TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬN SỚ

SỐ 1647 - LUẬN TỨ ĐẾ

Nguyên tác: Bà-tẩu-bạt-ma. Hán dịch: Đời Trần, Tam tạng Chơn Đế, người nước Thiên Trúc.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm Thứ Nhất: TƯ TRẠCH

Phẩm Thứ Hai: LƯỢC THUYẾT

Phẩm Thứ Ba: PHẦN 1: PHÂN BIỆT KHỔ ĐẾ

QUYỂN 2

Phẩm Thứ Ba: PHẦN 2: PHÂN BIỆT KHỔ ĐẾ

Phẩm Thứ Tư: SUY XÉT VỀ TẬP ĐẾ

QUYỂN 3

Phẩm Thứ Năm: PHÂN BIỆT VỀ DIỆT ĐẾ

QUYỂN 4

Phẩm Thứ Sáu: PHÂN BIỆT ĐẠO ĐẾ

 


QUYỂN 1

Phẩm Thứ Nhất: TƯ TRẠCH

Bát nhã hiện khắp ở các pháp
Đại bi thâu nhiếp lấy chúng sanh
Vô tướng giảng nói về chánh đạo
Đảnh lễ bậc Trời, người tôn kính
Đại Thánh Ca Chiên diên tạo luận
Ngôn từ giản lược nghĩa rộng sâu
Đại đức Phật đà Mật lại soạn
Ngôn từ và nghĩa nói diễn rộng
Lại có thứ tự lời trang nghiêm
Với nghĩa rộng và lược tương xứng
Tên gọi, lý lẽ thuận thuộc nhau
Tôi đã xem qua hai luận này.
Nay thì tìm trong nghĩa rộng, lược
Mà tạo luận đây lượng vừa phải.
Vì lợi ích người nhận nên nói,
Để chánh pháp được trụ lâu dài.
Nếu người thấu đạt nghĩa bốn Đế,
Bốn thứ tin rồi khó lay động,
Thì không còn xem nơi pháp khác
Vĩnh viễn xa lìa bốn đường ác.
Trời người… bát bộ thảy được biết
Về sau ắt vượt qua bờ khổ
Cho nên, tôi tạo luận bốn đế
Không vì mong cầu tâm ngã mạn…
Với nhiều loại nghĩa duyên khởi ấy,
Cú, vị trước sau thuận nói ra
Người khác vấn nạn và giải nghĩa
Các tướng tổng biệt lý tương ưng
Chứng minh nghĩa ấy cùng thí dụ
Dựa đây mà nói về bốn đế
Nguyện cho chúng sinh biết rõ đây
Được quả báo Trời, được Niết-bàn.

Thánh đế có bốn. Ở đây nói do nhân duyên gì mà Đức Phật, Thế Tôn đã giảng nói Kinh như vậy. Vì sao Thánh đế có bốn mà không thêm, không bớt? Thánh và Đế có nghĩa thế nào? Nếu vì Thánh mà gọi là đế, thì hai đế trước không nên gọi là đế. Nếu nói vì là đế của bậc Thánh nên gọi là đế, thì nghĩa không quyết định. Lại có kinh dạy: Đế chỉ có một, không hai, tại sao có bốn nghĩa mà không bị phá hoại.

Lại có kinh dạy: Tất cả pháp hành gọi là khổ. Cho nên, chỉ có hai đế, nghĩa bốn đế không thành. Lại nữa, trong Kinh Tăng nhất cũng có dạy: Các pháp được thiết lập từ một đến hai cho đến rất nhiều. Vì sao nghĩa của Đế chỉ có một không tăng một dần. Lại nữa, bốn tướng của chúng đã không đồng nhau, thì làm sao cùng một lúc lại quán được tất cả. Lại nữa, đế của Bà-la-môn cũng có bốn tướng, thì bốn đế của bậc Thánh có gì sai khác? Trì tán kệ viết: (Kệ tóm tắt):

Làm thế nào bốn Thánh đế kia
Và chẳng phải đế, cảnh bất định
Chỉ hai, hoặc thêm đều cùng quán
Thánh đế thanh tịnh đâu gì khác?

Vì sao chư Phật đối với Bốn đế có cùng một ý? Vì sao cho Bốn đế là pháp thuyết giảng chính yếu trên hết của chư Phật? Vì sao cùng quán Bốn đế là cảnh? Trí tuệ thì bình đẳng mà quả thì có khác nhau. Tại sao bậc A-lahán đối với Bốn đế trí tuệ viên mãn không còn sót, nhưng không đồng với Nhất thiết trí của chư Phật đã chứng đắc. Nếu không đồng, tức đối với trong Bốn đế phải có vô minh. Nếu tất cả pháp thuộc về trong bốn đế, thì kinh Thắng xa-ba-diệp-thí, phải cần sửa đổi để hiểu. Nếu không sửa đổi để hiểu thì phải có năm đế. Nếu không có năm đế thì các pháp khác chẳng phải là đế, hoặc Bốn đế như Khổ... gọi là Thánh đế.

Lại nói: Chỉ một Khổ là đã đầy đủ Thánh đế. Như vậy các kinh điển đều không cần giảng nói. Nếu trí của Bốn đế gọi là Khổ, thì nghĩa này không đúng. Nếu biết một đế là biết các đế khác, thì giảng nói ba đế sau cũng vô ích. Vì sao trước là nói về Khổ đế? Nếu chưa nói nhân, mà trước nói về quả thì tức trái với mười hai nhân duyên sinh? Vì sao nói Đạo đế sau Diệt đế? Trì tán kệ viết:

Trên một ý quả có khác nhau
Nhất thiết trí ví dụ như lá
Bốn đã trái, thì một vô dụng
Trước nói Khổ, là nhân duyên diệt.

Thánh đế có bốn. Vì sao Thế Tôn nói Kinh này?

Đáp: Vì muốn các đệ tử chứng đắc đạo Thánh. Do trước ở ngoại đạo, chấp giữ pháp tà, hoặc thường làm các việc ngoại đạo, hoặc đạo không ở một chỗ, đạo hộ mạng, đạo trái nhau, đạo lão Thanh văn, đạo Tư Cù đàm, đạo Điểu xí y, đạo thờ nước, đạo bện tóc, đạo thờ lửa, đạo lõa hình...các đạo như vậy đều đã tán thán pháp của mình: Chỉ có pháp của Ta là chân thật không sai khác, không chống trái, bất tử là quả. Pháp của các phái khác không như vậy. Nghe họ nói rồi, trí không quyết định: các pháp như vậy sao gọi là chân thật, sao gọi là không chân thật? Các đệ tử ấy đối với đế, chẳng phải đế, dấy khởi vô minh, mê hoặc. Vì hiển bày đế chân thật, nên Đức Phật nói kinh này. Ví như có người lấy chuỗi ngọc giả để phô trương lừa dối, khiến cho người nghe thấy cho là chuỗi ngọc thật. Lại nữa, có các pháp khác nhau mà lại nói như nghĩa này. Nếu bỏ tục chấp giữ hình tướng Sa-môn; ở nơi A-lan-nhã, thực hành pháp đầu đà, gặp pháp bạch y, bỏ hết tài vật, giữ lấy tàm quý, ngự tên xe giới, điều phục ngựa căn, mài giũa khi giới, mặc áo giáp định; do làm các việc đó, mà tự cho "Chúng ta là Sa-môn chân thật" Những người này, sanh khởi tăng thượng mạn Sa-môn. Vì khiến cho họ nhận thức rõ nghĩa Sa-môn chân thật, nên đức Phật giảng nói kinh này hiển bày nghĩa đó, vì thông tỏ Bốn đế, ở trong pháp Thánh, thành Sa-môn chân thật, không do việc làm nào khác. Như trong kinh Sa-môn đã giảng nói, hoặc trong các kinh cũng đã giảng thuyết đầy đủ. Sa-môn chân thật là do quán Bốn đế mà thành tựu, chứ không do sự tu hành rốt ráo ở thế gian, đạt được Hữu lưu mà cho là Sa môn. Như phái lõa hình nói kệ.

Lại nữa, đã thoát khỏi chín nạn, Đức Phật trước đã sinh các pháp nhân chán lìa, dùng hương thiện căn huân tập vào tâm mình, đã tăng trưởng tư lương của Thánh đạo, ý hành thanh tịnh, thông suốt các Thánh đế, chuyên cần tu tập tâm, để được uống thuốc trí Thánh đế, vì thế Đức Phật đã giảng nói kinh này. Như bác sĩ biết bệnh mà cho thuốc vậy!

Lại nữa, nghe các khổ của đường ác thật khó nhẫn chịu nên sinh tâm chán ghét, sợ hãi. Vì những người như thế, để hiển bày nhân duyên không đọa vào các đường ác, nên Đức Phật nói kinh này. Vì sao? Vì vào trong địa ngục để chịu thay cho chúng sanh, sáu phương đều bị lửa cháy vây quanh, thân thể, cử động rỗng suốt như sắc vàng bị nấu chảy. Hơi thở ra vào của họ đều là lửa cháy, bị những khổ thiêu đốt. Lại có những người chịu nhiều khổ nạn như: Nuốt viên sắt nóng, uống nước đồng sôi, hoặc bị chặt, chém, đâm, móc; lại bị loài chó và chim mõ sắt gậm mổ; hoặc sanh làm ngạ quỷ thường bị đói khát cực khổ, bức bách thân thể, cuống họng nhỏ như lỗ kim, luôn luôn thèm khát ăn uống nhưng vẫn đói thiếu. Khát khao tìm nước mà do nghiệp đời trước ràng buộc, dù đến bên bờ sông, dòng nước cũng liền khô cạn; hoặc thấy máu huyết, đồ dơ uế đầy dẫy; hoặc gặp cây lá hoa quả, lại biến thành rừng trống rỗng. Như có kệ nói:

Trăng nóng như ngày hạ Gió chạm như lửa đốt Giọt mưa như nước sôi. Mặt đất như tro nóng.

Thế nên ngạ quỉ chịu khổ vô cùng. Hoặc làm súc sanh thì thường bị trói nhốt trong lồng, hay bị đâm chém, đánh đập, ăn thịt lẫn nhau, nghi ngờ lo sợ lẫn nhau, tâm thường bất an, luôn chịu khổ như đây. Hoặc sanh nơi Tu la, oán ghét keo kiệt, ngã mạn, gây gỗ chịu những khổ này. Đệ tử chư Phật, nghe nơi đường ác có những khổ như vậy, lo sợ mình bị đọa vào chốn đó. Vì muốn hiển bày Bốn đế, biết rõ bốn đế ấy không là nhân duyên đọa lạc, cho nên nói kinh này. Ví như người phải chìm xuống biển, bèn ban cho thuyền bè để cứu vớt người ấy. Trong kinh có dạy: Nếu có chúng sanh, đối với các khổ như thế, mà có khả năng biết đúng như thật; thì được thoát khỏi tất cả các khổ sanh lão bệnh và bốn đường ác.

Lại nữa, vì muốn cho chúng sanh xa lìa năm thứ tà ngữ dối gạt:

1. Thường sanh các điều ác.

2. Người ác tiếp nhận thực hành.

3. Người hiền xa lánh.

4. Thường phát khởi phiền não.

5. Lừa dối là thể.

Lại muốn cho người khác, nói năm thứ chánh ngữ, để làm lợi ích cho chúng sanh:

1. Tương ưng với đức của chính mình (Thánh).

2. Người thiện tiếp nhận thực hành.

3. Tăng trưởng các thiện căn.

4. Khiến xa lìa rừng rậm gai nhọn sanh tử.

5. Khiến cho đạt được sự an lạc chân thật.

Vì muốn từ bỏ năm loại tà ngữ, thực hành năm chánh ngữ, do đó nói kinh này. Như làm cho bỏ vật báu giả để nhận lấy báu quí thật. Như trong kinh dạy: Đừng nói lời tà ác là chân thật. Nếu Tăng chúng tập họp cần phải thực hành hai việc:

1. Sự im lặng của Thánh nhân.

2. Lời nói chánh pháp của Thánh nhân.

Lại nữa, có các phàm phu riêng tự chấp trước các đế riêng khác. Như nói chấp của ta là thật, của người khác là chẳng thật. Do chấp đây, nên tranh cãi lẫn nhau. Như người mù bẩm sanh nhận thức về voi. Vì muốn hiển bày sự thù thắng nhất, không có sự tranh cải đến chết, không có điên đảo không còn dấy khởi nữa, đó chính là trí tuệ Thánh đế, vì vậy Phật nói kinh này. vì hiện có ý này: các người nói ngã là đoạn, là thường, họ tranh cải lẫn nhau; người thấy được Bốn đế thì không như vậy, vì thấu rõ chân không. Như kinh của phái Khư Đa Kha đã nói. Lại nữa, nương tựa vào bậc thầy chân chánh, an trú nơi trống vắng, thực hành hạnh đầu đà, giảm thiểu những vật dụng nuôi sống, gìn giữ sáu căn, ăn uống biết đủ, đầu đêm cuối đêm tĩnh giác, nhất tâm lắng nghe, pháp như lý suy lường, lời thuyết giảng chân chánh cho đến tụng đọc; ngồi ngay thẳng, vắng lặng định quán sổ tức. Do nhân duyên này, thành thục nối tiếp nên tâm tĩnh lặng vi tế, ít loạn động. Vì muốn cho những người như vậy được thông suốt nên Phật nói kinh này. Như người đã thuần thục lại còn cho thêm thuốc tốt. Nghĩa chân thật chỉ dùng căn trí gọi là thông đạt. Nên biết căn này duyên với bốn Thánh đế, chính là thông đạt điều được nói trong kinh. Lại nữa, để phá trừ bốn thứ mê hoặc, nhằm hiển bày hai phương tiện mà giảng nói kinh này. Như kệ nói:

Sanh khởi diệt lìa minh
Cùng các loại tà chấp.
Sáu mươi hai kiến chấp
Vô minh trong nhân quả.
Vì đoạn trừ hoặc này…
Muốn rỏ lý bất động,
Và duyên buộc, giải thoát,
Nên Phật nói kinh này.

Lại nữa, Phạm thiên, chư Thiên, các Tiên, loài Người, Bà lợi, Tu la, Rồng, Dạ xoa, Thần, Diêm ma... do không thấy Bốn đế, nên chẳng thoát khỏi ngục ba cõi. Như tằm kéo tơ, như bánh xe lưu chuyển mãi trong sáu đường, mê mờ chạy vào bóng tối, rơi xuống hố sâu hang hiểm, bị lửa nóng thiêu đốt. Nếu thấy được bốn Thánh đế, thì dứt trừ vô minh u tối, được ánh sáng trí tuệ, thoát khỏi bốn chốn ác, tức không mong thấy đạo khác. Do bốn Thánh đế này chơn thật, không hai, không điên đảo, không tranh chấp; có khả năng thành tựu cái dụng xuất thế của Như lai. Vì muốn hiển bày nghĩa ấy, nên nói Kinh này. Luận chủ muốn bày tỏ nghĩa Bốn đế không có gì bằng, cho nên nói bài tụng (Thủ lô kha):

Trì tán kệ nói:

Biết Đế ngoại (ngoại đạo), không lìa
Lý luật hành thắng, thua
Không thể qua biển lớn:
Sanh, lão, tử, ưu, bi;
Tức trí tuệ Thánh này
Tham, sân khởi tranh cãi.
Người trí cầu giải thoát
Đế ngoại không nên biết.
Nếu người thấy Thánh đế,
Pháp thù thắng thoát ác,
Lìa lỗi không nhiễm trược,
Thường hành bốn đẳng tâm
Mọi khổ liền biến mất,
Giải thoát ngục ba cõi.
Thông tuệ cầu Niết-bàn
Cần phải thấy Thánh đế.
Đệ tử và Sa môn
Thoát nạn, sợ đường ác
Dứt lỗi lầm tà chấp
Phật phá để hiển Phạm.

Vì sao gọi là Thánh đế? Sao chỉ có bốn thứ, không thêm, không bớt?

Đáp: Ở đây hỏi mà chẳng phải hỏi. Vì nếu là tất cả pháp thì như thế có lỗi vô cùng. Lại nữa, để đối trị bốn thứ: Thân kiến, đoạn kiến, thường kiến, vô sự kiến, nên Thánh đế có bốn. Lại nữa, vì đối trị bốn điên đảo nên nói Bốn đế, như bốn Niệm xứ. Lại nữa, vì nhằm xa lìa bốn chấp tà, bởi tất cả chúng sanh đều có bốn thứ tà chấp. Bốn đó là gì? Là quả, nhân, giải thoát, phương tiện. Một là quả tà chấp quả: Do ngã kiến tạo nghiệp nhớ nghĩ, tham ái Ấm, Giới, Nhập … đã sinh ra với những bất tịnh dơ uế giống như chó chết. Lại ba ngọn lửa khổ theo sát thiêu đốt, dù cứng chắc như kim cang cũng bị vô thường phá hủy; ngã, ngã sở sai khiến người tạo tác, người nhận lấy, cũng sai khiến người nhận lấy biết đó là chỗ xa lìa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Đây tức là tà chấp quả. Vì để xa lìa chấp này, nên giảng nói Khổ Thánh đế. Hai là tà chấp nhân: Nghĩa là chấp chủ thế gian, Phạm vương, người Tự tại; cùng một lúc tự tánh định sẵn, tự nhiên, chẳng phải do nghiệp nhân đời trước. Thế Tôn dạy: Túc, Dược, Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Lân, Hư, Không v.v… Những cái đó chẳng phải nhân. Nhân không bình đẳng, mà chấp là nhân sanh, đó gọi là tà chấp nhân. Để xa lìa chấp nầy, nên giảng nói Tập đế. Ba là tà chấp giải thoát: Quay về với thực tế, chỉ mới tạm xả những quả, mà đã cho là giải thoát! Chẳng nhất định, chẳng vĩnh viễn cũng chấp là giải thoát! Để phá tà chấp nầy, nên giảng nói Diệt đế. Bốn là tà chấp phương tiện: Là chấp xa lìa những việc như ăn, mặc, nằm, ngồi, chỗ ở… hoặc tự hành xác thân đủ cách, cho đến lúc nghiệp tận, không rõ nguyên nhân, cho đó là Niết-bàn! Những cách tu đó gọi là tà chấp phương tiện. Để xa lìa những chấp ấy, nên giảng nói về Đạo đế. Vì bốn việc này nên nói Bốn đế, giống như Thánh đạo. Lại nữa, để phân biệt là pháp hy hữu, nên Thánh đế có bốn. Vì sao? Vì chấp lấy ấm là chúng sanh là chỗ nương tựa đắm chấp, cho nên nói đó là Khổ phải biết, không nên nương tựa, đẳng chấp. Lại vì tham ái nên không có được sự tịch tĩnh. Khi tham ái diệt trừ tức có được sự vắng lặng. Khổ diệt hết thì ngã mạn vắng lặng. Để đối trị tâm khổ, nên tu đạo. Do tu Đạo, nên vô minh vắng bặt, vì Đạo có khả năng đối trị vô minh. Lại nữa, tất cả người cầu giải thoát, nhằm diệt trừ khổ, để được vui, chính là công dụng tối thắng của Đạo. Làm thế nào diệt Khổ? Do đoạn trừ được Tập; được an lạc, do tu Đạo. Cho nên Thánh đế hiện hữu. Lại nữa, các luận sư thuyết giảng về kinh như: Nếu người quán sát sanh tử là lầm lỗi, quán Niết-bàn là công đức, người ấy chính là nhập vào tụ chánh định. Vì sao sanh tử là lỗi lầm? Nghĩa là nhận lấy thức sanh dấy khởi lỗi lầm, thức này khởi nhân tức tham ái. Thế nào là công đức Niết-bàn? Nghĩa là thức không dấy khởi ưa thích, cũng không khởi phương tiện, tức là Thánh Đạo. Cho nên, nói Bốn đế. Lại nữa, nhằm phân biệt nhân quả của thế và xuất thế gian, nên nói Bốn đế. Lại nữa, vì để thấu rõ bốn loại ấy, nên dựa theo chúng mà nói là Bốn đế. Lại nữa, vì tướng riêng biệt của bốn loại nên nói bốn đế.

Hỏi: Thánh và Đế nghĩa như thế nào?

Đáp: Nghĩa của Thánh có tám. Một là tự tại. Nếu lệ thuộc bởi người khác, thì không tự tại mà gọi là tôi tớ, chẳng gọi là Thánh. Chư Phật và đệ tử đối với tâm và pháp đều tự tại, nên gọi là Thánh. Hai là hoàn toàn thoát khỏi tham ái, như người xuất gia được tự tại. Ba là sanh trưởng từ hạt giống Thánh, nên gọi là bậc Thánh, như sanh vào dòng họ Bà-la-môn. Bốn là sanh ở Thánh địa. Thánh địa thật sự không có sản sinh. Ví như nói sanh nơi vùng đất trung tâm. Năm là tu hành xa lìa sanh tử, như Bà-la-môn. Sáu là không theo xe sanh tử, xả bỏ không đắm. Bảy là không còn sanh nữa, như hạt giống cũ (hư). Tám là được cung kính, ứng hiện qua lại thế gian vì việc phước đức, cũng như vị hoàng đế. Trì tán kệ nói:

Tự tại, lìa tham ái
Giống Thánh, Thánh địa sanh
Hành lìa, không nương xe
Không sanh, hướng cung kính.

Đế có bảy nghĩa: Một là không điên đảo, ví như tướng của lửa. Hai là có thật, như kinh dạy. Ba là không biến đổi. Bốn là không có hai hạnh, ví như hạnh của Thọđề-già và Xà da-đạt-đa. Năm là không dấy khởi, từ trí này mà không dấy khởi, không giống như trí Hỏa luân. Sáu là không chống trái nhau. Ví như Nghiệp và Thánh giới. Bảy là lời văn và nghĩa lý tương xứng nhau. Vì sao vậy? Vì nói khổ, thì chắc chắn khổ là nghĩa. Do bảy nghĩa này nên gọi là Đế.

Ông hỏi: Nếu do Thánh nên gọi là Đế thì hai loại trước không gọi là đế. Lại nói các đế của Thánh gọi là Đế thì nghĩa này không quyết định.

Đáp: Đế là nhân của Thánh, có thể sanh Thánh. Ví như trời Phạm trụ. Cho nên, gọi là Thánh Đế. Như trong kinh dạy: Đủ bốn là Thánh cùng với nghĩa tương ưng. Lại nữa, chỗ giảng thuyết của bậc Thánh gọi là Thánh đế, ví như vị thầy dẫn đường. Trong kinh giảng nói: Như Lai ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều giảng thuyết về Bốn đế.

Hỏi: Nếu vì bậc Thánh giảng nói mà gọi là Thánh đế, thì phàm phu nói cũng gọi là phàm đế?

Đáp: Hổ trợ thần lực, pháp thuyết của Phật, thành lập chánh giáo của Phật, nên chẳng phải là phàm đế.

Như Xá-lợi-phất tu tập pháp nhân duyên. Lại nữa, vì là Thánh nhân nên trước hiểu rõ nghĩa lý; ví như biết đó là thuốc tiên. Hơn nữa, Thánh nhân nương nơi sự thấy chơn thật, nên gọi là Thánh đế; ví như thế đế.

Hỏi: Phàm phu dựa vào nghĩa không chân thật mà thấy, nên chẳng phải Thánh chẳng phải đế sao?

Đáp: Mắt không thanh tịnh, thì không thể thấy. Ví như người mù bẩm sinh, muốn tìm chính xác vật quý báu rất khó. Ví như người bị hoa mắt, lầm thấy nhiều mặt trăng. Phàm phu say rượu sẽ không thấy được, ví dụ này như trăm voi đầu ngọn cỏ.

Lại nữa luận Trí tập thuyết giảng: Lấy Thánh làm thể, nên gọi là Thánh đế. Ví như chim, rắn, lúa đỏ. Lại như trong kinh dạy: Trí tuệ của bậc Thánh là tối thượng, hiểu rõ tất cả, nên giảng thuyết là Thánh đế.

Ông hỏi: Lại có kinh giảng nói: Chỉ có một đế, không có hai. Vì sao có bốn nghĩa mà không thể phá hoại.

Đáp: Vì nghĩa của chúng không điên đảo. Vì một phẩm loại khác nhau, nên bốn ví như bốn loại điên đảo. Lại do nghĩa của đế. Một ví như Thánh đạo, vì sự dụng khác nhau nên bốn ví như phần của đạo. Lại nữa, pháp tướng thì thông suốt tất cả. Một ví như riêng về tướng sắc, bốn ví như bốn đại. Lại nữa, vô ngã bình đẳng nên một là vô ngã thì tất cả đều bình đẳng. Ví như từng phần đồng riêng khác. Lại nữa, vì không có đổi khác, nương vào tâm giải thoát để nói, nên đế chỉ một, không có cái thứ hai. Vì sao mà Thánh đế khổ… đều có đổi khác... Như trong kinh giảng nói: Tất cả pháp hữu vi rỗng không, giả dối là pháp phá hoại. Đó là một chân thật, không phá hoại tâm giải thoát. Giống như tướng đổi khác tương ưng đều là thật không hư dối. Bốn nghĩa cũng vậy. Cho nên Thánh đế có bốn.

Ông lại hỏi: Kinh dạy: Tất cả hành pháp tức gọi là Khổ. Thế nên chỉ hai đế, còn bốn thì nghĩa không thành? Đáp: Ý của Bộ phái Phân biệt giảng nói: Tất cả các pháp hữu vi vì vô thường, nên khổ. Không phát xuất từ nghĩa đế thứ nhất nên khổ. Vì xa lìa những điều ấy, nên những tu tập của Thế Tôn là phạm hạnh thanh tịnh. Đấy gọi là Khổ đế, (sau sẽ nói rộng. Thế cho nên bốn nghĩa không thể bị phá hoại. Lại nữa, trong kinh nói về ba loại khổ: nói về loại thì thuộc về từng phần của tất cả pháp hữu vi. Như nói hữu vi khổ, là nói phần đầy đủ. Hoặc dựa vào Khổ khổ mà nói, loại khổ thì có khổ căn, khổ giới, khổ thọ... Dựa theo Hoại, Hành khổ mà nói thì cũng như vậy. Vì dựa vào tất cả thọ để nói về khổ, hoặc vô thường là khổ cho nên nói là hết thảy hữu vi; Hoặc dựa vào Hành khổ để nói về sanh khởi, là khổ Hữu sanh là khổ; sắc sanh tức là khổ sanh; Hoặc nói Khổ đế ấy là do nhiều ý nghĩa để giảng nói về khổ. Thế cho nên không trái nghịch nhau.

Lại nữa, vì không đổi khác cho nên dựa vào Niếtbàn để giảng nói, tất cả pháp hữu vi là khổ, nguyên do khổ, tương ưng với tướng Khổ. Cho nên dựa vào bốn đế thì nghĩa không sai trái.

Hỏi: Trong Tăng Nhất A-hàm có nói: Các pháp được an lập từ một, đến hai cho đến số nhiều. Tại sao nghĩa của đế chỉ độc nhất mà không tăng dần một?

Đáp: Vì nghĩa chân thật, không điên đảo, nên lời Đức Phật dạy tất cả đều là Đế. Tuy một, hai, ba gọi là tăng một, nhưng đế không tăng một. Vì phân biệt đế để quán nên nói có bốn. Vì an lập trí và tướng, nên như Tứ niệm xứ. Giống như nhân duyên thành lập Bốn đế, trước đã nói nghĩa này nên biết. Vì để biết (tri) Thánh đế nên nói bốn. Biết Khổ có nhân tức là đạt được "thấy" (kiến) pháp. Như trong kinh dạy: Nếu người thấy mười hai duyên sanh, gọi là thấy pháp, thông đạt mười sáu hành tướng của xuất thế, đều do Kiến đế. Hệ thuộc vào nhân duyên chính là nghĩa vô thường; như tiếng trống, như kinh dung Nan đà để chứng minh. Hoặc vô thường là khổ, hoặc khổ là vô ngã, hoặc vô ngã là không, nếu ai biết rõ như vậy, tức thấy được pháp, thông suốt mười sáu hành tướng, diệt trừ các hoặc, xa lìa khổ. Vì nghĩa này nên Thánh đế có bốn. Lại nữa, vì là phẩm hạng cao nhất, là cảnh duyên của trí bất cộng, cho nên không tăng dần một.

Lại hỏi: Bốn tướng khác nhau thì làm sao cùng một lúc mà quán được tất cả?

Đáp: Do tưởng, nên trong kinh nói: Tu tập tưởng vô thường thì đoạn trừ hết thảy tham ái. Cảnh giới của tưởng này tức là Khổ đế. Tất cả tham ái tức là Tập đế. Đoạn trừ tất cả (tham ái) là Diệt đế. Tưởng vô thường tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, nên Thánh đế tuy có bốn không đồng nhưng cùng một lúc quán có thể thấy được.

Lại nữa do tư duy, chọn lựa nên trong kinh dạy: Nhờ vào tưởng vô thường, suy nghĩ chọn lựa về năm Ấm, tham ái; chưa sanh thì không sanh, sanh rồi thì diệt. Năm ấm ở đây tức là Khổ đế; tham ái tức là Tập đế; không sanh và diệt tức là Diệt đế; tư duy chọn lựa vô thường... tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, cùng một lúc có thể quán được Bốn đế. Lại nữa, do quán về các lỗi lầm, nên kinh dạy: Quán các lỗi lầm của chỗ bị trói buộc thì tham ái liền tiêu diệt. Chỗ bị trói buộc tức là Khổ đế. Tham ái tức là Tập đế. Diệt tức là Diệt đế. Quán những lỗi lầm tức là Đạo đế. Do những nghĩa này, nên cùng một lúc thấy được Đế. Lại nữa, cùng một lúc thấy được Đế: Ví như lửa, lửa có thể thiêu đốt mọi vật, cùng một lúc đốt cháy sạch; quán Đế cũng vậy. Hại, sanh, tĩnh, xuất, mỗi mỗi tướng đều lìa diệt thì tu chứng đồng một thời. Lại nữa, ví như mặt trời có thể làm khô cạn vạn vật, nghĩa là mỗi loại hoa tuy có khác nhau, nhưng thiếu nước, thì bị khô héo, hư hoại không thể nở là cùng một lúc; quán các đế cũng như vậy. Lại nữa, ví như đèn có thể đốt cháy các vật, nó gồm có các loại khác nhau, nhưng khi tim cháy, dầu cạn thì một lúc cùng tắt; quán các đế cũng vậy. Lại nữa, ví như thuyền có thể chuyên chở các vật khác nhau, vận chuyển đến bờ này hay bờ kia, đều cùng một lúc; quán đế cũng vậy. Bộ phái Phân biệt nói: Nếu quán tướng của các khổ, thì đạt được tâm sanh diệt, xa lìa pháp hữu vi, tu tập pháp môn Vô nguyện giải thoát. Nếu quán pháp hữu vi thì chỉ có sanh diệt, không thấy pháp nào khác, thực hành pháp Không giải thoát. Nếu quán Tịch tĩnh thì không thấy tướng hữu vi và tướng sanh diệt, tu tập môn Vô tướng giải thoát. Trong đấy, tướng của khổ tức là Khổ đế. Sanh tướng là phiền não. Nghiệp tức là Tập đế. Diệt tướng tức là Diệt đế. Pháp này có khả năng làm cho tâm xa lìa tướng để đạt được Vô tướng, tức là Đạo đế. Nếu thấy pháp vô vi vắng lặng, xa lìa sanh diệt thì bốn nghĩa này cùng một lúc thành tựu. Ở đây khác vô vi vắng lặng, là Khổ đế. Ngoài pháp vô vi vắng lặng này ra, gọi là Tập đế. Pháp vô vi tức là Diệt đế, có khả năng quán xét được tịch tĩnh này, thì thấy được vô vi tức là Đạo đế. Vì nghĩa này, tuy bốn tướng khác nhau, nhưng quán cùng một lúc. Về sau cần suy diễn mà không cần giảng nói rộng. Trì tán kệ nói:

Tư duy, chọn lỗi lầm
Như lửa, đèn, trời, thuyền
Vì môn thoát tướng khổ,
Một lúc quán Bốn đế.

Ông hỏi: Đế của Bà-la-môn và bậc Thánh có gì sai khác?

Đáp: vì đế này của Thế Tôn, của Thánh nhân và Bà la môn chân thật nên đều không có sai khác. Ví như Đế thích và Thiên đế. Lại nữa, Đế của Bà-la-môn thuộc về đạo đế. Đế của Thánh nhân là đối trị của quả đạo, thuộc về cảnh giới đạo. Lại nữa, chỉ một mực hướng thiện là đế của Bà-la-môn; còn thiện, ác, vô kí là đế của Thánh nhân. Lại nữa, chỉ có Đạo là đế của Bà-la-môn. Đạo quả mới gọi là Thánh đế.

Vì sao chư Phật ở trong Thánh đế cùng có một trí tuệ?

