TẠNG LUẬN
Tác giả: A-la-hán Ưu Ba Để Sa. (Đại Quang) Hán dịch: Đời Lương, đại sư Tăng Già-bà-la, người Phù Nam
Phẩm 11: NĂM PHƯƠNG TIỆN (Phần Một)
Phẩm 11: NĂM PHƯƠNG TIỆN (Phần Hai)
Phẩm 12: PHÂN BIỆT ĐẾ (Phần Một)
Phẩm 12: PHÂN BIỆT ĐẾ (Phần Hai)
Kính lễ đức Thế Tôn, bậc Ứng cúng, Chánh biến tri
Giới, Định, Trí tuệ Giải thoát Vô thượng Tùy giác pháp này Hữu xưng Cù Đàm.
Nếu người đã thoát các nạn xa lìa được các chấp, thành tựu tâm thù thắng, sợ sanh, già, chết, thích thiện, giải thoát, chưa đạt được Niết-bàn cũng khiến được đầy đủ. Học hỏi nhiều thì khiến cho đạt được an lạc Niếtbàn, chưa đến bờ bên kia của sinh tử cũng khiến cho đầy đủ, học hỏi về Kinh, Luật, Luận. Nay tôi sẽ giảng thuyết đạo giải thoát này. Hãy lắng nghe kỹ!
Hỏi: Thế nào là giới?
Đáp: Giới là nghĩa oai nghi. Định là không tán loạn. Tuệ là tri giác (hiểu biết rõ). Giải thoát là nghĩa lìa khỏi trói buộc. Vô thượng là nghĩa Vô lậu. Tùy giác là hiểu biết đạt được. Pháp này nghĩa là bốn pháp Thánh. Cù Đàm là dòng họ. Hữu xưng nghĩa là Thế Tôn. Do công đức thù thắng của giới, định, tuệ đạt được tối thắng gọi là Vô lượng. Đạo giải thoát nghĩa là gì? Giải thoát là có năm loại giải thoát: Giải thoát Điều phục, Giải thoát Bỉ phần, Giải thoát Đoạn, giải thoát Ỷ, giải thoát Ly.
Thế nào là giải thoát Điều phục? Hiện tại tu tập thiền thứ nhất chế ngự được các triền cái. Đây là giải thoát Điều phục.
Giải thoát Bỉ phần là hiện tại tu tập chứng đắc các kiến giải thoát của định phần. Đây là Giải thoát Bỉ phần. Giải thoát Đoạn là tu tập đạo xuất thế gian có khả năng diệt trừ các kiết sử. Đây là nghĩa giải thoát Đoạn.
Giải thoát Ỷ là như chứng đắc được quả thì tâm nhẹ nhàng an vui.
Đây là Giải thoát Ỷ.
Giải thoát Ly là Niết-bàn Vô dư. Đây là Giải thoát Ly. Giải thoát Đạo này vì được giải thoát. Đạo đầy đủ là dùng giới định tuệ, tức là đạo giải thoát. Đạo giải thoát ấy, nay tôi sẽ giảng nói.
Hỏi: Lấy gì cho là đạo giải thoát?
Đáp: Có người thiện thích được giải thoát, nhưng không nghe nói giải thoát, lại không có giải thoát điều phục giải thoát, điều phục không chân chánh. Ví như người mù, không người dẫn đường, một mình đến nước xa, thì chỉ bị khổ trói buộc, không được giải thoát. Muốn được giải thoát mà không gì có làm nhân. Vì sao? Vì giải thoát chính là nhân. Như Đức Phật đã dạy: Nếu có chúng sanh bị phiền não rất vi tế, mà không nghe pháp, thì cuối cùng cũng bị thối lui. Đức Phật lại dạy: Các Tỳ-kheo có hai nhân, hai duyên có thể sanh chánh kiến. Hai nhân duyên đó là: Một là nghe từ người khác, Hai là tự mình chánh niệm. Vì thế gọi là giải thoát. Không có điều phục giải thoát: vì sanh tâm chán lìa, nên gọi là giải thoát. Giải thoát điều phục không chân chánh: vì diệt trừ đạo không chân chánh, để đạt được đạo thiền định giải thoát, do đó gọi là giải thoát. Như người đi xa gặp người dẫn đường giỏi, ấy là điều phục đạo giải thoát.
Ba ấm đầy đủ. Những gì là ba? đó là: Giới ấm, Định âm và Tuệ ấm.
Thế nào là Giới ấm. Nghĩa là thuộc về các chi Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, hoặc Giới ấm có đủ các tụ công đức giới.
Thế nào là Định ấm? Là Chánh tinh tấn, Chánh niệm cùng Chánh định và các loại định được tóm thâu trong thuộc về Định ấm, hoặc có đầy đủ tụ công đức định.
Thế nào là Tuệ ấm? Là thuộc về các chi Chánh kiến và Chánh tư duy, hoặc có đầy đủ tụ công đức Tuệ. Ba ấm này thành tựu viên mãn thì có thể điều phục chứng được đạo giải thoát. Cần phải học ba học: Là Giới học tăng thượng, Tâm học tăng thượng, Tuệ học tăng thượng. Có Giới, có Giới học tăng thượng. Có Định có Tâm học tăng thượng. Có Tuệ thì có Tuệ học tăng thượng.
Lại nữa, có Giới là giới học. Có giới là giới học tăng thượng. Có định là tâm học. Có định là tâm học tăng thượng. Có tuệ là tuệ học. Có tuệ là tuệ học tăng thượng. Hỏi: Thế nào là Giới học?
Đáp: Giới hữu tướng gọi là Giới học, tức đạt được phần giới của phần vị Thông đạt (Kiến đạo) gọi là Giới học tăng thượng. Lại nữa, giới của phàm phu gọi là giới học, giới của bậc Thánh gọi là giới học tăng thượng.
Hỏi: Thế nào là Tâm học?
Đáp: Đó là Định của cõi Dục.
Hỏi: Thế nào là Tâm học tăng thượng?
Đáp: Định của cõi Sắc và Vô sắc. Đây gọi là tâm học tăng thượng. Lại nữa, định hữu tướng là tâm học, định của phần thông và đạt định của Đạo (Tu đạo), đó gọi là Tâm học tăng thượng.
Thế nào là Tuệ học? Trí tuệ thế gian gọi là tuệ học. Trí tương tự Bốn đế và trí Đạo, gọi là tuệ học tăng thượng. Như Đức Phật vì người căn tánh thấp kém mà giảng thuyết Giới học tăng thượng; vì người trung căn mà thuyết giảng Tâm học tăng thượng, vì hạng người căn tánh lanh lợi mà thuyết giảng Tuệ học tăng thượng.
Hỏi: Học là nghĩa thế nào?
Đáp: Học là có thể học, học về tăng thượng học, học vô học, gọi là học. Như vậy, học về ba thứ học này, đó là đạo giải thoát điều phục, nhờ ba loại học mà đạt được thanh tịnh, tức giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến thanh tịnh. Đối với giới ấy là giới thanh tịnh, định là tâm thanh tịnh, tuệ là kiến thanh tịnh. Giới là tẩy trừ cấu uế của phạm giới. Định là tẩy trừ cấu uế của trói buộc, gọi là tâm thanh tịnh. Tuệ là xua tan hết cấu uế của vô tri, gọi là kiến thanh tịnh.
Lại nữa, giới diệt trừ cấu uế của nghiệp xấu ác. Định diệt trừ cấu uế của phiền não trói buộc. Tuệ diệt trừ cấu uế của kiết sử. Do đó, vì ba thanh tịnh, nên chính là đạo giải thoát điều phục. Lại dùng ba thứ thiện làm đạo điều phục: Nghĩa là đầu, giữa, cuối đều thiện, tất cả lấy giới làm đầu, lấy định là giữa và tuệ là sau cùng. Vì sao giới là thiện đầu tiên? Người có tinh tấn thì thành tựu không thối chuyển, do không thối chuyển nên hoan hỷ. Vì hoan hỷ nên vui mừng, hớn hở bộc phát. Vì vui mừng hớn hở bộc phát nên thân khinh an. Do khinh an nên an lạc, do an lạc nên tâm định. Đấy gọi là thiện ban đầu.
Định là thiện ở giữa, do định nên thấy biết đúng như thật. Đấy gọi là thiện ở giữa.
Tuệ là thiện sau cùng: là do đã thấy biết đúng như thật, nên nhàm chán tai họa. Do nhàm chán tai họa nên xa lìa tham dục. Do xa lìa tham dục nên đạt được giải thoát. Do giải thoát nên biết được chính mình. Như thế là đạo thành tựu được ba thiện. Đạo giải thoát đã điều phục thì đạt được ba thứ an vui. Đó là an lạc không có lỗi lầm, an lạc vắng lặng và an lạc chánh giác. Đấy là do giới mới đạt được an lạc không lỗi lầm. Do định đạt được định vắng lặng. Do tuệ nên được an lạc nhận biết đúng đắn (chánh giác). Như vậy, thành tựu ba thứ an lạc tức là đạo giải thoát điều phục. Hơn nữa, còn lìa nhị biên, đạt được trung đạo đầy đủ. Do giới này mà khéo diệt trừ được các tham dục chấp trước, đối với sự an lạc không lỗi lầm tâm tình sanh vui thích. Nhờ định nên trừ bỏ thân thể suy yếu, đối với sự an lạc vắng lặng càng tăng thêm hỷ lạc. Do tuệ nên nhận biết về Bốn đế, trung đạo đầy đủ, đối với an lạc chánh giác càng thêm yêu thích sâu xa. Như thế xa lìa hai biên, đạt trung đạo đầy đủ, chính là đạo giải thoát điều phục. Lại nữa, nhờ giới mà dứt trừ được cõi ác. Nhờ định vượt khỏi cõi dục. Nhờ tuệ mà dứt trừ tất cả cõi. Ở nơi giới tu tập nhiều, đối với định và tuệ thì tu tập ít, thì chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, Tư-đàhàm. Ở nơi giới và định tu tập nhiều, mà ít tu tập tuệ thì đạt được quả A-na-hàm. Nếu tu tập cả ba thứ viên mãn thì chứng đắc quả A-la-hán giải thoát Vô thượng.
--------------
Hỏi: Thế nào là giới? Thế nào là tướng? Thế nào là vị? Thế nào là khởi? Thế nào là túc xứ? Thế nào là công đức? Thế nào là nghĩa của giới và thực hành giới? Thế nào là sai biệt? Có bao nhiêu giới? Do đâu mà sanh khởi? Giới nào là đầu, giữa và cuối? Có bao nhiêu pháp làm chướng ngại đạo giới? Có bao nhiêu nhân của giới? Có bao nhiêu loại giới? Làm thế nào khiến cho giới được thanh tịnh? Có bao nhiêu nhân để an trú nơi giới?
Đáp: Thế nào là giới? Nghĩa là giới Tư, giới Oai nghi và giới Không vượt.
Thế nào là giới Tư? Là (suy nghĩ) ta không làm điều ác, nếu tạo tác thì tự lãnh chịu.
Thế nào là giới Oai nghi? Là xa lìa sự phạm giới. Thế nào là giới không vượt? Là nếu người có giới thì thân miệng không phạm lỗi. Lại nữa, nghĩa đoạn trừ là oai nghi; tất cả các pháp thiện là giới. Như luận A-tỳđàm dạy: Nhờ pháp xa lìa mà đoạn trừ được các dục. Giới này có thể xa lìa việc ác bằng giới Tư, giới Hộ và giới Oai nghi. Do không sân giận, nên đoạn trừ sân giận. Do tướng ánh sáng, nên dứt trừ thùy miên. Do không tán loạn, nên dứt bỏ được trạo cử. Do thấu tỏ pháp nên phát khởi đoạn trừ những nghi, hối. Do trí tuệ, nên dứt hẳn vô minh. Do hỷ nên đoạn trừ tâm không được vui. Do chứng đắc thiền thứ nhất, nên đoạn trừ năm triền cái. Do chứng đắc thiền thứ hai, nên dứt trừ giác quán. Do chứng đắc thiền thứ ba, nên đoạn trừ hỷ. Do chứng đắc thiền thứ tư, nên đoạn trừ lạc. Do nhập vào định Không nên đoạn trừ các tưởng về sắc, cho đến sân giận và các loại tưởng. Do nhập vào định Thức nên đoạn trừ hư không. Do định Vô sở hữu, nên dứt trừ các tưởng trong thức nhập. Do chứng đắc định Phi tưởng phi phi tưởng, nên đoạn trừ Vô sở hữu xứ. Do thấy rõ vô thường, nên đoạn trừ tưởng thường. Do thấy khổ nên đoạn trừ tưởng về vui. Do thấy được vô ngã, nên đoạn trừ tưởng về ngã. Do thấy rõ bất tịnh nên đoạn trừ tưởng Tịnh. Do biết được những lỗi lầm tai họa nên đoạn trừ tưởng tham ái. Do biết được không nhiễm, nên dứt trừ các tưởng tham dục. Do hiểu được Diệt, nên dứt hẳn Tập. Do thấy rõ sự mong manh, nên đoạn trừ chấp vững chắc. Do thấy được sự phân tán, nên đoạn trừ chấp tích tụ. Do thấy được sanh diệt, nên đoạn trừ tưởng thường. Do hiểu được không tướng, nên đoạn trừ tướng. Do thấy "không có sự tạo tác, nên dứt trừ sự tạo tác. Do thấy "không", nên đoạn trừ nhập. Do hiểu được tuệ tăng thượng, nên đoạn trừ các thứ chấp trước. Do thấy biết như thật, nên đoạn trừ chấp vô minh. Do thấy được lỗi lầm tai họa, nên dứt trừ sự nắm giữ. Do thấy rõ quán nên dứt trừ không quán xét. Do thấy rõ sự chuyển, tan nên đoạn trừ chấp về hòa hợp. Do chứng đắc đạo quả Tu-đà-hoàn, nên dứt trừ một phần phiền não. Do chứng đắc quả Tư-đà-hàm, nên đoạn trừ các phiền não thô của kiến chấp. Do chứng đắc quả Ana-hàm, nên đoạn trừ các phiền não vi tế. Do chứng đắc quả A-la-hán, nên dứt sạch các phiền não. Đây gọi là giới Không vượt, giới Tư, giới Hộ, giới Oai nghi, cũng gọi là giới.
Thế nào là tướng của giới? Là oai nghi trừ bỏ Không oai nghi. Hỏi: Thế nào gọi là Không oai nghi?
Đáp: Nghĩa là pháp phá hoại. Pháp phá hoại có ba loại:
1. Pháp phá hoại Ba-la-đề-mộc-xoa.
2. Pháp phá hoại duyên.
3. Pháp phá hoại căn.
Thế nào là pháp phá hoại Ba-la-đề-mộc-xoa? Nghĩa là không biết hổ, không thẹn, lìa xa đức tin đối với Như lai.
Thế nào là pháp phá hoại duyên? Là xa lìa sự biết đủ về các duyên nuôi dưỡng thân mạng và bồi bổ cho hình tướng tương ưng.
Thế nào là pháp phá hoại căn? Vì không khép kín sáu căn, xa lìa niệm tuệ. Do ba điều ngăn che này, nên không có oai nghi. Đấy gọi là tướng của giới.
Thế nào là Vị, thế nào là Khởi và thế nào là chỗ đầy đủ? An lạc trong không lỗi lầm là vị. Không lo buồn là khởi. Thực hành ba việc thiện là chỗ đầy đủ. Lại nữa, vui thấy hơn hẳn là vị, không hối hận là khởi, che giữ các căn là chỗ đầy đủ.
Thế nào là công đức của giới? Không hối tiếc là công đức giới. Như đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan: Không hối tiếc về giới thiện nghĩa công đức. Lại nữa, gọi giới là an lạc trong không lỗi lầm, là trên hết chúng sanh, là tài sản được giàu sang, là chỗ được quả vị của Phật, là sự tắm rửa không cần nước, là hương thơm tỏa khắp, là ảnh theo hình, là dù che phủ, là Thánh chủng, là môn học Vô thượng, là con đường đi tới cõi thiện. Người có giới, vì có giới nên được thành tựu những việc không sợ hãi, tiếng tăm tốt, được bạn thân, Thánh nhân gần gũi thương yêu, là nơi nương tựa của bạn lành, là sự trang nghiêm tốt đẹp, là nắm giữ các hạnh, là nơi chốn của các công đức, là nơi chốn cúng dường, là trụ xứ của bậc đồng học đáng quý, nơi các pháp thiện không lo sợ, không thối lui, thành tựu tất cả ý nguyện được thanh tịnh, thế nên tuy chết mà vẫn không mất, đạt được các phương tiện an lạc giải thoát điều phục. Như vậy, có vô lượng công đức về giới.
Giới là nghĩa thế nào?
Đáp: Nghĩa là mát lạnh, là tăng thượng, là hành, là tự tánh, là tương ưng với tánh khổ vui. Lại nữa, nghĩa là đầu, nghĩa là mát, nghĩa là an ổn. Vì sao gọi đầu là nghĩa của giới?
Đáp: Như người không có đầu, tất cả căn không nắm giữ được các trần cảnh, lúc ấy gọi là chết. Vì thế Tỳ-kheo lấy giới làm đầu. Nếu đầu đã bị đoạn thì mất hết các pháp thiện, ở trong pháp của Phật gọi là chết. Do đó, đầu là nghĩa của giới.
Vì sao gọi trong mát là nghĩa của giới? Như xoa chiên đàn mát lạnh, thượng hạng vào thân, thì hết nóng bức, được an vui. Như thế, giới tức là chiên đàn mát lạnh thượng hạng, có thể tiêu trừ tâm nóng bức, lo sợ phá giới, được an lành. Do đó, mát là nghĩa của giới.
Vì sao gọi khinh an là nghĩa của giới?
Đáp: Nếu người có giới, phong cách, oai nghi tề chỉnh, sẽ không sanh lo sợ. Do đó, an ổn là nghĩa của giới.
Thế nào là hành sai biệt? Tu hành tinh tấn, thọ trì hạnh đầu đà, tức là hành chẳng phải giới, giới cũng gọi là hành. Giới là oai nghi, thọ cũng gọi là hành.
Có mấy loại giới? Có ba loại, đó là: Giới thiện, giới bất thiện và giới vô ký. Thế nào là giới thiện? Là nghiệp thân, khẩu thiện và chánh mạng, không có những lỗi lầm, được quả báo khả ái.
Thế nào là giới bất thiện? Là nghiệp thân, khẩu ác và tà mạng, có nhiều tai họa, nên quả báo không vừa ý. Thế nào là giới vô ký? Là nghiệp vô lậu ở thân, khẩu và mạng thanh tịnh, không có những tai họa, cũng không có quả báo.
Thế nào là giới sanh khởi? Tâm thiện thì sanh khởi giới thiện. Tâm bất thiện thì sanh khởi giới bất thiện. Tâm vô kí thì sanh khởi giới vô kí.
Thế nào là giới đầu, giữa và cuối? Thọ giới là đầu, không trái vượt là giữa, hoan hỷ là sau. Có mấy pháp chướng ngại, có mấy nhân của giới?
Đáp: Có ba mươi bốn pháp là đạo chướng ngại, có ba mươi bốn pháp là nhân của của giới. Đó là: Phẫn, não, phú, nhiệt, xan, tật, huyễn, siểm, hận, cạnh, mạn, tăng thượng mạn, ngạo mạn, buông lung, biếng nhác, tham dục, không biết đủ, không trí tuệ, không chánh niệm, nói lời ác, bạn ác, trí thấp hèn, hiểu biết sai lầm, không nhẫn, không tin, không hổ, không thẹn, mưu cầu về thân khẩu vị, đùa cợt gần gũi với người nữ; không cung kính thầy; không thâu giữ các căn; đầu, giữa, cuối đêm ăn uống không điều độ, lười nhác không tụng kinh, ngồi thiền. Ba mươi bốn pháp này làm chướng ngại đạo. Cứ mỗi thứ làm chướng ngại thì giới không viên mãn. Nếu không được viên mãn, chắc chắn bị thối lui. Nếu trái với ba mươi bốn pháp ấy, gọi là nhân của giới.
Giới có mấy loại? Có hai loại, ba loại và bốn loại.
Những gì là hai? Là giới tánh và giới chế. Vì đối tượng hành động của thân khẩu, nên Đức Phật quyết định đoạn trừ không cho hiện hành, gọi là giới tánh. Vì Thân, khẩu, có thể gây tạo nên Đức Phật quyết định đoạn trừ không cho gây tạo, gọi là giới chế. Giới tánh do tín, tinh tấn làm cho đầy đủ. Giới chế là do tín, niệm thọ trì làm cho đầy đủ.
Lại nữa, giới có hai loại là giới thối và giới đắc. Thế nào gọi là thối? Là có thể diệt trừ, giới sai trái. Thế nào gọi là đắc? Là đạt được các pháp thiện. Trừ bỏ các giới sai trái như đoạn trừ ảo ảnh. Do đoạn trừ giới sai trái nên xa lìa các nẻo ác. Do được giới chơn chánh có khả năng hướng tới đường thiện. Do đoạn trừ giới sai trái mà an trú thành tựu nơi các phần vị.
Lại nữa, giới có hai loại: Giới thế gian và giới xuất thế gian. Thế nào là giới xuất thế gian? Là giới của đạo quả bậc Thánh đạt được, gọi là giới xuất thế gian, còn lại là giới thế gian. Vì thành tựu được giới thế gian nên có giới đầy đủ. Vì thành tựu được giới xuất thế gian nên có giới giải thoát.
Lại nữa, giới có hai loại: Giới hữu lượng và giới vô lượng. Giới không đầy đủ là giới hữu lượng. Nếu giới đầy đủ do Đức Phật chế ra để đoạn trừ, gọi là giới vô lượng.
Lại nữa, giới có hai loại: Giới hữu biên và giới vô biên. Thế nào là giới hữu biên? Nếu người vì lợi ích của thế gian, vì sự tốt đẹp, vì bạn thân, vì thân, vì mạng, vì sự nương tựa để vượt hơn, mà hành trì nhận giữ giới, thì mọi lợi dưỡng về giới của họ là biên, tiếng khen là biên, có thân là biên, có mạng sống là biên. Thế nào là vô biên? Tỳ-kheo vì lợi ích của xuất thế gian vì sự thù thắng, vì thân, vì mạng như pháp lãnh thọ giới, tâm không dấy khởi việc phạm giới, huống gì là phạm giới. Đây gọi là giới vô biên.
Lại nữa, giới có hai loại: Hữu y và vô y (dựa vào hữu lậu và vô lậu). Thế nào là hữu y? Giới tương ưng với nơi yêu thích. Giới trộm cắp tương ưng với giới là chỗ dựa của kiến. Giới tự tương ưng với tự khen mình chê người là dựa vào mạn. Đây gọi là giới hữu y. Nếu thành tựu những công dụng hỗ trợ của giải thoát, gọi là giới vô y. Giới hữu y chẳng phải là sự an lạc của bậc trí. Giới vô y chính là sự an lạc của bậc trí.
Lại nữa, giới có hai loại: Giới sơ học của phạm hạnh và giới vi tế. Thế nào là giới ban đầu của phạm hạnh? Là giới bao gồm Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Đây gọi là giới ban đầu của phạm hạnh, còn các học giới khác với đây gọi là giới khinh.
Lại nữa, giới có hai loại: Hữu tâm tương ưng và vô tâm tương ưng. Thế nào là hữu tâm? Là những vị mới học phạm hạnh. Thế nào là vô tâm? Nghĩa là các giới khinh còn lại. Thanh văn đối với giới ban đầu của Phạm hạnh, thì kiên trì tăng trưởng giới. Những giới khinh được phạm được dấy khởi. Vì sao? Vì Đức Phật không nói đó là chướng ngại giải thoát.
Lại nữa, giới có hai loại: Đó là giới không phạm và giới thanh tịnh. Thế nào là không phạm? Nghĩa là giới của Thanh văn. Thế nào là giới thanh tịnh? Là giới của Đức Phật và Duyên giác.
Lại nữa, giới có hai loại: Đó là giới thời phần và giới tận hình. Thọ giới trong thời gian ngắn chứ không thọ trọn đời, gọi là giới thời phần. Từ khi mới phát nguyện với thầy cho đến khi qua đời, gọi là giới tận hình. Giới thời phần thì quả báo có thời hạn. Giới tận hình quả báo không có thời hạn.
Những gì là ba? Nghĩa là đình chỉ việc ác không phạm, lãnh thọ không phạm, đoạn trừ không phạm. Thế nào đình chỉ việc ác không phạm? Từ khi chưa thọ cho đến lúc thọ, chẳng phải điều nên làm tâm không dấy khởi phạm, gọi là đình chỉ việc ác không phạm.
Thế nào là lãnh thọ không phạm? Từ khi thọ giới, lãnh nhận đến lúc qua đời không phạm, gọi là lãnh thọ không phạm.
Thế nào là đoạn trừ mà không phạm? Bậc Thánh vì đạo mà đoạn trừ các nhân ác, gọi là đoạn trừ mà không phạm.
Lại nữa, giới có ba loại: Đó là giới xúc, giới không xúc, giới ỷ.
Thế nào là xúc? Tướng hữu vi mới thấy liền ưa thích là xúc, là giới thiện của hàng phàm phu. Tác dụng hỗ trợ vào đạo là giới không xúc. Thế nào là giới ỷ? Là giới của bậc A-la-hán.
Lại nữa, giới có ba loại: Đó là giới y thế, giới y thân và giới y pháp.
Thế nào là giới nương vào thế gian (y thế)? Nếu người thế gian sợ hãi thì sẽ hộ vệ tâm ý của họ, dứt trừ các pháp ác, gọi là nương vào thế gian. Thế nào là giới nương vào thân (y thân)? Nếu người có sự sợ hãi, thì sẽ che chở, thân mạng họ đoạn trừ các pháp ác, gọi là nương vào thân.
Thế nào là giới nương vào pháp (y pháp)? Nếu người kinh sợ, thì sẽ hộ trì họ bằng chánh pháp để đoạn trừ các pháp ác, gọi là nương vào pháp.
Lại nữa, giới có ba loại: Sở nguyện không bình đẳng, sở nguyện bình đẳng và không sở nguyện.
Thế nào là sở nguyện không bình đẳng? Giữ giới làm phiền người khác, gọi là sở nguyện không bình đẳng.
Thế nào là sở nguyện bình đẳng? Thọ giới hiện tại được an vui và vị lai đạt đến giải thoát an lạc, gọi là sở nguyện bình đẳng.
Thế nào là không sở nguyện? Thọ giới không hối hận nơi giới, làm lợi ích cho người khác, gọi là không sở nguyện.
Lại nữa, giới có ba loại: Đó là giới thanh tịnh, giới không thanh tịnh và giới có nghi.
Thế nào là giới thanh tịnh? Nhờ hai nhân duyên mà giới thành thanh tịnh: Một là không phạm, hai là phạm rồi biết ăn năn. Đấy là giới thanh tịnh. Vì hai nhân duyên mà giới thành không thanh tịnh: Một là tự cố tình phạm, hai là phạm rồi không biết ăn năn. Đấy là giới không thanh tịnh.
Thế nào là giới có nghi? Do ba nhân duyên thành có nghi: Một là do không phân biệt nơi chốn. Hai là không phân biệt phạm. Ba là không phân biệt hành động sai. Đấy là giới có nghi. Nếu người ngồi thiền, giới không thanh tịnh, tâm sanh ăn năn hối cải, thì được thanh tịnh an vui. Nếu giới có nghi hoặc, khiến hiện tại biết rõ về tội thì được an vui.
Lại nữa, giới có ba loại. Đó là học, vô học và chẳng phải học chẳng phải vô học.
Thế nào là học? Là giới của bảy hàng hữu học. Thế nào là vô học? Là giới của bậc A-la-hán.
Thế nào là giới chẳng phải học và vô học? Là giới của hàng phàm phu.
Lại nữa, giới có ba loại. Đó là giới úy, giới ưu, giới si. Thế nào là giới úy? Là có người sợ tội không dám làm việc ác. Đây gọi là giới úy. Thế nào là giới ưu? Là người nghĩ đến sự xa lìa bạn thân mà sanh sầu khổ, do sầu khổ nên không gây tạo việc ác. Đây gọi là giới ưu. Thế nào là giới si? Có người thọ giới của bò, chó. Đây gọi là giới si. Giới si nếu thành thì làm bò làm chó, nếu không thành sẽ rơi vào địa ngục.
Lại nữa, giới có ba loại. Đó là thượng, trung, hạ. Thế nào là giới loại hạ? Là Giới tiếp xúc với thượng phần phiền não, thượng thượng phiền não và đại phiền não, không biết đủ, các pháp nhiễm. Đây gọi là giới loại hạ.
Thế nào là trung? Giới tiếp xúc với phiền não rất vi tế, biết đủ, các pháp nhiễm. Đây gọi là giới loại trung.
Thế nào là thượng? Giới không hề tiếp xúc, biết đủ các pháp nhiễm ô. Đây gọi là giới loại thượng. Thành tựu giới loại hạ thì khiến đạo Người được hoàn bị. Thành tựu giới loại trung thì khiến đạo Trời được hoàn bị. Thành tựu giới loại thượng để được giải thoát.
Lại nữa, giới có bốn loại. Đó là phần thối, phần trụ, phần thắng, phần đạt.
Thế nào là phần thối? Là không từ bỏ những chướng ngại về đạo mà lại xa lìa bậc tinh tấn, biết mà cố tình phạm, phạm rồi che giấu. Đấy là phần thối lui.
Thế nào là phần trụ? Đối với giới đã thành tựu không dấy khởi buông lung, không đạt đến vắng lặng là thành tựu được phần trụ.
Đối với giới, định, đạt đầy đủ không buông lung, không đạt đến vắng lặng là thành tựu được phần thắng. Đối với giới, định, chứng đắc đầy đủ không buông lung, đạt đến vắng lặng là thành tựu được phần đạt.
Lại nữa, giới có bốn loại: Đó là giới Tỳ-kheo, giới Tỳ-kheo ni, giới chưa đầy đủ, giới bạch y. Thế nào là giới Tỳ-kheo? Là Ba-la-đề-mộc-xoa và các oai nghi, là giới Tỳ-kheo. Giới Tỳ-kheo ni là Ba-la-đề-mộc-xoa và các oai nghi, là giới Tỳ-kheo ni. Mười giới của Sa-di và Sa-di ni, giới của Thức-xoa-ma ni, không phải là giới Cụ túc. Tám giới và năm giới của Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di, gọi là giới tại gia (bạch y).
Lại nữa, Giới có bốn loại: Đó là giới tánh, giới hạnh, giới pháp chí và giới sơ nhân.
Thế nào là giới tánh? Là giới của cõi Uất đơn việt. Đấy là giới tánh.
Thế nào là giới hạnh? Là như các pháp của mỗi bộ tộc, mỗi quốc độ mỗi ngoại đạo. Đấy là giới hạnh.
Thế nào là giới pháp chí? Là giới khi Bồ tát nhập vào thai. Đấy là giới pháp chí (giới tất yếu).
Thế nào là giới sơ nhân? Là giới của Bồ tát và đại Ca-diếp. Đấy gọi là giới sơ nhân.
Lại nữa, có bốn loại giới: Đó là giới giới, giới tập, giới diệt và giới diệt đạo cụ túc?
Thế nào là giới giới? Giới có hai thứ: Giới thiện và giới bất thiện.
Đây gọi là giới giới.
Thế nào là giới tập? Là giới thiện tích tập của tâm thiện và giới bất thiện tích tập của tâm bất thiện.
Thế nào là giới diệt? Giới đạt được thiện giới diệt trừ bất thiện chứng đắc diệt của bậc A-la-hán là giới thiện.
Thế nào là giới diệt đạo cụ túc? Đó là Bốn chánh cần. Đây gọi là giới diệt đạo cụ túc.
Như vậy là phân biệt hiểu rõ về bốn pháp, tức tinh tấn chẳng phải là trì giới, chỉ gọi là chánh cần.
Lại nữa, giới có bốn loại: Đó là giới Ba-la-đề-mộcxoa oai nghi, giới mạng thanh tịnh, giới căn oai nghi và giới duyên tu. Thế nào là giới Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi? Đối với Tỳ-kheo thì giới Ba-la-đề-mộc-xoa oai nghi là nơi che chở an trú, thực hành. Tỳ-kheo hành xử, đầy đủ, lo sợ những lỗi lầm nhỏ, nên vị ấy lãnh thọ chánh thức thọ học các giới đáng học xem đây như là pháp, là Thầy. Tỳ-kheo thì có thiện của hàng phàm phu, có bậc hữu học, vô học, pháp bất động Ba-la-đề-mộc-xoa chính là giới, là khởi, là ban đầu, là hành, là hộ trì, là oai nghi, là giải thoát, là không trói buộc, là đối với các pháp chánh thọ pháp thiện. Đó gọi là nghĩa của Ba-la-đề-mộcxoa. Không tạo nghiệp thân và miệng, trái vượt tức là oai nghi. Nơi che chở tức nhờ Ba-la-đề mộc xoa này mà oai nghi được thành tựu. An trú tức giữ gìn bốn oai nghi, các hành đầy đủ. Lại có hành và không hành (làm). Thế nào là không hành? Nếu có Tỳ-kheo đi với một người khác thí cho gậy tre, hoặc hoa quả, rau tươi, hoặc tăm xỉa răng, bột tắm, hoặc tiếp xúc, hoặc đùa cợt, hay dua nịnh gần gũi, hay dong ruổi tìm cầu các thứ mới lạ. Những việc làm như vậy, Đức Phật ngăn cấm, đó gọi là tà mạng để tự nuôi sống, không được hành. Lại nữa, có hai thứ thân và miệng không được hành. Thế nào là thân không được hành? Nếu có Tỳ-kheo với tâm khinh mạn, đến nơi trú của tăng chúng, chen lấn, đứng trước đại đức, hoặc dựa, hoặc đi ngồi trước, ở bậc cao, xô đẩy người lớn xuống thấp. Hoặc ngồi dựa, hoặc bá vai cười nói, Thượng tọa đi chân không mà mình đi giày dép, bậc Thượng tọa đi chỗ thấp mà mình lại đi chỗ cao, dùng những điều khác lạ cố làm xúc não. Hoặc tiếp đãi người nhỏ thì nồng hậu, đối với bậc Trưởng lão thì sơ sài. Hoặc khi vào phòng tắm chưa hỏi ai mà đốt củi, khóa cửa, hoặc đến chỗ lấy nước liền tự tiện vào trước, nằm duỗi thân, hiện ra tướng thô tháo. Hoặc vào nhà người khác tự tiện đi từ trước ra sau, đứng hay ngồi không theo thứ lớp. Hoặc ở chỗ vắng cười đùa xúc chạm các phụ nữ cùng thiếu nữ. Các lỗi như thuộc về thân không được hành.
Thế nào là miệng không được hành? Nếu có Tỳ-kheo tâm không cung kính, không xin phép những vị lớn mà tự thuyết giảng về pháp, hoặc giảng tụng Ba-la-đềmộc-xoa, hoặc vỗ vai mà nói, hoặc vào nhà người liếc nhìn để hỏi thiếu nữ. Cô tên là gì? Có thức ăn gì không? Nếu bảo có thì nói nay ta muốn ăn. Những lời nói như vậy thuộc về miệng không được hành. Phạm tất cả giới này đều gọi là không được hành.
Thế nào là hành? Là trái với những điều không được hành. Lại nữa, Tỳ-kheo có tâm cung kính, có hổ thẹn, oai nghi đầy đủ, không sai sót, thâu giữ các căn, thường điều độ trong ăn uống. Đầu đêm, cuối đêm chưa từng ngủ nghỉ, thành tựu trí tuệ, ít muốn, biết đủ, không quen làm việc thế tục, phát tâm dõng mãnh, đối với bạn đồng học khởi tâm kính trọng. Đây gọi là hành.
Hành xứ là có hành xứ và có phi hành xứ. Thế nào là phi hành xứ? Nếu có Tỳ-kheo vào nhà dâm nữ, nhà đàn bà góa chồng, nhà người nữ, nhà phi nam, nhà Tỳ-kheo ni và các quán rượu, gần gũi với vua quan, đại thần, Sa môn ngoại đạo, bạn hữu phi pháp. Những hạng như vậy không tâm an lạc, tin tưởng thường không tạo lợi ích cho bốn chúng, rất đáng tai họa, chán ghét. Đây là chỗ không được thực hành. (Phi hành xứ)
Như Đức Phật dạy: Tỳ-kheo hành những nơi chẳng phải phạm hạnh. Thế nào là hành những nơi chẳng phải phạm hạnh? Nghĩa là chốn buôn bán nữ sắc, những nơi ấy cần nên biết.
Lại nữa, có ba loại hành xứ: Hành xứ nương tựa hành xứ thủ hộ và hành xứ hệ phược. Thế nào là Hành xứ nương tựa? Là bạn lành thành tựu mười công đức. Nương vào công đức này được nghe những điều chưa nghe, được nghe rồi thì khiến cho tăng trưởng, dứt trừ mọi nghi ngờ, làm đúng theo sự thấy biết, nhờ vào sự học mà tăng trưởng đức tin mạnh mẽ, giới, văn, bố thí và trí tuệ, mỗi niệm đều phát triển. Đây gọi là hành xứ nương vào tựa. Thế nào là hành xứ thủ hộ? Nếu có Tỳ-kheo đi vào nhà người, một thôn xóm, thì chỉ nhìn xuống đất không quá một tầm, oai nghi tề chỉnh, người thấy sanh cung kính, không nhìn voi, ngựa, xe và người nam nữ hội họp, vui chơi, không ngắm nhìn những đường nét họa vẽ trên tường nhà hay hướng xem bốn phía. Đây gọi là Hành xứ thủ hộ.
Thế nào là Hành xứ hệ phược? Đức Phật dạy: Nếu có Tỳ-kheo quán sát về nhà cửa, xóm làng. Đây là hành xứ hệ phược. Ba loại này gọi là hành. Do hành xứ này thành tựu nên gọi là đầy đủ các hành xứ.
Lo sợ những lỗi nhỏ là mình đã học hết các học xứ, đâu dám tạo tác, nghĩa là sợ lỗi nhỏ. Lại nữa, có thuyết nói: Nếu dấy khởi tâm bất thiện, tức là tạo lỗi nhỏ. Ở nơi lỗi nhỏ ấy, sanh tâm xa lìa, thấy tai họa của lỗi sanh lo sợ nên từ bỏ. Đấy gọi là thấy lỗi nhỏ mà lo sợ. Vị ấy chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới. Có bao nhiêu học giới? Gồm bảy tụ oai nghi, vị ấy cần phải học tập, chân chánh lãnh thọ tất cả. Đây là chân chánh lãnh thọ và học tập các học giới. Đó gọi là giới oai nghi Ba-la-đề-mộc-xoa.
Hỏi: Thế nào là giới thanh tịnh?
Đáp: Tức là không phạm tà mạng. Thế nào là tà mạng? Ấy là hiện ra tướng biếng nhác, dua nịnh, quanh co, hiện tướng sân si, nhục mạ, do sự cúng dường lại mong cầu được bố thí. Thế nào là lười biếng? Lười biếng có ba xứ: Là suy nghĩ, tính toán muốn được, yêu cầu người khác cúng dường bốn sự. Lại giả hình tướng trang nghiêm, tự xưng nói khắp. Hoặc có Tỳ-kheo tâm xấu xa luôn tham cầu tài vật lợi lạc, bèn nhường cho y phục đẹp, thức ăn ngon, nhận lấy loại thô xấu, giả vờ như không muốn, để có được lòng thương nơi người khác nhằm có bốn sự cúng dường ấy. Đây là do biếng nhác mà suy tính lường xét. Hoặc có Tỳ-kheo xấu ác, tham cầu lợi dưỡng, dối gạt, hiện tướng oai nghi, vị ấy nhập vào thiền định, với chủ ý dẫn dắt kẻ khác cúng dường, bố thí, đọc tụng kinh điển. Đấy gọi là oai nghi biếng nhác. Hoặc có Tỳ-kheo tham cầu nên lừa dối, nịnh nọt hướng đến người khác nói: Tôi được an trú trong pháp của bậc Thánh, ở nơi vắng lặng, hoặc tu tập thiền định đã giảng nói pháp thâm diệu, hiện bày tướng hơn người, cầu lợi dưỡng và phô trương về mình. Đấy là biếng nhác. mà lừa dối. Như có người nịnh nọt quanh có là như có tâm luôn nhớ nghĩ để đề cao tướng giả dối, khéo dùng lời khen ngợi, mua vui nêu việc tốt xấu, chỉ vì cầu lợi, chê bai người, ưa thích điều lợi cho mình. Đấy gọi là nịnh nọt quanh co.
Thế nào là hiện bày tướng? Dựa vào việc có lợi mà thuyết pháp, chủ yếu đem lợi ích đến cho mình không muốn cho ai. Đấy là hiện bày tướng.
Hiện tướng sân giận mắng nhiếc là: Hoặc mắng nhiếc người khiến họ sợ, hoặc không có gì mà chê khinh, hoặc ra sức đánh đập khiến họ sợ chỉ vì cầu lợi. Đấy là hiện tướng sân giận mắng nhiếc.
Thế nào là dùng bố thí để mong cầu sự bố thí? Vì bố thí ít mà muốn báo đáp nhiều. Đấy là dùng bố thí để mong cầu sự bố thí. Do các việc xấu ác như vậy gọi là tà mạng.
Lại có tạo những nghiệp tà mạng như: Bố thí gậy tre, hoặc bố thí rau lá, hoa quả, hoặc bố thí tăm xỉa răng, bột tắm, hoặc xem tướng, đoán mộng, xem sao, khéo biết đoán âm thanh của loài vật, can thiệp vào việc lành, dữ, nói lời ác để ly gián, thêu dệt sự việc, mua bán đổi chác, làm tướng điều quân, dưỡng lính giỏi. Các việc như vậy là tà mạng. Nếu không phạm gọi là giới thanh tịnh.
Hỏi: Thế nào giới oai nghi phòng hộ các căn?
Đáp: Đối với việc thấy nghe biết hiểu sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp tướng phiền não chấp trước và thọ trì không phạm, thì đấy là giới oai nghi phòng hộ các căn. Giới oai nghi phòng hộ các căn này do thực hành chín loại mà thành tựu. Do tướng xấu ác mà đoạn mất các căn nên để đối trị nó thì không tác ý, như cứu lửa cháy đầu, chưa từng lìa bỏ. Như thấy Nan-đà nhờ oai nghi mà chế ngự được tâm ác, tướng tâm ở nơi định được tự tại. Cho nên, người phòng hộ các căn thì xa lìa, người phòng hộ được các căn thì hòa hợp.
Hỏi: Thế nào là giới tu tập bốn sự cúng dường?
Đáp: Do thực hành tám việc này quán sát tu hành, khất thực:
1. Là thực hành không vì sự nguy hiểm, không vì đề cao mình.
2. Không vì sự bó buộc nơi hình dáng, cũng không vì để trang nghiêm.
3. Vì để thân được an trú, vì tự điều hòa bảo hộ.
4. Vì trừ bỏ đói khát.
5. Vì giữ gìn phạm hạnh.
6. Thường tự tư duy, về ăn uống trước chỉ nhằm trừ bịnh, không phát sanh bịnh mới.
7. Nên dùng ít để được an ổn.
8. Không tham an trú quá mức.
Hỏi: Thế nào là thực hành không vì sự nguy hiểm, không vì đề cao mình?
Đáp: Ta vì tham ăn uống tham khỏe mạnh mà làm những việc: Đùa cợt, hung dữ, tranh giành, đeo đuổi. Đây là những việc làm hiểm nguy, cao ngạo, kiêu mạn, đề cao mình không biết nhàm chán, như người sân giận đánh đập. Không vì sự bó buộc để được trang nghiêm là vì thích thân hình tròn trịa, mặt mày đầy đặn, khiến người ưa thích nhìn thấy không chán tức là người có tham dục. Vì để thân được an trú, vì tự điều hòa bảo hộ là tham thân an trú như trục xe cần vô dầu mỡ. Vì trừ bỏ đói khát là thường ăn ít. Cũng vậy, tu hành như uống thuốc để trị ung nhọt. Vì giữ gìn phạm hạnh là do ăn uống ít mà có năng lực an vui Thánh đạo. Như vậy, tu hành về sự ăn uống phải tưởng như ăn thịt con. Vì để trừ bịnh trước mà không phát sanh bịnh mới, là nên ăn không ít không nhiều. Tu tập như thế, cũng như dùng vị thuốc. Dùng ít để mình được an là do công đức, ít nên tự an ổn chính mình, nên thường xuyên tu tập như người chăm sóc bịnh. Không quá nhiều là dùng ít để mình được an ổn. Như vậy, tu hành không nên khiến thân trống rỗng, thì trí tuệ trở lại. Vì thế an trú không quá mức. Nếu ăn uống điều độ thích hợp, không từng biếng nhác, đầu, giữa, cuối đêm đều không ngủ nghỉ, thì sẽ luôn được an ổn. Như thế, là dùng tám hành ấy để quán tu hạnh khất thực thì nên tu tập như thế. Lại nữa, tám hạnh này tóm lược thành bốn quán. Đó là quán khả năng đoạn trừ, quán sự việc, quán dùng ít để mình được an và quán ít được công đức.
Hỏi: Thế nào là quán có khả năng đoạn trừ?
Đáp: Không vì thực hành sự hung hiểm, không vì đề cao mình, trước không phải vì mình, không vì trang sức. Đấy là quán có khả năng đoạn trừ. Vì thân này được an trú, vì chính là điều hòa, bảo hộ, vì trừ sự đói khát, vì giữ gìn phạm hạnh, đấy là quán sự việc. Ta nên trừ diệt bịnh trước và không cho bịnh mới phát sanh, đấy là quán dùng ít để mình được an. Ta nên dùng ít, để an ổn cho mình, không thái quá, để trú trong an lạc, đấy là quán dùng ít để được công đức. Đó là bốn quán. Bốn quán này tóm lược thành ba. Nghĩa là đoạn trừ hai biên mà đạt được trung đạo đầy đủ. Do quán đoạn mà đoạn trừ được tham muốn chấp trước. Nghĩa là dứt trừ đói khát, đoạn bệnh gốc, khiến không phát sanh bịnh mới. Lại do quán này trừ hết sự mệt mỏi nơi thân. Quán trung đạo đầy đủ thì phải nên tu hành. Lại quán về y phục, vì để trừ tiếp xúc với gió, lạnh, nóng, hơi nóng, sâu bọ, ruồi muỗi, rắn rít, vì sanh hổ thẹn mà che đậy các bộ phận xấu lộ ra, phải quán đầy đủ như vậy để tu hành. Lại quán thuốc men cho đến các bịnh tật. Nói như đây, thì phải quán thời gian nào? Là lúc khất thực uống thuốc trong một bữa mà quán. Lại đối với y phục, đồ nằm ngồi và lúc mới được vật mà quán xét. Lại nên quán xét trong mỗi ngày, mỗi lúc thân mạng ta đây đều nhờ người khác cho nên phải quán xét. Như thế tất cả đều thành quán hành. Các sư trước giảng thuyết về bốn thứ thọ dụng: Nghĩa là thọ dụng như ăn trộm. Thọ dụng như mắc nợ. Thọ dụng như tài sản của gia đình và thọ dụng như người chủ. Thế nào là thọ dụng như ăn trộm? Là những người phạm giới mà thọ dụng. Thế nào là thọ dụng như mắc nợ? Là những người không biết hổ thẹn, hành tà mạng mà thọ dụng. Thế nào là thọ dụng như tài sản của gia đình? Là những người siêng năng được thọ dụng. Thế nào là thọ dụng như người chủ? Là các bậc Thánh được thọ dụng.
Lại có hai thứ thọ dụng: Là thọ dụng ô uế và thọ dụng trong sạch.
Thế nào là ô uế? Là người có hổ thẹn nhưng không thể quán xét, ấy là ô uế. Thế nào là trong sạch? Là người có hổ thẹn, biết quán sát có điều độ, nhàm chán tưởng xấu ác, ấy là trong sạch. Thế nên cần phải biết luôn tu tập bốn việc này. Đấy là giới tu tập về bốn sự.
Đối với giới luật nghi là: Do lòng tin sâu xa, khiến được viên mãn. Giới mạng thanh tịnh là: Do siêng năng tột cùng, nên khiến đầy đủ. Giới căn oai nghi là: Do đức tin sâu vững khiến được trọn vẹn. Tu tập bốn việc là: Do trí tuệ thắng diệu khiến đạt đến viên mãn. Đối với giới mạng thanh tịnh này là tùy thuận luật nghi. Vì sao? Vì không do thọ mạng, mà đoạn các sự. An ổn là mọi tạo tác được oai nghi của thân, khẩu nghiệp. Hai loại giới này là tùy thuận oai nghi của các căn. Vì sao? Vì khéo chế ngự tâm, khéo giữ gìn nghiệp thân, khẩu. Tu tập về bốn sự là oai nghi của các căn. Vì sao? Vì đã biết chỗ nương tựa của tướng tập (nguyên nhân), những điều sai trái thì nhàm chán. Chánh niệm, chánh định cũng như vậy. Đức Thế Tôn đã dạy: Nếu Tỳ-kheo có thể nhận biết về sự ăn uống và biết rõ về năm dục, đầy đủ nơi luật nghi và mạng thanh tịnh này, tức là chỗ thâu tóm của Giới ấm. Giới luật nghi của căn là chỗ thâu tóm của Định ấm. Giới tu tập bốn sự là chỗ thâu tóm của Tuệ ấm.
Thế nào là lãnh thọ giới thanh tịnh? Nếu Tỳ-kheo ban đều thọ lãnh pháp thiền định, thì trong bảy tụ để quán thân mình. Nếu phạm đủ các tội Ba-la-di, thì đoạn trừ pháp Tỳ-kheo, trụ giới không đầy đủ. Nếu an trú giới đầy đủ, sẽ đạt được pháp thắng diệu, là lời của các sư trước nói. Nếu biết phạm Tăng-già-bà-thi-sa, thì theo hành sự của chúng mà sám hối. Nếu biết phạm các tội khác, thì nên hướng đến một người mà sám hối tội đã phạm. Nếu thấy phạm tà mạng, tùy theo lỗi đã phạm mà sám hối tương ứng. Như thế, khi đã tự hối cải rồi thì quyết không tái phạm, thấy rõ việc thọ trì và phạm như thế. Oai nghi về các căn, và tu tập bốn sự, ta không nên gây phạm nữa. Nếu gìn giữ thì vị lai sẽ được oai nghi tốt đẹp, người ấy do có giới thanh tịnh. Các nghiệp nơi thân khẩu có thể tạo ra ở hiện tại, nên phải quán sát mỗi mỗi nghiệp kia là làm thiện trừ ác. Trọn ngày luôn quán sát, an trú nơi giới thanh tịnh, nếu được như vậy tức làm cho giới được thanh tịnh. Thế nào là tướng giới thanh tịnh? Là do khi tiếp xúc với tướng tương ưng với thành tựu và các phiền não không dấy khởi, hoặc hối hận thối lui, đạt được định viên mãn. Đấy là tướng giới thanh tịnh.
Có mấy hành trụ? Do trụ vào hai giới. Một là xét tính lỗi lầm của phạm giới. Hai là lường xét về công đức của giới. Thế nào là xét tính những lỗi lầm? Nếu người phạm giới thì không có công đức, trái lại còn tạo các nghiệp, trong bốn chúng luôn lo sợ, do dự, bị người trí từ bỏ, không thể chỉ dạy về thiền định, làm ô uế hàng trời người, sự ghét bỏ không giảm, nên suy nghĩ về việc phạm giới. Thấy người khen ngợi công đức trì giới, tâm hối hận không tin, ở trong bốn chúng thường sanh giận dữ tranh cãi, đối với bạn thân thì hay chê bai, oán ghét, quay lưng với người trì giới, lại kết bạn với người xấu ác, không gắng sức để đắc định thù thắng, tuy giả bộ nghiêm trang nhưng cũng xấu xa, như phân giải, bị người ghét bỏ. Như đối với những việc làm khuôn mẫu lại ít gắng sức chịu khó. Như các bùn dơ, ngay hiện tại và ở đời vị lai chẳng có được lợi ích, luôn sanh buồn lo, tiều tụy. Nếu đã tạo tội, lại sanh hổ thẹn, hối hận, không được an ổn. Như kẻ trộm tâm chỉ ở trong ngục, không vui thích đạo Thánh, như Chiên-đà-la không muốn vương vị. Hoặc có bậc trí tuệ đa văn ưa nói về công đức, thì người ấy cũng không quý kính, như lửa tàn, sống chẳng biết ở chốn nào, khi chết hôn mê hoang mang, thần thức hướng tới nẻo ác. Những tội lỗi như thế, có thể xét lường. Nếu trái với việc ác này thì thành công đức, cũng có thể tính kể. Đấy là xét lường. Người phạm giới tâm ý khó điều phục, ý chí lui sụt, tán loạn. Người trì giới, thì siêng năng tột cùng, mọi người sanh tâm tôn kính, thành người tinh tấn, thành người kính tin, một lòng hộ trì giới, như con kiến giữ cái trứng, như bò lang mến cái đuôi, như bảo vệ đứa con một, như giữ gìn con mắt, như thầy cúng hộ thân, như người nghèo giữ gìn vật báu, như chủ thuyền giữ tàu buồm. Trong các sự hộ này, thì tu tập giới là pháp hộ trì đáng quí nhất của mình. Như vậy, người thọ trì giới, tâm sẽ được ủng hộ, che chở, an trú trong giới thiền định được bảo vệ.
Hỏi: Bấy giờ, người thiền định giữ giới thanh tịnh, tâm mong cầu thành tựu công đức thiện tối thắng, lại vì muốn cầu đạt được công đức của hạnh Đầu đà, như vậy thì sẽ thành tựu. Thọ hạnh Đầu đà thì đạt được công đức như thế nào?
Đáp: Vì người hành thiền, tánh không chỉ một loại, mà là ít ham muốn, là biết đủ, là không nghi, là diệt ái, là cầu tăng trưởng tinh tấn dõng mãnh, ít mưu cầu cho mình, không thọ nhận vật bố thí bên ngoài, là an trú, là đoạn trừ sự chấp trước giới thiện đã giữ gìn. Đó chính là các điều vốn có đủ của các định, là Thánh chủng đầu tiên là công đức tối thắng để quán xét. Pháp gì là Đầu đà? Gồm có mười ba pháp. Trong đó, có hai pháp thuộc về y phục, tương ưng đó là: y phẩn tảo và ba y; năm pháp hành khất thực, tương ưng đó là: đi khất thực, theo thứ lớp nhận thức ăn, ngày ăn một bữa, sau đó không ăn lại, ăn điều độ sau ngọ không ăn, năm pháp thuộc về nằm ngồi: Ngồi nơi vô sự, ngồi dưới gốc cây, ngồi ở nơi đất trống, ngồi chốn gò mả, nghỉ ở đâu cũng được. Ngồi tinh tấn thuộc về một một pháp thuộc về một loại tinh tiến dõng mãnh, nghĩa là thường ngồi không nằm.
Thế nào là y Phẩn tảo?
Đáp: Tánh có khả năng thọ trì, nghĩa là tánh, còn lại cũng như vậy.
Thế nào thọ trì y Phẩn tảo? Không nhận y của cư sĩ cúng dường.
Vì sao thọ ba y? Nghĩa là để trừ bỏ y cất giữ lâu (dư). Thế nào là khất thực? Nghĩa là dứt bỏ sự thỉnh cầu của người khác.
Thế nào là thứ lớp khất thực? Nghĩa là đi khất thực không bỏ qua nhà nào.
Thế nào là ăn ngày một bữa? Tức là không ngồi xuống ăn lại. Thế nào là ăn có điều độ? Trừ bỏ sự tham ăn nhiều.
Thế nào là sau giờ ngọ không ăn? Đoạn trừ sự mong cầu sau đó ăn lại.
Thế nào là ngồi nơi vô sự? Tức từ bỏ trú nơi xóm làng.
Thế nào là ngồi dưới gốc cây? Tức không ở trong phòng nhà. Thế nào là ngồi nơi đất trống? Tức ở nơi không bị ngăn che. Thế nào là ngồi nơi gò mả? Tức không ngồi những nơi tốt khác.
Thế nào là ngồi tùy chỗ thích hợp? Tức đoạn trừ ham thích nơi chỗ ở.
Thế nào là luôn ngồi mà không nằm? Tức xa lìa sự ngủ nghỉ.
Vì sao thọ trì y phẩn tảo? Vì thấy rõ lỗi lầm của việc mong cầu được y từ cư sĩ, lại thấy rõ công đức của thọ trì y phẩn tảo. Mình biết như vậy, để từ chối sự cúng dường của cư sĩ, nên thọ trì y Phẩn tảo.
Vì sao thọ trì y phẩn tảo thì được công đức? Vì giống như y cư sĩ, thọ trì đầy đủ, có được không do người khác, mất cũng không lo buồn, tâm không tham vướng, kẻ trộm không lấy cắp, đủ dùng, thường dùng, ít có giá trị. Người thiện tu tập hạnh này không có nghi, được thiện thù thắng thích hợp an lạc trú trong. Pháp hiện tiền khiến người cảm kính, đạt được thiền định. Đấy là công đức của y phẩn tảo mà Đức Phật đã từng khen ngợi.
Hỏi: Có mấy loại y phẩn tảo? Người nào thọ trì? Do đâu mà mất?
Đáp: Y phẩn tảo có hai loại:
1. Không có chủ giữ gìn.
2. Người đời đã xả bỏ.
Hoặc vải ở nơi gò mả, hoặc tẩy uế, hoặc bỏ ở chợ, hoặc ở giữa đường, thu nhặt lại đem ngâm, giặt nhuộm, khâu vá lại mới thành để mặc. Đây gọi là không có chủ. Vải cắt còn thừa, bị bò, chuột gặm, hoặc bị cháy, hoặc bị người ném đi, áo liệm, xác chết và y phục ngoại đạo. Đây gọi là loại người đời xả bỏ.
Vì sao thọ trì y phẩn tảo? Nếu Tỳ-kheo không nhận y của cư sĩ, cúng dường, thì gọi là thọ trì y phẩn tảo.
Vì sao gọi là mất? Nếu Tỳ-kheo lãnh thọ y của cư sĩ cúng dường thì gọi là mất y phẩn tảo.
Vì sao thọ ba y? Vì có y dư cần phải tịnh thí, chứ giữ lại để mặc phải biết đây là lỗi. Đã biết được công đức của ba y, thì từ nay nên xả bỏ y dư mà thọ ba y. thế nào là công đức của thọ bay? Là hạnh của người thiện, lìa bỏ việc cất giữ y dư, ít mưu cầu tạo thành ước lệ nơi thân, biết đủ. Như chim bay trên không chẳng hề luyến tiếc, đúng là người thiện tu tập pháp này không còn nghi ngại.
Ba y là gì? Thế nào là thọ? Thế nào là mất?
Đáp: Là y Tăng-già lê, y Uất-đa-la-tăng và y An-đàhội. Đấy là ba y.
Vì sao thọ ba y? Nếu Tỳ-kheo không cất giữ y dư, gọi là thọ ba y. Nếu thọ bốn y, gọi là mất y.
Thế nào là thọ trì khất thực? Nếu nhận lời mời của người khác, thì chướng ngại đạo nghiệp bản thân, không vì để người khác vui, không cùng với Tỳ-kheo phi pháp ngồi sát nhau, phải biết đấy là tội lỗi. Lại thấy công đức của việc khất thực nên từ nay mình phải từ chối lời thỉnh mời của người khác để thực hành pháp khất thực. Công đức của khất thực là thế nào? Sự mong cầu của tâm dựa vào tâm nguyện, tiến tới hay dừng lại đều do chính mình, không hy vọng được cúng dường thức ăn ngon, chỉ nhằm tiêu trừ tâm biếng nhác, đoạn dứt kiêu mạn, không tham vị ngon, chỉ tạo lợi ích cho chúng sanh, thường ở khắp bốn phương tâm không quản ngại. Chính là hạnh nghiệp của người thiện không còn nghi ngại.
Hỏi: Thỉnh có mấy loại? Thế nào là thọ? Thế nào là mất?
Đáp: Thỉnh có ba loại.
1. Tương tợ thỉnh thực.
2. Thành tựu việc thỉnh.
3. Thỉnh khi gặp.
Trừ ba trường hợp thọ thỉnh này là khất thực. Nếu nhận ba loại thỉnh này, thì mất hạnh khất thực.
Thế nào gọi là thọ trì thứ tự khất thực? Như tuần tự đi, đến chỗ nào có thức ăn ngon thì không được quay lại. Nếu trở lại tức là thọ thực bình thường. Nếu những nơi có nghi ngờ, cũng nên lìa xa. Biết rõ lỗi lầm của việc khất thực không tuần tự và biết công đức của khất thực thứ lớp, nên từ nay xả bỏ khất thực không theo thứ lớp mà khất thực đúng theo thứ lớp. Công đức của khất thực theo thứ lớp là thế nào? Là được tâm bình đẳng tạo lợi ích cho tất cả, trừ bỏ ganh ghét xấu ác, trừ bỏ sự khinh thường, không thích mời gọi, không thích nói nhiều, lìa xa nhà người, từ bỏ đi nhanh. Như trăng ít hiện người đời thích ngắm nhìn. Đúng là người thiện tu hành nghiệp này không còn nghi ngại.
Hỏi: Thế nào gọi là thứ lớp khất thực? Thế nào là thọ nhận? Thế nào là không thọ?
Đáp: Tỳ-kheo đi khất thực khi mới vào xóm làng thì phải theo thứ lớp từ nhà cuối cùng cho đến nhà đầu tiên. Đấy là nghĩa đi khất thực theo thứ lớp. Thế nào là mất? Nghĩa là vượt qua nhà lân cận, gọi là mất.
Thế nào là ăn ngày một bữa? Tức ngồi hai nơi, là một lần ngồi thọ thực và một lần ngồi rửa bát, trái với điều ấy gọi là ăn ngày một bữa. Chính là người thiện thực hành nghiệp này không còn nghi ngại, nên biết tội lỗi như vậy. Đã biết công đức của ngày ăn một bữa thế nên phải thực hành. Từ nay nên xả bỏ việc ăn hai bữa chỉ ăn một bữa. Công đức của ngày ăn một bữa là thế nào? Không nhiều, không ít, không tham, không tịnh thí, không có các bịnh phiền não sanh khởi, yên ổn không bị hại, được an lạc. Chính là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngại.
Hỏi: Thế nào là ăn một bữa? Thế nào là biên? Thế nào là mất?
Đáp: Biên có ba loại: Tức là tọa biên, thủy biên và thực biên. Thế nào là tọa biên? Nghĩa là ăn rồi mà vẫn còn ngồi. Nhận nước rửa bát rồi thì không được ăn lại, đấy là thủy biên. Thế nào là thực biên? Đối với thức ăn, phát sanh tưởng, đó là cuối cùng đã ăn rồi không được ăn nữa. Đấy là thực biên. Nếu ngồi đến hai lần, thì mất hạnh ngày ăn một bữa, trừ các trường hợp uống nước và thuốc. Chư Phật đã khen ngợi pháp này. Đấy là thực biên.
Thế nào là thọ trì hạnh ăn đúng lượng? Nếu ăn uống không điều độ thì thân càng ngủ nghỉ nhiều, luôn sinh tham muốn, vì bụng không chán đủ. Biết đấy là tội lỗi, thì hiểu được công đức của tiết độ trong ăn uống. Từ nay mình nên đoạn trừ, không tham muốn, mà nên thọ trì hạnh ăn biết vừa đủ. Công đức của thọ trì ăn vừa đủ là thế nào? Ấy là lường tính phần mình ăn không theo tâm phóng túng. Nếu ăn nhiều sẽ càng thêm mệt mỏi, biết thế nên không thích, lại diệt trừ bịnh tham, từ bỏ các biếng nhác. Chính là người thiện tu tập nghiệp này, không còn nghi ngại.
Hỏi: Thế nào là thọ trì hạnh ăn vừa đủ? Thế nào là mất?
Đáp: Nếu khi thọ nhận ăn uống, phải nên tự mình suy nghĩ cần bao nhiêu, để làm chuẩn mực, không nên lấy ăn nhiều, khéo biết lường tính để từ bỏ, việc ăn không có điều độ. Nghĩa là phải biết lường tính việc ăn, nếu không như vậy, gọi là mất.
Thế nào là sau giờ ngọ không ăn? Là để đoạn trừ vọng tưởng, xa lìa sự ăn nhiều. Biết ấy là tội lỗi, thấy rõ công đức không ăn sau giờ ngọ, nên từ nay ta bỏ việc ăn nhiều và thọ trì hạnh sau giờ ngọ không ăn. Công đức của việc không ăn sau giờ ngọ là gì? Là đoạn trừ tham muốn, biết điều độ để giữ gìn thân, từ bỏ việc ăn đêm chấm dứt sự tìm cầu, không bảo người khác tìm, không thuận theo tâm mong muốn. Chính là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngại.
Hỏi: Sau giờ ngọ có mấy thứ? Thế nào là thọ trì? Thế nào là mất?
Đáp: Sau giờ ngọ có hai loại: Nghĩa là không ăn tiết độ và thọ trì ăn sau ngọ. Thế nào là ăn không tiết độ? Nếu ăn nhiều, để dư thừa, thì phạm tội biệt thỉnh, không được ăn nữa. Thế nào là thọ trì ăn sau giờ ngọ? Đã ăn hai mươi mốt nắm thức ăn rồi, không được ăn nữa. Không ăn sau giờ ngọ là từ bỏ ăn nhiều. Nếu ăn nhiều là mất hạnh quá giờ ngọ không được ăn.
Thế nào là hạnh ở nơi vô sự? Ở trong nước ồn ào, phức tạp, các thức tiếp xúc với năm trần, tâm dấy khởi ưa thích nhiễm ô. Nếu ở nơi chốn qua lại náo nhiệt thì bị phân tán. Biết như vậy là tội lỗi, và biết được công đức ở nơi vô sự, từ nay, ta từ bỏ sống nơi đông đảo, an trú ở chỗ vô sự. Công đức ở nơi chỗ bình yên vô sự là thế nào? Là trú xa lìa nơi chốn ồn ào, phức tạp, các thức tiếp xúc với năm trần, tâm dấy khởi ưa thích nhiễm ô. Nếu ở nơi chốn qua lại náo nhiệt thì bị phân tán. Biết mười điều nói về công đức tối thắng đáng kính tin, trời người hoan hỉ, không ưa thích, chốn thế tục thấp hèn, mà vui thích đạt được vắng lặng. Thích vắng lặng, ít ồn ào, ngồi thiền định, theo dõi tâm, chính là người thiện tu hành nghiệp này, không còn nghi ngại.
Hỏi: Thế nào là nơi vô sự là tốt nhất? Thế nào là thọ nhận? Thế nào là mất?
Đáp: Xa lìa thành thị, trú ngoài phố xá, tránh nơi quá xa, chọn trú xứ cách nơi người ở khoảng bốn khuỷu tay năm trăm cung (1 cung = 5 thước), đây là nơi vô sự tốt nhất, trừ ở giữa thành thị. Đấy gọi là chốn nơi vô sự. Nếu ở giữa thành thị thì mất hạnh này. Thế nào là ở dưới gốc cây? Là bỏ nơi che kín, không cất chứa, tụ tập, nhằm đối trị tham muốn, tìm cầu, biết đó là tội lỗi và biết công đức ở dưới gốc cây, nên từ nay ta đoạn trừ ở chốn che khuất, mà trú dưới gốc cây. Công đức ở dưới gốc cây là gì? Theo sự ưa thích có thể đạt được điều đó, không giao tiếp thế tục, thích xa lìa mọi việc làm, cùng an trú với chư thiên, lìa sự ganh ghét chỗ ở từ bỏ ái chấp. Đay chính là người thiện tu tập nghiệp này, không còn nghi ngại.
Hỏi: Loại cây gì có thể trú? Cây nào nên lìa bỏ? Vì sao được trú?
Vì sao có thể bỏ đi?
Đáp: Mặt trời lúc giữa trưa, bóng của cây rọi xuống chỗ ngồi, không có lá rơi xuống chỗ ngồi khi gió thổi. Đấy là chỗ có thể an trú, trừ những cây hư mục, cây thân bộng, cây quỉ thần ở, lìa những nơi có che, đấy gọi là hạnh ngồi dưới gốc cây. Nếu đến trú ở nơi che khuất thì mất hạnh ngồi dưới gốc cây. Thế nào là ở nơi đất trống?
Ấy là không ở nơi có che và nơi gốc cây nơi cất chứa đồ vật (nhà kho). Biết đấy là lỗi lầm và biết được công đức trú nơi chỗ đất trống, nên từ nay ta sẽ xa lìa chỗ không thích ở, chỉ ưa ở nơi đất trống. Công đức trú nơi đất trống là gì? Chẳng đến chỗ không thích ở, trừ bỏ biếng nhác, ngủ nghỉ, cũng như loài nai hoang dã, tùy ý đi lại, không chỗ nào luyến mộ, ưa thích. Đây chính là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngờ.
Thế nào là thọ nhận? Thế nào là mất? Từ bỏ sống nơi có che và ở dưới gốc cây. Đấy là trú ở nơi đất trống. Nếu sống nơi có che và ở dưới gốc cây thì mất hạnh sống nơi đất trống.
Thế nào là trú ở nghĩa địa? Nếu ở những nơi khác thì ít tu tập, buông lung, không dấy tâm lo sợ điều ác. Biết đó là lỗi lầm và biết công đức ở giữa nghĩa địa, nên từ nay ta không ở những chốn khác, chỉ ở nơi nghĩa địa. Công đức ở nghĩa địa là gì? Luôn nhớ nghĩ về sự chết, đạt được tướng bất tịnh, được hàng phi nhơn kính trọng, không khởi buông lung, chế ngự dục nhiễm ô, sanh khởi nhiều nhám chán, không còn sợ hãi. Quán thân vắng lặng, như hư không dứt trừ suy tính về tưởng thường còn. Đó là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngại.
Hỏi: Công đức ở nơi nghĩa địa như thế nào? Có thể trú ở đâu? Tu tập thế nào? Thế nào là thọ, là mất?
Đáp: Nếu nơi này có người thường than khóc nhiều, hay có nhiều khói lửa, thì bắt đầu muốn trú nơi nghĩa địa như vậy, trước tiên phải quan sát có những nơi an tĩnh khác, rồi mới nên đến đó ở. Nếu Tỳ-kheo sống nơi nghĩa địa, thì không nên xây phòng nhà, làm giường, ghế, không nên ngồi thuận và nghịch chiều gió, không nằm lâu, không ăn cá, không uống sữa, không ăn tinh dầu, gỏi thịt, không ở trong nhà, không giữ bát. Nếu người đã bỏ trì tọa cụ và vật y khác, đến trú nơi nghĩa địa, thì ở nơi ấy, nên ném vật đó đi xa, khi mặt trời mọc thì thu nhặt y, ngọa cụ trở lại chùa, trừ trú ở những nơi khác. Đây gọi là ở nơi nghĩa địa. Nếu trú những nơi khác, thì gọi là mất. Thế nào là thọ trì hạnh ngồi tùy chỗ thích hợp? Tức là không thích chỗ mà người tham muốn. Chỗ không làm phiền người khác khiến họ phải bỏ đi. Biết đấy là lỗi lầm và biết rõ công đức của hạnh tùy chỗ thích hợp, từ nay ta đoạn trừ tham luyến trụ xứ, tùy xứ thích hợp mà trú. Công đức của hạnh tùy xứ thích hợp mà trú thế nào? Đó là tìm cầu nơi biết đủ, ham thích chốn vắng lặng, đạn trừ các tham ái ưa thích, khiến mọi người kính trọng. An trú nơi tâm từ bi, hoàn toàn tóm thâu chế ngự. Đó chính là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngại.
Thế nào là thọ? Thế nào là mất? Đoạn trừ tham ái chỗ dừng ở, đó là tùy chỗ thích hợp mà trú. Nếu đến trú nơi đã ưa thích, tức là mất hạnh này.
Thế nào là tu theo hạnh thường ngồi không nằm? Đối với nơi an trú, ngủ nghỉ thì sanh lười biếng. Biết đó là lỗi lầm. Rõ và biết công đức của hạnh thường ngồi, nên ta từ nay bỏ ngủ mê, hành hạnh thường ngồi không nằm. Công đức của thường ngồi là gì? Là đoạn sự dấy khởi lười biếng, trừ thân ganh ghét, lìa bỏ nhiễm chấp, ít thích đối với sự trói buộc của ngủ nghỉ, thường đạt vắng lặng, siêng tu thiền định thắng diệu. Đó là người thiện tu tập nghiệp này không còn nghi ngại.
Thế nào là thọ? Thế nào là mất? Đoạn trừ sự nằm nghỉ là thọ. Nếu ngủ nghỉ là mất.
Thế nào là lìa y phẩn tảo? Cư sĩ cúng dường các loại như y: Y làm bằng sợi gai, y Kiết-bối, Kiều-xa-da, Khâm-bà-la... nếu dùng phương tiện lãnh thọ thì không mất y nạp.
Thế nào là ba y? Hoặc cất y dư đã quá mười ngày, có y một tháng, có y công đức. Lại có y dư để giữ gìn đồ nằm đồ trải và y che ghẻ, mụt, khăn tay, áo tắm, mưa thì không thọ trì, không tịnh thí, nếu dùng phương tiện cũng không mất ba y.
Thế nào là phương tiện khất thực? Nếu Tăng theo thứ lớp khất thực và thường trú thọ thực, hành trì thực, thọ thực trong mười lăm ngày, thọ thực khi Bố tát, thọ thực trong chúng, thọ thực trong chùa vì phương tiện thọ thực thì không mất hạnh khất thực. Nếu thấy quá thì cũng nên xả bỏ.
Thế nào là phương tiện của thứ lớp khất thực? Nếu thấy các thứ như voi, ngựa đang đứng nơi cửa húc nhau thì có thể tránh sang ấp khác, các thứ như vậy cần phải tránh xa. Lại thấy Chiên-đà-la che bát, học gia tùy theo Hòa thượng A-xà-lê và Tỳ-kheo khách đến, những trường hợp như vậy theo phương tiện đi vượt qua thì không mất hạnh thứ lớp khất thực.
Thế nào là phương tiện ngày ăn một bữa? Nếu khi đang ăn mà thấy voi, ngựa, bò, rắn, Hòa thượng, A-xàlê, và Tỳ-kheo khách đến, vì các trường hợp này nên đứng dậy, rồi lại ngồi ăn thì không phạm, không mất hạnh ngày ăn một bữa. Nếu ăn tiết độ v ăn sau giờ ngọ thì không có phương tiện.
Thế nào là phương tiện ở chỗ vô sự? Hoặc vì thọ giới, sám hối, thưa hỏi pháp Bố tát, Tự tứ, bị bịnh và chăm sóc bịnh, hỏi chỗ nghi trong kinh. Do các nhân duyên như vậy thì có thể đến xóm làng, không mất hạnh trú nơi không có nạn.
Thế nào là phương tiện ngồi dưới gốc cây? Hoặc là khi gặp mưa thì nên vào nơi chỗ có che, đến khi mặt trời đã hiện thì trở ra tức không phạm lỗi (mất hạnh). Các phương tiện như ngồi dưới gốc cây, ngồi ở giữa đất trống, giữa nghĩa địa, tùy chỗ thích hợp mà trú cũng lại như vậy. Các trú xứ khác có thể trú, và thường ngồi không nằm thì không có phương tiện. Lại có chỗ nói khi nhỏ nước vào mũi thì được phép nằm không mất hạnh thường ngồi. Do mười ba hạnh Đầu đà này lại chia thành tám pháp, như trong luận A-tì-đàm nói về tám pháp Đầu đà. Nghĩa là pháp không được ăn sau giờ ngọ, kết hợp với ăn biết lượng đủ, ăn một lần, được xếp vào vào một loại thọ trì Pháp trú nơi vô sự kết hợp với ngồi dưới gốc cây, ngồi chỗ đất trống, ngồi nơi nghĩa địa. Vì sao đây đều thuộc hạnh ở nơi vô sự? Vì dự tính xây phòng nhà, ưa thích làm các việc, có nhiều chỗ cất chứa, nên tham đắm nơi ở, tâm chẳng được an lạc, ý dấy khởi như vậy, nên trú nơi an tịnh như dưới gốc cây, nghĩa địa, đất trống. Vì thế, cho nên thành tám pháp. Nơi tám pháp Đầu đà cũng lại thành ba pháp: Một là trụ nơi vô sự. Hai là dùng y phẩn tảo. Ba là hành khất thực. Nếu ba pháp này thanh tịnh thì thành tựu viên mãn hạnh đầu đà. Thế nên, Đức Phật nói với Tôn giả Nan-đà: Khi nào thấy ông thành tựu hạnh ở nơi không có nạn, thọ y phẩn tảo, không ăn sau giờ ngọ, chỉ nhằm nuôi dưỡng thân mạng thì khi ấy thấy không còn tham muốn.
