TẠNG LUẬN
SỐ 1671 - KINH PHƯỚC CÁI CHÁNH HÀNH SỞ TẬP
Tác giả: Bồ-tát Long Thọ soạn tập. Hán dịch: Sa-môn Nhật Xưng
Cúi đầu lễ chư Phật
Cùng Bồ-tát, Thánh chúng
Hay dùng mắt trí tịnh
Dẫn dắt khắp quần sanh
Đế Thích đủ ngàn mắt
Đại Tự Tại ba mắt
Và ánh sáng nhật nguyệt
Đều không thể soi khắp
Na-la-diên hai mắt
Biến hiện các hình tượng
Hàng phục A-tu-la
Nương kiêu mạn sân hận
Chỉ Phật đủ trí sáng
Diệt ác, trừ tối tăm
Như dùng lông chim công
Phủi bỏ các độc bẩn
Như Lai, đại trượng phu
Đảnh bày tướng bạch hào.
Xoay quanh hữu bảy vòng
Giống như hình trôn ốc
Nhuần thắm rất khả ái
Trời, trăng cùng đèn sáng
Lu mờ đều không hiện
Chư thiên và người đời
Đều cúng dường ngợi khen.
Đã nghe những lời dạy này, ý muốn làm gì?" Phải đối với lời Phật dạy tôn trọng vui thích. Ánh sáng của trí kia như ánh đèn chiếu xa có thể phá trừ ngu si, bóng tối ngăn che, nên khai mở mắt trí của Phật. Giống như đám mây lớn thường rót mưa cam lồ. Như ánh trăng tròn mùa thu thường dứt trừ nóng bức. Rốt cuộc nhận giữ chánh pháp của chư Phật, tăng trưởng hết thảy trí tuệ của chư Phật, quyết định thành tựu Căn, Lực, Giác chi. Dứt trừ hai loại sóng gió Nghiệp, Hoặc. Không bị đắm chìm trong bể ái. Nương thuyền chánh pháp đi đến bờ bên kia. Ở nơi các hạnh, Thí v.v.. nên khéo tu tập. Lấy các vật quí báu đem bố thí để phá trừ lỗi Tham, thêm lớn nghĩa lợi. Vui giữ tịnh giới, đọc tụng kinh điển. Đã làm những việc như thế rồi, Tỳ-kheo các ông, ở nơi lọng phước kia, sẽ mau chóng được viên mãn.
Như lời Phật dạy, ở nơi mười nghiệp thiện, sao không tu tập? Tâm bị tham sai khiến, giống như đứa đầy tớ, thân đắm chấp dục lạc, không hiểu lẽ vô thường, luôn luôn tìm cầu không có ngừng nghỉ. Do vì ngu si mà sanh Ngã mạn. Đối với tiền tài vật báu của mình keo kiệt thâu giữ. Thấy những người đến xin quay mặt bỏ đi. Chưa từng, trong chốc lát, nơi tĩnh xứ, vắng vẻ, giữ gìn tịnh giới tu tập các Thiền định, các hạnh lợi ích hữu tình như Phật giảng dạy Ông đối với những điều đó, không được điều nào.
Lại tiền tài, của báu này làm tăng trưởng kiêu mạn, trạo cử, tán loạn, khởi lên nhiều nỗi lo lắng, buồn phiền, sanh ra các sự sợ hãi, ngăn che nẻo thiện. Đây là pháp hủy hoại, phá tán, là pháp đọa lạc, là pháp vô thường, không có chủ tể, không có chỗ quy hướng đời trước, đời sau, đều không thể được. Hiện tại vui ít, sát na không dừng giống như cảnh mộng, dợn nắng, huyễn hóa, thành Càn-thát-bà và vòng lửa xoay tròn. Như cây chuối kia ở giữa không có thật. Như bọt trên mặt nước, chốt lát tan hoại. Người ngu không rõ, mọi thứ đều mong giữ lấy. Do vậy, khổ nhiều vui ít, chứa nhóm hết thảy căn bản phiền não. Cho nên phải khởi tưởng không bền chặt, khởi tưởng vô thường. Nếu đối trị như thế thì không bị giặc cướp, nước, lửa, quan lại, thân thuộc xâm chiếm, tổn hại. Cũng không bị Diễm-ma-la vương kia ăn nuốt, mà đời sau, nhất định thành tựu phước báo an vui, hạnh phúc. Do dùng tài thí gồm thâu các hữu tình, người này cùng hoa Cô-mâu-na kia khai nở tươi tốt hưng thịnh, được mọi người vui thích trông thấy. Hết thảy tội chướng tích tụ hiện hữu, tiêu diệt trong sát na. Giống như ngọn lửa mạnh, đốt cháy củi khô, không còn có dư sót. Như nước sông Hằng, rửa sạch các cấu nhiễm thảy đều được thanh tịnh. Như châu Ma-ni, tùy theo ý muốn mà được thành tựu. Những người đến xin đều khiến đầy đủ, đều cùng khen ngợi. Đây là chỗ nương tựa, tạo sự an lành thù thắng, công đức chơn thật, tiếng tốt lưu hành vọng xa, lìa các tội lỗi, thọ mạng lâu dài. Nếu rộng tu phạm hạnh thì có thể phá trừ các độc tham, sân, si, các lỗi tà kiến v.v.. cỡi xe công đức, trọn không bị đọa lạc. Nếu tâm nhiễm ô đắm chấp nơi cảnh dục, tạo tác hắc nghiệp rồi, thì như thiên tử Nga-ma-na-ta-la, mau chóng biến đổi, tàn tạ. Nên biết người nữ, bày rõ xấu ác rất đáng nhàm chán. Hữu tình ngu si, tranh giành tham đắm. Kẻ tham đắm dục này ví như người khát nước kia, uống nước mặn, tâm không dừng đủ. Như chặt gốc cây, không lâu sẽ khô héo. Như dòng thác trên núi đổ xuống, không thể đắp đê ngăn chận. Như ở trong hang rắn sẽ bị nó cắn đốt truyền nọc độc. Như hòn sắt nóng, chạm vào sẽ sanh nóng khổ. Như ăn trái độc, sau nhất định sẽ bị tổn hại. Như sương móc đọng trên cỏ lá, không thể ở được lâu. Như đám mây nổi trên trời, hốt nhiên tan mất. Như lấy cát làm thành thì sẽ mau chóng hủy hoại. Như lấy đất chưa nung làm đồ dùng, thể của nó chẳng bền chắc. Như cây cung của Đế Thích, không lâu sẽ ẩn mất, như cỡi xe hư, động liền nghiêng đổ. Giống như mắt lưới, đụng vào bị trói buộc. Hết thảy tai nạn, lấy làm bạn lữ, vì thế bậc Chánh sĩ cần phải lìa bỏ.
Lại, đức Thế Tôn nói: "Nếu đối với năm dục không sanh tham đắm, thì hiện tiền sẽ có được vô lượng quả báo an vui. Vị kia sẽ cắt đứt dòng nước dữ phiền não, cỡi thuyền chánh pháp, để đến bờ kia. Ta ở trong ba đại a tăng kỳ kiếp, tích tập phước hành, mới có thể đạt được sự biện luận nghĩa vị phong phú, vì các chúng sanh khai thị một cách bình đẳng. Các ông phải đi đến vắng vẻ, vắng lặng, nghiên cứu, tư duy, xét chọn những điều ta đã dạy. Như ở trong sữa tìm cầu vị tô, lạc, đề hồ. Đã biết như thế rồi, hãy tích tập pháp tài và những vật thanh tịnh để dùng bố thí.
Lại các đức Như Lai đã thoát ra khỏi bùn dơ phiền não trong tam giới, thành tựu thắng đức vô lậu thanh tịnh, phương tiện chỉ bày pháp tri túc. Như trong vườn rừng đẹp đẽ, người ở cảm thấy mát mẻ, lìa các phiền não. Khéo tu hạnh này, sẽ được sanh lên cõi Phạm Thiên. Ta ở chốn này, hết thảy phiền não không thể loạn động, hết thảy sợ hãi thảy đều đoạn trừ. Do duyên cớ này, phá trừ vòng luân hồi, được thành Chánh Giác.
Lại, các đức Như Lai, đại bi ứng hợp nhau, thường giỏi hàng phục hết thảy ngoại đạo. Dùng trí thanh tịnh, quán sát, xét chọn; dùng lời nói êm dịu thâu nhận dạy dỗ, thí cho sự vô úy, Vì thuyết chánh pháp, khiến phát sanh tin hiểu, phá trừ lưới ma, ở trong Phật pháp tâm được an trụ. Là bậc đại trượng phu, cất tiếng gầm sư tử; như Voi chua lớn, uy đức tôn quý riêng mình, nổi lên mây sấm lớn rót xuống mưa cam lồ; Giới Định vô lậu, hương thù diệu huân tu, mọi việc làm hiện hữu đều không uổng bỏ. Vì các chúng sanh, tuyên thuyết pháp chánh yếu, lìa các phiền não, khiến chúng an vui. Như cây kiếp ba, nở hoa xinh xắn, như pháp dược tối thượng, trừ sạch cáu bẩn của tâm.
Như đức Thế Tôn nói, người trì tịnh giới sẽ có thiện pháp, lìa xa lo lắng, sợ hãi, có được cái vui an ổn, có thể vượt qua biển khổ, sang đến bờ kia, khéo trừ diệt bốn ma. Đó là ma Thiên, ma Uẩn, ma Tử và ma Phiền não. Người này hay thổi loa pháp lớn, đánh trống pháp lớn, đốt đuốc pháp lớn tâm hoan hỉ, thanh tịnh, làm lợi ích hết thảy, giáo hóa hàng Trời, người, vì làm Phật sự.
Lại các đức Như Lai, trong vô lượng kiếp, chứa công, bồi đức, tu tập trí tuệ mà có thể thành tựu biện tài vô ngại, bốn pháp vô sở úy, mười loại trí lực, phương tiện thông đạt pháp phần Bồ-đề, thường dùng tên trí tuệ, trừ diệt các ma oán. Đã hiện tiền chứng đắc các công đức như thế rồi, ở trong tam giới thật là bậc nhất, vì chúng hữu tình làm đấng cha lành vô thượng.
Lại, các đức Như Lai, do đầy đủ mười loại Trí lực thù thắng làm hóa độ các ngoại đạo đệ tử. Đối với trí tuệ, giới luật của Phật, sanh khởi sự ưa muốn sâu sắc, chứng Thánh quả đầu tiên là Kiều Trần Như. Có thể khơi mở màng mắt ngu si, ám độn, ở trong chánh pháp rất là thù đặc, là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp, Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp. Ở trong các Phạm chí làm bậc thượng thủ, uống thuốc pháp Phật, chữa lành bệnh phiền não là tôn giả Xá-lợitử. Có thể dùng móc câu trí tuệ, chế phục tâm vọng cuồng dại như voi say, có đại thần lực là Tôn giả Mụckiền-liên. Tu tập đầy đủ thắng hạnh, bước lên thang pháp Phật, ở yên nơi lầu gác giải thoát thanh tịnh là A-nậulâu-đà, Tân-đầu-lô, Phả-la-đọa-xà, Ma-ha-câu-hi-la, Anan-đà v.v.. Lại có thể hóa độ vua Tần-bà-sa-la tin hiểu sâu xa pháp Phật, tôn trọng cung kính, làm đệ tử Phật, các bậc Thánh giả này đều dùng búa trí tuệ đốn cây duyên sinh, lìa các vọng niệm cầu Nhất thiết trí, xả bỏ kiến chấp của ngoại đạo, hàng phục, diệt trừ ngã mạn; đều có thể thành tựu hết thảy công đức.
Hoặc quán xét bốn đại như độc xà, năm uẩn như xóm làng không người, vọng chấp cho là chủ tể thì không thể giải thoát. Phải dùng gươm tuệ cắt đứt vọng niệm này.
Lại mắt trí tuệ xem xét cảnh giới sáu xứ giống như giặc thù, mười hai xứ v.v.. giống như rừng gai. Người nhận thức đúng đắn không bị lửa dữ phiền não trong ngoài thiêu đốt, bức bách. Người này hẳn là khéo gìn tịnh giới, trụ vào nhẫn nhục địa, được Niệm xứ phần, đầy đủ ánh sáng trí tuệ, phá trừ bóng tối vô minh. Vị kia thường uống nước tám thánh đạo, lại thường khai mở hoa Bồ-đề phần. Đây tức có thể vượt lên lầu gác ba đời, đoạn trừ các hữu kiết sử, vào biển trí tuệ, ở nơi đạo tràng Bồ-đề, kiết già phu tọa, khéo an trú trong thắng định vô lậu của Bốn thiền, thọ dụng hết thảy pháp lạc vô thượng. Lại những kẻ ngu mê hủy hoại phần pháp thiện, vui đắm cảnh giới năm dục của thế gian, như gió chạm sương móc, không thể tồn tại lâu dài. Lênh đênh trên biển khổ, không được giải thoát, thấy cầu chánh pháp lại bỏ mà rời xa.
