏ: Là tu tập phương tiện pháp hành của địa thứ chín.

-     Đối trị yếu kém: Là ban đầu nhờ tâm được nuôi dưỡng pháp lành, nên phiền não, suy yếu.

-     Đối trị khuất phục: Là từ đạo thế gian, theo sức mình mà chế ngự, đập vỡ các hạt giống phiền não.

2.     Dứt trừ tùy miên: Từ đạo xuất thế gian, tùy năng lực mà dứt trừ hẳn hạt giống phiền não.

3.     Dứt trừ hẳn tham dục: Là dứt trừ hẳn mê lầm tùy miên nên dứt hết phiền não tham, tức tham được dứt trừ hẳn.

4.     Dứt trừ hẳn sân, cũng như vậy.

5.     Dứt hết hẳn si mê: Nên biết do sức mạnh của tri kiến thông đạt hết sức trong mà dứt trừ sạch hết các thứ phiền não, gọi là dứt hết hẳn. Biến tri: Là có chín thứ biến tri (biết khắp) thuộc các quả dựa vào dứt biết khắp:

1.     Do dục trói buộc mà thấy khổ tập nên dứt trừ phiền não, biết khắp dứt, vì thuộc về hai đế hữu lậu.

2.     Do Sắc, vô sắc trói buộc mà thấy khổ và tập nên dứt trừ phiền não, biết khắp dứt vì thuộc về hai cõi định địa.

3.     Từ trói buộc của cõi Dục mà thấy được diệt đế, dứt trừ phiền não, biết khắp dứt nó thuộc về vô lậu, vô vi.

Từ sự trói buộc ở cõi Sắc vô sắc mà thấy được diệt đế, dứt phiền não, biết khắp dứt, nó thuộc về định tăng thượng địa.

4.     Từ trói buộc cõi Dục, mà thấy đạo đế, dứt phiền não, biết khắp dứt, nó thuộc về vô lậu hữu vi.

5.     Từ trói buộc nơi sắc, vô sắc mà thấy đạo đế, dứt phiền não, biết khắp dứt, thuộc về định địa tăng thượng.

6.     Từ năm thuận hạ phần kiết sử biết khắp dứt vượt qua các cõi dưới.

7.     Sắc tham biết khắp cùng tận, vượt qua cõi trung.

8.     Tham ở cõi Vô sắc biết khắp cùng, vì đã vượt qua cõi mầu nhiệm.

Thanh tịnh: như kinh có nói rộng, có chín thứ là:

1.     Thi-la thanh tịnh: Như có người khéo sống trong Thi-la và khéo giữ giới biệt giải thoát, như pháp sống với oai nghi đầy đủ, phạm tội nhẹ đi nữa vẫn thấy rất lo sợ khi thọ học xứ.

2.     Tâm thanh tịnh: Như người nương giới luật thanh tịnh, lìa các pháp dục ác, bất thiện, như trước đã nói, sống yên đầy đủ trong Sơ tĩnh lự, tĩnh lự hai, ba, bốn.

3.     Kiến thanh tịnh: Như người tâm thanh tịnh đầy đủ, trong sạch không chút bợn nhơ, lìa bỏ phiền não, an trụ trong bất động. Vì muốn chứng ngộ trí lậu tận nên quán xét các đế, hiểu rõ như thật, biết đây là khổ đế, đây là khổ tập Thánh đế, đây là khổ diệt Thánh đế, đây là hướng tới khổ diệt hành đạo Thánh đế.

4.     Độ nghi thanh tịnh: Có người nương vào kiến thanh tịnh, không mê lầm, không ngờ vực đối với Phật Pháp Tăng.

5.     Đạo phi đạo trí kiến thanh tịnh: Như có người nương vào tâm thanh tịnh đã vượt qua nghi ngờ nên chứng được tri kiến mầu nhiệm. Làm theo đạo do Phật nói, tăng hành, nên được ra khỏi sinh tử. Việc ấy ra sao? Là diệt hết khổ và chứng tới bờ mé cuối cùng của khổ. Còn như ngoại đạo nói thì không thể làm theo để dứt hết khổ và không chứng tới bờ mé cuối cùng của khổ.

6.     Hành trí kiến thanh tịnh: Như có người nương vào năm điều nói trên, biết đường ra khỏi sinh tử có ba loại là hạ, trung, thượng. Hạ là hành thuộc về khổ trì thông. Trung là hành thuộc về khổ tốc thông lạc trì thông. Thượng là hành thuộc về lạc tốc thông.

7.     Hành đoạn trí kiến thanh tịnh: Như có người nương vào hành tri kiến thanh tịnh được tri kiến đúng đắn, bảo ta nên dứt trừ hạnh bậc thấp, và muốn phát khởi hạnh Thánh tốt đẹp hơn.

8.     Vô duyên vắng lặng thanh tịnh: Là như có người nương vào hạnh đoạn trí kiến thanh tịnh, chứng được vô dư, các lậu đều hết sạch hẳn.

9.     Cõi nước thanh tịnh: Là Chư Phật đều có quả công năng vô thượng, có năng lực thị hiện cõi nước trang nghiêm không thể nghĩ bàn với ý tưởng hết sức thanh tịnh của Phật, của Bồ-tát và của quyến thuộc.

Tịnh: Là bốn chứng tịnh, như trong kinh có nói rộng là:

Phật chứng tịnh: Là người đã kiến đế, ở chỗ Như lai khéo an trụ vào tín xuất thế gian, sau khi đã được khéo an trụ vào lòng tin xuất thế gian thì như Phật đã chứng tới chỗ thanh tịnh. Pháp chứng tịnh thứ hai và Tăng chứng tịnh thứ ba nên biết như vậy. Bốn Chứng giới thanh tịnh được các bậc Thánh yêu thích: Là đã thấy được chân đế đối với pháp bậc Thánh yêu mến, đã được quyết định luật nghi không tạo tác, đã khéo an trụ vào niềm tin xuất thế gian, về sau được khéo an trụ trong lòng tin ở thế gian.

Quả: Là bốn quả Sa-môn, như trong kinh có nói rộng là:

1.     Quả Sa-môn Dự lưu: Nếu tùy theo sự thâu nhiếp cao quý tức dứt hết ba kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ và nghi. Nếu thân thâu nhiếp toàn phần, thì là đạo các phiền não do kiến đạo dứt đều được dứt trừ hẳn. Do vậy, được quả Dự lưu, không bị đọa lạc, hoặc tối đa là bảy lần trở lại, hoặc lại đến bậc Gia gia.

2.     Quả Sa-môn Nhất lai: Nếu tùy theo sự thâu nhiếp cao quý thì dứt trừ hẳn ba kiết, tham sân si yếu mỏng. Nếu thâu tóm toàn phần thì tất cả phiền não thượng phẩm, trung phẩm trói buộc ở cõi Dục đều bị dứt hết hẳn do tu đạo. Do vậy, được quả Nhất lai, hoặc còn một trung gian.

3.     Quả Sa-môn Bất Hoàn: Nếu theo sự thâu nhiếp cao quý thì dứt trừ hẳn thuận hạ phần kiết sử là thân kiến, giới cấm thủ, nghi, tham dục và sân giận. Nếu thâu nhiếp toàn phần thì tất cả phiền não dứt hết do kiến đạo. Và các phiền não trói buộc ở cõi Dục đều dứt hẳn do tu đạo, hoặc phiền não trói buộc ở cõi Sắc cũng được dứt hẳn, hoặc một phần phiền não ở cõi Vô sắc, cũng được cắt đứt. Do vậy, đạt quả Bất Hoàn, hoặc nửa chừng nhập Niết-bàn, hoặc sống với Niết-bàn, hoặc Niết-bàn vô hành, hoặc Niết-bàn hữu hành, hoặc còn ở thượng lưu.

4.     Quả Sa-môn A-la-hán: Là nếu theo sự thâu nhiếp cao quý thì dứt trừ hẳn tham dục sân si không còn sót. Nếu thâu nhiếp toàn phần thì dứt các thứ phiền não do kiến đạo. Do vậy, đạt quả A-la-hán, với các lậu dứt sạch, cho đến nói rộng, về quả vị A-la-hán.

Hằng an trụ trong pháp giới: Như trong kinh có nói rộng, có ba thứ giới: Một: là Đoạn giới là quả vị kiến đạo đã dứt các hành. Hai: là Ly giới, là lìa các hành do tu đạo đã dứt. Ba: là Diệt giới, là diệt bỏ chỗ nương, thuộc về của các hành.

Bồ-đề là: Như trong kinh nói rộng, có ba thứ Bồ-đề là:

1.     Bồ-đề Thanh văn: Là nhờ chuyển y mà Thanh văn có được vắng lặng và tiến tới đạo vắng lặng.

2.     Bồ-đề Độc giác: Là nhờ chuyển y mà Độc giác có được vắng lặng và tiến tới đạo vắng lặng.

3.     Bồ-đề Chánh đẳng Vô thượng: Là nhờ chuyển y mà Đại thừa chứng được vắng lặng, tiến tới đạo vắng lặng, kiến tạo con đường đem đến lợi ích an vui cho các hữu tình.

Vô học là mười pháp Vô học, như trong kinh có nói rộng: 1. Vô học chánh kiến: Là A-la-hán đối diện với khổ, suy tư biết là khổ cho đến đạo thì suy tư biết là đạo. Tác ý vô lậu tương ưng với pháp được lựa chọn, và pháp lựa chọn nầy là tột cùng, như trước đã nêu. Như Vô học chánh kiến cho đến Chánh định thứ tám, như trước nên biết; 9. Vô học chánh giải thoát là lìa các phiền não thô nặng. Trong tâm Vô học dứt trừ chướng phiền não với cách điều phục và kham nhẫn; 10. Vô học chánh trí là trí tận và trí vô sinh của A-la-hán.

Do tự số là: Như đã nói ở trước, mỗi quả vị là do từ số khác nhau của nó nên biết.

Lại nữa, tụng rằng:

Dứt nhiều nhân nên dứt,
Tạo dựng, dứt chỗ theo
Do tác ý nương tu
Và thứ lớp dứt trừ.

Luận chép: Dứt nhiều nhân nên dứt, vì dứt quả vị nhiều nhân, phải cắt đứt phiền não. Có bốn nguyên do phải cắt đứt phiền não: Một: là dứt trừ chỗ nương. Hai: là Dời chỗ nương. Ba: là biết chỗ duyên hợp.

Bốn: là biết chỗ ưa duyên.

Lại có năm nhân để dứt bỏ phiền não là:

1. Biết tự thể của phiền não.

2. Biết sự tướng của phiền não.

3. Biết lỗi của phiền não.

4. Tránh chỗ mà phiền não duyên theo.

5. Tu tập pháp tác ý đối trị.

Lại có bốn thứ nhân khiến phiền não bị cắt đứt là:

1. Nương vào vô dư để dứt trừ.

2. Nương vào vô dư mà chuyển.

3. Tu tập pháp vô dư để đối trị.

4. Tâm vô dư giải thoát.

-Lập ra, dứt chỗ theo: Là theo sở duyên của phiền não mà dứt trừ. Sở duyên của phiền não đã bị cắt dứt thì không còn bị trói buộc nữa. Các việc tương ưng theo nó cũng bị cắt dứt. Các phiền não ở hiện tại, vị lai cũng bị cắt dứt hẳn, dù có thô nặng, cho nên nói phiền não được dứt trừ.

Do tác ý là: Từ chỗ duyên trọn vào đế mà tu tập tác ý nên phiền não được cắt dứt.

Do nương theo là: Do nương vào bảy chỗ định mà phiền não bị cắt đứt, nghĩa là từ Sơ tĩnh lự cho đến Vô sở hữu xứ thứ bảy.

Do tu là: Tu tập bốn niệm trụ, bốn chánh cần cho đến tu tập tám chi Thánh đạo, nên cắt dứt hết các phiền não. Theo thứ lớp là có năm thứ lớp để cắt đứt phiền não:

1.     Trước là cắt phiền não do kiến đạo đã dứt trừ.

2.     Kế là cắt đứt phiền não do tu đạo đã dứt trừ.

3.     Trước là điều phục dần các phiền não hiện tại.

4.     Kế là cắt đứt hẳn nó.

5.     Cuối cùng vượt qua tất cả phiền não. Lại nữa, Tụng rằng:

Dứt khác nhau, nên biết,
Và lợi ích tướng dứt,
Cũng thế, như đã nói,
Lại phải biết nhiều thứ.

Luận chép: Sự cắt dứt khác nhau, nên biết. Nhiều thứ là Các phiền não bị dứt trừ có nhiều thứ khác nhau. Nghĩa là cắt đứt loại trói buộc, cắt đứt loại tùy miên. Có sự dứt trừ do đạo thế gian, có sự dứt trừ do đạo xuất thế gian. Có sự dứt trừ do đạo Thanh văn tác ý. Có sự dứt trừ do đạo Độc giác tác ý. Có sự dứt trừ do Bồ-tát thừa tác ý. Có thứ tạm thời, có thứ cắt dứt rốt ráo. Các phiền não được cắt trừ như vậy, nên biết.

Lợi ích dứt tướng là: Cũng nên biết cũng thế. Nhiều thứ là: Những phiền não bị cắt bỏ ấy, có nhiều tướng lợi ích nên biết.

Như kinh nói rộng là không rơi vào pháp đọa lạc, chắc chắn tiến tới được Bồ-đề. Ai đã đến chánh pháp hay sắp đến chánh pháp, chứng hiểu chánh pháp, chứng tới nguồn đáy, hay chứng ngộ khắp nguồn đáy thì người ấy đã thành tựu được trí kiến của bậc Thánh, không còn màng đến pháp khổ vui. Phiền não không còn được gây ra do mình, người hay cả mình, người hay chẳng phải mình, người cùng gây ra nữa. Cũng không còn màng đến khổ vui vì nó không còn cội nguồn để phát sinh ra nữa. Mạng sống của loài bàng sinh không còn bị cắt đứt.

Vượt qua các pháp Hữu học, không còn năng lực làm phát sinh năm nghiệp Vô gián. Không còn cầu thỉnh các sư ngoại đạo, cũng không coi họ là ruộng phước chân thật, cũng không còn chiêm ngưỡng quan sát dung nhan của các Sa-môn, Bà-la-môn tà đạo. Cũng không còn ngờ vực, lầm lẫn gì đối với pháp ba đời của họ, cũng không nhận lãnh quả báo hữu lậu thứ tám của họ. Cũng thế là chứng quả A-la-hán, dứt hết hẳn các lậu, các việc phải làm đã làm rồi, chứng được quả A-la-hán.

Sáu pháp thường an trụ, như trong kinh có nói rộng. Nghĩa là thành tựu sáu thứ pháp an trụ nối tiếp. Nếu khi mắt thấy sắc nhưng tâm không lo hay mừng là xả niệm chánh tri. Cứ làm cũng thế đối với tai, mũi, lưỡi, thân. Nếu ý thức tiếp xúc với pháp trần, nhưng tâm không lo hay mừng là xả niệm chánh tri. Các việc làm là làm vì lợi ích cho các người. Vì đem ích lợi cho chúng sinh, vì đem đến an vui cho chúng sinh, vì lòng thương chúng sinh, vì các trời, người được ý nghĩa lợi lạc, nên các phiền não như vậy bị cắt đứt hẳn. Có nhiều tướng lợi ích, nên biết.

QUYỂN 4

Phẩm 1: THÂU NHIẾP SỰ (Phần 4)

Đã nói như vậy. Nay sẽ nói về các công đức của quả, như Tụng rằng:

Vô lượng các giải thoát,
Thắng xứ và Biến xứ,
Trí nguyện mầu vô tránh,
Thần thông vô ngại giải.

Luận chép: Vô lượng là bốn vô lượng, như trong kinh có nói rộng là:

1.     Từ vô lượng là tâm từ đầy đủ. Nó không oán, không ghét, không gây tổn hại, rộng lớn vô lường. Khéo tu tập tận cùng, từ một phương diện, thứ lớp như vậy, cho đến vô biên tất cả thế giới ở mười phương thì ý hiểu biết đầy khắp, an trụ trong ấy.

Tâm từ cùng hiện hành đối với chúng sinh, tâm không thấy khổ, vui mà muốn bố thí niềm vui, tâm Athế-da (ý lạc) cũng tương ưng theo. Không thù oán là đem tâm ấy đối trị với sự oán thù của kẻ khác khi ý định gia tăng nỗi khổ bằng cơn giận dữ. Không ghét là đối trị với oán ghét, là cơn giận gây trở ngại cho niềm vui. Không gây trở ngại là đối trị với não hại, khiến cho đối phương không nổi cơn giận. Rộng là để thấy được tác ý đã thực hành. Lớn là để ý, nghe và đã thực hiện. Vô lượng là để ý thực hành những gì mình hiểu biết. Khéo tu tập tận cùng là: Do tập quán tương ưng mà lìa bỏ các sự che lấp của phiền não. Từ một phương diện thứ lớp như vậy cho đến tất cả ở mười phương thế giới là duyên vào khí thế gian và hữu tình ở các nơi ấy, cuộc đời nầy. Ý hiểu là duyên vào cảnh giới tư duy và biết là do ý thức. Cùng hiện hành khắp là duyên vào cảnh giới vô gián hữu tình. An trụ đầy đủ đã có nói trong địa tĩnh lự ở trước.

2.     Bi vô lượng là tâm thương xót đầy đủ, cho đến nói rộng. Tâm bi đầy đủ là đối với các loài đang khổ, muốn nhổ gốc khổ ấy, làm với sự tương ưng của tâm Athế-da. Không oán thù là đối trị với tâm não hại. Không ghét là để đối trị lại những việc gây trở ngại cho hành động cứu vớt khổ bị tổn hại. Không gây tổn hại là để đối trị não hại, nó không muốn cho các người an vui. Còn lại, như trước đã nêu.

3.     Hỷ vô lượng: Là tâm vui mừng, cho đến nói rộng. Tâm vui mừng đầy đủ là vui theo niềm vui của chúng sinh, tâm vui ấy, tương ưng với tâm A-thế-da. Không oán là để đối trị lại tâm niệm gây ra đau khổ, không muốn kẻ khác có vui mừng. Không ghét là để đối trị tâm oán ghét, gây trở ngại cho niềm vui, là không muốn ai có sự vui mừng. Không gây tổn hại là để đối trị lại ý muốn không hợp, vì không vui mừng. Ngoài ra như trước đã nêu.

4.     Xả vô lượng: Là tâm xả đầy đủ, cho đến nói rộng. Tâm xả đầy đủ là vì muốn tâm A-thế-da tương ưng không bị ô nhiễm. Không oán là để đối trị tâm oán, oán là bị mắc vào tham sân. Không ghét là để đối trị chướng ngại, trừ nhiễm tham sân. Không tổn hại là đối trị tâm điên đảo, bất nhiễm tham và sân. Còn lại, như trước đã nêu.

Thể tính của bốn vô lượng nầy ra sao? Nghĩa là thể của từ là gốc lành, không giận. Thể của bi là gốc lành không gây thật hại. Thể của hỷ là gốc lành không ganh ghét. Thể của xả là gốc lành không tham, không sân. Tất cả đều có mục đích thương xót chúng sinh. Trong bốn pháp ấy, từ là không nổi giận và hai pháp vô lượng kế đó là một phần của không giận. Xả là một phần không tham, một phần không giận. Và các tâm, tâm pháp, đẳng trì tương ưng với các pháp vô lượng kia và quyến thuộc của tâm, tâm pháp không tham, không giận đó là thể tính của bốn pháp vô lượng. Nên biết: Trước là do pháp hành tăng thượng và khéo tu tập tâm đối trị. Hơn nữa, nhờ nương vào tĩnh lự mà được các pháp thanh tịnh ấy, nên biết.

Các giải thoát là: Có tám thứ giải thoát, như trong kinh có nói rộng:

1.     Hữu sắc chư sắc quán giải thoát: Hữu sắc là nương vào định hữu sắc, tư duy phát sinh ý giải. Chư sắc là như các sắc trong chỗ vượt hơn, tự phân biệt rộng rãi. Quán là biến hóa một cách tự tại đối với các sắc. Vì ý hiểu, tư duy nên làm cho tướng của các sắc ấy hiển bày.

2.     Nội vô sắc tưởng, ngoại chư sắc quán giải thoát. Trong không sắc tưởng, nương vào định vô sắc, tư duy sinh ý giải. Ngoại là trừ nhãn căn mà ý giải tư duy dứt trừ sắc. Chư sắc quán là như trước đã nêu.

3.     Tịnh giải thoát: Lấy thân làm bằng chứng, an trụ đầy đủ. Giải thoát tịnh là: Chăm chú một hướng vào tư duy ý giải, vì tư duy sắc thanh tịnh, mầu nhiệm được an trụ trong cảnh an vui tăng thượng. Giải thoát là: giải thoát tâm trở ngại đối với công dụng của sắc tịnh và bất tịnh. Thân là ý thân. Làm bằng chứng là do trí cắt đứt hết phiền não làm bằng chứng. An trụ đầy đủ là như trước đã nêu. Các pháp giải thoát ở cõi Vô sắc, như trước đã phân biệt, trong ấy có sự khác nhau.

Vì muốn chứng được tất cả nghiệp tự tại của thân, vì muốn giải thoát tâm chướng ngại đối với sắc, nên trước lại phải xua tan sắc để mở đường cho ý giải tư duy về vô biên hư không. Gọi là vô biên hư không xứ giải thoát thứ tư. Vì muốn làm phát sinh các công đức Thánh thần thông vô tránh nguyện và trí biện vô ngại. Lại vì muốn chứng được tâm tự tại để có năng lực giúp đỡ cho các công đức kia sáng tỏ. Lại vì muốn giải thoát tâm chướng ngại ấy, nên còn phải mở đường đi tới vô biên thức ý giải tư duy, nên gọi là vô biên thức xứ giải thoát thứ năm. Người tu hành lập phương tiện để làm cho công đức phát sinh Cũng thế là vì muốn phát khởi tĩnh lự thứ tư. Làm phát sinh công đức hiện tại là vì muốn chứng ngộ được an trụ tự tại vô lậu cao xa hơn hết. Lại vì muốn giải thoát tâm chướng ngại kia nên lại mở đường cho ý giải tư duy Vô sở hữu, gọi là Vô sở hữu xứ giải thoát thứ sáu, để chứng được an trụ tự tại hữu lậu cao nhất.

Lại vì muốn giải thoát tâm chướng ngại kia, nên lại mở đường cho ý giải tư duy Phi tưởng, Phi phi tưởng là Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát thứ bảy.

Lại vì muốn chứng được an trụ ở tối thắng hơn hết về vắng lặng để thoát khỏi những chướng ngại ấy, nên lại từ Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát cho tâm tiến lên dứt trừ các ý nghĩ gọi là Tưởng thọ diệt giải thoát thứ tám.

Thắng xứ, như trong kinh có nói rộng, có tám thứ thắng xứ là:

1.     Trong có sắc tưởng, ngoài quán ít các sắc, hoặc tốt xấu hơn kém, đối với các sắc tưởng cao quý ấy, nhờ thấy biết cao sâu nên được tư tưởng Cũng thế, nên gọi là thắng xứ đầu tiên.

Trong các sắc tưởng là như đã nói trong pháp giải thoát. Ngoài là trừ nhãn căn để làm rõ các sắc khác. Các sắc quán là như trước đã nêu. Ít là ý giải tư duy sắc thuộc về của cải tài vật. Hoặc tốt, xấu là ý giải tư duy sắc thuộc về sắc tịnh, bất tịnh. Hơn, kém là ý giải tư duy sắc thuộc về thanh hương, vị, xúc, tịnh và bất tịnh. Đối với các sắc tướng cao quý là tác ý tư duy về năng đối trị, sở đối trị, là công dụng chướng ngại không gây tổn hại. Biết: là công dụng của đạo Xa-ma-tha, kiến là công dụng của đạo Tỳ-bát-xá-na. Được tư tưởng Cũng thế nghĩa là đối với thắng nghĩa chân thật, được ý tưởng thắng nghĩa chân thật, không có ngạo mạn trong ấy. Còn đối với cái Không thắng nghĩa cũng chứng được cái Không thắng nghĩa, không có kiêu ngạo.

2.     Trong có sắc tưởng, ngoài quán nhiều các sắc, cho đến gọi là thắng xứ thứ hai. Hai thứ quán tưởng nhiều hay ít đối với nội vô sắc tưởng cũng như vậy. Trong có sắc tưởng, ngoài các sắc quán như trước đã nêu. Nhiều là: tư duy khắp các sắc làm nổi rõ lên đã nói trong khí thế gian hữu tình thế gian. Các sắc khác như ở trước đã nói. Bên trong không có năm sắc tưởng, bên ngoài là các sắc bị quán tưởng là xanh, thì xanh sáng tỏ, thấy được. Xanh như bông Ô-mạc-ca xanh rực rỡ, hay như áo Bà-la-ni tử được nhuộm màu xanh. Cũng thế các màu vàng, đỏ, trắng đều nên nói rộng, trong đó có khác nhau là màu vàng như hoa Yết-ni-ca-la, hay như Bà-lani-tư được nhuộm. Áo màu vàng, áo màu đỏ thì như hoa Bàn-đậu thời Phược-ca, hay như áo màu đỏ Bà-la-ni-tư được nhuộm. Màu trắng thì như hoa Ô-xa-na hay như màu trắng tươi Bà-la-ni-tư. Xanh là câu chung. Xanh sáng tỏ là xanh vốn có. Nói màu xanh có thể thấy thì có nghĩa là nó xanh do hòa hợp mà thành xanh. Xanh sáng là do hai màu trắng, xanh làm cho xanh tươi trong sạch rực rỡ. Các màu xanh vàng đỏ trắng cũng giống Cũng thế, nói rộng nên biết, còn lại, như trước đã nêu. Đối với một xứ với hai thí dụ thì đây là nói hai thứ là màu vốn có và màu hòa hợp mà có. Tám xứ cao quý trên đây làm chỗ nương cho công phu tu tập ba thứ duyên theo sắc giải thoát. Bốn xứ cao quý sau thuộc ý giải tư duy. Sắc của các tầng trời cõi Dục và sắc của cõi Sắc cũng giống như vậy. Lại nữa, nên biết: các xứ cao quý nầy là pháp đối trị hạt giống của các địa bên dưới. Theo dõi tác ý tư duy thì nó không nhằm đối trị mà là từ các cõi được đối trị khởi lên tác ý tư duy. Biến xứ là mười biến xứ, như trong kinh có nói rộng là địa biến xứ. Một khi biết rõ trên, dưới, bên cạnh, không hai, vô lượng nước, lửa, gió như vậy cùng khắp, màu xanh vàng đỏ trắng, hư không, thức là cùng khắp trên dưới, hai bên không hai, vô lượng. Địa biến xứ là do làm chỗ nương cho sắc biến khắp nên nó lại nương vào sắc mà cùng khắp, do nó thêm lớn. Một khi biết rõ, là có thể chứng ngộ được quán Bổ-đặcgià-la nầy. Trên dưới và bên cạnh, là tràn ngập bốn phương và bốn góc. Không hai là lìa các cõi khác và không lìa sắc sáng tỏ cùng khắp. Vô lượng là không có hình tướng giới hạn vì nó cùng khắp, như địa biến xứ, ngoài ra như nước lửa gió, xanh vàng đỏ trắng cũng giống như vậy, như các sắc thích ứng. Hư không biến xứ là vì đối trị sắc tưởng nên tác ý tư duy cùng khắp, còn lại, như trước đã nêu.

Thức Vô biên xứ là duyên vào vô lượng thức nên tác ý tư duy cũng đầy khắp, còn lại như trước đã nêu.

Trong Thức biến xứ nầy, nhờ ba pháp giải thoát, nên được sắc tốt đẹp, tự tại, khi được sắc nầy mới có thể nói sắc tốt đẹp thành tựu tự tại cùng cực.

Thức xứ ở các cõi trên không cùng khắp vì nơi duyên của nó vô lượng hình tướng dứt đoạn, nương vào phân biệt xa lìa. Nên biết: Thắng xứ và biến xứ của nó đều là các pháp giải thoát, có khả năng là đạo thanh tịnh, vì các thắng xứ là chỗ duyên tốt. Và do các biến xứ là chỗ duyên cùng khắp nên có thể giúp cho giải thoát thanh tịnh nên biết.

Vô tránh là: Giữ gìn tính chất trí kiến không si mê để dẫn dắt các phiền não khác và tính vô si ấy tương ưng với tâm, tâm pháp, vì tâm ấy đã thực hành rất nhiều.

Nguyện trí mầu nhiệm là trí kiến không si mê dẫn đến nhận biết rõ như thật, không còn sót, trong các pháp đã biết ở ba đời, và phi thế tục. Nguyện trí ấy tương ưng với các tâm, tâm sở vắng lặng, vì tâm ấy thường thực hành.

-Vô ngại giải là: Bốn pháp vô ngại giải như kinh có nói rộng là:

1.     Pháp vô ngại giải: Là tính chất trí kiến không si mê đã dẫn dắt đến giác ngộ như thật đối với tất cả hạt giống trong tất cả pháp có tên gọi khác nhau. Vô ngại giải ấy đã tương ưng với tâm, tâm pháp đẳng trì.

2.     Nghĩa vô ngại giải: Là tính chất trí kiến không si mê đã dẫn dắt đến giác ngộ như thật đối với tất cả các thứ, các pháp với các thứ tướng. Còn lại, như trước đã nêu.

3.     Huấn từ vô ngại giải: Là tri kiến không si mê đã dẫn dắt đến giác ngộ như thật đối với tất cả các thứ, các pháp đã giải thích dạy dỗ. Còn lại, như trước đã nêu.

4.     Biện tài vô ngại giải: Là tri kiến không si mê đã dẫn dắt đến giác ngộ như thật đối với tất cả các thứ, các pháp đều thông đạt. Trí vô si đó tương ưng với tâm, tâm pháp, đẳng trì vì tâm lý ấy đã thường thực hành.

Thần thông là sáu pháp thần thông trong kinh có nói rộng là:

1.     Thần cảnh trí kiến tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê, thị hiện tất cả các thứ lớp tại của thân nghiệp. Trí vô si đó tương ưng với các pháp tâm, tâm sở. Do công hạnh ấy nên đã thực hành nhiều cảnh giới quyết định.

Thiên nhĩ trí kiến tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê đã nghe được tất cả thứ của nghiệp ngữ. Còn lại, như trước đã nêu.

2.     Tâm sai khác trí kiến tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê thấy biết được tất cả các hành động của tâm kẻ khác. Còn lại, như trước đã nêu.

3.     Túc trụ tùy niệm trí kiến tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê, đã thâm nhập vào tất cả việc làm ở đời trước. Còn lại như trước đã nêu.

4.     Tử sinh trí kiến tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê đã thâm nhập vào các việc làm của tất cả hữu tình, còn lại như trước đã nêu.

5.     Lậu tận trí tác chứng thông là: Tính chất trí kiến không si mê đã đưa mình ra khỏi tất cả phiền não, không còn sót, và lậu tận trí ấy tương ưng với tâm, tâm sở, đẳng trì. Do hạnh đó mà thực hành nhiều cảnh giới quyết định.

Lại nữa, tụng rằng:

Các tướng tốt thanh tịnh,
Và các lực vô úy,
Không hộ và niệm trụ,
Dứt hẳn các tập khí.

Luận chép: Các tướng là ba mươi hai tướng đại trượng phu, như trong kinh nói. Một việc khéo an lập đầy đủ tướng đại trượng phu chính do Như lai với tư lương Bồ-đề tròn đầy hoàn hảo và thọ trì hạnh bình đẳng một cách đầy đủ, nên Như lai đã cảm thọ được tướng ấy. Do tướng tốt ấy, nên có người vừa thấy thì liền tin tưởng Đức Như lai là tướng trượng phu với đầy đủ tướng, đầy đủ hình dáng, đầy đủ nét tiêu biểu nhất, như nó được khéo an lập đầy đủ. Cũng thế, các tướng trượng phu khác cũng có những thích ứng cũng thế hoàn toàn, nên biết. Như trong tay nên nói tướng tay, cái tiêu biểu về hình mạo của tay, như vậy cho đến đối với đỉnh đầu v.v… và các chi tiết khác, đều theo tên gọi tương ứng, sẽ nói rộng. Tốt là tám mươi vẻ đẹp, như trong kinh có nói rộng. Như trong địa Bồ-tát nói, nếu thuộc về tướng đầy đủ thì các tốt gọi là tốt. Còn như trong kinh Đại Tuệ Độ nói: Nếu theo sự ưa thích của chúng sinh thì chúng thuộc về tướng cao quý. Hoặc chia chẻ rộng ra các tướng tốt nầy, cũng nên biết.

Thanh tịnh là như kinh nói: bốn tướng tất cả thanh tịnh.

1.     Y chỉ thanh tịnh: Là tất cả tướng thanh tịnh Đoạn và tất cả tướng thanh tịnh Trí do Đức Như lai chứng được. Nó tự tại rốt ráo cùng Vô thượng với việc nương, nắm lấy hay buông xả.

2.     Cảnh giới thanh tịnh: Là Tất cả tướng thanh tịnh Đoạn tất cả tướng thanh tịnh Trí do Đức Như lai chứng được. Nó tự tại rốt ráo Vô thượng với việc biến hóa cảnh giới.

3.     Tâm thanh tịnh: Là tất cả tướng thanh tịnh Đoạn và tất cả tướng thanh tịnh Trí do Đức Như lai chứng được. Nó tự tại rốt ráo Vô thượng với tất cả tướng thế gian, xuất thế gian, các gốc lành được tăng trưởng trong tâm.

4.     Trí thanh tịnh: Tất cả tướng thanh tịnh Đoạn và tất cả tướng thanh tịnh Trí do Đức Như lai chứng được. Nó tự tại rốt ráo Vô thượng với tất cả tướng đã được biết về trí không chấp mắc, không ngăn ngại.

Các lực: Là như trong kinh có nói rộng, Như lai có mười lực là:

1.     Xứ phi xứ trí lực: Là trong tất cả tướng nhân quả có thể như thật hỏi, trả lời với trí tính vô ngại, và trí lực ấy tương ưng với các tâm tâm pháp, đẳng trì.

2.     Tự nghiệp trí lực: Là đối với tất cả tướng, đều có chỗ riêng, nối tiếp nhau, phát sinh nghiệp lực và đã được trí tính vô ngại trong quả báo. Còn lại, như trước đã nêu. 3. Tĩnh lự giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để trí lực: Là trí tính vô ngại đã nhiếp tất cả phương tiện công đức thanh tịnh ở thế gian. Còn lại, như trước đã nêu.

4.     Căn thượng, hạ trí lực: Là trí tính vô ngại giáo hóa hữu tình với căn tính khác nhau, làm chỗ nương cho tất cả tướng công đức xuất thế gian. Còn lại, như trước đã nêu.

5.     Chủng chủng thắng giải trí lực: Là trí tính vô ngại giáo hóa hữu tình với A-thế-da khác nhau, với tất cả tướng. Còn lại, như trước đã nêu.

6.     Chủng chủng giới trí lực: Là trí tính vô ngại giáo hóa tất cả hữu tình với tùy miên khác nhau. Còn lại, như trước đã nêu.

7.     Biến thú hành trí lực: Là trí tính vô ngại đã đưa tất cả tướng thừa khác nhau xuất ly. Còn lại, như trước đã nêu.

8.     Túc trụ tùy niệm trí lực: Là trí tính vô ngại đã đi tới tất cả tướng đời trước với các đường khác nhau. Còn lại, như trước đã nêu.

9.     Tử sinh trí lực là trí tính vô ngại đã đi tới tất cả tướng đời sau với các đường khác nhau. Còn lại, như trước đã nêu.

10.   Lậu tận trí lực: Là trí tính vô ngại đã nêu phương tiện xuất ly khác nhau đối với tất cả và chẳng phải đường. Trí đó tương ưng với tâm, tâm sở, đẳng trì.

Và trong các trí lực ấy, có thể hỏi và ghi nhớ như thật.

Vô úy: Là bốn pháp không sợ hãi, như trong kinh có nói rộng.

1.     Đức Phật nói lời thành thật rằng: Ta là chánh đẳng giác. Nhưng nếu có ai bắt bẻ rằng: Trong giáo pháp nầy, ông không phải là Chánh Đẳng Giác. Trả lời cho câu hỏi ấy, sẽ dùng chánh kiến không ngại, thế nên ta không sợ hãi. Nghĩa là Như lai đã chứng được Nhất thiết chủng trí thanh tịnh mầu nhiệm.

2.     Phật nói lời thành thật rằng: Ta đã dứt hết các lậu. Nếu ai bảo ta chưa dứt hết các lậu, Cũng thế ta sẽ dùng chánh kiến vô duyên để đáp lời họ, nên ta không sợ hãi, đó là Như lai đã chứng được Nhất thiết chủng đoạn thanh tịnh mầu nhiệm.

Hai vô úy nầy dựa vào đức tự lợi.

3.     Đức Phật nói lời thành thật: Ta nói cho các đệ tử biết về pháp chướng ngại, nhiễm ấy là chướng. Nếu ai bảo nhiễm tập không phải chướng, ta sẽ dùng chánh kiến vô duyên để đáp cho họ, nên không sợ hãi, là y theo Như lai giảng nói tất cả pháp đối trị để giáo hóa hữu tình.

4.     Phật nói lời thành thật rằng: Ta vì đệ tử nói con đường ra khỏi sinh tử, tu định ra khỏi sinh tử. Nếu ai bảo dù tu đạo nầy, vẫn không thể ra khỏi, không thể làm hết khổ, không tới được bờ mé sau cùng của khổ, ta sẽ dùng chánh kiến vô duyên mà trả lời họ. Cho nên không sợ hãi, là y theo Như lai nói tất cả pháp đối trị để giáo hóa hữu tình.

Hai pháp vô úy sau là đều nương vào đức lợi tha.

Không giữ gìn: Là như trong kinh có nói rộng, có ba pháp không giữ gìn. Hiện hành thân nghiệp của Như lai là mầu nhiệm thanh tịnh, chẳng phải không thanh tịnh. Hiện hành thân nghiệp có thể phải che giấu, nên không giữ gìn, nghĩa là thân nghiệp của Như lai thanh tịnh mầu nhiệm ở các chủng loại, ở các thời gian. Cho nên khi nói pháp giáo hóa hữu tình, Như lai có thể dùng thắng lực mà hàng phục, thâu nhiếp để thâu nhiếp tất cả đồ chúng. Như thân nghiệp không phải giữ gìn, thì ngữ nghiệp, ý nghiệp không cần giữ gìn, nên biết.

Niệm trụ là ba niệm trụ, như trong kinh có nói rộng. Niệm trụ đây là khi nhiếp thọ đồ chúng được giáo hóa, đối với các hành vi khác nhau của ba hạng đồ chúng, Phật an trụ trong ý niệm buông xả cao nhất, không còn tâm thương, ghét giận, là tâm tính bất nhiễm. Dứt trừ hẳn các tập khí là các Đức Như lai đã lìa sinh tử, từ vô thỉ vô lượng, vô số đại kiếp rồi, vì đã chứng tự tánh, nên không còn bị trôi giạt trong vòng luân hồi, vì đã chứng đắc trí đoạn mầu nhiệm thanh tịnh của Như lai.

Lại nữa, tụng rằng:

Không quên mất pháp mầu
Và Như lai đại bi,
Đức bất cộng của Phật,
Tất cả chủng trí diệu.

Luận chép: Không quên mất pháp mầu là đã chứng được tất cả chủng loại, tất cả hữu tình đã được giáo hóa, tất cả việc cần làm đều không lãng phí thời gian vì chứng được trí Đoạn mầu nhiệm thanh tịnh của Như lai.

Như lai đại bi: Là Như lai thương xót chúng sinh bằng bốn thứ nhân duyên, nên gọi là đại bi.

1.   Nương vào nhất thiết chủng thanh tịnh mầu nhiệm, và đã thành tựu chuyển y cần làm.

2.   Trong thời gian dài tu tập mà chứng được.

3.   Được trí thanh tịnh mầu nhiệm dẫn dắt tu tập.

4.   Duyên theo cảnh giới của tất cả tướng khổ một cách sâu xa vững chắc.

Pháp bất cộng của đức Phật: Là như trong kinh nói, có mười tám pháp bất cộng của Phật, vì nó vượt qua tất cả Thanh văn và Độc giác. Mười tám pháp bất cộng của Phật là:

1.     Như lai không có hành động nào lầm lẫn, nghĩa là không, chẳng nhiễm ô, nhầm lẫn sai phạm.

2.     Không có lối nói vội vã, thô tháo: Nghĩa là không, chẳng có nhiễm ô cười nói thô tháo.

3.     Không quên mất chánh niệm: Nghĩa là không, chẳng có nhiễm ô đối với việc làm, nói lâu dài vẫn không chạy theo niệm tưởng quấy.

4.     Tâm thường yên định: Đối với các oai nghi đi đứng đều giữ ý trong định, thường tùy chuyển.

Không có các tưởng: Nghĩa là ngay trong trôi lăn vẫn lắng lặng chứng được trí không phân biệt, không sai khác.

5.     Không lựa chọn rồi buông xả: Nghĩa là rốt ráo không buông xả việc cứu độ hữu tình.

6.     Dục không lui bước: Nghĩa là làm sạch hết chướng sở tri, như ham muốn đó không lui sụt Cũng thế.

7.     Chánh cần không lui sụt.

8.     Chánh niệm không lui sụt.

9.     Chánh định không lui sụt.

10.   Tuệ không lui sụt.

11.   Giải thoát, giải thoát tri kiến không lui bước.

12.   Trí vô ngại, không vướng mắc đối với đời quá khứ: Là vừa tác ý là biết tất cả đúng như việc đã xảy ra ở quá khứ như vậy.

13.   Đối với chuyện ở vị lai cũng biết.

14.   Đối với hiện tại thì, trí vô ngại không chấp trước nên biết như vậy.

15.   Tất cả thân nghiệp của Như lai đều do trí tuệ dẫn đầu và luôn làm theo trí tuệ, nghĩa là do trí tuệ phát sinh, thọ nhận các phương tiện tốt trong các thời gian. Như thân nghiệp cũng thế.

16.   Ngữ nghiệp.

17.   Ý nghiệp, nên biết cũng vậy.

Tất cả chủng diệu trí: Là chứng được trí Đoạn thanh tịnh tột cùng của Như lai, là đối với hai pháp nhiễm, tịnh, với những tướng khác nhau của chúng, trí tính vô ngại, nó tương ưng với các tâm, tâm pháp, đẳng trì.

Lại nữa, Như lai an trụ trong cảnh giới vô lậu, làm tất cả công việc cho loài hữu tình nên trong đời Phật, Như lai đã hiện thân nói pháp ở mười phương cõi nước, những gì tâm đã làm, đã giảng nói pháp, thành Đẳng Chánh Giác, xoay bánh xe pháp mầu nhiệm, nhập trí tính vắng lặng vô ngại, và trí tính ấy tương ưng với tâm, tâm pháp, định. Đó cũng gọi là Nhất thiết chủng diệu trí.

Lại nữa, tướng tốt và công đức của Phật thì kinh đã giải thích, ý nghĩa đã lược chỉ bày. Nếu phân tích rộng như địa Bồ-tát, nên biết đã nói riêng cũng thế. Chín việc phân biệt chung, nay sẽ nói, tụng rằng:

Phải biết chín việc trước,
Đầu là, hai chỗ nương.
Kế hai, sau, sáu thứ,
Thuộc tạp nhiễm, thanh tịnh,
Nhiễm nương vì khác nhau,
Là chỗ duyên thanh tịnh,
Vì tâm không lưu tán,
Vì phương tiện chính tu.
Vì ngôi vị khác nhau,
Vì việc phải mở lời
Vì công đức, quả vị,
Số thứ lớp chỉ vậy.

Luận chép: Trong chín việc trước, tất cả việc đầu, là hai pháp nương: Một là nương vào tạp nhiễm, hai là nương vào thanh tịnh. Các pháp tạp nhiễm thuộc về hai việc kế sau: một là do công việc của cảnh giới, hai là do việc tạp nhiễm. Sáu việc sau thuộc về thanh tịnh.

1. Do việc chân đế.

2. Do việc nương.

3. Do việc phần giác.

4. Do việc chúng sinh.

5. Do việc quả báo.

6. Do việc công đức.

Do việc nương tạp nhiễm trong tạp nhiễm, thuộc về hai việc, vì tạp nhiễm khác nhau. Do cảnh giới thanh tịnh trong thanh tịnh, thuộc về sáu thứ công việc, vì đối với cảnh giới, tâm không phân tán. Do tâm không phân tán nên sử dụng phương tiện chân chính đối với sở duyên. Phương tiện chân chính là vị trí khác nhau và nhân của lời nói.

Kết quả của phương tiện chân chính và công đức của nó, trong đó có vị trí khác nhau và nhân của lời nói. Lập ra hai việc nầy là việc của chúng sinh, nên biết.

Vì có nhân của lời nói nên nói dễ dàng, vì là thuận theo thế gian, mục đích làm cho chúng sinh hết sợ hãi, khiến họ tin tưởng, biết công đức cũng như lỗi xấu của mình, mà mình và người đều thành tựu. Bởi chín công việc đó mới có quyết định và quyết định theo thứ lớp, nên biết là muốn so lường. Chín việc cũng thế, nên được nói rộng ra.

Tụng rằng:

Muốn nghĩ ngợi vô lượng
Các hỏi đáp khác nhau,
Do lời nói Chư Phật,
Thuộc về sự và tưởng.

Luận chép: Chín việc như trên, phải suy nghĩ với vô lượng hỏi đáp khác nhau. Vì hai việc thuộc về nên có thể suy lường. Việc thứ nhất gom vào tất cả lời Phật nói, việc thứ hai thuộc về tưởng tất cả lời Phật nói. Trong ấy, việc thứ nhất thuộc về tất cả lời Phật nói, là do ba thứ kinh, nên biết. Một là do tăng mười kinh, hai là do kinh nói nghĩa rộng, ba là kinh tập hợp những điều lạ. Thuộc về tưởng tất cả lời Phật nói là do bốn thứ Ôn-đà-namgià-tha. Là bốn thứ nào?

Tụng rằng:

Câu mê lầm, hý luận
Trụ chân thật tịnh mầu,
Đạo lý, tính vắng lặng,
Giả lập bày, hiện quán,
Phương sở vị, phân biệt,
Tạo nắm giữ, thêm, bớt,
Thầm nói trên chỗ giác,
Xa lìa chuyển thâu nhiếp,
Chọn lựa và hiện hành,
Thùy miên và quyến thuộc
Các tướng nhiếp tương ưng.
Nói nhậm trì thứ lớp,
Du-già cảnh làm ra,
Xa-ma-tha và quán
Các tác ý dạy trao
Đức Bồ-đề Thánh giáo.

Luận chép: Cú là chỉ sáu xứ với vô lượng cảnh giới, nơi chốn, thời gian. Ba cõi là: cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Cõi lại có ba: Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới và Đại thiên thế giới. Lại có bốn chúng là: Tại gia, xuất gia, Ô-ba-sách-ca, phi nhân.

Lại có ba cảm thọ là: khổ, vui, không khổ, không vui. Lại có ba đời là: quá khứ, hiện tại, vị lai. Lại có tam bảo là Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo. Lại có ba pháp là: thiện, bất thiện, vô ký. Lại có ba thứ tạp nhiễm là: phiền não, tạp nhiễm và nghiệp tạp nhiễm, đời sống tạp nhiễm. Lại có bốn Thánh đế là: khổ, tập, diệt, đạo. Lại có chín định thứ lớp là: Sơ tĩnh lự cho đến định Diệt thọ tưởng. Lại có ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần là: niệm trụ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác chi, đạo chi. Lại có bốn thứ quả Sa-môn là: quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất Hoàn, quả A-la-hán tối thắng. Lại có nhiều công đức tối thắng là vô lượng giải thoát, thắng xứ, biến xứ, nguyện trí vô tránh, vô ngại biện, sáu thần thông. Lại theo năm pháp rộng có: tướng, danh, phân biệt, chân như, chánh trí. Lại có hai thứ tính vô ngã là: chúng sinh tính không và pháp tính không. Lại có hành động xa lìa hai bên là: Xa lìa bên tăng ích và xa lìa bên tổn giảm. Lại có bốn thứ chân thật: Một: là thế gian đã thành lập; Hai: là đạo lý đã thành lập; Ba: là nơi hoạt động của chướng phiền não và của tịnh trí; Bốn: là nơi hoạt động của chướng sở tri và của tịnh trí.

Lại có bốn thứ tầm tứ là danh tầm tứ, sự tầm tứ, tự tánh giả lập tầm tứ, sai khác giả lập tầm tứ.

Lại có bốn thứ trí như thật biến là: Trí như thật biến được dẫn với danh tầm tứ, trí như thật biến được dẫn bởi sự tầm tứ, trí như thật biến được dẫn bởi tự tánh giả lập tầm tứ. Trí Như thật biến được dẫn bởi sai khác giả lập tầm tứ.

Lại có ba thứ lớp tánh là: Biến kế sở chấp tự tánh, y tha khởi tự tánh và viên thành thật tự tánh.

Lại có ba thứ tánh vô tự tính là: tính tướng vô tự tính, tính sinh vô tự tính và tính thắng nghĩa vô tự tính.

Lại có năm tướng đại Bồ-đề là: Do tự tánh, do cộng dụng, do phương tiện do chuyển và do hoàn. Lại có năm thứ Đại thừa là: Một là hạt giống; hai là hướng nhập; ba là thứ lớp; bốn là chánh chuyển; năm là chánh chuyển quá. Nghĩa là mới phát tâm phải khởi tâm thương xót lớn đối với tất cả hữu tình, do Ba-la-mật, do thâu nhiếp sự, do thành thục nối tiếp ở mình và người. Lại có năm thứ vô lượng tưởng: Một là vô lượng tưởng hữu tình giới; hai là vô lượng tưởng thế giới; ba là vô lượng tưởng pháp giới; bốn là vô lượng tưởng cảnh giới được điều phục và năm là vô lượng tưởng phương tiện giới được điều phục. Lại có tùy ý đạt đến nghĩa chân thật, nghĩa là đối với tất cả pháp vô lượng, qua đó trí nầy đạt tới chân như. Lại có oai đức, tín hiểu không thể nghĩ bàn. Lại có trí không bị chướng ngại ngăn che. Lại có ba mươi hai tướng đại trượng phu và ám mươi vẻ đẹp tùy hình. Lại có bốn thứ tất cả tướng thanh tịnh.

Mười lực, bốn pháp không sợ hãi, ba niệm trụ, ba thứ không phòng hộ, đại bi, pháp không quên mất, dứt trừ hẳn tập khí, Nhất thiết chủng diệu trí, như đã nói trên, lược chỉ có hai thứ là:

1.  Câu giải thích trong Thanh văn thừa.

2.  Câu giải thích trong Đại thừa. Mê hoặc là bốn thứ trái ngược là:

1. Đối với pháp vô thường mà chấp là thường.

2. Đối với cảnh đau khổ mà chấp là vui.

3. Đối với pháp bất tịnh mà chấp là tịnh.

4. Đối với pháp vô ngã mà chấp là có ngã.

Hý luận là các phiền não và phiền não tạp nhiễm. Các uẩn trụ là bốn thức trụ và bảy thức trụ.

Chân thật là chân như và bốn Thánh đế.

Tịnh là ba tánh thanh tịnh: Một là tánh tự thể thanh tịnh, hai là tánh cảnh giới thanh tịnh và ba là tánh giai vị thanh tịnh.

Diệu là lập ra Tam bảo nơi thắng xứ, nên gọi là Diệu. Vắng lặng là từ lúc thực hiện pháp lành cho đến tất cả phần pháp Bồ-đề và quả sở chứng, đều gọi là vắng lặng.

Tánh là các pháp tướng là cộng tướng hay tự tướng, hay tướng giả lập, hay nhân tướng, hay quả tướng, đều gọi là tính.

Đạo lý là pháp duyên khởi và bốn đạo lý.

Giả lập bày là chỉ giả lập chúng sinh, và chỉ giả lập tướng.

Các pháp hiện quán là sáu thứ hiện quán, như trong phẩm Thành Hiện Quán sẽ nói.

Nơi chốn là sắc uẩn. Vị là thọ uẩn. Phân biệt là tưởng uẩn. Tạo tác là hành uẩn, chấp giữ là thức uẩn.

Tăng (thêm): ở đây nên biết, có hai thứ: Là thêm phiền não và thêm nghiệp. Như pháp tăng giảm cũng có hai thứ là: phiền não giảm và nghiệp giảm.

Ám (tối): Tối là vô minh. Nghi lời nói, nghĩa là mười hai phần ngôn ngữ ở các cõi, gọi là ngữ (lời nói).

Đã giác ngộ là các pháp, nghĩa đã nói, gọi là đã giác ngộ.

Thượng là quả Sa-môn. Xa lìa có năm thứ: Một là xa lìa hành vi ác; hai là xa lìa dâm dục; ba là xa lìa các thứ đồ đạc; bốn là xa lìa nơi nhóm họp; năm là xa lìa phiền não.

Chuyển là ba cõi và năm đường.

Chứa giữ: Là luyến tiếc quá khứ, hy vọng vào vị lai và ham mê hiện tại. Chọn lựa là một hành. Thuận với câu trước, câu sau. Sự cú và vô sự cú, sắc pháp, phi sắc pháp, có thấy, không thấy, có đối, không đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, có tranh cãi, không tranh cãi, có đắm say vị, không đắm say vị, theo đam mê, theo ra khỏi, thế gian, xuất thế gian, nhiếp thuộc không nhiếp thuộc, trong ngoài, thô mịn, hơn kém, xa gần, có sở duyên, không có sở duyên, tương ưng không tương ưng, có hành động không hành động, có nương không nương, nhân phi nhân, quả phi quả, dị thục, phi dị thục, có nhân không nhân, có quả không quả, có dị thục, không dị thục, có chấp lấy, không chấp lấy. Do bốn đại làm ra, không do bốn đại làm ra, đồng phần và kia đồng phần, có trên không trên, quá khứ, vi lai, hiện tại, thiện, bất thiện, vô ký, trói buộc ở cõi Dục, trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, Hữu học, Vô học, Phi học, phi Vô học, kiến đoạn, vô đoạn, tu đoạn.

Lại có bốn duyên là: Duyên nhân, duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên và duyên tăng thượng. Lại có bốn nương là: Một là nương pháp không nương chúng sinh; hai là nương nghĩa không nương văn; ba là nương kinh Liễu nghĩa, không nương kinh không liễu nghĩa và bốn là không nương thức mà nương trí.

Lại có bốn thứ vô lượng bốn niệm trụ, bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy biến giác chi, tám Thánh đạo chi, bốn chủng hạnh, tứ pháp tích. Xama-tha, Tỳ-bát-xá-na tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng thượng tuệ. Giải thoát, thắng xứ, biến xứ, v.v…

Hiện hành là: Phiền não trói buộc. Thùy miên: Là phiền não thùy miên. Tương thuộc: Là sáu xứ, cùng một chỗ nương lệ thuộc nhau, nên biết. Lại có các pháp là pháp có thể dẫn dắt thâu nhiếp. Các pháp ấy cũng sẽ lần lượt bị lệ thuộc nhau, nên biết.

Lại có các căn, cảnh, năng thủ, sở thủ lệ thuộc nhau, nên biết.

Những lệ thuộc nhau ấy có mười một thứ:

1.   Tùy thuộc lẫn nhau.

2.   Tùy thuộc cảnh giới.

3.   Tùy thuộc tướng mạo.

4.   Tùy thuộc chủng loại.

5.   Tùy thuộc phần vị.

6.   Tùy thuộc do không lìa.

7.   Tùy thuộc thời gian.

8.   Tùy thuộc phương hướng.

9.   Tùy thuộc một phần.

10. Tùy thuộc toàn phần.

11. Tùy thuộc nghĩa cao quý.

Tương ưng có năm thứ là:

1. Tương ưng với tính khác, không phải tự tính.

2 Trong tương ưng với tính khác ấy, tương ưng với pháp không trái nhau, không phải pháp trái nhau.

3.     Trong tương ưng không trái nhau ấy là tương ưng với phẩm hạ, trung, thượng tương tự, chứ chẳng phải không tương tự.

4.     Trong tương ưng với tương tự phẩm hạ, trung, thượng ấy là cùng lúc tương ưng, chứ chẳng phải không cùng lúc.

5.     Trong tương ưng cùng lúc ấy, là cùng cõi tương ưng, chứ chẳng phải không cùng cõi tương ưng.

Nói: Là bốn thứ nói: Một là thấy nói; hai là nghe nói; ba là cảm xúc nghe nói; bốn là hiểu biết nghe nói.

Nhậm trì là: Bốn thứ ăn: Một là ăn bằng nắm, vốc; hai là ăn bằng xúc chạm; ba là ăn bằng ý nghĩ; bốn là ăn bằng thức.

Thứ lớp là: Có năm thứ lớp: Một là thứ lớp trôi lăn; hai là thứ lớp xong việc làm; ba là thứ lớp khi nói; bốn là thứ lớp sinh; năm là thứ lớp hiện quán.

Việc đã làm là: Có tám thứ việc đã làm là: Một là dứt trừ chỗ nương; hai là chuyển chỗ nương; ba là hiểu khắp sở duyên; bốn là vui mừng với sở duyên; năm là chứng quả; sáu là lìa dục; bảy là chuyển căn; tám là phát khởi thần thông.

Cảnh là bốn thứ sở duyên: Một là sở duyên khắp nơi; hai là khiến làm sạch sở duyên; ba là sở duyên khéo léo; bốn là khiến làm sạch phiền não ở sở duyên.

Du-già là có bốn hoặc chín thứ. Bốn thứ là: Tín, dục, chánh cần, phương tiện. Chín thứ là:

1 Đạo Thế gian,

2. Đạo Xuất thế gian,

3. Đạo Phương tiện,

4. Đạo Vô gián,

5. Đạo Giải thoát,

6. Đạo Thăng tiến,

7. Đạo Hạ phẩm,

8. Đạo Trung phẩm,

9. Đạo Thượng phẩm.

Xa-ma-tha là chín thứ tâm trụ.

Quán: Là có ba hoặc bốn thứ quán, tưởng, hoặc sáu thứ quán nơi đối tượng duyên khác nhau:

Ba sự quán là: Quán hữu tướng, quán tìm cầu, quán quán xét.

Bốn thứ là:

1. Lựa chọn các pháp quán.

2. Lựa chọn pháp thật đơn giản mà quán.

3. So lường khắp mà quán.

4. Xem xét cùng khắp mà quán.

Sáu chỗ khác nhau ở đối tượng duyên của quán là:

1. Quán về ý nghĩa sở duyên.

2. Quán về sự đối tượng.

3. Quán về tướng của sở duyên.

4. Quán về phần của sở duyên.

5. Quán về thời của sở duyên.

6. Quán về đạo lý của sở duyên.

Các thứ tác ý là: Có bảy thứ tác ý:

1 Tác ý Liễu tướng.

2. Tác ý Thắng giải.

3. Tác ý xa lìa.

4. Tác ý thâu nhiếp vui thích.

5. Tác ý quán sát.

6. Tác ý Phương tiện rốt ráo.

7. Tác ý Kết quả của phương tiện rốt ráo.

Giáo thọ là có năm loại:

1. Giáo thọ dạy bảo.

2. Giáo thọ Chứng minh.

3. Giáo thọ Tùy thứ lớp.

4. Giáo thọ Không điên đảo.

5. Giáo thọ Thần biến.

Đức là như trước đã nói tức các pháp công đức của vô lượng giải thoát v.v...

Bồ-đề có ba thứ: Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Độc giác và Bồ-đề chánh đẳng vô thượng.

Thánh giáo là truyền trao tam qui, chế lập học xứ.

Lập bày thính giả: Là lập ra các bộ luận gốc, luận giới, luận sinh về cõi trời. Quở trách về sự ham muốn yêu mến cõi Dục, chỉ ra lỗi của nó. Nói rõ pháp tạp nhiễm và thanh tịnh, dẫn dắt ra khỏi và khen ngợi công đức, nói rộng về tất cả các phần pháp thanh tịnh.

Lại nữa, Tụng rằng:

Nếu muốn tu hành chánh
Công đức biến tri thảy,
Do mười thứ pháp hành,
Và sáu thứ lý thú.

Luận chép: Như các hạnh là đối với chín việc trước, muốn tu hành chân chính, hiểu biết cùng khắp, dứt hết tạo tác, chứng ngộ các công đức tu tập, v.v… do mười pháp hành và sáu lý thú nên biết tu học. Mười pháp hành như trước đã nêu. Sáu thứ lý thú gồm: Một là lý thú chân nghĩa; hai là lý thú chứng đắc; ba là lý thú dạy bảo dìu dắt; bốn là lý thú xa lìa hai bên; năm là lý thú bất tư nghì; sáu là lý thú ý lạc lý thú.


 

QUYỂN 5

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA THANH TỊNH (Phần 1)

Đã nói Cũng thế rồi, nay sẽ nói về chín nghĩa của sự thanh tịnh.

Tụng rằng:

Thắng luận trong các luận,
Cũng khéo nhập Du-già,
Nghĩa thanh tịnh nên biết,
Do đủ bốn đức tịnh.

Luận chép: Luận Hiển Dương Thánh giáo nầy là bộ luận vượt hơn hết trong các bộ luận. Các bộ luận ấy, có thể tóm lược thành bốn loại:

1.     Luận Tượng, chánh pháp: Là nương vào Thánh giáo mà làm trái ngược pháp tướng.

2.     Luận Ngoại y trị: Là phương thuốc bên ngoài.

3.     Luận Cật tránh: Là các ngoại đạo suy luận luống dối.

4.     Luận Kiểu cuống: Là các chú thuật xấu ác của Bà-la-môn.

Vì sao cho rằng bộ Hiển Dương nầy có khả năng vượt hơn các bộ luận khác?

-Vì bộ luận nầy, có khả năng làm rõ tính chất không trái ngược của các pháp tướng. Rốt ráo nó có khả năng trị tâm bịnh bên trong, có khả năng đối trị các chú thuật xấu ác ở luận cật tránh của Bà-la-môn.

Chỉ trong bộ luận nầy mới có những khả năng ấy còn bốn bộ luận kia không thể có được, nên nói là tối thắng, vì nó có bốn thứ lập luận là: 1. Phi hai bên luận.

2. Phi nhất hướng luận.

3. Nhất thiết thủ đoạn biến tri luận.

4. Lập chánh tướng luận.

-     Phi nhị biện luận: Là những lập luận như: chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải khác, chẳng phải không khác, chẳng phải ngã, chẳng phải không có ngã, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn.

-     Phi nhất hướng luận: Là những lập luận như không phải các dục lạc đều phải tu tập và gần gũi, nó dẫn ra cái vô nghĩa lợi của dục lạc. Không phải tất cả dục lạc đều không tu tập và gần gũi, nó dẫn đến lợi ích có ý nghĩa. Như vui, khổ cũng vậy.

-     Nhất thiết thủ đoạn biến tri luận: Là luận về sự hiểu biết và dứt trừ hết những dục thủ, kiến thủ, giới cấm thủ, ngã ngữ thủ.

-     Lập chánh tướng luận: Là các lập luận như: Nêu ra tất cả pháp một cách thuận hợp về tự tướng, cộng tướng, nhân tướng, quả tướng của nó.

Cũng khéo chứng nhập Du-già là: Có bốn thứ Dugià là Tín, Dục, Chánh cần và Phương tiện. Bộ luận nầy rất khéo thuận theo các pháp ấy, nên gọi là khéo chứng nhập Du-già.

Nghĩa thanh tịnh nên biết: Là khéo lập ra để làm rõ nét của đức bất cộng, tên gọi là thứ hai.

Do đủ bốn đức thanh tịnh: Là muốn nói rõ tên gọi nầy như nghĩa đã lập ra. Luận ấy như thế nào? Tức có đủ bốn đức thanh tịnh.

Tụng rằng:

Thâu nhiếp tất cả nghĩa,
Ngoại đạo không thể phá.
Dễ vào nên vào rồi,
Vì hành không hoại mất.

Luận chép: Thâu nhiếp tất cả nghĩa là vì tất cả nghĩa đều bao gồm trong luận nầy. Tức là chín thứ nghĩa hay mười thứ nghĩa, hoặc năm thứ nghĩa, hoặc bốn thứ nghĩa, hoặc ba thứ nghĩa. Chín thứ nghĩa như đã nói trong phẩm thâu nhiếp sự.

Mười thứ nghĩa gồm:

1.     Nghĩa tận sở tri (đối tượng nhận biết).

2.     Nghĩa như sở tri.

3.     Nghĩa năng thủ (chủ thể chấp lấy).

4.     Nghĩa sở thủ (đối tượng bị chấp lấy)

5.     Nghĩa sở y trụ (đối tượng bị nương dựa)

6.   Nghĩa được thọ dụng.

7.   Nghĩa điên đảo.

8.   Nghĩa không điên đảo.

9.   Nghĩa tạp nhiễm.

10. Nghĩa thanh tịnh.

-     Trong đây, Nghĩa tận sở tri: Là biết hết ý nghĩa cùng tận về pháp tạp nhiễm hay thanh tịnh với tất cả các thứ khác nhau cuối cùng của chúng, như năm uẩn, sáu nội xứ v.v…

-     Nghĩa như sở tri là: Biết nghĩa chân thật về chân như thật tính trong các pháp tạp nhiễm hay thanh tịnh. Lại có bảy thứ là từ chân như trôi lăn cho đến chân như chánh hạnh.

-     Nghĩa năng thủ (chủ thể chấp lấy) là năm nội sắc xứ, tâm, ý thức và các tâm pháp.

-     Nghĩa sở thủ (đối tượng bị chấp lấy) là sáu xứ bên ngoài. Lại nghĩa năng thủ cũng là sở thủ.

-     Nghĩa sở y trụ: Là thế giới bên ngoài nương vào nơi an trụ nầy mới có được thế giới hữu tình. Như cả trăm ngàn làng xóm ruộng đồng nói rộng như vậy, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới, cho đến trăm ngàn, vô số thế giới, vô lượng vô số thế giới trong mười phương nhiều như số cực vi trần.

-     Nghĩa đã được thọ dụng: Là thâu nhiếp các thứ đồ đạc vật dụng.

-     Nghĩa điên đảo: Là trong nghĩa năng thủ, có kiến chấp điên đảo, tâm điên đảo như vô thường tưởng là thường, Cũng thế cho đến vô ngã mà cho là ngã.

-     Nghĩa không điên đảo: Là để đối trị lại điên đảo như vừa nói.

-     Nghĩa tạp nhiễm là có ba thứ: phiền não tạp nhiễm, nghiệp tạp nhiễm và sinh tạp nhiễm trong ba cõi.

Nghĩa thanh tịnh: Là đã chứng ngộ, xa lìa ba thứ tạp nhiễm trói buộc, và đã tu tập tất cả pháp phần Bồ-đề. Nên biết mười thứ nghĩa trên đây bao trùm tất cả nghĩa, nên biết.

-     Năm thứ nghĩa gồm:

1. Sở biến tri sự.

2. Sở biến tri nghĩa.

3. Ứng tri biến tri.

4. Đắc biến tri quả.

5. Thọ dụng biến tri quả.

-     Sở biến tri sự: Tất cả việc phải biết như về các uẩn, nội xứ, ngoại xứ các việc Cũng thế.

-     Sở biến tri nghĩa: Là hiểu biết cùng tận tất cả chủng loại về thế tục hoặc thắng nghĩa, hoặc công đức, hoặc lỗi, hoặc các duyên, hoặc ba đời, hoặc tướng sinh trụ hoại, hoặc như bệnh, hoặc khổ, hoặc tập, hoặc chân như thật tế, pháp tánh, hoặc rộng hay lược, hoặc một mặt ghi nhớ hay phân biệt mà ghi nhớ, hoặc ghi nhớ và hỏi lại, hoặc lưu lại sự ghi nhớ, hoặc ẩn, hoặc hiện, các nghĩa biết khắp như vậy, nên biết.

-     Biến tri: Là có thể chấp lấy hai cảnh Bồ-đề phần pháp ở trước.

-     Đắc biến tri quả: Là được quả biến tri, là dứt trừ hẳn các tham dục, giận dữ, ngu si không còn sót tham sân si nào để dứt trừ.

Bốn quả Sa-môn: Là chứng ngộ đầy đủ các công đức thế gian và xuất thế gian cộng và bất cộng của các Thanh văn, Độc giác, Như lai.

-     Thọ dụng biến tri quả: Là chứng ngộ được các pháp, lấy trí tuệ giải thoát chỉ bày giảng nói cho các người hiểu rõ. Năm thứ nghĩa nầy cũng gồm nhiếp tất cả nghĩa, nên biết.

Bốn thứ nghĩa là:

1. Nghĩa tâm sở chấp.

2. Nghĩa lãnh nạp.

3. Nghĩa rõ biết.

4. Nghĩa tạp nhiễm thanh tịnh.

Bốn nghĩa nầy cũng gồm nhiếp tất cả nghĩa, nên biết. Ba thứ nghĩa là: Nghĩa Văn, nghĩa nghĩa, nghĩa giới. Nghĩa Văn là danh thân v.v... Nghĩa nghĩa là mười thứ nghĩa, nên biết: Một là tướng chân thật; Hai là tướng biến tri; Ba là tướng dứt hẳn; Bốn là tướng tác chứng; Năm là tướng tu tập; Sáu là các tướng sai khác của tướng chân thật; Bảy là tướng thuộc về tướng sở y, năng y (chủ thể nương); Tám là pháp tướng có thể gây ra chướng ngại cho biến tri; Chín là tướng pháp có thể thuận theo cho biến tri; Mười là tướng công đức, lỗi đối với biến tri và không biến tri.

-Nghĩa Giới: Nghĩa là năm thứ giới:

1. Khí thế giới.

2. Thế giới hữu tình.

3. Pháp giới. giới bị điều phục.

4. Giới phương tiện bị điều phục.

Ba thứ nghĩa nầy cũng gồm nhiếp tất cả nghĩa, nên biết.

-Ngoại đạo không thể phá hoại: Là các nghĩa vừa nói trên, ngoại đạo không thể phá hoại được. Vì là lý luận của chánh đạo nên các ngoại đạo không thể khống chế khuất phục được.

Tất cả ngoại đạo, lược có năm hạng là:

1. Ngoại đạo nói về ngã.

2. Ngoại đạo nói về thường.

3. Ngoại đạo nói về đoạn.

4. Ngoại đạo nói về hiện pháp Niết-bàn.

5. Ngoại đạo nói về vô nhân.

-     Dễ chứng nhập là vì văn trong luận nầy đầy đủ, sáng tỏ, nghĩa dễ hiểu, không phải như văn luận chú thuật xấu ác của Bà-la-môn, thiếu sót và đầy bí ẩn nên khó hiểu thấu nghĩa.

-     Hiểu rồi thực hành thì ý nghĩa của luận không mất mát, hư hoại: Do trong luận nầy nghĩa đầy đủ, đúng đắn. Nếu đã hội nhập như thuyết tu hành thì tự nghĩa không mất. Chẳng phải như ngoại đạo tà luận, cho dù họ tự hiểu đi nữa, nhưng về thực hành đúng như lời trong ấy thì cũng đưa đến nghĩa trống rỗng. Luận nầy thâu nhiếp nghĩa thanh tịnh như vậy, nên nó không thể bị ai phá hoại nghĩa thanh tịnh của nó được. Thanh tịnh dễ hiểu và làm thì được thanh tịnh, nên gọi là nghĩa thanh tịnh, nên biết. Nay trong luận nầy, làm rõ những pháp gì mà Đức Bạc-già-phạm đã nói?

Tụng rằng:

Chư Phật nói pháp mầu,
Chính dựa vào hai đế,
Một là Thế tục đế,
Hai là Thắng nghĩa đế.

Luận chép: Tướng của hai đế Thế tục và Thắng nghĩa thì như trước đã nêu. Lại nữa, Tụng rằng:

Trước, nói dụng ngã pháp,
Vì tùy khác, nên nói,
Bảy thứ và bốn thứ,
Chân như gọi thắng nghĩa.

Luận chép: Trước là theo thế tục đế mà nói ngã, nói pháp và tác dụng của chúng.

-Nói ngã là đề cập đến hữu tình thọ mạng sự sống Bổ-đặc-già-la, người, trời, nam, nữ, bạn Phật, bạn pháp, Cũng thế v.v...

Nói pháp là nói sắc, thọ Cũng thế, v.v…

Nói tác dụng là nói có thể thấy, có thể nghe, có thể sinh, có thể diệt, cũng thế… Nên biết, đó là thế tục đế. Ngã, pháp ấy cho dù không có thật, nhưng vì theo thế tục nên nói là có.

Hỏi: Nếu Thế tục đế không phải thắng nghĩa nên là hữu vi, thì dựa vào nghĩa nào để nói về nó?

Đáp: Vì thuận theo vào cái khác mà nói, nghĩa là vì thuận theo thắng nghĩa đế nên nói thế tục đế.

Hỏi: Pháp nào là thắng nghĩa đế?

Đáp: Có bảy thứ và bốn thứ chân như được gọi là thắng nghĩa, như có nói trong phẩm Thâu Nhiếp Sự.

Cũng thế, là đã nói lược về hai đế. Trong đó, Đức Như lai có nói rộng. Tụng rằng:

Lập ra nghĩa tự tánh,
Số thứ lớp khéo léo,
Tưởng khác nhau nên biết,
Bày nghĩa thế tục uẩn.

Luận chép: Tự tánh là có chuyển biến, có tan rã và nhận lãnh rõ.

Đó là tự tính các uẩn.

Nghĩa có nghĩa là nhóm họp, chứa nhóm, là nghĩa uẩn. Có bốn thứ nghĩa nhóm họp, sẽ nói trong phẩm Thành Thiện Xảo.

Lập ra là đối với sắc uẩn có bốn thứ lập ra: Lập ra tướng, lập ra sinh, lập ra tổn giảm và lập ra sai khác.

-     Lập ra Tướng: Là tướng của sắc uẩn, lược có năm thứ là: Tự tướng, cộng tướng, tướng thuộc về tướng sở y, năng y, tướng thọ dụng và tướng nghiệp.

-     Tự tướng: Như cứng chắc, v.v... là tướng đất v.v... đều thanh tịnh riêng là tướng của nhãn, v.v…

-     Cộng tướng: Như tướng hoại rã của tất cả sắc.

Tướng thuộc về tướng sở y, năng y: Như đại chủng là sở y (bị nương dựa), sắc được tạo, v.v... là năng y (chủ thể nương dựa).

-     Tướng thọ dụng là: Nội xứ thọ dụng với sức thêm lên đều được phát sinh từ cảnh giới sắc bên ngoài khác nhau. Hoặc có nhóm sắc chỉ có chất cứng, sanh, hoặc chỉ có ẩm ướt, hoặc chỉ có chất ấm, hoặc chỉ có sức động đậy, hoặc có đời sống phức tạp nữa, vì thuận theo thọ dụng của nội xứ.

-     Tướng nghiệp là: Như đại chủng đất v.v... có các tướng là nương, duy trì, nhiếp thọ, thành thục, lớn lên, cũng thế.

-     Lập ra sinh có năm thứ sinh:

1. Sinh Y chỉ.

2. Sinh hạt giống.

3. Sinh Thế dẫn.

4. Sinh Thuận ích.

5. Sinh Vi tổn.

-     Sinh Y chỉ: Là nương vào đại chủng, tất cả các sắc được tạo phát sinh. Vì vậy, mới nói do bốn đại chủng làm ra. Sắc được tạo thì ở một nơi nào đó, là nghĩa tạo ra.

-     Sinh hạt giống: Là từ hạt giống sinh ra, như roi da cứng, nhưng đôi khi gặp duyên thay đổi nó chảy ra chất ướt. Đôi khi từ chỗ rịn ẩm ướt ấy tụ thành roi da cứng, hoặc từ chỗ gom hơi ấm rồi biến thành hơi ấm nóng. Hoặc gom hơi nóng biến ra lạnh. Hoặc từ chỗ không động đậy biến thành động đậy hay, từ động đậy biến thành bất động. Các sắc tốt, xấu Cũng thế, nên biết, chúng đều lần lượt phát sinh lẫn nhau với nhiều sai khác. Như vậy, nếu chỉ căn cứ vào tướng của chính nó thì các thứ đều không. Nếu nhìn vào hạt giống của chúng thì chúng đều hiện hữu lẫn nhau, thành có. Cho nên từ mỗi vật nhóm họp với tự tướng mà sắc pháp phát sinh với những sai khác cũng thế. Nên biết, sinh hạt giống với tên, loại như vậy.

-     Sinh Thế dẫn: Là sức lớn mạnh của sắc căn bên trong thường hiện bày nối tiếp nên vật bên ngoài mới sinh khởi, như khí thế gian chẳng hạn. Lại, do sức mạnh của nghiệp đời trước dẫn dắt nên các nội xứ sinh như dục lạc trước mắt. Chư thiên và người ở Châu Câu-lô phía Bắc, tất cả đồ dùng của họ thường đều bởi thế lực của nghiệp dẫn mà sinh ra, nên khiến cho trôi lăn, phải biết điều ấy. Hoặc khí thế gian trong con người nầy, cứ nối nhau mãi, nên biết cũng do sức mạnh của nghiệp dẫn dắt mà phát sinh những loại như vậy.

-     Sinh Thuận ích: Là được từ duyên thuận lợi nên sắc pháp phát sinh, bằng cách lần lượt lớn mạnh rồi vượt hẳn lên, như nước đã thấm ướt thì mầm lú ra. Các thứ được phát sinh một cách thuận lợi như vậy. Ngược lại, gọi là sự phát sinh trái ngược, gây ra tổn hại gọi là (sinh vi tổn) nên biết.

-     Lập ra tổn giảm: Là lập ra vật thể hết sức nhỏ, nên biết, là do năm thứ hết sức nhỏ tạo nên là:

1. Do phân tích.

2. Do khác nhau.

3. Do độc nhất.

4. Do giúp đỡ.

5. Do tính chất không còn phân chia được.

-     Do phân tích: Nghĩa là do tuệ phân tích các sắc pháp thô, dần dần chuyển giảm đến rất nhỏ nhiệm, gần với lập ra cực vi, chẳng phải là do thể. Do nhân cũng thế nên nói cực vi không khởi không diệt. Lại cũng chẳng cho là chứa nhóm các cực vi để thành sắc thô.

-     Do khác nhau: Lược có mười lăm thứ cực vi: Cực vi của căn như mắt, v.v... có năm thứ. Cực vi của cảnh như sắc, v.v... có năm thứ. Cực vi của giới như địa, v.v... có bốn thứ. Cực vi của sắc có thật thuộc về pháp xứ có một thứ.

-     Do độc nhất: Là lập ra tự tướng thật hết sức nhỏ.

-     Do giúp đỡ: Là xây dựng bằng cách gom lại nhiều cực vi, vì đối với vị trí của một cực vi như địa, v.v..., có sắc pháp khác cũng cùng một vị trí không tách rời nhau, cho nên lập ra bằng cách gom nhiều cực vi.

-     Do tính chất không còn phân chia được: Là không phải một cực vi còn có phần nhỏ khác nữa, vì không nhóm họp. Nếu cực vi được tu tập thì có thể có nhiều phần. Nếu một cực vi đã hình thành yên ổn thì nơi ấy không thể phân tích để lập một phần nào khác. Cho nên cực vi là không còn phần nhỏ.

Lập ra sai khác: Là có hai mươi sáu thứ sắc:

1.     Sắc lệ thuộc cõi Dục, là đủ hết các sắc.

2.     Sắc lệ thuộc cõi Sắc, trừ hương, vị.

3.     Sắc lệ thuộc ở cõi Vô sắc là sắc đẳng trì tự tại, không phải sắc của nghiệp dị thục.

4.     Sắc Thanh tịnh giới: Là pháp xuất thế tăng thượng đã phát sinh, như sắc giải thoát của tĩnh lự, sắc của Phật, Bồ-tát.

5.     Sắc bên trong: Là sắc của căn và nơi căn trụ vào.

6.     Sắc bên ngoài: Là trừ căn và nơi căn đã trụ vào, còn có sắc, thanh, hương, vị, xúc.

7.     Sắc chỗ dựa: Là năm giác quan như mắt v.v…

8.     Sắc sở duyên: Là năm cảnh giới và sắc thuộc về pháp xứ.

9.     Sắc năng thủ: Là sắc của chỗ nương.

10.   Sắc sở thủ: Là sắc sở duyên.

11.   Sắc chấp thọ: Là sự cảm thọ phát sinh chỗ nương, như các sắc, sắc của căn và nơi căn đã trụ vào, nơi tâm, tâm pháp đã trụ vào. Nghĩa của chấp thọ là cùng một lợi hoặc hại.

12.   Sắc không chấp thọ: Là các sắc, ngoài sắc chấp thọ vừa nêu.

Sắc đồng phần: Là sắc của căn không cùng chuyển với thức, vì cùng với thức đồng cảnh mới chuyển.

13.   Sắc đồng phần kia: Là sắc của căn cùng chuyển với thức. Chúng chỉ chuyển nối tiếp nhau bằng tự loại tương tự.

14.   Sắc có thấy có đối: Là sắc của sắc xứ.

15.   Sắc không thấy có đối: Là chín sắc xứ còn lại.

16.   Sắc không thấy không đối: Là sắc thuộc về pháp xứ.

17.   Sắc thanh tịnh: Là năm xứ bên trong.

18.   Sắc sở thủ thanh tịnh: Là năm xứ bên ngoài.

19.   Sắc sở thủ của ý: Là sắc thuộc về pháp xứ.

20.   Sắc chỗ dựa trụ: Là từ lớp gió cho đến mặt đất.

21.   Sắc che chở, bảo hộ: Là như nhà cửa v.v…

22.   Sắc dụng cụ giúp ích: Là mười thứ dụng cụ giúp ích. Ăn uống, y phục dụng cụ trang điểm, các đồ đạc, vui đùa, đánh trống múa hát, ca vịnh âm nhạc, tràng hoa trang sức, các thứ ánh sáng, nam nữ làm việc.

23.   Sắc là nơi căn nương vào: Là nơi ở của năm thứ sắc căn.

24.   Sắc của căn: Là năm thứ sắc ở căn.

25.   Sắc của cảnh giới đẳng trì: Như đã nói trong phẩm Thâu nhiếp Sự.

Lập ra thọ uẩn có sáu thứ là:

1. Lập ra Sai khác.

2. Lập ra Xuất ly.

3. Lập ra quán sát.

4. Lập ra Sinh.

5. Lập ra Tướng.

6. Lập ra Sư cú.

-     Lập ra Sai khác: hoặc lập ra một thọ, như nói tất cả các cảm thọ đều là khổ. Hoặc lập hai thọ là thân thọ và tâm thọ. Hoặc lập ba thọ: Là cảm thọ vui, khổ, không vui, không khổ. Hoặc lập bốn thọ là sự ràng buộc ở cõi Dục, ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và sự cảm nhận không ràng buộc. Hoặc lập năm thọ là căn vui, căn khổ, căn mừng, căn lo, căn xả. Hoặc lập sáu thọ là mắt tiếp xúc với sắc phát sinh cảm thọ cho đến ý thức tiếp xúc với các pháp phát sinh cảm thọ. Hoặc lập mười tám thọ tức là mười tám ý tiếp cận với hành sáu cảm giác mừng tiếp cận với hành, sáu điều lo tiếp cận với hành, và sáu ý niệm xả tiếp cận với hành. Hoặc lập ba mươi sáu thọ: là sáu cảm giác mừng dựa vào ham mê dục, sáu cảm giác mừng dựa vào xuất ly, như mừng lo và xả cũng vậy. Hoặc lập một trăm lẻ tám thọ nghĩa là ba mươi sáu thọ, mỗi thọ uẩn đều nương vào ba đời. Hoặc mở ra vô lượng thọ. Như từ chỗ cảm thọ ấy phát sinh vô số thọ.

-     Lập ra Xuất ly là Sơ tĩnh lự lìa khỏi căn lo, tĩnh lự thứ hai lìa khỏi căn khổ, tĩnh lự thứ ba lìa khỏi căn mừng, tĩnh lự thứ tư lìa khỏi căn vui. Vô tướng tâm pháp Tamma-địa lìa mình khỏi căn xả thọ.

-     Lập ra quán sát là có tám thứ quan sát đối với thọ. Thế nào là thọ? Thế nào là nguyên nhân của thọ? Thế nào là sự dứt trừ thọ? Thế nào là nguyên nhân hành động dẫn tới thọ? Thế nào là hành động nhắm tới làm tan rã thọ? Giác về vị là gì? Cái gì lầm lỗi của thọ? Cảm thọ xuất ly là gì?

-     Lập ra Sinh là các cảm thọ phát sinh từ mười sáu sự tiếp xúc, mười sáu sự tiếp xúc là:

1.   Mắt tiếp xúc.

2.   Tai tiếp xúc.

3.   Mũi tiếp xúc.

4.   Lưỡi tiếp xúc.

5.   Thân tiếp xúc.

6.   Ý tiếp xúc.

7.   Hữu đối tiếp xúc.

8.   Tăng ngữ tiếp xúc.

9.   Thuận lạc thọ tiếp xúc.

10. Thuận khổ thọ tiếp xúc.

11. Thọ thuận không khổ không vui tiếp xúc.

12. Tiếp xúc ái.

13. Tiếp xúc giận dữ.

14. Tiếp xúc sáng suốt.

15. Tiếp xúc với không sáng suốt.

16. Tiếp xúc chẳng phải minh, chẳng phải vô minh.

-Lập ra Tướng là tám thứ tướng:

1. Tướng dị thục.

2. Tướng không phải dị thục.

3. Tướng có vị mê đắm.

4. Tướng không mê đắm vị.

5. Tướng nương vào đam mê.

6. Tướng nương vào xuất ly.

7. Tướng chuyển động.

8. Tướng an trụ.

-     Tướng dị thục là thức A-lại-da tương ưng với thọ.

-     Tướng chẳng phải dị thục là chuyển thức tương ưng với thọ.

-     Tướng có vị mê đắm là dục vọng trói buộc vào thọ.

-     Tướng ham mê không có vị là sự trói buộc vào cõi Sắc, cõi Vô sắc và không ràng buộc thọ.

-     Tướng nương của mê đắm là dục tham tương ưng với thọ.

-     Tướng nương vào sự xuất ly là: Xuất gia dẫn đến pháp thiện của cõi định, tương ưng với thọ.

-     Tướng động: Là trong kinh lấy gió làm thí dụ để làm rõ về thọ, vì nghĩa an trụ nối tiếp không lâu.

-     Tướng an trụ: Là trong kinh lấy nhà khách làm thí dụ để làm rõ về thọ, vì có ý nghĩa an trụ nối tiếp mãi.

-     Lập ra Sư cú: Là ba mươi sáu sư cú sáu điều mừng nương dựa vào ham mê thèm khát, sáu điều mừng nương vào xuất ly, sáu điều lo dựa vào ham mê thèm khát, sáu điều lo dựa vào xuất ly, sáu điều bỏ dựa vào ham mê thèm khát và sáu điều bỏ dựa vào xuất ly.

Mừng nương vào ham mê thèm khát là gì? Là mắt biết sắc là vui, là mừng, là vừa ý, đáng yêu, từ đó dẫn tới tâm ham muốn nhiễm đắm vào ham muốn đó, hay do điều mình đang có, hoặc theo ý nghĩ trước, nghĩ được điều gì rồi sinh ra mừng. Như vậy, tướng mừng ấy gọi là mừng nương vào ham mê thèm khát.

-     Thế nào là mừng nương vào xuất ly? Là đối với các sắc biết rõ nó là vô thường thay đổi, khổ nên đã lìa bỏ dứt trừ các ham muốn nên tâm hồn vắng lặng. Và đối với tất cả sắc từ trước hay hiện tại đều biết rõ nó là pháp thay đổi, vô thường, khổ, nên sinh vui mừng. Cũng thế tướng mừng đó gọi là mừng nương vào xuất ly.

Cũng thế, đối với tai nhận biết tiếng, mũi biết mùi, lưỡi biết vị, thân biết sự xúc chạm và ý nhận biết các pháp cảm thấy vui mừng, vừa ý, đáng yêu, có thể dẫn đến sinh tâm tham đắm vướng mắc, hoặc do nhận được những gì mà mình hiện có, hoặc theo ý nghĩ trước, nghĩ được thứ gì rồi sinh ra mừng. Cũng thế tướng mừng ấy gọi là mừng nương vào ham mê thèm khát.

Cũng thế là tai đã nhận biết âm thanh cho đến ý đã biết pháp, biết rõ chúng là vô thường, khổ, thay đổi nên đã lìa mình khỏi ham muốn, dứt trừ, nên tâm vắng lặng. Và đối với tất cả pháp từ trước tới giờ đều biết rõ chúng là pháp vô thường, khổ, thay đổi nên sinh vui mừng. Cũng thế, tướng mừng đó gọi là mừng nương vào xuất ly.

-     Thế nào là lo nương vào ham mê thèm khát? Là mắt thấy sắc là đáng mừng, vui cho đến có thể bị vướng vào, hoặc do Vô sở đắc những gì mình hiện có, hoặc theo ý nghĩ trước, nghĩ được điều gì hiện tại không còn, đã mất, đã lìa xa, đã thay đổi nên sinh ra lo buồn. Cũng thế tướng lo đó gọi là lo nương vào ham mê thèm khát.

-     Thế nào là lo nương vào xuất ly? Là đối với các sắc, biết rõ là vô thường cho đến tiêu mất. Và tất cả từ trước tới giờ đều biết rõ chúng là vô thường, khổ, thay đổi nên đối với cảnh giải thoát vượt cao muốn nguyện chứng được, là nói: Đến bao giờ, tôi sẽ được an trụ đầy đủ như các bậc Thánh đã an trụ đầy đủ? Như vậy, đối với giải thoát vượt cao, lo nghĩ để cầu chứng được. Đó gọi là lo nương vào xuất ly.

Cũng thế, đối với tai nghe tiếng, cho đến ý biết các pháp là đáng mừng, vui có thể bị đắm nhiễm, hoặc do thứ gì mà hiện mình Vô sở đắc, hoặc theo ý nghĩ trước, nghĩ được gì mà giờ đây nó đã đi qua đã thay đổi nên sinh ra lo buồn. Cũng thế là tướng lo ấy gọi là nương vào ham mê thèm khát.

Cũng thế, đối với tai nghe tiếng, cho đến ý biết các pháp, biết rõ chúng là vô thường cho đến diệt mất. Lại đối với tất cả pháp từ trước đến giờ, biết rõ chúng là vô thường, khổ, thay đổi cho đến tiêu mất, nên đối với giải thoát vượt cao, mong muốn chứng được là nói: Đến bao giờ, tôi sẽ được an trụ đầy đủ như các bậc Thánh đã an trụ đầy đủ? Như vậy, đối với giải thoát vượt cao, lo nghĩ để cầu chứng được, đó gọi là lo nương vào xuất ly.

-     Thế nào là xả nương vào ham mê thèm khát? Là kẻ phàm ngu si không hiểu biết, không có trí tuệ nên mắt thấy sắc thì sinh tâm luyến mến. Đối với việc xả bỏ việc tham đắm tạo nghiệp ở các cõi thì hướng về sắc là mê đắm vào sắc, không xả bỏ sắc, không thể vượt qua sắc.

Ngay trong sắc mà xả bỏ được thì gọi là nương vào ham mê thèm khát mà xả bỏ.

-     Thế nào là xả bỏ dựa vào xuất ly? Là đối với sắc, biết rõ chúng là vô thường cho đến tiêu mất. Lại đối với tất cả sắc từ trước tới giờ, biết rõ chúng là vô thường, khổ, thay đổi nên chọn lựa pháp tu để xả bỏ. Đó gọi là dựa vào xuất ly mà xả bỏ.

Cũng thế, kẻ phàm ngu si, không hiểu biết, không trí tuệ nên tai nghe tiếng cho đến ý biết pháp đều sinh tâm luyến mến. Đối với việc xả bỏ tham đắm tạo nghiệp nơi các cõi thì đối với pháp, không thể vượt qua. Ngay trong sắc mà xả bỏ được thì gọi là nương vào thèm khát ham mê mà xả bỏ.

Cũng thế, đối với tai nghe tiếng, cho đến ý biết pháp, biết rõ chúng là vô thường cho đến tiêu mất. Lại đối với tất cả pháp từ trước tới giờ, biết rõ chúng là vô thường, khổ, thay đổi liền lựa chọn pháp tu để xả bỏ, đó gọi là nương vào xuất ly mà xả bỏ.

Với sáu cảm giác mừng dựa vào ham mê thèm khát, sáu cảm giác mừng dựa vào xuất ly, sáu cảm giác lo dựa vào ham mê thèm khát, sáu cảm giác lo dựa vào xuất ly, sáu cảm giác xả dựa vào ham mê thèm khát và sáu cảm giác xả dựa vào xuất ly, gom chung thành ba mươi sáu sư cú.

Trong các thứ nương ấy, nên an trụ vào sáu xuất ly mà được vui mừng, xua tan cái mừng dựa vào ham mê thèm khát. Cũng thế, an trụ vào lo ra khỏi bằng cách nương vào sáu nơi ra khỏi, xua tan cái lo dựa vào sáu ham mê thèm khát. Cũng thế, an trụ vào xả do dựa vào sáu xuất ly, xua tan cái xả dựa vào sáu ham mê thèm khát. Lại nữa, trong những nương ấy, an trụ vào mừng của sáu nương xuất ly rồi xua tan cái lo độc hại của sáu nương vào xuất ly. Rồi an trụ vào xả của sáu nương xuất ly, xua tan cái mừng của sáu nương vào xuất ly. Lại có hai thứ xả: một là nương vào nhiều tính chất, hai là nương vào một tính chất.

-     Nương vào nhiều tính chất để xả là: Nương vào sắc cho đến nương vào pháp.

-     Nương vào một tính chất để xả là: Nương vào Không vô biên xứ cho đến nương vào Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ. Trong các nương thì nên nương vào một tính chất mà xả trụ, xua tan các độc hại của xả với nhiều tính chất.

-     Lập ra có Tưởng uẩn ba thứ:

1. Y sai khác.

2. Tác ý sai khác.

3. Cảnh giới sai khác.

-     Y sai khác: Là sáu Tưởng, thân và mắt tiếp xúc nên tưởng phát sinh cho đến ý tiếp xúc sinh tưởng.

-     Tác ý sai khác: Có hai thứ: là tưởng có tướng, và tưởng không có tướng. Tưởng có tướng là trừ những tưởng chưa được nói khéo léo, trong cõi Dục, thì tưởng bậc nhất là tưởng xuất thế gian. Các tưởng có tướng khác thì tương ưng với tác ý.

-     Tưởng không có tướng: là trừ điều nói trước, tức là tưởng không có tướng tương ưng với tác ý.

-     Cảnh giới sai khác: Có bốn thứ:

1. Tưởng nhỏ hẹp.

2. Tưởng lớn rộng.

3. Tưởng vô lượng.

4. Tưởng Vô sở hữu.

Theo thứ lớp mà tưởng ấy duyên vào cõi Dục, duyên vào cõi Sắc, duyên vào cõi Vô sắc, duyên vào cõi Vô sở hữu xứ, nên biết.

-Lập ra Hành uẩn có ba thứ:

1. Thắng sai khác.

2. Y (chỗ dựa) sai khác.

3. Các hành nghiệp Lập bày sai khác.

-     Thắng sai khác: Nghĩa là chỉ có tư duy tối thắng là thuộc về hành uẩn. Do tâm tạo tác mà pháp chuyển thành tạp nhiễm hay thanh tịnh.

-     Y sai khác: Nghĩa là sáu suy tư Thân, Nhãn, Xúc đã phát sinh suy tư cho đến suy tư sinh do ý xúc.

-     Các hành nghiệp lập bày khác nhau: Nghĩa là có ba thứ:

1. Lập bày tạp nhiễm.

2. Lập bày thành tựu.

3. Lập bày phận vị.

-   Lập bày tạp nhiễm là: phiền não và tùy phiền não.

-   Lập bày thanh tịnh là: Lòng tin.

-   Lập bày phần vị là tâm bất tương ưng hành như sinh, v.v... Tức sắc thuộc về pháp xứ và vô vi, của ba uẩn nầy gọi chung là pháp giới cũng gọi là pháp xứ.

-   Lập bày Thức uẩn có ba thứ:

1. Chủng loại sai khác.

2. Y sai khác.

3. Tạp nhiễm thanh tịnh sai khác.

Chủng loại sai khác có hai thứ:

a. Thức A-lại-da.

b. Chuyển thức.

Y sai khác là sáu thức nhân.

-     Hỏi: Thức A-lại-da thuộc về thức nào trong sáu thức ấy?

-     Đáp: Tàng thức gồm chung cả sáu thức, vì hạt giống của sáu thức đều chứa đựng trong thức ấy. Do thức nầy là loại ghi nhớ sâu kín nên Đức Bạc-già-phạm không nói hết về nó. Nếu ai khéo hiểu thì do đó mà hiểu được nó.

-     Tạp nhiễm, thanh tịnh sai khác: Như trong kinh nói: Là khi tâm có tham, biết rõ là tâm có tham. Tâm lìa bỏ tham thì biết rõ là tâm lìa bỏ tham. Cũng thế, có tâm sân rồi lìa tâm sân, có tâm si rồi lìa tâm si, cho đến nói rộng.

Trong đó có ba phẩm tâm:

1.  Chưa có tâm nhắm đến Tam-ma-địa.

2.  Đã có tâm nhắm đến Tam-ma-địa nhưng chưa được Tam-ma-địa.

3.  Tâm đã được Tam-ma-địa rồi. Tâm nầy lại có hai thứ:

a. Tâm không thanh tịnh.

b. Tâm rất thanh tịnh.

-     Phẩm tâm thứ nhất là hoặc có lúc sinh tâm ô nhiễm, do tính trói buộc của tham vừa trói buộc, hoặc có lúc sinh tâm thiện, vô ký vì đã lìa các trói buộc của tham v.v…

-     Phẩm tâm thứ hai: Có lúc buộc tâm vào nội tỉnh, hoặc có lúc quên mất, mà ý niệm rong ruổi theo năm dục phân tán. Rồi cũng có lúc gom tâm về khiến cho vắng lặng. Lại có lúc tâm bị hôn trầm, thùy miên trói buộc, che lấp. Rồi lại có lúc dứt trừ tình trạng đó. Lại có lúc thúc đẩy tâm ở yên chính đáng nên tâm không bị khuấy động. Hoặc có lúc chưa dứt được sự che lấp của hôn trầm, xáo động thì cả hai phần nầy đều không vắng lặng được. Hoặc nhờ dứt trừ được chúng mà tâm được vắng lặng. Có khả năng tác ý căn bản tịnh nên được gọi là tâm định. Nếu chưa đạt được điều căn bản ấy thì không gọi là tâm định.

-     Nói đến chỗ rốt ráo gọi là tu tâm tột cùng. Dứt trừ đến chỗ rốt ráo thì gọi là tâm giải thoát tột cùng. Trái với hai thứ ấy gọi là tâm không tu tập, tâm không giải thoát. Bắt đầu từ tâm định cho đến đây gọi là phẩm tâm thứ ba. Nên biết, số là năm thứ sự gồm chung hết tất cả các việc trôi lăn. Năm thứ sự đó là:

1. Việc của đối tượng được thọ dụng.

2. Việc của chủ thể thọ dụng.

3. Việc chấp giữ thọ dụng.

4. Việc tạp nhiễm của thọ dụng.

5. Việc trôi lăn ấy đã nương vào pháp biến hành.

- Đối tượng được thọ dụng nghĩa là sắc uẩn, năm thứ sắc căn nầy nương ở môn chấp nên gọi là đối tượng thọ dụng, vì cảnh giới các sắc là sở duyên ở môn nên gọi là đối tượng được thọ dụng.

- Chủ thể thọ dụng là thọ uẩn.

- Chấp lấy thọ dụng là tưởng uẩn.

- Tạp nhiễm của thọ dụng là các hành uẩn.

- Sự trôi lăn nương vào pháp biến hành là thức uẩn.

- Do suy tính thức nầy là thọ dụng, cho đến cả sự tạp nhiễm nên từ ý nghĩa đó mà thứ lớp được thành. Hơn nữa, do năm nhân duyên khác mà lập ra thứ lớp là:

1. Do sinh khởi.

2. Do đối trị.

3. Do trôi lăn.

4. Do thức trụ.

5. Do sáng tỏ.

-     Do sinh khởi là như kinh nói, nhãn duyên vào đối tượng là sắc mà nhãn thức phát sinh, cho đến ý duyên vào đối tượng là pháp mà phát sinh ý thức. Ở đây, trước là nói sắc uẩn, kế là nói thức uẩn. Hai thứ uẩn nầy là chỗ nương của các tâm pháp. Vì dựa vào hai thứ uẩn ấy mà các tâm pháp như thọ v.v… phát sinh. Kế là kinh nói: Vì có ba sự hòa hợp nên xúc phát sinh. Vì xúc là duyên nên các pháp như thọ, v.v… mới phát sinh. Do nguyên nhân sinh khởi Cũng thế, nên nói về thứ lớp các uẩn.

-     Do đối trị là đối trị bốn thứ điên đảo, nên nói pháp bốn niệm trụ.

Bốn điên đảo là:

1. Đối với bất tịnh chấp cho là tịnh.

2. Đối với khổ chấp cho là vui.

3. Đối với vô thường chấp cho là thường.

4. Đối với vô ngã chấp cho là có ngã.

Trong năm uẩn, trước nói về sắc uẩn, kế là thọ uẩn, kế là thức uẩn, sau chót là hai uẩn tưởng và hành. Cũng thế, vì nhằm đối trị nên nói thứ lớp các uẩn.

-     Do trôi lăn là các căn và cảnh giới là chỗ nương phát sinh hai uẩn, nghĩa là lãnh nạp cảnh giới và cảnh giới vẽ vời. Do nhân duyên ấy mới sinh thọ dụng. Các pháp gây rối loạn và cảnh giới hiện tại, có năng lực gây ra nghiệp thiện, bất thiện, vì thế chúng đưa đến quả khổ não đời sau. Riêng mỗi thức uẩn là bị não loạn nên nói về nó sau cùng.

-     Do thức trụ là bốn thức trụ nơi năm uẩn theo thứ lớp sinh khởi mới có thêm an trụ trong thức.

-     Do sáng tỏ là thấy Bổ-đặc-già-la rồi, trước là ghi nhớ sắc ấy, nên nói về sắc uẩn trước. Kế là nói thọ uẩn, làm sáng tỏ sắc kia là sang hèn, khổ vui. Kế là tưởng uẩn, nói làm sáng tỏ sắc kia là tên như vầy, họ như vầy, chủng loại là vầy. Kế là hành uẩn, làm sáng tỏ sắc kia là ngu si hay thông minh như thế nào. Đó là thức uẩn làm sáng tỏ sau cùng, làm cho sắc kia đối với nội ngã thành khác nhau. Nghĩa là đối với các uẩn trước, thức ghi nhớ, có khổ, vui, mới nói ra, có ngu si hay thông minh, gọi là thức làm sáng tỏ, nên nói về thứ lớp các uẩn.

-     Lại vì hai việc nương mà lập ra thứ lớp:

1. Tư trợ ngã sư.

2. Tự nội ngã sự.

Nghĩa là trước phải nương vào thân ở các các cảnh giới, kế đó thọ khổ, vui, kế là nói về mình, người với họ tên, chủng loại như vậy, v.v... Rồi dựa vào hai việc ấy, nhóm hợp sinh khởi các việc làm đúng pháp và trái pháp. Các tên gọi như vậy, giúp đỡ cho ngã, và uẩn sau cùng là việc của nội ngã, nên biết.

-     Khéo léo sẽ nói rộng trong phẩm Thành Thiện Xảo.

-     Tưởng khác nhau là các loại như: Có sắc, Vô sắc, có thấy, không thấy, có đối, không đối, hữu lậu vô lậu, hữu vi vô vi, v.v...

Hỏi: Hữu sắc, có nghĩa gì? Mấy loại?

Đáp: Nghĩa là tự thể của hữu sắc, một uẩn là hữu sắc. Hỏi: Hữu kiến có mấy loại, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là sự hiện hành của mắt, một chút là hữu kiến. Hỏi: Có đối có mấy loại, nghĩa gì?

Đáp: Cùng tiếp xúc đối với các vị trí là nghĩa thô, một chút là có đối. Nói là nghĩa thô là vì nó lìa ba thứ nhỏ nhiệm. Ba thứ vị tế ấy là:

1. Tổn giảm nhẹ.

2. Chủng loại nhẹ.

3. Tâm tự tại chuyển nhẹ.

Hỏi: Hữu lậu có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Vì nghĩa thô nặng đeo đuổi, nương các phiền não phát sinh dù chỉ một chút thô nặng và phiền não thì cũng gọi là hữu lậu. Lại, có nghĩa hữu lậu khác là nếu ở trong phiền não thì sẽ sinh bốn lỗi. Lỗi ấy, gọi là hữu lậu.

Bốn lỗi đó là gì? Một là lỗi không vắng lặng. Hai là lỗi trong, ngoài đều đổi khác. Ba là lỗi phát sinh hành vi ác. Bốn là lỗi do nhiếp thọ. Trong đó, lỗi đầu tiên là các ràng buộc do hiện hành gây ra, nên biết. Lỗi thứ hai là lỗi phiền não nương vào việc thuận chiều rồi gây thêm phiền não, nên biết. Lỗi thứ ba là do phiền não gây ra, nên biết. Lỗi thứ tư là phiền dắt dẫn đời sau, nên biết.

Hỏi: Hữu vi có nghĩa gì?, mấy thứ?

Đáp: Nghĩa chính là nhân đã làm phát sinh, đúng lúc sinh, có thể sinh, tất cả là hữu vi.

Hỏi: Tranh chấp có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là trôi lăn thường tức giận, hễ có tức giận dù một chút thì có tranh cãi.

Hỏi: Đắm say mùi vị có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là trôi lăn một phần lớn những ái kiến, hễ có ái kiến thì dù một chút cũng gọi là đắm say mùi vị.

Hỏi: Duyên theo ham mê thèm khát có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là trôi lăn phần lớn dục tham, hễ có tham dục cho dù một chút cũng gọi là đắm duyên theo ham mê thèm khát.

Hỏi: Thế gian có nghĩa gì? mấy thứ?

Đáp: Nghĩa chính là nương vào nói năng bàn luận, hễ có nói năng, bàn luận, dù một chút cũng gọi là thế gian.

Hỏi: Thuộc về giới có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là thế gian trong ba cõi, hễ có chút phần thế gian cũng gọi là cõi.

Hỏi: Quá khứ có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là nhân quả đã thọ dụng cùng tận.

Một chút thọ dụng cùng tận ấy cũng gọi là quá khứ.

Hỏi: Vị lai có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là nhân quả chưa thọ dụng hết. Một chút chưa thọ dụng hết, cũng gọi là vị lại.

Hỏi: Hiện tại có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là nhân đã thọ dụng hết, còn quả thì chưa thọ dụng hết. Dù còn một chút hai điều ấy cũng gọi là hiện tại.

Hỏi: Nội có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là sáu xứ bên trong không rời nhau. Một chút trong bốn phần là nội.

Hỏi: Ngoại có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là trái với nghĩa nội nói trên một chút là ngoài. Hỏi: Thô có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là sự không trơn láng nhóm họp đầy đủ, dù một chút cũng gọi là thô.

