TẠNG LUẬN
SỐ 1659 - LUẬN KINH PHÁT TÂM BỒ ĐỀ
Tạo luận: Bồ Tát Thiên Thân. Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam Tạng Cưu Ma La Thập
Phẩm Thứ Năm: THI LA BA LA MẬT
Phẩm Thứ Sáu: SÀN ĐỀ BA LA MẬT
Phẩm Thứ Bảy: TỲ LÊ DA BA LA MẬT
Phẩm Thứ Tám: THIỀN NA BA LA MẬT
Phẩm Thứ Chín: BÁT NHÃ BA LA MẬT
Phẩm Thứ Mười: NHƯ THẬT PHÁP MÔN
Phẩm Thứ Mười Một: KHÔNG, VÔ TƯỚNG
Phẩm Thứ Mười Hai: CÔNG ĐỨC TRÌ
Kính lạy cõi vô biên,
Phật khứ, lai, hiện tại
Trí hư không chẳng động
Đức Đại Bi cứu đời
Có pháp Đại Phương Đẳng vi diệu tối thượng mà Bồ-tát-ma-ha-tát nơi Tạng Ma-đắc-lặc-già (Tạng Luận) từng tu hành, đó là khuyến người ham ưa tu tập Bồ đề vô thượng, hay làm cho chúng sinh phát tâm rộng sâu, dựng lập thệ nguyện, cứu kính trang nghiêm, xả bỏ thân mạng tài sản, thâu phục tâm tham lận, tu năm tụ giới để giáo hóa kẻ phạm giới, hành Nhẫn nhục rốt ráo để điều phục kẻ sân, ngu, phát tinh tiến, dõng mãnh để an lập chúng sinh, tu các thiền định để biết tâm chúng, tu hạnh Trí tuệ để diệt trừ vô minh vào cửa ngõ như thật, lìa tất cả ngã chấp, diễn thuyết không, vô tướng, hạnh sâu xa, ngợi khen công đức khiến giống Phật không đoạn dứt. Có vô lượng phương tiện như vậy trợ giúp cửa ngõ thanh tịnh của pháp Bồ đề, sẽ vì tất cả hàng thượng thiện phân biệt, chỉ bày, khiến tất cả đều chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Này chư Phật tử! Nếu quý vị thọ trì lời Phật dạy, hay diễn nói lại cho chúng sinh nghe thì trước tiên phải ngợi khen công đức của Phật. Chúng sinh nghe xong sẽ phát tâm cầu trí tuệ của Phật, nhờ phát tâm nên giống Phật không đoạn diệt. Nếu Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di, niệm Phật, niệm Pháp và niệm Như Lai hành Bồ tát đạo, vì cầu pháp mà trong vô số kiếp chịu mọi thống khổ. Do niệm như vậy và vì Bồ tát khác nói pháp dù chỉ một bài kệ, Bồ tát nghe được pháp ấy rồi sẽ được an vui, sẽ trồng căn lành tu tập pháp Phật, chứng đắc Bồ đề Vô thượng. Vì đoạn mọi khổ não sinh tử từ vô thỉ kiếp cho vô lượng chúng sinh, nên Bồ tát muốn thành tựu vô lương thân tâm, siêng năng tinh tiến phát nguyện rộng sâu, hành Đại phương tiện, khởi Đại từ bi, cầu Đại trí tuệ tướng vô kiến Đảnh, cầu những Đại pháp ấy của chư Phật. Phải biết pháp này vô lượng vô biên. Pháp vô lượng, nên phước đức quả báo cũng vô lượng. Như Lai nói: Phước đức quả báo trong một niệm thấp kém của các Bồ tát mới phát tâm, dù trăm ngàn kiếp nói cũng không thể hết, huống gì một ngày, một tháng, một năm cho đến trăm năm, phước đức quả báo do tâm tính chứa ấy lẽ nào nói hết chăng? Vì sao? Vì việc làm của Bồ tát vô tận, muốn làm cho tất cả chúng sinh đều trụ trong vô sinh pháp nhẫn, chứng đắc Bồ đề Vô thượng.
Này chư Phật tử! Bồ tát mới phát tâm Bồ đề giống như biển lớn bắt đầu sinh khởi. Phải biết đó là trụ xứ của các giá trị hạ, trung thượng cho đến bảo châu như ý vô giá, vì của báu này từ biển lớn phát sinh ra. Bồ tát mới phát tâm cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu khởi, đã trở thành trụ xứ để phát sinh tất cả pháp lành Thiền định, Trí tuệ cho Trời, Người, Thanh văn, Duyên giác đến chư Phật, Bồ tát. Lại nữa, có ba ngàn đại thiên thế giới lúc bắt đầu sinh khởi liền trở thành hai lăm Hữu. Tất cả chúng sinh trong ấy đều lấy đó làm nơi nương tựa, cư trú. Bồ tát phát tâm Bồ đề cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu khởi đã vì khắp tất cả vô lượng chúng sinh như sáu đường, bốn loài, chính kiến, tà kiến và tu tập thiện, ác, hộ trì giới cấm khỏi phạm bốn trọng tội, kính phụng Tam Bảo, không phỉ báng chính pháp, các hàng ma vương, ngoại đạo các hàng Sa môn, Phạm chí, Sát lợi, Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà, tất cả đều lấy đó làm nơi nương tựa, cư trú.
Lại nữa, Bồ tát phát tâm lấy Từ bi làm đầu. Lòng từ của Bồ tát vô lượng vô biên, bởi vậy phát tâm không có hạn lượng, ngang bằng với chúng sinh giới. Thí như hư không chỗ nào cũng che khắp, Bồ tát phát tâm cũng giống như vậy, tất cả chúng sinh đều được che chở hết. Nếu cõi chúng sinh vô lượng vô biên không thể cùng tột, thì Bồ tát phát tâm cũng giống như vậy, tâm ấy cũng vô lượng vô biên không thể cùng tận.
Hư không vô tận nên chúng sinh vô tận, chúng sinh vô tận nên Bồ tát phát tâm ngang bằng với cõi chúng sinh. Cõi chúng sinh thì không có hạn lượng, nay tôi nương lời dạy của Phật diễn nói phần nhỏ trong số ấy. Phương Đông có ngàn ức hằng hà sa vô số thế giới chư
Phật, phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương, thượng hạ, mỗi phương cũng có ngàn ức hằng hà sa vô số thế giới chư Phật. Tất cả thế giới đều nghiền thành vi trần, số vi trần đó nhục nhẫn không thể nào đếm được. Tất cả chúng sinh trong trăm vạn ức hằng hà sa vô số ba ngàn đại thiên thế giới đều cùng nhóm họp và lấy một trần, tất cả chúng sinh trong hai trăm vạn ức hằng hà sa vô số ba ngàn đại thiên thế giới cùng lấy hai trần, cứ như vậy lấy hết số đất cát trong mười phương mỗi phương có ngàn ức hằng hà sa vô số thế giới chư Phật, và số vi trần ấy hết, cõi chúng sinh không cùng không tận cũng giống như vậy. Thí như có người chẻ sợi lông thành trăm phần, dùng một phần ấy chấm vào nước biển cả, nay tôi nói một phần nhỏ chúng sinh cũng giống như vậy. Những chúng sinh không thể tính kể được nhiều như nước biển cả. Giả sử trong vô lượng vô biên vô số kiếp chư Phật có diễn nói thí dụ cũng không bao giờ cùng tận. Bồ tát phát tâm hay che chở vô lượng vô biên chúng sinh như vậy.
Này chư Phật tử! Làm sao Tâm Bồ đề ấy có thể cùng tận được! Nếu có Bồ tát nghe nói như vậy mà không kinh sợ, thối thất, thì phải biết người đó nhất định phát được Bồ đề. Giả sử vô lượng thế thảy chư Phật trong vô lượng vô số kiếp ngợi khen công đức ấy cũng không thể nào cùng tận. Vì sao? Vì tâm Bồ đề này không có hạn lượng, không bao giờ cùng tận. Có vô lượng vô biên lợi ích như vậy, nên diễn nói để khiến cho tất cả chúng sinh đều tin nhận, thực hành.
--------------------
Vì sao Bồ tát phát tâm Bồ đề? Do nhân duyên gì tu tập Bồ đề? Nếu Bồ tát thân gần thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập căn lành, chí cầu thắng pháp, tâm thường nhu hòa, gặp khổ nhẫn được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, tin ưa Đại thừa, cầu trí tuệ Phật, nếu người nào hay có đủ 10 pháp như vậy thì hay phát tâm Bồ đề vô thượng. Lại có 4 duyên để phát tâm tu tập Bồ đề vô thượng. Bốn duyên ấy là:
1. Nhớ nghĩ chư Phật mà phát tâm Bồ đề.
2. Quán lỗi lầm nơi thân mình mà phát tâm Bồ đề.
3. Thương xót chúng sinh mà phát tâm Bồ đề.
4. Cầu thắng quả tối thượng mà phát tâm Bồ đề. Nhớ nghĩ chư Phật lại có năm việc:
1. Nhớ nghĩ chư Phật mới phát tâm trong quá khứ, hiện tại, vị lai khắp mười phương cũng đầy đủ tính phiền não như ta ngày nay, nhưng cuối cùng chư Phật thành tựu chính giác, làm đấng vô thượng, do nhân duyên này mà phát tâm Bồ đề.
2. Nhớ nghĩ tất cả chư Phật trong ba đời phát đại dõng mãnh, mỗi vị đều chứng đắc Bồ đề vô thượng. Nếu Bồ đề ấy hay chứng đắc được, thì ta cũng sẽ chứng đắc, do duyên này mà phát tâm Bồ đề.
3. Nhớ nghĩ tất cả chư Phật trong ba đời Đại trí tuệ, ngay trong vô minh mà dựng lập tâm thù thắng, tính tập khổ hạnh, hay tự thoát khỏi ba cõi, ta nay cũng sẽ tự cứu vớt mình như vậy, do duyên này mà phát tâm Bồ đề.
4. Nhớ nghĩ tất cả chư Phật trong ba đời đều làm đấng Đại hùng trong loài người, vượt qua biển cả sinh tử phiền não, ta nay là trượng phu cũng sẽ vượt qua được, do duyên này mà phát tâm Bồ đề.
5. Nhớ nghĩ tất cả Phật trong ba đời phát Đại tinh tiến, xả bỏ thân mạng tài sản, cầu Nhất thiết trí, ta nay cũng sẽ học theo chư Phật, do duyên này mà phát tâm Bồ đề.
