TẠNG LUẬN
SỐ 1606 - LUẬN ĐẠI THỪA A-TỲ-ĐẠT-MA TẠP TẬP
Tác giả: Bồ-tát An Tuệ Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang-đời Đại Đường
PHẦN BẢN SỰ Phẩm 1: BA PHÁP (Phần 1)
Phẩm 1: BA PHÁP TRONG PHẦN BẢN SỰ (Phần 2)
Phẩm 1: BA PHÁP TRONG PHẦN BẢN SỰ (Phần 3)
Phẩm 1: BA PHÁP TRONG PHẦN BẢN SỰ (Phần 4)
Phẩm 1: BA PHÁP TRONG PHẦN BẢN SỰ (Phần 5)
Phẩm 2: NHIẾP TRONG PHẦN BẢN SỰ
Phẩm 3: TƯƠNG ƯNG TRONG PHẦN BẢN SỰ
Phẩm 4: THÀNH TỰU TRONG PHẦN BẢN SỰ
Phẩm 1: Đế (Phần 3) Lại nữa, nghiệp sai khác có ba thứ:
Phẩm 2: PHÁP (Phần 2) Thế nào là Tu? Lược có năm thứ:
Phẩm 4: LUẬN (Phần 2) Tự tánh Thật: Là các pháp thật có tánh.
Các hội chân tịnh lìa rốt ráo,
Vượt biển Thánh hạnh lên bờ kia,
Chứng đắc tất cả pháp tự tại,
Thiện quyền hóa dẫn không nghĩ bàn.
Vô lượng thắng công đức ít có,
Chỗ nương tự lợi và tự tha,
Kính lễ đứng Đại Giác như vậy,
Diệu pháp vô đẳng các Thánh chúng.
Kính lễ bản Luận sư mở giảng,
Người cận thừa Thánh chỉ phân biệt,
Do ngộ khế kinh và giải thích,
Mà phát chánh cần và tham tổng.
Nay trong bài Tụng nầy xưng tán công đức tối thắng không điên đảo cung kính đảnh lễ, để cúng dường Tam bảo và soạn luận, Thích kinh hai sư theo sự thích ứng. Vì sao? Vì chỗ nương và năng khởi của luận nầy, Phật,
Bạc-già-phạm là chỗ nương bình đẳng của… tất cả giáo pháp như khế kinh. Không có thầy mà tự ngộ được thật tánh của các pháp, là vì nhất phần giáo khởi chỗ nương. Từ đây chúng Thánh đệ tử y theo pháp, tùy học pháp làm chỗ nương không gián đoạn vì nó được chảy ra từ pháp giới. Thích Kinh, hai sư cũng khế hợp với Chánh pháp mà Như Lai nói, một phần Văn, Tư, Tu thuận hợp mà hành, là chỗ nương nên theo đó soạn luận. Hai câu tụng đầu nói về sáu nghĩa thắng đức của Như Lai ứng chánh đẳng giác, đó gọi là nghĩa tự tánh, nghĩa nhân, nghĩa quả, nghĩa nghiệp, nghĩa tương ưng, nghĩa sai khác.
"Các hội chân tịnh lìa rốt ráo", là nói về nghĩa tự tánh, vì pháp thân của Chư Phật dùng Nhất thiết chủng chuyển y chân như làm thể tánh.
"Vượt biển Thánh hạnh lên bờ giác", là nói về nghĩa nhân, vì Bồ-đề của chư Phật từ Nhất thiết chủng cực hỷ đồng với vô lượng vô số kiếp của mười địa Thánh hạnh, tròn đầy tu tập nhân đã sinh.
"Chứng đắc tất cả pháp tự tại", là nói về nghĩa quả, vì dứt hẳn tất cả chướng phiền não, chướng sở tri và các tập khí khác, chứng đắc quả vô biên có ít công đức Vô thượng Tam Bồ-đề, đối với tất cả pháp tự tại chuyển.
"Thiện quyền hóa dẫn không nghĩ bàn", là nói về nghĩa nghiệp, vì vượt qua Phi Nhất thiết trí cảnh, Thần thông, Ký thuyết, Giáo giới, Biến hiện… vô lượng phương tiện điều phục, dẫn dắt hữu tình có thể hóa độ khiến cho cõi tâm thanh tịnh.
"Vô lượng thắng công đức có ít", là nói về nghĩa tương ưng, vì vượt số lượng tầm tư, vô biên các thứ khổ hạnh khó làm, đã sinh Đại bi vô thượng, Lực vô úy tương ưng với công đức Pháp bảo.
"Chỗ nương tự lợi và lợi tha", là nói về nghĩa sai khác, là thân thọ dụng và thân biến hóa của Như Lai là nơi nương tựa, như thứ lớp về lợi mình người. "Chỗ nương", là nghĩa thân, nghĩa thể, không có sai khác. "Chỗ nương gồm lợi tự tha", là ngay trên thù thắng mà nói, là Thân thọ dụng tự lợi tối thắng xứ trong đại hội, có thể thọ pháp Thánh tài bậc nhất rộng lớn sâu xa. Thân biến hóa là lợi tha tối thắng khắp tất cả mười phương thế giới, có thể phát khởi vô gián, cũng như các sự biến hóa của nghiệp công xảo, lập ra điều nên làm của hữu tình. Thân tự tánh, là các bậc Thiện Thệ có chung Pháp thân cực nhỏ nhiệm, các chướng chuyển y Chân như làm thể, đối với tự lợi tha lợi đều là tối thắng, do chứng thân nầy mà đắc thân kia. Ba thân Phật là nghĩa sai khác, phải biết trong đây cũng khen ngợi công đức của Pháp và Tăng. Pháp bảo, đã thâu nhiếp nghĩa của tự tánh nhân quả. Tăng bảo, là tùy sự tu học mà sinh, ngõ hầu khiến cho người học không có các kinh sợ, mới soạn đầu luận, lập thể tánh này.
Bản sự và Quyết trạch,
Mỗi phần có bốn thứ,
Ba pháp nhiếp nêu thành,
Đế pháp đắc luận nghị.
Bao nhiêu nhân chấp tướng,
Lập ra và thứ lớp,
Nghĩa dụ phân biệt rộng,
Tập tụng chung nên biết.
Hỏi: Vì sao đầu luận trước là nói về uẩn…?
Đáp: Muốn khiến cho học giả đối với bao nhiêu nhân bằng với các chỗ tư duy chọn lựa mà đắc khéo léo. Vì sao? Vì khéo léo nầy có thể đắc hai thứ xưng tán lợi ích:
1. Tác ý tán lợi ích.
2. Luận nghị quyết trạch xưng tán lợi ích.
Tác ý xưng tán lợi ích, là khéo thuận tăng trưởng Xama-tha (chỉ) và Tỳ-bát-xá-na (quán). Khéo thuận tăng trưởng Xa-ma-tha, là đã đối với các xứ xét chọn như vậy đã làm khéo léo, vì được không nghi; tùy theo chỗ ưa thích của nó đối với một cảnh giới mà chánh quán hiện tiền, vì tâm dễ định. Khéo thuận tăng trưởng Tỳ-bát-xána, là dùng vô lượng môn để quán sát tất cả cảnh giới sở tri, mau chóng khiến cho chánh tuệ rốt ráo tròn đầy. Luận nghị quyết trạch xưng tán lợi ích, do đối với các xứ xét chọn như vậy khéo thông đạt, thành tựu tất cả hỏi đáp tự tại, không sợ các luận khác.
Hỏi: Uẩn giới xứ mỗi loại có bao nhiêu thứ?
Đáp: Uẩn có năm thứ:
1. Sắc uẩn.
2. Thọ uẩn.
3. Tưởng uẩn.
4. Hành uẩn.
5.Thức uẩn.
-Giới có mười tám thứ:
1. Nhãn giới.
2. Sắc giới.
3. Nhãn thức giới.
4. Nhĩ giới.
5. Thanh giới.
6. Nhĩ thức giới.
7. Tỷ giới.
8. Hương giới.
9. Tỷ thức giới.
10. Thiệt giới.
11. Vị giới.
12. Thiệt thức giới.
13. Thân giới.
14. Xúc giới.
15. Thân thức giới.
16. Ý giới.
17. Pháp giới.
18. Ý thức giới.
-Xứ có mười hai thứ:
1. Nhãn xứ.
2. Sắc xứ. 3. Nhĩ xứ.
4. Thanh xứ.
5. Tỷ xứ.
6. Hương xứ.
7. Thiệt xứ.
8. Vị xứ.
9. Thân xứ.
10. Xúc xứ.
11. Ý xứ.
12. Pháp xứ.
Hỏi: Vì sao uẩn chỉ có năm thứ?
Đáp: Để nói năm thứ về ngã:
1. Thân đủ việc việc ngã.
2. Thọ dụng việc ngã.
3. Nói năng việc ngã.
4. Tạo tác nhất thiết pháp phi pháp việc ngã.
5. Bỉ sở y chỉ ngã tự thể việc ngã.
Trong năm thứ nầy, bốn loại trước là việc ngã sở, một loại sau là sự ngã tướng. "Thân cụ", là nội sắc và ngoại sắc, sự thâu nhiếp của uẩn. Thọ nơi các uẩn là nghĩa thọ dụng… sẽ nói trong sự tướng. "Bỉ sở y chỉ ngã tự thể việc ngã", có nghĩa thức uẩn là chỗ nương nơi sự ngã tướng của thân cụ… Vì sao? Vì hữu tình thế gian phần nhiều đối với thức uẩn chấp làm ngã, đối với các uẩn còn lại thì chấp làm ngã sở.
Hỏi: Vì sao giới chỉ có mười tám thứ?
Đáp: Do thân cụ… có thể duy trì quá khứ hiện tại sáu hành nơi tánh thọ dụng. "Thân", là nhãn… nơi sáu căn. "Cụ", là sắc… nơi sáu cảnh. "Quá khứ hiện tại sáu hành thọ dụng", là sáu thức. "Có thể duy trì", là sáu căn và sáu cảnh có thể nhiếp lấy sáu thức, là chỗ nương, chỗ duyên. "Quá khứ hiện tại sáu thức có thể duy trì thọ dụng", là không xả bỏ tự tướng. Phải biết mười tám thứ nầy dùng nghĩa năng duy trì cho nên gọi là Giới.
Hỏi: Vì sao xứ chỉ có mười hai thứ?
Đáp: chỉ có thân và cụ có thể cùng với sáu hành thọ dụng vị lai là môn sinh trưởng, như quá khứ hiện tại sáu hành tướng thọ dụng làm chỗ giữ gìn như nhãn… vị lai sáu hành tướng thọ dụng lấy căn và nghĩa làm môn sinh trưởng cũng vậy. Cái gọi là "chỉ có", là chỉ nương vào căn và cảnh mà lập hai xứ, không nương vào tướng thức của sáu thứ thọ dụng.
Hỏi: Thế nào gọi là thủ uẩn?
Đáp: Lấy thủ hợp chung nên gọi là thủ uẩn, thủ là tất cả dục tham trong các uẩn.
Hỏi: Vì sao dục tham gọi là thủ?
Đáp: Là đối với vị lai và hiện tại, các uẩn có thể dẫn mà không xả, hy vọng mong cầu vị lai, nhiễm chấp hiện tại, nên dục tham gọi là thủ. Dục, là sự hy vọng mong cầu. Tham, là tướng nhiễm chấp. Do dục mông cầu vị lai, tự thể làm phương tiện, dẫn thủ các uẩn tương lai khiến khởi hiện tiền. Do tham nhiễm chấp hiện tại, tự thể làm phương tiện, chấp Thủ Uẩn hiện tại không để xả lìa, nên hai thứ nầy-(Dục và Tham), gọi là Thủ.
Hỏi: Vì sao giới và xứ gọi là pháp hữu thủ?
Đáp: Phải như Uẩn mà nói, nên biết Giới xứ và thủ hợp chung nên gọi là pháp Hữu thủ.
Hỏi: Tướng Sắc uẩn gì là?
Đáp: Tướng biến hiện là tướng sắc, tướng nầy có hai thứ:
1. Xúc đối biến hoại.
2. Nơi chốn thị hiện.
Xúc đối biến hoại, là do tay chân cho đến sự xúc chạm bị muỗi rắn cắn chích thì liền biến hoại. Nơi chốn thị hiện, là do nơi chốn có thể thị hiện lẫn nhau, như sắc nầy sắc nầy. Sắc như vậy như vậy, hoặc do tâm định, hoặc do tầm tư bất định tương ưng các thứ cấu hoạch. "Nơi chốn", là xứ sở hiện trước mắt. "Như sắc nầy sắc này", là đồng loại ảnh tượng sự (đối tri) đối tượng nhận thức của bộ xương. "Sắc như vậy như vậy", là hình ảnh hiển hiện sai khác. "Các thứ cấu hoạch", là các thứ như tướng mà tưởng tượng.
Hỏi: Tướng gì là Thọ uẩn?
Đáp: Tướng lãnh nạp là tướng thọ. Do thọ nầy mà lãnh nạp chỗ đắc dị thục của các thứ nghiệp tịnh, bất tịnh, nếu nghiệp thanh tịnh thì thọ dị thục vui, nghiệp không thanh tịnh thì thọ dị thục khổ, nghiệp tịnh, bất tịnh thì thọ dị thục không khổ không vui. Vì sao? Vì nghiệp tịnh, bất tịnh cảm được dị thục thức A-lại-da, hằng tương ưng với Xả thọ, chỉ có Xả thọ nầy là thật thể của Dị thục, vì hai thọ Khổ vui từ dị thục sinh nên giả gọi là Dị thục. Hỏi: Tướng gì là Tưởng uẩn?
Đáp: Tướng tạo sự hiểu biết là tướng của tưởng. Do tưởng nầy mà tưởng tượng ra các thứ ảnh tượng của các pháp, tùy nghĩa của thấy nghe hay biết mà khởi các nói năng. Nghĩa "thấy nghe hay biết", sự thọ của mắt là nghĩa kiến; sự thọ của tai là nghĩa văn; tự nhiên tư duy cấu tạo như vậy, thì biết như vậy là nghĩa hay; tự sự thọ bên trong là nghĩa biết. "Nói năng", là nghĩa giải thích.
Hỏi: Tướng gì là Hành uẩn?
Đáp: Tướng tạo tác là tướng hành. Do hành nầy khiến cho tâm tạo tác, vì sai dịch tâm trong ba phẩm thiện ác vô ký, lại cũng đối với các vị của các thứ khổ vui mà sai khiến tâm.
Hỏi: Tướng gì là Thức uẩn?
Đáp: Tướng phân biệt rõ là tướng thức. Do thức nầy mà biết rành rẽ các thứ cảnh giới của sắc thanh hương vị xúc pháp.
Hỏi: Tướng gì là Nhãn giới?
Đáp: Nhãn đã từng hiện thấy sắc, và hạt giống nầy chứa nhóm dị thục thức A-lại-da là tướng của nhãn giới. "Nhãn đã từng thấy sắc", là có thể nắm giữ nghĩa thọ dụng của thức quá khứ để hiển bày giới tánh. "Hiện thấy sắc", là có thể nắm giữ nghĩa thọ dụng của thức hiện tại. "Và hạt giống nầy gom chứa hạt giống thức A-lại-da", là hạt giống của nhãn, hoặc chỉ có gom chứa thì làm dẫn nhãn căn tương lai, hoặc đã thành thục thì làm sinh nhãn căn hiện tại, hai thứ nầy gọi là nhãn giới, vì nhãn sinh nhân. Như tướng của nhãn giới, thì tướng của Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý giới cũng vậy.
Hỏi: Tướng gì là Sắc giới?
Đáp: Các sắc thì nhãn đã từng hiện thấy, và nhãn giới đối với sự tăng thượng nầy là tướng của sắc giới. "Nhãn giới đối với tăng thượng này", là nương vào lực tăng thượng của sắc căn ngoại cảnh sinh. Như tướng của sắc giới, thì tướng của Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp giới cũng vậy.
Hỏi: Tướng gì là Nhãn thức giới?
Đáp: Là nương vào Nhãn duyên Sắc mà phân biệt rõ sắc tương tự, và hạt giống nầy chứa nhóm dị thục thức A-lại-da là tướng của nhãn thức giới. Như nhãn thức giới, thì tướng của Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân và Ý thức giới cũng vậy.
Hỏi: Tướng gì là Xứ?
Đáp: cũng như giới, tùy theo sự thích ứng nhãn phải thấy sắc, và hạt giống nầy tùy nghĩa nên nói.
Hỏi: Thế nào là lập ra Sắc uẩn?
Đáp: Là tất cả các sắc, hoặc do bốn đại chủng và bốn đại chủng tạo ra. Tạo ra, là lấy bốn đại chủng làm nghĩa sinh nhân, Y nhân, Lập nhân, Trì nhân và Dưỡng nhân, tức là nương vào năm nhân mà nói là tạo ra. Sinh nhân, tức là khởi nhân, lìa đại chủng sắc thì không khởi. Y nhân, tức là chuyển nhân, xả bỏ các sắc đã tạo của đại chủng thì không có công năng, vì căn cứ theo các xứ khác nhau. Lập Nhân, tức là Tùy chuyển nhân, do Đại chủng biến khác có thể nương vào tạo sắc tùy theo đó mà đổi khác. Trì nhân, tức là Trụ nhân, do các sắc đã tạo của Đại chủng dường như nối tiếp sinh mà giữ chắc khiến cho nó không dứt bặt. Dưỡng nhân, tức là Trưởng nhân, do Đại chủng nuôi lớn sắc đã tạo kia làm cho tăng trưởng.
Bốn Đại chủng, là Địa giới, Thủy giới, Hoả giới và Phong giới. Địa giới có tánh cứng rắn, thủy giới có tánh ướt chảy. Hoả giới có tánh ấm nóng, phong giới có tánh nhẹ động.
Sắc được tạo là nhãn… năm căn, một phần của Sắc, Thanh, Hương, Vị Xúc và Pháp xứ thuộc sắc. Nhãn căn, do bốn đại chủng tạo, là chỗ nương của nhãn thức, sắc thanh tịnh làm thể. Nhĩ căn, do bốn đại chủng tạo, chỗ nương của nhĩ thức, sắc thanh tịnh làm thể. Tỷ căn, do bốn đại chủng tạo, chỗ nương của tỷ thức, sắc thanh tịnh làm thể. Thiệt căn, do bốn đại chủng tạo, chỗ nương của thiệt thức, sắc thanh tịnh làm thể. Thân căn, do bốn đại chủng tạo, chỗ nương của thân thức, sắc thanh tịnh làm thể.
Sắc, do bốn đại chủng tạo, là nghĩa hoạt động Nhãn căn:
1. Xanh.
2. Vàng.
3. Đỏ.
4. Trắng.
5. Dài.
6. Ngắn.
7. Vuông.
8. Tròn.
9. Thô.
10. Tế.
11. Cao.
12. Thấp.
13. Thẳng.
14. Nghiêng.
15. Ánh sáng.
16. Bóng hình.
17. Sáng.
18. Tối.
19. Mây.
20. Khói.
21. Bụi.
22. Sương mù.
23. Huỳnh sắc (sắc ở xa).
24. Sắc biểu hiện.
25. Sắc trống rỗng không có một hiển sắc nào.
-Sắc nầy lại có hai thứ là:
1. Diệu cụ tương vi sắc.
2. Bất diệu cụ tương vi sắc.
Các thứ xanh, vàng… Này là hai mươi lăm sắc lập ra, do sáu nhân:
1. Tướng. 2. An lập.
3. Tổn ích.
4. Làm chỗ nương.
5. Tác tướng.
6. Trang nghiêm.
Như thứ lớp bốn (hiển sắc), mười (hình sắc), tám (tạp sắc), một (sắc xa), một (sắc tiêu biểu), một (không sắc). Huỳnh sắc, là lìa các nơi chốn xúc ngại có thể có ra. Không nhất hiển sắc, là cái đã thấy các xanh vàng nói trên.
Thanh (tiếng), do bốn đại chủng tạo, là nơi mà nhĩ căn nhiếp lấy, hoặc vừa ý hoặc không vừa ý, hoặc đều trái nhau, hoặc nhân thọ Đại chủng, hoặc nhân không thọ Đại chủng, hoặc nhân cùng với Đại chủng, hoặc do thế gian chung thành, hoặc do thành dẫn, hoặc Biến kế sở chấp, hoặc thuộc về Thánh ngôn, hoặc không thuộc về Thánh ngôn, mười một thứ thanh như vậy do năm thứ nhân mà lập ra:
1. Tướng.
2. Tổn ích.
3. Sai khác.
4. Thuyết sai khác.
5. Ngôn sai khác.
Tướng, là nghĩa sự nhiếp lấy của nhĩ căn. Nói sai khác, là ba thứ do thế gian chung thành. Các nhân còn lại thì như sự thích ứng của nó. Nhân thọ Đại chủng, là tiếng nói của ngôn ngữ. Nhân không thọ Đại chủng, là lập ra tiếng nói. Nhân cùng hiện, là tiếng vỗ tay. Do thế gian làm thành, là sự thâu nhiếp ngôn ngữ của thế tục. Do thành dẫn, là điều các bậc Thánh nói. Biến kế sở chấp, là điều ngoại đạo nói. Thuộc về Thánh phi Thánh ngôn, là dựa vào tám thứ nói năng của kiến.
Hương, do bốn đại chủng tạo, là nơi mà Tỷ căn nhiếp lấy mùi thơm, mùi hôi, mùi bình, câu sinh hương, hòa hợp hương, đổi khác hương. Phải biết các mùi nầy do ba nhân lập ra:
1. Tướng.
2. Tổn ích.
3. Sai khác.
Câu sinh hương, là các hương Chiên-đàn-na v.v... Hòa hợp hương, là hương hòa hợp. Đổi khác hương, là các hương của quả chín.
Vị, do bốn đại chủng tạo, là nơi mà Thiệt căn nhiếp lấy, là đắng, chua, ngọt, cay, mặn, lạt, hoặc vừa ý, hoặc không vừa ý, hoặc gồm cả hai, hoặc câu sinh, hoặc hòa hợp, hoặc đổi khác. Lập ra vị nầy nên nói như hương.
Một phần sở xúc, do bốn đại chủng tạo, là nơi mà Thân căn nhiếp lấy, là trơn, nhám, nhẹ, nặng, mềm, mịn, chậm, gấp, lạnh, đói, khát, no, khỏe, yếu, sầu, ngứa, dính, bịnh, già chết, mệt, thở, mạnh. Một phần xúc chạm nầy do tám nhân lập ra:
1. Tướng.
2. Chạm.
3. Xứng.
4. Xúc.
5. Chấp.
6. Tạp.
7. Giới bất bình đẳng.
8. Giới bình đẳng.
Thủy và phong xen lẫn nên lạnh, địa và thủy xen lẫn nên dính, giới bình đẳng nên tức (thở), lực (khỏe), dũng (mạnh). Dũng, là không sợ no, do hai thứ giới bất bình đẳng nên có đói… Và các xúc còn lại.
Pháp xứ thuộc sắc, lược có năm thứ:
1. Sắc Cực lược.
2. Sắc rất xa.
3. Sắc do Thọ dẫn.
4. Sắc do Biến kế khởi.
5. Tự tại sở sinh sắc.
Cực lược sắc là sắc cực vi. Cực huỳnh sắc tức là lìa các sắc xúc ngại. Thọ sở dẫn sắc là sắc vô biểu. Biến kế sở khởi sắc là sắc ảnh tượng. Tự tại sở sinh sắc là nơi hoạt động của Tĩnh lự giải thoát.
Thế nào là lập ra thọ uẩn? Là trong sáu thọ thân, sự sinh thọ của nhãn xúc, cho đến chỗ sinh thọ của ý xúc, hoặc vui hoặc khổ hoặc không khổ không vui. Lại có lạc thân thọ, khổ thân thọ, bất khổ bất lạc thân thọ; lạc tâm thọ, khổ tâm thọ, bất khổ bất lạc tâm thọ. Lại có lạc hữu vị thọ, khổ hữu vị thọ, bất khổ bất lạc hữu vị thọ, lạc vô vị thọ, khổ vô vị thọ, bất khổ bất lạc vô vị thọ. Lại có lạc y đam thị thọ, khổ y đam thị thọ, bất khổ bất lạc y đam thị thọ, lạc y xuất ly thọ, khổ y xuất ly thọ, bất khổ bất lạc y xuất ly thọ.
Thân thọ, là năm thức tương ưng với thọ. Tâm thọ, là ý thức tương ưng với thọ. Hữu vị thọ, là tự thể ái tương ưng với thọ. Vô vị thọ, là ái nầy không tương ưng với thọ. Y đam thị thọ, là năm diệu dục ái tương ưng với thọ. Y xuất ly thọ, là ái nầy không tương ưng với thọ. Như vậy lập ra do bốn nhân:
1. Chỗ nương.
2. Tự thể.
3. Tập sở y.
4. Tạp nhiễm thanh tịnh.
Chỗ nương tạp sắc lập ra thân thọ, chỗ nương tạp Vô Sắc lập ra tâm thọ, do tạp nhiễm nên lập ra hữu vị… do thanh tịnh nên lập ra vô vị… "Ái nầy không tương ưng", là lìa hệ và thuận theo lìa hệ.
Thế nào là lập ra tưởng uẩn? Là trong sáu tưởng thân, sự sinh tưởng của nhãn xúc cho đến sự sinh tưởng của ý xúc. Do tưởng nầy nên hoặc biết rõ hữu tướng, hoặc biết rõ vô tướng, hoặc biết rõ tiểu đại vô lượng, hoặc biết rõ vô thiểu sở hữu xứ tưởng, Vô sở hữu xứ tưởng. Tưởng hữu tướng, là trừ tưởng nói năng bất thiện, giới định vô tướng và các tưởng ngoài tưởng định hữu đảnh. Tưởng vô tướng, là sự trừ tưởng như trên. Tưởng tiểu, là có thể hiểu rõ tưởng cõi Dục. Tưởng đại là có thể hiểu rõ tưởng cõi Sắc. Tưởng vô lượng, là có thể hiểu rõ tưởng Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ. Tưởng Vô sở hữu xứ, là có thể hiểu rõ tưởng Vô sở hữu xứ. Tưởng bất thiện nói năng, là ngôn ngữ chưa học, tuy đối với sắc khởi tưởng, nhưng không thể hiểu rõ, đây gọi là sắc nên gọi là Tưởng vô tướng. Tưởng của cõi định Vô tướng, là lìa tất cả tướng sắc, Tưởng Niết-bàn vô tướng, gọi là tưởng vô tướng. Hữu Đảnh Định tưởng, là các tưởng kia không bén nhạy, không thể đối với cảnh hiện rõ các thứ tướng, nên gọi là tưởng vô tướng. Tiểu, là cõi Dục thấp kém. Đại, là cõi Sắc tăng thượng. Vô lượng, là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, vì không bờ mé nên duyên các tưởng kia cũng gọi là tiểu đại, vô lượng.
Thế nào là lập ra hành uẩn? Là sáu tư thân, tư do nhãn xúc sinh ra, cho đến tư do ý xúc sinh ra. Do tư nầy nên nghĩ làm các điều thiện, nghĩ làm các tạo nhiễm, tư duy tạo tác các phần vị sai khác. Lại cũng tức là tư nầy trừ thọ và tưởng cùng với sở hữu pháp của tâm gồm tâm bất tương ưng hành ra thì gọi chung là hành uẩn. Tuy trừ thọ và tưởng, tất cả pháp sở hữu của tâm của tâm và tâm bất tương ưng hành đều là tướng của hành uẩn. Nhưng tư tối thắng cùng với tất cả hành làm dẫn đầu, nên nói nghiêng về tư. Để nói về nghĩa nầy nên nói do tưởng tạo ra pháp thiện. Thiện, phải nói là tín… Tạp nhiễm, phải nói là tham… phiền não căn bản và phần ít phiền não như tham v.v… Phần vị sai khác, là do Tư phát khởi các thứ hạnh vị mà giả lập tâm Bất tương ưng hành.
Hỏi: Những gì gọi là pháp sở hữu của tâm khác?
Đáp: Đó là: 1. Tác ý. 2. Xúc. 3. Dục. 4. Thắng giải.
5. Niệm. 6. Tam-ma-địa. 7. Tuệ. 8. Tín. 9. Tàm. 10. Quí. 11. Vô tham. 12. Vô sân. 13. Vô si. 14. Cần (tinh tiến). 15. An. 16. Không buông lung. 17. Xả. 18. Bất hại. 19. Tham. 20. Sân. 21. Mạn. 22. Vô minh. 23. Nghi. 24. Tátca-da kiến. 25. Biên chấp kiến. 26. Kiến thủ. 27. Giới cấm thủ. 28. Tà kiến.
29. Phẫn. 30. Hận. 31. Phú. 32. Não. 33. Tật. 34. San. 35/ Cuống. 36. Siểm. 37. Kiêu. 38. Hại. 39. Vô tàm. 40. Vô quí. 41. Hôn trầm. 42. Trạo cử. 43. Bất tín. 44. Biếng nhác. 45. Buông lung. 46. Vong niệm. 47. Bất chánh tri. 48. Tán loạn. 49. Ngủ nghĩ. 50. Ác tác. 51. Tầm. 52. Tứ.
Năm mươi hai pháp của tư... hoặc Biến hành, hoặc Biệt cảnh, hoặc Thiện, hoặc Phiền não, hoặc Tùy phiền não, hoặc Bất định. Phải biết thứ lớp của nó là năm (biến hành), năm (biệt cảnh), mười một (thiện), mười hai (phiền não), mười bốn tùy (phiền não). Lại nữa, các pháp sở hữu của tâm nầy hoặc tướng hoặc nghiệp, phải rộng phân biệt.
Tư, là đối với tâm tạo tác ý nghiệp làm thể, trong ba phẩm thiện bất thiện vô ký sai khiến tâm làm nghiệp. "Đối với tâm tạo tác ý nghiệp làm thể", đây là nói về tướng của tư. "Trong ba phẩm thiện bất thiện vô ký sai khiến tâm làm nghiệp", đây là nói về nghiệp của tư. Vì phát khởi tâm trong chỗ tạo pháp của ba phẩm thiện Bất thiện và Vô ký.
1. Tác ý, là tâm phát động làm thể, đối với cảnh sở duyên thì giữ tâm làm nghiệp. "Đối với cảnh sở duyên thì giữ tâm", tức là đối với cảnh nầy mà thường dẫn tâm, nên tâm đắc định thì gọi là đắc Tác ý.
2. Xúc, nương vào ba hòa hợp các căn đổi khác phân biệt làm thể, lấy chỗ nương của thọ làm nghiệp. Khi thức sinh thì chỗ nương của các căn thuận theo sinh khởi khổ vui… mà thọ đổi khác hành tướng, tùy theo hành tướng nầy mà phân biệt xúc sinh.
3. Dục, là đối với lạc sự mà dục kia dẫn phát sanh khởi hy vọng làm thể, chỗ nương của cần làm nghiệp. "Dục kia dẫn phát sanh khởi hy vọng", là dục thâu nhiếp tất cả tác dụng của thấy nghe hay biết.
4. Thắng giải, là đối với chắc chắn sự, tùy sự chắc chắn ấn trì làm thể, không thể dẫn chuyển làm nghiệp. "Tùy sự ấn trì", là sự chắc chắn như vậy, chẳng phải sự quyết liễu thắng giải khác. Do thắng giải nên tất cả thắng duyên không thể dẫn chuyển.
5. Niệm là đối với sự tập quen khiến cho tâm nhớ rõ không quên làm thể, không tán loạn làm nghiệp. "Sự tập quen", là những gì đã thọ từ trước. "Không tán loạn làm nghiệp", là niệm đối với cảnh nhớ rõ khiến cho tâm không tán loạn.
6. Tam-ma-địa là đối với việc sở Quán khiến cho tâm chuyên nhất làm thể, chỗ nương của là Trí làm nghiệp. "Khiến cho tâm chuyên nhất", là đối với một cảnh giới khiến cho tâm không tán loạn. "Chỗ nương của trí", là tâm ở trong tĩnh định biết như thật.
7. Tuệ là đối với việc sở Quán, trạch pháp làm thể, dứt nghi làm nghiệp. "Dứt nghi", là do tuệ chọn pháp được chắc chắn.
8. Tín, là đối với hữu thể, hữu đức, hữu năng, nhẫn nại có thể thanh tịnh hy vọng làm thể, chỗ nương của dục làm nghiệp, là đối với thật có thể khởi nhẫn có thể hành tín, đối với thật có đức khởi thanh tịnh hành tín, đối với thật có năng có thể khởi hy vọng hành tín, nói rằng: "Ta có sức, có thể đắc, có thể thành".
9. Tàm (hổ), là đối với các hành vi ác quá khứ tự hổ thẹn làm thể, chỗ nương của hành vi ác làm nghiệp.
10. Quí (thẹn), là đối với các hành vi ác quá khứ hổ thẹn với người làm thể, nghiệp như nói tàm.
11. Vô tham, là đối với hữu và vật dụng của hữu không mê đắm làm thể, chỗ nương của hành vi ác không chuyển làm nghiệp.
12. Vô sân, là các hữu tình khổ và vật dụng tạo khổ, không giận làm thể, chỗ nương của hành vi ác là không chuyển làm nghiệp.
13. Vô si, là do báo, giáo, chứng, trí quyết trạch làm thể, chỗ nương của hành vi ác không đổi làm nghiệp. Tàm… Dễ hiểu nên không giải thích lại. "Báo, giáo, chứng, trí", là sinh đắc nơi sinh tuệ của Văn, Tư, Tu, như kế phải biết. "Quyết trạch", là tuệ, dũng, cần kết hợp.
14. Cần, là phương tiện áo giáp, vô hạ, vô thoái, tâm vô túc dũng làm thể, thành mãn phẩm thiện làm nghiệp. Như kinh nói: "Hữu thế, hữu cần, hữu dũng, kiên mãnh, không bỏ ách thiện". Như thứ lớp đó phối hợp giải thích với các câu áo giáp tâm dũng… "Mãn phẩm thiện", là có thể tròn đầy tùy theo sự mới nhập tĩnh lự căn bản. "Thành phẩm thiện", tức là đối với cực thiện nầy mà tu trị.
15. An, là ngừng dứt thân tâm thô nặng, thân tâm điều hòa thư thái làm thể, dứt trừ tất cả chướng ngại làm nghiệp. "Dứt trừ tất cả chướng ngại", từ thế lực nầy nương vào mà chuyển.
16. Không buông lung, là nương vào chánh cần, vô tham, vô sân, vô si tu các pháp thiện, đối với tâm ngăn ngừa các pháp hữu lậu làm thể, thành mãn tất cả phước thế gian và xuất thế gian làm nghiệp, là do chánh cần… Trước tu tất cả pháp thiện và ngăn ngừa hữu lậu, nên nương vào bốn pháp nầy mà giả lập thể không buông lung. Pháp hữu lậu, là cảnh giới của các lậu và xứ lậu.
17. Xả, là nương vào chánh cần, vô tham, vô sân, vô si trái với tạp nhiễm trụ, tâm tánh bình đẳng, tâm tánh ngay thẳng, tâm trụ vô công dụng tánh làm thể, chỗ nương cho không dung chứa tạp nhiễm làm nghiệp. "Tâm tánh bình đẳng…", là lấy ba vị sơ trung hậu mà nói về sai khác của xả. Vì sao? Vì xả cùng với tâm tương ưng lìa mọi chìm đắm nơi tánh bất bình đẳng, đầu tiên là chứng đắc tâm tánh bình đẳng, do tâm bình đẳng mà xa lìa, gia hạnh tự nhiên nối tiếp tục. Kế lại chứng đắc tâm tánh ngay thẳng, do tâm ngay thẳng đối với các tạp nhiễm không yếu đuối. Sau rốt là chứng đắc vô công dụng trụ tánh.
18. Bất hại, do một phần gốc lành của vô sân, tâm từ bi làm thể, bất tổn não làm nghiệp. Phải biết bất hại không lìa vô sân, nên cũng là giả.
19. Tham, là ái ba cõi làm thể, sinh ra các khổ làm nghiệp. "Sinh các khổ", là ái lực và năm thủ uẩn sinh.
Sân, là đối với các hữu tình khổ và vật dụng của khổ, tâm giận ghét làm thể, chỗ nương không an ổn trụ chỗ nương hành vi ác làm nghiệp. "Không an ổn trụ", là tâm ôm giận ghét thường an trụ trong khổ.
20. Mạn, là nương vào Tát-ca-da kiến, tâm cao cử làm thể, chỗ nương của bất kính và khổ sinh làm nghiệp. "Bất kính", là sinh kiêu ngạo đối với sư trưởng và người có đức. "Khổ sinh", là sinh thân hậu hữu.
21. Vô minh, là vô trí ba cõi làm thể, chỗ nương cho tà chắc chắn, nghi, tạp nhiễm sinh khởi trong các pháp làm nghiệp. "Tà chắc chắn", trí điên đảo. "Nghi", là do dự. "Tạp nhiễm sinh khởi", là các phiền não như tham… Hiện hành. "Chỗ nương", là từng ngu si khởi các phiền não.
22. Nghi, là đối với đế, do dự làm thể, chỗ nương của phẩm thiện bất sinh làm nghiệp. "Đối với đế do dự", cũng thâu nhiếp đối với thật do dự, như sự thích ứng đó là diệt đế và đạo đế. "Phẩm thiện bất sinh", là do chắc chắn thì không tạo tác tu hành.
23. Tát-ca-da kiến, là năm thủ uẩn tùy theo quán mà chấp ngã và ngã sở, các nhẫn, dục, giác, quán, kiến làm thể, chỗ nương của tất cả kiến thú làm nghiệp.
24. Biên chấp kiến, là đối với năm thủ uẩn tùy theo quán chấp hoặc thường hoặc đoạn, các nhẫn, dục, giác, quán, kiến làm thể, trong xứ chướng hành xuất ly làm nghiệp. "Hành trong xứ", là lìa đoạn và thường, duyên khởi chánh trí.
25. Kiến thủ, là đối với các kiến và năm thủ uẩn của kiến làm chỗ nương, tùy theo quán mà chấp là thắng là thượng là diệu, các nhẫn, dục, giác, quán, kiến làm thể, chỗ nương của chấp bất chánh kiến làm nghiệp.
26. Giới cấm thủ, là đối với các giới cấm và năm thủ uẩn của chỗ nương là giới cấm, tùy theo quán chấp là thanh tịnh là giải thoát là xuất ly, các nhẫn, dục, giác, quán, kiến làm thể, chỗ nương cho lao nhọc mà vô quả làm nghiệp. "Giới cấm", là ác kiến làm đầu. "Lao nhọc mà vô quả", là do không thể được xuất ly.
27. Tà kiến, là chê bai nhân, chê bai quả, hoặc chê bai tác dụng, hoặc phá hoại thật sự, hoặc phân biệt tà, các nhẫn, dục, giác, quán, kiến làm thể, dứt gốc lành làm nghiệp, và chỗ nương vững chắc của gốc lành làm nghiệp, bất thiện sinh khởi làm nghiệp, thiện bất sinh khởi làm nghiệp. "Chê bai nhân", cho là không có thí, không có ái lạc, không có cúng tế, không có hạnh diệu, không có hành vi ác. "Chê bai quả", cho là không có sự chiêu cảm quả dị thục của hạnh diệu và hành vi ác. "Chê bai tác dụng", cho là không có thế gian nầy, không có thế gian kia, không có cha, không có mẹ, không có hữu tình hóa sinh, chê bai tác dụng qua lại của đời khác, chê bai tác dụng nhậm trì hạt giống, chê bai tác dụng nối tiếp. "Hoại thật sự", cho rằng không có A-la-hán ở thế gian. "Phân biệt tà", là tất cả phân biệt đảo kiến khác. "Dứt gốc lành", là do tà kiến tăng thượng, chẳng phải Nhất thiết chủng.
Hỏi: Như vậy năm kiến có bao nhiều kiến tăng ích và bao nhiều kiến tổn giảm?
Đáp: Có bốn là kiến tăng ích, đối với cảnh sở tri, tăng ích tự tánh và sai khác. Trong các kiến, tăng ích bậc nhất và thanh tịnh, là đối với năm thủ uẩn cảnh sở tri vô ngã, thì tăng ích ngã, ngã sở, tự tánh là Tát-ca-da kiến, tăng ích ngã thường, vô thường, sai khác, là biên chấp kiến. Đối với các ác kiến, tăng ích bậc nhất là kiến thủ, tức là đối với kiến nầy tăng ích thanh tịnh, là giới cấm thủ. Phần ít phần nhiều là kiến tổn giảm. Một, nhiều là do phân biệt tà chẳng phải tổn giảm.
Hỏi: Tất cả các kiến kế chấp mé trước và mé sau, hai tế kia đối với năm kiến nầy, thuộc về bao nhiêu kiến?
Đáp: Có hai hoặc tất cả.
Hỏi: Đối với tất cả các kiến của bất khả ký sự (không nhớ), bất khả ký sự kia đối với năm kiến nầy thuộc về bao nhiêu kiến?
Đáp: Hoặc hai hoặc tất cả. Hoặc hai, là tự tướng của biên chấp kiến và tà kiến. Hoặc tất cả, là quyến thuộc của năm kiến.
Hỏi: Bạc-già-phạm, quán do lỗi gì mà đối với Uẩn Giới Xứ cho là năm thứ tướng chê bai chấp ngã?
Đáp: Quán thấy chủng tướng kia nhiếp thọ Tát-cada kiến, có năm thứ lỗi:
a. Lỗi dị tướng.
b. Lỗi vô thường.
c. Lỗi bất tự tại.
d. Lỗi không có thân.
e. Lỗi không có công dụng mà giải thoát.
Lỗi dị tướng, là sắc uẩn… không phải thể tánh của ngã, vì khác với ngã tướng. Lỗi vô thường, là không phải ngã xứ trong sắc uẩn… Vì ngã phải vô thường. Vì sao? Vì không phải chỗ nương thì không thể nương vào hữu.
Lỗi bất tự tại, là không nên quán ngã có sắc, vì ngã đáng lẽ không phải tự tại. Vì sao? Vì ngã đối với sắc… không thể tự tại chuyển. Lỗi không có thân, là không phải lìa sắc… Mà nới xứ khác có ngã, vì ngã lẽ ra không có thân. Vì sao? Vì lìa thân mà chấp ngã cũng không thể được. Lỗi không có công dụng mà giải thoát, nếu có phân biệt như vậy thì ngã tướng cũng không đúng lý, nếu không có sắc… thì ngã không do công dụng mà được giải thoát. Vì sao? Vì thân trói buộc nếu không có thì ngã nhậm vận giải thoát.
Hỏi: Đối với năm thủ uẩn có hai mươi câu Tát-ca-da kiến, chấp sắc là ngã, ngã có các sắc; sắc thuộc về ngã, ngã ở trong sắc, như vậy chấp thọ tưởng hành thức là ngã có thức…, thức… thuộc ngã, ngã trong thức… đối với các kiến nầy có bao nhiêu ngã kiến bao nhiêu thuộc ngã sở kiến?
Đáp: Có năm là ngã kiến, có mười lăm là ngã sở kiến:
a. Chấp sắc là ngã.
b. Chấp thọ là ngã.
c. Chấp tưởng là ngã.
d. Chấp hành là ngã.
e. Chấp thức là ngã.
Mười lăm thứ còn lại là ngã sở kiến. Vì sao mười lăm thứ là ngã sở kiến? Vì tương ưng với ngã sở, tùy chuyển ngã sở, không lìa ngã sở. "Tương ưng ngã sở", là ngã có sắc cho đến ngã có thức, vì sao? Vì ngã tương ưng với uẩn nên nói có sắc… kia. "Tùy chuyển theo ngã sở", là sắc thuộc ngã cho đến thức thuộc ngã, vì sao? Nếu uẩn kia do năng lực tự tại nầy chuyển, hoặc xả bỏ hoặc sai khiến, vì thế gian nói uẩn kia là ngã sở. "Không lìa ngã sở", là ngã trong sắc cho đến ngã trong thức, vì sao? Vì thế gian kia chấp thật có ngã xứ trong uẩn tùy hiện hành khắp thể.
Hỏi: Tát-ca-da kiến đối với sự phải nói là biết rõ hay không biết rõ?
Đáp: Phải nói là đối với sự không chắc chắn được, như thấy sợi dây hiểu sai là con rắn. "Đối với sự không chắc chắn", là nếu có thể chắc chắn thì các thật tướng như sắc, v.v…, chắc chắn không nên khởi ngã kiến luống dối, ví như người thấy dây mà cho là rắn, vì không hiểu rõ tướng dây mà sanh chấp là rắn.
29. Phẫn, là nương vào một phần giận hiện tiền không lợi ích, tâm giận dữ làm thể, chỗ nương là tức giận cầm dao gậy làm nghiệp. Phải biết phẫn… là giả lập ra, lìa sân… ra thì không có tánh riêng.
30. Hận, từ đây về sau là do một phần giận, ôm oán trong lòng không buông xả làm thể, chỗ nương của bất nhẫn làm nghiệp. "Từ đây về sau", là từ phẫn về sau. "Bất nhẫn", là không nhịn nổi, không làm việc lợi ích.
31. Phú, đối với tội đã làm, khi bị người khác nêu lên thì một phần của si che giấu làm thể, nơi mà nghiệp nương là ăn năn, bồn chồn. Người che giấu tội đã gây ra, trong tâm chắc chắn âu lo hối hận, nhưng do che giấu nên sống không yên ổn.
32. Não, phẫn hận ở đâu một phần của sân, tâm hung ác làm thể, nghiệp mà nó nương là ăn nói thô bạo, cao cử, sinh khởi phi phước nghiệp, không an ổn trụ làm nghiệp. "Nói thô bỉ, cao cử", là lời nói thể hiện hung ác để dọa nạt mọi người.
33. Tật, là mê đắm lợi dưỡng, không nhịn nổi khi thấy người khác vinh quang, một phần sân và tâm tật đố làm thể, khiến cho lo lắng không an ổn trụ làm nghiệp.
34. San, là đam mê lợi dưỡng, đối với vật dụng tài sản, một phần tham và tâm keo kiệt làm thể, nơi mà nghiệp nương là không buông xả. "Không xả", là do keo kiệt, vật dụng không phải những thứ cần dùng cũng thường chứa để.
35. Cuống, là đam mê lợi dưỡng, một phần tham si, giả hiện công đức chẳng thật làm thể, chỗ nương cho tà mạng làm nghiệp.
36. Siểm, là mê đắm lợi dưỡng, một phần tham si, nịnh nọt lập ra phương tiện che giấu sự thật và lỗi ác làm thể, nghiệp của nó là cản trở sự dạy bảo chân chánh. Do không như thật phát lồ sự sai phạm, vì không đảm đương sự truyền dạy.
37. Kiêu, hoặc là dựa vào lúc thiếu niên có tướng sống lâu không bệnh, hoặc được tùy một sự vinh lợi hữu lậu, một phần tham khiến cho tâm thích thú làm thể, chỗ nương của tất cả phiền não và tùy phiền não làm nghiệp. "Tướng sống lâu", cảm giác bất tử đầu tiên là cảm nhận tướng nầy, do bất tử nầy có thể sinh tuổi thọ lâu dài nên kiêu căng buông lung. "Tùy một sự vinh lợi hữu lậu", là trong tộc họ sắc lực thông minh sáng suốt, tài sản giàu có, các sự tự tại. "Vui thích", là nhiễm và hỷ khác nhau.
38. Hại, là một phần của sân, không từ bi, không xót thương làm thể, tổn não hữu tình làm nghiệp.
39. Vô tàm, là toàn phần tham sân si, đối với các tội ác không tự hổ thẹn làm thể, trợ giúp tất cả phiền não và tùy phiền não làm nghiệp.
40. Vô quí, là phần tham sân si, đối với các tội ác không hổ thẹn với người làm thể, nghiệp như vô tàm đã nói.
41. Hôn trầm, là phần ngu si, tâm không chịu đựng làm thể, chướng ngại Tỳ-bát-xá-na làm nghiệp.
42. Trạo cử, là toàn phần tham dục, tùy niệm tướng tịnh, tâm không vắng lặng làm thể, chướng Xa-ma-tha làm nghiệp. "Tùy niệm tướng tịnh", là nhớ lại chuyện quá khứ, thuận theo tham dục vui đùa… nên tâm không vắng lặng.
43. Bất tín, là phần ngu si, đối với các pháp thiện tâm nhẫn nhịn được, tâm không thanh tịnh, tâm không hy vọng làm thể, chỗ nương của biếng nhác làm nghiệp. "Chỗ nương của biếng nhác", là do bất tín nên không có phương tiện gia hạnh lạc dục.
44. Biếng nhác, là toàn phần ngu si, nương vào nhiễm ngủ nghĩ, nằm dựa là thích tâm, không thúc đẩy cố gắng làm thể, chướng tu phương tiện phẩm thiện làm nghiệp.
45. Buông lung, là nương vào biếng nhác và tham sân si mà không tu pháp thiện, đối với pháp hữu lậu, tâm không ngăn ngừa làm thể, chỗ nương cho tăng ác tổn thiện làm nghiệp.
Vong niệm, là phiền não tương ưng với niệm làm thể, chỗ nương của tán loạn làm nghiệp.
46. Bất chánh tri, là phiền não tương ưng với tuệ làm thể. Do tuệ nầy mà khởi thân ngữ tâm hạnh bất chánh tri, hủy phạm chỗ nương làm nghiệp. "Thân ngữ tâm hạnh bất chánh tri", là đối với các sự đi tới lui quán xét không đúng, vì không hiểu rõ là nên làm hay không nên làm nên thường hay chê bai.
47. Tán loạn, là toàn phần tham sân si, tâm lưu tán làm thể. Tán loạn nầy lại có sáu thứ:
a. Tự tánh tán loạn.
b. Ngoại tán loạn.
c. Nội tán loạn.
d. Tướng tán loạn.
e. Thô nặng tán loạn.
f. Tác ý tán loạn.
Tự tánh tán loạn, là năm thức thân do tự tánh kia bên trong định tĩnh không có công năng. Ngoại tán loạn, là khi đang tu thiện, đối với năm thứ dục hấp dẫn thì tâm đuổi theo, là phương tiện tu như văn v.v… các pháp thiện, xả bỏ tâm sở duyên pháp thiện kia mà đuổi theo năm dục bên ngoài. Nội tán loạn, là khi đang tu thiện bị hôn trầm trạo cử đắm nhiễm, là người tu định phát khởi hôn trầm trạo cử và đắm nhiễm nên bị lui mất định tĩnh. Tướng tán loạn, là vì người khác mà quy y tín ngưỡng chỉ bày tu thiện, là muốn cho người khác tin tự mình có đức nên hiện tướng nầy. Do nhân duyên nầy mà pháp thiện đã tu dần dần càng bị lui mất. Thô nặng tán loạn, nương vào phẩm thô nặng lực của ngã chấp ngã sở chấp và ngã mạn, khi tu pháp thiện, đối với tất cả các thọ đã sinh khởi thì khởi ngã ngã sở và ngã mạn, chấp thọ, xen lẫn, chấp giữ tướng, là do thô nặng của ngã chấp ngã sở chấp… nên trong thọ của lạc đã sinh khởi, hoặc chấp làm ngã, hoặc chấp ngã sở, hoặc khởi ngã mạn. Do đây mà phẩm Thiện đã tu dứt hẳn không thanh tịnh. Chấp thọ, là mới bắt đầu chấp trước. Xen lẫn, là từ đây về sau do sự xen lẫn nầy mà các tâm nối nhau. Chấp giữ tướng, tức là đối với số của thọ nầy mà chấp dị tướng. Tác ý tán loạn, là đối với chỗ tất cả lưu tán của các thừa khác, các định khác hoặc nương hoặc nhập, là nương thừa khác hoặc nhập định khác, bỏ điều mà trước đây tu tập để phát khởi tán loạn, phải biết có thể chướng ngại lìa dục làm nghiệp, đó là nương vào tùy phiền não tánh tán loạn mà nói.
49. Ngủ nghĩ, nương vào nhân duyên của thuỳ, là phần ngu si, tâm sơ sót làm thể, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, hoặc thời hoặc phi thời, hoặc nên như thế, hoặc không nên như thế, nơi mà nghiệp nương là bỏ mất việc đã làm. "Nhân duyên ngủ nghĩ", là gầy yếu, mệt mỏi, thân phần nặng nề tướng tư duy yếu ớt, xả bỏ những gì tạo tác đã từng tu tập, lúc nầy đã quen ngủ nghĩ, hoặc bị thần lực chú thuật của người kéo dẫn, hoặc do bị gió mát thổi… câu nói "là phần ngu si" là riêng biệt đối với định, lại cũng những câu "Thiện…" Là để nói lên ngủ nghĩ nầy chẳng phải phần si của định. "Thời", là thời gian chia ban đêm. "Phi thời", là các thời gian khác. "Nên như thế", là thời gian thích hợp, hoặc đúng thời sắp xếp lại phi thời, vì bệnh hoạn, hoặc do điều thích. "Không nên như thế", là các phần thời gian khác. "Nơi mà nghiệp nương là bỏ mất việc đã làm", là dựa vào ngủ nghĩ (ngủ nghỉ) của tùy phiền não tánh mà nói.
50. Ác tác, là nương vào lạc tác, bất lạc tác, ưng tác, bất ưng tác, là phần ngu si, tâm đuổi theo hối hận làm thể, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, hoặc thời hoặc phi thời, hoặc nên như thế, hoặc không nên như thế, chướng tâm trụ làm nghiệp. "Lạc tác", là lạc dục trước làm hành vi thiện hoặc hành vi ác. "Bất lạc tác", là do sự sai sử ép ngặt của các phiền não và thế lực của người khác khiến phải làm những điều thích ứng. "Phần ngu si", là thuộc về tùy phiền não. "Thời", là cho đến khi chưa xuất ly. "Phi thời", là từ khi xuất ly về sau. "Nên như thế", là ở chỗ ấy. "Không nên như thế", là không ở chỗ ấy.
51. Tầm, hoặc nương vào tư, hoặc nương vào tuệ mà tìm cầu ý ngôn khiến cho tâm thô làm thể. "Nương vào tư nương vào tuệ", là vị suy lường và vị bất suy lường, như thứ lớp đó mà đuổi tìm hành tướng ý ngôn phân biệt.
52. Tứ, hoặc nương vào tư, hoặc nương vào tuệ mà dò xét ý ngôn khiến tâm tế làm thể. "Nương vào tư nương vào tuệ", là vị suy lường và vị bất suy lường, như thứ lớp đó mà dò xét hành tướng ý ngôn phân biệt. Hai thứ tầm tứ như vậy là sự nương cho an trụ và bất an trụ làm nghiệp. Hành tướng của tầm và tứ giống nhau, chỉ lấy thô tế mà lập ra sai khác của nó.
Lại nữa, các pháp thiện tâm dứt tự việc bị đối trị làm nghiệp, phiền não và tùy phiền não chướng ngại tự năng đối trị làm nghiệp. Như tín, tàm… có thể dứt bất tín và vô tàm; các phiền não như tham… có thể chướng các pháp vô tham và đối trị, là chướng ngại các pháp kia khiến cho không sinh. Phải biết các phiền não như phẫn… có thể chướng ngại từ, bi v.v… đều đối trị riêng cũng vậy.
Hỏi: Tâm Bất tương ưng hành gồm những gì?
Đáp: 1. Đắc; 2. Vô tưởng định; 3. Diệt tận định; 4. Vô tưởng dị thục; 5. Mạng căn; 6. Chúng đồng phần; 7. Sinh; 8. Già; 9. Trụ; 10. Vô thường; 11. Danh thân; 12. Cú thân; 13. Văn thân; 14. Dị sinh tánh; 15. Trôi lăn; 16. Định dị; 17. Tương ưng; 18. Thế tốc; 19. Thứ đệ; 20. Thời. 21. Phương; 22. Số; 23. Hòa hợp… như vậy tâm bất tương ưng hành lấy năm môn lập ra sai khác, là nương vào xứ, tự thể, giả lập, tác ý, địa. Hai định vô tâm đầy đủ năm môn, trời dị thục vô tưởng trừ tác ý, còn lại chỉ có ba môn đầu.
1. Đắc, là đối với các pháp thiện, bất thiện và vô ký, hoặc tăng hoặc giảm mà giả lập đạt được thành tựu. "Pháp Thiện, Bất thiện và Vô ký", là nói về chỗ nương. "Hoặc tăng hoặc giảm", là nói về tự thể. Vì sao? Vì có tăng nên gọi là thành tựu thượng phẩm tín…, do có giảm nên gọi là thành tựu hạ phẩm tín… "Giả lập đạt được thành tựu", là nói về giả lập. Như vậy phải biết các pháp còn lại tùy sự thích ứng của nó mà lập ra.
Định vô tưởng, là đã lìa dục Biến Tịnh, chưa lìa dục của cõi trên, trước hết xuất ly tưởng tác ý, đối với bất thường hằng pháp tâm tâm sở diệt mà giả lập định vô tưởng. "Đã lìa dục biến tịnh", là đã lìa tham của tĩnh lự thứ ba. "Chưa lìa dục của cõi trên", là chưa lìa tham của tĩnh lự thứ tư trở lên. "Xuất ly tưởng tác ý làm đầu", là giải thoát tưởng tác ý làm tiền phương tiện. "Bất thường hằng", là thuộc về chuyển thức. "Diệt", là sự dẫn tâm định không thường hiện hành, nên các pháp tâm tâm sở tạm thời gián đoạn diệt chỗ nương khác nhau, vì có thể diệt nên gọi là diệt.
2. Diệt tận định, là đã lìa dục của Vô sở hữu xứ, vượt qua hữu đảnh, trước hết tạm ngừng tưởng tác ý, đối với các pháp tâm tâm sở bất thường hằng và một phần thường hằng pháp tâm tâm sở diệt, mà giả lập diệt tận định. Trong đây đã nói "chưa lìa dục cõi trên" là nói về lìa dục của hữu đảnh, A-la-hán… cũng đắc định nầy. "Một phần thường hằng", là thuộc về ý nhiễm ô.
3. Vô tưởng Dị thục, là đã sinh vào trời hữu tình vô tưởng, đối với bất thường hằng pháp tâm tâm sở diệt mà giả lập Vô tưởng Dị thục.
4. Mạng căn, là đối với sự chiêu cảm nghiệp đời trước của chúng đồng phần, khi trụ thì chắc chắn giả lập tuổi thọ, trong một đời các uẩn nối tiếp. "Khi trụ thì chắc chắn", là bằng thời gian như vậy khiến cho chúng đồng phần thường được an trụ, hoặc trải qua trăm năm, hoặc ngàn năm… Do nghiệp đã dẫn công năng sai khác.
5. Chúng đồng phần, là như vậy như vậy hữu tình đối với các thứ chủng loại tự thể tương tự mà giả lập Chúng đồng phần. "Đối với các thứ chủng loại", là đối với chủng loại sai khác của nhân thiên. "Đối với tự thể tương tự", là đối với một chủng loại tánh.
6. Sinh, là đối với các hành của chúng đồng phần vốn không có hữu tánh nầy mà giả lập làm sinh.
Hỏi: Các sắc bên ngoài cũng có sinh tướng, vì sao chỉ đưa ra chúng đồng phần?
Đáp: vì đối với hữu tình nối tiếp mà lập ra tướng hữu vi, vì sao? Vì đã nói về hữu vi tướng thành hoại của các sắc bên ngoài, là đã nói về Sinh Già ở tướng hữu vi bên trong.
7. Già, là đối với các hạnh nối tiếp nơi tánh đổi khác của Chúng đồng phần mà giả lập làm già.
8. Trụ, là đối với các hạnh nối tiếp nơi tánh bất đổi khác của Chúng đồng phần mà giả lập làm trụ.
9. Vô thường, là đối với các hạnh nối tiếp nơi tánh đổi khác của Chúng đồng phần mà giả lập Vô thường nối tiếp. "Biến hoại", là khi xả tuổi thọ, phải biết trong đây nương vào nối tiếp vị mà lập ra sinh… không nương vào sát-na.
10. Danh thân, là đối với tự tánh các pháp tăng ngôn mà giả lập danh thân. "Tự tánh tăng ngôn", là nói các sự việc như: trời người, mắt, tai v.v…
11. Cú thân, là đối với các pháp sai khác thêm lời mà giả lập cú thân. "Sai khác thêm lời", là nói các hành là Vô thường, là nghĩa tất cả hữu tình phải chết…
12. Văn thân, là đối với các tự (văn tự) của hai chỗ nương kia mà giả lập văn thân. "Các tự (văn tự) của hai chỗ nương kia", là các tự chỗ nương của tự tánh sai khác thêm lời, như các mẫu tự vĩ, nhất, ổ... Lại nữa, tự tánh sai khác và hai thêm lời nầy thâu nhiếp tất cả, như vậy tất cả đều do biểu sở thuyên của ba thứ nầy, do đó lập ra ba thứ nầy làm danh cú văn thân. Văn nầy có thể hiển rõ danh cú kia, nên văn nầy cũng gọi là hiển năng hiển nghĩa, văn nầy lại gọi là tự vì không có dị chuyển. Vì sao? Như danh của nhãn khác với nhãn, danh nầy bên ngoài lại có soi rõ chỉ dẫn danh khác cải chuyển, vì danh kia đồng loại với tưởng nầy, không phải các mẫu tự vĩ nhất…. lìa sai khác của vĩ nhất… ra, lại có sai khác có thể hiển mẫu tự nầy nên không có dị chuyển nói danh làm tự (chữ). "Không có dị chuyển", là không có trôi lăn biến đổi.
13. Dị sinh tánh, đối với Thánh pháp không có nên giả lập tánh dị sinh.
14. Trôi lăn, là đối với các thứ nhân quả nối tiếp không đoạn mà giả lập trôi lăn. Nguyên nhân chỉ đối với nối tiếp không dứt mà lập trôi lăn, là đối với một sát-na, hoặc đối với gián đoạn thì không có câu nói nầy.
15. Định dị, là đối với các thứ nhân quả sai khác mà giả lập định dị. "Các thứ nhân quả sai khác", là hạnh diệu của quả khả ái làm nhân, ác quả của quả bất khả ái làm nhân, các thứ nhân quả như vậy xoay vần sai khác.
16. Tương ưng, là đối với nhân quả tương ưng mà giả lập tương ưng. "Nhân quả tương ưng", tuy là nhân quả dị loại nhưng cùng thuận lẫn nhau cũng gọi là tương ưng, cũng như bố thí mà chiêu cảm giàu có tài sản…
17. Thế tốc, là đối với nhân quả trôi lăn mau chóng mà giả lập Thế tốc.
18. Thứ đệ, là đối với nhân quả từng một từng một trôi lăn mà giả lập thứ đệ. "Nhân quả từng thứ một trôi lăn", tức là không đồng thời trôi lăn.
19. Thời, là nhân quả nối tiếp trôi lăn mà giả lập làm thời. Vì sao? Vì có nhân quả nối tiếp chuyển, nếu nhân quả nầy đã sinh đã diệt thì lập quá khứ thời, nhân quả nầy chưa sinh thì lập thời vị lai, đã sinh chưa diệt thì lập thời hiện tại.
20. Phương, tức là đối với Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn duy, Thượng, Hạ, nhân quả sai khác mà giả lập làm phương. Vì sao? Tức là đối với mười nhân quả biến mãn mà giả nói là phương, phải biết trong đây chỉ nói nhân quả thuộc pháp sắc, pháp Vô Sắc không có công năng ở khắp các nơi.
21. Số, là đối với các hạnh từng thứ sai khác mà giả lập làm số. Mỗi pháp sai khác", là đối với số một không khác với số hai, số ba là không đúng lý.
22. Hòa hợp, là đối với nhiều duyên nhân quả nhóm hợp mà giả lập hòa hợp. "Nhiều duyên nhân quả nhóm hợp", cũng như pháp thức nhân quả nối tiếp phải mượn nhiều duyên hòa hợp, là căn không hoại thì cảnh giới hiện tiền, có thể sinh thức nầy là tác ý chánh khởi. Như vậy đối với các thức khác phải biết đúng như lý.
Các tâm Bất tương ưng hành pháp như vậy chỉ nương vào phần vị mà lập ra, phải biết đều là giả có, là đối với phần vị sai khác của thiện, bất thiện… mà lập ra một loại, đối với phần vị sai khác của pháp tâm tâm sở lập ra ba loại, đối với phần vị sai khác của trụ mà lập ra một loại, đối với phần vị sai khác của tương tự mà lập ra một loại, đối với phần vị sai khác của tướng mà lập ra bốn loại, đối với phần vị sai khác của nói năng mà lập ra ba loại, đối với phần vị sai khác của bất đắc mà lập ra một loại, đối với phần vị sai khác của nhân quả mà lập ra các loại còn lại. "Nhân quả", là tất cả pháp hữu vi có thể sinh pháp khác nên gọi là nhân, từ pháp khác sinh ra nên gọi là quả.
Hỏi: Thế nào là lập ra thức uẩn?
Đáp: Là của tâm, ý, thức khác nhau.
Tâm, là sự huân tập tập khí của uẩn giới xứ. Tất cả hạt giống thức A-lại-da cũng gọi là thức Dị thục, cũng gọi là thức A-đà-na, vì có thể chứa nhóm các tập khí. "Tập khí", là do uẩn… hiện hành khiến cho các hạt giống đó đều được tăng ích. "tất cả hạt giống thức", là sự chứa nhóm có thể sinh các pháp hạt giống của uẩn… "Thức A-lại-da", là có thể thâu chứa các hạt giống, lại cũng là thức mà các hữu tình chấp lấy làm ngã. "Thức Dị thục", là sự sinh của nghiệp trước kia. "Thức A-đà-na", là có thể thường khiến cho sinh nối tiếp, nhiếp lấy các căn… khiến cho không hoại. Lại nữa, tâm có thể chứa nhóm tập khí của tất cả pháp.
Hỏi: Vì sao biết có thức A-lại-da?
Đáp: Tụng nói:
Nếu không có thức nầy,
Chấp thọ, sơ, minh liễu,
Hạt giống, nghiệp, thân thọ,
Định vô tâm, qua đời,
Các thức đều không có,
Đều là không đúng lý.
Để giải thích bài tụng trên, như phần nhiếp Quyết trạch nói: "Do tám thứ tướng, nên chứng thức A-lại-da chắc chắn là có, nếu lìa thức A-lại-da thì sự nương tựa chấp thọ không thể được, sinh khởi đầu tiên không thể được, sinh khởi sáng tỏ không thể được, thể tánh hạt giống không thể được, thể tánh nghiệp dụng không thể được, thể tánh thân thọ không thể được, xử định vô tâm không thể được, thức qua đời không thể được.
Hỏi: Thế nào là nương tựa chấp thọ không thể được?
Đáp: Do năm nhân:
1. Hành nhân của thức A-lại-da chiêu cảm nhãn…, khi chuyển thức hiện thì nhân duyên phát khởi, như nói căn cảnh và lực tác ý do đó mà các chuyển thức sinh, cho đến nói rộng, là nhân thứ nhất.
2. Lại nữa, thiện ác khả đắc của sáu thức thân, là nhân thứ hai.
3. Lại nữa, một loại, Dị thục của sáu thức thân thuộc tánh Vô ký thì không thể được, là nhân thứ ba.
4. Lại nữa, sáu thức thân mỗi thức đều có chuyển y riêng, tùy chỗ nương mà thức kia khi sinh thì liền xứng với chỗ nương của thức kia chấp, các chỗ không chấp thọ khác không đúng đạo lý, hoặc thừa nhận chấp thọ khác cũng không xứng lìa, vì lìa thức, là nhân thứ tư.
5. Lại nữa, chỗ nương lẽ ra phải thành thường thường chấp thọ tội lỗi, vì sao? Vì nhãn thức kia trong một thời chuyển, một thời không chuyển, các thức khác cũng vậy, là nhân thứ năm.
Hỏi: Thế nào là sinh khởi đầu tiên không thể được? Đáp: Nếu có vấn nạn: "Nếu có thức A-lại-da, thì lẽ ra một hữu tình hai thức đồng thời khởi". Nên nói với người đó rằng: "Ông đối với quá khứ đã vọng sinh tưởng quá khứ, vì có chứa hai thức đồng thời chuyển, vì sao? Cũng như có một hữu tình đồng thời muốn thấy cho đến muốn biết, hễ có bất cứ một thức đầu tiên nào sinh khởi thì không đúng lý". Vì sao? Vì lúc đó tác ý không có sai khác, căn và cảnh giới không hoại thì hiện tiền. Vì sao thức không đồng thời chuyển?
Hỏi: Thế nào là sinh khởi sáng tỏ không thể được?
Đáp: Nếu có chắc chắn chấp thức không đồng thời sinh, cùng với nhãn thức… đồng thời hiện hành một cảnh, thì ý thức sáng tỏ lẽ ra không thể được. Vì sao? Vì lúc đó hễ nhớ lại bất cứ cảnh nào đã từng thọ thì lúc đó ý thức không sáng tỏ sinh khởi, không phải sự sinh ý thức của hiện cảnh, được có tướng không sáng tỏ như vậy, nên phải tin các thức đồng thời chuyển, hoặc phải thừa nhận ý thức thứ sáu kia không có tánh sáng tỏ.
Hỏi: Thế nào là hạt giống thể tánh không thể được?
Đáp: Là sáu chuyển thức thân mỗi thức đều khác nhau, vì sao? Vì sáu chuyển thức nầy từ thiện vô gián tánh bất thiện sinh, thì bất thiện vô gián tánh thiện lại sinh, từ hai vô gián mà tánh vô ký sinh, cõi dưới vô gián thì trung giới sinh, trung giới vô gián thì diệu giới sinh, diệu giới vô gián thì cho đến hạ giới sinh, hữu lậu vô gián thì vô lậu sinh, vô lậu vô gián thì hữu lậu sinh, thế gian vô gián thì xuất thế gian sinh, xuất thế gian vô gián thì thế gian sinh, chẳng phải tướng thức như vậy làm hạt giống thể mới đúng đạo lý. Lại nữa, tâm nối tiếp thường khi xen hở, thì trải qua lâu dài trôi lăn không dứt, do đó chuyển thức có thể duy trì hạt giống thì không đúng lý.
Hỏi: Thế nào là thể tánh nghiệp dụng không thể được?
Đáp: Nếu không có các thức đồng thời sinh khởi mà nghiệp dụng đồng thời chuyển thì không đúng đạo lý. Vì sao? Nói lược nghiệp thức có bốn thứ:
1. Biết rõ ngoại khí.
2. Biết rõ chỗ nương.
3. Có thể biết rõ ngã.
4. Biết rõ cảnh giới.
Bốn thứ thức như vậy biết rõ nghiệp, trong mỗi sátna đều hiện khả đắc, không phải trong một thức sát-na có các nghiệp dụng sai khác như vậy, nên chắc chắn có các thức đồng thời khởi.
Hỏi: Thế nào là thế tánh thân thọ không thể được?
Đáp: Là như có một hoặc tư duy đúng như lý, hoặc tư duy không đúng như lý, hoặc không tư duy, hoặc lại suy tầm hoặc tâm ở trong định hoặc chẳng tại định, thân thọ sinh khởi không phải một hay nhiều, nếu không có thức A-lại-da thì thân thọ như vậy đáng lẽ không thể được, nhưng đã hiện khả đắc nên chắc chắn có thức Alại-da.
Hỏi: Thế nào là ở trong định vô tâm không thể được? Đáp: Như Thế Tôn nói: "Nhập định Vô Tưởng và định Diệt tận, phải biết lúc đó thức không lìa thân. Nếu không có thức A-lại-da thì lúc đó thức phải lìa thân. Nếu thức lìa thân thì lẽ ra bỏ mạng, chẳng phải ở trong định". Hỏi: Thế nào là thức lúc qua đời không thể được?
Đáp: Là khi sắp chết thì thức tạm bỏ chỗ nương là phần thân mà phát sinh cảm xúc lạnh hoặc trên hoặc dưới, không phải ý thức kia có khi không chuyển, nên biết chỉ có thức A-lại-da, có thể chấp trì thân tùy theo thân phần. Nếu lìa bỏ thức nầy khiến cho xúc lạnh có thể đắc thì thân không có giác thọ, ý thức thì không như thế, nên nếu không có thức A-lại-da thì thức khi qua đời không thể được.
Ý là bất cứ lúc nào cũng duyên thức A-lại-da, tư duy lượng xét làm tánh, thường tương ưng với bốn phiền não, là Ngã kiến, Ngã ái, Ngã mạn và Vô minh. Lại nữa, ý nầy đi khắp tất cả các vị Thiện, Bất thiện và Vô ký, chỉ trừ khi Thánh đạo hiện tiền, hoặc trong định diệt tận và tại địa Vô học. Lại nữa, sáu thức lấy thức vô gián diệt là làm ý, phải biết trong đó do sở duyên, thích nghĩa, tương ưng và thời sinh khởi mà hiển rõ ý.
Hỏi: Thế nào là Thánh đạo hiện tiền không có ý nhiễm ô?
Đáp: Do trí thắng nghĩa cùng với ngã kiến hiện hành, vì rất trái nhau nên sau khi ra khỏi Thánh đạo thì từ thức A-lại-da lại sinh khởi, vì vị Hữu học chưa dứt hẳn. Lại nữa, định diệt tận so với định vô tưởng, vì rất vắng lặng, nên ý nhiễm ô nầy không được hiện hành. "Ý vô gián diệt", là do tùy giác, nghĩa của giác vô gián là nghĩa của ý, phải biết trong đây tùy theo hiển tướng mà nói.
Thức, là sáu thức thân, từ nhãn thức cho đến ý thức. Nhãn thức, là nương vào nhãn duyên sắc, phân biệt làm tánh. Nhĩ thức, là nương vào nhĩ duyên thanh, phân biệt làm tánh. Tỷ thức, là nương vào tỷ duyên hương, phân biệt làm tánh. Thiệt thức, là nương vào thiệt duyên vị, phân biệt làm tánh. Thân thức, là nương vào thân duyên xúc, phân biệt làm tánh. Ý thức, là nương vào ý duyên pháp, phân biệt làm tánh. Phải biết trong đây do chỗ nương, chỗ duyên, tự tánh mà lập ra đối với thức.
Hỏi: Thế nào là lập cõi?
Đáp: Là sắc uẩn, tức mười cõi là nhãn nơi giới năm căn là giới năm cảnh và một phần pháp giới của sắc. Thọ tưởng và hành uẩn là một phần pháp giới. Thức uẩn tức là bảy thức giới, là nhãn nơi sáu thức giới và ý giới. Vì sao lập giới và xứ không có tướng riêng? Trong lập uẩn đã nói nhãn… mỗi pháp đều có tướng riêng, nên từ trong các uẩn đưa ra giới để lập, từ trong giới đưa ra xứ để lập. Hỏi: Thế nào là không thuộc về giới pháp uẩn?
Đáp: Trong pháp giới thì pháp vô vi thuộc về uẩn không. Pháp vô vi nầy là có tám thứ:
1. Pháp thiện Chân như.
2. Pháp bất thiện Chân như.
3. Vô ký pháp Chân như.
4. Hư không Chân như.
5. Phi trạch diệt Chân như.
6. Trạch diệt Chân như.
7. Bất động diệt Chân như.
8. Tưởng thọ diệt Chân như.
Như vậy trong lập ra tám vô vi, phải biết vì chỗ nương sai khác, nên phân tích Chân như giả lập ba thứ, không do tự tánh.
Pháp thiện Chân như, là tánh vô ngã, tánh không, thật tế vô tướng, pháp giới thắng nghĩa.
Hỏi: Vì sao Chân như gọi là Chân như?
Đáp: Vì tự tánh đó không có đổi khác, là tất cả thời thật tánh vô ngã không có chuyển đổi nên nói là vô đổi khác, phải biết đây là tánh vô ngã, vì lìa hai ngã.
Hỏi: Vì sao lại nói Chân như nầy là tánh không?
Đáp: Vì là điều mà tất cả tạp nhiễm không hiện hành. Vì sao? Vì duyên tánh không nầy có thể khiến cho tất cả tạp nhiễm đều vắng lặng. Tuy có khi nói có tạp nhiễm, thì phải biết chỉ là nhiễm ô của phiền não khách trần.
Hỏi: Những gì gọi là khách trần nhiễm ô?
Đáp: Là do hạt giống của sở thủ, năng thủ chưa dứt trừ, khiến cho hai hành tướng của tâm tha tánh kia chuyển, chẳng phải tâm pháp tánh, vì tự tánh pháp tánh của các pháp thanh tịnh.
Hỏi: Vì sao lại nói Chân như nầy là Vô tướng?
Đáp: Vì tướng vắng lặng. "Các tướng", là sắc thọ… cho đến Bồ-đề, là món hý luận, trong tánh Chân như thì chư tướng nầy vắng lặng, nên gọi là Vô tướng.
Hỏi: Vì sao lại nói Chân như nầy là thật tế?
Đáp: Vì sở duyên không trái ngược. "Thật", là không có trái ngược, vì Chân như nầy ở trong rốt ráo nên gọi là thật tế, vượt quá tánh vô ngã thì lại càng không có chỗ cầu.
Hỏi: Vì sao lại gọi Chân như nầy là thắng nghĩa?
Đáp: Là nơi hoạt động của Thánh trí tối thắng.
Hỏi: Vì sao lại nói Chân như nầy là pháp giới?
Đáp: Là tướng mà tất cả pháp mầu của Thanh văn, Độc giác và Chư Phật nương tựa. Như pháp thiện Chân như, thì pháp bất thiện Chân như, vô ký pháp Chân như cũng vậy. "Hư không", là tánh Vô Sắc, dung chứa tất cả nghiệp đã làm. "Tánh Vô Sắc", là trái với sắc, vì không có tánh, tướng, cảnh giới ý thức, nên gọi à hư không. "Cảnh giới ý thức" là thuộc về cõi Sắc, chỉ trái với chữ sắc, vì biệt thọ v.v… có chung Chân như, trạch diệt, phi trạch diệt, tánh Vô thường… tuy sừng thỏ cũng là vô tánh, nhưng sừng thỏ không trái với pháp tướng, vì sừng thỏ kia chỉ là tất cánh không. Lại nữa, sừng thỏ không phải duy trái với sắc, do cùng chung với các pháp của thọ, nên chỉ nói trái với sắc, không nói tánh tướng. Vì thọ riêng pháp của Vô Sắc, vì sao? Vì tự thể của thọ là tướng hữu tánh, chẳng phải tướng vô tánh.
Phi trạch diệt, là diệt chứ không phải lìa hệ, vì không dứt bỏ phiền não.
Trạch diệt, là diệt, là lìa hệ, vì trừ bỏ hẳn phiền não.
Bất động, là đã lìa dục biến tịnh, chưa lìa dục cõi trên, là vô vi tắt ngấm vui khổ.
Tưởng thọ diệt, là đã lìa dục Vô sở hữu xứ, vì ngừng dứt tưởng và tác ý làm đầu. Các pháp tâm tâm sở bất thường hằng và một phần thường hằng pháp tâm tâm sở diệt là vô vi.
Phải biết trong đây có hai pháp nên dứt, là các phiền não và chỗ nương nơi thọ nầy. Thọ có hai thứ, là đổi khác và bất đổi khác, phải biết phiền não dứt như thứ lớp của nó là khổ lạc và phi khổ vui. Lập ra trạch diệt và hai thọ dứt, như thứ lớp của nó mà lập ra bất động và thọ tưởng diệt. "Phiền não dứt", là trừ sự đắc chuyển y của phẩm thô nặng nầy. "Thọ dứt", là trừ sự đắc chuyển y của năng đối trị định chướng nầy, do đó khi đắc tĩnh lự thứ hai, tuy chứng khổ diệt nhưng không lập ra vô vi, vì đổi khác thọ chưa dứt hết. Lại nữa, hoặc ngũ chủng sắc uẩn, hoặc thọ tưởng hành uẩn, và đã nói tám pháp vô vi. Như vậy mười sáu thứ gọi chung là pháp giới.
Hỏi: Thế nào là lập ra xứ?
Đáp: Là mười cõi Sắc tức là mười sắc xứ, bảy thức giới tức là ý xứ, pháp giới tức là pháp xứ.
Do đạo lý nầy thuộc về ba pháp Uẩn Giới Xứ, là sắc uẩn, pháp giới và ý xứ. Do sắc uẩn thâu nhiếp mười cõi Sắc, pháp giới thì thâu nhiếp pháp giới, ý xứ thì thâu nhiếp thất thức giới, nên ba pháp thâu nhiếp tất cả pháp. Như vậy đã lập ra uẩn giới xứ rồi, bây giờ nương theo nghĩa nầy lại phân biệt.
Hỏi: Nhãn, nhĩ và tỷ mỗi căn đều có hai thứ, vì sao không lập hai mươi mốt giới?
Đáp: Nhãn nhĩ tỷ kia tuy mỗi căn đều có hai thứ, nhưng giới thì không khác, vì sao? Vì tướng của nó tương tự đồng như tướng nhãn, đã tạo tương tự đồng với nhãn cảnh, vì nhãn thức là một đã tạo tác. Như vậy nhĩ và tỷ, tùy theo lý phải biết, thân đoan nghiêm thì mỗi căn đều sinh ra hai thứ, vì sao? Như vậy phân bố ra một giới hai chỗ thân đắc đoan nghiêm, không do pháp nào khác. Hỏi: Là thường nương vào mỗi nhãn mà nhãn thức được sinh, hay cũng nương vào cả hai?
Đáp: Cũng nên nương vào cả hai, vì thủ sáng tỏ, vì sao? Nếu đồng thời mở hai nhãn thủ sắc sáng tỏ chẳng giống như mở một, ví như trong một ngôi nhà mà đốt hai ngọn đèn, đồng thời phát sáng chiếu soi thì rất sáng tỏ, như vậy một ánh sáng nương vào hai ngọn đèn mà chuyển, phải biết lìa ở đây cũng vậy.
Hỏi: Đối với mỗi căn môn, các thứ cảnh giới đều hiện tiền, tại đó có nhiều cảnh hay có nhiều thức thứ lớp khởi, hay là đồng thời khởi?
Đáp: Chỉ có các thứ hành tướng của một thức đồng thời khởi. Nếu các đoạn thực hợp với thiệt căn, phải biết thân thức và thiệt thức hằng đồng thời khởi. Lại nữa, âm thanh gián đoạn không từ dị xứ xoay vần sinh khởi nối tiếp tiến đến các phương khác, nhưng ví như ngọn đèn đặt ở xứ của tự mình thì có thể bất cứ lúc nào, tùy thế lực của nó mà chiếu khắp, lìa của âm thanh mau chóng phát đi khắp thì cũng vậy.
Hỏi: Vì sao đối với chướng gần thì âm thanh nghe không rõ?
Đáp: Âm thanh có tương đối, vì đối với chướng ngại nhỏ nhiệm, kẽ hở nhỏ mà sinh, cho nên không rõ.
Hỏi: Trong sáu thức có bao nhiêu hữu phân biệt?
Đáp: Chỉ có một ý thức do ba phân biệt nên là hữu phân biệt.
Ba phân biệt là:
1. Tự tánh phân biệt.
2. Tùy niệm phân biệt.
3. Kế đạc phân biệt.
Tự tánh phân biệt, là đối với hiện tại đã thọ các hành, tự tướng hiện hành phân biệt. Tùy niệm phân biệt, là đối với chỗ trước kia đã từng thọ các hành mà nhớ lại hành phân biệt. Kế đạc phân biệt, là đối với các sự trong quá khứ vị lai hiện tại không hiện thấy mà tư duy tưởng tượng hiện hành phân biệt.
Lại có bảy thứ phân biệt:
1. Sở duyên Nhậm vận phân biệt.
2. Hữu tướng phân biệt.
3. Vô tướng phân biệt.
4. Tầm cầu phân biệt.
5. Từ sát phân biệt.
6. Nhiễm ô phân biệt.
7. Bất nhiễm ô phân biệt.
Nhậm vận phân biệt, là năm thức thân như tướng sở duyên không có phân biệt khác nhau, đối với tự cảnh giới thì nhậm vận mà chuyển. Hữu tướng phân biệt, là hai thứ lớp tánh phân biệt và tùy niệm phân biệt, chấp lấy các thứ tướng hiện cảnh của quá khứ. Vô tướng phân biệt, là mong cầu cảnh vị lai hiện hành phân biệt. Các phân biệt khác đều dùng kế đạc phân biệt để làm tự tánh. Vì sao? Vì nghĩ lường, các thứ phân biệt hoặc có khi tầm cầu, hoặc có khi tứ sát (quán xét), hoặc có khi nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô, từng thứ phân biệt.
Hỏi: Nếu biết rõ sắc… mà gọi là thức, vì sao chỉ gọi là nhãn… thức, không gọi là sắc... thức?
Đáp: Vì nương vào năm thứ như nhãn… để giải thích đạo lý thành tựu, mà chẳng phải đối với sắc… vì sao? Vì thức trong nhãn nên gọi là nhãn thức, nương vào sở của nhãn mà thức được sinh. Lại nữa, có nhãn thì thức được có, vì sao? Nếu có nhãn căn, nhãn thức chắc chắn sinh, thì người mù cho đến người ở trong chỗ tối cũng đều thấy được. Nếu không do có sắc mà nhãn thức chắc chắn sinh, vì người mà không thể thấy. Lại, nhãn là chỗ phát thức nên gọi là nhãn thức, vì nhãn biến thì thức cũng đổi khác, vì sắc tuy không có đổi khác nhưng thức có đổi khác, như bệnh Ca-mạt-la tổn hoại nhãn căn, thấy màu sanh thành màu vàng. Lại nữa, thức thuộc nhãn nên gọi là nhãn thức, do hạt giống thức đuổi theo nhãn mà được sinh. Lại nữa, thức trợ nhãn nên gọi là nhãn thức, vì khởi tổn và ích nhãn kia, vì sao? Vì căn hòa hợp với thức thì có chỗ lãnh thọ khiến cho căn tổn và ích, vì chẳng phải cảnh giới. Lại như, thức của nhãn nên gọi là nhãn thức, đồng thời thuộc về số hữu tình, sắc thì không như vậy, vì không chắc chắn. Nhãn thức đã như thế, thì các thức khác cũng vậy.
Hỏi: Là nhãn thấy sắc, hay thức thấy sắc?
Đáp: Chẳng phải nhãn thấy sắc cũng chẳng phải thức thấy sắc, vì tất cả pháp không có tác dụng, do có hòa hợp giả lập làm kiến. Lại nữa, do sáu tướng, vì nhãn là tối thắng trong sự thấy sắc mà chẳng phải thức, nên nói nhãn có thể thấy tất cả sắc. Do sáu tướng là:
1. Do sinh nhân, là nhãn có thể sinh kiến.
2. Do chỗ nương, vì kiến nương nhãn.
3. Do vô động chuyển, là nhãn thường là nhất loại.
4. Do tự tại chuyển, là không chờ duyên hòa hợp mà niệm niệm sinh.
5. Do đoan nghiêm, vì chuyển là chỗ nương thân của đoan nghiêm nầy.
6. Do Thánh giáo, như trong kinh nói: "Nhãn có thể thấy sắc". Như vậy đã nói sáu thứ tướng mạo trong thức… đều là không thật có. Thức động chuyển, phải biết là do nhiều thứ sai khác sinh khởi.
Hỏi: Vì sao Vô vi kiến lập ở Giới Xứ mà không lập ở Uẩn?
Đáp: Vì không có nghĩa uẩn. Vì sao? Vì các pháp như sắc… có quá khứ vị lai… các thứ khác nhau, chứa nhóm chung riêng gọi là uẩn. Nghĩa chứa nhóm là nghĩa uẩn, pháp thường trụ thì không có nghĩa nầy, nên Vô vi không thuộc về uẩn.
Hỏi: Vì sao ngay các pháp như vậy mà dùng môn Uẩn Giới Xứ sai khác để nói?
Đáp: Vì muốn cho sự hóa độ hữu tình đối với môn rộng lược mà sinh khéo léo, vì sao? Vì trong môn uẩn nói lược sắc thức, trong môn giới xứ thì tùy theo sự thích ứng của nó mà nói rộng mười bảy thứ. Lại nữa, trong môn uẩn nói rộng thọ… trong môn giới xứ thì nói lược làm một pháp giới pháp xứ. Lại nữa, trong môn uẩn, chỉ nói lập ra pháp tướng hữu vi, môn giới thì nói rộng lập ra năng thủ sở thủ và thể tánh thủ, môn xứ thì chỉ nói lập ra năng thủ, đối tượng thủ, do đây chỉ hiển môn thủ sinh. Đã nói về nghĩa lệ thuộc, bây giờ sẽ giải thích bản văn.
Hỏi: Như trong kinh nói nhãn và nhãn giới, hoặc nhãn cũng là nhãn giới, hay nhãn giới cũng là nhãn?
Đáp: Có khi nhãn nhưng không phải nhãn giới, là nhãn sau rốt của A-la-hán. Hoặc có nhãn giới nhưng không phải nhãn, là ở trong trứng thì chê trách khi Yếtla-lam, khi Át-bộ-đàm, khi Bế-thi, trong bụng mẹ hoặc chưa được nhãn, hoặc đã được nhãn rồi mất, hoặc chỗ có nhãn nhân của dị sinh sinh Vô Sắc. Hoặc khi có nhãn cũng là nhãn giới, là ở các vị khác. Hoặc có khi vô nhãn vô nhãn giới, là đã nhập Niết-bàn giới vô dư, và các bậc Thánh sinh cõi Vô Sắc, như nhãn và nhãn giới, như vậy nhĩ tỷ thiệt thân cùng với nhĩ giới, tỷ giới, thiệt giới, thân giới phải biết tùy theo sự thích ứng của nó. A-la-hán với nhãn sau rốt, là sát-na sau rốt khi nhập Niết-bàn, lúc đó thì nhãn chẳng phải nhãn giới, vì chẳng phải nhãn nhân khác. Dị sinh cõi Vô Sắc có nhãn nhân, là từ cõi Vô Sắc kia đọa xuống hữu cõi Sắc đang sinh, vì thức A-lại-da nhiếp lấy hạt giống của nhãn, chắc chắn sẽ sinh nhãn, sinh các bậc Thánh Bất Hoàn kia thì không có nhãn giới. Có khi thân giới chẳng có thân, là chỉ sinh dị sinh cõi Vô Sắc, vì Vô Sắc kia chỉ có nhân thân, chẳng phải sống trong trứng… vì Vô Sắc kia có thân, hễ thân hoại diệt thì tuổi thọ cũng không có.
Hỏi: Hoặc có khi ý cũng là ý giới, hay có ý giới cũng là ý?
Đáp: Có ý cũng chẳng phải ý giới, là ý sau rốt của A-la-hán. Hoặc có khi ý giới không phải ý, là tất cả ý nhân của người ở trong định diệt. Hoặc có khi ý cũng là ý giới, là đối với các vị khác. Hoặc có vô ý vô ý giới, là đã nhập Niết-bàn vô dư, trong "Chỉ có khi ý giới chẳng phải ý" thì nguyên nhân là người không chọn nhập định vô tưởng, vì người đó có ý nhiễm ô.
Hỏi: Nếu sinh trưởng các địa kia tức là dùng nhãn xúc địa kia trở lại thấy sắc của địa kia phải không?
Đáp: Hoặc có địa thì dùng nhãn của địa kia lại thấy sắc của địa kia. Hoặc các địa khác sinh trưởng ở cõi Dục dùng nhãn của dục hành trở lại thấy sắc của dục hành, hoặc dùng nhãn của sắc hạnh trở lại thấy sắc của sắc hạnh, hoặc dùng nhãn của địa trên thấy sắc của địa dưới. Như dùng nhãn đối với sắc, dùng nhĩ đối với thanh cũng vậy. Như sinh trưởng ở cõi Dục, sinh trưởng cõi Sắc cũng vậy. Sinh, là khi mới thọ sinh. Trưởng, là tăng trưởng sau khi sinh. Hoặc sinh trưởng cõi Dục tức là dùng tỷ thiệt thân của dục hạnh, lại ngửi nếm xúc chạm biết hương vị xúc của dục hành. Hoặc sinh trưởng ở cõi Sắc tức là dùng thân của sắc hạnh lại xúc chạm biết của tự địa, tự tánh của giới kia chắc chắn không có hương vị, vì lìa tham đoạn thực, do lý nầy cũng không có hai thức tỷ và thiệt. Hoặc sinh trưởng cõi Dục tức là dùng ý của dục hành mà biết rõ pháp ba cõi và pháp vô lậu, như sinh trưởng cõi Dục, sinh trưởng cõi Sắc cũng vậy. Hoặc sinh trưởng cõi Vô Sắc tức là dùng ý của hành Vô Sắc để biết rõ pháp tự địa của hành Vô Sắc và pháp vô lậu. Pháp vô lậu, là nói theo các Thánh đệ tử. Hoặc ngoài dị sinh ra chỉ hiểu rõ pháp tự địa. Nếu người trụ pháp nầy, hoặc có do năng lực văn huân tập trước kia, cũng có khi do năng duyên địa trên để khởi pháp nầy.
Hỏi: Vì sao các uẩn theo thứ lớp như vậy?
Đáp: Vì thức trụ, là bốn thức trụ và thức. Lại nữa, uẩn trước làm chỗ nương cho uẩn sau, như sắc tướng của nó mà lãnh thọ, như đã lãnh thọ mà biết rõ, như đã biết rõ mà tư duy tạo tác, như đã tư duy tạo tác tùy các xứ kia mà phân biệt. "Như sắc tướng của nó mà lãnh thọ", là do thuận theo hai năng lực căn cảnh của lạc thọ… mà lạc thọ… sinh. "Như đã lãnh thọ mà biết rõ", là tùy đã thọ mà chấp lấy các tướng. "Như đã biết rõ mà tư duy tạo tác", là tùy chỗ tưởng mà tạo các nghiệp. "Như đã tư duy tạo tác tùy các xứ kia mà phân biệt", là tùy đã tạo tác nghiệp đối với các cảnh giới và thức chuyển biến trong các đường khác. Lại, do nhiễm ô, thanh tịnh, hoặc nương vào xứ đó mà khởi nhiễm tịnh, hoặc do lãnh thọ chấp tướng để tạo ra nhiễm ô, thanh tịnh, hoặc nơi nhiễm ô và chốn thanh tịnh do lý nầy mà uẩn có thứ lớp. "Hoặc nương vào xứ đó mà khởi nhiễm tịnh", là nương vào hữu căn thân. "Hoặc do lãnh thọ", là do các thọ hữu nhiễm và vô nhiễm, theo thứ lớp của nó mà nhiễm ô, thanh tịnh. "Hoặc do chấp tướng để tạo tác", là do như lý và bất như lý mà chuyển, như thứ lớp của nó mà nhiễm ô, thanh tịnh. "Hoặc đã nhiễm ô và đã thanh tịnh", là tâm có thô nặng và thô nặng sinh.
