TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ LUẬN SỚ

SỐ 1660 - LUẬN BỒ ĐỀ TƯ LƯƠNG

Bồ-tát Long Thọ soạn. Tỳ kheo Tự Tại giải thích. Hán dịch: Đời Tùy, Tam Tạng Đạt Ma Cấp Đa.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5

QUYỂN 6

 


QUYỂN 1

Nay hướng về chư Phật Chắp tay cung kính lễ Con sẽ như giáo giải Tư lương Bồ-đề Phật.

Phật là sự giác ngộ ở trong tất cả những điều nên biết, đây là nghĩa về Phật, như những gì nên biết mà biết. Lại vì giác ngộ ở trong trí không thùy miên. Giác là lấy sự tỉnh ngủ làm nghĩa, vì xa rời giấc ngủ không có trí tuệ. Vả lại, các hàng Thích, Phạm không thể giác ngộ, sự giác ngộ nầy chỉ có người uy danh vang khắp ba cõi có thể giác ngộ, nên chỉ hết thảy chư Phật mới giác ngộ sự giác ngộ nầy. Vì Nhất thiết chủng biến trí chỉ riêng Phật biết được, không phải là các hàng Thanh văn, Độc giác, Bồ tát, vì Phật có đầy đủ pháp bất cộng. Chư là không thiếu, nghĩa là có đủ quá khứ vị lai hiện tại. Đảnh là phần phía trên cao. Hiệp chưởng là chắp tay lại, kính là hướng về lễ lạy. Con nói là tự phân biệt. Như giáo là các loại đã nói trong tất cả các kinh, nay cũng như giáo pháp ấy mà giảng nói. Phật là xa rời vô trí. Bồ-đề là trí Nhất thiết trí. Tư lương là năng lực đầy đủ của pháp Bồđề, ví như bình chậu đầy, nồi chảo đầy... ở thế gian, vì đầy là nghĩa đầy tràn. Như vậy, lấy pháp Bồ-đề đầy đủ làm tư lương của Bồ-đề. Lại lấy sự duy trì làm nghĩa, ví như cùng vận hành giữa thế gian mà mặt trời thuộc về nóng, mặt trăng thuộc về lạnh, vì nhiếp là nghĩa duy trì. Như vậy, lấy pháp Bồ-đề duy trì, làm tư lương của Bồđề. Nói tư lương tức là nghĩa duy trì. Lại, lấy sự nuôi lớn làm nghĩa, ví như thế gian có thể có người thỏa mãn với số ngàn, hoặc số trăm, hoặc số chục, hoặc chỉ có tự thỏa mãn, hoặc khó mà tự thỏa mãn. Tư lương Bồ-đề cũng lại như vậy, lấy sự nuôi lớn Bồ-đề làm nghĩa. Lại lấy nhân tố làm nghĩa, như trong các nhân tố về nhà cửa, thành thị, xe cộ..., nói là tư lương của nhà cửa, tư lương của thành thị, tư lương của xe cộ. Như vậy, hướng về trong pháp nhân duyên sanh khởi Bồ-đề, tên gọi là tư lương Bồ-đề.

Lại, lấy sự đầy đủ các thành phần làm nghĩa, ví như trong phần cúng tế đầy đủ các loại dầu đèn, bát đĩa mới gọi là tế tự, không phải là không đầy đủ. Cũng như thân thể đầy đủ tay chân đầu mình... thì được gọi là thân, không đầy đủ thì không được. Phần thí cũng như vậy, người thí giúp, vật thí giúp, người thọ nhận, hồi hướng. Những điều nầy đầy đủ gọi là tư lương của thí, không đầy đủ không được. Tư lương của giới v.v… cũng như vậy. Vì thế cho nên nghĩa đầy đủ mọi thành phần, là nghĩa của tư lương. Như vậy "Con nói tư lương Bồ-đề", là chủ thể đầy đủ. Duy trì, nuôi lớn, nhân Bồ-đề, pháp phần Bồ-đề đầy đủ đều là nghĩa ấy.

Người nào nói không thiếu Các tư lương Bồ-đề?

Chỉ riêng có chư Phật Được giác ngộ vô biên.

Người nào là nói đến năng lực nào. Vì hoặc là Thanh văn, hoặc là Bồ-tát hiểu biết phần nhỏ thì không có năng lực. Nếu muốn nói về những tư lương Bồ-đề không thiếu không dư, chỉ chư Phật mới được giác ngộ vô biên về điều ấy. Nói vô biên giác, nghĩa là không phải giác ngộ một phần nhỏ. Vì chư Phật Thế Tôn ở trong vô biên nghĩa lý cần biết mà hiểu biết rõ không ngăn ngại, nên Phật gọi là bậc giác ngộ vô biên. Lại, ở trong dục lạc và biên kiến đến từ những chấp trước đau khổ, đoạn, thường, có và không… đã giác ngộ, không tham đắm, vì lẽ đó giác ngộ đến vô biên, nên Phật gọi là bậc giác ngộ vô biên.

Hỏi: Tại sao tư lương chỉ một mình đức Phật có thể nói, người khác không thể nói được?

Đáp:

Thể Phật đức vô biên
Giác tư lương làm gốc
Vì thế giác tư lương
Cũng không có bờ.

Thể Phật chính là thân Phật. Vì thể Phật đầy đủ vô biên công đức, nên nói thể Phật là vô biên đức. Công đức ấy nghĩa là đáng được ca ngợi và tán thán, nếu có thể ca ngợi tán thán thì gọi là công đức. Lại có nghĩa nhiều lần thực hiện, ví như thường xuyên tụng đọc hành tập kinh sách, điều ấy được gọi là tạo công đức.

Lại là nghĩa kiên cố, ví như bện dây thừng, hoặc hợp hai làm cộng, hoặc hợp ba làm cộng.

Lại là nghĩa tăng trưởng, ví như tiền lãi, hoặc tăng thêm hai làm công, hoặc tăng thêm ba làm công.

Lại là nghĩa nương dựa, ví như mọi vật đều lấy nơi nhờ cậy làm công sức. Như vậy thể Phật là nơi nương dựa của vô biên công đức khác nhau như giới định tuệ. Nói thể Phật có công đức vô biên là vậy. Giác tư lương làm gốc là tư lương Bồ-đề kia, cùng với thể Phật vô biên công đức làm căn bản. Căn là nghĩa kiến lập, Bồ-đề là trí. Căn chính là tư lương, nhờ tư lương ấy nên có thể kiến lập trí Nhất thiết trí. Vì vậy tư lương là căn bản của thể Phật, vì thể Phật có vô biên công đức, cần phải dùng vô biên công đức để thành tựu thể Phật ấy, do đó tư lương cũng không có giới hạn.

Sẽ nói phần ít kia
Kính lễ Phật, Bồ-tát
Các vị Bồ-tát ấy
Tiếp Phật nên cúng dường.

Các tư lương kia không biên giới mà trí có giới hạn, vì vậy nói tư lương không thể nào không có thiếu sót, nên nói: Sẽ nói phần ít kia, kính lễ Phật, Bồ-tát.

Hỏi: Nên lễ Phật, vì Ngài là bậc tối thắng trong tất cả chúng sanh, nghĩa gì trong nầy cũng lễ Bồ-tát?

Đáp: Vì các vị Bồ-tát nầy kế tiếp Phật nên phải cúng dường. Các vị Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến quả vị giác ngộ đều nên cúng dường.

Bồ-tát có bảy bậc:

1. Mới phát tâm.

2. Chánh tu hành.

3. Đạt được nhẫn vô sanh.

4. Quán đảnh.

5. Còn một đời là thành Phật (Nhất sanh bổ xứ).

6. Đời cuối cùng.

7. Đến nơi chốn giác ngộ.

Những bậc Bồ-tát nầy tiếp theo sau chư Phật nên thọ nhận sự cúng dường. Dùng thân-khẩu-ý và mọi vật bên ngoài để cúng dường các vị ấy. Mới phát tâm là chưa đến được địa. Chánh tu hành cho đến bảy địa. Đạt được nhẫn vô sanh là trú ở Địa thứ tám. Quán đảnh là trú vào Địa thứ mười. Bậc Nhất sanh bổ xứ là còn một đời thì đi vào cõi Đâu-suất-đà. Bậc đời cuối cùng trú tại cõi Đâusuất-đà. Bậc đến nơi chốn giác ngộ thì sắp thọ dụng trí Nhất thiết trí (Trí Phật). Ở trong bảy bậc Bồ-tát, Bồ-tát mới phát tâm thì tất cả chúng sanh đều nên kính lễ, huống hồ những bậc khác. Tại sao? Vì thâm tâm rộng lớn, vì mức độ giáo pháp của Như Lai, lúc Bồ-tát mới phát tâm là phát tâm Bồ-đề, đối với phần hạn mười phương không có giảm bớt, các cõi Phật không hề giảm bớt, các chúng sanh chẳng hề giảm bớt, dùng tâm từ tràn đầy mọi nơi mà phát tâm Bồ-đề, nếu chúng sanh chưa độ thì con sẽ độ họ, người chưa giải thoát thì con sẽ giải thoát cho họ, người chưa đạt Niết-bàn thì con sẽ khiến họ đạt được, người chưa tịch diệt thì con sẽ khiến họ tịch diệt, người thuận theo Thanh văn thì con sẽ khiến họ đi vào thừa Thanh văn, người thuận theo Độc giác thì con sẽ khiến đi vào thừa Độc giác, người thuận theo Đại thừa thì con sẽ khiến đi vào Đại thừa. Muốn khiến cho chúng sanh đều được tịch diệt, không phải chỉ là tịch diệt phần ít chúng sanh. Vì thâm tâm rộng lớn ấy, nên tất cả chúng sanh đều phải kính lễ.

Như thế nào là vì lượng giáo pháp của Như Lai? Như Đức Thế Tôn nói với Tôn giả Ca-diếp: Ví như đầu tháng thì phải làm lễ, không phải là trăng tròn. Như vậy Cadiếp, nếu tin lời Ta nói, thì nên hướng về kính lễ các vị Bồ-tát, không phải là vì Như Lai. Tại sao? Vì từ nơi Bồtát sanh ra Như Lai. Còn trong thừa Thanh văn cũng nói:

Đối với người biết pháp
Hoặc là lớn hoặc trẻ
Hãy cung kính cúng dường
Như Phạm chí thờ lửa.

Vì vậy cho nên các bậc Bồ-tát, tiếp theo Phật đều nên cúng dường.

Như kệ nói:

Người kế thừa Phật chủng
Hơn hẳn công hạnh khác
Thế nên các Bồ-tát
Theo Phật, nên cúng dường.
Lòng từ sánh hư không
Hiện khắp các chúng sanh
Vì thế bậc Tối thắng
Sau Phật, nên cúng dường.
Đối với mọi chúng sanh
Đại bi xem như con
Cho nên Phật tử nầy
Sau Phật, nên cúng dường.
Tâm bi lợi chúng sanh
Không hai, như hư không
Thế nên bậc vô úy
Sau Phật, nên cúng dường.
Mọi lúc giống như cha
Tăng trưởng các chúng sanh
Cho nên các Bồ-tát
Sau Phật, nên cúng dường.
Giống như đất, nước, lửa
Chúng sanh luôn thọ dụng
Vì thế bậc thí lạc
Sau Phật, nên cúng dường.
Chỉ làm lợi chúng sanh
Xả bỏ nhân tự lạc
Vì thế nên tất cả
Sau Phật, hãy cúng dường.
Ngoài ra Phật, chư Phật
Đều sanh từ sơ tâm
Cho nên các Bồ-tát
Sau Phật, nên cúng dường.

Hỏi: Tôn giả đã chính thức nói về duyên khởi của tư lương giáo, nay nên nói về thể của tư lương chăng?

Đáp:

Đã là mẹ Bồ-tát
Cũng là mẹ chư Phật
Nên Bát nhã Ba-la mật
Tư lương đầu của giác.

Vì Bát nhã Ba-la-mật là mẹ của các Bồ-tát, nên là tư lương thứ nhất của Bồ-đề. Vì sao? Vì là tối thắng. Như trong các thân căn thì nhãn căn là hơn hẳn, trong các bộ phận của thân thì phần đầu là hơn hẳn, trong các Ba-lamật thì Bát nhã Ba-la-mật là hơn hẳn, cũng như vậy, vì thế Bát nhã Ba-la-mật là tối thắng, nên là tư lương thứ nhất.

Lại vì là người đi trước, như trong các pháp thì Tín là người đi trước, trong các Ba-la-mật thì Bát nhã Ba-lamật đi trước cũng như vậy. Vì Đà na (Bố thí) kia, nếu không hồi hướng Bồ-đề, thì không phải là Bố thí Ba-lamật. Như vậy Thi la (Trì giới)… nếu không hồi hướng Bồ-đề thì cũng không phải là Trì giới… Ba-la-mật. Hồi hướng Bồ-đề chính là Bát nhã (Trí tuệ). Do Trí tuệ đi trước nên luôn luôn hồi hướng. Vì nguyên nhân đi trước nầy, nên trong các Ba-la-mật thì Trí tuệ Ba-la-mật là tư lương thứ nhất của Bồ-đề. Đồng thời các Ba-la-mật nầy là thể của nhân ba luân thanh tịnh. Vì Trí tuệ Ba-la-mật là thể của nhân ba luân thanh tịnh đối với các Ba-la-mật, do đó Trí tuệ Ba-la-mật là tư lương thứ nhất của Bồ-đề. Ba luân thanh tịnh ấy là Bồ-tát lúc thực hành Bố thí ở trong Trí tuệ Ba-la-mật, không nghĩ đến tự thân, vì xa rời chấp thủ tự thân, không nghĩ đến sự khác nhau giữa người nhận, vì dứt trừ tất cả mọi phân biệt, không nghĩ đến quả bố thí, vì tướng của các pháp không đến không sanh ra. Như vậy, Bồ-tát đạt được sự Bố thí ba luân thanh tịnh.

Giống như Thí thanh tịnh, Giới thanh tịnh… cũng như vậy. Vì Trí tuệ Ba-la-mật nầy là thể của nhân ba luân thanh tịnh đối với các Ba-la-mật kia, nên Trí tuệ Ba-la-mật là tư lương thứ nhất của Bồ-đề. Đồng thời là quả to lớn, nên quả to lớn của Trí tuệ Ba-la-mật hơn hẳn các Ba-la-mật. Như kinh nói:

Phước đức tâm Bồ-đề
Cùng lấy pháp thâu nhận
Nơi không, như tín giải
Giá hơn mười sáu phần.

Nhân duyên đại quả trong Kinh Bì La Ma, ở đấy thuận theo nói, vì là đại quả, nên Trí tuệ Ba-la-mật là tư lương thứ nhất của Bồ-đề.

Hỏi: Vì sao Trí tuệ Ba-la-mật được xem là mẹ của Bồ-tát?

Đáp: Do khả năng sanh ra, là phương tiện đã thâu tóm Trí tuệ sanh ra các Bồ-tát, khiến cầu đạt Bồ-đề vô thượng, không cầu mong Thanh văn, Độc giác, vì là nhân sanh ra thể Phật, cho nên Trí tuệ Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát. Lại xếp vào trong năm loại Ba-la-mật, như nói Minh Bát La Nhị Ba Đê. Minh là tánh, Bát La Nhị Ba Đê là tụng. Ngay tánh tướng nầy chính là Ma Đa [Ma Đa dịch là Mẫu, đối với âm chữ trong luận, chữ Ma Đa từ trong lời nói Minh Bát La Nhị Ba Đê đưa ra, Minh là thể tánh của Ma Đa, Bát La Nhị Ba Đê là nghĩa đọc tụng của Ma Đa. Bát La Nhị Ba Đê đích thực phiên dịch là Trí (xếp đặt), lấy Trí làm nghĩa cho Mẫu (mẹ)]. Ví như mẹ sanh ra con, có lúc hoặc là đặt trên giường, hoặc là đặt trên đất. Trí tuệ Ba-la-mật cũng như vậy, lúc sanh ra Bồ-tát cầu đạo Bồ-đề, đặt vào trong năm loại Ba-la-mật như bố thí..., vì có thể đặt Bồ-tát vào cầu đạo Bồ-đề, nên nói Trí tuệ Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát. Lại vì mức lượng, như nói Mang Ma Nê. Mang là tánh, Ma Nê là đọc tụng, ngay tánh tướng nầy chính là Ma Đa [Đối với âm chữ trong luận, chữ Ma Đa lại từ trong lời nói Mang Ma Nê đưa ra, Mang cũng là thể tánh, Ma Nê là đọc tụng về nghĩa của nó, đích thực dịch là Lượng (lường tính), lấy Lượng làm nghĩa của Mẫu (mẹ)]. Ví như mẹ sanh con rồi tính toán đắn do tùy theo lúc, như vậy con mình nhờ thức ăn nầy nên thân thể tăng lên, theo đấy nên giảm bớt. Bồ-tát cũng như vậy, dùng Trí tuệ Ba-la-mật tự đánh giá thân mình, mình phải bố thí như vậy, mình nên trì giới... như vậy. Vì nhân duyên tự đánh giá ấy, cho nên nói Trí tuệ Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát. Lại dùng ý cân nhắc suy lường, ví như đồ vật đong lường có Bát la tát tha (cân), có A-trạch-ca, có Đột-lư-noa, có Khư-lê-để... (Như vậy các loại đấu-thăng-học-hợp trong nầy). Các Bồ-tát cân nhắc lường tính cũng thế, đây là mới phát tâm, đây là tu hành, đây là đạt được nhẫn vô sanh... Vì nhân duyên cân nhắc lường tính, nên nói Trí tuệ Ba-lamật là mẹ của Bồ-tát. Lại vì đọc tụng nơi kinh (Tu-Đa-la), đó là ở trong các kinh làm mẹ, gọi là Tụng (đọc tụng), nơi các kinh ấy có Bồ-tát danh xưng vang khắp các cõi Phật, tên là Tỳ-ma-la-cát-lợi-đế, nói Già tha (bài Tụng):

Trí tuệ Ba-la-mật
Mẹ của các Bồ-tát
Phương tiện khéo là cha
Từ bi là con gái.

Lại có kinh khác, cũng tụng như vậy, lấy kinh suy lường nên nói Trí tuệ Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát.

Hỏi: Tại sao Trí tuệ Ba-la-mật cũng là mẹ của chư Phật?

Đáp: Vì sanh ra và biểu hiện rõ ràng Trí tuệ không có chướng ngại. Chư Phật quá khứ vị lai và hiện tại, do

Trí tuệ Ba-la-mật A hàm (không pháp nào sánh kịp) mà phiền não đã hết, đang hết và sẽ hết, vì sanh ra từ đấy nên nói Trí tuệ Ba-la-mật là mẹ của chư Phật. Biểu hiện rõ Trí tuệ không có gì chướng ngại ấy, là vì chư Phật Thế Tôn quá khứ vị lai hiện tại biểu hiện rõ ràng Trí tuệ không có chướng ngại, đều lộ rõ từ trong Trí tuệ Ba-lamật. Vì Trí tuệ nầy biểu hiện rõ không có chướng ngại, nên chư Phật cũng lấy Trí tuệ Ba-la-mật làm mẹ. Trong nầy có tụng nói:

Vì tương ưng đại bi
Trí tuệ Ba-la-mật
Nơi bến bờ vô vi
Phật tử hay vượt lên
Đến được Vô Đẳng Giác
Lợi thâu các chúng sanh
Trí độ chính là mẹ
Người bậc trên như vậy
Nhờ đạt được Trí độ
Mới thành tựu thể Phật
Nên là mẹ chư Phật
Bậc Thắng Tiên đã nói.

Tại sao đây gọi là Trí tuệ Ba-la-mật? Vì không chung với Thanh văn, Độc giác, nên gọi là Trí tuệ Ba-lamật. Lại ở trên trí tuệ nầy không còn gì phải biết nữa, nên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Trí nầy đến được tất cả bến bờ kia, nên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Ngoài Trí tuệ Ba-la-mật nầy thì không có năng lực nào hơn được, nên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Ba đời bình đẳng, nên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật. Những nhân duyên hơn hẳn như vậy, như trong kinh Bát Nhã Ba-la-mật nói, nên gọi là Trí tuệ Ba-la-mật.

Hỏi: Đã lược nói về tư lương thứ nhất của Bồ-đề, tư lương thứ hai nay nên nói chăng?

Thí, giới, nhẫn, tấn định
Cho đến năm loại nầy
Đều do trí tuệ độ
Ba-la-mật gồm thâu.

Đà na (Bố thí) Ba-la-mật trong đây là tư lương thứ hai của Bồ-đề. Vì Trí tuệ đi trước, nên Bồ-tát vì Bồ-đề mà thực hành bố thí, do đó thí là tư lương thứ hai. Ở thí nầy, sanh ra ý làm vui cho thân người khác, nhân đó gọi là bố thí, không phải là làm khổ đau. Bố thí có hai loại, đó là tài thí và pháp thí. Tài thí cũng có hai loại, đó là cộng thức và bất cộng thức. Cộng thức cũng có hai loại, đó là nội và ngoại. Nếu bố thí tay chân v.v… của chính mình, hoặc là bố thí toàn thân, đây là nội thí. Nếu bố thí con cái, thê thiếp, cho đến các loài hai chân hay bốn chân..., đấy là ngoại thí. Bất cộng thức cũng có hai loại, đó là ăn được và không thể ăn được. Ở đây có nhiều loại, nếu bố thí các vật ăn uống... nhận sử dụng trong thân, đấy là ăn được. Nếu bố thí sự thọ dụng bên ngoài thân như hương liệu tốt đẹp, thuộc về vàng bạc châu báu, áo quần, ruộng đất, của cải tiền bạc, ao hồ vườn tược, để vui chơi mọi nơi..., đấy là không thể ăn được. Nhưng pháp thí có thể thọ dụng, cũng có hai loại, đó là thế gian và xuất thế gian. Nếu nhờ vào pháp thí, ở trong sự lưu chuyển sanh ra thân căn và cảnh giới đáng yêu, đấy là pháp thế gian. Nếu nhờ vào quả báo của pháp thí, vượt qua được sự lưu chuyển, đây là pháp xuất thế gian. Tài thí và pháp thí ấy đều có hai loại, đó là chấp trước và không chấp trước. Hoặc là thân mình, hoặc là giúp đỡ sanh sống, hoặc là quả báo tốt đẹp, mong muốn nối tiếp nhau để tài thí và pháp thí, đấy là có chấp trước. Nếu vì lợi ích và an vui cho tất cả chúng sanh, hoặc là trí tuệ không có chướng ngại, đây là không chấp trước. Ngoài ra lại có loại Vô úy thí, cũng tùy thuận vào trong tài thí. Quả của hai loại bố thí kia cùng với tập khí còn lại, đầy đủ như kinh Đại thừa có nói, trong nầy sẽ lược nói về kệ:

Ăn uống và y phục
Thuận cần, đều bố thí
Cũng thí vòng hoa, đèn
Hương xoa cùng âm nhạc.
Hoặc thí món ăn ngon
Thuốc men và gối tựa
Những thứ để nuôi bệnh
Người chữa bệnh, chăm sóc.
Trai, gái và thê thiếp
Nô tỳ, cùng kho tàng
Vật trang sức, nữ hầu
Thuận cần, đều bố thí.
Những vật quý vốn có
Nhiều đồ dùng trang nghiêm
Xe cộ cùng voi ngựa...
Đồ vật đẹp thí hết.
Cây cảnh nơi tu đạo
Ao giếng các phòng ốc
Ruộng đất cùng vật tạp
Nhà khách đều bố thí.
Hoặc hai chân, bốn chân
Hoặc lại là cồn bãi
Làng mạc cùng kinh đô
Đến cảnh vua đều thí.
Thí những vật tạo vui
Lợi lạc cho người cần
Chỗ dựa cho chúng sanh
Người sợ, thí không sợ.
Thí vật khó xả bỏ
Tay chân mắt mũi lưỡi
Cũng thí cả tim đầu
Toàn thân đều xả bỏ.
Lúc tu hạnh bố thí
Luôn hướng về người nhận
Sanh khởi tưởng ruộng phước
Như hàng thân thuộc tốt.
Các quả báo bố thí
Tụ tập đầy đủ thiện
Hồi hướng vì tự-tha
Thành Phật và cõi tịnh.
Bồ-tát đã hành thí
Chính hồi hướng thể Phật
Bồ-tát nầy hành thí
Được gọi Ba-la-mật.
Hoặc bờ kia, bờ nầy
Không ai có thể nói
Quả thí đến nơi kia
Nói là thí bờ kia.

Nay nói về sự sai khác của thí chủ:

Không tham với quả yêu
Bi nên ba luân tịnh
Chánh giác nói thí kia
Là vì cầu Bồ-đề.
Ta đã làm việc nầy
Đang làm, cũng sẽ làm
Nếu xả bỏ như vậy
Tức làm thuê, không thí.
Tham tăng nơi quả thí
Tùy thuận tức nên xả
Nói là sanh lợi người
Trí-niệm chẳng thí chủ.
Không tham tăng thêm quả
Chỉ do tâm bi thí
Đây là thí chủ thật
Còn lại đều bán buôn.
Như mây lớn mưa khắp
Mọi chốn tâm cùng thị
Đây gọi thí chủ lớn
Còn lại đều phần ít.
Thí và quả báo thí
Xót thương giúp người cần
Thí chủ đối mọi người
Giống như là cha mẹ.
Không nghĩ những vật thí
Người nhận và người thí
Mà luôn vui bố thí
Đây gọi là thí chủ.
Nếu không phân biệt Phật
Bồ-đề cùng Bồ-tát
Vì Bồ-đề nên thí
Sẽ mau được thành Phật.

Hỏi: Đã giải thích về Bố thí Ba-la-mật, nay nên nói về Trì giới Ba-la-mật?

Đáp: Nghĩa Ba-la-mật như trước đã giải thích. Nghĩa Thi la (Trì giới) nay sẽ nói. Vì Thi la nên nói là Thi la. Nói Thi la nghĩa là hành tập gần gũi. Đây là thể tướng. Lại là nghĩa về bản tánh, như thế gian có những giới về vui, giới về khổ... Lại có nghĩa là trong mát, là không hối hận, nhờ đó xa rời tâm nóng bức vì ưu sầu phiền muộn. Lại có nghĩa là an ổn, vì có thể làm nhân an vui cho đời khác. Lại có nghĩa an tĩnh, vì có thể kiến lập chỉ quán. Lại có nghĩa tịch diệt, vì đạt được nhân an lạc của Niết-bàn. Lại có nghĩa đoan nghiêm, vì có thể trang sức hoàn thiện. Lại có nghĩa là tịnh khiết, vì có thể gột rửa điều ác, phòng ngừa điều xấu. Lại có nghĩa là đứng đầu, vì có thể làm nhân để nhập chúng mà không khiếp nhược. Lại có nghĩa là tán thán, vì có thể sanh ra tiếng khen. Giới nầy là chuyển sanh từ hạnh thiện của thân khẩu ý, trong đó xa lìa không giết hại, không cho mà lấy, dâm dục hạnh tà…, là ba loại thân giới. Xa lìa lời nói dối, lời nói phá hoại, lời nói thô ác, lời nói đùa cợt, hỗn tạp..., là bốn loại khẩu giới. Xa lìa tham sân, tà kiến…, là ba loại ý giới. Như vậy biết hạnh thiện từ thân-khẩuý đã chuyển sang mười loại giới, cùng với mười loại hành ác đã phát sanh do tham sân si trở thành đối trị. Vì mười loại hành ác bậc hạ-trung-thượng kia thường hành tập gần gũi nên rơi vào địa ngục, súc sanh, cõi Diêm la.

