TẠNG LUẬN
SỐ 1635 - LUẬN ĐẠI THỪA BẢO YẾU NGHĨA
Hán dịch: Đời Triệu Tống, Đại sư Pháp Hộ
Quy mạng Như Lai và Bồ-tát
Thanh văn, Duyên giác quá, vị, hiện
Ở trong tất cả các thế giới
Khắp cả mười phương không giới hạn.
Người có trí nên biết: Được làm thân người là điều khó, vì trong khoảng sát na là mất; hoàn thành được các thắng hạnh cũng là điều khó. Nếu không khởi suy nghĩ làm việc lợi ích trong kiếp người này thì đời sống uổng phí, vô vị. Và làm thế nào để có thể phát tâm dõng mãnh siêng năng, học và thu nhận lời dạy bảo thanh tịnh của đấng Như Lai? Bởi vì gặp được thời Phật xuất thế còn rất khó hơn hai điều khó: thân người khó được và chánh pháp khó được nghe.
Hỏi: Trong đây có gì ấn chứng là gặp thời Phật xuất thế rất khó?
Đáp: Trong vô số kinh có suy lường nhất định về điều này. Như kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: Phật dạy: Này các Tỳ-kheo! Bậc Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chánh Giác trải qua trăm nghìn vô số kiếp, trong thời gian xa dài mênh mông như vậy, hoặc có, hoặc không có, bậc Như Lai xuất hiện ở thế gian cho nên rất là khó gặp; giống như sự xuất hiện của hoa Ưu-đàm.
Kinh Quyết Định Vương nói: Phật bảo: A-nan! Hoa Ưu-đàm xuất hiện cùng với lúc chư Phật xuất thế. Hoa ấy như vàng ròng, có ánh sáng tịnh diệu, nở to phát mùi hương lạ khắp phạm vi một do tuần. Hoa này sáng rực rỡ có sức phá tan sự tăm tối, có thể khiến ai nghĩ đến nó đều được thanh tịnh. Nó có thể dứt được bệnh khổ, có thể chiếu sáng, trừ khử được mùi hôi hám, phát ra mùi hương kỳ diệu; mùi hương này ngăn dứt được bốn cảnh giới tăng giảm. Hoa này chỉ ứng hiện theo bậc Kim Luân Vương, không tùy tiện theo Chuyển Luân vương và khắp chốn mà xuất hiện. Huống gì các loại hữu tình không giữ giới! Chỉ khi Phật xuất thế hoa Ưu-đàm ấy mới xuất hiện.
Hỏi: Trong đây, làm sao biết trong thời gian dài xa có hay không có hoa Ưu-đàm?
Đáp: Như trong "Hữu duyên khởi" có nói: Phía Bắc Hồ lớn Vô-nhiệt não có núi tên Ngũ Phong. Trên núi có rừng hoa Ưu-đàm. Lúc Phật Thế Tôn từ cung trời Đâu suất, nhập thai mẹ, giáng sinh cõi nhân gian, lúc đó hoa Ưu-đàm mới ngậm nhụy. Lúc Phật Thế Tôn xuất thai mẹ thì hoa Ưu-đàm tăng trưởng hé mở, khi Phật Thế Tôn thành đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì hoa Ưu-đàm nở ra tươi tốt. Khi Phật Thế Tôn xả bỏ thọ mạng và duyên hạnh, hoa Ưu-đàm héo úa. Lúc Phật Thế Tôn nhập Niếtbàn thì lá hoa và quả đều rụng. Hoa Ưu-đàm to như vành bánh xe.
Kinh Giác Trí Phương Quảng nói: Vua Tiên Đại Danh Xưng nói với các vị tiên: Này các vị! Nếu Bồ-tát gặp thời Như Lai xuất thế thuyết pháp hóa lợi. Đó là tương ứng.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong vô số kiếp gặp được thời Phật xuất thế, nghe nhận chánh pháp tôn trọng tin thờ, đây mà chân thực thấy là rất khó được.
Kinh Hiền Kiếp nói: Sáu mươi lăm kiếp sau thời Hiền kiếp không có Phật xuất thế. Sau có một kiếp tên Đại danh xưng, trong kiếp này có mười ngàn vị Phật xuất thế. Sau kiếp Đại danh xưng, tám mươi ngàn kiếp không có Phật xuất thế. Sau có kiếp tên Tinh Dụ, trong kiếp này, tám mươi ngàn vị Phật xuất hiện nơi thế gian. Lại trải qua ba trăm kiếp sau kiếp Tinh Dụ không có Phật xuất thế. Sau đó có kiếp tên Công Đức trang nghiêm, tám vạn bốn nghìn vị Phật xuất hiện nơi thế gian.
Hỏi: Làm sao để biết thân người khó được?
Đáp: Trong các Khế kinh đều có nói, như kinh Tạp A Hàm, Đức Phật dạy: Các Tỳ-kheo! Ví như nước chảy tràn đầy đại địa có người khoét lỗ bộng trên khúc cây rồi thả xuống nước. Khúc gỗ nhẹ nổi trôi tùy theo gió, gió đông thổi thì trôi về Tây, gió tây thổi thì trôi về Đông, gió nam trôi Bắc, gió bắc dạt Nam. Có một con rùa chột mắt sống trong nước, sống vô số trăm tuổi. Cứ hàng trăm năm nổi lên một lần tìm lọt vào bộng gỗ. Các Tỳ-kheo! Ý các ông thế nào? Con rùa chột sống thọ hết sức dài lâu, trăm năm một lần nổi lên có thể gặp bộng gỗ không? Các Tỳ-kheo đều nói: Thưa Thế Tôn! Không thể gặp.
Phật bảo: Các Tỳ-kheo! Gặp được thời Phật xuất thế thuyết pháp hóa độ, hiểu được chánh pháp đạt đến Niếtbàn cũng như rùa chột tìm bộng gỗ trôi, rất khó, cực kỳ khó như vậy đó. Hoặc gặp thời khắc đầy đủ để được thân người cũng rất là khó.
Hỏi: Làm sao biết được khó gặp đầy đủ thời khắc?
Đáp: Các Khế kinh có nói điều này. Như Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: Phật dạy: Các Tỳ-kheo! Có tám điều khó để tu phạm hạnh mà không gặp thời khắc. Tám điều khó là những gì?
1. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình đang trong địa ngục.
Đây là điều khó thứ nhất về thời phần để tu phạm hạnh.
2. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình đang ở trong loài súc sinh.
Đây là điều khó thứ hai về thời gian để tu phạm hạnh
3. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình đang trong giới ngạ quỉ.
Đây là điều khó thứ ba về thời gian để tu phạm hạnh.
4. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình ở tại cõi trời Trường Thọ.
Đây là điều khó thứ tư về thời gian để tu phạm hạnh.
5. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình đang ở tại các nước biên địa độc ác sân hại
Đây là điều khó thứ năm về thời gian để tu phạm hạnh.
6. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình tuy sinh ở nước trung tâm nhưng lại điếc, câm, các căn không đầy đủ nên nói thiện nói ác đều không hiểu.
Đây là điều khó thứ sáu về thời gian để tu phạm hạnh.
7. Lúc Phật xuất thế, dạy nói pháp yếu, hóa độ hữu tình đưa đến Niết-bàn thì một loài hữu tình tuy sinh ở nước trung tâm không câm điếc, đầy đủ sáu căn, nói thiện, nói ác đều rõ nhưng lại khởi tà kiến chấp trước điên đảo, cho là không bố thí, không lợi ích, không thờ cúng, không quả báo của nghiệp thiện nghiệp ác, không có đời này không có đời sau, không cha không mẹ, không thế gian, không Sa-môn Bà-la-môn, không có cõi chính và chính đạo, không có trí giải của bậc A-la-hán về đời này, đời sau, dùng lực tự thông chứng đắc Thánh quả.
Đây là điều khó thứ bảy về thời gian để tu phạm hạnh.
8. Hoặc có loại hữu tình được sinh nơi ơ nước trung tâm, không câm điếc, các căn đầy đủ, hiểu biết điều thiện điều ác, có chính kiến, không chấp trước điên đảo, tin có bố thí, có lợi cho đến có trí giải để thủ chứng Thánh quả của bậc A-la-hán nhưng lại không gặp thời Phật xuất thế dạy nói pháp yếu.
Đây là điều khó thứ tám, về thời gian để tu phạm hạnh.
Các Tỳ-kheo! Nên biết có một thời gian hòa hợp để tu phạm hạnh. Đó là lúc Phật xuất thế dạy nói pháp yếu, văn nghĩa sâu xa, phần đầu giữa và sau đều thiện, rõ ràng thuần nhất không lẫn lộn, đầy đủ tướng thanh bạch phạm hạnh, mà một loài hữu tình được ở nước trung tâm, không bị câm điếc, sáu căn không thiếu, biết thiện biết ác, đầy đủ chánh kiến, không chấp trước điên đảo, tin có thí có lợi, có thờ cúng, có quả báo của các nghiệp thiện, ác, có đời này, có đời khác, có cha mẹ, có thế gian, có Sa-môn, Bà-la-môn, có cõi chính, đạo chính, có trí giả: của bậc A-la-hán về đời này, đời sau, dùng lực tự thông để chứng Thánh quả. Đây là một loại thời gian hòa hợp. Phẩm Nguyệt Tạng trong kinh Đại Tập nói: Các nhân giả! Thời gian hòa hợp cũng đúng vào lúc như cây tỏa hương, rất khó đạt đúng lúc.
Hỏi: Đó là nói về điều được thân người. Còn chỗ nói về thanh tịnh, bình đẳng thanh tịnh làm sao đạt?
Đáp: Có mười loại công đức, nếu viên mãn thì được thân người bình đẳng thanh tịnh.
Mười loại ấy là gì? Như kinh Siêu Việt Hạ Tộc nói: Một là: Nếu thiện nam thiện nữ phát tâm Bồ-đề rồi sinh tâm tịnh tín.
Hai là: Thanh tịnh rộng lớn, mong gặp Thánh Hiền.
Ba là: Ưa thích nghe chánh pháp.
Bốn là: Không sinh tâm keo sẻn, đố kỵ mà hành bố thí rộng khắp.
Năm là: Thân đoan nghiêm giữ niệm, ưa thích đạo Niết-bàn.
Sáu là: Bố thí rộng với lòng thiện và vô ngại.
Bảy là: Tin có nghiệp và nghiệp báo.
Tám là: Không khởi phân biệt.
Chín là: Không cầu, không nghi cũng không có tuệ nhiễm.
Mười là: Không hủy hoại quả nghiệp thiện ác.
Đã hiểu rõ mười loại như vậy, trong đời này, chớ làm việc ác, duyên với các việc ác Hỏi: Thế nào là tín?
Đáp: Tín là thuận theo bậc Thánh Hiền; không làm ác, như kinh Phá Nhiễm Tuệ nói: Trong các pháp thiện, tín như người đi trước dẫn đường, Tín, nghĩa như thế nào? Là nghĩa tin thuận theo có khả năng đạt đầy đủ trí không chướng ngại của Như Lai, có thể thuyết giảng chánh pháp sâu xa khó nghe khó thấy-dứt hẳn ràng buộc của Ái. Đó là không mắt, không diệt mắt, không tai-mũi-lưỡi-thân-ý, không diệt tai mũi lưỡi thân ý, không trụ, chẳng phải không trụ, không ý vui, chẳng phải không ý vui. Đầy đủ sáu mươi loại âm thanh, văn cú-Thứ lớp các nghiệp về lời nói thanh tịnh, thân trở nên rất tịnh; tâm hiện ra các lớp sắc tướng-như Phật Như Lai không chỗ nào không biết, không chỗ nào không thấy, không có pháp nào không chứng thành, không có điều gì không hiểu rõ. Như Lai dùng mắt thanh tịnh và mắt rộng khắp của Như Lai đoạn trừ hẳn lỗi lầm, xa lìa tham ái, phá những lỗi tối ám ngu si của mắt thịt nên có thể quán chiếu đảnh tướng sâu xa, tuyên thuyết nghĩa đệ nhất đế, không nghĩa nào hơn (vô thượng). Tất cả pháp Phật tuy phân biệt, pháp Phật như thế nhưng không chống trái duyên khởi. Tin tất cả những điều trên gọi là tín.
Kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Thế nào là tín lực? Đó là hiện tiền thuận theo đúng như tất cả các pháp Phật, tin, hiểu không nghi và cũng không mong cầu khác. Quyết định, thật sự theo nghiệp và nghiệp báo, lòng tin không xen tạp, phát lòng tin thanh tịnh các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện. Tin bố thí có quả bố thí, trì giới có quả trì giới, nhẫn nhục có quả nhẫn nhục, tinh tấn có quả tinh tấn, thiền định có quả thiền định, trí tuệ có quả trí tuệ, tin như vậy nói là tin thanh tịnh. Đối với Pháp Đại thừa bằng sự hiểu biết thù thắng có thể sinh niềm tin thanh tịnh, đó gọi là Tín lực. Nếu lại hiểu rõ những chấp trước gọi là Tín căn. Tín lực và Tín căn gọi chung là Tín.
Lại nữa, trong đây sao gọi là Tín lực, Tín là thuận theo đúng (ấn), có thể tin lời người khác, thì thế nào là người tu hạnh Bồ-tát tin lời người khác ư?
Đó là nghe lời người khác chỉ dạy phát tâm Bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, Bồ-tát y chỉ vào Bát-nhã Ba-la-mật đa các phương tiện khéo léo, bốn nhiếp pháp, tất cả pháp Phật, các pháp Bồ-tát v.v... Nghe người khác nói rồi rốt ráo sinh tâm tin thanh tịnh. Đó gọi là Tín lực.
Kinh Bồ Tát Tạng nói:
Phật dạy: Này Xá-lợi-tử! Người tu hạnh Bồ-tát ấy, trong đã phát tâm Bồ-đề liền sinh tịnh tín; thanh tịnh rộng lớn, muốn gặp bậc Thánh Hiền, ưa nghe chánh pháp, tin quyết định có nghiệp và quả báo nghiệp, dứt mười nghiệp bất thiện, tu mười nghiệp thiện. Tin có Samôn, Bà-la-môn, cõi chính, chính đạo mà lại rộng nghe học; tâm tương ưng hòa hợp những gì đã hiểu, vượt qua nghi ngờ, không thọ nhận thân sau. Một lòng kính trọng yêu mến, thường thân cận ở Phật, Bồ-tát, Thanh văn cùng các bậc thiện tri thức chân chính, tin về nghiệp và quả báo mà các vị thiện tri thức ấy đã dạy. Biết được pháp khí rồi, các thiện tri thức như tương ưng giảng nói bàn luận rất sâu về nghĩa: Không, vô tướng, vô nguyện, vô hành, vô sinh, vô khởi, luận về vô ngã, vô nhân, vô hữu tình, vô thọ giả và duyên sinh đối với các luận nói ấy, nghe rồi không nghi ngờ, cũng không chấp mà thuận theo đi vào tất cả pháp năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới thảy đều không chấp trước; tin tự tánh của tất cả pháp đều là "không", dùng trí như Phật suy tìm thuần nhất không chút phóng dật.
Thế nào là không phóng dật? Là lúc các căn khởi tán loạn nên dùng tự tâm điều phục, tâm người hỗ trợ.
Kinh Nguyệt Quang Bồ Tát nói: Các hữu tình khởi tâm tịnh tín nơi Tam bảo thật là khó được. Ví như cầu ngọc quý như ý thật là khó đạt.
Kinh Nhập Như Lai Công Đức Trí Bất Tư Nghì Cảnh Giới nói: Bồ-tát Thánh Trừ Cái Chướng thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường: Có năm loại pháp mà các bậc Bồ-tát nên sinh thắng giải (hiểu biết thù thắng) dù đây hay kia sẽ thu hoạch được vô số công đức tối thắng. Năm loại là những gì?
Một là: Tất cả các pháp đều "không".
Hai là: Tất cả các pháp đều không đối trị.
Ba là: Tất cả các pháp đều không sinh.
Bốn là: Tất cả các pháp đều không diệt.
Năm là: Tất cả các pháp đều không thể ghi nhớ để nói.
Năm loại pháp như vậy nên sinh thắng giải. Như ở cõi Diêm-phù-đề có những phép tắc uy nghi và chỗ tác dụng nhiều hơn số vi trần thì bậc Như Lai đều không phát khởi giác ngộ và không phân biệt, nhưng tùy tâm của chúng sinh đúng lúc hay không đúng lúc, đấng Như Lai thường chuyển tất cả các pháp. Bậc đại Bồ-tát nên sinh thắng giải về ý nghĩa này.
Kinh Tinh Hạ Tao Na Nhĩ Duyên Khởi nói: Phật Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai vì làm lợi ích hóa độ chúng sanh, trong hằng hà sa số kiếp tu các hạnh, hiện thành Chánh giác. Các bậc đại Bồ-tát nên sinh tín giải điều này.
Lại nữa, Phật Thế Tôn Thích Ca Mâu-ni Như Lai được Phật Nhiên Đăng thọ ký, trải qua vô số vô biên kiếp tu các hạnh thù thắng, vào khắp các cảnh giới chư Phật, cho đến nay thành Chánh giác. Nên sinh tín giải điều này!
Lại nữa, Phật Thế Tôn Thích-Ca Mâu-ni Như Lai thấy rõ nhân duyên dòng họ Thích bị giết hại, vì làm lợi ích hóa độ hữu tình, trải qua vô biên vô số kiếp tu thắng hạnh, nay thành Chánh giác. Nên sinh tín giải điều này. Do đó nên biết, hết thảy hữu tình nên phát tâm Bồ-đề, đây là điều khó đạt.
Hỏi: Phát tâm Bồ-đề thực là khó được, vậy làm như thế nào khởi phát?
Đáp: Có nhiều kinh nói. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Loài hữu tình trong thế gian phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng khó được.
Phải biết tâm Bồ-đề như hạt giống ở thế gian, vì tất cả pháp thiện thế gian đều gieo trồng, như tất cả cảnh giới pháp Phật, tất cả việc ác hẳn bị thiêu đốt hết, giống như gặp kiếp Hỏa tất cả pháp không thiện đều bị tiêu hoại. Giống như đại địa tất cả nghĩa có thể thành tựu, như ngọc báu như ý tất cả ý vui đều được viên mãn. Cũng như bình công đức, đẩy ra ngoài dòng sinh tử, như mồi câu tốt. Tất cả nơi trời, người, A-tu-la thế gian, cho đến tất cả pháp Phật, tất cả công đức Phật đều ngợi khen công đức của tâm Bồ-đề, như khen ngợi tháp miếu Phật. Vì sao? Vì trong đó đầy đủ cảnh giới thù thắng của hạnh Bồ-tát.
Lại nữa, tâm Bồ-đề nầy sinh ra tất cả chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại.
Này thiện nam! Thí như có một loại thuốc tên Thiết Kim Quang. Một lượng thuốc này có thể biến một ngàn lượng sắt thành vàng. Như vậy, không phải một ngàn lượng sắt mà có thể hủy hoại một lượng thuốc Thánh. Người phát tâm Bồ-đề cũng lại như vậy. Một khi đã phát tâm Nhất thiết trí, thì thiện căn của Thánh dược vi diệu trở lại hướng đến những gì thuộc về trí tuệ, có thể khiến tất cả nghiệp chướng phiền não thành vàng, tất cả pháp vàng tất cả trí vàng. Đây không phải tất cả nghiệp chướng phiền não có thể làm ô nhiễm tâm Nhất thiết trí. Này Thiện nam! Lại cũng như cầm một cây đuốc sáng lớn vào phòng tối thì tất cả bóng tối tích tập từ trăm ngàn năm đều bị diệt phá, trở nên sáng rỡ rỗng suốt Phát tâm Bồ-đề cũng như vậy. Cầm đuốc tâm vào chỗ tâm ý mờ ám, vào đến trong rồi thì tất cả nghiệp chướng phiền não tích tập từ vô số trăm ngàn kiếp đến nay, vô minh đen tối đều bị tiêu trừ do trí sáng lớn phát ra sáng rõ.
Này Thiện nam! Lại cũng như cái mão có diệu bảo đại như ý nơi đảnh Long vương, không bị kẻ oán người khác đến uy hiếp. Các bậc đại Bồ-tát cũng lại như vậy, mũ báu nơi đảnh tâm Bồ-đề và mũ diệu bảo vương tâm đại bi không bị tất cả nẻo ác việc ác uy hiếp, xâm phạm. Lại cũng như trong ánh sáng của mặt trời, mặt trăng viên mãn, thanh tịnh, mọi vật rất rõ ràng, sáng tỏ, trong đó hiện ra tất cả vàng bạc châu báu vòng hoa y phục, đồ dùng kỳ diệu thích thú. Tổng chung tất cả vật đó không thể sánh bằng giá trị như Bảo Vương như ý.
Phát tâm Bồ-đề cũng lại như vậy, cùng tận ba đời, trí Nhất thiết trí pháp giới, đạo tràng, tùy chỗ chiếu diệu, trong đó ứng hiện tất cả hữu tình, tất cả trời người và tất cả các bậc Thanh văn, Duyên giác. Tất cả thiện căn dù hữu lậu hay vô lậu cũng không thể sánh bằng phát tâm Bồ-đề bảo vương tự tại.
Lại nữa, như sữa bò dê đầy cả biển lớn, nếu vài giọt sữa sư tử nhỏ vào biển ấy thì sữa bò dê không thể ngưng kết được và cũng không thể hòa hợp. Tâm Bồ-đề cũng như vậy. Nghiệp phiền não tích tụ vô số trăm nghìn kiếp như biển lớn. Giọt sữa sư tử: Ví như tâm Nhất thiết trí của Như Lai, đại trượng phu rơi vào biển lớn ấy thì tất cả phiền não dứt sạch không còn sót. Tất cả giải thoát của bậc Thanh văn, Duyên giác cũng không hòa hợp. Lại nữa cũng như thân gần một người khỏe mạnh thì các oán ác cũng không thể xâm hại. Phát tâm Bồ-đề cũng vậy. Thân gần các bậc Bồ-tát dũng mãnh thì tất cả oán ác không thể xâm hại.
Lại cũng như viên kim cương bị sứt mẻ tuy đã bị tổn giảm nhưng vẫn quý giá nhất trong các vật quý, trang nghiêm hơn các vật trang sức khác. Vật báu kim cương, tên vẫn không mất, vẫn có thể giúp được khắp những người nghèo khó. Có ít phần tâm Bồ-đề cũng vậy; như kim cương bị sứt mẻ tuy không được tròn vẹn nhưng vẫn trang nghiêm công đức hơn tất cả Thanh văn Duyên giác. Danh hiệu Bồ-tát vẫn không mất, có thể độ được những kẻ nghèo thiếu không có Thánh tài.
Kinh Thắng Quân Vương Vấn nói: Phật dạy: Lành thay! Lành thay! Đại vương! Ông có tâm yêu thích mong cầu pháp Phật. Như nay ông đang trị vì nước Kiều-tátla, đem an lạc lợi ích cho tất cả dân chúng, an ủi, cứu giúp, khiến họ quy về chánh đạo. Nếu ông có thể làm lợi ích rộng cho tất cả hữu tình, khiến phát tâm Nhất thiết trí, viên mãn tất cả pháp Phật, hướng đến chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng, thì lợi lạc to lớn. Lại nữa, tại rừng Kỳđà thường có vô số Thánh Hiền ở ẩn trong đó đáng được tôn trọng. Đại vương! Các Thánh Hiền ấy ưa muốn Chính đẳng giác, có lòng tin cầu, có nguyện có tâm tùy hỷ. Các vị Thánh Hiền này, thân, ngữ, ý rất đáng tín trọng. Vì sao vậy? Đại Vương! Vì vùng đất ấy có vô số trăm Phật xuất hiện, vô số trăm lần chuyển pháp luân, vô số trăm Thánh chúng được nối tiếp đắc độ. Như vậy cho đến vô số trăm ngàn vô số hằng hà sa số các vị Phật xuất hiện, chuyển chánh pháp luân, hóa độ Thánh chúng Các vị Thánh Hiền như vậy đều phát sinh lòng tin, ham thích, tâm nguyện và cầu đạo Bồ-đề.
Kinh A-Xà Thế-Vương nói: Tôn giả Đại-ca-diếp bạch với Bồ-tát Diệu-cát-tường rằng: Cũng như sư tử mới sinh, vừa sinh ra đã có thế lực. Phàm chỗ sư tử đến, hoặc bầy nai vừa nghe hơi sư tử thì đều chạy trốn. Ngay đến Long tượng sức to lớn, lúc nghe hơi sư tử cũng kinh hãi co cụm như bị trói, dứt sợ sệt liền chạy bốn hướng tìm hang hóc ẩn trốn. Loài sống dưới nước, chim bay nghe mùi sư tử cũng đều hãi sợ. Này Bồ-tát Diệu-cáttường! Bậc Bồ-tát đầy đủ sức tuệ cũng lại như vậy. Bậc Bồ-tát mới phát tâm, vừa phát tâm đại Bồ-đề liền hơn hẳn các bậc Thanh văn Duyên giác. Cung ma rúng động; tất cả thiên ma run sợ. Vì run sợ nên không thể ở yên trong cung ma.
Kinh Bảo Tích nói: Phật dạy: Này A-nan! Ý ông nghĩ sao? Người bị đứt cả tay chân có sống được không? A-nan thưa: Chân tay dù bị đứt, nhưng mệnh người ấy vẫn có thể sống dược.
Phật hỏi: A-nan! Nếu có người bị cắt xẻ tim, người này còn sống được không?
A-nan thưa: Thưa Thế Tôn! Không thể sống được.
Phật bảo: A-nan! Ông nên biết, đệ tử của ta, Đại Mục-kiền-liên và Xá-lợi-phất cũng như tay chân ta Còn các Bồ-tát thì như tim ta. A-nan! Như có Bồ-tát cầm cương một xe báu lớn, bằng công đức nơi năm dục tạo thần thông cho xe dong ruổi, nhưng không có ai được ngự ở trên xe. Lúc ấy, Như-lai được lực của Bồ tát ngự ở trên xe tiến về đường trước. Nếu Xá-Lợi-phất và Mụckiền-liên tu tập ba môn giải thoát, trải qua một kiếp hoặc hơn một kiếp thì Như-lai không phải thúc đẩy nhắc nhở về sức chuyên cần.
Kinh Phụ Tử Hợp Tập nói: Này các Tỳ-khưu! Có hằng hà sa số các bậc Như-lai trong hằng hà sa số kiếp khen ngợi người phát tâm tương ưng Nhất thiết trí và các tạng công đức nói không cùng tận. Vì sao? Lúc xưa Nhưlai tu hạnh Bồ-tát, chưa từng tạm thời không phát tâm này; thâu nhận tất cả các loài hữu tình mà không khởi tưởng có các loài hữu tình được hóa độ, có vô lượng giới hữu tình, Như-lai đều ở khắp trong vô lượng giới ấy tu hạnh Bồ-tát thù thắng rộng lớn, mỗi mỗi phát tâm góp các tụ phước. Tại sao vậy? Các Tỳ-kheo! Giới hữu tình thì vô tận nên Như-lai rộng tu hạnh Bồ-tát thù thắng, mỗi mỗi phát tâm góp các tụ phước cũng là vô tận.
Kinh Như Lai Bí Mật nói: Các vị Bồ-tát phát tâm Bồ-đề tu các thắng hạnh, đó là khiến hạt giống Tam bảo không dứt tuyệt.
Lại nói: Tâm Bồ-đề của Bồ-tát sinh ra một tụ phước, nào đều đem hồi hướng cho tất cả hữu tình. Công đức hồi hướng như vậy tràn đầy hư không giới, còn hơn cả lượng phước trên. Lượng phước mà tất cả hữu tình thâu nhận được đều do tâm Bồ-đề của Bồ-tát chuyển.
Kinh Pháp Tập nói: Bồ-tát phát tâm Bồ-đề giác ngộ tất cả pháp, biết tất cả các pháp cùng với pháp giới bình đẳng, mà tất cả pháp không từ đâu đến và không chỗ dừng, cũng không thể nhận biết. Nhưng dùng trí như lượng biết tánh "không" của pháp, khiến cho tất cả các hữu tình cũng hiểu biết rõ như vậy. Nếu các Bồ-tát phát tâm như thế thì đây gọi là: Tâm Bồ-đề của Bồ-tát làm lợi lạc cho tất cả tâm loài hữu tình, gọi là tâm vô thượng, tâm đại từ hòa dịu, tâm đại bi không chán, tâm đại hỷ không lui chuyển, tâm đại xả không cấu nhiễu, tâm "không" không tạo tác việc khác, tâm Vô tướng tịch tĩnh, tâm Vô nguyện, vô trụ.
Hỏi: Vì sao dùng ít thiện căn hồi hướng Nhất thiết trí cho đến khi ngồi nơi đạo tràng Bồ-đề, mà khoảng giữa lại không cùng tận?
Đáp: Như kinh Vô Tận Ý nói, Phật bảo Tôn giả Xálợi-phất: Ví như một giọt nước rơi vào trong biển lớn cho đến kiếp tận cùng, nơi đoạn giữa thì không thể tận cùng. Bồ-tát dùng ít thiện căn hồi hướng Nhất thiết trí cũng lại như vậy; cho đến khi ngồi nơi đạo tràng Bô-đề thì khoảng giữa cũng không cùng tận.