Hỏi: Vì sao các giới theo thứ lớp như vậy?
Đáp: Vì tùy theo thế sự sai khác mà chuyển.
Hỏi: Thế nào là tùy thế sự sai khác mà chuyển?
Đáp: Là tướng kiến đầu tiên của thế gian, đã có tướng kiến rồi thì liền có thăm hỏi, đã có thăm hỏi rồi thì liền tắm gội thoa hương đeo tràng hoa, kế đó thọ các thức uống ăn thơm ngon, kế đó thọ các thứ đồ nằm và người hầu nữ, sau đó ý xứ phân biệt khắp nơi, vì nội giới có thứ lớp nên lập ra ngoại giới, tùy theo thứ lớp nầy mà lập ra thức giới. Như giới thứ lớp, xứ cũng vậy.
Hỏi: Nghĩa uẩn là thế nào?
Đáp: Các sắc sở hữu hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần tất cả thứ đó nói lược là một sắc uẩn, vì có nghĩa chứa nhóm, như tài sản hóa vật chứa nhóm, như vậy cho đến thức uẩn phải biết là nương vào mười một thứ, vì là chỗ nương của ái. Đối với pháp của sắc, thọ… mà kiến lập sự sai khác quá khứ, hiện tại và vị lai. Mười một thứ ái là:
1. Cố luyến ái.
2. Hy vọng ái.
3. Chấp trước ái.
4. Nội ngã ái.
5. Cảnh giới ái.
6. Dục ái.
7. Định ái.
8. Hành vi ác khổ ái.
9. Diệu hạnh lạc ái.
10. Viễn ái.
11. Cận ái.
Do cảnh sở duyên của ái như vậy, như thứ lớp của nó mà lập các thứ sai khác quá khứ, hiện tại và vị lai. Lại có sai khác, là đã sinh và chưa sinh sai khác, nên năng thủ sở thủ sai khác, nội môn và ngoại môn sai khác, nhiễm bất nhiễm sai khác, xa gần sai khác, như sự thích ứng của nó đối với các pháp như sắc… mà lập ra sai khác quá khứ hiện tại và vị lai. Đã sinh, là quá khứ và hiện tại. Chưa sinh, là vị lai. Ngoại môn, là địa bất định. Nội môn, là các địa Định. Những câu còn lại thì dễ hiểu, không phân biệt nữa. Lại vì tướng khổ rộng lớn nên gọi là uẩn, như đống gỗ to, nương vào sắc… mà phát khởi sinh khổ rộng lớn. Như kinh nói: "Như vậy thuần là uẩn tập của các khổ lớn. Lại nữa, gánh một gánh tạp nhiễm nên gọi là uẩn, như gánh một gánh nặng trên vai. "Gánh tạp nhiễm", là các pháp tạp nhiễm của phiền não nương vào sắc… ví như một phần thân của thế gian có thể đảm đương gánh vác thế gian, tức là một phần nầy gọi là vai, gọi là uẩn. Sắc… cũng vậy, có thể gánh tạp nhiễm, gọi là uẩn.
Hỏi: Nghĩa giới là thế nào?
Đáp: Là nghĩa hạt giống của tất cả pháp, là các pháp hạt giống trong thức A-lại-da gọi là Giới, giới nghĩa là nhân. Lại nữa, nghĩa có thể duy trì tự tướng là nghĩa của giới. Lại nữa, nghĩa có thể duy trì tánh nhân quả là nghĩa của giới. "Có thể giữ gìn tánh nhân quả", là các giới của căn cảnh trong mười tám giới và sáu thức giới, như thứ lớp của nó cũng thâu nhiếp giữ chắc nghĩa của tất cả pháp sai khác, là nghĩa giới. "Nhiếp giữ tất cả pháp sai khác", là trong các kinh nói các giới như địa… và giới chỗ khác, tùy theo sự thích ứng của nó đều thuộc về mười tám giới.
Hỏi: Nghĩa của xứ là thế nào?
Đáp: Nghĩa của thức nơi môn sinh trưởng là nghĩa xứ, phải biết nghĩa hạt giống thâu nhiếp nghĩa của tất cả pháp sai khác, cũng là nghĩa của xứ.
Lại nữa, như Phật đã nói: "Sắc như chùm bọt, Thọ như bong bóng, Tưởng như sóng nắng, Hành như cây chuối, Thức như huyễn hóa".
Hỏi: Vì sao sắc như chùm bọt, cho đến thức như huyễn hóa?
Đáp: Vì vô ngã, vì lìa tịnh, vì thiểu vị, vì không chắc thật, là nghĩa không phải có xa lìa luống dối không chắc thật, đó là các cú nghĩa mà kinh nói. Cũng để đối trị bốn điên đảo Ngã, Tịnh, Lạc và Thường, nên như thứ lớp của nó mà nói các câu sai khác như Vô ngã…
Hỏi: Lại nữa, phân biệt rộng Uẩn Giới Xứ thì thế nào?
Đáp: Tụng nói:
Tánh thật có thảy sở tri thảy,
Sắc thảy, lậu thảy, đã sanh thảy,
Đời quá khứ thảy các duyên thảy,
Thế nào? Mấy thứ? Vì nghĩa gì?
Hỏi: Trong Uẩn, Giới, Xứ thế nào là thật có? Bao nhiêu thật có?
Vì sao lại mà quán thật có?
Đáp: Không chờ danh ngôn ngoài các căn cảnh nầy là nghĩa thật có, tất cả đều là thật có. Để xả chấp thật có ngã, nên quán sát thật có. Nguyên nhân lập ra ba câu hỏi nầy, là vì dứt tướng ngu và sự ngu và chấp tăng ích. "Thế nào là thật có", là nói về tướng thật có để dứt tướng ngu. "Tất cả đều là thật có", là đoạn sự ngu. "Xả chấp trước thật có ngã", là đoạn chấp tăng ích, như vậy những gì còn lại phải biết là đúng như lý. "Không chờ danh ngôn ngoài các căn cảnh này", là không phân biệt danh ngôn như sắc thọ… mà chấp lấy nghĩa sở thù của mình. "Không đợi các căn cảnh nầy", là không đợi nghĩa ngoài chỗ nầy mà giác ngộ tự chỗ nhận biết cảnh, không giống như các sự bình… phải chờ danh ngôn và sắc mới khởi nhận biết bình…
Hỏi: Thế nào là giả có? Có mấy giả có? Vì nghĩa sao lại quán giả có?
Đáp: Là chờ danh ngôn và các căn cảnh khác là giả có, tất cả đều là giả có. Để xả chấp thật có ngã, nên quán sát giả có.
Hỏi: Thế nào là thế tục hữu? Có bao nhiêu thế tục hữu? Vì nghĩa sao lại quán thế tục hữu?
Đáp: Sở duyên của tạp nhiễm là nghĩa thế tục hữu, tất cả đều là thế tục hữu. Để xả chấp tướng ngã tạp nhiễm, nên quán sát thế tục hữu. "Sở duyên của tạp nhiễm", là nghĩa có thể phát sinh tất cả tạp nhiễm.
"Tướng ngã tạp nhiễm", là chấp ngã làm nhân tạp nhiễm. Hỏi: Thế nào là thắng nghĩa hữu? Có bao nhiêu thắng nghĩa hữu?
Vì nghĩa sao lại quán thắng nghĩa hữu?
Đáp: Sở duyên thanh tịnh là thắng nghĩa hữu, tất cả đều là thắng nghĩa hữu. Để xả chấp thanh tịnh ngã tướng, nên quán sát thắng nghĩa hữu. "Sở duyên thanh tịnh", là đắc duyên thanh tịnh nơi cảnh giới nầy, là nghĩa trí tối thắng đã hành động. "Tất cả đều là thắng nghĩa hữu", là vì tất cả pháp không lìa Chân như. Chư pháp tánh vô ngã gọi là Chân như, vì tánh vô ngã Chân như kia là thật có. Hỏi: Thế nào là sở tri? Có bao nhiêu sở tri? Vì nghĩa sao lại quán sở tri?
Đáp: Sở tri có năm thứ:
1. Sắc.
2. Tâm.
3. Pháp sở hữu của tâm.
4. Tâm bất tương ưng hành.
5. Vô vi.
Sắc là sắc uẩn, sự thâu nhiếp các sắc là mười cõi Sắc, mười sắc xứ và pháp giới pháp xứ. Tâm là thức uẩn, bảy thức giới và ý xứ. Pháp sở hữu của tâm là thọ uẩn, tưởng uẩn, tương ưng hành uẩn và một phần pháp giới pháp xứ. Tâm bất tương ưng hành là bất tương ưng hành uẩn và một phần pháp giới pháp xứ. Vô vi là một phần pháp giới pháp xứ. Hoặc nương vào xứ tạp nhiễm, thanh tịnh đó, hoặc chỗ tạp nhiễm và chốn thanh tịnh, hoặc năng tạp nhiễm và năng thanh tịnh, hoặc đối với phần vị nầy, hoặc tánh thanh tịnh nầy, vì nương tánh nầy mà tất cả đều là sở tri. Xứ là sắc pháp. Sự nhiễm tịnh là tâm pháp. Năng nhiễm tịnh là các pháp sở hữu của tâm tham… tín… như thứ lớp của nó. Phần vị là đối với phần vị của sắc tâm và tâm pháp mà giả lập tâm Bất tương ưng hành pháp. Tánh thanh tịnh là pháp thanh tịnh Vô vi, như sự thích ứng của nó, chẳng phải tất cả, vì sao? Vì chỉ có pháp giới và trạch diệt là tánh thanh tịnh. Lại nữa, pháp sở tri là sở hành của tín giải trí, sở hành của đạo lý trí, sở hành của bất tán trí, sở hành của nội chứng trí, sở hành của tha tánh trí, sở hành của hạ trí, sở hành của thượng trí, sở hành của yếm hoạn trí, sở hành của bất khởi trí, sở hành của vô sinh trí, sở hành của trí trí, sở hành của trí rốt ráo, sở hành của đại nghĩa trí. Phải biết trong đây lấy cảnh giới sở duyên của mười ba chủng trí để hiển bày nghĩa sở tri.
-Mười ba chủng trí là:
1. Văn sinh trí.
2. Tư sinh trí.
3. Thế gian tu sinh trí.
4. Thăng nghĩa trí.
5. Tha tâm trí.
6. Pháp trí.
7. Chủng loại trí.
8. Khổ trí.
9. Tập trí.
10. Diệt trí.
11. Đạo trí.
12. Tận vô sinh trí.
13. Đại thừa trí.
Như vậy các trí đều tùy thứ lớp của nó là tín giải trí… tha tâm trí gọi là tha tánh trí, là duyên vào tâm của người khác làm cảnh. Pháp trí gọi là hạ trí, là đối với các đế mới bắt đầu sinh. Chủng loại trí gọi là thượng trí, là từ sau pháp trí do đó mà nhàm chán nên gọi là yếm hoạn trí. Vì không khởi nên gọi là bất khởi trí. Vì duyên vô sinh nên gọi là vô sinh trí. Vì duyên trí nên gọi là trí. Vì duyên đại nghĩa nên gọi là đại nghĩa trí, tự lợi lợi tha gọi là đại nghĩa. Để xả chấp tri giả là ngã, kiến giả là ngã, nên quán sát sở tri.
Hỏi: Thế nào là Sở thức (đối tượng phân biệt nhận thức)? Có bao nhiêu sở thức? Vì nghĩa sao lại quán sở thức?
Đáp: Là Vô phân biệt, hữu phân biệt, nhân, chuyển, tướng, tướng được sinh, năng trị sở trị, nhỏ nhiệm sai khác, phải biết đó là nghĩa sở thức. Vô phân biệt là năm thức thân. Hữu phân biệt là ý thức thân. Nhân là thức Alại-da. Chuyển là các thức khác. Tướng là căn và nghĩa. Tướng được sinh là các thức được sinh của căn và nghĩa. Năng trị sở trị là có tham lìa tham, có sân lìa sân, có si lìa si, những thứ như vậy. Nhỏ nhiệm sai khác là bảy thứ sai khác thức khó hiểu phân biệt, bảy thứ sai khác khó phân biệt là:
1. Bất khả tri phân biệt khí phân biệt, là hành tướng không phân biệt bất cứ lúc nào.
2. Chủng chủng hành tướng phân biệt, là một pháp một hạnh có các thứ tướng. Pháp nầy khó lập ra nên gọi là nhỏ nhiệm.
3. Câu hữu phân biệt, là trong một thời gian các thức đồng khởi. Thế nào là mỗi mỗi đều riêng hiểu rõ tự cảnh giới? Pháp nầy khó lập ra nên nhỏ nhiệm, phải biết nhỏ nhiệm nầy nói chung cho tất cả xứ.
4. Năng trị sở trị tốc tật hồi chuyển phân biệt, là người có đủ trói buộc. Thế nào là tâm hữu tham? Là các tâm chốc lát chuyển biến khởi lìa tham.
5. Tập khí phân biệt, là các nghiệp hiện hành huân tập vào tâm. Thế nào là không phải lìa tâm có tập khí riêng? Cũng không phải tức tâm, lại có khi cùng với quả thứ lớp mà chuyển.
6. Nối tiếp phân biệt, là vô lượng hạt giống chiêu cảm nghiệp tự thân huân tập tại thức. Thế nào là đối với phân biệt rõ khác sắp đến vị qua đời mà tạm khởi giác ngộ? Các nghiệp khác huân tập chuyển đổi đến đường khác khiến cho sinh nối tiếp.
7. Giải thoát phân biệt, là tâm A-la-hán chứng đắc vô hý luận pháp tánh bậc nhất, vượt qua sinh tử đã từng chứa nhóm Nhất thiết chủng hành hữu lậu. Thế nào là hành tướng trôi lăn của tâm nầy? Pháp nầy khó lập ra nên nhỏ nhiệm, như vậy phải biết tất cả đều là sở thức. Để xả chấp năng kiến ngã… nên quán sát sở thức. "Kiến giả", phải biết đây là nói văn giả, kiến giả, khứu giả, xúc giả và thức giả.
Hỏi: Thế nào là sở thông đạt? Có bao nhiêu sở thông đạt? Vì nghĩa sao lại quán sở thông đạt?
Đáp: Chuyển biến, tùy văn, nhập hạnh, lai, vãng, xuất ly, là nghĩa sở thông đạt. Nói sở thông đạt là tất cả cảnh giới của sáu thần thông, lấy như ý thông nói về sự sai khác của vận chuyển để nói cảnh giới của sở thông đạt nầy là chuyển biến, dùng thiên nhĩ thông để hiểu rõ suốt âm thanh các đường khác nên gọi là tùy văn, dùng tha tâm thông để hiểu rõ các thứ tâm hạnh của hữu tham, nên gọi là nhập hạnh, dùng túc trụ thông để biết rõ kiếp quá khứ xoay vần đến sự vị lai, nên gọi là lai, dùng thiên nhãn thông để thấy suốt chỗ vãng sinh sự của kiếp vị lai, nên gọi là vãng; lấy lậu tận thông để biết rõ phương tiện giải thoát ba cõi, nên gọi là xuất ly. Như vậy tất cả đều là sở thông đạt, sau đó dùng ba thông duyên khắp tất cả cảnh giới. Để xả chấp tự oai đức là ngã, nên quán sở thông đạt.
Hỏi: Thế nào là hữu sắc? Có bao nhiêu hữu sắc? Vì nghĩa sao lại quán hữu sắc?
Đáp: Tự tánh sắc, dựa đại chủng, hỷ tập, có phương sở, xứ biến mãn, nơi chốn khả thuyết, hai đồng sở hành, tương thuộc, tùy trục, hiển liễu, biến hoại, hiển bày, chứa nhóm lập ra, ngoại môn, nội môn, dài xa, phần hạn, tạm thời, thị hiện, là nghĩa hữu sắc. Tự tánh sắc là dùng sắc pháp làm tự tánh, nên gọi là hữu sắc, chẳng phải cùng với các sắc khác hợp lại mà gọi là hữu sắc, nên đầu tiên là nói tự tánh sắc. Dựa đại chủng là hiển sắc nầy hợp với các sắc khác nên gọi là hữu sắc, các sắc được tạo hợp với sắc đại chủng nên gọi là hữu sắc. Các đại chủng sắc khai hợp chung lại nên gọi là hữu sắc. Hỷ tập là các hữu sắc pháp dùng hỷ để tập hợp, nên gọi là hỷ tập, không phải như hỷ ái hiện ở trước hết dùng xúc thọ… để tập hợp mà gọi là hỷ tập. Hữu nơi chốn là có phần lượng. Xứ biến mãn là hình lượng khắp mười phương. Nơi chốn khả thuyết là có thể nói ở phương nầy hoặc ở phương kia. Phương xứ sở hành là tùy nơi chốn trụ và tánh sở duyên. Hai đồng sở hành là hai hữu tình cùng chung tánh sở duyên, chẳng phải như Vô Sắc pháp, vì sự lãnh thọ của tự mình thì người khác không thể chấp lấy. Tương thuộc là nhãn thức… cũng gọi là hữu sắc hệ, thuộc hữu sắc căn. Tùy trục là dị sinh sinh cõi Vô Sắc bị hạt giống các sắc theo đuổi. Hiển biết rõ là các tầm tư do có thể nói lên cảnh sở duyên. Biến hoại là năm uẩn, do chỗ xúc chạm của tay chân… chỗ cảm giác của thọ… tùy theo sự thích ứng của nó thì liền biến hoại, vì biến hoại là nghĩa sắc. Hiển bày là nghĩa của các nói năng hiển bày. Chứa nhóm lập ra là sắc của cực vi trở lên, có phần nhỏ nhiệm kiếp lập. Ngoại môn là sắc của cõi Dục, là do dục ái hấp dẫn sinh. Nội môn là các sắc của cõi Sắc, do tâm định ái sinh. Do lý nầy mà nói các sắc kia gọi là ý sinh thân. Dài xa là sắc của dị sinh không thể lập ra, là hai phần mé trước và mé sau có biên lượng. Phần hạn là sắc của Hữu học, đã là phần hạn của sinh tử. Tạm thời là sắc của bậc Vô học, chỉ hơn hiện tại một hữu thân. Thị hiện là các sắc mà Như Lai hiện, chỉ là thị hiện, chẳng phải chân thật, tất cả đều là hữu sắc, hoặc tùy theo sự thích ứng. "Tất cả đều là hữu sắc", là sắc biến hoại… "Tùy theo sự thích ứng", là các sắc ngoại môn khác có sáu thứ. Sắc sai khác phải biết cùng với thọ có chung. Để xả chấp ngã hữu sắc, nên quán sát hữu sắc.
Hỏi: Thế nào là Vô Sắc? Có bao nhiêu Vô Sắc? Vì nghĩa sao lại Quán Vô Sắc?
Đáp: Trái nghịch với Hữu sắc là nghĩa Vô Sắc, tất cả đều là Vô Sắc, hoặc tùy theo sự thích ứng. Để xả chấp Vô Sắc ngã, nên quán sát Vô Sắc. "Tất cả đều là Vô Sắc", là lệ thuộc Vô Sắc.
Hỏi: Thế nào là Hữu kiến? Có bao nhiêu Hữu kiến? Vì nghĩa sao lại quán Hữu kiến?
Đáp: Cảnh giới sở hành của nhãn là nghĩa hữu kiến, các sai khác khác thì nói như hữu sắc, là nói như trên, từ sắc tự tánh cho đến thị hiện gọi là hữu sắc, như vậy hữu kiến tự tánh… cho đến thị hiện gọi là hữu kiến, tất cả đều là hữu kiến, hoặc tùy theo sự thích ứng. "Tất cả đều là hữu kiến", là tương thuộc, hữu kiến… vì sao? Vì các pháp Vô Sắc cùng với hữu kiến sắc, tương thuộc, cũng gọi là hữu kiến. Để xả chấp ngã nhãn cảnh, nên quán sát hữu kiến.
Hỏi: Thế nào là Vô kiến? Có mấy Vô kiến? Vì nghĩa sao lại quán Vô kiến?
Đáp: Trái với hữu kiến là nghĩa vô kiến, tất cả đều là vô kiến, hoặc tùy theo sự thích ứng. Để xả chấp ngã phi nhãn cảnh, nên quán sát vô kiến.
Hỏi: Thế nào là hữu đối? Có mấy hữu đối? Vì nghĩa sao lại quán hữu đối?
Đáp: Các Hữu kiến đều là Hữu đối. Lại nữa, vì ba nhân nên gọi là Hữu đối:
1. Chủng loại.
2. Chứa nhóm.
3. Bất tu trị.
Chủng loại là các sắc pháp năng chướng ngại lẫn nhau, làm sở ngại lẫn nhau, có thể chướng ngại qua lại là nghĩa hữu đối, nghĩa nầy chỉ nên nói là làm năng lẫn nhau ngại. Nguyên nhân lại nói lẫn nhau làm chỗ ngăn ngại là vì lập ra sắc của quang minh là hữu đối, vì sắc của quang minh kia chỉ là chỗ ngăn ngại, chẳng phải tánh của năng ngăn ngại, vì tánh tự như thế nên chủng loại là nghĩa tự tánh. Chứa nhóm là cực vi trở lên, vì một cực vi không có đối ngại. Bất tu trị là chẳng phải Tam-mađịa tự tại chuyển sắc, vì chỗ chuyển các sắc vô đối ngại của định tự tại lực, như tâm bình đẳng. Chư thiên lại cũng tổn hại chỗ nương, đó là nghĩa hữu đối, hoặc nương, hoặc duyên có thể sinh sân hận thì gọi là hữu đối, vì nghĩa hữu đối như vậy, nên tất cả đều là hữu đối, hoặc tùy theo sự thích ứng của nghĩa khác. Để xả chấp hành ngã bất biến, nên quán sát hữu đối.
Hỏi: Thế nào là Vô đối? Có bao nhiêu Vô đối? Vì nghĩa sao lại quán Vô đối?
Đáp: Trái với Hữu đối là nghĩa Vô đối, tất cả đều là vô đối, hoặc tùy theo sự thích ứng. Để xả chấp ngã biến hành, nên quán sát Vô đối.
Hỏi: Thế nào là Hữu lậu? Có bao nhiêu Hữu lậu? Vì nghĩa sao lại quán Hữu lậu?
Đáp: Tự tánh lậu, lậu tương thuộc, lậu trói buộc, lậu tùy thuộc, lậu thuận theo, lậu chủng loại, đó là nghĩa hữu lậu. Tự Tánh lậu là các tánh lậu tự hợp chung với tánh lậu nên gọi là hữu lậu. Lậu tương thuộc là lậu có chung pháp tâm tâm sở, và lậu tương thuộc của nhãn… lậu sở y, như thứ lớp của nó gọi là hữu lậu. Lậu trói buộc là pháp hữu lậu thiện, do thế lực của lậu chiêu cảm nhân hậu hữu. Lậu tùy thuộc là các địa pháp khác cũng làm chỗ các lậu thô nặng của các địa khác đuổi theo. Lậu thuận theo là thuận phần quyết trạch, tuy bị phiền não thô nặng đeo đuổi, nhưng được lập ra làm tánh vô lậu, vì nghịch lại tất cả hữu, thuận với sự đối trị kia. Chủng loại lậu là các uẩn hữu lậu của A-la-hán, là sanh khởi phiền não của đời trước, toàn phần năm thủ uẩn, mười lăm giới, mười xứ và phần ít ba cõi, hai xứ là hữu lậu, trừ sau cùng phần ít ba cõi hai xứ là Thánh đạo quyến thuộc và các vô vi, không phải hữu lậu. Để xả chấp lậu hợp ngã, nên quán sát hữu lậu.
Hỏi: Thế nào là Vô lậu? Có bao nhiêu Vô lậu? Vì nghĩa sao lại quán Vô lậu?
Đáp: Trái với hữu lậu là nghĩa vô lậu. Toàn phần năm vô thủ uẩn và ít phần ba cõi hai xứ là vô lậu. Để xả chấp ngã lìa lậu, nên quán sát vô lậu.
Hỏi: Thế nào là Hữu tránh? Có bao nhiêu Hữu tránh? Vì nghĩa sao lại quán Hữu tránh?
Đáp: Vì nương vào tham sân si như vậy, nên cầm dao gậy mà phát khởi tất cả sự tranh chấp thưa kiện. Cầm dao gậy… là nhân đấu tranh, tham… là tự tánh đấu tranh, như vậy tự tánh kia, tương thuộc kia, trói buộc kia, sở thuộc kia, thuận theo kia, chủng loại kia là nghĩa hữu tránh, cho đến hữu lậu có sở lượng như thế, hữu tránh cũng vậy, vì nghĩa tùy thuộc kia. Để xả chấp tránh hợp ngã, nên quán sát hữu tránh.
Hỏi: Thế nào là Vô tránh? Có bao nhiêu Vô tránh? Vì nghĩa sao lại quán Vô tránh?
Đáp: Trái với Hữu tránh là nghĩa Vô tránh, cho đến vô lậu có dung lượng như thế, vô tránh cũng vậy. Để xả chấp lìa trước tránh ngã, nên quán sát vô tránh.
Hỏi: Thế nào là Hữu nhiễm? Có bao nhiêu Hữu nhiễm? Vì nghĩa sao lại quán Hữu nhiễm?
Đáp: Hoặc nương vào tham sân si như vậy mà đắm nhiễm thân hậu hữu đó là: Tự tánh nó, tương thuộc, bị trói buộc, bị theo đuổi, tùy thuận nó, chủng loại là nghĩa hữu nhiễm. "Đắm Nhiễm hậu hữu", tham sân si là đắm nhiễm nhân hậu hữu nên gọi là nhiễm. Sân hận đắm nhiễm nhân hậu hữu là thế nào? Là do ganh ghét nên các pháp thanh tịnh bị đắm nhiễm nhân hậu hữu. Như vậy cho đến hữu tránh có sở lượng như thế, hữu nhiễm cũng vậy. Để xả chấp nhiễm hợp ngã, nên quán sát hữu nhiễm. Hỏi: Thế nào là vô nhiễm? Có bao nhiêu vô nhiễm?
Vì nghĩa sao lại quán vô nhiễm?
Đáp: Trái với hữu nhiễm là nghĩa vô nhiễm, cho đến vô tránh có dung lượng như thế, vô nhiễm cũng vậy. Để xả chấp lìa nhiễm ngã, nên quán sát vô nhiễm.
Hỏi: Thế nào là dựa vào đam mê? Có bao nhiêu dựa vào đam mê?
Vì nghĩa sao lại quán dựa vào đam mê?
Đáp: Hoặc nương vào tham sân si như vậy mà đắm nhiễm năm dục, nó là tự tánh, tương thuộc, bị trói buộc, bị theo đuổi, thuận theo, chủng loại nó là nghĩa dựa vào đam mê. Những gì sân hận có thể khởi đắm nhiễm? Là do ganh ghét xuất ly như vậy cho đến hữu nhiễm có dung lượng như thế, dựa vào đam mê cũng vậy. Để xả chấp đam mê hợp ngã, nên quán sát dựa vào đam mê.
Hỏi: Thế nào là dựa vào xuất ly? Có bao nhiêu dựa vào xuất ly?
Vì nghĩa sao lại quán dựa vào xuất ly?
Đáp: Trái với dựa vào đam mê là nghĩa dựa vào xuất ly, cho đến vô nhiễm có dung lượng như thế, dựa vào xuất ly cũng vậy. Để lìa bỏ mê đắm ngã, nên quán sát xuất ly.
Hỏi: Thế nào là hữu vi? Có bao nhiêu hữu vi? Vì nghĩa sao lại quán hữu vi?
Đáp: Nếu pháp có sinh diệt trụ dị để hiểu, thì phải biết là nghĩa hữu vi, tất cả đều là hữu vi, chỉ trừ một phần pháp giới pháp xứ. Để xả chấp Vô thường ngã, nên quán sát hữu vi.
Hỏi: Thế nào là Vô vi? Có bao nhiêu Vô vi? Vì nghĩa sao lại quán Vô vi?
Đáp: Trái với hữu vi là nghĩa Vô vi. Một phần pháp giới pháp xứ là vô vi. Để xả chấp thường trụ ngã, nên quán sát vô vi.
Hỏi: Năm thủ uẩn nên nói là hữu vi hay nên gọi là Vô vi?
Đáp: Năm thủ uẩn kia không nên gọi hữu vi hay vô vi. Vì sao? Vì năm thủ uẩn kia không thể tạo của các nghiệp phiền não, do đó không nên nói là hữu vi. Vì tùy dục có giới hạn trước hoặc không có giới hạn trước, nên không nên gọi là Vô vi, vì sao? Vì tùy dục lạc của các vô thủ uẩn, hoặc hiện tiền hoặc không hiện tiền, Vô vi thì không như vậy, vì thường trụ.
Hỏi: Như đức Bạc-già-phạm nói: "Tất cả pháp có hai thứ, là Hữu vi và Vô vi". Vì sao ở đây nói pháp nầy chẳng phải hữu vi, chẳng phải Vô vi?
Đáp: Ở đây cũng không lìa hai thứ, vì sao? Nếu do nghĩa nầy mà gọi là vô vi, thì không lấy nghĩa nầy gọi là Hữu vi, theo lìa nầy thì chỉ nói có hai thứ. Vì sao? Vì tùy theo nghĩa dục hiện tiền và không hiện tiền mà gọi là hữu vi, theo nghĩa nghiệp phiền não đã không tạo tác thì gọi là vô vi, nên ở đây cũng không lìa hai thứ.
Hỏi: Thế nào là thế gian? Có bao nhiêu thế gian? Vì nghĩa sao lại quán thế gian?
Đáp: Vì thuộc về ba cõi và trí xuất thế hậu sở đắc tương tự thế gian kia hiển hiện là nghĩa thế gian. "Tương tự thế gian kia hiển hiện", là tương tự sự thâu nhiếp tướng của ba cõi hiển hiện, tương tự sự hiển hiện tướng mạo của Chân như… là xuất thế gian chưa từng đắc. Như vậy một phần các uẩn và toàn phần mười lăm giới, mười xứ và một phần ba cõi, hai xứ là thế gian. "Một phần", là trừ sự thâu nhiếp của chánh trí và hậu sở đắc tương tự xuất thế gian hiển hiện đều là pháp vô vi. Để xả chấp thế gian dựa vào ngã, nên quán sát thế gian.
Hỏi: Thế nào là xuất thế gian? Có bao nhiêu xuất thế gian? Vì nghĩa sao lại quán xuất thế gian?
Đáp: Có thể đối trị ba cõi, không có điên đảo, không có hý luận, không có phân biệt, là nghĩa vô phân biệt xuất thế gian. "Có thể đối trị ba cõi", là các Thánh đạo. Thánh đạo nầy lại có hai thứ:
1. Sự chứng đắc của Thanh văn Độc giác, là đối trị điên đảo của thường lạc ngã tịnh, vì không có phân biệt điên đảo nên gọi là vô phân biệt.
2. Sự chứng đắc của Chư Phật bồ-tát, là đối trị tất cả pháp hý luận của sắc uẩn… vì phân biệt vô hý luận nên gọi là vô phân biệt. Pháp Vô vi chẳng phải là chỗ nương của tất cả phân biệt, nên gọi là vô phân biệt. Lại nữa, xuất thế hậu sở đắc cũng gọi là xuất thế, vì nương vào xuất thế gian. Như vậy một phần các uẩn và một phần của ba cõi hai xứ là xuất thế gian. Để xả chấp ngã độc tồn, nên quán sát xuất thế gian.
Hỏi: Thế nào là đã sanh? Có bao nhiêu đã sinh? Vì nghĩa sao lại quán đã sinh?
Đáp: Quá khứ và hiện tại là nghĩa đã sinh. Một phần của tất cả là đã sinh. Để xả chấp phi thường ngã, nên quán sát đã sinh. Lại nữa, có hai mươi bốn thứ đã sinh:
1. Đầu tiên đã sinh.
2. Nối tiếp đã sinh.
3. Nuôi lớn đã sinh.
4. Nương tựa đã sinh.
5. Chuyển biến đã sinh.
6. Thành thục đã sinh.
7. Thoái đọa đã sinh.
8. Thắng tiến đã sinh.
9. Thanh tịnh đã sinh.
10. Bất thanh tịnh đã sinh.
11. Vận chuyển đã sinh.
12. Hữu chủng đã sinh.
13. Vô chủng đã sinh.
14. Ảnh tượng tự tại đã sinh.
15. Triển chuyển đã sinh.
16. Sát-na hoại đã sinh.
17. Lìa hội đã sinh.
18. Dị vị đã sinh.
19. Sinh tử đã sinh.
20. Thành hoại đã sinh.
21. Lúc chết đã sinh.
22. Lúc chết đã sinh.
23. Giữa chừng đã sinh.
24. Lúc nối tiếp đã sinh.
- Đầu tiên đã sinh là khi đầu tiên nối tiếp sinh.
- Nối tiếp đã sinh: Là nối tiếp sinh về sau.
- Nuôi lớn đã sinh là do ngủ nghĩ, mộng, ẩm thực, phạm hạnh, định làm nhân, có bốn thứ nuôi lớn.
- Nương tựa đã sinh là các căn bên trong.
- Chuyển biến đã sinh là có thể thuận theo sinh lạc thọ… mà các căn đổi khác
- Thành thục đã sinh là đối với vị già suy.
- Thoái đọa đã sinh là xả đường lành, đọa vào đường ác.
- Thắng tiến đã sinh là trái với thoái đọa.
- Thanh tịnh đã sinh là vui chơi quên niệm ý phẫn nộ lẫn nhau. Chư thiên ở cõi trời lạc biến hóa và chư trời tha hóa tự tại của cõi Sắc và cõi Vô Sắc thường hay buông lung, tùy theo sự thích ứng đối với cảnh được thọ dụng và định đã trụ tự tại mà chuyển.
- Bất thanh tịnh đã sinh là những chỗ khác, ngoài thanh tịnh đã sinh.
- Vận chuyển đã sinh là vị tới lui.
- Hữu chủng đã sinh là trừ uẩn sau rốt của A-la-hán.-Vô chủng đã sinh là uẩn sau rốt.
- Ảnh tượng tự tại đã sinh là sự nhận biết sự đồng phần sắc, giải thoát sinh khởi sắc và các sắc của Như Lai, như thứ lớp của nó.
- Xoay vần đã sinh là trước và sau sinh nối tiếp nhau.
- Sát-na hoại đã sinh là các hành tướng của mỗi sátna.
- Lìa hội đã sinh là ái và bất ái đối với vị lìa hội và tâm đối với các lìa hội vị của hữu tham…
- Khác vị đã sinh là đối với các vị khác nhau như vị
Yết-la-lam…
- Sinh tử đã sinh là hữu tình thế gian.
- Thành hoại đã sinh là khí thế gian.
- Lúc chết đã sinh là hữu trước kia.
- Lúc chết đã sinh là tử hữu.
- Giữa chừng đã sinh là trung hữu.
- Lúc nối tiếp đã sinh là sinh hữu.
Hỏi: Thế nào là chẳng phải đã sinh? Có bao nhiêu chẳng phải đã sinh? Vì nghĩa sao lại quán chẳng phải đã sinh?
Đáp: Vị lai và pháp Vô vi là nghĩa chẳng phải đã sinh. Một phần trong tất cả là chẳng phải đã sinh. Để xả chấp ngã thường trụ, nên quán sát chẳng phải đã sinh. Lại trái với đã sinh là chẳng phải đã sinh.
Hỏi: Thế nào là năng thủ? Có bao nhiêu năng thủ? Vì nghĩa sao lại quán năng thủ?
Đáp: Các sắc căn và tâm tâm pháp là nghĩa năng thủ. Một phần sắc hành uẩn, trong toàn phần ba uẩn tướng căn và tướng tương ưng, như thứ lớp của nó, toàn phần mười hai giới, sáu xứ và một phần pháp giới pháp xứ tương ưng tự thể là năng thủ. Để xả trước năng thọ dụng ngã, nên quán sát năng thủ. Thọ dụng ngã là chấp ngã có thể được cảnh ái và bất ái. Lại nữa, năng thủ có bốn thứ:
1. Bất chí năng thủ.
2. Chí năng thủ.
3. Tự tướng hiện tại các biệt cảnh giới năng thủ.
4. Tự tướng cộng tướng nhất thiết thời nhất thiết cảnh năng thủ.
Bất chí năng thủ là các nhãn căn, nhĩ căn và ý căn. Năng thủ là các căn còn lại. Tự tướng hiện tại các biệt cảnh giới năng thủ là chỗ sinh của năm căn. Tự tướng cộng tướng mọi lúc, mọi nơi năng thủ là chỗ sinh căn thứ sáu. Lại nữa, do thức hòa hợp sinh nên giả lập tánh năng thủ. Vì sao? Vì sự sinh thức nương vào nhiều duyên hòa hợp giả nói năng thủ, không do các pháp vô tác dụng của nghĩa chân thật.
Hỏi: Thế nào là sở thủ? Có bao nhiêu sở thủ? Vì nghĩa sao lại quán sở thủ?
Đáp: Các năng thủ cũng là sở thủ, vì nhãn căn là sở thủ của ý thức. Hoặc có sở thủ không phải năng thủ, chỉ là nghĩa thủ sở hành. Chữ "Chỉ là" có nghĩa là chắc chắn, chữ "Chỉ là" nầy là phân biệt với pháp sở hữu của tâm, tất cả đều là sở thủ. Để xả chấp cảnh giới ngã, nên quán sát sở thủ.
Hỏi: Thế nào là ngoại môn? Có bao nhiêu ngoại môn? Vì nghĩa sao lại quán ngoại môn?
Đáp: Pháp lệ thuộc cõi Dục là nghĩa ngoại môn, trừ Văn Tư tuệ từ Phật giáo sinh và tâm tâm pháp thuộc về tùy pháp hành kia.
Hỏi: Vì sao tuệ do Văn Tư sinh ra và tâm tâm pháp thuộc về tùy pháp hành kia không phải là ngoại môn?
Đáp: Vì pháp đẳng lưu làm nhân, và do thế lực nầy duyên theo Niết-bàn. Pháp đẳng lưu là chủng loại giáo pháp chân chứng của chư Phật. Toàn phần bốn giới tỷ thức giới, thiệt thức giới, hương giới, vị giới, hai xứ hương xứ, vị xứ và một phần các xứ giới còn lại là thuộc về cõi Dục, là ngoại môn. Để xả chấp ngã bất lìa dục, nên quán sát ngoại môn.
Hỏi: Thế nào là nội môn? Có bao nhiêu nội môn? Vì nghĩa sao lại quán nội môn?
Đáp: Trái với ngoại môn là nghĩa nội môn, trừ toàn phần bốn giới hai xứ và một phần các giới xứ còn lại là nội môn. Để xả chấp ngã lìa dục, nên quán sát nội môn.
Hỏi: Thế nào là nhiễm ô? Có bao nhiêu nhiễm ô? Vì nghĩa sao lại quán nhiễm ô?
Đáp: Pháp bất thiện và hữu phú vô ký là nghĩa nhiễm ô. Hữu phú vô ký, là ý biến hành tương ưng với phiền não, cùng với các phiền não của cõi Sắc và cõi Vô Sắc trói buộc. Một phần mười giới bốn xứ là nhiễm ô. Mười giới là bảy thức giới, cõi Sắc, thanh giới và pháp giới. Bốn xứ là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ và pháp xứ. Để xả chấp phiền não hợp ngã, nên quán sát nhiễm ô.
Hỏi: Thế nào là bất nhiễm ô? Có bao nhiêu bất nhiễm ô? Vì nghĩa sao lại quán bất nhiễm ô?
Đáp: Pháp thiện và vô phú vô ký là nghĩa bất nhiễm ô. Toàn phần tám giới tám xứ, một phần uẩn và các giới xứ còn lại là bất nhiễm ô. Để xả chấp lìa phiền não ngã, nên quán sát bất nhiễm ô.
Hỏi: Thế nào là quá khứ? Có bao nhiêu quá khứ? Vì nghĩa sao lại quán quá khứ?
Đáp: Tự tướng đã sinh nên diệt, nhân quả đã thọ dụng, công dụng nhiễm tịnh đã lui mất, thâu nhiếp nhân đã hoại, quả và tự tướng hữu phi hữu, nhớ nghĩ phân biệt tướng, luyến làm tướng tạp nhiễm, xả làm tướng thanh tịnh, là nghĩa quá khứ. Nhân quả đã thọ dụng là đã sinh nên đã diệt, như thứ lớp của nó. Công dụng nhiễm tịnh đã lui mất là như hiện tại tham… tín… khiến cho tâm nhiễm tịnh, vì công năng không có. Thâu nhiếp nhân đã hoại là vứt bỏ các tập khí mới diệt. Quả và tự tướng hữu phi hữu là trong hiện tại chỗ dẫn tập khí thì có, chỗ dẫn thật sự thì không. Nhớ nghĩ phân biệt tướng là chỉ có cảnh tướng sở duyên kia, một phần của tất cả là quá khứ, trừ vị lai hiện tại và vô vi. Để xả chấp ngã trôi lăn, nên quán sát quá khứ.
Hỏi: Thế nào là vị lai? Có bao nhiêu vị lai? Vì nghĩa sao lại quán vị lai?
Đáp: Hữu nhân chẳng phải đã sinh, chưa đắc tự tướng, nhân quả chưa thọ dụng, tánh tạp nhiễm thanh tịnh chưa hiện tiền, tự tướng nhân quả hữu phi hữu, mong làm tạp nhiễm tướng, không hy vọng làm tướng thanh tịnh, là nghĩa vị lai. Hữu nhân chẳng phải đã sinh là phân biệt với vô vi, vì Vô vi kia tuy không phải đã sinh mà là vô nhân. Chưa đắc tự tướng là tự thể chưa sinh. Nhân quả chưa thọ dụng là hạt giống kia chưa làm việc phải làm, vì tánh kia chưa sinh, một phần trong tất cả là vị lai. Để xả chấp ngã trôi lăn, nên quán sát vị lai.
Hỏi: Thế nào là hiện tại? Có bao nhiêu hiện tại? Vì nghĩa sao lại quán hiện tại?
Đáp: Tự tướng đã sinh chưa diệt, nhân quả thọ dụng và chưa thọ dụng, nhiễm tịnh hiện tiền, có thể hiển tướng quá khứ vị lai, tác dụng hiện tiền, là nghĩa hiện tại. Nhân quả thọ dụng và chưa thọ dụng là nhân đã diệt, vì quả cũng chưa có. Năng hiển tướng quá khứ vị lai là trong đời hiện tại có thể thi lập ra bày tướng của đời quá khứ và vị lai. Vì sao? Vì nương vào hiện tại mà giả lập quá khứ và vị lai, là phỏng theo sẽ đắc vị mà giả lập vị lai, phỏng theo từng đắc vị mà giả lập quá khứ. Tác dụng hiện tiền là các pháp như nhãn… chính là chỗ nương của các thức. Một phần trong tất cả là hiện tại. Để xả chấp ngã trôi lăn, nên quán sát hiện tại.
Hỏi: Vì sao quá khứ vị lai hiện tại nói là việc danh ngôn, không phải Niết-bàn…?
Đáp: Điều đã tự chứng bên trong thì không thể nói, chỉ có chỗ nương của hiện tại là nói năng, vì sao? Vì nói các sự ở quá khứ... nên nói về ba thứ sự nói năng trong kinh, là nương vào ba đời mà kiến lập không phải Niếtbàn… vì sự tự chứng bên trong là lìa danh ngôn, không thể nói năng. Lại nữa, chỉ có quá khứ, vị lai, hiện tại là chỗ nương vào nói năng của thấy nghe hay biết.
Hỏi: Thế nào là thiện? Có bao nhiêu thiện? Vì nghĩa sao lại quán thiện?
Đáp: Tự tánh, tương thuộc, tùy trục, phát khởi, bậc nhất nghĩa, sinh đắc, phương tiện, hiện tiền cúng dường, làm lợi ích, thâu nhiếp, đối trị, vắng lặng, đẳng lưu, là nghĩa thiện, một phần năm uẩn, mười giới, bốn xứ là thiện. mười giới là bảy thức giới, cõi Sắc, thanh giới và pháp giới. Bốn xứ là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ và pháp xứ. Để xả chấp pháp hợp ngã, nên quán sát thiện. Tự tánh thiện là mười một pháp sở hữu của tâm như tín v.v… Tương thuộc thiện là pháp tương ưng kia.
Tùy trục thiện là tập khí của các pháp.
Phát khởi thiện là sự phát khởi của thân nghiệp ngữ nghiệp của tập khí kia.
Bậc nhất nghĩa thiện là Chân như.
Sinh đắc thiện tức là các pháp thiện, do trước kia tập quen nên chiêu cảm được quả báo như vậy, do tự tánh nầy ngay ở xứ đó, không do tư duy tùy ý lạc trụ. "Ngay ở xứ đó" là xứ của tín… "do tự tánh nầy không do tư duy", là không có công dụng, không nhờ năng lực của bạn lành. "Tùy ý lạc trụ", là không phải chỉ có dục lạc, là sinh đắc, cũng là tín… đồng thời tùy ý mà khởi.
Phương tiện thiện là nương tựa thân cận với trượng phu thiện, nghe chánh pháp, như lý khởi ý tu pháp tập tịnh thiện, tùy pháp hành. Tu tập pháp tịnh thiện là sự sinh pháp thiện của tất cả Văn, Tư, Tu trong chánh pháp.
Hiện tiền cúng dường thiện là nghĩ tưởng đối với Như Lai mà lập ra linh miếu, hoạ vẽ tôn dung, hoặc nghĩ tưởng đối với chánh pháp, chép sửa Pháp Tạng hưng khởi nghiệp cúng dường.
Nhiêu ích thiện là dùng bốn nhiếp sự làm lợi ích cho tất cả hữu tình.
Dẫn nhiếp thiện là lấy tánh thí, phước nghiệp sự và tánh giới phước nghiệp sự để dẫn dắt sinh Dị thục thiên lạc, dẫn sinh nhà giàu có, dẫn thuận theo pháp thanh tịnh. "Dẫn sinh thiên lạc và nhà giàu có", là nói được nhân giàu sang. "Dẫn sinh thuận theo pháp thanh tịnh", là nói được nhân Niết-bàn.
Đối trị thiện là đối trị yếm hoại, đối trị đoạn, đối trị trì, đối trị viễn phân, đối trị phục, đối trị lìa hệ, đối trị chướng phiền não, đối trị chướng sở tri. Các đối trị nầy sau sẽ giải thích rộng Vắng lặng thiện là dứt hẳn tham dục, dứt hẳn sân hận, dứt hẳn ngu si, dứt hẳn tất cả phiền não, hoặc tưởng thọ diệt, hoặc Niết-bàn giới hữu dư, hoặc Niết-bàn giới vô dư, hoặc Niết-bàn giới Vô sở trụ, như vậy đều gọi là pháp thiện vắng lặng.
Đẳng lưu thiện là người đã đắc vắng lặng, do năng lực Tăng thượng nầy mà phát khởi công đức thế gian xuất thế gian, và cộng bất cộng, của thắng Phẩm Thần Thông.
Hỏi: Thế nào là bất thiện? Có bao nhiêu bất thiện? Vì nghĩa sao lại quán bất thiện?
Đáp: Tự tánh, tương thuộc, tùy trục, phát khởi, bậc nhất nghĩa, sinh đắc, phương tiện, hiện tiền cúng dường, tổn hại, dẫn dắt, chỗ đối trị, chướng ngại, là nghĩa bất thiện. Một phần năm uẩn, mười giới, bốn xứ là bất thiện. Để xả chấp phi pháp hợp ngã, nên quán sát bất thiện.
Tự tánh bất thiện là trừ ý nhiễm ô tương ưng và phiền não của cõi Sắc cõi Vô Sắc… cái còn lại có thể phát khởi hiện ác hạnh phiền não và tùy phiền não. Điều nầy thế nào? Là thuộc cõi Dục không nhậm vận khởi là bất thiện, nếu nhậm vận khởi thì có thể phát khởi hành vi ác thì cũng là bất thiện, còn lại là Hữu Phú Vô Ký.
Tương thuộc bất thiện là ngay phiền não và tùy phiền não tương ưng với pháp.
Tùy trục bất thiện tức là tập khí.
Phát khởi bất thiện là sanh khởi tập khí thân nghiệp, ngữ nghiệp. Bậc nhất nghĩa bất thiện là tất cả trôi lăn.
Sinh đắc bất thiện là do tập quen sự bất thiện nên chiêu cảm đắc quả Dị thục như vậy, do tự tánh nầy ngay ở bất thiện nhậm vận lạc trụ. Phương tiện bất thiện là nương tựa thân cận với trượng phu bất thiện, nghe bất chánh pháp, bất như lý tác ý, làm các hành vi ác của thân ngữ ý.
Hiện tiền cúng dường bất thiện là nghĩ tưởng quy y đối với một thiên chúng rồi, hoặc ý sát hại làm đầu, hoặc tà ác kiến làm đầu, lập ra từ miếu phát khởi nghiệp cúng dường khiến cho vô lượng chúng làm nhiều việc phi phước. "Ý sát hại làm đầu lập ra từ miếu", là ở chỗ từ miếu đó giết hại trâu dê để cúng tế thiên thần. "Tà ác kiến làm đầu lập ra từ miếu", là ở chỗ từ miếu đó tự nhịn đói khổ mà cầu phước cầu nguyện.
Tổn hại bất thiện là đối với tất cả xứ, khởi các thứ tà hạnh của thân ngữ ý.
Dẫn dắt bất thiện là khi đã thực hạnh nghiệp ác của thân ngữ ý rồi, đối với đường ác và đường thiện dẫn quả Dị thục bất ái, hoặc dẫn hoặc mãn, thọ đủ trong đường ác thì dẫn mãn quả Dị thục, đối với các đường thiện thì chỉ thọ mãn quả. Đã sinh quả kia rồi thì do năng lực của hành vi ác mà chịu khổ nghèo cùng.
Sở trị bất thiện là các pháp đối trị và bị đối trị.
Chướng ngại bất thiện là có thể chướng ngại các pháp Phẩm Thiện, như số và chúng tập…
Hỏi: Thế nào là Vô ký? Có bao nhiêu Vô ký? Vì nghĩa sao lại quán Vô ký?
Đáp: Tự tánh, tương thuộc, tùy trục, phát khởi, bậc nhất nghĩa, sinh đắc, phương tiện, hiện tiền cúng dường, làm lợi ích, thọ dụng, dẫn dắt, đối trị, vắng lặng, đẳng lưu, là nghĩa vô ký. Toàn phần tám giới tám xứ và một phần Uẩn Giới Xứ còn lại là vô ký. Tám giới là năm thứ cõi Sắc, căn, hương giới, vị giới và xúc giới. Tám xứ cũng vậy. Để xả chấp ngã lìa pháp phi pháp, nên quán sát vô ký.
-Tự tánh Vô ký là tám thứ:
1. Sắc giới.
2. Xứ.
3. Ý tương ưng phẩm.
4. Mạng căn.
5. Chúng đồng phần.
6. Danh.
7. Cú.
8. Văn thân.
Tương thuộc Vô ký là ôm giữ tâm phi uế phi tịnh, là tất cả sự dẫn dắt của danh cú văn thân là tâm và tâm pháp. "Tâm phi uế phi tịnh", là nói thiện, bất thiện trái nghịch với tâm. "Danh Cú Văn Thân dẫn dắt", là nói nghĩa của hành tướng kia, vì ý kia nói môn chuyển.
Tùy trục Vô ký tức là tập khí hý luận kia, vì Danh Cú Văn Thân huân tập vào tâm, vì sau tập khí nầy thì hý luận phát sinh.
Phát khởi Vô ký là sự thâu nhiếp của tập khí kia là sự phát khởi thân nghiệp ngữ nghiệp của tâm tâm pháp, nơi thâu nhiếp nầy là sự ôm giữ tâm phi uế phi tịnh, là tất cả hành tướng hý luận của danh cú văn thân, là đã thâu nhiếp tâm tâm pháp.
Bậc nhất nghĩa Vô ký là Hư Không Phi Trạch Diệt.
Sinh đắc Vô ký là các quả báo bất thiện, thiện pháp Hữu lậu. Phương tiện Vô ký là tâm phi nhiễm phi thiện, là tất cả oai nghi, công xảo xứ pháp. "Tâm phi nhiễm phi thiện", đây là nói nếu đã phát đường oai nghi… của tâm phi nhiễm phi thiện là tánh Vô ký, thì những chỗ khác tùy theo sự thích ứng của nó, hoặc thiện hoặc bất thiện.
Hiện tiền cúng dường Vô ký là như có người nghĩ tưởng quy y một thiên chúng, xa lìa ý sát hại, tà ác kiến, mà xây dựng từ miếu làm việc cúng dường, khiến cho vô lượng chúng ở những nơi như vậy không sinh trưởng phước và phi phước.
Nhiêu ích Vô ký là như có người đối với tôi tớ, vợ con của mình, dùng tâm phi uế phi tịnh mà thực hành tuệ thí.
Thọ dụng Vô ký là như có người lấy không chọn lựa tâm, tâm vô nhiễm ô mà thọ dụng vật dụng tài sản. Người không chọn lựa tâm là tánh biệt thiện, người tâm vô nhiễm ô là tánh biệt bất thiện.
Dẫn nhiếp Vô ký là như có người đối với xứ công xảo luyện tập quen, thì đối với đời vị lai lại dẫn dắt tướng thân như vậy, do thân nầy mà luyện tập công xảo xứ thì mau chóng rốt ráo.
Đối trị Vô ký là như có người vì trị bệnh mà được an vui, dùng tâm lựa chọn khéo uống thuốc điều trị.
Vắng lặng Vô ký là các phiền não cõi Sắc và cõi Vô Sắc, do chỗ tàng phục của Xa-ma-tha.
Đẳng lưu Vô ký là tâm biến hóa ở phẩm câu sinh, là chứng đẳng lưu nên gọi là đẳng lưu vô ký. Tâm biến hóa tương ưng với cộng hữu đẳng pháp gọi là phẩm câu sinh. Tâm tâm pháp nầy gọi là vui đùa nên phát khởi biến hóa là tánh vô ký, nếu vì lợi ích an vui cho hữu tình thì phải biết đó là thiện. Lại có thị hiện pháp thiện, bất thiện vô ký, pháp nầy thì thế nào? Là Phật và Đại Bồ-tát đắc rốt ráo bậc nhất, vì muốn lợi ích các hữu tình nên có sự thị hiện, phải biết trong đây không có một pháp nào chân thật để được. "Có sự thị hiện", là Phật Bồ-tát do năng lực biến hóa hữu tình mà thị hiện các thứ thiện, bất thiện. Thị hiện bất thiện là hóa thành giặc… thị hiện các sự chém đầu chặt tay… của hữu tình, làm kinh sợ các hữu tình khác khiến cho điều phục.
Hỏi: Thế nào là lệ thuộc cõi Dục? Có bao nhiêu lệ thuộc cõi Dục?
Vì nghĩa sao lại quán sát lệ thuộc cõi Dục?
Đáp: Tất cả pháp thiện, bất thiện và pháp Vô ký của người chưa lìa dục, là lệ thuộc cõi Dục. "Chưa lìa dục", là nói cũng chưa lìa ít phần dục của cõi Dục, là chưa chứng đắc nghĩa Tam-ma-địa. Nếu khác điều nầy thì không phải pháp chí định, đáng lẽ cũng là lệ thuộc cõi Dục. Vì sao? Vì người kia đã đắc Tam-ma-địa thì ái lạc đoạn diệt, vì cái phải đối trị thô nặng đoạn ít phần, cũng được nói là một phần lìa dục. Các sắc… bên ngoài là chưa lìa dục, vì sinh của nghiệp lực tăng thượng đã sinh, cũng gọi là lệ thuộc cõi Dục. Kinh nói: "Tất cả hữu tình đều có chung nghiệp lực tăng thượng đã sinh", đây là nói về hữu tình sinh cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng chưa lìa dục, vì hạt giống của nghiệp đeo đuổi, toàn phần bốn giới hai xứ và một phần các Uẩn Giới Xứ còn lại là lệ thuộc cõi Dục. Bốn giới là hương giới, vị giới, tỷ thức giới và thiệt thức giới. hai xứ là hương xứ và vị xứ. Một phần Uẩn Giới Xứ còn lại là trừ lệ thuộc cõi Sắc, lệ thuộc cõi Vô Sắc và pháp vô lậu ra. Để xả chấp dục tăng thượng ngã, nên quán sát lệ thuộc cõi Dục.
Hỏi: Thế nào là lệ thuộc cõi Sắc?
Có bao nhiêu lệ thuộc cõi Sắc?
Vì nghĩa sao lại quán lệ thuộc cõi Sắc?
Đáp: Tất cả pháp thiện và pháp Vô ký của người đã lìa lệ thuộc cõi Dục nhưng chưa lìa dục của cõi Sắc, là nghĩa lệ thuộc cõi Sắc. Trừ đã nói trên bốn giới hai xứ ra, còn lại một phần Uẩn Giới Xứ là lệ thuộc cõi Sắc. "Một phần", là trừ dục lệ thuộc cõi Vô Sắc và pháp vô lậu. Để xả chấp lìa Dục giới dục ngã (lìa dục của cõi Dục là ngã), nên quán sát lệ thuộc cõi Sắc.
Hỏi: Thế nào là lệ thuộc cõi Vô Sắc? Có bao nhiêu lệ thuộc cõi Vô Sắc? Vì nghĩa sao lại quán lệ thuộc cõi Vô Sắc?
Đáp: Tất cả pháp thiện và pháp Vô ký của người đã lìa dục cõi Sắc nhưng chưa lìa dục của cõi Vô Sắc, là nghĩa lệ thuộc cõi Vô Sắc. Một phần ba giới hai xứ bốn uẩn là lệ thuộc cõi Vô Sắc. ba giới là ý giới pháp giới và ý thức thức giới. Hai xứ là ý xứ và pháp xứ. Bốn uẩn là thọ uẩn tưởng uẩn hành uẩn và thức uẩn. Cũng có sắc do Tam-ma-địa sinh, vì ít nên không nói. "Một phần", là trừ lệ thuộc cõi Dục, lệ thuộc cõi Sắc và pháp vô lậu. Để xả chấp lìa Sắc giới dục là ngã, nên quán sát lệ thuộc cõi Vô Sắc.
Lại nữa, có nhất phần lìa dục, cụ phần lìa dục, thông đạt lìa dục, tổn phục lìa dục, vĩnh hại lìa dục. Nhất phần và cụ phần lìa dục là nương vào địa lìa dục mà nói, hoặc tại địa nầy cho đến có thể đoạn bát phẩm phiền não là nhất phần lìa dục, hoặc đã dứt phẩm thứ chín là cụ phần lìa dục; hoặc đối với Tát-ca-da kiến lìa dục mà nói, hoặc vị Hữu học là nhất phần lìa dục, hoặc vị Vô học là cụ phần lìa dục.
Thông đạt lìa dục là do kiến đạo lý dục. Tổn phục lìa dục là do thế gian đạo lý dục. Vĩnh hại lìa dục là do đạo xuất thế gian lìa dục. Lại nữa, có mười thứ lìa dục:
1. Tự tại lìa dục.
2. Tổn hại lìa dục.
3. Nhậm trì lìa dục.
4. Tăng thượng lìa dục.
5. Ngu si lìa dục. 6. Đối trị lìa dục.
7. Biến tri lìa dục.
8. Vĩnh đoạn lìa dục.
9. Hữu thượng lìa dục.
10. Vô thượng lìa dục.
Như vậy mười thứ lìa dục phải biết, là nghĩa trái nghịch, là nghĩa không cần đoạn.
Do tự tánh mà lìa dục nên gọi là tự tánh lìa dục, cho đến dứt hẳn mà lìa dục nên gọi là vĩnh đoạn lìa dục, nghĩa của những câu như vậy phân riêng từng chủng loại phải biết.
Tự tánh lìa dục, là đối với khổ thọ và thuận khổ thọ nơi xứ pháp mà sinh tánh chán trái.
- Tổn hại lìa dục, là người đã tập quen với dục, sướng thích và nhiệt não rồi sinh tánh chán trái.
- Nhậm trì lìa dục, là đã ăn no rồi đối với các món ngon sinh tánh chán trái.
- Tăng thượng lìa dục, là đã đắc thắng xứ rồi, đối với xứ thấp kém sinh tánh chán trái, cũng như thế gian đã được làm ông chủ kinh thành đẹp thì thấy thôn chủ thấp kém đáng chán lắm.
- Ngu si lìa dục, là các hạng ngu phu đối với giới Niết-bàn sinh tánh chán trái, vì không thông đạt tánh vắng lặng, và đắm nhiễm chặt Tát-ca-da.
- Đối trị lìa dục, là do đạo thế và đạo xuất thế đoạn các phiền não.
- Biến tri lìa dục, là người đã đắc kiến đạo đối với pháp của ba cõi sinh tánh chán trái, do đã biết rõ khắp tánh hành khổ rồi, mà chán trái tất cả sự hữu lậu.
- Vĩnh đoạn lìa dục, là đã dứt hẳn phiền não của các địa rồi thì sinh tánh chán trái.
- Hữu thượng lìa dục, là tất cả lìa dục của Thanh văn Độc giác thế gian.
- Vô thượng lìa dục, là tất cả lìa dục của chư Phật Bồ-tát, vì muốn tạo lợi lạc cho các hữu tình.
Hỏi: Thế nào là Hữu học? Có mấy Hữu học? Vì nghĩa sao lại quán Hữu học?
Đáp: Tất cả pháp thiện của người cầu giải thoát là nghĩa Hữu học. Từ chứa nhóm vị tư lương trở đi gọi là cầu giải thoát, phải biết là cầu chứng phần vị giải thoát gọi là chứa nhóm vị tư lương, một phần mười giới bốn xứ và các uẩn là Hữu học. mười giới là thất thức giới, cõi Sắc, thanh giới và pháp giới. bốn xứ là sắc xứ, thanh xứ, ý xứ và pháp xứ. Để xả chấp ngã cầu giải thoát, nên quán sát Hữu học.
Hỏi: Thế nào là Vô học? Có bao nhiêu Vô học? Vì nghĩa sao lại quán Vô học?
Đáp: Tất cả pháp thiện của người đối với các học xứ đã đắc rốt ráo, là nghĩa Vô học, vì chư A-la-hán… đối với ba thứ học xứ của giới tăng thượng, tâm tăng thượng và tuệ tăng thượng đã rốt ráo rồi, nên gọi là Vô học. Một phần mười giới bốn xứ và các uẩn là Vô học. Để xả chấp dĩ thoát ngã (đã giải thoát là ngã), nên quán sát Vô học.
Hỏi: Thế nào là Phi học Phi Vô học? Có bao nhiêu phi học phi Vô học? Vì nghĩa sao lại quán Phi học Phi Vô học?
Đáp: Tất cả pháp thiện, bất thiện Vô ký của dị sinh, pháp nhiễm ô Vô ký của Hữu học, và pháp Vô ký gồm pháp Vô vi của Vô học, là nghĩa phi học phi Vô học. "Dị sinh", là trừ người cầu giải thoát ra, vì dị sinh kia đối với các học xứ cầu tu học thì gọi là Hữu học. "Nhiễm ô Vô ký của Hữu học", như sự thích ứng của nó thì bất thiện và hữu phú Vô ký là nhiễm ô, vô phú Vô ký là Vô ký. Toàn phần tám giới tám xứ và một phần các Uẩn Giới Xứ còn lại là phi học phi Vô học. Để xả chấp ngã bất giải thoát, nên quán sát Phi học Phi Vô học.
Hỏi: Thế nào là kiến sở đoạn (kiến đạo dứt trừ)? Có bao nhiêu kiến sở đoạn? Vì nghĩa sao lại quán kiến sở đoạn?
Đáp: Là phân biệt sanh khởi kiến nghi nhiễm ô, kiến xứ, nghi xứ, đã tà hạnh nơi phiền não tùy phiền não của kiến… chỗ phát khởi nghiệp thân ngữ ý của kiến… và gồm Uẩn Giới Xứ của tất cả ác thú, là nghĩa kiến sở đoạn. Trong đây "Phân biệt sanh khởi kiến nghi nhiễm ô", nghe bất chánh pháp là đầu tiên sanh khởi năm kiến, "Sự khởi phân biệt" là phân biệt với Tát-ca-da kiến và biên chấp kiến cùng sinh khởi.
Hỏi: Thế nào là tướng biên chấp kiến, là câu sinh chăng?
Đáp: Người đã dứt kiến rồi tu học hiện quán thì khởi kinh sợ như vầy: "Hiện tại là ngã, ngã là ở đâu"? Kiến xứ là các kiến tương ưng với pháp cộng hữu và hạt giống của kiến kia, nghi xứ cũng vậy. "Đối với các kiến sanh khởi tà hạnh phiền não tùy phiền não…", là nương vào các môn của kiến và duyên kiến… một phần trong tất cả như khởi tham… là kiến sở đoạn. "Một phần", là trừ tu sở đoạn và vô lậu. Để xả chấp kiến tròn đầy là ngã, nên quán sát kiến sở đoạn.
Hỏi: Thế nào là Tu sở đoạn (do tu đạo dứt trừ)? Có bao nhiêu Tu sở đoạn? Vì nghĩa sao lại quán Tu sở đoạn? Đáp: Sau khi được Kiến đạo, thì kiến sở đoạn trái với các pháp Hữu lậu, là nghĩa Tu sở đoạn. "Kiến sở đoạn trái nhau", là trừ sanh khởi phân biệt các pháp hữu lậu khác của kiến nhiễm ô… Pháp hữu lậu cũng thâu nhiếp thuận theo phần quyết trạch thiện, vì tùy thuộc thô nặng, một phần trong tất cả là Tu sở đoạn. "Một phần" là trừ kiến sở đoạn và pháp vô lậu. Để xả chấp ngã tu tròn đầy, nên quán sát Tu sở đoạn.
Hỏi: Thế nào là phi sở đoạn? Có bao nhiêu phi sở đoạn? Vì nghĩa sao lại quán phi sở đoạn?
Đáp: Các pháp Vô lậu trừ phần quyết trạch thiện ra là phi sở đoạn. Pháp vô lậu là Thánh đạo xuất thế và hậu sở đắc đều là pháp vô vi. Một phần mười giới bốn xứ và các uẩn là phi sở đoạn. Hỏi: Các sắc, thanh nào là phi sở đoạn?
Đáp: Tự tánh của thân ngữ nghiệp thiện trong thân Vô học, là phi sở đoạn. Để xả chấp ngã thành mãn, nên quán sát phi sở đoạn.
Hỏi: Thế nào là duyên sinh? Có bao nhiêu duyên sinh? Vì nghĩa sao lại quán duyên sinh?
Đáp: Vì Tướng, vì chi phân biệt, chi lược nhiếp, chi lập ra duyên, chi lập ra nghiệp, chi thuộc tạp nhiễm, nghĩa, sâu xa, sai khác, thuận nghịch, là nghĩa duyên sinh.
1. Tướng, là duyên sinh vô tác, duyên sinh Vô thường, duyên sinh thế dụng, là tướng duyên sinh. Do tướng nầy nên đức Bạc-già-phạm nói: "Đây có nên kia có, đây sinh nên kia sinh, là vô minh duyên hành cho đến nói rộng". "Đây có nên kia có", là nói về nghĩa duyên sinh vô tác, chỉ vì có duyên nên quả pháp mới có, vì chẳng phải duyên có thật tác dụng có thể sinh quả pháp. "Đây sinh nên kia sinh", là nói về nghĩa duyên sinh Vô thường, vì chẳng phải pháp vô sinh làm nhân, ít pháp đã sinh mà được thành lập! "Vô minh duyên hành", là nói về nghĩa duyên sinh thế dụng, tuy các pháp là vô tác Vô thường, nhưng không tùy theo một pháp nào để làm duyên, nên tất cả quả được sinh. Vì sao? Vì công năng sai khác của các pháp, như từ lực vô minh nên các hành được sinh, cho đến lực sinh nên có già chết.
2. Chi phân biệt, là phân riêng duyên sinh làm mười hai phần, do mười hai chi duyên khởi sai khác. Thế nào là mười hai chi:
Vô minh. Hành. Thức. Danh sắc. Sáu xứ. Xúc. Thọ. Ái. Thủ. Hữu. Sinh. Già chết.
3. Chi lược thâu, trước đã phân biệt mười hai chi vô minh… bây giờ lại thâu làm bốn chi:
a. Chi năng dẫn.
b. Chi sở dẫn.
c. Chi năng sinh.
d. Chi sở sinh.
Chỉ do bốn chi như vậy mà lược nhiếp hết tất cả pháp nhân quả sinh khởi, là đối với nhân thì có năng dẫn và sở dẫn, đối với quả thì có năng sinh và sở sinh.
- Chi năng dẫn chi, là vô minh, hành và thức, là duyên để khởi ở đời vị lai; đối với các đế cảnh thì vô trí làm đầu, tạo tác các hành nghiệp huân tập ở tâm.
- Chi sở dẫn chi, là danh sắc, sáu xứ, xúc và thọ, do năng lực huân tập của tâm có thể khiến cho tương lai danh sắc… trước sau nương nhau, xoay vần sinh khởi hạt giống được tăng trưởng.
- Chi năng sinh chi, là ái, thủ, hữu, do chưa dứt hẳn ái lực của dục. Ái lạc trong dục, hạnh diệu và hành vi ác sai khác làm đầu phát khởi tham dục, vì có hữu thủ thức, đối với vị qua đời cùng với Dị thục thuận theo tham dục, tùy theo tập khí của một nghiệp hiện tiền mà có.
- Chi sở sinh chi, là sinh và già chết, do nghiệp sai khác như vậy tập khí hiện tiền mà có, tùy một cõi một kiếp trong Chúng đồng phần sai khác, như Dị thục của danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ sinh khởi trong sở dẫn chi nói trên. Sinh và già chết là hiển nương vào ba hữu làm tướng, nên già chết hợp chung lập một chi, để nói về lìa già thì được có chết, không phải trong thai sinh thân, lìa danh sắc… mà được có pháp của sáu xứ, nên đối với các chi kia mà từng trường hợp đều riêng lập chi.
4. Lập ra duyên chi, là tập khí, dẫn phát, tư duy, câu hữu. Chi lập ra duyên là tùy theo sự thích ứng của nó, nương vào bốn duyên mà lập ra chi duyên. Lại như vô minh đối với hành, vì trước sinh tập khí thì được làm nhân duyên, do nhân duyên kia huân tập nối tiếp đã sinh các nghiệp có thể tạo nghiệp hậu hữu, trong lúc đó hiện hành vô minh có thể dẫn phát làm duyên Đẳng vô gián, do duyên Đẳng vô gián kia dẫn phát sai khác mà các hành trôi lăn nối tiếp sinh. Tư duy kia là sở duyên duyên, vì kế chấp tối thắng, không như lý tư duy, duyên ngu si vị làm cảnh giới. Câu hữu kia làm duyên Tăng thượng, do năng lực tăng thượng kia khiến cho tương ưng tư điên đảo duyên cảnh mà tạo tác. Như vậy tất cả đều tùy theo sự thích ứng của nó phải biết.
5. Lập ra nghiệp chi là:
-Vô minh có hai thứ nghiệp:
a. Khiến các hữu tình ngu si đối với hữu.
b. Làm duyên với hành. "Khiến các hữu tình ngu si đối với hữu", do sự che lấp của hữu kia, mé sau trong mé trước không hiểu rõ như thật, do nhân duyên nầy mà khởi nghi như vầy: "Đời quá khứ ta có hay không"! "Làm duyên với hành", là do thế lực của hành khiến cho nghiệp hậu hữu được tăng trưởng.
-Hành có hai thứ nghiệp:
Khiến cho các hữu tình vô số sai khác trong các đường.
a. Làm duyên với thức. "Khiến cho các hữu tình vô số sai khác trong các đường", là do thế lực của nghiệp khiến cho các hữu tình tiến đến các đường khác nhau. "Làm duyên với thức", là do năng lực của tập khí, có thể khiến cho danh sắc trong tương lai sinh khởi hạt giống được tăng trưởng.
-Thức có hai thứ nghiệp:
a. Giữ chắc tất cả nghiệp trói buộc của các hữu tình.
b. Làm duyên với danh sắc. "Giữ chắc tất cả nghiệp trói buộc của các hữu tình", là cùng với sự dẫn tập khí đồng thời sinh diệt của hành. "Làm duyên với danh sắc", là do thức nhập thai mẹ mà danh sắc được tăng trưởng.
-Danh sắc có hai thứ nghiệp:
a. Thâu nhiếp tự thể của các hữu tình.
b. Làm duyên với sáu xứ. "Thâu nhiếp tự thể của các hữu tình", là do hữu tình kia sinh rồi, được tham dự số sai khác Chúng đồng phần của hữu tình. "Làm duyên với sáu xứ", là do danh sắc… các chi trước là chỗ nương cho sáu xứ… các chi sau được sinh khởi.
-Sáu xứ có hai thứ nghiệp:
a. Thâu nhiếp tự thể tròn đầy của các hữu tình.
Làm duyên với xúc. "Thâu nhiếp tự thể tròn đầy của các hữu tình", là do hữu tình kia đã sinh rồi, các căn khác không thiếu.
-Xúc có hai thứ nghiệp:
Khiến các hữu tình trôi lăn đối với cảnh giới thọ dụng.
a. Làm duyên với thọ. "Khiến các hữu tình trôi lăn đối với cảnh giới thọ dụng", là nương vào đây mà làm môn (cửa), thọ dụng thuận với ba thứ cảnh giới của lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ.
-Thọ có hai thứ nghiệp:
Khiến các hữu tình trôi lăn đối với đã thọ dụng sinh quả.
a. Làm duyên với ái. "Khiến các hữu tình trôi lăn đối với chỗ thọ dụng sinh quả", là do đây làm chỗ nương để thọ dụng các thứ nghiệp Dị thục đáng ưa, không đáng ưa, làm duyên với ái", là mong hòa hợp với ái nầy để làm môn (cửa) cho các ái sinh.
-Ái có hai thứ nghiệp:
a. Dẫn các hữu tình trôi lăn sinh tử.
b. Làm duyên với thủ. "Dẫn các hữu tình trôi lăn sinh tử", là do thế lực của ái kia mà sinh tử trôi lăn không đoạn dứt. "Làm duyên với thủ", là ái vị mong cầu dục làm môn (cửa), vì tham dục trong dục chuyển.
-Thủ có hai thứ nghiệp:
Vì nhiếp lấy hậu hữu khiến cho các hữu tình phát khởi hữu thủ thức.
Làm duyên với hữu. "Vì nhiếp lấy hậu hữu khiến cho các hữu tình phát khởi hữu thủ thức", là hậu hữu sai khác của cõi Na-lạc-ca nối tiếp không đoạn, khiến cho tập khí của nghiệp được chắc chắn. "Làm duyên với hữu", là do thế lực nầy mà các tập khí của hành được chuyển biến.
-Hữu có hai thứ nghiệp:
a. Khiến hậu hữu của các hữu tình hiện tiền.
b. Làm duyên với sinh. "Khiến hậu hữu của các hữu tình hiện tiền", vì có thể dẫn vô gián các đường khác. "Làm duyên với sinh", là do thế lực nầy mà Chúng đồng phần khác bị trôi lăn.
-Sinh có hai thứ nghiệp:
Khiến danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ của các hữu tình thứ lớp sinh khởi.
a. Làm duyên với già chết. "Khiến danh sắc, sáu xứ, xúc, thọ của các hữu tình thứ lớp sinh khởi", là có thể dẫn các vị sai khác sau. "Làm duyên với già chết", là do có sinh mà già chết kia nối tiếp biến hoại đều được có.
-Già chết có hai thứ nghiệp:
Thường khiến cho thời phần của hữu tình đổi khác hoại ít thịnh.
Thường khiến cho tuổi thọ của hữu tình đổi khác hoại tuổi thọ.
6. Chi thuộc về tạp nhiễm, hoặc là vô minh, hoặc ái, hoặc thủ, là thuộc về phiền não tạp nhiễm. Hoặc hành, hoặc thức, hoặc hữu, là thuộc về nghiệp tạp nhiễm, còn lại là thuộc về sinh tạp nhiễm.
Hỏi: Vì sao thức chi thuộc về nghiệp tạp nhiễm?
Đáp: Các hành tập khí đã nói rõ.
7. Nghĩa, là nghĩa vô tác giả, nghĩa hữu nhân, nghĩa lìa hữu tình, nghĩa Y tha khởi, nghĩa tác dụng, nghĩa Vô thường, nghĩa hữu sát-na, nghĩa nhân quả nối tiếp không dứt, nghĩa nhân quả dường như nhiếp thọ, nghĩa nhân quả sai khác, nghĩa nhân quả chắc chắn, là nghĩa duyên khởi; lý tác giả tự tại thiên, là nghĩa vô tác giả; lấy vô minh… làm nhân, là nghĩa hữu nhân, vô tự nhiên ngã là nghĩa lìa hữu tình, dựa vào nhiều duyên mà sinh, là nghĩa Y tha khởi; nhiều duyên tác dụng không, là nghĩa vô tác dụng. Vì không thường Hằng nên là nghĩa Vô thường, khi đã sinh rồi thì không trụ tạm thời, là nghĩa hữu sátna, thời gian của nhân sát-na diệt quả sát-na sinh, là nghĩa nhân quả nối tiếp không dứt, không từ tất cả mà sinh, là nghĩa nhân quả tương tự nhiếp thọ, từ không phải mỗi mỗi loại nhân chẳng phải mỗi loại quả mà sinh, là nghĩa nhân quả sai khác, đối với nối tiếp khác không thọ quả, là nghĩa nhân quả chắc chắn.
8. Sâu xa, là nhân sâu xa, tướng sâu xa, sinh sâu xa, trụ sâu xa, chuyển sâu xa, là nghĩa sâu xa, tức là do những nghĩa vô tác giả nầy để nói về năm thứ sâu xa của pháp duyên khởi. Do hai thứ nghĩa nói về nhân sâu xa, vì để đối trị nhân bình đẳng và luận vô nhân, do một thứ nghĩa nói về tướng sâu xa, vì là vô ngã tướng, do hai thứ nghĩa nói về sinh sâu xa, vì tuy từ nhiều duyên mà quả pháp được sinh, nhưng không phải sự tạo tác của các duyên kia, do hai thứ nghĩa nói về trụ sâu xa, vì thật ra không có an lập để hiển hiện tương tự trụ, do bốn thứ nghĩa nói về chuyển sâu xa, vì nhân quả trôi lăn khó hiểu rõ. Lại nữa, các pháp duyên khởi tuy sát-na diệt nhưng trụ khả đắc, tuy không có tác dụng duyên, nhưng có công năng duyên có khả đắc, tuy lìa hữu tình nhưng hữu tình khả đắc, tuy không tác giả nhưng các nghiệp quả bất hoại khả đắc, nên sâu xa. "Nghiệp quả bất hoại", là tuy bên trong vô tác giả nhưng có tác nghiệp thọ quả báo kia. Lại nữa, các pháp không từ tự sinh, không từ tha sinh, không từ cộng sinh, chẳng phải không có nhân tự tác và nhân tha tác mà sinh, nên sâu xa. "Không từ tự sinh", là tất cả pháp không phải sự tạo tác của tự, vì tự kia khi chưa sinh thì không có tự tánh. "Không từ tha sinh", là các duyên của tha kia không phải tác giả, không từ công sinh là do hai thứ nhân nầy. "Chẳng phải không có nhân tự tác và nhân tha tác mà sinh", là duyên mong quả sinh ra có công năng. Lại nữa, có sai khác, là chờ nhiều duyên mà sinh nên không phải tự tác, tuy có nhiều duyên nhưng không có hạt giống thì bất sinh, nên không phải tha tác, vì tự tha kia đồng thời không có tác dụng nên không phải cộng tác. Hạt giống và các duyên đều có công năng nên chẳng phải không nhân sinh, do đó nói như vầy: "Có tự chủng nên không từ tha, vì chờ các duyên nên chẳng phải tự tác, vì vô tác dụng nên chẳng phải cộng sinh, vì có công năng nên không phải vô nhân". Nếu lý duyên khởi chẳng phải tự không phải tha. Trừ bỏ hai câu cũng còn là sâu xa huống chi đều quên bốn câu, nên duyên khởi rất là sâu xa.
9. Sai khác, là thức sinh sai khác, nội tử sinh sai khác, ngoại cốc (hạt giống) sinh sai khác, thành hoại sai khác, thực trì sai khác, cõi ái phi ái phân biệt sai khác, thanh tịnh sai khác, oai đức sai khác, là nghĩa sai khác. "Thức sinh sai khác", là nhãn sắc làm duyên mà nhãn thức được sinh. Như vậy, "nội tử sinh sai khác", là nương vào hữu tình thế gian mà nói, thì vô minh… làm duyên có thể sinh hành… "ngoại cốc sinh sai khác", là hạt giống duyên mầm, mầm duyên cọng, như vậy xoay vần cành lá hoa quả xoay vần được sinh. "Thành hoại sai khác", là cộng nghiệp lực tăng thượng của tất cả hữu tình làm duyên đại địa… mà sinh. "Thực trì sai khác", là bốn cách ăn làm duyên mà ba cõi hữu tình nối tiếp trụ. "Ái phi ái thú phân biệt sai khác", là diệu hạnh và ác hạnh làm duyên mà sinh đến đường thiện và đường ác. "Thanh tịnh sai khác", là thuận giải thoát phần thiện làm duyên sinh thuận phần quyết trạch thiện. Như vậy Kiến đạo… dần dần cho đến đắc quả A-la-hán… hoặc bên ngoài từ người khác nghe âm thanh mà bên trong như lý tác ý làm duyên phát sinh chánh kiến, xoay vần cho đến các lậu dứt hẳn. "oai đức sai khác", là nội chứng làm điều kiện phát tối thắng công đức của thần thông… Do sai khác nầy nên tùy theo đó mà nói rộng các hành duyên khởi.
10. Thuận nghịch, là tạp nhiễm thuận nghịch, thanh tịnh thuận nghịch, là nói duyên khởi thuận nghịch. "Tạp nhiễm thuận nghịch", hoặc là nương vào trôi lăn mà thứ lớp nói vô minh duyên hành, như vậy là thuận theo thứ lớp mà nói, hoặc nương vào đế an lập mà nói. Nói già chết khổ, già chết tập, già chết diệt, già chết đi tới diệt hạnh, như vậy là nghịch thứ lớp, "Thanh tịnh thuận nghịch", là vô minh diệt nên hành diệt, như vậy là thuận thứ lớp mà nói là do pháp nào không có nên già chết không có, do pháp nào diệt nên già chết cũng diệt, như vậy là nghịch thứ lớp mà nói. Phải như vậy mà quán nghĩa duyên sinh khởi, tất cả đều là duyên sinh, chỉ trừ một phần pháp giới pháp xứ và các pháp Vô vi. Để xả chấp không nhân ngã và nhân ngã bình đẳng, nên quán sát duyên sinh.
Hỏi: Thế nào là duyên? Có bao nhiêu duyên? Vì nghĩa sao lại quán duyên?
Đáp: Nhân, Đẳng vô gián, sở duyên, tăng thượng, là nghĩa duyên, tất cả đều là duyên. Để xả chấp ngã làm nhân pháp, nên quán sát duyên. Nhân duyên, là thức Alại-da, tập khí thiện và các pháp Hữu lậu, vô lậu, như thứ lớp làm nhân duyên. Thức A-lại-da có hai thứ: a. Thành thục. b. Gia hạnh. Thành thục là các nhân duyên của pháp sinh đắc. Gia hạnh là các pháp phương tiện và nhân duyên thức A-lại-da khác của đời tương lai. Lại nữa, gia hạnh thức A-lại-da, là sự huân tập của hiện hành chuyển thức trong đời nầy. Tập khí thiện là tập khí của thuận phần giải thoát, do tập khí nầy dùng xuất thế gian để chứng đẳng lưu làm duyên sinh, có thể làm duyên sinh với pháp xuất thế.
Lại nữa, vì tự tánh, vì sai khác, vì trợ giúp, vì đẳng hạnh, vì tăng ích, vì chướng ngại, vì dẫn dắt, là tướng nhân duyên. Phải biết trong đây dùng sáu thứ tướng nhân như tự tánh… để nói về nghĩa nhân duyên. Nói tự tánh, sai khác, hai câu nầy lập ra nhân năng tác, các câu còn lại thứ lớp kiến lập nhân Câu hữu, nhân Tương ưng, nhân Đồng loại, nhân Biến hành và nhân Dị thục.
Tự tánh, là tự tánh của nhân năng tác, nương vào nhân tự tánh mà lập ra nhân năng tác, phải biết tất cả nhân đều là sự thâu nhiếp của nhân năng tác. Vì nói về nghĩa sai khác, lại riêng lập ra các nhân trợ giúp…
Sai khác, là sai khác của nhân năng tác, lược có hai mươi thứ:
1. Sinh năng tác, là thức hòa hợp so với thức. Do hòa hợp nầy mà đã tạo tác xưa không nay có.
2. Trụ năng tác, là ăn đối mặt đã sinh và hữu tình chưa sinh, vì thế lực nầy đã sinh rồi thì nối tiếp không đoạn.
3. Trì năng tác, là đại địa so với hữu tình, vì chở che không để cho đọa.
4. Chiếu năng tác, là đèn đối chiếu các sắc soi rõ ám chướng.
5. Biến hoại năng tác, là lửa đối với củi, khiến cho củi kia nối tiếp đổi khác.
6. Phân lìa năng tác, là lưỡi liềm đối với cái bị cắt, khiến chia vật thành hai phần.
7. Chuyển biến năng tác, là công xảo trí… đối các vật như vàng bạc… chuyển vàng bạc kia thành tướng khác.
8. Tín giải năng tác, là khói đối mặt với lửa, do đây so sánh mà biết, không phải hiện thấy.
9. Hiển rõ năng tác, là tông nhân dụ đối đã thành nghĩa, do đây mà được chánh chắc chắn.
10. Đẳng chí năng tác, là Thánh đạo đối mặt với Niết-bàn, do đây mà chứng Niết-bàn kia.
11. Tùy thuyết năng tác, là danh tưởng kiến, giống như danh tự chấp lấy tướng, tùy theo đó mà khởi nói năng.
12. Quán đãi năng tác, là quán chờ đây, đối với kia cầu muốn sinh, như chờ đói khát tìm cầu uống ăn, do đây là nhân của kia muốn sinh.
13. Chiêu dẫn năng tác, là duyên cao xa, như vô minh đối mặt với già chết, do đó mà vị khác xoay vần chiêu cảm sẽ có.
14. Sinh khởi năng tác, là duyên lân cận, như vô minh đối mặt với hành, do đây sinh vô gián sẽ có.
15. Dẫn dắt năng tác, là các duyên khác, như ruộng, nước, phân… mong hạt giống sinh, tuy giống đã sinh tự hạt, nhưng tăng thêm lực của hạt giống kia.
16. Dẫn phát năng tác, là duyên thuận theo, như bầy tôi thờ vua, giúp cho vua vui vẻ, vì do thuận theo dẫn phát.
17. Định biệt năng tác, là duyên sai khác, như năm cõi duyên mong quả nơi năm cõi, do tự tánh sai khác chiêu cảm từng quả riêng biệt.
18. Đồng sự năng tác, là duyên hòa hợp, như căn không hoại cảnh giới hiện tiền, tác ý chánh khởi đối mặt với thức đã sinh, vì thành cái tự tác thì phải chờ năng tác khác.
19. Trái nhau năng tác, là duyên chướng ngại, như mưa đá đối với hạt giống lúa, có thể tổn hại lúa kia.
20. Không trái nhau năng tác, là vô chướng ngại, như lúa giống không bị chướng ngại, trái với ở trên. Trong nhân năng tác sai khác nầy, chỉ nói thức hòa hợp… lại nêu ra cương yếu, khiến cho những người hiểu biết nương vào một mặt nầy mà suy ra các nghĩa khác.
Trợ giúp, là các pháp có chung mà sinh, chắc chắn không có thiếu giảm, như bốn đại chủng và sắc được tạo tùy theo sự thích ứng của nó, không phải tất cả tụ chắc chắn có bốn đại và sắc được tạo. Nếu ở xứ đó có dung lượng như vậy, thì đây chắc chắn là đồng thời sinh không lìa nhau.
Đẳng hành, là các pháp có chung sở duyên của đẳng hành thì phải không thiếu giảm, như tâm tâm pháp trước căn cứ theo trợ giúp, chắc chắn lập ra trong câu hữu nhân. "Chỉ nói đại chủng và sắc được tạo", đây là chỉ lược nêu cương mục, tâm và tâm pháp không lìa nhau, vì chắc chắn cũng thuộc về trợ giúp. Nếu như thế thì không nên lập riêng nhân tương ưng, vì các tâm tâm pháp cũng có chung thuộc về nhân, tuy vậy nhưng nghĩa có khác nhau, là các pháp có chung đẳng hành sở duyên không lìa nhau, vì đẳng hành nầy nên lập nhân tương ưng, chẳng phải chỉ có chung nghĩa, như tâm và tâm pháp.
Tăng ích, là đời trước tu tập pháp thiện, bất thiện và vô ký, có thể khiến cho đời sau các pháp thiện… xoay vần tăng thắng sinh khởi sau đó. "Đời trước tu tập", là trước kia đã tập quen nghĩa hiện hành. "Thiện đời sau … các pháp xoay vần tăng thắng sinh khởi sau đó", là do thiện kia nuôi lớn các hạt giống, đối với đời vị lai, ngay trên chủng loại tăng thắng kia mà sinh. Như vậy các pháp có thể làm tương tự nhân tăng trưởng, nên lập nhân đồng loại.
Chướng ngại, là tùy sự tập quen các phiền não, tùy sự có hoặc thì đều được nối tiếp tăng trưởng vững chắc, khiến cho nối tiếp xa lánh Niết-bàn. Nhân biến hành nầy không phải chỉ khiến cho tương tự phiền não tăng trưởng, vì sao? Nếu có tùy theo tập quen phiền não tham sân si, thì đều khiến cho tất cả phiền não như sân… nối tiếp tăng trưởng vững chắc, do sự trói buộc sâu nặng nầy mà chướng giải thoát đắc, nên lập ra nhân biến hành.
Nhiếp thọ, là pháp Hữu lậu của thiện và bất thiện có thể nhiếp thọ tự thể, tức là nhân Dị thục, do nhân nầy có thể dẫn dắt tương lai, toàn bộ không tương tự thuộc về tự thể Vô Phú Vô Ký, nên ngay nơi nghĩa nhiếp thọ mà lập ra nhân Dị thục. "Hữu lậu thiện", là phân biệt với Vô lậu, vì trái với sinh tử nên không thể chiêu cảm quả Dị thục.
Duyên Đẳng vô gián, ở giữa không có khoảng cách là Đẳng vô gián, Đồng phần, Dị phận, tâm tâm pháp sinh Đẳng vô gián, là nghĩa duyên Đẳng vô gián. "Ở giữa không có khoảng cách là Đẳng vô gián", chẳng phải trong sát-na không có khoảng cách, tuy cách sát-na, nhưng ở giữa không có tâm khác ngăn cách, cũng gọi là ở giữa không có ngăn cách. Nếu không như thế thì tâm nhập định vô tâm và tâm mong xuất định, lẽ ra không phải duyên Đẳng vô gián, nhưng là duyên Đẳng vô gián kia, nên tâm trước mong tâm sau trong một nối tiếp, ở giữa không có tâm khác ngăn cách, thì đó là duyên Đẳng vô gián. Như tâm mong tâm, nên biết tâm pháp cũng vậy. "Đồng phần dị phận tâm tâm pháp sinh Đẳng vô gián", là thiện tâm tâm pháp mong đồng phần thiện dị phận bất thiện Vô ký vô gián mà sinh tâm tâm pháp làm duyên Đẳng vô gián, như vậy tâm tâm pháp bất thiện Vô ký mong đồng phần dị phận vô gián sinh tâm tâm pháp cũng vậy. Lại nữa, tâm tâm pháp cõi Dục đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc và vô lậu vô gián sinh tâm tâm pháp làm duyên Đẳng vô gián, như vậy tâm tâm pháp của cõi Sắc… mỗi mỗi đều riêng đối với cõi Sắc… và Đẳng vô gián cõi Dục sinh tâm tâm pháp, như sự thích ứng của nó đều phải biết.
Hỏi: Là tất cả tâm Vô gián tất cả tâm sinh, hay có chắc chắn riêng mỗi thứ?
Đáp: Có. Hiện tại trong đây hoặc riêng nói rộng tâm Vô gián như vậy, như vậy tâm sinh, thì sinh vô lượng ngôn luận, do đó chỉ nên lược lập ra chung về tướng của tâm sinh khởi. Các tâm sinh khởi do mười thứ lực:
1. Do năng lực quán tập.
2. Do năng lực lạc dục.
3. Do năng lực phương tiện.
4. Do năng lực đẳng chí.
5. Do năng lực dẫn phát.
6. Do năng lực nhân.
7. Do năng lực cảnh giới.
8. Do năng lực nhớ nghĩ.
9. Do năng lực tác ý.
10. Do năng lực nối tiếp.
- Lực quán tập, lại có ba thứ là hạ trung thượng. Nếu các tướng nhập trụ xuất của định mà chưa liễu đạt thì là Hạ Phẩm. Tuy đã liễu đạt nhưng chưa khéo tập quen thì là Trung Phẩm. Đã liễu đạt rồi lại khéo tập quen thì gọi là Thượng Phẩm. Hoặc có hạ phẩm lực quán tập, đối với các tĩnh lự, các định Vô Sắc chỉ có thể nhập thứ lớp; hoặc có trung phẩm lực quán tập, cũng có thể nhập siêu vượt, chỉ có thể siêu vượt một khoảng; hoặc có thượng phẩm lực quán tập, tùy theo sự mong muốn của nó, hoặc vượt qua tất cả, hoặc thuận hoặc nghịch mà nhập các đẳng chí.-Lực lạc dục, là người đã đắc tĩnh lự thứ hai, nhập sơ tĩnh lự rồi, hoặc muốn dùng tâm của địa tĩnh lự thứ hai mà xuất, hoặc muốn dùng tâm của cõi Dục thiện và Vô phú Vô ký mà xuất, thì có thể hiện tiền xuất định. Nói rộng như vậy, tất cả địa còn lại phải biết như lý.
