TẠNG LUẬN
Đời Nguyên, Chánh Phụng đại phu Đồng Tri Hành Tuyên Chính Viện Sự Liêm soạn lại.
Phàm người ra khỏi tam giới chỉ có Phật. Đức Phật vì đại sự nhân duyên cho nên xuất hiện ra nơi đời, thương xót chúng sanh mà giáo hóa. Đây là tuyên bày pháp xưa của Chư Phật, không để cái thiện mai một. Đại Nguyên Đế sư thông suốt Tam thừa, tánh hạnh trong sáng như mùa xuân, lòng nhân từ và sâu xa không thể lường. Vua Dụ Tông đất đai tài sản nhiều vô số, biết Sư là bậc chính truyền, nên hạ mình cung kính thỉnh Sư truyền bày giáo pháp Sư, dốc lòng bố thí chí hướng tĩnh lặng, hoằng dương nghiệp Đế, mở lớn tông phong, bày tỏ những gì đã biết, tạo luận về nó rốt ráo văn lý suy bày pháp nghĩa, rõ ràng sáng sủa như nhựt nguyệt, rộng như trời đất. Bởi là việc của Như Lai không phải bậc Thánh ai có thể nói rõ được. Chủ lĩnh Tuyết nham, Ông Anh Tử Gian Thế, đồng ý truyền trao cho mọi người; đợi pháp tịch của Sư đã lâu, im lặng dịch bộ Luận này. Thấy truyền nơi đời, ông xưa cùng với tôi đều xem, giao tình cùng hiểu rõ, yêu thương tôi như đàn em. Công cố đưa cho tôi viết lời Tựa, tôi cố gắng chống đỡ, phân bua mình vụng về viết lách sao có khả năng làm xán lạn Thánh Giáo ư! Ông cười mà nói rằng: "Sao người khiêm tốn quá vậy! Thế là không dám từ chối, tôi bèn viết Tựa này.
Nguyên Đế sư Phát-Hợp Tư Ba tạo Luận. Tuyên Thọ Giang Hoài Phúc kiến, các nơi Thích giáo bao gồm pháp tánh Tâm tạng Hoằng giáo Phật Trí Đại Sư Sa La Ba dịch.
Kính lễ Kim cang Thượng Sư. Kính lễ chư Phật Bồ tát.
Biến tri kiến sở tri, thương xót khai thị mở bày cho quần sanh. Kính lễ tối thượng trí. Con nay diễn chương sở tri. Gọi là khí tình thế giới; đạo pháp cùng quả pháp, và các pháp vô vi, tóm lược nêu làm năm.
Nói thể tạo thành khí thế giới, tức là hạt giống tứ đại, khi hạt giống đầy đủ thì nảy mầm mọc lên. Đất cứng chắc, nước mền trơn ướt, lửa ấm áp, gió lay động, Các đại chủng, ấy rất nhỏ bé gọi là cực vi trần, cũng gọi là lân hư trần, không thể giải thích đầy đủ. Bảy lân hư kia là một cực vi. Bảy cực vi kia là một vi trần. Bảy vi trần là một thấu kim trần; bảy thâu kim trần là một thấu thủy trần. bảy thấu thủy trần là một thố mao trần; bảy thố mao trần là một dương mao trần; bảy dương mao trần là một ngưu mao trần, bảy ngưu mao trần là một du khích trần; bảy du khích trần kia là một nghĩ lượng, (Nhỏ như kiến) bảy nghĩ lượng kia là một sắt lượng, (trùng sâu), bảy sắc lượng kia là một mạch lượng (hạt lúa); bảy mạch lượng kia là một chỉ tiết (lóng tay) ba tiết là một chỉ (ngón tay); hai mươi bốn chỉ ngang rộng là một khuỷu tay, bốn khuỷu là một cung, năm trăm cung lượng thành một câulô-xá, tám câu-lô-xá thành một do tuần. Đây là ước lượng thế giới thân tướng. Thế giới thành tựu nhân do cộng nghiệp của tất cả hữu tình chiêu cảm. Như thế nào gọi là thành? Từ trong không giới mười phương gió nổi lên, cùng nhau xung kích dày đặt thành khối bất động, là diệu phong luân. Sắc nó màu trắng xanh, rất lớn chắc thật, sâu mười sáu lạc-xoa do tuần, lượng rộng vô số. Do hơi nóng sanh ra mây gọi là Kim tàng, giáng xuống mưa lớn, theo gió mà trụ lại. Gọi đó là dưới đáy biển, sâu mười một lạc-xoa hai vạn do tuần. Rộng mười hai lạcxoa ba ngàn bốn trăm phân nữa do tuần. Loại nước này truyền kích lên trên kết thành kim. Giống như sữa chín ngưng đọng lại, ở trên thành màng. Tức là kim địa luân cho nên thủy luân giảm chỉ còn dày tám lạc-xoa. Ngoài ra, chuyển thành kim luân dày ba lạc-xoa hai vạn do tuần; Kim luân rộng, bằng thủy luân. Chu vi tức thành gấp ba lần, hợp thành ba mươi sáu lạc-xoa, một vạn ba trăm năm mươi do tuần.
Trước đó, phong luân dưới đáy cõi Sa bà, dưới đáy bốn châu và địa luân thủy luân; trên địa luân lại mưa lớn xuống, tức thành biển lớn. Bị phong kích tán, tinh diệu kết tụ lại, thành núi Diệu Cao, các chất hạng trung tụ tập thành bảy núi vàng óng. Chất lượng kém tụ thành núi sắt vây quanh, còn tạp chất tụ tập thành bốn châu v.v… Thể của chúng là núi Diệu cao, phía Đông là bạc, Nam là lưu ly, Tây ngọc pha lê ka, Bắc là những thứ do vàng tạo thành, hơn bảy thứ chỉ là vàng. Bốn châu với đất v.v… do phẩm làm thành, còn núi sắt vây quanh kia chỉ do sắt làm thành, lượng của núi Diệu cao phần ngập vào nước tám vạn du-thiện-na, so với núi khác thảy đều diệu cao hơn. Gọi là Diệu Cao về sau thứ tự có bảy núi vàng bao quanh.
Một là núi Du-càn-đà-la núi cao bốn vạn do tuần.
Hai là núi Y-sa-đà-la cao hai vạn do tuần.
Ba là núi Khư-đắc-la-kha, cao một vạn do tuần.
Bốn là núi Tu-đằng-sa-la, cao năm ngàn do tuần.
Năm là A-du-hạt-na, cao hai ngàn năm trăm do tuần. Sáu là núi Tỳ-nê-đán-ca-na, cao ngàn hai trăm lăm mươi do tuần. Bảy là núi Cư-dân-đà-la. Cao sáu trăm hai mươi năm do tuần. (Trong tàng luận sớ cho rằng: Một là núi Trì Song. Hai là núi Trì Trục. Ba là núi Duyên Mộc. Bốn là núi Thiện Kiến. Năm là núi Mã Nhĩ. Sáu là núi Tượng Tỵ. Bảy là núi Ngư Chủy) Tứ đại châu bên ngoài có núi bao vây vòng quanh, cao ba trăm mười hai rưỡi do tuần. Những núi kia lượng tự rộng bằng nhau, đều xuất lên mặt nước lượng đồng nhau. Giữa núi Thất kim có các Long vương thường đến chỗ này dạo chơi. Gọi là Hí Hải. Bảy biển giữa tám núi gần núi Diệu Cao là.
1) Biển Du-càn-đà-la, rộng tám vạn do tuần.
2) Biển Y-sa-đà-la, rộng bốn vạn do tuần.
3) Biển Khư-đắc-la-kha, rộng hai vạn do tuần.
4) Tu-đằng-sa-la, rộng một vạn do tuần.
5) Biển A-du-hạt-na, rộng năm ngàn do tuần,
6) Biển Tỳ-ni-đát-ca-na, rộng hai ngàn năm trăm do tuần, là Biển Ni-dân-đà-la, rộng một ngàn hai trăm năm mươi do tuần.
Các biển đều đầy chứa nước tám công đức. Tám núi và bảy biển tướng nó đều vuông, ngoài biển nước có vị mặn. Núi Ni-dân-đà-la, cách núi bao quanh (Luân vi) ba lạc xoa hai vạn, hai ngàn do tuần, ngoài biển này nước tuy không có phân chia nhưng do sắc núi Diệu Cao, nên biển đông có màu trắng, biển Nam màu xanh, biển Tây màu hồng, biển Bắc màu vàng, các màu sắc, ấy hiển hiện nên gọi là Tứ hải. Chu vi Tứ hải ba mươi sáu lạc xoa. Bảy trăm năm mươi do tuần; núi Luân vi bên ngoài có chu vi ba mươi sáu lạc xoa hai ngàn sáu trăm hai mươi lăm do tuần. Bên ngoài biển này có biển Nam Thiện Bộ châu, hình trạng giống như xa sương hiệp cách núi Thiết vi bao bọc ba do tuần rưỡi còn ba phía khác mỗi phía hai ngàn do tuần, chu vi sáu ngàn lẻ ba do tuần rưỡi. Có hai châu ở giữa Đông là Giá Ma La (Đây dịch là Mao Ngưu) Phía Tây Bà-la-ma-la (đây dịch là Thắng mao ngưu). Trong chính giữa Thiệm Bộ là nước Ma Kiệt Đà là nơi mà ba đời chư Phật sinh ra. Tiếp từ đây cách hướng Bắc khoảng chín ngọn Hắc sơn, có núi tuyết lớn tên gọi Cụ Kiết Tường. Phía Bắc này có núi Hương Túy, giữa hai núi có Đại Long Vương, tên gọi là Vô Nhiệt là cái ao Long Vương cư trú gọi là ao A nậu đạt. (Đây dịch là Vô nhiệt). Hình trạng của núi này có bốn bên mỗi bên dài năm mươi do tuần, chu vi hai trăm do tuần. Trong ao có nước tám công đức đầy khắp, từ trong ao này xuất ra bốn sông lớn. Phía Đông sông Căng-già từ sông này giống như miệng voi chảy, xuất ra cát vàng, cộng chung năm trăm sông chảy về biển nam; sông Tân Độ từ trong miệng trâu lưu xuất cát lưu ly cùng năm trăm sông chảy về biển Nam. Phía Tây sông Phược-sô, giống như miệng ngựa chảy cát ra pha lê, cát ngọc quý cùng năm trăm sông chảy về biển Tây. Phía Bắc có sông Tất Đát, từ sông này như miệng sư tử chảy ra cát vàng, cùng năm trăm sông chảy về biển Bắc. Bốn sông kia từ ao Vô nhiệt, vòng phía tay phải bảy vòng theo hướng mà chảy. Phía Bắc Hương sơn khoảng hai mươi do tuần, chỗ ấy có núi hiểm trở gọi là núi Nan đà, mỗi bên năm trăm do tuần, chu vi hai trăm do tuần, cao ba do tuần rưỡi. Lại có tám ngàn núi nhỏ hiểm trở. Dọc theo phía Bắc các núi đó khoảng hai mươi do tuần, có cây Sa-la thọ vương, gọi là Thiện trụ, rễ của cây ăn vào đất bốn mươi cung cao tám mươi cung lượng, bảy lớp hàng cây là liệt vây quanh. Dọc theo phía Bắc núi khoảng hai mươi do tuần, có ao nước chảy chậm rãi. Ao này hình trạng tròn, rộng năm mươi do tuần, chu vi một trăm năm mươi do tuần. Lại có tám ngàn ao nhỏ, có chứa đầy nước tám công đức, trong ao có hoa sen, lá sen dày như da trâu, cọng sen như trục xe, hoa như bánh xe, mùi vị thơm ngon như mật ngọt; chỗ đó lại có dấu vết Tượng vương (voi chúa) mà Trời Đế Thích đánh nhau đã cưỡi, gọi là Thiện trụ, cùng tám ngàn voi. Bốn tháng giá lạnh trụ lại núi vàng, bốn tháng nóng bức trụ ở Thiện trụ, bốn tháng mưa trụ ở ao nước chảy chậm. Bên ao Vô nhiệt, có cây Thiệm bộ, trái quả có mùi vị thơm ngon, kỳ lương như trái xoài khi chín rơi xuống nước phát ra âm tiếng Thiệm bộ. Khi ấy rồng hóa làm cá nuốt ăn, còn những quả tàn héo rơi trôi theo dòng nước thành vàng Thiệm bộ. Do tên gọi cây mà đặt tên cho Châu Thiệm bộ. Hướng phía Tây Châu này có nước Ô điền, có cung của thần đại Kim Cang cư ngụ duy trì giống loại pháp Kim cang thừa được truyền ra từ đây. Trong biển phía nam có núi gọi là Trì Thuyền, có Đức Quán Âm Bồ tát ngự ở trên đảnh núi nầy. Thánh mẫu Đa La ở dưới chân núi. Phía đông có năm núi cao chót vót, Bồ tát Văn thù ngự ở trên núi này, có sáu mươi nước lớn, ngàn số nước nhỏ. Lại có ba trăm sáu mươi chủng loại người, có bảy trăm hai mươi chủng loại âm tiếng nói khác nhau. Ngoài biển Đông có châu thổ gọi là Thắng Thân, hình trạng giống như nữa vầng trăng, so sánh núi Diệu Cao ba trăm năm mươi do tuần hơn sáu mươi do tuần, chu vi sáu ngàn ba trăm năm mươi do tuần. Hai bên châu này có hai châu. Bắc Đề Ha, (đây dịch là Thân). Nam Tỳ Đề Ha, (đây dịch là Thắng thân), ba châu đó vượt hơn, châu còn lại bảy cây Đa La, hoặc gọi là châu, dung mạo của người đoan nghiêm, thân của người thắng diệu, cho nên gọi là Thắng thân. Ngoài biển này châu phía Bắc gọi là Cưu Lâu. Hình trạng của châu này bốn góc vuông dọc theo bốn hướng gần giống nhau đều hai ngàn do tuần chu vi tám ngàn do tuần, hai bên châu này ở giữa có hai châu. Một gọi là Cưu Lâu. (Đây dịch Hữu Thắng) Hai gọi là Cao La Sa. (Đây dịch là Thắng Biên). Người châu kia vốn có cây Như ý xuất ra đủ mọi thọ dụng. Sắp đến bảy ngày cây Như ý phải chết xuất ra âm không hay, báo hiệu bảy ngày nữa sẽ chết. Hoặc nói người châu này hèn kém, lưỡi tức liền cắt ăn thịt phát âm quỷ, cho nên gọi là Cưu lâu, là âm tiếng phát ra không hay. Ngoài biển này phía Tây có châu gọi là Ngưu Hóa. Hình như mặt trăng tròn đầy, rộng một ngàn năm trăm do tuần, chu vi bảy ngàn năm trăm do tuần, ở giữa có hai châu. Nam xá Hổ. (Đây dịch Cụ siễn. Bắc Ôn-đát-la mạn-đát-ly, nô (đây dịch Nghi Thượng). Người châu kia nhiều của cải trâu báo, cho nên gọi là Ngưu hóa châu, các núi biển hướng phía dưới đều tám vạn do tuần, gần vì Kim địa, nên gần Thiệm Bộ Châu, Tinh cát châu, Kim châu, Nguyệt châu v.v… hệ thuộc Thiệm bộ châu. Châu này lớn hơn các châu nhỏ cũng như vậy, kế trên không trung có bốn vạn do tuần, thuần tịnh, không ngăn ngại, vượt trội cứng chắc, phong luân từ phía phải mà thổi vòng, nhựt nguyệt, tinh tú ở bầu trời đều dựa vào đây mà trụ. Nhựt luân đó là do hỏa châu tạo thành, đường kính, năm mươi mốt do tuần chu vi một trăm năm mươi ba do tuần, bề dày sáu do tuần lẽ mười tám phân. Trên có kim duyên. Trên kim duyên lại có kim ngăn, lưu ly pha lê châu v.v… suốt thành bốn góc. Cung điện của Thiên tử Mặt trời v.v… ở do phong luân vận hành nên một ngày, một đêm vây quanh bốn đại châu. Mặt trời đi về hướng Bắc thì ngày tức dài. Mặt trời đi về hướng Nam thì ngày ngắn, đi về hướng Nam Bắc thì thời gian ngày đêm dừng lại do mặt trời đi chỗ có ánh sáng tức là có lạnh và nóng, là có biên giới mùa đông mùa hè, có sáu tháng hướng