Như trong kinh nói: "Xưa có một trưởng giả dòng Bà la môn muốn dùng gươm nhọn sát hại một người con gái kia. Cô này chợt trông thấy đức Như Lai, lớn tiếng kêu lên xin Phật cứu giúp, liền được thoát nạn. Lại như Ương-quật-ma-la, muốn sát hại mẹ v.v... Lại có thể hàng phục Phạm chí Trường Trảo, khởi đại ngã mạn, khiến nhập pháp Phật, thưởng vị chánh pháp. Cũng khiến cho hết thảy người ngu si, sau khi nghe những lời này rồi, xả bỏ kiêu mạn. Cũng như rồng dữ, trong lòng chất chứa nỗi buồn bực, nóng bức, phun ra khí độc hung dữ làm tổn hại lúa mạ. Lại như quỉ Dạ xoa dùng mắt hung ác nhìn trăm ngàn chúng sanh khiến cho bị tổn hại. Như những thương nhân chìm đắm trong biển lớn, bị loài cá dưới đáy sâu muốn ăn nuốt liền. Các tai nạn hiểm ác đáng sợ như thế, chỉ đức Như Lai là có thể cứu độ.
Lại như mặt trời, mặt trăng sợ A-tu-la, chủ trời Đế Thích sợ đọa vào cõi ác, Phạm vương dị chấp, chấp ngã là thường. Những kiến chấp như thế là những nhận thức không chân thật, luân hồi qua lại, thọ lãnh những nỗi khổ bức bách, khiến nghe chánh pháp, thảy đều được hiểu biết, uống vị giải thoát. Phá vỏ vô minh, ánh sáng trí tuệ của kia như trăng trong sáng. Cho nên phải, sanh tâm tôn trọng sâu xa, lời dạy của Như Lai gần gũi pháp sư, vui nghe chánh pháp, suy xét nghĩa lý chơn thật, như lời dạy vâng làm. Giáo pháp của ngoại đạo kia là Pháp luân hồi, những bậc có trí phải khéo suy xét.
Lại đức Thích tôn Mâu-ni nói pháp cam lộ, là ánh sáng trí tuệ, phá tan bóng tối si mê. Như ở trên ngọn núi cao, cúi xuống nhìn muôn vật, chứa nhóm phi pháp như đắp đống phẩn, phải dùng lưới giá trí tuệ mà xúc bỏ đi. Trừ dẹp các ma oán phá bỏ cái dị luận, khiến được tỏ ngộ rồi, phát sanh tâm sáng suốt, thảy đều trừ bỏ được những phiền não nóng bức của thân tâm, hết thảy tội ác đều được tiêu trừ hết. Đức Mâu-ni kia nói: "Như cái bóng rộng lớn của cây dù, ngăn che mặt trời phiền não mà được mát mẻ. Nếu có thể họa vẽ tạo tác tượng Phật, dùng hương, hoa, tràng hoa theo khả năng mà cúng dường, sẽ là thềm thang sanh thiên dần dần. Vì nương theo lời Phật dạy những nghiệp chướng hiện hữu, sẽ được thanh tịnh trong Sát na, thiền định giải thoát đều được hiện tiền. Chẳng phải như ngoại đạo, một đời bỏ uổng, không hề tu sửa, khởi nhận thức vọng, nương nước sông Hằng, tắm rửa mong cầu giải thoát. Đã biết như thế rồi, phải mạnh mẽ vượt qua cảnh giới của ma, nắm giữ gươm tuệ phá trừ giặc phiền não, hủy hoại bánh xe sanh tử, xé rách lưới triền cái, làm mắt trí đủ sạch, diệt trừ bóng tối ngu si, dứt tâm tham ái, hàng phục rắn độc sân khuể, đoạn trừ các tà kiến, xô dẹp núi ngã mạn. Đối với sanh xứ của Phật yêu thích tôn trọng, rải hoa Ta-la mà cúng dường, mọi mong cầu đều được thành tựu như ý, xa lìa những sự chê bai, giải thoát khỏi các sự sợ hãi, an trú vào chánh lý chân thật của chư Phật lìa tướng sanh diệt, được vui tịch tĩnh. Phải nhất tâm vui muốn nghe pháp.
Tôi nghe như thế này, một thuở nọ Phật ở tại thành Xá-vệ, nơi khu vườn Kỳ-đà, Cấp-cô-độc bấy giờ trong hội chúng có hai ngoại đạo là đại tiên Ca-tỳ-la và đại tiên Ô-lô-ca. Hai vị này xả bỏ tà kiến cũ, tin hiểu Phật trí, khéo trừ diệt si ám có thể vượt qua biển khổ, khởi suy nghĩ thế này: "Thế nào đức Như Lai thành tựu được công đức lọng phước rộng lớn thanh tịnh như thế này, sắc tướng thù diệu, uy nghi đĩnh đạc như Tu-di, ba mươi hai tướng đại trượng phu và tám mươi vẻ đẹp tùy hình hiển hiện rõ ràng, đoan nghiêm không gì sánh bằng, hết thảy trần cấu đều không thể nhiễm. Hiện thân một trượng sáu quang minh sáng rỡ, hết cõi hư không hoặc ẩn hoặc hiện, không cõi nào không nhìn thấy khắp. Mắt như lá hoa sen xanh rộng lớn. Tướng bạch hào ở giữa hai mi mắt như trăng tròn mùa thu. Mặt sáng sạch nhuần thắm, vi diệu khả ái, tóc màu xanh biếc như lông chim công. Tướng đảnh đầy phẳng như lọng của vua trời Đế Thích. Tướng nhục kế thanh tịnh như châu ma ni. Toàn thân sắc vàng đều vui thích nhìn, Ví như bầy ong hút lấy hương hoa thù diệu. Mỗi mỗi tướng tốt nhìn không chán mắt. Như mùa xuân nở hoa Câu-tô-ma. Lúc bấy giờ, đức Như Lai như những suy nghĩ trong lòng của những ngoại đạo kia, dùng mắt tuệ thanh tịnh, quán sát hết thảy chúng sanh trong vô lượng vô biên thế giới kia, sanh tâm thương xót mà dạy rằng: "Thiện nam tử các ông! Ta ở trong ba đại a tăng kỳ kiếp, tu tập vô lượng chánh hạnh thanh tịnh, chứa nhóm vô biên phước trí rộng lớn, chẳng phải dùng một ít nhân lành mà đạt được. An trụ trong tạng báu công đức vô tận, dùng tâm đại bi, quyết định cứu giúp vô lượng trăm ngàn chúng sanh trong địa ngục. Lìa tưởng oán thân, thảy đều khiến trừ khổ đau.
Bấy giờ chủ trời Đế Thích, đầu đội mũ báu thù diệu bằng châu ma ni, từ cõi trời Đao Lợi đi đến chỗ Phật, thấy thân tướng Phật, các đức trang nghiêm, tâm vô cùng hoan hỷ, được điều chưa từng có, đầu mặt kính lễ sát chân Phật, Thế Tôn, dùng âm thinh thật vi diệu xưng dương công đức Phật: "Nếu các chúng sanh thấy tướng tốt Phật, phát tâm hy hữu, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen thì có thể phá trừ được bốn loại nghiệp ma thành tựu nghĩa lợi, đạt được sự tốt đẹp to lớn. Trời, người các ngươi và các ma phạm, đều nên đến đây, hầu hạ đấng vô thượng tôn. Lúc ấy có các vị đại tiên giữ ánh sáng: "Nhật, Nguyệt thiên tử và các tinh tú; Thủy thiên, Hỏa thiên, Đa văn thiên. Diệm ma thiên, Đại Phạm Thiên, Lực kiên thiên, Na-la-diên-thiên, Bát-la-nữ-Ma-na thiên v.v.. cùng các Long thần, Dạ xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Tất lệ đa Tỳ-xá-già, Tắc kiện đà v.v.. các chúng như thế đều cùng nhất tâm, cúng dường, lễ bái, tán thán công đức của Phật: "Là bậc xuất thế gian, Trí tuệ bậc nhất, tên gọi rộng lớn, không ai không nghe biết. Xá-lợi-phất v.v... các vị Thanh văn lớn, đều không thể hiểu rõ cảnh giới trí tuệ của Ngài. Từ đảnh
Tô-di-lô đến trời Sắc cứu cánh, hết thảy chúng hữu tình đều cùng nhìn kỹ đức Như Lai, bậc Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, pháp mà Ngài tuyên thuyết, ngôn từ không hư dối, đầu, giữa, sau đều thuần thiện, lời lẽ khéo léo, nghĩa lý sâu rộng, có thể phá trừ ngu si ám độn của những chúng sanh vô trí ít nghe. Khiến cho những kẻ kia khi đã nghe rồi, sanh khởi sự giác ngộ rộng lớn, vui thích tu tập chánh hạnh, tăng trưởng tuệ mạng, nhất định được thoát khỏi nỗi sợ hãi về cõi ác, mở được cổng thành rộng lớn Niết-bàn, thể nhập vào cảnh giới giải thoát không thể nghĩ bàn.
Trong kinh này nói nhân đầu tiên của lọng phước. Làm sao biết rõ?" Đã nghe những lời dạy này rồi, rộng hành hạnh bố thí thanh tịnh, giữ vững giới cấm, đối với dục lạc thế gian, không khởi lòng yêu thích, các lợi ích thiện có được đều sanh tâm tín thuận, tu tập như thế sẽ chóng được thành tựu. Ví như có người, ở trong đêm tối, cầm bó đuốc to, vào trong nhà lớn, ở trong chốn kia đều được thấy rõ. Những kho tàng châu báu có trong đây, vô số các loại, hoặc tinh hoặc thô, mỗi mỗi đều hiện rõ, thảy đều có thể thọ dụng, được cái vui an ổn. Hoặc lại có người, thọ trì đọc tụng, theo kinh này, vui nghe nghĩa sâu, gần gũi pháp sư, tư duy như lý, tâm sanh giác ngộ. Nên biết người này có thể ở trong đêm dài sanh tử, cầm đuốc tuệ lớn, vào thành Niết-bàn. Đối với pháp thâm diệu hoặc lý, hoặc sự, thảy có thể hiểu rõ, đều được thông đạt, lìa các nghi hoặc, phá trừ si ám, thoát khỏi luân hồi tâm được giải thoát, còn có thể thọ dụng pháp lạc vô cùng.
Như đức Thế Tôn nói: "Thế gian hữu lậu, không sanh ra thắng tuệ; chỉ đèn chánh trí, mới có thể trừ si ám. Cho nên bậc trí phải cầu chánh pháp vô lậu, xuất thế. Đối với giáo pháp tương ưng với khế kinh, luận nghi Phật thuyết, phải khéo quán sát. Như chúng hữu tình tạo phước, phi phước đều thọ quả báo, nhất định không lầm. Nên biết thế gian đều do nhân duyên sanh. Nếu không có chúng sanh thì không có phiền não. Nếu không có phiền não thì không có địa ngục. Cho nên ta nay nói pháp nhân duyên, chẳng giống như những kiến chấp tà dị của ngoại đạo: "Không nhân, không duyên, sanh hết thảy pháp. Họ chấp rằng gai nhọn là do ai vót?" Sắc lông của cầm thú thì được ai vẽ?" Việc này hiển nhiên, đâu mượn nghiệp nhân?" Do đây mà biết, mọi vật tồn tại trên thế gian vốn sinh ra từ tự nhiên không cần phải tu tập. Đức Như Lai biết rồi, khởi lòng đại bi, thương xót giáo hóa. Dùng ánh sáng trí tuệ diệt trừ u tối si mê của kia, dần dần khiến ngộ nhập vào trí nhất thiết trí, xả bỏ tà kiến cũ ở trong Phật pháp, tâm được giải thoát.