- Lực phương tiện, là người mới tu hành, nhưng cõi Dục thiện tâm Vô gián mà tâm cõi Sắc sinh; vị chí định tâm thiện vô gián mà tâm sơ tĩnh lự căn bản sinh; sơ tĩnh lự căn bản tâm Vô gián mà tâm địa tĩnh lự thứ hai sinh. Như vậy nói rộng, cho đến hữu đảnh đều như lý mà biết.
- Lực đẳng chí, là người đã nhập Tam-ma-bát-để thanh tịnh, hoặc có khi sinh lại đẳng chí thanh tịnh, hoặc có khi sinh nhiễm.
- Lực dẫn phát, là người xuất Tam-ma-địa khởi cho đến tâm hiện hành định địa, với tâm sát-na xen lẫn tùy chuyển bất định, cho đến do phiền não trái nhau kia hiện hành thì liền thoái mất, phiền não trái nhau nầy tương ưng với tâm, lại do bốn lực của nhân mới được hiện hành.
- Lực nhân, trước là dùng sự chứa nhóm có thể đẩy lui chướng ngại, nên chắc chắn phải thoái lui.
- Lực cảnh giới, là thế lực của tướng tịnh tăng thượng mà cảnh giới hiện tiền, nên có thể thuận theo sinh ra các phiền não như tham…
- Lực nhớ nghĩ, là nhớ nghĩ phân biệt cảnh giới quá khứ sinh hý luận.
- Lực tác ý, là do quán sát và tác ý tư duy các thứ tướng mạo trong sạch, đẹp đẽ.
- Lực nối tiếp, có chín thứ. Khi qua đời thì tâm tương ưng với tự thể ái, trong ba cõi đều khiến cho cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc sinh nối tiếp, là từ người cõi Dục chết đi rồi sinh lại cõi Dục, tức là lấy tự thể ái của cõi Dục tương ưng với tâm qua đời kết sinh nối tiếp. Hoặc người sinh cõi Sắc cõi Vô Sắc thì lấy tự thể ái của cõi Sắc cõi Vô Sắc tương ưng với tâm qua đời kết sinh nối tiếp. Như vậy từ cõi Sắc cõi Vô Sắc chết đi thì hoặc sinh tại các đường đó hoặc sinh ở các xứ khác. Tâm có sáu thứ, như sự thích ứng đều phải biết. Lại nữa, tự thể ái nầy chỉ là cùng sinh, không rõ cảnh của sở duyên, tánh hữu phú Vô ký thâu nhiếp mà có thể phân biệt tự thể của ngã, sinh cảnh giới sai khác, do thế lực nầy mà các loài dị sinh khiến cho trong vô gián mà có nối tiếp. Bậc Thánh chưa lìa dục cũng vậy. Khi sắp qua đời đến vị chí thì vị tưởng không rõ ràng, trong đó có thể khởi ái nầy hiện hành, nhưng có thể phân biệt, vì sự nhiếp phục của năng lực đối trị, bậc Thánh đã lìa dục thì năng lực đối trị mạnh mẽ, tuy chưa dứt hẳn nhưng ái nầy không còn hiện hành nữa. Đó là do thế lực của tùy miên khiến cho sinh trung hữu nối tiếp. Sát-na nối tiếp đầu tiên chỉ có Vô phú Vô ký, vì thuộc về Dị thục, từ đây về sau hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký, tùy sự thích ứng của nó mà trừ bỏ tâm chết kia, vì tâm chết của trung hữu thường là nhiễm ô, giống như tử có tâm sát-na sinh có nối tiếp, cũng chỉ có Vô phú Vô ký. Hoặc nguyện lực thọ sinh của chư Bồtát, là tâm qua đời phải biết tất cả đều là thiện. Đã nói nương vào luận sinh luận… là nghĩa duyên vô gián.
Duyên sở duyên, là có cảnh phân biệt sở duyên, cảnh vô phân biệt sở duyên, cảnh vô dị hành tướng sở duyên, cảnh hữu dị hành tướng sở duyên, cảnh hữu sự sở duyên, cảnh vô sự sở duyên, sự sở duyên, phân biệt sở duyên, hữu điên đảo sở duyên, vô điên đảo sở duyên, hữu ngại sở duyên, vô ngại sở duyên, là duyên sở duyên.
Cảnh sở duyên có giới hạn, phạm vi đều là cảnh giới sở duyên của năm thức thân, vì năm thức thân mỗi thức thân đều có riêng cảnh giới.
Cảnh sở duyên không có giới hạn, phạm vi, là cảnh giới sở duyên của ý thức, vì ý thức thân duyên tất cả pháp làm cảnh giới.
Cảnh sở duyên không khác hành tướng, là không thể phân biệt rõ cảnh giới sở duyên của danh, tưởng, chúng sinh, ý thức, vì hành tướng không khác kia đối với cảnh không thể khởi danh tự.
Cảnh sở duyên có khác hành tướng, là trái với trên.
Cảnh sở duyên hữu sự, là trừ kiến, mạn và pháp tương ưng nầy, hữu sự là các cảnh giới sở duyên còn lại. Cảnh sở duyên vô sự, là cảnh giới sở duyên bị trừ nói trên, vì đối với ngã xứ mà khởi.
Sự sở duyên, là trừ duyên vô lậu không đồng phần giới địa, biến hành đối với sự bất quyết đoán và sở duyên vị lai là Cảnh giới sở duyên còn lại.
Phân biệt sở duyên, là cảnh giới sở duyên bị trừ nói trên, vì cảnh giới sở duyên đó chỉ duyên tự chỗ phân biệt làm cảnh giới.
Sở duyên có điên đảo, là cảnh giới sở duyên của các hành như thường…
Sở duyên vô điên đảo, là cảnh giới sở duyên của các hành như Vô thường.
Sở duyên hữu ngại, là cảnh giới sở duyên của người chưa dứt chướng Sở tri.
Sở duyên vô ngại, là cảnh giới sở duyên của người đã dứt Sở tri chướng.
Lại nữa, nếu muốn quyết trạch nghĩa của duyên sở duyên thì phải dùng tướng, sai khác, an lập, biến tri, đoạn. Lập ra tướng sở duyên, hoặc nghĩa là tương tự hiển hiện tâm tâm pháp nầy sinh nhân, nhân kia đã sinh rồi có thể trở lại chấp trước, để làm sáng tỏ nội chứng của nghĩa nầy, là tướng sở duyên.
Sai khác, có hai mươi chín thứ:
1. Sở duyên phi hữu, là cảnh giới sở duyên của tâm tâm pháp điên đảo và duyên quá khứ, vị lai, mộng, ảnh, huyễn…
2. Sở duyên hữu, là cảnh giới sở duyên còn lại.
3. Sở duyên Vô sở duyên, là sắc, tâm, bất tương ưng hành, vô vi.
4. Sở duyên hữu sở duyên, là tâm tâm pháp.
5. Sở duyên chánh tánh, là pháp thiện.
6. Tà tánh sở duyên, là pháp nhiễm ô.
7. Sở duyên phi chánh tánh phi tà tánh, là pháp Vô phú Vô ký.
8. Sở duyên như lý, là pháp tâm thiện.
9. Sở duyên bất như lý, là tâm pháp nhiễm ô.
Sở duyên phi như lý phi bất như lý, là khác với tâm tâm pháp trên.
10. Sở duyên đồng loại, là thiện… duyên thiện…, tự tha duyên tự tha, hữu lậu duyên hữu lậu, vô lậu duyên vô lậu, đều như vậy…
11. Sở duyên dị loại, là thiện duyên bất thiện… địa khác duyên địa khác, hữu lậu vô lậu duyên vô lậu hữu lậu, như vậy…
12. Sở duyên dị tánh, là sở duyên của tâm tâm pháp hữu tầm, hữu tứ.
13. Sở duyên nhất tánh, là sở duyên của tâm tâm pháp vô tầm, vô tứ.
14. Sở duyên oai thế, là cảnh giới sở duyên của vô tưởng, phương tiện tâm tâm pháp kia, và cảnh giới sở duyên của Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ. Trong đây hai câu trước có thể trừ tưởng nên gọi là oai thế, hai câu sau là tánh đại nên gọi là oai thế.
15. Lược tế sở duyên, là cảnh giới sở duyên của Vô sở hữu xứ.
16. Sở duyên cực tế, là sở duyên của Phi tưởng Phi phi tưởng, vượt qua khỏi phi tưởng nầy là tánh vô cực tế.
17. Sở duyên phiền não, tức là sở duyên năng hữu nầy, như trong kinh nói đoạn diệt sở duyên.
18. Sở duyên pháp, là Danh Cú Văn Thân của Thánh giáo.
19. Sở duyên nghĩa, là nương vào pháp nghĩa của Thánh giáo.
20. Sở duyên hẹp nhỏ, là Thanh văn Tiểu thừa…
21. Sở duyên rộng lớn, là đại thừa.
22. Sở duyên tướng, là tướng của chỉ nêu xả.
23. Sở duyên vô tướng, là Niết-bàn và bậc nhất hữu.
24. Sở duyên chân thật, là sở duyên nơi đế của Chân như và mười sáu hành.
25. Sở duyên an trụ, là sở duyên của định Diệt tận và định Phương tiện của tâm tâm pháp.
26. Sở duyên tự tại, là sở duyên của giải thoát cho đến các công đức của Nhất thiết chủng trí.
27. Sở duyên tu-du, là sở duyên của bậc Vô học chỉ có duyên nầy sinh.
28. Sở duyên tùy chuyển, là cảnh giới sở duyên của chư Phật Bồ-tát. An lập, là thể của cảnh sở duyên chẳng phải chân thật, vì chỉ có an lập, do bốn nhân nên biết thể của cảnh sở duyên chẳng phải chân thật:
- Vì trái với thức tướng.
- Không có cảnh sở duyên, vì thức khả đắc.
- Không do công dụng, vì thích ứng vô đảo.
- Vì tùy ba trí mà chuyển.
Do lý nầy mà tự tánh của năng thủ cũng chẳng phải chân thật. Ba trí, là trí tự tại, trí quán sát, và trí phân biệt.
Để hiển bày bốn nhân nên nói tụng:
Quỷ, bàng sinh, người, trời,
Đều tùy sự thích ứng,
Sự đồng nhưng tâm khác,
Hiểu nghĩa chẳng chân thật.
Đối sự quá khứ thảy,
Trong hai ảnh mộng, tượng,
Tuy sở duyên không thật,
Nhưng cảnh tướng thành tựu.
Nếu tánh nghĩa nghĩa thành,
Không trí Vô phân biệt,
Nếu không có quả Phật,
Thì chứng đắc phi lý.
Bồ-tát đắc tự tại,
Do năng lực nguyện giải,
Như muốn địa đều thành,
Người đắc định cũng vậy,
Người thành tựu lựa chọn,
Người có trí đắc định,
Tư duy tất cả pháp,
Như nghĩa đều hiển hiện.
Hành trí Vô phân biệt,
Các nghĩa đều không hiện,
Phải biết không có nghĩa,
Nên cũng không có thức.
Biến tri, là biết như thật các tướng, sai khác, an lập, cảnh giới sở duyên. Đoạn, là đã đắc chuyển y của Thanh văn Độc giác và Đại thừa. Đã đắc chuyển y của Thanh văn thừa và Độc giác thừa, tuy đối với sở duyên của Uẩn Giới Xứ mà được giải thoát, nhưng đối với Uẩn Giới Xứ kia không được tự tại; đã đắc chuyển y của Đại thừa có hai thứ đắc đầy đủ đã nói. Duyên Sở duyên thì tùy văn mà quyết chọn nghĩa.
Duyên tăng thượng, là nhậm trì tăng thượng, dẫn phát tăng thượng, câu hữu tăng thượng, cảnh giới tăng thượng, sản sinh tăng thượng, trụ trì tăng thượng, thọ dụng quả tăng thượng, thế gian thanh tịnh lìa dục tăng thượng, xuất thế thanh tịnh lìa dục tăng thượng, là nghĩa Tăng thượng duyên.
Nhậm trì tăng thượng, là phong luân…, đối với khí thế gian của nước lớn…, đối với đại chủng của hữu tình thế gian, đối với sự tạo các căn, đều như vậy…
Dẫn phát tăng thượng, là tất cả cộng nghiệp của hữu tình đối với khí thế gian, nghiệp hữu lậu đối với quả Dị thục, đều như vậy…
Câu hữu tăng thượng, là tâm đối với tâm pháp tác ý, đối với tâm xúc, đối với thọ, đều như vậy… Sau đây tăng thượng nương vào hai mươi hai căn mà lập ra.
Cảnh giới tăng thượng, là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý căn. Do năng lực tăng thượng nầy mà sắc… sinh khởi.
Sản sinh tăng thượng, là nam, nữ căn. Do năng lực tăng thượng nầy mà được nhập thai.
Trụ trì tăng thượng, là mạng căn. Do năng lực tăng thượng nầy mà Chúng đồng phần được trụ.
Thọ dụng quả tăng thượng, là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả căn. Nương vào đây mà có thể thọ ái và phi ái.
Thế gian thanh tịnh lìa dục tăng thượng, là tín, cần, niệm, định, tuệ căn. Do các căn nầy chế phục các phiền não.
Xuất thế thanh tịnh lìa dục tăng thượng, là sự lập ra Vị tri dục tri căn, Dĩ tri căn, Cụ tri căn. Do các căn nầy trừ hẳn bỏ tùy miên.
Hỏi: Thế nào là đồng phần bỉ đồng phần? Có bao nhiêu đồng phần bỉ đồng phần? Vì nghĩa sao lại quán đồng phần bỉ đồng phần?
Đáp: Không lìa thức bỉ tướng tương tự căn đối với cảnh nối tiếp sinh, lìa thức tự tướng tương tự nối tiếp sinh, là nghĩa đồng phần bỉ đồng phần. Câu thứ nhất là đồng phần, vì các căn và thức cùng nhận thức tương tự, đối với các căn nối tiếp sinh, do căn cùng với thức tương tự chuyển, nên gọi là đồng phần. Câu thứ hai là bỉ đồng phần, vì các căn lìa thức tự loại tương tự mà nối tiếp sinh, do căn không hợp chung với thức, chỉ có tướng tự thể tương tự nối tiếp mà sinh. Nghĩa của căn và tướng tương tự nhau nên gọi là bỉ đồng phần. Một phần sắc uẩn, một phần nhãn… năm hữu cõi Sắc xứ là đồng phần bỉ đồng phần. Để xả chấp tương ưng với thức bất tương ưng ngã, nên quán sát đồng phần bỉ đồng phần.
Hỏi: Thế nào là chấp thọ? Có bao nhiêu chấp thọ? Vì nghĩa sao lại quán chấp thọ?
Đáp: Thọ sinh dựa nơi sắc là nghĩa chấp thọ. Hoặc nương vào sắc nầy mà thọ được sinh, gọi đó là chấp thọ. Một phần sắc uẩn, toàn phần năm hữu cõi Sắc xứ và một phần tư (1/4) là chấp thọ. "Một phần sắc uẩn", là các căn thuộc về xứ sở. "Toàn phần năm hữu cõi Sắc xứ", là nhãn… "một phần tư (1/4)", là không lìa sắc, hương, vị, xúc của căn. Để xả chấp ngã thân tự tại chuyển, nên quán sát chấp thọ.
Hỏi: Thế nào là căn? Có bao nhiêu căn? Vì nghĩa sao lại quán căn?
Đáp: Giữ lấy cảnh tăng thượng, chủng tộc không dứt tăng thượng, Chúng đồng phần trụ tăng thượng, thọ dụng tịnh bất tịnh nghiệp quả tăng thượng, thế gian lìa dục tăng thượng, xuất thế lìa dục tăng thượng, là nghĩa căn.
Giữ lấy cảnh tăng thượng, là nhãn nơi sáu thức do năng lực tăng thượng nầy đối với các cảnh của sắc mà tâm tâm pháp chuyển.
Chủng tộc không dứt tăng thượng, là nam nữ căn do năng lực tăng thượng nầy mà con cháu nối dõi lưu truyền không dứt. Các tăng thượng còn lại cũng như đã nói trong duyên Tăng thượng. Toàn phần thọ thức uẩn, một phần hành uẩn, toàn phần mười hai giới, sáu xứ, một phần pháp giới pháp xứ là căn. "Một phần sắc uẩn", là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam căn, nữ căn. "Một phần hành uẩn", là mạng, tín, cần, niệm, định, tuệ căn. "Toàn phần mười hai giới", là sáu căn và sáu thức giới. "Toàn phần sáu xứ", là sáu xứ nội. "Một phần pháp giới pháp xứ", là mạng căn, lạc, khổ… và năm căn như tín căn. Để xả chấp ngã tăng thượng, nên quán sát căn.
Hỏi: Thế nào là tánh khổ khổ? Có bao nhiêu tánh khổ khổ? Vì nghĩa sao lại quán tánh khổ khổ?
Đáp: Tự tướng khổ thọ, tự tướng thuận theo khổ thọ pháp, là nghĩa tánh khổ khổ. Tự tướng khổ thọ, là khổ thọ dùng khổ thể làm tự tướng, nên gọi là tánh khổ khổ. Tự tướng thuận theo khổ thọ pháp, là có thể sinh khởi căn cảnh và pháp tương ưng của thọ nầy thuận theo khổ thọ, gọi là tánh khổ khổ. Một phần trong tất cả là tánh khổ khổ. Để xả chấp ngã hữu khổ, nên quán sát khổ khổ tánh.
Hỏi: Thế nào là tánh hoại khổ? Có bao nhiêu tánh hoại khổ? Vì nghĩa sao lại quán tánh hoại khổ?
Đáp: Lạc thọ biến hoại tự tướng, thuận theo lạc thọ pháp biến hoại tự tướng, đối với ái kia tâm biến hoại, là nghĩa tánh hoại khổ. Trong đây lạc thọ và thuận theo pháp lạc thọ, đối với vị biến hoại có thể sinh lo buồn, biến hoại nầy là tánh hoại khổ. Lại nữa, do ái mà khiến cho tâm biến hoại cũng là hoại khổ, như trong kinh nói. Một phần trong tất cả nhập biến hoại tâm là tánh hoại khổ. Để xả chấp ngã hữu lạc, nên quán sát tánh hoại khổ. Hỏi: Thế nào là tánh hành khổ? Có bao nhiêu tánh hành khổ? Vì nghĩa sao lại quán tánh hành khổ?
Đáp: Bất khổ bất lạc thọ tự tướng, thuận theo bất khổ bất lạc thọ pháp tự tướng, chỗ nhiếp thọ của hai thứ thô nặng kia, không lìa chỗ tùy thuộc bất an ổn của hai Vô thường, là nghĩa tánh hành khổ. Bất khổ bất lạc thọ, là thức A-lại-da tương ưng với thọ. Thuận theo pháp bất khổ bất lạc thọ, là thuận với các hành của thọ nầy. Sự thâu nhiếp của hai thô nặng kia, là sự tùy thuộc của hai thứ khổ thô nặng là khổ khổ và hoại khổ. Không lìa sự tùy bất an ổn của hai Vô thường, là vì không giải thoát hai thứ khổ, hoặc trong một lúc rơi vào vị khổ, hoặc cùng lúc rơi vào vị lạc, chẳng phải tất cả thời chỉ có bất khổ bất lạc vị, nên nghĩa chỗ tùy thuộc không an ổn của hai Vô thường là tánh hành khổ. Trừ một phần ba cõi hai xứ và các uẩn, còn lại tất cả đều là tánh hành khổ. Ba cõi, là ý giới, pháp giới và ý thức giới. hai xứ, là ý xứ và pháp xứ. "Một phần", là trừ tướng vô lậu ra. Để xả chấp có ngã bất khổ bất lạc, nên quán sát tánh hành khổ.
Hỏi: Thế nào là hữu Dị thục? Có bao nhiêu hữu Dị thục? Vì nghĩa sao lại quán hữu Dị thục?
Đáp: Hữu lậu bất thiện và thiện, là hữu Dị thục. Do pháp Hữu lậu bất thiện và thiện có thể có thức A-lại-da tương lai và tương ưng Dị thục, do Dị thục kia nên hai thứ nầy gọi là hữu Dị thục. Một phần mười giới bốn xứ và các uẩn, là hữu Dị thục. mười giới, là bảy thức giới, cõi Sắc, thanh giới và pháp giới. Bốn xứ, là sắc, thanh, ý và pháp xứ. "Một phần", là trừ vô lậu Vô ký ra. Để xả chấp năng xả năng tục các uẩn nơi ngã, nên quán sát hữu Dị thục.
Lại, Dị thục là chỉ có thức A-lại-da và pháp tương ưng, ngoài ra chỉ có Dị thục sinh, chẳng phải Dị thục. "Ngoài ra", là nhãn, nhĩ… và khổ vui… là ngoài thức Alại-da, vì những pháp nầy chỉ được gọi là Dị thục sinh, vì từ Dị thục mà sinh.
Hỏi: Thế nào là thực (ăn)? Có bao nhiêu thực? Vì nghĩa sao lại quán thực?
Đáp: Vì biến hoại nên có và biến hoại, vì cảnh giới nên có cảnh giới, vì hy vọng nên có người hy vọng, vì thủ nên có người thủ, là nghĩa thực.
Biến hoại là đoạn thực, vì khi biến hoại là nuôi lớn căn và đại.
Cảnh giới là xúc thực, do nương vào cảnh khả ái mà xúc nhiếp ích chỗ nương.
Hy vọng là ý tư thực, do lệ thuộc ý vào lực hy vọng sự đáng ưa mà tăng ích chỗ nương.
Thủ là thức thực, là do năng lực chấp trì của thức Alại-da mà thân được trụ. Vì sao? Nếu lìa chỗ nương của thức nầy thì thân liền tan rã hư hoại. Một phần ba uẩn, mười giới và năm xứ, là thức thực. Để xả chấp do thực trụ ngã, nên quán sát thực.
Lại nữa, lập ra sai khác của bốn cách ăn (nuôi sống) nầy, lược có bốn thứ:
1. Y chỉ bất tịnh trụ thực, là dị sinh cõi Dục do có đủ trói buộc.
2. Y chỉ tịnh bất tịnh trụ thực, là bậc Hữu học và dị sinh cõi Sắc cõi Vô Sắc có các trói buộc khác.
3. Y chỉ thanh tịnh trụ thực, là A-la-hán… Giải thoát tất cả trói buộc.
4. Thị hiện trụ thực, là các Phật và Bồ-tát đã chứng đại oai đức do chỉ thị hiện lực của ăn nầy mà trụ.
Hỏi: Thế nào là hữu thượng? Có bao nhiêu hữu thượng? Vì nghĩa sao lại quán hữu thượng?
Đáp: Tất cả hữu vi, một phần vô vi, là nghĩa hữu thượng. Trừ một phần pháp giới pháp xứ, còn lại tất cả là hữu thượng, vì trong tất cả pháp thì Niết-bàn và Chân như thanh tịnh là tướng trên hết. Để xả chấp sự thấp kém là ngã, nên quán sát hữu thượng.
Hỏi: Thế nào là vô thượng? Có bao nhiêu vô thượng? Vì nghĩa sao lại quán vô thượng?
Đáp: Một phần vô vi, là nghĩa vô thượng. Một phần pháp giới pháp xứ, như đã nói trên là vô thượng. Để xả chấp sự trên hết là ngã, nên quán sát vô thượng. Do đã nói lý sai khác nầy, vô lượng môn khác có thể quán sát tương tự như vậy.
Lại nữa, sai khác của uẩn giới xứ, lược có ba thứ:
1. Tướng biến kế sở chấp sai khác.
2. Tướng sở phân biệt sai khác.
3. Tướng pháp tánh sai khác.
- Tướng Biến kế sở chấp sai khác, là Biến kế sở chấp trong uẩn giới xứ, là ngã, hữu tình mạng, là sinh, là dưỡng, là sác thủ thú, là ý sinh, là ma-nạp-bà… trong Uẩn, Giới, Xứ thật ra không có tự tánh ngã, vì chỉ là tướng Biến kế sở chấp.
- Tướng sở Phân biệt sai khác, tức là pháp của uẩn giới xứ, do đối với các pháp này mà hữu tình ở trong ngã đồng với phân biệt luống dối chuyển.
- Tướng Pháp tánh sai khác, là ngã và vô tánh, vô ngã hữu tánh ngay trong uẩn giới xứ, do lý Chân như hữu tướng và vô tướng, dùng ngã và vô tánh vô ngã hữu tánh trong Uẩn Giới Xứ làm tướng. Phải biết trong đây là nương vào ba tự tánh và phần nhiều nương vào sổ thủ thú nơi lý vô ngã mà nói ba thứ tướng.
- Lại có bốn thứ sai khác: 1. Tướng sai khác; 2. Phân biệt sai khác;
3. Nương tựa sai khác; 4. Nối tiếp sai khác.
- Tướng sai khác, là mỗi tự tướng sai khác của uẩn giới xứ, như sắc, thọ…
- Phân biệt sai khác, là ngay trong uẩn giới xứ, thật có, giả có, thế tục hữu, thắng nghĩa hữu, hữu sắc, Vô Sắc, hữu kiến, vô kiến, đều như vậy… với vô lượng sai khác, phân riêng nói như trước.
- Nương tựa sai khác, là cho đến hữu tình nương tựa sai khác có chỗ như vậy. Phải biết Uẩn Giới Xứ cũng vậy. Do nương tựa khác nhau mà nội thân các pháp của Uẩn Giới Xứ các thứ đều khác nhau.
Nối tiếp sai khác, là Uẩn Giới Xứ chuyển mỗi sát-na, tánh các pháp của Uẩn Giới Xứ trong một thân, từng sát-na đổi khác.
Hỏi: Đối với tướng sai khác, phải khéo biết rõ thế nào?
Đáp: Biết rõ tội lỗi của chấp ngã.
Hỏi: Đối với Phân biệt sai khác, phải khéo biết rõ thế nào?
Đáp: Biết rõ lỗi của nhóm tưởng.
Hỏi: Đối với nương tựa sai khác, phải khéo biết rõ thế nào?
Đáp: Biết rõ không làm mà được, tuy làm mà lỗi mất tưởng.
Hỏi: Đối với nối tiếp sai khác, phải khéo biết rõ thế nào?
Đáp: Biết rõ lỗi của tưởng an tru.
-Lại, Uẩn Giới Xứ có sáu thứ sai khác:
1. Ngoại môn sai khác.
2. Nội môn sai khác.
3. Trường thời sai khác.
4. Phần hạn sai khác.
5. Tạm thời sai khác.
6. Hiển bày sai khác.
- Ngoại môn sai khác, là đa phần là nơi sai khác cõi Dục. Chữ "đa phần" là lựa riêng với pháp đẳng lưu, vì sở trụ tuệ là do văn tư.
- Nội môn sai khác, là tất cả địa định.-Trường thời sai khác, là các dị sinh.-Phần hạn sai khác, là Hữu học và trừ sát-na sau rốt nơi Uẩn Giới Xứ của các bậc Vô học khác.
- Tạm thời sai khác, là sát-na sau rốt nơi Uẩn Giới Xứ của các bậc Vô học.
- Hiển bày sai khác, là sự thị hiện các uẩn giới xứ, của các Phật và Đại Bồ-tát đã đắc rốt ráo.
--------------------
Lại nữa, nếu nói lược thâu nhiếp thì có mười một thứ:
1. Tướng nhiếp.
2. Giới nhiếp.
3. Chủng loại nhiếp.
4. Phần vị nhiếp.
5. Bạn nhiếp.
6. Phương nhiếp.
7. Thời nhiếp.
8. Nhất phần nhiếp.
9. Cụ phần nhiếp.
10. Cánh hỗ nhiếp.
11. Thắng nghĩa nhiếp.
- Tướng nhiếp: Là mỗi mỗi tự tướng của Uẩn Giới Xứ ngay nơi thể mà tự nhiếp, như sắc uẩn thâu nhiếp sắc uẩn, nói rộng cho đến pháp xứ thâu nhiếp pháp xứ.
- Giới nhiếp: Tất cả hạt giống thức A-lại-da của Uẩn Giới Xứ có thể nhiếp giới kia. Do hạt giống kia mà trong giới nầy có.
- Chủng loại thâu nhiếp: Là Uẩn Giới Xứ tuy tướng khác nhau, nhưng nghĩa uẩn, nghĩa giới, nghĩa xứ đồng nhau nên xoay vần nhiếp nhau. Nghĩa uẩn đồng nhau, là sắc, thọ… đều có nghĩa là tụ, tuy tướng mỗi mỗi đều khác nhưng tất cả đều đối nhau đồng một loại. Nghĩa giới đồng nhau, là nhãn, nhĩ… đều có thể trì giữ nghĩa thọ dụng, nên thuộc về tất cả tướng. Nghĩa xứ đồng nhau, là nhãn, nhĩ… đều nghĩa sinh trưởng môn tương ưng nên tất cả tướng thâu nhiếp.
- Phần vị thâu nhiếp: Là lạc vị của Uẩn Giới Xứ tức là thuộc về tự tướng. Vị khổ và vị bất khổ bất lạc cũng vậy, vì phần vị đồng nhau. Như sắc, thọ… tuy đồng loại uẩn, nhưng khổ lạc… thì phần vị sai khác, lạc vị lại thâu nhiếp lạc vị, bất khổ bất lạc vị… như vậy vị khổ và vị bất khổ bất lạc lại tự thâu nhiếp nhau. Như uẩn, giới xứ cũng vậy.
- Bạn thâu nhiếp: Là sắc uẩn làm bạn lẫn nhau với các uẩn khác, tức là thâu nhiếp trợ giúp. Các Uẩn Giới Xứ khác cũng vậy, như sắc uẩn làm trợ giúp lẫn nhau với thọ… khác có thể thâu nhiếp năm uẩn. Như vậy thọ… mỗi mỗi trợ giúp đều thâu nhiếp năm uẩn. Như Uẩn Giới Xứ cũng vậy, làm bạn lẫn nhau, mỗi mỗi đều thâu nhiếp tất cả giới xứ.
- Phương thâu nhiếp: Là nương vào phương đông, các Uẩn, Giới, Xứ lại tự thâu nhiếp lẫn nhau các phương khác. Uẩn giới xứ cũng vậy.
- Thời thâu nhiếp: Là các Uẩn Giới Xứ của đời quá khứ, lại tự thâu nhiếp lẫn nhau. Các Uẩn, Giới, Xứ của vị lai và hiện tại cũng vậy.
- Nhất phần thâu nhiếp: Là tất cả pháp, thuộc về Uẩn Giới Xứ, chỉ thâu nhiếp một phần, chẳng phải phần khác, như giới (luật) uẩn chỉ thâu nhiếp một phần sắc uẩn, định tuệ uẩn… chỉ thâu nhiếp một phần hành uẩn, dục sân hại giới chỉ thâu nhiếp một phần pháp giới. Không vô biên xứ… chỉ thâu nhiếp một phần ý pháp xứ, đều như vậy…
- Cụ phần thâu nhiếp: Là tất cả pháp, thuộc về Uẩn, Giới, Xứ, năng nhiếp toàn phần. Như khổ uẩn, nhiếp năm thủ uẩn cõi Dục thâu nhiếp mười tám giới, vô tưởng hữu tình xứ thâu nhiếp mười xứ, trừ hương và vị. Do lý nầy, trong các kinh khác, nói thuộc về Uẩn, Giới, Xứ, tất cả pháp năng nhiếp toàn phần.
- Cánh hỗ thâu nhiếp: Là sắc uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Toàn phần mười và một phần ít.
Thọ uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ? Một phần ít. Cũng như thọ uẩn, thì tưởng uẩn và hành uẩn cũng vậy. Ý giới gồm nhiếp bao nhiêu uẩn, bao nhiêu xứ? Một uẩn một xứ. Pháp nhiếp bao nhiêu uẩn, bao nhiêu xứ? Hoàn toàn ba uẩn, phần ít sắc uẩn, hoàn toàn một xứ.
Nhãn thức giới nhiếp bao nhiêu uẩn, bao nhiêu xứ? Phần ít thức uẩn ý xứ, như nhãn thức, đối với nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức cũng vậy.
Nhãn xứ nhiếp bao nhiêu uẩn, bao nhiêu giới? Phần ít sắc uẩn, toàn bộ một giới.
Thức uẩn thâu nhiếp bao nhiêu giới bao nhiêu xứ?
Bảy giới và một xứ.
Nhãn giới thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu xứ? Ít phần sắc uẩn và toàn phần một xứ. Cũng như nhãn giới, tỷ, nhĩ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc giới cũng vậy.
Nhãn xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Ít phần sắc uẩn và toàn phần một giới. Cũng như nhãn xứ, tỷ, nhĩ, thiệt, thân, sắc, thanh, hương, vị, xúc xứ cũng vậy.
Ý xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Một uẩn bảy giới.
Pháp xứ thâu nhiếp bao nhiêu uẩn bao nhiêu giới? Toàn phần ba uẩn, một ít phần, toàn phần một giới. Như vậy cá pháp khác lấy tên của Uẩn Giới Xứ mà nói, và tên của phi Uẩn Giới Xứ khác mà nói, như thật có, giả có, thế tục hữu, thắng nghĩa hữu, chỗ nhận biết, chỗ phân biệt, chỗ thông đạt, hữu sắc, Vô Sắc, hữu kiến, vô kiến, như vậy đều như đã nói về ở trước, tùy theo sự thích ứng nhiếp nhau với Uẩn Giới Xứ, phải biết. "Tùy theo sự thích ứng", là thâu nhiếp mỗi uẩn, các giới xứ, mỗi giới thâu nhiếp các uẩn xứ, mỗi xứ thâu nhiếp các uẩn giới. Nói rộng như vậy, nên suy nghĩ hiểu rõ.
- Thắng nghĩa thâu nhiếp: Là uẩn giới xứ, thuộc về Chân như.
Nhiếp nhau như vậy, tùy các thế gian có chung sự thành lập, đạo lý nhiếp nhau lại có sáu thứ:
- Y xứ thâu nhiếp, như thế gian nói, châu thiệm bộ thì nhiếp người a-luyện-nhã thì thâu nhiếp lộc (nai), phải biết các căn trong đây thâu nhiếp nhãn… nhiếp các thức như nhãn thức, v.v... cũng vậy.
- Nhậm trì thâu nhiếp: Như thế gian nói, như sợi dây thâu nhiếp bó củi, phải biết trong đây thân căn thâu nhiếp các căn như nhãn… cũng vậy.
- Đồng sự thâu nhiếp: Như thế gian nói, nhiều người đồng sự, chung nhau bảo vệ niềm tin cùng thâu nhiếp lẫn nhau, phải biết trong đây đồng một duyên mà chuyển, các pháp tương ưng thâu nhiếp nhau cũng vậy.
- Nhiếp thọ thâu nhiếp: Như thế gian nói, chủ năng nhiếp trông coi các người làm của mình, phải biết trong đây thức A-lại-da nhiếp thọ tự thân cũng vậy.
- Bất lưu tán thâu nhiếp: Như thế gian nói, bình thâu nhiếp giữ nước, phải biết trong đây các Tam-ma-địa thâu nhiếp các tâm tâm pháp khác cũng vậy.
- Lược tập thâu nhiếp: Như thế gian nói, biển thâu nhiếp nhiều sông, phải biết trong đây sắc uẩn, thọ uẩn… Thâu nhiếp nhãn, nhĩ… cũng vậy. Như chỗ nói mười một thứ thâu nhiếp ở trước, đều nương vào lược tập thâu nhiếp trong đây mà nói.
Hỏi: Đối với thâu nhiếp, khéo léo được thắng lợi gì?
Đáp: Được đối với sở duyên sơ lược nhóm hợp thắng lợi, tùy theo các cảnh kia mà sơ lược quy tụ ở tâm của nó, như vậy như vậy gốc lành tăng thắng.
-----------------------
Lại nữa, nói lược tương ưng có sáu thứ:
1. Tương ưng bất tương lìa.
2. Tương ưng hòa hợp.
3. Tương ưng tụ tập.
4. Tương ưng câu hữu.
5. Tương ưng tác sự.
6. Tương ưng đồng hành.
- Tương ưng bất tương lìa: Là tất cả sắc hữu phương phần và xứ cực vi không lìa nhau, vì chỗ thâu nhiếp cực vi của các sắc đồng một xứ sở không lìa nhau.
- Tương ưng hòa hợp, là cực vi trở lên, tất cả hữu phương phân sắc hòa hợp lẫn nhau, như trong nước bẩn, cực vi của đất và nước hòa hợp lẫn nhau.
- Tương ưng tụ tập, là sắc phương phần tụ xoay vần tập hợp, như hai hòn đất bùn nhập nhau mà thành tụ.
- Tương ưng câu hữu, là trong một thân, các Uẩn Giới Xứ đồng thời trôi lăn đồng sinh trụ diệt.
- Tương ưng tác sự, là đối với một chỗ tạo tác các sự xoay vần thâu nhiếp nhau, như hai bí-sô tùy một việc làm mà tương ưng lẫn nhau.
- Tương ưng đồng hành, là tâm tâm pháp đối với một sở duyên xoay vần đồng hành, tương ưng của đồng hành nầy lại có nhiều nghĩa, là tánh của người khác tương ưng, không phải tánh mình, như tâm không tương ưng với tâm khác, thọ không cùng với thọ khác tương ưng, đều như vậy…
Lại nữa, tương ưng không trái nhau chẳng phải trái nhau, như tham và sân không tương ưng, thiện và bất thiện không tương ưng, đều như vậy…
Lại nữa, đồng thời tương ưng với phi dị thời, như hiện tại, quá khứ và vị lai không tương ưng.
Lại nữa, đồng phần giới địa tương ưng với phi dị phận giới địa, như cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc không tương ưng, tĩnh lự đầu và tĩnh lự thứ hai không tương ưng, đều như vậy...
Lại có nhất thiết biến hành đồng hành tương ưng, là thọ, tưởng, xúc, tác ý và thức, vì sáu pháp nầy đối với tất cả đều lập chắc chắn tương ưng, hễ không có bất cứ một pháp nào thì các pháp còn lại cũng không!
Lại có nhiễm ô biến hành đồng hành tương ưng, là đối với bốn thứ phiền não của ý nhiễm ô, do bốn thứ nầy bất cứ lúc nào cũng thường tương ưng.
Lại có phi nhất thiết thời đồng hành tương ưng, là nương vào tâm, hoặc có khi khởi các pháp thiện như tín, hoặc có khi khởi tham nơi phiền não tùy phiền não.
Lại có phần vị đồng hành tương ưng, là cùng với các tướng tương ưng pháp của lạc thọ, cùng với khổ thọ, bất khổ bất lạc thọ.
Lại có vô gián đồng hành tương ưng, là ở vị hữu tâm. Lại có hữu gián đồng hành tương ưng, là chỗ khoảng cách của Định vô tâm.
Lại có ngoại môn đồng hành tương ưng, là phần nhiều cõi Dục trói buộc tâm tâm pháp. Lại có nội môn đồng hành tương ưng, là tất cả tâm tâm pháp của các địa Định.
Lại có tằng tập đồng hành tương ưng, là tất cả tâm tâm pháp của các dị sinh, và một phần tâm tâm pháp của các bậc Hữu học và Vô học. "Một phần", là thâu nhiếp hoàn toàn pháp thiện, bất thiện và Vô ký xưa nay của thế gian. Như sự thích ứng của nó, lại có vị tằng tập đồng hành tương ưng, là các tâm tâm pháp của xuất thế gian, và sơ hậu thời (lúc bắt đầu và sau) các tâm tâm pháp của xuất thế gian hậu sở đắc. "Sơ hậu thời", là vì hiển không phải chủng loại trước bắt đầu niệm trở đi và niệm thứ hai… trở đi, thì tâm tâm pháp của xuất thế gian là tánh chưa từng tập.
Hỏi: Đối với tương ưng khéo được thắng lợi gì?
Đáp: Có thể khéo tỏ ngộ, y chỉ tâm có nhiễm tịnh của thọ tưởng, thì nghĩa các pháp tương ưng và bất tương ưng, do tỏ ngộ nầy liền xả ly chấp ngã là năng thọ, năng tưởng, năng tư, năng niệm nhiễm tịnh, lại cũng có thể khéo léo mau nhập vô ngã.
-----------------------
Lại nữa, tướng thành tựu như trước đã nói, là đối với pháp thiện, bất thiện và vô ký, hoặc thêm hoặc bớt mà giả lập được thành tựu. Sai khác nầy có ba thứ:
1. Hạt giống thành tựu.
2. Tự tại thành tựu.
3. Hiện hành thành tựu.
Hạt giống thành tựu: Là nếu sinh cõi Dục, thì phiền não tùy phiền não của cõi Dục cõi Sắc và cõi Vô Sắc do hạt giống thành tựu mà thành tựu, và thiện sinh đắc sinh cõi Dục. "Phiền não tùy phiền não của ba cõi thành tựu", là nương vào dị sinh chưa lìa dục mà nói, hoặc đã lìa dục, hoặc đã sinh thượng địa, tùy địa lìa dục, ngay trên địa nầy, phiền não tùy phiền não vừa được tạo thành, vừa không tạo thành, vì chưa dứt trừ bỏ hẳn tùy miên. Chỗ tổn của đạo đối trị, như thứ lớp của nó. "Và thiện sinh đắc", là tùy địa được sinh, ngay trên địa nầy mà thành tựu. Hoặc sinh cõi Sắc, phiền não tùy phiền não cõi Dục, do hạt giống thành tựu mà thành tựu, cũng gọi là bất thành tựu. Hoặc sinh cõi Sắc, phiền não tùy phiền não của cõi Vô Sắc, do hạt giống thành tựu mà thành tựu, và thiện sinh đắc. Hoặc sinh cõi Vô Sắc, phiền não tùy phiền não của cõi Dục cõi Sắc, do hạt giống thành tựu mà thành tựu, và thiện sinh đắc. Hoặc đã đắc ba cõi đạo đối trị, tùy các phẩm như vậy như vậy mà đối trị các phẩm đã sinh, như các phẩm loại hạt giống thành tựu nầy mà đắc bất thành tựu, tùy như vậy như vậy phẩm loại đối trị chưa sinh, như vậy như vậy phẩm loại do hạt giống thành tựu mà thành tựu. Người đã đắc ba cõi đạo đối trị, là đã đắc Thánh đạo xuất thế. Tùy như vậy như vậy phẩm loại đối trị đã sinh rồi, là tu đạo đã dứt, phiền não đối trị thượng phẩm đã sinh rồi, thì như chủng loại hạt giống thành tựu nầy mà đắc bất thành tựu, vì đã dứt hẳn trừ bỏ tùy miên.
- Tự tại thành tựu, là các phương tiện thiện pháp, hoặc công đức tĩnh lự, giải thoát, Tam-ma-địa, Tam-mabát-để của thế gian hoặc xuất thế gian, và một phần pháp vô ký, do tự tại thành tựu mà thành tựu. Phương tiện thiện pháp, là tuệ do văn sinh… tuy trước kia có hạt giống, nếu lìa hiện tại mà phát sinh tập quen tăng trưởng, cuối cùng cũng không thể khởi hiện hành. "Một phần pháp vô ký", là tâm xứ công xảo biến hóa…
- Hiện hành thành tựu, là các pháp uẩn giới xứ, tùy sự hiện tiền, hoặc thiện hoặc bất thiện hoặc vô ký. Ba tánh kia do hiện hành thành tựu mà thành tựu.
Nếu người đã dứt gốc lành, thì tất cả pháp thiện đó là do hạt giống thành tựu mà thành tựu, cũng gọi là bất thành tựu. Hoặc pháp phi Niết-bàn, Nhất-xiển-để-ca, rốt ráo thành tựu, pháp tạp nhiễm, do thiếu nhân giải thoát, cũng gọi là A-điên-để-ca, vì đắc nhân giải thoát của Ađiên-để-ca kia rốt ráo không thành tựu.
Hỏi: Thế nào là đắc nhân giải thoát?
Đáp: Hoặc đối với Chân như trước là dùng tập khởi phiền não thô nặng, hoặc gặp thuận theo đắc duyên đối trị thì liền có thể hại tánh có thể gắng nhận nầy, gọi là đắc nhân giải thoát, hoặc trái với nhân nầy thì gọi là vô nhân giải thoát.
Hỏi: Đối với thành tựu, khéo được lợi ích gì?
Đáp: Có thể khéo biết rõ sự thêm, bớt của các pháp, vì biết thêm bớt nên đối với hưng suy thế gian được lìa tưởng chắc chắn, cho đến có thể lìa, ái hoặc sân.
B. PHẦN QUYẾT TRẠCH
-Lại nữa, nói lược Quyết trạch có bốn thứ:
1. Đế Quyết trạch.
2. Pháp Quyết trạch.
3. Đắc Quyết trạch.
4. Luận nghị Quyết trạch.
-Đế quyết trạch lại có bốn thứ, là nương vào bốn Thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo mà nói.
Hỏi: Thế nào Khổ đế?
Đáp: Là hữu tình sinh và chỗ nương của sinh, tức là hữu tình thế gian và khí thế gian, như thứ lớp của nó hoặc là sinh, hoặc là xứ sinh, đều gọi là Khổ đế. Hữu tình sinh, là các hữu tình sinh ở cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, người trời.
Loài người là các châu Đông Tỳ-đề-ha, Tây Cù-đàni, Nam Thiệm bộ châu, Bắc Câu lô.
Trời là bốn trời đại vương chúng, trời ba mươi ba, trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, trời Phạm chúng, trời Phạm phụ, trời Đại phạm, trời Thiểu quang, trời Vô lượng quang, trời Cực quang tịnh, trời Thiểu tịnh, trời Vô lượng tịnh, trời Biến tịnh, trời Vô vân, trời Phước sinh, trời Quảng quả, trời Vô tưởng hữu tình, trời Vô phiền, trời Vô nhiệt thiên, trời Thiện hiện, trời Thiện kiến, trời Sắc rốt ráo, trời Vô biên không xứ, trời Vô biên thức xứ, trời Vô sở hữu xứ, trời Phi tưởng Phi phi tưởng.
Chỗ nương của sinh tức là khí thế giới, là nước lớn nương vào phong luân, lớp đất nương vào nước lớn. Nương vào lớp đất nầy có núi Tô-mê-lô, bảy lớp núi vàng, bốn đại châu, tám tiểu châu, nội hải, ngoại hải, bốn tầng cấp bên ngoài núi Tô-mê-lô là bốn đại vương chúng thiên, là chỗ cư trú riêng của trời Ba mươi ba; bên ngoài núi luân vi là cung điện hư không, hoặc trời Dạ-ma, trời Đỗ-sử-đa, trời Lạc biến hóa, trời Tha hóa tự tại, và chỗ ở riêng của như thân cõi Sắc, chỗ ở riêng của các A-tốlạc và chỗ ở riêng của các Na-lạc-ca Na-lạc-ca-nóng, nalạc-ca lạnh, Na-lạc-ca Cô độc, và một phần chỗ ở riêng của bàng sinh, ngạ quỷ, cho đến một mặt trời, một mặt trăng vòng quanh chiếu sáng, các phương xứ được chiếu đến gọi là một thế giới, như vậy trong một ngàn thế giới thì có một ngàn mặt trời, một ngàn mặt trăng, một ngàn núi chúa Tô-mê-lô, một ngàn bốn đại châu, một ngàn bốn đại vương chúng thiên, một ngàn trời Ba mươi ba, một ngàn trời Dạ-ma, một ngàn trời Đỗ-sử-đa, một ngàn trời Lạc biến hóa, một ngàn trời Tha hóa tự tại, một ngàn trời Phạm thế, như vậy gọi chung là Tiểu thiên thế giới, một ngàn Tiểu thiên thế giới gọi là Trung thiên thế giới, một ngàn Trung thiên thế giới gọi chung là Đại thiên thế giới, như vậy Tam thiên Đại thiên thế giới gồm có núi Đại luân vi bao chung quanh.
Lại nữa, Tam thiên đại thiên thế giới nầy đồng hoại đồng thành, ví như trời mưa, hạt mưa như trục xe liên tục không dứt từ hư không rơi xuống, như vậy phương Đông nối nhau không dứt, vô lượng thế giới hoặc có thế giới sắp hoại, hoặc có thế giới sắp thành, hoặc có thế giới đang hoại, hoặc có thế giới hoại rồi trụ, hoặc có thế giới đang thành, hoặc có thế giới thành rồi trụ. Như đối với phương Đông, tất cả mười phương cũng vậy, như vậy hoặc hữu tình thế gian, hoặc khí thế gian, đã sinh do năng lực nghiệp phiền não, sanh khởi do nghiệp phiền não tăng thượng, gọi chung là khổ đế. Đã sinh do sức nghiệp phiền não, sanh khởi do nghiệp phiền não tăng thượng, hai câu nầy như thứ lớp của nó hiển hữu tình thế gian và khí thế gian đều là tánh khổ. Lại nữa, có thế giới thanh tịnh không thuộc khổ đế, vì chẳng phải do sức nghiệp phiền não sinh, chẳng phải do nghiệp phiền não tăng thượng khởi, nhưng do sự dẫn của đại nguyện gốc lành tăng thượng thanh tịnh. Xứ sinh nầy không thể nghĩ bàn, chỉ là sự biết của Phật, cũng chẳng phải cảnh giới tĩnh lự của người đắc tĩnh lự, huống chi là người Tầm Tứ.
Lại nữa, đã nói lược tướng Khổ đế. Bây giờ sẽ nói về tướng khổ khác nhau mà các kinh đã nói, gọi là Sinh khổ, Già khổ, Bệnh khổ, Chết khổ, khổ ghét mà phải gặp, khổ thương mà chịu lìa, khổ mong cầu mà không toại ý lược thâu nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ.
Hỏi: Sinh do vì sao khổ?
Đáp: Vì là bị khổ ép ngặt, là chỗ nương của các khổ khác. "Nhiều khổ ép ngặt", là đã từng ở trong thai mẹ, sinh đầy đủ các phủ tạng, thọ đủ chỗ ép ngặt khổ của các thứ vật rất bất tịnh, chính lúc xuất thai lại bị các chi thể ép ngặt rất đau khổ. "Chỗ nương của các khổ khác", là có sinh nên già bệnh chết… nhiều khổ theo đuổi.
Hỏi: Già do vì sao khổ?
Đáp: Là thời phần biến hoại mà khổ.
Hỏi: Bệnh do vì sao khổ?
Đáp: Là đại chủng biến hoại mà khổ.
Hỏi: Chết do vì sao khổ?
Đáp: Là tuổi thọ biến hoại mà khổ.
Hỏi: Ghét mà phải gặp mặt do vì sao khổ?
Đáp: Là do gặp nhau mà sinh khổ.
Hỏi: Thương yêu mà chia lìa do vì sao khổ?
Đáp: Là do chia lìa mà sinh khổ.
Hỏi: Mong cầu mà không toại ý do vì sao khổ?
Đáp: Là điều hy vọng không có kết quả mà sinh khổ. Hỏi: Lược thâu nhiếp tất cả năm thủ uẩn do vì sao khổ?
Đáp: Là do thô nặng mà khổ. Như vậy tám thứ lược nhiếp thành sáu thứ:
1. Ép ngặt khổ.
2. Chuyển biến khổ.
3. Hợp hội khổ.
4. Biệt lìa khổ.
5. Chỗ mong cầu không kết quả khổ.
6. Thô nặng khổ.
Như vậy sáu thứ chia rộng thành tám thứ, là trong chuyển biến khổ chia ra ba thứ, hoặc sáu, hoặc tám, như nhau.
Hỏi: Như nói ba khổ, thì tám khổ trong đây là ba thâu nhiếp tám hay là tám thâu nhiếp ba?
Đáp: Là xoay vần thâu nhiếp nhau. Điều gọi là Sinh khổ cho đến ghét mà gặp mặt có thể nói về Khổ khổ, là nghĩa thuận tự tướng khổ thọ pháp khổ. Ái biệt lìa khổ và Cầu bất đắc khổ có thể nói về Hoại khổ, là nghĩa đã đắc hoặc chưa đắc thuận tự tướng lạc thọ pháp hoại. Lược nhiếp tất cả năm thủ uẩn khổ có thể nói về Hành khổ, là nghĩa sự tùy thuộc không an ổn chưa giải thoát hai Vô thường.
Hỏi: Như nói hai khổ, là Thế tục đế khổ và Thắng nghĩa đế khổ, thế nào là Thế tục khổ, thế nào là Thắng nghĩa khổ?
Đáp: Sinh Khổ cho đến Cầu bất đắc khổ, là Thế tục đế khổ, vì là cảnh giới của trí thế gian. Lược thâu tất cả năm thủ uẩn khổ, là Thắng nghĩa đế khổ, vì là an lập môn Chân như, cảnh giới của trí xuất thế gian.
Lại nữa, người quán hành đối với Khổ Thánh đế dùng bốn hành mà quán sát Cộng tướng:
1. Tướng Vô thường.
2. Tướng khổ.
3. Tướng không.
4. Tướng vô ngã.
1. Tướng Vô thường: lược có mười hai thứ: Tướng phi hữu. Tướng hoại diệt. Tướng đổi khác. Tướng biệt lìa. Tướng hiện tiền. Tướng pháp nhĩ. Tướng sát-na.
Tướng nối tiếp. Tướng bệnh v.v... Tướng chủng chủng tâm hành chuyển. Tướng tư sản hưng suy. Tướng khí thế gian thành hoại.
1. Tướng phi hữu, là Uẩn Giới Xứ đối với tất cả thời Ngã, Ngã sở tánh thường chẳng thật có. Nói Vô thường nghĩa là chẳng thật có, vì khổ Thánh đế thường không có tự tánh của ngã và ngã sở. Chữ "Vô" nghĩa là dứt trừ, chữ "Thường" nghĩa là bất cứ lúc nào cũng thường không thật có nên gọi là Vô thường.
2. Tướng hoại diệt, là các hành sinh rồi liền diệt, tạm có rồi lại không.
3. Tướng đổi khác, là các hành dị sinh dị, vì không tương tự nối tiếp chuyển.
4. Tướng biệt lìa, là đối với các hành mất lực tăng thượng, hoặc thuộc về kẻ khác mà chấp là chính mình có, vì đối với các sự vật dụng cụ tài sản, hoặc có khi tự bị mất hoại, hoặc bị người khác chiếm đoạt làm của họ.
5. Tướng hiện tiền, là đang ở trong Vô thường, do nhân đeo đuổi mà hiện tại chịu Vô thường.
6. Tướng pháp nhĩ, vị lai Vô thường, do nhân đeo đuổi mà chắc chắn sẽ thọ, tánh chết Vô thường chắc chắn sẽ thọ.
7. Tướng sát-na, là các hành sau sát-na sẽ không trụ, các hành niệm niệm yếu ớt nắm lấy tự thể không gián đoạn sẽ là hoại.
8. Tướng nối tiếp, là vô thỉ đến nay các hành sinh diệt nối tiếp không đoạn, do sinh tử vô thỉ xoay vần nương nhau luân hồi không dứt.
9. Tướng bình đẳng: là bốn đại, thời phân, tuổi thọ đổi khác, do bốn đại chống trái nhau nên răng tóc rụng thưa thớt, khi trụ thì thế lực đã hết.
10. Tướng chủng chủng tâm hành chuyển: Là cùng lúc mà khởi tâm tham, hoặc cùng lúc mà khởi tâm lìa tham, như vậy có sân lìa sân, có si lìa si, hoặc hợp hoặc tan, hoặc hạ xuống hoặc đưa lên, hoặc trạo cử lìa trạo cử, hoặc không vắng lặng hoặc vắng lặng, hoặc định hoặc bất định, các tâm hành trôi lăn như vậy, là do trụ sai khác của vị năng trị và vị sở trị.
11. Tướng tư sản hưng suy, là các sự hưng thạnh chung quy cũng trở về suy tàn biến hoại, do sự giàu sang sung thịnh của thế gian không đáng ưa thích, vì chẳng phải rốt ráo.
12. Tướng khí thế gian thành hoại, là ba thứ lửa, nước, gió thành hoại. Do lửa, nước, gió gây tai họa làm cho trái đất này thường thành hoại, có thể thiêu đốt khô dần như thứ lớp của nó. Lại nữa, có đảnh ba tai, là các tĩnh lự đệ nhị, đệ ba và đệ bốn, do tai lửa, nước, gió có thể hoại thế giới hoặc an lập xứ sở cho đến bờ mé của bậc nhất, tĩnh lự đệ nhị, đệ ba. Kế trên chỗ gọi là đảnh ba tai họa, như thứ lớp của nó, xứ sở sai khác của đệ nhị, đệ tam, tĩnh lự thứ tư. Bên ngoài tĩnh lự thứ tư là cung điện, tuy không có tai họa bên ngoài thành hoại, nhưng các Trời kia cùng với cung điện cùng sinh cùng diệt. Nói có thành hoại là do hữu tình kia khi mới sinh thì cùng lúc cung điện sinh, cuối cùng khi chết thì cả hai cùng diệt, tức là nói sự sinh diệt nầy làm thành hoại.
Lại, có ba thứ trung kiếp:
1. Cơ cẩn (đói khát).
2. Dịch bệnh.
3. Đao binh.
Tiểu ba tai nầy đến khi kiếp rốt ráo đầy đủ mới xuất hiện, là thế giới đã thành một trung kiếp thứ nhất thì chỉ có giảm, một trung kiếp sau thì chỉ có tăng, một trung kiếp thì vừa tăng vừa giảm. "Một trung kiếp thứ nhất thì chỉ có giảm", là khi kiếp thành kiếp thứ hai mươi mốt. "Một trung kiếp sau thì chỉ có tăng", là kiếp sau cùng. "mười tám trung kiếp thì vừa tăng vừa giảm", là khoảng giữa có mười tám trung kiếp, hai mươi trung kiếp thế giới đang hoại, hai mươi trung kiếp thế giới hoại rồi trụ, hai mươi trung kiếp thế giới đang thành, hai mươi trung kiếp thế giới thành rồi trụ, cộng chung tám mươi trung kiếp nầy thành một đại kiếp, do kiếp số ấy mà nói về thọ lượng của các tầng trời cõi Sắc và cõi Vô Sắc, như nói vì tuổi thọ hết, nên phước hết, nghiệp hết, các hữu tình kia từ các xứ kia chết.
Hỏi: Thế nào là thọ hết?
Đáp: Là khi chết thì tuổi thọ nầy căn cứ theo lúc chết mà nói, do sự dẫn thọ thời phần xứng với lúc chết.
Hỏi: Thế nào là phước hết?
Đáp: Là chết phi thời, tức là chết phi phước, phước nầy là nói theo chết phi chết thời. Vì hữu tình kia tham nhiễm vị định (mùi vị của định), phước lực giảm hết, do đây mà qua đời. Do ưa vị định tổn hại sở tu, dẫn khởi tuổi thọ nghiệp lực phi thời mà chết.
Hỏi: Thế nào là nghiệp hết?
Đáp: Là thuận sinh thọ nghiệp, thuận hậu thọ nghiệp đều hết nên chết. Đây là nói theo nối tiếp chết. Do đối với xứ nầy thuận sinh, sau đó thọ nghiệp thọ dụng đã hết, vì không có nghiệp nên không sinh lại nghiệp nầy.
2. Tướng khổ: hoặc là ba hoặc là tám, hoặc là sáu, nói rộng như trước.
Hỏi: Vì sao kinh nói: "Nếu Vô thường thì tức là khổ"?
Đáp: Do ba phần Vô thường làm duyên tướng khổ có thể biết rõ: 1. Sinh phần Vô thường; 2. Diệt phần Vô thường; 3. Câu phần Vô thường. Sinh phần Vô thường làm duyên, tánh khổ khổ có thể biết rõ.
1. Sinh phần Vô thường, là xưa không nay có, thể các hành của phẩm khổ là ép ngặt, do Vô thường nầy làm duyên tánh khổ khổ có thể biết, diệt phần Vô thường làm duyên tánh hoại khổ có thể biết rõ.
2. Diệt phần Vô thường, là đã có lại không, các hành không đáng ưa thích của lạc phẩm, do Vô thường nầy làm duyên tánh hoại khổ có thể biết rõ, câu phần Vô thường làm duyên tánh hành khổ có thể biết.
3. Câu phần Vô thường, là các hành thô nặng nối tiếp trôi lăn, hoặc sinh hoặc diệt đều không đáng ưa thích, do câu phần Vô thường nầy làm duyên các tánh hành khổ có thể biết rõ, tức là nương vào nghĩa nầy mà Đức Bạc-già-phạm nói: "Các hành Vô thường, các hành biến hoại". Lại nữa, nương vào nghĩa nầy mà nói tất cả thọ Ta nói đều là khổ. Phải biết trong đây đối với bất khổ bất lạc thọ và lạc thọ có mật ý, nên nói khổ khổ; tánh của thọ khổ thì thế gian cùng biết nên không mật ý nói.
Lại nữa, đối với hai pháp sinh diệt, tùy trong các hành có tám khổ như sinh, già… tánh có thể biết rõ. Phật nói: "Nếu Vô thường tức là khổ". Lại nữa, "Trong các hành Vô thường có các khổ như sinh, già… có thể biết rõ", là Như Lai nương vào đây mà mật ý nói: "Do Vô thường nên khổ, chẳng phải tất cả hành". Nếu không như thế thì Thánh đạo Vô thường nên đáng lẽ cũng là khổ.
3. Tướng không: Hoặc đối với xứ đó thì đây là phi hữu, do lý nầy chánh quán làm không, hoặc đối với xứ đó mà các xứ khác là hữu, do lý nầy mà như thật biết có, gọi là khéo nhập tánh không. "Như thật biết", là nghĩa không điên đảo.
Hỏi: Đối với xứ nào và ai phi hữu?
Đáp: Đối với Uẩn Giới Xứ thường hằng ngưng trụ, pháp không biến hoại ngã ngã sở… là phi hữu, do lý nầy mà các pháp kia đều là không.
Hỏi: Đối với xứ đó và xứ nào khác là hữu?
Đáp: Tức là xứ nầy tánh vô ngã, ngã nầy vô tánh vô ngã hữu tánh, đó là tánh không, do tướng của các hành kia là thường mà tướng ngã trong đây không có. Các hành thường lìa tánh tướng của ngã, vô ngã chân tánh trong đây là có, chẳng phải hoàn toàn không có chân tánh nầy, đều gọi là tánh không, nên Đức Bạc-già-phạm mật ý nói: "Có thì như thật biết là có, không thì như thật biết là không".
Lại có ba thứ tánh không:
1. Tự tánh tánh không.
2. Như tánh tánh không.
3. Chân tánh tánh không.
Tánh không thứ nhất là nương vào tự tánh Biến kế sở chấp mà quán, vì tự tướng nầy chắc chắn là phi hữu; tánh không thứ hai là nương vào tự tánh y tha khởi mà quán, vì tự tánh nầy như sở kế đạc, đều là phi hữu; tánh không thứ ba nương vào tự tánh viên thành thật mà quán, vì tự tánh nầy tức là chân tánh không.
4. Tướng vô ngã: là như ngã luận, đã lập tướng ngã là Uẩn Giới Xứ chẳng phải tướng nầy, vì tướng ngã của Uẩn Giới Xứ không có, gọi là tướng vô ngã. Ngã luận của ngoại đạo chấp cho các hành là ngã, vì các hành kia chẳng phải tướng nên gọi là vô ngã, do đó đức Bạc-già-phạm mật ý nói: "Tất cả pháp đều là vô ngã". Như thế tôn nói: "Tất cả pháp nầy là chẳng phải ngã sở, đây là phi ngã xứ, nầy là phi ngã, ngã sở". Đối với các nghĩa như vậy, phải lấy chánh tuệ như thật mà quán sát.
Hỏi: Câu nói nầy có nghĩa gì?
Đáp: Là đối với các sự bên ngoài đều mật ý nói "Tất cả pháp nầy là phi ngã sở", đối với các việc bên trong thì có mật ý nói "đây là phi ngã xứ, đây là phi ngã ngã sở". Vì sao? Vì đối với sự bên ngoài chỉ chấp tướng của ngã sở, do đó chỉ dứt trừ ngã sở, đối với bên trong thì chấp chung tướng của ngã và ngã sở, do đó loại trừ cả ngã và ngã sở.
Hỏi: Trước nói Vô thường đều là tướng sát-na, tướng nầy làm sao biết được?
Đáp: Như tâm, tâm pháp là tướng sát-na, phải biết sắc… cũng là tướng sát-na:
1. Do tâm chấp thọ.
2. Đẳng tâm an nguy.
3. Tùy tâm chuyển biến.
4. Là chỗ nương của tâm.
5. Tâm tăng thượng sinh.
6. Tâm tự tại chuyển.
Lại nữa, đối với vị sau rốt sự biến hoại khả đắc, đã sinh rồi thì không chờ duyên mà tự nhiên hoại diệt, phải quán sắc… cũng là niệm niệm diệt, tướng của các hành Vô thường, hoại diệt… Tướng của tâm tâm pháp sát-na, thế gian đều hiểu rõ, không cần nói thêm. Tướng pháp sát-na diệt của sắc… thì không phải thế gian đều hiểu rõ bây giờ sẽ thành lập.
- Do tâm chấp thọ, là thân của sắc… do sát-na tâm niệm niệm chấp thọ nên sát-na diệt.
- Đẳng tâm an nguy, là thân của sắc… thường đi chung với thức, nếu thức xả lìa thì liền tan rã, do thân cùng với tâm an nguy, nên chắc chắn như tâm niệm niệm sinh diệt.
- Tùy tâm chuyển biến, là tâm của thế gian hiện thấy, tại các vị của khổ, vui, tham, sân… thân tùy theo đó mà chuyển biến, tùy theo sát-na tâm mà chuyển biến nên thân niệm niệm diệt.
- Là chỗ nương của Tâm, là thế gian đều biết tâm nương vào hữu căn thân, hoặc pháp nương vào hữu căn thân nầy mà sinh, chẳng phải hữu căn thân nầy tự nó không hoại, có thể nương vào hữu có thể thấy, như, mầm lửa… nương vào củi, hạt giống… nên thân nầy là chỗ nương của tâm sát-na, cũng là sát-na diệt.
- Tâm tăng thượng sinh, là tất cả Nội sắc, Ngoại sắc đều do tâm tăng thượng sinh, vì nhân năng sinh là sát-na diệt, quả được sinh cũng là sát-na diệt. Như đức Thế Tôn nói: "Các nhân, các duyên có thể sinh ra sắc, sắc kia cũng Vô thường, vì Vô thường do năng lực nhân duyên sinh ra". Sắc thế nào là thường? Tùy theo câu nghĩa của kinh nầy, thân chắc chắn là sát-na diệt.
- Tâm tự tại chuyển, nếu chứng đắc tâm thắng oai đức, đối với tất cả sắc như chỗ muốn của nó mà tự tại chuyển biến, vì tùy sát-na năng biến mà thắng giải chuyển biến sinh, lý sát-na của sắc được thành tựu. "Đối với vị sau rốt biến hoại khả đắc", là các sắc… ban đầu lìa tự tánh mà niệm niệm biến hoại, đối với vị sau rốt cảnh giới biến hoại là không đúng lý, nhưng điều nầy thì khả đắc, nên biết sắc… từ ban sơ đến nay niệm niệm biến hoại, tự loại nối tiếp dần tăng làm nhân, có thể dẫn thô tướng sau rốt biến hoại, nên sắc… niệm niệm sinh diệt.
"Đã sinh rồi thì không chờ duyên mà tự nhiên hoại diệt", là tất cả pháp từ duyên đã sinh rồi thì không chờ duyên mà tự nhiên biến hoại, vì không chờ các duyên khác mà tự nhiên hoại diệt, đầu tiên đã sinh rồi thì chắc chắn hoại diệt. Nếu nói đã sinh rồi, ban đầu không có hoại diệt, sau mới có hoại diệt là không đúng, vì không có sai khác nên biết tất cả là pháp có thể hoại diệt. Ban đầu mới sinh rồi thì liền hoại diệt nên nghĩa sát-na của các pháp được thành.
Hỏi: Như Thế Tôn nói: "Tất cả các sắc, tất cả sắc kia hoặc là bốn đại chủng, hoặc do bốn đại chủng tạo ra".
Câu nầy nương vào ý gì mà nói?
Đáp: Nương vào ý dung hữu (ý cho phép) thì nói đồng tại một xứ, nương vào đây mà có nghĩa tạo, do sự tạo sắc lìa xứ đại chủng mà riêng tự lập ra vô công năng, hoặc đối với nhóm này mà đại chủng nầy khả đắc, nên biết nhóm này chỉ có đại chủng nầy, không phải đại chủng nào khác, hoặc có tụ chỉ có một đại chủng, như hòn đất khô, hoặc có hai đại chủng, tức là hòn đất ướt, hoặc có ba đại chủng, tức là hòn đất nóng, hoặc có tất cả đại chủng, tức hòn đất nầy là bùn, nóng, ướt… Đối với vị di chuyển, sự tạo sắc cũng vậy, hoặc đối với nhóm này mà sự tạo sắc nầy có thể được, phải biết nhóm này chỉ có sự tạo nầy chẳng phải sự tạo nào khác, hoặc có nhóm chỉ có một sự tạo sắc, như ánh sáng, hoặc có hai sự tạo sắc, như có thanh, hương, phong, hoặc có ba sự tạo sắc, như hương, khói, vì hương khói nầy có chỗ hiển sai khác của sắc hương xúc, xúc sai khác là tánh khinh trong đây, hoặc có bốn sự tạo sắc, như hạt đường cát, hoặc có năm sự tạo sắc, tức là sự tạo nầy có âm thanh và thời gian. Lại nữa, hoặc đối với nhóm đại chủng tạo sắc nầy tùy phần có thể được, phải biết trong đây chỉ có nhóm này không phải nhóm nào khác, đây là nương vào vật thô mà nói chẳng phải hạt giống, vì trong mỗi nhóm có tất cả hạt giống.
Lại như đại chủng tạo sắc của nhóm này là tùy phần có thể được, phải biết cực vi trong đây không có thể, không có thật, không có tánh, chỉ có giả lập ra, vì xoay vần phân tích thì không có hạn lượng, chỉ do giác tuệ dần dần phân tích, phân tích nhỏ dần cho đến bờ mé có thể phân tích, tức là căn cứ theo bờ mé nầy mà lập ra cực vi.
Hỏi: Nếu các cực vi không có thể tánh thật thì vì sao lập ra?
Đáp: Vì trừ tưởng nhất hợp, hoặc dùng giác tuệ phân tích từng phần tất cả các sắc, lúc đó vọng chấp tất cả các sắc làm tưởng nhất hợp liền xả lìa, do đây mà thuận nhập tánh vô ngã sổ thủ thú. Lại nữa, vì ngộ nhập tất cả các sắc chẳng phải chân thật, hoặc dùng giác tuệ như vậy phân tích tất cả các sắc đến Vô sở hữu, thì lúc đó liền có thể ngộ nhập các pháp đều không chân thật, do đó mà ngộ nhập lý của duy thức, do đây mà thuận nhập tánh vô ngã của các pháp.
Lại nữa, pháp khổ lược có tám thứ sai khác: 1. Rộng lớn bất vắng lặng khổ. 2. Vắng lặng khổ. 3. Vắng lặng bất vắng lặng khổ. 4. Trung bất vắng lặng khổ. 5. Vi bạc bất vắng lặng khổ. 6. Vi bạc vắng lặng khổ.
7. Cực vi bạc vắng lặng khổ. 8. Phi khổ tự khổ trụ đại vắng lặng.
Hỏi: Thế nào là rộng lớn bất vắng lặng khổ?
Đáp: Là người sinh cõi Dục nhưng chưa hề chứa nhóm các gốc lành, vì cõi Dục là chỗ hiển tất cả cõi sinh gồm đủ khổ, chưa chứa nhóm gốc lành thì không thể dừng đến các đường, như thứ lớp của nó gọi là rộng lớn bất vắng lặng khổ.
Hỏi: Thế nào là vắng lặng khổ?
Đáp: Tức là người đã sinh khổ nầy thì thuận phần giải thoát gốc lành, chắc chắn tiến đến Niết-bàn.
Hỏi: Thế nào là vắng lặng bất vắng lặng khổ?
Đáp: Tức là người vì đạo thế gian lìa dục rồi gieo trồng gốc lành, người ở cõi Dục khổ nầy vì đạo thế gian lìa dục rồi gieo trồng gốc lành thì chắc chắn siêu vượt khổ khổ… nhưng chẳng phải rốt ráo. Như thứ lớp của nó, như vậy trong bất vắng lặng khổ… tùy theo sự thích ứng của nó mà giải thích.
Hỏi: Thế nào là trong bất vắng lặng khổ?
Đáp: Là người sinh cõi Sắc xa lìa phần thuận giải thoát.
Hỏi: Thế nào là vi bạc bất vắng lặng khổ?
Đáp: Là người sinh cõi Vô Sắc xa lìa phần thuận giải thoát.
Hỏi: Thế nào là vi bạc vắng lặng khổ?
Đáp: Là các bậc Hữu học.
Hỏi: Thế nào là cực vi bạc vắng lặng khổ?
Đáp: Là mạng căn của các bậc Vô học trụ duyên sáu xứ.
Hỏi: Thế nào là phi khổ tự khổ trụ đại vắng lặng?
Đáp: Là Đại Bồ-tát đã được rốt ráo, nương nguyện lực đại bi mà sinh trong các đường, do có thể trừ diệt vô lượng khổ lớn nối tiếp của chúng sinh, nên gọi là trụ đại vắng lặng.
Lại nữa, trước đã nói chết khổ, chết có ba thứ: 1. Tâm thiện chết.
2. Tâm bất thiện chết. 3. Tâm Vô ký chết.
- Tâm thiện chết, là đối với khi tâm bén nhạy tại vị hiện tiền, hoặc do sự duy trì của gốc lành chính mình, hoặc do sự dẫn thâu nhiếp của kẻ khác mà phát khởi tâm thiện tiến đến vị qua đời.
- Tâm bất thiện chết, là cũng đối với tâm bén nhạy tại vị hiện tiền, hoặc do sự duy trì của bất thiện căn chính mình, hoặc do sự thâu nhiếp của kẻ khác mà khởi tâm bất thiện tiến đến vị qua đời.
- Tâm Vô ký chết, hoặc là đối với tâm bén nhạy tại vị hiện tiền, hoặc do thiếu hai duyên, hoặc do gia hạnh không có công năng, mà khởi tâm Vô ký tiến đến vị qua đời. Trong đây đã nói cái chết thiện hoặc Bất thiện hoặc Vô ký, phải biết là nương vào ngã ái tương ưng với vị tâm sắp qua đời ở trước mà nói. Người tu tịnh hạnh khi tại vị sắp qua đời, nơi thân phần dưới trước hết là khởi xúc lạnh, người hạnh bất tịnh khi tại vị sắp qua đời, nơi thân phần trên khởi xúc lạnh trước.
Lại nữa, người hạnh bất tịnh khi trung hữu sinh, thì tướng của nó hiển hiện như bóng đen của con dê con, hoặc như phần bóng tối của ban đêm; người tu tịnh hạnh khi trung hữu sinh, thì tướng của nó hiển hiện như ánh sáng của tấm lụa trắng, hoặc như phần sáng tạnh của ban đêm.
Lại nữa, trong đây có vị chánh thọ sinh ở cõi Dục và cõi Sắc, cũng từ vị sau khi qua đời của cõi Vô Sắc, hoặc gọi là Kiện-đạt-phược ý sinh, trụ trong bảy ngày, hoặc có khi bị trung yểu, hoặc có khi di chuyển. Nói ý sinh, là thọ thân hóa sinh, vì chỉ có tâm làm nhân, sự dẫn của hương, gọi là Kiện-đạt-phược, là đeo đuổi theo hương đến chỗ thọ sinh, có nghĩa là cực trụ trong bảy ngày.
"Hoặc người bị trung yểu", đây là nói theo người mau chóng đắc sinh duyên, hoặc quá bảy ngày chưa đắc sinh duyên thì chắc chắn khi qua đời sẽ sinh lại trung hữu, như vậy xoay vần cho đến bảy lần không được quá.
"Hoặc có khi dời chuyển", là đối với vị nầy đến chỗ sinh khác, duyên mạnh thì hiện tiền, như đắc tĩnh lự thứ tư thì khởi Tỳ-kheo tăng thượng mạn A-la-hán. Khi trung hữu của địa kia sinh, do tà kiến chê bai giải thoát mà chuyển sinh trung hữu địa ngục.
Lại nữa, trụ trong Trung hữu cũng có thể nhóm hợp các nghiệp, là chỗ dẫn lực quán tập trước kia mà tư của thiện… hiện hành. Lại nữa, có thể quán thấy đồng loại hữu tình, là cùng chung những người hành thiện, bất thiện trước kia, như trong mộng thấy mình cùng những người kia đang dạo chơi.
Lại nữa, thân Trung hữu tương tự nơi sắp sinh, và giống như nơi sắp sinh, vì trước có thân mới khởi.
Lại nữa, chỗ đến của trung hữu nầy vô ngại, như có đủ thần thông thì tới lui mau chóng, nhưng đối với chỗ sinh vẫn bị câu ngại.
Lại nữa, Trung hữu nầy đối với chỗ sinh giống như nguyên tắc của hai đầu cân lên xuống cao thấp, khi qua đời kết sinh thì thời gian cũng vậy.
Lại nữa, trụ trong Trung hữu đối với chỗ sinh mà phát khởi tham ái, thì cũng dùng các phiền não khác làm trợ duyên, thân trung hữu nầy và thân đồng thời diệt, thân Yết-la-lam cùng thức đồng thời sinh, vì thức nầy chỉ là Dị thục, từ đây về sau, các căn dần dần sinh trưởng, như trong duyên khởi nói: "Đối với bốn sinh loại, hoặc thọ Noãn sinh, hoặc thọ Thai sinh, hoặc thọ Thấp sinh, hoặc thọ Hóa sinh". Như trong duyên khởi nói, là danh sắc… trước sau thứ lớp như thuyết.
Đầu tiên Yết-la-lam, Kế sinh Át-bộ-đàm, Từ đây sinh Bế-thi, Bế-thi sinh Kiện-nam. Kế Bát-la-xa-khư,
Sau tóc, lông, móng, thảy Và hình tướng sắc căn, Dần dần mà sinh trưởng.
Hỏi: Thế nào là tập đế?
Đáp: Là các nghiệp do phiền não và phiền não tăng thượng sinh ra, đều gọi là tập đế, vì tập đế nầy tập khởi sinh tử khổ. "Nghiệp do phiền não tăng thượng sinh", là nghiệp hữu lậu.
Hỏi: Nếu thế thì vì sao Thế Tôn chỉ nói ái là tập đế?
Đáp: Vì nó tối thắng. Đức Bạc-già-phạm tùy theo sự thù thắng mà nói, hoặc ái, hoặc hậu hữu ái, hoặc tham hỷ và hành ái, hoặc hy lạc ái (ái mong cầu vui) kia, gọi là Tập đế. Nói tối thắng, là nghĩa biến hành, vì ái có đủ sáu nghĩa biến hành, nên tối thắng. Sáu nghĩa gồm có:
1. Sự biến hành: Là đối với tất cả đã đắc hoặc chưa đắc cảnh giới tự thân với sự biến hành. Đối với tự thân đã đắc thì khởi ái, đối với tự thân chưa đắc thì khởi hậu hữu ái, đối với cảnh giới đã đắc thì khởi tham hỷ và hành ái, đối với cảnh giới chưa đắc thì khởi hy lạc ái.
2. Vị biến hành: Là đối với ba vị như tánh khổ khổ… trong các hành khắp tùy hành. Đối với vị tánh khổ khổ đã đắc thì khởi biệt lìa ái, đối với vị tánh khổ khổ chưa đắc thì khởi bất hòa hợp ái, đối với vị tánh hoại khổ thì khởi bất biệt lìa ái và hòa hợp ái, vì sai khác của đã đắc và chưa đắc, đối với vị tánh hành khổ khởi ngu si ái, vì phiền não thô nặng đã nói về và của bất khổ bất lạc thọ đã nói về, chỉ có thức A-lại-da là vị tối thắng hành khổ, nương vào vị nầy, nhân theo môn ngã si mà tham ái chuyển.
3. Thế biến hành: Là trong ba đời tùy ý đi khắp. Đối với đời quá khứ thì khởi hành nhớ nghĩ, ái tùy ý đi khắp, đối với đời vị lai thì khởi hành hy lạc, ái tùy ý đi khắp; đối với hiện tại thì khởi hành chấp đắm, ái tùy ý đi khắp.
4. Giới biến hành: Là ba ái của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc xoay vần đi khắp ba cõi.
5. Cầu biến hành: Là do tham ái đi khắp cầu dục hữu và tà phạm hạnh, do năng lực cầu của dục nên không thoát khỏi cõi Dục mà chiêu cảm khổ của cõi Dục, do sức cầu của hữu không thoát khỏi hai cõi mà chiêu cảm khổ cõi Sắc và cõi Vô Sắc, do sức cầu của tà phạm hạnh không thoát khỏi sinh tử trôi lăn kia.
6. Chủng Biến hành: Là Hữu ái và Vô hữu ái đi khắp Nhất thiết chủng của đoạn và thường.
Phiền não là do Số, Tướng, Duyên khởi, Cảnh giới, Tương ưng, Sai khác, tà hạnh, Giới, Chúng, Đoạn, mà quán các phiền não.
Số, hoặc là sáu hoặc là mười. Sáu là Tham, Sân, Mạn, Vô minh, Nghi và Kiến. Mười là năm kiến ở trước cũng phân làm năm, là Tát-ca-da kiến, Biên chấp kiến, Tà kiến, Kiến thủ, Giới cấm thủ.
Tướng, nếu khi pháp sinh thì tướng bất vắng lặng do pháp sinh nầy mà thân tâm nối tiếp, bất vắng lặng chuyển là tướng phiền não, tánh bất vắng lặng là cộng tướng của các phiền não, tánh nầy lại có sáu thứ: 1. Tánh tán loạn bất vắng lặng. 2. Tánh điên đảo bất vắng lặng. 3. Tánh trạo cử bất vắng lặng. 4. Tánh hôn trầm bất vắng lặng. 5. Tánh buông lung bất vắng lặng. 6. Tánh vô sỉ bất vắng lặng.
Duyên khởi, là phiền não tùy miên chưa dứt hẳn, pháp thuận phiền não hiện trước mặt, tư duy bất chánh hiện tiền khởi, như vậy phiền não mới được sinh. "Phiền não tùy miên chưa dứt hẳn", là phẩm thô nặng kia chưa dứt trừ hẳn. "Pháp thuận phiền não hiện trước mặt", là hiện tiền gặp cảnh đáng ưa. "Tư duy bất chánh tiền hiện khởi", là đối với các cảnh giới kia chấp lấy tướng tịnh… có thể thuận theo sinh tham sân…
Cảnh giới, là tất cả phiền não trở lại dùng tất cả phiền não làm cảnh sở duyên và duyên các sự phiền não. Lại nữa, phiền não cõi Dục trừ Vô minh, Kiến và Nghi ra, phiền não còn lại không thể duyên địa cõi trên làm cảnh. Vô minh, Kiến và Nghi nầy tuy cũng có thể duyên địa cõi trên, nhưng nó không thể duyên địa gần gũi cõi trên như duyên tự địa. Do nương vào môn cảnh giới mà khởi phân biệt, lập cảnh giới kia làm sở duyên. Đã nói vô minh duyên cõi trên, là vô minh tương ưng với kiến, nghi. Kiến, là trừ Tát-ca-da kiến không thấy thế gian, duyên các hành của địa khác chấp làm ngã, các phiền não của địa trên không duyên địa dưới làm cảnh, vì đã lìa dục của địa kia. Lại nữa, các phiền não duyên nơi Diệt đế và Đạo đế, không thể gần gũi duyên diệt và đạo làm cảnh, vì Diệt đế Đạo đế là chỗ chứng bên trong của trí xuất thế gian và trí hậu đắc, nhưng do nương vào phiền não kia mà vọng khởi phân biệt gọi là sở duyên, vì cảnh chấp trước của phân biệt không lìa phân biệt. Lại nữa, phiền não có hai thứ, là duyên vô sự và duyên hữu sự. Duyên vô sự, là kiến tương ưng với pháp kiến, kiến là Tát-ca-da kiến và Biên chấp kiến. Các phiền não khác thì gọi là duyên hữu sự.
Tương ưng, là tham không tương ưng với Sân, như Sân, Si cũng vậy, còn lại thì được tương ưng.
Hỏi: Vì sao tham không tương ưng với Sân?
Đáp: Vì toàn bộ các pháp trái nhau không đồng thời chuyển. Lại nữa, tham không tương ưng với nghi, vì tuệ đối với cảnh không chắc chắn là không nhiễm chấp. "Còn lại thì được tương ưng", là không trái với mạn…, như tham sân cũng vậy, là sân không tương ưng với tham, mạn, kiến, hoặc đối với việc nầy khởi giận ghét, tức là đối với việc nầy không khởi cao cử, và có thể suy cầu cùng với tương ưng khác như lý phải biết, mạn không tương ưng với sân, nghi. Vô minh có hai thứ:
1. Tương ưng vô minh tất cả phiền não. 2. Vô minh bất cộng. Vô minh bất cộng, là đối với các đế không có trí, kiến không cùng tương ưng với sân, nghi, nghi không tương ưng với tham, mạn, kiến. Phẫn… Nơi tùy phiền não không tương ưng lẫn nhau, vì pháp xoay vần trái nhau thì không tương ưng, như phần tham và phần sân nếu không trái nhau thì cũng như phiền não xoay vần tương ưng. Vô tàm, vô quí trong tất cả phẩm bất thiện thường chung tương ưng, nếu lìa không chú ý đến chỗ bất thiện của tự tha hiện hành thì không có việc ấy. Hôn trầm, trạo cử, bất tín, biếng nhác, buông lung, trong tất cả phẩm nhiễm ô, thường cùng tương ưng, nếu lìa tánh nhiễm ô của tánh không gắng nhận thì không có việc đó. Sai khác, là các phiền não nương vào các thứ nghĩa mà lập các môn sai khác, điều đó là các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền, bộc lưu, ách, thủ, hệ, cái, chu ngột, cấu, thiêu hại, tiễn, sở hữu, hành vi ác, lậu, quỹ, nhiệt, não, tránh, xí nhiên, trù lâm, câu ngại…
Hỏi: Kiết có bao nhiêu thứ? Thế nào là kiết? Kiết ở xứ nào?
Đáp: Kiết có chín thứ: 1. Ái kiết. 2. Sân kiết. 3. Mạn kiết. 4. Vô minh kiết. 5. Kiến kiết. 6. Thủ kiết. 7. Nghi kiết. 8. Tật kiết. 9. San kiết.
- Ái kiết, là ba cõi tham, là đã trói buộc do ái kiết nên không chán ba cõi, do không chán ba cõi nên làm nhiều việc bất thiện, không làm các điều thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ của đời vị lai tương ưng với khổ. Phải biết trong đây giảng nói các kết, hoặc tướng, hoặc dụng, hoặc vị, biện luận sự sai khác của kiết. Lại như ái kiết thì thế nào là kiết? Tham ở ba cõi là tự tánh của kiết. Thế nào là kiết? Là người có tham nầy thì không nhàm chán ba cõi. Do đó mà bất thiện xoay vần hiện hành, thiện không hiện hành. Đối với vị nào mà kiết? Là đối với vị do khổ quả của đời sau. Như vậy sân kiết… đều như lý phải biết.
- Nhuế kiết, là đối với hữu tình khổ và thuận khổ pháp mà tâm có tổn hại, bị kiết trói buộc nên đối với cảnh tướng giận, tâm không buông xả, vì không buông xả nên làm nhiều việc bất thiện, không làm các điều thiện. Do đây có thể chiêu cảm khổ ở đời vị lai và tương ưng với khổ.
- Mạn kết, tức là bảy mạn: 1. Mạn. 2. Quá mạn. 3. Mạn quá mạn. 4. Ngã mạn. 5. Tăng thượng mạn. 6. Thấp kém mạn. 7. Tà mạn.
+ Mạn, là đối với người thua kém cho mình là hơn, hoặc đối với người tương đương cho là mình tương tự, tâm cao cử làm tánh.
+ Quá mạn, là đối với người tương đương thì chấp mình là hơn, hoặc đối với người hơn thì cho mình tương đương, tâm cao cử làm tánh.
+ Mạn quá mạn, là đối với người hơn mình mà cho là mình hơn, tâm cao cử làm tánh.
+ Ngã mạn, là đối với năm thủ uẩn quán ngã, ngã sở, tâm cao cử làm tánh.
+ Tăng thượng mạn, là đối với sự chưa đắc chứng pháp thượng thắng cho là mình đã đắc chứng pháp thượng thắng, tâm cao cử làm tánh.
+ Thấp kém mạn, là đối với hơn mình nhiều mà cho mình là thua họ chút thôi, tâm cao cử làm tánh.
+ Tà mạn, thật ra mình vô đức mà cho là mình hữu đức, tâm cao cử làm tánh. Vì bị kiết trói buộc nên đối với ngã và ngã sở không thể hiểu rõ, vì không thể hiểu rõ nên chấp ngã, ngã sở, làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ ở đời vị lai và tương ưng với khổ.
- Vô minh kết, là ba cõi vô trí, vì bị vô minh trói buộc nên đối với pháp khổ và pháp tập không thể hiểu rõ, vì không thể hiểu rõ nên làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ đời vị lai và tương ưng với khổ. Người đối với pháp khổ tập không hiểu rõ, là đối với các hành của tánh quả, tánh nhân và hữu lậu, tất cả tội lỗi không thể hiểu rõ.
- Kiến kết, tức là ba kiến:
+ Tát-ca-da kiến.
+ Biên chấp kiến.
+ Tà kiến.
Vì sự ràng buộc của kiến kiết nên đối với xuất ly tà vọng chấp truy cầu cho "ngã sẽ giải thoát, ngã sở giải thoát, giải thoát rồi, ngã sẽ thường trụ hoặc sẽ đoạn diệt". Lại cũng cho "Trong pháp Phật chắc chắn không có giải thoát". Như vậy đã chấp trước tà xuất ly, thì làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ của đời vị lai và tương ưng với khổ.
- Thủ kết, là kiến thủ và giới cấm thủ, vì bị thủ kiết trói buộc nên đối với phương tiện tà xuất ly vọng kế chấp trước, xả bỏ tám Thánh chi đạo, vọng chấp Tát-ca-da kiến… và Tát-ca-da kiến kia làm đầu, hoặc ngăn hoặc cấm để làm đạo thanh tịnh, vì vọng chấp trước phương tiện xuất ly tà, nên làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ ở đời vị lai và tương ưng với khổ.
- Nghi kết, là đối với đế do dự, vì chỗ buộc của nghi kiết nên đối với ba ngôi báu Phật pháp tăng vọng sinh nghi hoặc, vì nghi hoặc nên đối với Tam Bảo không tu chánh hạnh, vì đối với Tam Bảo không tu chánh hạnh nên làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ của đời vị lai và tương ưng với khổ.
- Tật kết, là đắm chấp, lợi dưỡng, không chịu nổi sự vinh quang của người khác mà sanh tâm ganh ghét, bị tật kiết trí buộc nên xem trọng lợi dưỡng, không tôn kính pháp, vì coi trọng lợi dưỡng nên làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ ở đời vị lai và tương ưng với khổ.
- San kết, là đắm chấp, lợi dưỡng, đối với tài sản thì tâm keo kiệt, vì bị keo kiệt trói buộc nên rất thích chứa để, không tôn kính hạnh xa lìa, vì coi trọng chứa để, nên làm nhiều việc bất thiện, không làm việc thiện, do đây có thể chiêu cảm khổ ở đời vị lai và tương ưng với khổ.
Phược có ba thứ: 1. Tham phược. 2. Sân phược. 3. Si phược. Do tham phược nên ràng buộc các chúng sinh khiến cho ở trong hoại khổ, do sân phược nên ràng buộc chúng sinh khiến cho sống trong khổ khổ, do si phược nên ràng buộc chúng sinh khiến cho sống trong hành khổ, "do ba phược tham sân si ràng buộc chúng sinh khiến cho sống trong ba khổ", vì tham sân si đối với các thọ lạc khổ… thường là tùy miên. Lại, nương vào tham sân si, đối với phương tiện thiện không được tự tại nên gọi là phược, giống như ngoại phược ràng buộc các chúng sinh khiến cho đối với hai sự không được tự tại: 1. Không được tùy ý du hành. 2. Đối với trụ xứ, chỗ tạo tác không được tùy ý. Phải biết nội pháp tham sân si ràng buộc cũng giống như vậy.
Tùy miên có bảy thứ:
1. Dục ái tùy miên.
2. Sân nhuế tùy miên.
3. Hữu ái tùy miên.
4. Mạn tùy miên.
5. Vô minh tùy miên.
6. Kiến tùy miên.
7. Nghi tùy miên.
- Dục ái tùy miên, là phẩm thô nặng của dục tham.
- Sân nhuế tùy miên, là phẩm thô nặng của sân nhuế.
- Hữu ái tùy miên, là phẩm thô nặng của cõi Sắc và cõi Vô Sắc.
- Mạn tùy miên, là phẩm thô nặng của mạn.
- Vô minh tùy miên, là phẩm thô nặng của vô minh.
- Kiến tùy miên, là phẩm thô nặng của kiến.
- Nghi tùy miên, là phẩm thô nặng của nghi.
Hoặc người chưa lìa dục cầu, thì tùy miên dục ái sân nhuế cứ bị tùy miên đi theo. Do nương vào môn dục cầu đó mà hai tùy miên nầy tăng trưởng. Người chưa lìa hữu cầu thì bị tùy miên theo hữu ái tùy miên mãi. Người chưa lìa cầu tà phạm hạnh thì do tùy miên của mạn tùy miên, vô minh, tùy miên, kiến tùy miên, nghi tùy miên đi theo mãi, do chúng sinh kia được đối trị chút ít thì liền sinh kiêu mạn, ngu đối với Thánh đế, chấp trước luống dối tà giải thoát và giải thoát phương tiện, tùy thứ lớp của nó mà ba kiến hai thủ như trong kiết đã nói, đối với chánh pháp Tỳ-nại-da trong Thánh giáo Phật, còn do dự nghi ngờ.