Hỏi: Những gì gọi là phần Đầu đà? Đầu đà có mấy pháp? Ba hạng người tu hạnh đầu đà là gì? Có mấy loại đầu đà đúng thời? Có người hành đầu đà thuyết giảng hạnh đầu đà?
Đáp: Đức Phật đã nói có mười ba hạnh đầu đà, Ngài đã chế giới: Ấy là phần hạnh đầu đà. Hạnh này không nên nói thiện, bất thiện hay vô kí? Vì sao? Vì người bất thiện và tham ác mong cầu giống nhau, nên không trừ bỏ được dục ác, lại cùng phát khởi phi pháp về tham muốn lợi dưỡng, vì thế đầu đà là bất thiện. Có mấy loại pháp: Có hai loại pháp đầu đà là không tham, không si như Đức Phật đã dạy.
Y phẩn tảo của Tỳ-kheo là dựa vào ít muốn, biết đủ, ưa thích vắng lặng, không còn nghi ngại, nương vào giải thoát đó gọi là thọ trì y phẩn tảo. Các hạnh đầu đà khác cũng lại, không tham, không si như vậy. Do không tham nên trì mười ba pháp này có khả năng diệt trừ tham muốn. Do không si nên trì mười ba pháp này có khả năng diệt trừ Vô minh.
Lại nữa, do không tham ấy nên Đức Phật đã cho phép, vì nó có khả năng sanh nhàm chán với tội lỗi, tương ưng như không còn nghi ngại, trừ bỏ dục nhiễm, lừa dối. Do không si ấy cũng tương tự, từ bỏ thân gầy yếu, dối gạt. Đấy là hai pháp đầu đà không tham, không si.
Ba hạng người tu hạnh đầu đà là gì? Nghĩa là người hành tham, si là tu hạnh đầu đà. Người hành sân giận thì không thể tu tập. Vì sao? Người hành tham, si, nhưng có thể tu tập hạnh đầu đà. Như người tham đắm dẫn đến yêu thích trở thành không buông lung, nếu không buông lung thì có thể chế ngự được tham. Như si mê không nghi ngại có thể dựa vào hạnh đầu đà thành tựu không buông lung, nếu không buông lung thì có thể diệt trừ si. Vì sao người tham, si tu hạnh đầu đà, người sân thọ khổ lại trở thành ác. Như người bịnh đàm, nếu uống nước nóng thì bịnh càng nặng thêm. Vì thế, người sân không nên tu hành. Lại nói, người sân nên trú nơi không có nạn và dưới gốc cây. Vì sao nên trú nơi không có nạn? Vì không có các khổ thế gian.
Có mấy loại đầu đà đúng thời? Có ba loại đầu đà thọ trì trong tám tháng là trú dưới gốc cây, ở nơi đất trống và nơi nghĩa địa còn thời gian căn cứ (bốn tháng). Đức Phật che phép ở nơi có che.
Hỏi: Thế nào là đầu đà nói về đầu đà?
Đáp: Cũng có đầu đà nói về đầu đà, có đầu đà không nói về đầu đà, có chẳng phải đầu đà nói về đầu đà, có chẳng phải đầu đà không nói về đầu đà.
Thế nào là có đầu đà nói về đầu đà? Nghĩa là A-lahán thành tựu hạnh đầu đà.
Thế nào là có đầu đà không nói về đầu đà? Nghĩa là A-la-hán không thành tựu hạnh đầu đà.
Thế nào là có chẳng phải đầu đà nói về đầu đà? Nghĩa là bậc hữu học và hàng phàm phu thành tựu hạnh đầu đà.
Thế nào là có chẳng phải là đầu đà cũng không nói về đầu đà?
Nghĩa là hàng phàm phu, hữu học không thành tựu hạnh đầu đà.
Hỏi: Thế nào là tướng, thế nào là vị? Thế nào là khởi hạnh đầu đà?
Đáp: Ít muốn là tướng, biết đủ là vị, không nghi là khởi.
Lại nữa, không chỗ chấp trước là tướng, không lỗi lầm là vị, không thối lui là khởi. Thế nào là đầu, giữa, cuối? Nghĩa là thọ nhận là đầu, tu tập là giữa, hoan hỷ là cuối.
Hỏi: Bấy giờ, người trì giới thanh tịnh tọa thiền, đã hành hạnh đầu đà, thành tựu pháp thiện tối thắng, sẽ còn tạo tác gì?
Đáp: Khiến cho định khởi.
Hỏi: Thế nào là định? Thế nào là tướng? Thế nào là vị? Thế nào là khởi? Thế nào là xứ? Thế nào là người lãnh thọ? Thiền định và chánh thọ, giải thoát sai biệt thế nào? Có mấy loại nhân của định có thể thấy, do đâu mà định khởi. Chướng định có mấy pháp? Có mấy loại công đức của định? Định có bao nhiêu pháp hỗ trợ? Có mấy loại định? Vì sao khởi định?
Đáp: Định là tâm được thanh tịnh, một lòng hướng đến công đức tinh tấn, cùng với vắng lặng v.v…. Tâm thật sự an trú không tán loạn, đấy là nghĩa của định.
Lại nữa, gió dữ của phiền não không làm đảo lộn tâm không lo nghĩ. Như đèn ở trong cung điện ánh sáng không lay động. Như luận A-tỳ-đàm nói: Nếu tâm thật sự an trú không hề bám víu vào cảnh duyên, cũng không loạn động, vắng lặng, không chấp trước thì đúng là định căn, định lực. Đấy là định.
Thế nào là tướng? Thế nào là vị? Thế nào là khởi? Thế nào là xứ? Tâm an trú là tướng. Điều phục các oán là vị. Vắng lặng là khởi. Ở trong nhiễm tâm không tham đắm, đạt được giải thoát, đấy gọi là xứ. Thế nào là người lãnh thọ định? là tiếp nhận lấy tâm thường quân bình phương tiện định quân bình, như tay nắm giữ chiếc cân, khiến cho các tâm số quân bình như giữ, như dầu trong bát, tâm luôn nhớ nghĩ và tinh tiến quân bình thực hành, ấy là định, như sức lực của bốn ngựa cùng kéo xe. Tư duy là định, như người bắn cung chú tâm điều chỉnh cung chính xác. Vì trừ bỏ các oán nên như dùng thuốc để giải độc. Luận A-tỳ-đàm nói: Thu gom về điều phục là nghĩa của định. Từ nghĩa của định này là nghĩa đầy đủ của định.
Thiền có bốn thiền. Đó là thiền thứ nhất. v.v...
Giải thoát là tám giải thoát: Nội tưởng có sắc, ngoại quán sắc... Định là ba định: là Hữu giác, hữu quán...
Chánh thọ là: Chín chánh thọ thứ lớp.
Thế nào là thiền? Là tư duy về sự việc, tư duy các oán, tâm hỷ, lạc, xa lìa các chướng ngại giải thoát, làm cho tâm bình đẳng, phương tiện phát khởi định đạt được tự tại, không vì một nghĩa trụ nơi chánh thọ, vui thích khởi định. Cho nên người chánh thọ giải thoát. Có bao nhiêu công đức làm cho định, dấy khởi? Thấy rõ có bốn công đức khiến định được phát khởi. Những gì là bốn?
1. Đó là vui hiện tại thấy pháp vui (lạc) an trú.
2. Do sự an lạc trong quán sát.
3. Hiện tại chứng thần thông.
4. Chứng đắc đầy đủ.
Thế nào là vui hiện tại thấy pháp, vui an trú? Nghĩa là người đạt được định, thường sanh khởi vô lậu (không còn sanh khởi các lậu), tâm sanh vui vẻ, tiếp nhận niềm vui của pháp xuất thế gian, vui hiện tại thấy pháp mà vui an trú. Vì vậy, đức Thế Tôn dạy: Thân này, thân kia từ vắng lặng phát sanh hoan hỷ, liền đạt được trong mát, dần dần thành tựu đầy đủ tất cả. Như Đức Phật bảo các Tỳ-kheo: Trước đây ta đã từng thực hành hạnh Ni kiền (ngoại đạo lìa trói buộc), trong bảy ngày đêm thân không lay động, miệng im lặng không nói, an trú ngay thẳng, chuyên chú hướng đến thọ nhận an lạc. Đây gọi là vui hiện tại thấy pháp Thánh, an trú trong niềm vui (lạc). Do sự an lạc trong quán sát tức là người ngồi thiền được tâm quyết định, mọi việc không bị ngăn che, ràng buộc, điều hòa nhẹ nhàng, thọ trì, quán sát thấy rõ tự tánh của các pháp như Ấm, Giới, Nhập … mà an lạc. Vì vậy, Đức Thế Tôn dạy các Tỳ-kheo phải tu tập thực hành. Như thế, tất cả đều do nơi tâm, nương nơi đó mà biết đúng như thật. Thần thông hiện chứng là: Người do đạt được các định mà chứng được năm thông. Đó là: Như ý (thần túc thông), Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Thiên nhãn. Vậy nên Đức Thế Tôn dạy:
Khi tâm đã đạt được định rồi, tùy theo đó mà biến chuyển. Như vậy, tất cả khiến được vừa ý.
Chứng đắc đầy đủ là: Đã được tâm định, chưa đạt đến vô học, thì cuối cùng cũng khiến cho không thối chuyển. Nhờ định, đạt được đầy đủ quả báo ở cõi sắc, vô sắc. Như Đức Phật dạy: Tu một ít thiền thứ nhất thì được làm quyến thuộc của Phạm thiên. Như vậy các hàng sanh nơi ấy, đều có bốn công đức này, có khả năng phát sanh định, mỗi mỗi đều sanh khởi.
Có mấy thứ làm ngăn ngại định? Có tám thứ là: Ham muốn về dục, sân giận, biếng nhác, ham ngủ nghỉ, đùa bỡn, nghi ngờ do dự, vô minh, không có hỷ lạc và tất cả các pháp ác đều là chướng ngại.
Có mấy nhân của định. Có tám pháp là: Nhân ở hạnh xuất ly không sân giận, sáng suốt không tán loạn, tất cả pháp thiện khiến tâm được hoan hỷ, có khả năng phát sanh pháp và trí, đấy gọi là nhân của định.
Có mấy pháp hỗ trợ thành định? Có bảy loại giới là: Đầy đủ tri túc: Giới, các vật dùng biết đủ, ngăn ngừa các căn môn, điều độ trong ăn uống, đầu, giữa cuối đêm thường không ngủ nghỉ, thường nhớ nghĩ về trí tuệ, an trú nơi vắng lặng.
Định có mấy loại? Định có hai loại: Một là định thế gian. Hai là định xuất thế gian. Đạt được quả bậc Thánh gọi là định xuất thế gian, ngoài ra là định thế gian. Định thế gian ấy là có lậu, có phiền não kết và phược trói buộc, là lưu chuyển, là hiểm nạn, là ngăn che, là ăn trộm giới, tà kiến, là chấp thủ, là phiền não. Đây là định của thế gian. Trái với những điều này là định xuất thế gian.
Lại nữa, định có hai loại: Định tà và định chánh. Thế nào là định tà? Tâm chuyên về pháp bất thiện gọi là định tà. Nếu tâm chuyên chú về việc thiện, gọi là định chánh. Định tà nên đoạn trừ, định chánh cần tu tập.
Lại nữa, định có hai loại: Định ngoại và định an. Phần đầu của những định ấy gọi là định ngoại. Tánh trừ bỏ, không gián đoạn gọi là định an.
Lại nữa, định có ba loại: Định có giác có quán. Định không giác ít quán. Định không giác không quán.
Thế nào là định có giác có quán? Đó là thiền thứ nhất có giác có quán. Thiền thứ hai không giác ít quán. Còn các định khác thì không giác không quán.
Lại nữa, định có ba loại: Đó là định cùng với hỉ sanh. Định cùng với lạc sanh. Định cùng với xả sanh. Thiền thứ nhất và thứ hai là cùng với hỉ sanh. Thiền thứ ba là cùng với lạc sanh. Thiền thứ tư là cùng với xả sanh. Lại nữa, định có ba loại: Định thiện, định báo và định sự.
Thế nào là định thiện? Người học đạo Thánh và phàm phu tu tập định ở cõi sắc và vô sắc, đó gọi là định thiện.
Người học quả Thánh và phàm phu sanh nơi cõi sắc và vô sắc, đó gọi là định báo.
Bậc vô học, đạt được định cõi sắc và vô sắc, đó gọi là định sự.
Lại nữa, định có bốn loại: Định dục, định sắc, định vô sắc và định vô sở thọ. Nghĩa là mọi thực hành hạnh chánh thọ, gọi là định dục. Định của bốn Thiền gọi là định sắc. Bốn định nơi cõi vô sắc và quả báo của nghiệp thiện, đấy gọi là định vô sắc. Định của bốn đạo quả gọi là định vô sở thọ.
Lại nữa, định có bốn loại tu tập: Loại trí chậm kém vất vả tu hành. Trí nhạy bén vất vả tu hành. Trí chậm kém vui thích tu hành. Trí nhạy bén vui thích tu hành. Bốn hạng người này là: Một tức là phiền não sâu dày. Hai là phiền não cạn mỏng. Ba là căn chậm lụt. Bốn là căn lanh lợi. Đối với hạng người phiền não sâu dày, mà căn chậm lụt, thì tu tập vất vả, trí tuệ chậm kém đắc định. Đối với hạng người phiền não sâu dày, mà căn lanh lợi tuy tu hành vất vả nhưng trí tuệ nhạy bén đắc định. Đối với hạng người phiền não cạn mỏng, mà căn chậm lụt, thì vui thích tu tập, trí tuệ chậm kém đắc định. Đối với hạng người phiền não cạn mỏng, mà căn lanh lợi thì vui thích tu tập, trí tuệ nhạy bén đắc định. Đối với hạng người phiền não sâu dày, do phiền não đã sâu dày, nên khó điều phục phiền não. Vì thế người căn chậm lụt tu tập vất vả. Lại bởi căn chậm lụt nên tuy thực hành thiền quán lâu ngày mà trí tuệ vẫn thấp kém, nên gọi là trí tuệ chậm kém. Do những điều này mà tất cả nên phân biệt rõ.
Lại nữa, định có bốn loại:
1. Tiểu định, tiểu sự.
2. Tiểu định, vô lượng sự.
3. Vô lượng định, tiểu sự.
4. Vô lượng định, vô lượng sự.
- Thế nào là tiểu định, tiểu sự? Là định nhỏ yếu không thể thuận theo mọi sở đắc của tâm, mọi sự của định ít siêng năng. Đấy gọi là tiểu định, tiểu sự.
- Thế nào là tiểu định, vô lượng sự? Là định nhỏ yếu không thể thuận theo sở đắc của tâm, mọi sự của định nhiều siêng năng. Đấy gọi là tiểu định, vô lượng sự.
- Thế nào là vô lượng định, tiểu sự? Là định đã thuận theo mọi sở đắc của tâm, mọi sự của định siêng năng. Đấy gọi là vô lượng định, tiểu sự.
- Thế nào là vô lượng định, vô lượng sự? Là định đã thuận theo mọi sở đắc của tâm lại rất siêng năng trong sự của định. Đấy gọi là vô lượng định, vô lượng sự.
Lại nữa, định có bốn loại: Là định dục, định tinh tấn, định tâm và định tuệ.
Định dục là: Dực vào mong muốn tu tập chứng đắc, gọi là định dục. Nương theo sự tinh tấn mà để đạt định, gọi là định tinh tấn. Dựa vào tu tập mà đạt định, gọi là định tâm. Dựa vào tu trí tuệ mà đạt định, gọi là định tuệ. Lại nữa, định có bốn loại: Là có định chỉ Phật mới chứng đắc, chẳng phải bậc Thanh văn đạt được. Có định Thanh văn chứng đắc, chẳng phải chỗ chứng đắc của Phật. Có định là chỗ chứng đắc của Phật và hàng Thanh văn. Có định chẳng phải là chỗ chứng đắc của Phật và hàng Thanh văn.
Định Đại bi và định song biến là sở đắc (chứng đắc) của Phật, chẳng phải là sở đắc của hàng Thanh văn. Định của quả hữu học là sở đắc của hàng Thanh văn, chẳng phải là sở đắc của Phật. Chín định thứ lớp và định của quả vô học là sở đắc chung của Phật và Thanh văn. Định vô tưởng chẳng phải là sở đắc của Phật và Thanh văn.
Lại nữa, định có bốn loại: Có định khởi không diệt. Có định diệt không khởi. Có định vừa diệt vừa khởi. Có định không khởi cũng không diệt.
Hỏi: Thế nào là định khởi không diệt?
Đáp: Là định thiện, bất thiện nơi cõi dục, đấy gọi là định khởi không diệt.
Định của Bốn Thánh đạo là diệt không khởi. Định thiện của bậc hữu học và hàng phàm phu nơi cõi sắc và vô sắc là định khởi mà cũng diệt. Tất cả quả nơi định và sự nơi định chẳng phải khởi, chẳng phải diệt.
Lại nữa, định có bốn loại: Thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư. Xa lìa năm thứ ngăn che thành tựu giác quán, hỷ lạc nhất tâm. Đây gọi là thiền thứ nhất.
Lìa nơi giác quán thành tựu ba chi, xa lìa hỉ thành tựu hai chi, xa lìa lạc xả, nhất tâm thành tựu thiền thứ tư. Lại nữa định có năm loại: Thiền thứ nhất, thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, thiền thứ năm. Năm thiền là năm chi: Giác, quán, hỉ, lạc, nhất tâm. Xa lìa năm thứ ngăn che thành tựu năm chi. Đây gọi là thiền thứ nhất. Xa lìa giác, thành tựu bốn chi. Đây gọi là thiền thứ hai. Xa lìa hỷ thành tựu hai chi. Đây gọi là thiền thứ ba. Xa lìa lạc, thành tựu hai phần. Đây gọi là thiền thứ tư, được gọi xả và nhất tâm.
Hỏi: Vì sao nói có bốn thiền và năm thiền?
Đáp: Vì có hai hạng người chấp nên phân thiền thứ hai làm hai loại: Không giác không quán và không giác, ít quán (không tầm không tứ, không tầm có ít tứ).
Hỏi: Hạng người nào hành thiền khiến thiền thứ nhất tự tại để phát khởi thiền thứ hai?
Đáp: Đối với pháp giác quán thô, giữ niệm tư duy, lại biết giác quán, đó là tai họa, khiến khởi không giác quán, hướng đến thiền thứ hai, tu tập như vậy, cho đến thiền thứ tư.
Lại có người đã được tự tại nơi thiền thứ nhất, hướng đến thiền thứ hai. Đối với pháp giác quán thô, giữ niệm tư duy, biết được giác là tai họa, nên không giác, ít quán, hướng đến thiền thứ hai, như vậy thứ tự đạt đến thiền thứ năm. Vì thế nói có năm thiền.
Lại nữa, định có năm loại: Nghĩa là năm phần chánh thọ: Tức là đầy đủ hỉ, đầy đủ lạc, đầy đủ tâm, đầy đủ ánh sáng, đầy đủ các tưởng quán sát. Đối với thiền thứ nhất, thiền thứ hai thì đầy đủ hỉ. Thiền thứ ba đầy đủ lạc. Đối với tha tâm trí gọi là đầy đủ tâm. Đối với thiên nhãn thông gọi là đầy đủ ánh sáng. Từ những định ấy, phát khởi trí tuệ quán sát gọi là tưởng quán sát.
Lại nữa, định có năm loại: Nghĩa là năm loại trí chánh định. Phước báo của các định này hiện tại và vị lai đều được an lạc. Dựa vào thân trí tuệ phát khởi định này, là chỗ hiện hành của bậc Thánh không còn phiền não. Định này của bậc trí tu tập, tĩnh tịch, an lạc, dựa vào đó mà chứng đắc vô song, không thuận theo sanh tử. Định này an lạc, vắng lặng tối thượng, do đấy mà thành tựu nhất tánh, mình chẳng phải thuận theo sanh tử. Định này luôn nhớ nghĩ nhập và xuất, nương vào thân mà phát sanh trí tuệ.
Lại nữa, đã phân biệt được hành và xứ rồi, lại phân biệt sự tu tập và các bậc thượng, trung, hạ, do như thế, nên định có nhiều loại. Phải biết tất cả các định đều thâu tóm trong bốn định.
--------------
Hỏi: Bấy giờ, do đâu mà định khởi?
Đáp: Nếu người mới thực hành thiền định, muốn sanh thiền định, nên tìm bậc thiện tri thức thù thắng. Vì sao? Vì người mới thực hành thiền định muốn sanh thiền định, để đạt định tối thắng, nếu xa lìa bậc thiện tri thức, thì thành không an trú. Như Khế kinh dạy: Tỳ-kheo Hữu Vân bị thối chuyển. Như người một mình đi đến nước xa, không có người chỉ dẫn, tùy ý mình mà đi. Như voi không có móc sắt. Nếu người mới ngồi thiền, thực tập theo sự tu hành, được bậc thiện trí thức dạy dỗ các giáo pháp, khiến tóm thâu tất cả, do được chỉ bày nên trừ bỏ các hoạn nạn, đạt được pháp thiện. Từ lời giảng dạy mà siêng năng thực hành khổ hạnh, để đạt được định tối thắng. Như chủ buôn giàu có, được nhiều người kính quý. Như người hiền thiện. Như cha mẹ thân thuộc. Thiện tri thức như dây trói buộc voi, khiến không còn loạn động. Như người lái xe, điều khiển đi hay dừng. Như người cầm tay lái gặp được con đường tốt. Như vị thầy thuốc trị bịnh hết mọi sự khổ. Như cơn mưa thấm ướt các hạt giống. Như mẹ nuôi con. Như cha dạy con. Như thân cận không khó khăn. Như bạn tốt được lợi ích. Như thầy dạy giới. Tất cả pháp thiện đều nương vào đó mà thành tựu viên mãn.
Do đó, đức Thế Tôn dạy Tôn giả Nan-đà: Tất cả phạm hạnh đều được gọi là bậc thiện tri thức. Thế nên cần tìm người thắng thiện, làm người bạn tốt. Thế nào là bậc thiện tri thức thù thắng? Tức là người thành tựu, hiểu rõ kinh, luật, luận, là sở đắc thành tựu thấu rõ chủng tử nghiệp, chứng đắc thần thông thiện, thấy được Bốn đế. Hai hạng người này đã thành tựu công đức, là bậc cần tìm đến. Nếu người không thành tựu hai loại công đức này, mà thành tựu bảy phần thiện tri thức, thì cũng nên tìm tới. Bảy phần là gì? Đó là đáng kính yêu, đáng tôn trọng, đáng quý mến, có khả năng giảng thuyết, chịu đựng lắng nghe, nói lời sâu xa, không ở nơi chẳng phải nơi trú. Thế nào là đáng kính yêu? Là dựa vào hai loại hành: khéo giảng nói, cùng sống chung, mà tâm an vui, giải thích nghĩa không trở ngại. Đây gọi là đáng kính yêu. Đáng tôn trọng là giới hạnh thanh tịnh, giữ gìn chánh niệm thành tựu, không tham muốn cũng không nói nhiều. Đây gọi là đáng tôn trọng. Đáng quý mến là thành tựu công đức văn tuệ, hiểu biết hành thiền đáng quý mến. Đây gọi là đáng quý mến. Có khả năng giảng thuyết là lời nói của mình làm người đáng kính yêu, đáng tôn trọng, đáng quý mến, có kết quả tư duy như vậy, thì tạo lợi ích cho người. Tôn trọng pháp, nên đối với những sai trái có thể sửa đổi, điều phục, giữ gìn không xả bỏ. Đây gọi là khả năng giảng thuyết. Chịu đựng lắng nghe là có thể hiểu rõ, không bị vướng mắc vào những lời thêu dệt, thông tỏ tất cả, như bậc Hiền Thánh. Đây gọi là chịu đựng lắng nghe. Lời nói sâu xa là thông suốt tất cả chỗ tạo tác. Hoặc phân biệt, về tưởng nhớ nghĩ tác ý, an ổn chấp trước đều do chấp tướng, hoặc khéo giảng thuyết về như pháp không như pháp, phiền não, chấp tướng cho đến khả năng diệt trừ hết thảy. Đây gọi là lời nói sâu xa. Không ở nơi chẳng phải chỗ trú là chỗ ở của dòng họ, quê quán danh tiếng, đó chẳng phải là nơi trú, nên lánh xa. Nếu những nơi thích hợp, việc tu tập khiến được an ổn, là nơi nên trú. Đây gọi là không ở nơi chẳng phải chỗ trú. Do thành tựu bảy phần này nên gọi là thiện tri thức đáng tìm đến.
Hỏi: Thế nào là nên tìm?
Đáp: Nếu biết trú xứ tên... là nơi thành tựu các công đức đáng tôn trọng, nếu có thiền sư, thì cần phải đến vị ấy. Nếu mình không biết chỗ khác, mà bạn biết, thì cần tới gần gũi. Khi đã biết rồi, mà chưa đúng thời như pháp, trình bày những ý mình chưa rõ, ra sức hỏi thăm chỗ ở, dò hỏi để đến đó. Có thiền sư, có chúng hành Thiền, có chúng an trú ở đâu, tại nước nào? Nếu đến chỗ ấy, được công đức gì, hết thảy đều phải tôn quý, cần nên hỏi cặn kẽ như vậy. Người bạn trả lời: Thiền sư tên... chúng hành thiền tên... chúng an trú tên... ở nơi... tại nước... là chúng đáng tôn kính. Khi biết rồi, rất vui mừng, nên tới nơi ấy, gần gũi để tu tập. Sửa sang y phục, đến chỗ Hòa thượng trình thưa chí nguyện ưa thích của mình. Hòa thượng cho phép mình, thì mình nên đến kia gần gũi vị thiền sư. Hòa thượng đã đồng ý, trả lời "Lành thay", thì mình cũng tùy hỷ theo Thiện tri thức ấy. Đây gọi là vị thiện tri thức cùng an trú và tu tập, theo pháp mà tu hành. Nếu chỉ thấy, nghe mà được lợi ích lớn, huống nữa là cùng an trú. Ngươi nên đến đó, đã an trú thì nên cẩn thận chớ buông lung. Nếu chính là bậc thiện tri thức, thì ta cần phải siêng năng tu tập, hoặc chỉ một lát, hoặc tất cả thời gian, gia tăng tín tâm chí thành tôn kính khéo giữ gìn thân, miệng, ý để hiểu rõ mà tu hành, sẽ được thành tựu. Mọi việc đều nương vào vị thầy, chớ sanh tâm khinh lờn. Như thiếu nữ nhỏ ở với cha mẹ chồng, nên sanh tâm hổ thẹn, lắng nghe lời dạy bảo. Nếu thấy đệ tử không có y áo, thuốc thang, thì khi đến đó, nên theo pháp mà lo liệu, giảng dạy giáo pháp, đến việc kinh hành, ngồi thiền đều là pháp thiện. Khi gặp vị ngồi thiền, nên sửa sang y áo ngay ngắn, cung kính đi quanh, đảnh lễ sát chân. Lúc đi giữa đường, hoặc ngoài vườn mà bị bùn dơ, hãy đến chỗ thầy đem các vật như y, bát, dép, tọa cụ... rửa sạch, đặt nơi cao ráo, không để gần nước, giặt rửa không có tiếng, nếu giặt rửa rồi, nên xếp y áo ngay thẳng. Khi đem y Uất-đa-la tăng, y, bát, tọa cụ nên mang trên vai phải. Y Tăng-già-lê cũng mang trên vai phải. Nếu vào chùa tháp, nên cúi đầu nhiễu quanh. Nếu gặp Tỳ-kheo đang ở thì thưa hỏi: Ở đây có người ngồi thiền, không có người mang y phẩn tảo, không có người khất thực, không có luật sư, không có thì ở nơi nào? Đi đến đâu? Nói có thì nên ở, nếu không có người mà có luật sư mình cũng nên ở. Lại không có luật sư mà có vị Thượng tọa nào đó thì cũng nên ở. Nếu vị Thượng tọa đại Tăng đỡ y bát của mình thì không nên để làm. Nếu người nhỏ khác thì cho làm. Nếu không có người nào thì đặt vào một nơi. Nếu thấy vị Thượng tọa thì nên lễ bái sát chân. Nếu Tỳ-kheo cựu trú đang ngồi, cần nước và tẩy rửa thì phải nên như pháp cung cấp. Đến gần vị ấy, nghỉ một tí, rồi đặt bát xuống ở một nơi dễ trông thấy. Thưa hỏi về nội tình của Tăng chúng. Khi mặt trời sắp lặn nên đi kinh hành trong chùa. Nếu thấy luật sư thì cùng thưa hỏi sự nghi ngờ về phạm tội hay không phạm tội. Nếu gặp luận sư thì nên tu tập về tuệ, thưa hỏi về nghiệp Ấm, Giới và Nhập. Nếu thấy người hành đầu đà thích hợp với tuệ thì nên hỏi công đức của hạnh đầu đà. Nếu trú ở đó thì mỗi ngày thường đến để thưa hỏi. Nếu muốn đi nên mang túi ngọa cụ, làm lễ đại Tăng thưa, đi đến nơi nào đấy. Đây là pháp Tỳ-kheo khách thường làm. Đến ở vị thiền sư nào thì phải gần gũi. Vị thiền sư đó tuy nhỏ nhưng mình cũng thay người đỡ lấy y, bát. Pháp thiền sư dù đáng làm và không đáng làm ta cũng không nên mới đến liền bỏ đi, mà trước phải tu tập. Nếu muốn dạy bảo người, trước hết phải biết, học ngồi thiền, sau đó mới thực hành. Xem xét nơi để đặt y bát. Tạm nghỉ phải biết thời để gần gũi cung kính lễ bái thiền sư. Yên lặng một lúc để ngồi thiền. Nếu thiền sư có hỏi chỗ mong cầu nên thưa sự mong muốn của mình. Nếu không hỏi thì không nên thưa. Từ đây trở về sau cung cấp tăm xỉa răng, nước rửa... Cần thỉnh cầu vị thầy y chỉ để tu tập. Nếu đến thời gian khất thực thì tới thưa hỏi vị A-xà-lê đúng như pháp mà hành. Đến giờ thọ thực, nên rửa chân, sắp xếp chỗ ngồi và dâng bát cho vị A-xà-lê. Mình tự lấy bát để ăn. Nên hỏi vị A-xà-lê nhận nhiều hay ít, rồi đặt bình bát mình ngang hàng với đệ tử, tuân giữ những việc như vậy thì không khó khăn. Lúc thọ thực xong, mang bát A-xà-lê rửa. Đến lúc nghỉ phải biết thời gần gũi cung kính lễ bái. Yên lặng một lúc, rồi ngồi thiền. Nếu vị A-xà-lê hỏi thì tùy theo chỗ ưa thích mà thưa trình; nếu không hỏi thì nên lễ bái, xin thỉnh vị A-xà-lê để thưa trình: Từ lâu con muốn thưa hỏi, nếu thầy cho phép tùy ý hỏi. Nếu A-xà-lê cho phép thì nên hỏi tất cả. Nếu không thưa hỏi, lễ bái A-xà-lê thì chọn thời gian thích hợp để nói lý do mà mình đến, nguyện xin A-xà-lê cho phép thưa hỏi. Nếu A-xà-lê đồng ý thì trình bày tất cả chỗ ưa thích của mình. Vị A-xà-lê đồng ý, dạy bảo như pháp thì mình nên tiếp nhận, thọ trì.
Do vậy, đức Thế Tôn nói kệ:
Giữ đúng thời để thân cận người (Thiện tri thức)
Khiến cho tâm không còn kiêu mạn
Theo phạm hạnh thường hộ trì pháp
Ví như cây lặng chẳng gió lay
Theo vậy mà niệm pháp tu hành
Và thích pháp tự vui với pháp
An trú pháp mà phân biệt pháp
Nên nói lời pháp như chân thật
Không nên nói lời che bai pháp,
Và thêu dệt: buồn, vui, giỡn, giận
Cũng chớ buông lung, hờn dỗi, oán hận
Cùng với tham, kiêu mạn, ngu si,
Luyến ái, ô nhiễm và độc ác…
Mọi thứ… đều tu hành điều phục hết.
Hiểu nghĩa, giữ lấy không tự cao
Biết thiện thành thật lời không dối
Vì quyết định biết, nghe ấy thật.
Nếu người như vậy, liền buông lung,
Thì văn tuệ chẳng thể tăng trưởng
Nếu người ấy biết rõ chánh pháp
Thì trời người thảy đều cung kính,
Cung kính rồi thành tựu tín tâm,
Nghe pháp nhiều, có thể hộ pháp.
Khiến chứng pháp đã nghe vốn thích.
Những công đức rõ ràng như thế
Tùy thuận pháp mà thường tu hành,
Sẽ thường sinh hiểu rõ thắng, diệu
Thành tựu người có đủ trí tuệ.
Nếu có vị thầy đạt như thế
Nên theo tu, chẳng thể buông lung!
Bấy giờ nương ở A-xà-lê, vì thường ngày quán sát các hành. Hạnh đó tương ưng hành xứ, nên phải dạy. Hành đó là mười bốn hành. Hành dục, hành sân nhuế, hành si, hành ý, hành giác, hành dục sân nhuế, hành dục si, hành sân si, hạnh đẳng phân, hành tín ý, hành tín giác, hành ý giác, hạnh đẳng phân. Lại nữa, các thứ hành ái kiến mạn v.v… có thể biết. Bởi thế, ý tham dục thì sử, hành, tánh, lạc rõ ràng, không khác ở nghĩa tham dục. Do hành nên thành mười bốn hạng người: Người hành dục, người hành sân, người hành si, người hành tín, người hành ý, người hành giác, người hành dục sân, người hành dục si, người hành sân si, người hạnh đẳng phân, người hành tín ý, người hành tín giác, người hành ý giác, người hạnh đẳng phân. Do đó dục ham muốn, dục sử dục tánh, dục lạc, đây gọi là người hành dục. Dục đó là thường hành dục tăng thượng, đó là hành dục. Như vậy, tất cả phải phân biệt. Bấy giờ mười bốn hạng người ấy, tóm gọn thành bảy hạng người. Như vậy người hành dục, người hành tín thành một người, người hành sân người hành ý thành một người. Người hành si, người hành giác thành một người. Người hành dục sân, người hành tín ý thành một người. Người hành dục si, người hành tín giác thành một người. Người hành sân si, người hành ý giác thành một người, hai người hạnh đẳng phân thành một người.
Hỏi: Tại sao người hành dục, người hành tín thành một?
Đáp: Người hành dục ở chỗ bạn tốt thì tăng trưởng dục hành tín, thân gần công đức vậy. Lại nữa, vì ba hành dục và tín, câu này thành một tướng, với nghĩa là: có ái niệm, tìm công đức và không xả bỏ. Do đó, người dục thì nghĩa về dục, người tín nghĩa về thiện. Người dục thì tìm cầu công đức dục, người tín thì tìm công đức thiện. Người dục thì không xả lấy không khả ái làm tướng; người tín thì không xả lấy khả ái làm tướng. Vì thế cho nên hành dục và hành tín thành một tướng.
Hỏi: Tại sao hạnh giận dữ và hành ý thành một?.
Đáp: Người hành sân ở chỗ bạn thiện thì tăng trưởng sân hành trí, thân gần công đức vậy. Lại nữa, vì ba hành giận dữ và trí thành một tướng. Nghĩa là chẳng phải ái niệm, tìm sân và xả. Bởi thế, người sân chẳng yên nghĩ về ái người trí chẳng yên nghĩ về hành. Người giận dữ tìm giận, người trí tìm lỗi lầm của hành. Người giận an ổn ở hành xả, người trí an ổn ở hành xả. Cho nên người hành sân và người hành ý thành một tướng đồng vậy.
Hỏi: Tại sao người hành si và người hành giác (nhận biết) thành một?
Đáp: Người hành si vì được gặp thiện, thì tăng trưởng si hành giác (nhận biết) thân gần công đức và do tín tuệ chuyển động lìa si cho nên được. Lại nữa, hai hành si giác thành một tướng, là bởi không tự yên định cho nên chuyển động. Do đó, si lúc yên lúc loạn nên không an, nhận biết lại nhớ nghĩ các loại nhận biết nên thành không an. Si không chỗ nào hướng đến, trở thành động; nhận biết nhẹ yếu nên thành động. Cho nên hành si và hành giác thành một tướng đồng vậy. Do phương tiện này nên các hạnh khác phải phân biệt. Như vậy, đây thành bảy người. Đối với bảy người này thế nào là tu hành nhanh, tu hành chậm? Người hành dục tu hành nhanh. Vì yên định có thể giáo hóa, vì tín lực vì ngu si, nhận biết yếu. Người hành sân tu hành nhanh vì yên định có thể giáo hóa, vì có lực của ý thức vì ngu si, nhận biết yếu. Người hành si tu hành chậm. Vì khó giáo hóa, vì có lực của ngu si, nhận biết và đức tin yếu. Người hành dục sân tu hành nhanh. Vì yên định có thể giáo hóa, có lực tín ý và ngu si nhận biết yếu. Người hành dục si tu hành chậm. Vì khó giáo hóa, chẳng vững tin, lực ngu si, nhận biết mạnh. Người hành sân si, tu hành chậm. Vì khó giáo hóa vì chẳng an ý, lực ngu si, nhận biết mạnh. Người hành đẳng phần tu hành chậm. Vì khó giáo hóa, ý chẳng yên định, lực ngu si, nhận biết mạnh.
Bấy giờ, bảy người ấy, do phiền não gốc nên thành ba: người hành dục. người hành sân nhuế, người hành si. Hỏi: Ba hạnh này do nhân duyên gì và làm sao có thể biết đây là người hành dục đây là người hành sân và đây là người hành si? Thọ nhận y phục, khất thực, oai nghi ngồi nằm đi đứng tại sao là hành?
Đáp: Vì đó là, nhân duyên đầu tiên tạo ra, các hành giới làm nhân duyên, lỗi lầm làm nhân duyên. Thế nào là các hành nhân duyên đầu tiên tạo ra? Vì phương tiện đầu tiên rất khả ái, do nhiều nghiệp thiện hình thành người hành dục. Lại từ thiên đường đọa sinh ở đây, phần nhiều khởi nghiệp sát hại gông cùm oán hận, hình thành người hành sân, do nghiệp chẳng thương yêu che lấp. Lại từ địa ngục, từ loài rồng sinh, đọa lạc sinh đây. Mới đầu uống nhiều rượu, ly gián, hình thành người hành si. Cũng như từ súc sinh đọa lạc sinh đây. Hành như vậy là do nhân duyên ban đầu tạo nên. Thế nào là giới làm nhân duyên? Vì hai giới rất gần nên hình thành người hành si, như là địa giới thủy giới. Vì hai giới rất gần nên hình thành người hành sân, như là hỏa giới phong giới. Vì bốn giới ngang nhau, nên hình thành người hành dục. Các hạnh giới như vậy làm nhân duyên. Thế nào là lỗi lầm làm nhân duyên? Đạm chứa nhiều hình thành người hành dục, mất nhiều hình thành người hành sân, hơi gió nhiều hình thành người hành si. Lại có thuyết nói nhiều đạm chất hình thành người hành si, nhiều hơi gió hình thành người hành dục. Như vậy làm lỗi lầm nhân duyên. Làm sao có thể biết người này hành dục, người này hành sân, người này hành si? Đáp: Vì do bảy loại hiện hành nên có thể biết. Như vì sự, vì phiền não, vì hành (động) vì thọ thủ, vì thực vì nghiệp, và nằm. Thế nào là vì sự mà có thể biết? Người hành dục thấy các sự việc hiện có, hoặc chưa thấy, thường thấy, mà thấy đã thấy rồi thì luôn xem xét mà chẳng tác ý về công đức và tai họa của nó, lại đối với chút ít công đức thành tựu chẳng là trở ngại chẳng từ đây muốn giải thoát. Lại đã quán xét rồi thì chẳng thể có xả, biến hành. Có thể biết các sự khác, các hành như thế, là người này hành dục. Người hành sân là, thấy các sự việc hiện có như vậy, ví như mỏi mệt không thể chịu đựng lâu, thuận theo đó chấp giữ lỗi lầm, phần nhiều nói xấu người, đối với nhiều công đức đều là trở ngại; từ đây không xả bỏ, chỉ do lỗi lầm mà được thuận tiện. Có thể biết các sự khác hiện hành cũng như vậy, tức là người này hành sân. Người hành si khi thấy các sự việc hiện có như vậy thì, đối với công đức lỗi lầm, đều tin kẻ khác, nghe người khác nói nhỏ cũng tin là nhỏ, nghe người khác khen ngợi cũng tin khen ngợi, tự mình chẳng biết. Vì hiện hạnh ra các việc bên ngoài, như vậy, nên biết người này hành si mê.
Hỏi: Thế nào là do phiền não mà có thể biết?
Đáp: Người hành dục có năm phiền não, phần nhiều hành ganh ghét, bỏn xẻn, huyễn hoặc, dối nịnh, ham muốn. Đấy gọi là năm. Người hạnh giận dữ có năm phiền não: phần nhiều hành phẩn, hận, phú, não, sân, đây gọi là năm. Người hành si có năm phiền não: Phần nhiều hành trễ nải, lười biếng, nghi ngờ, hối hận vô minh. Đó là năm. Như vậy, do phiền não mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào do hành?.
Đáp: Người hành dục thấy hạnh động cho là tánh. Như giở bàn chân đi nhanh, đều giở bàn chân đều đặt xuống không dang rộng giở bước đi khả ái. Như vậy, là người hành dục có thể biết. Người hạnh giận dữ thấy hành động là tánh. Như giở chân, gấp đặt xuống gấp, chỉ nửa bàn chân chấm đất là bước đi ngay. Người hạnh hành giận dữ có thể biết. Người hành si thấy hành động đông là tánh. Như giở chân lên đi kéo lệch bệch mặt đất, chân chạm chân mà bước đi. Vì hành động như vậy nên biết là người hành si. Như vậy, vì hành động là tánh mà có thể biết người ấy hành gì.
Hỏi: Tại sao mặc y cho là người hành dục?.
Đáp: Người hành dục nếu cầm áo mặc, biết tánh người ấy. Như mặc áo không thấy nhiều không rộng, vừa vặn ngay thẳng, thật khả ái, vừa mắt nhìn. Người hành sân mặc áo thì biết tánh, người ấy. Nghĩa là mặc áo vội vàng, áo không thẳng không bao thân không hoàn chỉnh mọi thứ không khả ái, không vừa mắt nhìn. Người hành si mặc áo thì biết tánh người ấy. Nghĩa là, phần nhiều rộng chẳng khắp, chẳng chánh ngay ngắn, hoàn chỉnh, mọi thứ không khả ái, không vừa mắt nhìn. Như vậy, do mặc áo mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào vì ăn mà có thể biết?
Đáp: Người hành dục ưa thích béo ngọt, người hạnh giận dữ ưa thích thù tạc, người hành sân ưa thích chẳng định. Lại nữa, người hành dục khi ăn, tự lượng tương ưng vừa chừng, cũng biết chất ngon, không ăn nhanh vội, nếu được chút ngon thì rất vui. Người hành sân thấy món ăn, phân nhiều lấy thức ăn từng nắm đưa vào đầy miệng mà ăn, nếu được vị ngon ít quá thì nổi giận. Người hành si thấy món ăn, chẳng viên từng nắm nhỏ để ăn, không vừa ý, lấy ít để ăn thức ăn dính vành miệng, đưa nửa nắm cơm vô miệng, một nửa rơi vào mâm, loạn tâm không tư duy mà ăn. Như vậy do ăn mà có thể biết hành gì.
Hỏi: Tại sao vì sự mà có thể biết? Người hành dục quét đất, thân ngay thẳng cầm chổi quét chẳng nhanh vội, không biết đến đất cát mà có thể làm sạch sẽ. Người hành sân nếu quét đất, thì vội vã cầm chổi quét lia lịa ra hai bên hết đất cát, tiếng chổi gấp gáp dù sạch nhưng không đều hết. Người hành si nếu quét đất, thư thả cầm chổi quét, lần lượt xem đến hết chỗ này đến chỗ khác mà cũng chẳng sạch đều. Nhu vậy, giặt dũ, nhuộm may vá v.v... cũng như vậy. Đối với tất cả sự việc, mà tạo tác quan bình chẳng giữ tâm, đó là người hành dục. Đối với tát cả sự việc mà tạo tác chẳng quân bình, chẳng giữ tâm, đó là người hành sân. Người hành si tâm rối loạn tạo tác nhiều mà chẳng thành. Như vậy cho nên do sự mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào vì nằm ngồi mà có thể biết?
Đáp: Người hành dục ngủ chẳng nhanh vội, trước lúc ngủ sắp đặt nơi ngủ khiến trên dưới đều ngay ngắn bình đẳng, an ổn đặt thân co tay ngủ, nửa đêm có ai kêu liền dậy ngay, như họ có điều nghi, liền đáp. Người hành sân nếu ngủ thì vội nhanh, tùy chỗ được yên đặt thân, mặt mắt buồn rười rượi, nửa đêm nếu có ai kêu liền dậy trả lời với sự giận dỗi. Người si nếu ngủ, thì nằm nơi không ngay ngắn trên dưới, buông tay chân úp thân mà nằm, nửa đêm nếu có người gọi, miệng ậm ừ hồi lâu mới đáp. Như vậy cho nên do ngủ mà có thể biết.
Hỏi: Hành gì pháp gì thọ dụng y phục, khất thực, ngồi nằm đi ở?.
Đáp: Người hành dục mặc y thô mà không phải màu xấu đáng ghét, là áo của họ đang mặc. Người hành sân mặc áo tinh tế áo sạch sẽ sắc kém đáng yêu, họ mặc như vậy. Người hành si mặc y ai cho sao mặc vậy. Người hành dục khất thực thô, chẳng sạch sẽ, không biết vị ngon, ít khất thực. Người hành sân khất thực ưa béo ngon sạch sẽ, mùi vị thơm ngon được toại ý. Người hành si khất thực tùy được bao nhiêu cũng đủ. Người hành dục nằm ngồi nơi bóng cây bờ nước, nơi xa xóm làng nơi chưa thành chùa, không có ngọa cụ thì ngủ ngồi như vậy. Người hành sân ngồi nằm dưới bóng cây cạnh bờ nước, hoặc kiếm nơi bằng phẳng, nơi có chùa, ngọa cụ đã có, nơi nằm ngồi đầy đủ cả. Người hành si nương thầy thân gần thầy mà ở. Người hành dục đi ở nơi ăn uống cơm nước thô thiển, nếu vào xóm làng theo hướng mặt trời mà đi, nơi người ác ở, vẫn đi qua. Người hạnh hành giận dữ thì việc ăn uống cơm nước đầy đủ, coi chừng giờ giấc vào làng cho mau, phần nhiều tin tưởng đi tới chỗ đông người ở. Họ đi vào đó. Người hành si ở đâu cũng được. Người hành dục sống với oai nghi phần nhiều hành cước (đi đâu đó). Người hành sân dựa vào ngồi nằm. Người hành si chỗ đi, ở phân tán vô định. Người hành dục là dựa vào cảnh giới đáng yêu làm tin. Người hành sân dựa vào cảnh giới chẳng đáng yêu làm tin. Người hành si chẳng quán xét làm nhân. Dục như đầy tớ, giận dữ như ông chủ, si như chất độc. Tham thì lỗi lầm ít nên đoạn không nhiễm, giận dữ thì lỗi lầm lớn, nên khiến không nhiễm. Si thì lỗi lầm lớn, nên đoạn, không nhiễm, người hành dục ưa sắc. Người hành sân ưa cãi vã, người hành si ưa biếng lười.
Khi ấy y chỉ sư quán xét việc mà đệ tử đã làm mới, trao cho ba mươi tám hạnh. Lại phải chỉ dạy khiến hai hạnh tương ưng.
Hỏi: Những gì là ba mươi tám hành xứ?. (Ba mươi tám lĩnh vực thực hành)
Đáp: Đó là mười Nhất thiết nhập: địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng, Không xứ, và Thức xứ. Lại có mười tưởng bất tịnh (là nghĩ đến mười điều không sạch): nghĩ đến thây ma sình trướng, nghĩ đến xanh bầm, nghĩ đến thối rữa, nghĩ đến ném bỏ ở bãi tha ma, nghĩ đến chim thú gặm ăn, nghĩ đến thân thịt vung vãi, nghĩ đến bị chặt chẻ phân lìa rải rác, nghĩ đến máu đỏ nhuộm thấm, nghĩ đến trùng rúc, nghĩ đến xương trơ trụi. Lại có mười niệm (nghĩ đến) là: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm giới, niệm thí, niệm Thiên, niệm chết, niệm thân, niệm đếm hơi thở, niệm tịch tịch. Lại có bốn vô lượng tâm: Từ bi hỷ xả, quán bốn đại tưởng thực bất tịnh, vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ, đó là ba mươi tám hành xứ. Ba mươi tám hành xứ này, do chín hành nên biết là tối thắng:
1. Do thiền
2. Do chánh vượt
3. Do tăng trưởng
4. Do duyên
5. Do sự
6. Do thắng
7. Do địa
8. Do thủ
9. Do nhân.
Hỏi: Thiền là gì?
Đáp: Đó là mười hành xứ thành hạnh ngoài thiền. Lại có mười một hành xứ thành tựu Sơ thiền. Lại có ba hành xứ thành tựu ba thiền. Lại có một hành xứ thành tựu Tứ thiền. Lại có chín hành xứ thành tựu Tứ thiền ngũ thiền. Lại có bốn hành xứ thành tựu bốn thiền vô sắc.
Hỏi: Mười hành xứ thành tựu hạnh ngoài thiền là gì? Đáp: Trừ đếm hơi thở và quán thân, còn lại tám niệm và quán bốn đại tưởng thực bất tịnh, đó gọi là mười hạnh ngoài.
Hỏi: Mười một hành xứ thuộc Sơ thiền là gì?
Đáp: Mười tưởng bất tịnh và quán thân, đó gọi là thuộc vào Sơ thiền.
Hỏi: Ba hành xứ nào thuộc ba thiền?
Đáp: Đó là từ bi hỷ.
Hỏi: Một hành xứ nào thuộc Tứ thiền?
Đáp: Đó là xả.
Hỏi: Chín hành xứ nào thuộc Tứ thiền Ngũ thiền?
Đáp: Trừ Không Nhất thiết nhập, Thức Nhất thiết nhập, ngoài ra còn tám Nhất thiết nhập và niệm đếm hơi thở.
Hỏi: Bốn hành xứ nào thuộc bốn vô sắc?
Đáp: Hư không Nhất thiết nhập, Thức Nhất thiết nhập, Vô sở hữu xứ, phi phi tưởng xứ, đó gọi là bốn hành. Như vậy dùng thiền có thể biết.
Hỏi: Tại sao do chánh việt?
Đáp: Hành xứ Nhập thành là vượt sắc. Tức là trừ Nhất thiết nhập của Vô sắc, còn lại tám Nhất thiết nhập. Ngoài ra ba mươi hành xứ không thành là vượt Sắc. Lại có ba hành xứ thành là vượt Sự, tức hai Nhất thiết nhập của Vô sắc và vô sở hữu xứ, ba mươi lăm hành xứ còn lại không thành là vượt Sự. Lại có một hành xứ thành là vượt Tưởng Thọ, đó là phi phi tưởng xứ. Ba mươi bảy hành xứ còn lại không thành là vượt Tưởng Thọ. Như vậy, do vượt mà có thể biết.
Hỏi: Tại sao do tăng trưởng?
Đáp: Mười bốn hành xứ có thể làm cho tăng trưởng, đó là mười Nhất thiết nhập và bốn tâm vô lượng. Hai mươi bốn hành xứ còn lại không thể làm cho tăng trưởng. Như vậy, do tăng trưởng mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào là do duyên?
Đáp: Chín hành xứ là duyên thần thông. Tức trừ Nhất thiết nhập của Vô sắc, còn lại tám Nhất thiết nhập và Nhất thiết nhập của phân biệt Hư không xứ. Ba mươi hành xứ còn lại không thành duyên thần thông. Lại nữa, ba mươi bảy hành xứ thành duyên của Tỳ-bà-xá-na (chỉ), trừ phi phi tưởng xứ. Lại có một hành xứ không thành duyên Tỳ-bà-xá-na (Vipassanā), đó là phi phi tưởng xứ. Như vậy do duyên mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào là do sự?
Đáp: Hai mươi mốt hành xứ là sự của phân biệt; mười hai hành xứ là sự của chân thật; năm hành xứ không phải nói là sự của phân biệt hoặc chân thật.
Hỏi: Hai mươi mốt hành xứ là sự của phân biệt là gì?
Đáp: Trừ Thức Nhất thiết nhập, còn chín Nhất thiết nhập, cùng với mười tưởng bất tịnh và niệm đếm hơi thở, niệm thân.
Hỏi: Những gì là mười hai sự của chân thật?
Đáp: Thức Nhất thiết nhập, phi phi tưởng xứ và mười hạnh ngoài thiền.
Hỏi: Tại sao năm hành xứ chẳng nên nói là sự của phân biệt là chân thật?
Đáp: Đó là bốn tâm vô lượng và vô sở hữu xứ. Lại nữa hai hành xứ lo việc bên trong và phụng sự bên trong. Lại có hai hành xứ, lo việc bên trong phụng sự bên ngoài. Lại có một hành xứ, lo việc bên ngoài phụng sự bên trong. Lại hai mươi mốt hành xứ, lo việc bên ngoài và phụng sự bên ngoài. Lại có bốn hành xứ, lo việc bên trong và phụng sự bên trong, bày sự bên ngoài. Lại có bốn hành xứ, bày lo việc bên trong và phụng sự bên ngoài, bày lo việc bên ngoài. Lại hai hành xứ, bày lo việc bên trong, bày lo việc bên ngoài, bày lo việc bên trong bày lo việc bên ngoài. Lại một hành xứ, lo việc bên trong bên ngoài và phụng sự bên trong. Lại một hành xứ, lo việc bên trong, chẳng nên nói và phụng sự bên trong phụng sự bên ngoài. Đối với hai hành xứ, lo việc bên trong và phụng sự bên trong, đó là Thức Nhất thiết nhập và Phi phi tưởng xứ. Lại hai hành xứ, lo việc bên trong và phụng sự bên ngoài, đó gọi là niệm đếm hơi thở và niệm thân. Lại một hành xứ, lo việc bên ngoài và phụng sự bên trong, đó gọi là niệm chết. Lại hai mươi mốt hành xứ, lo việc bên ngoài và phụng sự bên ngoài, đó là mười tưởng bất tịnh, bốn tâm vô lượng, bốn Sắc Nhất thiết nhập, Hư không Nhất thiết nhập, và niệm Phật niệm Tăng. Lại bốn hành xứ, lo việc bên trong và phụng sự bên ngoài, đó gọi là niệm Giới niệm Thí, quán ở bốn đại, và tưởng bất tịnh thực. Lại bốn hành xứ, bày lo việc bên trong bày lo việc bên ngoài nói sự bên ngoài, đó là bốn Sắc Nhất thiết nhập. Lại hai hành xứ bày lo việc bên trong, bày lo việc bên ngoài, bày phụng sự bên trong, bày phụng sự bên ngoài, đó gọi là niệm Pháp và niệm Tịch tịch. Lại một hành xứ, lo việc bên trong và phụng sự bên trong, đó là niệm Thiên. Lại một hành xứ lo việc bên trong, phụng sự bên trong phụng sự bên ngoài, chẳng nên nói, đó gọi là Vô sở hữu xứ. Lại hai hành xứ phụng sự quá khứ, đó là Thức Nhất thiết nhập và Phi phi tưởng xứ. Lại một hành xứ, lo việc bên trong, phụng sự bên trong phụng sự bên ngoài chẳng nên nói, đó gọi là vô sở hữu xứ. Lại hai hành xứ, phụng sự quá khứ, đó gọi là Thức Nhất thiết nhập, và Phi phi tưởng xứ. Lại một hành xứ phụng sự vị lai, đó là nghĩ về sự chết. Lại một hành xứ, ở phụng sự hiện tại, là niệm Thiên. Lại sáu hành xứ, bày phụng sự quá khứ, bày phụng sự vị lai, bày phụng sự hiện tại, đó là niệm Phật, niệm Tăng niệm Giới niệm Thí và quán bốn đại, tưởng bất tịnh thực. Lại hai hành xứ, bày phụng sự quá khứ, bày phụng sự hiện tại, bày chẳng nên nói, quá khứ và vị lai, đó gọi là niệm Pháp và niệm Tịch tịch. Lại hai mươi sáu hành xứ chẳng nên nói phụng sự ba đời, đó là chín Nhất thiết nhập, mười tưởng bất tịnh, bốn tâm vô lượng, và niệm đếm hơi thở, niệm thân, vô sở hữu xứ. Lại bốn hành xứ động sự, đó là Hỏa Nhất thiết nhập, Phong Nhất thiết nhập, và tưởng trùng rúc, niệm đếm hơi thở, xứ đó thì động, tướng đó chẳng động, còn lại ba mươi bốn sự chẳng động. Như vậy, do sự mà có thể biết.
Hỏi: Thế nào là do thắng?
Đáp: Tám Nhất thiết nhập, bốn định vô sắc, đó gọi là sự chân thật thù thắng, vì tám Nhất thiết nhập gọi là định thù thắng, Thiền thứ tư kia đắc cảnh địa thù thắng. Bốn định vô sắc là thành tựu thù thắng. Mười tưởng bất tịnh và tưởng thực bất tịnh, gọi là tưởng nghĩ thù thắng. Vì sắc vì hình, vì không vì phương vì phân biệt vì hòa hợp, vì chấp trước vậy, vì sự tưởng bất tịnh, vì mười niệm xứ, cho nên gọi là niệm thù thắng. Vì vi tế, vì tùy niệm, vì bốn vô lượng tâm do không có lỗi là thù thắng. Vì thọ làm lợi ích cho nên quán bốn đại, đó gọi là tuệ thù thắng; vì chấp trước rỗng Không. Như vậy do thù thắng mà có thể biết.
Hỏi: Tại sao do địa?
Đáp: Mười hai hành xứ, không sinh trên trời, đó là mười bất tịnh và niệm thân tưởng thực bất tịnh. Lại mười ba hành xứ không sinh ở Sắc hữu, mười hai hành đầu tiên và niệm đếm hơi thở không sinh Sắc hữu. Trừ bốn xứ Vô sắc, các hành xứ còn lại không sinh ở Vô sắc hữu. Như vậy, do cảnh địa mà có thể biết.
Hỏi: Tại sao do giữ lấy (thủ)?
Đáp: Đó là mười bảy hành xứ, vì thấy nên giữ lấy tướng, trừ Phong Nhất thiết nhập và vô sắc Nhất thiết nhập, còn bảy Nhất thiết nhập, và mười tưởng bất tịnh. Lại một hành xứ, do xúc nên giữ lấy tướng, đó là niệm đếm hơi thở. Lại một hành xứ, hoặc do thấy hoặc do xúc nên giữ lấy, đó là Phong Nhất thiết nhập, còn mười chín hành xứ, do văn (nghe) phân biệt nên giữ lấy. Lại năm hành xứ, người mới tọa thiền không nên tu hành đó là bốn vô sắc và xả, ba mươi ba hành xứ còn lại người mới học thiền nên giữ lấy. Như vậy do bám lấy giữ lấy mà có thể biết.
Hỏi: Tại sao do người?
Đáp: Người hành dục thì bốn vô lượng tâm chẳng nên tu hành, vì tướng tịnh vậy. Tại sao? Người hành dục nảy ý tưởng tịnh, không phải điều họ làm. Như người bệnh đàm, phần nhiều ăn chất béo ngon, là điều không nên. Người hành sân, chẳng nên tu hành mười tưởng bất tịnh, vì họ nghĩ đến giận dữ, nên nảy ý giận dữ không phải điều mà họ làm được. Như người bệnh bịnh đàm, cho họ ăn uống đồ nóng sôi là không nên. Người hành si chưa tăng trưởng trí tuệ, chẳng nên khiến khởi tu hành, lìa phương tiện. Vì nếu lìa phương tiện thì tinh tấn đó không kết quả, như người cưỡi voi không móc câu. Người hành dục nên tu tưởng bất tịnh và quán thân, pháp đó đối trị dục. Người hành sân, nên tu bốn tâm vô lượng, vì nó đối trị sân, hoặc phải tu Sắc Nhất thiết nhập theo đuổi tâm vậy. Người hành tín phải tu sáu niệm xứ, niệm Phật là tín định đầu tiên. Người hành ý phải tu quán bốn đại, đối với tưởng thực bất tịnh, niệm chết niệm tịch tịch sâu dày vậy. Lại nữa người hành ý đối với tất cả hành xứ không ngại gì cả. Người hành giác (nhận biết) phải tu niệm đếm hơi thở để quyết đoán nhận biết. Người hành si dùng lời hỏi pháp, dùng thời nghe pháp, dùng cung kính pháp, cùng thầy chung ở, giúp trí tăng trưởng.
Ba mươi tám hành này tùy sự ưa thích, nên phải tu nghĩ về cái chết, và quán bốn đại tối thắng. Lại nói đối với phân biệt hành xứ ngã kiến thì quán này cao vượt, sáu hạng người, sáu sự phân biệt rút gọn thành ba.
Hỏi: Nếu vậy ở sự khởi đầu có trở ngại gì chăng?
Đáp: Hai người hành dục, đó là độn căn và lợi căn. Người hành dục độn căn tu quán bất tịnh, là đối trị dục, là điều phải dạy cho họ làm, tu được trừ dục. Người hành dục lợi căn, mới đầu tín tăng trưởng, phải tu niệm xứ, là điều phải dạy cho họ làm, tu được trừ dục. Hai người hành sân, đó là độn căn và lợi căn. Người hạnh giận dữ độn căn tu bốn vô lượng, để đối trị giận dữ, là điều phải dạy cho họ làm, tu được trừ sân. Người hành sân lợi căn, dùng trí tăng trưởng, tu hạnh thắng xứ, là điều dạy cho họ làm tu được trừ sân. Hai người hành si đó là không căn và độn căn. Người hành si không căn không nên dạy tu hành xứ, người hành si độn căn, vì trừ giác nên dạy tu niệm đếm hơi thở. Như vậy rút gọn chỉ thành ba hạng người, không trở ngại gì. Bởi thế Pháp Nhất thiết pháp nhập và đếm hơi thở vì "không" tăng trưởng, nên không trở ngại thành tựu tất cả hành. Nếu đã được công đức thù thắng thì tất cả hành đều là thù thắng. Cho nên thành tựu không trở ngại gì cả.
Hỏi: Thế nào là Địa Nhất thiết nhập? Tu gì tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Nhất thiết nhập nghĩa là gì? Bao nhiêu chủng địa? Địa nào giữ lấy tướng? Tại sao làm pháp Mạn-đà-la? Tu pháp địa nào?
Đáp: Tâm này dựa tướng địa mà sinh, đây gọi là Địa Nhất thiết nhập. Tâm chẳng loạn an trú, đó gọi là tu. Hoàn toàn ưa thích bám vào tương địa là tướng. Không xả là vị. Ý không nghĩ khác là xứ. Công đức gì? Có mười hai công đức, từ Địa Nhất thiết nhập, là tướng dễ được, vào mọi lúc, ở tất cả hành, tâm hành không ngại, như ý thần thông, đạp trên nước đi qua hư không như đi trên đất, nhận và phân biệt mọi thứ sắc, niệm đầu phân biệt túc mạng và phân biệt lãnh vực thiên nhĩ, tùy hành cõi thiện cam-lồ là biên vực.
Hỏi: Nhất thiết nhập nghĩa gì?
Đáp: Đó là khắp cùng Nhất thiết nhập, như Phật có kệ tụng nói rằng:
Nhớ ân đức của Phật
Sinh mừng tràn ngập thân.
Quán Địa Nhất thiết nhập.
Khắp đầy Diêm-phù-đề.
Quán đây duyên địa sinh.
Tâm mừng cũng như vậy".
Tu quán như vậy thấy Mạn-đà-la khắp cùng Nhất thiết nhập.
Hỏi: Địa có bao nhiêu thứ? Địa nào giữ lấy tướng có thể tu?
Đáp: Địa có hai thứ đó là: Địa tự tướng và địa tạo tác. Cứng chắc là giới địa thuộc tự tướng, đó gọi là địa tự tướng. Nếu tự tay đào xới, hoặc bảo người đào xới, là do tạo tác thành, đó gọi là địa tạo tác, hoặc thành bốn thứ sắc, đó là trắng đen đỏ và như sắc sáng. Do đó người tọa thiền không nên tác ý về địa tự tướng, nên trừ trắng đen đỏ, Tại sao? Nếu quán địa tự tướng, thì từ đây không khởi phần tướng kia, nếu giữ lấy sắc trắng, đen, đỏ, thì trở thành tu Sắc Nhất thiết nhập, Tại sao? Quán địa tự tướng lìa trắng đen đỏ, nếu nảy ý hoặc không nảy ý vẫn giữ lấy tướng đó, như tướng sáng hiện lên phải giữ tướng đó.
Hỏi: Địa chẳng tạo tác là gì?
Đáp: Nơi nơi bằng phẳng, lìa nơi cỏ đá, không có những gốc cây trơ cành. Đối cảnh trước mắt đó nên khiến khởi tâm, đó gọi là tưởng địa, đó gọi là địa chẳng tạo tác. Nếu tọa thiền mãi lâu tùy theo vui hay không vui liền thấy tướng của địa phần kia vững trụ không suy sụp. Người mới học thiền lấy tướng địa kia làm Mạn-đà-la không quán địa không phải tạo tác.
Hỏi: Thế nào là làm Mạn-đà-la?.
Đáp: Nếu người tọa thiền muốn làm Mạn-đà-la dưới đất thì ban đầu xem nơi yên tĩnh, hoặc chùa hay hang đá hoặc dưới gốc cây, chẳng ở nơi tối tăm không ánh sáng mặt trời đường phi nhân đi, những nơi như vậy đều xa một tầm, rưới quét sạch sẽ, phải làm cho khô ráo. Nơi ấy phải sáng như khi mặt trời mọc, màu đất cũng làm cho đất phát sáng lên. Suy xét thích hợp, oai nghi cung kính. Lấy đồ đựng nước trộn đất, giẫy cỏ gai quét trừ mọi nhơ bẩn cây cối cản trở. Lấy y lụa lọc lược bùn đục, nơi đất sạch sẽ, che nơi ngồi, ngăn dứt ánh sáng, đặt yên thiền tòa, chẳng gần chẳng xa, dùng khuôn làm đất tròn, bên trong khối tròn đó bằng láng không có lồi lõm. Sau đó lấy bùn non một màu duy nhất phết lên, đặt vào nơi đất trống sạch. Nếu chưa phơi khô, thì phải lấy đồ che chắn bảo vệ cho đến lúc khô ráo, lấy đồ ngăn làm ranh giới bên ngoài với màu sắc khác như cái sàng gạo to, hoặc treo thanh la lớn hoặc vuông hay tròn hoặc ba hoặc bốn góc xung quanh đó cho cách biệt ra. Đức Bổn sư nói tốt nhất là làm Mạn-đà-la tròn. Hoặc trên áo. trên bảng, hoặc trên vách đều làm Mạn-đà-la được cả nhưng trên đất là tốt nhất. Tiên sư đã bảo như vậy.
Hỏi: Tại sao tu pháp địa?.
Đáp: Nếu người tọa thiền muốn tu Địa Nhất thiết nhập, từ ban đầu phải quán lỗi lầm dục, lại nên quán công đức xa lìa.
Hỏi: Vì sao phải quán lỗi lầm của dục?
Đáp: Dục là ít vị ngon mà nhiều ưu khổ, bởi thế sống nhiều lỗi lầm. Dục như khúc xương có chút vị ngon, dục như khối thịt bị nhiều thứ bu vào, dục như cầm đuốc đi ngược gió, bị cháy thôi, dục như than lửa lớn nhỏ phủ tro. dục như chiêm bao chợt thức dậy không có gì. Dục như đồ mượn không giữ lâu được, dục như trái trên cây bị người ta chặt gãy xuống, dục như dao dùng chặt phá vậy, dục như bàn cờ dùng đánh cờ. Dục như rắn độc, đáng kinh sợ vậy. Dục như gió thổi vải không thể gìn giữ vậy. Dục như huyễn, hoặc gạt gẫm người ngu si. Dục là tối tăm, không thấy được gì. Dục là đường chướng ngại, cản trở các thiện pháp. Dục là si mê mất chánh niệm, Dục như lửa nóng để đốt cháy, Dục là tướng gông trói buộc cứng vậy, Dục là kẻ trộm vật công đức, Dục là kẻ thù nổi lên cãi lẩy, Dục là khổ, tạo các lỗi lầm. Như vậy, đã quán lỗi lầm của dục, nên quán công đức của việc xa lìa. Nói xa lìa, nghĩa là Sơ thiền từ mới đầu xuất gia, tu các thiện, đó gọi là xuất ly.
Hỏi: Thế nào là công đức của hạnh xuất ly?
Đáp: Tâm tự tại an trú trong nguồn vui vắng lặng, chịu đựng khổ vui, an trú không mất chánh niệm, rộng giúp mọi sự được quả địa lớn, kham nhận mọi cung dưỡng. Hai nơi làm lợi ích, là nơi đại trí tuệ, nơi tất cả thiện, gọi là vượt ba cõi. Lại nữa, nói xa lìa là nói kẻ kia xa lìa dâm dục, là tịch tịch hết mọi sự ngăn che, là vui không cấu, nhiễm là sống trong địa tối thắng, là đạo vì đắc tối thắng, là làm thanh tịnh tâm nhơ. Đây là công đức tu hành tạo nên, là niềm vui tu hành bên trong, Dục là thô, lìa ra là thắng diệu, Dục là có phiền não, xa lìa là không phiền não, Dục là thấp kém, xa lìa là cao thượng, Dục là có giận dữ, xa lìa là không giận dữ. Dục là quả không đáng yêu, xa lìa là quả đáng yêu. Dục là có sợ hãi, xa lìa thì không khiếp sợ. Như vậy, đã quán lỗi lầm dâm dục và quán công đức xa lìa. Nương sự xa lìa sinh dục lạc, tâm sinh tín sinh cung kính quán xét điều có thể làm, hay không nên làm, ăn uống chừng mực, đặt yên y bát, thân chẳng biếng mệt, tâm không trì trệ, nên bước đi ngắn. Bước đi xong ngồi rửa tay chân, nên niệm Phật Bồ Đề, niệm Pháp niệm Tăng, tu niệm hạnh thiện rồi, phải khiến hoan hỷ, ta có thể được đầy đủ như thế, nếu ta không được xuất ly thì lại chẳng an ổn tinh tấn lâu dài. Vì thế cho nên phải khởi dõng mãnh, cách Mạn-đà-la không xa không gần, như tầm nhìn xa biết cái ách, đặt yên tọa cụ, đối mặt Mạn-đà-la ngồi kiết già, khiến thân bằng thẳng, trong tâm khởi niệm, nhắm mắt giây lát, cho thân tâm hết loạn, gom cả thảy tâm thành một tâm, hé mở mắt nhỏ lờ mờ khiến quán Mạn-đà-la. Người tọa thiền kia hiện quán hình Mạn-đà-la, dùng ba hành giữ lấy tướng, là dùng đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn.
Hỏi: Tại sao dùng đẳng quán? Đáp: Người tọa thiền hiện quán Man-đà-la, không phải mở mắt to không phải nhắm nghiền mắt, phải quán như vậy. Tại sao? Nếu mở mắt lớn, thì mắt thành nhọc, tự tánh Mạn-đà-la hiện thấy tự tánh, người ấy không khởi tưởng lên được. Nếu nhắm mắt thì thấy Mạn-đà-la tối đen. Do không thấy tướng Mạn-đà-la nên sinh biếng lười, cho nên, nên đừng mở mắt to hay nhắm mắt, chỉ chuyên tâm trú vào Mạn-đàla, vì tâm trú nên phải quán như người đứng trước gương sáng dòm vào thấy mặt mình, nương gương thấy mặt, mặt từ gương sinh, người tọa thiền kia nhìn Mạn-đà-la, thấy tướng định đó nương Mạn-đà-la khởi, cho nên phải quán đẳng quán giữ lấy tướng, làm tâm trú vậy. Như vậy dùng đẳng quán giữ lấy tướng.
Hỏi: Tại sao dùng phương tiện?
Đáp: Đó là bốn phương tiện tác ý: Một là cách bên trong. Hai là mãn phương; Ba là chuyển; bốn là biến mãn. Khi ấy thấy tướng tan ra không ngăn cách, phải tác ý có ngăn cách bên trong. Rồi thấy tướng Mạn-đà-la nhỏ, hoặc thấy phân nửa. Sau khi khiến đầy Mạn-đà-la rồi, mới khởi ý nó đầy. Lúc ấy tâm tán loạn và biếng lười, phải thúc gấp lên như thợ đồ gốm quay bánh xe, nếu tâm đã trụ, thì khiến cho nó thấy Mạn-đà-la đầy khắp không thiếu, phải quán xả, như vậy dùng phương tiện có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng lìa loạn?.
Đáp: Lìa loạn có bốn thứ: Một nhanh chóng khởi tinh tấn; hai là chậm khởi tinh tấn; ba rất cao; bốn rất thấp.
Hỏi: Thế nào là nhanh chóng khởi tinh tấn?
Đáp: Là gấp tác ý không đợi thời tiết, sáng ngồi chiều nghỉ, cho đến thân nhọc, đó gọi là nhanh chóng khởi.
Hỏi: Thế nào là chậm khởi Tinh tấn?
Đáp: Là lìa phương tiện tác ý, tuy thấy Mạn-đà-la mà không cung kính tác ý, nhiều lần thức ngủ, nếu khởi tinh tấn nhanh, thì thành thân biếng lười tâm thối lui, tâm theo duyên bên ngoài, khởi các thứ trạo cử. Nếu khởi tinh tấn chậm, thì thân tâm thành biếng lười, bắt đầu ngủ gục. Rất cao là, tâm thối lùi, khởi lên trạo cử rối loạn, không thấy vui với việc mình. Nếu không vui thì bắt đầu cười giỡn nói năng, do đó tâm dục thành cao. Lại nữa, nếu được các tướng hành, thì do mừng vui mà tâm dục thành cao. Rất thấp là, duyên với trạo cử, thối lui, đối với việc làm không thấy vui. Nếu không vui với việc làm ban đầu thì sinh ra giận. Do giận dữ tâm xuống thấp. Lại nữa, giác quán lâu thì mệt nhọc từ cao vượt, tâm rơi xuống thoái lui. Do buồn rầu tâm thành thấp. Người tọa thiền nầy, nếu tâm lui sụt mau rơi vào trạo cử thì dùng căn niệm, căn định nhiếp phục khiến bỏ trạo cử. Nếu tâm lui sụt rơi mau vào lĩnh vực biếng nhác thì, dùng căn niệm, căn tinh tấn nhiếp phục khiến bỏ biếng lười. Nếu người tâm cao rơi xuống lĩnh vực dục thì lấy các biết ngay đây xua đuổi dục. Nếu người tâm xuống thấp lùi rơi vào giận dữ thì lấy cái biết ngay đây xua đuổi giận dữ. Đối với bốn xứ này thành tâm thanh tịnh, thành tâm chuyên nhất. Đây nói rõ nhân ba hành tâm định thành tùy ý được thấy hình Mạn-đà-la, nếu tưởng tâm chuyên nhất thì thành. Khởi danh tướng, có hai thứ, đó là giữ tướng, và bỉ phần tướng. Thế nào, gọi là giữ tướng? Nếu người tọa thiền dùng tâm không phân tán hiện quán Mạn-đà-la, từ Mạn-đà-la khởi tưởng, như thấy nó trên hư không, hoặc lúc xa hoặc lúc gần, hoặc lúc bên trái hoặc lúc bên phải, hoặc lúc lớn hoặc lúc nhỏ, hoặc lúc xấu hoặc lúc đẹp, hoặc lúc nhiều hoặc lúc ít, không dùng mắt nhìn Mạn-đà-la, mà dùng phương tiện tác ý khởi lên bám lấy tướng, đó gọi là giữ tướng. Từ đó mà cứ khởi lên mãi nên phần tướng kia khởi lên, gọi là bỉ phần tướng. Nếu lúc tác ý tùy tâm tức hiện, thì không phải sau khi thấy Mạn-đà-la rồi sinh tâm nhớ lại, chỉ mống tâm nhắm mắt như trước đã quán. Nếu tác ý xa cũng liền thấy xa. Nếu gần, trái, phải, trước, sau, trong ngoài trên dưới cũng lại như vậy, tùy tâm tức hiện, đây gọi là bỉ phần tướng. Tướng nghĩa là gì? Đó là nghĩa nhân nghĩa tướng, như Phật dạy Tỳ-kheo, các pháp ác bất thiện kia có tướng khởi, đó là nghĩa nhân duyên. Lại nói nghĩa trí nghĩa tướng, như Phật nói hễ có khởi tưởng là phải bỏ, đó gọi là nghĩa trí. Lại nói nghĩa tưởng tượng nghĩa tướng. Như tưởng tượng thấy mặt mình, nghĩa của phần kia không khác. Bấy giờ được tướng, người tọa thiền khởi tâm cung kính thầy mình, giữ lấy tướng thù thắng nên phải gìn giữ, nếu chẳng gìn giữ thì sẽ mất.