Ở trong kinh này nói, những lời dạy bảo của đức Phật, nói các pháp: "Bố thí v.v.. có thể giúp cho thoát ra khỏi luân hồi, được các sự an vui. Hiện thấy các loại hữu tình ở thế gian, tạo phước, phi phước, thọ quả báo khổ, vui. Như trưởng giả Cấp Cô Độc, phát tâm tịnh tín, lấy ba mươi câu chi vàng bạc châu báu dâng cúng cho Như Lai và các đệ tử, các bậc đại A-la-hán, A-nậu-lâu-đà v.v.. để tạo lập tinh xá, hưng khởi đại cúng dường, hiện đời thu được vô lượng phước báo, tiếng tốt lan xa, an vui thịnh vượng, hết thảy kho lẫm thảy đều sung mãn, bạn bè thân thuộc nô bộc, tùy tùng, đông đúc rộng nhiều đều được trọn vẹn hưởng thủ những khoái lạc thù thắng, không cùng. Ấy là do bố thí mà chiêu cảm quả báo như thế.
Lại các đức Như Lai với tâm đại bi thương xót hết thảy chúng sanh, như bậc y vương ở thế gian thường dùng lương dược chữa các loại bệnh tật thế gian như: "Trúng phong, đàm, khiến cho được lành mạnh. Đức Như Lai cũng vậy, khéo nói thuốc pháp, có thể trừ khử phiền não cội gốc, tùy thuộc của chúng sanh, khiến cho được giải thoát. Nhưng chúng hữu tình kia không có chủng tử thiện, không có tư lương, không phát khởi dõng mãnh, không cầu giải thoát, bị chứng bệnh thâm căn ba độc trói buộc. Người như thế, khó có thể hóa độ. Cho nên đức Như Lai, lòng đại bi bình đẳng, không có tưởng oán, thân, trao cho thuốc pháp khiến chúng hữu tình kia hành trì. Vì chúng mà nói các hạnh bố thí, trì giới v.v... thường phải thọ trì kinh điển thâm diệu.
Lại thân người kia thật là khó được, ví như rùa mù gặp bọng cây nổi, nên phải siêng tu mười thiện, cầu lìa bỏ khổ. Dù cho được thân người, nhưng không sanh ra ở giữa nước, các căn không đủ. Hoặc ở trong Phật pháp, tâm không vui thích. Hoặc lại sanh vào thế giới không Phật. Hoặc do ác nghiệp phải chịu quả báo câm ngọng. Miệng không thể tuyên đọc chánh pháp của chư Phật, không thể biết rõ công đức của Phật. Lại các chúng sanh bị ngu si che mờ, tà kiến mê hoặc tâm, quay lưng lại với thiện tri thức, phá hoại thuyền chánh pháp, xô đổ núi báu chánh pháp, đốn chặt rừng trí, trốn khỏi thành giải thoát, mở lối ba đường ác. Không thể hiểu biết rõ sợi dây tín của tâm thanh tịnh, không thể dựng lên cờ pháp chân thật. Và đấy là thiêu đốt cung điện trên cõi trời. Tích tụ tài vật của báu rộng lớn ở thế gian, tự ỷ mình giàu có, khởi tâm đại ngã mạn, vô trí ngu si, không khéo quán sát, không tu huệ thí, cũng không thọ dụng, vì keo kiệt; chấp giữ bóng mặt trời không hiểu thân này là chỗ khổ già, bệnh, chết thường theo đuổi, tạo tác những nghiệp ác, không thường phát lồ. Kẻ kia trong lúc tuổi trẻ, sắc lực sung mãn, thân hình tươi nhuận, tắm rửa sạch bụi bẩn, thường sanh tâm yêu thích. Kịp đến lúc già suy, tay chân run rẩy, da dẻ nhăn nheo, khắp nổi đồi mồi, môi miệng khô cháy, hơi thở gấp gáp, tóc bạc thưa thớt, răng cỏ thưa rụng, mình sanh ghẻ chốc, da thịt teo dần, các căn u ám, bế tắc, gân mạch co rút, đầu chân gần nhau, bước đi trì trệ, chậm chạp, hết thảy thân phần giống như bị buộc giữ. Ý muốn đi đâu, phải nhờ người dìu đỡ. Ca múa vui chơi, không còn nghĩ đến, món ngon vật lạ, không còn có thể ăn, ví như muốn ăn uống, cổ không thể nuốt xuống. Mắt thấy văn tự mà không thể hiểu rõ, muốn dặn dò mà lời nói không rõ ràng. Hơi thở ra vào suy yếu, đứt khoảng, không liên tục. Nước dãi nước mắt tự động trào ra, tiểu tiện bẩn thân. Bụng trướng quặn đau, rên rỉ thảm thương, chỉ còn da bọc xương, nằm bẹp trên giường, mặt hiện tướng xấu, tâm thần hốt hoảng. Lúc ấy, có gió, thổi chạm phần thân, giống như kim châm, đau đớn không cùng. Hết thảy thầy thuốc đều chối từ, kẻ này bị vô lượng nỗi buồn lo thiêu đốt mọi thứ, ái lạc đều là cái kẻ khác có, tiền tài của cải, thảy đều bỏ sạch. Như lửa sấm sét phá hoại không sót lại gì. Không còn cảm giác, hiểu biết gì, hốt nhiên chết đi, trong sát na biến dị đổi khác, khiến mọi người hoảng sợ. Cha mẹ vợ con thân thích nội ngoại, buồn thương rơi lệ, lòng đau như xé, nối nhau kêu gào than khóc: "Bỏ tôi đi đâu" Ở nơi thế giới kia, một mình đi đến, giống như người lái buôn non trẻ, không có bạn bè, vào trong đêm tối mịt mùng, đi đến nơi hiểm nạn vô cùng, rớt xuống hầm sâu to lớn, chìm đắm trong biển khổ mênh mông. Không có lối về, không người cứu giúp, không chỗ nương tựa. Sứ giả của Diễm Ma (Diêm Vương), thần Hắc dạ mẫu trợn mắt, nhe răng, hình dạng xấu xí, trông rất ghê sợ, giận dữ quát mắng, bắt trói dẫn đi, mau như gió thổi, phút chốc đến chỗ của vua Diễm Ma. Sống không biết tôn trọng điều thiện, chết sanh về chốn khổ. Vô số dao nhọn, từ hư không rơi xuống đâm chém khắp thân hình, chặt cắt hủy hoại mọi phần thân, mổ tim, cắt lưỡi, máu thịt trộn lẫn tay chân, lóng tay lóng chân, cắt ra quăng bỏ, chỉ còn gân xương, giữ liền không rời, đau đớn vô cùng, tìm kiếm thì phiền muộn hết. Gió nghiệp được thổi lên, hốt nhiên sống lại, chịu khổ lâu dài, nghiệp hết mới được thoát.
Nếu những chúng sanh, tín thuận lời Phật, vui tạo nghiệp phước, làm lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sanh, theo chỗ cần dùng mà thường cấp cho. Với kẻ rét lạnh, giúp cho ấm áp, Với kẻ buồn bực làm cho mát mẻ. Với kẻ khát mệt, lấy nước suối trong cho uống. Với kẻ đói khát, cho họ thức ăn uống. Với kẻ chết đuối trên sông, giúp họ thuyền bè. Với kẻ không có chỗ ở, giúp họ nhà cửa. Với kẻ nghèo cùng, cho họ tiền bạc vải lụa. Với kẻ tranh tụng, kiện cãi, khuyên can khiến họ hòa thuận, Với kẻ độc hành, vì họ cùng làm bạn lữ. Với người bệnh khổ, chỉ họ thuốc hay, uống vào được khinh an. Với kẻ bị rắn độc cắn, chỉ họ gia trì mật chú, khiến tiêu trừ nọc độc. Với kẻ ỷ thế ngã mạn, trao cho kiếm tuệ, khiến tự điều phục. Mọi người, thảy đều khiến được an ổn, vui vẻ. Nếu hay thực hiện được như thế, làm lợi lạc cho chúng sanh, hiện tại liền được phước báo như ý. Ở trong đời khác, chỉ phước nghiệp này, cùng làm bạn lữ, làm chỗ trở về, làm chỗ cứu giúp, làm chỗ nương tựa.
Nếu các chúng sanh, tập quen nghiệp bỏn xẻn, thì đối với phước điền thù thắng, không hay thí giúp. Cho dù đệ tử của Phật như Ưu-ba-ly, đến khuyến hóa kẻ kia, vị này tâm cũng không vui, không tin phước bố thí thường chiêu cảm quả báo an vui, chứa nhóm tội ác, sau thọ luân hồi. Ví như được làm người, thì sanh vào giòng họ hạ tiện, hoặc nhà đồ tể, hoặc nhà hốt phân, chế tạo xe, dệt vải, chài lưới, thợ làm đồ gốm, người làm nông, người dệt vải, thợ cạo tóc, thợ nhuộm, giặt áo, các chỗ không tốt, cơm áo thiếu thốn, rách rưới, làm đầy tớ giúp việc cho kẻ khác, tay chân nứt nẻ, rách nát, khổ cực nhiều, mong cầu nhiều. Suốt ngày không chút thảnh thơi nhàn hạ, lại bị đau bệnh trói buộc, ghẻ hủi, ung nhọt, bệnh trĩ, ung thư, ho hen, sốt rét thổ tả, kiết lỵ, điên cuồng, nóng sốt... các bệnh như thế, bức bách làm cho thân thể đau đớn khó chịu, gầy ốm, tiều tụy, tay chân co quắp, môi miệng méo lệch, đầu tóc rối bù, hai mắt rơi lệ, xuống sắc cầu xin người, mặc áo rách rưới, kéo lê mà đi, hoặc lại rơi mất, cũng không hay biết, khi bị gió thổi, thân thể lõa lồ. Ngồi nằm trên phẩn đất, giống như là tự vui, tự nhổ tóc mình, không chút hổ thẹn. Nói với kẻ qua người lại: "Vì sao nhìn ta?" Hoặc cầm đồ bể, đi khắp trong làng, được chút thức ăn thừa, để tự nuôi sống. Vô số ruồi nhặng, tranh nhau bay đến bám hút, trong ngoài đều dơ uế. Bị mọi người nhờm ghét khinh khi. Do nhân bất thiện chiêu tập, tự mình làm việc ác lại dạy người khác làm. Người này thật là cái kho khổ não. Cho nên đức Thế tôn thường dùng tâm Đại bi, khởi niệm yêu thương với hết thảy, khiến cho chúng phát tâm, quyết định hối lỗi, khiến được giải thoát khỏi các lỗi lầm xấu ác.
Trong kinh này nói: "Chỉ tự mình tạo phước nghiệp chánh hạnh thì có chiêu cảm lấy quả báo thù thắng giàu vui cõi Trời, người. Cho nên Tỳ-kheo thọ trì kinh này, giảng dạy cho mọi người, theo kinh dạy mà tu hành thì khiến cho lọng phước của mình, người được thành tựu.
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở tại thành Vương xá, trong rừng trúc Ca-lan-đà. Lúc ấy. Đề-bà-đạt-đa, vô cùng ngu si, dùng tâm độc ác làm tổn hại pháp Phật, tạo ra trăm ngàn chướng ngại nhưng không thể làm loạn động đầu một sợi lông của Phật. Ông ta bèn bảo vua A-xà-thế phải ra lệnh nghiêm cấm hết thảy người trong thành, không một ai được đi đến chỗ Phật và không cho lấy thức ăn vật uống cúng dường đức Phật. Phải biết lão Cù Đàm không có được gì, ắt phải rời bỏ chỗ này mà đi đến nước khác ở xa. Vua nghe lời này, tin tưởng, thuận theo. Lúc ấy, những vị Ưu bà tắc trong thành, sau khi biết chuyện này rồi đều than: Khổ thay" Nay thành Vương xá không có vua" Đức Như Lai ra đời, khó được gặp gỡ như hoa Ưu đàm bát la. Cớ sao đại vương lại tin thọ tà sư, không cho chúng ta đi đến cúng dường, không cho đức Như Lai nhiếp thọ chúng ta?" Tôn giả A-nan-đà nghe những lời này rồi, liền đi đến bạch Phật. Phật bảo An-nan: "Ta đã biết trước rồi. Hà tất phải lo lắng" Ở trong pháp của ta chưa từng có một đệ tử Thinh văn nào phải chịu thiếu thốn, huống gì là thân ta?" Lúc ấy, đức Phật Thế Tôn phóng ra một luồng ánh sáng lớn, chiếu đến thành Vương xá, khiến cho đều được thanh tịnh. Người chạm luồng ánh sáng này, thân tâm đều được an vui. Khi ấy vua trời Đế Thích thấy ánh sáng của Phật, dùng Thiên nhãn xem xét, biết được nguyên nhân, bèn phát tâm dõng mãnh, hiện uy đức lớn, làm vị đại đàn việt, phát khởi sự cúng dường lớn.