Quán lỗi lầm nơi thân mình mà phát tâm Bồ đề cũng có năm việc:
1. Tự quán thân mình, năm ấm bốn đại hay tạo tác vô lượng ác nghiệp, vì muốn xả ly nên phát tâm Bồ đề.
2. Tự quán thân mình, chín lỗ thường chảy vật ô uế bất tịnh, vì sinh tâm chán lìa nên phát tâm Bồ đề.
3. Tự quán thân mình có tham sân si, vô lượng phiền não thiêu đốt thiện tâm, vì muốn trừ diệt nên phát tâm Bồ đề.
4. Tự quán thân mình như bọt bóng, niệm niệm sinh diệt, vì muốn xả bỏ ham muốn, huyễn thân mà phát tâm Bồ đề.
5. Tự quán thân mình do vô minh che lấp, thường tạo ác nghiệp luân hồi trong sáu nẻo, chẳng chút lợi ích, vì cầu thoát khỏi luân hồi nên phát tâm Bồ đề.
Cầu thắng quả tối thượng mà phát tâm Bồ đề cũng có năm việc:
1. Thấy Như Lai tướng tốt trang nghiêm, quang minh sáng sạch, người thấy sẽ trừ được phiền não, vì muốn tu tập được như vậy nên phát tâm Bồ đề.
2. Thấy Như Lai pháp thân thường trụ, thanh tịnh không nhiễm, vì muốn tu tập được như vậy, nên phát tâm Bồ đề.
3. Thấy Như Lai có Giới Định Tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến, thanh tịnh pháp tụ, vì muốn tu tập được như vậy, nên phát tâm Bồ đề.
4. Thấy Như Lai có mười lực, bốn vô úy, ba niệm đại bi, vì muốn tu tập được như vậy, nên phát tâm Bồ đề.
5. Thấy Như Lai có Nhất thiết trí, thương xót chúng sinh, từ bi che chở khắp, hay dẫn dắt tất cả kẻ ngu mê vào con đường chân chính, vì muốn tu tập được như vậy, nên phát tâm Bồ đề.
Thương xót chúng sinh mà phát tâm Bồ đề cũng có 5 việc:
1. Vì thấy chúng sinh bị vô minh che lấp nên phát tâm Bồ đề.
2. Vì thấy chúng sinh bị mọi thống khổ vây bức nên phát tâm Bồ đề.
3. Vì thấy chúng sinh tạo nghiệp bất thiện nên phát tâm Bồ đề.
4. Vì thấy chúng sinh tạo tội cực ác nên phát tâm Bồ đề.
5. Vì thấy chúng sinh không tu tập chính pháp nên phát tâm Bồ đề.
Lại nữa, bị vô minh che lấp có bốn việc:
1. Thấy chúng sinh bị si mê, ái dục mê hoặc, chịu thống khổ lớn.
2. Thấy chúng sinh không tin nhân quả, tạo ra nghiệp ác. 3 Thấy chúng sinh xả bỏ chính pháp, tin nhận đạo tà.
4. Thấy chúng sinh chết chìm trong sông phiền não, bị trôi dạt trong 4 dòng sinh, già, bệnh, chết.
Lại nữa, bị mọi thống khổ vây bức cũng có bốn việc:
1. Thấy chúng sinh sợ sinh già bệnh chết, không cầu giải thoát lại tạo tác nghiệp ác.
2. Thấy chúng sinh ưu sầu khổ não, nhưng lúc nào cũng gây nhân khổ mà không chịu dừng nghỉ.
3. Thấy chúng sinh ái biệt ly khổ nhưng chẳng giác ngộ phương tiện lại thường nhiễm chấp.
4. Thấy chúng sinh oán tăng hội khổ, thường khởi ganh ghét, gây thù kết oán.
Tạo nghiệp bất thiện cũng có bốn việc:
1. Thấy chúng sinh vì ái dục nên tạo nghiệp ác.
2. Thấy chúng sinh biết rõ ái dục sinh khổ nhưng vẫn không bỏ dục.
3. Thấy chúng sinh tuy muốn cầu an lạc nhưng không giữ giới cấm.
4. Thấy chúng sinh tuy không ưa khổ nhưng cứ gây khổ không dừng.
Tạo tội Cực ác cũng có bốn việc:
1. Thấy chúng sinh hủy phạm giới trọng tuy có ưu sầu, lo sợ, nhưng vẫn phóng dật.
2. Thấy chúng sinh tạo tội cực ác, gây nghiệp năm vô gián nhưng vẫn còn bướng che giấu, không sinh tâm hổ thẹn.
3. Thấy chúng sinh phỉ báng chính pháp Đại thừa phương đẳng, ngu mê chấp trước rồi khởi tâm kiêu mạn.
4. Thấy chúng sinh tuy thông minh lanh lợi nhưng đoạn mất căn lành, trái lại càng cao ngạo, chẳng biết hối cải.
Không tu chính pháp cũng có bốn việc:
1. Thấy chúng sinh rơi vào tám nạn, không nghe chính pháp, không biết tu thiện.
2. Thấy chúng sinh gặp Phật ra đời, được nghe chính pháp nhưng không chịu thụ trì.
3. Thấy chúng sinh nhiễm chấp nơi ngoại đạo, chỉ biết làm khổ thân, xa lìa đạo chính yếu.
4. Thấy chúng sinh tu chứng phi tưởng, phi phi tưởng định rồi cho đó là Niết Bàn, khi phước báo hết thì đọa lại trong ba đường Ác.
Bồ tát thấy chúng sinh ngu mê tạo nghiệp, chịu khổ trong đêm dài, xả bỏ chính pháp, mê mờ chính đạo, vì thế Bồ tát phát Đại từ bi, chí cầu Bồ đề vô thượng, như cứu lửa cháy đầu. Tất cả chúng sinh những ai bị khổ não, ta sẽ cứu vớt khiến không còn một ai.
Này chư Phật tử! Ta đã lược nói những duyên sự làm nhân phát tâm của những người mới hành đạo Bồ tát. Nếu nói rộng ra thì có vô lượng vô biên duyên sự.
-------------------
Vì sao Bồ tát phát tâm hướng tới Bồ đề? Nhờ hạnh nghiệp gì mà thành tựu Bồ đề? Bồ tát phát tâm trụ trong Địa càn tuệ, trước tiên phải phát chính nguyện một cách kiên cố, nhiếp thụ tất cả vô lượng chúng sinh. Ta cầu Bồ đề vô thượng, cứu hộ độ thoát khiến không còn sót, làm cho tất cả chúng sinh đều nhập Niết Bàn Vô Dư. Bởi vậy lúc mới phát tâm phải lấy Đại bi làm đầu. Nhờ tâm Bi này, nên phát khởi mười chính nguyện rộng lớn. Mười chính nguyện ấy là gì? Đó là:
1. Nguyện tất cả căn lành do thân ta trong hiện tại trong quá khứ đã gây trồng về Bồ đề vô thượng, khiến cho nguyện này của ta niệm niệm tăng trưởng, đời đời sinh ra thường kết chặt trong tâm này, chẳng bao giờ quên mất, được Đà-la-ni giữ gìn.
2. Nguyện khi ta hồi hướng Đại Bồ đề rồi, nhờ căn lành này, sinh ra bất cứ nơi nào cũng thường được cúng dường hết thảy chư Phật, trọn không bao giờ sinh vào cõi nước không có Phật.
3. Nguyện khi ta sinh trong nước chư Phật rồi, thường được gần giữ hầu hạ chư Phật như bóng theo hình, chẳng sát na nào rời xa chư Phật.
4. Nguyện khi ta gần gũi Phật rồi, những điều ta muốn nghe đều được chư Phật giảng nói, mau chóng thành tựu Năm thông của Bồ tát.
5. Nguyện khi ta thành tựu Năm thông Bồ tát, liền hay thông đạt Thế đế, giả danh, thấu tỏ Đệ nhất Nghĩa đế, thật tính chân như, được chính pháp trí.
6. Nguyện khi ta được chính pháp trí, dùng tâm không nhàm chán diễn nói cho chúng sinh khiến họ nghe hiểu, được lợi ích, an vui.
7. Nguyện khi ta khai mở cho chúng sinh, dùng uy thần của Phật đến khắp thế giới trong mười phương cúng dường chư Phật nghe nhận chính pháp, nhiếp thọ tất cả chúng sinh.
8. Nguyện khi ta thọ nhận chính pháp của Phật, liền chuyển pháp luân thanh tịnh, tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới hễ nghe pháp ta, nghe danh hiệu ta liền xả bỏ tất cả phiền não, phát tâm Bồ đề.
9. Nguyện khi ta làm cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ đề, thường ở bên họ đoạn trừ việc không lợi ích, cho họ vô lương an lạc, xả bỏ thân mạng tài sản, nhiếp thọ chúng sinh, gánh vác chính pháp.
10. Nguyện khi ta hay gánh vác chính pháp, dù hành chính pháp nhưng tâm không thấy có hành, như chư Bồ tát thực hành chính pháp, nhưng chẳng thực hành gì cả và chẳng có gì là không thực hành, vì giáo hóa chúng sinh nên không bỏ chính nguyện.
Đó là 10 chính nguyện rộng lớn của Bồ tát phát tâm. Mười Đại nguyện có khắp trong cõi chúng sinh, nhiếp thụ tất cả hằng sa nguyện khác. Cõi chúng sinh cùng tận, nguyện của ta mới cùng tận, nhưng cõi chúng sinh không bao giờ cùng tận nên Đại nguyện này của ta cũng không bao giờ cùng tận.
Lại nữa, Bố thí là nhân của Bồ đề, vì thâu lấy tất cả chúng sinh. Trì giới là nhân của Bồ đề, vì đầy đủ thiện căn, viên mãn sở nguyện. Nhẫn nhục là nhân của Bồ đề, vì tăng trưởng hạnh lành, siêng năng giáo hóa tất cả chúng sinh. Thiền định là nhân của Bồ đề, vì hay điều phục chính mình, lại hay biết tâm hạnh của tất cả chúng sinh. Trí tuệ là nhân của Bồ đề, vì hay biết khắp tánh tướng của các pháp.
Nói tóm lại, Lục độ Ba-la-mật là chính nhân của Bồ đề, Bốn tâm vô lượng, ba mươi bảy phẩm trợ đạo cùng muôn hạnh lành khác hỗ trợ cho nhau mà thành tựu. Nếu Bồ tát tu tập Sáu Ba-la-mật, tùy công hạnh hành trì của mình mà dần dần được gần với Bồ đề Vô thượng.