PHẦN CHẮC CHẮN
Phẩm thứ: ĐẾ (Phần 2)
Tùy phiền não: Là tất cả các phiền não đều là tùy phiền não. Có khi tùy phiền não chẳng phải phiền não, là trừ nhiễm ô khác của phiền não và sự thâu nhiếp tất cả tâm pháp của hành uẩn. Điều nầy là thế nào? Là trừ sáu phiền não như tham nơi… và chỗ thâu nhiếp các tâm pháp của hành uẩn nhiễm ô như phẫn... Lại, tham sân si gọi là tùy phiền não tâm pháp, do tùy phiền não theo làm não hại đối với tâm khiến cho không lìa nhiễm, khiến cho không giải thoát, khiến cho không dứt chướng, nên gọi là tùy phiền não. Như Thế Tôn nói: "Các ông đêm dài tham sân si tùy sự não loạn mà tâm thường nhiễm ô". Triền, có tám thứ: 1. Hôn trầm. 2. Ngủ nghĩ. 3. Trạo cử. 4. Ác tác. 5. Tật. 6. San. 7. Vô tàm. 8. Vô quí. Tám thứ nầy niệm niệm tăng thịnh, vây buộc tâm nên gọi là triền. Vì các triền niệm niệm tăng thịnh vây buộc tâm của tất cả người thực hành quán, đối với tu phẩm thiện làm chướng ngại. "Tu phẩm thiện", là tùy lúc tu tập tướng chỉ cử xả, chỗ nương là phạm hạnh v.v… và là chỗ thâu nhiếp Thi-la thanh tịnh. Điều nầy lại thế nào?
Là khi tu chỉ thì bị hôn trầm và ngủ nghĩ làm chướng, bên trong dẫn chìm lặng. Khi tu cử thì bị trạo cử và ác tác làm chướng, bên ngoài dẫn cho tán loạn. Khi tu xả thì bị tật và san làm chướng, do hai chướng nầy gây ra mà tâm niệm niệm dao động trong môn tự lợi tha lợi trở nên keo kiệt ganh ghét. Khi tu tịnh Thi-la thì vô tàm và vô quí làm chướng, do phạm hai chướng nầy mà đối với các học xứ không hỗ thẹn.
Bộc lưu có bốn thứ: 1. Dục bộc lưu. 2. Hữu bộc lưu. 3. Kiến bộc lưu. 4. Vô minh bộc lưu. Theo dòng mà dấy động là nghĩa bộc lưu, vì thuận theo tạp nhiễm. Dục bộc lưu là người đã tập quen cầu dục. Hữu bộc lưu là người đã tập quen cầu hữu. Kiến bộc lưu và vô minh bộc lưu là người đã tập quen cầu phạm hạnh tà, vì năng y và sở y tương ưng đạo lý, kiến bộc lưu là năng y, vô minh bộc lưu là năng y, vì có ngu si điên đảo tìm cầu giải thoát và phương tiện.
Ách, có bốn thứ: 1. Dục ách. 2. Hữu ách. 3. Kiến ách. 4. Vô minh ách. Chướng ngại việc lìa trói buộc là nghĩa ách, vì trái nghịch với thanh tịnh. Ách nầy cũng tùy thứ lớp của nó, là ba hạng người đã tập quen ba thứ cầu tương ưng hiện hành.
Thủ, có bốn thứ: 1. Dục thủ. 2. Hữu thủ. 3. Kiến thủ. 4. Vô minh thủ. Chấp thủ căn tranh chấp và chấp thủ hậu hữu là nghĩa thủ. Vì sao? Vì tham chấp dục trói buộc đắm nhiễm làm nhân, những người tại gia càng tranh chấp lẫn nhau, tranh chấp căn bản nầy là thủ thứ nhất. Do tham đắm kiến trói buộc dục nhiễm làm nhân, những người xuất gia càng tranh chấp lẫn nhau, tranh chấp căn bản nầy là ba thủ sau. Sáu mươi hai kiến thú là kiến thủ, mỗi mỗi đều có cấm giới riêng, phần nhiều khổ hạnh là giới cấm thủ, chỗ nương nơi Tát-ca-da kiến của hai thủ kia là ngã ngữ thủ. Do kiến thủ và giới cấm thủ mà các ngoại đạo càng tranh cãi lẫn nhau, vì xứ và kiến của họ không đồng nhất. Do ngã ngữ thủ mà các ngoại đạo kia tranh cãi lẫn nhau, đối với hữu tánh của ngã đều đồng kiến, nhưng do thủ nầy mà các ngoại đạo cùng với những vị theo chánh pháp tranh luận lẫn nhau, vì ngoại đạo kia không tin có vô ngã. Như vậy chấp trước tranh luận là căn bản, lại có thể dẫn lấy Dị thục của khổ hậu hữu nên gọi là Thủ.
Hệ, có bốn thứ: 1. Tham dục thân hệ. 2. Sân nhuế thân hệ. 3. Giới cấm thủ thân hệ. 4. Thử thật Chấp thủ thân hệ. Vì có thể tạo chướng ngại thân tánh định ý nên gọi là hệ. Vì sao? Vì hệ nầy có thể tạo chướng cho thân của tâm định tự tánh nên gọi là hệ, chẳng phải chướng sắc thân. Vì sao? Vì có thể làm bốn thứ nhân loạn tâm: 1. Do nhân tham ái tài vật khiến cho tâm tán loạn, đối với các sự tranh chấp không có chánh hạnh, là nhân khiến cho tâm tán loạn. 2. Đối với giới cấm khổ não khi làm nhân, khiến cho tâm tán loạn. 3. Không như chánh lý suy cầu cảnh giới làm nhân khiến cho tâm tán loạn. 4. Vì hệ kia nương vào kiến khác nhau nên đối với cảnh sở tri tượng không đúng chánh lý các thứ suy lường vọng sinh chấp trước, cho rằng chỉ có đây là chân, ngoài ra đều là luống dối, do đây làm nhân khiến cho tâm tán loạn. Tán loạn đối với cái gì? Đối với tâm định tri kiến như thật.
Cái, có năm thứ: 1. Cái tham dục. 2. Cái Sân nhuế. 3. Cái Hôn trầm ngủ nghĩ. 4. Cái Trạo cử ác tác. 5. Cái Nghi. Có thể khiến cho phẩm thiện không được sáng tỏ là nghĩa cái, vì che lấp tâm, chướng ngại các phẩm thiện khiến cho không chuyển.
Hỏi: Đối với những vị nào làm chướng các pháp thiện?
Đáp: Đối với vị lạc xuất gia, vị giác chánh hạnh và vị chỉ cử xả. Khi ưa thích xuất gia thì cái tham dục làm chướng ngại, mong cầu thọ dụng môn ngoại cảnh giới, đối với xuất gia kia không ưa thích. Khi giác ngộ chánh hạnh thì cái sân nhuế làm chướng ngại, đối với học xứ bị sai phạm, khi người đồng phạm hạnh phát hiện thì do tâm sân nhuế mà không chánh học. Đối với hai vị chỉ, cử (chỉ và quán) thì cái hôn trầm, ngủ nghĩ cái, cái trạo cử và cái ác tác làm chướng ngại, như đã nói ở trước, có thể dẫn đến chìm lặng và tán loạn. Đối với vị xả thì nghi cái làm chướng ngại, vì xa lìa lý trí chắc chắn nên không thể xả.
Chu ngột, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si, thói quen trước kia làm phương tiện, nên trở thành hạnh tham sân si, tâm không điều thuận, không có chỗ gánh vác, khó có thể giải thoát, khiến các chúng sinh khó dứt hạnh nầy, nên gọi là chu ngột. Vì sao? Vì đạo đối trị chắc chắn khó phá hoại theo nghĩa nầy nên lập làm chu ngột, vì trong vô lượng kiếp đã tập quen tham sân si để thành hạnh đó, cứng chắc khó nhổ, cũng như chu ngột (gốc cây).
Cấu, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si mà hủy phạm học xứ Thi-la như vậy, do đây người có trí đồng phạm hạnh, hoặc ở trong xóm làng, hoặc ở chỗ vắng đã thấy rồi, bèn nói như vầy: "Trưởng già nầy làm các việc như vậy, thực hành các hạnh như vậy, vì làng xóm mà chỉ rõ chỗ nhiễm ô bất tịnh, gọi đó là cấu, vì tham sân si có thể hiện tướng phạm giới bất tịnh.
Đốt hại, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si, nên thường bị sinh tử thiêu não, trong thời gian dài nên gọi là đốt hại. Vì vô thỉ sinh tử trôi lăn nhân theo tham sân si mà bị khổ sinh tử đốt hại.
Tiễn, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si, đối với hữu và vật dụng của hữu, khởi sâu truy cầu nối tiếp không dứt, đối với Phật Pháp Tăng và khổ tập diệt đạo sinh nghi ngờ, nên gọi là tiễn, vì đối với Tam bảo hữu tài như bốn đế, tùy theo môn ái nghi có thể bắn tên khiến cho thương tích.
Sở hữu, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si, chứa để tài vật, có kinh sợ, có thù oán, thường ở trong tán loạn nên gọi là sở hữu. Do chứa để tất cả tài sản mà thường tương ưng với lo sợ. Hành vi ác, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si mà thường làm những hành vi ác của thân ngữ, ý, nên gọi là hành. Do tham sân si có thể dẫn phát các hành bất thiện như sát sinh… lại cũng tức là nương vào môn tham sân si nầy mà sinh ra vô lượng hành vi ác bất thiện, lập ra ba thứ căn bất thiện. Vì sao? Vì ái vị thế gian của các hữu tình, tất cả làm nhân hành các hành vi ác, tham cầu tài lợi, vì hành hành vi ác nên phân biệt thế gian. Tướng oán làm nhân gây ra các hành vi ác, do ôm sân hận, không chịu được tội của người thường gây ra hành vi ác nên chấp trước thế gian. Pháp tà làm nhân gây ra các hành vi ác, do có tâm ngu si mà khởi kiến điên đảo, nương theo sự thờ cúng mà gây ra hành vi ác, nên tham sân si nầy cũng gọi là hành vi ác, cũng gọi là căn bất thiện.
Lậu, có ba thứ: 1. Dục lậu. 2. Hữu lậu. 3. Vô minh lậu. Khiến cho tâm liên tục tuôn chảy tán loạn không dứt nên gọi là lậu. Điều nầy lại là thế nào? Là nương vào ngoại môn tuôn chảy mà lập hữu lậu, nương vào môn hai chỗ nương nầy mà tuôn chảy nên lập vô minh lậu. Khiến cho tâm liên tục tuôn chảy tán loạn không dứt là nghĩa lậu.
Quỹ (thiếu thốn), có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si, đối với tài sản sinh sống hằng khởi tìm cầu không thoả mãn, thường bị nghèo túng làm phiền não, nên gọi là quỹ. Vì tham sân si có thể làm cho thân tâm thường thiếu thốn.
Nhiệt, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si, không đúng chánh lý, mà chấp trước các tướng, chấp trước các tùy hảo. Do chấp trước tướng và tùy hảo mà đốt não thân tâm, nên gọi là nhiệt, vì không đúng chánh lý mà vọng chấp tướng hảo khiến thiêu đốt thân tâm.
Não, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si, tùy các xứ ái lạc đắm chấp kia, các chấp đắm ấy nếu biến hoại thì liền tăng thêm sầu than, là sự xúc chạm của các thứ ưu khổ nóng bức, nên gọi là não.
Do đối với các việc đáng yêu như sắc v.v… đã ái nhiễm sâu, nếu sắc kia biến hoại thì các hữu tình liền thành các thứ sầu than, là sự não loạn của khổ.
Tránh, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si, cầm nắm dao gậy, xảy ra chiến tranh, các thứ thưa kiện, nên tham gọi là Tránh.
Lẫy lừng, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Do nương vào tham sân si, bị sự thiêu đốt của đại hoả phi pháp tham. Phi pháp tham, là tùy tham chấp nghiệp đạo bất thiện, lại cũng thiêu đốt của đại hoả bất bình đẳng. Tham Bất bình đẳng là tham cầu cảnh giới phi pháp phi lý. Lại bị đại hỏa tham tà pháp thiêu đốt. Tà pháp, là thuyết ác và pháp luật ác của ngoại đạo, vì tham phi pháp có thể phát khởi đại hoả đốt cháy thân tâm, như lửa đốt cháy nên gọi là lẫy lừng.
Rừng rậm, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si, trong các hành sinh tử căn bản mà sanh khởi nhiều nhiễm chấp, khiến hữu tình chiêu cảm các thứ thân trôi lăn trong năm đường, làm cho các hữu tình ở trong rừng rậm lớn của hành sinh tử căn bản khó có thể ra khỏi, nên tham sân si cũng gọi là rừng rậm. Câu ngại, có ba thứ: 1. Tham. 2. Sân. 3. Si. Vì nương vào tham sân si mà luyến ái bản thân và tài sản, không giác ngộ rõ chỗ vui thú ồn náo, được chút ít pháp thiện thì liền thoả mãn, do đó không thể tu các pháp thiện nên gọi là câu ngại. Nương vào tham sân si mà luyến ái thân và tài sản, chướng ngại hữu tình không được tự tại tu các pháp thiện.
Lại nữa, sự luyến ái bản thân và tài sản nầy, tức là nương vào năm thứ tâm câu ngại mà nói. Năm thứ tâm ấy là: 1. Luyến ái thân. 2. Luyến ái các dục lạc tương tạp trụ. 3. Thiếu thuận theo giáo giới giáo thọ. 4. Các phẩm thiện được ít cho là đủ. 5. Gây chướng ngại cho tâm nên gọi là tâm câu ngại. Những thứ phiền não như vậy, trong môn nghĩa có vô lượng sai khác.
Tà hạnh, là hai thứ phiền não tham và sân, vì mê cảnh giới và kiến khởi tà hạnh, là do dứt Tu đạo đoạn và do Kiến đạo đoạn, tùy thứ lớp của nó, hai thứ tham sân duyên với tướng thiểu tịnh và tướng trái nhau làm cảnh giới, nên gọi là cảnh giới mê. Tuy cũng duyên hữu tình mà khởi tham sân, nhưng nương vào môn cảnh giới mà khởi, cũng gọi là cảnh giới mê. Mạn thì mê hữu tình và kiến khởi tà hạnh, vì đối với những người hạnh thấp kém thì cho mình là hạnh thù thắng, đối với môn hữu tình thì chuyển theo giải thoát tà. Tát-ca-da kiến, biên chấp kiến, tà kiến, mê cảnh sở tri mà khởi hạnh tà, nương vào môn tăng ích tổn giảm, như sự thích ứng của nó, kiến thủ, giới cấm thủ mê các kiến mà khởi tà hạnh, vì đối với lỗi của các kiến chấp là bậc nhất và giới cấm thanh tịnh, nghi thì mê chỗ đối trị khởi tà hạnh, trong các đế thì thành hai cách giải thích, vô minh thì mê tất cả mà khởi tà hạnh. Lại mười phiền não đều mê khổ tập mà khởi tà hạnh, vì là nhân duyên chỗ nương của phiền não kia. Vì sao? Vì hai đế khổ và tập đều là nhân duyên của mười thứ phiền não. Lại làm chỗ nương cho, nên tất cả mê chỗ nương nhân duyên nầy mà khởi các tà hạnh. Lại nữa mười phiền não đều mê diệt đạo mà khởi các tà hạnh, do đây có thể sinh kinh sợ. Vì sao? Vì năng lực của phiền não mê đắm sinh tử. Đối với pháp thanh tịnh thì khởi tưởng như đứng trên dốc cao mà sinh kinh sợ. Lại các ngoại đạo đối với Diệt đế đạo đế, vọng khởi các thứ phân biệt điên đảo, cho nên mười hoặc đều mê lầm diệt đạo mà khởi các tà hạnh.
Giới là gì, là trừ sân ra, tất cả thông còn lại với sự lệ thuộc ba cõi. Sân chỉ có lệ thuộc cõi Dục, vì duyên vào cảnh trái nghịch và tổn hại mà sinh. Lại tham ở cõi Dục thì tương ưng với lạc, hỷ, xả. Như ở cõi Dục, tại Sơ tĩnh lự và hai tĩnh lự cũng vậy. Đối với tĩnh lự thứ ba thì tương ưng với lạc xả, các tĩnh lự trên thì chỉ tương ưng với xả. "Tham ở cõi Dục thì tương ưng với lạc", là tại năm thức thân. "Tham ở cõi Dục thì tương ưng với hỷ", là ở ý thức thân. "Tham ở cõi Dục thì cùng với xả tương ưng", là tại tất cả xứ. Tại vị nối tiếp cuối cùng, lý do không tương ưng với ưu khổ, là do hành vui mừng chuyển. Sân tương ưng với khổ ưu xả. "Sân tương ưng với khổ", là ở năm thức thân. "Ưu tương ưng", là ở thức thứ sáu. Nguyên nhân không tương ưng với hỷ lạc, là do hành lo lắng chuyển nên có thể bức não tự nối tiếp, gọi là hành lo buồn. "Sân tương ưng với xả", là ở tất cả mọi nơi, như trước đã nói. Mạn ở cõi Dục tương ưng với hỷ xả, tại bậc nhất và tĩnh lự thứ hai cùng với lạc hỷ xả tương ưng, tại tĩnh lự thứ ba cùng với lạc xả tương ưng, tĩnh lự thứ tư trở lên thì chỉ có xả tương ưng. Mạn ở cõi Dục không cùng với lạc tương ưng, là vì không có năm thức. Nếu như thế thì tại bậc nhất và tĩnh lự thứ hai, làm thế nào cùng với lạc tương ưng? Tương ưng với lạc ý địa nên không có lỗi. Thế nào là hai tĩnh lự kia có lạc ý địa?
Vì nói địa kia có hỷ lạc, như kinh nói: Thế nào là hỷ? Là người đã chuyển y nương vào chuyển thức tâm vui vẻ, tâm phấn khích, tâm thích hợp, tâm điều hòa, tâm an ổn, thích được sự nhiếp thọ. Nương vào chuyển thức, tức là nương vào ý thức, vì ở vị Tam-ma-hí-đa thì các thức khác không có. Thế nào là lạc? Là người đã chuyển y nương vào thức A-lại-da mà thâu nhiếp chỗ nương, chỗ nương vui, an thích hợp, nhận sự nhiếp thọ của thọ". Ý kinh nầy nói, lạc thọ nương vào bậc nhất và tĩnh lự thứ hai, khi sinh thì tương ưng với các nhóm tâm tâm pháp như vậy. Do tâm phấn khích hiện hành trở lại khiến cho nhóm này đều được vui mừng phấn khích, cũng khiến cho tự thể của chỗ nương là thức A-lại-da, an vui vui thích, do lạc thọ nầy làm hai sự, thể dù là một, nhưng lập thành hai thứ, hoặc hỷ hoặc lạc, nên nói tương ưng hỷ và lạc nầy.
Mạn tương ưng với hỷ lạc. Như mạn, đối với Tát-cada kiến, biên chấp kiến, kiến thủ, giới cấm thủ cũng vậy. Tà kiến ở cõi Dục cùng tương ưng với ưu hỷ xả, ở cõi Sắc và cõi Vô Sắc tùy sự có thọ đều cùng tương ưng. Thế nào là tà kiến ở cõi Dục tương ưng với ưu hỷ xả? Đầu tiên là người tạo tác diệu hành và ác hành, thấy hai thứ nầy không có quả báo mà sinh mừng và lo. Nguyên nhân không cùng với khổ lạc tương ưng là do tất cả kiến đều ở tại ý địa.
Nghi ở cõi Dục cùng tương ưng với ưu xả, ở cõi Sắc và cõi Vô Sắc tùy theo tất cả thọ thì đều cùng tương ưng. Nguyên nhân cõi Dục không cùng với hỷ tương ưng, vì tâm không chắc chắn, hoặc chưa diệt dứt, vì hỷ không sinh. Nghi trong cõi Sắc và nghi của các tĩnh lự cõi trên, do sự dẫn trì của định lực hỷ lạc mà cũng chuyển theo, nên tại nghi kia cũng cùng với hỷ lạc tương ưng.
Vô minh có hai thứ là vô minh tương ưng và vô minh bất cộng tương ưng, vì tất cả phiền não đều tương ưng, hoặc ở xứ đó tùy theo tất cả thọ đều được tương ưng. Vô minh bất cộng ở cõi Dục tương ưng với ưu xả, tại các đường trên tùy tất cả thọ đều được tương ưng. Hỷ lạc tương ưng hay không tương ưng thì lý cũng như nghi đã nói.
Thế nào là các phiền não đều tương ưng với xả? Vì tất cả phiền não rơi vào vị trung dung mới dứt hết. Vì sao? Vì phiền não sinh khởi xoay vần nối tiếp, dần dần mỏng yếu, thế lực sắp hết thì rơi vào xứ trung vị. Trong vị nầy chắc chắn tương ưng với xả.
Lại nữa, tham trong cõi Dục thì ở sáu thức thân, sân và vô minh cũng vậy. Tham trong cõi Sắc thì ở bốn thức thân, vì trong cõi đó không có tỷ thức và thiệt thức, trong cõi Vô Sắc thì chỉ ở ý thức thân, vô minh cũng vậy. Mạn kiến và nghi trong tất cả xứ thì chỉ ở ý thức thân, vì các mạn kiến nghi kia xứng các môn của lượng mà chuyển. Lại nữa, tham sân mạn đối với cõi Dục duyên một phần sự mà chuyển, cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng vậy. Mạn duyên một phần sự mà chuyển, là đối với một phần cao cử mà sinh, các phiền não khác thì đối với tất cả mọi nơi duyên khắp một phần sự mà chuyển.
Chúng, là hai chúng phiền não: 1. Do chúng Kiến đạo đoạn. 2. Chúng do tu đạo đoạn. Khổ do Kiến đạo đoạn ở cõi Dục có đủ mười phiền não. Như Kiến đạo đoạn khổ, Kiến đạo đoạn tập, diệt, đạo cũng vậy, nếu mê bốn đế nầy mà khởi tà hạnh, thì liền thấy đế mà dứt.
Hỏi: Nếu duyên các đế nầy làm cảnh tức là mê các đế nầy mà khởi tà hạnh chăng?
Đáp: Không hẳn như vậy, vì duyên vô lậu làm cảnh, thì phiền não chỉ ở tại sự hữu lậu mà tăng theo, hoặc là xứ, hoặc là nhân duyên kia và chỗ nương, nhân duyên kia mê chỗ nương nầy mà khởi tà hạnh là thấy khổ mà dứt. Như thấy khổ mà dứt, thấy đạo mà dứt của tập diệt đạo cũng vậy, tùy sự thích ứng của nó mà thấy bốn thứ (khổ tập diệt đạo) sự đoạn của cõi Sắc mỗi cõi đều có chín phiền não trừ sân. Như cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng vậy. Như vậy chúng phiền não của thấy đạo mà dứt tổng có một trăm mười hai thứ, tu đạo mà dứt của cõi Dục có sáu thứ, là Tát-ca-da kiến câu sinh, biên chấp kiến, tham, sân, mạn, vô minh.
Hỏi: Thế nào gọi là tu đạo mà dứt?
Đáp: Là Tát-ca-da kiến câu sinh. Các Thánh đệ tử tuy thấy đạo đã sinh, nhưng còn nương vào Kiến đạo nầy nên ngã mạn hiện hành. Như trong kinh nói: "Nầy Trưởng già Đà-sách-ca! nên biết ta đối với năm thủ uẩn không thấy ngã và ngã sở". Nhưng đối với năm thủ uẩn có ngã mạn, ngã dục, và ngã tùy miên, là chưa dứt hẳn, chưa hiểu rõ khắp, chưa diệt chưa loại bỏ hẳn, như sữa mẹ dính trên áo, tuy dùng đất mặn, nước… tẩy giặt cho sạch, nhưng nếu chưa xông hương thì mùi hôi cũng chuyển theo, lại dùng các vật thơm xông ướp thì mùi hôi mới hết. Như vậy các Thánh đệ tử của Phật tuy dùng
Kiến đạo dứt hẳn các cấu nhiễm của thân kiến phân biệt, nếu chưa dùng tu Đạo để huân tập nối tiếp thì sự dẫn tập khí của tập quán luống dối chấp trước từ vô thỉ không phân riêng sự và ngã kiến tùy chuyển theo. Lại nữa, vì tùy theo Đạo đế huân tập nối tiếp thì tập khí kia mới diệt trừ dứt hẳn. Biên chấp kiến câu sinh, là sự thâu nhiếp của đoạn kiến. Do kiến nầy mà tâm đó đối với giới Niếtbàn lui sụt sinh rất kinh sợ, nghĩ rằng cái ngã của ta bây giờ ở đâu? Các phiền não như tham… là sự dứt của tu đạo, là trừ sự thâu nhiếp của phẩm kiến, sự đoạn của tu đạo trong cõi Sắc có năm thứ trừ sân. Như cõi Sắc, cõi Vô Sắc cũng vậy. Như thế sự dứt phiền não của tu đạo tổng cộng có mười sáu thứ.
Hỏi: Đoạn là thế nào?
Đáp: Là như dứt sai khác nầy, do tác ý ấy dứt từ dứt sai khác nầy mà được dứt. "Như dứt sai khác nầy", là biến tri, xa lìa, đắc đối trị. Biến tri là nhân duyên của dứt sai khác kia biết khắp sự, biết khắp tự thể, biết khắp tội lỗi. "Nhân duyên của dứt sai khác kia biết khắp sự", là biết phiền não và tùy miên kia chưa dứt hẳn, như trước đã nói. "Biết khắp tự thể", là biết phiền não nầy đã sinh rồi thì rất não loạn tâm tánh. "Biết khắp tội lỗi", là biết phiền não nầy có thể dẫn đến hại mình, có thể dẫn đến hại người, có thể dẫn đến hại cả hai, có thể sinh tội lỗi nơi hiện pháp, có thể tội lỗi hậu pháp, có thể sinh tội lỗi hiện pháp hậu pháp, có thể khiến cho hữu tình thọ sinh thân tâm ưu khổ. Xa lìa là dứt sai khác kia tạm thời sinh nhưng không chấp chặt. "Do nhân duyên của đoạn sai khác kia biết khắp sự, biết khắp tự thể, biết khắp tội lỗi", là đối với đoạn sai khác kia đã sinh tất cả phiền não, tâm không chấp chặt nơi phương tiện xa lìa. Đắc đối trị là phiền não chưa sinh khiến cho bất sinh, phiền não đã sinh thì khiến cho đoạn mà đắc đạo đối trị. Vì khiến cho phiền não chưa sinh đã sinh, bất sinh dứt hẳn, là đạo tu trị.
Hỏi: Thế nào là tác ý năng đoạn?
Đáp: Duyên chung tác ý quán tất cả pháp đều là tánh vô ngã có thể dứt phiền não. Duyên chung tác ý là hợp chung duyên tất cả cộng tướng của pháp hành tác ý.
Hỏi: Nếu người chỉ có duyên chung các pháp vô ngã, trí có thể dứt phiền não, vì sao hiển bày các hạnh Vô thường?
Đáp: Không phải vì dứt phiền não nên tu tập các hạnh kia, chỉ vì tu trị hạnh vô ngã, do nương vào hạnh Vô thường dẫn đắc hạnh khổ, như vậy do hạnh khổ mà dẫn phát hạnh vô ngã. Như kinh nói: "Vì Vô thường nên khổ, vì khổ nên vô ngã, do đó lập ra hạnh vô ngã nầy thành vô thượng. Vô thượng có ba thứ, là trí vô thượng, hạnh vô thượng, và giải thoát vô thượng". Trí vô thượng, là trí vô ngã, đắc trí nầy rồi thì càng không có chỗ cầu. Hạnh vô thượng là hạnh lạc tốc thông, là bậc nhất trong tất cả hạnh. Giải thoát vô thượng là Vô học bất động giải thoát, là tối thắng trong tất cả giải thoát. Ba thứ vô thượng nầy như thứ lớp của nó, là nói theo Kiến đạo Vô học và tu đạo Vô học mà nói.
Hỏi: Từ đâu mà được dứt?
Đáp: Không từ quá khứ đã diệt, không từ vị lai chưa sinh, không từ hiện tại đạo không đồng thời, nhưng từ các phiền não thô nặng mà được dứt. Để đoạn các phẩm thô nặng như vậy như vậy, nên sinh phẩm đối trị như vậy như vậy. Nếu phẩm đối trị nầy sinh, thì phẩm thô nặng nầy diệt, bình đẳng bình đẳng cũng như thế gian ánh sáng sinh thì bóng tối diệt. Vì phẩm nầy lìa trói buộc khiến cho phiền não vị lai dừng lại không sinh trong pháp, gọi đó là dứt.
Hỏi: Lại nữa, phiền não tăng thượng đã sinh nghiệp ra sao?
Đáp: Hoặc tư nghiệp, hoặc tư dĩ nghiệp, gọi chung là tướng nghiệp. Lại nữa, nghiệp có năm thứ: 1. Nghiệp thủ thọ. 2. Nghiệp tác dụng. 3. Nghiệp gia hạnh. 4.
Nghiệp chuyển biến. 5. Nghiệp chứng đắc.
- Nghiệp thủ thọ, là nhãn... Có thể thấy sắc.
- Nghiệp tác dụng, là địa… có thể giữ gìn, hoặc lại sự tạo tác tự tướng của các pháp là tất cả sắc chất ngại, biến hoại như vậy.
- Nghiệp gia hạnh, là ý hiểu biết làm đầu để khởi thân nghiệp.
- Nghiệp chuyển biến, là thợ vàng thợ bạc làm các vật dụng trang sức.
- Nghiệp chứng đắc, là Thánh đạo chứng Niết-bàn.
Nay ý trong nghĩa nầy, phần nhiều là phân biệt nghiệp gia hạnh, cũng có chút ít gồm cả hai nghiệp chứng đắc và tác dụng.
Hỏi: Tư nghiệp là thế nào?
Đáp: Là nghiệp phước, nghiệp phi phước và nghiệp bất động.
Hỏi: Tư dĩ nghiệp là thế nào?
Đáp: Là thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp. Lại thân ngữ ý ba nghiệp nầy hoặc thiện hoặc bất thiện.
Nghiệp bất thiện là mười nghiệp đạo bất thiện: 1. Sát sinh. 2. Không cho mà lấy. 3. Dục tà hạnh. 4. Vọng ngữ. 5. Ly gián ngữ. 6. Thô ác ngữ. 7. Ý ngữ. 8. Tham dục. 9. Sân sân. 10. Tà kiến.
Thiện tức là mười thiện nghiệp đạo: 1. Lìa sát sinh. 2. Lìa bất dữ thủ. 3. Lìa dục tà hạnh. 4. Lìa vọng ngữ. 5. Lìa lìa gián ngữ. 6. Lìa thô ác ngữ. 7. Lìa lời tạp uế. 8. Vô tham. 9. Vô sân. 10. Chánh kiến.
Nay trong đây chỉ dùng nghiệp đạo để nói về các nghiệp như thân…, vì thuận theo kinh ngay trên thù thắng mà nói, thì các phương tiện kia cũng là sự thâu nhiếp của nghiệp, ba nghiệp đầu, bốn nghiệp kế và ba nghiệp sau cùng, tùy sự thứ lớp của nó là tướng nghiệp của thân ngữ và ý. Lại nữa, sát sinh… nên lấy năm môn phân riêng tướng của nó, là sự, ý lạc, phương tiện, phiền não, rốt ráo. Các sự của sát sinh, là số hữu tình và số phi hữu tình, như sự thích ứng của nó nương vào sự khởi sát sinh của xứ đó. Ý lạc là đối với sự nầy khởi tưởng ý lạc nầy và khởi ý lạc nghiệp đạo nầy. Phương tiện, là tác dụng nầy hoặc tự hoặc tha phát khởi thân ngữ ý. Phiền não, là tham sân si, như sự thích ứng của nó hoặc chung hoặc riêng. Rốt ráo, là các phương tiện kia như vậy như vậy mà nghiệp đạo hoàn thành, hoặc ngay lúc đó hoặc sau đó.
Việc sát sinh trong nghĩa nầy là số hữu tình, ý lạc là ý tưởng và hại, phương tiện là vật gây hại như dao gậy… phiền não là tham… rốt ráo là chúng sinh kia do phương tiện chết ngay hoặc thời gian sau mới chết. Sự không cho mà lấy sẽ phân biệt rộng, các nghiệp còn lại nên như lý suy nghĩ.
Không cho mà lấy là thuộc về người khác, hoặc số hữu tình và số phi hữu tình. Rốt ráo là lấy làm của mình. Việc dục tà hạnh, là chẳng phải chỗ hành của người nữ, hoặc tuy là chỗ hành nhưng chẳng phải phần, chẳng phải xứ, chẳng phải thời, chẳng phải lượng và chẳng xứng lìa với tất cả người nam và bất nam. Rốt ráo, là cả hai giao hội.
Việc nói dối gạt, là đối với thấy, nghe, hay, biết cho là không thấy, không nghe, không hay, không biết. Ý lạc là nghĩ muốn riêng biệt và nói riêng biệt. Rốt ráo là chúng lúc đó và người đối đáp nhận hiểu.
Việc nói lời chia sẽ, là các hữu tình hoặc hòa hợp hoặc bất hòa hợp. Ý lạc là hữu tình kia khởi nghịch lý và ý bất hòa hợp. Rốt ráo là lãnh hội sự phá hoại.
Việc nói lời thô ác, là các hữu tình có thể làm tổn hại. Rốt ráo là nói lời thô ác.
Việc ỷ ngữ, là có thể dẫn nghĩa không lợi ích. Rốt ráo là chính khi nói ra lời nầy.
Việc tham dục, là sự tài sản thuộc về người khác. Ý lạc là khởi tưởng nầy và ái lạc. Phương tiện là suy xét tính toán muốn là của mình. Rốt ráo là chắc chắn cho là mình có.
Việc sân hận, là các hữu tình có thể làm tổn hại. Rốt ráo là chắc chắn làm hại.
Việc Tà kiến, là thật có nghĩa. Ý lạc là đối với thật có mà khởi tưởng chẳng có và dục lạc kia. Rốt ráo là chắc chắn chê bai.
Như kinh nói: "Do tư tạo nghiệp". Thế nào là do tư tạo nghiệp? Lược có năm thứ: 1. Do sự sai bảo của người khác nên tư tạo nghiệp. 2. Do sự khuyến thỉnh của người khác nên tư tạo nghiệp. 3. Do không có sự biết rõ nên tư tạo nghiệp. 4. Do căn bản chấp trước nên tư tạo nghiệp. 5. Do phân biệt điên đảo nên tư tạo nghiệp. "Do sự sai bảo của người khác nên tư tạo nghiệp", cũng như có một người tuy không dục lạc, nhưng do sự sai bảo bằng sức mạnh của người khác mà phát khởi, nên tư hành bất thiện nghiệp. "Do sự khuyến mời của người khác nên tư tạo nghiệp", cũng như có một người tuy không dục lạc nhưng do người khác khuyến mời dẫn dắt chấp là lợi ích mà phát khởi, nên tư hành nghiệp bất thiện. "Do không có sự biết rõ nên tư tạo nghiệp", giống như có một người không hiểu rõ đức và tội, không có sự chấp trước, tùy theo việc muốn làm, nên tư hành nghiệp bất thiện. "Do căn bản chấp trước nên tư tạo nghiệp", cũng như có một người vì tham sân… che lấp tâm họ, chấp trước bền chắc phát khởi, nên tư hành nghiệp bất thiện. "Do phân biệt điên đảo nên tư tạo nghiệp", cũng như có một người nương vào nhân bất bình đẳng, do thấy ái lạc tà pháp, vì cầu quả Dị thục đáng yêu ở vị lai mà phát khởi, nên tư hành nghiệp bất thiện. Căn bản chấp trước nên tư tạo nghiệp và phân biệt điên đảo nên tư tạo nghiệp trong năm thứ nầy, hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng chẳng phải không thọ Dị thục, vì sao? Vì ba thứ do tư tạo nghiệp trước tuy tạo tác bất tăng trưởng nhưng nhẹ nên không thọ Dị thục. Hai thứ do tư tạo nghiệp sau thì hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng, vì nặng nên chắc chắn phải thọ Dị thục. Tác, là khởi tạo các nghiệp khiến cho nó hiện hành. Tăng trưởng là khiến cho tập khí tăng thêm, vì nuôi lớn hạt giống Dị thục trong thức A-lại-da. Như kinh nói: "Chắc chắn thọ nghiệp. Thế nào là chắc chắn? Là tác nghiệp chắc chắn, thọ Dị thục quyết định và phần vị chắc chắn".
Tác nghiệp chắc chắn, là do nghiệp lực của đời trước chiêu cảm mà được chắc chắn Dị thục nối tiếp, vì trong đời nầy thì phải tạo nghiệp nầy. Vì sao? Vì phải tạo nghiệp nầy trong thời hạn chắc chắn, cuối cùng không vượt khỏi giới hạn thì phải tạo nghiệp nầy, cho đến lực đại thần thông của các Phật Thế Tôn cũng không thể ngăn chận khiến cho không tạo nghiệp, tùy theo năng lực chắc chắn của nhân mà quả nối tiếp chuyển biến.
Thọ Dị thục chắc chắn, là như đã nói trước là do tư tạo nghiệp. Phần vị chắc chắn, là phần vị chắc chắn nghiệp của hiện pháp thọ, như do nghiệp nầy trong hiện pháp nhất định thọ Dị thục, do nghiệp nầy phải thọ sinh Dị thục, do nghiệp nầy phải thọ hậu Dị thục.
Lại, quả Dị thục của mười nghiệp đạo bất thiện, là trong ba đường ác, tùy phẩm hạ trung thượng mà thọ Dị thục bàng sinh, ngạ quỷ hoặc Na-lạc-ca. Quả đẳng lưu, là đều đều tùy theo tướng của nó trong cõi người chiêu cảm được tự thân đầy đủ hay suy tổn, là từ đường ác sau khi chết rồi sinh trong cõi người, vì sát sinh, đạo tặc… mỗi mỗi đều tùy theo tướng của nó mà đều chiêu cảm được tự thân đầy đủ hay suy tổn, cái gọi là tuổi thọ ngắn ngủi, thường nghèo cùng… như sự thích ứng của nó. Quả Tăng thượng, đều tùy theo tướng của nó mà chiêu cảm được tất cả ngoại sự suy tổn, là sát sinh… đều tùy tướng của nó mà chiêu cảm gặt hái… ngoại sự suy tổn, đó là vật dụng ngoại sự bị thiếu thốn, gọi là quả tăng thượng của sát sinh như vậy.
Như kinh nói: "Đối với sự gây ra tất cả mười nghiệp đạo bất thiện, thường tu tập nên đọa vào Na-lạc-ca, Bàng sinh, Ngạ quỷ, đó là quả Dị thục, hoặc đắc lại trong đồng phần của các loại nầy, do sát sinh nên hiện tại bị đoản thọ. Do trộm cắp nên bị thiếu thốn tài vật. Do dục tà hạnh nên vợ không trinh tiết, do nói dối nên thường bị chê bai. Do nói lời chia rẽ nên bạn thân trái lìa nhau. Do nói lời thô ác nên thường nghe những tiếng không như ý. Do nói lời thêu dệt nên lời nói không oai nghi nghiêm túc. Do tham dục nên tham chuyển sung thịnh mạnh mẽ. Do sân hận nên sân càng hưng thịnh mạnh mẽ. Do tà kiến nên si càng hưng thịnh mạnh mẽ, vì các tà kiến là si tăng thượng, đó là quả đẳng lưu. Do gây ra nghiệp sát sinh mạnh mẽ nên tất cả vật dụng bên ngoài sự bị thiếu thốn, do trộm cắp nên bị sương mù mưa đá, do dục tà hạnh nên bị nhiều bụi bẩn dính bám, do nói lời dối gạt nhiều thứ hôi thoái, do nói lời chia rẽ nên gặp cao thấp hiểm trở, do nói lời thô ác nên đất đại chỗ người đó bị mặn xấu, do ỷ ngữ nên thời tiết biến đổi nghịch mùa, do tham dục nên kết quả mùa màng không trúng, do sân hận nên quả vị cay đắng, do tà kiến nên quả vị cay đắng, hoặc hoàn toàn không có quả, đó là quả tăng thượng kia".
Lại, quả Dị thục của mười Nghiệp Đạo thiện, là trong cõi trời cõi người thì thọ Dị thục người, trời. Quả đẳng lưu, tức là trong xứ kia đều tùy tướng của nó mà chiêu cảm được tự thân nhiều thứ đầy đủ hưng thịnh. Quả tăng thượng, là trong xứ kia đều tùy tướng của nó mà chiêu cảm được các việc bên ngoài sự hưng thịnh. Như mười Nghiệp Đạo bất thiện lập ra ba thứ sai khác quả Dị thục, quả đẳng lưu và quả tăng thượng, như vậy ba quả sai khác trong cõi người cõi trời của nghiệp đạo thiện hữu lậu, như sự thích ứng của nó cũng nên lập ra.
Lại, nghiệp thiện và nghiệp bất thiện trong đường lành và đường ác khi chiêu cảm sinh Dị thục thì có hai thứ sai khác: 1. Nghiệp chiêu dẫn. 2. Nghiệp tròn đầy. Nghiệp chiêu dẫn, là do nghiệp nầy có thể dẫn dắt quả Dị thục. Nghiệp tròn đầy, là do nghiệp nầy khi sinh rồi thì lãnh thọ quả ái và quả bất ái.
Lại nữa, hoặc có nghiệp do một nghiệp lực dẫn dắt mà được một thân, là do một nghiệp lực nuôi lớn hạt giống Dị thục của một đời. Hoặc có nghiệp do một nghiệp lực dẫn dắt mà được nhiều thân, là do một nghiệp lực nuôi lớn hạt giống Dị thục của nhiều đời. Hoặc có nghiệp do nhiều nghiệp lực dẫn dắt mà được một thân, là do nhiều sát-na nghiệp niệm niệm nuôi lớn hạt giống Dị thục của một đời. Hoặc có nghiệp do nhiều nghiệp lực dẫn dắt mà được nhiều thân, là do nhiều sát-na nghiệp nương nhờ nhau, dần dần nuôi lớn hạt giống Dị thục của nhiều đời.
Hỏi: Nếu một hữu tình gây ra nhiều nghiệp thì vì sao lại thứ lớp thọ quả Dị thục?
Đáp: Vì trong thân của hữu tình đó, nghiệp nào nặng thì thành thục trước, hoặc khi sắp chết thì nghiệp nào hiện tiền, hoặc trước kia nghiệp nào đã tập quen, thì Dị thục đó thành thục trước tiên. Như kinh nói: "Có ba thứ nghiệp, là nghiệp phước, nghiệp phi phước và nghiệp bất động". Nghiệp phước, là nghiệp thiện của lệ thuộc cõi Dục. Nghiệp phi phước, là nghiệp bất thiện. Nghiệp bất động, là nghiệp thiện lệ thuộc cõi Sắc và lệ thuộc cõi Vô Sắc.
Hỏi: Vì sao nghiệp thiện lệ thuộc cõi Sắc và lệ thuộc cõi Vô Sắc gọi là Bất động?
Đáp: Như các đường khác viên mãn nghiệp thiện và nghiệp bất thiện trong cõi Dục, khi gặp duyên chuyển thì đắc Dị thục của cõi khác, chẳng phải nghiệp của cõi Sắc và cõi Vô Sắc trói buộc, có việc như vậy thì sự nhận cõi và địa Dị thục được chắc chắn, nên giới địa và Dị thục không thể chuyển dời, gọi là Bất động. Lại vì thuộc về định địa nên gọi là Bất động.
Hỏi: Như trong kinh nói "Vô minh duyên hành", thì hành đó hoặc là hành phước, hành phi phước và hành bất động, nhưng vì sao chỉ có hành phước và hành bất động duyên vô minh mà sinh?
Đáp: Có hai thứ ngu: 1. Ngu dị thục. 2. Ngu nghĩa chân thật. Do ngu dị thục mà phát khởi hành phi phước, do ngu nghĩa chân thật mà phát khởi hành phước và hành bất động. "Do ngu Dị thục mà phát khởi hành phi phước", vì ngu Dị thục kia nên toàn bộ là tánh nhiễm ô, khi hợp chung với vô minh thì chắc chắn không dung nạp Dị thục đối với hành tướng chánh kiến của tin hiểu. "Do ngu nghĩa chân thật mà phát khởi hành phước và hành bất động", nghĩa chân thật tức là bốn Thánh đế, ngu si đối với bốn Thánh đế kia nên gọi là chỗ ngu nghĩa chân thật. Người chưa thấy đế, tuy khởi tâm thiện nhưng do sự trói buộc theo của tùy miên kia nên cũng gọi là ngu si, do thế lực kia đối với khổ của ba cõi không biết như thật, nên có thể phát khởi tánh hậu hữu nhân của hành phước và hành bất động, không phải người đã thấy Thánh đế có thể phát khởi nghiệp nầy, vì không có ngu nghĩa chân thật, nên nói nghiệp phước và nghiệp bất động kia do ngu nghĩa chân thật nầy sinh.
Lại nữa, nghiệp đạo sát sinh dùng tham sân si làm phương tiện, do sân rốt ráo. Như sát sinh, nghiệp đạo nói lời thô ác và nghiệp đạo sân hận cũng vậy. "Sát sinh dùng tham làm phương tiện", là da thịt v.v… "Sát sinh dùng sân làm phương tiện", là trừ oán… "Sát sinh dùng si làm phương tiện", là cúng tế… "Do sân là rốt ráo", là lìa tất cả không có từ bi thì chắc chắn sát hại hữu tình khác. Nói lời thô ác ngữ cũng nên như lý mà biết.
Nghiệp đạo trộm cắp dùng tham sân si làm phương tiện, do tham rốt ráo. Như trộm cắp, nghiệp đạo dục tà hạnh và nghiệp đạo tham dục cũng vậy.
Hỏi: Thế nào là tham dục… lại dùng tham dục… làm phương tiện? Đáp: Trước đã nói Nghiệp Đạo Tham dục là đối với tài sản của người mà chắc chắn chấp làm tánh hữu vi của chính mình, hoặc đối với tài sản nầy đầu tiên khởi các tham khác, tăng thêm các hành vi truy cầu, muốn nó là sở hữu của mình, tức thì liền lập tham nầy làm phương tiện của tham. Nếu trước hết khởi sân thì không có các nghiệp đạo khác, đây là phương tiện sân, nếu trước khởi si, mà nhiếp lấy vật của người cho là của mình thì không có lỗi, đây là phương tiện si. Như vậy các việc khác nên như lý mà biết.
Nghiệp đạo nói dối dùng Tham Sân Si làm phương tiện, là trong ba thứ tham sân si bất cứ rốt ráo một thứ nào. Như nói dối, nói lời chia rẽ và nói lời thêu dệt cũng vậy.
Nghiệp đạo tà kiến dùng Tham Sân Si làm phương tiện, là do si rốt ráo.
Hỏi: Lại nữa, như kinh nói "Có cộng nghiệp, có bất cộng nghiệp, có cường lực nghiệp, có liệt lực nghiệp", thế nào là cộng nghiệp?
Đáp: Nếu nghiệp có thể khiến cho các khí thế gian vô số sai khác.
Hỏi: Thế nào là bất cộng nghiệp?
Đáp: Nếu nghiệp có thể khiến cho hữu tình thế gian có các thứ sai khác. Hoặc lại có nghiệp, khiến cho các hữu tình xoay vần tăng thượng, do nghiệp lực nầy nên nói các hữu tình đối nhau làm duyên Tăng thượng, vì các hữu tình kia có sức tăng thượng lẫn nhau, cũng gọi là cộng nghiệp. Do thế lực nầy mà các loài hữu tình xoay vần làm sinh nhân lẫn nhau đổi khác của tâm tâm pháp, nên kinh nói: "Như vậy hữu tình cùng với các hữu tình khác thấy lẫn nhau, không thọ dụng, không dễ có thể đắc."
Hỏi: Thế nào là nghiệp Cường lực?
Đáp: Vì lực đối trị của Bổ-đặc-già-la mạnh mẽ, sự tạo tác các nghiệp bất thiện của tư, do sự thâu nhiếp phục của lực đối trị, khiến cho nghiệp đang thọ Na-lạc-ca chuyển thành hiện pháp thọ, lẽ ra nghiệp hiện pháp thọ chuyển khiến cho không thọ, nên nghiệp gọi là cường lực, vì có thể đối trị với nghiệp có lực mạnh mẽ. Nghiệp có thể trị nầy mong lực mạnh mẽ thù thắng của nghiệp được đối trị, khiến cho sự chiêu cảm các khổ nơi quả Dị thục chuyển biến diệt mất. Lại do sự tạo tác của tư mà tất cả nghiệp thiện so với nghiệp bất thiện, năng lực đối trị mạnh mẽ đều gọi là cường lực. Nương vào nghiệp nầy mà đức Bạc-già-phạm nói: "Thánh đệ tử của ta, có thể dùng vô lượng nghiệp thiện rộng lớn huân tập vào tâm". Các nghiệp tạo tác hữu lượng, thì nghiệp nầy không thể dẫn dắt, không thể dừng trụ, cũng không thể khiến rơi vào các số kia. Lại, lực đối trị của Bổ-đặc-già-la yếu kém, nên sự tạo các nghiệp bất thiện của tư so với các nghiệp thiện, đều gọi là cường lực. Lại nữa, do tư tạo nghiệp Dị thục chắc chắn, không dứt không biết, đều gọi là nghiệp cường lực. Trong đây có ý nói tất cả nghiệp thiện và bất thiện không có sai khác, chỉ có Dị thục chắc chắn. Điều mà đạo lực các bậc Thánh không dứt, đều gọi là nghiệp cường lực. Lại nữa, các nghiệp tánh bất thiện thuộc cõi Dục đều là cường, rất nhiều phiền não và tùy phiền não làm trợ giúp. Lại, trước kia có tập quen nên gọi là nghiệp cường lực, vì niệm niệm huân tập nối tiếp. Lại nữa, nương vào cường vị nên gọi là nghiệp cường lực, do xứ được mùa, là đã tạo tác các nghiệp chấp trước mạnh mẽ, do tịnh tín phát khởi. Lại, không thể đối trị, là các nghiệp đã tạo gọi là nghiệp cường lực, là do người không có pháp Niết-bàn nên tất cả nghiệp của họ thì lực đối trị không chế phục được. Lại, do ruộng đất mà phát khởi nghiệp cường lực, là các nghiệp hại mẹ… lại do tâm gia hạnh mà phát nghiệp cường lực, là đối với Bồđề Vô thượng phát nguyện lớn mạnh… nghiệp do đây sinh, lực của nó mạnh nên gọi là nghiệp cường lực.
Lại nữa, do chín thứ nhân mà phát nghiệp cường lực: 1. Ruộng. 2. Sự. 3. Tự thể. 4. Chỗ nương. 5. Tác ý. 6. Ý lạc. 7. Trợ giúp. 8. Thường tu tập. 9. Cùng nhiều chúng sinh hành chung. Do chín thứ nầy mà phát khởi nghiệp cường lực. Ruộng, là đủ đại công đức có thể làm ruộng phước. Sự, là chỗ bố thí vật nhiều mà tinh diệu. Tự thể, là giới hơn thí, tu hơn giới… đều như vậy. Chỗ nương, là người đã lìa dục mà khởi các nghiệp phước. Tác ý, là tịnh tín mạnh mẽ đồng thời hành tác ý. Ý lạc, là mong cầu tất cả ý lạc của Niết-bàn. Trợ giúp, là tu tập càng rộng các nghiệp phước, sự, cộng tướng, càng nhiếp thọ khác. Thường tu tập, là lúc nào cũng tu tập, hoặc lúc nào cũng tầm tư. Thực hành chung với nhiều chúng sinh, là tự dạy người làm, thấy người làm thì vui theo. Trái với các thứ trên đây là nghiệp liệt lực.
Như Đức Thế Tôn nói: "Hoặc có người nói, Bổ-đặcgià-la của các trượng phu kia, tùy nghiệp như vậy như vậy hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng mà trở lại thọ Dị thục như vậy như vậy. Nếu có sự đó thì không nên tu phạm hạnh thanh tịnh, cũng không thể biết đúng dứt hết các tạo tác bờ mé khổ. Nếu có ai nói, Bổ-đặc-già-la của các trượng phu kia, tùy như vậy như vậy thuận mà thọ nghiệp, hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng, lại thọ như vậy như vậy thuận Dị thục mà mình thọ. Nếu có sự đó thì nên tu tập phạm hạnh thanh tịnh, lại cũng có thể biết đúng hết các tạo tác của khổ và bờ mé khổ".
Hỏi: Kinh nói như vậy có mật ý gì?
Đáp: Trong đây ý của Phật là muốn ngăn dứt tà thuyết như vậy.
Là nghiệp lạc câu hành trở lại có thể chiêu cảm đắc Dị thục lạc câu hành, nghiệp khổ câu hành lại có thể chiêu cảm đắc Dị thục khổ câu hành, nghiệp bất khổ bất lạc câu hành lại có thể chiêu cảm đắc Dị thục bất khổ bất lạc câu hành, nên nói rằng: "Hoặc có kẻ cho rằng, Bổđặc-già-la của các trượng phu kia, tùy nghiệp như vậy như vậy hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng mà lại thọ Dị thục như vậy như vậy. Nếu có sự đó thì không nên tu phạm hạnh thanh tịnh, cũng không thể biết đúng hết các tạo tác của khổ và bờ mé khổ". Vì sao không nên tu phạm hạnh thanh tịnh? Vì các phiền não rất mạnh mẽ, phải do trí tuệ tự cố gắng tự thúc đẩy, cùng với ưu khổ hộ trì giới cấm, hoặc đối với vị lai khi thọ Dị thục kia thì trở lại cùng với ưu khổ đồng thời hộ trì giới cấm, đáng lẽ không có nghĩa lợi. Lại nữa, đối với vợ con của người khác cùng với hỷ lạc đồng thời hủy phạm giới cấm, hoặc đối với vị lai khi thọ dị thục kia lại cùng với hỷ lạc đồng thời, siêng năng xa lìa tức là bỏ hết, nên nói, "Nếu có việc như vậy thì không nên tu phạm hạnh thanh tịnh". Vì sao cũng không thể biết đúng hết các tạo tác của khổ và bờ mé khổ? Tức là do tu tập phạm hạnh như vậy mà chiêu cảm Dị thục, nên Thế Tôn vì ngăn dứt tà thuyết ngoại đạo như vậy, nghiệp lạc câu hành lại thọ lạc Dị thục, nghiệp khổ câu hành trở lại thọ Dị thục khổ, nghiệp bất khổ bất lạc câu hành lại thọ bất khổ bất lạc Dị thục. Nhân Dị thục và quả Dị thục chắc chắn tương tự nên nói kinh nầy. Lại nữa, vì thừa nhận chánh thuyết như vậy nghiệp lạc câu hành, thuận lạc thọ trở lại thọ Dị thục lạc, thuận khổ thọ lại thọ khổ Dị thục, thuận bất khổ bất lạc thọ thì trở lại thọ Dị thục bất khổ bất lạc, nghiệp bất khổ bất lạc thọ câu hành, thuận lạc thọ thì lại thọ Dị thục lạc, thuận khổ thọ thì lại thọ khổ Dị thục, thuận bất khổ bất lạc thọ thì lại thọ bất khổ bất lạc Dị thục. Nghiệp lạc câu hành có hai thứ: 1. Thiện. 2. Bất thiện. Tùy theo sự thích ứng của nó mà thuận khổ thọ, lạc thọ và bất khổ bất lạc thọ ở đời vị lai, lại có thể chiêu cảm Dị thục. Như vậy nghiệp khổ câu hành và nghiệp bất khổ bất lạc câu hành, đều có hai thứ: 1. Thuận theo Dị thục lạc. 2. Chiêu cảm Dị thục lạc. Tùy theo sự thích ứng của nó, đó gọi là mật ý của kinh nầy.
PHẦN QUYẾT ĐỊNH
1. Nghiệp Luật nghi.
2. Nghiệp Bất luật nghi.
3. Nghiệp Phi luật nghi Phi bất luật nghi.
-Nghiệp Luật nghi lại có ba thứ: a. Thuộc về Luật nghi biệt giải thoát. b. Thuộc về Luật nghi tĩnh lự. c. Thuộc về Luật nghi vô lậu.
+ Nghiệp thuộc về luật nghi biệt giải thoát, tức là sự thọ luật nghi của bảy chúng là luật nghi Tỳ-kheo, luật nghi Tỳ-kheo ni, luật nghi Thức-xoa-ma-na, luật nghi Sa-di, luật nghi Sa-di ni, luật nghi Ô-ba-sách-ca, luật nghi Ô-ba-tư-ca và luật nghi Cận trụ.
Hỏi: Nương vào những loại Bổ-đặc-già-la nào mà lập ra luật nghi xuất gia?
Đáp: Nương vào chúng có thể tu hành xa lìa hành vi ác và xa lìa hành vi dục. Do Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni… Nơi năm chúng xuất gia mới có thể suốt đời xa lìa các hành vi ác như sát sinh… và có thể xa lìa phi phạm hạnh.
Hỏi: Nương vào những loại Bổ-đặc-già-la nào mà lập ra luật nghi Ô-ba-sách-ca và luật nghi Ô-ba-tư-ca?
Đáp: Nương vào chúng có thể suốt đời xa lìa hành vi ác, không suốt đời xa lìa hạnh dục. Do hai chúng đó mà lập ra suốt đời xa lìa dục tà hạnh, vì chẳng phải lìa phi phạm hạnh.
Hỏi: Nương vào những loài Bổ-đặc-già-la nào để lập ra luật nghi cận trụ?
Đáp: Nương vào chúng không thể xa lìa hành vi ác và không xa lìa hành vi dục, nên chỉ vì chúng đó mà chế ra luật nghi cận trụ ngày đêm, để giúp cho dần dần đồng thời tu học.
Hỏi: Nếu chỉ tu học một phần học xứ Ô-ba-sách-ca, là nói thành tựu luật nghi Ô-ba-sách-ca hay là nói không thành tựu?
Đáp: Nên nói thành tựu nhưng gọi là phạm giới.
Hỏi: Phiến-đệ-bán-trạch-ca… bị ngăn dứt thọ luật nghi Ô-ba-sách-ca phải không?
Đáp: Không phải ngăn dứt Phiến-đệ-bán-trạch-ca kia thọ luật nghi Ô-ba-sách-ca, nhưng ngăn tánh Ô-basách-ca kia, vì không thể gần gũi hầu hạ hai chúng xuất gia Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni. Cũng như Phiến-đệ-bántrạch-ca, không được gần gũi hầu hạ hai chúng xuất gia Tỳ-kheo và Tỳ-kheo ni, để ngăn dứt tánh Ô-ba-sách-ca kia, hai hình cũng vậy, nam nữ phiền não thường đồng thời hiện hành, không được gần gũi hầu hạ hai chúng nên không nói riêng. Lại nữa, Bán-trạch-ca có năm thứ: 1. Sinh tiện Bán-trạch-ca. 2. Ganh ghét Bán-trạch-ca. 3. Bán nguyệt Bán-trạch-ca. 4. Quán sái Bán-trạch-ca. 5.
Trừ khử Bán-trạch-ca.
+ Nghiệp thuộc về Tĩnh lự luật nghi, là có thể trừ bỏ và điều phục hạt giống phiền não phạm giới phát khởi, là chỗ xa lìa của người lìa dục cõi Dục, là chỗ xa lìa của người lìa dục ở bậc nhất, tĩnh lự đệ hai và thứ ba, đó gọi là chỗ thâu nhiếp Thân Ngữ Nghiệp của Tĩnh lự luật nghi. "Tánh phát khởi phiền não phạm giới", là tham sân… sự trói buộc phiền não và tùy phiền não nơi cõi Dục. "Có thể trừ bỏ và điều phục hạt giống kia", là do tạo lực đối trị tổn hại hạt giống kia. "Lìa dục nơi cõi Dục", là tạo lực đối trị, hoặc ít phần lìa dục hoặc toàn phần lìa dục. "Xa lìa tất cả", là xa lìa được tánh phạm giới kia. "Lìa dục của tĩnh lự bậc nhất, đệ nhị và thứ ba", là do xa phần lực đối trị, khiến cho tĩnh lự kia phát khởi, tất cả hạt giống của phiền não phạm giới càng trở nên suy tổn. Nguyên nhân không nói lìa dục của Tĩnh lự đệ tứ là do sắc thô của cõi Vô Sắc không có, nên lược bớt không lập luật nghi cõi Sắc.
+ Nghiệp thuộc về Luật nghi Vô lậu, là người đã thấy tứ đế, có được tánh giới viễn lìa vô lậu do sức mạnh của tác ý vô lậu.
- Nghiệp bất luật nghi, là những người bất luật nghi, hoặc do sinh trong chủng tánh bất luật nghi, hoặc do thọ trì sự nghiệp của bất luật nghi, là đã hiện hành nghiệp bất luật nghi chắc chắn trong kỳ hạn.
Hỏi: Thế nào gọi là người bất luật nghi?
Đáp: Nếu gọi là người giết mổ dê, nuôi gà, nuôi heo, bắt chim, bắt cá, săn nai, lưới thỏ, trộm cướp, tội phạm đứng đầu, hại trâu, trói voi, lập đàn chú rồng, giữ ngục, sàm nịnh, những người ưa thích gây tổn hại. Giết mổ dê, là sinh sống bằng nghề giết mổ gia súc để mua bán, như vậy nuôi gà nuôi heo… tùy theo sự thích ứng. Trói voi, là thường ở trong núi rừng bắt voi rừng điều phục. Lập đàn chú rồng, là luyện tập thần chú của loài rồng, rắn để mua vui tự nuôi sống. Sàm nịnh, là dùng lời chia rẽ hủy hoại thân nhân của người khác để tạo thế nuôi mạng sinh sống. "Hoặc do sinh trong chủng tánh bất luật nghi, hoặc do thọ trì sự nghiệp của bất luật nghi đó", tức là sinh vào nhà đó, hoặc sinh vào nhà khác, như thứ lớp của nó. "Đã hiện hành nghiệp Bất luật nghi chắc chắn trong kỳ hạn", là phương tiện Thân Ngữ làm đầu chắc chắn chủ yếu thời kỳ hiện hành, nghiệp đó gọi là nghiệp bất luật nghi.
- Nghiệp phi luật nghi phi bất luật nghi, là tất cả nghiệp thiện và nghiệp bất thiện của người trụ phi luật nghi phi bất luật nghi. Hoặc các nghiệp bố thí, ái ngữ… hoặc các nghiệp đánh đấm… không thuộc về luật nghi bất luật nghi, gọi là phi luật nghi phi bất luật nghi.
Lại nữa, nghiệp sai khác có ba thứ:
1. Nghiệp thuận lạc thọ.
2. Nghiệp thuận khổ thọ.
3. Nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ.
- Nghiệp thuận lạc thọ, là tất cả có nghiệp thiện từ cõi Dục cho đến tĩnh lự thứ ba.
- Nghiệp thuận khổ thọ, là nghiệp bất thiện.
- Nghiệp thuận bất khổ bất lạc thọ, là tất cả nghiệp thiện từ tĩnh lự thứ tư trở lên.
Lại nữa, nghiệp sai khác có ba thứ:
1. Nghiệp thuận hiện pháp thọ.
2. Nghiệp thuận sinh thọ.
3. Nghiệp thuận hậu thọ.
- Nghiệp thuận hiện pháp thọ, hoặc là nghiệp Dị thục trong hiện pháp thành thục, là xuất định Từ rồi, đối với nghiệp kia tạo tác, hoặc tổn giảm hoặc tăng ích thì chắc chắn được hiển hiện Dị thục. Như xuất định Từ xuất định Vô tránh, định Diệt tận, quả Dự lưu, quả A-la-hán cũng vậy. Lại Phật là Thượng thủ trong Tăng, tạo nghiệp thiện, nghiệp ác chắc chắn được hiện Dị thục, cũng có phương tiện ý lạc mạnh mẽ khác, nghiệp Thiện và Bất thiện đã làm cũng được hiển hiện Dị thục, nên gọi là nghiệp hiện pháp thọ. Nếu nghiệp đối với đời nầy tạo tác thì ở đời nầy thành thục.
- Nghiệp thuận sinh thọ, hoặc là nghiệp Dị thục trong sinh vô gián thành thục. Sinh vô gián, tức là kế đời nầy, là năm nghiệp vô gián có thể được sinh Dị thục.
Hỏi: Nếu người tạo một vô gián, thì trong sinh vô gián có thể thọ Dị thục của nó, nếu người tạo nhiều nghiệp vô gián thì trong sinh vô gián làm sao được thọ Dị thục của nó?
Đáp: Trong một đời thọ ngay tất cả sự có được Dị thục thì không có lỗi. Vì sao? Nếu người tạo nhiều nghiệp Vô gián thì sự chiêu cảm thân hình rất mềm mại, sự chiêu cảm vật dụng tạo khổ rất mạnh mẽ, do thọ ngay các thứ khổ lớn nầy. Lại có nghiệp Thiện và nghiệp Bất thiện khác, đối với Dị thục của sinh vô gián thành thục, thì tất cả đều gọi là nghiệp Thuận sinh thọ.
- Nghiệp Thuận hậu thọ, là nếu nghiệp Dị thục sau sinh vô gián thành thục, thì trong nghiệp nầy từ vị sơ thục mà đặt tên của nghiệp thuận hiện pháp thọ, nghiệp thuận sinh thọ…, không những chỉ thọ một vị Dị thục ấy, nếu tạo nghiệp trong đời nầy, thì từ đời nầy trở đi Dị thục thành thục, gọi là nghiệp thuận hiện pháp thọ, nếu gây ra nghiệp trong đời nầy, từ sinh vô gián trở đi Dị thục thành thục, gọi là nghiệp thuận sinh thọ, nếu gây ra nghiệp trong đời nầy, thì qua sinh vô gián trở đi Dị thục thành thục, gọi là nghiệp thuận hậu thọ. Nếu nói như vậy tức là khéo thuận với kinh Ha Oán tâm (quở trách tâm thù oán), kinh đó nói: "Do nghiệp vô gián trong Na-lạcca niệm niệm sống chết thọ khổ lớn Dị thục ".
Lại nữa, có bốn thứ nghiệp sai khác:
1. Hắc hắc Dị thục nghiệp.
2. Bạch bạch Dị thục nghiệp.
3. Hắc bạch hắc bạch Dị thục nghiệp.
4. Phi hắc bạch vô Dị thục nghiệp năng tận các nghiệp.
- Hắc hắc Dị thục nghiệp: Là nghiệp bất thiện, vì nhiễm ô, vì Dị thục không đáng ưa.
- Bạch bạch Dị thục nghiệp: Là nghiệp thiện của ba cõi, vì không nhiễm ô, vì Dị thục đáng ưa.
- Hắc bạch hắc bạch Dị thục nghiệp: Là tạp nghiệp thuộc cõi Dục, vì xen lẫn thiện và bất thiện.
Thế nào là một nghiệp vừa Thiện vừa Bất thiện? Trong đây không dựa theo tướng sát-na sanh mà nói một nghiệp vừa Thiện vừa Bất thiện, nhưng dựa theo ý lạc và phương tiện mà nói chung một nghiệp, là ý của kinh nầy dựa theo hai thứ ấy hoặc hắc hoặc bạch không tương tự lẫn nhau để lập ra một thứ nghiệp hắc bạch. Hoặc có nghiệp do ý lạc nên hắc, do phương tiện nên bạch. Hoặc có nghiệp do phương tiện nên hắc, do ý lạc nên bạch. "Do ý lạc nên hắc, do phương tiện nên bạch", giống như có một người vì muốn nói dối người khác, thì trước hết là hiện tướng, khiến cho người kia tin mình rồi do đó mà thực hành tuệ thí, cho đến xuất gia. "Do phương tiện nên hắc, do ý lạc nên bạch", là như có một người vì muốn cho con cái và môn đồ lìa nơi nguy hiểm ở nơi an ổn, do tâm thương xót mà hiện phát các thứ thân ngữ thô ác, trong lúc nầy phát sinh tạp nhiễm.
- Phi hắc bạch vô Dị thục nghiệp năng tận các nghiệp: Là các nghiệp vô lậu trong đạo phương tiện vô gián, vì phương tiện đạo vô gián là dứt đối trị các nghiệp kia. Phi hắc, là lìa phiền não cấu. Bạch, là hoàn toàn thanh tịnh. Vô Dị thục, là sinh tử trái nhau. Năng tận các nghiệp, là do năng lực của nghiệp vô lậu dứt trừ hẳn ba thứ nghiệp hữu lậu của hắc và tập khí của Dị thục.
Lại nữa, y cứ chung tất cả chướng ngại thuận theo thể tánh của tất cả nghiệp vô lậu không có sai khác, như thứ lớp của nó mà lập ra các nghiệp nhiễm ô của khúc, uế, trược, các nghiệp thanh tịnh của tịnh mâu-ni.
Khúc nghiệp, là như Nghiệp thân ngữ ý có thể chướng ngại chánh đạo, tám chi Thánh đạo khiến cho chúng không sinh trưởng.
Uế nghiệp, là như Nghiệp thân ngữ ý có thể tạo ô uế nối tiếp, nương vào đây mà phát sinh chướng nghiệp như vậy.
Trược nghiệp, là như Nghiệp thân ngữ ý nương vào kiến điên đảo của ngoại đạo mà sinh, không tin sự đối trị trong Thánh giáo thanh tịnh của tất cả Như Lai, vì thuộc về hỗn trược.
Lại có sai khác rơi vào bên đoạn và bên thường, trái với nghĩa hàng lớp trong xứ gọi là khúc. Sự thâu nhiếp tăng ác của kiến tổn giảm, của đã lập pháp nghĩa thanh tịnh, gọi là uế. Sự thâu nhiếp của Tát-ca-da kiến, chướng nghĩa của kiến chân vô ngã gọi là trược.
Nghiệp tịnh, cùng với các nghiệp như vậy tạp nhiễm trái nhau theo đó mà hiểu. Ba tịnh nghiệp, là thiện tịnh Thi-la, thuộc kiến ngay thẳng, vì nghiệp thân ngữ ý xa lìa cấu uế của kiến hủy phạm giới. Nghiệp ba Mâu-ni, là tất cả Nghiệp thân ngữ ý của bậc hữu học và Vô học, vì chỉ có các Mâu-ni mới có nghiệp nầy. Lại nữa, có các nghiệp thanh tịnh của thí.
Hỏi: Thế nào là nghiệp thí?
Đáp: Là Nhân duyên, Đẳng khởi, Xứ sở, Tự thể.
Phân biệt nhân duyên nghiệp thí, là gốc lành Vô tham, Vô sân và Vô si.
Đẳng khởi, là Tham Sân Si đồng hành với tư. Xứ sở, là vật được thí. Tự thể, là nghiệp thân ngữ ý khi chánh thức hành thí.
Hỏi: Thế nào là thí tròn đầy?
Đáp: Là thí mãi mãi không nghiêng về bè đảng, tùy sự mong muốn mà thí tròn đầy, thí được tròn đầy nương vào nghĩa nầy mà kinh nói như vầy: "Là Đại thí chủ, đây là nói nghĩa thường bố thí, do tập quen thành tánh nên thường có thể thí. Tất cả Sa-môn và Bà-la-môn, đây là nói về nghĩa vô thiên đảng thí (thí không thiên vị bè nhóm), vì tất cả thí không có sai khác. Hoặc ăn hoặc uống, đây là nói về nghĩa tùy sự muốn mà bố thí tròn đầy, như ý nguyện mà tất cả tài sản đều bố thí".
Lại, vì thí không có chỗ nương, thí thanh tịnh rộng khắp, thí vui mừng thường thí, thí ruộng đất vật dụng, thí khéo phân bố mới cũ nên thí được tròn đầy. Nương vào nghĩa nầy nên kinh nói như vầy: "Giải thoát, buông thả tay thí vui, xa lìa cúng tế xả, đầy đủ, khi đang thí thì vui vẻ… phân phát". Các câu như vậy tùy thứ lớp của nó mà hiển bày. Bố thí không chỗ nương. Bố thí không chỗ nương: Là không hồi hướng về hữu và tài sản mà thực hành tuệ thí. Ruộng đất vật dụng: Là ruộng nghèo khổ và ruộng công đức. Buông tay, là buông tay rộng thực hành tuệ thí không co giấu tay. Thường cúng tế, là tập quen cúng tế đã thành tánh. Xả đầy đủ, là tuệ làm đầu. Khi đang thí thì vui vẻ… phân phát, là đối với người đến cầu xin thì lấy vật bố thí mà phân phát đều.
Làm sao biết vật thí tròn đầy? Là tài sản bố thí chẳng phải do dối trá mà được, tài sản bố thí không phải xâm chiếm của người khác mà được, tài sản bố thí không phải uế tạp và lìa cấu, tài sản bố thí thanh tịnh, tài sản bố thí như pháp được dắt dẫn, đó gọi là vật thí tròn đầy. Nương vào nghĩa nầy nên kinh nói: "Phát khởi sở đắc của chánh cần". Tài sản, đây là nói vật thí không phải dối trá mà được. Dối trá mà được, là không khởi chánh cần, nhưng được tài sản ở mình ở là vật gởi của người khác gởi. Vì mưu trá mà được nên vận dụng sức của cánh tay để có tài vật: Đây là nói vật thí không phải xâm chiếm của người khác mà được. Xâm chiếm của người khác mà được, là không phải tự vận động sức tay mà được, cần khổ các thứ phương tiện đoạt được tài sản của người khác, xâm chiếm lấy. Lìa vật ô cấu, đây là nói vật thí không phải ô uế và lìa cấu, vì sự thí vật xa lìa cấu uế và tạp nhiễm. Như pháp tài: Đây là nói vật thí thanh tịnh, vì xa lìa dao gậy, rượu độc… là những thứ không phải vật thí thanh tịnh. Như pháp sở đắc: Đây là nói vật thí như pháp đã dẫn, vì xa lìa sự cân đo dối trá đồng với tài vật tà mạng.
Lại nữa, như trong kinh nói: "Thành tựu Thi-la thì khéo có thể ngăn ngừa Luật nghi Biệt giải thoát. Phép tắc đã làm đều được tròn đầy, thấy tội nhỏ nhiệm sinh sợ hãi lớn, đối với các học xứ khéo có thể thọ học".
Hỏi: Thế nào là thành tựu Thi-la, hay có thể thọ trì, có thể giữ gìn Thi-la?
Đáp: Là thọ trì tịnh giới tương ưng không thiếu, nên gọi là thành tựu Thi-la.
Hỏi: Thế nào là khéo có thể ngăn ngừa luật nghi biệt giải thoát, hay có thể khéo hộ trì Thi-la xuất ly?
Đáp: Là vì cầu giải thoát từng phần riêng biệt mà ngăn ngừa tất cả luật nghi, nên gọi là luật nghi Biệt giải thoát, vì luật nghi nầy có thể mau chóng ra khỏi sinh tử. Hỏi: Thế nào là phép tắc đã làm đều tròn đầy, hay đầy đủ Thi-la thì khó bị hủy phạm trách mắng?
Đáp: Phép tắc tròn đầy, là oai nghi… vì không phải bị quở trách của người thông tuệ. Đã làm tròn đầy, là xa lìa năm chỗ Tỳ-kheo không đến năm chỗ là:
1. Nhà Xướng linh.
2. Nhà Dâm nữ.
3. Nhà bán rượu.
4. Nhà vua.
5. Nhà Chiên-trà-la Yết-sĩ-na.
Hỏi: Thế nào là thấy tội nhỏ mà sinh sợ hãi lớn, hay mạnh mẽ cung kính Thi-la đã học?
Đáp: Trong già tội mạnh mẽ cung kính, tu học hộ trì cũng như tánh tội, nên gọi đó là thấy tội nhỏ nhiệm mà sinh sợ hãi lớn.
Hỏi: Thế nào là đối với học xứ thọ học, hay thọ học tròn đầy đã học Thi-la?
Đáp: Là thọ học đầy đủ, tròn đầy học xứ, nên gọi là đối với các học xứ khéo thọ học, rồi từ đó về sau nương vào Thi-la giải thích nghĩa hộ thân… trong kinh Phật.
Hỏi: Thế nào là giữ gìn thân ngữ, hay do sự nhiếp giữ của chánh giải kia?
Đáp: Như Phật đã cho phép, về các sự qua lại thì trước hết quán sát rồi mới chánh thức hành trì.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ cụ túc tròn đầy, không bao giờ hủy phạm điều đã hủy phạm?
Đáp: Là không trái nghịch tổn hại Thi-la thanh tịnh. Hỏi: Thế nào là thân ngữ thanh tịnh hiện hành, hay là do không hối… Dần dần tu hành lâu đến khi đắc định làm chỗ nương?
Đáp: Là nương vào năng lực định khiến xa lìa mọi cấu nhiễm của việc phạm giới.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ cực thiện hiện hành, hay là sự không xen lẫn của tầm tư?
Đáp: Là sự không thể xen lẫn của tầm tư nhiễm ô, vì hoàn toàn thanh tịnh.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ vô tội hiện hành, xa lìa tà nguyện tu phạm hạnh?
Đáp: Là không hồi hướng nơi hữu và tài sản mà tu hành phạm hạnh, được các Thánh hiền khen ngợi.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ vô hại hiện hành, hay là không khinh khi người khác thì dễ sống chung?
Đáp: Là không tự cao xem thường người khác, vì khó sống chung là sự tổn hại.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ thuận theo hiện hành, hay là có thể thuận theo đắc Niết-bàn?
Đáp: Là có thể thuận theo đắc Niết-bàn, được Thánh đạo dẫn dắt.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ tùy ẩn hiển hiện hành, ẩn thiện hiển ác?
Đáp: Là ẩn công đức của tự mình, hiển tội lỗi của mình.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ thân thiện hiện hành, hay là người đồng phạm hạnh nhiếp thọ Thi-la?
Đáp: Là đồng phạm hạnh nhiếp thọ Thi-la thì nên quy hướng.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ ứng hợp hiện hành, hay là đối với vị tôn quý lìa kiêu mạn?
Đáp: Là đối với tôn trưởng và đồng bậc tôn trưởng, dứt bỏ kiêu mạn như sự ứng cúng.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ kính thuận hiện hành, hay đối với bậc tôn kính dạy răn thì kính thuận lãnh thọ?
Đáp: Là đối với ngữ ngôn của bậc tôn trưởng kính thuận lãnh thọ, vì lìa bỏ kiến thủ của tự mình.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ vô nhiệt hiện hành, hay xa lìa khổ hạnh nóng bức và dục giải thấp kém?
Đáp: Là lìa hạnh dục giải thấp kém và các khổ hạnh của ngoại đạo, vì không tự thiêu đốt mình.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ bất não hiện hành, hay là từ bỏ tài sản sự nghiệp mà không hối tiếc?
Đáp: Là do từ bỏ tài sản sự nghiệp không hối tiếc, vì sau đó thì người ấy không có nóng bức phiền não.
Hỏi: Thế nào là thân ngữ vô hối hiện hành, hay là tuy được phần ít không lấy làm mừng vì không hối hận? Đáp: Là tu Phẩm Thiện tuy được ít phần nhưng không sinh mừng đủ, hết mình lìa các hối hận mà tu tập. Như Thế Tôn nói: "Các hữu tình như vậy đều do tự nghiệp, sự chống trái của nghiệp, từ nghiệp sinh ra, nương vào nghiệp mà ra khỏi nghiệp, có thể phân biệt tất cả hữu tình cao thấp, hơn kém.
Hỏi: Thế nào là hữu tình đều do tự nghiệp, do nghiệp tự tạo mà thọ Dị thục?
Đáp: Là các hữu tình đều do tự nghiệp của mình nên gọi là tự nghiệp. Tự là không cùng chung với người khác, vì thọ của Dị thục tự nghiệp nên gọi là tự nghiệp.
Hỏi: Thế nào là sự chống trái của nghiệp khi thọ Dị thục có được của tự nghiệp, nghiệp thiện và nghiệp bất thiện chống trái lẫn nhau?
Đáp: Là các hữu tình do nghiệp chống trái, nên sự chống trái của nghiệp tùy nghiệp lực thiện, ác mà mình thọ ái và bất ái khác nhau của chính nó.
Hỏi: Các hữu tình kia khi thọ Dị thục ái và bất ái của nghiệp tự tạo, bắt đầu từ đâu sinh ra, hay là vô nhân, hay là do thế tánh, tự tại?
Đáp: Từ nghiệp mà sinh.
Hỏi: Thế nào là từ nghiệp mà sinh, là các hữu tình đó xa lìa vô nhân và nhân ác, chỉ từ nghiệp sinh ra?
Đáp: Là các hữu tình xa lìa vô nhân và nhân ác, chỉ từ nhân duyên của nghiệp mà sinh. Như vậy đã nói nương vào nghiệp mà trôi lăn để nói quy về diệt cũng nương vào các nghiệp, nên kinh nói: "Nương vào nghiệp mà được ra khỏi".
Hỏi: Thế nào là nương vào nghiệp mà thoát khỏi, nương vào nghiệp đối trị mà giải thoát trói buộc của nghiệp?
Đáp: Là nương vào nghiệp vô lậu, nó có khả năng dứt nghiệp hữu lậu, chỉ nương vào nghiệp mà được ra khỏi.
Hỏi: Thế nào là hữu tình cao thấp?
Đáp: Là do nghiệp, đối với đường thiện đường ác mà được tự thể sai khác.
Hỏi: Thế nào là hơn kém?
Đáp: Là các hữu tình thành tựu công đức lỗi lầm sai khác. Như Thế Tôn nói: "Nghiệp Dị thục của hữu tình bất khả tư nghì". Như vậy ý của kinh muốn nói không phải tất cả mọi thứ đều bất khả tư nghì.
Hỏi: Thế nào là nghiệp Dị thục bất khả tư nghì, và thế nào là khả tư nghì?
Đáp: Là các nghiệp thiện đối với cõi người trời đắc Dị thục khả ái, đó là khả tư nghì, các nghiệp bất thiện bị đọa vào ba đường ác, đắc Dị thục không đáng ưa, đó là khả tư nghì. Do nghiệp thiện và nghiệp ác sinh vào đường ác và đường thiện, chiêu cảm đắc Dị thục đáng yêu, không đáng yêu, người có trí thế gian thì có thể tư nghì, do đây có thể dẫn phát công đức của chánh kiến… tức là do nghiệp nầy chiêu cảm các thứ sai khác Dị thục của tự thân nơi các hữu tình là bất khả tư nghì. Nói Dị thục của nội thân có hình sắc, vô lượng sai khác, khó có thể nghĩ bàn, trừ bậc Nhất thiết trí bất khả tư nghì ra, người nào gượng ép tư nghì thì phát sinh các tội điên cuồng.
Lại nữa, ngay nơi xứ sai khác, sự sai khác, nhân sai khác, Dị thục sai khác và phẩm loại sai khác của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện, đều là bất khả tư nghì, tức do xứ sai khác… của nghiệp nầy, vì vô lượng vô biên nên khó có thể nghĩ bàn. Xứ, là trụ, xứ như vậy mà tạo nghiệp như vậy, hoặc nơi thành ấp, hoặc nơi xóm làng đều như vậy. Sự, là chỗ nương, hữu tình số, hoặc phi hữu tình số. Nhân, là gốc lành và bất gốc lành, như sự thích ứng của nó. Dị thục, là Dị thục của nội thân. Phẩm loại, là các thứ sai khác nơi vô lượng phẩm loại.
Lại nữa, có các thứ ngoại sự sai khác, có thể chiêu cảm nghiệp dụng bất khả tư nghì. Do những nghiệp gì mà chiêu cảm chông gai bén nhọn châm chích? Các loại gắn liền nơi thế gian như vậy, là thuộc bất tư nghị, Phật đã chế ra tư nghì thế gian.
Lại nữa, ngọc mạt-ni, dược thảo, chú, thuật tương ưng nghiệp dụng bất khả tư nghì. Mạt-ni tương ưng nghiệp, là ngọc, nguyệt ái... có thể hiện ra nước uống… là nghiệp dụng khó nghĩ bàn. Thuốc tương ưng nghiệp, là cầm lấy thuốc nầy thì tàng hình ẩn tướng. Chú tương ưng nghiệp, là tụng chú nầy thì không bị đốt cháy. Thuật tương ưng nghiệp, là do các thuật có thể chữa trị bệnh nóng bức.
Lại nữa, oai đức nghiệp dụng của người thực hành quán là bất khả tư nghì, nếu không thì làm sao lực tâm oai đức của người kia có thể rung chuyển mặt đất hay bay lên hư không!?
Lại nữa, nghiệp dụng tự tại của các Bồ-tát bất khả tư nghì, đó là: 1. Mạng tự tại. 2. Tâm tự tại. 3. Tài tự tại. 4. Nghiệp tự tại. 5. Sinh tự tại. 6. Thắng giải tự tại. 7. Nguyện tự tại. 8. Thần thông tự tại. 9. Trí tự tại. 10. Pháp tự tại. Các đại Bồ-tát do những thứ sức mạnh tự tại như vậy mà đã tạo nghiệp dụng bất khả tư nghì, là các Bồ-tát do sức mạnh của mạng tự tại giữ vững các hạnh của tuổi thọ, tùy theo sự thích muốn mà sống với thời gian như thế. Do sức mạnh của tâm tự tại tùy sự ưa thích, xuất nhập tự tại Tam-ma-địa. Do sức mạnh của thắng giải tự tại mà chuyển đại địa… làm thành nước lửa… nên thắng giải tự tại. Do sức mạnh của nguyện tự tại tùy sự vui thích có khả năng dẫn vô số đại nguyện tự lợi lợi tha tròn đầy. Do sức mạnh của thần thông tự tại, vì muốn hóa độ vô lượng hữu tình mà hiển bày các thứ thần thông biến hiện. Do sức mạnh của trí tự tại đối với các ngôn từ huấn thích của các pháp nghĩa không bị trệ ngại, biện thuyết tròn đầy rốt ráo. Do sức mạnh của pháp tự tại dùng vô lượng chủng Danh Cú Văn Thân lập ra giáo pháp Tôđát-lãm Vô thượng, tùy theo sự thích ứng, cho đến tất cả hữu tình trong một thời gian có thể khiến cho tâm của họ đều được đại rất vui mừng.
Lại nữa, nghiệp dụng của sự tạo tác phải làm mà làm chư Phật đã làm là bất khả tư nghì. Thế nào là Như Lai đạt đến lãnh vực vô công dụng rốt ráo, chứng đắc pháp giới thanh tịnh một vị? Việc mà Phật Thế Tôn nên làm, là tạo mọi sự an vui lợi ích cho các hữu tình, tùy thời như thích ứng đều có thể thành lập, như vậy các Phật và cảnh giới của các Phật đều bất khả tư nghì.
Lại nữa tập đế như vậy gồm có bốn thứ hành tướng, cái gọi là:
1. Nhân tướng.
2. Tập tướng.
3. Sinh tướng.
4. Duyên tướng.
Hỏi: Nhân tướng là thế nào?
Đáp: Là có thể dẫn phát nhân của tập khí hậu hữu, đó gọi là nhân tướng, vì nghiệp phiền não nên có thể dẫn phát nhân của tập khí hậu hữu.
Hỏi: Thế nào là tập tướng?
Đáp: Là sự huân tập tập khí của các hữu tình ấy, đối với các loài hữu tình kia làm nhân đẳng khởi, đó là tập tướng, do sự tập hợp tập khí của các hữu tình, các loại hữu tình trong nhân thiên… có thể làm nhân khởi bình đẳng của các chủng loại hình mạo tương tự.
Hỏi: Thế nào là sinh tướng?
Đáp: Là sinh nhân sai khác của vô lượng phẩm loại trong mỗi nội thân riêng biệt, gọi đó là sinh tướng, là các hữu tình, ai nấy có nội thân riêng nối tiếp chắc chắn tiến đến sinh địa tất cả phẩm loại khác nhau... cho tới sinh nhân của hữu đảnh.
Hỏi: Thế nào là duyên tướng?
Đáp: Là từng hữu tình khác nhau đắc xả nhân, gọi là duyên tướng, có thể khiến cho hữu tình đắc những thứ chưa từng đắc. Tự thể đã xả rồi, vì đã từng đắc tự thể, như vậy gọi là thể tướng của tập đế.
Hỏi: Thế nào là Diệt đế?
Đáp: Là do: 1. Tướng. 2. Sâu xa. 3. Thế tục. 4. Thắng nghĩa. 5. Không tròn đầy. 6. Tròn đầy. 7. Vô trang nghiêm. 8. Hữu trang nghiêm. 9. Hữu dư. 10. Vô dư. 11. Tối thắng. 12. Sai khác. Do những thứ nầy mà phân biệt diệt đế.
- Tướng, là Chân như Thánh đạo phiền não không sinh, hoặc chỗ dựa của diệt, hoặc năng diệt, hoặc tánh diệt, là tướng của diệt đế. Như Thế Tôn nói: "Nhãn nhĩ, tỷ thiệt thân và ý, ở các xứ nầy thì danh sắc rốt ráo diệt không sót". Lại cũng nói: "Cho nên các ông hiện tại phải quán các xứ đó, điều gọi là nhãn xứ nầy rốt ráo diệt xa lìa sắc tưởng, cho đến ý rốt ráo diệt xa lìa pháp tưởng. Do đạo lý nầy nói về sở duyên, pháp Hữu lậu trên cảnh của Chân như vắng lặng, là tướng diệt đế.
- Sâu xa, là các hành kia rốt ráo vắng lặng, như vậy vắng lặng so với các hành kia không thể nói dị, bất dị, cũng dị, cũng bất dị, phi di, phi bất dị. Vì sao? Nếu các hành kia vắng lặng rốt ráo, như vậy vắng lặng cùng với các hành kia có thể nói dị, thì phải cùng với các hành không trói buộc nhau, rõ ràng khác thể. Nếu bất dị, thì phải là tướng nhiễm. Do đạo lý nầy nên cùng cả hai và không cùng cả hai., vì sao? Vì vô hý luận, trong nghĩa nầy nếu sinh hý luận thì không phải chánh tư nghì, không phải đạo, không phải như, cũng không phải phương tiện tư nghì khéo léo. Như Thế Tôn nói: "Sáu xúc xứ nầy tận, lìa dục, diệt, vắng lặng, lặn". Nếu là hữu dị, vô dị, cũng hữu dị, vừa vô dị, phi hữu dị phi vô dị, thì đối với vô hý luận liền sinh hý luận, cho đến có sáu xứ có thể có hý luận. Sáu xứ dứt bặt thì các hý luận tức là Niết-bàn, nếu dứt bặt các hý luận như vậy thì đó là Niết-bàn vắng lặng. Không chánh tư nghì gọi đó là hý luận, vì đối với đáng tư nghì dị biệt thì mới tư nghì dị biệt. Thế nào là đáng tư nghì dị biệt? Là các thứ tư nghì của sự xuất li chơn chánh, diệu lìa.…
- Thế tục, là dùng đạo thế gian để hàng phục sự bị diệt của hạt giống, nên Thế Tôn riêng gọi đó là phần Niết-bàn.
- Thắng nghĩa, là dùng Thánh tuệ để dứt trừ hẳn sự bị diệt của hạt giống.
- Không tròn đầy, là tất cả diệt của các Hữu học, hoặc thuộc quả Dự lưu, hoặc quả Nhất lai, hoặc thuộc quả Bất hoàn.
- Tròn đầy, là tất cả diệt thuộc về các quả A-la-hán Vô học thâu nhiếp.
- Vô trang nghiêm, là tất cả diệt của A-la-hán tuệ giải thoát, không có ba minh và công đức tối thắng được trang nghiêm.
- Hữu trang nghiêm, là tất cả diệt của giải thoát câu phần, A-la-hán ba minh, sáu thông… được trang nghiêm bằng vô lượng, các thứ công đức. Thù thắng-Hữu dư, là có những sự được diệt còn thừa.
- Vô dư, là các sự được diệt không còn thừa.
- Tối thắng, là tất cả diệt thuộc về Niết-bàn vô trụ của Phật Bồ-tát thâu nhiếp, vì thường an trụ trong sự lợi lạc của tất cả hữu tình.
- Sai khác, là dứt hẳn vô dư, ra khỏi hẳn, trừ sạch hẳn, tận, lìa dục, diệt, vắng lặng, chìm v.v…
Hỏi: Vì sao gọi là dứt hẳn vô dư, hay là do các câu khác?
Đáp: Dứt hẳn vô dư là câu nêu làm chuẩn để giải thích các câu khác, nên nói các câu khác, sau đó lấy câu riêng giải thích câu "Chung" nầy. Vì triền và tùy miên đều dứt hẳn, nên gọi là Dứt hẳn Vô dư.
Hỏi: Thế nào là dứt hẳn xuất vô dư, hay ra khỏi hẳn các triền?
Đáp: Đây là nương vào đoạn dứt các triền mà nói, là triền đã sinh rồi thì dứt hẳn xa lìa.
Hỏi: Vì sao gọi là loại bỏ hết hẳn, hay là loại bỏ hết hẳn tùy miên?
Đáp: Đây là nương vào đoạn dứt tùy miên mà nói, là trừ căn bản nên không bao giờ sinh, như vậy các diệt do Kiến đạo và tu đạo đối trị riêng biệt mà lập ra hai thứ: 1.
Tận. 2. Lìa dục.
Hỏi: Tận là gì?
Đáp: Vì Kiến đạo đối trị được lìa trói buộc, còn lại ít phần trong khối phiền não cũng gọi là tận.
Hỏi: Vì sao gọi là lìa dục?
Đáp: Vì tu đạo đối trị được lìa trói buộc, do tu đạo kia đã nói về dần dần sự lìa dục ở các địa, nên gọi là lìa dục. Do có đồng thời lìa trói buộc như vậy, nên khổ vị lai diệt.
Hỏi: Diệt là gì?
Đáp: Vì quả khổ vị lai kia bất sinh, có thể thành pháp khổ vị lai bất sinh, nên gọi là diệt. Lại cũng đối với ưu não của hiện pháp được vắng lặng.
Hỏi: Vắng lặng là gì?
Đáp: Là trong hiện pháp tâm khổ của quả kia không bao giờ hiện hành.
Hỏi: Vì sao gọi là lặn chìm?
Đáp: Là tất cả sự khác diệt mất hẳn, sự chiêu cảm các uẩn của nghiệp đời trước tự nhiên diệt hết, nên gọi là một. Do các câu riêng như vậy đã giải thích câu nêu chung dứt hẳn diệt vô dư ở trước.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là Vô vi?
Đáp: Vì lìa ba tướng. Ba tướng hữu vi của sinh diệt trụ dị rốt ráo trái nhau, nên gọi là vô vi.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là khó thấy?