Kinh Thiện Xảo Phương Tiện nói: Hoặc có Bồ-tát thấy kẻ bần cùng khởi tâm thương xót cho một ít cơm. Như chỗ Phật dạy tâm lớn rộng này gọi là bố thí tối thượng. Huống chi bố thí pháp. Của cho tuy ít nhưng công đức của tâm Nhất thiết trí thì nhiều vô lượng.
Kinh Hiền Kiếp nói: Đức Như Lai Tinh Vương lúc mới phát tâm Bồ-đề ở nơi đức Như Lai Thanh Thụ. Kiếp xưa Như Lai Tinh Vương là mục đồng dùng hoa Mạtcâu-la cúng thí, theo nhân duyên này mà phát tâm
Đức Như Lai Danh Xưng lúc mới phát Bồ-đề tâm ở chỗ đức Như Lai Điện Quang. Kiếp xưa Như Lai Danh Xưng là thợ dệt, theo nhân duyên đã cúng thí đệm thảm tốt mà phát tâm.
Đức Như Lai Minh Diệm lúc mới phát tâm Bồ-đề ở nơi đức Như Lai Vô Biên Quang. Kiếp xưa đức Như Lai Minh Diệm là người giữ thành. Theo nhân duyên cúng thí đèn cỏ mà phát tâm.
Đức Như Lai Nan Thắng lúc mới phát tâm Bồ-đề ở nơi đức Như Lai Kiên Cố Bộ. Kiếp xưa đức Như Lai Nan Thắng là tiều phu, theo nhân duyên cúng thí một mắt gỗ mà phát tâm.
Đức Như Lai Công Đức Tràng lúc mới bắt đầu phát tâm Bồ-đề ở nơi đức Như Lai Diệu Xứng. Kiếp xưa đức Như Lai Công Đức Tràng là người gánh nước, theo nhân duyên cúng thí một bình đựng nước mà phát tâm.
Đức Như Lai Lực Quân lúc mới bắt đầu phát tâm Bồ-đề ở nơi đức Như Lai Đại ký. Kiếp xưa đức Như Lai Lực Quân là thầy thuốc, theo nhân duyên cúng thí một quả A-ma-lặc mà phát tâm.
Kinh Bảo Tích nói: Như có người cầu quả A-la-hán nên dùng báu Ma-ni đầy khắp vô biên thế giới để bố thí. Lại có người tu Bồ-tát thừa thấy được và phát tâm tùy hỷ tương ưng Nhất thiết trí. Tâm tùy hỷ tương ưng này có lượng phước mà lượng phước của người bố thí cầu quả A-la-hán kia không bằng một phần trăm lượng phước người tu Bồ-tát thừa. Cho đến chia phần ô ba ni sát (số cùng cực) cũng không được một phần.
Hỏi: Tại sao Bồ-tát lại hơn người bố thí trước?
Đáp: Do hồi hướng về Nhất thiết trí.
Kinh Bát nhã Ba La Mật nói: Phật dạy: Xá-lợi-tử! Bậc đại Bồ-tát hơn hẳn tất cả bậc Thanh văn Duyên giác ở chỗ: Lúc tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định trí tuệ phải nên một lần phát tâm tùy hỷ tương ưng tâm Nhất thiết trí, tu học Bát nhã Ba-la-mật-đa lấy tâm đại bi dẫn đầu, rồi sau Bồ-tát mới phát tâm Bồ-đề. Như vậy nên biết, nếu phát tâm đại Bồ-đề thì tâm đại bi dẫn đầu.
Làm sao biết được điều này?
Như kinh Bồ-Tát Tạng nói: Bậc Bồ-tát muốn cầu Bồ-đề nên lấy đại bi dẫn đầu. Cũng như sĩ phu (con người) có mệnh căn dùng nơi hít thở dẫn đầu. Bậc đại Bồ-tát cũng như vậy, trong việc tu tập pháp Đại thừa lấy tâm đại bi dẫn đầu.
Lại như bậc Chuyển Luân thánh vương, trong các báu vật thì lấy bánh xe báu dẫn đầu. Bậc đại Bồ-tát cũng vậy, trong tất cả các pháp Phật dùng tâm đại bi làm lối dẫn đầu.
Lại nói: Bậc Bồ-tát, với lỗi của mình thường theo sát xét nghĩ, với lỗi của người thì dùng tâm đại bi để hộ niệm.
Kinh Vô Úy Thọ Sở Vấn Đại thừa nói: Phật bảo: Trưởng giả! Bậc Bồ-tát muốn thành tựu đại Bồ-đề, nên khởi tâm đại bi với tất cả loại hữu tình. Không sinh tâm yêu mến chấp trước thân mệnh mình, cho đến tất cả gạo tiền, nhà cửa, vợ con, ăn uống, y phục, xe cộ, giường ghế, hương hoa, hương xoa và tất cả các loại vật dụng vui chơi đều không nên vướng chấp. Vì sao vậy? Trưởng giả! Phần nhiều các loài hữu tình đều yêu mến chấp trước thân mệnh, do yêu mến chấp giữ thân mệnh nên tạo nhiều tội nghiệp, đọa vào nẻo ác. Nếu loài hữu tình khởi tâm đại bi rồi, không sinh yêu mến chấp giữ thân mệnh, do không yêu mến chấp giữ nên sinh vào nẻo thiện, lại còn có thể vận tâm làm các hạnh bố thí, cùng tất cả các pháp thiện tương ưng.
Người tu hạnh Bồ-tát dùng tâm đại bi để thành tựu thân mình.
Điều này làm sao biết?
Như kinh Bảo Vân nói: Phật bảo: Này Thiện nam! Nếu các Bồ-tát đầy đủ mười pháp. Đó là dùng tâm đại bi thành tựu thân mình. Những gì là mười pháp.
Một là: Thấy tất cả loài hữu tình bị khổ bức bách không được cứu trợ, không chỗ nương, không nẻo về, thấy rồi nên phát tâm Bồ-đề lớn để hỗ trợ.
Hai là: Phát tâm Bồ-đề rồi liền khiến loài hữu tình ấy được thành tựu pháp.
Ba là: Tùy chỗ pháp đạt được làm lợi ích cho các loài hữu tình. Bốn là: Khiến những loài hữu tình keo lận hành hạnh bố thí Năm là: Người không tu giới cấm thì khiến họ tu tịnh giới.
Sáu là: Khiến người nhiều sân hận trụ nơi pháp nhẫn nhục. Bảy là: Khiến người nhiều lười biếng phát khởi tinh tấn.
Tám là: Khiến người nhiều tán loạn tu tĩnh lự.
Chín là: Khiến những người không trí tuệ được tuệ thù thắng.
Mười là: Bồ-tát rộng ngăn trừ những khổ sở nhất bức não tất cả các loài hữu tình và khiến không chướng nạn đối với Bồ-đề.
Như thế gọi là mười pháp.
Kinh Tổng Trì Tự Tại Vương Vấn nói: Bậc Bồ-tát hoặc thấy một loài hữu tình do tham ái ràng buộc, đắm nhiễm vợ con quyến thuộc, do tâm ác ràng buộc nên không được tự tại, Bồ-tát thuận vì nói pháp yếu khiến cởi bỏ được sự ràng buộc của ái để được tự tại. Hoặc thấy một loài hữu tình khởi tâm phẫn hận chống đối, tổn hại sinh nhiều lỗi lầm, Bồ-tát thuận vì thuyết giảng pháp yếu khiến trừ dứt sân hận, lỗi lầm. Lại nữa, hoặc thấy các hữu tình bị bạn ác lôi kéo xa rời bạn tốt, thường tạo tội nghiệp. Bồ-tát liền nói pháp yếu khiến gần gũi bạn lành xa rời bạn ác. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi. Hoặc thấy một loài hữu tình tham ái rất nặng không biết chán đủ, xa lìa trí tuệ thù thắng, Bồ tát thuận vì thuyết giảng pháp yếu khiến cho đoạn tham ái phát sinh trí tuệ thù thắng. Đó là Bồ tát vì các hữu tình khởi Tam đại bi.
Hoặc thấy một loài hữu tình cho là không có nghiệp báo, chấp đoạn hoặc chấp thường, Bồ-tát liền nói pháp yếu khiến vào pháp duyên khởi sâu xa biết các hành nghiệp. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi.
Hoặc thấy một loài hữu tình do vô minh si ám che lấp, nên chấp giữ ngã nhân, hữu tình, thọ giả, Bồ-tát liền giảng nói pháp yếu, khiến có tuệ nhãn thanh tịnh trừ dứt kiến chấp. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi.
Hoặc thấy một loại hữu tình đắm mùi sinh tử, chấp trước năm uẩn, như người sát hại, Bồ-tát liền nói pháp xuất yếu khiến cho xuất ly ba cõi. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi. Hoặc thấy một loài hữu tình bị ma sách nhiễu trói buộc, sinh tâm trụ vướng mắc ở ái, ác (yêu, ghét), Bồ-tát liền giảng nói pháp yếu giải thoát cởi bỏ sách nhiễu, trói buộc của ma, dứt trừ tâm vướng mắc ở ái, ác. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi. Hoặc thấy một loài hữu tình, đóng cổng Niết-bàn mở cửa nẻo ác, Bồ-tát liền nói pháp yếu khiến mở cổng Niếtbàn, đóng cửa nẻo ác. Đó là Bồ-tát vì các hữu tình khởi tâm đại bi nên phát tâm Bồ-đề.
Nếu có kẻ hủy báng pháp nhẫn của Bồ-tát, sinh tâm khinh mạn, đối với pháp, làm chướng ngại, muốn làm Bồ-tát lìa rời pháp nhẫn, Bồ-tát liền biết đó là ma sự nổi lên.
Kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn nói: Phật bảo: Diệu Cát Tường! Giả sử có người gây chướng nạn cho tất cả thế giới nhiều như số cực vi trần, gây chướng nạn tất cả hữu tình có thiện căn; lại có người làm chướng nạn cho một Ưu-bà-tắc tôn kính tu tập đủ mười điều thiện, không thờ dị sư (ngoại đạo), lại ít thiện căn, thì tội người sau hơn tội người trước gấp bội A-tăng-kỳ lần.
Giả sử có người làm chướng nạn thiện căn của các Ưu-bà-tắc ở tất cả thế giới nhiều như cực vi trần; lại có người làm chướng nạn cho một Tỳ-kheo ít thiện căn, thì tội của người này lớn gấp bội A-tăng-kỳ lần tội người trước. Như vậy theo thứ lớp, như làm chướng nạn người tu Tùy Tín Hành, người Tùy Pháp hành, bậc Tu-đà-hoàn, bậc Tư-đà-hàm, bậc A-na-hàm, bậc A-la-hán, bậc Bồ-tát trụ thứ tám, bậc Duyên giác, bậc Bồ-tát hành dương xa, Bồ-tát hành tượng xa, Bồ-tát hành nhật nguyệt thần thông, Bồ-tát hành Thanh-văn thần thông v.v… Hoặc có người đối với hàng Bồ-tát hành các thần thông Thanh văn ở tất cả thế giới nhiều như cực vi trần, hễ có bao nhiêu thiện căn đều gây chướng nạn; lại có người đối với một Bồ-tát hành thần thông của Như Lai, có một thiện căn đều gây chướng nạn, khởi tâm khinh mạn, giận dữ, thì tội nhiều hơn tội người trước gấp bội A-tăng-kỳ lần. Giả sử có người rình rập chực cướp đoạt tài vật, tiền bạc của tất cả hữu tình trong tất cả thế giới như cực vi trần ở mười phương, lại có người khởi tâm khinh mạn, tức giận mạ ly, quấy nhiễu một bậc Bồ-tát, tội như vậy nặng hơn tội người trước gấp bội A-tăng-kỳ lần.
Hoặc như có người, theo duyên khởi nào đó mà sinh tâm khinh mạn giận dữ Bồ-tát thì tội này phải vào địa ngục gào thét, thân hình to năm trăm do tuần, có năm trăm đầu, mỗi đầu có năm trăm lưỡi, mỗi lưỡi lại có năm trăm chiếc cày cày trên lưỡi có lửa cháy mạnh.
Giả sử có người dùng dao gậy đánh người cướp của cải tiền bạc của tất cả hữu tình ở tam thiên đại thiên thế giới, lại có người khởi tâm khinh mạn giận dữ rồi làm tổn não một bậc Bồ-tát, thì tội như vậy nặng gấp bội Atăng-kỳ lần tội người trước.
Giả sử có người khởi tâm độc ác, phá lợi ích của tất cả hữu tình, sát hại hằng hà sa số A-la-hán trong hằng hà sa số thế giới và phá hại chùa tháp Phật, thành báu, lan can báu, cờ phướn mọi thứ nghiêm sức biểu tượng của Phật đều bị phá hoại, lại có người đối với Bồ-tát tín giải pháp Đại thừa, đã gieo trồng hạt giống Đại thừa, nhưng người này với duyên cớ nào đó mà khởi tâm khinh mạn giận tức mạ nhục quấy nhiễu xúc chạm Bồ-tát thì tội này nặng gấp bội A-tăng-kỳ lần tội người trước.
Vì sao thế? Vì Bồ-tát có thể sinh các bậc Như Lai, làm hạt giống Phật không bị dứt tuyệt.
Nếu hủy báng Bồ-tát tức hủy báng chánh pháp. Hủy báng Bồ-tát thì kẻ đó không thể thâu nhận pháp nào khác nữa, chỉ có pháp Bồ-tát mới có thể nhiếp thọ.
Giả sử có người sinh tâm tức giận với các loại hữu tình ở tất cả mười phương thế giới, lại có người sinh tâm giận tức với Bồ-tát rồi quay lưng không nhìn lại, thì tội này nặng gấp bội A-tăng-kỳ lần tội người trước.
Giả sử có người sát hại rồi xâm đoạt tất cả của cải của hết thảy hữu tình nơi cõi Diêm-phù-đề, lại có người hủy báng một bậc Bồ-tát, thì tội nầy nặng gấp bội Atăng-kỳ số tội người trước.
Kinh Từ Thị Sư Tử Hống nói: Nếu một Bồ-tát giận nói, chửi mắng đánh đập tất cả hữu tình khắp thế giới tam thiên đại thiên, vị Bồ-tát này cũng không bị tổn não hoại mất. Nhưng nếu khởi tức giận một vị Bồ-tát dù rất ít phần vẫn bị tổn não hư mất. Vì sao vậy? Vì Bồ-tát kia đã khoác áo giáp nhẫn nhục suốt kiếp, thường không xa lìa tâm Nhất thiết trí. Do đó vị Bồ-tát này không nên, dù chỉ một lúc, giận tức đối với vị kia.
Kinh Diệu Cát Tường Thần Thông Du Hí nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Ông nay nên biết: Nói lời tổn hại là làm hoại mất thiện căn tích tụ trong trăm kiếp. Đó gọi là tổn hại.
Người tu hạnh Bồ-tát nên biết như vậy: Nếu ở nơi chỗ Phật Thế Tôn làm những việc không đem lại lợi ích thì tội báo nặng. Làm việc có lợi ích thì thu được lượng phước lớn.
Kinh Nhập Định Bất Định Ấn nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Giả sử có người đối với tất cả hữu tình trong hết thảy thế giới khắp mười phương đều móc lấy mắt của họ đến trọn một kiếp, và nếu có thiện nam thiện nữ đối với các hữu tình kể trên khởi tâm từ bi dùng phương tiện, khiến mắt họ được bình phục như cũ, cho đến hết kiếp Này Diệu Cát Tường! Lại có người phát tâm thanh tịnh, chuyên chú nhất tâm quán bậc Bồ-tát tín giải Đại thừa, dù chỉ một lúc, thì lượng phước của người này hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước của người trước.
Giả sử có người tháo gỡ trói buộc nơi lao ngục cho tất cả hữu tình ở khắp mười phương và khiến cho họ được vị Chuyển luân thánh vương, hoặc Thiên chủ Đế Thích, được mọi diệu lạc. Này Diệu Cát Tường! Lại có người phát tâm thanh tịnh chiêm ngưỡng ngợi khen vị Bồ-tát tín giải Đại thừa, thì lượng phước nầy hơn gấp bội a-tăng-kỳ lần lượng phước người trước.
Kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Nếu có thiện nam thiện nữ trong hằng hà sa số kiếp làm hạnh bố thí rộng rãi, ngày dùng trăm ngàn vị thứ ăn uống, quần áo tốt đẹp để bố thí cúng dường, cho các hữu tình nhiều như số vi trần của tất cả thế giới; lại có người thấy một Ưu-bà-tắc, không có dị sư, tôn trọng tu đầy đủ mười nghiệp thiện bèn nghĩ, đây là người học giới hạnh của Phật rồi mỗi ngày cúng thí một bữa ăn, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước.
Như vậy, kể theo thứ lớp, cúng thí cho một Tỳ-kheo, cúng thí người tu Tùy Tín hành, người tu Tùy Pháp hành cho đến bậc Duyên giác… cúng thí gấp bội.
Lại có người chỉ thấy một tranh vẽ hình tượng Phật hoặc bìa kinh có ảnh tượng Như Lai, thì lượng phước của người này đã hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước huống gì còn chấp tay tôn trọng ảnh tượng Phật? Hoặc là dùng hương hoa, hương xoa, đèn sáng cúng dường với lòng thanh tịnh. Như vậy lượng phước hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trên.
Lại tiếp, có người trong hằng hà sa số kiếp, ngày ngày dùng trăm ngàn vị ăn uống, quần áo tốt đẹp như áo cõi trời, bố thí cúng dường hằng hà sa số các vị Phật và Thanh văn; lại có người, trong một ngày cúng thí một bữa ăn cho một vị Bồ-tát tu hạnh dương xa, đang gieo trồng thiện căn tịnh tâm đầy đủ theo các vị Phật, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trên.
Ví như có người trong hằng hà sa số kiếp, ngày ngày dùng trăm ngàn vị ăn uống, y phục tốt cúng dường các vị Bồ-tát tu hạnh dương xa, ở tất cả thế giới như cực vi trần số, lại có người trong một ngày cúng thí một bữa ăn cho một Bồ-tát tu hạnh tượng xa, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước. Nếu có người trong hằng hà sa số kiếp, ngày ngày dùng trăm ngàn vị ăn uống và y phục tốt cúng dường các vị Bồ-tát tu hạnh tượng xa ở tất cả thế giới như cực vi trần số, lại có người trong một ngày cúng thí một bữa ăn cho một Bồ-tát tu hạnh thần thông nhật nguyệt, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước.
Nếu có người trong hằng hà sa số kiếp, ngày ngày dùng trăm ngàn vị ăn uống và y phục tốt cúng dường các vị Bồ-tát tu hạnh nhật nguyệt thần thông, ở tất cả thế giới như cực vi trần số, lại có người trong một ngày cúng thí một bữa ăn cho một Bồ-tát tu hạnh thần thông Thanh văn, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước.
Nếu có người trong hằng hà sa số kiếp, ngày ngày dùng trăm ngàn vị ăn uống và y phục tốt cúng dường các vị Bồ-tát tu hạnh thần thông Thanh văn, ở tất cả thế giới như cực vi trần số, lại có người trong một ngày cúng thí một bữa ăn cho một Bồ-tát tu hạnh thần thông Như Lai, thì lượng phước như vậy hơn gấp bội A-tăng-kỳ lần lượng phước người trước.
Nơi đây nên Hỏi: Thế nào là tu hạnh Bồ-tát dương xa cho đến Bồ-tát tu hạnh thần thông Như Lai?
Đáp: Kinh Nhập Định Bất Định Ấn nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Bồ-tát có năm loại hạnh. Đó là: Hạnh dương xa, hạnh tượng xa, hạnh thần thông nhật nguyệt, hạnh thần thông Thanh văn và hạnh thần thông Như Lai. Trong năm loại hạnh có hai hạnh dương xa và hạnh tượng xa còn có thoái chuyển đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng. Còn hạnh thần thông nhật nguyệt, thần thông Thanh văn và hạnh thần thông Như Lai, tu ba hạnh này tức không còn thoái chuyển nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Thế nào gọi là Bồ-tát tu hạnh dương xa?
Thí như có người muốn qua số lượng các thế giới nhiều như số vi trần nơi năm cõi Phật số bèn nghĩ: Ta nên dùng xe dê. Nghĩ rồi bèn theo đường mà đi. Qua thời gian cần mẫn chịu khổ dài lâu đi được một trăm do tuần, bỗng gặp một cơn gió lớn thổi lui tám mươi do tuần. Này Diệu Cát Tường! Ông nghĩ thế nào về người cỡi xe dê này, nếu qua một kiếp cho đến vô số kiếp (bất khả thuyết bất khả thuyết kiếp) người này có thể qua số thế giới kia hoặc một thế giới không?
Diệu cát Tường thưa: Thưa Thế Tôn! Không thể qua, không thể có chuyện qua được.
Phật bảo: Này Diệu Cát Tướng! Đúng vậy, đúng vậy! Hoặc có Bồ-tát trước phát tâm đại Bồ-đề rồi, sau không trì không tụng pháp Đại thừa, trở lại ưa thích tu tập, đồng thời khen ngợi thọ trì đọc tụng giải nghĩa pháp Thanh văn, lại khiến người khác cũng tu tập trì tụng hiểu rõ. Do nhân duyên này làm trí tuệ cùn nhụt và thoái chuyển nơi đạo vô thượng trí. Bồ-tát này tuy trước tu tập tâm đại Bồ-đề, với tuệ căn, tuệ nhãn, mà vì trí tuệ cùn nhụt nên bị hoại mất. Đây gọi là Bồ-tát tu hành dương xa (hạnh xe dê).
Thế nào là Bồ-tát tu hạnh tượng xa (xe voi)? Thí như có người cũng muốn đi qua các thế giới nhiều như số vi trần nơi năm cõi Phật như trước bèn tự nghĩ: Ta nên dùng xe voi loại cực tốt có đầy đủ tám bộ phận. Nghĩ rồi theo đường mà đi. Trải qua trăm năm đi được hai ngàn do tuần. Chợt gió lớn thổi lui một ngàn do tuần. Này Diệu Cát Tường! Ông nghĩ thế nào… cho đến… người này qua được một thế giới không?
Diệu Cát Tường đáp: Thưa Thế Tôn! Không thể được, không thể có chuyện ấy.
Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Đúng vậy! Đúng vậy! Hoặc có Bồ-tát trước phát tâm đại Bồ-đề, sau lại không trì tụng pháp Đại thừa, trở lại ưa thích tu tập pháp Thanh văn, trì tụng giải rõ. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh tượng xa.
Thế nào là Bồ-tát tu hạnh thần thông nhật nguyệt? Thí như người muốn đi qua số thế giới nhiều như số vi trần nơi năm cõi Phật, như người trước… cho đến… dùng hạnh thần thông nhật nguyệt theo đường mà đi. Này Diệu Cát Tường! Ông nghĩ người này có thể qua các thế giới kia không?
Diệu Cát Tường bạch: Thưa, người này có thể đi qua, nhưng phải chịu khổ nhọc chuyên cần trải qua thời gian dài lâu.
Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Đúng vậy! Đúng vậy! Hoặc có Bồ-tát trước đã phát tâm đại Bồ-đề, không thích tu tập pháp Thanh văn, cho đến một bài kệ bốn câu cũng không trì, tụng. Chỉ thích đọc tụng giải thích thấu tỏ pháp Đại thừa. Đó gọi là Bồ-tát tu hạnh thần thông nhật nguyệt.
Thế là Bồ-tát tu hạnh Thần thông Thanh văn?
Ví như có người muốn qua số thế giới nhiều như số vi trần nơi năm cõi Phật như trước… cho đến… người này dùng hạnh thần thông Thanh văn theo đường mà đi. Này Diệu Cát Tường! Theo ý ông người này có thể đi qua các thế giới kia chăng?
Diệu Cát Tường bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Người này có thể đi qua.
Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Đúng vậy! Đúng vậy! Như các bậc Bồ-tát phát tâm Bồ-đề rồi, yêu thích tu tập pháp Đại thừa, sau đó đối với người tu Đại thừa, với người tín giải, trì tụng, thâu nhận pháp Đại thừa và đối với các Bồ-tát hết lòng tín phụng qui hướng, thân cận, mong cầu pháp Đại thừa, thọ trì đọc tụng mãi đến lúc gặp phải nhân duyên mất mệnh, cũng không có lúc tạm xa rời pháp Đại thừa, lại còn dùng hương hoa các loại tôn quý cúng dường các người khác tu tập Đại thừa, cũng không có lòng kiêu mạn đối với người chưa học pháp Bồ-tát, thì đó gọi là Bồ-tát tu hạnh thần thông
Thanh văn
Thế nào gọi là Bồ-tát tu hạnh thần thông Như Lai?
Ví như có người muốn đi qua số thế giới nhiều như số vi trần nơi năm cõi Phật như trước… cho đến… người này cầu hạnh thần thông của Phật theo đường mà đi. Này Diệu Cát Tường! Ông có nghĩ người này nhanh chóng đi qua các cõi kia không?
Diệu Cát Tường bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Người này trong khoảng sát na, ngay lúc phát tâm liền có thể nhanh chóng đi qua những thế giới kia.
Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Đúng vậy! Đúng vậy! Cũng như Bồ-tát phát tâm đại Bồ-đề rồi, cho đến… khéo giải nghĩa lý sâu xa rộng lớn của Đại thừa, thường vì cứu độ tất cả hữu tình mà phát tâm đại Bồ-đề từ bi thâu nhận, giữ tâm dũng mãnh cần mẫn tu sáu pháp Ba-la-mật-đa và bốn nhiếp pháp, rồi lại khiến người khác cũng được an trụ như vậy. Đây gọi là Bồ-tát tu hạnh Thần thông Như Lai.
Ở đây nên nói: Nếu có người hủy báng chánh pháp, thì đối với pháp tạo tác các chướng nạn. Đó là tội cực lớn. Như Kinh Bát-nhã Ba La Mật Đa nói: Hoặc có người tu Bồ-tát thừa, tuy từng được gặp trăm ngàn vô số chư Phật Như Lai rộng hành pháp bố thí nơi chỗ Phật cho đến tu tập trí tuệ, nhưng khởi tâm có sở đắc, nên dù được đến trong hội Phật nghe thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật-đa sâu xa, nhưng không sanh tôn trọng. Hoặc thân hoặc tâm đều không thanh tịnh, khởi tuệ nhiễm ô, thành nghiệp tội lớn, tức đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa thâm diệu sanh hủy báng. Mà hủy báng Bát-nhã Ba-lamật-đa sâu xa tức là hủy báng chư Phật Thế Tôn ở ba đời quá khứ vị lai hiện tại và Nhất thiết trí của Phật. Vì nhân duyên này nên làm chướng nạn lớn cho pháp. Nghiệp này nối tiếp nên bị đọa vào địa ngục lớn, trải qua trăm ngàn vô số năm, cứ rời địa ngục này lại vào địa ngục khác. Cứ như thế xoay chuyển vô số lần thành hoại. Ra khỏi địa ngục lại phải đọa vào chốn ngạ quỉ và súc sanh.
Tôn giả Xá-lợi-tử bạch Phật: Thưa Thế Tôn! Tội làm chướng ngại chánh pháp này nối tiếp tục sẽ bị đọa địa ngục ngũ vô gián. Nay có thể nói tội nghiệp ấy là lường tính được hay là không thể nói chăng?
Phật bảo: Hãy dừng lại Xá-lợi-tử! Ông không nên nói! Lại nữa, người tu hạnh Bồ-tát có nhiều loại ma sự.
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: Lại nữa, Tu-bồ-đề! Nếu có kiến lập các danh tự thì Bồ-tát nên biết đó là ma sự. Như có ma đến chỗ Bồ-tát nói như vầy: " Bồ-tát! Ông hiện đang thành Chánh giác, hãy kiến lập danh này ". Lúc ấy Bồ-tát liền xét nghĩ, nếu trụ nơi tướng bất thoái chuyển thì loài ma kia không dễ làm hại được. Nếu khởi tâm nghĩ cho là ta được thọ ký, tức sinh ý ngã mạn, sinh khinh thường các Bồ-tát khác. Đấy là ma ác tận dụng phương tiện khiến Bồ-tát xa rời Bát-nhã, bỏ bạn lành theo bạn ác, hoặc rơi vào bậc Thanh-văn hoặc rơi vào bậc Duyên giác. Người khởi tâm tương ưng khinh mạn, phạm tội rất nặng hơn cả bốn trọng tội căn bổn. Bồ-tát nên biết: đây là ma sự.