Này chư Phật tử! Người cầu Bồ đề chớ nên phóng dật, hạnh phóng dật hay phá hoại căn lành. Nếu Bồ tát chế ngự được sáu căn đừng cho phóng dật thì người này hay tu được Sáu Ba-la-mật. Bồ tát phát tâm, trước tiên phải chí thành lập thệ quyết định. Người lập thệ, trọn không phóng dật, biếng trễ, chậm chạp. Vì sao? Vì lập thệ quyết định sẽ có năm việc sau đây:
1. Có khả năng vững chắc tâm mình.
2. Có khả năng chế phục phiền não.
3. Có khả năng ngăn chận phóng dật.
4. Có khả năng phá trừ Năm uẩn.
5. Có khả năng siêng tu Sáu Ba-la-mật.
Như Phật từng ngợi khen
Đấng Như Lai đại trí
Diễn thuyết các công đức
Sức nghiệp, phước, tuệ, nhẫn
Sức thệ nguyện hơn hết
Vì sao phải lập thệ? Nếu có người đến cầu xin mọi thứ nơi ta, lúc ấy ta tùy theo sở cầu của họ mà cho. Dù chỉ trong một niệm ta cũng không được sinh tâm tham tiếc. Nếu sinh tâm ác dù chỉ trong khảy móng tay, đem nhân duyên đó cho họ mà cầu quả báo thanh tịnh, tức là ta đã lừa dối vô lượng vô biên vô số chư Phật hiện tại trong khắp mười phương thế giới. Trong đời vị lai chắc chắn không khi nào thành tựu được vô thượng Bồ đề. Nếu ta Trì giới cho dù phải mất mạng đi nữa thì tịnh tâm thệ nguyện vẫn không bao giờ thay đổi. Nếu ta tu hạnh Nhẫn nhục, dù người khác làm tổn hại ta thậm chí đến cắt xẻ thân ta thì ta vẫn thường từ ái lập thệ mà không sinh tâm sân hận. Nếu ta tu hạnh Tinh tấn, dù gặp phải nóng, lạnh, phép vua, giặc cướp, nước, lửa, sư tử, hổ báo, không có cơm ăn, nước uống... nhưng ta vẫn kiên trì dụng tâm thề không thoái thất. Nếu ta tu Thiền định bị muôn việc quấy nhiễu không nhiếp tâm được, thì cần phải buộc niệm vào cảnh, thế không khỏi loạn tướng, phi pháp. Nếu ta tu tập Trí tuệ, quán tính như thật của tất cả các pháp, tùy thuộc thụ trì, với các pháp như thiện, bất thiện, hữu vi, vô vi, sinh tử, Niết Bàn không khởi Nhị kiến. Nếu tâm ta có sân hận, hối tiếc, thoái thất, loạn tưởng, khởi nhị kiến dù chỉ trong khoảng khảy móng tay mà tu Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ để cầu quả báo thanh tịnh tức là ta đã lừa dối vô lượng vô biên A-tăng-kỳ chư Phật hiện tại trong mười phương thế giới. Trong đời vị lai, chắc chắn không bao giờ thành tựu Bồ đề vô thượng. Bồ tát dùng mười Đại nguyện này tu tập chính pháp, dùng sáu thệ lớn chế phục tâm phóng dật, như vậy chắc chắn tinh tiến chuyên cần tu tập Sáu Ba-la-mật, thành tựu đạo quả Bồ đề vô thượng.
--------------------
Vì sao Bồ tát tu hạnh Bố thí? Nếu Bố thí mà tự lợi, lợi tha cả mình và người đều lợi lạc thì nên làm. Bố thí như vậy có thể hay trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh khiến họ lìa khổ não, cho nên tu hạnh Bố thí. Người tu hạnh Bố thí thường sinh tâm xả bỏ tất cả tài sản vật dụng của mình. Đối với kẻ đến xin, thường khởi tâm cung kính tôn trọng chẳng khác cha mẹ, Sư trưởng, thiện hữu tri thức. Đối với kẻ nghèo cùng hạ tiện, thường khởi tâm thương xót họ giống như con một. Họ xin bất cứ thứ gì, ta cũng hoan hỷ, cung kính dâng cho, đó gọi là Bồ tát phát tâm tu hạnh Bố thí. Nhờ tu Bố thí nên tiếng tốt của mình lan khắp thiên hạ sinh ra nơi nào cũng giàu có, sung túc, đó là tư lợi. Có thể làm cho chúng sinh được đầy đủ, giáo hóa điều phục khiến họ không còn tâm tham tiếc, đó là lợi tha. Dùng tâm Bố thí không chấp tướng giáo hóa chúng sinh khiến họ được lợi ích như mình, đó là cả mình và người đều lợi ích. Do tu Bố thí mà được ngôi vị Chuyển Luân Thánh Vương, nhiếp thụ tất cả vô lượng chúng sinh, cho đến chứng đắc pháp tạng vô tận của chư Phật, đó là trang nghiêm đạo Bồ đề. Bố thí có ba loại:
1. Bố thí pháp.
2. Bố thí tâm không sợ sệt.
3. Bố thí của cải.
Bố thí pháp là khuyên người khác thụ giới, tu hạnh xuất gia, làm cho họ phá bỏ tà kiến, chấp thường chấp đoạn, bốn thứ điên đảo, nghiệp ác, tội lỗi, phân biệt giảng nói nghĩa Chân đế cho họ nghe, ngợi khen công đức tinh tiến, giảng nói quả báo xấu của tâm phóng dật. Nếu có chúng sinh khiếp sợ vì phép vua, sư tử, hổ báo, lửa, nước, giặc cướp, thì Bồ tát cần phải cứu giúp, che chở cho họ. đây gọi là Bố thí tâm không sợ sệt.
Đem của cải của mình bố thí không hề tham tiếc, vật quý như vàng bạc châu báu, voi ngựa xe cộ, lụa là thóc gạo, y phục đồ ăn thức uống, vật nhỏ như cọng bún, sợi chỉ, dù ít dù nhiều phải đáp ứng tùy theo ý muốn của người xin, đó gọi là Bố thí của cải. Bố thí của cải có năm loại:
1. Chí tâm mà đem cho.
2. Tín tâm mà đem cho.
3. Tùy lúc mà đem cho.
4. Tự tay mình đem cho.
5. Như pháp mà đem cho.
Vật không nên đem Bố thí cũng có năm loại:
1. Của cải kiếm được một cách phi pháp, vì đây là vật bất tịnh.
2. Rượu, và thuốc độc, vì làm cho chúng sinh tâm loạn.
3. Lưới, kích, cung, nỏ v.v.. vì làm cho chúng sinh khổ não.
4. Dao, gậy, cung, tên... vì làm hại chúng sinh.
5. Âm nhạc, sắc đẹp vì phá hoại tâm tịnh người khác. Nói tóm lại những gì không đúng pháp, làm khổ não chúng sinh thì không được đem Bố thí cho người khác. Còn lại, tất cả những gì hay khiến chúng sinh được an lạc thì được gọi là Như pháp thí.
Người ưa bố thí sẽ được năm thứ thanh danh, thiện lợi:
1. Thường được gần gũi hết thảy Hiền Thánh.
2. Tất cả chúng sinh đều ưa gặp.
3. Lúc vào chúng hội được mọi người cung kính.
4. Tiếng khen, thanh danh vang khắp mười phương.
5. Có khả năng làm cái nhân thượng diệu cho quả vị Bồ đề.
Hàng Bồ tát được gọi là Nhất thiết trí. Nhất thiết trí ở đây không phải là bố thí nhiều tiền của mà là tâm bố thí. Đúng như pháp mà cầu tiền của rồi đem Bố thí thì gọi là Nhất thiết trí. Dùng tâm thanh tịnh, không dua nịnh mà bố thí là Nhất thiết trí. Thấy người nghèo cùng khởi tâm thương xót mà bố thí là Nhất thiết trí. Thấy người bị khổ, phát tâm từ bi bố thí gọi là Nhất thiết trí. Ở trong cảnh nghèo nàn túng thiếu mà vẫn đem của cải bố thí là Nhất thiết trí. Bảo vật mà mình yêu thích nhưng vẫn mở lòng đem ra bố thí là Nhất thiết trí. Chẳng cần biết người ấy giữ giới, phá giới, có phước, không phước, đều hoan hỷ bố thí cho họ gọi là Nhất thiết trí. Vì cầu đạo vô thượng Bồ đề mà bố thí gọi là Nhất thiết trí. Không vì cầu những tứ an vui thượng diệu ở trời người mà bố thí thì gọi là Nhất thiết trí. Muốn bố thí thì bố thí ngay, bố thí rồi không hối hận thì gọi là Nhất thiết trí. Dùng hoa bố thí tức là bố thí đầy đủ Đà-la-ni Thất giác hoa. Dùng hương bố thí tức là đủ giới định tuệ xông ướp nơi thân. Dùng quả bố thí, tức là thành tựu đầy đủ quả vô lậu. Dùng cơm bố thí tức là thành tựu đầy đủ cái vui ở thân mạng. Dùng y phục bố thí tức là đầy đủ sắc thanh tịnh, trừ được tâm không hổ thẹn. Dùng đèn đuốc bố thí là đầy đủ Phật nhãn chiếu soi tất cả tính của các pháp. Dùng voi ngựa xe cộ bố thí là chứng đắc vô thượng thừa, đầy đủ thần thông. Dùng tơ lụa bố thí là đầy đủ tám mươi vẻ đẹp tùy hình. Dùng châu báu bố thí là đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn. Dùng sức lực nô bộc bố thí là đầy đủ mười lực, bốn vô úy của Phật.
Nói tóm lại, dùng thành, nước, vợ con, đầu mắt, tay chân, đem cả thân mạng bố thí, không khởi tâm tham tiếc tức là vì chứng đắc Bồ đề vô thượng độ thoát chúng sinh. Bồ tát Ma-ha-tát tu hạnh bố thí, không thấy vật bố thí, người nhận vật thí, vì không thấy có tướng bố thí. Như vậy là thành tựu viên mãn Đàn Ba-la-mật.
----------------------
Vì sao Bồ tát tu hạnh Trì giới? Nếu Trì giới mà tự lợi, lợi tha, cả mình và người đều lợi lạc thì nên trì. Trì giới như vậy thì hay trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa khổ não, cho nên tu hạnh Trì giới. Người tu hạnh Trì giới thường làm thanh tịnh cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, tâm hay xả bỏ những hạnh bất thiện, thường hay quở trách hạnh xấu, những giới bị hủy phạm, tâm thường hoảng sợ dù chỉ là lỗi nhỏ. Đó gọi là Bồ tát phát tâm tu hạnh Trì giới. Nhờ Trì giới mà người đó xa lìa tất cả tội ác, thường sinh nơi an lành, đó là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ không phạm, đó là lợi tha. Đem công đức giữ giới ấy hồi hướng đạo Bồ đề, giáo hóa chúng sinh cũng được lợi lạc như mình, đó gọi là cả mình và người đều được lợi lạc. Nhờ Trì giới mà được lìa dục, cho đến trừ sạch lậu hoặc, thành vô thượng giác, đây gọi là trang nghiêm đạo Bồ đề.