Như trước kể ra mười loại giới hạnh thiện, nếu không tương ưng cùng với giác phần, bậc hạ-trung-thượng luôn hành tập gần gũi, tùy theo phước sai khác tốt hơn nữa, sẽ đạt được sự sai khác giữa trời và người. Nếu mười loại hạnh thiện tương ưng cùng với giác phần, giới tốt hơn nữa thường hành tập gần gũi nhiều, do đó sẽ đạt đến sự sai khác, chuyển sang hơn hẳn trong địa Thanh văn và địa Bồ-tát. Vả lại, tụ giới Bồ-tát nầy, có sáu mươi lăm loại vô tận, như trong Kinh Vô Tận Ý đã giải thích, nên biết. Nay lược nói có hai loại giới, đó là Bình đẳng chủng thi giới và Bất bình đẳng chủng thi giới.

Bình đẳng chủng thi giới, là dùng hạnh thiện của thân-khẩu-ý nầy tích tụ, ở trong đời đời gieo trồng, hoặc là cõi, hoặc là giàu vui, hoặc là Thanh văn, Độc giác, hoặc là cùng quả báo, hoặc là tịnh độ, hoặc là thành thục chúng sanh, hoặc là Chánh biến giác... Những nhân tố ấy đều gọi là Bình đẳng chủng thi giới. Trái lại với tướng nầy, gọi là Bất bình đẳng chủng thi giới. Lại có hai loại giới, đó là giới Hữu tác và giới Vô tác. Nếu ở trong Hữu tác có sự tạo tác, gọi là giới Hữu tác. Trái với tướng nầy gọi là giới Vô tác.

Lại có chín loại giới, đó là Phàm phu giới, Ngoại đạo ngũ thông giới, Nhân giới, Dục giới thiên tử giới, Sắc giới thiên tử giới, Vô sắc giới thiên tử giới, Chư học vô học Thanh văn giới, Độc giác giới, Bồ-tát giới.

Phàm phu giới là đi vào nơi sanh nên hết. Ngoại đạo ngũ thông giới là thần thông giảm sút nên hết. Nhân giới là mười nghiệp đạo thiện hết, nên không còn. Dục giới thiên tử giới là phước hết nên không còn. Sắc giới thiên tử giới là thiền định không còn, nên hết. Vô sắc giới thiên tử giới là Tam-ma-bát-đế (thiền định) không còn, cho nên hết. Chư học, vô học Thanh văn giới là cứu cánh Niết-bàn cho nên hết. Độc giác giới là thiếu đại bi cho nên hết. Bồ-tát giới là không có cùng tận, vì giới nầy có thể làm sáng tỏ các giới khác, vì chủng tử nối tiếp nhau không có kết thúc, vì Bồ-tát kế tục nhau không kết thúc, vì Như Lai giới không có tận cùng. Do nhân duyên nầy, nên Bồ-tát giới gọi là vô tận. Các giới Bồ-tát hồi hướng Bồ-đề, nên gọi là giới Ba-la-mật. Trong nầy có kệ:

Giống như cha quý công sức con
Cũng như tự mình quý thọ mạng
Giới ra khỏi hữu ái cũng vậy
Người khỏe, tâm lớn đều quý giới.
Giới nầy Mâu-ni đã hành tập
Giải thoát nơi dục lìa hữu ái
Như quạ mọi người đều từ bỏ
Người trí thường nên quý giới nầy.
Giới ấy lợi ích cho mình, người
Khiến thân đoan nghiêm rời buồn chán
Đời nầy đời kia trang nghiêm đẹp
Giới nầy người trí nên quý hơn.
Giới nầy không dựa sức người khác
Thảy đều đạt được không cầu xin
Đều nhờ vào sức mình mà được
Nên bậc thượng nhân quý giới nầy.
Tài sản, đất nước và đất đai
Xương thịt của mình cùng đầu, cổ
Đều có thể bỏ, không bỏ giới
Vì mong thanh tịnh đạo Bồ-đề.
Giả sử từ trời rơi xuống đất
Và từ đất bay lên trên trời
Hoàn toàn lìa cấu, đất không nhiễm
Thuận theo nên quyết không chuyển dời.
Nếu đã đầy đủ giới, phương tiện
Lúc nầy liền đạt Địa thứ hai
Đã được địa Ly cấu thanh tịnh
Là lúc thành tựu tâm mong muốn.
Nếu trở lại trời, người, Tu la
Và trong súc sanh ai độ
Khéo biết phương tiện hành giáo hóa
Tùy niệm hướng về lợi ích kia.
Hoặc dùng bố thí thâu chúng sanh
Hoặc cùng ái ngữ vào ý họ
Hoặc lại ban cho lợi an ổn
Hoặc dùng đồng sự để giúp sức.
Hoặc trong loài người được làm chủ
Hoặc ở chúng trời mà tự tại
Rất nhiều phương tiện nhằm dẫn dắt
Đều đang sắp đặt nơi pháp thiện.
Vì đầy đủ giới thật, thần thông
Có thể làm khô nước biển lớn
Thế gian tận, lửa dữ bốc cao
Trong khoảnh khắc hủy diệt tất cả.
Quán xét thế gian bao phiền não
Buồn sanh bệnh do xa người thân
Người trí có giới thông phương tiện
Vì đời thương yêu chỉ đạo mầu.

Hỏi: Đã giải thích về Thi la Ba-la-mật, nay nói về Sàn đề (Nhẫn nhục) Ba-la-mật?

Đáp: Trong nầy, nói đến Sàn đề là hoặc thân, hoặc tâm nhận chịu các khổ, vui, chí có thể chịu đựng mà tâm không cao thấp, không có nhiễm đục. Đây gọi là lược nói về Sàn đề (Nhẫn nhục). Nếu nói rộng thì thiết lập thành ba loại, đó là Thân trú trì-Tâm trú trì và Pháp trú trì. Ở đây nhẫn của Thân trú trì, nghĩa là thân gặp phải những sự khổ, như bên ngoài tiếp xúc với cảnh cố ý hay vô tình không thích, đã nảy sanh khổ nơi thân có thể chịu đựng, không tính toán. Đây gọi là nhẫn của Thân trú trì. Cảnh sanh ở ngoài, nghĩa là do nhân duyên ăn uống nên xảy ra sợ hãi nóng giận, ngu si, cho đến các loài hai chân, bốn chân hay nhiều chân, như muỗi mòng, rắn rít, cọp beo, sư tử..., vô lượng nhân duyên từ các hoàn cảnh cố ý bức não nơi thân. Hoặc lại có người đến xin tay chân tai mũi đầu mắt và các chi phần mà cắt đứt. Đối với sự việc xấu ác nầy, tâm không hề buồn rầu, hỗn loạn, cũng không hề lay động. Đây gọi là nhẫn của Thân trú trì.

Lại còn nhân duyên bão tố dữ dội, thời tiết nóng nực lạnh lẽo, mưa đá trút xuống, lúc những hoàn cảnh vô tình đến bức bách phiền muộn, toàn thân tiếp xúc đau khổ mà có thể an nhiên nhận chịu, đây cũng gọi là nhẫn.

Lại vì trong thân đã dấy lên nhân duyên thay đổi về về cảnh giới, ăn uống nhạt nhẽo, cho đến dấy động sanh ra bốn trăm lẻ bốn bệnh khổ cho thân. Vào lúc bức bách phiền muộn, có thể chịu đựng không tính toán, cũng gọi là nhẫn của Thân trú trì.

Nhẫn trong Tâm trú trì là, nếu có những lời nói không thích nghe, như chửi mắng, giận dữ chê bai, quát tháo, phỉ báng, lăng nhục ức hiếp…, lúc đến bức bách não hại, tâm không lay động cũng không hỗn loạn, đây gọi là nhẫn của Tâm trú trì. Lại có tám loại pháp thế gian được tiếp xúc, đó là được lợi-mất lợi, tiếng tốt-tiếng xấu, chê bai-khen ngợi, khổ-vui, trong tâm không có cao thấp tốt xấu, bất động như núi, thì gọi là nhẫn của Tâm trú trì. Lại vì bặt dứt tâm ý nóng giận, nên theo đó không có tâm giết hại, không có tâm kết buộc oán hận, không có tâm tranh giành, không có tâm kiện tụng, tự bảo vệ mình và bảo vệ người, tâm từ tương ưng trong mọi chúng sanh, cùng với tâm bi chung nhau thực hành, khởi ý hoan hỷ, luôn luôn xả bỏ tất cả. Những điều nầy cũng gọi là nhẫn của Tâm trú trì.

Nhẫn trong Pháp trú trì là, ở bên trong ở bên ngoài đều quán sát đúng như thật. Ngoài là những loại như chửi mắng, giết hại… Chửi mắng là tiếng và chữ hòa hợp cùng lúc không phân tán, vì chỉ trong nháy mắt chữ đã không có, tiếng giống như tiếng vang, tất cả rỗng lặng nào có gì thật, không thể nói ra nghĩa tương ưng theo thứ tự. Trong ấy không có chửi mắng, chỉ vì các hạng phàm phu phân biệt hư vọng mà sanh ra nóng nảy tức giận. Nếu chữ và tiếng căn cứ vào nghĩa của tự tánh, biết là không thể được, tâm sẽ thuận theo không làm trái nhau, bình đẳng chịu đựng. Đây gọi là nhẫn của Pháp trú trì. Lại đối với nơi bị giết hại, nên khởi suy nghĩ: Thân không phải là bị hại, thân nếu không cố ý, thì giống như cỏ cây tường vách... Tâm cũng không phải là bị hại, vì tâm chẳng phải là sắc, do đó không hề có đụng chạm hay ngăn ngại. Ở trong nghĩa bậc nhất, không hề có người giết hại. Lúc thực hành quán xét như vậy, không thấy sự giết hại, có thể chịu đựng được điều ấy, đây gọi là nhẫn của Pháp trú trì.

Bên trong là lúc quán xét pháp bên trong, dấy lên ý nghĩ như vầy: Sắc như bọt nước tụ lại, theo duyên sanh ra, không có động tác, không tự sanh, hoàn toàn trống rỗng, xa rời ngã và ngã sở, thọ giống như bọt nước nổi, tưởng như dợn nắng, hành như cây chuối, thức như huyễn ảo. Tất cả đều theo duyên dấy lên, không có động tác, không tự sanh, từng sát na sanh diệt, hoàn toàn trống rỗng, lìa ngã và ngã sở. Ở đây sắc chẳng phải là ngã, sắc chẳng phải là ngã sở. Như vậy, thọ, tưởng, hành, thức cũng chẳng khác gì. Thức chẳng phải là ngã, thức chẳng phải là ngã sở. Các pháp như vậy từ duyên sanh ra. Nếu từ duyên sanh thì tự tánh không hề sanh. Nếu tự tánh không hề sanh thì không có người nào có thể làm hại. Lúc quán xét như vậy, tự tánh của các pháp hoặc ở trong, hoặc ở ngoài đều không thể đạt được. Đây gọi là nhẫn của Pháp trú trì. Nếu ở trong thân-tâm-pháp, lúc dấy lên quán xét tự tánh, tức là thuận theo nhẫn vô sanh. Đây gọi là lược nói về Sàn đề Ba-la-mật. Như trong Tu-đa-la (kinh) đã nói đầy đủ. Có Thánh giả tụng:

Oán, thân cùng ở giữa
Bi niệm luôn bình đẳng
Nhân sân còn không có
Sao sân với chúng sanh?
Khéo tu tập thường từ
Chúng sanh đồng thể tánh
Bình đẳng không có hai
Sao phẫn nộ chúng sanh?
Tâm thường xả bỏ sân
Nhiều đời thương yêu vui
Người mạnh đã không ngại
Sao trái với cuộc đời?
Đối với mọi chúng sanh
Luôn cầu làm lợi giúp
Tại sao khởi giận dữ
Thêm ác cho chúng sanh?
Tiếp tám pháp thế gian
Tâm đó không động chuyển
Như dùng miệng thổi núi
Nên biết được sức nhẫn.
Thâm tâm lìa cấu uế
Việc ngăn không thể nhiễm
Như bùn ném hư không
Nên biết được sức nhẫn.
Đối thân không yêu quý
Đối mạng cũng chẳng tham
Các oán đều không thể
Lay được chí tiếp nối.
Đối tiếng chẳng đáng yêu
Tâm yên như tiếng vang
Những lời như huyễn hóa
Tâm nhẫn có trong tay.
Không ở trong năm uẩn
Giữ ngã cùng mạng tướng
Thân cũng không ngã sở
Nên biết đạt sức nhẫn.
Nếu không thấy nơi ngã
Cùng tự tánh ngã sở
Đạt pháp nhẫn vô sanh
Phật tử an ổn nhất.

QUYỂN 2

Hỏi: Đã giải thích về Nhẫn Ba-la-mật, nay nên nói về Tinh tấn Ba-la-mật hay không?

Đáp: Thể tướng mạnh mẽ dũng cảm, nghiệp ác hăng hái hơn mức bình thường..., đây là Tinh tấn. Ở trong các bậc Bồ-tát, từ mới phát tâm cho đến bậc ngồi nơi tòa Bồ-đề, kiến lập tất cả các phần Bồ-đề tương ưng với nghiệp thiện của thân-khẩu-ý, đây gọi là Tinh tấn Ba-lamật. Vả lại, nếu cùng với các phàm phu và các bậc học, vô học, Thanh văn, Độc giác, không cùng chung tinh tấn, đây gọi là Tinh tấn Ba-la-mật. Tinh tấn có ba loại, đó là thân khẩu và ý. Thân khẩu đó tinh tấn, dùng tâm tinh tấn để làm người đi trước. Lược nói thì có ba loại phước sự. Nếu thân cùng với phước sự tương ưng, là thân tinh tấn. Nếu khẩu cùng tương ưng, thì khẩu tinh tấn. Nếu ý cùng tương ưng, là ý tinh tấn. Lại còn thân thực hành hăng hái ở trong pháp thiện vừa lợi mình vừa lợi người, là thân tinh tấn. Khẩu thực hành hăng hái là khẩu tinh tấn. Ý thực hành hăng hái là ý tinh tấn. Còn có ba mươi hai loại tinh tấn của Bồ-tát, đó là tinh tấn không đoạn dứt giòng giống Tam bảo, tinh tấn thành thục vô lượng chúng sanh, tinh tấn thâu nhận vô lượng lưu chuyển, tinh tấn cúng dường, hầu hạ vô lượng chư Phật, tinh tấn tích lũy tập hợp vô lượng thiện căn, tinh tấn sanh ra vô lượng tinh tấn, tinh tấn khéo léo giảng giải khiến cho chúng sanh hoan hỷ, tinh tấn làm yên ổn cho tất cả chúng sanh, tinh tấn làm những việc tùy theo các chúng sanh, tinh tấn thực hành xả bỏ ở trong các chúng sanh, tinh tấn thọ nhận các giới học, tinh tấn nhẫn nại cố gắng điều hòa mềm mỏng, tinh tấn sanh ra các Thiền na, Tam-ma-đề, Tam-ma-bát-đế, tinh tấn đầy đủ trí tuệ không chấp trước, tinh tấn thành tựu bốn phạm hạnh, tinh tấn sanh ra năm loại thần thông, tinh tấn dùng tất cả công đức nơi cõi Phật thành tựu theo cõi Phật, tinh tấn hàng phục các loại ma, tinh tấn như pháp hàng phục các luận sư ngoại đạo, tinh tấn làm đầy đủ mọi pháp Phật như mười lực vô úy, tinh tấn trang nghiêm thân-khẩu-ý, tinh tấn vượt qua những việc làm trong các cõi, tinh tấn làm tổn hại các loại phiền não, người chưa vượt qua làm cho vượt qua, người chưa cởi bỏ làm cho cởi bỏ, người chưa thức tỉnh làm cho thức tỉnh, người chưa đạt Niết-bàn tinh tấn làm cho đạt Niết-bàn, tinh tấn quy tụ tích tập nhiều phước đức cùng tư lương, tinh tấn thâu nhận tất cả pháp Phật, tinh tấn đi lại qua vô biên cõi Phật, tinh tấn tiếp xúc với vô lượng chư Phật. Các loại tinh tấn nầy phát ra từ tâm đại bi, xa rời thân-khẩu-ý, trú trong trú xứ không lấy không bỏ, đạt được đến chỗ không đưa lên không hạ xuống, thâu tóm không sanh ra không khởi lên. Ba mươi hai pháp như vậy đầy đủ rồi, tinh tấn Ba-la-mật sẽ được thanh tịnh đầy đủ. Trong nầy cũng có Thánh tụng:

Các Ba-la-mật như Bố thí...
Năng lực tinh tấn được thành tựu
Vì thế tinh tấn làm căn bản
Các bậc Bồ-tát đạt Phật thân.
Tinh tấn phương tiện cầu Bồ-đề
Tôi nghĩ tinh tấn phương tiện hơn
Vì xả bỏ tinh tấn đó rồi
Phương tiện không thể làm những việc.
Nếu chỉ đơn độc một phương tiện
Thì không siêng gắng hành sự nghiệp
Những việc đều là tinh tấn làm
Vì thế tinh tấn hơn phương tiện.
Tâm có lực khéo làm phương tiện
Tâm nầy từ tinh tấn sanh ra
Thế nên việc làm ở các cõi
Đều lấy tinh tấn làm căn bản.
Các luận cho đến các công xảo v.v…
Đủ tinh tấn nên đến bờ kia
Thế nên ở trong các việc làm
Tinh tấn là người tạo thành tựu.
Hết thảy tự tại đến tài vật
Người tinh tấn thì luôn đạt được
Thế nên điều yên vui các cõi
Đều dùng tinh tấn làm nhân đạt.
Vì có tinh tấn rất tốt đẹp
Phật là thượng thủ đối Thanh văn
Vì thế năng lực tinh tấn ấy
Là nhân tốt chẳng phải hành khác.
Người mạnh mẽ, tinh tấn hơn hẳn
Ở trong từng địa tuy như nhau
Người kia luôn được cao đẹp nhất
Thế nên luôn luôn khởi tinh tấn.
Lúc Phật ở nơi cội Bồ-đề
Nhờ tinh tấn nên giác Bồ-đề
Vì thế tinh tấn là căn bản
Nhân đạt Phật thân, trước đã nói.

Hỏi: Đã lược giải thích về Tinh tấn Ba-la-mật, nay nên nói về Thiền na Ba-la-mật hay không?

Đáp: Nói về Thiền na có bốn loại Thiền na, đó là có giác có quán ly sanh hỷ lạc, hành ở Sơ thiền. Không giác không quán định sanh hỷ lạc, hành đến Nhị thiền. Xa rời hỷ, hành xả, nghĩ đến tuệ, nhận được lạc, hành đến Tam thiền. Diệt trừ khổ lạc, xả niệm thanh tịnh không khổ không lạc, hành đến Tứ thiền. Ở trong bốn loại Thiền na nầy, xa rời phần vị chứng Thanh văn, Độc giác, hồi hướng quả vị Phật, được gọi là Thiền na Ba-la-mật. Các vị Bồ-tát có mười sáu loại Thiền na Ba-la-mật. Các vị Thanh văn-Độc giác vốn không có như vậy. Những gì là mười sáu loại? Đó là không giữ lấy thật thiền, không đắm vào vị thiền, đại bi theo duyên thiền, Tam-ma-địa hồi chuyển thiền, khởi tác thần thông thiền, tâm có thể chủ động thiền, các loại Tam-ma-bát-đế thiền, tịch tĩnh lại tiếp tịch tĩnh thiền, không thể lay động thiền, xa rời ác đối diện thiền, đi vào trí tuệ thiền, thuận theo tâm hành chúng sanh thiền, chủng tử Tam bảo không đoạn thiền, thiền không lui sụt, thiền nơi tất cả các pháp tự tại, thiền phá trừ tán loạn. Mười sáu loại thiền như vậy, chính là Thiền na Ba-la-mật.

Không giữ lấy thật thiền, là vì đầy đủ Như Lai thiền. Không đắm vào vị thiền, vì không tham niềm vui của chính mình. Đại bi theo duyên thiền, là thị hiện phương tiện đoạn trừ phiền não cho các chúng sanh. Tam-ma-địa hồi chuyển thiền, là dựa theo duyên cõi Dục làm thành duyên. Khởi tác thần thông thiền, là muốn biết tâm hành của tất cả chúng sanh. Tâm có thể chủ động thiền, là tâm thành tựu và trí tự tại. Các loại Tam-ma-bát-đế thiền, là được vượt ra các cõi Sắc và Vô sắc. Tịch tĩnh lại tiếp tịch tĩnh thiền, là vượt hơn hẳn các loại Tam-ma-bát-đế của hàng Thanh văn, Độc giác. Không thể lay động thiền, là rốt ráo về phía sau. Xa rời ác đối diện thiền, là loại trừ đến các loại huân tập nối tiếp nhau. Đi vào trí tuệ thiền, là vượt ra ngoài các thế gian. Thuận theo tâm hành chúng sanh thiền, là cứu độ cho các chúng sanh. Chủng tử Tam bảo không đoạn thiền, là Như Lai thiền không có cùng tận. Thiền không lui sụt, là thường xuyên đi vào định. Thiền nơi tất cả các pháp tự tại, là các nghiệp đầy đủ. (Thiền phá trừ tán loạn thứ mười sáu, bản gốc thiếu nên không giải thích). Lại còn niệm tịnh, tuệ tịnh, nẻo tịnh, hổ thẹn tịnh, giữ tâm hy vọng tịnh, hồi hướng Bồ-đề tịnh, căn tịnh, không dựa tịnh, không chấp giữ thật thanh tịnh, khởi tác thần thông thanh tịnh, tâm gắng nhận thanh tịnh, thân xa lìa thanh tịnh, nội tịch tĩnh thanh tịnh, ngoài không hiện hành thanh tịnh, có kiến chứng đắc thanh tịnh, không chúng sanh không mạng không nhân thanh tịnh, trong tam giới không trụ chấp thanh tịnh, môn giác phần thanh tịnh, lìa ngăn che, đạt quang minh thanh tịnh, nhập trí tuệ thanh tịnh, nhân quả không trái nhau thanh tịnh, nghiệp tư duy nhẫn thanh tịnh, khai mở kho tàng tướng trí thanh tịnh, gồm thâu phương tiện khéo léo trước thanh tịnh, Bồ-đề tràng chướng ngại thanh tịnh, không chấp trước Thanh văn, Độc giác thanh tịnh, an trú Thiền na xuất sanh quang minh thanh tịnh, Tam-ma-địa Phật không tán loạn thanh tịnh, quán tự tâm hành thanh tịnh, biết các căn cơ của các chúng sanh như chỗ ứng hợp để thuyết pháp thanh tịnh (Bản gốc thiếu hai tịnh). Mười sáu loại Thiền na Ba-la-mật ấy, do ba mươi hai thứ thanh tịnh nầy nên được thanh tịnh, được đi vào địa Như Lai. Ở đây có tụng:

Nếu mười sáu loại Thiền
Cùng ba mươi hai tịnh
Tương ưng với Thiền độ
Đây là cầu Bồ-đề.
Đến bờ kia thiền định
Khéo biết nghiệp Thiền ma
Năm thần thông người trí
Sanh ra không lui sụt.
Các sắc chẳng hề tận
Thông suốt thật tánh đó
Vì thiên nhãn hơn hẳn
Thấy khắp các sắc tướng.
Tuy dùng thiên nhĩ tịnh
Nghe âm thanh từ xa
Người trí biết thông suốt
Âm thanh chẳng nói năng.
Tâm tư mọi chúng sanh
Quán xét các tướng đó
Các tâm như huyễn hóa
Hiểu rõ tự tánh chúng.
Chúng sanh trú kiếp trước
Như thật, nghĩ biết được
Các pháp không quá khứ
Cũng biết được tự tánh.
Hướng đến biết cõi nước
Thấy có đủ trang nghiêm
Tướng giống như hư không
Biết rõ thật tánh ấy.
Các phiền não chúng sanh
Đều do tâm loạn sanh
Thế nên người trí hơn
Tu nhiều các thiền định.

Hỏi: Những giải thích về Thiền na Ba-la-mật, lược nói đã xong.

Nay thuận theo thứ tự nói về Bát nhã Ba-la-mật hay không?

Đáp: Bát nhã Ba-la-mật, giải thích như trước, là đã nói trong tư lương thứ nhất, nay tôi lại giải thích về tướng đó, như kệ trước nói:

Thí-giới-nhẫn-tấn định
Còn ngoài năm loại nầy
Các Ba-la-mật kia
Trí độ gồm thâu cả.

Ngoài những loại nầy, còn có bốn Ba-la-mật, đó là Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, Nguyện Ba-la-mật, Lực Ba-la-mật, Trí Ba-la-mật. Bốn Ba-la-mật nầy, đều là Bát nhã Ba-la-mật gồm thâu. Bát nhã Ba-la-mật là, như Phật Thế Tôn ở nơi cội Bồ-đề, dùng một niệm trí tương ưng, giác ngộ rõ các pháp, là Bát nhã Ba-la-mật.

Lại là tướng vô ngại vì không có thân, tướng vô biên vì giống như hư không, tướng vô đẳng đẳng vì các pháp không đạt được, tướng xa lìa vì rốt ráo là không, tướng không thể hàng phục vì không thể đạt được, tướng vô cú vì không có danh thân, tướng không có tụ hợp vì xa rời đến và đi, tướng vô nhân vì xa rời người tạo tác, tướng vô sanh vì sanh không hề có, tướng không đi đến vì xa rời sự lưu chuyển, tướng vô tán hoại vì xa rời giới hạn trước sau, tướng vô nhiễm vì không thể giữ lấy, tướng vô hý luận vì xa rời các sự hý luận, tướng vô động vì là tự thể của pháp giới, tướng không dấy khởi vì không phân biệt, tướng vô lượng vì xa rời hạn lượng, tướng không nương dựa vì nương dựa không hề có, tướng không nhiễm vì không sanh ra, tướng không thể lường vì không có giới hạn, tướng tự nhiên vì biết tự tánh của các pháp.

Lại, Bát nhã Ba-la-mật là tướng của văn tuệ, cùng đi vào chánh tư duy. Tướng của văn tuệ ấy có tám mươi loại, đó là các loại như lạc dục... Đi vào chánh tư duy có ba mươi hai loại, đó là các loại như an trú nơi Xa-matha...

Lại, Bát nhã Ba-la-mật không cùng với mười sáu loại túc trụ đều có vô minh. Như vậy các tướng của Bát nhã Ba-la-mật, tùy theo mức độ đã nói. Nếu nói đầy đủ thì chính là vô lượng. Bát nhã Ba-la-mật nầy đã thâu tóm vào trong nó các phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, có tám loại thiện xảo, đó là Chúng thiện xảo, Giới thiện xảo, Nhập thiện xảo, Đế thiện xảo, Duyên sanh thiện xảo, Ba đời thiện xảo, Các thừa thiện xảo, Các pháp thiện xảo.

Thiện xảo Ba-la-mật trong ấy không hề có giới hạn. Lại, tùy vào nơi chốn sanh thuộc loại nào, dùng hành tướng thuộc loại như thế nào, thực hiện Bồ-đề để có thể tự tăng trưởng thiện căn và điều phục chúng sanh. Ở trong rất nhiều nơi chốn sanh ấy cùng ở trong rất nhiều hành tướng kia.