Kinh Diệu Cát Tường Thần Thông Du Hí nói: Diệu Cát Tường nói: Thiên tử! Theo việc có sự nghiệp thành tựu, đó đều là ma sự, hoặc có chỗ mong cầu, hoặc có pháp để giữ lấy, hoặc có pháp để xả bỏ, đều là ma sự. Như có sự mong muốn, như có sự tưởng tượng, hoặc có sự thu nạp, hoặc có sự lường tính đều là ma sự. Lại nữa, Thiên tử! Đối với tâm Bồ-đề có chỗ để chấp giữ, vướng mắc đều là ma sự. Đối với việc bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn thiền định, trí tuệ, nếu tâm có chỗ chấp giữ đều là ma sự. Lại nữa, bố thí khởi tâm kiêu mạn, trì giới trụ nơi phân biệt, nhẫn nhục mà còn sân hận, tinh tấn có hí luận, thiền định chấp giữ tướng, trí tuệ có tác ý, tất cả đều là ma sự. Hoặc khởi tâm chán bỏ, thích ở nơi tịch tĩnh cũng là ma sự. Nếu đối với sự ít muốn biết đủ, công đức Đầu-đà mà khởi ý hiểu biết lãnh thọ, đó là ma sự. Nếu hành pháp "Không", hành Vô tướng, hành Vô nguyện, hành không hí luận, hành xa lìa, tu hành theo lời dạy của Như Lai mà khởi ý ngã mạn và có sự phân biệt thì đều là ma sự. Này Thiên tử! Cho đến dù có phân biệt hay không phân biệt thì lúc sinh niệm nghĩ về kiến-văn-giác-tri đều là ma sự.
Thiên tử hỏi: Thưa Bồ-tát Diệu Cát Tường! Những ma sự này từ nguyên do nào mà khởi?
Bồ-tát Diệu Cát Tường đáp: Thiên tử! Những ma sự đều do tương ưng với tăng thượng mà dấy khởi. Vì sao vậy? Các ma đối với pháp tương ưng, tăng thượng rình tìm chỗ tiện lợi. Nếu thắng pháp không tương ưng thì ma sự có chỗ nào để tác hành?
Thiên tử nói: Thưa Bồ-tát! Thế nào là Bồ-tát tương ưng tăng thượng? Thế nào là không tương ưng?
Bồ-tát Diệu Cát Tường đáp: Thiên tử! Như có hai pháp tương ưng, đó tức là tương ưng tăng thượng. Vì sao? Hai pháp tương ưng này là sự nương dựa hòa hợp của thế gian. Tương ưng tăng thượng này tức là chính tương ưng tăng ngữ. Chính tương ưng nầy tức là không tương ưng tăng ngữ. Sự không tương ưng này tức là tăng ngữ không hí luận. Sự không hí luận này tức là chính tương ưng tăng ngữ. Dù tương ưng dù không tương ưng, trong đây đều được thành lập.
Do đó Thiên tử! Không tương ưng mắt, không tương ưng sắc, cho đến không tương ưng ý, không tương ưng pháp. Nói như vậy là chính tương ưng của Bồ-tát.
Lại nữa, Thiên tử! Nên biết Bồ-tát có hai mươi loại pháp làm ma sự khởi theo, khiến ma hung hãn. Những gì là hai mươi pháp?
Một là: đối với việc tu sự nghiệp giải thoát, đối với việc sợ hãi sanh tử, đối với việc tu hạnh tương ưng thù thắng, phương tiện thân gần phụng sự cúng dường, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Hai là: Nếu chỉ quán "không" mà dứt bỏ hữu tình, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Ba là: Chỉ quán vô vi, còn thiện căn hữu vi thì mệt chán, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Bốn là: Tuy khởi ý định mà không tu hạnh định, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Năm là: Lúc nói pháp chỉ thích giảng nói, không khởi tâm đại bi đối với người nghe, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Sáu là: Cầu hành bố thí với người có đức có giới, rồi hủy báng kẻ phá giới, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Bảy là: Thích nói pháp Thanh văn Duyên giác, che lấp không luận pháp Đại thừa, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Tám là: Không bàn luận ý nghĩa thâm diệu, chỉ thích bàn luận ý nghĩa thông thường, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Chín là: Tuy biết đạo Bồ-tát mà không biết cầu tu đạo Ba-la-mật, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười là: Khen ngợi ngôn ngữ tương ưng tăng thượng. Với các hữu tình không tương ưng, lại chỉ dạy, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười một là: Tuy gieo trồng thiện căn nhưng trái ngược với tâm Bồ-đề, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười hai là: Tương tục hành quán hạnh tương ưng nhưng không chỉ dạy hữu tình cần chỉ dạy, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười ba là: Tuy cầu dứt hết phiền não vô dư, nhưng chán ngán phiền não tương tục của sinh tử, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười bốn là: Tuy nghĩ xét về thắng tuệ mà không giữ cảnh sở duyên của tâm đại bi, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười lăm là: Không đủ phương tiện đối với tất cả hạnh thiện, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười sáu là: Tuy mong cầu pháp tạng Bồ-tát nhưng thích thọ trì sách ngoại đạo như Lộ-già-da-đà, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười bảy là: Tuy được nghe nhiều pháp nhưng thường cất giấu tiếc rẻ không khiến người khác được biết, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười tám là: Tuy nghe nhiều, theo duyên thế gian vì người giảng nói, trao pháp nhưng thủ giữ tiền bạc, mua bán không có nghĩa lợi, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Mười chín là: Đối với Pháp sư Đại thừa không tôn trọng, gần gũi học hỏi, phụng sự, trái lại gần gũi với Thanh văn, Duyên giác, tuy không đồng phận nhưng đồng chỗ khen ngợi, đó đều là ma sự của Bồ-tát
Hai mươi là: Nếu Bồ-tát ỷ lại chỗ giàu có, uy đức phú thịnh nên không tôn trọng thân cận thừa sự với các bậc Thiên Đế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, Vua,
Trưởng giả, đó đều là ma sự của Bồ-tát.
Đó là hai mươi pháp của Bồ-tát, theo đó mà ma sự nổi lên và khiến ma hung hãn.
Kinh Hải Ý nói: Như có Bồ-tát đầy đủ danh tiếng, giàu có tự tại, dòng dõi cao quý, quyến thuộc đông nhiều, đầy đủ phước hạnh, do vậy nên sinh biếng nhác, không dùng trí cầu thắng hạnh tương ưng mà phóng dật kiêu ngạo, hoặc thấy có Bồ-tát xuất gia viên mãn, thường dùng trí hạnh cầu pháp tương ưng, chịu đựng gian khổ, gió to, nắng dữ đều cam chịu đựng, thân thể hao gầy, dung mạo xấu xí, Bồ-tát trước thấy công năng cao của Bồ-tát này lại sinh ý khinh mạn, vị này có nói hay thuyết khéo cũng không nghe, lại còn tăng thêm lòng kiêu ngạo, nghi ngờ, đó đều là ma lực trói buộc của Bồ-tát
Lại nói: Có bốn loại pháp có thể làm chướng ngại pháp Đại thừa.
Một là: Khoe đức của mình.
Hai là: Dìm che đức của người khác.
Ba là: Ngã mạn lớn mạnh.
Bốn là: Giận hờn lâu chắc.
Các Bồ-tát cũng đừng nên cho phát tâm Bồ-đề rồi là điều đáng mừng và đủ mà còn phải rộng tu thắng hạnh tương ứng.
Hỏi: Bồ-tát tại gia tu hạnh như thế nào?
Đáp: Như Kinh Dũng Thọ Trưởng giả Vấn nói: Phật bảo: Trưởng giả! Bồ-tát tại gia tuy ở nhà mình nhưng thường tu hành hạnh của bậc chính sĩ (Bồ-tát) không phải việc làm của chính sĩ thì không làm. Đúng như pháp xử dụng, không dựa theo phi pháp. Trong gian khổ vẫn mong cầu chính mệnh mà tự sống không sống bằng tà mệnh. Không làm phiền nhiễu người khác. Tuy thường thọ dụng chỗ lợi ích của mình nhưng quán sát vô thường, rộng lấy pháp chân thật mà hành bố thí, xả bỏ hết, không bỏn sẻn; lo việc tôn kính cha mẹ; với vợ con, nô tỳ, người giúp việc cho đến bạn bè, trí thức, thường đem chánh pháp chỉ bảo cho nhau.
Còn thế nào là hạnh bất chính của Bồ-tát tại gia?
Như kinh Xuất Gia Chướng Nạn nói: Phật bảo Tôn giả Đại Danh: Ông nay nên biết: Những kẻ sinh ra bị mù, điếc, câm và Toàn-đà-la (kẻ bần cùng), người không biết vui, kẻ hay hủy báng, kẻ dua nịnh quanh co, kẻ không phải nam, kẻ thường là tôi tớ, kẻ chuyển thành thân nữ, lạc đà, lừa, heo, chó, cho đến rắn độc, những giống loại như vậy, nhiều đời nhiều kiếp sinh ra đều không yêu thích những điều dạy bảo của Phật.
Lại nữa, Đại Danh! Có bốn loại pháp là chướng nạn của Bồ-tát tại gia:
Một là, đối với những loại hữu tình đã từng gieo trồng thiện căn ở trước Phật và những người có tâm cầu xuất ly, người có tâm yêu thích Thánh đạo mà làm trở ngại thì đó là chướng nạn thứ nhất của Bồ-tát tại gia.
Hai là, vì tham đắm tiền của con cái quyến thuộc, không tin nghiệp báo. Trong thân quyến có người nam hoặc nữ hoặc vợ, hoặc con bỏ phú quý muốn xuất gia mà làm trở ngại những người này thì đó là chướng nạn thứ hai của Bồ-tát tại gia.
Ba là, Bồ-tát tại gia hủy báng chánh pháp, tuy được nghe nhận những pháp chưa nghe nhưng nghe xong lại không tin và sinh hủy báng, đó là chướng nạn thứ ba của Bồ-tát tại gia.
Bốn là, đối với Sa-môn, Bà-la-môn đầy đủ giới đức nếu khởi tâm tổn hại và những ý lỗi lầm thì đó là chướng nạn thứ tư của Bồ-tát tại gia.
Bốn loại như vậy và những pháp chướng ngại khác biệt khởi lên, đều là chướng nạn của Bồ-tát tại gia cho đến nhiều đời kiếp.
Ví như có một người bị rớt vào giếng bẩn, bèn nói với những người khác: Thích ghê! Nước giếng này thật trong sạch! Những người khác nghe rồi cứ tưởng ở chỗ nước bẩn kia là trong sạch, không biết dơ bẩn, không thanh tịnh. Những loại hữu tình nhiễm dục cũng lại như vậy, tự mình vấy dính bùn dục còn dạy bảo khiến người khác cũng vấy dính, tự ngửi mùi thối rồi bảo người cũng ngửi, tự đọa trong chốn hiểm nạn tham sân si rồi bảo nhiều người cùng đọa.
Lại như có người chuốc lấy oán đối như ném vào hầm lửa, ngọn lửa này sáng mạnh cao bằng bảy lần thân người, không củi cũng không khói. Người nhiễm dục cũng lại như vậy, gần gũi nữ nhân, ca ngợi việc dục, đọa vào hầm lửa dục, lại dạy bảo người khác cũng đọa, làm cho người kia đọa rồi, bị bệnh, khổ, lo sầu thường bức bách. Lại như có người dạy bảo khiến người khác lên núi "mũi đao" để hưởng hoan lạc và nói: Núi này bằng phẳng không có nguy hiểm có thể lên núi để hưởng hoan lạc. Trong thế gian, cha mẹ yêu thương con cái cũng lại như vậy. Vì thương con nên giữ chặt nhiễm dục, mà pháp nhiễm dục thực sự rất xấu ác như rắn độc. Người có tâm nhiễm trước vợ người kia dùng lời đẹp đẽ ca ngợi sự dục. Ba nẻo ác, hiểm độc rất đáng sợ lại dùng lời hoa mỹ nói ngược là nẻo thiện. Người nói điều này đáng đọa trong các chốn địa ngục-ngạ quỉ-súc sinh.
Như Kinh Nhật Tử Vương Sở Vấn nói: Phật dạy: Đại vương! Người nhiễm dục kia tham ái việc dục, thích gặp người nữ hành pháp nhiễm dục, không thích gần gũi bậc Sa-môn hoặc Bà-la-môn đầy đủ giới hạnh. Ganh tỵ chống trái, muốn dìm bậc có giới đức, làm hoại mất các pháp tín, giới, văn, xả, tuệ. Cửa nhà người ấy dơ bẩn, đầy ác khí, cấu uế, chảy tràn. Do khởi đắm nhiễm nên không sinh lòng chán bỏ chỗ dơ bẩn ấy, cùng loại với giun, sâu bọ, đó không phải là chỗ nương dựa, không biết hổ thẹn. Pháp trời, pháp người đều mất, thân mệnh tàn tạ. Người trí thì xa lánh chán bỏ, bị người nữ lôi kéo, theo làm tôi tớ, lấy những món bất tịnh như nước dãi, nước mắt, nước mũi làm mùi vị. Ở trong cảnh vật bất tịnh cùng đi chung với bầy bò dê gà heo cáo lừa, đối với cha mẹ, Sa-môn, Bà-la-môn, thì xa lìa sự hiếu kính; với Phật-Pháp-Tăng giảm thiểu lòng tịnh tín, đáng đọa vào cõi địa ngục-ngạ quỉ-súc sanh, chỗ hiểm ác đáng sợ, như leo cây thiết xoa cạnh bờ vực thẳm, đọa vào địa ngục lớn Đẳng, Hoạt, Hắc thằng, Chúng hợp, Hào khiếu, Đại hào khiếu, Viêm nhiệt, Cực viêm nhiệt và địa ngục
A-tỳ. Tất cả đều do cùng phụ nữ hợp bạn, yêu nhớ, vui đùa, cười giỡn ca múa hát hò… thường nghĩ nhớ những việc như vậy mà không nghĩ tưởng việc xuất ly. Lại không nghĩ nhớ công cha mẹ sinh dưỡng thật là khó nhọc, mười tháng mang thai đầy bất tịnh, cam chịu khổ sở với những khó khăn. Đến lúc sinh xong còn tăng thêm ưu não: Bú mớm thương yêu, nâng niu nuôi nấng. Cho đến lúc khôn lớn dạy dỗ biết bao sự nghiệp trong cõi Diêm-phù-đề mong muốn cho con được yên ổn lợi lạc. Rồi muốn con an vui, cha mẹ lại kén chọn trong giới thượng lưu để cưới vợ cho con. Có vợ rồi người con sinh tham ái, say đắm, cuồng mê vào vợ nên quên hiếu dưỡng cha mẹ, lại còn khinh mạn ruồng bỏ. Sau đó cha mẹ tuổi già suy yếu, các căn bạc nhược, nhiều chỗ thiếu khuyết, người con bèn nghĩ cách đẩy cha mẹ ra khỏi nhà.
Phật bảo: Đại vương! Ông hãy xem người con trai đó không có lòng thương xót, lại sinh lòng tổn hại, từ bỏ không nghĩ tới sự nuôi dưỡng khó khăn của cha mẹ mà bậc cha mẹ ấy luôn làm những việc nhằm đem an ổn hạnh phúc cho con. Người con bội bạc đuổi cha mẹ ra khỏi nhà rồi thì tùy ý ăn mặc vui chơi với vợ con. Do nhân duyên này, bỏ chốn thiện làm chuyện phi pháp quyết định đọa vào nẻo ác.
Lại nữa, nói về tất cả hữu tình chung làm tà hạnh, chỉ có bậc Bồ-tát là không làm. Đó là làm những việc như giết hại, trộm cắp tà dục v.v… Làm những việc như vậy quyết định phải nhận quả không lành.
Trong Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội có kệ:
Kẻ ngu mê đắm những việc dục Gần gũi phụ nữ vấy bẩn thân Phải quay hướng về trong chỗ uế Tùy nghiệp đọa vào các nẻo ác.
Phật không khen ngợi sự nhiễm dục. Cũng không cho phép gần nữ nhân Rất đáng sợ chỗ ràng buộc chặt
Dây buộc sắc dục rất bền, ác. Dục như lửa dữ nên lìa xa
Như lìa rắn độc, người trí rõ: Không tin, không thể dựa nữ nhân Người trí phải thấu hiểu lý này, Nên quán đạo Bồ-đề tối thắng Tức là gần gũi chỗ Phật trước Quán Bồ-đề tức Thánh đạo đủ Đạt được trí vô thượng của Phật.
Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ nói: Trong địa ngục có những tội nhân, hàng ngày ngục tốt luôn bảo: Tội nhân các ngươi tự tạo nên nghiệp ác, nên tội tùy theo nghiệp tạo chắc chắn không mất. Các ngươi đã hành vô số loại nghiệp bất thiện nay phải chịu vô số loại khổ cũng như vậy. Nhân như vậy thì quả không khác. Gieo giống nào thì gặt quả loại ấy. Do vậy, nay tội nhân các ngươi phải đọa trong địa ngục Viêm nhiệt. Trước đã tự tạo nhân bất thiện quá nhiều, nay phải nhận quả bất thiện cũng đầy đủ như vậy. Trải qua trăm ngàn năm như thế để trả nghiệp, tại cõi không chết không có dục lợi lạc. Khi tội nhân chịu tội ở địa ngục đã đủ, lúc được tạm tha liền cầu cứu hộ. Tội nhân thấy xa xa như đám mây đen cực lớn tối mịt hết sức hung dữ. Lại thấy vị đại lực cầm chĩa kim cang, dẫn một bầy chó dữ lớn đến bao vây cắn sủa. Tội nhân thấy vậy chạy trốn bốn hướng, nhưng bầy chó đã tiến đến bắt tội nhân cắn xé ăn nhai mặc sức, da thịt lìa ra từng mảnh, gân mạch đứt đoạn, thân thể tay chân xương cốt tất cả đều đứt vụn. Bầy chó ăn sạch mọi phần thân không còn một miếng vụn dù như hạt cải. Bị ăn hết rồi, nhưng sức nghiệp còn lôi kéo nên sinh trở lại, lớn lên lại bị ăn thịt. Phàm những nghiệp như vậy là do giết hại loài hữu tình để lấy thịt ăn nên bị quả báo như thế.
Tiếp nữa là nghiệp báo về tội trộm cắp. Như tội nhân kia tuy thấy biết tác nghiệp chân thực thì có quả báo, nhưng do nghiệp ác lôi kéo làm huyễn hoặc mê lầm không thấu hiểu bèn chiếm lấy của cải người khác làm của mình. Do tội này nên ngục tốt bắt giữ tội nhân rồi lấy dao sắc cắt xả đứt lìa từng khớp. Đứt rồi lại hợp. Thấy như vậy các tội nhân khác đều chạy trốn. Đám ngục tốt đều bắt giữ lại, cầm kiếm bén hoặc Thước-cátđế hoặc Đô-ma-la hoặc lại dùng chày đâm giã. Những khí giới này đều có lửa mạnh, ngục tốt dùng khí giới ấy để chém, chặt, đánh, giã làm đủ mọi thứ trị tội những kẻ trộm cắp đó đều là quả báo hành nghiệp trộm cắp bất thiện. Trải qua vô số trăm ngàn năm ở tại địa ngục này cho đến khi nghiệp quả trộm cắp tan hết, dứt tận, mới được phóng thích.
Lại nữa, nói về quả báo của tà dục. Người nhiễm dục thấy người nữ kia ở địa ngục sông tro, như nổi như chìm, kêu la sợ hãi, mà địa ngục ấy đầy lửa cháy dữ dội, hình trạng như dòng chảy. Lúc đó người nữ than khóc bi lụy, gọi người nhiễm dục nói: Tôi tự gây nghiệp nay đọa nơi địa ngục sông tro này là chốn rất hiểm ác, không chỗ cậy giúp, xin hãy giúp đỡ. Kẻ nhiễm dục nghe tiếng người nữ kêu khóc, do nghiệp si mê huyễn hoặc liền nên chạy vào trong dòng sông tro. Người đó vào trong ấy liền bị dòng lửa cháy trôi chạm thân thể chảy tan không còn sót chút nào, nhưng do sức nghiệp duy trì, nên người nhiễm dục sống lại, lại thấy người nữ kêu cứu trong sông tro như trước, lại chạy đến kéo người nữ. Lúc này người nữ tóm lấy anh ta, lấy sắt cháy rực làm gậy mà đánh mà nện. Người này bị đánh máu chảy đầy khắp toàn thân vỡ nhừ, nát vụn không thừa một chút nhỏ. Lại do sức nghiệp duy trì nên người nhiễm dục sống lại. Vì nhân nhiễm dục nặng nên lại đến kéo người nữ trong dòng sông tro. Qua vô số trăm ngàn năm, cho đến khi nghiệp quả nhiễm dục tan hoại hết, lúc đó mới được phóng thích, rồi được sinh lại nơi như kinh đã nói rộng.
Nghĩa này nên biết: giàu có tiền tài và sống thọ cũng đừng cố chấp, say đắm, sinh tâm cố chấp, say đắm cũng tức là tà hạnh.
Như Kinh Thắng Quân Vương Sở Vấn có nói: Phật dạy: Đại vương! Cũng như người nam hay nữ ở thế gian, trong mộng thấy rừng vườn dễ thương, núi dễ mến hoặc thấy đông đảo người dễ thương tụ họp, đến lúc tỉnh giấc tất cả đều không có. Đại vương! Cũng như rừng cây ăn quả, thân gốc cành lá lúc đầu xanh mượt, sau biến đỏ dần, thứ tự ngậm nhụy ra hoa. Hoa nở không lâu liền kết quả. Quả rụng cây suy tàn sau thấy xơ xác, như lúc trước hoa quả đều không có. Nay Đại vương cũng giống như vậy: vua trong thế gian sở hữu mọi vui sướng, vui sướng vì sự giàu mạnh của vua, vui theo năm dục của vua. Rộng ra còn có voi, ngựa, xe cộ, kho lẫm, tiền thóc lúa, cung điện, vườn hoa, vàng bạc, châu báu, quan phụ tá, tể tướng, hoàng hậu, cung phi, đồng nam đồng nữ cho đến hoàng tộc các nhánh…, tất cả những thứ như vậy đều nên rời bỏ, nên cầu xuất ly. Mọi thứ đó đều vô thường, không chắc bền, không có cứu cánh. Đó là pháp biến dịch, không chân thực, không trụ lâu, là biến động, là lung lay, tan hoại từng sát na, rốt cuối là tội, là hết, là mất.
Đến tận cùng biên vực đó là pháp giảm mất, đáng sợ đáng buồn, sinh nhiều khổ lo, là tổn, là đọa, là đoạn, là phá, là pháp lìa tan.
Đại vương! Nên biết là như vậy. Lại cũng như từ bốn hướng có bốn núi đi đến. Núi này chắc, bền không bị phá khuyết. Có núi Diệu Phong tròn đầy một khi từ hư không rơi xuống, lúc ấy, tất cả hữu tình cho đến cả rừng rậm và cây cỏ trên đất đều bị hủy nát, các loài hữu tình và cây cối đều không thể tránh thoát. Cho dù có sức mạnh cũng không thể chạy trốn. Lại không có phương thuật và tác dụng nào để ngăn cản.
Đại vương! Bốn thứ sợ hãi lớn lần lượt cùng đến cũng như vậy, tất cả hữu tình đều không thể chạy trốn. Dù có sức mạnh cũng không thể chạy trốn, lại không có phương thuật và các tác dụng để ngăn cản. Những gì là bốn?
Đại vương! Sợ già đến phá hoại mất tướng thiếu niên. Sợ bệnh đến hủy hoại mất sự an lạc. Sợ chết đến hủy hoại mất thọ mạng. Tà hạnh sinh khởi hủy hoại mất chính hạnh.
Đại vương! Lại như sư tử là vua trong loài thú, nếu vào bầy thú khác bắt một con ăn thịt không có gì là khó. Nhưng, tuy có sức mạnh lớn, nếu sư tử sa vào móng vuốt loài chim bay đại ác không còn chút tự tại liền bị ăn thịt hết không sót.
Đại vương! Người chết vì tên độc cũng lại như vậy. Bị trúng tên ấy, là bị mê loạn không người cứu, không chỗ nương về, chân tay dứt rời, máu thịt khô kiệt, khát khổ bức bách, mặt mày run sợ, chân tay quờ quạng không chút sức lực. Dãi, đờm, nước mắt, nước mũi chảy, tiểu đại tiện ô uế tự ra nhiễm bẩn thân. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, các thức đều tê liệt. Cổ họng đầy nghẹn muốn nói mà không nên lời; thầy thuốc bó tay không phương chữa trị. Các thức ăn uống làm sao nuốt trôi? Lúc ấy, người này theo nghiệp lực của mình sắp sang cõi khác. Từ vô thủy đến mai sau, sinh, lão, bệnh, tử lưu chuyển luân hồi tuần hoàn mãi chẳng dừng. Thức này vừa bỏ, thức khác đã thay vào. Mệnh này còn nghiệp còn giữ có thân. Ngục tốt cõi Diêm ma thật đáng sợ, thường ẩn trong đêm dài tăm tối. Lúc sắp bỏ thức hơi thở dần nhỏ yếu. Đơn độc một mình, không bạn bè, không chỗ nắm giữ, cõi này đã hết, cõi khác tức chuyển. Trên đường dài rộng lê thê lẻ loi cất bước trong chốn đáng sợ nên rất sợ hãi, ẩn sâu theo đường, núp lén bước đi. Vào chốn đen tối đầy hiểm trở, gian nan, chìm đắm trong biển lớn sanh tử trôi theo dòng chảy rộng dài. Gió nghiệp thổi là bay phất phơ vô định chẳng biết phương hướng, chẳng biết về đâu. Lúc đó không có ai giúp đỡ cũng không có chốn để quay về.
Phật nói: Đại vương! Chỉ trừ pháp thiện, chính lúc này là chỗ nương dựa quay về, là sự cứu giúp. Đại vương! Tất cả pháp giàu có sung sướng của thế gian đều không có gì là được, nên đừng sinh đắm giữ. Mọi chỗ làm đều là tà hạnh. Do đó Đại vương nên tu chính hạnh. Nói về chính hạnh, như phẩm Chân Thật nói: Nhà vua, nếu thực hiện tám loại hạnh tưởng thì đó là việc giúp đời tương ưng chánh pháp. Những gì là tám loại?
Một là: Những người cô độc trơ trọi không con cái trong thế gian, khởi tưởng là con cái.
Hai là: Giúp đỡ bạn ác, tưởng như người bệnh.
Ba là: Thấy kẻ khổ sở khởi tưởng cứu giúp.
Bốn là: Thấy những người vui khởi tưởng hoan hỷ.
Năm là: Với những oán đối, theo đó mà quán nhân duyên khởi tưởng tránh lầm lỗi.
Sáu là: Đối với bạn tốt khởi tưởng tùy thuận giúp đỡ. Bảy là: Thấy cảnh giàu vui khởi tưởng là thuốc men. Tám là: Thân mình thì khởi tưởng vô thường.
Lại như Kinh Phá Ác Tuệ nói: Một vị vua, nếu đầy đủ bốn loại pháp, nên thọ pháp quán đảnh của vua, tức thành tựu được pháp bất thối, chóng được Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác thương nghĩ, được giàu có, vui nhiều.
Bốn pháp là những gì?
Một là: Hộ trì giáo pháp của Như Lai khiến chánh pháp trụ dài lâu.
Hai là: Xả bỏ tội hành pháp bất thiện.
Ba là: Thâu giữ ba pháp môn Không, Vô tướng, Vô nguyện.
Bốn là: Phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Xả bỏ tội hành pháp bất thiện nói nơi đây nghĩa như thế nào? Phẩm Nhật Tạng nói: Phật bảo: Này đại vương! Thời vị lai ở thế gian trong các chủng tộc Sát-đế-lợi, Bàla-môn, Phệ xá, Thủ-đà, đối với người tu hành chánh pháp có những vật sở hữu như nhà cửa ruộng đất, nô tỳ, giường chiếu bàn ghế, thuốc men cho đến bốn thứ cần đủ, nếu xâm đoạt những vật như vậy, hoặc tự mình dùng hoặc cùng người khác dùng, thì những người Sát-đế-lợi, Bà-la-môn, Phệ-xá, Thủ-đà này... phải nhận lấy hai mươi pháp không thể yêu thích ở đời này. Những gì là hai mươi pháp?
Một là: Bậc Hiền Thánh lại bỏ.
Hai là: Bị báng bổ chê trách ở mọi nơi.
Ba là: Bạn thân yêu xa lìa.
Bốn là: Sinh nhiều oán, đối.
Năm là: Mọi thứ tiền bạc của cải đều bị phá hoại.
Sáu là: Sinh nhiều tán loạn.
Bảy là: Thân phận hèn kém, thiếu thốn.
Tám là: Không được ngủ nghỉ an ổn.
Chín là: Bị đói khát, buồn phiền luôn bức bách.
Mười là: Trong thức uống có độc.
Mười một là: Bạn bè khinh khi.
Mười hai là: Hay cãi cọ với người.
Mười ba là: Cha mẹ, vợ con, nô tỳ, quyến thuộc đều không nghe lời chỉ bảo.
Mười bốn là: Điều bí mật và của cải bí mật của mình bị người khác phơi bày.
Mười lăm là: Người bí mật và sự việc bí mật của mình đều bị người khác nói ra.
Mười sáu là: Của cải tiêu tan quy về năm phần.
Mười bảy là: Bệnh nặng bệnh nhẹ luôn đến xâm hại bức bách.
Mười tám là: Hết lòng với thầy thuốc, nhưng về sau đều rời xa.
Mười chín là: Máu thịt khô cạn, chịu đủ thứ khổ não Hai mươi là: Thân thể đầy nước, tiểu tiện lẫn đại tiện tự xuất nhiễm bẩn rồi mất.