Hỏi: Tế có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là trái với nghĩa thô, dù một chút cũng gọi là tế. Hỏi: Kém có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là vô thường, khổ, bất tịnh, nhiễm ô. Dù một chút cũng gọi là kém.

Hỏi: Hơn có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là trái với nghĩa kém, dù một chút cũng gọi là hơn. Hỏi: Xa có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là nơi chốn và thời gian xa xôi của quá khứ, vị lai. Dù một chút cũng gọi là xa.

Hỏi: Gần có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là trái với nghĩa xa. Dù một chút cũng gọi là gần. Hỏi: Trói buộc của cõi Dục có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nếu sinh ở cõi nầy chưa bị đối trị, nghĩa chính là sinh hiện hạnh khi đã ra khỏi ba cõi. Dù một chút cũng gọi là trói buộc ở cõi Dục.

Hỏi: Trói buộc ở cõi Sắc có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là đã được đối trị ở cõi Sắc, nếu trụ trong định cõi Sắc, nếu sinh vào đó mà chưa được địa trên đối trị thì nghĩa chính là hiện hành khi đã ra khỏi ba cõi. Dù một chút cũng là ràng buộc ở cõi Sắc.

Hỏi: Trói buộc ở cõi Vô sắc có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Đã được vô sắc đối trị, hoặc an trụ trong định vô sắc, hoặc sinh về đó mà chưa được địa trên đối trị thì nghĩa chính là hiện hành khi đã ra khỏi ba cõi. Dù một chút cũng gọi là ràng buộc ở cõi Vô sắc.

Lại còn có nghĩa khác nhau là nghĩa an trụ đầy đủ trong định, không tương ưng với pháp cộng hữu và không thuộc về quả của pháp cộng hữu ấy. Đây là nghĩa thuộc về ràng buộc ở cõi Dục, dựa vào phiền não ở cõi Sắc và trái với nghĩa trước. Đây là nghĩa ràng buộc ở cõi Sắc, vì đã lìa bỏ các phiền não khác ở cõi Vô sắc. Và, thuộc về phần trước như đã nói đây là sự ràng buộc ở cõi Vô sắc, nên biết.

Hỏi: Thiện có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là cảm nhận quả báo an vui về sau, có ý nghĩa là đã dứt trừ khổ phiền não, có ý nghĩa đối trị phiền não. Dù được một chút cũng gọi là thiện.

Hỏi: Bất thiện có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là cảm nhận quả báo đau khổ về sau, có ý nghĩa là sinh ra hành vi ác. Dù một chút cũng gọi là bất thiện.

Hỏi: Vô ký có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là hoàn toàn trái với thiện và bất thiện. Dù một chút cũng gọi là vô ký.

Lại có nghĩa khác là nghĩa không lầm lỗi, là nghĩa đối trị lầm lỗi, thuận theo công đức, có nghĩa là thiện. Vì trái với nghĩa thiện nên coi đó là bất thiện, nghĩa thiện và bất thiện trái nhau nên gọi là vô ký.

Hỏi: Học có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là tu học điều thiện với nhiều phương tiện. Dù một chút cũng gọi là Hữu học.

Hỏi: Vô học có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là tu học đến chỗ hoàn toàn rốt ráo. Dù một chút cũng gọi là Vô học.

Hỏi: Phi học, phi Vô học có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là thuộc về thiện, ô nhiễm, vô ký, trừ hai nghĩa Hữu học và Vô học nói ở trước. Dù một chút cũng gọi là Phi học phi Vô học.

Hỏi: Kiến đạo dứt trừ có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là sự cắt dứt phiền não do trí hiện quán, và hiện quán các đế, dù một chút cũng gọi là kiến đạo đoạn.

Hỏi: Tu đạo dứt trừ có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là dứt trừ phiền não do trí hiện quán, và hiện quán các đế, tất cả các phần nhỏ đều là tu đạo dứt trừ.

Hỏi: Vô đoạn có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa là đối trị rốt ráo tất cả ô nhiễm, có ý nghĩa là dứt hẳn các cấu nhiễm. Dù một chút cũng gọi là không còn gì để dứt.

Hỏi: Vô sắc cho đến nói rộng có mấy thứ, nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa chính là trái với sắc đã nói ở trước, đó là nghĩa vô sắc, nên biết.

HIỂN DƯƠNG THÁNH GIÁO LUẬN

QUYỂN 6

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 2)

Luận chép: Nói rộng về thế tục đế như thế rồi. Vậy thế nào là Thắng nghĩa đế?

Tụng rằng:

Năm pháp, ba chân thật,
Nó lại bốn, nên biết.
Và bốn thứ tầm tứ,
Bốn thứ trí như thật.

Luận chép: Năm pháp là: Tướng, Danh, Phân biệt, Chân như, Chánh trí.

-     Tướng là nói vắn tắt, là chỗ nương của tất cả sự nói năng.

-     Danh là hầu hết nói năng đều dựa vào các tướng.

-     Phân biệt là tâm, tâm pháp thuộc về ba cõi.

-     Chân như là tất cả lời nói được hiện hành do thánh trí hiển bày về pháp vô ngã, về chỗ không có chỗ nương.

-     Chánh trí là nói lược có hai thứ: Một là chỉ có xuất thế gian, hai là thế gian và xuất thế gian.

-     Chánh trí chỉ có uất thế gian: Là do chánh trí mà hàng Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát v.v… thông đạt chân như. Lại nữa, Bồ-tát còn dùng trí thế gian và xuất thế gian đối với năm minh xứ, thường siêng năng tinh tấn tu học, do trí chân như đầy khắp, thường được hiện tiền, cho nên Bồ-tát mau chóng làm sạch được các ngăn che của chướng sở tri.

-     Chánh trí thế gian và xuất thế gian: Nghĩa là Thanh văn, Độc giác đã thông đạt chân như rồi, nhưng do từ đầu, chỉ một bề dùng sức mạnh của chánh trí để ra khỏi thế gian, sau đó đạt được chánh trí thế gian, xuất thế gian, ở trong sự an lập các đế, sinh tâm chán ngán, lo sợ đối với ba cõi.

Cùng yêu mến chỗ vắng lặng của ba cõi, lại do chánh trí đó thường hiện ở trước, nên mau chóng đạt được việc làm sạch chướng phiền não.

-     Ba pháp là ba tự thể:

1. Tự thể Biến kế sở chấp.

2. Tự thể Y tha khởi.

3. Tự thể Viên thành thật.

-     Tự thể Biến kế sở chấp: Là dựa vào danh ngôn mà giả lập tự thể là cõi Dục, ấy là thuận theo lời nói thế gian.

-     Tự thể Y tha khởi: Là tự thể của các pháp đều từ duyên sinh.

-     Tự thể Viên thành thật: Là chân như của các pháp mà Thánh trí đã vận dụng thành cảnh giới của Thánh trí, chỗ duyên của Thánh trí là cõi Dục.

Vì đã chứng tới chỗ hoàn toàn thanh tịnh, nên trí nầy có công năng làm cho tất cả tướng và hai thứ trói buộc thô nặng được giải thoát, vì muốn dẫn khởi làm phát sinh các công đức.

-     Thánh trí ấy lại có bốn thứ nên biết. Tính chân thật ấy lại có bốn thứ là:

1.  Thế gian chân thật.

2.  Đạo lý chân thật.

3.  Chỗ hành chân thật của trí làm thanh tịnh Chướng phiền não.

4.  Chỗ hành chân thật của trí làm thanh tịnh Chướng sở tri.

-     Thế gian chân thật: Nghĩa là do quen hành xử thành thạo các việc trong đời mà hiểu biết tới chỗ sâu xa cùng lập bày được tính chất thế gian, như đối với đất thì biết chắc chắn đó là đất chứ không phải lửa, cùng nhận biết rõ. Cũng thế, đối với nước, lửa, gió, sắc, thanh, hương, vị, xúc, ăn uống, y phục, xe cộ các vật dụng trang sức các thứ tràng hoa thơm, ca múa, âm nhạc, các hành động, oai nghi, cử chỉ của nam nữ, các thứ ruộng vườn, nhà cửa, tài sản và những khổ vui v.v…

Đối với khổ thì biết là khổ, chứ chẳng phải vui. Đối với những niềm vui thì biết đó là niềm vui chứ không phải khổ. Và nếu nói đơn giản thì biết đây là đây chứ chẳng phải là kia. Như vậy, nói cái gì là cái đó, chứ không phải cái nào khác. Các việc đã được hữu tình ở đời nầy hiểu biết chắc chắn và đã làm như sự hiểu biết ấy, nên tất cả danh ngôn đều chắc chắn có sự phân biệt giữa mình và người được truyền lại đời nầy, từ xưa đến giờ tất cả đều là chân thật chứ không phải được tạo ra một cách sai lạc. Quán xét các đối tượng được giữ lấy ấy, gọi là thế gian chân thật.

-     Đạo lý chân thật: Là chánh trí có ý nghĩa đạo lý.

Những hạng người thông minh, trí sáng, những người tìm tòi, quán xét, những người trụ trong cõi tầm tư, những người có tài ăn nói, đối với phàm phu những người nương vào hiện lượng cho đến ba lượng của Thánh giáo, các vị ấy đã dùng trí lựa chọn rất kỹ lưỡng đối với những gì đã biết, đã làm nên đạt tới thành tựu. Từ đó, đạo lý được lập ra nên gọi là đạo lý chân thật.

-     Chỗ hành chân thật của trí làm thanh tịnh Chướng phiền não: Là tất cả Thanh văn, Độc giác dùng phương tiện trí vô lậu, chánh trí vô lậu, từ ấy mà sau đó chứng được cảnh giới hiện hành của trí thế gian. Đó gọi là chỗ hành chân thật của trí đã làm thanh tịnh chướng phiền não. Do duyên ấy, nên đối với chướng phiền não, trí đạt được thanh tịnh. Sau đó, chứng được tính chất an trụ tánh vô ngại. Cho nên nói là chỗ hành chân thật của trí đã làm thanh tịnh chướng phiền não.

-     Hỏi: Trong ấy, cái gì là chân thật?

Đáp: khổ, tập, diệt, đạo đã làm rõ bốn Thánh đế. Từ chỗ chọn lựa bốn Thánh đế ấy nên đã nhập vào vị hiện quán. Trí chân thật phát sinh từ sự hiện quán ấy.

-     Chỗ hành chân thật của trí đã làm thanh tịnh chướng sở tri: Là đối tượng nhận biết, có những thứ có thể ngăn cản trí tuệ, nên gọi là chướng sở tri. Nếu tính chân thật là cảnh giới được hiện hành của trí giải thoát khỏi chướng sở tri, thì đó gọi là chỗ hành chân thật của trí đã làm thanh tịnh chướng sở tri. Nên biết việc nầy như thế nào? Nghĩa là các Bồ-tát, Phật, Thế tôn là những bậc đã chứng ngộ pháp vô ngã, đã hội nhập vào sự thanh tịnh cùng tột, dựa vào tự tánh, lìa các lời nói của tất cả các pháp, giả nói về tự tánh, nói về cảnh giới được hiện hành của trí bình đẳng không phân biệt. Đó là chân như tối thắng, là tánh rốt ráo Vô thượng của đối tượng được nhận biết. Tính ấy là sự chọn lựa của tất cả chánh pháp, không thể làm xoay chuyển, không gì có thể vượt qua nó. Đó gọi là chỗ hành chân thật, của trí đã làm thanh tịnh chướng sở tri.

-     Bốn thứ tầm tư là:

1. Danh tầm tư.

2. Sự tầm tư.

3. Tự thể giả lập tầm tư.

4. Sai khác giả lập tầm tư.

-     Danh tầm tư: Là đối với danh, Bồ-tát chỉ thấy là danh.

-     Sự tầm tư: Là đối với sự, Bồ-tát chỉ thấy là sự.

-     Tự thể giả lập tầm tư: Là đối với tự thể giả lập, Bồtát chỉ thấy là tự thể giả lập.

-     Sai khác giả lập tầm tư: Là đối với sự giả lập khác nhau, Bồ-tát chỉ thấy là giả lập khác nhau. Đó gọi là sai khác giả lập tầm tư.

Các Bồ-tát đối với hai thứ danh và sự, hoặc là quán tướng tách rời, hoặc là quán tướng hợp lại. Vì dựa vào danh sự hợp lại mà quán, nên thông đạt về tự thể giả lập và sai khác giả lập.

-     Bốn thứ trí như thật là:

1. Trí như thật do danh tầm tư dắt dẫn.

2. Trí như thật do sự tầm tư dắt dẫn.

3. Trí như thật do tự thể giả lập tầm tư dắt dẫn.

4. Trí như thật do sai khác giả lập tầm tư dắt dẫn.

-     Trí như thật do danh tầm tư dắt dẫn là đối với danh tầm tứ, Bồ-tát chỉ thấy có danh thôi. Đối với danh thì biết rõ là danh nầy, nghĩa nầy. Ngay chỗ ấy lập ra là vì muốn phát sinh ý tưởng, tri kiến và lời nói. Trong trường hợp đã nghĩ đến sắc v.v… thì tên sắc không được lập. Vì tất cả thế gian, không ai nghĩ đến sắc, nếu sắc v.v… không ai nghĩ đến thì không làm gia tăng sự chấp trước. Nếu không chấp trước thì không có nói năng. Nếu thấu rõ như vậy gọi là trí như thật do danh tầm tư dắt dẫn.

-     Trí như thật do sự tầm tư dắt dẫn: Là đối với tầm tứ, Bồ-tát chỉ thấy có sự. Biết như thật về tính chất của sự nghĩ đến sắc v.v… lìa bỏ hết nói năng, không thể nói năng. Đó gọi là trí như thật do tầm tư dắt dẫn.

-     Tự thể giả lập tầm tư đã được dắt dẫn trí như thật là do biết tự thể giả lập trong việc nghĩ đến sắc v.v… nên Bồ-tát đối với nó chỉ thấy tầm tư giả lập, tức thông đạt được tự thể giả lập, đúng như thật chứ không phải thực sự là tự thể của sự tầm tư mà là tương tự như tự thể của sự tầm tư hiện bày. Lại có thể biết tự thể của sự tầm tư kia giống như những ảnh tượng biến hóa, tiếng vang ứng hợp, như bóng sáng, như trăng đáy nước, như sóng nắng, huyễn mộng, tợ hồ như có thể tánh. Đó gọi là tự thể giả lập tầm tư đã được dắt dẫn do trí như thật thứ ba với cảnh hiện hành có ý nghĩa sâu mầu.

-     Sai khác giả lập tầm tư được dắt dẫn do trí như thật là do biết sự giả lập khác nhau của tầm tứ, nên Bồ-tát chỉ thấy tính giả lập. Đối với việc nghĩ đến sắc v.v… biết đó là giả lập khác nhau, nên khéo thông đạt nghĩa không hai, nghĩa là biết sự vật kia chẳng có tánh, chẳng phải vô tánh vì có thể lời nói nên tự thể không thành tựu. Không phải có tánh nên tự thể của lời nói không thành tựu. Như thế, chẳng phải không tánh vì không có sắc là thắng nghĩa đế. Chẳng phải không có sắc là vì giả lập sắc trong thế tục đế. Như có tánh, không tánh, có sắc, không sắc cho đến có thấy, không thấy v.v… đều là pháp môn giả lập khác nhau. Tất cả lý do ấy đều là chỗ rốt ráo của lý, nên biết. Nếu biết như vậy, thì đó gọi là sai khác giả lập tầm tư được dắt dẫn do trí như thật thứ tư. Cũng thế đủ làm sáng tỏ việc của đối tượng nhập vào, nhân của chủ thể nhập vào và đã có thể nhập vào.

Lại nữa, Tụng rằng:

Thành lập ba tự thể,
Nghiệp giấu kín khác nhau.
Phương tiện thâu nhiếp khác.
Gọi là có nhiều thứ.

Luận chép: Ba thứ lớp thể thành lập có nghiệp dụng giấu kín, khác nhau, nên phương tiện thâu nhiếp cũng khác nhau. Nên biết mỗi tự thể có nhiều thứ nên thành lập nhiều thứ, như sẽ nói rộng trong phẩm Thành Vô Tánh.

Khác nhau: Hỏi tự thể của biến kế sở chấp có mấy thứ?

Đáp: Như trong tự thể của y tha khởi tất cả tự thể giả lập khác nhau. Tự thể của biến kế sở chấp cũng vậy. Thế nên tự thể của biến kế sở chấp là không có hạn lượng. Lại nữa, trong tự thể của y tha khởi, có hai thứ lớp thể của biến kế sở chấp, phân biệt nghĩa là tùy theo sự giác ngộ vượt bậc và tùy theo công phu tu tập đối với tập khí và tùy miên.

Hỏi: Tự thể của y tha khởi có mấy thứ?

Đáp: Tức như các tướng có nhiều khác nhau, nên biết. Nghĩa là tướng của sắc, tướng của tâm, tướng của tâm pháp, tướng của tâm bất tương ưng v.v…

Lại nữa, nói lược lại thì có hai thứ là: Tự thể của y tha khởi do tự thể của biến kế sở chấp phân biệt sinh khởi và không phải do phân biệt sinh khởi.

Hỏi: Tự thể của viên thành thật có mấy thứ?

Đáp: Tự thể của viên thành thật ở tất cả xứ chỉ có một vị, không thể lập ra sự sai khác.

-Nghiệp: Hỏi: Tự thể của biến kế sở chấp có thể tạo ra bao nhiêu nghiệp?

Đáp: Có năm thứ:

1.     Có khả năng làm phát sinh tự thể của y tha khởi.

2.     Ngay trong y tha khởi ấy khởi các thứ nói năng.

3.     Có khả năng làm phát sinh sự chấp của chúng sinh.

4.     Có khả năng làm phát sinh chấp pháp.

5.     Có khả năng thâu nhiếp tập khí thô nặng của hai thứ chấp.

Hỏi: Tự thể của y tha khởi có công năng tạo ra mấy thứ nghiệp? Đáp: Có năm thứ là:

1.  Có khả năng sinh ra thể của các tạp nhiễm.

2.  Có khả năng làm tự thể cho biến kế sở chấp, đồng thời cũng là chỗ nương cho tự thể của Viên thành thật.

3.  Có khả năng làm chỗ nương cho sự chấp của chúng sinh.

4.  Có khả năng làm chỗ nương cho chấp pháp.

5.  Có khả năng làm chỗ nương cho tập khí thô nặng của hai chấp.

Hỏi: Tự thể của viên thành thật có thể tạo ra bao nhiêu nghiệp? Đáp: Có năm thứ, có thể là hai thứ, nên tạo ra năm nghiệp để đối trị tánh của sở duyên sinh khởi.

-Ẩn mật là phải tùy thuộc vào ý nghĩa của ba tự thể trên, để giải thích rõ tất cả kinh không liễu nghĩa. Vì trong vô lượng kinh, tất cả các Đức Như lai đều dùng lời nói ẩn mật và các vị Bồ-tát đối với ngôn ngữ ẩn mật đều tùy theo ba thứ lớp thể mới có thể tỏ ngộ hội nhập nghĩa kia.

Hỏi: Như trong kinh nói: Ba cửa giải thoát, vậy thì nó được lập ra sao?

Đáp: Được lập ra từ ba tự thể, nghĩa là cửa Không giải thoát, được lập ra từ tự thể của biến kế sở chấp. Cửa giải thoát vô nguyện được lập ra từ tự thể của y tha khởi. Cửa giải thoát vô tướng được lập ra từ tự thể của Viên thành thật.

Hỏi: Trong kinh nói: Vô sinh pháp nhẫn, vậy nó được lập ra sao? Đáp: Đã được lập ra từ ba tự thể, nghĩa là do tự thể của biến kế sở chấp, nên nói: xưa này vô sinh nhẫn. Do tự thể của y tha khởi nên nói: Tự nhiên vô sinh nhẫn. Do tự thể của Viên thành thật nên nói là phiền não khổ cấu vô sinh nhẫn. Ba thứ nhẫn nầy ở tại vị bất thoái chuyển, nên biết. Nghĩa khác nhau như vậy, nên đối với những lời nói ẩn mật khác, muốn hiểu thì đều phải tùy theo ba tự thể trên mà giải thích, nên biết.

Phương tiện là rõ biết ba thứ lớp thể như vậy, từ đó, có khả năng tạo ra phương tiện cho tất cả Thanh văn, Độc giác và Chánh giác Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

-Gom nhiếp: là ba thứ lớp thể và năm sự như tướng, danh, phân biệt v.v… đều gom nhiếp.

Hỏi: Trong năm sự như vậy, tự thể ban đầu, thuộc về mấy thứ sự?

Đáp: Không có.

Hỏi: Tự thể thứ hai thuộc về mấy thứ sự? Đáp: Thuộc về bốn thứ sự.

Hỏi: Tự thể thứ ba thuộc về mấy thứ sự? Đáp: Một.

Khác nhau là tự thể của biến kế sở chấp, phải hiểu cho đúng. Tự thể của y tha khởi nên biết và nên cắt đứt. Tự thể của viên thành thật nên biết và nên chứng ngộ. Cũng thế, là đã ngộ nhập vào tục đế, thắng nghĩa đế rồi.

Lại nữa, Tụng rằng:

Nghe mười hai phần giáo
Qui y ba tối thắng
Ba học, ba bồ-đề,
Vì hữu tình, nói tịnh.

Luận chép: Nghe mười hai phần giáo là nghe các Thánh giáo: khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu, Pháp nghị luận.

Khế kinh: Nghĩa là trong các kinh nói những việc hành trì điều phục khác nhau của Đức Phật Bạc-giàphạm đã dựa vào các thứ để giáo hóa hữu tình vào các lúc. Hoặc nói pháp thuộc về Uẩn, Giới, Xứ. Hoặc nói pháp thuộc về duyên khởi. Hoặc nói pháp thuộc về ăn uống. Hoặc nói pháp thuộc về đế. Hoặc nói pháp thuộc về Thanh văn, Độc giác, Như lai. Hoặc nói pháp thuộc về niệm trụ, chánh đoạn, thần túc, căn, lực, giác chi, đạo chi. Hoặc nói pháp thuộc về bất tịnh, dứt trừ ý nghĩ, chứng ngộ thanh tịnh…

Đức Như lai nói lời nầy rồi, các nhà kết tập hoan hỷ kính nhận, vì muốn Thánh giáo tồn tại lâu ở đời nên các vị nầy đã biên tập có thứ lớp, sắp xếp có trật tự. Vì có thể khâu nối lại, không cho rơi mất, có thể dẫn giải các nghĩa đem lại lợi ích và nhiều ý nghĩa hay của Phạm hạnh, nên gọi là khế kinh.

-     Ứng tụng là trong các kinh, có bài trùng tụng để nói lại ý nghĩa, đã giảng ở giữa hay ở cuối kinh. Và cũng nói đến nghĩa chưa nói đủ trong các kinh, đó là ứng tụng.

-     Ký biệt là trong các kinh có ghi về nơi thọ sinh khác nhau của các đệ tử Phật, sau khi họ qua đời. Và trong các kinh nói nghĩa đã hiển bày. Đó là ký biệt.

-     Phúng tụng là: Là trong các kinh dùng nhiều câu kết thành, khác với văn xuôi, nói thẳng. Sự xâu kết ấy hoặc hai câu, hoặc ba câu, bốn câu, năm câu, hoặc sáu câu. Đó là phúng tụng.

-     Tự thuyết là vì muốn chánh pháp, cũng như Thánh giáo tồn tại lâu dài ở thế gian, nên Đức Phật tự nhiên nói pháp, đó là Tự thuyết.

-     Duyên khởi là trong kinh nêu tên người thỉnh rồi Phật mới nói pháp cho họ. Loại nầy như Duyên khởi biệt giáo, giới kinh giải thoát đều thuộc về Tỳ-nại-da. Đó là loại duyên khởi.

-     Thí dụ là những thí dụ nói trong các kinh. Do dùng thí dụ nên nghĩa gốc của việc được sáng tỏ. Đó là Thí dụ.

-     Bản sự là nói các việc tương ứng ở đời trước. Đó là Bản sự.

-     Bản sinh là loại kinh nói về sự thực hành công hạnh Bồ-tát của Như lai trải qua nhiều kiếp sinh tử, ở đời quá khứ. Đó là Bản sinh.

-     Phương quảng: Là loại kinh nói về đạo Bồ-tát có khả năng chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khiến chứng được mười lực, trí vô chướng. Đó là Phương Quảng.

-     Pháp Vị tằng hữu là: Loại kinh nói về các công đức cộng, bất cộng của Phật và các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Thức Xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ô-ba-sách-ca, Ôba-tư-ca và các pháp sâu mầu khác lạ, tối thắng. Đó là pháp Vị tằng hữu.

-     Luận nghị là tất cả Ma-đát-lý-ca, A-tỳ-đạt-ma (Luận tạng), nghiên cứu, giải thích ý nghĩa trong các kinh. Đó là luận nghị.

Trong mười hai phần giáo như thế, có đủ tạng kinh, luật, A-tỳ-đạt-ma. Trong đó, khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu, đó là kinh tạng. Phần nói về Duyên khởi là tạng Tỳ-nại-da. Phần nói về luận nghị là tạng A-tỳ-đạt-ma.

-     Qui y ba thứ tối thắng là quay về với ba ngôi báu Phật, Pháp, Tăng.

-     Tam học là giới học tăng thượng, tuệ học tăng thượng và tâm học tăng thượng.

-     Ba bồ-đề là Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Độc giác, và Bồ-đề Vô thượng.

-     Vì hữu tình, nói thanh tịnh là: Vì muốn cho hữu tình trở nên thanh tịnh, nên theo thứ lớp nói về ba pháp là có thể giữ phương tiện đạt đến quả. Có thể giữ là nghe và quay về nương. Phương tiện là ba học. Quả là ba Bồđề. Lại nữa, nghe như vậy, v.v… phân biệt như thế nào? Nên biết.

Lại nữa. Tụng rằng:

Nghe, quy học Bồ-đề,
Sáu, ba mươi, hai năm,
Theo thứ lớp danh số
Như nên phân biệt rộng.

Luận chép: Nghe sáu thứ phân biệt là:

1. Dựa vào nơi chốn.

2. Dựa vào sự thâu nhiếp.

3. Dựa vào thanh tịnh.

4. Dựa vào thực hành.

5. Dựa vào lý thú.

6. Dựa vào ý nghĩa.

-     Dựa vào nơi chốn là dựa vào năm minh một là lĩnh vực nội minh, hai là lĩnh vực nhân minh, ba là lĩnh vực thanh minh, bốn là lĩnh vực y phương minh, năm là lĩnh vực công nghiệp minh.

-     Dựa vào sự thâu nhiếp có hai thứ: một là dựa vào tạng Thanh văn, hai là dựa vào tạng Bồ-tát.

-     Dựa vào thanh tịnh là mười thứ thanh tịnh. Nói thanh tịnh có năm thứ là:

1.     Nói lời tốt đẹp.

2.     Nói câu văn sáng tỏ.

3.     Nói hết nghĩa của những gì mình hiểu.

4.     Nói phương tiện tu hành dễ.

5.     Nói để có thể lìa tất cả khổ. Nghe thanh tịnh có năm thứ:

1.     Nghe với ý không tìm lỗi.

2.     Nghe với ý cầu Niết-bàn.

3.     Nghe với sự lắng lòng sâu xa.

4.     Nghe với sự phân biệt hết sức sáng rõ về danh từ, câu văn.

5.     Nghe để tâm ý tu hành chân chánh.

-     Dựa vào thực hành là thực hành mười pháp lành.

-     Dựa vào lý sâu xa là có sáu thứ lý thú là chân nghĩa lý thú cho đến ý lạc lý thú. Ở đây ba lý thú trước nhờ sự giải thích của ba lý thú sau, nên biết. Nghĩa là do lý thú xa lìa hai bên theo đấy giải thích lý thú chân nghĩa. Từ lý thú không thể nghĩ bàn theo đó giải thích lý thú chứng đắc.

-     Do lý thú ý lạc là theo đó giải thú lý thích giáo hóa, dắt dẫn. Nghĩa chân thật ở đây chính là lý thú, nên nói lý thú chân nghĩa. Cho đến ý lạc là lý thú, nên gọi là lý thú ý lạc. Đối với nghĩa chân thật và ý lạc, không có tính chất điên đảo, đó là nghĩa lý thú.

Lý thú chân nghĩa nói lập có sáu thứ: Là chân thật thế gian cho đến chỗ hành chân thật của trí làm thanh tịnh chướng sở tri và chân thật an lập, chân thật phi an lập. Trong đó, bốn thứ chân thật trước, như đã phân biệt, nên biết.

-     Chân thật an lập là bốn Thánh đế. Khổ đúng là khổ, nên an lập là khổ. Cho đến đạo đúng là đạo, nên an lập là đạo.

Hỏi: Vì sao gọi là an lập? Đáp: Vì ba thứ tục nên an lập:

1. Do tục của thế gian.

2. Do tục của đạo lý.

3. Do tục của chứng đắc.

-   Tục của thế gian: Nghĩa là an lập về ruộng vườn, nhà cửa, bình, chậu, đoàn quân, khu rừng và an lập ngã, hữu tình v.v…

-   Tục của đạo lý: Là an lập uẩn, xứ, giới v.v…

-   Tục của chứng đắc: Là an lập quả Dự lưu v.v… cùng an lập pháp được quả vị nầy nương trụ.

Lại có bốn thứ an lập: Là ba thứ trước và do tục của thắng nghĩa mà an lập, vì tính của thắng nghĩa đế không thể an lập. Vì đã tự chứng đắc bên trong, nên muốn thuận theo dẫn dắt phát sinh trí kia, là dựa theo tục để an lập.

Chân thật phi an lập: Là thật tánh chân như của tất cả pháp.

-   Lý thú chứng đắc: Nói lược có bốn thứ:

1. Nghiệp báo chứng đắc của tất cả hữu tình.

2. Thanh văn thừa chứng đắc.

3. Độc giác thừa chứng đắc.

4. Đại thừa chứng đắc.

-     Nghiệp báo chứng đắc của tất cả hữu tình: Là tất cả hữu tình đã gây ra nghiệp tịnh, bất tịnh, do đó nên trôi lăn trong năm đường, chiêu cảm các thứ dị thục, thọ các thứ dị thục.

-     Thanh văn thừa chứng đắc: Là đầu tiên nhận lãnh ba pháp quy y cho đến nương. Vì nghe trang nghiêm nên được năm thứ chứng đắc:

1. Địa chứng đắc.

2. Trí chứng đắc.

3. Tịnh chứng đắc.

4. Quả chứng đắc.

5. Công đức chứng đắc.

-Địa chứng đắc là chứng đắc ba địa:

1. Kiến địa.

2. Tu địa.

3. Cứu cánh địa.

-Trí chứng đắc là chứng đắc chín trí:

1. Pháp trí.

2. Chủng loại trí.

3. Khổ trí.

4. Tập trí.

5. Diệt trí.

6. Đạo trí.

7. Sau bốn trí nầy là chứng được trí thế tục.

8. Tận trí.

9. Vô sinh trí.

-    Tịnh chứng đắc là bốn chứng tịnh. Quả chứng đắc là bốn quả Sa-môn.

Công đức chứng đắc: Là có công đức của vô lượng giải thoát thắng xứ, biến xứ, nguyện trí vô tránh và thần thông vô ngại giải.

Lại nữa, chứng đắc trong nương Thanh văn thừa, chứng đắc là trước, tu tập đạo thế gian lìa dục. Kế là tu tập căn lành thuận phần giải thoát và sau cùng, tu tập căn lành của thuận phần lựa chọn.

-    Độc giác thừa chứng đắc: Lược nói có ba thứ:

1.     Do trước đã được căn lành của phần thuận lựa chọn.

2.     Do trước đã chứng đắc vô lậu chân thật.

3.     Do thứ lớp chứng đắc.

Trong đây, vì hai thứ chứng đắc trước nên gọi là phi độc thắng giác và do chứng đắc sau nên gọi là Tê giác dụ giác.

-     Đại thừa chứng đắc là Đại bi chứng đắc. Phát tâm chứng đắc, Ba-la-mật-đa chứng đắc, Nhiếp sự chứng đắc, và Địa chứng đắc. Trong năm thứ chứng đắc vô lượng nầy, thuận theo đến chân như chứng đắc, oai đức bất tư nghì chứng đắc, pháp bất cộng của Phật chứng đắc, tất cả sự chứng đắc ấy, như trước đây đã phân biệt, nên biết.

-     Lý thú giáo hóa dẫn dắt, lược có ba xứ thâu nhiếp:

1. Thuộc về tạng.

2. Thuộc về Ma-đát-lý-ca.

3. Thuộc về cả hai xứ nói trên.

-     Thuộc về tạng là tạng Thanh văn và tạng Đại thừa.

-     Thuộc về Ma-đát-lý-ca: Là mười bảy bản địa và bốn thứ thu nhiếp.

-     Thuộc về cả hai xứ nói trên là tóm lược có mười thứ, như mười thứ nghĩa trong phần phân biệt nghĩa trước đây, nên biết. Sự thâu nhiếp nầy là thâu tóm tất cả phần thuộc về tạng và phần thuộc về của Ma-đát-lý-ca (luận), cho nên nói là tổng, lược là Ma-đát-lý-ca.

Lại có mười hai thứ giáo:

1.     Sự giáo: Là nói tất cả giáo pháp, nhưng mỗi thứ đều khác nhau, như sắc, nhãn, v.v…

2.     Tưởng sai khác giáo: Là nói về Uẩn, xứ, giới, duyên khởi, thị xứ, phi xứ, các căn, các đế, niệm trụ, có sắc, không sắc, có thấy, không thấy, có đối, không đối… nói rộng như vậy, đối với giáo tưởng sai khác của vô lượng Phật, Bạc-già-phạm.

3.     Tự tông quán sát giáo: Là các phần giáo trong khế kinh Ứng tụng, Ký biệt, được sáng tỏ nhờ sự thâu nhiếp.

4.     Tha tông quán sát giáo: Là nương vào bảy thứ nhân minh để dẹp bỏ các luận khác lập nên luận giáo của mình. Bảy thứ nhân minh là: Luận thể Luận xứ sở v.v… sau sẽ phân biệt:

5.     Bất liễu nghĩa giáo: Là Khế kinh ứng tụng, ký biệt trong ấy, Đức Bạc-già-phạm chỉ lược nêu nghĩa, chưa phân biệt rộng, nên lại mở bày chỉ rõ về giáo pháp.

6.     Liễu nghĩa giáo: Là trái với điều vừa nói, nên biết.

7.     Tục đế giáo: Là tất cả những gì được sáng tỏ do con đường ngôn ngữ. Tất cả phương tiện ấy đều gọi là tục đế. Lại dựa vào danh, tưởng, lời nói tăng thượng để khởi lên phân biệt danh, tướng, cũng gọi là Tục đế.

8.     Thắng nghĩa đế giáo: Là giáo pháp bốn Thánh đế, và giáo pháp chân như thật tế, pháp tánh.

9.     Ẩn mật giáo: thường thuộc về Thanh văn tạng giáo.

10.   Hiển liễu giáo: thường thuộc về Đại thừa tạng giáo.

11.   Khả ký sự giáo: Như bốn thứ pháp nơi Ốt-đànam-giáo, nghĩa là tất cả hành đều là vô thường cho đến Niết-bàn vắng lặng.

12.   Bất khả ký sự giáo: Có người hỏi: Thế gian là thường hay vô thường? Bấy giờ, Đức Như lai im lặng, không nhớ nghĩ, nhưng Như lai bảo người kia: Ta nói việc nầy, không thể ký biết.

Cho đến hỏi: Sau khi Như lai diệt độ là chẳng phải có chẳng phải không chăng? Lúc Như lai im lặng, không nói, nhưng Như lai lại bảo người ấy: Ta nói điều ấy là không ký biệt.

Vì có bốn nguyên nhân khiến không thể ký biệt, nên biết.

1.     Vì việc ấy vốn không có thể tánh, nên không thể ký biệt. Như có người hỏi: Ngã và các uẩn là khác hay là không khác, là thường hay vô thường…

2.     Vì việc ấy có thể dẫn đến không có nghĩa lợi, nên không thể ký biệt. Như kinh Thăng Nhiếp Ba Diệp nói:

Ta đã chứng biết vô lượng pháp, nhưng không thể nói ra hết được. Vì sao? Vì pháp đó, có thể không đưa đến nghĩa lợi.

3.     Vì việc ấy thật sâu mầu nên không thể ký biệt. Như có người hỏi: Ngã là có hay không? Điều ấy không thể ký biệt. Vì sao? Vì nếu Như lai nói là có ngã thì người ấy sẽ chấp trong uẩn có ngã, hoặc chấp lìa uẩn có ngã. Nếu nói ngã là không có thì kẻ kia sẽ hủy báng theo ngôn ngữ của đời thường: Ngã cũng là không. Cho đến ai hỏi: sau khi diệt độ, Như lai còn hay không vừa còn vừa không còn, chẳng phải có, chẳng phải vô. Do việc ấy quá sâu xa nên đều không thể ký biệt.

4.     Vì tướng kia là pháp như vậy nên không thể ký biệt. Như pháp chân như và các pháp khác là một hay là khác, điều ấy không thể ký biệt. Do tướng kia là pháp như vậy nên không thể an lập, hoặc vì tính khác hay tánh không khác cũng chẳng thể an lập.

Lại có bốn thứ nhân duyên, khiến Như lai nói rõ việc là không thể ký biệt nên biết: Một là vì ngoại đạo đã nói việc ấy. Hai là vì nó không hợp lý. Ba là vì việc ấy không đem lại nghĩa lợi. Bốn là việc đó, chỉ có thể gây ra các ràng buộc tranh cãi mà thôi.

Có hai nhân không duyên dẫn đến nghĩa lợi, nên biết: Một là xa lìa suy nghĩ về nhân quả. Hai là xa lìa suy nghĩ về tạp nhiễm thanh tịnh.

-Lý thú lìa hai bên: lược có sáu thứ nên biết:

1. Xa lìa bên không thật, có tăng ích.

2. Xa lìa bên chân thật có tổn giảm.

3. Xa lìa bên chấp thường.

4. Xa lìa bên chấp đoạn.

5. Xa lìa bên thọ dụng dục lạc.

6. Xa lìa bên thọ dụng tự khổ.

-Lý thú không thể nghĩ bàn: Lược, có sáu thứ không thể suy nghĩ bàn luận là:

1.  Ngã là không thể nghĩ bàn.

2.  Hữu tình là không thể nghĩ bàn.

3.  Thế gian là không thể nghĩ bàn.

4.  Nghiệp báo của các hữu tình là không thể nghĩ bàn.

5.  Chứng tĩnh lự và cảnh giới của tĩnh lự là không thể nghĩ bàn.

6.  Chư Phật và cảnh giới Chư Phật là không thể nghĩ bàn.

-Lý thú ý lạc, lược có mười sáu thứ ý lạc:

1.     Ý vui vì việc mở bày chỉ rõ.

2.     Ý vui vì lìa dục.

3.     Ý vui vì khuyến tấn dẫn dắt.

4.     Ý vui vì khen thưởng.

5.     Ý vui vì khen ngợi.

6.     Ý vui vì khiến nhập đạo.

7.     Ý vui vì dứt bỏ nghi ngờ.

8.     Ý vui vì thành thục.

9.     Ý vui vì an định.

10.   Ý vui vì giải thoát.

11.   Ý vui vì nương vào nghĩa riêng.

12.   Ý vui vì được chứng ngộ vui mừng không có lầm lỗi của hành giả.

13.   Ý vui vì khiến người nghe khởi tâm ý tôn trọng pháp sư.

14.   Ý vui vì pháp nhãn truyền khắp.

15.   Ý vui vì điều lành thêm lớn rộng.

16.   Ý vui vì dẹp bỏ tất cả tướng.

-     Nương vào nghĩa là nương vào Kinh liễu nghĩa và kinh không liễu nghĩa.

-     Quy ba thứ phân biệt: Một là thành tựu, hai là lập ra, ba là sai khác.

-     Thành tựu: Là chỉ có Phật, Pháp, Tăng mới là chỗ quy y chân chánh, chứ không phải cõi trời nào khác v.v… Vì sao? vì có hai nguyên nhân: Một là không ai khác có khả năng ấy, hai là Những thứ khác không hiện thấy. Vì sao những ai khác không có khả năng? Vì các vị Trời, Thần không có khả năng làm ích lợi cho chúng sinh. Các thiên thần nọ hoặc không có khả năng hoặc đợi cung kính, hoặc không chịu đựng khổ nhọc để giáo hóa, hoặc thiếu lòng thương người, hoặc bị chướng ngại. Như vậy, tất cả đều không phải là chỗ quy y chân thật nên nói là không có khả năng, rơi vào bè nhóm thiên lệch, vì muốn lẫn tránh khổ nhọc, vì không có tự tại, vì không có tâm thương xót, vì đức độ mỏng kém. Thế nào là những thứ khác không hiện thấy? Là các thiên thần không phải ai cũng được chứng kiến. Thế gian chưa ai thấy, không hiện thấy một ông chủ có khả năng làm chỗ nương cho các người, ngoại trừ có thể dựa vào lòng tin hiện nhiếp thọ kẻ khác, ngoài ra người ta biết hiện tại mình nương vào những gì mình không thấy.

Hỏi: Nếu thấy các thiên thần hiện ra trong chiêm bao thì có nên quy y chăng?

Đáp: Ấy là do ham muốn mà thấy, hoặc thật hay không thật. Lại nữa, vì sao lúc thức dậy thì không còn thấy? Dù trong chiêm bao có thấy được chút ý sự thật, thì nó vẫn là do ý muốn tưởng nghĩ mà ra. Lại nữa, với các rộn ràng trước mắt, khiến người nằm chiêm bao có thấy được chút ít điều gì đó. Ấy cũng đều là hư giả.

Lại nữa, do năm nguyên nhân khiến thiên thần không phải là chỗ quy y. năm nguyên nhân là:

1. Do tướng.

2. Do tự thể.

3. Do nghiệp.

4. Do pháp nhĩ.

5. Do nhân quả.

-     Do tướng là các thiên thần thì ở đời nầy không ai hiện thấy và cũng không nói chuyện được với các vị ấy. Sắc mặt của thiên thần đầy nét dữ tợn, khiến các người kinh sợ, quen sống buông lung với ham mê dục lạc, không có lòng thương, không màng đến ích lợi của kẻ khác, không thể hiểu rõ chuyện nên làm hay không nên làm, không thông suốt chân ý nghĩa. Cho nên, các vị ấy không thể làm chỗ nương cho các người.

-     Do tướng như thế nào mà Phật có thể làm chỗ quy y?

Phật là người mà thế gian ai cũng thấy, có thể nói chuyện với Ngài. Phật có dung nhan hòa tịnh, không gây lo sợ cho bất cứ ai. Phật hoàn toàn lìa bỏ các thứ buông lung, không còn tham ái, vì tâm thương xót, không bỏ cơ hội đem lợi ích cho kẻ khác, có năng lực biết rõ những gì nên làm, những gì không nên làm, thông suốt ý nghĩa chân thật.

Lại nữa, do có năm tướng nên có thể quy y, năm tướng ấy là:

1.     Vì lợi ích chúng sinh chứng quả Bồ-đề.

2.     Hiện ở trong đại chúng mở bày mắt chánh pháp.

3.     Làm ích lợi một cách bình đẳng đối với kẻ thân, người oán, thuộc về chúng tại gia.

4.     Lìa bỏ các tham chấp, các căn đều trong sạch vắng lặng.

5.     Khéo xua tan các nghi ngờ cho chúng sinh.

-     Về thể thì Như lai đã dứt hẳn hết các lậu, tự đã điều phục chế ngự mình, cũng điều phục chế ngự kẻ khác, cho nên xứng đáng quy y Như lai. Còn các thiên thần thì đầy những lậu hoặc chính họ không tự điều phục chế ngự, huống chi là điều phục chế ngự kẻ khác, nên không phải là chỗ quy y.

-     Về nghiệp thì Như lai đã an trụ trong nghiệp rộng lớn không vết nhơ, luôn vắng lặng.

Lại nữa, Như lai có khả năng làm lợi ích cho nghiệp của chúng sinh, nên có thể quay về nương nơi Như lai. Còn các thiên thần thì ở trong chỗ cấu nhiễm, mang nghiệp tham dục, lại còn mang nghiệp giết hại chúng sinh, nên họ không phải là nơi cho các người quy y.

-     Do pháp như vậy, tức các công đức vượt trội ở thế gian, hay xuất thế gian đều do công sức chính mình mà có được. Nếu xa lìa công sức mình thì dù có tin tưởng cung kính thiên thần rất, cũng vẫn không chứng ngộ gì được. Nếu không có lòng tin kính thiên thần mà chỉ với công sức mình, thì người ta vẫn chứng được đạo. Cho nên thiên thần không phải là nơi để cho người ta quy y.

-     Do nhân quả là nay thử hỏi kẻ thờ phụng thiên thần là thờ phụng bản thể thiên thần, hay do nghiệp trời cảm ứng mà được? Hay là do cúng dường trời mà được, hay không phải từ nhân quả mà được. Nếu do nghiệp trời mà được sung sướng thì quay về với nghiệp mình, chứ chẳng phải trời. Nếu không từ nhân mà được, thì nên thì nên quy y vô nhân, chứ chẳng phải trời. Nếu do cúng dường trời thần mà được thì chỉ do cúng dường mà cảm được thể của thiên thần hay chỉ do thiên thần là hai thứ nhân? Nếu chỉ do cúng dường thì thành đồ đệ của thiên thần, thì cúng dường bất cứ nơi đâu cũng đều được cảm ứng quả báo trời. Nếu chỉ nhờ thiên thần, tức là đồ chúng lập bày cúng dường, nhưng dù không cúng dường đi nữa, thì thiên thần vẫn đáp ứng quả báo trời. Nếu làm hai thứ nhân cùng lúc, nhưng nếu chỉ cúng dường và được tiếp nhận khiến thỏa mãn các mong cầu thì bảy sự cầu nguyện kia sẽ không nhất định có kết quả. Nhưng không phải vậy. Bảy sự cầu nguyện gồm:

1.     Nhờ cúng dường mà được thần nhiếp thọ.

2.     Nhờ tin hiểu mà được thu thâu nhiếp.

3.     Nếu ai tin hiểu, từ đó phát khởi lòng tin hiểu thì cảm nhận được tự thể tối thắng của thiên thần.

4.     Từ chỗ cảm nhận được tối thắng nên được vui sướng giàu có.

Có khả năng chiến thắng đám oán địch A-tố-lạc v.v…

5.     Ra khỏi sinh tử.

6.     Được sinh nơi ổn định sau khi chết. Hỏi: Có mấy thứ quay về nương?

Đáp: Có ba thứ cần quay về nương. Đó là Phật, Pháp, Tăng. Hỏi: Vì sao chỉ có ba thứ quay về nương?

Đáp: Có bốn lý do, đó là: Chỉ có Như lai là đáng quay về nương, vì Như lai đã tự điều ngự lấy mình, khéo biết phương tiện để điều phục kẻ khác. Ai đem tiền bạc cúng dường thì Như lai không đẹp ý, ai đem việc làm hữu ích cúng dường thì Như lai vừa ý. Do đầy đủ công đức như vậy, Như lai nói pháp và chúng đệ tử quay về quy y nơi Như lai.

Hỏi: Cần những duyên như thế nào mới có thể quay về nương tam bảo?

Đáp: Phải có đủ bốn yếu tố mới được coi là có khả năng quay về nương Tam bảo.

1.     Khéo biết Phật là người có đức độ.

2.     Khéo biết chỗ khác nhau giữa Phật và người khác.

3.     Vì tự mình thệ nguyện lãnh thọ.

4.     Vì không nương vào ai khác.

Hỏi: Thế nào là việc làm đúng đắn của người quay về nương? Đáp: Có bốn việc làm chính đáng cho người quay về nương Phật, nên biết, đó là:

1.     Gần gũi người lành.

2.     Nghe hiểu chánh pháp.

3.     Tác ý đúng lý.

4.     Tùy giáp pháp thích hợp cho mình mà hành trì. Lại nữa, có bốn thứ chánh hạnh, nên biết.

1.  Khéo thâu nhiếp các căn, không để chúng loạn động.

2.  Thọ học xứ chân chánh.

3.  Thương xót chúng sinh.

4.  Lúc nào cũng cúng dường Tam bảo đúng pháp. Hỏi: Quay về nương Tam bảo, có ích lợi gì?

Đáp: Có bốn thứ ích lợi:

1.     Được công đức rộng lớn.

2.     Được vui mừng đầy khắp.

3.     Được thiền định vượt bậc.

4.     Được thanh tịnh tốt đẹp. Lại có bốn thứ ích lợi là:

1.     Được sự che chở đầy đủ.

2.     Các hiểu biết tà vạy chướng ngại lần hồi mỏng dần, cuối cùng dứt trừ hết.

3.     Được vào trong cộng đồng của những người thông minh, hiểu biết hết sức chân chánh, nghĩa là sống chung với các bậc thầy là Đại sư đồng phạm hạnh.

4.     Vì tin vào Thánh giáo nên được chư thiên kính mến, vui mừng.

Chư thiên nếu thấy ai quay về nương ba ngôi báu, thì vô cùng sung sướng, bảo nhau: Từ xưa, nhờ thành tựu sự quay về nương vào tam bảo, nên sau khi chết, chúng ta đều sinh lên cõi nầy. Này các thiện nam! Các vị cũng phải thành tựu ba pháp quy y, an trụ mãi trong ấy chớ lìa bỏ, thì không bao lâu nữa, các vị sẽ lên làm bạn với chúng tôi.

-Khác nhau: có sáu nguyên nhân khiến Tam bảo sai khác là:

1. Do tướng.

2. Do nghiệp.

3. Do tin, hiểu.

4. Do việc làm.

5. Do tùy niệm.

6. Do sinh phước.

-     Do tướng nên khác nhau: Tướng tự chứng giác ngộ là Phật bảo: Tướng của quả vị chứng giác ngộ là Pháp bảo. Từ Phật chỉ dạy, có tướng tu hành chân chánh, đó là Tăng bảo.

-     Do nghiệp nên khác nhau là: Người nói nghiệp chỉ đúng hướng đi của nó là Phật bảo. Cắt dứt các khổ não là cảnh nơi sở duyên của nghiệp, là Pháp bảo. Làm tăng nghiệp tinh tấn mạnh mẽ là Tăng bảo.

-     Do tin, hiểu nên khác nhau là: Đối với Phật bảo, phải gần gũi, cung kính, thờ phụng. Đối với Pháp bảo phải tin, kính, tu tập chứng ngộ, đối với Tăng bảo nên kính, tín, gần gũi, sống chung với người cùng theo chánh pháp.

-     Do hành nên khác nhau là: Đối với Phật bảo, nên làm các việc như đón rước, mời thỉnh, thờ phụng cúng dường. Đối với Pháp bảo chân chính, nên tu tập theo phương tiện đúng lý. Đối với Tăng bảo nên thọ dụng chung của cải, Pháp Phật.

-     Do tùy niệm nên khác nhau là: Đối với ngôi Tam bảo, nên tùy theo sự thích ứng mà khởi tùy niệm biệt hành, như trong kinh nói: Đây là Đức Bạc-già-phạm, Như lai Ứng cúng Chánh đẳng giác, cho đến nói rộng.

-     Do sinh phước nên khác nhau là: Phật bảo là nơi loài hữu tình nương phát sinh phước đức trên hết. Còn chánh Pháp bảo, nương vào pháp tăng thượng thì sinh phước tối thắng. Tăng bảo là nơi nhiều hữu tình nương vào mà sinh phước trên hết.

QUYỂN 7

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 3)

Luận chép: Học mười hai thứ phân biệt là:

1.     Phân biệt Sai khác.

2.     Phân biệt Sinh khởi.

3.     Phân biệt thay đổi.

4.     Phân biệt năng trị và sở trị.

5.     Phân biệt dẫn sinh tăng thượng quyết định cao quý.

6.     Phân biệt Thuận pháp.

7.     Bổ-đặc-già-la.

8.     Phân biệt Hạ, trung, thượng.

9.     Phân biệt Du-già.

10.   Phân biệt Tác ý.

11.   Phân biệt Dẫn phát.

12.   Phân biệt Hỏi đáp.

-     Phân biệt Sai khác: Là phân biệt tăng thượng giới học khác nhau trong ba học. Khác nhau như trong kinh nói: Nếu các Bí-sô thành tựu và an trụ trong Thi-la, giữ gìn biệt giải thoát với luật nghi quĩ tắc thì các việc làm trở nên đầy đủ. Đối với tội nhỏ nhặt cũng có lòng kính sợ sâu xa. Lãnh thọ học xứ gọi là đầy đủ giới.

Thành tựu an trụ trong Thi-la nầy nghĩa là đối với học xứ đã thọ, thân nghiệp không phạm, ngữ nghiệp không phạm, không hủy phá không hư tổn. Được vậy, gọi là thành tựu và an trụ trong Thi-la.

-     Giữ gìn Biệt giải thoát luật nghi là Thi-la của bảy chúng gọi là Biệt giải thoát luật nghi, tức là nhiều luật nghi được chế định đều dựa vào sự khác nhau của chúng Thi-la nầy. Ý nghĩa trong ấy là chỉ dựa theo tướng luật nghi của Tỳ-kheo. Đó gọi là giữ Biệt giải thoát luật nghi.-Qui tắc đầy đủ: Là hoặc đối với oai nghi, hoặc đối với việc làm, hoặc đối với phương tiện, tu thiện phẩm trung với phép tắc đầy đủ, sống trong đời, không đi ngược đời, làm theo luật chứ không làm trái luật.

Thế nào là qui tắc đầy đủ trong oai nghi? Sống theo thế gian và không đi ngược với luật đạo, nghĩa là vào lúc, nơi đâu cần làm, thì nên làm như vậy. Tức là đối với lúc nầy, nơi đây thực hành chân chính như vậy, nên không bị thế gian quở trách, chế nhạo và không bị người cùng pháp sự, người thông minh, người chí thiện, người trì luật, người học luật quở trách chế nhạo. Đi đứng, nằm, ngồi cũng như vậy.

-     Thế nào là qui tắc đầy đủ trong việc làm? Sống theo thế gian và không đi ngược với luật đạo, nghĩa là mặc pháp phục, đại tiểu tiện lợi, uống nước, xỉa răng, khất thực trong thôn xóm, trở về thọ thực rồi, rửa bát, cất kỹ, rửa chân, trải tọa cụ. Lại trì bát đắp y và tất cả các việc làm khác cái gì cũng đúng theo pháp, đó gọi là việc làm. Còn như thích ứng với luật nghi, hoặc chỗ nầy, lúc nầy, nên làm gì thì phải làm đúng như luật, vào lúc ấy, nơi ấy, một cách chân chính, nên không bị thế gian quở trách, chế nhạo, không bị người thông minh, người chí thiện chân chính, người đồng pháp, người nghiêm trì giới luật, người học luật chế nhạo quở trách. Đó gọi là đầy đủ việc làm thuận theo, không trái với thế gian và luật đạo.

-     Thế nào là qui tắc đầy đủ trong phương tiện tu thiện phẩm? Sống theo thế gian và không trái với luật đạo? Nghĩa là đọc tụng kinh sách hòa kính sư trưởng, tu tập, kế thừa sự nghiệp, chăm nom, hầu hạ thầy bịnh hoạn hay người khác, cùng khởi tâm thương xót, nói pháp, làm phương tiện tu tập, hỏi han, nghe pháp, siêng năng không biếng trễ. Đối với những người thông minh, đồng phạm hạnh thì cung kính, thờ phụng, khuyến khích người khác tu phẩm thiện, và giảng nói pháp mầu nhiệm cho họ, rồi ngồi kiết già tu tập nơi vắng vẻ. Những việc làm và các pháp lành như vậy, được gọi là phương tiện tu các phẩm thiện. Nếu lúc nầy, nơi đây, nên tu thì lúc ấy, nên tu một cách chân chính như vậy. Vì tu như vậy, nên không bị thế gian quở trách, chê bai và không bị người thông minh, người chí thiện chân chính, người đồng pháp, người nghiêm trì giới luật, người học luật quở trách chế nhạo. Đó gọi là phương tiện tu phẩm thiện, đầy đủ qui tắc, sống theo thế gian, theo luật mà không trái với thế gian và luật đạo. Nếu làm đầy đủ phép tắc như vậy thì gọi là qui tắc đầy đủ.

-     Việc làm đầy đủ là có năm chỗ không phải là nơi Tỳ-kheo đặt chân đến:

1.     Nhà hát xướng.

2.     Nhà dâm nữ.

3.     Nhà nấu rượu.

4.     Cung vua.

5.     Chiên đồ la Yết-sỉ-na và những chỗ khác mà đức Như lai đã nghiêm cấm. Trừ những nơi ấy, nơi khác có thể đến. Những nơi nầy, theo lúc hành xứ đều không có lỗi. Đó gọi là việc làm đầy đủ.

-     Đối với những tội nhỏ nhặt nhưng cũng thấy lo sợ sâu sắc là nếu trái phạm một tội nhỏ xử theo tiểu tùy, tiểu học xứ, phạm rồi nêu bày, đó đều gọi là tội nhỏ.

Lại nữa, nếu phạm tội rồi mà ít dụng công nêu bày đó gọi là phạm tội nhỏ. Còn đối với tội nhỏ nầy, tâm rất lo sợ, chớ nghĩ ta phạm lỗi nhỏ nầy mà không đạt được cái gì chưa đạt, không ngộ được cái gì chưa ngộ, không chứng được cái gì chưa chứng. Chớ nghĩ mình sẽ rơi vào đường ác, làm những việc ác. Cũng chớ khiến sau nầy ta phải ăn năn hối tiếc. Chớ để bậc đại sư, chư thiên, người thông minh, người đồng phạm hạnh dùng pháp quở trách. Cũng đừng để tiếng xấu của mình đồn đãi khắp nơi. Có người thấy pháp hiện tại và mai sau như vậy, nên thờ phụng với tâm miễn cưỡng rồi sinh tâm rất lo sợ. Vì lý do ấy nên đối với tội nhỏ xử theo tội nhỏ, về học xứ cũng vậy, cho đến trường hợp gặp phải hoạn nạn, cũng không hề phạm. Nếu như có chút quên mất, hoặc biết mình đã phạm thì hãy mau phát lồ sám hối ăn năn. Đó gọi là đối với tội nhỏ nhưng hết sức lo sợ.

-     Như thọ học học xứ, trước, khi lãnh thọ biệt giải thoát luật nghi thì từ bốn lần Yết-ma mà thọ giới cụ túc. Xong rồi, lại được nghe giảng thể tánh của học xứ và đối với kinh, biệt giải thoát đã giảng qua một trăm năm mươi học xứ, chỉ một mình tự nguyện rằng: Tôi sẽ học hết tất cả học xứ. Lại từ Ô-ba-đà-da (hòa thượng), A-già-lợi-da (A-xà-lê)và những người bàn luận công cộng, người vấn nạn, người thường gần gũi, người khéo đồng ý, thường nghe những người ấy giảng để học. Lại, mỗi nửa tháng đi nghe kinh biệt giải thoát. Vì lãnh thọ tất cả học xứ như vậy, nên gọi là chứng đắc luật nghi biệt giải thoát. Từ đó trở đi, không được hủy phạm đối với các học xứ đã khéo học. Nếu có phạm thì liền theo pháp mà phát lồ.

Nếu ai trước đây đã thệ nguyện thọ lãnh học xứ mà không khéo học, không thông suốt thì phải thọ lại như trước, là đến chỗ Ô-ba-đà-da, A-già-lợi-da thường thưa hỏi, rồi nghe cho giỏi để sớm thông đạt hiểu thấu.

Như Đức Thế tôn nói mà làm không thêm, không bớt, khéo tu học và không giữ giới một cách lẫn lộn, hoặc bằng bài văn bằng ý nghĩa, cũng thế gọi là thọ học học xứ.

-     Như vậy, đã nói rộng luật nghi Thi-la khác nhau rồi. Nếu nói vắn tắt nghĩa đó, thì ở đó Đức Bạc-già-phạm đã dùng ba thứ tướng để làm sáng tỏ giới uẩn:

1. Tướng không hoại mất.

2. Tướng tự thể.

3. Tướng công đức tự thể.

Trong đây đã nói như trước, về Thi-la thành tựu an trụ. Giờ ở đây là nói về tướng sáng tỏ không hoại mất của Thi-la luật nghi. Sau đó, nói đến cách gìn giữ luật nghi biệt giải thoát. Đây là nói rõ tướng tự thể. Lại nói những việc làm đầy đủ mang tính mẫu mực. Đây là làm sáng tỏ biệt giải thoát luật nghi mình đã lãnh thọ. Phải xem xét tướng công đức, danh xưng tăng thượng của người khác. Vì sao? Vì họ đã nhìn thấy tướng của việc làm đầy đủ mang tính khuôn mẫu nầy. Việc ấy, khiến ai chưa tin thì tin, ai đã tin rồi thì giúp niềm tin của họ lớn mạnh thêm. Do làm chỗ nương cho ai chưa tin thì phát lòng tin, cho nên tâm không dám coi thường hủy phạm, nên tiếng tốt đồn xa. Nếu không làm như vậy, thì cho dù có đầy đủ Thi-la, nhưng việc làm vẫn là thiếu khuôn mẫu, vì không thấy được đức tốt tăng thượng đáng khen của người khác. Nếu đi ngược lại việc nầy cũng không có lỗi.

Câu nói sau là: "Đối với những tội nhỏ nhưng cũng thấy lo sợ sâu xa đối với thọ học và học xứ", câu ấy đã chỉ dẫn sáng tỏ là ta phải biết xem xét tướng công đức danh xưng tăng thượng đáng khen của mình. Vì sao? Vì dù việc làm đầy đủ mang tính khuôn mẫu, xem xét thấy tướng công đức danh xưng tăng thượng đáng khen của người khác, nhưng mình đã hủy phạm Thi-la. Do nhân duyên ấy mà đọa vào đường ác hoặc không chịu được mà chưa được những gì chưa được, giác ngộ những gì chưa giác ngộ, chứng nhập những gì chưa chứng nhập. Nếu người nào vẫn còn tâm sợ lo đối với tội nhỏ nhặt huống chi là tội nặng phẩm thượng. Lại thọ học học xứ nhờ nhân duyên ấy sau khi chết được sinh về đường lành. Và còn có khả năng chứng đắc những gì chưa chứng đắc, giác ngộ những gì chưa giác ngộ, chứng nhập cảnh giới chưa chứng nhập. Vì nhân duyên ấy nên gọi là Thi-la luật nghi, xem xét tướng công đức danh xưng tăng thượng đáng khen của mình.

Hơn nữa, trong đây Đức Bạc-già-phạm làm sáng tỏ ba tánh của Thi-la là:

1. Tánh Thọ Thi-la.

2. Tánh Xuất ly Thi-la.

3. Tánh Tu tập Thi-la.

Đầu tiên nói về thành tựu Thi-la và an trụ trong đó, làm sáng tỏ thọ tánh Thi-la, kế là nói giữ biệt giải thoát luật nghi, làm sáng tỏ tánh xuất ly của Thi-la. Vì sao? Vì Thi-la thuộc về biệt giải thoát luật nghi, gọi là giới học tăng thượng, và tuệ học tăng thượng. Nhờ tu tâm học tăng thượng và tuệ học tăng thượng nầy, nên người tu hành có đủ khả năng lìa hẳn các đau khổ. Lìa khỏi như vậy, trước phải nương vào Thi-la tu tập sau mới có kết quả đúng hướng. Thế nên, biệt giải thoát luật nghi được gọi là tánh xuất ly Thi-la. Sau, nói về các việc làm đầy đủ mang tính khuôn mẫu, nói đến tội nhỏ nhất, nhưng lòng lo sợ sâu xa đối với thọ học, học xứ. Đây là làm sáng tỏ tánh tu học của Thi-la. Nếu biết nương vào hành tướng như vậy mà tu tập biệt giải thoát luật nghi, thì đó là tu tập khéo tu tập. Như vậy gọi là biết phân biệt chỗ khác nhau của giới học tăng thượng.

-     Tăng thượng tâm học sai khác phân biệt là như thầy Tỳ-kheo lìa khỏi dục xấu, pháp bất thiện rồi có tầm, có tứ, có ly sinh hỷ lạc của Sơ tĩnh lự, an trụ đầy đủ. Rồi lại trong tầm tứ vắng lặng tâm thanh tịnh cùng khắp, một hướng nhắm đến tính không tầm tứ Tam-ma-địa thì sinh hỷ lạc tĩnh lự thứ hai, an trụ đầy đủ. Rồi lại ly hỷ mà an trụ vào xả niệm biến tri nên thân cảm nhận diệu lạc mà bậc Thánh nói là có xả niệm lạc, an trụ tĩnh lự thứ ba đầy đủ an trụ. Rồi cắt dứt diệu lạc bằng cách cắt dứt khổ và làm mất hẳn nỗi vui mừng, lo, cảm thấy không khổ, không vui. Đó là xả niệm thanh tịnh, tĩnh lự thứ tư, được an trụ đầy đủ. Ý nghĩa chỗ khác nhau nầy như trước đã nói, đó gọi là biết phân biệt chỗ khác nhau của tâm học tăng thượng.

-     Tăng thượng tuệ học sai khác phân biệt là như thầy Tỳ-kheo đối với khổ Thánh đế, biết như thật đó là khổ, đối với Tập Thánh đế biết như thật đó là tập, đối với Khổ Diệt Thánh đế biết như thật đó là diệt, đối với Khổ Diệt đi tới Thánh đế, biết như thật đó là con đường tu tập. Đó gọi là biết phân biệt sự khác nhau của tuệ học tăng thượng.

-     Sinh khởi phân biệt là do Thi-la thành tựu, nên không hối tiếc. Từ không hối tiếc phát sinh ý vui. Từ ý vui phát sinh tâm mừng. Từ tâm mừng phát sinh cảm giác thân yên ổn. Từ thân yên ổn nhận được diệu lạc, từ diệu lạc nên tâm định, từ tâm định mà quán sát như thật. Từ quán sát như thật nên phát sinh tâm nhàm chán. Từ nhàm chán mà lìa sự ham muốn. Vì đã lìa khỏi ham muốn nên được giải thoát. Từ giải thoát nên mới tự cho mình chứng giải thoát. Từ đó, phát sinh hiểu biết như thật là: sự sanh tử của ta đã hết, Phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm rồi, không còn thọ thân sau.

-     Phân biệt đổi khác là hoặc có giới học tăng thượng, nhưng không có tâm tăng thượng, không có tuệ tăng thượng, hoặc có giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng, nhưng không có tuệ học tăng thượng, nếu có tuệ học tăng thượng thì sẽ có giới và tâm tăng thượng.

-     Năng trị (chủ thể đối trị), sở trị (đối tượng bị đối trị) phân biệt là giới học tăng thượng để đối trị ngừng dứt phiền não trói buộc. Tâm học tăng thượng để đối trị, điều phục phiền não trói buộc. Tuệ học tăng thượng là dứt hẳn phiền não tùy miên, có khả năng làm phát sinh quyết định phân biệt cao quý, nghĩa là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, có khả năng dẫn đến địa thanh tịnh và làm phát sinh tăng thượng thanh tịnh, tuệ học tăng thượng có khả năng dẫn đến công đức cao quý quyết định xuất thế.

Pháp thuận theo phân biệt là mười pháp thuận theo học:

1.   Nhân trước.

2.   Thuận theo giáo.

3.   Phương tiện đúng lý.

4.   Ân cần coi trọng việc tu không để xen hở.

5.   Dục lạc mạnh mẽ.

6.   Sức tu trì gìn giữ.

7.   Thân, tâm thô nặng được nghỉ yên.

8.   Thường quán sát.

9.   Không sợ hãi.

10. Không có tăng thượng mạn.

-     Nhân trước là căn tánh đời trước đã thành thục và căn tánh ngày nay đã thành tựu đầy đủ.

-     Thuận theo giáo pháp là, không trái với thứ lớp giáo pháp.

Phương tiện như lý là tu hành đúng lời Phật dạy, cứ tu tập như vậy thì chánh kiến phát sinh.

-     Ân cần coi trọng việc tu không cho xen hở là khi tâm vận dụng phương tiện như vậy, không để thời gian trôi qua luống uổng. Tu tập phẩm thiện một cách chí thành, mau chóng làm phát sinh phẩm thiện.

-     Dục lạc mạnh mẽ là đối với giải thoát tăng thượng, sinh tâm ưa thích muốn chứng ngộ. Tự nghĩ: đến một lúc nào đó, ta sẽ chứng mà cùng an trụ đầy đủ với Thánh chúng.

-     Sức tu trì gìn giữ là có hai nhân giúp ta sức tu trì gìn giữ:

1. Tâm trí khôn lanh.

2. Do tu tập trải thời gian lâu dài, thuần thục.

-     Thân, tâm thô nặng được nghỉ yên là thân mệt nhọc mà khởi thân tâm trì trệ nặng nề cho cả thân và tâm thì phải đổi oai nghi cho phấn chấn khiến thân tâm được nghỉ yên. Nếu thân tâm nặng nề do quá nhiều tầm tứ (tìm tòi suy gẫm) thì phải sửa lại cho bên trong vắng lặng khiến được nghỉ yên. Nếu thân, tâm bị trì nặng xuống do hôn trầm bao vây, do gom ý thâu nhiếp tâm quá mạnh thì phải dùng tuệ mà quán xét và tác ý thanh tịnh thêm lên, sẽ khiến thân, tâm lắng yên. Nếu bởi tự tánh chưa dứt hết phiền não, xuôi theo nó là cho thân, tâm nặng nề, đeo đuổi mãi thì tu theo Thánh đạo để được nghỉ yên.

-     Thường quán sát là nương vào Thi-la mà thường quán xét, việc làm ác, việc làm thiện đều biết rõ như thật. Không lìa bỏ việc, không làm ác. Lìa bỏ việc không làm thiện, lìa bỏ việc làm ác, không lìa bỏ việc làm thiện. Nhờ sức quán xét tác ý tăng thượng nên thường quán sát mà biết phiền não đã dứt bỏ hay chưa. Nếu biết mình đã dứt nó thì sinh tâm vui mừng. Nếu biết chưa dứt nó thì vẫn thường tu tập đối trị.

-     Không khiếp sợ là phải biết, phải suy nghiệm bất cứ lúc nào. Bởi không biết, không suy nghiệm, không chứng nhập được pháp nên sinh tâm lo sợ. Tâm có suy yếu, có trống trải, thiếu thốn, cứ thường sinh sôi như vậy, phải dùng tâm không chấp trước xua tan tâm kia đi.

-     Không có tăng thượng mạn là phải lìa tăng thượng mạn, không cố chấp một cách điên đảo về sở đắc, sở ngộ, sở chứng. Được pháp gì biết là được pháp ấy. Ngộ điều gì biết là ngộ pháp ấy. Chứng pháp gì biết là chứng pháp ấy.

Mười pháp lạc như vậy, giúp người tu hành chân chính, các học xứ, ở đầu, chặng giữa và sau cùng đều thuận theo học xứ, nên gọi là thuận theo học pháp. Trong mười pháp nầy, dẫn đầu là thuận theo tăng thượng giới học cao quý, còn chín thứ kế đó là thuộc về thuận theo tăng thượng tâm học, tăng thượng tuệ học cao quý.

-     Bổ-đặc-già-la phân biệt: là ba học nầy chung cho cả phàm phu và bậc chánh trí.

-     Phẩm hạ, trung, thượng phân biệt là do công hạnh và phương tiện.

Do công hạnh là khổ trì thông hạnh gọi là học phẩm dưới. Khổ tốc thông hạnh và lạc trì thông hạnh là học phẩm giữa. Lạc tốc thông hạnh là học phẩm ở trên.

-     Do phương tiện là người không ân cần coi trọng phương tiện và tu tập phương tiện không xen hở đều gọi là học phẩm dưới. Người theo một phương tiện tu hành thì gọi là học phẩm giữa. Người có đủ hai phương tiện tu hành thì gọi là học phẩm trên.

-     Du-già phân biệt là nương vào bốn thứ Du-già chánh học học xứ:

1. Tín.

2. Dục.

3. Chánh cần.

4. Phương tiện.

-Tín là hai hành tướng và hai chỗ dựa. Hai hành tướng là hành tướng khả nhẫn, và hành tướng thanh tịnh. Hai chỗ dựa là:

1. Chỗ dựa của quán pháp đạo lý.

2. Chỗ dựa của người tin hiểu oai đức.

-Dục, có bốn thứ:

1. Vì muốn chứng đắc.

2. Vì muốn vấn luận.

3. Vì muốn chứng tư lương.

4. Vì muốn có phương tiện tu tập.

-     Vì muốn chứng đắc là như hành giả muốn chứng ngộ cảnh an vui giải thoát, nói rộng như trước.

-     Vì muốn hỏi luận là có tâm muốn chứng ngộ, liền đến chỗ các vị đang ở trong Già-lam, là người có hiểu biết, bạn đồng Phạm hạnh, vị chánh hạnh trí, hỏi đạo nào chưa nghe để được nghe, khi nghe rồi tâm hồn vị hành giả trở nên trong sạch sáng tỏ.

-     Vì muốn chứng tư lương là như có người tu hành muốn chứng được nguồn an vui trong Thi-la luật nghi thanh tịnh, trong ăn uống tiết độ, trong phương tiện giác ngộ, trong chánh tri an trụ, và trong tiến bộ hơn nữa.

-     Vì muốn có phương tiện tu tập là người tu hành muốn chứng được nguồn an vui trong phương tiện không xen hở, trong ân cần coi trọng phương tiện, trong tu chánh đạo.

-     Chánh cần là có bốn thứ chánh cần:

1. Vì được nghe pháp.

2. Vì được suy nghĩ.

3. Vì tu tập.

4. Vì làm sạch các ngăn che.

-     Vì được nghe pháp là nghe những gì mình chưa được nghe, nghe rồi thì tâm hồn trong sạch sáng tỏ. Tự thúc đẩy tâm mình tu tập phương tiện học xứ chưa được giao phó.

-     Vì được suy nghĩ là như người được nghe giáp pháp rồi, liền đến chỗ thanh vắng ở một mình mà suy nghĩ xét lường về ý nghĩa những lời dạy ấy.

-     Vì được tu tập là ở trong tịnh thất thường tu tập chỉ quán.

-     Vì làm sạch các ngăn che là vì làm sạch các che lấp nên đêm ngày đi kinh hành, ngồi thiền, thúc đẩy tâm mình tu tập phương tiện học xứ chưa được giao phó.

-     Phương tiện cũng có bốn thứ:

1.     Giữ gìn Thi-la, giữ gìn các căn. Nhờ ở sức tăng thượng giữ gìn các căn, khiến các căn, khéo an trụ vào chánh niệm luật nghi. Do khéo ở yên trong chánh niệm nên không còn buông lung.

2.     Giữ gìn tâm tu tập pháp lành. Do không buông lung nên tâm bên trong tương ưng với chỉ tuệ quán được lớn mạnh mà quán xét các pháp.

3.     Bốn thứ Du-già Cũng thế chia thành mười sáu hành, trong đó do lòng tin. Vì tin nên được nghĩ sẽ chứng đắc nên khởi tâm mong muốn tu pháp lành. Từ chỗ ham tu pháp lành mà siêng năng suốt đêm ngày, đứng vững trên sự hăng hái mạnh mẽ.

4.     Từ siêng năng chân chính nên nhiếp tu phương tiện khiến đạt được những nghĩa mà mình chưa đạt, ngộ được nghĩa chưa ngộ, chứng được nghĩa chưa chứng, nên gọi bốn pháp ấy là Du-già.

-Tác ý phân biệt là thấu tỏ tướng v.v… có bảy thứ tác ý. Tác ý thấu tỏ tướng là do tác ý mà thấu suốt tướng thô của cõi Dục và tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự. Thế nào là thấu suốt tướng thô của cõi Dục? Là sáu thứ Tầm, Tứ lỗi của các dục:

1. Nghĩa.

2. Sự.

3. Tướng.

4. Phẩm.

5. Thời.

6. Đạo lý.

-     Nghĩa tầm tứ là tìm tòi suy nghĩ lỗi của ham muốn, nó sinh ra biết bao vướng víu bậc bội, biết bao bệnh dịch, biết bao tai nạn ngang trái. Ham muốn gây ra nhiều hoạn nạn như vậy. Cho đến gây ra những tai nạn ngang trái.

Đó là suy nghĩ thấy được theo nghĩa cạn.

-     Sự là hoặc ham muốn sinh bên trong, hoặc ham muốn nổi dậy do bên ngoài.

-     Tướng tầm tư là suy nghĩ tìm tòi tự tướng và cộng tướng của nó. Tìm tòi suy nghĩ về tự tướng, đây chính là phiền não ham muốn, là sự tướng của ham muốn. Những nỗi ham muốn thuận theo dục lạc, hoặc thuận theo các khổ, hay còn thuận theo tâm trạng không khổ, không vui. Thuận theo dục lạc là vì dục lạc là chỗ nương của ham muốn, cũng là chỗ nương của giận dữ và chỗ nương của tâm phẫn uất thù hận. Thuận theo tâm trạng không vui, không khổ là vì nó là chỗ nương của các tâm lý giấu giếm, gieo tổn hại, lừa dối, dua nịnh, không hổ, không thẹn, và nó cũng là chỗ nương của những quan niệm trái ngược. Những ham muốn như vậy, hoặc tùy hành động mà nhận lãnh hậu quả bạo ác, hoặc tùy hành động mà nhận lãnh hậu quả không bạo ác. Cũng thế gọi là chính sự suy tìm nghĩ về lỗi của các ham muốn.

Cộng tướng là suy nghĩ tìm tòi thấy ham muốn dẫn đến bao khổ hận vì mong cầu không đạt được, v.v... Nó cứ đeo đẳng mãi, trói buộc đều đặn như vậy.

-     Thọ dụng ham muốn là mặc dù các ham muốn là bao la và tràn ngập nhưng cũng phải biết cho rõ pháp sinh là khổ. Cái ham muốn tràn ngập và bao la kia thay đổi từng lúc, tan đi từng hồi. Như vậy, gọi là suy nghĩ về tướng chung của các ham muốn.

-     Tầm tư phẩm loại là suy nghĩ về các thứ ham muốn rơi vào chỗ đen tối. Nó như vòng xích nối kết xương khô, như cục thịt nhơ bẩn, như lửa cháy lan trên cỏ, như một chút lửa trong tro, như rắn mãng xà độc hại, như những gì thấy trong chiêm bao, như đồ trang sức mượn của kẻ khác, như leo lên cây hái trái mà ngã chết.

Lại nữa suy nghĩ về các hữu tình, họ nhận lấy khổ não, nó là kết quả của tâm đeo đuổi mong cầu. Họ chịu khổ do thân ái mà bị chia lìa. Họ chịu khổ do tâm ham muốn không bờ bến, chịu khổ vì không được tự tại, chịu khổ do việc làm ác của họ.

Lại nữa, Đức Bạc-già-phạm nói: "Ta nói cứ quen gần với ham muốn thì mắc năm lỗi là:

1.     Ham muốn rất ít ý nghĩa.

2.     Quen gần với ham muốn thì chịu nhiều khổ não, hoạn nạn.

3.     Quen gần với ham muốn thì không biết chán, không biết đủ, không dừng, không ngơi.

4.     Quen gần với ham muốn thì phiền não tăng lên.

5.     Quen gần với ham muốn thì không việc ác nào không làm".

Lại nữa, các người thông minh chánh chí, hiền dùng vô lượng pháp môn để chê trách tội lỗi của ham muốn, nghĩa là các ham muốn cứ thêm đắm nhiễm, không biết nhàm chán. Các ham muốn đều có cùng một tính chất là trái với chánh pháp. Các việc làm ác là nhân tố làm gia tăng tâm ham muốn ái kết. Trong khi đó, người có trí xa lìa bằng cách mau chóng phá trừ. Các ham muốn đều dựa vào chỗ buông lung, tính chất của nó là vô thường, là trống rỗng, là giả dối, là pháp gạt gẫm, như ảo thuật biến hóa, chỉ làm mờ tối, gạt gẫm kẻ ngu. Các ham muốn dưới đất nầy, tất cả đều là những việc làm của ma, chỗ yên thân của ma.

Lại, từ chỗ ham muốn đó, mà tâm sinh biết bao pháp ác, bất thiện, là các pháp tham, sân, hận nó là những thế lực chướng ngại. Lúc đệ tử bậc Thánh tu học các học xứ thì các tham sân hận kia chướng ngại. Từ biết bao lầm lỗi khác nhau ấy mà suy tư tìm thấy ham muốn là rơi vào chỗ đen tối. Như vậy, gọi là phẩm loại tầm tứ.

-     Tầm tư theo lúc là suy nghĩ về biết bao hoạn nạn do ham muốn gây ra với các khổ não chồng chất, các hoạn nạn ngang trái cứ nối nhau đi mãi không dứt từ quá khứ sang hiện tại tới tương lai. Đó gọi là tầm tứ theo thời gian.

-     Tầm tư đạo lý là các ham muốn có ra là do tham nhiều của cải, ham mê tìm kiếm mãi, nên rất mệt nhọc. Lại do, ham muốn càng được lớn thêm bởi những việc làm đủ các nghề được thành lập nhiều nơi. Mặc dù những của cải đời sống bên ngoài tăng thêm như vậy, nhưng các hành là vậy, là sẽ tan biến một cách mau lẹ. Và ham muốn kia còn dính đến nghiệp gây ra do cha mẹ, vợ con, tôi tớ, bạn bè, đồng liêu, anh em, bà con. Mặc dù vòng thân ái kia nhóm họp, nhưng sẽ không bao lâu thì tan biến hết.

Lại nữa, thân thô kệch nầy, do bốn đại cấu thành, nhờ cơm mà lớn lên, thường thải ra bao chất dơ, rồi tắm gội xoa nắn v.v… dù tạm thời, trong đời có lo chống lại các đau khổ, nhưng rốt cuộc nó cũng là một hiện tượng bị tan biến. Vì chống khổ về đói khát nên phải ăn uống. Vì chống khổ não về nóng, lạnh, vì che đậy chỗ đáng xấu hổ nên may nhiều áo quần. Vì chống cái khổ bị ngủ nghỉ vây ngặt và vì chống lại cái khổ về mệt nhọc đi đứng, nên phải có giường chiếu, đồ dùng. Vì chống các khổ về bịnh tật, nên phải có thầy, có thuốc. Như vậy các ham muốn đều là vì chống khổ. Ta không nên ham mê. Như trường hợp bịnh phải lấy thuốc trị, ta phải nương vào Thánh giáo mà suy nghĩ về tướng thô của ham muốn là như vậy, như vậy. Hoặc nhờ hiểu biết bên trong mà biết được, hoặc nhờ suy nghĩ xuôi theo đạo lý mà biết được, hoặc suy nghĩ tới bản tính của các ham muốn ấy, nên đạt thành tựu pháp nhĩ là như vậy, từ xưa đến nay. Không suy nghĩ luận bàn những gì không nên phân tích, luận bàn đến. Như thế, gọi là tầm tư đạo lý.

Sáu điều như vậy, biết rõ về tướng thô của ham muốn đã nói xong.

Lại nữa, phải thấu rõ tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự. Nghĩa là trong Sơ tĩnh lự không có tướng quá thô nặng như ở cõi Dục. Do lìa khỏi tướng ham muốn thô bỉ như vậy, nên gọi là tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự. Như vậy, gọi là biết rõ tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự. Do tác ý từ trong định nên biết rõ tướng thô của cõi Dục, và tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự. Gọi là Tác ý thấu rõ tướng. Trong đó, cũng xen lẫn nghe, suy nghĩ, nên biết.

Tác ý thắng giải là như tác ý tương ưng với tầm tứ biết rõ được tướng thô của cõi Dục và tướng vắng lặng của Sơ tĩnh lự, không bị xe lẫn vì nghe, suy nghĩ, mà là thuần nhất dựa vào tướng thô và vắng lặng mà tu tập vượt bậc bằng hiểu biết, là tu tập chỉ quán. Khi tu chỉ quán như đã suy nghĩ về tướng thô, vắng lặng khởi lên sự hiểu biết vượt cao. Đó gọi là tác ý thắng giải.

-     Tác ý xa lìa là thường tu tập chủng loại nầy, vì muốn cắt dứt phiền não ban đầu, nên đã lập phương pháp đối trị và phương pháp cắt dứt phiền não. Phương pháp có năng lực đối trị với tác ý câu sinh gọi là tác ý xa lìa.

-     Tác ý nhiếp lạc là đã cắt dứt phiền não phần đầu của cõi Dục, và đã lìa khỏi phần thô nặng của nó so với phẩm vượt trội sau nầy. Nhờ cắt dứt và lìa khỏi phiền não mà khởi lên vui mừng. Lại bởi cắt đứt phiền não ô nhiễm mà thấy công đức vượt trội, chứng được một chút hỷ lạc do xa lìa, lúc nào cũng tự vui với những tác ý vượt cao, thanh tịnh. Tác ý với sự bao gồm niềm vui ấy dứt trừ sự vây hãm của hôn trầm chao đảo. Đó gọi là tác ý nhiếp lạc.

-     Tác ý quán sát là tu với niềm vui chân chính, vui với sự cắt đứt được phiền não, tu tập rồi thì được chống đỡ bằng phương tiện phẩm thiện. Khiến cho các trói buộc của phiền não ở cõi Dục không còn hiện hành nữa ngay cả trong khi đi đứng. Tu hành như vậy, còn phải nghĩ rằng: trong thân ta còn tham dục hay không, và đối với các cảnh ham muốn còn chấp thọ hay không?

Dù tự quán xét bằng cách suy nghĩ vào một tướng thanh tịnh cao vời, nhưng hành giả ấy, vẫn chưa dứt hết tùy miên. Do đó, khi suy nghĩ về tướng thanh tịnh như vậy, bị xuôi theo tập nhiễm, hướng đến tập nhiễm, đi đến tập nhiễm nên không còn nắm chắc niệm buông lìa không nhàm chán, làm hư chỗ ngăn cấm của luật, và làm trái lại. Rồi, hành giả tự biết như vầy. Đối với các ham muốn tâm ta chưa chính thức xa lìa, ta chưa được giải thoát. Các việc làm ham muốn đã trói buộc tâm ta. Như cách giữ nước, ta quyết định tu tập phương cách đối trị gấp hai lần, khiến tùy miên phải dứt, không còn sót. Vui mừng gấp bội vì khéo tu, khéo dứt trừ phiền não. Đó gọi là tác ý quan sát.

-     Phương tiện rốt ráo tác ý là: Tu tập gấp đôi thượng phẩm lạc vì vui mừng dứt được phiền não cho nên tu chỉ quán song hành, thường quán xét. Hành giả tu tập đối trị như vậy là thường hay quán xét cắt đứt những gì còn vướng víu, khiến tâm lìa các trói buộc của phiền não cõi Dục. Nhưng đó mới chỉ làm cho nó giảm bớt thôi chứ chưa phải là đã lìa hẳn, chưa phải đã nhổ tận gốc. Bấy giờ, người tu hành chứng được phương tiện đạo rốt ráo của Sơ tĩnh lự, là tác ý đối trị tất cả phiền não. Đó gọi là tác ý phương tiện rốt ráo.

-     Tác ý về quả phương tiện rốt ráo là từ đây trở đi tu tập không xen hở và bởi nhân duyên trước mà chứng nhập định căn bản Sơ tĩnh lự. Căn bản Sơ tĩnh lự nầy đều sinh tác ý, gọi là tác ý về quả phương tiện rốt ráo. Trong Sơ tĩnh lự, có bảy thứ tác ý. Như vậy, tĩnh lự thứ hai, thứ ba, thứ tư cho đến Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ định như tác ý đã tương ưng nhau đều nên biết.

Lại nữa, tướng thô là đối với tất cả cõi dưới. Từ cõi Dục cho đến Vô sở hữu xứ, lược có ba thứ, các pháp ở cõi dưới dễ khiến nhàm chán lìa bỏ, nên biết.

1. Cực khổ trụ tính.

2. Cực bất vắng lặng trụ tính.

3. Cực đoản thọ trụ tính.

-Dẫn phát phân biệt: Có bốn thứ dẫn phát:

1. Quả dẫn phát.

2. Lìa dục dẫn phát.

3. Chuyển căn dẫn phát.

4. Thắng đức dẫn phát.

-Hỏi đáp phân biệt: Có vô lượng môn hỏi đáp phân biệt, nay chỉ làm sáng tỏ một chút.

Hỏi: Thế nào là tăng thượng giới học thanh tịnh và không thanh tịnh?

Đáp: Có mười nguyên nhân khiến giới không thanh tịnh là:

1.     Đầu tiên là thọ lãnh Thi-la luật nghi không đúng pháp.

2.     Lòng dạ rất tối tăm.

3.     Tâm ý trôi nổi phân tán.

4.     Thuộc về buông lung, biếng nhác.

5.     Phát sinh nguyện tà.

6.     Thuộc về sai phạm khuôn phép.

7.     Thuộc về sai phạm tà mạng.

8.     Rơi vào hai bên.

9.     Không thể ra khỏi.

10.   Trái với giới đã thọ.

-     Đầu tiên, thọ Thi-la luật nghi không đúng pháp là: Như có người trốn bị vua ép ngặt, hay có người trốn giặc vây khốn, hay có người trốn chủ nợ vây khốn, hay người bị nổi lo sợ vây khốn, hay người lo sợ không sống nỗi mà xuất gia thọ giới, nên họ xuất gia nào phải vì tu Thánh đạo, nào phải vì Phạm hạnh thanh tịnh, nào phải vì tự làm chủ lấy mình, nào phải vì vắng lặng, nào phải vì tự chứng Niết-bàn. Tất cả hạng xuất gia như vậy vì thọ Thi-la luật nghi không đúng phép.

-     Lòng dạ tối tăm: như có người không biết hổ, không biết thẹn, tâm ăn năn quá kém, tính tình chậm chạm, đối với các học xứ tu học qua ngày. Đó gọi là lòng dạ tối tăm.

-     Tâm ý trôi nổi phân tán: như có người cố chấp hẹp hòi, thấy sai làm nào đó, sinh tâm ăn năn. Đối với việc không cần ăn năn nhưng lại ăn năn. Đối với sự sai lầm của kẻ khác thì xúc phạm khinh khi, sinh tâm làm tổn hại họ, họ quen sống mãi với lối ấy, nên gọi là tâm ý trôi nổi phân tán.

-     Bị buông lung, biếng nhác chi phối: như có người trái phạm giới cấm ở đời quá khứ, rồi quên mất nên bất sinh đối trị đúng pháp. Như vậy, trong đời nầy và mai sau lại phạm, nhưng bởi quên mất nên bất sinh tâm đối trị đúng pháp. Trước là không ham mê kích động cho nên không hề phạm giới cấm. Người ấy tự bảo: Ta phải thực hành như vậy như vậy, và an trụ như vậy như vậy, như điều mình nên làm và như điều mình nên an trụ, khiến không có những trái phạm nào.

Lại nữa, thực hành như vậy, an trụ như vậy, rồi có thể phạm, đưa đến hủy phạm. Thời gian phạm là trước, giữa, sau, nhưng ngay thời gian đầu y sai phạm là bởi theo việc làm lúc ấy. Điều ấy, chứng tỏ buông lung.

Lại có người lăn vào ngủ vùi và nằm chơi, cho đó là an vui mà sa đà biếng nhác, không ưa tu tập. Không chịu đem thân hầu người trí, người Phạm hạnh. Như vậy, gọi là thuộc về buông lung, biếng nhác.

-     Phát khởi nguyện tà: như có người phát ý nguyện tà vạy, cho là nay tôi tu Phạm hạnh, tu giới cấm Phạm hạnh để được làm chủ cõi trời, hay làm các vị trời khác, hoặc ưa dục lạc, lợi dưỡng, cung kính chạy theo người để mong cầu lợi dưỡng và sự tôn kính. Hoặc chỉ mong được lợi dưỡng cung kính. Làm như vậy, gọi là phát khởi nguyện tà.

-     Gồm nhiếp các sai phạm về khuôn phép: như có người đối với oai nghi hay đối với việc làm, đối với phương tiện, tu thiện phẩm trung, như ở trước đã nói, thì các việc họ làm đều trái với thế gian, vượt qua luật đạo. Làm như vậy, gọi là thâu nhiếp các sai phạm về khuôn phép.

-     Gồm nhiếp những sai phạm về tà mạng: như có người mà bản tính ham mê quá lắm và không bao giờ biết đủ, khó thấy lợi dưỡng đâu là đầy đủ. Lại tìm những phương cách trái chánh pháp để kiếm các thứ y phục, ăn uống, đồ nằm ngồi, thuốc men trị bệnh và những thứ tiền của khác. Vì làm sái pháp nên người ấy khoe khoang công đức mình để nhận được y phục thứ ăn uống. Với ý định ấy, nên trước mặt các người thường hiện bày bản tính giả dối, không phải oai nghi thuần túy, giữ cho các căn mình lắng trong, không xao động với ý định để người khác cho là người có đức, để được bố thí và cúng dường, về y phục, thức ăn uống, các đồ nằm ngồi, thuốc men trị bịnh và các thứ tiền của khác cung cấp đủ cho thân.

-     Lại, những người ấy mặt mày hung dữ, nói lời thô bỉ, không biết nể vì, trau tria bộ dạng khoe khoang tên mình, cũng như tộc họ mình. Hoặc có người học rộng, rộng trì pháp với mục đích được lợi dưỡng và cung kính, nên cũng nói pháp cho người khác nghe như Chư Phật và đệ tử Phật đã giảng nói. Hoặc có người tự nói mình là người có công đức để tăng thêm chút ít lợi lộc, hoặc bảo người khác ca tụng tướng lạ của mình, để thâu nhiếp cho nhiều những y phục, thức ăn uống và những tài vật của những Sa-môn khác. Có người, mặc dù y phục không thiếu thốn, nhưng cố ăn mặc rách rưới để ngầm khiến cho các Trưởng giả, cư sĩ biết là mình đang thiếu hụt món ấy, nên bố thí cho ông ta nhiều y phục thứ tốt đẹp nhất. Như y phục, các thứ đồ dùng nuôi sống của những Sa-môn khác, cũng giống như vậy.

Lại nữa, hàng Bà-la-môn, trưởng giả có tâm kính tin, nhưng họ không có những món mà mình muốn, thích, thực sự là họ không có, hoặc có, nhưng họ đang thọ dụng không thể cấp cho, thế mà người tu nầy lại ép nài, trách mắng, xin cho bằng được.

Hoặc có người nhận được món đồ tầm thường thì khinh chê, coi rẻ, bèn đem trả chủ, trước mặt thí chủ, họ nói rằng: "Nầy, thiện nam! Có biết bao thiện nam, thiện nữ khác, so về dòng dõi thì họ là hạng thấp kém, nghèo khổ tiền của, nhưng lại biết đem bố thí những đồ vật tốt vừa ý hết sức như vậy như vậy, huống chi người thuộc dòng dõi cao sang, của tiền giàu có, lại đem những món tồi tệ mà biếu tặng cho ta ư?

Những hành vi nói năng cũng thế là dựa vào oai nghi để làm việc gian trá, hoặc dựa vào phi pháp để nói năng, hoặc dựa vào sự ca tụng để hiện bày tướng lạ, hoặc dựa vào ép ngặt trách mắng, hoặc dựa vào việc so sánh lợi dưỡng để đưa đến cái lợi phi pháp là tìm kiếm y phục, thức ăn uống, dụng cụ nằm ngồi, thuốc men trị bịnh cũng như các tiền của khác. Những thứ có được không đúng pháp nên gọi là tà mạng. Cũng thế gọi là những trái phạm thuộc về tà mạng.

-     Rơi vào hai bên: như có người tham đắm việc thọ nhận đồ người cúng dường, những mong muốn các thứ tốt đẹp ấy khiến người khác đem cho y phục đồ đạc hoặc đúng pháp hay không đúng pháp, không thấy tội lỗi, không biết xuất ly nên mới thọ dụng như vậy. Đó gọi là nhất biên.

Lại, như có người tu khổ hạnh bằng cách dùng nhiều hình thức để làm cho thân chịu nỗi đau đớn hết sức như nung nấu. Nhận lời thực hiện biết bao giới cấm khổ nhọc như nằm trên gai nhọn, như vùi mình vào đống tro, hoặc đứng trên chày, đứng trên tấm ván, hoặc gối trên đầu lâu, hoặc ngồi xổm một chỗ, hoặc ngồi chòm hõm không nhúc nhích, hoặc thờ lạy thần lửa mỗi ngày ba lần. Hoặc dầm mình trong nước mỗi ngày ba lần. Hoặc đứng nhón một chân, mắt nhìn mặt trời di chuyển. Những việc làm ấy và những thứ khổ hạnh khác, đó là một bên thứ hai, nên gọi là rơi vào hai bên.

-     Không thể xuất ly: như có người cố chấp Thi-la và các giới cấm khác, cho rằng chỉ cần tu tập giới cấm theo Thi-la sẽ được giải thoát thanh tịnh, ra khỏi sinh tử.

Lại có người cố chấp như giới của ngoại đạo cho mình đã giữ được điều thiện thanh tịnh thì sẽ được giải thoát thanh tịnh, xuất ly. Như thế, hai lối giữ giới ấy không phải rốt ráo thanh tịnh nên không thể lìa khỏi sinh tử, gọi là không thể xuất ly.

-     Trái, vượt giới đã thọ: Là như có người hoàn toàn không có tâm xấu hổ, chưa bao giờ biểu lộ lòng mến tiếc nghi phạm của Sa-môn, nên gây ra các điều ác, trái với giới cấm. Bên trong mang tâm mục rã, sống với lối thấp hèn, như trùng ốc sên, như chó chạy theo tiếng tù và chẳng phải Sa-môn xưng là Sa-môn, không phải Phạm hạnh xưng là Phạm hạnh. Cũng thế gọi là trái, vượt giới đã thọ. Do mười nguyên nhân ấy mà giới học tăng thượng không được thanh tịnh, trái lại là thanh tịnh.

-     Nghĩa của tịnh và bất tịnh của tâm học tăng thượng là như thanh tịnh tĩnh lự mà trong phẩm thâu nhiếp Sự đã nêu. Lại do thanh tịnh ấy mà tuệ học tăng thượng, nên biết. Cũng vậy, các thứ hỏi đáp phân biệt là vô lượng, vô biên, chỉ căn cứ vào nghĩa, nên biết.

-     Bồ-đề có chia ra năm thứ là:

1. Chủng tính.

2. Phương tiện.

3. Thời.

4. Chứng giác.

5. Giải thoát.

-     Chủng tánh là Bồ-đề Thanh văn nương vào chủng tính chậm lụt. Bồ-đề Độc giác nương vào chủng tính trung căn. Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nương vào chủng tánh lợi căn.

-     Phương tiện, là Bồ-đề Thanh văn do thực hành sáu xứ làm phương tiện khéo léo. Bồ-đề Độc giác phần nhiều do hành sâu pháp duyên khởi làm phương tiện khéo léo. Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác do năm minh xứ làm phương tiện khéo léo.

-     Thời gian, là Bồ-đề Thanh văn ít nhất phải tu hành ba đời mới chứng đắc. Bồ-đề Độc giác do tu hành trăm đại kiếp mới chứng đắc. Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác do tu hành ba đại kiếp A-tăng-xí-da mới chứng đắc.

-     Chứng giác, là Bồ-đề Thanh văn do thầy mà chứng giác. Bồ-đề Độc giác chỉ thệ nguyện lợi mình, không có thầy mà chứng giác. Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề tự lợi, lợi tha, không có thầy mà chứng giác.

-     Giải thoát, là Bồ-đề Thanh văn và Bồ-đề Độc giác chứng chuyển y giải thoát khỏi chướng phiền não, thuộc về thân giải thoát. Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã chứng chuyển y, giải thoát tất cả chướng phiền não, chướng sở tri, thuộc về thân giải thoát và thuộc về pháp thân.

QUYỂN 8

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 4)

Cũng thế phân biệt nghe ba quy y, v.v… đã xong.

Lại nữa, Tụng rằng:

Hạnh Thánh thừa vô thượng,
Công đức đại Bồ-đề,
Dị luận, luận pháp thích.
Nên biết đều nhiều thứ.

Luận chép: Hạnh Thánh có nhiều thứ: là có bốn hạnh Thánh:

1. Hạnh đến bờ kia.

2. Hạnh Bồ-đề phần.

3. Hạnh thần thông.

4. Hạnh thành thục hữu tình.

-     Hạnh đến bờ kia: như trước đã nói, mười pháp Ba-la-mật đa, đó gọi là hạnh đến bờ kia.

-     Hạnh Bồ-đề phần là như trước đã nói, về ba mươi bảy pháp giác phần như Bốn niệm trụ v.v… cùng bốn thứ tầm tứ, bốn thứ như thật biến tri. Đó gọi là hạnh Bồđề phần.

-     Hạnh thần thông là như trước đã nói, sáu pháp thần thông gọi là hạnh thần thông.

-     Hạnh thành thục hữu tình: như trước đã nói, có hai thứ vô lượng:

1. Đối tượng đã điều phục vô lượng.

2. Phương tiện điều phục vô lượng.

Lại có sáu thứ thành thục:

1. Tự thể thành thục.

2. Đối tượng thành thục.

3. Sai khác thành thục.

4. Phương tiện thành thục.

5. Chủ thể thành thục.

6. Tướng đã thành thục.

Đó gọi là hạnh thành thục hữu tình, nên biết.

-Vô thượng thừa có nhiều hạng là có năm hạng Đại thừa:

1. Hạt giống.

2. Hướng nhập.

3. Thứ lớp.

4. Chánh hạnh.

5. Quả của chánh hạnh.

Theo thứ lớp trên, trong địa Bồ-tát có: phẩm chủng tính, phẩm phát tâm, phẩm trụ và các phẩm khác. Đại Bồ-đề được xây dựng từ hai phẩm trên, nên biết. Đại Bồđề có nhiều thứ:

1. Tự tính.

2. Công dụng.

3. Phương tiện.

4. Chuyển.

5. Diệt.

-Tự tính là vượt lên tất cả những gì mà Thanh văn, Độc giác được chuyển y. Tự tính nầy có bốn thứ, nên biết:

1. Sinh khởi y chỉ.

2. Bất sinh y chỉ.

3. Khéo xem xét kết quả những gì mình biết.

4. Tướng thanh tịnh của pháp giới.

-     Sinh khởi y chỉ là Phật nối tiếp trong đạo xuất thế gian nương vào đạo nầy mà chuyển y mới được sinh khởi, chứ chẳng phải bất sinh khởi. Nếu sinh khởi tách lìa sự chuyển y nầy thì trước khi chưa chuyển y đã phải sinh khởi.

-     Bất sinh y chỉ là tất cả phiền não và tập khí nương vào chuyển y nầy nên không còn sinh khởi nữa. Nếu không như vậy thì trước khi chưa chuyển y, các duyên đã hòa hợp, tất cả phiền não và tập khí đã không bao giờ phát sinh nữa, có thể được.

-     Khéo xem xét quả chân như mà mình biết, là chuyển y nầy khéo thông đạt những gì mình biết, quả chân như thật tế mà mình biết. Nếu không như vậy thì tự thể của Chư Phật lẽ ra tự biết rõ, lẽ ra còn đoạn diệt.

-     Tướng pháp giới thanh tịnh là chuyển y nầy không có các tướng. Nó rất thanh tịnh mà pháp giới sáng tỏ. Nếu không như vậy, thì lẽ ra vô thường, là pháp có thể suy nghĩ bàn luận, nhưng pháp chuyển y nầy là tướng thường trụ, không thể suy nghĩ bàn luận mà pháp không hai đã làm sáng tỏ, nên biết. Tính chất không thể suy nghĩ bàn luận nầy, lại có năm thứ:

1. Tự tánh.

2. Xứ sở.

3. Trụ.

4. Tính một, tính khác.

5. Thành lập những gì đã làm.

-     Tự tính là tính chuyển y nầy là sắc lìa sắc, không thể suy nghĩ luận bàn. Như vậy, tức thọ, tưởng, hành, thức lìa thọ, tưởng hành thức không thể suy nghĩ luận bàn. Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới hoặc tức, hoặc lìa không thể suy nghĩ luận bàn. Nhãn xứ, nhĩ xứ, tỉ xứ, thật xứ, thân xứ, ý xứ hoặc tức, hoặc lìa không thể nghĩ bàn. Hoặc có hoặc không, không thể suy nghĩ bàn luận.

-     Xứ sở: là tính chuyển y nầy hoặc ở cõi Dục, hoặc lìa cõi Dục, không thể nghĩ bàn. Hoặc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc lìa cõi Sắc, cõi Vô sắc, không thể nghĩ bàn. Ở các thế giới trong mười phương hoặc ở hoặc lìa, không thể nghĩ bàn.

-     Trụ là chuyển y nầy an trụ Cũng thế, Cũng thế, tướng mạo an vui trụ, không thể nghĩ bàn. Cũng thế an trụ vào tướng Xa-ma-tha, không thể nghĩ bàn. An trụ có tâm, trụ không thể nghĩ bàn. An trụ không có tâm, an trụ không thể nghĩ bàn. Như thế an trụ tướng mạo Phạm thiên, như thế an trụ không thể nghĩ bàn.

-     Tính một, tính khác là tất cả Chư Phật cùng ở chung trong thế giới vô lậu. Tính một, tính khác, không thể nghĩ bàn.

-     Thành lập những gì đã làm, là thể tính Chư Phật Như lai đều bình đẳng trí tuệ, oai đức, thế lực đều bình đẳng, cùng chung ở trong thế giới vô lậu, nương, chuyển y là vì muốn đem lợi ích cho các hữu tình, nên thành lập những việc lợi ích cho hữu tình như thế, như thế không thể nghĩ bàn. Ở đây lại có hai nhân duyên không thể nghĩ bàn, nên biết.

1.     Vì nghĩa lìa lời nói, vượt khỏi đường ngôn ngữ, nên không thể nghĩ bàn.

2.     Vì nghĩa xuất thế gian thế gian không sánh nổi, không thể nghĩ bàn.

-Công dụng là nói lược có mười thứ lớp tại gọi là công dụng, mười thứ tự tại là 1. Sống lâu tự tại.

2.   Tâm tự tại.

3.   Các đồ dùng tự tại.

4.   Nghiệp tự tại.

5.   Sanh tự tại.

6.   Nguyện tự tại.

7.   Thắng giải tự tại.

8.   Thần biến tự tại.

9.   Trí tự tại.

10. Pháp tự tại.

-Phương tiện là nói lược có bốn thứ biến hóa gọi là phương tiện:

1.     Người chưa thành thục thì giúp cho họ thành thục, hiện các việc Bồ-tát hành xứ làm việc biến hóa.

2.     Người đã thành thục thì giúp cho họ đạt giải thoát. Đối với Tam thiên đại thiên thế giới, trăm Câu-chi châu Thiệm-bộ, cùng lúc hiển hiện biến hóa của Như lai. 3. Với phương tiện nhiếp thọ Thanh văn biến hóa.

4. Vì Như lai đã điều phục hữu tình, hiển hiện tất cả biến hóa của Độc giác. Phật, Bạc-già-phạm, với tác dụng biến hóa không gì chướng ngại đối với bốn thứ biến hóa nầy cho các thế giới ở mười phương, nên biết.

-Chuyển: Nên biết, có hai thứ:

1. Tạm thời chuyển.

2. Rốt ráo chuyển.

-     Tạm thời chuyển là cho đến hữu tình chưa thành thục, chưa giải thoát, Chư Phật Như lai chuyển hóa không dừng nghỉ.