Đáp: Vì vượt qua cảnh của nhục nhãn và thiên nhãn, chỉ là cảnh giới hoạt động của tuệ nhãn bậc Thánh, nên gọi là khó thấy.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là bất chuyển?
Đáp: Vì lìa hẳn các đường chuyển khác nhau, lìa địa ngục… trôi lăn qua lại mà thường an trụ, nên gọi là bất chuyển.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là không thấp kém khuất phục?
Đáp: Vì lìa ba ái là lìa ái hẳn cõi Dục, ái cõi Sắc và ái cõi Vô Sắc, trong các hữu không có gì thấp hèn khuất phục, nên gọi là không thấp kém khuất phục.
Hỏi: Vì sao diệt nầy gọi là Cam-lộ?
Đáp: Vì lìa uẩn ma. Lìa uẩn hẳn là chỗ nương của tất cả sự chết nên gọi là cam-lộ.
Hỏi: Vì sao diệt nầy gọi là vô lậu?
Đáp: Vì lìa hẳn tất cả ma phiền não.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là nhà cửa?
Đáp: Là sự, chỗ nương của vô tội hỷ lạc chỗ nương của giải thoát hỷ lạc, nên gọi là nhà cửa.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là cồn bãi?
Đáp: Vì cách tuyệt ba cõi, là cao nguyên vượt lên trong biển lớn sinh tử, nên ví dụ như cồn bãi.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là cứu giúp rộng khắp?
Đáp: Vì có thể ngăn tất cả tai hoạ khổ lớn, chứng đắc diệt nầy thì các tai hoạ khổ của sinh già bịnh dứt hẳn xa lìa.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là Quy y?
Đáp: Vì không có chỗ nương của ý lạc và phương tiện luống dối, vì Diệt đã phát khởi ý lạc và chánh phương tiện là chỗ nương không có tánh luống dối, nên nghĩa của chỗ nương là nghĩa Quy y.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là quy hướng tốt đẹp?
Đáp: Vì có thể làm chỗ nương để quy hướng của tất cả Thánh tánh cao qúy, nên do vắng lặng nầy có thể làm chỗ nương để quy hướng Thánh tánh cao qúy, là phương tiện cảnh sở duyên để chứng đắc A-la-hán.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là bất tử?
Đáp: Vì lìa hẳn sinh, là các pháp không sinh thì không chết. Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là không nóng bức?
Đáp: Vì lìa hẳn tất cả nóng bức, là lìa hẳn đại nhiệt não của tất cả cầu bất đắc khổ, nên gọi là không nóng bấc.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là không lừng lẫy?
Đáp: Vì lìa hẳn các não loạn của tất cả sầu than ưu khổ, sự mạnh mẽ của sầu than ưu khổ dập tắt rất mát mẻ, nên gọi là không còn lừng lẫy.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là an ổn?
Đáp: Vì lìa khỏi trụ xứ của sợ hãi, không có tất cả sợ hãi của già bịnh chết… là chỗ nương của Thánh trụ nên gọi là an ổn.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là mát mẻ?
Đáp: Vì là chỗ nương của các sự lợi ích, là chỗ nương của tất cả pháp thiện mát mẻ nên gọi là mát mẻ.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là lạc sự?
Đáp: Vì lạc sự bậc nhất nghĩa, là chỗ nương lạc sự của xuất thế gian nên gọi là lạc sự.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là hướng đến an lành?
Đáp: Vì chứng đắc sự an lành kia là chỗ nương của phương tiện dễ tu, vì chứng đắc Niết-bàn là cảnh sở duyên của phương tiện dễ tu.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là vô bịnh?
Đáp: Vì lìa hẳn tất cả bịnh chướng ngại, là lìa các bịnh chướng ngại của phiền não, nên gọi là vô bịnh.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là bất động?
Đáp: Vì lìa hẳn tất cả tán động, là lìa các cảnh giới hý luận tán động nên gọi là bất động.
Hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là Niết-bàn vô tướng?
Đáp: Vì là chỗ nương trụ của vắng lặng đại an vui, là lìa hẳn các tưởng của tất cả sắc, là cảnh sở duyên của vắng lặng đại an vui trụ rốt ráo, nên gọi là Niết-bàn vô tướng.
Lại nữa, nương vào Diệt đế để biện luận danh nghĩa sai khác của vô sinh, vì cùng với của trái với nghĩa tướng khổ đế.
Tướng Khổ đế, là trong loài hữu tình của các xứ kia nối tiếp nhau sinh, vì trái ngược lại tướng kia nên hỏi:
Vì sao Diệt nầy lại gọi là vô sinh?
Đáp: Vì lìa nối tiếp.
Tướng khổ đế, là tiếp tục sinh về sau thì tự thân chúng phần dần dần tròn đầy, vì đi với tướng kia nên hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là không khởi?
Đáp: Vì lìa hẳn tướng nầy, sau đó dần dần sinh khởi. Tướng khổ đế, là được tạo tác bởi thế lực phiền não đời trước, vì trái ngược lại tướng kia nên hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là vô tạo?
Đáp: Vì lìa hẳn sự dẫn dắt của các thế lực nghiệp phiền não đời trước.
Lại nữa, hiện tại khổ là năng tạo tác, ngoài ra có chỗ nương các phiền não, nghiệp của Dị thục, vì trái với tướng kia nên hỏi rằng: Vì sao diệt nầy lại gọi là vô tác? Đáp: Vì không làm chỗ nương của các phiền não nghiệp hiện tại.
Lại nữa, tướng khổ đế, là Dị thục hậu hữu nối tiếp sinh khởi không xen hở, vì trái với tướng kia nên hỏi: Vì sao diệt nầy lại gọi là bất sinh?
Đáp: Vì lìa hẳn nối tiếp sinh ở vị lai. Lại nữa, Diệt đế có bốn thứ tướng:
1. Tướng diệt.
2. Tướng tĩnh.
3. Tướng diệu.
4. Tướng lìa.
Hỏi: Tướng diệt là gì?
Đáp: Là lìa phiền não trói buộc, là lìa phiền não trói buộc của nhân trôi lăn nên gọi là Diệt.
Hỏi: Tướng tịnh là gì?
Đáp: Là lìa trói buộc của khổ thuộc hành khổ, vì thủ uẩn của tướng bất vắng lặng lìa trói buộc nên gọi là Tịnh. Hỏi: Tướng diệu là gì?
Đáp: Là lạc sự tịnh rốt ráo lìa trói buộc của phiền não khổ, lạc tịnh tự nhiên lấy làm tự thể nên gọi là diệu. Hỏi: Tướng lìa là gì?
Đáp: Là thường làm sự lợi ích không thoái chuyển nữa mà trở lại rất an ổn, như thứ lớp của nó gọi là thường lợi ích, lợi ích an ổn, tánh thiện tối thắng là tướng diệt đế.
Hỏi: Đạo đế là gì?
Đáp: Là do đạo nầy, biết khổ, đoạn tập, chứng diệt và tu đạo, đó là nói lược tướng đạo đế. Bây giờ trong đây nương vào bốn Thánh đế, dùng tác dụng của nó để nói về thể tướng của đạo.
Lại nữa, đạo có năm thứ: 1. Tư lương đạo. 2. Phương tiện đạo. 3. Kiến đạo. 4. Tu đạo. 5. Rốt ráo đạo. Như vậy năm thứ nương vào tự tánh và quyến thuộc của đạo để hiển bày sự sai khác của đạo đế.
- Tư lương đạo: Là tất cả Thi-la của các dị sinh, giữ gìn căn môn, ăn uống biết lượng, đầu hôm gần sáng thường không ngủ nghỉ, siêng tu chánh quán chánh tri mà trụ. Lại có các cái khác tinh tiến tu tập các thiện, là tuệ do Văn, Tư, Tu tu tập thiện nầy phát sinh được thành chỗ nương của khí tánh nơi hiện quán giải thoát. "Là tất cả Thi-la của các dị sinh cho đến chánh tri mà trụ", là thể của đạo tư lương, do dị sinh kia tu tập Thi-la cực tròn đầy. "Lại có các cái khác tinh tiến tu tập các thiện", là không có ăn năn hối hận là tuệ do Văn Tư phát sinh… mà đắc thành noãn, đảnh… thứ lớp thấy đế dứt hẳn các chướng, tánh nối tiếp có thể gánh vác.
- Đạo phương tiện: Tức tất cả tư lương đều là phương tiện, hoặc có phương tiện không phải tư lương, là người đã chứa nhóm đạo tư lương rồi. Tất cả thuận phần quyết trạch gốc lành là: a. Noãn pháp. b. Đảnh pháp. c. Thuận đế nhẫn pháp. d. Thế bậc nhất pháp.
a. Noãn pháp: Là ai nấy nội chứng riêng biệt, chứng đắc đầy đủ Tam-ma-địa Bát-la-nhã và các pháp tương ưng với noãn kia trong các đế, vì tâm định tịnh nương vào các pháp đế tăng thượng như khế kinh, đối với môn ý ngôn mà các nghĩa hiển hiện, duyên đó mà sinh Xama-tha Tỳ-bát-xá-na kia… Gọi là Noãn pháp.
b. Đảnh pháp: Là ai nấy nội chứng riêng biệt tăng trưởng đầy đủ Tam-ma-địa Bát-la-nhã và các pháp tương ưng với đảnh kia trong các đế, vì đảnh pháp kia xoay vần tăng tiến ở vào thượng vị.
c. Thuận đế nhẫn pháp: Là ai nấy nội chứng riêng biệt một phần đã nhập thuận theo tam-ma-địa Bát-la-nhã và các pháp tương ưng với thuận đế nhẫn kia trong các đế. "Một phần đã nhập", là đối với không có đối tượng nhiếp lấy hoàn toàn nhẫn giải. "Một phần thuận theo", là đối với không có năng thủ thuận theo thông đạt chỗ nương.
d. Thế bậc nhất pháp: Là ai nấy nội chứng riêng biệt tâm Vô gián nơi Tam-ma-địa Bát-la-nhã và các pháp tương ưng với Thế bậc nhất kia trong các đế, từ vô gián nầy chắc chắn khởi đạo xuất thế đầu tiên.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Phẩm 1: ĐẾ (Phần 4)
-Kiến đạo. Thế nào là Kiến đạo? Nếu nói chung, là pháp Thế bậc nhất vô gián, thì Tam-ma-địa Bát-la-nhã Vô sở đắc và tương ưng với pháp Thế bậc nhất kia, vì Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na vô phân biệt làm thể tướng.
Lại nữa, trí bình đẳng bình đẳng của sở duyên và năng duyên là tướng của Kiến đạo, vì trí nầy thông đạt Chân như vô tánh của sở thủ, năng thủ.
Lại, loại trừ từng thứ riêng biệt hữu tình giả và pháp giả, vì dứt trừ khắp pháp trí sở duyên của hai giả làm tướng.
Hỏi: Thế nào là loại trừ từng thứ riêng biệt pháp trí sở duyên của hữu tình giả làm tướng?
Đáp: Do trí nầy trong tự nối tiếp không phân biệt tướng ngã.
Không phân biệt, nghĩa là dứt trừ.
Hỏi: Thế nào là dứt trừ từng thứ riêng biệt pháp trí sở duyên của pháp giả làm tướng?
Đáp: Do trí nầy trong tự nối tiếp không phân biệt pháp tướng của sắc.
Hỏi: Thế nào là dứt trừ khắp pháp trí sở duyên của hai giả làm tướng?
Đáp: Do trí nầy đối với tất cả xứ không sai khác, không phân biệt tướng ngã và tướng pháp.
Lại nữa, nếu nói riêng về Kiến đạo sai khác gọi là pháp Thế bậc nhất vô gián: 1. Khổ Pháp trí nhẫn. 2. Khổ Pháp trí. 3. Khổ Loại trí nhẫn. 4. Khổ Loại trí. 5. Tập Pháp trí nhẫn. 6. Tập Pháp trí. 7. Tập Loại trí nhẫn. 8. Tập Loại trí. 9. Diệt Pháp trí nhẫn. 10. Diệt Pháp trí. 11. Diệt Loại trí nhẫn. 12. Diệt Loại trí. 13. Đạo Pháp trí nhẫn. 14. Đạo Pháp trí. 15. Đạo Loại trí nhẫn. 16. Đạo Loại trí. Mười sáu như vậy thứ trong các thánh đế thì pháp loại trí nhẫn và pháp loại trí là tướng sai khác của Kiến đạo.
- Khổ Pháp: Khổ là Khổ đế. Khổ pháp, sanh khởi giáo pháp tăng thượng của khổ đế. Pháp trí, là quán sát đế tăng thượng pháp trí trong đạo phương tiện. Trí nhẫn là quán sát năng lực tăng thượng đầu tiên trong mỗi khổ đế riêng biệt khởi hiện chứng tuệ vô lậu. Do tuệ nầy mà xả hẳn thấy khổ mà dứt tất cả phiền não. Hiện tại đã nói nghĩa trong đây, là quán sát chỗ nương của khổ đế trong đạo phương tiện, sanh khởi pháp của khế kinh, vì sự nhiếp giữ lực tăng thượng của tác ý như lý, hiện chứng Chân như trong khổ đế tự nối tiếp, thì thể chánh kiến của tuệ xuất thế gian sinh khởi. Do tuệ nầy nên xả hẳn thấy khổ mà dứt sự trói buộc của hai mươi tám tùy miên trong tất cả kiến khổ, trong ba cõi do đó gọi là khổ pháp trí nhẫn.
Khổ pháp trí: Là nhẫn Vô gián. Do trí nầy nên đối với đã dứt phiền não giải thoát ở trước mà được làm chứng. Vì sao? Vì trước là do nhẫn nên dứt hẳn tất cả phiền não do thấy khổ mà dứt, khiến cho chỗ nương chuyển từ vô gián nầy, do trí sinh như vậy mà chứng đắc chuyển y, gọi là khổ pháp trí.
- Khổ loại trí nhẫn, là khổ pháp trí tuệ vô gián vô lậu sinh khởi, đối với khổ pháp trí nhẫn và khổ pháp trí đều có nội chứng riêng, nói pháp của các thánh pháp về sau đều là loại nầy, vì sao? Do hai loại đầu hoặc nhẫn hoặc trí, là chủng loại của thánh pháp sau tất cả bậc Hữu học và Vô học, từ pháp nầy mà trí kia được sinh, do đó tuệ vô lậu sinh khởi, đều có nội chứng riêng duyên pháp nầy làm cảnh. Nói các thánh pháp về sau đều là chủng loại nầy, nên gọi là khổ loại trí nhẫn.
- Khổ loại trí: Là trí vô gián vô lậu nầy sinh khởi để xét định ấn chứng cho khổ loại trí nhẫn. Vì sao? Vì khổ loại trí nhẫn là trí vô gián vô lậu sinh, đối với nội chứng của khổ loại trí nhẫn ấn chứng nên gọi là khổ loại trí.
Như vậy trong các đế khác, tùy theo sự thích ứng của nó, các nhẫn các trí tất cả đều phải biết. Trong vị nầy do pháp nhẫn và pháp trí giác ngộ sở thủ, do loại nhẫn và loại trí giác ngộ năng thủ. Vì sao? Vì đạo xuất thế gian có hai cảnh giới: 1/ Chân như. 2/ Chánh trí. Pháp trí thì phẩm đạo Chân như làm cảnh, loại trí thì phẩm đạo chánh trí làm cảnh, do đó mà các nhẫn trí biết rõ như thật.
Lại nữa, người trụ trong tất cả vị nhẫn trí, gọi là người an trụ quán vô tướng, như Đức Bạc-già-phạm nói: "Thứ sáu là Bổ-đặc-già-la vô tướng trụ, tức là người hiện trụ trong vị nhẫn trí nầy". Vì tất cả tướng trong vị nầy đều không thật có.
Lại nữa, trụ vô tướng có sáu thứ: 1. Không. 2. Vô tướng. 3. Vô nguyện. 4. Diệt định. 5. Hữu đảnh. 6. Kiến đạo. Như vậy mười sáu tâm sát-na gọi là Kiến đạo. Vì sao? Do đó trí nhẫn đã thâu nhiếp mười sáu tâm sát-na. Đối với việc chưa từng thấy cảnh của bốn thánh đế, đều dùng bốn sát-na mà thấy, gọi là Kiến đạo.
Lại, tâm sát-na, đối với cảnh trí sở tri sinh rốt ráo thì gọi là một sát-na, không phải chỉ đối với xưa không nay có lúc sinh mà gọi là tâm sát-na, vì sao? Cho đến đối với trí năng tri cảnh sở tri sinh khởi sự tạo tác rốt ráo gọi là một sát-na. Như nói khổ, thì phải biết khắp là một tâm sát-na, như vậy tập thì phải dứt hẳn… cũng vậy.
Lại, như nói trên, Kiến đạo sai khác đều là giả lập ra, chẳng phải chân thật như thế. Vì sao? Vì trong vị xuất thế đều có nội chứng riêng, dứt bặt hý luận.
Lại nữa, tất cả Đạo đế do bốn thứ tương ưng tùy theo đấy biết rõ, là an lập, tư duy, chứng thọ và tròn đầy.
An lập là Thanh văn v.v… tùy điều mình chứng đã đắc rốt ráo rồi, vì muốn cho người cũng hiểu rõ, do trí hậu đắc mà dùng vô lượng chủng Danh Cú Văn Thân an lập Đạo đế, là trong các đế có nhẫn như vậy như vậy, trí như vậy như vậy, như vậy…
Tư duy là đang tu tập phương tiện hiện quán, dùng trí thế gian như đã an lập tư duy mà tập quen.
Chứng thọ là đã tập quen như vậy rồi, tự bên trong chứng thọ Kiến đạo đầu tiên, đạt chánh vị xuất thế gian vô hý luận.
Tròn đầy là sau vị nầy thì chuyển y tròn đầy cho đến chứng đắc rốt ráo, đã chứng đắc vị rốt ráo, do Trí hậu đắc dùng Danh Cú Văn Thân an lập đạo đế.
Bốn tướng như vậy là bánh xe của đạo chân thật thường xoay chuyển, nương nhau mà chuyển không có đứt đoạn, như kinh nói: "Người xa trần, lìa cấu là mắt chánh pháp sinh trong các pháp". Đây là nói theo Kiến đạo, các pháp nhẫn có thể xa trần, các pháp trí có thể lìa cấu, do bốn tướng kia trong các đế là thánh tuệ nhãn mầu nhiệm làm tự tánh.
Pháp nhẫn có thể xa trần, là do các pháp nhẫn có thể dứt hẳn tất cả phiền não trần. Pháp trí có khả năng lìa cấu, là do các pháp trí đã dứt chướng dựa vào cấu mà được sinh.
Lại nữa, đối với hai vị nhẫn trí nầy như thứ lớp của nó, vì biết khắp, về dứt hẳn, nên đạo được thanh tịnh, nương vào đây mà nói xa trần, lìa cấu.
Lại, kinh nói: "Kiến pháp, đắc pháp, cực thông đạt pháp, rốt ráo kiên pháp, vượt qua tất cả mong cầu và nghi ngờ, không nhờ tha duyên, đối với đại sư giáo ngoài ra không còn ai có thể dẫn. Người đắc Vô sở úy trong các pháp, điều nầy cũng nói theo Kiến đạo, đối với hữu tình được giáo hóa thì nói theo hiện quán thánh đế vô gián. Kiến pháp, là các pháp nhẫn, vì người kia thông đạt pháp chân thật. Đắc pháp, là các pháp trí, vì người kia đối với chuyển y có thể khởi chứng đắc. Cực thông đạt pháp, là các loại nhẫn thông đạt các thánh pháp, chính là hai loại nầy. Rốt ráo kiên pháp, là các loại trí, đối với các sở tri đã rốt ráo. Vượt qua tất cả mong cầu, là do các nhẫn trí đạo xuất thế gian, chứng đắc quả Thánh trong đêm dài mong cầu, vì đối với điều chứng không có hy vọng. Vượt qua tất cả nghi ngờ, là trong vị nầy đối với điều chứng của người khác thì không có do dự, ngoài ra cũng có thể chứng thắng vị nầy. Không nhờ duyên khác, là trong sự tu đạo tuy không có người khác chỉ dẫn mà tự nhiên khéo léo. Đối với Đại sư giáo ngoài ra không thể dẫn, là đối với thánh giáo của Phật đã được chứng tịnh, tuy chuyển các đời khác nhưng không bị tà đạo dẫn dắt. Người đắc Vô sở úy trong các pháp, là dựa vào sự chứng mà đặt câu hỏi đáp trong pháp, như ghét bỏ tăng thượng mạn dục thì tâm yếu hèn không bao giờ có.
-Tu đạo. Thế nào là Tu đạo? Là trong Kiến đạo tất cả đạo thế gian, đạo xuất thế gian, nhuyễn đạo, trung đạo, thượng đạo, đạo phương tiện, đạo vô gián, đạo giải thoát, đạo thắng tiến… đều gọi là tu đạo. Vì sao? Vì các Thánh đệ tử của Phật đã đắc hiện quán đế, từ đây trở lên vì dứt trừ phương tiện của kiết còn lại mà tập quen đạo thế gian... Gọi là Tu đạo.
Đạo thế gian, là sơ tĩnh lự, tĩnh lự thứ hai, tĩnh lự thứ ba, tĩnh lự thứ tư, Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và phi tưởng Phi phi tưởng xứ của thế gian. Như vậy tĩnh lự cõi Vô Sắc do bốn thứ tương ưng phân biệt rộng, là tạp nhiễm, thanh bạch, lập ra và thanh tịnh.
Tạp nhiễm, là bốn thứ căn vô ký: 1 Ái. 2 Kiến. 3 Mạn. 4 Vô minh. Do bốn hoặc này mà tâm bị nhiễm ô, đối với các nhiễm ô nơi môn tĩnh lự định, khiến cho tất cả phiền não và tùy phiền não hữu phú Vô ký của cõi
Sắc và cõi Vô Sắc sinh trưởng không dứt. Vì sao? Vì có ái nên vị thượng là bị nhiễm của tĩnh lự tạp nhiễm, vì tham mùi vị lạc khinh an của định tịnh. Do có kiến nên trên kiến là bị nhiễm của tĩnh lự tạp nhiễm. Dựa vào tĩnh lự mà phát khởi chấp trước so lường kiến của đời trước do có mạn nên trên mạn bị nhiễm của tĩnh lự làm nhiễm, dựa vào chứng thắng định mà khởi cao mạn. Do vô minh nên trên nghi bị tạp nhiễm của tĩnh lự làm nhiễm, người cầu giải thoát do chưa thông đạt đạo lý chân thật, nên đối với sở chứng của thắng phẩm thường sinh nghi ngờ, nghĩ là được giải thoát hay không được giải thoát? Như vậy phiền não thường nhiễm trong tâm người đó, khiến cho đại hoặc, tiểu hoặc của cõi Sắc và cõi Vô Sắc trôi lăn nối tiếp.
Thanh bạch, là tĩnh lự Vô Sắc thanh tịnh, do tánh thiện nên gọi là thanh bạch. Tuy là thế gian, nhưng vì lìa triền cấu nên cũng gọi là Tịnh.
Lập ra, có bốn thứ lập ra:
1. Chi phần lập ra.
2. Đẳng chí lập ra.
3. Phẩm loại lập ra.
4. Danh tưởng lập ra.
Trong các tĩnh lự thì có đủ bốn lập ra, trong các đường Vô Sắc thì chỉ có ba lập ra, trừ chi phần.
-Chi phần lập ra: Là sơ tĩnh lự có năm chi: a. Tầm. b. Tứ. c. Hỷ. d. Lạc. e. Tâm một cảnh tánh.
Tĩnh lự thứ hai có bốn chi, bốn chi là: a. Nội đẳng tịnh. b. Hỷ. c. Lạc. d. Tâm một cảnh tánh.
Tĩnh lự thứ ba có năm chi, năm chi là: a. Xả. b.
Niệm. c. Chánh trí. d. Lạc. e. Tâm một cảnh cánh.
Tĩnh lự thứ tư có bốn chi, bốn chi là: a. Xả thanh tịnh. b. Xả niệm thanh tịnh. c. Bất khổ bất lạc thọ. d. Tâm một cảnh tánh.
Hỏi: Pháp có vô lượng, vì sao chỉ lập tầm từ… làm chi?
Đáp: Vì chi đối trị, chi lợi ích, vì chỗ nương tự tánh của hai chi ấy, do ba chi phần nầy đầy đủ không chờ chi khác. Hai thứ tầm từ trong sơ tĩnh lự là chi đối trị, có thể đoạn tầm, tứ của dục sân hại trong cõi Dục. Hai chi hỷ lạc là chi lợi ích, do chi tầm, tứ đối trị chỗ cần đối trị rồi đắc lìa sinh hỷ lạc. Tâm một cảnh tánh, là chi tự tánh là chỗ nương của hai chi hỷ lạc kia, vì dựa vào lực định mà tầm tứ… chuyển. Nội đẳng tịnh trong tĩnh lự thứ hai do năng đối trị là tầm, tứ nầy nên hỷ lạc là chi lợi ích. Tâm nhất cảnh tánh là chỗ nương của hai chi hỷ lạc, nghĩa của chi tự tánh như trước đã nói. Xả, niệm, chánh trí trong tĩnh lự thứ ba là chi đối trị, do ba chi nầy có thể trị hỷ, lạc là chi lợi ích, tâm một cảnh tánh là chỗ nương của hai chi hỷ lạc, nghĩa của chi tự tánh như trước đã nói. Xả thanh tịnh và xả niệm thanh tịnh là chi đối trị, vì hai chi nầy có thể trị lạc, bất khổ bất lạc thọ là chi lợi ích, tâm một cảnh tánh là chỗ nương của hai chi trên. Chi tự tánh trong các Vô Sắc không lập chi phần, vì tánh nhất vị của Xa-ma-tha.
-Đẳng chí lập ra. Thế nào là đẳng chí lập ra? Là do bảy thứ tác ý chứng nhập Sơ tĩnh lự, như vậy cho đến phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Thế nào gọi là bảy thứ tác ý: a. Tác ý rõ tướng. b. Tác ý thắng giải. c. Tác ý xa lìa. d. Tác ý nhiếp lạc. e. Tác ý quán sát. f. Tác ý phương tiện rốt ráo. g. Tác ý phương tiện rốt ráo quả. Đây là phân biệt rộng, như Thanh văn địa, sau đó là du-già xứ.
Hỏi: Thế nào là khi chứng nhập Sơ tĩnh lự do bảy thứ tác ý?
Đáp: Là tác ý của định địa thấy tội lỗi ở cõi Dục v.v… nên biết rõ tướng thô, trong sơ tĩnh lự, tướng thô nầy là không nên gọi là tướng tĩnh, đó gọi là tác ý liễu tướng. Như vậy tác ý cũng làm sự xen lẫn của văn tư. Từ đây trở lên qua khỏi văn tư, hoàn toàn tu tướng duyên thô tướng tĩnh lấy làm cảnh giới, tu Xa-ma-tha Tỳ-bátxá-na, thường tư duy như tánh tướng thô tĩnh của điều tầm tứ, gọi đó là tác ý thắng giải. Do tu tập tác ý thắng giải nầy mà đầu tiên đoạn đạo sinh khởi câu hành tác ý kia, gọi là tác ý xa lìa. Do tác ý nầy có thể dứt phẩm thượng phiền não và có thể xa lìa thô nặng của phẩm kia. Người quán hạnh nầy trở lại mừng vui với công đức đã dứt ở cõi trên là đoạn kiến cõi trên, thì phần ít xúc đã xa lìa hỷ lạc. Vì muốn dứt trừ hôn trầm, ngủ nghĩ nên thường tu tập tác ý tịnh diệu, để vui với tâm đó, gọi là tác ý nhiếp lạc. Như vậy đã giúp giữ của người đang tu hành phương tiện phẩm thiện khiến cho phiền não triền cấu thuộc cõi Dục không hiện hành trở lại. Do đây, vì muốn xem xét phiền não đã dứt và chưa dứt, lại thêm khởi ý quán sát phiền não kia sinh thuận theo tướng tịnh, gọi đó là tác ý quán sát. Như vậy người tu hành thường quán sát tiến tu đối trị, vì khiến cho tất cả phiền não của cõi Dục có khi tạm thời gián đoạn được lìa trói buộc, đạo đối trị nầy tương ưng với tác ý, là phương tiện sau rốt của sơ tĩnh lự nên gọi là tác ý phương tiện rốt ráo. Từ đây liên tục chứng đắc tĩnh lự căn bản đầu tiên đi chung với tác ý, đó gọi là tác ý phương tiện rốt ráo quả.
Lại nữa, do tác ý liễu tướng phát khởi tâm mong cầu, chính vì biết rõ cái cần nên dứt, chỗ nên đắc, là dứt cho nên là đắc! Do tác ý thắng giải làm nghĩa cho sự mong cầu mà phát khởi chánh phương tiện, do tác ý viễn lìa mà xả thượng phẩm hoặc, do tác ý nhiếp lạc mà xả trung phẩm hoặc, do tác ý quán sát mà an tâm đối với sự chứng xa lìa tăng thượng mạn, do tác ý phương tiện rốt ráo mà xả hạ phẩm hoặc, do tác ý phương tiện rốt ráo quả mà lãnh thọ chỗ tu tác ý tu quả của phương tiện kia. Nếu vì chứng nhập định Sơ tĩnh lự mà tu bảy thứ tác ý, như vậy phải biết cho đến vì chứng nhập định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.
Lại, tướng thô là đối với tất cả địa dưới từ cõi Dục cho đến Vô sở hữu xứ, như vậy tướng thô lược có hai thứ, một là trụ nơi khổ nặng, không trụ vắng lặng. Hai là mạng hạnh nhỏ ít, vì tuổi thọ ngắn ngủi. Tướng tĩnh, là đối với tất cả địa trên từ Sơ tĩnh lự cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, trái với tướng thô.
- Phẩm loại lập ra: Là đối với định Sơ tĩnh lự có đủ ba phẩm huân tu, là nhuyễn trung thượng. Như Sơ tĩnh lự, ba phẩm huân tu của các tĩnh lự khác và cõi Vô Sắc cũng vậy. Do ba phẩm nhuyễn trung thượng huân tu nơi Sơ tĩnh lự, trong Sơ tĩnh lự trở lại sinh ba Dị thục, như Sơ tĩnh lự trong các tĩnh lự khác, hoặc huân tu, hoặc sinh quả, mỗi mỗi ba phẩm cũng vậy. Ba phẩm huân tu trong các tĩnh lự sinh ba quả, là trời Phạm Chúng, trời Phạm Phụ và trời Đại Phạm, như vậy nói rộng cũng như trước. Trong cõi Vô Sắc thì không có xứ sở riêng, không lập sinh quả sai khác. Vì sao? Vì đối với cõi Vô Sắc không có các xứ và cung điện bền vững, không lập ra sinh quả sai khác, nhưng do ba phẩm huân tu nơi định Vô Sắc. Khi dị thục kia sinh thì có cao có thấp, có kém có hơn. Dị thục kia khi sinh thì có cao có thấp, là do tuổi thọ… có sai khác. Có kém có hơn, là nhiễm ô và bất nhiễm ô có sai khác phần nhiều hoặc phần ít.
- Danh tưởng lập ra: Là Tam-ma-địa trong bốn tĩnh lự sai khác vô lượng, danh tự không thể tính toán, là bất khả tư nghì. Vì sao? Trong định thuộc về của Sơ tĩnh lự, là nơi nhập Tam-ma-địa của chư Phật Thế Tôn và chư Đại Bồ-tát đắc Đại oai đức rốt ráo. Tam-ma-địa kia, tất cả Thanh văn và Độc giác còn không thể hiểu rõ tên của nó, làm sao biết số của nó, huống chi là chứng nhập? Như trong kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: "Tam-mađịa, số nó hơn một trăm". Như vậy trong các kinh Đại thừa nói: "Tam-ma-địa, số ấy vô lượng". Như định thuộc về Sơ tĩnh lự, đối với định thuộc về tĩnh lự khác cũng vậy. Những điều đã nói như vậy đều là dựa vào Tĩnh lự Ba-la-mật-đa.
Thanh tịnh: Là định bờ mé trong Sơ tĩnh lự, cho đến định bờ mé của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, đó gọi là định bờ mé của tĩnh lự thanh tịnh cõi Vô Sắc, là vì muốn dẫn phát thắng Phẩm Công đức đắc tự tại mà tu định gắng nhận đến chỗ rốt ráo.
Đạo xuất thế gian, là Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí thuộc về Pháp trí và Loại trí Phẩm trong Tu đạo, như vậy tướng của tám trí trong Kiến đạo đã rộng nói, và trí kia tương ưng với Tam-ma-địa, hoặc thuộc về định Vị Chí, hoặc Sơ tĩnh lự cho đến thuộc về Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ chỉ là thế gian, vì tưởng không sáng rõ thường hiện hành. Do tưởng không sáng rõ thường hiện tiền, không phải cực sáng rõ hiện hành chỗ nương của thánh đạo, nên hoàn toàn thuộc về thế gian do đạo lý nầy mà tưởng kia suy yếu không thể mạnh mẽ lấy tướng sở duyên nên gọi là vô tướng.
Hỏi: Làm sao biết Phi tưởng Phi phi tưởng xứ không có Thánh đạo? Do Thế Tôn nói: "Cho đến hữu tưởng Tam-ma-bát-để mới có thể soi rõ như thật thông đạt diệt tận Tam-ma-bát-để". Là xuất thế gian, do sự chứng đắc sau Thánh đạo phải đối với cõi người mới có thể dẫn phát. Dẫn phát, là nghĩa sơ khởi, hoặc đối với cõi người, hoặc ở cõi Sắc có thể hiện tiền, trước hết đã sinh khởi rồi sau đó lại hiện tiền. "Hoặc đối với cõi người", tức là đối với đời nầy. "Hoặc đối với cõi Sắc", là đối với đời sau.
Hỏi: Thế nào là Thánh đệ tử đã được định Vô Sắc rồi lìa cõi Sắc, muốn sinh trở lại cõi Sắc thì sao?
Đáp: Không cần lìa hẳn dục của cõi Sắc mới nhập định Vô Sắc, nên trong đây phải nêu ra bốn trường hợp. Hỏi: Nếu người đã lìa dục cõi Sắc, thì tất cả đều có thể nhập định vắng lặng giải thoát của cõi Vô Sắc hay sao? Nếu người có thể nhập định vắng lặng giải thoát cõi Vô Sắc, thì tất cả đã lìa dục cõi Sắc hay sao?
Đáp: Trường hợp thứ nhất, là nương vào định Vị Chí rồi lìa dục cõi Sắc mà không thể nhập được định vắng lặng giải thoát của cõi Vô Sắc. Trường hợp thứ hai, là các bậc Thánh đã đắc tĩnh lự đệ Tứ không cầu sinh cõi Vô Sắc mà khởi chán trái, tĩnh lự đệ Tứ hằng hiện tiền, xả đạo đoạn kiết nương vào đạo thắng tiến, dần dần có thể được nhập định vắng lặng giải thoát của cõi Vô Sắc. Trường hợp thứ ba, tức là hành giả nầy cần cầu lìa dục, dựa vào đạo dứt kiết, dần dần có thể nhập định vắng lặng giải thoát của cõi Vô Sắc. Trường hợp thứ tư, là trừ tướng như thế của các trường hợp trên.
Hỏi: Trong cõi Vô Sắc, vì sao diệt định không khởi hiện tiền?
Đáp: Sinh cõi Vô Sắc thì định Diệt tận nầy phần nhiều không khởi hiện tiền, do người trụ nơi Dị thục của giải thoát vắng lặng đối với diệt định nầy phần nhiều không phát khởi cần phương tiện. Vì sao? Vì chư Thánh đệ tử muốn an trụ nơi trụ vắng lặng, đối với cõi người… Dẫn diệt định nầy khiến cho hiện tiền. Nếu người đã sinh cõi Vô Sắc, không do công dụng mà tự nhiên an trụ nơi trụ Dị thục của giải thoát vắng lặng bậc nhất, không phát khởi lại phương tiện công dụng để cầu diệt định nầy khiến cho hiện ở trước.
Nhuyến đạo: Là ba phẩm Đạo nhuyến nhuyến, nhuyến trung và nhuyến thượng, do đạo nầy có thể xả sự trói buộc nơi ba phẩm phiền não Thượng Thượng, Thượng Trung và Thượng Hạ của các địa trong ba cõi.
Trung đạo, là ba phẩm đạo trung nhuyến, trung trung và trung thượng, do đạo nầy có thể xả sự trói buộc nơi ba phẩm phiền não trung thượng, trung trung và trung nhuyến trong các địa của ba cõi.
Thượng đạo, ba phẩm đạo là thượng nhuyến, thượng trung và thượng thượng, do đạo nầy có thể xả sự trói buộc nơi ba phẩm phiền não thượng nhuyến, thượng trung và thượng thượng của các địa trong ba cõi.
Như vậy nhuyến phẩm Đạo, Trung Phẩm Đạo và Thượng Phẩm Đạo, lại đều phân riêng thành ba, lập ra chín phẩm nhuyến Trung Thượng, là để nói về dứt phiền não của tu đạo dần dần dứt. Lại nữa, vì sao mà nhuyến nhuyến phẩm đạo có thể dứt thượng thượng phẩm phiền não? Vì phiền não nầy rất mạnh mẻ đối với sự hủy diệt tàm quí. Không hỗ thẹn, là trong thân thô nặng hiện hành, dễ có thể biết rõ, dễ có thể phân biệt, nên thượng phẩm phiền não nầy cũng như thô cấu, đối trị nhỏ thì liền có thể dứt trừ. Hoặc phiền não hạ hạ phẩm trái với thượng phẩm phiền não, là trong thân ẩn kín nhỏ nhiệm hiện hành, khó hiểu rõ được, khó phân biệt được, như các bụi cấu nhỏ nhiệm ẩn núp thì đại lực đối trị mới có thể dứt trừ. Do đạo lý nầy nên biết sự khác nơi năng tri, sở trị lập ra trái nhau cũng vậy.
Đạo phương tiện, là do đạo nầy có thể xả bỏ phiền não. Vì sao? Vì đang khi tu đạo như vậy, có thể dần dần xả lìa thượng phẩm khác nhau v.v…, đã sinh Phẩm Loại thô nặng của phiền não, một phần dần dần được chuyển y, đó gọi là đạo phương tiện trong tu đạo.
Đạo Vô Gián, là do đạo vô gián nầy dứt hẳn phiền não khiến cho không còn sót gì, vì sao? Vì đạo vô gián nầy có thể dứt hẳn dứt trừ sự sinh phẩm loại phiền não thô nặng của phẩm phiền não ấy khiến không sót. Lại nữa, chuyển y thô nặng đắc không thô nặng, gọi là đạo vô gián trong tu đạo.
Đạo giải thoát là do đạo nầy, mà sự chứng đắc giải thoát của nó là do dứt phiền não. Vì sao? Vì đạo nầy có thể chứng đắc sự chuyển y của nó là do dứt hẳn phiền não.
Đạo thắng tiến, là vì tất cả đạo phương tiện vô gián giải thoát đã dứt các phiền não khác, gọi đó là đạo thắng tiến. Vì sao? Vì sau khi đoạn phẩm nầy thì tất cả đạo phương tiện, vô gián, giải thoát của phiền não khác so với phẩm nầy là thắng tiến, nên gọi là đạo thắng tiến. Lại nữa, trừ bỏ phương tiện đoạn phiền não, hoặc Phương tiện cần tư duy các pháp, hoặc phương tiện cần an trụ các pháp, hoặc tiến tu các tất cả đạo Tam-ma-bát-để khác, gọi là đạo thắng tiến. Lại nữa, vì hiển bày nghĩa khác, xả bỏ các đạo phương tiện đoạn phiền não, chỉ chánh tư duy các pháp trong khế kinh, hoặc đã tư duy đã chứng pháp đầu tiên an trụ quán sát, hoặc tiến vào các thắng phẩm định, những thứ như vậy gọi là đạo thắng tiến. Lại nữa, vì dẫn phát công đức thắng phẩm hoặc an trụ các tất cả đạo, gọi là đạo thắng tiến. Vì sao? Nếu vì dẫn phát thắng phẩm công đức của thần thông vô lượng, hoặc các đạo kia đã sinh rồi hiện tiền an trụ, thì những đạo như vậy gọi là đạo thắng tiến.
Như thế là đã nói rộng tướng sai khác của tu đạo. Giờ đây nương vào thế mạnh của nghĩa mà biện luận thêm tu sai khác của các đạo.
Tu là thế nào? Nói lược có bốn thứ:
1. Tu đắc.
2. Tu tập.
3. Tu trừ khử.
4. Tu đối trị.
- Tu đắc, là pháp thiện chưa sinh thì tu tập khiến cho sinh.
- Tu tập, là pháp thiện đã sinh, thì tu khiến cho trụ chắc không quên, tô bồi rộng thêm.
- Tu trừ khử, là pháp ác bất thiện đã sinh, thì tu khiến cho dứt hẳn.
- Tu đối trị, là pháp ác bất thiện chưa sinh, thì tu khiến cho bất sinh. Như vậy bốn tướng tu sai khác tùy theo sự thích ứng của nó nương vào bốn chánh đoạn mà nói. Vì đắc nên tu, gọi là tu đắc. Do tu lực nầy mà đắc điều chưa đắc các pháp thiện. Tập tức là tu nên gọi là tu tập, do tu lực nầy tập quen rồi thì đắc các pháp thiện. Vì trừ nên tu, gọi là tu trừ khử, do năng lực tu nầy mà trừ khử vị hiện hành của các pháp bất thiện. Tu tập đối trị gọi là tu đối trị, đối trị các pháp bất thiện vị lai, khiến cho thành pháp bất sinh. Lại nữa, khi đạo sinh thì có thể an lập tập khí của tự mình, gọi là tu đắc, từ chủng loại nầy mà xoay vần thêm mạnh nối tiếp sinh. Lại nữa, ngay nơi đạo nầy hiện tiền tu tập, gọi đó là tu tập, do ngay nơi đạo nầy mà hiện tiền hiện hành, cũng tức là ngay đạo nầy khi hiện tiền thì có thể xả tự chướng, gọi là tu trừ khử, vì đạo nầy có thể diệt chướng thô nặng là điều đối trị cần của tự mình, cũng tức là đạo nầy đã xả tự chướng, cũng khiến cho vị lai kia trụ trong pháp bất sinh, gọi là tu đối trị. Do đã đắc chuyển y, đối với đời vị lai xếp đặt các chướng kia khiến cho trụ pháp bất sinh. Lại cũng do đủ bốn thứ đối trị mà gọi là tu đối trị:
1. Chán hoại đối trị.
2. Đoạn đối trị.
3. Trì đối trị.
4. Viễn phần đối trị.
- Chán hoại đối trị, là thấy nhiều tội lỗi đối với các hành hữu lậu, là vì hành của các thứ như bệnh, như ung nhọt… chán hoại năm thủ uẩn.
- Đoạn đối trị, là đạo phương tiện và vô gián, nó có công năng dứt các phiền não.
- Trì đối trị, là đạo giải thoát, do đạo giải thoát kia nắm giữ đoạn đắc.
- Viễn phần đối trị, là các đạo từ đây về sau. Do đạo nầy khiến cho sự dứt phiền não trước kia càng xa lìa. Như vậy bốn thứ đối trị sai khác, là nghĩa của tu sai khác đối trị ở trước.
Lại nữa, đạo sai khác có mười một thứ:
1. Quán sát sự đạo.
2. Cần công dụng đạo.
3. Tu trị định đạo.
4. Hiện quán đạo phương tiện.
5. Thân cận hiện quán đạo.
6. Hiện quán đạo.
7. Thanh tịnh xuất ly đạo.
8. Y căn sai khác đạo.
9. Tịnh tu ba học đạo.
10. Phát các công đức đạo.
11. Biến nhiếp các đạo đạo.
Phải biết trong đây do sai khác của giác phần mà lập ra mười một thứ đạo, như thứ lớp của nó là ba mươi bảy Bồ-đề phần. Bốn thứ chánh hạnh và bốn thứ pháp tích của phần pháp Bồ-đề, là ba căn vô lậu của Tam-ma-địa Tỳ-bát-xá-na.
- Quán sát sự đạo, là bốn niệm trụ. Do niệm nầy mà đầu tiên dùng các hạnh bất tịnh mà quán sát tất cả sự thân, thọ, tâm pháp.
- Cần công dụng đạo, là bốn chánh đoạn, do quán sát khắp tất cả sự rồi vì dứt các chướng để phát khởi cần tinh tiến.
- Tu trị định đạo, là bốn thần túc, như vậy trừ sạch tất cả chướng rồi, lại do dục cần tâm quán môn tu Tamma-địa, khiến cho trở thành tánh điều thuận gánh vác.
- Hiện quán đạo phương tiện, là năm căn như tín v.v…, như vậy tu trị Tam-ma-địa rồi, vì muốn chứng đắc Thánh đạo vô lậu mà siêng tu duyên Tăng thượng phương tiện như Noãn, Đảnh.
- Thân cận hiện quán đạo, là năm lực như tín… như vậy người đã đắc duyên Tăng thượng rồi, vì muốn thông đạt đế lý vô gián nên tu tập điều phục các chướng như bất tín… là phương tiện gần của pháp Nhẫn bậc nhất.
- Hiện quán đạo, là bảy giác chi, do đạo nầy mà đầu tiên đều nội chứng riêng giác ngộ chân lìa.
- Thanh tịnh xuất ly đạo, là tám chi Thánh đạo, từ đây về sau vì muốn cho phiền não do tu đạo dứt được thanh tịnh mà tu đạo xuất ly, do đạo lý nầy mà Bồ-đề phần pháp thứ lớp như vậy.
- Y căn sai khác đạo, là bốn chánh hạnh, vì dựa vào các địa sai khác của cận phần căn bản và căn lợi độn sai khác. Khổ chánh hạnh, là dựa vào định vị chí và định Vô Sắc, như thứ lớp của nó chỉ quán yếu kém. Lạc chánh hạnh, là dựa vào tĩnh lự căn bản mà hai đạo song song chuyển. Hai trì thông, là độn căn nương vào khổ vui. Hai tốc thông, là lợi căn nương vào khổ lạc.
- Tịnh tu ba học đạo, là bốn pháp tích, do đạo nầy mà tịnh tu ba học tăng, tâm, tuệ. Vô tham vô sân có thể tịnh tu trị giới học tăng thượng, không bao giờ hủy phạm học xứ đã học bởi môn tham dục sân giận. Chánh niệm có thể tịnh tu trị tâm học tăng thượng, do không quên sở duyên trì tâm khiến cho định. Chánh định có thể tịnh tu trị Tuệ học tăng thượng, do tâm đắc định có công năng chứng Trí như thật.
- Phát các công đức đạo: Là Xa-ma-tha Tỳ-bát-xána, do đạo nầy có thể làm thành tất cả công đức.
- Biến nhiếp các đạo đạo: Là ba căn vô lậu, do đạo nầy có thể thâu nhiếp Sơ, Trung và rốt ráo tất cả đạo, Vị tri dục tri căn thâu nhiếp đạo phương tiện, Dĩ tri căn thâu nhiếp tu đạo, Cụ tri căn thâu nhiếp Rốt ráo đạo.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Lại nữa, tất cả phần pháp Bồ-đề không có sai khác, đều do năm môn mà đắc Kiến vị, là Sở duyên, Tự thể, Trợ giúp, Tu tập, Tu quả. Như thứ nhất là bốn niệm trụ có năm môn, các Bồ-đề Phần pháp khác cũng vậy.
Cảnh sở duyên của bốn niệm trụ, là Thân, Thọ, Tâm và Pháp. Lại có bốn sự:
1. Sự ngã nương tựa.
2. Sự ngã thọ dụng.
3. Sự ngã tự thể.
4. Sự ngã nhiễm tịnh.
Vì sao chỉ lập bốn việc nầy làm cảnh của sở duyên? Vì sự nhận biết ngu si điên đảo của phàm phu thường chấp ngã, dựa vào hữu căn thân mà thọ dụng khổ vui, lấy cảnh đã biết rõ làm tướng, do nhiễm ô của tham… do thanh tịnh của tín… do đó đầu tiên thực hành chánh quán sát chân thật sự tướng, nên lập ra bốn việc nầy làm cảnh sở duyên.
Tự thể của niệm trụ, là tuệ và niệm, vì trong kinh Phật có đối với thân… có câu "Tuần quán (quán lần theo)", và câu "niệm trụ", như thứ lớp của nó.
Trợ giúp của niệm trụ, là bỉ tương ưng với tâm và tâm pháp, bỉ là hai pháp niệm và tuệ.
Tu tập niệm trụ, là đối với nội thân tu quán tuần thân… như đối với nội thân, thì đối với ngoại, đối với nội ngoại thân cũng vậy. Nội thân, là tất cả Nội sắc xứ trong thân nầy, vì căn Nhãn Nhĩ Tỷ Thiệt Thân trong thân nầy là thuộc về nội xứ, vì thuộc về số hữu tình nên gọi là nội. Ngoại thân là tất cả Ngoại sắc xứ bên ngoài. Do ngoại sắc thanh hương vị xúc… là thuộc về ngoại xứ, không phải số hữu tình nên gọi là ngoại. Nội ngoại thân, là tất cả Nội xứ tương ưng với chỗ nương về ngoại xứ căn. Do năm xứ như nhãn… trong thân mình tương ưng với căn chỗ mà nương trụ, tất cả Ngoại xứ của sắc… thuộc số hữu tình là thuộc về ngoại xứ nên gọi là nội ngoại. Lại nữa, tất cả Nội sắc xứ trong thân người, thì y cứ theo xứ lập, dựa theo thân lập mà gọi là Nội Ngoại.
Hỏi: Thế nào là đối với thân mà tu tuần thân quán?
Đáp: Là vì phân biệt thân ảnh tượng bình đẳng với thân bản chất, quán lần theo đối với thân cảnh, quán lần theo thân tương tự tánh, gọi là đối với thân tu tuần thân quán, là quán sát lần theo môn phân biệt thân ảnh tượng và quán sát thân bản chất.
Nội thọ, là thọ được sinh từ nội thân, duyên vào nhãn xứ… làm cảnh giới, là nương vào tự thân mà sinh nên gọi là nội.
Ngoại thọ, là thọ được sinh từ ngoại thân, duyên xứ như sắc … làm cảnh giới, nương vào thân người mà sinh nên gọi là ngoại.
Nội ngoại thọ, là thọ được sinh dựa vào Nội Ngoại thân, duyên ngoại xứ trong tự thân làm cảnh và duyên nội xứ trong thân người làm cảnh nên gọi là nội ngoại. Như thọ, thì tâm và pháp cũng vậy, như đối với thân tu tuần thân quán, như vậy đối với thọ… thì tu các quán như tuần thọ... như thứ lớp của nó.
Lại nữa, tu tập, là dục, cần, sách, lệ, mạnh mẽ, bất tức, chánh niệm, chánh tri và không buông lung, vì tu tập sai khác. Dục tu tập, là đối trị khiến tác ý không Tùy phiền não. Cần tu tập, là đối trị tùy phiền não biếng trễ. Sách tu tập, là đối trị tùy phiền não trầm trạo. Lệ tu tập, là đối trị tùy phiền não tâm tánh yếu kém. Tâm tánh yếu kém là đối với thắng phẩm công đức đã chứng, do chỗ tự khinh miệt mà tâm sinh tánh yếu đuối. Mạnh mẽ tu tập, là đối trị tùy phiền não tủng lậu (rò rỉ) mệt mỏi. Tủng lậu mệt mỏi là những nơi chỗ có thể dẫn phát muỗi mòng mà sinh bức não.
Bất tức tu tập, là đối trị tùy phiền não được chút ít pháp thiện mà sinh mừng đủ, do được chút ít thiện sinh mừng đủ mà ngừng dứt phẩm thiện khác cao đẹp hơn.
Chánh niệm tu tập, là đối trị tùy phiền não quên mất sự tôn kính. Chánh tri tu tập, là đối trị tùy phiền não hủy phạm truy hối. Hủy phạm truy hối là đối với các việc qua lại thì bất chánh tri mà làm, trước hết vượt bỏ học xứ, sau đó thì sinh ăn năn hối hận.
Không buông lung tu tập, là đối trị tùy phiền não xả các thiện ách. Xả thiện ách là do tội lỗi của buông lung, đối với tu phẩm Thiện Thắng Tiến đã tạo, thì xả phương tiện cần nên không thể rốt ráo.
Tu quả niệm trụ là dứt bốn điên đảo tiến vào bốn đế, thân… lìa trói buộc gọi là tu quả đoạn. Bốn điên đảo là bốn niệm trụ, theo thứ lớp của nó có thể đoạn bốn thứ điên đảo là Tịnh, Lạc, Thường và Ngã, vì tu quán bất tịnh, biết rõ các thọ đều là khổ, thông đạt các thức dựa vào duyên sai khác mà niệm niệm đổi khác, quán sát nhiễm tịnh chỉ có các pháp mà không có người tác dụng. Lại, bốn thứ nầy như thứ lớp của nó mà tiến nhập bốn đế cũng gọi là tu quả. Do thân niệm trụ tiến nhập Khổ đế, tất cả sắc thân đều là tướng của hành khổ, vì sự hiển của thô nặng, nên khi tu quán hạnh thì có thể đối trị khinh an nầy, vì thân sai khác mà sinh. Do thọ niệm trụ tiến nhập Tập đế, vì các thọ khổ, vui… là chỗ nương của ái hòa hợp. Do tâm niệm trụ tiến nhập Diệt đế, quán lìa ngã thức nên không có môn sợ hãi về đoạn ngã sinh kinh sợ Niết-bàn và xa lìa hẳn. Do pháp niệm trụ tiến nhập đạo đế, là dứt pháp được đối trị và tu pháp có thể đối trị. Lại nữa, bốn thứ nầy như thứ lớp của nó có thể chứng đắc thân, thọ tâm và pháp nơi quả lìa hệ. Do tu tập nầy dần dần có thể xa lìa thô nặng của thân, thọ, tâm pháp.
Cảnh sở duyên của bốn chánh đoạn, là các pháp đã sinh, chưa sinh, năng trị, sở. Chánh đoạn thứ nhất duyên pháp đã sinh cần đối trị làm cảnh, để dứt pháp ác bất thiện đã sinh, vì lạc dục sinh. Chánh đoạn thứ hai duyên pháp chưa sinh cần đối trị làm cảnh. Chánh đoạn thứ ba duyên theo pháp năng trị chưa sinh làm cảnh. Chánh đoạn thứ tư duyên với pháp năng trị đã sinh làm cảnh. Như kinh đã nói, nên phối hợp giải thích rộng.
Tự thể của chánh đoạn, là tinh tiến.
Trợ giúp của chánh đoạn, là chánh đoạn đó tương ưng với tâm tâm pháp.
Tu tập của chánh đoạn, như kinh nói: "Sinh, dục, sách, cần, phát khởi chánh cần, sách tâm, trì tâm". Các câu trong đây là hiển tu chánh cần và chỗ nương. Chỗ nương là dục của dục lạc, vì trước phát khởi tinh tiến. Chánh cần là khuyến khích, thúc đẩy, trong chỉ, cử, xả tướng tác ý… nếu do các tướng tác ý của chỉ… không cố nhìn lại cảnh sở duyên mà thuần tu tập đối trị, lúc đó gọi là khuyến khích, thúc đẩy, vì muốn tổn giảm hôn trầm trạo cử mà phát khởi chánh cần. Vì sao? Nếu khi tùy phiền não hôn trầm sinh, muốn làm tổn giảm hôn trầm kia, thì dùng tác ý của các tịnh diệu… để thúc đẩy, tu luyện tâm đó. Nếu khi tùy phiền não trạo cử sinh, thì dùng nội chứng môn tóm thâu để chế phục và nắm giữ tâm đó, lúc nầy gọi là phát khởi chánh cần, tức là vì hiển bày phương tiện khéo léo của chánh cần tổn giảm trầm trạo, nên kế là nói "Sách tâm trì tâm".
Tu quả của chánh đoạn, là từ bỏ hết tất cả sở trị, đối với năng đối trị hoặc đắc hoặc thêm đó gọi là tu quả. Chánh đoạn thứ nhất và thứ hai thì bỏ hết tất cả trị, như sự thích ứng của nó mà dứt xả tất cả pháp ác bất thiện đã sinh và chưa sinh. Chánh đoạn thứ ba thì đắc năng đối trị, vì có thể sinh khởi các pháp thiện chưa sinh. Chánh đoạn thứ tư thì tăng năng đối trị, pháp thiện đã sinh khiến cho rộng thêm.
Cảnh sở duyên của bốn thần túc, là mọi sự đã được Định làm đầy đủ. Điều nầy lại là thế nào? Là đã thành tựu đầy đủ lực Tam-ma-địa, phát khởi các thứ sự thần biến là cảnh của sở duyên
Tự thể của thần túc, là Tam-ma-địa.
Thần túc trợ giúp, là dục, cần, tâm, quán và tâm tâm pháp tương ưng với thần túc kia. Dục Tam-ma-địa là do ân trọng phương tiện chứng tâm một cảnh tánh. Ân trọng phương tiện là do phương tiện của lạc dục mãnh lợi và phương tiện cung kính mãnh lợi đắc Tam-ma-địa. Cần Tam-ma-địa là do phương tiện vô gián xúc với tâm một cảnh tánh. Cần là thường tinh tiến không có lúc nào tạm xen hở. Tâm Tam-ma-địa là do trước tu năng lực định xúc với tâm một cảnh tánh. Vì sao? Vì ở đời trước thường tu lực định, khiến công năng của hạt giống kia tăng trưởng. Do năng lực của hạt giống khiến tâm mặc tình đối với Tam-ma-địa thuận theo chuyển biến, do đây mau chóng chứng tâm một cảnh tánh. Quán Tam-ma-địa là do nghe giáo pháp từ người khác mà tự bên trong chọn lựa xúc với tâm một cảnh tánh.
Lại nữa, dục Tam-ma-địa là do sinh dục xúc với tâm một cảnh tánh. Cần Tam-ma-địa là do thúc giục phát khởi chánh cần xúc với tâm một cảnh tánh. Tâm Tamma-địa là do trì tâm xúc với tâm một cảnh tánh. Quán Tam-ma-địa là do sách tâm xúc với tâm một cảnh tánh. Vì để hiển tánh nhân phát sinh thần túc, dẫn các câu trì tâm, sách tâm của dục, sách, lệ sinh khởi trong chánh tu đoạn là thứ lớp nầy. Tâm Tam-ma-địa là do trì tâm nên đắc Định trì tâm, bên trong vắng lặng lược tóm mau chóng chứng định. Quán Tam-ma-địa là do sách tâm nên đắc định, nương vào môn pháp quán mà thúc giục tu luyện tâm đó mau chóng đắc định.
Tu tập thần túc, là thường tu tập tám thứ hạnh đoạn. Tám hạnh đoạn là: 1. Dục. 2. Tinh tiến. 3. Tín. 4. An. 5. Chánh niệm. 6. Chánh tri.
7. Tư. 8. Xả.
Như vậy tám thứ lược tóm làm bốn thứ:
1. Gia hạnh.
2. Nhiếp thọ.
3. Kế thuộc.
4. Đối trị.
- Gia hạnh là dục, tinh tiến và tín. Tín làm nhân của dục. Vì sao? Là do dục cầu, vì đắc nghĩa nầy nên phát khởi cần tinh tiến, như vậy dục cầu không lìa tín và thọ, vì hữu thể.
- Nhiếp thọ là an, do khinh an nầy thâu nhiếp lợi ích thân tâm.
- Kế thuộc là chánh niệm chánh tri. Do không quên sở duyên, an tâm ở một cảnh, nếu có buông lung sinh khởi thì như thật biết rõ, tùy theo thứ lớp của nó.
- Đối trị là tư và xả. Hai lực gia hạnh sách tâm và trì tâm đã sinh thì trầm và trạo có thể xa lìa hẳn, lại cũng có thể dẫn phát lìa tùy phiền não và các tướng như chỉ…
Lại nữa, dục, cần tâm, quán và tu có hai thứ, là cùng nhân duyên tụ tán xa lìa, tu không kém không tán loạn và tu thuận theo hai chỗ nương. Trong đây chỉ rõ dục… có khả năng xa lìa nghĩa hai thứ tu tụ tán và nhân duyên. Tụ nhân duyên là xa lìa Tỳ-bát-xá-na, do chìm trong biếng trễ sinh ra. Tán nhân duyên là xa lìa tưởng bất tịnh, do sự cao ngạo của môn trạo động sinh ra. Tụ là do vội vã bồn chồn bên trong của môn hôn trầm, ngủ nghĩ. Tán là do theo đuổi tứ tán bên ngoài của môn thuận theo tướng tịnh diệu. Tu thuận theo không kém yếu là nương vào tướng quán sát mà quán sát các pháp. Tu thuận theo không tán loạn là nương vào tưởng bất tịnh mà quán sát các sự tóc, lông… tu thuận theo hai chỗ nương kia là tu tưởng ánh sáng, nương theo thứ lớp như vậy. Đức Bạcgià-phạm nói: "Dục lạc của ta không có yếu kém cũng không có cao cử, bên trong không tụ, bên ngoài không tán, có tiền tưởng, hậu tưởng, thượng tưởng và hạ tưởng khai phát tâm đó mà xa lìa trói buộc, cùng với ánh sáng đồng thời tự tu tâm, sẽ khiến cho tâm ta không có các chướng che ngăn".
Tu quả của thần túc, là đã khéo tu trị Tam-ma-địa rồi, nên tùy điều muốn chứng pháp, điều thông đạt pháp, liền có thể tùy tâm thông đạt biến hiện. Lại nữa, trong pháp riêng từng nơi, chứng đắc gắng nhận tác dụng tự tại, như đã nguyện lạc có thể phân rõ sự của các thứ thần thông, lại cũng có thể dẫn phát công đức thắng phẩm.
Cảnh sở duyên của năm căn, là bốn thánh đế, do sự thâu nhiếp của đế phương tiện hiện quán mà khởi hạnh nầy.
Tự thể của năm căn, là tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ. Trợ giúp của năm căn, là năm căn kia tương ưng với tâm tâm pháp.
Tu tập của năm căn, là tín căn đối với các đế khởi có thể hành tu tập, tinh tiến căn đối với các đế sinh nhẫn được rồi, vì giác ngộ nên khởi hành tinh tiến tu tập, niệm căn đối với các Đế phát tinh tiến rồi, khởi hành không quên mất tu tập, định căn đối với các Đế đã buộc niệm rồi khởi tâm một cảnh tánh hành tu tập, tuệ căn đối với các Đế, tâm đã đắc định rồi khởi hành lựa chọn tu tập.
Tu quả của năm căn, là có thể mau chóng phát khởi hiện quán đế, do năng lực tăng thượng nầy thì không lâu sẽ sinh Kiến đạo. Lại cũng có thể tu trị Noãn Đảnh, Dẫn phát nhẫn pháp Thế bậc nhất, tức là hiện tại thân nầy đã nhập thuận quyết trạch phần vị.
Như năm căn, năm lực cũng vậy, có sai khác là do năm lực nầy có thể làm tổn giảm chướng bị đối trị, không thể khuất phục nên gọi là lực. Cảnh sở duyên của năm lực tương tự với căn, nhưng quả thì có khác. Vì sao? Như nói quả, là có thể làm tổn giảm chướng của bất tín… thù thắng hơn quả trước, tuy cùng với tự thể nơi cảnh giới của sở duyên của năm căn tương tự, nhưng nghĩa "không thể khuất phục" thì có khác nhau, nên nêu riêng phần lực.
Cảnh sở duyên của bảy giác chi, là tánh như thật của bốn thánh đế. Tánh như thật là sở duyên thanh tịnh.
Tự thể của giác chi, là niệm, trạch pháp, tinh tiến, hỷ, an, định, xả. Như vậy bảy pháp là tự thể của giác chi. Niệm là chỗ nương của chi, do hệ niệm nên khiến cho các pháp thiện đều không quên mất. Trạch pháp là chi tự thể, là tự tướng của giác. Tinh tiến là chi xuất ly, do thế lực của chi nầy mà có thể đến nơi phải đến. Hỷ là chi lợi ích, do thế lực của chi nầy mà thân điều thuận thích hợp. An, định và xả là chi bất nhiễm ô, là do chi nầy mà không nhiễm ô, nương vào bất nhiễm ô nầy mà thể là bất nhiễm ô. Như thứ lớp của nó, do an nên bất nhiễm ô, do an nầy có thể trừ lỗi thô nặng, nương vào định nên bất nhiễm ô, nương vào định mà đắc chuyển y, xả là thể của bất nhiễm ô, dứt hẳn trừ tham và ưu, vì vị bất nhiễm ô làm tự tánh. Trợ giúp giác chi, là tâm tâm pháp tương ưng với giác chi kia.
Tu tập giác chi, là nương tựa xa lìa, nương tựa vô dục, nương tựa vắng lặng, hồi hướng khí xả tu niệm giác chi. Như niệm giác chi, cho đến xả giác chi cũng vậy. Như vậy bốn câu tùy theo thứ lớp của nó mà hiển bày duyên cảnh của bốn đế tu tập giác chi. Vì sao? Nếu khi duyên khổ, thể làm khổ não, thì đối với cảnh giới của khổ chắc chắn phải cầu xa lìa, nên gọi là nương tựa xa lìa. Nếu khi duyên tướng ái khổ tập làm khổ tập, thì đối với cảnh giới nầy chắc chắn phải cầu lìa dục, nên gọi là nương tựa lìa dục. Nếu khi duyên khổ diệt làm Khổ Diệt, thì đối với cảnh giới nầy chắc chắn phải cầu tác chứng, nên gọi là nương tựa vắng lặng. Khí xả là tiến đến hạnh khổ diệt, do thế lực ấy mà từ bỏ khổ, do đó nếu khi duyên cảnh nầy thì đối với cảnh giới nầy chắc chắn phải cầu tu tập, nên gọi là hồi hướng xả bỏ.
Tu quả của giác chi, là thấy đạo mà vĩnh đoạn phiền não, vì bảy giác chi là tự thể của Kiến đạo.
Cảnh sở duyên của tám chi Thánh đạo, tức là chi nầy sau khi tánh như thật của bốn thánh đế, do cảnh giới sở duyên sau Kiến đạo, tức đã thấy trước kia là tánh như thật của các đế làm thể.
Tự thể của đạo chi, là:
1. Chánh kiến.
2. Chánh tư duy.
3. Chánh ngữ.
4. Chánh nghiệp.
5. Chánh mạng.
6. Chánh tinh tiến.
7. Chánh niệm.
8. Chánh định.
Tám pháp như vậy gọi là tự thể của đạo chi.
- Chánh kiến là chi phân biệt, như đã chứng về xét chọn chân thật trước kia.
- Chánh Tư duy, là chi răn dạy người, như đã chứng phương tiện của nó mà an lập phát ngôn ngữ.
- Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, là chi khiến cho người tin, như thứ lớp của nó, khiến cho người khác đối với bậc chứng lìa chắc chắn. Tin có tánh chánh mạng, kiến giới thanh tịnh. Vì sao? Vì chánh ngữ nên tùy theo sự chứng của tự mình, có thể khéo hỏi đáp, luận nghị và quyết trạch, do đó mà biết rõ có kiến thanh tịnh. Vì chánh nghiệp nên qua lại tiến dừng, chánh hạnh đều đầy đủ, do đó biết rõ có giới thanh tịnh. Vì chánh mạng nên như pháp cầu xin sự cho phép về của Phật, cho y bát, vật dụng nuôi sống, do đó biết rõ có mạng thanh tịnh.
- Chánh tinh tiến, là chi dứt sạch chướng phiền não, do chi nầy mà dứt hẳn tất cả kết.
- Chánh niệm, là chi dứt sạch chướng tùy phiền não, do chi nầy mà không quên tướng của chỉ, cử đúng đắn… không bao giờ dung chứa tùy phiền não trầm trạo…
- Chánh Định, là chi có khả năng dứt sạch chướng công đức tối thắng, do chi nầy có thể dẫn phát vô lượng công đức thù thắng của thần thông…
Trợ giúp đạo chi, là tâm tâm pháp tương ưng với đạo chi.
Tu tập đạo chi, nói như giác chi, là nương tựa xa lìa, nương tựa vô dục, nương tựa vắng lặng, hồi hướng khí xả, tu tập chánh kiến, cho đến nói rộng. Nghĩa của các câu như vậy, như đã nói đạo lý ở trước, phải thuận theo mà biết.
Tu quả của đạo chi, là phân biệt chỉ dạy người, khiến cho người khác tin chướng phiền não thanh tịnh, chướng tùy phiền não thanh tịnh và công đức chướng tối thắng thanh tịnh.
Bốn Chánh hành, là khổ trì thông hành, khổ tốc thông hành, lạc trì thông hành, và lạc tốc thông hành. Hành thứ nhất là độn căn chưa đắc tĩnh lự căn bản. Hành thứ hai là lợi căn chưa đắc tĩnh lự căn bản. Hành thứ ba là độn căn đã đắc Tĩnh lự căn bản. Hành thứ tư là lợi căn đã đắc Tĩnh lự căn bản. Khổ chánh hành là nương vào định vị chí và địa Vô Sắc, như thứ lớp của nó, Xa-matha Tỳ-bát-xá-na suy yếu. Lạc chánh hành là nương vào Tĩnh lự mà hai đạo song song chuyển. Trì thông là độn căn nương vào hai địa khổ và vui. Tốc thông là lợi căn nương vào hai địa khổ và lạc.
Bốn pháp tích, là vô tham, vô sân, chánh niệm, và chánh định. Vô tham vô sân có thể khiến cho giới học thanh tịnh tăng thượng, không do theo môn tham sân mà hủy phạm học xứ. Chánh niệm có thể khiến cho tâm học tăng thượng thanh tịnh, vì đối với sở duyên không quên mất việc giữ tâm cho định. Chánh định có thể khiến cho tuệ học thanh tịnh tăng thượng, vì tâm định có thể như thật biết khắp.
Xa-ma-tha, là bên trong thâu nhiếp tâm:
1. Khiến trụ.
2. Đẳng trụ.
3. An trụ.
4. Cận trụ.
5. Điều thuận.
6. Vắng lặng.
7. Tối cực vắng lặng.
8. Chuyên chú một cõi.
9. Bình đẳng nhiếp giữ.
Chín hạnh như vậy khiến cho tâm an trụ là Xa-matha.
- Khiến trụ: Là bên ngoài thâu nhiếp các phan duyên, bên trong lìa tán loạn, vì đầu tiên buộc giữ tâm.
- Đẳng trụ là đầu tiên đã trói buộc tâm thô động rồi, thì liền đối với duyên nối tiếp giữ niệm, nhỏ nhiệm dần dần lược bớt.
- An trụ, hoặc có khi mất niệm, dong ruổi tứ tán bên ngoài, vì tầm thu tóm trở lại.
- Cận trụ là từ mới đầu đến nay, vì khiến cho tâm đó bên ngoài không tán loạn, vì thân cận niệm trụ.
- Điều thuận là từ trước đến nay, nhân tán loạn trong các pháp như sắc… vì dấy khởi năng lực tăng thượng của tưởng sai lầm, nên điều phục tâm đó khiến cho không lưu tán.
Vắng lặng là thấy sâu tội lỗi trong tâm nhiễu động, ác giác tán loạn và tùy phiền não, vì thâu nhiếp tâm đó khiến cho không lưu tán.
- Rất vắng lặng, hoặc có khi thất niệm, giác tán loạn… chợt vậy hiện hành, thì liền điều phục khiến không khởi lại nữa.
- Chuyên một cõi là tinh cần gia hạnh vô gián vô khuyết, nối tiếp an trụ trong Tam-ma-địa thù thắng.
- Bình đẳng nhiếp giữ là vì khéo tu tập, không do gia hạnh xa lìa công dụng, tâm định nối tiếp lìa tán loạn chuyển. Tỳ-bát-xá-na là lựa chọn các pháp đến sự lựa chọn tối cực, tầm tư phổ biến xem xét khắp hết, vì muốn đối trị tướng kiết thô nặng, vì muốn điều phục các điên đảo, khiến cho tâm vô đảo khéo an trụ. Các câu trong đây là nói theo cảnh sở duyên của chánh hạnh, hoặc nói theo cảnh sở duyên của khéo léo mà nói, hoặc nói theo cảnh sở duyên của phiền não thanh tịnh. "Xét chọn các pháp", là hết tất cả. "Tối cực xét chọn", là như tất cả. "Phổ biến tầm tư", là do có phân biệt, tác ý đồng hành với tuệ mà lập ra các pháp tướng. "Xem xét khắp hết", là giao phó tìm cầu đầy đủ.
Lại nữa, nương vào Xa-ma-tha Tỳ-bát-xá-na mà lập bốn thứ đạo. Hoặc có một loại đã đắc Xa-ma-tha không phải Tỳ-bát-xá-na. Loại nầy nương vào Xa-ma-tha mà tiến tu Tỳ-bát-xá-na. Hoặc có một loại đã đắc Tỳ-bát-xána không phải Xa-ma-tha. Loại nầy nương vào Tỳ-bátxá-na mà tiến tu Xa-ma-tha. Hoặc có một loại chưa đắc Xa-ma-tha cũng không phải Tỳ-bát-xá-na. Loại nầy chuyên tâm điều phục trầm, trạo, tu hai đạo. Hoặc có một loại đã đắc Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na. Loại nầy thì hai đạo Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na hòa hợp bình đẳng đều chuyển. Trong đây là nương vào chỉ quán mà nói bốn thứ đạo. Đạo thứ nhất là đã đắc chỉ, nên ngồi yên trụ tâm, cho đến nhiếp giữ bình đẳng, vì chưa đắc quán nên trở lại ngồi thẳng, nương vào Tam-ma-địa mà xét chọn các pháp cho đến quán xét khắp hết. Đạo thứ hai trái với đạo thứ nhất. Đạo thứ ba và đạo thứ hai đều chưa đắc nên tiến tu cả hai. Thế nào là tu tập? Là nghe pháp, do môn thọ trì tiến tu chánh quán, lấy đây làm đầu để tiến tu nơi chỉ. Đạo thứ tư đã đắc hai thứ tương ưng đồng thời chuyển.
Ba căn, gồm:
1. Vị tri dục tri căn.
2. Dĩ tri căn.
3. Cụ tri căn.
- Vị tri dục tri căn là đối với đạo phương tiện và tất cả các căn của mười lăm tâm sát-na trong Kiến đạo. Trong đây hiển bày sự thâu nhiếp đạo phương tiện của thuận quyết trạch phần và tất cả các căn của mười lăm sát-na trong Kiến đạo, là thể của vị tri dục tri căn. Nói "Các căn", là ý căn, trong năm căn như tín căn. Do chỗ nương sai khác các địa của định Vị chí, như sự thích ứng của nó mà có lạc căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn tùy theo mỗi thứ. Ưu căn là khi đạo phương tiện sau thuận quyết trạch phần, đối với giải thoát của cõi trên mong cầu muốn chứng sự thâu nhiếp của sầu lo. Mười căn như vậy, trước hết là chưa biết chân, vì muốn được biết nên tu tập chuyển, gọi là Vị tri dục tri căn.
Dĩ tri căn là từ Kiến đạo tâm sát-na thứ mười sáu trở lên, là tất cả các căn trong tất cả đạo Hữu học, là thể của Dĩ tri căn. Vì sao? Ngay tại mười căn trước, từ Kiến đạo tâm sát-na thứ mười sáu cho đến định Kim Cương dụ, trong đạo Hữu học như vậy, không có cảnh đáng nên biết, từng là điều không biết, gọi là Dĩ tri căn.
- Cụ tri căn là tất cả các căn trong đạo Vô học. Nói "Các căn", tức là chín căn đã nói ở trước trừ ưu căn ra, trong đạo Vô học gọi là Cụ tri căn. "Cụ tri", là tất cả các căn nầy của A-la-hán gọi là Cụ tri căn. Trong thân của bậc Vô học không có ưu căn, vì điều đáng học không có. Lại nữa, nương vào tu đạo mà phân biệt nghĩa của tu, là nương vào Sơ Tĩnh lự địa khi hiện hành tu đạo, cũng là tu tất cả gốc lành thuộc cõi Dục, vì đối với cõi Dục kia được tự tại. Như nương vào Sơ Tĩnh lự địa mà tu thiện cõi Dục, như vậy nương vào tất cả địa cõi trên khi hiện hành tu đạo đều có thể tu tập tất cả gốc lành của hạ giới và hạ địa, vì đối với giới địa kia được tự tại. Phải biết đã nói nghĩa trong đây là nương vào thượng địa hiện tiền khi tu tập đạo, thì tất cả có gốc lành của hạ giới hạ địa tuy không hiện tiền nhưng cũng đều là tu tập. Vì sao? Vì đối với các giới địa kia được tự tại. "Tự tại", là chuyển thêm thù thắng hiện hành tự tại.
- Đạo rốt ráo, là nương vào định Kim Cương Dụ tất cả thô nặng đã dứt hẳn dứt mất, tất cả hệ đắc đã dứt hẳn, chứng hẳn tất cả lìa hệ đắc, từ đây xoay vần chuyển y vô gián, chứng đắc mười pháp Vô học của tận trí và vô sinh trí. Mười pháp Vô học là Vô học chánh kiến cho đến Vô học chánh định, Vô học chánh giải thoát, Vô học chánh trí. Các pháp như vậy gọi là đạo rốt ráo.
Hỏi: Thế nào gọi là tất cả thô nặng?
Đáp: Nói lược có hai bốn thứ:
1. Nhất thiết biến hành hý luận thô nặng.
2. Lãnh thọ thô nặng.
3. Phiền não thô nặng.
4. Nghiệp thô nặng.
5. Dị thục thô nặng.
6. Phiền não chướng thô nặng.
7. Nghiệp chướng thô nặng.
8. Dị thục chướng thô nặng.
9. Cái thô nặng.
10. Tầm tư thô nặng.
11. Ẩm thực thô nặng.
12. Giao hội thô nặng.
13. Mộng thô nặng.
14. Bệnh thô nặng.
15. Già thô nặng.
16. Tử thô nặng.
17. Lao quyển thô nặng.
18. Vững chắc thô nặng.
19. Thô thô nặng.
20. Trung thô nặng.
21. Tế thô nặng.
22. Phiền não chướng thô nặng.
23. Định chướng thô nặng.
24. Sở tri chướng thô nặng.
Như vậy hai mươi bốn thứ lược tóm tất cả thô trọng.-Nhất thiết biến hành hý luận thô nặng, là chấp các pháp tập khí của nhãn… từ vô thỉ đến nay nương tựa thức A-lại-da mà nối tiếp không dứt, các tập khí nầy gọi là tập khí hý luận, từ tập khí nầy, các pháp của nhãn và danh ngôn chấp niệm niệm sinh khởi.
- Lãnh thọ thô nặng là tập khí hữu lậu của các thọ.
- Phiền não thô nặng là phiền não tùy miên.
- Nghiệp thô nặng là tập khí của nghiệp hữu lậu.
- Dị thục thô nặng là Dị thục không có tánh đảm trách.
- Phiền não chướng thô nặng là tánh phiền não mãnh lợi lâu dài.
- Nghiệp chướng thô nặng là tánh nghiệp chướng có thể chướng đạo vô gián…
- Dị thục chướng thô nặng là cùng trái với hiện quán đế, là tự thể đắc của địa ngục.
- Cái thô nặng là tánh của tham dục thịnh có thể chướng ngại phẩm thiện phương tiện.
- Tầm tư thô nặng là tánh của dục tầm tư có thể chướng ngại việc ưa thích xuất gia.
- Ẩm thực thô nặng là thực cực đa hay thiểu đối với hành phương tiện không có tánh gánh vác.
- Giao hội thô nặng là hai hình giao hội, thân tâm mệt nhọc tổn tánh.
- Mộng thô nặng là sự phát tánh hôn liệt nơi thân của ngủ nghĩ.
- Bệnh thô nặng là sự phát tánh bất an ổn của các giới trái nhau.
- Già thô nặng là sự khởi tánh bất tùy chuyển của đại chủng suy biến.
- Chết thô nặng là các tánh căn loạn khi sắp qua đời.
- Mệt nhọc thô nặng là sự khởi tánh chi thể đốn tệ (trì trệ chậm lụt).
- Vững chắc thô nặng là người không có pháp Niếtbàn, như sự thích ứng của nó, tất cả tánh của các thứ hý luận thô nặng.
- Thô thô nặng.
- Trung thô nặng.
- Tế thô nặng, là tất cả thô nặng trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, như thứ lớp của nó.
- Phiền não chướng thô nặng là sự đối trị Bồ-đề của Thanh văn Độc giác.
- Định chướng thô nặng là sự phát công đức đối trị của chín định thứ đệ.
- Sở tri chướng thô nặng là sự trị của tánh Nhất thiết trí.
Như vậy tùy sự thích ứng của nó mà tất cả thô nặng đã dứt hẳn dứt mất, nên gọi là đạo rốt ráo. Hành giả như vậy là tâm giải thoát tròn đầy, tuệ giải thoát tròn đầy, thì thân thô nặng dứt hết hẳn, vì thành tựu niệm làm nhân, đối với môn đầu tiên khéo điều phục, khéo hộ, khéo phòng, khéo che chở hết sức khéo tu trị, là đối với sắc được nhận biết của nhãn cho đến đối với pháp được nhận thức của ý cũng vậy.
Hệ đắc, là đối với thô nặng chứa nhóm mà giả lập tánh hệ đắc. Lìa hệ đắc là đối với thô nặng lìa tán mà giả lập tánh lìa hệ đắc. Định Kim Cương Dụ, là ở vào sau rốt của Tu đạo tất cả Tam-ma-địa của đạo vị dứt kiết. Đạo nầy lại có hai thứ:
1. Đạo phương tiện thâu nhiếp.
2. Thuộc về Đạo vô gián. thuộc về Đạo phương tiện nhiếp là từ đây trở đi không bị mọi thứ chướng làm ngại mà có thể phá trừ mọi thứ chướng. Đạo vô gián nhiếp là từ vô gián nầy mà tận trí và vô sinh trí sinh khởi.
Lại nữa, Tam-ma-địa nầy vững chắc nhất vị vô gián đầy khắp. Thế nào là định Kim Cương Dụ gọi là vô gián? Là vì dòng nối tiếp nầy không phải sự gián đoạn thiếu sót của hành thế gian. Vững chắc là không bị các chướng làm hư hỏng, mà có thể hủy hoại tất cả chướng, vì rất vững chắc và mạnh mẽ. Một vị là tánh vô phân biệt thuần một vị, Biến mãn là duyên tất cả nơi đối tượng nhận biết pháp Chân như cộng tướng làm cảnh. Để nói lên nghĩa nầy, Đức Bạc-già-phạm nói: "Như núi đá to, không có khuyết, không có khe hở, không có một đoạn hang lỗ nào, mười phía rất tròn khéo, gió mạnh không thể động chuyển".
Vô gián chuyển y là tất cả ba thứ chuyển y của người đã chứng đắc đạo Vô học, ba thứ chuyển y là:
1. Tâm chuyển y.
2. Đạo chuyển y.
3. Thô nặng chuyển y.
- Tâm chuyển y là đã đắc đạo Vô học, chứng đắc pháp tánh, tự tánh tâm thanh tịnh, vì lìa hẳn tất cả tùy phiền não khách trần, gọi là chuyển y, tức là nghĩa Chân như chuyển y.
- Đạo chuyển y là đạo thế gian trước kia khi hiện quán thì chuyển thành xuất thế gọi là Hữu học, ngoài ra là có điều tạo tác, nếu trừ hẳn tất cả điều cần đối trị, khi lìa hẳn dục của ba cõi thì tự thể của đạo rốt ráo tròn đầy, lập làm chuyển y.
- Thô nặng chuyển y là tất cả phiền não của thức Alại-da xa lìa hẳn, gọi là chuyển y.
Tận trí, là trí do nhân tận mà đắc, hoặc duyên tận làm cảnh. Vì sao? Vì có tận cho nên khởi trí nầy, gọi là tận trí, hoặc duyên tận làm cảnh nên gọi là tận trí. Nghĩa nầy có ý nói, trong vị nầy do dứt hẳn tập không còn thừa, sự đắc trí đó gọi là tận trí, hoặc duyên nhân tận làm cảnh nên gọi là tận trí.
Vô sinh trí, là trí sở đắc do quả dứt, hoặc duyên quả bất sinh làm cảnh. Vì sao? Vì có vô sinh mà đắc trí nầy, nên gọi là Vô sinh trí, hoặc duyên vô sinh làm cảnh gọi là Vô sinh trí. Nghĩa nầy có ý nói, do có vị lai, nên pháp tánh của tất cả quả khổ rốt ráo bất sinh mà đắc trí nầy, tuy duyên các đế khác làm cảnh nhưng cũng gọi là Vô sinh trí, hoặc duyên Khổ đế bất sinh làm cảnh, nên gọi là Vô sinh trí.
Lại nữa, mười pháp Vô học, phải biết là nói theo giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, giải thoát uẩn, và giải thoát trí kiến uẩn Vô học. Vì sao? Vì Vô học chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng là Vô học giới uẩn, Vô học chánh niệm, chánh định là Vô học định uẩn, Vô học chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tiến là Vô học tuệ uẩn, Vô học chánh giải thoát là Vô học giải thoát uẩn, Vô học chánh trí là giải thoát trí kiến uẩn.
Lại nữa, Đạo đế có bốn hành tướng:
1. Tướng đạo.
2. Tướng như.
3. Tướng hành.
4. Tướng xuất.
Hỏi: Tại sai gọi là tướng đạo?
Đáp: Vì nhân theo tướng đạo nầy mà tìm cầu nghĩa chân thật. Vì sao? Vì Thánh đạo nầy là con đường của các bậc Thánh chứng chân nghĩa, nên gọi là Đạo.
Hỏi: Vì sao gọi là tướng như?
Đáp: Vì có công năng đối trị các phiền não. Vì sao? Tất cả phiền não đều là đạo bất như lý, vì có thể trừ nên đạo nầy gọi là Như.
Hỏi: Vì sao gọi là tướng hành?
Đáp: Vì khéo có thể thành tựu tâm khiến không điên đảo. Vì sao? Tâm không giác ngộ đạo lý chân thật, đối với các pháp Vô thường mà khởi điên đảo chấp thường, vì khéo có thể đối trị tâm điên đảo nầy, khiến lìa điên đảo giác ngộ nghĩa chân thật, nên gọi là Hành.
Hỏi: Vì sao gọi là tướng xuất?
Đáp: Vì tiến đến dấu vết của chân thường. Vì sao? Vì Thánh đạo nầy có thể tiến hướng ra khỏi rốt ráo thường tích, nên gọi là xuất.
Hỏi: Trong các đế có mười sáu hạnh đều chung cho thế gian và xuất thế gian, hành thế gian và hành xuất thế gian có gì sai khác?
Đáp: Đối với cảnh đã nhận biết có tánh ngộ nhập bất thiện và tánh ngộ nhập thiện sai khác, tánh hữu chướng và tánh vô chướng sai khác, tánh hữu phân biệt và tánh vô Phân biệt sai khác. Vì sao? Vì mười sáu hành thế gian của Vô thường, khổ… trong các đế đối với cảnh giới của chỗ nhận biết không thông đạt tánh Chân như, vì bị tùy miên của phiền não, nương vào môn danh ngôn mà khởi hý luận. Như thứ lớp của hành thế gian là ngộ nhập bất thiện, có chướng ngại, có phân biệt, thì hành xuất thế gian trái với thế gian nầy, là ngộ nhập thiện, không chướng ngại, không phân biệt, do lý nầy mà thế gian và xuất thế gian khác nhau.
Hỏi: Thế nào là hành xuất thế không có phân biệt mà khéo ngộ nhập?
Đáp: Cảnh giới sở tri khi do các hạnh kia hiện ở trước, tuy hiện tại chứng kiến nghĩa Vô thường, nhưng không dựa vào môn danh ngôn hý luận mà thấy đây là nghĩa Vô thường. Như hạnh Vô thường đối với nghĩa Vô thường, các hạnh khác đối với các nghĩa khác, tùy sự thích ứng của nó cũng giống như vậy.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Hỏi: Thế nào là pháp Quyết trạch?
Đáp: Pháp là mười hai phần thánh giáo. Gồm có:
1. Khế kinh.
2. Ứng tụng.
3. Ký biệt.
4. Phúng tụng.
5. Tự thuyết.
6. Duyên khởi.
7. Thí dụ.
8. Bản sự.
9. Bản sinh.
10. Phương quảng.
11. Pháp chưa từng có.
12. Luận nghị.
-Khế kinh, là dùng văn xuôi nối kết nói lược các nghĩa nên nói.
Hỏi: Vì sao Như Lai không khai diễn rộng những nghĩa đáng nói?
Đáp: Như Lai quán sát mười thứ thắng lợi mà nói lược các pháp, là dễ có thể lập ra, dễ có thể giảng nói, dễ có thể thọ trì, vì cung kính pháp mà tư lương Bồ-đề mau chóng được tròn đầy, mau chóng thông đạt thật tánh các pháp, đối với sự chứng đắc của Chư Phật có thể chứng tịnh tín, đối với sự chứng đắc của pháp và tăng có thể chứng tịnh tín, có thể xúc chứng bậc nhất hiện pháp lạc trụ. Tâm người làm luận quyết trạch, trí an vui được tham dự vào số của những vị thông minh.
Hỏi: Thế nào gọi là dễ có thể lập ra?
Đáp: Những người nói pháp dùng vô lượng môn để an lập mở bày nghĩa nên nói, ở đây nói lược là dễ lập ra. Hỏi: Thế nào là dễ có thể giảng nói?
Đáp: Vì có thể dùng ít ngôn từ mà nói về rộng đại nghĩa, theo điều thuyết mà có thể khiến tâm trụ đẳng trụ. Nói rộng như vậy, "dễ có thể thọ trì", là khiến cho người nghe dễ thọ trì. "Vì cung kính pháp, tư lương Bồ-đề mau chóng được tròn đầy", vì biết rõ pháp Phật là đã chứng của tuệ sâu, thì đối với pháp sinh kính ái sâu xa, do kính ái môn mà các tư lương như tín… mau chóng tròn đầy. "Mau chóng thông đạt thật tánh các pháp", tức là do năng lực phương tiện kính pháp khiến cho trí tuệ của người đó chuyển thêm mạnh mẻ dần dần có thể thông đạt thật tánh các pháp. "Đối với chỗ chứng đắc của ba ngôi báu có thể chứng tịnh tín", là do ngộ thánh giáo mà khéo lập ra, vì đối với người nói thì tịnh tín sinh khởi. "Có thể xúc chứng bậc nhất hiện pháp lạc trụ", là đối với mật ý nghĩa sâu của các Như Lai vì gia hạnh mạnh mẽ nơi chánh tư lương rồi, thì đạt được tăng thượng chứng vui mừng. "Tâm của người bàn luận quyết trạch trí an vui", là khéo có thể khai phát các nghĩa ẩn sâu kín. "Được tham dự vào số những vị thông minh", là sự khen ngợi rộng lớn lưu bố khắp mười phương. Phải biết hai câu sau hợp chung thành một thắng lợi.
- Ứng tụng, ngay trong các kinh, hoặc ở giữa kinh, hoặc sau kinh, dùng tụng để lặp lại. Lại nữa, kinh Bất Liễu Nghĩa phải dùng tụng để giải thích nên gọi là Ứng tụng.
- Ký biệt, là đối với các vị trong Thánh đệ tử đã thuộc về quá khứ, đặc biệt ghi lại đức lỗi, các nơi sinh sống sai khác. Lại nữa, kinh Liễu Nghĩa cũng gọi là Ký biệt, vì đặc biệt ghi lại các ý thâm mật đã chỉ bày.
- Phúng tụng, là trong các kinh dùng câu để giảng nói, hoặc dùng hai câu, hoặc ba câu, hoặc bốn câu, hoặc năm câu, hoặc sáu câu.
- Tự thuyết, là trong các kinh, hoặc có khi Như Lai thích ý tự nói, như Già-tha nói:
Đối với pháp như vậy, Phát tinh tiến mạnh mẽ, Tĩnh lự tư duy kỹ,
Lúc đó là Phạm chí.
- Duyên khởi là do thỉnh mà nói, tùy theo Bổ-đặcgià-la như vậy mà nói lên như vậy. Lại nữa, có nhân duyên chế lập học xứ, cũng gọi là duyên khởi, là nương vào nhân duyên như vậy, y theo sự như vậy, cho đến nói rộng
- Thí dụ, là trong các kinh có so sánh để nói, vì muốn cho nghĩa gốc được rõ ràng, nên nói các thí dụ.
- Bản sự, là sự giảng nói các sự tương ưng đời trước của các Thánh đệ tử.
- Bản sinh, là sự giảng nói các sự tương ưng hạnh gốc của các Bồ-tát.
- Phương quảng, là Bồ-tát tạng tương ưng với nói năng, như gọi là Phương quảng, cũng gọi là Quảng phá, cũng gọi là Vô tỷ.
Hỏi: Vì sao gọi là Phương quảng?
Đáp: Là vì chỗ nương lợi ích an vui của tất cả hữu tình, nên nói pháp rộng lớn sâu xa.
Hỏi: Vì sao gọi là Quảng phá?
Đáp: Vì có công năng phá trừ tất cả chướng ngại. Hỏi: Vì sao gọi là Vô tỷ?
Đáp: Vì không có pháp nào sánh bằng. Các tên như phương quảng… này là tên sai khác của nghĩa Đại thừa, do bảy thứ đại tánh tương ưng nên gọi là Đại thừa.
Thế nào là bảy đại tánh:
1. Cảnh đại tánh, vì đạo Bồ-tát duyên trăm ngàn… vô lượng các kinh và giáo pháp rộng lớn làm cảnh giới.
2. Hạnh đại tánh, là chánh hành tất cả hạnh rộng lớn tự lợi lợi tha.
3. Trí đại tánh, là biết rõ pháp Bổ-đặc-già-la rộng lớn là vô ngã.
4. Tinh tiến đại tánh, là đối với ba đại kiếp A-tăngxí-da, phương tiện tinh tiến tu vô lượng trăm ngàn hạnh khó làm.
5. Phương tiện khéo léo đại tánh, là không trụ sinh tử và Niết-bàn.
6. Chứng đắc đại tánh, là chứng đắc vô lượng vô số đại công đức các lực, vô úy, pháp Phật bất cộng của Như Lai.
7. Nghiệp đại tánh, là cùng tận cùng bờ mé sinh tử hiển bày tất cả thành Bồ-đề, lập ra các Phật sự rộng lớn.-Pháp chưa từng có, hoặc ở xứ đó giảng nói cho Thanh văn nghe là pháp của các đại Bồ-tát và Như Lai rất ít có và rất kỳ diệu.