Đại vương: Đó là hai mươi pháp không thể yêu thích. Những người kia quyết định đời này sớm chịu, đều do xâm đoạt của cải vật dụng của người tu hành chánh pháp, tự mình dùng hay cùng người dùng. Do nhân duyên này khi mệnh chung phải đọa vào địa ngục lớn Atỳ. Hết một kiếp, khát uống nước đồng, đói nuốt sắc cục, người khoác áo lửa, chịu lớp lớp các khổ lớn như vậy. Hết kiếp, ra khỏi địa ngục lại sinh vào loài ngạ quỉ, ở nơi xa vắng hiểm ác, đất đai khô cằn, bốn phương gió nóng thổi mạnh, đất thì cứng rắn như mũi dao, trải qua vô số trăm ngàn năm chịu cõi khổ ấy. Cuối sau, tạm thời hay thân nơi cõi ấy diệt, lại hóa thành một khối thịt ở trong biển lớn, to một trăm do tuần. Đó là do nghiệp nhân từ trước nên nay nơi biển lớn ấy, khoảng một trăm do tuần đều biến thành nước đồng sôi sục. Như vậy trải qua nhiều trăm ngàn năm chịu cái khổ địa ngục nơi biển cả. Khi thân nơi xứ ấy diệt lại sinh về xứ ác hiểm ở nơi đồng trống hoang vắng hóa thành cục thịt to như hòn núi, chung quanh bốn hướng gió lửa thổi mạnh, các loài thú, chim từ khắp nơi ào đến rúc rỉa thịt ăn. Qua một thời gian dài, hoặc cục thịt tạm diệt lại sinh vào địa ngục lớn, chịu hết quả báo khổ ác, sau đó mãn một kiếp mới được làm thân người. Tuy được sinh ở cõi có Phật nhưng đầy năm trược, rỗng không không có chút trí tuệ, mắt kém lại câm điếc. Đại vương! Phàm quả báo như vậy đều do tội xâm đoạt tiền tài vật dụng ở nơi người tu hành chánh pháp.
Như Phẩm Nguyệt Tạng có nói: Các nhân giả! Người xuất gia trong pháp Ta gây tạo tội lớn, đó là: những nghiệp bất thiện rất nặng như: giết hại, trộm cắp, hạnh tà dục, vọng ngữ v.v… Từ nơi chốn của hàng Sát-đế-lợi cho đến châu thành, xóm làng, chỗ quan, đối với trú xứ của người xuất gia như chùa chiền, tịnh xá nơi các đô thị thường hành pháp ngăn cấm, trục xuất khỏi chỗ ở, hoặc ngăn cấm bằng lời nói thô ác chê trách, hoặc dùng roi gậy đánh đập nơi thân. Tất cả những chốn như vậy lần lượt xoay vần đều không thể giải thoát. Ở nơi cõi Trời, người có chỗ giảm mất, nên bị đọa trong địa ngục lớn A-tỳ.
Bấy giờ, tất cả chúng hội vốn từ các nơi chốn vân tập tới, chư thiên cho đến Yết-tra-bố-đơn-na, tất cả đều phát tâm thanh tịnh tối thượng đối với Tam bảo, sinh lòng tôn trọng với vô số hình tướng và đều nói: Chúng con từ nay trở đi thề bảo vệ tất cả ngôn giáo của Đức Thế Tôn, đối với các chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc Ưu-bà-di hiện có, cho đến những người phá giới Phật, thấp nữa cho đến những người ở trong pháp Phật không trì giới hạnh, chỉ xuống tóc đắp cà sa, không hề nhiếp tâm, thọ trì thì chúng con đều khởi tưởng như bậc thầy lớn, và đều hỗ trợ tất cả vật dụng cần thiết để nuôi dưỡng và giữ gìn. Hoặc tùy theo các nơi chỗ, hoặc có quan thuộc, đối với người đã xuống tóc, mang cà sa, với nhiều lý do dùng hình phạt xử trị thì những chốn ấy chúng con không hộ trợ, xả bỏ tất cả những sự vật nơi cảnh giới đó. Ở trong nước nếu xảy ra mọi thứ dối trá không thật, tranh giành giết hại, bệnh dịch, đói kém, giặc giã, mưa gió trái thời, hoặc sớm hoặc kéo dài khiến hạt giống hư hoại, dù có những việc não hại như vậy, chúng con cũng không ngăn chặn. Chúng con sẽ đến nước nào có đệ tử của Phật để hộ trợ. Còn cảnh giới nơi nước ấy chúng con xem như không và rời bỏ.
Như Kinh Địa Tạng có nói: Phật dạy: Này Địa Tạng! Về thời quá khứ có nước tên là Bán-tả-la, vua hiệu là Tối Thắng Quân. Bấy giờ có người bị tội tử hình, để giữ mạng sống, người ấy cạo tóc, quàng cà sa vào cổ. Lúc người thi hành án bắt tội nhân trói gô lại, đem tới cuối đồi Khiết-lam-phược-ca trong rừng thẳm bỏ đó rồi về. Tối đến, trong đồi rừng có nữ La-sát tên Ác nhãn cùng năm ngàn quyến thuộc vào rừng, trông thấy người ấy bị trói gô, cạo tóc mang cà sa, thấy rồi đảnh lễ nhiễu quanh bên phải và đi khỏi rừng.
Tiếp theo, có nữ La-sát tên Khư-nị-la Tiêu-đế cùng với ngàn quyến thuộc, tiếp đến có nữ La-sát tên Tranhnanh-phát, tiếp theo có nữ La-sát tên Kiếm-khẩu, lần lượt vào rừng. Các La-sát thấy người này cạo tóc mang cà sa, thấy xong, tuy rất đói nhưng không dám ăn thịt, đến đảnh lễ rồi đi khỏi.
Lại nữa, thời quá khứ có vua hiệu Tối Thắng Phúc, có vị quan mưu trí xử trị người phạm tội tử hình bằng cách đẩy cho voi say. Người phạm tội này dùng cà sa đỏ mặc kín nơi thân. Lúc voi say lấy vòi quấn quanh hai đùi tội nhân, dùng hết sức giơ lên định quật xuống đất, lúc đó voi chợt thấy phạm nhân có khoác cà sa. Thấy rồi liền sanh tâm thanh tịnh, để người ấy xuống đất, quì phục ở trước, khóc tạ lỗi, lại còn lấy vòi vuốt ve hai chân.
Phật bảo: Này Địa Tạng! Ông hãy xem, voi kia tuy thọ thân trong loài bàng sinh thấp kém, lúc thấy người khoác cà sa còn có thể bỏ đi, không tạo tội nghiệp, huống gì ở trong thế gian nơi đời vị lai có những hạng người ác trong giới quan thuộc, Sa-môn, Bà-la-môn, Trưởng giả, Chiên-đà-la vốn thực là ngu si, khởi kiêu mạn là thông minh, lấy lời quanh co dối gạt thế gian, nói: Ta là người cầu Đại thừa vô thượng! Bọn họ là những kẻ hung ác ngu si không biết sợ, không quán xét thấy được quả báo của đời sau. Trong pháp của ta, nơi chỗ người xuất gia hoặc pháp khí, hoặc không phải là pháp khí, mà dùng vô số duyên xét tìm lầm lỗi, như lấy lời nói thô ác trách phạt thân, ngăn cản chỗ thọ dụng của thân. Lại ngăn cấm nơi những việc thế tục, hoặc dòm ngó sự chậm trễ, hoặc xem sự thừa hành tìm lỗi lầm để ngăn cấm, như vậy cho đến muốn làm hại mệnh người. Những người như thế, đối với tất cả chư Phật Thế Tôn ba đời sinh lỗi lầm rất nặng đáng đọa địa ngục lớn A-tỳ bị đốt cháy liên tục, diệt hết thiện căn, và tất cả người trí thường lìa xa.
Như Kinh Địa Tạng nói: Lại nữa, hoặc có kẻ hung ác thuộc giới Sát-đế-lợi cho đến giới Trưởng giả, đối với những nơi chùa chiền, tăng phòng, vườn rừng, đài gác, ruộng đất, tài sản, vật dụng người hầu, quần áo, ăn uống, đồ nằm thuốc men, cây hoa quả cây hương, cây có bóng mát v.v… cho đến mọi loại đồ dùng được tạo lập hoặc sắm sửa cho Tăng chúng bốn phương mà tự mình xâm đoạt, hoặc bảo người xâm đoạt, để mình sử dụng hay cho người khác thọ dụng, đối với người xuất gia trong giáo pháp của ta, hoặc sinh tức giận mắng nhiếc ngăn cản, khinh chê, làm chướng nạn nơi chánh pháp, hoặc gây nhiễu loạn cho Pháp sư, những lỗi trên là lỗi cực lớn đối với chư Phật ba đời, cho đến tất cả người trí xa lánh.
Tiếp nữa, cũng trong kinh Địa Tạng Đức Thế Tôn dạy:
Các vị đại Bồ-tát đạt được pháp nhẫn nên thọ pháp Quán đảnh của hàng Sát-đế-lợi vương và thọ dụng giàu vui. Ta nói là được.
Bồ-tát Kim Cang Tạng thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu không phải Bồ-tát chứng đắc pháp nhẫn mà thọ pháp Quán đảnh của hàng Sát-đế-lợi vương thì phải đọa vào những nẻo ác nào?
Phật dạy: Này Kim cang Tạng! Nếu không phải là Bồ-tát đạt được pháp nhẫn, chỉ tu tập mười nghiệp thiện mà thọ pháp Quản đảnh của hàng Sát-đế-lợi vương, ta cũng cho là được.
Bồ-tát Kim Cang Tạng thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu không phải là Bồ-tát đạt được pháp nhẫn, cũng không tu mười nghiệp thiện, mà là những kẻ hung ác Sát-đế-lợi, Chiên-đà-la, đối với giáo pháp sâu xa của Đức Thế Tôn làm giảm mất, thì bị đọa vào địa ngục lớn A-tỳ. Những kẻ ấy làm thế nào để được giải thoát?
Phật dạy: Này Thiện nam! Người thọ pháp Quán đảnh của hàng Sát-đế-lợi vương, nếu mặc áo giáp tín lực kiên cố, rộng sinh tịnh tín nơi Tam bảo, thì đối với pháp xuất ly của ba thừa không sinh hủy báng, cho đến một bài kệ bốn câu cũng không xem nhẹ, không nhiễu loạn đối với kẻ trì giới hay phá giới, cho đến những người chỉ xuống tóc đắp y không thọ tịnh giới, trong chúng Tỳ-kheo cũng không gây rối loạn. Tất cả vật dụng của chúng Tăng hoặc của riêng từng người, hết thảy đều không xâm phạm, cản ngăn, thường nghe nhân chánh pháp xuất ly của ba thừa, theo chỗ nghe nhận mà tu tập tùy theo sức mình, thường gần gũi các Tỳ-kheo, nguyện lực vững chắc không khởi tâm chống trái, chỉ dạy trao pháp Đại thừa cho các loại hữu tình, khiến hướng vào, an trụ nơi pháp ấy. Nếu đầy đủ các tướng như vậy, thì đáng thọ pháp Quản đảnh của hàng Sát-đế-lợi vương, nên thọ phúc lạc rộng lớn, thọ dụng mà không bị lui sụt. Chư Phật đời trước đều chấp thuận, và nay ta cũng chấp thuận điều này.
Lại nữa trong kinh ấy nói: Nếu có hàng Sát-đế-lợi chân thiện, cho đến Trưởng giả chân thiện, đời hiện tại hay đời sau, cho đến sau năm trăm năm lúc pháp sắp diệt, hoặc tự mình, hoặc do người khác, đều làm hộ vệ trong giáo pháp thanh tịnh của Phật, giữ gìn kiên cố, lại an trụ nơi thừa Thanh văn, thừa Duyên giác và Đại thừa. Những chúng sanh tu đầy đủ tịnh giới đức rộng lớn hoặc là pháp khí, hoặc là không phải là pháp khí cho đến chỉ xuống tóc đắp y đều được bảo vệ. Lại hộ trì chùa tháp và những vật hệ thuộc, tất cả khiến không bị xâm đoạt. Hoặc mình thọ dụng hoặc người thọ dụng, có người xâm đoạt liền ngăn cấm. Như vậy lượng phước là vô số vô lượng, không có giới hạn.
Lúc ấy, trong pháp hội, tất cả từ Thiên chủ cho đến Chúa quỉ Tất-xá-tả đều nói: Thưa Thế Tôn! Nếu có Sát-đế-lợi vương chân thiện cho đến Trưởng giả chân thiện, đầy đủ công đức như vậy, chúng con đều tạo mọi sự hộ trì và khiến có đầy đủ mười sự tăng trưởng. Mười sự đó là:
Một là: Tăng trưởng thọ mạng.
Hai là: Tăng trưởng thêm sự không nạn.
Ba là: Tăng trưởng sự không bệnh.
Bốn là: Tăng trưởng quyến thuộc.
Năm là: Tăng trưởng tài sản.
Sáu là: Tăng trưởng vật dụng cần thiết.
Bảy là: Tăng trưởng sự tự tại.
Tám là: Tăng trưởng danh xưng.
Chín là: Tăng trưởng, bạn lành.
Mười là: Tăng trưởng trí tuệ.
Chúng con cùng quyến thuộc bảo vệ vị Sát-đế-lợi vương ấy và cả đất nước. Có mười pháp khiến nên xa lìa để được bảo vệ. Mười loại là:
Một là: Chiến tranh với nước khác.
Hai là: Chiến tranh trong nước.
Ba là: Những người tạo nghiệp tội.
Bốn là: Những người sát hại.
Năm là: Mưa trái thời.
Sáu là: Gió dữ, nóng bạo. Bảy là: Tinh tú xấu ác Tám là: Đói kém.
Chín là: Chết yểu bệnh dịch.
Mười là: Tà kiến.
Trong Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: Phật dạy: Nếu các Thiên, Long, cùng Dạ-xoa v.v… làm người hộ trì trong giáo pháp Ta, thì đó là những thí chủ lớn, khiến pháp nhãn của Ta trụ lâu dài, khiến hạt giống Tam bảo không dứt mất. Những người con từ nơi miệng của Ta sinh ra, theo pháp hóa sinh ra, đó là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Cư sĩ nam nữ và những thiện nam thiện nữ tịnh tín vì pháp Thắng nghĩa đế cho đến cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, tất cả đều được hộ trì. Nay ta phó chúc nơi các ông, những vị Thiên Long, Dạ-xoa, những thí chủ lớn và các bậc Bồ-tát Ma-ha-tát trong Hiền kiếp như Bồ-tát Từ Thị v.v… như lời truyền dạy của Ta đều nên tạo sự hộ trì.
Nếu người muốn an trụ tu hành chánh pháp, tức được tâm thiện. Làm thế nào đạt được tâm thiện? Như kinh Bảo Vân nói: Bậc Bồ-tát được tâm thiện, thế nào gọi là tâm thiện? Đó là nếu nơi thân tâm có thể xả ly, tức được tâm thiện. Nên sinh tâm như vậy và quán xét kỹ xem pháp nào là chỗ hành của tâm ta, và lấy cái gì để gọi là thiện? Nếu tâm hành thiện tức tâm vui thanh tịnh, do tâm vui tức là hành thiện, nên có thể xả bỏ nhiều loại, có thể khởi nhiều ý xét về pháp không thiện rồi dứt trừ hết.
Kinh A-xà-thế nói: Các bậc Bồ-tát không nên sinh tâm như thế. Nếu tâm có chỗ sinh tức để các loại ma có chỗ lợi dụng, chư Phật Như Lai cũng không thích muốn, bậc Hiền Thánh cũng không sinh tâm mừng từ nơi gốc thiện phân chia ra rồi giảm mất. Nếu tâm sinh mà không có chỗ sinh thì ma ác không có chỗ lợi dụng, chư Phật Như Lai cũng đều vui thích. Tâm bậc Hiền Thánh vui là phần của gốc thiện cũng không giảm mất. Nếu tu hành như thế tất có thể sinh tâm ở tất cả nơi, sinh tâm chuyển pháp luân giảng nói pháp mà không bị tạp loạn.
Kinh Khai Phát Nội Tâm nói: Phật dạy: Này Từ Thị! Nếu các Tỳ-kheo có chỗ nói tạp loạn, tuy nghe học nhiều mà lại sinh kiêu mạn, sai lầm, mê say, quên mất, nội tâm tán loạn nên không chuyên chú. Tâm dua nịnh quanh co ấy nối tiếp sinh khởi, xa rời Xa-ma-tha (chỉ) Tỳ-bát-xá-na (quán) không được người tôn trọng, Thiên Long, Dạ-xoa cũng không tùy thuận, tuy là tu chính hạnh nhưng không được thành tựu. Nếu đối với chỗ hành, tất cả đều không có chỗ thủ đắc, đó là chính hạnh. Nếu muốn biết rõ chỗ chính hạnh tức phải siêng năng tu tập, nghe nhiều và tọa thiền.
Lại nữa, trong kinh kia còn nói như vầy: Nếu có bậc Bồ-tát siêng năng tu thắng hạnh, làm tổng lĩnh, xây tháp đẹp bằng bảy báu khắp cả tam thiện đại thiên thế giới, thì Ta cũng không chấp thuận. Nhưng nếu có người nghe nhận chánh pháp từ một bài kệ gồm bốn câu tương ưng với Bát-nhã Ba-la-mật, Ta sẽ tôn trọng khen ngợi người này. Vì sao vậy? Vì đa văn có khả năng sinh Bồ-đề của chư Phật, lại từ thế gian không chấp giữ tham vướng mà sinh. Nếu có bậc Bồ-tát siêng năng tu thắng hạnh là tổng lĩnh, nên vì người thuyết pháp giảng đạo. Bậc Bồ-tát với những giảng dạy khiến người chấp chặt nơi pháp không còn chấp chặt, thâu được lượng phúc rộng lớn vô lượng và tiêu tan nghiệp chướng.
Này Từ Thị! Giả sử hết cõi Diêm-phù-đề các Bồ-tát đều siêng năng tu thắng hạnh làm tổng lĩnh, thì những Bồ-tát ấy nếu siêng năng tu một hạnh, thuyết pháp giảng nói truyền trao mới là chỗ thừa sự cúng dường.
Lại nữa, nếu cả cõi Diêm-phù-đề các Bồ-tát đều siêng tu, thuyết pháp giảng truyền, thì Bồ-tát siêng tu một hạnh, tọa thiền mới là chỗ thừa sự cúng dường. Nếu được như vậy, Phật sẽ chấp thuận và cũng tùy hỷ. Vì sao vậy? Vì sự nghiệp trí tuệ khó hành bậc nhất là tối cao tối thắng trong ba cõi. Lại nữa tuyên thuyết hạnh trì chánh pháp, như Kinh Bảo Tích nói: Phật dạy: Này Ca-diếp! Ví như có một chủ buôn muốn ra biển lớn tìm vật báu vô giá, trước phải xem xét về thuyền bè vững chắc, cho đến chỗ có châu báu rồi lúc quay về nhà mình. Này Cadiếp! Đại Bồ-tát cũng như vậy. Muốn vào biển Nhất thiết trí, trước phải quán sát siêng tu sáu Ba-la-mật, cho đến khi vượt qua tất cả địa vị ngu phu, phàm tục, Thanh văn, Duyên giác, sau cùng trụ nơi quả vị Phật.
Kinh A-Xà-Thế nói: Phật dạy: Đại vương! Gốc rễ của tâm Nhất thiết trí không dứt đoạn, Gốc rễ như vậy phải nhắc nhở siêng năng chỉ dạy tinh tiến, bố thí không chán đủ lấy đó để hồi hướng về trí Nhất thiết trí. Trì giới không ngừng dứt, để hồi hướng tất cả hữu tình, nhẫn nhục không ngừng dứt để cầu sắc tướng Phật. Tinh tiến không ngừng dứt để siêng năng tu tập thiện căn. Thiền định không ngừng dứt để tương ưng với sở duyên. Trí tuệ không ngừng dứt để khéo phân biệt tất cả các xứ. Vì làm lợi pháp, nên an vui, giàu có, sống lâu ở tất cả nơi đều không có lỗi. Còn người tu chính hạnh cần khởi tâm bình đẳng đối với tất cả loài hữu tình.
Như Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội nói: Phật dạy: Đồng tử! Bậc đại Bồ-tát nên đầy đủ một pháp. Người thành tựu công đức này tức chóng chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thế nào là một pháp?
Đồng tử! Nghĩa là Đại Bồ-tát khởi tâm bình đẳng đối với tất cả loài hữu tình, khởi tâm lợi ích, tâm không chướng ngại, tâm không độc. Đó là một pháp. Nếu muốn tu hạnh chánh pháp nên cần xả bỏ những sự về lợi dưỡng.
Kinh Khai Phát Nội Tâm nói: Nên quán xét suy nghĩ những lợi dưỡng, vì sự vướng víu của lợi dưỡng làm mất chánh niệm, lúc tánh si nổi lên thì chỉ thành tựu về lợi cho mình. Lúc tánh dua nịnh dối quanh khởi lên thì không thuận theo lời dạy nhắc nhở của chư Phật. Lúc tánh ngã mạn cao ngạo khởi lên chỉ hoàn toàn chỉ vì gốc rễ hiểm ác.
Những loại như vậy đều làm hư hoại thiện căn. Người trí nên xem xét suy nghĩ về lợi dưỡng. Tuy hiện tại đang hưởng thấy có chỗ được nhưng quả lợi nơi đời sau đều không, vô lượng thiền định thảy đều xa lìa, sẽ đọa vào chốn địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.
Người trí nên nghĩ xét về sự lợi dưỡng cũng như nước chảy trôi mãi không dứt. Xét nghĩ như vậy rồi liền sinh tâm ít muốn biết đủ.
Kinh Tạp A Hàm nói: Ví như có một bầy dê câm đi vòng quanh cây Ni-câu-luật-đà, trong bầy có một con dê câm một mình đi đến chỗ bầy nai trong núi, nơi người chăn nai ở, đến trước bầy nai ngúc ngắc đầu rồi quì xuống để xin ăn, cầu được giúp đỡ. Như vậy lúc trở về, những con dê khác sẽ khinh chê. Đây có hạng Tỳ-kheo ngã mạn, ca tụng sự lợi dưỡng cũng lại như vậy, khởi tâm không chán, rời khỏi chúng Tăng, vì miếng ăn mà một mình vào xóm làng thành ấp lần lượt khất thực cầu sự mời đón, được thức ăn tối thượng thanh tịnh, tự chia phần ăn rồi mang thức ăn về chỗ các Tỳ-kheo nói với họ: Các Tôn giả! Hôm nay, tội thọ nhận sự cúng dường tại nhà bạch y, được một bữa ăn rất mực thanh tịnh, nay tôi có thức ăn. Đây là pháp ăn lớn, đây là pháp xả, vị nào muốn ăn cứ tùy ý. Nói như vậy xong, trong chúng có Tỳ-kheo trẻ đều sinh tâm khinh mạn. Người trí nên biết: Người nói những lời thô thiển xấu xa như vậy đều là do những sự lợi dưỡng, như trong kinh đã nói rộng. Ở đây làm sao lìa tránh hai pháp dua nịnh, dối trá.
Kinh Vô Nhiệt Não nói: Có hai loại pháp chướng ngại cho tâm Nhất thiết trí, đó là: Dua nịnh, và dối trá.
Có hai pháp không làm chướng ngại: Một là chính trực, hai là không dua nịnh. Muốn thành tựu được các chính hạnh thường nên gần gũi các bậc thiện tri thức. Nhờ thiện tri thức mà thành tựu chính hạnh.
Trong những kinh nào nói điều này? Như Kinh Thắng Sinh Thắng Man Giải Thoát nói: Các bậc đại Bồ-tát nhờ nơi thiện tri thức mà lưu xuất tất cả pháp hành của Bồ-tát. Thiện tri thức có uy lực lớn, nên có thể làm thành tựu viên mãn bậc Bồ-tát. Thiện tri thức có thể sinh khởi tất cả thiện căn của Bồ-tát. Thiện tri thức có thể kết tập khắp tất cả chỗ hành trì, tu học của bậc Bồ-tát. Thiện tri thức là gốc rễ, có thể khiến tâm nhiễm của Bồ-tát trở thành thanh tịnh. Thiện tri thức có thể giữ gìn, làm tăng trưởng tất cả lượng phúc. Thiện tri thức là chỗ đáng yêu thích để thâu đạt tất cả Bồ-đề của Phật. Thiện tri thức có thể thâu giữ khiến các Bồ-tát không rơi vào cõi ác, không thoái chuyển nơi Đại thừa, không ra ngoài chốn học của Bồ-tát. Vượt ra ngoài lãnh vực của hàng phàm phu ngu dốt và cũng không xả bỏ pháp Thanh văn, Duyên giác mà còn tạo sự hộ trì. Thiện tri thức có thể khiến tất cả những kẻ mất đạo trở về chính đạo, với kẻ nghe chánh pháp thì khiến hiểu rõ, thâm nhập tất cả pháp của Phật. Thiện tri thức như mẹ, có thể khiến tất cả sinh nơi nhà Phật. Thiện tri thức như cha, rộng vì các loại hữu tình làm lợi ích về sự sống, tài sản. Thiện tri thức như mẹ nuôi, khéo giúp tất cả khiến xa rời tội nghiệp. Thiện tri thức như người đầy tớ lao nhọc, có thể vào biển sanh tử đầy phiền não để cứu hộ. Thiện tri thức như kẻ lái đò liên tục chở loài hữu tình đến chốn báu lớn trí Nhất thiết trí. Những người tu chánh hạnh, nếu muốn đến chỗ thiện tri thức nên nghĩ như vậy, khiến thân tâm được thanh tịnh, siêng năng dũng mãnh. Tâm phải như đất mới có thể gánh vác những gánh nặng. Tâm như nô bộc, tùy chỗ chỉ dạy khiến đều làm theo. Tâm ấy như con chó, thường cảnh giác sủa vang để ngăn, giữ. Phải quán thân mình như bệnh nhân, Thiện tri thức như thầy thuốc, pháp dạy như thuốc, hành theo điều chỉ dạy như trừ bệnh. Tưởng như vậy rồi, nhờ nơi thiện tri thức mà tâm sâu xa được thanh tịnh. Dựa theo chỗ chỉ dạy của thiện tri thức mà khéo tu hành, tức có thể tăng trưởng tất cả thiện căn. Cũng như tất cả cỏ thuốc, rừng cây đều nương dựa vào núi Tuyết, nương dựa vào thiện tri thức cũng lại như vậy, có thể thành tựu tất cả các pháp Phật, thành pháp khí lớn. Lại cũng như tất cả dòng sông đều qui về biển lớn, bậc Bồ-tát cũng do nơi thiện tri thức, theo đó mà xuất sinh, tức được thành tựu viên mãn tất cả pháp hạnh của Bồ-tát và tất cả pháp Phật.
Như Kinh Bảo Tích nói: Phật dạy: Này Ca-diếp! Như người đi thuyền vào biển lớn, giữa dòng bỗng nhiên thuyền bị hư hoại. Lúc đó, hoặc nương tựa nơi một mảnh ván hoặc cây cột nào còn lại, theo đấy mà được đến bờ yên ổn. Ca-diếp! Thuyền tâm Nhất thiết trí của thừa Bồ-tát cũng lại như vậy, bỗng nhiên giữa dòng bị mất pháp của Bồ-tát thừa, nếu gặp thiện tri thức và nương dựa theo thiện tri thức tức lại được tâm Nhất thiết trí, dựa các pháp Ba-la-mật-đa chở đi cho đến bến bờ pháp giới.
Này Ca-diếp! Có được pháp nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng là thảy đều nương vào thiện tri thức. Do đó, sự cúng dường, thừa sự nơi thiện tri thức là tối thượng, dù khi Phật tại thế, hay sau khi Phật nhập Niết-bàn cũng nên siêng năng thực hiện, thì được viên mãn vô lượng hành phước quả báo rốt ráo được thành tựu. Như Kinh Hoa Tích nói: Nếu thấy Như Lai hiện pháp Sư tử diệu dụng, thấy rồi liền phát tâm thanh tịnh và cúng dường. Lại sau khi Phật nhập Niết-bàn, thu giữ hạt xá-lợi dù nhỏ như hạt cải để cúng dường, như vậy chỗ được quả báo đều bằng nhau, trong đó cũng không có các thứ sai biệt.
Như Kinh Đại Bi nói: Phật dạy: Này A-nan! Nếu có người cúng dường khi ta hiện tiền, có một giá trị thế nào thì người cúng dường xá-lợi như hạt cải khi ta nhập Niết-bàn rồi cũng giá trị như vậy. Lại nếu có người tạo dựng bảo tháp, theo như trong giáo pháp của ta, cũng có giá trị như thế. Hoặc có người chỉ lấy một cành hoa tung rải trong không, để quán tưởng cúng dường chư Phật, ta nói người này từ thiện căn ấy cuối cùng sẽ chứng đắc quả đại Niết-bàn.
A-nan! Nói tóm lại, thấp cho đến trong loài bàng sinh, các loài hữu tình nếu biết tưởng niệm chư Phật, ta nói những hữu tình đó từ thiện căn ấy, rốt cùng cũng thành tựu quả đại Niết-bàn. A-nan! Ông quán nơi Phật Thế Tôn, những việc làm nào thực hiện là lớn nhất? Phát tâm thế nào là uy lực lớn? A-nan! Nếu một người chỉ có thể một lần xưng niệm Nam Mô Phật-đà-da, thì đó là thắng nghĩa. Vì sao? Nghĩa là Phật Thế Tôn đầy đủ danh xưng đại bất không. Nghĩa bất không này tức là Nam mô Phật-đà-da. Lấy một chút thiện căn dù cực ít, theo chư Như Lai thì cũng không hoại mất, thấp hơn cho đến một phát tâm thanh tịnh, tất cả tâm ấy cuối cùng đều chứng đắc Niết-bàn.