Hỏi: Tại sao phải gìn giữ?
Đáp: Vì ba thứ hành nên gìn giữ tướng, như vậy là vì lìa ác, vì tu hành thiện, vì thường làm. Thế nào là lìa bất thiện? Là lìa bỏ ưa thích việc làm, ưa thích các thứ nói cười, ưa thích ngủ nghỉ, ưa thích tụ hội, ưa thích đùa giỡn theo tục, không giữ gìn các căn, không tiết chế ăn uống, đầu đêm cuối đêm không dậy tập thiền, chẳng kính điều mình học, có nhiều bạn ác, tu chẳng đúng pháp, cũng lìa thời tiết không tốt về ăn nằm ngồi. Đối trị những điều trên là thiện, nên thường làm.
Hỏi: Thế nào là thường làm?
Đáp: Người tọa thiền kia khéo giữ tướng này, thường quán công đức đó, tưởng như trân báu, thường hành hoan hỷ, thường tu tu nhiều, hoặc đêm ngày tu hành nhiều, hoặc tựa ngồi nằm, tâm thích nghĩ ngợi lung tung phóng tâm đi khắp nơi thì hãy giữ lấy tướng đã giữ, đã giữ thì làm cho nó khởi lên. Khởi lên rồi thì theo đó mà quán, quán rồi tu, tu từng lúc quán Mạn-đà-la. Như vậy vì thường làm thấy tướng, thường làm hiện giữ gìn tướng như vậy, thì hoặc được tự tại, hoặc theo tâm được hạnh ngoài thiền. Nếu hạnh bên ngoài ấy theo tâm thì từ đó được yên.
Hỏi: Thế nào là hành bên ngoài thiền?
Đáp: Việc này từ tâm, tác ý không loạn, vì chế phục các ngăn che (cái) chỉ cầu tu hành giác quán hỷ lạc nhất tâm và năm căn tín v.v…, tuy được định lực mà niệm niệm còn khởi, là hành bên ngoài thiền. An là, từ hành bên ngoài nầy là pháp do tâm được lực tu hành, là pháp giác tín v.v... trước mọi sự tâm không động, đó gọi là an. Hỏi: Hành bên ngoài và an, có gì khác nhau?
Đáp: Nếu hàng phục năm Cái thì đó là hạnh bên ngoài. Nhờ hàng phục năm Cái ấy cho nên được an. Nhờ hành bên ngoài thiền được thắng định, mà được thắng định thì gọi là an. Nếu thân tâm chưa được tịch lặng thì tâm định đối với bên ngoài bị dao động như thuyền trên sóng. Nếu thân tâm đã được tịch lặng, thì an ổn bất động, như thuyền trên nước không bị sóng gió. Các vì các căn không có lực cho nên đối với các việc đã làm, hạnh ngoài thiện không thể trụ lâu được giống như trẻ em. Vì các căn có lực nên an tịnh lâu với sự việc, giống như người có năng lực. Vì tu không tự tại, nên hành thiền bên ngoài thành không hòa hợp, như người tụng kinh bỏ lâu thì quên. Vì tu tự tại nên thành an ổn hòa hợp, như người tụng kinh luôn luôn tụng thì không quên. Nếu không hàng phục tốt năm Cái, thì giống như người mù. Đối với việc hành thiền bên ngoài thành mù thì như vậy là lời dạy không thanh tịnh v.v... Nếu hàng phục tốt năm Cái thì thành không mù giáo pháp thanh tịnh thành tựu an định như thế v.v… Ban đầu từ tướng tự tại, cho đến tánh trừ, gọi là hành bên ngoài. Tánh trừ không gián đoạn, đó gọi là an.
Hỏi: Hành bên ngoài là nghĩa gì?
Đáp: Gần thiền nên gọi là hành bên ngoài, như đường gần làng thì gọi là đường làng, nghĩa là một mà tên khác. An là nghĩa gì? An là nghĩa hòa hợp, như đến Mạn-đà-la ra khỏi thiền thì an không có nghĩa khác. Bởi thế người tọa thiền trú ở hạnh bên ngoài, nên giúp họ tăng trưởng Nhất thiết nhập, hoặc vào an định hoặc vào Sơ thiền, phải giúp tăng trưởng.
Hỏi: Vì sao phải giúp họ tăng trưởng?
Đáp: Đó là từ tướng ban đầu, như bốn lóng tay, phải khiến dần tăng, tác ý như vậy, đắc tự tại như vậy, lần lượt như vậy, như bánh xe, như tàn lọng, như bóng cây, như ruộng phước, như xóm như làng, như quách như thành, lần lượt như vậy, dần khiến dần tăng, tràn khắp đại địa nầy, hoặc núi sông cao thấp cây cối gai gốc, các nơi không bằng phẳng tất cả như vậy không tác ý, cho đến biển lớn nầy tác ý coi là đất liền, cho đến lúc tăng trưởng tâm sở hành thành định tối thắng. Nếu người tọa thiền được hành thiền bên ngoài, không khả năng được an định, thì người tọa thiền ấy dùng hai hành nên giúp khởi phương tiện an định: Một là dùng nhân duyên, hai là dùng thọ trì. Dùng mười hành từ nhân duyên khởi phương tiện an định: Một làm cho nơi quán minh tịnh; hai là khởi quán khắp các căn; ba là hiểu rõ tướng; bốn là chế tâm khiến điều phục; năm là điều phục biếng lười; sáu là tâm không ưa đắm vị bảy là tâm hoan hỷ; tám là tâm định thành thì xả; chín là xa người không học định, gần gũi người học định; mười là ưa thích an định.
Hỏi: Làm cho nơi quán minh tịnh là sao?
Đáp: Dùng ba thứ hành làm nơi phân minh để quán, đó là vui thường tu điều hòa ăn uống, vui tu thích hợp thời tiết, vui tu oai nghi. Khởi khắp các căn, để quán là, năm căn như tín v.v... không để tiêu diệt, không biếng lười, như ngựa khỏe kéo xe chạy nhanh. Hiểu rõ các tướng là, khéo nắm chắc ý tưởng không gấp không khoan, như thợ giỏi, giữ dây mực bằng thẳng không lệch, khéo hiểu tác ý lìa gấp, chẳng lìa. Chế tâm khiến điều hoà là, có hai thứ hành, dùng hai thứ hành làm tâm điều hoà: Một là khởi nhiều tinh tấn; hai là tâm vượt quá mức thành tâm điều hoà. Hoặc đi qua chỗ dâm hay mọi hình tướng khác mà ý thêm rối loạn, từ đó chuyển thành tâm điều hoà. Người tọa thiền nên thường khởi nhiều tinh tấn, đến mức quá, thì trở thành tâm điều hoà. Do hai hành nên chế phục tâm, để khiến nó khởi tinh tấn trong mỗi hạnh điều hoà thích ứng. Nếu ý đi qua chỗ dâm và các tướng khác thì tăng trưởng tâm điều hoà, dùng hai hành chế phục, dùng quán tìm các khổ và quả báo xấu ác. Chế phục tâm biếng lười là, vì hai hành thành tâm biếng lười. Vì không được thắng định, khiến tâm vô vị nên thành biếng lười. Nếu nhiều biếng lười thì muốn ngủ nghỉ. Người tọa thiền đó không được thắng định, tâm không đắm vị nên thành biếng lười, dùng hai hành để chiết phục, đó là quán công đức để khởi tinh tấn. Nếu tâm biếng lười ngủ nghỉ thì dùng bốn thứ hành có thể điều phục. Nếu ăn nhiều thành tướng biếng lười, thì chuyển thực hành bốn oai nghi, để tự tác ý. Đối với tướng ánh sáng ý trụ vào chỗ thoáng rộng làm cho tâm hoan hỷ không còn vướng dính. Vì ba hành thành vô vị lại ít phương tiện, vì trí tuệ ám độn nên không được vui tịch tịnh. Người tọa thiền tâm nếu vô vị, thì dùng hai thứ hành khiến được hoan hỷ, một là vì khiếp sợ; hai là vì hoan hỷ. Như quán sinh già chết bốn cõi ác, thấy các thứ đáng sợ, tâm sinh sầu não. Nếu niệm Phật, Pháp, Tăng Giới Thí, Thiên, thì thấy công đức sáu hạnh tâm sinh hoan hỷ. Tâm định thành xả là, dùng hai hành thành định ở địa ngoài thiền, nhờ đoạn các Cái mà tâm thành định, hoặc đã khởi thiền chi ở các địa đã được nên thành tựu tâm định. Người tọa thiền đó tâm định có hai hành, phải xả không phải thành trú, phương tiện điều hòa bực trung, lìa xa người chẳng học định. Hoặc an định, hoặc hành định bên ngoài, hoặc oai nghi định, người kia đều phải tu học những thứ nầy, không nên tu cúng dường. Người học định là nếu có định an, có hành định bên ngoài và định oai nghi, thì nên theo tu học, cũng nên cúng dường. Ưa thích đắm trước an là, người tọa thiền nầy, như nguồn sâu kia, như suối tuôn kia, như cây thấp kia, thường ưa cung kính, nhiều việc tu hành, hành mười sự nhân duyên này sẽ sinh an định.
Hỏi: Tại sao dùng thọ trì có khả sinh phương tiện an định?
Đáp: Người tọa thiền kia khéo hiểu duyên khởi đi vào chốn tịch tĩnh, tâm tự tại với những gì mình hiểu những định mình đã tu, khiến tâm được khởi sinh sự ưa thích. Từ đây thân ý có thể hữu dụng khiến được thọ trì. Từ sinh hoan hỷ tâm mà được thọ trì. Từ sinh thân vui thích điều hòa mà tâm thọ trì. Từ sinh ánh sáng mà tâm được thọ trì. Từ sinh bi thương mà tâm được thọ trì, do bi thương đó khiến tâm được vắng lặng, khéo giữ tâm vắng lặng nên tâm được thọ trì. Như vậy khéo giữ, khiến cho xả, mà tâm được thọ trì. Từ vô biên phiền não, tâm được giải thoát thành tựu thọ trì. Nhờ giải thoát nên nó thành một pháp vị, vì một vị nên tâm được thọ trì tu hành, cho nên từ sự thắng diệu này mà tâm được tăng trưởng. Như vậy, an trú thọ trì, thì khởi phương tiện an định. Như vậy, khéo hiểu duyên khởi và tâm thọ trì thì chẳng bao lâu khởi định. Người tọa thiền kia lìa dục, pháp bất thiện, có giác có quán, ở chỗ tịch tỉnh tâm đã thành tựu, có hỷ có lạc chứng đắc Sơ thiền, là. Đó là công đức Địa Nhất thiết nhập. Bởi thế người lìa dục tức lìa ba thứ: sự xa lìa của thân, của tâm, và của phiền não. Hỏi: Xa lìa của thân là gì?
Đáp: Thân xa lìa các não, ở nơi núi đồng. Thế nào là tâm xa lìa? Là dùng tâm thanh tịnh đến nơi thắng thiện. Thế nào là lìa phiền não? Là người không kết hệ lụy với ai không buộc trong chỗ sinh tử. Lại nữa, lìa có năm thứ. Hàng phục là lìa. Phần kia là lìa. Đoạn là lìa. Ỷ là lìa. Xuất là lìa. Thế nào hàng phục là lìa? Đó là tu Sơ thiền hàng phục năm Cái (năm thứ che). Thế nào phần kia là lìa? Đó là tu định ở phần đạt, hàng phục các kiến. Thế nào đoạn là lìa? Đó là tu đạo xuất thế gian, đoạn các phiền não. Thế nào ỷ là lìa? Đó là vui khi nhan lúc đắc quả. Thế nào xuất là lìa? Đó là Niết-bàn vậy. Dục là, có hai thứ: Một là xứ dục; hai là phiền não dục. Tham ái sắc hương vị xúc của cõi Trời và Người đó gọi là xứ Dục. Ở xứ dục nầy khởi dục ô nhiễm tư duy, đó gọi là phiền não dục. Từ đây muốn, dùng tâm xa lìa, dùng sự hàng phục xa lìa đó là sự xa lìa, là xuất ly là, giải thoát, là không tương ưng. Đó gọi là lìa dục.
Hỏi: Thế nào là lìa pháp bất thiện?
Đáp: Đó là bất thiện căn. Có ba thứ: Một là tham; hai là sân; ba là si. Cùng với chúng tương ưng là thọ, tưởng, hành, thức và nghiệp thân khẩu ý, đây gọi là pháp bất thiện. Nói bất thiện có ba thứ: Một là tự tánh; hai là tương ưng; ba là tánh sinh duyên. Ba căn bất thiện, đó là tham sân si, đó gọi là tự tánh. Cùng với chúng tương ưng là thọ, tưởng, hành, thức, đó gọi là tương ưng. Vốn khởi lên nghiệp thân khẩu ý, đây gọi là tánh sanh duyên. Đối với ba pháp bất thiện này được xa lìa, được xuất được thoát, không tương ưng, đó gọi là lìa pháp bất thiện. Lại nữa, lìa dục là lìa Cái (phiền não ngăn che) tham dục. Lìa pháp bất thiện là, lìa các Cái còn lại.
Hỏi: Nói lìa pháp bất thiện, mà dục là pháp bất thiện đã ở trong đó, thì tại sao riêng nói lìa dâm dục?
Đáp: Dâm dục là đối trị xuất ly. Phật nói dục năng trừ phiền não. Lìa dục là Phật nói là ra khỏi, như đắc Sơ thiền, dục tưởng tương ưng tác ý thành sinh khởi, đây là pháp của phần thối lui cho nên cho là dục hòa hợp phiền não. Nếu xa lìa dục thì tất cả phiền não đều cũng xa lìa, cho nên riêng nói lìa dục. Lại nữa lìa dục là, đã được ra khỏi thì thành lìa dục. Lìa pháp bất thiện là nếu được chẳng sân thành lìa sân, nếu được minh tướng thì thành lìa biếng lười ngủ nghỉ, nếu được không loạn thì thành lìa cười cợt, nếu được không ăn năn thì thành lìa sự ăn năn, nếu được an định thì thành lìa sự nghi ngờ, nếu được trí tuệ thì thành lìa vô minh, nếu được chánh tư duy thì thành lìa tà niệm, nếu được hoan hỷ thì thành lìa sự không vui; tâm được vui thì thành lìa sự khổ. Nếu được tất cả thiện pháp thì lìa tất cả bất thiện. Như Tam Tạng nói: Vì chẳng tham tràn đầy cho nên thành tựu lìa dục. Vì không sân không si tràn đầy cho nên thành tựu lìa pháp bất thiện. Lại nữa, lìa dục là, là nói thân lìa; pháp bất thiện là, là nói tâm lìa. Lại nữa, lìa dục là, là nói đoạn dục giác; lìa pháp bất thiện là, nói đoạn giận dữ hại giác. Lại nữa, lìa dục là, nói né tránh dục lạc; Lìa pháp bất thiện là, là nói xa lánh tham đắm sự biếng lười của thân. Lại nữa, lìa dục là, nói đoạn sáu sự đùa giỡn và vui hoan hỷ. Lìa pháp bất thiện là, nói đoạn hý giác và ưu khổ v.v... cũng nói đoạn cười đùa và xả. Lại nữa, lìa dục là, hiện được nguồn vui ra khỏi dục lạc. Lìa pháp bất thiện là, hiện được nguồn vui, tâm không lỗi lầm. Lại nữa, lìa dục là, vượt khỏi dòng dục. Lìa pháp bất thiện là, với các phiền não còn lại đáng sinh cõi Dục mà sinh cõi sắc, đó gọi là siêu việt (vượt thoát). Có giác quán là: Thế nào là giác? Đó là các thứ giác tư duy làm an tư tưởng, tâm không nhận biết đi vào chánh tư duy, đây gọi là giác. Giác nầy thành tựu nên Sơ thiền có giác. Lại nữa, vào Địa Nhất thiết nhập, nương tướng địa không gián đoạn thành giác tư duy, đó gọi là giác, như tâm tụng kinh.
Hỏi: Giác là tưởng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì?
Đáp: Giác là, tu tưởng khinh an làm vị, hạ tâm tác niệm làm khởi, tưởng làm hành xứ. Thế nào là quán? Vào lúc tu quán, tùy sự chọn lựa của quán, tâm trú theo xả, đó gọi là quán, nhờ tương ưng này thành Sơ thiền có quán. Lại nữa, người vào định Địa Nhất thiết, các đối tượng quán của tâm là từ tu tướng địa (đất) giống như quán các nghĩa làm quán.
Hỏi: Quán tướng gì, vị gì, khởi gì xứ gì?
Đáp: Người quán tùy theo sự chọn là tướng, khiến tâm nhẹ nhàng là vị, tùy kiến giác là xứ.
Hỏi: Giác và quán có khác nhau ra sao?
Đáp: Giống như đánh linh, tiếng đầu là giác tiếng sau là quán. Lại nữa, như sở duyên của tâm, mới đầu là giác sau là quán. Lại nữa cầu thiền là giác, gìn giữ là quán. Lại nữa nhớ là giác, không xả là quán. Lại nữa, tâm thô thọ trì là giác, tâm tế thọ trì là quán. Nếu nơi đâu có giác thì nơi ấy có quán. Nếu nơi đâu có quán, thì nơi ấy hoặc có giác, hoặc không giác. Như Tam Tạng đã nói: mới đầu an tâm vào sự là giác, được giác chưa định là quán, như thấy người từ xa lại, không biết nam nữ, đến lúc biết nam nữ, sắc như vậy hình như vậy là giác. Từ đây thường quán có giới không có giới, giàu nghèo sang hèn là quán. Giác là cầu dẫn tương lai, quán là gìn giữ đuổi theo, như chim tung cánh giữa hư không là giác, tự do bay dạo là quán. Giáo mới đầu là giác, giáo lâu dài là quán. Dùng giác giữ gìn, dùng quán tìm chọn. Dùng giác tư duy, dùng quán tùy tư duy. Giác hành không nhớ ác pháp, quán hành thọ trì thiền như người có sức, im lặng mà tụng kinh, tùy nhớ nghĩa của Kinh là quán, như biết điều cần biết, biết rồi có thể biết. Quán ở ngôn từ biện luận và ưa biện luận là giác. Nghĩa biện luận, pháp biện luận là quán, tâm hiểu hơn là giác, tâm hiểu phân biệt là quán, đó là sự khác nhau của giác quán. Do tịch tịnh thành tựu nên gọi là tịch tịch. Người là lìa năm Cái đó gọi là tịch tịch. Lại nói là thiện căn cõi Sắc. Lại nói hành bên ngoài Sơ thiền. Lại nói tâm thiền từ tâm đây sinh, đó gọi là chỗ thành tựu của tịch tịch. Như đất nước sinh hoa gọi là hoa đất nước. Hỷ lạc là, tâm vào lúc đó rất hoan hỷ đùa cười, tâm đầy mát mẻ, đây gọi là hỷ.
Hỏi: Hỷ là tướng gì, vị là gì, khởi là gì, xứ là gì, có mấy hỉ?
Đáp: Hỷ nghĩa là vui vẻ khắp đầy làm tướng, hoan hỷ điều hòa vị, điều phục loạn tâm làm khởi, phấn khởi xứ. Có bao nhiêu thứ hỷ? Có sáu thứ hỷ, từ dục sinh, từ tín sinh, từ không ăn năn sinh, từ tịch tịnh sinh, từ định sinh, và Bồ Đề phần sinh hỷ. Từ dục sinh là sao? Tham dục nhiễm trước tâm hỷ, gọi là dục sinh hỷ. Từ tín sinh là sao? Phần nhiều người tin tâm hỷ và thấy Đào sư (Phật) v.v... sinh hỷ. Từ không ăn năn sinh hỷ là sao? Người trì giới thanh tịnh phần nhiều sinh hoan hỷ. Từ tịch tịnh sinh là sao? Người hỷ vào Sơ thiền sanh hỷ. Từ định sinh là sao? Vào nhị thiền sinh hỷ. Bồ Đề phần sinh hỷ là sao? Ở thiền thứ hai tu đạo xuất thế gian sinh hỷ. Lại nữa, nói hỷ có năm thứ đó là: Tiếu hỷ, niệm niệm hỷ, lưu hỷ, việt hỷ, mãn hỷ. Tiếu hỷ là như mưa nhỏ thấm thân khiến lông đều dựng đứng. Niệm niệm hỷ là, sinh diệt không trú, như mưa lúc đêm. Lưu hỷ là, như dầu nhểu xuống nhểu lâu ướt thân, nhưng chẳng khắp cùng, Việt hỷ là, cùng khắp tất cả, tâm sinh hoan hỷ, không lâu bèn mất, như người nghèo thấy kho báu dưới đất, Mãn hỷ là, thân trú khắp cùng như sấm như mưa. Bởi thế, hỷ nho nhỏ và niệm niệm hỷ thì, dùng tín hiện khởi hành bên ngoài. Lưu hỷ là, có lực hiện khởi ở hành bên ngoài, Việt hỷ là, ở Mạn-đà-la là chánh cùng bất chánh đều khởi xứ phương tiện. Mãn hỷ là sinh ở chỗ an ổn.
Hỏi: Thế nào là lạc (vui)?
Đáp: Là sự tiếp xúc của tâm có thể tiếp nhận và tâm vui hình thành, đây gọi là lạc.
Hỏi: Lạc, tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì, bao nhiêu thứ lạc? Hỷ lạc có gì sai khác?
Đáp: Vị là tướng, duyên cảnh ái là vị ái, nhiếp thọ là khởi, khinh an là xứ. Bao nhiêu thứ lạc? Có năm thứ đó là: Nhân lạc Tư, cụ lạc, Tịch tịch lạc, Vô phiền não lạc, Thọ lạc. Nhân lạc là gì? Như lời Phật dạy: ưa thích giới, chịu đựng đến già, đây gọi là nhân lạc, là công đức của lạc. Tư cụ lạc như lời Phật dạy: Phật xuất hiện ra đời là lạc. Tịch tịch lạc là, sinh định xả và diệt thiền định. Vô phiền não lạc, như lời Phật dạy: Niết-bàn là đệ nhất. Thọ lạc tức là thọ nhận sự an lạc. Trong luận này thọ lạc là khả lạc. Hỷ, lạc có gì sai biệt là: Tâm phấn khích là hỷ, tâm nhẹ nhàng là lạc, tâm khinh an là lạc, tâm định là hỷ. Hỷ thì thô, lạc thì tế. Hỷ thuộc về hành ấm, lạc thuộc về thọ ấm nơi nào có hỷ thì có lạc, nơi nào có lạc, hoặc có hỷ hoặc không hỷ. Thứ nhất là, so với thứ hai mà gọi, hạnh bên ngoài thành tựu vào thiền chi Sơ thiền, đó là giác quán hỷ lạc nhất tâm vậy. Thiền nghĩa là gì? Đó là bình đẳng tư duy đối với sự; đối với năm Cái hăng hái, tư duy đối trị vậy. Vào Sơ thiền đắc chánh thọ là, trụ vào pháp đã đắc, đã xúc, đã tác chứng. Lại nữa, lìa pháp dục bất thiện thì, từ địa dục giới mà nói Sơ thiền là tướng thù thắng, từ có giác quán mà nói thiền thứ hai là tướng thù thắng. Vì do tịch tịch vốn thành có hỷ có lạc. Từ tịch tịch thành hỷ lạc nên nói là tướng thù thắng. Lại nữa, lìa pháp dục bất thiện là, có thể đoạn đối trị. Có giác quán, đó là nói thiền tướng do tịch tịnh thành. Hỷ lạc là, đó là nói tương tợ Thiền chánh thọ. Vào trú là, đắc Sơ thiền lìa năm phần, thành tựu năm phần, ba thiện mười tưởng, đầy đủ hai mươi lăm công đức tương ưng. Do phước thiện này sinh lên Phạm thiên ở nơi thắng diệu. Lìa năm phần, đó là lìa năm Cái. Những gì là năm? Đó là tham dục, sân nhuế, biếng lười, ngủ nghỉ. điệu hối và nghi. Tham dục là tâm sinh ái nhiễm năm trần. Sân nhuế là hành mười não xứ. Biếng lười, là, tâm biếng nhác. Ngủ nghỉ, là thân dã dượi muốn được ngủ nghỉ. Ngủ có ba thứ: Một là do ăn; hai là từ thời tiết; ba là do tâm. Nếu từ tâm sinh, thì dùng tư duy đoạn, hoặc từ ăn uống sinh và thời tiết sinh, vì La-hán này ngủ không phải từ tâm sinh, không bị ngăn che vậy. Nếu ngủ từ việc ăn uống và thời tiết sinh thì dùng tinh tấn có thể đoạn, như lời Anâu-lâu-đà nói: "Từ khi mới được lậu tận, ta không còn do tâm mà ngủ đến nay đã năm mươi lăm năm. Trong thời gian đó đoạn ngủ do ăn uống, thời tiết đã hai mươi lăm năm.
Hỏi: Nếu ngủ thành sắc pháp, thì tại sao là tâm sở phiền não?
Đáp: Sắc, hoàn toàn thành tâm sở phiền não, như ta thấy người uống rượu và ăn, vậy thì có thể biết.
Hỏi: Nếu ngủ là pháp, của thân biếng lười là tâm sở pháp, thế tại sao hai pháp hợp thành một Cái?
Đáp: Hai thứ pháp này, một là sự một là tướng, nhưng đều có chung sự mỏi mệt, lười biếng cho nên làm một Cái. Điều là, tâm chẳng vắng lặng. Hối là, tâm hối hận bất định, tướng chúng vì đồng nên thành một Cái. Nghi là tâm chấp bất nhất, có bốn thứ nghi: Một là hỏi về Xa-ma-tha; hai là hỏi về Tỳ-bà-xá-na; ba là hỏi về cả hai; bốn là hỏi về các thứ không phải. Khi ấy, là đầy đủ được Xa-ma-tha, hoặc đối với đây mà nghi, hoặc nghi thân, ta có đủ sức làm cho tâm vắng lặng hay không vắng lặng? Có nghi như vậy, đây gọi là hỏi về Xa-ma-tha. Hoặc nghi Bốn thánh đế, hoặc nghi ba đời, đây gọi là hỏi khó về Tỳ-bà-xá-na. Hoặc nghi Phật Pháp Tăng, đây là hỏi về cả hai. Hoặc hỏi về đường đi, trong thành ấp, trai gái tên họ đất nước, đó gọi là hỏi về các thứ chẳng phải pháp. Hoặc nghi kinh nầy đó là hỏi về sự tịch tĩnh về có thể nhận lấy hay không, Cái (ngăn che) là nghĩa gì? Đó là nghĩa trái khuấy, che ngăn, trở ngại, che phủ, phiền não, trói buộc. Ngoài đây, không có nghĩa nào khác.
Hỏi: Có các kiết sử vi tế đó là phú não v.v... tại sao chỉ nói năm Cái?
Đáp: Vì nhóm tập chấp thủ thành năm. Lại nữa vì dâm dục chấp trước, nó có khả năng tóm thâu tất cả tham dục. Do giận dữ chấp trước nó có khả năng tóm thâu tất cả pháp bất thiện. Do biếng lười ngủ nghỉ điều hối và nghi chấp trước nó có khả năng tóm thâu tất cả pháp si bất thiện. Như vậy vì năm Cái chấp trước nó có khả năng tóm thâu tất cả phiền não. Do tướng này nên thành năm Cái. Năm phần thành tựu là giác, quán, hỷ, lạc, và nhất tâm.
Hỏi: Nếu nói Sơ thiền thành tựu năm chi là thiền, thì chẳng nên lại riêng nói chi đó là thiền, nếu riêng nói chi, tại sao Sơ thiền nói năm chi tương ưng?
Đáp: Y cứ thiền chi thành thiền, không lìa thiền chi có thiền, không riêng có thiền khác. Như dựa vào từng bộ phận nói là xe. Lìa các bộ phận ấy thì không có xe, như căn cứ vào đám lính nói là quân đội, tách lìa từng quân lính ra, sao có quân đội? Như vậy y cứ thiền chi gọi là thiền, chẳng phải lìa chi có thiền, vì một thứ gọi là thiền, vì có thể phân gọi là chi. Nói sự gọi là thiền, nói công đức gọi là chi. Vì nói chỗ nương lập gọi là thiền, vì nói tánh của chỗ nương lập gọi là chi.
Hỏi: Có các pháp như niệm tinh tấn v.v... tại sao chỉ nói năm chi ư?
Đáp: Vì chấp trước thành năm. Hỏi: Thế nào là chấp tướng?
Đáp: Giác là, tùy nơi sự tâm mà được tự an. Quán là, tùy ở trì tâm, giác quán không tạp khởi ở phương tiện. Nếu phương tiện đầy đủ thì hỷ lạc sinh. Nếu khởi phương tiện đầy đủ thì được sinh, hỷ tâm tăng trưởng lạc tâm thành đầy. Nhờ bốn công đức này, tâm thành tựu không loạn. Nếu tâm không loạn thì đắc định, đó gọi là chấp tướng. Như vậy, chấp trước thành năm. Lại nữa vì đối trị Cái nên thành năm, Cái thứ nhất bị Sơ thiền đối trị, cho đến
Cái thứ năm bị ngũ thiền đối trị. Giác ở Sơ thiền là chi thù thắng (trội nhất), lấy giác trừ dục. Nếu giác vào chánh định, thì các chi khác cũng khởi; Quán là, đối với năm chi, thiền thứ hai là sơ khởi, hỷ là đối với thiền thứ ba là sơ khởi. Lạc là, đối với thiền thứ tư là sơ khởi. Nhất tâm là, đối với thiền thứ năm là sơ khởi. Như vậy dùng chi thù thắng mà thành năm. Lại nữa, vì đối trị năm Cái mà thành năm. Như trong Tam Tạng nói: Nhất tâm là đối trị dâm dục. Hoan hỷ là đối trị sân nhuế. Giác là đối trị biếng lười ngủ nghỉ. Lạc là đối trị điều hối. Quán là đối trị nghi. Vì nhằm đối trị Cái cho nên thành năm.
Hỏi: Người tọa thiền này, tác ý đối với tất cả tướng địa, tại sao mới khởi hỷ lạc?
Đáp: Tướng Địa Nhất thiết nhập không phải khởi hỉ lạc, nhân lìa nhiệt não của năm Cái nhiệt tùy tánh tu tập, vì vậy pháp tử nên khởi hỉ lạc. Lại hỏi: Nếu vậy, tại sao pháp tử không khởi hỉ lạc ở thiền thứ tư? Đáp: chẳng phải nơi chốn đó. Vả lại đắc thiền thứ tư rồi đoạn hỷ lạc. Lại nữa, mới đầu đã khởi hỷ lạc dùng phương tiện phục đoạn, thấy có lỗi lầm rồi, tham đắm sự vắng lặng mà xả lạc, cho nên không khởi hỷ lạc. Ba thứ thiện là, đó là thiện đầu giữa và sau. Dùng thanh tịnh tu hành là thiện đầu, dùng xả tăng trưởng là thiện giữa, dùng hoan hỷ là thiện sau. Thanh tịnh tu hành là gì? Đó là các phương tiện hổ trợ thiện. Thế nào là tăng trưởng xả? Đó gọi là an định. Thế nào là hoan hỷ? Đó gọi là quán Như vậy Sơ thiền thành tựu ba thứ thiện. Mười tướng đầy đủ: là do thanh tịnh tu hành ba tướng, dùng xả tăng trưởng ba tướng, do làm cho hoan hỷ bốn tướng.
Hỏi: Dùng thanh tịnh tu hành ba tướng là thế nào?
Đáp: Thiền đó chướng ngại từ tâm thanh tịnh kia, vì thanh tịnh nên trong tâm được tướng Xa-ma-tha vì được nên tâm kia vui mừng phấn khởi, đây gọi là dùng tu thanh tịnh tu ba tướng.
Hỏi: Thế nào là dùng xả tăng trưởng ba tướng?
Đáp: Nếu tâm thanh tịnh thì thành tựu xả, nếu được tịch tịch thì thành tựu xả, hoàn toàn an trụ thì thành tựu xả, mà xả tăng trưởng. Đây gọi là ba tướng.
Hỏi: Thế nào là khiến hoan hỷ bốn tướng?
Đáp: Đó là ở mười tướng này sinh pháp, tùy theo tu hành khiến thành hoan hỷ. Đối với các căn này dùng làm một vị mà thành khiến hoan hỷ, tùy hành tinh tấn nhờ đó mà thành khiến hoan hỷ, vì thường tu hành mà thành khiến hoan hỷ, đây gọi là bốn tướng. Như vậy mười tướng Sơ thiền đầy đủ. Hai mươi lăm công đức tương ưng, đó là Sơ thiền giác quán hỷ lạc, nhất tâm ở Sơ thiền đầy đủ, tín tinh tấn niệm định tuệ đầy đủ, đầu giữa sau đầy đủ, thâu nhiếp đầy đủ, tu hành đầy đủ, tịch tịnh đầy đủ, y cứ đầy đủ, nhiếp thọ đầy đủ, tùy đầy đủ, quán đầy đủ, tu đầy đủ, lực đầy đủ, giải thoát đầy đủ, thanh tịnh đầy đủ. Tu hành thật thanh tịnh thù thắng an trú hai mươi lăm công đức tương ưng, là chỗ ở thù thắng của chư Thiên, từ tịch tịch sinh. Đó là hỷ lạc trú ở chỗ đẹp đẹp đẽ cõi trời, siêu việt nhơn gian. Như Đức Phật Thế Tôn dạy các vị Tỳ-kheo, như người thầy siêng tắm gội tắm cho đệ tử, dùng mâm đồng đẹp đựng đầy mạc vụn đậu gạo, dùng nước hòa và quấy hợp rồi vò viên, thấm đượm trong ngoài dính nhau chẳng bể ra. Như vậy, Tỳ-kheo thân tâm tịch tịnh, thường sinh hỷ lạc rưới khiến ướt khắp, không chỗ nào không dính như do tịch tịnh mà sinh hỷ lạc, cả thân tâm đều dính, như vị thầy siêng tắm tắm cho đệ tử ấy. Người tọa thiền cũng lại như vậy, tướng mâm đồng Nhất thiết nhập cũng như vậy có thể biết.
Hỏi: Những tướng gì là Nhất thiết nhập?
Đáp: Như mâm đồng bột tắm, ánh sáng vi tế chắc chắn. Nếu khéo nắm bắt tướng Nhất thiết nhập thành cứng thì sinh hỉ, thành tinh tế thanh tịnh cho nên sáng chói. Tâm tâm sở pháp vì thành tựu sự. Cho nên đó gọi là tướng Nhất thiết nhập, như mâm đồng v.v…. tâm tâm sở pháp như bột tắm, như vậy có thể biết.
Hỏi: Thế nào là tánh tâm tâm sở pháp của bột tắm?
Đáp: Như bột thô đã không hòa hợp theo gió bay tan. Như vậy tánh tâm tâm sở pháp lìa hỷ lạc thành thô, lìa định chẳng hòa hợp, cùng gió năm Cái cùng bay, đây gọi là tánh tâm tâm sở pháp của bột tắm v.v... Nước… thì thế nào? Đó là hỷ lạc định như nước, khiến bột tắm ướt mềm vò viên. Như vậy hỷ lạc khiến tâm tâm sở pháp ướt mềm làm định. Như vậy định hỷ lạc như nước v.v…. Như nước dục bị quậy khiến dính nhau, như vậy. giác quán có thể biết.
Hỏi: Thế nào là thành viên?
Đáp: Đó là giác quán như bị dục sai sử dùng bột tắm đặt trong mâm đồng, dùng nước rưới quậy, dùng tay vò viên. Nếu vò viên rồi thì hợp các bột ướt cùng vò viên, không để nó tan mất, đặt trong mâm đồng. Như vậy tâm tâm sở pháp người tọa thiền chứa ở trong sự, có khả năng sinh tịch tịnh, Sơ thiền dùng hỷ lạc làm nước, dùng giác quán làm tay, dùng quậy vắt làm viên, có khả năng sinh tịch tịnh, tâm sở pháp được thành, hỷ lạc cùng theo thành một viên, tâm thiền không tán loạn, đặt ở thiền sự. Như vậy viên đồng đều giác quán, như vậy bột tắm trong ngoài ướt khắp cùng dính chẳng tan, như vậy người tọa thiền, Sơ thiền ở trên dưới thân, từ đầu đến chân, từ chân đến đầu, da tóc trong ngoài hỷ lạc khắp cùng, trú ở bất thối. Như vậy thành tựu an trú Phạm thiên.
Hỏi: Gọi hỷ lạc không phải sắc pháp không có tướng đối tại sao trụ khắp nơi thân?
Đáp: Tên gọi là y cứ nơi sắc, sắc nương nơi danh sắc. Cho nên nếu danh đã thành hỷ, thì sắc cũng thành hỷ. Nếu danh đã thành lạc, sắc cũng thành lạc. Lại nữa sắc từ lạc sinh khiến thân nhẹ nhàng, tất cả thân thành sắc an lạc nhẹ nhàng. Cho nên vô ngại. Khiến sinh công đức Phạm thiên là, Sơ thiền thành có ba, đó là hạ trung thượng. Nếu quán thắng duyên nhưng không khéo giỏi trừ năm Cái thì không đạt đến như ý tự tại, đó gọi là hạ thiền. Nếu quán thắng duyên nhưng khéo trừ năm Cái thì đạt đến như ý tự tại, đó gọi là trung thiền. Nếu quán thắng duyên khéo trừ năm Cái, đến như ý tự tại thì gọi là thượng thiền. Do đó, người tọa thiền, nếu tu hạ Sơ thiền, mạng chung sinh nơi chủng loại Phạm thiên, thọ mạng được một kiếp ba phần. Nếu tu trung Sơ thiền, mạng chung sinh vào Phạm thiên thọ nửa kiếp. Nếu tu thượng Sơ thiền, mạng chung sinh Đại Phạm thiên, thọ mạng một kiếp. Công đức sinh Phạm thiên, thành tựu thì có bốn thứ: có người thành tựu phần thoái, có người thành tựu phần trú, có người thành tựu phần thù thắng, có người thành tựu phần đạt. Dục của người độn căn, trú buông lung tác ý cùng theo, mà thành sinh khởi thiền này nên thành tựu phần thoái. Lại nữa, vì ba thiền hành thành ở phần thoái, trói buộc quá lắm nên làm cho không tinh tấn. Nếu người từ mới đầu đã khởi ác giác không khả năng tiêu trừ, thì do vì đây trói mạnh mà thành thối lui lẹ. Do ưa thích sự nghiệp thiền, ưa thích nói năng, ưa thích ngủ nghỉ, không trú tinh tấn, cho nên thành thối lui. Hỏi: Ai thối lui vì sao thối lui?
Đáp: Có thuyết nói, nếu nhanh chóng phiền não thì thành khởi thoái thất, lại nói nếu lo lắng phiền não thì thành thoái thất; lại nói vì mất Xa-ma-tha nên thành thoái thất. Lại nói đối với hữu tướng lâu chẳng tu hành, đối với các pháp kia không khả năng khiến khởi dậy rồi, nhưng chưa đạt được định, nên thành thối phần. Nếu người độn căn sống không buông lung, thì được pháp niệm kia thành tựu phần trú trong thiền. Người lợi căn sống không buông lung, tùy ý được thiền thứ hai, không giác tác ý cùng theo, dấy khởi thì thành tựu phần thắng của thiền. Người lợi căn sống không buông lung, tùy ý được Tỳ-bà-xá-na, tùy theo tưởng nhàm chán tác ý thành khởi, tùy ý không nhiễm thành tựu phần đạt của thiền.
Đây nói rõ về cầu thiền thứ hai, tư duy lỗi lầm ở thiền thứ nhất, công đức thiền thứ hai, bấy giờ người tọa thiền ưa thích khởi thiền thứ hai xong, thì đối với thiền thứ nhất thân được tự tại. Tại sao? Nếu ở thiền thứ nhất chưa được tự tại, thì tuy là tư duy muốn trừ giác quán, mong được thiền thứ hai, nhưng trở lại bị thoái thất, bèn chẳng đủ năng lực khởi thiền định thứ hai, cũng lại không có khả năng vào thiền thứ nhất. Như Đức Thế Tôn, vì các Tỳ-kheo đưa thí dụ con bò nghé ngu si không biết nơi ăn, chưa biết bước đi, muốn đến chỗ xa nguy hiểm, nó bèn tự nghĩ: ta nay phải đến nơi chưa từng đến, ăn cỏ chưa từng ăn, uống nước chưa từng uống. Chân trước chưa đứng lên, lại đưa chân sau, vấp ngã không an, không thể đi tới trước, bèn không đến được nơi chưa từng đến, cũng không được ăn cỏ chưa từng ăn, và không được uống nước chưa từng uống. Nó lại suy nghĩ, đã không có thể đi, thôi thì ăn uống các món cũ vậy. Tỳ-kheo cũng vậy ngu si chưa thông suốt, không biết điều gì mình phải làm, không, hiểu lìa dục, vào thiền thứ nhất, không tu pháp nầy, không học tập, nhiều liền tự suy nghĩ-muốn vào Thiền thứ hai, lìa giác quán, chẳng hiểu tự an, trở lại tư duy, ta không khả năng được vào thiền thứ hai lìa nơi giác quán, muốn thoái lui vào thiền thứ nhất lìa dục. Tỳ-kheo ngu si như bò nghé kia không hiểu bước đi. Vì thế cho nên phải tu thiền thứ nhất khiến tâm được tự tại, ở lúc chưa được vị thiền và sau khi được vị thiền, đầu đêm cuối đêm tùy tâm ưa thích, tùy ý muốn gần gũi lâu dài tùy ý vô ngại, phát khởi đi vào quán. Nếu từ một thời gian cho đến nhiều thời gian, nhiều lần vào nhiều lần ra. Nếu từ một thời gian cho đến nhiều thời gian, ở thiền thứ nhất kia thành được tự tại, được tự tại ưa thích, khởi thiền thứ hai, vượt qua Sơ thiền. Lại tư duy nữa: thiền thứ nhất này thô, thiền thứ hai tế, ở thiền thứ nhất thấy có lỗi lầm, ở thiền thứ hai thấy có công đức.
Hỏi: Lỗi lầm của thiền thứ nhất là gì?
Đáp: Gần gũi năm Cái oán, khiến giác quán động, thân thành biếng lười, tâm thành tán loạn. Tất cả pháp đó là định thô, không thể trú vì thần thông chứng đắc, đã ưa thích thiền thứ nhất không thể thành tựu phần thù thắng. Đó là lỗi lầm ở thiền thứ nhất. Công đức thiền thứ hai là đối trị lỗi lầm. Vì đã quán thấy lỗi lầm thiền thứ nhất thấy công đức thiền thứ hai là tướng của Nhất thiết nhập nên tác ý tu hành về sự của thiền thứ hai, không tác ý hòa hợp thiền thứ nhất, không tác ý ở giác, không tác ý ở quán, vì từ định sinh hỷ lạc tự tại, khiến tâm thọ trì. Người tọa thiền kia tác ý như vậy, giác quán không lâu thành diệt mất đi, lại vì do định khởi lên hỷ lạc tự tại, nên khiến tâm an trú. Đây tức là rõ nghĩa bốn chi của thiền thứ hai. Người tọa thiền kia do giác quán diệt cho nên, thành tựu tín bên trong đó (nội tín), tâm thành một tánh, không giác không quán, từ định sinh hỷ đi lạc vào thiền thứ hai. Đó là công đức của Địa Nhất thiết nhập. Giác quán diệt là, vì khéo phân biệt nên giác quán diệt, cũng gọi là đoạn.
Hỏi: Tại Thế nào là giác quán diệt?
Đáp: Cũng là lỗi lầm giác quán ở thiền thứ nhất, và tất cả căn bản của giác quán, lỗi lầm của giác quán, và căn bản của giác quán, cùng giác quán đều trừ, cho nên thành giác quán diệt. Lại nữa, vì đoạn thiền thô bậc hạ thiền được thiền thù thắng bậc thượng. Lại khiến hiện lần lượt diệt. Bên trong là hiện chứng gọi là bên trong. Bên trong có ba thứ: Một là bên trong bên trong; hai là định bên trong; ba là hành xứ bên trong. Bên trong là gì? Đó là sáu nội nhập. Định bên trong là tự quán thân, đây gọi là định bên trong. Hành xứ bên trong là suy nghĩ bên trong không ra bên ngoài, nghĩa thu nhiếp là tánh, đó gọi là hành xứ bên trong. Trong kinh này, bên trong bên trong là niềm vui. Tín là tin, chánh tín, tư duy tăng trưởng tín, đây gọi là tín. Định ở bên trong đó gọi là tín bên trong. Tín bên trong là, tướng gì, khởi gì vị gì, xứ gì? Không loạn là tướng tín bên trong, tịch tịch là vị, không nhiễm trược là khởi, giác quán là xứ. Tâm thành một tánh là, đó là tâm trú chánh định, đây gọi là tâm thành một tánh. Tâm thành một tánh là nghĩa gì? Tâm là ý, một là nói về niệm. Gọi là tánh như Thanh luận nói sinh tánh. Tánh là nói nghĩa tự nhiên. Thiền thứ hai đây, nhất tâm có thể diệt giác quán, vì một tánh được khởi, đây gọi là tâm thành một tánh. Tâm thành một tánh là, tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì? Chuyên chánh là tướng, tịch tịch là vị, không sóng gợn là khởi, giác quán diệt là xứ.
Hỏi: Tín và tâm thành một tánh, tại sao không thuộc vào thiền thứ nhất?
Đáp: Vì thiền thứ nhất dùng giác quán làm sóng động cho nên thành vẩn đục. Do đó, tín bên trong, tâm thành một tánh trở thành không thanh tịnh. Như nước có gió, sóng thấy mặt mình dường như không trong sạch. Như vậy thiền thứ nhất giác quán là sóng, vì sóng động nên vẩn đục cho nên, tin bên trong và tâm một tánh thành trở không thanh tịnh. Vì thế thiền chi không phải thuộc thiền thứ nhất là không giác không quán, nghĩa là đoạn giác, không giác, lìa quán, không quán.
Hỏi: Giác quán diệt và không giác không quán, hai thứ này đều đoạn giác quán, tại sao nói hai?
Đáp: Giác quán diệt là hiện tín bên trong, tâm một tánh làm nhân; không giác không quán, là hiện tướng hỷ lạc vi diệu, của tịch tịch đã tạo thành. Lại nữa giác quán diệt là, dùng giác quán này thấy lỗi lầm giác quán, đoạn pháp lỗi lầm kia; không giác không quán là đoạn giác quán của cõi Sắc giới. Lại nữa, không giác không quán là có hai thứ: Một là chẳng dùng giác quán diệt mới không giác không quán. Hai là vì giác quán diệt nên không giác không quán. Bởi thế, năm thức và thiền thứ ba đồng đều, chẳng vì giác quán diệt mới thành không giác không quán. Thiền thứ hai, dùng phương tiện tịch tịnh, cho nên dùng giác quán diệt mới thành không giác không quán. Đó là nói hai nghĩa. Từ định sinh là gọi là định, thiền thứ nhất từ trí kia sinh, thiền thứ hai thành từ định thiền thứ nhất định sinh. Lại nữa định là ở thiền thứ hai cùng nhất tâm cộng sinh cho nên, định sinh hỷ lạc. Hỷ lạc ở thiền thứ nhất đã phân biệt, thiền thứ hai là dựa vào thiền thứ nhất (sơ) mà được tên. Thiền thứ hai này vào chánh thọ gọi là vào Thiền thứ hai. Thiền là, tín, hỷ, lạc, nhất tâm bên trong, đó gọi là thiền. Vào chánh thọ trú là thành được thiền thứ hai, lìa hai chi, thành tựu hai chi, ba thứ thiện mười tướng đầy đủ, tương ưng hai mươi ba công đức, là công đức thiên trú, sinh trời Quang diệu, như phần đầu đã nói rộng. Thiên trú là từ định sinh hỷ lạc, vượt đời sống con người nên gọi là thiên trú. Cho nên, Đức Thế Tôn bảo Tỳ-kheo rằng, như ao có nước, chẳng phải từ bốn phương lại, cũng chẳng phải mưa xuống, không có thời tiết, mà là từ suối phun lên, mát lạnh thấm rưới đầy tràn ra thảy xa. Như vậy, Tỳ-kheo thân này từ định sinh hỷ lạc, khiến được trong mát không đâu không đượm nhuần, từ định sinh hỷ khắp cùng thân tâm, giống như nước suối. Người tọa thiền kia, vào thiền thứ hai, thân đó có thể biết, như nước không phải từ bốn phương chảy lại, không phải mưa xuống. Cho nên có thể biết, đó là giác quán diệt. Từ suối phun ra như vậy khiến thân tràn đầy chẳng khởi gợn sóng. Như vậy, từ định sinh hỷ lạc, thân danh sắc đây khiến đầy chẳng khởi loạn tâm, như dùng nước lạnh khiến thân trong mát khắp mọi chỗ. Như vậy từ định sinh hỷ lạc, tất cả thân danh sắc thành tựu đầy đủ quả báo tu định. Như vậy trời ở sinh công đức sáng đẹp. Thiền thứ hai đây có ba thứ: Hạ, trung và thượng, người tọa thiền đó tu hạ thiền, mạng chung sinh lên trời Thiểu Quang, thọ mạng hai kiếp, tu trung thiền sinh lên trời Vô Lượng Quang, thọ mạng bốn kiếp, tu thượng thiền, sinh lên trời Quang Diệu, thọ mạng tám kiếp, nhớ về lỗi lầm của thiền thứ hai.
Bấy giờ người tọa thiền đã tu thiền thứ hai, thân được tự tại, thiền thứ hai thô, thiền thứ ba tịch lặng. Biết lỗi lầm ở thiền thứ hai, thấy công đức thiền thứ ba, khởi thiền thứ ba. Thiền thứ hai lỗi lầm gì? Nghĩa là gần gũi giác quán là oán hại của định, cùng hỷ tràn đầy tương ưng nên thiền thành thô, vì hỷ thành tràn đầy tâm phấn khởi, không thể khởi các thiền chi khác. Nếu đắm trước ở hỷ thì là mất. Nếu biết là mất thì thành, chẳng mất. Nếu không kham chịu chứng đắc thần thông, hoặc ưa thích thiền thứ hai thì không thành tựu phần thắng, là biết lỗi lầm của thiền thứ hai. Thấy công đức thiền thứ ba, là sự đối trị của nó. Vì đã quán lỗi lầm thiền thứ hai, lại thấy công đức thiền thứ ba, tức dựa vào tướng Nhất thiết nhập để tác ý, khiến tâm hỷ diệt mất. Vì do tâm thọ trì tác ý như vậy, đối với hỷ lạc, nên không lâu do không hỷ lạc khiến tâm được yên định hiểu rõ thiền chi của thiền thứ ba. Người tọa thiền kia chẳng nhiễm hỷ nên đắc trí niệm về xả. Do thân thọ lạc đó là lời Thánh nói, Đắc trí tuệ niệm xả, vui trú ở chánh thọ thiền thứ ba. Đó là công đức Địa Nhất thiết nhập, chẳng nhiễm hỷ. Hỷ là trước đã phân biệt. Chẳng nhiễm là, đoạn hỷ được an trú ở xa. Thế nào là xả? Xả là hộ, chẳng thối chẳng tiến là tâm bình đẳng, đây gọi là xả. Do đó, xả có tám thứ đó là: Thọ xả, tinh tấn xả, kiến xả, Bồ Đề giác xả, vô lượng xả, sáu phần xả, thiền chi xả, thanh tịnh xả. Năm căn là Thọ xả. Có lúc chẳng tác ý mà vẫn xả tướng đó là tinh tấn xả. Khổ tập nay ta phải đoạn để thành tựu được xả, là Kiến xả. Tu Bồ đề giác đó là Bồ Đề xả. Từ, bi, hỷ, xả là Vô lượng xả. Mắt thấy sắc không khổ, không mừng thành xả, đó là Sáu phần xả. Không nhiễm nên thành an trú ở xả, đó là thiền chi xả. Xả niệm thanh tịnh là thanh tịnh xả. Trong tám xả nầy, trừ Thọ xả, còn lại bảy pháp xả đó là bình đẳng xả. Lại nữa, có ba thứ xả: Một là tương ưng thừa; hai là ít kinh doanh; (sửa trị) ba là không kinh doanh. Đối với tất cả việc hành thiền là phương tiện bình đẳng của thiền, chẳng gấp vội, chẳng trì hưởng, đó gọi là tương ưng thừa xả. Xả dưới đây gần thiền thứ hai có khả năng đoạn trừ tâm hớn hở phấn khích. Nếu tâm không sửa trị, đó gọi là xả ít sửa trị. Xả này gần thiền thứ ba, đó là có khả năng đoạn tất cả tâm phấn khích, vì chẳng động thân tâm, tâm không có sự sửa trị, đó gọi là vô sự xả. Xả nầy cũng gần thiền thứ tư. Xả là, tướng gì, vị gì, xứ gì? Bình đẳng là tướng, không bị đắm dính là vị, không sửa trị là khởi, không nhiễm là xứ.
Hỏi: Tại sao nói xả này ở thiền này chẳng phải thiền thứ hai và thiền thứ nhất?
Đáp: Nơi đó hỷ tràn đầy chưa diệt, tâm còn đắm trước, vì duyên hỷ lạc cho nên chưa diệt. Vì rất vui mừng khắp đầy thân tâm, cho nên ở hai thiền đầu chẳng nói xả. Vì chẳng tràn đầy nên ở thiền thứ ba này không nhiễm hỷ. Vì diệt sự đắm trước tướng nên thành khởi thiền chi, vì do thiền chi tự tại nên nói xả niệm chánh trí. Thế nào là niệm? Niệm tùy niệm, niệm kia nhớ biết, giữ chẳng quên. Niệm là, niệm căn niệm lực chánh niệm, đây gọi là niệm.
Hỏi: Niệm là, tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì?
Đáp: Tùy niệm là tướng, chẳng quên là vị, gìn giữ là khởi, bốn niệm là xứ. Thế nào là trí? Hiểu biết là tuệ, là chánh trí, đây gọi là trí. Do đó chánh trí có bốn thứ: Có nghĩa, là trí. Tự tướng là trí. Chẳng ngu si là trí. Hành xứ là trí. Có nghĩa là trí tức có bốn oai nghi. Tự tướng là, trí tức vào nơi Không xứ, trí. Không ngu si là trí tức biết tám pháp thế gian. Hành xứ là trí tức ở sự xứ. Ở trong kinh này, trí thuộc Hành xứ là có thể giữ lấy.
Hỏi: Trí là, tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì?
Đáp: Không ngu si là tướng, duyên bám vào đắm trước là vị, chọn lấy các pháp là khởi, chánh tác ý là xứ. Hỏi: Tại sao niệm chánh trí này tất cả xứ chẳng là vi diệu?
Đáp: Nếu người mất niệm thì chẳng khởi chánh trí, chẳng thể khởi hạnh bên ngoài thiền.
Hỏi: Tại sao nói thiền thứ ba, chẳng nói thiền thứ hai và thiền thứ nhất?
Đáp: Đối với Hỷ này là đứng đầu. Vì thiền chi thô diệt nên chánh định tế. Định này đi vào xứ vi tế, vì chánh trí này có thể khởi thiền thứ ba. Cho nên dùng thiền chi tự tại. Lại nữa thiền nầy dễ khởi đến xứ lạc kia địa ấy nhiều khí vị, cũng làm tâm ngu, đó gọi là xứ trước. Cho nên ở thiền thứ ba này nhận biết, chứng đắc tự tại có thể làm đoạn hỷ. Lại nói hỷ, lạc là cùng làm bạn thân, cho nên niệm trí nầy phân biệt, không hỷ, có lạc đối với sự thành trú. Như trâu nghé kia đi theo mẹ nó, không nắm hai tai, tự nhiên theo mẹ. Như vậy không hỷ có lạc, vì niệm trí phân biệt lạc được trú hành xứ. Nếu chẳng chậm phân biệt, trở lại vào nơi hỷ thành phần thối lui của thiền. Vì thiền chi đây tự tại nên nói niệm trí, vì xả niệm trí này thành tựu, cho nên có trí xả niệm dùng thân thọ lạc.
Hỏi: Tâm lạc là gì?
Đáp: Tâm nhiếp thọ là tâm lạc. Từ tâm xúc sinh nhiếp thọ là tâm lạc thọ, đó gọi là lạc.
Hỏi Thân là gì?
Đáp: Tưởng ấm, hành ấm, thức ấm, đây gọi là thân. Lạc này dùng thân thọ tiếp nhận gọi là thân thọ lạc.
Hỏi: Tại sao lạc đây không hỷ, chẳng phải dùng thân làm thọ?
Đáp: Ở thiền thứ ba lạc căn diệt, tại sao Đức Thế Tôn nói thiền thứ ba lạc căn diệt là lạc mà do Thánh nhân nói? Thánh là, Phật và đệ tử khai hợp chế giáo phân biệt hiển bày, đây gọi là điều Thánh nói.
Hỏi: Tại sao Thánh nói ở thân này chẳng phải xứ khác?
Đáp: Thiền thứ ba này dễ khởi đến xứ lạc kia, nhưng không thọ lạc, Thánh giả hướng về lạc an trú, là Thánh nhân thành tựu. Cho nên Thánh nhân nói: Thiền này thù thắng ở việc thành tựu xả. Lạc (vui) có niệm trú thì cũng lạc trong niệm xả. Đây đã phân biệt thành tựu vào trú ở thiền thứ ba. Thứ ba là nương thứ hai gọi là thứ ba. Thiền thứ ba là chánh trí xả niệm lạc nhất tâm, đây gọi là thiền thành tựu. Đi vào trú ở là kia đã được thiền thứ hai lìa một phần năm phần, thành tựu ba thứ thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng. Sinh ở cõi Trời Biến Tịnh, như Sơ thiền đã nói rộng. Sống trên trời là không trú hỷ lạc trú ở không hỷ, vượt khỏi đời sống con người gọi là sống trên trời. Do đó, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: "Như vậy, các Tỳ-kheo! Hoa-uất-ba-la trì, Hoa-phân-đà-lợi trì, hoặc hoa Uất-ba-la, hoa Ba-đầuma, hoa Phân-đà-lợi sinh ở nước tăng trưởng ở nước, từ nước mọc lên, trú ở trong nước, từ rễ đến ngọn khiến nước đầy trong đó. Như vậy Tỳ-kheo! Thân này vì không hỷ lạc làm cho tràn đầy nhuần đượm, vì lạc của không hỷ khắp đầy thân tâm, bởi thế giống như hoa-Uất-đa-la, Ba-đầu-la, Phân-đà-lợi, từ nước mọc lên. Như vậy vào thiền thứ ba, thân đó phải biết như ngó sen sinh trong nước, từ rễ đến ngọn tất cả đều ngập nước. Như vậy vào thiền thứ ba, thân đó dùng lạc không hỷ khắp đầy thân tâm tu quả báo của định. Như vậy sống trên trời sinh công đức trời Biến Tịnh. Thiền thứ ba này cũng thành ba thứ đó là: Thượng trung và hạ. Do đó, người tọa thiền tu hành hạ thiền mạng chung sinh lên trời Thiểu Tịnh, thọ mạng kia mười sáu kiếp. Tu hành trung thiền sinh lên trời Vô Lượng Tịnh, thọ mạng ba mươi hai kiếp. Tu hành thượng thiền sinh lên trời Biến Tịnh, thọ mạng sáu mươi bốn kiếp, nhớ lỗi lầm thiền thứ ba.
Bấy giờ người tọa thiền đã làm như vậy: thiền thứ ba thân được an vui tự tại bèn khởi thiền thứ tư vượt thiền thứ ba Thiền thứ ba thô, thiền thứ tư diệu thấy lỗi lầm thiền thứ ba, lại thấy công đức thiền thứ tư. Thiền thứ ba lỗi lầm gì? Đó là gần hỷ là kẻ oán, chánh định cho chi lạc là thô, chẳng thể chịu đựng để đắc thần thông, thiền thứ ba chẳng thành tựu phần thù thắng. Như vậy, thấy lỗi lầm thiền thứ ba, thấy công đức thiền thứ tư, là đối trị. Người tọa thiền kia đã thấy lỗi lầm thiền thứ ba, thấy công đức thiền thứ tư như vậy. Người ấy chỉ khởi tác ý tướng Nhất thiết nhập, khiến hiện diệt lạc diệt, vì do xả, tâm thọ trì, tác ý như vậy không bao lâu, vì do xả, tâm được an hiểu thiền chi thứ tư. Người tọa thiền kia vì đoạn lạc nên trước đã đoạn khổ. Vì mới đầu hỷ ưu (vui buồn) hết cho nên, niệm xả không khổ không vui, thanh tịnh thành tựu trú thiền thứ tư. Đó là công đức của Địa Nhất thiết nhập. Đoạn lạc, gọi là đoạn thân lạc, đoạn khổ gọi là đoạn thân khổ. Hỷ ưu (vui buồn) trước diệt thì hỷ gọi là tâm lạc, ưu gọi là tâm khổ, đều diệt hết vậy.
Hỏi: Lạc khổ ưu đã đoạn, xứ nào diệt?
Đáp: Lúc đạt Sơ thiền thì diệt, ở thiền thứ tư này, Phật nói khổ diệt.
Hỏi: Xứ nào khổ căn khởi không có thời gian khác diệt?
Đáp: Phật bảo các Tỳ-kheo: Sơ thiền thành tựu lìa dục là xứ khổ căn khởi không thời gian khác diệt.
Hỏi: Tại sao ở Sơ thiền khổ căn diệt?
Đáp: Vì hỷ tràn đầy nên thân vui, thân vui nên khổ căn diệt, vì đoạn đối trị, cho nên ở Sơ thiền khổ căn diệt; ở Thiền thứ hai ưu căn diệt, thành đoạn ưu căn, như lời Phật nói. Xứ nào hỷ căn khởi không thời gian khác diệt? Ở đây Tỳ-kheo vì giác quán diệt nên chánh thọ thiền thứ ba trụ, xứ đó ưu căn khởi không có thời gian khác diệt. Tại sao thiền thứ hai ưu căn diệt? Nếu có giác quán lâu dài tùy giác quán, thành thân biếng lười, thành tâm trễ nải. Nếu tâm trễ nải ưu căn tức khởi, ở thiền thứ hai giác quán diệt, nói ưu căn diệt; ở thiền thứ ba là xứ lạc diệt, như Đức Thế Tôn nói. Xứ nào lạc căn khởi không có thời gian khác diệt? Ở đây Tỳ-kheo nhàm chán ở hỷ vậy, trú vào chánh thọ thiền thứ ba, là xứ lạc căn đã khởi không thời gian khác diệt.
Hỏi: Tại sao ở thiền thứ ba lạc căn diệt?
Đáp: Hỷ diệt, mà hỷ làm nhân của lạc thành diệt, cho nên ở thiền thứ ba lạc căn diệt.
Hỏi: Nếu khổ lạc ưu ở thiền xứ thứ ba đã diệt, tại sao ở thiền thứ tư này nói diệt?
Đáp: Thiền thứ ba là đường dẫn đến thiền thứ tư, ở thiền thứ ba đã diệt thọ, cho nên ở thiền thứ tư nói diệt. Lại nữa vì chẳng khổ chẳng lạc thọ làm hiện đối trị cho nên nói đối trị của khổ, lạc là chẳng khổ chẳng lạc thọ. Lại nữa, thiền thứ tư cùng thọ đối trị thọ thâu hợp vậy. Lại nữa, xả phiền não hiện đoạn không sót. Chẳng khổ chẳng lạc thọ là, ý chẳng tiếp nhận tâm chẳng ruồng bỏ, đây gọi là chẳng khổ chẳng lạc thọ. Không khổ không lạc thọ là, tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì? Khoảng giữa là tướng; trú giữa là vị; trừ là khởi; hỷ diệt là xứ. Thế nào là xả niệm thanh tịnh? Đó nghĩa là trung tánh làm xả, đây gọi là xả. Niệm đó là niệm tùy niệm, chánh niệm, đây gọi là niệm. Dùng xả làm niệm thành phân minh trong sạch, đây gọi là xả niệm thanh tịnh.
Hỏi: Tại sao niệm này dùng xả phân minh trong sạch?
Đáp: Xả này lìa tất cả phiền não, thọ tương tợ tương ưng, nên thành tựu không động không sửa trị. Vì không có sửa trị nên nó tương ưng với xả. Niệm đây đến mức không động tức trở thành không sửa trị. Cho nên, niệm đây rồi thì xả thành phân minh trong sạch. Bốn là, y cứ thiền thứ ba kia, thiền thứ tư này thành tựu. Đi vào an định là, đây gọi là thiền thứ tư xả niệm nhất tâm, đây gọi là thiền thành tựu. Vào trú là, thành được thiền thứ tư kia, lìa một phần ba phần, thành tựu ba thứ thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, Quả báo ở trên trời là sinh ở trời Quả Thật, công đức như phần đầu đã nói rộng. Ở trên trời là, vui trong xả an trú, ra khỏi chỗ ở của loài người, đây gọi là ở trên trời. Cho nên, Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo, có người ngồi dùng tấm mền trắng phủ che thân từ đầu đến chân, tất cả phần thân phủ kín cả, như dùng mền trắng phủ khắp cả, Tỳ-kheo như vậy dùng tâm trong trắng (sạch) làm cho đầy tất cả phần thân. Vì tâm trong trắng nên không bị đắm trước thứ gì cả. Thí như có người lấy tấm mền trắng che phủ, người tọa thiền đó cũng làm như vậy, là lìa tất cả phiền não ở trước, nếu còn ở thiền thứ tư đều có thể biết. Như dùng tấm mền trắng phủ che thân, từ đầu đến chân, chẳng lạnh chẳng nóng, thời tiết điều hòa thân tâm thanh tịnh. Như vậy vào thiền thứ tư chẳng khổ, chẳng vui, đó là lạc của xả khiến khắp nơi thân tu quả báo của định. Như vậy ở trên trời sinh công đức của trời Quả Thật. Tu thiền thứ tư khi mạng chung phàm phu sinh lên trời Quả Thật. Nếu tâm nhàm chán thì sinh trời Vô tưởng, thọ mạng năm mươi kiếp. Nếu Sa-môn hoặc sinh trời Quả thật, hoặc sinh chỗ ngũ Tịnh cư, như vậy là công đức Quả Thật.
Hỏi: Tại sao ở thượng trung hạ cầu ba thiền xứ trước, nói có quả địa thù thắng, chẳng nói thiền thứ tư?
Đáp: Dựa vào sở đắc của ba thiền trước có thô có diệu, cho nên dùng chi trội nhất trong địa, nói quả địa thù thắng. Thiền thứ tư nầy đã đến bờ kia của chi. Từ đây không có chi nữa. Cho nên ở đây không nói đến quả địa thù thắng hơn.
Bấy giờ người tọa thiền nghĩ đến lỗi lầm của thiền thứ tư: ở thiền thứ tư đã được lạc tự tại, khởi định hư không vượt qua Sắc giới. Lại tư duy tiếp: Định Sắc thô, định hư không tế. Người tọa thiền kia thấy tai họa của sắc, lại thấy công đức của định hư không. Thế nào là tai họa ưa sắc? Như lấy gậy gộc đánh nhau, đấu tranh, nói đôi chiều, nói hư dối, cắt chặt tay chân v.v... đủ cả mọi sự, mắt đau đớn, hoạn họa nóng lạnh đói khát các khổ, đó là tai họa sắc dục. Thế nào là lỗi lầm của thiền thứ tư? Đây gần với Hỷ thành oán dựa vào sự của sắc, đó gọi là thô, khi đó đắm trước ưa thích (lạc) không thể thành tựu phần thù thắng. Dự vào hư không tịch tịch giải thoát, thì định kia thành thô, do sắc thấy lỗi lầm thiền thứ tư, thấy công đức ở định hư không, là đối trị của nó. Người tọa thiền kia đã thấy ở sắc như vậy, và thấy lỗi lầm thiền thứ tư, đã thấy công đức định hư không, niệm nhập vào thiền thứ tư rõ định vô biên hư không. Từ định này khởi, lên sự trừ bỏ tướng Địa Nhất thiết nhập, tu định hư không, tướng địa trở thành mất, ở chỗ hư không khởi tác ý vô biên. Nếu như đây hiện tác ý, thì chẳng bao lâu tướng địa thành mất. Từ tướng địa tâm khởi thành vượt qua hư không, do hư không nhập vào tướng nên tâm tự tại được an. Người tọa thiền kia đã khởi lên diệt tất cả tưởng tướng sắc có đối vì không tác ý về mọi tưởng, nên chánh thọ đi vào trú ở vô biên không xứ. Tất cả là, nói khởi lên không còn sót. Tướng sắc, đó thế nào là tướng sắc? Nhập định sắc giới tưởng trí chánh trí, đây gọi là tướng sắc. Vượt là, từ đây khởi diệt tướng có đối. Thế nào là tưởng có đối? Tưởng sắc, tưởng thanh, tưởng hương, tưởng vị, tưởng và xúc, đây gọi là tưởng có đối. Diệt là, các thứ tưởng kia hết sạch không tác ý. Các thứ tưởng là gì? Tưởng người không nhập định hoặc ý giới hòa hợp, hoặc ý thức giới hòa hợp tưởng trí chánh trí, đây gọi là các thứ tưởng. Các thứ tưởng này chẳng tác ý, đó gọi là các thứ tưởng chẳng tác ý.
Hỏi: Tại sao chỉ nói vượt tưởng, mà chẳng nói vượt thọ hành thức?
Đáp: Nếu vượt tưởng, thì tất cả đều cũng thành vượt, Tại sao? Nếu chẳng lìa tưởng, tâm chẳng được vượt. Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn nói vượt sự sắc, nên nói vượt tưởng sắc. Tất cả sự định đều do tưởng vậy.
Hỏi: Nếu chẳng như vậy thì nhập định cõi Sắc, tưởng có đối và các thứ tưởng chẳng phải là không có?
Đáp: Có người nhập định Sắc giới, có tưởng đối và các thứ tưởng, vì đoạn vậy.
Hỏi: Tại sao ở kia chẳng tu đạo?
Đáp: Vì nhàm chán ở sắc, cho nên ở kia chẳng diệt, ở kia chẳng tận vậy, vào thiền thứ nhất âm thanh như là gai đâm, Phật đã nói ở đây vì nhàm chán sắc dùng đạo tu hành, cho nên ở đây thành đoạn. Vì ở đây đoạn nên định vô sắc tưởng chẳng động hiện hành, tướng tịch giải thoát, như Ca-lan-Uất-đầu-lam-phất nhập định vô tưởng có năm trăm cổ xe qua lại trước mắt mà chẳng thấy chẳng nghe, cho nên nói ở xứ đã diệt. Do đó khởi tất cả tưởng sắc là nói đoạn tưởng pháp có đối của cõi sắc, diệt các thứ tưởng. Chẳng tác ý là, nói đoạn pháp của cõi Dục. Lại nữa, vượt tất cả tưởng sắc là, nói đạt được Vô sắc giới. Tưởng có đối bị diệt là, nói đoạn tưởng loạn bên ngoài định kia, là hiển hiện không động các thứ tưởng. Chẳng tác ý là, nói đoạn tưởng loạn bên trong định, nói hiển hiện tướng tịch tịch giải thoát.
Hỏi: Vô biên hư không đó, thế nào là không?
Đáp: Không đó là Không nhập, Không giới, không rỗng không, không bị bốn đại chạm đến, đây gọi là không. Đối với "không" chánh an tâm khiến đầy vô biên, đây gọi là vô biên. Vô biên không là, nhập không vô biên, nhập hư không xứ, tâm tâm sở pháp. Đây gọi là nhập hư không nhập, hư không là nghĩa gì? Hư không đó tánh vô biên, tánh vô biên đó không xứ, đây nói là nghĩa hư không. Như trú thiên xứ, gọi là thiên xứ, định hư không xứ kia, đây gọi là nhập hư không xứ. Chánh trú là đắc định hư không xứ, vượt ba phần sự sắc, thành tựu ba thứ thiện mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, tịch tịch cư trú, tu quả báo định. Công đức này sinh hư không xứ, như phần đầu đã nói rộng. Công đức sinh hư không là, đã tu hư không xứ, mạng chung sinh lên trời hư không thọ mạng hai ngàn kiếp.
Bấy giờ người tọa thiền kia lại nghĩ về lỗi lầm của định Hư không: đã được vui tự tại ở hư không xứ, bèn khởi nhập định Thức Nhất thiết nhập. Vượt Hư không Nhất thiết nhập, tư duy định hư không, là thô thấy Thức xứ là vi tế. Lại thấy lỗi lầm của hư không, thấy công đức ở Thức xứ. Thế nào là lỗi lầm nơi hư không? Định ấy gần sắc là kẻ oán, ở định Hư không là sự nên thành thô, cùng tưởng có đối và các thứ tưởng chẳng xa lìa nhau, tạo thành niệm kia đắm trước chẳng đạt được phần thù thắng. Như vậy, thấy lỗi lầm của hư không, thấy công đức của Thức Nhất thiết nhập, là đối trị của nó, rõ vô biên Thức định. Người tọa thiền kia đã thấy của lỗi lầm hư không như vậy, đã thấy công đức của Thức xứ, an tường niệm nhập, an tường niệm khởi, tu. Thức về hư không khiến đầy tác ý, khiến thức vô biên. Do tưởng thức xứ nên tâm thọ trì. Hiện tác ý như vậy, chẳng bao lâu, từ tưởng hư không xứ, tâm khởi vượt nơi thức xứ, do tưởng thức xứ mà tâm được an, người tọa thiền kia khởi tất cả hư không vậy, tư duy vô biên thức, thành tựu vào chánh thọ, trú tất cả thức xứ. Tất cả là, nói không còn sót. Vượt hư không xứ là, vượt hư không xứ. Vượt là chánh thọ, đó nghĩa là vượt tất cả hư không xứ. Vô biên thức là, chỉ hư không kia, vì thức tác ý khiến đầy vô biên, gọi là vô biên thức xứ.
Hỏi: Sắc chẳng phải sắc pháp, tại sao chấp là vô biên?
Đáp: Chỉ không có sắc pháp nên thành vô biên. Tại sao? Vì pháp chẳng phải sắc không có giới hạn, không thể nắm bắt được. Lại nữa, hư không vô biên nên nói vô biên. Vô biên là, nẩy ý vô biên nên thành vô biên, cho nên chẳng hại thức. Nhập xứ là, vào Thức xứ đó; tâm tâm sở pháp, đây gọi là Thức xứ. Thức xứ là nghĩa gì? Là thức vô biên. Đây gọi là thức vô biên. Thức xứ là như chỗ trời ở gọi là thiên xứ. Thức này đã thọ trì định, đây gọi là định thức xứ. Nhập chánh thọ xứ là, đắc định thức xứ kia là vượt hư không sự, ba phần thành tựu dùng ba thứ thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú nơi tịch tịch tu quả báo định. Công đức sinh thức xứ ấy, như phần đầu đã nói rộng. Sinh công đức thức nhập là, tu hành Thức xứ nhập, mạng chung sinh lên trời Thức xứ, thọ mạng bốn ngàn kiếp (phần Thức nhập đã xong)
Bấy giờ người tọa thiền đã được Thức xứ, lại nghĩ về lỗi lầm của định Vô biên thức; bèn lên tự tại muốn khởi lên định Vô sở hữu xứ vượt qua Thức xứ. Lại tư duy tiếp: định Thức xứ thô, định Vô sở hữu xứ tế. Lại thấy Thức xứ lỗi lầm, lại là tai họa công đức của vô sở hữu xứ. Thế nào là lỗi lầm của thức xứ? Định này gần hư không là oán, thức sự là thô, vì tư duy tưởng vô biên tạo thành niệm ki đắm trước kia, chẳng được phần thù thắng; công đức vô sở hữu xứ, là đối trị của nó. Người tọa thiền kia đã thấy Thức xứ lỗi lầm như vậy, lại thấy công đức Vô sở hữu xứ, bên từ định Thức xứ an tường mà khởi. Nghĩa là thức kia chẳng tu hành nữa, chẳng phân biệt, thành tựu thức kia diệt mất. Đã thấy tướng vô sở hữu xứ tự tại, tâm nguyện thọ trì hiện tác ý như vậy, chẳng bao lâu từ tưởng thức xứ khởi, vì do tưởng vô sở hữu xứ tâm đó được an, kia rõ định vô biên thức. Người tọa thiền vượt tất cả Thức xứ, thấy Vô sở hữu mà vào chánh thọ xứ an trú. Tất cả là, nói không còn sót. Vượt Thức xứ là, thành vượt thức này vượt vào chánh độ, đây gọi là vượt tất cả thức xứ. Vô sở hữu xứ là, không còn tu hành nữa, chẳng còn phân biệt nên thành mất thức kia, chỉ thấy, không có gì đây gọi là vô sở hữu xứ. Vào định vô sở hữu xứ tâm tâm sở pháp, đây gọi là vô sở hữu xứ. Là nghĩa gì? Thức ấy không có tự tánh, là không có gì, vô sở hữu xứ là, nói thọ trì, nói vô sở hữu thọ trì chánh định. Đây gọi là định vô sở hữu xứ. Vào chánh thọ là thành được định vô sở hữu, vượt ba phần của sự thức, thành tựu ba thứ thiện, mười tướng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú ở tịch tịch, tu quả báo định. Công đức sinh Vô sở hữu xứ, như phần đầu đã nói rộng. Sinh công đức vô sở hữu là, tu hành định vô sở hữu xứ, mạng chung sinh lên trời Vô sở hữu, thọ mạng sáu ngàn kiếp. (định vô sở hữu xứ xong).