Đáp: Thông suốt tất cả pháp tướng đều bình đẳng. Ví như mắt thanh tịnh nhìn rõ các sắc. Lại nữa, vì chứng, thấy các pháp. Ví như lửa nóng và sáng. Việc đó, ở thế gian, một trí tuệ chung đều chứng nhận. Lại nữa, vì như gương pháp đã được mài xong, nên chư Phật nhìn thấy thấu suốt pháp giới, biết được tất cả ba đời đều như hiện tại, ví như gương dưới mọi dòng nước thấy bóng Trăng là một. Trì tán kệ nói:

Hai người đều giống nhau Đạo thiện quả nên khác Chứng biết không còn sót, Gương pháp nên đồng tuệ.

Hỏi: Vì sao lấy Bốn đế làm pháp thuyết giảng chính yếu trên hết của chư Phật?

Đáp: Vì bốn đế có thể cứu độ chúng sanh ra khỏi biển sanh tử; ví như pháp xuất thế. Lại nữa, sự tối thắng là trong Đế, ví như đế là hơn hết. Lại nữa, có thể thâu tóm nghĩa chân thật của các pháp, như trong kinh Thắng Xa-ba-diệp-thí nói. Lại nữa, các trời Phạm, Thích… chưa từng thấy, trí tuệ đầy đủ của các Trời Lạc hành Kiện lực Tỳ Lâu Nữu chưa từng trải qua, là chỗ sở đắc của các tiên nhân, ngoại đạo học hỏi sâu xa, gắng tu trí tuệ mới được. Lại nữa, là cảnh giới trí tuệ vô phân biệt. Như có thể biết được đế này, tức biết đó là chỗ, trang nghiêm của mọi công đức, như Xá-lợi-phất... và Phật Thế Tôn. Lại nữa, vì đầy đủ nghĩa, vì bất cộng nên đây nói là công đức tối thắng. Thế cho nên gọi Bốn đế là pháp thuyết giảng chính yếu trên hết.

Lại hỏi: Cùng quán Bốn đế là cảnh giới thì trí tuệ bình đẳng, mà sao quả có sai khác?

Đáp: Không phải bởi đồng là cảnh, nên trí tuệ đồng nhau, ví như định và tham dục vậy. Lại do trí tuệ sai khác nên quả có sai khác, như do nghiệp có sai khác nên quả có sai khác. Lại nữa, tu tập đạo khác, nên được quả khác nhau. Ví như hạt giống không giống nhau thì quả có sai khác. Lại nữa, lỗi lầm theo thứ bậc hạ, trung, thượng nên chứng đắc quả có khác nhau.

Hỏi: A-la-hán đối với Bốn đế, trí tuệ viên mãn không còn sót thì cùng với Nhất thiết trí phai là không khác.

Nếu không như vậy, thì trong Bốn đế phải có vô minh"

Đáp: A-la-hán không biết cảnh giới chư Phật ngoài bốn đế, đó chẳng phải là vô minh. Vì sao? Vì chỉ có ngôn thuyết. Nếu A-la-hán không biết các ngôn thuyết ngoài bốn đế, thì đó chẳng phải là vô minh. Như kinh Thắng Xa-ba-diệt-thí nói: Đức Phật đã xác định rằng, đối với các Khổ đế mà không biết thì gọi là vô minh; không biết bốn thứ Bì-đà, Bì-đà phần ngoài Bốn đế, thì không gọi là vô minh. Lại nữa, chánh đối với đế, trí đối trị phiền não, mà gọi là vô minh, chẳng phải là không biết bậc Nhất thiết trí. Có bốn loại nói riêng là vô minh. Vì sao? Vì ngay một phần khổ của tự thân thức liên tục, mỗi mỗi đều khác nhau. Nếu y cứ vào sanh tử từ vô thỉ mà nói thì A-la-hán cũng không biết tâm ấy đã sinh như thế, do các duyên tăng thượng này và các suy nghĩ… thiện, ác, vô kí.... thuộc về duyên, do nhân như thế mà sinh, hoặc tồn tại như địa này, bước đến trong thời gian, quả vị như thế… tiếp theo tâm thứ hai, đến tâm giữa sau cùng. Giống theo như phương pháp này, bắt đầu từ sát na, Labà-mâu-thể-đa, thời gian trong ngày đêm, nửa tháng một tháng, năm, luồn sanh khởi, biến đổi và diệt, trong thực nối tiếp của chính mình: bậc A-la-hán cũng không thể biết. Huống gì có thể biết được tất cả, tất cả các thứ khổ của mình. Nếu sự khổ của mình mà không hề biết rõ, thì làm sao biết cái khổ của người, nên bậc A-la-hán cũng không biết được cảnh giới của bậc Nhất thiết. Biết bốn đế, tổng, biệt tướng trong Bốn đế, chẳng phải là vô minh. Lại nữa, lìa của vô minh, bốn đế, thì thuộc bên ngoài của cảnh giới trí. Lại có các pháp khác hiện hành, nên cảnh giới Thanh văn, có A-la-hán cũng không thể biết. Như Xá-lợi-phất nói: Tôi không thấy có trời, người mà có thể thấy biết ngã, khi nhập vào định thứ nhất, thì quán và xứng với lượng ngã, nay ngã thì thoái mất. Không khởi! Chỉ gọi là đạt Thế Tôn mới có được định tịch tĩnh ngã này, cho đến Tôn giả Mục-kiền-liên cũng không thể hiểu được những gì Tôn giả Xá-lợi-phất trong lúc nhập, xuất định; đến cả việc hoá độ Bà-la-môn Đà-nan-xà-da và ngoại đạo Ưu-Ba Đề Xá. Như trí tuệ, định biện tài giảng thuyết, tu tập của Phật người khác không thể sánh kịp, như Tôn giả Xá-lợi-phất và Tôn giả Ca Diếp cũng vậy. Cho nên lìa đối trị vô minh, bốn đế... chẳng gọi là trí, chẳng phải là vô minh.

Lại hỏi: Nếu tất cả các pháp được thâu tóm trong Bốn đế, thì cần gì phải sửa lại kinh Thắng Xa-ba-diệt-thí để hiểu. Nếu không sửa lại để hiểu thì phải có năm đế. Nếu không có năm đế thì pháp khác chẳng phải đế?

Đáp: Vì tự nhiên diệt v.v… không ra ngoài đế, và nhận thức về cảnh giới nên chẳng phải là pháp cần quán sát. Thế nào là chẳng cần quán sát? Vì nếu biết pháp này mà không tận diệt được các lưu và khổ, không lìa bỏ việc ngửa mặt nhìn xem tinh tú của ngoại đạo, chẳng phải các kiến giải, không thể dao động, như cờ của Đế thích dù có thông suốt điều này, cũng không thể gọi là thông tỏ tường tận. Như tài bắn tên tách đôi đầu sợi tóc, cũng không thể gọi là thực hành được khắp mọi việc, thế nên không cần tu học! Lại nữa, có Luận sư khác nói: Tất cả pháp do có tướng nên đều tóm thâu vào nơi đế. Tuy nhiên, Bì-đà và Bì-đà phần từ xưa truyền lại thế gian vốn đã lường tính định đoạt. Như các luận: Tăng Khư Du Già Thật Quảng; luận Dục Trần, luận Tỷ Thế Sư, luận Y Phương, luận Tướng, luận Toán Số, luận Thời Trí, luận Thú, luận Nha Vức, luận Minh, luận Ca Vũ Trang Nghiêm, luận Nhân Vũ, luận Thiên Vũ, luận Thiên Tiên Vương Truyền, luận ngoại đạo... mà các ngoại đạo thường thực hành, cho đến chín mươi sáu loại. Lại có luận về cây cối, dây leo, thuốc cỏ v.v… các lực của vỏ rễ lõi hoa qua cành lá… các vị công đức thành thục… lại có luận về nghiệp quả báo đổi khác bốn đại hiện không có thể nghĩ bàn của thế gian.... Có luận thường phân biệt việc này Đức Phật dựa vào luận này mà giảng nói Thắng Xa-bà-diệp-thí. Vì những nghĩa như vậy chứ chẳng phải như ông nói. Lại do không sanh công đức, thường dấy khởi các Hoặc, tăng trưởng các pháp hữu vi, cho nên không nói (Năm đế). Ví như thuốc độc thuốc làm oán ghét nhau, luận Bì-đa-la, huyễn hóa, chú phản nghịch… vì làm tổn hại người khác, nên Đức Phật không giảng nói, chứ chẳng phải ở ngoài Bốn đế. Vì thế không giảng thuyết.

Lại hỏi: Nếu Khổ trong Bốn đế, gọi là Thánh đế, lại nói Khổ này đã đầy đủ Thánh đế, thì như vậy, các kinh không cần giảng thuyết? Nếu ông nói: Đối với Khổ đế mà gọi là Khổ, thì nghĩa này không đúng.

Đáp: Kinh này thuyết giảng trí là Khổ đế, đối với cảnh không có phân biệt, như nói bốn Vô lượng tâm. Lại nữa, do cảnh giới thiết lập, nên trí được thành tựu. Ví như sáu thức. Lại do công năng nên thể của trí chỉ là một, nhưng dựa theo công năng làm bốn, như trí của bốn Chánh cần cũng thế. Lại nữa, trí của bốn Thánh đế là chung, đối với quán Bốn đế mà nói thì trí là trên hết. Do nghĩa này, mà nói trí như cảnh. Lại nữa, muốn hiển bày, quyết định xa lìa là công đức của Bốn đế. Tùy theo cách nói, chỉ là Khổ hay nói đầy đủ các Thánh đế, nghĩa này cũng thích ứng. Nếu hiểu rõ nghĩa để giảng thuyết thì Khổ... chính là hiểu nghĩa của Đế. Vì sao? Vì Đức Phật giảng nói Khổ đế là có tướng sanh, nên thiết lập ra bốn loại quán. Nếu không như vậy thì chỉ có một quán, gọi là tu tập. Nếu tiếp nhận kinh này phân biệt các đế chỉ có một Đế, thì nên gọi là Đạo đế giảng nói về đế vô vi, và kinh ấy chẳng phải chứng minh cho nghĩa này. Đây là dựa vào tạng Luận và A Tỳ Đạt Ma mà lập nên.

Ông hỏi: Nếu biết một đế thì cũng biết các đế khác, nói ba đế sau, là vô dụng chăng?

Đáp: Tôi không nói thấy Khổ đế là thấy các đế khác. Tôi nói, cùng một lúc thấy Bốn đế, cùng một lúc xa lìa, cùng một lúc đoạn trừ, cùng một lúc chứng đắc, cùng một lúc tu tập. Cho nên nói các đế kia chẳng phải là không lợi ích. Ví như nói Khổ đế. Lại vì số lượng cảnh giới hữu vi, giống như nói số lượng của đạo. Lại nữa, trong Bốn đế, nếu biết được một đế thì sẽ thông suốt các đế khác. Như biết một hạt gạo, thì có thể biết các hạt gạo khác, nên Bốn đế thảy đều có ích. Lại nữa, nhập vào pháp môn quán, nếu quán thủ về ấm, tức xa lìa suy nghĩ về tham ái, như biết về oán gia; chấp giữ ấm thì chính là Khổ đế. Nhớ nghĩ về ái tức là Tập đế; đoạn trừ nó tức là Diệt đế, biết là Đạo đế. Nương theo pháp môn để quán chiếu khổ, thì nghĩa này cũng như vậy; biết tham ái rồi liền xả bỏ. Do Khổ này không sanh khởi tham ái tức gọi là Tập đế. Bị tham ái tức Khổ đế. Khổ không phát sanh tức Diệt đế, hiểu biết tức Đạo đế. Dựa vào Tập đế quán sát pháp môn như thế, biết được pháp hữu vi tịch tĩnh rồi; nếu người đã chứng đạt thì vô minh liền diệt trừ, pháp hữu vi tham ái bị khô cạn thì đạt đến tịch tĩnh, hữu vi tịch diệt tức Diệt đế. Những pháp được xa lìa này là Khổ đế. Vô minh tham ái tức là Tập đế. Biết tức là Đạo đế. Dựa vào môn quán Diệt đế như thế, biết được pháp trợ đạo, tức phát khởi tu tập, phiền não chướng và tu tập chống trái liền xả bỏ. Do xả hết những điều đó, nên lại sanh hữu. Pháp trợ đạo là Đạo đế. Hữu tức là Khổ đế. Nghiệp phiền não tức là Tập đế. Xả bỏ những pháp này, không sanh hữu nữa, tức là Diệt đế. Dựa vào môn quán Đạo đế như thế, do quán các đế cho nên tuy quán một mà giảng nói các đế khác, chẳng phải là vô dụng.

Hỏi: Vì sao lại giảng nói Khổ đế trước?

Đáp: Vì ngăn dứt Khổ, tu tập quán bốn đế và xuất gia trụ trong phạm hạnh, nên nói Khổ đế trước. Lại nữa, các khổ về sanh, lão, bệnh là vô cùng, mỗi niệm luôn bức bách. Người thực hành pháp quán này, là tìm cầu nhân của khổ, ví như sư tử. Lại nữa, duyên bên ngoài, không thể trị bệnh bắt nguồn từ vô thỉ. Người thực hành pháp quán này, tìm kiếm nguyên nhân của bệnh, ví như thầy thuốc. Lại nữa, các hoạn nạn, bệnh tật đầy dãy trong ba cõi. Người thực hành pháp quán này tìm cầu nhân của chúng, như tìm cây độc. Lại nữa, vì thô, vì lầm lỗi, vì chán ghét nương vào, vì là chỗ sợ hãi cho nên nói Khổ trước.

Ông hỏi: Chưa giảng thuyết về nhân mà lại nói quả trước, thì trái ngược mười hai duyên sinh?

Đáp: Vì tuần tự sanh khởi, nên mười hai nhân duyên sanh thì nhân trước quả sau, suy nghĩ chọn lựa đều tuần tự. Còn ở trong Bốn đế thì quả trước nhân sau. Vì thế hai cách nói này đều không chống trái. Lại nữa, trong quả có mê duyên, nhân cho là quả. Trong kinh dạy: Ở đây có, tức kia cũng có, nên đây sanh thì kia cũng sanh. Hoặc trong nhân có mê duyên, quả cho là nhân. Như trong kinh dạy: Lão, tử... có pháp nào khiến cho thành hữu. Do nghĩa này nên các Hữu đều bị phá hủy, không chống trái. Giảng nói theo chiều thuận, nghịch thì hai thuyết không giống nhau. Nói nghịch về duyên sanh, gọi là Bốn đế. Cho nên không trái nghịch với mười hai duyên sanh.

Lại Ông hỏi: Vì sao giảng nói Diệt đế trước Đạo đế sau?

Đáp: Nghĩa có hai loại. Một là thuận, hai là nghịch. Như trong kinh thuyết giảng: Giới thanh tịnh làm cho tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh làm cho trí tuệ thanh tịnh, cho đến giải thoát tri kiến và minh giải thoát; đây là giảng theo chiều thuận. Giảng theo chiều nghịch thì giải thoát là dùng lìa dục làm duyên; lìa dục là nhàm chán ác làm duyên; nhàm chán ác là dùng sự thấy chân thật làm duyên, cho đến không ưu sầu, hối hận là lấy giới thanh tịnh làm duyên.

----o0o----

Phẩm Thứ Hai: LƯỢC THUYẾT

Hỏi: Bốn đế thứ lớp thế nào?

Đáp: Thô xấu, ngang ngược, trói buộc, thủ ấm Nương vào, nẻo ác, lo sợ, sự và quả

Bệnh đau, lửa đốt, oán hận, dựa vào, mắc nợ Cảnh duyên thuốc độc, hãm hại, bức não.

Muốn làm rõ cảnh giới thô xấu rộng lớn cho nên nói Khổ đế. Biết được tướng Khổ rồi. Pháp này do nhân gì sanh, cho nên nói Tập đế. Chỗ nào tận trừ pháp này, nên tiếp nói Diệt đế? Pháp này nhân gì mà được nên tiếp nói Đạo đế? Lại nữa, bị lưới ngang ngược bao phủ từ vô thỉ, gọi là Khổ. Cội rẽ của ngang ngược gọi là Tập. Vĩnh viễn xa lìa cội rễ của ngang ngược gọi là Diệt; có thể nhổ bỏ chúng gọi là Đạo. Lại nữa, cực kì nặng nề gọi là Khổ; chấp vào nặng nề gọi là Tập; xả bỏ gọi là Diệt; có thể diệt trừ các chấp gọi là Đạo. Lại nữa, chỗ trói buộc gọi là Khổ; trói buộc này gọi là Tập; diệt hết trói buộc gọi là Diệt; biết rõ những sai lầm gọi là Đạo. Lại nữa, thủ cũng như vậy. Lại là chỗ nương vào gọi là Khổ. Phàm phu ở thế gian, dù bị tổn hại bởi chấp thủ ấm mà vẫn dấy khởi sự nương vào tham đắm ở ấm. Cũng như nương vào kẻ oán thù lầm tưởng là bạn thân. Dựa vào ấm an lập mà ái gọi là Tập; nhân nới ái ấm đã an lập này mà trụ trong ngục tù ba cõi, không cầu thoát ra. Ví như nhân cuồng si. Không dựa vào ái gọi là Diệt, không có phương sở nào để dựa vào. Như kinh Cù Đề dạy: Có khả năng diệt trừ sự nương vào ái gọi là Đạo, nhận thấy rõ sai lầm của chỗ nương vào như thấy nhà cháy. Lại nữa, sáu đường gọi là Khổ, vì không vui, như nhà xí dơ bẩn. Nghiệp phiền não gọi là Tập. Vì là nhân của sáu đường. Xa lìa chúng gọi là Diệt; không có vật giả danh, ví như lửa đã tắt. Như kinh Lộc đầu đã nói. Có khả năng ra khỏi các đường nên gọi là Đạo. Như kinh Bà-la-ha-mã-vương đã dạy. Lại nữa, lo sợ gọi là Khổ; ngã ái gọi là Tập; không còn lo sợ gọi là Diệt; an lạc tối thượng, thật sự đạt đến chỗ không lo sợ gọi là Đạo. Lại nữa, sự tạo tác gọi là Khổ; nhân của sự tạo tác gọi là Tập; đoạn trừ nhân của sự ấy gọi là Diệt; có khả năng diệt trừ gọi là Đạo. Lại nữa, tương tợ như quả gọi là Khổ; tương tợ như hạt giống gọi là Tập; tương tợ hạt giống bị hư hoại gọi là Diệt, nhân của tương tợ hạt giống bị hủy hoại gọi là Đạo. Lại nữa, Khổ là bệnh; Tập là nhân của bệnh; Diệt là đã lành bệnh; Đạo như thuốc trị bệnh. Lại nữa, Khổ như lửa; Tập như củi; Diệt như lửa tắt; Đạo là nhân của lửa tắt. Lại nữa, tương tợ như oán gọi là Khổ; trói thù hận trói buộc gọi là Tập; trừ bỏ thù hận trói buộc gọi là Diệt; nhân có thể trừ bỏ gọi là Đạo. Lại nữa, tương tợ nương vào gọi là Khổ; tương tợ trần cấu gọi là Tập; trần cấu được làm sạch gọi là Diệt; nhân dẫn đến làm sạch gọi là Đạo. Lại nữa, Khổ như của nợ; Tập như người nghèo; diệt như thoát cảnh nghèo; Đạo như tài vật. Lại nữa, Khổ như bị thiêu đốt; Tập như vật liệu để đốt; Diệt như mát mẻ; Đạo như điều kiện để mát mẻ. Lại nữa, khổ như chất độc phát ra; Tập đế như chất độc; Diệt đế như từ bỏ chất độc; Đạo như thuốc A-già-đà. Lại nữa, Khổ như sự não hại bức bách; Tập như khả năng não hại; Diệt như xa lìa khổ não; Đạo như nhân xa lìa của khổ não. Lại nữa, Khổ như bị giết hại; Tập như kẻ giết; Diệt như trừ bỏ sự giết hại; Đạo như nhân xa lìa giết hại. Lại nữa, Khổ cần biết; Tập cần đoạn trừ; Diệt cần chứng đắc, vì ba việc này nên cần tu Thánh Đạo. Tuần tự như vậy. Thể tướng của Bốn đế thế nào? Kệ nói:

Tợ, chơn, Lý túc phẩm
Tướng hữu vi thức ảnh
Hư vọng khắp ba cõi
Hữu khắp mười hai duyên.

Có các pháp sư cho rằng: Hai đế tương tợ, chơn. Sanh là quả của tham ái, nên gọi là chơn khổ. Đạo là nghiệp quả, nên gọi là tương tợ khổ. Nhân của sanh là tham ái, nên gọi là chơn tập. Lôi kéo vào nghiệp của sáu đường, nên gọi là tương tợ tập. Nhân của sanh là ái được đoạn hết, gọi là chơn diệt. Nhân của sáu đường được đoạn hết, gọi là tương tợ diệt. Chánh trí có khả năng diệt trừ nhân của sanh gọi là chơn đạo. Các phương tiện về giới có khả năng lìa nhân của các đường gọi là tương tợ đạo. Lại Luận sư Lý Túc nói: Thức là chơn khổ, sắc… tương ưng với thức này, cũng gọi là khổ. Ái chính mình gọi là chơn tập. Nghiệp tương ưng với ái này cũng gọi là tập. Ái chính mình được đoạn hết gọi là chơn diệt, do ái hết nên phiền não khác hết cũng gọi là diệt. Chánh kiến gọi là chơn đạo; nếu ở đây không sanh, thì nơi khác không thể đến diệt. Do đây sanh, nên chỗ khác cũng gọi là đạo.

Lại nữa, bộ Giả danh nói: Đế có ba loại: Một là phẩm khổ; hai là phẩm đế; ba là Thánh đế. Phẩm Khổ là: Năm Thủ ấm khổ. Phẩm Đế là: Khổ não bức bách làm tướng khổ. Thánh đế là: Khổ này cùng một vị. Phẩm Tập là:

Tích tập tham ái. Phẩm Đế là khả năng sanh khởi làm tướng. Tập Thánh đế là: Tập cùng một vị. Phẩm Diệt là quả Sa môn. Phẩm Diệt đế lấy vắng lặng làm tướng. Diệt Thánh đế một vị làm tướng. Phẩm Đạo là tám phần Thánh đạo. Đạo đế là vĩnh viễn xa lìa làm tướng. Đạo Thánh đế là một vị làm tướng. Lại Bộ Phân biệt nói:

Tất cả pháp hữu vi đều khổ; do vô thường chứ chẳng phải vì đế ban đầu nên là khổ. Vì xa lìa những thứ này nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đây là Khổ Thánh đế. Tất cả nhân đều là Tập. Vì khả năng sanh, chứ chẳng phải vì đế thứ hai nên là Tập. Vì đoạn trừ những thứ này, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh, mà Thế Tôn đã tu, thì đây là Tập Thánh đế. Tất cả pháp hữu vi vắng lặng xa lìa gọi là diệt; do tịch tĩnh, chứ chẳng phải đế thứ ba, vì Diệt; vì chứng đắc Diệt này, nên đối với phạm hạnh mà Thế tôn tu hành thì thanh tịnh, đấy là Diệt Thánh đế. Tất cả pháp thiện đều là đạo, có khả năng xa lìa, chứ chẳng phải vì đế thứ tư, nên là Đạo. Vì tu tập đạo này, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đấy là Đạo Thánh đế. Lại nói, chấp vào tướng là phiền não. Phiền não và nghiệp mà phiền não khởi, gọi là Tập. Nếu nhân đây mà có hữu, thì gọi là Tập thánh đế. Hữu, sanh ra gọi là Khổ thánh đế. Như đây là từ đế thứ hai sanh ra đế thứ nhất. Nếu tâm từ bỏ chấp lấy tướng, thì đạt được cảnh giới vô tướng, do nhân này nên phiền não và nghiệp mà phiền não dấy khởi bị đoạn. Do sự đoạn này nên không có nhân duyên trở lại, Hữu không sanh nữa. Hữu này không sanh nữa, gọi là Diệt Thánh đế. Pháp này có thể khiến tâm bỏ, lìa chấp tướng, chứng cảnh giới vô tướng. Những chánh kiến này gọi là Diệt, Đạo Thánh đế. Như chấp tướng, còn hình ảnh khác tương tợ đạo, vọng tưởng phân biệt v.v… cũng như vậy. Trong luận Phân biệt lại nói: Đức Phật không dựa vào tất cả khổ, mà là giả nói Khổ đế. Nếu như vậy thì làm sao hiển bày được quả vô ký. Vì chấp giữ tánh thể tướng của ấm nên giả nói Khổ đế, giả nói pháp nhân của Khổ. Vì để xa lìa chúng, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh, Thế Tôn đã tu tập thì đây là chơn Khổ đế. Không dựa vào hết thảy nhân, chỉ giả nói là Tập đế, để hiển bày khả năng sanh, tánh thể tướng của nhân hữu sau nên; giả nói Tập đế, giả nói pháp nhân của Tập. Vì đoạn trừ chúng, nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì đây là chơn Tập đế. Không dựa vào tất cả diệt, chỉ giả nói diệt đế. Vì hiển bày đạo luân chuyển đoạn trừ Tánh, Thể, Tướng nên giả nói Diệt đế; giả nói pháp nhân của Diệt là để được chứng đắc, Diệt nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu tập thì đây là chơn Diệt đế. Không dựa vào tất cả đạo, giả nói Đạo đế. Vì hiển bày tánh, thể tướng của đạo có thể đoạn trừ sự mê hoặc nên giả nói pháp nhân của Đạo đế. Vì tu tập, đạo này nên đối với phạm hạnh thanh tịnh mà Thế Tôn đã tu thì là chơn Đạo đế. Trong tạng Luận, nói tóm lược, thì Khổ có hai loại:

1. Oán ghét gặp nhau.

2. Yêu thương xa lìa.

Hai chỗ của hai khổ này là thân và tâm. Do ái ba loại nên thành ba khổ. Tập đế có ba là Ái Kiến và Nghiệp;

Hai hoặc Ái và Kiến gọi là Tập của hữu sau, do đấy đã có nghiệp, tức là Tập thô, diệu. Diệt đế có ba:

1. "Hoặc" của một nơi Kiến diệt.

2. "Hoặc" của một nơi Kiến diệt.

3. "Hoặc" của một nơi Hữu diệt.

Đạo đế có ba:

1. Kiến đạo.

2. Tu đạo.

3. Thành thủ đạo.

Ba pháp này tức ba căn. Lại nói, Khổ là tướng bức bách; Tập là tướng sanh; Diệt là tướng vắng lặng; Đạo là khả năng làm lìa tướng. Lại nói: Khổ là có tướng; Tập là khả năng làm có tướng; Diệt là lìa tướng; Đạo là khả năng làm cho lìa tướng.

----o0o----

Phẩm Thứ Ba: PHẦN 1: PHÂN BIỆT KHỔ ĐẾ

Vì sao gọi là Khổ đế? Phần tóm lược đã nói ở trên còn phân biệt rộng thì thế nào? Ở trong tụ khổ sao nói Sanh khổ đầu tiên? Sanh là thế nào? Tướng sanh là thế nào? Sự của sanh là thế nào? Duyên của sanh được sanh ra thế nào? Khổ là thế nào? Nếu Sanh là khổ, thì ba loại nghĩa an lạc sanh tức không thành. Sanh và khởi thế nào là khác? Bậc A-la-hán năm ấm chưa diệt, vì sao nói sanh đã tận? Thế nào là lão? Thế nào tướng lão? Thế nào là sự của lão? Thế nào là duyên của lão? Thế nào là khổ của lão? Tướng răng rụng không đều khắp có; mà khổ có khắp nơi. Vì sao nói lão là Khổ Thánh đế. Vì pháp hữu vi không tru, mỗi niệm đều diệt, vì sao có lão? Trì tán kệ viết:

Phân biệt bốn sanh đầu
Ba Khổ cùng sai biệt
Diệt bốn lão đều khổ
Răng rụng nghĩ đến diệt.

Sao gọi là bệnh? Sao gọi là tướng bệnh? Sao gọi là sự bệnh? Sao gọi là duyên bệnh? Sao gọi là khổ bệnh? Nếu do bệnh nên thân thường khổ, thì sao lại không trái với kệ này?

Không bệnh đau là lợi thứ nhất,
Biết đủ là tài sản trội nhất
Không nghi là thân cận hạng trên
Niết-bàn là vui không gì sánh.

Nếu cõi Trời không có bệnh, tất cả chúng sanh lấy bệnh làm pháp thì lời nói này nên sửa lại cho hợp chánh đạo. Luận nói: Bệnh là nghiệp quả chính là nghiệp quả khổ chẳng phải là Khổ Thánh đế. Phật nói khổ gọi là bệnh. Kệ lại nói đói là bệnh thứ nhất. Hai cách nói này tại sao khác?

Thế nào là tử? Thế nào là tướng của tử? Thế nào là sự tử? Thế nào là duyên của tử? Thế nào là khổ về tử? Buông thả tử (chết) phá giới, tử, duyên sanh tử; ba loại này có gì khác? Lại tử có biết và không biết; tử có hối hận và không hối hận; tử có buông thả và không buông thả, tử đắm trước và không đắm trước; tử có điều phục và không điều phục; tử có ít phần điều phục… những thứ này là thế nào? Năm ấm mỗi niệm tự diệt đi, tử do người khác hại v.v... Thế nào được thành tựu? Thế nào là oán ghét mà gặp nhau. Thế nào là tướng oán ghét mà cùng hội ngộ? Thế nào là sự oán ghét mà lại gặp nhau? Thế nào là duyên oán ghét mà lại hội ngộ? Thế nào là nỗi khổ oán ghét mà lại hội ngộ? Nếu các loại oán ghét có tụ tập, vĩnh viễn không xa lìa nhau, thì nghĩa này phải có. Thế nào thân ái lại xa lìa? Thế nào là tướng thân ái lại xa lìa? Thế nào việc thân ái lại xa lìa? Thế nào duyên thân ái lại xa lìa? Thế nào khổ thân ái bị xa lìa, Lão... tụ hội, tức oán ghét tụ hội; trai tráng... xa lìa tức thân ái xa lìa. Lại nói về oán ghét, gặp nhau; thương ái lại lìa xa. Thế nào chẳng phải là nói lại? Thế nào mong cầu mà không được? Thế nào là tướng mong cầu mà không được? Thế nào là việc mong cầu mà không được? Thế nào duyên tìm cầu mà không gặp? Thế nào là khổ do tìm cầu mà không được? Tham dục trần cấu tức là khổ, đạt được cũng khổ; cầu mong mà không được sao gọi là Khổ? Vì nhân duyên gì mà mong cầu không được? Vì sao nói tóm lược nghĩa năm thủ ấm là lược nghĩa của khổ? Tướng các ấm là thế nào? Ấm có nghĩa gì? Sắc, thức v.v… đồng tướng hữu vi, sao nói năm ấm và thủ ấm? Thế nào là khác nhau? Vì sao nói thủ ấm là khổ ấm, không gọi khổ ấm là nghĩa gì? Tùy thuộc chánh kiến, một khổ, tức hiểu thông suốt Khổ đế sao nói rộng, về tướng của các khổ? Trong kinh cũng dạy: Vui thích sắc thì cũng thuộc chỗ vui thích. Như thủ ấm là khổ, thì chống các kinh trái nhau. Vì sao chỉ riêng kinh này nói tóm lược, kinh khác, nói sắc khổ cho đến thức, thủ ấm khổ. Lại vì sao nói nhân duyên khổ? Nghĩa tổng lược thế nào?

Ông hỏi: Sao gọi là Khổ đế, đã nói tóm lược ở tiên, còn phân biệt rộng rãi thì thế nào?

Đáp: Có những đệ tử thích nói lược về chánh giáo, như các Tôn giả Xá-lợi-phất.... vì có khả năng khai mở trí tuệ, nhận lãnh lời giáo hóa, thế nên Phật nói tóm lược. Có những đệ tử ưa thích giảng thuyết rộng rãi như các Tôn giả Nan-đà, Phất-già-bà… để trí rộng phân biệt, cho nên Phật giảng thuyết rộng. Lại nữa, có các đệ tử nhờ lực nhân rất mạnh như Tôn giả Đại-ca-diếp, thiện căn đã tăng trưởng nên chỉ cần nói tóm lược. Người có lực duyên yếu kém như Tôn giả Sa-đề... thiện căn chưa tăng trưởng nên phải giảng thuyết rộng rãi. Lại nữa, căn tánh lanh lợi như các vị Tôn giả Ương-quật-ma-la... thì nên nói tóm lược. Những vị căn tánh yếu kém, khó tiếp nhận sự giáo hóa như Xà-nô... thì nên nói rộng rãi cụ thể. Lại nữa, các đệ tử đa văn như Tôn giả A-nan... có thể nghe và trì cả tạng, vì thế chỉ cần nói tóm lược. Các đệ tử kém hiểu hơn như Chu la-bát-đà, trí tuệ yếu kém, nên phân biệt giảng nói cụ thể. Lại nữa, các vị có nhiều Thánh ngôn và công đức thù thắng như Tôn giả Ly-bà-đa... tu tập quán xét nhiều bên trong, nên chỉ nói ngắn gọn. Chưa có Thánh ngôn và công đức thù thắng như Tôn giả Xàna... chưa tu tập quán xét bên trong, nên phải giảng thuyết phân biệt rộng. Ông hỏi: Trong tụ khổ tại sao lại nói sanh khổ trước?