Tất cả các nơi nầy, hễ nơi nào thích ứng thực hiện các phương tiện, thì các bậc Đại nhân đã phân biệt, nói ra, nay tôi nói đến chỉ là một phần nhỏ trong kinh kia. Nếu nghiệp thiện nhỏ bé đã làm, nay làm, luôn làm cho nhiều thêm, có thể tốt đẹp đến vô lượng, đấy là phương tiện. Không tự vì mình chỉ vì chúng sanh, đấy là phương tiện. Chỉ dùng Bố thí (Đà na) làm cho các Ba-la-mật được đầy đủ, đấy là phương tiện. Như vậy dùng Giới luật (Thi la) thâu tóm các nơi sanh ra, dùng Nhẫn nhục (Sàn đề) trang nghiêm thân khẩu tâm là hướng tới Bồ-đề, dùng Tinh tấn (Tỳ-lê-da) an trú nơi tinh tấn, dùng Thiền định không lui sụt đối với thiền, dùng Trí tuệ (Bát nhã) xả bỏ, xa rời vô vi, dùng Từ làm nơi nương tựa che chở, dùng Bi nên không từ bỏ lưu chuyển, dùng Hỷ luôn luôn chịu được sự việc không vui thích, dùng Xả để phát khởi các nghiệp thiện, dùng Thiên nhãn giữ lấy Phật nhãn, dùng Thiên nhĩ hành đầy đủ Phật nhĩ, dùng Tha tâm trí biết tất cả các căn, dùng Túc trú niệm biết ba đời không ngăn ngại, dùng Tự tại thông đạt được Như Lai tự tại thông, dùng phương tiện đi vào tâm ưa muốn của chúng sanh để biết các hành tướng đã vượt qua, lại đi vào, không nhiễm gì mà nhiễm, bỏ gánh nặng lại gánh lên, vô lượng bày tỏ hạn lượng, tối thắng hiện rõ thấp kém, vì phương tiện nên tương ưng với Niết-bàn mà rơi vào lưu chuyển. Tuy hành đến Niết-bàn đó mà không hoàn toàn tịch diệt, hiện hành bốn ma, vượt lên trên các ma, đạt được trí bốn đế và quán vô sanh mà không đi vào chánh vị. Tuy hành theo nẻo náo loạn mà không hành thuận theo giấc ngủ phiền não. Tuy hành xa lìa mà không dựa vào thân tâm dứt hết. Tuy hành nơi ba cõi, à ở trong cõi không hành Thế tục đế. Tuy hành ở nơi không mà tất cả mọi lúc luôn luôn cầu pháp Phật. Tuy hành vô vi mà không quay về vô vi tác chứng. Tuy hành đối với thông mà không để lộ tất cả. Tuy hiện rõ oai nghi hàng Thanh văn, Độc giác mà không rời bỏ niềm vui mong muốn pháp Phật. Như vậy, trong các loại phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, hết thảy là phương tiện giáo hóa chúng sanh, những phương tiện ấy là phương tiện thiện xảo của Bồtát giáo hóa nơi an trú, cần phải biết. Trong nầy, có Tụng:

Các khổ não trong đường súc sanh
Sanh địa ngục, ngạ quỷ cũng vậy
Ở trong lưu chuyển, tương ưng nhận
Vô số tội lỗi của chúng sanh.
Những tụ khổ nầy không thể ngăn
Ở nơi chúng sanh khởi lòng thương
Chư Phật liền nói Bồ-tát kia
Tất cả thế gian bi vô ngại.
Trong luận nếu có khéo bao quát
Rất nhiều nghiệp người khác làm
Các minh như công xảo v.v... và việc
Đều dùng ái ngữ trao chúng sanh.
Giới, tài, văn tu tịch, điều hòa...
Dùng công đức hóa độ người khác
Giáo hóa rồi khiến thường tiếp tục
Bậc Thắng Tiên nói trú đạo thiện.
Hiện thân nữ cảm hóa thân nam
Khiến họ điều phục mà thọ giáo
Hoặc hiện thân nam cảm thân nữ
Khiến họ điều phục mà thọ giáo.
Nếu không chán vui nơi cảnh nhiễm
Thương họ không đạo khiến nhập đạo
Thuận chúng sanh giáo hóa nhiều cách
Nơi rất bức não cũng không bỏ.
Hoặc có tin hiểu nơi vô ngã
Và biết các pháp lìa tự tánh
Người nầy chưa lìa pháp thế gian
Chỉ quán sát như vậy mà chuyển.
Từ nghiệp và quả sanh tín thuận
Mà có vô biên các điều khổ
Nên vào lúc nhận chịu quả khổ
Không thích sự bức thiết của khổ.
Nếu đối với Thanh văn xuất gia
Liền đặt nơi yên ổn vắng lặng
Hoặc lại đặt vào đạo Duyên giác
Hoặc đem mười loại thừa Diệu lực.
Khiến họ đạt được thừa Chánh giác
Hoặc được vắng lặng cùng nẻo trời
Nếu quán sát hiện tại thấy quả
Như chỗ đã làm đang sắp xếp.
Như vậy từ đầu đến cuối cùng
Việc khó trượng phu đều làm được
Dựa vào nhiều phương tiện xảo ấy
Lìa bỏ tất cả thích, không thích.
Thừa nầy chư Phật thường khen ngợi
Trăm ngàn công đức tự trang nghiêm
Thường sanh tín rất tịnh cho đời
Vì nói về đạo thiện diệu kỳ.
Đối thừa Duyên giác, thừa Thanh văn
Cho đến các thừa trong trời, người
Đều lấy mười nghiệp thiện thành thục
Cũng từ nhân thừa thành tựu người.

Đã giải thích về Phương tiện thiện xảo Ba-la-mật, nay tôi sẽ nói về Nguyện Ba-la-mật. Các vị Bồ-tát lúc đầu có mười Đại nguyện, đó là cúng dường, hầu hạ chư Phật không có thiếu sót, là Đại nguyện thứ nhất. Ở nơi đức Phật ấy, giữ gìn chánh pháp vĩ đại, thâu nhận chánh giác, bảo vệ tất cả chánh giáo, là Đại nguyện thứ hai. Chư Phật xuất hiện trong các thế giới, bắt đầu trú trong cung trời Đâu suất, cho đến sanh xuống cõi dưới, đi vào thai, ở trong thai, mới sanh, đến xuất gia, chứng quả chánh giác, thỉnh chuyển Pháp luân, nhập Đại Niết-bàn, đều đi về nơi đó để được hành cúng dường ban đầu, không thể rời bỏ, là Đại nguyện thứ ba. Các vị Bồ-tát thực hành rộng lớn vô lượng, không rời xa các Ba-lamật-đã thâu gồm thiện tịnh của các địa, sanh ra phần chung, phần riêng, tướng đồng, tướng dị, cùng chuyển, không cùng chuyển..., và rất nhiều các hạnh Bồ-tát, như thật, như mười địa đạo giải thích, tu tập Ba-la-mật, chỉ dạy khuyên bảo, trao truyền rồi trú trì, phát khởi sanh ra những tâm như vậy, là Đại nguyện thứ tư. Không còn sót cõi chúng sanh nào, có sắc tướng, không có sắc tướng; có tưởng, không có tưởng; noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, ba cõi cùng đi vào, sáu chốn cùng chung sống, các đời thuận đến thuộc về danh sắc, hết thảy mọi cõi chúng sanh nào, tất cả đều được thành thục, khiến đi vào pháp Phật, đoạn trừ các nẻo xấu ác, an lập tại trí Nhất thiết trí, là Đại nguyện thứ năm. Các thế giới rộng lớn vô lượng không hề sót gì, hoặc tế, hoặc thô, hoặc ngang, hoặc dọc, hoặc trái ngược, hoặc bình thường, tất cả đều an trú, thuận đến để cùng hòa nhập, cùng chung sống, mười phương lồng lộng giống như màng lưới của Đế Thích, đi vào nơi mênh mông, dùng trí tuệ thực hành thuận theo, là Đại nguyện thứ sáu. Nơi tất cả quốc độ cũng chính như một quốc độ, một quốc độ cũng chính như nhiều quốc độ, Bồ-tát với tâm bình đẳng làm thanh tịnh vô lượng quốc độ, đều trang nghiêm khắp, xa lìa phiền não, đạo thanh tịnh đầy đủ, vô lượng tướng trạng trí tuệ, để chúng sanh được sung mãn bước vào cảnh giới Phật tối thượng, nhiệm mầu, và thuận theo tâm của họ mà thị hiện khiến được hoan hỷ, là Đại nguyện thứ bảy. Nguyện được đồng một tâm hạnh với các Bồ-tát, được tích lũy, tu tập những thiện căn bất cộng, được như các Bồ-tát đồng một mối nhân duyên: thường không rời bỏ hạnh bình đẳng của Bồ-tát, nguyện được phát khởi tự tâm thể nhập vào uy thần của Như Lai, để được thần thông thực hành hạnh bất thoái, để được du hành hóa độ các thế giới, để ảnh hưởng đến đại chúng các nơi, để tự thân khéo thuận đi vào các chốn sanh, để được đủ đầy pháp Đại thừa không thể nghĩ bàn, tức là để thực hành hạnh Bồ-tát. Đây là Đại nguyện thứ tám. Nguyện được thăng tiến thực hành hạnh Bồ-tát chẳng thoái chuyển, nên vì nghiệp thân khẩu ý chẳng để luống uổng, tức chính khi gặp chúng sanh khiến quyết định vào Phật giáo, khi phát ra lời nói thì khiến các chúng sanh được vào Phật tuệ, ngay khi họ tin, làm cho chuyển ngay phiền não. Vì mong đạt được như Đại y vương, vì hành các hạnh Bồ-tát. Đây là Đại nguyện thứ chín. Nguyện được ở trong các thế giới thành Chánh giác Bồ-đề vô thượng, được ở trong một thế giới phàm phu, cho đến tất cả thế giới phàm phu ngu muội khác, đều hiển hiện sanh ra, ngồi ở đạo tràng, chuyển Pháp luân, và Đại Bát Niếtbàn, đem trí tuệ đi vào cảnh giới uy thần, rộng lớn của Phật, được đối với chúng sanh như thâm tâm của Bồ-tát, giống như Phật khi ứng hiện ra đời là để khai ngộ chúng sanh khiến được tịch tĩnh mà thị hiện, được chánh giác ngộ một pháp, tất cả pháp... tất cả các pháp đều là tướng Niết-bàn, được phát ra một âm thanh khiến cho tâm của các chúng sanh hoan hỷ, được hiện rõ Đại Niết-bàn mà không đoạn dứt công hạnh và năng lực, được hiện rõ quả vị đại trí tuệ, an lập các pháp, được dùng thần thông pháp trí của cảnh giới Phật bao phủ tất cả các thế giới, là Đại nguyện thứ mười. Các bậc Đại Bồ-tát như vậy với mong muốn thật rộng lớn sanh ra mười đại nguyện làm đầu tiên, đầy đủ Đại nguyện nầy rồi, xây dựng hạnh nguyện Bồ-tát khác trải qua A-tăng-kỳ kiếp, được trú trong địa Hoan hỷ của Bồ-tát, đây gọi là Nguyện Ba-la-mật.

Trên đã giải thích về Nguyện Ba-la-mật, nay tôi sẽ nói về Lực Ba-la-mật. Trong đây lược nói các vị Bồ-tát có bảy loại lực, đó là lực phước báo sanh, lực thần thông, lực tín, lực tinh tấn, lực niệm, lực Tam-ma-đề và lực Bát nhã.

Lực phước báo sanh: Như sức mười con voi nhỏ bằng sức một con voi lớn (long tượng). Sức mười con voi lớn bằng sức một con Hương tượng. Sức mười con Hương tượng bằng sức một con Đại hương tượng. Sức mười con Đại hương tượng bằng sức một Đại lực sĩ. Sức mười Đại lực sĩ bằng một nửa sức Na-la-diên. Sức mười nửa Na-la-diên bằng một sức Na-la-diên. Sức mười NA-la-diên bằng một sức Đại Na-la-diên... Sức mười Đại Na-la-diên bằng sức một Bồ-tát trải qua trăm kiếp. Sức mười Bồ-tát trải qua trăm kiếp bằng sức một Bồ-tát trải qua trăm ngàn kiếp. Sức mười Bồ-tát trải qua trăm ngàn kiếp bằng sức một Bồ-tát đạt được Nhẫn vị. Sức mười Bồ-tát đạt được Nhẫn vị bằng sức một Bồ-tát đời cuối cùng. Trú vào lực nầy rồi, Bồ-tát ngay từ lúc sanh ra có thể đi bảy bước. Sức mười Bồ-tát đời cuối cùng vào lúc sanh ra, mới bằng sức Bồ-tát lúc trẻ tuổi. Bồ-tát trú vào lực nầy rồi, hướng đến nơi Bồ-đề, thành tựu Đẳng Chánh Giác, đạt được Chánh Giác rồi, dùng sức của công đức trải qua trăm ngàn kiếp, thành tựu lực Như Lai Chánh Biến Tri, nhất chủng xứ phi xứ. Những thành tựu về mười lực như vậy, gọi là Lực phước báo sanh của chư Phật, Bồ-tát và một phần ít chúng sanh khác.

Lực thần thông: Đó là bốn thần túc khéo tu tập thực hiện nhiều lần rồi. Dùng điều nầy mong đạt được sức thần thông, có thể điều phục các chúng sanh. Bồ-tát kia lấy thần lực hiếm có, hiện rõ các loại như sắc tướng, hoặc là năng lực, hoặc là trú trì… Nếu các chúng sanh, nên dùng sắc tướng nầy có thể điều phục họ, liền dùng sắc tướng nầy, ở tại nơi những chúng sanh kia, thị hiện hoặc là sắc tướng của Phật-hoặc là sắc tướng của Độc giác-hoặc là sắc tướng của Thanh văn, như vậy hoặc là sắc tướng của các hàng Thích, Phạm, Hộ thế, Chuyển luân vương…, hoặc lại là các sắc tướng khác, thậm chí là sắc tướng của súc sanh, vì điều phục chúng sanh mà thị hiện sắc tướng như vậy. Nếu có chúng sanh nhiều lực kiêu mạn, nóng giận, hung ác, tự cao, nên thuận theo dùng năng lực nầy để điều phục họ, lập tức hiện rõ năng lực nầy, hoặc năng lực của Đại lực sĩ, hoặc bốn phần năng lực của Na-la-diên, hoặc một nửa năng lực của Na-ladiên, hoặc năng lực của một Na-la-diên. Vì năng lực nầy, di chuyển núi chúa Tu Di cao mười sáu vạn tám ngàn do tuần, rộng tám vạn bốn ngàn do tuần, dùng ba ngón tay lấy đưa lên, như đưa quả Am-ma-lặc, đặt vào thế giới ở phương khác, mà Tứ Thiên Vương và cõi trời Ba Mươi Ba đều không hề bị rối loạn. Đối với năng lực của Bồtát cũng không giảm bớt phần nào. Vả lại, Tam thiên đại thiên thế giới nầy tuy là rộng lớn mênh mông, nhưng từ nơi Thủy giới cho đến Hữu đảnh, đặt vào bàn tay, trải qua đời kiếp mà tồn tại. Đối với các đạo thần thông, thị hiện đầy đủ những năng lực như vậy. Nếu có chúng sanh kiêu mạn-tăng thượng mạn-nóng giận-hung ác-tự cao, thì thuyết pháp điều phục khiến cho xa lìa các tâm kiêu mạn-tăng thượng mạn-nóng giận-hung ác-tự cao, người kia đạt được trí trú trì thần túc như vậy rồi, dùng trí trú trì nầy phát sanh những trú trì khác, tùy theo ý muốn đều đạt được, như dùng biển lớn làm dấu chân bò, lập tức trở thành dấu chân bò, hoặc lấy dấu chân bò làm biển lớn, lập tức trở thành biển lớn. Nếu vì đại hỏa tai (kiếp thiêu) làm thành thủy tụ, lập tức trở thành Thủy tụ. Nếu vì đại thủy tai làm thành Hỏa tụ, lập tức trở thành Hỏa tụ. Nếu lấy Hỏa tụ làm thành Phong tụ, lập tức trở thành Phong tụ. Nếu lấy Phong tụ làm thành Hỏa tụ, lập tức trở thành Hỏa tụ. Như vậy, nếu dùng lực trú trì nầy, tùy theo những pháp trú trì bậc thượng-trung và hạ. Đã trú trì rồi, không người nào có thể làm chấn động hay che kín được, đó gọi là hoặc Đế Thích-hoặc Phạm Thiên-hoặc Ma vương và các người thế gian, đồng pháp khác, ngoài Đức Phật Thế Tôn ra, ở trong loài chúng sanh, không có chúng sanh nào làm chấn động hay che kín được đối với pháp của Bồ-tát đã trú trì. Dùng năng lực trú trì, thuyết pháp làm cho chúng sanh sanh ra rất nhiều tâm niệm vui mừng vô hạn tôn kính hẳn lên. Năng lực thần túc kia cao vượt tự tại, vượt qua ma phiền não đi vào cảnh giới Phật, giác ngộ các chúng sanh, tích tụ thiện căn, tư lương đời trước, ma và ma thân trời đều không thể nào làm chướng ngại được. Đây gọi là Lực thần thông của Bồ-tát.

Lực tín: Ở trong Phật, Pháp, Tăng và hạnh Bồ-tát, niềm tin và sự hiểu biết luôn không thể ngăn trở, hư hoại. Nếu ma ác làm thân Phật mà đến, tùy vào pháp nào mong phá hoại được niềm tin đó, Bồ-tát dùng năng lực tín giải, ma ác kia không thể nào lay chuyển được Lực tín của Bồ-tát. Đây gọi là Lực tín.

Lực tinh tấn: Nếu Bồ-tát phát khởi tinh tấn, lúc tương ưng với rất nhiều pháp thiện, ở tại những nơi ấy đạt được năng lực kiên cố, tùy theo những việc nhận thực hành, hoặc loài trời hay là người không ai có thể tác động làm hỏng, khiến cho Bồ-tát ấy giữa chừng dừng lại. Đây gọi là Lực tinh tấn.

Lực niệm: Trú trong những pháp xứ kia thì tâm đó dừng nơi yên ổn, các phiền não còn lại không thể làm cho tán loạn. Do giữ chặt lực niệm nên phá tan các loại phiền não, các loại phiền não kia không thể nào phá hoại được ý niệm của Bồ-tát. Đây gọi là Lực niệm.

Lực Tam-ma-đề (Lực định): Ở trong sự náo loạn ầm ĩ thực hành hạnh xa lìa. Các âm thanh của chúng sanh và lời nói đã nói ra, không trở thành tiếng chướng ngại đến Sơ thiền. Hành giác, quán thiện không trở ngại Nhị thiền. Sanh ra từ yêu thích không trở ngại Tam thiền. Thành thục chúng sanh, thu nhận các pháp chưa từng bỏ dở không trở ngại đến Tứ thiền. Như vậy đi qua bốn loại thiền, các thiền ác đối diện không thể phá hoại được. Tuy đi qua các thiền, nhưng không thuận theo thiền sanh ra. Đây gọi là Lực Tam-ma-đề của Bồ-tát.

Lực Bát nhã (Lực trí tuệ): Đó là trí không thể hủy hoại trong pháp thế gian và xuất thế gian, nơi đời đời không nhờ thầy chỉ dạy. Các nghiệp công xảo minh đã làm, cho đến các việc khó làm, khó chịu đựng nhất của thế gian, Bồ-tát đều có thể khiến hiện tiền. Nếu như pháp xuất thế gian cứu độ cho đời, trí tuệ của Bồ-tát tùy thuận đi vào rồi, thì chúng trời, người và A-tu-la đều không thể hủy hoại được. Đây gọi là Lực Bát nhã. Như vậy, bảy lực của Bồ-tát đã trình bày sơ lược. Nếu muốn phát triển đầy đủ thì không có giới hạn nào. Đây gọi là Lực Ba-lamật của Bồ-tát.

Đã giải thích về Lực Ba-la-mật, nay tôi sẽ nói về Trí Ba-la-mật.

Ở đây hoặc là những loại hành như thư, luận, in ấn, toán số của thế gian và giới tánh luận (Là các tánh phong, hoàng, đàm, ẩm). Phương luận (Là y phương luận) chữa trị các bệnh về gầy, điên cuồng, quỷ quái…, trừ bỏ các loài trùng độc hại. Lại tạo tác thứ vui đùa, trào lộng, các loại văn chương đàm luận, hài hước…, khiến được vui vẻ. Sanh ra các loại thôn quê, thành thị, vườn rừng, cây cảnh, ao hồ, sông giếng, hoa trái, các vị thuốc, cho đến rừng rậm…, thị hiện các tánh quý báu như vàng, bạc, ma ni, lưu ly, bối ngọc (Đá trắng như vỏ sò), san hô… Tham gia vào các sự việc mặt trăng, mặt trời xâm thực, chòm sao, động đất, mộng mị kỳ quái…, kiến lập tướng trạng của các chi phần nơi thân…, biết về giới cấm, hành xứ, thiền na, thần thông, vô lượng xứ vô sắc, cho đến còn lại bờ kia là quả vị Chánh giác tương ưng lợi lạc cho các chúng sanh. Lại còn biết các thế giới thành hoại, tùy theo thế giới thành, tùy theo thế giới hoại, đều biết rõ tất cả. Lại biết nghiệp tập hợp nên thế giới thành, nghiệp hết nên thế giới hoại. Biết thế giới thành trụ bao nhiêu thời gian, biết thế giới hoại trú bao nhiêu thời gian. Biết những sai biệt về địa giới, thủy giới, phong giới, hỏa giới, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc là vô lượng… Biết vi trần hết sức tinh tế, cũng biết tất cả vi trần tụ tập và vi trần phân tán. Biết tất cả số vi trần của đất trong thế giới, như vậy cũng biết các số vi trần của nước, lửa và gió. Biết tất cả số vi trần về thân chúng sanh, số vi trần về thân quốc độ. Biết các sai biệt về thân thô, thân tế của chúng sanh. Thậm chí cũng biết vi trần hợp thành thân của loài địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ, A-tu-la, trời, người… Biết sự thành hoại của cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc, và biết những sai biệt về lớn, nhỏ và vô lượng kia. Biết nghiệp thân, báo thân và sắc thân trong thân của chúng sanh, biết nhỏ lớn tịnh nhiễm trong thân quốc độ, cho đến sai biệt về phương hướng giăng phủ như trú theo chiều ngang, trú theo chiều đổ xuống, trú theo chiều ngang bằng…

- Biết thân danh tự sai biệt trong thân nghiệp báo. Biết thân danh tự sai biệt trong thân Thanh văn, Độc giác và Bồ-tát. Biết thân trú trì-thân hóa-thân nguyện-thân Chánh giác trong thân Như Lai, cùng các hình sắc, thân tướng hảo trang nghiêm-thân uy quang-thân ý niệm thân phước và pháp thân. Biết trong trí thân hoặc là khéo phân biệt, hoặc là tư duy như lý, hoặc là quả tương ưng thâu gồm, hoặc là thế gian và xuất thế gian, hoặc là an lập ba thừa, hoặc là pháp cộng và pháp bất cộng, hoặc là đạo xuất thế hay chẳng phải đạo xuất thế, hoặc là học, vô học. Biết trong pháp thân bình đẳng bất động, an lập danh tự xứ sở nơi thế tục đế, an lập chúng sanh chẳng phải là chúng sanh pháp, an lập pháp Phật Thánh chúng. Biết trong thân hư không hòa nhập vô lượng thân khác, tất cả mọi nơi chẳng phải thân chân thật, vô biên thân vô sắc sai biệt, được sanh ra những thân trí như vậy. Lại được mạng tự tại tâm tự tại-mọi thứ đều tự tại-nghiệp tự tại-nguyện tự tại-tín giải tự tại-thần thông tự tại-trí tự tại-sanh tự tại-pháp tự tại. Đạt được mười tự tại như vậy rồi, trở thành bậc trí bất tư nghị-bậc trí vô lượng bậc trí bất thoái. Trí như vậy có tám vạn bốn ngàn hành tướng, là Trí Ba-la-mật mà Bồ-tát biết được. Như thế tùy theo phần hạn giải thích về Trí Ba-la-mật, nếu muốn diễn nói đầy đủ, chỉ riêng Phật Thế Tôn mới có thể giải thích rõ.

Sáu Ba-la-mật ấy
Thâu tư lương Bồ-đề
Giống như trong hư không
Thâu tóm tất cả vật.

Như đã giải thích trong sáu Ba-la-mật, thâu tóm toàn bộ tất cả tư lương Bồ-đề, ví như các vật đi đứng giữa hư không, có thức hay không có thức, đều được thâu tóm vào trong đó. Như vậy, còn lại văn tư lương cùng các tư lương khác đều gồm thâu vào trong sáu Ba-la-mật, giống nhau, không sai khác, nên biết.

QUYỂN 3

Lại có ý sư khác
Tư lương Bồ-đề ấy
Thật xả cùng tịch, trí
Thâu vào bốn xứ kia.

Có một Luận sư thực hiện ý nghĩa như vầy: Tất cả tư lương Bồ-đề đều được thâu vào nơi Thật xứ-Xả xứ-Tịch xứ và Trí xứ. Thật là tướng không giả dối, thật chính là giới, vì vậy thật là Thi la Ba-la-mật. Xả tức là bố thí, do vậy nơi xả là Đàn na Ba-la-mật. Tịch là tâm không vẩn đục. Nếu tâm ở nơi không vẩn đục, thì sự việc thích hay không thích đều không thể lay động được, vì thế ở nơi tịch là Sàn đề Ba-la-mật và Thiền na Ba-la-mật. Ở nơi trí vẫn là Bát nhã Ba-la-mật và Tỳ-lê-da Ba-lamật. Lần lượt đi vào các nơi nếu không có tinh tấn, thì tại các nơi ấy không có thành tựu. Vì vậy, Tỳ-lê-da Ba-la-mật thành tựu mọi sự việc. Vì vậy nên biết, tất cả mọi tư lương đều gồm thâu vào bốn xứ.

Hỏi: Như kinh nói: "Dùng tư lương Từ đạt được tâm vô ngại, dùng tư lương Xả đoạn trừ được yêu-ghét". Từ bi ở đây có gì sai biệt?

Đáp:

Đại bi thấu xương tủy
Chỗ tựa cho chúng sanh
Như cha đối con một
Từ thì hiện hữu khắp.

Nếu đi vào con đường nguy hiểm của sanh tử, rơi vào các nẻo địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ, ở trong màng lưới tà kiến xấu ác, rừng rậm ngu si bao phủ, đi theo đường tà không phải đạo, giống như mù tối, trong không xuất ly được mà thấy là thoát ra, bị các tên giặc lão bệnh tử ưu bi khổ não bắt giữ, đi vào rừng rậm của ý ma, rời bỏ, cách xa ý của Phật. Bồ-tát vô cùng thương xót, chọc thủng thân mình từ da thịt đến gân xanh, cùng tận đến xương tủy, vì các chúng sanh làm nơi nương tựa, khiến các chúng sanh nầy có thể vượt qua cánh đồng sanh tử mênh mông, con đường hiểm nạn xấu ác như vậy, bước vào trong cung điện vô úy của tòa thành Nhất thiết trí. Ví như Trưởng giả chỉ có một người con phước đức mà gặp phải bệnh khổ, yêu thương vô cùng tận, chỉ nghĩ đến lúc nào người con ấy được lành bệnh. Tâm Bi cũng như vậy, chỉ khởi lên từ trong đau khổ của muôn loài. Tâm Từ khởi lên mọi nơi ở trong tất cả chúng sanh. Vả lại, Từ nên đối với các chúng sanh đạt được tâm vô ngại, Bi nên ở trong sanh tử không có gì mệt mỏi chán nản. Nhưng Từ ở trong người thiện mà sanh ra, Bi vào trong người bất thiện mà sanh ra. Còn Bồ-tát tăng trưởng Từ nên không đắm vào niềm vui của mình, thì sanh ra Đại Từ. Tăng trưởng Bi nên xả bỏ các phần thân thể cho đến tính mạng, thì sanh ra Đại Bi.

Nếu nghĩ công đức Phật
Và nghe thần biến Phật
Yêu thích thọ nhận tịnh
Đây là niềm vui lớn.