A-nan! Cũng như người câu cá muốn câu cá trong ao lớn, bèn thả mồi câu trong nước. Cá bèn mon men lặn đến tìm ăn. Lúc đó ngư ông biết cá đã đến, lớp lớp vững vàng, từ từ sâu chắc, thâu dây theo cần. Đã được cá rồi trở về đất liền, tùy theo ý thích mà sử dụng. Tất cả các loài hữu tình trên thế gian cũng lại như vậy. Trước phát tâm thanh tịnh nơi Phật Thế Tôn, gieo trồng căn lành cho đến sinh khởi tịnh tín, vậy mà những hữu tình ấy sau lại làm ác, gây nghiệp chướng để sinh ở xứ nạn. Về sau mới gặp được Phật Thế Tôn, dùng trí Bồ-đề và dây câu bốn nhiếp cứu độ kẻ hữu tình ra khỏi dòng sinh tử, về bờ Niết-bàn.
Kinh Hải Long Vương Vấn nói: Phật dạy: Long chủ! Chư đại Bồ-tát nếu đầy đủ tám pháp thì thường được không lìa rời chư Phật. Tám pháp là gì?
Một là: Chỉ dạy quán ảnh tượng Phật.
Hai là: Thừa sự, nối tiếp lo việc Như Lai.
Ba là: Thường khen ngợi Như Lai.
Bốn là: Tạo hình tượng Phật.
Năm là: Chỉ dạy quán sắc tướng Phật.
Sáu là: Theo cõi của vị Phật nào, nghe xưng danh vị Phật ấy, tức ở trong cõi vị Phật đó phát sinh nguyện thù thắng.
Bảy là: Không sinh tâm thấp kém.
Tám là: Khởi tâm rộng lớn cầu trí tuệ Phật.
Như Kinh Bồ-Tát Tạng nói: Nếu có thể làm nghiêm tịnh tháp miếu của Như Lai thì sẽ đạt được bốn loại thệ nguyện tối thượng thanh tịnh. Bốn loại ấy là gì?
Một là: Đạt được thệ nguyện thanh tịnh nơi sắc tướng tối thượng.
Hai là: Thệ nguyện thanh tịnh đầy đủ các tướng tối thượng.
Ba là: Thệ nguyện thanh tịnh tu tập kiên cố tối thượng.
Bốn là: Thệ nguyện thanh tịnh tối thượng quán thấy Như Lai.
Kinh ấy cũng nói: Nếu ở nơi tháp miếu của Như Lai rải hoa, xoa hương để cúng dường, người này sẽ thu được tám loại pháp bất hoại. Tám loại ấy là gì?
Một là: Sắc tướng không hoại.
Hai là: Niềm vui không hoại.
Ba là: Quyến thuộc không hoại.
Bốn là: Tịnh giới không hoại. Năm là: Đa văn không hoại.
Sáu là: Tịnh định không hoại.
Bảy là: Trí tuệ không hoại.
Tám là: Thệ nguyện không hoại.
Nếu người muốn tạo hình tượng Như Lai nên theo ý mà làm. Hoặc dùng đất, gỗ, sắt, đá, hoặc dùng ngà voi, vàng bạc, lưu ly, thủy tinh, ngọc châu đỏ, san hô, mã não, kha bối, các loại hương tốt, hoặc làm hình vẽ, hoặc khắc ảnh tượng trên gỗ trên tường đá, hoặc dùng giấy, tơ lụa thuê vẽ cắt làm thành. Hoặc tự mình làm mới, hoặc tu bổ hình tượng Như Lai hư cũ. Tạo những việc ấy, vào đời vị lai không sinh vào dòng họ thấp kém, không sinh trong dòng họ có nghiệp ác tà kiến, thân không bị tàn phế, thiếu khuyết. Như có người phạm đủ năm tội vô gián, có thể phát sinh tịnh tín nơi Như Lai, tạo dựng hình tượng Phật thì tội đọa địa ngục của người này chuyển nặng thành nhẹ, nơi pháp của ba thừa hoặc trong thừa khác mà được xuất ly. Như một người thân ô uế bất tịnh, nhưng nếu tắm gội các loại hương thơm thì mùi hôi bẩn phải tan bay không còn sót. Người phạm năm tội vô gián cũng như vậy. Do tạo dựng tượng Phật nên tội nghiệp được diệt sạch không còn sót. Hoặc là người hành mười nghiệp bất thiện nếu phát tâm tịnh tín đối với Như Lai thì tội nghiệp cũng tiêu hết. Như loại Tô bỏ vào trong lò lửa thì tất cả đều cháy. Ý nghĩa nghiệp tan không còn sót là như vậy. Huống gì một người có đầy đủ tâm Bồ-đề tối thắng và người xuất gia đầy đủ tịnh giới mà tạo dựng hình tượng Phật thì công đức ấy to lớn biết bao!
Như Kinh Bảo Tích nói: Giả sử tất cả những hữu tình khắp trong ba cõi mỗi mỗi đều tạo lập tháp miếu Như Lai, hình dáng cao rõ như núi chúa Tu-di, rồi các hữu tình trải qua vô số hằng hà sa kiếp, mỗi mỗi đều cúng dường tôn trọng tháp và nếu có bậc Bồ-tát không rời tâm Nhất thiết trí, chỉ lấy một cành hoa để cúng dường tôn trọng tháp, thì lượng phúc của vị nầy hơn trước rất nhiều lần.
Kinh ấy lại nói: Giả sử tất cả chúng hữu tình trong tam thiên đại thiên thế giới đều trụ nơi Đại thừa, rồi sau đều thành Chuyển Luân Thánh Vương, những người ấy góp chứa dầu thơm như nước nơi biển lớn, tích chứa cỏ nhiên đăng nhiều như núi Tu-di, mỗi mỗi thắp sáng thành ngọn đèn sáng rộng lớn để cúng dường nơi tháp miếu Như Lai, và nếu có vị Bồ-tác xuất gia lấy một nhánh cỏ nhiên đăng, thấm một ít dầu đốt lên cúng dường nơi tháp Phật, thì vị này được lượng phước hơn người bố thí đèn sáng trước rất nhiều, lượng phước của người trước không được một phần trăm của vị này, cho đến phân ra thành số cực vi cũng không bằng một phần.
Lại nữa, những vị Chuyển Luân Thánh Vương kia, mỗi người đối với Phật và các Tỳ-kheo, đem cúng thí tất cả các vật thọ dụng an lạc, và nếu có vị Bồ-tát xuất gia, mang bát khất thực, trước thí bớt cho người rồi sau mới ăn, thì vị này được lượng phước hơn lượng phước trước rất nhiều, rất lớn rộng. Lại nữa, nếu những Chuyển Luân Thánh Vương gom y phục đẹp số lượng như núi Tu-di để cúng thí Phật và chúng Tỳ-kheo, và nếu có một vị Bồ-tát xuất gia chỉ dùng ba y, hoặc cúng thí vị Bồ-tát có tâm mười tín, hoặc cúng thí Phật và các Tỳ-kheo, hoặc cúng thí tháp miếu Như Lai, thì lượng phước này rất là thù thắng so với lượng phước trước.
Lại nữa, những vị Chuyển Luân Thánh Vương kia, mỗi vị đều đem bày biện hoa đẹp đầy khắp cõi Diêmphù-đề rộng vì cúng dường các tháp miếu Như Lai. Nếu có Bồ-tát xuất gia chỉ lấy một cánh hoa cúng dường tháp miếu Như Lai, so với lượng phước vị này thâu được thì lượng phúc của người trước không bằng một phần trăm, cho đến cũng không bằng một phần của phần cực vi.
Kinh Thứ Đệ Xuất Sinh nói: Nên quán Bồ-tát có bốn loại hiền thiện đáng khen ngợi, ứng hợp với sự dạy bảo của Như Lai về cúng dường. Bốn điều ấy là gì?
Một là: Tự thực hiện bố thí cúng dường tối thượng và khiến các hữu tình cũng thực hiện thắng hạnh cúng dường như vậy.
Hai là: Siêng năng thành kính cúng dường chư Như Lai rồi lại làm vững chắc tâm đại Bồ-đề.
Ba là: Chiêm ngưỡng ba mươi hai tướng đại trượng phu như ở trước mắt.
Bốn là: Gieo trồng thiện căn để được tăng trưởng thù thắng. Đó là bốn pháp. Đó là thừa sự cúng dường tối thượng nơi các đức Phật Như Lai.
Kinh Hải Tuệ Vấn nói: Phật dạy: Này Hải Tuệ! Có ba thứ pháp là sự thừa sự cúng dường tối thượng Như Lai. Những gì là ba pháp?
Một là: Phát sinh tâm đại Bồ-đề.
Hai là: Thâu nhận chánh pháp của Như Lai.
Ba là: Rộng vì các hữu tình, khởi tâm đại bi.
Đây là những pháp hành cúng dường Thắng nghĩa.
Kinh Từ Thị Sư Tử Hống nói: Không có Phật có thể nghĩ tưởng quán xét, huống chi lại có Phật để có thể cúng dường sao? Có chỗ thủ đắc chăng? Không có điều này.
Ở đây, thế nào là cúng dường Phật?
Gọi là cúng dường chân thật, tức nên khởi tâm vô tưởng, vô tướng, không tác ý tâm, tâm sở, không tưởng Phật, không tưởng Pháp, không tưởng Chúng, không tưởng chúng sanh, không tưởng mình, người. Cúng dường mà khởi tâm như vậy, đó là cúng dường các đức Phật Như Lai một cách chân thật.
Kinh Bát nhã Ba-La-Mật nói: Phật dạy: Thiên chủ! Giả sử gom chứa Xá-lợi của Như Lai đầy khắp trong hằng hà sa số thế giới để trên sát tràng (phướn). Và có người chép viết kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa để dâng thí, trong hai phần ấy ông chọn phần nào?
Đế Thích thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Trong hai phần ấy, con chọn phần Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Vì sao? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa, có thể sinh xá-lợi của Như Lai. Sự cúng dường người tu tập Bát nhã Ba-la-mật-đa tức là cúng dường Xá-lợi Như Lai.
Phật dạy: Đế Thích! Nếu các loại hữu tình tin hiểu về Niết-bàn như thật của Như Lai là rất khó được, thì Niết-bàn như thật của Như Lai trong đây nghĩa là gì? Rất nhiều kinh nói về điều ấy.
Như kinh Như Lai Hưng Hiển nói: Phật dạy: Phật tử! Nếu bậc Bồ-tát mong muốn hiểu rõ về Đại Niết-bàn của chư Phật Như Lai, nên lấy tuệ quán sát, trước hiểu rõ tánh nơi tự tánh của pháp. Tự tánh của pháp tức là nói chân như, thực tế, pháp giới hư không giới, cõi tự tánh thanh tịnh, cõi vô tướng, cõi tự tánh của ngã. Tự tánh của tất cả là như như Niết-bàn, nên biết rõ như vậy về Niết-bàn như thật của Như Lai. Vì sao? Phật tử! Các pháp xưa nay là như vậy, không sinh và không chỗ sinh. Do pháp xưa nay là như vậy không sinh, không chỗ sinh nên không có chút pháp nào có thể thủ đắc. Tuy nhiên, Phật Như Lai có chỗ sinh, chỉ vì tạo niềm an vui cho các loại hữu tình tương tục, nên biểu thị có sinh như vậy. Như Lai vào Niết-bàn, đó cũng vì loài hữu tình mệt mỏi chán ngán về sinh. Thực sự Như Lai vốn không sinh cũng không chỗ sinh và cũng không Niết-bàn. Chư Như Lai thường trụ nơi pháp giới.
Phật tử! Ví như vầng sáng mặt trời xuất hiện, chiếu sáng khắp tất cả thế giới. Trong các bình chứa nước thanh tịnh thấy được hình ảnh mặt trời sáng, không phải là vầng nhật đi khắp mọi nơi, đi vào trong bình nước mà có hình ảnh hiện. Nếu tất cả bình nước kia hoặc lúc bị vỡ, hoặc nước đục dơ, hoặc lúc nước cạn thì vầng mặt trời cũng không thấy trong bình. Nhưng hình ảnh mặt trời sáng không hiện rõ trong bình không phải là lỗi của mặt trời. Đó là do bình tịnh đó tự phá hủy.
Phật tử! Đức Như Lai cũng lại như vậy.
Pháp giới như vầng mặt trời lớn rộng sáng tỏ. Tùy trong pháp giới thường xuất hiện chiếu sáng rộng khắp thuận theo tất cả thế gian. Nếu tâm của các hữu tình thanh tịnh tương tục tức ảnh tượng Như Lai xuất hiện. Tất cả hữu tình tuy thường xem thấy ảnh tượng như vầng mặt trời của Như Lai nhưng không phải Như Lai đi đến tất cả chỗ, theo đó mà xuất hiện. Nếu các hữu tình kia cũng như bình nước vỡ, tâm không thanh tịnh, nghiệp phiền não tương tục như cũ, sẽ không thấy được ảnh tượng là vầng sáng mặt trời của Như Lai, các hữu tình ấy liền khởi nghĩ tưởng là Như Lai nhập Niết-bàn. Sự nhập Niết-bàn của Như Lai này không phải là lỗi của Như Lai, đó là vì thiện căn tương tục của các hữu tình bị hủy hoại. Hơn nữa, dùng pháp đại Niết-bàn có thể hóa độ được các hữu tình.
Do đó Đức Như Lai biểu hiện nhập Niết-bàn, nhưng chân thực thì Như Lai vô lai, vô khứ (không đến không đi) và cũng không chỗ trụ.
Phật tử! Ví như tất cả thế gian đều có đốt lửa, sau đó hoặc là riêng biệt ở một nước, một thành ấp, xóm làng lửa bị tắt, đấy không phải là khắp hết thảy thế gian, việc dùng lửa đều dứt. Phật tử! Như Lai cũng lại như vậy. Tận khắp tất cả thế giới tùy thuận thi hành, làm tất cả Phật sự, nếu trong các nước Phật khác, làm Phật sự xong rồi, hiển thị nhập Niết-bàn, thì không phải chư Phật ở tất cả thế giới đều nhập Niết-bàn. Cũng như bậc thầy huyễn thuật khéo học pháp huyễn, dùng sức của minh chú hiểu suốt tất cả trong tam thiên đại thiên thế giới, hiện thân làm những sự huyễn. Tất cả làng xóm thành ấp cõi nước đều hiển thị khắp, tùy sức huyễn hoặc trụ một kiếp hoặc nhiều kiếp. Nếu ở các làng xóm thành ấp nơi cõi nước khác làm sự huyễn xong, bèn tự ẩn thân tướng, không phải sự huyễn ở tất cả thế gian đều ẩn.
Phật tử! Như Lai cũng lại như vậy. Dùng vô lượng trí như huyễn khéo học trí tuệ phương tiện thù thắng sáng suốt, thị hiện tất cả pháp giới sự huyễn. Như Lai tùy hiện nhưng thân Như Lai rốt ráo an trụ, pháp giới và hư không giới tất cả loại hữu tình đều là sự nghiệp bình đẳng, riêng biệt nơi các cõi nước, tùy theo Phật sự đã làm xong bèn thị hiện nhập Niết-bàn, cũng không phải trong một cõi Phật nhập Niết-bàn, tất cả pháp giới Như Lai đều nhập Niết-bàn. Phật tử! Các bậc Bồ-tát nên biết như vậy Đại Niết-bàn của chư Phật Như Lai, chỗ biết nhiều vô lượng, rốt ráo không chấp trước. Pháp giới không có biên vực, cũng không có khoảng giữa. Tự tánh rộng lớn như hư không giới. Chân như không sinh, cũng không diệt, an trụ ở thực tế, tùy lúc dùng phương tiện thị hiện. Do đó nên biết, đừng sinh chán ngán tất cả thế gian, tùy theo hạnh nguyện trước mà tự an trụ. Tất cả thế gian, tất cả các cõi, các pháp thắng hạnh đều được thành tựu. Kinh Bát nhã Ba-la-mật-đa có nói: Đại Niết-bàn nghĩa là tự tánh "không" (không tự tánh).
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nói: Phật dạy: Này Cadiếp! Nếu có thể hiểu rõ tỏ ngộ tánh bình đẳng của tất cả pháp, đó là đại Niết-bàn.
Kinh ấy cũng nói: Phật dạy: Này Thiện nam! Chỗ hành hóa của Như Lai đều đã làm xong. Thọ mệnh từ thành Phật đến nay đã dài lâu vô lượng. Như Lai thường trụ không nhập Niết-bàn, vì hóa độ các hữu tình nên thị hiện Niết-bàn. Vì sao? Vì nên dùng duyên như vậy mới thành thục chúng hữu tình.
Kinh Đại Bi nói: Phật dạy: Này Đại Phạm! Như vậy, nghiệp thế gian này dứt, phiền não dứt, khổ não dứt, duyên khổ dứt tắt, tịch nhiên xuất ly. Đây là nói Niếtbàn. Đại Phạm! Trong đây không có người thấu rõ đó là Niết-bàn, tức là nghiệp phiền não dứt, tự tánh thanh tịnh hiển hiện. Phẩm Xuất Thế nói: Dùng phương tiện, chư Phật khai thị vô số pháp Niết-bàn.
Kinh Phạm Vương Vấn nói: Phạm vương thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Những bậc xuất gia đối với trong tất cả các tướng vốn ưa thích nếu có thể dừng dứt, thì đây gọi là Niết-bàn. Phật dạy: Đại Phạm! Điều này cùng làm duyên mà được thành lập.
Kinh Giác Trí Phương Quảng nói: Phật bảo: Này Đại-Mục-kiền-liên! Thời quá khứ có Phật hiệu là Danh Xưng Cao Hiển, ở cõi Phật ấy chỉ có chúng Thanh văn, lúc đó có một Tỳ-kheo quán các cảnh sở duyên, trụ ở hạnh Đại thừa. Người này từng ở chỗ vô số vô lượng đức Phật gieo trồng thiện căn, không thoái chuyển tâm Bồ-đề vô thượng, an trụ trong pháp Đại thừa vô thượng, muốn làm nghiêm tịnh vô số cõi Phật. Trong cõi Phật ấy không có hữu tình nào khác phát tâm Bồ-đề. Bấy giờ vị Tỳ-kheo nọ, tuy gieo trồng thiện căn rộng, nhưng trong pháp thâm sâu lại sinh tâm kiêu mạn. Do nhân duyên này nên sinh về cõi trời Trường thọ. Bấy giờ, Như Lai Danh Xưng Cao Hiển đã đến lúc làm Phật sự xong, ngài bèn quán sát tất cả cõi Phật xem trong cõi nào, giới hữu tình không làm Phật sự. Sau quán ngay cõi của ngài có một Tỳ-kheo trụ hạnh Đại thừa, đúng là pháp khí Bồ-đề, nhưng Tỳ-kheo ấy lại bị chướng nạn và sinh nơi cõi trời Trường Thọ, nên thân khí người ấy không thể khiến gieo trồng thiện căn Bồ-đề. Sau khi mệnh chung, người này phải bị đọa vào địa ngục lớn A-tỳ và cũng không thể gieo trồng thiện căn. Ra khỏi địa ngục, sinh vào cõi người lại bị câm điếc, phải làm dấu đưa tay chỉ vật, hoặc mượn duyên khác mới hiểu được sự. Lúc này, Đức Như Lai Danh Xưng Cao Hiển muốn hóa độ Tỳ-kheo này nên dùng phương tiện khéo léo trong sáu mươi ức đời, khó nhọc nhẫn nại để làm việc hóa độ, khiến được thành thục. Phật bảo: Đại-mục-kiền-liên! Ông hãy quán tâm của Phật Như Lai ấy, vì một hữu tình trải qua thời gian dài như vậy chịu bao lao khổ cho đến khi cơ duyên vị Tỳ-kheo nọ thành thục, an trụ ở bậc địa bất thoái chuyển.
Này Tôn giả Đại-mục-kiền-liên! Ý ông nghĩ sao, vị Như Lai Danh Xưng Cao Hiển lúc ấy là người khác lạ chăng? Nay chính là Như Lai Hiện Nhất Thiết Nghĩa. Còn vị Tỳ-kheo quán sát cảnh sở duyên thuở ấy tức Đức Như Lai Vô Lượng Quang.
Kinh Phụ Tử Hợp Tập, phẩm Tiên Hành nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Thời quá khứ, trong sự luân hồi vô lượng A-tăng-kỳ, vô số không thể tính toán, không có thời mở đầu, có vị Như Lai hiệu là Đế Tràng, trải qua hằng hà sa số thế giới cõi Phật, những loại hữu tình ở những cõi Phật ấy đều được năm việc vui. Hoặc có hữu tình được vui về ý muốn, hoặc được vui về lìa bỏ, hoặc được vui về thiền định, hoặc vui về Tam-mađịa, hoặc được vui về đạo quả Bồ-đề vô thượng. Tuy các hữu tình ấy được thọ những điều vui, nhưng không ràng buộc, chấp giữ, ví như chim bay liệng trong không mà được tự tại. Những hữu tình được các sự vui cũng vậy đều không chấp trước. Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Đức Như Lai Đế Tràng thời bấy giờ tức là Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni.
Kinh Nhập Lăng Già có bài tụng:
Ta không quán tịch tĩnh
Cũng không khởi hành tướng
Lại không tâm phân biệt
Nên Ta chứng Niết-bàn.
Trong đây nên biết, đối với một thừa tin hiểu rất là khó được. Một thừa này trong các kinh đều nói. Kinh Diệu Pháp Liên Hoa nêu: Ta phát khởi một thừa vì hữu tình thuyết pháp, là nói Phật thừa không có hai, không có ba. Pháp ấy trong mười phương tất cả thế giới đều như vậy. Vì sao? Vì trong đời quá khứ, chư Phật Như Lai trong tất cả thế giới mười phương đều phát khởi nhất thừa vì hữu tình thuyết pháp, hoặc trong đời vị lai, chư Phật Như Lai trong tất cả thế giới mười phương phát khởi nhất thừa cũng vì hữu tình thuyết pháp. Nhất thừa đó là Phật thừa.
Do duyên này, mười phương thế giới không có hai thừa, có thể kiến lập, huống hồ là ba thừa.
Phẩm Chân Thực nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Do nhân xưa kia nơi cảnh giới nhất thừa có thể đầy đủ, nay trong ba cõi Phật chỉ có pháp một thừa để xuất ly, mà không kiến lập hai thừa Thanh-văn và Duyên giác. Vì sao? Vì Như Lai đã lìa bỏ tất cả các loại nghĩ tưởng. Nếu có người nói: Hoặc Như Lai thuyết pháp Đại thừa, hoặc Như Lai thuyết giảng Thanh văn thừa, hoặc Như Lai thuyết giảng Duyên giác thừa, tức người này đối với Như Lai tâm không thanh tịnh, tâm không bình đẳng, tâm chấp trước.
Kinh Đại Bi nói: Phật dạy: Nếu Ta thuyết giảng có các loại nghĩ tưởng tức là tự sinh dối trá trong pháp. Nhưng Ta vì các hữu tình thuyết giảng các pháp, đều khiến đối với Bồ-đề mong muốn được pháp Đại thừa, thu gồm được Nhất thiết trí, khiến các hữu tình cùng đến bậc trí Nhất thiết trí. Do đó, không có phần vị thừa khác có thể kiến lập, cũng không có các địa trong chỗ Ta kiến lập. Cũng không kiến lập Bổ-đặc-già-la. Cũng không kiến lập ít hạnh hoặc vô lượng hạnh. Cũng không có ba thừa có thể phân biệt, do không có tính phân biệt nhập môn Pháp giới. Chỉ vì thế tục đế nên khai thị dẫn dắt, dùng phương tiện mà nói. Với thắng nghĩa đế, chỉ có một pháp nhất thừa, không có hai.
Kinh Bát nhã Ba-La-Mật nói: Phật bảo: Thiên chủ! Nếu các Thiên tử chưa phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng, Ta sẽ khiến phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Nếu lại không thể quyết định phát tâm Bồ-đề, ta cũng khiến cho tùy hỷ phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Vì sao vậy? Các vị đó mãi ở trong vòng sinh tử nối tiếp không dứt. Ta không muốn phần thiện căn của các vị bị chìm mất, nên khiến có được chỗ chứng đắc trong pháp tối thắng.
Phẩm Hội của Đại Tập nói: "Một thừa thu nhiếp khắp tất cả thừa kia. Dùng một thừa gồm thâu các thừa" nên đồng qui về một lý phổ nhập pháp giới, tánh không phân biệt của pháp giới.
Kinh Tổng Trì Tự Tại Vương Vấn nói: Phật không dạy có các loại nghĩ tưởng. Nhưng Phật xuất thế, những chỗ tác sự đồng một vị pháp giới mà không chướng ngại, thâu nhận tất cả hữu tình. Tự thành Chánh giác rồi, lại khiến các hữu tình cũng giác ngộ thông suốt, sau nữa chuyển pháp luân vi diệu là pháp luân bất thoái chuyển. Ví như người thầy sửa ngọc báu, đối với các báu chỉ lấy lưu ly giả sắc, trước dùng nước tro lau rửa cho sạch, tiếp theo dùng lông đen trơn để lau sửa ngọc. Cố nhiên, người thầy sửa ngọc báu này trải qua bao mệt nhọc, sau dùng nước thịt và lụa màu nhiều lần chùi sửa. Lại dùng nước đại dược và loại áo mỏng, mềm lần lượt sửa tinh xảo. Rốt cùng thì trong suốt, mất giả sắc thành lưu ly thực.
Đức Như Lai cũng lại như vậy. Biết giới hữu tình vốn không thanh tịnh, bèn thuyết giảng pháp vô thườngkhổ-vô ngã-bất tịnh, khiến giới hữu tình sinh chán lìa luân hồi. Sau dùng pháp Thánh, phương tiện điều phục dẫn dắt. Như Lai cũng không có lúc nào sinh chút mệt mỏi. Sau cùng thuyết giảng pháp không, vô tướng, vô nguyện, khiến họ mở mắt Như Lai giác ngộ.
Đức Như Lai vẫn không hề có lúc sinh mệt mỏi. Sau thuyết giảng Pháp luân bất thoái chuyển và ba luân thanh tịnh để dẫn đường hữu tình vào trong cảnh giới của Như lai, bình đẳng vượt qua vô số tánh nhân, cùng chứng pháp tánh thanh tịnh của Như Lai. Thuyết giảng này là vì cứu cánh của thế gian nhằm đạt được quả vô thượng. Kinh A Duy Việt Trí nói: Luân bất thoái chuyển là bình đẳng. Chư Phật nói pháp cũng bình đẳng, vì vậy vì loài hữu tình tin hiểu thấp kém không hiểu rõ pháp nhất thừa, Như Lai bèn xuất thế ở cõi Sa-bà năm uế trược, dùng phương tiện khéo léo vì những hữu tình kia kiến lập Phật sự, khiến thành tựu quả Phật.
Kinh Thắng Man Sư Tử Hống nói: Chư Phật Như lai theo phương tiện giảng nói pháp Niết-bàn này, từ trong ba thừa sinh ra các thừa, nhưng chỉ do pháp nhất thừa mới chứng được đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Kinh Nhập Lăng Già nói: Các chủng tử của phiền não vào Tam-ma-địa, Tam-ma-bát-để, biết rõ như thật, trụ trong cõi vô lậu, lại vào trong cõi Thanh văn và Duyên giác vô lậu, thắng hạnh xuất thế thành tựu viên mãn, được pháp thân tự tại không nghĩ bàn. Vì hóa độ cho những hữu tình được thành tựu các hạnh thiện, nên Như Lai dùng phương tiện nói nhiều loại thừa.
Do vậy các Đức Như Lai ở trong các giới không những chỉ nói ba thừa mà còn nói các pháp thừa khác nữa.
Như Kinh Hoa Nghiêm nói: Trong thế giới Cát Tường giải thoát của Phật Đại Tỳ Lô Giá Na, Như Lai Phổ Biến Trí Diệm Công Đức Tràng Vương kiến lập vô lượng loại hữu tình trụ ở địa Thanh-văn, vô lượng loài hữu tình thành thục được Bồ-đề Duyên giác, vô lượng loài hữu tình thành thục được biện tài nhanh chóng sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu hình thành thục được pháp tinh tấn tràng vô cấu sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình thành thục pháp biện tài sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình thành thục các căn biện tài thanh tịnh sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình thành thục viên mãn các hạnh mười lực sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình an trú ở cảnh giới của thành pháp hiện tiền nơi Nhất thừa sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình tùy ở tất cả xứ hiện các loại thần thông nơi lý, pháp Nhất thừa sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình kiến lập các hành, thâu nhiếp khắp vô lượng phương tiện sinh Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình an trú ở Tam-ma-địa, phần vị pháp, lý xuất sinh Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình an trú nơi tất cả cảnh giới của sở duyên theo lý, pháp của đạo tràng thanh tịnh sinh ra Bồ-đề, vô lượng loài hữu tình phát tâm Bồ-đề của Bồ-tát, vô lượng loài hữu tình trụ nơi đạo Bồ-tát, vô lượng loài hữu tình trụ nơi đạo Ba-la-mật-đa thanh tịnh, vô lượng loài hữu tình trụ nơi bậc sơ địa Bồ-tát cho đến trụ nơi địa thứ mười Bồ-tát.