-Nghị luận, hoặc ở xứ đó không có điên đảo, mà giải thích tất cả pháp tướng sâu kín.
Khế kinh như vậy… thuộc về mười hai phần thánh giáo ba tạng.
Ba tạng gồm:
1. Tạng Tô-đát-lãm.
2. Tạng Tỳ-nại-da.
3. Tạng A-tỳ-đạt-ma.
Tạng nầy lại có hai thứ: a. Tạng Thanh văn. b. Tạng Bồ-tát. Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng và Tự thuyết, năm loại nầy trong tạng Thanh văn thuộc về tạng Tô-đát-lãm. Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự và Bản sinh, bốn loại nầy trong cả hai tạng Thanh văn và tạng Bồ-tát thuộc về Tỳ-nại-da tạng và quyến thuộc. Duyên khởi, là nói có nhân duyên để lập ra các học xứ, chính là thuộc vào Tỳ-nại-da tạng. Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, ba loại nầy là quyến thuộc kia thâu nhiếp. Phương quảng, và pháp chưa từng có, hai loại nầy trong tạng Bồ-tát thuộc tạng Tô-đát-lãm. Phương quảng thì văn nghĩa rộng, chính là thuộc về tạng Bồ-tát: Pháp chưa từng có thì khác nhau khó nghĩ bàn, oai đức rộng lớn, tối thắng tương ưng, nên cũng thuộc về tạng Bồ-tát. Luận nghị, một loại nầy trong hai tạng Thanh văn và Bồ-tát thuộc về tạng A-tỳ-đạt-ma. Hỏi: Vì sao Như Lai lập ra ba tạng?
Đáp: Vì muốn đối trị nghi tùy phiền não nên lập ra tạng Tô-đát-lãm, vì muốn dứt trừ nghi hoặc của hữu tình được hóa độ đối với các thứ pháp phát khởi, nên nói Khế kinh, Ứng tụng…
Vì muốn đối trị tùy phiền não hai bên thọ dụng nên lập ra tạng Tỳ-nại-da. Hai bên, là bên hành dục lạc và biên hành tự khổ. Đối trị thọ dụng, là vì ngăn dứt hành giả thọ dụng chứa nhóm, mà khai mở cho hành giả thọ dụng trăm ngàn thứ như pháp, y phục…
Vì muốn đối trị tùy phiền não tự kiến thủ chấp nên lập ra tạng A-tỳ-đạt-ma, trong các kinh luận có giải thích tướng như thật của các pháp sai khác.
Lại nữa, vì muốn chỉ bày ba thứ học nên lập ra tạng Tô-đát-lãm. Vì sao? Vì hữu tình hóa độ phải nương vào tạng nầy mà hiểu rõ ba học, vì trong tạng nầy mở rộng ba thứ tu học.
Vì muốn thành lập giới học tăng thượng và tăng thượng tâm học nên lập ra tạng Tỳ-nại-da, phải nương vào tạng nầy mà hai tăng thượng học mới được thành lập. Vì sao? Vì rộng giải thích luật nghi biệt giải thoát học đạo thánh giáo làm chỗ nương nương, mới có thể tu trị tịnh Thi-la, nương vào tịnh Thi-la sinh vô hối… dần dần tu học tâm chứng đắc định.
Vì muốn thành lập tuệ học tăng thượng nên lập ra tạng A-tỳ-đạt-ma, phải nương vào tạng nầy mà tuệ học tăng thượng mới thành lập. Vì sao? Vì trong tạng nầy khai thị rộng sự chọn lựa phương tiện khéo léo của các pháp.
Lại nữa, vì muốn chỉ bày nghĩa của chánh pháp nên lập ra tạng Tô-đát-lãm, nương vào tạng nầy mà văn nghĩa dễ hiểu.
Vì muốn hiển nghĩa pháp để khởi chứng chỗ an túc nên lập ra tạng Tỳ-nại-da, nương vào tạng nầy có thể tu hai tác chứng học và hành, nên tạng Tỳ-nại-da là pháp nghĩa khởi chứng chỗ an túc. Xứ an túc, là chỗ nương nương.
Vì muốn khiến cho bậc trí luận nghị quyết trạch thọ dụng pháp lạc nên lập ra tạng A-tỳ-đạt-ma, nương vào tạng nầy những người có trí cùng hỏi đáp nhau để luận nghị quyết trạch thọ pháp lạc trụ, vì trong tạng nầy dùng vô lượng môn để chỉ bày pháp tánh chân thật của tự tướng cộng tướng của các pháp …
Như vậy ba tạng có đủ tám vạn bốn ngàn pháp uẩn, là nương vào thừa Thanh văn, thường là chỗ thọ trì của tôn giả A-nan.
Hỏi: Lượng của mỗi pháp uẩn là thế nào?
Đáp: Số mười lần trăm là lượng của pháp uẩn. Mười trăm nghĩa là số một ngàn.
Hỏi: Nếu thế thì vì sao không nói thẳng số một ngàn? Đáp: Vì để nói lên kiến lập mỗi một pháp uẩn là nhân của số ngàn. Vì sao? Vì ban đầu số lượng một tăng lên để thành mười số, mười số tăng lên để thành trăm số, ngàn số… do đó số mười trăm mới được thành lập. mười trăm gọi là ngàn, trăm ngàn gọi là trăm ngàn, trăm trăm ngàn gọi là câu-chi, như vậy tất cả các số vị sau đó chắc chắn dùng hai số mười trăm nầy, tùy theo một mà làm nhân, nên trong đây chỉ tổng lấy hai số mười trăm để lập ra mỗi một pháp uẩn, do số lượng nầy mà tính chung tám vạn bốn ngàn pháp uẩn thành tám Câu-chi bốn mươi Lạc-xoa.
Hỏi: Như vậy sự thâu nhiếp pháp của ba tạng là cảnh hành của ai?
Đáp: Là sự sinh của Văn, Tư, Tu, là cảnh giới hành của tâm tâm pháp. Chốn hành, nghĩa là sở duyên.
Hỏi: Lại nữa, do tướng của sở duyên nầy nương vào tâm tâm pháp lập ra nghĩa hữu duyên… như trong kinh nói: "Hữu duyên, hữu hạnh, hữu y của tâm tâm pháp tương ưng với tướng của sở duyên kia", thì đối với pháp nầy làm sở duyên nào?
Đáp: Là sở duyên của Khế kinh, Ứng tụng… đây là hiển Danh Thân, Cú Thân và Văn Thân, đã thâu nhiếp giáo pháp của khế kinh… làm cảnh sở duyên.
Hỏi: Khởi những hạnh gì?
Đáp: Là nghĩa tương ưng như uẩn, đây là nói nương vào nghĩa của uẩn khởi ngôn giáo pháp, tâm tâm pháp kia khởi hành tướng nầy.
Hỏi: Nương vào chỗ nào?
Đáp: Là tha biểu liễu nhớ nghĩ tập khí là các hạt giống ghi nhớ hành vi thể hiện bên ngoài của người khác, đây là nói khi đang nói pháp thì dùng tha biểu liễu (biết rõ chỗ biểu hiện của người khác) làm chỗ nương, như nói từ ngôn âm của người khác, kế đó về sau khi nhớ nghĩ làm chỗ nương, như cái gì đã nghe rồi thì tùy theo niệm mà tập quen, lại từ đây về sau khi tập khí làm chỗ nương, do sau khi tập quen thì lực của tập khí càng mạnh thêm, tuy lìa nhớ nghĩ nhưng tướng tương tự kia hiển hiện.
Hỏi: Thế nào là tương ưng?
Đáp: Là làm trợ giúp lẫn nhau, đối với hạnh sở duyên bình đẳng hiểu rõ. Do tâm tâm pháp làm trợ giúp lẫn nhau, đối với cảnh giới sở duyên của Khế kinh, Ứng tụng… lấy tương ưng nghĩa hạnh của Uẩn Giới Xứ mà bình đẳng hiểu rõ.
Hỏi: Thế nào là pháp sở duyên khác nhau?
Đáp: Nếu nói lược thì có bốn thứ:
1. Sở duyên đầy khắp.
2. Sở duyên trị hạnh.
3. Sở duyên khéo léo.
4. Sở duyên tịnh hoặc.
-Sở duyên đầy khắp lại có bốn thứ:
a. Sở duyên có phân biệt ảnh tượng.
b. Sở duyên không phân biệt ảnh tượng.
c. Sở duyên sự bờ mé.
d. Sở duyên sở tác thành tựu.
+ Sở duyên có phân biệt ảnh tượng, là do tác ý thắng giải tất cả cảnh sở duyên của Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xána. Tác ý thắng giải, là tác ý hoàn toàn của thế gian.
+ Sở duyên không phân biệt ảnh tượng, là do tất cả cảnh sở duyên chỉ quán của tác ý chân thật. Tác ý chân thật, là tác ý của xuất thế gian và sự đắc tác ý từ đây về sau.
+ Sở duyên sự biên tế, là tánh tận sở hữu và tánh như sở hữu của tất cả pháp. Tánh tận sở hữu là uẩn giới xứ, vì hiển chỗ nhận biết về thể sự của các pháp, chỉ có phần lượng biên tế như thế, nên lập ra ba thứ uẩn giới xứ. Như tánh sở hữu, là mười sáu hạnh Chân như của bốn thánh đế, tất cả hạnh Vô thường, tất cả hành khổ, tất cả pháp vô ngã, Niết-bàn vắng lặng, Không, Vô nguyện, Vô tướng, do nghĩa môn sai khác như vậy để hiểu rõ cảnh được nhận biết, gọi là như sở hữu tánh, hoặc dùng môn đế để hiểu rõ cảnh được nhận biết tức là đã nói Uẩn Giới Xứ ở trước, tùy sự thích ứng của nó mà biết rõ là khổ cho đến là Đạo, hoặc dùng môn hành để hiểu rõ cảnh được nhận biết, là mỗi đế đều do bốn hạnh và tất cả pháp vô sai khác đều là hạnh chân thật, hoặc lấy môn các pháp Ô-đà-nam để hiểu rõ cảnh được nhận biết, là các hành Vô thường cho đến Niết-bàn vắng lặng; môn giải thoát để hiểu rõ cảnh được nhận biết, là Không, Vô nguyện, Vô tướng.
+ Sở duyên sở tác thành tựu như thế v.v… là chuyển y. Người đã đắc chuyển y rồi thì không có điên đảo, vì sở duyên hiển hiện, như vậy sở duyên bất khả tư nghì, trước đã nói trong như sở hữu tánh có mười sáu hạnh và ba môn giải thoát, như vậy hai thứ thâu nhiếp lẫn nhau.
Hỏi: Không thâu nhiếp bao nhiêu hạnh?
Đáp: Nhiếp hai hạnh, là hạnh không và hạnh Vô ngã.
Hỏi: Vô nguyện thâu nhiếp bao nhiêu hạnh?
Đáp: Nhiếp sáu hạnh, là hạnh Vô thường, Hạnh khổ, Hạnh nhân, Hạnh tập, Hạnh sinh, và Hạnh duyên, vì vô nguyện đối với ba cõi không có gì mong cầu.
Hỏi: Vô tướng thâu nhiếp bao nhiêu hạnh?
Đáp: Nhiếp tám hạnh, là tám hạnh của diệt đạo, vì vô tướng kia không thể hiện hành các tướng.
-Sở duyên trị hạnh, nói lược có năm thứ:
a. Hạnh đa tham, là người duyên cảnh bất tịnh.
b. Hành vi nặng về đa sân, là người duyên cảnh tu từ.
Hành vi nặng về si, là người duyên các cảnh duyên khởi của nhiều duyên tánh.
Hạnh kiêu mạn, là người duyên cảnh sai khác của các giới.
Hành tầm, tứ, là người duyên cảnh nhớ nghĩ hơi thở ra vào.
Hỏi: Vì sao hành vi nặng về đa tham, hành vi nặng về đa sân…
Duyên bất tịnh, duyên tu từ.. là tu trị hạnh cảnh sở duyên phải không?
Đáp: Do tu trị hạnh sở duyên nầy có thể dứt trừ tham, sân tăng thượng…
-Sở duyên khéo léo, lược có năm thứ:
a. Uẩn khéo léo.
b. Giới khéo léo.
c. Xứ khéo léo.
d. Duyên khéo léo.
e. Xứ phi xứ khéo léo.
Hỏi: xứ phi xứ khéo léo làm sao quán được?
Đáp: Phải nên như duyên khởi khéo léo mà quán.
Hỏi: Duyên khởi khéo léo và xứ phi xứ khéo léo có gì sai khác?
Đáp: Là dùng các pháp để làm thấm nhuần các pháp khiến lìa vô nhân và nhân bất bình đẳng mà sinh, đó là duyên khởi khéo léo. Nói dùng các pháp vô minh… để tô đậm các pháp của hành… thì các pháp đó chẳng phải vô nhân mà sinh, cũng chẳng phải nhân bình đẳng của trời tự tại… mà sinh. Quán trí như vậy gọi là duyên khởi khéo léo. Nhân quả tương xứng nhiếp thọ sinh khởi là xứ phi xứ khéo léo. Nói dù chỉ có pháp làm nhân, nhưng do nhiếp thọ nhân tương xứng mới có thể sinh khởi quả tương xứng, như hạnh thiện thì chiêu cảm Dị thục đáng ưa, hành vi ác thì chiêu cảm Dị thục không đáng ưa. So sánh như vậy, quán trí như vậy, gọi là xứ phi xứ khéo léo.
-Sở duyên tịnh hoặc, là các thô tánh hạ địa, tĩnh tánh thượng địa, Chân như và bốn thánh đế. Thô tánh hạ địa, tĩnh tánh thượng địa, là dựa vào đạo thế gian mà nói, do đây mà điều phục các triền phược. Chân như và bốn thánh đế, là dựa vào đạo xuất thế mà nói, tóm lược là Chân như, nói rộng là bốn thánh đế, do đây mà dứt bỏ hẳn tùy miên.
Lại nữa, nhân theo biện luận quán sát các pháp của khế kinh… phải giải thích đạo lý của các pháp, do nương vào đạo lý nầy mà có thể quán các pháp kia.
Hỏi: Nếu chánh cần quán sát đối với các pháp thì do bao nhiêu loại đạo lý mới có thể chánh quán sát?
Đáp: Do bốn thứ đạo lý:
1. Đạo lý quán đãi.
2. Đạo lý tác dụng.
3. Đạo lý chứng thành.
4. Đạo lý pháp nhĩ.
- Đạo lý quán đãi: Là khi các hạnh sinh thì phải chờ nhiều duyên, như khi mầm sinh thì phải chờ các duyên như hạt giống, thời tiết, nước, đất… khi các thức sinh thì phải chờ nhiều duyên như Căn, Cảnh, Tác ý…
- Đạo lý tác dụng: Là các pháp dị tướng đều có tác dụng riêng, như nhãn căn làm tác dụng chỗ nương của nhãn thức, cảnh giới của sắc làm tác dụng sở duyên của nhãn thức. Nhãn… các thức phân biệt rõ sắc… như thợ vàng bạc khéo tu sửa các vật dụng vàng bạc… so sánh như vậy.
- Đạo lý chứng thành: Là vì chứng thành nghĩa nên thành, nói các lượng không trái với lời nói. Nghĩa nên thành, là sự thâu nhiếp nghĩa đáng nên thành của tự thể sai khác. Các lượng không trái với lời nói, là hiện lượng… không trái với lời lập tông.
- Đạo lý pháp nhĩ: Là từ vô thỉ đến nay, trong sự trụ pháp của tự tướng, cộng tướng, tất cả thành tựu pháp tánh pháp nhĩ, như lửa có thể đốt cháy, nước có thể làm cho rữa nát, các pháp thành tựu pháp tánh pháp nhĩ như vậy. Như kinh nói: "Nhãn tuy viên tịnh không, Vô thường cho đến vô ngã". Vì sao? Vì tánh của nó là pháp nhĩ.
Hỏi: Lại nữa, chánh cần trong các pháp quán sát bốn đạo lý rồi thì làm sao mà khởi tầm tư?
Đáp: Là khởi bốn thứ Tầm Tứ:
1. Danh tầm tư.
2. Sự tầm tư.
3. Tự thể giả lập tầm tư.
4. Sai khác giả lập tầm tư.
- Danh Tầm Tư, là suy cầu tự tướng của các pháp danh thân, cú thân, văn thân đều không thành thật, vì danh thân… đều là giả có, quán sát tự tướng của nó đều không thành thật.
- Sự Tầm Tư, là suy tìm tướng các pháp Uẩn Giới Xứ đều không thành thật, vì các Uẩn Giới Xứ cũng như danh cú văn thân, sự giảng nói sự đều không thành thật, nên quán sát tướng của Uẩn Giới Xứ đều không thành thật. Suy cầu, nghĩa là quán sát.
- Tự thể giả lập Tầm Tư, là trong các pháp năng thuyên sở thuyên tương ưng mà suy tìm tự thể, chỉ là giả lập nhân tánh của lời nói năng thuyên sở thuyên tương ưng, là hai thứ nương lẫn nhau để hiểu ngộ nhân tánh. Vì sao? Vì thiện danh ngôn thì chỉ nghe năng thuyên, do môn ý niệm thì liền đối với sở thuyên được sinh hiểu ngộ, hoặc chỉ đắc sở thuyên do môn ý niệm thì liền đối với năng nêu giảng được sinh hiểu ngộ, đối với chủng loại như vậy mà lập chung tương ưng. Tự tướng của nhãn… chỉ là giả lập, chỉ đối với danh ngôn của nhục đoàn… vì trong nhân khởi danh ngôn nầy, nếu như thế thì quán sát tự thể của danh đó mà giả lập tầm tư.
- Sai khác giả lập tầm tư, là trong các pháp năng thuyên, sở thuyên tương ưng mà suy tìm sai khác, thì chỉ là giả lập nhân tánh của danh ngôn. Vì sao? Vì trong năng thuyên, sở thuyên tương ưng mà suy tìm các tướng sai khác hoặc thường hoặc Vô thường, hữu thượng vô thượng, sắc Vô Sắc, hữu kiến vô kiến… chỉ là giả lập nhân tánh của danh ngôn.
Quán sát như vậy gọi là sai khác giả lập tầm tư.
Lại nữa, đối với pháp chánh cần tu tầm tư rồi thì chắc chắn đối với các pháp sẽ đắc trí như thật.
Hỏi: Làm thế nào khởi trí như thật?
Đáp: Là khởi bốn trí như thật:
1. Danh tầm tư sở dẫn trí như thật.
2. Sự tầm tư sở dẫn trí như thật.
3. Tự thể giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật.
4. Sai khác giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật.
- Danh tầm tư sở dẫn trí như thật, là trí biết như thật danh là không thật có.
- Sự tầm tư sở dẫn trí như thật, là trí biết như thật sự tướng cũng là không thật có.
- Tự thể giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật, là trí biết như thật thật có tự tánh không thật có.
- Sai khác giả lập tầm tư sở dẫn trí như thật, là trí biết như thật thật có sai khác không thật có. Bốn thứ trí như thật như đã tầm tư ở trước biết rõ danh, sự… như thật đều là không thật có.
Lại nữa, người dựa vào pháp tu Tam-ma-địa, là địa Du-già.
Hỏi: Làm sao biết được?
Đáp: Địa nầy lược có năm thứ:
1. Trì.
2. Nhậm.
3. Cảnh (gương).
4. Minh.
5. Y.
- Trì, là đã chứa nhóm Bồ-đề tư lương, đối với các vị như Noãn, Đảnh…, mà nương vào tất cả đa văn của các Thánh đế, như sự đa văn mà an lập cảnh sở duyên của chỉ quán, gọi đó là trì. Lại nữa, người đã chứa nhóm Bồ-đề tư lương rồi, vì cầu đế hiện quán mà nghe thọ pháp của khế kinh… nên gọi là đa văn.
- Nhậm, là duyên cảnh nầy mà tác ý đúng như lý, do tác ý nầy dựa vào sự đa văn tư duy không trái ngược nghĩa sở văn nhậm giữ tâm.
- Cảnh (gương), là duyên cảnh nơi Tam-ma-địa hữu tướng nầy, Tam-ma-địa ấy tức là duyên đa văn, vì cảnh cùng với tướng định đồng thời nên gọi là hữu tướng, do Tam-ma-địa ấy còn liên đới với tướng của sự nơi sự nhận biết đồng phần ảnh tượng. Lại nữa, Tam-ma-địa nầy có thể chiếu soi xem xét vật chất của sự sở tri nên thí dụ như cảnh (gương).
- Minh, là trí Vô sở đắc của năng thủ và sở thủ, do trí nầy mà sự thâu nhiếp hiện quán của Kiến đạo chuyển. Hỏi: Thế nào là Bồ-tát nương địa du-già theo phương tiện tu học chứng Vô sở đắc?
Đáp: Là các Bồ-tát đã khéo chứa nhóm hai thứ tư lương phước đức trí tuệ rồi, đã vượt qua vô số đại kiếp thứ nhất rồi, văn (nghe) thuận theo thông đạt Chân như, các pháp của khế kinh… như lý tác ý phát khởi Tam-mađịa nương vào định tâm. Ảnh tượng sở tri trong định tư duy, quán ảnh tượng nầy không khác với định tâm, nương vào ảnh tượng nầy mà xả tưởng ngoại cảnh, chỉ có định quán sát ảnh tượng của tưởng, lúc đó Bồ-tát biết rõ các pháp chỉ có tự tâm, bên trong thì trụ tâm đó, biết tất cả thứ cảnh giới được nhiếp lấy đều là Vô sở hữu, vì đối tượng nhiếp lấy không có, tất cả năng thủ cũng không phải chân thật, nên tiếp theo biết rõ năng thủ là phi hữu. Kế đó bên trong xả lìa hai thứ lớp tánh của sở đắc mà chứng Vô sở đắc. Nương vào đạo lý nầy mà Phật đức Bạc-già-phạm đã khéo giảng nói: "Bồ-tát trong định vị quán ảnh tượng chỉ là tâm, nghĩa tưởng đã diệt trừ, thì sự quán sát chỉ có tự tưởng, biết chỗ trụ là nội tâm, biết sở thủ là phi hữu, kế đó năng thủ cũng không có, sau đó xúc cũng Vô sở đắc.
- Y, là chuyển y, vì xả li tất cả thô nặng mà đắc thanh tịnh chuyển y, phải biết trong đây lấy hai vị nhân quả giải thích địa Du-già, do bốn thứ Trì, Nhậm, Cảnh, Minh trước mà giải thích nhân của địa nầy, sau cùng y, là giải thích quả của địa ấy.
Hỏi: Lại nữa, thế nào là pháp khéo léo, nghĩa khéo léo, văn khéo léo, từ khéo léo, mé trước, mé sau mật ý khéo léo trong các pháp?
Đáp: Như vậy năm câu hỏi thuận theo đã nói trong kinh, như Tôn giả A-nan bảo Tôn giả Xá-lợi-tử rằng: "Trưởng già nên biết! Nếu các Tỳ-kheo thành tựu năm pháp thì có thể thọ nhanh, thọ nhiều, thọ thiện, thọ rồi không mất". Trong kinh nầy thì do năm pháp tùy sự thích ứng của nó thành bốn câu nghĩa, thọ nhanh, thọ nhiều… Hỏi: Thế nào là pháp khéo léo?
Đáp: Là đa văn, đối với pháp khéo léo liền có thể thọ nhanh, do người có đủ học rộng thì phần nhiều có thể thọ nhanh văn cú sai khác.
Hỏi: Thế nào là nghĩa khéo léo?
Đáp: Là trong A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-nại-da khéo biết tướng của nó, đối với nghĩa khéo léo thì có thể thọ nhiều, nếu khéo biết rõ tướng của A-tỳ-đạt-ma và Tỳ-nại-da mà trong sự thuyết sự của Uẩn Giới Xứ liền có thể thâu nhiếp tập hợp nhiều văn.
Hỏi: Thế nào là văn khéo léo?
Đáp: Là khéo biết văn từ huấn thích.
Hỏi: Thế nào là từ khéo léo?
Đáp: Là có thể khéo biết ngôn từ thế tục của ngã ngã sở, không quá chấp trước, thuận theo mà nói. Nếu đối với ngôn từ đều được khéo léo, thì liền có thể khéo léo lãnh thọ điều đã nói, vì khéo biết huấn thích văn từ, khéo biết ngã ngã sở của ngôn từ thế tục, không quá chấp trước, thuận theo mà nói, tức là không có điên đảo mà lãnh thọ văn nghĩa.
Hỏi: Thế nào là mé trước mé sau mật ý khéo léo?
Đáp: Là có thể khéo biết đối với mé trước mà lãnh thọ, đối với mé sau mà xuất ly. Nếu đối với của mật ý khéo léo mé trước mé sau, thì liền có thể thọ rồi mà không bị hoại mất, nương vào sự thọ pháp của mé trước, sau đó có thể chứng đắc xuất ly, do khéo hiểu rõ mật ý của Như Lai thì có thể chứng đắc thánh giáo kiên thật. Hỏi: Thế nào là an trụ trong pháp trong các pháp?
Đáp: Nếu không đắc tu tuệ mà chỉ có phương tiện cần tu tập văn tư thì không được gọi là an trụ vào pháp. Nếu không đắc văn tư mà chỉ có phương tiện cần tu tập tu tuệ, thì cũng không được gọi là an trụ vào pháp. Nếu đều đắc hai thứ phương tiện an trụ, như vậy mới gọi là an trụ vào pháp. Như kinh nói: "Đại đức nên biết! Nếu các Tỳ-kheo trụ pháp như vậy, mới được gọi là Tỳ-kheo trụ pháp". Trong kinh nầy Thế Tôn hiển bày, nếu có thể nương đầy đủ Văn, Tư, Tu mà trụ thì mới gọi là trụ pháp, không phải hễ trụ bất cứ một phương tiện tu tập nào cũng được gọi là trụ pháp. Nếu chỉ đối với pháp mà thọ trì đọc tụng và người giảng nói cho nghe… thì gọi đó là văn tư sinh tuệ. Như nói, nếu ở xứ kia nghiên cứu nhiều văn tự đó, đọc tụng giảng nói, lại cũng nhiều tầm tư, chỉ tu văn tuệ tư tuệ, không tu tập tu tuệ, xa lìa Du-già… thì không thể lập ra làm trụ pháp. Nếu tu Tam-ma-địa phương tiện không biết đủ thì gọi đó là tu sinh tuệ. Như nói rằng, nếu chưa đắc văn tư mà chỉ có tu tu tuệ, thì cũng không thể lập làm trụ pháp, nên Thế Tôn nhân theo Tỳ-kheo trụ pháp mà nói rằng: "Hoặc Tỳ-kheo đối với pháp rốt ráo". Đó là khế kinh, ứng tụng cho đến nói rộng, sau lại nói:
"Không xả Du-già, tất cả như vậy", phải như lý mà biết. Nếu có đắc đủ Văn, Tư, Tu tuệ thì nương vào hai thứ trụ, đó là trụ pháp. "Không xả Du-già, tất cả như vậy", là tu Tam-ma-địa phương tiện không biết đủ để hiển bày tu sinh tuệ. Tam-ma-địa phương tiện, là phương tiện vô gián ân trọng và phương tiện vô điên đảo, đây là hiển bày hai thứ phương tiện:
1. Thuộc về phương tiện vô gián ân trọng, như nói, bất xả du-già.
2. Thuộc về phương tiện vô điên đảo, như nói, bất xả tác ý.
Bất tri túc, là không sinh nhiễm đắm tu Xa-ma-tha phương tiện cõi trên, như nói, bất xả nội tâm Xa-ma-tha. Đây là nói về không sinh đắm vị và tu Xa-ma-tha phương tiện cõi trên nên gọi là Bất xả.
Hỏi: Lại nữa, vì sao mà phần phương quảng trong mười hai phần thánh giáo gọi là tạng Bồ-tát Ba-la-mậtđa?
Đáp: Vì trong phần nầy nói rộng tất cả số, tướng, thứ lớp, thích từ, tu, sai khác, thâu nhiếp, sở trị, công đức, hỗ tương quyết trạch của Ba-la-mật-đa.
Hỏi: Nói ở đâu?
Đáp: Như trong kinh nói: "Đại thừa, tức là tạng Bồtát Ba-la-mật-đa.
Hỏi: Làm sao giảng nói số, tướng, thứ lớp cho đến quyết trạch lẫn nhau của Ba-la-mật-đa?
Đáp: Số có hai thứ:
1. Số tính toán.
2. Số chắc chắn.
Số tính toán, là sáu Ba-la-mật-đa. Số chắc chắn, là Ba-la-mật-đa có sáu số không thêm, không bớt.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì tất cả đạo Bồ-tát lược có hai thứ:
1. Đạo tăng thượng sinh.
2. Đạo chắc chắn thắng.
Như thứ lớp mỗi đạo thâu nhiếp ba pháp.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì đạo tăng thượng sinh có ba thứ:
a. Đại tư tài.
b. Đại tự thể.
c. Đại quyến thuộc.
Thí Ba-la-mật-đa chiêu cảm quả của đại tư tài, giới Ba-la-mật-đa chiêu cảm quả của đại tự thể, do trì tịnh giới mà sinh trong đường thiện được thân tôn quí, nhẫn Ba-la-mật-đa chiêu cảm quả của đại quyến thuộc, vì người thực hành nhẫn thì đều là chỗ quy y nương tựa của tất cả chúng sinh.
Đạo chắc chắn thắng có ba thứ:
1. Phục các phiền não tu tập phẩm thiện phương tiện.
2. Thành thục hữu tình phương tiện.
3. Thành thục pháp Phật phương tiện.
Như vậy trong ba thứ hễ thiếu bất cứ một thứ nào thì đạo chắc chắn thắng của Bồ-tát chắc chắn không thành tựu. Thành thục hữu tình phương tiện, là tĩnh lự Ba-lamật-đa, dựa vào đây mà phát thần thông thành thục hữu tình. Lại nữa, Ba-la-mật-đa là phương tiện của Niết-Bàn vô trụ xứ, số của nó chỉ có sáu.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì các Bồ-tát làm trái với trụ Niết-bàn, trong sinh tử tăng thượng sinh, làm trái với trụ sinh tử, tức là đối với sinh tử không nhiễm ô, nên ba pháp trước là đắc phương tiện tăng thượng sinh, ba pháp sau là phương tiện không nhiễm ô, phải biết tùy sự thích ứng của nó như trước. Phương tiện không nhiễm ô, là do tinh tiến nên tu tập đối trị. Do Tĩnh lự nên điều phục các phiền não, do trí tuệ nên dứt hẳn trừ bỏ tất cả phiền não tùy miên. Lại nữa, vì thâu nhiếp lợi ích cho tất cả hữu tình nên đối trị tất cả phiền não.
Hỏi: Ba-la-mật-đa chỉ có sáu thứ. Vì sao?
Đáp: Vì Đại Bồ-tát do bố thí nên dẫn nhiếp vật dụng tài sản, mà phương tiện thâu nhiếp lợi ích cho tất cả hữu tình. Do trì giới nên không khởi xâm tổn ép ngặt não loạn, mà phương tiện thâu nhiếp lợi ích cho tất cả hữu tình, như thứ lớp của nó, không hủy hoại tài sản và thân tâm người khác, do nhẫn nhục nên chịu đựng được sư xâm tổn ép ngặt não loạn, mà phương tiện thâu nhiếp lợi ích hữu tình, vì kham nhẫn được người khác xâm tổn tài sản của mình. Do ba pháp nầy mà khéo có thể lợi ích cho hữu tình. Do tinh tiến nên tuy chưa dứt hẳn điều phục tất cả phiền não, nhưng dựa vào phẩm thiện tu đối trị phiền não kia, do Tĩnh lự nên điều phục hẳn phiền não, do trí tuệ nên dứt hẳn tùy miên. Do ba pháp nầy có thể khéo đối trị tất cả phiền não.
Tướng, là tướng Ba-la-mật-đa của các Bồ-tát. Hỏi: Thế nào là tướng của Thí Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ pháp tánh nơi Bồ-tát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, dùng bi dẫn dắt tâm xả tất cả nghiệp thân ngữ ý trong tất cả thời, như vậy do chủng tánh, nguyện, ý lạc, sự, tự thể, hiển tướng của thí Ba-lamật-đa. Chủng tánh, là pháp tánh của Bồ-tát. Nguyện, là tâm Bồ-đề. Ý lạc, là bi dẫn dắt tâm. Sự, là xả các sở hữu. Tự thể, là nghiệp thân ngữ ý.
Hỏi: Thế nào là tướng của Giới Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ trong pháp tánh của Bồtát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, vì khi bi dẫn dắt tâm thọ trì tất cả Bồ-tát giới, là tất cả nghiệp thân ngữ ý.
Hỏi: Thế nào là tướng của Nhẫn Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ trong pháp tánh của Bồtát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, vì khi bi dẫn dắt tâm gắng nhẫn an thọ các oán khổ, là tất cả nghiệp thân ngữ ý.
Hỏi: Thế nào là tướng của tinh tiến Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ trong pháp tánh của Bồtát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, vì khi bi dẫn dắt tâm dẫn phát tất cả pháp thiện, là tất cả nghiệp thân ngữ ý.
Hỏi: Thế nào là tướng của Tĩnh lự Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ trong pháp tánh của Bồtát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, vì khi bi dẫn dắt tâm khởi tất cả thứ nghiệp thân ngữ ý tự tại thọ dụng, là tất cả tất cả tâm thường an trụ.
Hỏi: Thế nào là tướng của tuệ Ba-la-mật-đa?
Đáp: Là các Bồ-tát an trụ trong pháp tánh của Bồtát, tâm Bồ-đề làm chỗ nương, vì khi bi dẫn dắt tâm khởi tất cả nghiệp thân ngữ ý tự tại thọ dụng, là tất cả tất cả các pháp xét chọn.
Lại nữa, nếu sở hành thí dựa vào tánh Tát-phạt-nhã (Nhất thiết trí) thì có thể chiêu cảm tánh Tát-phạt-nhã, tánh Tát-phạt-nhã, có thể làm tất cả sự của tánh Tát-phạtnhã, gọi là tướng của thí Ba-la-mật-đa, các câu như vậy theo thứ lớp các Ba-la-mật-đa tiếp, do phát khởi, tập khí, tự thể, đẳng lưu mà hiển tướng của Ba-la-mật-đa. Phát khởi, là chỗ nương của tánh Nhất thiết trí, hễ có sinh khởi tất cả hạnh thí thì đều hồi hướng tánh Tát-phạt-nhã. Tập khí, là có thể chiêu cảm Nhất thiết trí tánh, tức là sở hành thí huân tu nối tiếp, đối với đời vị lai có thể chiêu cảm tánh Tát-phạt-nhã. Tự thể, là Nhất thiết trí tánh, tức là sở hành thí rốt ráo tròn đầy, lúc đó có thể làm thành Pháp thân của Phật. Đẳng lưu, là có thể là tất cả Nhất thiết trí sự, từ đây về sau do thân thọ dụng và thân biến hóa đẳng nên lưu môn phát khởi tất cả tánh Tát-phạtnhã. Như vậy tướng của thí Ba-la-mật-đa cho đến tướng của tuệ Ba-la-mật-đa đều phải nói như vậy.
Thứ lớp, là các Ba-la-mật-đa trước có thể làm chỗ nương của các Ba-la-mật-đa sau.
Hỏi: Vì sao?
Đáp: Vì Đại Bồ-tát do thí Ba-la-mật-đa tập quen thí xả các việc trong ngoài, không quan tâm tới thân mạng, từ bỏ của báu, kho báu, thọ trì giới cấm. Do hộ trì giới mà bị người khác chê bai mắng nhiếc, không bao giờ trả thủ, do như vậy mà có thể chịu đựng được, vì chịu đựng được các khổ nóng lạnh, hễ gặp duyên nầy thì gia hạnh không ngừng mà phát khởi cần tinh tiến, tinh tiến phương tiện chứng quả rốt ráo thành mãn tĩnh lự. Tĩnh lự đã thành mãn rồi, thì do tâm tịnh định như thật tri mà chứng đắc đại tuệ xuất thế rốt ráo.
Hỏi: Lại nữa, các Ba-la-mật-đa trước làm chỗ duy trì của các Ba-la-mật-đa sau, là giới có thể trì thí cho đến tuệ có thể duy trì tĩnh lự, do có đủ Thi-la mà thí được thanh tịnh. Vì sao?
Đáp: Là do hành bố thí thâu nhiếp lợi ích hữu tình, do có đủ Thi-la mà không bị não hại, nên Bồ-tát đối với người thọ thí, vì lìa não hại mà khéo có thể thí cho các pháp an vui thanh tịnh.
Hỏi: Do tịnh giới lực mà thí được thanh tịnh, như vậy do nhẫn lực mà giới được thanh tịnh. Vì sao?
Đáp: Là do có thể nhẫn thọ sự bất lợi ích của người khác, không bao giờ hủy phạm các học xứ.
Hỏi: Do tinh tiến mà nhẫn được thanh tịnh. Vì sao?
Đáp: Là do năng lực mạnh mẽ nên ở lâu trong sinh tử không phải là khó, có thể chịu sự trái nghịch của chúng sinh.
Hỏi: Do tĩnh lự mà tinh tiến thanh tịnh. Vì sao?
Đáp: Là do hỷ lạc đều có thể siêng năng tu tập tất cả pháp thiện không ngơi nghỉ.
Hỏi: Do có đủ tuệ mà tĩnh lự được thanh tịnh. Vì sao?
Đáp: Là nếu do vô lượng môn mà niệm niệm quán sát các pháp có thể chứng vắng lặng bên trong, tăng trưởng Tam-ma-địa, lại cũng Già-tha nói, không có Tĩnh lự nếu không nương vào tuệ.
Hỏi: Lại, do thô và tế mà Ba-la-mật-đa có thứ lớp trước sau. Vì sao?
Đáp: Hạnh vì thí trong các hạnh là rất thô, nên lập ở đầu, đối với các hạnh như nhẫn… thì giới lại là thô nên lập ở kế thí, cho đến đối với tuệ thì tĩnh lự là thô, tuệ thì rất tế trong tất cả hạnh nên lập tuệ ở sau cùng.
Thích từ, là việc làm hành bố thí của các Bồ-tát. Lìa do gọi là thí Ba-la-mật-đa, là do đại thí, lìa lỗi, lìa cấu, nên gọi là thí Ba-la-mật-đa. Đại thí, là xả hết tất cả việc trong ngoài, vì trường thời thí. Lìa lỗi, là xa lìa lỗi bất bình đẳng để truy tìm bình đẳng. Lìa cấu, là dứt hẳn tất cả san tham cần đối trị. Như trong Phẩm Thí Vô Tận của kinh Vô Tận Tuệ nói: "Thế nào là lìa cấu? Là lìa hẳn chỗ bị trị và gồm cả tập khí". Như vậy ba câu hiển bày ba thứ tối thắng của Ba-la-mật-đa.
Ba thứ là:
1. Tự thể tối thắng gồm cả chứa nhóm.
2. Phương tiện tối thắng.
3. Quả tối thắng.
Chứa nhóm, là thí trong thời gian dài. Như thí Ba-la-mật-đa có ba thứ, cho đến tuệ Ba-la-mật-đa cũng vậy, người lìa lỗi của giới… là xa lìa ngã tăng ích…, tùy theo sự thích ứng của nó, như kinh vô tận tuệ nói rộng. Lại nữa, vì cùng với hai thứ tối thắng tương ưng nên gọi là Ba-la-mật-đa.
Mười hai thứ tối thắng:
1. Rộng lớn tối thắng, vì không cầu tất cả lạc thế gian, cũng là tối thượng.
2. Trường thời tối thắng, trải qua sự chứa nhóm trong một ba Đại kiếp A-tăng-xí-da.
3. Sở vi tối thắng, là vì lợi ích an vui cho tất cả hữu tình.
4. Vô tận tối thắng, là do hồi hướng đại Bồ-đề rốt ráo vô tận.
5. Vô gián tối thắng, là do đắc tự tha bình đẳng giải thoát khiến cho các hữu tình đối với thí, giới… Ba-lamật-đa mau chóng tròn đầy.
6. Vô nan tối thắng, là chỉ do tùy hỷ sự thực hành thí, giới… của kẻ khác khiến cho Ba-la-mật-đa mau chóng tròn đầy.
7. Đại tự tại tối thắng, là do đắc các Tam-ma-địa của hư không tạng… khiến cho thí, giới… Ba-la-mật-đa mau chóng tròn đầy.
8. Nhiếp thọ tối thắng, trí Vô phân biệt nhiếp thọ.
9. Phát khởi tối thắng, là việc thực hành thí, giới… Ba-la-mật-đa của thượng phẩm nhẫn vị trong địa giải hạnh.
10. Chứng đắc tối thắng, là sự thực hành thí, giới… Ba-la-mật-đa trong sơ địa.
11. Đẳng lưu tối thắng, là sở hành thí, giới… Ba-lamật-đa trong tám địa còn lại.
12. Tròn đầy tối thắng, là tất cả thí, giới… Ba-lamật-đa của địa thứ mười và địa Như Lai.
Như thứ lớp Bồ-tát tròn đầy, Phật tròn đầy. Lại nữa, sự tạo tác tối thắng, sự đạt đến tối thắng, gọi là Ba-lamật-đa, vì đó là đã làm đã đến. Lại nữa, đạt đến chỗ nhận biết về bờ kia gọi là Ba-la-mật-đa, vì an trụ Phật tánh. Lại nữa, cứu giúp tai hoạ tối cực của tự tha gọi là Ba-lamật-đa, vì có thể khiến cho tự tha vượt qua biển khổ lớn sinh tử.
Từ cộng đã giải thích, từ bất cộng bây giờ sẽ nói. Người bỏ bố thí thì vị lai sẽ nghèo khổ, người bỏ thọ thì hiện tại nhiệt não, nên gọi là thí.
Vì có thể khiến cho các căn dứt hẳn được vắng lặng hẳn, có thể tiến đến các đường thiện thanh tịnh, có thể làm mát mẻ làm chỗ nương tựa, nên gọi là giới, tùy thứ lớp của nó mà có thể dẫn phát giữ gìn các căn môn. Vì tiến đến nhân của đường thiện thanh tịnh, có thể làm thứ lớp cho vô hối cho đến chỗ nương của Niết-bàn, xa lìa tro nóng của tất cả phẫn, xa lìa tâm không xả oán hại, hiển phát về người tổn hại thì thường an ổn, gọi là nhẫn. Tâm Oán hại, là khởi tâm trả thù. Không xả, là không từ bỏ tâm oán hại nầy. Người ôm tâm oán gọi là người tổn hại. Hiển hiện rõ người tổn hại nầy mà không kinh sợ gọi là hiển phát. "Hiển phát về người tổn hại thì thường an ổn", là tổn hại tác dụng sinh trưởng tương ưng nên gọi là tinh tiến. "Tổn hại tác dụng tương ưng", là vì hai chánh đoạn ở trước có thể tổn hại pháp bất thiện. "Sinh trưởng tác dụng tương ưng", là vì hai chánh đoạn sau có thể sinh trưởng các pháp thiện, có thể duy trì, có thể ngừng dứt, có thể tĩnh, có thể điều phục, lại cũng có thể dẫn phát, nên gọi là tĩnh lự. Có thể trì, là đối với cảnh mà nhiếp lấy tâm. Có thể ngừng dứt, là ngừng dứt các tán loạn. Có thể tĩnh, là khiến cho tâm vắng lặng. Có thể điều phục, là chế phục các trói buộc. Có thể dẫn phát, là có thể dẫn phát tác dụng tự tại. Vì tha sở phát trí, nội chứng trí, chủng biệt trí, đắc vắng lặng trí, thắng đức trí, nên gọi là tuệ. Tha sở phát trí, là nhờ tiếng nói của người khác mà sinh tuệ, và như lý khởi ý tương ưng với tuệ. Nội chứng trí, là tuệ xuất thế gian. Chủng biệt trí, là tuệ xuất thế gian hậu sở đắc. Đắc vắng lặng trí, là tuệ trị phiền não trong Tu đạo. Thắng đức trí, là tuệ năng dẫn phát công đức thù thắng.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
1. Tu y chỉ nhậm trì.
2. Tu y chỉ tác ý.
3. Tu y chỉ ý lạc.
4. Tu y chỉ phương tiện.
5. Tu y chỉ tự tại.
- Tu y chỉ nhậm trì lại có bốn thứ: a. Tu y chỉ nhân, là do năng lực chủng tánh đối với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh. b. Tu y chỉ báo, là do năng lực thắng tự thể đối với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh. c. Tu y chỉ nguyện, là do bản nguyện lực đối với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh. d. Tu y chỉ giản trạch lực, là do tuệ lực đối với Ba-la-mật-đa tu tập chánh hạnh.
- Tu y chỉ tác ý cũng có bốn thứ: a. Tu y chỉ tác ý thắng giải, là đối với tất cả Ba-la-mật-đa tương ưng với kinh Giáo, khởi thắng giải tăng thượng. b. Tu y chỉ ái vị tác ý, là đối với đã đắc Ba-la-mật-đa thấy công đức thù thắng mà khởi ái vị sâu xa. c. Tu y chỉ tùy hỷ tác ý, là đối với thí sở hành, giới… của tất cả hữu tình sinh tùy hỷ sâu xa. d. Tu y chỉ hý lạc tác ý, là đối với các thắng phẩm Ba-la-mật-đa trong vị lai sinh nguyện lạc.
Tu y chỉ ý lạc lại có sáu thứ: a. Vô yếm ý lạc. b. Rộng lớn ý lạc. c. Vui mừng ý lạc. d. Ân đức ý lạc. e. Vô nhiễm ý lạc. f. Thiện hảo ý lạc. Do sáu thứ ý lạc nầy mà tu các Ba-la-mật-đa, trong đây Bồ-tát đối với thí Ba-la-mật-đa ý lạc không, là Bồ-tát đối với một hữu tình, một khoảng sát-na, giả sử bảy báu chưa đầy trong Cát sông Hằng số thế giới, đem ra bố thí, lại cũng lấy thân mạng nhiều như Cát sông Hằng số đem bố thí, như vậy bố thí trải qua cát sông Hằng Đại kiếp, như đối với chỗ của một hữu tình, cho đến đối với tất cả giới hữu tình như vậy, khi thí thì đều khiến cho Bồ-tát kia đối với đạo quả Bồ-đề Vô thượng mau chóng thành thục, tu hành sai khác như vậy, khi thí thì ý lạc của Bồ-tát do đó không chán đủ, ý lạc như vậy gọi là ý lạc không chán của Bồ-tát đối với Thí Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Bồ-tát khi tu hành Thí Ba-la-mật-đa như vậy, thì xoay vần nối tiếp không có một sát-na nào bị thoái lui hay đoạn dứt, cho đến rốt ráo ngồi toà Bồ-đề, ý lạc như vậy gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát đối với Thí Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Bồ-tát khi tu hành Thí Ba-la-mật-đa như vậy, đối với sự thâu nhiếp của thí, sự sinh đại vui mừng của các hữu tình, thì các hữu tình đó do thí dẫn dắt tuy sinh vui mừng nhưng cũng không thể bằng, ý lạc như vậy gọi là ý lạc vui mừng của Bồ-tát đối với Thí Ba-lamật-đa.
Lại nữa, Bồ-tát khi tu hành Thí Ba-la-mật-đa như vậy, thì quán sự thâu nhiếp tất cả hữu tình của thí, đối với tự thân ta có ân đức lớn, không thấy tự thân ta đối với hữu tình kia có ân đức lớn, do đó trợ giúp ta bất thoái chuyển nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng, ý lạc như vậy gọi là ý lạc ân đức của Bồ-tát đối với Thí Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Bồ-tát khi tu hành Thí Ba-la-mật-đa như vậy, tuy đối với sự hưng khởi đại thí phước của vô lượng các hữu tình, nhưng không mong báo ân và vị lai có báo quả, ý lạc như vậy gọi là ý lạc vô nhiễm của Bồ-tát đối với Thí Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, Bồ-tát khi tu hành Thí Ba-la-mật-đa như vậy, vì sự đắc quả báo của việc tu hành rộng lớn thí tụ tập mà thí cho các hữu tình, không tự lấy làm của mình, lại dùng phước nầy cùng chung các hữu tình hồi hướng đạo quả Bồ-đề Vô thượng, ý lạc như vậy gọi là ý lạc khéo léo của Bồ-tát đối với Thí Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành Giới Ba-la-mật-đa như vậy, cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa ý lạc không chán, là các Bồ-tát đó giả sử đã trải qua kiếp nhiều như cát sông Hằng số, là mỗi kiếp cát sông Hằng bằng với thọ lượng của đại kiếp, trong thời gian lâu dài như vậy, tài sản sinh sống thường bị bần cùng thiếu thốn, lửa rực đầy trong ba ngàn đại thiên thế giới, hằng ở trong đó mà đi, đứng, nằm, ngồi, chỉ có thể tu tập một sát-na giới Ba-la-mậtđa, hoặc cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa, như vậy xoay vần tu tập sai khác, tất cả nhóm giới cho đến tuệ tụ rốt ráo đầy đủ, thì hiện tại có thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Các Bồ-tát đó khi tu hành như vậy Giới Ba-lamật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa thì đối với nhóm giới cho đến nhóm tuệ tu tập ý lạc cũng còn chưa đầy đủ, ý lạc như vậy gọi là ý lạc không chán của Bồ-tát đối với sự tu tập Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa như vậy, xoay vần nối tiếp không có một sát-na nào bị thoái lui hay bị đoạn dứt, cho đến rốt ráo ngồi toà Bồ-đề, ý lạc như vậy gọi là ý lạc rộng lớn của Bồ-tát đối với sự tu hành Giới Ba-la-mậtđa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành như vậy Giới Ba-lamật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa, đối với sự thâu nhiếp nầy và sự sinh rất vui mừng của các hữu tình, thì các hữu tình đó do sự thâu nhiếp nầy tuy sinh vui mừng nhưng cũng không thể bằng, ý lạc như vậy gọi là ý lạc vui mừng của Bồ-tát đối với chỗ tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa như vậy, quán sự thâu nhiếp tất cả hữu tình nầy, đối với tự thân ta có đại ân đức, không thấy tự thân ta đối với hữu tình kia có ân đức, do đó trợ giúp ta bất thoái chuyển đạo quả Bồ-đề Vô thượng, ý lạc như vậy gọi là ý lạc ân đức của Bồ-tát đối với sự tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-lamật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa như vậy, tuy đối với sự hưng khởi đại giới phước cho đến tuệ phước của vô lượng các hữu tình, nhưng không mong báo ân và báo quả vị lai, ý lạc như vậy gọi là ý lạc vô nhiễm của Bồ-tát đối với sự tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa.
Lại nữa, các Bồ-tát khi tu hành Giới Ba-la-mật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa như vậy, vì sự đắc quả báo của việc tu hành nhóm giới rộng lớn cho đến nhóm tuệ đắc quả báo thí cho các hữu tình, không tự dùng làm của mình, lại lấy phước nầy cùng chung các hữu tình hồi hướng đạo quả Bồ-đề Vô thượng, như vậy gọi là ý lạc thiện hảo của Bồ-tát đối với việc tu hành Giới Ba-lamật-đa cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa.
- Tu y chỉ phương tiện lại có ba thứ, là do trí Vô phân biệt quán sát ba luân đều thanh tịnh. Vì sao? Vì phương tiện nầy mà sự tu các hạnh của tất cả tác ý mau chóng thành mãn.
- Tu y chỉ tự tại cũng có ba thứ:
a. Thân tự tại.
b. Hạnh tự tại.
c. Thuyết tự tại.
+ Thân tự tại là tự tánh thọ dụng của các Như Lai.
+ Hạnh tự tại là thân biến hóa của các Như Lai, do thân nầy có thể thị hiện Nhất thiết chủng đồng pháp hạnh của tất cả hữu tình.
+ Thuyết tự tại là có thể nói tất cả thứ khác nhau của sáu Ba-la-mật-đa không bị đuối lý.
Hỏi: Thế nào là sai khác?
Đáp: Là do mười tám thứ nhậm trì nói về sự khác nhau giữa sáu Ba-la-mật-đa.
Mười tám thứ là:
1. Thân nhậm trì.
2. Tâm nhậm trì.
3. Pháp thiện nhậm trì.
4. Thức nhậm trì.
5. Bồ-đề nhậm trì.
6. Bi nhậm trì.
7. Bất xả hữu tình nhậm trì.
8. Xả tâm thấp kém nhậm trì.
9. Vô sinh pháp nhẫn nhậm trì.
10. Gốc lành phương tiện nhậm trì.
11. Gốc lành viên chứng nhậm trì.
12. Gốc lành vô tận nhậm trì.
13. Vô yếm quyển nhậm trì.
14. Các sở tư sự thành mãn nhậm trì.
15. Ngự chúng nghiệp nhậm trì.
16. Chứng nhập đại địa nhậm trì.
17. Dẫn phát Phật tánh nhậm trì.
18. Lập ra Phật sự nhậm trì.
Mỗi Ba-la-mật-đa như Thí, giới… đều có ba thứ khác nhau, như thứ lớp của nó đã thâu nhiếp từng nhóm là ba pháp.
Thí có ba thứ:
1. Tài thí.
2. Vô úy thí.
3. Pháp thí.
Giới có ba thứ:
1. Luật nghi giới.
2. Giới Nhiếp thiện pháp.
3. Giới Nhiêu ích hữu tình. Nhẫn có ba thứ:
1. Nại oán hại nhẫn.
2. An thọ khổ nhẫn.
3. Đế sát pháp nhẫn. Tinh tiến có ba thứ:
1. Bị giáp tinh tiến.
2. Phương tiện tinh tiến.
3. Nhiêu ích hữu tình tinh tiến. Tĩnh lự có ba thứ:
1. Hiện pháp lạc trụ tĩnh lự.
2. Dẫn phát thần thông tĩnh lự.
3. Nhiêu ích hữu tình tĩnh lự. Tuệ có ba thứ:
1. Duyên thế tục tuệ.
2. Duyên thắng nghĩa tuệ.
3. Duyên hữu tình tuệ.
Phải biết tài thí có khả năng nhậm trì thân, do ẩm thực… các thứ vật dụng sinh sống thâu nhiếp lợi ích cho thân chỗ nương của người thọ. Vô úy thí có thể giữ gìn tâm, an ủi tâm của người khác lìa lo lắng kinh sợ. Như vậy câu còn phải tư duy tùy theo nghĩa của nó. Tâm thấp kém, là tâm của Bồ-tát chán khổ sinh tử đồng với Nhị thừa, do sự chấp thọ của an thọ khổ nhẫn mới xả tâm nầy. Gốc lành vô tận, là cùng tận bờ mé sanh tử thường làm lợi ích an vui cho tất cả hữu tình, cho đến Vô dư giới Niết-bàn cũng không buông bỏ, là tinh tấn giữ gìn lợi ích hữu tình. Ngự chúng nghiệp, là dựa vào nội chứng mà truyền dạy và răn dạy hữu tình được hóa độ, nếu tâm chưa định thì khiến cho đắc định, nếu tâm đã định thì khiến cho giải thoát, vì sự giữ gìn lợi ích cho hữu tình tĩnh lự. Chứng nhập Đại địa, là tin hiểu giáo pháp sâu xa ở trước, tư lương tròn đầy có thể mau chóng chứng nhập địa cực hỷ thứ nhất, do sự giữ gìn của tuệ duyên thế tục. Các pháp còn lại thì dễ hiểu nên không giải thích lại.
Sai khác, là thí có bảy thứ:
1. Căn bản thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị chủng tánh Bồ-tát, vì dựa vào chủng tánh nầy mà thực hành thí.
2. Hoằng thệ thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị phát tâm Bồ-tát, vì dựa vào thọ đại nguyện mà hành thí.
3. Nhiếp thọ thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị tu hạnh tự lợi, lợi tha.
4. Vô chấp thọ thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị Bồ-tát quán nghĩa chân thật, vì lấy những người không có thí mà phân biệt chấp thọ.
5. Vô nhiếp thọ thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị Bồ-tát Oai Đức, tuy không nhiếp thọ vật dụng sinh sống bên ngoài, chỉ do năng lực Tam-ma-địa của Hư Không Tạng… đưa tay vẫy lên hư không, tùy ý muốn thì châu báu đều tuôn rải như mưa.
6. Tùy sở ưng thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị Bồ-tát thành thục, tùy sự thích nghi hóa độ mà hành thí.
Quảng đại thí, là tất cả Thí Ba-la-mật-đa của vị tối thắng Bồ-đề, vì Vô thượng. Như thí có bảy thứ, cho đến tuệ cũng vậy, tùy sự thích ứng của nó.
Nhiếp là gì? Là thâu nhiếp Bồ-tát địa, trong đây nói lược các Ba-la-mật-đa như Thí, Giới…. Nhiếp nầy lược có bốn thứ:
1. Chủng tánh thâu nhiếp, là chủng tánh tương ưng thuận theo tri của Thí Ba-la-mật-đa.
2. Phát tâm thâu nhiếp, là sự thâu nhiếp của sự phát tâm sai khác. Phát tâm có hai thứ, là không sai khác và sai khác. Không sai khác là nguyện ta sẽ chứng đạo quả Bồ-đề Vô thượng. Sai khác là nguyện ta Thí Ba-la-mậtđa mau chóng được tròn đầy, cho đến Tuệ Ba-la-mật-đa mau chóng được tròn đầy. Phải biết trong đây do phát tâm sai khác mà thâu nhiếp các Ba-la-mật-đa, vì tâm nầy là nhân của Ba-la-mật-đa kia.
3. Tự tha lợi dẫn dắt, là do thí thâu nhiếp nên nhiếp thọ tất cả giàu vui tự tại, gọi đó là tự lợi thâu nhiếp. Do thí nầy nên đưa đến tài vật làm lợi ích người khác, gọi là dẫn dắt tha lợi. Như vậy các tướng thâu nhiếp khác phải biết tùy nghĩa.
4. Thắng nghĩa thâu nhiếp. Nhiếp nầy lại có nhiều thứ; hoặc nói theo pháp giới mà nói, vì tướng Chân như là cộng của Thí, Giới…, hoặc nói theo trí tư lương mà nói, vì có thể làm thành xong tất cả trí khí, hoặc nói theo trí nhiếp thọ mà nói, vì có thể thành mãn Nhất thiết trí, hoặc nương vào trí tùy chuyển mà nói vì năm Ba-la-mậtđa tùy theo Tuệ Ba-la-mật-đa mà chuyển; hoặc nói theo trí tướng mà nói, vì Tuệ Ba-la-mật-đa là tự thể của chánh trí. Như vậy thắng nghĩa lấy Chân như và chánh trí làm thể, nên có thể thâu nhiếp thí, giới… theo chỗ nói lược nầy, nghĩa thâu nhiếp chỗ khác như lý tư duy.
Sự đối trị, là sáu pháp như thí… như thứ lớp của nó, vì san lận, phạm giới, phẫn hận, biếng nhác, tán loạn và tuệ ác là bị đối trị. Lại nữa, cho đến sự thâu nhiếp pháp thiện, đối tượng cần đối trị và sở tri chướng của tất cả Ba-la-mật-đa đều là sự đối trị của Ba-la-mật-đa.
Công đức, là nương vào thắng lợi của năm quả vô lượng vô biên xưng tán, đều gọi là công đức, là có thể dứt hẳn sở đối trị của chính nó, là quả lìa hệ của các Ba-la-mật-đa. Trong hiện pháp, do sáu Ba-la-mật-đa nầy nhiếp thọ tự tha, là quả sĩ dụng; đối với đời vị lai và mãi về sau tăng thắng xoay vần sinh khởi, là quả đẳng lưu. Đại Bồ-đề là quả tăng thượng, chiêu cảm quả rất giàu sang vãng sinh về đường lành, không có oán, không bị hoại, nhiều các hỷ lạc, tôn thân trong hữu tình không bị tổn hại, tông tộc rộng lớn tùy theo thứ lớp của nó, là quả Dị thục của thí… Ba-la-mật-đa.
Hỗ tương quyết trạch, lược có ba thứ:
1. Phương tiện.
2. Sai khác.
3. Sai khác hiển bày.
Phương tiện là tất cả khả đắc trong phương tiện thí, như xả tất cả tài vật trong ngoài, là phương tiện thí. Trong phương tiện nầy nếu thí tất cả là Ba-la-mật-đa như Thí. Ngay trong thí nầy nếu tâm từ bi ngăn ngừa tất cả tổn hại ép ngặt não loạn của tánh người khác, là Giới Ba-la-mật-đa. Ngay trong giới nầy chịu đựng ngăn dứt tổn hại mệt nhọc, là nhẫn Ba-la-mật-đa. Ngay trong nhẫn nầy niệm niệm phát khởi thí tâm mạnh mẽ, là tinh tiến Ba-la-mật-đa. Ngay trong tinh tiến nầy mà tâm đó thuần thiện, trói tâm vào một cảnh, không rong ruổi bên ngoài, là Tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Ngay trong Tĩnh lự nầy, khéo giữ lấy hạnh thí, nhân quả như thật, không chấp lấy dị kiến, là Tuệ Ba-la-mật-đa. Như vậy cho đến trong phương tiện của Tuệ Ba-la-mật-đa, tùy sự thích ứng của nó, phải khéo lập ra, do vô úy thí mà tất cả mọi nơi đều có thí.
Sai khác, lược có bốn thứ:
1. Tự thể sai khác.
2. Trợ giúp sai khác.
3. Khuyến tán sai khác.
4. Chủng thực sai khác.
Tự thể sai khác của Ba-la-mật-đa như thí… là như thứ lớp của nó mà lấy từ bỏ, nhẫn nại, sách cần, tâm trụ và quyết trạch làm thể.
Trợ giúp sai khác, là trong phương tiện của thí… các Ba-la-mật-đa đều chuyển theo, như trước đã nói rộng.
Khuyến tán sai khác, là đối với thí… khuyến khích khen ngợi tùy hỷ vui mừng.
Chủng thực sai khác, là trong tương tục tha mà lập ra các Ba-la-mật-đa như thí…, trong đây Thí Ba-la-mậtđa là tài thí, năm Ba-la-mật-đa còn lại là vô úy thí, tất cả sáu Ba-la-mật-đa là pháp thí, đều ở trong tương tục tha mà gieo trồng. Sai khác hiển bày, là do sai khác của một hành hiển bày thí… Trong các Ba-la-mật-đa.
Như có người hỏi: Nếu Thí Ba-la-mật-đa cũng là Giới Ba-la-mật-đa, hay Giới Ba-la-mật-đa cũng là Thí Ba-la-mật-đa?
Để đáp câu hỏi nầy thì phải thuận theo câu sau: Là tất cả Giới Ba-la-mật-đa đều là Thí Ba-la-mật-đa, hoặc có khi Thí Ba-la-mật-đa không phải Giới Ba-la-mật-đa, vì Giới Ba-la-mật-đa là sự không thâu nhiếp Thí Ba-lamật-đa. Như vậy cho đến dùng Tuệ Ba-la-mật-đa đối với Thí Ba-la-mật-đa đều phải khởi thuận theo câu sau. Ngoài ra đối mặt lẫn nhau thì cũng nên đúng như lý mà tư duy. Trong đây người nương vào nghiệp địa ban đầu mà dần dần tu, là nói nghiệp địa sau chờ các nghiệp địa trước nghiệp trước không đợi nghiệp sau, do đó đều khởi thuận theo câu sau. Nếu đã tập quen sáu thứ đốn tu đều thâu nhiếp lẫn nhau, như Bồ-tát Địa nói: "Giới thiện pháp, là sáu Ba-la-mật-đa nếu nương vào thuần tướng hay tạp tướng trợ giúp thì thuyết đó phải làm bốn câu".
Hỏi: Lại nữa, tất cả thí đều là Ba-la-mật-đa, hay Ba-la-mật-đa đều là Thí?
Để đáp câu hỏi nầy phải làm ba câu (trường hợp):
1. Hoặc có khi là thí mà không phải Ba-la-mật-đa, là việc làm thí không hồi hướng đại Bồ-đề.
2. Hoặc có khi vừa là thí vừa là Ba-la-mật-đa, là việc làm Thí… đều hồi hướng đại Bồ-đề.
3. Hoặc có khi không phải thí cũng không phải Ba-la-mật-đa, là trừ hai câu trên ra. Như vậy cho đến nương vào Tuệ Ba-la-mật-đa, mỗi pháp nên làm bốn trường hợp, như lý mà tư duy.
Hỏi: Lại nữa, tất cả hạnh thí đều có thể sinh chủng loại phước của Thí Ba-la-mật-đa chăng?
Đáp câu hỏi nầy nên chia làm bốn trường hợp:
1. Việc làm thí không hồi hướng đại Bồ-đề.
2. Đối với Thí Ba-la-mật-đa khuyến khích khen ngợi tùy hỷ vui vẻ.
3. Là việc làm thí hồi hướng đại Bồ-đề.
4. Trừ các tướng của ba câu trên như thế.
Như vậy cho đến nương vào Tuệ Ba-la-mật-đa, mỗi pháp đều chia làm bốn câu, như lý mà tư duy.
Hỏi: Lại nữa, vì sao nói phương quảng chia thành rộng lớn sâu xa như vậy?
Đáp: Do Nhất thiết chủng trí tánh rộng lớn sâu xa, đây là đã đắc quả Nhất thiết chủng trí tánh rất rộng lớn sâu xa, nhân thọ lãnh tên của quả nên nói phương quảng là rộng lớn sâu xa.
Hỏi: Lại nữa, vì sao tất cả chúng sinh đối với phần phương quảng rộng lớn sâu xa không sinh thắng giải, trái lại còn ôm lòng kinh sợ?
Đáp: Vì xa lìa pháp tánh, chưa gieo trồng gốc lành, thuộc về của bạn ác. Pháp tánh, là chủng tánh Bồ-tát, là tự thể của chúng sinh. Vì một phần chúng sinh không có chủng tánh Bồ-tát, nên tâm tánh thấp kém, đối với giáo rộng lớn sâu xa không thể sinh hiểu biết thù thắng, do đó kinh sợ. Lại nữa, một phần chúng sinh tuy có chủng tánh Bồ-tát nhưng đối với đại Bồ-đề chưa gieo trồng các gốc lành chánh nguyện… nên đối với giáo rộng lớn sâu xa nầy không thể sinh hiểu biết cao quý, do đó mà sinh kinh sợ. Lại nữa, một phần chúng sinh tuy đã gieo trồng gốc lành, nhưng vì chê bai chúng sinh Đại thừa, thuộc về bạn ác, nên đối với giáo pháp rộng lớn sâu xa nầy không thể sinh hiểu biết thù thắng, do đó sinh kinh sợ.
Hỏi: Lại nữa, vì sao tất cả chúng sinh đối với phần Phương quảng rộng lớn sâu xa tuy sinh thắng giải mà không được xuất ly?
Đáp: Vì trụ sâu xa trong tự kiến thủ, thường chấp chặt theo lời nói mà hiểu nghĩa. "Trụ sâu xa trong tự kiến thủ", lại không tiến cầu kinh liễu nghĩa. "Thường chấp chặt theo lời nói mà hiểu nghĩa", là chấp chặt không hiểu nghĩa kinh, như nghe câu "Tất cả pháp rốt ráo không có tự tánh", thì cho rằng tánh tướng của tất cả các pháp đều không có gì. Như vậy đối với kinh bất liễu nghĩa, chấp chặt theo lời nói mà hiểu nghĩa cũng vậy, nên tuy tin Đại thừa nhưng không được xuất ly, vì kinh Đại thừa do các thứ ý mà nói, nương vào mật ý nầy mà Đức Bạc-giàphạm trong kinh đại pháp cảnh nói như vầy: "Nếu các Bồ-tát tùy theo lời mà hiểu nghĩa, thì không bằng tư duy chánh lý mà trạch pháp. Liền sinh hai mươi tám bất Chánh kiến.
Hỏi: Hai mươi tám bất Chánh kiến?
Đáp: 1. Kiến tướng. 2. Kiến tổn giảm thi thiết. 3. Kiến tổn giảm phân biệt. 4. Kiến tổn giảm chân thật. 5. Kiến nhiếp thọ. 6. Kiến chuyển biến. 7. Kiến vô tội. 8. Kiến xuất ly. 9. Kiến khinh hủy. 10. Kiến phẫn phát. 11. Kiến điên đảo. 12. Kiến xuất sinh. 13. Kiến bất lập tông. 14. Kiến kiểu loạn. 15. Kiến kính sự. 16. Kiến vững chắc ngu si. 17. Kiến căn bản. 18. Kiến đối với kiến vô kiến. 19. Kiến xả phương tiện. 20. Kiến bất xuất ly. 21. Kiến chướng tăng ích. 22. Kiến sinh phi phước. 23. Kiến vô công quả. 24. Kiến thọ nhục. 25. Kiến chê bai. 26. Kiến bất khả dữ ngôn. 27. Kiến rộng lớn. 28. Kiến tăng thượng mạn.
Kiến tướng: Hoặc là có người nghe trong kinh Đại thừa nói những câu như: "Tất cả các pháp đều vô tự tánh, vô sinh, vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn…", họ không hiểu rõ mật ý chỉ tùy theo lời nói nghĩa nầy liền sinh thắng giải, cho rằng điều Phật nói là tất cả các pháp chắc chắn không có tự tánh, chắc chắn vô sinh v.v… bị chấp tướng không có tự tánh như vậy… Gọi đó là tướng kiến. Khi người kia chấp dính tướng không có tự tánh như vậy… thì liền chê bai ba tự tánh, là tự tánh Biến kế sở chấp, tự tánh Y tha khởi và tự tánh Viên thành thật. Tự tánh Biến kế sở chấp, là các kẻ ngu đối với tướng sắc, tính toán khắp hết mà khởi chấp tăng ích, cho đây là sắc cho đến đây là Niết-bàn, nghĩa của chỗ chấp nầy không có thật, không có tự thể, chỉ có chỗ lập bày của danh ngôn mà thôi! Tự tánh Y tha khởi, là ngay trên sắc… này, tự thể chỉ là luống dối phân biệt. Lại nữa, tánh của nhân quả hoặc khác hoặc không khác. Tự tánh Viên thành thật, là như thật chân tánh của tất cả pháp.
Đối với ba tánh nầy khởi việc làm chê bai, tức là ba kiến kế: Là kiến tổn giảm thi thiết, kiến tổn giảm phân biệt và kiến tổn giảm chân thật.
Người đó như vậy khi chê bai Nhất thiết chủng, nhất thiết pháp, vì muốn thành lập các tà kiến nầy, nên liền lại thâu nhiếp ít phần đạo lý. Lại nữa, đối với Khế kinh Liễu Nghĩa tất cả khai thị thật tánh của các pháp là lìa ngôn, thì người đó rộng bày phương tiện chuyển biến khiến cho thuận với kiến của mình. Như vậy hai thứ tức là hai kiến kế sau, là kiến nhiếp thọ và kiến chuyển biến. Người kia lại khởi kiến chấp như vầy: "Nếu dựa vào kiến nầy mà làm việc thiện hoặc bất thiện, thì chắc chắn đều không có tội không có lỗi, tất cả việc làm đều trở về diệu thiện, tất cả chướng cấu đã chứa nhóm trước kia đều được xuất ly. Hai thứ như vậy tức là hai kiến tiếp theo, là kiến vô tội và kiến xuất ly.
Người kia đã chấp tự kiến của mình như vậy rồi, liền trái với kiến nầy mà an lập các pháp như uẩn v.v…, đối với tạng Thanh văn vọng sinh xem thường chê bai. Lại nữa, đối với người bất tín như vậy sinh tà kiến với người Thanh văn mà sinh ganh ghét. Như vậy hai thứ tức là hai kiến tiếp theo, là kiến khinh hủy và kiến phẫn phát.
Người kia lại tùy theo ác kiến tà kiến của tự mình cho: "Ta sẽ lập ra như thật Không, Vô tướng, Vô nguyện", đối với chẳng phải tướng kia khởi tưởng là tướng kia, đối với tướng đó mà điên đảo lập ra. Lại nữa, người kia nghĩ rằng: "Nếu ngộ nhập được pháp tánh như vậy, thì có thể khiến cho người khác nhập tất cả đều sinh vô lượng công đức". Như vậy hai thứ tức là hai kiến tiếp theo, là kiến điên đảo và kiến xuất sinh.
Hoặc người nọ sanh khởi ác kiến của người kia mà như lý chất vấn, người kia trong lúc đó rốt cục không muốn lập ra tự tông, lại dùng lời chê bai và đùa cợt chất vấn người nọ. Như vậy hai thứ tức là hai kiến tiếp theo, là kiến bất lập tông và kiến kiểu loạn.
Người kia lại khởi tăng thượng mạn như vầy: "Nếu có thể tu hành như thế là chân cúng dường cung kính các Phật Thế tôn". Người có kiến như vậy gọi là kiến kính sự.
Những người khéo thông đạt pháp tánh vô đảo, là vì khiến cho lìa ác kiến kia, tuy dùng các thứ chân thật để thành lập đạo lý, tạo phương tiện khai ngộ ngu kiến chấp chặt, nhưng không hề có tâm xả bỏ, cho chỉ có đây là chân, ngoài ra đều là tà vọng, người có kiến như vậy gọi là kiến ngu si bền chắc.
Như chỗ nói trên, tất cả tập khí thô nặng của các kiến, gọi đó là kiến căn bản. Vì muốn khai thị đã nói mười bảy thứ kiến ở các môn lỗi lầm như trên, nên lại nói thêm các kiến khác.
Ngay nơi kiến tướng gọi là Kiến đối với kiến Vô kiến, đây thật ra là do chấp chặt tướng vô tánh mà khởi, vì tưởng không chấp tất cả tướng.
Ngay trên kiến tổn giảm thi thiết, kiến tổn giảm phân biệt và kiến tổn giảm chân thật mà gọi là kiến xả phương tiện, vì người kia chê bai tất cả pháp tánh, đối với cần, tinh tiến khởi tưởng vô dụng.
Ngay trên kiến nhiếp thọ và kiến chuyển biến gọi là kiến bất xuất ly, vì phi phương tiện tu học thì không thể chứng quả.
Ngay trên kiến vô tội và kiến xuất ly gọi là kiến chướng tăng ích, vì việc làm tà vạy nêu không thể hết chướng.
Ngay trên kiến khinh hủy và kiến phẫn phát gọi là kiến sinh phi phước, vì đối với chánh pháp đồng phạm hạnh là sanh khởi môn tà hạnh, liền có thể dẫn phát suy tổn lớn.
Ngay trên kiến điên đảo và kiến xuất sinh gọi là kiến vô công quả, vì sự an lập không phải chánh pháp tánh, người truyền người thọ đều không thể chứng quả thắng tiến.
Ngay trên kiến bất lập tông và kiến kiểu loạn gọi là kiến thọ nhục, vì phi lìa mà hưng khởi luận thì không nên đắc thắng.
Ngay trên kiến kính sự gọi là kiến chê bai, vì điều không nên nói mà gượng tăng ích.
Ngay trên kiến ngu si bền chắc gọi là kiến bất khả dữ ngôn, vì người tà chấp không, không nên bàn luận với họ, chỉ lập ra nhiều ngôn từ, hoàn toàn không có lợi ích.
Ngay trên kiến căn bản gọi là kiến rộng lớn, do đây mà ở vị lai các loại ác kiến chuyển thêm rộng.
Kiến ở trên đã nói đều gọi là kiến tăng thượng mạn, vì đều có thể khởi Tăng thượng mạn luống dối không thật.
Hỏi: Kiến Tăng thượng mạn nầy làm sao biết được? Đáp: Là do trong kinh kia ngay kế sau đã nói.
Như vậy các kiến có mười bảy thứ tức là mười, mười thứ tức là mười bảy. Hai mươi bảy thứ tức là một, một thứ tức là hai mươi bảy.
Hỏi: Lại nữa, như phần Phương quảng nói: "Tất cả các pháp đều vô tự tánh". Câu nói nầy nương vào mật ý nào mà nói?
Đáp: Là vô tự nhiên tánh, vô tự thể tánh, vô trụ tự thể, không có sự chấp giữ tướng tánh như kẻ ngu.
Vô tự nhiên tánh, do không có tánh tự nhiên nên nói là vô tự tánh, không ngăn dứt chờ tánh duyên nên nói vô tự tánh.
Vô tự thể tánh, là vì tự thể nầy là đã đã từng trải qua hữu, tức là tự thể nầy không thể trở lại hữu, nên nói là vô tánh. Vô trụ tự thể, là thể tuy hiện tại chưa đến nhưng tướng hoại kế sau chắc chắn phải diệt, thể không trụ nơi nghĩa nên nói là vô tánh. Không có sự chấp giữ tướng tánh như kẻ ngu, là những người ngu chưa Kiến đế, dựa vào danh ngôn hý luận ở môn huân tập mà vọng chấp lấy tánh tướng các pháp, vì xa lìa sự chấp giữ tánh tướng như vậy, nên nói là vô tánh.
Lại nữa, đối với tự tánh Biến kế sở chấp, vì tướng vô tánh, đối với tự tánh Y tha khởi, vì sinh vô tánh; đối với tự tánh Viên thành thật, vì thắng nghĩa vô tánh, càng dựa vào dị môn để hiển bày nghĩa vô nên nói.
Lại nữa, tất cả các pháp tức là ba tự tánh, là tự tánh Biến kế sở chấp, tự tánh y tha khởi và tự tánh Viên thành thật. Tự tánh Biến kế sở chấp chắc chắn không có tự tướng, vì tự tướng không có nên gọi là tướng vô tánh, tướng vô tánh nên gọi là vô tánh. Tự tánh Y tha khởi vì đợi nhiều duyên nên chẳng phải tánh tự nhiên, vì không có tự nhiên tánh nên gọi là sinh vô tánh, vì sinh vô tánh nên gọi là vô tánh. Tự tánh Viên thành thật vì sở duyên thanh tịnh, nên trong Y tha khởi không có đã hiển tự thể của tướng Biến kế sở chấp, vì thắng nghĩa làm tự thể, vì đã hiển bày vô tánh nên gọi là Thắng nghĩa vô tánh, vì Thắng nghĩa vô tánh nên gọi là Vô tánh. Do lý nầy nên
Như Lai nói: "Tất cả pháp đều Vô tự tánh". Chẳng phải tánh tướng của tất cả chủng đều không nói là Vô tánh.
Hỏi: Lại nữa, nói: "Tất cả các pháp vô sinh, vô diệt, xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn". Câu nầy dựa vào mật ý nào mà nói?
Đáp: Như Vô tự tánh, vô sinh cũng vậy, như vô sinh, vô diệt cũng vậy, như vô sinh vô diệt, xưa nay vắng lặng cũng vậy, như xưa nay vắng lặng, tự tánh Niết-bàn cũng vậy.
Lại nữa, có bốn thứ ý thú, do ý thú (ý hướng)này mà tất cả ý thú của tất cả Như Lai trong phần phương quảng phải nên tùy thuộc chắc chắn rõ ràng. Bốn thứ ý thú là:
1. Ý thú bình đẳng.
2. Ý thú biệt thời.
3. Ý thú biệt nghĩa.
4. Ý thú chúng sinh ý lạc.
- Ý thú bình đẳng, như nói: "Ta trong lúc đó đã từng gọi là Như Lai thắng quán chánh đẳng chánh giác, không có sai khác với Pháp thân kia ".
- Ý thú biệt thời như nói rằng: "Nếu có nguyện sinh thế giới Cực Lạc, thì đều được vãng sinh. Nếu người tạm thời được nghe Như Lai Vô Cấu Nguyệt Quang, thì liền chắc chắn không thoái chuyển đạo quả Bồ-đề Vô thượng". Những câu như vậy là ý tại các thời riêng biệt.
- Ý thú biệt nghĩa, như nói: "Tất cả các pháp đều vô tự tánh", những câu như vậy không thể như văn mà liền chấp lấy nghĩa.
- Ý thú chúng sinh ý lạc, là đối với một gốc lành, hoặc có khi khen ngợi, vì khiến cho vui mừng mạnh mẽ tu hành, hoặc có khi thì chê bai, vì ngăn dứt được chút ít phần thiện thì sinh mừng đủ, vì hành giả tham mà khen ngợi cõi Phật giàu có vui vẻ trang nghiêm, vì hành giả mạn mà khen ngợi các Phật hoặc có tăng thắng. Vì người thường ăn năn, áo não, chướng ngại tu thiện mà nói như vầy: "Tuy hành khinh hủy đối với Phật Bồ-tát, nhưng chúng sinh đó cũng sinh cõi trời". Vì chủng tánh bất định, là xả lìa ý lạc thấp kém của Thanh văn, thọ ký cho Thanh Văn sẽ được thành Phật, lại cũng nói Nhất thừa là không có thừa thứ hai.
Lại nữa, có bốn thứ bí mật, do bí mật nầy mà tất cả bí mật của tất cả Như Lai trong phần Phương quảng phải thuận theo chắc chắn rõ ràng. Thế nào là bốn bí mật:
1. Bí mật khiến nhập.
2. Bí mật tướng.
3. Bí mật đối trị.
4. Bí mật chuyển biến.
Như vậy bốn thứ trong Đại thừa lược nhiếp tất cả đạo lý bí mật mà Như lai đã nói.
- Bí mật khiến nhập, là đối với Thanh văn thừa nói các pháp của sắc đều có tự tánh, vì để khiến cho không kinh sợ và dần dần nhập Thánh đạo.
- Bí mật tướng, là đối với ba tự tánh nói tất cả pháp đều vô tự tánh, vô sinh, vô diệt….
- Bí mật đối trị, là vì điều phục những người tội lỗi, mà Như Lai giảng nói các thứ Mật giáo, như vì đối trị tám thứ chướng, nên nói tối thượng thừa.
Tám thứ chướng là: a. Xem thường pháp Phật; b.
Biếng nhác; c. Ít điều thiện sinh vui đủ; D. Tham; e. Mạn; f. Hành ác; g. Tác tánh bất định; h. Sai khác. Nói rộng để chỉ các sự thì tùy sự thích ứng của nó, nói như bốn ý thú.
- Bí mật chuyển biến, là đã nói danh ngôn ẩn mật của kinh, như nói: "Đối với bất kiên thì giác kiên trụ sâu vào điên đảo, phiền não gây hại hết mức là đắc Bồ-đề Tối thượng ". Trong đây có mật ý là đối với bất tán động mà khởi thắng giác vững chắc. Vì sao? Vì vững chắc có hai nghĩa: a. Trinh thật; b. Tán động. Do tán động nầy khiến cho tâm thường buông lung cũng gọi là vững chắc. Trụ sâu vào điên đảo, là trái với thường, lạc, ngã, tịnh, bốn thứ nầy đảo lại làm Vô thường… nên gọi là điên đảo, đối với điên đảo nầy không thoái lui nên gọi là trụ sâu bị phiền não não hại hết mức, trong thời gian dài bị bức não của sự siêng năng khổ hạnh quá mệt mỏi. Đắc Bồ-đề tối thượng, là nếu có đủ ba việc đã nói trên thì chắc chắn sẽ mau chóng chứng Bồ-đề vô thượng.
Hỏi: Lại nữa, trong phần phương quảng đối với pháp tướng Tam-ma-địa Bồ-tát khéo léo làm sao biết được?
Đáp: Là do năm thứ nhân:
1. Từng sát-na tiêu trừ chỗ nương của tất cả thô nặng.
2. Xuất ly các thứ tưởng, được vui với pháp lạc.
3. Biết rõ vô lượng tướng vô phân biệt trong đại pháp quang minh.
4. Thuận phần thanh tịnh nơi tướng vô phân biệt thường hiện ở trước.
5. Có thể nhiếp thọ chuyển thượng, chuyển thắng tròn đầy nhân, thành tựu Pháp thân Phật.
Năm thứ nhân như vậy dựa vào ba thứ xưng tán công đức của các Bồ-tát mà nói:
1. Xưng tán công đức Xa-ma-tha.
2. Xưng táng công đức Tỳ-bát-xá-na.
3. Gọi hai công đức trên là xưng tán công đức câu phần.
- Xưng tán công đức Xa-ma-tha lại có hai thứ: a. Từng sát-na thắng tiến khinh an không gián đoạn, thiếu giảm, vì khắp chỗ nương, từng sát-na tiêu trừ chỗ nương của tất cả thô nặng. b. Thắng giải đế quán tất cả giáo pháp không có sai khác, vì đồng nhất vị, xa lìa các tưởng về nghĩa tướng của các thứ uẩn giới xứ, được vui với pháp lạc của khế kinh…
Xưng tán công đức Tỳ-bát-xá-na cũng có hai thứ: a. Tùy sự trạch pháp không có xem hở thiếu giảm, vì không quên mất, do môn nhớ nghĩ đối với vô phân biệt tướng vô lượng. b. Các pháp của khế kinh… Dùng tuệ soi rõ hai chuyển y, tất cả sắc tượng ở trước, tướng vô phân biệt và vô gia hạnh thường hiện ở trước.
-Trong loại nhân thứ năm là hai xưng tán công đức câu phần, Pháp thân: là thuộc về, sở tri chướng dứt hẳn chuyển y, trong mười địa gọi là tròn đầy, trong địa Như Lai gọi là thành tựu, vì khiến cho Pháp thân mau chóng được thành tựu tròn đầy, dẫn sinh chuyển thượng chuyển thắng đẳng lưu tập khí nên gọi là nhiếp thọ. Nhân kia như vậy có năm thứ, tức là nói lên năm tu có thể đắc năm quả.
Năm tu là:
1. Tu Tức tướng.
2. Tu Hòa hợp.
3. Tu Vô tướng.
4. Tu Vô công dụng.
5. Tu Chuyển tướng.
Hỏi: Pháp tạng Thanh văn và pháp tạng Bồ-tát từ Pháp thân lưu xuất, chúng sinh dùng tràng hoa thơm cúng dường Bồ-tát Pháp Tạng thì liền sinh nhóm phước rộng lớn vô biên, vì sao không phải pháp tạng Thanh văn?
Đáp: Vì Bồ-tát Pháp Tạng là chỗ nương để làm lợi ích an vui của tất cả chúng sinh, vì có thể dựng lập Đại nghĩa, là chỗ sinh của vô thượng vô lượng nhóm công đức lớn.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Hỏi: Thế nào là đắc Quyết trạch?
Đáp: Nói lược có hai thứ:
1. Lập ra Bổ-đặc-già-la.
2. Lập ra hiện quán.
Quyết trạch thứ nhất là năng chứng, quyết trạch thứ hai là sở chứng. Bổ-đặc-già-la tuy chẳng phải thật có, nhưng do bốn duyên mà lập ra:
1. Lời nói khác.
2. Thuận thế gian.
3. Lìa bố úy.
4. Hiển bày công đức lỗi lầm của mình và người.
- Lời nói khác: Hoặc là đối với vô lượng sự sai khác của sắc…, vô lượng sai khác trong pháp tướng và pháp tưởng, tổng hợp lại để lập ra một hữu tình giả, tức là kêu gọi, vẫy gọi, qua lại… thì các thứ nói năng thực hiện không khó lắm.
- Thuận thế gian: Là không phải các thế gian, chỉ dựa vào pháp tưởng mà khởi nói năng, phần nhiều dựa vào tưởng hữu tình mà khởi nói năng, nên bậc Thánh vì hóa độ thế gian, thì phải đồng với thế gian kia mà phương tiện lập ra Bổ-đặc-già-la.
- Lìa sợ hãi: Là hữu tình thế gian chưa lãnh hội pháp tánh của duyên khởi sâu xa, nếu nghe tất cả hữu tình vô ngã thì liền sinh kinh sợ, không chịu chánh hóa độ.
- Hiển bày công đức lỗi lầm của mình và người: Là nếu lìa giả lập hữu tình sai khác mà chỉ nói tướng của pháp nhiễm tịnh, thì đó là tất cả không có sai khác, không thể biết rõ trong thân như vậy, tội lỗi như vậy đã dứt hay chưa dứt, trong thân như vậy công đức như vậy đã chứng hay chưa chứng, do đó mà lập ra Bổ-đặc-già-la.
Hỏi: Thế nào là lập ra?
Đáp: Lược có bảy thứ:
1. Bịnh hạnh sai khác.
2. Xuất ly sai khác.
3. Nhậm trì sai khác.
4. Phương tiện sai khác.
5. Quả sai khác.
6. Giới sai khác.
7. Tu hành sai khác.
-Bịnh hạnh sai khác lại có bảy thứ:
1. Tham hạnh.
2. Sân hạnh.
3. Si hạnh.
4. Mạn.
5. Tầm tư hạnh.
6. Đẳng phân hạnh.
7. Bạc trần hạnh.
-Xuất ly sai khác lại có ba thứ:
1. Thanh văn thừa.
2. Thừa Độc giác.
3. Đại thừa.
-Nhậm trì sai khác lại có ba thứ:
1. Vị cụ tư lương.
2. Vị cụ dĩ cụ tư lương.
3. Dĩ cụ tư lương.
-Phương tiện sai khác lại có hai thứ:
1. Tùy tín hạnh.
2. Tùy pháp hạnh.
-Quả sai khác lại có hai mươi bảy thứ: 1. Tín giải. 2. Kiến chí. 3. Thân chứng. 4. Tuệ giải thoát. 5. Câu giải thoát. 6. Dự lưu hướng. 7. Dự lưu quả. 8. Nhất lai hướng.
9. Nhất lai quả. 10. Bất hoàn hướng. 11. Bất hoàn quả. 12. A-la-hán hướng. 13. A-la-hán quả. 14. Cực thất phản hữu. 15. Gia gia 16. Nhất gian. 17. Trung nhập Niết-bàn. 18. Sinh nhập Niết-bàn. 19. Vô hành nhập Niết-bàn. 20. Hữu hành nhập Niết-bàn. 21. Thượng lưu. 22. Thoái pháp A-la-hán. 23. Tư pháp A-la-hán. 24. Hộ pháp A-lahán. 25. Trụ bất động A-la-hán. 26. Kham đạt A-la-hán.
27. Bất động pháp A-la-hán.
- Giới sai khác, là trong ba cõi, mỗi cõi đều có ba thứ. Cõi Dục có ba thứ:
1. Dị sinh.
2. Hữu học.
3. Vô học.
Như cõi Dục có ba thứ, cõi Sắc và cõi Vô Sắc cũng vậy, cũng có Dục giới, Sắc giới Bồ-tát, lại có Độc giác có Dục, và Như Lai bất khả tư nghì.
- Tu hành sai khác lược có năm thứ:
1. Bồ-tát Thắng giải hạnh.
2. Bồ-tát Tăng thượng ý lạc hạnh. 3 Bồ-tát Hữu tướng hạnh.
4. Bồ-tát Vô tướng hạnh.
5. Bồ-tát Vô công dụng hạnh. Như vậy tất cả Bổđặc-già-la có vô lượng sai khác.
Tham hạnh Bổ-đặc-già-la: Là có mạnh mẽ và thời gian dài tham dục, tuy đối với cảnh giới đáng ưa thấp kém, nhưng có thể phát khởi tham thượng phẩm, vì khi khởi thì thời gian lâu dài không dứt. Như người tham hạnh, cho đến người tầm tư hạnh cũng vậy, đều tùy theo tự cảnh, mạnh mẽ và lâu dài, như lý mà phối hợp giải thích.
Đẳng phần hạnh Bổ-đặc-già-la: Là phiền não trụ vị tự tánh, vì các phiền não xa lìa mạnh yếu mà trụ vị bình đẳng, tùy thế lực của cảnh giới mà phiền não hiện hành. Bạc trần hạnh Bổ-đặc-già-la: Là phiền não mỏng nhẹ trụ vị tự tánh, như đã nói tướng phiền não vị tự tánh ở trước, bây giờ phiền não nầy so với phiền não kia là mỏng nhẹ, tuy đối với cảnh giới sở duyên Tăng thượng, nhưng phiền não có tánh mỏng nhẹ hiện hành, vì sự điều phục là sự tu tập năng lực sở thắng đối trị hơn hẳn trước kia.
Thanh văn thừa Bổ-đặc-già-la: Là trụ pháp tánh Thanh văn, hoặc định tánh hoặc bất định tánh là độn căn, tự cầu giải thoát, phát hoằng chánh nguyện, tu chán lìa tham, ý lạc giải thoát, dùng tạng Thanh văn làm cảnh sở duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy pháp hành mà dứt hết khổ tế, phải biết trong đây lấy sự sai khác của chủng tánh, căn, nguyện, ý lạc, cảnh giới, hành quả mà nói Thanh văn thừa. Đối với căn tánh của Độc giác và Bồtát mà nói là độn căn, nếu không như thế thì trái với lợi căn như tùy pháp hành v.v...
Thừa Độc giác Bổ-đặc-già-la: Là trụ pháp tánh Độc giác, hoặc định tánh hoặc bất định tánh là trung căn, tự cầu giải thoát, phát hoằng chánh nguyện, tu chán lìa tham, ý lạc giải thoát, và tu Bồ-đề Độc giác. Ý lạc tức là tạng Thanh văn là cảnh sở duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy pháp hành, hoặc trước kia chưa khởi thuận phần quyết trạch, hoặc trước kia sanh khởi thuận phần quyết trạch, hoặc trước kia chưa đắc quả, hoặc trước kia đã đắc quả, sinh ra không có Phật ở đời, chỉ tư duy bên trong mà Thánh đạo hiện tiền, hoặc như lân giác ở một mình, hoặc trở lại độc thắng bộ hành mà được hết mé khổ. Nếu trước kia chưa khởi thuận phần quyết trạch thì cũng chưa đắc quả, như vậy mới thành lân giác độc trụ, ngoài ra sẽ thành Độc thắng bộ hành.
Đại thừa Bổ-đặc-già-la: Là trụ pháp tánh Bồ-tát, hoặc định tánh hoặc bất định tánh là lợi căn, vì cầu giải thoát, phát hoằng đại nguyện, tu Niết-bàn vô trụ xứ ý lạc, lấy tạng Bồ-tát làm cảnh sở duyên, tinh tiến tu hành pháp tùy pháp hành, thành thục chúng sinh tu tịnh cõi Phật, đắc thọ đại ký, chứng thành Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Đắc thọ đại ký là trụ địa Bồ-tát thứ tám, chứng đắc Vô sinh pháp nhẫn.