-     Rốt ráo chuyển là như vô tận, không thể suy nghĩ luận bàn về oai đức chuyển hóa đến chỗ sáng suốt của Phật, làm các ích lợi cho hữu tình, trôi lăn không ngừng.

-     Diệt là nên biết, có hai thứ:

1. Tạm thời diệt.

2. Rốt ráo diệt.

-     Tạm thời diệt là đối với hữu tình đã thành thục, chưa giải thoát, Chư Phật Như lai tạm thời thị hiện nhập Niết-bàn, chứ không phải rốt ráo.

-     Rốt ráo diệt là tất cả tập khí phiền não và các khổ đeo mãi, chúng hoàn toàn được dứt trừ hết, nên biết.

-     Các pháp công đức có nhiều thứ, kệ rằng:

Đặc biệt, không đặc biệt.
Tâm bình đẳng lợi ích,
Trả ơn và vui khen.
Hạnh phương tiện không hư.

Luận chép: Đặc biệt là khi Bồ-tát tu học thừa Vô thượng Chánh Đẳng Giác thì có năm pháp đặc biệt, nên biết. Năm pháp ấy là:

1.     Sinh tâm thương mến tất cả hữu tình trong khi chẳng có nhân duyên nào hết.

2.     Thường sống trong sinh tử, chịu nhiều khổ não với mục đích duy nhất là làm lợi ích cho hữu tình.

3.     Đối với hữu tình khó điều phục vì họ có quá nhiều phiền não thì Bồ-tát khéo hiểu rõ cách sử dụng phương tiện điều phục họ.

4.     Đối với nghĩa lý chân thật hết sức khó hiểu thì Bồ-tát có khả năng giúp cho mọi người ngộ nhập.

5.     Đầy đủ oai đức, không thể nghĩ bàn. Năm pháp khác nhau nầy, không phải trong hữu tình ai cũng có, cho nên gọi là đặc biệt.

-Không phải đặc biệt là trong khi Bồ-tát tu học thừa Vô thượng Chánh đẳng giác, có năm pháp không đặc biệt. Bậc Đại Bồ-tát do thành tựu năm pháp nầy, nên năm pháp đặc biệt hiển hiện thành tựu. Năm pháp gồm:

1.     Các Bồ-tát vì mục đích làm lợi ích cho người nên coi cái khổ của họ là niềm vui của mình, nên Bồ-tát thường chịu đựng khắp, làm mãi những lợi ích cho kẻ khác với bao gian nan. Đó gọi là pháp không đặc biệt thứ nhất.

Lại nữa, dù biết rõ tội lỗi của sinh tử và công đức của Niết-bàn, nhưng Bồ-tát vẫn vui vẻ làm cho các hữu tình được thanh tịnh rốt ráo, lấy đó làm niềm vui của mình. Vì phải gia tăng sức mạnh làm cho hữu tình trong sạch, nên Bồ-tát thệ nguyện thực hành cách sống trong sinh tử. Đó gọi là không phải pháp đặc biệt thứ hai.

2.     Lại nữa, dù biết rõ cái vui sâu kín, nhưng Bồ-tát vẫn vui vẻ mà làm cho các người được thanh tịnh rốt ráo, lấy đó làm niềm vui của mình. Vì phải gia tăng sức mạnh làm cho hữu tình trong sạch, nên Bồ-tát thệ thường siêng năng dùng phương tiện nói pháp cho họ nghe. Đó gọi là không phải pháp đặc biệt thứ ba.

3.     Lại nữa, do góp chứa gốc lành của sáu Ba-la-mật đa, nên Bồ-tát vẫn vui vẻ làm cho các người được thanh tịnh rốt ráo, lấy đó làm niềm vui của mình. Vì phải gia tăng sức mạnh làm cho hữu tình trong sạch, nên Bồ-tát dùng ý thanh tịnh mà ban cho họ, mà không mong kỳ hạn kết quả dị thục của việc bố thí đó, đó gọi là không phải pháp đặc biệt thứ tư.

4.     Lại nữa, Bồ-tát coi làm lợi ích cho các người tức là làm lợi ích cho mình, cho nên Bồ-tát thường làm mãi ích lợi cho tất cả hữu tình. Đó gọi là không phải pháp đặc biệt thứ năm.

Các bậc Đại Bồ-tát đã thành tựu năm pháp nầy, nên năm pháp đặc biệt sáng tỏ, nên biết.

-Tâm bình đẳng là các Bồ-tát có năm thứ tâm bình đẳng đối với tất cả hữu tình.

1.     Lúc Đại Bồ-tát mới phát tâm nhằm mục đích chứng Đại Bồ-đề nên phát thệ nguyện rộng lớn. Cũng thế, cũng vì làm lợi ích cho hữu tình mà Bồ-tát khởi tâm bình đẳng.

2.     Bậc Đại Bồ-tát thương xót tất cả hữu tình với tâm bình đẳng.

3.     Bậc Đại Bồ-tát đem tâm bình đẳng đối với các người, coi như một con một đầy thương mến.

4.     Bậc Đại Bồ-tát đối với các duyên làm phát sinh các hành tâm lý biết đó là việc mà hữu tình nghĩ tưởng, nên Bồ-tát thấu suốt được một pháp tính hữu tình là thông suốt tất cả pháp tính hữu tình. Từ đó, đối với tất cả hữu tình, Bồ-tát khởi pháp tính bình đẳng, cùng lúc với tâm bình đẳng.

5.     Bậc Đại Bồ-tát làm lợi ích cho một hữu tình thì cũng là làm ích lợi cho tất cả hữu tình, cho nên đối với tất cả hữu tình, phát tâm muốn làm lợi ích thì làm với tâm bình đẳng. Cũng thế gọi là Đại Bồ-tát phát năm thứ tâm bình đẳng đối với các hữu tình.

-Lợi ích là bậc Đại Bồ-tát làm lợi ích cho các hữu tình, có năm thứ tưởng, nên biết. Năm tướng ấy là:

1.     Trước người làm việc trái, gây tổn hại, Bồ-tát nêu giảng lối sống chân chánh để dẫn nhiếp họ về.

2.     Đối với kẻ không thuận theo làm việc lợi ích thì Bồ-tát nói pháp thuận theo để dẫn dắt họ về.

3.     Đối với kẻ nghèo khổ không chỗ nương thì Bồtát làm chỗ nương để dẫn dắt họ về.

4.     Bồ-tát nói con đường lành để dẫn dắt họ về.

5.     Bồ-tát nói con đường dẫn đến ba thừa, đến Niếtbàn để dẫn dắt các người về.

-Báo ân là đối với hữu tình có ân, Đại Bồ-tát làm năm điều ích lợi để báo ơn, năm điều ấy là:

1.     Khiến cho hữu tình có chỗ ở yên để học đức của mình.

2.     Dùng phương tiện khiến có chỗ ở yên để hữu tình học đức của người khác.

3.     Làm chỗ nương cho những kẻ nghèo khổ không chỗ nương.

4.     Khuyến khích để họ cúng dường Chư Phật, Như lai.

5.     Khiến chúng sinh tự chép pháp mà Phật nói để thọ trì cúng dường.

-Vui mừng khen ngợi là có năm thứ mà Đại Bồ-tát thường nên vui mừng khen ngợi, năm thứ ấy là:

1.     Gặp Phật ra đời nên được phụng thờ.

2.     Thường đến chỗ Như lai nghe sáu Ba-la-mật mật, tương ưng với tạng Bồ-tát.

3.     Làm tất cả hữu tình thành thục có khả năng gánh vác việc tu tập.

4.     Mau chứng quả Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

5.     Sau khi chứng Bồ-đề, Bồ-tát hòa hợp với đại chúng Thanh văn.

-Làm phương tiện không giả dối là công hạnh của Đại Bồ-tát vượt hơn chính là thực hiện phương tiện không giả dối đem lợi ích cho các người, có năm thứ, năm thứ ấy là:

1.     Ý nghĩ đầu tiên của bậc Đại Bồ-tát là đem lợi ích, an vui cho tất cả hữu tình.

2.     Bậc Đại Bồ-tát thành tựu giác ngộ không còn điên đảo, đối với việc làm lợi ích, an vui, các Ngài biết một cách sáng tỏ.

3.     Tùy nghi phương tiện nói các pháp, khiến các người theo chỗ lãnh thọ mà được điều phục, làm chủ lấy mình. Công việc làm cho các hữu tình được điều phục, phải là Như lai mới rốt ráo gánh vác nổi.

4.     Bậc Đại Bồ-tát tâm không bao giờ chán nản mệt mỏi.

5.     Với bậc Đại Bồ-tát là đại bi bình đẳng, nên đối hữu tình bậc thượng, trung, hạ đều không có tâm thiên vị, phân biệt theo phe nhóm.

Lại nữa, kệ rằng:

Không phương tiện điên đảo.
Lui sụt và tiến lên,
Tương tự công đức thật,
Khéo điều phục hữu tình.

Luận chép: Dùng phương tiện không điên đảo là, nên biết, Đại Bồ-tát có năm thứ phương tiện gom hết các phương tiện chân chính, phương tiện ấy là:

1. Phương tiện thuận theo che chở.

2. Phương tiện không lỗi.

3. Phương tiện dùng sức để lựa chọn.

4. Phương tiện ý ưa thích thanh tịnh cao quý.

5. Phương tiện chứng nhập quyết định.

-     Phương tiện thuận theo che chở là bậc Đại Bồ-tát khéo che chở sự thông thái để đồng thời phát sinh trí tuệ áp dụng phương pháp tiếp nhập dẫn dắt mau lẹ. Lại che chở tốt ức niệm. Nhờ ghi nhớ sâu nên giữ chắc được những gì mình nghe, không bị quên mất. Lại khéo che chở trí tuệ. Nhờ có trí tuệ nên đối với pháp mình nghe xem xét ý nghĩa chân chính của nó với sự hiểu biết thông suốt. Sự thông đạt ấy là đã bỏ đi một phần sự thông thái tầm thường, bỏ đi một phần ký ức trí tuệ và cũng bởi gần gũi tu tập sự an trụ phần vượt hơn.

Lại khéo che chở tự tâm là khéo giữ gìn cửa ngõ các căn. Lại khéo che chở tâm người là do phương tiện chân chính che chở tâm người.

-     Phương tiện không lầm lỗi là bậc Đại Bồ-tát thường mạnh mẽ, không điên đảo đối với các pháp lành, vô lượng, không xen hở đều hồi hướng về quả Bồ-đề.

-     Phương tiện dùng sức chọn: ở đây, tất cả phương tiện đều tập trung an trụ trong hạnh địa thắng giải, nên biết.

-     Phương tiện ý ưa thanh tịnh cao quý là an trụ cõi địa ý lạc thanh tịnh cao quý và cõi tu hành chân chính, nên biết.

-     Phương tiện chứng nhập quyết định là an trụ địa quyết định, hạnh địa quyết định, tiến đến địa rốt ráo, nên biết.

Năm thứ phương tiện nầy thâu nhiếp hết các phương tiện chân chính của Bồ-tát, nên biết.

-     Lui, đọa là Bồ-tát có năm pháp thoái chuyển, nên biết:

1.     Không tôn kính chánh pháp và người nói pháp.

2.     Buông lung, biếng nhác

3.     Quen gần phiền não.

4.     Quen gần hành vi ác.

5.     So hơn, thua với Bồ-tát khác rồi sinh tăng thượng mạn và đối với chánh pháp sinh ra hiểu biết điên đảo kiêu ngạo.

-     Tiến lên là Bồ-tát có năm phần pháp tiến vượt, là cứ y thứ lớp, trái lại với năm pháp đen vừa nói, nên biết:

-     Công đức tương tự: Là các Bồ tát có năm thứ công đức tương tự thật sự là lỗi, nên biết:

1.     Đối với các hữu tình thô bạo phạm giới, nên không làm được nhiều ích lợi.

2.     Giả hiện tướng oai nghi đầy đủ.

3.     Chải chuốt văn chương theo thói đời và ưa thích sách vở ngoại đạo được dự và hàng trí thức thông minh.

4.     Tu hành còn có tội nhưng vẫn khéo thực hành bố thí, v.v...

5.     Tuyên bố tạo lập chánh pháp tương tự rồi phổ biến sâu rộng.

-Công đức thật: Bồ-tát có năm thứ công đức chân thật, nên biết:

1.     Đối với các hữu tình phạm giới cấm, thô bạo, Bồtát khởi lòng thương xót tăng thêm.

2.     Tự tánh đầy đủ oai nghi.

3.     Đối với pháp thanh tịnh chân thật mà Như lai nói thì hoặc dạy hoặc chứng, được dự vào hàng trí giả thông minh.

4.     Tu tập, không mắc tội, khéo làm việc bố thí, v.v...

Chỉ bày chánh pháp để ngăn dứt thứ pháp tương tự nói trên.

-Khéo điều phục hữu tình là các Bồ-tát khéo chọn mười nơi để điều phục, giáo hóa hữu tình, không bị điên đảo là:

1.   Lìa nơi có hành vi ác.

2.   Lìa nơi ái dục.

3.   Nơi không vi phạm, nếu phạm thì tự phát lồ.

4.   Giữ gìn tất cả căn môn.

5.   Ở nơi chánh trí.

6.   Lìa nơi náo.

7.   Xa lìa nơi có tất cả tầm tư xấu ác.

8.   Lìa chỗ ngăn che.

9.   Lìa phiền não trói buộc.

10. Lìa phiền não thô nặng. Lại nữa, kệ rằng:

Các Bồ-tát thọ ký. Rơi vào số quyết định,

Định làm, thường nên làm, Pháp trên hết nên biết.

Luận chép: Các Bồ-tát thọ ký là Bồ-tát ở trên sáu vị trí mong được Như lai thọ ký đạo quả Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

1.     Đối với vị trí của chủng tính chưa phát tâm Bồđề.

2.     Đã phát tâm Bồ-đề.

3.     An trụ trong hiện tiền.

4.     An trụ không hiện tiền.

5.     Có thời hạn, trong thời hạn như vậy, chứng Chánh Đẳng Bồ-đề Vô thượng.

Không có thời hạn, nghĩa là không quyết định thời hạn nào.

-Rơi vào số quyết định: các Bồ-tát có ba thứ rơi vào phần vị quyết định:

1. Chủng tính rơi vào quyết định.

2. Phát tâm rơi vào quyết định.

3. Công hạnh không luống dối rơi vào quyết định.

-     Chủng tính rơi vào quyết định là các Bồ-tát an trụ vào vị trí chủng tánh lại rơi vào số quyết định của Bồtát. Vì sao? Vì các Bồ-tát đã thành tựu chủng tánh, nếu gặp phải duyên tốt thì sẽ có năng lực gánh vác quả Vô thượng đẳng chánh giác.

-     Phát tâm rơi vào quyết định: là các Bồ-tát khởi tâm quyết định đối với quả Chánh Đẳng Chánh Giác Vô thượng, đến khi chứng được quả Vô thượng chánh đẳng giác, không còn thoái chuyển.

-     Công hạnh không luống dối rơi vào quyết định là các Bồ-tát đã được tự tại, như điều các vị mong muốn, theo đó tu tập, nên các việc Bồ-tát làm là không luống uổng. Vì nương vào pháp sau cùng nầy nên rơi vào vị trí quyết định. Như lai vì các Bồ-tát thọ ký rơi vào quyết định.

-     Định làm là các Bồ-tát đối với năm chỗ quyết định nên làm. Nếu không làm thì không gánh nổi việc chứng quả Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Năm chỗ quyết định là:

1. Phát tâm Bồ-đề.

2. Có tâm thương xót hữu tình.

3. Tinh tấn mạnh mẽ.

4. Lấy năm minh xứ làm phương tiện tu tập.

5. Tâm không nhàm chán mỏi mệt.

-Thường nên làm: Các Bồ-tát thường làm năm việc: 1. Thường tu hạnh không buông lung.

2.     Làm nơi nương tựa cho các hữu tình khổ não không nơi nương cậy.

3.     Thường tu hạnh cúng dường Phật.

4.     Thường biết khắp cái gì sai lầm, cái gì không sai lầm.

5.     Đối với tất cả việc làm hoặc đã làm, hay còn an trụ trong tác ý thường phải tu hành với tâm Đại Bồ-đề dẫn đầu.

-Pháp tối thắng là đối với mười thứ pháp tối thắng, đồng ý Bồ-tát thọ trì, nên lập ra, coi là tối thượng là 10 pháp sau:

1.     Chủng tính Bồ-tát là cao quý nhất trong các chủng tính.

2.     Mới phát tâm Bồ-đề, đối với các nguyên chính thì cao quý nhất.

3.     Bát nhã chánh cần, đối với tất cả các Độ là cao quý nhất.

4.     Ái ngữ là cao quý nhất trong các nhiếp pháp.

5.     Như lai cao quý trong các hữu tình.

6.     Lòng thương là cao quý nhất trong các vô lượng.

7.     Tịnh lự thứ tư là cao quý nhất trong các tĩnh lự khác.

8.     Không Tam-ma-địa là cao quý nhất trong ba Tam-ma-địa.

9.     Định Diệt tận là cao quý nhất trong chín định thứ đệ.

10.   Phương tiện khéo léo thanh tịnh là cao quý nhất trong các phương tiện khéo léo. Lại nữa, kệ rằng:

Các nêu đặt, lập ra,
Tất cả pháp tầm tứ,
Trí biết khắp như thật,
Kể cả các vô lượng.
Nói rõ quả ích lợi,
Tánh Đại thừa thâu nhiếp,
Bồ-tát mười, nên biết,
Đặt ra các tên gọi.

Luận chép: Các nêu đặt lập ra là Bồ-tát có bốn thứ nêu đặt lập ra. Chỉ có Như lai và Bồ-tát mới có khả năng nêu đặt lập ra chân chính, chứ không phải tất cả trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn có thể nêu đặt lập ra, trừ trường hợp ăn cắp giáo pháp Phật đặt vào lý luận của mình. Bốn thứ ấy là:

1. Nêu bày lập ra Pháp.

2. Nêu bày lập ra Đế.

3. Nêu bày lập ra Đạo lý.

4. Nêu bày lập ra Thừa.

-     Nêu bày lập ra pháp là mười hai phần giáo như Tốđát-lãm v.v… theo thứ lớp soạn tập, thứ lớp đặt yên, thứ lớp chế tạo. Đó gọi là nêu bày pháp lập ra.

-     Nêu bày lập ra Đế là lập một đế với nghĩa không luống dối, chỉ là một, không có thứ hai, hoặc lập hai đế là: Thế tục đế và Thắng nghĩa đế. Hoặc lập ba đế là:

Tướng đế, Thuyên đế và Dụng đế.

Hoặc lập bốn đế là: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.

Hoặc lập năm đế là: Nhân đế, Quả đế, năng tri đế, Sở tri đế và Bất nhị đế.

Hoặc lập sáu đế là: Chân đế, Vọng đế, Ưng tri đế, Ưng đoạn đế, Ưng chứng đế, Ưng tu đế.

Hoặc lập bảy đế là: Ái vị đế, Quá hoạn đế, Xuất ly đế, Pháp tánh đế, Thắng giải đế, Thánh đế và Phi Thánh đế.

Hoặc lập tám đế là: Khổ hành đế, Khổ hoại đế, Khổ khổ đế, Trôi lăn đế, Lưu tức đế, Tạp nhiễm đế, Thanh tịnh đế và Phương tiện đế.

Hoặc lập chín đế là: Vô lượng đế, Khổ đế, Không đế, Vô ngã đế, Hữu ái đế, Vô hữu ái đế, Bỉ đoạn phương tiện đế, Tám là Niết-bàn hữu dư y đế và Chín là Niếtbàn Vô dư y đế. Hoặc lập mười đế là: Bức thiết khổ đế, Chỗ thọ dụng không đầy đủ khổ đế, Giới tánh trái ngược khổ đế, Ái bị hủy khổ hoại đế, Thô trọng khổ đế, Nghiệp đế, Phiền não đế, Thính văn chánh pháp như lý tác ý đế, Chánh kiến đế và Quả đế chánh kiến.

Như vậy, gọi là Bồ-tát nêu bày lập ra đế. Nếu chia rộng ra thì vô lượng, nên biết.

-     Nêu bày lập ra Đạo lý: Có bốn thứ đạo lý: Đạo lý Quán đãi, đạo lý tác dụng, đạo lý chứng thành và đạo lý pháp nhĩ.

Đó gọi là nêu bày lập ra đạo lý, nên biết.

-     Nêu bày lập ra thừa là Thanh văn, Độc giác, Vô thượng Đại thừa đều có bảy thứ nêu bày lập ra, nên biết.-Bảy cách nêu bày lập ra thừa Thanh văn là:

1.     Các trí tuệ không điên đảo của bốn chân lý bậc Thánh.

2.     Chỗ nương của trí tuệ ấy.

3.     Sở duyên của trí tuệ ấy.

4.     Đồng bạn của trí tuệ ấy.

5.     Nghiệp do trí tuệ ấy tạo ra.

6.     Tư lương giúp cho trí tuệ.

7.     Quả do trí tuệ chứng.

Như thừa Thanh văn, Độc giác cũng có bảy thứ nêu bày lập ra như vậy.

-Bảy thứ nêu bày lập ra Đại thừa Vô thượng là:

1.     Trí tuệ xuất ly duyên vào nẻo lìa các thứ lời nói về tất cả pháp chân như bình đẳng không phân biệt.

2.     Đó là chỗ nương của trí tuệ nầy.

3.     Đó là chỗ duyên của trí tuệ nầy.

4.     Đó là đồng bạn của trí tuệ nầy.

5.     Đó là nghiệp do trí tuệ ấy tạo ra.

6.     Đó là tư lương giúp cho trí tuệ.

7.     Đó là quả do trí tuệ chứng được.

Đó gọi là bảy thứ nêu bày lập ra của ba thừa, nên biết. Cũng thế Chư Phật, Bồ-tát trong ba đời đều xuất phát từ bốn thứ nêu bày lập ra chân chánh, không thêm, không bớt.

-     Tất cả pháp tầm tứ là: Đối với tất cả pháp, Bồ-tát vì muốn chứng đắc trí biết như thật cùng khắp, nên khởi lên bốn tầm tứ, như trước đã nêu.

-     Như thật biến trí là: Đối với tất cả pháp, Bồ-tát khởi lên bốn thứ biết như thật cùng khắp. Như trước đã nêu.

-     Các vô lượng là: Các Bồ-tát nương vào năm thứ vô lượng, có khả năng làm phát sinh tất cả công dụng khéo léo. Năm thứ đó là:

1. Giới hữu tình vô lượng.

2. Thế giới vô lượng.

3. Pháp giới vô lượng.

4. Thế giới đã được điều phục vô lượng.

5. Phương tiện điều phục vô lượng.

-Giới hữu tình vô lượng là sáu bốn thứ chúng hữu tình:

1.     Na-lạc-ca.

2.     Bàng sinh.

3.     Cõi Quỷ.

4.     Trời.

5.     Người.

6.     Sát đế lỵ.

7.     Bà-la-môn.

8.     Phệ xá.

9.     Thú-đạt-la.

10.   Nam.

11.   Nữ.

12.   Phi nam nữ.

13.   Phẩm hạ.

14.   Phẩm trung.

15.   Phẩm thượng.

16.   Tại gia.

17.   Xuất gia.

18.   Khổ hạnh.

19.   Luật nghi.

20.   Bất luật nghi.

21.   Chẳng phải luật nghi, chẳng phải không luật nghi.

22.   Đã xa lìa tham dục.

23.   Chưa lìa tham dục.

24.   Tụ định tà.

25.   Tụ định chính.

26.   Tụ bất định.

27.   Bí-sô.

28.   Bí-sô-ni.

29.   Thức Xoa-ma-na.

30.   Cần sách nam.

31.   Cần sách nữ.

32.   Ô-ba-sách-ca.

33.   Ô-ba-tư-ca.

34.   Người tu Tam-ma-địa.

35.   Người ôn tụng kinh.

36.   Người chăm sóc người bệnh.

37.   Bậc già niên.

38.   Trung niên.

39.   Thiếu niên.

40.   A-già-lợi-da.

41.   Ô-bà-đà-da.

42.   Cư trụ chung.

43.   Ở gần.

44.   Tân khách.

45.   Người coi việc Tăng.

46.   Người ưa thích lợi dưỡng.

47.   Người ưa cung kính.

48.   Người thích xa lìa.

49.   Người học rộng.

50.   Người có trí tuệ.

51.   Người có phước lớn.

52.   Người tu hành theo giáo pháp.

53.   Người trì trai, thương xót kẻ bất hạnh.

54.   Người trì Tỳ-nại-da.

55.   Người vâng giữ Ma-đát-lỵ-ca.

56.   Người dị sinh.

57.   Người kiến đế.

58.   Bậc Hữu học.

59.   Bậc Vô học.

60.   Thanh văn.

61.   Độc giác.

62.   Bồ-đề Tát-đỏa. vua Thánh Chuyển luân.

63.   Như lai.

Nếu dựa vào thân nối tiếp khác nhau thì vô lượng vô biên.

Thế giới vô lượng là vô lượng thế giới ở mười phương, gọi là khác nhau.

Cũng thế giới nầy gọi là Sách-ha (Ta-bà). Phạm Vương của cõi nầy gọi là Sách-ha-chủ. Vô lượng thứ khác nhau là vậy, nên biết.

Pháp giới vô lượng là pháp thiện, bất thiện, vô ký. Các pháp môn vô lượng khác nhau như vậy, nên biết.

Thế giới đã được điều phục nhiều vô lượng là: Hoặc lập một thứ đã được điều phục là những người có thể điều phục trong tất cả hữu tình, đều là một loại. Hoặc lập hai thứ là: 1. Trói buộc hoàn toàn; 2. Trói buộc không hoàn toàn.

Hoặc lập ra ba thứ là:

1. Căn tính chậm lụt.

2. Căn tính trung bình.

3. Căn tính lanh lợi.

-Hoặc lập bốn thứ là:

1. Sát-đế-lợi.

2. Bà-la-môn.

3. Phệ-xá.

4. Thú-đạt-la.

-Hoặc lập năm thứ là:

1. Hành tham.

2. Hành giận.

3. Hành si.

4. Hành kiêu mạn.

5. Hành giác ngộ.

-Hoặc lập ra sáu thứ là:

1. Tại gia.

2. Xuất gia.

3. Thành thục.

4. Chưa thành thục.

5. Giải thoát.

6. Chưa giải thoát.

Hoặc lập ra bảy thứ là:

1.     Kính tin.

2.     Khinh chê.

3.     Trung dung.

4.     Nói rộng.

5.     Trí mở bày sơ lược.

6.     Thường điều phục.

7.     Tùy duyên dẫn dắt, khi gặp duyên như vầy thì chuyển biến như vậy.

-   Hoặc lập ra tám thứ là tám bộ chúng, từ chúng Sát-đế-lợi cho đến Phạm chúng.

-   Hoặc lập chín thứ là:

1.    Như lai giáo hóa.

2.    Thanh văn giáo hóa.

3.    Độc giác giáo hóa.

4.    Bồ-tát đã giáo hóa.

5.    Khó điều phục.

6.    Dễ điều phục.

7.    Dùng lời mềm dịu, dễ điều phục.

8.    Điều phục bằng cách quở mắng, đuổi đi.

9.    Hoặc điều phục xa hay gần.-Hoặc lập mười thứ là:

1.   Na-lạc-ca.

2.   Bàng sinh.

3.   Cõi quỉ. các tầng trời cõi Dục.

4.   Loài người.

5.   Trung hữu.

6.   Cõi Sắc.

7.   Cõi Vô sắc.

8.   Có tưởng, vô tưởng.

9.   Phi hữu tưởng, Phi Vô tưởng.

Nói lược có năm mười lăm thứ như vậy. Nếu nương vào chỗ khác nhau nối tiếp thì có vô lượng, nên biết.

Hỏi: Thế giới hữu tình nhiều vô lượng và thế giới đã được điều phục cũng vô lượng thì có gì khác nhau?

Đáp: Thế giới hữu tình là không khác nhau.

Tất cả hữu tình có chủng tánh, hay không có chủng tánh, đó là thế giới đã được điều phục, chỉ có các vị trí khác nhau của chủng tánh. Thế giới vô lượng phương tiện điều phục, như trước đã nói, nên biết. Chỗ khác nhau từ phân biệt nầy cũng vô lượng.

Hỏi: Vì sao chỉ nói lược có năm thứ vô lượng?

Đáp: Các Đại Bồ-tát chuyên tu tập vì lợi ích chúng sinh, nên đầu tiên là thành lập Vô lượng thế giới hữu tình. Các hữu tình nầy đều nương vào các vị trí khác nhau và đều nhận được sự giáo hóa, cho nên thành lập ra Vô lượng thế giới thứ hai. Các hữu tình nầy đã trải qua nhiều thế giới, do nhiều pháp mà thành ra có nhiễm, tịnh khác nhau. Thế nên lập ra thế giới Vô lượng thứ ba.

Trong số hữu tình ấy, xem xét những ai có khả năng gánh vác giải thoát rốt ráo ra khỏi khổ, nên lập ra thế giới vô lượng được điều phục thứ tư.

Như nhờ các phương tiện hay có thể giúp cho các người tới được giải thoát thì lập ra thế giới vô lượng phương tiện điều phục thứ năm. Thế nên, các Bồ-tát Ma-ha-tát nương vào năm thứ vô lượng trên đây để làm phát sinh tất cả tác dụng khéo léo.

-Nói kết quả lợi ích: Các Đại Bồ-tát nói chánh pháp cho hữu tình nghe. Có năm điều lợi ích rộng lớn, nên biết. Năm điều ấy:

1.     Hoặc có hữu tình khi nghe nói chánh pháp, xa lìa trần cấu, pháp nhẫn phát sinh từ các pháp.

2.     Hoặc ngay khi nghe nói chánh pháp, có hữu tình dứt hết các lậu.

3.     Hoặc nhờ nghe nói pháp nầy, có hữu tình phát tâm cầu Chánh đẳng giác Vô thượng.

4.     Hoặc có hữu tình nghe nói pháp nầy, liền được pháp nhẫn tối thắng của Bồ-tát.

5.     Hoặc khi nghe Phật, Bồ-tát nói chánh pháp, có hữu tình vâng giữ tu hành và lần lượt giảng nói chánh pháp, khiến pháp nhãn tồn tại lâu trên thế gian nầy, không bị diệt mất. Đó là năm điều giảng nói về kết quả ích lợi rộng lớn, nên biết.

-Tánh Đại thừa là Bồ-tát thừa tương ưng với bảy tánh lớn lên nên gọi là Đại thừa. Bảy tánh ấy là:

1.     Thể tánh lớn của giáo pháp là tạng Bồ-tát thâu nhiếp những nghĩa rộng của mười hai phần giáo.

2.     Thể tánh lớn của sự phát tâm là Bồ-tát đã phát tâm cầu tâm Chánh Đẳng Giác Vô thượng.

3.     Thể tánh lớn của sự hiểu biết vượt bậc là khởi lòng tin và hiểu vượt bậc giáo pháp lớn lao sâu rộng như trước đã nêu.

4.     Thể tánh ý lạc cao quý lớn của là Bồ-tát đã vượt khỏi hạnh địa thắng giải mà chứng nhập địa ý lạc cao quý, thanh tịnh.

5.     Thể tánh lớn của tư lương là Bồ-tát đã thành tựu hai thứ tư lương lớn là phước và trí, nên có khả năng chứng ngộ Chánh Đẳng Bồ-đề Vô thượng.

6.     Thể tánh lớn của thời gian là trong thời gian ba đại A-tằng-xí-da kiếp có khả năng chứng ngộ Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

7.     Thể tánh lớn của sự hoàn thành tròn đầy là Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đây là tự thể Bồ-đề đã thành tựu tròn đầy. Nếu so với các tự thể thành tựu tròn đầy khác thì không có pháp nào bằng, huống chi là mong vượt khỏi thể tánh lớn trong pháp nầy hay thể tánh lớn về thời gian của nó. Sáu thứ nầy là nguyên nhân đưa đến thành tựu tròn đầy nhân thể tánh lớn, thành tựu tròn đầy một thứ thể tánh lớn, là quả của sáu thứ trước, nên biết.

Thâu nhiếp là: Tám thứ pháp có khả năng gom nhiếp tất cả Đại thừa:

1.     Tạng giáo Bồ-tát.

2.     Chỉ bày thật rõ giáo nghĩa chân thật trong tạng Bồ-tát.

3.     Chỉ bày thật rõ những lời dạy đầy oai đức, sâu xa, rộng lớn, tối thắng, không thể nghĩ bàn của tất cả Chư Phật, Bồ-tát, trong tạng Bồ-tát.

4.     Lắng nghe đúng như lý những pháp nói trên.

5.     Trước là suy nghĩ đúng lý, kế là tiến đến ý vui mừng cao sâu.

6.     Chứng được ý vui cao siêu, bước vào tu hành ban đầu.

7.     Do nhập vào tu hành làm đầu, nên tu tập thành tựu kết quả.

8.     Do thành tựu kết quả tu tập nên ra khỏi sinh tử hoàn toàn. Nhờ tu học như vậy, nên Đại Bồ-tát chứng được Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

-Bồ-tát có mười pháp nên biết là: Tu học như vậy là có khả năng chứng Chánh đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mười thứ là:

1.   An trụ chủng tính.

2.   Thú nhập.

3.   Ý vui cao chưa thanh tịnh.

4.   Ý vui thanh tịnh vượt bậc.

5.   Chưa thành thục.

6.   Đã thành thục.

7.   Chưa được quyết định.

8.   Đã được quyết định.

9.   Nhất sanh sở hệ.

10. Trú nơi thân sau cùng.

Trong đó, khi an trụ trong chủng tính Bồ-tát, nếu lấy phương tiện tu tập là phát tâm Bồ-đề gọi là thú nhập. Khi chưa tới cõi, chưa được ý vui cao về tịnh gọi là ý vui không tịnh. Nếu đã chứng nhập rồi gọi là ý vui thanh tịnh vượt bậc. Ý vui vượt bậc thanh tịnh nầy của Bồ-tát cho đến khi chưa nhập vào địa rốt ráo gọi là chưa thành thục. Nếu đã nhập rồi gọi là đã thành thục. Từ chưa thành cho đến chưa nhập quyết định hạnh gọi là chưa quyết định. Nếu đã nhập rồi gọi là được quyết định.

Đã thành thục lại có hai thứ là: Một là thành bậc Nhất sinh Sở hệ (Nhất sinh bổ xứ), nghĩa là sau đời nầy, sẽ thành tựu chứng đắc đạo quả Chánh Đẳng Giác Vô thượng. Hai là an trụ ở thân sau cùng, nghĩa là chính ngay trong đời nầy, chứng ngộ được Chánh Đẳng Giác Vô thượng, như trước đã nói. Mười loại Bồ-tát nhiếp tất cả Bồ-tát. Như trước đã nói, học xứ Bồ-tát gom nhiếp tất cả Bồ-tát.

Lập ra các danh hiệu là: Phần vị khác nhau của Bồtát là đều là căn cứ vào đức độ và các tên gọi. Gọi là Bồđề-tát-đỏa, Ma-ha-tát-đỏa tức thành tựu giác tuệ, là chiếu sáng hơn hết, là đứa con tối thắng, là chỗ nương tối thắng, có khả năng hàng phục tối thắng, mầm nụ tối thắng, cũng gọi là hùng mạnh, cũng gọi là bậc thầy gương mẫu cao cả, cũng gọi là thương chủ, cũng gọi là phước lớn, cũng gọi là giàu sang tự tại, cũng gọi là Pháp sư lớn. Những tên gọi ấy đều căn cứ vào vô lượng đức độ khác nhau ở khắp vô biên cõi nước trong mười phương, nên lập ra vô số tên gọi, nên biết.

Trong ấy, nếu các Bồ-tát tự xưng là Bồ-tát, nhưng không siêng năng tu tập các học xứ Bồ-tát phải học thì phải biết, thì đó chỉ là Bồ-tát tương tự, không phải là Bồtát chân thật. Nếu các Bồ-tát tự xưng là Bồ-tát, cũng lại siêng năng tu tập các học xứ Bồ-tát, phải biết đó là Bồtát chân thật.

QUYỂN 9

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH

Dị luận có nhiều thứ: Là mười sáu thứ dị luận, mười sáu dị luận ấy là, kệ rằng:

Chấp trong nhân có quả,
Hiển rõ có đến đi.
Ngã thường tạo nhân trước.
Tự tại thảy hại pháp.
Biên, vô biên gây loạn.
Kiến vô nhân, dứt không
Chấp thắng tịnh, cát tường.
Gọi mười sáu dị luận.

Luận chép: Mười sáu dị luận là:

1.   Luận cho rằng trong nhân có quả.

2.   Luận cho rằng từ duyên mà sáng tỏ.

3.   Luận cho rằng quá khứ, vị lai là có thật.

4.   Luận chấp ngã.

5.   Luận chấp thường.

6.   Luận cho là nhân tạo đời trước.

7.   Luận cho Tự tại là Đức tạo ra.

8.   Luận cho cái hại là chánh pháp.

9.   Luận cho là hữu biên, vô biên.

10. Luận cho là bất tử, không ngã ngũ.

11. Luận với kiến chấp vô nhân.

12. Luận chấp đoạn.

13. Luận chấp không.

14. Luận vọng chấp là cao hơn hết.

15. Luận vọng chấp là thanh tịnh.

16. Luận vọng chấp là tốt đẹp.

Luận cho trong nhân có quả: Như có một người, hoặc Sa-môn hoặc Bà-la-môn phát sinh kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vậy, là cho trong nhân thường có tính chất quả. Hai nhóm ngoại đạo cho là như vậy.

Hỏi: Từ nguyên nhân nào mà các ngoại đạo ấy cho là có quả nằm sẵn trong nhân, họ có kiến ấy rồi lập luận để làm sáng tỏ?

Đáp: Do giáo và lý. Giáo là kho kiến thức do thầy họ lập ra, rồi qua việc nghe và lần lượt truyền mãi cho đến hiện tại. Giáo ấy cho trong nhân trước đã có quả. Còn lý là những suy nghĩ của Sa-môn, Bà-la-môn đi tìm tính chất tầm tứ, với quán xét rồi đứng trên tính ấy mà suy tìm biện bạch vấn đề. Họ đứng trên căn bản phàm phu, trên suy nghĩ từng lúc quán xét các hành. Học cứ suy nghĩ lối ấy: Hoặc từ thể nọ hay từ thể nầy làm phát sinh một hiện tượng. Tất cả thế gian nầy cùng hiểu và lập luận như họ, cho từ nhân đó, chứ không phải từ nhân nào khác.

Lại, người thế gian muốn tìm quả nầy, chỉ chấp nhân nầy chứ không chấp lấy nhân nào khác. Rồi trong việc tìm nhân quả ấy, họ gia công làm lớn lên với việc như vậy, như vậy chứ không phải việc khác. Rồi họ kết luận là từ một hiện tượng sinh cái kia, chứ không từ cái nào khác, như vậy là trong nhân đã có sẵn quả.

Nếu không theo lối ấy thì lập luận khác cho tất cả đều là nhân, khi tìm lấy một quả thì nó mang tất cả nhân, rồi đối với tất cả nhân, gia công làm cho lớn mạnh lên để đưa đến một kết quả, nhưng rồi có trường hợp từ tất cả nhân sinh tất cả quả, vì vậy họ xây dựng kiến là vậy, nắm lấy, làm các việc, sống với nó, ngoại đạo kia bèn có kiến giải cho là thường có tính chất quả ở sẵn trong nhân.

Nay, tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp như vậy. Hai tướng của nhân và quả có khác nhau hay không?

-     Nếu không khác nhau thì không quyết định được hai thể nhân và quả. Do hai tướng chúng không khác nhau, nên nói là trong nhân có quả. Như vậy thì không hợp lý.

-     Còn tướng của nhân và quả là khác nhau thì ý ông nghĩ sao?

Tự thể của quả nằm sẵn trong nhân, đã sinh ra tướng hay chưa sinh ra tướng?

-     Nếu chưa sinh ra tướng thì quả ấy chưa sinh trong nhân kia. Chưa sinh mà nói là có rồi thì không hợp lý.

-     Nếu đã sinh ra tướng thì tự thể của quả đã sinh, nào phải từ nhân mà phát sinh ra? Như vậy, cũng không hợp lý.

Thế nên, trong nhân không phải là trước đã có quả sẵn trong đó.

Nhưng phải có nhân, rồi chờ đủ duyên mới phát sinh quả.

-     Pháp có tướng đó ở trong các pháp có hình tướng, đều có thể biết rõ do năm tướng sau:

1.     Có thể biết rõ theo vị trí, như nước trong bình.

2.     Có thể biết rõ từ chỗ mà tướng nương, như nhãn thức trong nhãn căn.

3.     Có thể biết rõ tướng ngay trong tự tướng của nó, như tự thể của nhân, không do so sánh và quyết định.

4.     Có thể biết rõ tướng từ tác nghiệp.

5.     Từ nhân biến chuyển cho nên quả có thể được biến chuyển, hoặc bởi duyên thay đổi cho nên quả có thể thay đổi. Thế nên, nói lúc hiện tại hay các lúc, trong nhân đã sẵn có quả là điều không hợp lý. Theo nghĩa ấy, nên lập luận của ngoại đạo kia là không đúng với lý chân thật, nghĩa là không có tướng khác, cho nên bất sinh tướng, hay có tướng khác mà sinh tướng, đều không hợp lý.

* Lập luận theo lối từ duyên làm sáng tỏ là như có một người hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn sanh kiến chấp và lập luận như vậy. Họ cho tự thể của tất cả pháp đều có sẵn. Tự thể ấy sáng tỏ là do các duyên chứ không phải do duyên sinh ra. Tức là lập luận trong nhân đã có quả, và luận sư thinh tướng, đều cố chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao lập luận trong nhân đã có quả? Vì thấy trước đã có tính chất của quả nằm trong nhân, được các duyên làm sáng tỏ?

Đáp: Là do giáo và lý, như trước đã nói, về giáo. Còn lý trước như có một tính chất tầm tứ, là tính chất xem xét, nói rộng như trước.

Họ suy nghĩ Cũng thế, cho quả đã có trước, nhưng lại từ nhân sinh ra. Điều ấy không hợp lý. Nhưng chẳng phải là không dùng công sức để hoàn thành kết quả. Lại nữa, do duyên nào mà sử dụng công đức, chứ đâu phải quả có ra chỉ do duyên làm sáng lên. Lập luận bảo quả sáng lên là do duyên thì đó là kết quả của một suy nghĩ sai lầm mà thôi.

Nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp như vậy. Vì không có duyên chướng ngại, chướng ngại nó hay có duyên chướng ngại, chướng ngại nó? Nếu không có không có duyên làm chướng ngại mà có sự chướng ngại nào ấy? Như vậy thì không hợp lý.

Còn nếu có duyên chướng ngại, thì vì đã thuộc về nhân quả, vì sao không làm chướng ngại? Vì cùng là có cả, như nước trong lu bị bóng tối che kín mít, bóng tối ấy cũng che kín cái lu sao? Nếu bảo nó cũng chướng ngại nhân, cũng làm sáng tỏ nhân, cả hai đều bị chướng ngại, nhưng chỉ có tính chất của quả nằm sẵn trong nhân là được sáng tỏ, còn nhân thì lại không được sáng tỏ. Như vậy cũng không hợp lý.

Vậy, ông nên nói: Hễ có tính chất có duyên làm chướng ngại, hễ có tính chất quả thì có duyên chướng ngại?

Nếu hễ có tính chất là có duyên làm chướng ngại, thế thì có tính chất, nhưng thường không được sáng tỏ. Điều ấy, không hợp lý.

Lại, nhân cũng là có, thì vì sao nó không bị duyên chướng ngại? Nếu tính chất của quả bị duyên làm chướng ngại, như vậy trong một pháp, vừa là nhân cũng vừa là quả, như mầm là hạt giống, quả là cành, v.v… vậy thì nhân của một pháp là vừa sáng tỏ vừa không sáng tỏ. Điều ấy cũng không hợp lý.

Lại, hiện tại hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp thế ấy. Sự sáng tỏ ấy là một hay khác với bản pháp?

Nếu nói là một thì pháp sẵn có kia vốn đã thường sáng tỏ rồi. Sáng tỏ rồi lại sáng tỏ nữa, điều ấy cũng không hợp lý. Còn nếu nói là nó khác thì sáng tỏ ấy là không có nhân hay có nhân? Nếu không có nhân, không có nhân mà lại sáng tỏ được, thì điều ấy, không hợp lý. Nếu có nhân mà tính chất của quả có thể sáng tỏ, có thể làm cho quả sáng tỏ, điều ấy cũng không hợp lý.

Cũng thế, không có duyên làm chướng ngại, có duyên chướng ngại, nhưng vẫn có tướng, quả tướng thì sự sáng tỏ ấy là sáng tỏ từ một hay khác? Điều ấy cũng không hợp lý. Cho nên ông nói: Nếu thể tính của pháp là không thì nó vô tướng. Nếu tính của pháp là có thì nó có tướng. Nếu tính là không thì không thể sáng tỏ được. Nếu tính là có thì mới có thể sáng tỏ được. Cũng không hợp lý.

Nay sẽ nói lược: Dù các pháp là thật có, nhưng không thể nắm bắt tướng của nó được. Hoặc vì tướng nó ở xa nên không nắm bắt được. Hoặc vì vật thể quá nhỏ nên không thể nắm bắt được. Hoặc tâm tán loạn nên không thể nắm được. Hoặc các giác quan bị hư hoại nên không thể nắm bắt được. Hoặc chưa biết rõ tướng của nó nên không thể nắm bắt được. Vì thế lập luận quả có sẵn trong nhân, nó được sáng tỏ từ duyên là không hợp lý. Nên biết, lập luận về tướng của tiếng nói, cũng giống như vậy. Trong ấy, có nhiều chỗ khác nhau. Luận sư về thanh của ngoại đạo, có kiến giải và lập luận: Tướng của lời nói vốn là bất sinh, không diệt, nhưng nó sáng tỏ là do phát ra lời. Nhưng thể của tiếng nói là thường trụ, nên lập luận nhờ duyên mà sáng tỏ thì điều ấy cũng không hợp lý.

Lập luận cho quá khứ, vị lai là thật có, là như có hạng người hoặc Sa-môn, Bà-la-môn đối với pháp nầy, vì suy nghĩ không chín chắn nên có kiến và lập luận như vậy, cho rằng có quá khứ và vị lai, tự tướng của nó thành tựu như hiện tại, chẳng phải giả.

Hỏi: Vì sao những người ấy có kiến và lập luận như vậy? Đáp: Vì giáo và lý. Giáo như trước đã nêu.

Lại đối với pháp nầy, những kinh giáo dẫn ra, họ suy nghĩ không đúng lý. Như trong kinh nói: Tất cả pháp đều có là mười hai xứ, vì tự tướng của mười hai xứ nầy là có. Lại Đức Bạc-già-phạm nói: Có nghiệp quá khứ. Lại, trong kinh nói: Có sắc trong quá khứ, có sắc trong vị lai, cho đến thức cũng như vậy.

-     Lý là như có người vì tính chất tầm tứ, vì tính chất quán xét như có nói rộng ở trước. Họ suy nghĩ như vầy: nếu tự tướng của pháp an trụ trong pháp nầy thì nó có chân thật. Nếu pháp vị lai là không thì lúc ấy nó chưa có tự tướng. Ở đây, nếu quá khứ là không thì bấy giờ, tự tướng đã mất. Nếu quả thật như vậy, thì tự tướng các pháp không thể thành tựu, vì tự tánh các pháp không chân thật. Lập luận như vậy là không hợp lý. Suy nghĩ như vậy nên kiến giải và lập luận như vậy, tức cho rằng tánh, tướng của quá khứ, vị lai là thật có. Nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì trả lời như vậy. Hai tướng của quá khứ và vị lai và tướng của hiện tại là chúng cùng một tướng hay khác tướng? Nếu tướng không khác nhau thì lập tướng cho ba đời là không hợp lý. Nếu tướng khác nhau thì tánh và tướng là có thật, cũng không hợp lý.

Lại, ông nên nói: Tự ý mình muốn rơi vào pháp ba đời, thì tướng của nó là thường trụ hay không thường trụ?

-     Nếu tướng của nó là thường trụ thì vướng vào ba đời, điều ấy không hợp lý. Nếu tướng nó là không thường trụ thì ba đời là thường thật có. Điều ấy, không hợp lý.

Lại ông nên nói: Theo ý mình muốn cho pháp ở vị lai trôi đến hiện tại, cho vị lai chết mất mà sinh ở hiện tại? Hay cho pháp an trụ ở vị lai, do duyên ấy mà sinh trong hiện tại? Hay cho rằng: vốn không có nghiệp dụng, đến nay mới tròn đầy hay cho: Bản tướng là khác, hay tướng nay là khác? Hay cho rằng: Vị lai có phần tướng của hiện tại?

-     Nếu cho rằng pháp vị lai đến hiện tại thì hiện tại nầy lẽ ra phải có nơi chốn phương hướng, lại vị lai, hiện tại lẽ ra không khác nhau? Và lẽ ra là thường? Điều ấy không hợp lý.

-     Nếu cho rằng vị lai chết mất mà sinh ở hiện tại thì pháp vị lai bất sinh ở hiện tại, pháp của hiện tại vốn bất sinh hiện tại. Lại pháp vị lai chưa sinh mà nói là chết mất thì, không hợp lý.

-     Nếu ông nói các pháp an trụ ở vị lai, lấy đó làm duyên sinh vào đời hiện tại thì pháp ấy lẽ ra là thường, lẽ ra vốn là vốn không vì đời nầy, không phải sinh từ pháp vị lai. Điều vừa nói, cũng không hợp lý.

-     Nếu vốn không có nghiệp dụng mà nay có nghiệp dụng, ấy là vốn có, nay có liền có. Lỗi nầy, trước đã nói rồi, vì nó không hợp lý.

-     Lại nữa, ông nghĩ sao về nghiệp dụng này? Nó và pháp gốc kia là khác tướng hay không khác tướng? Nếu là khác tướng, thì tướng của nghiệp dụng nầy không có ở vị lai. Điều ấy không hợp lý.

-     Còn nếu không khác tướng thì xưa không có nghiệp dụng, nhưng nay lại có nghiệp dụng. Điều ấy không hợp lý. Nếu không có nghiệp dụng thì mắc phải lỗi nầy.

-     Cũng thế, các tướng không tròn đầy vì tướng khác. Phần tướng của vị lai cũng vậy. Trong các tướng ấy có khác nhau. Ấy là mắc vào lỗi là tự thể của các tướng lẫn lộn nhau. Điều ấy không hợp lý. Còn như vị lai hướng đến hiện tại thì như vậy, hiện tại bước vào quá khứ, như quá khứ ấy thích hợp với nó, thì vẫn mắc lỗi, nên biết. Nghĩa là như trước đây đã chấp vào các nhân duyên và đã nói lý đạo để đả phá rồi.

Cũng thế, do tự tướng, do cộng tướng, do đi đến, do chết mất, do sinh, do nghiệp nhân, do tướng tròn đầy, do khác tướng, do phần vị lại mà lập luận cho rằng quá khứ, vị lai là thật có. Điều ấy, không hợp lý. Những điều ấy đã bị phá rồi, nhưng lại còn có lời hỏi:

-     Nếu quá khứ, vị lai đều không có thì làm sao duyên vào không mà chuyển giác được? Còn nếu nói duyên vào không, mà có chuyển giác thì vì sao không có lỗi trái với giáo lý? Như nói tất cả pháp là có, như mười hai xứ.

-     Nay, tôi hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp như thế ấy. Thế gian lấy hiểu biết không mà chấp hay không chấp? Nếu không chấp thì hiểu biết ngã là không như lông rùa, sừng thỏ, con của cô gái bất dục. Tất cả đều là không. Thế thì không đúng lý.

Lại, Đức Bạc-già-phạm nói: các Thanh văn của ta, không còn tâm dua nịnh, khi tu hành theo những gì ta nói, nếu trong lòng có tham sân thì biết là có tham sân, nếu không có tham sân thì biết không có tham sân. Như vậy, điều nói trên kia là không hợp lý.

Nếu nói có chấp thì đây có thể lấy chủ quan và tri giác không đối với chuyện nầy được, là tạo tác có hành nghiệp và tạo tác không hành nghiệp.

Nếu tạo tác có hành nghiệp mà lấy tri giác không, mà làm hữu hành thì điều ấy không hợp lý.

Nếu tạo tác không có hành nghiệp thì ông đâu thể dùng chủ quan với tri giác không, mà hiểu nó vì nó duyên vào có động lực để chuyển và duyên vào không có động lực để chuyển.

Nếu duyên vào có động lực để chuyển lại lấy tri giác không hành nghiệp đối với nó, thì điều ấy là không hợp lý.

Nếu duyên vào không động lực để chuyển thì không duyên vào đâu mà dùng tri giác không, đối với nó thì điều ấy cũng không hợp lý.

Dù nói tất cả là có, nghĩa là mười hai xứ nhưng đó là đối với pháp có, từ chỗ ý sâu kín mà nói nó là có, có tướng. Đối với pháp không hiện bày, từ chỗ ý sâu kín mà nói là có, là có cái không tướng. Vì sao? Vì pháp có tướng thì nó phải giữ chắc cái có tướng. Còn pháp không có tướng thì nó phải giữ chắc cái không tướng. Cả hai đều gọi là pháp, đều gọi là có.

Nếu là khác, thì người tu hành chỉ biết đối với cái có và chẳng biết đối với cái không. Đối với pháp mà mình biết, lẽ ra có sự đứt quãng, trong quán xét chúng. Việc ấy cũng không hợp lý.

Lại nữa, dù nói có nghiệp quá khứ, do nó chúng sinh mới chịu quả báo sướng hay khổ thì đây cũng dựa vào tập khí của họ, mà từ chỗ sâu kín, nói tạm những pháp ấy là có, nghĩa là trong các hành động đã có nghiệp sạch và không sạch, sinh diệt. Do nguyên nhân ấy mà các hành động khác, lạ nối nhau mà chuyển, đó gọi là tập khí. Sự nối tiếp ấy, đã thâu nhiếp bản thân các tập khí nên đưa đến hậu quả là yêu mến hay ghét bỏ. Do vậy, tôi không mắc sai lầm trong lý luận, còn ông thì không hợp lý.

Lại nữa, dù nói sắc quá khứ là có, sắc vị lai là có, sắc hiện tại là có. Như vậy cho đến thức cũng vậy. Đây cũng là dựa vào ba thứ hành tướng: là nhân tướng, tự tướng, quả tướng, từ chỗ ý sâu kín nói là có. Khi dựa vào tự tướng của nó, từ chỗ ý sâu kín nói là có vị lai. Khi dựa vào tự tướng của nó, từ chỗ ý sâu kín, mà nói là có hiện tại. Khi dựa vào quả tướng của nó, từ chỗ ý sâu kín, mà nói là có quá khứ, cho nên không có lỗi.

Lại nữa, không nên nói quá khứ, vị lai là thật có tướng. Vì sao?

Nên biết vị lai có mười hai tướng là:

1.   Tướng nhân đã hiển hiện.

2.   Tướng thể chưa sinh.

3.   Tướng đợi duyên.

4.   Tướng đã sinh chủng loại.

5.   Tướng pháp phải phát sinh.

6.   Tướng pháp bất sinh.

7.   Tướng chưa sinh tạp nhiễm.

8.   Tướng chưa sinh thanh tịnh.

9.   Tướng phải mong cầu.

10. Tướng không nên mong cầu.

11. Tướng nên quán sát.

12. Tướng không nên quán sát.

Nên biết, hiện tại cũng có mười hai tướng là:

1.   Tướng quả đã hiển hiện.

2.   Tướng thể đã sinh.

3.   Tướng duyên nhóm họp.

4.   Tướng chủng loại đã sinh.

5.   Tướng sát-na.

6.   Tướng pháp không còn sinh.

7.   Tướng tạp nhiễm đã xuất hiện.

8.   Tướng thanh tịnh đã xuất hiện.

9.   Tướng đáng mừng vui.

10. Tướng không đáng mừng vui.

11. Tướng nên quán sát.

12. Tướng không nên quán sát.

Nên biết, quá khứ cũng có mười hai tướng là:

1.   Tướng nhân đã vượt qua.

2.   Tướng duyên đã vượt qua.

3.   Tướng quả đã vượt qua.

4.   Tướng thể đã tan rã.

5.   Tướng chủng loại đã diệt.

6.   Tướng pháp bất sinh.

7.   Tướng tạp nhiễm đã lặng dứt.

8.   Tướng thanh tịnh đã lặng dứt.

9.   Tướng nơi chốn phải quyến luyến.

10. Tướng nơi chốn không nên quyến luyến.

11. Tướng nên quán sát.

12. Tướng không nên quán sát.

Luận về chấp ngã: Là như có một hạng người, hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn khởi những kiến chấp như vầy rồi họ lập luận rằng: Có ngã, có Tát-đỏa (hữu tình) có mạng, có sinh, có nuôi dưỡng, có, có số mạng sinh về đâu. Họ cho những việc ấy là thật, là thường. Các ngoại đạo cố chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo ấy lại sinh ra kiến chấp lập luận như vậy?

Đáp: Là do giáo và lý, về giáo như trước đã nêu, về lý thì như có một số người vì tính tầm tứ, tính quán xét, nói rộng như trước là do hai nhân:

1.     Tĩnh biết không do suy nghĩ mà chợt nghe liền có được Tát-đỏa giác.

2.     Trước đã suy tư mà tính biết, có cái biết ấy. Họ suy tư rằng: Nếu đối với vô ngã thì khi thấy đối với năm việc không nên hiểu biết có ngã trong năm việc ấy. Khi thấy hình sắc rồi, chỉ nên cảm biết là sắc thôi. Không nên cảm biết về Tát-đỏa. Khi thấy đúng theo khổ, vui rồi, chỉ nên cảm biết thế thôi, không nên cảm biết về hơn, kém của Tát-đỏa.

3.     Khi thấy rồi thì đặt tên, gọi là tương ưng với nghiệp rồi, chỉ nên thấy cảm giác nhận thức mà không nên sinh ra cảm biết về Tát-đỏa là Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đạt-la, Phật thọ, Đức hữu v.v…

4.     Khi thấy sự gây ra tịnh, bất tịnh rồi thì chỉ cảm biết về hành nghiệp đó. Không nên sinh cảm biết về Tátđỏa trí, ngu.

5.     Khi thấy thức tùy chuyển đối với cảnh giới rồi thì chỉ nên cảm biết về tâm thôi, không nên sinh ra cảm biết về Tát-đỏa và ngã, chủ thể thấy.

Do trước không tư duy tĩnh biết như vậy là đối với năm việc ấy chỉ phát sinh cảm biết về Tát-đỏa, chứ không phải cảm biết về nghiệp của họ. Vì trước không tỉnh biết do suy tư, nên vừa thấy rồi là ngay cái biết có Tát-đỏa. Từ đó quyết chắc có một cái ngã thật sự.

Lại nữa, họ nghĩ rằng: Nếu không có ngã thì trước, khỏi cần suy tư về những gì mình làm đối với nghiệp, nghĩa là ngã dùng mắt thấy sắc, chính lúc thấy sắc, đã thấy các sắc rồi thì tâm lại sinh ra ý nghĩ ngã không thấy các sắc Cũng thế, vì nó đều được dẫn đường trước do cảm biết và hành động của ngã cả rồi. Đối với việc mắt thấy như vậy thì đối với tai, mũi, lưỡi, thân, ý nên biết, chúng cũng như vậy.

Lại nữa, đối với nghiệp lành, làm những nghiệp lành bị dứt trừ. Đối với nghiệp ác, làm những việc ác, bị dứt trừ. Những việc như vậy đều do suy tư biết trước rồi có được tác dụng. Những tác dụng thế ấy chỉ đối với các nghiệp thì không hợp lý. Do nghĩ như thế nên họ bảo là có ngã.

Nay tôi hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp như thế ấy, ngay trên việc thấy mà sinh cảm biết về Tát-đỏa hay từ những gì khác ngoài việc thấy mà sinh cảm biết về Tátđỏa?

Nếu ngay trên việc thấy mà sinh ra cảm biết về Tátđỏa thì ông không nên nói ngay sắc, v.v… mà chấp có Tát-đỏa, chấp có ngã. Vì đó là cái biết trái ngược.

Nếu từ những gì khác ngoài sự thấy mà sinh ra cảm biết về Tát-đỏa thì ngã phải có hình tướng chiếm một khoảng không gian nào đó, thì điều ấy không hợp lý. Ngã mà có hơn, kém, sát-đế-lỵ… có ngu, khôn, là chủ thể thọ nhận sắc của cảnh giới thì điều ấy không hợp lý. Lại nữa, ông muốn điều gì? Là đối với tự thể của pháp nầy, chỉ sinh cảm biết đối với pháp nầy? Hay cảm biết nầy còn sinh đối với thể pháp khác?

Nếu đối với tự thể pháp nầy, chỉ sinh cảm biết đối với nó thôi, thì đối với những gì thấy mà cảm biết về ngã của chúng, như vậy không gọi là cảm biết trái ngược.

Nếu cảm biết nầy còn sinh đối với thể pháp khác thì tất cả cảnh giới đều là nguyên nhân sinh cảm biết cho tất cả cảnh giới.

Lại nữa, ý ông muốn điều gì? Đối với số phận vô tình mà cảm biết chúng là hữu tình, đối với số phận hữu tình mà cảm biết chúng là vô tình, đối với số phận hữu tình khác mà cảm biết là những hữu tình khác, có phát sinh nhận thức như vậy hay không?

-     Nếu có phát sinh thì vô tình lẽ ra phải là hữu tình, hữu tình phải là vô tình, các hữu tình khác phải là những hữu tình khác thì điều ấy, không hợp lý.

-     Nếu không phát sinh nhận thức như vậy thì là bác bỏ hiện lượng, điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Cái cảm biết chấp ngã nầy là theo nghĩa hiện lượng hay theo nghĩa tỉ lượng?

-     Nếu theo nghĩa hiện lượng thì chỉ có năm uẩn như sắc uẩn, v.v… là theo nghĩa hiện lượng, trong khi đó ngã không theo nghĩa hiện lượng. Điều ấy không hợp lý.

-     Nếu theo nghĩa tỷ lượng thì như đứa ngu, trẻ thơ, chúng không có khả năng suy nghĩ, lẽ ra không nên vừa nghe liền sinh cảm biết có ngã.

Lại, nay tôi hỏi ông, ông nghĩ thế nào thì đáp như thế ấy. Như các việc người đời làm thì họ lấy các biết làm động lực hay lấy ngã làm động lực?

-     Nếu lấy cái biết làm động lực thì những gì làm lại do chấp ngã, điều ấy không hợp lý. Nếu lấy ngã làm động lực, nhưng trước lại suy nghĩ biết rồi mới làm thì điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Động lực của các việc làm, nó là vô thường hay thường trụ? Nếu là vô thường thì động lực chính của các việc làm đã thay đổi khác đi rồi mà lại chấp đó là những cái do ngã làm thì điều ấy không hợp lý. Nếu là thường trụ thì không thay đổi khác, pháp đã không thay đổi khác mà chấp cho có những cái được làm ra thì điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Những gì mà ngã làm ra là nhờ có động tác hay không có động tác?

-     Nếu những gì mà ngã làm ra là nhờ có động tác thì nó thường được làm, không phải làm nữa. Nếu những gì mà ngã làm ra không nhờ động tác, không có tính chất động tác mà lại được làm ra thì điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Những gì mà ngã làm ra là có nhân hay không nhân?

-     Nếu có nhân thì những gì mà ngã nầy làm ra là bởi nhân khác thúc đẩy. Điều ấy không hợp lý. Nếu không có nguyên nhân thì nó làm hết cả các việc, bất kể giờ khắc nào. Điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Những gì mà ngã nầy làm là tự nương vào chính nó hay là nương vào cái gì khác ngoài nó?

-     Nếu nương vào chính nó thì ngã nầy tự do làm các việc già, bịnh, chết, khổ, tạp nhiễm v.v… điều ấy không hợp lý. Nếu nương vào cái khác mà lại chấp cho là ngã làm ra thì không hợp lý.

Lại, nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp vậy: Đối với uẩn mà ông lập ra là có ngã hay trong các uẩn chỉ là uẩn? Còn ngoài ra, xứ thì không có tính chất uẩn?

Nếu ngay trong uẩn mà ông lập có ngã thì ngã và uẩn không có gì khác nhau, thế mà lại chấp là có ngã thật và thường trụ, thì điều ấy không hợp lý.

Nếu trong các uẩn thì ngã là thường hay vô thường? Nếu là thường thì ngã là thường trụ, nó bị các vui, khổ gây tổn hại làm lợi ích, điều ấy không hợp lý. Nếu nó không bị tổn hại và được lợi ích mà phát sinh pháp và thi pháp thì không hợp lý. Nếu ngã bất sinh khởi pháp và phi pháp thì các uẩn của thân không bao giờ sinh khởi, và ngã thường giải thoát mà không phải do công dụng nào.

-     Nếu là vô thường thì tách rời ngoài tự thể uẩn mà pháp có sinh, có diệt, có nối nhau trôi lăn thì điều ấy không thể nắm bắt được, không hợp lý.

Lại nữa, nơi nầy sau khi pháp hoại diệt, nhưng nơi khác không tạo tác mà vẫn mắc lỗi lớn thì điều ấy không hợp lý.

Nếu các xứ ngoài uẩn, ông chấp là có ngã thì đó là vô vi. Nếu không phải là tính của uẩn thì ngã không bị ô nhiễm bất cứ vào bất cứ lúc nào. Lại, ngã và thân không phải thuộc nhau, điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Ngã ông chấp, tức là tướng thấy hay nó tách rời khỏi tướng thấy?

Nếu ngã chính là các tướng thấy thì đó là dựa trên sự thấy mà giả lập. Có tướng của thấy, v.v… mới tách khỏi đối tượng thấy mà lập riêng tướng năng kiến. Còn như ngay trên đối tượng được thấy ấy mà lập riêng ngay năng thấy các tướng thì làm lẫn lộn sở kiến và năng kiến, mà ông lập ngay chỗ ấy một cái ngã làm chủ thể không thấy là không đúng lý, vì năng kiến và sở kiến không khác nhau. Nếu tách rời sở lập ra các tướng năng kiến riêng thì các pháp là sở kiến ấy là nghiệp mà ngã đã hoàn thành hay là công cụ mà ngã chấp dựa vào?

Nếu các pháp ấy là nghiệp được hoàn thành do ngã thì ngã nầy, nếu ở dạng hạt giống, thì nó phải là vô thường, như nói thợ gốm giả lập ra sĩ phu giả thì ngã nầy phải là vô thường, phải là giả lập. Nhưng ông lại nói nó là thường, và thật có, nên không hợp lý.

Nếu ông bảo như người có sức thần thông biến hóa ra các sĩ phu thì ngã nầy lẽ ra cũng là vô thường giả lập. Còn những gì mà ngã làm là tùy ý tự tại, thì như trước đã nói, không hợp lý.

Nếu ông bảo ngã như đất đi nữa thì nó cũng phải vô thường, và ngã mà ông chấp ấy, lại không bằng đất bao la, vì đất bao la nó hiển rõ tác nghiệp. Do vậy, điều ông nói không hợp lý. Vì sao? Vì ở đời nầy, đất là lớn, nghiệp dụng mà nó phát sinh ra là rõ ràng có thể nắm bắt được, nghĩa là nó có năng lực giữ chắc các vật không cho rớt xuống. Trong khi đó, ngã của ông không nêu bày được nghiệp của tự nó, không nắm bắt được. Còn nếu ngã của ông chấp là như hư không thì ấy không phải pháp, đây cũng không hợp lý. Vì sao? Vì đối với sắc thì không giả lập hư không. Hư không tuy là giả có nhưng nó có nghiệp dụng rõ ràng, có thể nắm bắt được. Nó hẳn không phải là ngã mà ông chấp, vì không hợp lý.

Đối với thế gian, nghiệp dụng mà hư không là phát sinh rõ ràng, có thể nắm bắt được là do có hư không nên người ta đi tới lui, co duỗi được. Thế nên đối tượng được thấy là nghiệp hoàn thành do ngã thì điều ấy không hợp lý.

Còn các đối tượng được thấy là công cụ mà ngã dựa chấp, hoặc coi nó như cái liềm hay vật dụng khác ngoài cái liềm, cũng có khả năng tác dụng là cắt đứt được.

Nghiệp dụng của các vật, là đối tượng được thấy, đều không thật có, nếu nó bị tách rời khỏi sự thấy. Điều ấy không hợp lý.

Nếu ông nói như lửa thì cũng là chấp ngã, không hợp lý. Vì sao? Như lửa ở đời nầy, tách rời khả năng đốt cháy thì tự nó cũng có khả năng đốt cháy. Nếu ông bảo tách lìa sự thấy các tướng mà có ngã riêng, thì tướng ngã mà ông chấp lấy nó đi ngược lại tất cả lượng, không hợp lý. Lại nữa, nay tôi hỏi ông, hãy trả lời theo ý nghĩ: Ngã mà ông chấp, có nhiễm tịnh mà do nó tương ưng với tướng nhiễm tịnh hay là nó có nhiễm tịnh mà không tương ưng với tướng nhiễm tịnh?

Nếu tương ưng với tướng nhiễm tịnh mà có nhiễm tịnh thì đối với các hoạt động trong đời sống có những bệnh dịch, tai nạn ngang trái và được thuận lợi khi tai nạn ấy dứt trừ, thì dù các hoạt động kia, không có ngã, nhưng nói là nó tương ưng với nhiễm tịnh. Cả sự vật bên ngoài và trong thân cũng vậy, dù không có ngã mà vẫn thành tựu nghĩa nhiễm tịnh, nên ngã mà ông chấp là không hợp lý.

Nếu ngã ấy có nhiễm tịnh nhưng nó không tương ưng với tướng nhiễm tịnh thì lìa khỏi nhiễm tịnh, ngã vẫn nhiễm tịnh. Điều ấy không hợp lý.

Nay, tôi lại hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp vậy, Ngã mà ông chấp, có tương ưng với tướng trôi lăn mà có trôi lăn và ngừng nghỉ, hay không tương ưng với tướng trôi lăn mà có trôi lăn và ngưng nghỉ?

-Nếu tương ưng với tướng trôi lăn mà có trôi lăn và ngừng nghỉ thì trong các hoạt động của đời sống, có năm chuyển tướng có thể nắm bắt được là:

1. Có nhân.

2. Có thể sinh.

3. Có thể diệt.

4. Lần lượt nối nhau sinh khởi.

5. Có đổi khác.

Trong các hoạt động đời sống thì các tướng trôi lăn nầy có thể được, như ta chèo thuyền trên dòng sông trắng trong. Dù không có ngã trong tác dụng chuyển lưu, tức là các hoạt động trong đời sống, chính nó sự trôi lăn và ngừng nghỉ, đâu đợi phải có chấp ngã đâu?

Nếu ngã trôi lăn và ngừng nghỉ mà không cần tương ưng với tướng lưu chuyển kia thì cái ngã đem chấp nầy không có tướng trôi lăn mà vẫn trôi lăn và ngừng nghỉ, điều ấy không hợp lý.

Nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp vậy, Ngã mà ông chấp là bởi vui, khổ do cảnh giới sinh ra, do nghiệp suy nghĩ, do sự thay đổi của phiền não, tùy phiền não mà cho là sự cảm thọ, sự tạo nghiệp và sự giải thoát, hay không phải do sự đổi khác kia mà bảo là cảm thọ?

Nếu sự đổi khác thì các hoạt động là người cảm thọ, là người tạo nghiệp, là người giải thoát, nên đâu cần chấp ngã, nếu là ngã thì nó cũng phải vô thường nên không hợp lý.

Nếu không do sự đổi khác thì ngã không đổi khác mà lại là người cảm thọ, người tạo nghiệp, người giải thoát, thì không hợp lý.

Lại nữa, nay ông nên nói theo ý muốn là chỉ đối với ngã nói là tác nghiệp hay đối với những pháp khác cũng nói là tác nghiệp?

Nếu chỉ coi ngã là tác nghiệp thì người đời không nên nói lửa là đốt cháy, mà trước nó là tỏa chiếu.

Nếu các pháp khác cũng coi là tác nghiệp thì đối với các căn thấy là người tác nghiệp, đi tìm, lựa ngã chỉ là luống công, vì không hợp lý.

Lại ông nên nói theo y muốn là chỉ với ngã mới lập là ngã, hay các pháp khác cũng lập làm ngã?

Nếu chỉ với ngã mới lập ra là ngã thì người đời không nên lớn tiếng nói là bạn có đức, được Phật thọ ký v.v… trước những sĩ phu.

Nếu đối với pháp khác cũng lập làm ngã thì chỉ đối với các hoạt động, mà giả nói là ngã, chứ cần gì phải chấp riêng có một thứ ngã nữa? Vì sao? Là người đời chỉ đối với sự bày đặt thân sĩ phu mà khởi nghĩ rồi đặt tên cho hữu tình. Rồi nói ta và người, khác nhau.

Lại ông muốn điều gì? Quan điểm chấp ngã của ông là thiện hay bất thiện?

Nếu là thiện thì kẻ hết sức ngu làm sao khởi lên kiến về chấp ngã sâu xa được? Lại không do phương tiện chợt khởi lên đó. Lại khiến chúng sinh sợ hãi giải thoát, lại có thể làm lớn thêm các thứ ác và lỗi, ấy là không hợp lý.

Nếu nói bất thiện thì không nên nói là chân chánh và chẳng điên đảo. Nếu cái ngã mà ông chấp là điên đảo nhưng tự thể nó thật có, thì không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Ông quan niệm ra sao về kiến chấp vô ngã? Nó là thiện hay bất thiện?

Nếu là thiện thì đối với cái ngã thật thường hằng, lại chấp là không có ngã với tính chất thiện, cho không phải kiến giải điên đảo thì điều ấy không hợp lý.

Nếu nói là bất thiện, nhưng tất cả những gì mà người trí nói ra là những gì sinh khởi lên được chính do phương tiện siêng năng, khiến chúng sinh không còn lo sợ việc giải thoát mà còn có khả năng mau chứng quả bạch tịnh. Và như thật mà đối trị các điều ác, sai lầm. Do vậy, điều ông nói là không hợp lý.

Lại nữa, ý ông muốn điều gì? Ngay trong bản thân ngã chấp có ngã hay do quan niệm chấp ngã?

Nếu ngay trong bản thân ngã mà chấp ngã, có ngã thì bất cứ lúc nào không có cảm giác vô ngã.

Nếu vì quan niệm chấp ngã mà có ngã thì dù không có thật ngã, nhưng do sức chấp ngã, nên trong các hoạt động mới sai lầm cho là có ngã. Rồi ông cho rằng chắc chắn thật có ngã, là không hợp lý.

Cũng thế là do trước không biết nên mới phát sinh kiến chấp. Từ đầu nguồn suy nghĩ rồi đẻ ra kiến chấp thấy có ngã làm ra tất cả, từ đó đối với các uẩn lập ra có ngã. Từ tướng uẩn kia, an lập có ngã, rồi lập ra có tạp nhiễm và thanh tịnh, lập ra sự trôi lăn và ngừng nghỉ, lập ra người nhận lãnh, người tạo nghiệp và người giải thoát. Vì quan niệm có người tạo nghiệp, lập ra nói năng, lập ra kiên chấp, chấp cho là có ngã. Tất cả việc ấy đều không hợp lý.

Lại, nay tôi sẽ nói ngã tướng nghĩa bậc nhất. Nói là ngã, chỉ là giả lập là có đối với các pháp thôi, chứ thật không có ngã. Nhưng không thể bảo cái ngã giả tạm nầy, tính chất nó là khác hay không khác đối với các pháp. Chớ bảo cái ngã nầy thật có thể, hay chớ bảo rằng các pháp kia là tánh, tướng của ngã. Lại nữa ngã giả lập nầy tướng nó là vô thường, chẳng phải tướng còn thường hằng, không phải tướng bảo đảm an toàn mà là nó mang tướng tan biến hư mất. Đó cũng là tướng sinh khởi của các pháp, là tướng gây bịnh, chết, chỉ là tướng các pháp, chỉ là tướng khổ não. Cho nên Đức Bạc-già-phạm nói: "Các Tỳ-kheo phải biết! Chính trong các pháp mà lập tạm là có ngã. Ngã ấy là không thường, không hằng, không yên ổn, mà nó là pháp biến hư". Cũng thế, nói rộng nên biết, trong các hoạt động đời sống mà giả lập có ngã là vì bốn lý do:

1.     Giúp cho việc nói năng trong đời được dễ dàng.

2.     Vì muốn thuận các việc trong đời.

3.     Vì muốn cắt đứt nỗi lo sợ do quyết định vô ngã.

4.     Vì muốn nói những thành tựu công đức cũng như thành tựu vượt qua lỗi của mình và cả người, khiến họ phát lòng tin, hiểu một cách vững chắc. Thế nên luận chấp có ngã, là thuyết không đúng lý.

Về luận chấp thường là như có hạng người, hoặc là Sa-môn, hay Bà-la-môn sinh khởi kiến chấp và lập luận như vầy: Ta và thế gian là thường trụ, không phải tạo tác, không phải tạo tác những gì đã tạo tác, không bị biến hóa, chẳng phải không biến hóa những gì đã làm ra, không bị tổn hại mà chứa nhóm vững trụ như phái Y-sưca. Nghĩa là chấp phần trước nói tất cả thường, nói một phần là thường, còn chấp về phần sau thì bảo có tưởng, nói là Vô tưởng, nói là Phi tưởng, Phi phi tưởng. Lại có người chấp cái hết sức nhỏ là thường trụ. Họ tạo nên những lối chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo kia khởi lên những kiến chấp như vậy, lập luận như vậy, cho rằng ngã và thế gian là thường trụ.

Đáp: Như trong kinh nói rộng, những nguyên nhân chấp của họ là vì thích ứng hoàn toàn với họ, nên biết.

Trong đây nói chấp mé trước là hoặc nương vào hạ, trung, thượng của tĩnh lự, rồi khởi lên ý nghĩ tùy theo kiếp sống đời trước. Vì bất thiên làm duyên khởi lên ý nghĩ, nên đối với các hoạt động quá khứ, chỉ có việc nhớ lại, không biết như thật nên chấp vào đời quá khứ, cho là phần trước rồi phát sinh chấp thường hoặc nương vào mắt trời mà chấp đời hiện tại, cho là phần trước nên đối với các hoạt động đang trong sinh diệt từng sát na mà trôi lăn, họ không biết được như thật.

Lại, thấy các thức nối nhau trôi lăn từ đời nầy qua đời khác, không dứt, cho nên họ phát sinh chấp thường. Hoặc họ thấy Phạm Vương thành lập các thứ theo ý ông ta, hoặc thấy bốn đại chủng đổi khác, hoặc thấy các thần thức đổi khác.

Chấp mé sau là họ nhận thấy có khác nhau tưởng và thọ, nhưng không thấy tự tướng của ngã với những chỗ khác nhau nên khởi chấp thường, nghĩa là ngã và thế gian là thường trụ.

Lại chấp cái hết sức nhỏ là thường trụ, vì họ nương vào tĩnh lự thế gian nên khởi lên kiến chấp như vậy. Ấy là do không biết sự thật về lý duyên khởi nên trước chấp có, rồi mới có kết quả nhóm họp phát sinh lên, phải tan rã trước rồi mới có kết quả hoại diệt. Vì lý do ấy, họ cho quả sinh ra từ tính chất hết sức nhỏ của những vật to. Chia chẻ vật to mãi cho đến khi đạt cái hết sức nhỏ của nó thì cái ấy là đứng yên. Thế nên họ bảo vật to là vô thường, còn cái hết sức nhỏ là thường trụ.

Trong đây chấp về sự thường trụ, phía trước, phía sau ấy là lối lập luận chấp ngã, thuộc về tướng khác nhau, về ngã chấp. Luận chấp ngã đã bị phá, nên biết lập luận về tướng khác nhau của ngã cũng bị phá.

Lại nữa, nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp vậy, Ý nghĩ về đời sống kiếp trước và lấy từ các uẩn hay là lấy từ ngã?

-     Nếu lấy từ uẩn mà chấp ngã và thế gian nầy còn mãi thì không hợp lý.

-     Nếu lấy từ ngã rồi nhớ nghĩ quá khứ về loài nầy với tên họ như vậy, ta từng đối với hữu tình tên đó, họ đó. Cũng thế cho đến nói rộng là không hợp lý.

Lại nữa, ý ông nghĩ sao? Khi nhãn thức phát sinh tác dụng thì nó duyên vào đối tượng là cảnh sắc hòa hợp ngay đây, còn cảnh khác thì nó không hòa hợp, không có trong hiện tại thì những thức khác, bị diệt mất hay chuyển biến?

-     Nếu nói là diệt thì thức đã bị hoại diệt, còn đâu mà chấp là thường? Cho nên là không hợp lý.

-     Nếu nói là chuyển thì từ một cảnh giới, tất cả thức đều khởi tác dụng bất cứ lúc nào, điều ấy cũng không hợp lý.

Lại nữa, từ đâu mà ông muốn chấp ngã? Do nhận thức tạo ra hay do cảm thọ tạo ra? Là có đổi khác hay không có đổi khác?

-     Nếu nói rằng có đổi khác rồi chấp thế gian nầy và ngã là thường trụ thì không hợp lý.

-     Nếu bảo rằng nó không đổi khác thì hễ có một nhận thức rồi, thì lại khởi lên các tưởng khác, lại có nhận thức nhỏ và vô lượng nhận thức nữa. Điều ấy không hợp lý.

Lại nữa, trước hoàn toàn là vui, sau hoàn toàn là khổ. Lại có khổ, có vui, có không khổ, không vui, thì cũng không hợp lý.

Lại nữa, nếu chấp mạng sống chính là thân nầy thì kẻ kia chấp ngã là sắc. Nếu chấp mạng sống khác với thân thì người kia chấp ngã chẳng phải sắc.

Nếu chấp ngã là cùng khắp, không hai, không thiếu thì người kia chấp ngã cũng là sắc chẳng phải là sắc.

Nếu vì đối trị lối chấp nầy rồi ngay trong nghĩa nầy, do câu văn khác nhau, bài văn khác nhau mà khởi lên chấp thì người kia chấp ngã là không phải sắc, chẳng phải không phải sắc.

Lại nữa, nếu thấy một ít sắc, một ít chẳng phải sắc thì người kia chấp một bên là có. Nếu chấp pháp kia là vô lượng thì người kia chấp vô biên là có. Lại nếu chấp cùng khắp nhưng chỉ một chút sắc, chứ chẳng phải vô lượng sắc. Hoặc chấp vô lượng sắc, chứ chẳng phải một chút sắc thì người kia chấp vừa hữu biên, vừa vô biên. Nếu do đối trị lối chấp nầy, nhưng do bài văn khác, chứ không phải bởi nghĩa khác mà sinh ra tâm chấp thì người kia chấp không phải có biên, không phải có vô biên, hoặc chấp ngã của giải thoát thì xa lìa hai thứ.

QUYỂN 10

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 6)

Lại nữa, luận chấp cái hết sức nhỏ là thường trụ. Nay tôi hỏi ông, ông nghĩ sao thì đáp vậy, sau khi quán xét rồi, ông mới chấp cái hết sức nhỏ là thường trụ hay không có quán xét mà chấp thường trụ?

Nếu không quán xét mà chấp, Cũng thế là xa rời tuệ quán sát mà cố định chấp là thường trụ, không hợp lý. Còn nếu bảo là đã quan sát rồi mới chấp thường trụ thì trái với các lượng, không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Các tính chất hết sức nhỏ là do nó quá nhỏ nên chấp là thường, hay là tướng của cái hết sức nhỏ ấy, khác với vật thể quá to nên chấp cái hết sức nhỏ là thường?

Nếu do nó quá nhỏ thì khi nó tan rã, tổn giảm, tính chất nó yếu kém đi, thế mà bảo là thường thì không hợp lý.

Nếu bảo tướng của cải hết sức nhỏ là tướng khác lạ, thì nó vượt qua tướng của đất nước gió lửa, vì nó khác với chủng loại nầy mà nói có thể sinh ra quả kia thì không hợp lý. Hơn nữa, các hết sức nhỏ ấy, nó cũng không có tướng mạo khác có thể được, nên không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Từ các thứ hết sức nhỏ mà các vật to phát sinh, tướng của vật to nầy giống hay khác với tướng của nó?

Nếu nói là không khác tướng thì ý ông nghĩ thế nào? Là từ chỗ cái hết sức nhỏ tan lìa mà vật to phát sinh hay vật to phát sinh từ chỗ nhóm họp?

-     Nếu nói vật to phát sinh từ chỗ tan lìa của cái hết sức nhỏ thì đáng lẽ quả sinh ra bất cứ lúc nào. Như vậy thì đưa đến việc không có sự quyết định về nhân quả.

-     Nếu nói vật to phát sinh từ chỗ nhóm họp của cái hết sức nhỏ thì ý ông nghĩ sao? Lúc vật to sinh từ cái hết sức nhỏ kia, nó không bước qua dung lượng của hình chất hết sức nhỏ, hay có bước qua?

-     Nếu nói nó không bước qua dung lượng ấy thì từ chất vật bị chia sinh ra hình chất vật có tính chất bị chia là không hợp lý.

-     Nếu nói nó không bước qua dung lượng ấy thì thể của cái hết sức nhỏ đó, không còn phần nhỏ nữa, không thể phân chia được nữa mà cho vật to từ đó sinh ra là thường, điều ấy không đúng lý.

-     Nếu ông lại nói có những cái hết sức nhỏ trước đây vốn là không có, nhưng nay nó mới phát sinh, rồi chấp cái hết sức nhỏ ấy là thường, thì vẫn không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Các vật hết sức nhỏ kia nó làm ra vật to, thì nó làm dưới dạng hạt giống hay dưới dạng thợ gốm?

-     Nếu ông nói làm ra dưới dạng hạt giống thì các loại nầy phải theo cái thể của hạt giống là vô thường.

Nếu ông nói làm ra dưới dạng thợ gốm thì các thứ hết sức nhỏ kia, lẽ ra chúng phải có suy nghĩ như thợ gốm.

-     Nếu ông nói làm ra không không như hạt giống, không như thợ gốm thì đó chỉ là thí dụ na ná, không thể nắm bắt được, không hợp lý.

Lại nữa, ý ông nghĩ sao? Các vật bên ngoài phát sinh là do hữu tình hay không do hữu tình?

-     Nếu nói do hữu tình thì vật to bên ngoài ấy bởi hữu tình sinh ra, nhưng nó tựa vào vật nhỏ chứ không phải hữu tình, nên là không hợp lý, vậy ai là người có khả năng chế ngự công năng của vật to ấy?

-     Nếu ông nói không do hữu tình thì từ chỗ không tác dụng mà vật bên ngoài sinh thì không hợp lý.

Như vậy, là tùy theo ý niệm về các uẩn và chúng sinh từ một cảnh giới mà tất cả thức trôi lăn mãi không dứt, bởi tưởng và thọ đổi khác và không đổi khác mà người cố chấp lập luận mà cho rằng mé trước và mé sau đều là luận thường trụ. Điều ấy không hợp lý.

Lại do quán xét hay không quán xét, bởi cộng tướng hay tự tướng, bởi tạo tác, bởi chủng tánh có tác dụng nên lập luận cái hết sức nhỏ là thường. Điều ấy không hợp lý. Từ đó, người lập luận chấp thường là không nói đúng như lý.

Lại nữa, nay tôi sẽ nói tướng thường trụ là tướng ấy không đổi khác bất cứ lúc nào, là tướng không đổi khác của tất cả các thứ, là tướng tự nhiên không đổi khác, là tướng không đổi khác, dù bị cái khác tác động. Lại nữa, tướng ấy bất sinh, nên biết đó là tướng thường trụ.

Về lập luận chấp tất cả đều do nhân đời trước làm ra, là như có người, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn phát sinh kiến chấp như vậy rồi họ lập luận như vậy, như trong kinh nói rộng. Họ bảo các khổ não mà các người đang chịu trong đời, đều là do nhân đời trước đã làm, nghĩa là do nhân ác đời trước. Nhưng nghiệp cũ ấy, bỏ đi được là do siêng năng thực hành các khổ hạnh trên thân mình ở hiện tại. Còn nghiệp mới hiện tại là không gây nhân tổn hại, không gây nghiệp bất thiện. Cho nên về sau không còn hữu lậu, nghĩa là một bề nhắm tới tánh lành, cho nên cho rằng về sau là vô lậu. Từ vô lậu mà hết các nghiệp, hết nghiệp ác. Vì hết nghiệp nên hết khổ, tức là những khổ sinh ra từ nhân đời trước và sự chiêu cảm phương tiện pháp bấy giờ. Do hết khổ nên tới được bờ mé cuối cùng của hết khổ, là tới được chỗ hết khổ ngay trong đời sống nầy. Lối chấp ấy là của phái ngoại đạo vô hệ.

Hỏi: Vì sao các ngoại đạo kia sinh ra kiến chấp rồi lập luận như vậy?

Đáp: Giáo và lý. Về giáo thì như trước đã nói, còn lý như có người do suy tư tìm kiếm, vì tính quán xét, như trước nói rộng. Họ chấp là do thấy công dụng của các việc làm trong đời sống hiện tại, không đưa đến quyết định. Vì sao? Vì họ thấy trên thế gian biết bao kẻ sống bằng phương cách chân chính trọn vẹn, nhưng lại chịu khổ. Trong khi đó, những kẻ khác sống bằng phương cách tà vạy hoàn toàn nhưng họ lại được sung sướng. Họ nghĩ rằng.

Nếu cho rằng nhân khổ chính là do công dụng của những việc làm trong đời sống hiện tại, hiểu vậy là trái ngược, nhưng do họ chấp cho là không trái ngược, cho nên họ mới bảo tất cả đều từ nhân là việc làm đời trước. Vì lý ấy, họ sinh kiến chấp và lập luận như vậy.

Nay, phải hỏi họ ý họ muốn điều gì? Các khổ gây ra phương cách sống hiện tại là có gốc từ việc làm đời trước hay gốc từ phương cách sống hiện tại?

-     Nếu bảo gốc khổ là do việc làm đời trước thì như ông ở trước đã nói nhờ siêng năng tu tập mà trụt bỏ nghiệp cũ, còn nghiệp mới hiện tại là không gây nhân tổn hại, về sau, không còn hữu lậu, cho đến nói rộng, v.v… điều ấy không hợp lý.

-     Nếu bảo gốc khổ là bởi phương cách sống hiện tại, thì như ông ở trước đã nói tất cả khổ mà ai nấy đang chịu trên thế gian là đều do nhân của việc làm đời trước, điều không hợp lý. Như vậy bảo khổ là ngay phương cách sống hiện tại, tất cả đều không hợp lý, cho nên lập luận nầy không đúng như chân đế nói.

Lại nữa, tôi sẽ nói về tướng nhân như thật là có những khổ chủ dùng nhân là việc làm đời trước mà giải thích, như có người, vì sức nghiệp tăng mạnh nên họ phải đọa vào đường ác, hoặc có người đầu thai vào nhà nghèo hèn mọn, hoặc có những khổ não phát sinh từ nhiều nhân phức tạp, như có người thờ vua bất chính là nhân, nên không đạt an vui mà trái lại còn chịu khổ. Cũng như việc thờ vua vừa nói, người ta còn theo những nghề buôn bán, ăn nói, v.v… làm nghề nông, làm ăn cướp, hoặc làm những việc tổn hại đến các người. Nếu ai có phước thì hưởng giàu sang, ai vô phước thì dù cố gắng bao nhiêu vẫn không đạt kết quả mong muốn. Hoặc có những cách sống quá quen, do việc làm hiện tại làm nhân mà đưa đến kết quả, như mới gây ra đã dẫn đến nghiệp nhân hữu lậu khác. Hoặc được nghe chánh pháp, ngay trong pháp được giác ngộ. Hoặc lại phát khởi con đường oai nghi. Hoặc lại tu học những nghề nghiệp khéo léo. Các loại cũng thế, hoàn toàn chỉ là nhân của công dụng phương tiện hiện tại.

Luận chấp về người làm được tự tại là như có hạng người, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn khởi lên kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vầy: Tất cả các quả báo đau khổ mà ai nấy đang chịu trên thế gian nầy thì tất cả, hoặc do tự tại biến hóa ra, làm nhân, hay những kẻ khác biến hóa làm nhân. Những lối lập luận kiểu ấy, gọi là tự tại, v.v… và họ luận chấp từ chỗ bất bình đẳng mà có lối chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao mà các ngoại đạo kia khởi kiến chấp như vậy và lập luận như vậy?

Đáp: Do giáo và lý. Giáo thì như trước nói. Còn lý là như có người do suy nghĩ tìm tòi, xem xét, như trước nói rộng. Còn những ngoại đạo kia, họ thấy trong quả có nhân, các người trong thế gian nầy không thể tùy ý chuyển nghiệp mình. Do vậy ngoại đạo kia mới sinh kiến chấp nầy. Vì sao? Vì hiện thấy hữu tình ở thế gian, các người đối với nhân hiện tại, muốn tu tập nghiệp thanh tịnh nhưng vì không thỏa mãn bản tâm, trở lại làm điều ác. Đến khi sắp đón nhận kết quả của nhân ấy thì họ lại nguyện sinh về đường lành, cũng không vừa lòng, nên trái lại, rơi vào đường ác. Có người, ý muốn hưởng vui sướng nhưng không toại nguyện, trái lại phải gánh chịu khổ não. Do thấy như vậy, nên ngoại đạo kia mới nghĩ rằng: Tất cả các vật trong thế gian phải có người làm ra. Sự sinh ra và biến hóa là cha của muôn vật. Đó là trời Tự tại, hoặc là người khác.

Nay, sẽ hỏi ngoại đạo kia, kệ rằng:

Công năng vô thể tánh.
Nhiếp, không nhiếp, trái nhau.
Có dụng và vô dụng.
Là nhân thành lỗi.

Luận chép: Ông muốn những điều gì? Là nhân công năng biến hóa của trời Tự tại làm công dụng? Hay phương tiện nghiệp là nhân hay không phải nhân?

-     Nếu dùng phương tiện nghiệp làm nhân thì chỉ có tác dụng công năng và phương tiện nghiệp nầy làm nhân, chứ chẳng phải thế gian khác làm nhân, điều ấy không hợp lý.

-     Nếu vô nhân thì chỉ có công năng nầy là không có nhân, chứ không phải vật khác trong thế gian, vậy nên không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Trời Đại Tự tại nầy là thuộc về vào hay không thuộc về thế gian?

-     Nếu ông cho rằng họ là người còn thuộc về thế gian thì trời Đại Tự tại ấy cùng loại với thế gian. Cùng là thế gian mà lại có thể làm phát sinh các thứ khắp thế gian là không hợp lý.

-     Nếu ông cho rằng họ là người không thuộc về thế gian tức là đã giải thoát. Đã giải thoát mà lại nói là có thể làm sinh các thứ trong thế gian là không hợp lý.

Lại nữa, ý ông muốn điều gì? Vì cần dùng mà biến sinh ra thế giới hay không cần dùng?

-     Nếu do cần dùng thì đối với thế gian cái cần dùng là không cần tự tại. Thế mà nói có Đức Tự tại đối với thế gian là không hợp lý.

-     Nếu không cần dùng thì không có chỗ cần dùng, vậy tạo ra thế gian là làm gì? Nên không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Các vật được sinh ra đây là chỉ là trời Đại Tự tại làm nhân hay cũng lấy nhân từ các chỗ khác?

-     Nếu chỉ có trời Đại Tự tại làm nhân thì khi có Đại Tự tại là khi đó có sinh ra, và khi sinh ra là ngay lúc đó có Đại Tự tại, mà nói ông ta là nhân sinh ra là không hợp lý.

-     Nếu cho rằng cũng lấy nhân từ các chỗ khác thì đây chỉ lấy dục lạc làm nhân, và ngoài dục lạc còn có nhân khác.

-     Nếu chỉ lấy dục lạc làm nhân, thì dục lạc nầy chỉ lấy trời Đại Tự tại làm nhân hay nó còn lấy nhân từ chỗ khác?

-     Nếu chỉ lấy trời Đại Tự tại làm nhân thì nếu khi có Đại Tự tại thì lúc ấy có ngay dục lạc. Ngược lại, khi có dục lạc thì ngay khi đó có Đại Tự tại, vậy là phải thường sinh ra từ vô thỉ. Điều ấy cũng không hợp lý.

-     Nếu cho rằng cũng lấy nhân từ chỗ khác thì nhân ấy là không thể nắm bắt được, không hợp lý.

Lại nữa, những dục vọng kia là không tự tại, thế mà bảo các vật trong thế gian nầy là có tự tại, là không hợp lý.

Như vậy, là do công năng thuộc về hay không thuộc về, có công dụng hay không công dụng, tính chất của nhân ấy đều không hợp lý. Cho nên lối lập luận ấy không đúng lý.

Lập luận chấp vào việc gây hại cho là chánh pháp: như có người, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn khởi lên kiến chấp như vậy, lập luận như vầy: Cái hại sinh mạng, trước là chú thuật trong đền thờ. Nếu ai thường cúng tế, nếu kẻ nào bị người khác hại, hoặc các bạn giúp đỡ thì tất cả những người ấy đều được sinh lên cõi trời.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo ấy sinh khởi kiến chấp như vậy, lập luận như vậy?

Đáp: Lối chấp ấy là trái với lý luận, nó phát sinh là do sự gạt gẫm dua nịnh. Nó được lập ra không do quán xét đạo lý mà là sự khởi lên của thời kỳ cạnh tranh ở kiếp xấu ác. Các Bà-la-môn thì đi ngược lại và vượt qua pháp luật của Bà-la-môn xưa kia. Họ khởi lên kiến chấp sai lầm với mục đích là được ăn thịt súc vật.

Lại nữa, cũng nên hỏi những ngoại đạo ấy, họ còn muốn điều gì? Phương pháp chú thuật nầy là tự thể của pháp hay tự thể của phi pháp?

-     Nếu nó là tự thể của pháp thì ngoài sát sinh, không cảm được quả mà mình yêu thích. Nếu thay đổi phi pháp kia thành chánh pháp thì không hợp lý.

-     Nếu là tự thể của phi pháp thì chính mình là kết quả của pháp không yêu thích, thế mà muốn thay đổi kết quả của pháp không yêu thích khác, ấy là không hợp lý.

Như vậy là đã phá rồi, lại có lời bào chữa: Các sự thâm độc trên thế gian nầy đều thuộc về chú thuật, nên không thể bị hại. Nên biết: Phương pháp chú thuật nầy, cũng giống như vậy.

Nay nên hỏi các ngoại đạo kia: Ông muốn điều gì? Phương pháp chú thuật của ông có khả năng làm dứt các độc hại bên ngoài, vậy nó có khả năng dứt trừ tham sân si bên trong hay không?

-     Nếu có khả năng dứt trừ được tham sân si thì bất cứ ở đâu và khi nào cũng không có một người dứt trừ được tham sân si, điều ấy không hợp lý.

-     Nếu không thể dứt trừ được thì ông vừa nói là: Phương pháp chú thuật có khả năng dứt trừ các độc hại bên ngoài, thì cũng có thể dứt trừ nghiệp nhân phi pháp, cũng không hợp lý.

Lại nữa, ông còn muốn điều gì? Phương chú thuật nầy là phổ biến cho tất cả hay không phổ biến?

-     Nếu bảo là phổ biến thì những người thân mà mình yêu mến không cần phải tế lễ trước, vậy là không hợp lý.

-     Nếu bảo là không phổ biến thì công năng của chú thuật nầy chẳng có gì chắc chắn, nên không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Công năng của chú thuật nầy là chỉ thay đổi nhân hay cũng thay đổi cả quả?

-     Nếu nó chỉ thay đổi nhân, chẳng thay đổi quả thì không hợp lý.

-     Nếu nó cũng thay đổi quả thì có thể biến con dê thành sắc đẹp đáng yêu, nhưng sau khi bỏ thân dê rồi mới nhận lấy thân trời, là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Người đặt ra chú thuật là người có năng lực và có lòng thương hay không?

-     Nếu bảo là có thì xả bỏ việc sát sanh, không thể khiến họ sinh lên cõi là không hợp lý.

-     Nếu bảo là không thì người đặt ra chú thuật ấy vẫn còn có thể giải thích, cũng không hợp lý.

Do nhân như vậy, bởi thí dụ, bởi không chắc chắn, vì đối với quả nó không có công năng cho nên chú thuật ấy không hợp lý. Cho nên lối lập luận nầy không đúng như lý nói.

Lại nữa, nay tôi nói về tướng phi pháp là mình gây tổn hại cho kẻ khác mà không tự sửa đổi lầm lỗi ở hiện tại thì gọi đó là phi pháp. Lại, nghiệp của người tu đạo là biết nghiệp nầy sẽ không bị chiêu cảm quả tham ái. Lại, nếu nghiệp của bậc Nhất Thiết Trí mà nói chắc chắn là bất thiện, nghiệp chính mình không muốn làm, nghiệp nhiễm do tâm khởi, nghiệp phải đợi tà thuật mới có hiệu nghiệm đầy đủ, nghiệp tự tánh nó vô ký… Các nghiệp nhân như vậy đều là tướng phi pháp.

-     Luận về có biên vực, không biên vực: như có người hoặc Sa-môn, Bà-la-môn nương vào các tĩnh lự thế gian, rồi họ nghĩ thế gian đang ở đây là có bờ mé hay không có bờ mé, cùng với ý nghĩ hay không cùng với ý nghĩ, như trong kinh nói rộng, nên họ sinh ra kiến chấp như vậy rồi lập luận như vầy: Thế gian có bờ mé và thế gian không có bờ mé, thế gian vừa có bờ mé, vừa không có bờ mé, thế gian không phải có bờ mé, chẳng phải không có bờ mé. Nên biết, vấn đề nầy nói về nhân duyên và chủ thể chấp.

Trong đây, nếu căn cứ vào lúc rạch đường biên giới để tìm ranh giới cho cõi thế gian, nếu nhớ đến kiếp hoại, thì sinh ra ý nghĩ có bờ mé đối với thế gian. Nếu nhớ đến kiếp thành thì khởi ra ý nghĩ không bờ mé đối với cõi thế gian. Còn như y cứ vào phương hướng, khu vực, chu vi rộng để tìm ranh giới cõi thế gian thì bên dưới là không vượt qua ngục Vô gián, bên trên thì không vượt qua tĩnh lự thứ tư, tựa vào tất cả chỗ thì vẫn không tìm được bờ mé, đối với nơi thì nảy ra ý niệm không bờ mé. Đối trị với lối chấp nầy, căn cứ vào văn nghĩa khác không sai khác thì sinh ý niệm chẳng có bờ mé, chẳng phải không có bờ mé, đối với cõi thế gian.

Nay, nên hỏi ngoại đạo kia: Ông muốn điều gì? Từ kiếp hoại trước kia đến nay, lại có thế gian sinh khởi hay không?

-     Nếu ông cho là có thì ông chấp thế gian có bờ mé, là không hợp lý.

-     Nếu ông cho là không thì nay ông nương vào thế gian nầy, rồi chấp vào ý nghĩ bờ mé, ấy là không hợp lý.

Như vậy, thế gian nầy từ xưa nay đã có, từ xưa nay là không, đều không hợp lý. Cho nên luận chấp nầy là không nói đúng như lý.

Luận chấp về không ngả ngũ, gây rối loạn: là bốn thứ ngoại đạo chấp không ngả ngũ gây rối loạn, như trong kinh nói rộng. Nên biết, nếu có người đến hỏi họ Thế nào là thiện và bất thiện theo thế gian, hay hỏi về khổ tập diệt đạo theo xuất thế gian thì lúc bấy giờ ngoại đạo kia tự xưng là: Ta là Bất tử, loạn giả. Tùy nơi chốn, căn cứ vào tịnh thiên bất tử không rối loạn mà hỏi họ thì liền theo lời hỏi người ta, họ trả lời bằng lối gây rối loạn, hoặc mượn việc khác để né tránh hoặc chỉ theo câu hỏi, lấy lời lẽ đổi khác.

Trong đây thứ nhất là bất tử loạn giả là giác mà chưa khai ngộ. Hạng thứ hai là từ nơi pháp mà mình chứng ngộ sinh kiêu ngạo. Hạng thứ ba là giác đã khai ngộ mà chưa chắc chắn. Hạng thứ tư là yếu kém ngu, chậm lụt.

Lại nữa, hạng thứ nhất thì sợ sệt, nói dối, làm cho người khác sợ hãi, biết họ ngu chậm lụt, trả lời lập lờ, nói ta không biết điều ấy. Hạng thứ hai thì đối với pháp mình chứng, chưa thoát khỏi lo sợ, họ sợ người khác hỏi, từ đó họ run sợ, nói dối, run sợ với tà kiến, nói mù mờ là ta đã chứng. Hạng thứ ba run sợ tà kiến, run sợ nói dối, run sợ khi có ai hỏi nên nói mù mờ: Ta không quyết chắc.

Như vầy, ba hạng người nầy họ dùng lời lẽ gây rối loạn bằng cách nương gá vào những chuyện khác. Hạng thứ tư là chỉ run sợ ai hỏi, đối với thế gian và xuất thế gian, họ đều mù tịt. Đối với chữ nghĩa ở đời cũng không biết rành, nói năng mù mờ: Ta là người ngu độn, các việc ta đều không rõ, chỉ biết hỏi ngược lại ai hỏi, rồi tùy lời lẽ họ mà thay đổi, gây rối loạn cho người ta. Đó là lý do sinh bản hạng chấp, phát khởi nhân duyên và năng chấp trước.

Phá các chấp ấy đều như kinh nói, là do ngoại đạo ấy thường run sợ, rồi dựa vào những kiến chấp ấy. Nếu ai đến hỏi thì liền dùng lời dua nịnh quanh co mà gây rối loạn cho người ta. Nên biết, những kiến chấp đó, là thuộc về ác kiến, cho nên lối lập luận ấy là không đúng lý.

-     Lập luận kiến chấp về không có nguyên nhân là họ nương vào tĩnh lự và suy nghĩ sai lầm lập ra hai thứ, như trong kinh nói rộng, nên biết.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo kia từ suy nghĩ sai lầm rồi có những kiến chấp và lập luận như vầy: Ta và thế gian nầy sinh ra không có nhân nào cả?

Đáp: Nói lược: Trước cái biết của họ không nối tiếp và biết bao việc bên trong bên ngoài khác nhau. Từ đó sinh ra các thứ. Hoặc có lúc thấy các nhân duyên là không, không quả báo, nghĩa là họ thấy thế gian không có nhân duyên, hoặc bỗng nhiên gió to khởi lên, chỉ trong chốt lát lại vắng lặng. Hoặc có lúc thấy sông gây lũ lụt tràn bờ rồi lại khô cạn như không có gì. Hoặc có lúc chợt thấy cây trái sum suê rồi sau đó rơi rụng điêu tàn cả. Bởi lý do ấy, mà họ khởi lên kiến chấp vô nhân, lập luận vô nhân.

Nay, nên hỏi họ: Trước đây ông dựa vào ý nghĩ là nghĩ về vô thể hay nghĩ về chính mình?

-     Nếu nghĩ về vô thể thì pháp vô thể ấy ông chưa hề làm quen với nó, chưa từng biết qua mà lại có thể nghĩ về nó thì không hợp lý.