Trong đó nên hiểu là Bồ-tát thường lấy chánh pháp để thâu nhận tất cả. Thế nào là chánh pháp thâu nhận?
Như kinh Tín Lực Nhập Ấn Pháp Môn nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Chánh pháp thâu nhận tức là Bồ-tát thâu nhận. Bồ-tát thâu nhận tức là chánh pháp thâu nhận. Chánh pháp thâu nhận tức là tất cả hữu tình thâu nhận. Tất cả hữu tình thâu nhận tức là hạt giống Phật không dứt, thành tựu chỗ tạo tác.
Lại nữa, muốn hạt giống Phật không dứt, muốn phá trừ phiền não nghiệp của tất cả hữu tình, muốn đóng cửa tất cả cõi ác, muốn thọ nhận niềm vui thượng diệu của vô lượng vô số Chuyển luân thánh vương, và niềm vui của Phạm vương, Đế Thích Hộ thế, muốn dứt bỏ dây buộc ràng của tất cả ma ác, cho đến muốn thành tựu đạo quả quả Bồ-đề vô thượng, thì đều phải lấy chánh pháp thâu nhận.
Ở đây nên hỏi: Bậc Bồ-tát mới phát tâm có ít thiện căn làm thế nào thâu nhận chánh pháp?
Như Kinh Bồ-Tát Tạng nói: Bậc Bồ-tát nếu đủ bốn loại pháp tức không kém giảm Bồ-đề, chuyển sinh được làm Chuyển Luân Thánh vương, theo sức nguyện tức được tất cả thiện căn, tùy chuyển mà được thân sức lớn Na-la-diên kiên cố. Được vị Chuyển Luân Thánh vương rồi, tu bốn phạm hạnh được sinh ở cõi Phạm làm chủ Phạm thiên. Bốn phạm hạnh là những gì?
Một là: Bậc Bồ-tát thấy tháp miếu Như Lai bị hư hoại, phát tâm siêng năng dũng mãnh để sửa sang, cho đến dùng viên đất sét để cúng dâng.
Hai là: Ở ngã tư đường, hoặc chỗ chợ búa đông người, lập dựng tháp Như Lai cao đẹp hiện rõ, hoặc tạo tượng ở miếu thờ. Hoặc theo đấy dựng hình cờ phướn, hoặc chỉ dựng sát cây phướn. Hoặc đặt yên hình tượng Như Lai, hoặc riêng biệt đặt bày tướng Như Lai: đó là tướng chuyển pháp luân, hoặc tướng vượt thành xuất gia, hoặc tướng nơi cội Bồ-đề thành bậc Chánh giác, hoặc tướng hiện thần thông lớn hàng phục quân ma, hoặc thị hiện tướng nhập đại Niết-bàn, hoặc tướng từ trời Đao Lợi hạ giáng sinh.
Ba là: Nếu thấy có sự chia rẽ trong chúng đệ tử hàng Thanh-văn thì làm cho hòa hợp.
Bốn là: Đối với giáo pháp của Như Lai, nếu thấy lúc chánh pháp sắp bị diệt mất, đem dũng lực hộ trì cho đến bốn câu kệ khiến được lưu thông không bị quên mất, mai một. Lại đối với chánh pháp hoặc sư thuyết pháp đều thâu nhận dù mất thân mệnh cũng không bỏ pháp.
Kinh Bảo Vân nói: Phật dạy: Này Thiện nam! Bồ-tát nếu đạt đầy đủ mười loại pháp tức có thể thâu nhận chánh pháp. Những gì là mười loại pháp?
Một là: Sau năm trăm năm vào giai đoạn mạt thế, lúc đó trong giáo pháp của Như Lai có sự tạp loạn. Những hữu tình phần nhiều trụ nơi tà đạo, tức diệt đèn trí không thầy trao truyền chánh pháp. Bấy giờ nên dùng kinh điển rộng lớn đầy đủ đại uy lực, thu tóm nghĩa lớn rộng như mẹ của tất cả pháp, tôn trọng cúng dường, thọ trì đọc tụng tuyên thuyết giải thích.
Hai là: Vì người khác đem kinh thâm diệu ra diễn nói giải thích, khai thị, khiến cho mọi người hiểu rõ.
Ba là: Đối với người tu chính đạo phát sinh tâm hoan hỷ, thanh tịnh.
Bốn là: Được hoan hỷ rồi, vì người thâu nhận.
Năm là: Dùng tâm không chấp trước vì người thuyết pháp, khiến mọi người nghe nhận.
Sáu là: Đối với người thuyết pháp dấy khởi tưởng là bậc thầy tôn quý.
Bảy là: Đối với chánh pháp khởi tưởng như cam lồ. Tám là: Khởi tưởng xem chánh pháp như thuốc quý. Chín là: Mong cầu chánh pháp không tiếc thân mệnh.
Mười là: Đem pháp đã chứng đắc như thuyết tu hành. Đó là mười pháp.
Kinh Quyết Định Thần Biến Tịch Tĩnh nói: Phật dạy: Hiền Hộ! Bậc Bồ-tát có đủ bốn loại pháp tức có thể thâu nhận chánh pháp. Đó là:
Một: Tự mình có vui thích nhưng không tham ái chấp trước.
Hai: Trao cho người khác sự vui thích thượng diệu.
Ba: Đầy đủ tâm đại bi.
Bốn: Cầu pháp không chán.
Kinh ấy cũng nói: Thời quá khứ, nơi trụ xứ của Phật Như Lai Đại Cao, vua Vô Cấu Oai Quang gieo trồng thiện căn trong một ngàn năm, cúng dường đức Phật ấy tất cả nhạc cụ, và dùng bốn sự cung cấp cho tám vạn bốn nghìn chúng Tỳ-kheo. Như vậy qua một ngàn năm rồi, Như Lai Đại Cao bảo vua Vô Cấu Oai Quang: Đại vương! Ông đã hành đầy đủ một ngàn năm làm việc thí pháp ở chỗ Như Lai. Nếu so với bậc Bồ-tát siêng năng cầu pháp, trong một hơi thở ra vào, chỗ thiện căn hiện có trăm phần chưa được một, cho đến phần cực vi cũng chưa bằng một phần, huống gì trong chánh pháp, cho đến một bài kệ bốn câu siêng năng tuyên thuyết giải thích ý nghĩa thì phúc đức của người này ta không thể nói hết biên vực.
Đại vương! Hãy gác việc này lại. Cho dù đã đầy đủ một ngàn năm như vậy, bố thí cúng dường hết các vật sở hữu, gom hết để cúng cho một Tỳ-kheo du phương, hoặc như vậy cúng cho chúng Tỳ-kheo. Và nếu như có người do ham thích pháp nên tôn trọng vị Bồ-tát siêng năng thuyết giảng trao truyền pháp, khởi tâm tịnh tín, đem thức ăn uống đến và nghĩ: "Ta vì cầu chánh pháp nên đem món ăn uống này để cúng hiến", thì pháp bố thí của người trước so với thiện căn này không bằng một phần trăm, cho đến không bằng một phần của phần cực nhỏ.
Kinh Như Lai Bí Mật nói: Lượng phước hiện có của bậc Bồ-tát so với lượng phước giữ gìn chánh pháp thì lượng phước này gấp bội lần. Cho dù tất cả chư Phật siêng năng tuyên thuyết trải qua vô số kiếp vẫn chưa đạt được biên vực của lượng phước thọ trì chánh pháp. Chánh pháp là gì?
Như Kinh Thắng Man Sư Tử Hống nói: Chánh pháp ấy tức là tên gọi của Đại thừa. Vì sao? Vì Đại thừa sanh ra thừa Thanh-văn, Duyên giác, và tất cả pháp thiện trong thế gian và xuất thế gian.
Kinh Pháp Tập nói: Thâu giữ chánh pháp kia đó là tuyên thuyết giảng trao, chuyên chú tư duy nơi tất cả kinh điển nêu bày nghĩa lý sâu xa của tất cả chư Như Lai.
Phải biết các vị Bồ-tát nếu dựa chấp vào hạnh có chỗ thủ đắc, dù trải qua vô lượng thời gian cúng dường các Như Lai, thì ngay nơi chỗ các vị Như Lai vẫn không được thọ ký, huống hồ là thành tựu đạo quả Bồ-đề.
Như Kinh Phạm Vương Vấn nói: Phật dạy: Này Đại Phạm! Ta ở trong một kiếp, hoặc quá một kiếp nói về danh tự của các vị Như Lai, hoặc Ta cúng dường các vị như Lai ấy, hoặc Ta tu phạm hạnh và tu sáu Ba-la-mật ở chỗ các vị Phật ấy, nhưng Ta chưa được thọ ký. Vì sao? Là vì Ta đã nương dựa vào hạnh có chỗ thủ đắc.
Lúc ấy, Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng, vừa gặp Phật Nhiên Đăng liền đạt được pháp nhẫn vô sinh. Vị Phật, Thế Tôn ấy đã thọ ký cho Ta, trong lúc ấy Ta đã vượt qua tất cả hạnh có chỗ thủ đắc, và viên mãn sáu Ba-lamật-đa, có thể sinh tín giải nơi các pháp sâu xa, các hạnh tối thắng tự lợi, lợi tha của bậc Bồ-tát đều hoàn tất.
Phẩm Nguyệt Tạng trong Kinh Đại Tập nói: Phật bảo: Này Nguyệt Tạng! Thắng nghĩa đế ấy tức có thể thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng không đồng với quả của các bậc Thanh văn, Duyên giác. Do vậy Thế tục đế không thể thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng thành tựu thiện căn tối thượng hoặc thành tựu các thắng hạnh. Này Nguyệt Tạng! Cũng như một người dùng bó đuốc cháy cực mạnh cũng không làm khô được biển lớn sâu. Lý của Thế tục đế kia cũng lại như thế, ngay biển phiền não của mình cũng không thể làm khô huống hồ vì những loài hữu tình khác, vậy trong đây làm sao tín hiểu được pháp sâu xa.
Như Kinh Bồ Tát Tạng nói: Bậc Bồ-tát có hai loại tuệ:
Một là: Tùy theo bậc Thanh-văn khác.
Hai là: Tự trong tâm sâu bền mà tác ý.
Trong đây, thế nào là tùy theo Thanh văn khác? Như có bậc Bồ-tát thích tu những hạnh tương ưng, nhưng không thích nghe nhận chánh pháp nơi tạng Bồ-tát, cũng không thích nghe luật pháp của chư Thánh, được ít mùi vị định đã thấy là đầy đủ, tâm mạn khởi dậy nên rơi vào lỗi tăng thượng mạn, do đó vị Bồ-tát ấy không thể giải thoát được sanh lão bệnh tử, ưu bi khổ não, cũng không giải thoát được sáu nẻo luân hồi, cho nên không giải thoát được uẩn khổ. Do duyên đó mà Như Lai nói tùy theo Thanh văn khác, vì chỗ nghe này không thể giải thoát được các khổ não như lão tử… Thế nào là tác ý sâu bền? Đó là nói vị Bồ-tát tự tạo sự học, không có pháp hiện hữu có thể hòa hợp nào mà không hòa hợp. Đó là hạnh sâu bền. Hạnh sâu bền này, tức không phải hành pháp ngữ. Các thanh âm như vậy suy xét như thực, đời trước, đời sau xét nó sinh ra từ đâu, diệt theo chỗ nào. Lại xét hoặc ngôn thuyết, hoặc nghĩa lý, hoặc dứt đoạn hoặc chứng đắc, hoặc đã nói hoặc đang nói, tất cả những điều ấy đều quán xét như thực sẽ nhận biết không có tướng quá khứ, không có tướng vị lai, không có tướng hiện tại có thể thủ đắc. Tức tự tánh của tất cả pháp đều là tịch diệt, tịch tĩnh, viên mãn, rốt ráo không sinh, không khởi và không thật. Nên quán các pháp rốt cùng là Niết-bàn. Nếu quán như vậy tức là không có sở quán, cũng không phải là không quán. Đây gọi là chánh quán. Huống lại có thể quán tất cả pháp như thực sao? Đây tức là không có sở quán. Không có sở quán này tức pháp ngữ không sinh. Nếu tất cả pháp không sinh tức không vượt ngoài lý chính. Tất cả pháp bình đẳng tức là pháp Phật bình đẳng. Chỗ quán xét như vậy tức không ngoài lý chính. Chỗ nói này gọi là tác ý sâu bền, như vậy có thể hội nhập được chánh pháp thâm diệu tối thượng.
Kinh Phụ Tử Hợp Tập nói: Phật bảo với vua Tịnh Phạn: Đại vương! Nếu trong thời kiếp không, hoặc có lầu gác của Phạm thiên xuất hiện trước mắt, tánh chắc thật của lầu gác bằng bảy báu hợp thành, lúc sinh khởi ấy là từ phương nào đến? Như vậy, ở cõi trời Tha Hóa tự tại, cõi trời Hóa Lạc, cõi trời Đâu suất, cõi trời Dạ Ma, cõi trời Đạo Lợi, cõi trời Tứ Đại Vương thuộc cõi Dục, ở tất cả các cõi đều hiện lầu gác bằng bảy báu làm thành. Lại nữa núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi do kim cương tụ lại chắc cứng, tánh chắc cứng của những núi này là từ đâu đến?
Lại nữa, núi Tu-di, núi Di-dân-đạt-la, núi Trì song, núi Trì trục, núi Trì kim cương, núi Khiết-na-lý-cô, núi Vĩ-na-đát-cô, núi Mã nhĩ, núi Thiện kiến, núi Đại Thiện kiến, núi Ô-cữu-nga-lô, núi Hương túy, núi Tuyết và những núi Đen khác đều hiện trước mắt, cho đến Tam thiên đại thiên thế giới cũng đều xuất hiện. Như núi Tudi vương rộng dài đến tám vạn do tuần, tánh chắc cứng hiện trước mặt ấy từ phương nào đến?
Đại vương! Nếu thế giới này sau lúc thành hình, đại địa lửa cháy, nước lớn trôi dạt, gió lớn thổi gầm. Lửa kia hiện bày hết, tất khói tan, tất không chỗ hiện, cũng như bơ hay dầu bỏ vào trong lửa tất cháy tan, không chút khói. Lúc nước trôi chảy, tất không có gì ngoài nước tồn tại, như muối xốp bỏ vào nước tất bị hòa tan không còn sót, gió kia thổi ầm thì không vật nào có thể hiện, như lúc gió Tỳ Lam đang thổi thì loài chim bay nào có thể xuất hiện được? Tam thiên đại thiên thế giới này cũng lại như vậy. Lửa cháy, nước trôi, gió gầm, trong lúc ấy không có gì khác để thấy. Tánh chắc thật cứng rắn bị hoại diệt như thế, tánh ấy về đâu? Điều này đối với cõi đất ngoài, cõi đất trong cũng như vậy. Do đó, tất cả các pháp lúc sinh khởi không từ đâu đến, lúc mất không đi về đâu. Những loài có sinh quyết định đều là không, sinh rồi tự tánh cũng là không.
Kinh A-Xà-Thế Vương nói: Lúc ấy, Vua A-xà-thế dâng cúng cơm cho Phật Thế Tôn và các Bồ-tát, đại chúng Thanh văn ở trong cung. Rửa tay và các vật dụng xong, vua cung kính ngồi trước Bồ-tát Diệu Cát Tường để nghe nhận chánh pháp. Vua nói: Xin Bồ-tát vì tôi giải trừ việc làm ác. Bồ-tát Diệu Cát Tường bảo: Đại vương! Giả như có hằng hà sa số vị Phật Thế Tôn cũng không giải trừ việc ác cho ông được.
Vua A-xà-thế nghe lời này xong kinh sợ, thấy không có chỗ cứu giúp, như đứt hơi, ngã nhào xuống đất. Lúc ấy, Tôn giả Đại Ca-diếp bèn nói: Đừng sợ đại vương! Đừng sinh sợ hãi! Bồ-tát Diệu Cát Tường đã khéo vì ông nói tự nhân duyên, ông nên hỏi thế này: Vì duyên cớ gì mà nói như thế?
Khi đó Vua A-xà-thế mới từ từ gượng dậy, thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường: Vì duyên cớ gì mà Bồ-tát nói như thế?
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đại vương! Ý ông nghĩ sao? Tâm ông có chỗ duyên nào để quán sát Phật Thế Tôn chăng?
Vua thưa: Thưa, không có.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Nay ông làm thế nào để quán tâm sinh?
Vua thưa: Thưa, không được.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Thế còn quán tâm diệt?
Vua thưa: Thưa, cũng không.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Ông quán pháp hữu vi như thế nào?
Vua thưa: Thưa, không.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Quán Phật Thế Tôn có thể thấy pháp hữu vi không?
Vua thưa: Thưa không.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đại vương! Ông nghĩ thế nào nếu trong các pháp không có pháp nào có thể quán, thì có pháp nào có thể giải trừ việc ác.
Vua đáp: Thưa không có
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đại vương, vì duyên này nên tôi nói như thế: Giả sử hằng hà sa số vị Phật Thế Tôn cũng không thể giải trừ việc ác cho ông được.
Lại nữa, Đại vương! Như trong hư không này, có khói hoặc bụi muốn nhiễm hư không, ông có nghĩ khói bụi này nhiễm được hư không chăng?
Vua đáp: Thưa không.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đại vương! Như có người nói: Tôi muốn làm thanh tịnh cõi hư không, vậy hư không ấy có được thanh tịnh chăng?
Vua đáp: Thưa không.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đức Như Lai cũng như vậy, cũng như hư không. Nói tất cả pháp xưa nay tương tục, tự tánh không nhiễm, trong đó không có pháp nhiễm hoặc pháp tịnh nào thực có thể quán. Vậy trong đó có gì cần giải trừ. Đại vương, vì nghĩa này, nghĩa của chính quán như thực, nên tôi nói: Như có hằng hà sa số chư Phật Thế Tôn cũng không thể giải trừ việc ác cho ông được. Hơn nữa, Đại vương! Trong tâm của các vị Phật Thế Tôn không có chỗ thủ đắc, không có chỗ dấy khởi, ngoài cũng không có chỗ thủ đắc không có chỗ dấy khởi. Vì sao? Vì Tự tánh của tất cả pháp là không có chỗ khởi. Tự tánh của pháp không chỗ khởi tức không chỗ dung nạp tánh có chỗ khởi. Vì sao vậy? Tự tánh của tất cả pháp không chỗ khởi tức không chỗ thành, tất cả pháp không chỗ thành tức không chỗ nhóm họp, không chỗ nhóm họp tức tất cả pháp không sinh ra. Tất cả pháp không sinh ra tức pháp tánh tách rời. Tất cả pháp tánh tách rời tức không thể tác hành. Tất cả pháp không thể tác hành tức không có sinh.
Tất cả pháp không có sinh tức không có pháp dị thục. Tất cả pháp không dị thục tức không có khởi tác. Tất cả pháp không khởi tác nên không có sở nhiễm. Tất cả pháp không ô nhiễm nên tự tánh sáng tỏ. Tất cả pháp tự sáng tỏ nên pháp thanh tịnh. Tất cả pháp thanh tịnh nên pháp đồng với hư không. Tất cả pháp đồng với hư không nên không có đối trị. Tất cả pháp không có đối trị nên lìa nơi hai nẻo. Tất cả pháp lìa nơi hai nẻo nên rời cả hai biên. Tất cả pháp rời cả hai biên nên các pháp không giới hạn. Tất cả pháp không giới hạn nên pháp không bến bờ cuối cùng. Tất cả pháp không bến bờ cuối cùng nên không có cứu cánh. Tất cả pháp không có cứu cánh nên không có sở duyên. Tất cả pháp không có sở duyên nên nơi tất cả chốn không trụ điên đảo. Tất cả pháp không trụ điên đảo ở tất cả chỗ nên thường lạc ngã tịnh đều không thể thủ đắc. Tất cả pháp thường nên không tương ứng nơi chuyển động. Tất cả pháp tịnh nên tự tánh sáng tỏ thành tựu. Tất cả pháp lạc nên không tương ưng nơi phân biệt. Tất cả pháp ngã là tự tánh nên biểu thị tương ưng nơi vô ngã. Tất cả pháp không làm việc ác nên trong tâm dừng lặng. Tất cả pháp không thực nên thắng nghĩa đế không chỗ để an lập. Tất cả pháp tịch tĩnh tức là tướng tịch tĩnh hiện bày khắp. Tất cả pháp vô ngã nên ngã và ngã sở cùng lìa. Tất cả pháp không có vị nên tức là tướng giải thoát. Tất cả pháp rời lìa danh nên danh sai biệt không thể thủ đắc. Tất cả pháp không phân biệt nên tất cả tánh là lìa. Tất cả pháp đồng một vị tức là giải thoát gồm thâu khắp. Tất cả pháp rời lìa tướng tức là không tướng giới hạn. Tất cả pháp không tướng nên tức không thấu rõ nơi sở duyên thanh tịnh. Tất cả pháp rỗng "không" nên tất cả sự thấy làm đều rời lìa. Tất cả pháp vô nguyện nên tức vượt qua ba đời. Tất cả pháp đã dứt ba đời nên quá khứ, vị lai, và hiện tại đều không thể thủ đắc. Tất cả pháp Niết-bàn thâu tóm khắp nên rốt ráo không sinh.
Đại vương! Ý của ông thế nào? Pháp không sinh cũng không nhóm họp, vậy trong ấy có chỗ để nhiễm hay không.
Vua đáp: Thưa, không chỗ nhiễm.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Vậy có pháp để giải trừ chăng? Vua Đáp: Thưa không có.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đại vương, vì như vậy, nên đức Như Lai biết tất cả pháp đều đồng với Niết-bàn nên trong đó không có việc làm ác có thể giải trừ.
Do vậy, Đại vương! Cứ như vậy hành tác nơi chỗ tương ưng sâu bền ấy, dùng tâm không điên đảo suy xét như thực. Khi đã suy xét rồi, theo lúc suy xét ấy không có chút pháp nào có thể giữ, có thể bỏ, cũng không pháp nào có thể cùng trụ. Nếu tất cả pháp đều không cùng trụ thì đấy là khinh an. Pháp khinh an tức là pháp tịch tĩnh. Pháp tịch tĩnh tức là pháp tự tánh, pháp tự tánh tức không tự tánh. Tất cả pháp không tự tánh tức là không chủ tể.
Đại vương! Trong pháp quán xét này nên dùng pháp nhẫn, lại cũng không có pháp nhẫn có thể tác. Vì sao vậy? Đại vương! Vì mọi sở tác đều tịch tĩnh. Người hiểu rõ như vậy sẽ chứng đắc Niết-bàn. Trong đây, không có pháp có thể tác, cũng không phải không tác. Hoặc tác hoặc không tác, điều này đều hướng về Niết-bàn tịch tĩnh.
Bấy giờ, Vua A-xà-thế cầm chiếc áo lông thượng diệu giá trị trăm ngàn dâng lên Bồ-tát Diệu Cát Tường, nhưng Bồ-tát không nhận. Vua bèn khoác chiếc áo ấy lên người Bồ-tát. Chiếc áo chưa chạm đến thân thì Bồ-tát đã ẩn biến không còn thấy. Vua không còn thấy Bồ-tát nữa liền nghe trong không trung có tiếng nói: Đại vương! Nếu ông có thể thấy được thân tướng Bồ-tát Diệu Cát Tường tức có thể thấy chỗ tạo ác hiện có của ông. Nếu thấy như vậy tức thấy tất cả pháp kia. Nếu thấy tất cả pháp thì ông hẳn thấy chỗ dâng chiếc áo lông. Nếu ông không thể thấy như cái thấy, hẳn ông không thấy chỗ dâng áo.
Đại vương! Nếu ông có thể thấy người có thân tướng thì hãy tặng áo.
Vua liền lấy áo lông dâng cho tất cả đại chúng Thanh văn Bồ-tát và các cung nhân thể nữ, quyến thuộc, nhưng tất cả đều không thấy thân tướng. Vua bèn nhập định để quán sát, đều không có chút hình sắc mà mắt có thể thấy, không cảnh tượng nào hiện ra được, trong đó chỉ còn tưởng tự thân mình đang chuyển, lại nghe nơi không trung có tiếng như vậy: Nếu ông có thể thấy thân tướng của chính ông, thì mới nên dâng áo. Vua bèn tự quán sát nhưng cũng không thấy thân tướng chính mình. Lúc ấy vua bèn lìa tất cả nghĩ tưởng về sắc. Lại nghe nơi không trung có tiếng nói: Đại vương! Nếu không có chút sắc tướng thô, tế nào có thể thấy được như thế, thì cũng hẳn nhiên tương ưng thấy việc tạo ác như vậy, cũng hẳn nhiên thấy tất cả pháp, như vậy Ông không thấy kia tức lìa thấy, rời cái thấy, như có thể thấy đó tức là không phải thấy. Đại vương! Như không phải thấy, không phải không thấy, đây tức là thấy đúng, là chánh kiến. người thấy tất cả pháp như vậy, cũng tức là không thấy. Đại vương! Không thấy như đây, đó là thấy đúng chân thật. Lúc ấy, Vua A-xà-thế rời bỏ được tất cả nghi hoặc về hết thảy pháp. Từ định khởi xong, lại quán tất cả đại chúng, cũng trọn không thấy.
Kinh Huyễn Sĩ Nhân Hiền nói: Bồ-tát có bốn pháp để tư duy nghĩa kinh. Bốn pháp ấy là:
Một là: Duyên theo pháp mà sinh khởi không phải là không có nhân tạo tác.
Hai là: Không có pháp có thể sinh cũng không có tánh "chúng sanh".
Ba là: Nếu pháp do duyên sinh thì sự sanh ấy là vô tánh.
Bốn là: Trong pháp sâu xa không có môn sai biệt, cũng không hủy hoại Bồ-đề
Kinh Bồ-Tát Thập Trụ nói: Phật dạy: Diệu Cát Tường! Bậc Bồ-tát có năm pháp khiến được an ổn và có thể làm thanh tịnh bậc Sơ địa.
Năm pháp là:
Một là: Nếu tự an trụ được trong trí giải thoát không có sở duyên rồi, lại khiến người khác cũng an trụ trong trí giải thoát không có sở duyên, đó là Bồ-tát được pháp an ổn.
Hai là: Trí giải thoát không có sở duyên tức là không hai, pháp duyên thanh tịnh không hai là không sinh. Đã tự an trụ trong pháp giải thoát này rồi, lại khiến người khác cũng đều an trụ nơi pháp duyên không sinh trong pháp giải thoát, đó là Bồ-tát được pháp an ổn.
Ba là: Pháp duyên vô sinh ấy tức là tự tánh của các duyên là không sinh, tất cả các pháp đều không có chỗ có. Đã tự an trụ trong pháp giải thoát này rồi lại khiến người khác cũng đều an trụ trong pháp giải thoát của tất cả pháp không có chỗ có này, đó là Bồ-tát được pháp an ổn.
Bốn là: Tất cả pháp không có chỗ có ấy tức là những phân biệt phần vị đều không tự tánh, trí quán như hư không. Đã tự an trụ trong pháp giải thoát này rồi, lại khiến người khác cũng đều an trụ trong pháp giải thoát, trí như hư không này, đó là Bồ-tát được pháp an ổn.
Năm là: Trí như hư không ấy tức không tạp loạn, không nương dựa; là trí lìa tâm ý thức đã tự an trụ trong sự giải thoát ấy rồi, khiến người khác cũng đều an trụ trong pháp giải thoát của trí lìa tâm ý thức, đó là Bồ-tát được pháp an ổn.
Nên biết trong trí lìa tâm ý thức này là trí không phát ngộ có chỗ thủ đắc. Đó là năm pháp.
Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên Sở Vấn nói: Phạm thiên hỏi Bồ-tát Quang Võng: Tất cả pháp sâu bền hay không sâu bền?
Bồ-tát nói: Như theo ông, làm sao để nói pháp là sâu bền hay không sâu bền?
Phạm thiên nói: Nếu không tư duy tức tất cả pháp là sâu bền. Nếu tâm cùng tư duy có chỗ hòa hợp tức là không sâu bền. Lại nữa, nếu tất cả pháp lìa tướng tức là sâu bền. Nếu lại trong chỗ lìa có chỗ hòa hợp thì chỗ hành có sai biệt. Nếu trong chỗ sai biệt có chỗ hành tức là các nơi tạo tác đều không sâu bền.
Bồ-tát nói: Theo ông như thế làm sao các pháp có thể sinh?
Phạm thiên nói: Các pháp sinh ra từ trong cảnh giới lìa thực tế thanh tịnh
Kinh Bảy Trăm Bài Tụng Bát-nhã Ba-la-mật-đa có đoạn: Phật nói: Này Bồ-tát Diệu Cát Tường! Lúc ông tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ông trụ chỗ nào mà tu?
Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa: Thưa Thế Tôn! Lúc con tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều không có chỗ trụ để tu. Phật hỏi: Diệu Cát Tường! Không chỗ trụ, làm sao tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa?
Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa: Thế Tôn! Lúc con tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa thực không có pháp nào để có thể trụ.
Phật hỏi: Diệu Cát Tường! Lúc ông tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa có những thiện căn nào? Tăng hay giảm?
Diệu Cát Tường thưa: Thưa Thế Tôn! Lúc ấy con không có chút thiện căn nào hoặc tăng hoặc giảm. Thưa Thế Tôn! Người tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa đều không có pháp tăng hay giảm.
Trong phẩm Bồ-Tát Diệu Cát Tường Thần Biến nói: Các vị Thiên tử thưa với Bồ-tát Diệu Cát Tường: Như Bồ-tát nói thì rất ít người có thể hiểu rõ nghĩa ấy?
Bồ-tát đáp: Thiên tử! Chỗ tôi đã nói là trí Phật thật sâu xa, dù ít dù nhiều cũng không thể hiểu hết được. Vì sao vậy? Vì trí Phật không chấp trước, không phân biệt, không thể ghi nhớ, không thể nêu bày không phải tác dụng, không phải ngôn ngữ diễn đạt, rời lìa tâm ý thức. Dù biết một ít, dù biết khắp cũng không thể hiểu rõ một cách dễ dàng.
Thiên tử hỏi: Nếu không thể biết được trí Phật thì bậc Thanh văn làm sao hiểu được? Các Bồ-tát làm sao trụ nơi không thoái chuyển?
Bồ-tát đáp: Thiên tử! Đấng Như Lai dùng phương tiện khéo léo, mượn văn tự mà trí tuệ theo đấy được khai tỏ hiểu biết. Trí này không văn tự, cũng như trong lửa đi tìm lửa thì tìm gì trong đó? Thiên tử! Như Lai cũng lại như vậy. Nếu lúc đầu đã nói trí Phật quảng đại thì không có loài hữu tình nào hiểu nổi trí Phật. Do đó nói thuyết giảng những ngôn ngữ như vậy để khai thị trí Phật. Trí Phật thì không có văn tự.
Thiên tử hỏi: Thưa Bồ-tát! Những gì là ngôn ngữ thuộc chủng loại trí Phật?
Bồ-tát đáp: Thiên tử! Như ngôn ngữ nói về trì giới và pháp ngăn cấm hoặc nói pháp tương ưng của Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc nói pháp đi vào chỗ kiến giải Bồ-đề phần. Những điều thuyết giảng ấy là ngôn ngữ thuộc chủng loại trí tuệ Phật. Này Thiên tử! Nếu nói pháp lìa sinh lìa diệt, dùng ngôn ngữ diễn đạt nghĩa lìa xen tạp và không xen tạp, lìa nhiễm lìa tịnh, không chán lìa sanh tử, không vui thích Niết-bàn, không biết, không dứt đoạn, không tu, không chứng, không đắc, cũng không có Tam muội hiện tiền có thể chuyển, thì những ngôn ngữ như nói đây chính là âm thanh không thể nghĩ bàn, là ngôn ngữ của diễn đạt chân thực thanh tịnh
Kinh Nhất thiết pháp quyết định vô sở đắc nói: Phật hỏi Bồ-tát Diệu Cát Tường: Pháp của các Như lai nói không thể nghĩ bàn, và cảnh giới không thể nghĩ bàn, phải nói thế nào mới đúng?
Bồ-tát Diệu Cát Tường thưa: Đây không thể nghĩ bàn, vì cảnh giới không thể nghĩ bàn chính là các Như Lai thuyết giảng. Thưa Thế Tôn! Cảnh giới lìa tư duy, không phải là chỗ hành, của tâm không phải là chỗ suy lường của tâm, không phải là pháp chọn lựa của tâm. Thưa Thế Tôn! Tâm như vậy tức là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì không có tâm có thể tư duy, tâm này lìa tư duy, nên tức là tự tánh của tâm cũng không hề có. Tâm không tư duy ấy là tâm như thực. Thưa Thế Tôn! Đây chính là cảnh giới không thể nghĩa bàn.
Kinh trên lại nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Ông chớ nên khoác chiếc áo giáp hóa độ hữu tình này.
Diệu Cát Tường thưa: Thưa Thế Tôn! Nếu biết cảnh giới hữu tình không tăng không giảm, trong đó có hữu tình nào có thể độ khiến vào Niết-bàn. Thưa Thế Tôn! Trong hư không kia nếu có người có thể độ được thì giới hữu tình cũng có thể hóa độ. Lại nữa, muốn tâm Bồ-đề có chỗ hóa độ thì loài hữu tình ấy cũng có thể phát khởi tạo sự hóa độ. Thưa Thế Tôn! Tất cả pháp là Bồ-đề. Cũng lại không có Bồ-đề nhiễm hay tịnh có thể thủ đắc. Nên Thế Tôn dạy: Ông chớ nên khoác áo giáp hóa độ hữu tình. Thưa Thế Tôn! Hữu tình không nhiễm, nên con cũng không trụ nơi tâm hóa độ hữu tình. Vì sao? Thưa Thế Tôn! Nếu có hữu tình tức có nhiễm tịnh biểu lộ. Đã không có hữu tình thì còn biểu lộ nhiễm tịnh gì nữa. Thưa Thế Tôn! Nếu pháp có theo duyên sinh thì không trái nhau. Thưa Thế Tôn! Trong pháp duyên sinh thực sự không có nhiễm tịnh có thể thủ đắc do tất cả pháp tự tánh không thật là tánh duyên sinh. Nếu đối với duyên cũng không có nghĩa duyên nhiễm tịnh có thể đạt được vậy là không có nghĩa duyên sinh. Thưa Thế Tôn! Bậc trí hiểu rõ như thế, lại trong nghĩa duyên sinh như vậy, bậc trí đều không phân biệt. Trong nghĩa không phân biệt ấy, tức là không nhiễm, không tịnh. Cũng ví như huyễn sư và đệ tử của ông ta tạo ra lầu, gác hoặc nhà cửa đầy đủ ánh sáng rộng lớn.
Hoặc có người nói: Ta có sức dũng mãnh có thể ngưng dừng ngay chỗ ánh sáng đẹp hội tụ nơi lầu gác ấy. Người này chỉ tổn sức thân mệt mỏi cuối cùng cũng chẳng thành được.
Phật bảo: Đúng vậy! Đúng vậy.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Thưa Thế Tôn! Khoác áo giúp tinh tiến hóa độ hữu tình cũng lại như vậy, tự làm nhọc khổ cuối cùng cũng không cỗ thủ đắc.
Kinh trên lại nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Ông hãy quán xét như thực những gì là pháp tăng ngữ?
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Đây nói quán xét như thật nghĩa là quán xét như thật rõ ràng pháp kia, không một tánh hay là nhiều tánh có thể tạo tác. Nếu suy xét như thật trong không chủng loại, không phân biệt pháp tức là không có sự suy xét như thực. Thưa Thế Tôn! Cái không suy xét như thực này chính là tăng ngữ. Cho nên nếu sự suy xét như thực thành tựu rồi, thì trong sự suy xét không khởi lên các kiến giải ta là phàm phu hay ta là Thánh nhân. Vì sao vậy? Vì các pháp đều không có chỗ quán. Nếu pháp không lập cái thấy là phàm phu hay là Thánh nhân tức được thành tựu suy xét như thực. Thưa Thế Tôn! Thiện nam hay thiện nữ nào có thể trụ như vậy tức là được tương ưng pháp giới, trong ấy không có pháp nhỏ nào hoặc bình đẳng hoặc sai biệt có thể thủ đắc. Nếu nói pháp phàm phu sai biệt thì cũng không sinh phân biệt, hoặc nói pháp Thánh nhân bình đẳng cũng không sinh phân biệt. Vì sao vậy? Vì sở duyên không thể có được. Nếu trong sở duyên hoặc bình đẳng hoặc có sai biệt có chỗ để nắm giữ, vậy tức là phân biệt nhưng tánh phân biệt đều không sở hữu.
Nếu trong những sở duyên kia có bình đẳng, sai biệt mà có thể nắm giữ thì pháp mình, pháp người tức có sai biệt. Do đó nên biết chắc chắn không có pháp để nắm giữ.
Kinh Duy Ma Cật nói: Thế nào là gốc bệnh? Có duyên dựa tức là gốc bịnh. Nếu có duyên dựa tức có bệnh, chỗ có duyên dựa đó là tam giới. Nếu không duyên dựa thì biểu hiện ở đâu? Nếu duyên dựa không thể có được tức là không có sở đắc. Thế nào là không có sở đắc? Đó là hai cái thấy đều không chỗ thủ đắc. Thế nào là hai cái thấy? Đó là thấy bên trong và thấy bên ngoài. Hai cái thấy trong và ngoài ấy đều không chỗ thủ đắc.
Kinh này lại nói: Bồ-tát Ái Kiến nói: Sắc và không là hai. Sắc tức là không, chẳng phải sắc diệt là không mà tự tánh của sắc là không. Như vậy cho đến thức tức là không. Chẳng phải thức diệt là không mà tự tánh của thức là không. Hiểu rõ năm uẩn này tức là vào pháp môn không hai.
Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa nói: Xá-lợi-tử hỏi Tôn giả Tu-bồ-đề: Lúc Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa làm sao có thể nhận biết phương tiện thiện xảo?
Tôn giả Tu-bồ-đề đáp: Tôn giả Xá-lợi-tử! Nếu lúc Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa thì không hành sắc, không hành thọ tưởng, hành, thức, không hành sắc có tướng, cho đến không hành thọ tưởng hành thức có tướng. Không hành sắc vô thường, không vô thường, không khổ, không vui, không ngã, không vô ngã, không tịch lặng, không động, không "không", không "chẳng không", không tướng, không vô tướng, không nguyện, không vô nguyện, không lìa, không chẳng lìa. Như vậy cho đến không hành thức vô thường, không vô thường cho đến không lìa, không chẳng lìa. Năm uẩn như vậy, thì các pháp hiện có như giới, xứ duyên sinh, Bồ-đề phần, thần thông Ba-la-mật-đa, lực vô úy, vô ngại giải, pháp Phật bất cộng… cho đến không lìa không chẳng lìa, tất cả các pháp trên đều không hành. Vì sao? Thưa Tôn giả Xá-lợi-tử! Sắc không khác không, không chẳng khác sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Như vậy cho đến Thức chẳng khác không, không chẳng khác thức. Thức tức là không, không tức là thức. Như vậy giới, xứ duyên sinh, cho đến pháp Phật bất cộng… tức là không, không tức là pháp bất cộng… Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa như vậy thì tức có thể nhận biết phương tiện thiện xảo. Nhưng Bồ-tát ấy đối với Bát-nhã Ba-la-mật-đa cũng không nghĩ ta hành, không nghĩ ta chẳng hành, không nghĩ ta cũng hành cũng chẳng hành, không nghĩ ta chẳng phải là hành, chẳng phải là chẳng hành. Vì sao thế? Tự tánh của vô tánh tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Trong kinh này lại nói: Phật dạy: Này Kiều-thi-ca! Có thiện nam hay thiện nữ, lúc tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hoặc có người phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mậtđa. Thế nào là phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Đó là nếu nói sắc là vô thường, là khổ, là vô ngã, là bất tịnh, như vậy thọ, tưởng, hành, thức, cho đến giới, xứ, thiền định vô lượng, vô sắc định, niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn lực, giác đạo, Thánh đế, vô sở úy, vô ngại giải, pháp Phật bất cộng, cho đến tất cả tướng trí… tất cả là vô thường, là khổ, là vô ngã, bất tịnh. Nếu hành như vậy tức là hành Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thì đó là phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Thế nào là không phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa? Đó là thuyết giảng thế này: Này thiện nam, lúc ông tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đừng quán sát sắc là vô thường, sắc là khổ, vô ngã, bất tịnh. Như vậy cho đến đừng quán tất cả tướng trí là vô thường, khổ, vô ngã bất tịnh. Vì sao? Vì tự tánh của sắc là không. Nếu tự tánh của sắc là không, đó là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Nếu trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa không có sắc nào là thường, có thể được, như vậy sắc ấy là không hề có, huống gì hoặc thường hay vô thường lại có thể đạt được? Cũng nói như vậy với thọ tưởng hành thức cho đến tất cả tướng trí.
Nói giảng như trên tức là không phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Lại nữa nếu nói: Thiện nam! Lúc ông tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, đừng cho có pháp có thể vượt qua, đừng cho có pháp để có thể an trụ. Vì sao thế? Vì Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trong tất cả các pháp đều không hề có. Nếu pháp không vượt qua, không chỗ trụ, tức tự tánh của tất cả các pháp đều rỗng không. Nếu tự tánh của pháp là "không" tức pháp là vô tánh. Nếu pháp là vô tánh tức là Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Trong Bát-nhã Ba-la-mậtđa ấy tức là không có pháp hoặc ra, vào, sinh, diệt.
Thuyết giảng như trên là không phỉ báng Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Tu-bồ-đề lại thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Bát-nhã Ba-la-mật-đa, thế nào là có sở đắc? Thế nào là không sở đắc?
Phật dạy: Tu-bồ-đề! Nếu pháp có hai tức là có sở đắc.
Nếu pháp không hai tức là không sở đắc.
Tu-bồ-đề hỏi: Thưa Thế Tôn! Thế nào là hai?
Phật dạy: Tu-bồ-đề! Mắt và sắc là hai. Ý và pháp là hai… cho đến pháp Bồ-đề và pháp Phật là hai.
Tu-bồ-đề nói: Thưa Thế Tôn! Có sở đắc là không sở đắc chăng?
Không sở đắc là không sở đắc chăng?
Phật dạy: Tu-bồ-đề! Không phải có sở đắc ấy là không sở đắc, cũng không phải không sở đắc là không sở đắc. Tu-bồ-đề! Hoặc có sở đắc, hoặc không sở đắc đều bình đẳng, đây tức là không sở đắc.
Lại nữa, Tu-bồ-đề hỏi: Thưa Thế Tôn! Có phải không trụ ở trong thắng nghĩa đế mà chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng chăng?
Phật nói: Không phải.
Tu-bồ-đề hỏi: Hay trụ trong pháp điên đảo để chứng quả chăng?
Phật nói: Không phải.
Tu-bồ-đề nói: Nếu không trụ trong Thắng nghĩa đế, lại cũng không phải trụ trong pháp điên đảo mà thành Chánh giác, thì có phải Như Lai không chứng quả Bồ-đề chăng?
Phật nói: Tu-bồ-đề! Ta chứng quả Bồ-đề nhưng ở trong giới hữu vi hay trong giới vô vi đều không chỗ nào để trụ.
Phật lại nói: Tu-bồ-đề! Ta không thể dùng vô tánh trong vô tánh mà thành Chánh giác.
Tu-bồ-đề nói: Thế Tôn! Có phải không dùng vô tánh trong hữu tánh tức có thể thành Chánh giác chăng?
Phật nói: Không phải.
Tu-bồ-đề nói: Như dùng vô tánh trong vô tánh có thể thành Chánh giác không?
Phật đáp: Không thể.
Lại nữa, Tu-bồ-đề! Ta từng nói với ông ở kinh Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật-đa: Này, Tu-bồ-đề! Ý ông nghĩ sao? Như Lai đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng không? Như Lai có pháp thuyết chăng?
Tu-bồ-đề nói: Như chỗ con hiểu nghĩa Phật giảng nói thì không có pháp Như Lai đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, cũng không có pháp mà Như Lai có thể thuyết giảng. Vì sao? Vì nếu có pháp Như Lai giảng nói thì pháp ấy không thế nắm giữ, không thể nói, không phải là pháp, không phải là không pháp. Vì sao như thế? Vì tất cả các bậc Thánh Hiền đều do các pháp vô vi mà có chỗ khác biệt. Như Lai chỉ vì hóa độ chúng hữu tình nên dùng phương tiện khéo léo mở ra vô số môn tuyên thuyết về chánh pháp thâm diệu như thế.
Như trong Kinh Nhập Lăng Già, Bồ-tát Đại Tuệ hỏi về Như Lai Tạng: Phật bảo: Đại Tuệ! Vì sao ông hỏi Như Lai về tự tánh sáng tỏ, thanh tịnh, xưa nay vốn thanh tịnh, và các thuyết như vậy? Đức Như Lai có đủ ba mươi hai tướng tốt, trong tất cả thân của chúng hữu tình, như vật báu vô giá được buộc giấu trong chiếc áo bẩn rách, những buộc che của áo Uẩn, Xứ, Giới, cũng như vậy. Tham-sân-si kia không chấp trước là thật. Những cấu nhiễm này là pháp vô thường, không bền chắc, không phải cứu cánh.
Bồ-tát Đại Tuệ thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Chỗ nói của ngoại đạo như nói về thần ngã, vì sao không thể sánh với chỗ nói về Như Lai tạng? Do ngoại đạo nói Thần ngã là thường. Ngã có thể tạo tác, lìa buộc, tự tại, mà vĩnh viễn không diệt? Như thuyết của ngoại đạo nói về Thần ngã như vậy.
Phật dạy: Đại Tuệ! Nói về ngã của ngoại đạo không thể so với chỗ nói về Như Lai tạng. Này Đại Tuệ! Chỗ Ta nói về thực tế, Niết-bàn, là Vô sinh, là Không, Vô tướng, Vô nguyện, những câu nghĩa như thế, bậc Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chánh giác vì những kẻ ngu tối, khiến lìa sự sợ hãi về pháp Vô ngã nên dùng phương tiện nói môn Như Lai tạng không phân biệt, không chỗ đối ngại. Trong đây cũng không phải là, các Bồ-tát Ma-ha-tát vị lai, hiện tại chấp trước vào ngã mà tạo tác.
Đại Tuệ! Vì như người thợ gốm, lấy đất sét, dùng nước, dây niền và những công cụ ra sức làm thành các loại đồ dùng. Như Lai cũng lại như vậy, trụ ở pháp vô ngã, lìa tướng phân biệt, nên lấy vô số phương tiện của thắng tuệ khéo tương ưng để thuyết giảng hoặc Như Lai tạng, hoặc pháp Vô ngã; khéo dùng thí dụ, câu văn lời nói mà thuyết giảng. Với duyên cớ ấy, nên lời nói về Ngã của ngoại đạo không thể sánh với chỗ nói về Như Lai tạng. Đại Tuệ! Lại lời ta nói về Như Lai tạng chỉ để hàng phục lời của các ngoại đạo chấp Ngã cho nên dùng phương tiện để nói về Như Lai tạng. Như vậy cớ gì họ lại cứ thích rơi vào kiến chấp về chủ tể không thực? Nếu ý vui thích ba môn giải thoát, đầy đủ thì có thể mau chứng đạo quả Bồ-đề vô thượng. Với những ý nghĩa trên nên lời nói về ngã của ngoại đạo không thể nào sánh với chỗ nói về pháp Như Lai tạng của đấng Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chánh giác được. Này Đại Tuệ! Để khiến Ngoại đạo lìa bỏ các kiến chấp, hãy khiến họ tùy thuận tạng pháp vô ngã của Như Lai, chỗ tuyên thuyết này là pháp cứu cánh thành tựu vô thượng. Đó là pháp "không", không sinh, không hai, là pháp không tự tánh của Bồ-tát, đó là pháp thâm diệu. Nếu được tuyên thuyết và thọ trì là có thể thâu tóm khắp mọi nghĩa sâu xa của tất cả kinh điển Đại thừa. Vì sao? Vì pháp thâm diệu nầy, đã gồm thâu hết thảy pháp nơi tất cả kinh điển. Kinh ấy lại nói: Đại Tuệ! Pháp "không", không sinh, không nhị, không tự tánh tướng này gồm thâu khắp tất cả chư Phật và tất cả kinh điển.
Trong Kinh Nguyệt Đăng Tam Muội, Như Lai nói kệ:
Trong thế giới tam thiên đại thiên
Những kinh điển Ta đã tuyên thuyết,
Các loại văn cú đều một nghĩa
Nên không thể thuyết giảng khắp nữa!
Cho đến thuyết rộng nhiều loại pháp
Của tất cả các đức Như Lai.
Vì nếu đã tu học nghĩa một câu
Thì mọi tu tập được thành tựu
Tất cả các pháp tánh đều "không".
Nếu người hiểu rõ được nghĩa này
Tức học được thành từ câu nghĩa,
Pháp của chư Phật không khó được,
Pháp rất sâu xa dễ tin hiểu,
Đạt được tất cả thắng phước sinh,
Mọi việc thế gian và xuất thế,
Đều được hoàn thành chứng quả Phật.
Kinh Bảo Thọ nói: Lại nữa, Diệu Cát Tường! Có Bồ-tát trải qua trăm ngàn kiếp tu sáu Ba-la-mật, đủ phương tiện thiện xảo. Lại có người siêng cầu nghe nhận chánh pháp này thì người ấy thu được lượng phước nhiều hơn vị Bồ-tát trên. Huống gì là với tâm không chỗ cầu mà nghe nhận, viết chép rộng giảng nói cho người khác.
Kinh Kim Cang Bát-Nhã Ba-la-mật-đa nói: Phật bảo: Tu-bồ-đề!
Ý ông thế nào? Số cát hiện có trong sông Hằng, nếu mỗi mỗi hạt là một sông Hằng, thì số cát hiện có nơi những sông Hằng ấy là nhiều chăng? Tu-bồ-đề đáp: Các con sông Hằng ấy thôi, đã là quá nhiều vô số, huống chi là số cát của chúng!
Phật bảo: Này Tu-bồ-đề! Nay ta bảo thực với ông: Nếu Thiện nam, Thiện nữ đem bảy báu chất đầy trong số thế giới như số cát nơi những con sông Hằng kia dùng làm bố thí chư Phật Như Lai, thì do nhân duyên ấy các Thiện nam Thiện nữ kia được phước nhiều chăng? Tubồ-đề đáp: Thưa nhiều, nhiều lắm, thưa Thế Tôn!
Phật nói: Tu-bồ-đề! Nếu có người theo chánh pháp này, cho đến chỉ thọ trì một bài kệ bốn câu, vì người khác mà giảng nói thì phúc người này hơn phúc người trên
Kinh Phạm Vương Vấn nói: Này nhân giả! Nếu có Thiện nam, Thiện nữ nơi chỗ của Như Lai muốn tu sự phước nên nghe kỹ, tuy hiểu và thọ trì chánh pháp này tức có thể thu hoạch được sắc tướng giàu thịnh, đông nhiều quyến thuộc, nơi pháp tự tại, hưởng được vui sướng trong cõi nhân, thiên.
Kinh Xá-Lợi-Tử Thuyết Bát-Nhã Ba-la-mật-đa nói: Xá-lợi-tử thưa với Phật: Thưa Thế Tôn! Nếu có người nghe nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, nghe xong rồi tin hiểu, người này tức được bất thoái chuyển nơi Bồ-đề.
Bồ-tát Từ-Thị nói: Thưa Thế Tôn! Nếu có người nghe giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này, nghe xong rồi tín hiểu thì vị Bồ-tát ấy được gần quả vị Phật.
Bồ-tát Diệu Cát Tường nói: Thưa Thế Tôn! Nếu có người nghe giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật-đa này nghe rồi tín hiểu thấy vị Bồ-tát ấy như tưởng đến Phật, tất cả tội nhiễm ô tạo ác đều được giải trừ, tất cả nghiệp chướng đều được thanh tịnh, có thể sinh thắng giải nơi pháp thâm diệu.
Kinh Như Lai Tạng nói: Phật bảo: Ca-diếp! Mười nghiệp bất thiện nhất là:
Một là: Giả sử có người cha là Duyên giác mà khởi tâm sát hại. Đây là tội sát sanh nặng nhất.
Hai là: Chiếm đoạt vật tiền của Tam bảo, đó là tội trộm nặng nhất.
Ba là: Giả sử có mẹ là A-la-hán mà sinh nhiễm đắm. Đây là tội tà nhiễm nặng nhất.
Bốn là: Có người nói: Ta là Như Lai. Đây là tội vọng ngữ nặng nhất.
Năm là: Làm ly gián trong Thánh chúng. Đây là tội nói hai lưỡi nặng nhất.
Sáu là: Hủy báng Thánh chúng. Đây là tội ác khẩu nặng nhất.
Bảy là: Dùng lời nói giả dối tạp loạn làm trở ngại chánh pháp.
Đây là tội nói lời thêu dệt nặng nhất
Tám là: Thấy chỗ chính nghĩa chính đạo có lợi dưỡng, khởi tâm chiếm đoạt. Đây là tội tham dục nặng nhất.
Chín là: Khen ngợi năm tội vô gián. Đây là tội sân hận nặng nhất
Mười là: Khởi ác kiến hẹp hòi sai lạc. Đây là tội tà kiến nặng nhất
Này Ca-diếp! Những thứ trên là mười nghiệp bất thiện đều là tội nặng nhất. Nếu hữu tình nào có tội như vậy hành đủ mười nghiệp bất thiện, Như Lai tức vì họ giảng nói pháp nhân duyên hòa hợp, khiến được hiểu rõ vào pháp. Lúc đó, cũng không có tưởng ngã, nhân, hữu tình, thọ giả. Nếu có thể lãnh hội được pháp vô tác, vô vi như huyễn này thì lìa được nhiễm, được thanh tịnh và tự tánh sáng tỏ, hiểu được tất cả pháp xưa nay thanh tịnh, tịnh tín và thắng giải nơi tất cả pháp. Ta nói người này không bị đọa vào cõi ác. Vì sao? Vì không có các tánh tụ hội phiền não có thể được; sinh rồi, tức liền tất cả hủy hoại. Cho nên biết nhân duyên hòa hợp, một khi tụ lại, các phiền não được sinh, sinh rồi liền diệt, hoặc mống tâm dứt trừ thì các phiền não theo đó tức là có sinh. Nếu hiểu được như vậy thì có tội ở chỗ nào? Không có chỗ chứa nhận. Nếu nói có các tội chướng có thể trụ thì không có điều ấy.
Trong phẩm Hàng Ma, Tôn giả trì luật Ưu-ba-ly hỏi: Các ngươi là ma ác thì làm thế nào là Tỳ-khưu hành trì luật chân chính?
Ma nói: Thưa Tôn giả! Nếu vị Tỳ-khưu hiểu rõ tất cả pháp trọn được điều phục, các tội xưa nay không có chỗ đầu, cuối, vì rời lìa mọi biên vực, nếu phạm tội Đọa và các Ác tác khác thì đều giải trừ, chớ nên chấp chặt. Dùng những pháp như vậy để khai thị cho người khác, kẻ phạm phải năm tội vô gián còn trừ được hết huống chi là chỉ phạm ít cấu nhiễm phá giới.
Hiểu rõ luật pháp này là không bị phiền não khách trần cấu nhiễm, sanh tưởng xuất ly biết rõ các phiền não không ở trong, không ở ngoài cũng không ở khoảng giữa. Không phải Trí lìa nhiễm có thể trừ diệt phiền não. Tánh lìa nhiễm cũng không thể dứt trừ. Người trí quán như thật về các phiền não như mây nổi bị gió thổi trôi tan. Tùy chỗ phương hướng đi về đâu? Trụ ở đâu? Lại nữa các phiền não như mặt trăng trong nước, chấp dựa vào ảnh tượng đối hiện trước mắt. Các phiền não lại cũng là cảnh giới đen tối, đèn trí tuệ sáng suốt có thể soi chiếu xua tan. Lại giặc trộm phiền não phá hoại sắc tướng như quỉ Dạ-xoa, La-sát. Nếu tác ý sâu chắc, suy xét như thật, tức không chỗ trụ. Lại những phiền não thường rình rập làm hại. Nếu không tác ý sâu chắc thì phiền não tăng trưởng, còn ở trong pháp trí tuệ không, vô tướng, vô nguyện tức không có gì trái hại. Lại đối với các phiền não, như vậy, người trí dùng trí đối với việc chấp trước phiền não, và chấp trụ ở pháp đối trị của hữu tình kia, trước hết khởi tâm thương xót, rồi thuyết pháp không ngã, không hữu tình, khiến họ rời nhiễm. Đây tức là trì luật chân thật.
Kinh Vua A-Xà-Thế nói: Phật bảo: Này Tôn giả Anan! Nay ta bảo thực với ông: Nếu có người phạm năm tội vô gián, được nghe chánh pháp như vậy rồi có thể sinh thắng giải, Ta không nói người đó có nghiệp và nghiệp chướng. A-nan! Nói tóm lại. Ta đây muốn tuyên thuyết chánh pháp sâu xa này, nên phải sinh tâm thắng giải, xưng tán rộng rãi, thường ở nơi kinh kia chuyên cần nghe nhận, không lìa. Bồ tát có phương tiện khéo léo phải siêng năng như thế mà thuyết giảng pháp thâm diệu. Cho nên, trí tuệ và phương tiện là hai pháp không lìa.
Đây là chánh pháp tương ưng của Bồ-tát.
Kinh Duy Ma Cật nói: Không có tuệ phương tiện buộc mà có tuệ phương tiện mở. Thế nào là không có tuệ phương tiện buộc? Nếu Bồ-tát điều phục tâm mình trong pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, không dùng tướng tốt để trang nghiêm cõi Phật và thành thục loại hữu tình, thì đây là không có tuệ phương tiện buộc. Thế nào là có tuệ phương tiện mở? Nếu Bồ-tát có khả năng dùng tướng tốt trang nghiêm cõi Phật, thành thục hữu tình, điều phục được tâm trong pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện. Siêng năng tu hành hết mực, không lúc nào lười mỏi. Đây tức là có tuệ phương tiện mở.