Đáp: Đó là khổ đầu tiên. Trong các khổ lão, bệnh, tử… thì khổ về sanh là đầu tiên. Thí như pháp thế, xuất thế gian như không hối hận v.v… lấy giới làm đầu. Như vậy, các thứ lão, bệnh, tử v.v… thì sanh là nền tảng. Thế nên, nói sanh là đứng đầu, không thể tách rời. Lại nữa, do công năng của sanh, như sanh rồi mới có các thứ lão, bệnh, tử làm tổn hại căn thân và tâm ý... ví như lửa đã thành lửa, tức có các công năng nóng bức, thiêu đốt, chiếu sáng… chẳng phải không có lửa; sanh thì cũng như vậy. Cho nên, sanh được nói trước. Lại nữa, không thể tách rời sự sanh. Giả sử chúng sanh xa lìa được lão bệnh, nhưng quyết không thể xa lìa sanh. Do hành khổ, nên sanh là quả của thọ là chỗ đối trị của đạo. Vì thế, nói sanh trước tiên. Lại vì lỗi lầm bình đẳng tất cả chúng sanh đồng bị sanh làm hại. Thí như quỷ vô thường sát hại. Lại nữa, sanh luôn theo sát tất cả phần hữu; sanh có mặt khắp cả trong mười hai phần hữu bắt đầu từ vô minh…, thí như sữa có độc. Lại nữa, vì hiện khắp ba cõi nên sanh là hiện hữu khắp ba cõi, như bò có giống và khác nhau. Vì thế, trước nói sanh. Lại nữa, vì là khổ căn nên sanh là khổ căn bản, các thứ lão, bệnh, tử là khổ thuộc cành lá. Như trong kinh dạy: Tất cả các khổ lấy sanh làm gốc, lấy sanh làm nhân. Kinh đã giảng nói rõ.

Cho nên, trước nói sanh. Trì tán kệ viết:

"Vì khổ đầu tiên; thường không rời;
Lỗi lầm bình đẳng; theo phần hữu;
Khắp trong ba cõi; căn nguyên khổ,
Thế nên, sanh khổ với đầu tiên."
Vậy thế nào là sanh?

Kệ đáp:

Sanh trong năm kinh… đều giảng nói,
Thọ Ấm; tâm nối tiếp đầu tiên;
Phần sanh cùng với các bè bạn,
Ở trong thai; và có năm loại.

Giải thích: Như Kinh, luận tạng A tỳ đạt ma, luận Tâm Tư Trạch, Thập nhị nhan duyên, đã giảng nói rộng rãi về nghĩa sanh nên biết. Lại nữa, phẩm nghiệp tăng trưởng tùy miên là bè bạn, pháp nhân duyên dẫn tiếp sự sanh, các khổ chúng sinh do tụ tập mà được sanh, được ấm, giới, nhập v.v… đó gọi là sanh. Lại nữa, khi sắp sửa nối tiếp sự sanh, thức ban đầu thọ sanh, đó gọi là sanh. Như kinh dạy: Do thức nhập nên danh sắc hòa hợp. Nếu nói sanh theo thứ tự, thì thức ban đầu dấy khởi, gọi là Sanh. Lại nữa, có luận sư khác nói: Phần sanh và thức ban đầu là bè bạn cùng lúc đều khởi, đó gọi là Sanh. Lại nữa, Sanh có nhiều loại, nghĩa là các loại sai biệt từ trong thai như Ca-la…, cho đến khi xuất thai, như kinh Thọ Sanh đã nói: Lại nữa, sanh còn có năm loại. Như kệ nói:

Chứng pháp Thánh gọi là Sanh
Trong thai; dòng họ cũng được thành
Đồng, khác trong tụ và phần Hữu
Chỉ Hữu ấy, được gọi là sanh.

Giải thích: Được pháp Thánh gọi là sanh; như kinh dạy: Đã thoát khỏi nô lệ, từ miệng ta mà sanh. Lại nói: Hữu là đã sanh trong luật pháp Thánh, như trong kinh Ương quật-ma-la. Lại nữa, trụ trong thai gọi là sanh, nghĩa là Kha-la-la, Ngạch-phù-đà, Già-ha-na v.v… ví như hạt giống, mầm, rễ, cành... Lại nữa, được sanh vào dòng họ gọi là sanh, như sanh vào dòng giàu có, vào dòng họ Sát-lợi... Lại nữa loại đồng và khác trong tụ, gọi là sanh. Như hình tướng có khác. Nghĩa là: người, voi, ngựa... Thí như cây Bà-la-đa-la.... Lại nữa, Hữu cũng gọi là sanh, nghĩa là hữu Ấm Nhập Giới... gọi đó là sanh. Như nói có hoa có hạt v.v…

Luận này chỉ nói Hữu là sanh. Vì sao? Vì là nguồn gốc là quả của tham ái. Cho nên nói chỉ Hữu gọi là sanh. Thế nào là tướng sanh? Thế nào là sự của sanh? Thế nào là duyên của sanh?

Đáp: Hữu hiển bày là tướng sanh. Các thứ khổ là sự của sanh.

Nghiệp hiện hữu là duyên của sanh.

Hỏi: Khổ của sanh thế nào?

Đáp: Bị ba thứ lửa khổ thiêu đốt. Đó là: Chỗ thọ sanh không phải chỗ yêu thích, không phải quả báo của phước hạnh, tức bị lửa khổ khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Chỗ được thọ sanh là chỗ yêu thích, là quả báo của phước hạnh, tức bị lửa Hoại khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Chỗ được thọ sinh là quả báo của hạnh bất động tức bị lửa Hành khổ thiêu đốt ở loại đồng và khác trong tụ. Ví như lửa ngoài đồng đốt quanh cây đại thọ. Vì thế nói là sanh khổ.

Lại nữa, Sanh là chỗ nương tựa của các khổ? Như có sanh, tức có chỗ nương tựa, tích tập của các khổ thân, tâm chẳng phải là lúc không có sanh. Thí như vườn Nai là chỗ nương ở của các vị tiên. Lại nữa, các hữu như là Ấm, Nhập, Giới... hiển hiện gọi là sanh. Sanh ở khắp nơi đã bị hủy hoại thì các khổ như đâm, đánh, mổ, chặt, phân chia, rơi, mất... đều bình đẳng theo sanh. Vì giặc oán vô thường không thể ngăn chặn. Ví như từ cảnh vương tử cho đến hạng sành ngói… Cho nên nói sanh là khổ. Lại nữa, sanh là kho chư đựng các khổ, căn bản của ưu, bi, não sinh ra những điều chẳng may mắn, nhân duyên của già chết, chỗ phát khởi các bệnh, là lỗi lầm cho đau đớn đi vào, chỗ nương ở của các ác, chỗ dẫm đạp của trở ngại phá hoại. Là cổng thành của mỏi mệt, là kho lẫm dụng cụ oán thù, là dòng chảy phiền não nối tiếp. Lại Sanh này là bóng tối chẳng phải đèn sáng được dùng; là hố sâu khó ra khỏi, là không có lửa mà cháy lớn; là oán thù khó nhận biết; là oan uổng không nghi ngờ; là bệnh đau không thuốc chữa; là trói buộc mà không phải dây; là rừng gai không có lối đi, không có ánh sáng lửa, là trẻ thơ khen ngợi người trí chê trách, là chỗ tham ái ưa thích có, là nhân dẫn phát tâm đại bi của chư Phật Bồ-tát, là thứ bậc Hữu học xa lìa, bậc Vô học đoạn trừ hết. Chư Phật tự mình nhận biết rõ sanh này nên gọi đó là khổ. Do đó nói sanh là khổ.

Lại nữa có khổ ở trong thai. Khi sắp sửa thọ sanh màu trắng, đỏ hòa hợp, có thức đến gửi vào, nên chịu khổ tạp uế. Tiếp đến các thứ A-la-la-Át-phù-đà, Già-da, Ty-hộ... tiếp nhận khổ chuyển biến thành thục, như khổ của ung nhọt chín dần sắp vỡ. Khi phần cứng đã thành rồi, thì các phần của thân thể phát sanh, lại chịu khổ các đại bức bách, như khổ trong ngôi nhà lửa chưng nấu, thật là khốn khổ. Khi nằm trong thai, hai tạng chồng lên nhau, đè ép, ví như người có tội trên bị đè xuống, lưới lửa chưng nấu, thật là khốn khổ. Do mẹ uống ăn, oai nghi, mất điều độ, hoặc chạy, hoặc nhảy, hoặc bơi lội trên nước, hoặc co duỗi, phục dịch, chịu đánh đập đau khổ, dùng thức ăn trái nghịch. Do những oai nghi ăn uống này, nên các chi trong thai như rã rời, chịu mọi thứ khổ. Như phạm vương pháp nhận các khổ tra khảo, đánh đập. Vậy nên, sanh là khổ. Lại khi sắp ra ngoài thai, thân hình mềm mại như ruột cây chuối, bị cửa sinh chèn ép như chèn vào chiếc xe đầy dầu mỡ, chịu khổ chèn ép. Lại khi thai mới ra, thân như mụt nhọt mới mọc nên tay nước áo, tiếp xúc thì như tưới nước tro nóng, như đao, kiếm cắt xẻ chịu khổ khó lường. Cho nên, nói sanh là khổ. Nếu sanh là khổ, thì nghĩa của ba loại lạc (nữ) sanh sẽ không thành tựu sao?

Đáp: Vì nghiệp báo phân biệt có khác nhau, vì an lập ba cõi có sai khác, vì hiển bày có ba thọ. Do đó phải biết ba thứ lạc sanh là thuộc hành khổ, nên đó gọi là Khổ đế. Vì khổ bức bách, vì nhiều thứ, khổ, cho nên sanh là khổ. Lại nữa, có quả của phước hạnh, nên có ba thứ lạc sanh. Như kệ nói:

Quả phước đức an lạc Tùy ý được thành tựu Mau đạt Tịch tĩnh nhất Bát Niết-bàn như nguyện.

Ác độc vô thường bị lẫn lộn. Khổ như thức ăn trộn lẫn độc. Tuy đủ trăm vị sắc hương ngon ngọt, nhưng nếu ăn thì chắc chắc bị chết. Tất cả sanh tử cũng như vậy, bị trộn lẫn với độc vô thường, nên nói là khổ. Lại nữa, vì khi sanh thì vui, khi trú thì vui; nên nói vui sanh. An vui, sanh ra này khi hoại thì khổ, Thánh nhân nhàm chán hoại khổ này, giống như chán ghét phân dơ, nên gọi sanh là khổ.

Sanh và khởi có gì sai khác?

Đáp: Một thứ hóa sanh gọi là khởi; ba thứ còn lại gọi là sanh. Lại nữa, vào thai gọi là sanh, ra khỏi thai gọi là khởi. Lại nữa, từng phần của thân hữu tuần tự sanh ra gọi là sanh. Cùng một lúc mà sanh đầy đủ thì gọi là khởi. Trong luận tạng dạy: Sanh thuộc về thức, gá vào thai và chủng tử. Khởi thuộc về nghiệp; thường phân tán để thức đi đến các cõi.

Bậc A-la-hán năm ấm chưa diệt, sao lại nói sanh đã tận?

Đáp: Vì hữu đã diệt, nên nói sanh đã tận. Lại nữa, vì nhân duyên diệt, sanh này không có pháp của sự sanh sau, vì thế nói sanh đã tận. Thí như do tham ái diệt trừ, nên nói Khổ đế diệt. Lại nữa, vì đoạn trừ nguồn gốc của sanh, nên nói đã tận. Thí như cây bị đốn mất rễ, tuy có nhiều hoa lá... nhưng cũng gọi là đã diệt. Sanh hết cũng như vậy. Lại nữa, đương lai phải tận nên nói sanh tận. Thí như ở trên đỉnh núi ném đồ sành ngói, tuy chưa đến đất nhưng nói ly bể. Sanh tận cũng như vậy, nên nói A-la-hán sanh tận.

Thế nào gọi là lão (già)?

Đáp: Trẻ khỏe giảm mất tuần tự trả qua, bốn đại suy tổn, các hành biến đổi, thân chậm chạp, các chi vụng về, hình sắc, xấu xí, các căn suy yếu, những suy nghĩ, nhận thức, trí tuệ không còn có khả năng nữa, trở về chỗ chết, gọi là Lão. Lại nữa, căn trải qua vi tế hiện khắp trong người vật, thời gian sau mới rõ ràng sự biến đổi, tổn giảm, pháp này gọi là Lão. Vì sao? Vì khi lão đi vào răng thì răng biểu hiện tướng rụng, đi vào da thì da nhăn nhúm, sạm màu, đi vào lông tóc thì biểu hiện tướng bạc trắng, rơi rụng, đi vào bốn đại thì đại yếu ớt, giảm dần, đi vào các căn, thì căn không có sức. Hoặc đi vào thân hình, thì cơ thể xiêu động, đi đứng chẳng vững, hoặc lão đi vào tâm, thì tâm xao nhãng, trí tuệ quên mất. Hoặc đi vào lưng, thì lưng còng xuống, vào cốt thì bước đi chuệch choạc. Sự linh hoạt thời trai tráng đều đã mất, nên hiện ra tướng cũ hoại. Lại nữa lão có hai loại:

1. Sự nương tựa giảm mất.

2. Khả năng nương tựa giảm mất.

Nương tựa giảm mất là các đại như máu, thịt, xương, cốt dần dần giảm mất. Do giảm mất này, có được quả tương tợ; nghĩa là các động tác như: Chạy, nhảy, cưỡi xe, co, duỗi, tới, lui tất cả đều tổn giảm và mất. Khả năng nương tựa giảm mất, nghĩa là các dụng thấy, nghe… của các căn mắt, tai… đều không phân biệt rõ, do không phân biệt rõ, có quả tương tợ, nghĩa là nhớ nghĩ, trí tuệ, ý thức giảm sút, tâm tư siêng năng, sức lực gánh vác… thảy đều giảm mất. Như trong Kinh và Luận tạng, Luận Thập Nhị duyên sanh đã nói rộng. Đó gọi là Lão.

Thế nào là tướng Lão? Thế nào là sự của Lão? Thế nào là duyên của Lão?

Đáp: Giảm sút biến đổi thành thục, hư hoại, cũ kỹ. Đó gọi là tướng Lão.

Sự trẻ khỏe giảm mất, linh hoạt không còn, ghét, xấu tìm đến.

Đấy gọi là sự của Lão, Ấm, Nhập, Giới sanh gọi là duyên của Lão. Lão này là chỗ chứa những ưu, bi… Thế nào là khổ của Lão?

Đáp: Lão này thường phát sanh tướng ghét, xấu của chúng sanh; đã cướp đi sắc đẹp khả ái, sự siêng năng, sự nhớ nghĩ, trí tuệ, dẫn đến trước mắt thần chết. Như phạm vào điều cấm kỵ của vương pháp, bị bắt, cắt mũi, xẻo thịt, đến chỗ người hành quyết. Lão cũng như vậy. Cho nên nói lão là khổ. Lại nữa, chúng sanh biện bác nói căn lực của thân, có khả năng, giữ gìn, suy xét, xả bỏ, nhận thức trí lực không gián đoạn, không ngừng nghỉ, ngày Lão đến gần thì cướp hết những thứ ấy. Như mặt trời khi tỏa nhiệt, năm chỗ che mờ đều đầy ánh sáng, soi chiếu, những vũng nước nhỏ đều cạn khô. Lão cũng như vậy! vì thế, nói lão là khổ. Lại nữa, lão làm cho sắc hình xấu xí cướp đi sự mến yêu; nó trừ diệt sự trẻ, khỏe và sự an vui không bệnh. Mọi sự nhẫn nhịn, trí tuệ, nghĩ nhớ gánh vác, sức lực siêng năng và suy nghĩ, nhận thức đều bị tổn giảm cướp mất, các căn suy nhược, không còn sức lực để sử dụng. Ví như nữ La-sát hút tinh khí của người tức dẫn người vào đường chết. Thế nên, nói lão là khổ. Lại nữa, nhân thể lúc còn trẻ như hoa sen được bà con yêu mến, sắc hình xinh đẹp, vừa lòng mọi người. Lúc lão bỗng nhiên bị biến đổi, dần dần bị thoái hóa, hư hoại, tự tâm không vui, người cảm thấy ghét. Cho nên, nói lão là khổ. Lại nữa, thường hủy hoại thân căn, trí tuệ nhớ nghĩ, nên nói lão là khổ. Do thân suy hoại, nên các cử động đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi, nghiêng ngả… đều không tự tại. Do căn hư hoại nên sự thấy nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc đều không phân biệt rõ. Lại có thuyết nói: Ta nghe không rõ, trở lại như đứa bé! Do nhớ nghĩ kém, nên các việc đã làm không nhớ được, không hiểu rõ những việc từng thấy, đã nói. Không biết được nguồn gốc, nên gọi là lão, giống như hành tướng. Trong bộ Bạt-tư-phất có nói: Hữu vi là các pháp thật có tạm trú; trú ở đây có đổi khác tướng hữu vi, ấy gọi là lão. Như trong kinh dạy: Thân này trú được trăm năm, hoặc nói có bốn thức trụ. Vì nghĩa này nên gọi là lão. Nếu pháp hữu vi mỗi niệm đều diệt thật, thì thanh niên không trưởng thành, cũng không có mạng căn.

Thế nào là bệnh?

Đáp: Thân giới sanh trưởng không bình đẳng, khi sinh trưởng chống trái không bình đẳng, nên gọi là thân bệnh. Nếu mọi lúc đều bình đẳng thì gọi là không bệnh. Như Thế Tôn nhân độ Kỳ Bà mà nói: "Hôm nay, thân giới của Như lai rất bình thường". Lại nữa, tự tánh chống trái lẫn nhau, nếu không biết ân nuôi dưỡng, thân giới như rắn độc ngông cuồng, gọi là bệnh. Lại nữa, bệnh có hai loại. Thân và tâm. Thân bệnh có hai loại: Một là do giới, chống trái không hòa hợp gọi là duyên bên trong sanh khởi. Hai là do ngoài thân bức bách, xúc chạm, gọi là duyên bên ngoài sinh khởi. Thân bệnh là do tên gọi, nguyên nhân chỗ có sai khác, cho nên phần, loại bệnh rất nhiều. Tên gọi sai khác như: Bệnh lậu, ung nhọt, hủi, ung bướu, cảm lạnh, dịch hạch, trương thủng, gió, thần kinh... Nguyên nhân sai khác là: Đàm, phong mật và các bệnh khác, hoặc chỉ một, hai, ba, hoặc chỉ bốn. Như vậy, bệnh đàm… có sáu mươi hai thứ là nguyên nhân chung của bệnh. Chỗ khác nhau như đầu, mắt, tai, cổ, tim, bụng…. Đó gọi là thân bệnh. Nếu giảng rộng thì có bốn trăm lẽ bốn bệnh. Tâm bệnh do vọng tưởng tà dấy khởi. Nghĩa là các thứ lo buồn... Bệnh này cũng có hai loại. Một là duyên cảnh bên trong, gọi là "Hoặc" bên trong. Hai là duyên bên ngoài làm cảnh, gọi là "Hoặc" bên ngoài. Do tên gọi, nguyên nhân, chỗ, nên có khác nhau, nên có nhiều loại. Tên gọi khác nhau: Tham, sân, mạn, si, kiến, nghi, siểm, khúc, khi, cuống... Nhân khác nhau là: Tướng tịnh tướng mất, các tướng có, không… là nhân của tâm bệnh. Chỗ sai khác là sáu trần như sắc v.v... Như kinh dạy: Ái sắc cho đến ái pháp. Trong đây nói rõ, chỉ luận về thân bệnh mà không nói về tâm bệnh. Thế nào là tướng bệnh? Thế nào là sự của bệnh? Thế nào là duyên của bệnh?

Đáp: Khi thân thể bức rứt, khó chịu là tướng bệnh. Khổ, lo là sự của bệnh. Giới gốc không bình đẳng gọi là duyên của bệnh.

Thế nào là khổ của bệnh?

Đáp: Người thông minh ở thế gian, tùy theo khả năng của mình mong muốn có thể thực hành, do bệnh tật nên tất cả đều không thành tựu. Vì trái với mong muốn nên là khổ. Vì thế, bệnh tật thường làm nhân của khổ. Như lửa là nhân của sự cháy, mặt trời là nhân của ánh sáng; lão tử cũng đều như vậy. Vì nhân khổ nên khổ. Lại nữa, thường phá hoại căn bản, nên nói bệnh là khổ. Ví như chuối, tre, cỏ, lau. Lại nữa, sanh cảm thọ đau đớn có thể làm hại mạng sống khiến phải qua đời. Như lửa, thuốc độc ẩn nấp. Cho nên nói bệnh là khổ. Lại nữa, bệnh thuộc về Khổ khổ, chúng sanh trong sự sanh và nối tiếp không thể nhẫn chịu. Ví như voi lạc giữa đám lửa ở cánh đồng. Thế nên bệnh là khổ. Lại nữa, bệnh thì không tự tại. Như người bị bệnh, thì trong bốn oai nghi và tưởng đều không tự tại, thân thể nứt nẻ, không thể, co duỗi hành động v.v... Ví như người gỗ (người máy), cơ quan bị đoạn diệt. bệnh còn có thể dẫn đến xả bỏ thọ mạng. Như người bị bệnh không thể chịu nổi cơn đau, tìm đến lửa, thuốc độc để tự mình xả bỏ thọ mạng! Ví như A-la-hán Đà-ni-kha. Lại nữa, bằng mọi phương tiện không thể chữa trị, mạng sắp đến ắt phải chết. Cho nên nói bệnh là khổ. Ví như Tiên nhân Át-để uống thuốc đoạn trừ bệnh lị. Lại là chỗ chán ghét, bức bách, hủy hoại làm tánh; dấy khởi vô minh lớn mạnh, chủng tử sợ hãi trí tuệ, lấy khốn khổ làm thể, không nơi an ổn, không học được, dễ quên mất; trí tuệ bị suy sụp, nên đối với việc chọn lấy hay xả bỏ đều xa lìa, không biết việc đúng sai, như người ngu. Vì nghĩa ấy nên nói lão là khổ. Như Đại đức Phật-đàmật dạy: "Chư Phật Thế Tôn trong vô lượng kiếp số, sinh trưởng thiện căn, đầy đủ mười lực, có mười tự tại, hàng phục bốn ma, đạt bốn vô úy, thường quán bình đẳng hết thảy mọi phương tiện. Mùa thu bầu trời trong sạch, trăng tròn sáng thật đáng yêu. Thân Na-la-diên bền chắc, mạnh khỏe. Các tướng như vóc dáng, da dẻ ấy, sẽ bị lão làm tổn hoại. Cho nên, nói lão là khổ. Nghĩa này Đức Phật nói ở nước A-la-tỳ, Tỳ-kheo Ưu-đà-di nương theo lời Phật nói kệ:

Già xấu thân ông, quả đáng lo! Xâm đoạt, hoen mờ sắc đẹp yêu Thân ấy, trước đây mọi người thích Giờ đây thay đổi, bởi chính ông..

QUYỂN 2

Phẩm Thứ Ba: PHẦN 2: PHÂN BIỆT KHỔ ĐẾ

Những tướng như răng rụng v.v… không phải đều có khắp. Khổ chẳng phải là không khắp. Vì sao nói lão là Khổ thánh đế?

Đáp: Các hành thay đổi khác nhau khắp trong ba cõi, gọi là lão, nên gọi lão là khổ Thánh đế; ví như thọ mạng chấm dứt. Trong kinh dạy: Tất cả chúng sanh lấy lão làm pháp. Lại nữa, thân chư thiên vi diệu, sự hao tổn, biến đổi, hủy hoại trước sau khác nhau, nhưng chẳng phải là không có lão, nó vi tế nên khó biết, như thân ấy vậy. Lại nữa, sự trú trước sau có khác nhau, tướng hữu vi ấy đầy khắp các hành, nên gọi là lão; như bò có giống và khác. Pháp hữu vi không trụ, mỗi niệm đều diệt; thế sao lại có lão?

Đáp: Tất cả pháp hữu vi trong từng sát na đều diệt, thật sự không có trụ lại. Nương vào tương tục trụ mà gọi là tướng lão. Vì như sông, lửa ngọn đèn, mưa. Sông ấy nước chảy. Cũng vậy, niệm niệm không trú, nên thấy nối tiếp nhau liên tục, không gián đoạn. Người đời cho rằng, sông này nước chảy mạnh, hoặc nói sông dài. Lửa ngọn đèn và mưa cũng vậy. Lại nữa, khoảng giữa của sanh và tử gọi là lão. Vì sao? Vì đầu tiên khởi năm ấm, gọi đó là sanh; sau cùng ấm huỷ hoại, gọi đó là tử; ở khoảng giữa ấy các ấm thay đổi khác.

Vì chữa trị bệnh, vì công cụ gắn kết việc sống, chết nên gọi bệnh là khổ. Hoặc do bệnh nên thân luôn khổ, thì tại sao không trái với lời kệ: "Không bệnh là lợi ích thứ nhất?"

Đáp: Các bệnh lạnh nóng đến, làm cơ thể khó chịu, nên nói thân thường bị các bệnh. Vì thoát khỏi các bệnh nặng như phong hủi … nên có năng lực tu hành, đọc tụng, tư duy và mọi uy nghi tự tại. Vì thế căn cứ ở thân này mà nói: "Không bệnh là ích lợi thứ nhất". Lại nữa, và bị lửa Hành khổ, thiêu đốt, nên cho rằng thân thường bệnh. Bởi có tạm thời lìa khổ, nên nói không bệnh là lợi ích thứ nhất. Lại nữa, vì phải luôn hỗ trợ điều trị, nên nói thường bệnh. Do thân giới có lúc tạm thời điều hòa, do đó mới nói: "Không bệnh là lợi ích thứ nhất". Nếu ở cõi trời không có bệnh, tất cả chúng sanh lấy bệnh làm pháp, thì lời nói này nên sửa đổi?

Đáp: Ấm sanh là khổ đầy khắp ba cõi, thì chính là chư thiên bệnh. Như kinh dạy: Sắc sanh là khổ. Sanh là chỗ nương tựa của các bệnh. Như sắc các ấm khác cũng vậy. Kinh dạy: Tỳ-kheo nếu nói bệnh thì đó là tên gọi riêng khá của năm ấm, cho đến các bệnh như ung nhọt, v.v... Lại nữa, các sư khác nói: Chư thiên khi sắp bị thoái lui thì thân tâm nặng nề chậm chạp, loạn động, đó gọi là chư thiên bệnh. Luận Chánh đạo dạy: Bệnh là quả của nghiệp. Quả Khổ của nghiệp này là khổ hay chẳng phải Khổ Thánh đế.

Đáp: Quả báo của nghiệp này không lìa quả ái. Cho nên nói quả báo của nghiệp, tức là nói quả của ái. Vì tham ái không xa lìa nghiệp, như đèn cùng với nghiệp ánh sáng. Quả của thức, ngã kiến và ái lấy khổ làm tánh nên thuộc về Khổ đế, không trái với lời Đức Phật dạy khổ là bệnh. Kệ nói: Đói là bệnh thứ nhất; thế thì hai cách nói kia tại sao khác?

Đáp: Nếu nói bệnh là khổ, thì bệnh nhẹ vừa nặng đều gồm thâu về Khổ; còn đói thì không như vậy. Cho nên, hai cách nói có khác nhau. Lại vì không thể trị được, nên cho rằng đói là bệnh thứ nhất. Vì sao? Vì khổ của đói khát là khó chữa trị, trị không hết! Như cách ngày phát bệnh sốt rét, các bệnh mắt v.v.. thì không như vậy. Lại nữa, không có điểm dừng; bệnh đói khát này từ khi sanh cho đến lúc chấm dứt không tạm dừng nghỉ. Bệnh khác không như vậy. Lại nữa, bệnh đói khát luôn cần nhu cầu cung cấp, như nhà hư mục dường như không bệnh; hoặc như oan gia giả bộ thân thiện, và khắp mọi nơi. Chúng sanh tìm kiếm thức ăn đều lo khổ bị đói. Như trong phẩm địa ngục đã có dạy. Thế nên bệnh đói là hàng đầu.

Thế nào là tử (chết)?

Đáp: Mạng căn đoạn dứt gọi là tử. Khắp tất cả chúng sanh đều có. Do có hỏa đại có thể tiêu hóa thức ăn, thân giới như con rắn độc luôn chống trái nhau, tánh của nó tận diệt và do đây diệt nên các căn không ăn, tùy theo hỏa đại mà diệt. Tâm và tâm pháp lấy căn làm thượng duyên. Vì căn diệt nên tâm pháp thuận theo mà diệt. Noãn, mạng căn và thức lìa bỏ, thân căn, ngay lúc ấy gọi là tử. Như kệ nói:

Noãn, mạng và ý thức
Nếu lìa bỏ nơi thân
Thây chết nằm ở đất
Như cây khô vô tri.

Lại nữa, sự tương tục của Ấm, giới, nhập v.v.. mà đồng tụ đã được, bị đoạn dứt, đó gọi là tử. Tử có hai loại: Một là tự tánh tử. Hai là hoạnh tử. Tự tánh tử có hai loại. Một do nghiệp hết. Hai do mạng đã chấm dứt. Hoạnh tử cũng có hai loại: Một là tự mình oan uổng chết (chết bất ngờ). Hai là bị người khác gây chết oan uổng. Tử lại có ba loại: Một là chết theo từng sát na. Hai là oan uổng mà chết. Ba là do nhân hết mà chết. Chết theo sát na là: Từ khi nhập vào thai cho đến Kha-la-la mười một giai đoạn, từng sát na diệt không gián đoạn, không ngừng nghỉ, gọi là chết theo từng sát na. Như kệ nói:

Chúng sanh từ đêm đầu
Ái gá trụ nơi thai
Không ngại tự nhiên đi
Một hướng đi không lại.

Kinh dạy: Tỳ-kheo các ông, trong từng sát na sát na có sanh, lão và tử. Đó gọi là chết theo sát na tử. Hoạnh tử là tự mình hay người khác cầm thuốc độc, lửa, đao, gậy gây chết, do đấy mà mạng căn chấm dứt. Đấy gọi là hoạnh tử. Nhân hết mà chết là nghiệp chiêu cảm sống lâu đã hết không còn. Đấy còn gọi là chơn thật tử, chỉ có bậc A-la-hán mới có được, như đèn đã hết. Đấy gọi là nhân đã hết mà chết. Thế nào là tướng tử? Thế nào là sự của tử? Thế nào là duyên của tử?

Đáp: Mạng căn đoạn tuyệt, gọi là tướng tử. Lìa bỏ đạo gốc gọi là sự của tử. Sanh là duyên của tử.

Thế nào là khổ?

Đáp: Và khổ sợ hãi. Người ấy sắp qua đời bị kim cương chết phá vỡ, phải đến phương khác, chẳng hề truy xét, sắp phải xa lìa người thân, bè bạn, người yêu của ta. Nhà cửa thân mạng. Khi bị phá hoại ai là người bảo hộ, vĩnh viễn xa lìa đời sống đã tạo dựng càng thêm sợ hãi. Do đó nói chết là khổ. Lại nữa, lửa sẽ thiêu đốt những người đã từng làm những việc xấu ác, không thích làm thiện, lúc sắp qua đời do nhân phá giới; nên thấy hiện ra tướng trạng cõi ác, sẽ sanh vào, mà dấy khởi nhiều lo buồn, hối hận, thân tâm khổ não, như pháp chết mà kinh đã dạy. Cho nên, gọi là khổ của tử. Lại nữa, trong thai quá khổ; con người lúc ở trong thai thường chịu nhiều khổ, do mẹ ăn uống trái nghịch, đi đứng mệt mỏi, khổ vì bị ép ngặt; tuy chịu nhiều khổ nhưng không mất mạng. Nếu khổ của tử đến, thì bỗng nhiên đoạt mất cái khổ trước, mạng căn liền chấm dứt! Ra khỏi thai cũng vậy, tuy chịu nhiều khổ nhưng không mất mạng. Khổ của tử nếu đến lấy mất sự khổ của sanh này, thì mạng căn cũng bị chấm dứt. Lại nữa, thời trai tráng, thọ nhận sáu trần, không biết nhàm chán, thỏa mãn cùng mọi người thân yêu sống chung chưa lâu; lại do trai tráng không bệnh, dòng họ thế lực mạnh, giàu có tài vật, nên thường say đắm, ngã mạn; đang khi ấy mà chết thì khổ này không gì bằng! Nếu người qua tuổi trai tráng, có đầy đủ vật dụng trong sinh hoạt, nhiều của quý, nhiều lúa gạo, gấm vóc... tất cả thảy đều đầy đủ. Hoặc phải chịu hình phạt nặng của vua, hoặc gặp bệnh nan y, suy nghĩ như vầy: Ta chắc chắn phải chết; tâm ta đã quyết. Nhưng mắt đầy lệ nóng, cổ họng tắt nghẹn thấy người thân yêu, mắt nhìn không chớp! Sống chết sắp từ bỏ, khổ nào đau đớn hơn đây. Lại cái chết như núi lớn bốn phương đều đến, cơ hội ngăn cản là không thể. Lại nữa, tử như kẻ oán có thế lực mạnh, không thể bị khuất phục, ăn nuốt tất cả như miệng ngựa; như lửa thiêu đốt dữ dội tất cả giống như ngày tàn cuối kiếp; tất cả chúng sanh không thể nào thoát khỏi. Như biển nước động người không thể vượt quá đến bờ. Như kim cang, sấm chớp nghiền nát ngọn núi năm ấm. Như gió lớn dữ, quật ngã cây thân. Như Già-lâu-la ăn nuốt ấm rồng. Như quỷ uống vị chết, tính bắt người có sơ hở, lỗi lầm. Như giặc cướp mạnh thường đoạt thân mạng của báu. Như người phạm trọng tội nặng tâm không được an vui. Như vua ác, ra hình phạt nặng thì khó mà thoát được. Như mùa Xuân chắc chắn sẽ đến. Do những nghĩa này nên nói tử là khổ.