Bắc, sáu tháng đi hướng Nam đi đến trung đạo gọi là nhựt nguyệt quay trở lại là Tinh luân. Trải qua một vòng gọi là một năm. Nguyệt luân do thủy châu tạo thành. Đường kính năm mươi do tuần, chu vi năm trăm năm mươi do tuần, bề dày sáu do tuần lẻ mười tám phân. Nguyệt luân này trên lại có kim ngân, lưu ly, pha lê châu v.v… suốt thành bốn góc. Là cung điện của Thiên tử mặt trăng ở, là khi nhựt, nguyệt kia cách nhau xa gần, bóng tự nó tăng hay giảm, do tăng một phân tức sanh trên phân nữa, mười lăm phần tất gọi là tròn đầy, do giảm một phần tức sanh dưới phân nữa, bóng tự nó bóng che kia. Mười lăm phần hoàn tất gọi là không tròn đầy. Do tăng giảm cho nên gọi là Túc không. Do một ngày đêm gọi là Túc địa. Như vậy ba mươi ngày gọi là một tháng. Các tinh tú đó, là không cư Thiên, cung điện do các báu tạo thành, hình trạng tinh đều tròn, nhỏ bằng một lỗ lông trâu, trung ba lỗ lông trâu, lớn bằng sáu lỗ lông trâu, chu vi gấp ba, Tứ vương chúng. Núi Diệu cao có bốn tầng cấp: Tầng một từ mặt nước lên đến mười ngàn do tuần. Tầng hai từ bên cạnh núi Diệu cao nhô ra mười sáu ngàn do tuần, hướng lên trên một vạn do tuần. Tầng ba từ bên cạnh nhô ra tám ngàn do tuần, hướng lên trên một vạn do tuần Tầng bốn từ bên cạnh nhô ra bốn ngàn do tuần hướng lên trên một vạn do tuần. Bên cạnh lại nhô ra hai ngàn do tuần. Núi Diệu cao kia trên đảnh có bốn góc, mỗi góc vượt lên một ngọn núi, cao bốn do tuần rưỡi, rộng một trăm hai mươi lăm do tuần, chu vi năm trăm do tuần có thần Dược xoa dừng ở trong đó. Trên đảnh núi có thành chính giữa của ba mươi ba Trời, gọi là Thiện Kiến thuần là vàng rồng tạo thành, cao một do tuần rưỡi, mỗi mặt hai ngàn năm trăm do tuần, chu vi vạn do tuần thể của thành làm bằng vàng, (đều dùng trăm thứ trang nghiêm một loại tạp báu. Đất đây mền mại như bông Đâu la miên, Bốn mặt thành có một vạn sáu ngàn cây cột báu, rui báu, mè báu, hiên báu, bốn mặt, bốn cửa. Lại có ngàn cổng một cửa nhỏ, bốn con đường thông ngã tư lớn, có các ngã nhỏ, bên bốn cửa này có năm trăm Thiên tử đều mặt giáp phục cứng chắc để thủ hộ nơi cửa. Trong thành có điện Đế Thích, gọi là Tối thắng xứ, cũng gọi là Thù thắng điện. Thành này hình trạng vuông vức vuông cao bốn trăm do tuần rưỡi. Mỗi mặt hai trăm năm mươi do tuần, chu vi một ngàn do tuần, hàng trăm lô cốt ngăn địch, mỗi lô cốt có bảy lầu, mỗi lầu báu lại có bảy lầu nhỏ, mỗi lầu nhỏ có bảy ao nước tròn, mỗi ao nước tròn có bảy hoa sen, trên mỗi hoa sen có bảy đồng nam, đồng nữ, tấu các loại nhạc ca hát, nhảy múa vui chơi.
Thành Thiện kiến phía Đông có các e để cưỡi gọi là vườn Chúng Xa, cao ngàn do tuần, nơi đánh nhau phía nam gọi là vườn Thô ác, các nơi đi về phía Tây gọi là vườn Tương tạp nơi dạo chơi phía bắc gọi là vườn Hoan hỷ. Ngang rộng giống như trước. Ngoài vườn này khoảng hai mươi do tuần, có đất lành gọi là Chúng xa, Thô ác, Tương tạp, Hoan hỷ, bốn vườn này rộng bằng nhau. Thành Thiện Kiến phía Đông bắc có cây Như ý, tên gọi là Ba-lợi xà đa, cũng gọi là viên sanh thọ rễ sâu năm mươi do tuần, cao trăm do tuần, nhánh lá bên che trùm năm mươi do tuần, có thể tùy theo ý muốn thí cho vui chơi, dưới gốc cây có bàn thạch. A-lật-ma-lệ-ca, màu trắng như bông tơ, mỗi mặt năm mươi do tuần chu vi hai trăm do tuần.
Thành Thiện Kiến phía Tây nam là chỗ chư thiên tập hợp, gọi là Thiện Pháp đường, chu vi chín trăm do tuần hình tròn. Trong chính giữa nhà có tòa của Đế Thích, thuần bằng vàng rồng. Tòa này chu vi có ba mươi hai tòa phụ cận thần, bầy tôi, đều sắp đặt đủ cho ba mươi ba trời. Hướng lên khoảng tám vạn do tuần, giữa không trung dựa vào gió mà trụ do các báu tạo thành. Cung trời Ly tránh lớn cao gấp hai lần đỉnh núi Diệu cao, hướng lên khoảng một ức sáu vạn do tuần ở không trung dựa vào gió mà trụ, do các báu tạo thành. Cung cõi trời Đâu suất lượng như cung Trời Ly Tránh, ngang dọc gấp đôi đỉnh núi Diệu Cao, hướng lên khoảng ba lạc xoa, hai vạn do tuần ở nơi không trung dựa vào gió mà trụ do các báu tạo thành.
Cung cõi trời Hóa lạc lượng như Đâu suất, ngang dọc gấp đôi, như trên, hướng lên khoảng sáu lạc xoa, bốn vạn do tuần ở không trung dựa vào gió mà trụ do các báu tạo thành. Cung lượng của cõi trời Tha Hóa tự tại, giống như cung Hóa lạc, ngang dọc rộng gấp đôi. Đây tức là dục giới. Trên có cõi sơ thiền. Bốn châu, bảy núi, Diệu cao, Luân vi, Thiết vi, sáu cõi trời Dục và sơ thiền v.v… gọi là Tứ châu giới. Một đến ngàn là tiểu thiên giới. Một núi thiết vi nhỏ vây quanh Tiểu thiên giới từ một đến ngàn, là trung thiên giới là một núi thiết vi trung vây quanh. Trung thiên giới này một đến ngàn là tam thiên đại thiên thế giới. Một đại thiết vi vây quanh núi. Như thế có trăm ức số tứ châu giới v.v… thảy đều vân hành đi khắp núi Thiết vi v.v… Giữa các châu, núi có chỗ tối tâm, không có ngày và đêm, đưa tay lên cũng không thấy. Lượng cõi sơ thiền bằng tứ châu giới. Lượng cõi nhị thiền bằng tiểu thiên giới. Lượng cõi tam thiền bằng trung thiên giới. Lượng cõi tứ thiền bằng tam thiên đại thiên thế giới. Cõi thiền này cách cõi Thiền đều mỗi tăng gấp đôi lên. Gọi là sắc giới, Vô sắc giới thì không có chỗ riêng, hễ có sanh thì, chỗ nào mạng chung tức chỗ đó sanh trụ vô sắc định cho nên gọi là vô sắc.
Nói Tình thế giới tóm chung có sáu loại. Một là địa ngục. Hai là ngã quỷ. Ba là bàng sanh. Bốn là người. Năm là phi thiên. Sáu là Thiên. Đây Đó là danh còn nghĩa thế nào? Gọi là chém chặt, hủy hoại chi thể nên gọi địa ngục. Đói khát bức bách nên gọi ngã quỷ. Ngang mặt đất mà đi nên gọi bàng sanh. Nhiều ý phân biệt nên gọi người. Thân và thọ dụng, như Nghĩa Ma-nâu-sa tuy cùng trời đồng nhưng phần thấp kém hơn nhỏ bé hơn. Hoặc là do không uống rượu cho nên gọi là phi Thiên là nghĩa A-tu-la. Từ thân Phạm mà sinh ra, dạo chơi vui khoái lạc hoặc nhận cúng dường cho nên gọi là Thiên, là nghĩa Đề Bà. Địa ngục ở cõi dưới Thiệm Bộ châu qua hai vạn do tuần, khoảng trống rộng lớn vuông vức hai vạn do tuần, thuần làm bằng sắt lửa đốt rỗng suốt. Có tám ngục nóng:
1) Cánh hoạt.
2) Hắc Thằng.
3) Chúng hợp.
4) Hào kiếu
5) Đại Hào khiếu
6) Diệm nhiệt 7) Đại Diệm nhiệt 8) Vô gián.
- Ngục Cánh hoạt: đó là Hữu tình sinh đây do cảm nghiệp trước, thường cầm vũ khí, gậy gộc cùng nhau khởi lên oán thù, bị ngục tốt chém chặt, giết hại đoạn thân rơi rớt xuống muôn ngàn sầu thảm đến mức tạm thời chết đi nghe tiếng trên không kêu sống lại, các hữu tình kia tức là sống lại, rồi lại cùng nhau chém chặt giết hại. Thọ lượng ở đây một ngày một đêm bằng một đời ở trời Tứ thiên vương, cứ vậy mà tính, thọ năm trăm tuổi nhận khổ sở vô cùng.
- Ngục Hắc Thằng, các ngục tốt cai quản trong ngục này đối với thân thể của chúng hữu tình thân, từ trên đảnh đầu đến chân dùng dây đen mà quấn quanh, rồi dùng lưỡi cưa nướng trong lửa đỏ mà cưa dây đứt đến thân thể, do nghiệp lực trước mổ xẻ chúng sanh từ nhỏ đến lớn. Thọ lượng nơi đây một ngày một đêm bằng một đời ở Trời Đao lợi cứ vậy mà tính thọ đến một ngàn tuổi nhận lấy khổ sở.
- Ngục Chúng hợp: Hữu tình sanh kia bị ngục tốt dùng roi Sắt đuổi bắt đập đánh, hoặc là hai núi sắt, giống như đầu dê. Hai núi ép lại xô đá rớt xuống làm cho nát thân thể, khi mở ra tự nhiên sống cứ như vậy mà chịu khổ. Thọ lượng đây một ngày một đêm bằng một đời ở cõi trời Ly-tránh, như thế mà tránh thọ đến hai ngàn tuổi, nhận lấy khổ sở.
- Ngục hào khiếu: chúng hữu tình sanh đây vì sợ ao sắt nóng chảy, chạy vào trong rừng rậm, lửa cháy dữ dội suốt năm, thêu đốt. Do nghiệp lực trước, lưỡi của thân người này ngang dọc rộng ngàn do tuần, có một con trâu lớn, sừng sắt, máng lưỡi cày sắt, lửa cháy dữ dội mà cày bừa trên lưỡi người tội, Thọ lượng đây một ngày một đêm bằng một đời ở cõi trời Đâu Suất, cứ vậy tinh số thọ mạng bốn ngàn tuổi, nhận lấy sự khổ sở.
- Ngục Đại Hào khiếu: Cũng giống như ngục Hào khiếu nhưng khổ sở tăng gấp bội lần, Thọ lượng đây một ngày một đêm bằng một đời của cõi trời Hóa Lạc. như vậy tính số thọ mạng tám ngàn tuổi, nhận chịu sự khổ sở.
- Ngục Diệm nhiệt: Có ba lớp thành sắt, lửa cháy suốt bên trong nhận khổ sở vô cùng tận. Thọ lượng đây một ngày một đêm bằng một đời ở Trời Tha Hóa tự tại. Như vậy tính thọ mạng đây một vạn sáu ngàn tuổi, nhận lấy sự khổ sở.
- Ngục Cực Diệm Nhiệt, cũng giống như Diệm nhiệt nhưng khổ sở tăng bội phần. Thọ lượng kia bằng nữa trung kiếp, nhận lấy sự khổ sở.
- Ngục Vô gián là nơi nhà sắt thân bên trong tụ lửa thiêu đốt nhận chịu rất khổ sở. Thọ lượng đây bằng một trung kiếp. Mười sáu ngục tăng Tám ngục nóng ở bên ngục mỗi có bốn chỗ tăng hơn:
1. Lửa thiêu đốt tăng lên nghĩa là hữu tình đều chân ở dưới nước tới đầu gối, khi đi, vừa nhấc chân lên, da, thịt cùng với máu đều thiêu đốt rơi lã chả, còn sót lại lớp xương, chân hạ xuống lại bình phục như cũ.
2. Thây chết phân uế dơ bẩn tăng lên. Chìm trong bùn đến hữu tình đến ngang lưng, ở trong có nhiều loại loài trùng nhương củ cắn rứt, mỏ bén nhọn như kim lột da rút xương, ăn xương thịt, tủy người.