Thế nào là không có tuệ phương tiện buộc? Nếu Bồ-tát đối với các kiến phiền não sinh khởi, theo đuổi nó chấp trụ là "có", nhưng vẫn phát khởi tất cả thiện căn và hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng, thì đây là không có tuệ phương tiện buộc.
Thế nào là có tuệ phương tiện mở? Nếu Bồ-tát đối với các kiến phiền não sinh khởi, theo đuổi nó mà đoạn các chấp "có" rồi, phát khởi tất cả thiện căn, hồi hướng nơi Bồ-đề vô thượng, đều không chỗ nắm giữ, thì đây là có tuệ phương tiện mở.
Tuệ và phương tiện, hai pháp này hòa hợp nên biết đều là hạnh của Bồ-tát. Thế nào là hạnh Bồ-tát? Không phải là hạnh phàm phu, cũng không phải là hạnh Hiền Thánh, đó là hạnh Bồ-tát
Nơi sinh tử không bị nhiễm ô, nơi Niết-bàn không cầu tịch diệt, đó là hạnh Bồ-tát. Tuy cầu tìm trí bốn đế mà cũng không trái thời thủ chứng Niết-bàn. Đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy quán nội không mà thường nghĩ thị hiện thọ sinh trong tam giới, đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy quán pháp vô sinh, nhưng không vào chính vị, đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy thâu nhiếp tất cả hữu tình, nhưng không nhiễm vướng, đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy hành nơi "không" nhưng thường siêng đạt các tướng công đức, đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy hành vô tác, nhưng vẫn siêng tu tất cả việc thiện, đạt được khinh an, đó là hạnh Bồ-tát.
Tuy tu tập chỉ quán mà không hoàn toàn rơi vào tịch diệt, đó là hạnh Bồ-tát. Tuy chuyển pháp luân, thị hiện Đại Bát Niết-bàn, nhưng không bỏ chỗ làm của hạnh Bồ-tát, đó là hạnh Bồ-tát.
Tất những những việc như trên đều là thực hiện hạnh Bồ-tát. Kinh Hàng Ma nói: Lại nữa, có chính hạnh tối thượng của bậc Bồ-tát Ma-ha-tát, đó là trí thắng tuệ tăng thượng tương ưng. Như trí phương tiện là hành gồm thâu khắp tất cả các pháp thiện. Trí thắng tuệ là trí không ngã, không nhân, không hữu tình, không thọ giả, không nho đồng v.v… Trí phương tiện là hạnh thành thục tất cả hữu tình. Trí thắng tuệ là hạnh gồm thâu khắp các pháp. Trí phương tiện là hạnh thâu nhận chánh pháp. Trí thắng tuệ là hạnh không phân biệt tất cả pháp giới Phật. Trí phương tiện là hạnh thừa sự, cúng dường tôn trọng tất cả pháp Phật. Trí thắng tuệ là hạnh thấy tất cả cõi Phật như hư không. Trí phương tiện là hạnh tạo đầy đủ công đức trang nghiêm nơi tất cả cõi Phật và làm nghiêm tịnh các cõi ấy. Trí thắng tuệ là hạnh tu vô vi của tất cả Thánh Hiền. Trí phương tiện là hạnh khởi tâm tôn kính tất cả sư tôn và thi hành các loại tác dụng. Trí thắng tuệ là hạnh quán xét thân Phật vô lậu. Trí phương tiện là hạnh tu tướng hảo như Phật. Trí thắng tuệ là hạnh quán sát tất cả những sự việc không sinh và không khởi.
Trí phương tiện là hạnh thường tư duy về ba cõi và thị hiện thọ sinh trong ấy.
Kinh Vô Tận Ý nói: Phương tiện của Bồ-tát là thế nào? Và thắng tuệ của Bồ-tát là thế nào?
Lúc nhập định, khởi tâm đại bi duyên một cách vững chắc để quán sát hữu tình, đó là phương tiện.
Nếu ở trong định, trụ chỗ tịch tĩnh, và tạo tịch tĩnh khắp, thì đó là thắng tuệ.
Nếu lúc vào định khởi tâm đại bi tùy thuận đạo Phật, thì đó là phương tiện.
Nếu không có chỗ để nương dựa và quán sát, thì đó là thắng tuệ.
Nếu lúc vào định, quán sát và thâu tóm khắp tất cả pháp kia, thì đó là phương tiện.
Nếu quán pháp giới, không hề có chỗ phân biệt, thì đó là thắng tuệ.
Nếu lúc vào định, thấy thân Phật trang nghiêm được tạo tác ở trước, thì đó là phương tiện.
Nếu lúc vào định, quán sát phần vị pháp thân, thì đó là thắng tuệ.
Kinh Duy Ma Cật nói: Phật bảo: Này Bồ-tát Từ Thị! Bồ-tát có hai tướng:
Một là: vui thích tin tưởng ở câu văn vẻ.
Hai là: Không sợ pháp thâm diệu, như thật hiểu rõ, thể nhập vào.
Đó là hai tướng. Nếu Bồ-tát tin thích và tôn trọng câu văn vẻ, thì biết đó là bậc Bồ-tát sơ học.
Nếu trong kinh điển thâm diệu thanh tịnh ấy, thâu giữ khắp các loại văn nghĩa khác biệt, nghe nhận và thuyết giảng có thắng giải thì biết đó là bậc Bồ-tát đã tu phạm hạnh lâu.
Lại có hai pháp, là bậc Bồ-tát sơ học, tự làm tổn giảm, không điều phục tâm trong pháp sâu xa.
Một là: Trước kia, kinh điển thâm diệu chưa được nghe, nay nghe xong thì sợ hãi sinh nghi, cũng không thuận theo, trái lại sinh khinh chê nói thế này: Pháp này từ đâu đến Tôi xưa chưa từng nghe!
Hai là: Với bậc đại pháp khí giảng nói pháp sâu xa mà không chịu gần gũi tôn trọng. Hoặc trong lúc đó, thầm kể nói lỗi người kia. Đó là hai pháp.
Lại có hai pháp: Bậc Bồ-tát tuy tin hiểu pháp thâm diệu mà cũng tự làm tổn giảm, không thể nhanh chóng chứng được pháp nhẫn vô sinh.
Một là: xem thường bậc Bồ-tát sơ học, không chịu thu nhận, không quyết định chọn lựa và cũng không dạy bảo.
Hai là: Tuy tin hiểu pháp sâu xa nhưng không học tập, cũng không tôn trọng, không thí tài, không thí pháp, không thâu nhận hữu tình.
Đây là hai pháp.
Ở đây nên biết, nếu các hữu tình hiểu rõ, thâm nhập vào nơi diệu lực đại uy đức của chư Phật, Bồ-tát thì thật là khó được.
Thế nào là lực đại uy đức của Bồ-tát?
Kinh Duy Ma Cật nói: Duy Ma Cật nói: Này Tôn giả đại Ca-diếp! Nơi mười phương thế giới hiện có đang làm ma vương đều là bậc Bồ-tát trụ nơi giải thoát không thể nghĩ bàn. Dùng phương tiện khéo léo làm thành thục các hữu tình nên hiện tướng ma. Lại nữa, mười phương thế giới hiện có Bồ-tát được nhiều kẻ tìm đến xin đầu, xin tay, tai, mũi, máu thịt, gân xương, đầu, mắt, phần thân, vợ con, nô tỳ, dân chúng, làng nước, voi ngựa xe cộ. Những loại như vậy khi đến cầu xin đều cấp thí cho. Bồ-tát dùng tướng như vậy để hành cấp bách. Những vị ấy đều là Bồ-tát trụ nơi giải thoát không thể nghĩ bàn. Cadiếp! Ví như voi quý bước đi, sức lừa không thể theo kịp nổi phàm phu cũng giống như thế. Không thể làm được việc Bồ-tát cấp bách như vậy. Chỉ có bậc Bồ-tát mới làm được việc Bồ-tát cấp bách như vậy.
Như Kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp giới hạnh nguyện phần vị tuyên thuyết về Bồ-tát vô tận, Phật chủng thế giới. Thế tôn Trí hiện bày khắp cảnh giới âm thanh Như Lai.
Từ trong cõi ấy đi đến trước Phật Như Lai Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, hiện ra thân tướng uy đức của Bồ-tát gọi là tất cả phần thân, tất cả tướng tốt, tất cả lỗ chân lông, tất cả trang nghiêm, tất cả y phục và các vật duyên hợp.
Đầy đủ tất cả quyến thuộc của Bồ-tát.
Hiện có Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai. Trong đời trước trụ nơi tất cả Như Lai quá khứ.
Trong đời sau trụ nơi hết thảy Như Lai vị lai, hoặc đã thọ ký, hoặc chưa thọ ký.
Hiện tại an trụ tất cả địa Bồ-tát khắp hết thảy cõi Phật trong mười phương.
Chỗ tu tập bố thí Ba-la-mật từ xưa tương ưng với biển hành trước.
Tất cả người nhận và vật cho đều hiện lên, tất cả thân tướng, tất cả lỗ chân lông, những tướng tốt cũng đều biểu thị hiện ra.
Lại thân của các phần vị, và ngôn ngữ, đạo, tất cả y phục trang sức các vật duyên… tất cả cũng đều biểu thị hiện ra.
Lại nữa, sự tu tập trì giới Ba-la-mật-đa xưa tương ưng với biển hành trước. Các nhẫn nhục Ba-la-mật thi hiện các phần vị của thân bị cắt, chặt tương ưng biển hành trước.
Lại, các gia hạnh tinh tiến của các Bồ-tát tương ưng biển hành trước. Lại, các tĩnh lự rộng lớn đã thành tựu của chư Như-lai tương ưng biển hành trước.
Lại các môn, mỗi mỗi đều ảnh hiện, các vị Như-Lai chuyển đại pháp luân, thành tựu các pháp, xả các sở hữu, thân tướng tự tại, các môn đều hiển thị tương ưng với biển hành trước.
Lại, các biển thắng nguyện, các pháp môn tăng thượng rộng lớn trang nghiêm của Bồ-tát tương ưng biển hành trước.
Lại, các bậc Như-lai vui thấy tất cả thế gian rất yêu thích đạo Bồ-tát tương ưng biển hành trước.
Lại, lực Ba-la-mật-đa của Bồ-tát, các hạnh thanh tịnh thành tựu tương ưng biển hành trước.
Lại, các pháp giới rộng lớn của Bồ-tát, tất cả cảnh giới của hết thảy đám mây thần biến rộng lớn làm thành trí Bồ-tát tương ưng với biển hành trước.
Các sự như vậy, mười loại Ba-la-mật-đa hiện hình, biểu thị pháp giới rộng lớn, những đám mây thần biến rộng lớn đều đến chỗ Phật. Liền đó, các vị Bồ-tát và quyến thuộc đảnh lễ Phật xong, trụ ở phương trên, hóa hiện ra tất cả các báu tâm Kim Cang đế trang nghiêm chứa các lầu gác lớn ở trong, và ngồi kiết già trên tòa sư tử hoa sen xanh. Lại hiện ra vòm lưới bằng báu sáng đẹp đính ngọc ma ni che ở phía trên. Lại có tất cả âm thanh của Như Lai, trang nghiêm bằng ngọc báu anh lạc, bảo vương đầu đội mũ ngọc ma ni, hiện ra thân Bồ-tát trụ và gia trì. Những vị Bồ-tát này và quyến thuộc đều theo hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền sinh ra, biểu hiện thanh tịnh trong tất cả căn môn đầy đủ của Như Lai. Quán những sự thấy biết qua mắt trí, nghe tất cả biển âm thanh thù thắng lý pháp trong các kinh pháp luân của Như Lai, thâu nhiếp khắp tất cả Bồ-tát được tự tại và được Ba-la-mật-đa tối thượng. Tất cả các Như Lai thảy đều vân tập, trong từng sát na hiện bày rộng các thần biến, xuất hiện cảnh giới rộng lớn của các thân hữu tình. Hết thảy chúng hội đạo của chư Như Lai, từ trong thân ánh sáng chiếu rõ tất cả thế giới. Nơi mỗi thế giới đều có ảnh hiện những tướng cảnh giới nhiều như vi trần tụ họp lại. Có tất cả thiện căn thành thục của giới hữu tình, có hữu tình đáng được hóa độ thảy đều hợp thời đến, ứng hiện. Tất cả các đấng Như Lai chuyển mây pháp luân, tất cả cảnh giới âm thanh từ lỗ chân lông, tất cả thế giới khắp hết, tất cả thiện căn sinh ra. Sinh ra rồi thì tất cả thân giới hữu tình đều được bình đẳng. Tất cả các phương phần mây biển một sát na một tâm hiện rộng thần biến.
Kinh Hoa Nghiêm này lại nói: Lực uy đức lớn của Bồ-tát như sau: Bấy giờ, đồng tử Thiện Tài quán xét kỹ thân tướng Bồ-tát Phổ Hiền, bèn thấy mỗi mỗi phần vị nơi thân của Bồ-tát, mỗi mỗi phần vị thân đều phân minh; mỗi mỗi phần nhỏ của giới thể chia ra đều phân minh. Mỗi mỗi phần vị khác biệt nhau của phần thân đều phân minh. Mỗi mỗi nương hợp, mỗi mỗi nương hợp phân minh. Mỗi mỗi lỗ chân lông là mỗi mỗi phân minh. Hiện ra ở tam thiên đại thiên thế giới này hiện có các giới gió, lửa, đất cùng biển lớn, sông, suối, rạch ngòi, núi báu, núi Tu Di, núi Thiết Vi, cõi nước, thành ấp, làng mạc, chỗ cây rừng, nhà ở cùng các dân chúng các cõi, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, A-tu-la, Rồng, Ca-lâu-la, cõi người, cõi trời cùng cõi Phạm, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Tất cả những cảnh giới này đều do thần lực gia trì mà trụ. Cho đến hình sắc, hiển sắc, mây, chớp, tinh tú, ngày đêm, tháng, nữa tháng, thời gian, năm, kiếp trụ, kiếp hoại…. Tất cả các loại như vậy điều hiện ra, tướng của thế giới. Hiện ra rồi hết thảy thế giới phương đông cũng quán như vậy. Thế giới phương Nam, Tây và Bắc, bốn hướng, trên, dưới, tất cả thế giới cũng quán hiện như vậy.
Lại chư Phật hạ sinh, tất cả chúng hội ở đạo tràng cùng các hữu hình ở thế giới Ta-bà, đời trước, ở giữa và quá khứ, tất cả thế giới, tất cả hỗ tương đều thấy Bồ-tát Phổ Hiền, trong mỗi mỗi thân đều có tướng Đại nhân cùng chư Phật giáng sinh. Tất cả Bồ-tát hội ở đạo trường, cùng tất cả hữu hình, nhà cửa, ngày đêm, kiếp số… Cũng như vậy, đời sau, ở giữa, tất cả thế giới vị lai, tất cả cõi Phật cũng hiện thấy như vậy? Tất cả thế giới, tất cả đều hỗ tương thấy các tướng hình ảnh.
Cũng như vậy mười phương thế giới đời trước, đời sau và ở giữa. Tất cả đều thấy Bồ-tát Phổ Hiền, nơi mỗi thân có tướng đại nhân trong mỗi mỗi lỗ chân lông, mỗi mỗi đều rõ ràng qua lại không lẫn lộn. Tất cả đều thấy Bồ-tát Phổ Hiền tại chỗ Thế Tôn Đại Tỳ Lô Giá Na Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong hoa sen báu lớn trước Phật, hiện thần thông diệu dụng.
Lúc ấy, ở Phương Đông, nơi thế giới Liên Hoa Cát Tường, tức Như Lai Hiền Cát Tường thấy chỗ thần thông diệu dụng hiện rõ, từ Phương Đông rộng khắp mười phương thế giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy, đều thấy tất cả Như Lai, trong đủ các căn môn đều có Bồ-tát Phổ Hiền ngồi trên tòa sư tử tạng hoa sen báu lớn hiện thần thông diệu dụng phổ biến khắp mười phương. Tất cả những cõi Phật đều có vô số vi trần, mỗi mỗi vô số vi trần, đều là đạo tràng pháp giới to rộng của Phật, đều thấy trong căn môn đầy đủ của tất cả Như Lai có Bồ-tát Phổ Hiền ngồi trên tòa sư tử tạng hoa sen báu lớn, hiện thần thông diệu dụng. Lúc ấy, tất cả thân tướng đều được chỗ duyên trong ba đời hiện ra ảnh tượng, có tất cả các cõi, tất cả chúng hữu tình, chư Phật đản sinh, các Bồ-tát hội ở đạo tràng đều ảnh hiện, còn nghe mọi thứ ngôn ngữ của tất cả hữu tình, tất cả âm thanh Phật, tất cả đấng Như Lai chuyển pháp luân, tất cả tuyên nói, dạy trao, biến hóa thần thông; tất cả các Bồ-tát tu tập hội lại, cảnh tướng, âm thanh của chư Phật.
Tất cả những điều nói tóm lược như trên đều là sức uy đức lớn của Bồ-tát Ma-ha-tát.
Trong đây cũng nên hỏi: Thế nào là sức uy đức lớn của Như Lai? Kinh Bồ-Tát Thập Địa nói: Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt hỏi Bồ-tát
Kim Cang Tạng: Phật tử! Cảnh giới hành hóa của Bồ-tát đã là như vậy, thần lực gia trì lại vô lượng, làm sao có thể nhập vào cảnh giới hành hóa của Như Lai?
Bồ-tát Kim Cang Tạng đáp: Phật tử! Ví như có người ở trong thế giới bốn đại châu, cầm hai, ba viên sỏi như hạt đậu, nói: Cả thế giới đại địa chỉ lớn cỡ này thôi sao? Hay lớn hơn vô lượng lần sao? Người nói lời này cũng như ông bây giờ so sánh vô lượng pháp trí của bậc Như Lai Ứng Cúng Chính Đẳng Chánh Giác với pháp của bậc Bồ-tát. Phật tử! Vài viên sỏi như hạt đậu ở thế giới bốn đại châu mà người kia nắm được chỉ là một phần cực nhỏ bé, phần còn lại thì không thể lường tính được. Cảnh giới của Như Lai cũng lại như vậy. Bậc Bồ-tát địa Pháp vân hiện có công đức, thế mà trải qua vô lượng kiếp hãy còn không thể nói một phần nhỏ huống chi là vô lượng trí cảnh của Như Lai thì sao có thể nói hết được. Phật tử! Nay tôi bảo thực ông biết, có Như Lai chứng cho tôi, giả như mười phương, vô biên thế giới nhiều như vi trần kia, tất cả các cõi Phật, các vị chứng Bồ-tát địa nhiều như lúa, mè, tre, như rừng mía, tất cả những vị Bồ-tát ấy nêu bày khai thị cảnh giới nhất trí của Như Lai, trải qua vô biên kiếp cũng chưa được một phần trăm, cho đến trăm ngàn câu chi na-do-tha phần cũng chưa được một phần.
Kinh Nhập Như Lai Công đức trí Bất Khả tư nghì cảnh giới nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Nay trong hội này, hoặc có hữu tình cho là Phật Như Lai mới xuất gia, hoặc nói Phật xuất gia đã lâu, hoặc nói tu khổ hạnh, hoặc ngồi ở Bồ-đề tràng thành Chánh giác, hoặc lúc phá trừ quân ma, hoặc Phạm vương Đế Thích, các vị hộ thế khuyến thỉnh Phật chuyển đại pháp luân. Hoặc nghe thuyết pháp thừa Thanh văn, hoặc nói thừa Duyên giác, hoặc nói pháp Đại thừa, hoặc thấy thân Phật cao một tầm, hoặc thấy thân Phật cao một "Câu-lô-xá". Hoặc thấy thân Phật cao rõ hơn trăm ngàn do-tuần. Hoặc thấy thân Phật như sắc vàng ròng, cho đến thấy thân Như Lai như ngọc ma-ni. Hoặc thấy thân tướng tịch tĩnh của Như lai. Hoặc thấy tướng nhập Niết-bàn của Như Lai. Hoặc thấy một tụ thân tướng của Như Lai. Hoặc thấy phân chia Xá-lợi của Như Lai. Hoặc nói mười năm thành Đẳng Chánh giác. Hoặc nói mười năm vào đại Niết-bàn. Hoặc nói trong lời dạy của Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn Như Lai luôn được viên mãn. Hoặc ẩn mất. Hoặc nói là mười, hai mươi, ba mươi, bốn mươi cho đến trăm ngàn câu chi na-do-tha kiếp vào đại Niết-bàn. Hoặc nói Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai trong vô số vô kiếp thành Chính Đẳng Chánh giác.
Này Diệu Cát Tường! Đối với tất cả các tướng phân biệt như vậy, tất cả Như Lai không phân biệt, cũng không lìa phân biệt nhưng Phật Như Lai dùng pháp không phát ngộ, không phân biệt, tùy theo tâm của loài hữu hình mà tạo có hành tướng.
Kinh Bồ-Tát Thập Trụ nói: Phật dạy: Này Diệu Cát Tường! Có nhiều loại thuyết giảng như có ao hồ lớn, dọc ngang bằng nhau đến năm mươi vạn do-tuần, bờ hồ bằng phẳng, nước hồ trong ngọt. Lại có hoa sen che khắp trong hồ. Như có người dùng sắt làm xe bánh ngàn nan hoa, dùng loài ngựa hay Ca-lâu-la-tất-tật-thế kéo xe ấy. Xe này chạy không dính nước hồ, chân ngựa không đạp hại hoa sen. Diệu Cát Tường! Bậc Như Lai cũng lại như vậy. Cưỡi xe lớn đi trong hồ lớn kia, có rắn độc quấy động nước tung tóe. Nếu trong khoảng sát na rắn độc kia theo đẩy sau xe, xe liền quay sang phải quay lại bảy lần. Nếu rắn độc lại theo xe sang phải một lần thì xe liền quay sang phải vô số lần.
Các vị đại Tỳ-khưu như A-nan thuyết giảng pháp cũng như vậy. Có lúc A-nan nói mười loại pháp nêu lên nghĩa pháp. Nếu A-nan nói một loại pháp thì Xá-lợi-tử nói một ngàn loại pháp, nêu rõ nghĩa của ngàn pháp ấy. Hoặc lại Xá-lợi-tử nói một loại pháp, thì Đại Mục-kiềnliên đi qua tám vạn thế giới. Nếu Đại Mục-kiền-liên đi qua một thế giới tức thời Như Lai nơi mười phương thế giới, tự tại tối thượng, vượt hơn hư không, hiện hữu khắp tất cả biển thế giới. Mỗi mỗi thế giới, mỗi mỗi bến bãi, trong mỗi mỗi đạo phàm phu thị hiện từ cung Trời Đâu suất mất, giáng hạ nhập thai nơi nhân gian, thọ thai, xuất thai. Phạm vương, Đế Thích tiếp đón, tắm gội trang nghiêm, đi khắp bảy bước, quán sát mười phương, khởi tiếng gầm sư tử, học tập tất cả kỹ nghệ công xảo, sự nghiệp minh luận hiện nơi vị Thái tử, vui chơi nơi vương cung, thưởng ngoạn nơi vườn rừng, rồi xuất gia, tu khổ hạnh, uống cháo sữa, đến ngồi nơi Bồ-đề tràng, thành Chính Đẳng Chánh giác, hàng phục quân ma, quán câu, kinh hành, Đại Phạm Thiên vương khuyến thỉnh chuyển pháp luân, vào cung trời Đao lợi v.v… Thứ lớp các tên kiếp, phân lượng quốc độ, thân tướng uy đức, thọ lượng nhiều ít, chúng hội trang nghiêm, cõi Phật thanh tịnh, giáo pháp trang nghiêm, phát tâm Bồ-đề, tu các hành nguyện, thành tựu được các pháp Ba-la-mật-đa, viên mãn các địa thần thông, trí nhẫn, đầy đủ các môn tổng trì giải thoát, Tam-ma-địa, vô lượng các sự cúng dường, vô lượng Như Lai. Cảnh giới của pháp Như Lai và Bồ-tát là vô lượng. Chỗ hành phân lượng mây pháp rộng lớn, thành thục các loại hữu tình có phần vị phương tiện sai khác, khởi đại thần thông diệu dụng biến hóa, thị hiện Đại Bát Niết-bàn nhất thừa, phân bố xá-lợi, phân biệt giáo pháp, thời gian trụ lâu, gần và lúc pháp diệt… Tất cả đều xuất hiện như thế trong ao pháp lớn.
Lại nữa, đối với chỗ tu hành của ngoại đạo và những chỗ làm của tất cả hữu tình, Như Lai dùng tâm không phát ngộ, tâm không phân biệt, cùng lúc hiện khắp phần vị cứu cánh biên tế sau cùng, siêng năng dũng mãnh thị hiện.
Những điều như vậy, tất cả mười phương, nơi một sát na từ trong lỗ chân lông của mỗi mỗi thân đều hiện bày khắp các phương phần nơi ba đời, tất cả bậc Như Lai và các Bồ-tát chúng hội như biển, trang nghiêm công đức nơi tất cả các cõi Phật rộng lớn.
Tất cả nhà cửa cung điện của hữu tình rộng lớn trang nghiêm.
Tất cả xứ nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý của loài hữu tình, đều rộng lớn thiết lập.
Các hạnh của Bồ-tát đều tích tập rộng lớn trang nghiêm. Tất cả cảnh giới của Như Lai rộng lớn trang nghiêm. Tất cả các tướng như trên, đấng Như Lai đều dùng tâm không phát ngộ và không phân biệt thị hiện khắp cả mọi nơi biên vực sau cùng, cứu cánh siêng năng mạnh mẽ, đến sát na cùng lúc thâu tóm khắp tất cả mười phương thế giới cho đến các nẻo phàm phu hữu tận hoặc vô tận cũng không bỏ sót. Tất cả hữu tình trong các cõi hữu tình, mỗi mỗi hữu tình, các thân tướng, hình sắc, hiển sắc, âm thanh, ngôn ngữ, thí dụ thuyết pháp… Tất cả các phần lượng khác biệt như vậy, đấng Như Lai đều dùng tâm không phát ngộ và không sai biệt thị hiện rộng khắp. Tùy các tâm ý khác nhau của các hữu tình mà rốt ráo siêng năng mạnh mẽ đến biên vực sau cùng, tùy chỗ biểu thị tùy chỗ hiện bày. Này Diệu Cát Tường! Cũng như trăng tỏ vào đêm rằm, tất cả người nam, nữ, đồng nam, đồng nữ ở cõi Diêm-phù-đề, mỗi người đều thấy vầng trăng trước mặt nhưng trăng ấy đều không phân biệt. Đấng Như Lai cũng lại như thế. Với tâm không phát ngộ, không phân biệt, hiện rõ những hành tướng, do thành tựu pháp Phật bất cộng, nên tùy tâm ý của các hữu tình ứng hợp hóa độ. Tất cả hữu tình đều thấy Như Lai hiện trước nhưng tâm Như Lai không có phân biệt. Như vậy nên biết, dù phân biệt hay không phân biệt, các đức Phật Như Lai đều không phát ngộ mà thành tựu được pháp Phật bất cộng, tùy chỗ mà hiện bày tất cả hành tướng.
Ở đây nên biết trong các kinh rộng lớn sâu xa mà cũng chỉ là làm rõ, nói về lực đại uy đức của chư Bồ-tát và chư Phật. Nếu có người tin hiểu sâu, biên chép đọc tụng và tôn trọng cúng dường thì người này được vô lượng phúc lớn rộng.
Kinh này lại nói: Phật bảo: Này Diệu Cát Tường! Ví như núi chúa Tu Di, vượt hơn tất cả các núi, rõ ràng kỳ lạ, huyền diệu và lại rất cao, rộng và to lớn nhất.
Này Diệu Cát Tường! Bậc Bồ-tát tín hiểu chánh pháp này cũng lại như thế, vượt hơn tất cả các Bồ-tát Ma-ha-tát. Các Bồ-tát trong mười phương tất cả thế giới nhiều như vi trần, nếu sinh tin hiểu nơi chánh pháp này, thì năm Ba-la-mật-đa hiện có sinh ra thiện căn, tích tập trong A-tăng-kỳ kiếp cũng sẽ hiển chiếu đặc biệt, rất cao rộng, to lớn.
Này Diệu Cát Tường! Như có thiện nam, thiện nữ, nếu khiến tất cả hữu tình ở mười phương tất cả thế giới phát tâm Bồ-đề, lại có thiện nam hay thiện nữ tin thích Niết-bàn vô dư, chỗ phúc đạt được của người này hơn người trên, không tính kể số lượng được.
Này Diệu Cát Tường! Như có thiện nam, thiện nữ khiến được tất cả hữu tình tin thích Niết-bàn vô dư y, lại có thiện nam thiện nữ ở nơi chánh pháp này sinh tin thích, hoặc nếu tự biên chép hoặc nhớ, khiến người biên chép, hoặc tự đọc tụng, khiến người đọc tụng, cho đến có thể tin thích thọ trì, lấy hương hoa, đèn… các vật dụng lễ cúng để cúng dường chánh pháp, thì lượng phúc của người này nhiều hơn người trên vô số lần không thể tính hết.