Giới có 3 loại:
1. Thân giới.
2. Khẩu giới.
3. Tâm giới.
Người giữ được thân giới sẽ vĩnh viễn xa lìa hạnh giết hại, trộm cướp, dâm dục, không cướp đoạt thân mạng kẻ khác, không cướp lấy tài sản của người, không phạm phải sắc đẹp của người. Lại nữa, không tạo tác nhân duyên, phương tiện để giết hại, không dùng gậy gộc, đá ngói làm tổn hại chúng sinh. Nếu vật thuộc về người khác thì người đó dùng, dù một lá rau, cọng cỏ, họ không cho thì không được lấy. Lại cũng không liếc nhìn sắc đẹp yêu kiều của người khác. Trong bốn uy nghi thường thận trọng, xét kỹ, đó gọi là giữ thân giới.
Giữ khẩu giới thì đoạn trừ tất cả nói dối, nói hai lưỡi, nói ác khẩu và nói thêu dệt, thường không lừa dối người, ly gián họ, không dùng văn từ hoa mỹ phỉ báng, hủy nhục người khác, không tạo phương tiện làm khổ não người khác. Hễ nói ra thì chân thật, nhu hòa, đáng tin, thường làm lợi ích người khác, khuyến hóa họ tu thiện, đó gọi là khẩu giới.
Giữ tâm giới thì trừ diệt tham dục, sân hận, tà kiến, thường tu tâm hòa nhã. không tạo lỗi lầm, tin hễ tạo tội lỗi tất chịu quả báo xấu, nhờ sức tư duy mà không làm các điều ác, dù tội nhẹ vẫn sinh tâm sợ như tội cực nặng, giả sử lỡ làm rồi thì sinh tâm hối hận, phiền não, thấy chúng sinh thì sinh tâm thương xót, biết ân báo ân không hề có tâm tham tiếc, ưa làm việc phước đức, thường giáo hóa người khác, thể hiện lòng từ, thương xót tất cả, đó gọi là Tâm giới.
Thành tựu mười nghiệp lành này sẽ có năm lợi ích:
1. Có khả năng chế phục hạnh xấu.
2. Có khả năng phát khởi tâm thiện.
3. Có khả năng ngăn chặn phiền não.
4. Thành tựu được tâm tịnh.
5. Có khả năng làm giới tăng trưởng.
Nếu người tu tập hạnh không phóng dật sẽ đầy đủ chính niệm, biết phân biệt thiện ác, phải biết người này nhất định hay tu được mười nghiệp thiện. 84. 000 vô lượng giới phẩm đều ở trong mười giới thiện này, mười giới thiện này có thể làm nền tảng cho tất cả thiện giới, đoạn trừ nghiệp ác của thân, khẩu, ý, có thể chế phục tất cả pháp bất thiện, bởi vậy nó được gọi là Giới. Giới có năm loại:
1. Giới Ba la đề mộc xoa.
2. Giới Định cộng.
3. Giới Vô lậu.
4. Giới Nhiếp căn.
5. Giới Vô tác.
Bạch Tứ yết ma, theo thầy mà thụ thì gọi là giới Ba-la-đề-mộc-xoa. Căn bản Bốn thiền, Bốn thiền vị đáo gọi là Giới Định Cộng. Căn bản Bốn thiền, Sơ thiền vị đáo là giới Vô lậu. Thâu giữ các căn, tu chính niệm tâm phóng dật là giới Nhiếp căn. Xả thân, đời sau không còn tạo ác nữa là giới Vô tác. Bồ tát tu giới không giống Thanh văn, Bích Chi Phật. Do không đồng như vậy nên được gọi là Thiện trì giới. Do khéo trì giới nên hay làm lợi ích cho tất cả chúng sinh. Trì tâm Từ giới, vì cứu hộ chúng sinh khiến họ an lạc. Trì tâm Bi giới, vì nhẫn thụ các khổ, cứu giúp ách nạn. Trì tâm Hỷ giới vì hoan hỷ tu thiện mà không sinh tâm biếng nhác. Trì tâm Xả giới, vì oán thân đều bình đẳng, lìa ái dục sân hận. Trì giới Bố thí, vì muốn điều phục giáo hóa chúng sinh. Trì giới Nhẫn nhục vì tâm thường như hòa, không nổi sân hận. Trì giới Tinh tiến, vì muốn nghiệp lành ngày càng tăng trưởng, không hề thoái chuyển. Trì giới Thiền định, vì muốn lìa dục, bất thiện, trưởng dưỡng Thiền định. Trì giới Trí tuệ, vì không nhàm chán thiện căn, nghe nhiều. Trì giới thân gần thiện hữu tri thức vì muốn trợ giúp để thành tựu đạo Bồ đề vô thượng. Trì giới xa lìa ác tri thức vì muốn xa lìa nơi có ba ác, tám nạn.
Hàng Bồ tát tu trì tịnh giới chẳng nương Dục giới, chẳng gần Sắc giới, chẳng trụ Vô sắc giới, đó gọi là giới thanh tịnh. Xa lìa trần dục, đoạn trừ sân hận, diệt trừ vô minh là giới thanh tịnh. Lìa nhị biên đoạn, Thường, không trái với nhân duyên là giới thanh tịnh. Không chấp tướng giả danh của sắc thụ tưởng hành thức là giới thanh tịnh. Không chấp chặt nhân, không khởi dị kiến, không trụ trong nghi ngờ là giới thanh tịnh. Không trụ trong ba bất thiện căn Tham, Sân, Si là giới thanh tịnh. Không trụ trong ngã mạn, kiêu mạn, tăng thượng mạn, mạn mạn, đại mạn, khéo nhu hòa thuận theo là giới thanh tịnh. Lợi hại, khen, chê, khổ vui không hề lay động là giới thanh tịnh. Không khổ não, không nóng bức, vắng lặng lìa tướng là giới thanh tịnh.
Nói tóm lại, chẳng tiếc thân mạng, quán vô thường sinh tâm nhàm chán viễn ly, siêng tu căn lành, dõng mãnh tinh tiến là giới Thanh tịnh. Bồ tát ma-ha-tát tu hành trì giới, không thấy tâm tịnh, vì lìa khỏi tướng, như vậy là thành tựu viên mãn Thi-la Ba-la-mật.
-------------------------
Vì sao Bồ tát tu hạnh Nhẫn nhục? Nếu Nhẫn nhục mà tự lợi lợi tha, cả mình và người đều lợi lạc thì nên tu. Nhẫn nhục được như vậy thì hay trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa xa khổ não nên tu hạnh Nhẫn nhục. Người tu Nhẫn nhục, tâm thường khiêm cung với tất cả chúng sinh, xả bỏ tâm ương bướng, kiêu mạn, thấy kẻ thô ác khởi tâm thương xót, lời nói thường hòa nhã, khuyến hóa người khác tu thiện, hay phân biệt giảng nói sự khác nhau giữ quả báo sân hận và nhẫn nhục, nhu hòa. Đó là Bồ tát phát tâm tu hạnh Nhẫn nhục. Nhờ tu hạnh Nhẫn nhục, mà xa lìa muôn ác, thâm tâm an vui, đây là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ nhu hòa, điều thuận là lợi tha. Đem công đức tu hạnh Nhẫn nhục hồi hướng, giáo hóa chúng sinh cùng được lợi ích như mình, đây gọi là cả mình và người đều được lợi lạc. Nhờ tu Nhẫn nhục mà được đoan chính, được người kính trọng, cho đến được tướng hảo thượng diệu như Phật, đây gọi là trang nghiêm đạo Bồ đề. Nhẫn nhục có ba loại, là thân, khẩu, và ý.
Thế nào là Thân Nhẫn nhục? Là nếu người làm ác, tổn hại, đánh đập mình, cho đến làm tổn thương mình, nhưng mình vẫn hay nhẫn chịu. Thấy chúng sinh bị nguy cấp, hoảng sợ, mình đem thân thay thế mà không biết mỏi mệt, đó là Thân nhẫn nhục.
Thế nào là Khẩu nhẫn nhục? Là bị người mắng chửi ta vẫn im lặng đón nhận, nếu gặp kẻ phi lý đến quở trách ta ta phải nói năng hòa nhã, tùy thuận với họ, nếu ta bị vu khống, phỉ báng đủ điều, cũng phải nhẫn chịu, đó là Khẩu nhẫn.
Thế nào là Ý nhẫn? Là thấy kẻ sân hận ta không giận họ, nếu bị bức bách khổ não nhưng tâm vẫn không loạn, nếu bị hủy nhục, tâm cũng không oán giận, đó gọi là Ý nhẫn.
Kẻ đánh đập trong thế gian có hai loại: Một là Thật, hai là vu khống. Nếu mình có lỗi, bị người nghi ngờ, đánh đập, thì ta phải vui vẻ nhận lãnh như uống nước Cam lồ, phải sinh tâm cung kính người đó, vì sao như vậy? Vì họ khéo giáo hóa điều phục ta, khiến ta lìa được tội lỗi. Nếu ta bị vu khống rồi bị đánh đập, ta phải suy nghĩ rằng, ngày nay ta vô tội đây là quả báo do đời trước tạo ra, nên phải nhẫn nhục. Lại suy nghĩ rằng, bốn đại giả hợp, năm duyên hội tụ, ai là người bị đánh, lại phải quán người đó giống như người điên cuồng, ta phải xót thương họ, vậy tại sao lại không nhẫn chịu!
Người mắng chửi cũng có hai loại, một là thật, hai là không thật.
Nếu người chửi thật ta nên sinh lòng hổ thẹn, nếu là không thật thì hãy nghĩ việc đó không can hệ gì đến ta, chẳng khác gió thoảng qua tai, chẳng làm tổn hại ta, bởi vậy nên nhẫn chịu. Lại nữa, người sân cũng vậy, họ đến nổi sân si với ta, ta phải nhẫn chịu. Nếu ta nổi sân với họ thì đời sau sẽ đọa trong cõi ác, chịu mọi thống khổ, vì nhân duyên đó, nếu thân ta có bị cưa xẻ, chặt đứt thành từng mảnh ta cũng không nổi sân. Phải quán nhân duyên nghiệp báo mà ta không nhẫn chịu được thì làm sao điều phục tâm mình, như vậy làm sao điều phục chúng sinh, khiến họ được giải thoát mọi pháp ác, thành tựu quả vô thượng? Nếu có người trí thích tu hạnh nhẫn nhục, người này thường được tướng mạo đoan nghiêm, giàu có sung túc, người khác thấy đều hoan hỷ kính phục. Lại phải quán xét, những người có dung mạo xấu xí, thân hình xấu xa, các căn không đủ, thiếu thốn tiền của, nên biết đó là quả báo của lòng sân hận. Do nhân duyên đó, người trí càng phải siêng tu nhẫn nhục. Nhân duyên phát sinh nhẫn nhục có mười loại.
1. Không thấy tướng ngã và ngã sở.
2. Không phân biệt chủng tính.
3. Phá trừ kiêu mạn.
4. Ác đến không báo thù.
5. Thấy tướng vô thường.
6. Tu hạnh từ bi
7. Tâm không phóng dật
8. Xả bỏ những việc như khổ vui, đói khát.
9. Đoạn trừ sân hận.