Nếu nghĩ đến công đức của Phật, thì điều gì trong đó là công đức của Phật? Đó là chư Phật, Thế Tôn trong vô lượng trăm ngàn câu chi kiếp, đã tích tụ thiện căn, nghiệp thân khẩu ý bất hộ, đoạn trừ nghi ngờ trong năm loại nên biết, không sai lầm trong bốn loại trả lời vấn nạn, giảng dạy ba mươi bảy phẩm trợ pháp Bồ-đề, mười hai phần nhân duyên, giác ngộ trong duyên sanh, dạy cho chín giáo, đầy đủ bốn loại trú trì, đạt được bốn tâm vô lượng, đầy đủ sáu Ba-la-mật, nêu rõ về mười địa Bồ-tát, thành tựu đầy đủ năm chúng xuất thế, đầy đủ bốn vô úy, mười lực, mười tám pháp bất cộng của Phật, vô biên cảnh giới, tự tâm chuyển đổi tự tại, không có pháp nào tự chán đủ, đạt được Tam-ma-địa như Kim cang, thuyết pháp không giả dối, pháp không một lực nào có thể hủy hoại được, vốn là bậc thầy của thế gian, không ai có thể nhìn thấy đỉnh cao, không gì sánh bằng, không gì có thể hơn được, vốn là pháp không thể nghĩ bàn. Đạt được Đại từ, Đại bi, Đại hỷ, Đại xả, đủ trăm phước tướng, vô lượng thiện căn, vô biên công đức, vô lượng công đức, vô số công đức, công đức không thể nào phân biệt, công đức hiếm thấy, công đức không giống nhau. Những tên gọi như vậy, đều là nghĩ đến các công đức của Phật.

Nghe về sức thần biến của chư Phật là hướng về chư Phật Thế Tôn đã giáo hóa các chúng sanh, khởi lên thần thông biến hiện, tùy theo những chúng sanh nào cần cứu độ, tùy theo thân chúng sanh, tùy hình lượng của chúng dài ngắn rộng hẹp, tùy theo sắc loại đủ thứ sai khác, tùy theo âm thanh đó phân biệt thanh tịnh, chư Phật Thế Tôn dùng nhiều loại thần thông hy hữu, như những việc làm của họ-như niềm tin và hy vọng của họ, dùng các loại phương tiện ấy hiện bày thần thông sai khác, nhằm giáo hóa họ. Nghe được điều nầy rồi yêu thích thọ nhận rất thanh tịnh, gọi là niềm vui lớn. Ở trong ấy nếu như nghe tâm vui mạnh mẽ gọi là Ái, tâm yêu thích tràn khắp thân thể gọi là Hỷ, tâm vui mừng cảm thấy sung sướng gọi là Thọ. Vào lúc cảm nhận an lạc nghĩ đến đức thần thông to lớn của bậc Chánh giác, tâm đó không vẩn đục gọi là Tịnh. Lúc tâm ấy thanh tịnh và ý vui mừng chứa chan gọi là Đại hỷ. Người kia bước lên phần ít nơi thừa, tuy cũng có Hỷ, vì không giống với người trước nên được gọi là Đại hỷ. Bồ-tát nên rời bỏ chúng sanh, hay là không nên rời bỏ?

Đáp:

Bồ-tát đối chúng sanh
Không được phép buông bỏ
Nên tùy lực có được
Mọi lúc nên thâu nhận.

Bậc Đại Bồ-tát luôn luôn nghĩ đến việc tạo lợi lạc cho các chúng sanh. Nếu ai bị tham sân si não hại, hành các thứ keo kiệt, phá giới, sân hận, lười nhác, tâm rối loạn và trí ác, đi vào con đường khác. Những chúng sanh nầy Bồ-tát không nên rời bỏ, mà tất cả mọi lúc nên giảng giải về bố thí, trì giới để tu tập, tùy theo khả năng có thể của mình, phải cố gắng thâu nhận họ.

Bồ-tát từ ban đầu
Nên thuận theo năng lực
Phương tiện độ cho chúng sanh
Khiến họ vào Đại thừa.

Bậc Bồ-tát nầy bước vào Đại thừa ở trong chúng sanh, tùy theo khả năng mình từ lúc đầu cần phải thực hiện. Như ở trước trong Phương tiện Ba-la-mật-đã nói về phương tiện, nên tinh tấn dùng các phương tiện giáo hóa đưa họ vào Đại thừa nầy.

Hỏi: Tại sao Bồ-tát chỉ dùng Đại thừa giáo hóa chúng sanh, mà không lấy thừa Thanh văn, Độc giác để giáo hóa?

Đáp:

Hóa hằng sa chúng sanh
Khiến đạt A-la-hán
Độ một vào Đại thừa
Phước đức nầy là hơn.

Nếu giáo hóa hằng hà sa chúng sanh, đạt được quả A-la-hán, thì phước giáo hóa khiến vào Đại thừa kia, hơn hẳn phước giáo hóa của các thừa Thanh văn, Độc giác, vì chủng tử là vô tận, chủng tử của thừa Bồ-tát nầy có thể làm phương tiện phát tâm Bồ-đề, cũng vì sanh ra hàng Thanh văn, Độc giác, do đó, phước nầy hơn hẳn phước trước. Phước nầy hơn hẳn là vì Đại thừa so với thừa Thanh văn, Độc giác thì ở trên. Lại vì tâm Bồ-đề có vô lượng vô số phước đức, đồng thời căn cứ vào Đại thừa mà chủng tử Tam bảo không đoạn dứt. Vì thế nên muốn cầu đại phước, phải dùng Đại thừa giáo hóa chúng sanh, không thể dùng Thừa nào khác.

Hỏi: Các bậc Đại Bồ-tát há chỉ dùng Đại thừa giáo hóa chúng sanh, mà không thể dùng thừa Thanh văn, Độc giác hay sao?

Đáp:

Giáo hóa thừa Thanh văn
Cho đến thừa Độc giác
Do vì ít năng lực
Không kham hóa Đại thừa.

Nếu chúng sanh có ý chí thấp, trung bình, bỏ sự nghiệp lợi tha, thiếu mất lòng đại bi, không kham nổi sự giáo hóa của Đại thừa, mới dùng thừa Thanh văn, Độc giác hóa độ họ.

Hỏi: Nếu như có chúng sanh, không thể dùng ba Thừa giáo hóa được, đối với chúng sanh ấy nên bỏ hay không bỏ?

Đáp:

Thừa Thanh văn, Độc giác
Cùng trong pháp Đại thừa
Người không nhận giáo hóa
Thuận đặt nơi phước thiện.

Nếu có chúng sanh, vui thích sanh tử, chán ghét giải thoát, không thể dùng thừa Thanh văn, Độc giác, cho đến Đại thừa để hóa độ họ, thuận theo nên giáo hóa họ xếp vào trong bốn phạm hạnh của Phạm thừa (Thiên thừa). Nếu vẫn không kham nổi sự giáo hóa theo Phạm thừa, thì cần phải giáo hóa họ đi vào mười nghiệp đạo thiện của Thiên thừa, cho đến vào trong sự nghiệp phước thiện như là bố thí…, không nên rời bỏ họ.

Hỏi: Nếu có chúng sanh ưa thích niềm vui thế gian, đối với việc làm của ba loại phước thiện không có khả năng thực hành được, vậy đối với người ấy nên như thế nào?

Đáp:

Nếu người không nhận được
Hóa theo trời, giải thoát
Dùng lợi đời hiện tại
Như lực thuận giúp họ.

Nếu có chúng sanh, chỉ mong cầu dục lạc, không nghĩ đến đời khác, luôn hướng về địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, không thể nào giáo hóa khiến họ sanh lên cõi trời hay được giải thoát, cũng nên thương xót loại người ấy trí như con trẻ, như hiện đời của họ đã thích ứng thâu giữ, tùy theo năng lực của mình có thể dùng bố thí v.v… nhiếp phục, thương xót, không rời bỏ.

Hỏi: Nếu Bồ-tát đối với các chúng sanh có trạng thái như con trẻ, mà mình không có phương tiện nào thích hợp để hóa độ họ, vậy trước mắt đối với người ấy phải làm thế nào?

Đáp:

Bồ-tát đối chúng sanh
Không duyên để giáo hóa
Nên khởi tâm từ bi
Không nên buông bỏ họ.

Nếu Bồ-tát đối với các chúng sanh ưa thích tội ác, không cách nào có thể nhiếp phục, giáo hóa họ, thì nên khởi tâm đại từ bi thương xót như con cái của mình, như không có đạo lý nào khiến cha mẹ bỏ con!

Hỏi: Đã nói ở trong chúng sanh phải có phương tiện thâu phục họ nhận lấy, nay chưa biết phương tiện làm sao thâu phục họ khiến thọ nhận?

Đáp:

Thí nhiếp cùng thuyết pháp
Trở lại lắng nghe họ thuyết pháp
Cũng thực hành công việc lợi tha
Đây là phương tiện để thâu hóa.

Các Bồ-tát vì hóa độ chúng sanh, hoặc là dùng bố thí làm phương tiện giáo hóa, hoặc nhận bố thí của người khác, hoặc vì người khác mà thuyết pháp, hoặc lắng nghe người khác thuyết pháp, hoặc làm điều lợi ích cho người khác, hoặc dùng ái ngữ, hoặc lấy đồng sự, hoặc nói về lãnh vực các minh, hoặc dạy dỗ bằng công xảo, hoặc thị hiện làm mọi công việc, hoặc khiến người bệnh được khỏi bệnh, hoặc cứu giúp những tai nạn nguy hiểm. Như vậy đều gọi là phương tiện hóa độ chúng sanh. Nên dùng các phương tiện nầy để thâu nhận chúng sanh, không nên rời bỏ.

Hỏi: Dùng những phương tiện hóa độ như vậy để thâu hóa chúng sanh rồi thành tựu lợi ích gì?

Đáp:

Những việc lợi chúng sanh
Không mệt mỏi, buông thả
Khởi nguyện vì Bồ-đề
Lợi đời là lợi mình.

Trong đây nói Bồ-tát dấy lên tâm nguyện tạo lợi ích cho thế gian, phát khởi ý như vầy: Phàm là việc có lợi cho thế gian mình đều phải làm. Lập lời thề nầy rồi, ở trong các chúng sanh làm mọi công việc, không nên mệt mỏi lơi lỏng, không nên mặc ý buông thả. Lại nên khởi ý niệm: Nếu tạo lợi ích cho thế gian tức là lợi cho mình, vì vậy Bồ-tát đối với nhân duyên lợi lạc chúng sanh, không nên rời bỏ.

Hỏi: đã nói Bồ-tát thường nên làm lợi lạc cho chúng sanh, không nên hành xả bỏ, vậy ở trong các pháp là rời bỏ hay không rời bỏ?

Đáp:

Vào sâu trong pháp giới
Diệt, lìa mọi phân biệt
Tất không có công dụng
Các nơi tự nhiên bỏ.

Pháp giới chính là duyên sanh, vì vậy trước tiên nói: Như Lai nếu như xuất hiện hay không xuất hiện, vẫn thường trú trong pháp tánh của pháp giới nầy, đó gọi là duyên sanh. Lại như trước kia nói: A-nan-đà! Duyên sanh rất sâu xa, nên chứng đắc cũng rất sâu xa. Vì vậy Bồ-tát đi vào pháp giới rất sâu xa nầy, diệt trừ tất cả hai phía có và không, giữ lấy trí phương tiện rồi, lập tức đoạn trừ các niệm động hý luận phân biệt, xa rời các tướng thủ, các tâm ý thức hành xứ đều không hiện trở lại, thậm chí ở nơi hạnh Phật, hạnh Bồ-đề, hạnh Bồ-tát, hạnh Niết-bàn cũng không thực hành, nên đối với các pháp không tạo công dụng nữa. Ở trong các pháp, tâm được tịch tĩnh, vô cùng tịch tĩnh không có phân biệt, đây gọi là đệ nhất nghĩa xả. Đấy chính là Bồ-tát không có phân biệt. Đã nói về xả của xuất thế gian, nay sẽ nói về xả của thế gian.

Những lợi, danh, khen, vui
Bốn xứ đều không vướng
Ngược trên cũng không ngại
Như vậy gọi là xả.

Ở trong lợi dưỡng, danh tiếng, ca ngợi, niềm vui… không có gì chấp trước, ngược lại với điều nầy, trong những lúc không có lợi, không có danh, hủy báng, khổ đau, cũng không thoái lui vướng ngại, rời bỏ yêu-ghét, trú ở giữa, không có phân biệt. Đây gọi là phần thứ hai nói về xả của thế gian.

Hỏi: Nếu Bồ-tát ở trong các pháp, thực hiện đệ nhất nghĩa xả ấy, vì Bồ-đề nên như lửa cháy đầu, y phục, như thế, Bồ-tát phải siêng năng thực hành như thế nào để có thể đạt được?

Đáp:

Bồ-tát vì Bồ-đề
Cho đến chưa bất thoái
Như lửa cháy đầu, y
Nên hành hạnh siêng năng.

Tuy Bồ-tát đối với các pháp nên xả bỏ như thế, mà thường quyết định tu tập như cứu lửa cháy đầu, y phục... Thậm chí nếu chưa được bất thoái chuyển nơi Bồ-đề, vì đạo Bồ-đề nên phải siêng năng tu trì... Ở đây, Bồ-tát có năm loại nhân duyên không thoái chuyển Bồ-đề, cần phải biết. Những gì là năm loại? Trong các kinh như Hoa Tụ… nói: "Nếu nghe đầy đủ về Đại nguyện của các Bồtát và danh hiệu Phật Thế Tôn, đây là nhân duyên thứ nhất. Nếu vì nguyện sanh đến cõi nước của Đức Phật kia, đây là nhân duyên thứ hai. Thọ trì và nói về Bát nhã Ba-la-mật cùng những kinh pháp sâu xa, đây là nhân duyên thứ ba. Tu tập, hiện tại trú vào các Tam-ma-đề (Định) và tùy hỷ được điều ấy, đây là nhân duyên thứ tư.

Bốn nhân duyên nầy gọi là chưa đạt được vị nhẫn bất thoái chuyển của Bồ-tát. Nếu Bồ-tát nầy trú vào địa Bất động của Bồ-tát rồi đạt được nhẫn vô sanh, thì gọi là cứu cánh quyết định bất thoái chuyển. Đây là nhân duyên thứ năm".

Hỏi: Nếu trong bốn loại nhân duyên ấy, thuận theo một nhân duyên, Bồ-tát được bất thoái chuyển, thì trước nói như lửa cháy đầu, y phục, nên phải siêng năng tu hành, vậy Bồ-tát kia thành tựu như thế nào?

Đáp:

Nhưng các Bồ-tát kia
Luôn vì cầu Bồ-đề
Tinh tấn không ngừng nghỉ
Vì gánh trách nhiệm nặng.

Tuy trong bốn nhân duyên, tùy theo một nhân duyên, Bồ-tát đều đạt được bất thoái, nhưng phải tinh tấn không nên ngơi nghỉ. Do đó trước tiên nói rõ: Tôi sẽ khiến cho các chúng sanh đều đạt được Niết-bàn. Vì gánh vác trách nhiệm nặng như vậy, nên ở trong thời gian đó luôn tinh tấn không nghỉ.

Hỏi: Tại sao ở trong thời gian đó tinh tấn không ngơi nghỉ?

Đáp:

Chưa sanh đại bi, nhẫn
Tuy được bất thoái chuyển
Bồ-tát còn sanh tử
Phóng dật còn khởi lên.

Ở trong bốn nhân duyên thuận theo nhân duyên nào, đạt được quả vị Bồ-tát bất thoái chuyển? Do Bồ-tát kia chưa sanh khởi đại bi, cho đến chưa đạt được nhẫn vô sanh, ở trong thời gian đó nhận chịu nghiệp lực sanh tử, vì đi vào những phóng dật, do vậy Bồ-tát cần phải siêng năng thực hành như lửa cháy đầu, y phục, để đạt được nhẫn vô sanh, vì vậy trong thời gian đó tinh tấn không ngừng.

Hỏi: Bồ-tát lại có cái chết nào?

Đáp:

Địa Thanh văn, Độc giác
Nếu vào liền thành chết
Vì đoạn nơi Bồ-tát
Các căn đã biết rõ.

Như trước đã nói về bốn loại nhân duyên, tùy theo nhân duyên nào đạt được bất thoái chuyển? Vì Bồ-tát nầy chưa có đại bi, chưa đạt được nhẫn vị, chưa vượt qua phần vị Thanh văn, Độc giác, hoặc vì lực của bạn ác nên sợ hãi nỗi khổ sanh tử, hoặc trong thời gian thọ sanh, hoặc thời điểm kiếp hoại, vì hiềm khích trách mắng Bồtát, hủy hoại phỉ báng chánh pháp, tâm Bồ-đề thay đổi, đã dấy lên tâm ở phần vị Thanh văn, Độc giác, hoặc giải thoát ở tại Thanh văn. Nếu Độc giác lấy giải thoát tác chứng, thì đoạn mất căn Bồ-tát. Đó là đại bi, là vì các Bồ-tát và chư Phật Thế Tôn, gọi là các bậc địa hiểu biết về cái chết.

Hỏi: Chỗ nầy nên suy nghĩ tùy theo Bồ-tát, vì sợ trú trong địa ngục, hay là sợ rơi vào phần vị Thanh văn, Độc giác?

Đáp:

Giả sử rơi địa ngục
Bồ-tát không sợ hãi
Vào Thanh văn, Độc giác
Thì thành sợ hãi lớn.

Giả sử Bồ-tát ở trong địa ngục, cùng với vô lượng vô số khổ não vây quanh, không ngăn nỗi sợ hãi rơi vào phần vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Tại sao như vậy?

Đáp:

Không rơi trong Nê-lê
Rốt ráo ngăn Bồ-đề
Địa Thanh văn, Độc giác
Thành chướng ngại vô cùng.

Giả sử đi vào địa ngục, đối với đạo quả chánh giác, không thể trở thành chướng ngại cuối cùng. Lúc ở trong địa ngục, thậm chí nghiệp ác đạt tới mức độ cao nhất, đối với đạo Bồ-đề chỉ tạm thời làm cho chướng ngại. Nhưng nếu Bồ-tát rơi vào phần vị Thanh văn, Độc giác, thì rốt cuộc không thể sanh tâm hướng đến chánh giác, cho nên rơi vào địa Thanh văn, Độc giác, chính là chướng ngại đối với đạo quả Chánh giác. Do nghĩa nầy, nên Bồ-tát vào trong địa ngục địa ngục, không sợ hãi bằng rơi vào phần vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Nỗi sợ hãi đó như thế nào?

Đáp:

Như người quý tuổi thọ
Sợ hãi việc chém đầu
Địa Thanh văn, Độc giác
Dấy sợ hãi như vậy.

Trong kinh Đức Phật có dạy như vầy: Như người quý trọng tuổi thọ, sợ hãi khi phải chém đầu, Bồ-tát muốn cầu Bồ-đề vô thượng, sợ hãi vị Thanh văn, Độc giác cũng như vậy. Thế nên Bồ-tát tuy vào Nê-lê mà không sợ bằng rơi vào vị Thanh văn, Độc giác.

Hỏi: Đã nói các vị Bồ-tát chưa đạt được nhẫn vô sanh bị chướng ngại nơi pháp, Bồ-tát nầy làm sao đạt được nhẫn vô sanh?

Đáp:

Không sanh cũng không diệt
Phải không sanh không diệt
Phi cả hai, không hai
Không, bất không cũng vậy.

Trong đây, nói lúc Bồ-tát quán duyên sanh suy nghĩ như vầy: Có pháp duyên sanh chỉ là thiết lập mà có, như trong vô sanh mà có sanh. Vì vậy tự thể của sanh ấy không thành tựu. Tự thể không thành tựu nên sanh thì chẳng phải có. Như tự thể của sanh chẳng phải là có, với diệt kia trở thành hai, cả hai đều không có thể như sanh diệt. Không sanh và không diệt kia làm thành hai, cả hai cũng hoàn toàn không có thể. Trong hai loại sanh diệt ấy, sanh không sanh ra-diệt không diệt đi, cũng không có gì trái ngược lẫn nhau. Không cũng như vậy, vì như tự thể của có ấy không có, thì bất không và không bất không kia cũng như vậy.

Hỏi: Nếu khởi lên ý niệm như vầy: Vì duyên sanh nên các pháp không có tự thể. Tại sao lại dấy lên ý niệm nầy: Cũng không có pháp nào là duyên sanh?

Đáp:

Theo những pháp vốn có
Trong đó quán bất động
Ấy là nhẫn vô sanh
Đoạn dứt mọi phân biệt.

Như vậy, lúc Bồ-tát quán duyên sanh như thật, đạt được cái thấy xa rời tự thể của các pháp, vì thấy xa rời tự thể, lập tức đoạn trừ chấp thủ tự thể của pháp. Lúc đoạn trừ chấp thủ tự thể của pháp, dấy lên ý niệm như vầy: Không phải là không có pháp trong ngoài, nhưng không có tự thể của pháp, tuy có pháp duyên sanh, nhưng giống như bó lau sậy, huyễn mộng. Nếu pháp thuận theo duyên sanh, thì tự thể kia không sanh ra. Thực hiện quán xét như vậy rồi, thì hoặc là Sa-môn, hoặc là Bà-la-môn, tự mình không thể nào lay động, nhưng không giữ lấy chứng đắc (thủ chứng). Lúc ấy, vì vui với sự quán xét pháp vô sanh, đoạn trừ mọi sự phân biệt, gọi là nhẫn vô sanh. Bồ-tát nầy đã trú vào địa Bất động, là Địa thứ tám của Bồ-tát. Kệ nói:

Đã được nhẫn nầy rồi
Tức thời được thọ ký
Ông tất sẽ thành Phật
Nên được không thối chuyển.

Đạt được nhẫn vô sanh nầy, ngay vào lúc đạt được, không trước không sau, chư Phật hiện rõ trước mắt thọ ký làm Phật: Ông vào đời sau, ở trong kiếp nọ-thế giới nọ-thời gian nọ-nơi chốn nọ, sẽ thành Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri hiệu ấy… Đây gọi là Bồ-tát bất thoái chuyển.

Hỏi: Các Bồ-tát trú từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ bảy, đều quyết định hướng đến tam Bồ-đề, tại sao không nói là bất thoái chuyển, chỉ nói là trú nơi địa Bất động của Bồ-tát mới là bất thoái chuyển?

Đáp:

Các Bồ-tát trú địa Bất động
Đạt được trí bất thoái nơi pháp
Trí kia, Nhị thừa không thể chuyển
Vì vậy được gọi là bất thoái chuyển.

Điều nầy nói là tất cả thiện căn xuất thế gian như tín…, các hàng Thanh văn, Độc giác cho đến Bồ-tát trú ở Địa thứ bảy, không thể nào tạo chướng ngại khiến thiện căn đó thối chuyển được, nên gọi là bất thoái chuyển, không phải là mười bậc Bồ-tát khác vì tam Bồđề ở trong các pháp mà bất thoái chuyển. Đã nói về nhân duyên bất thoái chuyển, ở đây còn được sự thọ ký thù thắng. Trong pháp Đại thừa nói có bốn loại thọ ký: Thọ ký khi chưa phát tâm Bồ-đề, cùng phát tâm Bồ-đề được thọ ký, thọ ký lặng lẽ kín đáo, thọ ký công khai trước mặt, đây là bốn loại thọ ký.

Ở trong cách thọ ký cho người chưa phát tâm Bồ-đề, người ấy căn lanh lợi, có đủ niềm tin tăng thượng, Đức Phật dùng Phật nhãn vô ngại quan sát, rồi thọ ký cho họ. Thọ ký cùng phát tâm Bồ-đề là trước đã tu tập thành thục chủng tử thiện căn và chủng tử Bồ-đề, căn đó mạnh mẽ sắc bén, đạt được công hạnh tăng thượng, chỉ mong muốn giải thoát cho mọi chúng sanh, ngay lúc phát tâm đi vào vị bất thoái chuyển, không có pháp nào rơi rụng, xa rời tám điều không an nhàn, gọi là tám nạn. Người nầy hoặc nghe tự mình thọ ký, đối với sáu Ba-la-mật không biểu lộ tinh tấn. Nếu như không nghe lại biểu lộ tinh tấn để khiến không nghe, muốn làm cho người khác nghe được sự thọ ký đó, đoạn trừ tâm ý nghi ngờ, Đức Phật dùng uy thần lặng lẽ kín đáo thọ ký. Nếu Bồ-tát thành thục năm căn xuất thế, đạt được nhẫn vô sanh, trú trong địa Bất động của Bồ-tát, lúc ấy lập tức hiện rõ trước mặt để thọ ký. Đây là bốn loại thọ ký. Ngoài ra còn có mật ý thọ ký, là thứ năm, như trong Kinh Pháp Hoa đã nói:

Chúng ta đều tùy hỷ
Đại Tiên nói ý mật
Như thọ ký Thánh giả
Xá-lợi-phất vô úy.
Chúng ta cũng sẽ được
Quả vị Phật vô thượng
Lại dùng lời ý mật
Nói Chánh giác vô thượng.

Vì nghĩa gì nói lời đặc biệt để thọ ký? Có luận sư giải thích: Vì khiến cho người chưa quyết định đi vào thừa Thanh văn phát tâm Bồ-đề. Còn những người đã phát tâm Bồ-đề lúc đầu làm Bồ-tát, sợ nỗi khổ lưu chuyển, muốn quay về Niết-bàn của Thanh văn chọn lấy diệt độ, làm cho tâm Bồ-đề của họ được kiên cố. Lại có Bồ-tát nơi cõi Phật phương khác, tụ tập nơi cõi nầy, khi Phật thọ ký đến, vì tên gọi tương tự, nhận được sự thọ ký đó. Các luận sư phân biệt lời nói đặc biệt để thọ ký. Như vậy, ở trong nghĩa lý thật sự chỉ có Đức Phật mới biết rõ điều đó.

Bồ-tát cho đến đạt
Chư Phật hiện rõ trước
Tam-ma-đề vững chắc
Không nên khởi phóng dật.

Chư Phật hiện rõ trước mắt, đạt được Tam-ma-đề rồi an trú. Nghĩa là hiện tại chư Phật hiện rõ trước mặt người đó, an trụ vào Tam-ma-đề. Tam-ma-đề ấy là trụ bình đẳng. Bồ-tát thậm chí chưa đạt được Tam-ma-đề nầy, trong thời gian ấy không nên buông lung, vì chưa đạt được Tam-ma-đề, Bồ-tát hãy còn rơi vào đường ác, chưa xa rời những điều không an ổn, do đó vì đạt được Tam-ma-đề nầy, nên không buông lung. Nếu đạt được Tam-ma-đề, những nỗi sợ hãi kia đều được giải tỏa. Tam-ma-đề ấy có ba loại, đó là duyên nơi sắc, duyên nơi pháp và không duyên dựa. Trong đó, nếu duyên nơi hình sắc tướng hảo trang nghiêm nơi thân Như Lai, nghĩ đến Phật, đây là Tam-ma-đề duyên nơi sắc. Nếu trở lại duyên vào thân có đủ mười danh hiệu, mười lực vô úy, pháp Phật bất cộng cùng vô lượng loại sắc và công đức của Phật, nghĩ đến Phật, đây là Tam-ma-đề duyên nơi pháp. Nếu tiếp tục không duyên theo sắc, không duyên theo pháp, cũng không dấy lên ý nghĩ đến Phật, cũng không có gì đạt được, xa rời các tướng không Tam-mađề, đây là Tam-ma-đề không duyên. Nơi thời gian Bồtát mới phát tâm, đạt được Tam-ma-đề duyên nơi sắc, sau đó đi vào thực hành là duyên nơi pháp, đạt được nhẫn vô sanh là không duyên dựa. Như vậy đều gọi là được quyết định, tự tại không còn ràng buộc.

Chư Phật hiện trước mắt
Tam-ma-đề vững chắc
Đây là cha Bồ-tát
Đại bi, nhẫn là mẹ.