Bấy giờ người tọa thiền ở vô sở hữu xứ đã được tự tại, lại nghĩ về lỗi lầm ở Vô sở hữu xứ, bèn muốn khởi định Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vượt vô sở hữu xứ. Lại tư duy tiếp: vô sở hữu xứ thô, thấy phi tưởng phi phi tưởng xứ tế, lại thấy Vô sở hữu có lỗi lầm, lại thấy công đức của định phi tưởng phi phi tưởng xứ. Thế nào là lỗi lầm của định Vô sở hữu xứ? Định này gần thức là oán, cùng tưởng phân biệt chung khởi nên thành thô, thành niệm kia đắm trước chẳng được thù thắng trên hết. Thấy lỗi lầm của Vô sở hữu xứ như vậy, lại thấy công đức của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, là đối trị của nó. Lại thấy tưởng này là tai hoạn là ung nhọt là gai gốc, vô tưởng là chánh là tịch tịch là diệu, nên gọi là phi tưởng phi phi tưởng. Người tọa thiền kia đã thấy như vậy, niệm nhập vô sở hữu xứ an tường mà khởi, vô sở hữu xứ kia tịch tịch tác ý tu hành các định còn lại. Hiện tác ý như vậy, chẳng bao lâu, từ tưởng vô sở hữu xứ tâm khởi, do phi phi tưởng xứ mà tâm được an, hiểu rõ định phi phi tưởng. Người tọa thiền vượt tất cả vô sở hữu xứ vậy, thành tựu vào trú Phi phi tưởng xứ. Tất cả là, nói không còn sót. Vượt Vô sở hữu xứ là, thành tựu vượt Vô sở hữu xứ siêu việt vào chánh độ, đây gọi là vượt tất cả Vô sở hữu xứ. Phi phi tưởng là tịch tịch của xứ Vô sở hữu kia mà tác ý tu hành các định khác, đây gọi là Phi phi tưởng xứ, phi phi tưởng xứ là, vào phi phi tưởng xứ tâm tâm sở pháp, đó gọi là phi phi tưởng xứ. Phi phi tưởng xứ tâm tâm sở pháp, đó gọi là phi phi tưởng xứ. Phi phi tưởng xứ nghĩa là gì? Diệt tưởng một cách phân minh trở thành không tưởng hoặc tưởng còn sót thật vi tế. Thành tựu phi tưởng phi phi tưởng là ở xứ đó chính gọi là Phi phi tưởng. Vào chánh trú là, thành được định Phi phi tưởng xứ, vượt Vô sở hữu xứ ba phần, thành tựu ba thứ thiện, mười tưởng đầy đủ, hai mươi hai công đức tương ưng, trú nơi tịch tịch rõ tu quả báo định, do công đức đó sinh lên trời phi phi tưởng, như phần đầu đã nói rộng. Công đức sinh lên trời Phi phi tưởng đó là, tu hành định Phi phi tưởng xứ, mạng chung sinh lên trời Phi phi tưởng, thọ mạng tám vạn bốn ngàn kiếp.
Hỏi: Tại sao nói Phi phi tưởng xứ? Tại sao không nói là Thức xứ? Đáp: Lìa chấp vô biên, vì khởi tưởng vi tế nên, chẳng thành Thức xứ.
Hỏi: Tại sao dựa vào định này mà không thành lậu tận?
Đáp: Lìa tưởng một cách phân minh, nhưng chẳng thể được kiến đạo. Lại nữa, định này rất vi tế, phi phi tưởng không khả năng phân biệt, cho nên chẳng thành lậu tận xứ (định phi phi tưởng đã xong).
Lại nói rõ về nghĩa trên.
Hỏi: Tại sao nói rải rác về định xứ đó?
Đáp: Gọi đó là diệt thanh (= tiếng) điên đảo, khởi vượt hành bên ngoài giác thọ, nghi không nên đắc. Diệt là, vào thiền thứ nhất, ngôn ngữ đoạn dứt. Vào thiền thứ tư, hơi thở ra vào dứt, Lần lượt diệt thanh (tiếng) là nếu người nào nhập định nghe có âm thanh thì chẳng được nói năng. Tại sao? Người nhập định, nhĩ thức không hòa hợp vậy. Lại nữa, người nhập định cõi sắc, thì thanh (tiếng) đó thành loạn, như lời đức Thế Tôn nói: người nhập định tiếng nói như kim chích họ. Điên đảo là, vào Địa Nhất thiết nhập, tưởng chẳng phải địa mà làm tưởng địa.
Hỏi: Nếu vậy tại sao không thành điên đảo?
Đáp: Bốn tưởng điên đảo này chẳng khác vậy, biết tưởng địa nầy là tướng nó, cho nên chẳng thành điên đảo. Khởi là, do năm nhân duyên từ nơi định khởi: vì oai nghi khổ, vì rất nhiều cảnh giới, vì chướng ngại khởi, vì phương tiện chẳng bình đẳng vì tùy ý. Nếu vào định vô sắc, thì vì rất nhiều cảnh giới chẳng được khởi, trú chẳng động cho nên, nhập thiền định diệt và nhập quả định, vì mới đầu làm được khởi, chẳng do các nhân khác. Vượt là, vượt có hai thứ: Phần vượt và sự vượt. Từ thiền cõi sắc vượt lên định cõi sắc, đó gọi là phần vượt. Từ thiền cõi sắc vượt lên định, cõi Vô sắc, lại từ định cõi Vô sắc vượt lên định cõi Vô sắc, đó gọi là sự vượt. Hành bên ngoài là tất cả hành bên ngoài định thành tựu năm phần. Giác là, đẳng tánh thiền thứ hai, trừ vô gián thành không giác quán. Thọ là, đẳng tánh thiền thứ tư, trừ vô gián cùng xả khởi, có người ưa thích tương tợ vô gián. Nghi là, chưa đoạn tất cả các Cái phủ: tham dục v.v... trú phi tưởng xứ, nói ở hữu dư, như sợ rắn độc leo lên cây. Có bốn thứ người chẳng được khởi định, hẳn đọa vào cõi ác, không nhân, tạo ngũ nghịch, tà kiến (tán cú đã xong và Địa Nhất thiết nhập đã hết).
Hỏi: Thủy Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Tâm duyên tướng nước, đây gọi là Thủy Nhất thiết nhập. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu hành, ở Thủy Nhất thiết nhập. Lấy chuyên ý làm tướng; chẳng trừ tưởng nước là vị; tâm chẳng khởi hai ý là xứ, đối với Thủy Nhất thiết nhập có năm công đức, chẳng cùng (bất cộng) đó là đối với đất thì chảy ra, mất đi tự tại, đối với cung điện núi đất khiến động, khiến tuôn mưa, khiến thân có thể phát ra nước, khiến hóa sông biển. Ở Địa Nhất thiết nhập đã nói công đức thì Thủy Nhất thiết nhập cũng chung có ánh sáng. Tu Thủy Nhất thiết nhập, nhìn bất cứ đâu cũng đều thấy nước. Tại sao giữ (chọn) lấy tướng nước đó? Nếu giữ lấy tướng Thủy Nhất thiết nhập, thì đối với nước hiện có, giữ lấy tướng đó, hoặc nước tự nhiên, hoặc nước tự tạo ra. Khi ấy người tọa thiền lâu, ở nơi không phải nước mà giữ lấy tướng nước, người kia nhìn đâu cũng thấy nước. Nước, ở giếng, bình, ao, rạch, sông, hồ, đầm, biển, các đối tượng quán, ấy tùy ý liền thấy phần tướng nước kia được khởi, chẳng như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền, ở chỗ khởi tác mới giữ lấy tướng, đối với nơi chẳng khởi tác thì không khả năng tu rõ phương tiện Thủy Nhất thiết nhập. Người tọa thiền kia, từ mới đầu dùng quán tịch tịch xứ như vậy, hoặc chùa nhà hoặc hang đá hoặc dưới gốc cây, nơi đó chẳng tối chẳng có ánh sáng mặt trời nóng đốt, không bụi không gió, không ruồi muỗi v.v... không bị các chướng ngại, ở nơi như vậy, hoặc bát hoặc chậu chôn dưới đất sạch, khiến cùng đất bằng phẳng, giáp vòng xoay một tầm, đổ đầy nước mưa, chẳng xen tạp các sắc khác, khiến nước đầy bát chậu, nên ở nơi ấy khởi ý tưởng về nước, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng xa lìa tạp loạn. Ngoài ra các sự khác đều như Địa Nhất thiết nhập, đã nói rộng cho đến phi phi tưởng xứ (Thủy Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Hỏa Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì xứ gì công đức gì? Tại sao giữ lấy tướng ấy?
Đáp: Tâm hướng về tướng hỏa, đây gọi là Hỏa Nhất thiết nhập. Lúc đó tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu hành, tướng hỏa. Vận dụng linh hoạt ở phóng ý làm tướng; chẳng trừ tưởng hỏa làm vị, tác ý vô song làm xứ. Công đức gì? Có năm công đức bất cộng, đối với Hỏa Nhất thiết nhập: sửa trị, dấy khởi, khói lửa do tưởng quang minh dấy khởi, diệt ánh sáng các sắc khác, tùy ý đốt cháy; do tạo tưởng quang minh nên hiểu rõ Hỏa giới. Như Địa Nhất thiết nhập, đã nói công đức. Do tu Hỏa Nhất thiết nhập nên nhìn đâu cũng thấy lửa cả. Tại sao giữ tướng đó? Nếu hiện tại giữ lấy Hỏa Nhất thiết nhập, thì giữ lấy tướng hỏa, hoặc do mình tạo, hoặc lửa tự nhiên. Người tọa thiền lâu giữ tướng lửa tự nhiên, nhìn đâu cũng thấy như lửa cỏ, lửa củi, hoặc lửa rừng, hoặc lửa nhà lửa cháy phừng phừng. Từ đây bắt đầu để tác quán, hoặc tự ưa thích hay chẳng ưa thích, tức thấy tướng hỏa phần kia bốc lên phần kia không, như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền chỉ ở chỗ khởi tác mới giữ lấy tướng, không khả năng đối với chỗ chẳng khởi tác mà giữ tướng làm sáng tỏ phương tiện tu Hỏa Nhất thiết nhập. Người mới tọa thiền ban đầu sửa trị, việc đoạn tiệt củi cháy, chất đống đốt cháy ở nơi thanh tịnh, hoặc lúc mặt trời ló dạng hoặc lúc mặt trời lặn khuất, từ dưới cháy lên, chẳng tác ý đến cỏ, củi. Ở trên khói lửa đều không tác ý. Ở trong đống cháy ấy nẩy ý nghĩ lửa, dùng ba hành thủ lấy tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn như phần đầu đã nói rộng (Hỏa Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Phong Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Tâm duyên tướng phong (gió), đây gọi là Phong Nhất thiết nhập, tu tâm trụ bất loạn gọi là tu Phong Nhất thiết nhập. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng trừ tướng phong làm vị; tác ý vô song (một mình) làm xứ. Công đức gì? Có ba công đức? Chẳng giống ở Phong Nhất thiết nhập: hành tự tại, có khả năng khiến phong khởi, tác ý thọ trì khiến mát mẻ, như công đức Địa Nhất thiết nhập đã nói. Tu phương tiện phong Nhất thiết nhập, tại sao giữ tướng đó? Người mới tọa thiền hiện giữ lấy Phong Nhất thiết nhập, dùng hai hành chấp giữ tướng phong, hoặc thấy hoặc xúc. Tại sao dùng thấy chấp giữ tướng? Người tọa thiền kia, hoặc ở nơi vườn mía hoặc nơi rừng trúc hoặc chỗ nhiều cỏ, vì gió kích động, người ấy đã thấy, bèn tưởng nghĩ về gió, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn. Như vậy là đã thấy, chấp giữ tướng. Tại sao dùng xúc chấp giữ tướng? Người mới tọa thiền tịch tịch như vậy, nơi tọa thiền nẩy ý tưởng theo gió bay đi, nơi đó làm lỗ xuyên qua vách tường, trúc lau làm ống đặt trong đó, ngồi ngay chỗ ống, khiến gió chạm vào thân, tác ý chấp giữ tướng gió. Như vậy là dùng xúc giữ tướng. Nếu người tọa thiền, lâu thì thấy gió nổi khắp nơi. Nếu đi đứng ngồi nằm gió chạm vào thân, tùy chỗ nào gió lắc động ban đầu đã tác quán, hoặc tự ưa thích hay chẳng ưa thích, tức thấy phần tướng gió kia nổi lên, không như người mới tọa thiền (phong Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Xanh Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Tâm duyên ở tướng sắc xanh, đây gọi là Xanh Nhất thiết nhập. Tâm kia trú chẳng loạn, đây gọi là tu ở tướng xanh. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng trừ tưởng xanh làm vị, tác ý vô song làm xứ. Công đức gì? Có năm công đức, chẳng đồng ở xanh Nhất thiết nhập: tâm duyên theo sát, đắc Tịnh giải thoát, được xanh trừ nhập như hoa xanh, tâm thọ trì khiến hóa các thứ sắc xanh, tu xanh Nhất thiết nhập, nhìn đâu cũng thấy xanh. Tại sao giữ tướng đó? Giữ tướng xanh Nhất thiết nhập, là hoặc nơi tạo tác, hoặc nơi tự nhiên, người tọa thiền lâu giữ tướng ngay nơi chẳng khởi tác. Người tọa thiền kia nhìn thấy khắp, hoặc hoa xanh, hoặc áo xanh hoặc sắc xanh, ở trước mắt đó thường thấy, tùy hoặc ưa thích, hoặc chẳng ưa thích, tức thấy tướng phần xanh kia được khởi, chẳng như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền giữ tướng ở nơi có khởi tác, không khả năng giữ tướng ở nơi chẳng khởi tác mà, tu phương tiện xanh Nhất thiết nhập. Người tọa thiền kia ở y phục ở bảng ở nơi vách, dùng sắc hoa A-đa-tư, sắc xanh, dùng sắc này làm hoa Mạn-đà-la, hoặc ba góc hoặc bốn góc, dùng sắc khác vây bên ngoài đó, ở đây khởi tưởng xanh, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn. Ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng (xanh Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Vàng Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng ấy?
Đáp: Tâm duyên ở tướng sắc vàng, đây gọi là Vàng Nhất thiết nhập. Tu tâm kia trú chẳng loạn, đây gọi là tu, Vàng Nhất thiết nhập. Lấy phóng ý làm tướng; chẳng trừ tướng vàng là vị, tác ý vô song là xứ. Công đức là gì? Có năm công đức chẳng đồng ở Vàng Nhất thiết nhập: tâm duyên theo, đắc Tịnh giải thoát, được vàng trừ nhập tác ý, như hoa vàng ròng các thứ sắc vàng. Tu Vàng Nhất thiết nhập, nhìn đâu cũng thấy sắc vàng. Tại sao giữ tướng đó? Hiện thủ giữ Vàng Nhất thiết nhập, thì giữ tướng vàng, hoặc tự tạo tác, hoặc tự nhiên. Khi đó giữ tướng ngay cả nơi chẳng khởi tác màu vàng, người tọa thiền kia thấy sắc vàng khắp nơi hoặc hoa vàng hoặc y vàng sắc vàng. Từ đây thường thấy, tùy theo ưa thích hay chẳng ưa thích, liền thấy tướng phần vàng kia được khởi, chẳng phải như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền thủ lấy tướng vàng ở nơi đã khởi tác màu vàng, không khả năng, tu phương tiện vàng Nhất thiết nhập, ở nơi chẳng khởi tác màu vàng. Người tọa thiền hoặc y phục hoặc bảng hoặc vách tường, dùng sắc hoa Ca-ni-ca sắc vàng làm hoa Mạn-đà-la hoặc ba góc hoặc bốn góc, sắc khác vây bên ngoài đối với tướng vàng ấy, khởi tướng vàng dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng trừ loạn. Ngoài ra, như phần đầu nói rộng (vàng Nhất thiết nhập xong).
Hỏi: Đỏ Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ lấy tướng đó?
Đáp: Tâm duyên ở tướng sắc đỏ, đây gọi là Đỏ Nhất thiết nhập. Tu tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu ở tướng đỏ. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng lìa tướng đỏ là vị, tác ý vô song là xứ. Công đức gì? Có bốn công đức chẳng cùng ở Đỏ Nhất thiết nhập: tùy tâm, đắc Tịnh giải thoát, được đỏ trừ nhập, hóa các thứ sắc đỏ. Công đức chẳng cùng là: như nói ở Địa Nhất thiết nhập. Tu đỏ Nhất thiết nhập, nhìn đâu cũng thấy đỏ cả. Tại sao giữ tướng đó? Hiện giữ Đỏ Nhất thiết nhập, thì giữ ở tướng đỏ, hoặc tự tạo tác, hoặc tự nhiên. Người tọa thiền lâu giữ tướng nơi tự nhiên, đâu đâu cũng đều thấy đỏ hoặc hoa đỏ, hoặc y phục đỏ hoặc sắc đỏ. Từ đây bắt đầu thường thấy, tùy ưa thích hay chẳng ưa thích, liền thấy tướng phần đỏ kia được khởi, chẳng như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền giữ tướng thiền ở nơi đã khởi tác chẳng có khả năng khởi tu phương tiện Đỏ Nhất thiết nhập ở nơi không khởi tác. Người tọa thiền kia, hoặc nơi y phục, hoặc nơi bảng, hoặc nơi vách tường, như hoa bàn-thâuthời-bà sinh màu đỏ, hoặc dùng chu đan làm hoa Mạnđà-la, hoặc ba góc hoặc bốn góc, hoặc sắc khác ngăn cách bên ngoài, ở đây khởi tưởng tướng đỏ, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn, như phần đầu đã nói rộng (đỏ Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Trắng Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Tâm duyên ở sắc trắng, đây gọi là Trắng Nhất thiết nhập. Tu đó tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu ở tướng trắng. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng lìa tưởng trắng làm vị, tác ý vô song làm xứ. Công đức gì? Có tám công đức, chẳng cùng (bất cộng) ở trắng Nhất thiết nhập: tùy tâm đắc Tịnh giải thoát, được trắng trừ nhập, nhiếp phục biếng lười ngủ nghỉ, trừ tối làm sáng, trắng Nhất thiết nhập được khởi thiên nhãn. Ngoài ra, các công đức khác như đã nói ở Địa Nhất thiết nhập. Tu Trắng Nhất thiết nhập, nhìn đâu cũng thấy trắng. Tại sao giữ tướng đó? Hiện giữ Trắng Nhất thiết nhập, thì giữ tướng trắng, hoặc tự tạo, hoặc tự nhiên. Người tọa thiền lâu đối với chỗ tự nhiên giữ tướng, họ thấy trắng khắp nơi, hoặc hoa trắng, hoặc y phục trắng, hoặc sắc trắng, hoặc ánh sáng vầng trăng, hoặc ánh sáng mặt trời, hoặc sắc muôn sao hoặc gương tròn. Từ đó bắt đầu thường thấy, tùy ưa thích hay chẳng ưa thích, liền thấy tướng phần trắng kia được khởi, chẳng như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền giữ tướng ở nơi đã khởi tác không thể giữ tướng ở nơi không thể khởi tác và tu phương tiện Trắng Nhất thiết nhập. Người tọa thiền kia, hoặc nơi y phục, hoặc bảng, hoặc nơi vách tường, dùng sắc rất trắng tinh v.v... dùng sắc này làm hoa Mạn-đà-la, hoặc ba góc hoặc bốn góc, dùng sắc khác giới hạn bên ngoài đó. Nơi tướng trắng nầy, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn, như phần đầu đã nói rộng (trắng Nhất thiết nhập xong).
Hỏi: Quang minh (ánh sáng) Nhất thiết nhập là gì, Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Tâm tạo tác tướng quang minh đây gọi là Quang minh Nhất thiết nhập. Vị kia tu tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu ánh sáng. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng lìa tưởng ánh sáng làm vị; tác ý vô song làm xứ. Công đức gì? Giống công đức của Trắng Nhất thiết nhập. Tu ánh sáng Nhất thiết nhập, đâu đâu cũng thấy ánh sáng. Tại sao giữ tướng đó? Hiện giữ Ánh sáng Nhất thiết nhập, thì giữ lấy tướng ánh sáng, hoặc tạo tác hoặc tự nhiên. Người tọa thiền lâu giữ tướng, tự nhiên họ thấy khắp sáng, hoặc ánh sáng vầng trăng hoặc ánh sáng mặt trời, hoặc ánh sáng đèn hoặc ánh sáng châu ngọc. Từ đó bắt đầu thường thấy, tùy ưa thích hay chẳng ưa thích, liền thấy phần ánh sáng kia liền khởi, chẳng như người mới tọa thiền. Người mới tọa thiền chỉ giữ lấy tướng ở nơi đã khởi tướng, chứ không thể ở nơi chẳng khởi tướng mà giữ lấy tướng và tu phương tiện ánh sáng Nhất thiết nhập. Người tọa thiền kia như vậy hoặc nương vách tường đông tây ngồi, khiến nước đầy bát, đặt yên nơi ánh sáng mặt trời chiếu đến, từ ánh sáng người kia khởi Mạn-đà-la, từ Mạn-đà-la ánh sáng khởi dính ánh sáng vách tường nơi thấy tướng ánh sáng, dùng ba hành giữ tướng, dùng bình đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn, như phần đầu đã nói rộng (quang minh Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Hư không Nhất thiết nhập là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Hư không Nhất thiết nhập có hai thứ: Có hư không lìa sắc, có hư không chẳng lìa sắc. Tướng xứ của Hư không nhập, gọi là hư không lìa sắc; tướng hư không của giếng, hang là hư không chẳng lìa sắc. Tu tưởng này tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu ở tưởng hư không. Lấy phóng ý làm tướng, chẳng lìa tưởng hư không là vị; tác ý vô song là xứ. Công đức gì? Có hai công đức chẳng cùng, ở Hư không nhập: nơi chướng ngại, đều không cản trở, như tường vách núi v.v... Thân di chuyển vô ngại, tự tại không sợ. Tại sao giữ tướng đó? Đối với Hư không nhập thì tướng hư không, hoặc nơi tạo tác, hoặc nơi tự nhiên. Người tọa thiền lâu ở xứ tự nhiên giữ tướng, thấy khắp nơi, hoặc ở lỗ hang, hoặc khoảng cửa sổ, hoặc giữa cành cây. Từ đó thường thấy, tùy ưa thích hay chẳng ưa thích, tức thấy tướng hư không phần kia liền khởi, chẳng như người mới tọa thiền. người mới tọa thiền giữ tướng ở nơi đã khởi tác, không thể giữ tướng ở nơi không khởi tác. Người tọa thiền hoặc ở phòng hoặc ở ngoài phòng không gì chướng ngại, thấy lỗ hang tròn nghĩ đến hư không, dùng ba hành giữ tướng, dùng đẳng quán, dùng phương tiện, dùng lìa loạn, ở hư không Nhất thiết nhập, sinh thiền thứ tư thiền thứ năm. Ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng (hư không Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Thức Nhất thiết nhập là gì?
Đáp: Định của Thức xứ, đây gọi là Thức Nhất thiết nhập, ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (mười Nhất thiết nhập đã xong).
Hỏi: Đối với Nhất thiết nhập đó, tại sao nói rải rác?
Đáp: Nếu một tướng được tự tại, thì tất cả các tướng khác đều tác ý theo. Nếu đối với một xứ Nhất thiết nhập, ở Sơ thiền được tự tại thì kham nhậm các Nhất thiết nhập khác, có khả năng khởi thiền thứ hai, như vậy, thiền thứ hai được tự tại, có khả năng khởi thiền thứ ba, thiền thứ ba được tự tại, có khả năng khởi thiền thứ tư.
Hỏi: Đối với các thứ Nhất thiết nhập tại sao là tối thắng?
Đáp: Bốn sắc Nhất thiết nhập, đó là tối thắng, thành tựu giải thoát vậy. Vì đắc trừ nhập nên nói là Nhất thiết nhập thắng, vì tạo ra quang minh nên tâm được tự tại. Đối với tám Nhất thiết nhập và tám định, dùng tám mươi sáu hành an tường mà khởi, tùy theo chỗ ưa thích, tùy theo định ưa thích tùy ý không chướng ngại, lần lượt lên, lần lượt xuống, lần lượt lên xuống khiến mỗi mỗi tăng trưởng, hoặc cùng chung khiến tăng trưởng, hoặc trung ít, hoặc phần ít, hoặc sự ít, hoặc phần sự ít, hoặc phần cùng chung, hoặc sự cùng chung, hoặc phần sự cùng chung. Tùy chỗ có ưa thích là, hoặc ở làng, hoặc ở A-lan-nhã, là nơi có sự ưa thích đó, là nhập tam muội. Như sự ưa thích, đó là thiền được ưa thích, là nhập thiền định. Đúng như thời gian ưa thích nghĩa là tùy thời gian mà ý ưa thích nhập tam muội, hoặc nhiều thời gian nhập chánh thọ. Lần lượt lên là, từ Sơ thiền nhập định lần lượt cho đến phi phi tưởng xứ. Lần lượt xuống là, từ mới đầu vào phi tưởng định, lần lượt cho đến Sơ thiền. Lần lượt lên xuống là, vượt nơi qua lại, từ Sơ thiền vào Thiền thứ ba, từ thiền thứ ba vào thiền thứ hai, từ thiền thứ hai vào Thiền thứ tư, như vậy cho đến vào phi phi tưởng định. Khiến mỗi mỗi tăng trưởng là, lần lượt nhập Thiền thứ tư, hoặc lên hoặc xuống. Đều khiến tăng trưởng là, nhập Thiền thứ tư, từ hư không này vào thiền thứ ba, như vậy hai thứ nhập định. Trung ít là đã vào Sơ thiền, từ đây vào phi tưởng xứ, từ đây vào thiền thứ hai, từ đây vào vô sở hữu xứ. Như vậy, hiện vào chánh thọ, có thể hoàn thành hư không xứ. Phần ít là, thiền thứ nhất ở tám Nhất thiết nhập vào định. Sự ít là, ở Nhất thiết nhập thứ hai vào nơi tám định. Phần sự ít là, gọi là định thứ hai và Nhất thiết nhập. Phần chung cùng là, ở Nhất thiết nhập thứ ba vào, hai thiền thứ hai. Phần sự chung là, ở chỗ hai Nhất thiết nhập thứ hai vào thiền thứ hai. Phần sự chung cùng là, là hai câu đây (tán cú đã xong).
Hỏi: Tăng trưởng tướng là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ lấy tướng đó?
Đáp: Tăng trưởng tướng là, khắp đầy nhất thiết xứ, giống như mở đãy tràn đầy thây chết hôi thối ở trong, đây gọi là sình trướng. Tướng sình trướng, đó dùng chánh trí biết, đây gọi là tưởng sình trướng. Tu tưởng này tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu ở tưởng sình trướng theo nhau quán làm tướng, nhàm chán tưởng sình trướng là vị, hôi thối bất tịnh tác ý là xứ. Công đức gì? Tưởng sình trướng có chín công đức. Được niệm thân bên trong, được tưởng vô thường, được tưởng chết, nhiều nhàm chán nhiếp phục dâm dục, đoạn kiêu sắc, đoạn kiêu không bệnh, hướng thiện, hướng đến Đề hồ. Tại sao giữ tướng? Người mới tọa thiền hiện thủ tưởng sình trướng bất tịnh, dùng hành không hai, dùng niệm chẳng động, chẳng ngu si, dùng vào bên trong các căn, dùng tâm chẳng ra bên ngoài, để qua xứ kia, nơi đó bất tịnh có các thây chết, trụ ở chỗ nơi đó rời chỗ ngược gió. Đối tướng bất tịnh chẳng xa chẳng gần, hoặc dựa hoặc ngồi. Người tọa thiền kia, hoặc dựa, hoặc ngồi gần nơi bất tịnh, hoặc đá hoặc đồi đất, hoặc cây hoặc cây trụi lá cành hoặc dây leo, dùng làm tướng để suy tư, đá này bất tịnh, đây là tướng bất tịnh, đá này như vậy thì đồ đất v.v... cũng vậy. Đã dùng làm tướng rồi làm sự, dùng mười hành, tướng sình trướng bất tịnh. Từ tự tánh đó, tu hành phải quán, dùng sắc dùng hình nam nữ, dùng phương dùng xứ, dùng phân biệt dùng lóng, dùng huyệt, dùng hố, dùng đất bằng, dùng bình đẳng quán vào tất cả nơi. Dùng sắc là, nếu đen quán là đen. Nếu chẳng đen chẳng trắng thì quán là chẳng đen chẳng trắng. Nếu trắng thì quán trắng. Nếu da nếu da thúi thì quán đó là da thúi. Dùng hình là, hoặc hình nữ hoặc hình nam tùy quán, hoặc trẻ hoặc lớn hoặc già. Tùy quán là nếu cao quán là cao, nếu thấp quán là thấp, nếu béo quán là béo, nếu nhỏ thì quán là nhỏ. Dùng phương là ném đầu ở phương này, ở phương này ném tay, chỗ nầy coi là chân, chỗ nầy coi là lưng, chỗ nầy coi là bụng, ở đây là chỗ ta ngồi. Phương này là tướng bất tịnh. Như vậy tùy quán, dùng nơi ánh sáng ở nơi ánh sáng này là nơi ném tay, ở dưới ánh sáng này là nơi ném chân, ở chỗ ánh sáng đây là nơi ném đầu, ở chỗ ánh sáng này là nơi ta ngồi, ở chỗ ánh sáng này là nơi tướng bất tịnh, dùng phân biệt quán, từ đầu đến chân, từ dưới đến đầu, tóc da là ngoài, là một khối phân nhơ, dùng phân biệt quán. Quán cho là các lóng là, ở hai tay sáu lóng, ở hai chân sáu lóng, lóng đầu gối, lóng cổ sau, đây gọi là mười bốn lóng lớn. Dùng hang huyệt là miệng hoặc hả ra hoặc ngậm lại, tùy quán mắt hoặc mở hoặc nhắm, tùy quán lỗ hang khoảng giữa chân khoảng giữa tay. Dùng hố, dùng đất bằng phẳng là, tướng bất tịnh tùy nơi, hoặc ở chỗ trống, hoặc ở trên đất, quán theo nơi ấy. Lại nữa, ta đang ở nơi trống trải, tướng bất tịnh trên đất, hoặc tướng bất tịnh dưới, ta ở trên đất, quán theo cả thảy nơi. Ta không chấp thủ gần xa, hoặc hai tầm hoặc ba tầm tùy quán. Người tọa thiền kia, tất cả như vậy chánh tùy quán thấy tướng kia. Lành thay! Lành thay! Thọ trì như vậy, dùng thiện tự an. Người tọa thiền kia đã khéo giữ tướng, đã khéo thọ trì, đã khéo tự an, hành chỉ một không hai, vì niệm chẳng động, tâm chẳng ngu si, các căn vào bên trong, tâm chẳng ra bên ngoài. Đường xá đi lại, hoặc đi hoặc ngồi, quán bất tịnh kia tâm thường thọ trì. Hành không hai là nghĩa gì? Là được thân vắng lặng. Niệm niệm chẳng động là, vì chẳng ngu si, vì các căn vào bên trong, tâm chẳng ra bên ngoài. Đường sá đi lại là nghĩa gì? Là được thân vắng lặng. Lìa gió ngược là nghĩa gì? Là lìa hơi thúi. Ngồi không giữ xa, gần nghĩa gì? Nếu giữ xa thì trừ bỏ không thành. Nếu giữ gần thì sự nhàm chán không thành, chẳng thấy tánh đó. Vì chẳng thấy tánh đó, nên tướng kia không khởi, cho nên chẳng thủ gần chẳng thủ xa. Ngồi quán khắp tất cả tướng là nghĩa gì? Chẳng ngu si gọi là chẳng ngu si. Nếu người tọa thiền vào xứ tịch tịch, thấy tướng bất tịnh, như tại trước mặt thì, tâm nổi kinh sợ, cho nên người tọa thiền, nếu thây chết đứng dậy, thì không đứng dậy theo, tâm tư duy như vậy đã biết niệm chánh trí thọ trì đã quán tướng khắp, là khắp tướng đó tác ý như vậy, đó gọi là chẳng ngu si.
Hỏi: Giữ mười thứ hành tướng là nghĩa gì?
Đáp: Là đối với tâm có sự ràng buộc Quán đường sá đi lại là nghĩa gì? Là khởi pháp lần lượt. Gọi pháp lần lượt là, nếu người tọa thiền vào nơi tịch tịch, có lúc tâm loạn, vì không thường quán, chẳng khởi tướng bất tịnh, do vậy, người tọa thiền nhiếp tất cả tâm, phải quán, đường sá đi lại, phải quán nơi tọa thiền, phải quán tướng khắp cùng, phải quán mười thứ giữ tướng, Người tọa thiền kia luôn luôn hiện quán như vậy, trở lại khởi tướng như dùng mắt thấy, đây gọi là khởi pháp lần lượt. Người mới tọa thiền đối với thây chết nầy tưởng là trân báu. Như vậy, tâm hỷ được thọ trì, tâm thường tu hành diệt trừ các cái (ngăn che) phần thiền thành tựu khởi lên. Người tọa thiền kia đã lìa dục đã lìa pháp bất thiện, có giác có quán, tịch tịch đã thành, có hỷ lạc nhập định Sơ thiền và tướng sình trướng.
Hỏi: Tại sao dùng hành bất tịnh khởi ở Sơ thiền? Chẳng phải khởi ở các thiền khác?
Đáp: Hành này chưa khởi quán, đây chỉ thành nơi trói buộc, thường tùy giác quán. Giác quán thường hiện, tướng đó được khởi lên, chẳng phải lìa giác quán tâm đó được an, cho nên khởi ở Sơ thiền, không phải các thiền khác. Lại nói: Tướng hình sắc bất tịnh v.v... này vì chẳng là một hành tư duy khiến khởi ở hành tư duy thì sự giác quán, chẳng thể kham nhận lìa nơi giác quán, mà hành tư duy. Thế cho nên chỉ Sơ thiền khởi, không phải các thiền khác. Lại nói tướng bất tịnh nầy, là việc không thể chịu đựng. Đối với việc không thể chịu đựng, thì không thể đề cao tâm lên. Tâm đối với chỗ bất tịnh, tâm do hỷ lạc nên có phương tiện của trừ, giác quán, dùng lực phương tiện giác quán; lúc bấy ấy tu hành do như mùi phân thúi, cho nên chỉ Sơ thiền khởi chẳng phải các thiền khác.
Hỏi: Đối với sự không chịu đựng được tại sao khởi hỷ lạc?
Đáp: Việc không chịu đựng được không phải là nhân khởi hỷ lạc. Lại nữa, vì khéo đoạn trừ nhiệt não của Cái, vì tu tâm tự tại nên khởi hành hỷ lạc. Ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng (tướng sình trướng đã xong).
Hỏi: Thế nào là tướng bầm tím? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Bầm tím là, hoặc chết một đêm, hoặc hai hoặc ba đêm, thành tướng bầm tím, như xanh được nhuộm sắc theo đó sinh ra, đây gọi là tướng bầm tím. Bầm tím kia đó gọi là tướng xanh dùng chánh trí biết, đây gọi là tướng bầm tím. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu; thọ trì tướng xanh làm tướng, nhàm chán làm vị, tác ý không chịu đựng được làm xứ. Công đức đồng với tướng sình trướng. Giữ tướng đó là, như trước rộng nói (tướng bầm tím đã xong).
Hỏi: Thế nào là tướng thúi rã? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì công đức gì? Tại sao giữ tướng đó.
Đáp: Thối rã là, hoặc chết hai ba đêm thối rã mủ rỉ ra, giống như rưới sữa gạo, thân thành thối rã, đây gọi là thúi rã, đối với tướng thối rã, dùng chánh trí biết, đó gọi là tướng thối rã, tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, thọ trì thúi rã làm tướng, nhàm chán làm vị, tác ý chẳng chịu đựng được làm xứ, công đức đồng như tướng sình trướng. Giữ tướng như phần đầu đã nói rộng (tướng thối rã có thể biết, tướng thối rã đã xong).
Hỏi: Thế nào là tướng chặt chẻ li tán? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Chẻ róc lìa tan là hoặc dùng dao kiếm chẻ róc thân thể lìa tan. Lại nói chỗ ném thây chết, đây gọi là chẻ chặt lìa tan, đối với sự chẻ róc lìa tan nầy dùng chánh trí biết, đây gọi là tưởng róc lìa tan, tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, tưởng chặt chẻ róc lìa tan làm tướng, nhàm chán làm vị, tác ý bất tịnh làm xứ, công đức đồng như tưởng sình trướng.
Hỏi: Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Ở hai tai, hai ngón tay tưởng như từng mảnh, tưởng như chặt chẻ lìa tan. Giữ tướng như vậy, ở trên một hai, giữ tướng không đó, ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (tướng chặt chẽ lìa tan đã xong).
Hỏi: Tưởng gặm ăn là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì?
Tại sao bám lấy tướng đó?
Đáp: Gặm ăn là, hoặc quạ bồ cắc, cú, diều cú mèo, kênh kênh, heo chó chồn sói hổ báo gặm ăn thây chết đây gọi là gặm ăn, sự gặm ăn đó dùng chánh trí biết đây gọi là tưởng gặm ăn, tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, tưởng gặm ăn là tướng, nhàm chán là vị, tác ý bất tịnh là xứ, công đức đồng như tướng sình trướng, ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (tướng gặm ăn đã xong).
Hỏi: Tưởng quăng bỏ là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao nắm lấy tướng đó?
Đáp: Ném bỏ là, tay chân bị quăng ném khắp chốn, đây gọi là quăng bỏ. Tưởng ném bỏ là chánh trí biết, đây gọi là tưởng ném bỏ, trú tâm chẳng loạn đây gọi là tu thọ trì tướng ném bỏ là tướng, nhàm chán là vị, tác ý bất tịnh là xứ, công đức của tướng sình trướng như nhau. Tại sao giữ lấy đó? Tất cả thân phần tụ tại một chỗ, an các phần lóng lìa nhau hai tấc, an đặt rồi khởi tưởng ném, bỏ tướng, giữ tướng, ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (tướng ném bỏ đã xong).
Hỏi: Tưởng giết hại ném bỏ là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ lấy tướng đó?
Đáp: Bị giết hại ném bỏ là, hoặc dùng dao gậy, hoặc dùng cung tên nơi nơi cắt xẻo thây chết, đây gọi là giết hại ném bỏ. Đối với sự giết hại ném bỏ là tưởng, là chánh trí biết. Đây gọi là tưởng giết hại, ném bỏ. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, thọ trì tưởng giết hại ném bỏ là tướng, nhàm chán là vị; tác ý bất tịnh là xứ; công đức đồng như tướng sình trướng. Tại sao giữ tướng đó? Như phần đầu đã nói rộng (tưởng giết hại ném bỏ đã xong).
Hỏi: Tưởng máu nhuộm là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao thủ lấy tướng đó?
Đáp: Máu nhuộm là, hoặc cắt chặt tay chân thần hình rồi, máu ra dính thân, đây gọi là máu nhuộm. Đối với tướng máu nhuộm là chánh trí biết, đây gọi là tưởng máu nhuộm thắm. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu. Thọ trì tưởng máu nhuộm là tướng, nhàm chán là vị, tác ý bất tịnh là xứ, công đức đồng như tưởng sình trướng. Tại sao giữ tướng đó? Giống như phần đầu đã nói rộng (tướng máu nhuộm đã xong).
Hỏi: Tưởng trùng thối là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Trùng thối là, các trùng sinh đầy thân, giống như bạch châu thuần là trùng nhóm, đây gọi là trùng thối. Đối với tưởng trùng thối dùng chánh trí biết, đây gọi là tưởng trùng thối. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu. Thọ trì tưởng trùng thối là tướng, nhàm chán là vị, tác ý bất tịnh là xứ, công đức đồng như tưởng sình trướng. Tại sao giữ tướng đó? Như trước đã nói rộng (tưởng trùng rúc đã xong).
Hỏi: Tưởng xương là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì?
Tại sao giữ tướng đó?
Đáp: Cốt nghĩa là xương móc xích liền nhau. Hoặc chỗ thịt máu gân mạch ràng buộc, hoặc không máu thịt chỉ có gân ràng rịt, hoặc không thịt máu, đây gọi là xương. Đối với tưởng xương này dùng chánh trí biết, đây gọi là tưởng xương. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, thọ trì tưởng xương là tướng, nhàm chán là vị, tác ý tịnh là xứ, công đức đồng như tưởng sình trướng. Tại sao thủ lấy tướng đó? Như phần đầu đã nói rộng (tưởng xương đã xong).
Hỏi: Đối với bất tịnh xứ tại sao nói thành rời rạc?
Đáp: Mới đầu người tọa thiền, có nhiều phiền não, đối với cái không có chủng loại, không nên giữ tướng. Không chủng loại là, như thân nam nữ. Nếu người nghiệp bất tịnh tướng bất tịnh thì chẳng nên tác ý. Tại sao? Sự việc thường quán nên chẳng thành nhàm chán, đối với thân súc sinh chẳng khởi tưởng tịnh, dùng một lóng xương khởi tưởng, khởi tướng tự tại đối với một đống xương cũng lại như vậy. Nếu tướng bất tịnh dùng sắc khởi, thì phải quán do Nhất thiết nhập phần quán, nếu dùng không khởi thì phải quán giới, dùng bất tịnh khởi thì phải dùng quán bất tịnh.
Hỏi: Tại sao mười bất tịnh chẳng nhiều chẳng ít?
Đáp: Thân mất có mười thứ vậy. Lại do mười người nên thành mười tưởng. Người dục phải tu tưởng sình trướng, người ưa muốn sắc thì phải tu tưởng bầm tím, như người tịnh dục phải tu tưởng hoại rã. Ngoài ra, cũng có thể biết. Lại nữa, tướng bất tịnh chẳng thể được vậy. Tất cả tưởng bất tịnh đối trị dục. Nếu người hành dục mà có sở đắc thì người ấy sẽ chấp giữ tướng, cho nên nói tất cả bất tịnh, là mười thứ tưởng bất tịnh.
Hỏi: Tại sao chẳng khiến tăng trưởng?
Đáp: Nếu người nhàm chán dục, thì khiến khởi tưởng thân tự tánh. Tại sao? Nếu có tưởng thân tự tánh, thì đối với tưởng chóng được nhàm chán phần kia vậy. Đã khiến tăng trưởng tưởng bất tịnh, là tướng thân đó được trừ, đã trừ tưởng tự thân, thì không được nhàm chán nhanh được, cho nên chẳng nên khiến tăng trưởng. Lại nói nếu được không dục, là tu đại tâm, thành khiến tăng trưởng, như A-tỳ-đàm nói, sống lìa dục đồng như Sơ thiền trú chánh thọ sình trướng và khởi vô lượng sự, như Đại đức Nại cẩu. Văn nói kệ:
Tỳ-kheo gia tài Phật. Ở nơi rừng khiếp sợ. Mà đã tu tưởng xương. Thấy nó đầy đất đây. Ta biết Tỳ-kheo kia. Mau lẹ đoạn dục nhiễm (Mười bất tịnh đã xong)
Hỏi: Niệm Phật là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao tu hành?
Đáp: Phật là đức Thế Tôn tự nhiên vô sư, đối với pháp chưa nghe, chánh giác chánh đế, có khả năng biết tất cả, được lực tự tại, đó gọi là Phật. Nhớ Phật đức Thế Tôn Chánh biến tri công đức đạo Bồ Đề, niệm tùy niệm niệm trì niệm chẳng quên, niệm căn niệm, lực chánh niệm, đây gọi là niệm Phật. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu; khiến khởi công đức Phật là tướng; cung kính là vị; tăng trưởng tín là xứ. Nếu tu hành niệm Phật, thì thành được mười tám công đức: tín tăng trưởng, niệm tăng trưởng, tuệ tăng trưởng, cung kinh tăng trưởng, công đức tăng trưởng, nhiều hoan hỷ kham nhận khổ hạnh, lìa tướng khiếp sợ, nhận pháp ác biết sinh tâm hổ thẹn, thường cùng thầy ở chung, tâm ưa thích Phật địa, nhắm tới cõi thiện, sau cùng Đề Hồ, như nói Tu-đa-la niết để lý cú. Nếu người muốn niệm Phật thì người đó có thể cung kính như đối với chỗ tượng Phật. Tu hành như thế nào? Mới đầu người tọa thiền đến nơi vắng lặng, nhiếp tâm không loạn, dùng tâm không loạn niệm Như Lai Thế Tôn Ứng Cúng Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ Điều ngự Trượng phu, Thiên nhân sư Phật Thế Tôn. Từ đó, người kia đến bờ kia của tất cả nên gọi là Thế tôn công đức. Thế Tôn là, được người đời tôn xưng khen ngợi, nên gọi là Thế Tôn. Lại được diệu pháp nên gọi là đức Thế Tôn, lại được cúng dường. gọi là A-la-hán. Chánh biến tri là, dùng tất cả hạnh chánh biết tất cả các pháp gọi là Chánh biến giác. Lại giết vô minh gọi là chánh biến giác. Vì tự mình giác Bồ đề vô thượng gọi là Chánh biến giác. Minh hành túc là, minh là ba minh, túc mạng trí minh, chúng sinh sanh tử trí minh, lậu tận trí minh, đức Thế Tôn dùng túc mạng trí minh Được phước đầy đủ nên gọi là Thế Tôn. Chủ của đạo pháp nên gọi là đức Thế Tôn. Do nhân đó nên được gọi là đức Thế Tôn. Vì nhân kia nên thọ cúng dường gọi là A-la-hán, giết giặc oán phiền não, gọi là A-la-hán, bẻ gãy căm bánh xe sinh tử đoạn giết vô minh ở quá khứ, dùng chúng sinh sinh tử trí minh, đoạn diệt vô minh ở vị lại, dùng lậu tận trí minh, đoạn giết vô minh ở hiện tại. Đã đoạn giết vô minh ở quá khứ nên dùng tất cả hành, tất cả pháp ở quá khứ, đức Thế Tôn vừa nghĩ liền hiện. Vì đã đoạn diệt vô minh ở vị lai nên dùng tất cả hành, tất cả pháp ở vị lai. đức Thế Tôn vừa nghĩ liền hiện. Vì đoạn giết vô minh ở hiện tại, nên dùng tất cả hành tất cả pháp ở hiện tại, đức Thế Tôn vừa nghĩ liền hiện, Hành là, giới định đầy đủ. Giới là, tất cả lĩnh vực thiện pháp nên nói là Minh hành. Túc nghĩa là tất cả lĩnh vực thần thông, nên gọi là Minh hành túc. Đầy đủ là, tất cả định, đức Thế Tôn dùng tất cả trí, dùng ba minh, dùng hành được đại từ bi, dùng làm lợi ích thế gian, rõ (minh) được tự tại. Vì xứ biết vậy, vì khởi việc luận đạo, không người nào hơn được, diệt ác phiền não. Vì chánh hành thanh tịnh, vì minh đầy đủ nên trở thành mắt thế gian, hiện lợi ích hay chẳng lợi ích vậy. Vì hành đầy đủ, trở thành nơi nương tựa của thế gian, làm người cứu giúp sự sợ hãi. Vì minh giải thoát, nên đã thông đạt đệ nhất nghĩa. Vì hành thành cứu vớt, làm nghĩa thế gian, đối với tất cả sự, tự nhiên không thầy, việc làm bình đẳng được tịch tịch vô thượng. Vì minh hành túc, đức Thế Tôn thành tựu, đây gọi là Minh hành cụ túc. Thiện thệ là, đạt đến đường thiện vậy. Gọi là Thiện thệ, không còn trở lại mà đến, nơi cảnh giới Đề hồ, vô vi Niết-bàn, nên gọi là Thiện thệ. Lại nói pháp không điên đảo nên gọi là Thiện thệ. Lại nói pháp chẳng hẹp nên gọi là Thiện thệ. Lại nói pháp không lỗi lầm nên gọi là Thiện thệ. Lại nói pháp chẳng nhiều chẳng ít nên gọi là Thiện thệ. Thế gian giải là, thế gian có hai thứ: Chúng sinh thế gian và hành thế gian. Đức Thế Tôn dùng tất cả hành biết chúng sinh thế gian. Vì biết chúng sinh các thứ lạc dục, vì căn sai biệt, vì túc mạng, vì thiên nhãn, vì từ khứ lai, vì hòa hợp vì thành tựu, vì các thứ có thể hóa, vì các thứ kham nhận và chẳng kham nhận, vì các thứ sinh, vì các thứ cõi, vì các thứ địa, vì các thứ nghiệp, vì các thứ phiền não, vì các thứ quả báo, vì các thứ thiện ác, vì các thứ buộc mở, vì các thứ hành như vậy v.v... đức Thế Tôn đều biết chúng sinh thế gian. Lại nói hành thế gian là, đức Thế Tôn cũng biết vì tất cả nghiệp, cũng biết các hành, vì định tướng, vì tùy tự tướng nhân duyên đó, thiện bất thiện và vô ký, vì các thứ ấm, vì các thứ giới, vì các thứ nhập, vì trí minh liễu, vì vô thường khổ vô ngã, vì sinh chẳng sinh, các hành như vậy v.v... Đức Thế Tôn thảy đều rõ biết các hành thế gian, đây gọi là Thế gian giải. Vô thượng là, ở đời không có gì trên nữa, đây gọi là vô thượng. Lại nữa, không có ai đồng đẳng, lại nữa tối thắng không gì sánh bằng, các thứ khác không thể vượt qua, nên gọi là vô thượng. Điều ngự trượng phu là, có ba thứ người, hoặc nghe pháp liền ngộ, hoặc nói nhân duyên, hoặc nói túc mạng, đức Thế Tôn là người cầm cương tám đạo giải thoát, điều phục chúng sinh cho nên, gọi là Điều ngự trượng phu. Thiên nhân sư là, đức Thế Tôn có thể độ trời người, thoát khỏi sự sợ hãi rừng sinh lão chết, nên gọi là thiên nhân sư. Như vậy dùng môn này dùng hành này phải nhớ Như Lai. Lại nữa, như Đức Bổn Sư nói, dùng bốn thứ tu hành nhớ nghĩ đức Thế Tôn vốn nhân duyên xưa trước, để khởi tự thân, để được thắng pháp, để làm lợi ích thế gian. Từ nguyện mới đầu cho đến sau cùng, ở khoảng giữa này thời gian lâu xa, hai mươi A-tăng kỳ kiếp, một trăm ngàn ức, quán căn cơ phàm phu, nghĩ căn cơ, đầu trên xót thương thế gian: Ta đã được thoát, phải giúp chúng sinh giải thoát. Ta đã được điều hòa, phải giúp họ được điều hòa, Ta đã được an, ta khiến họ được an. Ta đã vào Niết-bàn, phải giúp họ được vào Niết-bàn. Thí giới xuất nhẫn đế, thọ trì, Từ, xả, tinh tấn, trí tuệ, đều khiến đầy đủ, là đắc Bồ Đề. Đức Thế Tôn lúc làm Bồ-tát nói nhân duyên bản sinh, làm thân con thỏ, thường hành bố thí, sanh nhớ nghĩ bảo vệ hoặc sinh nhớ nghĩ Ma-cù-loại-đà, sanh nhớ nghĩ đến, xuất ly sanh nhẫn nhục, phải sinh nhớ nghĩ nhẫn phổ minh, phải sinh nhớ đến thật ngữ, phải sinh nhớ nghĩ về kẻ câm, què, phải sinh nhớ nghĩ thọ trì, phải nhớ nghĩ Đế Thích từ bi, phải nhớ bỏ sự sợ hãi, phải nhớ nghĩ thương chủ chánh chân, phải sanh nhớ nghĩ cháo nhừ, phải sanh nhớ nghĩ trường thọ theo lời cha, phải nhớ voi trắng sáu ngà, cung kính tiên nhân, phải sanh nhớ nghĩ ngựa bạch sinh sang nước La-sát các chúng sinh, phải nhớ nghĩ nai để sinh hộ thọ mạng của chúng, xả thọ mạng mình, sanh nhớ nghĩ loài khỉ khiến chúng được giải thoát nỗi khổ lệ thuộc. Lại nữa sanh nhớ nghĩ thấy người rơi xuống hố dùng tâm từ cứu vớt ra, bày rễ cây trái cây để cúng dường. Người kia ưa thích thịt, tự làm bể đầu mình, dùng từ bi nói pháp nói về thiện đạo đó. Như vậy dùng các nguyện môn phải nhớ công đức bản sinh của đức Thế Tôn. Tại sao nhớ công đức Thế Tôn tự cứu vớt thân? Thế Tôn có bản sinh như vậy v.v... đầy đủ, là ở thời niên thiếu, đoạn tất cả đời sống đắm nhiễm, bỏ sự mê đắm về vợ con cha mẹ bạn thân, đã xả điều khó xả, ở một mình ở chỗ vắng vẻ, không còn sở hữu, muốn cầu vô vi, Nê hoàn tịch diệt ở nước Ma-già-đà, vượt qua sông Ni liên thiền, ngồi gốc Bồ đề hàng phục ma vương và các lính quỷ. Vào đầu đêm, tự nhớ túc mạng, vào giữa đêm tu đắc thiên nhãn, vào cuối đêm biết khổ đoạn tập, chứng đắc cảnh giới Đề hồ, tu hành tám chánh đạo phần, chứng lậu tận đắc Bồ Đề giác. Từ nơi thế gian cứu vớt tự thân, trú địa thanh tịnh lậu tận thứ nhất. Như vậy dùng các hành môn, phải nhớ công đức đức Thế Tôn tự cứu vớt thân. Tại sao phải nhớ công đức của đức Thế Tôn đắc công đức pháp thù thắng? Như thế, đức Thế Tôn có sự giải thoát của tâm giải thoát, dùng mười lực của Như Lai, dùng mười bốn trí tuệ Phật, dùng mười tám pháp Phật, thành tựu mười lực? Như Lai biết xứ phi xứ, như thật mà biết. Như Lai biết đã cùng với chẳng phải một thiền pháp mà thành tựu đến bờ kia tự tại. Phải nhớ nghĩ Thế Tôn làm thế nào nhân duyên thiện nghiệp ở quá khứ vị lai và hiện tại; dùng giới dùng nhân, hoặc quả báo v.v... như thật mà biết, Như Lai biết đến tất cả xứ, biết đầy đủ như thật, Như Lai biết chẳng dùng một giới, các thứ giới đều biết như thật thế gian, Như Lai biết các thứ lạc dục của chúng sinh, như thật mà biết, Như Lai biết các thứ căn của chúng sinh như thật mà biết, Như Lai biết thiền giải thoát, định, chánh thọ, có phiền não và không phiền não, như thật mà biết, Như Lai biết túc mạng, như thật mà biết. Như Lai biết chúng sinh sinh tử, như thật mà biết. Như Lai biết lậu tận, như thật mà biết, vì mười lực này, Thế Tôn thành tựu. Thế nào là Thế Tôn thành tựu mười bốn trí tuệ Phật? Đó là khổ trí, tập trí, diệt trí, đạo trí, nghĩa biện trí, pháp biện trí, từ biện trí, nhạo thuyết biện trí, chư căn trí, chúng sanh dục lạc phiền não sử trí, song biện trí, đại từ bi định trí, nhất thiết trí, bất chướng ngại trí. Vì mười bốn trí này, nên Thế Tôn thành tựu. Thế nào là Thế Tôn thành tựu mười tám pháp? Đối với quá khứ, Phật trí không chướng ngại, đối với vị lai, Phật trí không chướng ngại, đối với hiện tại Phật trí không chướng ngại. Tùy nơi Phật trí khắp khởi thân nghiệp, tùy nơi Phật trí khắp khởi khẩu nghiệp, tùy nơi Phật trí khắp khởi ý nghiệp, vì sáu pháp này Thế Tôn thành tựu: Dục không thối, tinh tấn không thối, niệm không thối, định không thối, tuệ không thối, giải thoát không thối. Vì mười hai pháp này, Thế Tôn thành tựu: không việc gì phải nghi, không có sự lừa dối thầy, không gì chẳng phân minh, không có việc gì gấp, không nơi chướng che, đều quán xả. Không việc gì phải nghi là không có dáng vẻ quỷ quyệt. Sự lừa dối thầy là, không có oai nghi gấp vội. Không gì chẳng phân minh là, vì biết không gì chẳng xúc, Không việc gì gấp là, không vì sự gấp. Không chướng che là, tâm hành không có trí thọ trì. Quán xả là, không có gì không biết xả, vì mười tám pháp này, Thế Tôn thành tựu. Lại nữa, Thế Tôn dùng bốn vô úy, dùng Bốn niệm xứ, dùng Bốn chánh cần, dùng bốn Như ý túc, dùng Năm căn, dùng Năm lực, dùng Sáu thần thông, dùng Bảy Bồ-đề phần, dùng Tám thánh đạo phần, dùng tám Trừ nhập, dùng tám Giải thoát, dùng chín Định thứ đệ, dùng mười chỗ Thánh nương, dùng mười lực lậu tận, dùng các thứ khác chẳng là một thiện pháp, Đức Thế Tôn thành tựu đến bờ kia tự tại, dùng môn này dùng hành này như vậy nên phải nhớ Thế Tôn đắc công đức của pháp thù thắng. Tại sao nhớ công đức đức Thế Tôn làm lợi ích thế gian? Đức Thế Tôn thành tựu tất cả hành, tất cả công đức đến bờ kia. Vì xót thương chúng sinh, nên đã quay bánh xe pháp, thế vốn gian không thể chuyển xoay, thì dùng mật hộ không trong ngoài, mở cửa Đề hồ, đã làm vô lượng trời người, đối với quả Sa-môn, được phần công đức, có thể khiến công đức đầy đủ, dùng ba thứ biến: Thân biến, Thuyết biến Giáo biến khiến thế gian tin, đã nhiếp phục tà kiến, các sư tướng bùa chú; đã bít lấp ác đạo, đã mở cõi lành, đã lên trên trời đắc quả giải thoát, đã an Thanh văn, trú pháp Thanh văn, đã chế các giới, đã nói Ba-la-đề mộc xoa, đã được lợi dưỡng ưu thắng, được thắng pháp của Phật, đã đắc tự tại khắp đầy thế gian. Tất cả chúng sinh cung kính tôn trọng, cho đến trời người thảy đều nghe biết. An trú bất động, thương xót thế gian, đã làm lợi ích thế gian, đức Thế Tôn đã làm, dùng môn này hành này, phải nhớ công đức đức Thế Tôn đã làm lợi ích thế gian. Người tọa thiền kia dùng môn này, hành này, dùng công đức này hiện nhớ Như Lai. Tâm đó thành tín, vì tin tự tại vì niệm tự tại, tâm thường không loạn. Nếu tâm chẳng loạn, thì diệt hết mọi che phủ thiền phần, khởi hành thiền bên trong thành tựu an trú.
Hỏi: Tại sao niệm Phật khởi hành bên trong chẳng phải an?
Đáp: Công đức Phật là, ở đệ nhất nghĩa, hành xứ trí sâu, sự việc đệ nhất nghĩa ở hành xứ trí sâu, tâm chẳng được an, vì vi tế vậy. Lại nữa phải nhớ công đức bất nhất. Nếu người tọa thiền nghĩ nhớ công đức bất nhất, tâm và các thứ duyên, tác ý chung khởi, tâm thành chẳng an, tướng đó là hành xứ bên ngoài tất cả.
Hỏi: Nếu niệm công đức bất nhất, tâm đã bất nhất, thì hành thiền bên ngoài sẽ chẳng thành. Nếu chuyên nhất tâm thì hành thiền bên ngoài thành trú sao?
Đáp: Nếu nhớ nghĩ công đức của Như Lai và nhớ Phật thành nhất tâm, thì thành không lỗi. Lại nói dùng niệm Phật, bốn thiền cũng khởi (niệm Phật đã xong).
Hỏi: Tại sao niệm Pháp? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì? Tại sao tu hành?
Đáp: Pháp là, Nê hoàn và tu đến Nê hoàn. Nê hoàn là gì? Diệt tất cả hành, xa lìa tất cả phiền não, diệt ái, vô nhiễm vắng lặng, đó gọi là Nê hoàn. Tu hành đến Nê hoàn là sao? Đó là Bốn niệm, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc, Năm căn, Năm lực, Bảy giác chi, Tám chánh đạo phần, đây gọi là tu hành đến Nê hoàn. Niệm pháp xuất ly công đức nương công đức, niệm kia tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm pháp. Tâm kia trú chẳng loạn đây gọi là tu, khởi công đức pháp là tướng; chọn pháp là vị; giải nghĩa là xứ. Công đức giống như của niệm Phật. Tu là gì? Là mới đầu người tọa thiền đi vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm. Dùng tâm chẳng loạn niệm pháp là, pháp mà đức Thế Tôn khéo nói, hiện chứng không có thời gian, lại thấy thừa không có thời gian, lại thấy thừa tương ưng, người trí tuệ hiện chứng có thể biết. Pháp mà Thế Tôn khéo nói là lìa hai bên nên nói là khéo nói; chẳng khác nên nói là khéo nói, chẳng sai lầm nên ba thứ thiện, nên gọi là khéo nói; tràn đầy thanh tịnh nên nói là khéo nói, khiến hiện Niết-bàn và tu hành đến Niết-bàn nên gọi là khéo nói. Hiện chứng là, lần lượt đắc đạo quả nên gọi là hiện chứng, tác chứng Nê hoàn, vào đạo quả nên làm hiện chứng. Không thời gian là chẳng khác thời đắc quả nên gọi là hiện chứng. Lại thấy nghĩa là người đến chỗ của ta, thấy tánh thiện pháp của ta đủ sức giáo hóa kẻ khác, đó gọi là lại thấy. Thừa tương ưng là, nếu người tiếp nhận sự hàng phục, vào cảnh giới Đề Hồ, gọi là thừa tương ưng, hướng đến quả Sa-môn gọi là thừa tương ưng. Người trí tuệ hiện chứng có thể biết là: Nếu người tiếp nhận sự hàng phục chẳng chịu kẻ khác giáo hóa, khởi diệt trí, vô sinh trí, giải thoát trí, đó gọi là trí tuệ hiện chứng. Vì các hành khác phải niệm pháp là mắt là trí, là an lạc là Đề hồ thừa môn, là xuất li là phương tiện, là đến diệt, là đến Đề hồ, không có đọa lạc là Đề hồ, vô vi tịch tịch vi diệu, chẳng phải tướng là pháp của Thầy thực hành, là điều mà người diệu trí biết. Vượt đến bờ kia là nơi quay về nương tựa. Người tọa thiền kia dùng môn này, dùng hành này, dùng công đức này, hiện niệm ở pháp tâm đó thành tin, do tín niệm đó tâm trú chẳng loạn. Vì chẳng loạn tâm diệt ở các cái (ngăn che) thiền phần được khởi, hành thiền bên ngoài thành trú, ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (niệm pháp đã xong). Hỏi: Thế nào là niệm Tăng? Tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì?
Thế nào là tu?
Đáp: Tăng là Thánh nhân hòa hợp, đây gọi là Tăng, hiện niệm công đức tu hành, của Tăng niệm kia tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm Tăng. Niệm kia an trú chẳng loạn, đây gọi là tu. Niệm khởi công đức tăng là tướng, tâm cung kính là vị, công đức hoan hỷ hòa hợp là xứ; công đức giống như của niệm Phật. Tu là gì? Là mới đầu người tọa thiền vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm niệm tưởng, về năng lực tu hành, hoàn thiện. Chúng Sa-môn của Thế Tôn, họ tùy tùng (theo Phật) nhuần nhuyễn, hoàn thiện. Chúng Sa-môn của Thế Tôn họ tuỳ tùng như pháp. Thánh chúng của Thế Tôn tùy tùng hòa hợp, Thánh chúng của đức Thế Tôn, gọi là tứ song bát bối. Chúng Sa-môn của đức Thế Tôn có thể nhận cung kính cúng dường, có thể nhận sự chấp tay, là ruộng phước thế gian vô thượng. Do đó là tu hành hoàn thiện. Chúng Sa-môn của đức Thế Tôn là, tùy tùng khéo nói pháp nên gọi là tùy tùng tu hành; làm lợi ích tự tha nên gọi là tùy tùng tu hành; đã đạt đến đầy đủ nên gọi là tùy tùng tu hành, không oán đầy đủ nên, gọi là tùy tùng tu hành. Lìa hai biên và giữa đầy đủ cho nên, gọi là tùy tùng tu hành, lìa nịnh nọt dối gạt nên gọi là nhuần nhuyễn, hoàn thiện, lìa thân khẩu tà ác quanh co nên gọi là nhuần nhuyễn, hoàn thiện. Tùy tùng như là Tám chánh đạo, họ tu theo nên gọi là như tùy tùng. Lại nữa, Như đó là Nê hoàn, vì tùy tùng được Nê hoàn, nên Như tu hành, Bốn Thánh đế mà Thế Tôn đã nói, tùy theo như trí nên gọi là Như tu hành. Tùy theo hòa hợp là, tùy theo Samôn hòa hợp đầy đủ nên gọi là tùy theo hòa hợp. Nếu tùy theo làm sự hòa hợp như vậy, thành đại quả đại công đức, tùy theo như vậy, nên gọi là tùy theo hòa hợp. Tứ song bát bối là (bốn đôi tám cặp), trú đạo Tu-đà-hoàn và trú quả đó nên gọi là một song (đôi) trú đạo Tự-đà-hàm và trú quả đó nên làm một đôi, trú đạo A-na-hàm và trú quả đó nên làm một đôi, trú đạo A-la-hán và trú quả đó nên làm một đôi. Đây gọi bốn đôi là, trú đạo và đạo quả kia nên gọi là bốn đôi. Tám cặp là bốn hướng bốn quả, đây gọi là tám cặp. Sa-môn là, từ nghe mà thành tựu nên gọi là Sa-môn. Tăng là Thánh chúng hòa hợp, có thể nhận thỉnh có thể cúng dường. Có thể nhận thí, có thể nhận cung kính, làm ruộng phước thế gian vô thượng. Có thể nhận thỉnh là, kham nhận thỉnh, gọi là có thể nhận thỉnh. Có thể nhận cúng dường là, bố thí chúng Tăng, thành quả lớn nên Tăng kham nhận cúng dường. Có thể nhận thí là, nên bố thí chúng Tăng thì, được quả báo lớn, gọi là có thể thí. Có thể nhận cung kính là, kham nhận sự cung kính. Vô thượng là, rất nhiều công đức nên gọi là vô thượng. Ruộng phước của thế gian là nơi công đức của chúng sinh nên gọi là ruộng phước của thế gian. Vì các hành khác, phải nhớ chúng sinh. Chúng thù thắng, chúng chân thật như vậy, đó gọi là Đề hồ; giới đầy đủ, định đầy đủ, tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ, giải thoát tri kiến đầy đủ. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này, dùng hiện niệm chúng công đức, hiện niệm chúng công đức như vậy, tâm đó thành tín, do nơi tín niệm tâm thành chẳng loạn, vì tâm chẳng loạn thường diệt các cái (ngăn che) thiền phần được khởi, thiền bên ngoài thành an trú như phần đầu đã nói rộng (niệm tăng xứ đã xong).
Hỏi: Niệm Giới là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Tại sao tu hành?
Đáp: Dùng công đức niệm giới thanh tịnh, niệm kia tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm giới; niệm giới trú chẳng loạn, đây gọi là tu, khiến khởi công đức giới là tướng, thấy lỗi lầm sợ là vị, hoan hỷ không quá ưa thích là xứ. Nếu người tu hành niệm giới, thành được mười hai công đức, thành tôn thầy trọng pháp, trọng tăng, trọng giới học, trọng cúng dường, trọng chẳng buông lung, với lỗi lầm nhỏ nhiệm thường thấy lo sợ, hộ tự thân cũng hộ thân kẻ khác. Từ đời này khiếp sợ mà giải thoát, đời kia khiếp sợ mà giải thoát, nhiều hoan hỷ, có thể ưa thích công đức tất cả giới, là công đức niệm giới. Tu hành là gì? Là mới đầu người tọa thiền vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm niệm, tự thân giới không thiên lệch, không thủng, không điểm, không cấu không tạp, chỗ ngợi khen của trí tuệ tự tại, không xúc chạm gì hết, khiến khởi định. Nếu không thiên lệch thì không thủng. Nếu không thủng thì không điểm, tất cả như vậy có thể biết. Lại nữa nếu tràn đầy giới thanh tịnh, là trú xứ thiện pháp cho nên, gọi là không thiên lệch không thủng, làm tánh đáng khen nên gọi là không điểm không dơ. Vì đoạn ái nên gọi là tự tại. Vì Thánh ưa thích nên không có lỗi lầm, là chỗ ngợi khen của trí tuệ, lìa trộm giới nên gọi là không xúc chạm gì hết. Thành nơi chẳng thối nên khiến khởi định, vì các hành khác nên phải niệm giới. Nói giới là, vui thích không lỗi lầm, là tánh (giòng họ) đáng quý, vì tài vật tự tại như trước đã nói công đức của giới. Rộng nói như vậy có thể biết. Người tọa thiền kia dùng môn này, dùng hành này, dùng công đức này, hiện niệm giới do tín niệm, tâm chẳng loạn, vì tâm chẳng loạn, diệt ở các che phủ (cái), thiền phần thành khởi, hành thiền bên ngoài thành trú, ngoài ra, như mới đầu rông nói (niệm giới đã xong).
Hỏi: Niệm Thí là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Thế nào là tu?
Đáp: Thí là, làm lợi kẻ khác. Ưa thích làm lợi ích kẻ khác, vì người khác mà được xả bỏ tài vật của mình, đây gọi là thí. Dùng niệm công đức của thí, hiện niệm xả, vị kia niệm tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm thí. Niệm kia trú chẳng loạn, đây gọi là tu, khiến khởi công đức thí là tướng chẳng tích chứa là vị; chẳng keo xẻn là xứ. Nếu người tu hành niệm thí, thì thành được mười công đức.
Như vậy, thí tùy ưa thích, không keo xẻn không ý tham. Vì nhiều người niệm thiện, lấy ý kẻ khác, ở chúng đông chẳng sợ. Nhiều tâm hoan hỷ từ bi, hướng đến cõi thiện, hướng đến Đề hồ. Tu hành là gì? Mới đầu người tọa thiền vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm tự niệm thí; do vật được xả, ta có lợi, ta khéo được lợi, người đời vì sự keo xẻn dơ bẩn kéo dắt, ta trú tâm không dơ bẩn, ta thường thí cho, thường ưa thích hành thí, thường cung cấp thường chia xẻ khắp. Người tọa thiền kia, dùng môn này dùng hành này, dùng công đức này hiện niệm thí, tâm kia thành tin, do tin, do niệm nên tâm thường chẳng loạn, vì tâm chẳng loạn, diệt nơi các Cái, thiền phần thành khởi, Hành thiền bên ngoài thành trú. Ngoài ra như phần đầu đã nói rộng (niệm thí đã xong).
Hỏi: Niệm Thiên (Trời) là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì, công đức gì? Thế nào là tu hành?
Đáp: Dựa vào công đức sinh lên trời, niệm công đức tự thân, niệm kia tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm Thiên. Niệm kia an trú chẳng loạn, đây gọi là tu; khiến khởi công đức tự thân, công đức trời cùng là tướng, ái kính công đức là vị, tin quả công đức là xứ. Nếu người tu hành niệm Thiên, thì thành được tám công đức. Như vậy người kia có năm pháp tăng trưởng, gọi là tín, giới, văn (nghe) thí, tuệ, trở thành người mà trời người nghĩ đến ái kính, đối với quả báo công đức thì rất hoan hỷ hăng say tự trọng thân mình, và được trời người quý, niệm giới niệm thí dùng vào bên trong đó, hướng đến cõi thiện hướng đến Đề hồ. Tu hành như thế nào? Là mới đầu, người tọa thiền vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, vì tâm chẳng loạn, niệm Thiên có bốn vua trời, có ba mươi ba trời, có trời Diêm-ma, có trời Đâu xuất, có trời Hóa lạc, có trời Tha hóa tự tại, có trời Phạm thân, có trời thường sinh. Vì tin thành tựu, các trời từ đây sinh kia, ta lại có tin như vậy. giới như vậy, văn (nghe) như vậy, thí như vậy, tuệ như vậy, thành tựu các trời kia. Từ đây sinh kia, ta lại có tuệ như vậy, phải niệm thân đó, phải niệm các trời, tín giới văn (nghe) thí tuệ. Người tọa thiền kia dùng môn này, dùng hành này, dùng công đức này, hiện niệm Thiên, tâm kia thành tin, vì do tin do niệm, tâm thành chẳng loạn, vì tâm chẳng loạn nên diệt các Cái, phần thiền thành khởi, hành thiền bên ngoài thành trú.
Hỏi: Tại sao niệm công đức Thiên mà chẳng niệm công đức người?
Đáp: Công đức các trời rất diệu, sinh địa rất diệu, thành xứ tâm diệu, ở xứ diệu tu hành thành diệu. Cho nên, niệm công đức trời, chẳng niệm công đức người, ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng.
Hỏi: Thế nào là niệm An ban? Tu gì, tướng gì, vị gì, công đức gì?
Thế nào là tu hành?