10. Tu tập trí tuệ.
Nếu người hay thành tựu mười việc này, phải biết người đó hay tu nhẫn nhục. Bồ tát ma-ha-tát lúc tu thanh tịnh cứu kính, mà thể nhập vào không, vô tác, vô nguyện, vô tướng, không hòa hợp với thấy, nghe, nguyện, không chấp trước không, vô tác, vô nguyện, vô tướng thì thấy, nghe, nguyện ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, đây được gọi là nhẫn thanh tịnh cứu cánh. Dù vào tận kết, dù vào tịch diệt, nhưng không hòa hợp với kết sinh tử, nương tựa tận kiết tịch diệt, các kiết ấy đều không. Nhẫn như vậy là không có hai tướng, đây gọi là nhẫn thanh tịnh cứu cánh. Dù tính chẳng tử sinh, chẳng do cái khác sinh, chẳng do hòa hợp sinh, cũng không nằm ngoài cái chẳng thể hủy hoại, cái không thể hủy hoại ấy là không cùng tận, nhẫn như vậy là không có hai tướng, đây gọi là nhẫn Thanh tịnh cứu cánh. Không tạo tác, chẳng tạo tác, không gá nương, không phân biệt, không trang nghiêm, không tu trị, không phát tiến, rốt ráo chẳng tạo, chẳng sinh, nhẫn như vậy gọi là nhẫn vô sinh. Bồ tát tu hạnh nhẫn ấy, được thụ ký nhẫn, Bồ tát ma-ha-tát tu hành nhẫn nhục, tánh tướng đều không, vì không có chúng sinh, như vậy là thành tựu viên mãn Sàn đề Ba-la-mật.
Vì sao Bồ tát tu hạnh Tinh tiến? Nếu Tinh tiến mà tự lợi, lợi tha, cả mình và người đều lợi lạc thì nên làm. Tinh tiến như vậy là hay trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh khiến họ xa lìa khổ não nên tu hạnh Tinh tiến. Người tu hạnh Tinh tiến bất cứ lúc nào cũng thường siêng năng, tu tập Phạm hạnh thanh tịnh, xa lìa biếng trễ, tâm không phóng dật. Đối với hoạn nạn, những việc không lợi ích, tâm thường tinh tiến, trọn không thoái chuyển. Đây gọi là Bồ tát phát tâm tu hạnh Tinh tiến. Nhờ tu tinh tiến nên hay được những pháp thiện thượng diệu của thế gian và xuất thế gian, đây là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ siêng tu thiện pháp, đây là lợi tha. Đem công đức tu tập chính nhân Bồ đề của mình giáo hóa chúng sinh khiến họ cũng lợi lạc như mình, đây là mình và người đều lợi lạc. Nhờ tu hạnh Tinh tiến mà được diệu quả thanh tịnh thù thắng, vượt qua các Địa, mau thành Chính giác, đây là trang nghiêm đạo Bồ đề. Tinh tiến có hai loại:
1. Vì cầu đạo Vô thương mà phát tâm Tinh tiến.
2. Vì muốn cứu vớt mọi thống khổ nên phát tâm Tinh tiến.
Bồ tát thành tựu mười niệm nên hay phát tâm siêng năng thực hành Tinh tiến. Mười niệm ấy gồm:
1. Niệm vô lượng công đức của Phật.
2. Niệm tính giải thoát chẳng thể nghĩ bàn của Pháp.
3. Niệm tính thanh tịnh không nhiễm của Tăng.
4. Niệm thực hành Đại từ làm an ổn chúng sinh.
5. Niệm thực hành Đại bi cứu vớt mọi thống khổ.
6. Niệm nhóm chính định để khuyến phát tu thiện.
7. Niệm nhóm tà định để nhổ bỏ trở về cội nguồn.
8. Niệm sự đói khát nóng bức khổ não trong loài Ngạ quỷ.
9. Niệm phải chịu mọi thống khổ triền miên trong loài súc sinh.
10. Niệm phải chịu sự khổ đau thiêu đốt trong đường Địa ngục.
Bồ tát suy nghĩ mười niệm như vậy, công đức của Tam Bảo ta phải tu tập; từ bi chính định, ta phải khuyến khích; Tà định, nỗi thống khổ của chúng sinh trong ba đường ác ta phải cứu vớt. Tư duy như vậy, chuyên tâm bất loạn, ngày đêm cần tu không hề ngừng nghỉ, như thế được gọi là hay khởi chính niệm Tinh tiến. Bồ tát Tinh tiến cũng có bốn việc, đó là tu tập Bốn chính cần.
1. Pháp ác chưa sinh thì đừng cho phát sinh.
2. Pháp ác đã sinh phải mau đoạn trừ.
3. Pháp thiện chưa sinh phải làm cho nó phát sinh.
Pháp thiện sinh rồi phải làm cho nó tăng trưởng viên mãn.
Bồ tát tu tập Bốn chính cần như vậy không hề ngừng nghỉ, đó là Tinh tiến. Chuyên cần Tinh tiến hay phá trừ tất cả phiền não, tăng trưởng chính nhân Bồ đề vô thượng. Bồ tát hay nhận mọi sự thống khổ của thân tâm, vì muốn làm an ổn chúng sinh nên không hề biết mỏi mệt, đó là Tinh tiến. Lúc Bồ tát phát tâm Tinh tiến xa lìa dua nịnh, tà ác, tức là đã tu tập chính Tinh tiến, đó là tu Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Thiền định, Trí tuệ, Từ Bi Hỷ Xả. Việc muốn làm, đã làm, đang làm đều chí tâm siêng năng tinh tiến không hề hối tiếc. Đối với pháp thiện và việc cứu vớt thống khổ, như cứu lửa cháy đầu, tâm không thoái lui, đó là Tinh tiến. Bồ tát tuy không tiếc thân mạng, nhưng vì cứu vớt mọi thống khổ, hộ trì chính pháp, nên cần phải yêu tiếc thân mạng, không bỏ uy nghi, thường tu pháp thiện. Lúc tu pháp thiện tâm không biếng trễ, dù phải mất mạng cũng không bỏ chính pháp, đó là Bồ tát tu đạo Bồ đề, cần hành Tinh tiến. Người biếng trễ thì không thể trong một lúc mà bố thí khắp tất cả, không thể Trì giới, Nhẫn nhục. Đối với mọi thống khổ phải cần hành Tinh tiến, thâu tâm chính định, phân biệt thiện ác. Bởi vậy nên nói, Tinh tiến là chính nhân làm cho Sáu Ba-la-mật tăng trưởng. Nếu hạnh Tinh tiến của Bồ tát ma-ha-tát tăng trưởng thì mau chóng thành tựu Bồ đề vô thượng. Bồ tát phát Đại trang nghiêm mà khởi hạnh Tinh tiến cũng có bốn việc:
1. Phát đại trang nghiêm.
2. Tích tập dõng mãnh.
3. Tu tập căn lành.
4. Giáo hóa chúng sinh.
Vì sao Bồ tát phát đại trang nghiêm? Vì trong sinh tử, Bồ tát hay kham nhẫn vô lượng số kiếp, trong vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức na do tha hằng hà sa vô số kiếp sẽ thành Phật đạo nên tâm không biết mỏi mệt, đó gọi là không biếng nhác trang nghiêm Tinh tiến. Bồ tát tích tập dõng mãnh mà khởi Tinh tiến, như trong ba ngàn đại thiên thế giới toàn là lửa dữ, nhờ gặp Phật nên được nghe pháp, vì đưa chúng sinh vào trong pháp thiện nên cần phải từ nhà lửa ấy mà vượt ra, vì điều phục chúng sinh nên đặt tâm thiện trong Đại bi, đó là dõng mãnh Tinh tiến. Bồ tát tu tập căn lành mà khởi Tinh tiến, như đem tất cả căn lành đã phát đó hồi hướng về Bồ đề Vô thượng, vì muốn thành tựu Nhất thiết trí, đó là tu tập căn lành Tinh tiến. Bồ tát giáo hóa chúng sinh mà khởi Tinh tiến, tính của chúng sinh không thể tính kể, như hư không vô lượng vô biên, Bồ tát lập nguyện ta phải độ thoát hết thảy chúng sinh không còn sót, vì muốn hóa độ nên cần hành Tinh tiến, đó là giáo hóa Tinh tiến.
Nói tóm lại, Bồ tát tu tập trợ đạo tạo công đức trợ giúp thành tựu trí tuệ vô thượng, tu tập Phật pháp mà khởi Tinh tiến, công đức của chư Phật vô lượng vô biên, Bồ tát ma-ha-tát phát đại trang nghiêm, cần hành Tinh tiến cũng vô lượng vô biên như vậy. Bồ tát ma-ha-tát tu hành Tinh tiến không có tâm lìa dục, vì cứu vớt mọi thống khổ. Như vậy là đã thành tựu viên mãn Tỳ-lê-da Ba-la-mật.
-----------------
Vì sao Bồ tát tu tập Thiền định? Nếu Thiền định mà tự lợi, lợi tha, mình người đều lợi lạc thì nên tu. Thiền định như vậy thì có khả năng trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh, khiến họ lìa khổ nên tu Thiền định. Người tu Thiền định thường khéo nhiếp phục tâm mình, tất cả loạn tưởng thảy đều không khởi, đi đứng nằm ngồi thường buộc niệm hiện tiền, quán thuận quán nghịch, quán từ đầu đến cổ, tay, chân, ngực, lưng, an ban sổ tức, đó gọi là Bồ tát phát tâm tu Thiền định. Nhờ tu Thiền định nên không thụ các quả báo xấu, tâm thường an vui, đó là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ tu tập chính niệm, đó là lợi tha. Đem công đức tu tập Tam muội thanh tịnh, giác quan lìa ác ấy giáo hóa chúng sinh khiến họ cũng lợi lạc như mình, đó là mình và người đều lợi lạc. Nhờ tu Thiền định nên được tám thứ giải thoát, cho đến tam muội Thủ Lăng Nghiêm, Kim Cang đó gọi là trang nghiêm đạo Bồ đề, Thiền định do ba pháp sinh.
1. Từ Văn tuệ.
2. Từ Tư tuệ.
3. Từ Tu tuệ.
Từ ba pháp này mà dần dần sinh tất cả Tam muội. Thế nào Văn tuệ? Là tâm thường ưa thích những pháp đã được nghe, lại suy nghĩ rằng, vô ngại giải thoát v.v.. là pháp của chư Phật, cần phải nhờ nghe nhiều mà thành tựu. Suy nghĩ vậy rồi, bất cứ lúc nào cầu pháp cũng siêng năng Tinh tiến, ngày đêm thường ưa nghe pháp, không bao giờ thấy chán thấy đủ, đó là Văn tuệ.