Chết buông lung, chết do phá giới chết, chết do duyên sanh. Ba loại này khác nhau thế nào?

Đáp: Tuệ mạng đoạn diệt gọi là chết do buông lung. Giới mạng thanh tịnh là người chết do phá giới. Thọ mạng và căn bị đoạn dứt, nên gọi là chết do duyên sanh. Lại nữa làm thoái lui chánh pháp gọi là chết do buông lung. Mất đi tánh Tỳ-kheo, gọi là chết do phá giới. Phần đồng của tụ thân bị suy tổn, gọi là chết do duyên sanh. Lại chết có hiểu biết và không hiểu biết. Chết có hối hận hay không hối hận. Chết có phóng dật hay không phóng dật. Chết có chấp trước hay không chấp trước. Chết có điều phục hay không điều phục. Chết chỉ có một phần điều phục. Những tướng ấy là thế nào?

Đáp: Phàm phu Thánh và Bồ-tát thực hành pháp thiện, khởi lên nhớ nghĩ chơn chánh, xả bỏ thọ mạng và căn, gọi là chết có hiểu biết. Khác với ở đây, gọi là chết không hiểu biết. Người chết do phá giới, gọi là chết có hối hận. Người chết do trì giới, gọi là chết không hối hận. Do say đắm năm việc, không cung kính tu hành pháp luật và các học xứ, gọi là chết do phóng dật. Khác với ở đây gọi là chết không phóng dật. Đối với cha mẹ, vợ con... dấy khởi tâm luyến ái, tham chấp mà xả bỏ thọ mạng, gọi là chết có chấp trước. Khác với ở đây gọi là chết không chấp trước. Các bậc A-la-hán ở nơi sáu trần luôn điều phục sáu căn, khi xả bỏ thân mạng, gọi là chết có điều phục. Phàm phu làm những việc ác, tâm tán loạn, ngã mạn, gọi là chết không điều phục. Bậc Thánh hữu học xả bỏ mạng căn, gọi là chết có điều phục phần ít.

Năm ấm mỗi niệm tự diệt, chết do người khác hại, làm sao mà thành được?

Đáp: Các ấm thật sự mỗi niệm đều diệt mất, luôn lưu chuyển liên tục, nương vào sự liên tục nên chết do người khác hại thì được thành. Như dựa vào sự tương tục, mà nói nên cho là đèn tắt. Lại nữa, các căn không thể làm việc, ví như bình vỡ. Lại nữa, vì căn thọ mạng hủy hoại. Có người nói: căn thọ mạng chẳng phải từng sát na diệt. Vì sao? Vì nếu mỗi niệm đều diệt, thì thọ mạng cũng không. Chết đúng lúc hay chết không đúng lúc, chết do người khác hại đều không thành tựu, ba loại bệnh cũng không thành tựu. Vì thế, mạng căn chẳng phải mỗi niệm diệt.

Thế nào là oán ghét gặp nhau là khổ?

Đáp: Oán ghét hay thương yêu là không nhất định. Nếu ngoại cảnh là chỗ oán ghét, thì khi chúng tụ hội, cũng là chỗ oán ghét. Ví như người đối với thức ăn của heo. Ngoại đạo cho rằng: Nếu vậy, Khổ đế không thành lập được, là do không nhất định sao?

Đáp: Không vì cảnh trần oán ghét, thân yêu không nhất định mà oán ghét mà gặp gỡ sanh khổ không nhất định. Giống như cảnh giới không nhất định. Nếu sanh thiện thì định, ác cũng như vậy. Oán ghét gặp gỡ là khổ cũng vậy. Lại nữa, do nghiệp ác đời trước mà quả tương tợ, tụ tập, gọi là oán ghét gặp nhau là khổ. Lại nữa, khổ do oán ghét gặp nhau là dựa vào khổ thọ nhận và tích lũy mà nói. Vì sao? Vì tất cả chúng sanh đều vui ở yêu, khổ ở ghét nên thọ nhận gặp gỡ này gọi là oán ghét mà gặp. Lại nữa, vì chung nhóm với bạn ác, có nhiều tội lỗi nên nói oán ghét gặp nhau là khổ. Như kệ nói:

Tụ họp cùng bạn ác
Chẳng tích chứa tội lỗi
Được công đức tối thắng
Lìa không lo buồn, hối.
Tụ họp cùng bạn tốt
Ta nghĩ khó phán quyết
Khi xa lìa là khổ
Lúc hội tụ là quí.

Người tu tập giới thanh tịnh, thấy những lỗi nhỏ thì lo sợ, phạm, nhận những giới ác thì oán ghét, sanh nhiều hối hận, quán xét thấy ác dấy khởi. Người tu tập theo đó, thì oán ghét thường làm khô héo diệt trừ pháp thiện; phiền não thiêu đốt, là oán thù của Thánh. Nhân thường trái nghịch với tâm an tĩnh, nên trong đây nói pháp nghiệp ác tương xứng với quả phiền não tương ưng gọi là oán ghét gặp nhau. Thế nào là tướng oán ghét gặp nhau? Thế nào là sự của oán ghét gặp nhau? Thế nào là duyên của oán tắng hội?

Đáp: Chẳng yêu mến mà tụ hội, đó là tướng. Tâm lo buồn là sự.

Nghiệp phiền não là duyên. Thế nào là khổ oán ghét gặp nhau?

Đáp: Khổ não bức bách làm thể, như làng xóm ác là nhân của khổ. Như muôn thú thấy hổ lang, thân tâm hoảng sợ; như gai độc ở thân. Sân giận là duyên, như thấy được kẻ thù xưa, không có nhân an lạc. Như truyện kể về vua Vô Ưu. Lại nữa, phẩm loại của nó tương ưng nhiều loại khổ trùng lặp, có thể hại thân mình, như truyện xưa của Tôn giả A-nan. Chẳng phải thương yêu hợp nhau mà sanh ra nhiều mong cầu, tìm cầu mong muốn là nhân duyên, sanh ra nhiều loại khổ. Như kệ nói: Ái làm khổ người cầu tìm. Lại nữa, do bạn ác, nên sanh nhiều sợ hãi; như nai thấy người thợ săn; như người nằm, ngồi ở giường báu được áo trời che phủ, nhưng lấy kim sắt nung đỏ đấm chích vào thân, thâm tâm đau đớn, sanh nhiều khổ nạn. Thế nên gọi là khổ do oán ghét gặp nhau. Nếu các loại oán ghét tụ hội vĩnh viễn không thể lìa nhau, nghĩa này ắt phải có?

Đáp: Cảnh giới trong một thời gian, tánh và dụng liên tục nhau, luôn nối tiếp nhau, nên biết các pháp thường hội tụ. Oán ghét gặp nhau ở đây có nghĩa khác, nên vấn nạn không thành được.

Lại nữa, khổ thọ gọi là oán ghét, thọ này không lìa tâm, nghĩa như thế là thuận với khó khăn?

Đáp: Như trong kinh dạy: Tóm thâu có nhiều nghĩa, hội tụ cũng vậy. Như Trì tán kệ nói:

Tâm một phần hay đủ,
Tương ưng như dụng Đạo
Loại xứ và tự tánh
Kinh nói đó thuộc pháp.

Tóm thâu có nhiều loại hội tụ cũng như vậy. Là cùng một cảnh không lìa nhau, đối nhau chấp giữ nhau v.v...

Vì thế, vấn nạn này thuận hay nghịch đều được.

Thế nào thương yêu phải chia lìa là khổ?

Đáp: Cảnh trần, hoặc là chúng sanh thân yêu hoặc chẳng phải là chúng sanh; mà xa lìa chúng, gọi là thương yêu phải xa lìa. Lại nữa, trai tráng không bệnh hoạn, sống lâu, hình sắc giàu sang, tự tại, người thân, bè bạn... mà bị xa lìa, cũng gọi là thương yêu bị xa lìa. Lại nữa, thuộc về quả báo của nghiệp thiện, sáu nhập tiếp xúc bị thoái mất, đấy gọi là thương yêu phải xa lìa, như cõi trời bị thối lui. Lại nữa, thọ vui bị phá hoại cũng gọi là thương yêu bị xa lìa. Vì sao? Vì thọ vui là chỗ yêu thương chấp đắm, do yêu chấp này, nên đối với cảnh của các sắc cũng dấy khởi yêu chấp; làm bạn, của thọ vui, cho đến tưởng, hành, thức cũng là chỗ yêu chấp. Nếu bàn luận về nghĩa chơn thật, thì chỉ thọ vui bị hoại, mới gọi là thương yêu mà xa lìa.

Thế nào là tướng thương yêu xa lìa? Thế nào là sự của thương yêu xa lìa? Thế nào là duyên của thương yêu xa lìa?

Đáp: Xa lìa các thứ thương yêu là tướng. Tâm buồn, thương là sự.

Mất sự gặp gỡ là duyên. Thế nào là khổ của thương yêu xa lìa?

Đáp: Do thương yêu bị xa lìa, nên chúng sanh bên trong lo buồn, như cây giữa trời, lửa ở đồng trống thiêu đốt. Kinh dạy: Chư thiên tho-ái đọa, khổ xa lìa sự thương yêu còn kịch liệt hơn khổ vào địa ngục. Như truyện đời trước của Mục Liên. Lại nữa, nếu chúng sanh nghi ngờ, nghe, thấy, biết, nhớ nghĩ về những gì thương yêu mà phải xa lìa, thì phát sinh khổ buồn thương. Vì thế, gọi là khổ xa lìa sự thương yêu. Lại nữa, cha mẹ, vợ con, yêu thương và quyến thuộc là nhân của sự xa lìa, như tiền của bị mất tâm buồn rầu, nuối tiếc; như dính mắc vào quỷ dãy dụa, nói nhảm nhí, gào khóc, mê muội, tuyệt vọng, quây cuồng, như người sắp chết. Như vua mất ngôi vị, chịu nhiều khổ não, bức bách. Như kẻ không biết, không thấy, mê loạn, ngậm câm. Như thuyền bị thủng lo sợ chìm xuống đáy biển; nên đều gọi là khổ thương yêu phải xa lìa. Lại già... tụ họp tức khổ oán ghét phải gặp. Thời trai tráng ra đi, tức khổ thương yêu phải xa lìa.

Lại nói oán ghét gặp, thương yêu phải chia lìa. Sao không phải nói lặp lại?

Đáp? Các thứ lão tụ hội, trai tráng lại phải xa lìa. Hai cái khổ này bậc A-la-hán cũng có, chỉ không có ghét mà gặp. Như kệ:

Tất cả đều xa lìa
Oán ghét và thương yêu
Tâm không lo, không nhiễm
Vị này đạt Niết-bàn.

Vì nghĩa này nên không lặp lại. Lại nữa, do các thứ lão, bệnh.... không phân biệt khổ chung với bậc A-lahán, như kệ trước đã nói: "Già xấu thân ông quả đáng lo!". Khổ do oán ghét gặp nhau và thương yêu xa lìa là do phân biệt mà dấy khởi đều thuộc khổ của tâm. Người chưa lìa xa dục, tức có khổ này. Lại do các thứ lão, bệnh... gọi là khổ nương vào bên trong. Ghét nhau mà gặp và thương yêu xa lìa gọi là nương vào khổ bên ngoài, cho nên chẳng phải nói lặp lại.

Thế nào cầu không được là khổ?

Đáp: Nghĩa là khổ xa lìa cùng với khổ không được tụ hội. Tức muốn được vui vẻ mà không xa lìa, mong cầu điều này không được, gọi là cầu không đạt được là khổ. Lại nữa, cùng với các thứ khổ sanh, lão, bệnh, không mong cầu gặp nhưng không thể được, pháp nhất định sanh khởi, nên gọi cầu không được là khổ. Lại nữa, cầu oán ghét không gặp, thương yêu chớ xa lìa lại không thể được, nên gọi cầu không được là khổ. Ngoại đạo cho rằng: Khổ này có trước hai khổ đã trình bày, vì sao lặp lại?

Đáp: Chẳng phải là yêu thích mà tụ họp, nên gọi oán ghét lại gặp nhau. Chỗ thương yêu phân ly gọi là thương yêu mà xa lìa. Nay cầu mong không gặp oán ghét, thương yêu không xa lìa, trái ngược hai loại trước là khổ, nên chẳng phải nói lặp lại. Lại nữa, trước có oán ghét, nay chưa xả bỏ thì cùng với sự oán ghét gặp lại nhau, gọi là oán ghét gặp nhau. Trước có yêu thương, nay chưa xả bỏ, thì cùng với sự yêu thương mà không được gặp, gọi là thương yêu mà xa lìa. Chưa được, chưa xả bỏ, thì chỗ ưa thích mong cầu không được, gọi cầu không được là khổ. Do thiết lập ở ba đời nên không là nói lại. Thế nào là tướng cầu không được? Thế nào là sự của cầu không được? Thế nào là duyên của cầu không được?

Đáp: Mong cầu không được, trái nghịch với ý muốn, là tướng. Lo buồn, khao khát là sự. Hiện tại không có công dụng, đời trước không làm thiện duyên. Thế nào cầu không được là khổ? Như cái bình bằng ngọc như ý bị vỡ, sự mong cầu các vương vị đã bị mất. Lại nữa, nhân duyên của khổ là ở chỗ mong cầu năm trần, bởi vì không thể muốn bị lửa đốt. Như Thuật Bà Già v.v… thiêu cháy thành tro, nên gọi là cầu không được là khổ. Lại nữa, trong ba thời thường sanh các khổ. Chỗ mong cầu lợi cho ta mà không được, nay không được, quá khứ cũng không được, do điều này mà sanh các khổ như lo buồn... nên gọi cầu không được là khổ. Cảnh trần, mạng sống tức là khổ, đến khi được cũng khổ, cầu không được sao gọi là khổ?

Đáp: Vì không nhất định, được hay chưa hẳn là khổ. Vì sao? Vì nếu được tín căn không gọi là khổ. Lại là chỗ y chỉ của tâm chán ghét buồn rầu. Người cầu không được thì sinh mong cầu chán ghét buồn não; được năm lợi ích của trần, thì không như vậy; là tưởng về vui. Lại nữa, như thân trai tráng về sau sẽ già nên nói là khổ. Như vậy, được lợi năm trần mà về sau thất bại, nên nói là khổ. Như chấp giữ ấm là chỗ y chỉ của khổ, nên nói là khổ, được lợi của năm trần nói là khổ, nghĩa cũng như vậy.

Do nhân duyên gì mà cầu không được?

Đáp: Vì nhân duyên không đủ. Ví như hạt giống, nếu không có duyên, thì mầu không được sanh. Do nhân keo kiệt, ganh tị, tà kiến, sân giận, phá hoại; ở đời trước nên ngày nay cầu không được. Như truyện đời trước của Tỳ-kheo Uất-đa-la. Do nhân pháp xấu ác, nên mong được an vui lìa xa khổ nạn, nhưng cầu không được. Ví như chúng sanh ở trong địa ngục A tỳ mong cầu không được, nói tóm lược, có ba nhân: Một là không có nhân thiện đời trước; hai là tự mình không có công đức; ba là người khác không thương yêu kính mến. Vì sao nói tóm lược năm ấm là khổ?

Đáp: Vì khổ tóm thâu cả ba thời: Đầu, giữa và sau cùng, nên sanh là khổ ban đầu; chết là khổ cuối cùng; các thứ lão, sầu, lo... gọi là khổ chặng giữa. Lại nữa, vì thâu tóm khổ có gián đoạn. Khổ có gián đoạn là các thứ lão, bệnh, tử. Khổ không gián đoạn là luôn tùy thuận tất cả các phần hữu. Lại nữa vì thâu nhiếp tất cả tự tướng, vô biên các khổ, nên nói năm thủ ấm là khổ thuộc tướng chung. Vì sao? Vì các khổ khác nhau rất nhiều. Giả sử Như lai trong vô lượng kiếp, nói rộng về các tướng khổ cũng không hết. Lại nữa, các khổ sanh v.v… như lửa, năm thủ ấm như củi, như kinh Thiêu nhiên đã nói. Lại nữa, năm thủ ấm là nền tảng của các khổ sanh v.v... Vì sao? Vì khổ của thủ ấm sanh gọi là thủ ấm sanh. Khổ của sự đổi khác, gọi là thủ ấm lão. Khổ của phiền não bức bách, gọi là thủ ấm bệnh. Khổ của hủy hoại, gọi là thủ ấm tử. Khổ chẳng phải thương yêu mà tụ họp, gọi là thủ ấm oán ghét mà gặp. Khổ thương yêu xa lìa, gọi là thủ ấm thương yêu mà chia lìa. Việc mong cầu mà không vừa ý, gọi là cầu mà không đạt được. Nghĩa tóm lược thế nào?

Đáp: Có ba loại. Một là nhiều. Hai là khác. Ba là một nơi... nghĩa là việc phân tán chủng loại khắp ba đời, không giống nhau, thâu tóm tại một nơi, nên gọi là tóm lược. Lại nữa, tóm lược có hai loại. Một là tóm lược về nghĩa. Vì một nghĩa bao gồm nhiều nghĩa. Ví như vật báu chân thật. Hai là tóm lược về danh, cú, kệ, có thể thâu gồm nghĩa tóm lược như đồ đựng vật báu chân thật. Như vậy, khổ có nhiều tên gọi, nhiều nghĩa nhưng chỉ dùng một nghĩa, một tên gọi thâu gồm tất cả, nói hết được mọi thứ nên gọi là tóm lược.

Hỏi: Tướng các ấm thế nào? Nghĩa của ấm thế nào? Các ấm có cùng một hành tướng? Vì sao không thành lập một ấm? Hai loại ấm và thủ ấm là thế nào?

Đáp: Đúng như những gì đã hỏi; bàn luận về năm ấm thì nơi phẩm Tư trạch đã phân biệt rộng.

Hỏi: Vì sao gọi thủ ấm là khổ mà không nói thẳng ấm là khổ? Đáp: Muốn phân biệt đế có bốn tướng, nên mới nói thủ ấm là khổ.

Nếu nói thẳng ấm là khổ, thì hai đế không thành. Vì sao? Vì ấm của minh... năm ấm như giới, định v.v… đều thành Khổ đế.

Hỏi: Nghĩa của thủ ấm là thế nào?

Đáp: Ái dục là nghĩa thủ, ấm này là chủ thể sanh thủ. Vì đối tượng sanh của thủ cùng với thủ tương ưng. Đối tượng theo đuổi của thủ là chủ thể có thủ, nên gọi là thủ ấm.

Hỏi: Quán một khổ; theo đó thì có thể thông suốt cả Khổ đế, thì cần gì phải phân biệt rộng tướng của các khổ?

Đáp: Hành giả cần phải quán xét rộng các khổ để sanh tâm nhàm chán xa lìa. Sanh tâm nhàm chánh rồi mới có thể quán khổ chung, được đi vào chánh quán. Vì công dụng này, nên cần giảng nói rộng. Lại nữa, vì phân biệt về khổ của sanh lão... để phát sanh trí tư duy, chọn lựa. Khi được trí này rồi, thì quán xứ nghĩa của một khổ, trí vô phân biệt quyết định; cũng nhờ quán đây mà được sanh khởi trí này, vì cảnh bình đẳng, không mệt dụng công, tự nhiên mà thông suốt, không có giác, quán đó gọi là trí thứ tám. Lại nương theo cảnh pháp mà sanh, như thí dụ về voi báu.

Hỏi: Trong kinh nói tên gọi là lạc (vui) tức là y chỉ vào lạc. Vì sao nói thủ ấm là khổ? Đáp: Như kệ nói:

Chấp đối trị là lạc, Dục điên đảo nên lạc. Kinh nói đó là khổ

Chánh kiến nên không lạc.

Nghĩa này đã giảng rộng trong luận về năm ấm. Đối với khổ nhẹ ít và trong đối trị khổ, dấy khởi tưởng mà lạc, thật ra chỉ là khổ.

Hỏi: Trong kinh này tại sao nói tóm lược; còn kinh khác giảng thuyết rộng về sắc là khổ.

Đáp: Đối với bậc trí tuệ đa văn, nên nói tóm lược thủ ấm là khổ. Nếu người không có văn tuệ thì giảng nói rộng sắc, thủ... là khổ. Như vậy với người thấy biết rõ thì nói tóm lược, còn người chưa hiểu cần giảng thuyết rộng.

Hỏi: Vì sao nói thủ ấm là khổ?

Đáp: Vì nhiều khổ bức bách. Như người ở nơi lầu bằng bảy báu, được trang hoàng bằng năm trần khả ái. Tâm thường vui mừng hoan lạc; hễ chạm vào gai nhỏ liền sanh Khổ thọ, quên mất niềm vui trước, như nếm phải vị chua, mặn. Lại nữa, vì khổ rất nhiều, như: lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tắng hội, cầu bất đắc, ưu bi khổ não, cầu được mà mất, các khổ hãm hại… Trong thủ ấm thì khổ nhiều nhất mà vui lại ít! Giả dối như nước giếng bị hỏng.

Hỏi: Nói tóm lược có tám thứ khổ nghĩa nó thế nào? Đáp: Vì là chỗ nương tựa của các khổ nên sanh, gọi là khổ; thường làm cho biến đổi cho nên lão gọi là khổ; thường làm thân bức rứt khó chịu cho nên bệnh gọi đó là khổ; thường tiêu diệt các căn cho nên tử gọi là khổ; chẳng phải thương yêu mà gặp nhau cho nên oán tắng hội, gọi là khổ; yêu thương mà xa lìa cho nên ái biệt, gọi là khổ; mong cầu mà không được cho nên cầu không được gọi là khổ, tướng của các khổ, này cố giữ lấy ấm gọi là khổ. Ví như bãi tập bắn tên. Lại nữa, hữu chính thật là khổ, hữu tức là sanh. Sanh là pháp thế nào? Đó là danh và sắc. Sắc bị lão, bệnh, tử hủy hoại. Danh, thì bị các khổ về biệt ly, oán ghét lại gặp, cầu không được hủy hoại. Thủ ấm bị các khổ làm não hại. Lại nữa, lão bệnh tử là thân khổ, vì không phân biệt... Ba thứ khổ như ái biệt ly là tâm khổ. Do phân biệt dấy khởi. Sanh và thủ ấm là khổ thuộc cả thân và tâm. Lại nữa, do sanh mà nói là hành khổ; do tử mà nói hoại khổ, còn năm loại khác gọi là khổ khổ. Ba loại khổ này lấy thủ ấm làm nhân. Lại nữa, hữu thủ ấm dấy khởi gọi là sanh, xuất hiện trong sáu đường, thân biến đổi thành thục gọi là lão, do gầy yếu tiều tụy. Thân giới mất quân bình tăng trưởng gọi là bệnh, vì làm cho trái nghịch. Lúc qua đời, năm ấm bị hủy hoại gọi là tử, vì lìa bỏ đạo (cõi) gốc. Tiếp nhận người chẳng yêu thích, vì cùng tự hội gọi là oán ghét mà gặp; vì tương ưng với nghịch ý. Tiếp nhận người thương yêu, vì xa nhau, gọi là thương yêu phải lìa xa. Không cùng chung với người thương yêu. Mong cầu chẳng toại nguyện, gọi là cầu không được, như nguyện không thành. Là nền tảng của tất cả khổ, nên thủ ấm gọi là khổ, vì các khổ tự sanh chứ không có dụng công. Đến đây, Pháp sư Bà-số-bạc-ma đã phân biệt Khổ đế xong.

Phẩm Thứ Tư: SUY XÉT VỀ TẬP ĐẾ

Đã luận về Khổ đế rồi, sao phải theo thứ lớp giảng nói tiếp về Tập đế? Tập là nghĩa thế nào? Thế nào là tự hỏi và đáp? Khát ái là thế nào? Thế nào là tướng khát ái? Thế nào là tự khát ái? Thế nào là duyên của khát ái? Khát ái, là nói về nghĩa trội, vì sao khát ái là Tập? Lời nói kia tự nó đã đầy đủ? Nói khát ái rồi, thì cần gì nói khả năng chiêu cảm hữu sau? Khả năng chiêu cảm hữu sau nghĩa đó thế nào? Khả năng chiêu cảm hữu sau tướng ham thích dục quyết định và tùy theo mỗi nơi mà ái tham đắm, vì sao nói nhiều loại? Nghĩa của hỷ dục là thế nào? Nói kỹ lại về ái tham chấp các nơi là thế nào? Các Hoặc khác có thể làm tướng của Tập, sao chỉ nói khát ái là Tập? Do đâu chỉ nói khát ái là Tập mà không nói các nghiệp? Nếu tham ái... cũng là Tập của nghiệp phiền não sao chỉ nói là Tập của khổ? Ái của diệt Vô minh, duyên quán vị, duyên với ba thọ; chúng có gì khác? Đã nói bốn đại, xúc, danh sắc là nhân của các ấm, lại nói khát ái là nhân? Hai cách nói này tại sao không chống trái nhau? Khát ái, vô minh, ngã mạn, nghiệp thực đều là nhân của khổ. những thứ này tướng khác nhau thế nào? Hỷ dục và dục, nghĩa này là thế nào? Rừng dây v.v… là tên khác của tham, nghĩa này là thế nào?…

Ông hỏi: Nói Khổ đế rồi, vì sao phải tiếp theo nói về Tập?

Đáp: Tâm đã chắc chắn tin quả, nhưng chưa biết tin nhận; muốn cho biết tin nhân nên tiếp theo giảng nói Tập để hiển bày nhân duyên tuỳ thuộc của khổ đế. Lại nữa, vì người tiếp nhận giáo hóa mê muội về mười hai nhân duyên, nên giảng nói Khổ đế nương vào nhân duyên sanh. Lại nữa, Khổ đế giống như các cơ quan, tùy thuộc vào nhân duyên, nên tự tánh suy yếu, không có tướng của ngã. Lại nữa, thế gian bị vòng tham ái kiên cố trói buộc, không thể thoát khỏi lao ngục sanh tử, nên phải hiển bày chủ thể và đối tượng của trói buộc. Lại nữa, có các chúng sanh suy nghĩ như vầy: Khổ đế này không có đầu đuôi, khó có thể trừ diệt; rồi chấp vào đó nên không thật siêng năng tu tập. Vì thế Đức Phật dạy: "Khổ tuy không có đầu mối, mà do nhân duyên sanh nên có thể diệt trừ. Ví như chủng tử. Do đó, phải thật siêng năng tu tập

Ông hỏi: Nghĩa Tập là gì?

Đáp: Bình đẳng, tích tụ, sinh khởi đó là Tập. Nếu lìa ba nghĩa này thì không thành nhân. Lại nữa, khiến cho dấy khởi suối nguồn căn bản của hữu, khả năng thành lập, khả năng hiện bày nhân duyên ngăn chận, đó gọi là nghĩa Tập.

Ông hỏi: Thế nào là tự hỏi và đáp?

Đáp: Vì có các đệ tử không hiểu, tâm định lo sợ, muốn giữ gìn ba việc này, nên Đức Phật tự hỏi và trả lời để phá trừ nhân tà trở ngại, hiển bày thành lập chánh nhân. Có các dị chấp cho rằng: Phạm vương, Tự tại và trời người thời, tánh bốn đại, không, làm hư v.v… là chánh nhân. Vì để phá trừ chấp tà, muốn hiển bày chánh nhân, nên Đức Phật tự đáp. Lại nữa, về Mười hai nhân duyên, trong các kinh cũng đã giảng nói rất nhiều loại Tập. Có các đệ tử chưa biết trong kinh này quyết định lấy pháp gì làm Khổ Tập. Cho nên, Đức Phật tự hỏi đáp và vì muốn cho đạt được trí lực quyết định. Lại nữa, vì trí tuệ bị che lấp, tiếp nhận sự giáo hóa không thông suốt, nghĩa trong giáo lý tóm lược, vì muốn khai mở sự hiểu biết, nên Đức Phật tự hỏi và đáp. Lại nữa, vì trí tuệ tối thắng nên tiếp nhận giáo hóa với nhiều giác quán, không chấp giữ muốn cho trí tuệ vững chắc; nên Đức Phật tự hỏi và đáp. Lại nữa, vì trí tuệ hiểu rõ, tiếp nhận sự giáo hoá, muốn cho đạt được trí lực quyết định nên Đức Phật tự hỏi và đáp. Lại nữa, vì các đệ tử có trí phân biệt, khiến cho được hiểu rõ, như đốt đèn sáng, nên Đức Phật tự hỏi và đáp.

Ông hỏi khát ái là gì? Tướng, sự và duyên của khát ái là gì?

Đáp: Các chúng sanh luôn thấy công đức của pháp hữu vi, nương vào những hành trang hữu dụng tâm không biết chán đủ, nên gọi là khát ái; như uống nước mặn, như người bị nắng mùa hạ chiếu rọi làm cho khô khát bực bội, bèn tìm kiếm nước khắp nơi, đến uống nước biển mặn, có uống đi nữa cũng không hết khát. Như vậy phàm phu ở thế gian thường vì hành trang của sống, chết mà yêu thích ham muốn, thiêu đốt tâm mình, phân biệt tà, vọng khiến sanh nóng bức, kháo khát một lòng mong cầu khoái lạc của năm dục; Mắt, tai, thân thức và tâm luôn nhớ nghĩ, gìn giữ những vật đã thọ dụng; đã được hay chưa được nhưng không bao giờ nhàm chán. Cho nên nói pháp này gọi là khát ái. Lại nữa, không biết chán đủ cũng gọi là khát ái; như lửa thiêu đốt những vật có được như cỏ, củi, hoa quả, tía tô, sáp ong… biết thế nào cho chán đủ..! Phàm phu ở thế gian bị tham ái đốt cháy tâm đối với năm pháp trần tốt đẹp, thượng hạng trong cõi Trời, Người mỗi niệm muốn thọ dụng mà không biết thỏa mãn, như vua Đảnh Sanh. Lại nữa, tánh, thấy và loại của khát ái có riêng khác, mỗi thứ chia làm hai loại. Khác về loại là đối với trong năm ấm bèn dấy khởi ngã chấp, ngã ái; gọi là tham duyên với loại bên trong; đối với loại chẳng giữ lấy thì dấy khởi chấp ngã sở tức hành trang nơi ái gọi là tham duyên loại bên ngoài. Khác về thấy là dựa vào nhân thấy "Có" mà mong cầu có đời sống tốt đẹp nên gọi là nương vào ái "Có"; thấy "Không có" thì mong muốn ưa thích ta đoạn gọi là ái "Không có". Khác về tánh. Nếu tham ái, điên đảo dấy khởi che giấu làm sự nghiệp, giống như mây giăng bủa, thì gọi là tham ái ở tâm trên; tùy miên theo đuổi làm sưng hiệp giống như chuột độc thì gọi là ái ở tâm xa lìa.

Lại nữa, nhân, nương tựa duyên và nghiệp của khát ái có sự khác biệt nhau, mỗi thứ chia làm ba loại; Khác về nhân là mong cầu, ưa thích cảnh trần chưa từng được; ái này gọi là nhân của khổ tìm cầu; đối với cảnh trần đã được thì tâm tham chấp; ái này gọi là nhân của khổ chấp giữ; đối với cảnh trần đã mất thì tâm lo buồn, ái này gọi là nhân của khổ lo buồn, bức rứt bên trong. Khác về nương tựa là chúng sanh, xứ sở và vật tiếp nhận. Chúng sanh là, thích được các ấm của vị lai, mong muốn được sanh ra, gọi là nương tựa chúng sanh mà ái. Xứ sở là, thích các đường trong ba cõi, thường mong cầu những nơi ấy, gọi là nương tựa xứ sở mà ái. Ưa thích những cảnh trần tốt đẹp như sắc, thanh, hương, vị, xúc; mong muốn để thọ dụng, gọi là nương tựa vật tiếp nhận mà ái. Khác về duyên là tham ái thường tạo duyên nghiệp, phiền não, Khổ và duyên với ba thứ này mà dấy khởi, khác về nghiệp nghĩa là bình đẳng, không bình đẳng, và liên tục khát ái. Ái bình đẳng là nương vào đạo lý để tìm cầu thọ dụng, gọi là ái bình đẳng. Trái ngược đây gọi là ái không bình đẳng Ái liên tục là tùy miên, tham ái từ vô thủy theo sát nhau, gọi là ái liên tục.