Đáp: An là hơi thở vào, ban là hơi thở ra, đối với tướng thở ra vào người niệm tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm an ban. Tâm trú chẳng loạn, đây gọi là tu, khiến khởi tưởng an ban là tướng, xúc tư duy là vị, đoạn giác là xứ. Công đức gì là, nếu người tu hành niệm an ban, thì thành tựu vắng lặng thành tựu thắng diệu thành tựu trang nghiêm, khả ái tự vui. Nếu luôn luôn khởi, pháp ác bất thiện, thì khiến cho trừ diệt, thân thành chẳng biếng lười, mắt cũng chẳng biếng lười, thân thành tựu không động, không lắc, tâm thành tựu không động chẳng lay; làm cho tràn đầy Bốn niệm xứ, tràn đầy Bảy giác ý, tràn đầy giải thoát. Đó là pháp tu mà đức Thế Tôn ngợi khen, là chỗ y chỉ để an trú của bực Thánh, của Phạm, và của đức Như Lai, Tu như thế nào? Đó là, người mới tọa thiền, hoặc đến A-lan-nhã, hoặc đến dưới gốc cây, hoặc đến nơi vắng lặng, ngồi kết già, thẳng thân chánh niệm. Người tọa thiền kia, nghĩ đến hơi thở vào, nghĩ đến hơi thở ra. Nếu thở ra dài thì biết hơi thở ra dài. Nếu hơi thở vào dài, thì biết hơi thở ta vào dài. Nếu hơi thở vào ngắn, thì biết hơi thở ta vào ngắn. Nếu hơi thở ra ngắn, thì biết hơi thở ra ngắn. Hơi thở vào ta biết như vậy, hơi thở ra ta biết như vậy, biết hỷ, biết lạc, biết những gì tâm đang hiện hành, làm cho tâm hành bị diệt, làm cho tâm hoan hỷ, làm cho tâm được giáo hóa, làm cho tâm giải thoát, nhận thức vô thường nhận thức về không dục về diệt, xuất ly, biết như vậy, thấy xa lìa hơi thở ta ra, biết như vậy. Nhận thức xa lìa hơi thở ta vào, ra, biết như vậy. bởi thế, ngay hiện tiền, khiến cho học pháp An ban. Nghĩa là: buộc niệm trú ở đầu chót mũi, hoặc ở môi miệng là chỗ sở duyên của hơi thở ra vào, người tọa thiền kia dùng an niệm xứ nầy, hơi thở vào hơi thở ra đầu chót mũi môi miệng, dùng niệm quán, tiếp xúc, hoặc hiện niệm khiến hơi thở vào, hiện niệm khiến hơi thở ra, hiện niệm lúc hơi thở vào chẳng tác ý, lúc ra cũng chẳng tác ý, chỗ hơi thở vào ra xúc chạm, là đầu chót mũi môi miệng, dùng niệm quán biết chỗ xúc, hiện niệm khiến hơi thở vào, hiện niệm khiến cho hơi thở ra, như người cưa cây vì duyên vào sức lưỡi cưa, họ cũng không tác ý, tưởng cưa đưa qua đưa lại. Như vậy người tọa thiền đối với hơi thở ra, vào cũng không tác ý tưởng hơi thở ra vào, chạm vào đầu lỗ mũi môi miệng, dùng niệm quán biết, hiện niệm khiến hơi thở vào, niệm khiến hơi thở ra. Nếu người tọa thiền, thở ra vào tác ý, trong ngoài tâm đó thành loạn. Nếu tâm khởi loạn, thân và tâm thành biếng lười dao động, đây là lỗi lầm. Hoặc hơi thở rất dài, hơi thở rất ngắn, cũng không nên tác ý, nếu tác ý hơi thở rất dài rất ngắn thì thân và tâm đều thành biếng lười, dao động, đây là lỗi lầm. Do hơi thở ra vào đủ các thứ tướng. Vì thế, không nên tác ý chấp trước. Nếu tâm tác ý như vậy, thì các duyên khác gây thành loạn. Khi tâm loạn, thì thân và tâm đều thành biếng lười lắc động, như vậy lỗi lầm vô biên. Khởi hơi thở ra vào, do vô biên xúc, cho nên phải tác tưởng vô biên, tâm như thế chẳng loạn, hoặc tâm chậm hoãn, hoặc tâm nhanh chóng, đều chẳng nên tinh tấn. Nếu tinh tấn chậm hoãn thì trở, thành biếng lười, ngủ nghỉ. Nếu tinh tấn nhanh chóng, thì thành dấy động. Nếu người tọa thiền hoặc cùng biếng lười ngủ nghỉ nổi lên cùng lúc, hoặc cùng dấy động cộng khởi, thì thân đó và tâm thành biếng lười thành dao động, đây là lỗi lầm. Người tọa thiền kia dùng chín phiền não nhỏ, làm tâm thanh tịnh hiện niệm hơi thở vào, tướng kia được khởi. Gọi là tướng, là như rút lụa rút cổ bối, chạm thân thành xúc chạm vui, như gió mát chạm thân thành xúc chạm vui, như nhận biết gió hơi thở ra vào chạm, mũi miệng môi, niệm làm tưởng gió, chẳng do hình sắc, đây gọi là tướng. Hoặc người tọa thiền dùng tu, tu tướng nhiều thành tăng trưởng, hoặc gió tăng trưởng ở đầu lỗ mũi, ở chặn mày, ở gò má thành nhiều chỗ trụ, thành gió tràn đầy trong đầu. Từ đây tăng trưởng khắp thân nhẹ nhàng, an lạc, đây gọi là đầy đủ. Lại có người tọa thiền từ mới đầu thấy dị tướng như khói, như sương, như bụi, như mạt vàng, giống như bị kim chích, như bị kiến cắn, nhận biết các thứ sắc. Nếu người tọa thiền tâm chẳng hiểu rõ, đối với dị tướng kia, tâm nẩy dị tưởng, thì thành điên đảo. không thành tưởng hơi thở ra vào nữa. Nếu người tọa thiền hiểu rõ, thì không nẩy dị tưởng, mà niệm hiện hơi thở vào, niệm hiện hơi thở ra, lìa khởi các tưởng khác. Nếu tác ý như vậy, thì dị tướng liền diệt. Người tọa thiền đó chứng đắc tướng vi diệu, tâm chẳng buông lung, niệm hiện hơi thở vào, niệm hiện hơi thở ra, tướng kia tự tại. Vì tướng tự tại nên dấy khởi mong muốn (dục) tu hành. Do mong muốn tự tại, niệm hiện hơi thở vào, niệm hiện hơi thở ra, nên dấy khởi hỷ. Hỷ và mong muốn đã tự tại, thì niệm hiện hơi thở vào, niệm hiện hơi thở ra, dấy khởi xả. Như vậy, Hỷ, mong muốn, xả đều tự tại niệm hiện hơi thở vào, niệm hiện hơi thở ra, nên tâm đó chẳng loạn. Nếu tâm chẳng loạn, thì các Cái (ngăn che) diệt, thiền phần khởi. Người tọa thiền này đã đạt được thiền định của bốn loại tịch diệt, thù thắng, như phần đầu đã nói rộng.
Lại nữa, có các sư trước đây nói bốn thứ tu niệm an ban, gọi là Toán, Tùy theo, An đặt, Tùy quán.
Hỏi: Tại sao gọi là Toán? (Đếm hơi thở)
Đáp: Mới đầu người tọa thiền từ hơi thở ra cho đến hơi thở vào, từ một đến mười, qua mười chẳng đếm. Lại nói từ một đến năm qua năm chẳng đếm, không để cho ý nhầm lẫn. Bấy giờ phải đếm cho đến khỏi đếm. Từ việc hơi thở vào, ra mà niệm trú, đây gọi là đếm hơi thở. Tùy theo là thau gồm cả việc đếm, dùng niệm không gián đoạn theo sát hơi thở ra vào, đây gọi là Tùy thuận theo. An đặt là, hoặc ở đầu lỗ mũi, hoặc ở môi là chỗ hơi thở ra vào chạm vào, hơi thở ấy tạo thành tướng gió, khiến niệm an trú, đây gọi là an đặt. Nói Tùy quán là, do xúc tự tại phải tùy vào quán tướng, các tướng này khởi các pháp hỷ lạc v.v... nên phải tùy thuận mà quán. Đây gọi là tùy quán. Sự đếm kia là giác diệt, khiến xa lìa giác. Tùy theo là, vì diệt thô giác, ở hơi thở vào ra tác niệm không gián đoạn. An đặt là, vì đoạn loạn tạo thành tưởng không loạn. Tùy quán là, để thọ trì tưởng để biết pháp thù thắng hoặc hơi thở vào dài, hoặc hơi thở ra ngắn. Đối với hơi thở vào ngắn, người học như vậy là việc làm phương tiện vượt qua nơi tánh nó, đây gọi là dài. Tánh là, hiện trí, trí là biểu hiện việc không ngu si.
Hỏi: Thế nào là sự chẳng ngu si?
Đáp: Mới đầu người tọa thiền được thân tâm nhẹ nhàng, dùng hơi thở vào ra, niệm hiện tại, tạo sự an trú; hơi thở vào ra đó trở thành vi tế. Vì hơi thở vào ra vi tế, cho nên trở thành không thể giữ lấy. Bấy giờ người tọa thiền, nếu hơi thở dài thì quán theo dài, cho đến tướng khởi an trú. Nếu tướng đã khởi an trú, thì nên dùng tánh tác ý, đây gọi là không ngu si. Lại nữa, nên vì sự điều hòa của tâm, có lúc thở dài có lúc thở ngắn, phải tu như vậy. Lại nữa người tọa thiền, dùng sự khiến tướng phân minh khởi, thì sự đó phải tu, biết tất cả thân, hơi thở vào của ta.
Học như vậy là, do hai thứ hành biết tất cả thân, chẳng ngu si nên dùng sự vậy.
Hỏi: Tại sao không ngu si biết tất cả thân?
Đáp: Nếu người tọa thiền niệm định an ban, thân tâm hỷ lạc xúc thành tràn đầy. Do hỷ lạc xúc tràn đầy nên toàn thân thành chẳng ngu si.
Hỏi: Tại sao dùng sự biết tất cả thân?
Đáp: Hơi thở ra vào là một phần trụ ở sắc thân, việc hơi thở ra vào, cũng là tâm tâm sở pháp danh thân. Sắc thân và danh thân này, đây gọi là tất cả thân. Người tọa thiền kia vì thấy biết tất cả thân như vậy, nên tuy có thân mà thấy không có chúng sinh, không có mạng. Học như vậy là, ba học: Một là tăng thượng giới học; hai là tăng thượng tâm học; ba là tăng thượng tuệ học. Như thật giới, đây gọi là tăng thượng giới học, như thật định, đây gọi là tăng thượng tâm học, như thật tuệ, đây gọi là tăng thượng tuệ học. Người tọa thiền đối với ba học này dùng niệm tác ý học, tu rồi tu nhiều, đây gọi là học làm cho diệt trừ thân hành, ta học hơi thở vào, như vậy. Thế nào gọi là thân hành? Nghĩa là hơi thở ra vào, vì như vậy, nên thân vận hành hình dáng co duỗi, dao động. Như vậy mọi vận hành biểu hiện ở thân đều làm cho tịch diệt (vắng lặng). Lại nữa, đối với thân thô vận hành hiện tại khiến cho tịch diệt, thì dùng hiện hành của thân vi tế tu hành Sơ thiền. Lại dùng hành vi tế nhất sủa Sơ thiền, mà tu thiền thứ hai; tiếp dùng hành vi tế nhất của thiền thứ hai mà tu thiền thứ ba. Tiếp tục diệt không còn chút hành vi tế mà tu thiền thứ tư.
Hỏi: Nếu diệt không còn sót hơi thở vào, ra, thì làm sao tu hành niệm An ban?
Đáp: Khéo giữ lấy tướng ban đầu, nên diệt hơi thở ra vào, tướng đó được khởi thành tướng tu hành. Tại sao? Vì tướng nhận biết hỷ của các thiền là sự biết hơi thở vào của ta, Học như vậy là, họ nghĩ đến hơi thở hiện vào, nghĩ đến hơi thở hiện ra. Ở chỗ hai thiền đầu khởi hỷ, hỷ kia do hai hành thành tựu biết, vì chẳng ngu si, vì dùng sự. Khi đó người tọa thiền nhập định thành tựu nhận biết hỷ. Vì chẳng ngu si, vì quán, vì đối trị, vì sự nên thành nhận biết an lạc ở hơi thở vào của ta. Học như vậy là, người kia hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra, đối với thiền thứ ba khởi lạc. Lạc đó do hai hành, thành tựu biết; vì chẳng ngu si, vì sự, như phần đầu đã nói, biết tâm hành về hơi thở vào của ta. Học như vậy là nói tâm hành, đó gọi là tưởng thọ, đối với thiền thứ tư khởi các thứ tâm hành, do hai hành, thành tựu biết, vì chẳng ngu si, vì sự, như ban đầu nói. Khiến cho tâm hành và hơi thở vào của ta tịch diệt. Học như vậy là, nói tâm hành. Đó gọi là tưởng, thọ. Đối với tâm hành thô khiến cho tịch diệt, học đó như phần đầu đã nói. Biết tâm, hơi thở vào của ta. Học như vậy là, họ hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra, sự vào ra của tâm, đó do hai hành mà thành tựu sự hiểu biết, vì chẳng ngu si, vì sự, như phần đầu đã nói. Khiến cho tâm hoan hỷ hơi thở vào của ta. Học như vậy là nói làm cho hoan hỷ tức nói là hỷ. Ở nơi Thiền thứ hai, do hỷ làm cho tâm phấn khởi; học điều đó, như phần đầu đã nói. Khiến tâm được giáo hóa, hơi thở vào của ta. Học như vậy là, người tọa thiền kia hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra, vì niệm vì tác ý. Tâm kia đối với sự thì khiến cho an trú, khiến cho chuyên nhất, tâm được giáo hóa dùng tâm kia mà an trú. Học việc đó khiến tâm giải thoát, hơi thở ra vào của ta. Học như vậy là, người tọa thiền kia hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra. Nếu tâm chậm hoãn thì làm cho được giải thoát sự biếng lười. Nếu tâm nhanh chóng, thì từ khiến cho giải thoát sử vọng động mà học về hơi thở. Nếu tâm cao thì khiến cho giải thoát, sự ô nhiễm mà học về hơi thở. Nếu tâm thấp kém thì làm cho giải thoát sự giận dữ mà học về hơi thở. Nếu tâm ô uế thì khiến cho giải thoát các tiểu phiền não mà học về hơi thở. Lại nữa, đối với sự, nếu tâm chẳng ưa thích duyên bám vào thì khiến cho bám dựa vào học về hơi thở. Thường thấy hơi thở vào của ta vô thường. Học như vậy là người kia hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra. Hơi thở vào ra đó và việc hơi thở vào ra, khiến cho tâm tâm sở pháp thấy sinh diệt đó, mà học về hơi thở. Lại thường thấy hơi thở vào của ta có dục. Học như vậy là, học hiện nghĩ đến hơi thở vào, hiện nghĩ đến hơi thở ra, pháp vô thường kia, pháp kia không dục chính là Nê hoàn, mà đi vào hơi thở để tu học. Lại thường thấy hơi thở vào của ta diệt mất. Học như vậy là, học pháp vô thường kia như thật thấy lỗi lầm của nó, ngã kia diệt là Nê hoàn. Vì tịch tịch nhận thấy mà học về hơi thở thường thấy, hơi thở vào của ta xa lìa. Học như vậy là học pháp vô thường kia như thật thấy lỗi lầm của nó, Lỗi lầm kia hiện đang xả, trụ ở Nê hoàn tịch diệt, khiến tâm an lạc. Cho nên học về hơi thở. Tịch tịch như vậy, vi diệu như vậy, gọi là tất cả hành vắng lặng, xa lìa tất cả phiền não, ái diệt, không dục tịch tịch Nê hoàn. Đối với mười sáu xứ nầy, mười hai xứ đầu thành tựu Sa-ma-tha, Tỳ-bà-xána, mới đầu thấy vô thường, bốn xứ sau chỉ thành Tỳbà-xá-na. Như vậy, dùng Sa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na có thể nhận biết. Lại nữa tất cả bốn thứ kia, gọi là tu như vậy khiến khởi quán đầy đủ: có lúc thấy hiện đang nghĩ về hơi thở vào, đang nghĩ về hơi thở ra, đây gọi là tu biết dài ngắn, khiến diệt thân hành, khiến diệt tâm hành, khiến tâm hoan hỷ, khiến giáo hóa tâm, khiến giải thoát tâm, đây gọi là khiến khởi biết tất cả thân, biết an lạc, biết mọi sở hành của tâm. Biết tâm là, đây gọi là quán đầy đủ, thường thấy vô thường, nơi bốn hành ban đầu, đây gọi là có lúc thấy. Lại nữa, tu là dùng niệm an ban thọ trì địa là tu, là an ban niệm thọ trì địa. Thọ trì đó là có giác, kia có giác, có quán. Địa có quán biết hỷ là hai thiền đầu; biết lạc là địa thiền thứ ba, biết tâm là, địa thiền thứ tư. Lại nữa, tất cả kia thành hai thứ, đó là tu và mãn (= tràn đầy). Bởi thế tu hành chỉ bốn thứ kia. Gọi là mãn, tức mười sáu hành chẳng giảm. Tu là, như gieo trồng, nhân của công đức vậy. Nói mãn là, giống như hoa quả, từ tương tợ mà ra. Nếu tu hành niệm an ban như vậy thì thành tựu đầy đủ Bốn niệm xứ; tu bốn niệm xứ, làm đầy đủ Bảy Bồ-đề phần, tu Bảy Bồ-đề phần làm đầy đủ minh, giải thoát.
Hỏi: Tại sao được như vậy?
Đáp: Bốn nơi ban đầu của hơi thở ra vào dài, thành thân niệm xứ, biết nơi khởi đầu thành thọ niệm xứ, biết nơi tâm mới đầu thành tâm niệm xứ, thấy vô thường mới đầu thành pháp niệm xứ. Như vậy, tu niệm an ban thì thành tựu đầy đủ Bốn niệm xứ. Tại sao dùng tu Bốn niệm xứ làm thành đầy đủ Bảy Bồ-đề phần? Lúc tu Bốn niệm xứ, đối với niệm thành tựu an trú không ngu si, đây gọi là Niệm giác phần. Người tọa thiền kia niệm trú như vậy, biết chọn lựa hành khổ, vô thường, đây gọi là Trạch pháp Bồ đề phần. Hiện trạch pháp như vậy hành tinh tấn chẳng trì hoãn, đây gọi là Tinh tấn giác phần. Do hành tinh tấn khởi hỷ không phiền não, đây gọi là Hỷ giác phần. Do tâm hoan hỷ nên thân đó và tâm thành khinh an, đó gọi là Khinh an giác phần. Do thân khinh an có lạc, tâm đó thành định, đây gọi là Định giác phần. Định tâm như vậy thành xả, đây gọi là Xả giác phần. Nhờ tu Bốn niệm xứ mà làm thành tựu đầy đủ Bảy Bồ-đề giác phần. Tại sao do tu Bảy Bồ-đề giác phần mà thành tựu đầy đủ minh giải thoát? Như vậy do tu hành Bảy giác phần nhiều, nên đạo ở trong sát-na thành tựu Minh (sáng suốt) đầy đủ. Quả ở trong sát-na thành tựu giải thoát đầy đủ. Như vậy, tu Bảy Bồ-đề phần thì thành tựu minh giải thoát đầy đủ. Hỏi: Tất cả các hành, do địa thành có giác không giác, như vậy niệm an ban, tại sao chỉ nói niệm an ban là trừ giác mà chẳng nói các thứ khác?
Đáp: Chẳng nương như thế này nói giác. Chẳng trú là, chướng ngại của thiền, cho nên trừ giác, y cứ nghĩa này mà nói. Tại sao đối với gió, ưa thích tiếp xúc? Do tâm ưa thích đắm trước giống như giác. Càn-thát-bà nghe tiếng đắm theo, cho nên đoạn giác. Lại nữa như đi đường bờ đê, dùng tâm chuyên niệm cậy dựa chẳng động, cho nên nói niệm an ban là trừ giác (niệm an ban đã xong).
Hỏi: Thế nào là nghĩ về chết? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Thọ mạng hiện hành bị đoạn gọi là chết. Niệm kia trú chẳng loạn, đây gọi là tu. Thọ mạng của mình đoạn là tướng; nhàm chán là vị; không nạn là xứ. Công đức gì? Nếu tu hành niệm chết thì đối với thiện pháp trên thành ra không dám buông lung, thành ghét pháp bất thiện. Đồ ăn mặc không sắm sửa, thọ dụng nhiều tâm chẳng keo xẻn, nhận thức về thọ mạng, của thân tâm chẳng tham đắm, khởi tưởng vô thường, tưởng khổ, tưởng vô ngã, đều khiến thành tựu đầy đủ, thành định hướng tới cõi thiện, đi tới Đề hồ. Lúc mạng sắp kết thúc, tâm chẳng lầm lẫn. Tu hành thế nào? Mới đầu, người tọa thiền đi vào sự vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, dùng tâm chẳng loạn, nghĩ đến chúng sinh chết, ta vào pháp chết, đi tới cõi chết không qua pháp chết, như trong Niếtđể-lý-ba-đà-tu-đa-la nói: Nếu người ưa thích quán chết, thì phải quán người bị chết kia, thấy rõ nhân duyên chết. Do đó, nghĩ về chết có bốn thứ: Tương ưng với ưu (buồn); tương ưng với sợ; tương ưng lúc bình thường; tương ưng trí. Như mất người con yêu tâm nhớ nghĩ nhân duyên lúc sống, đây gọi là tương ưng với ưu. Thương nhớ con nhỏ sớm chóng qua đời, đây gọi là nhớ nghĩ tương ưng với sự hãi hùng. Như người xà duy nghĩ lìa bỏ sự sống, đây gọi là nhớ nghĩ tương ưng lúc bình thường. Luôn quán thế gian, tâm sinh nhàm chán, đây gọi là nghĩ nhớ tương ưng trí. Vì thế, người tọa thiền với ưu tương ưng, kinh hãi tương ưng, bình thường tương ưng, chẳng nên tu hành. Tại sao? Vì không khả năng trừ lỗi lầm, chỉ tương ưng, trí là cần tu hành, có thể trừ lỗi lầm. Chết thì có ba thứ: Bình đẳng, Đoạn chết, Niệm niệm chết. Tại sao gọi là Bình đẳng chết? Dựa vào chúng sinh thì đây gọi là Bình đẳng. Nói đoạn chết là, đó là A-la-hán phiền não đã đoạn. Nói niệm niệm chết là, các hành niệm niệm diệt. Lại nữa, chết có hai thứ: Chẳng hạn thời gian chết và có thời gian chết. Nếu tự giết hoặc kẻ khác giết, hoặc chết vì bệnh, hoặc không nhân duyên, giữa đường bỗng chết, thì đây gọi là chẳng hẹn thời tiết chết. Nếu thọ mạng hết cho đến già chết thì đây gọi là có thời gian chết. Nên nghĩ hai thứ chết nầy. Lại nữa, có tám hành mà các sư trước đây đã nói tu niệm về chết: như người hung ác đuổi theo, vì không nhân duyên, vì vốn có giữ như vậy, vì thân nhiều hệ thuộc, vì thọ mạng không sức lực, vì lâu xa phân biệt, vì không tướng vậy, vì sát-na vậy.
Hỏi: Tại sao vì hung ác đuổi theo tu hành niệm chết? Đáp: Như người bị giết được dẫn đến nơi giết, người hung ác này rút dao theo sát, kẻ kia thấy người hung ác, rút dao theo sau, như vậy bèn tư duy, người này theo ta, lúc nào ta phải chết, ta đi mỗi mỗi bước, bước nào sẽ chết, ta đi ắt chết, ta đứng ắt chết, ta ngồi ắt chết, ta ngủ ắt chết. Như vậy người tọa thiền, vì người hung ác đuổi theo nên phải tu niệm chết.
Hỏi: Tại sao vì không nhân duyên, tu niệm chết?
Đáp: Không nhân duyên, không phương tiện, vì sinh ý nghĩ có thể khiến chẳng chết, như mặt trời mặt trăng xuất hiện không nhân duyên, không phương tiện có khả năng khiến không lặn mất. Vì không có nhân duyên như vậy, nên tu niệm về chết.
Hỏi: Tại sao vì vốn cò giữ như vậy nên tu niệm chết?
Đáp: Vua Đa tài, vua Đại thừa, vua Đại Thần Lực Đại Thiện Kiến, vua Đảnh Sinh trước kia v.v... tất cả đều đi vào pháp chết. Lại nữa, xưa các tiên nhân đại thần thông, đại thần lực, tiên nhân Tỳ-sa-mật-đa-xà-ma-đạtlê thân ra nước lửa, cũng vào pháp chết. Lại nữa, xưa Thanh văn có đại trí có đại thần thông có đại thần lực như Xá-lợi-phất, Mục Kiền Liên v.v... cũng bước vào pháp chết. Lại nữa các vị Duyên giác tự sinh không thầy, tất cả công đức thành tựu, cũng vào pháp chết. Lại nữa các Đức Như Lai Ứng cúng Chánh giác vô lượng, vô thượng minh hạnh đầy đủ, đến bờ kia công đức cũng vào pháp chết. Huống gì ở ta thọ mạng ngắn ngủi, mà chẳng sẽ vào pháp chết ư? Vì vốn có giữ như vậy nên tu niệm chết.
Hỏi: Tại sao vì thân nhiều hệ thuộc nên tu niệm chết? Đáp: Vì phong đàm hòa hợp thành pháp chết, hoặc các giống trùng hòa hợp, hoặc ăn uống chẳng điều thành vào pháp chết, hoặc rắn độc, bò cạp, sâu bọ, rít, chuột cắn thành vào pháp chết, hoặc sư tử hổ báo rồng trâu v.v... thành vào pháp chết, hoặc bị người hay phi nhân giết hại vào pháp chết, thân này nhiều chỗ hệ thuộc như vậy, nên tu niệm pháp chết.
Hỏi: Tại sao vì thọ mạng không sức lực nên tu niệm chết?
Đáp: Vì hai hành, vì thọ mạng không sức lực nên tu niệm chết. Vì xứ không sức lực, nương tựa không sức lực, nên thành thọ mạng không sức lực. Cho nên tu niệm chết.
Hỏi: Thế nào là xứ không sức lực nên thọ mạng không sức lực?
Đáp: Thân này không có tự tánh, ví như bọt nước, như cây chuối, Dụ như bọt nước, là không có chân thật, lìa chân thật. Như vậy xứ không sức lực nên thành thọ mạng không sức lực.
Hỏi: Thế nào là nương tựa không sức lực nên thành thọ mạng không sức lực?
Đáp: Đây gọi là sự ràng buộc của hơi thở ra vào, bị bốn đại ràng buộc, bị ăn uống ràng buộc, bị bốn oai nghi ràng buộc, bị ấm nóng ràng buộc. Như vậy mọi nương tựa không sức lực, thì thành thọ mạng không sức lực. Do hai hành này như thế, mà vì thọ mạng không sức lực. Cho nên, phải tu niệm về chết.
Hỏi: Tại sao vì phân biệt lâu xa tu niệm về chết?
Đáp: Từ thời lâu xa tất cả đã sinh, ở đời hiện tại chẳng quá trăm năm đều vào pháp chết. Đó gọi là phân biệt lâu xa nên tu niệm chết. Lại nữa, phải tu, ta há có thể được sống trong một ngày một đêm. Đêm ngày tư duy, đối với các pháp của Thế Tôn, ta được ân lớn, như vậy một ngày ta há có thể sống? Hoặc nửa ngày ta há có thể sống? Hoặc lại thời gián ngắn ta há có thể sống? Hoặc chừng khoảng bữa ăn, hoặc thời gian nửa bữa ăn ta há có thể sống? Hoặc bốn, năm vắt cơm ta há có thể sống? Hoặc chừng thời gian hơi thở vào ta há có thể sống đến thời gian hơi thở ra? Hoặc thời gian hơi thở ra ta có thể sống đến thời gian hơi thở vào? Vì phân biệt lâu xa nên tu niệm chết.
Hỏi: Tại sao vì không tướng nên tu niệm chết?
Đáp: Vì không có tướng chết không có thời gian, vì không tướng nên tu niệm chết.
Hỏi: Tại sao vì sát-na nên tu niệm chết? Vì chẳng kể quá khứ và vị lai chỉ kể ở hiện tại duyên thọ mạng chúng sinh, thì ngay một niệm được trụ này từ niệm này không có trụ của hai niệm, tất cả chúng sinh, trong sát-na tâm mất, như trong A-tỳ-đàm nói: Đối với quá khứ, không có đã sinh, không có sẽ sinh không có hiện sinh. Đối với vị lai, tâm không có đã sinh, không có, sẽ sinh, không có hiện sinh. Ở sát-na hiện tại tâm không có đã sinh, không có sẽ sinh, không có hiện sinh. Lại như kệ tụng nói:
Thọ mạng và thân tánh.
Khổ lạc và cả thảy.
Cùng một tâm tương ưng.
Sát-na sinh khởi mau.
Lúc chưa sinh không sinh.
Ở hiện tại có sinh.
Tâm đoạn nên đời chết.
Đã nói đời hết vậy.
Như vậy, vì sát-na cho nên tu niệm chết. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hạnh này, hiện tu niệm chết như vậy, khởi sự nhàm chán. Do nhàm chán được tự tại. Vì niệm tự tại thành tâm chẳng loạn. Nếu tâm chẳng loạn thì các Cái diệt, thiền phần thành khởi, hành thiền bên ngoài được trú.
Hỏi: Tưởng vô thường, niệm chết, hai loại nầy có gì sai khác?
Đáp: Sự sinh diệt của ấm gọi là tưởng vô thường; niệm các căn hoại gọi là niệm chết. Vì tu tướng vô thường, tướng vô ngã là trừ kiêu mạn. Vì tu niệm chết, mà tu tướng vô thường và tướng khổ thành tựu an trú. Vì thọ mạng đoạn dứt, tâm diệt, đây gọi là sai biệt (niệm chết đã xong).
Hỏi: Niệm thân là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Tu niệm về tánh của thân; niệm đó tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm thân, niệm này trú chẳng loạn, đây gọi là tu. Khiến khởi tánh thân là tướng; nhàm chán là vị, thấy không thật là khởi. Công đức gì? Do tu niệm thân, thành tựu khả năng chịu đựng, kham chịu khiếp, sợ, kham nhận nóng lạnh v.v... tưởng vô thường, tưởng vô ngã, tưởng bất tịnh, tưởng lỗi lầm, các tưởng trở thành đầy đủ, thành tùy ý đạt được bốn thiền, vì phân minh các pháp, tu khiến đầy đủ, hướng đến cõi thiện, hướng đến Đề hồ. Tu thế nào? Người mới tọa thiền vào vắng lặng ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm, chỉ tu tâm tánh. Tại sao tu tâm tánh? Đó là tánh bất tịnh của thân này, như tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, não, gan, tim, tỳ, phổi, mật, dạ dày, mở, màng não, ruột già, non, cứt đái, huyết nồng, đàm dãi, nước mắt, nước mũi, khạc nhổ. Người tọa thiền kia đối với ba mươi hai hành này mới đầu lần lượt ở trên rồi đến lần lượt ở dưới. Lành thay, vì miệng nói năng nên thường nói thường quán. Lành thay vì thường quán miệng với các sự nói năng. Khi ấy dùng mỗi bốn hành, chỉ dùng tâm đang giác, vì sắc vì hình vì xứ, vì các tướng thô do phân biệt khởi, hoặc một hoặc hai hoặc nhiều, khéo nắm bắt tương ưng, Người tọa thiền kia vì ba thứ giác đó thành khởi lên: vì sắc, vì nhàm chán, vì không. Nếu người tọa thiền vì sắc khởi tướng, thì nên tác ý là do sắc Nhất thiết nhập tự tại. Nếu người tọa thiền vì nhàm chán khởi tướng, thì nên tác ý vì bất tịnh, Nếu người tọa thiền vì "không" khởi tướng, thì nên tác ý vì giới. Nếu người tọa thiền dựa vào Nhất thiết nhập thì khởi bốn thiền, nếu dựa vào sự bất tịnh thì khởi Sơ thiền, nếu người tọa thiền dựa vào sự giới thì khởi hành thiền bên ngoài. Do thế người hành giận dữ vì sắc khởi tướng, người hành tham dục vì nhàm chán khởi tướng, người hành tuệ vì giới (cảnh giới) khởi tướng. Lại nữa, người hành giận dữ vì sắc phải tác ý, người hành tham dục vì nhàm chán nên tác ý, người hành tuệ vì giới nên tác ý. Lại nữa, vì mười ba hành nên nghĩ đến tánh của thân, đó là, vì giống, vì xứ, vì duyên, vì chảy, vì lần lượt, vì hình, vì giống, trùng, vì an xứ, vì tụ, vì ghét, vì bất tịnh, vì xứ, vì chẳng biết ân, vì có biên (hạn).
Hỏi: Tại sao vì giống loại (chủng tử) phải niệm tánh của thân?
Đáp: Như giống độc đỏ sinh Thù-du-câu-sa-đa-kỷ v.v... sinh tất cả, như vậy, thân này từ bất tịnh của cha mẹ sinh. Hạt giống bất tịnh sinh thân này thành bất tịnh, vì giống như vậy, phải tu niệm của tâm tánh.
Hỏi: Tại sao vì xứ phải niệm tánh của thân?
Đáp: Thân này chẳng từ hoa-uất-đa-la-sinh, chẳng phải hoa-câu-mâu-đà-phân-đà-lợi-ca sinh, mà từ bụng mẹ sinh, bất tịnh dơ bẩn bức bách sinh, từ sinh tạng thục tạng sinh, từ cái bọc bào thai hai bên hông ràng buộc, dựa cột sống mà trú, nơi đó bất tịnh thân thành bất tịnh. Vì xứ như vậy nên niệm tánh thân.
Hỏi: Tại sao vì duyên phải niệm tánh thân?
Đáp: Thân bất tịnh này nếu tăng trưởng thì chẳng vì duyên với vàng bạc châu ngọc v.v... mà có thể tăng trưởng được. Lại không vì duyên với chiên đàn đa-giàla trầm hương v.v... mà có thể tăng trưởng được. Thân này từ bụng mẹ sinh, đồ mẹ ăn uống, đàm dãi lẫn lộn, như thức ăn hôi thối nước dãi được sinh từ thai mẹ, mà sống mà tăng trưởng, từ như vậy mà sinh ra, những ăn uống đó, cơm cháo bột đậu, nước mắt nước mũi đàm dãi tạp lẫn. Thân này nhờ bất tịnh, hôi thối được tồn tại tăng trưởng. Vì duyên như vậy phải niệm tự tánh của thân.
Hỏi: Tại sao vì rỉ chảy phải niệm tự tánh của thân?
Đáp: Như túi da đựng đầy phân, nước tiểu, vì nhiều lỗ nên, bất tịnh chảy ra, thân này cũng vậy, đựng đầy nước tiểu. Như vậy thân này những thức thường ăn uống, và mũi dãi phân, nước tiểu hôi dơ, đủ các thứ bất tịnh từ chín lỗ chảy tràn, vì nhiều lỗ chảy nên chẳng thành tràn đầy, vì lưu chảy như vậy, nên niệm tự tánh thân.
Hỏi: Tại sao vì hình lần lượt phải niệm tự tánh thân? Đáp: Thân này vì nghiệp mới đầu lần lượt tạo lập: bảy ngày đầu thành Ca-la-la, bảy ngày thứ hai thành Aphù-đà, bảy ngày thứ ba thành Tỳ-thi, bảy ngày thứ tư thành A-na, bảy ngày thứ năm hình thành năm chi tiết, bảy ngày thứ sáu thành bốn chi tiết, bảy ngày thứ bảy lại sinh bốn tiết, bảy ngày thứ tám lại sinh hai mươi tám tiết, bảy ngày thứ chín và bảy ngày thứ mười lại sinh cột sống, bảy ngày thứ mười một lại sinh ba trăm xương, bảy ngày thứ mười hai lại sinh tám trăm đốt, bảy ngày thứ mười ba lại sinh chín trăm gân, bảy ngày thứ mười bốn lại sinh trăm viên thịt, bảy ngày thứ mười lăm lại sinh huyết, bảy ngày thứ mười sáu lại sinh màn mỏng (mô), bảy ngày thứ mười bảy lại sinh da, bảy ngày thứ mười tám thành màu da, bảy ngày thứ mười chín do nghiệp sinh hơi gió khắp nơi, bảy ngày thứ hai mươi hình thành chín lỗ, bảy ngày thứ hai mươi lăm sinh mười bảy ngàn thớ da dẻ, bảy ngày thứ hai mươi sáu thành thân cứng chắc, bảy ngày thứ hai mươi bảy có lực, bảy ngày thứ hai mươi tám sinh chín mươi chín ngàn lỗ chân lông, bảy ngày thứ hai mươi chín thành tất cả thân phần đầy đủ. Lại nói bảy ngày thứ bảy có hình thể, dựa dưới lưng mẹ đầu ngồi xổm, bảy ngày thứ bốn mươi hai do nghiệp sinh gió, chuyển chân hướng lên trên, đầu hướng xuống dưới hướng tới sản môn (âm hộ), lúc đó sinh, người đời nói tạm gọi là người, như vậy, vì lần lượt thành hình phải niệm tánh thân.
Hỏi: Tại sao vì giống trùng phải niệm tánh của thân? Đáp: Thân này là bị tám mươi ngàn hộ trùng ăn, trùng nương tóc gọi là phát thiết, trùng nương đầu lâu gọi là nhĩ chủng, trùng nương não gọi là điên cuồng hạ. Điên cuồng lại có bốn thứ: Một là Khu-câu-lâm-bà, hai là Thấp-bà-la; ba là Đà-la-ha; bốn là Đà-a-thi-la, trùng nương mắt gọi là Thỉ nhãn, trùng nương mũi gọi là Chỉ nhĩ, trùng mũi gọi là Chỉ tỷ. Lại có ba thứ: Một là Lâukhâu-mẫu-ha; hai là A-lâu-khấu; ba là Ma-na-mẫu-khả. Trùng nương lưỡi gọi là Vật già, trùng nương thiệt căn là Mẫn-đản-đa, trùng nương răng gọi là Cẩu bà, trùng nương căn răng gọi là Ưu-bà-câu-bà, trùng nương yết hầu gọi là A-bà-ly-ha, Trùng nương đầu có hai thứ: Một là Lỗ-ha-la; hai là Tỳ-lỗ-ha-la, Trùng nương lông gọi là Chỉ ma, trùng nương móng gọi là Chỉ trảo, Trùng nương da có hai thứ: Một là Đâu-na; hai là Đâu-nan-đa, trùng nương lớp màng lại có hai thứ: Một là Tỳ-lam-bà; hai Ma-tỳ-là la-bà, trùng nương thịt lại có hai thứ: Một là A-la-bà; hai là La-bà: Trùng nương huyết có hai thứ: Một là Bà-la; hai là Bà-đa-la. Trùng nương gân có bốn loại:
Một là Lại-đa-lỗ; hai là Hỷ-đa-bà; ba là Bà-la-bà-đa-la; bốn là La-na-bà-la-na. Trùng nương mạch gọi là Giàlật-hiệp-na. Trùng nương mạch căn có hai thứ: Một là Thi-bà-la; hai là Ưu-bà-thi-bà-la. Trùng nương xương có bốn thứ: Một là Át-sĩ-tỳ-đà; hai là An-na-tỳ-đà; ba la Đãi-lý-tha-tỳ-tha; bốn là Át-sĩ Hoàn-khả-la. Trùng nương tủy có hai thứ: Một là Nhĩ xả; hai là Nhĩ-xả-thila. Trùng nương tỳ có hai thứ: Một là Ni-la; hai là Tỷđa. Trùng nương tim có hai thứ: Một là Tử-tỳ-đa; hai là Ưu-bát-tha-tỳ-đa, Trùng nương tâm căn có hai thứ: Một là Mãn khả; hai là Thi-la, Trùng nương gân có hai thứ: Một là Khả-la; hai là Khả-thi-la. Trùng nương bàng quang có hai thứ: Một là Nhĩ-khả-la; hai là Ma-ha-khảla. Trùng nương bàng quang căn có hai thứ: Một là Khảla; hai là Khả-la-thi-la. Trùng nương dạ dày có hai thứ: Một là Bà-bà-la; hai là Ma-ha-sa-bà-la. Trùng nương bào căn có hai thứ: Một là Lại-đa; hai là Ma-ha-lại-đa, Trùng nương ruột non có hai thứ: Một là Trửu-lại-đa; hai là Ma-ha-lại-đa. Trùng nương tràng căn có hai: Một là Ba; hai là Ma-ha-tử-ba. Trùng nương đại tràng căn có hai thứ: Một là An-na-bà-la; hai là Bác-quả-bà-ha, Trùng nương vị có bốn thứ: Một là Ưu-thọ-khả; hai là Ưu-xảbà; ba là Tri-xả-bà; bốn là Tiên-thị-bà. Trùng nương thục tạng có bốn thứ: Một là Bà-ha-na; hai là Ma-ha-na; ba là Đà-na-bàn; bốn là Phấn-na-mẫu-khả, Trùng nương đảm (mật) gọi là Tất-đa-ly-ha, trùng nương nước dãi gọi là Tiêm-ha, Trùng nương mồ hôi gọi là Tùy-đà-ly-ha. Trùng nương mở tảng gọi là Nhĩ-đà-ly-ha. Trùng nương cường có hai thứ: Một là Tẩu-bà-ha-mẫu, hai là Xã-makhế-đa. Trùng nương cương căn có ba thứ: Một là Xứha-mẫu-kha; hai là Đà-lỗ-ha-mẫu-kha, ba là Bà-na-mẫukha. Lại có năm thứ trùng nương ở trước thân, ăn ở trước thân, nương ở sau thân ăn ở sau thân, nương ở bên trái thân, ăn ở bên trái thân nương ở bên phải thân ăn ở bên phải thân. Đó là trùng Chiên-đà-tử-la, thần-ha-tử-la, bấtthâu-la v.v... Nương hai lỗ dưới có ba thứ trùng: Một là Câu-lâu-câu-la-duy-dụ; hai là Già-la-dụ; ba là Hàng-đầu-ba-tha, vì trùng nương ở như vậy phải niệm tánh thân.
Tại sao vì an trú phải niệm tự tánh thân? An trú xương chân, ở xương bắp chân, an trú xương bắp chân ở xương đùi vế an trú, xương đùi vế ở xương chậu an trú, xương chậu ở xương xương cột sống an trú, xương cột sống ở xương bả vai an trú, xương bả vai ở xương vai, an trú xương vai ở xương cổ, an trú xương cổ, ở xương đầu an trú, xương đầu ở xương má, an trú, xương má ở xương răng. Như vậy thân này xương đốt ràng buộc bên trong, da dẻ che phủ bên trên thành thân dơ uế này, từ hành nghiệp sinh chẳng phải các thứ khác năng tạo. Vì an như vậy phải niệm tự tánh thân.
Tại sao vì nhóm (tụ) phải niệm tự tánh thân? Chín đầu xương, xương hai má, xương ba mươi hai răng, bảy xương, xương cổ, mười bốn xương ngực, hai mươi bốn xương hông, mười tám xương, xương sống, hai xương xương chậu, sáu mươi bốn xương tay, sáu mươi bốn xương chân, sáu mươi bốn xương mềm xương thịt. Đây ba trăm xương, tám trăm tiết, chín trăm gân ràng rịt, chín trăm viên thịt, mười bảy ngàn thớ da dẻ, tám trăm vạn sợi tóc, chín mươi chín ngàn lông, sáu mươi khoảng, tám vạn giống trùng. Đàm nước dãi, não mỗi một Ba-lại-tha, (tiếng Trung Hoa thời nhà Lương gọi là trùng Tứ Lưỡng, huyết), một A-tha, (tiếng Trung Hoa thời nhà Lương gọi là dùng ba thăng). Các thứ như vậy chẳng thể cân tính các thứ hình, chỉ là phân nước tiểu gọi là thân. Hai nhóm như vậy phải niệm tự tánh thân.
Tại sao vì ghét phải niệm tự tánh thân? Kẻ kia trọng vật thanh tịnh thứ nhất, quá yêu thân với phục sức, hoa hương xoa thân như vậy, y phục trang nghiêm, giường ngủ, ghế ngồi túi đãy, gối chăn bông nệm sàng giường màn trướng vật nằm đầy đủ v.v... các thứ ăn uống cư trú cúng dưỡng, tâm sinh ái trọng, sau thành ghét bỏ. Vì ghét bỏ như vậy phải niệm tự tánh thân.
Tại sao vì chẳng thanh tịnh phải niệm tự tánh thân? Y vật các thứ phục sức như vậy đã không sạch sẽ, có thể giặt giũ trở lại được thanh tịnh. Tại sao? Vì tánh thanh tịnh. Cho nên, thân này bất tịnh chẳng thể khiến tịnh. Lại nữa, dùng hương xoa thân, dùng nước thơm tắm rửa không thể làm cho tịnh. Tại sao? Tánh bất tịnh vậy. Vì chẳng thanh tịnh như vậy phải niệm tự tánh thân. Tại sao vì xứ phải niệm tự tánh thân? Như hoa nương ao hồ sinh, như quả nương xứ quả sinh, như vậy, thân này từ các thứ phiền não lỗi lầm mà sinh. Như vậy mắt đau, tai đau, mũi đau, lưỡi đau, thân đau, đầu đau, miệng đau, răng đau, ói mửa thở gấp, nóng lạnh bụng đau, tâm buồn động kinh, cuồng, phong, bệnh, hoặc loạn, hủi, bướu, thổ huyết, ghẻ lở, sưng bí, lạnh v.v... các thứ bệnh thân này có vô biên tội lỗi, vì xứ như vậy phải niệm tự tánh thân.
Tại sao vì chẳng biết ân phải niệm tự tánh thân? Người ta tuy là liệu lý tự thân ăn uống tối thắng, hoặc tắm rửa xoa hương ngủ, ngồi. Áo chăn dùng tư trang nghiêm, thân cây độc này trái lại chẳng biết ân, hướng già hướng bệnh hướng chết, như bạn thân chẳng biết ân. Vì chẳng biết ân như vậy phải niệm tự tánh thân.
Tại sao vì có biên hạn phải niệm tự tánh thân? Thân này hoặc có thể xà duy (= đốt cháy) hoặc có thể bị gặm ăn, hoặc có thể phá hoại, hoặc có thể mòn diệt, thân này có giới hạn, vì có biên hạn như vậy, nên phải niệm tự tánh thân. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này, dùng tự tánh, phải niệm thân này, vì niệm tự tại, vì tuệ tự tại thành chẳng loạn tâm. Nếu chẳng loạn tâm thì các Cái diệt, thiền phần khởi, tùy sự ưa thích đó thành được ưu thắng (niệm thân đã xong).
Hỏi: Tại sao niệm tịch tịch? Tu gì, tướng gì, vị gì, xứ gì công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Tịch tịch là diệt thân tâm động loạn, đã nhiếp phục đoạn cho nên, đây gọi là tịch tịch. Hiện niệm tịch tịch, niệm kia tùy niệm chánh niệm, đây gọi là niệm tịch tịch. Vì niệm an trú chẳng loạn, đây gọi là tu; khiến khởi công đức chẳng động là tướng; chẳng thay đổi là vị, diệu giải thoát là xứ. Công đức gì? Nếu tu hành niệm tịch tịch, thì thành tựu ngủ an, tỉnh thức an thành tựu tâm tịch tịch, các căn tịch tịch, tâm nguyện đầy đủ, thành đáng mến, hổ thẹn đầy đủ, thường được người quý trọng, hướng đến cõi thiện, hướng đến Đề hồ. Tu pháp đó ra sao? Mới đầu, người tọa thiền vào vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng khởi loạn tâm, như Tỳ-kheo kia các căn tịch tịch, tâm tịch tịch ưa thích một xứ tịch tịch, vì tương ưng an trú, Tỳ-kheo kia dùng thân khẩu ý, hoặc thấy hoặc nghe vì niệm vắng lặng, vì công đức vắng lặng, như lời Đức Thế Tôn nói: Tỳ-kheo kia giới đầy đủ, định đầy đủ tuệ đầy đủ, giải thoát đầy đủ giải thoát tri kiến đầy đủ. Nếu Tỳ-kheo được thấy Tỳ-kheo kia thì ta nói vị ấy là loại lớn, ân lớn. Nếu nghe Tỳ-kheo kia, thì ta nói ân lớn; nếu sang đó, ta nói ân lớn, nếu thân gần cúng dường vị ấy, hoặc niệm kia, hoặc theo xuất gia, ta nói kia rất được ân. Tại sao? Các Tỳ-kheo như vậy v.v... nghe nói pháp đó, được lìa hai thứ ồn ào, đó là thân huyên náo và tâm huyên náo, Tỳ-kheo kia vào Sơ thiền, vì niệm tịch tịch, diệt mọi triền cái. Nếu vào thiền thứ hai, thì niệm giác quán kia diệt, nếu vào thiền thứ ba, niệm hỷ kia diệt, nếu vào thiền thứ tư niệm lạc kia diệt. Nếu vào định hư không, thì niệm tưởng, sắc tưởng giận dữ tưởng các thứ diệt. Nếu vào định thức thì niệm hư không kia diệt. Nếu vào định, vô sở hữu, thì niệm tưởng thức nhập kia diệt. Nếu định phi tưởng phi phi tưởng, niệm tưởng vô sở hữu kia diệt, nếu vào tưởng thọ diệt, thì niệm tưởng thọ kia diệt. Nếu đắc quả Tu đà-hoàn niệm thấy một xứ phiền não diệt. Nếu đắc quả Tư-đà-hàm, thì niệm phiền não dâm dục, giận dữ thô diệt. Nếu đắc quả A-na-hàm, thì niệm phiền não dâm dục giận dữ vi tế diệt. Nếu đắc quả A-la-hán, thì niệm tất cả phiền não kia diệt. Nếu vào Nê hoàn, thì do niệm tịch tịch, nên tất cả đều diệt. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này, vì công đức niệm tịch tịch như vậy, tâm kia thành tín. Vì tin tự tại, vì niệm tự tại, tâm thành chẳng loạn. Nếu chẳng loạn tâm, thì các triền cái diệt, thiền phần khởi, hành thiền bên ngoài thành trú, niệm tịch tịch đã xong (mười niệm đã xong).
Đối với mười niệm xứ tán cú này, nếu niệm về công đức của Phật ở quá khứ vị lai, đây gọi là tu niệm Phật. Như vậy, niệm về công đức của Duyên giác, nếu niệm và hoàn thiện nói về một pháp, đó gọi là tu niệm pháp. Nếu niệm công đức một Thanh văn tu hành, đây gọi là tu niệm tăng. Niệm giới kia, đây gọi là tu niệm giới, niệm thí kia, đây gọi là tu niệm thí. Hoặc ưa muốn niệm thí, thì thí nơi người có công đức, phải giữ lấy tướng thọ nhận. Hoặc có người nhận thí chưa thí, cho đến một nắm cơm thì đều chẳng nên ăn. Niệm trời là, thành tựu đức tin có năm pháp, phải tu niệm trời.
Hỏi: Từ là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì công đức gì? Tu hành thế nào?
Đáp: Như cha mẹ chỉ có một đứa con, bởi tình yêu thương nên thấy con là khởi lòng từ, khởi tâm làm lợi ích. Như vậy đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm từ, tâm tạo lợi ích, đây gọi là từ, Tu tự an nó trú chẳng loạn, đây gọi là tu, làm cho phát khởi lợi ích là tướng, ái niệm là vị, không giận tức là khởi, Nếu tu hành từ, thì thành tựu được mười một công đức: ngủ an, tỉnh thức an, chẳng thấy ác mộng, được người ái niệm, được phi nhơn ái niệm, chư thiên bảo vệ, lửa độc, dao gậy không hại đến thân, khiến tâm được định nhanh chóng, sắc diện, dáng vẻ vui tươi, mạng chung chẳng loạn, như chưa đắc pháp thù thắng thì sinh ở Phạm thế. Thế nào là tu hành? Mới đầu, người tọa thiền vui thích tu hành từ. Đầu tiên quán lỗi lầm của giận tức và công đức nhẫn nhục. Tâm nên thọ trì hạnh nhẫn nhục. Tại sao phải quán lỗi lầm của giận tức? Như người mới khởi giận dữ, đã thiêu đốt từ tâm, khiến tâm vẩn đục, từ đó tăng trưởng mặt mày nhăn nhó, từ đó tăng trưởng, miệng nói lời ác, từ đó tăng trưởng nhìn dáo dác bốn phía, từ đó tăng trưởng tay nắm dao gậy, từ đó tăng trưởng giận điên hộc máu, từ đó tăng trưởng quăng ném của cải, từ đó tăng trưởng đập phá các vật, từ đó tăng trưởng giết hại kẻ khác hoặc tự giết mình. Lại nữa, nếu người luôn hận tức thì hoặc giết cha mẹ, hoặc giết A-la-hán, hoặc phá tăng, hoặc ác tâm khiến thân Phật ra máu, gây ra các sự đáng sợ như vậy: phải quán như vậy. Lại nữa, phải quán như vậy. Ta mệnh danh là Thanh văn nếu chẳng đoạn phẫn hận, thì thật đáng xấu hổ. Ta nên nhớ thí dụ về cái cưa, mà trong Tuđa-la đã nói. Ta nên ưa thích thiện pháp. Nếu ta làm cho phẫn hận tăng trưởng trở thành đáng ghét, thì giống như người ưa thích tắm, trở lại vào nơi bất tịnh. Ta vốn tự học rộng nếu chưa hàng phục phẫn hận, thì bị người ruồng bỏ, tệ bạc, như thầy thuốc trở lại tự mắc bịnh dịch tả. Ta vốn được đời mến quý, nếu ta không trừ phẫn hận, thì người ruồng bỏ, tệ bạc, như cái bình được vẽ đẹp, bên trong đựng đầy bất tịnh mà chẳng bịt đậy. Nếu người có trí tuệ mà còn khởi phẫn hận, thì như người cố ăn tạp độc. Tại sao? Vì theo phẫn hận này là theo thứ đáng ruồng bỏ, tệ bạc nhất, gây thành quả báo khổ. Ví như người bị rắn độc cắn, tự có thuốc giải độc mà chẳng chịu uống, người kia có thể nhận biết khổ vui, mà không thích cái vui. Như vậy, Tỳ-kheo nếu phẫn hận khởi, mà không hàng phục nhanh thì Tỳ-kheo đó có thể biết vui, khổ nhưng không ưa thích cái vui. Tại sao? Vì phẫn hận nầy rất đáng sợ. Lại nữa, phải quán phẫn hận, vì người phẫn hận được kẻ thù khen ngợi, làm bạn thân hổ thẹn, tuy có đức dày lại bị khinh rẽ, vốn được quý trọng, ngược lại thành khi dể. Hoặc đã được tiếng tăm vang vọng, thì đều bị chế nhạo phá hủy, hoặc cầu vui thành khổ, hoặc không động trở thành làm cho động, như có mắt thành mù, như thông minh thành không trí; phải quán lỗi lầm phẫn hận như vậy. Thế nào là quán công đức của phẫn nhục? Đáp: Nhẫn nhục là sức mạnh, là áo giáp có thể bảo hộ thân, có thể trừ phẫn hận, là điều được xưng tụng, người trí khen ngợi, là vui khiến chẳng thối, là gìn giữ khiến giữ tất cả đầy đủ, là hiểu rõ khiến quán các nghĩa, là tốt lành vì biết hổ thẹn. Lại nữa, phải quán: ta đã xuống tóc, thì chỉ nên nhẫn nhục, đó là điều ta vốn thọ nhận. Ta đã nhận quốc thí, thì nên dùng tâm nhẫn nhục khiến thí chủ kia có quả báo lớn. Ta vốn mang hình dáng sắc phục của Thánh, ta nhẫn nhục đây chính là làm hạnh Thánh. Ta có giận dữ thì làm cho hết giận dữ. Ta mệnh danh là Thanh văn thì làm cho thật đúng tên gọi Thanh văn; đàn việt kia kia thí cho ta vật tạp, thì ta dùng nhẫn nhục này khiến thí chủ kia được quả báo lớn. Ta có lòng tin, nhẫn nhục đây là nơi ta tin. Ta có trí tuệ, nhẫn nhục đây là nơi trí tuệ. Ta có phẫn hận độc, nhẫn nhục nầy là thuốc ta trừ độc. Quán lỗi lầm phẫn hận và công đức nhẫn nhục như vậy, khiến tâm thọ trì. Ta phải hướng đến hành nhẫn nhục, người có hung dữ, mắng chửi, ta hãy nhẫn nhục, ta phải mềm dịu không kiêu mạn. Như vậy, người tọa thiền hướng đến vui nhẫn nhục, làm tự lợi ích, sống với vắng lặng, không loạn tâm, bắt đầu từ thân cho đến khiến cho sung mãn. Ta lại ưa thích cái vui, tâm không chịu khổ, thì làm thế nào ta không có kẻ thù, không có giận dữ? Vui lìa các phiền não thành tựu tất cả công đức. Người tọa thiền kia chế phục tâm đó, làm tâm mềm dịu, làm tâm có thể thọ trì, nếu tâm thành mềm dịu có thể thọ trì sự, thì từ đây nên tu hành Từ, đối với tất cả chúng sinh, như đối với chính thân ta. Nếu người tọa thiền tu hạnh Từ, đối với tất cả chúng sinh, từ đầu không khả năng tu Từ, thì nên đối với kẻ thù, người ác người không công đức, người chết mà khởi tâm Từ. Người tọa thiền được người quý trọng nên vì đó khởi hổ thẹn, không vì người khinh rẽ, không vì người đối xử bình thường mà vì tạo lợi ích nên khởi từ, đối với chúng sinh không khởi tật đố, chẳng giận dữ. Đó chính là chỗ người kia bắt đầu đang tu tâm, bắt đầu đang nghĩ về công đức lợi ích, công đức quý trọng đó. Như vậy là vì tánh mà thành tựu, vì tiếng tăm khen ngợi mà thành tựu, vì văn (nghe) mà thành tựu, vì giới mà thành tựu, vì định mà thành tựu, vì tuệ mà thành tựu, ta được quý trọng. Như vậy dùng thí, dùng ái ngữ, dùng lợi ích dùng đồng sự thành tựu chính là việc làm lợi ích của ta. Như vậy, luôn nghĩ về công đức đã quí trọng và công đức lợi ích, khiến khởi ý tưởng tôn trọng và tưởng bạn thân, thì mọi hành xử của người kia là đang tu hành Từ, đang làm lợi ích, tâm thường giác quán. Nguyện không oán tâm, nguyện không giận dữ, thành tựu với an lạc, nguyện lìa tất cả ồn náo, nguyện thành tựu tất cả công đức, nguyện được thiện lợi, nguyện có tiếng tăm khen ngợi, nguyện có tín, nguyện có lạc, nguyện có giới, nguyện có văn tuệ, nguyện có thí, nguyện có tuệ, nguyện được ngủ an, nguyện được tỉnh thức an, nguyện chẳng thấy chiêm bao ác, nguyện được ai nấy yêu kính, nguyện được phi nhân ái kính, nguyện được chư thiên bảo vệ, nguyện lửa độc dao gậy v.v... chẳng hại thân, nguyện mau được định tâm, nguyện sắc mặt tươi vui, nguyện sinh vùng giữa nước, nguyện gặp người thiện, nguyện tự thân đầy đủ, nguyện không bệnh tật, nguyện được trường thọ, nguyện luôn được an lạc. Lại nữa, nên tư duy như vậy: đối với pháp bất thiện kia nếu chưa sinh, nguyện khiến không sinh; nếu đã sinh, nguyện khiến diệt đoạn. Đối với thiện pháp kia chưa sinh, nguyện sinh; nếu đã sinh nguyện tăng trưởng. Lại nữa, đối với pháp chẳng ái niệm kia nguyện chẳng sinh, nếu đã sinh nguyện diệt. Đối với pháp được ái niệm kia chưa sinh, thì nhờ tâm từ kia được tin. Người tọa thiền kia, dùng tín tự tại nắm giữ tâm, vì nắm giữ tự tại khiến niệm an trú, vì niệm tự tại, vì nắm giữ tự tại, vì tín tự tại nên thành tựu chẳng loạn tâm. Người kia hiện biết chẳng loạn, dùng môn này, dùng hành này, đối với người kia tu tâm từ, tu rồi tu nhiều. Người tọa thiền kia hiện biết chẳng loạn, dùng môn này, dùng hành này, ở người kia tu rồi, tu tâm nhiều, dùng tâm mềm dịu thọ trì tâm. Lại lần lượt đối với người trong loại yêu thương mà tu tưởng Từ. Tu rồi, lần lượt đối với người trong loại không thương không oán mà tu tưởng Từ. Tu rồi, lần lượt đối với loại kẻ thù nên tu tưởng Từ. Như vậy, đối với tất cả chúng sinh giống như đối với tự thân, khiến đầy đủ sự phân biệt. Nếu tu hành Từ như vậy, mà đối với người không thân, không oán (trung) không thể hiện hành tâm từ, hoặc người tọa thiền tạm thời có lúc không khởi tâm Từ, thì phải sinh tâm chán ghét lỗi lầm nơi bản thân: là ta chẳng tốt, chẳng đáng yêu. Ta ưa thích được thiện pháp, tín tâm xuất gia, Ta lại nói vì ta nương Đại sự nên làm lợi ích chúng sinh, khởi đại từ bi, thế mà đối với người không thân không oán kia lại không khởi tâm từ, huống gì đối với kẻ thù! Nhàm chán như vậy, mà giận dữ chẳng diệt, thì người tọa thiền kia chẳng nên tinh tấn tu hành tâm từ nữa, mà phải dùng các phương tiện khác để tu hành, vì diệt trừ tâm giận tức của họ.
Hỏi: Phương tiện trừ giận dữ là gì?
Đáp: Nên sinh khởi sự bao dung đối với mọi người nên suy nghĩ về ân, công đức của họ, là việc tạo nghiệp, của mình, cởi bỏ mọi oan trái, là thân tộc, và tội lỗi tự thân, chẳng nên tác ý, mà phải nghĩ về tự tánh của các căn, khổ hiện tại của tự thân niệm niệm diệt mất, hòa hợp, nên phải quán "không", nên nhiếp thọ, Người kia tuy đang sinh giận dữ, nhưng nếu có sự cầu xin, thì tùy nghi ban cho, hoặc người kia có vật bố thí, cũng tùy nghi lấy cho, thường cùng nói lời tốt đẹp, mọi việc làm của họ cũng phải tùy thuận theo. Như vậy mà nhiếp thọ, nhờ nơi họ nên giận tức trở thành diệt mất. Đối với công đức: nếu thấy công đức của họ đúng là công đức thì phải tư duy, cũng chẳng vì không phải công đức, mà chẳng tư duy. Ví như nước có cỏ, trừ cỏ lấy nước. Nếu kẻ kia không có công đức, thì nên khởi tâm Từ: người này không có công đức, sẽ hướng đến cõi ác. Ân là phải suy nghĩ về ân của họ. Nghĩa là người tạ việc không ái kính cũng khiến cho khởi sự biết ân đối với họ hoặc đã không có kính, thì nên tạo công đức. Lại nữa, đã khiến cho diệt bất thiện tức là cõi thiện, thì thù kia trở thành ân có thể biết. Việc làm của nghiệp bản thân. Nghĩa là ác pháp mà người kia đã làm, điều người ấy giận, ta nên quán xét ác nghiệp của họ. Cởi bỏ oan trái. Nghĩa là nếu người ta mắng chửi, hại mình, là ác nghiệp bắt đầu, thì phải cởi bỏ oan trái với họ. Nay ta làm chứng, dùng quán nên hoan hỷ, Thân tộc là, chúng sinh sinh tử tương tục đều là thân tộc của ta. Đã nhớ nghĩ, thì nên khiến khởi sinh tử tưởng thân tộc. Tội lỗi của bản thân: là tự thân tạo ra tướng ngã, sự giận dữ ấy từ ngã sinh, nó chẳng phải công đức. Ngã trở thành tướng, khiến khởi chấp tướng tội lỗi của mình. Không nên tác ý là, không có tướng giận dữ. Không nên tác ý, giống như người chẳng ưa thích thấy sắc mà nhắm mắt. Khổ là vì chính mình, chứ khổ không có chướng ngại, nên khiến khởi tướng như vậy. Tại sao? Như người ngu si, vì lòng Từ không đúng, nhớ nghĩ tự gây khổ, do tâm bị khổ hiện như vậy có thể biết, đối với kẻ thù thì nên từ bỏ xa lìa sự thù ghét, khiến không thấy không nghe, nên trụ vào các căn. Tự tánh là nắm giữ cảnh giới khả ái và không khả ái, Tự tánh các căn đối với sân nhuế này của ta là do nhớ nghĩ bất chánh, phải quán như vậy. Niệm diệt là, vì nó sinh khổ, nó bị khổ. Tất cả pháp nầy ở một sát-na tâm được diệt, Tại sao ta và họ chẳng phải chỗ giận tức mà ta lại đang giận tức. Phải quán như vậy. Hòa hợp là trong ngoài chẳng một phần hòa hợp nên sinh khổ, ta đối với một phần, không chịu để tâm nổi giận, phải quán như vậy. "Không" là, người đó làm khổ, người đó chịu kho. Trong đệ nhất nghĩa không thể chấp có được, đều là do nhân duyên của thân này sinh ra, vốn không chúng sinh, không ngã, tụ họp cảnh giới, tụ họp cỏ cây v.v… phải quán như vậy.
Cho nên, Đức Thế Tôn nói kệ tụng rằng:
Trú ở trong thôn rừng.
Mọi cảm xúc vui khổ
Không do tự, tha quấy
Mà do phiền não gây
Nếu tâm không phiền não
Sao có xúc thô, tế?
Người tọa thiền kia, như vậy đã hiểu rõ phương tiện diệt trừ giận tức, nên đối với bạn thân, người oán, kẻ không thân, không oán của mình, đã phân biệt rõ, đã được tự tại, tâm lần lượt nẩy sinh tưởng Từ, phải tu thuận theo trú xứ chủng loại. Như thuận theo tỳ kheo nên tu, thuận theo Tăng chúng trụ xứ nên tu, thuận theo chư Thiên ở trụ xứ của mình nên tu, thuận theo chúng sinh của trụ xứ mình nên tu, cho đến thôn xóm ngoài chỗ mình ở. Như vậy từ thôn nầy đến thôn kia, từ nước đến nước thuận theo đó phải tu một phương. Người tọa thiền kia dùng tâm từ đã khiến tràn đầy một phương, tiếp đến hai phương ba phương bốn phương bốn góc, trên, dưới, đối với tất cả chúng sinh từ bi, tất cả thế gian dùng từ tâm rất lớn vô lượng, làm cho tràn đầy sự không thù hận không giận dữ. Người tọa thiền tu hạnh Từ như vậy, là dùng ba thứ khiến cho an thiền: dùng tổng nhiếp chúng sinh, dùng tổng nhiếp thôn ruộng, dùng tổng nhiếp phương. Vì một chúng sinh khiến cho an Từ thiền, như vậy, hai, ba chúng sinh cho đến số nhiều. Đối với một thôn, khiến an Từ thiền, cho đến nhiều thôn. Ở một phương khiến một chúng sinh an từ thiền. Như vậy, cho đến bốn phương. Do đó, nếu tu hạnh Từ đối với một chúng sinh thì nếu chúng sinh đó chết, sự đó thành mất.
Vì sự mất đó nên chẳng thể khởi Từ, do đó phải tu tâm Từ rộng rãi, cho đến thực hành rộng rãi. Khi ấy mới thành tu hành mầu nhiệm, thành quả lớn, thành công đức lớn.
Hỏi: Từ là, căn gì, khởi gì, đầy đủ gì, chẳng phải đầy đủ gì, sự gì?
Đáp: Chẳng tham là căn, chẳng giận dữ là căn, chẳng si là căn, dục là căn, chánh tác ý là căn. Khởi chính là căn đó làm cho khởi. Đầy đủ là: nếu từ thành tựu, thì giết trừ giận dữ, trừ ái bất thiện, khiến nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh, đây gọi là đầy đủ. Không phải đầy đủ gì là, vì hai nguyên nhân mà mất lòng từ, do bè bạn mình sinh oán, vì ái bất thiện, vì đối trị sinh oán, vì khởi giận dữ, đây gọi là không phải đầy đủ. Sự gì? Chúng sinh là sự.
Hỏi: Chẳng như vậy. Trong đệ nhất nghĩa, không thể chấp có chúng sinh, tại sao nói chúng sinh là sự?
Đáp: Dựa vào căn, chủng ở thế gian tạm nói chúng sinh. Bấy giờ, hàng Đại Bồ-tát tu hạnh từ lưu chuyển ở tất cả chúng sinh, khắp đầy đủ mười Ba-la-mật.
Hỏi: Tại sao vậy?
Đáp: Vì Đại Bồ-tát, đối với tất cả chúng sinh hành từ, duyên tạo lợi ích thành thâu gồm, tiếp nhận chúng sinh, bố thí điều vô úy. Như vậy là để viên mãn Đàn-Ba-la-mật. Vị Đại Bồ-tát, đối với tất cả chúng sinh, hành từ dựa vào việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh để thành tựu không hại, không mất tác dụng của pháp, như cha đối với con. Như vậy là để viên mãn Giới Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hành từ, dựa vào việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, để thành tựu ý không tham, xa lìa phi lợi ích, hướng đến thiền, hướng đến xuất gia. Như vậy, là để viên mãn Xuất Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hành từ, dựa vào việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, để thành tựu nhiều tư duy lợi ích, chẳng phải lợi ích, như nghĩa mà nói phương tiện rõ ràng, để trừ ác, được thiện. Như vậy, là để viên mãn Bát nhã Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hành từ, dựa vào việc giữ lấy lợi ích chẳng xả tinh tấn, bền bỉ tinh tấn tương ưng, mọi lúc. Như vậy, là để viên mãn Tinh tấn Ba-la-mật. Đại Bồ-tát hành từ, đối với tất cả chúng sinh, dựa vào việc tạo lợi ích cho chúng sinh kia, với lời ác mắng rủa, để thành tựu nhẫn nhục chẳng phẫn hận. Như vậy, là để viên mãn Nhẫn nhục Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hành từ, dựa vào việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà nói lời chân thật, an trú và thọ trì chân thật. Như vậy, là để viên mãn Thật đế Ba-la-mật. Đại Bồ-tát hành từ đối với tất cả chúng sinh, dựa vào việc tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, mà cho đến mất mạng, thề không buông bỏ, nguyện để thành tựu bền chắc thọ trì thệ nguyện. Như vậy, là để viên mãn Thọ trì Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh dùng tự tướng làm lợi ích, là để viên mãn Từ Ba-la-mật. Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh tu từ, đối với bạn thân, người không thân, không oán, kẻ thù, tâm đều bình đẳng, xa lìa sự yêu thương, giận dữ. Như vậy, là để viên mãn Xả Ba-la-mật. Đại Bồ-tát hành từ như vậy, là để thành tựu viên mãn mười Ba-la-mật; nói rõ ra là tu từ viên mãn bốn thọ trì. Bấy giờ, Đại Bồ-tát tu từ đã đủ mười Ba-la-mật thì trở thành làm cho viên mãn bốn thọ trì: Đó là Đế thọ trì, thí thọ trì, Tịch tịch thọ trì, Tuệ thọ trì. Do đó Đế Ba-la-mật Thọ trì Ba-la-mật, Tinh tấn Ba-la-mật, làm cho viên mãn Đế Ba-la-mật. Thí Ba-la-mật, Giới Ba-la-mật, Xuất Ba-la-mật, làm cho viên mãn Thí thọ trì. Nhẫn nhục Ba-la-mật, Từ Ba-la-mật, Xả Ba-lamật, làm cho viên mãn Tịch tịch thọ trì. Tuệ Ba-la-mật, làm cho viên mãn Tuệ thọ trì. Như vậy, Đại Bồ-tát đã tu từ đầy khắp. Viên mãn mười Ba-la-mật, làm cho viên mãn bốn thọ trì, làm cho viên mãn hai pháp: Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na. Tức Đế thọ trì, Thí thọ trì, Tịch tịch thọ trì, làm cho viên mãn Xa-ma-tha. Tuệ thọ trì làm cho viên mãn Tỳ-bà-xá-na. Đã viên mãn Xa-ma-tha, tức làm cho viên mãn tất cả thiền giải thoát định chánh thọ, khiến khởi định song biến và định Đại Bi. Đã viên mãn Tỳ-bàxá-na thì làm cho viên mãn tất cả thần thông, Biện tài lực, vô úy, đã viên mãn rồi lại làm cho khởi tự nhiên trí Nhất thiết trí. Vị Đại Bồ-tát tu hành Từ như vậy, lần lượt làm cho viên mãn Phật địa (từ đã xong).
Hỏi: Bi là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì, công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Như cha mẹ chỉ có một người con, nó được yêu mến, thấy con bị khổ, cha mẹ sinh khổ não: "Khổ thay như vậy"! Đối với tất cả chúng sinh khởi tâm thương xót, đây gọi là bi, Tâm bi an trú chẳng loạn, gọi là tu; chẳng hiện hữu việc chẳng lợi ích là tướng; lạc là vị; chẳng hại là khởi; cùng với công đức của Từ. Tu thế nào? Mới đầu, người tọa thiền vào nơi vắng lặng ngồi nhiếp tất cả tâm, vì chẳng loạn tâm nên thấy chúng sinh bị bệnh bị già bị nghèo, hoặc thấy hoặc nghe, tác ý như vậy: chúng sinh kia bị khổ. Dùng phương tiện gì để trừ được giải thoát khỏi khổ? Lại nữa, hoặc thấy họ điên đảo, bị phiền não trói buộc vào vô minh, hoặc người có công đức mà không tu học, hoặc thấy hoặc nghe, tác ý như vậy, chúng sinh bị khổ phải sinh cõi ác. Dùng phương tiện gì để được giải thoát khởi khổ? Lại nữa, hoặc thấy pháp bất thiện tương ưng, pháp thiện không tương ưng, pháp chẳng khả ái tương ưng, pháp khả ái không tương ưng, hoặc thấy hoặc nghe, tác ý như vậy: chúng sinh kia bị khổ sẽ sinh cõi ác, dùng phương tiện gì để giải thoát khổ? Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này, đối với người tu hành bi kia, tâm nhiều tu hành, người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này đối với người kia đã tu tâm bi, đã tu nhiều tâm bi, tâm thành hòa dịu có thể thọ trì. Vị ấy lần lượt tu hành tâm bi đối với người không thân, không oán, thuận theo họ tu hành; tiếp đối với kẻ thù… ngoài ra như phần đầu đã nói rộng, cho đến đầy khắp bốn phương.
Hỏi: Bi gì đầy đủ, bi gì chẳng đầy đủ?
Đáp: Nếu tâm bi thành tựu, thì trừ sát hại, không khởi ưu não, trừ ái bất thiện. Do hai nhân duyên làm mất tầm bi: vì tự thân gần sinh oán, vì ưu não hành, vì đối trị sinh giận, vì khởi khiếp sợ.
Hỏi: Khổ thì không phải ở tất cả chúng sinh đều có, không phải có mọi lúc, thì tại sao phải tu Bi với hết thảy chúng sinh?
Đáp: Chúng sinh đã bị khổ nên gắng giữ tướng khổ ấy; đã giữ tướng khổ ấy thì thành nhân rộng đến tất cả xứ mà tu tâm bi. Lại nữa, khổ của sinh tử, tất cả chúng sinh ai cũng có, do đó thành tất cả xứ tu hành (bi đã xong).
Hỏi: Hỉ là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Cũng như cha mẹ chỉ có một người con, nó được thương yêu, thấy con được vui, tâm cha mẹ sinh hoan hỷ: "lành thay như vậy"! Đối với tất cả chúng sinh, tâm sinh hoan hỷ, đây gọi là hỷ, tâm hỷ an trú chẳng loạn gọi là tu; hân duyệt (vui lòng vừa ý) là tướng; không sợ là vị; trừ bỏ không vui là hỷ; công đức giống như Từ. Như thế nào là tu? Mới đầu, người tọa thiền đi vào sự vắng lặng, ngồi nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm, tánh người đó được kính trọng, thấy được an lạc, tâm sinh hoan hỷ. Hoặc thấy hoặc nghe, tác ý như vậy: "Lành thay, lành thay! Nguyện chúng sinh kia mãi được hoan hỷ". Lại nữa, hoặc thấy pháp bất thiện chẳng tương ưng, pháp thiện tương ưng, pháp chẳng khả ái chẳng tương ưng, pháp khả ái tương ưng, hoặc thấy hoặc nghe tác ý như vậy: "Lành thay, lành thay! Nguyện chúng sinh kia mãi hoan hỷ". Người tọa thiền kia dùng môn này, dùng hành này, đối với người tu tâm hỷ, vì tu hành nhiều. Người tọa thiền kia dùng môn này, dùng hành này, đối với người kia đã tu tâm hỷ, tu hành nhiều, thành tâm hòa dịu, có thể thọ trì. Người kia lần lượt tu hành tâm hỷ đối với người khôn oán, không thân, tiếp đến tu hành đối với kẻ thù. Ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng, cho đến hỷ đầy bốn phương.
Hỷ gì đầy đủ, và chẳng đầy đủ? Nếu hỷ thành tựu thì trừ bỏ tâm không vui, không khởi ái bất thiện, trừ nói thêu dệt. Vì hai nhân duyên mất hỷ: Tự thân gần sinh oán thù, vì cười đùa khởi hành động, vì đối trị sinh oán thù vì không có niềm vui sinh khởi như phần đầu đã nói rộng (hỷ đã xong).
Hỏi: Xả là gì? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì cộng đức gì? Thề nào là tu?
Đáp: Cũng như cha mẹ đối với một người con, chẳng phải đáng nghĩ, chẳng phải chẳng đáng nghĩ, trở thành xả bỏ. Đối với người kia là thành tựu tâm ở giữa. Như vậy, đối với tất cả chúng sinh đều xả bỏ, là gìn giữ tâm trung hòa đây gọi là xả. Tâm xả bỏ an trú chẳng loạn, gọi là tu; không có gì đắm trước là tướng; bình đẳng là vị; nhiếp phục giận, yêu là khởi; công đức giống như ở Từ.
Hỏi: Tu thế nào?