Thế nào là Tư tuệ? Là suy nghĩ quán sát như thật tướng của tất cả pháp hữu vi, đó là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, niệm niệm sinh diệt, mau chóng tan hoại, nhưng chúng sinh bị ưu sầu khổ não yêu ghét trói buộc, bị lửa tham sân si thiêu đốt, tăng trưởng thống khổ thêm trong đời sau, nó không có thật tính, giống như huyễn hóa. Thấy như vậy rồi liền sinh tâm nhàm chán, xa lìa tất cả pháp hữu vi, càng thêm tinh tiến, hướng đến trí tuệ Phật. Suy nghĩ, trí tuệ của Như Lai không thể nghĩ bàn, không thể suy lường, có sức mạnh lớn không gì hơn được, nó hay làm cho chúng sinh đến được thành lớn an ổn không sợ sệt, không còn thoái chuyển, hay cứu vô lượng chúng sinh khổ não. Thấy được trí Phật vô lượng, thấy pháp hữu vi khổ não vô lượng, chí tâm mong cầu Đại thừa vô thượng, đó gọi là Tư tuệ.
Thế nào là Tu tuệ? Là từ mảnh xương đầu tiên quán mãi đến Bồ đề Vô thượng, đều gọi là Tu tuệ. Lìa dục, pháp bất thiện, có giác có quán, lìa sinh hỷ lạc vào Sơ thiền. diệt giác quán, bên trong chế tâm một chỗ thanh tịnh, không giác không quán, Định sinh hỷ lạc vào Nhị thiền. Lìa hỷ cho nên xả hành, tâm niệm an lạc, thân được yên vui, hay xả những gì Hiền Thánh đã nói, thường niệm thụ lạc vào Tam thiền. Đoạn khổ, đoạn vui, trước phải diệt ưu, hỷ, xả bất khổ bất lạc hạnh, niệm thanh tịnh vào Tứ thiền. Vượt qua tất cả sắc tướng, diệt tất cả đối tướng, không niệm tất cả tướng sai khác, biết hư không vô biên liền thể nhập xứ hư không vô sắc định. Vượt qua tất cả tướng hư không, biết Thức vô biên liền thể nhập xứ vô sắc thức định. Vượt qua tất cả tướng Thức, biết vô sở hữu, liền nhập xứ vô sở hữu vô sắc định. Vượt qua tất cả vô sắc phi hữu xứ, biết phi hữu phi tưởng vô tưởng, liền thể nhập xứ Vô sắc phi hữu tưởng phi vô tưởng. Chỉ tùy thuận pháp hạnh nên không ưa đắm, cầu vô thượng thừa, thành Tối chính giác, đó là Tu tuệ. Bồ tát từ Văn, Tư, Tu tuệ mà tinh cần thâu giữ tâm, như vậy là thành tựu chính định. Ba minh, Sáu thông, viên mãn Thiền na Ba-la-mật.
Lại nữa, Bồ tát tu tập thiền định lại có mười pháp hạnh mà Thanh văn, Bích Chi Phật không có.
1. Tu định mà không thấy có ngã, vì đầy đủ các thiền định của Như Lai.
2. Tu định mà không đắm không chấp, vì xả bỏ tâm nhiễm, không cầu sự an vui cho chính mình.
3. Tu định có đủ thần thông, vì biết các tâm hành của chúng sinh.
4. Tu định biết tâm chúng sinh, vì độ thoát tất cả chúng sinh.
5. Tụ định hành Đại bi, vì đoạn phiền não cho chúng sinh.
6. Tu định và các thiền định Tam muội, vì khéo biết ra, vào, vượt qua ba cõi.
7. Tu định thường được tự tại, vì đầy đủ tất cả pháp thiện.
8. Tu định, tâm mình vắng lặng, vì vượt xa Tam muội thiền định của Nhị thừa.
9. Tu định thường nhập trong Trí tuệ, vì vượt khỏi thế gian đến được bờ bên kia.
10. Tu định hay trùng hưng chính pháp, vì tiếp nối mạng mạch Tam Bảo không để đoạn dứt.
Thiền định như vậy, hàng Thanh Văn. Bích Chi Phật không cùng có. Lại nữa, vì biết tâm khổ não của tất cả chúng sinh nên tu tập Thiền định, trợ giúp thành tựu trụ tâm, khiến Thiền định này an trụ trong tâm bình đẳng, đây gọi là Thiền định. Thiền định như vậy là ngang bằng với không, vô tướng, vô nguyện, vô tác. Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác này ngang bằng với chúng sinh. Chúng sinh ngang bằng với các pháp, thể nhập được như vậy thì gọi là Thiền định. Lại nữa, Bồ tát tùy thuận hạnh của thế gian mà không nhiễm ô những hạnh ấy, xả tám pháp thế gian, diệt tất cả oán kết, xa lìa nơi ồn nào, thích ở một mình, Bồ tát tu tập thiền định như vậy thì tâm an lạc, lìa tất cả pháp thế gian. Lại nữa, Bồ tát tu Thiền định và đầy đủ trí tuệ, phương tiện, thần thông. Thế nào là thông? Thế nào là trí? Nếu thấy sắc tướng hay nghe âm thanh, hoặc biết tâm người hay nghĩ biết quá khứ, hoặc thông đạt đến khắp thế giới chư Phật, đó gọi là thông. Biết sắc chính là pháp tính, thấu tỏ âm thanh là tâm hạnh, tính tướng vắng lặng, ba đời bình đẳng, biết cõi chư Phật đồng với tướng của hư không mà không chứng diệt tận, đó gọi là Trí. Thế nào là phương tiện? Thế nào là Tuệ? Là lúc thể nhập Thiền định sinh tâm Đại từ bi, không bỏ thệ nguyện, tâm như kim cang, quán thế giới chư Phật để trang nghiêm đạo tràng Bồ đề, đó gọi là phương tiện. Tâm mình rốt ráo vắng lặng, không ngã, không chúng sinh, tư duy bản tính các pháp vốn không loạn, thấy cõi chư Phật đồng với hư không, quán những thứ trang nghiêm đồng với sự vắng lặng, đó gọi là Tuệ. Đây gọi là Bồ tát tu Thiền định đầy đủ thần thông, trí, tuệ, phương tiện. Bốn hạnh này đầy đủ thì sẽ gần đến được Bồ đề vô thượng. Bồ tát ma-ha-tát tu tập Thiền định sẽ không hề còn tâm ác vì pháp vốn chẳng động. Như vậy là thành tựu viên mãn Thiền na Ba-la-mật.
---------------
Vì sao Bồ tát tu tập Trí tuệ? Nếu Trí tuệ ấy tự lợi, lợi tha cả mình và người đều lợi lạc thì nên tu. Tu Trí tuệ như vậy thì hay trang nghiêm đạo Bồ đề. Bồ tát vì muốn điều phục chúng sinh khiến họ xa lìa khổ não nên tu tập Trí tuệ. Người tu Trí tuệ tất học được tất cả việc thế gian, bỏ tham sân si tạo lập tâm từ, thương xót và làm lợi ích cho tất cả chúng sinh thường nhớ nghĩ cứu vớt, dẫn dắt họ, hay phân biệt diễn nói chính đạo, tà đạo và Quả báo thiện, ác, đó gọi là Bồ tát phát tâm tu tập Trí tuệ. Nhờ tu Trí tuệ mà xa lìa vô minh, đoạn trừ phiền não chướng và sở tri chướng, đó là tự lợi. Giáo hóa chúng sinh khiến họ được điều phục, đây là lợi tha. Đem đạo Bồ đề vô thương mà mình tu tập đó giáo hóa chúng sinh khiến họ cũng lợi ích như mình, đó là mình và người đều lợi lạc. Nhờ tu Trí tuệ nên chứng đắc Bồ tát Sơ địa tu tập Trí tuệ sẽ có hai mươi tâm dần dần được kiến lập.
1. Tâm phát thiện, muốn gần gũi bạn tốt.
2. Tâm xa lìa kiêu mạn, không phóng dật.
3. Tâm tùy thuận lời dạy, ưa nghe chính pháp.
4. Tâm nghe pháp không chán, lại khéo tư duy.
5. Tâm thực hành bốn hạnh thanh tịnh, tu tập chính trí.
6. Tâm quán mười hai nhân duyên, tu tập minh tuệ.
7. Tâm nghe các Ba-la-mật, tu tập niệm dục.
8. Tâm quán vô thường, khổ, vô ngã vắng lặng.
9. Tâm quán không, vô tướng, vô nguyện, vô tác.
10. Tâm quán Ấm, Giới, Nhập vô số lỗi lầm.
11. Tâm hàng phục phiền não, chẳng làm bạn với nó.
12. Tâm hộ trì pháp thiện, làm bạn với nó.
13. Tâm ngăn chặn pháp ác, khiến nó đoạn diệt.
14. Tâm tu tập chánh pháp, khiến nó tăng trưởng.
15. Tâm thường lìa bỏ các hạnh Nhị thừa.
16. Tâm ưa phụng hành khi nghe tạng Bồ tát.
17. Tâm tự lợi, lợi tha, tùy thuận tăng trưởng nghiệp lành.
18. Tâm trì hạnh chân thật, cầu tất cả pháp Phật.
19. Tâm quán hạnh bất tịnh sanh tâm nhàm chán xa lìa.
20. Tâm quán Bốn chân đế và mười sáu Thánh pháp. Lại nữa, Bồ tát tu tập Trí tuệ có mười pháp mà tâm phải khéo tư duy, pháp này hàng Thanh Văn, Bích Chi Phật không có.
1. Tư duy phân biệt định tuệ căn bản.
2. Tư duy không bỏ nhị biên Đoạn, Thường.
3. Tư duy nhân duyên sanh khởi các pháp.
4. Tư duy không có chúng sinh, ngã, nhơn, thọ mạng.
5. Tư duy không có pháp ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai.
6. Tư duy không phát hạnh vì không đoạn nhân, quả.
7. Tư duy pháp không, nhưng siêng năng trồng căn lành.
8. Tư duy không tướng, nhưng vẫn độ chúng sinh mà không bỏ.
9. Tư duy không nguyện, nhưng cầu Bồ đề mà không xa lìa.
10. Tư duy vô tác, nhưng thọ thân mà không xả.
Lại nữa, Bồ tát lại có mười hai pháp môn khéo nhập.