Bấy giờ, Thiên chủ Đế Thích bạch Phật:
- Bạch Thế Tôn Xin Phật cứ an trú trong thành Vương-xá này, con sẽ cung cấp thức ăn, vật uống, y phục, ngọa cụ, thuốc men v.v... không để cho thiếu thốn thứ gì.
- Phật nói: "Này Thiên chủ" Hãy dừng việc này lại. Có nhiều dân chúng, dùng tâm thanh tịnh đều muốn dấy khởi nghiệp phước ở nơi Ta. Đế Thích lại bạch với Phật rằng: "Chỉ mong ở đây, an cư năm Hạ thọ nhận sự cúng dường của con.
Nghe lời này xong, Phật lại ngăn Đế Thích lại nói: "
- Con nay thỉnh Phật, cúng dường năm ngày. Rất mong Như Lai đại bi nhận lời cầu thỉnh chí thành của con. Khi đó đức Thế Tôn thương xót Thiên chủ. Vì phước lực hiện tại khiến ở đời vị lai, nhân thiện được tương tục nên lặng yên chấp thuận, Đề Thích biết Phật nhận lời thỉnh cầu, tâm vô cùng hoan hỉ, liền trở về Thiên cung triệu tập những thợ trời hay khéo, nhanh nhẹn, rồi bảo với họ: "Các khanh nên biết, ta nay muốn ở nơi thành Vương xá trong vườn trúc Ca-lan-đà, kiến lập đại tinh xá, lo liệu, sắp đặt chu đáo tứ sự để cúng dường Như Lai và các đệ tử. Các ngươi nên lấy ngọc ma ni bậc thượng, vàng bạc, lưu ly, san hô, pha lê, châu báu Đế thanh v.v... đi đến chốn kia xây dựng cung điện rộng lớn, thanh tịnh, đẹp đẽ, Phải giống như trong cõi trời đều không có chỗ khác biệt. Lúc ấy, các chúng trời hết lòng khéo léo, xây dựng cung điện. Hiên mái, cột kèo, cửa nẻo, lan can thảy đều dùng châu báu, xen lẫn trang nghiêm, như ánh sáng ngàn mặt trời cùng soi chiếu lẫn nhau. Lại dùng các hình chim bằng ngọc báu kỳ diệu, các hoa cài tóc bằng chơn châu được chạm trổ khéo léo, bài trí xen lẫn khắp nơi. Đốt các hương quý, rải các hoa thù thắng, hòa quyện xông khắp, ngát thơm khắp chốn. Lại xây dựng lầu gác hai lớp cửa, cao vòi vọi, trang nghiêm, cũng dùng trăm món báu trang trí, các châu ma ni lấy làm cửa. Các trụ cột báu, mỗi mỗi đều dùng các món báu kim cương cùng hợp thành. Vô số các gương báu, sáng sạch, không tì vết, được treo trong hư không như trăm ngàn mặt trăng. Lại dùng vàng nấu chảy, làm giường ba chân. Y trời thù diệu dùng trải lên trên, lại chạm khắc thành những thiên nữ đẹp đẽ dung mạo đoan trang, cử chỉ dịu dàng, giống như thường đi qua, đi lại, tay cầm hoa sen, dùng để dâng cúng. Dùng báu pha lê lát khắp mặt đất. Lại có hồ ao, hoa sen trang nghiêm, vàng ròng làm lá, báu lục làm thân. Vô số Thiên nữ đứng ở bên trong, biểu diễn các loại kỹ nhạc để cúng dường. Cây cột cờ hiện rõ trên cao, treo các cờ phướn thêu vẽ, xoay quanh không trung, xa gần đều thấy. Lại có các lực sĩ, giữ gìn cửa nẻo, cầm gậy bằng châu báu xanh, đứng xếp hàng hai bên. Khắp nơi đều trồng hoa mạn đà la, hoa Long tự tại, hương thơm tỏa ngát, rực rỡ khắp mặt đất, lá xanh biếc lấp lánh, luôn luôn thổi gió thơm, có các vị thiên tử, hình thể sáng sạch, diện mạo tươi vui, dạo chơi, nghỉ ngơi bên dưới. Lại có các Thiên nữ xinh xắn không gì sánh, bước đi thong thả, những vòng ngọc khua vang, âm thinh hòa nhã. Các Dạ xoa nữ, vui đùa dạo chơi trong rừng, mắt nhìn khắp nơi, hương thơm còn đượm lại. Có các long tượng đi chậm chạp trong rừng giơ vòi, cắn cành cây, uyển chuyển vui đùa. Và các loại phi cầm, lông năm màu, vỗ cánh tự nhiên, miệng mổ nhụy hoa. Lại dùng lồng bằng vàng nhốt những chim anh vũ đẹp lạ, tiếng hót trong trẻo, vui tai. Lưỡi nó mỏng như lưỡi gà trong ống tiêu. Lại có nguồn sông, loài ếch nhái kinh sợ lánh xa, Lại có ao hồ trong sạch rộng lớn, bảy báu xen lẫn bên bờ lấy làm bờ bực. Nước trong hồ đầy tràn, trong lắng, không chút cáu bẩn. Hoa ưu-bát-la, hoa Cô-mâuna, chạy dọc hai bên bờ hồ nở ngát, màu sắc chen lẫn. Chim phỉ thúy, chim tử uyên ương, liệng đậu trong hồ. Những cá đùa giỡn, qua lại, tung tăng bơi lặn, nhảy vọt lên, lật mình trên sóng. Những chim âu, cò trắng hoảng sợ bay lên. Lại có chim bói cá, chim hạc, chim le, chim nhạn cất tiếng hót véo von, mọi người đều thích nghe. Bốn mặt bờ hồ đều có cây kiếp ba, cành mềm mại đung đưa trên mặt nước, tạo ra những luồng gió mát mẻ. Cây cỏ muôn hoa, những bụi dây hoa dài, nhuần thắm trải khắp, cành lá xum xuê, hương thơm lan xa. Có những bầy ong bay dạo, tranh nhau hút nhụy, phát ra những tiếng kêu nho nho giống như tiếng ca ngâm. Lại có sông vàng bao bọc vòng quanh, chạy rót vào khu vườn, quanh co, nối liền không dứt. Bấy giờ, dân chúng thay nhau kêu gọi thân nhân, bạn bè cùng đến xem. Có các giòng họ quyền quý, giàu có, ung dung cùng kẻ tùy tùng cầm lọng trướng, diễn bày các thứ kỹ nhạc, đủ các món ngon vật lạ, dạo chơi, xem khắp, tâm không nhàm chán. Mặt đất mềm mại như bông Đâu la. Quanh co qua lại, chân đi không chút mỏi mệt. Vườn rừng rộng lớn, hồ ao thanh tịnh như thế, chỉ trừ ở cõi trời, ngoài ra không đâu sánh kịp.
Lúc này các vị trời khéo léo đã làm xong công việc bèn đi đến Thiên cung thưa cùng Đế Thích. Vua Trời sau khi nghe bẩm tấu xong, lòng rất vui vẻ, như được điều chưa từng có, liền dẫn vô lượng trăm ngàn thiên tử, trước sau vây quanh biểu diễn các thứ kỹ nhạc tiêu, địch, không hầu, đàn cầm, đàn sắt, đánh, thổi, cùng lúc đồng tấu lên. Từ trên hư không đi xuống. Khi ấy vị Thiên chủ kia, thân phát ra ánh sáng, chiếu khắp các núi, sông, thảy đều sáng rỡ. Đầu đội mũ ma ni, các báu trang nghiêm, trong suốt; ánh sáng rực rỡ như mặt trời cực sáng, diện mạo đoan nghiêm, trán rộng bằng thẳng, mắt dài xanh biếc, mũi dài cao thẳng, hai má tươi sáng hồng nhuận không gì sánh bằng. Tai đeo vòng báu, cổ rũ chuỗi anh lạc, nhẫn xuyến đều làm bằng ngọc báu càng lúc càng tỏa sáng tựa như ánh sáng ngọc kha, mặt trăng. Hình nghi đĩnh đạc, lúc nào cũng như tuổi thanh niên. Dài ngắn đầy đủ, mỗi thân phần đều được xứng hợp. Dùng hương công cô ma và hương đa-ma-la bạt-chiên-đàn xoa lên thân, mềm mại sáng láng, mượt mà. Ngón tay thon dài, tròn trịa. Móng tay như lá đồng. Phát ra lời nói vi diệu, khéo léo, trong trẻo, vang xa như tiếng của chim Ca Lăng, người nghe không chán. Lại dùng loại vải mịn màng bậc nhất, lấy vàng nghiền nhỏ trang sức lên trên, lấy đó làm y phục. Lại lấy các loại ngọc báu vi diệu làm dây đai thắt lưng, các loại châu báu xen lẫn tạo thành một nguồn ánh sáng. Lại dùng các loại hoa vi diệu cõi trời để trang nghiêm thân, quấn quanh rủ xuống. Bước đi bằng thẳng giống như tượng vương tiến dừng ung dung, không cần nhờ người giúp đỡ. Dân chúng đều được chiêm ngưỡng, hầu hạ. Kẻ ôm lòng sân hận liền sanh tâm hoan hỉ. Kẻ khởi tâm oán ghét liền phát lòng từ bi. Kẻ ưa thích ngủ nghỉ liền tỉnh táo. Khi đó Thiên chủ đi đến vườn kia rồi, xem xét khắp công trình, thảy đều như ý, vô cùng hoan hỉ, bèn đổi tên gọi cũ Ca-lanđà thành tên vườn Hoan hỉ. Kế đến dùng thảm nhiều màu thượng diệu, phủ khắp mặt đất. Lại lấy vàng bạc, chơn châu ma ni, báu Đế thanh, lưu ly, châu Mạt-la-ca làm thành pháp tòa cao rộng, rồi cung thỉnh Phật, Thế Tôn an tọa lên trên. Các loại châu báu làm ghế. Để đỡ chân ghế, dùng chỉ thêu năm màu. Sắp xếp làm các chỗ ngồi, rồi vời các vị Tỳ-kheo, mỗi người cũng đến an tọa. Thiên chủ chắp tay cung kính tôn trọng tán thán, đảnh lễ chân Phật, bày tiệc đủ món ngon vật lạ trong cõi Trời. Đức Như Lai duỗi cánh tay kim sắc như vòi của tượng vương thọ nhận vật thực cúng dường. Ăn xong, đặt bát, rửa ráy, súc miệng, an trụ uy nghi, lặng yên thanh tịnh. Thiên chủ cùng các quyến thuộc sanh tâm hy hữu, vui muốn nghe pháp, tự mình ở chỗ thấp, chăm chú, lặng yên.
Lúc ấy, đức Thế Tôn dùng phương tiện lớn, vì đại chúng giảng nói pháp chánh yếu, tán thán các hành: "Bố thí v.v... chỉ dạy, lợi ích, an vui, khiến sanh tâm tín giải.
Thiên chủ cúng dường như thế cho đến bốn ngày. Vua A Xà Thế, nghe biết sự việc này bèn lên lầu cao nhất trong cung, nhìn xuống xem xét kỹ, trông thấy đức Phật Thế Tôn và các chúng đệ tử ở trong vườn Trúc Lâm, tịch tĩnh an ổn, trang nghiêm thiết lễ cúng dường, thực hiện Phật sự lớn. Lúc ấy, quốc vương sanh tâm tỉnh ngộ, hối lỗi tự trách: "Ta thật quá ngu si, vô trí, tạo tội cực nặng như núi Tu-di. Nay Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời, đầy đủ công đức thanh tịnh rộng lớn mà ta không thể tín thọ sự dạy bảo. Do nghiệp duyên này, nhất định phải đọa vào cõi khổ. Các vị Thiên tử kia, vẫn chưa xả bỏ dục lạc thượng diệu ở cõi trời, mà còn đi đến chỗ Phật, ta sao không hưng khởi những lợi ích lớn?" Tự nhủ như thế rồi, liền sắp đặt xa giá, đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, ôm lòng buồn lo, rơi lệ khóc than, ăn năn lỗi trước. Khi đó, nam nữ tịnh tín trong thành Vương xá, đều lớn tiếng xướng lên: "Lành thay" Quốc vương ở trong pháp Phật, được giác ngộ lớn. Chúng tôi nay cùng đạt được lợi ích tốt đẹp"". Bấy giờ quốc vương bèn đánh chuông, ban lệnh, triệu tập hết thảy các Đại thần, dân chúng và các quyến thuộc bảo với mọi người: "Đức Phật chúng ta ra đời, khó được gặp gỡ. Nay đã được trông thấy, phải phát tâm thanh tịnh, cung kính cúng dường, vui nghe chánh pháp". Liền lấy đèn sáng, hoa hương thượng diệu, hương xoa thân, hương Mạt-lợi và các hoa cài tóc, châu báu, y phục, các loại trang nghiêm để cúng dường. Làm việc này rồi, tâm vô cùng hoan hỷ. Lúc này, đức Như Lai dùng tiếng Phạm âm, vì hội chúng lúc ấy, khai thị diễn thuyết pháp Tứ Thánh Đế; Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Vô số người, trời nghe pháp hiểu biết, chứng được nhận thức chân thật. Lúc ấy, Phật Thế Tôn hỏi các vị Tỳ-kheo: "
Các ông có thấy chư Thiên, dân chúng, nay ở trước ta, đã thiết lễ cúng dường rộng lớn chăng?"