Vị cụ tư lương Bổ-đặc-già-la: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, pháp khởi nhuyến phẩm thanh tín thắng giải, thành tựu nhuyến Phẩm Thuận Giải Thoát Phần, chưa chắc chắn lúc sinh.
Dĩ cụ vị cụ tư lương Bổ-đặc-già-la: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, phát khởi trung phẩm thanh tín thắng giải, thành tựu Trung Phẩm Thuận Giải Thoát Phần, đã chắc chắn lúc sinh.
Dĩ cụ tư lương Bổ-đặc-già-la: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, pháp khởi thượng phẩm thanh tín thắng giải, thành tựu Thượng Phẩm Thuận Giải Thoát Phần, sinh ngay lúc nầy.
Lại nữa, vị cụ tư lương: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, trong các đế thành tựu hạ phẩm đế sát pháp nhẫn, thành tựu Hạ Phẩm Thuận Phần Quyết Trạch, chưa chắc chắn lúc sinh.
Dĩ cụ vị cụ tư lương: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, trong các đế thành tựu trung phẩm đế sát pháp nhẫn, thành tựu Trung Phẩm Thuận Phần Quyết Trạch, đã chắc chắn lúc sinh.
Dĩ cụ tư lương: Là duyên đế pháp tăng thượng làm cảnh, trong các đế thành tựu thượng phẩm đế sát pháp nhẫn, thành tựu Thượng Phẩm Thuận Phần Quyết Trạch, sinh ngay lúc nầy.
Như vậy ba thứ Bổ-đặc-già-la do thành tựu thuận phần giải thoát và thuận phần quyết trạch, đều có ba phẩm, dựa theo có thể dẫn sinh thuận phần quyết trạch và đế hiện quán sát, thì như thứ lớp là chưa định thời gian sinh, đã định thời gian sinh và sinh ngay lúc đó. Đối với đế pháp tăng thượng thanh tín thắng tướng, là thuận giải thoát phần, tức là đối với pháp nầy thì đế sát pháp nhẫn tướng là thuận phần quyết trạch, như thứ lớp mà tín tăng thượng, tuệ tăng thượng. Trong đây, ba phẩm thuận phần quyết trạch, là trừ pháp Thế bậc nhất ra, vì tánh của pháp Thế bậc nhất chỉ có một sát-na thì không nối tiếp, tức là khi pháp nầy sinh thì chắc chắn nhập hiện quán mà không phải vị trước. Từ hạ phẩm và trung phẩm thuận giải thoát và thuận phần quyết trạch có nghĩa có thể thoái chuyển, ba phẩm nầy chỉ thoái chuyển hiện hành mà không phải thoái chuyển tập khí. Đã dựa vào Niết-bàn rồi trước hết khởi gốc lành, tức là không khởi mới lại nữa. Dựa vào hạ phẩm thuận phần giải thoát gốc lành nầy, đức Bạc-già-phạm nói: "Nếu có cụ thế gian chánh kiến tăng thượng, tuy trải qua ngàn kiếp nhưng cũng không đọa vào ba đường ác".
Lại nữa, có bốn thứ thuận phần giải thoát:
1. Y bằng thuận phần giải thoát.
2. Thắng giải thuận phần giải thoát.
3. Ái lạc thuận phần giải thoát.
4. Thú chứng thuận phần giải thoát.
Từ pháp thiện dục cho đến tất cả gốc lành vì cầu giải thoát đều gọi là y bằng thuận phần giải thoát. Đối với tất cả thắng giải câu hành gốc lành của tương ưng giáo pháp kia, gọi là thắng giải thuận phần giải thoát; duyên tất cả gốc lành của giải thoát cảnh tác ý nối tiếp thanh tịnh hỷ cùng sinh, gọi là ái lạc thuận phần giải thoát; ngay trên tất cả gốc lành của ái lạc nầy mà sinh chắc chắn phát khởi thuận phần quyết trạch, gọi đó là thú chứng thuận phần giải thoát.
Lại nữa, có sáu thứ thuận phần quyết trạch:
1. Thuận theo thuận phần quyết trạch.
2. Thắng tiến thuận phần quyết trạch.
3. Thông đạt thuận phần quyết trạch.
4. Dư chuyển thuận phần quyết trạch.
5. Nhất sinh thuận phần quyết trạch.
6. Nhất toà thuận phần quyết trạch.
Nếu đầu tiên sanh khởi duyên đế cảnh hành hạ phẩm gốc lành, gọi là thuận theo thuận phần quyết trạch; tức trên gốc lành nầy chuyển thành trung phẩm, gọi là thắng tiến thuận phần quyết trạch, vì mong hạ phẩm trước là tăng thắng; tức trên gốc lành nầy tăng đến thượng phẩm thì trong đời nầy chắc chắn có thể thông đạt đế lý, gọi đó là thông đạt thuận phần quyết trạch. Lại người bất định chủng tánh cũng ngay trong vị nầy, vì hồi hướng tối thắng Bồ-đề và các Độc giác để cầu vô sư tự chứng Bồđề, chuyển đến các đời khác, gọi là Dư Chuyển Thuận Phần Quyết Trạch; hoặc trong đời nầy chắc chắn có thể thông đạt, gọi là Nhất Sinh Thuận Phần Quyết Trạch; hoặc đối với toà nầy chắc chắn có thể thông đạt, gọi đó là Nhất Tòa Thuận Phần Quyết Trạch.
Tùy tín hạnh Bổ-đặc-già-la: Là tư lương đã đủ tánh là độn căn, thuận theo kẻ khác dạy bảo mà tu đế hiện quán.
Tùy pháp hành Bổ-đặc-già-la: Là tư lương đã đủ tánh là lợi căn, tự nhiên thuận theo đế pháp tăng thượng mà tu đế hiện quán.
Tín giải Bổ-đặc-già-la: Là Tùy tín hạnh đã đến quả vị.
Kiến chí Bổ-đặc-già-la, là Tùy pháp hành đã đến quả vị.
Thân chứng Bổ-đặc-già-la, là các Hữu học đã chứng đắc đủ tám định giải thoát, ngay trên quả bất hoàn gọi là thân chứng, do thân chứng đắc tám định giải thoát, vì cụ túc trụ. Bát giải thoát, là hữu sắc quán các sắc, sau sẽ nói rộng thêm.
Tuệ giải thoát Bổ-đặc-già-la, là đã hết các lậu, nhưng chưa chứng đủ tám định giải thoát, chỉ có rốt ráo dứt tuệ, là sự đối trị phiền não chướng.
Câu phần giải thoát Bổ-đặc-già-la, là đã dứt các lậu và đã chứng đủ tám định giải thoát, do phần phiền não chướng và phần định chướng đều được giải thoát.
Quả Dự lưu hướng Bổ-đặc-già-la, là trụ thuận vị quyết trạch phần và trụ Kiến đạo vị mười lăm tâm sátna. Trong đây có ý nói, bắt đầu từ nhất toà thuận phần quyết trạch cho đến chưa đắc sơ quả đều gọi là Dự lưu quả hướng.
Quả Dự lưu Bổ-đặc-già-la, là vị Kiến đạo mười sáu tâm sát-na, tức là Kiến đạo nầy cũng gọi là Nhập Chánh tánh chắc chắn.
Hỏi: Ai đối với vị Kiến đạo sau rốt tâm đắc sơ quả?
Đáp: Nếu người đối với cõi Dục chưa lìa dục, sau khi nhập chánh tánh chắc chắn thì đắc quả Dự lưu. Nói là thứ lớp, tuy ít phần lìa dục nhưng cũng gọi là chưa lìa dục. Người kia sau khi nhập chánh tánh chắc chắn, đến tâm vị thứ mười sáu thì đắc quả Dự lưu. Nếu người lìa dục gấp bội thì sau khi nhập chánh tánh chắc chắn sẽ đắc quả Nhất lai, là trước hết dùng đạo thế tục đã dứt cõi Dục tu đạo đã dứt sáu phẩm phiền não, gọi là đã lìa dục. Người kia sau khi nhập chánh tánh chắc chắn đến vị tâm thứ mười sáu thì đắc quả Nhất lai. Nếu người đã lìa dục thì sau khi nhập chánh tánh chắc chắn sẽ đắc quả Bất hoàn, là trước hết dùng đạo thế tục đã dứt cõi Dục đã dứt chín phẩm phiền não của tu đạo, gọi là đã lìa dục; người kia sau khi nhập chánh tánh chắc chắn, đến vị tâm thứ mười sáu thì đắc quả Bất hoàn.
Hỏi: Nếu đã dứt hẳn do Kiến đạo dứt tất cả phiền não thì đắc quả Dự lưu, vì sao chỉ nói dứt hẳn ba kiết thì đắc quả Dự lưu?
Đáp: Vì thuộc về tối thắng, do ba thứ chướng giải thoát mà đắc rất thù thắng. Vì sao? Vì đối với giải thoát là nhân không phát thú, tuy đã phát thú nhưng lại làm nhân của tà xuất ly và nhân của bất chánh xuất ly, do Tát-ca-da kiến chấp năm thủ uẩn sinh ái lạc sâu của ngã, ngã sở, trong nhóm khổ lớn không sinh chán trái, đối với thắng giải thoát không có tâm phát khởi. Hoặc có chúng sinh tuy đã phát khởi hướng tới giải thoát nhưng do giới cấm thủ và nghi, nghiêng chấp tà đạo, nghi ngờ chánh đạo, thì là tà xuất ly và bất chánh xuất ly. Lại nữa, ba kiết nầy là mê nhân của cảnh nơi đối tượng nhận thức, mê nhân của kiến, mê nhân của đối trị. Vì sao? Vì Tátca-da kiến mê cảnh sở tri, trong khổ lớn luống dối tăng thêm tướng ngã ngã sở. Do giới cấm thủ mê nơi của năng tri, đối với kiến điên đảo thì làm nhân của thanh tịnh xuất ly. Do nghi mê chánh đối trị nên đối với ba ngôi báu không chắc chắn.
Hướng Quả Nhất lai Bổ-đặc-già-la: Là trong tu đạo đã dứt năm phẩm phiền não cõi Dục mà an trụ trong tu đạo kia. Vì sao? Vì Kiến đạo sau khi đã dứt cõi Dục cho đến trung trung phẩm phiền não và trụ nơi đoạn đạo kia. Quả nhất lai Bổ-đặc-già-la: Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ sáu của cõi Dục mà an trụ trong tu đạo kia. Vì sao? Vì đã dứt hẳn trung nhuyến phẩm phiền não, đoạn đạo rốt ráo lập ra quả nầy.
Hướng Quả Bất hoàn Bổ-đặc-già-la: Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ bảy và thứ tám của cõi Dục mà an trụ trong tu đạo kia. Vì sao? Vì sau quả Nhất lai đã dứt Nhuyến Thượng và Nhuyến Trung phẩm phiền não, trụ đoạn đạo kia mà lập ra quả nầy.
Quả Bất hoàn Bổ-đặc-già-la: Là trong tu đạo đã dứt phẩm phiền não thứ chín của cõi Dục mà an trụ trong tu đạo kia. Vì sao? Vì tu đạo kia đã dứt hẳn nhuyến nhuyến phẩm phiền não, trụ đoạn đạo rốt ráo mà lập ra quả nầy. Hỏi: Nếu đã dứt hẳn do Kiến đạo mà dứt tất cả phiền não và đã dứt hẳn do Tu đạo mà dứt tất cả phiền não trong cõi Dục thì đắc quả Bất hoàn, vì sao chỉ nói dứt hẳn năm kiết thuận hạ phần mà đắc quả Bất hoàn vậy?
Đáp: Vì sự thâu nhiếp của tối thắng. Hỏi: Thế nào là tối thắng?
Đáp: Vì năm kiết nầy có thể làm nhân thắng của đường dưới, cõi dưới nên gọi là tối thắng. Vì sao? Vì đường dưới là Địa ngục, Súc sinh và Ngạ quỷ. Cõi giới là cõi Dục. Vì Tát-ca-da kiến, Giới cấm thủ và Nghi là nhân tối thắng, khiến cho các hữu tình không vượt qua đường dưới, vì tham dục và sân hận làm nhân tối thắng, khiến cho các hữu tình không thoát khỏi đường dưới cõi dưới.
Hướng Quả A-la-hán Bổ-đặc-già-la: Là dứt hẳn tám phẩm phiền não của hữu đảnh an trụ trong đạo rốt ráo kia.
Quả A-la-hán Bổ-đặc-già-la: Là dứt hẳn chín phẩm phiền não của hữu đảnh mà an trụ trong đạo rốt ráo kia.
Hỏi: Nếu A-la-hán dứt hẳn tất cả phiền não của ba cõi, vì sao chỉ nói dứt hẳn năm kiết thuận thượng phần thì đắc quả A-la-hán?
Đáp: Vì thuộc về tối thắng.
Hỏi: Thế nào là tối thắng?
Đáp: Vì năm kiết nầy là nhân của thủ thượng phần và nhân của bất xả thượng phần nên gọi là tối thắng. Vì sao? Vì ái thủ của cõi Sắc và cõi Vô Sắc từ cõi Dục sinh lên cõi Sắc, cõi Vô Sắc, do trạo cử, mạn và vô minh không xả sự sinh lên nầy nên lấy ái, mạn, nghi của Tĩnh lự trên đã gây hại của cõi sắc và Vô Sắc.
Cực thất phản hữu Bổ-đặc-già-la: Tức là Dự lưu, đối với cõi trời cõi người sinh tạp thọ qua lại đến tối đa bảy lần thì được hết mé khổ.
Gia gia Bổ-đặc-già-la: Tức là Dự lưu, hoặc ở cõi trời, hoặc trong cõi người, từ nhà đến nhà được dứt mé khổ.
Vì sao? Tức là quả Dự lưu tiến đến hướng nhất lai quả, hoặc ở cõi trời hoặc trong cõi người, chắc chắn qua lại thọ tối đa hai hữu (đời) mới nhập Niết-bàn.
Nhất gian Bổ-đặc-già-la: Tức là một lai, hoặc ở cõi trời chỉ thọ nhất hữu thì được dứt mé khổ. Vì sao? Tức là quả Nhất lai tiến đến quả hướng Bất hoàn, hoặc ở cõi trời chỉ thọ 1 hữu mà đắc Nhập Niết-bàn. Vì chỉ có một khe hở mà dung chứa một đời nên gọi là Nhất gián.
Trung nhập Niết-bàn Bổ-đặc-già-la: Là sinh kiết đã dứt còn khởi kiết thì chưa dứt, hoặc trung hữu vừa khởi thì Thánh đạo liền hiện tiền được dứt mé khổ; hoặc trung hữu khởi rồi, vì đến sinh hữu vừa khởi tư duy thì Thánh đạo hiện tiền được dứt mé khổ; hoặc tư duy đã phát hướng sinh hữu, chưa đến sinh hữu thì Thánh đạo liền hiện tiền được dứt mé khổ. Trong đây hiển bày ba thứ trung bát, do năng lực của phiền não trụ cõi xứ sinh khiến cho sinh hữu nối tiếp, đây là phiền não đã hết, chỉ do năng lực phiền não khiến cho sau khi qua đời thì các uẩn tiếp tục khởi, tùy miên nầy còn thừa chưa hết. Hoặc trung hữu vừa khởi là do năng lực tập quán Thánh đạo hiện tiền dứt các tùy miên còn sót, tức là tại vị nầy mà nhập Nhập Niết-bàn. Hoặc trung hữu sanh khởi rồi, vì vãng sinh hữu xứ vừa mới phát khởi tư duy thì Thánh đạo hiện tiền dứt tùy miên còn sót nhập Niết-bàn. Hoặc đã tư duy rồi vãng sinh hữu xứ, chưa đắc sinh hữu thì Thánh đạo hiện tiền, đoạn các tùy miên còn sót nhập Niết-bàn. Như vậy ba thứ so với xứ sinh hữu, thì vị chưa phát, vị vừa phát và vị đã phát đi xa sai khác mà lập ra, thuận theo với kinh Thất Thiện Trượng Phu Thú.
Sinh Nhập Niết-bàn Bổ-đặc-già-la: Là hai kiết đều chưa dứt, chỉ vừa mới sinh cõi Sắc rồi thì Thánh đạo liền hiện tiền, được dứt mé khổ.
Vô hành Nhập Niết-bàn Bổ-đặc-già-la: Là sinh cõi Sắc kia rồi thì không do gia hạnh mà Thánh đạo hiện tiền được dứt mé khổ. Không do gia hạnh, là do năng lực của tập quán đời trước, mà Thánh đạo vô lậu tùy ý hiện tiền, vì vô công dụng.
Hữu hành Nhập Niết-bàn Bổ-đặc-già-la: Là sinh cõi Sắc kia rồi thì do gia hạnh mà Thánh đạo hiện tiền được dứt mé khổ. Do gia hạnh nên, trái với vô hành trên.
Thượng lưu Bổ-đặc-già-la: Là trong các địa của cõi Sắc đều đã thọ sinh rồi, cho đến sau rốt nhập sắc rốt ráo, đối với Thánh đạo vô lậu kia hiện tiền thì được dứt mé khổ. Lại có trường hợp đến hữu đảnh thì Thánh đạo hiện tiền được dứt mé khổ. Trong đây hiển bày hai thứ thượng lưu: 1. Cực chí sắc rốt ráo; 2. Cực chí hữu đảnh. Rốt ráo, là Bổ-đặc-già-la đa ái vị, do nhiều đời khởi nhuyến tĩnh lự, trung tĩnh lự… Ái vị sai khác, nên bắt đầu từ trời phạm chúng cho đến sắc trời Cứu cánh, đối với tất cả xứ đều thứ lớp thọ một đời, cho đến sau rốt nhập sắc rốt ráo đắc nhập Niết-bàn. Cực chí hữu đảnh, là không tạp tu tĩnh lự thứ tư, chỉ lánh nơi tịnh cư, như trước thứ lớp sinh tất cả xứ cho đến Hữu đảnh mới Nhập Niết-bàn.
Lại nữa, tạp tu tĩnh lự thứ tư có năm phẩm sai khác:
1. Hạ phẩm tu.
2. Trung phẩm tu.
3. Thượng phẩm tu.
4. Thượng thắng phẩm tu.
5. Thượng cực phẩm tu.
Vì năm phẩm tạp tu tĩnh lự thứ tư nầy như thứ lớp của nó mà sinh năm tịnh cư.
A-la-hán Thoái pháp: Là tánh độn căn, hoặc du tán hoặc bất du tán, hoặc tư duy hoặc bất tư duy, đều có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ. Tư duy, là muốn hại tự thân. Bất tư duy, là không muốn hại tự thân. Thoái hiện pháp lạc trụ, là thoái lui định của các Tĩnh lự thế gian.
A-la-hán Tư pháp: Là tánh độn căn, hoặc du tán hoặc bất du tán, hoặc bất tư duy, liền có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ, nếu tư duy rồi có thể không thoái thất.
A-la-hán Hộ pháp: Là tánh độn căn, hoặc du tán thì liền có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ. Nếu không du tán thì liền có thể không thoái thất.
Trụ bất động A-la-hán: Là tánh độn căn, hoặc du tán hoặc bất du tán đều có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ, cũng không thể luyện căn. Luyện căn, là chuyển hạ độn căn thành thượng lợi căn, nên pháp bất động không nói có thể luyện căn, vì tánh là căn cơ bén nhạy.
A-la-hán Kham đạt: Là tánh độn căn, hoặc du tán hoặc bất du tán đều có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ, có thể luyện căn được.
A-la-hán Bất động pháp: Là lợi căn tánh, hoặc du tán hoặc bất du tán đều có thể thoái thất hiện pháp lạc trụ.
Cõi Dục dị sinh Bổ-đặc-già-la: Là đối với cõi Dục hoặc sinh ra hoặc lớn lên, không được thánh pháp.
Cõi Dục Hữu học Bổ-đặc-già-la: Là đối với cõi Dục hoặc sinh ra hoặc lớn lên, đã đắc thánh pháp, nhưng cũng còn thừa kiết sử.
Cõi Dục Vô học Bổ-đặc-già-la: Là đối với cõi Dục hoặc sinh ra hoặc lớn lên, đã được thánh pháp, không còn thừa kiết sử. Như cõi Dục có ba thứ, như vậy cõi Sắc và cõi Vô Sắc đều có ba thứ, tùy theo tướng của nó mà biết.
Bồ-tát cõi Dục, cõi Sắc: Là cùng với diệt lìa cõi Vô Sắc sinh tĩnh lự tương ưng trụ lạc tĩnh lự mà sinh cõi Dục hoặc sinh cõi Sắc.
Hỏi: Vì sao Bồ-tát không sinh cõi Vô Sắc?
Đáp: Nếu Bồ-tát đã chứng đắc oai đức tối thắng, hễ thọ sinh thì đều là muốn tạo an vui lợi ích cho chúng sinh, vì cõi Vô Sắc không phải nơi thành thục chúng sinh. Diệt lìa cõi Vô Sắc sinh tĩnh lự, là có thể dứt trừ cõi Vô Sắc sinh tất cả thắng định. Trụ lạc tĩnh lự, là không thoái thất tĩnh lự, vì Bồ-tát nầy khéo léo hồi chuyển, vì muốn thành thục sự hóa độ hữu tình, nêu hoặc sinh cõi Dục hoặc sinh cõi Sắc.
Độc giác cõi Dục, là khi không có Phật ra đời, mà sinh vào cõi Dục, tự nhiên chứng đắc Bồ-đề Độc giác.
Như Lai Bất khả tư nghị, là ở cõi Dục bắt đầu hiển bày an trụ cung điện Diệu bảo ở tầng trời Đổ-sử-đa, thị hiện sở hành đại hạnh của tất cả các Phật Bồ-tát. Việc làm của tất cả Bồ-tát, là từ thị hiện ở tầng trời Đổ-sử-đa cho đến hiện đại thần biến hàng phục quân ma. Việc làm của các Phật, là từ thị hiện thành Đẳng Chánh Giác cho đến thị hiện Đại Nhập Niết-bàn.
Bồ-tát Thắng giải hạnh, là trụ trong địa thắng giải hạnh, thành tựu Hạ Trung Thượng Nhẫn của Bồ-tát, do chính an trụ chủng tánh Bồ-tát đó, bắt đầu từ lúc mới phát đại Bồ-đề nguyện cho đến chưa nhập địa cực hỷ, chưa đắc xuất thế chân thật nội chứng, gọi là Bồ-tát thắng giải hạnh.
Bồ-tát Tăng thượng ý lạc hạnh, là tất cả Bồ-tát trong mười địa, do đã chứng đắc xuất thế nội chứng ý lạc thanh tịnh.
Bồ-tát Hữu tướng hạnh, là tất cả Bồ-tát trụ trong địa Cực Hỷ, địa Ly Cấu, địa Phát Quang, địa Diễm Tuệ, địa Cực Nan Thắng, và địa Hiện Tiền, vì sáu địa nầy tuy không có hỷ lạc nhưng làm đã xen lẫn các tướng.
Bồ-tát Vô tướng hạnh, là tất cả Bồ-tát trụ trong địa viễn hành, vì nếu Bồ-tát nầy khởi tác dụng cho đến tùy dục lạc đó có thể khiến cho các tướng không hiện hành.
Bồ-tát Vô công dụng hạnh, là tất cả Bồ-tát trụ trong địa bất động, địa Thiện tuệ, và địa Pháp vân, vì Bồ-tát nầy đã được thuần thục trí Vô phân biệt.
Lại nữa, như nói dự lưu Bổ-đặc-già-la, ở đây có hai thứ:
1. Tiệm xuất ly.
2. Đốn xuất ly.
- Tiệm xuất ly, nói rộng như trước.
- Đốn xuất ly, là đã nhập đế hiện quán rồi, dựa vào định vị chí mà phát đạo xuất thế gian dứt ngay tất cả phiền não ba cõi, dứt riêng từng phẩm, chỉ lập hai quả, là quả Dự lưu và quả A-la-hán. Dứt riêng từng phẩm, là trước hết dứt ngay đã dứt thượng thượng phẩm tùy miên của tu đạo trong cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô Sắc, như vậy cho đến nhuyến nhuyến phẩm. Dứt ngay ba cõi, là như đã dứt của Kiến đạo, không giống như giới địa của đạo thế gian xoay vần dứt riêng từng phẩm.
Hỏi: Nghĩa nầy lấy gì làm chứng?
Đáp: Như kinh Chỉ Đoan nói: "Tất cả sắc cho đến thức, hoặc quá khứ hoặc vị lai hoặc hiện tại, nói rộng cho đến hoặc xa hoặc gần, cộng chung các thứ nầy lược làm một phần, một khối, một tích, một tụ, tóm lược như vậy rồi, phải quán tất cả đều là Vô thường, tất cả đều là khổ, cho đến nói rộng". Dựa vào quán như vậy chỉ có thể lập ra quả đầu tiên và quả cuối, do hai quả nầy như thứ lớp mà dứt hẳn tất cả phiền não trong ba cõi do Kiến đạo và tu đạo dứt, vì là sự hiển của vô dư. Không lập quả thứ hai và quả thứ ba, vì hai quả nầy đã là bậc kiến đế, chỉ có dứt do tu đạo cõi Dục dứt, vì là sự hiển của vô dư và hữu dư. Lại nữa, dựa vào bậc đốn xuất ly như vậy, Như Lai trong kinh phân biệt nói: "Quả Dự lưu vô gián tức là lập ra quả A-la-hán". Như vậy Bổ-đặc-già-la phần nhiều đối với hiện pháp hoặc khi lâm chung mới khéo làm xong thánh ý. Nếu không thể làm xong là do nguyện lực, tức là dùng nguyện lực để sinh lại cõi Dục, ra đời không có Phật tại thế thì thành thắng quả của Độc giác. "Nếu không thể làm xong", là chưa có thể lìa các dục không còn thừa. "Tức là dùng nguyện lực để sinh lại cõi Dục", là người kia có thể mau chóng chứng nhập Niết-bàn.
Lập ra hiện quán lược có mười thứ:
1. Pháp hiện quán.
2. Nghĩa hiện quán.
3. Chân hiện quán.
4. Hậu hiện quán.
5. Bảo hiện quán.
6. Bất hành hiện quán.
7. Rốt ráo hiện quán.
8. Thanh văn hiện quán.
9. Độc giác hiện quán.
10. Bồ-tát hiện quán.
- Pháp Hiện quán: Là trong các đế pháp tăng thượng đã đắc thượng phẩm thanh tín thắng giải tùy tín mà hành. Vì sao? Vì pháp của khế kinh… trong các đế tăng thượng do nghe âm thanh từ người khác mà tăng thượng duyên lực, đã đắc sự thuộc về thượng phẩm thanh tín thắng giải của sau rốt thuận phần giải thoát gốc lành nên nói là dùng pháp hiện quán để hiện quán các đế.
- Nghĩa Hiện quán: Tức là trong pháp của các đế tăng thượng, đối với đế sát pháp nhẫn của các đế cảnh, thì nhẫn nầy ở vào vị thuận phần quyết trạch. Vì sao? Vì ngay trong chỗ nói pháp như trên thì tác ý như lý, duyên Tăng thượng lực đối với khổ… cảnh của bốn đế đã đắc sự thuộc về thượng phẩm đế sát pháp nhẫn của thuận phần quyết trạch sau cùng. Đế sát pháp nhẫn nầy do ba thứ sự hiển phát tác ý như lý. Lại nữa, thành ba phẩm là thượng nhuyến, thượng trung, thượng thượng. Thượng nhuyến, là ngay nhuyến vị trong đời nầy. Thượng trung, là Đảnh vị và Nhẫn vị. Thượng thượng, là pháp Thế bậc nhất vị.
- Chân Hiện quán: Là đã đắc tất cả Thánh đạo trong mười sáu tâm sát-na vị của Kiến đạo. Lại cũng trong Kiến đạo mà đắc hiện quán bên an trụ đế, trí thế tục. Do trí xuất thế duyên năng lực Tăng thượng nuôi lớn hạt giống của trí thế tục kia, gọi là đắc trí thế tục nầy nhưng mà không hiện tiền, vì xen hở tâm sát-na của Kiến đạo không có gián đoạn, vì không dung chứa hiện khởi tâm thế gian, ở vị tu đạo thì trí thế tục nầy mới hiện tiền.
- Hậu Hiện quán: Là tất cả tu đạo, do tất cả đạo thế gian và đạo xuất thế gian sau Kiến đạo đều gọi là hậu hiện quán.
- Bảo hiện Quán: Là đối với Phật chứng tịnh, đối với pháp chứng tịnh, đối với tăng chứng tịnh, vì Thánh đệ tử của Phật đối với Tam bảo đã đắc chắc chắn chứng tín thanh tịnh, nói đức Bạc-già-phạm là bậc chân chánh đẳng giác, pháp Tỳ-nại-da là chân thiện diệu thuyết, Thánh đệ tử chúng là hành giả chân tịnh.
- Bất hành Hiện quán: Là đã chứng đắc luật nghi vô tác, tuy ở vào học vị nhưng nói: "Ta nay đã hết Địa ngục, Súc sinh, Ngạ quỷ, đã hết điên đảo đọa vào đường ác, ta không còn tạo nghiệp đường ác chiêu cảm Dị thục đường ác". Đã chứng đắc luật nghi vô tác, là đã chứng đắc thuộc giới Luật nghi mà bậc Thánh yêu mến. Do đắc luật nghi nầy, nên sự đối trị Dị thục địa ngục… không hiện hành lại nữa, vì địa ngục… đã hết hẳn không hiện hành, gọi là Bất hành Hiện quán.
- Rốt ráo Hiện quán: Như đã nói đạo rốt ráo trong đạo đế, là đã dứt tất cả thô nặng rồi, đắc tất cả đắc lìa hệ.-Thanh văn Hiện quán: Là đã nói bảy thứ hiện quán ở trước, vì nghe âm thanh của người khác mà chứng đắc, gọi là Thanh văn Hiện quán.
- Độc giác Hiện quán: Là đã nói bảy thứ hiện quán ở trước, không do âm thanh của người khác mà chứng đắc, gọi là Độc giác Hiện quán.
- Bồ-tát Hiện quán, là các Bồ-tát trong phần đã nói bảy thứ hiện quán ở trước, khởi tu tập nhẫn mà không khởi chứng, vì đắc khéo léo trong điều phục phương tiện của Thanh văn Độc giác mà thương xót chúng sinh, vì không đối với hạ thừa mà xuất ly, nhưng trong địa cực hỷ của Bồ-tát, nhập các chánh tánh chắc chắn của Bồtát, gọi là Bồ-tát hiện quán. Đã nói hiện quán, bây giờ sẽ nói sai khác.
Hỏi: Thanh văn hiện quán và Bồ-tát hiện quán có gì khác nhau?
Đáp: Nói lược có mười một thứ:
1. Cảnh giới sai khác.
2. Nhậm trì sai khác.
3. Thông đạt sai khác.
4. Thệ nguyện sai khác.
5. Xuất ly sai khác.
6. Nhiếp thọ sai khác.
7. Lập ra sai khác.
8. Quyến thuộc sai khác.
9. Thắng sinh sai khác.
10. Sinh sai khác.
11. Quả sai khác.
- Cảnh giới sai khác: Là duyên Đại thừa phương quảng làm cảnh.
- Nhậm trì sai khác: Là mãn đại kiếp a-tăng-xí-da, tư lương phước trí tròn đầy.
- Thông đạt sai khác: Là do pháp Bổ-đặc-già-la lìa vô ngã pháp tăng thượng, phương tiện dắt dẫn trí xuất thế gian, vì đều thông đạt hai vô ngã.
- Thệ nguyện sai khác: Là có thể thông đạt tất cả hữu tình bình đẳng với mình, cũng như tự thân thệ nguyện thâu nhiếp lợi ích.
- Xuất ly sai khác: Là dựa vào mười địa mà xuất ly.
- Nhiếp thọ sai khác: Là thuộc về Niết bàn vô trụ.
- Lập ra sai khác: Là khéo tu trị tịnh độ của chư Phật.
- Quyến thuộc sai khác: Là nhiếp thọ tất cả chúng sinh đã giáo hóa làm quyến thuộc.
- Thắng sinh sai khác: Là như người thế gian có mang trong bụng, họ kế tục chủng tộc của người cha không dứt tuyệt, như vậy Bồ-tát tiếp nối hưng thịnh Phật chủng khiến cho không dứt tuyệt, đó là tướng Phật tử.
- Sinh sai khác: Là trong hội đại tập của Như Lai.
- Quả sai khác lại có mười thứ:
a. Chuyển y sai khác.
b. Công đức tròn đầy sai khác.
c. Năm tướng sai khác.
d. Ba thân sai khác.
e. Niết-bàn sai khác.
f. Chứng đắc hòa hợp trí dụng sai khác.
g. Chứng thanh tịnh sai khác.
h. Hòa hợp tác nghiệp sai khác.
k. Phương tiện thị hiện thành đẳng chánh giác nhập Nhập Niết-bàn sai khác.
l. Năm thứ cứu giúp sai khác.
- Chuyển y sai khác: Là chỗ nương thô nặng của Nhất thiết chủng của nhiễm và bất nhiễm dứt hẳn, chỗ nương của tất cả công đức vô thượng dứt hẳn chuyển.
- Công đức tròn đầy sai khác: Là lực, Vô sở úy, pháp Phật bất cộng… vô biên công đức dứt hẳn thành mãn.
- Năm tướng sai khác: Là thanh tịnh… nơi năm tướng sai khác: a. Thanh tịnh sai khác, là dứt hẳn tất cả phiền não gồm cả tập khí. b. Viên tịnh sai khác, là khắp tu trị tịnh độ của Phật. c. Thân sai khác, là Pháp thân tròn đầy. d. Thọ dụng sai khác, là tất cả thời và xứ hội đại tập cùng với các Bồ-tát thọ dụng vô số đại pháp lạc. e. Nghiệp sai khác, là tùy sự thích ứng của nó mà khởi các thứ biến hóa, khắp trong mười phương vô lượng vô biên thế giới làm các Phật sự.
- Ba thân sai khác: Là chứng đắc tròn đầy thân tự tánh, thân thọ dụng và thân biến hóa.
- Niết-bàn sai khác: Là đối với Niết-bàn giới vô dư, vì muốn lợi lạc tất cả hữu tình, tất cả công đức không bị đoạn dứt.
- Chứng đắc hòa hợp trí dụng sai khác: Là chứng đắc tối cực thanh tịnh pháp giới nhất vị, đối với pháp giới nhất vị kia có thể nương vào Nhất thiết chủng diệu trí dụng, công năng của mỗi một Phật bằng với công năng của tất cả các Đức Phật.
Chướng thanh tịnh sai khác: Là dứt hẳn tất cả phiền não chướng và sở tri chướng.
- Hòa hợp tác nghiệp sai khác: Là tác dụng hóa độ dẫn dắt mỗi một hữu tình, đều là lực tăng thượng của tất cả các Phật.
- Phương tiện thị hiện thành đẳng chánh giác nhập Niết-bàn sai khác: Là đối với tất cả thế giới trong mười phương, tùy sự thích ứng của nó cho đến mé sau thường thị hiện thành chánh giác, khiến cho tất cả chúng sinh hóa độ được thành thục giải thoát.
- Năm thứ cứu giúp sai khác: Là cứu giúp năm việc như tai họa ngang trái, v.v… a. Cứu giúp tai hoa ngang trái, là khi Như Lai đi vào thành ấp… khiến cho người mù, người điếc… được mắt được tai… b. Cứu giúp phi phương tiện: Là khiến cho đắc chánh kiến thế gian, xa lìa tất cả kiến chấp tà ác. c. Cứu giúp đường ác, là khiến cho sinh Kiến đạo vượt qua các đường ác. d. Cứu giúp tát-ca-da, là khiến cho chứng quả A-la-hán thoát hẳn ba cõi. e. Cứu giúp thừa, là khiến cho các Bồ-tát không ưa thích hạ thừa.
Hỏi: Như kinh nói: "Công đức tối thắng của bốn vô lượng…" là thuộc về hiện quán nào?
Đáp: Là thuộc về hậu hiện quán và rốt ráo hiện quán. Vì sao? Vì tối thắng công đức như vậy, các Thánh đệ tử hoặc đối với sự phát khởi của tu đạo hoặc đạo rốt ráo, nên thuộc về hai hiện quán.
Hỏi: Hiện quán kia thế nào gọi là 1. Vô lượng. 2. Giải thoát. 3. Thắng xứ. 4. Biến xứ. 5. Vô tránh. 6. Nguyện trí. 7. Vô ngại giải. 8. Thần thông. 9. Tướng tùy hảo. 10. thanh tịnh. 11. Lực. 12. Vô úy. 13. Niệm trụ. 14.
Bất hộ. 15. Pháp không quên mất. 16. Vĩnh đoạn tập khí. 17. Đại bi. 18. Mười tám pháp bất cộng của Phật. 19. Nhất thiết chủng diệu trí. Các công đức như vậy Như Lai trong các kinh là nói theo Thanh văn thừa hay nói theo Đại thừa mà nói?
Đáp: Những công đức nầy tùy sự thích ứng của nó, lược lấy năm môn là chỗ nương, cảnh giới, hành tướng, tự thể và trợ giúp để hiển bày tướng của nó.
-Vô lượng, là bốn vô lượng: 1. Từ vô lượng. 2. Bi vô lượng. 3. Hỷ vô lượng. 4. Xả vô lượng.
Hỏi: Từ là gì?
Đáp: Là nương vào Tĩnh lự đối với các hữu tình ban cho lạc tương ưng ý lạc, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ và cụ túc kia tương ưng các tâm tâm pháp. Trong đây là nói Từ vô lượng, lấy Tĩnh lự làm chỗ nương, hữu tình làm cảnh giới, nguyện hữu tình và cảnh giới kia tương ưng với lạc làm hành tướng, định tuệ làm tự thể. Tất cả công đức đều thuộc về Xa-ma-tha và Tỳ-bát-xá-na, các tâm tâm pháp làm trợ giúp, phải biết tất cả công đức của bi… tùy sự thích ứng của nó cũng vậy.
Hỏi: Bi là gì?
Đáp: Là đối với các hữu tình khởi ý lạc lìa khổ, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ và cụ túc kia tương ưng các tâm tâm pháp, lấy chỗ nương và tự thể làm trợ giúp, tương tự với từ.
Hỏi: Hỷ là gì?
Đáp: Là đối với các hữu tình không lìa lạc ý lạc, trụ trong cụ túc hoặc định hoặc tuệ và cụ túc kia tương ưng các tâm tâm pháp.
Hỏi: xả là gì?
Đáp: Là nương vào Tĩnh lự, đối với các hữu tình khởi ý lạc lợi ích, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ và cụ túc kia tương ưng các tâm tâm pháp. Ý lạc lợi ích, đối với sự ban cho lạc tương ưng là đồng với chỗ từ bỏ ái… của hữu tình, nghĩ rằng: "Phải khiến cho hữu tình kia giải thoát phiền não", như vậy ý lạc, gọi là hành tướng của xả. Ý lạc lợi ích với hành tướng tròn đầy, gọi là trụ cụ túc.
-Giải thoát, là tám giải thoát, nói rộng như trong kinh.
Hỏi: Thế nào là quán hữu sắc các sắc giải thoát?
Đáp: Là nương vào tĩnh lự, bên trong chưa điều phục sắc tưởng của kiến giả, hoặc hiện an lập sắc tưởng của kiến giả, quán sắc đã thấy, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ và cụ túc kia tương ưng các tâm tâm pháp, cho đến làm chướng giải thoát biến hóa. Hữu sắc, là đối với nội thân chưa dựa vào định Vô Sắc để phục trừ sắc tưởng của kiến giả, hoặc sắc tưởng của kiến giả an lập hiện tiền. Quán các sắc, là dùng ý giải để quán sát thấy các sắc tốt xấu… giải thoát, là có thể giải thoát tất cả chướng biến hóa.
Hỏi: Thế nào là quán nội Vô Sắc tưởng ngoại các sắc giải thoát?
Đáp: Là bên trong đã điều phục sắc tưởng của kiến giả, hoặc hiện an lập vô sắc tưởng kiến giả, quán chỗ thấy sắc, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ. Còn lại như trước đã nói. Nội thân đã nương vào Vô Sắc để phục trừ sắc tưởng của kiến giả, hoặc Vô Sắc tưởng của kiến giả an lập hiện tiền, là kiến giả danh tưởng hiện ở trước. Còn lại như trước đã nói.
Hỏi: Thế nào là tịnh giải thoát thân tác chứng cụ túc trụ?
Đáp: Là bên trong các sắc tịnh và sắc bất tịnh đã được tưởng xoay vần cùng đối đãi, xoay vần tưởng tương nhập và xoay vần tưởng nhất vị, trong tịnh giải thoát kia đã đắc cụ túc, hoặc định hoặc tuệ như trước đã nói, cho đến làm giải thoát tịnh và bất tịnh biến hóa phiền não sinh khởi chướng. Trong đây hiển bày các sắc tịnh, bất tịnh dựa vào tưởng xoay vần cùng đối đãi, xoay vần là tưởng tương nhập và xoay vần tưởng nhất vị. Vì sao? Vì chờ các sắc tịnh trong các sắc khác là bất tịnh, chờ sắc bất tịnh trong các sắc khác là thanh tịnh, chẳng phải không cùng đối đãi nhau. Vì sao? Vì khi chỉ thấy một loại thì tịnh bất tịnh có cảm giác là không có. Lại, trong tịnh là sự tùy nhập của tánh bất tịnh, trong bất tịnh là chỗ tùy nhập của tánh tịnh. Vì sao? Như bị che lấp dưới làn da mỏng thì gọi chung là tịnh, nhưng trong đó hiện có ba mươi sáu vật bất tịnh như tóc, lông… như vậy xoay vần tất cả sắc hợp thành tưởng nhất vị thanh tịnh, đã hiểu như vậy rồi thì đắc tùy sở lạc sắc. Người giải thoát tự tại có thể dứt chướng biến hóa của sắc tịnh, sắc bất tịnh và phiền não sinh khởi chướng trong đây.
Hỏi: Những gì gọi là phiền não biến hóa?
Đáp: Là đối với sắc tịnh biến hóa công dụng gia hạnh trái với sắc bất tịnh biến hóa.
Hỏi: Thế nào là vô biên hư không xứ giải thoát?
Đáp: Là đối với thuận theo giải thoát vô biên hư không xứ, trụ trong cụ túc, hoặc định hoặc tuệ như trước đã nói. Như vô biên hư không xứ giải thoát, Vô biên thức xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát cũng vậy, cho đến làm giải thoát vắng lặng, giải thoát gia hạnh không dính mắc chướng, bốn thứ như vậy nếu là đã đắc của Thánh đệ tử, có thể thuận Vô lậu, tánh thanh tịnh đó mới gọi là giải thoát, vì giải thoát ái vị. Vắng lặng Giải thoát, là siêu cõi Sắc và cõi Vô Sắc, trong đó thanh tịnh gọi là không dính mắc, vị đắm nhiễm Vô Sắc là chướng này.
Hỏi: Thế nào là tưởng thọ diệt giải thoát?
Đáp: Là dựa vào Phi tưởng Phi phi tưởng xứ giải thoát mà vượt qua các Tĩnh lự giải thoát khác, trụ trong tâm tâm pháp diệt tự chân giải thoát cụ túc trụ, để giải thoát chướng tưởng thọ diệt. Đây là hiển tưởng thọ diệt giải thoát, dùng Phi tưởng Phi phi tưởng xứ làm chỗ nương, không có cảnh giới hành tướng làm trợ giúp vì tâm tâm pháp không có, tâm tâm pháp diệt làm tự thể. Lại nữa, giải thoát nầy là tương tự chân giải thoát, tròn đầy làm tánh, vì Thánh đệ tử do đạo xuất thế gian mà đắc chuyển y, thì các tâm tâm pháp nầy tạm thời không hiện khởi, vì trong vị nầy rất vắng lặng, ý nhiễm ô không hiện hành.
Tám giải thoát nầy cũng gọi là Thánh trụ, vì là chỗ trụ của các Thánh, nhưng các bậc Thánh phần nhiều nương vào hai thứ mà trụ, vì cho rằng thứ ba và thứ tám là giải thoát tối thắng, nên trong kinh đối với hai giải thoát nầy nói: "Thân khởi chứng cụ túc trụ" không phải các thứ giải thoát khác, mà là hai thứ nầy, như thứ lớp, giải thoát hữu sắc và giải thoát Vô Sắc, các chướng dứt không sót, vì chứng chuyển y tròn đầy, nên gọi là tối thắng.
-Thắng xứ, là tám thắng xứ, nói rộng như trong kinh. Bốn thắng xứ trước do sự lập ra của hai thứ giải thoát. Bốn thắng xứ sau thì do một giải thoát lập ra, vì từ giải thoát kia mà lưu xuất. Vì sao? Vì nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc thiểu, hoặc tốt hoặc xấu hoặc kém hoặc hơn, đối với các sắc kia thấy biết thù thắng, đắc tưởng như thật, là Thắng xứ bậc nhất.
Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều, hoặc tốt hoặc xấu, nói rộng cho đến đắc như thật tưởng, là Thắng xứ thứ hai.
Hai thắng xứ nầy lưu xuất từ hữu sắc quán các sắc giải thoát. Nội Vô Sắc tưởng quán ngoại Vô Sắc ít, nói rộng cho đến đắc như thật tưởng, là thắng xứ thứ ba.
Nội Vô Sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều, nói rộng cho đến đắc như thật tưởng là Thắng xứ thứ tư.
Sự lưu xuất của hai thắng xứ nầy từ nội Vô Sắc tưởng quán ngoại các sắc giải thoát, nên bốn thắng xứ trước là do sự lập ra của hai giải thoát. Nội Vô Sắc tưởng quán ngoại các sắc, hoặc màu sanh sanh thì hiển sắc sanh và hiện ánh sáng sanh, giống như hoa Ô-mạc-ca, hoặc như Bà-la-ni-tư nhuộm áo màu sanh đậm, hoặc màu sanh sanh thì hiển sắc sanh và hiện ánh sáng sanh, như vậy nội Vô Sắc tưởng quán ngoại các sắc, hoặc màu sanh cho đến ánh sáng sanh cũng vậy. Đối với các sắc kia thấy biết thù thắng thì đắc tưởng như thật, là Thắng xứ thứ năm.
Tưởng nội Vô Sắc quán ngoại các sắc, hoặc màu vàng cho đến ánh sáng vàng, giống như hoa Yết-ni-ca, hoặc như Bà-la-ni-tư nhuộm áo màu vàng đậm, hoặc màu vàng nói rộng cho đến đắc tưởng như thật, là Thắng xứ thứ sáu.
Tưởng nội Vô Sắc quán ngoại các sắc, hoặc màu đỏ cho đến ánh sáng đỏ, cũng như hoa Ban-đậu-thời-phượcca, hoặc như Bà-la-ni-tư nhuộm áo màu đỏ đậm, hoặc đỏ nói rộng cho đến đắc tưởng như thật, là Thắng xứ thứ bảy.
Tưởng nội Vô Sắc quán ngoại các sắc, hoặc màu trắng trắng thì hiển trắng và hiện ánh sáng trắng, giống như màu sao Ô-sa-tư, hoặc như bà-la-ni-tư nhuộm áo màu trắng tinh, hoặc màu trắng trắng thì hiển trắng và hiện ánh sáng trắng, như vậy tưởng nội Vô Sắc quán ngoại các sắc, hoặc màu trắng trắng thì hiển trắng và hiện ánh sáng trắng cũng vậy. Đối với các sắc kia thấy biết thù thắng, thì đắc tưởng như thật, là thắng xứ thứ tám. Như vậy bốn thắng xứ từ tịnh giải thoát thân, là chỗ lưu xuất của tác chứng cụ túc trụ.
Trong đây, giải thoát là ý lãnh hội sở duyên. Thắng xứ là khéo điều phục sở duyên. Cảnh nhiều ít… là tùy ý tự tại, hoặc khiến cho ẩn mất, hoặc tùy theo dục mà chuyển. Nên ít sắc, là sắc của hữu tình số, vì lượng của nó nhỏ, nên nhiều sắc, là sắc của phi số hữu tình, như nhà, rừng, đất, núi… vì lượng của nó lớn. Sắc tốt sắc xấu, là thuộc về sắc tịnh và sắc bất tịnh. Sắc kém sắc hơn, hoặc người hoặc trời, tùy thứ lớp của nó. Người đối với các sắc kia tốt đẹp là tự tại chuyển. Biết (tri), là do đạo Xa-ma-tha, thấy (kiến) là do đạo Tỳ-bát-xá-na. Đắc tưởng như thật, là trong đã thắng và chưa thắng mà đắc vô tưởng tăng thượng mạn. "Hoặc sanh", là câu chung. "Hiển sanh", là sanh câu sinh (màu sanh sinh đồng thời). "Hiện sanh", là sanh hòa hợp. "Ánh sáng sanh", là hiển sanh và hiện sanh kia phát ra ánh sáng sanh trong sạch. Như sanh, vàng đỏ trắng cũng vậy. Trong một nơi mà nói hai thí dụ là để hiển hai hiển sắc câu sinh và hòa hợp, là nếu màu sanh thì nêu chung hoa và y (áo) hai vật màu sanh, hiển sanh, là nói theo hoa sanh, vì câu sinh. Hiện sanh, là dựa vào y sanh mà nói, vì có hòa hợp mới thành. Ánh sáng sanh, là nói theo hai thứ, vì hai thứ kia đồng thời có ánh sáng tươi sạch. Như vậy trong hai thí dụ "Hoặc màu sanh sanh thì hiển…", là câu chung giải thích câu như tướng phải biết. Như sanh, vàng đỏ trắng cũng vậy. Còn lại như trong giải thoát có nói.
Hỏi: Thế nào là còn lại?
Đáp: Là tưởng nội hữu sắc quán ngoại sắc tưởng… như hữu sắc quán các sắc… tùy theo tướng mà giải thích. Đã nói cảnh giới thắng xứ, thắng sở duyên của thắng xứ.
-Biến xứ: Là trong biến mãn trụ cụ túc, hoặc Định hoặc Tuệ và Cụ túc kia tương ưng tâm tâm pháp, gọi là Biến xứ. Biến mãn, là lượng của nó rộng lớn cùng khắp vô biên. Cùng khắp lại có mười thứ: 1. Địa.
2. Thủy. 3. Hoả. 4. Phong. 5. Sanh. 6. Vàng. 7. Đỏ. 8. Trắng. 9. Vô biên không xứ. 10. Vô biên thức xứ. Đều là cùng khắp.
Hỏi: Vì sao đối với biến xứ mà lập ra địa, thủy…?
Đáp: Vì biến xứ nầy quán sắc của sở y, năng y đều là đầy khắp, nếu trong đây không lập ra địa thủy… thì biến xứ liền lìa chỗ nương là đại chủng, cũng không thể quán sự tạo sắc của sanh vàng… làm tướng đầy khắp, do đó để quán sở y, năng y đều là đầy khắp mà lập ra địa thủy… ngoài ra tùy sự thích ứng mà nói như trong giải thoát, là Vô biên không xứ v.v…
Phải biết trong đây nương vào giải thoát mà tu tạo, do thắng xứ nên khởi phương tiện, do biến xứ mà thành mãn, tức là đối với giải thoát được rốt ráo.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
- Vô tránh: Là nương vào tĩnh lự trong ngăn ngừa sự khởi phiền não của người khác mà trụ cụ túc, hoặc định hoặc tuệ và phiền não kia tương ưng các tâm tâm pháp. Vì sao? Vì người trụ vô tránh hoặc muốn đến chỗ nên thấy của tất cả hữu tình, trước hết tại nơi mình ở, dùng nguyện trí lực quán hữu tình kia: "Đối với thân ta trong vị lai hiện hành ở trước hay không"? Quán như vậy rồi, nếu biết sự đang khởi phiền não ái, sân, san, tật… đối với ta, thì liền không đến, nếu phiền não không đang khởi thì đến nơi đó để có thể che chở phiền não tranh chấp của người kia khiến cho không khởi, nên gọi là Vô tránh.
- Nguyện trí: Là dựa vào Tĩnh lự trong sự biết rõ nguyện sở tri đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ như trước đã nói. Vì sao? Vì người đắc nguyện trí vì muốn biết rõ những sự đáng biết trong ba đời, trước hết đối với các sự kia phát tâm chánh nguyện, nguyện ta như thật biết rõ như vậy như vậy, kế là nhập Tĩnh lự tăng thượng, từ Tĩnh lự kia phát khởi rồi, thì điều nguyện thành mãn, là có thể biết rõ điều nên biết.
- Vô ngại giải: Là bốn vô ngại:
1. Pháp vô ngại giải.
2. Nghĩa vô ngại giải.
3. Huấn từ vô ngại giải.
4. Biện tài vô ngại giải.
+ Pháp vô ngại giải: Là nương vào Tĩnh lự, đối với tất cả pháp danh sai khác, đầy đủ vô ngại, hoặc định hoặc tuệ và còn ra như đã nói ở trước gọi là sai khác, là dựa vào vô minh… trong vô trí vô kiến không hiện quán gọi bình đẳng và sai khác. Vô ngại đầy đủ hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng, gọi là Pháp vô ngại giải.
+ Nghĩa vô ngại giải: Là trong các tướng và ý thú, vô ngại đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ như trước đã nói. Tướng, là tự tướng và cộng tướng của các pháp. Ý hướng, là biệt nghĩa… hoặc trong đây thông đạt vô ngại đầy đủ, gọi là nghĩa vô ngại giải.
+ Huấn từ vô ngại giải: Là trong ngôn âm của các địa phương và ngôn từ của các pháp, vô ngại đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Ngôn âm của các phương, là vô lượng quốc ấp đều tùy tự tưởng sanh khởi các thứ ngôn âm sai khác để huấn thích các pháp. Ngôn từ, là có thể bị hủy hoại nên gọi là thế gian, có thể biến hoại nên gọi là sắc, nếu trong đó thông đạt vô ngại, thì gọi là huấn từ vô ngại.
+ Biện tài vô ngại giải: Là trong các pháp sai khác, vô ngại đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ ngoài ra như trước nói. Các pháp sai khác, là hữu thật, hữu giả, hữu thế tục, hữu thắng nghĩa… nếu trong đó thông đạt vô ngại, thì gọi là biện tài vô ngại
-Thần thông, là sáu thần thông:
1. Thần cảnh thông.
2. Thiên nhĩ thông.
3. Tâm sai khác thông.
4. Túc trụ tùy niệm thông.
5. Tử sinh thông.
6. Lậu tận thông.
+ Thần cảnh thông: Là nương vào Tĩnh lự đối với các thứ thần biến, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và sự đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Các thứ thần biến oai đức đầy đủ, là biến một thành nhiều… các thứ thần biến tự tại đầy đủ.
+ Thiên nhĩ thông: Là nương vào Tĩnh lự trong tùy nghe các thứ âm thanh, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Các thứ thanh, là tiếng nói của người, trời v.v…
+ Tâm sai khác thông: Là nương vào Tĩnh lự trong nhập tha hữu tình tâm hạnh sai khác, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Nhập tha hữu tình tâm hạnh sai khác, là như thật biết tâm hạnh sai khác của hữu tham…
+ Túc trụ tùy niệm thông: Là nương vào Tĩnh lự trong việc làm của tùy niệm mé trước, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Việc làm của tùy niệm, là tùy theo niệm quá khứ sinh danh tự, chủng tộc… xoay vần có các sự sai khác.
+ Tử sinh thông: Là nương vào Tĩnh lự trong quán hữu tình tử sinh sai khác, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói.
Quán các hữu tình tử sinh sai khác, là dùng thiên nhãn quán các hữu tình khi tử khi sinh, sắc tốt sắc xấu, phải đến đường thiện hay phải đến đường ác, gọi là mé sau sai khác.
+ Lậu tận thông: Là nương vào Tĩnh lự trong trí lậu tận, oai đức đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Trí lậu tận, là vì trí nầy thông đạt tất cả phương tiện lậu tận và các lậu tận. Oai đức đầy đủ, là trí nầy đã được thành mãn.
- Tướng tùy hảo: Là nương vào Tĩnh lự trong chỗ nương của tướng tùy hảo trang nghiêm thị hiện đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp, đều là chỗ khởi quả Dị thục của sự đầy đủ kia. Vì sao? Là vì Phật Thế Tôn do năng lực định tuệ tăng thượng, vì muốn hóa độ các hữu tình nên thi hiện ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi tướng tùy hảo trang nghiêm sắc thân, nhưng Phật Thế Tôn không phải tự thể trang nghiêm, vì đó là sự hiển của Pháp thân. Nếu các Bồ-tát có thể hiển bày như vậy, thì phải biết định tuệ làm tự tánh của Bồ-tát. Nếu điều khác trong hội đại tập mà sinh, thì dùng sự khởi quả Dị thục kia làm tự tánh.
- Thanh tịnh, là bốn thanh tịnh:
1. Chỗ nương thanh tịnh.
2. Cảnh giới thanh tịnh.
3. Tâm thanh tịnh.
4. Trí thanh tịnh.
Bốn thứ như vậy là nhất thiết tướng thanh tịnh, chỉ là đại thần thông mà Phật Thế Tôn và Đại Bồ-tát đã được.
+ Chỗ nương thanh tịnh: Là nương vào Tĩnh lự tùy sự mong muốn nương tựa nhiếp lấy trụ, xả đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Giữ lấy trụ xả đầy đủ, là tùy sự muốn sinh thì liền có thể chấp lấy. Đã sinh cõi kia rồi thì tùy theo ý muốn, phần lượng của tuổi thọ, có thể giữ lại. Nếu muốn xả tuổi thọ thì liền có thể xả, như thứ lớp mà ba thứ đầy đủ.
+ Cảnh giới thanh tịnh: Là tùy ý muốn cảnh giới trí biến hóa đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng. Trí biến hóa đầy đủ, là trước không có sắc nay có sắc gọi là hóa chuyển, trước đã sinh sắc… khiến thành vàng, bạc… gọi là biến. Giác ngộ tất cả thứ cảnh tướng sai khác gọi là trí. Như thứ lớp mà ba thứ đầy đủ.
+ Tâm thanh tịnh: Là như ý muốn mà môn Tam-mađịa tự tại đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và ý đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Do tùy theo sự muốn mà từng sát-na có thể nhập vô lượng Tam-ma-địa sai khác.
+ Trí thanh tịnh: Là nương vào Tĩnh lự tùy sự mong muốn mà môn đà-la-ni chấp thọ đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và sự đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Môn Đà-la-ni chấp thọ đầy đủ, là trong bốn mươi hai tự mẫu hễ tư duy bất cứ một tự mẫu nào, lấy tự mẫu nầy làm đầu thì có thể chứng đắc tất cả pháp danh ngôn khéo léo khác nhau.
-Lực: Là mười lực của như lai:
1. Xứ phi xứ trí lực.
2. Tự nghiệp trí lực.
3. Tĩnh lự giải thoát Tam-ma-địa Tam-ma-bát-để trí lực.
4. Căn thượng hạ trí lực.
5. Chủng chủng thắng giải trí lực.
6. Chủng chủng giới trí lực.
7. Biến thú hành trí lực.
8. Túc trụ tùy niệm trí lực.
9. Tử sinh trí lực.
10. Lậu tận trí lực.
+ Xứ phi xứ trí lực: Là nương vào Tĩnh lự trong tất cả thứ xứ phi xứ trí đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và sự đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Tất cả thứ xứ phi xứ trí đầy đủ, là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ trí nhân phi nhân, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Tự nghiệp trí lực: Là trong tất cả thứ lớp nghiệp trí đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Vì tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ lớp nghiệp trí, hiện hành không chấp, không ngại, như vậy các lực khác tùy sự thích ứng của nó mà phải chánh lập ra làm thế nào cho tùy sự thích ứng của nó!
+ Tĩnh lự giải thoát Tam-ma-địa Tam-ma-bát-để trí lực: Là trong tất cả thứ tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí trí đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Do tất cả Tam-ma-địa trong trong tất cả thứ tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí trí, hiện hành không chấp, vô ngại làm thể.
+ Căn thượng hạ trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ căn thượng hạ trí, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Chủng chủng thắng giải trí lực: Là tất cả Tam-mađịa… trong tất cả thứ sai khác, trí thắng giải, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Chủng chủng giới trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ sai khác giới trí, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Biến thú hạnh trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ biến thú hành trí, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Túc trụ tùy niệm trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ trí túc trụ tùy niệm, hiện hành không chấp, không ngại.
+ Tử sinh trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ trí tử sinh, không chấp, không ngại hiện hành.
+ Lậu tận trí lực: Là tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thứ tận trí, hiện hành không chấp, không ngại.
-Vô úy, là 4 vô úy:
1. Chánh đẳng giác vô úy.
2. Lậu tận vô úy.
3. Chướng pháp vô úy.
4. Xuất khổ đạo vô úy.
+ Chánh đẳng giác vô úy: Là nương vào Tĩnh lự do môn tự lợi, trong tất cả cảnh giới đã biết, chánh đẳng giác, tự xưng đức hiệu, lập ra đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và sự đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp. Như kinh nói: "Ta là bậc chánh giác. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn ở thế gian, hoặc thiên ma, phạm chí nào, dựa vào pháp lập vấn nạn, hoặc khiến nhớ nghĩ nói: Pháp đó là phi chánh đẳng giác! Ta đối với việc đó thường chánh kiến không duyên, vì đối với việc đó chánh kiến không lý do, nên đắc an ổn trụ không kinh không sợ, tự xưng ta ở vị bậc Đại tiên, trong đại chúng, chánh là sư tử gầm chuyển đại phạm luân, tất cả Sa-môn, Bà-la-môn thế gian hoặc thiên ma không thể chuyển".
+ Lậu tận vô úy: Là nương vào Tĩnh lự do môn tự lợi, trong tất cả thứ lậu tận, tự xưng đức hiệu, lập ra đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Như kinh nói: "Ta, các lậu đã dứt hẳn như thế…" nói rộng như trước.
+ Chướng pháp vô úy: Là nương vào Tĩnh lự do lợi tha môn, trong tất cả thứ thuyết chướng ngại pháp, tự xưng đức hiệu, lập ra đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Như kinh nói: "Lại nữa, ta vì các đệ tử nói pháp chướng ngại, nhiễm thì bị chướng…" Cho đến nói rộng.
+ Xuất khổ đạo vô úy: Là nương vào tĩnh lự, do môn lợi tha, trong tất cả thứ nói xuất ly đạo pháp, tự xưng đức hiệu, lập ra đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ còn lại như trước đã nói. Như kinh nói: "Lại, ta vì các đệ tử nói đạo xuất ly, các thánh tu tập chắc chắn xuất ly, chắc chắn thông đạt. Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn thế gian hoặc thiên ma phạm chí, dựa vào pháp ấy lập vấn nạn, hoặc làm cho nhớ lại rằng: Tu đạo nầy chẳng phải chánh xuất ly, không chánh hết khổ và chứng khổ biên! Ta đối với việc đó, thường chánh kiến vô duyên…" Cho đến nói rộng. Như vậy bốn vô úy nói lược có hai loại là tự lợi và lợi tha, hai loại trước là tự lợi, vì trí đoạn sai khác, hai loại sau là lợi tha, vì xa lìa pháp được đối trị, tu tập pháp năng trị, vì chánh đẳng giác vô úy do nội trí nơi môn tự lợi rằng: "Ta đối với tất cả thứ bờ mé sai khác của cảnh giới sở tri đều chánh đẳng giác, trong tất cả thế gian trước tự xưng đức hiệu lập chánh vô nạn đầy đủ, hoặc định tất cả định tuệ cho đến nói rộng". Phải biết các vô úy còn lại cũng vậy. Tất cả thứ tận trí, là các phiền não gồm cả tập khí dứt hẳn. Tất cả thứ pháp chướng ngại, là tất cả tạp nhiễm bị đối trị. Tất cả thứ đạo xuất ly, là từ đạo phương tiện cho đến đạo rốt ráo.
-Niệm trụ: Tức là ba niệm trụ bất cộng của các Như Lai, là khi điều phục đại chúng trong tất cả thứ phiền não không hiện hành đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ như trước đã nói rộng.
Thế nào là ba niệm trụ? cái gọi là đại sư thương xót tất cả, vì muốn cầu nghĩa lợi mà khởi tâm đại bi, vì chư đệ tử mà nói pháp yếu, bảo các Tỳ-kheo rằng: "Các thầy nên biết, pháp nầy có thể làm lợi ích, pháp nầy có thể tạo an vui, pháp nầy có thể làm lợi ích an vui, lúc đó hoặc chúng đệ tử cung kính nghe lời, nghe rồi thọ nhận, tâm vâng theo lời dạy, tinh tiến tu hành pháp Tùy pháp hành. Như Lai đối với chúng đệ tử kia không sinh vui mừng, tâm không hớn hở, chỉ khởi đại xả, trụ niệm, chánh tri, tùy sự phải tu tập, răn dạy, truyền dạy của các thánh chúng, gọi đó là bất cộng niệm trụ thứ nhất ".
Lại nữa, đại sư thương xót tất cả, muốn cầu nghĩa lợi mà khởi tâm đại bi, vì các đệ tử mà nói pháp yếu, cho đến đây là pháp có thể làm lợi ích an vui, lúc đó hoặc có chúng đệ tử không cung kính nghe lời, cho đến không tinh tiến tu hành pháp Tùy pháp hành. Như Lai đối với chúng đệ tử đó, không sinh sân hận, không buông bỏ, bảo hộ, tâm không buồn giận, chỉ khởi đại xả… cho đến nói rộng, đó gọi là bất cộng niệm trụ thứ hai.
Lại nữa, đại sư thương xót tất cả, muốn cầu nghĩa lợi mà khởi tâm đại bi, vì các đệ tử mà nói pháp yếu, cho đến đây là pháp có thể làm lợi ích an vui, lúc đó một phần chúng đệ tử cung kính nghe lời, cho đến tinh tiến tu hành pháp tùy pháp hành, một phần đệ tử không cung kính nghe lời, cho đến không tinh tiến tu hành pháp Tùy pháp hành. Như Lai đối với các chúng đệ tử kia không sinh vui mừng, cho đến tâm không buồn giận, chỉ khởi đại xả… cho đến nói rộng, đó gọi là bất cộng niệm trụ thứ ba.
Ba thứ niệm trụ như vậy nói về đại sư khi điều phục đại chúng, tùy thứ lớp trong tất cả thứ ái, sân, câu phiền não gồm cả tập khí không hiện hành đầy đủ, tất cả định tuệ v.v… làm thể.
- Bất hộ: Tức là ba bất hộ, là khi đại sư điều phục chúng, tùy sự mong muốn mà giáo thọ giáo giới phương tiện đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng về ba bất hộ? Như kinh nói: "Như lai thân nghiệp thanh tịnh hiện hành, đều thanh tịnh! Hiện hành thân nghiệp có thể cần phải ẩn giấu, là không để cho người khác biết tất cả ngữ nghiệp ý nghiệp của ta hiện hành cũng vậy, vì tâm của đại sư kia không có lo nghĩ sợ sệt, khéo điều phục đã hóa độ tất cả đại chúng, tùy theo ý muốn của đại chúng mà tự nhiên sức mạnh điều phục nhiếp thọ giáo giới, giáo thọ, phương tiện đầy đủ.
- Không quên bỏ Pháp, là tất cả thứ tùy sự tạo tác giảng nói thường nhớ rõ đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng. Trong đây nói về môn y hóa sự, tất cả Tamma-địa… trong tùy sự tạo tác thuyết giảng mà niệm đầy đủ, là pháp không quên bỏ.
- Dứt hẳn tập khí: Là bậc Nhất thiết trí, trong phi Nhất thiết trí, sự tạo tác không hiện hành đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng. Trong đây nói về bậc Nhất thiết trí tất cả Tam-ma-địa… trong tất cả thể biểu hiện thân ngữ đã tạo tác của phiền não chướng và sở tri chướng hữu dư không hiện hành đầy đủ, là dứt hẳn tập khí.
- Đại bi, là trong duyên cảnh khổ vô gián mà đại bi trụ đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng. Trong đây nói về tất cả Tam-ma-địa… Duyên tất cả hữu tình nơi ba cõi vô gián, tất cả thứ cảnh khổ mà đại bi trụ đầy đủ, gọi là đại bi.
- Mười tám pháp Bất cộng của Phật: Tức là mười tám Bất cộng của pháp Phật.
Hỏi: Các pháp nầy thế nào?
Đáp: Là trong nghiệp thân ngữ ý thanh tịnh bất cộng đầy đủ, trong chỗ nương, quả và căn chưa đắc bất thoái đầy đủ, trong nghiệp bất cộng hiện hành đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ cho đến nói rộng. Về mười tám pháp, như kinh nói: "Như lai không có lỗi lầm, không có âm thanh vội vả, không có quên niệm, không có tâm bất định, không có các thứ tưởng, không có bất trạch xả, chí dục không thoái chuyển, tinh tiến không thoái chuyển, niệm không thoái chuyển, định không thoái chuyển, tuệ không thoái chuyển, giải thoát không thoái chuyển, tất cả thân nghiệp trí làm dẫn đường đi trước tùy theo trí mà chuyển, tất cả ngữ nghiệp trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển, tất cả ý nghiệp trí làm tiền đạo tùy theo trí mà chuyển, biết đời quá khứ vô nhiễm vô ngại, biết đời vị lai không nhiễm không ngại, biết đời hiện tại vô nhiễm vô ngại". Lập ra tướng pháp bất cộng của Phật như kinh có nói rộng.
- Như Lai không có lỗi lầm: Là A-la-hán Tỳ-kheo tuy lậu đã hết, nhưng khất thực đi vào thành ấp, hoặc có khi cùng với voi dữ, ngựa dữ, trâu dữ, chó dữ… cùng đi cùng dừng, hoặc có khi giẫm lên gai bụi, vượt qua hầm hố, hoặc có khi vào nhà người nữ, nói năng không theo chánh lý, hoặc có khi trong rừng hoang, từ bỏ chánh đạo mà hành lối tẻ đường tà; hoặc cùng với đạo tặc hung hăng, thú dữ… cùng đi cùng dừng. Những sự lầm lỗi như vậy A-la-hán còn có, Như Lai thì không có bao giờ.-Không có âm thanh vội vã: Là A-la-hán hoặc có khi đi vào rừng rậm hoang vắng bị lạc đường, hoặc vào nhà trống phát tiếng gọi to âm thanh vội vã, há miệng cười lớn. Những âm thanh như vậy, A-la-hán còn có, Như Lai thì dứt hẳn không có.
- Không có lảng quên: Là A-la-hán còn có bất nhiễm ô, sự tạo tác lâu xa và sự giảng nói lâu xa đã quên mất niệm, Như Lai thì không có bao giờ.
Không có tâm bất định: Là A-la-hán do buộc giữ tâm mới được định, khi xuất thì liền không định, Như Lai bất cứ lúc nào đều định.
- Tâm không có các thứ tưởng: Là A-la-hán đối với sinh tử hữu dư khởi tưởng trái nghịch, đối với Niết-bàn vô dư khởi tưởng vắng lặng, Như Lai đối với sinh tử và Niết-bàn đều không có ý nghĩ sai khác, vì trụ đại xả bậc nhất.
- Đều Trạch xả: Là A-la-hán không dùng trí tuệ chọn lựa, từ bỏ sự lợi ích của hữu tình, Như Lai thì không có các việc nầy, nên không có chọn, bỏ.
Lại nữa, A-la-hán đối với sở tri chướng tịnh có thoái chuyển vì chưa đắc, là Chí dục thoái, Tinh tiến thoái, Niệm thoái, Định thoái, Tuệ thoái, Giải thoát thoái. Sáu thứ thoái chuyển như vậy Như Lai không bao giờ có.
Lại nữa, A-la-hán hoặc có khi thân nghiệp thiện chuyển, hoặc có khi thân nghiệp Vô ký chuyển, ngữ nghiệp và ý nghiệp cũng vậy, vì ba nghiệp trí của Như Lai luôn đi trước dẫn dắt, tùy trí chuyển, nên không có vô ký. Trí đi trước dẫn dắt, là sự khởi bình đẳng của trí. Tùy trí mà chuyển, là cùng với trí đồng hành.
Lại nữa, A-la-hán Tỳ-kheo đối với các sự việc sở tri của ba đời, không thể khởi tâm hiểu ngay, nên trí kiến có đắm nhiễm, không thể tất cả đều hiểu, do đó trí kiến có chướng ngại. Như lai đối với cảnh của ba đời khi tạm khởi tâm thì liền biết khắp tất cả, nên trí kiến không đắm nhiễm và không có ngại. Trong mười tám bất cộng, sáu pháp trước tất cả Tam-ma-địa… trong bất cộng nghiệp thân ngữ ý thanh tịnh làm thể. Không có lầm lỗi là nói theo thân nghiệp thanh tịnh, không có âm thanh vội vã, là dựa vào ngữ nghiệp thanh tịnh mà nói, không có niệm quên mất, không có tâm bất định, không có các thứ tưởng và không có bất trạch xả, bốn thứ nầy là dựa vào ý nghiệp thanh tịnh mà nói. Chí dục không thoái chuyển, tinh tiến không thoái chuyển, niệm không thoái chuyển, định không thoái chuyển, tuệ không thoái chuyển và giải thoát không thoái chuyển… Trong chỗ nương sáu thứ nầy, quả và căn chưa đắc bất thoái đầy đủ tất cả Tamma-địa làm thể. Chỗ nương là chí dục, quả là giải thoát, căn là tinh tiến… tất cả nghiệp thân ngữ ý trí làm kẻ đi trước dẫn dắt tùy trí mà chuyển, ba thứ nầy tất cả Tamma-địa làm thể… trong nghiệp bất cộng hiện hành đầy đủ. Biết quá khứ, vị lai và hiện tại vô nhiễm vô ngại, ba thứ nầy tất cả Tam-ma-địa làm thể… trong trí bất cộng trụ đầy đủ.
- Nhất thiết chủng diệu trí: Là trong Uẩn, Giới, Xứ Nhất thiết chủng diệu trí tánh đầy đủ, hoặc định hoặc tuệ và sự đầy đủ kia tương ưng các tâm tâm pháp.
Hỏi: Thế nào là Uẩn, Giới, Xứ Nhất thiết chủng diệu trí tánh đầy đủ?
Đáp: Là đối với tự tánh sai khác nơi tướng của uẩn giới xứ, thông đạt tất cả sai khác về bờ mé trí thành mãn. Hỏi: Thế nào là dẫn phát các công đức như vậy?
Đáp: Là dựa vào bốn Tĩnh lự thanh tịnh, hoặc ngoại đạo, hoặc Thanh văn hoặc Bồ-tát… để dẫn phát bốn vô lượng và năm thần thông, phần nhiều dựa vào bờ mé tĩnh lự thứ tư, hoặc Thanh văn hoặc Bồ-tát hoặc Như Lai, để dẫn phát các công đức khác.
Hỏi: Nhân duyên gì dẫn phát các công đức như vậy?
Đáp: Dựa vào Tĩnh lự thường tư duy, tùy chỗ lập ra pháp. Trong đây nói về những công đức như vậy dẫn phát chỗ nương, có thể dẫn phát Bổ-đặc-già-la, có thể dẫn phát phương tiện.
Hỏi: Thế nào là có thể dẫn phát phương tiện?
Đáp: Là đối với tùy sự lập ra giáo pháp, dùng nhiều tác ý và tâm định mà thường khởi tư duy hành tướng. Như khi muốn dẫn phát vô lượng thì nương vào Tĩnh lự, đối với giáo pháp của từ câu tâm (từ bi đồng thời với tâm) không hận không oán, dùng tu tuệ tương ưng với tác ý mà thường tư duy. Khi muốn dẫn phát thần thông… thì nương vào tĩnh lự, đối với giáo pháp biến một thành nhiều… Dùng tu tuệ tương ưng tác ý mà thường tư duy, như vậy đối với tất cả xứ thường tư duy, như sự lập ra phải biết là tùy tướng.
Lại, những công đức như vậy lược có hai thứ:
1. Hiện tiền phát khởi tác dụng của mình.
2. An trụ tự tánh.
Hoặc hiện tiền phát khởi tác dụng của mình, dùng trí thế tục sau khi xuất thế gian làm thể, hoặc an trụ tự tánh dùng trí xuất thế gian làm thể. Lại nữa, hiện tiền phát khởi tự sở tác dụng, là các bậc Thánh tùy sự thích ứng mà phát khởi, đoạn các thứ tác nghiệp của đối tượng được trị chướng. An trụ tự tánh, là thuộc về trí Vô phân biệt vắng lặng tối thắng, là hiện pháp lạc trụ của vô duyên vô lượng.
Hỏi: Lại nữa, vô lượng khởi nghiệp gì?
Đáp: Là xả chướng sở trị, vì trụ trong tâm thương xót, có thể mau chóng tròn đầy tư lương phước đức, thành thục hữu tình, tâm không mệt mỏi. Xả chướng sở trị, là như thứ lớp của bốn tâm vô lượng, có thể xả sân hại vì không ưa ái sân. Trụ nơi tâm thương xót là bốn vô lượng, đối với sự lợi ích của các hữu tình thuận theo chuyển trụ. Vì đối với tất cả hữu tình trụ tâm thương xót nên có thể mau chóng tròn đầy tư lương phước đức. Thành thục hữu tình tâm không mệt mỏi, là do thương xót các hữu tình mà không màng thân mình.
Hỏi: Giải thoát nghiệp gì?
Đáp: Là dẫn phát sự biến hóa, đối với biến hóa tịnh và biến hóa bất tịnh không có khó khăn, đối với giải thoát vắng lặng không có dính mắc, có thể trụ thánh trụ vắng lặng bậc nhất, vì thắng giải tư duy. Trong đây nói về giải thoát bậc nhất và đệ nhị có thể dẫn phát sự biến hóa, do giải thoát đệ ba đối với biến hóa tịnh và bất tịnh không có khó khăn, do bốn Vô Sắc giải thoát đối với giải thoát vắng lặng không có trở ngại, do giải thoát sau rốt có thể trụ thánh trụ vắng lặng bậc nhất, do thắng giải tư duy, là hiển bày nghĩa như vậy như vậy của thắng giải là nghĩa của giải thoát.
Hỏi: Thắng xứ khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể khiến cho cảnh giới sở duyên của ba thứ giải thoát trước tự tại mà chuyển, vì điều phục được sở duyên.
Hỏi: Biến xứ khởi nghiệp gì?
Đáp: Là khéo có thể thành xong sở duyên của giải thoát, vì lưu hành đầy khắp.
Hỏi: Vô tránh khởi nghiệp gì?
Đáp: Là khi phát ra lời nói, ai nghe cũng đều tin phục, vì ưa hộ tâm người rất thù thắng, như sự thích ứng mà phát ra lời nói.
Hỏi: Nguyện trí khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể khéo ghi nhớ các việc trong ba đời, tất cả thế gian đều được cung kính, vì thông đạt sự quy ngưỡng của tất cả chúng.
Hỏi: Vô ngại giải khởi nghiệp gì?
Đáp: Là khéo nói pháp yếu, vui với tâm chúng sinh, có thể dứt tất cả các lưới nghi.
Hỏi: Thần thông khởi nghiệp gì?
Đáp: Là ghi thân nghiệp ngữ nghiệp vào tâm, hóa độ dẫn dắt hữu tình khiến nhập thánh giáo, đã khéo biết tất cả tâm hành và quá khứ vị lai của hữu tình rồi, phải truyền dạy khiến cho hữu tình ra khỏi hẳn. Trong đây hiển bày thần cảnh thông, thiên nhĩ thông cho đến lậu tận thông, như thứ lớp của nó có thể khởi công dụng của thân nghiệp để hóa độ dẫn dắt; do thiên nhĩ thông nên hiểu rõ tất cả ngôn âm sai khác, có thể dẫn khởi ngữ nghiệp.
Hỏi: Tướng và tùy hảo khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể khiến cho vừa thấy, thì đại trượng phu tâm sinh tịnh tín.
Hỏi: Thanh tịnh khởi nghiệp gì?
Đáp: Là do thế lực nầy mà thủ sinh hữu, tùy theo dục lạc của nó, hoặc trụ một kiếp, hoặc trở lại kiếp khác, hoặc xả thọ hành, hoặc đối với các pháp tự tại chuyển, hoặc đối với các định tự tại chuyển, hoặc trở lại gìn giữ chánh pháp của Phật. Trong đây là nói do chỗ nương thanh tịnh tùy theo sự ưa thích của nó đối với thân nương tựa mà nhiếp lấy trụ, xả tự tại, tức là nhiếp ba câu: Là vì thủ sinh hữu… do cảnh giới thanh tịnh mà trong các pháp đắc tự tại chuyển, do tâm thanh tịnh đối với Tam-ma-địa được tự tại chuyển; do trí thanh tịnh mà gìn giữ chánh pháp vô thượng của Như Lai.
Hỏi: Lực khởi nghiệp gì?
Đáp: Vì trừ bỏ luận vô nhân và luận ác nhân, luận không làm mà được, giảng nói không điên đảo sinh đạo tăng thượng, ngộ nhập chánh thuyết về pháp khí trong tâm hành của tất cả hữu tình, ý lạc, tùy miên, cảnh giới, tư lương nên có thể xuất ly, tùy sự thích ứng của nó mà giảng nói về thắng đạo chắc chắn, hàng phục các ma, khéo có thể ghi nhớ tất cả hỏi đáp bàn luận. Trong đây hiển bày lực bậc nhất và lực đệ nhị có thể thuyết sinh đạo tăng thượng, tám lực còn lại có thể nói về thắng đạo chắc chắn. Như vậy hai thứ hiển bày đầy đủ sự tạo tác của các Phật. Vì sao? Vì Thế Tôn do trí lực xứ phi xứ mà hàng phục tất cả các luận giả vô nhân, các luận giả ác nhân, giảng nói sinh đạo tăng thượng, không điên đảo các ngoại đạo đối với sinh tăng thượng hoặc cho vô nhân, hoặc cho là tự tánh hoặc tự tại… làm nhân, gọi là luận vô nhân ác nhân. Do trí lực tự nghiệp hàng phục tất cả luận giả không làm mà được của thế gian, là thuyết giảng về đường thiện sinh đạo không điên đảo, các ngoại đạo… cho không khởi nghiệp mà tự nhiên được quả báo, gọi là luận không làm mà được. Do trí lực của vắng lặng, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí mà ngộ nhập tất cả tâm hành của hữu tình. Sự tu hành của tâm nên gọi là tâm hành. Do trí lực căn thượng hạ ngộ nhập tất cả chánh thuyết pháp khí, vì tín căn, tiến căn… nếu khéo thành thục thì có thể làm pháp khí; do các thứ trí lực thắng giải ngộ nhập tất cả ý lạc hơn kém, do các thứ trí lực giới ngộ nhập tất cả cho có thể phá trừ tánh các phiền não của tùy miên, do trí lực biến thú hạnh ngộ nhập cảnh giới là sự thâu nhiếp của tất cả giáo pháp trong Đại thừa và tiểu thừa, do trí lực túc trụ tùy niệm ngộ nhập tất cả sự tập hợp nhân duyên Thánh đạo của tư lương đời trước, gọi đó là tư lương, do trí lực tử sinh ngộ nhập tất cả tánh công năng vị lai, do tử sinh lậu tận ngộ nhập tất cả xuất ly của ba cõi. Do ngộ nhập như vậy rồi, tùy theo sự thích ứng mà giảng nói Thánh đạo giải thoát xuất thế. Mười thứ nầy gọi là lực, vì có thể khéo hàng phục các ma, khéo có thể ghi nhớ tất cả luận thế gian. Hàng phục các ma, là do mười lực có thể hàng phục ma uẩn, ma phiền não, ma trời và ma chết, vì tối thắng, tuy dứt chướng sở tri nhưng cũng không gây chướng ngại nên gọi là tối thắng. Ghi nhớ tất cả luận thế gian, là đối với xứ phi xứ cho đến lậu tận nhất thiết xứ, tất cả hỏi đáp bàn luận đều ghi nhớ không bị trở ngại.
Hỏi: Vô úy khởi nghiệp gì?
Đáp: Là ở trong đại chúng tự chánh thức lập ra ta là đại sư, hàng phục tất cả ngoại đạo tà nạn. Đại sư, là bậc tự lợi lợi tha nhiều đức tròn đầy. Hàng phục ngoại đạo tà nạn, là có thể hàng phục ngoại đạo tà nạn trong sự thuyết thành Đẳng Chánh Giác của Như Lai dứt hẳn các lậu chướng ngại đạo pháp.
Hỏi: Niệm trụ khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể không nhiễm ô mà thâu nhiếp nhiếp chế ngự đại chúng, do cung kính lắng nghe không có các phiền não như sân ái…
Hỏi: Bất hộ khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể không gián đoạn truyền dạy, răn bảo đồ chúng, do không có che giấu bảo hộ nên lo lắng tội lỗi của tự mình được hiển rõ.
Hỏi: Pháp không quên mất khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể không xả lìa tất cả Phật sự. Vì sao? Vì pháp nầy đối với các hữu tình hiện tiền xứng với lợi ích thì có thể không buông lung, không vượt qua một sát-na nào!
Hỏi: Dứt hẳn tập khí khởi nghiệp gì?
Đáp: Là lìa các phiền não cũng không hiển hiện sự tạo tác nghiệp tương tự của các phiền não, không giống như Tỳ-kheo A-la-hán vẫn còn hiện các việc lỗi lầm.
Hỏi: Đại bi khởi nghiệp gì?
Đáp: Là ngày đêm sáu thời quán sát khắp thế gian, ai giảm, ai thoái chuyển, ai tăng, ai tiến!
Hỏi: Bất cộng khởi nghiệp gì?
Đáp: Vì nghiệp thân ngữ ý thanh tịnh, vì đắc bất thoái, hoặc hành hoặc trụ, chiếu toả che khuất tất cả hàng Thanh văn, Độc giác, những câu dựa nương như vậy đã nói trước, đối với tướng của ba nghiệp bất cộng thanh tịnh đầy đủ… như tương xứng mà phối hợp giải thích.
Hỏi: Nhất thiết chủng diệu trí khởi nghiệp gì?
Đáp: Là có thể dứt trừ tất cả lưới nghi của tất cả hữu tình, khiến cho mắt chánh pháp được trụ lâu dài, do đây hữu tình chưa thành thục thì khiến cho thành thục, đã thành thục thì khiến cho giải thoát. "Dứt trừ lưới nghi", là trí vô ngại đối với tất cả xứ. "Khiến cho chánh pháp nhãn tạng được trụ lâu dài", là trong tất cả thời gian đó lưới nghi của hữu tình bị cắt đứt, giảng nói vô số pháp môn sai khác, các sự kiết tập theo thứ lớp kết tập không để diệt mất. Dựa vào hữu tình, pháp nhãn chưa thành thục thì khiến cho thành thục, hữu tình đã thành thục thì mau chóng giúp cho giải thoát. Lại nữa, đối với các hữu tình vị hiện quán khi chứng phẩm đạo thù thắng kế sau, thì xả sự đắc các phẩm đạo kém ở trước, như khi chứng đắc sự thâu nhiếp đạo của quả nầy liền xả sự thâu nhiếp đạo của hướng nầy, vì không còn hiện ở trước.
Lại nữa, ngay trong thời gian nầy tập đoạn làm chứng, vì khi đắc quả thì dứt hẳn chủng loại phiền não thô nặng được đối trị nầy khiến không còn thừa, vì chứng đắc chuyển y thắng phẩm.
Lại nữa, đối với Niết-bàn giới vô dư và tất cả Thánh đạo của Thanh văn Độc giác, do đốn xả sự xả bỏ không phải các Bồ-tát nên chỉ nói các Bồ-tát là bậc gốc lành vô tận, bậc công đức vô tận, bậc đốn xả sự xả bỏ, là nghĩa xả rốt ráo không hiện hành, chẳng phải sở đắc Thánh đạo của các Bồ-tát, có xả như vậy vì muốn làm lợi ích cho tất cả hữu tình đều đắc Niết-bàn nên do nhân duyên nầy mà kinh vô tận tuệ nói: "Các Bồ-tát làm bậc gốc lành vô tận, làm bậc công đức vô tận.
Hỏi: Lại nữa, vì sao lập ra các việc Vô ký?
Đáp: Vì câu hỏi kia không đúng như lý!
Hỏi: Vì sao câu hỏi kia không đúng như lý?
Đáp: Vì xa lìa nhân quả nhiễm tịnh là lĩnh vực phải suy nghĩ. Trong đây nói Như Lai đối với sự hỏi của ngoại đạo trong các sự thế gian thường hay Vô thường mà lập ra bốn thứ bất khả ký sự. Do sự hỏi kia không đúng lý có thể dẫn đến không có nghĩa lợi.
Hỏi: Thế nào là hỏi đáp bàn luận dẫn đến nghĩa lợi? Đáp: Là nương vào sự có hỏi đáp bàn luận của bốn thánh đế, do hỏi đáp đàm luận nầy là sự thâu nhiếp nhân quả nhiễm tịnh phải tư duy.
Hỏi: Lại nữa, vì sao Bồ-tát đã nhập vị siêu thăng lìa sinh của Bồ-tát mà chẳng phải là Dự lưu?
Đáp: Vì đắc đạo bất trụ mà hạnh Dự lưu hoàn toàn không thành tựu.
Hỏi: Vì sao cũng không phải nhất lai?
Đáp: Vì thọ các hữu trong vô lượng đời.
Hỏi: Duyên gì chẳng phải Bất hoàn?
Đáp: Vì an trụ tĩnh lự lại sinh cõi Dục.
Lại, các Bồ-tát đã đắc hiện quán đế rồi đối với vị tu đạo của mười địa chỉ tu đạo đối trị của sở tri chướng, không phải đạo đối trị của phiền não chướng. Nếu khi đắc Bồ-đề thì dứt ngay phiền não chướng và sở tri chướng, tức thì thành A-la-hán và Như Lai. Các Bồ-tát nầy tuy dứt hẳn phiền não, nhưng phiền não nầy cũng như sự ẩn chất độc trong chú thuật và thuốc độc, không khởi tất cả phiền não tội lỗi trong tất cả địa như A-la-hán đã dứt phiền não.
Lại nữa, các Bồ-tát đối với cảnh sở tri phải tu khéo léo, đối với các phương tiện phải tu khéo léo, đối với phân biệt luống dối phải tu khéo léo, đối với vô phân biệt phải tu khéo léo, trong các thời phải tu luyện căn.
-Cảnh sở tri, lược có sáu thứ:
1. Mê loạn.
2. Mê loạn chỗ nương.
3. Bất mê loạn chỗ nương.
4. Mê loạn bất mê loạn.
5. Bất mê loạn.
6. Bất mê loạn đẳng lưu.
+ Mê loạn: Là chấp năng thủ, sở thủ.
+ Mê loạn chỗ nương: Là sự hoạt động của thánh trí chỉ có hành tướng phân biệt luống dối làm thể, do có chỗ nương nầy mà tất cả chấp chuyển mê loạn của ngu phu.
+ Không mê loạn chỗ nương, là Chân như, là chỗ nương của trí Vô phân biệt.
+ Mê loạn bất mê loạn: Là thuận theo tất cả các pháp thiện của tuệ Văn, Tư, Tu trí xuất thế phân biệt cảnh sở tri, nên thuận theo trí Vô phân biệt.
+ Bất mê loạn: Là trí Vô phân biệt.
+ Bất mê loạn đẳng lưu: Là pháp thiện sở đắc sau Thánh đạo.
-Phương tiện khéo léo, lược có bốn thứ:
1. Khéo léo thành thục hữu tình.
2. Khéo léo tròn đầy pháp Phật.
3. Khéo léo mau chứng thần thông.
4. Khéo léo đạo vô đoạn.
- Khéo léo thành thục hữu tình: Là bốn sự nhiếp, vì nhiếp thọ hữu tình kia khiến ở trong pháp thiện.
- Khéo léo tròn đầy pháp Phật: Là Tuệ Ba-la-mật-đa, như kinh nói: "Nếu Đại Bồ-tát muốn đắc Thí Ba-la-mậtđa tròn đầy cho đến Nhất thiết chủng diệu trí tánh, thì phải học bát-nhã Ba-la-mật-đa.
- Khéo léo tốc chứng thần thông: Là ngày đêm sáu thời phát lồ các điều ác, tùy hỷ công đức, khuyến thỉnh các Phật, hồi hương gốc lành, nói rộng như kinh thánh giả di-lặc sở vấn.
- Khéo léo đạo vô đoạn: Là Niết-bàn vô trụ xứ, do khéo léo nầy thường rốt ráo không dứt cùng khắp mười phương, tất cả thế giới, tùy sự ứng hóa mà thị hiện tất cả hạnh của Phật Bồ-tát.
- Luống dối phân biệt, lược có mười thứ:
1. Căn bản phân biệt.
2. Tướng phân biệt.
3. Tướng hiển hiện phân biệt.
4. Tướng đổi khác phân biệt.
5. Tướng hiển hiện đổi khác phân biệt.
6. Tha dẫn phân biệt.
7. Bất như lý phân biệt.
8. Như lý phân biệt.
9. Chấp trước phân biệt.
10. Tán loạn phân biệt.
+ Căn bản phân biệt: Là thức A-lại-da, là hạt giống của tất cả phân biệt.
+ Tướng phân biệt: Là ở sự thọ dụng thức của thân, vì là tướng của sở thủ. Tướng đó lại như thứ lớp mà lấy các Khí thế giới của Sắc căn và Cảnh giới của sắc làm tướng.
+ Tướng hiển hiện phân biệt: Là sáu thức thân và ý, như trước đã nói, vì tướng sở thủ mà hiển hiện.
+ Tướng đổi khác phân biệt: Như trước đã nói, là tướng của thân đổi khác sinh khởi.
+ Tướng hiển hiện đổi khác phân biệt: Là như đã nói trên, tướng của nhãn thức… hiển hiện, đối với vị sai khác của khổ vui mà sinh khởi.
+ Tha dẫn phân biệt: Là tướng Danh Cú Văn thân thuộc về giáo pháp, phân biệt nầy bị có hai thứ: 1. Nói pháp luật ác làm thể. 2. Nói pháp luật thiện làm thể. Do năng lực tăng thượng nầy như thứ lớp mà thuộc về dẫn hai tác ý.
+ Bất như lý phân biệt.
+ Như lý phân biệt.
+ Chấp trước phân biệt: Là tất cả phân biệt trong sự khởi phân biệt bất như lý và thuộc về sáu mươi hai kiến.