1. Khéo nhập tam muội không v.v.. mà không thủ chứng.
2. Khéo nhập tam muội Thiền định mà không sanh theo Thiền định.
3. Khéo nhập Thông, Trí, mà mà không chứng pháp vô lậu.
4. Khéo nhập nội quán pháp mà không chứng quyết định.
5. Khéo nhập quán hết thảy chúng sinh rỗng lặng, mà không bỏ Đại từ.
6. Khéo nhập quán hết thảy chúng sinh vô ngã, nhưng không bỏ Đại bi.
7. Khéo nhập vào các đường ác nhưng không phải do nghiệp.
8. Khéo nhập lìa dục mà không chứng pháp ly dục.
9. Khéo nhập xả dục lạc mà không xả lạc pháp.
10. Khéo nhập xả tất cả hý luận, giác, mà không xả phương tiện quán.
11. Khéo nhập chỗ xét lường về lỗi lầm của pháp hữu vi mà không bỏ hữu vi.
12. Khéo nhập pháp vô vi, thanh tịnh, xa lìa mà không trụ vô vi.
Bồ tát hay tu hết thảy pháp môn khéo nhập, thì hay hiểu được ba đời đều không, không thứ gì có cả. Quán được ba đời đều không là nhờ sức Trí tuệ. Nếu đem vô lượng công đức do chư Phật ba đời gây trồng ấy hồi hướng về đạo Bồ đề Vô thượng thì đây gọi là khéo quán phương tiện ba đời. Lại nữa, tuy thấy hết pháp quá khứ, vị lai thì chưa đến, mà thường tu căn lành, tinh tiến không giải đãi; quán pháp vị lai dù không sinh xuất, nhưng không bỏ tinh tiến, nguyện hướng đến Bồ đề; quán pháp hiện tại tuy niệm niệm sinh diệt, nhưng tâm không quên, phát khởi hướng tới Bồ đề. Đây gọi là Bồ tát quán phương tiện ba đời. Quá khứ đã diệt, vị lai chưa đến, hiện tại chẳng trụ, tuy quán như vậy niệm niệm đều biết rõ pháp sinh diệt tan hoại, nhưng vẫn thường tu tập căn lành trợ giúp Bồ đề. Đây gọi là Bồ tát quán phương tiện ba đời. Lại nữa, Bồ tát quán tất cả thiện, bất thiện, ngã vô ngã, thật, không thật, không, bất không, thế đế, chân đế, chính định, tà định, hữu vi, vô vi, hữu lậu, vô lậu, nhiễm pháp, tịnh pháp, sinh tử, Niết Bàn, như pháp tính Nhất tướng, Vô tướng, trong đó không có pháp để gọi là Vô tướng, cũng không có pháp nào lấy làm Vô tướng, đây gọi là tất cả pháp ấn chẳng thể hoại ấn. Như vậy trong ấn cũng không có tướng ấn, đây gọi là Chân thật trí tuệ phương tiện Bát nhã Ba-la-mật. Bồ tát ma-hatát phát tâm Bồ đề phải học như thế, phải hành như thế. Làm được như vậy là gần chứng Bồ đề Vô thượng. Bồ tát ma-ha-tát tu tập trí tuệ, tâm không chốn hành, vì pháp tính thanh tịnh, như vậy là thành tựu viên mãn Bát nhã Ba-la-mật.
---------------
Nếu có thiện nam thiện nữ tu tập Sáu Ba-la-mật, cầu đạo quả Bồ đề vô thượng, thì cần phải lìa bảy pháp:
1. Lìa tri thức ác. Tri thức ác ở đây là những người dạy người khác xa lìa thượng tín, thượng dục, thượng tinh tiến, lại đi thực hành những hạnh ô tạp khác.
2. Lìa nữ sắc, là tham đắm, ham muốn, đùa giỡn với người đời rồi cho đó là việc mình phải làm.
3. Lìa giác ác, là tự quán hình dung rồi sanh tâm tham tiếc, yêu mến, trân trọng, nhiễm đắm chấp chặt, bảo thân là cái đáng bảo dưỡng mãi.
4. Lìa sân hận, khinh mạn, ghen ghét vì đây là nhân gây khởi kiện cáo, làm hoại loạn tâm thiện.
5. Lìa phóng dật, kiêu mạn, biếng nhác, vì tự cậy chút thiện nhỏ rồi khinh khi người khác.
6. Lìa sách vở ngoại đạo và những thứ văn chương thêu dệt bóng bẩy của người đời, vì không phải Phật nói, chẳng nên xem đọc.
7. Không nên gần gũi người tà kiến, ác kiến.
Bảy pháp ấy, hành giả cần phải xa lìa. Như Lai nói, Không thấy những pháp nào khác làm chướng ngại Phật đạo hơn. Bởi vậy, Bồ tát cần phải xa lìa bảy pháp này. Nếu muốn mau chóng thành tựu Bồ đề Vô thượng phải tu tập bảy pháp sau đây.
1. Bồ tát phải thân gần tri thức thiện. Tri thức Thiện ở đây là những người như Thanh văn, Bồ tát, chư Phật, vì họ hay làm cho Bồ tát trong trụ sâu pháp tạng và trong các Ba-la-mật, đây cũng là tri thức thiện của Bồ tát.
2. Bồ tát phải thân gần người xuất gia, và thân gần những pháp vắng lặng, xa lìa nữ sắc và những ham muốn, không nên làm việc cùng với người đời.
3. Bồ tát phải tự quán, hình dung ta như phẩn như đất, chứa đầy các thứ ô uế, những bịnh phong hàn, nhiệt huyết, chẳng đáng để tham đắm, mỗi ngày gần kề cái chết, cần phải tư duy nhàm chán, tinh tiến tu tập.
4. Bồ tát cần phải thường hành nhu hòa, nhẫn nhục, cung kính điều thuận, và phải khuyến hóa người khác khiến họ an trụ trong nhẫn nhục.
5. Bồ tát phải tu tập tinh tiến, thường sinh tâm hổ thẹn, kính phụng Sư trưởng, thương xót kẻ bần cùng, thấy người gặp tai nạn nguy ách phải đem thân chịu thay cho họ.
6. Bồ tát cần phải tu tập Đại thừa phương đẳng và tạng Bồ tát, cần phải đọc tụng thụ trì những pháp mà Phật ngợi khen.
7. Bồ tát cần phải thân gần tu tập Đệ nhất nghĩa đế, đó là Thật tướng, Nhất tướng, Vô tướng. Nếu Bồ tát muốn mau chóng thành tựu Bồ đề Vô thượng cần phải thân gần bảy pháp ấy.
Lại nữa, nếu người phát tâm Bồ đề, mà thấy sở đắc dù trải qua vô lượng vô số kiếp tu tập Từ bi, Hỷ xả, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ thì nên biết người này chẳng lìa sinh tử, chẳng hướng Bồ đề. Vì sao? Vì tâm có sở đắc, thấy có sở đắc, thấy có ấm, giới, nhập, thấy có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, thấy có Từ bi, Hỷ xả, Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tiến, Thiền định, Trí tuệ. Nói tóm lại, người đó tăng thêm cái thấy pháp Phật, Niết Bàn. Do thấy như vậy nên tâm chấp trước, hễ chấp trước thì gọi là tà kiến, Vì sao? Vì người tà kiến phải luân chuyển mãi trong ba cõi không biết lối ra. Người chấp trước cũng giống như vậy, không biết ngõ ra, trọn không thể chứng đắc Bồ đề Vô thượng. Nếu người phát tâm Bồ đề cần phải quán sát tâm này là tướng không. Cái gì là tâm? Cái gì là tướng không? Tâm còn gọi là Ý thức, tức là Thức ấm, Ý nhập, Ý giới. Tướng không của tâm là tâm không có tướng, tâm không ai tạo tác. Vì sao? Vì tướng không của tâm này không có ai tạo tác ra cả, cũng không bảo ai tạo tác. Nếu không có người tạo tác thì không có tướng tạo tác. Nếu Bồ tát thấu suốt pháp ấy rồi, thì trong tất cả pháp, không hề chấp trước. Không chấp trước nên không dính vào thiện ác, không phải chịu quả báo. Khi thể hiện lòng Từ không thấy có ngã, khi thể hiện tâm Bi thấy không có chúng sinh, khi thể hiện tâm Hỷ không thấy có thọ mạng, khi thể hiện tâm Xả không thấy có con người. Tuy hành Bố thí nhưng không thấy có vật để Bố thí. Tuy giữ Giới nhưng không thấy tâm tịnh. Tuy hành Nhẫn nhục nhưng không thấy có chúng sinh. Tuy hành Tinh tiến nhưng không có tâm ly dục. Tuy tu Thiền định nhưng không có tâm diệt ác. Tuy tu Trí tuệ nhưng tâm không thấy có làm. Tất cả các duyên đều là Trí tuệ nhưng không chấp Trí tuệ, không được Trí tuệ, không thấy Trí tuệ. Hành giả phải tu tập Trí tuệ như thế, nhưng chẳng tu gì, chẳng có gì mà không tu. Vì giáo hóa chúng sinh nên thực hành Sáu độ nhưng bên trong thường thanh tịnh. Hành giả phải tu tập tâm mình như thế, trong khoảng một niệm, căn lành được trồng đó, phước đức quả báu của nó vô lượng vô biên, trong trăm ngàn ức A-tăng-kỳ kiếp cũng không thể nào nói hết, tự nhiên chứng đắc Vô thượng Bồ đề.
Thuở xưa, một lần đức Phật cùng vô lượng đại chúng Tỳ kheo nhóm họp tại vườn Trúc Ca-lan-đà. Bấy giờ đức Thế Tôn bảo đại chúng: Các pháp Như Lai nói ra là không có tính không, không có sở hữu. Tất cả thế gian khó tin, khó hiểu. Vì sao? Vì sắc không có trói buộc, không có giải thoát. Thụ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Sắc không có tướng, lìa tất cả tướng; thọ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Sắc không có niệm, lìa tất cả niệm; thụ, tưởng, hành, thức cũng như vậy. Mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý tác pháp cũng đều như vậy. Không thủ, không xả, không dơ, không sạch, không đến, không đi, không thuận, không nghịch, không tối, không sáng, không mê, không ngộ, không phải bờ này, không phải bờ kia, không phải giữa dòng. Đó gọi là không trói buộc. Do không trói buộc nên rỗng lặng. Rỗng lặng tức là vô tướng, vô tướng cũng là rỗng lặng. Đây gọi là không. Không, được gọi là niệm, vô niệm cũng chính là không. Trong không, không có thiện ác, cho đến không có tướng không, nên được gọi là không. Bồ tát biết tính của Ấm, Giới, Nhập đúng như vậy nên không chấp trước, đây là Pháp nhẫn. Bồ tát do nhẫn được như vậy nên được nhân thọ ký.
Này chư Phật tử! Ví như Bồ tát đưa tay viết trong hư không, viết chép được mười hai bộ loại kinh của Như Lai, qua vô lượng kiếp khi pháp Phật diệt rồi, người cầu pháp chẳng còn được nghe, chúng sinh điên đảo tạo tác vô biên tội ác, bấy giờ có người trí từ phương khác, thương xót chúng sinh nên tìm cầu pháp Phật, đến được nơi này thấy được chữ trong hư không, nét chữ rõ ràng nhìn vào biết ngay. Người đó thọ trì đọc tụng, tu hành đúng như kinh dạy, phân biệt giảng nói làm lợi ích chúng sinh. Sách trong hư không, chữ trong hư không, con người có thể nghĩ bàn được chăng? Rồi diễn nói, tu tập, thọ trì, dắt dẫn chúng sinh khiến họ lìa mọi trói buộc?