-     Nếu nghĩ về chính mình rồi chấp là: ta trước không có, sau bỗng nhiên sinh ra là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Các vật sinh ra từ trong đến ngoài trên thế gian nầy là bỗng nhiên mà có, không có nguyên nhân hay có nguyên nhân?

-     Nếu chúng không có nguyên nhân thì các vật bỗng nhiên sinh thì phải bỗng nhiên mất là điều không hợp lý.-Nếu chúng có nguyên nhân thì sao ông chấp rằng: Ta và thế gian nầy sinh ra không từ nhân nào cả, là không hợp lý.

Như vậy, nghĩ về vô thể, nghĩ về chính mình rồi cho rằng các vật trong ngoài với các thứ khác nhau đều không có nhân mà sinh ra, các thứ khác nhau ấy là do nhân duyên của chúng, là không hợp lý, nên lối lập luận nầy là không đúng như lý.

-     Luận về đoạn kiến: như có người hoặc Sa-môn, Bàla-môn, sinh ra kiến chấp cũng thế rồi lập luận cũng thế, cho đến nói ta có tấm thân thô được tạo do bốn đại vẫn được giữ gìn chưa bao giờ hư mất. Bấy giờ nó bị bịnh, bị ung thư, bị tên bắn thì họ nói: khi ta chết thì không còn gì nữa hết. Ấy là khéo cắt đứt các trói buộc ở cõi Dục, các trói buộc của các tầng trời cõi Sắc, các trói buộc của các tầng trời Vô sắc thuộc về Không xứ cho đến Phi tưởng, Phi phi tưởng xứ, như trong kinh nói rộng. Đó là bảy kiến chấp đoạn, luận giả chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao các ngoại đạo kia sinh kiến chấp như vậy? Rồi lập luận như vậy.

Đáp: Do giáo và lý. Giáo thì như trước đã nêu. Còn lý thì như có người do suy nghĩ tìm tòi, do tính quán sát, như trước đã nói rộng. Họ nghĩ như thế, là nếu sau khi ta chết mà còn có thân thì không cần tác nghiệp vẫn có quả dị thục. Nếu thể tính của ngã mãi mãi là không thì cũng không có nghiệp quả nào để phải chịu. Như vậy, xét hai lối lập luận ấy, thấy nó không đứng vững. Cho nên sinh ra kiến chấp kiểu ấy, lập luận như vầy: Sau khi ta chết thì mất hẳn, không còn gì nữa, như ngói đá một khi bể tan rồi thì không ghép lại được. Lối lập luận của họ là thế, nên biết.

Nay, nên hỏi họ: Ông muốn điều gì? Đoạn diệt ấy là uẩn hay ngã?

-     Nếu nói uẩn đoạn diệt thì thể của uẩn là vô thường, nhân quả xoay vần sinh mãi không dứt mà bảo là đoạn diệt là không hợp lý.

-     Nếu nói ngã đoạn diệt thì trước đây ông nói: Thân nầy được tạo nên do bốn đại sắc thô, rồi mắc bệnh ung thư, tên bắn cho tới trói buộc, trói buộc các tầng trời cõi Sắc, cõi Vô sắc thuộc về Không xứ, cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, là không hợp lý. Như vậy, dù uẩn diệt hay ngã đoạn diệt đều không đúng lý. Cho nên lối lập luận là nói không như lý.

-     Luận chấp không: như có người hoặc Sa-môn, Bàla-môn sinh kiến chấp như vậy rồi lập luận như vầy: Là không có việc bố thí cho ai, không có việc thương mến nuôi dưỡng, không có việc cúng tế thờ phụng, nói rộng, cho đến không có A-la-hán thật trên thế gian nầy. Từ đó, họ sinh kiến chấp như vậy, lập luận như vậy là tất cả tướng, thể của các pháp đều là không.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo kia sinh kiến chấp như vậy rồi lập luận như vậy?

Đáp: Vì giáo và lý. Giáo thì như trước đã nêu. Còn lý thì như người có tính suy nghĩ tìm tòi, do sự quán xét, như trước có nói rộng. Lại họ nương vào tĩnh lự thế gian, họ thấy trên đời nầy có những người làm việc bố thí một đời, làm mãi không ngớt, nhưng sau khi chết, người ấy sinh vào nhà nghèo thiếu hèn kém. Các ngoại đạo nghĩ rằng: Nhất định không bố thí cho ai, không thương mến nuôi dưỡng, không cúng tế thờ phụng gì cả. Lại nữa, họ thấy có người, một đời làm những chuyện quá tốt đẹp, hoặc người khác làm những chuyển gian ác, nhưng rồi thấy những người ấy sau khi chết bị đọa vào đường ác, vào cõi Na-lạc-ca, hoặc là sinh lên cõi trời, sinh lên cõi vui sướng nhà trời. Họ nghĩ: Chắc chắn là không có việc gì tốt và việc gì xấu, cũng không có hai thứ nghiệp dị thục của việc làm tốt và việc làm xấu.

Lại nữa, họ còn thấy một người dòng Sát-đế-lị sau khi chết, sinh vào dòng Bà-la-môn, Phệ-xá, Thú-đạt-la. Hoặc Bà-la-môn sau khi chết, sinh vào dòng họ Sát-đếlị, Phệ-xá, Thú-đạt-la. Người có dòng Phệ-xá, Thú-đạtla sau khi chết cũng vậy. Họ nghĩ: Chắc chắn không có dòng họ Sát-đế-lị từ thế gian khác đến trong dòng dõi Sát-đế-lị ở đời nầy, cũng không có dòng dõi Sát-đế-lị ở thế gian nầy sanh đến dòng Sát-đế-lị cõi khác.

Lại nữa, họ thấy những người tu hành lìa dục sinh xuống cõi thấp. Lại thấy người mẹ sau khi chết sinh làm con gái. Con gái sau khi chết lại làm mẹ. Cha chết làm con, con lại làm cha. Họ thấy cha mẹ không có biên giới rạch ròi, họ nghĩ rằng: Trên đời nầy, chắc chắn không có cha không có mẹ. Hoặc họ lại thấy thân người sau khi chết thì người ấy sinh lên trời Vô tưởng, hoặc sinh vào cõi Vô sắc, hoặc nhập Niết-bàn. Đi kiếm nơi người kia sinh về, không thấy nơi họ sinh, không thể biết được. Hoặc đối với thân sinh khởi tăng thượng mạn A-la-hán rồi, khi sắp chết, tự thấy tướng sinh, bèn nghĩ: Trên đời nầy, chắc chắn không có A-la-hán thật. Nói rộng như vậy.

Hỏi: Lại vì sao khiến họ sinh kiến như vậy rồi lập luận như vậy?

Nói rằng: Không có thể tướng các pháp.

Đáp: Do Như lai giảng nói rất sâu mầu trong kinh, hay nói pháp gần như sâu xa bằng lìa bỏ lời nói, không thể thấy biết sáng tỏ như thật. Lại đối với việc an lập tướng các pháp, bởi suy nghĩ không đúng lý, cho nên họ sinh kiến chấp không, rồi nghĩ: Chắc chắn không có thể, tướng của các pháp.

Nay nên hỏi họ: Ông muốn điều gì? Là có nghiệp báo phải chịu trong kiếp nầy và có nghiệp báo phải chịu trong đời sau, hay là tất cả chỉ chịu quả báo ngay trong kiếp nầy thôi?

-     Nếu có hai thứ như ông ở trước đã nói là không bố thí cho ai, không thương mến nuôi dưỡng, không cúng thờ gì cả, không có việc làm tốt, không có việc làm xấu, không có nghiệp dị thục của việc làm tốt, việc làm xấu, không có thế gian nầy, không có thế gian khác, như vậy là không hợp lý.

-     Nếu nói không có quả báo phải chịu ở đời sau, các người gây ra các thứ việc là tịnh, bất tịnh, sau khi chết, những người ấy, họ sinh ra liền chịu tất cả nghiệp báo dị thục của tịnh và bất tịnh là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Trên đời ai cũng từ hạt giống và thai mẹ sinh ra. Bào thai, hạt giống, đó là cha mẹ hay không phải cha mẹ?

-     Nếu nói là cha mẹ nhưng ông lại nói là không cha, không mẹ là không hợp lý.

-     Nếu nói không phải cha mẹ, nhưng con người sinh ra từ bào thai và hạt giống kia mà nói là không phải cha mẹ thì không hợp lý. Nếu khi làm cha, mẹ lúc ấy không còn là con trai con gái. Khi còn là con trai, con gái thì lúc ấy chưa phải là mẹ, điều ấy cũng không nhất định có lỗi.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Có những chúng sinh sinh vào nơi kia, bằng mắt trời là thấy hay không thấy?

-     Nếu nói là có thấy thì như ông đã nói là không có chúng sinh hóa sinh, là không hợp lý.

-     Nếu nói là không thấy thì là bác bỏ không có người gỡ mình ra khỏi tưởng cõi Dục, ra khỏi dục cõi Sắc, ra khỏi dục của ba cõi, ấy là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Ông có sinh ý kiêu ngạo đối với tính A-la-hán hay không?

-     Nếu nói là có thì như ông nói không có A-la-hán chân thật trên thế gian nầy, là không hợp lý.

-     Nếu nói không thì đó là ông suy nghĩ trái ngược không chân chánh mới tự xưng là A-la-hán, đây lẽ ra cũng là A-la-hán chân thật, là không hợp lý.

Lại nữa, nên hỏi ngoại đạo kia rằng ông muốn điều gì? Tướng pháp viên thành thật, tướng pháp y tha khởi, tướng pháp biến kế sở chấp có hay không?

Nếu nói có: như ông nói không có thể tướng của tất cả các pháp, thì không hợp lý.

-     Nếu nói không thì lẽ ra không điên đảo, nên pháp mà ông chấp cũng không có tạp nhiễm và không có thanh tịnh, điều ấy không hợp lý.

Như vậy, việc đời sau phải chịu quả báo, đâu không quyết định?

Có chỗ sinh, có tăng thượng mạn, có ba thứ tướng, đều không hợp lý. Cho nên lập luận nầy nói không như lý.

Lập luận sai lầm cho là tối thắng là như có người hoặc Sa-môn, Bà-la-môn sinh kiến chấp như vậy rồi lập luận như vầy: Bà-la-môn là chủng loại tối thắng. Sát-đếlị, v.v… là chủng loại thấp hèn. Bà-la-môn thuộc loại da trắng, còn các chủng loại khác là da đen. Bà-la-môn mới được trong sạch, còn các chủng loại khác thì không trong sạch. Các Bà-la-môn là con của Phạm Vương, được sinh ra từ miệng. Phạm vương sinh ra và biến hóa ra. Con cháu của Phạm Vương là đấu tranh cướp giật. Các Bàla-môn sinh chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao Bà-la-môn lại sinh kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vậy?

Đáp: Do giáo và lý. Giáo thì như trước đã nêu. Còn lý là như có người do tính suy nghĩ tìm tòi, do tính quán xét, như trước có nói rộng. Vì họ thấy trên thế gian nầy, các Bà-la-môn chân chính, đầy đủ giới hạnh, rồi họ ham danh lợi và ham được cung kính, nên họ chấp như vậy.

Nay, nên hỏi Bà-la-môn kia: Ông muốn điều gì? Chỉ những giống người khác là do mẹ sanh ra, Bà-la-môn có phải cũng như thế chăng?

-     Nếu chỉ giống người khác mới do mẹ sinh ra thì trong thế gian nầy, thấy các Bà-la-môn đều do mẹ sinh ra, đó là một chuyện thật, nhưng ông lại nói xấu chê bai việc ấy là không hợp lý.

-     Nếu nói Bà-la-môn cũng do mẹ sinh ra thì trước, ông bảo Bà-la-môn là chủng loại tối thắng. Còn chủng loại Sát-đế-lị trở xuống đều là chủng loại hèn mọn. Vậy thì không hợp lý. Từ mẹ sinh ra rồi tạo nghiệp lành, nghiệp không lành, làm việc ác cho thân, ngữ, ý cũng như tạo việc tốt cho thân, ngữ, ý ngay trong đời nầy chịu quả báo không tốt. Nếu chịu quả báo không tốt, nhưng rồi người ấy đời sau đọa vào đường ác, đường lành hoặc ba chỗ hiện tiền. Họ nhập vào thai mẹ do nơi nầy nơi khác, do việc nầy việc khác, rồi được sinh ra hoặc nhằm chỗ có nghề nghiệp khéo léo, hoặc nhằm nơi làm nghề lành, hoặc thiện hay bất thiện, hoặc làm vua, làm bề tôi, hoặc khôn lanh, hoặc đầy đủ chức phận tiếng tăm, hoặc được vua chiếu cố cho ăn lộc, chọn làm người hầu, hoặc không được chiếu cố, hoặc vì luật nước mà phải bệnh, già chết, hoặc không phải già bệnh, chết bởi pháp luật, hoặc tu phạm hạnh vững chắc, được sinh về cõi Phạm thiên, hoặc không được như vậy, hoặc tu pháp Bồ-đề phần, hoặc không tu tập gì hết, hoặc ngộ Bồ-đề Thanh văn, Bồ-đề Độc giác, Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc không phải như vậy.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Là từ chủng loại vượt hơn mà sinh, đó gọi là thắng do giới, văn, v.v… sinh ra?-Nếu do loại vượt trội mà sinh ra thì theo chủ trương trong luận của ông là nghiêng về cúng tế, là giữ giới khéo hơn, học rộng hơn theo tiêu chuẩn định lượng ấy, lối nói ấy không đúng lý.

-     Nếu do giữ giới, học rộng thì như ông nói ở trước, các Bà-la-môn là tối thắng, còn các chủng loại kia là hèn hạ, là không hợp lý.

Như thế sinh ra, làm việc, sinh nơi có nghề khéo léo, tiến thân tốt đẹp, giữ giới khéo hơn, học rộng hơn, được vua chiếu cố, giữ Phạm hạnh, tu giác phần, chứng Bồđề, đều không hợp lý. Cho nên lối lập luận nầy là nói không như lý.

-     Lập luận sai lầm về thanh tịnh là như có người hoặc Sa-môn, hoặc Bà-la-môn sinh kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vầy: Nếu ta giải nói với chỉ tự tại, quán được tự tại thì gọi là thanh tịnh. Có nghĩa là được nhiếp thọ để say đắm miệt mài với năm dục hấp dẫn ở các từng trời, tùy ý ăn hưởng vui chơi hoan vui, thì gọi đó là Niết-bàn thanh tịnh bậc nhất trong pháp hiện tại.

Lại nếu, lìa điều ác, pháp bất thiện ở cõi Dục thì được an trụ đầy đủ trong Sơ tĩnh lự cho nên an trụ đầy đủ trong bốn tĩnh lự, cũng gọi là được Niết-bàn thanh tịnh bậc nhất trong pháp hiện tại.

Lại nữa, có hạng ngoại đạo sinh kiến chấp như vầy, rồi lập luận như vầy Nếu chúng sinh nào đến tắm gội thân thể dưới sông Tôn-đà-lợi-ca thì tất cả tội chướng đều trừ diệt, như sông Tôn-đà-lợi-ca. Nếu ai đến tắm gội thân thể dưới các sông Bà-hồ-đà, sông Dà-gia, sông Tátla-tát-phiệt-để, sông Căng-già thì tất cả tội chướng đều diệt. Đó là thanh tịnh bậc nhất.

Lại, có ngoại đạo chấp giữ giới chó cho là thanh tịnh, hoặc giữ giới bò, hoặc giữ giới bôi dầu mè, hoặc giữ giới lõa hình, hoặc giữ giới nằm tro, hoặc giữ giới tự làm khổ mình, hoặc giữ giới nằm trên phân nhơ nhớp… chấp cho rằng như vậy là thanh tịnh nghĩa, là nói về Niết-bàn ngoại đạo trong pháp hiện tại của họ, cũng như nói về thanh tịnh do tắm sông ấy, ngoại đạo chấp như vậy.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo sinh kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vậy?

Đáp: Do giáo và lý. Giáo thì như trước đã nói, còn lý thì như có người do tính suy nghĩ tìm tòi, do tính quán xét, như nói rộng ở trước. Họ cho tự tại buông lung, ham muốn tự tại, Du-già tự tại, đó gọi là thanh tịnh hơn hết. Nhưng họ không biết tướng của tự tại buông lung một cách đúng đắn.

Lại nữa, có hạng người cố chấp là tự làm khổ thân, tự làm điều ác rồi nói là giải thoát tội ác, hoặc gây ra tội lỗi rồi nói là giải thoát các tội lỗi.

Nay, nên hỏi họ: Ông muốn điều gì? Có những người vui hưởng thỏa thích năm dục thì họ đã lìa tham dục hay chưa?

-     Nếu họ đã lìa thì đối với năm dục ở đời vẫn vui hưởng thỏa thích là không hợp lý.

-     Nếu chưa lìa tham dục mà chấp cho là đã giải thoát thanh tịnh, thì không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Những người chứng Sơ tĩnh lự cho đến họ an trụ đầy đủ trong tĩnh lự thứ tư là vì họ đã lìa tất cả tham dục hay chưa?

-     Nếu bảo họ đã lìa khỏi tất cả tham dục, nhưng chỉ an trụ đầy đủ cho đến tĩnh lự thứ tư thì điều ấy là không hợp lý.

-     Nếu nói họ chưa gỡ mình ra khỏi tham dục mà lại chấp cho là giải thoát rốt ráo, là không hợp lý.

Lại nữa, Ông muốn điều gì? Là do bên trong thanh tịnh mà được rốt ráo thanh tịnh hay do bên ngoài thanh tịnh mà được rốt ráo thanh tịnh?

-     Nếu nói rằng bởi bên trong mà được thanh tịnh, nhưng ông lại chấp rằng nhờ tắm gội nước sông nên được thanh tịnh là điều không hợp lý.

-     Nếu nói rằng do bên ngoài mà được thanh tịnh thì bên trong vẫn còn tràn ngập các thứ nhơ bẩn của tham sân, v.v… chỉ trừ bỏ cáu ghét bên ngoài mà chấp cho là đạt thanh tịnh rốt ráo là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Là nắm lấy tịnh vật mà được thanh tịnh hay nắm lấy vật bất tịnh mà được thanh tịnh?

-     Nếu bởi nắm lấy vật tịnh mà được thanh tịnh thì cõi nầy, ai cũng đều cho chó, v.v… là bất tịnh, thì ông lại có kiến chấp cho rằng thọ giới chó là được thanh tịnh, là không hợp lý.

-     Nếu bởi nắm lấy vật bất tịnh thì tự thể đã bất tịnh làm sao có khả năng khiến người khác trong sạch được? Là không hợp lý.

Lại nữa, ông muốn điều gì? Người giữ giới chó vì thân làm những việc gian ác, bất chánh nên được thanh tịnh, hay thân làm những việc tốt, chân chánh nên được thanh tịnh?

-     Nếu do hành vi ác, bất chánh, mà những hành động như vậy lại cố chấp cho là thanh tịnh thì không hợp lý.

-     Nếu do rằng hành động tốt, ngay thẳng, mà lại giữ giới chó thì là luống uổng mà thôi, mà ông chấp cho rằng những người ấy là thanh tịnh, là không hợp lý.

Cũng thế, dù lìa dục, không lìa dục, dù trong ngoài, dù nhận lấy tịnh, hay bất tịnh, dù tà hạnh hay chánh hạnh, cũng vẫn là không hợp lý. Cho nên lối lập luận nầy không đúng như thật.

Lập luận chấp sai lầm về điều tốt là như hạng người Sa-môn, Bà-la-môn sinh kiến chấp như vậy, rồi lập luận như vầy: Là mặt trời, mặt trăng ở thế gian bị xâm thực hao mòn, các ngôi sao đổi hướng, cho nên các việc làm đều không đạt kết quả. Nếu các hành tinh nọ đi lại đúng hướng nhau, thì các điều con người mong muốn đều đạt kết quả cả. Từ ý nghĩa đó mà họ siêng năng cúng bái mặt trời, mặt trăng, các sao, thờ lửa, tụng chú, đặt cỏ tranh, họ đơm đầy mâm trái Tỳ-la-bà và thức ăn để cúng, đó là nhà lịch số chấp trước như vậy.

Hỏi: Vì sao mà họ sinh kiến chấp như vậy rồi lập luận như vậy?

Đáp: Do giáo và lý. Về giáo thì như trước đã nêu. Còn lý thì do hạng người vì tính suy nghĩ tìm tòi, vì tính quán xét, như trước nói rộng. Vì đạt được tĩnh lự thế gian, nên thế gian đồng cho là A-la-hán. Ai muốn được giàu sang sung sướng, các ước muốn đều đạt thì họ liền đến thưa hỏi vị ấy. Nhưng các vị nầy không biết rõ đạo lý như thật về đạo lý tương ưng duyên sanh họ chỉ thấy trên thế gian nầy mặt trời, mặt trăng bị xâm thực hao mòn, các vì sao vận hành thì chính là lúc chúng sinh với nghiệp tịnh và bất tịnh từ dị thục đã thành thục rồi, thì họ liền chấp cho các hoạt động thế gian đều tác động do mặt trời, mặt trăng, các vì sao. Tin chắc và sung sướng do những việc ấy nên họ lập thuyết và làm cho thuyết ấy sáng tỏ.

Nay, xin hỏi: Ông muốn điều gì? Các hưng, suy trên đời nầy, là bởi vận động của mặt trời, mặt trăng mờ đục bị xâm thực, tinh tú vận hành, hay tác động của nghiệp tịnh, bất tịnh?

-     Nếu nói là do mặt trời, mặt trăng tác động thì hiện tại, thấy có người cả đời vui sướng, đau khổ, phất lên hay suy tàn, tất cả đều do nghiệp làm của họ có phước hay không có phước mà thôi. Như vậy, điều ông nói là không hợp lý.

-     Nếu nói là do nghiệp tịnh, bất tịnh gây nên, nhưng ông lại bảo là mặt trời, mặt trăng gây nên là không hợp lý.

Như vậy, dù các tác động của mặt trời v.v… của tịnh, bất tịnh cũng đều không hợp lý. Cho nên lối lập luận nầy là không đúng lý.

Như vậy, mười sáu thứ luận chấp khác nhau được hình thành do hai môn phát khởi quán xét, do đạo lí chánh đáng quán sát xét tìm thì tất cả các thứ ấy đều không hợp lý.

QUYỂN 11

Phẩm 2: NHIẾP TỊNH NGHĨA (Phần 7)

Pháp lập luận có nhiều thứ, kệ rằng:

Luận thể, luận xứ sở,
Luận cứ, luận trang nghiêm,
Luận phụ luận xuất ly,
Luận nhiều chỗ tác pháp.

Luận chép: Pháp lập luận có bảy thứ: 1. Luận thể tánh,

2.    Luận xứ sở.

3.    Luận về chỗ nương.

4.    Luận trang nghiêm.

5.    Luận đọa phụ (thua).

6.    Luận xuất ly.

7.    Luận nhiều chỗ tác pháp. Luận thể tánh lại có sáu thứ:

1. Ngôn luận.

2. Thượng luận.

3. Tranh luận.

4. Hủy báng luận.

5. Thuận chánh luận.

6. Giáo đạo luận.

Ngôn luận là các sự nói năng, âm điệu, lời lẽ. Thượng luận là ở đời thích nghe lời lẽ biện luận.

Tránh luận là dựa vào ý muốn mà phát sinh tranh cãi, hoặc buộc kẻ khác phải chiều theo ý muốn của mình. Hoặc tự mình kết buộc, theo ý muốn của người khác. Hoặc đối với hữu tình mà ta và người đều yêu mến cùng nhau giành lấy những điều mong muốn ấy. Hoặc thuộc về ca múa vui chơi, như thuộc về nữ ca hát và tôi tớ theo hầu, hoặc đến xem xét, hoặc thọ hưởng. Các dục lạc ấy có chỗ khác nhau, ở đó, người chưa lìa ham muốn thì bị nhiễm trong ham muốn ngay đấy, ở cõi Dục nầy, nên bị buộc chặt vào ham muốn. Từ ham muốn khát ái ấy mà đam mê, tham ái, uy hiếp, cùng nhau giành lấy đối tượng, diễn ra tranh cãi, đưa đến những mâu thuẫn, mưu hại.

Từ những việc làm ác sinh, rồi thân, ngữ ấy ra hành vi ác bị các người chê trách. Hoặc kẻ khác thân ngữ làm ác, chính họ đã làm việc đáng, chê trách, phản đối. Hoặc ta, người cùng yêu mến hữu tình nào đấy, thân ngữ làm những việc ác, giành giật mạ lị nhau. Đối với những việc Cũng thế đã làm hay chưa, các hành vi ác đều bị sai khiến do tham, sân, si sâu nặng, do cố chấp, do thâu nhiếp, do tham ái, nên cùng nhau phẫn nộ. Do tâm cấu nhiễm nên phát ra thành sức mạnh của tranh chấp, tạo nên những nghịch lý, gây vô số tai hại.

Hoặc dựa vào những kiến chấp đã có, là những kiến chấp về thân, về đoạn, thường, vô nhân, nhân ác, là hai thứ tà kiến sinh tử ngoại đạo và còn nhiều thứ ác kiến khác. Trong các lối chấp ấy, hoặc đối với cái mình chấp, kẻ khác sẽ ngăn dứt, đoạn trừ. Hoặc đối với điều kẻ khác chấp, mình sẽ ngăn dứt, đoạn trừ. Hoặc khiến kẻ khác lìa bỏ điều họ chấp. Hoặc có thể thâu nhiếp cái chưa thành kiến chấp. Đối với những việc nầy, ai chưa dứt trừ ham muốn thì như trước đã nói, sẽ đưa đến những tranh cãi đầy nghịch lý, tai hại. Đó gọi là tránh luận.

-     Hủy báng luận là tạo sự phẫn nộ với nhau. Vì tâm ô nhiễm làm bật lên sức mạnh để cùng chế nhạo nhục mạ. Đó là thuộc lời ăn nói thô ác, hoặc thuộc về nói dối, nói thêu dệt, cho đến những lời nói xấu trong pháp luật, hoặc vì hữu tình nói rõ pháp ấy, hoặc cân nhắc so lường, quyết định, hoặc truyền dạy răn bảo, đều gọi là hủy báng luận. Vì sao? Vì đi trái với chân thật, vì dẫn tới đường ác, vì đưa đến luống uổng, nhọc xác, vô nghĩa lợi. Cho nên cách lập luận ấy gọi là Hủy báng luận.

-     Thuận chánh luận là khéo giảng nói những điều trong luật pháp, hoặc vì hữu tình nêu rõ về chánh pháp, hoặc cân nhắc, quán xét, quyết định, hoặc truyền trao, răn dạy để cắt dứt các ngờ vực của các người. Vì khéo thấu đạt nghĩa lí sâu mầu cho nên mới thấy, biết hoàn toàn trong sạch. Đó là Thuận chánh luận. Vì sao? Vì biết thuận theo việc chân chánh, thuận theo nghĩa chân chánh, cho nên lối lập luận nầy gọi là Thuận chánh luận.-Giáo đạo luận là trong Thuận chánh luận ấy, thúc đẩy tu tập tâm học tăng thượng, tuệ học tăng thượng. Tất cả những gì đã được dạy bảo, nếu tâm chưa định thì khiến cho tâm định, tâm đã định thì khiến cho giải thoát. Những ai chưa đạt trí chân thật thì giúp họ khai ngộ. Ai đã chứng trí chân thật rồi thì khiến họ tu tập tròn đầy. Đó gọi là giáo đạo luận. Vì sao? Vì được ủy thác hoàn toàn việc giáo hóa dẫn dắt hữu tình, nên gọi luận nầy là Giáo đạo luận.

Hỏi: Quán sát đúng như thật trong sáu thứ luận nầy, có bao nhiêu luận chân thật, có thể mang lại nghĩa lợi mà khiến các người phải tu tập? Và có mấy thứ luận không chân thật thường dẫn đến vô nghĩa, các người phải xa lìa?

Đáp: Hai luận sau cùng Thuận chánh và Giáo đạo là chân thật, đưa đến ích lợi và có nghĩa, nên tu tập. Hai luận giữa là không chân thật, đưa đến vô nghĩa, cần phải xa lìa. Hai luận đâu cần phân biệt cho rõ.

Luận xứ sở nên biết, cũng có sáu thứ:

1.     Ở trước nhà vua.

2.     Đối với kẻ chấp lý.

3.     Ở trong đại chúng.

4.     Đối với ý nghĩa của giáo pháp có khả năng hiểu rõ.

5.     Đối trước Sa-môn, Bà-la-môn.

6.     Đối trước người thích hiểu ý nghĩa của giáo pháp. Nói về chỗ nương: Có mười thứ, nên biết. Nghĩa của sở thành có hai thứ, pháp của năng thành có tám thứ.

Nghĩa của sở thành có hai thứ là: 1. Tự tánh; 2. Sai khác của sở thành.

Tự tánh là các pháp có lập là có, không lập là không. Sai khác của sở thành là các pháp có trên thì lập có trên, không có trên thì lập không có trên. Các pháp thường thì lập thường, các pháp vô thường thì lập vô thường.

Như vậy có sắc, không sắc, có thấy, không thấy, có đối, không đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi… các pháp gồm vô lượng nghĩa môn khác nhau, Cũng thế, đó gọi là sự sai khác của sở thành, nên biết.

Pháp của năng thành có tám thứ là:

1. Lập tông.

2. Nói về nhân.

3. Dẫn dụ.

4. Đồng loại.

5. Dị loại.

6. Hiện lượng.

7. Tỷ lượng.

8. Chí giáo.

-     Lập tông là y cứ vào hai nghĩa của sở thành, mỗi thứ đều có chỗ nhiếp thọ riêng, tông mình đã thừa nhận, hoặc thuộc về luận giáo, hoặc tự giải thích tông đã lập, hoặc từ người khác đã nghe, hoặc vì thành lập tông chỉ của mình, hoặc vì vạch rõ lầm lỗi trong tông chỉ của người, hoặc vì phá trừ tính kiêu mạn, hoặc vì dứt bỏ tính lấn ác, hoặc vì thương xót hữu tình.

-     Biện nhân là vì muốn thành tựu tông mình lập, nên dựa vào đó dẫn thí dụ đồng loại, khác loại, hiện lượng, tỷ lượng và chí giáo để giải thích đạo lý của nhân.

-     Dẫn dụ cũng vì thành tựu ý nghĩa của tông đã lập, nên dẫn chứng chỗ nương của nhân, đó là lấy những hiện tượng đều dễ hiểu, quen thuộc trong thế gian, để so sánh. Đồng loại là: Hoặc hiện tại hay trước đây đã thấy tướng mạo giống nhau. Đồng loại nầy, chia làm bốn thứ là:

1. Tự thể.

2. Nghiệp.

3. Pháp.

4. Nhân quả.

-     Tự thể tương tự là tướng mạo giống nhau.

-     Nghiệp tương tự là tác dụng của nghiệp giống nhau.

-     Pháp tương tự là trên tự thể, lần lượt các pháp môn đều giống nhau. Chẳng hạn như pháp vô thường và pháp khổ, pháp khổ với pháp vô ngã, pháp vô ngã và pháp sinh, pháp sinh và pháp già, pháp già và pháp chết. Cũng thế, hữu sắc, vô sắc, có thấy, không thấy, có đối, không đối, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi. vô lượng pháp môn sai khác như vậy cùng có chỗ tương tự.

-     Nhân quả tương tự: Là năng thành và sở thành của nhân quả lại cũng có sự tương tự. Đó là đồng loại.

Dị loại là các pháp đều tùy theo nghĩa khác nhau của chúng, nên không giống nhau. Dị loại nầy cũng có bốn thứ là tức ngược với bốn thứ đồng loại trên, nên biết.

Hiện lượng có ba thứ tướng là:

1. Tướng chẳng phải không hiện thấy.

2. Tướng chẳng phải được thành lập quán xét.

3. Tướng chẳng phải thấy lầm.

Chẳng phải tướng mạo không hiện thấy: Nên biết có bốn thứ là khi các căn còn nguyên vẹn, khi tác ý trước mắt đồng loại sinh, khác loại sinh, không có chướng ngại, không phải nhìn quá xa.

Đồng loại sinh ra là: Ham muốn trói buộc các giác quan vào cảnh lệ thuộc cõi Dục. Các căn của địa trên đối với cảnh của địa trên đã sinh, đã cùng sinh. Hoặc sinh hay khởi ý đều gọi là Đồng loại sinh.

Dị loại sinh là: Các căn của địa trên, nếu đối với cảnh của địa dưới. đã sinh thì gọi là Dị loại sinh.

Không chướng ngại là: Có bốn thứ là:

1.   Không phải bị che do tư tưởng ngờ vực.

2.   Không phải nghi ngờ vì bị phiền não che kín.

3.   Không phải bị chướng ngại do chướng phiền não ngăn lấp.

4.   Không phải bị chướng ngại do hoặc chướng hay bị chướng ngại do che lấp là vô minh đen tối đã che kín, đã ngăn cách nên các sắc không còn trong lắng.

Sự chướng ngại do bị che kín là: Như do sức của cỏ thuốc, hay năng lực của bùa chú, hoặc sức thần thông che kín.

Sự chướng ngại do các phiền não ngăn lấp che kín là: Chỉ số ít bị che lấp, cưỡng đoạt do chói lóa của nhiều vật nên không thể nhìn thấy đâu nữa. Hoặc do ăn uống, hay thuốc độc lấn áp, làm ngặt. Hoặc bị lấn áp do các vật to khác khiến khắp mình nổi ốc.

Các loại như vậy thật nhiều vô lượng, vô biên. Hơn nữa, như ánh sáng le lói đã bị ánh sáng rực rỡ chói lóa nên không còn thấy gì, đó là ánh sáng mặt trời làm lóa đi các vì sao và mặt trăng. Lại như năng đối trị lấn ấp làm lóa đi những gì bị đối trị nên không còn nắm bắt được. Như quán bất tịnh đã lấn áp làm lóa đi tướng tịnh.

Quán tưởng các pháp là vô thường, khổ, vô ngã đã làm lóa đi, lấn áp tướng thường, lạc, ngã, tịnh. Sức mạnh của quán tưởng vô tướng đã làm lóa đi, lấn áp các hình tướng.

Sự chướng ngại do hoặc, chướng là các pháp hữu vi đều do huyễn hóa tạo thành, tướng mạo chúng khác nhau, hoặc là pháp tương tự, hoặc nội tại đã gây nên sự hoa mắt, mê mộng, điên loạn vì phiền muộn say sưa, buông lung, rồ dại. Các thứ ấy đều gọi là hoặc chướng. Nếu không bị bốn chướng nầy gây chướng ngại thì gọi là vô chướng ngại. không xa lắm nghĩa là không phải ba thứ rất xa:

1. Nơi ở rất xa.

2. Thời gian rất xa.

3. Dứt bỏ rất xa.

Như vậy, gọi chung là chẳng phải không nhìn thấy hiện thực. Vì chẳng phải bình thường không nhìn thấy các hiện thực nên gọi hiện lượng.

Không phải do tư tưởng cấu tạo mà thành tướng: Lại có hai thứ là:

1.     Khi vừa nắm bắt thì cái ấy trở thành chỗ nương của cảnh.

2.     Lập ra cảnh giới để làm chỗ nương cho đối tượng của sự nắm bắt.

Khi vừa nắm bắt thì cái ấy thành chỗ nương của đối tượng là:

Nếu cảnh là năng tác động thì vừa nắm bắt, liền thành chỗ nương của đối tượng đã nắm bắt, như thầy thuốc trao thuốc cho người bịnh. Thuốc ấy có sắc hương vị xúc đầy đủ, có uy tín lớn, có uy đức nổi tiếng. Nên biết, sắc hương vị xúc của thuốc nầy, vừa nắm bắt, thì liền thành chỗ nương của cái bị nắm bắt kia, là thuốc với uy tín lớn, uy đức nổi tiếng. Nếu bệnh chưa khỏi, nhưng sự cấu tạo tư tưởng đã thành hình. Nếu khi lành bệnh thì không phải do tư tưởng tạo thành. Các loại như vậy, gọi là khi vừa nắm bắt thì cái ấy trở thành chỗ nương cho đối tượng của sự nắm bắt.

-     Lập ra cảnh giới để làm chỗ nương cho đối tượng của sự nắm bắt là: Nếu cảnh là năng tác động thì nó có thể lập ra cảnh giới làm chỗ nương cho việc nắm bắt, như các sư Du-già họ giả tưởng, đem ý nghĩ cấu tạo nên cảnh giới đất, nước, lửa, gió. Nếu từ đất mà giả lập thủy giải [coi là nước] tức là nương vào ý nghĩ đất mà lập ra ý nghĩ nước. Nếu từ đất mà giả lập hai thứ giải là lửa, gió, tức là nương vào ý nghĩ đất mà lập ra hai ý nghĩ, lửa, gió. Trong ấy, ý nghĩ về đất tức là lập ra cảnh giới. Nắm bắt ý niệm đất tức là lập ra cảnh giới làm chỗ nương cho sự nắm bắt ấy. Như đối với ý niệm về đất, các ý niệm về lửa, gió nước, cũng thích ứng với nó, như vậy. phải hiểu cho hết. Đó gọi là lập ra cảnh giới làm chỗ nương cho đối tượng được nắm bắt. Trong sự lập ra cảnh giới ấy, chỗ nương của đối tượng được nắm bắt, không phải là do ý nghĩ cấu tạo nên những giả tưởng để hiểu về các thứ, như đất, v.v… khi cái hiểu ấy chưa thành hình thì gọi là ý nghĩ cấu tạo đã thành. Khi cái hiểu ấy đã thành rồi thì nó không phải do ý nghĩ cấu tạo. Như vậy, gọi là không phải ý nghĩ cấu tạo mà thành tựu. Vì những cái đã thành tựu không phải do ý nghĩ cấu tạo thành tựu. Do những cái đã thành tựu không phải do ý nghĩ cấu tạo nên, vì thế gọi là hiện lượng.

-     Chẳng phải tướng thấy lầm là: Nên biết có năm thứ, bảy thứ. Năm thứ là không phải năm thứ lầm lẫn được thấy. Năm thứ lầm lẫn là:

1. Tư tưởng lầm lẫn.

2. Số lầm lẫn.

3. Hình tướng lầm lẫn.

4. Hiển sắc lầm lẫn.

5. Nghiệp lầm lẫn.

Bảy thứ lầm lẫn là không phải bảy thứ lầm lẫn đã thấy, mà bảy thứ lầm lẫn đó chính là năm thứ lầm lẫn nầy và hai thứ biến hành lầm lẫn nữa, gộp thành bảy thứ. Hai thứ lầm lẫn ấy là:

1. Tâm lầm lẫn.

2. Kiến lầm lẫn.

-     Tư tưởng lầm lẫn nghĩa là không phải món nọ có tướng mạo như vậy, nhưng lại sinh ý nghĩ về tướng mạo ấy, như do ánh sáng mặt trời nấu nung chói lóa, thấy bầy nai khát nước, bèn có ý nghĩ về nước.

-     Số lầm lẫn là đối với thiểu số, sinh nhiều tăng thượng mạn, như người bị bệnh hoa mắt, từ một mặt trăng mà thấy dường như có nhiều mặt trăng.

-     Hình tướng lầm lẫn là đối với hình tướng khác, sinh ra hình tướng tăng thượng mạn khác, như đối với vòng lửa quay mà thấy là hình bánh xe.

-     Hiển sắc lầm lẫn là đối với hiển sắc khác phát sinh hiểu sắc tăng thượng mạn khác, như bệnh Ca-mạt-la làm hư mắt, nhìn các màu đều hóa thành ra màu vàng.

-     Nghiệp lầm lẫn là đối với pháp không có nghiệp, phát sinh có nghiệp tăng thượng mạn, như co nắm tay chạy mau ta thấy cây bên đường cũng chạy theo như sông chảy.

-     Tâm lầm lẫn là đối với nghĩa của năm thứ bị lầm lẫn, tâm sinh vui mừng.

-     Kiến giải lầm lẫn là đối với nghĩa của năm thứ bị lầm lẫn chịu đựng rồi nói trắng ra, củng cố, nâng niu vọng tưởng bền chắc. Nếu không thấy lầm lẫn như vậy thì gọi đó là hiện lượng.

Hỏi: Như vậy, tất cả hiện lượng ấy là gì?

Đáp: Nói lược có bốn thứ là:

1. Sắc căn hiện lượng.

2. Ý thọ hiện lượng.

3. Thế gian hiện lượng.

4. Thanh tịnh hiện lượng.

-     Sắc căn hiện lượng là cảnh giới sắc tướng mà năm căn đã hiện hành như trước đã nói, là thể tướng của hiện lượng.

-     Ý thọ hiện lượng là cảnh giới mà ý căn hiện hành, như trước đã nói, là thể tướng của hiện lượng.

-     Thế gian hiện lượng là cả hai thứ trên đều gọi là thế gian hiện lượng.

-     Thanh tịnh hiện lượng là hiện lượng thế gian cũng là hiện lượng thanh tịnh, nhưng có khi hiện lượng thanh tịnh, không phải là hiện lượng thế gian, nghĩa là trí xuất thế đối với cảnh đã hiện hành. Có, biết là có, không biết là không. Có trên, biết là có trên. Không có trên, biết là không có trên. Không chung với thế gian thì gọi là hiện lượng thanh tịnh.

-     Tỷ lượng là cảnh giới hoạt động của suy nghĩ, lựa chọn. Tỷ lượng nầy có năm thứ:

1. Tướng.

2. Thể.

3. Nghiệp.

4. Pháp.

5. Nhân quả.

-     Tướng tỷ lượng là noi theo tất cả tướng mạo gắn bó nhau là cảnh giới hoạt động của suy nghĩ, đắn đo về các tướng mà mình thấy hiện tại, hay đã thấy từ trước, như thấy cờ nghi vệ, nên so sánh mà biết có xe, thấy khói bốc lên, so sánh biết có lửa. Như vậy do vua biết có quốc gia. Do thấy chồng so sánh biết có vợ. Thấy sừng trâu so sánh biết có trâu. Do hình dáng mềm mại, tóc đen, cử chỉ đẹp biết là còn nhỏ tuổi. Do thấy mặt nhăn tóc bạc biết là người già. Do chấp vào tự tướng so sánh biết người đạo kẻ tục. Do ưa thích nhìn thấy bậc Thánh, bởi ham nghe chánh pháp, do xa lìa kiêu mạn so sánh biết là người chánh tín. Do khéo suy nghĩ những gì đáng suy nghĩ, bởi khéo nói những gì đáng nói, bởi khéo làm những gì đáng làm nên so sánh biết là người thông minh. Do từ bi ái ngữ mạnh mẽ, ưa bố thí, có năng lực cao giải thích nổi những ý nghĩa sâu xa nên so sánh biết đó là Bồtát. Do xáo động, lăng xăng, vui ca cười đùa nên so sánh biết đó là hạng chưa lìa dục. Do oai nghi thường vắng lặng, nên so sánh biết đó là lực Như lai Ứng chánh Đẳng giác đầy đủ tất cả trí. Thấy tất cả tướng mạo tuổi trẻ kia, so sánh biết đến lúc già, chắc chắn phải có việc ấy. Những việc như vậy, gọi là tướng tỷ lượng.

-     Thể tỷ lượng là từ hiện tại, thấy tính chất tự thể của món kia mà so sánh biết loại của vật kia, nhưng hiện tại không còn thấy thể của nó. Hoặc hiện tại thấy một phần tự thể của vật kia rồi so sánh mà biết phần còn lại của nó, như so sánh việc hiện tại và việc quá khứ. Hoặc đem chuyện quá khứ so sánh với chuyện vị lai. Hoặc đem việc sát đây so sánh với việc hiện ở xa.

Lại nữa, như y phục, ăn uống, đồ trang sức, xe cộ, chỉ xem qua tướng còn một chút mà so sánh biết toàn bộ. Lại, lấy một phần đã thành thục, so sánh biết được những phần thành thục còn lại. Các loại như vậy, gọi là thể tỷ lượng.

Nghiệp tỷ lượng là do tác dụng mà so sánh biết chỗ nương của nghiệp, như thấy một vật từ xa, không lay động, chim đang nhóm đậu trên đó, vì so sánh từ những việc ấy mà biết đang có thú dữ bên dưới. Nếu có việc xao động thì so sánh biết nơi ấy có người. Nếu thấy dấu bước chân dài rộng thì so sánh biết là dấu chân voi. Nhìn dấu thân dài bò đi trên đất, so sánh biết là rắn. Nếu nghe tiếng hí hí vang so sánh biết là ngựa. Nghe tiếng rống gầm, so sánh biết là sư tử. Nghe tiếng gầm hét so sánh biết là trâu đầu đàn. Thấy là so sánh của mắt. Nghe là so sánh của tai. Ngửi là so sánh của mũi. Nếm là so sánh của lưỡi. Xúc chạm là so sánh của thân. Biết là so sánh của thức. Dùng gậy dò nước đụng cản, so sánh biết là đất. Nếu nhìn thấy nơi kia cỏ cây cùng khắp tươi mát, cành lá xanh rờn, so sánh biết là chỗ đó có nước. Nếu thấy nóng bức, so sánh biết là lửa. Thấy cỏ cây lay động, so sánh biết là gió. Thấy người mắt tối thui, cầm gậy lần dò, chân khập khiễng mò mẫm lạc đường, so sánh biết là người mù. To tiếng mà người nọ còn ghé tai, so sánh biết là người điếc. Do nghiệp đã làm, so sánh biết là người chánh trí, thông minh, là Bồ-tát, người chưa lìa dục hay đã lìa dục, là Như lai như trước đã nói, nên biết. Pháp tỷ lượng là: Đối với tất cả pháp gắn bó trong chấp mắc thì lấy một rồi so sánh mà biết những cái khác, như thuộc về vô thường, so sánh biết là khổ. Lấy cái thuộc về khổ ấy mà so sánh biết không, vô ngã. Lấy pháp đang sống so sánh biết có già. Lấy pháp thuộc về già, so sánh biết có chết. Lấy cái thuộc về hữu sắc, hữu kiến, hữu ngại so sánh biết có nơi chốn, có hình chất thuộc hữu lậu nên so sánh biết có khổ. Thuộc vô lậu so sánh biết không khổ. Thuộc hữu vi nên so sánh biết pháp sinh trụ dị diệt. Thuộc vô vi nên so sánh biết trái với pháp hữu vi. Các loại như vậy gọi là pháp tỷ lượng.

Nhân quả tỷ lượng là: So sánh tướng nhân quả, như thấy vật gì có đi, so sánh biết có đến. Thấy có đến, so sánh biết có đi. thấy kẻ nọ thờ vua đúng pháp, so sánh biết sẽ có lộc vị cao. Thấy lộc vị cao so sánh biết trước đây người ấy đã thờ vua đúng pháp. Thấy người làm thiện đầy đủ so sánh biết sẽ được phước báo giàu to. Thấy ai giàu to, so sánh biết trước đã làm nghiệp lành đầy đủ. Thấy hành động thiện ác so sánh biết đã hưng thịnh hay suy sụp. Thấy hưng thịnh hay suy sụp, so sánh biết trước họ làm thiện hay làm ác. Thấy ăn uống ê hề so sánh biết no nê. Thấy no nê so sánh biết ăn uống ê hề. Thấy người nọ ăn uống bất thường, so sánh biết bị bệnh. Thấy bị bệnh so sánh biết ăn uống không bình thường. Thấy người tĩnh lự, so sánh biết họ đã lìa dục. Thấy người lìa dục so sánh biết có tĩnh lự. Thấy người tu đạo, so sánh biết sẽ đạt được bốn quả Sa-môn. Thấy đạt được bốn quả Sa-môn, so sánh biết có tu đạo. Các loại như vậy, nên biết. Gọi là nhân quả tỷ lượng. Như thế gọi chung là tỷ lượng.

Chí giáo là: Tất cả lời dạy bảo mà người trí đã lập ra. Hoặc nghe người trí nói pháp rồi thực hành theo đó. Chí giáo nầy gồm có ba thứ:

1. Thuộc về lời nói bậc Thánh.

2. Đối trị lìa nhiễm.

3. Không trái với pháp tướng.

-     Thuộc về lời nói bậc Thánh là: Những kinh giáo mà Như lai và các đệ tử đã nói, lần lượt lưu truyền khắp cho đến ngày nay. Nó không trái với chánh pháp, không trái với chánh nghĩa.

-     Đối trị lìa nhiễm là khi nương vào pháp nầy mà khéo tu tập là dứt hẳn tất cả các phiền não, tham sân si và các phiền não phụ thuộc.

-     Không trái với pháp tướng là: Trái lại là đi ngược với pháp tướng, nên biết. Ấy gọi là không trái với pháp tướng. Những gì gọi là trái với pháp tướng? Là đối với pháp không có tướng mà gắn thêm tướng vào, như chấp có ngã, có thân mạng hữu tình, sự sống, v.v… các thứ hoặc thường, hoặc đoạn, có sắc, không sắc như vậy.

Hoặc đối với pháp có tướng, mà giảm bớt cho là không có tướng. Hoặc đối với pháp quyết định mà lập ra bất định. Như các hành đều là vô thường, các tính chất hữu lậu đều là khổ, các pháp đều là vô ngã mà sai lầm lập ra một phần là thường, một phần là vô thường, một phần là khổ, một phần là chẳng phải khổ, một phần là có ngã, một phần là vô ngã. Như vậy đối với Phật đã lập thì đây không thể nói được, chỉ một bề ký biệt. Lại, trong suy nghĩ tìm kiếm thì phải lấp ký. Cái gì chưa yên định thì phải làm cho yên định, như chấp tất cả lạc thọ đều là tùy miên của tham, tất cả các khổ thọ đều là tùy miên của sân, tất cả các bất khổ bất lạc đều là tùy miên của si, tất cả các vui khổ đều là hữu lậu, suy nghĩ rồi mà tạo nghiệp thì chỉ chịu quả báo khổ. Các loại như vậy, trong pháp nó có tướng mạo, không có tướng khác nhau mà lập khác nhau, có tướng khác nhau mà lập không khác nhau, như dựa vào tướng hữu vi có khác nhau mà đối với pháp vô vi cũng lập khác nhau. dựa vào pháp vô vi không có tướng khác nhau mà đối với pháp hữu vi cũng không lập riêng.

Như vậy, đối với các pháp hữu vi, vô vi, vô sắc, không sắc, có thấy, không thấy, có đối, không đối, hữu lậu, vô lậu, tùy từng pháp với những thích hợp của nó, đều phải biết rõ.

Lại nữa, đối với pháp có tướng mạo không đúng với lý chân chánh mà lập tướng nhân quả, như cho các việc làm tốt bị quả báo không đáng ưa, cho các việc làm ác mà được quả báo đáng ưa, kiến chấp rằng việc nói xấu trong pháp luật và học tập các hạnh tà vạy có thể được thanh tịnh, còn điều lành Phật nói trong pháp luật, người tu hành chánh hạnh thì không được thanh tịnh.

Lại nữa, pháp tạp nhiễm mà lập làm thanh tịnh, còn pháp thanh tịnh thì cho là tạp nhiễm, đối với pháp không có tướng chân thật chỉ giả nói cho là chân thật. Đối với pháp có tướng chân thật chỉ tạm nói cho là không chân thật. Như có pháp chỉ nói bằng không lời thì dùng lời hý luận lập làm thắng nghĩa. Các loại như vậy đều gọi là trái với pháp tướng, ngược với trái ngược trên đây thì gọi là tướng không trái ngược. Ấy gọi là Chí giáo.

Hỏi: Nếu cho rằng tất cả pháp tự tướng thành tựu tự nghĩa khác nhau như vậy, vì sao còn lập ra có hai nghĩa mới thành được.

Đáp: Vì muốn làm nền tảng cho lòng tin và sự hiểu biết của các người, chứ chẳng phải tướng các pháp có sinh thành.

Hỏi: Vì muốn thành tựu nghĩa đã thành lập, vì sao trước đây nói thành lập tông?

Đáp: Vì trước làm sáng tỏ nghĩa mà mình ưa thích. Hỏi: Vì sao hiện tại mới nói về nhân?

Đáp: Vì muốn mở sáng thêm về đạo lý quyết định bằng cách dựa vào pháp nhìn thấy ở hiện tại, tức là không xả bỏ nghĩa của tông đã thành lập.

Hỏi: Vì sao giờ đây mới dẫn thí dụ?

Đáp: Vì muốn làm sáng tỏ pháp nhìn thấy ở hiện tại, nó là chỗ nương của năng thành đạo lý.

Hỏi: Vì sao ở sau lại nói về đồng loại, dị loại, hiện lượng, tỷ lượng, chí giáo?

Đáp: Vì muốn chỉ bày hai thứ là nguyên nhân và thí dụ vì trí trái ngược và không trái ngược. Lại trái nhau là vì hai nhân:

1. Vì không quyết định;

2. Vì thành lập giống nhau.

Không trái nhau cũng hai nguyên nhân:

1. Vì quyết định.

2. Vì thành lập khác nhau.

Trong đó sự trái nhau là vì nghĩa tông đã lập, nó không thể là lượng, cho nên không gọi là lượng. Sự không trái nhau là vì nghĩa tông đã thành lập, nó có khả năng là làm chánh lượng, nên gọi là lượng. Đó gọi là luận về chỗ nương.

Luận Trang Nghiêm có năm thứ nên biết:

1. Giỏi về tông mình và người.

2. Lời lẽ đầy đủ, tròn vẹn.

3. Không sợ hãi.

4. Đôn hậu, nghiêm trang.

5. Xứng đáng cúng dường.

Giỏi về tông mình và người là: Như có người sinh tâm ham thích ưa mến chánh pháp và Tỳ-nại-da nầy, như vậy là đối với tông chỉ mình luận, đã đọc tụng, vâng giữ, nghe đúng, nghĩ sâu, tu hành thành thạo, đã khéo, đã nói, đã rõ. Nhưng đối với pháp kia Tỳ-nại-da không ưa thích, nhưng đối với luận tông của người kia, đọc tụng, nghe sâu chắc chắn, suy nghĩ thành thạo, nhưng không tu theo đó vì biết sáng tỏ, nhận đúng, nói rõ. Đó gọi là giỏi về tông mình và người.

-Lời nói đầy đủ, tròn vẹn là như người có lối nói chặt chẽ, gọn đủ không sai lầm. Tiếng nói có năm đức:

1. Không quê mùa.

2. Giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe.

3. Giọng nói hùng hồn sáng tỏ.

4. Ăn khớp với ý tưởng.

5. Ý nghĩa rạch ròi.

-     Sao gọi là không quê mùa? Là bỏ đi những lời ăn tiếng nói của vùng biên giới với lời lẽ thô kệch, cục mịch.

-     Sao gọi là giọng nói nhẹ nhàng dễ nghe? Là lời nói chung mà thế gian cùng lập, không nói tiếng khác.

-     Sao gọi là giọng nói hùng hồn sáng tỏ? Là dùng lời nói làm sáng tỏ ý nghĩa, nhờ lời giảng mà nói ý nghĩa kia trở nên, hùng tráng.

-     Sao gọi là tương ưng với ý tưởng? Là công đức và pháp nghĩa trước sau hợp nhau.

-     Sao gọi là ý nghĩa rạch ròi? Là có khả năng dẫn dắt làm phát sinh lợi ích không trái ngược với thế gian và xuất thế gian. Lại bàn về sự tương ưng nầy, còn có chín thứ tướng khác nhau qua lời lẽ đầy đủ, tròn vẹn, nên biết là:

1. Nói không lộn xộn.

2. Lời nói không thô lỗ.

3. Giải thích rõ.

4. Nói biết lượng định, chừng mực.

5. Lời nói tương ưng với ý nghĩa.

6. Nói đúng lúc.

7. Lời nói chắc chắn.

8. Lời nói rõ ràng.

9. Lời nói nối tiếp nhau.

Lấy các lối nói nầy bổ túc cho phần trước, gộp lại gọi là nói đầy đủ, tròn vẹn.

-     Vô úy là: Như có người đến đám đông, nhóm họp do đông người tài giỏi. Người lạ mặt, người lắng nghe, người ăn nói giỏi, nhưng tâm người nầy không run sợ, không mặc cảm hèn mọn, mình không tháo mồ hôi, mặt không lộ nỗi run sợ, giọng nói không run, dùng câu không lắp bắp. Các loại như vậy, gọi là không sợ hãi.

-     Đôn hậu, nghiêm nghị là như có người bản chất không giận dữ, sắc mặt lúc nào cũng bình thản, thân mình không lay động. Đó gọi là đôn hậu, nghiêm nghị.

-     Ứng cúng là như có người bản chất hiền lành, vui vẻ, không gắt gỏng ở chỗ tầm thường, lòng vui với chỗ ấy, chiều lòng kẻ khác, lời nói biết thời, chân thật, vì ích lợi cho mình cho người, dẫn dắt ý nghĩa điều lợi. Ăn nói mềm mỏng với bất cứ ai vẫn như nói với bạn thân. Đó gọi là xứng đáng cúng dường.

Nếu dựa vào tướng của năm luận trang nghiêm để làm cho ngôn luận mạnh lên thì phải biết, nó có hai mươi bảy thứ công đức được khen ngợi là:

1.     Được các người kính trọng.

2.     Lời nói được người tin nhận.

3.     Tăng thêm không run sợ trước đại chúng.

4.     Biết một cách sâu xa về khe hở trong tông chỉ của người.

5.     Đối với tông chỉ mình, biết tính chất một cách chắc chắn.

6.     Không cố chấp hẹp hòi.

7.     Không có ý nghĩ thiên vị đối với luận mà mình lãnh thọ.

8.     Không ai có khả năng cướp đoạt chánh pháp, Tỳnại-da của mình.

9.     Mau liễu ngộ những gì người nói.

10.   Mau hiểu những gì người nói.

11.   Hiểu tới ý sâu xa những gì người nói.

12.   Dùng đức của lời nói mà chinh phục lòng người.

13.   Vui vẻ tin, hiểu luận Nhân Minh.

14.   Khéo giải thích ý nghĩa của chữ và câu văn.

15.   Thân không mỏi mệt.

16.   Tâm không uể oải.

17.   Lời không, ngập ngừng.

18.   Lời nói khéo léo không cùng tận.

19.   Thân không hấp tấp.

20.   Nhớ nghĩ không để quên mất.

21.   Nhất tâm, không làm tổn hại.

22.   Cổ họng không khô nghẹt.

23.   Những gì nói ra đều rạch ròi dễ hiểu.

24.   Khéo giữ gìn tâm, không để giận dữ.

25.   Khéo chiều lòng người, khiến họ không giận dữ.

26.   Khiến đối phương nghị luận sinh lòng tin trong sạch.

Tất cả những gì mình làm không gieo thù oán đối với các người, tiếng thơm vang dội cùng khắp thế giới.

Họ truyền với nhau vị Pháp sư nầy đứng đầu trong các Pháp sư. Như người ham muốn dùng ngọc báu Mạtma-ni, lưu ly, vàng ngọc, kim xuyến để tự trang nghiêm, oai đức chói ngời, sáng đến mười phương. Như vậy luận giả đã dùng hai mươi bảy điều khen ngợi công đức, dành năm thứ dụng cụ của luận trang nghiêm để tự trang sức, oai đức cũng chói ngời, sáng đến mười phương. Cho nên gọi luận nầy là luận Trang Nghiêm.

Luận Đọa phụ (thua cuộc) có ba thứ, nên biết là:

1. Bỏ lời nói.

2. Nói quanh co.

3. Nói lỗi.

-     Bỏ lời nói là người lập luận dùng mười ba thứ ngôn từ để từ chối đối luận giả, nhưng không nói về luận của mình. Mười ba thứ là: Lập đối luận giả rằng: Lập luận của tôi không hay, lập luận của ông mới hay. Tôi chưa suy nghĩ kỹ, ông thì suy nghĩ kỹ, lập luận của tôi vô lý, lập luận của ngài hữu lý. Lập luận của tôi gút mắc, lập luận của ông đã lập ra. Tài biện bác của tôi chỉ hết mức ở đây, nếu vượt qua mức ấy, tôi còn phải suy tư chín chắn, cân nhắc thêm mới giảng nói cho Ngài được. Mà thôi hãy gác qua vấn đề nầy, tôi không muốn nói nữa.

Dùng mười ba điều từ chối với đối luận giả như vậy, nên đương nhiên bỏ qua luận của mình. Bỏ qua luận của mình như vậy vì biết chắc công kích họ, họ sẽ thắng mình, mình sẽ rớt phía sau, bị họ đè ép mà thôi, nên nói bỏ luận của mình, gọi là rơi vào chỗ thua.

-     Lời nói quanh co là như người lập luận đã bị đè bẹp do đối luận giả thì y mượn cớ khác để thoái thác, hoặc dẫn lời nói bên ngoài, hoặc tỏ vẻ phẫn nộ, giận dữ, hoặc bộc lộ tính kiêu ngạo, hoặc bới ra chỗ che giấu của đối phương. Hoặc hiện vẻ gắt gỏng, hoặc tỏ thái độ không chịu đựng nổi. Hoặc tỏ ra không tin tưởng, hoặc im lặng thình lình. Hoặc tỏ vẻ lo buồn, hoặc nhún vai cúi mặt. Hoặc trầm tư với lời lẽ nghèo nàn.

-     Mượn cớ khác để rút lui là phủ nhận tông chỉ mình đã lập ra trước đây rồi nhờ tông khác. Bỏ hẳn nhân và thí dụ trước kể cả đồng loại, dị loại, hiện lượng, tỷ lượng, Chí giáo lượng, mà nhờ nhân khác kể cả chí giáo.

Dẫn lời nói bên ngoài là: Gạt bỏ việc bàn luận mà nói về ăn uống, bàn luận chuyện vua, quan trộm cướp, việc xướng ca ngoài đường phố, việc bẩn thỉu, v.v… giả mượn duyên bên ngoài để xả bỏ tông chỉ mình đã lập.

-     Biểu hiện nổi giận là dùng lời lẽ thô bỉ xua đuổi đối luận giả.

-     Biểu hiện giận dữ là dùng lời lẽ oán trách giáng trả đối luận giả.

-     Bộc lộ tính kiêu ngạo là dùng lời lẽ của hạng hèn mọn để chế nhạo đối luận giả.

-     Bới ra chỗ che giấu của đối phương là: Dùng lời dữ dằn vạch trần chỗ che giấu của đối luận giả.

-     Biểu hiện vẻ gắt gỏng là dùng lời lẽ đay nghiến nhục mạ đối luận giả.

-     Tỏ thái độ không chịu đựng nổi là lời oán hận khủng bố đối luận giả.

-     Tỏ vẻ không tin tưởng là: Dùng lời nói và hành động phá giới để chế nhạo đối luận giả.

-     Hoặc im lặng thình lình mất hết khả năng ăn nói.

-     Hoặc tỏ vẻ lo buồn là ý nghiệp bứt rứt.

-     Nhún vai cúi mặt là từ oai dũng mà thân trở nên yếu đuối mau chóng như bông héo tàn.

-     Trầm tư với lời lẽ nghèo nàn là tài ăn nói đều đuối lý.

Trong mười ba việc Cũng thế, hai việc trước là giả dối, gây rối loạn, bảy việc giữa là sinh hạnh tà, bốn việc sau là hành vi cùng tận. Đó gọi là nói quanh co, rơi vào chỗ thua sút.

-     Ngôn luận phạm lỗi là người lập luận có chín điều lỗi là:

1. Tạp loạn.

2. Thô xẵng.

3. Nói không rõ ràng.

4. Nói không hạn lượng.

5. Nói tương ưng với vô nghĩa.

6. Nói không đúng lúc.

7. Nói không chắc chắn.

8. Nói không sáng tỏ.

9. Nói không nối tiếp nhau.

-     Tạp loạn là bỏ việc thảo luận bằng cách đưa vào những chuyện đâu đâu với lời lẽ khác lạ.

-     Thô xẵng là nổi giận dữ dội với lời nóng nảy.

-     Nói không rõ ràng là nói dù pháp dù nghĩa vẫn không làm người nghe và đối luận giả hiểu được gì.

-     Nói không hạn lượng là khi nói ý nghĩa thì dùng lối trùng lặp hoặc nói vài ba lời.

-     Nói tương ưng với vô nghĩa là nên biết có mười thứ:

1.     Vô nghĩa.

2.     Trái với nghĩa.

3.     Hại lý.

4.     Với những gì đã thành… 5. Gây ra những lầm lỗi có hại.

6.     Không được nghĩa lợi.

7.     Không có thứ lớp.

8.     Nghĩa không chắc chắn.

9.     Thành lập những gì đã lập.

10.   Xuôi theo lối lập luận ác, bất chánh, không hợp lý.

-     Nói không đúng lúc là nói không thích ứng trước, sau.

-     Nói không chắc chắn lại đã lập tông rồi lại phá, bỏ xong lại lập, thay đổi mau lẹ, khó lòng biết được.

-     Nói không sáng tỏ là phạm về tướng lời lẽ rõ ràng, không hiểu mà trả lời, hoặc trước theo lời sách sử, sau lại theo lời tục ngữ, hay trái với đây.

-     Nói không nối nhau là nói nửa chừng thì dứt đoạn, tất cả ngôn luận nào phạm vào chín điều nầy đều gọi là nói năng lầm lỗi.

Luận xuất ly là người lập luận quán xét ba thứ rồi phế bỏ lập luận.

Thế nào gọi là ba thứ quán xét?

1. Quán xét đức bị mất.

2. Quán xét hội chúng.

3. Quán xét thiện và bất thiện.

-     Thế nào là quán xét đức bị mất? Là người lập luận khi định lập luận thì phải quán xét như vầy: Ta lập luận nầy, sẽ không gây hại cho mình, cho người, cả hai đều không bị tổn hại? Không sanh pháp hiện tại và về sau đều có tội? Chớ gây cho thân, tâm các phiền khổ chứ? Không quán xét như vậy nên mới đánh nhau bằng dao mác, gậy gộc, mắng nhiếc, cãi lộn, phát sinh lời dua nịnh, nói dối chăng? Rồi đây, không biết bao nhiêu pháp bất thiện sẽ tiếp tục sinh trưởng tăng thêm chăng? Không phải không lợi ích, an vui đối với mình, đối với người chăng? Không phải đa số chúng sinh không được ích lợi an vui, chăng không phải không thương xót thế gian chăng? Vì không quán xét như vậy nên chư thiên, người đời không nghĩa, không lợi, không an vui chăng? Khi người lập luận kia quán xét như vậy, nếu tự biết rõ ta lập luận là gây hại cho mình, cho đến trời, người cũng không có nghĩa, không có lợi và không an vui, rồi người lập luận tự lựa chọn là không nên lập luận. Trái lại, nếu biết chắc luận lập ra là không gây hại cho mình, cho đến đem đến nghĩa lợi, an vui cho trời, người. Sau khi suy nghĩ lựa chọn, người ấy, bèn lập luận. Đó gọi là quán tưởng luận xuất ly bậc nhất.

-     Thế nào gọi là quán sát chúng hội? Là người lập luận, phải biết xem xét chúng hội hiện tại, có ai chấp trước hay không? Có bậc hiền thiện chân chánh hay không? Có người khéo hiểu biết hay không? Khi xem xét như vậy, nếu biết trong chúng hội, có người chấp trước chứ không phải chẳng có người chấp trước, chỉ không có bậc Hiền Thánh vì không có ai là Hiền Thánh, chỉ không khéo hiểu biết vì không có ai là khéo hiểu biết. Người lập luận quán xét lựa chọn: Thế thì ta không nên lập luận trong chúng hội nầy.

Nếu biết chúng hội không có người chấp trước, chứ chẳng phải có người chấp trước, chỉ có bậc Hiền Thánh, chứ chẳng có người không hiền chánh, chỉ có người khéo hiểu, chứ không có người không khéo hiểu. Người lập luận quán xét lựa chọn rồi lập luận trong chúng hội nầy. Đó gọi là tướng của luận xuất ly thứ hai.

-     Thế nào là quán sát thiện và bất thiện? Là người lập luận nên tự xem xét thiện và bất thiện đối với luận thể, luận xứ, luận y, luận nghiêm, luận phụ, và luận xuất ly, ta phải suy nghĩ là thiện hay bất thiện. Ta là người có khả năng lập luận, xô ngã luận khác, liệu ta có thể giải thoát đối với người thua kia chăng?

Lúc quán xét như vậy, nếu tự biết mình là bất thiện, chẳng phải là người khéo hiểu biết, mình là người không có năng lực, chứ chẳng phải có năng lực. Rồi suy nghĩ lựa chọn: ta không nên lập luận với đối luận giả.

Nếu tự biết mình là thiện, chẳng phải bất thiện, là người có năng lực, chẳng phải không có năng lực, rồi suy nghĩ lựa chọn? Ta nên lập luận đối với đối luận giả. Đó gọi là tướng của luận xuất ly số ba.

Luận nhiều pháp sở tác: có ba thứ, đối với luận đã lập, có nhiều phương pháp được thực hiện như:

1. Khéo hiểu tông chỉ của mình và người.

2. Không run sợ.

3. Có tài biện luận.

Hỏi: Ba pháp như vậy, vì sao gọi là đối với luận đã lập, có nhiều phương pháp đã thực hiện?

Đáp: Vì khéo hiểu tông chỉ của mình và người, nên đối với các pháp đều có khả năng bàn luận. Do không run sợ nên có khả năng bàn luận giữa đám đông. Vì có tài hùng biện nên đáp được tất cả câu hỏi. Thế nên ba phương pháp nầy gọi là đối với luận đã lập, có nhiều phương pháp được thực hiện.

QUYỂN 12

Phẩm 2: THÂU TÓM NGHĨA TỊNH (Phần 8)

Giải thích nên biết có nhiều thứ, kệ rằng:

Thể thích văn nghĩa pháp, Khởi nghĩa nan kế thầy Nói chúng nghe khen Phật Lược, rộng học thắng lợi.

Luận chép: Thể là thể tánh các kinh, lược có hai thứ: Văn và nghĩa. Nên biết: Văn là chỗ nương, nghĩa là năng nương tựa. Gọi chung hai thứ là cảnh giới bị nhận biết.

-Thích: lược có năm thứ, nên biết đó là:

1. Pháp.

2. Cùng khởi.

3. Nghĩa.

4. Thích nạn.

5. Thứ lớp.

-Văn: lược, có sáu thứ:

1. Danh từ.

2. Câu văn.

3. Chữ.

4. Lời.

5. Tướng.

6. Cơ thỉnh.

Danh thân: là góp làm rõ thêm lời nói, lược nói có mười hai thứ:

1.   Tên giả.

2.   Tên thật.

3.   Tên chung.

4.   Tên riêng.

5.   Tên theo nghĩa.

6.   Tên nói đùa.

7.   Tên dễ.

8.   Tên khó.

9.   Tên sáng tỏ.

10. Tên giấu kín.

11. Tên tắt.

12. Tên rộng.

-     Tên giả là từ bên trong của uẩn mà lập ra những tên gọi về ta, về mạng sống của hữu tình. Còn đối với các sắc bên ngoài thì lập những tên gọi như bình, áo, xe cộ, v.v...

-     Tên thật là đối với mắt, v.v... đối với sắc, v.v... lập những tên gọi về ý nghĩa của các giác quan.

-     Tên chung là hữu tình có những tên chung là sắc, thọ, đại chủng, v.v...

-     Tên riêng là những tên gọi như bạn Phật, bạn đức, xanh, vàng, v.v...

-     Tên theo nghĩa: là cái gì có chất cản thì gọi là sắc. Do lãnh nạp nên gọi là thọ. Có khả năng đốt cháy, chói sáng nên gọi là mặt trời. Các thứ tên như vậy, gọi là tên theo nghĩa.

-     Tên nói đùa: như kêu kẻ nghèo là tên giàu kia. Các loại như vậy là không xét nghĩa, mà gọi bừa thôi.

-     Tên dễ là ai cũng nghĩ mà biết.

-     Tên khó là trái với tên nói trên.

-     Tên sáng tỏ là ý nghĩa của tên rất dễ hiểu.

-     Tên giấu kín là nghĩa của tên ấy rất khó hiểu, như tên thần chú Đạt-la, Di-đồ.

-     Tên tắt: là tên một chữ.

-     Tên rộng là tên nhiều chữ.

-     Cú thân (câu văn) là dựa vào danh từ, chữ mà giải thích nghĩa đầy đủ. Có sáu thứ cú thân là:

1. Câu chưa đủ ý.

2. Câu đủ ý.

3. Câu văn ở thể bị động.

4. Câu văn ở thể chủ động.

5. Câu mở đầu.

6. Câu giải thích.

-     Câu chưa đủ ý là câu văn không rốt ráo, nghĩa không rốt ráo, phải thêm câu nữa mới trọn nghĩa. Như kệ bốn câu: Không làm các điều ác, gieo trồng các điều lành. Khéo làm chủ tâm mình, là lời dạy của Phật Thánh. Nếu chỉ nói: Các điều ác, thì câu ấy chưa đủ nghĩa. Nếu nói thêm: Các điều ác ấy thì cũng chưa đủ nghĩa. Thế nên, muốn đầy đủ nghĩa, phải nói: Các điều ác ấy, chớ làm thì thành hai vế trọn nghĩa. Đây gọi là câu đủ nghĩa thứ hai.

-     Câu ở thể bị động là: Câu trước phải chờ câu sau mới đủ nghĩa, như nói: Các hành đều vô thường, là pháp sinh diệt, có sinh thì có diệt, vắng lặng mới là vui. Trong nhóm ấy, câu: Các hành đều vô thường là câu bị động vì nó được lập nên do câu: Là pháp sinh diệt.

-     Câu ở thể chủ động là vì câu thứ hai có công dụng làm cho câu thứ nhất trọn nghĩa.

-     Câu tựa là câu mở đầu như nói: Người lành v.v...

-     Câu giải thích, như nói: Hãy đến cho bậc trượng phu chân chính.

-     Thân tự: có chữ hoàn toàn hoặc không hoàn toàn. Danh và câu văn là chỗ nương của bốn mươi chín chữ (Phạm). Trong đây muốn lấy danh từ làm đầu, nên gọi là câu. Thấy đầu như vậy thì biết có danh từ. Nếu chỉ có một chữ thôi thì không thành câu được. Lại nữa, nếu chỉ có chữ và danh nhưng không được sắp xếp thì đó chỉ là chữ rời chứ không có danh.

Hỏi: Vì sao lập ra ba thứ danh từ, câu văn, chữ, như vậy? Đáp: Vì lãnh nhận, ngôn ngữ tăng lên, sinh ra cảm giác. Hỏi: Danh từ có nghĩa gì?

Đáp: Nó như con mắt của các việc, giúp cho các người cùng hiểu biết và còn giúp cho ý thức phát sinh các thứ tướng trạng, rồi nhờ ngôn ngữ truyền nói, nên gọi là danh.

Hỏi: Câu nghĩa là gì? Nó thâu nhiếp trong danh, cuối cùng làm sáng tỏ, dù không còn thấy những gì ở ngay trước mắt, nên gọi là câu.

Hỏi: Văn có nghĩa là gì?

Đáp: Nó làm sáng tỏ danh từ trong câu, nên gọi là văn.

Như Đức Bạc-già-phạm nói: Tăng ngữ, Tăng ngữ lộ, ấy là nói rộng.

Tăng ngữ: Là tất cả chủng loại cũng được gọi là Tăng ngữ. Con đường là: Các loại đều muốn phát sinh thành tăng ngữ.

Từ là: những lời nói tương ưng nhau, có khác với phương ngôn. Vì là chỗ nương của ngôn ngữ nên gọi là tăng ngữ lộ.

Lập bày là: Phân tích một pháp được lập ra do nhiều thứ. Chỗ nương của sự lập bày gọi là con đường lập bày. Dục là từ không có ý muốn riêng. Từ nầy là con đường của tăng ngữ nêu đặt.

Danh thân trên, lược có sáu chỗ nương:

1. Pháp.

2. Nghĩa.

3. Bổ-đặc-già-la.

4. Thời gian.

5. Số.

6. Xứ sở.

Phân biệt rộng danh từ trên, như lãnh vực của những gì nghe được.

Ngữ, nên biết, lược có tám phần: Những gì cao đẹp, v.v… đều do ngôn ngữ tương ưng đầy đủ với nó, cho đến thường giao phó cho ngôn ngữ của báu như đức hạnh để có thể giảng nói chánh pháp.

Ngôn ngữ cao nhất là hướng về cung điện Niết-bàn làm đầu.

Ngôn ngữ đẹp đẽ là tiếng trong trẻo đẹp đẽ.

Lời nói sáng tỏ là văn từ trau chuốt.

Lời nói dễ hiểu là khéo dùng lời giảng nói.

Lời ưa nghe là nó dẫn đến nghĩa chánh pháp.

Lời không căn cứ là không căn cứ vào hy vọng là người khác tin mình.

Lời không trái là lời nói có cân nhắc.

Lời nói vô biên là trong ấy khéo léo trau chuốt.

Nên biết, trong tám thứ ngôn ngữ nầy, lược có đủ ba đức:

1. Đức đưa đến một nơi, chỉ một loại đầu thôi.

2. Đức tự thể là hai thứ sau kế.

3. Đức gia hạnh là những thứ còn lại.

Tương ưng là danh từ, câu văn, bài văn được sắp xếp kỹ lưỡng đâu vào đó. Và nương vào bốn thứ đạo lý để tương ưng nhau.

Giúp đỡ là có khả năng thành lập thứ lớp. Thuận theo là theo thứ lớp mà giải thích. Thanh lượng là câu văn sáng tỏ thanh tịnh. Hữu dụng là khéo đưa vào lòng các người. Tương xứng là ngang bằng trong đại chúng. Ứng thuận là đúng với pháp, dẫn đến nghĩa.

Thuận thời là thường giao phó của cải, thường tu tập, giao phó tu tập, nên gọi là thường tu, siêng tu.

Phần kia là chánh kiến, v.v...

Tư lương là những vật giúp ích kia.

Tương (cùng nhau) là các uẩn tương ưng nhau, các giới tương ưng nhau, các xứ tương ưng nhau, duyên khởi tương ưng nhau, xứ phi xứ tương ưng nhau, niệm trụ tương ưng nhau. Những lời nói tương ưng nhau như vậy, là lời nói Thanh văn, của Bồ-tát, của Phật, đều gọi là tương.

-Cơ thỉnh là vì lý do thưa hỏi mà nói ra. Các trình độ khác nhau nầy, có hai mươi bảy thứ Bổ-đặc-già-la, nên biết. Trong số nầy, do trình độ khác nhau nên chia thành hai thứ, là trình độ khôn lanh và trình độ chậm lụt. Hành khác nhau cũng có bảy thứ như hành tham v.v... như đã nói trong địa Thanh văn. Phẩm loại khác nhau, cũng có hai thứ là tại gia, xuất gia. Nguyện khác nhau cũng có ba thứ Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát. Có thể cứu độ, không thể cứu độ, có hai thứ khác nhau là pháp Niết-bàn và pháp không phải Niết-bàn. Phương tiện có chín thứ khác nhau, là đã thâm nhập chánh pháp, chưa thâm nhậm chánh pháp. Có chướng ngại, không chướng ngại. Đã thuần thục, chưa thuần thục, còn bị trói buộc, không bị trói buộc. Chủng loại không bị trói buộc có hai thứ khác nhau: Là nhân và phi nhân. Sáu loại như vậy, gộp chung làm bốn:

1.  Chỗ nói: là danh thân, v.v… và một phần tướng.

2.  Chỗ làm: là theo trình độ thưa hỏi, gồm hai mươi bảy thứ Bổ-đặc-già-la.

3.  Năng thuyết là lời nói.

4.  Người nói là Phật, Bồ-tát và Thanh văn.

Tất cả sáu thứ tướng mạo như vậy, đều được làm sáng tỏ ở lời văn. Nếu bớt đi một thứ nghĩa thì mất đi sự sáng tỏ. Do có thể làm rõ nghĩa nên gọi là Văn.

Nghĩa: lược có mười thứ:

1.   Nghĩa Địa.

2.   Nghĩa Tướng.

3.   Nghĩa Tác ý.

4.   Nghĩa Xứ sở.

5.   Nghĩa lỗi lầm.

6.   Nghĩa Thắng lợi.

7.   Nghĩa Sở trị.

8.   Nghĩa Năng trị.

9.   Nghĩa Lược.

10. Nghĩa Quảng.

-   Nghĩa Địa: lược có năm địa: Tư lương địa, Phương tiện địa, Kiến địa, Tu địa và Cứu Cánh địa. Nếu phân biệt rộng thì có mười bảy địa là Năm thức thân tương ưng địa, Ý địa, Hữu tầm hữu tứ địa, Vô tầm duy tứ địa, Vô tầm vô tứ địa, Tam-ma-hê-đa địa, Phi Tam-ma-hêđa địa, Hữu tâm địa, Vô tâm địa, Văn sở thành địa, Tư sở thành địa, Tu sở thành địa, Thanh văn địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Hữu dư y địa, Vô dư y địa.

-   Nghĩa tướng: nên biết có năm thứ:

1. Tướng Tự.

2. Tướng Cộng.

3. Tướng Giả lập.

4. Tướng Nhân.

5. Tướng Quả.

Năm tướng Cũng thế, nếu phân biệt rộng như Tư sở thành địa thì lại có năm tướng nữa:

1. Tướng Sai khác.

2. Tướng Du-già.

3. Tướng Chuyển dị.

4. Tướng Nhiễm ô.

5. Tướng Thanh tịnh.

Năm tướng nầy, nên biết, mỗi chỗ phân biệt như trước, còn có năm tướng:

1. Tướng Sở thuyên.

2. Tướng Năng thuyên.

3. Hai tướng nầy lệ thuộc nhau.

4. Tướng Chấp trước.

5. Tướng Bất chấp trước.

-     Tướng Sở thuyên là năm pháp tướng như nói năm pháp tạng.

-     Tướng Năng thuyên là chỗ nương của pháp gọi là đẳng. Tự thể các pháp khác nhau nên phải có lời nói. Đây cũng là làm sáng tỏ Tự thể biến kế sở chấp, nên biết, Tự thể biến kế sở chấp nầy cũng có nhiều tên, nên cũng gọi là Biến phân biệt sở kế, cũng gọi là Hòa hợp sở thành, cũng gọi là Sở tăng ích tướng, cũng gọi là Luống dối sở chấp, cũng gọi là Lời nói làm rõ, cũng gọi là Văn tự phương tiện, cũng gọi là Duy hữu âm thanh, cũng gọi là Vô hữu thể tướng. Các loại khác nhau như vậy, nên biết.

-     Hai tướng nầy lệ thuộc nhau nghĩa là chủ thể nói và cái được nói cùng thuộc vào nhau, là chỗ nương cho tự thể của biến kế sở chấp.

-     Tướng chấp trước là trôi nổi từ vô thỉ kiếp, tất cả phàm phu ngu muội đều đã chấp khắp cái tự thể chấp nầy cùng tùy miên.

-     Tướng không chấp trước là người đã kiến đế biết rõ đúng như thật, đã giải thoát khỏi tướng biến kế sở chấp và các tập khí kia. Biết rạch ròi, tùy các pháp mà muốn phân biệt thì như địa do Tư thành, v.v…

-     Tác ý nghĩa: Có bảy thứ tác ý là biết rõ tướng, như trước đã nêu, v.v... Nếu phân biệt rộng như địa Thanh văn thì còn có mười trí, là: Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Pháp trí, Chủng loại trí, Tha tâm trí, Thế tục trí, Tận trí và Vô sinh trí. Nếu phân biệt rộng như địa Thanh văn còn có sáu thức thân, là từ nhãn thức đến ý thức, như trước đã giải thích sơ lược. Nếu phân biệt rộng như Ngũ thức thân tương ưng địa và ý địa thì lại còn có chín biến tri là trói buộc ở cõi Dục, thấy khổ, tập đã dứt, là sơ đoạn biến tri thứ nhất.

Trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc thấy khổ, tập đã dứt, là dứt hai biến tri. Trói buộc ở cõi Dục, thấy diệt đã dứt, là đoạn ba biến tri. Trói buộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, thấy Diệt dứt là dứt bốn biến tri. Trói buộc ở cõi Dục, thấy Đạo đã dứt là dứt sáu biến tri. Trói buộc cõi Sắc, cõi Vô sắc, thấy Đạo đã dứt là dứt sáu biến tri. Thuận mà dứt hạ phần kiết sử là dứt bảy biến tri. Sắc ái hết là tám biến tri. Hết ái cõi Vô sắc là biến tri thứ chín.

Nếu phân biệt rộng, như Tam-ma-hê-đa địa thì lại có ba môn giải thoát là Không, Vô nguyện, Vô tướng. Đây cũng nói rộng như Tam-ma-hê-đa địa. Cần phải xem xét các pháp trong đó, xem có bao nhiêu thứ tác ý của tư duy, có bao nhiêu điều mà trí biết, có bao nhiêu điều mà thức biết, có bao nhiêu điều mà biến tri biết khắp, có bao nhiêu giải thoát đã giải thoát. Dùng vô lượng cửa quán xét như vậy để quán xét các pháp.-Nghĩa xứ sở, lược có ba thứ:

1.    Sự y xứ.

2.    Thời y xứ.

3.    Bổ-đặc-già-la y xứ.-Sự y xứ có ba thứ:

1. Căn bản sự y xứ.

2. Đắc phương tiện sự y xứ.

3. Mẫn tha sự y xứ.

-Căn bản sự y xứ có sáu thứ:

1. Cõi thiện.

2. Cõi Ác.

3. Thoái đọa.

4. Thăng tiến.

5. Trôi lăn.

6. Vắng lặng.

-Đắc phương tiện sự y xứ, có mười hai thứ là mười hai chủng hành:

1.   Dục hạnh.

2.   Ly hạnh.

3.   Thiện hạnh.

4.   Bất thiện hạnh.

5.   Khổ hạnh.

6.   Phi khổ hạnh.

7.   Thuận thoái phần hạnh.

8.   Thuận tấn phần hạnh.

9.   Nhiễm ô hạnh.

10. Thanh tịnh hạnh.

11. Tự nghĩa hạnh.

12. Tha nghĩa hạnh.

-Mẫn tha sự y xứ gồm có năm thứ:

1. Khiến lìa khởi dục.

2. Chỉ bày.

3. Dạy bảo dẫn dắt.

4. Khuyến khích thúc đẩy.

5. Chúc lành an ủi.

Đường lành trong đây nói là cõi người và cõi trời. Cõi ác là Na-lạc-ca (địa ngục). Thoái đọa có hai thứ là không hại người và hại người:

-     Không hại người là người ta cho mình tự nhiên sống lâu thì phải biết sống lâu là do sắc tài tương xứng mà được yên vui, biện tài cũng vậy.

-     Hại người là dòng họ bị giảm thiểu, từ trên tăng thượng mà giảm xuống. Ít nhiều việc làm bị chi phối do lời nói không đứng đắn, vì trí tuệ ác cho nên không tới được cái tuyệt diệu lớn lao của sắc, hương, vị, xúc. Cho nên dù có thọ dụng các món đẹp hết sức đi nữa, nhưng lòng vẫn không thấy vui. Các loại như vậy, gọi là thoái đọa.

Trái với thoái đọa, sử dụng các cần dùng vui sướng thì gọi là thăng tiến.

-     Trôi lăn là ở ngay trong đường thiện đường ác mà rớt xuống hoặc tiến lên.

-     Vắng lặng là cảnh vắng lặng Niết-bàn hữu dư y hay vô dư y.

-     Dục hành là: như đã nói trong mười thứ dục dẫn dắt.

-     Ly hạnh là đối với việc thọ dụng kia, biết nó là vô thường nên nhàm chán xuất gia, giữ gìn giới cấm, khéo giữ gìn các căn.

-     Thiện hạnh là: tu các hạnh lành hữu lậu, như bố thí, trì giới, v.v...

-     Bất thiện hạnh là: làm ba thứ xấu ác.

-     Khổ hạnh là trần truồng không áo quần. Các việc như vậy, cho đến nói rộng.

-     Phi khổ hạnh là: Các món gì mình có được thì thọ dụng đúng như pháp, xả bỏ các thú vui, xa lìa hai bên. Bỏ các vui thú ham đời và bỏ đắm mê theo khổ hạnh, đi con đường Trung đạo siêng năng nương vào pháp. Khất thực, y áo đều sử dụng đúng như chánh pháp dạy.

-     Thuận thoái phần hạnh là: làm cho mình tiến lên bằng cách khắc phục những chướng ngại.

-     Thuận tiến phần hạnh là làm trái lại điều nói trên.

-     Nhiễm ô hạnh là, như kinh Anh Võ nói, lược có ba thứ là: Nghiệp tạp nhiễm, phiền não tạp nhiễm và trôi lăn tạp nhiễm. Nên biết ba thứ nầy, có chín câu căn bản. Nghĩa là nghiệp tạp nhiễm có ba câu là tham, sân, si. Phiền não tạp nhiễm có bốn câu là bốn điên đảo. Trôi lăn tạp nhiễm có hai câu là vô minh và hữu ái. Vì sao? Vì căn bất thiện sinh khởi các nghiệp tạp nhiễm. Do bốn thứ điên đảo làm phát sinh các phiền não tạp nhiễm. Do cửa vô minh đun đẩy người xuất gia trôi lăn trong tạp nhiễm. Do cửa yêu mến đun đẩy các người tại gia trôi lăn trong tạp nhiễm.

Thanh tịnh hạnh là: Lược có ba học, năm địa. Nên biết, ba học nầy cũng có chín cú căn bản là tăng thượng giới học, tăng thượng tâm học, không tham, không sân, không si được gom vào tư lương địa và phương tiện địa. Tăng thượng tuệ học thuộc về bốn thứ không điên đảo và giải thoát ở Kiến địa, Tu địa, Cứu Cánh địa.

-     Tự nghĩa hạnh là công hạnh tự lợi mình như Thanh văn, Độc giác. Mặc dù họ, có lúc, cũng chuyển làm ích lợi cho kẻ khác, nhưng vẫn mong muốn lợi ích cho thân mình là hơn, nên cũng gọi là Tự nghĩa.

-     Tha nghĩa hạnh: là hạnh lợi tha, như Phật, Bồ-tát, hoàn toàn đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Cho đến nói rộng.

-     Lịnh li dục là: Quở trách, chế nhạo những việc làm thuộc sáu phẩm đen. Chỉ bày các tai hại khiến các người lìa ái dục. Chỉ bày là mong các người học và làm theo pháp trắng. Chỉ bày bốn thứ đạo lý chân chính.

-     Giáo đạo là: Giáo hóa dẫn dắt là chỉ bày đã xong.

-     Tin hiểu là: Tin hiểu, khiến người tu hành thọ nhận chân chánh, tu hành chân chánh các học xứ. Do được tự tại, tín, hiểu cho nên bảo họ rằng: Hôm nay đối với các việc Cũng thế, Cũng thế, các ông phải hành động chân chính theo những điều đã học.

-     Tán lệ (khuyến khích khen ngợi) là các hữu tình đối với những gì đã biết, đã làm, đã được, nhưng sinh tâm lui sụt. Lúc bấy giờ, nên khen ngợi, thúc đẩy họ phát tâm, lại khiến cho những gì đã biết, đã làm, đã được ấy được phấn phát thế lực hơn lên.

-     Khánh ủy (chúc mừng, an ủi) là các hữu tình thực hành một cách hăng hái trong giáo pháp tùy pháp lựa chọn, phải khen ngợi họ một cách chân thật, khiến họ vui lên.

Lại nữa, giúp họ lìa khỏi ham muốn, chỉ bày: Có khi khiến họ lìa ham muốn mà không chỉ bày. Như giáo hóa dẫn dắt họ lìa xa ham muốn ngay đây thì bảo rằng: Như những điều ông nói, đó là không nên làm, thì giờ đây, nhất định ông không nên làm nữa. Hoặc làm cho họ sợ mà bảo: Nếu ông làm thì ta sẽ tháo bung nó ra, hoặc ta yêu cầu người khác tháo bung ra. Nếu ông là bạn thân của ta, thì không nên làm như vậy. Hoặc chỉ bày mà không khiến họ lìa ham muốn như họ đang sống, thì chỉ bày cho họ công đức và lầm lỗi, nhưng không ngăn dứt, khiến họ không có lỗi. Hoặc có lúc vừa chỉ bày cũng vừa khiến lìa ham muốn, như chỉ bày lỗi của họ khiến họ xa lìa.

-     Giáo đạo là: Ban đầu chưa tiếp nhận chuyện học thì hãy họ thọ nhận việc học.

-     Khen ngợi, thúc đẩy là họ đã theo học nhưng chưa tiến bộ, giúp họ tiến lên.

-     Chúc mừng, an ủi có năm thứ thắng lợi là:

1.     Khiến tâm họ quyết định đối với pháp đã chứng ngộ.

2.     Đối với các pháp khác mà họ chứng được một cách cao vời thì khiến họ phát tâm cầu tiến hơn nữa.

3.     Khiến kẻ gièm pha tâm được trụ trong vừa chừng.

Những ai chưa có lòng tin thì giúp họ phát lòng tin trong sạch.

4.     Những ai đã có lòng tin thì giúp họ càng tăng trưởng. Hoặc là chúc mừng, an ủi khi thấy kẻ khác làm việc lành. Phải biết: Người ấy gây ra nghiệp nhân tăng trưởng, có công năng chiêu cảm quả báo ưa thích tâm ý, được sinh lên cõi trời, sau khi chết. Nơi người ấy sinh ra thường có tiếng pháp mầu nhiệm thanh thoát, nghe những âm thanh ấy chẳng ai không vui lòng đẹp ý.

Lại nữa, ý muốn làm có thể cảm được quả ở đường lành, như vì muốn tạo nghiệp lành cho đời sau, hoặc chiêu cảm quả xấu ở cõi xấu là trường hợp đem hạnh lìa dục vào trong phi pháp. Ai trái phạm giới cấm thì sẽ chiêu cảm quả báo đường ác. Nếu không trái phạm thì chiêu cảm quả đường lành. Thực hành tư lương vắng lặng thì chiêu cảm quả đường lành và làm tư lương cho vắng lặng.

Kẻ làm việc không lành thì chiêu cảm quả đường ác, chịu nhiều khổ não. Do y theo tà kiến làm khổ thân mình cho nên chiêu cảm quả đường khổ.

Không tu khổ hạnh làm tư lương cho vắng lặng và chiêu cảm quả đường lành.

Thuận thoái phần hành có thể chiêu cảm quả lui sụt. Thuận tiến phần hành có thể chiêu cảm quả tiến lên. Hạnh nhiễm thể chiêu cảm quả trôi lăn, hạnh thanh tịnh chứng quả vắng lặng.

Tu hành Tự nghĩa giúp cho chính mình cảm quả đường lành, dẫn dắt tiến lên chứng quả vắng lặng.

Tu hành tha nghĩa thì giúp cho cả mình và người đều được sinh về đường lành, dẫn tiến lên chứng quả vắng lặng.

Ba việc căn bản như vậy, có sáu chữ, đều gọi là đường lành cho đến Niết-bàn. Chứng đắc phương tiện sự, có mười hai thứ, là mười hai hạnh.

-   Bi mẫn tha sự có năm, là năm thứ thương xót chúng sinh.

Trong đây, do căn bản sự và sức tăng trưởng là căn cứ vào mười hai: hạnh, như phương tiện sự trên đã thích ứng, khiến cho hữu tình lìa dục, cho đến khi được chúc mừng, an ủi.

-   Y xứ là lược có ba thứ:

1. Nói nương vào quá khứ.

2. Nói nương vào vị lai.

3. Nói nương vào hiện tại, như kinh nói rộng.

-     Bổ-đặc-già-la y xứ là hai mươi bảy thứ số lượng căn cơ chậm lụt mà họ nhận lấy nơi sinh về. Nên biết.

Như trên đã nói, sự, thời, Bổ-đặc-già-la, Phật Bạcgià-phạm đã nương vào ba xứ nầy mà truyền bá Thánh giáo, nên gọi là y xứ.

-     Nghĩa lỗi lầm: đối với những ý nghĩa chán ngán cần hủy bỏ thì khởi tâm hủy bỏ, nhàm chán, hoặc pháp, hoặc chúng sinh.

-     Nghĩa Thắng lợi, nói lược, là đối với các nghĩa đáng khen ngợi thì phát lời khen ngợi hoặc pháp hay chúng sinh.

-     Nghĩa Sở trị, nói lược, là các hành vi tạp nhiễm.

-     Năng trị nghĩa, là tất cả hạnh thanh tịnh, như tính tham là sở trị mà năng trị nó là pháp quán bất tịnh. Sân là đối tượng cần đối trị mà chủ thể đối trị trị nó là lòng từ. Cũng thế, nên biết.

-     Nghĩa Lược là nói nghĩa chủng loại chung các pháp.

-     Nghĩa rộng là nói về nghĩa chủng loại riêng của các pháp. Lại nữa, nói kinh bất liễu nghĩa. Lại, nghĩa gọn thì có hai thứ:

1. Danh gọn.

2. Nghĩa gọn.

Nghĩa rộng cũng có hai thứ: là danh từ rộng, nghĩa rộng. Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Nầy Xá-lợi-phất, ta có thể nói chánh pháp rộng và lược. Dù vậy, kẻ thấu hiểu rất khó kể ra".

Trong kinh tạng thì Trường hàng là văn rộng nhưng nghĩa lược Già-tha thì nghĩa rộng, văn lược. Vì thu nhiếp mười nghĩa, nên nói là trung gian, kệ rằng:

Tướng các địa, tác ý
Dựa theo đức, phi đức,
Sở đối trị, năng trị,
Nghĩa lược, rộng nên biết.

Lại nữa, đã nói lược mười thứ nghĩa về thể tính của giáo lý Phật rồi. Các vị nói pháp phải nương vào Thánh giáo để tìm kiếm mười thứ. Dù đủ hay không đủ, trước mình phải tìm, rồi mới nói pháp cho người. Cũng thế, đã lập ra thể tính của văn nghĩa rồi. Các vị nói pháp, nên dùng năm tướng để theo đó mà giải thích tất cả kinh Phật. Trước phải nói lược cốt yếu của Phật pháp, sau đó mới nói đều đặn. Kế là giải thích nghĩa, kế đến giải chỗ khó, sau cùng là nói về thứ lớp. Pháp, lược có mười hai thứ là mười hai phần giáo của khế kinh.

-     Khế kinh nghĩa là chấp khâu nối liền nhau, thường là văn xuôi trực tiếp nói về tự thể các pháp.

Ứng tụng là lời phúng tụng nằm sau văn xuôi, lược nêu kinh chưa liễu nghĩa đã nêu.

-     Ký biệt là phân biệt rộng, lược nghĩa đã nêu và ký nơi sinh sau khi đệ tử qua đời.

-     Phúng tụng là dùng một câu để nói, hoặc hai câu, ba, bốn, năm, sáu câu để nói.

-     Tự thuyết là không có ai thỉnh nhưng tự nói là vì Phật muốn cho đệ tử hiểu biết rõ ràng hơn, vì muốn dùng pháp cao giáo hóa chúng sinh, khiến họ an trụ trong giáo lý cao cả. Tự nhiên nói lên gọi là tự nói. Như kinh nói: Hôm nay, tự nhiên Thế tôn giảng nói pháp.

-     Nhân duyên là nhân có người thỉnh mới nói, như kinh nói: Một thuở nọ Thế Tôn, vì Một-lực-già-la tử vì các Tỳ-kheo mà giảng nói pháp cốt yếu.

Lại nương theo những gì được nói trong Biệt giải thoát, tăng thượng đạo, Tỳ-nại-da, nghĩa nương theo nhân duyên Cũng thế, Cũng thế nương theo việc Cũng thế, Cũng thế. Đức Thế Tôn nói lời Cũng thế, Cũng thế, đó gọi là nhân duyên.

-     Thí dụ là có kinh Thí Dụ. Những nghĩa sâu kín được sáng lên do thí dụ.

-     Bản sự là trừ tất cả những chuyện nói về đời trước trong bản sinh.

Bản sinh là nói những việc của chính mình đã làm ở đời quá khứ, khi tu hạnh Bồ-tát.

Phương quảng là nói đạo Bồ-tát, như nói Thập địa, bốn hạnh của Bồ-tát, v.v… và nói một trăm bốn mươi Phật pháp bất cộng của Như lai, là bốn Nhất thiết chủng thanh tịnh, cho đến Nhất thiết chủng diệu trí, như có nói rộng ở Bồ-tát địa. Lại nữa, giáo pháp nhiều vô lượng, nghĩa lại sâu rộng, thời gian tu tập dài lâu, nghĩa là phải phát tâm hết sức mạnh mẽ tu tập trải qua ba đại kiếp Atăng xí gia mới được hoàn thành trọn vẹn, nên gọi là Phương quảng.

-     Hy pháp là Phật và các đệ tử Ngài nói những pháp ít có, lạ lùng.

Như ghi chép trong kinh, nhân có chuyện ít có nên dùng lời nói ra.

-     Luận nghị là Ma-đát-lý-ca mà các kinh đã bao gồm. Lại nữa, tất cả kinh Liễu Nghĩa đều gọi là Ma-đát-lý-ca, nghĩa là Như lai tự phân biệt rộng thể tướng các pháp. Lại nữa, các đệ tử đã thấy được dấu vết của Đạo Thánh, họ dựa vào chỗ chứng đắc không điên đảo mà làm sáng tỏ thể tướng các pháp, thì cũng gọi là Ma-đát-lý-ca. Mađát-lý-ca cũng gọi là A-tỳ-đạt-ma. Cũng như sách bói toán thi luận ở đời đều có bản gốc, nên biết, khi nghiên cứu pháp tướng trong kinh với tất cả nói năng, cũng giống như thế. Và, cũng như ở đời, nếu không có bản gốc, mẫu tự thì không sáng tỏ được, cũng vậy, trong mười hai phần giáo nầy, nếu thể tướng các pháp không được lập bày thì không sáng tỏ lên được. Sau khi lập ra thì cộng tướng, tự tướng của các pháp đều được sáng tỏ. Lại nữa, còn có thể còn làm sáng hẳn pháp tướng không bị xe lẫn, tức là Ma-đát-lý-ca nầy, cũng gọi là A-tỳ-đạtma, nương theo Ma-đát-lý-ca nầy mà giải thích nghĩa các kinh khác, cũng gọi là Ô-ba-đê thước.

-     Đẳng khởi, lược có ba thứ là sự, thời, Bổ-đặc-giàla, chỗ nương của chúng khác nhau. Như trong kinh nói: Vào một lúc như thế, do Bổ-đặc-già-la như thế, nương theo như thế mà hành trì, giúp các người lìa dục, cho đến an ủi chúc mừng.

-     Về nghĩa, lược có hai thứ: Nghĩa chung và nghĩa riêng. Nên biết, nghĩa chung còn có bốn thứ:

1. Dẫn kinh liễu nghĩa.

2. Phân biệt sự rốt ráo.

3. Hạnh.

4. Quả.

Lại có hai hạnh là: Tà hạnh và chánh hạnh. Quả cũng có hai thứ là: Quả tà hạnh và quả chánh hạnh. Nên biết, về nghĩa riêng cũng có bốn thứ là:

1. Phân biệt chỗ khác nhau của danh.

2. Phân biệt tướng của tự thể.

3. Huấn thích danh ngôn.

4. Nghĩa môn khác nhau.

Huấn thích danh ngôn lại có năm Phương tiện:

1. Do tướng.

2. Do tự thể.

3. Do nghiệp.

4. Do pháp.

5. Do nhân quả.

Nghĩa môn khác nhau cũng có năm thứ:

1. Tự thể khác nhau.

2. Giới khác nhau.

3. Thời khác nhau.

4. Vị khác nhau.

5. Bổ-đặc-già-la khác nhau.

-     Tự thể khác nhau là tự thể của sắc, có mười sắc xứ khác nhau. Tự thể của thọ, có ba thọ khác nhau. Tự thể của tưởng, có sáu tưởng khác nhau. Tự thể của hành, có ba hành khác nhau. Tự thể của thức, có sáu thức khác nhau. Các loại tự thể khác nhau như vậy, nên biết.

-     Giới khác nhau là Dục giới, cõi Sắc, cõi Vô sắc giới.

-     Thời khác nhau là quá khứ, hiện tại, vị lai.

-     Vị khác nhau là, nên biết có mươi lăm thứ khác nhau, là ba ngôi hạ, trung, thượng, ba phần vị: khổ, vui và không khổ, không vui. Ba ngôi vị thiện, bất thiện, vô ký. Ba phẩm vị: văn tư, tu. Ba phần vị là tăng thượng giới, tăng thượng tâm, tăng tuệ. Hai địa vị: là Trong và ngoài. Hai cương vị: là Sở thủ và năng thủ. Hai phần vị: là Sở trị và năng trị. Hai phương vị: là hiện tiền và bất hiện tiền. Hai phẩm vị là nhân và quả. Bổ-đặc-già-la khác nhau, tổng cộng có hai mươi bảy thứ như trước đã nói, nên biết.

-     Thích nạn là tự đặt câu hỏi hay người khác đặt câu hỏi đều phải giải thích sáng tỏ. Nên biết, đặt câu hỏi, lược có năm nhân:

1.     Vì nghĩa chưa rõ, được giải thích sáng tỏ như nói:

Đoạn văn nầy có nghĩa gì?

2.     Vì lời nói trái nhau, như nói: Vì sao Bạc-giàphạm nói trước sau khác nhau?

3.     Vì lý trái nhau, như có sự chỉ bày rành mạch chỗ trái nhau của bốn đạo lý, chỉ bày tường tận về bốn pháp bất định. Chẳng hạn như nói: Vì sao Bạc-già-phạm chỉ làm sáng tỏ một thứ nghĩa trong nhiều dị môn, khác nhau?

5) Vì hoàn toàn không thể nhìn thấy. Như nói: Thể của ngã bên trong có tướng mạo ra sao mà lại thường hằng, bất biến, an trụ trong tự tính chân chính không thay đổi? Các loại như vậy, v.v...

Đối với năm điều hỏi ấy, cứ theo thứ lớp tự nó mà giải thích: Người ta vì chưa rõ nghĩa, dùng phương tiện làm cho sáng ra. Hỏi về chỗ trái nhau trong lời nói thì thuận theo, hội ý làm cho thông suốt. Cũng thế, câu hỏi về "bất định hiển thị" và câu hỏi về hoàn toàn không thể thấy, cũng làm Cũng thế.

Câu hỏi trái với lý thì dùng giáo lý đen mà giải đáp cho nó: hoặc nên làm sáng tỏ bốn thứ đạo lý. Hoặc làm sáng tỏ nhân quả tương ưng với đạo lý. Đó gọi là làm sáng tỏ quả, hoặc làm sáng tỏ nhân.

-Lại, đối với những câu hỏi, nên lập bốn cách ghi nhớ:

1)    Ghi nhớ chắc chắn là người kia hỏi đúng lý thì ta phải lập ra, một cách không trái ngược, thể tướng các pháp.

2)    Ghi nhớ phân biệt là người kia hỏi đúng lý hay không đúng lý thì ta phải chỉ bày cho họ những điểm khác nhau giữa các tướng.

3)    Ghi nhớ bằng cách hỏi ngược lại để dứt trừ sự bàn cãi có tính chất đùa giỡn.

4)    Ghi nhớ bằng im lặng là có bốn thứ nhân không có thể tính, cho đến tướng các pháp là Cũng thế.