3. Dao trên đỉnh núi tăng lên; có ba loại. Một là đao kiếm lót đường. Nghĩa là trong đây đao kiếm ngửa lên phủ khắp đường đi. Hữu tình đi qua kia, vừa để chân xuống thì chân, da thịt cùng với máu huyết bị cắt rơi lã chả, náy vụn, nhấc chân lên bình phục trở lại như cũ. Hai là rừng lá kiếm. Rừng cây này thuần là đao kiếm sắc bén nhọn làm lá, Hữu tình đi dạo bị gió thổi lá rơi rụng, chém chặt đâm vào thi thể xương thịt nát vụn, có quạ đen, ngựa chó dày xéo chà đạp, ngạm lấy mà ăn. Ba là rừng gai sắt còn gọi là Tiêm-ma-lợi. Rừng cây này có sắc nhọn dài bằng mười sáu ngón tay. Hữu tình bị bức bách leo lên tuột xuống cây, cây thì sắc nhọn bén đâm vào thân thể, như vậy các chúng hữu tình, máu thịt da v.v… tơi tả, đâm rồi nhồi nát, trên chỉ cắt đoạn đến xương cốt có sừng bén nhọn. Có chim mỏ sắc, dùng mỏ mổ mắt chúng hữu tình, tủy não rơi rớt, rồi tranh nhau mà ăn. Ba loại tuy rất đặc biệt có khác nhau, mà gậy sắt cũng đồng như vậy cho nên hợp thành một loại tăng.
4. Sông nóng nhiệt tăng lên còn gọi là vô độ, Sông đây đầy khắp, tro than, nước dơ nóng, hữu tình vào trong đó, hoặc nổi hoặc chìm, hoặc nghịch, hoặc thuận, hoặc là ngang hoặc đứng thẳng, bị hấp bị nấu, xương thịt nát nhừ. Như trong nồi lớn, đầy thành tro nước đặt lúa gạo vào đun lửa nóng dữ dội bên dưới trên hoặc giữa. Xoay tròn thân thể cử động là nát nhừ như gạo nấu cháu, chúng hữu tình cũng như vậy. Lúc bấy giờ muốn chạy trốn, thì trên hai bờ sông, có các lính ngục, tay cầm đao thương, ngăn chặn lại khiến cho quay trở lại, do đó không được trốn ra ngoài. Một sông tăng rơi này giống cái hào (hào lũy) còn ba tăng trước như vườn. Chúng còn gọi là địa ngục cận biên. Đó Tám ngục lạnh:
1. Bao.
2. Bao liệt.
3. A-Tra trá.
4. A-ba-ba.
5. Ẩu hầu hầu.
6. Liệt. Như Uất-bát la hoa. (Đây dịch hoa sen xanh).
7. Liệt liên hoa.
8. Liệt như đại liên hoa.
- Ngục Thủy Bao đó là: Sống trong nước lạnh, rất lạnh buốt giá. Theo đó thân sinh mụn bọc nước gọi ngục Thủy bào, tức trong bọc nước rất lạnh, Thọ lượng đây như nước Ma Già đà, có hộc lớn, tám mươi hộc, một trăm năm bỏ ra một hạt mè, như hộc mè này hết thì kia thọ mạng cũng như vậy.
- Ngục Bao liệt đó là: Do rất lạnh mụn nước này bể tiết ra nước mủ vàng, thọ lượng kia gấp hai mươi lần Ngục Bao.
- Ngục A tra tra đó là: Do quá lạnh lẻo nên kêu gào nghiến răng, nhẫn chịu Thọ lượng đây gấp hai mươi lần ngục Bao liệt.
- Ngục A ba ba đó là: Do nhẫn chịu lạnh nên phát ra tiếng rên hừ hừ. Thọ lượng đây gấp hai mươi lần ngục trước (A tra tra)
- Ngục Ẩu hầu hầu đó là: Do lạnh quá nên phát tiếng khóc than khổ, kia thọ lượng đó cũng như trước gấp hai mươi lần A ba ba.
- Ngục Liệt như Uất bát la hoa đó là: Thân bị giá lạnh tả tơi như lá của loại hoa Uất-bát la, Thọ lượng đó gấp hai mươi lần ngục Ẩu hầu hầu.
- Ngục Liệt như liên hoa đó là: Thân bị giá lạnh tả tơi như hoa sen mới nở ra, Thọ lượng gấp hai mươi lần ngục trên.
- Ngục Liệt như Đại liên hoa đó là: Thân tả tơi như hoa sen lớn nở vượt lên nở ra phô bày nhiều lá, Thọ lượng gấp hai mươi lần ngục trên.
- Ngục cô độc đó là: Ở trong Thiệm bộ đề nơi hoang dã giữa núi, một ngày, một đêm, nhận sự khổ, nhận sự vui, xen lẩn nhau mà thọ nhận tám ngục nóng, tám ngục lạnh cận biên cô độc, như vậy gọi là mười tám địa ngục. Quỷ đói dưới thành Vương xá hơn năm trăm do tuần, có thành ngã quỷ gọi là Huỳnh bạch, cũng gọi là Thảm Diêm. Vua quỷ kia gọi là Diêm La Pháp vương, cùng với ba mươi sáu quyến thuộc ở. Lại quỷ này có bốn:
1. Ngoại chướng.
2. Nội chướng.
3. Ẩm thực chướng.
4. Chướng ẩm thực.
- Ngoại chướng việc ăn uống, nghe nói ăn uống cũng không được.
Nội chướng, được ăn uống chút ít, miệng như lỗ kim không thể nuốt vào được, Giả sử có thể nuốt vào trong miệng, thì cỡ như đuổi ngựa nuốt không thể qua, giả sử như qua được khỏi cổ, thì bụng lớn như núi không thể no đầy, tuy no đầy trong bụng, thì cổ chân như cọng cỏ, không thể cử động được. Đây là nhận thọ khổ rất lớn lao.
- Ẩm thực chướng đó là, khi mà thấy ăn uống, có nhiều lính ngục cầm các khí giới như đao trượng ngăn giữ không được ăn uống.
- Chướng ẩm thực đó là khi ăn khi uống do chỗ nghiệp cảm nên chỉ nuốt hoàn sắc nóng, khi uống thì uống nước đồng sôi, mãi trong miệng rồi từ dưới chảy ra. Như vậy bốn loại đều là ngã quỷ. Thọ lượng một ngày một đêm bằng nhân gian một tháng như vậy là tính tuổi thọ năm trăm tuổi, tức tương đương nhân gian một vạn năm ngàn năm. Hoặc ở nhân nhơn gian các chỗ rừng lạnh, ăn máu thịt đều là quỷ loại quỷ đói.
Bàng sanh: Ở nhiều nơi sông biển cũng cặn bả và rượu xen lẫn hỗn tạp mà sống; vì lớn ăn nhỏ, nhỏ ăn nên lo sợ lẫn nhau, dựa vào sóng biển mà sống, không nhứt định. Hoặc là chỗ ở của trời, người. Thọ lượng đó lâu dài như thọ lượng long vương bằng nửa trung kiếp, còn ngắn thì như con phù du thọ mạng chỉ một sát na. thân lượng không định.
Người: Trụ ở bốn đại châu, tám trung châu v.v… và các châu nhỏ, kia Thọ lượng như người Thiệm bộ châu, lúc ban đầu kiếp thành thì thọ mạng vô lượng, về sau giảm lần, nay chỉ còn sáu mươi tuổi. Kế đến lại giảm lần đến mười tuổi. Tiếp đến, tăng dần dần không có định lượng. Người Bắc-Cưu-lâu định thọ lượng một ngàn tuổi. Người Đông Thắng thọ lượng năm trăm tuổi. Tây Ngưu hóa châu, thọ lượng hai trăm năm mươi tuổi. Ngoại trừ Bắc Cưu lâu châu, còn các châu kia đều có chết yểu. Về thọ dụng thì Bắc Cưu lâu châu thức ăn lá lúa tự nhiên, y phục là đồ tốt quý anh lạc xuất ra từ cây như ý; Ngoài ra ba châu khác còn ba châu kia ăn ngũ cốc, thịt v.v… thọ dụng vật báu v.v… Về thân lượng: Người Thiệm Bộ Đề, cao một trữu (khuỷu tay) tám trữu. Người Tây Ngưu hóa châu, mười sáu trữu. Người Bắc Cưu lô ba mươi hai trữu, những người này diện tướng phụ thuộc hình trạng các châu, nghĩa là người ở châu nhỏ bằng nữa châu lớn, thì lượng thân cũng giảm nữa, cho nên nói như vậy.
Phi Thiên: Từ chân mặt nước dưới núi Diệu cao xuống hơn một vạn một ngàn do tuần. Giữa núi trống rộng lớn trong thành Quang minh có, vua A-tu-la còn là La-hầu-la. (Đây dịch là Nhiếp não), các chúng quyến thuộc chung ơ. Lại quá hơn một vạn một ngàn do tuần trong thành Tinh-uất-có vua A-tu-la tên gọi là Đảnh mạn, với các quyến thuộc cùng ở. Lại quá hơn một vạn một ngàn do tuần có thành Kiên-lao bên trong vua A Tu la ở tên gọi là Diệu chấn. Lại gọi là Đại lực với chúng quyến thuộc chung ơ. Lại quá hơn một vạn một ngàn do tuần trong thành thậm thâm có vua A tu la tên gọi là Tỳma-chất-đa-la. (Đây dịch Ty chủng chủng) với quyến thuộc. Thường cùng với trời Đế Thích so tài đánh nhau. Thành này gọi là Cụ Kim điện cũng tên gọi Tấu nhạc, cây như ý vương tên gọi là Tức-đát-bát lật. Chỗ tập lại một chỗ tên gọi là Hiền Tài. Đá tên gọi là Thiện Hiền, vườn tên gọi Phổ hỷ, Diệu hỷ rất vui rất hỷ thiện. Đất này cũng gọi là Phổ hỷ, Diệu hỷ, vui nhất, rất vui, voi để cưỡi chiến đấu tên gọi là Vô năng địch, voi để dạo chơi gọi là Lũy tuyết, Ngựa gọi là Tiêu bột đó là của Phi Thiên., cùng ba mươi ba cõi trời tranh đấu Tu đà vị và Tu la nữ. Vì đấu tranh cho nên từ trên núi xuất ra các thân mặc toàn bằng kim ngân, lưu ly, pha lê châu các thứ áo giáp cứng chắc, tay cầm kiếm Phi tiêu, thương cung tên. Thống lãnh bốn bộ quân. Vua kia A tu la vương, La hầu la Đảnh mạn, Diệu chấn, Tỳ-ma chất đa la v.v… hoặc ba vua trước đến, hoặc bốn vua đều đến. Lúc ấy, Đế thích có năm chúng bảo vệ: Một giữ biển vui chơi (Hý Hải) với các chúng Long vương Nguyện Lạc, Bạch Pháp v.v…, cùng với Phi Thiên, đánh nhau khiến cho quay về. Long vương như không thắng sẽ đến chỗ Kiên thủ cộng thành hai chúng bảo vệ tiếp tục đánh với Tu La. Lại như không thắng tiếp đến chỗ tôi Man hợp thành ba chúng tiếp tục chiến đấu. Lại như không thắng tiếp đến Hằng kiều hợp thành bốn chúng tiếp tục chiến đấu Lại như không thắng, tiếp đến chỗ Tứ vương hợp thành năm chúng bảo vệ tiếp tục đánh nhau. Tứ đại Thiên vương thống lãnh bốn chúng quân lính. giáp phục báu kiên cố, cầm các khí giới giáo gậy, đánh nhau, phần nhiều Tứ Thiên vương thắng. Nếu không thể đánh cho chúng thối lui, thì đến trước cõi trời Đao lợi bạch Đế Thích rằng: Chúng tôi cùng với các chúng bảo vệ không thể đánh đuổi chúng A tu la trở về. Vua nên đánh đuổi bọn chúng. Bạch như vậy rồi. Thiên chủ Đế Thích cỡi voi Thiện trụ, bảo với ba mươi ba chúng trời rằng: Phải biết, nay quân A tu la đã đến đảnh núi Diệu cao các ông phải mặc giáp kiên cố cưỡi xe ra đánh Tu la. Nói lời như vậy rồi các thiên tử kia, mỗi mỗi mặc giáp báu tay cầm giáo dài, gậy gộc, đi đến vườn chúng xa-chỗ để xe mà lấy, rồi vào vườn Thô ác, chuyển thân tâm ác, mở cửa thành Thiện Kiến, xông ra đánh thật với Tu La kia cùng nhau đối địch đánh nhau dữ dội. Nếu như Tu La thắng thì xâm nhập đến trong thành, nếu như Trời đắc thắng thì đuổi quân Tu la, đến nơi biển thứ nhứt. Lúc đánh nhau, giao đấu, Thiên cùng phi Thiên bị đứt cổ, eo lưng, các chúng kia tức phải chết, còn tay chân như đoạn mất, lại mọc lại như cũ. Khi bạc Già Phạm, Bích Chi Phật, Chuyển luân Thánh vương trụ thế gian các chúng A tu la không khởi tâm tranh đấu. Giả sử như các chúng trời cùng nhau gìn giữ ắt phải thắng thôi. Hoặc việc thiện ở thế gian tăng các chúng trời cũng thắng, bất thiện tăng lên thì A tu la thắng. Bởi thế chư thiên thường hộ trì việc thiện.
Thiên: Tức loài trời dục giới sáu trời. Sắc giới mười bảy cõi, Vô sắc có bốn. Sáu trời Dục giới (cõi Dục) là: Núi Tô-mê-lô, tầng thứ nhứt: thuộc trời Kiên thủ ở. Tầng thuộc trời thứ hai Trì mạn ở Tầng thứ ba thuộc trời Hằng kiêu ở. Trên núi trì song hướng Bắc có thành, gọi là Ana-ca phược đế thuộc trời Đa-văn và chúng Dược xoa ở. Như vậy, hướng Đông có thành tên gọi Hiền Thượng, có đại Thiên vương tên gọi là Trì Quốc và chúng Càn thát ở. Hướng Tây có thành tên gọi là: Chúng Sắc có đại Thiên vương tên gọi là Quảng Mục, cùng chúng Long
Thần ở. Hướng Nam có thành tên gọi là Tăng Trưởng, có đại Thiên vương tên gọi là Tăng Trưởng, cùng chúng Diễm mạn ở. Bốn tầng, bảy núi vàng còn lại v.v… Nhựt, nguyệt, tinh, tú núi Thiết vi, Luân vi, núi Thiệm bộ châu, chỗ có cây Đa la, Tứ vương, bộ chúng cũng trụ dừng nghĩ nơi nầy, đều gồm thuộc tứ vương, vì vậy nên gọi là một bộ. Thọ lượng của trời một ngày một đêm bằng năm mươi cõi người, như vậy mà tính thọ lượng trải qua năm trăm năm. Như thân lượng trời thì bằng một phần tư Câu-lô-xá. Ba mươi ba ở trời trên đảnh núi Diệu Cao, Thiên chủ Đế Thích ở nơi tốt đẹp nhất, cùng với nữ Phi Thiên gọi là chỗ Diệu An, cùng chúng Thiên nữ thọ các dục lạc, không biết nhàm chán. Các voi để cưỡi đánh trận gọi là Thiện Trụ còn để dạo chơi trong vườn, thì gọi là Hát-la-phạt-nô. (Đây dịch là Trì địa tử).