Lại nữa, khát ái có chấp thủ, đạo (cách) đối trị và hành trạng riêng khác, mỗi thứ chia làm bốn loại. Khác về chấp thủ: trong cõi Dục ham thích dục, mê đắm, khát ái tham chấp, gọi đó là Dục thủ. Đối với ngã Ngữ, Kiến, giới chấp trước cũng vậy. khác về đạo đối trị, nghĩa là tùy thuộc tánh của bốn quả Thánh mà đối trị. Khác về hành trạng là bốn sự: ăn uống, y phục, chỗ nằm ngồi, thuốc thang.

Lại nữa, khát ái dựa vào sai khác của ba thọ, nên phân thành năm loại. Trong thọ lạc có hai loại ái; đó là ái tụ tập và ái việc không xa lìa. Trong thọ khổ cũng sinh hai loại; đó là ái việc không tụ hội và ái việc xa lìa. Trong thọ xả thì dấy khởi vô minh ái. Lại nữa, khát ái do sự khác nhau, nên chia ra làm năm loại: Một là chưa được thì cầu cho được, lấy mong muốn làm sự. Hai là sanh khởi mong muốn ưa thích vật đã tìm cầu rồi làm sự. Ba là tìm cầu được rồi thì phát triển làm sự. Bốn là khi đã phát triển rồi thì gìn giữ làm sự. Năm là đã giữ được rồi, sau đó bị phá mất, thì lo buồn làm sự. Lại nữa, khát ái dựa vào năm ấm nên có năm. Dựa vào sáu căn nên có sáu. Dựa vào sáu căn, mỗi căn đều có ba thọ, nên thành mười tám. Lại nữa, dựa vào kiết sử và xa lìa kiết sử nên có ba mươi sáu thứ. Như vậy, tham ái là cây, tùy miên là gốc, Ngã ái là hành trang (phân nước…), thọ là chi thân. Tham ái nơi ba cõi là tàn cây cao lớn. Sáu ái tích tập là cành. Ái hành là lá sum suê. Một trăm lẻ tám ái là hoa. các thứ sanh v.v... là quả ác. Như đây, thì khát ái này là nhân tích tập của khổ, là nhân sanh khổ; gọi là khát ái; tức những gì trong đấy cần phải biết.

Tướng khát ái là tướng trạng tâm ham thích. Sự là, mười một loại như: không biết chán, đủ, v.v... Duyên là, xét công đức của pháp hữu vi làm duyên.

Ông hỏi: Khát ái nói ở đây, nghĩa đã trội hẳn, vì sao khát ái chính là Tập? Lời nói kia tự nó đã đầy đủ rồi?

Đáp: Khát ái có nhiều loại. Nếu có chiêu cảm đời sau thì mới quyết định là Tập, ngoài đây thì không được chọn là Tập. Nếu không như vậy thì nghe chánh pháp… cũng phải là Tập. Lại nữa, khát ái có khả năng chiêu cảm đời vị lai, nếu không thể chiêu cảm thì chẳng được chọn là Tập. Lại nữa, khát ái ấy nếu tương ưng với ham thích dục, thì gọi là Tập; nếu không như vậy thì chẳng được chọn là Tập. Lại nữa, vì muốn giản lược bớt pháp tương tợ Tập đế nên nói là khát ái. Lại nữa, nắm giữ là để hiển bày chứng minh về lượng. Như khổ ở đời hiện tại, do khát ái sanh, ấy là chứng minh về lượng đã có được; nên biết quá khứ khổ đã sanh thì không xa lìa khát ái, như kinh trưởng giả Úc-già đã dạy.

Ông hỏi: Đã nói khát ái rồi, cần gì nói khả năng chiêu cảm hữu sau?

Đáp: Khát ái ở đây nói chưa rõ, cho nên trình bày khả năng chiêu cảm hữu sau để nói rõ khẳng định về khát ái. Nếu chỉ nói khát ái là Tập, thì A-la-hán làm cạn nước ái… cũng phải là Tập. Nếu có làm cạn ái thường làm chỗ y chỉ diệt trừ khát ái, thì đó cũng phải thành Tập.

Ông hỏi: Khả năng chiêu cảm hữu sau của Tập, nghĩa ấy là thế nào?

Đáp: Luôn làm cho thức ấm v.v… bám vào hữu sau. Vì sao? Vì ngã và ngã sở là nơi để chấp. Như vậy, khát ái thường làm cho thức v.v… chấp vào nơi này. Như bụi nhỏ bám vào áo ướt, hạt giống bám vào ruộng ướt. Lại nữa, nó còn có khả năng sanh ra hữu ở vị lai, như mẹ sanh ra con. Lại nữa, nó có thể làm thức ăn ở đời vị lai; như Thức thực, Xúc thực. Lại nữa, vì khả năng dẫn dắt, khả năng tham ái nên nói có khả năng chiêu cảm hữu sau. Lại nữa, có các Luận sư kì cựu, trước đây giải thích lời dạy của Phật: Khát ái có bốn nhân duyên, thường chiêu cảm hữu sau. Một là có khả năng khiến cho duyên nhau, như kinh dạy:

Tùy miên, tham ái chưa đoạn trừ được, thì khổ này thường sanh liên tục, như mạch nước trong hồ. Hai là khả năng thâu tóm các đạo. Như kinh dạy: "Nếu Tỳ-kheo đối với cảnh giới của sắc v.v… mà sanh khởi tham dục, ái chấp trước, thì thức tùy dựa theo sắc mà trụ; thọ tưởng, hành cũng như vậy. Ba là khả năng trói buộc, khả năng nối tiếp. Như kinh dạy: Có khả năng trói buộc, liên tục không rời bỏ cảnh, khiến ba hữu ở đời vị lai được sanh. Bốn là khả năng khiến thọ sanh. Như trong kinh dạy: Ở nơi có bốn việc ăn này, nếu có ái dục, danh sắc liền sanh. Ông hỏi: Khả năng chiêu cảm hữu sau, tướng ham thích dục quyết định, tùy theo mỗi nơi mà ái tham đắm, vì sao lại nói nhiều loại?

Đáp: Ba câu này đều là tên khác của khát ái. Ví như tay người gọi là Át-tất-đa cũng gọi là Kha-la, cũng gọi là Ba ni. Lại nữa, cảnh giới bè bạn của quả cũng riêng khác, thế nên nói nhiều loại. Vì khả năng cho quả ở vị lai nên nói khả năng chiêu cảm hữu sau. Vì ham thích dục là bạn, nên mới nói tướng ham thích dục quyết định. Vì tùy thuận chấp giữ các cảnh, nên nói tùy theo mỗi nơi mà ái tham đắm. Vả lại, có pháp chỉ chiêu cảm hữu sau mà không thuận theo với tướng hỷ dục, như tùy miên, tham ái. Có pháp chỉ thuận theo hỷ dục mà không thể sanh hữu, như không đọa vào tham của cõi. Vì thế mà nói đủ nhiều tên khác nhau.

Ông hỏi: Nghĩa của hỷ dục là thế nào?

Đáp: Hỷ là đối với những gì bồi đắp (hành trạng) của hữu, tâm sanh ra sự an lạc, gọi là hỷ lạc, tâm sanh dục gọi là hỷ dục; ví như sắc dục. Lại nữa, hỷ (vui mừng) các loại dục gọi là hỷ dục, thí như bình báu. Lại nữa, lạc này có nhiễm gọi là hỷ, tâm đắm trước gọi là dục; kết hợp hai điều này gọi là hỷ dục, thí như danh sắc. Lại nữa, cùng hỗ trợ cho nhau mà sanh, gọi là hỷ dục; như quả hạt Am-la...

Ông hỏi: Nghĩa của tương tùy (tùy thuận nhau) là thế nào?

Đáp: Nghĩa cùng chung gọi là tùy, Tùy miên này cùng với tâm trên làm bạn, có thể sanh hữu sau. Lại nữa, ái cảnh bên ngoài cùng hiện hành, nên nói ái bên trong cùng thuận theo hỷ, thí như ái thủ. Lại nữa, tùy nghĩa là đắc địa. Lại nữa, bộ Phân biệt nói: Tương tùy có bốn loại: Một tương tùy cảnh giới; hai là tương tùy tương ưng; ba là tương tùy gián tạp; bốn là tương tùy duyên khởi. Tương tùy cảnh giới là như Kinh dạy: Nếu người khởi giác quán thì phân biệt tương tùy cùng với sắc. Tương tùy tương ưng là như Kinh dạy: Tâm này tương tùy với từ. Tương tùy gián tạp là như Kinh dạy: Người tu tập ấy tu tập tín căn tương tùy với tâm từ. Lại nữa, có kinh nói: Nhiễm trước vào tương tùy oán giận, là tương tùy của tư duy. Tương tùy duyên khởi là như Kinh dạy: Tu tập chánh kiến tương tùy với không buông lung. Luận này đã nói rõ về Hỷ dục tức là tương tùy gián, tạp.

Ông hỏi: Nói kỹ lại về ái tham chấp các nơi thì thế nào?

Đáp: Trong ba cõi, ái chấp trước tất cả mọi cảnh giới. Đối với các cõi, ái chấp trước mọi nơi sanh ra. Đối với các nơi sanh ra, ái chấp trước vào tất cả tụ chúng sanh.

Đối với tụ chúng sanh ái chấp trước vào các căn. Đối với các căn, ái chấp trước vào các trần. Đối với các trần ái chấp trước vào tất cả các nghiệp. Lại nữa, tâm như vượn theo cảnh, không cố định, thường ưa chấp giữ các trần, tùy thuận chạy theo khát ái với đủ mọi hữu và tư lương của hữu, do đó, tùy thuộc, thâu nhiếp, xả bỏ ái chấp trước mọi nơi. Lại nữa, quán chỗ chấp trước, mong cầu hiện hành không nhất định; ví như trộm bò và lúa. Lại nữa, xả bỏ, chấp giữ các trần khác cũng không xa lìa dục. Ví như mẹ của năm người ở tù. Vì thế cho nên nói: ái chấp trước mọi nơi.

Ông hỏi: Có các Hoặc khác, có thể làm tướng của Tập; tại sao chỉ nói khát ái là Tập?

Đáp: Vì nó trội nhất. Như chỗ của vua Khát ái đã đến, chúng thần các Hoặc đều cùng tụ tập. Lại nữa, do khát ái gồm thâu. Nếu khát ái không khiến cho hoặc khác nếm được vị, thì hoặc khác liền diệt. Nếu các Hoặc không khởi, thì tham ái cũng không sanh. Vì sao? Vì chỗ nương tựa không phân biệt. Lại nữa, giả sử không còn Hoặc mà chỉ có tham ái, thì sanh tử cũng khởi, như tay nắm lấy cát ướt. Lại nữa, vì khó phân biệt, do khát ái này cũng nhập vào pháp thiện, nhưng xem như dục của miệng, như oán kết trong nhà. Lại chỉ đến cửa mà không vào; cũng như A-na-hàm đến cửa Niết-bàn. Do tham ái nên không thể được vào trở thành bậc thượng lưu.

Lại hỏi: Vô minh cũng trội nhất, sao không lập thành Tập?

Đáp: Không đúng! Vô minh như người mù, do khát ái nên bị rơi vào hố khổ của ấm. Ví như voi mù. Lại vì mong muốn đời sau, nên nhận quả báo ở vị lai không do vô minh. Thí như, sanh ra bị mù mà phải đi vào các cửa. Do nghĩa này nên nói khát ái là Tập.

Ông hỏi: Nhân đâu chỉ nói riêng khát ái là Tập mà không nói về các nghiệp?

Đáp: Phiền não là trội nhất. Vì sao? Vì các tham ái... chính là nhân sanh ra thật sự. Nghiệp thì không như vậy. Vì sao biết? Nghiệp tuy có đủ khắp, nhưng vì tham ái tận, nên các vị A-la-hán về sau không còn sanh lại. Trước đã nói đến Tập tương tợ và chân thật của hữu, thì tham ái có thể làm nhân của hữu; là Tập đế chân thật; nghiệp là nhân dẫn đến hữu, tức là Tập đế tương tợ. Lại nữa, tham... do đạo mà diệt được. nghiệp thì không như vậy. Vì sao? Chư Phật đã tu đạo rốt ráo rồi, vẫn chấp nhận có nghiệp tàn dư còn tồn tại. Lại nữa, nghiệp không còn làm rơi vào các cõi, thì không gọi là Tập đế chân thật.

Ông hỏi: Nếu tham ái... là Tập của phiền não, nghiệp, sao lại chỉ nói là Tập của khổ?

Đáp: Có nghĩa như vậy ở đây thành lập Bốn đế cho nên nói là Tập của Khổ. Vì sao? Vì ở trong Thánh đế, đã chọn lộc nhân chơn thật, nên nói những khát ái... là Tập của Khổ đế. Lại nữa, hữu và sanh ấm, thì khát ái là tập. Khát ái này ở đời hiện tại cùng các duyên như sanh v.v… chung làm Tập của nghiệp phiền não, không giống như khát ái riêng là Tập của khổ mà chỉ nói khát ái là Tập của Khổ đế. Lại nữa, chắc chắn do tùy miên khát ái là Tập của Khổ đế. Để hiển bày nghĩa này, Đức Phật nói kệ:

Gốc cây chưa chặt dứt Tuy đoạn, còn sanh lại Tùy miên ái chưa trừ

"Thể" khổ thường tiếp nối.

Căn cứ khát ái trong duyên mà nói thì duyên ái dấy khởi thủ (nắm giữ). Căn cứ khát ái ngoài, duyên mà nói duyên thì thủ khởi nghiệp tìm cầu.

Ông hỏi: Ái của duyên vô minh, duyên quán vị, duyên ba thọ, chúng khác nhau thế nào?

Đáp: Kinh dạy: Vô minh là duyên của ái, ái này là duyên của phiền não khởi. Kinh nói quán các vị nên biết được cảnh sanh khởi thường là tà kiến. Nhân đây ái sanh khởi, ái làm cho nghiệp dấy khởi. Kinh dạy: Do tham ái nên được ba loại thọ. Ái này là duyên của thọ dấy khởi. Lại nữa, tất cả phiền não lấy vô minh duyên. Tham ái này duyên với vô minh phát khởi, nên nói ái của duyên vô minh. Tất cả các kiến là duyên của các nghiệp, duyên các kiến này khởi lên tham ái; ái này gọi là ái của duyên nghiệp. Tất cả khổ, lấy ba thọ làm thể, duyên thọ này dấy khởi ái, gọi là ái của duyên ái. Lại nữa, không tin rõ làm nhân, gọi là ái của duyên vô minh. Quán các vị thường, lạc… của pháp hữu vi, lấy tà trí làm nhân, gọi là ái của duyên quán vị. Còn các loại khác làm nhân gọi là ái của duyên thọ. Ái này làm duyên khởi cho đến quả có ba. Bởi vì cảnh giới có sáu.

Ông hỏi: Đã nói bốn đại, xúc, danh sắc là nhân của các ấm. Lại còn nói khát ái làm nhân. Hai cách nói này sao không chống trái nhau?

Đáp: Vì để nói rõ nhân hữu, nên nói hữu khát ái thôi. Vì để làm rõ nhân đẳng phần nên nói bốn đại. Vì để nói rõ các loại nhân nên nói xúc; vì xúc không phải một nên có ba thọ. Vì tin chắc vào nhân, nên nói danh sắc. Như Kinh Đại Duyên Sanh nói:

- Này A-nan! Nếu thức không gá vào thai mẹ, thì Ca-la-la có kết quả không?

- Bạch Thế Tôn! Không được!

Này A-nan! Nếu không có Ca-la-la, thì thức có thể gá vào thai mẹ được không?

- Bạch Thế Tôn! Không được!

Do hai pháp này duy trì lẫn nhau, nên phần cứng được trụ. Lại nữa, nhân từ thời vô thủy gọi là khát ái. Nhân trong một thời gian gọi là bốn đại. Nhân trong sát na là Xúc và Danh sắc thì đủ hai nhân: Nhân đời trước và nhân hiện tại đang sử dụng. Lại nữa, nhân đời trước của năm ấm là khát ái, trong thọ sanh thì bốn đại làm nhân ban đầu, như Ca-la-la làm nhân của Át-phù-đà… Nhân cùng sanh khởi, gọi là Xúc. Nhân của thời gian trước và cùng (câu) khởi gọi là sắc.

Ông hỏi: Khát ái, vô minh, ngã mạn, nghiệp, thực đều là nhân của khổ. Tướng khác nhau thế nào?

Đáp: Khát ái làm nhân không có cái riêng khác. Nghiệp làm nhân có cái riêng khác. Thực là nhân dẫn dắt, duy trì khổ. Vô minh và ngã mạn làm nhân của tất cả. Lại nữa, khát ái có thể làm nhân của hữu. Nghiệp làm nhân của đạo (cõi). Thực làm nhân bình đẳng. Vô minh và ngã mạn làm nhân lẫn nhau nữa. Lại nữa, khát ái là nhân đúng thật của khổ, là nguồn gốc của khổ, còn các nhân khác chỉ là tư lương, chỉ tích tập, hỗ trợ cho tham ái.

Ông hỏi: Hỷ dục, dục nghĩa chúng thế nào?

Đáp: Cảnh trần đã tiếp xúc, tâm sinh hoan hỷ, do hỷ sanh ái nên gọi là Hỷ dục. Mong cầu cảnh trần chưa được gọi là dục. Do dục này khởi ái, gọi là Dục dục.

Ông hỏi: Rừng dây... là tên gọi khác của tham, nghĩa đó thế nào? Đáp: Cảnh trần dục là cảnh giới, thường nhiễm vào tâm nên nói:

Dục nhiễm. Tham chấp bốn định và quả, gọi là dục cõi Sắc. Tham chấp vào định (Tam-ma-bạt-đề) và quả, gọi là dục về hữu. Thường làm chướng ngại hành Niếtbàn, gọi là gai (châm chích). Thường thiêu đốt tâm gọi là lửa dục. Thường làm nhiễm ô tâm gọi là cảnh trần dục thường làm tâm dơ bẩn gọi là cấu uế dục. Thường trói buộc tâm gọi là bên dây dục. Không tư duy, so lường gọi là dây trói dục. Khiến cho si mê gọi là mê muội (dục). Tâm bị chìm đắm gọi là chấp trước dục. Thuận theo hữu vận hành gọi là theo dòng. Thường mong cầu gọi là không chán. Không thấy no đủ gọi là tham. Ngăn cản xa lìa gọi là ngăn che. Thường che dấu, gọi là phiền não. Khiến không lìa hữu gọi là ràng buộc. Suy nghĩ bất chánh bức não gọi là cái dù. Thường loanh quanh, gai góc gọi là dây leo. Càng làm tăng lên gọi là lớn. Dục biến khắp các cõi, đủ cả các căn, trần, nhiều thứ ưa thích, nên gọi là khắp. Chấp vào các trần, dấy khởi nhiều chấp trước gọi là ái chấp. Đối với hành trang trong sanh tử chưa được và được nhưng tâm sanh hoan hỷ, gọi là hỷ dục không biết chán. Tích chứa những tham muốn về ngoại cảnh, về lợi dưỡng, gọi là khát ái. Như vậy, với mọi cách đều liên tục xoay vòng đưa đi, dẫn đến không lìa sanh tử, gọi là tham muốn mãi. Nước phiền não xoay vòng trói buộc bằng dây ái, gọi là lưới dục. Từ trên xuống dưới đều chảy vào biển sanh tử, gọi là sông ái. Ví như bệnh khát biến đổi làm khó chịu phải nhảy vào biển trần cảnh. Do đấy mà không thấy thỏa mãn, gọi là khát. Như biển tóm thâu các dòng nước. Như lửa thiêu đốt củi. Như các mê hoặc không đầy, gọi đó là không dừng nghỉ. Thường trói buộc trong sanh tử, trước sau không gián đoạn, nên gọi là liên kết. Khát ái này tồn tại, khiến cho sanh tử tiếp mãi không gián đoạn. Hoặc chính mình hay người khác mà thường tiếp nhận sanh tử trong sáu đường. Đối với các Hoặc khác gọi là Tập, thì nói đầy đủ như trong phẩm Đại hữu. Phẩm này giải thích về tham ái có mười một loại, cần nên biết:

1. Danh.

2. Nghĩa.

3. Thể.

4. Dụng.

5. Nhân.

6. Đối trị.

7. Tịnh.

8. Bất tịnh.

9. Sanh thứ tự.

10. Lập vấn nạn.

11. Giải nghĩa.

Nếu hành giả biết những điều này rồi thì khởi quán, tự thực hành và giáo hóa người, để thông tỏ đạo lý. Vì thế nói nghĩa này.

QUYỂN 3

Phẩm Thứ Năm: PHÂN BIỆT VỀ DIỆT ĐẾ

Kinh dạy: Khổ diệt. Lời dạy này là thế nào? Do nhân gì phát khởi? Pháp nào là diệt? Tướng gì, sự gì, duyên gì gọi là Diệt? Nghĩa gì không còn diệt? Xa lìa diệt? Xả bỏ? Đoạn trừ? Bảy nghĩa này khác nhau thế nào? Vì sao tận vô dư gọi là Diệt đế? Ấy là không nói mỗi niệm đều diệt. Nếu khát ái diệt gọi là Diệt đế; vô dư Niết-bàn tức chẳng phải Diệt đế. Khát ái sạch hết, thì nên gọi là tập diệt. Vì sao nói khổ diệt? Nếu do khát ái tận, tức là diệt khổ thì người không còn khát ái, thì không khổ. Hiện tại thấy có khổ, thì lý này thế nào? Ở trong mười kết hoặc, chỉ nói diệt khát ái là Diệt đế, để thành lập bốn quả. Làm thế nào thành lập được? Trong mười hai nhân duyên, nói diệt có mười hai loại, vì sao chỉ nói khát ái tận là diệt.

Trì tán kệ nói:

Chỗ nào nói nghĩa trên
Bảy nghĩa và diệt niệm
Diệt kia đắc La-hán
Diệt mười kiết, mười hai.

Ông hỏi: Kinh dạy khổ diệt, lời nói này thế nào? Do nhân gì phát khởi?

Đáp: Do pháp này sanh nên pháp này có; do pháp này diệt nên pháp này không; ví như đèn. Lại nữa, đã nói khát ái là nhân của Khổ đế. Nay nói do khát ái tận nên hiển bày sự diệt khổ. Ví như duyên bệnh mà diệt, thì bệnh lành. Lại nữa, khát ái này có mặt khắp ba cõi, phát sanh từ vô thỉ, muốn đối trị các Hữu, nên A-la-hán không diệt trừ khát ái, vì để phá trừ các tà chấp của ngoại đạo nên nói khổ diệt.

Tại sao Ông hỏi: Pháp gì, tướng gì, sự gì, duyên gì là diệt?

Đáp: Diệt có nhiều loại. Một là trung gian diệt. Hai là mỗi niệm diệt. Ba là chống trái diệt. Bốn là diệt không còn sanh lại. Trung gian diệt là: Bố thí, trì giới, thiền định, Tam-ma-bạt-đề có thể diệt ba cõi. Do bố thí này... được pháp thoát ly đã đối trị; nghĩa là tham sân… tạm thời không khởi, gọi là trung gian diệt. Mỗi niệm diệt là tất cả hữu vi thuận theo từng sát na chấm dứt, gọi đó là niệm niệm diệt. Chống trái diệt là pháp hữu vi đó cùng với nhân chống trái, tánh tướng của chúng trái nhau. Vì diệt liên tục nên gọi là chống trái diệt. Ba loại này gọi là tương tợ diệt. Diệt không còn sanh là diệt sạch hết nhân của hữu; năm ấm phải sanh mà không thể sanh được, đấy gọi là diệt chân thật. Có sư khác nói: Nhân và nhân của hữu, khát ái hữu sau không sanh, gọi là diệt. Lại nữa, khát ái và đoạn trừ ái phiền não nghiệp khổ không sanh, gọi là diệt. Lại nữa, dụng chân thật nầy trải qua thời gian, không còn sở hữu, lìa có, lìa không, chứng đắc Niết-bàn gọi là Diệt đế, như trong truyện Cù đàm đã kể. Lại nữa, diệt có hai loại:

1. Phi trạch diệt.

2. Trạch diệt.

Phi trạch diệt là tự tánh của các pháp hữu vi bị phá hoại, gọi là Phi trạch diệt; như đá rơi trên không trung. Trạch diệt là do lửa trí tuệ có thể thiêu đốt của Hoặc, gọi là Trạch diệt, như do lửa mà củi bị đốt hết.

Lại nữa diệt có ba loại:

1. Chưa có tức là diệt.

2. Hàng phục, xa lìa tức là diệt.

3. Vĩnh viễn xa lìa tức là diệt.

Nếu Hoặc chưa sanh, duyên chưa được tức chưa có là diệt. Nếu Hoặc đã sanh, duyên đã được, nhưng do đạo thế, xuất thế ở hiện tại không cho sanh khởi, tức hàng phục, xa lìa là diệt. Nếu Hoặc đã hàng phục, xa lìa, nhân bị diệt không còn sót; trong vị lai chắc chắn không còn sanh; gọi là diệt bằng cách xa lìa hoàn toàn. Như kinh dạy: "Dục chưa sanh, muốn cho vị lai vĩnh viễn không sanh trở lại thì biết đấy là diệt. Bộ Phân biệt nói:

Diệt có ba loại:

1. Mỗi niệm diệt.

2. Chống trái diệt.

3. Diệt không còn sót; ví như đèn tắt. Lại có sư khác nói: Diệt có bốn loại:

1. Tự tánh diệt.

2. Vô sanh diệt.

3. Trung gian diệt.

4. Vĩnh ly diệt.

Không do nhân mà diệt gọi là tự tánh diệt, như kệ:

Các hành đều Vô thường Pháp ấy là sanh diệt

Nếu sanh trở lại diệt Tịch diệt này là vui.

Lại kinh dạy: Nếu pháp có sanh pháp ấy tức có diệt, không do dụng công, như vật nặng hay nhẹ, tự nhiên nổi hay chìm; gọi đó là tự tánh diệt. Do không có nhân, nên quả không sanh được, gọi là diệt do không sanh. Như kinh dạy: Do vô minh diệt, nên ba hành không dấy khởi, như trong Thất lưu, nhân hạt giống, mầm bị hư hoại, thì quả không sanh, gọi không sanh tức là diệt. Do năng lực của định, gọi là trung gian diệt. Như kinh dạy: Tâm tối thượng điều phục xa lìa các hoặc, gọi là hữu thời tâm giải thoát. Chín thứ tuần tự diệt, như các sự duyên của Tỳ-kheo Nan-đề-kha làm chứng minh, gọi là trung gian diệt. Do tám Thánh đạo diệt, gọi là diệt, như kinh dạy: Nếu người tu tập tưởng vô thường, có thể diệt tất cả các kiết sử và tùy miên hoặc, do minh sanh mà diệt hết vô minh, cũng gọi vĩnh viễn xa lìa là diệt, ví như bình đã đậy kín và đuốc được đốt sáng. Luận này chính là luận về vĩnh viễn xa lìa là diệt.

Tướng thế nào? Sự thế nào? Duyên thế nào? Không có gì, gọi là tướng diệt. Tâm không còn thiêu đốt, nóng bức gọi là sự của diệt. Thông suốt thật tế, gọi là duyên của diệt. Đại đức nói: Tịch tĩnh là tướng. Tâm an lạc, dừng nghỉ là sự. Tri kiến giải thoát tột cùng là duyên.

Ông hỏi: Gọi là diệt, có nghĩa là gì?

Đáp: Diệt gọi là Ni-lư-đà. Ni là chỉ cho không có. Lư đà là chỉ cho chướng ngại ngăn cản. Khát ái... là pháp thường chướng ngại. Trong đây, hoàn toàn không có, nên gọi là Ni-lư-đà. Pháp chống trái sanh khởi, nên dòng chảy khát ái vĩnh viễn không sanh lại. Ví như ngói, sành nung nóng, màu đỏ, sinh khởi, tướng màu xanh gốc cũ không còn sanh lại.

Ông hỏi: không còn, tịch diệt, xa lìa, diệt mất, dứt bỏ, đoạn trừ, bỏ đi, bảy nghĩa này khác nhau thế nào?

Đáp: Ở đây đều là tên khác của Niết-bàn. Bảy tên này đều nương vào khí thế gian mà nói. Như Niết-bàn có sáu mươi tên khác nhau. Lại nữa, tâm vắng lặng và tùy miên đều diệt sạch, như cây bị đốn gốc, gọi là diệt không còn. Tuần tự diệt hết, như dụ cán búa, gọi là diệt. Chỗ xưa kia bị trói buộc nay có lực đạo nên không còn trói buộc; như người giàu có, không vướng bần tiện, gọi là xa lìa. Thù thắng, khác với xưa thối lui, như bậc Thánh xa lìa; vì xấu ác đã tận, gọi là diệt. Lại như nghĩa trước, Ni-lư-đà gọi là diệt. Nếu pháp với Hoặc lìa nhau, cũng ví như xả bỏ vật, gọi là xả bỏ đời hiện tại. Hiện tại và vị lai không còn tiếp nối, ví như các căn bên trong, gọi là đoạn diệt. Không còn nắm giữ, như bình đựng nước úp lại gọi là bỏ đi. Lại nữa, tất cả khát ái đều dứt sạch, gọi là không còn. Dần dần phá hủy gọi là diệt. Quán quá khứ, tâm không dấy khởi chấp trước, gọi là hành viễn ly. Đoạn trừ các kết sử, duyên khởi cũng không còn, nên gọi là diệt. Giải thoát phiền não gọi là xả. Duyên với trí mà Hoặc ban đầu, vĩnh viễn diệt gọi là đoạn. Trước chấp về ngã, nay đã xả bỏ, nên gọi là trừ bỏ.

Ông hỏi: Vì sao diệt hết không còn sót gọi là Diệt đế, mà không nói mỗi niệm diệt...?

Đáp: Do diệt không còn sót, nên khổ vị lai không thể sanh lại; chứ không do mỗi niệm diệt mà nói. Không còn sót (Vô dư) gọi là khổ bị diệt hết, nên không nói mỗi niệm diệt... nếu quán tướng của diệt không còn sót, vắng lặng v.v… thì có thể diệt trừ các hoặc; mỗi niệm diệt... thì không như vậy. Lại nữa, vì tùy thuộc vào đạo, vì không còn pháp nào tối thắng hơn, vì thiện chân thật vì đắc pháp bất cộng, vì phiền não không thể phá hoại, vì nói không chống trái, vì duyên an tâm, nên nói "Không còn sót" tức là Khổ diệt, mà không nói mỗi niệm diệt.

Ông hỏi: Nếu diệt trừ khát ái, gọi là Diệt đế, thì vô dư Niết-bàn chẳng phải Diệt đế sao?

Đáp: Luận sư khác nói: Vì là quả phạm hạnh thanh tịnh, nên phiền não diệt gọi đó là Diệt đế. Diệt tất cả giả danh, gọi là vô dư Niết-bàn. Ở đây đã bàn luận về cảnh giới Vô dư Niết-bàn là Diệt đế chân thật. Vì sao? Vì đạt được diệt này là chứng đắc phạm hạnh thanh tịnh, như trong kinh Phú-lâu-na thất xa thí có dạy: Các A-la-hán đã diệt hết Hoặc không còn sót, nhưng các khổ tổn hại trói buộc như: Lão, bệnh, tử, lạnh nóng, đói khát vẫn còn chưa dứt, vì thế cảnh giới Vô dư Niết-bàn là Diệt đế chân thật. Diệt đế chân thật này do nhân tận mà có được, nên cũng gọi khát ái tận là Diệt đế chân thật. Luận Ưu Ba Cấp Đa Đạo Lý Túc dạy: do có thể làm cho đạt đến cảnh giới Vô dư Niết-bàn, cho nên tham ái tận được gọi là Diệt đế. Tuy nhiên, hai cảnh giới Niết-bàn là Hữu dư và Vô dư, đều gọi là Diệt đế. Vì sao? Vì nhân diệt thì gọi là Hữu dư; quả diệt thì gọi là Vô dư. Do nhân diệt nên hữu nhân đó mà diệt, như đèn tắt thì ánh sáng dứt. Vì thế hai diệt đều gọi là Diệt đế.

Ông hỏi: Khát ái dứt lẽ ra gọi là Tập diệt, mà sao lại nói là khổ diệt?

Đáp: Lửa khổ, dùng khát ái làm củi. Nếu không còn củi khổ khát ái, thì lửa khổ liền diệt, như củi hết thì lửa tắt. Lại nữa, Khổ đế lấy ái làm thức ăn để trụ, do thức ăn ái đoạn nên Khổ đế liền hết, gọi đó là khổ diệt. Các sư kỳ cựu nói: Không phải vì lìa khổ quá khứ và hiện tại, mà Đức Phật tu phạm hạnh thanh tịnh. Vì sao? Vì tự tánh của quá khứ đã diệt, cùng với hiện tại chắc chắn phải lìa nhau, nên chính là vì làm cho khổ vị lai không sanh, do đó Đức Phật tu phạm hạnh thanh tịnh. Khổ nầy không sanh là do khát ái dứt hết. Căn cứ khổ đời sau hết sạch mà nói ái đoạn khổ diệt.

Ông hỏi: Nếu do khát ái dứt hết, nên khổ diệt, thì người không có khát ái, phải không có khổ, mà hiện tại thì thấy có khổ, lý này thế nào?