Như trước đã nói, nếu phân biệt rộng thì như địa do Tư thành. Lại trường hợp ai hỏi: Sau khi Như lai diệt độ, Ngài có hay không? Đây là vấn đề sâu xa mà triết học thế gian (thế đế) và triết học cao siêu (Thắng nghĩa đế) của Đạo cũng không giải đáp được. Cho nên im lặng gác qua. Vì tới chỗ sâu nhất thì dường như không có Như lai, nên không thể trả lời được. Nếu dựa theo lối phân tích chủ thể, đối tượng thế gian thì trái với Đạo lý. Điều lý luận ấy đưa đến không còn kết quả gì, không có gì chân thật, cũng không thể trả lời, là sau khi diệt độ Như lai là còn hay mất.

-Thứ lớp là lược, có ba thứ:

1. Thứ lớp.

2. Thứ lớp giải thích.

3. Thứ lớp năng thành.

Phải lược dẫn Thánh giáo để làm sáng tỏ ba thứ lớp ấy. Như Đức Thế Tôn nói: "Ta xuất gia vào lúc tốt đẹp, hết sức tốt đẹp". Câu nói ấy, làm sáng tỏ sự tốt đẹp là thứ lớp tròn đầy.

-     Lại nữa, Thế tôn nói: "Lúc ấy dung mạo ta rất khôi ngô, ta ở trong cung vua cha ta sự tốt đẹp là thứ lớp giải thích".

-     Thế tôn lại nói: "Bởi ý nghĩa gì mà ta xuất gia trong lúc tốt đẹp như vậy? Là vì ta thấy các hiện tượng như già, bệnh, chết, v.v..." câu nói ấy, làm sáng tỏ khả năng thành tựu theo thứ lớp.

Lại nữa, trong kinh lược nói các pháp, như nói: "Ba thọ là khổ, vui, và không khổ, không vui. Cũng thế" v.v... Trong đó, chỉ nói rõ thứ lớp tròn đầy. Do các câu khác thì nói sự cảm thọ nầy là trọn vẹn, nên nói là tròn đầy. Nên biết, vấn đề cảm thọ, là câu nói đầu, trong bốn Thánh đế. Những câu sau thứ lớp nối nhau thì theo đó mà phân tích, cũng vậy. Về khả năng thành tựu theo thứ lớp, có hai thứ là: hoặc dùng câu trước thành lập câu sau. Hoặc dùng câu sau thành lập câu trước. Nên biết thứ lớp giải thích cũng như vậy.

-     Sư là người thành tựu mười pháp, được gọi là thầy nói pháp, người có đủ các tướng tròn đầy:

1.     Giỏi về nghĩa pháp, như hiểu một cách rạch ròi về ý nghĩa của sáu thứ pháp, mười thứ nghĩa.

2.     Có khả năng nói rộng, nghĩa là học rộng, nhớ chắc chứa nhóm những điều đã nghe.

3.     Có đầy đủ tinh thần không run sợ, nghĩa là nói pháp, giữa đại chúng gồm hàng Sát-đế-lợi, v.v... cũng không tỏ vẻ gì khiếp sợ, nên không bị lạc giọng, không bể tiếng, không toát mồ hôi, không luống cuống quên đầu quên đuôi.

4.     Lời lẽ khéo léo là khả năng ăn nói đủ đầy, tám phần thành tựu, lời lẽ đầy đủ, mà ung dung nói pháp giữa các người.

Khả năng ăn nói đầy đủ là câu nói, lời văn tương ưng như bạn bè, cho đến nói rộng.

-     Tám phần thành tựu là: là những gì đẹp đẽ hàng đầu, v.v… cho đến nói rộng.

5.     Khéo dùng phương tiện nói, nghĩa là nói bằng hai mươi thứ phương khéo léo, như nói về hình tướng thì lấy thời gian, sự ân cần làm trọng.

6.     Thành tựu đầy đủ do theo pháp mà làm là không phải chỉ nghe qua lời nói mà phải thực hành đúng như lời nói.

7.     Đầy đủ oai nghi là khi nói chánh pháp, tay chân không quơ, không lắc đầu, không nhướng mày, miệng, nét mặt không chút biến sắc. Đi, đứng tới lui đều chững chạc thứ lớp.

8.     Siêng năng hăng hái là thường thích nghe những gì chưa nghe. Các pháp đã được nghe thì làm cho tâm xoay chuyển sáng ra. Không xả Du-già, không xả tác ý, tâm không xa lìa Xa-ma-tha bên trong.

9.     Không tỏ vẻ gì mỏi mệt là thân, tâm không cảm thấy mỏi mệt khi nói pháp cao cả giữa đại chúng.

10.   Đầy đủ sức chịu đựng là dù bị trách mắng, nhưng không bao giờ trả đũa. Nếu bị khinh miệt cũng bất sinh tâm giận dữ, buồn phiền, cho đến nói rộng.

-Nói pháp giữa chúng là ở trong năm chúng, nói tám lời, tám lời gồm có:

1.     Lời nói khiến các người thấy vui vẻ.

2.     Nhập đề bằng những lời tốt đẹp.

3.     Giải thích thông suốt các câu hỏi.

4.     Dùng lời nói phân tích rạch ròi, vấn đề.

5.     Giỏi đưa tâm ý vào lời nói.

6.     Dẫn những lời nói khác để chứng minh.

7.     Lời nói mang chất hùng biện.

8.     Lời nói đúng theo lập trường căn bản của giáo pháp.

-Năm chúng là:

1. Chúng tại gia.

2. Chúng xuất gia.

3. Tín chúng thanh tịnh.

4. Chúng tà oán.

5. Chúng bình thường.

-Lời nói khiến các người vui vẻ là, có năm tướng, nên biết:

1. Nói có nêu nguyên nhân làm chứng.

2. Nói có nêu thí dụ.

3. Nói bằng lời chân thật.

4. Nói bằng câu, chữ bóng bẩy.

5. Nói với lời sáng tỏ.

-     Nhập đề bằng những lời êm đẹp là lần lượt làm cho nghĩa sâu kín sáng tỏ. Từ nghĩa cạn cợt, giải thích cho các người thấy rõ nghĩa sâu xa.

-     Giải thích thông suốt các câu hỏi là giải thích trọn vẹn năm câu hỏi, như trước, nên biết.

-     Dùng lời nói, phân tích rạch ròi vấn đề là phân tích một pháp y, tăng thêm một đạo lý, cho đến mười thứ. Hoặc qua đó, còn phân biệt khéo hơn, như nương vào một pháp lập ra hai thứ, ba thứ, bốn niệm trụ v.v... cho đến nói rộng.

-     Giỏi đưa tâm ý vào lời nói là chỉ khéo giải thích làm sáng tỏ mười hai phần giáo trong Khế kinh, ứng tụng, mà không bao giờ viện dẫn những dị luận, tà đạo vào lời nói.

-     Dẫn những lời khác để chứng minh: là dẫn những kinh khác để củng cố những gì mình nói.

-     Lời nói mang chất hùng biện là theo năng lực tự chế của mình mà phân biệt rạch ròi từng ý nghĩa.

-     Lời nói đúng theo lập trường căn bản của giáo pháp là làm sáng tỏ vấn đề bằng cách dựa vào Ma-đác-lí-ca, hoặc dựa vào những thuyết không trái ngược khác để giải thích đúng lý, theo giáo pháp.

Lại nữa, đối với người tại gia, nói pháp ngay lúc ấy, nên phá bỏ những việc làm ác mà khen ngợi những việc làm lành, khiến các người dứt trừ tâm ác, siêng tu hạnh lành.

Ở trong chúng xuất gia thì ngay khi nói pháp ấy, làm phát triển ba học như giới học tăng thượng v.v... giúp họ tu tập mau đạt đến chỗ vẹn toàn khổ ở trong chúng thanh tịnh, v.v… thì khi nói pháp ngay đây, phải có oai đức rộng lớn của Thánh giáo. Theo đúng thứ lớp mà giúp sự thấu hiểu của họ tăng lên gấp bội, giúp an trụ trong ấy, làm cho phát sinh lòng tin trong sạch.

QUYỂN 13

Phẩm 2: THÂU NHIẾP NGHĨA TỊNH (Phần 9)

Người nghe pháp là khi thầy giảng nói pháp cốt yếu, nghe với sự yên ổn, lắng nghe cung kính, trái ngược.

Hỏi: Vì sao phải nghe với yên ổn?

Đáp: Là do một nguyên nhân, cho đến mười nguyên nhân.

-     Nguyên nhân thứ nhất được gọi là cung kính, lắng nghe chánh pháp, là lúc bấy giờ, người ta thấy được ích lợi, an vui. Trong đó, có khi thấy ích lợi nhưng không an vui, hoặc thấy an vui, nhưng không thấy ích lợi, cho đến bốn câu, như đã nói trong Bồ-tát địa lãnh thọ chánh pháp.

-     Nguyên nhân thứ hai là khéo lập ra các pháp. Khéo lập ra là: nên biết, đó là không có lỗi, vì đã nắm trọn hết nghĩa lớn.

Lại nữa, nói pháp là nhằm giúp người nghe mau đạt được quả Sa-môn. Nếu không vì mục đích ấy thì người nói pháp chỉ làm luống uổng việc làm của mình, chỉ luận nói những điều trống rỗng. Và người nghe pháp thì luống uổng, mệt nhọc, không chứng được điều gì.

-     Nguyên nhân thứ ba là chánh pháp có khả năng khiến các người bỏ đường ác, được đường lành, có khả năng dẫn dắt người đến Niết-bàn. Do ba việc như vậy, nên người nghe phải cung kính nghe mới có thể chứng đắc.

-     Nguyên nhân thứ tư là: Một, khi chăm chú nghe thì có khả năng hiểu thấu được các pháp trong khế kinh nói. Hai: Chánh pháp có năng lực thế ấy, là giúp cho các người, buông xả điều ác mà đến với các điều lành. Cũng thế, nếu ai biết lắng nghe pháp thì họ có thể siêng năng xả bỏ cái nầy, lãnh về cái kia. Ba: Do biết xả bỏ và biết lấy, cho nên người ta xả bỏ nhân ác vì nó gây đau khổ cho mai sau. Bốn: Vì biết lấy bỏ, nhân thiện ác nên người tu mau chứng vắng lặng.

-     Nguyên nhân thứ năm là: Như chánh pháp mà Đức Bạc-già-phạm nói, có năm thứ là có lúc theo thứ lớp, có lúc nói việc xuất ly khổ sinh tử, có lúc nói theo nơi họ đang sống, có lúc nói cho họ hăng hái, có lúc dùng thần thông cảm phục các người. Nếu phân biệt rộng thì trong phần Nhiếp dị môn đã nêu.

Lại, có năm nguyên nhân lắng nghe chánh pháp, nghĩa là mình nghe được những gì chưa nghe, nghe rồi phải siêng năng. Mình sẽ xua tan các ngờ vực. Mình sẽ đè bẹp các kiến chấp. Mình dùng trí tuệ thông đạt mà hiểu được nghĩa sâu xa. Phật, Bạc-già-phạm nói: Năm nguyên nhân nầy làm sáng tỏ ba thứ văn, tư, tu. Nó là phương tiện rốt ráo, đưa đến trí tuệ nhiệm mầu tuyệt diệu. Hai nguyên nhân đầu là làm sáng tỏ văn tuệ, hai nguyên nhân giữa làm sáng tỏ tư tuệ. Nguyên nhân chót là làm sáng tỏ tu tuệ.

-     Nguyên nhân thứ sáu một là: Vì muốn cung kính báo đền ân đức của Đại sư, nghĩa là Phật, Thế tôn vì chúng ta mà làm biết bao điều, gian khổ khó làm mới có pháp nầy, thì vì sao giờ đây, ta không chịu lắng nghe pháp ấy? Hai là quán xét nghĩa lợi cho mình là đưa đến ích lợi ngay đây. Ba là: Chánh pháp làm cho hoàn toàn lìa tất cả mọi buồn rầu bứt rứt. Bốn là: Pháp nầy xuôi theo chánh lý. Năm là pháp nầy dễ nhận thấy. Sáu là những ai thông minh là đều có thể chứng được những gì mình biết.

-     Nguyên nhân thứ bảy: là bảy chánh pháp, như kinh nói: Mình sẽ tu tập bảy thứ chánh pháp là biết pháp, biết nghĩa, cho đến biết chỗ tôn ti của Bổ-đặc-già-la.

-     Nguyên nhân thứ tám: gồm có tám thứ:

1.     Phật pháp dễ được, cho đến hạng Chiên-đà-la cũng được chỉ bày.

2.     Phật pháp dễ tu học, bất cứ đi đứng nằm ngồi, đều có thể tu tập.

3.     Phật pháp đưa đến ý nghĩ có lợi ích, vì đưa thế gian, xuất thế gian đến chỗ an vui, giải thoát.

4.     Sơ thiện,

5.     Trung thiện,

6.     Hậu thiện.

7.     Chiêu cảm quả an vui hiện tại.

8.     Dẫn đến an vui đời sau.

-Nguyên nhân thứ chín là Phật pháp giúp các người thoát khỏi chín việc khốn đốn:

1.     Vì nó đưa người ra khỏi ngục lớn sanh tử.

2.     Vì nó dứt hẳn sợi dây tham v.v... là sợi dây trói buộc bền chắc.

3.     Vì nó phá tan bảy thứ nghèo chủng tánh và lập nên bảy thứ giàu có lớn.

4.     Vì lắng nghe chánh pháp là vượt hơn các điều lành, rồi lập ra sự giàu sang cho những kẻ đói khát.

5.     Vì nó có khả năng xua tan bóng tối dày đặc, làm trí tuệ sáng tỏ.

6.     Vì nó đưa người ta qua khỏi bốn dòng thác mà đến bờ Niết-bàn bên kia.

7.     Vì nó có khả năng đối trị các bệnh phiền não bên trong.

8.     Vì nó có khả năng làm các người lìa khỏi lưới tham ái.

9.     Vì nó có khả năng làm cho các người thoát khỏi các tạp nhiễm từ vô thỉ kiếp, ở đó, chúng sinh trôi nổi như rừng chằng chịt, như đồng trống mênh mông. Sinh tử là nhà ngục lớn bậc nhất trong các nhà ngục. Cho nên, sau khi thành đạo, Đức Phật nói đến vấn đề đó trước nhất.

-Nguyên nhân thứ mười: gồm mười thứ là:

1.     Khi lắng nghe pháp của Như lai nói rồi thì người ấy đạt được sức mạnh của suy tư và lựa chọn. Từ đó, họ thấy được việc ích lợi nghe pháp, cầu tài đúng chánh pháp, chứ không phải phi pháp. Tuy cũng ăn xài, nhưng cảm thấy được những tai hại của nó.

2.     Khéo biết gở mình ra khỏi nhiều điều: nghĩa là dù có mất hết của cải quí báu đi nữa, vẫn không lo buồn, không than thở oán trách ai, cho cả đến bà con mà có chia lìa đi nữa cũng không sầu thương vô hạn. Nếu bị bệnh nặng cũng không buồn bậc.

3.     Thấy biết tai hại của các ham muốn và biết rõ công đức vượt trọi của việc bỏ nhà, xuất gia học Đạo. Lìa bỏ các ham mê đồ đạc ngủ nghỉ, cho đến chứng được các các tĩnh lự mầu nhiệm.

4.     Vì một lòng cung kính nghe chánh pháp không trái ngược, xuôi theo đó, hiểu được các pháp duyên khởi sâu xa, là pháp sâu rộng, lại có khả năng làm phát sinh gốc lành lớn, ra khỏi, vui mừng, như Đức Bạc-già-phạm nói: "Các đệ tử bậc Thánh của ta chuyên tâm lắng nghe chánh pháp thì có khả năng dứt trừ năm pháp, tu tập bảy pháp mau được đầy".

5.     Các đệ tử bậc Thánh cung kính nghe pháp thì tất cả nguồn gốc phiền não đều bị tiêu diệt.

6.     Hiểu chánh pháp là lìa khỏi trần cấu, phát sinh mắt chánh pháp đối với các pháp.

7.     Có khả năng tốt dẫn đến chứng quả Dự lưu là tư tương tối thắng, cho đến chứng quả A-la-hán, cho đến dẫn tới các tư lương tối thắng của quả vị A-la-hán.

8.     Có khả năng tốt dẫn đến tư lương của Độc giác.

9.     Có khả năng tốt dẫn đến tư lương quả chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng.

10.   Dẫn phát tất cả các tĩnh lự, đẳng trì, đẳng định của tất cả thế gian và xuất thế gian.

-     Về khen ngợi Phật, có lược và rộng là các thầy khi nói chánh pháp, trước phải khen ngợi Phật. Có hai thứ khen ngợi là rộng và hẹp. Hẹp là có năm thứ:

-     Oai đức của sắc tướng mầu nhiệm, là ba mươi hai tướng của bậc Đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp tùy hình.

-     Vắng lặng là bởi khéo giữ gìn các căn và có khả năng nhổ hết gốc tập khí phiền não.

-     Trí vượt hơn hết là do nó không bị chướng ngại do pháp thế gian và pháp phi thế gian từ quá khứ, hiện tại, vị lai.

-     Hạnh chân chính là hành động chân chính trọn lành đem lại ích lợi cho mình và người.

-     Oai đức là thần thông diệu dụng của Như lai.

Lại nữa, có sáu thứ sơ lược khen ngợi Như lai là do Như lai có đức trọn lành, xa lìa các cấu nhiễm, không còn vẩn đục, ô uế, không ai sánh bằng v.v... Như lai chỉ lấy việc làm lợi ích chúng sinh làm sự nghiệp và thường được tự tại đối với các việc làm ấy. Đây là phân chia theo phần quyết trạch

-     Còn về mặt rộng thì khen ngợi rộng rãi công đức vô biên của Như lai, như nói: Bạc-già-phạm có vô biên tên gọi vì đức độ vô lượng có thể chan rưới ánh sáng khắp cả, làm phát sinh trí tuệ sáng suốt quét tan đen tối cắt hết hẳn các ngu muội, thành tựu mắt sáng, bởi thành tựu ba thứ mắt đầy đủ nên Như lai thấy được chân đế tột cùng. Hiểu thấu chân đế bậc Thánh không ai bằng, trọn lành giới cấm, đầy đủ Thi-la thanh tịnh tăng thượng.

Lại nói, Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc Lưỡng túc tôn, là vượt trội hơn hết trong các bậc Điều ngự, là bậc tuyệt diệu cao cả trong chúng Sa-môn, là món đồ quí giá mà thế gian nầy khó có thể kiếm được.

Lại nói: Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc có tâm thương xót các vật, có lòng cứu giúp hữu tình, là người ưa làm việc nghĩa, không hề vụ lợi mảy may. Là người mong đem ích lợi cho người, cho vật, dù hiện tại không hiện diện nơi đây.

Lại nói: Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc rõ đạt chân lý, là mắt là trí, đối với các ý nghĩa sâu kín, đều có khả năng làm sáng tỏ chắc chắn. Tất cả các việc làm đều căn cứ vào ý nghĩa là làm cho chuyển biến từ ngu ra giác ngộ.

Lại nói: Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc có khả năng chứng được tất cả các ý nghĩa chưa chứng, như trước tự nhiên chứng được tám chi Thánh đạo, từng lập phạm hạnh bậc Thánh chưa ai từng lập.

Lại nói: Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc hiểu biết Đạo Thánh, làm sáng tỏ đạo Thánh, giảng nói đạo Thánh, dắt dẫn đạo Thánh.

Lại nói: Đức Bạc-già-phạm nầy là bậc sư tử trong loài người, là người xa lìa các run sợ, là trâu đầu đàn trong loài người, chế phục các người, vì là bậc thượng thủ của họ, là bậc Long vương trong loài người, không mắc một lỗi nào, là Thiên lý mã trong loài người với lòng mềm dẻo biết chiều hoàn cảnh, là bậc tối thắng trong loài người với sắc tộc dòng họ vượt hơn mọi người, là bậc tối thượng trong loài người mà trí tuệ, giới hạnh tối thắng oai đức vượt hơn mọi người, là hoa sen giữa loài người mà tám pháp thế gian không làm nhơ hoa sen ấy. Không ai bằng, không ai sánh bằng, không còn bất cứ ai sánh kịp. Từ xưa cho đến giờ, không bậc Thiện thệ nào sánh nổi, là bậc tối thượng trong tất cả hữu tình, là Thi-la trên Đại tiên, đã tích góp phạm hạnh lâu dài, chứng được pháp mà bậc cổ tiên đã chứng, là bậc tối thắng vì đã chế ngự tất cả thiên ma, ngoại đạo cũng như các phiền não, là bậc Mâu-ni không có những cử chỉ bộp chộp, những vẻ kiêu ngạo, tương ưng với ba pháp vắng lặng, không ép bức đời sống của bất cứ ai và các luận thuyết sai lầm đều không chiến thắng nổi, gột rửa hết các việc ác, đưa tất cả Tát-ca-da (thân tướng)vượt qua bến bờ bên kia.

Lại nói: Đức Như lai Ứng Chánh Đẳng Giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Trượng phu, Thiện điều ngự, Thiên nhân sư, Phật, Bạcgià-phạm.

Lại nói: Như lai là bậc trọn lành pháp trắng với Nhất thiết trí, là người đứng đầu chánh pháp, không quên chấp hữu tình kiên thắng. Tất cả các khổ, vui không trói buộc hay khuấy động được tâm.

Lại nói: Như lai là người khéo làm chủ và kín đáo giữ gìn các căn đầy đủ, Ngài đã vắng lặng vì đã nhận lãnh Thi-la thanh tịnh, đã khéo đầy đủ vì đã an ổn, đã vào địa quyết định, là người đã chứng ngộ Niết-bàn, Bồđề, đã nhổ bỏ hết các tên độc, nhổ hết hẳn các mũi tên ái trong hữu lậu nầy.

Lại nói: Như lai là người làm chủ tất cả những ai chưa bị ai làm chủ, là người vắng lặng hết những gì ai chưa vắng lặng, như trước đã nói, Ngài là người an ổn hết những gì chưa ai an ổn, lập những người thường khiến họ chứng được quả Dự lưu, quả Nhất lai.

Lại nói: Như lai là người không bị gông cùm, là người ra khỏi hầm lửa, là người đã thoát khỏi hào sâu, là người kềm chế các ham thích, là người không bị nghiêng đảo, là người xé tan cờ kiêu mạn, là người thường trụ lớn lao.

Lại nói: Như lai là bậc Đại A-la-hán mà các lậu đã hết sạch, như có nói rộng ở trước, cho đến dứt hết mọi kết sử.

Lại nói: Phật là người dứt hẳn năm phần và thành tựu sáu phần. Nói rộng cũng thế, cho đến là bậc chứa nhóm tràn ngập điều lành trong suốt của bậc trượng phu Vô thượng.

Lại nói: Như lai là người khéo biết các pháp, cho đến là người khéo hiểu biết kẻ lớn người nhỏ của Bổ-đặcgià-la.

Lại nói: Như lai là bậc Đại Sa-môn, Đại Bà-la-môn đã lìa khỏi các nhơ bẩn, không còn chút nhơ bẩn, là người thầy thuốc tài tình, là người chủ đi buôn giàu có, Chí tôn, đã nhìn kỹ thế gian nầy, là nơi mà chúng sinh đang cư trụ, trong đây nói lìa các cấu nhiễm là lìa chướng phiền não chướng sở tri, cho nên gọi là không còn cấu uế, dứt hết chướng sở tri lại còn nhổ hẳn gốc tập khí, cho nên nói là không còn nhơ bẩn. Sáu thời suốt đêm ngày quán xét thế gian nầy, nên nói là quán sát cao tột.

Lại nói: Như lai là người có đủ các gốc lành thanh tịnh, có đủ tướng trượng phu và các vẻ đẹp theo thân, để trang nghiêm thân, là người đầy đủ mười lực, là đại lực là đủ bốn thứ không sợ, là người không còn sợ bất cứ thứ gì, thành tựu đại bi, trong ba phép niệm trụ, an trụ niệm thân, thành tựu ba thứ không cần che chở mà vẫn không quên mắt pháp, phá trừ hẳn tất cả phiền não tập khí, là người đầy đủ tất cả trí sáng nhiệm mầu. Đại bi nói trong đây là nó được chứa nhóm từ lâu đời, đã trải qua ba đại kiếp A-tăng-xí-da mới chứng được đại bi ấy. Lại nữa, Như lai đã duyên hợp với tất cả chúng sinh, cũng như các đau khổ của họ làm đối tượng và không bị lay chuyển bởi tất cả các việc thay đổi, gây tổn hại mà chúng sinh phải gánh chịu, nên đối với tất cả hữu tình, thường làm lợi ích cho họ với tâm bình đẳng.

-Học tập vượt hơn nghĩa là thầy nói pháp phải nương vào sự lập ra như vậy để giải thích pháp tướng của kinh. Trước phải tìm tòi nghiên cứu văn cũng như nghĩa, kế đến là phải hiểu năm điều như trước đã nói là khi nói pháp cho người thì phải giải thích rạch ròi Đạo lý. Kế đó, trước khi nói pháp, phải biết tự làm yên thân mình. Tướng của người nói pháp là phải hiểu sâu xa ý nghĩa của pháp với đầy đủ mười điều.

Làm yên ổn thân rồi, sau đó mới bắt đầu giảng nói về chỗ khác nhau của Đạo lý, như trước đã nêu. Khi giảng cho năm đại chúng thì sử dụng tám loại văn nói để khiến các người vui đẹp tâm trí, như trước đã nêu. Lại làm cho các người thoải mái để họ cung kính nghe với tâm không trái ngược. Lại, trước phải khen ngợi công đức của Đại sư. Nếu người nói pháp có đủ năm phần cũng thế thì cũng giống như năm phần âm nhạc dễ khiến các người hân hoan vui mừng. Lại còn có thể dẫn ra những ích lợi cho mình, cho người. Nếu ai tu tập khéo léo như thế thì nên biết, người ấy đã hội đủ năm thứ vượt hơn:

1.  Họ hiểu rõ lời Phật nói, không khó.

2.  Có thể nói tướng các pháp một cách đầy đủ.

3.  Giỏi làm phát sinh nguồn vui tràn ngập còn mãi giữa mình và người.

4.  Dẫn ra những người nổi tiếng, từ cõi và cõi người, đã ra khỏi sinh tử.

5.  Phát sinh vô lượng công đức tối thắng.

Lại nữa, như Phật đã nói trong kinh Trụ Học Thắng Lợi thì thể tính của kinh nầy là văn và nghĩa. Văn là kinh nói: "Các Tỳ-kheo phải biết an trụ tu học thắng lợi. Trong đây có bốn câu, mười chữ. Như vậy là thuộc về danh cú chữ thân, trong đó, lời nói là tướng của học xứ, nên nó thuộc về tướng. Lời Như lai nói thuộc về cơ thỉnh vì các Tỳ-kheo thưa hỏi. Lời Như lai đã nói là thuộc về lời nói. Thế nên, một câu kinh nầy gồm đủ sáu văn. Như vậy, trong các câu, tuệ là thượng thủ, v.v… theo tướng, nên biết.

Lại nữa, nghĩa là trong nghĩa địa, chỉ nói nghĩa trong lãnh vực Thanh văn, hay nói đủ là năm lãnh vực.

Kinh nói: Học thắng lợi là tư lương địa. Tuệ thượng thủ là phương tiện địa. Niệm giải thoát vững chắc là tăng thượng là kiến tu ở đẳng địa, gọi là nghĩa của Địa.

Học thắng lợi trong nghĩa tướng là tự tướng của giới. Tuệ là thượng thủ vì nó có đủ hai tướng, là tuệ nương vào sự giúp đỡ. Chỉ có tự thể của tuệ là tự tướng của nó.

Đối tượng và quyến thuộc của tuệ là cộng tướng.

Giải thoát vững chắc là lìa xa hẳn tất cả phiền não thô nặng đó là tự tướng của giải thoát.

-     Niệm là tăng thượng, là tự tướng của niệm. Cũng thế, v.v… gọi là nghĩa tướng.

-     Tu học thắng lợi trong nghĩa tác ý là thể của tác ý không phải chỉ hiện rõ ở tác ý xây dựng nơi chốn.

Tuệ là thượng thủ là vì nó chỉ bày sáng tỏ liễu tướng hiểu khéo của hai thứ tác ý, nên biết.

Giải thoát vững chắc là, nên biết, nó chỉ bày sáng tỏ bốn thứ tác ý là viễn ly, nhiếp lạc phương tiện, rốt ráo phương tiện và cứu cánh quả. Niệm là tăng thượng: nên biết, niệm đây làm sáng tỏ tác ý quán xét. Những nghĩa như vậy đều gọi là nghĩa tác ý.

Do đạo lý nầy, đối với các trí cũng nên tùy theo tướng mà phân biệt.

-     Nghĩa xứ sở trong việc nương vào Niết-bàn, là nơi thâu nhiếp các học xứ là nương vào hạnh thanh tịnh. Nếu được thích ứng như vậy mới bắt đầu việc giáo hóa. Giáo hóa cho đến chúc mừng, an ủi, nên biết, trong ấy, cũng có cả hành vi thiện, v.v... Tùy theo khả năng tối thắng của việc làm thiện ấy thì chỉ nói đến hạnh thanh tịnh mà thôi, chỉ nương vào Bổ-đặc-già-la xuất gia. Lại, đối với các chúng sinh trình độ kém thì nên biết là phải nói lời chúc mừng, an ủi. Nghĩa là nhìn vào quá khứ và hiện tại nói lời chúc mừng, an ủi. Sau khi chứng đắc, chứng đắc một cách chân chính rồi, ngay từ hiện tại, đi chỉ bày cho các người, nhìn vào tương lai mà khởi sự giáo hóa, khen ngợi thúc đẩy. Đó gọi là nghĩa xứ sở.

-     Nghĩa lỗi lầm là người xuất gia thì không nên làm những việc khác lạ, không nên chứa để của cải.

-     Trong nghĩa thắng lợi là tu tập ba học đầy đủ, đáng khen ngợi.

-     Trong nghĩa sở trị là người vi phạm Thi-la thì trở thành ngu tối đầy phiền não và quên mất. Vậy phải biết giữ gìn Thi-la, tức là nghĩa chủ thể đối trị. Và, các hành vi tạp nhiễm đều là nghĩa được đối trị. Thực hành ba học vô lậu là chủ thể đối trị.

-     Trong nghĩa sơ lược là từ an trụ học thắng lợi cho đến niệm là tăng thượng. Đây là lược phần chính của tông, gọi là nghĩa lược.

-     Trong nghĩa rộng là nghĩa phân biệt rộng ở đây, nên biết, gọi là nghĩa rộng, không vượt qua nghĩa sơ lược nói trên.

-     Lại nữa, trong việc giải thích giáo pháp là nói về liễu nghĩa thuộc phần ký biệt và thuộc khế kinh trong mười hai phần giáo.

-     Đẳng khởi là chỉ bày tự thể của trí lực, cũng như công hạnh cùng khắp mà phát khởi kinh nầy. Lại vì chỉ rõ cho hành giả siêng năng tu tập hạnh trong sạch và chỉ bày cho các người biết về sự yêu mến các thứ của cải lợi ích trong đời, khiến họ hiểu biết hạnh thanh tịnh nầy. Nó đã giáo hóa chúng sinh nương vào học thắng lợi, siêng năng tập mà mau chứng được tròn vẹn ba học cao tột.

Lại vì làm sáng tỏ bốn thứ thể của Tỳ-kheo, nên kinh nói phải học cho thắng lợi là khiến cho họ ý niệm về dòng dõi, hình tướng mà chỉ giữ lấy thể của Tỳ-kheo thôi. Và khiến họ lìa bỏ cái lôi giả dạng giữ kỹ thể của

Tỳ-kheo là, những khuôn mẫu của uy nghi. Lại nói tuệ là thượng thủ là nhằm muốn họ tách rời khỏi ý niệm vướng mắc về tên gọi trống rỗng của thể Tỳ-kheo.

-     Niệm tăng thượng về giải thoát vững chắc là khiến họ tu tập chân thật từ thể của Tỳ-kheo. Vì sao? Vì nếu những ai ham được tiếng gọi, chỉ vì ham mà cố gắng tu tập thôi thì khi nghe chánh pháp, họ không phải vì để mở rộng trí tuệ. Nếu ai xua tan bao lỗi, như trước đã nói, thì gọi đó là người có hạnh chân thật, họ bị thôi thúc do ý muốn giải thoát, chứng đắc chân chính.

-     Đối với hạnh lãnh thọ pháp nhỏ, biết đủ tu tập thì phải khuyến khích họ tu học pháp tăng thượng, vì những người kia, họ ưa thích học những văn chương chú thuật thế gian. Đối với người giữ giới lơ là, thì bảo với họ là học thắng lợi chính là giữ gìn Thi-la.

-     Nói tuệ thượng thủ là nhằm khiến người ta bỏ đi lối học rộng, mà phải biết đủ đối với việc Văn, Tư. Nói giải thoát vững chắc là đối với người đã được giới, tuệ, giải thoát rồi thì khởi lên tăng thượng mạn, phải nói niệm là tăng thượng. Các việc như vậy, gọi là Đẳng khởi.

-     Nghĩa trong nghĩa chung, nên biết: kinh nầy nói tu theo hạnh chánh và quả của hạnh ấy. Như vậy, ba học, như giới, v.v... gọi là học phần lượng. Kinh nói: Người an trụ cũng thế, là làm sáng tỏ chánh phương tiện hạnh, nó thuộc về bốn thứ Du-già.

Lại nói: Người an trụ trong ba học như vậy, thì đây, làm sáng tỏ quả của hạnh chân chính kia. Ở đây, lòng tin và ước muốn làm đầu, nên nó được thâu nhiếp Thi-la. Khi nghe và nhận lãnh chánh pháp rồi siêng năng tu tập mà tuệ, v.v… là phương tiện quan trọng.

-     Sự học trong nghĩa riêng là siêng năng như giáo pháp mà tu tập thì gọi là khác nhau. Thân, lời nói và mạng sống thanh tịnh hiện tại là tự tướng của việc học. Do giới, nhẫn làm sáng tỏ chánh hạnh nên gọi là Học. Lại mong cầu quả vị vắng lặng mát mẻ, cho nên hăng hái dứt trừ phiền não, nên gọi là Học.

Giải thích các loại danh ngôn cũng thế, như trước đã nói, đó là tướng là tự thể, là nghiệp, là pháp, là nhân, là quả. Trong chỗ khác nhau của nghĩa môn, trước phải phân tích tự thể khác nhau của học, là chỉ bày bảy phẩm Thi-la hoặc hơn một trăm năm mươi học xứ.

-     Cảnh giới khác nhau là trong trói buộc của cõi Dục, chỉ có biệt giải thoát luật nghi, tĩnh lự luật nghi, chỉ sự trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, luật nghi vô lậu là không trói buộc.

-     Thời gian khác nhau là đã học ở đời quá khứ, sẽ học ở đời vị lai, đang học ngay trong hiện tại.

-     Địa vị khác nhau là đã vào chánh pháp Bổ-đặc-giàla nếu học chưa thành thục là ở bậc thấp. Học đang thành thục là ở bậc trung. Học đã thành thục thì ở bậc thượng.

-     Tâm không vui mừng gắng sức tu các phạm hạnh là đang ở vị khổ, còn tâm vui mừng, nhưng không gắng sức tu hành các Phạm hạnh ấy là đang ở vị vui. Còn tùy ý tu các Phạm hạnh là ở vị không khổ, không vui.

Chỉ là vị thiện chứ không phải là vị bất thiện. Nếu nghe lãnh thọ là vị văn. Nếu quán xét kỹ lưỡng thì đó vị Tư. Người tu hành đắc định là vị tu. Nếu chưa chứng được tâm tuệ tăng thượng thì đó là vị của giới tăng thượng. Nếu người đã chứng đắc thì gọi là vị của tâm tuệ tăng thượng. Các loại như vậy, gọi là quả vị khác nhau.

-     Bổ-đặc-già-la khác nhau là, trong đây có ý nói hạng Bổ-đặc-già-la xuất gia, hoặc lanh lợi hoặc chậm lụt, hoặc ham mê ít hay nhiều, hoặc nghiệp thế gian mỏng đi. Đó chỉ là hàng Thanh văn, chứ không phải Độc giác hay Bồ-tát vì Độc giác, đều giác ngộ riêng. Còn các Bồ-tát thì giải thoát vững chắc như nhau. Cho nên Đức Như lai không nói pháp cho những vị tu học chung với họ.

Lại nữa, trong đây chỉ nói nhập Niết-bàn là pháp. Người đã chứng nhập chánh pháp thì không còn bị bất cứ cái gì chướng ngại. Người bị ràng buộc trọn vẹn và chẳng phải không ràng buộc chỉ có con người chứ không phải là trời. Đó gọi là chỗ khác nhau của Bổ-đặc-già-la, như đối với Học, phân biệt cũng thế, nên biết. Nói đến tính chất cao vượt thì tuệ là có đủ tính chất thượng thủ, tính giải thoát vững chắc, tính niệm tăng thượng tùy theo năm thứ khác nhau được thích ứng với tính thắng lợi, nên phải phân biệt rộng.

Thắng lợi trong đây là công đức tiến mãi lên chỗ tròn đầy, ấy gọi là khác nhau. Như kinh nói: Quán xét mười điều thắng lợi, thể tính của nó được giải thích gọi là pháp, tùy theo lợi ích với thân, phải khen ngợi, nên gọi là thắng lợi. Lại nữa, pháp ấy thường đuổi theo đời sống hữu tình, nên gọi là thắng lợi. Lại, những pháp được khen ngợi như vậy do sự đuổi theo nên gọi là thắng lợi.

-     Nghĩa môn khác nhau: phải biết, có mười thứ khác nhau là có khả năng giúp cho Tăng-già, khiến Tăng-già ân cần hăng hái, cho đến nói rộng. Kinh nói: Tỳ-kheo là

Sa-môn, là người bỏ gia đình để đến nơi chẳng phải gia đình. Đó gọi là khác nhau, là người đầy đủ luật nghi biệt giải thoát, là tự thể của Tỳ-kheo, giống như những người cùng chung phận ấy. Giải thích tên gọi là căn cứ vào hình sắc, là người siêng năng, giữ gìn khi gần đường ác, có khả năng thâu nhiếp các công đức không hoại mất nên gọi là Tỳ-kheo.

-     Nghĩa môn khác nhau là khác nhau về Sát-đế-lợi, v.v... khác nhau về dòng họ trên, dòng họ dưới, khác nhau về tuổi trẻ tuổi trung niên nên biết.

Kinh nói: Đứng yên là các pháp vào thời gian siêng năng tu tập, gọi là khác nhau. Ở yên trong tư thế nầy, ngoài pháp học ra thì không có pháp nào khác. Giải thích tên gọi thì do các oai nghi cử chỉ đều thuộc về thời gian lãnh thọ giới cấm, nên gọi là trụ. Nghĩa môn khác nhau là các oai nghi khác nhau, là sự khác nhau về thời gian sáng, trưa và xế chiều, khác nhau giữa ngày, đêm nên biết.

Kinh nói: Tuệ là hiểu biết của người trí, quán xét sáng suốt ngay đây, đó là khác nhau về trí.

-     Lựa chọn pháp tướng, lấy pháp tâm sở hữu làm tự thể. Giải thích tên gọi thì lựa chọn là tự thể, nó chẳng phải cái đối trị của trí, nên gọi là tuệ. Và, mỗi thứ khác nhau ấy đều có thể biết rõ trí nầy, nên gọi là tuệ. Lại có khả năng làm sáng tỏ những gì mà thức biết rõ, nên gọi là tuệ. Khác nhau về nghĩa môn đều tùy theo các nghĩa thích ứng với tuệ. Như trước đã phân biệt. Kinh nói: Giải thoát là thoát khỏi hẳn các trói buộc, trở nên thanh tịnh. Gở mình khỏi dục, dứt hết phiền não như vậy gọi là khác nhau. Thể của giải thoát là dứt hẳn các phiền não thô nặng, dập tắt các phiền não nhỏ nhiệm. Giải thích tên gọi thì ai có khả năng lìa khỏi các ham muốn trói buộc gọi là giải thoát.

Lại nữa, Đức Thế Tôn nói về các thứ Mâu-ni, vì giải thoát là thể tính của Mâu-ni, nên gọi là giải thoát. Nghĩa môn khác nhau là đợi thời gian mà giải thoát, Bất động giải thoát, kiến sở dứt phiền não giải thoát, tu sở dứt phiền não giải thoát. Giải thoát các trói buộc cõi Dục, giải thoát các trói buộc cõi Sắc và giải thoát các trói buộc ở cõi Vô sắc. Sự khác nhau giữa các loại cũng thế, cũng như trước, nên biết.

Kinh nói: Niệm là không quên mất, là tâm sáng ghi nhớ. Đó gọi là khác nhau, thể nó là pháp tâm sở hữu. Giải thích tên gọi thì nhớ lại các pháp, nên gọi là Niệm. Lại nữa, tác ý đối với các việc làm mà mình đã trải qua, tâm sáng suốt ghi nhớ, nên gọi là Niệm. Về nghĩa môn khác nhau thì đó là niệm Phật, niệm pháp cho đến nói rộng có sáu thứ niệm, nên biết. Lại, niệm trụ khác nhau, tùy theo đối tượng tương ứng với niệm, sẽ nói rộng.

Lại nữa, trong việc giải thích các câu hỏi, v.v... Hỏi: rằng nghĩa học thắng lợi là gì?

Đáp: Ở đây nói là muốn làm sáng tỏ giới học tăng thượng, để thấy được các công đức vượt hơn mà siêng năng tu tập, an trụ.

Hỏi: Cho tuệ là thượng thủ, có ý nghĩa gì?

Đáp: Đây là nói để làm sáng tỏ tuệ căn là bậc nhất trong các căn.

Hỏi: Giải thoát vững chắc nghĩa là gì?

Đáp: Đây là nói để làm sáng tỏ dứt trừ hẳn phiền não do thấy đạo và tu đạo.

Hỏi: Niệm và tăng thượng có nghĩa gì?

Đáp: Đây là nói để làm sáng tỏ cho những người trình độ thấp kém biết đừng dừng lại với các công đức mà họ đạt được.

Hỏi: Vì sao Đức Thế Tôn lại nói khác nhau về thứ lớp ba học, trong các kinh? Vì sao ở đây lại nói tuệ tăng thượng sau giới tăng thượng? Vì sao không nói tâm học tăng thượng thắng lợi?

Đáp: Đây là nói gộp chung các tuệ đã thành tựu do văn, tư, tu, nhằm làm sáng tỏ thứ lớp Tam-ma-địa, không chút hối tiếc. Đó là làm sáng tỏ tâm học tăng thượng. Như Đức Bạc-già-phạm nói: Rồi thì năm giác quan có khả năng thọ nhận hết sức đầy đủ, nó thuộc về cảm nhận. Còn tuệ căn thì các thầy Tỳ-kheo đã thành tựu tuệ căn rất lanh lợi, cho đến có khả năng tu Tam-ma-địa căn. Vì vậy, do sức mạnh của tuệ căn mà tu cả đến Tam-ma-địa căn cũng đều được thành tựu.

Nay, trong kinh nầy, Đức Bạc-già-phạm chỉ bày sáng tỏ là trí tuệ là nguyên nhân đưa đến Tam-ma-địa và nó có khả năng chặt đứt phiền não. Do vậy, cho nên nói tuệ tăng thượng học. Phải biết, đó là nói gộp chung cả tuệ và tâm học tăng thượng.

Hỏi: Nếu vậy, thì trong kinh khác cũng đề cập đến công hạnh tu tập ba học là đạt đến vẹn toàn, vì sao không nói tu học tâm học tăng thượng đạt đến vẹn toàn?

Đáp: Như đạo lý đã nói ở trước, nên biết.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói an trụ học thắng lợi mà không nói an trụ tuệ thắng lợi? Và an trụ giải thoát thắng lợi?

Đáp: Ấy là nhằm khuyên thọ nhận thắng lợi dành riêng cho trình độ thấp, nhưng cũng phải biết rằng: cũng muốn cho các người được giáo hóa thâu nhiếp với mình các tăng thượng thắng lợi. Lại dẫn dắt tăng lữ và các người biết mười thứ thắng lợi một cách sáng tỏ, cho họ biết nó dễ chứng nhập, nên chỉ nói an trụ học thắng lợi.

Hỏi: Đã là người giải thoát rồi thì đương nhiên là thượng thủ cao nhất trong các pháp, vì sao chỉ nói an trụ tuệ thượng thủ mà lại không nói an trụ giải thoát thượng thủ?

Đáp: Vì đối với hữu tình trình độ thấp kém mà họ vẫn được giáo hóa và nhận lấy tính chất tăng thượng, nên biết: cũng khiến cho những ai được giáo hóa là nhận lấy tăng thượng đối với pháp tăng thượng.

Lại nữa, làm sáng tỏ chỗ khác nhau của giải thoát thì cái gì là khác nhau?

Đáp: Vì giải thoát tuệ thượng thủ nhìn rõ vô thường, cho nên nó trở thành thường trụ chắc thật cao tột.

Hỏi: Những ai được gọi là an trụ học thắng lợi?

Đáp: Việc ấy tùy thuộc vào nơi đã lập ra nhiều học xứ để quán xét mười pháp thắng lợi. Chẳng hạn như giữ gìn Thi-la, giữ một cách chắc chắn với hằng tác, hằng chuyển, như vậy gọi là an trụ học thắng lợi.

Hỏi: Câu nói: Nhiếp thọ Tăng có nghĩa gì?

Đáp: Nói nhiếp thọ Tăng-già là nói chung, ngoài ra còn có câu nói riêng, nhằm giúp cho tăng khấn cầu siêng năng, để họ buông xả ham mê dục lạc, để họ đạt được an vui, để họ xa lìa khổ hạnh ép xác. Ai chưa tin thì giúp họ có lòng tin. Ai chưa đi sâu vào chánh pháp thì giúp họ đi sâu vào. Ai đã có lòng tin thì khiến lòng tin họ phát triển hơn lên. Ai đã thâm nhập chánh pháp thì khiến họ thành thục hơn. Ai khó chế ngự thì khiến họ bị chế ngự. Ai trái phạm Thi-la thì khiến họ khéo xua tan ý trái phạm để họ cảm thấy hổ thẹn mà vui sống trở lại. Ai giữ giới trong sạch thì khiến họ không còn hối tiếc, phòng hộ căn môn đối với pháp hữu lậu, khiến họ khéo hàng phục phiền não trói buộc, dứt trừ phiền não, sau đó dứt trừ tà nguyện, trụ trong Phạm hạnh. Thuẫn theo mà dứt hẳn mê lầm tùy miên, vì khiến cho những người ấy ở yên lâu dài trong phạm hạnh, hơn nữa. Cả đến người nhà trời, người thiện chân chính cũng được chỉ bày. Làm như vậy để chánh giáo nối tiếp mãi không dứt.

Mười thứ thắng lợi như vậy, nếu nói lược thì chỉ có ba thứ thắng lợi. Mở rộng ba thứ nầy thì thành mười thứ. Ba thứ nầy là:

1.     Khiến Tăng sống đời không ô nhiễm.

2.     Khiến Tăng được sống yên vui.

3.     Khiến Thánh giáo phát triển lâu dài. Vì bảy trong mười thứ nầy là tùy hoàn cảnh giữ gìn và làm sáng tỏ lối sống không ô nhiễm và được an vui. Bảy thứ theo hoàn cảnh mà giữ gìn là:

1.     Theo hoàn cảnh giữ gìn mà cung kính dưỡng nuôi.

2.     Theo hoàn cảnh giữ gìn mà tự khổ hành hạnh.

3.     Theo hoàn cảnh giữ gìn các đồ dùng còn thiếu thốn.

4.     Theo hoàn cảnh giữ gìn lần lượt đối với chúng tăng.

5.     Theo hoàn cảnh giữ gìn để tâm theo dõi những thay đổi.

6.     Theo hoàn cảnh giữ gìn không để cho phiền não trói buộc.

7.     Theo hoàn cảnh giữ gìn đối với mong muốn không tốt. Câu nói sau cùng là làm sáng tỏ Thánh giáo tồn tại lâu dài.

Sao gọi là thường giữ gìn Thi-la? Nghĩa là không được bỏ học xứ. Thế nào gọi là giữ Thi-la một cách vững chắc? Là không vi phạm học xứ. Sao gọi là hằng tác? Là không thấu hiểu học xứ. Thế nào là hằng chuyển? Là thấu hiểu Thi-la rồi lại chuyển vận trở về. Sao gọi là thọ học học xứ? Nghĩa là theo học đầy đủ các học xứ. Người tu hành là phải giữ mãi Thi-la, giữ một cách chắc chắn. Sau khi nghe pháp thì lui về sống một mình nơi thanh vắng, buộc niệm, suy nghĩ, đắn đo quán xét là nhằm phát triển tăng thượng tâm tuệ. Lại nữa, người tu hành nầy, được phát sinh trí tuệ do Văn, Tư, Tu, từ đó, có khả năng chứng được giải thoát. Tính chất của giải thoát nầy là một pháp không lui sụt, nên gọi là chứng đắc. Nói là kết quả của trí xuất thế nên không còn bị thụt lùi. Lại nữa, hành giả nầy, do niệm lực nên có thể tự suy nghiệp chín chắn mà tự hỏi: Thi-la uẩn của ta có vẹn toàn chăng? Ta thông suốt hết các pháp chưa? Ta khéo chứng được giải thoát loại nào? Biết nương vào năng lực nhớ nghĩ thế ấy, nên đầy đủ học thắng lợi, phát tuệ thượng thủ, chứng giải thoát vững chắc.

Lại nữa, nói lược thì niệm nầy có ba thứ: đó là vì nói pháp, hoặc noi theo lời truyền dạy, hoặc do quán xét có tạo tác hay không tạo tác, đều biết rõ cả.

Hỏi: Đức Bạc-già-phạm nói Thi-la, có nhiều tên gọi như Ổ-ba-sách-ca-Thi-la, Bí-sô-Thi-la, Ổ-ba-bà-sa-Thila, Tịnh-lự-Thi-la, Tam-ma-bát-đề-Thi-la, Thánh ái Thi-la. Với các tên gọi khác nhau cũng thế, nay ở đây dựa vào Thi-la nào mà nói an trụ hay thắng lợi?

Đáp: Dựa vào Thi-la Bí-sô, vì nó cao hơn hết.

Hỏi: Như Đức Bạc-già-phạm nói: Tuệ cũng gồm có nhiều thứ, gọi là tuệ thành tựu do nghe rộng, tuệ thành tựu do suy tư, tuệ thành tựu do tu trì. Nay, ở đây, y theo tuệ nào mà nói an trụ tuệ thượng thủ?

Đáp: Là nói gồm cả ba tuệ.

Hỏi: Phật nói giải thoát cũng có nhiều thứ: như thế gian giải thoát, xuất thế gian giải thoát, Hữu học giải thoát, Vô học giải thoát, khả động giải thoát, bất động giải thoát, các tên gọi cũng thế, nay, ở đây, y theo giải thoát nào mà nói an trụ giải thoát vững chắc?

Đáp: Là y theo xuất thế bất động giải thoát kia.

Hỏi: Như lai nói niệm cũng có nhiều thứ, nghĩa là đối với cảnh giới của thân, v.v… mà trụ niệm vào đó. Làm lâu hay nói lâu, v.v… cũng tùy theo niệm. Đọc tụng cũng tùy theo niệm, dạy bảo cũng tùy theo niệm, nên làm hay không nên làm cũng tùy theo niệm. Niệm Phật cũng tùy theo niệm. Nay, ở đây y theo các thứ niệm nào mà nói niệm tăng thượng?

Đáp: Theo yếu tố cao hơn hết để luận thì theo niệm quán xét nên làm hay không nên làm.

Lại nữa, theo thứ lớp thì trước là dựa vào Thi-la Bísô mà an trụ. Kế là nghe và lãnh thọ chánh pháp, kế là tác ý đúng như chánh pháp. Người tu hành thế ấy không còn buồn lo hối hận vì đã giữ giới trong sạch. Từ chỗ không còn hối tiếc nên xoay vần phát sinh Tam-ma-địa chân chánh. Nghĩa là do phương tiện đã thuộc về tuệ, do suy nghĩ đúng như lý, nên thành tựu được tâm học tăng thượng. Gọi là thứ lớp tròn đầy. Vì nhân giới hạnh trong sạch mà trước, sau được thành tựu vẹn toàn tâm học tăng thượng.

Lại nữa, bởi an trụ trong học thắng lợi mà được tuệ thượng thủ. Từ an trụ tuệ thượng thủ mà chứng được giải thoát vững chắc.

-     Sao gọi là được an trụ vào học thắng lợi, cho đến giải thoát vững chắc?

-     Bởi sức tăng thượng của niệm, nên gọi là có khả năng hoàn thành thứ lớp.

Lại nữa, kinh nói: Nếu an trụ tu tập như thế, thì ba học vẹn toàn mau chóng. Đó cũng gọi là có khả năng hoàn thành thứ lớp.

-     Giải thích thứ lớp: như kinh nói: Bậc Đại sư là người có khả năng khéo dạy đệ tử Thanh văn những gì nên làm, những gì không nên làm, nên gọi là Đại sư. Lại nữa, người có năng lực giáo hóa, dẫn dắt vô lượng chúng sanh, chứng Niết-bàn nên gọi là Đại sư. Lại nữa, ai xuất hiện ở đời mà xô ngã, xua tan đi tà uế ngoại đạo thì cũng gọi là Đại sư.

-     Thanh văn là người theo người khác nghe âm thanh chánh pháp nên gọi là Thanh văn. Lại có thể khiến kẻ khác nghe tiếng nói của chánh pháp, nên gọi là Thanh văn.

Hỏi: Do đâu mà Đức Phật chỉ nói Thanh văn an trụ học thắng lợi, v.v…?

Đáp: Vì các Thanh văn đều là đệ tử chân thật của đức Bạc-già-phạm, họ đều thuận theo giáo pháp mà tu tập.

-     Pháp là học xứ bao gồm các danh từ, câu văn, bài văn do Phật nói, nghĩa là nói năm nhóm trái phạm.

-     Thành tựu tâm thương xót là cùng ở chung trong đêm dài sinh tử với chúng sinh thường ở trong bốn thứ vô lượng như từ, v.v...

-     Thành tựu lòng bi là khả năng nhổ hết gốc khổ cho chúng sinh.

-     Ưa làm việc nghĩa lợi là có khả năng trao pháp vui cho các người.

-     Cầu ích lợi là muốn cho mọi người thọ nhận các pháp lành cao cả.

-     Tâm hằng thương xót là có khả năng nhổ hết các pháp ác, bất thiện.

Lại nói: Muốn nhiều người sống lâu trong phạm hạnh là nói với dòng họ Sát-đế-lợi cao cả.

-     Rộng thêm: nghĩa là từ trong các loài chúng sinh nầy, về sau sau nữa chúng hội ngày càng đông hơn. Cho đến trời người là: Cũng cứ vậy mà thêm lên mãi nên có thế lực. Đó là làm sáng tỏ tâm đại bi cùng khắp của Đức Thế Tôn, chứ không phải chỉ trùm một khoảnh nhỏ.

-     Chỉ bày thiện chân chánh là tất cả, tận cùng tất cả, tất cả các pháp.

-     Nói chánh pháp là nghe mười hai phần giáo, lãnh thọ, nghiên cứu, tìm tòi, giữ gìn, đọc tụng, ở chỗ thanh vắng, suy tư. Các cảnh giới như vậy đều gọi là Pháp.

Vì ích lợi: là nói theo giới tăng thượng.

Vì an vui là: không tựa vào việc làm đau khổ, hoạn nạn không được tự tại.

-     Vì lợi ích an vui là xa lìa ham muốn thì có tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng. Vì làm các điều lành nầy nên gọi là ích lợi, vì tùy hoàn cảnh thuộc về điều lành cho nên là an vui. Trước mặt Đức Thế Tôn mà khen nói hay im lặng về nhiều công đức của Thế tôn đều gọi là lợi ích. Nếu ở chỗ Đức Thế tôn được nhiều thức ăn uống, y phục thì gọi là an vui. Nếu ở chỗ Đức Thế tôn mà xây lên Ba học, đó gọi là lợi ích an vui. Đối với các pháp, Như lai dùng nhiều thứ tuệ để quán xét, đó là vì ích lợi, vì an vui, vì ích lợi an vui, rồi Như lai nói pháp là dựa vào giới học tăng thượng, tâm học tăng thượng, tuệ học tăng thượng.

Trong đây, có hai nhân duyên gọi là khéo quán xét, nghĩa là biết rõ suốt đêm dài sinh tử, không hiểu biết lầm lộn. Sự giác ngộ và giải thoát ấy gọi là người khéo chứng đắc. Nếu dựa vào tâm tăng thượng, tuệ tăng thượng mà nói thì trong đây có hai nguyên nhân gọi là khéo chứng đắc, nghĩa là do công hạnh rốt ráo, do pháp không lùi sụt.

-     Thi-la uẩn của ta không vẹn toàn là chỉ tu tập một phần Thi-la, hoặc không nương vào Thi-la. Như vậy, muốn Thi-la vẹn toàn thì phải tu tập, trì giới, thiền định.

-     Ta không khéo quán sát các pháp là do hai thứ quán sát như trước trước đã nêu.

-     Ta không khéo chứng được giải thoát là do hai thứ chứng đắc như trước đã nêu.

-     Những gì ta phải nói, đã nói như thế nghĩa là tổng kết, nói phần sơ lược trước, rồi đến phần phân biệt rộng, nên biết.

Lại nữa, do sáu thứ tương ưng sẽ giải thích tất cả kinh Phật:

1.     Vì biết khắp ngọn nguồn các pháp.

2.     Vì dứt bỏ các việc ác, cũng như bỏ hết mê lầm dù lớn hay nhỏ.

3.     Vì thọ hạnh lành.

4.     Vì trí biết khắp, thông suốt hết các thứ bệnh hoạn.

5.     Vì hậu quả của nghiệp ấy.

6.     Vì mình và người cùng chịu quả báo ấy.

Do sáu tướng như vậy, và bởi các pháp tương ưng đã lập ra từ trước cho nên có thể giải thích đúng tất cả kinh. Chữ pháp nói đây là các uẩn, xứ, giới, duyên khởi, niệm, trụ, chánh đoạn, v.v...

-     Quả kia là nhàm chán, lìa khỏi dục, giải thoát, nhập Niết-bàn.

-     Mình và người cùng thọ nhận quả kia là sinh tử của ta đã hết, v.v... Cũng thế gọi chung là phần thâu nhiếp giải thích.

Nay, trong phẩm nầy, chỉ bày luận nầy có bốn tướng:

1.     Tướng tối thắng,

2.     Tướng tự thể,

3.     Tướng thanh tịnh, 4. Tướng giải thích giáo.

Trong đây, tướng tối thắng có ra từ hai bài tụng, tướng tự thể do năm bài tụng, tướng thanh tịnh do hai bài tụng, tướng giải thích giáo do một bài tụng.

QUYỂN 14

Phẩm 3: THÀNH THIỆN XẢO

Lại nữa, thể của luận nầy, trong chín việc, phải khéo biết rõ bảy thứ thiện xảo. Bảy thứ đó là, Tụng rằng:

Đối các uẩn, xứ, giới,
Và các pháp duyên khởi,
Đế xứ, phi xứ, căn.
Việc thiện xảo nên biết.

Luận chép: Người an trụ trong chánh pháp, phải khéo thông suốt bảy việc thiện xảo ấy.

Hỏi: Vì sao chỉ lập bảy thứ thiện xảo?

Đáp: Kẻ ngu ở thế gian thường chấp như vậy; tụng rằng:

Thân là tự tại thảy,
Thân vô nhân vẫn sống,
Trôi lăn tạo các nghiệp,
Và hai thứ tăng thượng.

Luận chép: Do không khôn khéo đối với các uẩn nên chấp tự thể các uẩn là thân mình. Đối với các giới vì không khôn khéo mới chấp thân mình là tự tại, cho đó là nhân sẽ sinh ra thân nầy, hoặc chấp thân nầy tự nhiên có, không do nhân nào cả. Ấy là do không biết thân nầy sinh từ nhân hạt giống của mình. Vì sao?

Từ hiện tượng, công năng hạt giống, nhân của dòng giống, v.v… gọi là khác nhau, vì không khéo nhận thức những vấn đề ấy, nên chấp có thân, rồi dựa vào đó chấp lấy cảnh giới bên ngoài.

-Do không khéo nhận thức lý duyên khởi, nên chấp có thân nên phải trôi lăn trong sinh tử. Do không khéo nhận thức về năng nhận thức và sở nhận thức, cho nên chấp có thân nầy, đó là khả năng tạo các nghiệp.

Do không khéo nhận thức về giác quan và sự thật, nên chấp có hai thứ tăng thượng thân, là tăng thượng nghiệp quả của yêu mến và không yêu mến, và tăng thượng thanh tịnh, ô nhiễm. Do không khéo biết hai đế khổ, tập nên chấp có nhiễm ô tăng thượng. Do không khéo biết hai đế diệt, đạo nên chấp có thanh tịnh tăng thượng.

Bài tụng rằng:

Sinh khởi với thân thảy,
Thật ngã sở nắm giữ,
Người trôi lăn, người tạo,
Với các nghĩa tăng thượng.
Nhiễm ô hay thanh tịnh,
Sinh bảy thứ ngu si,
Đối trị chúng, nên biết,
Gồm trong bảy thiện xảo.

Luận chép: Như trước nói chung hai thứ tăng thượng để rạch ròi làm sáng tỏ hai thứ ngu si, là tăng thượng nghĩa ngu si và ô nhiễm, thanh tịnh ngu si. Dựa vào đâu mà chuyển thành ngu si của bảy thứ thân?

Tụng rằng:

Lầm chấp thân là ngã,
Nương vào các căn trụ
Hồi chuyển ở cảnh giới,
Thọ dụng ái phi ái
Dựa trụ theo lời nói,
Người tạo nghiệp, người giác,
Do vì uẩn khác nhau,
Thấy chung là một thân.

Luận chép: Thân là kết quả của ngu si. Do không thấu hiểu biết thể của sắc uẩn, nên chấp có một cái ta, nương vào năm giác quan rồi lan cả ra thế giới. Do không nhận biết được thể của thọ uẩn, nên chấp có chủ thể cảm thọ, sống với tất cả việc bằng yêu mến và ghét bỏ. Do không nhận thức được thể của tưởng uẩn, nên chấp có ngã, chấp trước theo ngôn ngữ, nhưng không biết tưởng là nương theo lời nói. Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Như Những gì họ tưởng đều lên lời nói". Do không nhận thức được thể của hành uẩn, cho nên chấp có người làm ra. Do không nhận thức được thể của thức uẩn, cho nên chấp có người biết. Chẳng phải chỉ có thức thôi, cả thế gian, đều cho người ta có cái biết, nghĩ đến, là do thể của thức uẩn. Người ngu nhận thức như vậy cho nên đối với tất cả tướng khác nhau của uẩn, gộp chung thành thân nầy, kẻ ngu chấp giữ cho đó là thân mình, lấy nó làm bản ngã của mình. Lại nữa, cùng lúc phát sinh tư tưởng ngu.

Tụng rằng:

Nhân mê lầm ban đầu,
Chấp thường, nhân, vô nhân.

Luận chép: Kẻ ngu ở đời cho tất cả những gì của thân đều do nhân ban đầu sinh ra lầm lạc, rồi chấp có nhân gây ra tình trạng bất bình đẳng, cho nhân bất bình đẳng ấy là do trời Tự Tại thường còn, là tự tính của trời Tỳsắt-nổ. Hoặc họ nói không có nhân nào cả, nghĩa là bác bỏ, không có bất cứ cái gì là nhân thể để sinh ra. Lại nữa, cái mà người ngu chấp trước là cái ngã thường còn.

Tụng rằng:

Ngã nắm giữ các căn,
Năng xúc và năng thọ.

Luận chép: Chấp ngã nắm giữ các căn, đưa đến xúc chạm, cảm xúc xuôi theo khổ, cảm xúc xuôi theo vui, là lãnh thọ cả khổ, vui. Lại nữa, trôi lăn tác giả tăng thượng nghĩa và ô nhiễm thanh tịnh của người ngu là chấp trước vào mỗi phần khác nhau của thân rồi cho đó là ta.

Tụng rằng:

Từ chỗ sinh tử nầy,
Chấp có kẻ trôi lăn,
Kẻ tạo pháp, phi pháp,
Và quả tăng thượng kia,
Tu tập theo hạnh tà,
Chấp có người ô nhiễm,
Với tu tập chánh hạnh,
Vọng chấp người giải thoát.

Luận chép: Kẻ ngu si kia, từ mỗi chỗ sinh tử chấp có một cái ngã thật trôi lăn trong vòng sinh tử, tức từ cái ngã thật nầy, nó làm ra nghiệp tốt xấu cho đời sau, tức là bản ngã thật nầy, phải hứng chịu thẳng thắn quả kia. Kết quả phát sinh kia chính là ngã thật nầy. Dựa vào quả báo ấy, tu hành theo lối tà vạy, thì chấp cho là nhơ bẩn, tu theo chánh hạnh thì cho đó là giải thoát.

Tụng rằng:

Phật chưa hiện ra đời,
Ngu si Cũng thế chuyển,
Từ khi Phật ra đời,
Nói bảy thứ thiện xảo.

Luận chép: Trong bài tụng nầy, làm sáng tỏ, theo thời gian cũng thế, những gì tương ưng với ngoại đạo ngu si của chúng sinh, đều bị tiêu diệt hết. Do bảy thứ thiện xảo nầy được nói ra, không chung cho tất cả các ngoại đạo. Trong đây, uẩn khéo léo là gì?

Tụng rằng:

Biết đời thảy khác nhau,
Trừ được một hợp tưởng,
Tức lìa và giải thoát.
Chúng sinh không thật có,
Nhiều thứ và tổng lược,
Đều có chuyển khác nhau.
Trí tăng thêm tổn giảm,
Uẩn thiện xảo nên biết.

Luận chép: Đời khác nhau là các uẩn đến đi, thể tính khác nhau. Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Tất cả sắc dù ở quá khứ, dù ở vị lai, dù ở hiện tại, dù ở trong hay ở ngoài, dù thô hay tế, dù hơn hay kém, dù xa hay gần cho đến nói rộng, đều phải được nhận thức sáng tỏ bằng trí tuệ cao cả. Bỏ hết các uẩn chỉ thâu nhiếp một hợp tưởng, ấy là hoàn diệt. Lại nữa, không thể tìm thấy tính chất của

Bổ-đặc-già-la trong các uẩn. Vì sao? Ngay đây, trong các uẩn, chúng sinh đã không nắm bắt được, lìa uẩn ra, chúng sinh cũng không nắm bắt được, giải thoát khỏi uẩn chúng sinh cũng không nắm bắt được". Như Đức Bạc-già-phạm bảo Tây-nhĩ-ca: "Ông thấy Như lai trong sắc uẩn chăng? Cho đến, ông thấy Như lai trong thức uẩn chăng?" Tây-nhĩ-ca đáp: Thưa không, thưa Kiềuđáp-ma! Như vậy, cho đến nói rộng. Trong các kinh nói sắc uẩn, v.v... dù chung hay riêng, Bổ-đặc-già-la vẫn không nắm bắt được. Nay ở đây, chỉ nói lược: Chung cho năm uẩn là hoàn toàn không thể nắm bắt được. Như vậy, đã nói, khi biết rõ tướng khác nhau của sắc, v.v... thì có khả năng xa lìa những gì phải đối trị ấy, là chấp tăng ích. Phải khéo biết rõ về tướng chung và tướng riêng của các uẩn.

Lại nữa, uẩn có nghĩa là chứa nhóm, phải khéo biết rõ nghĩa chứa nhóm, gọi là uẩn thiện xảo. Nghĩa chứa nhóm nầy, lại có bốn thứ là nghĩa về nhiều thứ, nghĩa tông, nghĩa lược, nghĩa cùng chuyển biến, nghĩa tăng ích, tổn giảm. Trong đây, làm sáng tỏ tự thể các uẩn và cắt đứt các ngăn che của nó một cách thắng lợi, đó gọi là Uẩn thiện xảo. Thế nào gọi là giới thiện xảo?

Tụng rằng:

Do thấy ba nhân sinh,
Gọi là giới thiện xảo,
Hạt giống từ vô thỉ,
Nên sinh khởi nhiều thứ.
Do đây, và ở đây,
Nắm bắt không thể được,
Nương theo trí mình thành,
Xua tan tính thấp hèn.

Luận chép: Do quán xét ba pháp căn, cảnh, thức từ tự nhân mà sinh. Đó gọi là giới thiện xảo. Vì sao? Do các pháp ấy đã trôi lăn từ vô thỉ, sinh lên từ hạt giống ngày càng nhiều, rồi tiếp tục sinh lên nhiều thứ. Phải biết sinh lên nhiều như vậy, như kinh nói: Không phải là một giới. Nhiều thứ sinh lên ấy, như kinh nói: nhiều thứ giới. Lại nữa, dù nương vào các căn đối với các cảnh, cái ngã năng nắm bắt kia, ta cũng không nắm bắt được. Nên biết, những gì được làm ra đều căn cứ vào mình mà thành lập, chứ không do trời Đại Tự tại. Do vậy, bất cứ chuyện gì ta muốn làm, không nên sinh tư tưởng thấp kém rồi ung dung tu tập theo đó. Trong bài tụng nầy, chỉ bày cho ta biết tự thể của giới thiện xảo và kết quả thắng lợi do cắt đứt các ngăn che của giới ấy. Đó gọi là giới thiện xảo.

Thế nào là xứ thiện xảo? Tụng rằng:

Biết các xúc, các thọ,
Do hai cửa sinh ra,
Vì nương vào xúc,
Phải biết xứ thiện xảo,
Như pháp xứ, thiên xứ,
Chỗ nương của sau sau,
Do nơi thế tục đế,
Biết rõ hai thứ tính.

Luận chép: Do biết rõ thể của cửa sinh ra xúc, nên lập ra hai xứ, là căn và cảnh. Như vậy, do ý nghĩa là năng sinh nên gọi là xứ. Như ở đời, tu tập pháp lành nên gọi là pháp xứ. Lại nữa, khi biết rõ các cảm thọ đều nướng vào xúc, nên lập ra xúc là chỗ nương của thọ. Với ý nghĩa là một nơi ở như vậy nên gọi là xứ. Như ở trên thế gian nầy, là chỗ của trời, nên gọi là thiên xứ. Hơn nữa, khi hai pháp xúc, thọ sinh, thì nương theo thế tục, biết có hai tính, ấy là xúc, ấy là thọ, do xúc có khả năng xúc chạm, còn cảm nhận là có khả năng lãnh nạp. Trong đây, đứng trên ý nghĩa cao tột mà chỉ rõ xúc ấy, thọ ấy, đều không thể nắm bắt được. Nhưng nói theo thế tục đế thì cả cái ấy cũng đều nắm bắt được. Đó gọi là xứ thiện xảo.

Thế nào gọi là duyên khởi thiện xảo? Tụng rằng:

Biết chưa dứt vô thường,
Nhân năng sinh nhiều quả,
Chúng nối nhau, giống nhau,
Gọi duyên khởi thiện xảo,
Chúng sinh không thật có,
Nhưng có xả, có nối,
Do biết rõ nghĩa sâu,
Nên bốn thứ duyên khởi.

Luận chép: Có khả năng biết rõ là biết nhân của vô thường, từ trước đến giờ, chưa dứt hẳn, nên nó cứ còn sinh ra quả. Đó gọi là duyên khởi thiện xảo, như kinh nói: Cái nầy có, cái kia có. Cái nầy sinh nên cái kia sinh. Theo thứ lớp như vậy.

Lại nữa, có khả năng biết rõ do từ nhân nầy mà các quả nối tiếp sinh, là như kinh nói: Không duyên vào đời khác mà có già chết, v.v...

Lại nữa, khéo biết rõ: Các quả còn sinh lên do nhân tương tự, như kinh nói: Thân theo điều ác thì có thể nhận quả thân Dị thục, không mừng, không vui, không yêu, không vừa ý.

Hành vi tốt đẹp là có thể nhận thân Dị thục rất vừa ý, v.v... Trái với thân dị thục nói trên, như thế, v.v...

Lại nữa, dù các uẩn nối nhau, nhưng cũng không nắm bắt được Bổ-đặc-già-la khi có người chết và sinh đời khác tiếp theo.

Bởi khéo biết rõ bốn duyên khởi sâu xa, nên biết, con người không thể tự sinh. Không từ người khác sinh, không phải từ mình, người sinh, không phải vô nhân sinh. Trong đây làm sáng tỏ lên tự thể của duyên khởi và cắt đứt một cách thắng lợi các ngăn che của duyên khởi, nên gọi là duyên khởi thiện xảo.

Thế nào là xứ phi xứ thiện xảo? Tụng rằng:

Không tác, không đến được,
Hai thể khác không chuyển,
Hết chấp, không còn nghiệp,
Phi ngã, tự tại hai,
Trí cũng thế, biết được,
Xứ, phi xứ thiện xảo,
Với tự quả định xứ,
Khác đây, nói phi xứ.

Luận chép: Nếu không thấy có ngã đối với hai xứ nhân, quả mà được tự tại thì gọi là Xứ phi xứ thiện xảo, là không tạo tác, không đến, không, đắc, hai thể không dời đổi, các thể khác không dời đổi. Hết các chấp thì không còn nghiệp.

-     Thế nào là không tạo tác? Là không thuần túy có hạnh tốt, nên không có ngã tự tại.

Thế nào là không đến? Là lìa bỏ hạnh lành, không đến đường lành. Như kinh nói: Không nơi nào, chẳng chứa chấp hành vi ác của thân dù sinh lên cõi trời đi nữa, vẫn không tự tại. Cho đến nói rộng.

-     Thế nào không nắm bắt được, nghĩa là tách mình khỏi phương tiện khéo léo hay của Đạo Thánh vô lậu thì chắc chắn không chứng được đạo quả rốt ráo thanh tịnh, như kinh nói: "Không nơi nào, chẳng chứa chấp người chưa cắt đứt hoàn toàn năm cái, cho đến ai không tu tập bảy giác chi có thể chân thật chứng được hết khổ thì không có việc ấy".

-     Thế nào là hai thể không dời đổi? Là không nơi nào, chẳng chứa chấp, không trước, chẳng sau, mà có hai Đức Như lai xuất hiện ở đời, cho đến nói rộng.

-     Thế nào là thể khác không đổi? Là thân nào khác ngoài thân trượng phu thì không làm vua Thánh Chuyển. Như kinh nói: Không nơi nào, chẳng dung chứa, người nữ được thành vua Thánh Chuyển Luân, cho đến nói rộng.

-     Thế nào là hết các chấp thì không còn nghiệp? Là như kinh nói: người có Thánh kiến đầy đủ về Bổ-đặcgià-la mà lại giết sự sống, cho đến thọ hữu thứ tám, chắc chắn không có việc ấy. Có việc ấy tức là các dị sinh.

Nay, trong đây nói không tạo tác là từ nhân chấp ngã nên không được tự tại, không có cả nhân và quả. Tri kiến trong sạch, không còn nghiệp nào nữa, cũng giống như vậy. Còn lại chỉ khác ở quả.

-     Lại nữa, Xứ phi xứ là tự quả quyết định gọi là xứ. Nên biết, đối với tên gọi khác là phi xứ. Vì thiện xảo nầy không có tuệ điên đảo, cho nên gọi là xứ phi xứ thiện xảo. Trong đây, làm sáng tỏ thể của xứ phi xứ thiện xảo và cắt đứt một cách thắng lợi các ngăn che của nó.

Thế nào là căn thiện xảo? Tụng rằng:

Đối năng thủ sinh trụ,
Và nhiễm ô thanh tịnh.
Lý không ngã còn quán,
Với quả tăng thượng kia,
Với phương tiện như vậy,
Gọi là căn thiện xảo,
Đối với thủ sinh trụ,
Vì nhiễm, tịnh tăng thượng.

Luận chép: Nếu không có ý niệm ngã trong chủ thể nhận thức thì kẻ ấy là tăng thượng, gọi là căn thiện xảo. Vì sao? Vì không phải chấp ngã mà quán sát những nhân duyên khác, nên đối với năng thủ, v.v… tăng thượng tự tại, vì những nhân duyên khác ấy, đối với năng thủ, nó là tăng thượng. Bởi vậy, chấp ngã là không hợp lý.

Nói các căn là tăng thượng đối với năng thủ là sáu căn, nhãn là tăng thượng khi chấp lấy sáu trần cảnh là tăng thượng. Hai căn nam nữ đối với năng sinh, tiếp nối là tăng thượng. Bản thân mạng căn là tăng thượng đối với sự sống nối tiếp. Năm giác quan là tăng thượng đối với nhiễm ô. Tám căn như tín, v.v… là đối với thanh tịnh tăng thượng. Trong bài nầy, chỉ rõ tự thể của căn thiện xảo và sự cắt đứt thắng lợi những ngăn che của căn kia, đó gọi là căn thiện xảo.

Thế nào là đế thiện xảo? Tụng rằng:

Vì hai tự tính khổ,
Vì hợp không đúng lý,
Do không nhân, có nhân,
Và năm thứ thí dụ,
Cũng thế, tùy giác biết,
Nên biết đế thiện xảo,
Tùy giác chưa từng thấy,
Chưa nhận nghĩa nhân duyên.

Luận chép: Do khéo suy tư về ngã biết được đối với hai pháp nhiễm tịnh, không hợp lý, nên gọi là đế thiện xảo. Những gì là hai? Là tự tính của khổ và khổ họp lại. Tự tánh của khổ là gì? Là nếu tự tính của ngã là khổ là do có nhân hay không có? Nếu bảo là không có nhân thì thường bị ô nhiễm, nếu cho là có nhân thì trước phải thanh tịnh rồi sau mới ô nhiễm, điều ấy, không thuận lý đạo. Thế nào là tự tính hợp với khổ? Là dẫn chứng năm thí dụ vẫn không hợp lý. Vì sao? Nếu nói khổ hợp với ngã lại thì không thể như hai khúc gỗ họp lại vì chúng rời nhau, cũng không phải hữu tình họp với cây gỗ vì chúng rời nhau, cũng không phải như lửa và củi hợp chung vì tính chúng là tan rã, cũng không phải như áo và thuốc nhuộm màu ăn nhau vì tự thể ngã dù ví như một chút màu trắng đi nữa, vẫn không thật có. Cũng không phải như tâm, tâm pháp hợp lại. Vì sao? Vì tâm là chủ thể thọ nhận và tâm pháp cùng duyên một cảnh thì mới được gọi là tương ưng nhau. Trong khi ấy, đối với ngã thì không có việc cũng thế. Do vậy, không hợp lý.

Lại nữa, do quán xét thấy nghĩa chưa từng thấy và nhân duyên của thấy, và quán xét thấy nghĩa chưa hề cảm thọ và nhân duyên của cảm thọ, đó gọi là đế thiện xảo. Nghĩa là từ xưa đến nay, chưa hề thấy hai đế khổ, tập và nhân duyên của nó. Từ trước đến giờ, chưa hề thấy, rõ hai đế Diệt và Đạo và nhân duyên của nó. Trong bài nầy, chỉ bày sáng tỏ tự thể của trí tuệ xuất thế gian và cắt đứt thắng lợi sự ngăn che của nó. Đó gọi là Đế thiện xảo.

Tụng rằng:

Nên biết các thiện xảo,
Khác nhau hai mươi ba.
Dị nhiếp luận là trước,
Sau cùng rất thanh tịnh.

Luận chép: Nên biết chỗ khác nhau của uẩn thiện xảo lại có hai mươi ba thứ, là:

1.     Dị nhiếp luận thiện xảo.

2.     Văn sở sinh trí thiện xảo.

3.     Tư sở sinh trí thiện xảo.

4.     Tu sở sinh trí thiện xảo.

5.     Thuận quyết trạch phần trí thiện xảo.

6.     Kiến đạo trí thiện xảo.

7.     Tu đạo trí thiện xảo.

8.     Cứu cánh đạo trí thiện xảo.

9.     Luyện căn trí thiện xảo.

10.   Phát thần thông trí thiện xảo.

11.   Bất thiện thanh tịnh thế tục trí thiện xảo.

12.   Thiện thanh tịnh thế tục trí thiện xảo.

13.   Thắng nghĩa trí thiện xảo.

14.   Bất thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí thiện xảo.

15.   Thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí thiện xảo.

16.   Thiện thanh tịnh tướng vô phân biệt trí thiện xảo.

17.   Thành sở tác tiền hành trí thiện xảo.

18.   Thành sở tác trí thiện xảo.

19.   Thành sở tác hậu trí thiện xảo.

20.   Thanh văn trí thiện xảo.

21.   Độc giác trí thiện xảo.

22.   Bồ-tát trí thiện xảo.

23.   Tối cực thanh tịnh trí thiện xảo.

Dị nhiếp luận thiện xảo lại có hai thứ:

1. Chủng chủng nhiếp thiện xảo.

2. Chủng chủng luận thiện xảo.

-     Chủng chủng nhiếp thiện xảo có mười một thứ là từ giới nhiếp cho đến cánh hỗ nhiếp.

-     Giới nhiếp là các hạt giống đã được gom vào các uẩn.

-     Tướng nhiếp là tự tướng cộng tướng thuộc về các uẩn.

-     Chủng loại nhiếp là tự chủng loại về các uẩn phổ biến.

-     Phần được nhiếp là thuộc về phần vị của tùy thuận với lạc thọ, v.v... của các uẩn.

-     Bất tương ly nhiếp là các uẩn, do một pháp gom hết tất cả các uẩn vì sự gắn bó của uẩn là không rời nhau.

-     Thời nhiếp là các uẩn dù quá khứ, hiện tại, vị lai, vẫn nhiếp nhau riêng.

-     Phương nhiếp là các uẩn, v.v… đổi thay theo phương hướng. Nếu dựa vào phương nầy mà sinh thì thuộc về phương nầy. (Nếu sinh ở phương nào thì thuộc về phương ấy).

Toàn nhiếp là các uẩn thuộc về đầy đủ với năm mươi, tám mươi hai.

-     Nhiếp một phần là các uẩn, v.v… thuộc về một phần nhỏ riêng.

-     Thắng nghĩa nhiếp là các uẩn thuộc về tướng chân như.

-     Canh hỗ nhiếp là các uẩn nhiếp thuộc lẫn nhau.

-     Chủng chủng luận thiện xảo là: Các câu hỏi đáp về phương tiện thiện xảo đối với uẩn, v.v… như lấy một hành, như hỏi thì lấy một câu thuận với việc trước, một câu thuận với việc sau, bốn câu, và câu không có sự tướng, thì đáp, là như có người hỏi phải chăng là có tướng nhiếp, tức có nhiếp nhau. Nếu có nhiếp nhau thì cũng có cảnh giới nhiếp chăng? Hơn nữa, có phải y theo nhãn để đặt bốn câu hỏi? Đáp hoặc có khi thuộc về cảnh giới nhưng không có nhiếp nhau. Nghĩa là như có sinh vào cõi có sắc nhưng không có nhãn. Nếu có đi nữa thì cũng đã mất. Hay như các dị sinh, sinh vào cõi Vô sắc là có tướng nhiếp nhưng không có cảnh giới nhiếp nhau, như nhãn sau cùng của bậc A-la-hán hoặc vừa có cảnh giới nhiếp vừa có tướng nhiếp, nghĩa là ngoài những gì trên, còn thì đều có phần vị của nhãn. Hoặc có hành uẩn, nhưng không có cảnh giới nhiếp và không có tướng nhiếp, nghĩa là như sự tan loại về nhãn của A-la-hán.

Chứng nhập cảnh Niết-bàn Vô dư thì đối với nhãn mà phân biệt Cũng thế, còn đối với tất cả pháp khác thì tùy theo sự thích ứng của chúng, mà phân biệt rộng. Chẳng hạn như lấy giới nhiếp đối với nhiếp nhau. Cứ làm vậy, là lấy giới nhiếp đối với các sự nhiếp còn lại, như lần lượt lấy một hành uẩn làm như vậy, cho đến phân biệt rộng.

Cũng thế, lấy hành uẩn thuộc về pháp khác đối lập với hành uẩn thuộc về pháp khác, trừ đi hành uẩn trước hành uẩn, và đối lập với hành uẩn sau hành uẩn, đều nên lấy một Đạo lý, như các pháp thích ứng với nó, hành uẩn mà phân biệt rộng.

Lại nữa, nếu là pháp thuộc về uẩn, thì pháp ấy có thuộc về giới không? Nếu pháp đã thuộc về giới thì pháp ấy có thuộc về uẩn không? Trường hợp nầy thì lấy câu thuận với trước mà trả lời, là: Nếu pháp đã thuộc về uẩn thì pháp đó cũng thuộc về giới. Hoặc pháp thuộc về giới chứ chẳng thuộc về uẩn, như pháp vô vi. Như đem uẩn đối lập với giới. Cũng thế, cứ đem uẩn cho đến đối lập với Đế, nên thường noi theo một nguyên tắc, một hành uẩn mà phân biệt rộng nói về sự nhiếp thuộc nhau. Như uẩn đối với các pháp khác, cũng như vậy, như lấy giới đối với xứ, v.v... cho đến lấy căn đối với đế, nên phân biệt rộng.

Trong đây, bất thiện thanh tịnh thế tục trí thiện xảo chính là thuận quyết trạch phần trí thiện xảo.

Thiện thanh tịnh thế tục trí thiện xảo là chính là xuất thế hậu đắc thế gian trí thiện xảo.

-Thắng nghĩa trí thiện xảo là chính là Kiến đạo trí thiện xảo.

Như vậy, ba món ấy tức là bất thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí thiện xảo và Thiện thanh tịnh tướng hữu phân biệt trí thiện xảo, Thiện thanh tịnh tướng vô phân biệt trí thiện xảo. Ba thứ trí nầy tức là thành sở tác tiền hành trí thiện xảo, Thành sở tác trí thiện xảo và Thành sở tác hậu trí thiện xảo.

Lại nữa, ba thứ khác nhau trước là phiền não đã phát sinh nhưng chưa dứt trừ chúng, không phải là đối trị phiền não. Phiền não đã sinh, đã dứt trừ chúng là đối trị những chỗ khác nhau của phiền não. Trong ba thứ khác nhau ấy, tức là ba thứ khác nhau của phân biệt, vô phân biệt thế tục, thắng nghĩa trí tính. Còn ba thứ khác nhau ở sau, tức là ba thứ khác nhau của sự chỉ bày về dứt trừ trí tính tiền hành, chánh đoạn đạo trí tính, trí tính của các thời gian kia. Như vậy, chín thứ trí là nương vào sự nối tiếp nhau của Bổ-đặc-già-la với những sự khác nhau giữa chúng, mà lập ra nên thành bốn thứ. Nên biết điều ấy.

Phẩm 4: THÀNH VÔ THƯỜNG

Lại nữa, trước đã nói: Nếu ai muốn tu hành chân chánh công đức biến tri, v.v... nghĩa là biết khắp các khổ, v.v… Thế nào là khổ biết khắp? Là khổ đế biết khắp về vô thường, khổ, không, vô ngã. Nay theo thứ lớp mà thành lập rộng.

Trong đây, thành lập vô thường là chỉ bày rõ về thể tính của vô thường và chỗ khác nhau của vô thường. Vô thường là gì? Và nó có những gì khác nhau?

Tụng rằng:

Vô thường là hữu vi,
Tương ưng với ba tướng,
Nghĩa vô thường như vậy,
Sáu, tám thứ, nên biết.

Luận chép: Tính của vô thường là pháp hữu vi, nó tương ưng với ba tướng là:

1. Tướng sinh.

2. Tướng diệt.

3. Tướng trụ, dị.

Và, nghĩa khác nhau của vô thường là các pháp tương ưng với nó, có sáu hay tám thứ, nên biết. Tám thứ là:

Tụng rằng:

Vô tính, hoại, chuyển, khác,
Tách xa, được, sẽ có.
Bịnh nối nhau tích tắc,
Tâm khí nên thọ dụng.

Luận chép: Sáu thứ vô thường là:

1. Vô thường vô tính.

2. Vô thường Tiêu tan mất hết.

3. Vô thường đổi khác.

4. Vô thường chia lìa.

5. Vô thường đạt được.

6. Vô thường sẽ có.

Tám món vô thường là:

1. Cửa ngõ sát-na.

2. Cửa ngõ nối tiếp.

3. Cửa ngõ bệnh tật.

4. Cửa ngõ già nua.

5. Cửa chết.

6. Cửa tâm.

7. Cửa khí.

8. Cửa thọ dụng.

Trong đây, hai thứ vô thường là sát-na và sự nối nhau của đời sống là bao cùng khắp các nơi. Còn bệnh, già, chết, ba món nầy là vô thường ở nội sắc. Tâm vô thường nằm ở chỗ tên gọi. Cuộc đời và sự chịu đựng là hai thứ vô thường ở sắc bên ngoài. Vô tính vô thường nói ở đây là nói về tính chất không thường trụ, nên gọi là vô thường. Còn lại, vô thường do sự đổi thay khác nhau, có mười lăm thứ.

Như bài tụng rằng:

Biến, khác, cần phải biết
Mười lăm thứ khác nhau:
Gọi là phần vị thảy
Bị tám duyên ép ngặt
Cõi dưới đủ tất cả,
Cõi giữa lìa ba môn,
Đủ ba thứ đổi khác,
Cõi trên lại trừ khí.

Luận chép: mười lăm thứ thay đổi khác nhau là từ phần vị, thay đổi khác nhau, cho đến các thứ sự thay đổi khác nhau hiện ra không trọn vẹn lắm.

-     Phần vị đổi khác là mỗi vị trí thay đổi khác nhau từ trẻ cho đến già, trước sau, không hề có sự giống nhau.

-     Sự biển đổi khác nhau hiện rõ nét là từ dung nhan xinh đẹp, da thịt bóng láng tươi thắm, thân thể mềm mại đã dần thay đổi thành sắc diện nhăn nheo, da thịt sần sùi, thân thể khô héo.

-     Hình thể đổi khác nghĩa là đổi khác từ béo tốt sang gầy ốm.

-     Sự hưng thịnh đổi khác là bà con, của cải, quan điểm chấp chặt đều phát lên, nhưng những hiện tướng ấy chống trái nhau, gọi là suy sụp đổi khác.

-     Sự đổi khác của chi tiết là trước kia tứ chi hoạt động đều đặn, về sau hoạt động thiếu kém.

-     Sự đổi khác của nóng lạnh là như mùa rét thì co ro run lập cập, mùa nóng thì có vẻ thoải mái, nhưng đổ mồ hôi, mong cầu sự thay đổi về lạnh, ấm.

-     Sự đổi khác bởi kẻ khác làm tổn hại như xúc chạm muỗi mòng, tay chân đá, túm lấy, v.v...

-     Sự đổi khác của thân thể là mệt mỏi thay đổi, hay như chạy nhảy, đứng mà mệt mỏi, khác nhau.

-     Sự đổi khác của oai nghi là sự đổi khác của bốn oai nghi trước, sau làm lợi ích hoặc làm tổn hại khác nhau.

-     Sự đổi khác do tiếp xúc đối đáp lại là do tiếp xúc xuôi theo vui, khổ đổi khác mà thọ nhận vui, khổ khác nhau.

-     Sự đổi khác về nhiễm ô là hai tâm sở tham và sân cùng các phiền não lớn nhỏ làm mê lầm rối loạn khác nhau.

-     Sự đổi khác của bệnh tật là sự đổi khác về không bệnh và bị bệnh, bệnh nặng vây ngặt cơ thể.

-     Sự đổi khác về chết là sự đổi khác về đời sống trước sau, trước là sống đàng hoàng, sau thì không còn thần thức, không còn biết gì.

-     Sự đổi khác về màu xanh bầm ứ là sự đổi khác về thân xác, sau khi chết, thân xác đổi sang màu xanh bầm ứ, sình trướng rồi tan rã, xương tủy cũng vậy, đều đổi khác hết.

-     Các thứ mà sự đổi khác hiện ra không trọn vẹn là vị hài cốt sau khi hỏa táng thì đều tan rã, tách rời nhau, mỗi thứ đều không hiện, đều đổi khác (của cơ thể nữa).

Lại mười lăm thứ đổi khác nầy nó còn tương ưng với tám duyên, đó là:

1. Các thứ được chứa nhóm trong thời gian lâu.

2. Bị người khác gây tổn hại.

3. Vật cần dùng thiếu hụt.

4. Thời tiết đổi dời tàn lụi.

5. Bị lửa đốt cháy hết.

6. Bị nước lũ lụt cuốn đi hết.

7. Bị gió thổi khô rụng.

8. Các duyên khác nhau hợp lại.

-     Các thứ được chứa nhóm trong thời gian lâu là trải qua thời gian lâu nên các hành tự nhiên bị hư nát dù chúng không hề rời khỏi chỗ cũ.

-     Bị tổn hại do các nhân duyên khác là do những duyên khác vây ngặt làm hại, khiến trước, sau đổi khác.

-     Vật cần dùng thiếu hụt là các vật thọ dụng hao mòn khác nhau do mỗi ông chủ khác nhau.

Thời tiết đổi dời tàn lụi là mùa đông giá lạnh tuyết rơi, mùa hè nóng bức, mưa tuôn, khiến rừng cây, cây thuốc, cỏ xanh tốt và điêu tàn.

-     Bị lửa đốt cháy hết là lửa cháy lan bao trùm, cả thành ấp xóm làng đều bị đốt cháy hết.

-     Bị nước lũ lụt cuốn đi hết là nước lụt ngập bao la, cổng làng thôn xóm, cư dân đều bị nhận chìm dưới dòng nước.

-     Bị gió thổi khô rụng là gió to đánh ầm ầm đến nỗi áo ướt, đất ướt đều khô cạn mau chóng.

-     Các duyên khác nhau nhóm họp là kẻ vốn nhiều tham lam mà cùng phối kết với giận dữ thì sự trói buộc do tham vừa dứt thì bị giận dữ khởi lên trói buộc. Cứ vậy, nếu người nào nặng về giận dữ, nặng về ngu si thì nó càng có duyên kết hợp với các thứ phiền não khác, cũng vậy, nên biết. Như vậy, cảnh hiện tiền khác của các thức cũng như vậy.

Lại nữa, nghĩa vô thường nầy có đủ trong cõi Dục. Còn trong cõi Sắc thì không có ba thứ vô thường bệnh, già, thọ dụng. Lại ba vô thường xúc chạm, nhiễm, chết cũng có trong cõi Sắc khi nói về ý nghĩa vô thường. Nên biết, ở cõi Vô sắc cũng vậy, chỉ trừ cửa ngõ khí thế gian thôi.

Tụng rằng:

Nghĩa vô tính vô thường,
Là biến kế sở chấp,
Các nghĩa vô thường khác,
Y tha khởi, nên biết.

Luận chép: Nghĩa vô tính đã thuộc về nghĩa vô thường. Vô thường nầy thuộc về biến kế sở chấp, nên biết. Còn các nghĩa vô thường khác là thuộc về y tha khởi. Trong tướng Viên thành thật thì không có nghĩa vô thường.

Cũng thế, đã làm sáng tỏ sự khác nhau của vô thường và nó thuộc về ba tướng. Lại nữa, như Đức Thế tôn nói: "Các vô thường đều là khổ". Câu ấy có nghĩa gì?

Tụng rằng:

Các vô thường đều khổ,
Các khổ ấy xen nhau.
Kẻ ngu mê pháp tính,
Bị hại mà không biết.

Luận chép: Do nỗi khổ quá thô nặng đã làm lẫn lộn với vô thường. Tính chất của vô thường nầy là khổ hành, nên gây ra khổ. Và, vì nương vào khổ biến hoại cho nên khổ. Vì vậy, Đạo Đế là không còn khổ. Ở đây, không còn tướng khổ xen lẫn với nghĩa vô thường. Vì ngu muội không biết rõ pháp tính nầy, nên kẻ ngu không biết được nghĩa thường và vô thường.

Lại nữa, ngay trước mắt đã nhận thức được vô thường gây thảm hại, thì như trước đã nói, sát-na vô thường là bao trùm các vật, ý nghĩa của vô thường nầy, người thế gian không thể chứng nghiệm ngay đây, cho nên phải thành lập.

Tụng rằng:

Do quả của tâm kia,
Sinh rồi tự nhiên diệt,
Sâu biến dị, có được.
Niệm niệm diệt, nên biết.

Luận chép: Các hành kia đều là quả của tâm. Tính chất của các hành ấy, vừa sinh thì đã có nhân duyên lìa tan hoại diệt nên tự nhiên hoại diệt. Lại, thời gian sau bởi thay đổi mà được món gì ấy, nhưng nên biết, các hành đều sinh diệt trong (sát-na) tích tắc. Vì sao phải biết các hành đều là quả của tâm?

Tụng rằng:

Tâm huân tập lên mãi,
Định, chuyển biến tự tại,
Ảnh tượng sinh đạo lý,
Và ba thứ Thánh giáo.

Luận chép: Do đạo lý và Thánh giáo mà chứng biết được các hành mang tính chất kết quả của tâm.

-     Đạo lý là gì? Là pháp lành, không lành đều huân tập ở tâm. Bởi sức mạnh tăng mãi của tập khí tâm mà các hành tâm lý phát sinh. Và, bởi tâm thanh tịnh mà người tu hành giải thoát được những chướng ngại trong định. Tất cả các hành đều biến chuyển theo tâm. Vì sức mạnh tự tại của định tâm nên ý sáng tỏ, nên các thứ biến chuyển theo. Và, do sức mạnh tự tại của tâm định, nên theo tâm định muốn điều gì thì ảnh hưởng của cảnh giới sẽ phát sinh ra. Đó gọi là đạo lý.

-     Thánh giáo là ba điều bậc Thánh nói như trong kinh ghi: "Tâm dẫn dắt thế gian, tâm lực giữ gìn thế gian, nên tùy theo tâm sinh khởi đã được tự tại mà các vật chuyển biến theo". Lại nói: "Thế nên Bí-sô phải khéo chuyên tinh, đúng như chính đạo mà quán sát tâm mình, cho đến rộng".

Lại nói: "Bí-sô nên biết: Nói chủ của ngôi thành, ấy là thức uẩn tóm lấy tất cả. Đó gọi là Thánh giáo".

Hỏi: Nguyên tắc hoại diệt tự nhiên của các hành tâm lý kia, nên nhận biết như thế nào?

Đáp: bởi bốn thứ nhân duyên. Tụng rằng:

Vì nhân sinh trái nhau,
Không hai nhân trụ, diệt.
Lỗi thường trụ tự nhiên,
Phải biết nhậm vận diệt.

Luận chép: Không phải nhân phát sinh có khả năng hoại diệt các hành, mà chính vì hai thứ sinh diệt trái nhau. Và, không phải do nhân trụ làm cho các hành trụ, vì nếu chắc chắn có nhân ấy thì các vật phải là thường trụ. Trong khi ấy, các hành vốn đã không trụ thì cần gì phải có nhân để diệt? Và, tính chất khác của nhân diệt là không thật có. Nếu các hành phát sinh rồi, tự nhiên trụ, thì cái trụ của chúng phải là thường, điều đó trở thành lỗi lớn. Vì vậy, cho có nhân trụ, diệt, hay tự nhiên trụ, đều có lỗi. Phải biết các hành nhậm vận hoại diệt.

Tụng rằng:

Chẳng nước, lửa, gió diệt,
Do chúng cùng khởi, diệt,
Kia tương ưng diệt rồi,
Các đổi khác, nhân sinh.

Luận chép: Nếu bảo nước, lửa là nhân của hoại diệt thì không hợp lý, vì chúng đi chung với sinh diệt. Nếu đúng nước, lửa, gió là nhân hoại diệt thì các vật tan rã, cháy trụi, khô úa, không thể nối nhau mà diệt rồi lại thay đổi mà sinh ra. Vì sao? Vì nhân không có thật thể mà cho là có thật thể. Điều ấy, không hợp lý. Nhưng nước, lửa, gió cùng lúc tương ưng làm cho muôn vật tan rã, v.v...để rồi vạn vật sau đó biến chuyển làm nhân sinh ra vật khác thì ngoài công năng ấy, nước, lửa, gió, đối với nhân kia, chúng hoàn toàn không còn năng lực nào khác nữa. Lại nữa, nếu chấp tướng của diệt là nhân của diệt thì chủ thể tướng diệt, pháp bị diệt là đồng thời tạo tác hay không đồng thời? Và, nếu vậy thì có lỗi gì?

Tụng đáp:

Trái nhau nối nhau dứt,
Hai tướng thành vô tướng.
Trái với thế gian hiện thấy
Vô pháp và nhân khác.

Luận chép: Tướng của năng diệt và pháp bị diệt kia, nếu cho rằng chúng hiện hữu đồng thời thì không đúng lý, vì có lỗi trái với nhau. Còn nếu cho rằng chúng không đồng thời hiện hữu thì cũng không đúng lý đạo, vì mắc phải lỗi nối nhau dứt. Lại, nhân diệt nầy có khả năng diệt các pháp thì tự thể nó là diệt hay không phải diệt? Nếu tự thể nó là diệt thì lẽ ra, trong một pháp phải có hai tướng diệt. Nếu tự thể nó không phải diệt thì lẽ ra, không có tướng diệt. Do lỗi như thế nên không hợp lý.

Lại trái với thế gian hiện thấy, nên không thể chấp diệt là nguyên nhân của hoại diệt. Vì sao? Vì cả thế gian đều nhận thấy các hành có một tự thể khác làm nhân cho hoại diệt. Họ nào thấy được pháp diệt là vì nhân diệt của chúng. Lại nữa, nếu pháp diệt là do nhân diệt của chúng thì chỉ có diệt, là chủ thể diệt các pháp là đủ, chứ đâu cần phải đợi việc gì nữa? Cả hai thứ nhân vừa chấp đều mắc sai lầm. Nếu chỉ có diệt, là năng diệt các pháp thì nếu vào lúc có diệt, bấy giờ, tự thể của pháp rốt ráo lẽ ra là không. Nếu còn đợi việc khác, thì việc khác ấy là nhân của hoại diệt. Thế nên, không nên chấp diệt là nguyên nhân của hoại diệt. Lại nữa, nên biết thế nào là sau khi thay đổi thì có được thứ gì, thứ ấy cũng là một pháp ở các pháp diệt trong sát-na.

Tụng rằng:

Phi thân, rừng non thảy,
Trước không có đổi khác,
Cũng không trước, không hoại,
Lúc sau cùng mới diệt.

Luận chép: Tất cả các pháp trong ngoài như thân mới sinh rừng thế gian vào lúc cuối cùng mới có sự thay đổi. Cho nên từ trước, tự thể là không thay đổi, là không đúng lý.

Lại nữa, nếu cho thời gian trước là không có sự hoại diệt đến sau cùng mới có diệt mà không do nhân thay đổi. Như vậy là trước không có sự đổi khác nên sau cũng không có sự đổi khác, vì trước không có sự hoại diệt nên sau cũng không có sự hoại diệt. Nên biết các hành niệm niệm biến diệt. Bởi thế nên mới lập nghĩa pháp sinh diệt từng sát-na. Như vậy, là đã lập xong tính chất vô thường. Tất cả ngoại đạo tà kiến so đo chấp cho ngã là tự tại là tự tính hiểu biết rất nhỏ nhiệm, một pháp thường trụ cũng đều không lập được. Vì sao không lập được lý thuyết về tính thường trụ của ngã?

Tụng rằng:

Vị tư phần phiền não,
Phi thường nên đổi khác,
Nếu chúng không đổi khác,
Nhận tạo thoát, phi lý.

Luận chép: Do chấp có ngã nên có từng nỗi vui, khổ, bao thiện ác, với những suy tư tham giận phiền não, từng lúc chia ra khác nhau, cho nên chúng đều là vô thường. Vì sao? Vì điều mà ta chấp cho là ngã là do sự vui v.v... cho dù có chút đổi khác đi nữa, nó vẫn không phải là thường. Nếu tất cả bất cứ cái gì cũng không thay đổi thì không nên chấp có người chịu quả báo, có người tạo nghiệp, có người giải thoát, vì các pháp ấy dù có ngã hay không cũng chẳng khác gì nhau. Lại nữa, cũng không có tự tại, thể tính thường trụ có khả năng sinh ra thế gian nầy. Vì sao? Tụng rằng:

Do không có công năng,
Thuộc không thuộc trái nhau,
Có dụng và không dụng,
Vì nhân thành lỗi.

Luận chép: Điều mà người ta chấp cho rằng tự tại, nó không có công năng gì để sinh ra thế gian cả. Vì sao? Vì, nếu cái tự tại ấy sinh ra thế gian nầy, chứ không phải do nhân duyên hay tự nhiên nào sinh ra nó cả, thế vì sao ông không bảo tất cả thế gian nầy tự có mà không do nhân nào cả? Nếu công năng ấy lấy nghiệp làm nhân thì vì sao không chịu tin rằng tất cả thế gian nầy đều lấy nghiệp làm nhân? Nếu công năng ấy phải đi tìm phương tiện đề làm nhân sinh ra thì vì sao không chịu tin rằng tất cả thế gian nầy lấy sức mạnh của chính nó làm nhân để sinh ra.

Lại nữa, nếu tự tại kia thuộc về thế gian, tùy thuộc thế gian mà lại bảo rằng nó sinh ra tất cả thế gian nầy là điều trái lý.

-Nếu tự tại ấy không thuộc về thế gian, thì giải thoát. Pháp giải thoát có thể sinh ra thế gian, điều ấy cũng không hợp lý. Lại, nếu tự tại ấy phải hữu dụng cho đời sống thế gian nầy, lìa đời sống thế gian nầy thì hữu dụng kia bất thành. Thế thì tự tại ấy do công dụng mà không có tự tại, tự thành lỗi. Nếu tự tại ấy mặc dù sinh ra thế gian nhưng vẫn không cần công dụng nào cả thì lẽ ra không nên hóa sinh ra tất cả thế gian. Hay tự tại ấy có như kẻ điên cuồng đầy tội lỗi.

Lại nữa, tự tại ấy khi sinh ra thế gian là chỉ chính nó làm nhân sinh ra thế gian hay cũng còn phải đợi nhân khác nữa mới sinh ra được? Nếu chỉ tự thể của tự tại làm nhân thì thế gian cũng vậy, là nó có tự thể tự tại thường có xưa nay rồi, cần gì phải sinh thêm chi nữa? Nếu, cũng một chút, còn đợi nhân khác mới sinh ra được, thì cái nhân đợi chờ ấy như là không có nhân. Tất cả thế gian lẽ ra cũng như vậy, nếu có nhân khác thì thế gian cũng như vậy, vì hễ từ nhân khác sinh thì đâu cần đến tự tại? Thế nên lập thuyết tự tại là có nhiều lỗi. Lại nữa, chấp có tự tính thường trụ làm nhân là không hợp lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Tướng tự tính thay đổi
Có, không, chẳng đúng lý,
Không sai khác, vô thường.
Có năm lỗi khác nhau.
Vô tướng cũng vô nhân,
Phi tự tính, hằng biến,
Trước không có đổi khác
Là ngã thường giải thoát.

Luận chép: Nếu chấp tự tính là thường thì lẽ ra chẳng phải là nhân cho sự đổi khác. Vì sao? Vì tự tính mà người ta chấp không có tướng đổi khác, cũng chẳng phải không có tướng đổi khác. Thế nên không đúng lý.