Hai voi chu vi mỗi con bảy do tuần, mỗi con voi có tám ngàn chúng voi nhỏ ở. Lại có vua ngựa, tên gọi Tấn tốc, phong (nhanh như gió) cùng với tám ngàn ngựa ở. Thiên chủ phụ thần số đến ba mươi ba. vì vậy cho nên gọi là ba mươi ba trời. Các thiên tử chìm trong ngũ dục lạc, hoặc khi buông thả thì có trống trời lớn vang tiếng, cảnh báo chư Thiên rằng: "Chư hành vô thường, hữu lậu đều khổ, chư pháp vô ngã, tịch diệt là vui".
Khi cùng với quân Tu la đánh nhau thì trống xuất ra âm thanh trừ khổ cảnh cáo rằng: Mong chư Thiên thắng, cầu Tu la bại về cung điện, thành trì vườn cây các đá, như trước đã nói. Trời kia thọ lượng một ngàn năm, nên biết trăm tuổi nhân gian bằng một ngày một đêm trời này. Thân lượng của chúng trời bằng nữa Du-xà-na, Trời
Diễm ma đó là: Ba mươi ba trời cùng với Phi Thiên đấu tranh, xa lìa đấu tranh đây cho nên gọi là cõi trời Ly Tránh, Thọ lượng trời này hai ngàn tuổi, nên biết hai trăm nhân gian bằng một ngày đêm ở Trời này. Thân của vị trời này bằng hai Du-xà-na. Trời Đâu suất đà có đấng Từ Thị là vị kế ngôi vị pháp vương thế, xuất thế gian. Nhận đại pháp lạc. Nói Đâu Suất là nghĩa câu lạc. Trời này thọ bốn ngàn tuổi, nên biết nhơn gian bốn trăm năm bằng ở cõi này một ngày đêm. Thân lượng bốn Du-xàna. Trời Hóa Lạc là tự hóa ra mà thọ dụng nên gọi là Hóa lạc thọ tám ngàn tuổi, nên biết nhân gian tám trăm năm bằng cõi trời này một ngày đêm. Thân lượng tám Du-xàna. Trời Tha hóa tự tại đó là thọ dụng sự biến hóa khác, nên gọi là Tha hóa tự tại. Vua trời trong đây uy đức tự tại, tức là Ma chủ, thọ lượng một vạn sáu ngàn tuổi, nên biết nhơn gian ngàn sáu trăm năm, bằng cõi trời này một ngày đêm. Thân lượng mười sáu Du xa na. Từ dưới Vô gián đến cõi trời Tha hóa tự tại. Gọi là cõi dục giới, mê đắm dục lạc ăn bằng đoạn thực cho nên nói như vậy.
Sắc giới mười bảy: Thuộc về bốn tĩnh lự: Sơ thiền có ba trời: Là Phạm chúng, Phạm phụ và Đại Phạm. Các Trời này thọ lượng: Phạm Chúng nữa kiếp, Phạm Phụ một kiếp, Đại Phạm một kiếp rưỡi, cõi trời kia thân lượng, thứ tự nửa do tuần, một do tuần một do tuần rưỡi.
Nhị thiền ba Trời: Thiểu Quang, Vô Lượng Quang, Cực Quang. Thọ lượng: Thiểu Quang hai kiếp. (Bốn trời trên, bốn mươi trung kiếp là một đại kiếp. Các trời sắp xuống, tám mươi trung kiếp là một đại kiếp), Vô Lượng quang bốn kiếp, Cực quang tám kiếp. Về thân lượng: Thiểu quang hai do tuần, Vô lượng quang bốn do tuần, Cực quang tám do tuần.
Tam thiền có ba Trời: Thiểu Thiện Vô lượng Thiện và Quảng Thiện. Về thọ lượng: Thiểu Thiện mười sáu kiếp, Vô lượng Thiện ba mươi hai kiếp. Quảng Thiện sáu mươi bốn kiếp, về thân lượng: Thiểu Thiện mười sáu do tuần, Vô lượng Thiện ba mươi hai do tuần, Quảng Thiện sáu mươi tư do tuần.
Tứ thiền có tám trời: Vô Vân, Phúc Sanh, Quảng Quả, cả ba là phàm cư. Vô phiền, Vô Nhiệt, Thiện Hiện, Thiện Kiến, Sắc Cứu Cánh. Cả năm là Thánh cư, còn gọi là Ngũ Tịnh cư, về thọ lượng: Vô Vân một trăm hai mươi lăm kiếp. Phúc Sinh hai trăm năm mươi kiếp. Quảng năm trăm trăm kiếp, Vô Phiền một ngàn kiếp. Vô Nhiệt hai ngàn kiếp. Thiện Hiện bốn ngàn kiếp. Thiện Kiến tám ngàn kiếp, Sắc Cứu Cánh, một vạn sáu ngàn kiếp. Về thân lượng: Vô Vân một trăm hai mươi lăm do tuần. Phúc Sanh hai trăm năm mươi do tuần. Quảng Quả năm trăm do tuần, Vô Phiền một ngàn do tuần, Vô Nhiệt, hai ngàn do tuần. Thiện Hiện bốn ngàn do tuần. Thiện Kiến tám ngàn do tuần, Sắc Cứu Cánh một vạn sáu ngàn do tuần. Từ trời Phạm chúng đến Sắc Cứu Cánh, đều gọi là Sắc giới xuất ly dục lạc, chẳng xa lìa sắc, cho nên gọi là Sắc giới.
Vô sắc giới có bốn trời: Không có thân sắc, cũng không có chỗ ở, Từ định phân làm bốn:
- Không vô biên xứ
- Thức vô biên xứ
- Vô sở hữu xứ
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Về thọ lượng:
- Không vô biên xứ, hai vạn đại kiếp.
- Thức vô biên xứ, bốn vạn đại kiếp.
- Vô sở hữu xứ: Sáu vạn đại kiếp.
- Phi tưởng phi phi tưởng xứ: Tám vạn đại kiếp.
Các bốn xứ này, gọi là Vô sắc giới, chẳng xa lìa sắc định, mà xuất ly thô sắc. Cho nên không gọi là sắc. Về thọ lượng các Trời, gọi là thời tuế, kiếp, lượng khác nhau thế nào? Thời gian ít nhất gọi là sát na, một trăm hai mươi sát na là một đát sát na. sáu mươi đát sát na là một La bà. Ba mươi La bà là một Mâu hưu đa. (Đây dịch là tu du tức là trong khoảnh khắc). Ba mươi Mâu hưu đa là một ngày đêm, ba mươi ngày đêm tức là một tháng, mười hai tháng tức là một năm. Kiếp có sáu loại:
Một là, trung kiếp (hoặc gọi là Biệt kiếp). Hai là, Thành kiếp.
Ba là, Trụ kiếp. Bốn là, Hoại kiếp.
Năm là, không kiếp. Sáu là, đại kiếp.
-Trung kiếp: Người Hoặc Thiệm bộ, từ vô lượng tuổi, lần lần giảm đến tám vạn tuổi, tức kiếp thành. Từ tám vạn tuổi giảm đến mười tuổi. Gọi là đầu trung kiếp. Lại tăng trở lại tám vạn tuổi, rồi giảm đến mười năm là một Lộc-lô như vậy tăng giảm mười tám lần đó là mười tám lần trung kiếp. Sau đó lại từ mười tuổi đến tám vạn tuổi ở giữa trước và sau của Trung kiếp cuối cùng. Từ mười tám Lộc-lô làm thành hai mươi. Thành kiếp Bắt đầu từ phong luân đến ngục Vô gián, sanh một hữu tình khí thế giới thành tựu trải qua một trung kiếp, như trước đã nói. Tình thế giới là: Nói tam thiên giới. Lửa thiêu đốt hư hoại về sau lại thành, từ trời Cực Quang trời người mạng chung sanh chỗ Đại Phạm, cô độc, sanh ra mỏi mệt nhàm chán bèn than: Nếu có đồng phận sanh nơi nầy có gì tốt bằng! Phát tâm như vậy, tuy chẳng phải niệm lực nhưng nơi Cực Quang Thiên, có người mạng chung liền sanh. Do tâm nhớ đời trước mà nghĩ rằng: Do ta tham sanh. Cho nên, thế gian đều xưng Đại phạm là thỉ tổ loài người. Như vậy tiếp đến. Phạm Phụ, Phạm Chúng. Tha hóa tự tại, cho đến Tứ vương thứ tự mà sanh. Bắc Cưu Lô châu. Tây Ngưu Hóa châu. Đông Thắng Thần châu, Nam Thiệm Bộ châu, thứ tự mà sinh. Lúc đó, người ở Thiệm Bộ châu thọ mạng vô lượng tuổi ăn uống hỷ lạc có sắc ý mà thành. Đượm áng sáng, bay đi tự tại như trời Sắc giới. Có một loại như đất, vị nó vừa sanh ra đã có mùi vị thơm ngon, sắc trắng sạch ngọt như mật, mùi thơm nơi thân tỏa ra lan xa ngào ngạt. Khi ấy có một người, bẩm tánh chìm đắm say mê nơi mùi vị, ngửi mùi thơm khởi tâm ưa thích, lấy nếm thử bèn ăn vào, cũng bảo với người khác theo bắt chước lấy mà ăn, ăn no rồi lại ăn, cho nên trên thân áng sáng ẩn mất. Do các nghiệp cảm nên mặt Trời, mặt Trăng bèn xuất hiện, chiếu sáng bốn châu. Kế đến mùi vị thơm của đất ẩn mất lại sanh ra đất ngon như bánh. Đất này mùi vị ngon ngọt màu sắc đỏ, lại tranh nhau đam mê ăn đất có mùi vị này, đất ăn. Bánh đất ẩn mất lại sanh ra rừng dây leo; cũng tranh nhau ăn tham mê ăn cho nên rừng dây leo lại ẩn mất. Rồi lại có không cày cấy gieo trồng mà tự nhiên mọc; thế rồi chúng cùng nhau dành lấy mà ăn. Đây là ăn thứ thô cho nên căn thô phù nhơ uế đều xuất hiện. Bấy giờ, mọi người tùy theo sớm tối lấy lúa thơm mà ăn, về sau có người bẩm tánh biếng nhác, lấy lúa thơm cất chứa lâu ngày, dự trữ đủ để mà ăn, những người khác bắt chước theo cho nên lúa thơm lại ẩn mất. Rồi lại theo cùng nhau phân chia ruộng đất, suy nghĩ ngăn phòng từ xa đến lấy hết. Như vậy nơi đây tự mình phân chia ruộng rồi sanh ra keo bẩn, bủn xỉn, tâm giữ gìn, sợ nơi khác đến phân chia ruộng nên ôm lòng muốn xâm chiếm cướp đoạt. Cho nên, sanh ra cạnh tranh. Lúc bấy giờ trong số người có một người đức hạnh mới bàn rằng: Phong cho chức Điền chủ, mọi người đồng ý, gọi là Đại tam mạt đa vương. (Đây dịch chúng sở hứa). Vua có con, tiếp tục nối ngôi vua. Con vợ chánh gọi là Quang Diệu. Có con Thiện Đế, Tĩnh trai v.v… là năm vị vua ở kiếp thành. Vương tử Tĩnh trải còn gọi tên là Đảnh Sanh. Có con là Diệu Đế Cận Diệu, Cụ Diệu, Nghiêm Diệu. Như vậy các người con vua gọi là năm Chuyển luân vương. Con của Nghiêm Diệu vương tên gọi là Xả Đế, có con là xả Song. Xả Cố Ni, Cố Thất. Thiện Kiến, Đại Thiện Kiến, Trừ Nghi, Kim Sắc, Cụ phần, Ly Ác, Diệu Cao, Định Hạnh, Thậm Nhũ Âm. Đại Thậm Nhũ Âm, Năng An, Phương Chủ, Hiền Trần, Năng Quảng, và Đại Thiên. Vị vua này có năm ngàn tướng theo, người con sau cùng bảy ngàn tướng theo, gọi là A-tư-ma-ca-vương. Người con sau cùng tám ngàn tướng theo, gọi Cưu lâu vương, người con sau cùng của Cưu Lâu Vương gọi là Cụ Đầu vương, lại có chín ngàn vương tử. Người con sau cùng của Cụ Đầu vương tên gọi là Long Âm, lại có một vạn vương tử. Người con sau cùng của Long âm lại tên là Đát di lưu. Đát di lưu có một vạn năm ngàn vương tử Người con sau cùng của Di Lưu tên là Cù Đàm thị. Đây tức hậu duệ Cam Giá. Người con kia kế thừa giòng vua Cam Giá số đến một ngàn một trăm. Người con sau cùng của giòng vua Cam Giá, tên gọi là Tăng Trưởng (Tức là Ý Sư Ma Vương). Vua có bốn người con. Người con thứ nhứt tên Diệm Quang. Thứ hai tên Tượng Thực, thứ ba tên Điều Phục Tượng. Thứ tư tên Nghiêm Trược xưng họ Thích ca. Có con tên gọi Nghiêm Trược Túc, người con kia tên Trí Sở. Người con kia tên Ngưu Cư. Người con kia tên Sư Tử Giáp vương. Có bốn người con Một tên Tịnh Phạn Hai tên Bạch Phạn. Ba tên Hộc Phạn. Bốn tên Cam Lộ Phạn, con của Tịnh Phạn tức Bạc Già Phạm. Người con kế tên Nan-đà. Bạch Phạn vương có hai người con. Một tên là Đế sa Điều đạt. Hai tên Nan đềca. Hộc Phạn vương có hai người con. Một tên A-ni lâu đà Một tên Bạt-đề-lê-ca. Cam Lộ Phạn Vương có hai người con. Một tên A-nan. Một tên Đề-đạt-đa. Bà Già Phạm có một người con tên La-hầu La chủng tộc Thích Ca đến đây là hết vậy.