Ở đây đã nói về ba loại Tam-ma-đề. Hiện tại Đức Phật hiện rõ trước mắt, thâu tóm công đức của các Bồtát và công đức của chư Phật, nên nói là cha của các vị Bồ-tát. Đại bi là ở trong dòng lưu chuyển của sanh tử, không sanh ra mệt mỏi. Còn đối với bến bờ của vị Thanh văn, Độc giác, bảo vệ khiến không thuận theo, vì vậy nói là mẹ. Nhẫn là đạt được nhẫn vị của Bồ-tát, ở trong các khổ lưu chuyển và các chúng sanh xấu ác, không chán nản sự lưu chuyển, không rời bỏ chúng sanh cho đến Bồđề. Do không nảy sanh chán nản, nên nhẫn nầy còn làm mẹ của các Bồ-tát. Lại có kệ khác nói:

Trí độ dùng làm mẹ
Phương tiện trở thành cha
Vì sanh khởi, giữ gìn
Nói cha mẹ Bồ-tát.

Vì Bát nhã Ba-la-mật phát sanh pháp của các Bồ-tát, nên Đức Phật nói Bát nhã Ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát. Pháp của các Bồ-tát từ Bát nhã Ba-la-mật sanh ra, được giữ gìn bằng phương tiện khéo léo, không khiến hướng đến bến bờ của địa Thanh văn, Độc giác, vì chính là giữ gìn Bồ-đề, nên nói phương tiện khéo léo là cha của Bồtát.

Hỏi: Bồ-tát nhờ vào bao nhiêu phước để có thể đạt được Bồ-đề?

Đáp:

Phước tích tụ chỉ ít
Không thể đạt Bồ-đề
Lượng phước trăm Tu Di
Tích lũy được mới đạt.

Bồ-đề, gọi là trí Nhất thiết trí, trí ấy không ai có thể biết đầy đủ. Nên biết là sánh cùng với hư không, hư không vô biên nên sự hiểu biết cũng vô biên. Dùng phước đức có hạn lượng thì không thể đạt được Bồ-đề. Làm sao đạt đến phước đức vô lượng cả trăm Tu Di, tích lũy gom góp mới có thể đạt được Bồ-đề?

QUYỂN 4

Hỏi: Nếu như vậy thì phước đức tích tụ số lượng đến trăm Tu Di sẽ không có, vì thế cũng không một người nào có thể đạt được Bồ-đề sao?

Đáp:

Tuy tạo phước đức nhỏ
Đây cũng có phương tiện
Nơi tất cả chúng sanh
Nên đều khởi duyên dựa.

Nếu vậy thì Bồ-tát tuy tạo ít phước đức, nhưng vì có phương tiện nên trở thành tích lũy phước đức to lớn. Hoặc lấy đồ ăn thức uống bố thí cho chúng sanh, hoặc dùng hoa hương tốt đẹp dâng cúng hình tượng Như Lai. Những phước đức ấy, đối nơi các chúng sanh thuộc tất cả thế giới, thảy đều thực hiện duyên dựa: Ta dùng phước đức nầy, làm cho các chúng sanh đều đạt được Chánh giác Vô thượng. Lại dùng phước đức ấy, cùng chia sẻ với các chúng sanh. Những phước đức như vậy, cùng với các chúng sanh hồi hướng Bồ-đề, đây gọi là Bồ-tát thực hành phương tiện. Hồi hướng như thế, phước đức đó trở thành vô lượng vô biên không thể kể xiết. Vì vậy nên trí Nhất thiết trí ấy tuy là vô biên, nhưng cũng dùng tướng phước đức vô biên nầy tức có thể đạt được.

Lại có nghĩa khác:

Mình có những việc làm
Thường vì lợi chúng sanh
Những tâm hành như vậy
Ai lường được phước đó?

Bồ-tát từ ngày đến đêm, thường khởi tâm hành như vầy: Nếu tất cả việc làm tốt đẹp phát xuất từ thân khẩu ý của mình, đều là vì cứu độ các chúng sanh, vì giải thoát các chúng sanh, vì thức tỉnh các chúng sanh, vì tịch diệt cho các chúng sanh nên dấy lên, cho đến vì khiến chúng sanh đạt đầy đủ trí Nhất thiết trí. Bồ-tát ấy đầy đủ đại bi như vậy, an trú trong phương tiện thiện xảo, thì phước đức vốn có, trừ chư Phật ra, người nào có thể suy lường được? Vì vậy, người có đủ phước đức nầy có thể đạt được quả vị Bồ-đề.

Hỏi: Tại sao phước đức nầy lại là vô lượng?

Đáp:

Không ái thân thuộc mình
Cùng thân mạng, tài sản
Không tham vui tự tại
Phạm thế và cõi khác.
Cũng không tham Niết-bàn
Vì hướng về chúng sanh
Đây chỉ nghĩ chúng sanh
Phước đó ai lường được?

Đây là trong lúc Bồ-tát thực hành hạnh sáu độ, đối với con cái cho đến thân thuộc, hoặc là tài sản như vàng bạc…, hoặc là thọ mạng của mình, hoặc là các phần thân thể, hoặc là toàn thân, hoặc là niềm vui của thân và tâm, hoặc là trời-người tự tại, hoặc là thân trời cõi Phạm, hoặc là trời cõi Vô sắc, cả đến Niết-bàn, vì chúng sanh nên tất cả cũng đều không tham ái, chỉ thương xót nghĩ đến chúng sanh không hề rời bỏ. Mình nên làm gì khiến cho chúng sanh thơ dại, hàng phàm phu vô trí đang bị màng mắt che mù nầy, thoát khỏi ngục tù của ba cõi, đặt yên ổn vào trong tòa thành vô úy thường lạc của Niếtbàn? Bồ-tát thực hành công việc lợi lạc như vậy, đối với các chúng sanh không nhân mà lại yêu thương, phước đức vốn có nầy người nào có thể lường tính? Kệ nói:

Thế gian không che chở
Cứu giúp những khổ não
Khởi tâm hạnh như vậy
Phước đó ai lường tính?

Bồ-tát nầy thường lấy đại bi, khởi lên ý niệm như vầy: Nay tại thế gian nầy không ai cứu giúp-không ai che chở, đi khắp nơi sáu nẻo vào trong lửa dữ của ba khổ, không có nơi nào trở về nương nhờ, đành phải dong ruổi hết nơi nầy đến nơi khác, những căn bệnh của thân tâm luôn luôn phát sanh khổ não. Không có nơi nào nương tựa, che chở thì mình nên làm nơi nương tựa, cứu giúp thân tâm của họ đã nhận chịu các khổ. Khởi tâm hạnh nầy, phước đức vốn có ấy người nào có thể lường tính?

Trí độ thường tương ưng
Như dắt bò vừa sanh
Một tháng lại nhiều tháng
Phước đó ai lường tính?

Bát nhã Ba-la-mật nầy luôn sanh ra chư Phật, Bồ-tát, và thành tựu pháp của chư Phật, Bồ-tát. Bồ-tát như đối với việc dắt bò vừa sanh, tư duy tu tập về phước đức ấy, còn không có số lượng, huống hồ như là một ngày đêm-hai ngày đêm-ba ngày đêm, cho đến bảy ngày đêm-nửa tháng-một tháng, nếu tiếp tục nhiều tháng tu tập tương ưng, thì phước đức vốn có ấy người nào có thể lường tính?

Nơi kinh Phật từng khen
Tự tụng, cũng dạy người
Cho đến phân biệt nói
Đó là phước đức tụ.

Thâm diệu, nghĩa là kinh rất sâu xa, tương ưng với hư không sanh ra ở thế gian, nên kinh ấy quả là rất sâu xa. Vả lại, vì phân biệt về duyên sanh, duyên sanh ấy chính là pháp, pháp chính là thân Như Lai. Pháp đó tương ưng với thân Như Lai, là kinh rất thâm diệu. Chư Phật đã khen ngợi điều ấy, hoặc là tự mình đọc tụng, hoặc chỉ dẫn người khác đọc tụng, hoặc vì người khác giảng giải, tâm không mong cầu gì, vì chỉ muốn thân Như Lai không bị ẩn mất. Thân Như Lai chính là pháp thân, nên mong muốn làm cho tồn tại mãi mãi giữa thế gian. Tất cả phước đức ấy người nào có thể lường tính được.

Khiến vô lượng chúng sanh
Phát tâm vì Bồ-đề
Phước giữ lại tăng hơn
Nên được địa Bất động.

Bồ-tát nầy có phương tiện thiện xảo, trước hết sử dụng bốn nhiếp pháp để thâu phục các chúng sanh, biết chúng sanh kia nhận làm theo lời mình nói rồi, sau đó dạy dỗ khiến phát tâm Bồ-đề. Bồ-tát có đầy đủ phương tiện thiện xảo như vậy, khiến các chúng sanh phát tâm Bồ-đề, tất cả phước đức ấy không người nào có thể lường tính được, vì vô lượng. Lại vì khiến cho các chúng sanh phát tâm Bồ-đề, phước giữ lại càng nhiều lên hẳn. Nói là phước cất giữ (phước tạng), vì phước đó không có tận cùng, vì khả năng đạt đến mức không tận cùng nên không thể hết được. Địa Bất động là vì không thể lay động nên gọi là địa Bất động. Trong nầy, nói về Bồtát khiến người khác phát tâm Bồ-đề, ở trong đời đời kiếp kiếp, tâm Bồ-đề không lay động, không biến đổi. Do khiến cho người khác phát tâm Bồ-đề, nên tâm nầy chính là nhân của địa Bất động.

Thuận theo Phật đã chuyển
Là pháp luân tối thắng
Diệt trừ mọi nghiệp ác
Là phước tạng Bồ-tát.

Như Đức Phật, ở trong vườn Nai-trú xứ của người cõi Tiên-nơi thành Ba-la-nại, chuyển pháp luân rồi, đối với pháp luân tối thắng ấy tùy thuận chuyển tiếp, cũng là phước lưu trữ. Tùy thuận chuyển nầy có ba loại nhân duyên, đó là đối với kinh thâm diệu Như Lai giảng nói, tương ưng với hư không xuất hiện ở thế gian, hoặc là giữ gìn, hoặc là giảng nói, cho đến thuận theo pháp thực hành pháp. Nếu đối với các kinh như vậy, giữ gìn khiến cho không mất, đây là tùy thuận chuyển pháp luân thứ nhất. Vì chúng sanh có căn khí mà phân biệt diễn giải, đây là tùy thuận chuyển pháp luân thứ hai. Như trong kinh đã nói, dựa theo pháp tu hành, đây là tùy thuận chuyển pháp luân thứ ba. Diệt trừ sạch mọi nghiệp ác, như Đức Phật dạy nghiệp ác ấy đó là tà kiến của ngoại đạo, cho đến ma ác cõi Dục tự tiện quấy phá, ghét bỏ giải thoát. Nếu trong bốn chúng, hoặc có người khác, không phải pháp nói là pháp, không phải luật nói là luật, không phải thầy dạy nói là thầy dạy…, đây là những nghiệp ác trong nội bộ Phật giáo, cần phải như pháp làm cho những hạng kia phải khuất phục, bẻ gãy kiến chấp, phá tan kiêu mạn, khiến cho giáo pháp của Phật tỏa sáng hẳn lên. Đây gọi là diệt trừ sạch mọi nghiệp ác. Vì diệt trừ sạch nghiệp ác, nên nói là Bồ-tát tàng trữ phước đức.

Vì lợi lạc chúng sanh
Nhẫn chịu khổ địa ngục
Huống hồ những khổ nhỏ
Quả Bồ-đề ở tay.

Nếu Bồ-tát mặc áo giáp kiên cố, thường vì lợi lạc cho chúng sanh, ý phát khởi tinh tấn, đối với một chúng sanh vì khiến được giải thoát, tuy ở trong địa ngục A-tỳ cho đến địa ngục lớn hơn, trải qua đời kiếp vất vả cực nhọc có thể nhẫn không lay động, huống hồ những khổ nhỏ khác. Bồ-tát có thể chịu đựng những khổ như vậy, nên biết quả vị Bồ-đề dường như ở trong bàn tay phải.

Khởi tạo không vì mình
Chỉ lợi lạc chúng sanh
Đều do tâm đại bi
Quả Bồ-đề trong tay.

Những việc được khởi lên thực hiện của Bồ-tát, như là bố thí…, do tâm đại bi, chỉ vì lợi lạc cho chúng sanh, cũng vì làm cho chúng sanh được đến Niết-bàn, cuối cùng không vì niềm vui nhỏ của riêng mình, đó cũng là tâm bi rộng lớn. Bậc đại nhân như vậy, nên biết quả vị Bồ-đề đã đến trong tay phải.

Trí tuệ lìa hý luận
Tinh tấn lìa lười nhác
Bố thí lìa tham tiếc
Quả Bồ-đề trong tay.

Hỏi: Trước đã giải thích về các Ba-la-mật là Đà-na v.v…, nay lại giải thích là có những ý gì?

Đáp: Trước đã giải thích phần nhiều vì người tu hành, nay giải thích là vì người không hề có sức nhẫn và không có trí tuệ soi sáng. Vì hiểu biết cùng chung một tướng, nên trí người kia xa rời mọi hý luận. Do không rời bỏ cái ách, người kia tinh tấn mọi sự lười nhác. Vì trừ bỏ tham, người kia bố thí xa lìa tâm keo kiệt tiếc nuối. Bồ-tát như vậy, nên biết quả vị Bồ-đề đã đến trong tay phải.

Không nương-không giác định
Giới viên mãn không lẫn
Đạt được nhẫn vô sanh
Quả Bồ-đề trong tay.

Nếu Bồ-tát thành tựu Thiền na Ba-la-mật rồi, thì định nầy không dựa vào ba cõi, tướng đó vắng lặng không có sự suy tư. Còn Thi la đầy đủ không lẫn tạp, không vẩn đục, hồi hướng Bồ-đề không mất. Lại khéo thành tựu Bát nhã Ba-la-mật rồi, trong pháp duyên sanh trú vào nhẫn vô sanh, xưa nay tốt đẹp nên không thối chuyển. Nên biết quả vị Bồ-đề đã ở trong bàn tay phải.

Hỏi: Đã nói về nguyên do tu hành cho đến đạt được nhẫn vị, tích tụ phước đức của Bồ-tát, phước đức nầy quy tụ có thể đạt được quả vị Bồ-đề, đâu nói đến nguyên do tích tụ những phước đức của hàng Bồ-tát mới phát tâm, phước đức nầy quy tụ có thể đạt được quả vị Bồ-đề hay không?

Đáp:

Hiện tại trú mười phương
Các bậc Chánh Đẳng Giác
Con đều trước các vị
Nói rõ những bất thiện.

Nếu có chư Phật Thế Tôn hiện tại, ở nơi thế gian khắp mười phương không có chướng ngại, dùng nguyện lực của mình, vì lợi ích cho chúng sanh mà an trú, nay hướng về trước các Đức Phật, những bậc đã chứng thực tỏ bày các tội lỗi: Nếu con từ vô thỉ lưu chuyển đến nay, ở tại đời trước đó và thời gian hiện tại nầy, hoặc tự mình tạo các nghiệp ác, hoặc dạy người khác làm, hoặc tùy hỷ với họ, vì tham-sân-si dấy lên nghiệp ác của thân-khẩuý, con đều nói ra tất cả không dám che giấu, tất cả nên đoạn trừ vĩnh viễn, trọn đời không tạo ra nữa.

Ở mười phương thế giới
Chư Phật chứng Bồ-đề
Không diễn nói kinh pháp
Con thỉnh chuyển Pháp luân.

Nếu Đức Phật Thế Tôn đầy đủ đại nguyện, ở nơi cội Bồ-đề, chứng quả vị Chánh giác Vô thượng, an trú yên lặng trong thiểu dục, không vì thế gian chuyển pháp luân của Phật, con sẽ thỉnh cầu Đức Phật ấy chuyển pháp luân, đem lợi ích cho mọi người, đem an lạc cho nhiều người, thương xót thế gian, vì đại chúng ban lợi lạc cho trời người.

Hiện tại mười phương giới
Tất cả Chánh Đẳng Giác
Nếu sắp xả thọ mạng
Đảnh lễ, thỉnh cầu trụ.

Nếu Đức Phật Thế Tôn ở thế gian không còn vướng bận, quyết định ở mười phương chứng quả Bồ-đề, chuyển pháp luân, an trú chánh pháp, những chúng sanh cần hóa độ đã hóa độ xong, nên xả bỏ thọ mạng, con sẽ đảnh lễ Đức Phật ấy, thỉnh cầu Ngài an trú thời gian lâu dài, tạo lợi ích cho mọi người, tạo an lạc cho nhiều người, thương xót thế gian, vì đại chúng ban lợi lạc cho trời người.

Nếu các loài chúng sanh
Thuận nơi thân khẩu ý
Đã sanh thí-giới-phước
Cùng với tư duy tu.
Thánh nhân cùng phàm phu
Đời quá-hiện-vị lai
Phước đức tích tụ được
Con đều sanh tùy hỷ.

Nếu các chúng sanh đã làm điều phước đức như là bố thí-trì giới-tu tập…, phát sanh ra từ nơi thân-khẩu-ý, đã tích tu-đang tích tụ, cho đến sẽ tích tụ. Hàng Thanh văn-Độc giác-chư Phật-Bồ-tát và các Thánh nhân, cho đến những phước đức vốn có của hàng phàm phu, con đều tùy hỷ tất cả. Tùy hỷ như vậy, ấy là người cao nhất, là người an trú hơn hẳn, người ở cảnh giới đặc biệt, người cao nhất ở trên, người thâu phục tốt đẹp, người vô cùng tuyệt vời, người vô thượng, người vô đẳng, người vô đẳng đẳng. Tùy hỷ như vậy mới gọi là tùy hỷ.

Nếu con phước hiện có
Đều làm thành một khối
Quay lại giúp chúng sanh
Để khiến được Chánh giác.

Nếu con từ vô thỉ lưu chuyển đến nay, đối với Phật Pháp Tăng và bên cạnh người khác, tất cả phước đức tích tụ được, thậm chí bố thí cho loài súc sanh một nắm thức ăn, hoặc là thiện căn quy y, hoặc thiện căn sám hối lỗi lầm, hoặc thiện căn thỉnh cầu, hoặc thiện căn tùy hỷ, tất cả điều ấy đều tùy theo số lượng cùng làm thành một khối. Con vì các chúng sanh, hồi hướng Bồ-đề đều bố thí cho hết. Dùng thiện căn nầy, làm cho các chúng sanh chứng được quả vị Chánh giác Vô thượng, đạt đến Nhất thiết trí.

Con hối lỗi như vậy
Khuyến thỉnh phước tùy hỷ
Và hồi hướng Bồ-đề
Nên biết như chư Phật.

Nếu con vì các chúng sanh hồi hướng thiện căn về Bồ-đề, như thiện căn sám hối lỗi lầm, hoặc là thiện căn khuyến thỉnh chuyển pháp luân, hoặc thiện căn thỉnh cầu trường thọ, hoặc thiện căn tùy hỷ…, tất cả thiện căn ấy đều tùy theo số lượng làm thành một khối, như chư Phật Thế Tôn quá khứ-vị lai-hiện tại trong thời gian làm Bồtát, đã thực hiện hồi hướng, đang thực hiện hồi hướng, con cũng như vậy, đem các thiện căn hồi hướng Bồ-đề, vì hồi hướng thiện căn nầy, khiến cho con và các chúng sanh sẽ chứng được quả vị Chánh giác Vô thượng. Nay con lại nói sơ lược:

Nói hối tội của con
Thỉnh Phật tùy hỷ phước
Và hồi hướng Bồ-đề
Như bậc Tối thắng dạy.

Tự mình có tội lỗi, tất cả đều nói sám hối, thỉnh cầu Đức Phật chuyển pháp luân, an trú thọ mạng trong thời gian dài lâu, tùy hỷ mọi phước đức, hồi hướng mọi phước đức. Hồi hướng vì cầu Bồ-đề như trước. Như bậc Tối thắng đã chỉ dạy, hồi hướng như vậy chỉ vì cầu đạt đến Bồ-đề.

Hỏi: Còn hồi hướng ấy, nên làm thế nào?

Đáp:

Gối phải vòng sát đất
Một tay sửa y phục
Ngày đêm hành ba lần
Chắp tay làm như vậy.

Nên tự mình thanh tịnh, mặc áo quần sạch sẽ, rửa ráy tay chân, y phục chỉnh tề. Từ trên một cánh tay khoác y phục vào rồi, dùng đầu gối bên phải đặt gọn trên mặt đất, chắp tay lại nhất tâm xa rời ý phân biệt. Nếu như ở nơi tháp thờ Phật, hoặc ở trước tượng Phật, hoặc ở tại hư không, dựa theo duyên chư Phật như đang ở trước mặt, khởi lên ý như vậy, như trước đã nói, hoặc ngày hoặc đêm đều thực hành ba lần.

Phước đã làm một thời
Nếu như có hình sắc
Hằng sa đại thiên giới
Cũng không thể dung nạp.

Ở trong sáu lần hồi hướng đã nói kia, nếu phân biệt phước đức từ trong một lần thực hành, chư Phật Thế Tôn, bậc thấy như thật đã nói, thì phước đức nếu có hình sắc giống như các loại lúa thóc tích tụ, phước đức tích tụ đó không có hạn lượng, tuy đại tam thiên thế giới số nhiều như Hằng hà sa, cùng tận giới hạn đó cũng không thể nào chứa đựng hết. Vì phước hồi hướng ấy cùng với cõi hư không bằng nhau, cho đến hồi hướng một lần, còn có phước tụ như vậy, nên dần dần có thể đạt được quả vị Bồ-đề.

Hỏi: Đã nói các vị Bồ-tát có phương tiện thành tựu phước tụ to lớn, nay muốn bảo vệ phước tụ thì dùng phương tiện gì?

Đáp:

Người ấy mới phát tâm
Đối các Bồ-tát nhỏ
Nên khởi tâm kính trọng
Giống như thầy, cha, mẹ.

Bồ-tát mới phát tâm, nếu muốn bảo vệ thiện căn cùng với thân tướng của mình, thì đối với các vị Bồ-tát mới phát tâm, nên khởi tâm kính trọng hết sức, giống như đối với Đức Phật là bậc thầy Nhất thiết trí và là bậc cha mẹ đã sanh ra mình. Như vậy, lấy Bồ-tát mới phát tâm làm đầu tiên. Đối với các vị Bồ-tát cũng nên thể hiện sự kính trọng hết sức như vậy. Nếu khác với điều nầy, thì tự thân và thiện căn thảy đều mất hết. Như trong kinh, Đức Thế Tôn từng nói: Ta không thấy một pháp còn lại nào làm chướng ngại Bồ-tát, cho đến mất hết thiện căn. Như đối với Bồ-tát khởi tâm sân giận, Bồ-tát kia tuy có trải qua trăm kiếp tu tập tích lũy thiện căn, mà do tâm sân nầy, tất cả thiện căn đều mất hết... Vì vậy đối với các vị Bồ-tát nên khởi tâm tôn trọng, giống như thầy dạy.

Bồ-tát tuy có lỗi
Hãy còn không nên nói
Huống hồ sự không thật
Chỉ nên khen như thật.

Nếu Bồ-tát chê bai lỗi lầm của người thực hành Đại thừa, khiến họ phải mang tiếng xấu, thì tất cả pháp thiện của nhiều đời kiếp thảy đều mất hết, pháp thanh tịnh không thể tăng trưởng. Vì vậy các bậc Bồ-tát tuy có sai lầm, vì bảo vệ thiện căn thân mạng của chính mình, không nên nói để lộ ra, huống là không có thật, ví như gán tội cho vua. Như trong kinh nói: "Có vị Bồ-tát sống đời thanh tịnh, không có gì đáng nói xấu, nhưng Tỳ kheo Đạt Ma kia nói càn về điều xấu xa của Bồ-tát đó. Vì vậy, ở trong bảy mươi kiếp nhận chịu báo ứng của địa ngục, lại ở trong sáu vạn đời làm người bần cùng, thường bị đui mù câm ngọng, dịch bệnh tệ hại". Thế nên đối với các vị Bồ-tát, nếu có điều xấu hoặc không có điều xấu, đều không được nói ra. Họ có đức thật sự chỉ nên ca ngợi truyền tụng, để thiện căn của mình được tăng trưởng, cũng là giúp cho người khác phát sanh niềm tin.

Nếu người nguyện làm Phật
Muốn cho không thoái chuyển
Bày tỏ rõ mãnh liệt
Cũng khiến sanh vui thích.

Nếu có chúng sanh đã phát nguyện cầu đạo Bồ-đề, chỉ mong muốn khiến nguyện đó không lui sụt, nhưng có người ngu si, nóng giận và tham lam, tự câu kết bè nhóm nên nói như vầy: Cần gì hành thêm hạnh khó hành của Bồ-tát. Niết-bàn đó là niềm vui bình đẳng giống nhau, thực hành hạnh Thanh văn mau chóng đến được Niết-bàn. Loại người nầy, sau sẽ nói đến quả báo của họ. Nếu dùng nhiều loại thí dụ để hiển bày công đức của Phật, khiến đi vào trong tâm, đây là chỉ bày rõ. Khiến họ có đầy đủ các hạnh tinh tấn của Bồ-tát, đây là làm cho mãnh liệt. Muốn khiến cho tinh tấn càng tăng thêm để mau chóng được lợi ích, vì họ nói về đại thần thông và công đức của bậc Chánh giác, đây là làm cho vui thích. Như vậy làm cho người kia không rời bỏ tâm nguyện Bồ-đề.

Chưa hiểu kinh sâu xa
Đừng nói chẳng Phật thuyết
Nếu nói lời như vậy
Nhận báo ác khổ nhất.

Kinh rất sâu xa: Đó là Đức Phật đã thuyết giảng pháp tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện, trừ bỏ vô lượng biên kiến về đoạn-thường…, diệt sạch tự tánh về ngã-nhân-chúng sanh-thọ giả…, hiển bày công đức hy hữu và đại thần thông của Như Lai. Đối với kinh luật nầy, nếu như chưa chứng thực biết rõ, đừng vì ngu si mà nói là không phải Đức Phật giảng nói. Vì sao? Vì Đức Phật giảng nói, nếu như phỉ báng kinh luật của Như Lai đã thuyết giảng, thì báo ác thật là khổ.

Các tội nơi Vô gián
Đều làm thành một khối
So hai loại tội trước
Phần số không thể đạt.

Đức Thế Tôn ở trong Kinh Bất Thoái Luân có nói: "Hết thảy tội lỗi của năm nghiệp vô gián, như tội báo đoạn dứt mạng sống của các chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới. Hoặc như tất cả các tháp của hằng sa số chư Phật diệt độ rồi, hoặc làm hư hoại, hoặc thiêu đốt, hoặc làm chướng ngại pháp nhãn của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại, mọi tội báo thuộc loại như vậy đều đem tích tập, quy tụ lại. Nếu như đối với kinh sâu xa không hiểu rõ được, khởi lên chấp trước nói là không phải Đức Phật thuyết giảng, và Bồ-tát phát nguyện Bồ-đề, lại làm cho thoái lui tâm Bồ-đề của họ. Hai loại tội báo nầy, đem tất cả tội báo của năm nghiệp vô gián trước kia tập hợp lại để so sánh, thì trăm phần không bằng, ngàn phần không bằng, thậm chí phần Số, phần Kha la, phần Toán, phần Thí dụ, phần Ưu ba ni sa đà (số đếm-đong lường tính toán-ví dụ-tưởng tượng) cũng không bằng được". Vì tướng tội báo như vậy, nên để bảo vệ tự thân và thiện căn của mình, đừng tạo ra hai loại tội lỗi ấy.

Hỏi: Đã nói Bồ-tát bảo vệ thiện căn của mình, thì đâu mới là thắng nghĩa của sự tu đạo?

Đáp:

Đối ba môn giải thoát
Thuận nên khéo tu tập
Đầu là không, tiếp vô tướng
Thứ ba là vô nguyện.

Ở trong thời gian Bồ-tát hành Bát nhã Ba-la-mật, thuận theo tu tập ba môn giải thoát. Đầu tiên nên tu tập về môn giải thoát Không, vì phá tan các kiến chấp. Thứ hai là tu về môn giải thoát Vô tướng, vì không giữ lấy các ý phân biệt theo duyên. Thứ ba là tu về môn giải thoát Vô nguyện, vì vượt lên trên cõi Dục, cõi Sắc và cõi Vô sắc.