Nếu tự tính nầy không khác gì với tướng đổi khác thì nó là vô thường. Nếu bảo nó khác với tướng đổi khác thì mắc năm lỗi là:

1.     Lỗi không có tướng, lìa tướng đổi khác mà giữ lại chút tướng của tự tính, thì cũng không thật có.

2.     Lỗi chẳng phải nhân, vị thế gian không ai thấy pháp thường trụ là nhân thể của sự sanh.

3.     Lỗi chẳng phải tự tính, vì thế gian không thấy chẳng phải chủng loại kia là tự tính kia.

4.     Lỗi vị tự tính thường trụ mà lại sinh khởi các thay đổi vào bất cứ lúc nào, mà không phải đợi chờ nhân nào khác.

5.     Lỗi vì tự tính nầy khi chưa sinh thay đổi mà ngã đã giải thoát rồi. Nếu đã vậy, thì thời gian sau không nên sinh khởi các thay đổi. Lại nữa, chấp rằng thường là một cái gì hết sức nhỏ nhiệm thì vẫn không đúng lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Thường tạo không đúng lí,
Là do hai, ba nhân,
Của cải hữu tình thêm,
Cực vi chẳng thường trụ.

Luận chép: Điều người ta chấp là cái nhỏ nhất là có tính chất thường, nhưng lại có tạo tác thì cũng đều không đúng lý. Vì sao tính chất thường trụ mà lại không hợp lý? Vì hai lý do: Thể tính hết sức nhỏ ấy, theo ông, là vì tính quá nhỏ mà nó là thường hay và tính chất khác loại mà nó thường trụ?

-     Nếu do quá nhỏ mà thường trụ thì quá ốm gầy yếu đuối làm sao là thường trụ được?

-     Nếu do tính chất khác loại mà thường trụ thì tướng của loại ấy là không thể nắm bắt được. Vì không phải đất thì làm sao nuôi sống các vật dựa vào đất? Điều ấy, không đúng lý.

-     Vì sao tạo tác lại không đúng lý? Là do ba nguyên nhân:

1. Do nơi chốn.

2. Do nhân duyên.

3. Do tự thể.

Vì sao tạo tác nơi chốn là không đúng lý? Nghĩa là từ cái hết sức nhỏ mà tạo tác ra món vật thô lớn thì như vậy là có quá dung lượng của nó, hay không?

-     Nếu không quá dung lượng của cái hết sức nhỏ ấy thì các vật to nầy, với các chướng ngại của nó, lẽ ra phải hết nhỏ, như vậy thì không thể chấp lấy. Và, cũng không đúng lý vì trên thế gian nầy, không thấy ở cùng một chỗ mà có cả vật sạch lẫn vật chướng ngại tối tăm.

-     Nếu quá dung lượng của cái hết sức nhỏ kia thì cái chỗ quá dung lượng ấy là do vật quá to chướng ngại, nào phải có ra do cái hết sức nhỏ kia, lẽ ra vật thô nầy phải thường trụ.

Nếu lại chấp có một cái hết sức nhỏ khác sinh ra thì cái hết sức nhỏ ấy đúng là chẳng phải thường trụ, làm sao do nhân duyên? Nghĩa là nếu ông chấp do tính chất hòa hợp là nhân nên mới lập nên thuyết là lấy vật khác khiến cho hòa hợp. Thế thì tính chất hòa hợp ấy, là đã sinh rồi và có khả năng làm nhân duyên hay là chưa sinh?

-     Nếu đã sinh thì vật được hòa hợp, sau khi đã hòa hợp, nhưng tính chất hòa hợp ấy mà không có chút khác nhau, là điều không thể có, cho nên vẫn không đúng lý.

-     Nếu chưa sinh thì không có thể tính, mà lấy cái không có thể tính để làm nhân là điều không đúng lý.

Thế nào là do tự thể? Tính chất hết sức nhỏ nầy khi nó tạo ra vật lớn, không phải như hạt nảy mầm, vì nếu theo hạt nẩy mầm thì cái hết sức nhỏ kia phải bị hoại diệt. Lại cũng không thể như chất sữa vì cái hết sức nhỏ cũng phải đổi khác. Lại cũng không thể như người thợ gốm vì cái hết sức nhỏ ấy cần cù không thể được. Vì thế, tạo tác là không đúng lý.

Dù không có cái hết sức nhỏ thường trụ, nhưng từ khi mới lập ra thế gian cho đến mãi về sau, nó cứ gia tăng sức mạnh nghiệp lực của hữu tình do hoạt động của nó, chứ nào phải do cái hết sức nhỏ kia đâu. Thế nên, cho cái hết sức nhỏ là thường trụ là không đúng lý. Lại nữa, chấp có cái hiểu biết còn mãi, cũng là không hợp lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Kia nương vào vô thường,
Thứ lớp chuyển sai khác,
Các thọ thảy khác nhau,
Nên biết giác vô thường.

Luận chép: Cái biết của nhãn thức, v.v... nương vào cái thấy vô thường, v.v… mà khởi tác dụng cho nên nó phải chuyển biến thứ lớp theo sắc, v.v... do có nhiều tướng khác nhau chuyển biến, nên có chỗ khác nhau từ vị trí phạm vi của các thứ như cảm nhận vui, v.v... các hoặc tham, các tâm sở, thiện, thí, tư, nên tri giác kia dù mình nó mà thường đi nữa, vẫn phải chuyển thay đổi khác. Do đó tri giác bất biến là không đúng lý. Vì sao người trong thế gian nầy không nhận lấy tính chất vô thường dù nó có đấy, lại đi nhận lấy tính chất thường trụ, vốn là không có, trong các chấp khác?

Tụng rằng:

Đối vô thường, vô trí
Bốn căn bản trái ngược,
Phải biết tiến trên đời,
Sức ngu si càng thêm.

Luận chép: Lý vô thường dù có đấy, nhưng người không có trí tuệ thì họ cho nó là không thật có và không chấp trước nó. Tính chất có thật của vô thường cũng làm sinh nhiều thứ chấp. Nhìn trái ngược cho là thường, không phải chỉ cái nhân là không có trí tuệ là như vậy, nhìn trái ngược về bốn thứ, chủng tánh đều do không có trí tuệ mà ra. Vì sao? Vì không có cái biết đúng như thật về vô thường, nên các pháp là vô thường mà sinh cái nhìn trái ngược cho là thường. Đối với khổ, nhìn trái ngược cho là vui. Đối với bất tịnh, nhìn trái ngược cho là tịnh. Đối với vô ngã, nhìn trái ngược cho là có ngã. Do có những cái nhìn trái ngược ý nghĩa thứ lớp như vậy, cho nên Đức Bạc-già-phạm nói: "Vì pháp là vô thường, nên chắc chắn là khổ. Do pháp là khổ nên chắc chắn là vô ngã!" Nên biết: Do thế gian cứ tiến lên mãi, nêu không dứt bỏ ngu si để tiến lên nữa thì sức mạnh của ngu si càng tăng lên, vì sao? Như trong cõi Dục phá hoại thay đổi và chia lìa, v.v… các tướng vô thường hết sức dễ thấy, như ở cõi Dục với những hư nát thay đổi, những chia lìa, mà cõi trên thì không có. Lại nữa, vì sao mà không có trí để hiểu tính chất của vô thường? Tụng rằng:

Do buông lung, biếng nhác,
Mờ ám thiếu tư lương,
Bạn ác, phi chính pháp,
Ấy là nhân vô trí.

Luận chép: Có bảy nguyên nhân khiến không hiểu vô thường là:

1. Buông lung.

2. Lười biếng.

3. Kiến chấp trái ngược.

4. Ngu muội tối tăm.

5. Chưa chứa nhóm được nhiều về tư lương Bồ-đề.

6. Do bạn xấu.

7. Nghe theo phi pháp.

Vì cái vui của cảnh giới và tĩnh lự lạc khởi, từ buông lung cho nên đối với tính chất vô thường, không hiểu đúng như thật. Con người cứ vướng mãi như không buông lung thì lại biếng nhác. Không biếng nhác thì lại sinh kiến chấp trái ngược. Không có kiến chấp trái ngược thì lại ngu tối. Không ngu tối thì lại không chứa nhóm tư lương Bồ-đề. Nếu đã tu tập tư lương Bồ-đề nhưng lại theo bạn xấu. Lại theo bạn xấu mà nghe những pháp sai lầm cho nên không thấu hiểu tới chỗ như thật của vô thường. Lại nữa, còn có nguyên nhân nào khiến người ta không hiểu vô thường để rồi chuyển sang chấp thường?

Tụng rằng:

Tác ý không đúng lý.
Vì nhớ nghĩ đời trước,
Giống nhau tiếp nối chuyển,
Nên vô thường chấp thường.

Luận chép: Người ta chấp thường là bởi hai nguyên nhân:

1. Do tác ý không đúng lý.

2. Do nhớ lại những việc trước đây.

-Do những việc xảy ra ở đời trước cứ nối tiếp na ná như vậy, từ trước, cho nên đối với các việc khác trên thế gian, người ta cứ chấp nó là thường trụ. Lại nữa, như trước đã nói: Ba tướng hữu vi không phải chỉ trong sátna. Vì sao? Tụng chép:

Sinh ra: trước, sau, giữa,
Chấp ba tướng hữu vi.

Luận chép: Ba tướng hữu vi thuộc về một đời chúng đồng phần. Lúc mới chào đời đã nhận lấy tướng sinh. Sau cùng, khi chết nhận lấy tướng hoại diệt. Sống ở giai đoạn giữa sinh và chết, người ta nhận lấy tướng ở yên và thay đổi. Thế nên lập ra ba tướng hữu vi, nên biết.

Tụng rằng:

Vô thường trí điều phục,
Phải biết do hai nhân.

Luận chép: Có hai nguyên do để biết tới chỗ như thật của vô thường:

1. Do ý nghĩ đã lắng yên.

2. Do duyên khởi.

Do ý nghĩ đã lắng yên cho nên trước kích thích của đối tượng, tâm được vắng lặng. Do thấu lý duyên khởi nên đạt được pháp tánh. Như trong kinh nói: Từ chỗ đưa ý nghĩ vào thân (nghĩ đến thân) mà thấy được các pháp nhờ tu tập mà sinh ra, cho đến nói rộng.

Tụng rằng:

Kiến kia có sáu thứ,
Và duyên khởi bốn thứ.

Luận chép: Có sáu thứ để biết rõ vô thường là:

1.     Trí tuệ thế tục, cho đến phần vị thuận theo quyết trạch.

2.     Trí cao tột cho đến địa vị đạo xuất thế.

3.     Trí tuệ của Thanh văn, là trừ nghĩa vô tính, vô thường

4.     Trí tuệ Bồ-đề, là đối với tất cả nghĩa vô thường.

5.     Không khéo thanh tịnh, là trí hai học.

6.     Khéo thanh tịnh là trí của hai Vô học.

Lại nữa, nên biết, pháp duyên khởi có bốn nguyên tắc, bốn nguyên tắc là:

Tụng rằng:

Tự chủng chẳng phải khác.
Đợi duyên chẳng tự phát
Vô tác không chung cùng.
Có dụng chẳng vô nhân.

Luận chép: Do bốn nguyên tắc nầy nhập vào tính vô thường, nghĩa là các hữu tình không phải từ cái khác phát sinh, mà là từ hạt giống sinh, nhưng không hẳn nó tự sinh được mà phải đợi duyên bên ngoài. Không phải sinh cùng lúc vì không tạo tác cùng lúc, cũng chẳng phải không có nhân, vì hai nguyên tắc trên có công dụng đối với việc phát sinh.

QUYỂN 15

Phẩm 5: THÀNH LẬP KHỔ

Đã thành lập tướng vô thường như vậy, còn tướng khổ được thành lập ra sao? Tụng rằng:

Pháp sinh sắp lìa nhân
Diệt sinh hòa hợp dục.
Đảo, không đảo, chán lìa,
Nhân kia là tướng khổ.

Luận chép: Khi pháp phát sinh thì nó muốn xa lìa nhân dục. Khi pháp diệt thì nó muốn hòa họp với nhân dục. Nếu không biết rõ nhân của sự trái ngược ấy và nếu khéo thông suốt nhân không trái ngược thì sinh chán ngán lìa khỏi ham muốn trong bất cứ lúc nào nào. Do vậy, nên biết đó là tướng khổ chung. Lại nữa, bài Tụng rằng:

Nương ba thọ khác nhau,
Mà lập ba tướng khổ.
Nên nói tất cả thọ,
Thể tính đều là khổ.

Luận chép: Do dựa vào tướng khác nhau của ba cảm thọ mà lập ra ba tướng khổ, là tướng khổ khổ, tướng khổ hoại, và tướng khổ hành. Do các tướng ấy, nên Đức Phật mới nói: "Các thọ đều gọi là khổ", là khổ thọ và thuận theo khổ thọ xứ pháp nên biết lập ra tướng khổ đầu tiên. Đối với lạc thọ và thuận theo pháp thọ học mà lập nên tướng khổ thứ hai. Đối với cảm giác không khổ không vui và thuận theo pháp thọ xứ mà lập nên tướng khổ thứ ba. Bởi không biết rõ tướng khổ thứ ba nầy nên cho nó là thường, nhân trái ngược phát sinh từ đó. Nếu biết rõ nó là vô thường thì không còn nhân phát sinh trái ngược, và còn phát sinh ham muốn cái vui Niết-bàn. Do không biết hay biết cái khổ thứ ba nầy cho nên cũng biết, không rõ hai cái khổ trước. Nên biết rõ điều ấy.

Lại nữa, hai tướng khổ trước thì thế gian đều có. Còn tướng khổ thứ ba nầy thì không phải ai cũng có. Hiện tại sẽ thành lập tính chất của các hành, là khổ hành. Tụng rằng:

Nên biết tính khổ hành,
Đều thô nặng cũng theo
Vui, xả, không đúng lý,
Đều lỗi, không giải thoát.

Luận chép: Tính chất vui của các hành và tính chất của xả thọ cũng đều không hợp lý. Vì sao? Vì tính chất ấy đã bị tùy theo tất cả vị trí của vật to, nặng. Cho nên thể tính của các hành là khổ. Nếu không cũng thế thì thứ lớp của các hành kia đối với tính chất vui kia và ý nghĩ ham muốn không khổ không vui, lẽ ra là không có, lẽ ra cảm giác không khổ và không khổ không vui, phải là cảm giác không có khổ vui.

Hỏi: Ông cũng đồng ý cũng thế? Là nếu chỉ có một tính chất của khổ hành thì lẽ ra không có cảm giác vui và cảm giác không khổ không vui.

Đáp: Vì không biết rõ nên cho là có.

Hỏi: Phải chăng cũng do không biết rõ nên cho là có ngã? Đáp: Không đúng vì có lỗi không giải thoát.

Nếu biết rõ các hành và bản tính vui và không khổ, không vui đều là khổ thì đó gọi là khổ đế người ta phải quán xét ngay đây. Cứ theo thứ lớp như vậy mà quán xét thì chứng được giải thoát cuối cùng. Nếu không biết quán xét như vậy, chỉ nói khổ suông thì là điên đảo, không có tư cách chứng được vắng lặng rốt ráo.

Lại nữa, Tụng rằng:

Chướng ngại nhanh, sâu thảy
Dựa tiến dừng nương không,
Tánh chấp trước, thấp kém
Điên đảo và nhiễm ô.

Luận chép: Lại nữa, tính chất của các hành đời sống, có những khổ ít rồi tướng khổ lại thêm vào mạnh mẽ hơn, còn vui, v.v… thì không như vậy. Lại nữa, tính chất của khổ rất sâu nặng khó xua tan, còn vui thì không như vậy.

Lại nữa, nếu tướng khổ bình đẳng mà bao cùng khắp cả mọi nơi thì dù cho người chứng được pháp rộng lớn đi nữa vẫn bị quấy nhiễm, rồi lại chấp là thường, lạc, ngã, tịnh. Cái ấy gọi là trái ngược vì nó chướng ngại pháp của bậc Thánh.

-Lại nữa, khi chấp mắc vào lạc thì ý niệm ấy là chỗ nương cho tham, v.v... cũng như bao nhiêu sai lầm lớn nhỏ khác. Lại nữa, các hành như khổ, v.v... các hành tác có thể thúc đẩy làm nhiều công đức tiến lên cõi trên. Lại nữa, khi ở lâu một nơi nào giữ mãi oai nghi cũng phát sinh nhiều khổ không chịu đựng nổi. Lại nữa, dù ở không, chẳng làm gì đi nữa thì cái khổ vẫn theo. Lại nữa, càng chấp mắc vào lạc thì tính tình càng thấp kém. Các hành mà chấp trước cho là vui thì thuộc về trái ngược. Lại nữa, các ham muốn hoan vui khởi lên từ chỗ thuận theo vui ở đời, hầu hết đều là nhơ bẩn. Nên các hành đều là khổ. Lại nữa,

Tụng rằng:

Như ung nhọt, ghẻ thảy,
Là chỗ ba thọ nương,
Nó phát khởi ba xúc
Chấp lạc, thảy chuyển theo.

Luận chép: Nên biết: Tính chất của các hành là khổ, nó như bệnh ung thư, ghẻ ngứa là chỗ nương của ba thọ. Vì sao? Vì ở đời, ba thức tiếp xúc như ung thư, ghẻ ngứa, nó dẫn cảm giác xuôi theo khổ, vui và không khổ không vui. Do dựa vào tiếp xúc nầy mà người thế gian mới cho là khổ, vui, không khổ không vui. Như vậy, từ tính chất khổ mà các hành nầy đã làm phát sinh ba xúc. Từ xúc đó, nên thọ vui chuyển biến theo. Nếu không có trạng huống nầy thì các thọ là không chuyển biến. Cũng thế, là đã chỉ bày rõ về tướng trạng của khổ, rồi lập Tông, Nhân Dụ rồi.

Lại nữa, vì sao chỉ lập ba khổ, không nhiều hay ít hơn trong các hành? Tụng rằng:

Tự tướng tự phân biệt,
Tính khổ, không an ổn.
Năm lăm thứ, nên biết,
Đều thuộc về ba khổ.

Luận chép: Từ tự tính, khổ chỉ có ba thứ:

Do tự tướng nghĩa là tính chất của khổ khổ.

Do tự phân biệt, nghĩa là tính chất của khổ hoại.

Nếu tách rời phân biệt thì dù có sự biến hoại, nhưng người giải thoát thì không còn phát sinh khổ nữa; 3. Do không an ổn là tính chất khổ của các hành vì các phiền não, nặng về cứ đeo đẳng mãi. Ba khổ khác nhau như vậy có năm mươi lăm thứ nên biết. Năm mươi năm thứ đó là: Tụng rằng:

Thân bám vào cõi sống,
Chủng loại đế ba đời,
Thời mạng, loại, khác nhau,
Dẫn các khổ khác nhau.

Luận chép: Từ cõi khác nhau nên có ba thứ khổ, nghĩa là bị trói buộc vào cõi Dục, vào cõi Sắc, vào cõi Vô sắc. Duyên khác nhau nên có sáu thứ khổ, chủng tánh của khổ là ham muốn. Khổ vì quả báo do ngu si mà ra. Khổ vì tác động của nghiệp đời trước. Khổ vì duyên vào nhân hiện tại, khổ vì duyên vào nghiệp thanh tịnh, khổ vì duyên vào nghiệp không trong sạch.

Thân khác nhau nên có bốn thứ khổ là: Khổ vì phải gánh vác các việc nặng nhọc. Khổ vì địa vị thay đổi tan mất. Khổ vì thân to, nặng, khổ vì sống chết.

Đường khác nhau nên có năm thứ khổ là: Khổ ở Nalạc-ca cho đến khổ cõi trời vì chủng loại khác nhau nên có năm thứ khổ là: Khổ vì ép ngặt khốn đốn. Khổ vì túng thiếu, khổ vì trái ngược, khổ vì những yêu mến bị thay đổi tan rã, khổ vì thân xác to, nặng. Vì Đế có khác nhau nên có tám thứ khổ là khổ vì sinh, khổ vì già, khổ vì bệnh, khổ vì chết, khổ vì ghét mà phải gặp nhau, khổ vì thương mến bị chia lìa, khổ vì cầu mong không toại ý, khổ vì thủ uẩn.

-     Duyên thế gian khác nhau nên có chín thứ khổ là khổ vì việc đã qua, từ quá khứ, hiện tại, vị lai mà bao khổ phát sinh hiện tại, vị lai cũng khổ như vậy.

-     Thời gian khác nhau nên có bốn thứ khổ: Khổ vì thời tiết thay đổi, khổ vì đói, khổ vì khát, khổ vì được dẫn bằng oai nghi co duỗi, thở ra thở vào, nhắm mắt mở mắt, v.v...

-     Sự nuôi sống khác nhau: nên có bốn thứ khổ là mong cầu không thỏa mãn. Khổ vì tìm cầu mãi. Khổ vì phải lo giữ gìn và khổ vì không được tự tại.

-     Phẩm vị khác nhau nên có bảy thứ khổ là:

1.  Khổ vì các thứ bị hao mòn, là những thứ trong nhà.

2.  Khổ vì sự tăng thêm, là những thứ của người xuất gia.

3.  Khổ vì lo rầu.

4.  Khổ vì lìa hữu.

Lại, theo người nói rành pháp luật thì người xuất gia có ba thứ khổ là: Khổ vì ngu si, là ngóng chờ vị lai, truy tìm về êm đẹp quá khứ, khổ vì tính ganh ghét và khổ vì thua người khác.

-Dựa vào điều xấu để nói pháp luật thì người xuất gia cũng có ba thứ khổ là: Khổ vì ngu si, là chấp trái ngược những pháp mà mình đã hiểu, khổ vì tính ganh ghét là lòng không chịu đựng nổi trước tiếng khen và lợi dưỡng mà Phật và các đệ tử có được và khổ vì thua kẻ khác.

Nghĩa là danh, lợi, khi xảy ra tranh cãi thì bị thua.

Tụng rằng:

Chưa lìa Dục, sắc thảy,
Ba thứ địa, nên biết,
Tất cả thứ cõi Dục,
Sắc, vô sắc trừ hai.

Luận chép: Như vậy, năm mươi lăm thứ khổ thuộc về ba cõi là:

1.     Nơi nào chưa lìa khỏi ham muốn thì thuộc về cõi Dục.

2.     Nơi nào đã lìa khỏi ham muốn là thuộc cõi Sắc.

3.     Nơi nào lìa ham muốn cõi Sắc là thuộc về cõi Vô sắc.

Theo thứ lớp ba thứ nầy mà lập thành ba thứ khổ, là thượng, trung, hạ. Lại nữa, trong cõi Dục có đủ tất cả khổ. Trong cõi Sắc, cõi Vô sắc không có hai khổ, hai khổ ấy là khổ khổ, và khổ hoại. Và ham muốn là gốc của khổ, khổ vì chịu quả báo do ngu si cũng gồm trong hai thứ khổ nói trên. Nhưng vẫn còn những khổ khác.

Tụng rằng:

Thế tục có hai thứ
Thắng nghĩa là biến hành,
Hai duyên cả cõi trên,
Không hiện nhiễm, nên biết.

Luận chép: Như thế khổ lược, có hai thứ, là thế tục và thắng nghĩa khác nhau. Khổ thế tục đế bao gồm thì có hai thứ là khổ khổ và khổ hoại. Khổ Thắng nghĩa đế bao gồm chỉ có một thứ là khổ hành. Khổ hành nầy cũng gọi là khổ biến hành vì nó rộng khắp ba cõi.

Các địa trên cõi Dục, có hai duyên phát sinh khổ là khổ duyên vào đời trước, khổ không có nhân duyên hiện tại. Khổ vì duyên vào tịnh, và khổ vì không duyên vào bất tịnh.

Tụng rằng:

Không, Vô sắc gánh nặng
Thô trọng khắp cõi trời,
Và đế mé sau tốt,
Còn bảy tùy buộc trên.

Luận chép: Trong cõi Vô sắc, không có thân phải gánh nặng khổ, chỉ có khổ ở cõi trời. Khổ, nặng nề là mé sau rốt về khổ chính là khổ các thủ uẩn. Nỗi khổ nầy ở khắp cả ba cõi, nên gọi là khổ cùng khắp. Bảy khổ còn lại, như sinh, v.v... là thuộc về cõi Dục. Các nơi trên dù có bị trói buộc, nhưng vẫn còn có thể rút lui lại được, nhưng họ không có tự thể khổ.

Tụng rằng:

Phải biết khổ, sinh thảy,
Đều năm thứ khác nhau.
Khổ tương ưng thô, nặng,
Là chỗ nương ba khổ.

Luận chép: Phải biết bảy thứ khổ như sinh, v.v..., mỗi khổ đều có năm thứ khác nhau. Nó tương ưng với khổ, tương ưng với thô, trọng, và là chỗ nương của ba khổ.

Sinh là chỗ nương cho khổ già, v.v... chỗ nương cho phiền não, là chỗ nương cho những gì trái mong ước, cho khổ hành, cho khổ hoại.

-     Già là chỗ nương cho sắc suy tàn.

-     Bệnh là chỗ nương cho không còn ham muốn những thói quen, là chỗ nương cho không còn ham muốn những việc không quen, là chỗ nương cho sự chống nhau bốn đại xuôi về chỗ chết. Chết là chỗ nương cho tự thể chia rời, là chỗ nương cho của cải quí báu chia rời, là chỗ nương cho những gì yêu mến bị chia xa, khổ vì ghét mà phải gặp, là chỗ nương cho ba khổ ghét mà phải gặp, v.v... bức ngặt thân, là chỗ nương cho tâm bị ép ngặt, là chỗ nương cho thân hao mòn.

Tụng rằng:

Sau cùng và sau cùng,
Làm chỗ nương bốn khổ,
Là sống, chủng tánh sống,
Và tính khổ biến hoại.

Luận chép: Cái khổ rốt cùng trong tám khổ là khổ về các thủ uẩn và khổ hành cuối cùng trong ba khổ. Các uẩn đều là chỗ nương cho bốn khổ, nên gọi là khổ:

1.  Làm chỗ nương cho khổ vì sống.

2.  Làm chỗ nương cho khổ gốc của sự sống.

3.  Làm chỗ nương cho tự tính khổ khổ.

4.  Làm chỗ nương cho khổ vì đổi thay, tan hoại.

Tụng rằng:

Khổ thuộc về ba đời,
Hai duyên khổ không trên,
Các khổ khác đã nói,
Đều cõi Dục, nên biết.

Luận chép: Khổ trong ba đời nơi trên cõi Dục, nên biết là không có khổ bám vào quá khứ vị lai. Vì sao? Vì ở trên không phải duyên vào quá khứ, vị lai khởi lên phân biệt luống dối mà phát sinh các khổ, mà họ chỉ tùy thuộc thô, nặng mà duyên theo hiện tại. Trừ như trên đã nói, các khổ khác nên biết, chúng chỉ thuộc cõi Dục mà thôi.

Lại nữa, vì sao đối với cảnh khổ có thật nầy, mà kẻ ngu si có thay đổi? Tụng đáp:

Quên mất, không công dụng,
Rối loạn, không nghĩ đúng,
Ngu si không rõ chính,
Và do buông lung thảy.

Luận chép: Có năm nguyên nhân khiến cho khổ ngu si và vì năm thứ nhân của pháp buông lung như ở trước đã nói.

1.     Từng ý nghĩ nối nhau mà quên mất các khổ quá khứ.

2.     Đối với khổ vị lai thì không dụng công tìm cầu.

3.     Đối với khổ hiện tại thì sinh ra bốn thứ điên đảo, rối loạn.

4.     Bởi không biết suy nghĩ chân chính, nên coi thân thô, nặng nầy và khổ của nó, là có ngã trong ấy.

5.     Do hiểu sai lầm về tính chất của khổ nên không biết nó, cho rõ. Lại nữa, có bốn nguyên nhân khiến từng ý nghĩ nối nhau quên mất.

Tụng rằng:

Tối cho nên hèn, kém,
Và vì sinh buông lung,
Do nối tiếp bị đứt,
Vọng niệm chuyển, nên biết.

Luận chép: Do ngu tối nghĩa là dốt nát về chủng loại. Hèn kém nghĩa là ở giai đoạn chết. Sống buông lung là mê đắm cảnh. Sự dứt mất của những nối tiếp là sự dứt mất của nối tiếp chúng đồng phần đời trước.

Lại nữa, bốn thứ nhân mà không dụng công chuyển.

Tụng rằng:

Vì tối nên buông lung,
Khăng giữ lấy hiện pháp,
Không tin sẽ có khổ,
Không dụng công hướng tới.

Luận chép: Ngu tối và buông lung như trước đã nêu. Khăng khăng giữ mãi pháp hiện tại là vì cứ lo bảo thủ pháp hiện tại nên không dụng công đối với khổ vị lai. Không tin sẽ có khổ là bởi không như vậy, nên không ra công tìm hiểu. Lại nữa, vì bốn thứ nhân làm phát sinh bốn thứ trái ngược.

Tụng rằng:

Tương tự nối nhau chuyển,
Đối trị phân biệt vọng,
Quen cứ đều chấp lấy,
Sinh bốn thứ điên đảo.

Luận chép: Vì nhìn thấy sự nối nhau thay đổi na ná như nhau, nên phát sinh ý nghĩ trái ngược cho là thường. Vì đối trị với phân biệt nên sinh ý nghĩ vui, trái ngược. Vì đối trị phân biệt giả dối nên cho vui là khổ. Vì thói quen mà sinh ý nghĩ tịnh, trái ngược. Vì cứ quen chấp lấy tất cả nên sinh ý nghĩ có ngã, trái ngược.

Lại nữa, có năm nguyên cớ phát sinh nên không hiểu biết đối với khổ, năm nguyên cớ là:

Tụng rằng:

Giới khác, duyên khởi khác,
Vị khác, thứ lớp khác,
Và tiếp nối khác nhau,
Đều nhiều thứ, nên biết.

Luận chép: Thế giới khác nhau, có ba thứ khổ là khổ ở cõi Dục, ở cõi Sắc, ở cõi Vô sắc.

-Duyên khởi khác nhau nên có bảy thứ khổ là:

1.     Phước duyên,

2.     Chẳng phải phước duyên. Hai thứ khổ nầy chỉ có ở cõi Dục.

3.     Duyên bất động, chỉ có ở cõi Sắc và cõi Vô sắc.

4.     Duyên tùy miên ràng buộc là loài dị sinh.

5.     Duyên tùy miên là người đã thấy đế.

6.     Duyên với hữu hành, là không phải Bồ-tát.

7.     Duyên trí hạnh, là các vị Bồ-tát.

-Vị trí khác nhau nên có mười hai thứ khổ là:

1.     Thuần túy vui, là chư thiên.

2.     Thuần khổ là ở Na-lạc-ca và một phần ngạ quỉ, bàng sinh.

3.     Khổ vui xen lẫn nhau, là ở cõi người, quỉ và một phần bàng sinh.

4.     Không khổ lẫn không vui, là từ tĩnh lự thứ tư cho đến cõi Hữu đảnh.

5.     Chỗ sạch trong không sạch, là nơi không có tai nạn trong cõi Dục.

6.     Chỗ ở vừa sạch vừa không sạch là các dị sinh trong cõi Sắc, cõi Vô sắc.

7.     Chỗ ở trong sạch trong trong sạch là bậc đã kiến đế ở cõi Sắc và vô sắc.

8.     Chỗ ở không trong sạch trong không trong sạch là trong cõi Dục có tai nạn và bốn thứ khổ nhập thai.

Đó là:

1.     Không biết rõ lúc mình vào thai, không biết rõ đang ở trong thai, không biết rõ lúc ra khỏi thai.

2.     Biết rõ lúc vào thai.

3.     Không biết rõ đang trụ thai không biết lúc ra khỏi thai.

4.     Biết rõ lúc vào thai, biết rõ lúc đang ở trong đó, không biết lúc ra khỏi thai.

-Trình tự khác nhau nên có mười hai thứ khổ là dựa vào thứ lớp nối nhau của mười hai duyên khởi. Khác nhau có vô lượng thứ nên hữu tình nối nhau cũng khác nhau vô biên.

Lại, có khả năng biết tất cả khổ cùng khắp, nên biết có mười tám thứ, gồm những gì?

Tụng chép:

Tín hiểu và nghĩ chọn,
Tâm không loạn, chán lìa,
Kiến, Tu và rốt ráo,
Lại, như mười một trước.

Luận chép:

1.     Tín hiểu biến trí là được phát sinh do nghe pháp.

2.     Biến trí suy nghĩ lựa chọn là trí phát sinh do suy nghĩ.

3.     Biến trí không rối loạn là trí phát sinh do tu tập pháp thế gian.

4.     Biến trí thuộc tâm nhàm chán là phần trí quyết trạch thuận theo Noãn v.v... Từ trí nầy mà soi xét tự tâm, chuyển biến tất cả đều nhàm chán lìa xa.

5.     Biến trí kiến đạo là chỗ nương của trí kiến đạo.

6.     Biến trí tu đạo là chỗ nương của trí tu đạo.

7.     Biến trí rốt ráo đạo là trí thuộc về đạo Vô học. Và, như trước đã nói có mười một thứ trí là:

1.     Trí thế tục không khéo thanh tịnh.

2.     Trí thế tục khéo thanh tịnh.

3.     Trí thắng nghĩa.

4.     Trí có phân biệt về tướng mạo không khéo thanh tịnh.

5.     Trí có phân biệt về tướng mạo khéo thanh tịnh.

6.     Trí vô phân biệt về tướng mạo khéo thanh tịnh.

7.     Trí thành tựu vì những việc làm trước đây.

8.     Trí thành tựu vì việc đã làm.

9.     Trí có được sau khi làm xong việc.

10.   Trí Thanh văn.

11.   Trí Bồ-tát.

Cũng thế đó, mười tám thứ biến trí nầy biết khắp khổ một cách đúng như thật. Lại nữa, biến trí Cũng thế là biết hết các khổ. Vì sao mà biến trí rõ rạch ròi có bao nhiêu khổ?

Tụng đáp:

Nghi trói không muốn lìa,
Chìm đường ác, cõi khác,
Phát sinh việc thấp kém,
Riêng khắp các khổ hết.

Luận chép: Biến trí tín hiểu có khả năng dứt trừ các khổ trói buộc. Biến trí suy tư lựa chọn có công năng dứt trừ các khổ vì nghi ngờ. Biến trí không rối loạn có công năng dứt trừ các tâm lý, khổ không thích khổ xa lìa. Biến trí thuộc về tâm nhàm chán có khả năng dứt trừ các khổ hôn trầm. Biến trí kiến đạo có khả năng dứt trừ các khổ ở đường ác. Biến trí tu đạo có khả năng dứt trừ các khổ ở cõi khác. Biến trí của đạo rốt ráo có khả năng dứt trừ các khổ do những việc làm thấp kém, nghĩa là ngoài những việc làm ham cho mau đạt kết quả, những việc là khác đều là thấp kém cả, nên biết. Biến trí của Bồ-tát diệt cả khổ cho mình và người. Biến trí Thanh văn thì chỉ diệt khổ của mình thôi. Nên biết.

------------------------

Phẩm 6: THÀNH LẬP KHÔNG

Như vậy, đã thành lập tướng khổ. Thế nào là thành lập tướng không? Nên biết tướng không có ba thứ:

1. Tự tướng.

2. Tướng sâu xa.

3. Tướng Sai khác. Thế nào là tự tướng? Tụng rằng:

Nếu ở đây không có,
Và tất cả còn lại,
Tùy hai thứ đạo lý,
Nói tướng không, chẳng hai.

Luận chép: Tự tướng không là chẳng phải nhất định có mà cũng chẳng phải không nhất định có, nghĩa là trong các hành, tự tính của chúng sinh và tự tính của pháp là hoàn toàn không có gì hết.

-     Chẳng phải nhất định không, nghĩa là trong ấy, cái vô ngã của chúng sinh và cái vô ngã của pháp thì có thật tính.

-     Tùy thuộc vào hai nguyên tắc, nghĩa là trong ấy không có nguyên tắc cho hai thứ ngã mà có nguyên tắc cho hai thứ vô ngã. Bởi thuận theo hai nguyên tắc ấy, nên nói tính chất của không là chẳng có hai tướng. Hai tướng là: 1. Chẳng có tướng vì hai ngã là không; 2. Chẳng phải không có tướng vì hai vô ngã là có. Vì sao? Vì hai ngã nầy không có tức là có vô ngã. Hai vô ngã nầy có tức là hai ngã là không. Cho nên tính của không, chẳng nhất định là có tướng, chẳng phải nhất định không có tướng.

-     Thế nào là tướng sâu xa? Tụng rằng:

Tướng rất sâu, nên biết:
Thủ, xả không thêm bớt.

Luận chép: Theo nguyên tắc không hai, như trước đã nói, nên dù xả các pháp mà không làm chúng giảm bớt. Dù có gom chúng về, nhưng vẫn không làm chúng tăng thêm. Không lấy, không buông, không thêm, không bớt, đó là tướng rất sâu của không. Thế nào là sự khác nhau?

Tụng rằng:

Có nhiều thứ khác nhau,
Như từng nói trong kinh.

Luận chép: Đối với tính không nầy, Đức Bạc-giàphạm, trong kinh chỗ nào cũng, đều chỉ bày sáng tỏ, nó có nhiều thứ khác nhau, như Thắng nghĩa không, nội không, ngoại không, như thế, v.v... Nay phân biệt ra là:

-Thắng nghĩa không, do nghĩa vượt hơn hết các nghĩa nên không còn cái gì hơn nữa, không có cái gì cả, nên gọi là thắng nghĩa không.

Đây là làm sáng tỏ bốn thứ nghĩa, bốn thứ nghĩa gồm:

1.     Nghĩa của nhân lìa chấp ngã.

2.     Nghĩa của lìa tướng ngã.

3.     Nghĩa của xa lìa vô nhân.

4.     Nghĩa xa lìa, không phải do nghiệp của mình mà chứng đắc.

-     Khi sáu xứ phát sinh thì không do ngã mà ra, sự tu tập cũng không phải nhóm họp nương vào ngã thì gọi đó là nghĩa của nhân xa lìa ngã.

-     Nếu lấy ngã làm nhân để chấp vào sáu xứ thì lẽ ra không phân biệt chỗ khác nhau trong năm đường. Lại nữa, sáu xứ vốn không, nay có, có rồi lại tan diệt, nên lìa tướng ngã. Do tướng như vậy nên chẳng phải ngã có. Lại do nghiệp hữu lậu làm nhân cho Dị thục sinh khởi, cũng đều không có tác giả, cũng không có các uẩn mà hữu tình buông xả [phủ nhận] hay nối tiếp kế thừa. Cũng thế, gọi là nghĩa của sự xa lìa vô nhân.

-     Lại nữa do từ một phần pháp có được giả lập mà hữu tình nối tiếp nhau trôi lăn cho đến hiện tại, trên pháp Dị thục, chứ không phải sự nối tiếp khác, gọi là nghĩa tách lìa quả hiện tại không phải do nghiệp của mình.

Lại nữa, thế nào là không có Bổ-đặc-già-la, nên biết? Vì nếu có ngã thì nó trụ ở tướng uẩn, hay trụ trong uẩn? Hay trụ nơi khác, là không phải tướng uẩn?

Tụng rằng:

Chỉ giả lập sai lầm,
Vì lỗi, uẩn vô ngã,
Vì lỗi, ngã vô thân,
Ba ngã không đúng lý.

Luận chép: Nếu chấp có ngã thì tức là tướng uẩn lẽ ra chỉ là giả trái. Tông của ông [lập luận] thành lỗi. Vì ngã được giả lập trên các uẩn, nếu lìa các uẩn mà trụ ở chỗ khác thì lẽ ra không có uẩn. Đây cũng phạm lỗi, vì không có ngã trong các uẩn.

-Nếu không phải tướng uẩn thì ngã mà ông chấp ấy có lỗi là nó không có thân. Ngã mà không có thân là không đúng lý, cho nên cả ba thứ đều không hợp lý. Lại nữa, nếu chấp có thật ngã trụ trong các uẩn thì cũng không đúng. Vì sao?

Tụng rằng:

Như chủ, lửa, sáng, không,
Hình khác lỗi nương đất.
Vô thường, không nghiệp dụng.
Chẳng nhân, chẳng có ngã.

Luận chép: Chấp có ngã thật, nó trụ trong các uẩn là như chủ ở trong nhà, như lửa ở trong củi, như ánh sáng nương vào đèn, như hư không làm chỗ ở cho các vật, cũng thế ấy, tất cả đều không hợp lý. Vì sao? Vì có năm lỗi, năm lỗi là:

1.     Nếu như ông chủ ở trong nhà thì hình thù ông phải khác, vì hình chủ nhà và ngôi nhà khác nhau.

2.     Nếu lửa ở trong củi thì mắc lỗi là phải nương vào khác, vì dựa vào sức của củi, nên lửa không còn tự tại.

3.     Nếu ánh sáng nương vào đèn thì có lỗi vô thường vì phải lệ thuộc vào yếu tố có đèn hay không đèn mà ánh sáng tô lên hay tắt mất. Hơn nữa, hai thí dụ trước cũng có lỗi vô thường, vì không thấy chủ nhà có thường trụ, bởi dù là ở lâu trong nhà, nhưng ông ta có khi đến nơi khác, hay đã chết. Lửa nhờ sức củi có hay không, chẳng nhất định, mà bất nhiễm định có tánh vô thường.

4.     Nếu ngã như hư không thì lẽ ra phải có nghiệp dụng rõ ràng, mà như vậy là phạm lỗi, vì nghiệp dụng của hư không rõ ràng có thể thấy được, nghĩa là nghiệp của quá khứ vị lai không chướng ngại, trong khi đó, ngã thì không phải như vậy, cho nên thành lỗi.

5.     Lại, ngã mà ông chấp, làm nhân cho quả là không thật có, vì sao? Vì các hạt giống của vật bên ngoài, vô ngã mà làm nhân cho quả cũng có thể nắm bắt được. Thế nên chấp cho là ngã trụ trong uẩn, làm nhân cho quả là điều không đúng lý. Cũng không có yếu tố nào để chấp có thể tính của ngã thật.

Hỏi: Nếu chỉ có uẩn, không có ngã riêng thì ai thấy, nghe? Cho đến ai là người phân biệt rõ ràng.

Đáp: Nếu thấy, nghe là thể của ngã hay là nghiệp của ngã, hay công cụ của ngã. Từ đó, chấp cho rằng ngã là sự thấy, nghe, đều không đúng lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Ngã chỉ nêu là giả,
Không thể thí dụ được.
Bảy dụ vọng phân biệt,
Không thấy, ba tác dụng.

Luận chép: Nếu ông chấp ngã tức là cái thấy, lại gọi là người thấy cho đến biết phân biệt rạch ròi thì cái ngã mà ông chấp, chỉ là giả danh, vì nó được giả lập trên sự nghe thấy. Nếu chấp cái thấy, v.v… là nghiệp, là công cụ của ngã thì điều nầy cũng không đúng. Không dùng thí dụ so sánh được, dù có bảy thí dụ do vọng phân biệt đặt ra, nhưng trong ấy có nhiều lỗi. Thế nên, cả ba thứ đều không đúng lý. Thế nào là nhiều lỗi? Tụng rằng:

Nếu hạt giống vô thường,
Tác giả duy giả lập,
Như thành tựu thần thông,
Nên tự tại thế gian.

Luận chép: Nếu ông chấp ngã đối với nghiệp thấy, nghe, v.v… như hạt giống nẩy mầm thì lẽ ra ngã là vô thường, vì hạt giống chẳng phải thường. Nếu ông chấp ngã đối với nghiệp thấy, nghe, v.v… thì như người thợ gốm đối với đồ gốm thì ngã phải là giả, vì sao? Vì người đời chỉ thấy trước mắt có ai đó đã tạo ra đồ dùng, nhưng họ không thấy cái gì khác.

-     Nếu ông chấp ngã đối với nghiệp thấy nghe thì giống như người có thần thông ở thế gian, y làm chuyện biến hóa thì cũng phạm lỗi như người thế tục kia giả lập, và tự tại. Vì sao? Vì lìa cái giả thì thần thông chẳng thể thấy.

-     Lại nữa, thấy người có thần thông trước mắt, y tùy ý biến hóa, trong khi đó, ngã là thấy, v.v… không nhờ duyên nào khác, thì nó lẽ ra được tự tại. Lại nữa, bài Tụng rằng:

Ngã như đất, Hư không,
Vô thường vô tự tính.
Nên như hai không tác,
Nghiệp rõ có thể được.

Luận chép: Nếu ông chấp ngã đối với nghiệp thấy, v.v… thì như đất bao la có năng lực giữ gìn muôn vật, thì ngã phải vô thường, vì đất vô thường.

-     Nếu như hư không, chẳng chướng ngại nên nó dung nạp các nghiệp đã gây ra thì ngã cũng như vậy, dụng nạp nghiệp thấy v.v... và rồi ngã lẽ ra không có tự thể vì hư không kia chỉ có sắc, không có tự thể nên là hư không.

-     Lại như đất bao la kia đã nhờ hư không giữ gìn không để cho lay động, ngã cũng vậy, đối với cái thấy kia, v.v… nó cũng phải không nên làm lay động, bằng tác dụng, đã không có tác dụng mà chấp là thấy, v.v… là điều không đúng lý.

-     Hơn nữa, đất bao la và hư không, chúng duy trì bởi hai thứ công năng không chướng ngại rõ ràng có thể được. Còn ngã đối với nghiệp gây ra, như thấy, v.v… thì không có chỗ khác nhau để có thể được, cho nên không đúng lý. Lại nữa, nếu chấp thấy là công cụ của ngã thì cũng không đúng. Vì sao?

Tụng rằng:

Năng đốt và năng dứt,
Chỉ do lửa làm nên,
Ngã với công cụ thấy,
Không như dao, lửa thảy.

Luận chép: Nếu chấp ngã mà ông chấp vào công cụ của thấy, công năng thấy, khả năng nghe, cho đến phân biệt, như người ta cho rằng lửa có khả năng đốt, dao có khả năng cắt, thì không đúng lý. Vì sao? Vì người đời thấy trước mắt là lìa người cầm, lửa vẫn có thể đốt cháy, dao vẫn có thể cắt đứt. Cái thấy cũng phải vậy, dù không có ngã, nó cũng phải tự có thấy, v.v... tác dụng thấy, v.v... Nhưng bởi ông không thừa nhận, nên ở đây chẳng thí dụ.

Lại nữa, các uẩn ở thế gian đều nhóm họp do giả tưởng, rồi lập nên ý niệm ta, người, chúng sinh như người cầm liềm hái cắt không từ món nào. Đối với ngã thật thì không thí dụ. Lại nữa.

Tụng rằng:

Như sáng có dụng chiếu,
Ngoài sáng, không thể khác,
Nên dù trong hay ngoài,
Nghĩa không, vô ngã thành.

Luận chép: Điều mà người đời nhìn thấy là dụng chiếu sáng của quang thể gọi là chiếu sáng. Lìa quang thể thì không còn sự chiếu sáng nào khác, nghĩa là như mắt có tác dụng là thấy thì nói là thấy, cho đến sự phân biệt rõ thì không ai nhìn thấy cái phân biệt ấy. Cho nên các pháp dù trong hay ngoài đều không có ngã.

Hỏi: Nếu quả thật không có ngã thì vì sao thế gian nầy có nhiễm, có tịnh?

Đáp: Các pháp nhiễm tịnh đều sinh từ nhân duyên, chứ không do ngã thật. Vì sao?

Tụng rằng:

Như vật ngoài thế gian,
Lìa ngã có thêm, bớt,
Trong dù không ngã thật?
Những thành nghĩa nhiễm, tịnh.

Luận chép: Như vật bên ngoài, ở trên đời nầy, dù không có ngã trong ấy, nhưng các sự nghiệp vẫn thành tựu theo lúc mà tăng lên, dù gặp biết bao tai nạn ngang trái. Như vậy, pháp bên trong, dù không có ngã nhưng chúng vẫn do nhiều nghĩa nhiễm tịnh mà thành, cho nên không có lỗi. Lại nữa, nếu vô ngã thì ai chịu quả báo? Ai là chủ thể tạo nghiệp? Ai là kẻ thoát khỏi các khổ?

Tụng rằng:

Vị nghĩ, phần phiền não,
Vô thường thay đổi khác,
Ngã thường, không đổi dời,
Không thọ, tạo, giải thoát.

Luận chép: Ngã mà ông chấp với vị suy nghĩ thiện, ác đối với khổ, vui. Tâm lý phiền não tham, thường là không đổi khác trong các lúc. Vì không chuyển thay đổi khác mà lại có kẻ cảm thọ, tác giả, giải thoát, đều là không hợp lý.

Như trước đã nói: Dù không có ngã thật, nhưng thế tục vẫn có giả lập thành ba thời gian thay đổi khác nhau. Kẻ thọ quả, tác giả, và giải thoát, dù lúc có khác nhau, nhưng vẫn được thành tựu. Lại nữa, nếu không có ngã thì ai chuyển, ai trở lại?

Tụng rằng:

Pháp tánh từ duyên sinh,
Xoay vần hiện nối nhau,
Có nhân mà không trụ,
Đổi khác, gọi là chuyển.
Như thân, manh sông, đèn,
Có các thứ tác dụng,
Ngã thường, không đổi dị.
Chuyển lại, không đúng lí.

Luận chép: Do không có ngã nên mới có chuyển biến và trở lại. Vì sao? Vì trước mắt thấy biến chuyển thì sẽ có tướng sinh. Nó, trước sau lần lượt nối nhau mà hiện bày trước mắt một cách sáng tỏ có thể thấy.

-     Có nhân nhưng không trụ và lại đổi khác, nên gọi là trôi lăn, nối nhau, dứt bặt, thì gọi là hoàn diệt, như sông, manh, sông, đèn có tới, lui, v.v… và các thứ tác dụng và có hoàn diệt. Chẳng phải ngã mà ông chấp cho là thường, không thay đổi mới có ra công dụng trôi lăn. Trôi lăn còn không có, huống chi là hoàn diệt.

-     Lại nữa, nếu chỉ có hành uẩn mà không có ngã thì thế gian thấy các hữu tình kia, lẽ ra không có các tên các tưởng khác nhau?

Tụng rằng:

Dựa ngã khởi tên, tưởng.
Kiến hai thứ sai lầm,
Cho nên khắp tất cả,
Tính thật ngã đều không.

Luận chép: Thật ngã được thành lập không do tên và tưởng. Vì sao? Vì mắc hai lỗi:

-     Nếu người đời đứng trên thật ngã mà sinh ý niệm Phật cứu độ và biết các thứ tên gọi, tưởng nghĩ khác thì bản thân và pháp giải thoát kia lẽ ra là không có.

-     Nếu từ thân, v.v… sinh ý niệm về tên gọi, nghĩ tưởng thì không nên cho đó là tác dụng của ngã. Vì sao? Vì thế gian trước mắt thấy cái gì, thì nói năng phát ra thế ấy, là làm bạn với Phật để có thể thấy Phật, làm bạn với người có đức để nghe lời hay, v.v... Lại nữa, có hai lỗi kiến chấp là: Nếu bảo thể tính ngã kiến, là thiện thì ngay đây, nó sinh pháp nhiễm ô, thì cũng không đúng lý.

-     Lại nữa, chấp ngã thì khi chấp lấy ngã, người chấp là chủ thể chấp hay ngã kiến là năng chấp? Nếu bảo ngã chấp chính là ngã thì người chấp ngã trong đời nầy không nên sinh khởi nghi ngờ, cho rằng hữu vi, vô vi là những thứ gì. Vì sao? Vì hiện tại thấy có ngã. Nếu nói là do ngã kiến chấp lấy ngã thì nay, ông không nên cho rằng ngã là năng chấp. Do mắc các lỗi như thế, cho nên kết luận rằng ở thế gian nầy không có ngã chân thật.

Lại nữa, nếu vậy thì vì sao trong chánh pháp lập ra danh, tưởng các thứ khác nhau?

Tụng rằng:

Do muốn nói cho dễ,
Do xuôi theo người đời,
Do dứt trừ sợ hãi,
Hiển bày đức và lỗi.

Luận chép: Dù không có thật ngã nhưng vẫn lập danh, tưởng hữu tình khác nhau cho hữu tình có bốn nguyên nhân:

1.     Vì giúp cho nói năng được dễ dàng.

2.     Vì xuôi theo thế gian.

3.     Vì giúp cho kẻ mới học xa lìa sợ hãi.

4.     Do làm sáng tỏ chỗ sai lầm khác nhau về công đức của mình và người v.v...

-Lại nữa, nếu không có ngã thì thế gian không nên vừa thấy hình tướng thì bỗng nhiên sinh tri giác hữu tình, và cũng không nên nghĩ có tri giác rồi mới sinh tác nghiệp.

Tụng rằng:

Bỗng nhiên biết khởi loạn.
Thế gian hiện nắm được,
Giác là trước tác nghiệp,
Có mười thứ lỗi lầm.

Luận chép: Bỗng nhiên sinh tri giác thì cũng không chứng minh được cái ấy bởi ngã làm nhân. Vì sao? Do rối loạn mà tâm tri giác bỗng nhiên khởi lên những gì ngay đây có thể nắm bắt được, như thân nữ sinh tri giác là nam hay đang là thân nam bỗng có cảm giác mình là nữ. Kẻ ác khởi lên cảm giác người thường, người thường khởi lên cảm giác kẻ ác.

-Lại nữa, chấp ngã, ông cho có tri giác rồi mới sinh tác nghiệp, có mười lỗi, mười lỗi là:

Tụng rằng:

Giác, công dụng nhân ngã,
Tự tại, thảy đều hai,
Có nhân và vô nhân,
Nên biết có mười lỗi.

Luận chép: Nếu ông chấp giác là nhân sinh ra các tác nghiệp, như vậy là chẳng phải ngã có công năng sinh khởi các nghiệp. Nếu ngã là nhân thì suy nghĩ, tri giác chẳng phải nhân, mà như vậy, thì đâu phải suy nghĩ, tri giác rồi mới sinh các tác nghiệp. Lại nữa, nếu chấp ngã, ông cho ngã làm nhân có khả năng sinh khởi tác nghiệp, thì lẽ ra nó phải thường khởi tất cả tác nghiệp. Còn nếu ngã chẳng phải nhân thì nó không có chỗ tạo tác. Lại nữa, nếu ông chấp có nhân pháp khác, đó có khả năng làm nhân làm sinh các tác nghiệp. Như vậy, ngã mà ông chấp là không có tạo tác gì cả. Nếu không có nhân mà lại thường khởi tất cả tác nghiệp, và nếu ông chấp, cho là do công dụng nội tại có thể tạo tác thì đây, cũng như trước, có hai lỗi.

Lại nếu chấp mà ông cho ngã là tự tại đối với tác nghiệp, thì nó phải làm mãi những gì nó yêu mến và không làm những gì mà nó không yêu mến. Nếu không có tự tại thì chẳng có tướng ngã. Như vậy, đã nói tướng không và thành lập tướng ấy rồi, nay sẽ chỉ bày sáng tỏ quán không chân trí để nhằm đối trị với sự khác nhau của Tác-ca-da kiến (thân kiến).

Tụng rằng:

Không xét quyết biến hành,
Tăng trưởng và vô sự,
Đối việc, sợ vọng kiến,
Năm thí dụ, nên biết.

Luận chép: Nên biết Tác-ca-da-kiến có năm thứ:

1.     Không quán xét chính chắn cái thấy, như nhìn sợi dây thấy là con rắn.

Biến hành kiến là do ý tưởng ô nhiễm tương ưng với sai lầm chấp thân kiến chấp ấy đeo đuổi mãi bất cứ lúc nào, như thấy ăn xài trong giấc chiêm bao. Vì sao? Như người nghèo mà trong chiêm bao thấy mình đang thọ hưởng đời sống đáng yêu.

Cũng thế, người ngu, chưa hề có hiểu biết chân như chánh giác nên thường sinh ngã kiến sai lầm, cứ đuổi theo mãi.

2.     Tăng thêm ích lợi do những chấp, như hy vọng đuổi theo con gái người ta.

3.     Chấp vào những việc không thật có, như trẻ thơ thấy các việc huyễn hóa.

4.     Chấp vào những việc lo sợ, như kẻ run sợ tượng quỉ Dược-xoa do chính mình vẽ.

Đã nói những cái phải đối trị khác nhau như vậy. Nay, chỉ bày sáng tỏ về những khác nhau của chủ thể đối trị.

Tụng rằng:

Vô thể và xa lìa,
Xả bỏ ba thứ nương,
Đối trị các tưởng buộc,
Mười sáu thứ khác nhau.

Luận chép: Nương vào tự thể của ba thứ như biến kế chấp, v.v... theo đúng thứ lớp của ba tự thể ấy để thành lập ba thứ không là:

1. Vô thể không.

2. Viễn ly không.

3. Trừ khiển không.

Lại nữa, ba thứ không nầy, đối trị các trói buộc về nhận thức, có mười sáu thứ. Các trói buộc có mười bốn thứ trói buộc thô trọng nên biết, là:

1.     Sự trói buộc của các căn.

2.     Hữu tình trói buộc ô nhiễm lẫn nhau.

3.     Sự trói buộc nghĩa nương, là nương vào khí thế gian mà các căn lưu chuyển.

4.     Sự trói buộc do hiểu biết và không hiểu biết.

5.     Sự trói buộc của cảnh, vọng cảnh.

6.     Sự trói buộc của sự yêu mến thân sau.

7.     Sự trói buộc của không có yêu mến.

8.     Sự trói buộc của vô nhân, nhân không bình đẳng.

9.     Sự trói buộc của được lòng kiêu ngạo.

10.   Sự trói buộc của chấp tự thể của biến kế sở chấp.

11.   Sự trói buộc của chấp tự thể các pháp.

12.   Sự trói buộc của chấp tự thể của các pháp biến trí.

13.   Sự trói buộc của chấp tự thể của Bổ-đặc-già-la.

14.   Sự trói buộc của chấp biến trí Bổ-đặc-già-la.

-     Các tưởng là sáu tưởng trói buộc. Do nhàm chán tưởng nầy, nên Bồ-tát nương vào không mà siêng năng tu niệm trụ khiến tâm giải thoát. Thế nào gọi là sáu thứ tưởng trói buộc? Nghĩa là nương vào thân, thọ, tâm, pháp, phát khởi nhận thức bên trong, đó gọi là trói buộc nhận thức ban đầu.

-     Nương vào thân, v.v… rồi phát khởi tưởng bên ngoài, đó là sự trói buộc nhân thứ thứ hai.

-     Nương vào thân rồi phát sinh khởi tưởng bên trong, bên ngoài, đó là sự trói buộc nhận thức thứ ba.

-     Vì muốn độ thoát cho vô lượng vô số vô sắc hữu tình trong các thế giới mười phương mà phát sinh đại nguyện tu tập các niệm trụ. Nhận thức phân biệt nầy là thứ tư.

-     Trong hoàn cảnh như thân, người có trí tuệ quán xét chân chính mà trụ, tưởng phân biệt nầy gọi là thứ năm.

-     Trong hoàn cảnh như thân, v.v… thấy có ta, người rồi trụ chánh quán. Nhận thức phân biệt nầy gọi là thứ sáu.

-     Lại nữa, tướng sau sau như khi quán thân, v.v… mà thành có mười một thứ trói buộc nhận thức khác nhau, nên biết. Mười một thứ là: Từ thân nầy, phát sinh an trụ chánh quán theo với thân. Và, sinh ra phân biệt nhận thức về hai nhiễm tịnh và đệ nhất nghĩa, đó là sự trói buộc nhận thức ban đầu.

-     Phát khởi nhận thức có tạo tác đối với nhiễm ô, đệ nhất nghĩa, đó là sự trói buộc nhận thức thứ hai.

-     Phát khởi nhận thức không có tạo tác đối với thanh tịnh, đệ nhất nghĩa. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ ba.

-     Phát khởi nhận thức trôi lăn đối với có tạo tác, đệ nhất nghĩa. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ tư.

-     Phát khởi nhận thức là thường đối với không tạo tác, đệ nhất nghĩa. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ năm.

-     Phát khởi nhận thức về tính chất khổ đối với trôi lăn do khổ của đổi khác. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ sáu.

-     Phát khởi nhận thức là không có thay đổi đối với thường pháp, đó là sự trói buộc nhận thức thứ bảy.

-     Phát khởi nhận thức về sự tướng đối với trôi lăn vì tự tướng của sinh trụ dị diệt và do tự tướng có thay đổi. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ tám.

-     Phát khởi nhận thức có thể thâu nhiếp tất cả pháp đối với có thay đổi, không có thay đổi, nhiễm ô, thanh tịnh, đệ nhất nghĩa. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ chín.

-     Phát khởi nhận thức về cái của ta với nhiễm ô thanh tịnh đối tất cả pháp nhiễm tịnh. Đó là sự trói buộc nhận thức thứ mười.

-     Phát khởi nhận thức về tự thể tự tướng đối với các pháp nhiễm ô thanh tịnh, đó là sự trói buộc nhận thức thứ mười một.

-     Hình thành những trói buộc khác nhau của nhận thức cũng như cảnh giới của nó về tướng sau cùng của việc sau cùng như thế, nên Đại Bồ-tát đã chân chính quán sát rồi, liền nương vào không mà tu tập các niệm trụ để tâm được giải thoát. Nếu khi giải thoát được các vọng tưởng trói buộc, thì nên biết là giải thoát tất cả trói buộc nhận thức.

-     Mười sáu thứ không gồm: Nội không, Ngoại không, Đại không, Nội ngoại không, Không không, Thắng nghĩa không, Hữu vi không, Vô vi không, rốt ráo không, Vô sơ hậu không, Vô duyên tận không, Tánh không, Tướng không, tất cả pháp không, Vô tính không, Vô tính tự tính không. Lại nữa, đối với cảnh không nầy, có sáu thứ ngu đã trôi lăn từ vô thỉ. Sáu thứ ngu đó là gì?

Tụng rằng:

Tự tính và chấp trước,
Không mở hiểu, quên mất,
Tất cả khắp một phần,
Ngu trôi lăn khác nhau.

Luận chép: Tự tính ngu si là tất cả hữu tình không có hiểu biết đã trôi lăn từ vô thỉ.

-     Ngu chấp trước tự thể, là ngoại đạo chấp điên đảo các việc nên cái ấy tương ưng phát khởi vô trí.

-     Ngu vì không mở mang kiến thức: phàm phu không nghe pháp nên phát sinh vô trí.

-     Ngu vì quên mất là phàm phu và bậc Thánh có nghe pháp, nhưng không phát sinh trí tuệ.

-     Ngu khắp tất cả là phàm phu đối các sinh không, và pháp không đã sinh khởi vô trí.

-     Một phần ngu là Thanh văn chỉ đối với pháp không, phát sinh vô trí. Thế nào là chứng được lý không như vậy? Là do tám thứ trí, là những gì?

Tụng rằng:

Pháp trụ, cầu tự tâm,
Trụ tự tâm, trừ buộc,
Sợ không hai nhiễm tịnh,
Chứng đắc lý chân không.

Luận chép:

1.     Pháp trụ trí là trí an trụ vào Tố-đát-lãm (kinh) mà an lập pháp môn.

2.     Trí cầu tự tâm là trí tìm tự tâm trong thuận quyết trạch phần vị.

Trí trú vào tự tâm là trí chứng chân như trong giai vị Kiến đạo.

3.     Trí cắt trừ sự ràng buộc tâm là trí đối trị các chướng ngại ngăn che trong giai vị Tu đạo.

4.     Trí tương ưng với lo sợ là trí của đệ tử bậc Thánh. Họ lo sợ bị trôi lăn trong khổ não lớn.

5.     Trí phân biệt không hai là trí Bồ-tát, không còn chia cắt bởi ý niệm sinh tử, Niết-bàn, lỗi, công đức.

6.     Trí không khéo thanh tịnh là trí của hàng Hữu học, tám trí khéo thanh tịnh: là trí của hàng Vô học.

QUYỂN 16

Phẩm 6: THÀNH LẬP KHÔNG (Phần còn lại)

Lại nữa, do nương vào lý không Cũng thế để tu tập nên được chứng ngộ. Tu tập như thế nào?

Tụng rằng:

Tu khác nhau mười tám,
Hoặc có độc, không độc,
Đối trị năm thứ chấp,
Lược hai thứ, nên biết.

Luận chép: Tướng tu tập khác nhau có mười tám thứ là:

1.     Thanh văn tương ưng với tác ý tu tập: như có một hạng Thanh văn an trụ trong pháp tánh Thanh văn, hoặc chưa chứng tính ly sinh hoặc đã chứng chánh tính ly sinh, nhưng chỉ quán sát có lợi cho mình, không quán sát việc lợi ích cho kẻ khác. Nương vào an lập đế tác ý mà nhập vào lý chân như. Tự duyên bên trong có pháp phần lượng, sinh khởi ý niệm nhàm chán, vô dục, làm hạnh giải thoát, tác ý tu tập dứt sạch tự ái. Đó gọi là Thanh văn tương ưng với tác ý tu tập.

2.     Bồ-tát tác ý tu tập: như có một hạng Bồ-tát an trụ trong pháp tánh Bồ-tát, chưa chứng chánh tính ly sinh, hoặc đã chứng vào chánh tính ly sinh, quan sát mình người đều được lợi ích, nương vào pháp môn tác ý an lập, phi an lập đế mà chứng nhập lý chân như, duyên vào pháp bên trong, vô phần lượng, tâm đại bi tăng lên, khởi hạnh phương tiện gom lợi ích về cho người, bước trên dấu vết Vô thượng. Từ đó, tác ý tu tập, làm sạch hết gốc ái của mình và người. Đó gọi là Bồ-tát tác ý tu tập.

3.     Ảnh tượng tác ý tu tập: tư duy có phân biệt phẩm Tỳ-bát-xá-na Tam-ma-địa, đã thực hành pháp cảnh giới gốc, ảnh tượng đồng phần, hoặc còn suy tư không phân biệt phẩm Xa-ma-tha Tam-ma-địa, đã thực hành pháp cảnh giới gốc, ảnh tượng đồng phần. Tu tập như vậy, gọi là tác ý tu tập ảnh tượng.

4.     Rốt ráo của tác ý tu tập là tư duy các pháp quá khứ, vị lai, hiện tại, trong ngoài, to, nhỏ, xa gần hoặc còn tư duy các pháp chân như cùng tận tất cả, như tất cả những gì có mà tu tập, đó gọi là tác ý tu tập rốt ráo.

5.     Sự thành tựu tu là đã chứng được tĩnh lự căn bản và Tam-ma-bát-để, thế gian và xuất thế gian. Tu tập Cũng thế gọi là tu tập thành tựu.

6.     Đắc tu: như có hạng người nương vào Sơ tĩnh lự, tu tập nhận thức về vô thường, cho đến khi tu tập Vô tưởng. Người nầy còn có những tưởng thiện khác, tất cả đều không hiện ra trước mắt. Hoặc thuộc về địa trên hay địa dưới, những tưởng thiện ấy, đã dẫn đến tất cả công đức ở thế gian và xuất thế gian. Tất cả đều tu tập khiến các tưởng thiện ấy càng mạnh lên, mà thanh tịnh rất ngời sáng sẽ được phát sinh. Chứng được pháp tự tại thành tựu kia. Đó gọi là đắc tu.

7.     Tu tập: là như có hạng người tư duy hiện tiền các pháp trên mà phát sinh tất cả các tưởng thiện như vô thường v.v... và hiện đang tu tập nhiều pháp lành khác. Tu tập như vậy gọi là Tu tập.

8.     Trừ khiển tu là như có hạng người tư duy Tamma-địa, vì đã thực hành tướng ảnh tượng nên đã xua tan đi tính tướng gốc của các pháp, làm cho chúng không còn hiện khởi nữa, như người dùng cái nêm đóng vào lõi cái nêm kia ra, hay dùng thân nhẹ nhàng đẩy lùi thân to nặng. Như trước đã nói, đó gọi là tu tập trừ khiển.

9.     Đối trị tu tập là tư duy tu tập, đối trị ý niệm nhàm chán hư hoại, đối trị sự đoạn diệt, giữ sự đối trị, đối trị với phần ở xa, đó gọi là tu tập đối trị. Trong ấy, văn, tứ đã phát sinh đạo để đối trị ý niệm nhàm chán, hư hoại, đạo xuất thế gian là đối trị đoạn. Quả báo chuyển y kia là duy trì đối trị, thế gian tu tuệ đạo là đối trị phần ở xa.

10.   Tu thân.

11.   Tu giới.

12.   Tu tâm.

13.   Tu tuệ. Theo như thứ lớp ấy, nương vào việc phòng hộ các căn mà tu ba học, phải biết, đó gọi là tu tính của thân, v.v...

14.   Thiểu phần tu là tư duy các pháp, phát sinh những tư tưởng thiện như vô thường, v.v… trong các lúc, và tu một ít phần pháp lành khác, đó gọi là tu tập thiểu phần.

15.   Biến hành tu là tư duy tất cả pháp chỉ có một vị chân như. Tu hành Cũng thế gọi là tu tập cùng khắp.

Hữu động tu là lúc siêng năng dùng phương tiện tu vô tướng, ở trung gian thì tu tập các pháp hữu tướng, đó là tu hữu động.

16.   Công hạnh tu là khi siêng năng vận dụng phương tiện tu vô tướng, do công dụng hạnh không xen hở, thiếu mất, khởi sự tu vô tướng, đó là tu công hạnh.

17.   Thành mãn tu là nương theo thừa Thanh văn hoặc nương theo thừa Độc giác, hay theo Đại thừa. Tất cả nương ấy đã chuyển được tự tại đối với các pháp. Tu tập như vậy, gọi là tu thành mãn.

Các pháp tu Cũng thế, lược có hai thứ, nghĩa là tu có độc hại và tu không có độc hại, vì ngã và ngã sở có phức tạp và không phức tạp. Lại nữa, nên biết, các lối tu ấy nhằm đối trị năm thứ tà chấp là:

1. Các chấp tà của chúng sinh.

2. Pháp chấp tà.

3. Chấp tà tổn giảm.

4. Chấp tà khác nhau.

5. Chấp tà thay đổi.

Chấp tà của chúng sinh là đối với các uẩn, chấp có hữu tình là người chịu và người làm.

-     Chấp tà pháp là như theo những gì đã nói mà chấp có tự thể khác nhau của sắc, v.v...

-     Chấp tà tổn giảm là chấp tướng của tất cả pháp là không.

-     Chấp tà khác nhau là chấp các pháp ngã, vô ngã có thể tính khác nhau.

-     Chấp tà thay đổi là chấp các pháp trước có ngã thật, sau thành vô ngã. Lại nữa, gọi là tu, lược có hai thứ là tu thế gian và tu xuất thế gian. Lại nữa, bài Tụng rằng:

Tu quả phải nên biết,
Công đức ba Bồ-đề,
Nương tính chuyển y, Việc
đã làm thành tựu.

Luận chép: Vì tu lý không, cho nên chứng được quả cao tột, là nương vào chuyển y chứng ba pháp Bồ-đề, và chứng được vô tránh nguyện trí, vô ngại giải với vô lượng công đức. Và, các việc đã làm đều thành tựu viên mãn. Nghĩa là chuyển y đã thành tựu rốt ráo.

---------------------------

Phẩm 7: THÀNH LẬP VÔ TÍNH

Luận chép: Trong phẩm thành lập không, đã thành lập chúng sinh vô ngã, chứ chẳng phải pháp vô ngã. Nay đây vì thành lập pháp vô ngã, nên nói là thành lập vô tính.

Tụng rằng:

Ba tự tính, nên biết,
Đầu tiên: Biến kế chấp,
Kế tính y tha khởi,
Sau là Viên thành thật.

Luận chép: Vô tính không lìa tự tính. Do vậy, trước phải nói về nghĩa ba tự tính. Cũng thế tức là làm sáng tỏ ý sâu kín của ba thứ vô tính. Nói ba tự tính là chỉ tự tính biến kế sở chấp, tự tính y tha khởi, và tự tính Viên thành thật.

-     Biến kế chấp là dựa vào nói năng diễn đạt các pháp mà chấp là có tự thể.

-     Y tha khởi, là tự thể các pháp đều dựa vào các nhân duyên mà phát sinh.

-     Viên thành thật là tự thể chân như của các pháp.

Tụng rằng:

Ba vô tính nên biết,
Không lìa ba tự tính,
Do tướng vô, sinh không,
Và thắng nghĩa vô tính.

Luận chép: Ba tự tính như vậy, nên biết là do ba thứ không tự tính nên nói ba vô tính:

1.     Tướng vô tính là tự tính biến kế sở chấp, do thể tướng của tự tính nầy là không.

2.     Sinh vô tính là tự tính y tha khởi, do duyên lực của tự tính nầy làm phát sinh, chứ chẳng phải tự nhiên sinh.

3.     Thắng nghĩa vô tính là tự tính Viên thành thật, do bản thể của tự tính nầy là thắng nghĩa, và đây là tính không của các pháp, nên đã nói ba thứ lớp tính và ba tướng vô tính. Nay sẽ làm sáng tỏ việc thành lập đạo lý. Vì sao biệt được biến kế sở chấp đều không có thể tướng của mình.

Tụng rằng:

Chẳng thuộc về năm việc,
Ngoài ra, không có gì,
Từ tên gọi, nghĩa chuyển,
Hai, làm khách lẫn nhau.

Luận chép: Tự tướng của biến kế sở chấp là không. Vì sao? Vì nó không thuộc về năm việc. Ngoài năm việc nầy, thật không có gì hết. Năm việc ấy là:

1. Tướng.

2. Danh.

3. Phân biệt.

4. Chân như.

5. Chánh trí.

Hỏi: Nếu tướng của biến kế sở chấp không có tự thể thì làm sao có thể sinh biến kế sở chấp được?

Đáp: Do tên gọi mà nghĩa chuyển, là tùy theo giả danh, nghĩa trôi lăn theo. Người ngu trên đời nầy chấp cho là có tên và ý nghĩa, nó chắc chắn ngang bằng với tự tính chân như.

Hỏi: Làm thế nào biết được đây là tà chấp?

Đáp: Do tên gọi và ý nghĩa làm khách lẫn nhau. Vì sao? Vì tên gọi và ý nghĩa không cân bằng với thể, nên gọi là khách. Nghĩa và tên gọi là không có thật, nên nói là khách. Làm sao biết được như thế?

Tụng rằng:

Tên gọi, trước không biết,
Nhiều tên và bất định,
Với có nghĩa, không nghĩa,
Chuyển nghĩa thành phi lý.

Luận chép: Nếu tự thể của nghĩa cũng như tên gọi là có, thì trước khi chưa có tên gọi thì cái hiểu biết nầy đối với ý nghĩa, lẽ ra trước đã có. Lại bởi tên gọi có nhiều nên một nghĩa phải có nhiều tự thể. Lại, tên gọi bất nhiễm định nên tự thể của nghĩa cũng theo đó mà bất nhiễm định. Vì sao? Vì trong một tên gọi cũng có thể lập ra nhiều nghĩa khác nhau. Lại nữa, tên gọi ấy, nó thay đổi theo có nghĩa hay thay đổi theo không có nghĩa? Nếu nó biến chuyển theo có nghĩa thì không hợp lý, tức là do ba duyên, như trước đã nêu. Nếu chuyển theo không có nghĩa thì tên gọi và nghĩa làm khách lẫn nhau, như trước đã nói, là đạo lý thành tựu. Lại nữa, nếu chấp nghĩa là thật có do tên gọi làm sáng tỏ như đèn chiếu soi sắc là không hợp lý. Vì sao?

Tụng rằng:

Do chấp đã đặt tên,
Cái khác không chấp lấy,
Như chúng sinh chấp tà,
Càng tăng thêm điên đảo.

Luận chép: Trước hiểu nghĩa rồi sau mới đặt tên, chứ chẳng phải chưa hiểu nghĩa mà đặt tên. Đã chấp nhận nghĩa rồi mà còn làm sáng tỏ là không đúng lý. Lại nữa, nếu tên gọi nào mà người khác chưa hiểu thì họ không chấp nhận nghĩa. Đèn chiếu sáng các vật thì chẳng phải như vậy, bất cứ vật nào cũng được đèn chiếu sáng. Lại nữa, không nên chấp nghĩa khác, tên gọi khác. Vì chỉ nương vào tên gọi mà sinh chấp nghĩa, thì giống như chỉ có tự tính phàm phu là những hiện tượng tâm lý trôi lăn từ vô thỉ nên chúng sinh nầy ý niệm chấp sai lầm cho rằng mình và người nối tiếp nhau. Ấy là vì sức mạnh của thói quen.

Như vậy, trong suốt giai đoạn sinh tử, vì tâm chúng sinh đã được huân tập mãi những thói quen nói năng, vì với phương tiện ấy mà chúng sinh sinh chấp sai lầm cùng khắp cho rằng các pháp đều có. Cách chấp sai lầm nầy, giống như chúng sinh nghĩ đến ích lợi sai lầm, đó là trái ngược, nên biết. Sự trái ngược nọ và pháp tạp nhiễm lần lượt phát sinh như thế nào?

Tụng rằng:

Do huân khởi y tha,
Dựa đó, sinh điên đảo,
Làm duyên nhau như thế,
Xoay vần sinh, không dứt.

Luận chép: Do sức mạnh xông ướp của điên đảo nầy. Sau đó, nó nương vào tự tính của quả y tha mà sinh khởi. Sau khi nương vào quả ấy, lại sinh pháp chấp điên đảo. Cũng thế, hai pháp làm duyên cho nhau mà sinh tử lần lượt nối nhau mãi mãi không dứt.

Vậy, đã nói thành lập đạo lý rồi, nay sẽ chỉ bày sáng tỏ chỗ khác nhau của tự tính Biến kế sở chấp.

Bài tụng rằng:

Tự tính và sai khác,
Có giác ngộ, tùy miên,
Gia hạnh gọi, biến kế,
Phải biết, có năm thứ.

Luận chép: Do sáu thứ biến kế khác nhau, nên tự tính của biến kế sở chấp cũng có sáu thứ. Đó là:

1.  Tự tính biến kế là chấp sắc, v.v... là thật có tướng.

2.  Sai khác biến kế là chấp sắc cùng khắp v.v... chắc chắn là có thật tướng khác nhau như có sắc, không sắc, có thấy, không thấy.

3.  Giác ngộ biến kế là từ lời nói tốt mà sinh biến kế.

4.  Tùy miên biến kế là từ lời nói xấu mà sinh biến kế.

5.  Gia hạnh biến kế. Lại có năm thứ:

a. Gia hạnh tham ái.

b. Gia hạnh giận dữ.

c. Gia hạnh họp hội.

d. Gia hạnh chia lìa.

e. Gia hạnh tùy xả.

6.  Danh biến kế, gồm có hai thứ:

a. Phát sinh do văn tự.

b. Phát sinh không phải do văn tự.

-     Phát sinh không phải do văn tự là, như có lối chấp rằng: Đây là vật gì? Vật nầy thế nào? Vật nầy là gì? Vật nầy ra sao?

-     Do danh tự mà phát sinh biến kế như: Có quan niệm chấp: Đây là vật nầy, vật nầy Cũng thế, hoặc sắc hoặc cho đến thức, hoặc hữu vi hoặc vô vi, hoặc thường, hoặc vô thường hoặc thiện hoặc bất thiện, hoặc vô ký như thế, v.v...

Lại nữa, nên biết, tự tính biến kế sở chấp, còn có năm thứ nữa là:

1. Y danh biến kế tự tính nghĩa.

2. Y nghĩa biến kế, tự tính của danh.

3. Y danh biến kế tự tính của danh.

4. Y nghĩa biến kế tự tính của nghĩa.

5. Y hai thứ biến kế, hai tự tính.

-     Y danh biến kế tự tính của nghĩa: như có chấp rằng: Vật nầy đã có tên là sắc thì chắc chắn phải có tự thể chân thật của sắc. Vật nầy đã có tên gọi là thọ, tưởng, hành, thức thì chắc chắn phải có thể tính chân thật.

-     Y nghĩa biến kế, tự tính của danh: như có chấp: Vật nầy là sắc, không gọi là sắc. Vật nầy là thọ, tưởng, hành, thức, không gọi là thọ tưởng hành thức.

-     Y danh biến kế tự tính của danh là: như có chấp: không biết rõ vật thể chỉ biết danh sắc, không biết rõ vật thể, chỉ biết khác nhau các thứ là thọ tưởng hành thức.

-     Danh y nghĩa biến kế, tự tính của nghĩa là: như có lối chấp: Không rõ sinh sắc, chỉ phân biệt mỗi thứ lớp thể của sắc. Không biết rõ tên thọ tưởng hành thức, chỉ các thứ phân biệt lớp thể của thọ, tưởng, hành, thức.

-     Y theo hai thứ biến kế, hai thứ lớp tính là: như có chấp: Vật nầy là thể tính của sắc nên gọi là sắc. Vật nầy là thể tính của thọ tưởng hành thức nên gọi là thọ tưởng hành thức.

Đây đã nói tự tính khác nhau của biến kế sở chấp. Biến kế chấp nầy là do phân biệt sai lầm mà phát sinh.

Phân biệt khác nhau ấy, nay sẽ nói tiếp.

Tụng rằng:

Phân biệt có tám thứ,
Năng sinh đối ba việc,
Phân biệt thể, nên biết.
Tâm, tâm pháp ba cõi.

Luận chép: Tám thứ phân biệt sinh ra ba việc, ba việc ấy là:

1. Duyên sự làm chỗ nương cho phân biệt hý luận.

2. Việc chấp ngã mạn.

3. Việc tham ái, v.v... Tám thứ phân biệt là:

1.     Tự tính phân biệt là đối với sắc, v.v... tư tưởng sự phân biệt sắc, v.v... với tất cả tự tính của nó.

2.     Phân biệt khác nhau là đối với sắc, v.v... tư tưởng duyên vào sắc, v.v... rồi khởi lên phân biệt, cho là đây có sắc, đây là không sắc, đây có thấy, đây không thấy, đây có đối, đây không có đối. Cũng thế, phân biệt thành vô lượng, nó là nương cho phân biệt tự tính, là phân biệt nghĩa khác nhau của các thứ.

3.     Chấp chung phân biệt, tức đối với sắc, v.v... tưởng đến nó, mà lập ngã, sinh mạng hữu tình, sự sống, v.v... đều bởi giả tưởng đặt ra quan điểm đưa đến phân biệt. Bởi chứa nhóm nhiều pháp mà chấp chung làm nhân cho phân biệt thay đổi. Lại nữa, tưởng đến các chuyện nhà cửa xe cộ, rừng bụi lính tráng v.v... và đối với y phục, ăn uống, xe cộ rồi lập những quan điểm giả tưởng về nhà, cửa, v.v... mà dẫn đến những suy nghĩ tìm kiếm.

4.     Phân biệt ngã: Là đối với chuyện hữu lậu thì có, chấp ngã thâu nhiếp ấy, đã tập quen trong thời gian dài. Do quen lối chấp sai lầm ấy, từ nơi những chuyện nghe thấy làm duyên phát sinh phân biệt giả dối.

5.     Ngã sở phân biệt là nếu việc hữu lậu thì chấp có, những thâu nhiếp các thứ chấp cho đó là những cái mà ngã yêu mến, nó được quen tập lâu dài. Do quen lối chấp sai lầm ấy, mà từ những việc nghe thấy làm duyên phát sinh phân biệt đầy giả dối.

6.     Ái phân biệt là vì kích thích của đối tượng đầy tuyệt diệu vừa ý mà phân biệt.

7.     Bất ái phân biệt là vì kích thích của đối tượng không tuyệt diệu vừa ý mà phân biệt.

8.     Phân biệt yêu mến, không yêu mến đều trái nhau là vì kích thích của việc tịnh, bất tịnh, vừa ý, không vừa ý mà phân biệt lìa xa những đối tượng ấy.

Cũng thế, nói lược có hai thứ: Là phân biệt tự thể và phân biệt chỗ nương, những duyên ràng buộc. Trong ấy có ba thứ là tự tính phân biệt, phân biệt khác nhau, và chấp chung phân biệt. Ba thứ phân biệt nầy có khả năng làm phát sinh nền tảng nương cho phân biệt hý luận. Duyên tạo nên phân biệt ký luận là việc tưởng đến sắc, v.v... làm chỗ nương cho duyên, nên nó bao gồm tên gọi, tưởng nói, nói năng, chính những tên gọi, tưởng đến, nói năng nầy đã làm sáng tỏ phân biệt hý luận, tức là đối với việc phân biệt nầy tính toán so đo nhiều thứ khác nhau, nhiều không kể hết. Trong đó phân biệt về ngã và phân biệt về những cái thuộc về ngã, là hai thứ phân biệt có khả năng làm phát sinh những kiến chấp căn bản khác, cũng như căn bản về mạn, về thân kiến và còn có thể làm phát sinh kiêu ngạo và ngã mạn khác. Trong việc phân biệt cái yêu thích và không yêu thích là những phân biệt trái nhau, đáp ứng đúng cho hai tâm lý đó là do tham sân si sinh ra. Cho nên, tám thứ phân biệt như vậy khởi lên ba việc. Nếu muốn nói lược phân biệt thể tính, ấy là các tâm, tâm sở trong ba cõi. Lại nữa tụng rằng:

Bị trói do hai trói,
Chấp chặt hai tự tính,
Nên giải thoát hai trói,
Chánh vô đắc, vô kiến.

Luận chép: Lúc khởi lên các phân biệt, mà ở trước đã nói, tức là bị trói buộc vì hai thứ trói buộc. Gọi là tướng trói buộc và trói buộc thô nặng là vì hai trói buộc, là chấp vào hai tự tính, là chấp vào tự tính y tha khởi và chấp vào tự tính biến kế sở chấp. Cho nên giải thoát hai trói ấy rồi thì đối với hai tính của nó, hoàn toàn không có gì để nắm bắt, cũng như không có gì để chấp nữa. Vì sao? Do tự tính của biến kế sở chấp là hoàn toàn không. Không thể nắm bắt tự tính y tha khởi. Dù chúng còn tướng không chấp, nên không có gì để thấy. Như vậy, đã thành lập rồi tự tính biến kế sở chấp. Để thành lập tự tính y tha khởi, nên sẽ nói về lý thành lập nó.

Tụng rằng:

Giả có, nhân nương,
Hoặc hai thứ dị, hoại
Tạp nhiễm có thể được
Phải biết, y tha, có.

Luận chép: Không nên nói các pháp chỉ là giả có. Vì sao? Vì pháp giả nhưng phải có nhân nương. Thành lập pháp giả có nhưng chẳng phải là không có vật hiện thực. Nếu không có cái hiểu như vậy thì không có vật hiện thực và pháp giả kia cũng là không. Mà không tức là phá hoại hai pháp, mà hai pháp bị phá bỏ thì pháp tạp nhiễm lẽ không thể được. Nhưng bởi pháp tạp nhiễm đã hiện thực có, nên biết phải có tự tính y tha khởi.

Lại nữa, tự tính y tha khởi nầy, có tướng mạo ra sao?

Tụng rằng:

Tướng thô nặng làm Thể,
Cùng làm duyên mà sinh,
Chẳng phải tự nhiên có,
Nên nói sinh vô tính.

Luận chép: Tự tính y tha khởi nầy là tướng, thể nó thô, nặng. Y tha khởi là gì? Bởi hai thứ nầy làm duyên cho nhau mà sinh, là tướng làm duyên cho thô, và thô lại làm duyên sinh ra tướng. Nếu đã vậy, thì vì sao gọi là sinh vô tính? Ấy là do sức mạnh của duyên mà sinh, chứ không phải tự nhiên mà có. Lại nữa, tự tính y tha khởi nầy, chắc chắn là có hay là không?

Tụng rằng:

Chẳng chắc chắn có không,
Các thứ đều thừa nhận,
Có hai tính giả, thật,
Thế gian nói là có.

Luận chép: Tự tính y tha khởi không phải theo nêu bày chắc chắn là có, cũng không chắc chắn là không. Cho nên tất cả các thứ chẳng phải có, không phải không. Dù vậy, vẫn thừa nhận là các thứ đều có thể nói đến được hoặc có hoặc không, vừa có vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không.

Hỏi: Tự tính y tha khởi nầy, là thật có hay giả có? Đáp: Nên biết, tính y tha khởi nầy, có cả giả và thật.

Hỏi: Phải chăng tính nầy là vì thế tục mà có hay vì thắng nghĩa mà có?

Đáp: Phải biết, vì thế tục, cho nên nói tính nầy là có.

Tụng rằng:

Nói về dụng ngã, pháp,
Đều gọi là thế tục,
Phải biết, Thắng nghĩa đế,
Là bảy thứ chân như.

Luận chép: Thế tục đế là: Nên biết, đã nói xong tác dụng của ngã, pháp, như trong phẩm nhiếp tịnh nghĩa nói. Chân đế thắng nghĩa là bảy thứ chân như, như đã nói trong phẩm nhiếp sự.

Lại nữa, bài Tụng rằng:

Tự tính Viên thành thật,
Hai nghĩa trí tối thắng,
Không có các hý luận,
Xa lìa tính một, khác.

Luận chép: Nên biết, thắng nghĩa đế là tự tính Viên thành thật. Hỏi: Vì sao bảy thứ chân như được gọi là thắng nghĩa đế?

Đáp: Do hai trí tối thắng tạo nên. Đó là hai trí: Xuất thế gian và trí có được sau cùng trong thế gian. Cho nên thắng nghĩa nầy là không có hý luận, chứ chẳng phải trí cảnh nào khác. Hơn nữa, do thắng nghĩa nầy không có hý luận nên đối với pháp có tướng, nó lìa khỏi tính chất là một là khác? Vì sao? Vì ừ chân như nầy nên không thể nói pháp có tướng là khác hay chẳng phải khác. Lại nữa, Tụng rằng:

Là sở duyên thanh tịnh,
Thường, không có thay đổi,
Tính thiện và tính lạc,
Tất cả đều thành tựu.

Luận chép: Phải biết: Do thắng nghĩa đế đã xa rời tính chất một khác, nên nó đã duyên theo tính chất thanh tịnh. Vì sao? Do bám vào cảnh giới thanh tịnh mà tâm thanh tịnh, nên biết, đó cũng là thường, không bao giờ đổi khác trong các hoàn cảnh. Do nó bám được vào duyên thanh tịnh nên biết là thiện. Phải biết, nó đã là thường hằng thì đó là vui. Lại nữa, Tụng rằng:

Thắng nghĩa thật, vô tính,
Không ngã và hý luận,
Cũng như không y tha,
Nên thắng nghĩa tính không.

Luận chép: Tự tính Viên thành thật vì thắng nghĩa tính không, nên nói là tính không. Vì sao? Vì tự tính nầy tức là thắng nghĩa, cũng là tính không. Do không còn tính chất ngã pháp, hý luận cho nên tự tính Viên thành thật là thắng nghĩa, và không có tính hý luận. Cho nên nói thắng nghĩa là vô tính.

Nên biết, đối với tự tính y tha khởi, dù tướng khác, cũng được lập làm thắng nghĩa vô tính. Vì sao? Do không có tính thắng nghĩa. Lại nữa, như trước đã nói có năm thứ tướng. Là tướng năng giải thích, tướng sở giải thích, hai tướng nầy thuộc về tướng. Tướng chấp trước, tướng không chấp trước. Lại có ba tướng là tướng biến kế sở chấp, tướng y tha khởi và tướng Viên thành thật, vậy là năm gom vào ba hay ba gom và năm?

Tụng rằng:

Nương ba tướng, nên biết,
Mà lập năm thứ tướng.
Nó ứng với ba tính,
Đều có năm nghiệp riêng.

Luận chép: Phải biết, dựa vào ba tự tướng mà lập ra năm tướng. Vì sao? Vì tướng đầu và tướng thứ hai y theo ba tự tướng. Tướng thứ ba dựa vào tướng biến kế sở chấp. Tướng thứ tư dựa vào tướng y tha khởi. Tướng thứ năm dựa vào tướng Viên thành thật. Lại nữa, ba tự tính, mỗi tự tánh có năm nghiệp, như đã nói trong phẩm Nhiếp tịnh nghĩa. Lại nữa, trước đây thành lập phẩm không là để ngăn dứt chấp của chúng sinh, nay trong phẩm nầy, là để trừ pháp chấp. Hai lối chấp nầy từ đâu sinh ra, do ai phát sinh?

Tụng rằng:

Chấp pháp nên người ngu
Nối chấp vào chúng sinh,
Kia trừ tánh giáo pháp,
Giác, đoạn chấp ngã, pháp.

Luận chép: Vì chấp pháp cho nên kẻ ngu trên thế gian khởi lên chấp vào chúng sinh. Xua tan cái chấp chúng sinh đang khởi lên ràng buộc ấy nên thấu ngộ tính chất thật của pháp. Nhờ đó cắt đứt hẳn pháp chấp. Khi pháp chấp đã bị cắt đứt thì cũng cắt đứt cả chấp chúng sinh và tùy miên. Lại nữa, đối với pháp nào chưa dứt trừ mà trở thành tạp nhiễm? Và đối với sự đoạn diệt nào mà được thanh tịnh?

Tụng rằng:

Trước là chấp y tha
Huân tập thành tạp nhiễm.
Vô chấp, Viên thành thật,
Huân tập thành thanh tịnh.
Tạp nhiễm tính hữu lậu,
Thanh tịnh tức vô lậu.
Đây phải biết chuyển y,
Hai thứ không nghĩ bàn.

Luận chép: Do chấp trước tự tính đầu là tự tính y tha khởi nên khởi lên những xông ướp mãi mới thành ra tạp nhiễm. Phải biết vì không chấp trước tự tính Viên thành thật nên khởi lên những xông ướp mãi hướng ấy nên thành thanh tịnh. Tạp nhiễm chính là tính chất hữu lậu. Thanh tịnh chính là tính chất vô lậu. Phải biết, tính chất vô lậu nầy chính là tướng của chuyển y. Lại nữa, chuyển y nầy không thể nghĩ bàn, nó có hai thứ. Thế nào là không thể nghĩ bàn?

Tụng rằng:

Chân thật và tự thể,
Vắng lặng và công đức,
Thảy đều không nghĩ bàn.
Phải biết, do bốn đạo.

Luận chép: Sự chuyển y như vậy, là không thể nghĩ bàn, do bốn đạo (nguyên tắc).

1.     Do chân thật, nghĩa là thường.

2.     Do tự thể, chẳng phải có sắc, chẳng phải không có sắc như thế, v.v...

3.     Do vắng lặng, nghĩa là an trụ trong vắng lặng.

4.     Do công đức, nghĩa là chuyển y nầy có uy đức.

Lại nữa, chuyển y nầy không thể nghĩ bàn là do bốn nguyên tắc mới đưa đến chứng đắc. Đó là bốn chánh hạnh, bốn thứ tầm tứ, bốn trí như thật, bốn thứ cảnh sự, bốn cảnh sự là:

1. Cảnh biến mãn.

2. Cảnh tịnh hạnh.

3. Cảnh thiện xảo.

4. Cảnh hết hoặc.

Trong ấy, cảnh biến mãn lại có bốn thứ:

1. Ảnh tượng có phân biệt.

2. Ảnh tượng vô phân biệt.

3. Sự bờ mé.

4. Việc làm thành tựu.

-     Ảnh tượng có phân biệt là những hiểu biết đồng phần với Tam-ma-địa và cảnh sở hành Tỳ-bát-xá-na.

-     Ảnh tượng không phân biệt là những hiểu biết đồng phần với

Tam-ma-địa và cảnh thực hành Xa-ma-tha.

-     Sự rốt ráo là cùng tận tất cả tính và như tất cả tính.

-     Việc làm thành tựu là chuyển y và nương vào trí vô phân biệt nầy. Cảnh tịnh hành có năm thứ:

1.     Bất tịnh.

2.     Từ bi.

3.     Duyên khởi.

4.     Giới khác nhau.

5.     Nghĩ nhớ hơi thở ra vào. Cảnh thiện xảo có năm thứ:

1. Uẩn thiện xảo.

2. Giới thiện xảo.

3. Xứ thiện xảo.

4. Duyên khởi thiện xảo.

5. Xứ phi xứ thiện xảo.

-Cảnh hết hoặc là đạo thế gian, có hai là: Tính thô của cõi dưới, và tính vắng lặng của cõi trên. Đạo lý xuất thế gian là bốn Thánh đế. Lại nữa, như trước đã nói có hai thứ chuyển y. Thế nào là hai? Là sự khác nhau Thanh văn chuyển y và Bồ-tát chuyển y.

Tụng rằng:

Thanh văn có hai thứ,
Hướng Niết-bàn, Bồ-đề.
Nương vào thân biến hóa,
Đến Chánh giác Vô thượng.
Các Thanh văn chuyển y,
Chán bỏ, tu chứng đắc,
Bồ-tát tu phương tiện,
Nương vào trí không hai,
Do không trụ sinh diệt,
Trí Chư Phật Vô thượng
Lợi lạc các hữu tình.
Không nghĩ bàn, không hai.

Luận chép: Phải biết: Thanh văn chuyển y, có hai thứ là hướng đến Niết-bàn, và hướng đến Bồ-đề.

Hỏi: Hàng Thanh văn Vô học không bao giờ còn chịu thân sau thì làm sao chứng được đạo quả Chánh đẳng Chánh giác?

Đáp: Do nương vào thân biến hóa, an trụ trong ấy, mà có thể chứng ngộ Bồ-đề, chẳng dựa vào thân nghiệp báo. Lại nữa, sự chuyển y Thanh văn là tu trái với sinh tử nên chứng được. Chuyển y của Bồ-tát là dùng phương tiện mà tu tập và nương vào trí không còn phân hai mà chứng được. Thế nào là dùng phương tiện tu tập? Là do đạt pháp tính không đứt quãng, sở duyên to lớn, cho nên làm phát sinh siêng năng tối thắng, vì ngó ngàng đến hữu tình biết rõ các hành. Thế nào là nương vào trí không còn phân hai? Là không trụ ở sinh tử, không trụ ở Niết-bàn. Không ngó ngàng đến sinh tử mà ngó ngàng đến hữu tình. Phải biết, vì nhân duyên nầy mà chứng ngộ trí Phật tối thắng, Vô thượng. Vì sao? Vì trí hữu tình khác, nên có lúc trụ trong sinh tử hay có lúc trụ ở Niết-bàn, cho nên chưa phải Vô thượng. Trong khi ấy, trí của Chư Phật là nhằm đem lại lợi ích an vui cho các hữu tình. Vì khéo thành tựu tròn đầy lợi mình và lợi người nên mới là tối thắng, Vô thượng.

-Trí hữu tình khác, nghĩa là trí đó chỉ làm lợi cho mình, hoặc làm lợi ích không đồng đều, nên nó chẳng phải Vô thượng. Vì thế, cho nên trí tuệ của Chư Phật là không thể nghĩ bàn. Khi không còn vướng mắc hai bên thì có thể làm các việc ích lợi cho chúng sinh. Lại nữa, không hai nghĩa là không có hai tính chất giữa chứng Niết-bàn và không chứng Niết-bàn.

--------------------------

Phẩm 8: THÀNH LẬP HIỆN QUÁN (Phần 1)

Luận chép: Siêng năng chân chính như thế biết rõ vô thường, khổ, không, vô ngã rồi. Muốn tu theo phép quán nào?

Tụng rằng:

Phải biết hiện sở quán
Việc có hạ, trung, thượng.
Hữu lậu và vô lậu.
Chưa thấy, chưa thọ khắp.

Luận chép: Quán xét ngay đây về trói buộc của ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, những hiểu biết ấy có ba bậc thượng, trung, hạ.

- Hữu lậu là đây chỉ cho khổ đế tập đế.

- Vô lậu là đây chỉ tăng thượng phần diệt, đạo đế.

- Chưa thấy là thuộc về tứ đế.

- Chưa thọ là thuộc về diệt, đạo.

- Biến là cảnh giới đã thực hiện bởi nhiều loại trí, pháp trí trước hiện thực có thấy hay không thấy. Lại nữa, thế nào là hiện quán?

Tụng rằng:

Thắng trí xuất thế gian,
Năng trừ kiến sở đoạn,
Chứng đắc vô phân biệt,
Chỉ nương vào tĩnh lự.

Luận chép: Trí xuất thế gian có công năng quán xét hiện thực, nó không phải trí thế gian dứt bỏ kiến chấp. Dứt bỏ mê lầm mới chỉ là giai đoạn kiến đạo chưa phải giai đoạn tu đạo.

Hỏi: Trí xuất thế gian còn có hạnh gì?

Đáp: Nó chứng đắc vô phân biệt, là hạnh chứng đắc vô phân biệt hiện tiền, chứ chẳng phải chưa chứng đắc hiện tiền.

Hỏi: Trí hiện quán ấy, nương vào cái gì?

Đáp: Chỉ nương vào tĩnh lự, không nương vào Vô sắc. Lại nữa, quán sát hiện thực ở đâu?

Tụng rằng:

Rất buồn chẳng đường ác,
Cực vui chẳng hai trên.
Người, trời ở cõi Dục,
Phật ra đời hiện quán.

Luận chép: Trong đường ác, không khởi hiện quán được, do khổ thọ hoàn toàn tùy theo lo buồn thắc thỏm nên không thể chứng được

Tam-ma-địa. Ở cõi Sắc, cõi Vô sắc cũng không có hiện quán do họ quá bị xáo động hân hoan, ý tưởng nhàm chán quá yếu ớt. Cho nên hai cõi, ba đường ác không phát khởi được hiện quán. Chỉ hai đường trời, người trong cõi Dục mới có Phật ra đời phát động khả năng hiện quán. Lại nữa, ai là người có khả năng hiện quán?

Tụng rằng:

Chưa lìa dục, lìa bội,
Và người đã lìa dục,
Độc nhất chứng Chánh giác.
Ngã cao tột sinh ra.

Luận chép: Có năm thứ Bổ-đặc-già-la có khả năng bước vào hiện quán, hoặc không có người bước vào vì vô ngã, năm thứ là:

1. Người chưa lìa ham muốn.

2. Lìa dục gấp bội.

3. Người đã lìa dục.

4. Độc giác.

5. Bồ-tát.

Nên biết, vì sao chỉ có tâm mới có khả năng bước vào hiện quán?

Chứ chẳng phải ngã có khả năng bước vào đó?

Tụng rằng:

Phi ngã làm nhân trí,
Cũng chẳng tự chấp cảnh,
Ngã phi tự hiện quán,
Do chấp ái tự ngã,
Có cảnh giới vô thường,
Đợi duyên trí sinh khởi.
Dứt ba thứ thô nặng,
Phải nương tâm hiện quán.

Luận chép: Nếu chấp ngã có khả năng bước vào hiện quán thì không đúng lý vì sao? Vì ngã là nhân của trí, điều ấy không đúng lý. Lìa trí thì không thể chấp, vì sao? Nếu ngã có khả năng làm nhân cho trí, đó là vô thường, mà đúng lý ra thì trí là thường có. Nếu tự nó, ngã có thể chấp lấy đối tượng khi trí chưa sinh, nó cũng cứ chấp lấy. Lại nữa, nếu chấp cho ngã có khả năng bước vào hiện quán thì ngã ấy cũng có thể tự quán tính ngã. Nếu cứ vậy thì nào có giải thoát? Do chấp ngã và khởi lên yêu mến nó.

-Vì sao? Vì không còn bám lấy ngã thì không còn khởi lên chấp ngã và yêu mến ngã. Cho nên nói nương vào tâm, vì tâm có khả năng bước vào hiện quán thì điều nầy mới đúng lý. Vì sao? Vì tâm là vô thường, có cảnh, đợi duyên trí mới phát sinh. Lại nữa, nương vào tâm thì các thứ to, nặng, chấp ngã, yêu mến ngã tất thảy chúng đều bị dứt trừ hết. Vì sao? Tâm vô thường, là nhân sinh trí. Do có sở duyên vào, nó và trí cùng lúc nhiếp lấy cảnh giới, do phải đợi các duyên cho nên trí không thường có. Lại nữa, tâm là chỗ nương của to, nặng và tính chất lìa ngã, nên ai chứng ngộ biến trí thì họ có khả năng lìa khỏi to, nặng và phát sinh sức dứt trừ ngã chấp và thương mến ngã. Thế nào là thứ lớp bước vào hiện quán? Tụng rằng:

Đã thành thục nối tiếp
Hoặc lắng nghe chánh pháp,
Tự nhiên cực như lý,
Tác ý nên hiện quán,
Buộc niệm sở duyên
Siêng năng tu định tĩnh,
Sức gốc lành thêm lớn,
Chứng phần giác Thánh đạo.

Luận chép: Ai tu hiện quán trước phải giữ sự thành thục cho được nối tiếp mãi rồi sau đó mới đi nghe chánh pháp, là thừa Thanh văn, tự nhiên là vậy, hay hàng Bồtát, Độc giác, ở chính tâm mình tác ý hết sức tốt đẹp thì có khả năng bước vào hiện quán,

-     Buộc chặt ý niệm vào sở duyên là bốn niệm trụ. Tinh cần là bốn chánh đoạn. Tu tịnh định là bốn thần túc. Làm cho gốc lành tăng sức mạnh là trước chứng được tăng thượng tư lương như tín, v.v... Gốc của sức mạnh lành là năng lực thiện đối trị bất tín, v.v... gây chướng ngại, không nó xen lẫn.

-     Chứng Thánh giác phần là nương vào sức căn lành mà chứng ngộ hết các giác chi.

-     Chứng Thánh đạo phần là chứng được tám chi Thánh đạo. Theo thứ lớp như vậy mà bước vào hiện quán. Lại nữa, ngang bằng với địa vị nào sẽ được gọi là chính thức bước vào hiện quán?

Tụng rằng:

Từ đây nhập kiến đạo,
Khởi chánh kiến vô lậu,
Dứt hẳn ba thứ kết,
Chứng hiện quán, nên biết.

Luận chép: Từ trước, đã tu tập tác ý như lý nên từ giai vị Kiến đạo xuất thế gian mà phát sinh chánh kiến. Có chánh kiến nên ba kiết sử bị cắt đứt hoàn toàn. Nó là những Tát-ca-da-kiến, giới cấm thủ, và nghi ngờ bằng nhau ở vị trí Cũng thế, bị cắt đứt là bước vào hiện quán. Nhưng trong ấy, tất cả pháp tạp nhiễm ở đường ác, cũng đều bị xua tan đi. Vì sao chỉ nói cắt trừ hẳn ba kiết sử?

Tụng rằng:

Dù đường ác tạp nhiễm.
Chấp hoặc, đoạn sinh khởi
Cảnh thấy Đạo sư thảy,
Theo sinh thuộc ba kiết.

Luận chép: Do Tác-ca-da kiến nên mê lầm đối với cảnh. Do giới cấm thủ mà mê lầm chấp trước. Do nghi ngờ nên đối với những gì mà Phật, bậc Đạo sư nói về chánh pháp và tăng chánh hạnh, mà mê lầm nghi hoặc. Do nhắm vào chỗ chấp hạnh của họ nên chỉ nói trừ hẳn ba kiết sử. Lại nữa, hiện quán có tướng mạo ra sao?

Tụng rằng:

Do trí thế gian trước,
Biết chọn đế rốt ráo,
Với đế vô gia hạnh,
Chắc chắn sinh khởi tướng,
Trí cảnh hòa hợp tướng,
Với sở tri rốt ráo,
Phải biết đế hiện quán,
Đối mười thứ quyết định.

Luận chép: Do trí thế gian trước là từ nghe pháp mà trí phát sinh, cho đến pháp trí bậc nhất thế gian.

-     Chọn lựa sự thật rốt ráo là đã lựa chọn rốt ráo các sự thật rồi thì không còn gia hạnh đối với sự thật.

-     Chắc chắn sinh khởi tướng là đối với đối tượng sự thật được hiện quán, không bởi gia hạnh dụng công mà chắc chắn sinh khởi tướng, đó là tướng hiện quán.