Lại có vua khác dựa vào làm hưng thạnh giáo pháp. Đức Như Lai diệt độ sau hai trăm năm, ở nước Trung Ấn độ, có vua tên gọi là Vô Ưu là pháp vương nơi Thiệm Bộ Đề. Vua phần nhiều trong khi kết tập kinh điển là vị thí chủ, hưng long Phật giáo, sau ba trăm năm. Tây bắc Thiệm Bộ có vua. Hạt Ni Thi Hạt làm thí chủ vào Thời kỳ kết tập thứ ba, làm cho Phật giáo mở rộng hưng thạnh lên nhiều. Nước Phạm Thiên Trúc, nước Ca-thấp-di-la, nước lặc, nước Quy Tư (âm Khưu từ) Niết ba-lạt, nước Chấn Đán (Trung quốc) nước Đại Lý. Nước Tây Hạ v.v… các chúng Pháp vương, mỗi nơi bổn Quốc của mình làm cho giáo pháp hưng thạnh. Đức Như Lai diệt độ sau hơn ngàn năm trong nước Tây Phiên. Bắt đầu có vua. Gọi là Nha-ngật-lật-tán phổ, hai mươi sáu đời thay nhau có vua. Tên gọi là Hợp-đà-đóa-lật-tư nhan-tán. Khi bấy giờ Phật giáo bắt đầu đến, về sau đời thứ năm có vua, tên là Song Tán Tư Cam Phổ, thời Ban Di Đạt gọi là A-đạt-đà. Dịch chính là Đoan Mỹ Tam-ba-la, phiên dịch giáo pháp, tu sửa kiến tạo thờ Phật tượng và chỗ Tinh xá, các nơi chỗ Phật thuyết pháp ngày xưa, lưu truyền giáo pháp. Sau đời thứ năm có vua tên gọi ngật lật song đề tán. Vua triệu thỉnh Thiện Hải Đại sư, Liên Hoa Sanh Thượng sư. Ca-ma-la-thập. La-ban-di. Những người thành tựu này cùng Tỳ-lô-giá-na-la khư-đát và Khang Long Tôn Hộ v.v… bảy người, phiên dịch giáo pháp. Ngoài ra ban di đạt cùng với các chủ dịch, rộng phiên dịch giáo pháp, ba loại cấm giới hưng khởi! lưu truyền trong nước. Về sau đời thứ ba có vua, tên gọi là Ngật lật lai ba thiệm là Vương Giới Quảng, khi bấy giờ có Tích-na-di-đa, với Thấp liên đát la Bồ đề. Ban di đạt v.v… cùng với Tư hạt can kiết Tường. Tích chước la long trướng v.v… rồi phiên dịch, chỉnh sửa rất chuyên cần. Những kinh chưa phiên dịch thời đem ra phiên dịch, rộng truyền và hưng thạnh giáo pháp. Giòng vua ở Tây Phiên đến nay vẫn còn ban-di-đạt v.v… Những dịch chủ phiên dịch. Chúng thiện tri thức rất nhiều. Cho nên giáo pháp do đó mà hưng thạnh.
Nước Mông cổ phương Bắc trước là Phước Quả Thục Sanh Vương gọi là Thành Kiết Tư. Từ cách so sánh vua trần nhiều phát âm theo tên nước, như Thiết Luân Vương. Người con kia tên là Can Quả đời, khi bấy giờ xưng là Kha Hản, lên ngôi vị Đế Vương. Cương giới rộng hơn vua trước, có con tên gọi là Cổ Vĩ cũng lên ngôi vị Đế Vương. Thành Kiết Tư Hoàng đế, kế đến con tên gọi là Đóa La. Trưởng tử của Đóa La tên gọi là Mong Ca, cũng lên ngôi vị vua. Vương đệ tên gọi là Hốt Tất Liệt, cũng lên ngôi vị vua. Hàng phục các nước. Mở rộng biên cõi quy y giáo pháp của Phật, dựa vào pháp giáo hóa dân chúng. Phật giáo rực rỡ sáng chói hơn trước. Vua có ba người con. Người con trưởng tên gọi là Chân Kim Phong Túc. Như Thiên pháp Bảo Trang Nghiêm. Hai là tên Man Các Thích. Ba gọi là Nạp Ma Hạ. Mỗi người đầy đủ bổn đức kế thừa cũng như vậy. Tư là ban đầu từ giòng vua Thích Ca, đến giòng vua hiện nay.
Tóm gọn các nơi Thuyên Thọ giải thích giáo như Giang Hoài, Phúc Kiến v.v… Pháp Tánh Tam Tạng Hoằng Giáo Phật Trí Đại sư Sa La Ba dịch.
Bắt đầu là ba đời Đế, Vương, Tổ cuối phần nhiều là vương lúc ấy phân chia ruộng đất, rồi cùng nhau khởi lên xâm chiếm. Ban đầu dấy lên việc trộm cắp bị vua truy hỏi bèn nói: không từng lấy trộm, bắt đầu khởi lên vọng ngữ. Dùng vương pháp tri phạt, đánh giết. Mà có phát sát hại pháp bất thiện sanh ra, sát hại sanh ra pháp bất thiện. Lúc bấy giờ, chúng sanh tạo pháp bất thiện, sau khi mạng chung liền sanh vào bàng sanh. Kế đến sanh vào ngã quỹ, rồi lần lần sanh vào địa ngục, kế đến ngục vô gián có một hữu tình, lúc ấy cuối kiếp thành, hữu tình như vậy hành các điều bất thiện thọ lượng giảm lần thọ dụng nghèo thiếu. Người cõi Diêm phù đề thọ mạng tám vạn tuổi và ngục vô gián có một hữu tình, cả hai đồng thời. Như vậy, tình thế giới thành mười chín trung kiếp, khí thế giới thành tức một trung kiếp. Như vậy kiếp Thành gồm hai mươi Trung kiếp. Khi người cõi Diêm phù đề tám vạn tuổi, bắt đầu là kiếp trụ kiếp trụ cũng trải qua hai mươi trung kiếp xuống đến lúc mười tuổi đao binh tai biến nổi lên, chỉ có bảy ngày đêm, tật dịch tai ách nổi lên; bảy tháng, bảy ngày đói khát tai ách nổi lên, chỉ có bảy năm, bảy tháng bảy ngày phần nhiều là chết hết, những người còn sống sót nhìn nhau, khởi tâm hy vọng cùng nhau yêu thương luyến tiếc không nở xa lìa, không nở sát hại. Rồi từ từ tâm thiện mới sanh trở lại. Thọ lượng thọ dụng lại tăng lên nhiều đến tám vạn tuổi. Khi lúc tăng lên như vậy có Chuyển luân vương xuất hiện dựa vào giáo pháp hóa độ chúng dân, đến lúc giảm xuống thì Bà Già Phạm xuất thế để cứu độ chúng sanh. Giữa lúc tăng giảm đó Độc giác xuất thế, làm phước điền cho các hữu tình. Kiếp Trụ cũng trải qua hai mươi trung kiếp. Ban đầu kiếp hoại, tình thế giới ban đầu hoại, trong ngục vô gián không có hữu tình sanh, nghiệp đời trước hết liền sanh loài khác, như có chưa hết sanh vào địa ngục trên, hoặc sanh vào địa ngục ở thế giới khác. Ngục vô gián trống không cứ như vậy các địa ngục bên trên lần lần trống rỗng, Sanh vào ngã quỷ, như vậy chốn ngã quỷ bàng sanh trống rỗng. Trong cõi vào chốn người trừ người Cưu Lâu, còn lại cùng với dục Trời Dục không có thầy dạy, pháp tự nhiên đạt được thiên, sơ tĩnh lự sanh ở trời Sơ Thiền. Người Bắc Cưu Lâu sanh trong Trời Dục Đạt sơ tĩnh lự sanh trời Sơ Thiền. Lại không có thầy dạy, pháp tự nhiên đạt nhiên thắng hoạch nhị tĩnh lự sanh trời Nhị Thiền. Từ Vô gián ngục đến Phạm thế trống rỗng. Như vậy cũng trải qua mười chín trung kiếp, về sau bốn châu có bảy mặt trời xuất hiện. Ban đầu không giáng mưa, cỏ cây cỏ thuốc đều chết khô héo. Lúc hai mặt trời xuất hiện sông ngòi ao rãnh khô không còn một giọt nước. Lúc ba mặt trời xuất hiện sông Căng-già v.v… đều khô cạn kiệt. Bốn mặt trời xuất hiện, ao nước Vô nhiệt cạn hết. Năm mặt trời xuất hiện, nước trong biển chỉ còn ngang đầu gối, sáu mặt trời xuất hiện, biển lớn cũng cạn luôn. Lúc bảy mặt trời xuất hiện, là khí thế giới như một khối lửa trên cao. Từ ngục Vô gián suốt đến cõi Phạm thế bị khối lửa này thiêu đốt hoại hết trải qua một trung kiếp. Tổng kiếp Hoại trải qua hai mươi trung kiếp. Kiếp không cũng như vậy. Như vậy bốn kiếp Thành Trụ Hoại, Không, là tám mươi kiếp. Tổng tám mươi kiếp đây là một đại kiếp, cũng là thọ lượng của các trời Phạm chúng v.v…
Khí thế giới hoại đây có ba loại: Lửa, nước, gió. Hoại đó cũng như trước đã nói. Như vậy bảy lần, thế giới sau đó lại thành. Lại bị nước dâng làm hư hoại đến Nhị thiền. Từ trời Cực Quang. Liền sanh ra, mây lớn kết tụ lại, giáng mưa lớn xuống. Tức là khí thế giới này như bị thủy hóa, tất cả nóng đốt đều hết và nước kia cũng tự khô kiệt. Cứ một lần thủy tại lại bảy lần hỏa tai; trải qua bảy hỏa tai lại một thủy tai, cứ như vậy, bảy lần gồm cả hai, lại bảy hỏa tai nửa thì thế giới sau thành. lại bị Phong tai (gió), làm hư hoại đến cõi trời Tam Thiền. Sức gió này thổi tan cả núi Diệu Cao, huống gì ngoài thứ khác! Trời Tứ Thiền tuy không có tai họa bên ngoài nhưng các hữu tình ấy sanh ra cùng với cung điện cũng sanh ra; mạng hết thì cung điện ẩn mất, như vậy khí, tình thế giới. Cùng thành loại bao gồm đều nói xong.
Lại nữa nhân quả tương tục duyên sanh pháp đó là: Nhân duyên tương tục mà sanh, cho nên gọi là duyên sanh. Duyên sanh có hai: Ngoại duyên sanh, và Nội duyên sanh. Ngoại duyên sanh đó là thành pháp thế giới, như hạt giống sanh mầm, như trước đã nói rồi. Nội duyên sanh ra đó, như là có vô minh tức có hành v.v… gọi là thuận duyên sanh; như vô minh diệt tức hành diệt v.v… là nghịch duyên sanh. Thuận duyên sanh có bảy thứ, còn căn cứ nơi vị, nối tiếp xa, trói buộc ngay, sát na, ba đời, hai trùng nhân quả, ba hoặc v.v… Căn cứ nơi vị tức là năm uẩn trong phần vị các phiền não thuộc đời trước, gọi là vô minh, do vô minh mạnh hơn nên nói như thế, trở xuống đều từ đặc tính mạnh mà gọi. Các pháp như hành v.v…, mỗi mỗi có đủ năm uẩn. Hành là năm uẩn thuộc nghiệp thiện, bất thiện, mà đời trước đã tạo. Thức là khi chánh kết sanh trong thai mẹ. Năm uẩn trong phần vị, một sát na có được. Danh sắc là sau khi thức kết sanh, là năm uẩn trong thời gian trước khi sáu xứ sanh ra. Danh là bốn uẩn: Thọ, tưởng, hành, thức. Danh sắc là phần vị ở thai: Yết-la-lam (đây dịch là hòa hợp, cũng gọi là ngưng đọng trơn). Át-bộ đàm (đây dịch bào kết) Thi-hộ. (Đây dịch nhục đoàn tức là cục thịt) kiện nam (Đây dịch kiên thật, Bát-la-xà-khư. (Đây dịch chi thể cân lực tức thân thể tay chơn gân sức lực) năm thứ này gọi là Danh sắc, sáu xứ là ở trong thai mẹ, từ mắt v.v… sanh ra đến ba thứ hòa hợp, là năm uẩn của phần vị chưa liễu biệt cảnh. Xúc là ba thứ căn, cảnh, thức hòa hợp, chưa có thể liễu biệt nhân khổ vui, tức năm uẩn trong vị này. Thọ là đã hiểu ba nhân thọ với tướng sai khác. Như khi còn bé, năm uẩn trong phần vị thọ này chưa khởi tâm dâm. Ái là năm tuổi dậy thì có thể hiểu rõ dâm dục, nhưng năm uẩn trong phần vị này chưa rộng tìm câu. Thủ đó là năm uẩn trong phần vị này vì muốn được các món thượng diệu tài vật của cải đầy đủ, nên chạy tìm cầu khắp nơi. Hữu là năm uẩn trong phần vị này: nhân vì chạy đi tìm cầu cho nên tích tập chứa nhóm, có thể lôi kéo đến nghiệp quả: Sanh là năm uẩn trong phần vị này do nghiệp lực ấy, từ đây xả bỏ thân mạng, chánh kết đương có. Lão tử là: Năm uẩn trong phần vị này từ đương lai sanh ra danh sắc đến Thọ. Đây là thuyết Nhất thiết Hữu bộ nói.
Căn cứ vị duyên sanh, tức là nối tiếp xa. Ràng buộc ngang cũng như vậy. Kinh Bộ tông thì không căn cứ vị mà nói. Nối tiếp xa nghĩa là vô minh trái với minh, là nhân của tâm sở pháp hành. Hành đó chỗ phát khởi nghiệp phúc và phi phúc bất động các nghiệp. Thức là do nghiệp dẫn, khiến cho thức sanh ra. Danh sắc đó là năm uẩn trong thai. Sáu xứ là Nhãn và các căn sanh. Xúc là: Căn, cảnh, thức thứ ba hòa hiệp liễu biệt là tâm sở pháp. Thọ đó là do chỗ kia sanh ra khổ vui, xả bỏ v.v… Ái là tham trước cảnh vui. Thủ là tìm cầu cảnh kia. Hữu đó là do kia phát khởi thành nghiệp đời đương lai. Sanh là do nghiệp tương tục kết. Lão tử là, khiến cho sanh đời kia cuối cùng chuyển đến chết. Căn cứ ràng buộc cũng nói như đây.
Nói theo sát na đó là: do một sát na có mười hai chi duyên sanh đầy đủ, do tham hành sát hại si là vô minh; đoạn mạng tức là hành. Nơi các cảnh việc hiểu rõ phân biệt gọi là thức. Ngũ uẩn đồng đều tổng xưng là danh sắc, Trụ căn danh sắc, gọi là sáu xứ: Căn, cảnh, thức, ba hòa hợp, có, xúc, nhân xúc làm thọ. Tham tức là ái các ràng buộc tương ưng với ái gọi là thủ. Khởi lên thân, ngữ hai nghiệp gọi là Hữu. Như vậy các pháp tập khởi gọi là sanh, khi thuần thục chín mùi biến đổi gọi là lão. Hoại diệt gọi là tử.
Nói theo ba đời: Vô minh với hành thuộc quá khứ, gọi là chi nhân. Năm chi: Thức v.v… thuộc hiện tại là chi quả. Ái, thủ, hữu ba chi thuộc hiện tại gọi là chi nhân vị lai, Sanh, lão tử hai chi thuộc vị lai gọi là chi quả. Như vậy quá khứ hai chi, hiện tại tám chi và vị lai hai chi thành mười hai chi.