Hỏi: Tại sao những pháp nầy gọi là môn giải thoát?

Đáp:

Không tự tánh nên Không
Đã Không, gì thành tướng?
Các tướng đã vắng lặng
Người trí đâu có nguyện.

Do duyên sanh nên pháp không có tự tánh, đây gọi là Không. Vì không ấy nên tâm không có duyên dựa, đây là Vô tướng. Xa rời các tướng nên không có nguyện gì nữa. Vả lại, nếu như pháp thuận theo duyên sanh, thì tự tánh của pháp là vô sanh. Vì tự tánh vô sanh nên pháp ấy là không. Nếu pháp là không thì trong đó sẽ là Vô tướng. Tướng không có nên pháp ấy là Vô tướng. Nếu không có tướng thì trong ấy tâm không có nơi dựa vào, vì không có chỗ dựa nên ở trong ba cõi, tâm không có nguyện.

Ở thời gian tu niệm
Hướng gần đạo Niết-bàn
Đừng nghĩ không phương tiện
Nơi kia đừng buông lung.

Lúc tu tập ba môn giải thoát nầy, nếu không phải là phương tiện gồm thâu, thì hướng đến tiếp cận Niết-bàn, tuy thuận tu tập, nhưng chớ rơi vào xứ sở Bồ-đề khác, nên cầu nhẫn vô sở đắc, thuận trú trong phương tiện thiện xảo.

Mình ở trong Niết-bàn
Không thuận theo tác chứng
Nên phát tâm như vậy
Nên thành thục Trí độ.

Phát tâm như vầy: Ta nên tạo lợi ích cho các chúng sanh, độ thoát cho các chúng sanh, tuy tu tập ba môn giải thoát, nhưng không bằng lòng ở tại Niết-bàn tác chứng. Nhưng vì học Bát nhã Ba-la-mật, do đó trong ba môn giải thoát, chuyên chú thuận theo thành thục. Ta nên tu tập về Không, không nên chứng đắc Không. Ta nên tu tập Vô tướng, không nên chứng đắc Vô tướng. Ta nên tu tập Vô nguyện, không nên chứng đắc Vô nguyện.

Như xạ thủ bắn tên
Đều chuyển sang cùng bắn
Giữ lấy không khiến rơi
Đại Bồ-tát cũng vậy.

Ví như xạ thủ học cách bắn quen thuộc rồi, bắn mũi tên vào không trung, tiếp tục bắn mũi tên sau tất cả đều bắn tiếp nhau, mũi tên ấy trở thành nhiều lên, giữ lấy nhau giữa hư không, không cho rơi xuống mặt đất.

Trong môn giải thoát không
Khéo bắn mũi tên tâm
Khéo giữ tên tiếp nhau
Không rơi vào Niết-bàn.

Như vậy bậc Đại Bồ-tát nầy bắn ra, dùng cây cung tu học về Không, Vô tướng và Vô nguyện, hướng về bầu không gian của ba môn giải thoát, bắn lên mũi tên của tâm rồi lại dùng mũi tên của phương tiện thiện xảo thương xót chúng sanh, lần lượt nối tiếp nhau ở trong hư không của ba cõi, giữ lấy mũi tên của tâm ấy, không để cho rơi xuống thành trì Niết-bàn.

Hỏi: Vì sao lại khiến cho tâm ấy không rơi vào Niếtbàn?

Đáp:

Ta không bỏ chúng sanh
Vì tạo lợi ích cho họ
Trước khởi ý như vậy
Tiếp tu tập tương ưng.

Nếu như ta đối với ba môn giải thoát, thành thục tốt đẹp rồi, muốn đạt được Niết-bàn thì dễ như ở trong bàn tay. Nhưng ta vì hạng phàm phu thơ dại giống như đang còn uống sữa, không thể tự sức hướng tới thành trì Niếtbàn ấy được. Vì chưa đến Niết-bàn nên ta đối với Niết-bàn không thể một mình bước vào, ta phải như vậy mà phát khởi tinh tấn, tùy theo những việc làm, chỉ nhằm tạo lợi ích cho các chúng sanh, cũng để cho họ được đến Niết-bàn. Trước tiên, nên khởi tâm hành như vậy, tiếp theo, ngay nơi tâm tùy thuận tương ưng, tùy thuận ấy là thuận ở nghĩa sau. Nếu không như thế, thì mũi tên tâm không có phương tiện khéo léo thâu tóm, khi thực hành ba môn giải thoát… lập tức rơi vào giải thoát của Thanh văn, hoặc là trong giải thoát của Độc giác. Nay lại có thêm phương tiện thiện xảo.

Những chúng sanh bị đắm
Đêm tăm tối hiện hành
Điên đảo cùng các tướng
Thảy đều do si mê.

Hạng phàm phu thơ dại và các chúng sanh, vì si mê nên từ vô thỉ kiếp lưu lạc trôi nổi trong đêm dài tăm tối, đắm vào bốn thứ điên đảo, vô thường nói là thường, khổ nói là vui, bất tịnh nói là tịnh, vô ngã nói là ngã. Cho đến ở trong các giới-nhập nội ngoại, suy nghĩ về ngã-ngã sở, cho là có sở đắc, trong đêm dài đã tạo tác và hiện tại đang tạo tác.

Người đắm tướng điên đảo
Nói pháp để đoạn trừ
Trước phát tâm như vậy
Tiếp tu tập tương ưng.

Các chúng sanh thuộc hạng như thế, vì si mê khởi lên hai loại suy nghĩ chấp trước vào ngã và ngã sở. Lại ở trong các sắc thái không hề có, vọng niệm khởi lên phân biệt giữ lấy tướng, sanh ra bốn loại điên đảo sai lạc, ta vì họ nói pháp khiến đoạn trừ điên đảo ấy, trước tiên phát tâm như vậy rồi, sau đó trong ba môn giải thoát tu tập tương ưng. Nếu khác với đây mà tu ba môn giải thoát thì sẽ hướng tới gần con đường Niết-bàn.

Bồ-tát lợi chúng sanh
Nhưng không thấy chúng sanh
Cũng là điều khó làm
Hiếm có, không nghĩ bàn.

Bồ-tát khởi suy nghĩ đến chúng sanh, đây cũng là điều khó nhất và không thể nghĩ bàn, vì chưa từng có giống như vẽ lên hư không. Ở trong nghĩa tối thắng vốn không có chúng sanh, cho nên tinh tấn thực hành, chỉ trừ đại bi, nơi nào lại có việc khó như vậy.

Tuy trú trong chánh định
Tu hợp môn giải thoát
Vì chưa đủ bản nguyện
Không thể chứng Niết-bàn.

Thuận theo suy nghĩ nầy: Nếu Bồ-tát đạt đến vị chánh định, dùng ba mươi hai pháp để đi vào vị chánh định, lúc tương ưng với môn giải thoát, trong thời gian đó chưa đầy đủ bản nguyện, là chứng Niết-bàn hay là không chứng? Vì vậy, trong kinh Đức Thế Tôn dạy: Bốn đại có thể làm cho thay đổi, không có trường hợp đi vào vị chánh định, trong thời gian ấy Bồ-tát chưa đầy đủ bản nguyện mà chứng Niết-bàn. Vì vậy Bồ-tát đạt đến vị chánh định, chưa đầy đủ bản nguyện thì không chứng Niết-bàn.

Chưa đến vị chánh định
Lực phương tiện khéo thâu
Vì chưa đủ bản nguyện
Không thể chứng Niết-bàn.

Nếu Bồ-tát mới phát tâm, chưa đến vị chánh định, nên dùng phương tiện thiện xảo thâu tóm, lúc tu tập ba môn giải thoát, trong thời gian chưa đầy đủ bản nguyện, cũng không thể chứng Niết-bàn.

Rất chán nẻo lưu chuyển
Nhưng cũng hướng lưu chuyển
Tin ưa nơi Niết-bàn
Mà cũng rời Niết-bàn.

Bồ-tát nầy ở trong lưu chuyển, vì ba loại lửa rực cháy, nên hết sức chán muốn xa rời, nhưng không bằng lòng khởi tâm trốn tránh lưu chuyển, nên nghĩ đối với chúng sanh như con cái để hướng về lưu chuyển, cho đến ưa thích Niết-bàn, giống như che chở bảo vệ nhà cửa, nhưng phải rời bỏ Niết-bàn, vì để làm cho đầy đủ trí Nhất thiết trí. Trong lưu chuyển, nếu có chán ngán xa rời, thì ở Niết-bàn cũng có niềm tin ưa thích. Nếu như không hướng về lưu chuyển, không rời bỏ Niết-bàn thì bản nguyện chưa thể viên mãn, nên lúc tu tập môn giải thoát, bèn quay về Niết-bàn tác chứng.

Nên sợ hãi phiền não
Không trừ hết phiền não
Nên tụ tập các thiện
Để ngăn chặn phiền não.

Vì là nhân của sự lưu chuyển nầy, nên phải sợ phiền não, nhưng không nên dồn hết sức trừ bỏ mọi phiền não. Nếu đoạn trừ phiền não, thì không thể nào tích tập được tư lương Bồ-đề. Vì vậy, Bồ-tát dùng pháp để ngăn chặn các phiền não. Do ngăn chặn khiến chúng không có sức lực, thì có thể tụ tập thiện căn làm tư lương Bồ-đề. Vì thiện căn được tu tập nên làm viên mãn bản nguyện, có thể đạt đến Bồ-đề.

Hỏi: Vì sao không dùng nguyên nhân đoạn dứt để diệt các phiền não?

Đáp:

Tánh phiền não Bồ-tát
Không là tánh Niết-bàn
Không đốt các phiền não
Sanh chủng tử Bồ-đề.

Như các bậc Thánh nhân Thanh văn, lấy Niết-bàn làm tánh, do duyên dựa nơi Niết-bàn nên đạt được quả Sa-môn. Chư Phật không dùng Niết-bàn làm tánh, chư Phật lấy phiền não làm tánh, vì tâm Bồ-đề từ nơi nầy nảy sanh. Hàng Thanh văn, Độc giác thiêu đốt các phiền não, chủng tử của tâm Bồ-đề không phát sanh được. Vì chủng tử của tâm hàng Nhị thừa không có lưu chuyển, vậy nên phiền não là tánh Như Lai. Vì có phiền não chúng sanh mới phát tâm Bồ-đề, sanh ra thể Phật, nên không xa rời phiền não là vậy. Hỏi: Nếu đốt cháy phiền não, thì chủng tử của tâm Bồ-đề không phát sanh, tại sao trong Kinh Pháp Hoa đã thọ ký cho các bậc Thanh văn đốt cháy phiền não?

Đáp:

Thọ ký chúng sanh ấy
Ký nầy có nhân duyên
Đức Phật dùng thiện xảo
Phương tiện đến bờ kia.

Không biết chúng sanh thành thục như thế nào, nhân duyên trong họ chỉ có Đức Phật mới biết được. Vì điều phục để đến bờ kia, nên không tương tự cùng với những chúng sanh khác. Mà chủng tử nơi tâm Bồ-đề của các chúng sanh ấy không phát sanh, vì đi vào vị chánh định vô vi. Như trong kinh nói:

Như hư không, hoa sen
Núi cao và hầm sâu
Giới chẳng nam ca giá
Cũng như đốt chủng tử.

Giống như trong hư không chẳng thể nào nảy sanh chủng tử, như vậy ở trong vô vi, chưa từng phát sanh pháp Phật, cũng không thể sanh ra, như nơi vùng cao nguyên, đồng rộng không thể nào mọc lên hoa sen. Như vậy Thanh văn, Độc giác đi vào vị chánh định vô vi, không sao phát sanh pháp Phật. Sườn núi cao là ở trong tòa thành của đạo trí Nhất thiết trí, có hai dãy núi cao lớn, đó là dãy núi cao ở địa Thanh văn và dãy núi cao ở địa Độc giác. Hàng Thanh văn, Độc giác nếu như có Nhất thiết trí, thì không phải là hai dãy núi cao của Bồtát. Hầm sâu là, nếu như hàng trượng phu khéo học hỏi nhảy vượt qua, tuy rơi xuống hố sâu nhưng vẫn yên ổn đứng trong đó, nếu không khéo học hỏi mà rơi vào hố sâu thì sẽ chết ở đấy. Như vậy, hàng Bồ-tát tu tập vô vi khéo tương ưng, tuy tu vô vi mà không rơi vào trong vô vi. Hàng Thanh văn, Độc giác tu tập vô vi không khéo tương ưng, nên rơi vào trong vô vi. Giới là hàng Thanh văn vướng vào cảnh giới vô vi, không tiếp tục thực hành được trong hữu vi, vì vậy ở trong ấy tâm Bồ-đề không thể phát sanh.

Chẳng nam là giống như hàng trượng phu mất nam căn, đối với năm thứ dục lạc thuận hợp, không thể trở lại có lợi ích. Như vậy hàng Thanh văn có đủ pháp vô vi, đối với các lợi ích của pháp Phật cũng không được lợi ích. Ca giá là giống như ngọc báu Ca giá, chư Thiên thế gian tuy khéo gọt giũa làm đẹp ngọc quý Ca giá, nhưng cuối cùng không thể nào trở thành cái bao dao bằng ngọc lưu ly quý. Như vậy, hàng Thanh văn tuy có đủ các loại giới học, công đức đầu đà, Tam-ma-đề…, nhưng cuối cùng không thể nào ngồi nơi đạo tràng chứng được quả vị Chánh giác Vô thượng. Cũng như thiêu hạt giống là giống như hạt giống bị đốt cháy, tuy đặt vào trong lòng đất có tưới nước, hơi ấm mặt trời, nhưng cuối cùng không thể nảy mầm được. Như thế, hàng Thanh văn đốt cháy chủng tử phiền não rồi, nghĩa là ở trong ba cõi cũng không có sự sống. Theo các kinh đều như vậy, nên biết hàng Thanh văn đạt được pháp vô vi thì tâm Bồ-đề không phát sanh.

QUYỂN 5

Hỏi: Bồ-tát rất kiên cường ở trong chúng sanh, sao nói cần phải tu hành?

Đáp:

Các luận và công xảo
Nhiều loại nghề, thuật hay
Vì lợi ích thế gian
Nên sanh ra kiến lập.

Từ trong sách vở, in chép, tính toán, luận bàn về khoáng sản, về y học, những luận cứ có thể diệt trừ ma quỷ, đối kháng chất độc… Xuất sanh những luận thuyết về nông thôn, thành thị, công viên, vườn cảnh, sông suối, ao hồ, núi non cao thấp, hoa trái thuốc thang…, biểu hiện rõ những thuyết về tánh quý như vàng bạc-trân châu-lưu ly-bối thạch-san hô…, ghi nhận luận giải về tướng như mặt trăng-mặt trời-tinh tú-động đất-giấc mộng…, bàn về tướng trạng các chi phần của thân thể… Vô lượng các luận thuyết như vậy, có thể làm lợi lạc cho thế gian. Lúc kiếp chuyển sang thời hoại diệt, tất cả đều diệt mất. Lúc kiếp chuyển sang thời kỳ phát sanh thì tiếp tục sanh ra và thành lập tại nhân gian. Như gỗ sắt ngói đồng làm ra đồ vật, mà công sức khéo léo không phải là như nhau. Có thể diệt trừ ma quỷ, đối kháng được độc tố, điên cuồng, bệnh dịch, ăn không tiêu và các loại phiền muộn bức bách khác làm ra nhiều loại thuật tinh xảo như chạm trổ-họa vẽ-thêu thùa-dệt đan…, các loại sự nghiệp có thể làm lợi lạc cho thế gian ấy, cũng đều sanh ra và khiến được tồn tại.

Tùy chúng sanh hóa độ
Giới, nẻo cùng chốn sanh
Như nghĩ liền hướng tới
Nguyện lực nên thọ sanh.

Các bậc Đại Bồ-tát tùy theo thế giới nào, hoặc là thế giới của trời, người, hoặc là sanh vào các chủng tộc Bàla-môn, Sát-đế-lợi, Tỳ-xá…, ở những xứ sở ấy, nếu chúng sanh có thể hóa độ, vì họ nên khởi lên vô lượng ý niệm, suy nghĩ. Vì nhằm hóa độ những chúng sanh ấy, tùy theo sắc loại dài ngắn, lớn nhỏ, âm thanh, quả báo của họ, có thể khiến chúng sanh mau chóng tiếp nhận sự giáo hóa, lập tức thuận theo như nguyện.

Nơi vô số việc ác
Chúng sanh dua nịnh, huyễn
Nên dùng áo giáp chắc
Chớ chán nản lo ngại.

Nếu bị mắng nhiếc, hoặc sợ hãi, kinh động, hiềm khích, thù hận, đánh bằng roi, giam nơi ngục tối, tra hỏi…, những sự việc xấu ác như vậy đặt vào nơi mình và các chúng sanh có vô số tâm ý dua nịnh huyễn hoặc, biết không thể nào cảm hóa nổi, vì các chúng sanh ấy, không nên tự mình trì hoãn mặc giáp phục, cũng đừng chán ngán sự lưu chuyển, đừng ngần ngại cầu đến Bồđề. Lại cần phải phát tâm như vầy: Tôi không vì chúng sanh không dua nịnh, huyễn hoặc mà mặc áo giáp nầy. Chính vì những chúng sanh kia mà mặc áo giáp nầy. Tôi sẽ phát khởi tinh tấn làm những việc như vậy, để khiến những chúng sanh kia nhanh chóng trở nên không dua nịnh, không huyễn hoặc, do đó phải tự mình mặc giáp phục kiên cố như vậy.

Hỏi: Đã nói Bồ-tát tu hành kiên cường như thế, sao lại nói Bồ-tát tu hành chưa được kiên cường?

Đáp:

Ý đầy đủ thắng tịnh
Không nịnh không huyễn hoặc
Bày rõ các tội lỗi
Che giữ mọi điều thiện.

Đầy đủ ý thắng tịnh: Đó là ý tăng thượng, lại là thiện tăng trưởng. Ý là tâm, tức là tâm ấy đầy đủ, gọi là ý đầy đủ thắng tịnh. Không siểm cũng không huyễn: Siểm nghĩa là dua nịnh tâm phân biệt, tâm phân biệt thì không chất trực. Vả lại, siểm gọi là tâm cong vẹo. Huyễn nghĩa là dối trá. Nếu tâm không cong vẹo, không dối trá, đó chính là không dua nịnh, không huyễn hoặc, tỏ bày các tội lỗi. Nếu có tội lỗi thì nói rõ tất cả, đó gọi là bày rõ các tội lỗi. Che giữ các điều thiện: Nếu có các thứ thiện to lớn thì che giữ, đó gọi là cất giữ che kín mọi điều thiện. Nếu Bồ-tát muốn nhanh chóng đạt được Bồ-đề, cần phải đầy đủ ý thanh tịnh, không dua nịnh, không dối trá, bày tỏ rõ tội lỗi, che giữ điều thiện. Vì vậy Đức Thế Tôn dạy bảo đệ tử: Dua nịnh trái với Bồ-đề, dối trá không phải là Bồ-đề.

Nghiệp thân khẩu thanh tịnh
Nghiệp ý cũng thanh tịnh
Tu tập các học giới
Đừng khiến có thiếu sót.

Các vị Bồ-tát nầy muốn tương ưng với sự tu niệm, trước hết phải làm thanh tịnh nghiệp thân-khẩu-ý. Trong đó ba loại là sát sanh, không cho mà lấy, trái với hạnh tịnh (sát đạo dâm) thuộc về hành ác của thân, cần phải thanh tịnh. Trái với điều nầy là ba loại hành thiện của thân, cần phải tiếp nhận. Nói dối, nói phá phá hoại, nói thô ác, nói đùa cợt hỗn tạp, là bốn loại thuộc về hành ác của khẩu, cần phải thanh tịnh. Ngược lại với điều nầy là bốn loại hành thiện của khẩu, cần phải tiếp nhận. Thamsân-tà kiến là ba loại thuộc về hành ác của ý, cần phải thanh tịnh. Trái với đây là ba loại hành thiện của ý, cần phải tiếp nhận. Các Ba la đề mộc xoa học cú (các học giới) cũng nên tiếp nhận, thuận theo để chuyển hóa. Đối với các học giới kia, vì không hiểu biết mà phá hỏng, nếu người giữ giới bị thiếu sót, hư hoại thì ở trong sự tu niệm, tâm sẽ không ổn định.

An trụ trong chánh niệm
Lặng suy thâu tóm duyên
Dùng niệm bảo vệ mình
Tâm định không chướng ngại.

Như vậy đối với giới đích thực được thanh tịnh rồi, đoạn trừ năm cái, ở nơi vắng lặng thanh tịnh, xa rời chốn đông người, ít các loại âm thanh ồn náo, ruồi muỗi, rắn rít, cọp beo, giặc cướp…, không lạnh lắm, không nóng lắm, không nằm mãi trên giường, hoặc là đứng, hoặc kinh hành, hoặc ngồi xếp bằng tròn, hoặc hướng vào chóp mũi, hoặc hướng lên phần trán, niệm quay lại an trú tùy vào một duyên khéo thâu tóm được. Nếu đối với cảnh giới, tâm có sự loạn động khởi lên, thì dùng niệm để làm người gác cổng. Như vậy bố trí canh giữ rồi, giặc cướp chướng ngại trong tâm rời xa, ý chỉ có một nơi không còn tán loạn, nên tiếp tục tu tập tư duy.

Như lúc khởi phân biệt
Nên hiểu thiện, bất thiện
Cần bỏ các bất thiện
Tu tập nhiều phần thiện.

Vào lúc tư duy, nếu khởi lên phân biệt, lập tức ở tại lúc khởi hiểu rõ sự phân biệt nầy. Nếu là bất thiện, nên lìa bỏ, đừng để tiếp tục tăng lên. Nếu là phần thiện thì chỉ hướng về thực hiện nhiều hơn nữa, không nên tán loạn giống như đèn trong nhà không đóng kín cửa để gió thổi lùa.

Duyên cảnh, tâm phân tán
Cần chuyên chú nghĩ biết
Lại hướng về cảnh ấy
Tùy động liền khiến trụ.

Tỳ kheo trong lúc tu định, lúc tâm tư duy nên nắm giữ một ý đừng để hỗn loạn. Nếu tâm xa rời cảnh thì phải biết rõ, thậm chí không để cho lìa cảnh quá xa, trở lại thâu giữ tâm đó an trú trong cảnh, giống như sợi dây buộc vượn khỉ cột chặt vào cột, khiến chúng chỉ được quẩn quanh cây cột mà không thể đi nơi nào khác. Như vậy phải dùng sợi dây niệm buộc vượn khỉ của tâm giữ chặt vào cột của cảnh, chỉ được quanh quẩn ở tại cây cột của cảnh, không thể nào đi xa nơi khác.

Không nên hoãn, nhân ác
Mà tu tập tinh tấn
Do định không thể giữ
Vì thế phải luôn tu.

Hoãn nghĩa là xa rời thúc giục thường xuyên. Nhận lấy ác nghĩa là không dẫn đến điều thiện. Nếu như mong thành tựu Tam-ma-đề, thì không nên trì hoãn và gắng sức nhận lấy điều ác, vì làm trì hoãn và gắng sức nhận lấy điều ác, Tam-ma-đề sẽ không thể giữ được. Vậy nên người thực hành tu định phải luôn luôn tu tập đích thực.

Nếu chứng thừa Thanh văn
Cho đến thừa Độc giác
Chỉ là hành tự lợi
Không bỏ tinh tấn vững.

Nếu như muốn chứng quả nơi thừa Thanh văn và thừa Độc giác, vì chỉ trở thành tự lợi, tự đạt Niết-bàn cho mình, luôn trong mọi ngày đêm không xả bỏ tinh tấn kiên cố, thúc giục siêng tu.

Huống hồ Đại trượng phu
Tự độ và độ người
Mà không thể phát khởi
Tinh tấn trăm ngàn lần?

Nhưng Bồ-tát nầy bằng lòng ở trong dòng sông lưu chuyển để cứu độ các chúng sanh, cũng thuận theo để tự độ, sao có thể không phát khởi, vượt qua người của hai thừa Thanh văn, Độc giác, tinh tấn đến trăm ngàn lần? Giống như tự mình vượt qua dòng sông của sự lưu chuyển, cứu độ người khác cũng như vậy.

Nửa thời, hoặc biệt hành
Một lúc hành nẻo khác
Tu định không như vậy
Phải duyên một cảnh giới.

Trước mắt một ngày nầy, không nên để một nửa thời gian tu tập định riêng, thời gian còn lại thực hành cách khác, chỉ hướng về một pháp định thích ứng duyên với cảnh, tâm thuận theo một cảnh, đừng hướng về nơi khác.

Đối thân đừng có tham
Nơi mạng cũng đừng tiếc
Dù thân nầy được giữ
Cùng là pháp hủy hoại.

Cần phải phát tâm niệm như vầy: Trong thân nầy của mình, chỉ có da dày da mỏng, máu thịt gân xương tủy não…, cuối cùng sẽ cạn khô, thọ mạng nầy cũng sẽ kết thúc. Bậc trượng phu tinh tấn, trượng phu uy lực, trượng phu thực hành mạnh mẽ thế kia, ta cũng đạt được. Nếu chưa đạt được điều ấy, ta quay về tinh tấn không nên thư thả kéo dài, tuy thân nầy được bảo vệ đến trăm năm, nhưng chắc chắn đang là pháp bị hủy hoại.

Lợi dưỡng, cung kính, danh
Hoàn toàn đừng tham đắm
Như lửa cháy đầu, áo…
Siêng hành, thành tựu nguyện.

Trước mắt lúc nầy, nếu như ở nơi cư trú rộng thoáng, thân mạng đừng tham tới lui trong đó. Nếu lúc có lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng nổi lên, không nên tham đắm, vì nhằm thành tựu tâm nguyện, nên nhanh chóng chịu khó thực hành, giống như lửa cháy trên đầu, trên y phục.

Quyết định khởi thắng hạnh
Không thể chờ ngày mai
Ngày mai quá xa xôi
Duyên nào giữ mạng mỏng?

Lúc người kia chịu khó thực hành giống như lửa cháy thân mình, ngày mai xa xăm mờ mịt đừng đợi. Nếu đối với thân mình có điều gì thắng lợi, quyết định lập tức phát khởi, cần phải sanh tâm niệm như vầy: Duyên nào có thể giữ gìn mạng sống trong thời gian mở mắt, khép mắt (vô thường). Nay ta lập tức khởi các hành rất thuận lợi, ngày mai xa xăm quá, đừng đợi đến ngày mai.

An trú trong chánh niệm
Như ăn thịt con quý
Đối với những món ăn
Đừng thích cũng đừng bỏ.

Tỳ kheo thực hành tu định như vậy, hoặc ở trong thôn xóm, hoặc nơi Tăng phường, tùy theo nơi có cơ duyên như pháp, không có hiềm nghi, xin được món ăn rồi, chớ khởi tâm tham thích vướng mắc, cũng đừng chê bai không vừa ý. Cần an trú trong chánh niệm, như ăn thịt đứa con yêu quý của mình, chỉ vì thân trú không hủy hoại để thọ mạng được tồn tại, thâu giữ bảo vệ hạnh tịnh. Giống như xưa kia nói: "Lúc vợ chồng đi qua cánh đồng rộng lớn, cùng ăn thịt người con".

Xuất gia vì nghĩa gì?
Việc mình làm xong chưa?
Nay nghĩ làm hay không
Như mười pháp kinh nói.