Các vị Tỳ-kheo chắp tay đưa lên đảnh, tán thán chưa từng có: "
-Vâng, đã thấy.
Phật nói: "Ở trong pháp của Ta, nếu người tâm thanh tịnh, đối với phước nghiệp của kẻ khác, sanh lòng tùy hỷ, nên biết người này được niềm tin bất hoại, đủ mắt trí thanh tịnh.
Này các Tỳ-kheo" Ta nhớ trong vô lượng kiếp ở quá khứ, có đức Phật ra đời, tên là Bảo Sơn gồm đủ mười tôn hiệu: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, trụ thế thuyết pháp, làm lợi lạc chúng sanh. Thời ấy có vị Quốc vương thỉnh đức Như Lai kia cùng các đệ tử, trải qua ba tháng Hạ ở trong vương cung, dùng các loại ẩm thực, y phục, cung kính cúng dường. Từ đây về sau, dân chúng của vương quốc kia đều đến chỗ Phật, thỉnh Phật năm năm, sắp đặt các sự cúng dường, hết thảy những vật cần thiết không gì là không đầy đủ. Này các thầy Tỳ-kheo" Ý các ông thế nào?" Vị quốc vương cúng dường đức Phật thuở xưa, chính là thân Ta. Do nhân trồng trước kia, nay mới thành thục, nên được các chúng Trời, người rộng khởi cúng dường. Nhân xưa, quả nay, không mảy may sai khác. Do nhân cảm quả, quả giống như nhân. Ở nơi đây hiểu biết chân chánh trừ các lưới nghi, quả báo của nghiệp thiện ác nhất định không hư dối, giống như dòng nước mạnh, uy lực của nó không thể ngăn cản. Vì sức mạnh của nghiệp kia, mỗi mỗi đều chiêu cảm lấy quả báo. Địa giới, Thủy giới, Hỏa giới, Phong giới và các uẩn, xứ v.v... tự tạo nhân phước ắt thọ lấy quả vui. Lúc ấy, đức Thế Tôn nói kệ: "
Trải qua trăm ngàn kiếp Nghiệp kia không hủy hoại, Lúc nhân duyên hòa hợp Nhất định thọ quả báo.
Này các Tỳ-kheo" Đây gọi chánh hạnh lọng phước, các ông phải thọ trì, siêng tu Thí, Giới và các Thiền định. Thọ dụng lọng phước sẽ được xa lìa các mối ưu não.
Ở đây lược nêu rõ nghĩa những điều Phật nói trước, phần đầu tiên của kinh, hành tướng duyên khởi kết tập các kinh là nêu lên lời: "Như thị ngã văn". Vì sao mà gọi là Như thị? "Vì như những điều Phật giảng nói không có riêng khác. Vì nghĩa gì gọi là Ngã?" Vì thuận theo thế tục chỉ thân hiện tại. Văn là nghĩa gì?" Đó là vì từ tai phát khởi nhận thức, hiện tiền hiểu biết hoặc văn hoặc nghĩa, lìa các lỗi đảo lộn thêm bớt. Kết tập trước hết là kinh Phạm Võng. Lúc ấy, chúng nhóm họp, gồm các vị đại A-la-hán, tất cả có bốn trăm chín mươi chín người, hết thảy Trời, Rồng, quỉ thần, mới nghe xướng lời: "Tôi nghe như vậy", đều cất tiếng buồn khóc không thể tự kìm chế được. Chúng ta thuở trước tự thân trông thấy đức Như Lai đầy đủ Mười lực, Bốn vô sở úy, dùng Phạm âm vì đại chúng diễn thuyết, thế mà nay lại gọi là "Tôi nghe". Nên biết là vô thường, sức không thể thoát. Lúc ấy chúng hội kia đều được giác ngộ, lìa cấu uế nơi ba độc, an trụ chánh niệm, nhận giữ không mất. Vì nghĩa gì gọi là một?" Đó là bắt đầu của số, là một đời sống Thánh, một pháp xuất ly, một chỗ đi, dừng, một phạm hạnh thanh tịnh, một tiếng giải thoát, hết thảy đều đồng nhau. Vì nghĩa gì gọi là Thời?" Vì nương theo thế tục mà lập. Việc nói kinh đã xong, đại chúng hoan hỉ, gọi là một thuở. Đức Như Lai thuyết pháp giống như mặt trời chiếu thế gian, xua tan bóng tối nơi ba cõi khiến xuất ly khỏi các ngoại đạo, ma hủy báng chánh pháp. Nay Phật hiển hiện Pháp thâm diệu hy hữu, khó được, khiến chúng hàng phục. Vì nghĩa gì gọi là Bạc-già-phạm?" Vì lẽ đầy đủ tên gọi thù thắng, rộng lớn nơi thế, xuất thế gian, không ai sánh kịp, rốt ráo siêu việt sự luân hồi các cõi, xứng đáng thọ nhận sự cúng dường tốt đẹp của Trời, người. Sao gọi là thành Vương xá?" Vì dồi dào phong phú những sản vật tốt đẹp và những bậc trí có văn có hạnh, những nam nữ tịnh tín, những trưởng già giàu có, thọ dụng thù thắng. Vì nghĩa gì gọi là ở?" Vì du hóa, nương ở, lìa sự dựng lập các suy nghĩ, hoặc gần, hoặc xa, tùy ý đi đến.
Vì nghĩa gì gọi là rừng Kỳ Đà? Trung Quốc gọi là rừng Chiến Thắng. Theo xưa thì không dịch. Thuở xưa, vua Thắng Quân cùng với nước láng giềng đánh nhau và thắng trận. Đang lúc ấy hạ sanh Thái tử, bèn lấy việc Chiến Thắng đặt tên cho con. Vì rừng thuộc của vị thái tử ấy nên gọi là rừng Kỳ Đà. Phú quí, tự tại, vô lượng sự trang nghiêm, hết thảy dân chúng trông thấy đều vui vẻ. Ở trong rừng ấy dùng nhiều tài vật, sức người để sửa sang, giữ gìn, làm nơi vui chơi. Rừng này rậm rạp, cành lá tươi tốt. Bóng mát tỏa khắp, ngăn che ánh nắng nóng bức. Mùa hạ rất mát mẻ. Mùa đông không có giá rét. Mưa không lầy lội. Hoa thơm cỏ lạ ngát hương, khắp nơi khoe sắc. Những cành cây si nằm nép mình, hình dáng như cây dù. Có nhiều người coi giữ, không nghe tiếng trộm cướp. Chốn nầy thanh tịnh, tốt đẹp như vườn Hoan hỷ.
Do vì nghĩa gì gọi là Cấp Cô Độc? Vì đối với người không có thân nhân, lấy thức ăn, vật uống chu cấp. Như trong tạng Tỳ-nại-da (tạng Luật) nói rộng việc nầy. Vị trưởng giả ấy do năng lực của thiện căn xưa, muốn thỉnh đức Phật, cung kính cúng dường. Trước tiên xây dựng tinh xá cho đức Như Lai. Ông bèn lấy trăm ngàn câu-chi vàng ròng giá trị để mua đất của Thái tử. Đạt được ý nguyện, ông liền triệu tập hết thảy thợ giỏi khắp nơi, xây dựng lầu gác, cung điện tối thượng. Hiên mái cửa nẻo, sông suối, ao hồ, các thứ trang nghiêm, thảy đều đầy đủ. Tường thành cao vót bao bọc vòng quanh. Sau đó, vị Trưởng giả này đi đến thành Vương xá, đảnh lễ nơi chân Phật rồi thưa: "Con nay thỉnh Phật đến thành Xá Vệ, xin nguyện đức Như Lai từ bi chấp thuận. Nơi ấy có Già lam rộng lớn thanh tịnh. Đức Thế Tôn nhận lời cùng các đệ tử; đồng đến an cư. Lúc ấy, Trưởng giả thưa thỉnh xong, trở về. Cùng lúc ấy, tại thành Vương xá, có một vị Trưởng giả tên là Thiện Tịch, bạch với Phật: "Đức Thế Tôn không nên đến đấy" Con sẽ dựng lập tinh xá cho Phật. Đức Phật liền ngăn vị nầy lại, Sau đó, Ngài đi đến thành Xá vệ, Phật vừa đến, trưởng giả Cấp Cô Độc liền đem ngôi già lam đã xây dựng dâng cúng đức Như Lai. Vì thương xót Trưởng giả, Phật liền thọ nhận. Lại vì ông, tán thán chốn nầy tốt lành hơn hết, an ổn bậc nhất. Chư Phật quá khứ cũng ở nơi đây làm lợi ích, an lạc cho hết thảy chúng sanh. Ông ở nơi các Phật trước, trồng sâu cội đức. Do nguyện lực thuở xưa, nay lại làm như thế. Lúc ấy có ngoại đạo, tên là Ma-đa-tức-chí-na, ngụ trong một thảo am, tu tập khổ hạnh. Đối với hết thảy trí tuệ, ngôn luận của chúng sanh ở thế gian, thảy đều thông đạt. Vị này bảo: "Rừng Kỳ Đà thật là thù thắng tráng lệ. Vì sao đức Thế Tôn và các Tỳ-kheo lại được thọ dụng? "Phật biết được ý nghĩ này rồi, bèn dùng đại phương tiện thương xót kẻ kia bảo với ông ta: "Vì các đệ tử của Ta dứt được hết biên vực khổ, khéo thông đạt Kinh, Luật, Luận xuất thế gian, đã đoạn trừ các phiền não". Lúc ấy, đức Thế Tôn vì ngoại đạo kia nói kệ:
Ngươi dẫu như rồng lớn
Còn bị tham nhiễm ô
Nơi hai việc khen chê
Tâm hãy còn loạn động
Thân nếu có ung nhọt
Ruồi nhặng tất theo đuổi
Xoay vần trong ba cõi
Như giòi trong bãi phân.
Ngoại đạo kia nghe Phật nói rồi, tâm sanh giác ngộ, bên dùng kệ tán thán Phật:
Như Lai bậc xuất thế
Tuệ nhật xua bóng đêm
Huống gì con trí kém
Do đâu được hiểu biết?
Giá như trong nhiều kiếp
Lại dùng trăm ngàn lời
Xưng tán công đức Phật
Không kể hết phần nhỏ
Phật là Tiên trong trời
Biết các hành chúng sanh
Ở trong bốn uy nghi
Chỉ lợi lạc hàm linh.
Bấy giờ trong thành Xá vệ, có nhiều ngoại đạo và các Bà-la-môn, những trí giả thông tuệ nghe Phật đến đây, đều tranh nhau tới cật vấn. Đức Như Lai theo phương tiện, tùy nghi vì họ mà giảng nói như sư tử gầm làm muôn thú kinh sợ, thảy đều khiến hiểu rõ, lìa các tối tăm, ngu si. Lúc ấy có một trí giả là La-hộ-la, nghe rồi bèn tán thán công đức Phật, nói kệ:
Đấng đại bi vô thượng
Chuyên tu hạnh lợi tha
Không mong cầu danh tiếng
Cùng lợi lộc thế gian
Trước đản sinh vương cung
Nhìn xem khắp bốn phương
Hiện mỉm cười, tư duy
Đều vì cứu muôn loài.
Lại có đồng tử Diệu Tý cũng nói kệ tán thán đức Phật:
Đấng Mâu ni, đại tiên,
Khéo nói các pháp yếu
Lìa lỗi, không mong cầu
Người nghe đều được lợi
Chư Thiên và người đời
Đều cung kính cúng dường
Quy mạng đấng Thập lực
Cúi mong được thâu nhận
Rừng Kỳ Đà, vườn Cấp Cô Độc này, do năm nguyên nhân khiến mọi người yêu thích:
1. Rộng lớn ở khoảng giữa của một thành.
2. Các vị Tỳ-kheo đi khất thực không xa.
3. Vắng lặng, xa các sự ồn ào.
4. Sạch sẽ, không có các loại ruồi, muỗi.
5. Bậc thiện nhân phần nhiều du hóa ở đây.
Cho nên, đức Thế Tôn rất vui thích chốn này an trụ trí như thật, lìa các hạnh không biết hổ thẹn hết thảy các công đức nương tựa mà hiển hiện, đầy đủ mười lực, phước trí trang nghiêm. Là bậc đạo sư đệ nhất của thế gian, có thể khiến thiện căn của chúng sanh được thành thục. Giống như hoa sen vươn lên từ bùn nhơ, lợi mình, lợi người thảy đều viên mãn.