Lại nữa, trí quyết định nầy và tướng cảnh hòa hợp nhau, đều hoàn toàn đưa đến cái biết rốt ráo. Vì sao? Vì ngoài tướng cảnh nầy thì không còn cảnh nào khác để tìm kiếm. Cho nên phép quán nầy gọi là hiện quán. Phải biết tướng chắc chắn nầy có mười thứ, mười thứ gồm:

Tụng rằng:

Tính ngã không có ba,
Không diệt, không có hai,
Không phân biệt, không sợ,
Quyết định trong tự dứt.

Luận chép: Mười thứ quyết định là:

1.     Những quyết định của chúng sinh là không đúng.

2.     Đối với tự tính biến kế sở chấp, quyết định không đúng.

3.     Đối với vô ngã thì cho có ngã.

4.     Đối với vô tướng thì cho là có tướng.

5.     Đối với thô, nặng là có và trung đồng quyết định.

6.     Đối với quyết định trong bất diệt là hoặc do không có nên bất diệt, là ngã của chúng sinh, ngã của pháp hoặc có nên không hoại diệt. Nghĩa là hai thứ đều vô ngã.

7.     Đối với quyết định trong không hai là pháp và pháp không, chẳng có khác nhau.

8.     Đối với không, chẳng quyết định phân biệt.

9.     Quyết định, đối với pháp tánh, không sợ hãi là những người ngu thọ nhận pháp tánh nầy, sinh tâm sợ hãi. Người trí đối với pháp tánh ấy, chắc chắn không sợ hãi

10.   Đối với tự tại có khả năng quyết đoán chắc chắn, là ngã tự mình cắt đứt chứng không cần chạy theo kẻ khác tìm phương tiện mà đoạn. Cho nên quyết định. Lại nữa, hiện quán như vậy, tu tập theo thứ lớp nào? Nên biết.

Tụng rằng:

Phát khởi, chứng, đẳng lưu,
Thành mãn kế thứ tư.
Lại pháp trụ trí thảy
Thứ lớp, tám, nên biết.

Luận chép: Thứ lớp hiện quán là có bốn hay tám hay bảy thứ?

Bốn thứ là:

1.     Phát khởi là trí tuệ phát sinh từ khi được nghe pháp cho đến pháp thế đệ nhất.

2.     Chứng đắc là kiến đạo.

3.     Đẳng lưu là tu đạo.

4.     Thành mãn là đạo rốt ráo.

Thế nào là tám? Từ pháp trụ trí cho đến thiện thanh tịnh trí, như trước đã nêu. Bảy thứ hiện quán là gì?

Tụng rằng:

Không hối, trụ sở duyên,
Thấy cảnh giới như thật,
Chỗ đạo nương, không lầm,
Thuần sai khác hành đoạn.

Luận chép: Bảy thứ thứ lớp là: Là từ Thi-la thanh tịnh cho đến hành đoạn trí kiến tịnh. Do Thi-la thanh tịnh nên không có rối loạn, ăn năn. Vì không ăn năn nên tâm định, an trụ trong một cảnh. Vì tâm định nên đạt được những hiểu biết như thật đối với những gì mà mình biết. Kế đến là trí kiến đạo như thật là chỗ nương của Phật, pháp, tăng bảo. Nó xa lìa mê lầm nghi ngờ mà đạt bốn trí câu sinh thanh tịnh.

Kế đến là được khéo quyết định trí đối với những gì mà Đức Thiện Thệ đã nói đã chứng, nghĩa là chỉ trong pháp của Phật mới có sự thuần tịnh, mới ra khỏi đường khổ, chứ không phải pháp khác. Kế đến ở trong đạo nầy đạt được trí hạnh khác nhau. Nghĩa là khổ trì thông hành là phẩm lạc dưới, tốc thông hành là phẩm trên. Còn lại, hai hành khác là phẩm ở giữa. Kế là nương vào chánh hạnh phẩm trên, đối với sự đoạn diệt khác mà phát sinh trí kiến cao siêu.

Lại nữa, thứ thanh tịnh như thi-la nầy, nếu nói lược thì thuộc về ba học, nên biết cũng là thuộc về ba pháp thanh tịnh. Thế nào là ba pháp thanh tịnh?

Tụng rằng:

Thuộc ba tịnh, nên biết
Giới tịnh và tâm tịnh.
Cảnh giới, nương và đạo
Đó là tuệ thanh tịnh.

Luận chép: Ba thứ thanh tịnh là giới tịnh, tuệ tịnh và tâm tịnh.

Trong tuệ thanh tịnh lại có ba là:

1. Đối với cảnh giới.

2. Chỗ nương đối với đạo.

3. Đối với thể của đạo.

Nên biết, còn có ba thứ thể tính của đạo là thuần túy, khác nhau và đoạn. Lại nữa, trong thứ lớp như thế, dùng thứ lớp nào để bước vào hiện quán?

Tụng rằng:

Biết nhân duyên thân thảy,
Khéo thông đạt ba đời,
Kế, biết rõ bốn khổ,
Lại nhập khổ, nên biết.

Luận chép: Trước đối với vị bốn niệm trụ, nên khéo biết rõ thân nầy thọ lấy tâm pháp có bốn thứ nhân duyên. Nghĩa là do ăn mà thân sống, do tiếp xúc cho nên có cảm thọ, có gom góp tên gọi sắc chất nên có nhận biết. Có gom tác ý nên có pháp.

Lại nữa, thân nầy, v.v… trôi lăn trong ba đời nên khéo rõ biết, là về đời vị lai nguyên nhân của pháp nên theo đó mà quán xét. Đối với quá khứ đã diệt, pháp diệt theo đó mà quán xét. Đối với nguyên nhân hiện tại, pháp diệt, theo đó mà quán xét.

Kế đến, nên biết, thân nầy với bốn khổ đã gây khổ là phải khổ do gánh nặng, phải khổ do địa vị thay đổi, phải khổ do thân thô nặng, phải khổ do sống chết. Bởi lấy pháp thiện, bất thiện làm nhân nên sẽ chịu khổ sống chết trong trôi lăn. Do vậy, khi biết rõ hai khổ sống và chết thì biết rõ các hiện tượng khổ. Từ đó, không xen hở, đem các đế mà suy nghiệm. Cho nên trước phải biết rõ tám thứ pháp khổ là sinh khổ cho đến nói lược khổ của năm thủ uẩn.

Lại nữa, bài Tụng rằng:

Từ đây chánh quán đế,
Phát mười sáu hành trí,
Để trị bốn điên đảo,
Làm chỗ nương sau sau.

Luận chép: Sau khi biết tám khổ, kế đó suy nghiệm bốn chân đế như thật mà phát sinh mười sáu hạnh trí. Cái trước làm chỗ nương cho sau sau, nhằm vào việc đối trị bốn trái ngược, nên phát sinh bốn hoạt động về khổ đế:

1.     Hoạt động vô thường nhằm đối trị cái nhìn trái ngược là thường.

2.     Hoạt động về khổ nhằm đối trị cái nhìn trái ngược là vui.

3.     Hoạt động về không, nhằm đối trị cái nhìn trái ngược có ngã.

4.     Hoạt động về vô ngã, nhằm đối trị cái nhìn trái ngược có. Tạo sao? Vì ngoài các hành thì cái ngã khác là không, thể cu các hành, bản chất nó không phải mang tính chất ngã. Kế là đối với bốn đức đáng yêu là thường, lạc, ngã, tịnh, tập đế khởi lên bốn hạnh là nhân, tập, sinh, duyên. Kế là đối với đoạn và diệt đế khởi lên bốn hạnh là diệt, tịnh, diệu, ly. Kế là đối với khả năng của chứng đạo đế mà khởi lên bốn hạnh là đạo, như, hành, xuất.

Lại nữa, bài tụng rằng:

Từ đây chuyển tu tập,
Với tâm đều chán, lìa.
Đế quyết định chọn lựa.
Sinh khởi giác rốt ráo.

Luận chép: Sau mười sáu hạnh trí chuyển biến tu tập, trước là duyên tự tâm phát sinh hiểu biết tâm nhàm chán tất cả, đây gọi là Noãn (sức ấm). Từ quả vị nầy trở lên, trí giác quyết định trí sinh, đây gọi là Đảnh. Từ quả vị nầy trở lên, phát sinh tri giác quyết định nầy gọi là Nhẫn. Từ đây trở lên phát sinh trí giác rốt ráo, đây gọi là Thế đệ nhất pháp.

QUYỂN 17

Phẩm 8: THÀNH LẬP HIỆN QUÁN (Phần còn lại)

Luận chép: Nên biết: Như thế đã được các gốc lành như Noãn, v.v... nên biết từ đấy bước vào hiện quán.

Tụng rằng:

Từ đây, không gia hạnh,
Trí giải thoát ba tâm,
Trăm mươi hai phiền não,
Phiền não thuộc dứt mười.

Luận chép: Từ đây nối tiếp không có gia hạnh, kiến đạo giải thoát, từ chỗ cắt đứt tùy miên phát sinh trí ba tâm là:

1.     Trí dứt trừ giả duyên hữu tình bên trong.

2.     Trí dứt trừ các pháp giả duyên bên trong.

3.     Trí dứt trừ tất cả các pháp giả duyên của các hữu tình.

Trong đây hai trí trước là pháp trí. Trí thứ ba là chủng loại trí. Ba trí nầy có công năng dứt bỏ một trăm mười hai phiền não. Nó thuộc về mười thứ phiền não. Một trăm mười hai thứ phiền não là cõi Dục, thấy sự thật về khổ (khổ đế). Mỗi đế dứt trừ mười thứ phiền não. Cõi

Sắc, cõi Vô sắc, thấy khổ đế, mỗi đế dứt trừ chín thứ phiền não, trừ sân. Như thế gọi là một trăm mười hai phiền não. Những gì thuộc về mười thứ phiền não? Đó là tự tính của năm kiến chấp và tự tính của năm chẳng phải kiến chấp, mà trước đã nêu.

Lại nữa, Tụng rằng:

Chứng phần Bồ-đề nầy,
Sáu thứ tướng tịnh trí,
Thực hành vô phân biệt,
Lập ra theo việc làm.

Luận chép: Nên biết trí nầy chứng được giác chân thật phần chứ chẳng phải vị Phương tiện, đây cũng là sáu thứ tướng của trí thanh tịnh.

Đó là các trí tướng: Pháp trí, chủng loại trí, khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí. Trí nầy không còn phân biệt cho nên chỉ tùy theo việc làm mà lập ra sáu tướng mạo của trí. Nên biết, lập ra sáu thứ không phải do hạnh khác nhau.

Lại nữa, Tụng rằng:

Bồ-tát ở vị nầy,
Trước tu sức nhân thắng,
Đối khổ thân mình, người,
Sinh tính tâm bình đẳng.

Luận chép: Các vị Bồ-tát trong phần vị hiện quán nầy, do trước tu tập thắng tư lương, nên đối với khổ nối nhau của mình và người mà phát khởi năm tâm bình đẳng, là tâm thô trọng bình đẳng, tâm vô ngã bình đẳng, tâm dứt trừ và tinh tấn bình đẳng, tâm không còn ái nhiễm, tinh tấn bình đẳng, tâm của tất cả Bồ-tát hiện quán bình đẳng.

Lại nữa, Tụng rằng:

Ý vui đại ngã nầy,
Về tự tính, vô đắc,
Nên biết, ý ưa rộng,
Hai tính vô phân biệt.

Luận chép: Nên biết tính chất của tâm bình đẳng nầy tức là đại ngã A-thế-da và A-thế-da (ý lạc) rộng lớn, không còn bóng dáng của tự tính biến kế sở chấp. Cũng không còn bóng dáng của công đức hay lỗi của hai tính chất hữu lậu và vô lậu. Ấy là kết quả của vô phân biệt.

Lại nữa, Tụng rằng:

Kế, mười sáu hạnh trên,
Trí thế gian thanh tịnh,
Do đối trị giới, địa,
Rốt ráo sự thành tựu.

Luận chép: Từ đế hiện quán nầy trở lên, có mười hạnh trong việc tu đạo. Nó làm phát sinh trí thế gian, xuất thế gian thanh tịnh. Nghĩa là từ khổ đế cõi Dục làm phát sinh hai trí:

1. Trí hiện quán suy xét.

2. Trí hiện quán quyết định.

Đối với khổ đế trói buộc trong cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng có hai trí như vậy. Như vậy, đối với khổ đế, có bốn thứ trí. Như vậy, đối với tập, diệt, đạo đế mỗi thứ cũng có bốn trí. Tổng cộng là mười sáu thứ trí.

Lại nữa, trí hiện quán như vậy, nếu Thanh văn, v.v… chứng được là đối trị với tạp nhiễm ở cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc. Nếu Bồ-tát chứng được thì đối trị với chướng ngại của mười thứ địa.

Như vậy, nên biết, các việc đã làm đều thành tựu tới chỗ rốt ráo, đó gọi là chuyển y rốt ráo, cũng gọi là hiện quán trí rốt hay còn gọi là hiện quán rốt ráo.

Lại nữa, Kệ nói:

Hiện quán nầy khác nhau
Hoặc sáu hoặc mười tám,
Tướng rất thắng lợi nhiều,
Tùy theo kinh luận nói.

Luận chép: Nên biết sự khác nhau của hiện quán, có sáu thứ:

1. Tư duy hiện quán.

2. Tín hiện quán.

3. Giới hiện quán.

4. Trí hiện quán, đế hiện quán.

5. Trí biên hiện quán, đế hiện quán.

6. Rốt ráo hiện quán.

Hỏi: Tư duy hiện quán, lấy gì làm thể?

Đáp: Về phẩm trên, lấy tuệ do tư thành (Tuệ do tư tạo thành) làm thể, hoặc cả hai tư duy và trí tuệ cùng thực hành pháp Bồ-đề phần làm thể.

Hỏi: Tín hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Ở phẩm trên, lấy việc duyên theo lòng tin Tam bảo một cách thanh tịnh của thế gian, xuất thế gian, làm thể, hoặc cả hai cùng thực hành pháp Bồ-đề phần làm thể.

Hỏi: Giới hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy nghiệp thân, ngữ mà bậc Thánh yêu thích làm thể, hoặc cả hai cùng thực hành pháp Bồ-đề phần làm thể.

Hỏi: Trí hiện quán, đế hiện quán lấy gì làm thể?

Đáp: Dùng trí tuệ bậc Thánh duyên vào phi an lập đế làm thể, hoặc cả hai cùng thực hành pháp Bồ-đề phần làm thể.

Hỏi: Trí hiện quán biên, đế hiện quán lấy gì làm thể? Đáp: Lấy trí tuệ bậc Thánh duyên vào an lập đế làm thể, hoặc cả hai cùng thực hành phần pháp Bồ-đề làm thể.

Hỏi: Hiện quán rốt ráo lấy gì làm thể.

Đáp: Lấy tận trí và vô sinh trí, v.v… làm thể, hoặc cả hai cùng thực hành pháp Bồ-đề phần làm thể.

Lại nữa, sự khác nhau của hiện quán nầy, có mười tám thứ là:

1.     Trí hiện quán được phát sinh do nghe pháp.

2.     Trí hiện quán phát sinh do suy nghĩ.

3.     Trí hiện quán được phát sinh do tu tập.

4.     Trí hiện quán thuận theo phần quyết trạch.

5.     Trí hiện quán do kiến đạo.

6.     Trí hiện quán do tu đạo.

7.     Trí hiện quán đạo rốt ráo.

8.     Trí hiện quán của thế tục không khéo thanh tịnh.

9.     Trí hiện quán của thể tục khéo thanh tịnh.

10.   Trí hiện quán thắng nghĩa.

11.   Trí hiện quán có phân biệt hạnh không khéo thanh tịnh.

Trí hiện quán của có phân biệt hạnh khéo thanh tịnh.

12.   Trí hiện quán của không phân biệt hạnh khéo thanh tịnh.

13.   Trí hiện quán của việc làm đang hoàn thành.

14.   Trí hiện quán của việc đã hoàn thành.

15.   Trí hiện quán của việc sau khi đã hoàn thành.

16.   Trí hiện quán Thanh văn.

17.   Trí hiện quán của Bồ-tát.

Lại nữa, những tướng mạo thắng nghĩa của hiện quán như vậy, nên biết, trong kinh luận còn có nhiều thứ nữa, nên biết.

Hỏi: Tư duy hiện quán có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu tư duy hiện quán thì họ có khả năng biết rõ được các hành pháp đều là vô thường, các hành đều khổ các pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng. Dù đang còn trong giai đoạn phàm phu, nhưng đã có khả năng như thế, chắc chắn hiểu rõ tất cả, mà dù Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên, ma phạm và thế gian khác, chắc chắn không ai có khả năng chiếm đoạt cái hiểu biết ấy, một cách đúng như pháp được.

Hỏi: Hiện quán tín có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu hiện quán lòng tin thì hoặc đang ở địa vị phàm phu, hoặc không phải ở giai đoạn phàm phu, đối với pháp hiện tại, hoặc đối với pháp vị lai, họ không hề nói ra. Ở trong chúng khác có riêng một vị Đại sư, có riêng một người nói pháp giỏi, có riêng một vị tăng tu chánh hạnh.

Hỏi: Giới hiện quán có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu giới hiện quán, cho đến loài bàng sinh đi nữa, hoàn toàn không bao giờ giết hại mạng sống, và không chấp nhận cùng kẻ khác làm hạnh tà vạy, không chơi với hạng biết tội mà vẫn nói dối, vẫn buông lung uống rượu Tốt-la-mê-lệ-da-mạt-đà cho say.

Hỏi: Trí hiện quán, đế hiện quán có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu trí hiện quán, đế hiện quán thì họ không bao giờ mắc vào dị kiến để gậy ra nghiệp, không nương vào những gì mình chứng mà khởi lên nghi hoặc, không nương vào ái nhiễm chấp mắc vào nơi sinh, mà thường cân nhắc hành vi tốt để được thanh tịnh. Không nương vào hủy báng Ba thừa để gây ra nghiệp cho đường ác, huống chi là khởi tâm giết hại cha mẹ, gây nghiệp địa ngục Vô gián? Cho đến cuối cùng khi chết bất sinh vào cõi thứ tám.

Hỏi trí, hiện quán biên, đế hiện quán có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu trí hiện quán biên, đế hiện quán thì đối với những gì mình chứng được, có ai hỏi, thì họ không hề run sợ.

Hỏi: Hiện quán rốt ráo có tướng mạo gì?

Đáp: Nếu ai thành tựu hiện quán rốt ráo thì quyết không đọa vào năm xứ sở trái phạm, không bao giờ cố hại mạng sống chúng sinh. Không chấp nhận gần gũi với hạng quen thói dâm dật sống phi phạm hạnh. Họ bảo nói dối là chứa nhóm tiền của vật dụng để thọ hưởng các thú vui ham muốn. Lại nữa, hạng trên hoàn toàn không run sợ họ, không tranh cãi bàn luận. Không hề cố chấp tự gây khổ vui, hay gây khổ vui cho ai khác, hay làm khổ vui cho mình và người. Không phải mình, không phải người gây ra không có nhân sinh ra khổ vui. Nên biết tướng hiện quán nầy chính là tướng thắng lợi của hiện quán, mà kinh luận ở trước đã nói rộng.

-----------------------

Phẩm 9: THÀNH LẬP DU-GIÀ

Lại nữa, như trước nói: Bồ-tát ở giai vị nầy, trước, tu sức mạnh của nhân. Thế nào là trước sức mạnh của nhân?

Tụng rằng:

Bát-nhã độ Du-già,
Đẳng chí, Vô phân biệt,
Tất cả, tất cả chúng,
Đều không có phân biệt.

Luận chép: Nương vào Tam-ma-bát-để phát sinh hạnh cao siêu của Bát-nhã Ba-la-mật-đa Du-già, đó là chánh tuệ, có khả năng đến bờ bên kia, là phương tiện tối thắng của Đại Bồ-đề, nên gọi là Du-già. Nương vào Du-già mà Đẳng Chí đến không còn phân biệt, đối với tất cả pháp và tất cả thứ vô phân biệt. Thế nào là tất cả và tất cả thứ?

Tụng rằng:

Tất cả, tất cả chủng,
Ba tướng và ba luân.
Gọi là tướng nhiễm, tịnh.
Và đều chẳng hai thứ.

Luận chép: Tất cả, nghĩa là ba luân:

1. Cảnh sở tri.

2. Trí năng tri.

3. Người năng tri.

-Tất cả chủng là: Ba tướng:

1. Danh tướng.

2. Nhiễm tịnh.

3. Câu phi.

- Danh là, v.v… mười hai thứ như giả lập.

- Danh tướng là tự tướng và cộng tướng.

- Nhiễm là pháp nhiễm ô.

- Tịnh là các pháp lành.

- Câu phi là pháp vô phú vô ký.

Lại nữa, như vậy, đã nói vô phân biệt. Vậy, nói vô phân biệt là đối với pháp nào? Tụng rằng:

Với pháp và pháp không,
Không hai thứ hý luận.
Vô phân biệt, vô cùng,
Trên đây chẳng hợp lý.

Luận chép: Pháp và pháp không đều chẳng có hai thứ hý luận, nên gọi là vô phân biệt. Thế nào là hai? Là có và không. Vì sao? Sắc chẳng phải có vì nó là tướng của biến kế sở chấp, cũng chẳng phải là không vì nó nương vào giả tạm mới có. Sắc, không cũng chẳng thật có vì tướng của biến kế sở chấp không sáng tỏ. Cũng chẳng phải không vì các pháp vô ngã đã làm sáng tỏ. Đối với sắc, sắc không, như vậy đối với tất cả pháp khác và tất cả pháp không, nên biết cũng như vậy. Không phải lìa các pháp và pháp không, mà còn có cảnh khác để nắm bắt được. Cho nên chỉ nói hai thứ không phân biệt, chứ chẳng phải không phân biệt. Hơn nữa, không phân biệt có lỗi vô cùng. Trên đây, lại không có cảnh của sở tri.

Lại nữa, bài Tụng rằng:

Nếu đều không sở thủ,
Vô tuệ cũng vô độ,
Đều thành chấp, lìa nói.
Vì thuận, chẳng vô dụng.

Luận chép: Đây, nếu không có hai thứ phân biệt thì không có chấp lấy. Do đều không chấp lấy nên đều không chấp nên tự thể của tuệ còn là không, huống chi là đến bờ kia? Do vậy, phải có pháp lấy tướng nhưng lìa lời nói. Do có chấp nhận nầy nên cả hai, trí tuệ qua bên kia mới thành tựu. Vì sao? Vì do trí tuệ bậc Thánh nầy dù không chấp lấy, tính tướng, như đã nói, nhưng vẫn chấp nhận tướng tính bằng ly ngôn.

Hỏi: Nếu trí tuệ bậc Thánh nầy không chấp lấy tướng tính như lời nói thì giảng nói chánh pháp lẽ ra là vô dụng?

Đáp: Không đúng, vì thuận theo. Vì sao? Do thuận theo cho nên chấp lấy tướng mà lìa lời nói. Thế nên Đức Như lai giảng nói chánh pháp.

----------------------

Phẩm 10: THÀNH LẬP BẤT TƯ NGHỊ

Luận chép: Trước phải suy nghĩ mới nhập vào hiện quán. Do vậy nên phải tách rời phương tiện tư duy, không thể nghĩ bàn. Thế nào là chỗ không thể nghĩ bàn?

Tụng rằng:

Chín việc không nghĩ bàn,
Do nương vào năm chỗ,
Có năm thứ nguyên nhân,
Đức, lỗi, đều có ba.

Luận chép: Có chín việc không thể nghĩ bàn:

1. Ngã.

2. Hữu tình.

3. Thế giới.

4. Nghiệp báo.

5. Cảnh giới của người nhập tĩnh lự.

6. Cảnh giới của Chư Phật.

7. Mười bốn việc không thể ghi chép.

8. Chẳng phải chánh pháp.

9. Bị dẫn dắt do tất cả phiền não.

Nếu có tư duy chín việc nầy, thì phải nương vào năm chỗ mới phát sinh tư duy là:

1. Kiến.

2. Nhẫn.

3. Tìm tòi.

4. Lợi dưỡng.

5. Rối loạn.

-     Nương vào thấy mà tư duy về ngã và hữu tình.

-     Nương vào nhẫn mà tư duy thế giới.

-     Nương vào tìm tòi mà tư duy nghiệp báo. Tịnh lự là cảnh giới của Chư Phật và mười bốn thứ việc không thể ghi chép.

-     Nương vào lợi dưỡng mà tư duy là không đúng chánh pháp.

-     Nương vào rối loạn mà tư duy thì thuộc về tất cả phiền não dắt dẫn.

Hỏi: Vì sao không nên nghĩ bàn chín việc như vậy? Đáp: Do năm nhân duyên là:

1.     Do ngã và hữu tình không có tự tướng, nên không thể nghĩ bàn.

2.     Do tướng của thế giới đã thành lập rồi, nên không nên nghĩ bàn.

3.     Do nghiệp báo và tướng mạo của hai cảnh giới sâu xa, nên không nên nghĩ bàn.

4.     Do việc không thể (ghi chép) vì chúng không có tướng mạo nhất định, nên không thể nghĩ bàn.

5.     Do không phải chánh pháp và bị phiền não dắt dẫn, có thể dẫn đến tướng vô nghĩa, nên không thể nghĩ bàn.

Nếu ai tư duy những việc như vậy, thì họ bị dẫn đến ba lỗi là:

1. Lỗi khởi tâm lầm loạn.

2. Sinh ra lỗi không phải phước thiện.

3. Lỗi không phải điều lành.

Ai không tự suy nghĩ bàn chín việc trên thì họ có khả năng đem lại ba công đức trái lại. Nên biết.

Tụng rằng:

Không nên nghĩ, không ký,
Phải biết do bốn nhân,
Sâu xa không định, một,
Dẫn trụ tướng vô nghĩa.

Luận chép: Nếu nói lược thì có bốn thứ nguyên nhân đối với việc không thể nghĩ bàn, tự mình không nên nghĩ bàn cũng không nên vì người khác mà ký riêng?

1.     Ngã và hữu tình là có hoặc không chẳng nhất định, cho nên không thể nghĩ bàn, không thể ký riêng.

2.     Bởi nghiệp báo và hai cảnh giới đều rất sâu xa nên không thể nghĩ bàn, không thể ký riêng.

3.     Không thể ký việc của thế giới vì không phải chánh pháp. Vì bị lôi cuối vào tất cả phiền não, đưa đến vô nghĩa, nên không thể suy tìm, không ký riêng được.

4.     Chân như đối với các pháp như hành, v.v… là bất tức bất li. Do tướng ấy mà pháp an trụ thế ấy, nên không thể nghĩ bàn, không thể ký riêng.

Lại nữa, Tụng rằng:

Không nghĩ ngã có, không,
Sẽ thành hai thứ lỗi.
Với khác, cũng hai lỗi,
Không nên nghĩ một, khác.

Luận chép: Không nên tư duy là ngã có hay không. Vì sao? Vì sẽ mắc hai lỗi. Nếu suy nghĩ ngã là có thì đối với nghĩa không phải thật có, phát sinh lỗi chấp càng thêm nặng. Nếu suy nghĩ ngã là không thì đối với nghĩa giả có, phát sinh lỗi chấp làm tổn hại đối với các hữu tình khác. Nếu chấp vừa là một, vừa là khác thì cũng mắc hai lỗi. Nếu chấp là một thì mắc lỗi là có nhiều hữu tình. Nếu chấp là khác thì các lỗi là chẳng phải có sáu xứ.

Lại nữa, Tụng rằng:

Hai dù không nương thấy,
Cũng không thể nghĩ bàn.
Không nghĩ sinh như thế,
Do ba lỗi thường theo.

Luận chép: Hai thứ là thế giới hữu tình và khí thế giới, dù không nương kiến cũng không nên nghĩ bàn về nó. Vì sao? Vì tướng của thế giới đã thành hình mà cũng biết rồi.

Hỏi: Vì sao không nên suy tư về thế giới với câu hỏi nó sinh ra như thế hay bất sinh ra như thế?

Đáp: Nếu suy tư như thế hoặc cho là như thế. Nếu suy tư không phải như thế cho là không phải như thế. Ba lối hỏi sai lầm ấy, sẽ cứ theo đuổi mãi.

Lại nữa, tụng rằng:

Đường lành và đường ác,
Hai tác giả chẳng định
Nghiệp thiện ác quá khứ,
Nơi làm, đều khó nghĩ.

Luận chép: Không nên nghĩ bàn về nghiệp báo, vì nó không chắc chắn là hễ ai làm phước thì sinh về đường lành, ai làm ác thì đọa vào đường ác. Hơn nữa, đời quá khứ đã làm nghiệp tốt hay xấu hoặc bởi nơi sống hoặc do việc hoặc vì nhân hay quả báo, cho nên không thể nghĩ bàn được.

Tụng rằng:

Tính chân như vô lậu,
Thành nghĩa lợi đã làm,
Người tĩnh lự Như lai,
Tự tại, không gì dụ.

Luận chép: tĩnh lự và hai cảnh giới của Phật, chân như là thể tính vô lậu của nó, đều không thể nghĩ bàn. Lại nữa, các việc làm thành tựu của Chư Phật, ý nghĩ nó, cũng không thể nghĩ bàn. Nghĩa là các việc làm lợi ích cho chúng sinh, cũng không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không thể thí dụ được. Tất cả các việc, dù tinh tế nhất đi nữa ở trên đời nầy, cũng không có khả năng thí dụ được với sự sâu xa của hai cảnh giới ấy. Lại nữa, về tự tại thì nó là tâm tự tại mà các Đức Như lai tự chứng được bên trong nên khởi lên tất cả tác dụng đối với các việc mà các Đức Như lai làm cho đời. Nếu lìa nhân duyên hòa hợp thì không thấy.

Lại nữa, Tụng rằng:

Những gì ngoại đạo nói,
Dẫn đến không nghĩa lợi,
Phi lý, xa bốn chỗ,
Vô ký, không nghĩ bàn.

Luận chép: Các việc không nên ký, không thể nghĩ bàn, đối với những gì mà ngoại đạo nói, do chúng dẫn đến những điều không ích lợi, không đúng chân đế, do họ đã lìa bốn thứ chánh tư duy: là nhân của tư duy, quả của tư duy và tư duy về tạp nhiễm, tư duy thanh tịnh.

Lại nữa, như trước đã nói, tư duy lối của họ phạm ba lỗi, vì sao mắc lỗi?

Tụng rằng:

Phi xứ siêng dụng công,
Hủy báng với đại ngã,
Không tu thiện trong sạch,
Nên thành ba thứ lỗi.

Luận chép: Vì không phải lãnh vực mà cố gắng dụng công cho nên họ sinh ra tâm rối loạn lỗi lầm. Vì họ nói xấu chê bai công đức tối thắng của người tĩnh lự và Phật, Thế Tôn nên họ mắc lỗi là làm việc phi phước đức. Vì họ bất sinh pháp lành trong sạch nên mắc lỗi là không được điều thiện.

Lại nữa, tụng rằng:

Xa lìa, không nghĩ bàn,
Nghĩ chỗ đáng suy nghĩ,
Đủ tám thứ công đức.
Phải nghĩ đúng chân đế.

Luận chép: Những ai gắng gượng tư duy phạm vi không thể nghĩ bàn, thì mắc phải những lỗi như vậy. Cho nên phải xa lìa vấn đề ấy. Còn đối với phạm vi có thể nghĩ bàn thì phải tư duy đúng như lý. Nếu tư trong phạm vi nầy thì có tám công đức, tám công đức là:

1.     Có khả năng khéo biết rõ về hoặc thuyết, đại thuyết.

2.     Tư duy theo ý nghĩa chứ không theo văn tự.

3.     Ít dùng lòng tin trong sạch để tin hiểu.

4.     Ít dùng tuệ quán để quán xét.

5.     Tư duy vững chắc.

6.     Tư duy bằng quán xét chắc thật.

7.     Thường siêng năng tư duy.

8.     Những gì mình tư duy đều đạt tới chỗ rốt ráo, không biếng nhác rút lui.

Lại nữa, Tụng rằng:

Những gì Chư Phật nói,
Biết khắp, thảy không trái.
Năm nhân và hai nhân,
Không nghĩ bàn về nó.

Luận chép: Do năm nguyên nhân nên chẳng phải phạm vi ta nghĩ bàn, không nên nghĩ bàn với ham thích, vì những gì Phật nói và trong pháp Tứ đế chứa đầy cái biết cùng khắp đưa đến đoạn hoặc chứng chân không trái nhau. Lại lược do hai nguyên nhân là giáo pháp và sự chứng ngộ giáo pháp, là các Đức Phật nói lên những gì mà các Ngài đã chứng, là biết rõ về khổ, v.v…

------------------------

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 1)

Luận chép: Như vậy, đã xa lìa phạm vi không nên nghĩ bàn với phương tiện rồi, đối với chín việc, nên dùng mười thứ để làm phát sinh các thứ quyết định tối thắng mười thứ là:

Tụng rằng:

Số, tướng, biệt, xứ, có.
Bờ mé và sinh khởi.
Thuộc về tưởng, thiện xảo thảy,
Quyết trạch hơn các việc.

Luận chép: mười thứ ấy là:

1.   Số.

2.   Tướng.

3.   Khác nhau.

4.   Có tính.

5.   Nơi chốn.

6.   Bờ mé.

7.   Sinh khởi.

8.   Tưởng.

9.   Thiện xảo.

10. Thâu nhiếp.

-     Số nói ở đây là số sắc, gồm có mười năm thứ Cũng thế.

-     Tướng là tướng giả lập có cộng tướng, tự tướng. Trong đây, sự cũng gọi là tướng. Tướng đã có như vậy do tên gọi thì gọi là danh tướng. Tương ưng nhau cũng gọi là tướng, nó có đủ tướng chủ thể, như tướng nào tương ưng với màu lửa thì nó gây cho ta cảm giác ấm. Bổ-đặc-già-la như vậy cũng gọi là tướng. Vì là tướng nên có sự tiếp lấy, đó cũng gọi là tướng, vì nó là thể của năng tướng.

-     Khác nhau là khác nhau ở chỗ có sắc, không sắc, có thấy, không thấy.

-     Hữu tính là tính giả có, tính có thật, tính có thắng nghĩa.

-     Nơi chốn là như bốn đại lần lượt đến cùng ở chung một chỗ với sắc sở tạo. Lại, sắc, tâm cùng ở một chỗ. Lại nữa, nương vào cõi Dục mà tâm cũng lần lượt đến an trụ trong sắc thân nầy.

-     Bờ mé: như sắc, đến cõi Sắc và cái hết sức nhỏ, đó là bờ mé của lạc thọ, cho đến tĩnh lự thứ ba, đó là bờ mé.

-     Sinh khởi là do nhân duyên như thế, pháp sinh như thế, như dẫn sức mạnh phát sinh, v.v...

-     Tưởng là câu nói mê lầm hay nhiều thứ khác.

-     Thiện xảo là uẩn thiện xảo, v.v...

Nhiếp là thâu nhiếp, hoặc tương ưng, hoặc nương vào, hoặc duyên cớ, hoặc vấn luận. Cũng thế, vấn luận lại có nhiều thứ, nghĩa là một hành vi thuận với câu trước, thuận với câu sau, bốn câu và câu vô sự. Nếu khéo biết rõ như vậy thì gọi là khéo hỏi, nhớ.

Lại nữa, đối với tất cả việc, nên sinh nhiều quyết định tối thắng.

Việc tâm lựa chọn quyết định nay sẽ nói trước.

Tụng rằng:

Tâm tính có hai thứ
Dị thục và chuyển thức.
Trước thức A-lại-da,
Hạt giống hai, nên biết.

Luận chép: Nói lược thì tâm tính có hai thứ: 1. Tâm Dị thục; 2.

Chuyển tâm.

-     Tâm Dị thục là thức A-lại-da, cũng gọi là Nhất thiết hạt giống thức. Nên biết, thức nầy còn có hai thứ là: 1.

Chứng thành; 2. Lập ra. Thế nào là chứng thành?

Tụng rằng:

Chấp thọ, đầu sáng tỏ,
Hạt giống nghiệp thân thọ,
Định Vô tâm qua đời,
Chẳng đều không hợp lý.

Luận chép: Thức A-lại-da chắc chắn là có, nó được chứng minh bởi tám thứ tướng. Nếu không có thức Alại-da làm chỗ nương cho cảm giác tóm lấy, là không thể được.

-     Không có nó thì sự sống ban đầu không thể có được, là nói sinh khởi lẽ ra không thể được.

-     Nếu không có nó thì hạt giống các pháp không thể có được.

-     Bốn thứ nghiệp dụng không thể có được. Các thứ thọ của thân, không thể có được. Hai thứ định tâm không thể có được. Khi chết không thể có được.

Hỏi: Vì sao không có thức A-lại-da làm chỗ nương thì chấp thọ không thể nắm bắt được?

Đáp: Do năm nguyên nhân: năm nguyên nhân ấy là thức A-lại-da là cội nguồn sinh khởi trước nhất. Như nhãn thức, v.v... các chuyển thức như nhãn thức, v.v… là duyên vào nhân ấy khởi. Như kinh nói: Do sức mạnh của căn, cảnh, tác ý nên chuyển thức sinh ra, cho đến nói rộng.

Đó gọi là nhân đầu tiên. Lại, sáu thức thân, thiện, bất thiện có thể được. Đó gọi là nguyên nhân thứ hai. Lại nữa, sáu thức thân đều thuộc về một loại vô ký, Dị thục, hẳn không thể có được. Đó gọi là nguyên nhân thứ ba. Lại nữa, thức thân, thức đều có y chuyển riêng. Nếu nương vào các nơi nương tựa kia, nếu mỗi thức hướng vào mỗi chỗ nương kia để chuyển vận theo nó thì lẽ ra có chấp thọ, mà không có nơi nào khác để chấp thọ là điều không hợp lý. Dù thừa nhận có chủ thể tiếp nhận, cũng không hợp lý vì xa lìa thức. Đó là nguyên nhân thứ tư.

Lại nữa, chỗ nương sẽ thành lỗi thường nhiếp thọ. Vì sao? Bởi nhãn thức có lúc chuyển vận, có lúc không.

Các thức khác cũng vậy. Đó gọi là nguyên nhân thứ năm. Như vậy, trước khi nghiệp nhân hiện hành, nó đã duyên vào nhân đã sinh, thiện và bất thiện cùng một loại thì không thể được, bởi mỗi chỗ nương khác nhau. Có lỗi là thường chấp giữ là không hợp lý.

Hỏi: Vì sao sinh khởi sớm nhất là không thể được?

Đáp: Nếu có kẻ nói: Nếu có thức A-lại-da thì hai thức phải sinh khởi cùng lúc, thì nên nói với người ấy: Từ chỗ không có lỗi mà ông sinh tưởng sai lầm luống dối, vì ông đã chủ trương có hai thức chuyển biến cùng lúc. Vì sao? Nghĩa là như có người cùng lúc vừa thấy lại cùng lúc vừa muốn biết mà lại theo thức riêng sinh khởi trước tiên, là điều không hợp lý. Vì sao? Vì tác ý như vậy không khác nhau. Căn và đối tượng của nó không tan mất ngay đây thì vì sao thức không cùng chuyển biến?

Hỏi: Vì sao sự sinh khởi sáng tỏ không biết được?

Đáp: Nếu có ai chấp chắc chắn thức không phát sinh tác dụng cùng lúc thì với nhãn thức, v.v... cùng hiện hành trước một cảnh mà có ý thức nhận biết rõ là điều không hợp lý. Vì sao? Vì nếu duyên vào cảnh quá khứ mà khởi lên nhớ lại thì bấy giờ, ý thức không sáng tỏ hiện hành trước mắt, chứ tướng không sáng tỏ kia là do không có ý thức hiện hành cảnh trước mắt. Cho nên thừa nhận các thức biến chuyển cùng lúc, thừa nhận rằng thức thứ sáu kia không sáng tỏ, thì đó là mắc lỗi.

Hỏi: Vì sao hạt giống Vô sở đắc?

Đáp: Do sáu chuyển thức thân, mỗi thứ đều khác nhau. Vì sao. Do sáu chuyển thức nầy, đều phát sinh từ tính chất thiện, bất thiện không xen hở. Tính chất bất thiện nối tiếp thì tính chất thiện lại phát sinh. Từ hai cái vô gián mà vô ký phát sinh. Trong cõi thấp kém nối tiếp thì trung giới sinh. Trung giới nối tiếp thì cõi đẹp sinh. Cũng thế, từ cõi tốt đẹp cho đến cõi thấp kém sinh. Hữu lậu nối tiếp thì vô lậu sinh. Vô lậu nối tiếp thì hữu lậu sinh. Thế gian nối tiếp thì xuất thế gian sinh. Xuất thế gian nối tiếp thì thế gian sinh. Tướng như vậy thì không phải là thể của hạt giống, nên đúng với đạo lý.

Lại nữa, các thức kia xen hở trong thời gian dài, nhưng vẫn nối nhau trôi lăn mãi không ngừng nghỉ. Cho nên chuyển thức mới có khả năng giữ gìn hạt giống. Chủ trương ấy là không đúng lý.

Hỏi: Vì sao các nghiệp không thể có được?

Đáp: Vì các thức không cùng lúc sinh khởi để các nghiệp cùng chuyển biến thì không đúng lý. Vì sao? Vì nếu nói lược thì nghiệp có bốn thứ:

1. Khí liễu biệt nghiệp.

2. Y liễu biệt nghiệp.

3. Ngã liễu biệt nghiệp.

4. Cảnh liễu biệt nghiệp.

Bốn thứ nghiệp. Dụng liễu biệt như thế, chúng hiện hành có thể được trong từng sát-na, chứ chẳng phải một thức, trong một sát-na, có những nghiệp dụng khác nhau, nên chắc chắn phải có các thức phát sinh tác dụng cùng lúc.

Hỏi: Vì sao thân thọ không thể được nếu không có thức A-lại-da?

Đáp: Như có người tư duy đúng chân đế, hay tư duy không đúng chân đế, hoặc có suy nghĩ hay không, nếu tâm ở trong định hay không ở trong định, thì thân sinh cảm giác không phải một mà là nhiều. Nếu không có thức A-lại-da thì thân không thể cảm nhận được những gì hiện có như vậy. Bởi vậy, nên chắc chắn phải có thức A-lại-da.

Hỏi: Vì sao mà các định vô tâm không thể có được, nếu không có thức A-lại-da?

Đáp: Như Đức Bạc-già-phạm nói: Khi nhập định Vô tưởng và định Diệt tận, nên biết lúc ấy, thức không tách khỏi thân. Nếu không có thức A-lại-da thì lúc ấy, thức phải tách rời khỏi thân. Nếu thức tách lìa khỏi thân thì chết rồi, không thể gọi là đang ở trong định.

Hỏi: vì sao khi chết, thức không thể có được nếu không có thức A-lại-da?

Đáp: Như có người lúc sắp chết, thức nầy xả bỏ dần phần trên của thân khiến nơi ấy dần dần nghe lạnh, hay phần dưới của thân, có lúc, ý thức kia không chuyển biến. Do vậy, nên biết, chỉ có thức A-lại-da là duy trì sự sống trên thân. Thức nầy buông xả thì thân xác lạnh, không còn cảm giác thọ. Ý thức thì không như vậy. Cho nên nếu không có thức A-lại-da thì không hợp lý.

Như vậy, đã nói xong nguyên tắc chứng minh thành lập thức A-lại-da, làm sao thành lập?

Tụng rằng:

Tương ưng cảnh sở duyên,
Làm tính nhân lẫn nhau,
Thức đều cùng trôi lăn,
Tạp nhiễm ô hoàn diệt.

Luận chép: Nói lược thì thức nầy được lập nên do năm tướng:

1. Tướng cảnh sở duyên.

2. Tướng tương ưng.

3. Tướng làm nhân cho nhau.

4. Tướng cùng chuyển biến.

5. Tướng tạp nhiễm hoàn diệt.

Nên biết bốn thứ tướng mạo trước lập ra lưu chuyển. Một tướng sau cùng là lập ra tướng hoàn diệt.

Hỏi: Tướng mạo của cảnh sở duyên được lập ra sao? Đáp: Nếu nói lược thì thức nầy do biết rõ hai cảnh của sở duyên:

1.  Do cảm nhận được sự tiếp nhận bên trong.

2.  Do cảm nhận được tướng vô phân biệt khí bên ngoài.

-Cảm nhận được sự chấp thọ bên trong là biết tự tính biến kế sở chấp, chấp thói quen sai lầm và các sắc căn nương. Nghĩa là ở cõi Sắc, hay Vô sắc chỉ có thói quan chấp trước một cách sai lầm về chấp thọ.

Cảm nhận vô phân biệt tướng khí bên ngoài là: Biết rõ chỗ nương của bám chấp bên ngoài là do sự chấp giữ bên trong của thức A-lại-da. Nó không xen hở đối với tướng của khí thế giới, bất cứ lúc nào. Như lúc thắp đèn, tim đèn phải được giữ chặt mới phát ra ánh sáng ra bên ngoài.

Như vậy, thức A-lại-da, bên trong thì duyên theo chấp thọ đối tượng của nó, bên ngoài thì duyên vào tướng của khí thế giới. Nên biết, nguyên tắc sinh khởi là như vậy.

Lại nữa, thức nầy duyên theo cảnh hết sức nhỏ nhiệm, dù người thông minh trên đời cũng khó biết rõ. Lại nữa, lúc duyên lấy đối tượng, thức nầy không bỏ sót, không đổi khác. Từ sát-na đầu chấp thọ cho đến khi chết, nó thuần một thứ là biết rõ mà lưu chuyển. Lại nữa, thức nầy mỗi ý niệm sinh diệt nối nhau đối với sở duyên. Nên biết sự nối nhau trôi chảy của nó trong từng sát-na là chẳng phải một nhưng cũng chẳng phải khác.

Lại nữa, thức nầy Duyên theo cảnh nhỏ bé ở cõi Dục và Duyên theo cảnh rộng lớn ở cõi Sắc. Và nó duyên theo vô lượng đối tượng của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ ở cõi Vô sắc. Nó Duyên theo cảnh hết sức nhỏ nhiệm ở cõi Vô sở hữu xứ. Nó Duyên theo cảnh hết sức nhỏ nhiệm ở cõi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Như vậy, bởi phân biệt rõ hai cảnh sở duyên, phân biệt rõ đối tượng nhỏ nhiệm, do phân biệt rõ cái tương tự, do chấp thọ cảnh sở duyên nhỏ hẹp, do chấp thọ cảnh sở duyên rộng lớn, do chấp thọ cảnh sở vô lượng, do chấp thọ cảnh sở duyên là cái hết sức nhỏ, bởi chấp thọ cảnh sở duyên là cái vô cùng nhỏ nhiệm. Đó gọi là lập ra tướng của đối tượng thức A-lại-da.

Hỏi: Sự tương ưng với biến chuyển được lập ra sao? Đáp: Thức A-lại-da nầy là hằng và biến hành tương ưng với năm thứ tâm pháp. Đó là tác ý, xúc thọ, tưởng, tư. Năm pháp nầy cũng thuộc về Dị thúc rất nhỏ nhiệm. Dù kẻ thông minh trên đời cũng khó biết được. Như vậy, tâm pháp cũng một loại thường nhất Duyên theo cảnh mà chuyển biến.

Lại nữa, thức nầy tương ưng hoàn toàn với tính chất cảm nhận không khổ, không vui, vô ký. Nên biết hành tướng của các tâm pháp khác cũng như vậy.

-Do tương ưng với tâm pháp biến hành như vậy, vì tương ưng với một loại Dị thục, vì tương ưng với một pháp hết sức nhỏ nhiệm, thuần là một loại duyên đối tượng mà sinh tương ưng, do tương ưng với không khổ, không vui, bởi hoàn toàn tương ưng với vô ký. Tất cả những tương ưng ấy, gọi là lập ra tướng mạo chuyển biến tương ưng với thức A-lại-da.

Hỏi: Lập ra tướng nhân lẫn nhau là sao?

Đáp: Thức A-lại-da và các chuyển thức kia làm hai thứ nhân:

1. Làm nhân sinh hạt giống.

2. Làm nhân cho chỗ nương.

-     Làm nhân sinh hạt giống là: Tất cả chuyển thức khi sinh tất cả thiện, bất thiện, vô ký là tất cả đều phát sinh từ hạt giống thức A-lại-da, làm nhân.

-     Làm nhân cho sự nương là do thức A-lại-da duyên theo sắc căn làm chỗ nương, nên năm thức thân chuyển biến chẳng phải không có chấp thọ.

Lại do có thức nầy mới có được ý căn. Do nương vào ý căn nầy nên ý thức mới phát sinh tác dụng. Như nương vào năm sắc căn như nhãn, v.v... mà năm thức thân biến chuyển, chẳng phải không có năm căn, ý thức cũng vậy, chẳng phải không có ý căn. Lại nữa, chuyển thức và thức A-lại-da là hai thứ nhân:

1.   Nuôi lớn hạt giống kia trong pháp hiện tại.

2.   Trong pháp vị lai, tùy theo thức A-lại-da mới được phát sinh bởi đã gieo trồng hạt giống ấy.

-     Nuôi lớn hạt giống kia, trong pháp hiện tại là: Theo chỗ nương trong thức A-lại-da, như vậy như vậy, khi chuyển thức phát sinh thiện, bất thiện, vô ký thì cũng chỗ nương mà cùng sinh cùng diệt. Thức nầy huân tập như thế. Vì thức nầy làm nhân duyên, nên về sau, chuyển thức kia mới chuyển biến thiện, bất thiện, và tính vô ký. Lại nữa, nó còn chuyển biến thêm lên, chuyển biến rực sáng, được sinh khởi đậm nét.

-     Gieo trồng hạt giống thuộc pháp vị lai là: Thức Alại-da đã huân tập chủng loại thì nó có khả năng dẫn đến đời vị lai, tức là thức Dị thục A-lại-da nầy.

Như thế, bởi làm nhân cho hạt giống, do làm nhân cho chỗ nương, vì nuôi lớn hạt giống, vì duy trì, gieo trồng hạt giống, đó gọi là lập ra sự làm tướng nhân cho nhau của thức A-lại-da và chuyển thức.

Hỏi: Được lập ra sao về tướng của các thức cùng chuyển biến?

Đáp: Thức A-lại-da đôi khi trong một lúc, chỉ hiện khởi với một thức, đó là hiện khởi với ý căn mà thôi. Vì sao? Vì ý căn nầy thường tương ưng với ngã kiến, ngã mạn. Những hành vi kênh kiệu có chú tâm hay không có chú tâm, luôn luôn cũng thường sinh khởi cùng thức nầy. Và ý căn nầy duyên mãi thức A-lại-da làm sở duyên phát sinh hành vi chấp ngã, làm phách, kiêu ngạo. Lại nữa thức nầy, cùng phát sinh tác dụng với hai chuyển thức, trong cùng lúc. Nghĩa là ý và ý thức cùng chuyển thức đồng thời phát sinh, trong một thời gian. Nghĩa là năm thức thân cùng lúc, sinh khởi với hai thức trước và một thức nầy. Trong cùng một thời gian hay cùng lúc hiện lên với bốn chuyển thức. Nghĩa là năm thức thân lúc theo hai thức phát sinh tác dụng với hai thức trước và hai thức nầy.

Cũng thế, thức A-lại-da nầy, hoặc cho đến bảy thức cùng khởi hiện, trong cùng lúc. Nghĩa là khi năm thức thân hòa hợp sinh khởi là cùng với hai thức trước và năm thức nầy.

Lại nữa, như trước đã nói, ý thức nương vào ý ô nhiễm mà phát sinh. Khi ý chưa diệt thì tướng liễu biệt trói buộc, không thể giải thoát được dù biết rõ chỗ trói buộc. Nếu ý đã diệt rồi thì tướng trói buộc được giải thoát.

Lại nữa, ý thức vừa Duyên theo cảnh khác, vừa duyên vào chính nó làm đối tượng.

-     Duyên vào đối tượng khác là Duyên theo cảnh chung hoặc riêng của năm thức thân.

-     Duyên vào chính nó làm đối tượng là duyên vào các cảnh duyên pháp. Lại nữa, thức A-lại-da đồng thời chuyển biến, trong một thời gian, với cảm thọ khổ, vui, không khổ, không vui. Những cảm thọ ấy tương ưng với chuyển thức, nương vào chuyển thức mà sinh khởi. Từ thức nầy, hạt giống phát sinh.

Lại nữa, đối với cõi người hay đối với sự trói buộc trong các tầng trời cõi Dục, và một phần trong cõi quỷ, bàng sinh mà đồng thời phát sinh thọ không khổ, không vui, xen lẫn nhau tiếp nối cùng chịu trong cùng một lúc mà cùng chuyển biến.

Hoặc trong cõi Na-lạc-ca, thọ không khổ, không vui bị kẻ khác cướp lấy và thọ thuần đau khổ, không xen lẫn, cùng lúc nối nhau chuyển biến, tương ưng tới chuyển thức kia.

Nên biết những cảm thọ nầy đều bị ánh sáng, lấn át nên khó thấy rõ tướng mạo. Do vậy, ở Na-lạc-ca, hoàn toàn cảm nhận khổ mà cùng chuyển biến. Còn đối với ba tĩnh lự dưới thì cùng chuyển biến với cảm giác vui hoàn toàn. Còn đối với tĩnh lự thứ tư, cho đến cõi Hữu đảnh thì cùng chuyển biến với cảm giác hoàn toàn không khổ, không vui.

Lại nữa, thức A-lại-da trong cùng lúc, cùng chuyển biến tương ưng với chuyển thức và thiện, bất thiện, vô ký và các tâm sở. Như vậy, thức A-lại-da chuyển biến cùng lúc với các chuyển thức. Nó cũng cùng chuyển biến với các cảm thọ dung nạp và dung nạp thiện, bất thiện, vô ký các tâm pháp. Dù vậy, không nên nói là tương ưng với thức kia. Vì sao? Vì không cùng một duyên chuyển biến với thức A-lại-da. Giống như cái biết của nhãn thức và mắt, dù chúng chuyển biến cùng lúc, nhưng lại không tương ưng nhau. Thức nầy cũng như vậy. Do một chút có tương tự như pháp kia cho nên có thể thí dụ được. Về nguyên tắc thí dụ, nên biết như vậy.

Lại nữa, như các tâm pháp, nghĩa của thể của tâm pháp dù không khác nhau, nhưng do tướng có khác nhau, nên trong một thân cùng lúc chuyển biến, mà vẫn không trái nhau.

Như vậy, thức A-lại-da nầy, và các chuyển thức, nên biết, cả hai cùng lúc chuyển biến, cũng không trái nhau. Lại như nương vào thác đổ, mà nhiều đợt sóng cùng lúc sinh khởi nhưng không trái nhau. Lại như nương vào gương trong mà bao hình ảnh phát sáng nhưng chúng không trái nhau. Thế đó, nương vào thức A-lại-da mà chuyển thức cùng lúc sinh khởi nhưng chúng không trái nhau, nên biết.

Lại như cái biết của một nhãn thức, trước một cảnh vật, trong một lúc, là chỉ biết có một loại sắc tướng, không có gì khác. Hay trong một lúc, nó chẳng phải nhìn thấy có một sắc tướng, cái biết của mắt đối với sắc đã vậy, thì cho đến thân thức, trong một lúc, đối với một cảnh tiếp xúc thì nó chỉ tiếp lấy một tướng, hoặc nhận lấy nhiều cảnh tướng, trong một lúc. Như thế, ý thức phân biệt, trong một lúc, nó tóm lấy một cảnh hoặc tóm lấy nhiều cảnh trong cùng lúc, nhưng chúng vẫn không trái nhau, nên biết.

Lại nữa, như trước đã nói, ý căn thường chuyển biến với thức nầy, bất cứ lúc nào cho đến nó chưa bị cắt đứt. Nên biết thức nầy chuyển biến mãi mãi, nhậm vận cùng lúc phát sinh, và tương ưng với bốn thứ phiền não, là Tát-ca-da-kiến, ngã mạn, ngã ái, vô minh. Bốn phiền não ấy là tính chất hữu phú vô ký, chúng không trái với thiện, chúng thường hiện hành trong cõi định hay chẳng phải cõi định.

Cũng thế, thức nầy chuyển biến cùng lúc với chuyển thức, các thọ đều chuyển, với thiện, v.v... đều chuyển, nên gọi là lập ra tướng cùng chuyển biến của thức A-lạida.

Hỏi: Tướng hoàn diệt tạp nhiễm của thức A-lại-da được lập ra sao?

Đáp: Nếu nói lược thì, nên biết, thức A-lại-da nầy chính là chủng tánh của tất cả pháp tạp nhiễm. Vì sao? Vì thức A-lại-da nầy cũng là căn bản sinh khởi của hữu tình thế gian. Nó có công năng sinh ra tác dụng của các căn, làm chỗ nương cho các căn và chuyển thức. Nó cũng là chủng tánh sinh khởi cho khí thế gian, có công năng sinh khởi khí thế gian, mà nó cũng là căn bản sinh khởi lẫn nhau của hữu tình các giống, vì tất cả hữu tình làm cội gốc sanh khởi lẫn nhau. Vì sao? Vì không có hữu tình nào, khi thấy nghe những chúng sinh khác mà không thọ dụng các thọ vui khổ do họ làm phát sinh. Do ý nghĩa đó, nên biết, thế giới của chúng sinh đều làm duyên tăng thương lẫn nhau.

-     Lại nữa, do thức A-lại-da có đủ tất cả hạt giống, nên trong hiện tại, nó là thể của khổ đế, đối với đời vị lai, nó làm nhân sinh khổ đế, nó cũng là nhân sinh ra tập đế trong hiện tại.

Như thế, do thức nầy là căn bản sinh ra hữu tình thế gian, là căn bản sinh ra khí thế gian, là thể tính của khổ đế trong hiện tại, có thể phát sinh khổ đế trong vị lai, có thể làm phát sinh tập đế trong hiện tại, cho nên thức Alại-da nầy là căn bản của tất cả Thánh nhân, nên biết.

Lại nữa, thức A-lại-da nầy thâu nhiếp, gìn giữ tất cả hạt giống gốc lành thuận giải thoát phần, và thuận quyết trạch phần. Ở đây, nó chẳng phải là nhân của tập đế, vì căn lành và thuận giải thoát phần trái với trôi lăn ở các thế gian khác, thức nầy làm nhân cho tất cả gốc lành nên chuyển thành thanh tịnh. Vì sao? Vì duyên ấy, nên thức A-lại-da đã tiếp nhận hạt giống tự loại, mà chuyển thành công năng, mà chuyển thành có sức mạnh, làm lớn lên mãi mà hạt giống được thành lập. Nhờ hạt giống nầy nên các pháp lành kia mới chuyển biến trở nên trong sạch sáng suốt. Lại còn có thể cảm đến quả Dị thục đáng quí mến, gia tăng mãi đời sau.

-     Lại nữa, do dựa vào tất cả hạt giống của thức Alại-da nầy, nên Đức Bạc-già-phạm nói: "Nhãn giới, cõi Sắc, nhãn thức giới cho đến ý giới, pháp giới, ý thức giới đều có trong thức A-lại-da".

Lại nữa, như trong kinh Thí Dụ Ác-Xoa Tụ là do trong thức A-lại-da, chẳng phải chỉ có một giới. Cho nên phải biết, từ căn bản tạp nhiễm của A-lại-da nầy mà tu tập pháp lành, tức là làm chuyển biến, tiêu diệt tạp nhiễm.

Lại nữa, trong tu tập pháp lành, nếu phàm phu duyên vào chuyển biến làm cảnh tác ý, lấy phương tiện trụ tâm để bước vào hiện quán đế lý ban đầu, chẳng phải là họ chưa kiến đế. Trong các đế, dù chưa được pháp nhân, nhưng họ vẫn có thể thông hiểu tất cả hạt giống của thức A-lại-da. Dù chưa thấy đế, nhưng sau khi tu tập như thế, là bước vào chính tính ly sinh Thanh văn hay bước vào chính tính ly sinh của Bồ-tát, thông đạt hết các pháp giới rồi, cũng có khả năng thông suốt thức A-lại-da, thì ngay bấy giờ, quan sát toàn diện tính chất khác nhau bên trong của tất cả tạp nhiễm. Và, còn biết rõ các trói buộc của chính thân bên ngoài; cũng như sự trói buộc thô trọng bên trong.

-     Lại nữa, do hành nầy, cũng bởi thức A-lại-da gom hết tất cả hý luận của các hành. Lược các hành kia, đối với thức A-lại-da, nó chỉ là một nắm, một đống, một nhóm. Tu tập rồi, lấy chân như cảnh trí làm đối tượng, tu tập và tu tập nhiều hơn lên nên chỗ nương bị chuyển biến hằng chuyển y không xen hở. Nên biết, như vậy là đã cắt đứt thức A-lại-da rồi. Do sự cắt đứt nầy nên các pháp tạp nhiễm cũng bị cắt đứt, nên biết.

-     Lại nữa, vì tính chất trái nhau của chuyển y nầy, nên phải biết thức A-lại-da năng trị nầy, thể tính lại vô thường, nó có tính chất nhận lấy. Do khả năng chuyển biến là duyên vào đối tượng cảnh Thánh đạo chân như, cho nên phần thô, nặng của A-lại-da cũng theo đó mà chuyển y. Cuối cùng là tách rời tất cả thô, nặng.

-     Lại nữa, thức A-lại-da là nhân phát sinh phiền não. Nó không phải là nhân sinh Thánh đạo, mà chuyển y là nhân không còn sinh ra phiền não, nên chuyển y làm nhân sinh Thánh đạo. Đây là lập ra thể của nhân, chứ không phải thể của nhân phát sinh.

-     Lại nữa, thức A-lại-da khiến người ta không được tự tại đối với các pháp thiện, thanh tịnh vô ký. Mà chuyển y lại khiến người ta được tự tại đối với tất cả pháp thiện, vô ký.

-     Lại nữa, thức A-lại-da, tướng đoạn diệt của nó là chính nó đoạn diệt tức là bỏ ngay hai thứ tóm lấy, cho nên thân tuy còn sống đây, nhưng giống như biến hóa. Vì sao? Vì nhân khổ đời vị lai, đời sau đã bị cắt đứt, tức là buông bỏ các nương dựa vào vị lai, vào đời sau bằng cách cắt bỏ tất cả nhân phiền não ngay trong hiện tại. Buông bỏ duyên bám là chỗ nương của tất cả phiền não và xa lìa các sự thô trọng cho nên sống đây chỉ tạm thời. Do còn đời sống nầy nên kinh Phật nói: "Bấy giờ chỉ thọ thân cuối cùng, thọ đời sống cuối cùng, nếu hỏi rộng ra là thọ sự tận diệt cuối cùng đối với tất cả pháp hiện tại". Như vậy, do lập ra căn bản tạp nhiễm, do nhắm vào tác ý tu tập thông suốt, do lập ra chuyển y, nên gọi là lập ra tướng hoàn diệt tạp nhiễm của thức A-lại-da. Như vậy, do lý thắng nghĩa mà lập ra tâm, ý, thức rồi. Ấy là tùy theo lý đã nói, cho nên cũng theo lý đó mà hiểu rõ về nguyên tắc của thanh tịnh cũng như bậc Thánh của tất cả tâm ý thức trong ba cõi. Còn đối với chỗ khác với nguyên tắc nào mà làm cho tâm, ý thức sáng tỏ thì đó là vì chỗ khác nhau của hữu tình đã được giáo hóa. Sự giáo hóa ấy chỉ dựa vào trí tuệ có đủ của kẻ ngu tối để giáo hóa bằng cách nói phương tiện khiến hữu tình dễ bước vào pháp.

Hỏi: Có phải trong thành tựu thức A-lại-da cũng là thành tựu chuyển thức chăng? Nếu thành tựu chuyển thức cũng là thành tựu thức A-lại-da chăng?

Đáp: Câu hỏi nầy, nên đặt thành bốn trường hợp, là:

Hoặc thành tựu thức A-lại-da mà không phải chuyển thức, nghĩa là như người vô tâm khi ngủ mê, người vô tâm lúc ngất xỉu, người nhập định Vô tưởng, người nhập định Diệt tận, người sinh lên cõi trời Vô tưởng.

-     Hoặc thành tựu chuyển thức, chứ không phải thức A-lại-da: là an trụ ở giai vị có tâm, như bậc A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát không thụt lùi và Như lai.

-     Hoặc cả hai đều thành tựu thì như người an trụ trong giai vị hữu khác.

-     Hoặc cả hai đều không thành tựu thì như bậc A-lahán, Độc giác, Bồ-tát không thụt lùi và Như lai nhập định Diệt tận, hoặc ở cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

QUYỂN 18

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 2)

Lại nữa, lập ra tướng khác nhau của tâm, nên biết.

Tụng rằng:

Do sức cảnh giới nương,
Lập ra tâm khác nhau.
Lại do bảy thứ hành,
Tướng khó rõ, nên biết.

Luận chép: Tướng khác nhau của tâm, nên biết, lại do sức mạnh của chỗ nương chỗ duyên mà nó được lập ra.

-     Do sức mạnh của chỗ nương là: Lập nhãn thức cho đến ý thức.

-     Sức mạnh của sở duyên: Lập sắc thức cho đến pháp thức, nhận biết về màu xanh, vàng cho đến nhận biết khổ, nhận biết vui. Các pháp như thế lại có bảy thứ hành tướng, cho nên biết về tâm, nhưng lại khó biết về những khác nhau của nó.

1.     Không thể biết tướng khác nhau của sự nối tiếp bền bỉ của khí thế gian.

2.     Không thể biết tướng khác nhau về nhiều cảnh tướng.

3.     Đều có tướng khác nhau.

4.     Tướng khác nhau về năng trị, sở trị, sự chuyển biến đi về mau lẹ.

5.     Tướng khác nhau của tập khí.

6.     Tướng khác nhau của sự sống nối nhau.

7.     Tướng khác nhau của tâm giải thoát. Lại nữa, Tụng rằng:

Sở duyên không tự tại.
Nương vào chỗ ác,
Theo duyên lực chuyển biến,
Tâm bị trói, nên biết.

Luận chép: Tâm bị trói buộc bằng ba nhân:

1.     Không được tự tại đối với sở duyên.

2.     Ở yên chỗ nương uế ác.

3.     Theo sức mạnh của duyên lực mà biến chuyển đối với sở duyên lấy, nó không được tự tại đối với tướng chế phục, đối với giáo hóa, đối với thay đổi, không bằng ước muốn an trụ trong cảnh tự tại.

Lại nữa, Tụng rằng:

Tán loạn và an trụ,
Sáu thứ, mười lăm thứ,
Sáu thứ duyên cảnh giới,
Tâm bị trị chẳng một.

Luận chép: Nên biết, tâm rối loạn có sáu thứ, tâm an trụ có mười sáu thứ, tâm duyên vào cảnh có sáu thứ, chúng khác nhau. Cho nên tâm cần đối trị chẳng phải chỉ có một, nên biết.

Sáu thứ tâm tán loạn là:

1.     Tâm tác ý tán loạn. Nghĩa là các Bồ-tát buông xả tác ý tương ưng của Đại thừa, mà tác ý thấm kém tương ưng với thói quen tu tập thụt lùi của hàng Thanh văn, Độc giác.

2.     Tâm tán loạn bên ngoài là chạy theo năm dục lạc hấp dẫn từ bên ngoài qua cảnh đời huyên náo, suy tìm theo phiền não của cảnh bên ngoài, khiến tâm buông lung tán loạn theo.

3.     Tâm tán loạn bên trong là buồn ngủ, ngủ say một cách thấp kém.

Hoặc bởi say đắm ý vị trong thiền định, hoặc vì các thứ tùy phiền não trong định gây tán loạn tâm.

4.     Tướng tâm tán loạn, như tác ý nương vào tướng bên ngoài mà tư duy tướng mạo của cảnh bên trong.

5.     Tâm thô, nặng tán loạn là tác ý nội tại là duyên sinh khởi các thọ. Do thân thô nặng nên chấp ngã và ngã sở.

6.     Tự tánh tâm rối loạn là năm thức thân tâm an trụ. Có mười lăm thứ:

1.     Sơ phát tâm an trụ, là tu tập phương tiện Tamma-địa.

2.     Tâm an trụ chứng đắc là đã chứng đắc nhưng chưa đến Tam-ma-địa.

3.     Tâm an trụ tròn đầy là chứng đắc Tam-ma-địa tĩnh lự căn bản.

4.     Tâm an trụ tự tại là chính nơi đây được thỏa mãn theo ý muốn của mình.

5.     Tâm an trụ có dao động là đối với tĩnh lự của ba cõi dưới.

6.     Tâm an trụ không dao động là tĩnh lự thứ tư.

7.     Tâm an trụ cảnh vắng lặng trên đây, là cảnh vắng lặng giải thoát ở cõi Vô sắc.

8.     Tâm an trụ tối thắng vắng lặng là giải thoát khỏi tưởng thọ diệt.

9.     Tâm an trụ tín giải là trí phát sinh do nghe pháp.

10.   Tâm an trụ quyết định là trí phát sinh do suy nghĩ.

11.   Tâm an trụ ảnh tượng là trí phát sinh do tu tập pháp thế gian.

12.   Tâm an trụ thành thật là trí phát sinh do tu tập pháp xuất thế gian.

13.   Tâm an trụ xuất ly có tăng thượng mạn, là tĩnh lự vô sắc thế gian.

14.   Tâm an trụ xuất ly có tăng thượng mạn là tĩnh lự vô sắc xuất ly thế gian.

15.   Tâm an trụ ba hành tạp nhiễm là thức theo sắc mà trụ, duyên sắc mà trụ. Như thế cho đến theo hành mà trụ, duyên theo hành mà trụ, nương theo hành mà trụ.

Trong đó, tùy theo sắc mà trụ là duyên chỗ nương của chấp thọ.

- Duyên theo sắc mà trụ là chấp lấy cảnh.

- Nương vào sắc mà trụ là do thô nặng.

Như thế, cho đến tùy theo ba thứ như hành, v.v... Phải biết, thức không phải thức trụ, duyên vào tâm, tâm sở có khả năng diệt hết ái nhiễm.

Lại nữa, duyên vào cảnh giới, có sáu là:

1. Thường duyên cảnh.

2. Không thường duyên cảnh.

3. Duyên cảnh đầy khắp.

4. Duyên cảnh thanh tịnh.

5. Duyên cảnh thiện xảo.

6. Duyên cảnh sạch mê lầm.

Như vậy, trước lại có nhiều thứ duyên cảnh giới khác. Nghĩa là tâm bị trói buộc ở cõi Dục nên duyên vào cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc và cảnh không còn trói buộc.

Cũng thế, tâm bị trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và tâm không bị trói buộc đều duyên vào bốn thứ cảnh.

Lại nữa, theo dựa vào tâm bị trói buộc ở cõi Dục, khởi lên ham muốn với tâm trói buộc, không trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Dựa vào tâm bị trói buộc ở cõi Sắc khởi lên duyên sắc với tâm bị trói buộc và không trói buộc ở cõi Vô sắc. Dựa vào tâm bị trói buộc ở cõi Vô sắc thì khởi lên duyên cõi Vô sắc, với tâm bị trói buộc và không trói buộc.

Lại nữa, quá khứ, tâm duyên theo quá khứ, hiện tại, vị lai. Như vậy, tâm thuộc về hiện tại, vị lai đều duyên vào ba thứ, là tâm duyên vào tâm thiện, bất thiện, vô ký.

Như vậy, tâm bất thiện vô ký, đầu duyên vào ba thứ. Lại nữa, tâm lạc hiện hành đầy đủ thì duyên vào ba thứ cảnh giới lạc hiện hành đầy đủ.

Như vậy, tâm khổ đều hiện hành, tâm không khổ, không vui đều hiện hành mỗi tâm đều duyên vào ba thứ. Tham sân si tương ưng với tâm, mỗi tâm duyên vào tham sân si, tương ưng với ba cảnh giới.

Lại nữa, tâm bị đối trị chẳng phải một là: Có năm thứ tâm bị trói buộc vào cõi Dục, là thấy khổ, tâm đã dứt trừ, cho đến địa vị Đạo, tâm đã đoạn. Như vậy, tâm bị trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, mỗi tâm đều có năm thứ, và tâm vô lậu, họp thành mười sáu thứ tâm. Lại có hai mươi thứ tâm là tâm bị trói buộc ở cõi Dục, có tám thứ:

1.     Tâm thiện khi mới sinh ra đã có.

2.     Tâm thiện nhờ phương tiện.

3.     Tâm bất thiện.

4.     Tâm hữu phú, vô ký và tâm vô phú, vô ký, chia làm bốn thứ là tâm Dị thục sinh, tâm của đường oai nghi, xứ công xảo và tâm biến hóa. Có sáu thứ tâm bị trói buộc ở cõi Sắc, là trừ tâm bất thiện xứ công xảo. Có bốn thứ tâm bị trói buộc ở cõi Vô sắc là trừ tâm bất thiện, đường oai nghi, tâm biến hóa và tâm xứ công xảo. Có hai thứ tâm không bị trói buộc là tâm Hữu học và tâm Vô học.

Lại nữa, nay sẽ nói tâm sở hữu sự thắng quyết trạch.

Tụng rằng:

Nương nhiều cảnh rõ biết,
Đều do tự nghiệp sinh.
Tâm pháp không ứng tư,
Cảnh tương tự thay đổi.

Luận chép: Tâm sở hữu pháp nương vào tám thứ thức, có khả năng duyên theo nhiều cảnh. Mỗi thức đều phát sinh tác dụng để gây ra nghiệp của mình. Do nương vào tâm mới có, nên gọi là pháp sở hữu của tâm. Nó không tương ưng với tư. Cảnh đối tượng của tâm và thức duyên vào nhau mà biến chuyển. Như kinh nói: "Do có thọ nầy nên có tư nầy, từ tư nầy nên có tưởng nầy, có tưởng nầy mới có biết rõ".

Lại nữa, nay nói lược nghiệp đã gây nên do tâm lý biến hành là xúc, tác ý, thọ tưởng, tư.

Tụng rằng:

Ba phân biệt dẫn tâm,
Lãnh vị, xét rõ tưởng,
Những đức và sai lầm,
Là nghiệp tác ý thảy

Luận chép: Phát sinh từ tâm là nghiệp của tác ý. Ba thứ hòa hợp phân biệt là nghiệp của xúc. Cương vị nhận lãnh các điều thuận nghịch hoặc cả hai thứ trái nhau là nghiệp của thọ. Cương vị suy nghĩ kỹ lưỡng là nghiệp của tưởng. Tạo công đức hay gây sai lầm, hoặc cả hai đều không phải nghiệp của tư, trừ nghiệp của tâm pháp như trước có nói rộng.

Lại nữa, nay sẽ nói về sắc, sự quyết trạch. Tụng rằng:

Thượng giới không hương, vị,
Bốn đại tạo có được,
Cực vi không tự thể,
Có bảy việc chẳng thật.

Luận chép: Thượng giới không có hương, vị: từ cõi Dục trở lên, không có hương, vị.

-     Bốn đại tạo có thể có được là: Bốn đại và sắc nó tạo ra, hiện rõ, nơi khối lượng, có được là bốn tướng đã có. Vô sở đắc là không có.

Cực vi không có tự thể là: cực vi chỉ là giả tưởng mà lập ra nên không có tự thể.

-     Bảy việc chẳng có thật là: bảy việc không có thật thể:

1. Biểu sắc.

2. Hình sắc.

3. ảnh tượng.

4. Tiếng vang.

5. Nơi tiếp xúc làm ra sắc.

6. Sắc luật nghi.

7. Sắc không phải luật nghi. Lại nữa, Tụng rằng:

Vi hòa họp không lìa,
Thiện, ác không tự nhiên,
Ngoài tưởng, ba tướng không,
Pháp xứ sắc mười hai.

Luận chép: Cực vi hòa họp không tách lìa. Đối với cái lớn, cực vi không tách rời nó nương vào chỗ tạo sắc. Các sắc ở nơi khác cũng hòa cũng hợp nhưng cũng không tách lìa.

Thiện, ác không tự nhiên có là không phải tự thể của sắc có mang tính thiện, tính ác, nó tùy thuộc vào khả năng phát tâm mà nói là thiện hay ác đều là tạm nói.

-     Ngoài tưởng, ba tướng không có sắc là: Ngoài ba tướng sắc, không còn có sắc nào nữa, là sắc có thấy, có đối, sắc không thấy, có đối. Và sắc không thấy, không đối. Ba tưởng đã hiện hành sắc rồi, không còn có sắc nào nữa, là sắc tưởng có đối, tưởng còn có nhiều tưởng khác nhau.

Pháp xứ sắc có mười hai là: sắc thuộc về pháp xứ nói lược có mười hai tướng:

1.     Tướng ảnh tượng.

2.     Tướng công việc làm đã thành tựu.

3.     Tướng không thấy.

4.     Tướng không đối.

5.     Tướng chẳng phải do đại chủng thật phát sinh.

6.     Tướng thuộc về tâm.

7.     Tướng thế gian.

8.     Tướng bất tư nghì.

9.     Tướng quả vị Tam-ma-địa thế gian.

10.   Tướng Tam-ma-địa xuất thế gian.

11.   Tướng cảnh giới tự địa và địa dưới.

12.   Tướng Chư Phật, Bồ-tát tùy tâm tự tại chuyển biến, bất khả tư nghị.

Lại nữa, nay sẽ nói sự quyết định, lựa chọn cao quý về tâm bất tương ưng hành.

Tụng rằng:

Phải biết bất tương ưng,
Đều giả lập bày có.
Tính giả lập sáu thứ,
Sáu đều có ba lỗi.

Luận chép: Nên biết, Tâm bất tương ưng hành đều là giả có. Tính chất giả có, lược có sáu thứ, nghĩa là nếu về sự thì có thể lập ra sáu thứ ngôn luận:

1. Thuộc về ngôn luận tương ưng với chủ.

2. Ngôn luận xa lìa kia đây.

3. Ngôn luận do các người cùng lập ra.

4. Ngôn luận của các pháp nhóm họp.

5. Ngôn luận không có tính bao gồm tất cả.

6. Ngôn luận phi thường.

-     Thuộc về ngôn luận tương ưng với chủ là các ngôn luận được phối hợp với chủ mới hiểu được tướng ngôn luận, chẳng phải không thuộc về chủ. Như nói lúc sinh, thì ai sinh? Do quán xét biết đã thuộc về chủ, mới lập ngôn luận nầy. Điều gọi là sự sinh của sắc, sự sinh của thọ, tưởng, hành, thức là chẳng phải nói khi sắc là nầy thuộc về ai. Sự quán xét đã thuộc về chủ mới lập ngôn luận nầy. Cũng như sinh, các thứ tâm không tương ưng như sinh trụ vô thường cũng vậy. Như những gì nói tương ưng cũng nên biết hết. Đó gọi là tương ưng với chủ. Các việc có khả năng phát sinh ngôn luận như vậy, nên biết, đều là giả tướng.

-     Ngôn luận xa lìa kia, đây là các loại ngôn luận không lấy cái nầy để làm sáng tỏ cái nầy, cũng không phải lấy cái kia để làm sáng tỏ cái kia. Nói như vậy gọi là ngôn luận xa lìa kia đây. Nếu ngôn luận lấy đây để làm sáng tỏ đây, thì ngôn luận nầy được lập ra từ thật tướng, mà cũng được lập ra từ giả tướng. Nếu ngôn luận lấy kia để làm sáng tỏ kia thì ngôn luận nầy vừa phát sinh từ thật tướng vừa phát sinh từ giả tướng. Nếu chẳng phải lấy đây để làm sáng tỏ đây, cũng không phải lấy kia làm sáng tỏ kia, thì ngôn luận người kia ngôn luận người nầy, đều hoàn toàn phát sinh từ giả tướng. Thế nào là dùng ngôn luận đây để làm sáng tỏ đây, từ thật tướng phát sinh? Như nói đất cứng, thì làm thế nào đất nầy lại phát sinh từ giả tướng? Như nói viên đá tròn, như đất cứng, đá tròn, như nước ướt, dầu trơn, lửa nóng, gió thổi lửa cháy phừng, gió động trống vang, phải biết, cũng như vậy. Làm sao dùng ngôn luận người kia làm sáng tỏ người kia, phát sinh từ thật tướng? Như nói thức của mắt, tiếp xúc của thân, như thế, vì sao các cảm giác nầy lại phát sinh từ giả tướng? Như nói Phật cứu giúp người có đức đáng mến bằng những thư ăn uống, y phục, đồ dùng tốt đẹp. Những thứ như vậy, vì sao chẳng phải lấy đây làm sáng tỏ đây? Cũng không phải dùng ngôn luận của người kia làm sáng tỏ người kia, hoàn toàn sinh khởi giả tướng.

-     Như cửa nhà, vách nhà, miệng chum, hông chum, xe của lính, cây rừng, mười phần trăm, ba phần mười. Những việc như vậy, gọi là ngôn luận xa lìa đây kia.

-     Ngôn luận mà các người lập ra là sáu thứ lớp thể của tướng mạo ngôn luận đặt ra ngôn luận. Sáu thứ tướng mạo là:

1. Sự tướng.

2. Tướng tương ưng với thức.

3. Tướng tốt đẹp.

4. Tướng che.

5. Tướng trạng nói năng.

6. Tướng tà hạnh.

-     Sự tướng là hoặc tướng thức đã chấp lấy.

-     Tướng tương ưng với thức là tướng do tác ý nên phát sinh thức.

-     Tướng tốt đẹp là tướng tiếp xúc nhận lấy nó.

-     Tướng che là tướng chấp của thọ.

-     Tướng trạng nói năng là tướng tưởng đã chấp lấy.

-     Tướng tà hạnh là tướng nhận lấy của suy nghĩ.

-     Ngôn luận của nhóm họp các pháp là ngôn luận đối với số nhiều mà hòa hợp an lập tự thể, như ngôn luận đối với nội sắc, thọ, tưởng, hành, thức cho đó là ngã, v.v... ngôn luận về sắc bên ngoài như hương, vị, xúc an lập khác nhau mà nói là nhà, là chum, là lính, là rừng.

-     Ngôn luận không có tính chất bao gồm tất cả là các ngôn luận có nơi tùy thuộc chuyển biến, có nơi lui về, như nói nhà nhà thì chỉ tùy nhà mà chuyển biến lên, còn đối với thôn, đình tức là lui về. Đối với lời nói: "Mỗi cái chum" cũng như những dụng cụ hình khác, tức là lùi lại. Nói lính với chỗ khác nhau nam nữ, là lùi lại.

-     Ngôn luận phi thường: nên biết, có bốn thứ nhân, là phá hoại, không phá hoại, gia hạnh và chuyển biến.

-     Do phá hoại là như cái bình bể, đã là bình bể thì ngôn ngữ về bình bỏ, ngôn ngữ về gạch ngói sinh.

-     Do không phá hoại: như các vị thuốc trộn với nhau rồi hoặc là thuốc hoàn, thuốc tán, không còn gọi thuốc nữa mà gọi là tán hoàn v.v... sanh.

-     Do gia hạnh: như đem thoi vàng gia công làm các đồ vòng xuyến trang sức rất đẹp, lúc bấy giờ không còn nói thoi vàng mà gọi bằng tên khác là vòng, xuyến, v.v...

-     Do chuyển biến: như đồ ăn uống, sau khi nó chuyển hóa thì chỉ nói là phân nhơ, không gọi đồ ăn nữa. Các loại như vậy, nên biết. Ngôn luận phi thường đều dùng tùy theo các sự vật, mà có sáu thứ ngôn luận như vậy, nên biết, sự vật đều là giả có.

Hỏi: Các tâm bất tương ưng hành đều là giả có nên biết thế nào? Đáp: Do hai lỗi:

1. Lỗi về nhân.

2. Lỗi về thể.

-Lỗi về nhân là nếu nói sinh là nhân của sinh vì có thể sinh cái sinh nên gọi là sinh. Tức không có quả nào khác để sinh ra được. Sinh nầy là gì? Do nhân chủ thể sinh nên gọi là sinh. Nếu nói sinh là thể của sinh thì sinh từ một cái khác, không thể nói năng sinh. Như vậy, các tâm bất tương ưng hành, như lý nên biết.

Lại nữa, sắc kia cho đến tâm không tương ưng hành, các pháp hữu vi đều là tính chất của nhân. Nhân nầy quyết định phải lựa chọn, nay sẽ nói.

Tụng rằng:

Nhân ba lỗi, chẳng năm,
Tướng nhân, lược buộc, hợp.
Chỗ nương tựa khác nhau,
Có lập ra nhiều thứ.

Luận chép: Có lối chấp lạ là lập sáu thứ nhân: nhân cùng loại nhân cùng khắp, nhân cùng có, nhân tương ưng, nhân dị thục và nhân năng tác. Sáu nhân như vậy, trừ nhân dị thục, còn năm món kia đều không hợp lý. Vì mắc phải ba lỗi, ba lỗi là: như nhân đồng loại có ba lỗi:

-     Nếu nói nhân cùng loại nên gọi là nhân cùng loại thì mắc lỗi đã thành lập. Vì sao? Vì nếu pháp thiện là thể tánh của pháp thiện thì nó thành tựu trước rồi, đâu cần tới nhân.

Nếu nói cùng loại là nhân nên gọi là nhân cùng loại thì ở đây không có quả, có lỗi bất định. Vì sao? Vì không làm rõ quả của nhân ấy. Cái gì là nhân? Chẳng quyết định là nhân thể cùng loại, bởi pháp na ná cũng là nhân.-Nếu nói chẳng phải cùng loại thì nhân cũng chẳng phải nhân cùng loại, thì đây là ngôn từ mắc lỗi nói suông, do nhân cùng loại không có ai làm chủ, ấy quan điểm gàn dở. Như vậy, trong bốn nhân thì ba nhân đã mắc lỗi, cũng nên như lý mà nói rộng. Lại nữa, đã phá về nhân không đúng lý. Hiện tại lập ra tướng nhân đúng lý. Nếu nói lược thì có hai thứ nhân:

1. Nhân tướng trói buộc.

2. Nhân tướng hòa họp.

-     Nhân tướng trói buộc là phiền não tùy miên, đây là các pháp nương vào năng sinh ở đời sau mà nói.

-     Nhân tướng hòa họp là các pháp sinh khởi đều do nhân duyên hòa hợp. Đây là căn cứ vào năng sinh trong hiện tại mà nói.

Lại nữa, nên biết, đây chỉ là nói lược về tướng nhân. Nếu y theo chỗ khác nhau để lập ra thì sẽ có nhiều thứ tướng.

-     Tướng là nếu bởi tướng nhân nầy là trước thì lập ra nó. Do nó đã hòa hợp nên các pháp sinh ra. Nhân tướng đó hoặc sinh hoặc chứng đắc, hoặc đang thành lập hay thành lập rồi, hoặc khởi tác dụng. Nên biết, nói tướng nầy tức là nhân kia.

Hỏi: Lấy gì làm trước lập ra cái gì? Cái gì hòa hợp? Pháp nào sinh lên?

Đáp: Hạt giống mình là trước, ngoài hạt giống nương tựa. Số còn lại hoặc là nương vào sắc, phi sắc và nghiệp để lập. Bạn và sở duyên là hòa hợp, như các pháp được thích hợp với sự trói buộc cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc và các pháp sinh khởi không bị trói buộc.

Hỏi: Lấy gì làm trước? Lập ra cái gì? Cái gì hòa hợp? Chứng pháp gì?

Đáp: Thanh văn, Độc giác và chủng tính Như lai làm đầu. Lấy sức nội nhân để lập, lấy sức ngoại nhân làm hòa hợp, lìa các trói buộc phiền não, chứng Niết-bàn.

-     Sức nội nhân trong đây là tác ý đúng như chân đế, về pháp lành phần trong của thiểu dục tri túc, sinh làm thân người ở chỗ bậc Thánh, các căn đầy đủ, không bị các nghiệp chướng, có lòng tin trong sạch đối với Đức Như lai. Các pháp như vậy, gọi là sức mạnh của nội nhân.

-     Sức mạnh ngoại nhân là Chư Phật ra đời nói pháp mầu nhiệm. Ai an trụ trong chánh pháp làm bạn với các những người ấy, làm thí chủ với ai có đức in và lòng thương người. Các pháp như vậy gọi là sức mạnh ngoại nhân.

Hỏi: Lấy gì làm trước? Lập ra cái gì? Cái gì hòa hợp? Thành lập pháp gì?

Đáp: Đối với pháp đã biết, hiểu rõ, ưa thích làm trước. Lấy tông nhân, dụ để lập. Không trái với ai và đối với luận giả được hòa hợp, muốn lập nghĩa mới thành lập.

Hỏi: Lấy gì làm trước? Lập ra cái gì? Cái gì hòa hợp?

Pháp nào được thành xong?

Đáp: Trí công xảo làm trước, theo trí đó mà siêng năng hết sức để lập. Tay nghề khéo léo với các dụng cụ được hòa hợp. Trí và tay nghề khéo léo kia hoàn thành. Lại nữa, lòng thương mến là trước. Nương vào nơi ăn ở mà lập. Do bốn thứ ăn mà hòa hợp, nên hữu tình sinh ra, vì nuôi dưỡng mà được sống yên lành.

Hỏi: Lấy gì làm trước? Lập ra cái gì? Cái gì hòa hợp? Pháp nào làm công dụng?

Đáp: Lấy hạt giống của mình làm trước, tức lấy hạt giống đời trước mà lập ra. Hạt giống đó, được duyên làm phát sinh bởi hòa hợp. Người tự tạo nghiệp, tự được tác dụng mà được thành xong.

-     Tự tạo nghiệp, như mắt thấy nghiệp. Như vậy, ngoài các căn khác nên biết, mỗi căn đều có nghiệp gây ra khác nhau. Lại, như đất có công năng gìn giữ nước, có thể cuốn trôi tan rã, lửa có công năng đốt cháy, gió có công năng làm khô. Các loại như vậy đều gọi là pháp ngoại. Mỗi loại đều gây ra nghiệp khác nhau.

-     Y xứ, có mười lăm thứ nhân duyên về chỗ nương.

1.   Ngữ.

2.   Lãnh thọ.

3.   Tập khí.

4.   Hạt giống có thấm nhuần.

5.   Hoại diệt không xen hở.

6.   Cảnh giới.

7.   Căn.

8.   Tác dụng.

9.   Sĩ dụng.

10. Thấy chân thật.

11. Thuận theo.

12. Công năng khác nhau.

13. Hòa hợp.

14. Chướng ngại.

15. Không chướng ngại.

-     Khác nhau: là mười nhân, bốn duyên, năm quả. Mười nhân là nhân tùy thuyết, nhân quán sát đợi chờ, Nhân dẫn dắt, Nhân sinh khởi, Nhân nhiếp thọ, Nhân dẫn phát, Nhân định khác, Nhân đồng sự, Nhân trái nhau, Nhân không trái nhau.

-     Bốn duyên là duyên nhân, duyên đẳng vô gián, duyên sở duyên, duyên tăng thượng.

-     Năm quả là quả Dị thục, quả đẳng lưu, quả xa lìa trói buộc, quả sĩ dụng, quả tăng thượng.

Trong đây, tùy theo các pháp mà gọi là trước thì tưởng, vì tưởng là trước. Đó là theo các pháp mà nói nhân.

Nếu do quán sát đợi chờ, hoặc do nhân nầy với các sự kia, hoặc tìm kiếm, hoặc chấp lấy, đó là nhân quán sát đợi chờ, như quán sát đợi chờ tay thì tay là nhân. Khởi chấp lấy nghiệp là quán sát đợi chờ chân thì chân là nhân. phát sinh nghiệp đi tới, quán sát đợi chờ thời tiết thì thời tiết là nhân. Phát khởi nghiệp co duỗi vì quán sát đợi chờ đói khát thì đói khát là nhân. Theo dõi mong ăn uống v.v... tùy theo vô lượng thứ như vậy. Nên biết, những thứ ấy, đều gọi là nhân quán sát chờ đợi.

Hoặc hạt giống đối với tự quả sau cuối là nhân dẫn dắt thì hạt giống nầy là nhân sinh khởi tự quả. Ngoài hạt giống, các duyên còn lại là nhân nhiếp thọ, tức hạt giống nầy đã sinh khởi quả là việc sau. Hạt giống nầy đã dắt dẫn quả, dẫn nhân phát sinh, nó có khả năng gây ra các thú dị loại mà mỗi thứ đều có nhân khác nhau. Đó gọi là nhân quyết định khác nhau.

-     Nếu nhân quán sát đợi chờ, hoặc nhân dẫn dắt, hoặc nhân sinh khởi, hay nhân nhiếp thọ, hoặc nhân dẫn phát, hoặc nhân quyết định khác nhau, thì thâu nhiếp hết các nhân như thế, v.v… gọi là nhân Đồng sự.

-     Hoặc đối với những cái đã sinh, nó làm chướng ngại, đó gọi là nhân trái nhau. Nếu xa lìa chướng ngại thì đó gọi là nhân không trái nhau.

-     Hạt giống các pháp là duyên nhân duyên Đẳng vô gián là từ thức Đẳng vô gián nầy mà các thức quyết định phát sinh tác dụng. Đây là duyên đẳng vô gián của nó.

Đối tượng của pháp tâm, tâm sở hữu là duyên sở duyên.

-     Duyên Tăng thượng là ngoài hạt giống, những chỗ nương khác như nhãn và các pháp cùng có đối với nhãn thức. Như vậy, các căn khác và thức đối khác. Các pháp thiện, bất thiện dẫn đến hậu thọ quả đáng yêu mến, không đáng yêu mến. Các loại như vậy là duyên tăng thượng.

-     Các pháp bất thiện đã gây ra dị thục đường ác. Pháp thiện hữu lậu đã gây nên dị thục đường thiện, đó gọi là quả Dị thục.

-     Còn quen theo bất thiện, ở yên với bất thiện thì bất thiện ngày càng gia tăng. Còn quen theo thiện, ở yên với thiện thì pháp thiện gia tăng. Lại nữa, tùy theo nghiệp chuyển y mà nghiệp trước tương tự làm quả báo sau. Đó gọi là quả đẳng lưu.

-     Còn nương vào Tám Thánh đạo mà diệt phiền não, ấy là quả thoát khỏi trói buộc.

-     Còn phàm phu noi theo pháp thế gian mà dứt trừ phiền não, nhưng không gọi là quả thoát khỏi trói buộc vì chưa chuyển y rốt ráo.

-     Còn đối với pháp hiện tại, các người trong thế gian nầy, tùy theo nghề khéo léo mà làm khởi lên tay nghề của các người, nghĩa là các nghề chính như buôn bán, nông nghiệp, kinh doanh, hành chính, kế toán, ấn loát. Do dựa vào nghề nghiệp mà hạt giống nẩy mầm sung mãn, gặt hái được thành quả tốt đẹp, ích lợi, đó gọi là quả sĩ dụng.

-     Nhãn thức là quả tăng thượng của thị giác. Cũng thế, cho đến ý thức là quả tăng thượng của ý căn. Lại thân các chúng sinh không tan hoại là quả tăng thượng của mạng căn hai mươi hai căn đều có sức tăng thượng riêng của mỗi căn, nên quả của chúng đều được phát sinh. Nên biết các quả của chúng đều gọi là quả tăng thượng.

-     Lập ra là dựa vào các nhân, dựa vào chỗ để lập ra tùy theo và nói về nhân. Vì sao? Vì đối với pháp bị trói buộc ở cõi Dục, pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp không trói buộc mà lập ra. Vì gọi là đầu tiên nên tưởng chuyển biến. Vì có tưởng đi trước mới sinh ra lời nói, do ngôn ngữ tùy theo vào thấy nghe, hay, biết mới sinh ra nói năng. Cho nên dựa vào ngôn ngữ, dựa vào nơi chốn, tùy theo nói về nhân mà lập ra.

-     Dựa vào nhân nhận lấy, dựa vào nơi chốn, mà lập ra nhân quán sát đợi chờ. Vì sao? Các hữu tình mong muốn tìm cầu, bị niềm vui cõi Dục buộc ràng. Vì dùng nơi kia quán xét nơi nầy, đối với những gì mình ham muốn, tìm cầu cho được, hoặc tìm kiếm chứa nhóm, hoặc để thọ dụng. Các hữu tình tìm kiếm ở cõi Sắc, cõi Vô sắc bị niệm ở đó trói buộc, dùng nơi kia để quán xét nơi nầy, nên đối với các duyên, hoặc tìm kiếm mà được. Hoặc tìm kiếm để thọ dụng. Người hữu tình mong cầu niềm vui không ràng buộc, dùng nơi kia quán xét nơi nầy, đối với các duyên có được, duyên cắt đứt thì cầu xa lìa, hoặc cầu để hưởng dụng. Cho nên dựa vào nhận lấy, dựa vào nơi chốn mà lập nhân quán sát đợi chờ.

-     Dựa vào nhân thói quen, dựa vào nơi chốn mà lập ra nhân dẫn dắt. Vì sao? Vì nghiệp tịnh, bất tịnh xông ướp các hành của ba cõi, nên sống với những gì đáng yêu mến hay không đáng yêu mến. Từ đó cảm nhận thân mình đáng yêu mến hay không đáng yêu mến. Do sức mạnh thêm lớn nầy mà gặt hái được nhiều của cải tràn đầy hay có lúc bị giảm bớt. Cho nên dựa vào các hành tịnh hay bất tịnh và dựa vào thói quen nơi chốn mà lập ra nhân dẫn dắt.

-     Dựa vào nhân hạt giống có thấm nhuần, dựa vào nơi chốn mà lập ra nhân sinh khởi. Vì sao? Vì các pháp trói buộc ở cõi Dục và các pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, mỗi thứ đều phát sinh từ hạt giống của nó. Yêu mến là năng thấm ướt, hạt giống là đối tượng thấm ướt. Do hạt giống bị thấm ướt nầy, trước, nó đã dẫn dắt chúng sinh đến với mỗi thân khác nhau từ đó sinh khởi cho đến ngày nay. Như kinh nói:

"Nghiệp là do nhân mê hoặc sinh ra, ái là nhân sinh khởi. Cho nên nương vào hạt giống, nơi chốn có thấm nhuần mà lập ra nhân sinh khởi".

-     Dựa vào nhân vô gián diệt, dựa vào nơi chốn và tác dụng sĩ dụng của căn, cảnh, giới, nhận thấy chân thật, dựa vào nơi chốn mà lập ra nhân nhiếp thọ. Vì sao? Vì các pháp trói buộc ở cõi Dục đã tiếp nhận hoại diệt không xen hở. Vì nhiếp thọ cảnh giới, nhiếp thọ căn, nhiếp thọ tác dụng, nhiếp thọ sĩ dụng cho nên các hành kia chuyển biến, như các hành bị trói buộc ở cõi Dục, như các hành đời sống bị trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, cũng vậy. Do nhiếp thọ hiểu biết chân thật nên không có trói buộc nào khác đối với các hành chuyển biến. Cho nên dựa vào hoại diệt không xen hở, dựa vào tác dụng sĩ dụng của căn cảnh, giới, hiểu biết chân chính, nơi chốn mà lập ra nhân nhiếp thọ.

-     Dựa vào nhân thuận theo, nơi chốn mà lập ra nhân dẫn phát. Vì sao? Vì pháp thiện trói buộc ở cõi Dục có thể dẫn đến các pháp thiện cao quý trói buộc ở cõi Dục. Các pháp thiện trói buộc ở cõi Dục Cũng thế, có thể dẫn đến các pháp thiện tốt đẹp hơn trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc do thuận theo nhân nơi chốn. Như pháp thiện trói buộc ở cõi Dục, pháp thiện trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc Cũng thế có thể dẫn đến các pháp thiện cao quý trói buộc ở cõi Sắc, trói buộc ở cõi Vô sắc hay các pháp thiện tốt đẹp không trói buộc. Như pháp thiện trói buộc ở cõi

Sắc, pháp thiện trói buộc ở cõi Vô sắc Cũng thế có thể dẫn đến pháp thiện tốt đẹp trói buộc cõi Vô sắc và pháp thiện không trói buộc, như pháp thiện trói buộc cõi Vô sắc.

Pháp thiện không trói buộc như vậy, có thể dẫn đến các pháp thiện tốt đẹp không trói buộc và có thể dẫn đến tác chứng vô vi, pháp bất thiện có thể dẫn dắt đến pháp bất thiện nặng nề hơn, như tham lam dục vọng có thể đưa đến hành vi ác của thân, hành vi ác của lời, nói, hành vi ác của ý như giận dữ, ngu si, ngã mạn, ác kiến, nghi ngờ. Như dục vọng tham, sân, si, mạn, kiến, nghi như vậy, cũng như các pháp tương ưng với chúng, nên biết.

Cũng thế, pháp vô ký có thể dẫn đến pháp thiện, bất thiện, vô ký.

Thức A-lại-da có khả năng giữ gìn hạt giống thiện, bất thiện, vô ký.

Lại nữa, pháp vô ký có thể dẫn đến pháp vô ký vượt hơn cùng loại. Nghĩa là các cách ăn dẫn đến cho đời sống hữu tình giúp nó an ổn, không hư hoại, và có thể đem đến cho ho những thoải mái lành mạnh làm cho thêm lớn. Ấy là do thuận theo. Cho nên dựa vào nhân thuận theo, nơi chốn mà lập ra nhân dẫn phát.

-     Dựa vào nhân công năng khác nhau, nơi chốn mà lập ra nhân quyết định khác nhau. Vì sao? Vì tự thể pháp trói buộc ở cõi Dục về công năng có khác nhau, nên chúng có thể phát sinh các tự thể khác nhau.

Như pháp trói buộc ở cõi Dục, pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và pháp không trói buộc cũng vậy. Cho nên dựa vào công năng nơi chốn khác nhau, mà lập ra nhân quyết định khác nhau.

-     Dựa vào nhân hòa hợp, nơi chốn mà lập ra nhân đồng sự. Vì sao? Vì cốt yếu có hòa hợp phát sinh cho nên pháp trói buộc ở cõi Dục được phát sinh. Như pháp trói buộc ở cõi Dục, pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và không trói buộc, cũng như vậy. Như sinh hòa hợp, Cũng thế được hòa hợp, thành lập hòa hợp, thành tựu hòa hợp, tác dụng hòa hợp cũng vậy. Cho nên nương vào hòa hợp, nơi chốn mà lập ra nhân đồng sự.

-     Dựa vào nhân có chướng ngại, nơi chốn mà lập ra nhân trái nhau. Vì sao? Vì khi pháp trói buộc ở cõi Dục sắp phát sinh, thì có chướng ngại trước mắt, chúng không phát sinh được. Như pháp trói buộc ở cõi Dục, pháp trói buộc ở cõi Vô sắc, vô sắc và không trói buộc, cũng như vậy. Vì muốn sinh như vậy, muốn được, muốn thành lập, muốn tác dụng cũng như vậy, cho nên dựa vào chướng ngại, nơi chốn để lập ra nhân trái nhau.

-     Dựa vào nhân không chướng ngại, nơi chốn mà lập ra nhân không trái nhau. Vì sao? Do khi pháp trói buộc ở cõi Dục sắp phát sinh, nếu không bị cái gì chướng ngại trước mắt thì nó phát sinh. Như pháp trói buộc ở cõi Dục, pháp trói buộc ở cõi Sắc, cõi Vô sắc và không trói buộc, cũng như vậy. Như sinh như vậy, được thành lập rồi, tác dụng cũng như vậy, cho nên nương vào không chướng ngại, nơi chốn mà lập ra nhân không trái nhau.

Lại nữa, dựa vào duyên hạt giống, nơi chốn để lập ra nhân duyên. Dựa vào duyên diệt không xen hở, nơi chốn mà lập ra duyên Đẳng Vô gián. Dựa vào cảnh giới đối tượng, nơi chốn mà lập ra duyên sở duyên. Dựa vào duyên khác, nơi chốn mà lập ra tăng thượng duyên.

Lại nữa, dựa vào thói quen và nhân thuận theo, dựa vào duyên, nơi chốn mà lập ra quả dị thục của quả đẳng lưu.

-     Dựa vào cái thấy chân thật, dựa vào duyên, nơi chốn mà lập ra quả lìa khỏi trói buộc. Dựa vào nhân sĩ dụng, các duyên, nơi chốn mà lập ra quả sĩ dụng. Dựa vào nhân khác, các duyên, nơi chốn mà lập ra quả tăng thượng.

Lại nữa, Nghĩa thuận ích là nghĩa nhân, mà lập ra nghĩa là nghĩa duyên. Nghĩa hoàn thành là nghĩa quả.

Lại nữa, lập nhân có năm thứ tướng là nhân năng sinh, nhân phương tiện, nhân câu hữu, nhân vô gián diệt và nhân diệt lâu xa.

-     Nhân năng sinh là sinh khởi.

-     Nhân phương tiện là các nhân khác.

-     Nhân câu hữu là một phần của nhân nhiếp thọ, như mắt đối với nhãn thức. Cũng thế, tai đối với các thức khác.

-     Nhân diệt không xen hở là nhân sinh khởi.

-     Nhân diệt lâu xa là nhân dẫn dắt.

-     Lại nữa, nhân lập ra có năm tướng là nhân đáng yêu mến, nhân không đáng yêu mến, nhân tăng trưởng, nhân lưu chuyển và nhân hoàn diệt.

Lại nữa, nhân lập ra có bảy tướng: pháp vô thường là tướng của nhân. Pháp không có thường được gọi là nhân, là nhân sinh hay nhân đạt được, nhân thành lập, nhân làm xong việc và nhân tác dụng.

Lại nữa, khi pháp vô thường là nhân của pháp vô thường, thì tính chất vô thường là nhân. Không phải tính tự kỷ, cũng là nhân cho tự tính về sau, chẳng phải ngay trong giây phút nầy. Lại nữa, làm nhân cho tính chất khác, và lúc tự tính về sau là nhân thì đã sinh nhưng chưa diệt, chẳng phải chưa sinh mà đã diệt. Lại nữa, khi pháp đã sinh chưa diệt làm nhân thì nó sẽ không được duyên khác, chứ chẳng phải không được. Lại nữa, lúc có duyên khác thì phải trở thành đổi khác, không phải chưa trở thành đổi khác. Lại nữa, khi trở thành đổi khác, thì phải có công năng tương ưng với nó, chứ không phải công năng thoái thất.

Lại nữa, khi công năng tương ưng thì phải thuận theo bình đẳng, chứ chẳng phải không thuận theo bình đẳng.

Cũng thế, bảy tướng nhân, như các pháp được tương ứng với các nhân đã lập ra, nên biết.

Lại nữa, nay sẽ nói về pháp quyết trạch vô vi. Tụng rằng:

Vì tâm sở duyên thảy,
Là sở duyên thanh tịnh,
Bốn thứ lìa trói buộc,
Lập ra tám vô vi.

Luận chép: Tám thứ vô vi thì trong phẩm thâu nhiếp sự đã nêu. Hư không vô vi là do cảnh sở duyên của tâm tương tự nên lập là thường, là do nó không duyên tâm kia mà duyên vào cảnh giới có lúc thay đổi.

Do sở duyên thanh tịnh nên lập ra chân như. Do chân như nầy như khi thanh tịnh duyên vào thể tướng, do thường an trụ Cũng thế, do xa lìa bốn thứ trói buộc, nên lập ra bốn thứ vô vi khác, nghĩa là bốn thứ như phi trạch diệt, v.v...

-Xa lìa nghĩa là duyên khác nhau đưa đến thoát khỏi trói buộc hoàn toàn. Giản trạch phiền não, hoàn toàn tách khỏi trói buộc, lìa khỏi trói buộc khổ vui tạm thời. Tâm tâm pháp tạm thời lìa khỏi trói buộc. Như vậy, đã nói tất cả quyết trạch về phạm vi các sự. Nay sẽ nói quyết trạch.