+ Tán loạn phân biệt: Là tất cả phân biệt trong chốn khởi vô tánh… của phân biệt như lý chấp làm tướng.
Tán loạn phân biệt nầy lại có mười thứ: 1. Vô tánh phân biệt. 2. Hữu tánh phân biệt. 3. Tăng ích phân biệt. 4. Tổn giảm phân biệt. 5. Nhất tánh phân biệt. 6. Dị tánh phân biệt. 7. Tự tánh phân biệt. 8. Sai khác phân biệt. 9. Tùy danh nghĩa phân biệt. 10. Tùy nghĩa danh phân biệt. Mười thứ phân biệt như vậy nầy dựa vào Bát-nhã Ba-lamật-đa phần đầu mà nói. Như kinh nói: "Nầy Xá-lợi-tử!
Bồ-tát đó thật có Bồ-tát, chính là Bồ-tát không tùy quán, chính là Bồ-tát không tùy quán tên đúng là không tùy quán Bát nhã Ba-la-mật-đa, chính là không tùy quán Bồđề, chính là không tùy quán hành, chính là không tùy quán bất hành. Vì sao? Vì tự tánh của danh là tánh không chẳng phải không tánh, tự tánh của sắc là không tánh không chẳng phải không, cho đến tự tánh của thức là không tánh không chẳng phải không. Vì sao? Vì sắc và không nầy tánh chẳng phải tức là sắc cũng không lìa sắc mà có riêng tánh không, sắc tức là tánh không, tánh không tức là sắc, cho đến thức cũng vậy. Vì sao? Vì các pháp nầy chỉ có danh. Đã nói đây là Bồ-tát Danh, đây là Bồ-tát, đây là bát-nhã Ba-la-mật-đa, đây là Bồ-đề, đây là sắc cho đến đây là thức, vì tự tánh của các pháp kia không sinh, không diệt, không nhiễm, vô tịnh, khi Bồtát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì chính là không tùy quán mà sinh, cho đến chính là không tùy quán mà tịnh. Vì sao? Vì đối với sự so lường các pháp kia mà giả đặt tên khách, do tùy tên khách mà khởi lời nói tùy ngôn thuyết như vậy như vậy mà khởi chấp trước như vậy như vậy. Bồ-tát đối với tất cả danh như vậy chính là không tùy quán, vì chính là không tùy quán nên không sinh chấp trước".
Trong kinh nầy vì đối trị phân biệt vô tánh nên nói như vầy: "Bồ-tát đó thật có Bồ-tát", như vậy do câu "Thật có" là nghĩa hữu tánh.
Để đối trị phân biệt hữu tánh, nên nói như vầy: "Chính là không tùy quán Bồ-tát cho đến chính là không tùy quán bất hành", vì dứt trừ Bổ-đặc-già-la và pháp hai tánh.
Để đối trị phân biệt tăng ích nên nói như vầy: "Vì sao? Vì tự tánh của danh là không", vì dứt trừ sự chấp Tự tánh Biến kế sở chấp là không thật.
Để đối trị phân biệt tổn giảm, nên nói như vầy: "Chẳng phải không tánh", vì đối với danh nầy do tự tánh Biến kế sở chấp xa lìa tánh tất cả thời mà có.
Để đối trị phân biệt nhất tánh nên nói như vầy: "Tánh của sắc không nầy chẳng phải tức là sắc, cho đến tánh của thức không nầy chẳng phải tức thức", vì tự tánh là dị. Vì sao? Vì sắc… là tự tánh Biến kế sở chấp, tánh không là tự tánh Viên thành thật.
Để đối trị phân biệt dị tánh nên nói như vầy: "Cũng không lìa sắc mà có tánh không riêng, cho đến không tánh tức là thức", vì tự tánh Biến kế sở chấp không có tướng, lìa các vô tánh kia thì không thật có.
Để đối trị phân biệt tự tánh, nên nói như vầy: "Các pháp nầy chỉ có danh, đã nói đây là sắc, cho đến đây là thức…", vì lìa năng thuyên thì không có tự tánh sở thuyên quyết định.
Để đối trị Phân biệt sai khác, nên nói như vầy: "Vì tự tánh kia vô sinh cho đến chính là không tùy quán tịnh", vì dứt trừ tướng sai khác của sinh…
Để đối trị phân biệt tùy danh nghĩa, nên nói như vầy: "Vì đối với điều so lường các pháp kia mà giả đặt tên khách", do tùy khách danh mà khởi nói năng như vậy.
Để phân biệt tùy nghĩa danh đối trị mà nói như vầy: "Bồ-tát đối với tất cả danh như vậy chính là không tùy quán, chính là không tùy quán nên không sinh chấp trước", vì tùy nghĩa đối với danh, không thấy không chấp.
-Vô phân biệt, lược có ba thứ:
1. Tri túc vô phân biệt.
2. Vô điên đảo vô phân biệt.
3. Vô hý luận vô phân biệt.
Ba thứ như vậy dị sinh Thanh văn và Bồ-tát, như thứ lớp phải biết. Do các dị sinh tùy theo pháp tánh của một Vô thường… đã rốt ráo tư duy rồi liền sinh hỷ túc, là việc đó tất nhiên không có mong gì nhau, gọi đó là tri túc vô phân biệt, lúc đó tất cả tầm tư phân biệt đều dứt mất. Do các Thanh văn trong các uẩn vì đối trị điên đảo của thường… khi quán sát như lý chỉ có các pháp như sắc… liền đắc trí xuất thế gian thông đạt tánh vô ngã, gọi đó là vô điên đảo vô phân biệt. Do các Bồ-tát đã biết pháp của sắc chỉ là hý luận rồi mới có thể trừ diệt tất cả pháp tướng, đắc trí tĩnh xuất thế gian rất vắng lặng, thông đạt cùng khắp Chân như, gọi đó là vô hý luận, vô phân biệt.
Trí vô phân biệt nầy lại lìa năm tướng: 1. Phi vô tác ý. 2. Phi siêu quá. 3. Phi tịch chỉ. 4. Phi tự tánh. 5. Phi sở duyên tác gia hạnh. Gọi là vô phân biệt. Vì sao? Nếu vô tác ý gọi là vô phân biệt thì ngủ mê, say rượu lẽ ra là trí Vô phân biệt, vì sự mê say kia không tư duy được các pháp tướng. Nếu siêu vượt gọi là vô phân biệt thì từ tĩnh lự thứ hai trở lên tất cả địa lẽ ra là trí Vô phân biệt, vì các Tĩnh lự kia siêu vượt tầm tứ. Nếu tâm tâm pháp của ba cõi như thế là thể của phân biệt, thì câu nói nầy liền trái nhau; nếu tịch chỉ gọi là vô phân biệt thì định diệt thọ tưởng là trí Vô phân biệt, vì phân biệt tâm tâm pháp trong tịch chỉ kia; hoặc trí như thế đáng lẽ cũng không có, hoặc tự tánh gọi là vô phân biệt thì sắc… đáng lẽ là trí Vô phân biệt, vì các thứ đó không phải phân biệt tự tánh. Nếu đối với sở duyên khởi gia hạnh gọi là Vô phân biệt thì tánh phân biệt lẽ ra là trí Vô phân biệt; nếu cho rằng các tướng nói trên là vô phân biệt thì tướng gia hạnh nầy tức là tướng phân biệt, do đó trí Vô phân biệt chẳng phải năm tướng kia.
Hỏi: Nếu như thế thì làm sao quán tướng vô hý luận vô phân biệt?
Đáp: Là đối với sở duyên không khởi gia hạnh.
Hỏi: Điều nầy lại thế nào?
Đáp: Nếu các Bồ-tát quá khứ thuận theo giáo quán sát các pháp, hoặc tánh hoặc tướng đều không chân thật, do quán sát nầy mà sự giữ gìn của năng lực tập quán, không do gia hạnh trong tất cả pháp Chân như của giới như thật vô hý luận mà nội tâm vắng lặng, như vậy mới gọi là trí vô hý luận Vô phân biệt.
Hỏi: Lại nữa, nếu các Bồ-tát tánh là lợi căn, thì vì sao lại khiến tu luyện căn?
Đáp: Là khiến dựa vào căn lợi nhuyến để dẫn phát trung căn lanh lợi. Lại dựa vào trung căn lanh lợi để dẫn phát lợi căn lanh lợi. Trước đã nói tất cả tánh Bồ-tát là lợi căn, nhưng lại nói trong tất cả thời phải tu luyện căn, vì đối với tự chủng loại lại có ba phẩm nhuyến trung thượng, sau đó dẫn phát lẫn nhau, gọi là luyện căn. Nếu khác điều nầy thì chủng tánh Bổ-đặc-già-la lợi căn đáng lẽ căn chỉ có một phẩm, căn và phẩm sai khác của các Bồ-tát đáng lẽ không thật có, nhưng thật ra là khả đắc, nên lợi căn cũng có sai khác.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Hỏi: Thế nào là luận quyết trạch?
Đáp: Lược có bảy thứ:
1. Nghĩa quyết trạch.
2. Thích quyết trạch.
3. Phân biệt hiển bày quyết trạch.
4. Đẳng luận quyết trạch.
5. Thâu nhiếp quyết trạch.
6. Luận quỹ quyết trạch.
7. Bí mật quyết trạch.
1. Nghĩa quyết trạch: Là dựa vào sáu nghĩa mà khởi quyết trạch. Sáu nghĩa gồm: a. Nghĩa tự tánh. b. Nghĩa nhân. c. Nghĩa quả. d. Nghĩa nghiệp. e. Nghĩa tương ưng. f. Nghĩa chuyển.
a. Nghĩa tự tánh: Là ba thứ lớp tánh Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thật.
Nghĩa nhân: Là ba nhân: 1. Sinh nhân. 2. Chuyển nhân. 3. Thành nhân.
Sinh nhân: Là bốn duyên như nhân v.v…. Vì nhân nầy có thể sinh các pháp hữu vi.
- Chuyển nhân: Là do thứ lớp nầy mà các pháp kia chuyển, như vô minh duyên hành… cho đến tập và diệt do thứ lớp nầy mà nhiễm và tịnh chuyển.
Thành nhân: Là hiện lượng khả đắc và không thật có, thuộc về chánh thuyết, do đây có thể thành lập nghĩa đã thành, chưa biết rõ trước kia. c. Nghĩa quả: Là năm quả, năm quả gồm: 1. Quả Dị thục. 2. Quả đẳng lưu. 3. Quả tăng thượng. 4. Quả sĩ dụng. 5. Quả lìa hệ.
- Quả Dị thục: Là thức A-lại-da.
- Quả đẳng lưu: Là sự khởi các pháp thiện đời trước tự nối tiếp các pháp thiện đời sau.
- Quả tăng thượng: Là do cộng nghiệp lực tăng thượng của tất cả hữu tình chiêu cảm khí thế gian.
- Quả sĩ dụng: Là gieo giống v.v…
- Quả lìa hệ: Là do tùy miên của Thánh đạo diệt hẳn.
d. Nghĩa nghiệp: Là năm thứ nghiệp: 1. Nghiệp thủ thọ. 2. Nghiệp tác dụng. 3. Nghiệp gia hạnh. 4. Nghiệp chuyển biến. 5. Nghiệp chứng đắc. Nghĩa của năm nghiệp nầy như trong nghiệp nhiễm ở trước đã giải thích.
e. Nghĩa tương ưng: Là năm thứ tương ưng: 1. Tụ kiết tương ưng. 2. Tùy trục tương ưng. 3. Liên xuyết tương ưng. 4. Phần vị tương ưng. 5. Chuyển biến tương ưng.
- Tụ kiết tương ưng: Là như đối với nhà cửa… có gỗ đá, gạch ngói…
Tùy trục tương ưng: Là nhân của tùy miên… Do có tùy trục nầy, tuy phiền não… không hiện hành nhưng nói cùng với tương ưng tùy trục kia.
- Liên xuyết tương ưng: Là thân thuộc… xoay vần tương ưng.
- Phần vị tương ưng: Là phần vị nối tiếp như nhiếp thọ lợi ích, vì phần vị nầy hiện tiền nên nói tương ưng với lạc cho đến tương ưng với bất khổ bất lạc.
Chuyển biến tương ưng: Là khách trần phiền não… hiện tiền vì có tương ưng nầy, nên nói chuyển biến nầy tương ưng với tham…, tín… f. Nghĩa chuyển: Là năm thứ chuyển: 1. Tướng chuyển. 2. An trụ chuyển. 3. Điên đảo chuyển. 4. Bất điên đảo chuyển. 5. Sai khác chuyển.
- Tướng chuyển: Là ba hữu của sinh, trụ, dị làm tướng, do ba tướng đó mà chuyển sai khác.
- An trụ chuyển: Là trong pháp sở trì trụ năng trì mà chuyển.
- Điên đảo chuyển: Là pháp tạp nhiễm không chuyển như thật.
- Bất điên đảo chuyển: Là pháp thanh tịnh chuyển như thật.
- Sai khác chuyển: Là tất cả hạnh quá khứ, vị lai, hiện tại, nội ngoại… chuyển Sai khác.
2. Thích quyết trạch: Là có thể giải thích tông yếu của các kinh để khai phát nghĩa của tông yếu đó.
Hỏi: Điều nầy thế nào?
Đáp: Lược có sáu thứ: a. Sự Sở biến tri. b. Nghĩa Sở biến tri. c. Nhân duyên Biến tri. d. Tự tánh Biến tri. e.
Quả Biến tri. f. Bỉ chứng thọ. Do sáu nghĩa nầy tùy sự thích ứng của nó mà giải thích rộng khắp các kinh, gọi là thích quyết trạch.
- Việc Sở biến tri, là uẩn, giới, xứ.
- Nghĩa Sở biến tri, là Vô thường…
- Nhân duyên Biến tri, là tịnh Thi-la thủ hộ căn môn.
- Tự tánh Biến tri, là pháp Bồ-đề phần.
- Quả Biến tri, là giải thoát.
- Bỉ chứng thọ, là giải thoát tri kiến.
Lại nữa, có mười bốn môn để biện giải thích quyết trạch. Mười bốn môn là: 1. Nhiếp thích môn. 2. Nhiếp sự môn. 3. Tổng biệt phân môn. 4. Hậu hậu khai dẫn môn. 5. Già chỉ môn. 6. Chuyển biến tự môn. 7. Hoại bất hoại môn. 8. An lập súc thủ thú môn. 9. An lập sai khác môn. 10. Lý thú môn. 11. Biến tri đẳng môn. 12. Lực vô lực môn. 13. Biệt biệt dẫn môn. 14. Dẫn phát môn.
- Nhiếp thích môn: Hoặc ở chỗ đó giảng nói duyên khởi của các kinh, nên thứ lớp và ý hướng của cú nghĩa khó giải thích.
- Nhiếp sự môn: Hoặc ở chỗ đó căn cứ theo học sự, Thánh đế sự… mà giải thích các kinh, như nói: "Các điều ác chớ làm, các điều thiện vâng hành, khéo điều tự tâm, là lời Phật Thánh dạy". Già-tha nầy là nói theo ba học …
- Tổng biệt phân môn: Hoặc ở chỗ đó nói, trước là dùng một câu chung, sau đó dùng các câu khác để giải thích riêng biệt, như trong kinh thập Nhị Hạ Tổng Tập, trước nói: "Tự viên tịnh, tha viên tịnh", sau hai câu như thứ lớp của nó mà từng nhóm năm câu giải thích riêng như thế…
- Hậu hậu khai dẫn môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày có thể làm chỗ nương để khai dẫn các pháp sau, các pháp nầy thứ lớp như vậy mà nói, năm căn như tín… có thứ lớp trước sau, chắc chắn trước hết là tín thọ mới phát tinh tiến, đã phát tinh tiến rồi sau đó mới niệm trụ, đã niệm trụ rồi thì tâm được an định, tâm an định rồi mới như thật mà biết như thế…
- Già chỉ môn: Hoặc ở chỗ đó nói nương vào sự nầy mà ngăn dứt việc nầy, như trong kinh Cân Kha Dụ nói: "Dựa vào lậu tận mà ngăn dứt bốn thứ Bổ-đặc-già-la: 1. Xử chánh pháp ngoại. 2. Xử chánh pháp trung, chỉ đắc văn tư thì liền sinh hỷ túc. 3. Tâm sanh yếu đuối trong tu tuệ. 4. Tư lương chưa mãn. Bảo các Tỳ-kheo rằng: Ta biết, ta thấy, ta nói lậu tận". Như vậy một đoạn văn kinh ngăn dứt thứ nhất; người không siêng năng tinh tiến tu tập quán hạnh, là ngăn dứt thứ hai; nói thí dụ cân kha (lưỡi búa cán búa) là ngăn dứt thứ ba; nói thí dụ thuyền phiệt (thuyền bè) là ngăn dứt thứ tư.
- Chuyển biến tự môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày chuyển các tự nghĩa khác biến thành các nghĩa khác, như bất tín, bất tri ân… bài tụng sau sẽ nói.
- Hoại bất hoại môn: Hoặc ở chỗ đó nói thất hoại và bất thất hoại, hai phương tiện kia và hai sai khác kia, như kinh thiện sanh nói: "Thất hoại, là nhiễm chấp các sự nội y và ngoại y. Nội y sự lấy năm thủ uẩn làm tướng; ngoại y sự lấy gia trạch thê tử làm tướng. Bất thất hoại, là xa lìa hai thứ nhiễm chấp. Thất hoại phương tiện, là không xuất gia, hoặc tuy xuất gia nhưng hành buông lung, không đắc lậu tận, trái với bất thất hoại nên gọi là thất hoại phương tiện. Phật bảo thiện sinh: Nầy Tộc tánh tử, có hai thứ sự đều là tốt đẹp, hoặc rụng râu tóc, cho đến hướng về phi gia, hoặc tận các lậu cho đến tự xưng là người không thọ hậu hữu". Chánh nguyện bất thất hoại nầy và phương tiện bất thất hoại kia cùng hiển bày thất hoại và phương tiện thất hoại kia, vì trái với tướng nầy. Bất thất hoại sai khác, như trong tụng hiển bày, là các Tỳ-kheo, tốt đẹp, vắng lặng, lìa các lậu, đây là nói xuất gia và lậu tận. Để nói lậu tận nên nói các câu khác, nói lìa dục, lìa hệ phược, không chấp thọ Niết-bàn, gìn giữ thân sau rốt. Hàng phục bị ma sai sử, đây là nói do lìa dục của đạo thế gian, vì đạo xuất thế gian dứt hẳn thuận hạ phần kết, dứt hẳn thuận thượng phần kết, dứt hẳn nội y sự, các điều nầy thì nói lược nhân tận và quả tận, cũng cùng nói về thất hoại sai khác, vì trái với những điều nầy.-An lập sác thủ thú môn: Hoặc ở chỗ đó nói dựa vào chỗ Bổ-đặc-già-la nọ mà nói như vầy: "Như trong Kinh Thủy Dụ, nương vào hai sác thủ thú mà nói ba thứ sai khác và bốn thứ sai khác khác nhau". Hai thứ, là dị sinh và kiến đế dị sinh. Sai khác có ba thứ, là vô bạch pháp, thiểu bạch pháp và đa bạch pháp. Kiến đế sai khác có bốn thứ: a. Trụ bốn. b. Quả ba. c. Hữu học một. d. Vô học.
- An lập sai khác môn: Hoặc ở chỗ đó nói bốn câu (trường hợp)… để hỏi nghĩa, như kinh Vô thường nói: "Nếu người chánh quán thì tất cả là quán sắc hay nếu người quán sắc thì tất cả là chánh quán"? Phải chia làm bốn câu: Câu thứ nhất là đối với bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức không có điên đảo tăng ích thường, tịnh, lạc, ngã, cũng quán bốn pháp nầy là nên biết và nên dứt. Câu thứ hai, là đối với sắc uẩn có điên đảo tăng ích thường, tịnh, lạc, ngã, cũng quán bốn pháp nầy nên biết không nên dứt. Câu thứ ba, là đối với sắc uẩn không có điên đảo tăng ích thường, tịnh, lạc, ngã, cũng quán bốn pháp nầy là nên biết và nên dứt. Câu thứ tư, là đối với bốn uẩn thọ tưởng hành thức có điên đảo tăng ích thường, tịnh, lạc, ngã, cũng quán bốn pháp nầy là không nên biết và không nên dứt. Như nương theo sắc nêu bốn câu, như vậy nương theo thọ… tất cả xứ nên nói rộng cho đến nói: "Nếu việc phải làm đã làm xong, thì tất cả tự cho không thọ hậu hữu hay sao? Nếu người tự cho không thọ hậu hữu, việc phải làm đã làm xong ư? Điều nầy phải làm bốn câu. Câu thứ nhất, là chư dị sinh cho đến qua đời thường thường thực diệu hạnh. Câu thứ hai, là người đoạn kiến. Câu thứ ba, là Vô học. Câu thứ tư, là trừ các tướng trên.
- Lý thú môn: Hoặc ở chỗ đó nói nghĩa của sáu lý thú. Sáu lý thú là: 1. Chân nghĩa lý thú. 2. Chứng đắc lìa thú. 3. Giáo đạo lý thú. 4. Lìa hai bên lý thú. 5. Bất tư nghì lìa thú. 6. Ý lạc lý thú.
Sáu thứ như vậy ba thứ trước như thứ lớp phải tùy ba thứ sau mà hiểu rõ. Như trong kinh Ái vị nói: "Phật bảo các Tỳ-kheo! Đối với sắc hữu vị…" Cho đến nói rộng như trong kinh nầy hiển bày, là do xa lìa lý thú của hai bên tăng ích và tổn giảm nên chắc chắn hiểu rõ chân nghĩa lý thú, hữu vị, hữu hoạn, hữu xuất ly, là hiển lìa biên tổn giảm. Đối với sắc cho đến đối với thức, là hiển lìa biên tăng ích, vì hiển bày nhiễm ô và thanh tịnh chỉ dựa vào các uẩn mà không dựa vào ngã, cho đến bảo các Tỳ-kheo: "Ta tự chứng biết do chân nghĩa lý thú nầy, cho đến đã chứng giác chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng", là hiển bày do lý thú bất tư nghì mà chắc chắn chứng đắc lìa thú, đây là hiển chân chứng tự điều mà mình thọ bên trong. Như vậy tất cả kinh đều là lý thú giáo đạo, phải tùy lý ý lạc thú mà chắc chắn. Nói dựa vào sở biến tri sự, sở biến tri nghĩa, biến tri, biến tri quả, bỉ chứng thọ và ý lạc mà thuyết kinh nầy. Sở biến tri sự là sắc… Sở biến tri nghĩa là hữu vị… Do sai khác nơi nghĩa nầy mà biết khắp các sự sắc… Biến tri là đối với năm thủ uẩn do 3 chuyển như vậy mà như thật biến tri. Biến tri quả, là từ chư thiên, thế gian nầy, cho đến gồm cả thiên nhân đều đắc giải thoát, cho đến cực giải thoát. Bỉ chứng thọ là tự chứng biết ta đã chứng giác chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng.
- Biến tri Đẳng môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày dựa vào chân thật tướng mà nói nghĩa biết khắp tướng, nghĩa vĩnh dứt tướng, nghĩa tác chứng tướng, nghĩa tu tập tướng, tức là nghĩa phẩm loại sai khác tướng của các nghĩa chân thật tướng… này, có thể nương vào chỗ nương tương thuộc tướng nghĩa. Nghĩa chướng ngại pháp tướng của biến tri… nghĩa thuận theo pháp tướng của biến tri… đối với biến tri… và nghĩa đức tội tướng của biến tri… các pháp nầy cũng như kinh Ái vị nói rộng.
Tướng Chân thật, là tướng Khổ đế thuộc về thủ uẩn. Tướng Biến tri, là ngay ở hữu vị… này như thật mà biết.
Tướng dứt hẳn và tướng tác chứng là từ tất cả thế gian mà đắc giải thoát, vì dứt hẳn các chướng đắc chuyển y.
Tướng Tu tập, là lìa tâm điên đảo, thường tu tập trụ. Tướng Phẩm loại sai khác, là tướng chân thật, có năm thứ sai khác, là sắc cho đến thức.
Tướng Biến tri có ba thứ sai khác, là vị do vị cho đến xuất ly do xuất ly. Như thật biết vĩnh dứt tướng và tác chứng tướng đều có hai thứ sai khác, là giải thoát phiền não và giải thoát khổ. Từ đây chư thiên thế gian cho đến gồm cả thiên nhân đều đắc giải thoát, đây là hiển phiền não giải thoát, để nói nghĩa sai khác nầy, kế là nói xuất ly. Vì sao? Vì các kinh khác nói: "Xuất ly là thế nào? Hoặc ở chỗ đó tham dục diệt hẳn, tham dục dứt hẳn, vượt qua tham dục, như vậy do có thể sinh khổ phiền não ở vị lai được lìa trói buộc, thì khổ cũng giải thoát. Để hiển nghĩa sai khác nầy nên kế là nói ly hệ phược và cực giải thoát. Tu tập tướng có hai thứ sai khác là Kiến đạo và tu đạo. Lìa tâm điên đảo là hiển bày Kiến đạo. Thường tu tập trụ là hiển bày tu đạo. Năng y sở y là tướng tương thuộc, là hiển bày tướng chân thật, làm tánh chỗ nương của các pháp sau. Chướng ngại pháp tướng biến tri… là ba chuyển như vậy không biết như thật. Thuận theo pháp tướng như biến tri… là quán sát như chỗ an lập các tướng như vị… trong pháp của sắc… Đối với tội tướng của biến tri… là không giải thoát cho đến không chứng giác chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, trái với tướng nầy gọi là đối với công đức tướng của biến tri…
Lực vô lực môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày mỗi câu đều có công năng, hoặc không nói nghĩa của một câu tức là không hiểu rõ, như kinh Duyên Khởi nói: "Cái nầy có nên cái kia có, cái nầy sinh nên cái kia sinh, đã gọi là Vô minh duyên hành…". Như vậy mỗi câu đều có công năng, như trong tướng duyên khởi trước đã nói.
- Biệt biệt dẫn môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày, trước nêu một câu kinh, sau đó dùng vô lượng môn nghĩa mà giải thích rộng, như kinh nói: "Nếu Tỳ-kheo thành tựu sáu pháp, cũng có thể dùng miệng thổi gió bay nát núi chúa đại vương cao rộng, huống chi là thây chết vô minh. Sáu pháp là? Hoặc các Tỳ-kheo tâm sinh khéo léo cho đến phương tiện khéo léo. Làm thế nào Tỳ-kheo tâm sinh khéo léo? Điều gọi là Tỳ-kheo lìa dục, pháp ác bất thiện cho đến tĩnh lự thứ tư đầy đủ trụ, như vậy là Tỳ-kheo tâm sinh khéo léo. Thế nào là Tỳ-kheo tâm trụ khéo léo? Điều gọi là Tỳ-kheo khéo tu tập, tất cả thuận thoái phần vắng lặng chuyển thành thuận trụ phần, như vậy là Tỳ-kheo tâm trụ khéo léo. Thế nào là Tỳ-kheo tâm khởi khéo léo? Cái gọi là Tỳ-kheo khéo tu tập, tất cả thuận trụ phần vắng lặng chuyển thành thuận phần thắng tiến, như vậy là Tỳ-kheo tâm khởi khéo léo. Thế nào là Tỳ-kheo sinh trưởng khéo léo? Điều gọi là Tỳ-kheo chưa sinh pháp thiện thì tạo phương tiện khiến cho sinh, cho đến nói rộng hai chánh đoạn, như vậy là Tỳ-kheo sinh trưởng khéo léo. Thế nào là Tỳ-kheo tổn giảm khéo léo? Điều gọi là Tỳ-kheo đã sinh pháp ác tạo phương tiện khiến cho dứt, cho đến nói rộng hai chánh đoạn, như vậy là Tỳ-kheo tổn giảm khéo léo. Thế nào là Tỳ-kheo phương tiện khéo léo? Cái gọi là Tỳ-kheo muốn Tam-ma-địa, đoạn hành thành tựu tu như ý túc, cho đến nói rộng bốn như ý túc, như vậy là Tỳ-kheo phương tiện khéo léo.
- Dẫn phát môn: Hoặc ở chỗ đó hiển bày trong mỗi câu nói bốn câu, là mỗi một câu chia làm bốn câu, như vậy xoay vần dẫn phát vô biên, như dẫn kinh Phật rằng: "Các Bồ-tát có bốn thứ pháp tịnh tu Bồ-đề: 1. Khéo tu không tánh. 2. Đối với các chúng sinh tâm không có trở ngại. 3. Thường thâu nhiếp lợi ích của các chúng Bồ-tát. 4. Dùng tâm vô nhiễm rộng khai pháp thí. Bốn pháp như vậy đối với môn tự lợi lợi tha mà tịnh tu Bồ-đề, vì muốn đối trị bốn thứ chướng cần đối trị. Bốn chướng là: 1. Tham đắm định vị. 2. Sân hận. 3. Mạn. 4. Yêu đắm lợi dưỡng.
Lại có sai khác, tham đắm vị định là nói dứt phiền não đối trị, ba thứ còn lại là nói xa lìa thừa thấp kém, vì ba thứ nhân duyên của các Bồ-tát xa lìa thừa thấp kém: 1. Nhiếp thọ tất cả hữu tình. 2. Người đã nhập pháp thì giúp cho thành thục. 3. Người chưa nhập pháp thì giúp cho nhập chánh pháp.
Lại có sai khác, tham đắm vị định là nói trí tư lương, ba thứ còn lại là nói phước tư lương, ba thứ sai khác nầy là nhiếp thọ thành thục khiến nhập ba môn, đều có thể sinh trưởng phước phẩm cao quý.
Lại nữa, do hai duyên sai khác: 1. Do ý lạc, là do tâm từ đồng thời hiện hành. 2. Do chánh hạnh, là hai hạnh thuyết giáo và chứng giáo.
Lại nữa, các Bồ-tát thành tựu bốn pháp có thể tu tánh không: 1. Đối với nội tâm không lay động. 2. Sự duy trì của năng lực tín, hiểu chọn lựa. 3. Đối với tất cả pháp thông đạt như thật. 4. Giải thoát tất cả chướng. Bốn pháp Như vậy là hiển chỗ nương của tu và tu sai khác. Lấy gì để làm chỗ nương? Lấy Tĩnh lự Ba-la-mật-đa. Thế nào là tu sai khác? Có ba thứ: 1. Do dị sinh đạo. 2. Do học đạo. 3. Do đạo Vô học. Do ba thứ nầy mà thoát tất cả chướng. Lại nữa, các Bồ-tát thành tựu bốn pháp, đối với các hữu tình tâm không quái ngại: 1. Tu tâm từ. 2. Không hủy chánh hạnh. 3. không phân biệt tướng. 4. Chịu đựng khó nhọc. Như vậy bốn pháp hiển bày chỗ nương và tâm sai khác không trở ngại. Pháp nào làm chỗ nương? Là sự tu từ của đời quá khứ. Thế nào là tâm sai khác không chướng ngại? Là đối với trụ tà hạnh tâm không chống trái hủy phạm, đối với kẻ thù không phân biệt oan thân, vì lợi ích cho người mà tinh tiến không biếng nhác. Lại nữa, các Bồ-tát thành tựu bốn pháp thường có thể thâu nhiếp lợi ích của các chúng Bồ-tát: 1. Không tự xứng lượng.
2. Chánh giáo hối chuyển. 3. Nhu hòa dễ có thể ở chung. 4. Siêng năng hầu hạ cúng dường. Bốn pháp như vậy nói về chỗ nương và thâu nhiếp lợi ích sai khác. Thế nào là chỗ nương? Là điều phục kiêu mạn.
Hỏi: Thế nào là thâu nhiếp lợi ích sai khác?
Đáp: Là ba câu nói ở sau, đối với ba loại Bồ-tát kém, bằng, hơn như thứ lớp. Lại nữa, các Bồ-tát thành tựu bốn pháp, có thể không có tâm nhiễm, rộng mở pháp thí: 1. Khéo đạt chướng nạn. 2. Khéo có thể dứt trừ ngu si chìm đắm. 3. Vui mừng nhiếp thọ. 4. Ái lạc làm pháp nương tựa. Bốn pháp Như vậy nói lên chỗ nương và rộng khai pháp thí sai khác. Thế nào là chỗ nương? Khéo thông đạt lợi dưỡng cung kính là chướng nạn pháp. Thế nào là rộng khai pháp thí sai khác? Là thị hiện dạy bảo, khuyến khích, chúc mừng. Thị hiện, là đối với ngu si chìm đắm. Dạy bảo khuyến khích, là đối với người mê nhiễm buông lung, tự khinh khi thấp kém. Chúc mừng, là đối với chánh hạnh tròn đầy, vì tánh ái lạc pháp. Như vậy trong bốn câu trước, mỗi câu lại dẫn bốn câu sai khác, như vậy gọi là dẫn phát môn.
3. Phân biệt hiển bày quyết trạch: Là như trong các pháp như uẩn… đã nói tùy nơi thích ứng của nó mà làm một hàng thuận với câu trước, thuận câu sau, hai câu, ba câu, bốn câu, câu có thể thuật, câu ngăn dứt, v.v...
Một hàng: Tức là pháp vấn luận, là dùng một pháp nầy cùng với pháp khác, mỗi pháp lẫn nhau hỏi rồi, trừ bỏ pháp nầy, lại dùng pháp thứ hai cùng với pháp khác hỏi lẫn nhau, như vậy mỗi câu mà hỏi tất cả pháp. Như có người hỏi: "Nếu thành tựu nhãn xứ thì cũng là sắc xứ phải chăng?" Nếu là thành tựu sắc xứ thì cũng là nhãn xứ chăng?" Câu nầy nêu đáp thuận với câu trước. "Nếu là thành tựu nhãn xứ thì cũng là nhĩ xứ chăng?" Câu nầy phải đáp bốn câu mà đáp, như vậy cho đến đối với ý xứ phải nói như lý. "Nếu là thành tựu nhãn xứ thì cũng là pháp xứ phải chăng?" Câu nầy cũng phải đáp thuận với câu trước. "Nếu là thành tựu sắc xứ thì cũng là nhãn xứ phải không, nếu là thành tựu nhãn xứ thì cũng là sắc xứ chăng"? Câu nầy phải đáp thuận với câu sau. "Nếu thành tựu sắc xứ thì cũng là nhĩ xứ phải chăng"? Câu nầy cũng phải thuận với câu sau, như vậy cho đến đối với pháp xứ phải như lý mà nói. "Nếu là thành tựu nhĩ xứ thì cũng là nhãn xứ phải chăng"? Câu nầy phải đáp bốn câu, như vậy cho đến đối với pháp xứ phải như lý mà nói. Như vậy từng câu thứ lớp giảm dần, các xứ phải lẫn nhau như lý mà nói.
Thuận với câu trước: Là trong các pháp hễ dùng bất cứ hai pháp nào để hỏi nhau, dựa vào pháp trước mà đáp câu đã hỏi. Như có người hỏi: "Nếu là trí thì cũng là sở tri phải chăng, nếu là sở tri thì cũng là trí chăng"? Câu nầy phải làm thuận với câu trước mà đáp, các trí cũng là sở tri, có sở tri không phải trí, là các pháp khác.
Thuận với câu sau, tức là hai pháp xoay vần hỏi nhau, dựa vào pháp sau để đáp câu đã hỏi. Như có người hỏi: "Nếu là sở thủ thì cũng là năng thủ chăng, nếu là năng thủ thì cũng là sở thủ phải chăng"? Câu nầy phải đáp thuận với câu sau. Các năng thủ cũng là sở thủ, có sở thủ không phải năng thủ, là năm cảnh của sắc và pháp xứ. Trừ tương ưng câu hai, là đối với đã hỏi phải đáp hai câu, không được có thừa, như có pháp dựa vào uẩn lập ra, dựa vào giới lập ra mà phát hỏi: "Nếu là uẩn số thì cũng là giới số phải chăng, nếu là giới số thì cũng là uẩn số phải chăng"? Câu nầy phải đáp hai câu, hoặc có khi uẩn số không phải giới số, mà là sắc uẩn và thức uẩn. Vì sao? Vì không có một giới nào hoàn toàn thâu nhiếp tướng của sắc uẩn, hoặc hoàn toàn thâu nhiếp thức uẩn, hoặc giới số chẳng phải uẩn số mà là pháp giới.
Ba câu: Là đối với câu đã hỏi chỉ có ba câu đáp. Như có người hỏi: "Nếu là uẩn số thì cũng là xứ số chăng, nếu là xứ số thì cũng là uẩn số chăng"? Câu nầy phải đáp ba câu, hoặc uẩn số không phải xứ số, mà là sắc uẩn; hoặc xứ số chẳng phải uẩn số, mà là pháp xứ, hoặc uẩn số cũng là xứ số, mà là thức uẩn và ý xứ. Đều chẳng phải số, là trong uẩn xứ chắc chắn không có.
Bốn câu: Là đối với câu đã hỏi có bốn câu để đáp. Như có người hỏi: "Nếu thành tựu nhãn căn thì cũng là nhĩ căn phải chăng, nếu thành tựu nhĩ căn thì cũng thành tựu nhãn căn phải chăng"? Phải đáp bằng bốn câu để đáp. Câu thứ nhất, là nhãn căn của người điếc đã sinh rồi thì không xả. Câu thứ hai, nhĩ căn của người mù đã sinh thì không xả.
Câu thứ ba, nhãn nhĩ căn đã sinh rồi thì không xả. Câu thứ tư, trừ các tướng trên.
Câu có thể thuật: Là đối với câu đã hỏi thì thuận như vậy mà đáp, vì những lời tường thuật như vậy thích đáng với đã hỏi, như có người hỏi: "Các Vô thường đều là hành phải chăng, nếu đang là hành thì đều là Vô thường phải chăng"? Phải tường thuật thích đáng mà đáp câu đã hỏi như vậy.
Câu ngăn dứt: Là đối với câu hỏi không như vậy mà đáp, vì không phải câu nói như vậy mà ngăn dứt câu đã hỏi, như có người hỏi: "Ngoài uẩn ra, các hành có bao nhiêu đế thâu nhiếp"? Phải ngăn dứt mà đáp, vì ngoài uẩn ra thì không có hành.
4. Đẳng luận quyết trạch: Là dựa vào tám chữ hà (nào, gì, sao, đâu, bao nhiêu) tám chữ nhược (hoặc, nếu, như), để hỏi đáp quyết trạch tất cả chân giả. Tám chữ hà, như hỏi:
Người nào Vô sở đắc? Là Bồ-tát Ma-ha-tát đã đắc Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Chỗ nào Vô sở đắc? Là sở thủ tướng sở thủ và tướng năng thủ. Dùng pháp gì Vô sở đắc? Là dùng Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Vì sao Vô sở đắc? Vì cứu thoát tất cả hữu tình khiến trụ trong Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng.
Do đâu Vô sở đắc? Là do gặp Phật xuất thế nghe chánh pháp, tác ý như lý pháp tùy pháp hành.
Vô sở đắc của cái gì? Là Vô sở đắc của tất cả pháp. Cái nào Vô sở đắc? Là tại địa thắng giải hạnh cho đến địa Bồ-tát thứ mười.
Bao nhiêu Vô sở đắc? Là mười một thứ: 1. Đã sinh đã diệt. 2. Chưa sinh. 3. Hiện tiền. 4. Nhân lực sinh ra. 5. Năng lực bạn lành sinh ra. 6. Nhất thiết pháp Vô sở đắc. 7. Không tánh Vô sở đắc. 8. Hữu ngã mạn. 9. Vô ngã mạn. 10. Vị cụ tư lương. 11. Dĩ cụ tư lương. Mười một Vô sở đắc như vậy, tùy sự có quá khứ vị lai hiện tại, hoặc nội hoặc ngoại, hoặc thô hoặc tế, hoặc kém hoặc hơn, hoặc xa hoặc gần, phải biết thứ lớp.
Như chữ hà, tám chữ nhược cũng vậy, nói rằng:
Hoặc năng Vô sở đắc.
Hoặc sở Vô sở đắc.
Hoặc dụng Vô sở đắc.
Hoặc vì Vô sở đắc.
Hoặc do Vô sở đắc.
Hoặc Vô sở đắc kia.
Như đối với Vô sở đắc.
Như chỗ Vô sở đắc nọ.
Như vậy phải biết hết tất cả xứ. Lại có bốn thứ đạo lý của đẳng luận quyết trạch: 1. Năng phá. 2. Năng lập. 3. Năng đoạn. 4. Năng giác. Năng phá, là ngăn phá Tông kẻ khác: "Đó là thuyết ác, chẳng phải sự thiện". Năng lập, là lập ra Tông mình: "Đây là thuyết thiện, đúng là việc thiện ". Năng đoạn, là có thể chắc chắn các mà kẻ khác sinh nghi. Năng giác, là khai hiểu ngu tình khiến cho hiểu diệu nghĩa.
Lại có năm thứ đạo lý của đẳng luận quyết trạch, là như bài tụng nói:
Tự tánh, sở y, thức,
Thanh tịnh phương tiện thảy,
Năm đạo đều có sáu,
Quán các pháp sở tri.
Năm đạo lý đẳng luận quyết trạch là: 1. Tự tánh. 2. Chỗ nương. 3. Thức. 4. Thanh tịnh. 5. Phương tiện. Mỗi mỗi có sáu loại.
- Tự tánh có sáu thứ: 1. Tự tánh. 2. Nhân. 3. Cảnh giới. 4. Hành tướng. 5. Đẳng vô gián. 6. Tăng thượng.
- Chỗ nương có sáu thứ: 1. Chỗ nương. 2. Dựa. 3. Thâu nhiếp. 4. Tương ưng. 5. Thành tựu. 6. Tạp nhiễm.
Thức có sáu thứ: 1. Thức. 2. Thọ. 3. Tưởng. 4. Tác ý. 5. Trí. 6. Biến tri.
- Thanh tịnh có sáu thứ: 1. Thanh tịnh. 2. Từ chữ 3. Ra khỏi. 4. Sâu xa. 5. Môn giải thoát. 6. Nhập tất cả pháp.
- Phương tiện có sáu thứ: 1. Phương tiện. 2. Thông đạt. 3. Tu. 4. Viên chứng. 5. Rốt ráo. 6. Dẫn phát.
+ Tự tánh có bốn thứ: 1. Thật tự tánh. 2. Giả tự tánh.
3. Thế tục tự tánh. 4. Nghĩa tự tánh.
+ Nhân có bốn thứ: 1. Sinh nhân. 2. Thành nhân. 3. Chuyển nhân. 4. Hoàn nhân.
+ Cảnh giới có bảy thứ: 1. Cảnh hữu tướng. 2. Cảnh hữu phân biệt. 3. Cảnh đối trị. 4. Cảnh an trụ. 5. Cảnh tăng ích. 6. Cảnh tổn giảm. 7. Cảnh tự tại.
+ Hành tướng có năm thứ: 1. Phân tích hành tướng. 2. Sai khác hành tướng. 3. Chánh giải hành tướng. 4. Quán sát hành tướng. 5. Tác tùy tác hành tướng.
+ Đẳng vô gián có chín thứ: 1. Tự loại Đẳng vô gián. 2. Dị loại Đẳng vô gián. 3. Tam-ma-bát-để Đẳng vô gián. 4. Thoái Đẳng vô gián.
5. Sinh Đẳng vô gián. 6. Lân thứ (gần thứ lớp) Đẳng vô gián. 7. Cách việt Đẳng vô gián. 8. Khởi Đẳng vô gián. 9. Diệt Đẳng vô gián.
+ Tăng thượng có bảy thứ: 1. Thủ tăng thượng. 2. Sinh tăng thượng. 3. Trụ tăng thượng. 4. Thọ dụng tạp nhiễm tăng thượng. 5. Thanh tịnh tăng thượng. 6. Ruộng tăng thượng. 7. Chấp thọ tăng thượng.
+ Sở y (chỗ nương) có tám thứ: 1. Giới sở y. 2. Thú sở y. 3. Cồn bãi sở y. 4. Xóm làng sở y. 5. Bổ-đặc-giàla sở y. 6. Vô bệnh sở y. 7. Thi-la sở y. 8. Trang nghiêm sở y.
+ Y (nương tựa) có năm thứ: 1. Chúng cụ y. 2. Thiện hữu y. 3. Pháp y. 4. Tác ý y. 5. Tam-ma-bát-để y.
+ Nhiếp (thâu nhiếp) có mười một thứ: 1. Giới thâu nhiếp. 2. Tướng thâu nhiếp. 3. Chủng loại thâu nhiếp. 4. Phần vị thâu nhiếp. 5. Trợ giúp thâu nhiếp. 6. Thời thâu nhiếp. 7. Phương thâu nhiếp. 8. Cụ phần thâu nhiếp. 9. Nhất phần thâu nhiếp. 10. Cánh hỗ thâu nhiếp. 11. Thắng nghĩa thâu nhiếp.
+ Tương ưng có mười thứ: 1. Tha tánh tương ưng. 2. Bất tương vi tương ưng. 3. Biến hành tương ưng. 4. Bất biến hành tương ưng. 5. Sở trị tương ưng. 6. Năng đối trị tương ưng. 7. Tằng tập tương ưng. 8. Vị tằng tập tương ưng. 9. Thấp kém tương ưng. 10. Rộng lớn tương ưng.
+ Thành tựu có ba thứ: 1. Hạt giống thành tựu. 2. Tự tại thành tựu. 3. Hiện hành thành tựu.
+ Tạp nhiễm có bốn thứ: 1. Phiền não tạp nhiễm. 2. Nghiệp tạp nhiễm. 3. Sinh tạp nhiễm. 4. Chướng tạp nhiễm.
+ Thức có sáu thứ: 1. Nhãn. 2. Nhĩ. 3. Tỷ. 4. Thiệt. 5. Thân. 6. Ý thức.
+ Thọ có ba thứ: 1. Khổ thọ. 2. Lạc thọ. 3. Bất khổ bất lạc thọ.
+ Tưởng có hai mươi thứ: 1. Vô thường tưởng. 2. Vô thường khổ tưởng. 3 Khổ vô ngã tưởng. 4. Yếm lìa thực tưởng. 5. Nhất thiết thế gian bất khả lạc tưởng. 6. Quá hoạn tưởng. 7. Đoạn tưởng. 8. Lìa dục tưởng. 9. Diệt tưởng. 10. Tử tưởng. 11. Tưởng bất tịnh. 12. Tưởng sanh bầm. 13. tưởng nát vữa 14. Phá hoại tưởng. 15. Tưởng Bành trướng. 16. Tưởng Thực đạm. 17. Tưởng Huyết đồ. 18. Tưởng Lìa tán. 19. Tưởng Cốt toả. 20. Tưởng Không quán.
+ Tác ý có bảy thứ: 1. Tác ý liễu tướng. 2. Tác ý thắng giải. 3. Tác ý xa lìa. 4. Tác ý thâu nhiếp lạc. 5. Tác ý quán sát. 6. Tác ý phương tiện rốt ráo. 7. Tác ý phương tiện quả rốt ráo.
+ Trí có mười thứ: 1. Pháp trí. 2. Loại trí. 3. Thế tục trí. 4. Tha tâm trí. 5. Khổ trí. 6. Tập trí. 7. Diệt trí. 8. Đạo trí. 9. Tận trí. 10. Vô sinh trí.
+ Biến tri có chín thứ: 1. Dục hệ kiến khổ tập sở đoạn đoạn biến tri. 2. Sắc Vô Sắc hệ kiến khổ tập sở đoạn đoạn biến tri. 3. Dục hệ kiến diệt sở đoạn đoạn biến tri. 4. Sắc Vô Sắc hệ kiến diệt sở đoạn đoạn biến tri. 5. Dục hệ Kiến đạo sở đoạn đoạn biến tri. 6. Sắc Vô Sắc hệ Kiến đạo sở đoạn đoạn biến tri. 7. Thuận hạ phần kiết đoạn biến tri. 8. Sắc ái tận biến tri. 9. Vô Sắc ái tận biến tri.
+ Thanh tịnh có bảy thứ: 1. Giới thanh tịnh. 2. Tâm thanh tịnh. 3. Kiến thanh tịnh. 4. Độ nghi thanh tịnh. 5. Đạo thanh tịnh. 6. Phi đạo trí kiến thanh tịnh. 7. Hạnh đoạn trí kiến thanh tịnh.
+ Từ (chữ) có tám thứ, là 8 chữ hà (và 8 chữ nhược)
+ Xuất ly có sáu thứ: 1. Thế gian xuất ly. 2. Thanh văn xuất ly. 3. Độc giác xuất ly. 4. Đại thừa xuất ly. 5. Bất tất cánh xuất ly. 6. Tất cánh xuất ly.
+ Sâu xa vi diệu có mười thứ: 1. Tướng sâu xa. 2. Tạp nhiễm sâu xa. 3. Thanh tịnh sâu xa. 4. Duyên khởi sâu xa. 5. Nghiệp sâu xa. 6. Trí sâu xa. 7. Sinh sâu xa. 8. Bồ-đề sâu xa. 9. Phật sâu xa. 10. Giáo sâu xa.
+ Giải thoát có ba thứ: 1. Không. 2. Vô nguyện. 3. Vô tướng.
+ Nhập nhất thiết pháp có tám thứ: 1. Dục làm căn bản của tất cả pháp. 2. Sự sinh bởi tác ý. 3. Sự tập khởi do xúc. 4. Sự dẫn dắt của thọ. 5. Định làm thượng thủ. 6. Tuệ làm tối thắng. 7. Giải thoát làm vững chắc. 8. Xuất ly làm hậu biên.
+ Phương tiện có bảy thứ: 1. Nhậm trì phương tiện. 2. Du-già phương tiện. 3. Tướng phương tiện. 4. Quyết trạch phương tiện. 5. Cách việt phương tiện. 6. Lân thứ phương tiện. 7. Lân thứ cách việt phương tiện.
+ Thông đạt có năm thứ: 1. Hữu tướng văn tự thông đạt. 2. Sở nhiếp năng nhiếp thông đạt. 3. Trì thông đạt. 4. Tốc thông đạt. 5. Pháp tánh thông đạt.
+ Tu có bốn thứ: 1. Đắc tu. 2. Tập tu. 3. Trừ khử tu. 4. Đối trị tu.
+ Viên chứng có bốn thứ: 1. Quả viên chứng. 2. Lìa dục viên chứng. 3. Căn mãn túc viên chứng. 4. Công đức viên chứng.
+ Rốt ráo có sáu thứ: 1. Trí rốt ráo. 2. Dứt rốt ráo. 3. Tất cánh rốt ráo. 4. Bất tất cánh rốt ráo. 5. Thấp kém rốt ráo. 6. Rộng lớn rốt ráo.
+ Dẫn phát có hai mươi thứ, là vô lượng dẫn cho đến Nhất thiết chủng diệu trí dẫn phát.
PHẦN QUYẾT TRẠCH
Tánh Giả tự: Là các pháp giả có tánh.
Tự tánh Thế tục: Là các pháp thế tục có tánh.
Thắng nghĩa tự tánh: Là các pháp thắng nghĩa có tánh. Sinh nhân: Là bốn duyên như nhân.
Thành nhân: Là ba lượng: 1. Hiện lượng. 2. Tỷ lượng. 3. Thanh lượng.
Chuyển nhân: Là thuận duyên khởi. Hoàn nhân: Là nghịch duyên khởi.
Cảnh hữu tướng: Là sở duyên sắc, thanh… trong năm cảnh của nhãn, nhĩ… trong năm thức, vì duyên sở sinh nầy thì chỉ có tướng vô phân biệt.
Cảnh hữu phân biệt: Là cảnh sở duyên của ý thức, vì duyên cảnh nầy thì có phân biệt sinh.
Cảnh đối trị: Là duyên cảnh nầy thì buông bỏ tạp nhiễm, vì có thể đối trị.
Cảnh an trụ: Là duyên cảnh nầy thì có thể sinh lên cõi phạm thiên, là chỗ trụ của các bậc thánh.
Cảnh tăng ích: Là duyên cảnh nầy thì có thể chuyển thắng tiến, vì là nhân tăng thắng.
Cảnh tổn giảm: Là duyên cảnh nầy thì có thể nhập định Vô Tưởng, định Diệt tận, vì là nhân tâm tâm pháp.
Cảnh tự tại: Là duyên cảnh nầy thì phát khởi công đức thắng phẩm như thần thông… vì là nhân của tự tại.
Phân tích hành tướng: Là các thứ phẩm loại phân tích các pháp, như hữu sắc, Vô Sắc, hữu kiến vô kiến…
Sai khác hành tướng: Là nghĩa các pháp sai khác, như nhất tín tướng, hoặc gọi là tâm tịnh, hoặc gọi là hỷ lạc, hoặc gọi là nhẫn khả.
Chánh giải hành tướng: Là dùng các thứ cảnh của sở duyên của hành tướng chánh giải, như phân biệt rõ hành tướng gọi là thức, chấp lấy ảnh tượng hành tướng gọi là tưởng, lãnh nạp hành tướng thì gọi là thọ, như thế v.v...
Quán sát hành tướng: Là mười sáu hành, tức là nhân như Vô thường… nhân… bốn hành như diệt… bốn hành, đạo… Hoặc thế tục có sáu hành: 1. Thô hành. 2. Chướng hành. 3. Khổ hành. 4. Tĩnh hành. 5. Diệu hành. 6. Ly hành.
Tác tùy tác hành tướng: Là làm việc phải làm xong rồi thì lại theo đó mà làm, như từ hạnh thiện nầy đã được thủ hộ rồi, trở lại tùy theo đó mà thủ hộ các hành khác.
Tự loại Đẳng vô gián: Là tham vô gián trở lại sinh tham. Sân… cũng vậy, đều có chủng loại riêng v.v… vô gián mà sinh.
Dị loại Đẳng vô gián: Là tham vô gián mà sinh sân…, cõi Dục vô gián mà cõi Sắc sinh, cõi Sắc vô gián mà cõi Vô Sắc sinh.
Tam-ma-bát-để Đẳng vô gián: Là tướng vô gián của Tam-ma-bát-để sinh, như thiện vô gián cõi Dục nhập Sơ tĩnh lự, Sơ Tĩnh lự vô gián lại sinh cõi Dục. Như vậy đối với tĩnh lự thứ hai và định Vô Sắc, như lý mà biết.
Thoái Đẳng vô gián: Là từ tĩnh lự… khi thoái lui thì sự sinh khởi vô gián.
Sinh Đẳng vô gián: Là khi thọ sinh thì sự sinh vô gián, như từ cõi Dục vô gián sinh cõi Sắc.
Lân thứ Đẳng vô gián: Là các tâm tâm pháp vô gián thứ lớp mà sinh, trong khoảng giữa đó tâm không có đoạn dứt.
Cách việt Đẳng vô gián: Là khi khởi các Định Diệt… thì các tâm tâm pháp sinh trước đối với các tâm tâm pháp sinh sau, trung gian có cách nhau.
Khởi Đẳng vô gián: Là nếu pháp nầy vô gián thì pháp kia thứ lớp sinh.
Diệt Đẳng vô gián: Là nếu pháp nầy vô gián thì pháp kia thứ lớp diệt. Như vậy tâm tâm pháp vô gián diệt rồi, thì hoặc nhập định Diệt tận, hoặc nhập định Vô tưởng, hoặc là nhập Niết-bàn giới vô dư.
Thủ tăng thượng: Là các căn như nhãn căn… đối với cảnh giới năng thủ, vì có năng lực tăng thượng.
Sinh tăng thượng: Là nam nữ căn mong thai nghén, vì có lực tăng thượng.
Trụ tăng thượng: Là mạng căn đối với thân… trụ, vì có lực tăng thượng.
Thọ dụng tạp nhiễm tăng thượng: Là năm thọ căn mong được thọ dụng, vì có lực tăng thượng, lại cũng bị các tùy miên như tham… là bị tùy miên của lạc tham, bị tùy miên khổ sân, bị tùy miên bất khổ bất lạc theo đuổi.
Thanh tịnh tăng thượng: Là năm căn như tín…, ba căn như vị tri dục tri… đối với pháp thanh tịnh của thế gian và xuất thế gian, vì có lực tăng thượng.
Ruộng tăng thượng: Là cộng nghiệp mong khí thế gian sinh, có năng lực tăng thượng.
Chấp thọ tăng thượng: Là bốn đại chủng đối với sắc sở tạo. Chỗ nương của giới: Là sự thâu nhiếp thân của cõi Dục.
Chỗ nương của cõi: Là sự thâu nhiếp thân của năm đường. Chỗ nương của cồn bãi: Là Thiệm Bộ Châu.
Chỗ nương của xón làng: Là nếu nương xóm làng nầy mà có, tức là dùng xóm làng nầy là chỗ nương.
Chỗ nương của Bổ-đặc-già-la: Là nếu y Bổ-đặc-giàla nầy mà có, tức là dùng Bổ-đặc-già-la nầy làm chỗ nương.
Chỗ nương của vô bịnh: Là nếu y vô bịnh mà có, tức là dùng vô bịnh nầy làm chỗ nương.
Chỗ nương của thi-la: Là nếu y Thi-la nầy mà có, tức là dùng Thi-la nầy làm chỗ nương.
Chỗ nương của trang nghiêm: Là nếu y công đức trang nghiêm của các Sa-môn kia mà sinh, tức là dùng trang nghiệm kia làm chỗ nương.
Chúng cụ y: Là bốn y, tức là y phục…
Thiện hữu y: Là nếu dựa vào thiện nầy mà sinh khởi. Pháp y: Là mười hai phần giáo, tức là khế kinh, ứng tụng… Tác ý y: Là bảy thứ tác ý, tức là tác ý liễu tướng. Tam-ma-bát-để y: Là bảy thứ nương vào định, như trong kinh nói: "Ta nói nương vào Sơ Tĩnh lự có thể dứt hết các lậu, cho đến nương vào Vô sở hữu xứ cũng vậy". Giới thâu nhiếp: Là hạt giống của các giới, vì hạt giống nầy có thể thâu nhiếp chủng sở sinh pháp.
Tướng thâu nhiếp: Là tự tướng của các pháp trở lại có khả năng tự thâu nhiếp.
Chủng loại thâu nhiếp, là căn cứ theo sắc chủng loại có mười sắc xứ, sự thâu nhiếp của sắc uẩn.
Phần vị thâu nhiếp: Là thuận sự thâu nhiếp phần vị của lạc thọ.
Trợ giúp thâu nhiếp: Là sắc, sự thâu nhiếp của năm uẩn, vì sắc là quyến thuộc của năm uẩn.
Thời thâu nhiếp: Là quá khứ… Thâu nhiếp quá khứ…
Phương thâu nhiếp: Là tất cả uẩn… ở phương nầy thì thuộc về phương nầy.
Cụ phần thâu nhiếp: Là các sắc của Dục giới lậu, Sắc giới lậu và Vô Sắc giới lậu thâu nhiếp tất cả sắc.
Nhất phần thâu nhiếp: Là nhãn căn thâu nhiếp sắc uẩn… Cách thâu nhiếp: Là Uẩn Giới Xứ thâu nhiếp lẫn nhau.
Thắng nghĩa thâu nhiếp, các pháp: Là thuộc về của Vô thường, khổ, bất tịnh, không, vô ngã, Chân như.
Tha tánh tương ưng: Là tương ưng với tha tánh không phải tánh của chính mình.
Bất tương vi tương ưng: Là tuy tương ưng với tha tánh, nhưng không trái nhau chẳng phải trái nhau, như tham và sân, như lạc và khổ, như thế, v.v…
Biến hành tương ưng: Là xúc, thọ, tưởng, tư và tác ý đối với tất cả tâm. Vô minh, ngã mạn, ngã ái, Tát-cada kiến, bốn phiền não nầy đối với ý nhiễm ô.
Bất biến hành tương ưng: Là trừ các tham… tín… của biến hành ra.
Sở trị tương ưng: Là các phiền não tương ưng lẫn nhau.
Năng trị tương ưng: Là thuộc về đạo đối trị pháp thiện tương ưng lẫn nhau.
Tằng tập tương ưng: Là trừ pháp xuất thế gian và pháp sở đắc sau khi xuất thế gian, còn lại là pháp tương ưng đã từng tập.
Vị tằng tập tương ưng: Là trừ các pháp tương ưng ở trước.
Thấp kém tương ưng: Là các pháp tương ưng thuộc về thừa Thanh văn Độc giác.
Rộng lớn tương ưng: Là tất cả pháp tương ưng của Chư Phật Bồ-tát, thành tựu thức tạp nhiễm… cho đến bảy thứ thanh tịnh, đã nói tướng của nó rồi, không giải thích lại nữa.
Tám chữ hà: 1. Tin người nào. 2. Tin chỗ nào. 3. Dùng pháp nào để tin. 4. Vì sao tin. 5. Do đâu tin. 6. Tin của cái gì. 7. Ở đâu tin. 8. Bao nhiêu, mấy.
Tám câu chữ nhược: 1. Hoặc năng tín. 2. Hoặc sở tín. 3. Nếu dùng tín. 4. Hoặc vì tín. 5. Nếu do tín. 6. Như tín kia. 7. Như đối với tín. 8. Như đã tín nọ. Vô lượng pháp môn như vậy đều có tám thứ.
Bất tất cánh xuất ly: Là do đạo thế gian.
Tất cánh xuất ly: Là do đạo xuất thế gian. Bốn thứ trước dễ hiểu nên không giải thích lại.
Tướng sâu xa: Là ba tự tánh.
Tạp nhiễm sâu xa, là Chân như làm sao nhiễm được mà nói không nhiễm?
Thanh tịnh sâu xa: Tức là Chân như làm sao tịnh được mà nói không tịnh?
Duyên khởi sâu xa: Là không có pháp nào đối với đã sinh khởi mà có tác dụng thật, nhưng các pháp kia, các thứ sinh khởi, như vậy cũng thật ra không có ngã mà tự ngã hiển hiện.
Nghiệp sâu xa: Là có nghiệp, có quả báo nhưng tác giả thì không thật có.
Trí sâu xa: Là trí Vô phân biệt. Vì sao trí nầy không có phân biệt mà có thể quán tánh Chân như một cách rõ ràng? Sinh sâu xa là các Bồ-tát không do năng lực của nghiệp phiền não mà thị hiện thọ sinh.
Bồ-đề sâu xa: Là trong vô lậu giới, Bồ-đề của các Phật không thể lập ra, là sở chứng của nhất tánh vô lượng nối tiếp, nên không thể lập ra các thứ tánh, vì chỗ nương không có sai khác.
Chư Phật sâu xa: Là trong một hội đại tập, có vô lượng vô biên chủng loại thân chủng loại ý lạc của các Phật Thế Tôn, nhưng không cho có sự sai khác giữa tự và tha. Lại nữa, hóa thân Phật không trụ ở tướng Phật, nhưng có thể tạo tác các thứ Phật sự.
Giáo sâu xa: Là trong Đại thừa giáo có các thứ bí mật, ý lạc, sai khác, ba môn giải thoát và tất cả pháp, dục làm căn bản… đã nói tướng của nó rồi, không giải thích lại nữa!
Nhậm trì phương tiện: Là đối với tất cả phương tiện của tư lương. Du-già phương tiện: Là Xa-ma-tha và Tỳbát-xá-na.
Tướng phương tiện: Là tất cả phương tiện trong tướng chỉ cử xả.
Quyết trạch phương tiện: Là trong tất cả phương tiện của phần quyết trạch.
Cách việt phương tiện: Tức là phương tiện chấp thọ. Lân thứ phương tiện: Tức là phương tiện quyết trạch.
Lân thứ cách việt phương tiện, tức là Du-già phương tiện và tướng phương tiện. Trong phần quyết trạch thì gọi là lân thứ, trong phương tiện chấp thọ thì gọi là cách việt, vì đã đi xa Thánh đạo, thông đạt tu viên chứng. Các chỗ khác đã nói nên không giải thích lại.
Trí rốt ráo: Là trí tận vô sinh.
Đoạn rốt ráo: Là tất cả phiền não dứt hẳn vô dư. Tất cánh rốt ráo: Là do đạo xuất thế gian.
Bất tất cánh rốt ráo: Là do đạo thế gian. Thấp kém rốt ráo: Là Thanh văn Độc giác. Rộng lớn rốt ráo: Là các Phật Bồ-tát.
Bồ-tát rốt ráo: Là vị sau rốt.
Chư Phật rốt ráo: Là khi trí vô chướng sinh, cũng trăm ngàn câu-chi mặt trời đồng thời xuất hiện. Như vậy hai mươi thứ dẫn phát trước đã nói rộng.
5. Thâu nhiếp quyết trạch: Là các quyết trạch của mười xứ, nước xứ gồm: 1. Thành sự tạo tác quyết trạch. 2. Thú nhập quyết trạch. 3. Thắng giải quyết trạch. 4. Đạo lý quyết trạch. 5. Luận quyết trạch. 6. Thông đạt quyết trạch. 7. Thanh tịnh quyết trạch. 8. Dẫn phát quyết trạch. 9. Cú sai khác quyết trạch. 10. Không do công dụng nhưng khi tạm khởi ý thì tất cả nghĩa thành quyết trạch.
- Thành sự tạo tác quyết trạch: Là có thể thành tựu các thứ phương tiện nuôi mạng của thế gian.
- Thú nhập quyết trạch: Là có thể quán sát ngã đối với ba thừa sẽ nhập vào thừa nào, và làm sao khiến cho người khác cũng được hướng nhập.
- Thắng giải quyết trạch: Là do văn tuệ như đã nghe giáo lý mà khởi tín hiểu thù thắng.
- Đạo lý quyết trạch: Là do tư tuệ xứng với lượng điều nói ý hướng trước sau.
- Luận quyết trạch: Là như chỗ đã nghe và suy nghĩ mà lập ra hỏi đáp đạo lý, vì khiến cho xoay vần được thọ dụng pháp lạc.
- Thông đạt quyết trạch: Là Kiến đạo có thể thông đạt đế lý.
- Thanh tịnh quyết trạch: Là tu đạo có thể làm thanh tịnh các phiền não không sót.
- Dẫn phát quyết trạch: Là đạo thắng tiến có thể dẫn phát công đức cao quý.
- Cú sai khác quyết trạch: Là dùng hai câu, ba câu, bốn câu sai khác môn nơi dẫn phát, để giảng nói vô biên pháp nghĩa khác nhau.
- Không do công dụng nhưng khi tạm khởi ý thì tất cả nghĩa thành quyết trạch, là trí Như Lai lìa công dụng trước kia, đối với tất cả nghĩa tạm thời tác ý mà trí kiến không chấp, không ngại chuyển.
6. Luận quỹ quyết trạch: Lược có bảy thứ: 1. Luận thể. 2. Luận xứ. 3. Luận y. 4. Luận trang nghiêm. 5. Luận phụ. 6. Luận xuất ly. 7. Luận nhiều pháp đã làm. Đối với bảy môn nầy thì phương tiện khéo léo gọi là luận quỹ quyết trạch.
- Luận thể: Lại có sáu thứ: 1. Ngôn luận. 2. Thượng luận. 3. Tránh luận. 4. Hủy luận. 5. Thuận luận. 6. Giáo luận.
+ Ngôn luận: Là tất cả ngôn ngữ thế gian.
+ Thượng luận: Là luận đã nghe của các thế gian, được trí thế gian ưa chuộng.
+ Tránh luận: Là ngôn luận sở lập trái nhau.
+ Hủy luận: Là phẫn nộ lẫn nhau mà nói lời thô ác.
+ Thuận luận, là thuận theo trí thanh tịnh mà thấy tất cả quyết trạch ngôn luận.
+ Giáo luận: Là tất cả ngôn luận dẫn dạy hữu tình, tâm chưa định thì giúp cho tâm được định, tâm đã định thì giúp cho được giải thoát.
- Luận xứ, hoặc đối với vương gia, hoặc đối với chấp lìa gia (quan tòa), hoặc đối với người thuần chất có thể làm lượng, hoặc đối với bạn lành, hoặc đối với Sa-môn Bà-la-môn khéo hiểu pháp nghĩa mà mở đầu luận. Đối với vương gia, là ở chỗ đó vua tự giáng lâm. Đối với chấp lý gia, hoặc nơi nơi đều quyết đoán việc vua. Người thuần chất có thể làm lượng, là thương gia. Bạn lành, là người trong bạn lữ mà lập luận, người luận đối địch không vượt hơn lời nói nầy. Sa-môn, Bà-la-môn khéo hiểu pháp nghĩa, là trong các luận đó khéo thông đạt văn nghĩa.
- Luận y: Là dựa vào đây mà lập luận, lược có hai thứ: a. Sở thành lập. b. Năng thành lập.
a. Sở thành lập, có hai thứ: a. Tự tánh. b. Sai khác.
+ Tự tánh: Là tự tánh của ngã và tự tánh của pháp, sự thành lập hoặc có hoặc không.
+ Sai khác: Là ngã sai khác và pháp sai khác, hoặc khắp tất cả, hoặc không khắp tất cả, hoặc thường hoặc Vô thường, hoặc hữu sắc hoặc Vô Sắc, có vô lượng sự sai khác như vậy.
b. Năng thành lập: Có tám thứ: a. Lập tông. b. Lập nhân. c. Lập dụ. d. Hợp. e. Kết. f. Hiện lượng. g. Tỷ lượng. h. Sự thành lập của thánh giáo lượng.
+ Lập tông: Là nghĩa nên thành mà tự mình đã thừa nhận, để nói bày cho người nghe, giúp họ hiểu rõ. Vì sao? Vì nếu không nói nguyên nhân thành, tự tông của mình đã thành mà nói để hiển bày cho người thì phải gọi là lập tông. Hoặc không nói với người khác, mà riêng một mình xướng lên lời nầy thì lẽ ra gọi là lập tông. Hoặc không nói để hiển bày, dùng thân để biểu thị nghĩa nầy, thì lẽ ra gọi là lập tông. Hoặc không nói để khiến cho người khác hiểu rõ, người nghe chưa hiểu nghĩa nầy thì lẽ ra gọi là lập tông. Hoặc sự an lập không có tất cả lỗi về lượng, nên lập ra tự tánh của ngã pháp hoặc có hoặc không, ngã pháp sai khác biến và bất biến… đầy đủ tướng trước, đó gọi là lập tông.
+ Lập nhân: Tức là đối với điều thành lập chưa hiểu rõ nghĩa chính là thuyết tướng tín hiểu khả đắc và không thật có… của hiện lượng. Tướng tín hiểu, là tin hiểu nhân và nghĩa. Vì sao? Vì chính khi nói các tướng của hiện lượng khả đắc, không thật có, đối với điều phải thành mà chưa hiển rõ nghĩa thì tín hiểu được sinh, nên chính nói tướng đó là lập nhân. Hiện lượng khả đắc không thật có, là nói theo tự thể và tướng mạo.
+ Lập dụ: Là lấy biên đã thấy và biên mà mình chưa thấy hòa hợp lại mà nói. Biên đã thấy, là phần đã hiển rõ. Biên chưa thấy, là phần chưa hiển rõ, lấy phần hiển bày và phần chưa hiển bày làm cho bình đẳng, tất cả chánh thuyết đó gọi là dụ.
+ Hợp: Là dẫn những điều khác ngoài ra chủng loại nghĩa nầy, khiến ngay trên pháp nầy mà nói đúng lý thú, là do ba phần thành lập như trước nghĩa đã thành lập rồi, lại thành lập nghĩa đã thành ngoài chủng loại nầy, rồi dẫn nghĩa kia khiến thành tựu pháp nầy nhằm nói đúng đạo lý, gọi đó là hợp.
+ Kiết: Là tất cả chánh thuyết hướng đến chỗ rốt ráo. Do đạo lý nầy mà cực thiện thành tựu, do đó sự nầy chắc chắn không khác, kiết hợp rốt ráo gọi là kết. Đã nói các tướng lập tông, bây giờ ngay nơi sự mà lược hiển bày: Như nói vô ngã luận, ngay tại việc nầy đối với thuyết ngã luận trước hết nói "Các pháp vô ngã", câu nói nầy là lập tông.
Kế là nói: "Nếu đối với uẩn lập ra bốn lỗi khả đắc", câu nói nầy là lập nhân. Vì sao? Vì nếu đối với uẩn lập bày là thật ngã, thì sự lập bày nầy cho ngã là ngay ở tướng uẩn, là trong uẩn, là ở nơi khác, hay là không thuộc uẩn mà lập bày!
Nếu ngay tại uẩn tướng mà lập bày, thì uẩn không tự tại, từ nhiều duyên sinh là pháp sinh diệt, nếu ngay tại tướng ngã kia không thành tựu. Là lỗi thứ nhất.
Nếu trong uẩn mà lập bày, thì các chỗ nương của uẩn đã là Vô thường, ngã năng y lẽ ra cũng Vô thường. Là lỗi thứ hai.
Nếu lìa uẩn mà lập bày ở xứ khác, ngã không có sở nhân thì ngã cũng vô dụng, là lỗi thứ ba.
Nếu không thuộc uẩn mà lập bày, thì lẽ ra ngã độc lập tồn tại tự tánh giải thoát, càng cầu giải thoát thì công đó luống uổng, là lỗi thứ tư.
Kế là nói: "Như đối với hiện tại mà lập bày quá khứ", thì câu nói nầy là lập dụ. Vì sao? Vì nếu đồng tướng hiện tại mà lập bày thật có quá khứ, thì sự lập bày nầy là ngay tướng hiện tại, là trong hiện tại, là ở nơi khác, hay không chờ hiện tại mà lập bày!
Nếu ngay hiện tại tướng mà lập bày, thì đã sinh chưa diệt là hiện tại tướng, pháp thể của quá khứ cũng phải lấy đã sinh chưa diệt làm tướng. Là lỗi thứ nhất.
Nếu trong hiện tại mà lập bày, thì trong chưa diệt thi thiết thể của diệt không tương ưng, nên không đúng lý! là lỗi thứ hai.
Nếu lìa hiện tại mà đối với chỗ khác lập bày, ngoài hiện tại ra thì một chút phần thật sự hữu vi cũng không thật có, làm sao tại chỗ nầy lập bày được! Là lỗi thứ ba.
Nếu không chờ hiện tại mà lập bày, thì cũng phải lập bày Vô vi làm đời quá khứ! Là lỗi thứ tư. Vì tướng của đời quá khứ diệt hoại nên nghĩa vô tướng được thành, nếu quá khứ đồng với hiện tại mà lập bày thì thành bốn lỗi, nên tướng quá khứ không thành tựu các pháp, vô ngã cũng vậy. Nếu ngay tại uẩn lập bày thì thành bốn lỗi khả đắc, nên nghĩa vô ngã được thành.
Kế là nói: "Như vậy đã ngăn phá ngã điên đảo rồi, thì do lý nầy mà thường, tịnh, lạc, ngã cũng không có", câu nói nầy là hợp. Sau đó nói: "Do lý nầy nên năm uẩn đều là Vô thường cho đến vô ngã", câu nầy là kết.
+ Hiện lượng: Là nghĩa tự biết rõ đúng đắn không mê loạn. Câu nói "Tự biết đúng nghĩa", là nói tự chọn lấy đúng nghĩa, như do "nhãn chọn lấy đúng sắc…" Câu nói nầy phân biệt riêng với hiện đắc bình chậu… các sự cùng sự thừa nhận chung của thế gian, để làm tánh đạt được của hiện lượng, vì các việc kia là giả nên không phải tánh sở đắc của hiện lượng. Câu nói "biết rõ" là phân biệt với do có chướng… vì nhân không thật có nên cảnh không hiện tiền. Câu nói "mê loạn" là phân biệt vòng lửa làm vòng huyễn, sóng nắng…
+ Tỷ lượng: Là hiện các tin hiểu khác. Điều nầy thế nào? Là trừ hiện lượng đã đạt được, các việc bất hiện khác chắc chắn đồng thời chuyển, khi kiến trước thành tựu hiện kiến nầy một phần kia, đối với phần khác thì tín hiểu đúng sinh, là giây phút kia đối với giây phút nầy chắc chắn phải có do đồng thời chuyển, như thấy khói ở xa, thì biết ở đó có lửa, gọi đó là hiện lượng làm trước tỷ lượng.
+ Thánh giáo lượng: Là không trái với giáo của hai lượng. Điều nầy là sao? Là tất cả giáo mà hiện lượng và tỷ lượng đều không trái nhau, chắc chắn không chuyển dời, chắc chắn tin thọ, nên gọi là thánh giáo lượng.
-Luận Trang Nghiêm: Là dựa vào chánh lý của luận mà mở đầu luận (một cách) sâu xa tốt đẹp, gọi là luận Trang Nghiêm. Phần nầy lại có sáu thứ: 1. Khéo tự tha tông. 2. Ngôn âm tròn đầy. 3. Vô úy. 4. Biện tài. 5. Đôn túc. 6. Ứng cúng.
+ Khéo tự tha tông: Là đối với tự tông và tha tông hoặc văn hoặc nghĩa trước sau liên tục thuần thục hiểu rõ.
+ Ngôn âm tròn đầy: Là khéo hiểu rõ âm thanh luận mới mở đầu luận, lìa sự có lỗi của lời nói, sự phát ngôn âm không lộn xộn…
+ Vô úy, là ở trong đại chúng tuy bị chấp ngăn hẹp hòi, những người tài trí kết mưu nhiễu loạn, nhưng sự phát ngôn từ thản nhiên không run sợ.
+ Biện tài: Là ngôn từ không bị đuối lý.
+ Đôn túc: Là lời nói khiêm cung không thô bạo, quán sát lời lẽ của người đối luận cho kỹ rồi mới phát ngôn.
+ Ứng cúng: Là lập tánh ôn hòa, phát ngôn hiền thiện tìm cách thuận theo tâm người đối luận.
-Luận phụ, có ba thứ: 1. Bỏ nói. 2. Nói bị bẻ gãy. 3. Nói mắc lỗi. Do ba thứ nầy mà những người lập luận rơi vào thua kém bị người khuất phục.
+ Bỏ nói: Là tự phát ngôn nói lỗi của luận mình, khen đức của luận người, là nói: "Luận của tôi không hay, luận của ông mới hay…".
+ Nói bị dẹp bỏ: Là giả mượn các phương tiện khác mà thoái lui, hoặc nói bên ngoài mà buông bỏ bản tông, hoặc hiện phẫn nộ, kiêu mạn để che lấp, như kinh nói rộng những người giả mượn việc phương tiện khác mà thoái lui, gá vào việc khác để làm rối loạn nghĩa được nói. Như kinh nói: "Trưởng già Xiển-đạc-ca tranh luận với ngoại đạo, hoặc hủy bỏ rồi lập tông, hoặc lập tông rồi hủy bỏ".
+ Nói mắc lỗi, lược có chín thứ: a. Tạp loạn. b. Thô ác. c. Bất biện liễu. d. Vô hạn lượng. e. Phi nghĩa tương ưng. f. Bất ứng thời. g. Bất chắc chắn. h. Bất hiển liễu. i. Không nối tiếp.
Tạp loạn: Là bỏ điều đã luận mà nói các lời khác. Thô ác: Là nổi nóng phát ra những lời thô xẵng. Bất biện liễu, là pháp nghĩa mà mình nói nhiều quá và là điều mà người đối luận không lãnh ngộ được.
Vô hạn lượng: Là ta nói nghĩa lìa ngôn từ nhiều lớp, hoặc thêm hoặc bớt. Phi nghĩa tương ưng: Lược có năm thứ: a. Vô nghĩa. b. Vi nghĩa. c. Tổn lý. d. Bình đẳng với sự thành. e. Chiêu tập các nghĩa quá khó. Vì không thật có nên nghĩa không tương ưng, không chắc chắn. Có thể thành đạo lý, lại phải thành nên tất cả ngôn luận là sự đeo đuổi của phi lìa, phi đế.
Không đúng lúc: Là điều đáng nói thì trước sau không nối tiếp.
Không chắc chắn: Là lập rồi lại hủy bỏ, hủy bỏ rồi lại lập, mau chóng chuyển đổi khó hiểu rõ được.
Không hiển rõ: Là luận tướng của việt-xiển-đà không lãnh hội mà đáp, hoặc kinh điển, hoặc thế tục, ngôn từ lẫn lộn.
Không nối tiếp: Là khoảng giữa ngôn từ bị đuối lý.
- Luận xuất ly: Là quán sát công đức và lỗi lầm khiến luận xuất ly, hoặc không làm lại, vì sợ bị rơi vào thua kém nên không phát luận, nếu phát khởi lại có thể khéo rốt ráo. Lại nữa, nếu người đối luận là phi pháp khí, vì đại chúng lúc đó là vô đức, tự nó không thể khéo léo, không nên phát khởi luận. Nếu biết người đối luận là pháp khí, vì đại chúng lúc đó hữu đức, thì tự nó có thể khéo léo mới có thể phát khởi luận. Người đối luận là phi pháp khí, là luận đó không thể đem ra khỏi chỗ bất thiện đặt vào xứ thiện. Đại chúng lúc đó vô đức, là không thuần chất lạc, chấp ngăn hẹp hòi, nghiêng về bè phái… tự nó không khéo léo, là trong luận thể cho đến luận trang nghiêm không khéo thông đạt. Trái với điều trên thì người đối luận là pháp khí.
- Luận nhiều pháp đã làm: Lược có ba thứ. Khi sắp phát khởi mở đầu luận thì chắc chắn pháp cần thiết. Ba thứ là: 1. Khéo đạt tự tha tông, do khả năng nầy mà phát bàn luận khắp, đối khắp với các ngôn sự phát khởi luận. 2. Vô úy, do khả năng nầy mà ở trong tất cả chúng nói lời mở đầu luận. 3. Biện tài, do sức chịu đựng nầy mà đối với các vấn nạn đều khéo biện luận đối đáp.
Lại nữa, nếu muốn tự cầu lợi ích an vui, thì đối với các phép tắc của luận phải khéo thông đạt, không nên khởi tranh luận với người khác, như đức Bạc-già-phạm trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma nói rằng: "Nếu các Bồtát muốn tinh tiến tu các phẩm thiện, muốn thực hành pháp tùy pháp hành chân thật, muốn khéo thâu nhiếp lợi ích cho tất cả hữu tình, muốn được mau chóng chứng đạo quả Bồ-đề Vô thượng, thì phải chánh quán sát mười hai xứ pháp, không nên cùng sanh khởi tranh luận với người khác. Mười hai xứ pháp là:
1. Khi nói pháp chứng nghĩa mầu nhiệm vô thượng, thì những người tin hiểu pháp đó rất là khó được.
2. Khởi tâm thọ giáo mà người thưa hỏi là khó được.
3. Đại chúng hiền thiện lúc đó quán sát công đức lỗi lầm là khó được.
4. Phàm sự sanh khởi luận có thể lìa được sáu lỗi rất khó được.
Sáu lỗi gồm:
- Lỗi chấp trước tà tông.
- Lỗi nói lời không ngã ngữ.
- Lỗi sự tạo tác lời nói không đúng lúc.
- Lỗi ngôn thoái khuất.
- Lỗi thô ác ngữ.
- Lỗi tâm sân nộ.
5. Hễ khi nào sanh khởi luận thì không có tâm ác độc rất khó được.
6. Hễ khi sanh khởi luận thì khéo ngăn ngừa tha tâm rất khó được.
7. Hễ khi hưng khởi luận thì khéo ngăn ngừa tâm định rất là khó được.
8. Hễ khi hưng khởi luận muốn cho mình kém, tha đắc thắng rất khó được.
9. Mình thì yếu, tha thì tâm đắc thắng mà không phiền não rất là khó được.
10. Tâm đã phiền não mà trụ an ổn rất khó được.
11. Đã không trụ an ổn mà thường tu pháp thiện rất khó được.
12. Đối với các pháp thiện đã không thường tu, tâm chưa đắc định thì có thể mau chóng đắc định, tâm đã đắc định thì có thể mau chóng giải thoát rất khó được".
Hỏi: Trong kinh đã nói muốn siêng năng tinh tiến thì tu các phẩm thiện, vì sao lại nói muốn hành pháp tùy pháp hành chân thật?
Đáp: Vì để nói lên ý lạc thanh tịnh. Vì sao? Không vì các sự lợi dưỡng cung kính mà các phẩm thiện Tu Văn, Tư… Muốn khéo thâu nhiếp lợi ích tất cả cho hữu tình, là muốn nói riêng các hành của Thanh văn, Độc giác, vì Bồ-tát thì lấy hạnh lợi tha làm thù thắng, như vậy hạnh tự lợi lợi tha của Bồ-tát đã đầy đủ rồi, thì mau chóng chứng chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng. Lại nữa, ý nghĩa của các câu trong kinh nầy, là khi sanh khởi luận thì pháp tánh Đại thừa là sâu xa vô thượng, nếu tâm tranh chấp mà hiểu còn là khó, huống chi là tâm tranh chấp.
Hễ khởi lên tranh luận, tuy khởi thưa hỏi, nhưng không có tâm cầu hiểu mà chỉ vạch bày lỗi lầm. Lại những người chứng kiến bên cạnh thì tâm không hiền thuận, không ngay thẳng, không khéo hiểu tông môn, ưa chấp mắc hẹp hòi, ngôn luận thường có sáu lỗi. Vì sao? Vì khi khởi lên tranh luận thì hoặc có tâm riêng tư, chấp trước tà tông, hoặc moi móc lỗi của người, hoặc không chờ nói xong mà đã bắt bẻ, hoặc người đối luận xứng với chánh lý thì chê bai, bác bỏ, hoặc nói những lời thô xấu để não loạn người đối luận và và tâm của đại chúng lúc đó, hoặc lại ôm lòng sân nộ người đối luận kia, phần nhiều có đủ sáu lỗi. Lại nữa, khi khởi lên tranh luận thì thân tâm vắng lặng rất khó không vắng lặng thì hai khó thành. Nói khéo hộ tha tâm và khéo hộ tự tâm, do đây khiến tha tâm được tịnh tín, đối với giải thoát trong chánh phương tiện phải làm cho tự tâm được định. Lại nữa, khi khởi luận thì thường khởi tâm này: "Làm thế nào để ta được thắng, người kia bị thua". Nếu không được như ý thì ôm lòng bực tức, do bị bức tức nầy mà sống không an vui, do sống không an vui mà không thể tu thiện liên tục, nên đối với chứng pháp tăng thượng kia có chỗ chưa được nên thoái lui.
7. Bí mật quyết trạch: Là nói các nghĩa Danh Cú Văn Thân khác, ẩn mật chuyển biến thì càng hiển rõ các nghĩa khác, như kinh có bài tụng:
Nghịch hại với cha mẹ,
Vua và hai đa văn,
Diệt quốc và tùy hành,
Là người nói thanh tịnh.
Nay trong bài tụng nầy, là văn tự giải thích tội ác rất nặng mà thế gian cùng cùng chấp nhận, để chuyển biến mật hiển các nghĩa thanh tịnh khác.
Hỏi: Thế nào là "tội ác rất nặng mà Thế gian cùng chấp nhận"?
Đáp: Là nghịch hại người tôn kính và đại chúng.
Người tôn kính có hai thứ: 1. Biệt. 2. chung. Chung lại có hai thứ: 1. Hộ thế gian. 2. Xứng đáng cúng dường. Riêng cũng có hai thứ: 1. Cha. 2. Mẹ. Hộ thế gian là vua. Xứng đáng cúng dường là phạm chí đa văn được thế gian thừa nhận là thanh tịnh nhất. Hoặc sát hại chung gọi là nghịch lại người tôn kính; hoặc người diệt quốc (tru diệt quốc gia) và tùy hành súc sinh gọi là hại đại chúng, để hiển bày nghĩa nầy gọi là "Văn tự giải thích tội ác rất nặng mà thế gian cùng chấp nhận".
Hỏi: Thế nào là chuyển văn tự nầy để thầm hiển bày nghĩa thanh tịnh?
Đáp: Là những lời nghịch hại cha mẹ… chuyển biến để mật hiển dứt hẳn ái ở các nghĩa khác. Vì sao? Vì hoặc là ái hoặc là nghiệp, hoặc thức hữu thủ, giới thủ, kiến thủ, nhãn ở sáu xứ và cảnh sở hành. Như thứ lớp đó gọi là cha mẹ… vì pháp tương tự, ái làm nhân phát, nghiệp làm nhân sinh, do đó có thể vun trồng tập khí hạt giống loại phụ (cha) của thế gian, do hai nhân nầy khiến cho có thức thủ trôi lăn không dứt, khi trôi lăn tuy cầu giải thoát nhưng do hai thứ pháp phi phương tiện chướng ngại đắc giải thoát, là vọng so lường thanh tịnh tối thắng. Giới thủ và kiến thủ cũng như phạm chí học rộng của thế gian, là hằng chấp trước sai lầm sự thanh tịnh tối thắng, đây là có chỗ nương của thức thủ và sở duyên nơi cảnh giới của sáu xứ, cũng như quốc gia và tùy hạnh thế gian, nếu có thể dứt các pháp như vậy, phải biết người đó rất thanh tịnh. Lại như bài tụng trong kinh nói:
Bất tín, không tri ân,
Đoạn mật, không chỗ dung,
Thường ăn cái người ói,
Là trượng phu tối thượng.
Hiện tại trong bài tụng nầy tất cả văn tự nói về nghĩa rất thấp kém của thế gian, chuyển biến để mật hiển các nghĩa tối thượng khác. Thấp kém thế gian gồm có bốn thứ: 1. Ý nghiệp thấp kém. 2. Thân nghiệp thấp kém. 3. Ngữ nghiệp thấp kém. 4. Thọ dụng thấp kém.
- Ý nghiệp thấp kém: Là có hai thứ: a. Bất tín thiện, sinh trái nhau, là không tin có đời sau, nên không hành bố thí… b. Bất tri ân, thuận sinh bất thiện, là tất cả hành vi ác không đoái nhìn đến ân nghĩa, trái nghịch với thế lìa, khởi hại cha mẹ…
- Thân nghiệp thấp kém: Là làm các việc trộm cướp, đào tường, khoét vách… rất đáng khinh thường làm nghề nuôi mạng.
- Ngữ nghiệp thấp kém: Là nói dối, ác khẩu… rất đáng khinh thường, là người không có chỗ dung chứa trong các người lành.
- Thọ dụng thấp kém: Là ma quỷ, chó, chim… ưa ăn các thứ ói mửa. Để nói về nghĩa nầy nên gọi là "nghĩa văn tự giảng nói thế gian cực thấp kém".
Hỏi: Thế nào là chuyển văn tự nầy để nói về nghĩa vô thượng?
Đáp: Là những câu "bất tín thiện sinh…" Chuyển biến mật hiển nghĩa thù tháng khác. Bất tín, là giải thoát tri kiến, vì tự hiện chứng. Bất tri ân, là trí Niết-bàn. Hữu vi gọi là ân, Vô vi gọi là phi ân, vì biết phi ân gọi là bất tri ân. Dứt mật, là dứt hẳn phiền não của nhân nối tiếp hậu hữu. Không có chỗ dung chứa, là ở vị lai không sinh lại các cõi khổ nữa. Ăn các thứ ói mửa, là trong hiện pháp tuy mượn thế lực của vật dụng nuôi sống tạm thời giữ thân, nhưng đối với mạng và tài không sinh ưa thích. Nếu người có thể như vậy, là trượng phu tối thượng. Lại như tụng trong kinh có bài tụng:
Giác không vững làm vững,
Khéo trụ nơi điên đảo,
Cực phiền não gây não,
Đắc Bồ-đề tối thượng.
Bài tụng nầy như bài tụng trước nói, nhưng thể tánh của nó là các Bồ-tát nương vào Tam-ma-địa, do Kiến đạo và tu đạo mà chứng đại Bồ-đề.
Lại kinh khác nói: "Đại Bồ-tát thành tựu năm pháp Thí Ba-la-mật-đa thì mau được viên mãn, năm pháp là: 1. Tăng ích tánh pháp san lận. 2. Đối với thí có khi mệt nhọc. 3. Chán ghét sự cầu xin. 4. Không tạm thí chút gì. 5. Xa lìa bố thí.
Tăng ích tánh pháp san lận, là do dứt hẳn tùy miên, san lận, gồm cả tập khí của nó, vì chứng pháp tánh Chân như chuyển y kia. Đối với thí có mệt nhọc, là vì tu thí thì nguyện thọ lâu dài mà khó thực hành khổ hạnh. Chán ghét sự cầu xin, là muốn tự mình nắm lấy, vì chán người kia đến cầu xin. Không tạm thí chút gì, là vì thí bất cứ lúc nào và tất cả vật. Xa lìa bố thí, là thường xa lìa thời kỳ báo quả của bố thí…".
Lại nữa, kinh khác nói: "Đại Bồ-tát thành tựu năm pháp thì gọi là bậc phạm hạnh, thành tựu bậc nhất phạm hạnh thanh tịnh. Năm pháp là:
1. Thường cầu lấy dục lìa dục. 2. Xả lìa pháp dục.
3. Dục tham đã sinh thì liền chấp chặt. 4. Đối trị pháp dục. 5. Nhị nhị thường gặp.
Người thành tựu phạm hạnh thanh tịnh bậc nhất, là đạo xuất thế gian. Thường cầu lấy dục lìa dục, tức là lấy như thật biến tri nầy mà dứt hẳn dục kia. Biến tri như thật, là có thể thông đạt trí Chân như nầy. Xả dứt pháp dục, là thường quán sát xả đoạn phương tiện phi phạm hạnh. Dục tham đã sinh thì liền chấp chặt, là bên trong dục tham đã sinh thì liền nắm chặt đuổi ra ngoài. Sợ đối trị pháp dục, là nói tội lỗi của dục làm kinh sợ các hữu tình, nên lập đạo đối trị cứu vớt tất cả. Nhị nhị thường gặp: Là trong nhiễm tịnh, nhân quả sai khác bốn chân đế, dùng đạo thế gian, đạo xuất thế gian, đạo Xa-ma-tha và đạo Tỳ-bát-xá-na mà thường chứng ngộ".
Hỏi: Vì sao luận nầy gọi là Đại thừa A-tỳ-đạt-ma tập?
Đáp: Lược có ba nghĩa: 1. Đẳng sở tập. 2. Biến sở tập. 3. Chánh sở tập.
Do giải thích ngôn từ nghĩa lý để nói về tên gọi nên nêu câu hỏi nầy.
- Đẳng sở tập: Là các đại Bồ-tát chứng chân hiện quán cùng kết tập.
- Biến sở tập: Là thâu nhiếp khắp tất cả các chỗ tư duy quyết trạch trong kinh Đại thừa A-tỳ-đạt-ma.
- Chánh sở tập: Là do phương tiện kiết tập thuận hợp cho đến chứng được Bồ-đề Phật.