Lúc ấy, vua Thắng Quân cùng dân chúng và các ngoại đạo, Bà-la-môn v.v... thảy đều đi đến tinh xá Kỳviên, chắp tay, chí tâm đảnh lễ nơi chân Phật. Bấy giờ, đức Phật, Thế Tôn vì thương xót thâu nhận các chúng hữu tình, phá trừ các dị kiến, khiến sanh tín giải. Do nhân bất thiện nên dong ruổi, trôi nổi trong năm đường. Phải nương chánh pháp mà cầu xuất ly. Vì chúng kia, tuyên thuyết pháp sáu niệm. Này các thiện nam! Ở trong pháp của ta, tín thọ những điều dạy bảo, đủ các chánh kiến. Đấy gọi là niệm Phật. Nếu vui thích nghe chánh pháp một cách rộng lớn, tư duy như lý. Đấy gọi là niệm Pháp. Đối với các Tỳ-kheo thường sanh khởi ý tưởng tôn trọng là thiện tri thức. Đấy gọi là niệm Tăng. Đối với các pháp thiện, vui thích thâu nhận đầy đủ uy nghi. Đấy gọi là niệm Giới. Thường dùng vật thực cúng dường cho Phật và Tăng, trụ trong nhân như thế. Đấy gọi là niệm Thí. Thường vui thích lễ kính chư Đại Bồ-tát, thuận theo lời Phật dạy. Đấy gọi là niệm Hiền Thánh.
Nếu các chúng sanh nương theo lời Phật dạy, an trú nơi tư duy chơn chánh sẽ trừ được nghi hoặc nương tựa chánh niệm thì không tán loạn. Đây là sáu niệm sanh trưởng các điều thiện. Vì nghĩa gì gọi là Tỳ-kheo? Đó là vì thường dứt hẳn các phiền não, các khổ hiện hữu ở thế gian: "Sanh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ưu bi khổ, năm thủ uẩn khổ, cầu bất đắc khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ. Vì các khổ như thế đều đã đoạn tận".
Ở đây nhằm làm rõ cái khổ của năm thủ uẩn nơi thế gian mà nói như thế.
Sanh nghĩa là gì? Như đức Thế Tôn nói: Các chúng hữu tình kia, tạo tác các loại hành nghiệp chiêu cảm lấy mạng căn, uẩn, xứ, giới v.v.. lần lượt nối nhau, Năm căn phát sanh. Vì năm căn sanh, chúng đồng phận sanh, do đấy tăng trưởng, hình sắc tròn đầy. Đây gọi là Sanh.
Lão nghĩa là gì? Như đức Thế Tôn nói: "Hành uẩn biến hoại, các căn suy yếu thân hình lọm khọm, thịt xương khô héo, da dẻ nhăn nheo, sanh nhiều nốt đen, cử chỉ chậm chạp, đi đứng phải nương tựa, mệt mỏi không chịu nổi phải nhờ người trông coi, giúp đỡ. Tướng lão như thế ở đây có hai loại:
1. Phải nhờ người giúp đỡ.
2. Không chỗ nương cậy. Đấy gọi là Lão.
Bệnh nghĩa là gì?" Như đức Thế Tôn nói: "Tứ đại thêm bớt, Giới không bình đẳng, giống như rắn độc, sanh khởi các khổ não. Đây có hai loại:
1. Bệnh phát khởi ở bên trong.
2. Các duyên ngoài làm tổn hại. Lại có ba loại:
1. Do nghiệp báo chiêu cảm.
2. Tai nạn bất ngờ làm tổn hại.
3. Bị kẻ khác chú yếm.
Phân biệt chi li thì có vô số loại, đó là bệnh phong, vàng da, bệnh đàm, ghẻ lở, cùi hủi, ung thư, ho hen, dịch tả, nóng sốt, gầy ốm, đau đớn v.v.. Đây gọi là bệnh.
Tử nghĩa là gì?" Như đức Thế Tôn nói, đó là chúng hữu tình kia, xả bỏ chúng đồng phần, các uẩn tán loạn, hơi ấm dần dần nhỏ yếu, mạng căn đoạn diệt. Đây có hai loại
1. Tự tận.
2. Đi đến.
Loại đầu lại có ba, đó là mạng căn tuy hết mà phước báo chưa hết; hoặc phước tuy hết, mà mạng chưa hết; hoặc mạng và phước cùng lúc đều hết. Loại thứ hai, đi đến cũng có ba loại:
1. Tự đi đến (Bắt thú dữ v.v...)
2. Kẻ khác đi đến (Bị cướp v.v...)
3. Mình người cùng gặp nhau (như đánh nhau v.v...). Lại có ba loại:
1. Phóng dật.
2 Hủy phạm giới.
3. Báo tận.
Do vì phóng dật đoạn mất tuệ mạng. Do vì hủy phạm giới, phá các uy nghi. Do vì báo tận, quyến thuộc nội ngoại vây quanh buồn thương, luyến tiếc, không nỡ bỏ đi. Đây gọi là chết.
Thế nào gọi là ưu? Trong lòng buồn lo như bị lửa bức bách. Lại cũng như mặt trời nóng đun nước như nước sôi. Đây gọi là ưu.
Thế nào gọi là bi? Khóc lóc rơi lệ, nghẹn ngào không nói được, như người con hiếu tưởng nhớ cha hiền và những người thân khác. Hết thảy đều như thế, ý không tĩnh lặng. Đây gọi là bi.
Sao gọi là khổ? Cay đắng độc hại, trái lại với vui, cùng năm thức thân, tương ưng lãnh nạp. Đây gọi là khổ. Sao gọi là não? Ví như cây khô, dùng lửa đốt bên trong, khiến cho hữu tình kia phiền muộn bực tức, buồn lo, rối loạn. Cùng với Ý thức thân tương ưng, lãnh nạp. Đây gọi là não.
Thế nào gọi là cầu bất đắc khổ?" Đó là đối với những việc tương ưng mong cầu, chưa được như ý, tâm sanh mệt mỏi. Như bánh xe của người thợ gốm, tâm nầy chuyển động theo.
Thế nào gọi là ái biệt ly khổ? Đối với cảnh vui vẻ, quyến thuộc xứng hợp, sắc tướng hiện có sát na đổi khác. Sao gọi là oán tắng hội khổ? Đó là đối với hết thảy người không xứng hợp nhau cùng sanh lòng chán ghét, không ưa thích nhau mà lại gặp gỡ.
Những loại khổ thứ tự từ sanh… được trình bày trong đây nếu lần lượt cầu tìm thì đều là nóng nảy, buồn bực. Như con hươu trong đồng vắng bị lửa bao quanh, không thể tự thoát ra, tất sẽ bị đốt cháy. Chỉ trừ đức Như Lai, lúc mới đản sanh, tăng trưởng pháp thiện, tịch tĩnh yên ổn, thể tánh tự nhiên, lìa các sự bực tức, buồn lo, như trong khế kinh, kệ nói:
Chư Phật ra đời, vui
Diễn thuyết chánh pháp, vui
Chúng tăng hòa hợp, vui
Khiến tu các hạnh thiện
Nếu Phật không độ đời
Ba cõi sao được vui
Do vì Phật xuất hiện
Chúng ta được yên vui
Do các chúng hữu tình lấy chủng tử bất thiện làm nhân nên thường sanh trưởng cảnh giới cây khổ, thường bị lửa khổ nơi ba độc thiêu đốt. Đối với những sự giàu vui của thế gian kia, chỉ nghe người khác nói. Do đâu hiểu biết, rong ruổi trong chốn đồng hoang, ác đạo hiểm nạn, đá sỏi gai gốc, phải chịu nhiều nổi gian khổ, để cầu tự cứu giúp, không chỗ nương về. Những hữu tình như thế, thuở xưa thiếu kém gốc thiện, chìm đắm trong ác đạo, luân hồi bất tận. Như kẻ phường chèo, thay đổi hình sắc. Ví như được làm người, thì phải sanh vào nhà bần cùng. Thời gian ở trong thai mẹ phải chịu nhiều nỗi đau khổ.
Thế nào hữu tình ở trong bào thai, chịu nhiều nỗi khổ não? Như đức Thế Tôn nói, lúc mới kết sanh, nắm lấy hai vật bất tịnh trắng, đỏ của cha mẹ làm duyên, dần dà tăng trưởng, biến thành hình chất, ở dưới sanh tạng, ở trên thục tạng. Ở khoảng giữa, rất nhơ nhớp tanh hôi. Mẹ, hoặc khi ăn no, hoặc khi đói khát, các phần thân chuyển động và lúc nhiễm dục, đều phải chịu khổ. Lại khi sắp sanh, ở trong thai mẹ, không muốn ở lại, khởi tưởng bất tịnh, hướng đến sản môn. Lúc hai tay (của người mụ) vừa chạm đến phần thân của thai nhi, phải chịu khổ sở vô cùng, bực bội khổ não cùng cực. Trẻ sơ sanh kia, do vì đói khát, cất tiếng kêu khóc, hướng đến mẹ mong cầu sữa. Lại, sữa của người mẹ vốn do máu huyết chuyển biến thành. Hoặc ăn không no, phải chịu bực bội phiền não. Dần dần trở thành anh nhi, nằm nơi phẩn tiểu, hoặc lúc đùa giỡn, rơi xuống hầm hố, mương rảnh Đây gọi là nỗi nhiệt não nhận chịu lúc đã sanh. Những người thế gian khác cũng đều như thế.
Lại, hữu tình kia, tuổi dần lớn lên, sắc lực đầy đủ, khỏe mạnh, kiêu căng phóng túng, niệm niệm chỉ tìm cầu cảnh trần năm dục. Do vì tuệ nhiễm tham đắm, không buông bỏ, tự gánh lấy dục tình nầy, mau chóng đi đến tử vong.
Thế nào là già suy có các khổ? Hình sắc gầy yếu, mặt cong má hóp, răng cỏ thưa rụng lông tóc thưa thớt bạc trắng. Cổ, tay, ngực, hông thảy đều trơ xương, Sức nóng dần dần suy yếu. Ăn uống ít ỏi giống như loài chim nhốt ở trong lồng, ngày càng hao gầy. Chỉ còn một nhúm lông. Sáng có làm điều gì, chiều liền quên mất. Lúc đầu muốn thí giúp, về sau lại biếng trễ thối lui. Nói năng như trẻ con, không có chừng đổi, Hoặc có khi suốt ngày, miệng không muốn nói. Ngày đêm chỉ chăm chăm ngủ nghỉ, nhưng ngủ không say. Ho hen cả ngày. Muốn nói những nỗi khổ bức bách, mà lời lẽ không rõ ràng. Như người đi xa, không thích ở lâu. Việc làm của mọi người khó có thể vừa ý. Chỉ một việc không vừa lòng nhỏ thì liền sanh ý buồn phiền. Bạn bè an ủi, khuyên lơn, nên tự an ổn. Mắt trông thấy mọi vật mà không thể thọ dụng. Những việc vui chơi chỉ tai nghe nói. Ý muốn dạo chơi mà chân không thể cử động. Phải nương nhờ ghế, gậy, lấy những vật nầy làm bạn. Bị phụ nữ cười khinh. Nhân nghĩ lại trước đây, các căn khỏe mạnh, thọ hưởng các thú vui mà nay trong sát na biến hoại, tự mình rất hối tiếc. Sống lâu mà làm gì" Đây gọi là hành tướng phiền não bức bách của tuổi già.