Nói theo hai lớp nhân, quả có hai: Một là đời trước (Tiền tế). Hai là đời sau. (Hậu tế) đời trước tức vô minh là hoặc. Hành tức là nghiệp. Hai chi nhân này do chúng mà sanh năm chi: Thức v.v… tức chi quả? Đây là một lớp nhân quả. Hiện tại hai chi ái thủ là hoặc. Hữu tức là nghiệp Ba thứ này là nhân đương lai. Do chúng sanh ra. Sanh, lão tử đương lai tức là chi quả. Đây là một lớp nhân quả. Như vậy mười hai chi hữu có hai lớp nhân quả. Nói theo ba hoặc: Nghĩa là ba thứ vô minh, ái, thủ, tức là hoặc. Hành, và Hữu hai chí này tức là nghiệp. Gọi là tập đế. Bảy chi: Thức v.v… là khổ, gọi là khổ đế tức thuận duyên sanh. Là nghịch duyên sanh, là vô minh diệt tức là hành diệt, vô minh diệt thì hiểu rõ trí vô ngã, tức là đạo đế. Nếu như vô minh diệt sanh nhân thì hành diệt, dẫn nghiệp diệt cho nên năm chi Thức v.v… diệt. Do là diệt nên, khởi phát nghiệp ái thủ sau này diệt. Do là diệt nên sanh lão tử v.v… thảy đều diệt. Tức là diệt đế. Nói tứ đế đã xong.
Khí tình duyên sanh và Tứ đế v.v… đều thuộc về năm pháp.
1. Sắc pháp.
2. Tâm pháp.
3. Tâm sở pháp.
4. Bất tương ưng pháp.
5. Vô vi pháp.
- Sắc pháp, tức là sắc uẩn năm căn, năm cảnh, và vô biểu sắc v.v… tổng mười một pháp: Năm căn là nhãn căn cực vi tế như hoa Hương xoa. Trên nhãn tinh cầu, phân bố mà trụ. Nhĩ căn cũng cực vi tế, như lớp da cuộc lại nằm trong hang tai. Tỵ căn cực vi tế, như hai móng vuốt ở trong trán mũi. Thiệt căn cực vi tế, hình như bán nguyệt phân bố trên lưỡi. Thân căn cực vi tế cũng như thân lượng, từ tên đảnh đầu đến chân khắp đều ở trong thân căn. Căn là trần cho nên không thể duyên theo cảnh. Nói năm cảnh: Sắc là cảnh duyên của mắt. Có hai loại sắc: Hiển sắc, và hình sắc. Hiển sắc có bốn loại sắc. Xanh vàng, đỏ, trắng. Hình sắc có mười sáu loại: Dài, ngắn, vuông tròn, cao thấp, ngay, không ngay sáng, bóng, rõ, tối, mây, khói, bụi, sương v.v… hai mươi số. Thanh là cảnh duyên của tai. Có hai loại âm thanh. Một là chấp giữ lấy nhân như lời nói v.v… Hai là không chấp giữ, nhân như là tiếng trống. Hai thứ hữu ký và vô số ký, mỗi thứ có hai nhân là bốn. Còn có âm thanh vừa ý và không vừa ý sai biệt thành ra sáu. Hương là cảnh duyên của mũi. Có bốn loại: Thơm, thối, bình thường và không bình thường khác biệt nhau. Vị là cảnh duyên của lưỡi. Có sáu loại mùi vị: chua, ngọt, đắng, cay, mặn, lạt. Xúc là cảnh duyên của thân. Vì tiếp xúc với quả xúc của tứ đại như: Trơn, nhám, nặng nhẹ, lạnh, nóng, đói, khát v.v…Nói Vô biểu sắc là luật nghi, bất luật nghi đều có trái lại với sắc, đây là sắc uẩn.
- Tâm pháp có sáu: Là: Nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân ý, thức. Sáu thức này tức là thức uẩn.
- Tâm sở hữu pháp có bốn mươi sáu: Một là đại địa pháp đó là: Có mười loại:
1. Thọ gọi là lãnh nạp
2. Tưởng là làm cho khiến tâm chấp cảnh.
3. Tư là làm cho tâm vận động
4. Tác y là khiến tâm duyên cảnh
5. Thắng giải là làm cho tâm ấn khả (tin nhận) ở cảnh, tức là khiến tâm không khiếp nhược cảnh.
6. Dục là hy vọng mong cầu
7. Xúc là hòa hợp liễu cảnh
8. Tuệ là giản trạch lựa chọn
9. Niệm là làm cho tâm, rõ ràng nhớ không quên ở cảnh
10. Định là làm cho tâm chuyên chú một cảnh.
Như vậy mười loại biến khắp tất cả tâm, gọi là pháp đại địa. Hai là pháp đại Thiện địa có mười.
1. Tín là khiến tâm lắng sạch ở cảnh
2. Bất phóng dật là tánh thường tập quen pháp thiện, giữ gìn tâm
3. Khinh an là tánh tâm kham nhận
4. Xả là khiến cho tâm bình đẳng
5. Tàm gọi là đối với người có các công đức và có đức cung kính mà trụ
6. Quý là thấy sợ hãi tội lỗi
7. Vô tham là không đắm vào hữu lậu.
8. Vô sân là không thích làm tổn hại các hữu tình
9. Bất hại là thương xót hữu tình khiến cho không tổn hại não phiền
10. Cần là với việc thiện khiến cho tâm dõng mãnh. Như vậy mười loại biến khắp các tâm thiện, gọi là pháp đại thiện địa.
Ba là pháp đại phiền não địa: Có sáu:
1. Si là ngu si tức vô minh, không biết không hiểu.
2. Dật là buông lung không tu các pháp lành
3. Đãi gọi là biếng nhác, tâm không dõng mãnh
4. Bất tín là tâm không lắng sạch
5. Hôn trầm là tánh thân tâm tương tục, không kham nhận nổi việc gì, nghĩa là nhiều lớp tối tăm, mê muội
6. Trạo cử là tâm không tịch tĩnh. Như vậy sáu thứ biến khắp tâm phiền não, gọi là pháp đại phiền não địa.
Bốn là pháp đại bất thiện địa: Có hai loại
1. Vô tàm, là đối với người có các công đức và đức độ, khiến cho tâm không cung kính.
2. Vô quý, là trong các tội lỗi, không thấy sợ hãi. Như vậy hai thứ biến khắp tâm bất thiện, gọi là pháp đại bất thiện địa.
Năm là pháp tiểu phiền não địa: Có mười loại.
1. Phẫn là khiến tâm hờn giận phát ra,
2. Hận là kiếm tìm suy nghĩ kết oán không buông xả. Các việc mà phẫn đã duyên trước đây.
3. Siểm là tâm quanh co
4. Cuống là mê hoặc hóa.
5. Tật là không chịu cho người khác có đức (ganh).
6. Não là chấp các tội kiên cố, do đây không nhận lời răn khuyên hợp lý
7. Phú là che giấu tội lỗi của mình
8. Xan là khiến tâm keo bẩn, bủn xỉn tiếc rẻ tài pháp của mình.
9. Kiêu là nhiễm trước vào các thứ sắc lực chủng tộc v.v… mà tự thân có, làm cho tâm kiêu ngạo ngông nghênh.
10. Hại là thường làm bức bách người khác. Mười loại như vậy chỉ có Tu đạo mới đoạn hết, vì biến khắp ý thức địa, nên gọi là pháp tiểu phiền não địa.
Sáu là pháp bất định, có tám loại.
1. Tầm là làm cho tâm chuyển tướng ở cảnh
2. Từ là làm cho tâm chuyển tương vi tế ở cảnh
3. Ác tác là nghĩa hối hận lại nghiệp ác đã làm hối lỗi, ăn năng.
4. Thùy miên là không khả năng giữ thân tâm một cách liên tục theo mình, khiến cho tâm mê muội mờ tối 5. Sân là khiến cho tâm thích làm tổn hại
6. Tham là yêu đắm pháp hữu lậu.
7. Mạn là khiến tâm cậy chỗ dựa, đề cao mình.
8. Nghi là khiến cho tâm do dự. Tám loại này ở các địa trước không có định nên gọi là bất định.
Đối pháp Tập luận và ngũ uẩn luận nói mười một loại Thiện. Trong liễu tri tứ đế, gọi là vô si. Trong tùy phiền não chấp bất tịnh làm tịnh, nhiễm ô tác ý thắng giải, gọi là phi lý tác ý. Hiểu biết tà vạy. Trong phiền não căn bản, điên đảo suy đoán các đều lý nhiễm ô phần tuệ gọi là bất chánh tri. Không ghi nhận rõ ràng các sở duyên trong tùy phiền não, làm nhiễm ô phần niệm, gọi là thất niệm. Khiến tâm lênh láng mênh màng vào các cảnh sơ duyên, làm nhiễm ô phần định, gọi là tán loạn. Đối pháp tạng luận không nói như vậy.
Các tâm sở trên, trừ hai thứ thọ Tưởng còn đều là Hành uẩn thâu nhiếp. Nói tâm sở pháp xong về Bất tương ưng hành, có mười bốn loại Hữu tình tương tục, luật nghi tương ưng có vật khác gọi là đắc. Không tương ưng với luật nghi kia, có vật khác gọi là Bất đắc. Các loại hữu tình đồng làm sự nghiệp, gọi là Chúng đồng phần. Nếu sanh vào trời vô tưởng hữu tình có pháp hay khiến cho tâm sở diệt, là thật có vật gọi là Vô Tưởng quả. Lại có pháp khác hay khiến cho tâm, tâm sở diệt. Gọi là Vô Tưởng định. Vô Tưởng là tên Định, hoặc định Vô tưởng, cũng gọi Vô Tưởng định. Hoặc nói như sau: Bậc Thánh tương tục diệt tưởng, thọ v.v… Là thật có vật gọi là Diệt Tận định. Hữu tình trong khoảng từ sanh đến trụ chưa chết gọi là Mạng căn. Trước không nay có gọi là sanh, khiến nay tạm thời trụ gọi là trụ chuyển biến gọi là lão, biến hoại gọi là vô thường. Tức là, bốn tướng hữu vi Năng thuyên tự thể gọi là Danh thân. Thuyên nghĩa rốt ráo gọi là Cú thân. Hai sở y này gọi là mười bốn pháp: Văn Thân v.v…. Lại nghĩa thâu nhiếp bên trong phá hòa hợp chúng. gọi là không hòa hợp. Quả do tạo nghiệp tự ắt thành thục. Giống như mắc nợ quyết không luống bỏ, cũng ràng buộc các vật khác v.v… Theo Nhất thiết Hữu bộ, sắc, Tâm sở, Bất tương ưng hành; cả ba đều có vật riêng khác. Kinh Bộ sư nói: Ba pháp ấy là giả thuyết phần vị. Trong bốn mươi sáu tâm sở pháp trừ thọ, tưởng còn lại và bất tương ưng hành đều gọi Hành uẩn.
Nói về pháp vô vi đến phần sau sẽ biết. Như vậy, Sắc pháp tức là mười giới trừ vô biểu sắc đó tức là mười giới: Nhãn v.v… Tâm pháp bảy giới là sáu thức và ý căn giới. Như khi nói xứ tức là bảy pháp kia. Một Ý xứ thâu nhiếp Tâm sở hữu pháp bất tương ưng pháp, vô vi pháp, vô biểu sắc v.v... Tổng gọi là Pháp giới, cũng gọi là Pháp xứ. Như vậy đã nói đã biết năm pháp, năm uẩn, mười hai xứ và mười tám giới.
Lại nữa đạo là đạo thiểu dục tri túc, chủng tánh đầy đủ là thân tâm xa lìa các thứ tạp nhạp. Trụ cận sự giới v.v… nên phải riêng nghe. Như rộng nghe rồi suy nghĩ nghĩa đã nghe. Suy nghĩ rồi nên tu tập. Nghĩa là phải tu chỉ quán. Nhiều Tham tu bất tịnh quán, nhiều sân tu từ bi quán, nhiều si tu phân biệt duyên sanh quán, nhiều ngã tu phân biệt giới quán, nhiều Tán loạn tu sổ tức quán. Chỉ quán thành rồi, tu Thắng giải. Hiểu rõ như pháp với trong và ngoài thân, gọi là thân niệm trụ; hiểu rõ khổ vui xả bỏ v.v… như pháp gọi là Thọ niệm trụ. Như hiểu rõ sáu thức tâm pháp. Như pháp gọi là Tâm niệm trụ; hiểu rõ tưởng, hành, vô vi gọi là Pháp niệm trụ. Tu bốn pháp này là tích lũy (tư lương) cho trí tuệ, là tương lương của Đạo, tập rồi.
Tu đạo Gia hạnh: Trong Noãn vị đối với ác đã sanh khiến đoạn lìa, ác chưa sanh thì khiến cho không sanh; thiện đã sanh thì khiến cho tăng trưởng; thiện chưa sanh khiến cho sanh. Bốn pháp như vậy gọi là Tứ chánh cần (văn gọi là chánh đoạn). Trong Đảnh vị. Muốn định pháp thiện, nỗ lực vui định thiện. Tác ý định tâm thiện. lựa chọn định thiện. Như vậy gọi là Tứ thần túc. Trong Nhẫn vị, hành chánh kiến thế gian lắng sạch gọi là Tín. Ưa tu thiện pháp gọi là Tấn, Ghi nhận rõ ràng không quên, gọi là Niệm Chuyên chú một cảnh, gọi là Định; Biết thủ xả pháp gọi Tuệ. Tu năm pháp này hay sanh ra thiện pháp, cho nên gọi là năm căn. Trong Thế Đệ nhứt vị tu năm căn Tín, Tấn, Niệm, Định, tuệ có thể phá mọi sự trái nghịch gọi là Năm lực là đạo gia hạnh. Trong vị Kiến đạo liễu tri Tứ đế gọi là chánh Kiến. Chánh Ngữ phát khởi, gọi là Chánh Tư duy. Như pháp nói đúng, gọi là Chánh Ngữ, Xả bỏ bất thiện nghiệp gọi là Chánh Nghiệp. Xả bỏ tà mạng, gọi là Chánh Mạng. Mong cầu Thiện pháp, gọi là Chánh Tinh tấn. Ghi nhận rõ ràng không quên gọi là Chánh Niệm. Chuyên chú một cảnh gọi là Chánh Định.
Tám pháp như vậy gọi là Bát Thánh đạo chi.
Đây là Kiến đạo. Phân biệt phiền não, của kiến đạo đoạn và tương đắc v.v… Nghĩa là dục giới Khổ đế: Tham, sân, mạn, vô minh, nghi, thân kiến hữu và biên chấp kiến, giới cấm thủ kiến, kiến thủ, tà kiến, Tập, Diệt hai đế, mỗi đế trừ ra ba kiến; bảy với bảy thành mười bốn. Thứ do Đạo đế, đoạn là trừ hai kiến trên. Tổng cộng Tứ đế của Dục giới gồm ba mươi hai thứ phải đoạn. Tứ đế sắc giới mỗi đế mỗi trừ ra sân cộng thành hai mươi tám. Vô sắc giới cũng vậy. Như thế ba giới, kiến đạo phải đoạn là tám mươi tám thứ phiền não.