Tụng rằng:

Cần phải biết, ba cõi,
Mười hai tướng khác nhau.
Sở trị và năng trị,
Chỉ năng tổn phục chủng.

Luận chép: Nên biết ba cõi là cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, có mười hai thứ tướng khác nhau là:

1.     Có nhiều thứ khác nhau, đây nên biết có sáu thứ là nhiều thứ nương, nhiều thứ tướng mạo, nhiều thứ nơi chốn, nhiều thứ cảnh giới, nhiều thứ phiền não, nhiều thứ tạo nghiệp.

2.     Đường khác nhau.

3.     Khổ, vui, không khổ không vui đều hiện hành khác nhau.

4.     Khó khăn, không khó khăn, khác nhau, như ở cõi Dục có khó khăn hay không có khó khăn. Hai cõi trên chỉ có một ít công năng khó khăn.

5.     Nơi không thanh tịnh, thân không thanh tịnh khác nhau. Nghĩa là chỗ ở không trong sạch, nhưng thân thì trong sạch, là sinh với nơi không có tai nạn, trong cõi Dục. Hoặc có chỗ ở trong sạch, không phải thân thanh tịnh, là phàm phu ở cõi Sắc, cõi Vô sắc hoặc có nơi ở không trong sạch và thân không trong sạch, là sinh vào nơi có tai nạn trong cõi Dục.

-Hoặc có nơi ở trong sạch, thân trong sạch, là người ở cõi Sắc, cõi Vô sắc đã thấy đế.

6. Thọ dụng khác nhau là ở cõi Dục thọ dụng ở cửa ngoài của cảnh giới và thọ dụng bốn thứ ăn. Hai cõi trên thọ dụng ở trong cảnh giới, họ chỉ thọ dụng có ba thứ ăn. 7. Thiện căn hơn kém khác nhau.

8.     Gốc lành khác nhau vì xen lẫn việc làm ác, không xen lẫn việc làm ác.

9.     Khác nhau về nặng, dày, mỏng, to.

10.   Đời sống khác nhau.

11.   Tự thể có được khác nhau. Ở cõi Dục, có đủ bốn thứ đắc tự thể. Hai cõi trên chỉ có một thứ, do cõi trên ấy, không có việc hại mình, hại người.

12.   Lời nói khác nhau là ở cõi Dục, có đủ bốn thứ lời nói. Ở cõi Sắc không có cảm giác, không suy lường. Ở cõi Vô sắc thì tất cả đều không có, cho nên phải biết, ba cõi năng trị và sở trị đều khác nhau. Cõi Dục là sở trị, cõi Sắc là năng trị. Cõi Sắc là sở trị, cõi Vô sắc là năng trị. Lại nữa, cõi dưới là sở trị, cõi trên là năng trị. Đối trị như vậy chỉ gây tổn hại, đè bẹp hạt giống, khiến chúng yếu kém mà thôi. Chẳng phải mãi mãi hại chúng, nên chúng vẫn tái sinh.

Lại nữa, Tụng rằng:

Biển pháp vương vị mặn,
Cõi Dục, ác sống lâu,
Nhiều thế giới chung một,
Đều thứ hai nhân duyên.

Luận chép: Do đâu mà quỉ Diệm-ma tự xưng là Pháp Vương? Do y đem lợi ích chúng sinh. Có hai thứ nhân có thể giúp ích:

1.     Khiến chúng sinh nhớ lại những gì mà mình đã làm đời trước, giúp họ tự quở trách, nhàm chán nghiệp ác đời trước.

2.     Khiến bọn ngục tốt trong Na-lạc-ca không còn gây ra nghiệp ác nữa. Sớm ra khỏi Na-lạc-ca.

Vì sao nước trong các biển đều có một vị mặn của lòng thương?

Do hai lý do:

1.     Vì nước đem phước lực thêm lớn cho chúng sinh, làm cho chúng sinh khác không thể tiến vào.

2.     Đối với chúng sinh không có phước thêm lớn ở đất liền, khiến họ không xuống biển mò châu báu được.

-Vì sao đường bàng sinh ở Na-lạc-ca, không phân chia tuổi thọ dài xa của chúng sinh, không thuộc về đường thiện trong cõi Dục? Do hai nguyên nhân mà đường ác sống dai.

1.     Do pháp lành ở cõi Dục phải do sức cố gắng suy tư, lựa chọn mới phát sinh được.

2.     Các pháp bất thiện không do suy tư, lựa chọn, duyên vào đó mà sinh khởi.

-Vì sao trong tam thiên đại thiên thế giới, cho đến tầng trời Sắc Cứu Cánh, mà chỉ nói là có một thế giới chót hết là Phạm Thế, dù có nhiều thế giới? Cũng do hai nguyên nhân:

1. Cùng thành, hoại.

2. Do lập ra chúng hội.

QUYỂN 19

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 3)

Như vậy, đã nói xong về quyết trạch giới sự, đối với các tạp nhiễm mà quyết định lựa chọn vượt hơn. Phiền não tạp nhiễm lựa chọn vượt hơn ra sao, nay sẽ nói.

Tụng rằng:

Ý tương ưng bốn hoặc,
Biến hành cùng khởi lên,
Vô ký diệt sau cùng.
Tính kia sinh ra theo.

Luận chép: Nên biết, ý tương ưng với phiền não đi khắp tất cả vị trí, tất cả tâm thiện hữu lậu. Chúng hiện hành cùng lúc không trái nhau. Lại nữa, phiền não nầy cùng lúc sinh khởi, chẳng phải phân biệt mà khởi. Nó là loại tính chất hữu phú vô ký, không phải tính bất thiện. Nó bị dứt ngay vào Định Kim cương Dụ. Lại nữa, phiền não nầy có bốn thứ là vô minh, Tát-ca-da kiến (thân kiến), ngã mạn, ngã ái. Nên biết, nếu Bổ-đặc-già-la sinh trong thế giới nầy, thì ý tương ưng với phiền não, tức thuộc về thể tính của cõi nầy.

Tụng rằng:

Tất cả sinh nối tiếp,
Hiện khởi cùng với duyên,
Cảnh tùy miên thô, nặng,
Đều hai mươi khác nhau.

Luận chép: Nếu sinh vào thế giới nầy, tức đất là giới hạn của đất, tất cả phiền não cứ nối nhau sinh mãi. Lại nữa, phiền não tạp nhiễm hoặc hiện hành, hoặc duyên, hoặc tùy niên, hoặc cảnh sở duyên, hoặc thô, nặng, nên biết, mỗi phiền não đều có hai mươi tướng. Hiện hành của hai mươi tướng ấy là:

1.     Hiện hành tùy theo sự trói buộc ở cõi Dục, nghĩa là người tại gia.

2.     Hiện hành không tùy theo sự trói buộc ở cõi Dục, nghĩa là người xuất gia.

3.     Không biết rõ, nghĩa là người nói pháp ở chỗ ác.

4.     Có hiểu rõ là nói pháp nơi chỗ lành.

5.     Thêm lớn cho nhau, là các hành vi như tham, v.v...

6.     Đều bình đẳng là thực hành phần bình đẳng.

7.     Kém mỏng là thực hành việc trần kém mỏng.

8.     Hiện hành sự trói buộc ở cửa ngoài là người lìa khỏi ham muốn.

9.     Hiện hành sự trói buộc ở cửa trong là lìa trói buộc ham muốn đạo lý thế gian.

10.   Hiện hành trói buộc thêm lớn, nghĩa là phàm phu.

11.   Hiện hành sự trói buộc quên mất là hàng Hữu học.

Hiện hành sự trói buộc phân biệt là người chấp chặt vững chắc.

12.   Hiện hành sự trói buộc cũng lúc sinh khởi, là người không chấp chặt vững chắc.

13.   Hiện hành quán sát là người thích quán xét.

14.   Hiện hành không tự tại, là người ngủ.

15.   Hiện hành tự tại là người thức.

16.   Hiện hành không thể cứu giúp là người không có pháp Niết-bàn.

17.   Hiện hành có thể cứu giúp là người có pháp Niết-bàn.

18.   Hiện hành giữ lấy tướng hiện tại là người suy nghĩ về tướng nào thì giữ lấy tướng của pháp ấy.

19.   Hiện hành không giữ lấy tướng hiện tại là người không suy nghĩ tướng nào, không giữ theo từng tướng mạo của pháp nào.

-Duyên sinh phiền não có hai mươi thứ:

1.   Vui.

2.   Khổ.

3.   Không khổ, không vui.

4.   Ham muốn.

5.   Tìm kiếm.

6.   Xúc chạm.

7.   Đã có thói quen trước.

8.   Tùy miên;

9.   Không gần gũi bạn lành.

10. Không lắng nghe chánh pháp.

11. Không tác ý đúng lý.

12. Không tin.

13. Lười biếng.

14. Quên mất.

15. Tán loạn.

16. Không hiểu biết chân chính.

17. Phiền não buông lung.

18. Tính phàm phu.

19. Do lìa ham muốn.

20. Do thọ sinh.

-Phiền não tùy miên có hai mươi thứ:

1.   Tùy miên Địa bất định.

2.   Tùy miên Địa định.

3.   Tùy miên Tùy tự cảnh.

4.   Tùy miên theo Cảnh khác.

5.   Tùy miên Bị tổn hại.

6.   Tùy miên Chưa bị tổn hại.

7.   Tùy miên Thuận theo.

8.   Tùy miên Không thuận theo.

9.   Tùy miên Đầy đủ.

10. Tùy miên Thiếu giảm.

11. Tùy miên có thể hại.

12. Tùy miên Không thể hại.

13. Tùy miên Tăng thượng.

14. Tùy miên Bình đẳng.

15. Tùy miên nhỏ mỏng.

16. Tùy miên Có giác.

17. Tùy miên Vô giác.

18. Tùy miên Cuộc sống có nhiều đau khổ.

19. Tùy miên Cuộc sống ít đau khổ.

20. Tùy miên Sống không khổ.

-Cảnh sở duyên của phiền não, có hai mươi thứ là:

1.    Duyên theo cảnh (cảnh) có việc.

2.    Duyên theo cảnh không có việc.

3.    Duyên theo cảnh tự tướng.

4.    Duyên theo cảnh tướng chung.

5.    Duyên theo cảnh thấy ngay đây.

6.    Duyên theo cảnh không thấy ngay đây.

7.    Duyên theo cảnh cửa ngoài.

8.    Duyên theo cảnh cửa trong.

9.    Duyên theo cảnh tự loại phiền não.

10.  Duyên theo cảnh phiền não loại khác.

11.  Duyên theo theo cảnh chính mình.

12.  Duyên theo cảnh khác.

13.  Duyên theo vô cảnh.

14.  Duyên theo cảnh hữu lậu.

15.  Duyên theo cảnh vô lậu.

16.  Duyên theo cảnh hữu vi.

17.  Duyên theo cảnh vô vi.

18.  Duyên theo cảnh phân biệt của tự tâm.

19.  Duyên theo cảnh nhớ nghĩ phân biệt.

20.  Duyên theo cảnh sự tướng.

-Thô, nặng có hai mươi thứ là:

1.   Tính chất quả báo thô nặng.

2.   Tính chất phiền não thô nặng.

3.   Tính chất nghiệp thô nặng.

4.   Chướng phiền não thô nặng.

5.   Chướng sở tri thô nặng.

6.   Chướng định thô nặng.

7.   Chướng nghiệp thô nặng.

8.   Chướng quả báo thô nặng.

9.   Chướng ngăn che thô nặng.

10. Suy nghĩ bất chính thô nặng.

11. Buồn rầu thô nặng.

12. Run sợ thô nặng.

13. Vất vả mệt mỏi thô nặng.

14. Ăn thô nặng.

15. Chiêm bao thô nặng.

16. Dâm dục thô nặng.

17. Đại chẳng trái nhau thô nặng.

18. Thời gian thay đổi thô nặng.

19. Chết thô nặng.

20. Biến hành thô nặng.

Lại nếu nói lược, biết rõ phiền não là do năm thứ tướng: Tướng tự thể, tướng nhân, tướng phẩm loại, tướng quả và tâm rối loạn trước cảnh.

Lại nữa, vì sao cùng lúc nói phiền não tùy miên và bất thiện?

Tụng rằng:

Vì thuận theo tự sinh,
Vì hạt giống, cố sự
Vì bốn lỗi của sinh,
Vì ba nhân bất tịnh.

Luận chép: Vì bốn thứ nhân nên gọi là tùy miên:

1.     Vì thuận theo tự sinh. Nghĩa là nếu việc phiền não thì thuận theo phiền não ấy.

2.     Hạt giống theo đấy bị trói buộc.

3.     Tùy miên tăng thêm sức cho phiền não.

4.     Phát sinh bốn lỗi:

1. Lỗi không vắng lặng.

2. Lỗi về chỗ khác nhau.

3. Lỗi về phát sinh hành động.

4. Lỗi về nhân nhiếp thọ.

Trong đây, một lỗi trước được hai lỗi sau làm sáng tỏ. Hai thứ lỗi do bốn thứ lỗi làm sáng tỏ.

Hỏi: Cùng lúc làm sao biết được tướng bất thiện phiền não?

Đáp: Do ba thứ nhân là tính chất dữ dội, gây não loạn cho hữu tình, làm chướng ngại điều thiện. Lại nữa, nay sẽ nói: Nghiệp tạp nhiễm quyết định lựa chọn kỹ.

Tụng rằng:

Nghiệp tư và tư rồi,
Khác nhau có mười ba,
Quả sáu, ba vị kia,
Nghiệp quyết định năm thứ.

Luận chép: Nếu nói lược thì nghiệp có hai thứ là Tư Và Tư rồi, Nghiệp khác nhau lại có mười ba thứ là:

1.     Thân nghiệp.

2.     Ngữ nghiệp.

3.     Ý nghiệp.

4.     Nghiệp thuộc về luật nghi.

5.     Nghiệp thuộc về bất luật nghi.

6.     Nghiệp thuộc về đều sai.

7.     Nghiệp phước.

8.     Nghiệp chẳng phải phước.

9.     Nghiệp bất động.

10.   Nghiệp, dị thục đen đen.

11.   Nghiệp, dị thục trắng trắng.

12.   Nghiệp đen trắng, dị thục đen trắng.

13.   Nghiệp chẳng phải đen trắng, không có dị thục. Có thể dứt hết các nghiệp. Nên biết, nghiệp như vậy, có sáu thứ quả, ba thứ ngôi vị.

-     Sáu thứ quả là Quả đáng yêu mến, Quả không đáng yêu mến.

Quả thanh tịnh, Quả dị thục, Quả đẳng lưu và Quả tăng thượng.

-     Ba ngôi vị là phạm vi tác dụng, phạm vi thói quen và phạm vi cho quả.

-     Có năm thứ quyết định cho nghiệp là:

1. Quyết định lãnh thọ pháp hiện tại.

2. Quyết định nhận lấy sự sống.

3. Quyết định nhận lãnh khác nhau ở đời sau.

4. Quyết định nhận lấy quả báo.

5. Quyết định tạo nghiệp. Lại nữa, Tụng rằng:

Bốn thứ: Tự nghiệp thảy,
Thục trước ấy cũng bốn.
Còn chín thứ, nên biết,
Tức hai thứ khác nhau.

Luận chép: Như Đức Bạc-già-phạm nói: "Nầy, Manạp-bà nên biết là tự nghiệp của tất cả hữu tình đã gây ra, là nguồn gốc của các tranh cãi, giành giựt, từ nghiệp sinh ra, nghiệp là chỗ nương của các cõi". Như vậy, nghiệp nầy tự tạo. Nên biết bốn thứ đối với sứ nối tiếp của chính mình mà có khả năng cho ra quả, do năng trị và sở trị đều hiện khởi ngay đây, do từ quá khứ mà phát sinh ra hiện tại, sẽ có đời sống nữa ở vị lai, nhưng do nghiệp đã dứt, nên gọi là nghiệp nương vào đường.

Lại nữa, nên biết, có bốn thứ báo dị thục trước sau. Gọi trước là do quả báo dị thục nặng. Kế đến là rất gần. Sau đó là thói quen, là tác giả trước và sau.

Lại nữa, nên biết, không thể cắt dứt nghiệp, nếu dị thục quyết định hay không có quyết định đối với nghiệp báo. Còn nếu xa lìa ham muốn thì không có gì gây trở ngại.

Lại nữa, ngoại đạo sinh kiến chấp như vậy, lập luận thuyết rằng: Thật ra, tùy theo nghiệp chúng sinh tạo thì hoặc vui cùng hiện đủ hoặc khổ cùng hiện đủ, nên những dị thục mà họ cảm thọ cũng giống như vậy.

Lối chấp của ngoại đạo là chấp luống dối. Vì sao? Vì có đủ hai thọ, là các nghiệp thiện nhận cả hai quả báo là khổ và vui. Nghiệp bất thiện cũng giống như vậy.

Lại nữa, nên biết, nghiệp nương vào hai căn cho nên nó trở thành tính chất thiện và bất thiện, là nó nương vào gốc lành thì khởi sinh nghiệp lành, nếu nương vào gốc không lành thì khởi sinh nghiệp bất thiện.

Lại nữa, tướng của nghiệp lành hay bất thiện khác nhau là do chín nguyên nhân:

1.     Do nhân và do cớ, nghĩa là từ gốc lành và không lành, do tôn trọng, v.v... mà có khác nhau.

2.     Do sự, là bởi công việc có tròn đầy hay không.

3.     Do phương tiện, là do phương tiện ân trọng không xen hở.

4.     Do nương, là do chỗ nương tịnh hay bất tịnh.

5.     Do tác ý là do tịnh tín mạnh mẽ và sự trói buộc thêm lên.

6.     Do ham muốn, thắng giải là do hồi hướng cầu quả báo có hơn kém.

7.     Do giúp đỡ, là do thọ thuộc về các pháp thiện, bất thiện khác.

8.     Do thường tu tập là tự tu hành, cũng bảo người khác khen ngợi tùy hỷ, thấy người đồng pháp sinh tâm vui mừng.

9.     Do nhiều người, là cùng nhiều người cùng thực hành nghiệp nầy.

Lại nữa, sinh tạp nhiễm quyết định lựa chọn tốt. Nay sẽ nói Tụng rằng:

Mạng chung định, bất định,
Trung, yểu do sáu nhân.
Hiểu rõ vị ba tâm,
Trung hữu hoặc có không.

Luận chép: Có hai thứ chết:

1.  Quyết định sinh về châu Thắng thượng ở phía Bắc.

2.  Không quyết định là sinh các nơi khác.

Lại trung yểu là do sáu thứ nhân:

1. Do không né tránh sự bất bình đẳng.

2. Do ý nghĩ quên mất.

3. Do ý giận dữ.

4. Do hết tuổi thọ.

5. Do nghiệp đã hết.

6. Do phước đã hết.

Lại nữa, lúc chết có ba thứ tâm: là tâm thiện, bất thiện và vô ký. Đó là trong vị tâm sáng tỏ. Nếu trong phạm vi không sáng tỏ thì chắc chắn chỉ có tâm vô ký.

Lại nữa, sau khi lìa đời, hoặc có thân trung hữu là sắp sinh về cõi hữu sắc, hoặc không có thân trung hữu thì sắp sinh về cõi Vô sắc.

Lại nữa, Tụng rằng:

Dựa vào sở duyên khác,
Sinh khởi tâm nhiễm ô.
Ở trong bốn thứ sinh,
Và ba cõi năm đường.

Luận chép: Nương vào trung hữu khác, nơi có duyên sinh là cảnh, khiến tâm nhiễm ô sinh khởi, đưa đời sống nối tiếp mãi mãi. Lại nữa, qua bốn thứ sinh mà nhận lấy sống chết là sinh từ trứng, sinh từ thai, sinh từ ẩm ướt, sinh từ biến hóa. Sinh vào ba cõi Dục, sắc, vô sắc, và vào năm đường như Na-lạc-ca, v.v... để chịu sự sống chết.

Như vậy, từ sống chết, nơi chốn làm sáng tỏ lên sự quyết định lựa chọn vượt hơn trong xen lộn nhơ bẩn ấy.

Quyết định lựa chọn về sự thật nay sẽ nói, Tụng rằng:

Nên biết thế tục đế,
Ý hiểu nghĩa và nói,
Tịnh duyên với tánh kia,
Phương tiện gọi thắng nghĩa.

Luận chép: Tất cả lời nói và những nghĩa nhân ý hiểu mà có được đều gọi là thế tục đế. Còn như sở duyên thanh tịnh, hay thể tính thanh tịnh, hoặc phương tiện kia đều gọi là thắng nghĩa đế.

Sở duyên thanh tịnh nghĩa là bốn Thánh đế và chân như.

- Thể tính thanh tịnh là diệt đế thanh tịnh.

- Phương tiện là Đạo đế. Lại nữa, Tụng rằng:

Phải biết là bốn thứ,
Đã thuộc về nhiễm tịnh.
Chưa thấy, chưa từng thọ.
Như bệnh, diệt nhân bệnh.

Luận chép: Phải biết bốn chân đế đã thuộc về hai pháp nhiễm ô và thanh tịnh. Hai thứ nhiễm ô nầy đủ quả hay nhân, thanh tịnh cũng như vậy. Tất cả hữu tình từ vô thỉ cho đến giờ, chưa thấy được hai đế diệt và đạo, trong Bốn đế, một các chân thật, cũng như họ chưa tùng cảm nhận nó.

Lại nữa, ví như bệnh, hết bệnh, lấy hai nhân ấy mà lập ra Bốn đế. Khổ đế như bệnh, tập đế như nguyên nhân của bệnh. Diệt đế như bệnh hết. Đạo đế như tiêu diệt nguyên nhân của bệnh.

Lại nữa, Tụng rằng:

Phải biết Bốn đế nầy,
Đều bốn tướng, bốn hạnh,
Biết khắp thảy bốn thứ,
Tính nhân quả khác nhau.

Luận chép: Nên biết Bốn Thánh đế, mỗi đế có bốn tướng:

-Khổ đế có bốn tướng là:

1. Khổ phát sinh.

2. Khổ duyên bên trong.

3. Khổ duyên bên ngoài.

4. Khổ thô, nặng.

Trước gọi là khổ sinh, kế đến là khổ vì già, bệnh, chết, thứ ba là oán thù mà phải gặp, khổ vì thương mến mà phải chia lìa, khổ vì mong cầu không được, thứ tư là khổ vì thân năm uẩn nầy.

-Tập đế có bốn tướng là:

1.     Yêu mến tất cả các thứ.

2.     Yêu mến thân sau.

3.     Vui mừng ham muốn cùng hiện hành với điều mình yêu mến.

4.     Vui mừng yêu mến về nơi chốn của hai món kia.

-Diệt đế có bốn tướng:

1. Ái dứt.

2. Lìa ham muốn.

3. Diệt.

4. Đạt Niết-bàn.

-Đạo đế có bốn tướng là: bốn thứ như khổ trì thông, v.v... hành tích của bốn tướng nầy, trước đã nêu. Lại nữa, mỗi đế đều có bốn hạnh, nên biết, như đã nói trong phẩm Thành lập hiện quán.

Lại nữa, ở mỗi đế đều có thể tính nhân quả biết khắp, của dứt hẳn, của tác chứng, của tu đạo. Ba thứ trước là quả mà tu đạo là nhân. Nghĩa là biết khắp nhân của khổ, dứt hẳn nhân của tập, chứng ngộ nhân của diệt. Vì sao thế tục gọi là đế?

Tụng rằng:

Họ biết, không cãi lẫy,
Pháp nhĩ, chứng cũng vậy,
Ba thứ đế chỉ thiện.
Lại hai thứ, nên biết.

Luận chép: Họ hiểu biết pháp là như vậy mà không tranh cãi, chống trái, nghĩa là người ngu ở thế gian nầy, nhìn thấy các hành như vậy, họ nhận biết các hiện tượng ấy không tranh cãi lẫn nhau thì gọi là pháp thế tục đế.

-Chứng cũng vậy, nghĩa là dưới mắt người thấy đế thì pháp tánh đúng là vậy, họ chứng đắc với sự vắng lặng, gọi là Thắng nghĩa đế. Bởi lý đó, nên Đức Bạc-giàphạm nói: "Tất cả bậc Thánh bởi họ chấp nhận sự thật nầy nên gọi là Thánh đế".

Lại nữa, nên biết, bốn đế như khổ v.v... hai đế trước có cả ba tính là thiện, bất thiện và vô ký. Còn những đế khác chỉ có thiện.

Lại nữa, thiện có hai thứ là thế gian và xuất thế gian. Hai thứ thiện nầy thuộc về đoạn và đạo.

Như thế, đã nói về quyết định lựa chọn sự thật. Nay sẽ nói về sự nương của quyết trạch.

Tụng rằng:

Bảy chỗ nương, nên biết,
Ba thứ tính nương,
Hai thứ khéo léo kia,
Bốn trường hợp nói rộng.

Luận chép: Nên biết, có ba tính nương. Đức Bạc-giàphạm nói có bảy tính nương. Ba thứ nương là:

1.     Nương tự lậu tận.

2.     Nương tựa công đức phát khởi.

3.     Nương tựa an trụ trong nguồn vui của pháp hiện tại. Lại nữa, sự nương nầy, nên biết, có hai thứ thiện xảo:

1. Tam-ma-địa thiện xảo.

2. Tam-ma-Bát-để thiện xảo.

Nếu phân biệt rộng thì hai thứ thiện xảo nầy có bốn trường hợp.

Như Đức Bạc-già-phạm nói kệ:

Hoặc có người tĩnh lự, Tam-ma-địa thiện xảo, Hoặc Tam-ma-bát-để, Hoặc đủ, hoặc không đủ.

Thế nào là Tam-ma-địa thiện xảo, không phải Tamma-bát-để thiện xảo? Là với ba pháp như không, v.v… là Tam-ma-địa thiện xảo, không phải thiện xảo của thắng xứ, biến xứ, định Diệt tận.

Thế nào là Tam-ma-bát-để thiện xảo, chẳng phải là Tam-ma-địa thiện xảo? Tam-ma-bát-để thiện xảo là hoặc nhập hay xuất đối với thắng xứ, biến xứ, định Vô tưởng. Nó không phải là Tam-ma-địa thiện xảo.

-     Thế nào là đều thiện xảo? Là đều có thiện xảo khác nhau giữa Tam-ma-địa và Tam-ma-bát-để, như đã nêu.

-     Thế nào là đều chẳng phải thiện xảo? Là đều không có thiện xảo khác nhau giữa Tam-ma-địa và Tam-mabát-để, như đã nêu.

Lại nữa, thiện xảo của Tam-ma-địa không phải thiện xảo của Tam-ma-bát-để là sự nhận biết rõ chỗ khác nhau về tên gọi, câu, lời văn để chứng nhập Tam-ma-địa. Do không biết rõ hành trạng các tướng để có thể chứng nhập Tam-ma-địa, cho nên thiện xảo của Tam-ma-bát-để không phải là thiện xảo của Tam-ma-địa. Như người có khả năng biết rõ tướng trạng các hành để bước vào Tamma-địa, nhưng bước vào định kia rồi lại không khéo biết rõ chỗ khác nhau của tên gọi, câu, văn của Tam-ma-địa nầy, mà lại bảo: Nay tôi chứng nhập Tam-ma-địa cũng thế, cũng thế.

Lại nữa, có Bồ-tát có khả năng chứng nhập một trăm Tam-ma-địa hay một ngàn Tam-ma-địa nhưng Bồ-tát đó lại không biết rõ được chỗ khác nhau tên gọi, câu, bài văn của định kia, lại nói: Nay ta chứng nhập danh hiệu Tam-ma-địa như thế, như thế, cho đến chưa bao giờ theo Chư Phật và được nghe Đệ nhất rốt ráo của Đại Bồ-tát, hoặc chưa chứng đắc rốt ráo bậc nhất.

Hỏi: Thế nào là trụ định?

Đáp: Như có người khéo biết rõ tướng trạng các hành, khéo nhập định. Do khéo nhận thức nên tùy theo điều mình muốn mà an trụ vào định.

Lại nữa, những người nầy lại không lui sụt đối với các Tam-ma-địa mà mình chứng nhập. Cũng thế, có hai thứ trụ:

1.  Do an trụ vào định nên gọi là trụ.

2.  Do không lui sụt nên gọi là trụ. Thế nào là xuất định?

Đáp: Như có người có khả năng nhập định, không phải tư duy tướng trạng các hành, nhưng do bất định địa lại thuộc về phân biệt tướng trạng, còn định địa thì đồng phần là tác ý tư duy các pháp cho nên xuất Tam-ma-địa nầy, hay có khi ra khỏi, định là vì công việc cần làm, hoặc ra khỏi định là vì công việc quyết định phải làm. Hoặc ra khỏi định là vì mãn thời hạn đã làm.

-     Theo công việc làm là các dụng cụ chuyên môn của mình như y bát, v.v… quyết định phải làm là: những việc như đại tiểu tiện lợi, cúng dường sư trưởng, khất thực, v.v...

-     Mãn thời hạn đã làm là: như có người hứa với người khác làm việc gì cho họ trong thời hạn nào đó. Hoặc bởi chứng nhập vào định khác, nên phải xuất định nầy.

Hỏi: Thế nào là hành?

Đáp: Vậy hành cảnh duyên hợp để bước vào định thì gọi là hành, nghĩa là từ Tam-ma-địa phát sinh ra các việc như lo về yên tịnh còn thô, mũi tên ung thư của vô thường bắn tới, v.v...

Thế nào là trạng?

Đáp: Như có ai sắp vào định, thì bấy giờ, người ấy phải có tướng định sanh khởi. Từ tướng nầy mà hành giả tự biết: Không bao lâu nữa, ta sẽ nhập vào tướng định như vậy, như vậy. Hay đã vào định rồi, giáo thụ Sư cũng biết: Hành giả nầy có tướng định như vậy, như vậy sanh khởi, không bao lâu nữa, y sẽ nhập vào định như vậy, như vậy.

Hỏi: Thế nào là tướng?

Đáp: Tướng có hai thứ: 1. Cảnh tướng; 2. Nhân tướng.

-     Cảnh tướng là tướng phân biệt, do duyên theo tướng nầy mà nhập vào định.

-     Nhân tướng là tất cả tư lương để nhập vào định. Như thuận theo ngôn giáo định thì phải có đủ những gom góp về nó, tu tập cả hai tâm niệm ham muốn tiến lên và nhàm chán, biết rõ về tướng loạn hay không loạn, và không bị kẻ khác làm náo loạn, hay kẻ nhân, phi nhân, tiếng động gây rối và các vật khác làm ồn.

Thế nào là điều thuận?

Đáp: Nếu Tam-ma-địa bị các hành tướng giữ chắc thì khác nào ta bưng nước sẽ bị dính nước, không phải là con đường vắng lặng, không phải là mầu nhiệm, không phải an ổn, không thể nào chứng được tâm định một chỗ. Nên biết, lúc ấy, không còn gọi là điều thuận Tam-ma-địa. Không theo ý trụ và trái với định trên, gọi là điều thuận.

-     Thế nào là sở hành?

Đáp: Nếu vượt qua cảnh giới Tam-ma-địa thì không thể nhận biết được tướng của định, như nhập vào Sơ tĩnh lự thì không biết chuyện ở tĩnh lự thứ hai. Cũng thế, cũng không thấy biết căn độ và Bổ-đặc-già-la độ.

Thế nào là dẫn phát?

Đáp: Có khả năng lược nhiếp và nói rộng về văn câu, nghĩa và có khả năng làm phát sinh công đức vượt hơn. Thế nào gọi là Tam-ma-địa khả ái?

Đáp: Là có tâm hổ thẹn, ái kính, tịnh tín, tác ý như lý, ức niệm chính tri, giữ gìn các căn, giữ gìn giới cấm, không hối tiếc, cho đến niềm vui sau cùng, như mình thích nhập Tam-ma-địa kia. Nên biết, trái với đây thì gọi là không đáng yêu mến.

Thế nào gọi là đáng yêu mến, không đáng yêu mến? Đáp: Là hổ thẹn, v.v... thành tựu phần ít, phần ít không thành tựu, có nghĩa là có hổ thẹn, nhưng không tương ưng với ái kính, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là thêm lên?

Đáp: Là chứng Tam-ma-địa rồi làm cho lớn mạnh lên. Hỏi: Thế nào là giảm?

Đáp: Là chứng Tam-ma-địa rồi, lại lùi sụt. Hỏi: Thế nào là phương tiện?

Đáp: Hai đường để tiến tới. Hỏi: Thế nào là Xa-matha?

Đáp: Không phân biệt ảnh tượng và tướng tác ý.

Hỏi: Thế nào là chấp thọ?

Đáp: Là duyên theo tướng thanh tịnh hay tướng sáng tỏ mà khởi chấp lấy tướng.

Hỏi: Thế nào là buông xả?

Đáp: Là buông xả phẩm thiện đã bình đẳng tăng thượng.

Lại nữa, nay sẽ nói qua chỗ nương của các tĩnh lự để quyết định lựa chọn cao siêu.

Tụng rằng:

Tĩnh lự vài phần chướng,
Lập ra rộng về nó,
Xa lìa các khổ, động,
Phần sau hơn khác.

Luận chép: Như trên đã nói bốn thứ tĩnh lự. Vì sao có bốn, không nhiều hơn hay ít hơn? Là do thoát khổ, vui một cách rốt ráo. Vì sao? Vì lần lượt cho đến tĩnh lự thứ tư, đều vượt qua các lo, buồn, mừng, vui, khổ.

Hỏi: Làm thế nào mà Sơ tĩnh lự trị hết các chướng?

Đáp: Có năm thứ nên biết:

1. Tham, giận, hại, tầm.

2. Khổ.

3. Lo lắng.

4. Phạm giới.

5. Tán loạn.

Hỏi: Những ngăn che tĩnh lự thứ hai trị là thế nào?

Đáp: Cũng có năm thứ nên biết:

1. Tham ở Sơ tĩnh lự.

2. Tầm tứ.

3. Khổ.

4. Dao động.

5. Định mang tính chất thấp kém.

Hỏi: Những ngăn che mà tĩnh lự thứ ba trị là thế nào?

Đáp: Có bốn thứ nên biết:

1. Tham ở tĩnh lự thứ hai.

2. Mừng.

3. Hớn hở.

4. Định mang tính chất thấp kém.

Hỏi: Những ngăn che mà tĩnh lự thứ tư trị là thế nào?

Đáp: Cũng có năm thứ nên biết:

1.     Hơi thở ra vào.

2.     Tham của tĩnh lự thứ ba.

3.     Vui.

4.     Tác ý vui.

5.     Định mang tính chất thấp kém. Hỏi: Các tĩnh lự có mấy chi?

Đáp: Sơ tĩnh lự có năm chi, năm chi là tầm tứ, hỷ, lạc, tâm một cảnh tánh.

-Tĩnh lự thứ hai có bốn chi là: Bên trong lắng sạch, hỷ, lạc tâm một cảnh tánh.

Hỏi: Bên trong lắng sạch lấy gì làm thể?

Đáp: Lấy biết chánh niệm và xả làm thể. tĩnh lự thứ ba có năm chi là niệm, chánh tri, xả, lạc, tâm một cảnh tánh.

Tĩnh lự thứ tư có bốn chi là: Xả thanh tịnh, niệm thanh tịnh, không khổ không vui, tâm một cảnh tánh.

Hỏi: Vì sao không thấy nói về niệm, xả tất cả chỗ, chánh tri, đối với Sơ tĩnh lự?

Đáp: Trong Sơ tĩnh lự, do hai cửa tầm tứ dẫn phát, nên dù có các món ấy, nhưng không nói. Ở tĩnh lự thứ hai, có sự tạo nghiệp của tự thể hớn hở. Và, trong tâm còn có một ít phần phiền não trói buộc, che lấp, cho nên làm sáng tỏ gộp chung lấy tên là bên trong lắng sạch.

Trong tĩnh lự thứ ba, tâm hành giả đã lìa khỏi một ít phần phiền não kia, do vậy mà tự tướng sáng tỏ. Cho nên trong kinh nói xa lìa hỷ tham. Trong Sơ tĩnh lự, dù dục tham đã tách lìa nhưng chưa lìa hỷ tham. Trong tĩnh lự thứ hai, dù tầm tứ đã tách lìa, nhưng chưa lìa hỷ tham.

Trong tĩnh lự thứ tư, đã xả niệm thiện thanh tịnh tột cùng cho nên sáng tỏ. Vì vậy trong các tĩnh lự, vẫn có khác nhau, được tương ưng với mỗi tĩnh lự.

Hỏi: Vì sao đối với bốn tĩnh lự mà lập ra bốn chi năm chi? Đáp: Do chỗ nương cho trụ, do trụ thuận ích, bởi trụ tự thể.

Lại nữa, do cảnh giới tư duy, do cảnh giới thọ dụng, do đối với cảnh không tán loạn.

Lại nữa, do chỗ nương của thuận ích, do chỗ nương của tâm tăng thượng, do chỗ nương của tuệ tăng thượng. Lại nữa do đối với ba thứ trụ chướng náo loạn. Ba thứ trụ não loạn là: nhiễm ô trụ khổ trụ, mê loạn trụ.

Lại nữa, như người thọ dụng năm dục lạc, có ba việc chân chính phải làm để cho sáng tỏ các ham muốn mà họ thọ dụng là:

1.     Dùng phương tiện chân chính để cầu mong được thọ dụng.

2.     Cầu được rồi chính thức thọ dụng.

3.     Tùy chuyển tự tại.

Như vậy, người tu tĩnh lự nương vào ba việc cần làm chân chính, như được thích ứng với tĩnh lự của mình, nên lập ra các chi phần, nên biết.

Lại nữa, vì đối trị với người tự khổ hạnh mà người tu tĩnh lự phải lập ra chi phần, nên biết. Ở đây, lại có ba thứ đối trị:

1.     Đối trị để lìa ham muốn.

2.     Thân tâm nghỉ ngơi để đối trị với vây ngặt não loạn.

3.     Đối trị để tâm tán loạn bên ngoài được sự lắng yên.

Hỏi: Vì sao trong Sơ tĩnh lự, đã nói tách rời ham muốn rồi, sao lại còn nói tách lìa khỏi pháp ác, pháp bất thiện?

Đáp: Vì muốn làm sáng tỏ tự tướng của các ham muốn và làm sáng tỏ tướng của tội lỗi.

Tướng tội lỗi là những ham muốn phát sinh ra những việc làm ác, sẽ rơi xuống nơi thấp nhất. Nên gọi là ác, sinh khởi trái với pháp thiện thì gọi là ác.

Lại nữa, muốn làm sáng tỏ việc dứt trừ phiền não tạp nhiễm và muốn làm sáng tỏ việc trước là đoạn các nghiệp tập chứa nhóm tạp nhiễm. Lại nữa, muốn làm sáng tỏ việc dứt trừ dục tầm của người tại gia về những thọ hưởng, ăn, ở và làm sáng tỏ việc dứt trừ pháp sinh do đường suy tư tìm kiếm trong tâm ý người xuất gia.

Lại nữa, muốn làm sáng tỏ việc dứt trừ ham muốn do tìm cầu, và muốn làm sáng tỏ việc dứt trừ giận dữ do tìm cầu làm hại đến tìm cầu. Lại nữa, muốn làm sáng tỏ tướng chứng đắc cho các tiên ngoại đạo biết. Và, để làm sáng tỏ việc dứt trừ những chú thuật quái ác mà họ làm sinh, sau khi bị đẩy lùi ra.

Hỏi: Vì sao nói gốc khổ trong Sơ tĩnh lự chưa được dứt trừ?

Đáp: Do phạm vi ấy, chưa tách rời khỏi thô nặng. Nếu Sơ tĩnh lự dứt trừ gốc khổ thô nặng cùng lúc ấy không khác với người an trụ trong tĩnh lự thứ hai. Cho nên phải biết, trong Sơ tĩnh lự chưa đoạn khổ thô nặng.

Hỏi: Các pháp tầm tứ trong Sơ tĩnh lự, có thể vì thuận ích, mà nhiếp thọ tự địa khiến được thanh tịnh. Vậy thì vì sao Đức Như lai nói tĩnh lự kia là dao động?

Đáp: Bởi ngó vào địa khác nên nói là chao động, chứ không phải ngó vào địa mình.

Hỏi: Vì sao từ cõi Dục cho đến Sơ tĩnh lự lập ra các chi sau cùng?

Đáp: Nói lược có ba nhân là năng trị, sở trị, do chứng được lợi ích, vì chứng tự thể, nên ba nhân ấy thuộc về năm chi trong bốn tĩnh lự, nên biết, cho thích ứng với mỗi thứ.

Hỏi: Tĩnh lự thứ hai so với Sơ tĩnh lự có gì thù thắng khác không? Đáp: Tam-ma-địa tròn đầy là chỗ khác nhau, vượt hơn.

Hỏi: tĩnh lự thứ ba đối chiếu với tĩnh lự thứ hai có gì khác hơn không?

Đáp: Thuận theo ích lợi tròn đầy là chỗ khác nhau, vượt hơn. Hỏi: Tĩnh lự thứ tư có gì khác hơn so với tĩnh lự thứ ba?

Đáp: Thanh tịnh tròn đầy là chỗ khác nhau, vượt hơn. Lại nữa, Tụng rằng:

Cận phần, hỷ, có động,
Chỉ sơ, năng hết lậu.
Cũng hai thứ duyên, thanh,
Tám đẳng đến xả tám.

Luận chép: Cận phần Sơ tĩnh lự còn hỷ, có xáo động. Hỷ nầy khác với hỷ của tĩnh lự căn bản.

Lại nữa, cận phần Sơ tĩnh lự chưa được xếp vào trong định có thể diệt hết hữu lậu, chẳng phải chi khác. Lại nữa, sơ cận phần có hai thứ là thế gian và xuất thế gian. Cận phần khác chỉ là ở thế gian. Do đã được căn bản tĩnh lự vô lậu đầu tiên, nên chẳng phải là định cận phần vô lậu hiện tiền ở địa trên.

Lại, khi ở trong định mà xúc chạm với tiếng động bên ngoài, thì nên biết là do hai thứ chấp lấy:

1.     Do ý thức đã biết rõ cảnh sở duyên của định và các thức cảnh sở duyên của ý thức.

2.     Do ý thức ấy cùng phát sinh tác dụng với nhĩ thức.

-Tám Đẳng chí xả tám là tám thứ Tam-ma-bát-để có khả năng buông xả tám việc, là: bỏ ngữ, tầm, hỷ, lạc, chứng Tam-ma-bát-để của tĩnh lự thứ tư, bỏ tưởng về sắc, không, xứ của Vô sở hữu xứ. Chứng được Tam-mabát-để của bốn Vô sắc.

Lại nữa, tụng rằng:

Trụ an vui hiện pháp,
Năng nhập vào hiện quán.
Khen nói tưởng giải thoát.
Bốn thứ nhân, nên biết.

Luận chép: Chỉ có các tĩnh lự mới là hiện pháp an vui, có tính chất an trụ bởi cả hai thứ thân và tâm an ổn, chẳng phải như định ở cõi Vô sắc, ở đó không có thân để an.

Lại, nương vào tĩnh lự có khả năng nhập vào hiện quán, chẳng phải định vô sắc, vì các tĩnh lự Tỳ-bát-xána rất mạnh mẽ.

Lại nữa, tu tĩnh lự và các định, vô sắc, giải thoát thường nhập định, thường xuất định để khen ngợi tướng hiện quán kia rất vắng lặng.

Lại, vấn đề định vô sắc, hàng ngoại đạo khởi tưởng giải thoát, nên thường khen ngợi.

Lại, nương vào hữu tưởng Tam-ma-địa mà được giải thoát, có công năng diệt hết hữu lậu, cho đến Vô sở hữu xứ, Tam-ma-địa nầy rất mạnh mẽ. Cho nên Đức Bạcgià-phạm nói: "Chỉ nương vào hữu tưởng Tam-ma-bát để mới nhận được hiểu biết thông suốt, chứ chẳng phải địa khác".

-Bốn thứ nhân là Tam-ma-bát-để có công năng làm bốn thứ nhân nương cho an vui trú trong hiện pháp, như thứ lớp trên, nên biết.

Lại nữa, Tụng rằng:

Nên biết, ái vị thảy,
Mười thứ, sáu, ba thứ,
Lui nối nhau trị chướng,
Đều nhiều thứ khác nhau.

Luận chép: Ái vị tương ưng ba thứ tĩnh lự vô lậu, theo thứ lớp trên, có mười thứ, sáu thứ, ba thứ nên biết.

Mười thứ là: Như đã nói trong phẩm Thâu nhiếp sự. Sáu thứ là sáu thanh tịnh:

1. Thanh tịnh Dẫn phát.

2. Thanh tịnh Thượng luyện.

3. Thanh tịnh Hậu đắc.

4. Thanh tịnh Cấu nhiễm.

5. Thanh tịnh thâu nhiếp.

6. Thanh tịnh Kham nhậm.

Thế nào là ba thứ? Là vô lậu xuất thế gian, vô lậu lìa trói buộc và vô lậu hậu đắc.

Lại nữa, từ sau khi lìa ham muốn, tâm trí lùi sụt nối nhau không nhập định được thì phải đối trị tư tưởng chán nản đó.

Nên biết, đều có nhiều thứ. Hoặc do nương không bình đẳng nên lùi sụt, như kẻ bị bệnh nặng nên lui về trong định. Như Tôn giả Phạt-lặc-ca-lê nói: "Nay, tôi không thể nhập vào Tam-ma-địa nầy, tôi không còn hiện diện trong Tam-ma-địa nầy?. Do bị nhiều thô nặng mà lùi về chăng?

Lại nữa, như có người mang tính chất thô nặng quá nhiều do thói quen đời trước nêu có đa số thô nặng như vậy bèn lùi về Tam-ma-địa.

-     Hoặc lùi về do cảnh giới mầu nhiệm đẹp đẽ, như có người chứng được cảnh giới đẹp đẽ hiện tiền nên thoái chí bỏ mất định, như nghe nói có một vị tiên ngoại đạo, chứng tới phi tưởng Phi phi tưởng xứ, do xúc chạm thân thiếu nữ khả ái, nên mất định của mình.

-     Hoặc do cung kính cúng dường mà mất thiền định, như có người hiện đây đón nhận sự cung kính cao tột nên quên mất thiền định.

-     Như các vị trời do bị khinh chê mà mất thiền định, như có người bị người khác tức giận chế nhạo quở trách nên liền mất thiền định.

-     Như các vị tiên ngoại đạo do giận dữ nên mất thiền định rồi làm những chú thuật độc ác. Hoặc do kiêu ngạo mà mất thiền định, như có người chứng định tự hào, khinh miệt kẻ khác mà mất định.

-     Hoặc do tăng thượng mạn nên lui sụt mất định, như có người chưa được định, nhưng khởi lên tăng thượng mạn nên lui mất định.

-     Hoặc do không tác ý nên lui về, như có người trước bởi tướng trạng hành vi mà nhập vào định. Thời gian sau, không tư duy tướng trạng hành vi nầy nên làm mất thiền định.

-     Hoặc do không thuần thục, nên lui về, như có người tu tập nghiệp kiếp trước, đầu tiên là phát sáng phẩm thiện.

-     Hoặc do nhiều phiền não hiện ở trước mắt nên lui mất định, như có người bởi ưa thích tĩnh lự trên, rồi nghi ngờ tĩnh lự trên, nên lui mất định.

-     Hoặc do tuổi thọ hết, hết phước, hết nghiệp mà lui mất định, là như có người sinh ra từ cõi trên, sau khi chết, sinh xuống cõi dưới. Lại nữa, như người mắc phiền não phẩm hạ, Bổ-đặc-già-la phẩm hạ, căn phẩm hạ, do dụng công sau nhiều sát-na mà lui mất định. Lại cũng do dụng công tu tập trong nhiều sát-na mới nhập vào định.

-     Hoặc mắc phiền não phẩm dưới, căn lành phẩm thượng, Bổ-đặc-già-la, bởi dụng công sau nhiều sát-na lui mất định, nhưng rồi mau lẹ do một sát-na lại nhập vào định.

-     Hoặc người mắc phiền não phẩm thượng, gốc lành phẩm hạ, Bổ-đặc-già-la, do sát-na mau mà mất định rồi phải nhiều ý niệm dụng công mới có thể nhập định.

-     Hoặc người mắc phiền não thượng phẩm, gốc lành phẩm thượng, Bổ-đặc-già-la, do một sát-na mau lẹ mà mất định rồi do một sát-na mau lẹ mà nhập vào định.

Lại nữa, Tụng rằng:

Lợi căn và sinh chuyển,
Nên biết, không lui mất.
Nương cõi dưới phát định,
Được lìa dục đời sau.

Luận chép: Đối với bậc lợi căn như vậy, không lui sụt. Nếu chuyển qua đời sống khác, dù căn tính chậm lụt, họ vẫn không bị lui sụt. Lại nữa, các tĩnh lự, trước quyết định dựa vào cõi dưới phát sinh, bởi trước phải nhập vào định ở đây, rồi sau mới sinh về nơi kia. Vì sao? Do trước, hành giả phải lìa dục, rồi sau mới sinh đến chỗ khác. Như vậy, đã nói quyết định lựa chọn chỗ nương. Về quyết định chọn lựa phần giác, nay sẽ nói.

Tụng rằng:

Nương Nhị thừa, Đại thừa,
Do hai mươi bảy tướng.
Phương tiện chính, nên biết.
Lập ra ở phần giác.

Luận chép: Nương vào hai thừa Thanh văn, Độc giác và nương vào Đại thừa để lập nên phần giác, bằng hai mươi bảy thứ tướng phương tiện chân chính, nên biết. Là hai mươi bảy thứ là:

1.     Phương tiện lệ thuộc sở duyên của chánh quán.

2.     Phương tiện lìa xả nhiễm ô, nhiếp tịnh.

3.     Phương tiện điều thuận tu trị trong tâm.

4.     Phương tiện dẫn dắt mà phát sinh chánh pháp, xuất thế.

5.     Phương tiện không xen hở, thiếu sót.

6.     Phương tiện chân thật hiện giác.

7.     Phương tiện chứng vô dự vắng lặng.

8.     Phương tiện có được những hiểu biết.

9.     Phương tiện nhập vào dứt trừ.

10.   Phương tiện thông đạt bất tịnh, không thích có khổ.

11.   Phương tiện học tròn đầy.

12.   Phương tiện quán sát không bị tán loạn.

13.   Phương tiện Thánh giáo không hư hoại.

14.   Phương tiện thâu nhiếp tâm trí không cần biết quả kia.

15.   Phương tiện nguyện.

16.   Phương tiện thương xót hữu tình.

17.   Phương tiện trí tu trị.

18.   Phương tiện pháp hiện quán.

19.   Phương tiện năng trị sở trị thú hướng.

20.   Phương tiện chứa nhóm phước đức tư lương.

21.   Phương tiện thành thục hữu tình.

22.   Phương tiện gom hết về đạo Bồ-tát.

23.   Phương tiện dẫn phát oai đức.

24.   Phương tiện dẫn phát ngôn giáo.

25.   Phương tiện chứa nhóm lâu ngày tâm rộng lớn sâu xa.

26.   Phương tiện xa lìa, pháp nghiệp thiếu thốn.

27.   Phương tiện an trụ hai cảnh giới là hữu tình, Niết-bàn. Lại nữa, Tụng rằng:

Thân, thảy ba khác nhau
Kia tùy quán ảnh tượng.
Do ba trí nghe thảy,
Niệm pháp không mê lầm.

Luận chép: Nên biết thân, v.v... đều có ba thứ khác nhau. Thân ba thứ là: Hoặc bộ phận thân mà tính nó vốn không trong sạch bên trong. Hoặc có bộ phận thân dường như sạch, như phần da thân. Hoặc có bộ phận hư hoại bất tịnh, như chết, phần thân thể bầm xanh lên.

-   Cảm thọ có ba thứ là: Khổ, vui và không khổ, không vui.

-   Tâm có ba thứ là: là vui v.v...

-   Pháp tương ưng với thọ, có ba thứ: đen, trắng, xen lẫn, các ảnh tượng ấy là bởi người quan sát.

Như kinh Tầm Tứ nói: ảnh tượng của thân nọ là tùy người quan sát. Nó đồng phần loại với việc hiểu biết chung, gọi là ảnh tượng.

-   Gọi là tùy theo là có ý nghĩa giống nhau.

Lại nữa, tùy quan sát nầy tức là do ba trí là trí có được do nghe, trí có được do suy nghĩ và trí có được do tu tập. Ba trí ấy, do sức mạnh của niệm làm tăng thêm cho nó. Các pháp như Tu-đa-la không có mê lầm, nên gọi là niệm trụ đối với thân, thọ, tâm, pháp do sức mạnh của niệm mà trụ.

Lại nữa, Tụng rằng:

Sở trị kia chín thứ,
Tác ý hai, nên biết.
Tu khác nhau có ba,
Hai thứ không hư mất.

Luận chép: Nên biết, niệm trụ có chín thứ chướng sở trị là:

1.     Không nhàm chán xa lìa.

2.     Không tác ý.

3.     Chỉ quán tùy phiền não.

4.     Chìm xuống.

5.     Không thể chịu đựng.

6.     Tri túc thấp kém.

7.     Quên việc dạy bảo.

8.     Trái phạm giới hạnh.

9.     Xả bỏ ham muốn dục lạc mà tăng thêm sự lanh lợi cho các ách sâu mầu.

Lại, tu niệm trụ, có hai thứ tác ý là: Tác ý không chậm tre và tác ý không ô nhiễm. Kinh nói: Hăng say mạnh mẽ đó là làm sáng tỏ thứ nhất, kế là dùng chánh trí nhớ nghĩ mà dứt trừ tham đắm thế gian, đó làm sáng tỏ thứ hai. Món thứ hai nầy có công năng trừ dẹp ba thứ tạp nhiễm:

1.     Do nhân duyên phạm giới nên tâm ăn năn, biến cải, do sự cản che nầy, khiến thời gian đầu, tâm không được định.

2.     Nội tâm nặng nề, quên mất, do sự che chướng nầy nên dù định đã được nhưng đối với sở duyên, tâm hay quên mất, chìm mất.

Tâm hướng bên ngoài tán loạn. Do sự ngăn che nầy nên dù đã chứng pháp cao quý, nhưng vẫn còn say đắm danh vọng lợi dưỡng thế gian. Hoặc chưa chứng được pháp tinh tấn vượt bậc, tâm sanh lo buồn.

-Tu khác nhau có ba thứ là: Tu niệm trụ, mỗi pháp có ba thứ.

Nghĩa là theo sự quán sát về thân cả trong lẫn ngoài. Lại nữa, đối với thân, hoặc chỉ quan sát ảnh tượng, hoặc dùng ảnh tượng so sánh giống với thân. Hoặc hòa hợp quán chung. Cũng như đối với thân có ba thứ như vậy, cho đến pháp cũng vậy.

Lại nữa, có hai thứ không hoại mất đối với các niệm trụ là:

1.     Từ đầu không hư mất, là không tán loạn nhờ vào sức mạnh nầy mà niệm trụ phát sinh tốt đẹp.

2.     Về sau không hoại mất là không có tăng thượng mạn. Nhờ sức mạnh nầy mà khéo tu tập đến chỗ rốt ráo.

Lại nữa, Tụng rằng:

Do dứt trừ hôn, trạo,
Đạo tương ưng hai thứ.
Quán xét xả phiền não,
Và vì dứt ba ái.

Luận chép: Trong giai vị tu tập niệm trụ, nhằm dứt trừ hôn trầm, trạo cử nên phải tu tập hai đạo lý tương ưng. Như kinh Bí-sô-ni và kinh Thủ Tự Tâm Tướng có nói: Kinh Bí-sô-ni nói: "Do dứt trừ sự hôn trầm nên phải suy nghĩ một chút tướng mạo thanh tịnh đáng yêu mến. Do dứt trừ dao động nên phải lược thâu nhiếp".

Kinh Thủ Tự Tâm Tướng nói: "Do không biết nắm bắt tướng tự tâm nên làm cho nó bị chìm nặng xuống. Do chỉ nắm bắt phần nhỏ tướng đáng yêu mến bên ngoài, nên tâm chìm xuống, tùy phiền não tạm thời bị cắt đứt. Nhưng do tâm chưa định nên phải thâu nhiếp nó, thu phục tâm mình lại. Sau khi tâm chìm xuống đã trôi qua thì lại chấp lấy tướng bên ngoài. Sau khi không còn dao động thì phải chấp lấy tướng tự tâm. Bấy giờ, có thể cắt đứt các sự chìm xuống, xáo động, tùy phiền não nên tâm được chánh định. Do lược thu phục tâm mình, chấp lấy tướng tự tâm nên lìa khỏi chìm xuống và xáo động

Lại nữa, nhờ suy nghĩ đạo lý tương ưng nên có khả năng dứt bỏ phiền não, nên biết. Như nơi kinh Chim Yến, trong đó có câu: Gọi chim Yến là dụ cho tâm hành giả làm việc không đáng làm.

-     Xứ là dụ cho cảnh giới đáng yêu mến mà hành giả suy nghĩ.

-     Bị chim bồ cắt tóm lấy là dụ cho hành giả bị trói buộc trong tham ái.

-     Chim nhỏ oán giận tố cáo là dụ cho tâm hành giả sinh ăn năn sửa đổi.

-     Tạm thời buông ra là dụ cho hành giả tạm thời dứt tham ái trói buộc.

-     Cục đất là dụ cho năm thủ uẩn.

-     Gò đại tràng là dụ cho pháp quán vô thường.

-     Hang ổ là dụ cho sự thông đạt quán chân như.

-     Kêu chim bồ cắt là dụ cho tác ý quán sát.

-     Chim bồ cắt bay nhanh đến là dụ cho trói buộc tham ái hiện ở trước mặt hành giả.

-     Chui vào hang ổ là dụ cho quán tư duy chân như.

-     Chim bồ cắt tự làm khổ hại là dụ cho tùy miên bị cắt đứt.

Lại nữa, đạo lý tương ưng nầy, nên biết, có công năng tát cạn hết ba thứ ái nhiễm là ái giúp đỡ, ái lợi dưỡng, ái đời sau. Do đối trị chúng nên làm sáng tỏ ngã và pháp chẳng khác nhau.

Lại nữa, Tụng rằng:

Vì dứt tăng thượng mạn,
Vị chỗ nương điên đảo,
Và ba tâm thú nhập,
Tu tập pháp niệm trụ.

Luận chép: Nhằm đối trị tăng thượng mạn, nhằm đối trị vị ngọt yêu mến là chỗ nương cho định, nhằm đối trị bốn thứ điên đảo, cho nên phải tu tập pháp niệm trụ.

Nhằm đối trị tăng thượng mạn, như kinh nói, phải nhận lấy tâm pháp như niệm trụ ngay trên thân nầy. Có thể dùng trí, kiến, hệ niệm mà đối trị tăng thượng mạn có hai thứ là nó sinh khởi, do trọng chướng thô nặng nơi thân chưa dứt trừ và chưa được tròn đầy chỉ quán đủ phẩm trị.

-     Nhằm đối trị vị ngọt của ái, là chỗ nương của định, như kinh nói: không nương vào đâu.

-     Nhằm đối trị điên đảo, như kinh nói: Không còn chấp các thứ trên thế gian, dụ một chút. Do, trái ngược đã được dứt trừ, như không còn chấp, dù là phần nhỏ, nên năm thủ uẩn là thường, là lạc là ngã, là tịnh.

Lại nữa, ba tâm hướng đến tu tập niệm trụ, nên biết, là khi đi vào xóm làng thì tâm hướng ra ngoài. Khi dừng chân nơi ồn ào thì tâm nhắm đến xa lìa. Còn khi ở trong tịnh thất thì tâm hướng đến Niết-bàn. Lại nữa, nhằm ra sinh tử, nhằm lìa khỏi phiền não, ưa vui vắng lặng, cho nên tâm hướng đến Niết-bàn.

QUYỂN 20

Phẩm 11: THÂU NHIẾP QUYẾT TRẠCH THÙ THẮNG (Phần 4)

Như vậy, là đã nói xong về quyết trạch phần giác. Nay sẽ nói về quyết định lựa chọn của Bổ-đặc-già-la.

Tụng rằng:

Do căn đều khác nhau,
Lập ra năm, chỉ hai.
Giả lập năm, nên biết,
Ba sự thành tròn đầy.

Luận chép: Vì sự khác nhau của các căn, nên lập ra năm thứ mà chỉ có hai. Như trong kinh nói: Vì chỉ duyên vào hai giác quan cho nên chỉ có hai tác ý có thể biết. Vì chỉ duyên vào hai tác ý thôi, nên chỉ có hai cách tu có thể biết. Vì chỉ duyên vào hai thứ tu tập cho nên chỉ có hai hạnh có thể biết. Vì chỉ duyên hai hạnh nên chỉ có hai Bổ-đặc-già-la có thể biết.

-Hạnh là tu tập chống lại sự dẫn dắt của thói quen. Lại nữa, giả đặt ra Bổ-đặc-già-la, nên biết, là vì năm nguyên nhân:

1.     Vì chủng tính, nghĩa là có thể cứu giúp hay không thể cứu giúp.

2.     Vì thú nhập, nghĩa là thừa Thanh văn, v.v...

3.     Vì học là Hữu học và Vô học.

4.     Vì chứng đắc như trụ bốn quả và ba hướng.

5.     Vì sai lầm và công đức, là có chướng ngại hay không chướng ngại, trói buộc hoàn toàn hay không.

Lại do ba việc nên lập ra ba thứ tròn đầy:

1. Căn tròn đầy, là pháp bất động.

2. Định tròn đầy là được Diệt định.

3. Quả tròn đầy là A-la-hán.

Như vậy, đã nói quyết định lựa chọn của Bổ-đặc-giàla, nay sẽ nói quyết định lựa chọn quả sự.

Tụng rằng:

Chứng chuyển y không khởi,
Hai nhân quả không lùi,
Vì ba nhân đoạn thường,
Ba quả, ba nhân ký.

Luận chép: Vì đã chứng chuyển nên phiền não không còn khởi lên. Nên biết, nói chuyển y là nói về cắt đứt. Lại nữa, vì nhờ hai thứ nhân mà quả nó không thoái lui, nghĩa là nếu chưa làm tan hoại hẳn hạt giống phiền não mà chứng quả A-la-hán thì không đúng lý. Nếu hạt giống phiền não đã bị phá tan hẳn thì chắc chắn chúng không phát sinh được nữa, do hạt giống không còn.

Lại nữa, do ba nhân duyên nên đoạn là thường:

1.     Do không hý luận nên thấy rõ ngay đây hý luận có tính vô thường.

2.     Những gì mà chân như thanh tịnh hiển bày thì đó như là tính chất nhu hòa của vàng thật.

3.     Tính phiền não không còn sinh, trước sau không khác nhau. Lại nữa, ba thứ quả cho ba thứ nhân, nên Như lai thọ ký:

1.     Thọ ký biệt chứng ngộ thanh tịnh, nghĩa là quả Dự lưu, kết quả của kiến đạo, chứng bốn thanh tịnh.

2.     Thọ ký hỷ xứ là quả Nhất lai. Quả nầy sắp được định căn bản, nên thọ một ít vui mừng.

3.     Thọ ký tùy niệm là quả Bất Hoàn, nghĩa là đã được định căn bản, nên thấy ngay đây các chư thiên cùng chúng Phạm Ma cùng nói lên rằng: Theo ý niệm mong cầu, tự nương vào công đức ấy, dù chưa được tròn đầy.

Như vậy, đã nói xong quyết định lựa chọn quả sự. Nay sẽ nói về quyết định lựa chọn công đức.

Tụng rằng:

Lập ra các công đức,
Vì mười bảy tăng thượng,
Nó khác nhau vô biên,
Vì trị chướng sở trị.

Luận chép: Nên biết, vì sự tăng thượng của mười bảy thứ nên lập ra công đức là:

1.     Tăng thượng vì lòng thương xót loài hữu tình, là bốn vô lượng.

2.     Tăng thượng vì sạch sáu chướng, là giải thoát cao đẹp cùng khắp. Trong đây, giải thoát là phương tiện vì pháp khác nên thành tựu tròn đầy. Sạch sáu chướng là:

-     Chướng biến hóa được thanh tịnh, vì hai pháp giải thoát trước.

Đã thanh tịnh chướng ngại đối với pháp lạc trụ hết sức cao thượng, vì giải thoát thứ ba mà sáng các bất tịnh đều thành thanh tịnh cả.

-     Đã thanh tịnh chướng ngại của tới lui vì giải thoát thứ tư.

-     Đã thanh tịnh chướng ngại về chỗ đưa đến công đức bậc Thánh không còn tranh cãi, vì giải thoát thứ tư năm.

-     Đã thanh tịnh chướng ngại của ác lậu, hữu lậu, do pháp giải thoát thứ sáu, thứ bảy.

-     Đã thanh tịnh cái chướng ngại an trụ cao thượng của vắng lặng, do giải thoát thứ tám, nên biết.

3.     Tăng thượng do biết thời đi qua là công đức không tranh cãi.

4.     Tăng thượng do quán sát những gì đã hiểu biết, là nguyện trí.

5.     Tăng thượng do ngôn giáo, là vô ngại giải thoát.

6.     Tăng thượng do sáu xứ thiện xảo là sáu phép thần thông. Sáu chỗ thiện xảo là:

- Dẫn nhiếp thiện xảo.

- Xét nghe lời nói thiện xảo. Do thiện xảo nầy nên dùng lời lẽ hý luận, hỏi để khuất phục người đối diện, rồi giảng chánh pháp cho họ.

- Dục, giải tùy miên thiện xảo.

- Đến thiện xảo.

- Đi thiện xảo.

- Giải thoát thiện xảo.

7.     Tăng thượng do tin vào tha lực, là các tướng tốt.

Tăng thượng do sạch ba chướng, là chướng ngại chỗ nương, là chướng ngại sở duyên, chướng ngại tâm trí.

8.     Tăng thượng do ghi nhớ các câu hỏi là các lực.

9.     Tăng thượng bởi đè bẹp hết tất cả luận khác, là các pháp vô úy.

10.   Tăng thượng bởi dẫn dắt các người một cách không thiên vị, bè phái, là các pháp không bảo hộ.

11.   Tăng thượng do khả năng giáo hóa đồ chúng, là các niệm trụ.

12.   Tăng thượng do các việc làm của trí tuệ hiện bày bất cứ lúc nào, là nhổ sạch hẳn thói quen.

13.   Tăng thượng do không trật thời gian đối với nơi cần ứng hiện giáo hóa, là không quên bỏ chánh pháp.

14.   Tăng thượng do quán xét thế gian ngày đêm sáu thời, đó là đại bi.

15.   Tăng thượng do vượt khỏi Thanh văn, Độc giác là pháp Phật bất cộng.

16.   Tăng thượng do làm xong các việc, các Đức Như lai đã làm, là tất cả trí tuệ mầu nhiệm.

Lại nữa, các công đức trên đây là đối trị với các thứ cần đối trị là những chướng ngại khác nhau. Nên biết, khác nhau có vô biên thứ.

Lại nữa, Tụng rằng:

Suy nghĩ nghĩa khổ vui,
Tác ý và an trụ,
Gian nan và tướng mạo,
Thù đặc chẳng thù đặc.

Luận chép: Các công đức ấy, những gì cần đối trị hay năng đối trị đều phải suy nghĩ.

Thế nào là suy nghĩ? Là suy nghĩ về nghĩa, lạc, khổ khổ, tác ý, an trụ, gian nan, tướng mạo, đặc biệt, không phải đặc biệt.

Suy nghĩ về ý nghĩa trong đây, là ý nghĩa trí tuệ đến bờ kia, nó bao gồm các câu. Có năm thứ phải thấy ý nghĩa là:

1.     Nghĩa thứ nhất là sinh khởi tâm cung kính đối với người nói pháp.

2.     Nghĩa thứ hai là dẫn dắt chúng.

3.     Nghĩa thứ ba là tôn trọng ngôn giáo.

4.     Nghĩa thứ tư là sự tự thuật.

5.     Nghĩa thứ năm là sinh nhiều việc làm đối với nghĩa giáo chân thật.

Lại, tất cả pháp có ba nghĩa là nghĩa tăng thêm ích lợi, và nghĩa được tăng ích lợi, nghĩa pháp tính. Như sắc, có ba thứ sắc có khả năng tăng ích lợi, sắc được tăng ích, và sắc pháp tính. Đó là tất cả xứ, nên biết.

Lại có, ba thứ lớp có nghĩa thú vị khi nói chánh pháp là dựa vào lý thú thế tục đế. Người giảng nói là nói đủ. Nói về tạo nghiệp, như người bố thí, người nhận của thí, vật được thí, nghĩa là người thực hành bố thí là làm việc thí, đồ thí và người nhận. Tất cả việc ấy, nên biết.

Lại nữa, có bốn thứ lý thú khi nói giáo nghĩa:

1. Nói pháp lý thú có khác nhau.

2. Nói pháp lý thú xây dựng.

3. Nói pháp lý thú không có khác.

4. Nói pháp lý thú không có tác dụng.

-   Trong đây, lý thú có khác nhau: Là sự khác nhau từ sắc cho đến Nhất thiết chủng trí.

-   Lý thú xây dựng: Là có năm thứ xây dựng:

1. Xây dựng đường đi vào.

2. Xây dựng cách dạy trao.

3. Xây dựng ba học.

4. Xây dựng chứng đắc.

5. Xây dựng công đức và lỗi lầm.

-Lý thú không có khác: Là có sáu thứ:

1.     Có và chẳng phải có không khác, là tính không của sắc và sắc. Như vậy, tất cả xứ nên biết.

2.     Lại không khác lẫn nhau: Là các uẩn đối nhau. Như vậy, tất cả xứ nên biết.

3.     Thế gian không khác là nhân xét tột ở phần trước, giữa, sau không khác. Như vậy, tất cả xứ nên biết.

4.     Bổ-đặc-già-la chẳng khác: Là các hữu tình lần lượt đối nhau.

5.     Trị về chướng ngại chẳng khác: Là thường, vô thường, cho đến trôi lăn, vắng lặng.

6.     Văn tự không khác: Là danh từ, câu văn, v.v...

-Lý thú không có tác dụng: Là ba luân thanh tịnh, tùy các nơi, không có người làm ra chân thật có thể được, không có vật gì làm, không có ai tạo nghiệp, không có Bổ-đặc-già-la, người năng nói, không có pháp để nói. Không có Bổ-đặc-già-la để học, không có giáo pháp nào để học. Không có Bổ-đặc-già-la để chứng, không có pháp để chứng. Không có Bổ-đặc-già-la an trụ lỗi lầm và công đức cũng không có chỗ trụ, không chấp lấy, không có pháp. Tất cả đều như thế.

Lại, có hai thứ nghĩa vô lượng:

1. Phát khởi lời hỏi vô lượng.

2. Hồi hướng những gì mình có được vô lượng.

Lại vì đối trị ba thứ xứ sở, nên nói ý nghĩa không nên trụ vào sắc, cho đến ý nghĩa rộng là không trụ vào tất cả pháp.

-Ba thứ xứ sở, là:

1.     Xứ sở chấp trước.

2.     Xứ sở trôi lăn theo nghiệp.

3.     Xứ sở hoạt động của trị tuệ trong hý luận. Lại nữa, có ba thứ nghĩa vô tướng:

1. Vô thể vô tướng.

2. Phi bỉ thể vô tướng.

3. Không hiển rõ vô tướng, như vô tướng.

Như vậy, vô tính, vô tự thể, bất sinh, không diệt, không có gì để trụ vào, không có gì làm ra, không có chỗ thuộc về, nên biết, cũng vậy.

Lại, có ba thứ nghĩa về có sở đắc:

1. Có sở đắc về sự.

2. Có sở đắc có sở đắc.

3. Vô sở đắc vô sở đắc.

Như cái có được, như vậy, có người chấp trước tạo nên hý luận rồi chấp trước vào hiểu biết của mình, nên biết cũng vậy.

Lại, có ba thứ nghĩa sở đắc:

1. Có sở đắc về tự thể.

2. Có sở đắc về không xa lìa.

3. Có sở đắc không suy luận, phân tích.

Lại, có ba thứ nghĩa vô sở đắc:

1. Vô sở đắc về Tự thể. vô sở đắc về xa lìa.

2. Vô sở đắc về suy luận, phân tích.

Như thế không vô chấp trước, không tạo ra, không hý luận, không giữ lấy, không mắc vào hiểu biết, không so đo chấp trụ, nên biết cũng như vậy.

Lại, có ba thứ nghĩa vô sở đắc:

1. Vô sở đắc hữu tính.

2. Vô sở đắc thể kia.

3. Vô sở đắc không hiển hiện.

-     Vô sở đắc là suy nghĩ kiếm tìm các pháp, không thấy tự tính. Nhưng chẳng phải tất cả đều là vô sở đắc. Nhưng khi đối với tự tính của biến kế sở chấp là vô sở đắc. Cũng không coi biến kế sở chấp là tự tướng của y tha.

Lại, kinh nói: Do tương ưng với vô sở đắc. Nhưng nếu đã là vô sở đắc thì còn tương ưng với cái gì? Câu nầy nên chia thành bốn trường hợp:

-     Hoặc vô sở đắc chẳng phải tương ưng, nghĩa là như có người đối với sự nghiệp rộng lớn, đều vô sở đắc gì cả.

-     Hoặc có tương ưng nhưng chẳng phải vô sở đắc, nghĩa là do đạo lý thế gian mà tu tập các pháp lành.

-     Hoặc vô sở đắc, cũng tương ưng là do đạo xuất thế mà tu tập pháp lành.

Hoặc chẳng phải vô sở đắc cũng chẳng phải tương ưng các pháp nhiễm ô vô ký hiện có ngay đây.

Lại, có năm thứ nghĩa chấp thủ bất chính, là Chấp thủ bất chính của Bổ-đặc-già-la, Chấp thủ bất chính các pháp, Chấp thủ bất chính biến dị, Chấp thủ bất chính tổn giảm và Chấp thủ bất chính khác nhau.

Lại, có bốn thứ nghĩa ngôn giáo:

1.  Lời nói quyết định, nhưng ý lại bất định.

2.  Ý nghĩ quyết định, nhưng lời nói không nhất định.

3.  Lời nói và ý nghĩ đều quyết định.

4.  Lời nói và ý nghĩ đều không quyết định. Lại có hai thứ nghĩa sở đối trị:

1.     Điều mà giải thoát môn đối trị là phân biệt tướng nguyện.

2.     Điều mà đến bờ kia đối trị là keo kiệt, phạm giới, giận dữ, làm biếng, tán loạn, trí tuệ ác.

Lại có hai thứ nghĩa không sở đối trị: là mười sáu thứ tà tưởng đang có, và mười bốn thứ tưởng trói buộc.

Lại có hai thứ nghĩa thực hành đáo bỉ ngạn (đến bờ kia):

1.  Những việc làm của thế gian có sở đắc.

2.  Những việc làm của xuất thế gian không có sở đắc.

Lại nữa, những việc thế gian làm, để đến bờ kia, chỉ là tương tự, chứ không phải chân thật. Như gần giống, trong đó có độc có chướng ngại, không có phương tiện, nên biết cũng vậy. Nên biết, việc làm của xuất thế gian đến bờ kia là trái với ở đây.

Lại nữa, nói lược về nghĩa tự thể của tuệ đến bờ kia, nên biết do ba thứ tướng:

1. Tướng của chỗ nương.

2. Tướng của chỗ duyên.

3. Tướng hành.

-   Tướng chỗ nương là tâm Bồ-đề.

-   Tướng chỗ nương của các pháp như sắc, v.v...

-   Tướng hành, có hai thứ là thế gian và xuất thế gian. Thế gian hành là vô thường, khổ, không, vô ngã, như bệnh, như ung nhọt. Xuất thế gian hành là: Hành động tương ưng với vô sở đắc.

Lại có ba thứ nghĩa về sự khéo chứa nhóm tu tập Ba-la-mật-đa:

1.     Dùng tất cả trí tính tác ý tương ưng với tất cả hữu tình mà cùng hồi hướng về đạo quả giác ngộ Vô thượng.

2.     Dùng các Ba-la-mật-đa an trụ trong thật tế.

3.     Đối với thật tế mà không tác chứng.

Lại nữa, như nói đây, tâm là bất khả tư nghì. Vì sao là bất khả tư nghì? Là bởi chỗ nương, do đối tượng mà khiến tâm an trụ. Cả hai đều vô tính. Đã là vô tính nên thanh tịnh cũng không thể nghĩ bàn. Cái không thể nghĩ bàn nầy vừa có tính chất, vừa không có tính chất, và tâm kia, vừa khác tính chất vừa không khác tính chất.

Lại, có tướng hành của tất cả hý luận. Do ba nguyên nhân khiến tâm trôi lăn:

1. Do gần gũi.

2. Do sở duyên.

3. Do lập ra.

Gần gũi nghĩa là khi được quả báo thì duyên chấp lấy chỗ nương.

-     Do sở duyên là nhận về bao nhiêu cảnh giới, và làm ra thêm bao nhiêu nghiệp.

-     Do lập ra là từ vô thỉ đến giờ vọng tưởng huân tập.

Lại có bốn nghĩa phân biệt:

1. Có phân biệt.

2. Không phân biệt.

3. Có hai phân biệt.

4. Không có hai phân biệt.

Lại có bốn nghĩa không phân biệt:

1. Kẻ ngu si không phân biệt.

2. Loài vô tình không phân biệt.

3. Không có tác dụng, không có phân biệt.

4. Pháp tính không phân biệt.

Lại có hai thứ nghĩa ngôn giáo: là Thế tục ngôn giáo và Thắng nghĩa ngôn giáo.

-     Thế tục ngôn giáo là lập ra hai thứ lý thú khác nhau.

-     Thắng nghĩa ngôn giáo là hai thứ lý thú: Không khác và không tác dụng.

Lại nữa, đối với thắng nghĩa đế thì không thể nói ra. Trong lời nói, có ba tướng, nên biết:

1. Tướng của tướng. 2. Tướng tạp nhiễm.

3. Tướng thanh tịnh.

Lại do ba tướng biết cùng khắp mà quán các pháp hiện tại.

Ba tướng là:

1. Giả lập.

2. Liễu biệt.

3. Chỉ có lượng.

Các Bồ-tát cho cái gì là vui? Là đem lợi ích cho chúng sinh làm nguồn vui. Bồ-tát coi cái gì là khổ? Là coi thấy chúng sinh bị tổn não là khổ. Lấy gì làm tác ý? Là suy nghĩ các việc ích lợi cho chúng sinh làm tác ý. Trụ vào chỗ nào? Lấy tâm không còn phân biệt làm chỗ an trụ.

Lại nữa, Đại Bồ-tát có mười hai việc gian nan mà Bồ-tát thông minh nên biết rõ:

1. Đối với chúng sinh trái phạm, vượt qua pháp thức thì Bồ-tát phạt, hoặc tha. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát. 2. Phương tiện hiện làm đối với các khổ vây ngặt, giữ gìn tự tâm, không cho phiền não khởi lên. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

3.     Vô lượng chúng sinh hiện tiền cầu xin tất cả của cải phi pháp. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

4.     Bồ-tát chỉ có một thân phải làm việc cho vô lượng chúng sinh. Đồng thời mời giúp đờ hiện tại. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

5.     Ở nơi người ta sống buông lung mà ở ngay nơi thế gian với định mầu nhiệm đáng quí, như sinh lên trời thì khiến tâm điều thuận. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát. 6. Thường mong cầu làm việc ích lợi cho khắp chúng sinh, nhưng mình không sức, không có khả năng.

Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

7.     Chúng sinh ngu đần dối trá, hoặc nói pháp cho họ hay bỏ họ. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

8.     Thường đối với sinh tử, thấy có lỗi lớn, nhưng vì làm lợi chúng sinh nên không nỡ bỏ họ ra đi. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

9.     Chưa chứng được thanh tịnh tăng thượng đa phần ý lạc, nhưng thất niệm mà qua đời. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

10.   Chưa chứng được ý lạc tăng thượng thanh tịnh, nhưng kẻ khác đến cầu xin việc mà họ ưa thích rất. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

11.   Chúng sinh đang sống ngay đây với các dục lạc, các ý kiến thì phải chỉ bày cho họ hoặc là bỏ họ. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

12.   Thường làm việc với cao nhất là không buông lung, nhưng cũng chưa dứt trừ hết phiền não. Ấy là việc gian nan của Bồ-tát.

Nếu các Bồ-tát gặp những việc gian nan như vậy, thì phải xem xét coi khinh trọng ra sao mà lập ra phương tiện cho thích ứng với mỗi hoàn cảnh, hoặc phải lựa chọn Bổ-đặc-già-la, hoặc nên gắng sức, thâu nhiếp rồi tùy duyên mà chuyển đổi đi. Nếu phát chánh nguyện, hoặc hết tâm không cho buông lung, hoặc trụ tâm quán sát mạnh mẽ, bất sinh tâm mệt mỏi mà tự an nhẫn. Hoặc do tâm thương xót mà sinh tâm buông xả hết các gian nan. Hoặc phát khởi siêng năng hăng hái. Hoặc lại suy nghĩ tìm phương tiện. Như thế, là những thứ đối trị khéo léo.

Bậc Đại Bồ-tát dù gặp những gian nan như vậy hiện ra ngay trước mắt, nhưng không run sợ, tự mình thoát khỏi.

Lại nữa, có năm tướng Bồ-tát chân thật. Do thành tựu những tướng ấy cho nên được xếp vào số Bồ-tát. Năm tướng là yêu thương chúng sinh, thường nói bằng lời ngọt ngào, việc làm thì cương quyết, rộng tay bố thí ban ơn tuệ, khéo phân tích những ý nghĩa sâu rộng.

-Thương xót có hai tính:

1. Lạc dục.

2. Chánh hạnh.

Nói lạc dục nghĩa là Bồ-tát làm lợi ích, và khởi ý niệm an vui đối với các chúng sinh. Nói chánh hạnh nghĩa là đối với các chúng sinh, Bồ-tát theo sự ham muốn của họ rồi tùy sức, tùy khả năng mình, dùng thân, lời nói việc làm giáo hóa gom họ về. Đó gọi là thương xót.

-     Lời nói dịu dàng là nói ơn đức, vui mừng, an ủi, thí dụ. Đó gọi là Bồ-tát thường nói lời dịu dàng đối với các chúng sinh.

-     Việc làm cương quyết là hăng hái không run sợ, có sức mạnh vượt hơn. Đó gọi là Bồ-tát với những việc làm cương quyết.

-     Thực hành bố thí ban ơn tuệ là Bồ-tát làm việc bố thí rộng lớn, làm bố thí với tâm không đắm nhiễm thì đó gọi là Bồ-tát rộng bố thí ban ơn tuệ.

Nếu Bồ-tát thường khéo phát khởi bốn vô ngại giải, chánh phương tiện trí đó gọi là Bồ-tát khéo phân tích, tự thể những ý nghĩa sâu rộng.

Lại có năm tướng thù đặc và không thù đặc của Bồ-tát, như ở trước đã nói, trong phẩm thâu nhiếp nghĩa tịnh. Lại nữa, nay sẽ nói về sự lựa chọn cao vượt đối với công đức nương vào Đại thừa.

Tụng rằng:

Chủng tánh Như lai nói,
Nhiều Phật trong một thừa.
Năm thứ và mười thứ,
Sáu, sáu thứ đạo lý.

Luận chép: Trong ngôn giáo Đại thừa chia chủng tính khác nhau, ấy là Như lai nói. Trong một thời gian nào đó, có nhiều Phật ra đời đều là dòng họ Nhất thừa. Theo thứ lớp ấy, có năm thứ, mười thứ (giống) sáu thứ, sáu thứ là đạo lý, nên biết.

Hỏi: Thế nào là năm thứ đạo lý về sự khác nhau của dòng họ?

Đáp: Do tất cả thế giới đều khác nhau, nên có thể được. Hữu tình không chủng tánh thì không hợp lý. Cùng loại mà thí dụ, không hợp lý, mà khác loại thí dụ cũng không hợp lý. Bởi ngay đây, không phải là pháp Niết-bàn, nên không hợp lý.

Hỏi: Vì sao tất cả cõi khác nhau có thể được? Theo những gì mà Phật nói là các cõi hữu tình có nhiều cõi khác nhau chứ không phải chỉ có một cõi hữu tình. Có cõi hữu tình dưới kém, cũng như có cõi hữu tình cao đẹp. Có chủng tính thuộc cõi hữu tình như thừa Thanh văn nhập Niết-bàn và có chủng tính thuộc cõi hữu tình không nhập Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao hữu tình không có chủng tánh thì không hợp lý? Điều ấy không thể nói, do đạo lý nầy cũng không nói có được một thứ hữu tình không có cội gốc. Vì sao? Vì không có chủng tánh thì như đất ngoài ka, không phải hữu tình.

-     Vì sao cùng loại thí dụ, không hợp lý? Nghĩa là không nên nói chủng loại có thể thay đổi như Sát-đế-lợi chẳng phải là Sát-đế-lợi. Na-lạc-ca không phải là Nalạc-ca do tính chất cõi ấy có thể thay đổi. Như vậy, chủng tính nhập Niết-bàn, không nhập Niết-bàn, cũng có thể thay đổi. Vì sao? Vì Sát-đế-lợi và Na-lạc-ca đều có đầy đủ tất cả chủng loại, giới tính, và giới tính cõi ấy.

Hai thứ nhập Niết-bàn và không nhập Niết-bàn, chủng tính nó trái nhau. Nếu nó không có các giới tính thì phải rốt ráo không thể hồi chuyển. Cho nên cùng loại thí dụ là không hợp lý.

-     Vì sao các loại thí dụ, không hợp lý? Nghĩa là không thể nói như đối với từng địa phương, xứ sở, hoặc ở nhưng nơi ấy, trước đây có các chủng loại khoáng sản như vàng, bạc, đồng, muối, sắt, v.v… nhưng sau nầy lại không có, hay trước đây không sau lại có. Cũng thế pháp nhập Niết-bàn, chủng tính nó, cũng trước có sau không, hay trước không sau có? Vì sao? Vì nếu có lý đó thì thuận phần giải thoát sẽ không gặt được quả gì hết. Cho nên khác loại, thí dụ không hợp lý.

Vì sao ngay đây, không phải là pháp nhập Niết-bàn nên không hợp lý? Là không nên nói ngay trong đời hiện tại, dù không phải pháp nhập Niết-bàn, nhưng ở đời khác lại có thể thay đổi thành pháp nhập Niết-bàn. Vì sao? Vì không có chủng tính nhập Niết-bàn.

Lại nữa, nếu ở đời nầy, trước đã từng chứa góp gốc lành của thuận phần giải thoát thì vì sao không gọi nó là pháp nhập Niết-bàn? Nếu trong đời sống nầy, trước hoàn toàn chưa chứa góp gốc lành của thuận giải thoát phần thì làm thế nào lại có khả năng nhập Niết-bàn?

Thế cho nên chắc chắn có chủng tính hữu tình không phải nhập Niết-bàn.

Hỏi: Nên biết, ngôn giáo Đại thừa là những gì mà Phật nói? Đáp: Do mười thứ nguyên nhân:

1.     Do trước kia, Phật không thọ ký.

2.     Do nay không thể biết.

3.     Do đã làm nhiều việc.

4.     Do nghiệp chướng rất nặng.

5.     Do không phải cảnh giới tầm tứ. Bởi trước đã không nghe nói đến, tất nhiên không thể tìm tòi suy nghĩ gì được. Cho nên bảo ngôn giáo Đại thừa là do ai, khác nói là không hợp lý.

6.     Vì chứng đại giác, nếu chưa thành Phật mà có thể nói lời Phật dạy là không hợp lý.

7.     Vì không có lỗi của thừa thứ ba.

8.     Đây nếu không có thì không có bậc Nhất thiết trí, điều ấy thành lỗi.

9.     Duyên theo đây làm cảnh, suy nghĩ như lý để đối trị tất cả phiền não.

10.   Không theo lời nói mà nắm bắt ý kia.

Hỏi: Làm sao biết được cùng lúc có nhiều Đức Như lai ra đời? Đáp: Vì sáu nguyên nhân:

1.     Do vô lượng hữu tình, trong một lúc, cùng phát nguyện đại giác ngay trong hiện tại cũng có thể có được.

2.     Do vô lượng hữu tình cùng tu tập phương tiện tư lương Bồ-đề, hiện tại vẫn có thể được.

3.     Nếu bảo là chướng ngại nhau thì không hợp lý.

4.     Do tư lương Bồ-đề cùng lúc đều tròn đầy và đều xuất hiện ở thế gian là rất hợp lý.

5.     Nếu bảo là xuất hiện thứ lớp là không hợp lý.

6.     Nếu bảo hoàn toàn không có ai thành Phật thì không hợp lý.

Hỏi: Vì sao Như lai chỉ nói Nhất thừa?

Đáp: Do sáu nguyên nhân:

1.     Do giáo pháp Như lai đều được ước tính theo tướng không khác nhau mà nói ra.

2.     Do nói cách ước lược về hành tướng vô phân biệt.

3.     Do chúng sinh vô ngã và pháp vô ngã bình đẳng.

4.     Do giải thoát bình đẳng, nghĩa là người tìm kiếm chỗ khác, nên có sự phân biệt luống dối. Phiền não bị đối trị và pháp tính sở duyên, không trái nhau.

5.     Do khéo léo có thể biến hóa an trụ.

6.     Do hạnh đã rốt ráo. Lại nữa, Tụng rằng:

Công năng mầu Chư Phật,
Quả kia, độ thanh tịnh,
Giải thoát và pháp thân,
Đều không nghĩ, Vô thượng.

Luận chép: Tất cả Như lai đều có công năng bình đẳng đối với các việc mình làm. Và kết quả của công năng đó, là cõi nước rất thanh tịnh. Thân giải thoát và pháp thân của tất cả Chư Phật đều bình đẳng, đều không thể nghĩ bàn và đều không ai bằng, nên biết.

Lại nữa, Tụng rằng:

Dù không dùng gia hạnh,
Trước, nguyện lực đã dẫn,
Nương vô vi phát khởi,
Việc làm không hai tướng.

Luận chép: Nương vào pháp thân vô vi, dù không dụng công gia hạnh, nhưng vì sức mạnh của bản nguyện dẫn phát cho nên nhậm vận phát khởi tất cả Phật sự mà Như lai đã làm, như hành giả xuất định Diệt tận. Nên biết, Phật sự đã khởi xướng kia, hình tướng nó là không cùng tận. Không phải tướng sinh tử, cũng không phải tướng Niết-bàn.

Thế nào là tạng Tố-đát-lãm? Thế nào là tạng Tỳ-nạida? Thế nào là tạng Ma-đát-lý-ca.

Tụng đáp:

Giảng nói các pháp sự,
Biệt giải thoát phân biệt.
Các pháp tướng mười một.
Là tạng gốc Kinh Luật.

Luận chép: Chư Phật, Thế Tôn chỉ nương vào các việc làm sáng tỏ các pháp. Đó gọi là tạng Tố-đát-lãm.

Hỏi: Thế nào là nhiếp sự?

Đáp: Là bốn sự, chín sự, hai mươi chín sự. Bốn sự là gì? Là nghe, hướng về, học và Bồ-đề. Chín sự là:

1. Sự giả lập hữu tình.

2. Sự thọ dụng của hữu tình.

3. Sự sinh khởi của hữu tình.

4. Sự sinh rồi trụ của hữu tình.

5. Sự ô nhiễm và thanh tịnh của hữu tình.

6. Sự khác nhau của các hữu tình.

7. Sự của người năng nói.

8. Sự của pháp được nói.

9. Sự về chúng hội, v.v...

-Hai mươi chín thứ sự là trùm nhiếp chín sự. Theo phẩm Tạp Nhiễm trong kinh, có nói bốn sự là:

1.  Sự thâu nhiếp các hạnh.

2.  Sự ngay trong đây chuyển biến theo thứ lớp.

3.  Ngay trong đây, sau khi lập ra tưởng chúng sinh thì chuyển biến là nhân.

4.  Ngay trong đây, sau khi lập ra pháp tưởng thì chuyển biến là nhân.

Lại nữa, theo phẩm thanh tịnh nói, có hai mươi lăm sự là:

1.     Sự an trụ đối với cảnh sở duyên.

2.     Sự cần cù khó nhọc trong đây.

3.     Sự tâm an trụ.

4.     Sự hiện pháp lạc trụ.

5.     Sự duyên vào phương tiện để giải thoát các khổ lụy.

6.     Sự hiểu biết khắp về hữu tình. Sự nầy có ba thứ là hiểu biết cùng khắp mang chất điên đảo theo nơi chốn. Dựa vào tưởng của hữu tình đối với các hành động tà vạy của hữu tình bên ngoài mà hiểu biết cùng khắp dựa vào nơi chốn. Còn bên trong thì nương vào nơi chốn hiểu biết cùng khắp nhằm lìa bỏ tăng thượng mạn.

7.     Sự tu tập dựa vào nơi chốn.

8.     Sự tác chứng.

9.     Sự tu tập.

10.   Sự vững chắc của hữu tình.

11.   Sự hành tướng của hữu tình.

12.   Sự sở duyên của hữu tình.

13.   Sự quán xét khéo léo về đoạn hay chưa dứt phiền não.

14.   Sự tán loạn của hữu tình.

15.   Sự không tán loạn của hữu tình.

16.   Sự nương vào nơi không tán loạn.

17.   Sự tu tập không mỏi mệt bằng phương tiện không xa lìa.

18.   Sự tu tập thắng lợi.

19.   Sự vững chắc của hữu tình.

20.   Sự thâu nhiếp hạnh hiền Thánh.

21.   Sự thâu nhiếp hạnh quyến thuộc của hiền Thánh.

22.   Sự thông đạt chân thật.

23.   Sự chứng Niết-bàn.

24.   Sự khéo giảng nói đúng chánh pháp, luật thâu nhiếp được chánh kiến về thế gian, vượt hơn chánh kiến bên ngoài.

25.   Sự lui sụt bởi không tu tập luật, pháp.

Ở đây do việc khéo nói pháp, luật nhưng không tu tập nên gọi là lui giảm. Điều ấy chẳng phải lỗi do tà kiến. Lại nữa, Phật Thế Tôn vì các Thanh văn, và các Bồtát mà nói biệt giải thoát và phân biệt rộng các pháp tương ưng với biệt giải thoát. Đây gọi là tạng Tỳ-nại-da. Trong đây, do bảy thứ tướng lược thâu nhiếp Biệt giải thoát của Bồ-tát nên biết:

1. Giảng nói thọ trì qui tắc.

2. Giảng nói Ba-la-xà-dĩ-ca xứ.

3. Giảng nói về sự hủy phạm.

4. Giảng nói về thể tính của sự trái phạm.

5. Giảng nói về thể tính của sự không trái phạm.

6. Giảng nói về việc ra khỏi chỗ hủy phạm.

7. Giảng nói về sự xả bỏ luật nghi.

Lại nữa, Phật, Thế Tôn đã dùng mười một thứ tướng phân biệt sáng tỏ, chỉ bày các pháp, đó gọi là tạng Mađát-lý-ca. Mười một thứ tướng là:

1.   Tướng Thế tục đế.

2.   Tướng Thắng nghĩa đế.

3.   Tướng sở duyên vào của pháp Bồ-đề phần.

4.   Tướng của việc làm nầy.

5.   Tướng tự thể của việc làm nầy.

6.   Đắc tướng của quả nầy.

7.   Tướng lãnh thọ sự sáng tỏ nầy.

8.   Tướng pháp chướng ngại nầy.

9.   Tướng thuận theo pháp nầy.

10. Tướng lỗi nầy.

11. Tướng khen ngợi nầy.

-     Tướng thế tục là, nên biết, giảng nói Bổ-đặc-giàla, giảng nói tự tính của biến kế sở chấp. Giảng nói tướng tác dụng nghiệp đầy đủ của các pháp.

-     Tướng thắng nghĩa: nên biết, giảng nói bảy tướng chân như Bồ-đề phần.

-     Tướng sở duyên: nên biết, giảng nói tất cả các thứ được biết.

-     Hành tướng nầy là, nên biết, giảng nói 8 hạnh quán sát, tám hạnh ấy là:

1. Công hạnh quán sát đế.

2. Công hạnh quán sát lập ra.

3. Công hạnh quán sát lỗi.

4. Công hạnh quán sát công đức.

5. Công hạnh quán sát lý thú.

6. Công hạnh quán sát sự trôi lăn.

7. Công hạnh quán sát đạo lý.

8. Công hạnh quán sát rộng, lược.

-     Đế nghĩa là chân như.

-     Lập ra là như lập ra Bổ-đặc-già-la, hay lập ra tự tính biến kế sở chấp, hoặc lập ra vấn đề ghi chép luận là một mặt phân biệt, một mặt hỏi lại. Hay lập ra ghi chép về ẩn mật và hiện rõ.

-     Lỗi là những gì mà Phật nói về pháp tạp nhiễm, không phải các thứ lỗi lầm khác nhau.

-     Công đức là: Như những gì mà Phật nói về pháp thanh tịnh, chẳng phải các thứ thắng lợi khác nhau.

-     Lý thú là, có sáu thứ lý thú, như phẩm Thâu nhiếp sự đã nêu.

-     Trôi lăn là: ba đời, ba cõi là tướng và bốn duyên.

-     Đạo lý là bốn thứ đạo lý:

1. Đạo lý quán đãi.

2. Đạo lý tác dụng.

3. Đạo lý chứng thành.

4. Đạo lý pháp nhĩ.

Do các nhân, các duyên nên các hành sinh khởi và tùy lúc hiện rõ.

Đó gọi là quán đãi đạo lý.

Do các nhân, các duyên nên các pháp được chứng đắc hoặc thành tựu tròn đầy.

-Hữu tình đã sinh khởi có khả năng gây ra nghiệp dụng, đó gọi là đạo lý tác dụng.

Do các nhân, các duyên nên đã lập, đã nói, đã nêu ý nghĩa lên, mà được thành lập, được hiểu đúng đắn thì đó gọi là đạo lý chứng thành.

Ở đây lại lược, có hai thứ:

1. Thanh tịnh.

2. Không thanh tịnh.

-Thanh tịnh là do năm tướng, không thanh tịnh do bảy tướng, năm tướng thanh tịnh là:

1. Tướng hiện lượng đã có được.

2. Tướng nương vào hiện lượng đã có được.

3. Tướng dẫn tự loại thí dụ.

4. Tướng thành tựu.

5. Tướng khéo thanh tịnh ngôn giáo.

Trong đây, các hoạt động đời sống đều có tính chất vô thường, tính chất tất cả đều khổ, tính chất vô ngã trong tất cả pháp, đó là hiện lượng ngay đời nầy có thể có được. Các loại như vậy, đều gọi là Tướng sở đắc của hiện lượng.

-     Tất cả hành đều có tính chất sát-na, có tính chất đời sau, có tính chất không hoại mất của nghiệp tịnh, bất tịnh. Đây là dựa vào vô thường thô mà có được hiện lượng. Dựa vào các nghiệp khác nhau của hữu tình là hiện lượng có được. Và, nương vào nghiệp vui, khổ, tịnh, bất tịnh của các hữu tình là cái có được của hiện lượng. Từ cái có được của hiện lượng mà so sánh nó với pháp không hiện thấy thì gọi là nương vào Tướng sở đắc của hiện lượng.

-     Nếu các hành trong ngoài, đưa cả thế gian cùng hiểu được tướng sinh diệt. Nó đưa cả thế gian cùng hiểu được tướng sinh khổ, đưa cả thế gian cùng hiểu được tướng sinh không tự tại. Và, đối với sự vật bên ngoài, nó đưa cả thế gian cùng hiểu được tướng hưng thịnh và suy tàn.

Các loại như vậy, gọi là tướng dẫn pháp tự loại thí dụ, tức là Tướng sở đắc và dẫn phát tướng tự loại thí dụ của hiện lượng. Hai tướng nầy đã được thành lập với một bề quyết định. Nên biết, đó là tướng thành tựu.

-     Ngôn giáo là do bậc Nhất thiết trí nói, như nói Niếtbàn vắng lặng. Các loại như vậy đều gọi là tướng ngôn giáo thiện thanh tịnh. Trong đây, có năm tướng có khả năng tiêu biểu cho bậc chân thật Nhất thiết trí, năm thứ tướng là:

1.     Đức Nhất thiết trí nào ra đời tại thế gian nầy thì chính thật tên tuổi vang dội khắp thế gian.

2.     Đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu.

3.     Thành tựu mười lực, cắt đứt tất cả lưới nghi ngờ của các hữu tình.

4.     Tự xưng có đủ bốn pháp không sợ. Không bị đè bẹp bởi tất cả câu hỏi của luận sư khác. Trái lại, có khả năng xô ngã tất cả các luận khác.

5.     Đối với pháp luật tám chi Thánh đạo và Bốn quả Sa-môn đều có thể chứng đắc. Vì xuất hiện như vậy, vì tướng như vậy, vì cắt lưới nghi như vậy, vì lập, phá như vậy, vì đạo quả như vậy, cho nên năm tướng tiêu biểu ấy là tướng của bậc Nhất thiết trí chân thật, đối với đạo lý chứng thành như vậy.

Do hiện lượng, do tỉ lượng, do thí dụ, do thành tựu, do chí giáo do năm tướng nầy nên gọi là thanh tịnh.

-Bảy tướng không thanh tịnh là:

1. Tướng sở đắc của loại đồng phần khác.

2. Tướng sở đắc của loại dị phần khác.

3. Tướng sở đắc của tất cả đồng loại.

4. Tướng sở đắc của tất cả dị loại.

5. Tướng dẫn đến thí dụ khác loại.

6. Tướng không thành tựu.

7. Tướng ngôn giáo không thanh tịnh.

-     Nếu tất cả pháp mà ý thức biết được thì gọi là tướng sở đắc về tất cả cùng loại.

-     Như tướng mạo, như tự thể, như nghiệp, như pháp, như nhân, như quả, tướng đồng, khác hay tùy một phần còn lẫn trong tướng đồng, dị, đó gọi là tướng sở đắc của phần khác, đồng dị loại. Hoặc quyết định còn lộn với tướng khác thì đó gọi là tướng sở đắc của tất cả dị loại.

-     Hoặc gồm thí dụ có tướng sở đắc của đồng loại thành phần khác và có tướng sở đắc của tất cả dị loại, bởi tướng nầy đối với nghĩa đã thành lập, không quyết định, nên gọi là tướng không thành tựu.

-     Hoặc cùng thí dụ, có tướng sở đắc của dị loại thuộc thành phần khác và có Tướng sở đắc của tất cả đồng loại, do tướng nầy đối với nghĩa đã thành lập, không quyết định, nên cũng gọi là tướng không thành tựu. Vì không thành tựu nên gọi là đạo lý quán sát không thanh tịnh, quán sát nầy không thanh tịnh cho nên phải tu tập.

-     Tướng ngôn giáo không thanh tịnh là tự tính ngôn giáo không thanh tịnh, nên biết.

-     Pháp nhĩ đạo lý: Dù Như lai có xuất hiện ra đời hay không thì pháp tính của pháp giới vẫn an trụ như vậy, không hề thay đổi. Đó gọi là đạo lý pháp nhĩ.

-     Nói lược và rộng là trước chỉ nói một câu pháp, về sau dùng vô lượng câu để lần lượt phân biệt sáng tỏ đến cùng.

-     Tướng tự thể nầy, nghĩa là năng thủ hoặc hành trì, hoặc là duyên vào pháp Bồ-đề phần, bốn niệm trụ, v.v... Đó gọi là tướng tự thể.

-     Chứng đắc quả tướng nầy là quả dứt trừ phiền não thế gian và xuất thế gian, và đưa đến công đức phát sinh ở thế gian và xuất thế gian. Đó gọi là tướng của quả nầy.

Đây là nhận lãnh tướng sáng tỏ, nghĩa là do trí giải thoát, tức là nhận lấy tướng quả sở đắc nầy và rộng vì người nói rõ tướng nó. Đó gọi là nhận lấy tướng sáng tỏ.-Tướng chướng ngại pháp nầy nghĩa là như trong khi tu tập pháp Bồ-đề phần, có thể bị chướng ngại bởi pháp nhiễm ô thì đó gọi là tướng chướng ngại pháp nầy.

-     Đây là tướng pháp thuận theo nghĩa là đối với pháp Bồ-đề phần nầy, có khả năng thuận theo nên có thể làm được nhiều việc khác. Đó gọi là tướng thuận theo pháp nầy.

-     Tướng lỗi là tất cả lỗi chướng ngại, đó gọi là tướng lỗi.

-     Đây là tướng khen ngợi, là pháp thuận theo tất cả công đức đã có. Đó là tướng khen ngợi nầy.

-     Thuận theo tất cả nơi chốn nghĩa là Chư Phật, Thế Tôn đã dùng mười một tướng để phân biệt sáng tỏ, chỉ bày các pháp. Đó gọi là Ma-đát-lý-ca.

Lại nữa, tụng rằng:

Các tướng và đoạn diệt,
Phương tiện không hoại mất.
Hai quả khác nhau kia,
Là nghĩa lược các kinh.

Luận chép: Nên biết, có năm nghĩa lược nói trong các kinh, là:

1. Tướng.

2. Đoạn diệt.

3. Phương tiện không hoại mất.

4. Hai quả kia.

5. Khác nhau về tướng, v.v...

Nói lược năm nghĩa nầy, như kinh Thiện Sinh đã nói: "Phật bảo Thiện Sinh là người thuộc dòng họ, có hai thứ sự đều tốt đẹp. Tướng tốt đẹp nầy bị cắt đứt do hai thứ là ham muốn và lấy sự đoạn diệt và nương vào sự. Lấy sự đoạn diệt là đây nói thường có hai thứ sáng tỏ, hai thứ phương tiện không hoại mất, đó là cạo râu tóc cho đến xuất gia, dứt hết các lậu cho đến giác thọ, biết sinh tử của ta đã hết, cho đến nói rộng.

-Hai quả kia là quả phương tiện không hoại mất, tính vắng lặng khác nhau. Có năm thứ vắng lặng khác nhau là:

1. Mọi trói buộc đã vắng lặng.

2. Vắng lặng do lìa dục, thế gian.

3. Vắng lặng do thuận phần dưới.

4. Vắng lặng do thuận phần trên.

5. Nương vào sự mà vắng lặng.

Do làm sáng tỏ các tướng công đức nầy, nên trong kinh Thiện Sinh nói kệ như sau:

Các Bí-sô khéo giỏi,
Vắng lặng lìa các lậu,
Lìa dục, lìa trói buộc,
Không nắm giữ Niết-bàn,
Gìn giữ thân sau rốt,
Hàng phục các thứ ma.

Lại nữa, Tụng rằng:

Lược nói đạo Du-già,
Duyên được nghe chánh pháp,
Xa-ma-tha và quán,
Nương ảnh tượng thành tựu.

Luận chép: Nên biết, nếu nói lược, đạo Du-già là thuộc về, học rộng, lấy chánh pháp làm cảnh giới, mà Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na là tự thể. Nương vào ảnh tượng và nương vào sự mà thành tựu. Như Đức Bạc-giàphạm nói: Có năm pháp có thể thâu nhiếp tất cả hành giả Du-già và các Du-già địa, nghĩa là giữ gìn tấm gương cho tuyệt sáng và chuyển y. Nên biết: Nghe chánh pháp là giữ gìn được sở duyên. Đó là trụ vào chỉ quán là làm sáng tỏ ảnh tượng. Đó là thành tựu sự soi gương và chuyển y.


[Đầu trang][Mục lục Bộ Du Già][Mục lục tổng quát]