Này chư Phật tử! Như Lai nói, trong đời quá khứ lúc ta cầu đạo Bồ đề, gặp được ba mươi ba ức chín vạn tám ngàn chư Phật, khi ấy ta làm Chuyển Luân Thánh Vương, dùng tất cả những thứ an lạc cúng dường chư Phật và chúng đệ tử. Do ta thấy có chỗ thủ đắc nên không được thọ ký. Sau đó, ta gặp được tám vạn bốn ngàn ức chín vạn Bích Chi Phật, ta cũng dùng tứ sự suốt đời cúng dường. Sau đó, ta lại gặp được sáu trăm hai mươi vạn, một nghìn hai trăm sáu mươi mốt vạn Đức Phật. Lúc ấy ta cũng đem tất cả các thứ an lạc tâm cúng dường. Sau khi chư Phật diệt độ, ta dựng tháp bảy báu an trí xá lợi cúng dường. Sau có Phật ra đời, ta khuyến thỉnh Phật chuyển pháp luân, cúng dường trăm ngàn vạn ức chư Phật như vậy nữa. Chư Phật ấy đều diễn nói các pháp tướng trong pháp không, nhưng do ta có chỗ thủ đắc nên không được thọ ký, Cứ như vậy mãi đến khi ta gặp Phật Nhiên Đăng ra đời. Ta gặp Phật, được nghe pháp liền chứng tất cả pháp nhẫn vô sinh. Khi được nhẫn ấy rồi ta mới được thọ ký. Đức Phật Nhiên Đăng diễn nói các pháp tướng trong pháp không, độ thoát vô lượng trăm ngàn chúng sinh, nhưng không hề nói, không hề độ. Thế Tôn Mâu Ni xuất hiện trong đời, ngay nơi pháp không, nói có văn tự, nhằm chỉ bày lợi lạc khiến chúng sinh tin nhận, tu hành, nhưng kỳ thật không hề chỉ bày, cũng không hề có hành trì. Phải biết, tính tướng của pháp ấy đều không, kinh đã không, cái biết ấy cũng không, diễn thuyết cũng không, hiểu cũng không. Từ xưa đến nay đều không, vị lai cũng không, hiện tại cũng không, nhưng chư Bồ tát tích tập mọi nghiệp thiện và sức phương tiện, tinh tiến, không biếng trễ nên công đức thành tựu viên mãn, chứng đắc Bồ đề vô thượng. Đây quả thật không thể nghĩ bàn. Trong cái không pháp mà diễn nói các pháp tướng, trong cái không chứng đắc mà nói có đắc pháp, những việc như thế này, và cảnh giới chư Phật chỉ dùng Vô lượng trí mới có thể hiểu được, chứ không phải do suy nghĩ phân biệt mà biết. Bồ tát mới phát tâm, thành tâm kính ngưỡng tin ưa Bồ đề, nhờ tin lời Phật mà dần dần thể nhập. Vậy tin là tin cái gì? Đó là tin quán Tứ đế, đoạn trừ phiền não vọng kiến, trói buộc, chứng đắc A-la-hán. Tin quán mười hai nhân duyên đoạn trừ vô minh, sinh khởi thiện hạnh, chứng Phật Bích Chi. Tin tu Bốn tâm vô lượng, Sáu Ba-la-mật chứng đắc Bồ đề Vô thượng. Đó gọi là Tín nhẫn.
Chúng sinh từ vô thỉ bị trôi lăn trong sinh tử là do vọng tưởng chấp trước, không thấy được pháp tính, vì vậy trước tiên phải quán Năm ấm là giả danh, chúng sinh ngay tự thân mình, trong ấy không có ngã, không có chúng sinh. Vì sao? Vì nếu có ngã ấy phải tự tại, thế nhưng chúng sinh thường bị sinh già bệnh chết vây bức làm hại mà chẳng được tự tại, cho nên phải biết nó vốn vô ngã. Vô ngã thì vô tác, vô tác thì vô thọ, pháp tính thanh tịnh thường trụ như thật. Quán sát như vậy vẫn chưa rốt ráo, đây gọi là thuận nhẫn. Bồ tát khi đã tu tập Tín nhẫn và Thuận nhẫn rồi, không bao lâu chắc chắn thành tựu pháp nhẫn tối thượng.
----------------
Bồ tát tu đầy đủ tâm Vô tướng mà chưa từng trụ trong tạo tác nghiệp, đó là Bồ tát biết rõ nghiệp tướng nhưng vẫn tạo tác, vì tu căn lành cầu Bồ đề nên không hề bỏ pháp hữu vi, vì chúng sinh, tu hạnh Đại bi nên không trụ trong vô vi; vì Chân diệu trí của tất cả chư Phật nên không lìa sinh tử; vì độ vô biên chúng sinh khiến không giết hại một loài nào nên không trụ Niết Bàn. Đó gọi là Bồ tát ma-ha-tát phát tâm sâu xa cầu đạo quả Bồ đề vô thượng.
Này chư Phật tử! Bồ tát thành tựu mười pháp nên vĩnh viễn chẳng thoái thất Bồ đề vô thượng. Mười pháp ấy là:
1. Bồ tát phát tâm Bồ đề vô thượng rất sâu chắc, giáo hóa chúng sinh, khiến họ cũng phát tâm.
2. Thường ưa gặp Phật, rồi đem những đồ quý giá của mình bố thí cúng dường, trồng gốc thiện sâu chắc.
3. Vì cầu pháp, nên tâm thường cung kính, tôn trọng, cúng dường Pháp Sư, nghe pháp không chán.
4. Nếu thấy chư Tỳ-kheo tăng phân thành hai nhóm nổi lên tranh cãi nhau, cùng tạo tội lỗi gây lỗi cho nhau, thì Bồ tát cần cầu phương tiện khiến họ hòa hợp.
5. Nếu gặp phải quốc độ có tà kiến nổi lên làm bại hoại pháp Phật, thì Bồ tát hay đọc tụng giảng nói, thậm chí chỉ một bài kệ nhằm để pháp Phật không đoạn diệt, chuyên tâm hộ pháp chẳng tiếc thân mạng.
6. Nếu thấy chúng sinh hoảng sợ, khổ não, Bồ tát liền cứu giúp, ban cho họ tâm không sợ sệt.
7. Phát tâm tinh tiến tu tập và cầu những kinh pháp phương đẳng Đại thừa sâu xa như vậy, cùng các tạng Bồ tát.
8. Được pháp ấy rồi thì thọ trì, đọc tụng, như thuyết tu hành, đúng pháp mà trụ.
9. Tự tại trong các pháp, hay khuyến hóa làm cho vô lượng chúng sinh thể nhập trong pháp ấy.
10. Thể nhập pháp ấy rồi, hay giảng nói, chỉ bày, khai ngộ chúng sinh.
Bồ tát thành tựu mười pháp ấy rồi sẽ không bao giờ thoái thất Bồ đề vô thượng, Bồ tát cần phải tu tập kinh này. Kinh điển không thể nghĩ bàn như thế này được gọi là hay sinh tất cả giống Đại từ bi. Kinh này hay khai ngộ dẫn dắt hàng phàm phu đủ thứ trói buộc, khiến họ phát tâm. Kinh này hay làm cái nhân sinh khởi cho những người hướng đến Bồ đề.
Kinh này hay thành tựu hết thảy hạnh Bất động của Bồ tát. Kinh này hay được chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai hộ niệm. Nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nào muốn siêng năng tu tập Bồ đề Vô thượng thì phải diễn nói, lưu bố rộng rãi kinh này, khiến cho Diêm Phù Đề không thiếu mất kinh này, để vô lượng vô biên chúng sinh đều được nghe kinh. Nếu có thiện nam, thiện nữ nghe kinh này rồi, thì những người ấy đều đã được Đại trí tuệ, lanh lợi, dõng mãnh, chẳng thể nghĩ bàn, được quả báo phước đức không thể nào tính kể được, Vì sao? Vì kinh này hay mở ra vô lượng Tuệ nhãn thanh tịnh, hay làm cho giống Phật chẳng bao giờ dứt, hay cứu độ vô lượng chúng sinh bị khổ não, hay chiếu phá tất cả vô minh tăm tối, hay phá bốn loại ma và nghiệp của ma, hay hàng phục tất cả ngoại đạo tà kiến, hay diệt trừ tất cả lửa dữ phiền não, hay làm tiêu tan nhân duyên sinh khởi nghiệp ác, hay đoạn trừ tham lam, phá giới, sân hận, biếng nhác, loạn tưởng, ngu si, cả thảy sáu bệnh nặng ấy, hay diệt trừ nghiệp chướng, vô minh chướng, trí chướng, tập chướng. Nói tóm lại, kinh này hay làm cho tất cả pháp ác tiêu diệt không còn thừa, hay làm cho tất cả pháp thiện tăng trưởng vượt bậc.
Nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được kinh này mà hoan hỷ tin ưa sinh tâm khó gặp, phải biết người đó đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành. Vì sao như vậy? Vì kinh này là con đường mà chư Phật ba đời đều đi qua. Vì vậy hành giả được nghe kinh này rồi sẽ tự thấy vui mừng, được thiện lợi lớn, Nếu có người biên chép, đọc tung kinh này thì phải biết người đó được vô lượng vô biên phước báo, Vì sao như vậy? Vì nhân duyên của kinh này vô biên, phát khởi vô lượng Đại thệ nguyện, nhiếp thọ tất cả chúng sinh, trang nghiêm Đại Bồ đề Vô thượng vì vậy phước báo có được ấy cũng vô lượng vô biên, không có giới hạn. Nếu người hiểu được nghĩa kinh rồi đúng như kinh dạy mà tu hành, thì phước báo của người đó dù trong vô số kiếp, tất cả chư Phật dùng vô lượng trí diễn nói phước báo ấy, vẫn không thể nào diễn nói hết. Nếu nơi có Pháp Sư giảng nói kinh này, thì phải biết nơi đó có Bảo tháp hiện ra. Vì sao vậy? Vì đây là nơi xuất sinh ra chính pháp chân thật. Ở quốc độ, thành ấp, làng xóm, chùa viện, tinh xá nào có kinh này, thì phải biết nơi đó có pháp thân. Nếu người nào dùng hương hoa, kỹ nhạc, vải lụa, cờ phướn, lọng báu, ca ngâm, tán thán, chắp tay, cung kính mà cúng dường kinh này, thì phải biết người đó đã tiếp nối được giống Phật, huống gì người thọ trì đầy đủ kinh này. Những người ấy thành tựu công đức, trí tuệ trang nghiêm, trong đời vị lai sẽ được thọ ký, nhất định sẽ thành tựu đạo quả Bồ đề vô thượng.