Đáp: Người tọa thiền từ đầu đã cùng tu với Từ, cùng tu với Bi, cùng tu với Hỷ, đã khởi thiền thứ ba. Người tọa thiền đã đắc thiền thứ ba, tự tại thấy lỗi lầm của Từ Bi và Hỷ, là gần với ái nhuế nên đùa vui cùng nổi lên, cùng phấn khởi hoan hỷ nổi lên. Vì đối trị lỗi lầm, nên thấy công đức của Xả. Người tọa thiền kia, đã thấy lỗi lầm Từ, Bi và Hỷ, đã thấy công đức của Xả như vậy thì đầu tiên, đối với người chẳng khởi niệm khả ái, cũng chẳng phải không khởi niệm khả ái, mà cùng khởi niệm xả bỏ hiện khởi, khắp đầy trong tâm, làm cho tăng trưởng. Đã tu tâm xả, tu nhiều thì thành hòa dịu, luôn luôn thọ trì. Người kia lần lượt tu hành đối với kẻ thù, tu hành đối với người bạn thân, ngoài ra, như phần đầu đã nói rộng, có thể biết. Cho đến đầy cả bốn phương. Người tọa thiền kia tu hành như vậy, cùng xả chung khởi lên. Thiền thứ tư, dùng ba thứ khiến an thiền: đã tổng nhiếp chúng sinh, đã tổng nhiếp ruộng thôn, đã tổng nhiếp các phương.
Hỏi: Nếu người tọa thiền đã tu hạnh Xả, tại sao còn tác ý đối với chúng sinh?
Đáp: Nói về tác ý thì đúng là phải tác ý Từ Bi Hỷ. Đối với các chúng sinh ngoại trừ tạo hành động hoan hỷ, tác ý hoan hỷ, còn lại là an lạc trong sự trung hòa (ở giữa). Ví như người bạn thân cách biệt lâu xa, vừa mới gặp tiếp đãi, tâm sinh hỷ lạc, sau đó cùng ở, tâm đó trở thành bình thường. Như vậy trú Từ Bi, Hỷ, lâu lại trở thành xả nhiếp thọ. Tác ý tu hành đối với xả như vậy. Lại có người nói, chúng sinh và chúng sinh thì tác ý như vậy. Thế nào xả đầy đủ, xả chẳng đầy đủ? Nếu xả thành tựu thì giết trừ sân, ái, không khởi vô minh. Vì hai nhân duyên mất Xả; vì tự thân gần sinh thù, vì khởi vô minh, vì đối trị sinh oán, vì sân ái khởi (xả đã xong).
Lại nói rõ nghĩa bốn vô lượng.
Tại sao vô lượng mà nói riêng ra? Bốn vô lượng vì một sự chúng sinh mà khởi tâm, nương các pháp khác tu hành, như mẹ nghĩ nhớ con thơ, tùy thời tiết. Như vậy, đối với súc sinh đối với người phạm giới, đối với người đầy đủ giới, đối với người nhàm chán dục, đối với Thanh văn, đối với Duyên giác, đối với Chánh Biến Tri, là chỗ thù thắng quy y, thành tựu vô lượng thù thắng, có thể biết như vậy.
Hỏi: Đối với Từ, Bi và Hỷ, tại sao khởi ở ba Thiền, mà không phải Thiền thứ tư?
Đáp: Ưu não của chúng sinh nổi lên, giận dữ hại chẳng vui. Nhằm đối trị ưu não đó, tâm sinh cùng hỷ, tu hành Từ Bi và Hỷ. Cho nên ở ba Thiền đầu sinh, chẳng phải Thiền thứ tư. Lại nữa, địa xả là Thiền thứ tư, vì hai xả thành tựu. Đó gọi là thọ xả và xả trong pháp. Nghĩa là an trú nơi địa xả và đối với chúng sinh giữ lấy việc lợi ích thành xả. Do địa nên ba vô lượng, ở ba Thiền sinh, chẳng phải Thiền thứ tư. Lại nói đối với bốn vô lượng tâm, thì bốn Thiền sinh, như đức Thế Tôn đã nói: "Đối với Bốn vô lượng, Tỳ-kheo các ông phải tu, định này có giác, có quán, các ông phải tu có giác không quán, các thầy phải tu không giác không quán, các thầy phải tu cùng với Hỷ sanh; các ông phải tu cùng với Lạc sinh; các ông phải tu cùng với Xả sinh ".
Hỏi: Bốn vô lượng này tại sao nói bốn mà chẳng phải ba chẳng phải năm?
Đáp: Nếu vậy, tất cả đều bị nghi. Lại nữa, vì đối trị giận dữ, hại, không vui, và sân ái nên thành bốn vô lượng. Lại nói bốn thứ nầy chỉ là Từ; do người phần nhiều khởi giận dữ não hại. Vì trừ diệt nên dùng bốn môn thành lực mạnh. Xả là, Từ Bi và Hỷ vốn đã thanh tịnh, nhưng vì đối trị giận, yêu. Bốn vô lượng vốn một tánh, các thứ tướng, có thể biết. Như vậy, vì đối trị lỗi lầm vì sự của chúng sinh, vì ý làm lợi ích, cho nên thành một tướng. Lại nói vì pháp thù thắng, vì giữ lấy sự thù thắng, vì giữ lấy lợi ích thù thắng cho nên thành các thứ tướng. Như Đức Thế Tôn nói: Đối với hoàng y trong Tuđa-la, đối với thanh tịnh xứ, thì Từ là đệ nhất. Đối với hư không xứ, Bi là đệ nhất, đối với Thức xứ, Hỷ là đệ nhất, đối với Vô sở hữu xứ, Xả là đệ nhất.
Hỏi: Tại sao biết được?
Đáp: Do pháp nương gần các xứ kia nên nghĩa đó có thể biết. Hỏi: Tại sao?
Đáp: Tu từ tâm, đối với tất cả chúng sinh, tùy theo ý họ, vì thường tùy theo nên đối với Xanh Vàng Nhất thiết nhập, hiện khiến tác ý, dùng phương tiện nhỏ khiến tâm được an, sự, chủng loại của chúng sinh ấy. Hoặc sắc giới, buông ý, Nhất thiết nhập thanh tịnh, người tọa thiền kia khi ấy ở sắc giới đắc thiền thứ tư. Cho nên nói Từ đối với thanh tịnh xứ là đệ nhất. Người tọa thiền kia nương tâm từ của thiền thứ tư ở sắc giới, khi ấy được vượt Sắc giới.
Hỏi: Cạn đây thế nào?
Đáp: Vì tu Từ nên, tâm biết lỗi lầm ở Sắc giới. Vì sao? Vì thấy chúng sinh khổ. Vì họ cũng là Sắc giới, nhân đó nảy sinh tâm từ. Từ đây, dùng tâm biết lỗi lầm ở Sắc giới, xuất ly sắc hiển hiện khiến tác ý. Ở hư không xứ dùng phương tiện nhỏ, để được an tâm. Vì được nương tựa, cho nên nói Bi, đối với hư không là đệ nhất, Người tọa thiền kia nương hỷ vượt Hư không xứ.
Hỏi: Nghĩa này thế nào?
Đáp: Vì đã tu Hỷ, tâm không đắm trước điều gì, thường giữ lấy sự của vô biên thức. Vì sao? Vì hỷ này không có gì đắm trước, nên vô biên thức xứ làm an định sự chúng sinh. Từ đây, tâm không hề đắm trước lại thường giữ lấy sự của vô biên thức. Đã lìa sắc lại đắm trước ở hư không, nên vô biên thức hiện khiến khởi tác ý, dùng phương tiện nhỏ tâm đó được an. Vì sự, chủng loại, cho nên nói Thức xứ là hỷ đệ nhất.
Hỏi: Người tọa thiền kia nương xả vượt Thức xứ, nghĩa này thế nào?
Đáp: Vì đã tu xả, tâm thành tựu lìa đắm trước. Tại sao? Vì chẳng dùng tu xả thì bị đắm trước vào chúng sinh này được vui, bị khổ, hoặc do hỷ hoặc do lạc. Từ đó dùng tâm lìa đắm trước. Lìa không còn đắm trước, vô sở hữu xứ, hiện khiến tâm hỷ, dùng phương tiện nhỏ tâm đó thành an, chẳng đắm trước mọi thứ. Tại sao? Ở vô sở hữu xứ mà chẳng được đắm trước hoặc thức hoặc vô biên, cho nên nói vô sở hữu xứ, xả là đệ nhất (tán cú đã xong).
Hỏi: Tại sao quán bốn đại? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Trí chọn lọc tự tướng, bốn đại bên trong, đây gọi là quán bốn đại, Tâm kia trú chẳng loạn, gọi là tu. Tùy quán bốn đại là tướng, thông đạt "không" là vị, trừ tưởng chúng sinh là khởi. Công đức gì? Là thành tựu được tám công đức. Nếu tu hành quán bốn đại, thì thành tựu khả năng chịu đựng sự khủng bố, vui và chẳng vui, thành tựu tâm bình đẳng đối với sự khả ái và không khả ái; trừ bỏ ý nghĩ nam nữ, thành tựu đại trí tuệ, hướng đến cõi thiện hướng đến Đề Hồ, cả thảy pháp phân minh, tất cả thành tu hành viên mãn. Làm sao tu quán đó? Mới đầu, người tọa thiền dùng hai hành nắm giữ các đại: dùng gọn (lược) dùng rộng.
Hỏi: Tại sao dùng giữ lấy gọn các đại?
Đáp: Người tọa thiền kia vào vắng lặng, nhiếp tất cả tâm, chẳng loạn tâm. Thân này do bốn đại có thể gọi là ở với thân nầy tất cả tánh cứng chắc (kiên) là địa giới, tánh ẩm ướt (thấp) là thủy giới, tánh nóng ấm (nhiệt) là hỏa giới, tánh động là phong giới. Như vậy, thân này chỉ có giới, không có chúng sinh không có mạng. Như vậy là dùng nắm giữ gọn các giới. Lại có thuyết nói: người tọa thiền kia, dùng nắm giữ gọn các giới, dùng thân dựa vào mô (lớp màng) mà phân biệt hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt, Người tọa thiền kia đã nắm giữ gọn các giới, nương mô phân biệt tất cả tánh của thân, hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Nương thịt phân biệt thân này, hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Người tọa thiền kia nương thịt đã phân biệt tất cả thân. Hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Người tọa thiền kia nương mạch phân biệt tất cả thân, hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Người tọa thiền kia nương mạch đã phân biệt tất cả thân, hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Từ đây, lại nương xương phân biệt tất cả thân, hoặc dùng sắc, hoặc dùng hình, hoặc dùng xứ, hoặc dùng phân biệt. Người tọa thiền kia đối với bốn hành nầy, dùng bốn hành này nhiếp phục tâm, làm cho nhiếp phục tâm mềm dịu, khiến tâm thọ trì. Người tọa thiền kia quán ở bốn hành nầy, dùng bốn hành này nhiếp phục tâm, đã làm tâm mềm dịu rồi khiến thọ trì. Bốn hành này có tánh cứng chắc là địa giới, có thể biết, có tánh ẩm ướt là thủy giới có thể biết, có tánh nóng ấm là hỏa giới, có thể biết, có tánh lay động là phong giới, có thể biết. Người tọa thiền kia đối với bốn hành nầy chỉ có giới, không có chúng sinh, không có mạng, dùng so sánh các hành khác thành trú. Như vậy, là dùng nắm gọn các tướng.
Tại sao dùng nắm giữ rộng các giới? Dùng hai mươi hành nắm giữ rộng về địa giới: như thân nầy có tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, mạch, xương, tủy, thận, tim, gan, phổi, tỳ, vị, ruột, già, ruột non, dạ dày, cứt, não. Dùng mười hai hành nắm giữ rộng về thủy giới: thân này có mật, nước dải, máu, mủ, mồ hôi, mỡ, nước mắt, nước mũi, nước tiểu. Dùng bốn hành nắm giữ, rộng về hỏa giới: sức nóng, hơi ấm, ôn hòa, bình đẳng làm tiêu các thứ thức ăn, đây gọi là hỏa giới. Dùng sáu hành nắm giữ rộng về phong giới: Gió hướng lên, gió hướng xuống, gió nương trong bụng, gió nương lưng, gió nương thân phần, gió hơi thở ra vào. Như vậy, dùng bốn mươi hai hành thấy thân này, chỉ có các giới không có chúng sinh, không có mạng, đó là đã nắm giữ rộng về các giới. Lại nữa, các Sư trước đây nói, dùng mười hành phải quán bốn đại: đó là dùng nghĩa, ngôn ngữ, dùng sự, dùng tụ, dùng tán, dùng không chỗ đắm trước, dùng duyên, dùng tướng, dùng chủng loại và chẳng phải chủng loại, dùng một nghĩa, các thứ nghĩa, dùng giới giải thích thứ nhất, dùng ngôn ngữ nghĩa chương.
Hỏi: Tại sao dùng ngôn ngữ phân biệt các giới?
Đáp: Ngôn ngữ của hai giới đồng đó là đồng ngôn và thắng ngôn. Khi ấy bốn đại đồng ngôn này, địa giới thủy giới hỏa giới phong giới đây gọi là thắng ngôn.
Hỏi: Bốn đại này nghĩa gì?
Đáp: Đại sinh gọi là đại, có đại chẳng phải thật nghĩa, khiến hiện thật nghĩa, cho nên gọi là đại. Đại là hình quỷ v.v... gọi là đại. Tại sao đại sinh gọi là đại? Các giới, do đại sinh, như đức Thế Tôn nói kệ:
"Lược nói tướng đất.
Có hai mươi vạn,
Bốn Na do-tha,
Nước bốn mươi vạn,
Tám Na-do-tha.
Gió trú hư không.
Là chín mươi vạn,
Sáu Na do-tha.
Nơi thế giới trú.
Cũng do lửa thành.
Bên trong thế giới.
Có các ánh sáng.
Trên đến Phạm thế.
Cực bảy mặt trời.
Đại sinh như vậy.
Cho nên nói đại".
Hỏi: Tại sao đại chẳng phải thật nghĩa khiến hiện thật nghĩa?
Đáp: Nói đại giới là, chẳng phải nam chẳng phải nữ, vì sắc nam nữ có thể thấy. Giới là, chẳng phải dài chẳng phải ngắn, vì sắc ngắn dài có thể thấy. Giới là, chẳng phải cây chẳng phải núi, vì sắc cây núi có thể thấy. Như vậy đại chẳng phải thật nghĩa khiến hiện làm thật nghĩa gọi là đại. Thế nào là dị hình các quỷ? Như quỷ nhập thân người thành thân đó, vì hình quỷ thành khởi bốn hành, hoặc thân mạnh, hoặc phân nhơ, hoặc nhiệt nóng hoặc khinh động. Như vậy ở thân do lửa hòa hợp thành khởi bốn hành. Dùng địa giới hòa hợp thành cứng chắc, dùng thủy giới hòa hợp thành dòng chảy, dùng hỏa giới hòa hợp thành nhiệt độ, dùng phong giới hòa hợp thành khinh động. Như vậy hình quỷ v.v... gọi là đại. Đại là, nghĩa ngôn ngữ.
Hỏi: Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới là nghĩa gì?
Đáp: Rộng lớn là nghĩa về đất. Có thể uống, bảo vệ là nghĩa về nước. Khiến tỏa sáng là nghĩa về lửa. Đến đi là nghĩa về gió. Giới nghĩa là gì? Duy trì tự tướng làm nghĩa. Lại nữa. Tự tánh địa là địa giới; tự tánh thủy là thủy giới; tự tánh hỏa là hỏa giới; tự tánh phong là phong giới. Thế nào là tự tánh địa? Đó là tánh bền chắc, tánh cứng, tánh dày, tánh chẳng động, tánh an, tánh duy trì, đây gọi là tánh địa. Thế nào là tánh thủy? Tánh ướt tánh đượm tánh chảy, tánh ra, tánh đầy tràn, tánh tăng trưởng, tánh hỷ tánh kết dính, đây gọi là tánh thủy. Thế nào là tánh hỏa? Tánh nhiệt, tánh nóng, tánh đốt, tánh chín, tánh thiêu, tánh thủ, đây gọi là tánh hỏa. Thế nào là tánh phong? Tánh trì, tánh lạnh, tánh đi lại, tánh khinh động, tánh thấp, tánh thủ, đây gọi là tánh phong. Nghĩa giới này như vậy dùng nghĩa ngôn ngữ nên quán giới.
Hỏi: Thế nào là dùng sự quán giới?
Đáp: Địa giới lấy nắm giữ làm sự, thủy giới lấy kết dính làm sự, hỏa giới lấy khiến nóng bức làm sự, phong giới lấy ngăn che là sự. Lại nữa, địa giới lấy an lập làm sự, thủy giới lấy chảy xuống đi vào làm sự, hỏa giới lấy sự bốc lên lên làm sự, phong giới lấy động chuyển làm sự. Lại nữa, hai giới gần nên thành cất bước trước. Lại nữa, hai giới gần nên thành cất bước sau. Hai giới gần nên thành ngồi nằm trước. Lại nữa, hai giới gần nên thành đi đứng sau. Hai giới gần nên thành biếng lười ngủ nghỉ trước, hai giới sau gần nên thành tinh tấn dõng mãnh sau. Hai giới gần nên thành nặng trước, hai giới gần nên thành nhẹ sau. Như vậy, dùng sự quán bốn đại.
Thế nào dùng tụ (khối) quán bốn đại? Tụ là, địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới, nương giới này thành sắc hương vị xúc. Tám pháp này hoặc nhiều cùng sinh trú, chẳng lìa nhau. Hòa hợp nầy gọi là tụ. Nó lại thành bốn thứ: Địa tụ, thủy tụ, hỏa tụ, phong tụ. Bởi thế, địa tụ thì địa giới thành rất nhiều; thủy giới, hỏa giới, phong giới, lần lượt thành rất ít. Đối với thủy tụ thì thủy giới thành rất nhiều, địa giới, phong giới, hỏa giới, thành rất ít. Đối với hỏa tụ, thì hỏa giới, thành rất nhiều, địa giới, phong giới, thủy giới, thành rất ít. Đối với phong tụ thì phong giới thành rất nhiều, hỏa giới, thủy giới, địa giới lần lượt thành rất ít. Như vậy, dùng tụ quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng tán quán bốn đại?
Đáp: Quán địa giới từ cái rất nhỏ do lân không vi trần sinh. Địa nầy do nước hòa nên chẳng tan, bị lửa đốt nóng thành không hôi. Bị gió giữ thành xoay chuyển. Quán như vậy. Lại nữa, có các sư trước đây nói: thân người trung bình địa giới nát vụn thành một đấu hai thăng vi trần. Khi ấy dùng nước hòa hợp thành sáu thăng năm hợp, dùng lửa khiến chín, theo gió khởi xoay chuyển. Như vậy dùng tán quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng không rời nhau để quán bốn đại?
Đáp: Địa giới bị nước gồm thâu, bị lửa làm nóng, bị gió duy trì, như vậy ba giới hoà hợp. Thủy giới là trụ nơi đất, bị lửa đốt nóng, gió duy trì. Như vậy bị ba giới thâu nhiếp. Hỏa giới là trụ nơi đất, bị nước gồm thâu, gió duy trì. Như vậy bị ba giới thâu nhiếp. Phong giới là trụ nơi đất, bị nước gồm thâu, bị lửa đốt nóng. Như vậy bị ba giới duy trì. Ba giới trụ nơi đất bị nước gồm thâu nên ba giới không tan. Bị lửa đốt nóng, ba giới không hôi. Bị gió duy trì, ba giới chuyển thẳng, trụ không tan rã. Như vậy bốn giới này dựa lần lượt thành trú chẳng tan. Như vậy dùng chẳng lìa quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng duyên quán các giới?
Đáp: Bốn nhân bốn duyên làm khởi các giới. Những gì là bốn? Đó là nghiệp, tâm, thời và thực. Thế nào là nghiệp? Từ nghiệp sinh, bốn giới dùng hai duyên thành duyên, vì sinh duyên, vì nghiệp duyên. Các giới khác vì y duyên thành duyên. Tâm là, từ tâm sinh ra. Bốn giới vì sáu duyên thành duyên, vì sinh duyên, vì cộng sinh duyên, vì y duyên, vì thực duyên, vì căn duyên vì hữu duyên thành duyên đó. Các giới khác, vì duyên, vì y duyên vì hữu duyên. Đối với tâm lúc vào thai, các sắc dùng bảy duyên thành duyên, cộng sinh duyên, triển chuyển duyên, y duyên, thực duyên, căn duyên, báo duyên, hữu duyên. Tâm sinh sau làm sinh đầu, Thân dùng ba duyên thành duyên, gọi là hậu sinh duyên, y duyên hữu duyên. Lúc nầy, thành bởi thời, Bốn đại dùng hai duyên thành duyên: sinh duyên và hữu duyên. Các giới khác dùng hai duyên thành duyên, đó là y duyên, hữu duyên. Thực nầy do ăn mà thành. Bốn đại do ba duyên thành duyên là sinh duyên, hữu duyên, thực duyên. Các giới khác do hai duyên thành duyên đó là y duyên, hữu duyên. Từ đó, từ nghiệp sinh bốn giới cộng sinh giới, triển chuyển dùng bốn duyên thành duyên, đó là cộng sinh duyên, triển chuyển duyên, y duyên, hữu duyên. Các giới khác dùng duyên thành duyên, đó là y duyên hữu duyên. Như vậy từ tâm sinh từ thời sinh, từ ăn sinh, có thể biết. Địa giới là, duyên trú xứ của các giới khác thành duyên. Thủy giới là, duyên kết dính các giới khác thành duyên. Hỏa giới là duyên làm nóng chín các giới khác thành duyên. Phong giới là duyên duy trì các giới khác, thành duyên. Như vậy, dùng duyên quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng tướng quán các giới?
Đáp: Tướng cứng chắc là địa giới, tướng ướt là thủy giới, tướng nóng là hỏa giới, tướng lạnh là phong giới. Như vậy là dùng tướng quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng loại và chẳng phải loại quán các giới?
Đáp: Địa giới, thủy giới, là một chủng loại, vì nặng vậy. Hỏa giới phong giới là một chủng loại, vì nhẹ vậy. Thủy giới, hỏa giới khác loại. Thủy giới có khả năng diệt hỏa giới khiến khô, cho nên chẳng phải. Địa giới, phong giới lần lượt chẳng phải chủng loại. Địa giới ngăn sự di chuyển của phong giới. Phong giới có thể hủy diệt địa giới cho nên chẳng phải chủng loại. Lại nữa, hoặc bốn giới lần lượt là chủng loại, vì duyên lần lượt. Hoặc lần lượt chẳng phải chủng loại, vì tự tướng. Như vậy, là dùng chủng loại và chẳng phải chủng loại để quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng, một tánh và các thứ tánh để quán các giới?
Đáp: Từ nghiệp sinh bốn giới, vì từ nghiệp sinh, nên gọi là một tánh. Vì tướng nên có các thứ tánh. Như vậy, từ tâm sinh, từ thời sinh, từ ăn sinh, có thể biết bốn nhân duyên địa giới vì một tánh của tướng vì nhân, nên gọi là các thứ tướng. Như vậy bốn nhân duyên phong giới hỏa giới, phong giới có thể biết. Bốn giới vì một tánh của giới, vì một tánh của đại, vì một tánh pháp, vì một tánh vô thường, vì một tánh khổ, vì một tánh vô ngã. Vì các thứ tánh của tướng các thứ tánh của sự, các thứ tánh của nghiệp, các thứ tánh của tâm thành các thứ tánh, vì các thứ tánh của thời thành các thứ tánh, vì các thứ tánh của thực thành các thứ tánh, vì các thứ tánh thành các thứ tánh, vì các thứ tánh của khởi thành các thứ tánh, vì các thứ tánh của sinh thành các thứ tánh, vì các thứ tánh của cõi thành các thứ tánh, như vậy dùng một tánh và các thứ tánh quán các giới.
Hỏi: Thế nào là dùng giới lệ thuộc để quán?
Quán Như người thợ khéo léo, dùng cây gỗ làm người, tất cả thân phần đầy đủ, tùy theo đi chạy, bên trong do dây cột, bên ngoài mượn bùn sình trang sức, hình sắc như người, y báu trang nghiêm, hoặc nam hoặc nữ, dùng người kéo sợi dây, hoặc đi hoặc múa hoặc dựa hoặc ngồi, như vậy giới lệ thuộc này gọi là thân, vì mới đầu phiền não làm lệ thuộc Thân phần đầy đủ do thầy làm là gân, sợi dây cột liền lấy bùn làm thịt, dùng da làm sắc, hư không làm lỗ, y báu trang nghiêm gọi là nam nữ, vì tâm sự đó bị phong giới dẫn kéo, hoặc đi hoặc đứng, hoặc qua hoặc lại, hoặc bày hoặc rút hoặc nói hoặc bảo. Người giới lệ thuộc này cùng thức giới cộng sinh, vì nhân duyên ưu não thành khổ não ưu bi, hoặc cười hoặc đùa, hoặc cùng vỗ vai v.v... Ăn là, duy trì sự lệ thuộc của giới, mạng căn là thọ trì sự lệ thuộc của giới, vì khi chết sự lệ thuộc của giới phân tán. Như có nghiệp phiền não, lại khởi sự lệ thuộc giới mới, như vậy sinh sự lệ thuộc giới, sự bắt đầu chẳng thể biết, sau cùng cũng chẳng thể biết. Như vậy dùng sự lệ thuộc giới quán các giới. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này như vậy, chỉ quán thân này là sự lệ thuộc giới, không có chúng sinh, không có thọ mạng. Bấy giờ quán bằng giới sự, vì sinh tâm sở pháp thọ tưởng hành thức, người tọa thiền kia đã quán danh sắc. Từ quán danh sắc, là khổ là tham ái là khổ tập, quán tham ái diệt là khổ diệt, quán Tám chánh đạo là khổ diệt đầy đủ. Người tọa thiền kia đã quán rộng Bốn đế, bấy giờ thấy lỗi lầm của khổ, dùng vô thường dùng khổ dùng vô ngã thường tư duy không lơi lỏng, nhờ tuệ thấy công đức khổ diệt. Dùng tịch tịch, dùng diệu li, người tọa thiền kia hiện thấy lỗi lầm của khổ, thấy công đức của diệt như vậy, chánh an vào căn, lực, giác phần, từ hành tướng tâm khởi, chứng cảnh giới Đề hồ (quán bốn đại đã xong).
Hỏi: Đối với ăn vì sao nẩy ý tưởng không chịu đựng? Tu gì, tướng gì, vị gì, khởi gì công đức gì? Tu thế nào?
Đáp: Được ăn uống, họ tác ý tưởng không chịu đựng nó. Biết rõ, đây gọi là ý tưởng chẳng chịu ăn. Tưởng này an trú chẳng loạn, gọi là tu. Đối với việc ăn nắm giữ lỗi lầm làm tướng; nhàm chán làm vị, nhiếp phục khí vị ái làm khởi. Công đức gì? Là thành tựu được tám công đức: nếu tu ý tưởng chẳng chịu ăn thì ý tưởng biết rõ từng nắm cơm, biết ngũ dục đầy đủ, biết sắc ấm, biết tưởng bất tịnh, tại thân niệm thành tu viên mãn, từ khí vị ái rút lìa tâm kia, hướng đến cõi thiện, hướng đến Đề hồ. Tu như thế nào? Mới đầu người tọa thiền vào vắng lặng ngồi nhiếp tất cả tâm chẳng loạn tâm, quán xét việc ăn uống khởi ý tưởng chẳng chịu đựng, Như vậy tính kể các thứ là trăm vị sửa soạn, được người thanh tịnh quý trọng, sắc hương đầy đủ, có thể tiếp thu được là rất quý, nhưng thức ăn uống này vào thân, biến thành bất tịnh, thành mùi thối không chịu đựng được, thành món dơ đáng gớm, dùng năm hành tu hành tưởng không chịu đựng việc ăn: gọi là vì sửa soạn, vì tan mất, vì xứ, vì lưu, vì tụ.
Hỏi: Thế nào dùng sửa soạn để tu hành tưởng chẳng chịu đựng việc ăn? Người tọa thiền này thấy các chúng sinh vì sửa soạn ăn uống mà không khổ mà làm các thứ pháp ác hoặc giết hại hoặc trộm cắp. Cũng thấy chúng sinh đó chịu mọi thứ khổ, biết chúng bị giết hại, bị trói buộc; cũng thấy chúng sinh tạo các thứ sự ác, hoặc đòi xin hoặc lừa dối, trá hiện tinh tấn. Thấy việc ăn như vậy khiến khởi nhàm chán, vì bất tịnh, phân nước tiểu chảy tràn. Ăn uống làm nhân, để làm ác nghiệp như vậy. Lại thấy người xuất gia ở núi rừng thanh tịnh, có các thứ hoa hương, chim thú hót ngâm, do người thiện tạo, hoặc ở đồng trống trang nghiêm đầy đủ, bóng cây rừng suối giữ ý người khác, đồng bằng sạch đẹp không có các việc cao thấp, người thấy kỳ lạ, không các ồn ào tạp nhạp, là nơi người xuất gia tu đạo Bồ-đề, như nơi cư trú của trời Phạm. Trú xứ như vậy, tâm không tham đắm, thường hành thiền tụng ưa thích tu điều thiện, hoặc ở chỗ nóng lạnh gió bụi bùn mưa các núi hiểm trở, vì sửa soạn việc ăn, nhân đó bưng bát vào nhà xin ăn. Thấy như vậy, tâm khởi nhàm chán, ăn uống là bất tịnh, phân, nước tiều chảy ra. Sửa soạn về việc ăn này là nhân của bất tịnh. Như vậy, phải buông lìa, cầu vui đệ nhất. Lại nữa, thấy người xuất gia tu hành làm việc khất thực, hoặc đối với voi ngựa ác thú, hoặc nơi chó heo hoang, hoặc chỗ người ác, hoặc nơi bất tịnh, dẫn đạp bùn phân, đến cửa nhà người, đứng im lặng chốc lát, dùng y che thân, có được nắm cơm ăn sinh nghi, hoặc thấy kẻ kia ăn giống như chó ăn, nên chán ngán việc ăn. Sửa soạn về việc ăn nầy, rất đáng chán ghét, đâu cần phải sửa soạn, chỉ xin ăn từ người khác. Như vậy, là dùng sửa soạn để tu hành khởi ý tưởng không chịu đựng việc ăn. Thế nào vì tác dụng tan mất, mà tu hành tướng không chịu ăn? Người tọa thiền kia, có được nhận thức về sự sửa soạn việc ăn như vậy, đối với kẻ ngồi ăn, dùng đầu cá ướt tạp lẫn mềm mại, dùng tay làm nia, dùng miệng làm cối, dùng môi dồn lại, dùng răng làm chầy, dùng lưỡi đảo qua lại, dùng nước bọt dải đàm huyết cùng chung hòa hợp, rất đáng chán ghét, như chó ói mửa ra không thể nhìn được. Như vậy, là vì tác dụng tan mất mà tu tưởng không chịu ăn.
Hỏi: Thế nào là dùng xứ tu hành, tưởng chẳng chịu việc ăn?
Đáp: Như vậy quán món ăn bị nuốt vào bụng, cùng bất tịnh hòa hợp ở trong, sinh tạng thục tạng là chỗ gặm ăn của trăm thứ trùng, do sức nóng làm chín, thành nhàm chán đệ nhất. Như người ói mửa chứa trong đồ bất tịnh. Như vậy là dùng xứ để tu hành tưởng chẳng chịu ăn.
Hỏi: Thế nào là dùng lưu, tu hành tưởng chẳng chịu ăn?
Đáp: Món ăn đây do sức nóng làm chín cùng món mới, cũ bất tịnh hòa hợp như rượu rót nơi cốc bể, tất cả thân chảy như vậy, theo dòng chảy vào nơi mạch thớ thịt mặt mắt, chín lỗ chín mươi chín ngàn lỗ chân lông, thảy đều chảy đầy khắp. Món ăn này như vậy chảy thành năm phần, một phần bị các trùng ăn, một phần bị lửa làm chảy, một phần chống đỡ thân, một phần thành nước tiểu, một phần thành thể. Như vậy là dùng lưu để tu hành tưởng chẳng chịu ăn.
Hỏi: Thế nào là dùng tụ tu hành tưởng chẳng chịu ăn?
Đáp: Món ăn này chảy thành thân tóc lông móng v.v... khiến khởi một trăm lẻ một phần thân. Nếu chẳng thành dòng chảy thì, khiến khởi một trăm lẻ một bệnh não. Đó là dùng tụ tu hành tưởng chẳng chịu ăn vậy. Người tọa thiền kia dùng môn này dùng hành này, tu hành tưởng chẳng chịu ăn như vậy, thành trú nhàm chán ăn, vì nhàm chán tự tại, tâm thành chẳng loạn. Nếu tâm chẳng loạn thì các Cái diệt, thiền phần khởi, hành thiền bên ngoài thành trú (tưởng chẳng chịu ăn-xong).
Vô sở hữu xứ và phi phi tưởng xứ, như phần Địa Nhất thiết nhập môn ở đầu đã nói. Kệ tụng nói:
"Hành xứ người tọa thiền.
Điều nói chỉ mặt hình.
Như người khéo chỉ đường.
Nước Ba-lợi-phất-đa.
Nói lược được biết rộng.
Hiểu rõ nó trước sau.
Hằng quán như phi pháp.
Ở đây đã nói rộng.
Đầy đủ tướng như vậy.
Tất cả công đức kia.
Như pháp phải phân biệt.
Hành xứ đạo giải thoát
(Phẩm bốn mươi tám Hành đã xong)
Bấy giờ người tọa thiền, đã nhập định tự tại như vậy, trú ở Thiền thứ tư, có khả năng khởi năm thần thông, là Thân thông, Thiên nhĩ thông, Tha tâm trí thông, Túc mạng thông, Thiên nhãn thông. Thân thông là, nghĩa biến; Thiên nhĩ thông là, nghĩa vượt tai người. Tha tâm trí thông là, nghĩa rõ ý người khác; Túc mạng là, nghĩa nhớ lại đời trước; Thiên nhãn là, mắt thấy vượt người.
Hỏi: Có bao nhiêu thứ biến dựa vào cái gì tu biến? Tại sao nên khởi biến?
Đáp: Biến có ba thứ: Đó là: Thọ trì biến, tác biến, tác biến do ý. Thọ trì biến là gì? Người tọa thiền kia dùng một thành nhiều, dùng nhiều thành một, dùng thân tăng trưởng cho đến Phạm thế, đây gọi là thọ trì biến. Tác biến là gì? Người tọa thiền kia xả tự tánh, thân hiện hình đồng tử, hoặc hiện hình rồng, hoặc hiện hình Phạm vương, như vậy v.v... đây gọi là tác biến. Tác biến do ý là gì? Người tọa thiền kia từ thân này hóa làm các thân khác, tùy vào ý tạo tất cả phần thân, các căn đầy đủ, đây gọi là tác biến do ý. Lại nữa, biến có bảy thứ, đó là trí biến, định biến, Thánh biến, nghiệp quả báo sinh biến, người công đức biến, do minh thuật tạo biến, phương tiện biến.
Hỏi: Trí biến là gì?
Đáp: Dùng hiện vô thường để đoạn tưởng thường, thành trí biện biến, vì đạo A-la-hán đoạn tất cả phiền não thành trí biện, đây gọi là Biến trí biện, như trưởng lão Bạc-câu-la, trưởng lão Tăng-cát-lật giả, trưởng lão Bộhống-đa-ba-la. Đây gọi là biến trí biện.
Hỏi: Biến định biện là gì?
Đáp: Dùng Sơ thiền đoạn các Cái, thành tựu biến định biện; dùng phi tưởng phi phi tưởng định đoạn vô sở hữu biến định biện. Như Trưởng lão Xá-lợi-phất đa, trưởng lão Tiên-thời-bà, trưởng lão Côn-đàn-nhã, Uất-đa-la-ưu-bà-di-sa. Ma-bà-để-ưu-bà-di, đây gọi là Biến định biện.
Hỏi: Thánh biện là gì?
Đáp: Nếu Tỳ-kheo ưa thích không chịu đựng, nên trú tưởng chẳng phải chẳng chịu đựng, thì thành tựu trú có tưởng chẳng phải chẳng chịu đựng. Nếu Tỳ-kheo ưa thích chẳng phải chẳng phải chịu đựng nên trú tưởng chẳng chịu đựng, thì thành tựu trú có tưởng chẳng chịu đựng. Nếu Tỳ-kheo ưa thích tưởng chẳng phải chịu đựng và chẳng phải chẳng phải chịu đựng, nên trú tưởng chẳng phải, chẳng phải chịu đựng, thì thành tựu trú có tưởng chẳng phải chịu đựng, Nếu Tỳ-kheo ưa thích tưởng chẳng chịu đựng và chẳng phải, chẳng phải chịu đựng, nên trú tưởng chẳng chịu đựng, thì thành tựu trú có tưởng chẳng chịu đựng hoặc giữ lấy.
Hỏi: Tại sao đối với chẳng phải không chịu đựng trú tưởng chẳng chịu đựng?
Đáp: Đối với xứ ái niệm dùng bất tịnh làm cho viên mãn, hoặc dùng vô thường giữ lấy.
Hỏi: Tại sao đối với chẳng chịu đựng và chẳng phải chẳng chịu đựng, trú tưởng chẳng chẳng chịu đựng?
Đáp: Đối với xứ chẳng ái niệm và ái niệm, hoặc dùng từ làm cho viên mãn, hoặc dùng cảnh giới giữ lấy.
Hỏi: Tại sao đối với chẳng phải chẳng chịu đựng và chẳng chịu đựng, trú tưởng chẳng chịu đựng?
Đáp: Đối với xứ ái niệm và chẳng ái niệm, hoặc dùng bất tịnh khiến viên mãn, hoặc dùng vô thường giữ lấy.
Hỏi: Tại sao đối với chẳng chịu đựng và chẳng phải chẳng chịu đựng, lìa hai câu trú xả niệm hiện biết?
Đáp: Tỳ-kheo này dùng mắt thấy sắc thành chẳng hoan hỷ chẳng ưu lo, thành xả trú niệm hiện biết, như vậy đối tất cả môn, đây gọi là Thánh biện.
Hỏi: Từ nghiệp báo sinh biến là gì?
Đáp: Tất cả chư thiên, tất cả các chim, có người, có kẻ sinh cõi ác, bay đi giữa hư không làm biến, đây gọi là từ nghiệp báo sinh biến.
Hỏi: Người có công đức biến là gì?
Đáp: Chuyển luân vương, Trưởng giả Thọ Đề, trưởng giả Xà đề, Trưởng giả Cù-sư-la. Lại nói người có năm công đức lớn biến, đây gọi là người có công đức biến.
Hỏi: Do minh thuật tạo biến là gì?
Đáp: Người trì minh thuật, đọc tụng minh thuật, có khả năng bay đi giữa hư không, hoặc hiện làm voi, hoặc biến làm ngựa, hoặc biến làm xe, hoặc biến đi bộ, hiện các thứ quân. Đây gọi là do minh thuật tạo biến.
Hỏi: Phương tiện biến là gì?
Đáp: Vì xuất li đoạn dục vì đạo A-la-hán đoạn hết thảy phiền não. Như thợ đồ gốm, nghề nghiệp họ đầy đủ, từ chánh phương tiện đó sinh nên tất cả sự biến, đây gọi là phương tiện biến.
Hỏi: Ai tu biến biện?
Đáp: Đối hư không là chín, hoặc đối hư không là năm, Nhất thiết nhập dùng làm Thiền thứ tư tự tại, là tu biến biện đó. Lại nói Sắc giới Thiền thứ tư, là hơn hết, cho nên đó là tu biến biện. Lại nói Thiền thứ tư hai tự tại là tu biến biện nầy.
Hỏi: Tại sao phải khởi biến?
Đáp: Tỳ-kheo này tu dục định thắng hành tương ưng. Như ý túc, tinh tấn, định tâm, định tuệ định, cũng như vậy. Dục là ưa muốn làm biến, định là tâm chẳng loạn. Người tọa thiền kia ưa muốn biến, biến đổi ý tu hành định, thọ trì bốn thứ tinh tấn: pháp ác bất thiện chưa sinh làm cho nó chẳng sinh. Pháp ác bất thiện đã sinh thì làm cho nó dứt. Pháp thiện chưa sinh thì làm cho nó sinh, pháp thiện đã sinh thì làm cho nó tăng trưởng, làm cho nó chẳng quên, làm cho khởi thêm, làm tu viên mãn. Đây gọi hành thù thắng thành tựu, là chỉ ba pháp kia là ngôn ngữ đầy đủ sáu phần thành tựu. Như ý túc là được như ý làm đạo, chỉ pháp kia như ý túc. Lại nữa, dục định thắng hành thành tựu, đây gọi là như ý túc, là được như ý. Vì nghĩa mới đầu tu là, tu pháp kia tu nhiều, đây gọi là tu dục định thắng hành thành tựu như ý ác. Người tọa thiền kia hiện tu như vậy, là phương tiện đó, hoặc thối hoặc trú, người kia dùng tinh tấn định khiến khởi thành tinh tấn định thắng hành, thành tựu như ý túc. Nếu phương tiện kia chậm hoặc thối hoặc kinh sợ, tâm kia chậm thì khởi tướng nhanh. Nếu tâm thối thì tạo tâm định. Nếu tâm kinh sợ thì khởi tướng xả, người kia thành tựu tâm định thắng hành, thành tựu như ý túc, Nếu người kia tâm không có phiền não, lại hoan hỷ phân biệt lợi ích hay chẳng lợi ích khi tu hành các pháp. Lại pháp này khi chẳng tu thì thành tựu phân biệt định thắng hành, thành tựu như ý túc. Người tọa thiền kia tu bốn như ý túc vì làm cho tâm tự tại. Thân đó tùy tâm, tâm đó thành tựu theo thân. Người tọa thiền kia lúc thân an, thì đối với tâm, an tâm ở thân, vì do thân tâm biến, vì do tâm thân biến, vì do thân, tâm thọ trì, vì do tâm thân thọ trì, hoặc tưởng vui, hoặc tưởng nhẹ, đắm trước vào thân, đắm trước thành trú. Người tọa thiền kia hiện tu như vậy thành tựu thân đó rất nhẹ nhàng, thành rất mềm dịu rất chịu thọ trì, như hòn sắt bị lửa thiêu đốt, tùy ý tạo vật. Như vậy, vì tu tâm thành thân nhẹ, vì nhẹ nên vào thiền thứ tư, an tường niệm ra có thể phân biệt hư không, dùng trí thọ trì. Như vậy, đối với hư không thân này sẽ bay, vì trí thọ trì, đối với hư không thành bay, như gió thổi tơ lụa. Từ đó, mới đầu người tọa thiền không nên nôn đi xa. Tại sao? Cái gì tới thì phải quán nó, sẽ khởi kinh sợ. Nếu có sợ, thì thiền đó thành lui, cho nên, người mới tọa thiền không nên vội vàng đi xa, vì lần lượt sẽ đi, trước hết một thước, dần dần cao lên do quán. Lại nương tướng, khởi tinh tấn một tầm. Dùng phương tiện này, lần lượt tùy sự vui thích sẽ khởi.
Hỏi: Người tọa thiền kia ở hư không hoặc do thiền thối lui từ hư không chuyển rớt xuống đất chăng?
Đáp: Chẳng như vậy. Từ nơi ngồi trước đó bay lên, nếu đi xa, thì khi thoái lui sẽ trở lại chỗ ngồi trước, thấy tự thân như trước đã ngồi. Người có thần thông thì họ có cách dừng. Người tọa thiền" kia lần lượt quán như vậy cho đến thọ trì tự tại, chẳng là một thứ biến, dùng một thành nhiều, dùng nhiều thành một, hoặc hiện đi suốt vách qua tường, suốt qua núi, thân đi vô ngại, giống như hư không, ở đất hoặc ẩn hoặc hiện giống như dưới nước, đi trên nước giống như đi trên đất, đi giữa hư không giống như chim bay, tay sờ nhật nguyệt, đại thần thông như vậy thân đại lực như vậy, mới bay đến nơi Phạm thế. Dùng một thành nhiều là dùng một khiến nhiều, hoặc một trăm, hoặc một ngàn, hoặc mười ngàn v.v... dùng biến vào Thiền thứ tư an tường ra, lần lượt dùng trí thọ trì. "Ta sẽ chuyển nhiều thành nhiều. Như đường nhỏ A-la-hán, dùng nhiều thành một ấy là muốn chuyển nhiều làm một, dùng trí thọ trì. "Ta sẽ chuyển nhiều thành một", như trưởng lão Tiểu lộ A-la-hán, hoặc hiện hoặc chẳng hiện, đi suốt qua vách, suốt qua núi, đi không chướng ngại giống như hư không. Người tọa thiền kia dùng tâm tu hành Hư không Nhất thiết nhập như vậy, nhập Thiền thứ tư, an tường ra, suốt qua vách, suốt qua tường, suốt qua núi, đã chuyển thành chuyển, dùng trí thọ trì. Đây sẽ thành hư không, đã thành hư không. Người tọa thiền kia ở hư không suốt qua vách suốt qua tường suốt qua núi, đi không chướng ngại giống như hư không, hoặc hiện mở ra nghĩa gì? Hoặc chẳng hiện thì nghĩa gì chẳng mở? Người tọa thiền kia chẳng mở khiến mở, suốt qua vách, xuyên qua tường, suốt qua núi, đi chẳng chướng ngại là nghĩa gì? Ở đất khiến ẩn hiện giống như dưới nước. Người tọa thiền kia dùng tâm tu hành Thủy Nhất thiết nhập như vậy, vào nơi thiền thứ tư an tường thoát ra sự ngăn cách của đất dùng trí thọ trì, đây sẽ thành nước. Người tọa thiền kia ra vào đất giống như tánh nước, đi trên nước, tâm chẳng chướng ngại giống như đi trên đất. Người tọa thiền kia, dùng tâm tu hành Địa Nhất thiết nhập như vậy, vào thiền Thứ tư an tường ra khởi sự ngăn cách của nước, dùng trí thọ trì, đây sẽ thành đất, và đã thành đất. Người tọa thiền kia, đi trên nước chẳng chướng ngại như đi trên đất, đi giữa hư không giống như chim bay. Khi đó có ba cách đi: bước đi, gió đi, và tâm đi. Từ đó người tọa thiền đắc định Địa Nhất thiết nhập, ở hư không thọ trì đường sá dùng bước đi, nếu được định phong Nhất thiết nhập thọ trì giới như tơ lụa như gió đi, dùng tâm đi khiến tràn khắp thân tâm, hoặc tưởng vui hoặc tưởng nhẹ, vì đắm trước thân nên thân đã nhẹ, dùng tâm đi như chim bay, như vậy là dùng tâm đi. Đi rồi tay sờ nhật nguyệt, đại thần thông như vậy thần lực như vậy. Người tọa thiền kia có thần thông được tâm tự tại, dùng tâm tu hành như vậy, vào Thiền thứ tư, an tường ra, tay sờ nhật nguyệt, dùng trí thọ trì, đây sẽ thành gần tay, kia thành gần tay. Người tọa thiền kia hoặc ngồi hoặc nằm dùng tay sờ mó nhật nguyệt, cất mình cho đến Phạm thế. Người tọa thiền kia có thần thông được tâm tự tại, ưa thích đi Phạm thế. Bốn như ý túc là như vậy. Dùng tâm tu hành như vậy, ở xa thọ trì gần, ở gần thọ trì xa, hoặc nhiều thọ trí ít, hoặc ít thọ trì nhiều. Dùng thiên nhãn thấy sắc Phạm thiên, dùng thiên nhĩ nghe tiếng Phạm thiên, dùng tha trí biết tâm Phạm thiên. Người tọa thiền kia có ba hành, dùng hai hành hành ở Phạm thế, pháp đó ở tất cả thọ trì biến (Thọ trì biến đã xong)
Bấy giờ, người tọa thiền muốn khởi biến ý, tu bốn như ý túc như vậy, dùng tâm được tự tại an thân ở tâm, an tâm ở thân, vì do thân an tâm, vì do tâm an thân, vì do thân thọ trì tâm, vì do tâm thọ trì thân, hoặc tưởng vui hoặc tưởng nhẹ. Nếu đối với thân đã đắm trước thân rồi, đắm trước thân rồi đắm trước thành trú. Như vậy người tọa thiền hiện tu thân đó thành rất mềm dịu rất nhẹ nhàng có thể thọ trì, như hòn sắt bị lửa đốt cháy tùy ý làm vật. Như vậy, người tọa thiền đã tu hành như vậy, tâm thành mềm dịu có thể thọ trì, khiến tràn khắp thân tâm. Người tọa thiền kia nếu ưa thích bỏ hình sắc mình làm hình trẻ con, vào Thiền thứ tư an tường ra, lần lượt chuyển hình trẻ con. Đã chuyển rồi dùng trí thọ trì, "ta sẽ thành hình trẻ con". Tác ý thành hình trẻ con như vậy, hình rồng, hình phụng hoàng, hình dạ xoa, hình A-tu-la, hình Đế thích, hình Phạm, hình biển, hình núi, hình rừng, hình sư tử, hình hổ hình báo, hình voi ngựa, hình xe bộ, hình quân bộ cũng như vậy, đã chuyển dùng trí thọ trì, "ta sẽ thành hình quân bộ hành", tác ý thành quân bộ hành như vậy.
Hỏi: Thọ trì biến và tác biến có gì sai biệt?
Đáp: Vì thọ trì biến chẳng xả hình sắc thọ trì, còn tác biến thì xả hình sắc, đây gọi là sai biệt (tác biến đã xong).
Bấy giờ, người tọa thiền muốn khởi ý tạo biến, tâm được tự tại như vậy, tu như ý túc, vào Thiền thứ tư, an tường ra, ở bên trong thân đó tác ý, giống như bình không, người tọa thiền kia tác ý như vầy: "Cái không trong tự thân tùy theo ưa thích làm biến hóa, tùy đó sẽ thành chuyển. Đã chuyển, dùng trí thọ trì, tùy theo đó sẽ thành; tác ý như vậy, thành tùy tương tợ, dùng phương tiện này làm nhiều biến hóa, làm biến hóa rồi thành hành. Nếu người tọa thiền dùng sự hóa thân muốn bay tới Phạm thế thì ở trước Phạm thế liền hóa tự thân như hình Phạm, tùy ý tạo, tất cả thân phần đầy đủ, các căn chẳng thiếu. Nếu người thần thông ở đây tiêu dao, thì người do họ hóa cũng lại tiêu dao. Nếu người thần thông ở đây ngồi nằm, hiện ra khói lửa, hoặc hỏi hoặc đáp, thì người được hóa kia cũng ngồi cũng nằm, cũng ra khói lửa, cũng hỏi cũng đáp. Đó là do thần thông tạo sự biến hóa. Người được hóa kia cũng tùy làm theo như vậy v.v... (Do ý tạo biến đã xong)
Tán cú biến tạo sắc là thế nào? Vào lúc phân biệt, thì lúc đó kia chẳng hiện, chưa đến lúc phân biệt, vào thời gian đó ưa thích nói, sự thọ trì kia thành chẳng hiện. Nếu lúc chẳng khởi phân biệt, thì niệm niệm chẳng hiện; đối với người hóa không thọ mạng căn, sự ăn uống được hoá, sự biến chủng trí, thành chín sự; sự nhỏ, sự lớn sợ chẳng thể nói, sự quá khứ, sự vị lại, sự hiện tại, sự bên trong, sự bên ngoài, sự trong ngoài (tán cú đã xong).
Hỏi: Thiên nhĩ ai khởi, tại sao phải khởi?
Đáp: Tám Nhất thiết nhập, hai thiết nhập kia, ở
Thiền thứ tư được tự tại. Từ tự tánh nhĩ (tai) khởi thiên nhĩ giới. Lại nói, tại sao sắc giới ở Thiền thứ tư được tự tại? Vì đó là năng khởi. Lại nói, Thiền thứ tư cũng khởi Hỏi: Vì sao phải khiến khởi?
Đáp: Người mới tọa Thiền tu bốn như ý túc như vậy vì tâm được tự tại, nhập Thiền thứ tư an tường ra, lần lượt nương tự tánh nhĩ giới. Nếu âm thanh xa thì tác ý tướng âm thanh, hoặc âm thanh gần thì tác ý tướng âm thanh. Nếu âm thanh lớn thì tác ý-tướng âm thanh lớn. Nếu âm thanh nhỏ thì tác ý tướng âm thanh nhỏ. Nếu âm thanh phương đông thì tác ý tướng âm thanh. Như vậy đối với tất cả phương, người tọa thiền kia vì tu hành tâm thanh bạch như vậy, vì nhĩ giới thanh tịnh, khiến tâm hành tăng trưởng. Người tọa thiền kia, vì thiên nhĩ giới thanh tịnh vượt quá nhân nhĩ (tai người) nghe hai thứ âm thanh, đó là tiếng trời và tiếng người, hoặc xa hoặc gần. Do đó, các sư trước đây nói: người mới tọa thiền trước nghe âm thanh chúng sinh ở tự thân, từ đây lại nghe âm thanh chúng sinh ở ngoài thân. Từ đây lại nghe âm thanh chúng sinh nương nơi trú xứ. Như vậy lần lượt tác ý tăng trưởng. Lại nói, người mới tọa thiền, không có khả năng trước nghe âm thanh chúng sinh ở tự thân. Tại sao? Vì chẳng thể nghe âm thanh, vi tế vì tự tánh tai chẳng phải cảnh giới đó. Người mới tọa thiền, âm thanh loa trống ở xa âm thanh kia nương tự tánh tai, dùng trí thiên nhĩ, nên tác ý tướng âm thanh khiến khởi trí thiên nhĩ, hoặc âm thanh nhỏ hoặc âm thanh lớn, hoặc âm thanh xa hoặc âm thanh gần, chỉ có thiên nhĩ nên thủ. Từ đó người mới tọa thiền chẳng nên tác ý sợ hãi. Tại sao? Đối với âm thanh đáng mến nên nói dục ái, đối với âm thanh đáng sợ, nên nói trí sợ hãi, tai hoảng sợ. Việc đó thành ba sự, sự nhỏ, sự hiện tại, sự bên ngoài. Nếu mất tự tánh nhĩ, thì thiên nhĩ giới cũng mất. Khi đó được nghe âm thanh tự tánh, nghe âm thanh ngàn thế giới. Từ Duyên giác kia nghe rất nhiều, Như Lai nghe vô số (thiên nhĩ đã xong).
Hỏi: Tha tâm trí ai có thể khởi, nên khởi thế nào?
Đáp: Ánh sáng Nhất thiết nhập ở Thiền thứ tư được tự tại, được thiên nhãn, khởi tha tâm trí. Nên khởi thế nào? Người mới tọa thiền tu bốn như ý túc như vậy, dùng tâm tự tại, thanh bạch chẳng động đi vào ánh sáng Nhất thiết nhập. Ở thiền thứ tư an tường ra, từ ban đầu dùng ánh sáng khiến tràn khắp thân, dùng thiên nhãn thấy sắc tự tâm ý, đây là nương sắc, ý thức khởi biết như vậy, vì tự tâm biến thấy sắc biến. Sắc nầy khởi từ hỷ căn, Sắc này từ ưu căn khởi, sắc này từ xả căn khởi. Nếu tương ưng hỷ căn thì tâm hiện khởi ý sắc như sắc lạc tô. Nếu cùng ưu căn tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc tía. Nếu cùng xả căn tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc mật ong. Nếu cùng ái dục tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc vàng. Nếu cùng giận dữ tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc đen. Nếu cùng vô minh tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc đục. Nếu cùng tín tương ưng và trí tương ưng thì tâm hiện khởi thành như sắc trong. Người tọa thiền kia dùng tự thân biến như vậy, phân biệt sắc biến. Bấy giờ dùng ánh sáng khiến tràn khắp thân người khác, dùng thiên nhãn thấy sắc tâm ý người khác, kia dùng tâm biến phân biệt sắc biến. Dùng sắc biến phân biệt tâm biến. Phân biệt khởi tha tâm trí như vậy rồi, khởi tha tâm trí trừ sắc biến phân biệt, chỉ giữ lấy tâm sự. Người tọa thiền kia tu hành với tâm thanh bạch như vậy, hoặc có tâm ái biết có tâm ái, hoặc không tâm ái, biết không tâm ái. Nếu có tâm giận dữ biết có tâm giận dữ. Nếu không có tâm giận dữ biết không có tâm giận dữ, như vậy tất cả có thể biết. Tha tâm trí có tám sự; sự nhỏ, sự lớn, sự đạo, sự vô lượng, sự quá khứ, sự vị lai, sự hiện tại, sự bên ngoài. Tha tâm vô lậu kia chẳng phải cảnh giới phàm phu sinh vô sắc xứ, chúng sinh tâm mà chỉ cảnh giới Phật. Nếu Thanh văn được tự tại, biết tâm một ngàn thế giới, từ đây Duyên giác rất nhiều, Như Lai vô lượng (Tha tâm trí đã xong).
Hỏi: Trí nhớ biết túc mạng ai có thể khởi? Có bao nhiêu thứ trí nhớ biết túc mạng? Tại sao nên khởi?
Đáp: Tám Nhất thiết nhập, hai Nhất thiết nhập, ở Thiền thứ tư tâm được tự tại, có thể khởi trí nhớ biết túc mạng. Lại nói, tại sao sắc giới xứ?
Đáp: Ở Thiền thứ tư tâm được tự tại, ở đó có thể khởi. Lại nói, ở Thiền thứ tư được khởi bao nhiêu thứ nhớ biết túc mạng? Đáp: Ba thứ nhớ biết túc mạng: Một là trì nhiều mà sinh; hai là do sinh tạo; ba là do tu hành thành. Trì nhiều mà sinh là, dùng bốn hành trí nhớ biết túc mạng, khéo giữ lấy tướng kia, thấy phần tướng kia, các căn phân minh. Cho nên, thâu nhiếp tánh kia vậy. Bốn hành này trì nhiều sinh nhớ biết túc mạng, đối với người ưu thắng, họ nhớ biết mạng ở bảy đời trước, các trời các rồng, các phụng hoàng. Vì sinh tạo thành nhớ biết túc mạng, đối với người ưu thắng thì nhớ biết mạng ở mười bốn đời trước. Do tu hành thành là, tu như ý túc.
Hỏi: Tại sao nên khởi nhớ biết túc mạng?
Đáp: Người mới tọa thiền tu bốn như ý túc như vậy, vì tín được tư tại, thanh bạch đến bất động. Từ chỗ đang ngồi, việc mà mình làm trong một ngày, hoặc do thân, hoặc do ý, hoặc dùng miệng, nhớ biết tất cả. Như vậy việc một đêm mình làm, như vậy một ngày hai ngày lần lượt cho đến một tháng nhớ biết tất cả. Như vậy việc làm hai tháng, như vậy lần lượt cho đến việc làm một năm, như vậy việc làm hai năm, ba năm, một trăm năm, như vậy cho đến việc làm hồi mới sinh, nhớ biết tất cả. Bấy giờ tâm tâm sở pháp ở quá khứ lâu xa, tâm tâm sở pháp ở đời sau và hiện sinh nương tâm tâm sở pháp mới được sinh. Vì tâm tương tục sinh, hiện quán nhân duyên, nhớ biết thức lưu chuyển, cả hai đều không đoạn. Ở đời này sinh, ở đời sau sinh. Người tọa thiền kia dùng tâm tu hành thanh bạch như vậy nhớ biết túc mạng chẳng một thứ, một đời, hai đời, ba đời, bốn đời v.v... tất cả như vậy. Người tọa thiền ở đời này đã nhớ biết tất cả. Nếu người tọa thiền không có khả năng nhớ biết đời kia, thì không nên bỏ tinh tấn, mà trở lại nên khởi thiền, đã khởi thiền thì lành thay khiến tự tại như cách lau gương, lành thay đã được tự tại, hiện nhớ biết như mới đầu, đối với người kia thành tựu nhớ biết. Nếu tự thân một đời xuất hiện, tâm nhớ nghĩ kia thành tựu nhớ biết, người kia rất vui, vì đã thấy nhưng vì phương tiện, nên chẳng thể nhớ đời súc sinh và đời của vô sắc đời của vô tưởng, chẳng thể nhớ biết, vì tánh vô tưởng. Trưởng giả Thâu-tỳ-đa có trí túc mạng tối thắng nhớ, bảy thứ nhỏ lớn chẳng nên nói quá khứ, trong ngoài. Trong ngoài đối với đạo quả đã đắc ở quá khứ, hoặc đất nước, hoặc thôn làng đều nhớ biết; kia thành tựu tưởng quá khứ, trí nhớ biết túc mạng. Từ trí nhớ ấm tương tục, trí nhớ biết túc mạng. Từ đây ngoại đạo nhớ biết bốn mươi kiếp, qua bốn mươi kiếp thì không có khả năng nhớ biết. Vì thân không có lực vậy. Thánh Thanh văn nhớ biết mười ngàn kiếp. Từ đây Thanh văn rất lớn, từ kia, Duyên giác rất lớn, từ kia Như Lai Chánh biến giác, tự tha túc mạng và hành và xứ tất cả. Ngoài ra chỉ nhớ biết túc mạng minh, ít nhớ biết túc mạng kẻ khác. Chánh biến giác tùy sự ưa thích mà nhớ biết tất cả ngoài ra nhớ thứ lớp. Chánh biến giác hoặc nhập tam muội, hoặc không nhập tam muội, hoặc không nhập tam muội mà thường nhớ. Ngoài ra chỉ vào tam muội (Trí nhớ biết túc mạng đã xong).
Hỏi: Thiên nhãn ai khởi? Bao nhiêu thứ thiên nhãn? Thế nào là khởi thiên nhãn?
Đáp: Ánh sáng làm chín, hoặc ánh sáng làm năm, hoặc ánh sáng Nhất thiết nhập sự, ở thiền thứ tư được tự tại, có nhãn tánh là khả năng khởi. Bao nhiêu thứ thiên nhãn?
Đáp: Hai thứ thiên nhãn, do nghiệp quả báo thành, do tu hành thành. Từ đó điển tạng thiên nhãn, do quả báo thành, cho nên được thấy bảo tạng hoặc có châu hoặc không châu. Do tu hành thành là, tu hành bốn như ý túc. Thế nào có thể khởi thiên nhãn: Người mới tọa thiền tu bốn như ý túc như vậy, vì tâm được tự tại, thanh bạch đến bất động, ánh sáng Nhất thiết nhập, đi vào Thiền thứ tư tác ý tưởng ánh sáng và tưởng mặt trời, thọ trì ngày này như đêm, đêm này như ngày. Vì tâm vô ngại không bị đắm trước, hiện tâm tu hành thành có ánh sáng. Người tọa thiền kia tu hành tâm thành có ánh sáng, không có bóng tối chướng ngại, vượt quá ánh sáng mặt trời. Người tọa thiền kia tâm tu hành như vậy, dùng ánh sáng khiến tràn khắp ở bên trong, tác ý sắc hình, dùng trí khiến tràn khắp ánh sáng, chẳng phải thiên nhãn, dùng trí thấy sắc ánh sáng bên trong, đây gọi là thiên nhãn. Người tọa thiền kia dùng thiên nhãn thanh tịnh vượt hơn mắt người thấy chúng sinh hoặc chết hoặc sinh, hoặc thô hoặc diệu, hoặc sắc đẹp hoặc sắc xấu, sinh ở cõi thiện, sinh ở cõi ác, như nghiệp đã làm. Như vậy, tất cả chúng sinh, ở đó nếu có thể khởi thiên nhãn, thì phiền não này nên đoạn, đó là nghi hoặc, nhớ nghĩ bất chánh, biếng lười ngủ nghỉ, kiêu ngạo, tà hỷ, ác khẩu, gấp chóng tinh tấn, chậm hoãn tinh tấn, nhiều lời lắm tưởng, nhất là quán sắc. Phiền não này vì thế cứ thành tựu từng thứ. Nếu khiến khởi thiên nhãn, thì định đó bị lui. Nếu định đó bị lui thì ánh sáng cũng mất, thấy sắc cũng mất, cho nên tốt nhất phiền não kia nên đoạn. Nếu đã đoạn phiền não nầy mà không đắc định tự tại, là vì chẳng tự tại, nên thiên nhãn thành nhỏ. Người tọa thiền kia vì thiên nhãn nhỏ, biết ít ánh sáng, thấy sắc cũng nhỏ. Cho nên, Đức Thế Tôn nói: Bấy giờ ta định nhỏ, bấy giờ mắt ta nhỏ, vì mắt ta nhỏ biết ít ánh sáng, Ta thấy sắc nhỏ. Bấy giờ ta có vô lượng tam muội, ta có vô lượng thiên nhãn. Dùng vô lượng thiên nhãn này, ta biết vô lượng ánh sáng, ta thấy vô lượng sắc. Do đó, người mới tọa thiền, đối sắc không đáng yêu, sắc chẳng phải đáng khiếp sợ, như phần đầu đã nói qua năm thứ sự của thiên nhãn, đó là sự nhỏ, sự hiện, sự trong, sự ngoài, sự trong ngoài. Nương thiên nhãn sinh bốn trí: vị lai phần trí, tự sở tác nghiệp trí, như hành nghiệp trí, nghiệp quả báo trí. Từ đó, dùng vị lai phần trí, đối với sắc vị lai, sẽ khởi biết đó, dùng tự sở tác nghiệp trí, thấy nghiệp của người khác tạo. Vì nghiệp này người ấy sẽ sang cõi kia. Lại dùng Trí như hành nghiệp, thấy biết cõi người sinh, vì nghiệp này người ấy đời trước sinh, dùng trí nghiệp quả báo, đều biết rõ đời này đến cõi này, đến phiền não này, đến phương tiện này, nghiệp này nên chín muồi, nghiệp này chẳng nên chín muồi, nghiệp này nên nhiều thọ, nghiệp này nên ít thọ. Do đó, Thanh văn được tự tại, thấy một ngàn thế gian, từ đây Duyên giác thấy rất nhiều, Như Lai thấy vô lượng (thiên nhãn đã xong).
Khi đó, tán cú này: dùng thiên nhãn để thấy sắc, đối với một thứ định tu hành, chỉ thấy sắc chẳng nghe tiếng. Nếu dùng thiên nhĩ để nghe tiếng, thì đối một thứ định tu hành chỉ nghe tiếng không thấy sắc. Nếu là thấy, nghe cả hai đều tu hành định, thì cũng thấy cũng nghe. Nếu là thấy nghe biết tha tâm, tu hành định, thì cũng thấy nghe biết tha tâm. Nếu là thấy một phương, tu hành định, thì không thấy các phương khác, không nghe không biết tha tâm. Nếu chẳng ít tu hành định, thì với tất cả phương, cũng thấy cũng nghe cũng biết tha tâm. Năm thứ thần thông, thế gian thần thông hữu lậu Sắc giới hệ thuộc cùng phàm phu. Nếu giỏi thần thông, người Học và phàm phu cùng chung, hoặc A-la-hán vô ký thần thông, năm thứ thần thông, chẳng ở Vô sắc giới sinh (Đạo giải thoát nói đạo thần thông đã xong).
---------------
Hỏi: Tuệ là gì? Tướng gì, vị gì, khởi gì, xứ gì, công đức gì? Tuệ là nghĩa gì? Có bao nhiêu cộng đức đó được Bát nhã, bao nhiêu thứ Bát Nhã?
Đáp: Ý sự như thấy, đây gọi là Bát nhã, Lại nữa, tác ý lợi ích hay chẳng lợi ích: tác ý trang nghiêm, đây gọi là Bát nhã. Như trong A-tỳ-đàm nói: Thế nào là Bát nhã? Bát nhã là tuệ, là trí, là trạch pháp diệu tướng tùy quán, quán kia thông minh hiểu rõ phân biệt, tư duy kiến đại, dễ ngộ dẫn dắt chánh trí, tuệ câu, tuệ căn, tuệ lực, tuệ trượng, tuệ nghiêm, tuệ quang, tuệ đăng, tuệ bảo, chánh kiến chẳng ngu si trạch pháp, đây gọi là Bát nhã. Như đạt làm tướng; trạch làm vị; chẳng ngu si làm khởi; Bốn đế làm xứ. Lại nữa, liễu nghĩa ánh sáng làm tướng; vào chánh pháp làm vị; trừ vô minh tối làm khởi; bốn biện làm xứ. Công đức gì. Bát Nhã có vô lượng công đức, hãy nghe kệ tóm lược này:
Dùng tuệ tinh các giới. Nhập thiền cũng hai tuệ. Dùng tuệ tu các đạo.
Dùng tuệ thấy quả kia. Bát nhã là thắng thiện. Tuệ nhãn là tối thượng. Tuệ thoái là uế nhiễm.
Tuệ tăng trưởng (là) vô thượng. Tuệ phá các ngoại luận.
Với thế gian chẳng dính. Người có tuệ rất diệu.
Nói rõ lời nói thiện. Đời này và đời sau.
Giải thoát nghe an lành. Các nghĩa và tinh tấn.
Người có tuệ dõng mãnh. Ắt thấy các pháp này.
Nhân duyên, các lời nói. Dạy răn và danh sắc.
Đó là lời Bốn đế.
Là cảnh giới có tuệ. Dùng tuệ trừ mọi ác. Ái giận dữ vô minh.
Dùng trí trừ sinh tử. Trừ thứ chẳng thể trừ Hỏi: Tuệ là nghĩa gì?
Đáp: Nghĩa trí, thường trừ bỏ là nghĩa. Bao nhiêu công đức được tuệ? Có mười một công đức: Tầm nghĩa Tu-đa-la, nhiều việc thiện, sống thanh tịnh, chỉ quán, Bốn đế, làm xứ phân minh, tâm luôn dừng trú tại thiền, không ngăn che tâm, lìa người không trí tuệ, người tu hành trí tuệ, ưa thích đắm trước. Bao nhiêu tuệ?
Đáp: Hai thứ, ba thứ, bốn thứ.
Hỏi: Hai thứ tuệ là gì?
Đáp: Đó là thế tuệ và xuất thế tuệ. Do đó Thánh đạo quả tương ưng tuệ, là xuất thế tuệ. Ngoài ra là thế tuệ. Thế tuệ là, hữu lậu có trói có buộc, là lưu, là ách, là cái, là bị xúc, là cõi, là có phiền não. Xuất thế tuệ là, vô lậu, không trói không buộc, không lưu, không ách, không cái, không bị xúc, không cõi, không phiền não. Ba thứ tuệ là, tư tuệ, văn tuệ, tu tuệ. Do đó chẳng theo người khác nghe, nếu tự tác nghiệp trí, nếu được trí tùy đế tương ưng ở công và minh, đây gọi là tư tuệ. Ở xứ này theo người khác nghe được tuệ, gọi là văn tuệ. Nếu vào tam muội tuệ kia đều tu là tu tuệ. Lại nữa, ba thứ tuệ, hiểu rõ vị lai, hiểu rõ quá khứ, hiểu rõ phương tiện. Từ đó hiện tác ý, pháp bất thiện này thành lui, thiện pháp thành tăng trưởng, đối với tuệ đó đây gọi là hiểu rõ vị lai. Lại tác ý, pháp bất thiện này tăng trưởng, thiện pháp bị lui, đối với tuệ đó, đây gọi là hiểu rõ quá khứ. Đối với tất cả tuệ phương tiện này, đây gọi là hiểu rõ phương tiện. Lại nữa, ba thứ tuệ; Tụ tuệ, bất Tụ tuệ, phi tụ phi phi tụ tuệ. Ba địa thiện tuệ này gọi là tụ tuệ. Đối với tuệ của bốn đạo, gọi là bất tụ tuệ. Đối với bốn địa và quả báo. Đối với việc ba địa, với tuệ hữu ký, đây gọi là phi tụ phi phi tụ tuệ. Bốn thứ tuệ là, tự tác nghiệp trí, tùy đế tương ưng trí, đạo đẳng phần trí, quả đẳng phần trí. Đối với mười xứ chánh kiến đó, gọi là tự tác nghiệp trí. Nếu thấy ấm hoặc vô thường, hoặc khổ, hoặc vô ngã, tương tợ nhẫn như vậy, thì đây gọi là Tùy đế tương trợ tri. Đối với bốn đạo tuệ, đây gọi là đạo phần trí. Đối với bốn quả tuệ, đây gọi là quả đẳng phần trí. Lại nữa, bốn thứ tuệ là Dục giới tuệ, Sắc giới tuệ, Vô sắc giới tuệ, vô hệ tuệ. Do đó, thiện của dục giới là hữu ký tuệ, đây gọi là dục giới tuệ. Sắc giới thiện hữu ký tuệ, đây gọi là sắc giới tuệ. Vô sắc giới thiện hữu ký tuệ, đây gọi là Vô sắc giới tuệ. Đối với tuệ của đạo quả, đây gọi là vô hệ tuệ. Lại nữa, bốn thứ tuệ là pháp trí, tỷ trí, tha tâm trí, đẳng trí. Đối với tuệ của bốn đạo và bốn quả, đây gọi là pháp trí. Người tọa thiền kia dùng pháp trí này thành tựu trí quá khứ vị lai hiện tại, quá khứ lâu xa cũng trí, vị lai cũng trí, đế trí này, đây gọi là tỷ trí. Biết tâm người khác, đây gọi là tha tâm trí. Trừ ba trí này, các tuệ khác, gọi là đẳng trí. Lại nữa, bốn loại trí tuệ: có tuệ là tụ, chẳng là chẳng phải tụ; có tuệ là chẳng phải tụ chẳng là tụ, có tuệ là tụ cũng là chẳng phải tụ, có tuệ chẳng là tụ, chẳng chẳng phải là tụ. Dục giới thiện tuệ tức tuệ là tụ chẳng là chẳng phải tụ, ở bốn đạo tuệ là chẳng phải tụ chẳng là tụ. Ở sắc giới và vô sắc giới thiện tuệ, tức tuệ đó là tụ là cũng chẳng phải tụ. Ở bốn địa quả báo, ba địa sự hữu ký tuệ, tức tuệ đó chẳng là tụ cũng chẳng chẳng phải là tụ. Lại nữa, bốn thứ tuệ, có tuệ được nhàm chán chẳng phải để đạt, có tuệ để đạt chẳng phải để nhàm chán, có tuệ để nhàm chán cũng để đạt, có tuệ chẳng được nhàm chán cũng chẳng vì đạt. Đó là tuệ được nhàm chán dục, chẳng để thông đạt thần thông, và chẳng thông đạt Bốn đế, đây gọi là tuệ được nhàm chán chẳng để đạt. Hiện được chán dục, dùng tuệ đạt thần thông, chẳng phải đạt Bốn đế, đây gọi là Bát nhã (tuệ) để đạt chẳng phải để nhàm chán; tuệ ở bốn đạo là để nhàm chán cũng để đạt; ngoài ra tuệ chẳng được nhàm chán cũng chẳng vì đạt. Lại nữa, bốn thứ tuệ, là nghĩa biện, pháp biện, từ biện, nhạo thuyết biện. Trí ở nghĩa gọi là nghĩa biện. Trí ở pháp gọi là pháp biện. Tuệ ở ngôn từ thuyết giảng gọi là từ biện. Tuệ ở trí gọi là nhạo thuyết biện. Lại nữa, trí ở nhân quả là Nghĩa biện, trí ở nhân là trí ở Pháp biện, trí ở pháp biện ưa nói là Từ biện, trí ở trí là Nhạo thuyết biện. Lại nữa, trí ở khổ và diệt gọi là Nghĩa biện, trí ở tập và đạo gọi là Pháp biện; ở thuyết pháp từ, gọi là Từ biện, ở trí gọi là nhạo thuyết biện. Lại nữa, biết pháp là đó là Tu-đa-la, kỳ-dạ-xà-khA-la-giới, già-đà, ưu-đà-na, Y-để, Bạt-đa-già, Xà-đa-già, A-phù-đa-đạt-ma, Tỳ-Phật-lược, đây gọi là Pháp biện, biết nghĩa đây kia, pháp được nói đây là nghĩa của nó, gọi là Nghĩa biện. Trí tuệ trong thuyết pháp, ngôn từ, đây gọi là Từ biện. Trí trong trí tuệ, đây gọi là Nhạo thuyết biện. Lại nữa, trí ở nhãn đây gọi là Pháp biện, Nhãn trí để thấy (nhận biết), đây gọi là Nghĩa biện. Trí trong thuyết pháp ngôn từ, đây gọi là Từ biện. Trí trong trí tuệ, đây gọi là Nhạo thuyết biện. Lại nữa, bốn thứ tuệ: khổ trí, khổ tập trí, khổ diệt trí, do đó đạo đẳng phần trí. Khổ tương ưng trí, khổ trí; khổ tập tương ưng trí, tập trí; khổ diệt tu hành tương ưng trí, cụ túc trí; đạo trí (đạo giải thoát phẩm phân biệt tuệ đã xong).