Thế nào là nổi bức bách của phiền não, nói bệnh khổ?" Đó là những kẻ ngu mê, lúc tuổi thanh niên, sắc đẹp, khỏe mạnh, phóng túng, đắm trước dục lạc. Dần dà trở nên yếu đuối bệnh tật triền miên, khổ não hiện tiền. Người tốt trông thấy, sanh lòng thương xót, dùng lời hay lẽ phải khuyến dụ, khiến cho kẻ kia thổ lộ, tỏ bày. Nghe rồi sanh lo sợ, sợ phải đọa vào cõi ác. Thân hình đẹp đẽ, dung mạo đoan nghiêm, bị bệnh tật xâm chiếm. Những món ngon vật lạ, không thể ăn uống. Tuy ở nơi giàu sang mà như kẻ nghèo hèn. Bậc trí giả ở thế gian thường tự xem xét. Nên biết bệnh khổ không thể yêu thích, như mưa đá làm hại lúa mạ, làm đình trệ, tổn hại sự tươi tốt, sum suê. Như con rùa ở đất liền thường nhớ nghĩ đến nước. Như mặt trăng lúc ban ngày không có ánh sáng. Như kẻ khát nước, rơi vào giếng khô. Như đèn cạn dầu, không thể cháy lâu. Như tường vách cũ mục không có bền chắc. Như đứa trẻ si mê đần độn bị mọi người khinh khi. Như voi điên cuồng, phá hoại ao hoa sen. Đây gọi là phiền não bức bách của bệnh khổ. Thế nào là người ngu?" Luôn luôn tham cầu, đắm trước, làm giảm tổn thọ mạng, thiêu đốt căn lành. Bị vô minh che phủ, sinh sống bất chính, mong cầu bất chính. Tham đắm vật thực ăn uống, y phục thế gian. Thân phiền não, tâm phiền não, hủy hoại chánh trí, không vui thích nương ở nơi chốn núi rừng tịch tĩnh, thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa không thể giữ gìn tịnh giới bền chặt. Do đâu có thể đi đến bờ giác ngộ kia. Nếu tâm vắng lặng, từ bỏ cảnh dục. Hoặc các hành phóng dật đã tạo tác trước, thảy đều chán ghét, không nghĩ tưởng lại, như kẻ thâm thù, lòng không thích thấy. Như bả xác mía, không còn vị ngọt. Như đốt mầm cây khô, khiến cháy sạch không còn sót lại gì. Nếu nhận thức được như thế, người này không bị vua Diễm ma la bức bách. Như những người nữ, rất nhiều tham lam, ôm lòng ganh ghét, thích làm chúa tể. Giống như bình nứt tích chứa vật bất tịnh. Như âm tàng ngựa cái, thật đáng chán ghét. Như lấy thuốc độc trộn vào thức ăn ngon. Như kẻ oán thù cầm kiếm không nên cúi gần. Như đống lửa kia, chạm vào thì sanh nóng bức khó chịu. Nếu ham thích dục cảnh, tâm tất rối loạn, phá hoại các phạm hạnh. Như người không có giới luật, chặt đứt nhân an lạc, diệt mất tuệ mạng, thần chết hiện tiền, một mình đi đến, vào chốn hiểm nạn, không người cứu giúp, đều do nhiễm dục, sanh khởi vọng niệm, không hổ không thẹn, bỏ hạnh tri túc, bị người đời chê trách đủ điều.
Thế nào gọi là Tử?" Như có kệ nói:
Tuệ là mắt thù thắng
Si là bóng tối dầy
Bệnh ắt do oan nghiệp
Chết là nỗi sợ lớn
Phải vui thích chánh pháp
Dùng tuệ tu điều thiện
Do đấy lúc mạng chung
Nhất định lìa hiểm nạn.
Lại do nghĩa gì mà gọi là ưu? Đó là các hữu tình, do vì tham dục, chìm đắm trong nỗi lo sợ. Giống như mãnh thú bị lửa bao vây. Như cá ở vực sâu, bắt bỏ trên đất liền. Như vào trong biển lớn thuyền bè bị tổn hại, trong lòng buồn lo, sợ mất thân mạng. Như dùng một ít nước nhỏ trên hòn sắt nóng. Sắp vào cửa tử, mạng không dừng lâu. Thí như trong nồi nấu đậu, nước sôi vọt lên đầy khắp. Lại đun thêm củi khô. Những người thế gian kia, thân ở trong nhà bị nỗi buồn lo bức bách, các căn suy kém, tiều tụy, lòng không chút tạm an. Như lấy bình tô, đặt gần nơi lửa nóng, nên biết không lâu tất sẽ chảy tan.
Lại do nghĩa gì mà gọi là bi? Đó là các hữu tình, trước có tài sản vật báu, không thường giữ gìn, thân lại lười biếng, đi đến chỗ nghèo khổ, quần áo rách rưới, sắc diện tiều tụy, cổ họng cháy khô, ý lời buồn thảm. Nghĩ lại trước kia giàu có, nay không thể có được.
Lại do nghĩa gì, gọi là khổ? Đó là các hữu tình làm các hạnh phi pháp, thân phạm đến lưới pháp luật. Dao, gậy, thuốc độc, hoặc bị loài phi nhân đâm chém giết hại, cho đến mất mạng, chịu nhiều nỗi đau khổ độc hại.
Lại do nghĩa gì mà gọi là não? Đó là các hữu tình, lời nói hung dữ cùng thêm vào, như trúng phải tên độc, các căn não loạn, hoại mất tưởng vui.
Lại sao gọi là cầu bất đắc khổ? Hoặc các hữu tình, vui tu tập chánh pháp, mà không thể hiểu biết, thân tâm khổ nhọc. Hoặc do phóng dật, đa cầu mà không được toại nguyện; phát sanh bực bội, phiền muộn. Không mong, không cầu, tâm tốt yên vui.
Lại sao gọi là ái biệt ly khổ? Đó là đối với những thú vui như quyến thuộc, bạn bè hòa hợp, an ổn, bỗng nhiên ly tán, trong lòng cảm thấy nuối tiếc, sanh phiền muộn.
Lại sao gọi là oán tắng hội hội khổ? Đó là chúng hữu tình kia vui đắm tham dục, cầu nhiều tài lợi, cùng nhau tranh giành mà kết oán sâu. Hoặc bị vợ con, ân ái ràng buộc giống như gông cùm, không được tự tại. Phải biết nữ sắc khiến người mê loạn, lời nói của họ dịu dàng như hoa câu mâu na, kẻ ngu ưa thích, tiêu hao sắc trẻ, không lâu sẽ khô héo, tiều tụy. Như tiên nhân Kiều đáp ma cho đến chư Thiên, tham vướng nhiều dục lạc, như củi gần lửa tất sẽ bị đốt cháy, nên Tỳ-kheo thường phải xa lìa. Nếu thân cận dục lạc kia, sẽ chịu cái khổ bậc nhất. Hết thảy thế gian, chư thiên và loài người, đều bị lửa dục bức bách khắp cả. Hiện tại chiêu cảm các khổ, chết đọa vào đường ác, bị mười ba đám lửa vây quanh thiêu đốt. Phật là đấng cha lành của chúng sanh ở thế gian, vì thương xót chúng kia mà nói kinh này.
Các địa ngục được nói đó có mười ba loại:
1. Đều sống.
2. Sợi dây đen.
3. Chúng hợp.
4. Kêu la.
5. Kêu la lớn.
6. Thiêu đốt.
7. Thiêu đốt cực dữ.
8. Không gián đoạn.
9. Tro nóng.
10. Thây phẩn.
11. Mũi nhọn.
12. Rừng kiếm.
13. Sông tro.
Địa ngục như thế, các hiểm nạn hung dữ, vô lượng khổ não tụ tập ở bên trong. Vô số hữu tình tạo các nghiệp ác, mạng chung đọa vào cõi kia, thọ lãnh nhiều loại khổ. Bị các ngục tốt trị phạt bằng nhiều cách: "Dùng chùy sắt nóng, giận dữ đánh đập, hình thể nát nhừ, máu chảy khắp cả. Các lóng, khớp xương thảy đều đốt cháy. Hoặc lại nắm chân, ném vào hầm lửa. Giơ tay hốt hoảng. Tiếng kêu khóc ghê sợ. Lính của vua Diễm ma kia, hung ác rất đáng ghê sợ. Những người thọ tội, trông thấy hãi hùng. Hoặc lại rảo chạy vào trong ngục tro nóng. Da thịt, gân cốt chân dưới đều tiêu tan. Do vì ác nghiệp, vừa trở gót thì sống lại. Lại có thây chết, phẩn dơ cực nóng, sâu rộng. Mùi hôi thối không thể ngửi nổi. Lại có loài trùng mỏ sắt gọi là Cô-noa-ba, qua lại trong đống phẩn thây ấy, cắn rút chân của người tội, suốt thịt thấu xương, lấy tủy mà ăn. Lại dùng vô số mũi nhọn thứ tự bày bố thành hàng mà làm đường đi, rồi xua đuổi những tội nhân kia khiến chân giẫm đạp lên trên. Lại bị gió mạnh, thổi chạy lên trên. Do trốn những sự khổ, chạy vào trong rừng lá gươm. Vô số mũi kiếm nhọn từ trên hư không phóng xuống, đâm cắt thân hình, không chỗ nào không chặt phá.
Lại có con sông lớn, nước tro đầy tràn, sóng cả vọt lên, luộc nấu những tội nhân kia. Ở hai bên bờ, có các ngục tốt, tay cầm chĩa ba, qua lại đâm chĩa, phải chịu những nỗi khổ rất nặng nề. Hoặc lúc quá chán nản, cũng có kẻ chạy trốn như cá lủi xuống bùn, liền dùng lưỡi câu sắt, móc vào môi kéo lên. Dùng tấm lưới sắt to, kéo, đặt lên rất nóng: Lửa to cháy hừng hực, lật qua lật lại thiêu nướng. Lại lấy kìm sắt banh miệng ra, rồi lấy nước đồng cưỡng bách rót vào. Hoặc hòn sắt nóng, bức bách khiến ăn nuốt. Răng, nướu cổ, lưỡi, mỗi mỗi đều bị cháy tiêu. Từ cổ họng suốt đến dưới, thảy đều bị thiêu đốt.
Lại có hai hòn đá, dùng kèm cặp thân hình, từ đầu đến chân mà cưa xẻ. Ngục tốt hung ác giống như voi say, nộ khí bốc lên, lông tóc dựng đứng. Ngôi sao lửa cháy tán loạn khắp nơi, rượt đuổi những tội nhân kia. Nằm trên giường sắt, dùng dây công kích, hoặc chém chặt, hoặc đục đẽo. Lửa hừng hực bốc lên khắp nơi, chỉ nghe tiếng kêu khóc.
Lại có ngọn núi từ trên hư không rơi xuống, đè bẹp những tội nhân kia, thân hình. tứ chi đều tan nát. Tuyệt vọng ngã khuỵu xuống đất, một hồi lâu mới sống lại. Có các ngục tốt, bộ dạng xấu xí hung ác, hoặc cầm búa bén, hoặc côn gậy, vòng đao, cung tên, chày vồ, máy bắn đá, gậy sắt nóng cháy... các loại khí cụ khổ hình, tra khảo đánh đập tội nhân.
Lại có trăm ngàn ngọn lửa hung dữ từ bốn hướng bay đến, tụ họp trên thân người tội như đốt một khúc cây, thảy đều cháy rụi.
Lại dùng dao bén mà lấy lưỡi, hoặc chặt hoặc cắt ra làm trăm ngàn mảnh. Cho đến hết thảy chi phần của thân hình, bỗng nhiên tan tác như áng mây nổi.
Lại bỏ tội nhân vào trong cái hủ bằng sắt nóng cháy. Lửa hừng hực bốn phía bức bách. Nước sôi sùng sục tràn đầy, nổi lên chìm xuống, giống như nấu đậu. Thân thể căng phồng, nứt xé ra. Da thịt tiêu tan, chỉ còn lại những khớp xương, vương vãi trên mặt đất. Gió nghiệp thổi lên, sống lại như cũ. Các nỗi thống khổ như thế thật đáng kinh sợ. Những người bị đọa vào địa ngục này không thể thoát khỏi.
Lại có địa ngục băng lạnh rộng lớn. Có đống tuyết to cao như núi, gió mạnh rét buốt thổi rót vào không dứt. Có vực sâu lớn, kết thành cối băng, y như được thủy tinh tạo thành. Có các ngục tốt xua đuổi những tội nhân kia, vào hết trong ngục. Bị khổ lạnh lẽo bức bách, phát ra tiếng kêu la buồn thảm. Lại có hai cái chày, thay nhau cất lên, hạ xuống mà đâm giã tội nhân, khiến thân thể của họ nát nhừ như đám bọt nước. Gió nghiệp lại thổi lên làm sống lại, như trước không khác. Thọ khổ lâu dài, nghiệp dứt mới được thoát ra. Những hữu tình kia đều do nhân duyên tuệ nhiễm dục tà, đối với thân sắc của kẻ khác, mê đắm không buông bỏ, Vì tham một chút vui nhỏ nhoi mà phải chịu khổ báo vô cùng. Cho nên đức Thế Tôn sanh lòng thương xót, khởi tâm đại bi mà nói kinh này.