Cần phải quan sát như vầy: Ta vì ý nghĩa gì mà xuất gia, vì sợ không thể sống được, vì cầu quả vị Sa-môn? Nếu như vì cầu quả vị Sa-môn, thì nên suy nghĩ: Ta đối với việc của Sa-môn là đã làm, là chưa làm, hay là nay đang làm? Nếu như chưa làm và đang làm, vì nhân duyên thành tựu, cần phải cố gắng rất nhiều. Ta đã từ bỏ gia đình, tức không giống như họ, phải luôn suy nghĩ: Mạng sống của ta gắn liền nơi kẻ khác, ta cũng phải thực hiện nghi thức khác. Ta từ nơi giới luật đạt được không hiềm nghi hay không? Người có trí cùng chung hạnh tịnh, đối với giới luật của mình không có hiềm nghi gì chăng? Ta đã cùng với các sự ân tình có sai khác về tướng trạng, hay là cùng giống nhau không khác? Ta thuộc về nghiệp, sanh ra từ nghiệp, thọ dụng nơi nghiệp, nghiệp là ruột thịt của ta, dựa vào nghiệp thực hành, nghiệp ta đã tạo, hoặc thiện hoặc ác tự ta phải nhận lấy, ở trong ngày đêm vì sao tạo ra? Ta thích niềm vui vắng lặng hay không? Ta có pháp của người tu hành hay không? Có thể đạt được sự thấy biết thù thắng của Thánh nhân hay không? Nếu như sau nầy vào lúc người cùng chung hạnh tịnh hỏi về điều đó lúc ấy nói mà không biết xấu hổ chăng?

Nên nhiều lần suy nghĩ đến mười pháp như vậy, đó gọi là Tỳ kheo thực hành tu định. Nên luôn suy nghĩ!

Quán hữu vi vô thường
Không có ngã, ngã sở
Tất cả các nghiệp ma
Nên hiểu rõ lìa bỏ.

Hữu vi nghĩa là nhân duyên hòa hợp sanh. Vì nhân duyên hòa hợp sanh ra nên pháp ấy không có ngã sở. Do hữu vi nên pháp ấy là vô thường. Nếu là vô thường thì pháp ấy bị sự bức bách từ nơi khác nên khổ. Nếu như khổ không chuyển hóa tự tại nên vô ngã. Đối với pháp hữu vi nên quán xét như vậy. Tất cả các nghiệp ma nên hiểu rõ mà lìa bỏ. Hoặc ở trong kinh nói tâm Bồ-đề tương ưng với sáu độ, tạo nhân duyên không dục lạc, nhân duyên không tán loạn, nhân duyên không trì hoãn, nhân duyên không chướng ngại. Nếu như từ nơi mình khởi lên hoặc là từ nơi khác khởi lên, đều tùy theo đó hiểu biết rõ. Từ đây các nghiệp ma ác đều được nhận biết đã xa rời, không để chúng tự tiện hiện hành.

Căn, lực và giác phần
Thần túc, chánh đoạn, đạo
Cùng với bốn niệm xứ
Phát khởi tinh tấn tu.

Tín-Tinh tấn-Niệm-Định và Tuệ, đây là năm Căn. Tín-Tinh tấn-Niệm-Định và Tuệ, đây là năm Lực. NiệmTrạch pháp-Tinh tấn-Hỷ-Ỷ (Khinh an)-Định và Xả, đây là bảy Giác phần. Dục định-Tinh tấn định-Tâm định và Tư duy định, đây là bốn Thần túc. Điều ác và pháp bất thiện chưa sanh làm cho nó không sanh, điều ác và pháp bất thiện đã phát sanh thì làm cho nó đoạn trừ, pháp thiện chưa sanh thì làm cho sanh ra, pháp thiện đã sanh thì làm cho tồn tại, sanh ra phát triển thường xuyên thâu tóm vào tâm, xây dựng nguyện, đây là bốn Chánh đoạn (chánh cần). Chánh kiến-Chánh phân biệt (chánh tư duy)-Chánh ngữ-Chánh nghiệp-Chánh mạng-Chánh phát hạnh (chánh tinh tấn)-Chánh niệm và Chánh định, đây là tám phần Thánh đạo. Thân-Thọ-Tâm và Pháp, đây là bốn Niệm xứ. Như vậy ba mươi bảy pháp hỗ trợ Bồ-đề nầy, vì tu tập nên phát khởi tinh tấn thường xuyên.

Tâm cùng thiện lợi lạc
Truyền mãi nơi chúng sanh
Và các căn xấu loạn
Đều nên khéo quán sát.

Tâm nếu được điều phục nhuần nhuyễn, canh giữ cẩn thận, buộc chặt một nơi thì cùng với việc thiện lợi lạc, làm nhân truyền mãi cho chúng sanh. Nếu không điều phục, không canh giữ, không tu tập, không buộc chặt, thì cùng với những gì không có lợi-xấu ác-hỗn loạn làm thành căn đã biết, đối với những điều ấy cần phải khéo quán sát. Do tướng sanh-trú khác nhau, không trú vào hai phía trong và ngoài, đời quá khứ, vị lai và hiện tại không đồng đều, không có nơi đến, không có chỗ đi, không dừng lại trong khoảnh khắc thời gian, giống như huyễn hoặc, cho nên để tu tập cần phải quán sát.

Ta ở trong pháp thiện
Ngày ngày tăng trưởng gì?
Lại có điều giảm sút
Phải hết sức quán sát.

Như Đức Thế Tôn đã dạy, các pháp thiện như bố thí…, có thể sanh ra Bồ-đề, mình đối với những pháp thiện ấy có gì tăng trưởng và có gì giảm sút? Luôn phải tập trung tinh thần để quán sát như vậy. Trong từng ngày, khởi lên rồi lại khởi lên.

Thấy người khác tăng trưởng
Lợi dưỡng, cung kính, danh
Tâm bủn xỉn ganh ghét
Đều không nên hành tác.

Nếu nhìn thấy người khác cùng chung hạnh tịnh, hoặc là Sa-môn, hoặc là Bà-la-môn, lúc họ tăng trưởng về lợi dưỡng, sự cung kính và danh tiếng, cũng không nên sanh tâm bủn xỉn đố kỵ. Trở lại nên suy nghĩ và sanh tâm niệm như vầy: Mình cũng thích được nhiều thứ đồ dùng như áo quần, thức ăn uống, giường chiếu, thuốc thang chữa bệnh và lợi dưỡng như chúng sanh, mình cũng thích được sự cung kính của hàng tại gia và xuất gia, mình cũng thích được đầy đủ các pháp đáng ca ngợi.

Không mong muốn cảnh giới
Hành như ngu, câm, điếc
Lúc lại Sư tử gầm
Hươu nai ngoại đạo hoảng.

Nếu như lúc nhìn thấy người khác tăng trưởng về lợi dưỡng, sự cung kính và có danh tiếng, nơi cảnh giới của sắc, thanh…, không nên ao ước mong đợi. Ở trong sắcthanh-hương-vị thích hay không thích, tuy không phải là ngu, mù, câm, điếc, mà làm ra vẻ như thế. Nếu có năng lực, không nên lặng câm đứng nhìn, nên dùng chánh pháp xua trừ, hoặc phá tan sự đảo điên cố hữu, khiến đám hươu ngoại đạo kinh sợ để giữ gìn chánh giáo. Lại phải làm nên tiếng sư tử gầm, chấn động thế gian. Tôi đã giải thích về tu tâm, nay sẽ giải thích về tu tướng. Đó gọi là:

Nghênh tiếp và tiễn đưa
Nên cung kính tôn trọng
Ở trong các sự pháp
Tùy thuận mà trợ giúp.

Đối với những bậc tôn kính thì nghênh tiếp hầu hạ và tiễn đưa chu đáo, vào lúc nghe pháp thì cúng dường hoa hương thanh tịnh, trong những sự pháp như sửa chữa chùa tháp (chi đề) thì cung kính thực hiện. Trước mắt có thể trở thành anh em với nhau, đó lại là tướng mạo của quyến thuộc lớn từ trước.

Cứu người bị giết hại
Điều thiện tăng không giảm
Khéo tu minh công xảo
Tự học, dạy cho người.

Có người bị giết hại nên cứu cho họ thoát khỏi, là nhân duyên bảo vệ tính mạng, xa rời nơi giết hại sanh linh. Được những nghiệp nầy thường hành tập trong đêm dài sanh tử, nên sẽ đạt được tướng ngón tay dài, tướng gót chân vuông vắn, tướng thân thể thẳng vững, đó là tướng trước kia trường thọ. Tự mình đã được pháp thiện, thì làm tăng trưởng khiến không giảm sút, nên đạt được tướng cổ chân cao như cây bối, tướng lông hướng lên phía trên. Hai tướng ấy là tướng trước kia không giảm sút về pháp. Khéo tu các nghiệp về Minh luận và công xảo, tự mình học hỏi và dạy bảo cho người khác, nên đạt được tướng đầu gối như gối nai chúa, ấy là tướng trước kia nhanh chóng thâu gồm.

Đối pháp thiện thù thắng
Kiên cố mà tiếp nhận
Tu hành bốn nhiếp sự
Thí y phục, thức ăn.

Đối với các pháp thiện tốt đẹp nhất, kiên cố tiếp nhận và giữ gìn, vì thường gần gũi và thực hiện, nên sẽ đạt được tướng đứng tốt, đó là tướng trước kia có năng lực thực hiện sự nghiệp. Tu hành bốn nhiếp pháp là Bố thíÁi ngữ-Lợi hành và Đồng sự, vì luôn gần gũi luyện tập, nên sẽ đạt được tướng tay chân có màng nối, đó cũng là tướng trước kia nhanh chóng thâu gồm. Lấy đồ ăn thức uống và y phục tốt đẹp để bố thí, vì luôn gần gũi tập luyện, nên sẽ đạt được tướng tay chân mềm mại, tướng bảy chỗ cao hơn bình thường, hai tướng ấy là tướng trước kia có được đồ ăn thức uống ngon quý và các loại y phục thuộc hạng thượng diệu.

Người xin không làm trái
Hòa hợp người thân thích
Quyến thuộc không trái lìa
Giúp nhà cửa, của cải.

Tùy có vật gì, nếu người đến cầu xin, liền giúp cho, không hề trái ý, sẽ đạt được tướng cánh tay tròn trịa, đó là tướng trước kia điều phục tự tại. Thân quyến bạn bè hòa hợp cùng nhau cư trú, không làm cho mọi người trái nhau điều gì. Nếu như người có điều trái ngược cũng khiến hòa hợp, vì vậy sẽ đạt được tướng nam căn ẩn kín, đây là tướng trước kia nhiều con. Bố thí nhà cửa, của cải, cho đến bố thí giường ghế, y phục, phòng ốc, cung điện… tốt đẹp, nên đạt được tướng sắc vàng rực, tướng da mịn màng trơn mỏng, hai tướng ấy là tướng đời trước được các thứ giường ghế y phục phòng ốc cung điện tốt đẹp.

Cha mẹ cùng bạn thân
Tùy chỗ hợp, đặt yên
Nơi chốn đều an ổn
Chủ tự tại vô thượng.

Ưu-ba-đệ-da-dạ (ở đây nói là Cận tụng là Hòa thượng. A-già-lợi-da (chánh hạnh, là A xà lê), cha mẹ anh em…, những người đáng tôn kính ấy, thuận theo đặt yên ở những nơi thích ứng để trở thành người chủ tự tại không gì hơn, nên sẽ đạt được tướng một lỗ chân lông chỉ có một sợi lông, và tướng chòm lông trắng trên mặt, hai tướng ấy là tướng đời trước bình đẳng.

Tuy lại là nô bộc
Khéo nói cũng nhận lấy
Sanh ra tôn trọng nhất
Giúp thuốc thang khỏi bệnh.

Giúp cho thuốc thang trị lành bệnh: Đối với những người bệnh, giúp cho thuốc thang cung cấp thức ăn uống nghỉ ngơi, vì cung cấp mọi thứ ăn uống nghỉ ngơi, nên bệnh tình có thể chóng khỏi, nên đạt được tướng giữa lòng bàn tay đầy đặn bằng phẳng, và tướng phần trên trong lưỡi màu đỏ thắm, hai tướng ấy là tướng đời trước ít bệnh.

Trước tiên hành nghiệp thiện
Lời tốt đẹp tiếp xúc
Lời nói đúng với ý
Trước sau đều cúng dường.

Trước hành nghiệp thiện làm đầu: Vườn rừng phòng ốc tụ hội với chính nghĩa và lợi ích chung, giếng nước vườn hoa ao hồ, đồ ăn thức uống, hoa lá mượt mà, ở nơi khó đi lại thì xây cầu, cho đến trong những việc tạo ra nhà cửa cho Tăng và nơi du ngoạn. Khuyến khích người khác thì tự mình làm người dẫn đường, những gì bố thí vượt qua người khác, nên đạt được tướng toàn thân sắc vàng sáng ngời và tướng búi tóc tròn trên đỉnh đầu, hai tướng ấy là tướng đời trước làm người đứng đầu hơn hẳn. Nói lời tốt đẹp khi tiếp xúc, vì nói và hành như thế qua suốt đêm dài sanh tử, đã đạt được tướng lưỡi rộng dài và tướng Phạm âm, hai tướng ấy là tướng đời trước đạt được năm phần, năm phần nói về đạo có đầy đủ các âm thanh. Năm phần, năm phần nói về đạo có đầy đủ âm thanh:

1. Có thể biết.

2. Dễ hiểu.

3. Thích nghe.

4. Không trái ngược.

5. Thâm diệu.

6. Xa rộng.

7. Không có hiềm nghi.

8. Êm tai.

9. Biện giải đúng đắn.

10. Không lẫn lộn (hai loại năm phần cho nên có mười).

Trước sau đều cúng dường: Vì nói lời đúng với ý, nói lời chân thật qua suốt đêm dài sanh tử, nên đạt được tướng răng như sư tử, đó là tướng đời trước là ái ngữ. Trước sau đều cúng dường: Người khác tuy là có trướcsau, nhưng đều cúng dường và không có gì không thể cúng dường, vì oai nghi như pháp, oai nghi bình đẳng, nên đạt được tướng răng đều đặn như nhau và tướng răng trơn bóng tinh tế, hai tướng ấy là tướng đời trước làm quyến thuộc tốt đẹp trong sáng.

Không hoại quyến thuộc người
Mắt từ nhìn chúng sanh
Cũng không tâm hiềm nghi
Đều như bạn thân thiết.

Đối với các chúng sanh, khởi tâm cưu mang an ủi để thâu nhận vì ánh mắt nhìn không tham không sân không si, nên đạt được tướng mắt sáng tròn và tướng mi mắt như bò chúa, hai tướng ấy là tướng đời trước nhìn bằng ánh mắt yêu thương.

Tôi đã giải thích về nghiệp sanh khởi ba mươi hai tướng của bậc Đại trượng phu, ngoài ra còn có nhiều hạnh của Bồ-tát, nay sẽ giải thích.

Phải nên như đã nói
Tức thuận làm như vậy
Như lời nói tức làm
Người khác sanh tin tưởng.

Phải nên như những gì đã nói, lập tức làm như vậy, người khác sẽ sanh tin tưởng, tùy theo như có dạy bảo, lập tức tin tưởng nhận ngay.

Phải nên ủng hộ pháp
Biết rõ người buông thả
Làm màn lưới vàng báu
Che phủ cho chùa tháp.

Hướng về trong pháp nầy nên tự mình ủng hộ, nếu có chúng sanh nào phóng túng làm trái giáo pháp, đối với người kia cũng tùy theo phương tiện nhận biết khiến họ hướng về với giáo pháp. Tại các nơi chùa tháp của

Như Lai, nên dùng các loại lưới giăng quý báu bày ra che phủ, khiến đầy đủ các tướng tốt.

Nếu có cầu thể nữ
Trang nghiêm để tặng cho
Cũng nói công đức Phật
Và giúp ngọc nhiều màu.

Nếu như có người cầu xin thể nữ, tức thì trang điểm nơi các thể nữ để bố thí. Những người thể nữ ấy đều đoan chánh, lấy những người nầy bố thí, khiến các việc ái sự nơi người mong cầu đều được thỏa mãn. Lại dùng vô lượng cách khác, nói về công đức của Phật, nên ở nơi tụ tập, lên tiếng nói, làm cho vui ý đẹp lòng, vì họ giảng nói rộng, để đạt được những phần âm thanh thanh tịnh. Lại dùng các loại đồ vật bằng ngọc anh lạc chiếu sáng, khiến họ vui thích mà bố thí, nhân đấy đạt đầy đủ những tướng hảo tùy hình.

Tạo ra hình tượng Phật
An tọa trên đóa sen
Và ở trong sáu pháp
Tu tập cùng vui vẻ.

Dùng các thứ quý báu như vàng bạc chân châu… để tạo ra hình tượng Đức Phật, an tọa trên đóa hoa sen, để được hóa sanh, và để đạt được thân Phật. Sáu loại pháp đồng hỷ, đối với hàng đồng phạm hạnh, thì thân khẩu và ý nghiệp hiền từ, không phân biệt các vật được thọ dụng, giới pháp đầy đủ, kiến giải đầy đủ. Đây là những pháp trong sáu pháp đồng hỷ, nên gần gũi luyện tập nhiều lần để đạt được đồ chúng, không gặp phải những sự phá hoại của các luận thuyết ngoại đạo.

Đáng cúng dường đều cúng
Vì mạng, không hủy báng
Pháp Đức Phật đã nói
Cùng với người thuyết pháp.

Đáng cúng dường đều cúng dường: Trong đó thuận theo phải cúng dường, đó là Hòa thượng A-xà-lê, cha mẹ, anh em…, không người nào là không cúng dường, không người nào là không tôn kính, tuy là nuôi sống mạng họ mà quyết không hủy báng. Pháp Phật và người giảng giải về pháp Phật, cũng không nên phỉ báng, không nên khinh khi họ, vì để tự bảo vệ và cố gắng giúp đỡ cho thiện căn thành tựu.

Vàng quý rải thân thầy
Và rải trên tháp mộ
Nếu như quên bài tụng
Nên nghĩ, khiến không mất.

Nên lấy vàng bạc cung cấp cho thầy dạy, cũng nên dùng ngọc ma ni, vàng bạc quý để xây cất bảo tháp thờ thầy dạy. Bồ-tát có Tam-ma-đề, gọi là đối diện hiện tại Phật. Trụ trong những Tam-ma-đề nầy, ở trong nhiều đời, hiện tiền tu tập để được nghe thầy và giữ gìn. Nếu có chúng sanh quên mất kinh sách hướng dẫn cho đời an lạc mà mình đã tụng, đối với chúng sanh ấy, cùng làm cho nhớ lại, để không quên mất tâm Bồ-đề cùng để được nhớ lại sự hiểu biết hiện tại.

Chưa nghĩ việc đã làm
Đừng vội tùy người khác
Ngoại đạo, trời rồng, thần thánh
Trong đó chớ tin theo.

Nghiệp hành đã làm, như thân-khẩu-ý, ở trong mọi nơi, nếu không suy nghĩ mình đã làm rồi, thì đừng vội mất điềm tĩnh, cũng đừng thuận theo người khác, đồng ý làm như vậy. Nếu khác với điều nầy thì sanh ra phiền muộn, cũng vì thế mà ân hận. Đối với các ngoại đạo như Ni-kiền xuất gia du hành và ở trong các loài trời rồng, Dạ-xoa, Kiền-thát-bà…, đều không nên tin theo.

Tâm nên như kim cương
Thông suốt được các pháp
Tâm cũng nên như núi
Mọi chuyện không lay động.

An trí tâm đó phải giống như kim cương, vì có tuệ lực nên có thể chịu được, trong các pháp thế gian và xuất thế gian, nếu tự tánh thông suốt như thật, thì đối với các sự việc tâm đó vẫn an nhiên tự tại. Cũng nên như núi lớn, tám loại pháp thế gian không thể nào lay động.

Vui thích pháp xuất thế
Đừng vui theo thế gian
Tự nhận các công đức
Cũng nên khiến người nhận.

Hoặc ngôn thuyết có khả năng xuất thế gian, hoặc tương ưng với Phật Pháp Tăng, hoặc tương ưng với sáu độ, hoặc tương ưng với địa Bồ-tát, hoặc tương ưng với địa Thanh văn, Độc giác, ở đấy nên dấy lên niềm vui thích. Hoặc có ngôn thuyết dựa theo pháp thế gian, tăng trưởng tâm thế gian, tương ưng cùng với tham-sân-si, trong ấy không nên vui thích. Nếu có những công đức thù thắng về tiếp nhận các học giới, hành hạnh đầu đà… và được những người tốt khen ngợi, được người nhận lấy, thì nơi những việc ấy đều nên tiếp nhận, cũng làm cho người khác nhận được công đức nầy.

Tu năm giải thoát nhập
Tu mười tưởng bất tịnh
Tám Đại trượng phu giác
Cũng thuận phân biệt tu.

Ở đây, giải thoát nhập có năm loại:

1. Thuyết pháp vì người khác.

2. Tự mình thuyết pháp.

3. Tự mình đọc tụng pháp.

4. Đối với pháp, tùy giác, tùy quán.

5. Chọn lấy tùy theo tướng Tam-ma-đề thuộc loại nào.

Đây là năm pháp giải thoát nhập, cần phải nhớ tu tập. Mười tưởng bất tịnh là nghĩ đến sự sình trướng, nghĩ đến làm ứ xanh đen, nghĩ đến thân nát rữa, máu mủ chảy, nghĩ đến nứt toác, nghĩ đến chim thú ăn, nghĩ đến rời ra từng mảnh, nghĩ đến phân tán khắp nơi, nghĩ đến máu me vung vãi, nghĩ đến thịt còn sót lại, nghĩ đến xương trắng. Đây là mười pháp tưởng bất tịnh, nếu lúc tham phát sanh cần phải nhớ tu tập, căn bản là để đoạn trừ tâm tham dục. Tám sự giác ngộ của bậc Đại trượng phu cũng nên phân biệt tu: Ở đây có tám điều giác ngộ của bậc Đại trượng phu, đó là ít ham muốn là pháp, nhiều ham muốn là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ nhất. Biết vừa đủ là pháp, không biết vừa đủ là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ hai. Xa lìa là pháp, ồn náo hỗn loạn là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ ba. Phát khởi tinh tấn là pháp, lười nhác là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ tư. An trú trong niệm là pháp, quên mất niệm là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ năm. Nhập định là pháp, không nhập định là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ sáu. Trí tuệ là pháp, không có trí tuệ là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ bảy.

Không vui với hý luận là pháp, vui với hý luận là trái với pháp, đây là giác ngộ thứ tám. Đó là tám điều giác ngộ của bậc Đại trượng phu, cần phải hiểu rõ điều ấy. Nhiều ham muốn… cho đến vui với hý luận là tám loại giúp cho tâm bất thiện, cần phải đoạn trừ.

Thiên nhĩ cùng Thiên nhãn
Thần túc, Tha tâm thông
Cho đến Túc mạng trụ
Nên tu năm thông tịnh.

Ở đây thiên nhãn, thiên nhĩ, ức niệm túc trú trí, tha tâm, thần túc, năm loại trí thông như vậy, cần phải tu tập.

QUYỂN 6

Hỏi: Làm thế nào tu tập?

Đáp:

Bốn thần túc làm gốc
Tâm dục tấn tư duy
Bốn vô lượng trú trì
Là Từ-Bi-Hỷ-Xả.

Ở trong bốn vô lượng nầy, thường tiếp cận thực hành nhiều, nhất định tâm có thể kham nổi, tâm như thế thì đi vào Sơ thiền, Nhị thiền như vậy, Tam thiền như vậy, Tứ thiền như vậy. Người ấy đạt được bốn bậc thiền, đạt được thân tâm nhẹ nhàng thư thái. Vì lúc ấy thân tâm thư thái đầy đủ, nảy sanh đi vào đường thần thông, đi vào đường thần thông ấy tức sanh ra thần túc, đó gọi là vừa mong muốn vừa tinh tấn vừa tâm niệm vừa tư duy. Ở đây, mong muốn là hướng về pháp, tinh tấn là thành tựu pháp, tâm là quán sát tại pháp, tư duy là thiện xảo đối với pháp. Bồ-tát kia đối với thần thông vừa tin hiểu vừa có tác dụng, tâm đó tự tại, thực hành tùy theo ý muốn, vì khéo thành thục, nên do sự gìn giữ căn bản của chính nó mà các xứ thuận theo thực hành như gió khắp hư không. Tại đây, Bồ-tát đạt được bốn tâm vô lượng và bốn bậc thiền, vừa tin hiểu vừa có tác dụng, phát sanh ra Thiên nhãn. Nếu các chúng trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà…, hoặc là người học cho đến Thanh văn, Độc giác ở trong Thiên nhãn chỉ có lực tăng thượng, thì đối với Bồ-tát thanh tịnh hơn hẳn, sáng chói hơn hẳn, cao vút hơn hẳn và đặc biệt hơn hẳn, ánh mắt đó không bị ngăn ngại do sắc tướng to-nhỏ-xa-gần của thế gian, tùy theo ý muốn tất cả sắc tướng kia đều nhìn thấy được. Như vậy, nghe thấy âm thanh của các loài trời-người-súc sanh…, như thế là nhớ biết không giới hạn về đời kiếp trước, như thế là biết tâm người khác cùng với những ý niệm tham dục cho đến tám vạn bốn ngàn sai biệt, như thế là đạt được vô lượng thần túc không thể nghĩ bàn. Do đạt được thần túc, nên những chúng sanh nào cần phải điều phục thì đều khiến được điều phục.

Bốn giới như rắn độc
Sáu nhập như thôn vắng
Năm chúng như kẻ giết
Nên quán sát như vậy.

Luôn luôn mê lầm theo các nhân duyên thọ dụng dục lạc vốn có, tuy là có bảo vệ, nghỉ ngơi, nuôi lớn lên, nhưng bốn đại chủng như đất-nước-lửa-gió nầy lại nhanh chóng phát động, không biết đến ân nuôi sống, không thể nương nhờ, không thể tin cậy được, cần phải quán sát giống như rắn độc, vì không có người chủ, vì xa rời ngã và ngã sở. Các nhập là nhãn-nhĩ-tỷ… có sáu thứ giặc cướp, bức bách não hại rất đáng sợ, cần phải quán sát giống như thôn làng trống vắng, vì chúng cùng tập trung với hoàn cảnh khác để phá hoại không thể ngăn được, giống như kẻ tìm cách giết hại, đối với năm thọ uẩn, cần phải từng ngày từng ngày quán sát như vậy.

Trọng pháp cùng pháp sư
Bỏ tâm bỏn xẻn pháp
Thầy dạy đừng giữ mật
Người nghe chớ tán loạn.

Ở đây có bốn loại pháp, có thể nảy sanh đại trí, cần phải tiếp nhận áp dụng. Đối với pháp và pháp sư cần phải tôn trọng, cũng xả bỏ tâm keo kiệt đối với pháp, thuận theo pháp đã được nghe cứ thế thường xuyên đọc tụng, giảng giải rộng cho người khác biết.

Nếu có người vui mong với pháp, thầy dạy đừng vì thế mà khoanh tay tiếc rẻ giữ kín, người nghe chớ phân tâm tán loạn, đó gọi là không có ham muốn gì khác.

Không mạn, không trông mong
Chỉ vì tâm thương xót
Ý tôn trọng cung kính
Vì mọi người nói pháp.

Lại có bốn loại pháp, là tướng của bậc đại trí, cần phải tiếp nhận áp dụng, đó là xa lìa tâm tự cao khinh thường người khác, vì không có kiêu mạn. Nên xả bỏ sự lợi dưỡng, cung kính và danh tiếng, vì không có tâm niệm mong muốn. Nên đối với vô minh ám chướng trong chúng sanh chỉ vì lòng thương xót, nên tôn trọng cung kính nói pháp cho họ biết. Do bốn loại pháp nầy, nên Bồ-tát có đầy đủ đại trí, cần phải tiếp nhận áp dụng.

Nghe không hề chán đủ
Nghe rồi đều trì tụng
Không dối ruộng phước kính
Cũng khiến thầy hoan hỷ.

Nghe nhiều không chán, nghe rồi giữ gìn pháp, giữ gìn pháp nên thuận theo pháp thực hành. Không lừa dối bậc ruộng phước tôn kính, cũng làm cho thầy dạy pháp nầy hoan hỷ, thì tâm Bồ-đề không quên mất nhân tố ban đầu.