Đáp: Khổ lo buồn, hối tiếc thiêu đốt đã vắng lặng, như kinh Thủ trưởng giả đã nói. Lại nữa, vĩnh viễn xa lìa tâm bệnh, như đã nhổ sạch gai trong tim. Lại nữa, mong cầu khổ đoạn, như đã giàu có, thỏa mãn sáu trần. Do khát ái diệt, nên các vị A-la-hán vĩnh viễn xa lìa tâm khổ, mà không trái với lý. Lại nữa, chẳng phải khổ của quá khứ, vị lai và hiện tại mà gọi là Khổ đế, cũng chẳng phải đối tượng phá trừ của Thánh đạo. Vì sao? Vì quá khứ đã chấm dứt, vị lai chưa có và hiện tại chắc chắn phải lìa nhau; chỉ do thông suốt cõi chân thật, nên khát ái diệt tận. Do xa lìa khát ái, nên về sau khổ không sanh, lại tu tám chánh đạo, do nghĩa này nên nói A-la-hán không có khổ, như thí dụ hết bệnh.

Ông hỏi: Trong mười kiết hoặc, chỉ nói khát ái diệt là Diệt đế, thì an lập bốn quả, thế nào thành được?

Đáp: Tham ái có bốn loại. Các quả vị như Tu-đàhoàn... đã phá trừ, do diệt này nên các kiết sử khác cùng khởi một lúc đều diệt sạch, gọi là Diệt đế. Vì thế thành lập được bốn quả, với lý này thì không trái. Lại nữa, vì cùng một tướng, một vị. Nếu nói khát ái diệt tức nói tất cả kiết sử diệt, cũng như nói tám Thánh đạo tức là nói tất cả phẩm đạo. Do cùng một tướng, cùng thành một việc. Lại nữa, có các hoặc khác, cũng có thể thành lập tướng Tập đế, nhưng khát ái là khả năng chính nối tiếp đời vị lai, khiến có hữu sau. Vì nghĩa này, nên chỉ nói khát ái gọi là Tập đế. Như vậy tất cả hoặc diệt hết thì đều nhập vào tướng Diệt đế, chỉ có nhân diệt sạch, tức khát ái diệt, gọi đó là Diệt đế.

Ông hỏi: Mười hai duyên sanh, nói diệt có tới mười hai loại; sao chỉ nói diệt sạch khát ái là Diệt?

Đáp: Như trước đã hỏi về vấn nạn này nên tự tìm hiểu vậy. Với lại như đạo đoạn ái tận dục, diệt và Niếtbàn; Năm tên gọi này, nghĩa là một, nhưng hỗ trợ hiển bày. Thế nên, nói khát ái hết; tức là nói đoạn mười hai đạo đoạn. Lại nữa khát ái tận là Diệt chung diệt của mười hai đạo v.v… gọi là Diệt riêng.

Hỏi: Tên riêng của Niết-bàn gồm có sáu mươi sáu câu, nghĩa của chúng là thế nào?

Đáp: Tất cả các câu đều là pháp Vô vi, ca ngợi về tướng mạo. Nhân thiết lập đối trị, trái nghịch v.v… phải giải thích rộng do đâu như thế. Niết-bàn này không sanh, không trưởng, không diệt, chẳng phải nhân duyên tạo ra. Trái nghịch pháp hữu vi, nên nói là Vô vi. Sáu mươi sáu câu là:

1. Cao vượt ba cõi, lìa hẳn thiên chấp dưới thấp, không có gì bằng, nên nói Vô hạ.

2. Vĩnh viễn xa lìa các dòng, các dòng không còn sanh lại, chẳng còn lưu lại dấu tích, nên nói Vô lưu.

3. Chẳng hư vọng, chẳng điên đảo, chẳng chống trái; nên nói Chân đế.

4. Không nghi ngờ lo sợ rắn độc của các cõi, tận cùng ba cõi xả bỏ chỗ dụng công, vượt biển sanh tử, nên gọi là Bỉ ngạn.

5. Trí tối thắng thông hiểu, nên nói là Thính tế (thông tỏ tường) tận.

6. Như hoa Ưu đàm ở thế gian khó gặp, nên nói Nan kiến (khó thấy).

7. Không lão, không phá, nên gọi là Vô hoại.

8. Không động bản hữu nên gọi là thường ở nơi Vô tránh.

9. Pháp đối trị trừ bỏ, thể đầy đủ không thiếu, nên nói Vô thất (không mất).

10. Vượt qua cảnh giới của mắt, không có pháp nào bằng, nên nói Vô thí (không có thí dụ).

11. Không có các kiến, tham ái, mạn chấp, nên nói Vô hý luận.

12. Lửa hoặc diệt sạch nên nói là Tịch tĩnh.

13. Vượt qua cảnh giới thần tử, nên nói là Cam lộ.

14. Là mùi vị ngon nhất, vắng lặng đáng yêu nên gọi là Cực diệu.

15. Vẳng lặng không có khổ nên gọi là Chỉ. 16 Pháp thiện chân thật gọi là An.

17. Không bị khát ái thiêu đốt, nên gọi là Ái tận.

18. Mọi người sanh sự tán thán điều kỳ diệu nên gọi là Hy hữu.

19. Trong sanh tử chưa hề được, vì đức này, nên gọi là Vị tằng đắc chưa từng được).

20. Các sự ngang trái của lão… không thể làm hại, nên gọi là Vô uổng (không oan uổng).

21. Bên trong không thiếu, bên ngoài không có chướng ngại xấu ác, nên nói Vô tai (không bị tai họa).

22. Không có khổ sanh của đời sau an lạc rốt ráo, nên gọi là Niết-bàn.

23. Khác với tướng "có, không" nên gọi là Nan tư (khó lường).

24. Cùng xa lìa việc sanh các tội lỗi được an lạc, nên gọi là Bất sanh.

25. Các ma không tìm đến được, nên gọi là Vô tích (không vết tích).

26. Không do nhân mà thành, nên nói Phi tác (chẳng phải tạo tác).

27. Chẳng phải nơi buồn thương hiện hành nên nói là Vô ưu (không buồn).

28. Một khi chứng đắc thì không thối lui, nên gọi là Trụ.

29. Không có pháp tương tợ nên gọi Vô đẳng (không gì bằng).

30. Vĩnh viễn xa lìa chấp giữ, ham muốn nên gọi là Vô cầu (không mong cầu).

31 Trước sau không giới hạn nên gọi là Vô biên.

32. Khó có thể thông đạt nên gọi là Vi tế.

33. Không còn bị bức bách nên gọi Vô tổn (không tổn hại).

34. Không có Hoặc, nhiễm trước nên gọi là Ly dục.

35. Không có những lỗi lầm sai trái nên gọi là Tịnh.

36. Kiết sử trói buộc đều đoạn trừ, nên gọi là Giải thoát.

37. Lìa xa nơi nương tựa nên gọi là Phi trụ (chẳng phải trụ).

38. Không có hai pháp nên gọi là Phi đối (chẳng phải đối).

39. Không gì bằng nên gọi là Đẳng (bằng).

40. Các nơi đi vào đều lắng xuống nên gọi là Vô hại.

41. Ngoại đạo không đắc được nên gọi là Thậm thâm (rất sâu).

42. Nếu xa lìa lời giảng dạy chơn chánh của Phật thì không hiểu rõ, nên gọi là Nan giải (khó hiểu).

43. Quán xét các công đức này, khiến đạt đến bờ giác kia, gọi là có Năng độ (khả năng vượt qua).

44. Định của pháp tối thượng thì đứng đầu, nên gọi là Vô thượng.

45. Thâu thập tìm tòi trong biển pháp, chỗ thu hoạch chân thật, là sở đắc của bậc thượng nhân, nên gọi là Thắng.

46. Muôn hạnh đạt được là tối thượng vô giá, nên gọi là Thánh quả.

47. Xa lìa nhân lo sợ nên gọi là Vô úy.

48 Thánh ái mộ kiên cố, nên gọi là Bất xả (không bỏ).

49. Phàm, Thánh đều có nên gọi là Biến mãn (khắp đầy đủ).

50. Công đức khó lường nên gọi là Vô lượng.

51. Không thuộc về sáu đường nên gọi là Vô số.

52. Thể rất kiên cố chân thật nên gọi là Bất phá (không thể phá hoại).

53. Không có pháp nào trên nữa nên gọi là Tôn.

54. Tịnh tối diệu đáng xưng tán nên gọi là Ưng tán (đáng khen).

55. Nơi dừng trú của bậc Thánh nên gọi là Xá.

56. Có thể cứu khổ cho chúng sanh nên gọi là Quy y (quay về nương tựa).

57. Sự tranh cải đã vắng lặng nên gọi là Vô tránh.

58. Vốn có chẳng phải tạo tác nên gọi là Vô giả (không nhờ).

59. Xa lìa dục, sân, si nên gọi là Vô cấu (không có cấu nhiễm).

60. Loại trừ bóng tối vô minh, nên gọi là Đăng (đèn).

61. Các thọ vắng lặng nên gọi là Lạc.

62. Thoát khỏi đọa lạc cảnh sắc… nên gọi là Vô đọa (không bị đọa).

63. Không chìm trong bốn dòng nên gọi là Châu (cù lao).

64. Tâm tán loạn không thể chứng đắc nên gọi là Bất động.

65. Rủ bỏ sạch mười tướng nên gọi là Vô sở hữu (không còn có gì).

66. Không nương tựa chỗ nào nên gọi là Vô trước (không chấp trước).

Kinh Bộ hỏi: Thế nào gọi là tư Trạch diệt?

Đáp: Lìa xa các kiết sử gọi là tư Trạch diệt.

Hỏi: Pháp gì để xa lìa kiết sử (suy nghĩ về Trạch diệt)?

Đáp: Là Tư Trạch diệt. Nếu vậy giải thích, hai pháp này hỗ trợ lẫn nhau, cuối cùng không thể làm rõ thể, tướng của hai pháp. Vì thế, phải tách biệt phương tiện nói tướng và thể của chúng. Bậc Thánh không phân biệt, chỉ chứng trí thì biết được thể, tướng này. Như vậy có thể nói là rất sai khác đối với vật khác. Hoặc nói xa lìa kiết sử, hoặc nói tư trạch diệt.

Các Sư Kinh bộ nói: Tất cả các pháp vô vi chẳng phải là vật hiện có. Vì sao? Không như sắc, thọ có; đối với các vật khác, thì vật nào chỉ vì không có tiếp xúc, tức gọi là hư không? Như kinh nói: Trong bóng tối không có ngăn ngại, không bị che lấp, thì gọi là hư không. Do năng lực của Bát nhã và tùy miên hoặc ở hiện tại, thể, tánh, chúng chống trái nhau, phần sau này không còn sanh, gọi là Tư trạch diệt. Xa lìa tư trạch này, nhân duyên không đủ. Phần còn lại không được sanh, gọi là Phi tư Trạch diệt. Ví như giữa một chu kỳ sống chết, bất ngờ chết, quả còn lại không tiếp tục nữa.

Luận sư bộ khác nói: Tùy miên, phiền não về sau không sanh được, là do năng lực suy nghĩ, chọn lựa này nên gọi là tư Trạch diệt. Do duyên không đủ, về sau khổ không còn sanh; trong đấy không có năng lực suy nghĩ, chọn lựa; nên nói là Phi Tư Trạch diệt. Luận nói: Nghĩa ấy không đúng. Nếu lìa suy nghĩ, chọn lựa, thì diệt đó không thành tựu. Cho nên biết thuộc về Tư trạch diệt. Lại nữa, các bộ khác nói: "Như pháp đã sanh về sau tự diệt. Do đó, tự tánh diệt gọi là Phi tư Trạch diệt". Nếu như chấp này là Phi tư Trạch diệt thì nên là vô thường. Vì sao? Vì pháp khi chưa hoại thì chưa có diệt.

Ông hỏi: Nếu như vậy, thì tư Trạch diệt cũng phải là vô thường. Vì sao? Vì Tư trạch có trước, sau đó bị diệt? Đáp: Sự diệt này không lấy Tư trạch làm trước. Vì sao? Vì pháp chưa sanh, không sanh mà tồn tại sau Tư trạch thì không có nghĩa này. Vì sao? Vì khi chưa suy nghĩ chọn lựa thì pháp chưa sanh, không sanh xưa nay vốn đã có, pháp ấy phải sanh. Khi Tư trạch chính thức khởi lên, thì sau đó pháp không được sanh, đó là do lực của Tư trạch. Hoặc này từ xưa đến nay chưa có sanh chướng ngại, nay nhờ lực Tư trạch đoạn trừ sự sanh của chúng. Ngoại đạo hỏi: Nếu quyết định lấy nghĩa "không sanh" là Niết-bàn, thì làm sao giải thích thông suốt Kinh Quốc Thí. Kinh nói: Thường tu tập, thực hành nhiều công năng diệt của năm căn: Tín v.v… và đoạn dứt các khổ nơi quá khứ, hiện tại và vị lai, gọi là Niết-bàn. Như vậy, không sanh, chỉ thuộc ở vị lai, chứ chẳng phải hiện tại và quá khứ?

Đáp: Có Kinh như đây, mà nghĩa, không như văn. Vì sao? Vì thường duyên khổ, hoặc trong ba đời đã diệt, nên gọi là Khổ diệt. Như các kinh khác dạy: Này các vị! Nên xả bỏ ái dục đối với sắc. Do ái dục diệt nên sắc ấm của các ông tức sẽ diệt lìa, cho đến thức ấm cũng vậy. Vì nghĩa kinh nên diệt khổ trong ba đời. Nghĩa Kinh nên như vậy.

Ngoại đạo hỏi: Nếu nói khổ diệt thì nghĩa đó có thể như thế. Lại như trong kinh Quốc Thí dạy: Tu tập năm căn có thể diệt Hoặc của đời quá khứ, hiện tại và vị lai. Tại sao không trái với kinh này?

Đáp: Như trước đã giải thích, lại có giải thích khác: "Hoặc" của quá khứ thì thuộc về đời trước. "Hoặc" của đời hiện tại thì thuộc về đời nay. "Hoặc" trong hai đời này, ở trong sự liên tục thì chủng tử đã thành tựu, có thể sanh mầm mê hoặc ở vị lai. Do diệt được chủng tử này, nên nói diệt được Hoặc của ba đời. Như quả báo đã hết thì nói nghiệp nhân dứt. Tức khổ và hoặc vị lai dứt; vì chủng tử không có nên vĩnh viễn không sanh trở lại. Cho nên, trong kinh mới nói là Hoặc của ba đời đều diệt. Nếu không như vậy, thì quá khứ, hiện tại làm sao có chỗ diệt. Vì sao? Vì pháp đã diệt và pháp hướng đến diệt dụng công làm sao thực hiện được.

Ngoại đạo hỏi: Như kinh Thượng Thắng dạy: Trong tất cả pháp hữu vi và vô vi, nhân của pháp lìa dục là "không có"; vì sao "không có" lại hơn pháp "không có" khác?

Đáp: Tôi không nói vô vi nhất định là "không có". Như trước đã nói: Vì như thế nên có. Ví như người thế gian nói: Trước khi có tiếng là không có tiếng; sau khi có tiếng là không có tiếng. Không thể vì nghĩa này mà nói cho rằng không có vật gì trở thành có. Nên biết nghĩa Vô vi cũng vậy. Tuy giống là "không có" mà có, "không có" mà được tán dương hơn pháp khác; "không có" ấy như những tai họa ngang trái rốt ráo không sanh. Vô vi này là thù thắng rất đáng tán thán, được người tiếp nhận sự giáo hóa khởi tâm nguyện cầu. Vì thế cho nên, Đức Phật khen ngợi.

Ngoại đạo hỏi: Nếu pháp vô vi chỉ là không có pháp, là diệt thì trở thành Thánh đế. Vì sao? Vì không có gì là có (Vô sở hữu)?

Đáp: Nếu vậy, nghĩa đế là thế nào?

Ngoại đạo nói: Không điên đảo là nghĩa của đế.

Đáp: Hai pháp này bậc Thánh quán xét đều không có điên đảo. Khổ như là tướng; tướng khổ không có như là Vô tướng. Do nghĩa này cho nên đâu có trái với Thánh đế!

Ngoại đạo hỏi: Vì sao không có vật là đế thứ ba?

Đáp: Thành lập làm Thánh đế, như trước đã nói: Nương vào đế thứ hai thì tiếp sau nói là đế thứ ba.

Ngoại đạo hỏi: Nếu vô vi chỉ là không có pháp, thì trí duyên hư không và Niết-bàn tức không có cảnh giới? Đáp: Tôi không nói Nhất thiết trí lấy có pháp làm cảnh. Hoặc như duyên pháp 'có" là chẳng phải ở đời quá khứ, vị lai, thì có vật làm cảnh; hoặc duyên với pháp khác, thì pháp "không có" làm cảnh.

Ngoại đạo hỏi: Nếu ông chấp nhận vô vi có vật, thì có ở đâu?

Đáp: Nếu tôi chấp nhận vô vi có vật, có ở chỗ nào đó thì sao? Ngoại đạo hỏi: Nếu ông chấp nhận thì nghĩa của tôi được chọn lấy.

Đáp: Chư thiên nên chọn lấy. Nếu chấp nhận được chọn lấy thuyết của ông, tức chấp nhận nghĩa không thật.

Vì sao? Vì pháp vô vi không như sắc, thọ mà tánh của chúng có thể chứng. Không như sự việc mắt có thể nhìn thấy là vật, là diệt. Sao có thể phân biệt là vô vi và hữu vi. Sự việc chẳng liên quan nhau. Vì sao? Vì chẳng phải nhân quả, lẫn nhau, chỉ trái nghịch khát ái là lý của đạo ấy. Như nói "Hoặc" vốn không có gọi đó là vô vi.

Ngoại đạo nói: Nếu thành lập pháp vô vi là có, do Hoặc này khi đạt đạo, chứng đắc là đoạn thì có thể nói diệt này là Hoặc diệt. Nếu nói vô vi là không có pháp, thì vô vi này nhân gì có thể quyết định đạt đạo, chứng đắc? Kinh dạy: Tỳ-kheo ấy đã đạt đạo, chứng đắc Niếtbàn ở pháp hiện tại. Nếu Niết-bàn là không có thì sao có thể đạt đến, chứng đắc?

Đáp: Do đối trị sanh khởi chứng đắc nối tiếp chống trái rốt ráo với Hoặc sinh đời sau. Cho nên, nói đạt đến, chứng đắc hiện pháp Niết-bàn. Lại các kinh A-hàm dạy: Chỉ vì không có pháp nên gọi đó là Niết-bàn. Kinh dạy: Là khổ diệt, Vô dư, Xả bỏ tận cùng và Ly dục. Khổ không tiếp nối đến, không sinh là Tĩnh, là Diệu". Xả những gì? Tất cả những chấp thủ, bao gồm những khát ái và dứt hết bát Niết-bàn.

Ngoại đạo hỏi: Vì sao không chấp nhận ở trong đó (Niết-bàn) những vật khác không sanh mà chỉ nói đây không sanh gọi là Niết-bàn?

Đáp: Tôi nhận thấy chấp thủ này, không có cái gì có thể hơn được. Ông cho là ở trong đó vật khác không sanh thì vì là có nên không sanh vật khác hay vì là chứng đắc nên không sanh vật khác? Nếu là có nên không sanh vật khác thì Niết-bàn thường có trong cõi phải vĩnh viễn không sanh. Nếu do chứng đắc nên không sanh vật khác thì các bậc A-la-hán chứng đắc lúc này năm ấm phải diệt ngay. Nếu như các ông chấp có thì lỗi lầm như thế. Do đó, biết chỉ vô sở hữu mới gọi là Niết-bàn. Như kệ nói: Như lý đạo chân chánh. Kệ nói: Như ánh đèn tắt. Tâm giải thoát cũng vậy. Như ánh đèn tắt, thì chẳng phải là có vật. Tâm Phật giải thoát, lại cũng như vậy.

QUYỂN 4

Phẩm Thứ Sáu: PHÂN BIỆT ĐẠO ĐẾ

Kinh nói: "Đạo đế là thế nào". Nguyên nhân nào phát khởi? Nếu đạo có thể diệt khát ái thì không nên nói tu hành đạt đến hết khổ. Nếu không như vậy thì lời nói này mâu thuẫn? Nếu đủ cả Diệt, Tập, Khổ thì tại sao trong kinh không nói đầy đủ? Nếu đạo có thể làm cho hết khổ, thì người tu đạo hoàn thành, phải không có phẩm khổ. Nếu không như vậy, thì không nên nói tu hành đạt đến hết khổ? Nếu pháp hữu vi ở trong pháp vô vi, không có tu hành đạt đến, thì tại sao nói tu hành đạt đến hết khổ? Chánh hành là nghĩa gì? Nói chánh hành là tám Thánh đạo, lời nói khẳng định này có công dụng gì? Tên gọi Thánh đạo có nghĩa gì? Vì sao chỉ nói Đạo là Thánh, mà không nói các trợ đạo khác? Nếu đạo khác với phần (đạo), thì nên nói tướng của chúng. Nếu nói đạo chỉ là phần, thì phần đầy đủ và phần đều không có sai khác? Nghĩa của Đạo là thế nào? Vì sao kinh này nói đầy đủ các phần mà các kinh khác không đủ? Nếu đạo là hữu vi, thì vì sao Đức Phật nói vốn từ xưa đã có. Nếu là vô vi, vì sao lại nói là hữu vi? Nếu đạo là một, khi một người tu tập, thì người khác nên được, ví như áo... Nếu không như vậy, thì không nên nói chỉ do một đạo này? Nếu các bậc Thánh cùng chứng đắc một đạo, vì sao trí tuệ không đồng nhau? Nếu trí tuệ không đồng, thì sao giải thoát như nhau? Nếu là đạo hoặc chẳng phải tâm, thì các vật vô tình cũng nên có đạo. Nếu tâm chẳng phải tâm, thì pháp tu tập tức không đầy đủ. Nếu là tâm pháp, thì các pháp chống trái nhau, làm sao một tâm đều có? Nếu đạo đến diệt trừ Hoặc, thì pháp trái nghịch và một tâm đều có. Nếu không đến, thì đối với sự liên tục của người khác làm sao không dứt trừ? Nếu các phần đều cùng khởi thì có nhiều tác ý. Nếu khởi theo thứ tự, thì chỉ có một phần? Vì sao lập thành tám phần không thêm, không bớt? Vì sao không chọn các pháp khác như dục…? Vì sao một pháp mà tạo ra ba loại để nói: Trung đạo. Khả năng diệt phước, ác; tu hành đạt đến hết khổ? Vì sao lại nói chánh kiến trước tiên? Vì sao nói tu hành trước tiên? Chánh kiến có nghĩa gì? Người thấy đã không có, ai làm chủ thể thấy? Chánh kiến và chánh kiến trong mười Thiện nghiệp khác nhau thế nào? Nếu do Chánh kiến cùng một lúc thấy được Đế phải có nhiều cảnh. Nếu không như vậy thì chẳng phải mỗi niệm đều diệt? Nếu chánh kiến đã hiểu rõ các đế, thì phần còn lại dùng làm gì? Chánh giác nghĩa thế nào? Vì sao ba pháp mà thành một? Nếu nương vào hai, định chứng đắc các dòng khô cạn thì Chánh giác không đầy đủ các phần của đạo có thiếu; nghĩa này nên cứu chữa sao đây? Chánh ngôn (ngữ) nghĩa thế nào? Nếu Đạo có ngữ ngôn thì tu không có định. Vì sao? Như Đức Phật dạy: Định cho âm thanh là gai góc. Nhưng nếu không có âm thanh thì không thành tựu đạo phần? Chánh nghiệp nghĩa thế nào? Tất cả các phần đều là chánh nghiệp; tại sao lại nói nói một phần gọi là chánh nghiệp? Nếu xa lìa gọi là chánh nghiệp, thì xa lìa tức chẳng phải tạo tác, thế làm sao thành nghiệp? Xa lìa nghiệp đánh… tại sao không gọi tên là Đạo phần? Chánh nghiệp, chánh mạng và chánh nghiệp, chánh mạng của mười Thiện nghiệp cả hai khác nhau thế nào? Chánh mạng nghĩa thế nào? Chánh mạng nếu thuộc về nghiệp thân, khẩu, thì làm sao thành lập riêng biệt? Chánh tinh tấn là thế nào? Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên? Thế nào là nghĩa của chánh tinh tấn? Nếu chỉ diệt ác là thiện, thì không cần có hai tinh tấn. Nếu chẳng phải thiện, thì Diệt đế tức chẳng phải thiện. Nếu nhất tâm tu tập chánh cần, liền được đầy đủ, thì không có bốn chánh cần. Nếu theo thứ tự tu tập, thì các trợ đạo tu không có đủ. Chánh niệm là thế nào? Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên? Thế nào là nghĩa của chánh niệm? Các pháp hữu vi trong từng sát na không dừng nghỉ, thì làm sao Niệm thành tựu. Vì sao? Vì người kia thấy, người kia nhớ nên không có nghĩa này? Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ, thì niệm căn tức là niệm xứ; nghĩa này không tương ưng? Nếu chỉ do tự mình niệm, không thể nắm giữ một pháp, thì sao kinh lại nói có nắm giữ một niệm. Vì sao có lúc có thể nhớ nghĩ, có lúc lại không thể? Thế nào là Tamma-đề? Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên? Thế nào là nghĩa của Tam ma đề? Chánh định nếu là định, thì bậc Tu-đà-hoàn phải không còn tham dục, sân hận. Nếu không như vậy thì trái với đạo lý?

Ông hỏi: Kinh nói: "Đạo đế là thế nào?" nguyên nhân nào phát khởi lời nói này?

Đáp: Câu hỏi này không vì khai mở lời dạy của bậc Trí. Vì sao? Do nghe tên đã hiểu rõ nghĩa. Đó là từ tâm đại bi mà phát khởi, để biện minh về đạo Niết-bàn về nghĩa ẩn kín, hiển bày muốn được nói rộng rãi về sự tu chứng. Vì đệ tử còn trí tuệ phân biệt, nên Đức Phật tự hỏi. Vì sao? vì sao trước hỏi, sau giải thích thì được nhiều lợi ích. Như trước đã bàn luận rộng về duyên khởi rồi. Lại nữa, vì các đệ tử tiếp nhận sự giáo hóa của Phật, hỏi các ngoại đạo, nghe họ nói có nhiều loại Đạo mà chưa có khả năng quyết định đạo ấy tà hay chánh; để trừ nghi ngờ điên đảo vô minh nơi tâm của các đệ tử, nên Đức Phật tự hỏi và tự trả lời. Thế nào là Đạo? Là tám con đường của bậc Thánh. Vì như nghi ngờ đường đi, người dẫn đường chỉ cho đó là con đường tốt.

Ông hỏi: Nếu Đạo có thể diệt trừ khát ái, thì không nên nói tu hành đạt đến hết khổ. Nếu không như vậy, thì lời nói này mâu thuẫn?

Đáp: Thánh nhân từ khi mới phát tâm là tu hành, dụng ý muốn, trừ diệt khổ, vì mục đích đó phát khởi Đạo. Cho nên nói tu hành đạt đến hết khổ. Khổ ấy hết là do nhân diệt mới là thành tựu. Vì thế phải trừ bỏ nhân. Ví như con của Thầy! Lại nữa, chư Phật quán xét tất cả chúng sanh bị đọa vào các nạn khổ, nên phát tâm tu đạo, để đoạn trừ các khổ cho họ. Dụng ý tu hành này như trong kinh Quốc Thí đã nói: Như các kinh khác cũng nói: Khổ hết là dụng ý của người xuất gia tu tập phạm hạnh, như kinh Thất xa thí: Lại Như Lai ra đời vì ba việc; trong đó làm cho họ hết khổ, là tối thượng. Cho nên nói tu hành đạt đến hết khổ. Lại nữa, tất cả pháp hữu vi là vô thường nên khổ, xa lìa được pháp hữu vi thì nói là hết khổ. Như kinh Phiệt dụ có dạy: "Pháp còn xả bỏ huống là phi pháp!" Lại nữa, do tám Thánh đạo có khả năng dứt trừ các thủ ấm, cho nên nói chung cả hai đều diệt mà không mâu thuẫn.

Ông hỏi: Nếu đủ cả Tập, Diệt, Khổ thì tại sao trong kinh không nói đầy đủ?

Đáp: Nghĩa là diệt khát ái nhờ khổ hết mới được hiển bày. Lại nữa, nhân diệt chẳng phải là dụng chính, lấy sự khổ hết mới là chính. Lại nữa, Thánh đạo có thể diệt các pháp hữu vi và thủ ấm, nên nói khổ hết, thì thông suốt cả khát ái cũng diệt.

Ông hỏi: Nếu Đạo có thể làm cho hết khổ, thì người tu đạo hoàn thành, không nên có phẩm khổ. Nếu không như vậy thì không thể nói tu hành đạt đến hết khổ?

Đáp: Căn cứ nhân duyên hết cho nên nói là khổ. Như nói lửa đã tắt thì gọi là tro tàn, ví như gốc bị chặt thì nói cây chết. Lại nữa, Thánh đạo có thể diệt khổ của tà phân biệt, mà không đoạn trừ khổ của nghiệp báo đời trước và khổ ở các địa. Vì như hạng Chiên-đà-la khí hư (rẽ rúng) và Ưu-ba-tư-na. Lại nữa, Thánh đạo đối với Hữu dư y Niết-bàn, có thể diệt hết khổ nơi tâm; đối với Vô dư Niết-bàn có thể diệt hết khổ thân. Lại nữa, Thánh đạo có thể diệt khổ của ấm hữu sau. Chỉ những hành nghiệp tạo ra từ đời trước theo sát chưa diệt, như vòng tròn và mũi tên.

Ông hỏi: Nếu pháp hữu vi ở trong pháp vô vi, thì không có tu hành đạt đến. Tại sao lại nói tu hành đạt đến hết khổ?

Đáp: Niết-bàn là không có hành, Đạo cũng không có hành. Tuy cả hai không hành nhưng vì trở về hướng đến Niết-bàn khiến cho đạt được Niết-bàn, nên nói tu hành đạt đến khổ. Ví như con đường lớn. Lại nữa vì phương tiện nói, như nói các dòng chảy vận hành mất rồi, các giọt nước vận hành hết rồi. Dòng chảy và giọt nước trong hết không có vận hành; nhưng thế gian nói là có vận hành. Tu hành đạt đến hết khổ cũng lại như vậy.

Ông hỏi: Chánh hành là thế nào?

Đáp: Do đây mà hiểu rõ được nghĩa chân thật, nên nói là chánh hành. Lại do từng bước tiến tới là hành, như nói thực hành đạo ở tất cả mọi nơi. Lại có khả năng đến nơi an ổn, nên nói là chánh hành. Lại nữa chánh là nghĩa không trái, hành là nghĩa trở về hướng đến đích. Do đây không chống trái với qui hướng Niết-bàn, nên gọi là chánh hành.

Ông hỏi: Chánh hành là tám Thánh đạo lời nói khẳng định nầy có công dụng gì?

Đáp: Vì trái với đạo khác; vì thành lập Đạo của tất cả các xứ thành, vì hiển bày không đến xứ khác. Lại nữa, có thể tận cùng khổ của tất cả đạo (cõi), có khả năng ngăn chặn hết thảy nghiệp báo phiền não thiêu đốt; có khả năng trừ diệt những lo sợ về sự chết v.v… trong đường ác, các hình phạt nặng, sự hủy nhục xấu ác của mình và người khác; có thể trừ bỏ hết đống xương tích chứa cao như núi Tỳ-phú-la; có thể làm khô cạn sữa, máu và nước mắt. Do công dụng này nên nói khẳng định.

Ông hỏi: Tên gọi Thánh có nghĩa gì?

Đáp: Do thể của Thánh ấy không lưu chuyển, chỉ một vị giải thoát. Nương vào sự liên tục này, gọi là Thánh nhân. Ví như pháp thiện trong kinh dạy: là chánh kiến của Thánh nhân. Lại nữa là Thánh nhân đã thực hành nên gọi là Thánh ví như con đường của vua đi, gọi là Vương lộ. Lại nữa, những điều mà bậc Thánh đã nói gọi là Thánh. Ví như con đường của Thầy đã đi, gọi là Sư lộ. Lại nữa, các việc bậc Thánh đã làm gọi là Thánh. Ví như ngưu lộ (con đường của Trâu chúa đi). Lại nữa, khiến cho đạt được bậc Thánh tột cùng, gọi là Thánh. Ví như quốc lộ. Kinh dạy: Thánh là bậc giải thoát chơn chánh.

Ông hỏi: Vì sao chỉ nói Đạo là Thánh mà không nói các trợ đạo khác?

Đáp: Cùng một tướng, đều gọi là Thánh; ví như tánh của lửa. Lại nữa, cùng một vị giải thoát, ví như nước trong biển cùng một vị mặn. Lại nữa, tám Thánh đạo là đứng đầu trong các đạo, có khả năng thâu nhiếp các trợ đạo khác, như kinh Tượng tích thí đã nói.

Ông hỏi: Nếu Đạo khác với phần, thì nên nói tướng của nó. Nếu Đạo chỉ là phần, thì phần đầy đủ và phần, không có sự sai khác chăng?