Trong vị tu đạo: Ghi nhập rõ ràng thiện pháp gọi là Niệm giác chi. Lựa chọn thủ xả gọi là Tuệ giác chi. Mong cầu tinh tấn là Cần giác chi. Chứng vô lậu Hỷ gọi là hỷ giác chi. Thân tâm tánh tự tại gọi là Khinh an giác chi. Không bị pháp thế gian lôi kéo, không vướng mắc, không ngăn ngại gọi là Xả giác chi. Khiến cho tâm trụ cảnh gọi là Định giác chi. Tu bảy chi đây gọi vị là Tu đạo. Câu sanh phiền não của Tu đạo đoạn và tướng đắc vô ký hữu lậu thiện v.v…Trong Dục giới Tham, Sân, Si, Vô minh, bốn thứ, mỗi thứ đủ chín phẩm cộng thành ba mươi sáu.
Trong Sắc giới, Tĩnh lự thứ nhất trừ ra sân, còn lại ba, mỗi mỗi chín phẩm thành hai mươi bảy. Như vậy Tĩnh lự hai, ba, bốn cũng vậy. Sắc giới nói chung có một trăm lẻ tám số. Vô sắc giới như sắc giới. Mười pháp vô học. Như thế, phiền não do Tu đạo đoạn tổng tam giới, tổng thành một trăm năm mươi hai. Tiếp nói chứng đó. Gọi là Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định, Chánh Giải thoát, Chánh Giải thoát tri kiến là đạo Vô học.
Lại nữa quả như là chỗ trên đã nói ba mươi bảy phẩm
Bồ đề pháp phần, là tự giải thoát luân hồi phát tâm lợi căn rất mau. Ba đời chứng quả A-la-hán.
Một đời tu thuận giải thoát phần thiện. Gọi là đạo tư lương. Hai đời tu thuận quyết trạch phần thiện, gọi là đạo gia hạnh.
Ba đời cũng như Sa môn chứng quả thứ tư. Độn căn lười biếng, tức không nhất định vậy. Như Sa môn, Hướng Dự lưu v.v… Bốn là qua. Hướng Dự lựu là những thứ thuộc tình khí thế giới hiện tiền trước đạo Gia hạnh đều là khổ, tự tánh khổ tức là Khổ đế. Lại nữa kia nhân nghiệp và phiền não gọi là Tập đế, khiến cho kia giải thoát tức là Diệt đế. Lại nữa kia là nhân tức là đạo đế. Tu tập thuần thục do kia thứ tự chứng
Kiến đạo. Đầu tiên quán Khổ đế; Bốn pháp tánh là; chuyển biến gọi là Vô thường. Ba khổ gọi là Khổ. Thật có cùng với ta chẳng phải một uẩn, cho nên gọi là Không, Thật có cùng với ta khác biệt cho nên gọi là Vô ngã. Hiện chứng tứ trí. Tiếp quán Tập đế: Bốn pháp tánh là: Vì lý lẽ gieo trồng khổ nên là nhân, vì lý lẽ cùng hiện khổ nên là tập. Vì lý lẽ tương tục khổ, nên là sanh, vì lý lẽ tùy thuận khổ nên là duyên. Hiện chứng tứ trí.
Tiếp quán Diệt đế. Bốn pháp tánh, nhân khổ diệt cho nên diệt; quả khổ nghĩ dứt cho nên tĩnh, vượt qua hữu lậu cho nên diệu thoát luân hồi nên lìa. Hiện chứng tứ trí. Tiếp quán Đạo đế. Bốn pháp tánh. Nghĩa thông hành cho nên là đạo. Hợp với chánh lý cho nên là như. Tu vô niệm trí cho nên là hành. Hiện chứng tam trí.
Mười lăm thứ này gọi là hướng Sơ quả. Thứ mười sáu đó là dùng đạo đế kia siêu xuất hẳn các hữu cho nên là xuất. Hiện chứng nhứt trí. Mười sáu thứ này là trụ Sơ quả.
Chứng tứ đế rồi, mười sáu hành tướng tu tập thuần thục, đoạn năm phẩm trước trong chín phẩm phiền não của tu đạo đoạn ở Dục giới gọi là Hương Nhất lai. Đoạn phẩm thứ sáu tức là quả Nhứt lai. Nhất lai đó, còn đến Dục giới thọ một lần sanh, cho nên ba phẩm sau tức là: Trong Dục giới một đời đoạn. Hiện chứng hành tướng tu tập thuần thục, đoạn phẩm bảy và tám gọi là Hướng bất hoàn, là không trở lại nữa. Đoạn phẩm thứ chín gọi là quả Bất hoàn kia không trở lại, đó là đoạn hết tất cả phiền não trong Dục giới, tất nhiên không trở lại phàm phu trong Dục giới. Hiện chứng các địa hành tướng giới trên, tu tập thuần thục, bốn tĩnh lự, bốn vô sắc, mỗi chín phiền não đoạn: Sơ tĩnh lự đoạn một phẩm là bắt đầu, đến đoạn tám phẩm Hữu đảnh là cuối. Gọi là Hướng A-la-hán. Đoạn hết phẩm thứ chín gọi là quả A-la-hán. Quả A-la-hán đoạn hết phiền não trong tam giới không còn sót lại, nên gọi là A-la-hán. Kinh nói: Càn Tuệ địa v.v… có tám đó là: Thanh văn Tư lương đạo, tức Càn Tuệ địa. Ái dục khô cạn căn cảnh không gặp lại nữa là sở tu thiện gọi là Càn Tuệ địa.
Chủng tánh địa, tức là đạo Gia hạnh chắc chắn không thành Phật, vì quyết định chủng tánh thành Thanh văn, Độc giác nên gọi là Chủng tánh địa. Bát nhơn địa đó là Hướng Sơ quả, đến A-la-hán quả gọi là Bát nhơn địa. Cụ kiến địa là trụ Sơ quả vì thấy tứ đế, hành tướng hiện chứng thấy, cho nên gọi là Cụ Kiến địa. Bạc địa đó là quả Nhứt lai, đoạn hầu hết phiền não Dục giới rồi nên gọi Bạc địa. Ly dục địa đó là quả Bất hoàn đã lìa tham dục v.v… trong Dục giới gọi là Ly dục địa. Dĩ biện địa tức là A-la-hán. Khổ đã biết rồi, tập đã đoạn rồi, diệt đã chứng rồi, đạo đã tu rồi, nên gọi là Dĩ biện địa. Thanh văn địa tức là Bất lai, bất hoàn, A-la-hán, cả ba đều gọi là Thanh văn địa. Bích chi Phật địa là, như trên đã nói ba mươi bảy phẩm bồ đề pháp phần, chỉ có tự một người muốn chứng Bồ đề. Như vậy phát tâm tu trăm đại kiếp, dùng thân sau cùng sanh vào đời không Phật, cũng không có Thầy dạy tự tu thành chứng Độc giác. Đây có hai loại:
Một là Lân giác, tức một mình ở riêng lẽ đủ Thánh đức hạnh. Hai là Bộ hành đó là cùng với quần chúng ở.
Cứu cánh chánh giác là như trên nói ba mươi bảy phẩm Bồ đề pháp phần vì các chúng hữu tình mà thành Phật, cho nên phát khởi đại bi tâm Bồ đề thù thắng phụng sự chư Phật thảy đều khiến hoan hỷ. Vì lợi ích người khác cho nên hành lục độ hạnh.
Ba vô số kiếp rốt ráo thành Phật đó là thuở xưa Đức Thích Ca Như Lai là người làm thợ gốm, tên gọi là Đại Quang Minh, nơi chỗ của Đại Thích Ca Như Lai, ban đầu sơ phát tâm đến vô số kiếp thứ nhất phụng sự bảy vạn năm ngàn Đức Phật, đến Đức Phật sau cùng tên gọi Bảo Kế. Vô số kiếp thứ hai phụng bảy vạn sáu ngàn Đức Phật, đến Đức Phật sau cùng tên gọi là Nhiên Đăng. Vô số kiếp thứ ba phụng sự bảy vạn bảy ngàn Đức Phật, đến Đức Phật sau cùng tên gọi là Thắng Quan. Hành sáu độ là dùng tâm đại bi đối với các hữu tình chỗ có của cải vật dụng thảy đều thi ân bố thí vì độ khắp. Khi làm Thái tử Phổ Độ là: Thí Ba-la mật rốt ráo viên mãn. Chưa lìa tham dục, bị chặt chân tay chi thể mà tâm không chút giận hờn là khi làm vị tiên Nhẫn Nhục. Hai hạnh Nhẫn, Giới rốt ráo viên mãn là khi làm con của một người Bà la môn. Nhìn Phật Để Sa trụ Hỏa Giới định, rồi đứng một chân trải qua bảy ngày đêm, đi vòng tròn tán thán ca ngợi rằng:
Thiên địa thử giới đa văn thất
Thệ cung, Thiên xứ thập phương vô Trượng phu ngưu vương đại Sa môn Tầm địa sơn lâm biến vô đẳng.
Tạm dịch:
Trời đất giới này nghe nhiều nhà
Cung trời thệ xứ mười phương không
Bậc trượng phu Ngưu vương Đại Sa môn
Tìm khắp rừng núi chẳng ai bằng.
Như thế tán thán ca ngợi rồi bèn siêu chín kiếp, đạt Tinh tấn Ba-la-mật rốt ráo viên mãn. Ở nơi viên mãn, tòa ngồi Kim cang. Đầu đêm hàng các lũ ma, cuối đêm đắc Kim cang, dụ định, tức hai hạnh Định, Tuệ rốt ráo viên mãn. Như thế, trước khi ngồi tòa Kim cang hàng ma, đã trải qua ba vô số kiếp tu phúc trí đầy đủ, phụng sự chư Phật. Lúc độ tuy viên mãn mà ngay thân chúng sanh ngồi tòa Kim cang, chứng Kiến, tu đạo, thành Đẳng chánh giác. Trong Thanh văn Thừa, khi tu nhân không nói liễu tri, các pháp vô ngã, không, bi thí hạnh, tam luân thể không, hành tướng mười địa; khi tứ quả không nói báo thân và tứ trí v.v…
Pháp chánh giác thuộc về sáu loại. Gọi là Thân trí đoạn. Lợi tha đại bi đức đầy đủ v.v… Thân có hai: Một đó là Sắc thân. Và pháp thân. Sắc thân là thân, đủ ba mươi hai tướng tám mươi vẻ đẹp, tự tánh thân. Độ Cànthác-bà và Bí-lăng-già. Thị hiện Càn-thác-bà vương và Chuyển luân Thánh vương, tức là hóa thân. Bởi chư Phật với chủng tánh thân lượng, thọ mạng, quốc độ và các căn cơ, cũng có các loại khác nhau.
Hai pháp thân đó: Có mười vô học pháp, chư Phật đều đồng nhau.
Trí có hai: Là Biến trí và Chánh trí. Biến trí là hiểu rõ thể tánh, uẩn, giới xứ, nhân, quả nên gọi là Biến trí. Chánh trí là biết trong tứ đế các pháp đều vô thường, nên gọi là Chánh trí.
Đoạn có hai: Đoạn phiền não chướng và đoạn sở tri chướng. Đoạn phiền não chướng là đối trị các căn bản phiền não như tham v.v… và tùy phiền não khiến cho đoạn diệt. Đoạn sở tri chướng, là khi đối trị cảnh năng chướng, tự tánh pháp vô tri, khiến cho đoạn diệt.
Lợi tha đó có hai: Một là an trí sự giải thoát xả bỏ những mâu thuẫn cho các hữu tình trụ vào đạo. Hai là an trí các điều thiện, xả bỏ ác cho các hữu tình trụ vào thiện. Đại bi và đức, sẽ nói ở sau: Chư Thánh bình đẳng mà nói các công đức, có mười một. Gọi là Vô tránh nguyện trí, Tứ Vô ngại giải, Lục Thông. Tứ tĩnh lự. Tứ vô sắc, Tứ vô lượng, Bát giải thoát, Thập biến xứ, Bát Thắng xứ Tam Đẳng trì v.v...
Vô tránh là dựa vào tâm tĩnh lự thứ tư. Nguyện các hữu tình chớ có duyên tự thân, sanh các phiền não, tư duy đẳng tri (định) nên gọi là Vô tránh.
Nguyện trí là dựa vào tâm tĩnh lự thứ tư, lấy nguyện làm trước, dẫn như trí khởi như nguyện liễu tri, nên gọi là Nguyện trí.
Tứ vô ngại giải đó là:
1. Pháp giải vô ngại, biết tên của các pháp.
2. Nghĩa vô ngại giải, là chánh tri nghĩa.
3. Từ giải vô ngại, là chánh tri ngôn từ.
4. Biện tài vô ngại giải. Là Chánh tri chánh lý đúng, gọi là tứ vô ngại giải.
Lục thông là:
Thần cảnh thông là dạo đi xuyên qua vách đá v.v… không bị ngăn ngại.
1. Thiên nhĩ thông: Như các âm thanh gần xa khác nhau đều nghe rõ.
2. Thiên nhãn thông; Thấy tất cả các sắc Phương, cực vi, bị ngăn cách, tùy ý mà thấy được.
3. Tha tâm thông, có thể biết được tâm người khác, là có hay Kinh có ham muốn.
4. Túc trụ thông, biết việc đời trước của mình và người.
5. Lậu tận thông, biết rõ tất cả đạo thế, xuất thế. Năm thần thông trước là hữu lậu dựa vào tĩnh lự thứ tư. Thứ sáu là vô lậu, dựa vào định thứ chín (cửa thứ đệ định)
Bốn Tĩnh lự: Sơ Tĩnh lự vốn có năm chi: Tầm, Từ, Hỷ, Lạc, Đẳng trì.
Tĩnh lự thứ hai vốn có bốn chi: Nội đẳng tịnh, Hỷ, Lạc, và Đẳng trì. Tĩnh lự thứ ba vốn có năm chi: Hành xả, Chánh niệm, Chánh Tuệ, Thọ lạc, và Đẳng trì.
Tĩnh lự thứ tư vốn có bốn chi: Hành xả thanh tịnh, Niệm thanh tịnh, Không khổ, Không lạc thọ và Đẳng trì. Bốn vô sắc: Khi tu gia hạnh, tư vô biên không và vô biên thức, vô sở hữu, dùng chánh định khi ấy trừ bỏ sắc dựa vào bốn uẩn còn lại.
Thứ tư gọi là do mờ tối, yếu kém tức vô minh mạnh được gọi là Phi tưởng, có tưởng mờ tối thấp kém, nên gọi là Phi phi tưởng. Như vậy thứ tự Không vô biên. Thứ vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng, phi phi tưởng xứ, gọi là bốn vô sắc. Nếu thêm Diệt tận định cũng gọi là cửa thứ đệ định.
Tứ vô lượng là Từ Bi, Hỷ và Xả. Hai loại đầu lấy, vô sân làm thể. Hỷ tức là Hỷ thọ. Xả tức là không tham. Cảnh sở duyên là sự sân hại và dục tham vui mừng an ủy của hữu tình Dục giới. Như thứ tự đó mà đối trị. Bát giải thoát là, dựa vào Sơ nhị tĩnh lự.