Không nên xét nhà người
Tâm mang sẵn cúng dường
Chớ nên nêu vấn nạn
Tập tụng kinh sanh đời.

Không nên vì nhân duyên cung kính cúng dường mà quán xét nhà cửa người, ngoại trừ vì xây dựng mối nhân duyên cho tâm Bồ-đề. Cũng không nên vì ham muốn vấn nạn luận điểm của đối phương mà luyện tập học hỏi các luận thuyết của thế gian, ngoại trừ vì nhân duyên đa văn.

Đừng vì quá giận dữ
Hủy báng các Bồ-tát
Pháp chưa nhận-chưa nghe
Cũng chớ sanh hủy báng.

Vì sao? Vì bảo vệ cho nhân duyên của pháp thiện nối tiếp phát sanh.

Đoạn trừ tâm kiêu mạn Nên trú bốn Thánh chủng Chớ hiềm nghi với người Cũng đừng đề cao mình.

Người đoạn trừ tâm kiêu mạn, ở trong các chúng sanh, nên hạ tâm xuống như loài chó mèo để đoạn trừ ngã mạn. Ở trong bốn Thánh chủng, đơn giản, tiết kiệm vừa đủ cơm ăn, áo mặc, giường chiếu, thuốc thang và sống đời bình thường biết đủ, đối với Thánh chủng kia, không nên hiềm nghi người khác, cũng không nên tự đề cao mình.

Nếu thật không thật phạm
Không được phát giác người
Đừng tìm sai lầm người
Tự mình lỗi, nên biết.

Người ấy cùng chung phạm hạnh mà phạm lỗi, nếu như thật sự hoặc là không thật, đều không nên phát giác. Người ấy có sai lầm không nên soi mói tìm kiếm, chỉ đối với lầm lỗi của mình cần phải hiểu và biết rõ.

Đức Phật, giáo pháp Phật
Không phân biệt, nghi ngờ
Pháp tuy tin khó nhất
Trong đó nên tin thuận.

Đối với đức Phật không nên phân biệt, vì Đức Thế Tôn đầy đủ pháp chưa từng có, đối với pháp Phật cũng không nên nghi ngờ, vì là pháp bất cộng đối với các chúng sanh. Ở trong pháp Phật khó tin nhất, vì để đạt tâm thanh tịnh sâu xa, phải nên tin tưởng pháp Phật.

Tuy chết vì lời thật
Thối mất Chuyển luân vương
Đến Thiên vương cõi trời
Chỉ nên nói chân thật.

Nếu Bồ-tát vì lời nói chân thật, hoặc bị đoạt lấy mọi vật, hoặc là chết đi, dù rời bỏ ngôi vị Chuyển luân vương và Thiên vương cõi trời, cũng chỉ thuận theo lời nói chân thật, huống hồ là những gì còn lại mà không thể nói lời chân thật?

Đánh mắng, dọa giết, trói
Trọn không oán trách người
Đều là tội mình chịu
Nghiệp báo nên xảy ra.

Có những người khác đến đánh mắng, đe dọa giết hại, trói buộc giam giữ, đều là tội lỗi của mình nên đã xảy ra điều ấy, hoàn toàn không oán giận người, đây là nghiệp của mình đã làm từ đời trước, lúc nầy trở lại gánh chịu các quả báo hầu như chẳng thích. Các chúng sanh kia đều không có tội gì, chỉ là tội lỗi do nghiệp báo của mình đã hiện rõ, nên phải có các thứ ấy.

Nên hết sức tôn kính
Phụng dưỡng đối cha mẹ
Cúng dường hầu Hòa thượng
Cung kính A-xà-lê.

Đối với cha mẹ mình, phải hết sức thương yêu và phụng dưỡng rất mực tôn trọng, nên nghĩ như trời đất, thuận theo ý cha mẹ làm cho họ được vui lòng, xa rời tâm dua nịnh dối trá. Lại nên cung kính, chu cấp hầu hạ các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, thuận theo pháp đã nói từ các bậc Hòa thượng, A-xà-lê tu hành thanh tịnh, không có gì bí mật bên trong, đều là hóa hiện ở bên ngoài.

Vì tin thừa Thanh văn
Cho đến thừa Độc giác
Nói pháp sâu xa nhất
Là Bồ-tát sai lầm.

Bồ-tát trong nầy có bốn hạng Bồ-tát sai lầm, cần phải xa rời, đó là đối với các chúng sanh trong thừa Thanh văn, thừa Độc giác, vì họ nói về pháp sâu xa bậc nhất, là sai lầm của Bồ-tát.

Vì tin sâu Đại thừa
Giảng nói cho chúng sanh
Thừa Thanh văn, Độc giác
Đây cũng là sai lầm.

Ở trong các chúng sanh tin sâu vào Đại thừa, vì họ giảng nói về thừa Thanh văn và thừa Độc giác, là sai lầm của Bồ-tát.

Người trên cầu giáo pháp
Chậm, hoãn, không giảng nói
Lại thâu nhận điều ác
Ủy nhiệm người không tin.

Nếu có chúng sanh đích thực là bậc lớn, lúc đến có những mong cầu, nên lập tức nói pháp thiện cho họ, nhưng lại chậm hoãn, còn những kẻ hành pháp ác phá giới lại thâu nhận họ, là sai lầm của Bồ-tát. Người ở trong Đại thừa chưa có niềm tin và sự hiểu biết, chưa dùng bốn nhiếp sự để thành thục, tin tưởng ủy nhiệm cho họ, là sai lầm của Bồ-tát. Như vậy là bốn loại sai lầm, nên nhận biết là nên tránh.

Rời bỏ xa sai lầm
Nói công đức đầu đà
Nơi ấy nên nghĩ biết
Cũng đều nên quen gần.

Trong nầy, đã nói về bốn loại sai lầm, cần phải rời bỏ và tránh xa, vì điều nầy nên không đến gần Bồ-đề. Như đã nói trong thừa Thanh văn, Độc giác có công đức đầu đà và những công đức khác, nhưng biết những người ấy không thể làm chướng ngại cho Bồ-đề, ở những nơi ấy, cũng thuận theo gần gũi, luyện tập.

Tâm nói pháp bình đẳng
Bình đẳng khéo an lập
Cũng khiến tương ưng thực
Các chúng sanh không khác.

Đây là bốn loại đạo Bồ-tát, cần phải gần gũi luyện tập. Như thế nào là bốn loại? Đó là trong các chúng sanh khởi tâm bình đẳng, trong các chúng sanh nói pháp bình đẳng, trong các chúng sanh khéo an lập bình đẳng, trong các chúng sanh khiến đích thực tương ưng. Những loại nầy đều không có gì sai khác. Đây là bốn loại đạo Bồtát.

Vì pháp không vì lợi
Vì đức không vì danh
Mong chúng sanh thoát khổ
Không mong vui cho mình.

Bốn hạng Bồ-tát chân thật ấy, cần phải biết rõ. Như thế nào là bốn hạng? Đó là chỉ vì đối với giáo pháp không vì tài lợi, chỉ vì công đức không vì danh tiếng, chỉ mong chúng sanh thoát khỏi đau khổ, không mong niềm an vui cho chính mình.

Ý mật cầu nghiệp quả Việc tạo phước đã sanh Cũng vì thành thục chúng Rời bỏ việc riêng mình.

Nếu đối với nghiệp quả mật ý mong cầu dục, thực hiện ba việc phước đức, lúc phước đức nầy phát sanh, chỉ vì Bồ-đề tạo lợi lạc cho chúng sanh, cũng chỉ vì Bồđề thành thục chúng sanh, vì lợi ích chúng sanh nên rời bỏ sự nghiệp riêng mình. Đây là bốn hạng Bồ-tát chân thật.

Gần gũi tri thức thiện
Là pháp sư, Đức Phật
Khuyến khích người xuất gia
Cho đến hạng cầu xin.

Đây là bốn hàng tri thức thiện của Bồ-tát, cần phải thân cận. Như thế nào là bốn hàng? Đó là pháp sư là tri thức thiện của Bồ-tát, vì giúp giữ gìn Văn tuệ. Đức Phật là tri thức thiện của Bồ-tát, vì giúp giữ gìn các pháp Phật. Người khuyến khích xuất gia là tri thức thiện của Bồ-tát, vì giúp giữ gìn các thiện căn. Người cầu xin là tri thức thiện của Bồ-tát, vì giúp giữ gìn tâm Bồ-đề. Bốn hàng tri thức thiện của Bồ-tát nầy, cần phải thân cận.

Dựa vào luận thế gian
Chuyên cầu vật thế gian
Tin hiểu thừa Độc giác
Cho đến thừa Thanh văn.

Đây là bốn loại tri thức ác của Bồ-tát, cần phải biết điều ấy. Như thế nào là bốn loại? Đó là loại học thuyết thế gian, vì gần gũi luyện tập các thức biện tài hỗn tạp. Loại thuộc về tài vật thế gian, vì không thuộc về giáo pháp. Loại thừa Độc giác, vì ít chính nghĩa và lợi ích chung, ít thực hiện trách nhiệm. Loại thừa Thanh văn, vì làm lợi riêng cho bản thân mình.

Bốn loại tri thức ác
Bồ-tát nên biết rõ
Lại có người mong cầu
Là bốn bậc Đại tạng.

Như trước đã nói về bốn loại tri thức, là tri thức ác biết rồi nên xa rời. Lại có người thỏa mãn mong cầu đạt được, đó gọi là bốn bậc Đại tạng.

Phật hiện nghe các Độ
Cho đến các pháp sư
Thấy tâm không ngăn ngại
Vui ở nơi tĩnh lặng.

Đây là bốn thứ Đại tạng của Bồ-tát, cần phải đạt được như thế. Như thế nào là bốn bậc? Đó là phụng sự chư Phật xuất thế, nghe thấy sáu Ba-la-mật. Dùng tâm vô ngại hướng về pháp sư, dùng tâm không buông thả vui ở những nơi trống vắng lặng yên. Đây là bốn thứ Đại tạng của Bồ-tát, cần phải đạt được như thế.

Đất, nước, gió, lửa, không
Đều tương tự cùng mình
Tất cả xứ bình đẳng
Lợi ích các chúng sanh.

Cùng với các loại đất nước gió lửa và hư không, có hai nhân duyên giống như Bồ-tát, cần phải tiếp nhận gìn giữ. Đó gọi là bình đẳng và lợi ích. Như bốn đại chủng là đất-nước-gió-lửa và hư không là năm loại, ở trong các loại có tâm, không có tâm, tất cả mọi nơi đều bình đẳng, không có tướng nào khác. Các loại chúng sanh luôn sử dụng để giúp đỡ cho mình, nhưng không hề thay đổi, không cầu mong đền ân, mình cũng như vậy, cho đến cuối cùng ngồi nơi tòa giác ngộ, vì sự sử dụng để giúp đỡ cho các chúng sanh, không hề thay đổi, không cầu mong báo ân.

Nên theo tư duy nghĩa
Phát sanh Đà-la-ni
Với người lắng nghe pháp
Đừng tạo những chướng ngại.

Nghĩa là nghĩa lý của Đức Phật đã giảng giải. Đối với nghĩa lý ấy nên khéo tư duy, như cùng nhau trò chuyện, hoặc là ở một mình, suy nghĩ nên làm như vậy. Lại an trú trong giới cấm để tâm ý luôn thanh tịnh, chăm chỉ, trong sáng nên phát sanh đạt tới mức nghe được các thần chú (Đà-la-ni) như chủ biển, chủ bạc. Lại đối với những người lắng nghe pháp, đừng vì nhân duyên nhỏ làm thành chướng ngại, khiến xa rời pháp và phát sanh tai họa.

Phiền não nên điều phục
Việc nhỏ bỏ không sót
Tám sự do lười nhác
Cũng đều phải đoạn trừ.

Trong phiền não có thể điều phục được, có chín loại sự việc làm cho phiền não, đó là việc đã làm, đang làm, sẽ làm, đối với mình trở thành không lợi ích, đây là ba loại, việc đã làm, đang làm, sẽ làm. Đối với người thân yêu của mình trở thành không lợi ích, lại là ba loại, việc đã làm-đang làm-sẽ làm. Đối với người mình ghét, trở thành ích lợi, lại là ba loại. Những loại nầy đều là việc dấy lên phiền não. Từ trong chín loại sự việc phiền não ấy, nên tự mình điều phục. Việc nhỏ bỏ đi không còn gì, ở đây có hai mươi loại việc nhỏ, đó là:

1. Bất tín (Không tín).

2. Vô tàm (Không hổ).

3. Siễm huyễn (Dua nịnh dối gạt).

4. Trạo cử.

5. Loạn động.

6. Phóng dật.

7. Hại.

8. Vô quý (Không thẹn).

9. Giải đãi (Biếng trễ).

10. Ưu (Ưu sầu).

11. Hôn trầm.

12. Thùy miên (Ham ngủ nghỉ).

13. Hận.

14. Phú.

15. Tật.

16. Kiên.

17. Cao.

18. Phẫn.

19. Hối.

20. Muộn (Phiền muộn).

Hai mươi loại tiểu sự như vậy, đều nên bỏ hết không còn gì. Tám loại sự việc biếng nhác… cũng đều nên đoạn trừ tất cả. Đó là:

1. Mình muốn làm công việc, lúc bắt đầu làm thì nằm yên, không thể tinh tấn.

2. Mình làm công việc xong.

3. Mình ở tại đường đi.

4. Mình đi hết đường.

5. Mình cảm thấy thân thể mệt mỏi, không thể nào hành tác.

6. Thân mình nặng nề, không có khả năng làm việc.

7. Mình đã phát sanh bệnh tật.

8. Bệnh mình có thể không bao lâu sẽ khỏi, bắt đầu làm thì nằm yên, không thể khiến tinh tấn.

Vì những nguyên nhân nầy, nên điều cần đạt được không thể nào đạt được, nơi nên đến lại không thể nào đến, quả vị nên chứng đắc lại không thể nào chứng đắc. Trong tám loại sự biếng nhác như vậy, để làm cho đoạn trừ hết, cần phải phát khởi tinh tấn.

Đừng dấy tham không phận
Tham tràn không vừa ý
Xa rời đều khiến hợp
Chẳng hỏi thân không thân.

Nếu thấy chúng sanh có đầy đủ lợi dưỡng, danh tiếng, yên vui, mọi người ca ngợi và nhiều phước đức, từ trong phước đức đầy đủ kia, đừng dấy lên tâm tham không yên phận, vì dấy lên tâm tham không yên phận thì không sao vừa ý được, nên điều ấy không thể tùy ý xảy ra. Lại từ trong tất cả mọi thứ đã cạnh tranh, ly tán, phá hoại nhau, bất kể thân hay không, đều khiến cho hòa hợp, một lòng thương yêu nhau.

Đối không đạt được không
Người trí không dựa hành
Nếu sẽ được tại không
Ác kia vượt thân kiến.

Dựa vào không để trừ dứt sự tích tụ quá lớn về vô trí. Người trí tuệ dừng dựa vào sự đắc không mà hành. Nếu dựa vào chỗ đạt được không mà hành, thì đối với người có thân kiến, khó chữa trị vượt qua, niệm ác cũng vượt qua. Vì các kiến hành căn cứ vào không mà lìa, nếu đắm vào chỗ chấp về không thì cái thấy ấy không thể nào chữa trị, lại không có cách nào làm cho rời xa.

Quét bụi và trang nghiêm
Cùng nhiều loại nhạc trống
Vật cúng dường, hương hoa
Cúng dường tháp miếu Phật.

Đối với tháp thờ Như Lai và nơi hình tượng Ngài, quét dọn sách sẽ bụi đất và dùng hương hoa tốt đẹp chưng bày, đốt hương, xông trầm, lọng báu, cờ phướn…, cùng với những vật dụng cúng dường trang nghiêm, để lúc thực hiện cúng dường, đạt được sự uy nghiêm và giới hương tự tại. Dùng các loại nhạc cụ cúng dường như tù và, sáo địch, không hầu, trống cơm, trống đại, vỗ tay như sấm động, để đạt được thiên nhĩ.

Làm các loại đèn lồng
Cúng dường tháp điện Phật
Bố thí dù, giày da
Các phương tiện ngựa, xe…

Trong tháp điện thờ Phật, nên dùng các loại hương hoa, đèn nến tốt đẹp để thực hiện sự cúng dường, vì để đạt được Phật nhãn. Bố thí các loại dù lọng, giày da, voi ngựa, xe cộ và các phương tiện đi lại…, vì để đạt được thần thông vô thượng của Bồ-tát đi lại không khó khăn.

Thuận theo vui thích pháp
Vui được biết tin Phật
Vui mừng cúng dường Tăng
Cũng vui Chánh pháp.

Bồ-tát ở đó luôn thuận theo niềm vui đối với pháp như vậy, không vui thích phước lạc của năm dục, nên biết rõ lợi ích đã đạt được từ niềm tin đối với Phật, không chỉ là niềm tin vui thấy được đối với sắc thân. Hướng về

Tăng chúng dùng các loại nhạc cụ thường vui để cúng dường, không chỉ là vui hướng đến thăm hỏi sức khỏe, luôn thích được nghe pháp, không lúc nào chán đủ, không chỉ là vui trong chốc lát được nghe những pháp đó.

Trong đời trước không sanh
Trong hiện tại không trú
Trong tương lai không đến
Quán các pháp như vậy.

Vì lực nhân duyên hòa hợp, và vì từ trước tới nay không hề có, trong đời trước không sanh vì từng niệm từng niệm tiêu tan và vì không dừng lại. Trong đời hiện tại không dừng vì mất đi không còn, và vì không có gì đến hay đi. Trong đời vị lai không đến. Nên quán sát các pháp đều như vậy.

Việc tốt cho chúng sanh
Không mong cầu đền đáp
Nên một mình chịu khổ
Không riêng thọ hưởng vui.

Bồ-tát đối với các chúng sanh, nên lấy việc tốt đẹp tạo lợi lạc cho họ, bản thân mình không mong muốn những chúng sanh ấy đền trả, và các chúng sanh có vô lượng sự khổ, mình đơn độc thay họ chịu đựng. Mình có những niềm vui, tặng cho các chúng sanh, tiếp nhận sử dụng để đạt an vui hơn.

Tuy đủ phước cõi trời
Tâm không dấy, không mừng
Tuy nghèo như ngạ quỷ
Cũng không hạ không buồn.

Tuy ở trong phước báo đầy đủ và to lớn của cõi trời, nhưng tâm không dấy lên mừng vui và dâng cao. Tuy là ngạ quỷ bần cùng, phiền muộn bức bách, đời sống ấy là khó khăn nhất, nhưng không nên sanh tâm thấp kém, lại cũng không nên buồn rầu, huống hồ làm người bần cùng.

Nếu có người đã học
Nên hết sức tôn trọng
Chưa học khiến vào học
Không sanh ý khinh miệt.

Nếu có chúng sanh đã học, đối với họ nên khởi tâm tôn trọng hết mực. Nếu chúng sanh chưa học nên làm cho họ tham gia học hỏi, cũng không nên khinh miệt xa rời họ.

Cung kính người giới đủ
Phá giới khiến giữ giới
Thân cận người đủ trí
Người ngu khiến được trí.

Người giới luật đầy đủ cần phải thường xuyên thăm hỏi, chắp tay vái chào cung kính với những bậc ấy, cũng nên vì họ nói về phước của giữ giới. Nếu người phá giới nên khiến họ đi vào giới luật, cũng nên vì họ nói về tội của phá giới. Nếu như người trí tuệ đầy đủ, phải nên thân cận, cũng nên vì họ hiển hiện đức của trí tuệ. Người ngu tối nên làm cho họ đạt được trí tuệ, cũng nên vì họ nói rõ về sai lầm của ngu si.

Khổ lưu chuyển nhiều loại
Sanh lão tử đường ác
Không sợ những khổ nầy
Hàng ma ác, trí ác.

Bồ-tát ở trong lưu chuyển có rất nhiều loại, như những khổ về sanh lão bệnh tử ưu bi bức bách, như những đường ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A-tu-la… Không nên sợ hãi, chỉ nên làm cho ma ác, trí ác phải hàng phục.

Cõi nước của chư Phật
Tích tụ các công đức
Vì đạt được thành tựu
Cần phát nguyện, tinh tấn.

Khắp mười phương có vô lượng cõi nước của chư Phật, hoặc là cõi Phật đầy đủ, hoặc là cõi Phật trang nghiêm, hoặc nghe được từ chư Phật, Bồ-tát, hoặc tự mình nhìn thấy cõi đó, các cõi nước ấy đều tích tụ vô lượng công đức thù thắng, đều khiến cho những cõi nước ấy đi vào được trong cõi Phật của mình, cần phải phát nguyện như vậy. Tùy theo nguyện đã phát ra theo đó thành tựu, cũng nên tinh tấn tu hành như vậy.

Luôn hướng về các pháp Không giữ mà hành xả Đây vì các chúng sanh Nhận gánh vác việc cần.

Vì giữ lấy nên khổ đau, không giữ lấy nên an vui. Dấy lên ý niệm nầy, luôn đối với các pháp không giữ lấy mà lại xả bỏ. Tuy không lấy mà lại bỏ, nếu như lúc trước đây vì hướng đến Bồ-đề, khởi lên nguyện vọng được gánh vác chúng sanh, người chưa hóa độ tôi sẽ hóa độ, người chưa giải thoát tôi sẽ giải thoát, người chưa đạt Niết-bàn tôi sẽ tạo Niết-bàn cho họ. Đây là nguyên nhân cần phải gánh vác vì chúng sanh.

Chánh quán từ các pháp
Không có ngã, ngã sở
Đừng bỏ tâm đại bi
Cùng với tâm đại từ.

Nói các pháp không gì vốn có, vì như giấc mộng, như huyễn dối. Các pháp không có ngã, không có ngã sở là nguyên cớ quán về vô tướng, như vậy là theo nghĩa tối thắng về pháp. Lúc quán sát tướng nầy, đối với chúng sanh cũng không mất tâm đại bi và tâm đại từ. Như vậy càng gấp bội xứng với lời ca ngợi đặc biệt: Kỳ diệu thay! Các chúng sanh kia bị ngu si ám muội che phủ, chấp vào ngã và ngã sở, ở trong nghĩa tối thắng của đạo pháp nầy mà không biết được là đang ở thời gian nào? Vì khiến cho các chúng sanh kia vào trong nghĩa tối thắng của đạo pháp được giác ngộ, nên đối với họ không mất tâm đại bi và lòng đại từ vô lượng.

Vượt hơn các cúng dường
Là cúng dường Như Lai
Phải thực hiện thế nào?
Đó là cúng dường pháp.

Nếu có người dùng các lễ vật cúng dường, dâng lên cúng dường các bậc Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát và chư Phật, đó là hoặc dùng các thứ hoa hương quý báu, trầm hương, đèn lồng để cúng dường, hoặc dùng các loại lọng báu cờ phướn để cúng dường, hoặc dùng các thứ âm nhạc để cúng dường, hoặc dùng các loại thuốc quý, đồ ăn thức uống bậc nhất để cúng dường. Nếu như muốn vượt hơn các cách cúng dường ấy để cúng dường chư Phật, lại phải như thế nào?

Đáp:

Đó gọi là cúng dường pháp.
Cúng dường ấy lại có tướng gì?
Nếu giữ tạng Bồ-tát
Đạt được Đà-la-ni
Vào cội nguồn sâu xa
Chính là cúng dường pháp.

Ở đây, nếu tương ưng với tạng Bồ-tát, là Như Lai đã thuyết giảng các kinh điển rất sâu xa, rõ là ngược với các luận thuyết của thế gian, khó đạt được ngọn nguồn của giáo pháp ấy, nghĩa lý vi tế khó thấy được, dùng kinh Tổng trì vương chứng nghiệm phù hợp được điều ấy. Nhân bất thoái chuyển sanh từ sáu Độ, khéo thâu gồm những gì cần phải thâu gồm, lần lượt đi vào pháp trợ Bồđề hợp với tánh chánh giác. Đi vào các Đại bi nói về Đại từ, xa rời cái thấy của ma, khéo giải thích về duyên sanh, đi vào không có chúng sanh, không có phần mạng, không có nuôi lớn, không có con người, tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện. Ngồi nơi tòa giác ngộ chuyển pháp luân, được các loài Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà hết lời ca ngợi, độ cho hàng tại gia, thâu phục các bậc Thánh nhân, diễn nói các hạnh Bồ-tát, đi vào các biện tài Pháp, Nghĩa, Từ, Nhạo thuyết… Làm chấn động với những âm thanh Vô thường-Khổ-Không-Vô ngã, làm kinh hãi các chấp trước về kiến đắc của các ngoại đạo. Chư Phật đã khen ngợi là người đối trị được lưu chuyển, chỉ bày niềm vui Niết-bàn. Các kinh điển như vậy nếu giảng nói hoặc là chấp trì, quán sát tiếp nhận để áp dụng, gọi là cúng dường pháp. Vả lại, cúng dường pháp ấy đạt đến nơi không còn thoái lui thuận theo hành tổng trì, ở trong pháp sâu xa tương ưng với Không-Vô tướng-Vô nguyện, đi vào đến tận cùng nơi ấy, không lay động, không nghi ngại. Đây gọi là cúng dường Pháp trong nghĩa tối thắng.

Cần phải dựa vào nghĩa
Đừng yêu thích tạp vị
Trong đạo pháp sâu xa
Khéo vào chớ buông lung.

Cúng dường pháp, nếu ở trong pháp tư duy về pháp, thực hành theo pháp, tùy thuận duyên sanh, xa rời các biên kiến và kiến thủ, nhất định không ra ngoài nhẫn vô sanh và đi vào vô ngã. Ở trong nhân duyên không trái ngược, không tranh chấp, xa rời ngã và ngã sở. Nên dựa vào nghĩa lý, đừng dong ruổi theo ý vị câu chữ trau chuốc lẫn lộn. Nên dựa vào trí, đừng dựa vào thức. Dựa vào kinh hiểu rõ nghĩa lý, đừng đắm vào nghĩa lý không rõ ràng và ngôn từ thế tục. Nên dựa vào pháp, đừng chọn lấy cách nhìn của người. Nên tùy thuận pháp hành như thật đi vào xứ vô trú. Khéo quán sát Vô minh-Hành-Thức-Danh sắc-Lục nhập-Xúc-Thọ-Ái-Thủ-Hữu-Sanh, Lão tử ưu bi khổ não vây hãm cùng cực, thảy đều vắng lặng không còn. Như vậy, quán sát duyên sanh đã khiến sanh khởi vô tận, vì nghĩ thương chúng sanh, nên không chấp vào những cái thấy, không làm điều phóng dật. Nếu luôn như vậy, mới có thể gọi là cúng dường pháp không gì hơn.

Như vậy tư lương nầy
Hằng sa các đại kiếp
Người xuất gia, tại gia
Thành tựu quả Chánh giác.

Như trước đã nói về tư lương từ trong Hằng hà sa vô lượng đại kiếp, chúng xuất gia và chúng tại gia thuộc thừa Bồ-tát, trải qua thời gian dài đầy đủ hạnh nguyện, được thành tựu quả vị Chánh giác.

Kết tụng tư lương kia
Để tư duy Bồ-đề
Nghĩa tư lương không thiếu
Có thể biết nơi tụng.
Nay tôi giải thích tụng
Đối nghĩa có thêm bớt
Khéo giải thích nghĩa tụng
Bậc Hiền trí hãy xét.
Giải thích tụng tư lương
Những phước thiện đã làm
Vì chúng sanh lưu chuyển
Sẽ được Chánh Biến Giác.

Luận Bồ Đề Tư Lương do Thánh giả Long Thọ soạn thuật. Tôi là Tỳ kheo Tự Tại giải thích xong.


[Đầu trang][Mục lục bộ Luận Tập][Mục lục tổng quát]