Đáp: Tướng của phần đủ và phần sai khác, có thể thấy và có thể nói, ví như ba vị của năm phần, cũng như năm phần của Tỳ-kheo trú nơi năm xứ. Đạo cũng như vậy, cùng với phần có khác. Bình đẳng mà nói đều gọi là Đạo. Vì sao? Vì tám loại phần, nếu đạt đến mức bình đẳng, thì có thể diệt trừ phiền não. Hoặc chìm hay nổi thì không thể trừ bỏ các Hoặc. Giống như điều chỉnh dây đàn. Lại nữa, phần ấy đầy đủ trọn vẹn thì gọi là đạo, có khả năng hoàn thành công việc, ví như xe. Tuy nhiên, nếu xét nghĩa chân thật, thì trong một phần đã nói đầy đủ phần; ví như năm phần âm nhạc và năm phần định. Đạo cũng như vậy. Chỉ một phần là đạo. Nay chỗ Luận nói chỉ là phần. Sáu nghĩa của Đạo này chứng minh thành một, nói là Đạo.

1. Kinh dạy: Năm căn là đạo tu tập chứng đắc Niếtbàn, năm căn này tức là phần của đạo, nên biết chỉ phần là đạo.

2. Kinh nói: Ba thân thâu nhiếp đạo; ba thân chỉ là phần.

3. Do diệt. Kinh dạy: Chánh kiến thực hành ở đạo diệt, ly không có diệt.

4. Do trừ Kinh nói: Nếu tu tập chánh kiến có thể trừ bỏ các dục.... Nếu xa lìa đạo tức không thể trừ bỏ.

Do xuất ly. Kinh dạy: Các phần như chánh kiến... có thể xa lìa như thế. Nếu chẳng phải đạo thì không thể xa lìa.

5. Do đạo thanh tịnh. Kinh nói: Bát nhã là đạo, vì đạt được thanh tịnh. Bát nhã tức chánh kiến nên biết phần là đạo.

Ông hỏi: Nghĩa của Đạo là thế nào?

Đáp: Đạo lấy sự tìm cầu làm nghĩa. Vì sao? Vì ở đấy có thể đạt được nghĩa chân thật. Cũng lấy hành (đi đến) làm nghĩa. Lấy hành làm nghĩa là như thế gian nói: Đạo này đi đến hướng nước Xá-vệ. Đạo cũng như vậy, trở về hướng đến Niết-bàn. Lại nữa, cửa đi vào nghĩa chân thật, phương tiện thực hành lý. Những nghĩa này đều là nghĩa của Đạo.

Ông hỏi: Vì sao kinh này nói đầy đủ các phần, còn kinh khác không đủ?

Đáp: Luận Pháp Tạng nói: Giả danh có hai loại:

1. Tự tại giả danh.

2. Y tha giả danh.

Nói các phần của tự thể thì gọi là tự tại giả danh, như phần của Đạo là chánh kiến v.v… Y tha giả danh như các môn niệm... cùng những phần trợ đạo khác. Vì sao? Vì phẩm đạo này tu tập chẳng phải tu rời rạc. Lại nữa, do sự trội hơn lấn át, nên trong niệm xứ... tùy theo một pháp trội hơn thì lấn át, các pháp còn lại đồng tên gọi với pháp đó. Ví như vị chua, mặn v.v… các vị khác, tùy vào vị mạnh ấy, để đặt tên. Lại như các cõi, tùy vào một loại trội nhất các loại khác cũng đồng theo tên gọi đó. Lại nữa trong cõi Dục, thì nói đầy đủ các phần của đạo; cõi Sắc, Vô sắc thì nói hoặc năm, hoặc bốn, vì diệt tự thể, bốn đối trị, phần còn lại hoặc tăng hay giảm tùy theo cõi, địa. Vì nghĩa này nên có đủ hay không đủ.

Ông hỏi: Nếu đạo là hữu vi, vì sao Đức Phật nói là Đạo có từ xưa.

Nếu là vô vi thì vì sao lại nói là pháp hữu vi?

Đáp: Do đấy, mà (các sư) xưa nói đạo là hữu vi. Vì sao? Vì pháp hữu vi có mới có cũ, ví như lúa tẻ. Nếu là vô vi không nên nói như vậy. Ví như hư không cho đến Niết-bàn. Như nói thân nghiệp xưa mà chẳng phải là vô vi, như nói Thánh chủng và pháp. Các sư vì thế cho nên nói đạo chẳng phải vô vi. Nay Đạo mà Luận nói tức là hữu vi. Vì sao biết? Vì có phân biệt diễn rộng, như Kinh Đế Tướng Ứng và phần trả lời câu hỏi của Đạt Ma Trần Na như sau: Do tướng hữu vi. Như kinh nói: Nương vào Chánh tư duy, nếu đạo chưa sanh thì được sanh, đã sanh thì tăng trưởng; vì có sanh, trưởng nên biết là hữu vi. Do xả trừ, như kinh nói: Pháp còn phải xả, huống là phi pháp! Pháp diệt là vô vi thì không thể xả. Do duyên bên trong khởi, như kinh nói: Đạo nương vào bên trong sanh khởi, sự quay trở về nương tựa này là khó được. Nếu là vô vi thì chẳng thể nương vào bên trong khởi. Do nơi nghiệp mà gọi tên như kinh dạy: Đạo là nghiệp trắng, chẳng phải đen (thiện, ác), có khả năng diệt các nghiệp. Nếu là nghiệp thì chẳng phải là pháp vô vi. Do có thực, như kinh dạy: Bảy Bồ đề phần lấy thực làm nhân; nếu vô vi chẳng cần nhân của thực. Vì nghĩa này nên đạo là hữu vi.

Ông hỏi: Nếu đạo là một, khi một người tu thì người khác phải chứng đắc, ví như y phục. Nếu không như vậy, tức không nên nói, do một đạo này?

Đáp: Nhiều đạo chứ chẳng phải là một. Vì sao? Vì quả chẳng đồng nhau. Do đạo khác, nên quả có khác. Như con đường khác, nên việc đi có khác. Lại nữa thể khác, nên đạo cũng khác; đó là Kiến đạo, Tu đạo... cũng như bốn khổ vui lâu hay mau. Lại nữa, căn khác, nên đạo cũng khác; nghĩa là chín Học, chín Vô học, Bích chi Phật, Phật đều là do căn sai khác vì thế có khác. Căn cứ ở chủng tánh nên nói do cùng một đạo. Như thế gian nói một hạt lúa. Kinh dạy: Chư Phật ba đời hoặc quán, hoặc thuyết đấy là Bốn đế, mà thể của ba đế như khổ v.v… thật bất thường; nói do một đạo, cũng như vậy.

Ông hỏi: Nếu các bậc Thánh cùng đắc một đạo, thì sao trí tuệ khác nhau. Nếu trí tuệ khác nhau, sao giải thoát như nhau?

Đáp: Do quán tất cả, tất cả loại cảnh giới mà chứng đắc Chánh giác. Vì thế Phật đạo không giống hai thừa. Như kinh dạy: Người nào biết được tất cả tất cả loại cảnh giới, thì nên biết bậc ấy được gọi là Thế Tôn. "Vì đạo thông suốt bình đẳng, nên dù chỉ diệt Hoặc gốc, người ba Thừa cũng như nhau. Kinh dạy: "Giải thoát năm ấm và giải thoát không khác". Như nhiều loại lửa, đều giống nhau ở chỗ thiêu đốt củi cháy thành tro, không có gì khác. Do lửa khác nhau, nên uy đức của ánh sáng, xúc nhiệt tỏa ra có khác. Như vậy, trí tuệ có sai khác, nhưng Hoặc là đối tượng diệt được trừ bỏ, giải thoát là giống nhau. Định tuệ, oai đức và ân đức của Phật, vì đạo sai khác, nên khó có thể suy lường, như kinh Đại luân đã nói.

Ông hỏi: Nếu đạo chẳng phải là tâm pháp thì các vật vô tình cũng phải có đạo. Nếu là tâm hoặc chẳng phải là tâm pháp thì sự tu tập không đầy đủ. Nếu là tâm pháp thì các pháp chống trái nhau, làm thế nào một tâm đều có cả?

Đáp: Tâm là phần của sanh tử, là pháp thế gian; đạo là pháp xuất thế; cả hai không tương ưng, như pháp và phi pháp. Nói đạo chẳng phải là tâm pháp, tức dựa vào cảnh gọi là tâm, khả năng mong cầu gọi là đạo. Nếu cả hai cùng một thể thì tự tánh của nó tự biết. Vì tránh khỏi lỗi này, nên nói đạo chẳng phải là tâm pháp. Ví như thọ mạng và định của, vô tưởng, vô tâm; tuy chẳng phải tâm pháp, mà trong tường vách v.v… không có đạo. Cũng vậy, Đạo tuy có tâm nhưng chẳng phải vị trí xứ tâm, thông tỏ được thì tất cả đều có nên không gì không tu tập đầy đủ. Lại nữa, tu tập có ba loại: Nghĩa là gìn giữ, huân tập, nghiên cứu nên tự nhiên đầy đủ. Đạo cũng có thể nói là tâm pháp. Vì sao? Vì cùng chánh tư duy đồng có sanh diệt, ví như một tâm. Kinh dạy: Do sự tu tập của tâm tăng trưởng, nên đạt được nhất tâm, gọi là tâm định, tức là đạo phần, cùng một xuất ly, cùng thành tựu một việc. Vì thế nên, cùng một tâm mà không trái nghịch

Ông hỏi: Nếu đạo đến diệt trừ Hoặc, thì pháp chống trái, nhất tâm đều cùng có. Nếu không đến thì ở trong liên tục của người khác làm sao không trừ bỏ?

Đáp: Đạo không đến Hoặc mà có thể trừ Hoặc; như đạo không đến phá giới, có thể trừ diệt sự phá giới của mình, không trừ được sự phá giới của người khác. Diệt trừ Hoặc cũng như vậy. Sự tương tục của mình và người tuy đều có không đến, nhưng chỉ trừ bỏ Hoặc của mình mà không thể trừ bỏ Hoặc của người khác. Bộ Phân biệt nói: Chẳng phải đến, chẳng phải không đến, khi ấy trừ được Hoặc. Do không sanh tức là diệt. Ví như trị bệnh, khổ thọ đã đến thì thầy thuốc không thể chữa trị. Vì sao? Vì không thể chuyển khổ thành vui. Khổ thọ chưa đến thì thầy thuốc cũng không thể chữa trị. Vì sao? Vì không có gì cả. Nếu vậy thì làm sao chữa trị được, chỉ làm cho các duyên trái nghịch thôi, khiến cho khổ chưa sanh vĩnh viễn không được sanh khởi. Đạo có khả năng trừ bỏ Hoặc cũng lại như vậy.

Ông hỏi: Nếu các phần đều cùng sanh khởi, thì có nhiều tác ý.

Nếu tuần tự sanh khởi thì chỉ có một phần hay sao?

Đáp: Do thành một việc, nên được cùng sanh khởi; chẳng phải duyên cảnh giới riêng, nên không có nhiều tác ý xen tạp cùng khởi. Do công năng nên được thấy có khác nhau. Ví như dục v.v....

Ông hỏi: Vì sao chỉ lập ra tám phần không thêm không bớt?

Đáp: Câu hỏi này không rốt ráo, vì thế gác lại đó. Lại nữa, do đối trị tám phần tà, nên nói tám phần Thánh đạo.

Lại nữa; vì thâu nhiếp ba thân; vì để đối trị ba thứ độc, ba thứ lửa, ba kiết, ba thứ gai, nên nói tám phần. Trong tạng luận cũng nói: Có thể thành tựu tâm tám công đức, nên nói tám phần. Do đạt chánh kiến nên tâm thanh tịnh. Do đạt đến chánh giác nên tâm trong sáng. Do đạt được chánh ngữ nên tâm bình thản. Do đạt được chánh nghiệp nên tâm không hối hận. Do đạt được chánh mạng nên tâm uyển chuyển. Do đạt được chánh tinh tấn nên tâm tùy thuận giáo pháp. Do đạt được chánh niệm nên tâm được an trụ. Do đạt được chánh định nên tâm không động.

Ông hỏi: Vì sao không chọn các pháp khác như dục v.v…?

Đáp: Chỉ chọn lấy pháp thù thắng, hoặc chọn lấy công dụng mạnh, hoặc chọn khả năng gánh vác giữ gìn, hoặc đều thâu tóm hết về chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng là phần của Tu-đà-hoàn. Tín là thuộc về ba thứ này. Tu-đà-hoàn có đủ bốn trí tín; dục tức là tín.

Lại nữa, tín này cũng thuộc về chánh kiến. Bậc Tuđà-hoàn đắc được trí tín, còn hỷ, khinh an, xả là thuộc về chánh định. Vì thế cho nên tám phần là thâu tóm hết các phần.

Ông hỏi: Vì sao một pháp mà nói thành ba loại, hoặc nói trung đạo hoặc nói khả năng diệt ác, phước, hoặc nói là tu hành đạt đến hết khổ?

Đáp: Do ba việc này thù thắng. Ví như mặt trời có thể phá bóng tối, gọi đó là ánh sáng; có thể phân biệt được ngày và đêm gọi đó là mặt trời; có thể phân biệt từng sát na gọi đó là gốc thời gian. Thánh đạo cũng như vậy; có thể lìa nhị biên nên gọi là trung đạo; có thể trừ hai nghiệp trắng, đen nên gọi là diệt phước ác; nhổ hết khổ nơi tâm và thân, nên nói tu hành đạt đến hết khổ. Hoặc loại trừ đạo của ba đời, nên nói tu hành đạt đến hết khổ.

Ông hỏi: Vì sao chánh kiến được nói trước?

Đáp: Vì nó là đứng đầu. Ví như vua. Kinh dạy: Trong tất cả pháp hữu vi, Bát nhã là hơn hết.

Lại nữa, có thể tạo công đức thù thắng. Nếu trí tuệ thù thắng, thì các đức đều thù thắng. Như Tôn giả Xálợi-phất, nhờ chánh kiến, nên nhận biết đúng đắn không thiên lệch. Như trưởng giả Thủ La, nhờ chánh kiến nên tâm khó lay động. Như vua A-du-kha, nhờ chánh kiến mà người khác không thể dẫn dắt. Như trưởng giả Chấtđa-la có thể trừ diệt nguồn gốc các tai họa ngang trái.

Như kinh dạy: Ánh sáng hiện ra thì tan hết bóng tối. Vì thế, chánh kiến là đầu tiên.

Ông hỏi: Vì sao nói lấy đó tu tập trước tiên?

Đáp: Do được chánh kiến thì các chi phần khác cũng đạt, được thoát khỏi thế gian, không còn sanh tử, chứng pháp Bất cộng. Hoặc nói do năng lực của chánh kiến, mà các chi phần còn lại được gọi là đạo giải thoát. Như kinh dạy: Tỳ-kheo là bậc chánh kiến, nghiệp thân, miệng, ý đạt đến quả tối diệu đáng yêu thích. Như kinh đã giảng nói rộng. Thế nên, lấy chánh kiến làm việc tu tập đầu tiên.

Ông hỏi: Chánh kiến nghĩa là gì?

Đáp: Không đảo ngược là chánh, chứng thật sáng suốt là kiến. Chứng thật, sáng suốt không đảo ngược chủng loại chân thật mà mình đã y chỉ gọi là chánh kiến.

Lại nữa, chơn như gọi là chánh, quán gọi là kiến. Quán Thánh đế như thật gọi là chánh kiến.

Lại nữa, chánh là nghĩa tán thán. Kiến là nghĩa của sự sáng suốt.

Vì sáng suốt đáng tán thán nên gọi là chánh kiến. Như kinh dạy: Trong các ánh sáng, ánh sáng tối thắng, tức là chánh kiến.

Lại nữa, cảnh uy đức thù thắng, trí hiện hành theo, đó là chánh kiến. Vì sao? Vì ở vị chánh định, nòi tên gọi là chánh kiến, như trong kinh Chủng tử thí đã dạy. Lại nữa, luận Lý Túc cũng nói: Do cảnh chánh nên trí chánh, chứ không phải là do trí chánh nên cảnh đúng. Các tướng hữu vi, hữu lưu tương ưng nên tất cả chỉ là khổ. Quyết định biết như đây, đó gọi là chánh kiến, như Đức Phật đã dạy cho Tôn giả Ca-chiên-diên vậy.

Lại trong luận tạng dạy: Đối trị vô trí, nghi trí và đảo trí có thể thoát khỏi các khổ là trí chơn thật. Trí này gọi là chánh kiến.

Ông hỏi: Người thấy (kiến) đã không có, ai làm chủ thể thấy?

Đáp: Các duyên tụ tận cùng thành thấy này. không có một vật riêng làm người thấy đó. Ví như hoa, quả; Lại như kệ nói:

Có thấy, không có chủ thể thấy Pháp nào được làm người thấy kia? Từ các duyên hòa hợp mà sanh

Như thấy sắc nói là giả dối. Khi pháp tập hợp, thấy là hợp,

Không tan hoại, không có thể thấy Chỉ là nhân duyên tạo tác thành Như ác và người không dính nhau.

Pháp từ duyên sanh, không thể nói thuộc một; như Đức Phật, vì phá chấp Cầu na (thực thể), nên nói: Ta không nói Thức làm chủ thể nhận thức. Vì sao? Vì đây chỉ gọi là phần đủ, tạm đặt ra tên gọi như vậy.

Ông hỏi: Chánh kiến và chánh kiến, trong mười Thiện nghiệp khác nhau thế nào?

Đáp: Trí thế tục ở nơi mười thiện. Trí chơn thật ở nơi tám chánh đạo. Thường chiêu cảm sự sanh sau này, lấy khổ làm quả, quán nghiệp làm cảnh, chánh kiến như thế thuộc mười pháp thiện. Thường diệt trừ ba cõi, Niếtbàn là quả, duyên Đế làm cảnh, chánh kiến như vậy thuộc nơi tám Thánh đạo.

Ông hỏi: Nếu do chánh kiến, cùng một lúc thấy được đế, thì lẽ ra phải có nhiều cảnh; nếu không như vậy thì chẳng phải mỗi niệm diệt?

Đáp: Cùng một lúc có thể thành tựu được bốn việc, nên nói là cùng một lúc, chứ chẳng phải vì cảnh khác. Luận Lý Túc nói: Người tu tập quán và thực hành, nhờ trí tuệ của bậc Thánh mà thông suốt từng lỗ chân lông, có thể đoạn trừ các Hoặc.

Lại như các kinh khác dạy: Nếu quán thông suốt ba thọ, thì mọi việc đã làm xong, không còn chỗ tạo tác. Do thông suốt tướng, pháp, Đế tướng vô ngã, thế nên, cùng một lúc quán thông cả Bốn đế. Như theo thứ lớp quán thì duyên Vô thường, Khổ, Vô ngã, cùng một lúc thông cả Khổ đế.

Ông hỏi: Nếu chánh kiến đã hiểu rõ các đế, thì phần còn lại dùng làm gì?

Đáp: Tất cả các phần đều là chủ thể diệt trừ và tự đối trị, mọi thứ đều có cái dụng như đổ xuống phương dưới. Lại nữa, tất cả các chi phần, tự trong mỗi việc là trên hết, cộng lại thành một việc. Ví như các bộ phận của xe và các phần của mỗi bộ phận xe, mỗi phần đều có công dụng, khi hợp lại thì mới vận chuyển được. Các phần của đạo và đạo cũng như vậy.

Ông hỏi: Nghĩa của chánh giác là gì?

Đáp: Chưa từng có suy lường, nay mới phát sanh, gọi là chánh giác. Lại nữa, là pháp bình đẳng do tưởng hành duyên với nhau mà dấy khởi. Lại nữa, cảnh giới quả và thể tướng, cùng phù trợ cho nhau, nên gọi là chánh giác. Lại nữa, như thấy là tùy vào sự chọn lấy, không bỏ gọi là chánh giác. Như bò ngậm thức ăn.

Ông hỏi: Vì sao ba pháp hợp thành một?

Đáp: Cùng một tướng nên như các chi phần khác của đạo. Lại nữa, khéo lãnh thọ suy xét bình đẳng, ví như phần định. Lại nữa, duyên Niết-bàn là cảnh, như định vô tướng, nên ba hợp thành một.

Ông hỏi: Nếu dựa vào hai định chứng đắc các dòng khô cạn, thì chánh giác không đầy đủ các phần đạo, có thiếu nghĩa này nên cứu chữa sao đây?

Đáp: Nếu dựa vào hai định mà tu Bát chánh đạo thì chỉ không có phần giác quán ở định ban đầu, chẳng phải không có giác trong phần đạo. Ví như định ban đầu và Tam-ma-đề không có giác quán.

Lại nữa, do sự việc thành tựu, nên nói có chánh giác, không do ở thể; ví như có sự nhận biết ở năm căn. Lại nữa, thường nhổ bỏ, diệt trừ, đối trị nên nói là có chánh giác. Ví như chánh ngữ.

Ông hỏi: Chánh ngữ có nghĩa thế nào?

Đáp: Mãi mãi thọ lãnh lời thệ nguyện, không phá bỏ; gọi là chánh ngữ, như truyện Cù-sư-la. Lại nữa, là lời nói thanh tịnh, vì đã trừ bỏ mong cầu, chấp giữ, cấu uế diệt mất. Lại nữa, pháp vốn như vậy, mọi sở đắc vĩnh viễn thực hành tốt, gọi là chánh ngữ. Giới của chánh ngữ có hai loại. Một là không khiến cho biết, như kinh dạy: Là xa lìa các thứ nói dối; Hai là khiến cho biết, như kinh dạy: Khi người này nói ra thì lời nói ấy là chân thật.

Ông hỏi: Nếu đạo có ngữ ngôn thì tu không có định. Vì sao? Như Đức Phật dạy: Định cho âm thanh là gai góc. Nếu không có âm thanh thì không thể thành tựu Đạo phần.

Đáp: Vì là Đạo phần nên chẳng phải gai góc; ví như chánh giác, Hỷ giác phần v.v....

Lại nữa, nói âm thanh là gai góc thì không hẳn vậy. Ví như nhìn người nữ cũng là gai góc. Kinh dạy: Thường nhìn người nữ là gai góc trở ngại người tu phạm hạnh. Nhưng chẳng phải là gai góc của bậc A-la-hán, vì họ đã nhổ bỏ gai gốc (ái dục).

Kinh dạy: Bậc Voi chúa (Phật) thuyết pháp ở định, đi, đứng v.v… cũng định tĩnh. Như người tu tập quán, suy nghĩ đúng thuyết pháp, tâm đều ở nơi định, không vì có nói pháp mà không định. Sư Kinh Bộ nói: Xa lìa bốn cách nói tức là chánh ngữ. Như thế gian nói thì đã lìa. Như chánh ngữ mà làm. Như nói: ngựa này chạy nhanh, người kia khéo giỏi…

Ông hỏi: Chánh nghiệp nghĩa là thế nào?

Đáp: Như kinh dạy: Xa lìa nghiệp xấu ác của thân gọi là chánh nghiệp.

Kinh dạy: Nghiệp thân này không chia chẽ, không lưu giữ, không ban bố; tự tại, không chấp giữ, thường sanh vẳng lặng, gọi là Chánh nghiệp.

Lại nữa, do quán xét lỗi lầm mà xa lìa sát sanh, không tạo tác, không làm, ngăn cản, không ưa thích; gọi là Chánh nghiệp.

Ông hỏi: Tất cả phần đều là Chánh nghiệp; thì sao lại nói một phần gọi là Chánh nghiệp..

Đáp: Nếu xa lìa tên này thì tên khác không hiển bày.

Như pháp giới, pháp nhập... chẳng phải là chỗ duyên của nhãn thức, không khiến người khác biết, gọi là Chánh nghiệp, là chỗ y chỉ của tất cả các nghiệp, ví như nền tảng của nghiệp.

Ông hỏi: Nếu nói xa lìa tạo tác, gọi là Chánh nghiệp; mà lìa xa thì chẳng phải tạo tác, làm sao thành nghiệp.

Đáp: Không tạo tác cố khởi nghiệp ác, mà tạo tác giữ gìn nghiệp thiện, nên biết tức là chánh nghiệp. Như kinh dạy: Ta nói tạo tác, Ta nói không tạo tác.

Lại nữa, có thể đoạn trừ hai nghiệp trắng đen; nên gọi là không tạo tác. Có thể đối trị nghiệp nên nói là tạo tác.

Lại nữa, chánh nghiệp cũng gọi là chánh nghiệp trừ. Do tên gọi này nên nghĩa tạo tác và không tạo tác, được thành tựu. Ví như nhờ mắt mà nói thấy, cũng nhờ mắt mà nói không thấy.

Hỏi: Nếu không tạo tác thì sao biết có nghiệp này?

Đáp: Có nhiều nhân duyên, nên nghiệp này có thể biết. Nhờ Kinh nói: Sắc có ba loại: Một là có thấy, có ngại; hai là không thấy, có ngại; ba là không thấy, không ngại. Lại nói có sắc không lưu chuyển. Lại nói là do bảy lợi ích của phước đức. Lại nói do giáo hóa người khác cũng có mười nghiệp đạo. Lại nói, Tỳ-kheo có pháp chẳng phải thâu tóm trong mười một nhập, tức là không thấy, không ngại mà không nói là không có sắc.

Lại nữa, nếu không có nghiệp này, thì tám phần Thánh đạo tức không đầy đủ. Vì sao? Vì khi chánh thức nhập quán thì ba nghiệp không hành.

Hỏi: Nghĩa này không đúng. Vì sao? Ở nơi đạo phương tiện đã tu ba nghiệp. Như kinh dạy: Người ấy thấy như thật, biết như thật, gọi là chánh kiến. Muốn đạt được tu hành viên mãn chánh giác, tinh tấn, chánh niệm, chánh định; thì thời gian trước phải chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thanh tịnh trước rồi?

Đáp: Dựa vào đạo giới lìa dục của thế gian nên nói như vậy.

Lại nữa, giới Ba-la-đề-mộc-xoa cũng không nên có. Vì sao? Khi đang lãnh thọ thì có, nhưng sau tâm đổi khác, sẽ không nên gọi là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni.

Kinh dạy: Nghiệp này gọi là bờ đê, có thể ngăn ngừa sự phá giới, hoặc không có gì là không thể ngăn dừng điều ác. Kinh Bộ sư nói: Ở đây chứng được nhiều sự thù thắng, nghĩa thật là hiếm có không thể như đây. Vì sao? Vì Ong nói do Kinh nói sắc có ba. Cho nên biết có vô tác sắc thì nghĩa này không đúng. Các sư thực hành quán như Mục Liên, A-ni-lâu-đà... thì nói: Có sắc là cảnh của định, do năng lực của định mà thành, sắc này chẳng phải là cảnh giới của nhãn căn, cho nên nói không thấy. Không bị nơi chốn làm chướng ngại, gọi là không ngại.

Hoặc Ông nói: Nếu như vậy thì sao gọi là sắc? Tức đây đồng với vô tác sắc trở lại hỏi nghĩa của ông.

Ông nói: Do nói sắc không lưu chuyển, mà biết là có vô tác. Nghĩa này không đúng. Vì sắc ấy cũng do năng lực của định sanh, do định không lưu chuyển nên sắc cũng không lưu chuyển.

Các sư lại giải thích: Sắc của A-la-hán cũng là không lưu, chuyển chẳng phải chỗ nương của lưu chuyển.

Hỏi: Nghĩa này không đúng. Như kinh nói: Thế nào là pháp có lưu chuyển? Đó là tất cả mắt cùng tất cả sắc... Sắc này chẳng phải đối trị của lưu chuyển, nên nói là có lưu chuyển. Nếu vậy, thì sắc này hoặc có lưu chuyển, hoặc không lưu chuyển?

Đáp: Nếu đúng thì có sao?

Hỏi: Tướng lẫn lộn sao?

Đáp: Như tướng có lưu; tướng không lưu, không như tướng có, làm sao lẫn lộn! Lại nữa, nếu sắc nhập một hướng có lưu thì tại sao trong kinh nói chọn lựa riêng, không là cách nói chung? Kinh nói: Sắc có lưu tức là chỗ nương tựa nầy kín, kiên cố của tâm có chấp thủ, nên gọi là có sắc lưu chuyển. Ông nói: Do lợi ích của bảy phước đức nên biết có vô tác sắc. Nghĩa này không đúng. Các sư trong Kinh Bộ nói: Như Ông dụng tài vật của thí chủ (người cho), do thọ nhận nên người cho được lợi ích của công đức. Thí chủ tuy có tâm khác, nhưng do khi bố thí trước đây có tác ý huân tập, thực hành liên tục, dần dần chuyển thành thù thắng. Do thù thắng này nên có khả năng phát sanh quả báo ở đời vị lai nhiều hay ít. Căn cứ vào sự liên tục này mà nói công đức của thí chủ sanh trưởng. Nếu ông nói: Do sự liên tục của người cho có hơn, kém và tuỳ theo việc thọ dụng, thì người cho khi ở tâm khác, sự liên tục chuyển thành hơn (thù thắng) làm sao thành tựu được! Nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì bằng với nghĩa không tạo tác, nên ông chấp là vô tác. Lại nếu do sự tương tục có hơn, kém và tùy theo nhân thọ dụng thì sự liên tục của người kia làm sao được thành?

Hỏi: Trong chủng loại không tăng trưởng phước đức, vô giáo giới làm sao thường phát sanh?

Đáp: Do thường tu tập duyên với giới, tác ý định cho đến trong giấc ngủ, nên sự tăng trưởng cũng liền theo đó.

Hỏi: Nếu vậy thì trong kinh Úc già Trưởng giả, nghĩa đó là thế nào? Kinh dạy: Nếu Tỳ-kheo trì giới hành thiện, thọ dụng thức ăn, y phục của thí chủ, đã tu định vô lượng tâm, thân chứng định này, vào trú trong rừng thì do sự thọ dụng này, mà thí chủ được phước đức, an lạc tăng trưởng, lưu chuyển vô lượng, nên cần phải tin biết. Trong đây có tác ý gì? Do vậy biết sự liên tục chuyển thành thù thắng tức là đạo lý chính xác.

Ông nói: Nếu Vô tác nghiệp, vô giáo giới giống như người dạy người khác tác (giáo tha tác) nghiệp, thì nghiệp đạo làm sao thành được? Sư Kinh Bộ cũng nói về sự tạo tác này: Do dạy người khác làm, nên người kia hoặc xa lìa, hoặc chịu khổ của sự giết hại. Người dạy (chủ thể) thì tăng mạnh dần thiện hay ác trong sự tương tục vi tế. Do chuyển biến tăng lên này, nên có thể phát sanh quả báo nhiều hay ít ở vị lai. Nếu người tự tạo tác thì tùy theo việc đã thành tương tục tăng thêm, gọi đó là nghiệp đạo; nghĩa này cần biết. Vì quả nhờ vào nhân để gọi. Sự quả thân miệng nhờ vào thân miệng để đặt tên gọi, nghĩa cũng như vậy; như vô giáo giới của thân, miệng, ý. Có đại đức nói: Căn cứ ở chúng sanh chấp thủ ấm, do ba thời tác ý, sát sinh, nên cũng phạm tội sát sinh. Nghĩa là tác ý rằng: ta sẽ giết, đang giết, giết rồi. Theo giải thích này cũng không đúng. Tuy có ba tác ý mà nghiệp đạo chưa hẳn thành được. Vì sao? Vì chưa đoạn mạng căn của mẹ v.v… Người kia dấy khởi ba ý, không mắc tội nghịch. Nếu người tự hại mạng căn người khác, do ba ý này thì mắc tội có thể đúng.

Hỏi: Đều là không thể thấy. Vì sao oán ghét, ganh tị, hủy báng, Vô giáo (không biểu hiện) mà chấp nhận tin có sự tương tục chuyển tăng thêm?

Đáp: Không oán ghét, ganh tị ở đây, chỉ do tâm vận hành mà nghiệp đạo của thân được thành. Hoặc nói hành giả có pháp khác, tâm khác việc ấy ta không vui mừng, do tâm gắng thực hành (gia hạnh) mà việc nầy được thành tựu. Vì việc này thành nên sự liên tục sẽ chuyển tăng thêm, nghĩa này đáng vui mừng. Vì sao? Do tâm liên tục nên quả được thành.

Ông nói: Pháp nhập, Phật, không nói là Không có sắc. Cho nên biết có vô giáo (vô biểu sắc). Nghĩa này đã trả lời xong. Như sắc của cảnh giới định. Ông nói: Nếu không có nghiệp này thì tám chi đạo không thành, cho nên biết là có vô giáo; nghĩa này cần bàn luận. Ông bạn đáng ra là nói: Người nhập đế quán thì chánh ngữ, chánh nghiệp chánh mạng, làm sao có được? Người này ở nơi quán là có nói năng, tác nghiệp, tìm, cầu… bốn việc, nên có ba loại này, hay là đương không như vậy?