1. Bên trong tưởng có sắc, quán các sắc ngoài, mà được giải thoát dùng tưởng bất tịnh chuyển làm tưởng tướng trạng ứ đọng máu mũ bầm xanh. Tức dùng sắc quán sắc.
2. Bên trong tưởng không sắc, quán các sắc ngoài mà giải thoát tức quán bên trong không có sắc.
3. Dựa vào các tĩnh lự sau mà giải thoát. Thân sở chứng đầy đủ mà trụ, quán tất cả sắc là trong sạch tươi sáng. Ba giải thoát này rồi tứ vô sắc định là bốn giải thoát tiếp theo. Diệt thọ tưởng định là giải thoát thứ tám. Dựa vào tâm Hữu đảnh, các Thánh nhàm chán các thọ tưởng thô phù dùng định tịch tĩnh diệt tâm và tâm sở gọi là Diệt tận định.
Thập Biến xứ. Là quán sát cùng khắp Địa, Thủy, Hỏa, Phong, xanh, vàng đỏ, trắng, cho đến Không và Thức hai vô biên xứ.
Dựa vào tĩnh lự thứ tư duyên nơi dục có thể thấy sắc, như thế quán sát khắp ở địa v.v… không chỗ nào sót. Tám xứ trước lấy vô tham làm thể. Hai xứ sau Không Thức lấy vô sắc làm thể vì là tự tánh của nó. Tám Thắng xứ:
Bên trong tưởng có sắc, quán sắc bên ngoài ít.
Bên trong tưởng có sắc, quán sắc bên ngoài nhiều.
Bên trong tưởng không sắc, quán sắc bên ngoài ít.
Bên trong tưởng không sắc, quán sắc bên ngoài nhiều. Bên trong tưởng không sắc, quán sắc ngoài: Xanh, vàng, đỏ, trắng là bốn đầy đủ như trước thành tám. Hai Thắng xứ đầu như giải thoát thứ nhất (trong Bát giải thoát). Hai Thắng xứ kế, tức giải thoát thứ hai. Bốn Thắng xứ sau tức giải thoát thứ ba. Như vậy tám thắng xứ cùng với ba giải thoát. Như trước tu giải thoát chỉ có thể xả bỏ không trái. Đây tu Thắng xứ có thể ngăn chặn sở duyên. Tùy theo ý muốn mà quyết không khởi. Lại tu giải thoát v.v… Một là vì các hoặc, đã đoạn lại xa lìa. Hai là nơi định, được thắng tự tại hay dẫn khởi các đức vô tranh, v.v… và thần thông, thù thắng. Do đây bèn có thể chuyển biến các việc, khởi lên lưu giữ hay xả bỏ các loại làm nhân.
Tam Tam-ma-địa đó là: Không, Vô tướng, Vô nguyện. Không Tam-ma-địa đó, là hai loại hành tướng không phi ngã, tương ưng với đẳng trì.
Vô tướng Tam-ma-địa duyên bốn loại hành tướng, của Diệt đế tương ưng với đẳng trì. Niết-bàn vô tướng, lìa mười tướng, nên gọi là vô tướng. Năng duyên định kia, được tên Vô tướng. Vô nguyện Tam-ma-địa đó là duyên mười hai hành tướng của các đế, tương ưng đẳng trì. Nhân khổ vô tướng đáng nhàm chán, đạo như thuyền bè, ắt phải nên bỏ. Năng duyên định kia được tên Vô nguyện, đều vì vượt qua, những đối đãi hiện hữu. Các công đức này đều gọi là câu giải thoát. A la hán, Bích chi Phật, Như Lai cùng có công đức này. Còn Tuệ giải thoát thì không có ba Đẳng trì và bốn tâm vô lượng. Công đức bất cộng của Như lai có mười tám loại: Mười lực, Bốn vô sở úy, ba niệm trụ và một đại bi. Mười lực:
1. Xứ phi xứ trí lực
2. Các nghiệp dị thục trí lực
3. Tĩnh lự giải thoát đẳng trì đẳng chí trí lực
4. Căn thượng hạ trí lực
5. Chủng chủng thắng giải trí lực.
6. Chủng chủng giới trí lực
7. Biến thú hành trí lực
8. Túc trụ tùy niệm trí lực
9. Sanh tử trí lực
10. Lậu tận trí lực. Bốn Vô sở úy là:
1. Chánh đẳng giác vô úy.
2. Lậu tận vô úy, 3. Thuyết chướng vô úy,
4. Thuyết đạo vô uý.
Do có trí lực nên không hề sợ hãi người khác gọi là vô úy.
Nói đến Ba niệm trụ đó là: Như Lai thuyết pháp, các đệ tử v.v… một lòng cung kính, vâng theo chánh nhận phụng hành,
Như Lai duyên đó không sanh hoan hỷ mà xả bỏ trụ vào chánh niệm chánh tri. Như vậy gọi là Niệm trụ thứ nhứt của Như lai Các chúng đệ tử không cung kính, không chánh thọ hành. Như Lai duyên không sanh buồn cảm, âu sầu xả bỏ mà chánh niệm chánh tri. Như vậy gọi là của niệm trụ thứ hai Như Lai. Các chúng đệ tử, một loại cung kính năng chánh thọ hành, một loại không cung kính, không chánh thọ hành, Như Lai cũng không sanh vui mừng hay buồn cảm mà xả bỏ an trụ trong chánh niệm, chánh tri. Như vậy gọi là niệm trụ, thứ ba của Như Lai. Ba niệm trụ đây đều dùng niệm Tuệ làm thể. Cho nên gọi là Niệm trụ.
Đại bi là nơi các thế gian, ngày đêm sáu thời, quán sát thế gian, ai khổ, ai vui, ai nên điều phục, tùy theo nên có lợi lạc, cho nên gọi là đại bi. Kinh Đại thừa chỗ nói: Đức Như Lai có mười tám pháp bất cộng; ba pháp bất hộ v.v…, Thanh văn thừa kia chưa từng nghe vậy.
Vô Vi Pháp phẩm thứ năm. Lại nữa pháp vô vi cò ba loại.
1. Hư không.
2. Trạch diệt 3. Phi trạch diệt.
- Hư không vô vi. Hư không nhưng lại ấy, không có làm tánh. Do không chướng ngại khắp tất cả chỗ gọi là hư không vô vi sắc hành bên trong. Ngoài ra, hư không của những chỗ như cửa sổ, nơi khe hở sáng tối v.v… và A Già sắc v.v… đều chẳng phải là Hư không vô vi.
- Trạch diệt vô vi: Nghĩa là trí vô lậu đã đoạn lìa các chướng ngại, nhiễm trước. Tu Kiến, Tu đạo đã hiển hiện chơn lý nên gọi trạch diệt vô vi.
- Phi Trạch diệt vô vi: Nghĩa là vĩnh viễn làm chướng ngại pháp vị lai sanh ra, đắc diệt, diệt được pháp khác trước nên gọi phi trạch diệt, không nhân lựa chọn do thiếu duyên. Gọi là phi trạch diệt. Đây là ba loại vô vi. Nhất thiết Hữu bộ cũng cho phép có vật thật.
Kinh bộ sư nói: Không có tạo tác Hỏi. Chân như cớ sao không phải vô vi? Đáp: Bởi vì kia là vô ngã, vì Thanh văn thừa không nói pháp vô ngã. Người vô ngã, tức là vô thường v.v… mười sáu hành tướng. Hành tướng, của ba đế tức là hữu vi. Hành tướng Diệt đế chỉ có pháp trạch diệt chẳng phải pháp nào khác. Như vậy khí tình, đạo quả vô vi, sở tri năm thứ tổng nhiếp tất cả sở tri pháp. Pháp tình khí tức là khổ đế. Thành nhân kia, tức là Tập đế. Hai pháp Đạo quả, tức là Đạo đế; Trạch diệt vô vi tức là Diệt đế Hai thứ. Hư không, phi trạch vô vi. Ba loại chẳng phải tứ đế nhiếp, khổ tập hai đế là pháp hữu lậu. Đạo, diệt hai đế là pháp vô lậu. Như vậy đã nói thế xuất thế gian, hữu vi, vô vi, các pháp vốn biết đã xong.
Chủng tướng phú cụ túc
Duệ trí hoàng thái tử
Số số cầu thỉnh cố
Tuệ tràng cát tường hiên
Niệm trụ nhật tàng luận
Khởi thế đối pháp đẳng
Y bỉ tạo thử luận
Hữu tình sở tri luận
Hữu tình sở tri luận
Cơ nghi hữu vô biên
Toán lược liệt vi ngũ
Vị khí, tình, đạo quả
Tinh vô vi pháp đẳng
Cố kim minh khai thị
Duệ duệ hiểu giải giả
Duy tư chương sở tri
Giải dĩ phục thị tha
Thử luận văn cú đẳng
Nghĩa là:
Quai nghĩa giải đãi quá
Trí giả tinh khải thỉnh
Duy nguyện thùy nhẫn nạp
Sở sanh chư thiện căn
Chu biến hư không giới
Ngã cộng chư chúng sanh
Nguyện chứng vô thượng quả.
Hoàng thái tử trí sáng
Chủng tướng giàu đầy đủ
Thường luân cầu thỉnh học
Thần (bề tôi) Tuệ Tràng cát tường
Ngày đêm nghĩ suy luận
Khởi đối pháp ở đời v.v…
Theo đây mà tạo luận.
Hữu tình sở tri luận
Cơ, nghi cũng vô biên
Tóm lược nêu làm năm
Là khí, Tình, đạo, Quả
Với một pháp Vô vi
Nên nay nói rõ ra
Người hiểu biết sáng suốt
Chỉ chương sở tri này.
Hiểu rồi chỉ người khác.
Văn cú v.v… của Luận đây
Nếu nghĩa chểnh mảng, sai
Xin các bậc Trí giả
Thùy từ nhận sửa cho.
Chỉ nguyện sanh thiện căn
Khắp cõi hư không này
Con và các chúng sanh
Nguyện chứng quả vô thượng.
Chương sở tri luận vì Hoàng Thái tử chân kim. Bồ Tát cầu thỉnh nên Pháp vương Thượng sư Tát-tư-ca. Đại Ban-di-đạt Túc Trần Đảnh trao cho. Tỳ-khưu Phát-tưba, các Tuệ Tràng, cát Tường Hiền. Khi ấy, là năm Nhâm dần trọng thu hạ tuần có ban ngày trực Quỷ Túc.
Nơi Đại Kiết Tường. Tát tư ca pháp tịch tập hợp lại xong. Trì kinh, luật, luận Diệu Âm Tinh trí, Sư tử bút thọ
Trong Đại kinh nói rằng: Sum la và vạn tượng, sở ấn là một pháp, trùng trùng giao quang với nhau, lớp lớp đều hiện, há chẳng phải hiện lượng pháp giới ư! Chương Sở tri luận đây, do Tiên Hoàng Dụ Tông Hoàng đế, bậc Thánh minh quán chiếu, thần trí sáng soi, khởi lòng xót cho bọn, huyễn hoặc tà kiến, thương cho con đường chánh bị bớt lối đi mới ân cần mời thỉnh Pháp vương Đế sư (Thầy của vua) vì lợi lạc cho loài hữu tình, mà xiển dương chân lý tối giác. Có nguyên thủy phải có cuối cùng, đại ý tu tập thứ tự là vậy. Rộng mà kín; sâu mà hợp điển chương. Nhưng vàng để lâu hoen ố, gấp vóc cũ kỹ, tùy thuộc đồ dụng, nên nghĩa tóm lại làm năm, cho đến phải quy về một.
Ấy là nói khí, tình thế giới, chẳng phải như phàm phu, bọn đui mù sờ mó voi mà chấp khác nhau, hoặc nói một khí, hoặc gọi là tự nhiên, mà chỉ thẳng do tâm tạo ra. Thuyết minh tường tận kiếp ban đầu vượt ngoài lưới chụp bát cực; mổ xẻ đến tận bên trong Lân hư trần, giống như đến xem gương, như chỉ bàn tay là thấy được ngay. Nói đạo pháp thì dùng đạo ít muốn biết đủ, văn, tư, tu, tuệ, ba mươi bảy Bồ đề phần pháp phần làm nhân để tu hành. Nói pháp quả thì lấy tư lương gia hạnh, kiến đạo, Tu đạo, pháp vô học tu tập vô vi. Đó là quả. Nói vô vi đó là. Lý Diệt đế trong tứ Thánh đế.
Do năm pháp đó tổng nhiếp, tất cả pháp vốn biết, cho nên gọi là Chương Sở tri luận. Cái chân trí linh tri, há cho là thấy, nghe, giác, biết mà được!
Phải thâm nhập vào duyên khởi, đến tận cùng pháp thật tướng mới được. Bởi vì dựa vào Niệm xứ, nhưng mà ngày tích lũy khởi lên cái nghĩa đối pháp tương ưng ở đời mà hoằng dương kỷ cương lẫn lộn. Vậy thì, cõi trời Tha hóa vua có thần thông đạo lực, quán sát thế giới vi trần đếm từng giọt mưa, như mắt nhìn vật thọ dụng, Thanh văn khởi dụng thần quán sát tam thiên đại thiên thế giới, xem như quả Am-ma-la. Trong bàn tay huống chi diệu dụng của chánh biến tri! Ngoài đó ra ai có thể nói đây, cái thịnh của hoa Ưu đàm ở đời, cái thời kỳ trời khai mở lịch ngọc, sự hưng vượng của thời Tượng giáo, lẽ tự vì của thời Kim Luận! Kính nghe. Thánh chế rằng: Dưới trời, trên mọi người, đại Nguyện Đế sư là một đệ tử Phật ở Tây trúc, được Sư ban tặng ngọc tỷ ấn vua. Lẽ tôn sư trong đạo càng nồng đượm. Vì để làm điển chương phép tắc cho muôn đời Đế vương vậy.
Hành Tuyên Chính Viện Đồng Tri Liêm Công, Chánh Phụng sớm đã được thọ ký, ưa sâu Phật thừa. Một ngày đến Chiết Giang thâu nhận được bản "Chương sở tri Luận của Đại sư Sa-la-ba đã dịch, bèn truyền bá trước tiên cho tám đại sư chư Tăng lục ở phủ Tùng Giang. Các sư tiếp tục chạm Khắc vào Đại Tạng Thánh giáo, lúc ấy mừng như được của báu, khắc bản gỗ theo Hàm (trong chánh tạng) Lời tựa của tôi sau đây lời lẽ không tránh khỏi vụng về, nhưng để thuật lại nguyên do khởi giáo, cũng là góp chút ít làm cho hoàn mỹ Thánh giáo đã phát huy. Tức cũng để hoàn bị lời tựa xưa của vu công đã nói.
Lúc ấy năm Bính Ngọ tháng mười ngày rằm. Giang Tây-Tiền Cát Châu Lộ quan, giảng ở chùa Báo Ân.
Giảng Kinh-Đại Đức Thích Khắc Dĩ đề tựa.