Từ đó, người mới tọa thiền ưa thích thoát già chết, ưa thích trừ nhân sinh tử, ưa thích trừ vô minh tối tăm, ưa thích đoạn dây ái, ưa thích đắc Thánh tuệ, ở năm xứ phải khởi phương tiện, đó là ấm phương tiện, nhập phương tiện, giới phương tiện, nhân duyên phương tiện, Thánh đế phương tiện.
Hỏi: Ấm phương tiện là gì?
Đáp: Năm ấm: Sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm, thức ấm.
Hỏi: Sắc ấm là gì?
Đáp: Bốn đại và sắc do bốn đại tạo nên. Gì là bốn đại? Địa giới, thủy giới, hỏa giới, phong giới. Địa giới là gì? Tánh cứng chắc, tướng cứng chắc, đây gọi là địa giới. Thủy giới là gì? Nước ướt, sắc hòa hợp, đây gọi là thủy giới. Hỏa giới là gì? Lửa nóng sắc thuần thục, đây gọi là hỏa giới. Phong giới là gì? Gió duy trì sắc, đây gọi là phong giới. Người mới tọa thiền dùng hai hành nắm giữ các ngăn che. Nói gọn và rộng như nói về quán Bốn đại. Như vậy có thể biết. Thế nào là sắc do bốn đại tạo nên? Nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, sắc nhập, thanh nhập, hương nhập, vị nhập, nữ căn, nam căn, mạng căn, thân làm, miệng làm, sắc không giới, sắc nhẹ, sắc mềm, sắc có thể thọ trì, sắc tăng trưởng, sắc tương tục, sắc sinh, sắc lão, sắc vô thường đoàn thực xứ, sắc nhãn. Nhãn nhập là gì? Vì thấy sắc đó có đối, nương vào đó nhãn thức khởi, đây gọi là nhãn nhập. Lại nữa, dựa con ngươi mắt tròng trắng tròng đen nhãn châu ba tròn, ở thịt máu phong đàm khạc nhổ, năm lớp ở bên trong, như nữa hạt cải, lớn như đầu con kiến, nghiệp ban đầu thành. Hỏa do bốn đại tạo nên, đại thì rất nhiều Sắc thanh tịnh này gọi là nhãn nhập, như đại đức Xá-lợi-phất nói: "Dùng nhãn thức thanh tịnh thấy các sắc, hoặc nhỏ hoặc quá nhỏ, như dụ về Dũ Kha. Nhĩ nhập là gì? Vì là nghe tiếng nên tiếng có đối, nương nhĩ, thức khởi, đây gọi là nhĩ nhập. Lại nữa, ở hai lỗ lông đỏ làm biên, nương mô trú như cành đậu xanh, ban đầu nghiệp tạo, "không" đại rất nhiều, sắc thanh tịnh do bốn đại tạo nên, đây gọi là nhĩ nhập. Tỷ nhập là gì? Vì nghe hương đó, ở hương có đối, nương tỷ, thức khởi, đây gọi là tỷ nhập. Lại nữa, ở trong lỗ mũi ba hòa hợp nương lỗ nhỏ trú, như hình Câutỳ-đà-la ban đầu nghiệp tạo, phong đại rất nhiều, sắc thanh tịnh do bốn đại tạo, nên đây gọi là tỷ nhập. Thiệt nhập là gì? Vì biết vị đó, ở vị đó có đối, nương thiệt, thức khởi, đây gọi là thiệt nhập. Lại nữa, ở trên lưỡi thịt lớn bằng hai ngón tay trú như hình hoa Uất-ba-la, ban đầu nghiệp tạo, thủy đại rất nhiều, sắc thanh tịnh do bốn đại tạo nên, đây gọi là thiệt nhập. Thân nhập là gì? Vì biết xúc chạm, xúc đó có đối, nương thân, thức khởi, đây gọi là thân nhập. Lại nữa, trừ lông tóc móng răng, các chỗ khác chẳng thọ, còn tất cả đều là thân thọ; ban đầu nghiệp tạo, địa đại rất nhiều, sắc thanh tịnh do bốn đại tạo nên, đây gọi là thân nhập, là sắc có thể thấy, đây gọi là sắc nhập. Âm thanh có đối đó gọi là thanh nhập. Hương có đối đó gọi là hương nhập. Vị có đối ấy gọi là vị nhập. Nữ tánh ấy là nữ căn, nam tánh ấy là nam căn, sắc được tạo thành tùy theo sự giữ gìn của nghiệp ấy gọi là mạng căn, là do thân làm cho hiện các hành gọi là hành, đây gọi là thân làm; do miệng khiến hiện các hành gọi là hành, đây là miệng làm. Sắc đó phân biệt, đây gọi là cảnh giới hư không, Sắc đó tánh nhẹ đây gọi là sắc nhẹ. Sắc đó tánh mềm dịu, đây gọi là sắc mềm dịu. Sắc đó tánh có thể thọ trì, đây gọi là sắc có thể thọ trì. Ba thứ này là thân, tánh chẳng biếng lười. Các nhập tụ ấy gọi là sắc tụ. Sắc tụ ấy, đây gọi là sắc tương tục. Sắc đó khiến khởi, đây gọi là sắc sinh. Khiến sắc đó chín muồi, đây gọi là sắc lão. Sắc đó bại hoại, gọi là sắc vô thường, vì khí vị chúng sinh được lập, đây gọi là khí vị đoàn thực. Sắc nương giới và ý thức giới khởi, đây gọi là giới xứ sắc. Các giới đó biếng lười, đây gọi là sắc ngủ nghỉ. Hai mươi sáu sắc được tạo nên đây và bốn đại thành ba mươi sắc.
Hỏi: Bốn đại và sắc do bốn đại tạo nên tại sao khác nhau?
Đáp: Bốn đại dựa bốn đại cộng sinh. Sắc do bốn đại tạo nên thì nương bốn đại sinh. Sắc do bốn đại tạo nên chẳng phải chỗ bốn đại nương, cũng chẳng phải chỗ nương của sắc do bốn đại tạo, như ba gậy dựa vào nhau, bốn đại như vậy có thể biết, như ảnh ba gậy dựa, sắc do bốn đại tạo nên như vậy, có thể biết, đây gọi là sai biệt.
Từ đó, người tọa thiền đối với ba mươi sắc này, dùng năm hành có thể biết sự vượt trội, vì khiến khởi như vậy, vì tụ, vì sinh vì các thứ, vì một.
Hỏi: Làm cho khởi là thế nào?
Đáp: Chín sắc do nghiệp nhân duyên khởi, đó là: nhãn nhập, nhĩ nhập, tỷ nhập, thiệt nhập, thân nhập, nữ căn, nam căn, mạng căn, xứ sắc. Hai sắc tâm do nhân duyên khởi, đó là thân làm miệng làm. Một sắc thời tiết do tâm khởi, gọi là thanh nhập. Bốn sắc thời tâm thực do nhân duyên khởi, đó là sắc nhẹ, sắc mềm dịu, sắc có thể thọ trì, sắc ngủ. Mười hai sắc, do bốn nhân duyên khởi, đó là sắc nhập, hương nhập, vị nhập, sắc hư không giới, sắc tụ, sắc tương tục, sắc sinh đoàn thực bốn giới. Hai sắc, không có sở khởi, đó là sắc lão, sắc vô thường. Lại nữa, sinh duyên lão, lão duyên vô thường, vì khiến khởi như vậy, sự vượt trội có thể biết.
Hỏi: Do tụ là thế nào?
Đáp: Chín tụ do nghiệp khởi, chín tụ do tâm khởi. Sáu tụ do thời tiết khởi, ba tụ do thực khởi.
Hỏi: Chín tụ do nghiệp khởi là gì?
Đáp: Mười nhãn, mười nhĩ, mười tỷ, mười thiệt, mười thân, mười nữ căn, mười nam căn, mười xứ, mười mạng căn.
Hỏi: Mười nhãn là sao?
Đáp: Nhãn thanh tịnh bốn giới là xứ của nó, lại nương bốn giới sắc hương vị xúc, mạng căn, nhãn thanh tịnh. Mười pháp này cộng sinh chẳng lìa nhau, đây gọi là tụ, đó là mười nhãn. Khởi này là sinh, chín muồi này là lão, hoại này là vô thường, phân biệt này là hư không giới. Bốn pháp này tụ kia cùng khởi, nhãn này khi nương ở mười lão thì sinh mười nhãn thứ hai. Hai thứ mười tụ kia, đây gọi là tụ kia đuổi theo, đây gọi là tương tục. Sáu pháp này, cộng khởi kia, kia lại mười nhãn thứ hai khi nương ở lão thì sinh mười nhãn thứ ba, mười nhãn thứ hai và thứ ba đó, đây gọi là tụ, chỉ pháp kia đuổi theo, đây gọi là tương tục, mười ban đầu tan hoại, mười thứ hai lão, mười thứ ba khởi, nó thành một Sát-na, đã khởi mười nhãn như vậy, thời gian kia chẳng thể biết, vì Sátna nhanh nhẹ vậy, chẳng hiện thế gian biết. Có người tọa thiền kia thấy nhãn tương tục, như dòng sông, như ánh đèn tiếp nối. Đây gọi là mười nhãn. Như vậy mười nhĩ, mười tỷ, mười thiệt, mười thân, mười nữ căn, mười nam căn, chín mạng căn, dùng rộng có thể biết.
Hỏi: Chín tụ do tâm khởi là sao?
Đáp: Thanh tịnh có tám nghĩa, thân thanh tịnh có chín, miệng thanh tịnh có mười, thanh tịnh nhẹ có chín, thân nhẹ có mười, miệng nhẹ có mười một, nhãn thanh tịnh có chín, nhãn thân có mười, nhãn miệng có mười một.
Hỏi: Tám thanh tịnh do tâm khởi là sao?
Đáp: Bốn giới nương giới, sắc hương vị xúc, tám pháp này cộng sinh chẳng lìa nhau, mười kia gọi là tám thanh tịnh. Nó khởi là sinh, nó chín là già; nó hoại là vô thường, nó phân biệt là hư không giới, bốn pháp này chúng tùy khởi, tám thanh tịnh kia, ở thời hoại cùng tâm thứ hai cộng khởi, tám thanh tịnh thứ hai, thanh tịnh mới đầu hoại; thanh tịnh thứ hai khởi, ở mười Sát-na khởi, đây chẳng phải lần lượt làm tụ, vì cùng ba khởi được tụ, như vậy chín nhẹ thanh tịnh, và chín nhãn thanh tịnh, sáu làm tụ chẳng phải hoại mới đầu, chẳng phải thứ hai khởi, không một Sát-na. Tại sao? Vì không một tâm mà hai làm mới khiến khởi các thứ khác như phần đầu nói?
Hỏi: Sáu tụ do thời tiết khởi là sao?
Đáp: Tám thanh tịnh, chín âm thanh thanh tịnh chín nhẹ thanh tịnh, mười âm thanh nhẹ, chín nhãn thanh tịnh, mười nhãn âm thanh với tụ. Bên ngoài thành hai thanh tịnh: tám và âm thanh chín.
Hỏi: Ba tụ do thực khởi là sao?
Đáp: Tám thanh tịnh, chín thanh tịnh, chín nhẹ thanh tịnh, nhãn thanh tịnh chín, thời tiết do thực khởi tu tương tục nghiệp xứ, tương tợ có thể biết. Ngoài ra, như phần đầu nói. Mạng chín không tụ, ở Dục giới đối nghiệp xứ được thành, tám tụ dùng thọ mạng sống, tỷ thiệt thân nam căn nữ căn ba thứ v.v… nhẹ như vậy và ngủ, đây ở Sắc giới không có, mạng chín tụ, không tưởng Phạm thiên. Ở thân đó tất cả nhập vì đó được sống, vì tụ như vậy.
Hỏi: Vì sinh là thế nào?
Đáp: Như nam nữ vào thai ở sát-na sinh ba mươi sắc khởi, đó là mười xứ, mười thân, hoặc mười nữ căn, hoặc mười nam căn, hai mươi chẳng nam chẳng nữ, sắc khởi gọi là mười xứ, mười thân. Ở dục giới hóa sinh, khắp căn vào nam nữ ở sát-na sinh bảy mươi sắc khởi, đó là mười xứ, mười thân, mười nhãn, mười nhĩ, mười tỷ, mười thiệt, hoặc mười nữ căn mười, hoặc mười nam căn, hoặc ở cõi ác hóa sinh, sinh ra đã mù, người nữ người nam, vào sát-na sinh, sáu mươi sắc khởi, trừ mười nhãn, sinh như vậy, người điếc sáu mươi sắc khởi trừ mười nhĩ, người sinh mù điếc năm mươi sắc khởi, trừ mười nhãn, mười nhĩ. Cõi ác hóa sinh đầy đủ căn nhập, hoặc chẳng phải nam hoặc chẳng phải nữ và kiếp người mới đầu, ở sát-na sinh đó, sáu mươi sắc khởi, trừ nam, nữ căn, đối người mù chẳng phải nam chẳng phải nữ năm mươi sắc khởi trừ mười nhãn căn, trừ phi nam phi nữ căn, hoặc điếc chẳng phải nam chẳng phải nữ, cũng năm mươi sắc khởi, trừ mười nhĩ và chẳng phải nam chẳng phải nữ căn, hoặc mù điếc chẳng phải nam chẳng phải nữ, bốn mươi sắc khởi, mười xứ, mười thân, mười tỷ, mười thiệt, Phạm thiên ở sát-na sinh đó bốn mươi chín sắc khởi, xứ mười, nhãn mười, mười nhĩ, mười thân, chín mạng căn. Chúng sinh trời vô tưởng, ở Sát-na sinh đó chín sắc khởi, chín mạng căn, như vậy vì sinh có thể biết.
Hỏi: Vì các thú là thế nào?
Đáp: Tất cả sắc thành hai thứ, đó là đại và tế từ đó mười hai sắc đại sắc nhập trong ngoài, vì nghĩa có đối, ngoài ra mười tám sắc tế, vì nghĩa không có đối. Lại hai thứ sắc, đó là trong và ngoài. Từ đó năm sắc thành nhãn bên trong v.v... năm nhập vì nghĩa có cảnh giới. Ngoài ra hai mươi lăm sắc bên ngoài vì nghĩa không có cảnh giới. Lại có hai thứ sắc, mạng căn và chẳng mạng căn. Từ đó tám sắc gọi là căn, bên trong năm nữ căn nam căn mạng căn có nghĩa nương tựa. Ngoài ra, hai mươi hai chẳng phải mạng căn, vì nghĩa không có nương tựa. Tất cả sắc thành ba thứ, gọi là thọ sắc, phi thọ sắc, có hoại sắc. Từ đó chín sắc, có thọ tám căn và xứ sắc, vì nghĩa do nghiệp báo thành. Chín sắc không thọ thanh nhập, sắc thân làm miệng làm, sắc nhẹ, sắc mềm, sắc có thể thọ trì, sắc lão, vô thường và ngủ, nghĩa không phải do nghiệp báo thành. Ngoài ra, mười hai sắc có hoại, nó có hai thứ nghĩa. Lại có ba thứ sắc, là có thể thấy, có đối, không thể thấy, có đối, không thể thấy không đối. Từ đó một sắc có thể thấy, có đối, gọi là sắc nhập, vì nghĩa thấy, nghĩa xúc. Mười một sắc không thể thấy, có đối, trừ sắc nhập. Ngoài ra, sắc đại, vì nghĩa chẳng thấy, vì mười nghĩa xúc. Tám sắc không thể thấy không đối, ngoài ra, sắc tế có nghĩa không thể thấy, nghĩa không thể xúc. Tất cả sắc thành bốn thứ đó là tự tánh sắc, hình sắc, tướng sắc, phân biệt sắc. Ở đó mười chín tự tánh sắc. Ngoài ra, mười hai sắc lớn, sắc nữ căn, nam căn, mạng căn, thủy giới, đoàn thực xứ, sắc ngủ nghỉ, vì nghĩa rốt ráo. Bảy hình sắc, đó là sắc thân làm miệng làm, sắc nhẹ, sắc mềm, sắc có thể thọ trì, sắc thọ, sắc tự tánh tương tục, vì sắc của ba tướng biến: sinh sắc, lão, sắc vô thường, vì nghĩa tướng hữu vi. Một sắc phân biệt sắc, đó là hư không giới, vì nghĩa tụ phân biệt. Ở tự tánh sắc đó, nó thành phân biệt. Ngoài ra, không phân biệt. Như vậy là vì các thứ phân biệt.
Hỏi: Tại sao vì một thứ phải phân biệt?
Đáp: Tất cả sắc không phải nhân, không phải không có nhân, nhân không tương ưng, có duyên hữu vi, thuộc về thế gian có phiền não, có trói buộc, có kết sử có lưu, có ách có Cái. Do xúc có cõi, có phiền não, vô ký vô sự, chẳng phải tâm sở, tâm chẳng tương ưng, dục giới trói buộc chẳng định, chẳng phải thừa, chẳng cùng vui cộng khởi, chẳng cùng khổ cộng khởi, chẳng khổ chẳng vui cộng khởi, chẳng khiến tụ, chẳng phải không khiến tụ, chẳng phải học chẳng phải chẳng phải học, chẳng phải do kiến đoạn, chẳng phải do tư duy đoạn. Như vậy, do một thứ ưu thắng có thể biết, đây gọi là sắc ấm.
Hỏi: Thọ ấm là gì?
Đáp: Vì tướng thì một thọ, do tâm kia thọ trì thành một, do xứ thì hai thọ, đó là thân thọ và ý thọ. Do tự tánh thì ba thọ là: Lạc thọ, khổ thọ, chẳng khổ chẳng lạc thọ. Do pháp thì bốn thọ: Thiện thọ, chẳng thiện thọ, báo thọ, sự thọ. Do căn thì năm thọ: Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, ưu căn, xả căn. Do đen trắng thì sáu thọ: Hữu lậu lạc thọ, vô lậu lạc thọ, hữu lậu khổ thọ, vô lậu khổ thọ, hữu lậu chẳng khổ chẳng lạc thọ, vô lậu chẳng khổ chẳng lạc thọ. Do môn thì bảy thọ: Từ nhãn xúc sinh thọ, từ nhĩ xúc sinh thọ, từ tỷ xúc sinh thọ, từ thiệt xúc sinh thọ, từ thân xúc sinh thọ, từ ý xúc sinh thọ, từ ý thức giới xúc sinh thọ, nói rộng thành một trăm lẻ tám thọ. Sáu nương ái khởi thọ, sáu nương xa lìa khởi thọ, sáu nương ái ưu khởi thọ, sáu nương xa lìa ưu khởi thọ, sáu nương ái xả khởi thọ, sáu nương xa lìa xả khởi thọ, sáu thứ sáu đây thành ba mươi sáu, ở ba thời ba lần, ba mươi sáu, đây gọi là thọ ấm.
Hỏi: Tưởng ấm là gì?
Đáp: Vì tưởng một tướng dùng tâm biết sự, vì hai tướng đen trắng, gọi là tướng điên đảo, không điên đảo, vì do ba tưởng bất thiện, đó là tưởng dục, nhuế tưởng sân, tưởng hại. Vì do ba tưởng thiện, đó là tưởng xa lìa, tưởng không sân nhuế, tưởng không hại. Vì không biết bốn tưởng nghĩa tánh xứ môn, đó là tưởng không tịnh là tịnh, tưởng khổ là vui, tưởng vô thường là thường, tưởng vô ngã là ngã. Vì do bốn tưởng biết nghĩa tánh xứ, tưởng chẳng tịnh, tưởng khổ tưởng vô thường, tưởng vô ngã. Vì do năm tưởng Tỳ-ni, tưởng chẳng tịnh là tịnh, tưởng chẳng tịnh là chẳng tịnh, tưởng tịnh chẳng là tịnh, tưởng tịnh là tịnh, tưởng nghi. Vì do sáu tưởng sự, tưởng sắc, tưởng thanh, tưởng hương, tưởng vị, tưởng xúc, tưởng pháp. Vì do bảy môn, tưởng từ nhãn xúc sinh, tưởng từ nhĩ xúc sinh, tưởng từ tỷ xúc sinh, tưởng từ thiệt xúc sinh, tưởng từ thân xúc sinh, tưởng từ ý xúc sinh, tưởng từ ý thức giới xúc sinh, các thứ tưởng như vậy, có thể biết, đây gọi là tưởng ấm.
Hỏi: Hành ấm là gì?
Đáp: Xúc tư giác quán, hỷ tâm, tinh tấn, niệm, định, tuệ, mạng căn, Cái, chẳng tham, chẳng sân, tàm quý, ỷ, dục, giải thoát, xả tác ý, tham sân nhuế, vô minh mạn, kiến, trạo cử nghi, biếng nhác, không tàm, không quý, trừ thọ, tưởng tất cả tâm sở pháp là hành ấm. Từ đó, xúc là, tâm đó xúc sự như ánh sáng mặt trời chạm vách tường; tường là xứ của tưởng. Tư là, tâm động như làm nhà, pháp gieo hạt, là xứ đầy đủ của sự môn. Giác là, miệng hành như dùng tâm tụng kinh là tưởng đó đủ xứ. Quán là, tâm quán sự, như nghĩa tùy tư, là giác đó đủ xứ. Hỷ là tâm đó hoan hỷ như người được vật, sự vui mừng đó đủ xứ. Tâm là, tâm trong như thần chú khiến nước trong. Bốn Tu-đà-hoàn kia phân chia đủ xứ. Tinh tấn là, tâm dõng mãnh, như trâu tơ có thể chở nặng, tám sự kia ở đủ xứ. Niệm là, tâm gìn giữ như giữ chén dầu, bốn niệm xứ kia đủ xứ. Định là, tâm chuyên nhất như đèn trong điện, bốn thiền kia đủ xứ. Tuệ là tâm thấy như người có mắt, Bốn thánh đế kia đủ xứ. Mạng căn là, pháp không sắc là thọ mạng như nước Uất-ba-la. Sinh sắc kia đủ xứ, Cái là, tâm ác dừng lìa như người ưa thích mạng, lìa độc, Bốn thiền hành kia đủ xứ. Chẳng tham là, tâm xả đắm trước như được thoát gánh nặng, xa lìa kia đủ xứ. Chẳng sân là tâm chẳng sân nộ, mềm như da mèo, bốn vô lượng kia đủ xứ. Tàm là, tâm xấu hổ đối với việc làm ác như ghét phân nước tiểu dơ bẩn, tự thân kia nương đủ xứ. Quý là, tâm sợ đối với việc làm ác như sợ quan trưởng, đời kia nương đủ xứ. Ỷ là, tâm dao động diệt, như người nóng, dùng nước mát lạnh tắm rửa, hỷ kia đủ xứ. Dục là, ưa thích làm thiện như đàn việt có lòng tin, bốn như ý kia đủ xứ, Giải thoát là, tâm khuất cong như dòng nước chỗ sâu, giác quán kia đủ xứ, Xả là tâm chẳng khứ lai như người cầm cân, tinh tấn kia v.v... đủ xứ. Tác ý là, tâm khiến khởi pháp tắc, như người cầm bánh lái. Thiện và chẳng thiện kia đủ xứ. Tham là, tâm nhiếp thọ chim ngỗng, sắc đáng mến đáng ưa kia đủ xứ. Sân nhuế là, tâm hăng hái đó như rắn sân độc, mười sân nhuế xứ kia đủ xứ. Vô minh là, tâm không thấy như người mù, bốn điên đảo kia đủ xứ, Mạn là tâm cương lên như cùng đánh nhau, ba thứ kia đủ xứ. Kiến là, tâm thủ chấp như người mù sờ voi, từ người khác nghe tiếng chẳng chánh nhớ biết kia đủ xứ. Điệu là, tâm chẳng vắng lặng, giống như nước trào vọt, nhanh chóng tinh tấn kia đủ xứ. Hối là, tâm thối lui như yêu mến bất tịnh. Người kia vì làm ác nên thiện lùi đủ xứ, Nghi là tâm chẳng một thủ chấp, như người đi xa đất nước, lạc người hai đường, người đó chẳng chánh tác ý đủ xứ. Giải đãi là, tâm biếng nhác như rắn chứa nọc độc, tám xứ biếng lười kia đủ xứ. Không tàm là tâm đối với việc làm ác không xấu hổ, như người Chiên-đà-la, chẳng cung kính đủ xứ. Không quý là, tâm đối với việc làm ác không sợ, như vua ác, sáu việc chẳng cung kính đủ xứ. Đây gọi là hành ấm.
Hỏi: Thức ấm là gì?
Đáp: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý giới, ý thức giới. Nhãn thức là, nương mắt duyên sắc sinh thức, đó gọi là nhãn thức. Nhĩ thức là, nương tai duyên tiếng sinh thức, đó gọi là nhĩ thức, Tỷ thức là, nương mũi duyên hương sinh thức, đó gọi là tỷ thức. Thiệt thức là, nương lưỡi duyên vị sinh thức, đó gọi là thiệt thức. Thân thức là nương thân duyên xúc sinh thức, đó gọi là thân thức. Ý giới là, nương xứ năm sự thì nương hai sự. Năm thức nếu trước sau lần lượt sinh thức, thì đây gọi là ý giới. Ý thức giới là, trừ sáu thức này, còn lại các tâm khác, đây gọi là ý thức giới. Bảy thức này do ba hành, được ưu thắng có thể biết, vì xứ sự, vì sự, vì pháp như vậy.
Hỏi: Vì xứ sự là sao?
Đáp: Năm thức các thứ xứ, các thứ sự, ý giới và ý thức giới, một xứ ý giới, năm sự ý thức giới. Sáu sự, năm thức là, pháp trong xứ trong, sự ngoài ý giới, pháp trong, xứ ngoài, sự ngoài ý thức giới, pháp trong xứ ngoài, sự trong cũng sự ngoài. Sáu thức là, nhập thể sinh xứ, mới đầu sinh sự ý thức giới, ở Sát-na vào tâm cộng sinh xứ, mới đầu vì sinh xứ, ở vô sắc xứ có không tất cả sự, vì xứ sự như vậy, có thể biết.
Hỏi: Tại sao vì sự?
Đáp: Năm thức từng thứ thọ cảnh giới của nó, chẳng phải từng thứ lần lượt sinh, chẳng trước chẳng sau sinh chẳng tán khởi, vì năm thức chẳng biết pháp sở hữu, trừ mới khởi đầu, vì ý giới chẳng biết pháp sở hữu trừ ý chuyển, vì sáu thức chẳng an oai nghi, và nhanh chóng an đó. Vì sáu thức chẳng thọ trì thân nghiệp khẩu nghiệp vì sáu thức không thọ pháp thiện và bất thiện nên nhanh chóng thọ đó. Vì sáu thức không vào định chẳng an tường ra, nên nhanh chóng vào định. Vì phần sau an tường vì sáu thức chẳng rốt cùng chẳng sinh, hoặc vì phần sau, hoặc vì sự kia rốt cùng, vì quả báo ý thức giới sinh. Vì sáu thức không ngủ không tỉnh thức, không thấy mộng, nên phần sau ngủ, nên chuyển ý tỉnh thức, nên nhanh chóng mộng thấy, vì sự như vậy có thể biết.
Hỏi: Vì pháp là thế nào?
Đáp: Năm thức có giác có quán, ý giới có giác quán. Ý thức giới dù có giác có quán, dù không giác ít quán, dù không giác không quán, thì năm thức cùng xả cộng hành. Thân thức dù cùng hành với vui, dù cùng hành với khổ, Ý thức giới dù cùng hỷ cộng hành, dù cùng ưu cộng hành, dù cùng xả cộng hành, thì đó cũng là quả báo của năm thức. Ý giới dù quả báo dù phương tiện cũng là ý thức giới. Dù thiện, dù chẳng thiện, dù quả báo dù phương tiện thì sáu thức cũng không nhân không khởi. Pháp thế gian hữu lậu có kết, có buộc có lưu có ách có cái, do xúc có thủ, có phiền não, không do thấy (đạo) mà đoạn, không do suy tư mà đoạn. Chẳng phải là tụ, chẳng phải chẳng phải là tụ, chẳng phải học, chẳng phải chẳng phải học, ít dục giới trói buộc, chẳng định chẳng phải thừa, ý thức giới tất cả hoại. Như vậy vì pháp thù thắng, có thể biết. Đây gọi là thức ấm. Đây gọi là ngũ ấm.
Lại nữa, năm ấm nầy do bốn hành mà thắng, có thể biết, như vậy, vì cú nghĩa, vì tướng vì phân biệt, vì nhiếp. Hỏi: Vì cú nghĩa là sao?
Đáp: Sắc là, nghĩa hiện. Thọ là, nghĩa đáng thọ, tưởng là, nghĩa biết, hành là, nghĩa làm, thức là, nghĩa hiểu. Ấm là, nghĩa chủng loại nhóm tập, vì cú nghĩa như vậy, có thể biết.
Hỏi: Vì tưởng là sao?
Đáp: Sắc là, tự sắc tướng như thấy đâm chích, bốn đại kia đủ xứ, Thọ là, tướng thọ kia như bịnh hủi ác, xúc kia đủ xứ. Tưởng là, trì tướng làm tướng, như làm tượng mạo, xúc kia đủ xứ. Hành là, hòa hợp làm tướng như chuyển luân, xúc kia đủ xứ. Thức là, thức biết tướng như biết vị, danh sắc kia đủ xứ, vì tướng như vậy, có thể biết. Hỏi: Vì phân biệt là sao?
Đáp: Ba thứ ấm phân biệt, năm ấm, năm thọ ấm, năm pháp ấm. Đối với năm ấm là, tất cả pháp hữu vi. Năm thọ ấm là, tất cả pháp hữu lậu. Năm pháp ấm là giới ấm định ấm tuệ ấm giải thoát ấm giải thoát tri kiến ấm. Đối năm thọ ấm này thì được an lạc, như vậy dùng phân biệt có thể biết.
Hỏi: Vì nhiếp (gồm thâu) là thế nào?
Đáp: Ba thứ nhiếp: nhập nhiếp, giới nhiếp, đế nhiếp. Đối với sắc ấm thì nó thuộc mười một nhập, ba ấm thuộc pháp nhập, Thức ấm thuộc ý nhập. Sắc ấm thuộc mười một giới. Ba ấm thuộc pháp giới, Thức ấm thuộc bảy giới, Giới ấm định ấm tuệ ấm, giải thoát tri kiến ấm, thuộc pháp nhập và pháp giới. Giải thoát ấm, pháp nhập và ý nhập và pháp giới thuộc ý thức giới, Năm ấm hoặc thuộc đế, hoặc chẳng phải thuộc đế. Năm thọ ấm thuộc Khổ đế và Tập đế, Giới ấm định ấm tuệ ấm thuộc Đạo đế, Giải thoát ấm chẳng phải thuộc đế, Giải thoát trí kiến ấm thuộc Khổ đế, có pháp là thuộc ấm, không phải thuộc đế. Có pháp thuộc đế, không phải thuộc ấm. Có pháp vừa thuộc ấm vừa thuộc đế, có pháp không thuộc ấm cũng không thuộc đế. Khi đó, chẳng phải căn đã buộc sắc và cùng đạo tương ưng, Sa-môn quả thuộc ấm nhiếp, không phải thuộc đế. Nê hoàn thuộc đế chẳng phải thuộc ấm. Ba đế là thuộc ấm cũng thuộc đế, Chế là, chẳng phải thuộc ấm, cũng chẳng phải thuộc đế, vì hành như vậy, đối với ấm biết phân biệt phương tiện, đây gọi là ấm phương tiện (ấm phương tiện đã xong).
Hỏi: Nhập phương tiện là sao?
Đáp: Mười hai nhập, nhãn nhập, sắc nhập, nhĩ nhập, thanh nhập, tỷ nhập, hương nhập, thiệt nhập, vị nhập, thân nhập, xúc nhập, ý nhập, pháp nhập. Ở đó nhãn nhập là, giới đó thanh tịnh vì thấy sắc đó. Sắc nhập là giới sắc hình mô là cảnh giới của mắt. Nhĩ nhập là, giới đó thanh tịnh vì nghe tiếng, Thanh nhập là, giới đó phát tiếng là cảnh giới của tai, Tỷ nhập là, giới đó thanh tịnh vì ngửi hương, Hương nhập là, giới hương cảnh giới của mũi. Thiệt nhập là, giới đó thanh tịnh vì biết vị, Vị nhập là, giới khí vị đó là cảnh giới của lưỡi. Thân nhập là, giới đó thanh tịnh vì xúc mịn trơn đó. Xúc nhập là, địa giới thủy giới, hỏa giới phong giới đó cứng chắc, mềm dịu, lạnh ấm là cảnh giới của thân. Ý nhập là, bảy thức giới đó, Pháp nhập là ba vô sắc ấm và mười tám sắc tế và Nê hoàn, đây gọi là mười hai nhập. Lại nữa, mười hai nhập nầy do năm hành mà thắng, có thể biết. Vì cú nghĩa, vì duyên, vì cảnh giới, vì tâm tiếp giáp thắng kia khởi, vì nhiếp.
Hỏi: Vì cú nghĩa là sao?
Đáp: Mắt là, nghĩa thấy, sắc là, nghĩa hiện, tai là, nghĩa nghe, tiếng là, nghĩa phát tiếng, mũi là, nghĩa ngửi, hương là, nghĩa thơm, lưỡi là, nghĩa nếm; vị là, khí vị làm nghĩa; thân là, nghĩa chánh trì; xúc là, nghĩa có thể chạm vào, ý là, nghĩa biết; pháp là, nghĩa không mạng. Nhập là, nghĩa pháp môn không sắc; xứ nghĩa là, nghĩa thọ trì, vì cú nghĩa như vậy có thể biết.
Hỏi: Vì cảnh giới là thế nào?
Đáp: Mắt, tai không đến cảnh giới, mũi lưỡi thân đến cảnh giới, ý chung cùng cảnh giới. Lại có thuyết, tai thì đến cảnh giới. Tại sao? Chỉ có chướng gần chẳng nghe tiếng, như đọc thần chú (lầm rầm). Lại nói, mắt là tự cảnh giới đến cảnh giới. Tại sao? Bên kia vách tường chẳng thấy, vì cảnh giới như vậy, có thể biết.
Hỏi: Vì duyên là sao?
Đáp: Nhãn duyên sắc, ánh sáng tác ý sinh nhãn thức. Khi đó, nhãn là nhãn thức, vì bốn duyên thành duyên. Mới đầu sinh nương căn. Có duyên sắc là vì ba duyên thành duyên. Mới đầu duyên sự có duyên ánh sáng là, vì ba duyên thành duyên. Mới đầu sinh nương có duyên tác ý là, vì hai duyên thành duyên. Lần lượt chẳng phải có duyên, duyên tai, tiếng, khoảng không, tác ý được sinh nhĩ thức. Vì phân biệt nầy phải phân biệt. Duyên mũi hương gió tác ý sinh tỷ thức. Duyên lưỡi vị thủy tác ý, được sinh thiệt thức. Duyên thân xúc tác ý được sinh thân thức. Duyên ý, pháp, giải thoát, tác ý, được sinh ý thức. Ở đó ý là phần tâm sau. Pháp là pháp sự đó. Đây thành bốn thứ, sáu nhập trong quá khứ hiện tại và vị lai là loại thứ nhất. Năm nhập ngoài: Quá khứ vị lai hiện tại lìa, trừ chẳng phải nhập căn là loại thứ hai. Pháp nhập là loại thứ ba. Mười một loại chế danh gọi là chúng sinh, phương, thời, phạm tội, đầu đà tất cả tướng, nhập định vô sở hữu thiền định sự diệt. Thật tư duy không thật tư duy là loại thứ tư. Đây gọi là sự pháp. Chuyên tâm là, tâm tùy như lý. Tác ý là, ở ý môn chuyển ý. Thức là, tâm lẹ làng. Từ đó ý là, ý thức, vì nương duyên thành duyên, Pháp là vì sự duyên thành duyên. Giải thoát là, vì nương duyên thành duyên. Tác ý là, vì hai duyên thành duyên, lần lượt duyên, có duyên, vì duyên như vậy, có thể biết. Hỏi: Vì tâm tiếp với thù thắng khởi là sao?
Đáp: Ở nhãn môn thành ba thứ trừ tiếp với thượng trung hạ, ở đó thượng sự vì thành bảy tâm, vô gián sinh địa ngục A-tỳ. Từ tâm hữu phần tâm chuyển thấy, tâm thọ, tâm phân biệt tâm khiến khởi, tâm nhanh chóng, tâm sự kia khi đó tâm hữu phần là, khi ấy tâm có căn nầy như kéo lụa. Chuyển tâm là, đối với nhãn môn sắc, sự duyên, cho nên lần lượt duyên các giới, nương xứ tâm hữu phần thành khởi, tâm hữu phần thứ lớp, nó do thấy sắc sự thành, chuyển sinh chuyển tâm. Chuyển tâm thứ lớp nương nhãn nên chuyển, hiện được thấy sinh thấy tâm. Thấy tâm thứ lớp đã thấy bằng tâm, hiện thọ sinh, thọ tâm. Thọ tâm thứ lớp vì thọ nghĩa, hiện phân biệt sinh tâm phân biệt; tâm phân biệt thứ lớp vì phân biệt nghĩa, hiện khiến khởi, sinh khiến khởi tâm. Khiến khởi tâm thứ lớp vì khiến khởi nghĩa, do nghiệp tâm hành nhanh chóng. Tâm nhanh chóng thứ lớp vì nghĩa hành nhanh, chẳng vì phương tiện sinh tâm quả báo về việc đó. Từ đó lại độ tâm hữu phần.
Hỏi: Thí dụ là sao?
Đáp: Như vua đóng cửa thành nằm trên điện, gái lưng gù xoa chân vua, phu nhân ngồi, đại thần và hiền tài xếp hàng trước vua. Người điếc giữ cửa đứng dựa cổng thành. Bấy giờ người giữ vườn lấy trái Am-la đập vào cửa, vua nghe tiếng thức tỉnh, vua bảo gái lưng gù: "Ngươi đi mở cửa! "Cô nầy vâng lệnh, nói cho người điếc bằng ra dấu, người điếc hiểu ý, liền mở cửa thành. Thấy quả Yêm-la, vua cầm dao. Cô ấy nhận quả đem vào trao đại thần. Đại thần trao cho phu nhân. Phu nhân rửa sạch, hoặc chín hoặc sống đều để một nơi. Sau đó dâng vua, vua được bèn ăn. Ăn rồi bèn nói công đức kia chẳng phải công đức, trở lại ngủ như cũ. Vua nằm như vậy, như tâm hữu phần, có thể biết; như người giữ vườn lấy quả Yêm-la đập vào cửa, như vậy đối với nhãn môn sắc sự tiếp, có thể biết; như vua nghe tiếng kia tỉnh thức bảo gái lưng gù mở cửa, như thế vì duyên triển chuyển giới, nương xứ tâm hữu phần khởi, có thể biết. Như nữ gù lưng dùng tướng mạo (điệu bộ) bảo người điếc mở cửa, chuyển tâm như vậy, có thể biết. Như người điếc mở cửa thấy quả Yêm-la, nhãn thức như vậy có thể biết. Như cầm dao, nữ nhận quả kia đem đến đại thần, thọ trì tâm như vậy, có thể biết. Như đại thần lấy quả trao cho phu nhân, tâm phân biệt như vậy có thể biết. Như phu nhân rửa sạch, hoặc chín hoặc sống đều để một chỗ, sau đó dâng vua, khiến tâm khởi như vậy có thể biết. Như vua ăn quả kia, tâm nhanh chóng như vậy có thể biết. Như vua ăn rồi nói công đức kia chẳng phải công đức lợi, tâm quả báo của việc kia như vậy có thể biết. Như vua trở lại ngủ, tâm hữu phần độ như vậy có thể biết, từ đó nhãn môn vì tiếp giáp với trung sự, tâm nhanh chóng vô gián độ tâm hữu phần kia. Vì tiếp với giáp với hạ sự, khiến khởi tâm vô gián độ tâm hữu phần, các thứ khác như vậy, có thể biết. Ở ý môn không tiếp giáp với sự, vì tác ý duyên, vì giải thoát hành. Ở ý môn thành thủ sự. Từ đó ở thượng sự ba tâm sinh, tâm hữu phần tâm chuyển tâm nhanh chóng, Sự tâm kia ở trung và hạ sự hai tâm sinh, tâm chuyển và tâm nhanh chóng. Từ đó, trung sự đáng mến và chẳng đáng mến vì các thứ duyên các thứ thọ có thể biết. Vì chánh tác ý chẳng phải chánh tác ý, duyên các thứ thiện và chẳng thiện, có thể biết, như vậy tiếp giáp với thắng tâm kia khởi, có thể biết.
Hỏi: Vì nhiếp là sao?
Đáp: Ba thứ nhiếp: Ấm nhiếp, giới nhiếp, đế nhiếp, mười nhập thuộc sắc ấm, ý nhập thuộc thức ấm, pháp nhập, trừ Nê hoàn còn lại thuộc bốn ấm. Mười một nhập thuộc mười một giới, ý nhập thuộc bảy giới. Năm nội nhập thuộc Khổ đế, năm ngoại nhập hoặc thuộc Khổ đế, hoặc chẳng phải thuộc Khổ đế, ý nhập hoặc thuộc Khổ đế, hoặc chẳng phải thuộc Khổ đế, pháp nhập hoặc thuộc Bốn đế, hoặc chẳng phải thuộc Bốn đế. Sở thuộc như vậy, có thể biết, Vì hành này như vậy, ở nhập trí khiến khởi phương tiện, đây gọi là nhập phương tiện (nhập phương tiện đã xong).
Hỏi: Giới phương tiện là gì?
Đáp: Mười tám giới, nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới, nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới, tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới. Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới. Thân giới, xúc giới, thân thức giới. Ý giới, pháp giới, ý thức giới. Ở đó, nhãn thanh tịnh nhãn giới, sắc hình sắc giới, nhãn thức nhãn thức giới. Như vậy, các thứ khác có thể biết, đối với năm môn chuyển sự, ý giới thọ quả báo, ý giới chỉ pháp nhập, trừ pháp giới sáu thức giới, các tâm ý thức giới khác, ngoài ra như nhập rộng nói, Mười giới thuộc sắc ấm, pháp giới thuộc các nhập khác, bảy giới thuộc ý nhập, mười một giới thuộc Khổ đế, năm giới hoặc thuộc Khổ đế, hoặc chẳng phải thuộc đế, pháp giới thuộc Bốn đế, hoặc chẳng phải thuộc Bốn đế, ý thức giới hoặc thuộc Khổ đế, hoặc chẳng phải thuộc đế.
Hỏi: Tại sao nói hóa cảnh giới?
Đáp: Chỉ pháp ấm nhập giới đây làm cảnh giới, nên nói các chủng loại pháp, tướng hòa hợp làm ấm, nói tướng môn làm nhập, nói tự tánh tướng làm giới. Lại nữa, Đức Thế Tôn vì người lợi căn dùng ấm môn nói Khổ đế, vì người trung căn dùng nhập môn nói Khổ đế, vì người độn căn dùng giới môn nói Khổ đế. Lại nữa, đối với người chấp trước tướng ở danh thì dùng lược nói sắc, vì phân biệt danh nói ấm; vì người chấp trước sắc tướng, vì phân biệt sắc thì dùng lược nói danh nói nhập. Đối với người chấp trước tướng ở danh sắc thì dùng danh sắc phân biệt nói giới. Lại nữa, nói tự tánh xứ, nói ấm, nói xứ sự nói nhập. Dùng xứ sự nói tâm khởi nói giới, dùng hành giới phân biệt phương tiện v.v... như vậy, đây gọi là giới phương tiện (giới phương tiện đã xong).
Hỏi: Nhân duyên phương tiện là gì?
Đáp: Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não, như vậy, đều khổ ấm khởi. Chỉ khi vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì lão tử ưu bi khổ não diệt, như vậy khổ ấm đều diệt, Vô minh là chẳng biết Bốn đế. Hành là thân miệng ý nghiệp. Thức là một niệm tâm vào thai gọi là thức. Danh sắc là cộng tâm tương tục, khởi tâm sở pháp và sắc CA-la-la, Lục nhập là sáu nhập bên trong, Xúc là sáu xúc thân. Thọ là sáu thọ thân, Ái là sáu ái thân, Thủ là bốn thủ. Hữu là nghiệp chủ thể khởi hữu dục, sắc, vô sắc, Sinh là ở hữu ấm khởi, Lão là ấm thành thục, tử là ấm tan hoại.
Hỏi: Tại sao vô minh duyên hành? Tại sao sinh duyên lão tử?
Đáp: Kẻ phàm phu ít học không biết Bốn đế. Năm thọ ấm suốt đêm dài ưa đắm trước ngã, vật, bị nó xúc chạm, đây vật ta, đây thân ta, có ưa thích đắm trước như vậy, hòa hợp làm tư duy về hữu. Tư duy đó sai khiến, chẳng phải chỗ trí ở, vì được hữu, thành ra trú ở hữu, như gieo trồng trong ruộng cày bừa kỹ, không thức kia là hữu diệt, đây gọi là vô minh duyên hành. Hành do vô minh kia khởi, suy tư nhập hữu đắm trước ở tướng hữu sự thành làm tụ, đối với việc chuyển hữu khởi tương tục, thức ở hữu tùy tâm chẳng phải đoạn, cho nên hành duyên thức. Như ngoài mặt trời thì trú địa không có ánh sáng tăng trưởng. Như vậy, ngoài thức không danh sắc, trú không thể tăng trưởng, như cỏ-lau dựa nhau triển chuyển nương nhau, cho nên thức duyên danh sắc, nương xứ các danh khác cùng sinh khởi. Ý nhập tăng trưởng nương danh mạng bốn đại, và khi ăn duyên năm nhập còn lại khởi tăng trưởng, chẳng phải ngoài duyên nầy. Cho nên, danh sắc duyên lục nhập, ngoài ra căn cảnh giới thức hòa hợp khởi xúc, cho nên lục nhập duyên xúc, vì xúc thọ hoặc khổ hoặc lạc, hoặc chẳng khổ chẳng lạc chẳng phải thuộc xúc, cho nên xúc duyên thọ. Phàm phu ngu si thọ lạc thành đắm trước, trở lại tìm thọ khổ, tìm lạc đối trị khổ. Nếu thọ chẳng khổ chẳng lạc là xả thọ. Cho nên thọ duyên ái. Vì khát ái gấp thủ xứ ái, cho nên ái duyên thủ. Hữu thủ kia tác sự làm hạt giống hữu. Cho nên thủ duyên hữu, vì như do nghiệp đã có sinh ở các cõi, cho nên có sinh, vì sinh thành lão tử, cho nên sinh duyên lão tử, như thóc làm duyên cho giống. Như vậy, vô minh duyên hành, có thể biết, như giống làm duyên cho mầm. Như vậy hành duyên thức, có thể biết. Như mầm làm duyên lá, như vậy thức duyên danh sắc có thể biết, Như lá làm duyên cho cành, như vậy danh sắc duyên lục nhập, có thể biết, Như cành làm duyên cho cây, như vậy, lục nhập duyên xúc có thể biết. Như cây làm duyên cho hoa, như vậy xúc duyên thọ có thể biết, Như hoa làm duyên cho nhựa, như vậy thọ duyên ái, có thể biết, Như nhựa làm duyên cho gạo, như vậy ái duyên thủ, có thể biết, Như gạo làm duyên giống, như vậy thủ duyên hữu có thể biết. Như giống làm duyên mầm, hữu duyên sinh như vậy có thể biết, Như vậy khởi các thứ tương tục, khoảng trước như vậy chẳng thể biết, khoảng sau như vậy chẳng thể biết, như vậy sinh vô minh làm nhân duyên ban đầu tương tục, khoảng trước đó chẳng thể biết, khoảng sau đó cũng chẳng thể biết.
Hỏi: Vô minh duyên cái gì?
Đáp: Chỉ vô minh làm duyên cho vô minh, sử làm duyên cho trói buộc, trói buộc làm duyên cho sử. Mới đầu làm mới đầu, sau làm sau. Lại nữa, cả thảy mọi phiền não thành duyên cho vô minh, như Phật nói, từ lậu tập khởi vô minh tập. Lại như một tâm pháp, vì mắt thấy sắc, người si khởi ái, ở thời này tịnh lạc là tâm si, đây gọi là vô minh. Suy tư đắm trước là vô minh duyên hành, tâm đắm trước hành này duyên thức, biết tương ưng tâm sở pháp, và sắc được tạo nên, thức duyên danh sắc. Từ thọ sinh hỷ, vì duyên hỷ, vì hỷ sắc duyên, các căn thanh tịnh, đó gọi là danh sắc duyên lục nhập. Vô minh xúc là lục nhập duyên xúc, hỷ xúc duyên thọ dục, thọ duyên ái vì đắm trước thủ tịnh lạc là ái duyên thủ, vì đắm trước tư là thủ duyên hữu, Pháp đó khởi là hữu duyên sinh, trú rồi là lão, niệm tan hoại là tử. Cho nên ở một sát-na thành mười hai nhân duyên.
Hỏi: Mười hai nhân duyên đó có mấy phần phiền não, mấy phần là nghiệp, bao nhiêu quả báo, bao nhiêu quá khứ, bao nhiêu vị lai, bao nhiêu hiện tại, bao nhiêu nhân duyên, bao nhiêu đã khởi? sao là nhân duyên, sao là pháp nhân duyên, hai thứ này có gì sai biệt? Nhân duyên gì nhiễm tánh?
Đáp: Ba phiền não: Vô minh, ái, thủ, hai nghiệp: Hành; hữu, bảy thứ còn lại là quả báo. Trong đó gọi phiền não là, thành nhân làm hữu đời sau, như màu sắc của họa sư, sự đó chẳng tự sinh, như màu sắc của họa sư, phiền não khiến khởi, hữu duyên được sinh, như các thứ sắc, hai quá khứ là vô minh và hành, hai vị lai là sinh và lão tử, còn lại tám là hiện tại. Như vậy, vì thủ ba thời nên vô thỉ sinh tử tương tục có thể biết. Mười hai phần nhân duyên là chẳng nên nói cũng không nên nói ngoài mười hai nhân duyên. Bấy giờ tại sao nhân duyên? Mười hai pháp này như nhân thứ lớp, lần lượt cho nên, đây gọi là nhân duyên khởi, mười hai nhân duyên phân rồi khởi pháp, Hai thứ nầy vì sao khác nhau? Nhân duyên là, các hành khác nhau, chẳng phải thành tựu thì chẳng thể nói. Hoặc hữu vi hoặc vô vi, chẳng nên nói, vì khởi nhân duyên pháp hành, đã thành tựu hữu vi, hai pháp đây sai biệt. Nhân duyên gì nhiễm tánh là vì hành ấy, vì tướng ấy thành vô minh hành, duyên hành kia, tướng kia, tánh kia, Thánh nhân kia chẳng là tha duyên vì tuệ minh thông đạt. Như vậy, tất cả đây gọi là nhân duyên nhiễm tánh. Lại nữa, nhân duyên này dùng bảy hành có thể biết. Như vậy, dùng ba tiết dùng bốn lược, dùng hai mươi hành, dùng luân, dùng khiên, để phân biệt, để tương nhiếp. Tại sao dùng ba tiết? Các hành và thức, khoảng giữa là tiết thứ nhất, thọ và ái khoảng giữa là tiết thứ hai, hữu và sinh, khoảng giữa là tiết thứ ba. Ở quá khứ vì nghiệp phiền não duyên quả báo hiện tại là tiết thứ nhất. Vì quả báo hiện tại duyên phiền não hiện tại, là tiết thứ hai. Vì phiền não hiện tại duyên quả báo vị lai, là tiết thứ ba. Thứ nhất và thứ ba là tiết nhân quả và tiết hữu, tiết thứ hai là tiết nhân quả chẳng phải tiết hữu. Tiết hữu là nghĩa gì?
Đáp: Rốt cùng vô gián chưa vượt ấm nhập giới, vì nghiệp phiền não mới đầu duyên vậy, ở các cõi lại hữu sinh, đây gọi là tiết hữu sinh.
Hỏi: Thành là sao?
Đáp: Nhập vô minh ái kia, tương ưng vì tạo công đức, phàm phu ác nghiệp, vào ở thời này gọi là chết. Vì chết chịu khổ, nằm ngay chỗ người chết, chẳng thấy đời này, chẳng thấy đời kia, mất niệm chẳng được niệm. Khi ấy thọ sinh khổ, ý niệm trí thành thoái lui, thân dõng mãnh thành thoái lui, các căn dần dần mất. Từ thân hoặc trên hoặc dưới, mạng căn mất, khô táo mất, như lá Đa-la khô. Ở lúc đó như ngủ mộng, vì nghiệp bốn pháp khởi, nghiệp và tướng nghiệp cõi và tướng cõi. Nghiệp là gì? Là những gì đã tạo, hoặc công đức hoặc không phải công đức, hoặc trọng hoặc khinh hoặc nhiều hoặc ít, như gần điều mới tạo, thì nghiệp kia liền khởi. Nghiệp tướng là, chỗ dựa tạo nghiệp, nơi kia liền khởi nghiệp, tướng nghiệp bạn bè khởi, vào lúc ấy hoặc như hiện tác nghiệp. Cõi là, vì công đức duyên cõi thiện khởi, vì chẳng phải công đức duyên cõi ác khởi. Gọi tướng cõi là, lúc vào thai ba sự hòa hợp được sinh. Hóa sinh là, nương nơi mọi chỗ sinh, là được sinh xứ khởi, hoặc cung điện hoặc nơi ngồi, hoặc núi, hoặc cây, hoặc sông, tùy sự đến và cùng nắm giữ tướng khởi, kia ở lúc này sang kia, hoặc dựa hoặc nằm hoặc ngồi, thấy kia hoặc thủ, kia ở lúc này, mới đầu tạo nghiệp và tướng nghiệp, hoặc cõi và tướng của cõi, tác sự vì tâm nhanh chóng hiện khởi diệt, mạng chung thì đi, tâm nhanh chóng. Không gián đoạn, cùng mạng căn diệt là chết, rốt cùng vô gián thứ lớp, vì tâm nhanh chóng khởi, chỉ nghiệp kia hoặc tướng nghiệp kia, hoặc khởi không giữ tướng, quả báo của việc làm tâm xứ độ ở hậu hữu, như đèn đốt cháy, như từ hỏa châu ra lửa. Tiết kia tâm khởi, nên như bạn bè, ở bụng mẹ nương bất tịnh của cha mẹ, do chỗ ba mươi hai sắc nghiệp tạo thành, thành khởi, xứ thân có mười, nó ở Sát-na già không tâm qua tiết. Bốn mươi sáu sắc thành khởi, nghiệp đã tạo, chỗ ba mươi thực tiết được thành, hai sắc và tám không tâm, sắc quá tiết ở Sát-na lão cùng tâm thứ hai. Năm mươi bốn sắc thành khởi, nghiệp đã thành, ba mươi sáu thực thời đã thành, ba sắc và tám khởi như vậy, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên thức, thành tiết hữu như vậy, ở đó thành ba tiết có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng bốn lược
Đáp: Vô minh, hành ở quá khứ nghiệp phiền não lược, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ ở hiện tại quả báo lược, ái thủ hữu ở hiện tại nghiệp phiền não lược, sinh lão tử ở vị lai quả báo lược, dùng bốn lược như vậy có thể biết,
Hỏi: Tại sao dùng hai mươi hành?
Đáp: Dùng thủ vô minh quá khứ ái và thủ, vì phiền não tương thành sở thủ, Vì thủ hành quá khứ hữu, vì tướng nghiệp thành sở thủ, Vì thủ, danh sắc, thức lục nhập xúc, thọ, hiện tại vì tướng của quả báo sanh và lão tử thành sở thủ, Vì thủ ái thủ hiện tại, vì tướng phiền não thành sở thủ, Vì thủ hữu hiện tại hành, vì nghiệp tương thành sở thủ, Vì thủ sinh lão tử, vị lại, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, thành sở thủ, hai mươi bốn pháp này, vì thủ thành tựu đó thành hai mươi. Như A-tỳ-đàm nói: Nghiệp ban đầu có si là vô minh, tụ là hành, đắm trước là ái, tìm kiếm là thủ, tư là hữu, năm pháp này ở đời này có. Nghiệp ban đầu tạo tác là duyên đó, chẳng rõ các nhập, si là vô minh, tụ là hành, đắm trước là ái, tìm kiếm là thủ, tư là hữu, năm pháp này ở nghiệp này có, làm duyên lúc sinh ở vị lai, lúc sinh ở vị lai thức trải qua, là danh sắc thanh tịnh, là sở xúc của nhập, là xúc thủ là thọ, hai pháp này ở đời vị lai có. Ở đây sự tác nghiệp này là duyên cho nó, vì hai mươi hành như vậy có thể biết. Tại sao dùng luân? Vô minh duyên hành, hành duyên thức, cho đến sinh duyên lão tử, như vậy đều khổ ấm khởi, ở đây đều khổ ấm không biết, đây gọi là vô minh. Vô minh duyên hành là, lại dùng như bánh xe quay có thể biết. Tại sao dùng khiên (kéo dẫn)? Hai khiên gọi là bị vô minh lúc đầu và bị lão tử từ đầu, ở đó.
Hỏi: Cái ban đầu vô minh là gì?
Đáp: Là nói thứ lớp:
Cái ban đầu của lão tử là gì? Là độ thứ lớp.
Lại nữa, cái ban đầu vô minh là có ngằn mé vị lai biết đạo. Chỗ ban đầu của lão tử mới đầu là, ngằn mé mới đầu quá khứ biết đạo, dùng khiên như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng phân biệt?
Đáp: Hai thứ nhân duyên, thế gian nhân duyên và xuất thế gian nhân duyên, ở đó bị vô minh từ đầu, là thế gian nhân duyên.
Hỏi: Thế nào là xuất thế gian nhân duyên?
Đáp: Khổ dựa khổ, tín nương tín, hỷ nương hỷ, phấn khởi, nương phấn khởi khinh an, dựa nương khinh an, vui nương vui, định nương định, như thật thấy biết nương như thật thấy biết nhàm chán nương nhàm chán, không dục nương không dục, giải thoát nương giải thoát diệt trí, đây gọi là nhân duyên xuất thế. Lại nói bốn thứ nhân duyên, nghiệp phiền não làm nhân, chủng làm nhân, hữu tác, cộng nghiệp làm nhân.
Hỏi: Nghiệp phiền não làm nhân là gì?
Đáp: Bị vô minh từ đầu. Giống làm nhân là thế nào? Như chủng (giống) mầm tương tục. Tại sao hữu tác? Như hóa sắc. Tại sao cộng nghiệp làm nhân? Như đất tuyết núi biển trời trăng. Lại nói, chẳng phải nhân cộng nghiệp đây, là các pháp sắc tâm, thời tiết làm nhân không có cộng nghiệp, như Thế Tôn nói kệ tụng:
"Nghiệp không cùng tha cộng. Là giấu họ không trộm (được). Công đức mà người làm.
Đó tự được quả lành"
Phân biệt như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng tương nhiếp? (thâu tóm lẫn nhau) Đáp: Bốn thứ tương nhiếp: ấm tương nhiếp, nhập tương nhiếp, giới tương nhiếp, đế tương nhiếp. Ở đó vô minh hành xúc ái thủ hữu thuộc hành ấm. Thức thuộc thức ấm, danh sắc thuộc bốn âm, lục nhập thuộc hai ấm. Thọ thuộc thọ ấm, sinh lão tử thuộc sắc ấm và thuộc hành ấm, Vô minh hành xúc thọ ái thủ hữu sinh lão tử thuộc pháp nhập, Thức thuộc ý nhập. Danh sắc thuộc năm nhập trong. Lục nhập thuộc sáu nhập trong. Vô minh hành xúc thọ ái thủ sinh lão tử thuộc pháp giới, Thức thuộc ý thức giới, danh sắc thuộc năm giới. Lục nhập thuộc mười hai đế, Vô minh ái thủ thuộc mười đế, còn lại chín thuộc khổ ái, nhân duyên xuất thế thuộc đạo phần Đạo đế nhân duyên diệt thuộc Diệt đế, dùng tương nhiếp như vậy, có thể biết, dùng hành nhân duyên phương tiện như vậy có thể biết, đây gọi là nhân duyên phương tiện (nhân duyên phương tiện đã xong).
Hỏi: Thánh đế phương tiện là gì?
Đáp: Đó là Bốn thánh đế, Khổ thánh đế, Khổ tập thánh đế, Khổ diệt thánh đế, khổ diệt đạo thánh đế.
Hỏi: Thế nào là Khổ thánh đế?
Đáp: Sinh khổ, già khổ, chết khổ, ưu khổ, ưu bi khổ, não khổ, khổ khổ, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, dùng lược năm thọ ấm khổ. Sinh khổ là các ấm của chủng loại chúng sinh dấy khởi, tất cả đây là nghĩa khổ tập. Già khổ là, vì các giới sinh đã chín, đây là nghĩa mất lực sắc tuệ niệm các căn. Chết khổ là, thọ mạng diệt làm nghĩa khiếp sợ. Ưu khổ là, đến nơi khổ, tâm hãi sợ, đây là nghĩa thiêu đốt bên trong. Ưu bi khổ là, Khổ đến nói năng, đây là nghĩa thiêu đốt trong ngoài. Khổ khổ là, thân khổ, đây là nghĩa nhân khổ thân. Não khổ là, tâm khổ đây là nghĩa nhân khổ tâm. Oán ghét mà gặp khổ là cùng chúng sinh chẳng đáng mến cùng hòa hợp, đây là nghĩa tạo khổ. Ái biệt ly khổ là, cùng chúng sinh đáng mến phân tan ly biệt, đây là nghĩa làm ưu khổ. Cầu bất đắc khổ là, ưa thích được xa lìa cái không đáng mến, ưa thích cùng cái đáng mến hòa hợp, nhưng chẳng được như sở thích. Đã lược nói năm thọ ấm khổ là, chẳng lìa khổ năm thọ ấm, cho nên vì lược khổ năm thọ ấm.
Hỏi: Năm thọ ấm là gì?
Đáp: Sắc thọ ấm, thống thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm, thức thọ ấm, như ấm phương tiện đã nói rộng. Như vậy có thể biết khi đó hai thứ khổ, xứ khổ, tự tánh khổ, rồi sinh khổ, chết khổ, oán tắng hội khổ, ái biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, vì lược năm thọ ấm khổ, đây gọi là xứ khổ, còn ưu khổ, ưu bi khổ, não khổ, đây gọi là tự tánh khổ, ba thứ khổ là: Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Ở đó thân khổ tâm khổ, đó gọi là khổ khổ, thọ cái vui hữu lậu, cái vui ấy hoại, đó gọi là hoại khổ, năm thọ ấm hành khổ, đây gọi là khổ thánh đế.
Hỏi: Khổ tập thánh đế là gì?
Đáp: Ái khiến sinh trở lại cùng dục cộng khởi, xứ xứ khởi, dục ái, hữu ái, chẳng hữu ái như vậy. Ái này khiến sinh lại là, hữu ái nhiều thành khiến hữu sinh ái. Khổ tập là, chỉ ái chẳng cộng nên nói là khổ tập. Cùng dục cộng khởi là, chỉ ái khiến hoan hỷ gọi là khởi, khiến nhiễm gọi là nhiễm, cộng nhiễm khởi hỷ; khởi là, xứ xứ khiến tánh thân khởi, xứ ấy hoan hỷ, xứ ấy sắc đáng mến là xứ hoan hỷ. Dục ái, hữu ái, chẳng phải hữu ái như vậy, trừ hữu ái và chẳng hữu ái, ái còn lại là dục ái. Hữu ái là, cùng thường kiến cộng khởi; chẳng phải hữu ái là, cùng đoạn kiến cộng khởi, đây gọi là khổ tập thánh đế.
Hỏi: Khổ diệt thánh đế là gì?
Đáp: Chỉ ái diệt không cái gì khác, xả xa lìa giải thoát không xứ, đây gọi là khổ diệt thánh đế.
Hỏi: Chẳng như vậy. Vì đây cũng là tập diệt. Tại sao Đức Thế Tôn nói khổ nhân diệt?
Đáp: Nhân khổ diệt nên thành chẳng sinh diệt. Nên làm nghĩa chứng, cho nên tập diệt Đức Thế Tôn nói là khổ diệt.
Hỏi: Khổ diệt đạo thánh đế là gì?
Đáp: Đây là tám chánh đạo. Như là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Chánh kiến là Trí Bốn đế. Chánh tư duy là ba thiện tư duy. Chánh ngữ là lìa bốn ác hành. Chánh nghiệp là lìa ba ác hành. Chánh mạng là lìa tà mạng. Chánh tinh tấn là bốn chánh cần. Chánh niệm là bốn niệm xứ. Chánh định la bốn thiền. Lại nữa, nếu tu hành thánh đạo, thấy biết Nê hoàn, thì đây gọi là chánh kiến. Chỉ giác (nhận biết) về Nê hoàn là chánh tư duy. Đoạn tà ngữ là chánh ngữ. Đoạn tà nghiệp là chánh nghiệp, Đoạn tà mạng là chánh mạng. Đoạn tà tinh tấn là chánh tinh tấn. Niệm Nê hoàn là chánh niệm. Chuyên tâm Nê hoàn là chánh định. Ở đó tuệ căn, tuệ lực, tuệ như ý túc, trạch pháp, giác phần thành nhập chánh kiến bên trong, tinh tấn căn tinh tấn lực tinh tấn như ý túc, dục như ý túc, tinh tấn giác phần, bốn chánh cần, thành nhập tinh tấn bên trong. Niệm căn, niệm lực, niệm giác phần, bốn niệm xứ, thành nhập chánh niệm bên trong. Định căn, định lực, tâm như ý túc, tín căn tín lực, định giác phần, hỷ giác phần, ỷ giác phần, xả giác phần, thành nhập chánh định bên trong. Như vậy, ba mươi bảy pháp Bồ Đề, thành vào bên trong Tám chánh đạo, đây gọi là khổ diệt đạo thánh đế. Đây gọi là bốn thánh đế.
Hỏi: Tại sao nói Bốn thánh đế mà chẳng ba chẳng năm?
Đáp: Tất cả nghi, đều vì nhân, quả thế gian và xuất thế gian nên thành bốn.
Hỏi: Thế nào là quả thế đế?
Đáp: Khổ Tập là nhân quả của thế đế. Diệt là quả của xuất thế đế. Đạo là nhân của xuất thế đế. Cho nên là bốn mà chẳng ba hay năm. Lại nữa, nên biết nên đoạn, nên chứng nên tu, vì bốn câu nên thành bốn. Bốn thánh đế nầy dùng mười một hành có thể thắng có thể biết. Như vậy dùng cú nghĩa, dùng tướng, dùng thứ tự, dùng lược, dùng thí dụ, dùng phân biệt, dùng một, dùng các thứ, dùng lần lượt rộng, dùng tương nhiếp.
Hỏi: Tại sao dùng cú nghĩa?
Đáp: Thánh đế ấy là, điều thánh nhân nói gọi là thánh đế, thông đạt nó nên thành thánh đế. Đế là, nghĩa như thế, nghĩa chẳng khác, nghĩa tự tướng chẳng khác. Khổ là, nghĩa quả, tập là, nghĩa nhân, diệt là, nghĩa tùy diệt, đạo là, nghĩa thấy đệ nhất, dùng cú nghĩa như vậy, có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng tướng?
Đáp: Khổ là tướng lỗi lầm, tập là tướng nhân, diệt là tướng chẳng sinh, đạo là tướng phương tiện. Lại nữa, khổ là tướng bức não, tướng ưu, tướng hữu vi tướng có biên hạn. Tập là tướng tụ, tướng nhân duyên, tướng hòa hợp, tướng đắm trước. Diệt là tướng xa lìa, tướng tịch tịch, tướng vô vi, tướng Đề hồ. Đạo là tướng thừa, tướng khiến đến, tướng thấy, tướng nương, tướng khác như vậy, có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng thứ lớp?
Đáp: Dùng nghĩa thô và nghĩa chứng, mới đầu nói Khổ đế, khổ nầy vì sinh đây. Thứ hai tập, tập nầy diệt là khổ đây diệt. Thứ ba diệt, phương tiện đây là thật diệt. Thứ tư thuyết đạo, như thầy thuốc sáng suốt, mới đầu thấy gốc bệnh, sau hỏi duyên bệnh, vì diệt bịnh nên như bịnh nói thuốc, Như vậy bịnh như khổ có thể biết, nhân duyên bịnh, như vậy như tập có thể biết, bịnh hết như vậy như thoát diệt có thể biết. Như vậy thuốc như đạo có thể biết, dùng thứ lớp như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng lược?
Đáp: Sinh là khổ, làm cho sinh là tập, khổ dừng là diệt, làm cho dừng là đạo. Phiền não xứ là khổ. Phiền não là tập, đoạn phiền não là diệt, đoạn phương tiện là đạo. Khổ thường khởi đóng cửa thân kiến. Tập thường khởi mở cửa đoạn kiến. Diệt thường khởi mở cửa thường kiến. Đạo thường khởi mở cửa tà kiến, dùng lược như vậy, có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng thí dụ?
Đáp: Như cây độc, như vậy khổ có thể biết, như hạt giống, tập như vậy có thể biết, đốt hạt giống như vậy, diệt như vậy có thể biết. Như lửa, Đạo như vậy có thể biết. Như bờ bên nầy có khổ có sợ hãi, khổ như vậy có thể biết. Như dòng chảy Tập như vậy, có thể biết. Như lửa, như bờ kia không khổ không kinh sợ, Diệt như vậy có thể biết. Như thuyền có thể vượt qua, đạo như vậy có thể biết. Như gánh vác, Khổ như vậy có thể biết. Như giữ lấy mang vác, tập như vậy có thể biết, Như đặt gánh xuống, Diệt như vậy, có thể biết, Như phương tiện đặt gánh xuống, Đạo như vậy có thể biết. Dùng thí dụ như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng phân biệt có thể biết?
Đáp: Bốn thứ đế: Ngữ đế; Mỗi mỗi đế, Đệ nhất nghĩa đế, Thánh đế. Ở đó nói thật ngữ đều là thật, gọi là ngữ đế. Ở mỗi mỗi đế đều đi vào các kiến, đây gọi là Mỗi mỗi đế. Đối với đế ấy Tỳ-kheo vọng ngữ pháp ngu si. Vì ấy chẳng vọng ngữ là pháp ngu si đó là đế. Nê hoàn là đệ nhất nghĩa đế, là pháp thánh nhân tu hành, là thánh đế. Đối với Thánh đế được ưa thích này, dùng phân biệt như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng số có thể biết?
Đáp: Trừ ái còn pháp thiện bất thiện và vô ký ở ba địa là Khổ đế. Ái là Tập đế, đoạn ái là Diệt đế, tám phần đạo là Đạo đế. Lại nữa, trừ ái và các phiền não khác, còn pháp thiện bất thiện và vô ký ở địa thứ ba là Khổ đế; ái và các phiền não khác là Tập đế. Đoạn ái là Diệt đế, đạo là Đạo đế. Lại nữa, trừ ái và các phiền não khác, tất cả bất thiện còn pháp thiện và hữu ký ở ba địa là Khổ đế. Ái cùng phiền não và tất cả bất thiện là Tập đế. Đoạn nó là Diệt đế, đạo là Đạo đế. Lại nữa, trừ ái cùng phiền não và tất cả bất thiện, còn bất thiện, ở ba địa và pháp vô ký ở ba địa là Khổ đế, Ái và các phiền não khác và tất cả bất thiện, đối với thiện ở ba địa thì đây là Tập đế. Đoạn nó là Diệt đế, đạo là Đạo đế. Ở đó tìm kiếm nghĩa có khí vị là ái; nghĩa tích tập các kết sử của hữu và các phiền não khác là Tập. Vì nghĩa có thể đoạn, vì nghĩa khiến khởi hữu, tất cả bất thiện là Tập. Vì nghĩa khiến hữu, nên đối với pháp thiện của ba địa nó là Tập. khi đó, ái và các phiền não khác là Tập. Tất cả bất thiện ở ba địa và thiện, hoặc Khổ đế hoặc Tập đế, vì bức não, sầu lo, tướng hữu vi, hữu hạn nên thành Khổ đế. Tụ hội nhân duyên đắm trước tướng hòa hợp nên thành Tập đế, dùng số như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng một có thể biết?
Đáp: Bốn đế này vì bốn hành thành một, vì nghĩa đế, vì nghĩa như, vì nghĩa pháp, vì nghĩa "không", dùng một như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng các thứ có thể biết?
Đáp: Hai đế: Thế đế và xuất thế đế. Thế đế là hữu lậu, có kết, có phược, có lưu, có ách, có Cái, có thể xúc, có thủ, có phiền não, gọi là Khổ và Tập. Xuất thế đế là vô lậu, không kết, không phược, không lưu, không ách, không cái, chẳng thể xúc, không thủ không phiền não, gọi là Diệt Đạo, Ba đế là hữu vi, Diệt đế là vô vi, ba đế, vô sắc, Khổ đế có sắc không sắc. Tập đế bất thiện, Đạo đế thiện, Diệt đế vô ký, Khổ đế thiện bất thiện và vô ký. Khổ đế nên biết, Tập đế nên đoạn, Diệt đế nên chứng, Đạo đế nên tu, Dùng các thứ như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao vì thứ lớp diễn rộng?
Đáp: Vì một thứ, có thức thân là Khổ. Tập ngã mạn, đoạn nó là diệt. Thân niệm là Đạo. Vì hai thứ: Danh sắc là Khổ, vô minh, hữu ái là Tập, đoạn nó là Diệt. Xa-matha, Tỳ-bà-xá-na là Đạo. Vì ba thứ thành, đó là khổ khổ là Khổ đế, ba căn bất thiện là Tập đế. Đoạn nó là Diệt, Giới, định tuệ là Đạo. Do bốn thứ thành: Bốn xứ tánh thân là Khổ, bốn điên đảo là Tập, đoạn điên đảo là Diệt, bốn niệm xứ là Đạo. Do năm thứ thành. Năm cõi là Khổ, năm Cái là Tập, đoạn Cái là Diệt. Năm căn là Đạo. Do sáu thứ thành. Sáu xúc nhập là Khổ, sáu ái thân là Tập, đoạn ái thân là Diệt, sáu pháp xa lìa là Đạo. Do bảy thứ thành, Bảy thức trú là Khổ, bảy sử là Tập, đoạn bảy sử là Diệt, Bảy Bồ-đề phần là Đạo. Do tám thứ thành, Tám pháp thế gian là Khổ, tám tà biên là Tập, đoạn tám tà biên là Diệt, tám chánh phần là Đạo. Do chín thứ thành. Chín nơi chúng sinh ở là Khổ, chín pháp ái căn là Tập, đoạn kia là Diệt, chín pháp chánh tác ý căn là Đạo. Do mười thứ thành: Mười phương hành là Khổ, mười kết sử là Tập, đoạn kết là Diệt, mười tưởng là Đạo. Dùng thứ lớp diễn rộng như vậy có thể biết.
Hỏi: Tại sao dùng nhiếp (thuộc về, tóm thâu)? Đáp: Có ba thứ nhiếp là ấm nhiếp, nhập nhiếp, giới nhiếp. Khổ đế thuộc năm ấm. Tập đế và Đạo đế thuộc hành ấm. Diệt đế không thuộc ấm. Khổ đế thuộc mười hai nhập, ba đế thuộc pháp nhập, Khổ đế thuộc mười tám giới, ba đế thuộc pháp giới, dùng nhiếp như vậy có thể biết, dùng hành đây đối với Đạo đế biết khởi. Đây gọi là Thánh đế phương tiện (thánh đế phương tiện đã xong).
-----------------
Bấy giờ, người tọa thiền đã tỏ rõ ấm, giới, nhập nhân duyên đế, đã được nghe giới Đầu đà thiền. Vì chưa giải thoát nên phàm phu kinh sợ cõi ác. Đã quán sợ cõi ác, đã quán sơ vô thỉ sinh tử, đã quán một sát-na không thể giữ lấy được, đã quán về thí dụ ba trăm xà mâu đâm vào, đã quán về thí dụ ái như lửa đốt đầu, chưa phân biệt Bốn thánh đế. Vì phân biệt bốn Thánh đế, thì phải làm phương tiện, phải làm dục, phải làm dõng mãnh tinh tấn, chuyên tâm duyên niệm, đầy đủ nên khiến mãn.
Hỏi: Tại sao phải làm?