Đáp: Không đúng! Khi đang trong quán chứng đắc cái gì? Ba loại, vô giáo này do quán này mà chứng đắc. Cho nên, ra khỏi quán, sau đó không còn nói sai lầm v.v… chỉ trú ở chánh ngữ v.v.... Do đó, ở trong nhân nhờ quả vốn được mà đặt tên. Vì thế vô giáo gọi là Chánh ngữ v.v.... Luận chủ thì trả lời: Trong đó sao không chấp như thế này: Hoặc đang trong quán, tách rời đối với vô giáo, do đắc mà có ý như vậy, do đắc mà có sự nương tựa như vậy. vì chứng đắc những thứ đó, nên sau khi xuất quán, không còn nói tà v.v… chỉ trụ trong chánh ngữ v.v… Thế nên trong nhân nhờ quả vốn được mà đặt tên. Cho nên sự liên tục chuyển thành thù thắng, gọi là chánh ngữ. Do nghĩa này nên đạo có tám phần.

Phái Thượng Tọa Bộ nói: Chỉ không gây ác, gọi là ba phần. Vì sao? Vì năng lực của Thánh đạo, pháp nhất định không tạo tác. Dựa vào sự không lưu chuyển ở các đường, nên gọi là vô lưu, không hẳn hết thảy các nơi có đủ số pháp đều chơn thật. Như tám pháp thế gian; là được, không được, có danh, không danh, xưng tụng, chê bai, khổ, vui. Trong đấy không được, càng không có pháp khác.

Lại có các Sư khác nói: Giới Ba-la-đề-mộc-xoa là ba phần đạo, nương vào phương pháp tác ý tin nhận trước đó. Do tác ý này nên có thể phòng ngừa thân miệng, ngăn chặn việc làm ác, gọi là giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Nếu ông nói: Người với tâm khác thì không hộ trì, nghĩa này không đúng. Do luôn tu tập, nên duyên phạm giới đến tác ý liền đến. Nói tác ý này là bờ đê. Vì sao vậy? Vì nhớ đến lời phát nguyện trước là làm thiện, không gây ác. Vì có cái dụng này, nên cần thọ giới.

Lại nữa, theo như ông lập luận, có và giáo giới riêng mà có thể ngăn cản sự phá giới, thì không nên có mất niệm phạm giới. Không cần bàn rộng: Nếu vậy, thì không đúng. Nhất định nên biết: Trong tám chi Thánh đạo, giới có ba phần là nền tảng của đạo, ví như đất. Do trước đã thực hành, ví như vua. Có thể thoát khỏi rừng rậm gai góc của sanh tử ví như chân đi. Các loại hương thơm đáng ưa thích ví như Thiên đàn diệp; thanh tịnh dần dần đạt đến Niết-bàn, như dụ về bảy xe. Lại có sư khác nói: Trích dẫn kinh làm chứng, là quả của đạo. Vì nhân duyên cung kính lợi dưỡng, chứ chẳng phải đạo đối trị giữ gìn. Trái lại, vì khiến cho biết được quả sở đắc nên biết có giới này. Có sư khác nói: Vì sao Vô giáo giới là sắc, mà chẳng phải là thân thọ?

Đáp: Không giáo hóa thuộc nghiệp của thân miệng; thuộc về sắc thân thọ cùng với tâm tương ưng, thuộc về danh.

Lại nữa, vô giáo là nghiệp thân, nên thuộc về thân. Thọ là tâm pháp nên thuộc về tâm. Lại nữa, vô giáo cũng là giới, sắc, thuộc về sắc ấm. Thân, thọ tâm, pháp thuộc về Thọ ấm. Nay chỗ luận bàn tâm pháp này, là nơi nghiệp nương tựa của nghiệp. Do thân, miệng thành tựu, nên tạm có được danh ấy. Pháp này và thọ khác nhau thế nào?

Đáp: Thuộc về Thọ ấm, nên pháp này chung thuộc về các ấm. Vì sao? Vì dựa vào sự tương tục.

Ông hỏi: Xa lìa đánh đập... vì sao không nói là Đạo phần?

Đáp: Bậc Thánh hữu học chưa đạt đến vắng lặng. Ví như ngăn tội, vì không cùng khắp nên giống như chẳng phải phạm hạnh, vì không nhất định, như phần Bố-sơđà; vì tư lương nên ví như Bố thí... Ở đây luận đã bàn luận và phân tích rõ về tám giới; trong đấy nói đến tên gọi ba chi Thánh đạo.

Ông hỏi: Chánh nghiệp, chánh mạng, và chánh nghiệp, chánh mạng của mười thiện nghiệp khác nhau thế nào?

Đáp: Có thể trừ bỏ, vì không thể trừ bỏ. Từ chánh kiến xuất thế sanh khởi, thì, cam lộ không lưu chuyển làm quả. Từ chánh kiến thế gian sanh khởi, thì hữu lưu, thủ ấm làm quả; có khả năng sanh phước đức gọi đó là nghiệp đạo; có thể xa lìa phước đức gọi là đạo phần.

Ông hỏi: Nghĩa chánh mạng là thế nào?

Đáp: Chánh mạng có hai loại: Một là cư sĩ xa lìa năm loại buôn bán; hai là người xuất gia xa lìa năm loại tà mạng. Theo lý tìm cầu mà thọ dụng về bốn duyên: ăn, mặc.... Lại nữa, biết đủ, không làm mất, những gì thuộc về Thánh chủng cho đến giữ gìn thân miệng. Lại nữa, trước nhân nơi trí tuệ làm xa lìa các sự sai lầm của thân tâm, đó gọi là Chánh mạng.

Ông hỏi: Chánh mạng nếu thuộc về nghiệp thân miệng, thì tại sao thành lập riêng?

Đáp: Thâu nhiếp chung cả hai thứ, nhưng do nghĩa có khác, lập riêng để nhận biết. Ví như các ấm chung thuộc hành ấm; do nghĩa có khác nhau nên thành lập riêng bốn ấm. Lại nữa, thể có hai. Ví như thân. Quán kinh nói: Đối với quán thân, an trú thân. Lại nữa, chánh mạng khác với hai phần trước, ví như số lượng về hoặc. Ông hỏi: Thế nào là Chánh tinh tấn?

Đáp: Thực hành khắp nơi, tùy theo mỗi cảnh sự sai khác, để đạt được các pháp thiện, khích lệ phát khởi thân tâm, không rời bỏ nhiệm vụ. Lại nữa, vì diệt trừ pháp ác, chứng đắc pháp thiện nên thường thực hành dõng mãnh, đó gọi là tinh tấn. Lại nữa tu hành đúng lý (thị xứ) thân tâm không điên đảo lại nổ lực chuyên cần, gọi là tinh tấn.

Ông hỏi: Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên?

Thế nào là nghĩa?

Đáp: Khích lệ dấy khởi nơi thân tâm là tướng. Không thối đọa gọi là dụng. Phát sanh tinh tấn là duyên. Trong luận tạng có nói: Tinh tấn thì dõng mãnh là tướng. Không trì trệ là dụng. Bốn chánh cần là duyên. Thực hành được lợi ích thù thắng là nghĩa. Nếu người tu tập lười biếng thực hành không có lợi ích thù thắng.

Lại nữa, Tinh tấn có năng lực khó ai hơn. Nếu người có tinh tấn thì có năng lực khó ai sánh, chiến đấu với các phiền não. Nếu người biếng nhác thì không được việc này. Lại nữa, tu tập mà có thể diệt trừ, phá bỏ, là nghĩa của tinh tấn.

Ông hỏi: Nếu diệt trừ ác là thiện tức không có hai tinh tấn. Nếu chẳng phải thiện thì nghĩa diệt đế chẳng phải thiện (tốt)?

Đáp: Diệt ác thì chỉ là không có vật; thiện thì không như vậy. Vì thế tinh tấn có hai loại. Lại nữa, diệt ác còn gọi là thiện chân thật, còn lại tức có ba thiện. Vì sao? Vì có bốn thiện. Xa lìa mùi hôi của phá giới, gọi là diệt ác. Hương thơm của giới khởi gọi là sanh thiện. Ví như nóng yên tĩnh thì khác với lạnh sanh.

Ông hỏi: Nếu nhất tâm tu tập chánh cần tức đã đầy đủ, thì không cần có bốn chánh cần. Nếu tuần tự tu tập tức thực hành các trợ đạo không đủ?

Đáp: Nhất tâm tu tập được bốn chánh cần, ví như nhất tâm là quán thấu suốt được Bốn đế. Vì sao? Vì tu tập này, nên các ác chưa sanh thì không được sanh, các ác sanh rồi thì không trụ được; các thiện chưa sanh khiến cho sanh, đã sanh rồi làm cho trụ kiên cố. Vì thế, tinh tấn, thể của chỉ là một; do dụng nên có bốn. Bộ Phân Biệt lại nói: Nếu người trì giới quán các hành, để đối trị diệt trừ định thì tu tập Bốn chánh cần. Các ác đã sanh có thể làm chướng ngại định, nhưng do tinh tấn nên bị diệt; chưa sanh phá giới, về sau cũng không sanh được; chưa sanh định, được sanh định; đã có giới thanh tịnh, thì được trú kiên cố. Vì nghĩa ấy, cho nên tinh tấn chỉ có một, mà sự dụng có bốn. Lại nữa, có người nói: Bốn chánh cần dấy khởi theo thứ tự, ví như được định. Vì sao? Vì có chánh cần, chỉ có khả năng phá trừ mê hoặc của thượng tâm. Có chánh cần khác, chỉ có khả năng nhổ hết các hoặc tùy miên. Lại có chánh cần, chỉ có khả năng sanh những căn chưa sanh. Có chánh cần chỉ có khả năng khiến căn sanh rồi làm cho vững chắc. Thế nên, tu tập đạo phẩm chẳng phải là tu rời rạc vì có chánh cần.

Ông hỏi: Thế nào là chánh niệm?

Đáp: Không quên đối tượng đã biết ở trước, ấy là chánh niệm, như nắm chắc tướng. Kinh dạy: Tâm tỉnh giác, tâm trói buộc... ấy gọi là niệm.

Ông hỏi: Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên?

Thế nào là nghĩa?

Đáp: Cảnh giới trước đó, sau nhớ nghĩ là tướng. Tâm và cảnh không xa lìa là dụng. Sáu niệm là duyên. Tự nhớ khiến cho nhớ gọi là nghĩa của niệm. Ví như Bồ-đề là tự giác khiến cho giác. Lại nữa, luận tạng nói: Tâm lắng đọng thanh tịnh làm tướng không quên mất, nếu quên mất thì hiện trở lại. Lại nữa, thường chấp giữ cảnh giới là chỗ nương nhờ của trí, nên cũng gọi là niệm. Lại nữa, niệm có bốn loại:

1. Tùy theo chấp danh, cú vị.

2. Thường thuận theo nghĩa đã chấp.

3. Thường thuận theo nghĩa đã suy nghĩ. thường tùy theo sự thông suốt nghĩa đã tư duy. Nay luận bàn rõ chính là nghĩa thứ tư.

Ông hỏi: Các pháp hữu vi trong từng sát na không trú, thì Niệm sao thành tựu được? Vì sao? Vì người kia thấy, người kia nhớ nên không có nghĩa này?

Đáp: Nếu người biết khác người niệm thì không thành, như họ Trương thấy, họ Vương nhớ. Nếu trí liên tục khác với niệm thì cũng không thành, như thấy bò mà không nhớ ngựa... Nếu trí là một niệm thì cũng không thành, tức không có trí về sau (Hậu đắc trí). Trái với ba nghĩa này, tức gọi là Niệm. Lại giải thích, nếu không có sự liên quan thì người này có thấy người khác cũng sẽ không nhớ được, ví như người này thấy, còn người kia thì không nhớ. Còn nếu có sự tương quan, thì người kia thấy người kia sẽ nhớ được. Ví như trẻ thơ, trai tráng, già yếu… thì trí nhớ nghĩ tùy theo đó mà sanh. Lại nữa, ví như hạt giống, nếu không có liên quan, thì hạt lúa không sanh ra mầm lúa. Hoặc nhân quả tương quan mà có khác, như những loài lúa mà hạt, mầm, rễ, cành, lá mỗi thứ đều tùy theo đó mà sanh. Hoặc một niệm cũng không thành, vì nhân quả không lập được; như hạt giống luôn làm một thì mầm không sanh. Do sự tương quan không khác, không một nên niệm được thành.

Ông hỏi: Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ, thì niệm căn tức là niệm xứ, nghĩa này không tương ưng?

Đáp: Luận này bàn về. Niệm căn tức là Bốn niệm xứ, chỉ không dùng căn phân biệt cảnh giới. Ví như trí căn trí lượng.

Lại nữa, niệm xứ có ba loại:

1. Tự tánh niệm xứ, chỉ sanh nhớ nghĩ ví như vua.

2. Tạp niệm xứ. Nếu pháp có thể trợ giúp cho niệm, cũng gọi niệm, như các quan hầu cận vua cũng được tiếng của vua.

3. Cảnh giới niệm xứ. Do niệm duyên với cảnh mà dấy khởi, cũng được gọi là niệm, như trú xứ của vua. Thế nên niệm căn tức là niệm xứ, nghĩa không trái nhau. Ông hỏi: Nếu niệm tự nó còn không thể giữ lấy một pháp, thì tại sao kinh lại nói: Có niệm là gìn giữ bậc nhất?

Đáp: Niệm là duyên tăng thượng thứ nhất trong việc giữ gìn. Cho nên nói giữ gìn là bậc nhất; ví như vua là trên hết. Kinh dạy: Tất cả các pháp, niệm là duyên tăng thượng, vì có tánh giữ gìn. Lại nữa, một niệm có thể bảo vệ tất cả các hành, nên nói giữ gìn là bậc nhất. Kinh dạy: Niệm hành khắp tất cả. Lại nữa, hết thảy niệm có khả năng giữ gìn sáu căn, như người canh giữ cửa. Niệm này có thể ghi nhận vào một tâm, như tay người nắm lấy âm dương đưa vào ống trúc. Lại nữa, có thể nắm giữ một sự tương tục nên gọi là giữ gìn bậc nhất, ví như bảo vệ đứa con một. Lại nữa sáu căn bị trói buộc trụ ở một niệm, không cho tán loạn, trụ vào tự cảnh, như sáu chúng sanh cùng trói vào một chỗ. Thế nên kinh nói: Niệm là giữ gìn bậc nhất.

Ông hỏi: Tại sao có khi có thể nhớ nghĩ, có khi không thể nhớ nghĩ?

Đáp: Có ba lý do có thể sanh nhớ nghĩ:

1. Thường tập quen. Do thường xuyên huân tập vào thân, miệng, ý như thấy trong mộng.

2. Tướng. Do tướng thuận hay nghịch mà nhớ cảnh tương tợ hay không.

3. Lắng trong. Do tâm được lặng yên, niệm liền sanh khởi, như bình nước sạch có thể thấy được hình bóng. Nếu trái lại ba điều này tức không nhớ được. Lại khi qua đời và lúc mới sanh, vì quá nhiều nổi thống khổ bức bách, nên quên mất niệm xưa, vì thế không nhớ sinh mạng đời trước. Lại nữa, có sáu nhân duyên sanh khởi niệm. Như bài kệ nầy nói:

Thuận, nghịch, nhiều huân tập Cùng hội tụ một nơi Lực định và lực nhân Là sáu nhân của niệm.

Thuận là: Như thấy người trẻ tương tợ liền nhớ đến con mình. Nghịch là do tiếp xúc nóng, liền nghĩ về lạnh khi xưa. Nhiều lần huân tập là thường đã quá quen làm nhiều việc nên tự nhiên nhớ đến. Hội tụ một nơi; ví như người thấy cây xoài liền nhớ đến vị chua của nó. Năng lực của định, ví như người chứng đắc ba minh, nhớ được việc làm đời quá khứ. Lực của nhân, ví như bậc Thánh và những người làm nhiều việc thiện, nhớ được đời sống quá khứ.

Ông hỏi: Thế nào là Tam-ma-đề (định)?

Đáp: Kinh dạy: Tâm an trú vào định vắng lặng gọi là Định. Trong tạng A-tỳ-đạt-ma cũng nói: Có thể thâu tóm các pháp không phân tán, gọi là định. Lại nữa, đó là tâm liên tục mà gió phiền não xấu ác không thể lay động được, như ngọn đèn trong nhà kín. Lại nữa, định có hai loại: Thế gian và xuất thế gian. Thế gian là có khả năng sanh quả báo thế gian cùng với phần giác tương ly; có thể điều phục sự mê hoặc của thượng tâm. Xuất thế gian là có thể khiến cho thoát khỏi thế gian và tương ưng với phần giác, có thể diệt trừ mê hoặc tùy miên. Luận ở đây là bàn bạc về định xuất thế gian.

Ông hỏi: Thế nào là tướng? Thế nào là dụng? Thế nào là duyên?

Thế nào là nghĩa?

Đáp: Tâm an trú vào định là tướng. Điều phục, đối trị là dụng. Nương vào tâm để tu học là duyên. Luận tạng lại nói: Nhất tâm là tướng; không tán loạn là dụng; bốn định là duyên; tâm được an ổn là nghĩa. Như người bắn cung điều khiển cung tên. Người thế gian nói đó là ba mũi tên định. Đây là nói điều phục mũi tên. Như người điều phục tâm liên tục thì gọi là định. Như kệ nói:

Tâm lay động tán loạn Khó giữ, cũng khó ngăn Người trí liền điều phục Như người bắn cung tên.

Lại nữa, tâm luôn an ổn bình đẳng. Ví như người điều khiển xe, chạy trên đường bằng phẳng, tránh chỗ quanh co nguy hiểm. Người quán các hành cũng như vậy, thường để tâm an ổn cùng với cảnh vắng lặng mà thực hành, có thể ngăn chặn tâm xấu ác, tán loạn, thì gọi là định. Lại nữa, khóa chặt năm bệnh triền cái thì như người không bị bệnh, cũng gọi là định.

Ông hỏi: Chánh định nếu là định, thì bậc Tu-đà-hoàn lẽ ra không còn tham dục, sân giận, nếu không như vậy thì trái đạo lý?

Đáp: Nơi đối trị định chính là định. Do đạt được quả vị nên chứng nghiệm được định ấy, ví như năm căn. Lại nữa, tâm luôn chuyên chú theo định, ví như ong tuy ở nơi dơ uế mà thường ưa thích đến hoa sen, nên biết là chúng luôn ở chỗ hoa; bậc Thánh cũng vậy, tuy ở chốn trần dục, nhưng tâm ưa thích tịch tĩnh, thế nên biết họ thường ở trong định. Lại nữa, như bậc Tu-đà-hoàn, tuy ở nơi tối tăm nhưng trí tuệ sáng suốt vẫn không mất. Lại nữa, Đức Phật, tuy có giác quán nhưng tâm không tán loạn, thường ở trong định. Định của hàng Tu-đà-hoàn cũng vậy, thế nên không trái đạo lý.

Hỏi: Tám phần Thánh đạo theo thứ lớp là thế nào?

Đáp: Do có thể nương vào lý quán Thánh đế, nên trước hết thành lập chánh kiến. Ở chỗ pháp đã quán chấp giữ, không xả bỏ. Tiếp theo thành lập chánh giác (chánh tư duy) tuần tự mà lập chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng. Đối với pháp đã quán là xa lìa, là đạt được. Tiếp theo thành lập tinh tấn, đối với pháp xa lìa và đạt được hoàn toàn không quên mất. Tiếp đến lập chánh niệm; do nhớ nghĩ không quên, nên đối với cảnh đã thấy tâm không tán loạn; cuối cùng là thành lập chánh định.

Lại nữa, nếu tám pháp cùng khởi thì không theo thứ lớp, nhưng nói theo thứ tự thì không phải không có đạo lý. Nếu người muốn đến Niết-bàn thì trước hết phải mong cầu chánh kiến. Như người muốn đi, cần phải có mắt; như đã thấy được lý, thì chấp giữ sự thấy đó mà chọn lựa, tóm lược. Tiếp theo thành lập chánh giác. Như chỗ chọn lựa mà giảng nói, tiếp đến là thành lập chánh ngữ. Vì sao? Vì nếu có nói năng thì ắt phải nương theo giác quán. Như lời nói mà thực hành, tiếp đến thành lập chánh nghiệp. Hai điều này thanh tịnh, thì theo đó thành lập chánh mạng, như người an trú trong giới. Nếu phát khởi siêng năng thì thành lập tinh tấn. Có tinh tấn nên niệm không mất, do đó thành lập chánh niệm. Vì có chánh niệm nên tâm nhất mực không tán loạn, thế nên thành lập chánh định.

Trong luận Tạng A-tỳ-đạt-ma có nói: Những hành này đều lấy trí tuệ làm căn bản. Vì sao? Vì cảnh của Bốn đế sâu xa, chẳng phải trí thì không thể hiểu được; thế nên thành lập Chánh kiến. Tâm tiếp xúc với cảnh này, tiếp đến thành lập Chánh giác. Do hai chi phần này nên đối trước Bốn đế có thể khiến tự biết, tiếp đến thành lập Chánh ngữ. Nhờ hai chi phần trước, nên như lời nói mà phát ra hành động, tiếp theo lập Chánh nghiệp. Do cả hai cặp chi phần trước, nên miệng nói thân hành thọ dụng cả Bốn đế, tiếp đến, thành lập Chánh mạng. Thân, tâm siêng năng là tiến đến lý chân thật, tiếp tục thành lập Chánh tinh tấn. Do tinh tấn này nên đối với cảnh của Bốn đế, tâm dụng được lắng trong, tiếp theo thành lập Chánh niệm. Do niệm chân chánh này, đối với cảnh của

Bốn đế, tâm và các pháp hoàn toàn không có tán loạn; thế nên thành lập Chánh định. Lại nữa, do chánh kiến, nên người thực hành quán không bị rơi vào tăng thượng mạn, có thể phân biệt như thật, sở đắc của chính mình. Nhờ chánh giác mà phát sanh chánh ngữ, là chỗ mình đạt được có thể truyền lại cho người khác. Do chánh ngữ này, nên có thể thành lập, có thể trừ bỏ, có thể quyết định, khiến cho người khác tin là có trí tuệ. Do có chánh nghiệp, nên thà bỏ thân mạng chứ không phạm vào phi pháp, khiến cho người khác có lòng tin, ưa thích giới của bậc Thánh, nương vào pháp như lượng mong cầu thọ dụng bốn duyên.

Do chánh mạng khiến cho người khác tin vào sự biết đủ của các bậc Thánh. Lại nữa, do chánh kiến, chánh giác và nhờ chánh ngữ mà có thể cất lên tiếng rống sư tử. Do chánh nghiệp, chánh mạng mà hiển bày được nghĩa đã nói. Do chánh tinh tấn, nên chưa được khiến cho được, chưa diệt khiến cho diệt. Do có chánh niệm nên khi chìm hay nổi đều an ổn, không quên mất ba tướng. Vì thế định là không chướng ngại. Do có chánh định nên diệt trừ những chướng ngại của định, có thể đạt được các đức của sáu thông, về sau đều được giải thoát.

A-tỳ-đạt-ma nói: Do chánh kiến nên nói tín căn, tín lực cùng với dục. Vì sao? Do có trí tuệ nên niềm tin và mong muốn thành tựu. Do tinh tấn nên có khả năng thâu tóm các chi: chánh cần, tinh tấn, căn, lực, giác phần. Do chánh định nên giữ tâm như ý túc, định căn, định lực, hỷ, ỷ xả, định, giác phần… Do nghĩa này, nên biết Ba mươi bảy phẩm là thâu tóm trong Tám chánh đạo. Lại nữa, chánh kiến và chánh niệm là chi phần của Quán. Do quán này diệt vô minh này, nên trí tuệ giải thoát là quả. Các phần đạo khác thuộc về Chỉ, do chỉ này xa lìa dục, nên tâm giải thoát là quả. Vì thế tóm lược đạo có hai phần: Một là Quán. Hai là Chỉ. Luận tạng nói: Ba chi chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc nhóm giới. Do có giới này mà diệt trừ được gốc rễ sân giận, xấu ác. Ba chi chánh giác, chánh tinh tấn, chánh định thuộc nhóm định; nhờ nhóm định này mà nhổ sạch gốc tham dục xấu ác. Hai chi chánh kiến, chánh niệm thuộc nhóm tuệ; nhờ nhóm tuệ nầy, mà diệt được gốc vô minh xấu ác. Vì nghĩa này nên đạo có ba phần.

Đạo cũng có bốn:

1. Đạo phương tiện: Nhờ đạo này mà đạo vô ngại sanh khởi; Trước đạo vô ngại đều gọi là phương tiện.

2. Đạo vô ngại là đối trị chính có khả năng trừ mọi chướng ngại. Vì các Hoặc không thể ngăn ngại, nên gọi là Vô ngại.

3. Đạo giải thoát là, giải thoát các Hoặc còn chướng ngại trong đạo Vô ngại, ban đầu phát khởi gọi là giải thoát.

4. Đạo thù thắng là các đạo từ sau đạo giải thoát, đều gọi Đạo thù thắng.

Hỏi: Bốn điều này vì sao gọi là đạo?

Đáp: Vì nhờ đó mà tiến đến đạt Niết-bàn, nên gọi là đạo. Nếu vậy, đạo giải thoát và thù thắng vì sao gọi là đạo?

Đáp: Đạo có nhiều loại, nên chuyển biến, tối thắng, khiến cho từ trước cho đến sau đều có khả năng đạt đến Vô dư Niết-bàn, nên gọi là đạo. Lại nữa, đạo có bốn loại.

1. Khổ đạo trí kém.

2. Khổ đạo trí nhạy bén.

3. Lạc đạo trí thấp kém.

4. Lạc đạo trí nhạy bén.

Lạc đạo là do nương vào bốn phần định đầy đủ, định tuệ bình đẳng, đạt đến tu hành không cần dụng công (tự tại). Do nghĩa này, nên gọi là lạc đạo. Xa lìa điều này gọi là khổ đạo. Nghĩa là dựa vào định vị lai, định trung gian, định ba Không... Vì không đầy đủ các phần, định tuệ không bình đẳng, còn vận dụng công, công tu hành. Định vị lai là có trí tuệ nhưng ít định. Định ba Không là có định nhưng ít tuệ. Định trung gian là do các phần không đủ, nên định và tuệ đều ít. Do nghĩa này, nên gọi là khổ đạo. Đối với hai đạo này, nếu người có tín căn thì được gọi là hành chậm lụt. Nếu người có trí căn thì được gọi là hành nhanh chóng. Tám chi thánh đạo này, căn cứ ở định và căn thì có bốn loại hành. Lại nữa, Thánh đạo có thể nói là Ba mươi bảy phẩm trợ giác. Pháp gì gọi là giác? Dùng Tận trí và Vô sanh trí gọi đó là Giác. Do ba hạng người mà thành ba phẩm giác. Tức là Bồ đề Thanh văn, Bồ đề Bích Chi, Bồ đề Vô thượng. Có thể diệt sạch vô minh khiến không còn sót, việc mình đã làm xong, không còn làm lại nữa, như nhận biết chân thật, gọi là giác. Trợ là Ba mươi bảy pháp tùy tùng với Tận trí và Vô sanh trí, nên gọi Trợ. Do tên gọi này, mà nói là Ba mươi bảy, chứ không do "thể". Nay luận bàn về thể chỉ có mười, tức gồm: Tín, Tinh tấn, Niệm, Định, Tuệ, Hỷ,

Khinh an, Xả, Giới, Giác. A-tỳ-đạt-ma sư nói: Thể có mười một, tức Giới chia làm hai; Nghĩa là thân và khẩu. Lại có A-tỳ-đạt-ma sư nói: Thể có mười ba, nghĩa là thêm Dục và Tâm, trải qua hết thảy pháp đã đạt được đều gọi là trợ giác. Ở đây, đại khái chỉ nói mười thù thắng là đủ cho tất cả. Nói Ba mươi bảy là gồm: Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Như ý túc, Năm Căn, Năm Lực, Tám Thánh đạo và Bảy Giác phần.

Hỏi: Bảy phần trợ giác này trụ ở đâu?

Đáp: Thường có bốn bậc.

1. Là bậc mới phát hành.

2. Là bậc thông đạt.

3. Là bậc kiến.

4. Là bậc tu. Hỏi: Thứ lớp thế nào?

Đáp: Là người quán hành đã an trụ trong giới, đã có khả năng hiểu rõ tội lỗi của sanh tử và công đức của Niếtbàn, nếu xa lìa quán Bốn đế thì không có phương tiện khác có khả năng biết rõ lỗi lầm và công đức. Vì để thu tóm tâm tán loạn của nhiều cảnh khiến cho trụ vào một nơi, để sanh khởi điều phục, đối trị bốn điên đảo, khiến cho tâm như lý nhập quán Bốn đế. Thế nên, trước hết phải quán bốn Niệm xứ. Nhờ quán bốn niệm xứ mà phân biệt được pháp nào nên xả và pháp nào nên giữ. Vì giữ gìn pháp thiện, loại bỏ pháp ác, nên theo đó mà tu hành Chánh cần. Do quán bốn Niệm, nên Chánh cần được thành lập. Do chánh cần, các Hoặc, chướng ngại của quán đã sạch trong, với trợ pháp đã được thành lập, nên tâm tùy theo ý được an trú. Tiếp đến thành lập bốn Như ý túc. Do lực của định, nên đối với các cảnh tâm không bị ngăn ngại, còn có tăng trưởng. Do đức tin này, nên tâm cũng không biếng nhác mà lại tăng trưởng. Do tinh tấn này, các thiện tâm vốn được, có hỗ trợ, không bị chướng ngại. Đối với các cảnh tâm không quên mất, mà còn có tăng trưởng, do có niệm như vậy nên thâu tóm vào một cảnh. Đối với nơi không tán loạn, tâm luôn có tăng trưởng. Do có định ấy, tâm quán cảnh như thật, và có tăng trưởng. Do thể thường đang tăng trưởng, nên quả vị không thối lui, nên tâm cũng có tăng trưởng. Do không thối lui, nên đối với các phần thông đạt, tâm vẫn có tăng trưởng. Thứ đến là thiết lập năm căn. Năm căn này tăng trưởng đạt đến phẩm thượng tối thượng, các Hoặc ở địa dưới không thể phá hoại, các pháp thế gian không thể hơn được. Tâm không lưu chuyển theo thứ lớp mà duyên, đến quả vị Thánh không thối chuyển. Vì nghĩa này nên thành lập tiếp năm lực. Khi đã nhận thức rõ cái kia, cái này, được và mất tức đã được con đường chân thật, đã được tâm vững chắc, rồi thì được mắt, được chân đi. Do năm lực nên thực hành được pháp xuất thế. Kế đến thành lập Tám thánh đạo. Do tám Thánh đạo, nên phá trừ Hoặc của Kiến đế, gần kề Tận trí và Vô sanh trí. Chuyển Tám đạo này thành bảy Giác phần. Thế nên, thứ đến thiết lập Ba mươi bảy chi. Quán bốn Niệm xứ là Sơ phát hành vị, tức là phần giải thoát. Bốn Chánh cần gọi là Nhẫn vị. Bốn Như ý túc là Danh vị. Năm căn là Tướng vị. Năm lực là Đệ nhất pháp vị. Bốn thứ này chung gọi là Quyết liễu vị. Tám Thánh đạo gọi là Kiến vị. Bảy Giác phần gọi là Tu vị. Tận trí và Vô sanh trí gọi là Cứu cánh vị, tức là quả chẳng phải là nhân, nên không thành lập đạo. Lại nữa, đạo này còn gọi là Phạm luân.

Phạm luân là pháp luân chuyển của Đức Phật và đệ tử. Thánh đạo này có sáu nghĩa, ví như luân (bánh xe): Một là đi nhanh chóng. Nghĩa là một tâm, mười hai tâm, hoặc mười lăm tâm, hành khắp ba cõi, Bốn đế nên gọi là nhanh chóng. Hai là bỏ nơi đây để đạt đến nơi kia. Nghĩa là bỏ thế gian để đến được xuất thế gian... Ba là thực hành cả trên dưới. Nghĩa là hoặc ở nơi Pháp nhẫn, hoặc ở nơi Loại nhẫn... Bốn là từ đây đến kia. Nghĩa là sự hiểu biết của thầy, lại truyền trao liên tục cho các đệ tử, rồi cứ tiếp nối như vậy. Năm là tương tự trục xe, căm và vành, nghĩa là giới có ba phần làm trục, chánh kiến, chánh giác, chánh tinh tấn; chánh niệm là căm; chánh định là vành. Sáu là Như Thánh vương luân, chưa điều phục thì có thể điều phục; đã điều phục thì có thể giữ gìn. Do đạo vô ngại có thể điều phục, đạo giải thoát có thể giữ gìn. Vì nghĩa này nên gọi là Phạm luân. Lại nữa, ở trong đây là tám con đường của bậc Thánh; chánh kiến có năm phần; giới có sáu loại, đó là ba nghiệp có giáo giới và vô giáo giới; tinh tấn có chín phần; chánh niệm có tám phần; chánh định cũng có tám. Thánh đạo này, nếu nói rộng thì có Ba mươi bảy phần, nếu nói vừa thì có tám phần, nếu nói tóm lược thì có ba phần hoặc hai phần. Bài kệ sau đây nói rõ:

Nếu người cầu Niết-bàn Diệt, chỉ và diệu, ly Nên thường hành tinh tấn. Nghe, nghĩ, tu Bốn đế.


[Đầu trang][Mục lục bộ Luận Tập][Mục lục tổng quát]