Đáp: Người tọa thiền kia, mới đầu phải nghe Bốn thánh đế, hoặc dùng lược hoặc dùng rộng hoặc dùng lược rộng, dùng nghe dùng nghĩa dùng tụng nên thọ trì. Bấy giờ người tọa thiền vào tịch tịch ngồi, tâm chẳng loạn, tâm chẳng đến đi, nên khiến khởi Bốn thánh đế. Bắt đầu nên làm cho khởi Khổ đế, hoặc dùng ấm, hoặc dùng nhập, hoặc dùng pháp giới ấm, dùng tự tướng, dùng ấm tương ưng khiến khởi, như ở ấm phương tiện rộng nói, phải biết như vậy. Nhập là dùng nhập tương ưng khiến khởi, như nhập phương tiện rộng nói phải biết như vậy. Giới là dùng giới tương ưng khiến khởi, như giới phương tiện rộng nói, phải biết như vậy. Người tọa thiền kia, đã biết ấm nhập giới như vậy, chỉ có ấm nhập giới, không chúng sinh không mạng, đã khiến khởi đã được hành tưởng. Bấy giờ đã lược làm hai thứ khiến khởi, gọi là danh sắc, từ đó, sắc ấm, mười nhập sắc mười, giới còn bốn ấm, ý nhập, bảy giới, đó gọi là pháp nhập pháp giới, hoặc danh hoặc sắc, các danh khác các sắc khác, các danh khác các sắc khác là vì sắc không. Sắc là, vì danh không, danh là vì sắc không lìa. Sắc là, vì danh chẳng lìa, như tiếng trống chỉ nương danh sắc sinh, nương vào sắc gọi sinh, như mù què đi xa.
Hỏi: Danh sắc có gì sai biệt?
Đáp: Danh là không thân, sắc là có thân, danh có sở tri (sự nhận biết), sắc không có sở tri. Danh thì nhẹ chuyển, sắc thì chậm chuyển, danh không tụ, sắc có tụ, danh là giác tri suy nghĩ biết. Sắc thì không như vậy. Sắc là đi, dựa ngồi nằm co duỗi. Danh thì không có như vậy, Danh thì biết ta đi ta dựa ta ngồi ta nằm ta co ta duỗi, Sắc thì không có như vậy. Sắc là ăn uống nếm, Danh thì không có như vậy, Danh thì biết ta uống, ta ăn, ta nếm, Sắc thì không có như vậy Sắc thì nói năng đùa cười vỗ đánh v.v... danh thì không có như vậy, Danh thì biết ta nói năng, ta đùa, ta cười, ta khóc ta vỗ đánh v.v... sắc thì không có như vậy, đó gọi là danh sắc sai biệt. Người tọa thiền kia danh sắc như vậy, chỉ dùng danh sắc không chúng sinh không mạng. Đã khiến khởi, đã được hành tưởng. Bấy giờ, tóm lược tất cả, Khổ đế là, khiến khởi như thật tri kiến thanh tịnh. Khiến danh sắc khởi, đây là tổng nói Khổ đế khiến cho dấy khởi có thể biết. Người tọa thiền kia đã khiến khởi Khổ đế như vậy, làm tưởng chúng sinh, từ đây nên quán nhân duyên khổ.
Hỏi: Khổ đây nhân duyên gì tập gì?
Đáp: Người tọa thiền kia biết như vậy: Khổ này sinh làm nhân duyên, Sinh là nhân duyên hữu vi. Hữu là do thủ làm nhân duyên. Thủ là ái làm nhân duyên. Ái là thọ làm nhân duyên. Thọ là xúc làm nhân duyên. Xúc là do lục nhập làm nhân duyên. Lục nhập là do danh sắc làm nhân duyên. Danh sắc là do thức làm nhân duyên, Thức là do hành làm nhân duyên, Hành là vô minh làm nhân duyên. Như vậy, vô minh duyên hành, hành duyên thức; sinh duyên lão tử, thành ưu bi khổ não, như vậy đều khổ ấm thành khởi. Người tọa thiền kia, do nhân duyên trói buộc dùng rộng quán như vậy. Bấy giờ dùng làm lược, Thọ nầy duyên ái khiến khổ tập khởi, Hoặc pháp trụ trí, hoặc thủ nhân duyên trí, hoặc lìa nghi thanh tịnh, mọi nói năng nầy, Tập đế khiến khởi trí. Người tọa thiền kia vì khiến khởi khổ tập, vào ba thời đã vượt nghi. Bấy giờ quán khổ diệt, ai diệt làm khổ diệt, ai diệt làm khổ này diệt? Người tọa thiền kia biết như vậy: Do sinh diệt, khổ này diệt. Do sinh diệt hữu diệt, Do hữu diệt, thủ diệt, do thủ diệt, ái diệt. Do vô minh diệt, hành diệt, Như vậy do vô minh diệt hành diệt, do hành diệt, thức diệt, do sinh diệt, lão tử ưu bi khổ não diệt. Như vậy tất cả khổ ấm đây thành diệt. Người tọa thiền kia mọi nhân duyên trói buộc như vậy diệt, đã rộng, đã quán. Bấy giờ tóm lược. Thọ nầy duyên ái. Do ái diệt khổ diệt, khiến khởi Diệt đế. Người tọa thiền kia đã khiến khởi Diệt đế như vậy. Bấy giờ quán đạo khổ diệt. Đạo gì đủ sức làm ái diệt? Người tọa thiền kia biết như vậy: Quán lỗi lầm của năm thọ ấm, Đạo này đầy đủ làm khổ diệt khiến khởi Đạo đế, như phương tiện rộng nói về đế, như vậy có thể biết. Người tọa thiền kia lần lượt quán như vậy đã khiến khởi Bốn đế. Bấy giờ, đối với năm thọ ấm một trăm tám mươi pháp, lần lượt dùng tụ phân biệt quán, có sắc quá khứ vị lại hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc thô hoặc diệu hoặc xa hoặc gần, tất cả sắc, dùng vô thường rộng quán, dùng rộng quán khổ, dùng rộng quán vô ngã. Như vậy mọi thọ, tưởng, hành, thức hiện có, đối với từng ấm có mười hai pháp môn. Ở năm ấm, năm nhân mười hai thành sáu mươi, sáu mươi vô thường kiến, sáu mươi khổ kiến, sáu mươi vô ngã kiến, thành một trăm tám mươi. Lại nữa, một trăm tám mươi pháp môn, sáu nội nhập sáu ngoại nhập, sáu thức thân, sáu xúc thân, sáu thọ thân, sáu tưởng thân, sáu tư thân, sáu ái thân, sáu giác, sáu quán, mười nhân sáu này thành sáu mươi, sáu mươi vô thường kiến sáu mươi khổ kiến, sáu mươi vô ngã kiến, ba lần sáu mươi thành một trăm tám mươi. Kia hoặc thời gian năm tháng lâu xa, hoặc tháng nửa tháng, ngày đêm giờ niệm sát-na, dùng pháp hành xoay chuyển thành mới vậy, như đèn đốt cháy thay đổi nối nhau, vì vô thường phân biệt quán ở hành, vì cõi ác thọ khổ đói khát khiếp sợ, tìm cầu ưu bi khổ não của ái biệt ly già bệnh, tử, Hành này tương ưng nối tiếp, dùng khổ quán phân biệt hành. Từ nhân duyên ấm nhập giới, nhân duyên đế, nghiệp quả báo khiến sinh sở sinh không chúng sinh, chẳng động, vô sự tự tánh hành thành khởi, dùng quán phân biệt về vô ngã, đối với hành sắc vô thường, vì nghĩa diệt, vì nghĩa khổ sợ, nghĩa vô ngã chẳng thật, dùng lược, rộng phân biệt, Như vậy, nghĩa thọ tưởng hành thức vô thường diệt. Khổ là nghĩa sợ, vô ngã là nghĩa chẳng thật, dùng lược rộng phân biệt như vậy. Khi đó dùng vô thường đã phân biệt trừ tưởng thường, dùng khổ phân biệt trừ tưởng lạc, dùng vô ngã phân biệt trừ tưởng ngã.
Hỏi: Tại sao dùng vô thường để phân biệt rộng?
Đáp: Như thật thấy hết thảy hành, không có gì làm giới hạn, diệt làm giới hạn. Đối với vô tướng hoặc khiến khởi tâm, đối với vô tướng giới làm an tâm, cho nên dùng vô thường phân biệt rộng.
Hỏi: Tại sao dùng khổ phân biệt?
Đáp: Đối với tất cả các hành khiến tâm khiếp sợ, từ tác, nguyện khiến khởi tâm, đối với vô tác, nguyện làm an tâm, cho nên dùng khổ phân biệt rộng.
Hỏi: Tại sao dùng vô ngã phân biệt rộng?
Đáp: Đối với tất cả pháp kiến, từ kia từ đây chấp khiến khởi tâm, ở "không" giới làm an tâm, cho nên dùng vô ngã rộng phân biệt. Như vậy, phân biệt ba hữu, năm cõi, bảy thức trú, chín nơi chúng sinh ở, dùng diệt khiếp sợ, dùng không thật để quán đó (trí đã xong).
Người tọa thiền kia đối với năm thọ ấm đã phân biệt ở ba tướng, khiến ưa thích vào dục (mong muốn) đoạn các hành. Bấy giờ hiện tại năm thọ ấm trong, giữ tướng nó khiến thông đạt khởi diệt. Như vậy pháp nầy dùng vô sinh hiện sinh. Vì thông đạt sinh diệt như vậy, đối với việc giữ tướng là, thủ ba thứ tướng, đó là giữ tướng phiền não, giữ tướng định, giữ tướng Tỳ-bà-xá-na. Phàm phu ngu si đối với cảnh giới thấy, nghe, nhận biết, cho là lạc thường, tưởng chỗ điên đảo. Mới đầu, tâm vì ham giữ tướng, ở đây đắm trước phiền não, như con thiêu thân gieo vào đèn, đây gọi là giữ tướng phiền não.
Hỏi: Tại sao giữ tướng định?
Đáp: Ở đây người tọa thiền, ưa thích được định dùng đối tượng là niệm chánh trí, sơ tâm ba mươi sáu hành, ở từng hành giữ tướng khiến buộc tâm làm cho tâm chẳng loạn, như cột voi, đây gọi là giữ tướng định.
Hỏi: Tại sao giữ tướng Tỳ-bà-xá-na?
Đáp: Người thường quán dùng tuệ của sơ tâm, phân biệt từng thứ tự tướng của sắc thọ tưởng hành thức, ham tu xả tướng ấy như bắt rắn độc, đây gọi là giữ tướng Tỳbà-xá-na, ở đây giữ tướng Tỳ-bà-xá-na được an lạc.
Hỏi: Tại sao nắm tướng thọ tưởng hành thức?
Đáp: Tướng sắc thức kia, hoặc dùng địa giới hoặc dùng thủy giới, hoặc dùng hỏa giới, hoặc dùng phong giới, hoặc nhãn nhập, hoặc thân nhập. Như vậy quán tướng thọ thọ kia, hoặc vui hoặc là khổ, hoặc là chẳng khổ chẳng vui, Như vậy quán tướng tưởng kia, hoặc là sắc tưởng, hoặc là pháp tưởng. Như vậy quán biết hành và tưởng tưởng kia, hoặc là xúc hoặc là tư, hoặc là giác hoặc là quán, hoặc là tác ý. Như vậy quán thức và tướng của thức kia, hoặc nhãn thức, hoặc ý thức. Như vậy quán các loại tọa thiền kia, như vậy khéo nắm bắt tướng kia, vì khéo làm cho khởi, khiến khởi giữ tướng sắc thọ tưởng hành thức như vậy. Lại nữa, dùng hai hành giữ tướng tâm, dùng sự dùng tác ý.
Hỏi: Tại sao dùng sự giữ tướng tâm?
Đáp: Dùng sự này tâm ta khởi, phải quán nó dùng sự sắc thọ này, dùng tưởng sự nầy, dùng hành sự nầy, dùng thức sự nầy, tâm ta khởi, như vậy phải quán. Người ấy dùng sự giữ tướng tâm như vậy.
Hỏi: Tại sao dùng tác ý giữ tướng tâm?
Đáp: Như vậy ta tác ý sắc, tâm đây khởi, phải quán như vậy, Như vậy ta tác ý thọ tưởng hành, tâm ta khởi, như vậy phải quán. Như vậy, đã tác ý thủ tướng tâm.
Hỏi: Vì sao tướng kia thành khéo giữ lấy?
Đáp: Dùng hành đó dùng tướng đó, tướng sắc thọ tưởng hành thức để thành quán. Lại nếu có thể trở lại quán tướng kia, dùng hành này, dùng tướng nầy, đó gọi là tướng kia thành khéo giữ. Thông đạt sinh diệt là, có khởi có diệt, có khởi diệt thông đạt, khi đó sắc đã sinh hiện tại, tướng sinh kia khởi biến tướng diệt. Hai câu kia dùng tuệ nhãn thấy, thông đạt khởi diệt, thọ đã sinh hiện tại, thọ tưởng hành thức, sinh tướng kia khởi biến tướng diệt. Hai câu kia dùng tuệ nhãn thấy thông đạt khởi diệt. Lại nữa, dùng ba hành thông đạt khởi tướng, dùng ba hành thông đạt diệt tướng, như vậy dùng nhân dùng duyên dùng vị của tự nó.
Hỏi: Tại sao dùng nhân thông đạt khởi tướng?
Đáp: Nghiệp ái vô minh là nhân làm ấm khởi. Dùng tuệ nhãn thấy, dùng nhân thông đạt khởi tướng. Tại sao dùng duyên thông đạt khởi tướng? Duyên thực làm sắc ấm khởi, duyên xúc làm ba ấm khởi, duyên danh sắc làm thức ấm khởi, dùng tuệ nhãn thấy dùng duyên thông đạt khởi tướng.
Hỏi: Tại sao dùng vị của tự nó thông đạt khởi tướng? Đáp: Như ánh đèn tương tục không gián đoạn trước sau luôn mới khởi hành, dùng tướng, dùng tuệ nhãn thấy, dùng tự vị thông đạt khởi tướng. Khi đó, dùng nhân dùng khởi thấy, dùng tướng Tập đế thành thấy, dùng niệm khởi giác, dùng duyên, dùng tự vị, dùng khởi thấy Khổ đế, dùng tướng thành sự thấy, dùng sát-na chẳng thể được giác. Như vậy dùng ba hành thông đạt khởi tướng. Hỏi: Tại sao dùng ba hành thông đạt diệt tướng?
Đáp: Dùng nhân diệt dùng duyên diệt; dùng tự vị diệt, khi đó, dùng ái diệt, dùng vô minh diệt, dùng nghiệp diệt, ấm thành diệt, dùng tuệ nhãn thấy, dùng nhân diệt, thông đạt diệt tướng, dùng thức diệt sắc ấm thành diệt; dùng xúc diệt ba ấm thành diệt, dùng danh sắc diệt, thức ấm thành diệt, dùng tuệ nhãn thấy, dùng duyên diệt thông đạt diệt tướng, như ánh đèn tương tục không gián đoạn, mới đầu có diệt hành dùng tuệ nhãn thấy, dùng tự vị thông đạt diệt tướng, từ đó dùng nhân diệt thấy Diệt đế, dùng tướng thành sự thấy, dùng tướng vô sinh giác, dùng duyên diệt, dùng tự vị, dùng thấy diệt, dùng tướng Khổ đế thành sơ kiến, dùng sát-na chẳng thể được giác.
Hỏi: Nếu dùng khởi diệt thấy Khổ đế, dùng tướng được thấy, tại sao thượng trí phải khởi?
Đáp: Vì sao dùng khởi thấy diệt, dùng tướng Khổ đế được thấy chưa thấy, khổ kia thành mãn cho đến lỗi các hành hết, như thật đã thấy. Từ hành tướng đã khiến khởi tâm, đối với tâm chẳng phải hành thành vượt, như thật đã thấy lỗi lầm các hành. Từ hành tướng đã khiến khởi tâm, đối với tâm chẳng phải hành thành vượt, xứ ấy thấy khổ đầy khắp, nghĩa là đi đến biên tế vậy, giống như chim bay bị lửa vây quanh chưa thoát khỏi nên khiếp sợ, Nếu bay đến hư không, thấy tai họa lửa vây quanh, thành bay trên hư không, khi ấy thấy lửa khiếp sợ vây quanh kia đầy khắp như vậy, ở đây có thể biết. Khi đó dùng nhân, dùng duyên, dùng khởi, thấy thành thông đạt nhân duyên khởi tướng, đây có đây khởi, vì khởi này nên đây thành khởi, vì nhân diệt và duyên diệt, vì thấy diệt tướng nhân duyên sinh nên thành thông đạt: đây không có đây chẳng thành, đây diệt nên đây diệt, dùng tự vị dùng khởi diệt. Thấy đã khởi thành thông đạt, biết pháp nhân duyên pháp hữu vi khởi, khởi kia được biết, diệt kia cũng biết, trú kia cũng biết, như vậy dùng khởi, diệt thấy bốn pháp thành đối tượng biết. Như vậy, pháp một tướng, các thứ pháp, vô sự pháp, chánh pháp, ở đó, một tương tục các hành theo bám để khởi, thấy kia chẳng thành, chấp các thứ. Trước sau chuyển các hành, dùng diệt thấy kia chẳng thành chấp một. Tự tánh lìa không động các hành, vì trước sau thấy, chẳng thành ngã chấp, do nhân duyên đã chuyển các hành trước sau. Như vậy, dùng pháp thấy không thành chấp vô sự. Phàm phu ít học, do không phân biệt một nên nói thường đoạn, vì không nhận biết các thứ thành nói thường, vì không nhận biết vô sự thành nói ngã. Như vậy, vì không nhận biết pháp, thành nói vô sự. Bởi thế dùng ngữ ngôn bình đẳng, dùng ngữ ngôn một tướng thù thắng, dùng các thứ tướng thâu tóm thành một tướng, dùng phân biệt nghĩa thành các thứ, dùng nghĩa phiền não thành một tánh, dùng nghĩa phương tiện thành các thứ tánh, dùng ái quả thành một tánh, dùng nghiệp quả thành các thứ tánh. Người tọa thiền kia thấy một tánh như vậy, chẳng phải ở đây chấp các thứ thấy. Nếu thấy các thứ tánh, thì không phải ở đây chấp thường kiến một tánh. Nếu hiện thấy một tánh, thì các việc làm khác, các giác khác trừ kiến nầy. Nếu hiện thấy các thứ tánh, thì các việc làm khác giác kia trừ kiến nầy. Nếu hiện thấy một tánh, thì trừ đoạn kiến nầy, Nếu hiện thấy các thứ tánh, thì trừ thường kiến nầy, Người tọa thiền đó dùng khởi diệt như vậy, nếu thấy một tánh, các thứ tánh, thì pháp minh làm sao khởi? Hiện khởi các hành thấy nó vô sự, thì tại sao tất cả các hành vô sự chẳng động? Không chỗ khác khởi trú, trú tự tánh nhân duyên hòa hợp tập làm nhân duyên. Như vậy vì pháp dừng sinh, khiến cho sinh, Từ đó dùng nghĩa không mạng và nghĩa bất động, pháp vô sự có thể biết. Dùng nghĩa tự tánh và nghĩa duyên, như vậy pháp dừng có thể biết, khiến hiện rỗng không vô sự, khiến hiện tạo tác của nghiệp. Như vậy pháp dừng khiến hiện vô sự gọi là pháp, Như vậy khiến pháp hiện dừng gọi là hành. Từ đó, dùng pháp một tánh nhận biết tướng khổ thành thông đạt, dùng các thứ tánh nhận biết tướng vô thường thành thông đạt, vì nhận biết pháp vô sự. Như vậy dùng pháp dừng nhận biết tướng vô ngã thành thông đạt.
Hỏi: Người tọa thiền kia đối với tất cả các hành dùng vô dư xứ quán khởi diệt làm một xứ phải quán ư?
Đáp: Xứ các hành ban đầu đã giữ tướng nó, khi thông đạt khởi diệt thì xứ ấy không còn sót lại. Tất cả các hành khiến đều đủ cả, như người dùng lưỡi nếm nước ở một chỗ biển cả, thì liền biết tất cả nước đều mặn. Như vậy, ở đây có thể biết, dùng hai hành, các hành làm đầy đủ cả, dùng sự dùng chẳng ngu si. Do đó, các hành giữ tướng khi thông đạt sinh diệt, các hành kia vì sự đó thành đầy đủ cả. Ở đó, đoạn vô trí vậy. Ngoài ra, các hành dùng chẳng ngu si thành đầy đủ, ở đó khởi trí diệt, là các hành phân biệt trí. Tất cả các hành vì khởi giới hạn ban đầu thành phân biệt, dùng diệt giới hạn sau thành phân biệt, dùng khởi giới hạn ban đầu thành tịch tịch, dùng diệt hữu biên thành tịch tịch, dùng khởi từ khởi không bắt đầu, dùng diệt từ diệt không sau. Cho nên khởi trí diệt thành tựu trí phân biệt các hành (Khởi trí diệt đã xong).
Người tọa thiền kia, chánh kiến tướng sinh diệt như vậy, khéo phân biệt các hành, ưa thích được diệt, ưa thích định, bấy giờ chẳng tác ý quán sinh, chỉ thấy tâm diệt, Dùng sắc sự, dùng tâm sinh diệt nương sự kia thấy tâm diệt. Như vậy dùng thọ trì, dùng tưởng sự dùng hành sự, dùng thức sự dùng tâm sinh diệt, nương sự kia thấy tâm sinh diệt. Lại nữa, dùng ba hành thấy diệt như vậy dùng tụ, dùng song dùng phân biệt.
Hỏi: Tụ là gì?
Đáp: Đối với oai nghi, và oai nghi đã khởi, tâm tâm sở pháp, ở chỗ nào cho là tụ thì thấy chúng diệt. Lại nữa, đã quán sắc vô thường thọ vô thường tưởng vô thường, hành vô thường, thức vô thường, thì bấy giờ dùng sự vô thường đã khởi tâm tâm sở pháp, dùng tụ thấy kia diệt, như vậy dùng sự khổ sự vô ngã, dùng tụ như vậy phải quán.
Hỏi: Tại sao dùng song?
Đáp: Sắc này vô thường đã quán vô thường, tùy tâm vô thường khởi thấy tâm sinh diệt. Như vậy đã quán thọ tưởng hành thức vô thường, tùy sự vô thường khởi tâm thấy sinh diệt. Như vậy sự đã khổ sự đã vô ngã, dùng song đối như vậy mà quán.
Hỏi: Tại sao dùng phân biệt?
Đáp: Đã quán sắc này vô thường, tùy sự vô thường khởi tâm sinh diệt. Như vậy dùng phân biệt quán thấy nhiều tâm diệt. Như vậy quán thọ tưởng hành thức vô thường, tùy sự vô thường khởi tâm thấy tâm sinh diệt. Bởi thế thấy tâm diệt lại thấy diệt. Như vậy dùng phân biệt thấy nhiều tâm diệt, quán khổ quán vô ngã như vậy, đã phân biệt như vậy. Chỉ hiện quán kia diệt, thì sự khổ diệt kia thành chuyên, thường tìm kiếm các hành sát-na thành được lợi. Người tọa thiền kia dùng tuệ này chẳng phải duyên khác, thấy tất cả thế gian, dùng tự tánh như đứng trên đầu hạt cải, ở một tâm sát-na sinh, lão tử, biến. Bấy giờ người tọa thiền lại thấy như vậy, như có kệ tụng nói:
Đôi này tánh danh sắc. Triển chuyển ở một diệt.
Cú (câu) diệt duyên kia diệt. Và do nhân kia sinh.
Pháp ấm, vô thường diệt. Pháp sanh khổ, pháp diệt. Như dùi đánh tiếng trống. Cũng chẳng từ mắt sinh.
Năm pháp sắc, hương ấy v.v… Cũng chẳng từ sắc sinh.
Cũng chẳng lìa hai cú. Nương duyên sinh hữu vi. Như dùi đánh tiếng trống. Cũng chẳng từ tai sinh.
Năm pháp sắc, hương ấy v.v… Cũng chẳng từ tiếng sinh.
Cũng chẳng lìa hai cú. Cũng chẳng từ mũi sinh.
Năm pháp sắc, hương ấy v.v... Cũng chẳng từ hương sinh.
Cũng chẳng lìa hai cú. Cũng chẳng từ lưỡi sinh.
Năm pháp sắc, hương ấy v.v... Cũng chẳng từ vị sinh.
Cũng chẳng lìa hai cú. Cũng chẳng từ thân sinh.
Năm pháp sắc, hương ấy v.v... Cũng chẳng từ xúc sinh.
Cũng chẳng lìa hai cú. Cũng chẳng từ sắc sinh. Chẳng từ pháp vào ra.
Nương nhân duyên nương sinh. Như đùi đánh tiếng trống.
Từ căn rất yếu ra.
Nhân đầu cũng rất yếu.
Nhân kia cũng rất yếu. Chỗ khởi kia cũng yếu. Cộng địa đây rất yếu. Tương ưng cũng rất yếu. Hòa hợp cũng rất yếu. Triển chuyển đây rất yếu.
Triển chuyển pháp chẳng trú. Cũng không tánh triển chuyển. Không, có thường khiến khởi. Khiến khởi kia cũng không.
Như thành Càn-thát-bà. Cái gì đầu khiến khởi. Chẳng dùng tự thân sinh. Chẳng dùng tự lực trú.
Do tùy pháp khác sinh. Sinh các pháp hữu lậu.
Thể lực yếu kém chẳng tự sinh. Cũng chẳng tự nhân chẳng tự sự. Chẳng xứ hữu vi chẳng tự tánh. Chẳng tự tánh, hành tướng các hữu. Là sinh tự thân yếu không thời.
Không từ đâu đến không đi đâu Ở chỗ không sinh vì nước khác.
Tâm không ngã sở tánh thân mạng. Nhứt tâm khổ lạc tương ưng chóng. Sát-na núi biển tám muôn kiếp.
Một trú chẳng lại vô song tâm. Tương ưng quá khứ và đang diệt. Hiện trú tất cả các ấm kia.
Những cái đã qua không ngừng mất. Vị lai sẽ mất ở khoảng kia.
Đã mất không khác tướng chẳng khởi. Vì chẳng sinh nên hiện tại sinh.
Từ nơi tâm mất, thế gian không. Trong đệ nhất nghĩa không khứ lai. Vị lai không tụ chỉ chuyển sinh.
Trú như hạt cải sinh các pháp. Pháp kia diệt rồi là ban đầu.
Thế gian dùng pháp đầu chẳng tạp. Chẳng thấy đến đi chẳng thấy sinh. Các pháp chẳng sinh như hư không. Giống như điện chớp khoảnh khắc diệt.
Người tọa thiền kia, thấy như vậy nhập định diệt vô tận như dùi lửa khói bốc, Phẩm Bồ Đề khởi từng sát-na, trí quang minh khởi, hỷ, ỷ, lạc, thủ, giải thoát, niệm xứ khởi, xả bỏ xa lìa sự chẳng rõ ràng. Người tọa thiền đối với pháp kia hoặc khởi loạn, hoặc khởi tăng thượng mạn. Hỏi: Làm sao trừ loạn?
Đáp: Người tọa thiền kia đối với pháp khởi hỷ, hỷ kia lại khiến trở lại an, Như vậy pháp kia lại làm cho an, thành thuộc về sự điều hòa của tâm pháp ấy. Nếu pháp thuộc về điều hòa tâm, thì từ diệt quán định, tâm đó lìa thường, lìa thường thông đạt, lìa bỏ như vậy.
Hỏi: Tại sao khởi tăng thượng mạn?
Đáp: Người tọa thiền kia đối với pháp mới đầu khởi tướng sáng, được pháp xuất thế gian, đối với tướng chưa được thành được, thường không còn tinh tấn nữa. Như vậy tăng thượng mạn khởi rõ ràng, người tọa thiền biết phiền não này là định loạn, biết hành sự của pháp thế gian, như vậy biết pháp xuất thế gian sự Niết-bàn. Như vậy biết rồi, như vậy trí trừ loạn, trừ tăng thượng mạn, chỉ thấy diệt là khéo tu hành tu hành nhiều (Quán trí diệt đã xong).
Người tọa thiền kia hiện quán diệt như vậy, vì do quán diệt thành sợ, nhân ấm cũng sợ ấm sinh cũng sợ. Ba cõi năm cõi bảy thức trú chín chỗ chúng sinh thành sợ, như người ác cầm dao đáng sợ, như rắn độc, đống lửa, như vậy vì do quán diệt ở thành sợ, sợ nhân ấm sợ ấm sinh. Ba cõi, năm cõi, bảy thức chín chỗ chúng sinh, ở dùng vô thường hiện tác ý khiến tưởng sợ. Dùng an ẩn khiến khởi vô tưởng, dùng khổ hiện tác ý khiến sợ sinh, dùng an ẩn khiến khởi không sinh, dùng vô ngã hiện tác ý thành tướng sợ và sinh, dùng an ẩn khiến khởi không tướng và không sinh, quán tai họa, quán nhàm chán mềm dịu tùy tương tợ nhẫn. Đó là nói chung (khiến khởi trí sợ đã xong).
Người tọa thiền kia vì khiếp sợ hiện tu hành khiến khởi trí. Trí ưa thích giải thoát sinh, tướng ấm kia sợ thì trí ưa thích giải thoát khởi. Ấm sinh làm sợ thì trí ưa thích giải thoát khởi; sợ ba cõi năm cõi, bảy thức trú chín chỗ chúng sinh, thì trí ưa thích giải thoát khởi, như bị lửa vây quanh, chim nhân đó ưa thích giải thoát, như người bị giặc vây, do đó ưa thích giải thoát, người tọa thiền kia sợ nhân ấm, ấm sinh, ba cõi, năm cõi, bảy thức trú, chín chỗ chúng sinh thì trí ưa thích giải thoát khởi. Dùng vô thường hiện tác ý sợ nhân, dùng khổ hiện tác ý sợ sinh, dùng vô ngã hiện tác ý sợ nhân và sinh, mà trí ưa thích giải thoát khởi. Từ đó người phàm phu và người học, đối với hai thứ dẫn tâm của trí ưa thích giải thoát, hoặc quán hoan hỷ. Khi đó hiện quán thành thông đạt, hiện quán hoan hỷ, tâm thành ưu não hoặc thành chướng ngại tu hành. Thành thông đạt các hành tư duy khó thấy, trong đó xả tùy tương tợ nhẫn, đây là nói chung (trí ưa thích giải thoát đã xong).
Người tọa thiền kia, như vậy hiện tu hành trí ưa thích giải thoát, từ tất cả các hành, ưa thích giải thoát ưa thích Nê hoàn các hành chỉ tác động một tướng dục khiến khởi, trí giải thoát môn tương tợ khởi, dùng ba hành được trí tương tợ, dùng ba Hành vượt chánh tụ. Đối với năm ấm vô thường hiện thấy được trí tương tợ, năm ấm diệt, Nê hoàn thường tại, như vậy hiện thấy vượt chánh tụ. Đối với năm ấm dùng khổ hiện thấy được trí tương tợ, năm ấm diệt vui Nê hoàn, hiện thấy vượt chánh tụ. Đối với năm ấm, dùng vô ngã hiện thấy được trí tương tợ, năm ấm diệt, đệ nhất nghĩa Nê hoàn hiện thấy vượt chánh tụ.
Hỏi: Tại sao dùng trí hiện vượt chánh tụ? Tại sao dùng trí đã vượt chánh tụ?
Đáp: Dùng tánh trừ trí hiện vượt chánh tụ, dùng đạo trí rồi vượt chánh tụ.
Hỏi Trí tương tợ nghĩa là gì?
Đáp: Tương tợ là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn như ý túc Năm căn, Năm lực, Bảy giác phần Tám chánh đạo phần, vì các pháp kia tương tợ kia, đây nói chung gọi là trí tương tợ, không oán thấy lợi tương tợ nhẫn, đây cũng nói chung là trí tương tợ gần nói năng chung (tương tợ trí đã xong).
Trí tương tợ lần lượt không gián đoạn, từ tất cả các hành tướng khởi, tác động Nê hoàn, sinh tánh trừ trí.
Hỏi: Nghĩa gì gọi là tánh trừ?
Đáp: Trừ pháp phàm phu gọi là tánh trừ, chẳng do pháp phàm phu trừ cũng gọi là tánh trừ, tánh là Nê hoàn. Lại nữa, gieo trồng Nê hoàn là tánh trừ, như ở A-tỳ-đàm nói, trừ sinh gọi là tánh trừ, độ vô sinh cũng gọi là tánh trừ. Lại trừ sinh nhân gọi là tánh trừ, độ vô sinh vô tướng gọi là tánh trừ. Đối với Nê hoàn là lối dẫn ban đầu, từ ngoài khởi chuyển trí tuệ. Đây nói chung l tánh trừ (trí tánh trừ đã xong).
Tánh trí tuần tự không ngừng, lần lượt hiện biết khổ, hiện đoạn tập, hiện tác chứng diệt hiện tu đạo, sinh trí đạo Tu-đà-hoàn và tất cả pháp Bồ Đề. Người tọa thiền kia vào lúc này dùng tịch tịch, hiện thấy giới hữu biên, vô vi Đề hồ, ở một sát-na dùng một trí chẳng phải trước chẳng phải sau phân biệt Bốn đế, dùng biết khổ phân biệt, dùng đoạn tập phân biệt, dùng tác chứng diệt phân biệt, dùng tu đạo phân biệt, thành phân biệt, như ở kệ tụng Thí Dụ nói:
Như người bỏ bờ này.
Dùng thuyền qua bờ kia.
Ở kia vượt các vật.
Đáp thuyền là trừ lậu
Như thuyền sang sông chẳng phải trước chẳng phải sau, ở một Sát-na làm bốn sự. Bỏ bờ này trừ lậu, đến bờ kia, vượt các vật như bỏ bờ này. Như vậy, trí phân biệt khổ như trừ lậu. Như vậy phân biệt đoạn tập như qua bờ kia. Như vậy làm chứng phân biệt diệt như dùng thuyền vượt các vật. Như vậy tu đạo phân biệt, như đèn cùng sáng ở một sát-na chẳng trước chẳng sau làm bốn sự, như tim đèn nhỏ trừ tối, khiến dầu tiêu hao khiến ánh sáng phát ra; như mặt trời cùng sinh chẳng phải trước chẳng phải sau, ở một sát-na làm bốn sự, khiến hiện sắc trừ tối, khiến diệt lạnh, khiến khởi ánh sáng, như khiến hiện sắc. Như vậy, trí phân biệt khổ như trừ tối, như vậy phân biệt đoạn tập, như khiến diệt lạnh, như vậy làm chứng phân biệt diệt, như khiến khởi ánh sáng, như vậy tu đạo phân biệt như mặt trời, Thánh trí như vậy.
Hỏi: Như thật hiện thấy khổ, biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, tướng đây thế nào? Nếu chẳng thấy khổ, bốn điên đảo sinh. Bấy giờ như đã nói, giới hữu biên, vô vi Đề hồ, dùng tịch tịch hiện thấy, dùng một trí chẳng phải trước chẳng phải sau, phân biệt Bốn đế, nghĩa đây thế nào? Đáp: Đối với trí sinh diệt, khi ấy chưa thành thấy khổ, lậu cho đến như thật thấy tai họa các hành. Từ các hành tướng khiến khởi tâm, đối với hành "không có" thành vượt qua, cho nên như thật thấy tai họa các hành. Từ các hành tướng dùng khiến khởi tâm, đối với hành "không có" thành vượt qua, là nơi thấy khổ lậu đến rốt sau vậy. Lại nói nếu dùng tịch tịch như vậy là dùng tánh trừ trí, thì thành phân biệt đế tánh. Trừ trí là từ hành tướng khởi thành vượt đến hành "không có". Nếu tánh trừ trí từ hành tướng khởi thì thành vượt đến hành "không có" thành vượt đến Nê hoàn, chỉ giữ lấy nhân là sự đó. Vì giữ lấy sự được định tâm. Nếu chẳng được định, thì chẳng sinh Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na cũng chẳng được viên mãn pháp Bồ Đề. Cho nên dùng tánh trừ trí thành phân biệt đế. Từ tánh trừ trí kia thành sanh trí đạo vô gián, đối với lúc này được ở định Nê hoàn, tâm được định thành khởi Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na thành mãn pháp phần Bồ Đề. Cho nên, chỉ dùng đạo trí thành phân biệt đế. Như người từ thành cháy chạy ra, chân đạp chốt cửa, đã được ra một chân, lúc ấy chưa gọi là ra. Như vậy tánh trừ trí từ hành tướng kia khởi thành vượt đến hành "không có". Khi ấy chưa gọi là vượt phiền não, vì các pháp chưa viên mãn. Như người từ thành bị đốt cháy, hai chân đã ra, lúc đó gọi là ra khỏi thành bị cháy. Như vậy, tánh trừ trí không gián đoạn, thành trí sinh đạo khởi, lúc đó gọi là từ thành phiền não ra, các pháp viên mãn vậy. Cho nên dùng tánh trừ trí thành phân biệt đế. Phân biệt đế là nghĩa gì? Đáp: Bốn thánh đế ở một sát-na nói hòa hợp gọi là phân biệt đế, vào lúc này, là nghĩa đạo trí hòa hợp nương tựa, các căn thành nghĩa bình đẳng bất động, nghĩa lực, nghĩa thừa, nghĩa nhân phần Bồ Đề, nghĩa đạo phần khiến trụ, nghĩa niệm xứ thù thắng, nghĩa chánh cần thuận tiện, nghĩa như ý túc thật, nghĩa đế chẳng loạn, nghĩa Xa-ma-tha tùy quán, nghĩa Tỳ-bà-xá-na, nghĩa chẳng lìa nhau, nghĩa song, nghĩa phú, nghĩa giới thanh tịnh chẳng loạn, nghĩa tâm tánh tịnh kiến, nghĩa thấy thanh tịnh, nghĩa thoát, nghĩa giải thoát thông đạt, nghĩa minh xả, nghĩa thoát đoạn, nghĩa diệt trí căn, nghĩa dục khiến khởi, nghĩa tác ý bình đẳng, nghĩa xúc thọ diệt xa lìa, nghĩa hiện tiền, nghĩa định nương, nghĩa niệm chân thật, nghĩa tuệ thâm thắng, nghĩa Đề hồ sau cùng, nghĩa Nê hoàn sau cùng bình đẳng. Người tọa thiền hiện trí như vậy, hiện thấy đoạn ba kết như vậy, đó là thân kiến, nghi, giới thủ và phiền não tương ưng của chúng.
Hỏi: Thân kiến là gì?
Đáp: Phàm phu ít học thấy sắc cho là ngã, ngã có sắc sắc làm ngã sở. Đối với sắc cho là ngã, như vậy, thọ tưởng hành thức cũng cho là ngã. Ngã có thức, thức là ngã sở. Đối với thức cho là ngã, đây gọi là thân kiến. Thân này đã đoạn, kia đoạn nên sáu mươi hai kiến cũng đoạn. Vì thân kiến, bắt đầu trong sáu mươi hai kiến.
Hỏi: Nghi là gì?
Đáp: Hoặc nghi ngờ đối với khổ, hoặc đối với tập, hoặc đối với diệt, hoặc đối với đạo, hoặc đối với Phật Pháp Tăng, hoặc giới hạn đầu hoặc giới hạn sau, hoặc giới hạn trước sau, hoặc đối với pháp nhân duyên khởi. Đây gọi là nghi, cũng phải đoạn.
Hỏi: Giới đạo (trộm giới) là gì?
Đáp: Giới đạo có hai thứ: Khát ái và si, ta cho giới này, do hành này, do khổ hạnh này, do phạm hạnh này, ta sẽ sinh lên trời, ta sinh lên trên các cõi trời ấy đó gọi là khát ái giới đạo. Từ Sa-môn, Bà-la-môn ngoại đạo này cho là giới cho là thanh tịnh, cho là giới hạnh thanh tịnh. Vì thấy như vậy, nên đây gọi là si giới đạo, cũng phải đoạn.
Hỏi: Một xứ kia trú phiền não là gì?
Đáp: Kia làm cho đến cõi ác, dâm dục, sân nhuế, si, đây gọi là một xứ trú kia phiền não cũng đoạn, ở khoảng này làm quả Tu-đà-hoàn, tác chứng thành hướng, là chưa được Tu-đà-hoàn. Trú địa Tu-đà-hoàn hướng, hoặc địa thứ tám, hoặc kiến địa, hoặc định từ hai khởi chuyển tuệ. Đạo trí Tu-đà-hoàn này là nói chung. Tu-đà-hoàn không ngừng lần lượt, đoạn ba kết vậy, làm sự vô vi cùng pháp đạo v.v... khởi phương tiện không khác. Tâm quả trí quả của Tu-đà-hoàn, hoặc hai hoặc ba đời không ngừng, họ lần lượt qua phần sau. Tâm từ phần sau khởi, quán đạo quán quả quán Nê hoàn, quán phiền não đã đoạn, quán các phiền não khác, đây gọi là Tu-đà-hoàn, pháp định hướng chẳng lui, Bồ Đề hướng, muốn phân biệt quả vị lai, là pháp từ ngực, từ miệng Đức Thế Tôn sinh, do pháp tạo, được pháp phần chẳng cùng phần vật khác. Đây gọi là kiến cụ túc thiện, tu hành thông đạt thánh pháp, đến đứng cửa Đề Hồ thấy đầy đủ đến diệu pháp này. Thấy diệu pháp này rồi, giác trí thành tựu đã giác minh thành tựu, vào dòng pháp thánh thông đạt tuệ, mở cửa Đề hồ an trú. Cho nên nói kệ tụng này:
Ở đất một vị vua.
Ở thiên đường một vua. Lãnh dắt cả thế gian.
Tu-đà-hoàn quả thắng.
Người tọa thiền kia trú địa này, khởi tinh tấn, vươn lên chứng quả Tư-đà-hàm, thấy chỗ thấy sinh diệt, mà ban đầu hiện quán, như phần đầu đã nói. Hiện tu hành như đã kiến đạo, nương các căn lực Bồ đề giác, phân biệt đế như vậy, kia tu hành như vậy, hướng diệt đoạn dục thô, sân nhuế, và phiền não trú một xứ kia. Từ đạo kia không ngừng tác chứng quả Tu-đà-hoàn. Người tọa thiền kia đối với trú địa đây, tinh tấn, vươn lên để chứng quả A-na-hàm, thấy sinh diệt làm khởi đầu, hiện quán như phần đầu đã nói. Hiện tu hành như kiến đạo, nương các căn lực Bồ Đề giác, phân biệt đế như vậy, kia như vậy, hướng diệt đoạn dục vi tế, sân nhuế và phiền não trú một xứ kia. Từ đạo quả A-na-hàm đã tác chứng đó, không ngừng vươn lên. Người tọa thiền kia trú địa này tinh tấn, vươn lên chứng quả A-la-hán, thấy sinh diệt làm đầu, hiện quán như ban đầu đã nói. Hiện tu hành như đã kiến đạo, nương các căn lực Bồ đề giác, phân biệt đế như vậy, vị kia như vậy, hướng đoạn sắc dục, vô sắc dục, mạn, điều (trạo hý), vô minh, và các phiền não khác, đoạn không còn. Từ người tọa thiền kia tác chứng quả A-lahán, vị ấy quán đạo, quán quả Nê hoàn, quán đoạn phiền não, Tỳ-kheo thành A-la-hán, diệt lậu đã tạo hoặc vì đứng thẳng đặt gánh xuống, đến diệu nghĩa đoạn hữu kết, chánh trí giải thoát, lìa năm phần sáu phần, thành tựu một thủ hộ, chẳng bị sự chết ràng buộc, trừ diệt các đế khác tin tưởng tìm kiếm tư duy không vẫn đục, làm nhẹ thân hành thiện giải thoát, tâm thiện giải thoát tuệ phạm hạnh đã lập thành trượng phu tối thắng trong hàng trượng phu, được cái được thứ nhất. Đây gọi là người trừ sân nhuế, đến bờ, lìa phiền não, không kết ngại, được thành Thánh, bỏ gánh nặng, chẳng tương ưng, Sa-môn, Bà-la-môn, đã tắm rửa, Độ-vi-đà, Bà-la-môn tối thượng, A-la-hán, độ, thoát, phục, tịch tịch, linh tịch; nói tóm lại là A-la-hán. Nếu Tu-đà-hoàn, từ đời đó trở lên, chẳng tinh tấn, dùng ba thứ được thấy ba thứ Tu-đà-hoàn, một đời, bảy đời, Gia gia Tu-đà-hoàn, một đời Tu-đà-hoàn, ở đó độn căn thành bảy đời, trung căn thành gia gia, lợi căn thành một đời. Bảy đời là bảy lần lên trời rồi trở lại, đây làm khổ biên. Gia gia Tu-đà-hoàn, hoặc hai lần hoặc ba thời đến gia kia rồi đến khổ biên, một đời Tu-đà-hoàn đã khiến sinh làm người đạt tới khổ biên. Nếu người Tuđà-hoàn từ đời đó trở lên chẳng tinh tấn, một lần lại đời này làm khổ biên. Nếu A-na-hàm từ đời đó trở lên chẳng tinh tấn, thì từ đây mạng chung sinh Tịnh cư, trời kia do các căn thù thắng, dùng năm thứ được thấy thành năm A-na-hàm, khoảng giữa bát Niết-bàn, sanh bát Niết-bàn, chẳng hành Bát Niết-bàn, hành bát Niết-bàn. Thượng lưu đến trời Ca-ni-tra đó. Khoảng giữa Bát Niết-bàn là chưa đạt đến chỗ bám theo không ngừng, khoảng giữa nương thời gian thọ mạng trừ kết sử tàn dư, khiến khởi thánh đạo. Sinh Bát Niết-bàn là, vượt thọ mạng trong đây, trừ kết sử tàn dư đã sinh khiến khởi thánh đạo. Chẳng hành Bát Niết-bàn là không hành khác, vì trừ kết sử tàn dư khiến khởi thánh đạo, hành Bát Niết-bàn là không hành khác làm trừ kết sử tàn dư khiến khởi thánh đạo, Thượng lưu đến trời A-ca-ni-tra, từ Bất phiền thiên mạng chung, sanh Bất nhiệt, Từ Bất nhiệt mạng chung sanh Thiện kiến, Từ Thiện kiến mạng chung sanh Thiện hiện, Từ Thiện hiện mạng chung sanh trời A-ca-ni-tra, ở A-ca-ni-tra vì trừ kết sử tàn dư, nên khởi thánh đạo. Khi đó, ở trời Bất phiền thọ mạng vạn kiếp, trời Bất thiện thọ mạng mười hai vạn kiếp, trời Thiện kiến thọ mạng bốn vạn kiếp, trời Thiện hiện thọ mạng tám vạn kiếp, trời Aca-ni-tra thọ mạng mười sáu vạn kiếp, ở bốn địa thành năm, năm người ở A-ca-ni-tra, bốn người không co người thượng lưu. Như vậy kia thành hai mươi bốn người, A-la-hán đã đoạn tất cả phiền não không còn, chẳng thành nhân hậu hữu. Vì nhân không nên A-la-hán đã khỏi thọ hình mạng, Hành diệt khổ đây đoạn, chẳng khởi khổ khác, đây gọi là khổ biên, cho nên nói kệ tụng đây:
Thí như chày đập sắt. Sao hỏa vào dòng nước. Lần lượt thành tịch diệt. Cõi kia chẳng thể biết,
Chánh giải thoát như vậy. Đã qua dục phược lậu.
Đến nơi lạc không động.
Cõi kia chẳng thể biết.
Hỏi: Ở đây có sư nói: Lần lượt tu đạo, lần lượt đoạn phiền não, lần lượt phân biệt đế ư?
Đáp: Hoặc dùng mười hai, hoặc dùng tám, hoặc dùng bốn, đạo trí tác chứng quả.
Hỏi: Tại sao ở đây thấy chẳng tương ưng?
Đáp: Nếu lần lượt tu đạo, lần lượt đoạn phiền não, thì lần lượt tác chứng, vì lần lượt tác chứng quả, nên quả được an lạc cùng quả đạo tương ưng vậy. Nếu được an lạc như vậy, thì một quả Tu-đà-hoàn là thành chăng? Nếu chẳng thật an lạc như vậy, thì người lần lượt tu đạo lần lượt đoạn phiền não cũng vậy. Lại nữa, lỗi thứ hai, nếu vì thấy khổ, thấy khổ đã đoạn, thì phiền não diệt đoạn được an lạc. Thế nên đã thấy khổ thấy khổ đã đoạn, phiền não đã đoạn, tác chứng bốn phần quả Tu-đà-hoàn, thì tác chứng nên được an lạc, phương tiện thành tựu vậy. Nếu được an lạc tác chứng như vậy, thì bốn phần
Tu-đà-hoàn, bốn phần bảy lần sinh, bốn phần gia gia sinh, bốn phần một sinh, bốn phần trú ở quả, ở đây chẳng tương ưng. Nếu chẳng được an lạc như vậy, thì vì thấy khổ, thấy khổ đã đoạn mà đoạn phiền não chăng? Đây chẳng tương ưng. Lại nữa, lỗi thứ ba nếu vì thấy khổ, thấy khổ đã đoạn và phiền não đã đoạn, là điều vui thích do hiện thấy khổ, thì bốn phần Tu-đà-hoàn đạo trú, bốn phần tín hành, bốn phần pháp hành, thành tựu nên được an lạc, chẳng thấy ba đế còn lại. Nếu sự vui này trú ở bốn Tu-đà-hoàn đạo, thành bốn tín hành, thành bốn pháp hành, thì ở đây chẳng tương ưng. Nếu chẳng thể vui (an lạc) như vậy tức là vì thấy khổ thấy khổ đoạn, phiền não đoạn. Lại nữa, lỗi thứ tư cũng chẳng tương ưng, nếu hiện thấy đạo thành hướng là vì thấy đạo thành tựu trú ở quả. Đây được an lạc, là vì hiện thấy khổ đó thành hướng, vì thấy nên thành trú quả, nên đáng vui, vì thấy một thứ vậy. Nếu đáng vui như vậy thì hướng và trú quả thành nhiều lỗi, thì ở đây, điều này chẳng tương ưng. Nếu chẳng được vui như vậy, vì thấy đạo mới thành chứng, vì thấy đạo thành trú ở quả, thì đây cũng chẳng tương ưng. Lại nữa, lỗi thứ năm, nếu vì thấy đạo tác chứng quả thì chưa thấy Khổ Tập Diệt mà thành tác chứng quả được vui thì vì thấy Khổ Tập Khổ Diệt là vô nghĩa. Lại nữa, lỗi thứ sáu, nếu dùng mười hai hoặc dùng tám, hoặc dùng bốn đạo trí tác chứng thì quả Tu-đà-hoàn được vui vì tác chứng đó; hoặc mười hai, hoặc tám, hoặc bốn, và quả Tu-đà-hoàn tương ưng thành được vui thì thành tựu đạo trí không có quả. Nếu có thể vui địa như vậy thì địa trở thành lỗi. Ở đây, điều này chẳng tương ưng. Nếu có thể vui như vậy, hoặc dùng mười hai, hoặc dùng, hoặc dùng bốn, đạo trí tác chứng Tu-đà-hoàn quả ư? Đây cũng chẳng tương ưng. Lại nữa, lỗi thứ bảy, nếu hoặc mười hai, hoặc tám, hoặc bốn đạo trí, khiến khởi một Tu-đàhoàn quả là được vui, thì đây cũng chẳng tương ưng, nhiều sự khiến khởi một quả, như nhiều quả Yêm-la khiến sinh một quả.
Hỏi: Nếu dùng một trí một sát-na, không trước không sau, thành phân biệt Bốn đế, thì một trí nên thành bốn sự kiến thủ. Nếu vì thấy khổ thành thấy Bốn đế, thì Bốn đế thành Khổ đế. Nếu hai nghĩa đây không, thì đây chẳng tương ưng, một Sát-na dùng một trí không trước không sau, thành phân biệt Bốn đế ư?
Đáp: Chẳng phải một trí thành bốn kiến thủ, cũng chẳng phải Bốn đế thành Khổ đế. Người tọa thiền chỉ theo Bốn đế, lúc đầu các thứ tướng, một tướng, trước đã phân biệt. Bấy giờ dùng thánh hành Khổ đế, dùng tướng như vậy thông đạt, thành thông đạt Bốn đế, như tướng Bốn đế đó, dùng nghĩa như thành một tướng, như các thứ tướng năm ấm. Một tướng dùng phân biệt trước làm sắc ấm, dùng vô thường, rồi thấy năm ấm vô thường cũng thường. Thấy vô thường chẳng phải sắc ấm làm năm ấm, nhập giới như vậy, ở đây như vậy có thể biết, đối với tán pháp đó có thể biết, như vậy quán giác hỷ thọ địa căn, giải thoát phiền não chánh thọ hai định. Quán đó là hai quán, thiền quán, táo quán.
Hỏi: Thế nào là thiền quán?
Đáp: Đã được định, dùng định lực nhiếp phục cái. Dùng danh so sánh phân biệt quán sắc thấy thiền phần,
Xa-ma-tha làm đầu mà tu Tỳ-bà-xá-na. Táo quán là dùng lực phân biệt chế phục cái, dùng sắc so sánh phân biệt gọi là quán thấy các hành. Tỳ-bà-xá-na làm đầu, tu hành Xa-ma-tha. Giác là, táo quán. Sơ thiền và quán là, quán đạo và quả thành có giác. Ở thiền thứ ba Tỳ-bà-xá-na cho đến tánh trừ thành có giác, đạo và quả thành không giác, ở địa có giác đạo thành tám phần đạo, ở địa không giác thì bảy phần đạo trừ tư duy. Hỷ là, táo quán đắc khổ hành, đầy đủ Tỳ-bà-xá-na trí tương tợ, thành không khổ khởi tánh trừ đạo và quả cộng khởi hỷ. Táo quán được lạc hành đầy đủ, ở thiền thứ hai, Tỳ-bà-xá-na và đạo quả cùng khởi hỷ, ở thiền thứ ba. Ở thiền thứ tư, Tỳ-bà-xána đạo và quả chẳng cùng khởi hỷ, ở địa có hỷ đạo và quả bảy giác phần khởi, ở địa không hỷ sáu Bồ Đề giác, trừ hỷ Bồ Đề giác. Thọ là táo quán được khổ hành, đầy đủ Tỳ-bà-xá-na cho đến trí tương tợ cộng xả khởi tánh trừ đạo và quả cộng hỷ khởi. Táo quán được lạc hành đầy đủ. Ở ba thiền Tỳ-bà-xá-na đạo quả cộng hỷ khởi, ở thiền thứ tư Tỳ-bà-xá-na đạo quả cộng xả khởi, địa là hai địa, kiến địa và tư duy địa, ở đó Tu-đà-hoàn đạo kiến địa. Ngoài ra ba đạo, bốn quả Sa-môn tư duy địa, chưa từng thấy nay thấy, gọi là kiến địa, thấy như vậy tu như vậy là tư duy địa. Lại nữa, hai địa học địa và vô học địa, ở đó bốn đạo ba quả Sa-môn là học địa, A-la-hán quả là vô học địa. Căn là, ba căn xuất thế gian, căn chưa biết ta sẽ biết, căn đã biết, căn biết đủ, khi đó, đạo trí Tu-đàhoàn mới đầu chưa biết nay biết thì thành trí chưa biết. Ba đạo trí. Ba quả trí đã biết pháp, lại biết biết căn, A-la-hán quả trí vô dư, đã biết pháp. Biết là căn đã biết, giải thoát là ba giải thoát: Giải thoát vô tướng, giải thoát vô tác và giải thoát "không", ở đó đạo trí tương tợ. Chẳng tác tướng là giải thoát vô tướng, chẳng tác nguyện là giải thoát vô tác, chẳng tác chấp là giải thoát "không". Lại nữa, ba giải thoát này dùng quán thấy thành các thứ đạo, dùng được thành một đạo.
Hỏi: Tại sao dùng quán thấy thành các thứ đạo?
Đáp: Đã quán thấy vô thường thành giải thoát vô tướng, dùng quán thấy khổ thành giải thoát vô tác, dùng quán thấy vô ngã thành giải thoát "không".
Hỏi: Tại sao dùng quán thấy vô thường thành giải thoát vô tướng?
Đáp: Vì hiện tác ý vô thường, vì diệt các hành khởi tâm thành nhiều giải thoát, được tín căn và bốn căn, các chủng loại kia như thật trí tướng, chủng loại kia tất cả các hành, thành vô thường khởi, khiến khởi tướng khiếp sợ. Từ tướng hành sinh trí, từ tướng tâm khởi, ở tâm vô tướng vượt lên, dùng giải thoát vô tướng thân được thoát. Như vậy, do quán vô thường thành giải thoát vô tướng.
Hỏi: Tại sao dùng quán thấy khổ, thành giải thoát vô tác?
Đáp: Dùng khổ hiện tác ý, vì khiếp sợ các hành khiến khởi tâm, thành tâm nhiều tịch tịch, được định căn và bốn căn, chủng loại kia như thật biết sinh, dùng tất cả các hành của các chủng loại kia thành thấy được khổ, do dùng khiếp sợ sinh, khiến khởi sinh trí. Từ sinh tâm khởi, vượt tâm vô sinh, dùng giải thoát vô tác thân được thoát. Như vậy, do quán thấy khổ thành giải thoát vô tác.
Hỏi: Tại sao dùng quán thấy vô ngã thành giải thoát
" không "?
Đáp: Vì hiện tác ý vô ngã, vì "không" khiến khởi các hành, tâm thành nhiều chán ghét, được tuệ căn và bốn căn, chủng loại kia như thật biết tướng và sinh, dùng tất cả các pháp, của các chủng loại kia thành có thể thấy, vô ngã do khiếp sợ nên khiến khởi tướng và sinh, chỉ nương tướng và sinh trí khởi, từ tướng và sinh tâm thành lìa; ở vô tướng vô sinh diệt, tâm Nê hoàn khởi, vì giải thoát "không" thân được thoát. Như vậy, do quán thấy vô ngã thành giải thoát "không". Như vậy ba giải thoát này, dùng quán ở các thứ đạo.
Hỏi: Tại sao dùng được ba giải thoát thành ở một đạo?
Đáp: Đã được giải thoát vô tướng thành được ba giải thoát, tại sao người đó dùng vô tướng, tâm họ được thoát? Tuy sự giải thoát kia đã thực hiện nhưng chấp cái mà mình đã được giải thoát vô tác, ba giải thoát thành sở đắc. Tại sao khởi tâm được thoát của mình để dùng giải thoát? Vị kia vì tướng, vì chấp được giải thoát "không", cũng được ba giải thoát. Tại sao? Nếu đó vì chấp tâm được thoát, thì vì giải thoát, vì tướng, vì tác. Như vậy đã được ba giải thoát thành một đạo. Người giải thoát và môn giải thoát có gì sai biệt? Đáp: Chỉ đạo trí kia từ phiền não mà thoát gọi là giải thoát, vì nhập nghĩa môn Đề hồ nên gọi là môn giải thoát. Lại nữa, giải thoát là, chỉ có đạo trí, sự kia làm Nê hoàn, đây gọi là môn giải thoát. Phiền não là, một trăm ba mươi bốn phiền não như vậy, ba căn bất thiện, ba tìm kiếm, bốn lậu, bốn kết, bốn lưu, bốn ách, bốn thủ, bốn cõi ác hành, năm xan, năm cái, sáu tránh căn, bảy sử thế gian, tám pháp, chín mạn, mười phiền não xứ, mười bất thiện nghiệp đạo, mười kết, mười tà biên, mười hai điên đảo, mười hai bất thiện tâm khởi, trong đó, ba căn bất thiện là tham, sân, si, ở đây ba sân thì dùng hai đạo làm thành mỏng, dùng A-na-hàm vô dư diệt, Tham si thì dùng ba đạo làm thành mỏng, dùng A-la-hán đạo vô dư diệt. Ba tìm kiếm là, tìm kiếm dục, tìm kiếm hữu và tìm kiếm phạm hạnh. Ở đây phạm hạnh tìm kiếm là, dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt hết, dục tìm kiếm là dùng A-na-hàm đạo diệt; hữu tìm kiếm là dùng A-la-hán đạo diệt, Bốn lậu là: Dục lậu, hữu lậu, kiến lậu, vô minh lậu. Ở đây kiếm lậu thì dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, dục lậu thì dùng A-na-hàm đạo diệt hữu lậu và vô minh lậu thì dùng A-la-hán đạo diệt. Bốn kết là; tham dục thân kết, sân nhuế thân kết, giới đạo thân kết, đế này chấp thân kết. Ở đây giới đạo thân kết là, đế này chấp thân kết, thì dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, sân nhuế thân kết là dùng A-na-hàm đạo diệt, tham thân kết thì dùng A-lahán đạo diệt, Bốn lưu là, Dục lưu, hữu lưu, kiến lưu, vô minh lưu. Bốn ách là: Dục ách; hữu ách; kiến ách; vô minh ách, như phần diệt đã nói lúc đầu. Bốn thủ là: Dục thủ; kiến thủ; giới thủ; ngã ngữ thủ. Ở đây ba thủ dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, dục thủ dùng A-la-hán đạo diệt. Bốn cõi ác hành là cõi dục ác hành, cõi sân ác hành, cõi sợ ác hành, cõi si ác hành. Bốn hành đây dùng Tu-đàhoàn đạo diệt, Năm xan là: Trú xứ xan, gia xan, lợi dưỡng xan, sắc xan; pháp xan. Năm xan đây dùng A-nahàm đạo diệt. Năm cái là: Dục dục, sân nhuế, giải đãi, thùy miên; điều mạn nghi. Ở đây, nghi thì dùng Tu-đàhoàn đạo diệt, dục dục sân nhuế, mạn dùng A-na-hàm đạo diệt, giải đãi điều dùng A-la-hán đạo diệt, thùy miên thì tùy sắc. Sáu tránh căn là, phẫn, phú, tật, siểm ác, lạc, kiến xúc. Ở đây, siểm ác lạc kiến xúc dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, phẫn phú tật dùng A-na-hàm đạo diệt Bảy sử là: Dục nhiễm sử, sân nhuế sử, kiến sử, nghi sử, hữu lạc sử, vô minh sử. Ở đây kiến sử, nghi sử dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, dục nhiễm sử, sân nhuế sử dùng A-na-hàm đạo diệt. Mạn sử, hữu sử, vô minh dùng A-la-hán đạo diệt. Thế gian tám thế pháp là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Ở đây bốn xứ chẳng ái sân nhuế dùng A-na-hàm đạo diệt, còn bốn xứ ái sử (sai khiến) dùng A-la-hán đạo diệt. Chín mạn là, do kia thắng ta thắng sinh mạn, cùng thắng ta ngang bằng sinh mạn, do thắng ta kém sinh mạn, do ngang bằng ta ngang bằng sinh mạn, do ngang bằng ta thấp kém sinh mạn, do thấp kém ta thắng sinh mạn, do thấp kém ta ngang bằng sinh mạn, do thấp kém ta thấp kém sinh mạn, Chín mạn này dùng A-la-hán đạo diệt. Mười não xứ là: Tham, sân, si, mạn, kiến, nghi, giải đãi, điều, vô tàm, vô quý. Ở đây, kiến nghi dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt, sân nhuế dùng A-na-hàm đạo diệt, bảy còn lại dùng A-la-hán đạo diệt. Mười não xứ là, người này đối với ta đã làm, hiện làm sẽ làm điều phi nghĩa sinh não. Người mà ta thương yêu đã làm, hiện làm, sẽ làm, điều phi nghĩa, sinh não. Người mà ta không thương yêu đã làm hiện làm sẽ làm điều phi xứ, sinh não. Mười não xứ dùng A-na-hàm đạo diệt. Mười bất thiện nghiệp đạo là, sát sinh, không cho mà lấy, tà hạnh, vọng ngữ, ác khẩu, lưỡng thiệt, ý ngữ, tham, sân, tà kiến. Ở đây, sát sinh, không cho mà lấy, tà hạnh, vọng ngữ tà kiến, dùng Tuđà-hoàn đạo diệt. Ác khẩu lưỡng thiệt sân, dùng A-nahàm đạo diệt. Ỷ ngữ, tham, dùng A-la-hán đạo diệt. Mười sử là: Dục nhiễm sử, sân nhuế sử, mạn sử, kiến sử, nghi sử, giới thủ sử, hữu nhiễm sử, tật sử, xan sử, vô minh sử. Ở đây kiến, nghi, giới thủ sử dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt. Dục nhiễm, sân nhuế, tật, xan sử, dùng A-nahàm đạo diệt. Mạn, hữu nhiễm, vô minh sử, dùng A-lahán đạo diệt. Mười tà biên là: Tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạn, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, tà trí, tà giải thoát. Ở đây, tà kiến, tà ngữ, vọng ngữ nghiệp, tà mạn trí, tà giải thoát, dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt. Tà tư duy, tà ngữ, ác ngữ, lưỡng thiệt, dùng A-na-hàm đạo diệt. Tà ngữ, ỷ ngữ, tà tinh tấn, tà niệm, tà định, dùng A-la-hán đạo diệt. Mười hai điên đảo là: Đối với vô thường tưởng thường, điên đảo tâm điên đảo kiến điên đảo. Như vậy đối với khổ lạc, đối với bất tịnh tịnh, đối với vô ngã ngã. Đối với pháp này, đây vô thường cho là thường gồm ba điên đảo; vô ngã cho là ngã gồm ba điên đảo, bất tịnh cho là tịnh là kiến điên đảo, khổ cho là lạc là kiến điên đảo dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt. Đối với bất tịnh cho là tịnh là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, dùng A-na-hàm đạo diệt. Đối với khổ cho là lạc là tưởng điên đảo, tâm điên đảo dùng A-la-hán đạo diệt. Mười hai bất thiện tâm khởi là cùng hỷ cộng khởi tương ưng kiến, tâm vô hành khởi, tâm có hành khởi, cùng hỷ cộng khởi chẳng tương ưng kiến, tâm vô hành khởi, tâm có hành khởi, cùng xả cộng khởi tương ưng kiến, tâm vô hành khởi, tâm có hành khởi, cùng xả cộng khởi, chẳng tương ưng kiến, tâm vô hành khởi, tâm có hành khởi, cùng ưu cộng khởi tương ưng sân nhuế, tâm vô hành khởi tâm có hành khởi, cùng điều cộng khởi tâm khởi, cùng nghi cộng khởi, tâm khởi. Ở đây bốn kiến tương ưng tâm khởi, cùng nghi cộng khởi tâm khởi, dùng Tu-đà-hoàn đạo diệt. Hai hữu cộng khởi tâm khởi, dùng hai đạo làm thành mỏng, dùng Ana-hàm đạo vô dư diệt. Bốn kiến tâm chẳng tương ưng khởi và điều cộng khởi tâm khởi, dùng ba đạo làm thành mỏng, dùng A-la-hán đạo vô dư diệt. Hai chánh thọ là, hai chánh thọ chẳng cùng phàm phu và quả thành tựu chánh thọ tưởng, thọ, diệt.
Hỏi: Quả chánh thọ là gì? Tại sao gọi là quả chánh thọ? Ai tu ái khiến khởi. Vì sao tu? Tại sao tu? Tại sao tác ý? Kia thành tựu mấy duyên? Mấy duyên trú? Mấy duyên làm khởi? Chánh thọ đây là thế gian hay là xuất thế gian?
Đáp: Quả chánh thọ là, quả Sa-môn này, tâm ở Nê hoàn an, đây gọi là quả chánh thọ. Tại sao gọi là quả chánh thọ là, chẳng phải thiện chẳng phải phải bất thiện, chẳng phải sự, là quả báo đạo xuất thế thành, cho nên đây là quả chánh thọ, A-la-hán và A-na-hàm đối với chánh thọ này nhất định làm viên mãn. Lại có thuyết, tất cả thánh nhân được khiến khởi, như ở A-tỳ-đàm nói: Vì được đạo Tu-đà-hoàn, trừ sinh gọi là tánh trừ, tất cả như vậy. Lại nói, tất cả thánh nhân thành tựu định này làm cho viên mãn, chỉ có họ khiến phát khởi, như trưởng giả Na-la-đà, nói với các Tỳ-kheo. Trưởng lão như vậy, ở giếng núi rừng, tại đó không dây múc nước. Khi ấy, có người đi đến, bị mặt trời đang lúc trưa nóng đốt, khô khốc khát nước, người kia thấy giếng biết có nước, dù người ấy chẳng dùng thân đứng tiếp xúc. Như vậy, Trưởng lão ta hữu diệt là Nê hoàn, như thật chánh trí thiện kiến: Ta chẳng phải A-la-hán lậu tận, tại sao khiến khởi?" Là vì hiện thấy pháp lạc trú khiến khởi, như Đức Thế Tôn răn dạy A-nan. "Này A-nan! Khi ấy Như Lai không tác ý, tất cả các tướng chỉ một thọ diệt, tâm vô tướng định khiến khởi trú. Này A-nan!
Khi ấy thân Như Lai thành an ổn". Tại sao khiến khởi? Là người tọa thiền kia vào tịch tịch trú, hoặc đứng, hoặc nằm an lạc được quả chánh thọ, thấy được sinh diệt, mới đầu quán các hành, cho đến tánh trừ trí. Tánh trừ trí không gián đoạn, đối với Nê hoàn quả chánh thọ khiến an, nương thiền đó thành tu đạo thiền đó thành đối tượng khởi đó gọi là quả chánh thọ. Tại sao tác ý? Là cảnh giới Đề hồ, vô vi. Dùng tịch tác ý, vị ấy thành tựu mấy duyên? Mấy duyên làm trú mấy duyên làm khởi? Hai duyên chánh thọ kia, chẳng tác ý tất cả các tướng. ở cảnh giới vô tướng tác ý, ba duyên làm trú, chẳng tác ý tất cả các tướng. Ở cảnh giới vô tướng tác ý, và ban đầu hành hai duyên làm khởi tác ý tất cả tướng, và cảnh giới vô tướng chẳng tác ý.
Tại sao định này là xuất thế gian hay thế gian.
Đáp: Đây là chánh thọ xuất thế, chẳng phải chánh thọ thế gian.
Hỏi: Người A-na-hàm làm quả định hiện quán, tại sao tánh trừ không cách, A-la-hán đạo chẳng sinh?
Đáp: Chẳng phải xứ ưa thích, chẳng sinh quán thấy, vì không lực. Ở đó, hai thứ quả thù thắng có thể biết, thành có đạo và quả tánh trừ, hiện tác chứng đạo và quả vô gián hiện, thành không đạo và quả tánh trừ, thành vào quả định, thành không đạo và quả tánh trừ, từ diệt định khởi, thành quả không tánh trừ (Quả chánh thọ đã xong). Hỏi: Thế nào là chánh thọ diệt thọ tưởng? Ai khiến khởi, mấy lực thành tựu, khiến khởi mấy hành bị trừ, khiến khởi mấy sự mới đầu, nghĩa gì làm khởi, tại sao khởi, tại sao từ kia khởi, tại sao tâm dùng khởi, dùng khởi tâm bị đắm trước cái gì, mấy xúc bị xúc. Tại sao mới đầu khởi các hành? Người chết và vào định diệt tưởng thọ có gì sai biệt? Định này là hữu vi hay vô vi?
Đáp: Chẳng sinh tâm tâm sở pháp, đây gọi là định diệt thọ tưởng. Ai khiến khởi định là, A-la-hán và A-nahàm ở định đây làm viên mãn. Ai chẳng khiến khởi là, người phàm phu và Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm và người sinh ở Vô sắc giới. Chẳng phải cảnh giới của họ. Phàm phu không khả năng, khởi phiền não làm chướng ngại định. Vì chưa đoạn, Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm chẳng có khả năng khởi làm khởi trở lại, chẳng phải xứ của họ. Vào Vô sắc giới, chẳng có khả năng khởi. Mấy lực thành tựu khiến khởi là, dùng hai lực thành tựu khiến khởi, dùng lực Xa-ma-tha, dùng lực Tỳ-bà-xá-na. Ở đó dùng lực Xa-ma-tha là do tám định được tự tại. Dùng lực Tỳbà-xá-na là, do tự tại theo bảy quán. Bảy quán là gì? Quán vô thường, quán khổ, quán vô ngã, quán nhàm chán, quán vô nhiễm, quán diệt, quán xuất ly, quán. Lực Xa-ma-tha làm diệt thiền phần, và làm giải thoát bất động. Lực Tỳ-bà-xá-na làm thấy tội lỗi của sinh, và làm giải thoát vô sinh. Trừ bao nhiêu hành khiến khởi định?
Dùng trừ ba hành khiến sanh khởi định: khẩu hành, thân hành, tâm hành, ở đó vào thiền thứ hai giác quán khẩu hành thành đối tượng trừ. Người vào thiền thứ tư, thở ra thở vào thân hành thành đối tượng trừ. Vào định diệt tưởng thọ tâm hành tưởng thọ thành đối tượng trừ. Mấy sự mới đầu? Mới đầu có bốn sự: Một ràng buộc chẳng loạn, xa lìa phân biệt, quán sự chẳng phải sự. Một phược là, Bát, ca-sa, xếp lại một chỗ sử dụng. Chẳng loạn là, dùng phương tiện sẵn có, thân này nguyện chớ sinh loạn thọ trì. Xa lìa phân biệt là, thích hợp với lực thân, dùng ngày làm phân biệt thọ trì, ở đây lâu xa quá kỳ hạn phải khởi. Quán sự chẳng phải sự là, chưa đến thời phân biệt, hoặc chúng tăng làm sự hòa hợp, ta phải thọ trì. Ở đó một ràng buộc là, gìn giữ Ca-sa. Chẳng loạn và lâu dài phân biệt là gìn giữ thân. Quán sự chẳng phải sự là, chẳng hại chúng tăng hòa hợp, trú vô sở hữu xứ hoặc mới đầu vào Sơ thiền. Tại sao khiến khởi? Vì hiện pháp lạc trú, là định bất động sau cùng của Thánh nhân. Lại vì khởi thần thông vào định rộng, như Trưởng lão Chánh mạng La-hán. Vì giữ gìn thân, như Trưởng lão Xá-lợiphất, như trưởng lão Bạch-lộ-tử-để-sa. Tại sao khiến khởi là, người tọa thiền kia vào tịch tịch trú, hoặc ngồi, hoặc nằm vui ở ý diệt, vui diệt vào Sơ thiền, vào rồi an tường ra, không ngừng thấy thiền kia vô thường, khổ, vô ngã, cho đến hành xả trí, như thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư, hư không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, vào rồi an tường ra, không gián đoạn thấy chánh định vô thường, khổ, vô ngã cho đến hành xả trí. Bấy giờ không ngừng vào phi phi tưởng xứ. Từ kia hoặc hai, hoặc ba, khiến khởi tâm phi phi tưởng, khởi rồi khiến tâm diệt. Tâm diệt rồi chẳng sinh chẳng hiện vào, đây gọi là vào định diệt tưởng thọ.
Tại sao từ kia khởi? Vì kia chẳng phải tác ý như vậy. "Ta phải khởi đã đến lúc bắt đầu, do sự phân biệt thành. Tại sao tâm dùng khởi? Nếu người A-na-hàm thì dùng tâm quả A-na-hàm khởi, người A-la-hán thì dùng tâm A-la-hán khởi, khởi rồi tâm kia dính mắc vào chỗ nào?
Đáp: Tâm chuyên duyên tịch tịch. Có bao nhiêu xúc bị xúc? Có ba chỗ xúc bị xúc, dùng không xúc, vô tướng xúc vô tác xúc. Tại sao mới đầu khởi các hành? Từ thân hành kia từ khẩu hành kia. Người chết và người vào định diệt tưởng có gì sai biệt là, người chết ba hành mất không hiện thọ mạng, đoạn hơi ấm, đoạn các căn, đoạn nhập. Người định thọ tưởng ba hành đoạn mất, thọ mạng không đoạn, hơi ấm không đoạn, các căn chẳng khác, đây kia sai biệt. Định đây là hữu vi hay vô vi? Chẳng thể nói định này là hữu vi hay vô vi.
Hỏi: Tại sao chẳng thể nói định này là hữu vi hay vô vi?
Đáp: Pháp hữu vi ở định này không có, pháp vô vi vào ra chẳng thể biết. Cho nên, chẳng thể nói định này là hữu vi hay vô vi (thiền diệt định đã xong).
Luận đạo giải thoát phẩm mười hai phân biệt đã xong, nhân duyên phẩm số này, định giới đầu đà cầu bạn lành, phân biệt hành hành xứ hành môn năm thần thông, phân biệt tuệ, năm phương tiện, phân biệt đế, mười hai phẩm này là thứ lớp phẩm đạo giải thoát.
Vô biên vô xứng chẳng nghĩ lường. Vô lượng thiện tài khéo nói ra.
Trong pháp đây ai có thể biết.
Chỉ người tọa thiền thường thọ trì. Vi diệu thắng đạo làm thiện hạnh. Với giáo chẳng lầm lìa vô minh.