Này các Tỳ-kheo! Các loại nhân khổ hiện hữu ở thế gian, sanh là cội gốc. Nếu không có duyên sanh, thì luân hồi tự dứt. Huống chi là vô lượng nỗi khổ của sanh ở vị lai. Do vì có sanh ắt có Sắc uẩn. Do vì Sắc uẩn nên có Thọ uẩn. Do vì Thọ uẩn nên có Tưởng uẩn. Do vì Tưởng uẩn nên có Hành uẩn. Do vì Hành uẩn nên có Thức uẩn. Thứ tự như thế nối nhau sanh khởi, tăng trưởng nhóm khổ, luân hồi không dứt. Ví như đám giặc xâm nhập vào hoàng thành, tung hoành đốt phá, cướp giật sách nhiễu lê dân. Năm uẩn như thế, nương nơi thành Thức kia, sanh khởi các phiền não, làm tổn hại các căn.
Lại, già, bệnh, chết đối với các thế gian, làm tổn hại sự an vui, thật không đáng yêu thích như ba loại oan nghiệp, thường theo đuổi:
1. Thường cầu oán hận, lỗi lầm.
2. Khiến rơi vào chốn hiểm nạn.
3. Dò xét, đoạn diệt mạng căn.
Cho nên các Tỳ-kheo thường phải tu tập chánh hạnh lọng phước, thọ trì kinh điển, như chỗ giảng thuyết mà tu hành. Giá như các oán già bệnh chết vây quanh, không sanh hoảng sợ. Ở trong đường ác hiểm nạn ắt có thể siêu việt. Bậc đại trượng phu nầy được lợi ích hai đời. Như hoa sen trong lửa thật là hy hữu, ắt được an trụ trong cái vui vi diệu, tịch tĩnh. Các Tỳ-kheo! Thể tánh của phước báo kia được chỉ bày chân chánh từ nhân đến quả, đều đáng yêu thích, cho đến phát sanh pháp thiện vô lậu. Nghiệp thân, ngữ, ý đều được thanh tịnh, an trụ không thối chuyển, được thọ ký Đạo, như trăng tròn mùa thu, tỏa ánh vàng lấp lánh, hết thảy thế gian đều được lợi ích.
Vui thích bố thí rộng lớn, không có giới hạn. Những người đến xin, đều cung cấp cho, khiến cho chúng hữu tình sanh tâm vui vẻ. Như vị tướng chiến thắng tâm mạnh mẽ tiến lên. Như nương vua hiền, lòng được yên ổn. Ví như biển lớn dung nạp các dòng sông. Như núi Di Lô, kiên cố, an ổn, bất động. Hết thảy chúng sanh, cung phụng như cha mẹ. Được các thế gian cung kính cúng dường. Đạt được sự tốt lành thù thắng bậc nhất. Được thân thích, bạn bè khen ngợi. Hết thảy chỗ mong cầu đều được thành tựu. Rốt ráo vượt khỏi biển khổ luân hồi.
Nghĩa đây nói đến tự tánh của phước báo, giống như vật dụng bằng vàng, bền chắc đáng yêu. Là chỗ nương tựa tốt đẹp nhất của các chúng sanh. Tự tánh của phi phước không đáng yêu thích, giống như cái bình đất, nhất định bị hư hoại, khiến cho các chúng sanh lưu chuyển trong đường ác. Như cái lọng ở thế gian, được người cầm giữ đi khắp bốn phương, che ngăn nắng nóng. Được làm khéo léo, không lâu cũng sẽ hư hoại. Như thế, chánh hạnh lọng phước duy trì khả năng trừ bỏ các nỗi nhiệt não vốn có của sanh v.v..., và sự thiêu đốt của lửa địa ngục, làm cho thành tựu của các điều thiện giữ gìn không bị hư hoại. Như ở trong thành Xá vệ, có một nữ trưởng giả sánh đôi với một người con trai cùng tộc tánh. Sau sanh được một đứa con, hoang phí vô độ ngày càng suy kiệt túng quẩn. Người chồng nói với vợ của mình: "Ta sẽ đi đến phương xa gắng sức làm ăn, nàng phải thương nghĩ chuyện nuôi dạy con". Năm tháng trôi qua, người chồng đi vẫn chưa về. Đứa nhỏ tuổi đã lớn lên, dần dần sanh phóng túng, cùng với người con gái gần bên, lần hồi sanh lòng yêu thích. Người con gái kia bèn cởi dải buộc tóc báu trao cho người con trai. Về sau, người mẹ biết được câu chuyện bèn dùng lời lẽ dịu dàng, khéo léo, khuyên răn đủ cách: "Con ta không nên vui với những chuyện thấp kém như thế, phải tự giữ gìn cẩn thận chớ để lòng ta lo". Thế rồi, ngày càng gia tăng xem xét, bó buộc, không để cho rong chơi nữa. Ban đêm, xếp đặt giường của mình ở ngoài cửa phòng ngủ của con. Cậu con trai, một chiều kia, bị tham dục quấy nhiễu, nằm xuống rồi lại ngồi dậy, giây lâu, không kham nổi bèn xin mẹ mở cửa để đi tiểu tiện. Người mẹ bảo: "Ở đây có chậu không phải ra ngoài". Bị mẹ kiểm soát chặt chẽ, lòng dục tăng lên, bèn khởi ý ác, giết hại mẹ mình. Đã tạo tội ác này rồi, lòng rất hoảng sợ, bèn đi đến già lam, thưa: "Bạch Đại đức! Con muốn xuất gia, xin rủ lòng thương xót thâu nhận". Bấy giờ các thầy Tỳ-kheo không thể xem xét, cật vấn, tìm hiểu duyên do của cậu con trai, bèn cho thế phát. Sau khi đã làm Tỳ-kheo rồi, trốn đi xa khỏi nước kia, Dõng mãnh tinh tấn, kiên cố giữ gìn tịnh giới, tu tập thiền định, vui tụng kinh điển. Nơi chốn kia có vị Trưởng giả, thấy vị Tỳ-kheo này, đầy đủ giới đức như thế, phát tâm cúng dường, kiến tạo già lam, thỉnh vị này làm chủ. Tăng chúng khắp nơi, đều đến nương tựa. Lúc ấy, vì Tỳ-kheo này vì đại chúng mà thuyết giảng kinh điển Đại thừa. Lại khiến tu tập thiền định thích hợp, bốn sự cung cấp không có chỗ thiếu khuyết. Lúc ấy đại chúng tu tập siêng năng, không chút biếng trễ. Dần dà, có vị chứng quả A-la-hán. Nhưng vị Tỳ-kheo này, về sau, lại bị bệnh khổ. Dù được uống các loại thuốc hay nhưng bệnh tình càng lúc càng tăng. Bèn triệu tập chúng tăng, khéo bày lời hối tạ: Sai lầm đảm nhiệm ngôi chủ, khinh mạng chúng đức. Cũng vậy, làm não loạn các chúng đệ tử. Rất mong đại chúng từ bi, bố thí cho sự hoan hỷ. Những kẻ thường tình đều chết. Bậc cao quý cũng phải qua đời. Hòa hợp tất có biệt ly, có sanh ắt có diệt. Nói lời này xong, hốt nhiên mạng chung. Khi đó, đại chúng và các đệ tử của vị kia cùng tạo việc thiện lợi để trợ giúp phước báo u minh cho thầy mình, bèn bàn bạc với nhau: Thầy của chúng ta quy tịch, chưa biết thần thức sanh về chốn nào. Trong chúng đệ tử có vị chứng Thánh quả, bèn nhập định xem xét. Bắt đầu ở các cõi trời, kế đến chốn nhân gian, cho tới cõi Ngạ quỉ, Súc sanh, thảy đều không thấy. Bèn lại xem khắp trong các địa ngục. Mới biết thầy mình đọa vào ngục Vô gián. Vị đệ tử thấy rồi, sanh lòng nghi hoặc: "Đại Hòa thượng của chúng ta. lúc lại thế, kiên trì tịnh giới, đa văn, biện tài, tu hành tinh tấn, chưa từng tạm bỏ, thâu nhận cung cấp cho chúng tăng khắp nơi. Nhưng do duyên cớ gì mà lãnh thọ quả báo nặng nề này?" Vị đệ tử kia lại nhập định quán sát, mới thấy nhân trước từng sát hại mẹ của ông, do vì quả báo này phải đọa vào ngục Vô gián. Lửa cháy hừng hực, thiêu đốt thân hình. Bị các ngục tốt chửi mắng đủ cách: "Ngươi lúc ở thế gian, vô trí, thấp hèn tạo các tội ngỗ nghịch này, khiến ai chịu?". Nói rồi, ngục tốt liền lấy chày sắt cực nóng, đập nát đầu của tội nhân kia, máu chảy rất thê thảm, khổ nói không nên lời. Lúc ấy, vị đệ tử chứng đại A-la-hán, thấy việc này rồi, bèn vận năng lực bi nguyện, dứt trừ khổ não, nương uy đức của Pháp, khiến tội nhân kia biết túc mạng, duyên niệm Tam Bảo, nối tiếp thiện căn, tức thời mạng dứt, sanh lên cõi trời Dạ Ma. Theo lệ thường các vị trời mới sanh, sau khi đã trụ ở cõi trời rồi, khởi ba suy nghĩ:
1. Quán sát thân trước thọ sanh loài gì?
2. Ở chốn nào thân hết, mạng chung?
3. Tu phước gì được sanh lên cõi trời?
Lúc ấy, vị trời kia sau khi đã quán sát những việc này rồi, mới biết thân mình trước tạo tội ngỗ nghịch, nhờ ân lực của Phật được sanh lên cõi trời ấy, do đấy mà khởi suy nghĩ thế này: "Ta nay một lòng, không có niệm tưởng khác, chỉ mong cầu thấy Phật, thân cận cúng dường để báo đáp hồng ân. Do phước lực cõi trời, tự nhiên có các báu anh lạc trang nghiêm thân, Vào lúc đầu hôm, thân phóng hào quang, chiếu sáng rừng Kỳ Đà, thảy đều hiện rõ. Trước đi đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật. Rồi lấy hoa sen đủ màu trên cõi trời, hoa Mạn-đàla, để rải trên Phật. Những hoa nầy nhóm lại cao quá gối. Đã dâng hoa cúng dường rồi, thối lui ngồi qua một bên.
Bấy giờ, Thế Tôn biết được suy nghĩ trong tâm của vị trời kia, bèn vì ông thuyết giảng hành tướng ba lượt chuyển pháp luân của Tứ đế. Nghe xong, giác ngộ liền được vị Kiến đế. Không rời khỏi chỗ ngồi, chứng được quả Dự Lưu. Chày trí Kim Cang cứng chắc vô lậu đập vỡ các núi Thân kiến, Tà mạng, Pháp Tứ đế này, chẳng phải là các Sa-môn và Bà-la-môn, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc có thể tuyên thuyết, chỉ Phật Thế Tôn, thương nghĩ đến biển máu và nước mắt của chúng ta, xương chứa như núi, đóng cửa nẻo ác mở đường sanh thiên, cứu khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, đều khiến an trụ nơi quả thiện Nhơn, Thiên. Lúc ấy, vị trời kia liền nói kệ:
Ta do nhiễm dục, tội lỗi sâu
Đọa vào trong địa ngục Vô gián
Nhờ ân lực Phật được sanh Thiên
Lại khiến chứng được đạo Niết-bàn
Ta nhờ nương tựa Pháp nhãn tịnh
Thoát hẳn luân hồi các đường ác
Và dòng Sanh tử vị lai kia
Được đến bờ giác ngộ tịch tĩnh
Ta nay được thấy đấng Mâu ni
Trong trăm ngàn kiếp khó gặp gỡ
Khéo vượt khổ nhân: "Sanh, lão, bệnh,
Nguyện thọ thế gian rộng cúng dường.
Lấy châu Anh lạc nguyện dâng hiến
Chắp tay nhiễu quanh tâm hoan hỉ
Nên ta đảnh lễ đấng lưỡng túc
Thường khiến Người, Trời sanh giác ngộ
Lúc ấy, vị Trời vượt lên khỏi nẻo ác, dùng kệ tán thán Phật rồi, tâm sanh hoan hỷ giống như thương chủ được tài lợi lớn. Như người nông phu gặt hái được mùa. Cũng như dũng tướng, đánh trận khải hoàn. Như người mắc bệnh lâu, mau chóng lành mạnh. Bấy giờ trong hội chúng, có một vị A-la-hán biết được nhân duyên đầu cuối của vị Trời kia. Do đấy nhớ lại vị Bổn sư của mình, viên tịch đã lâu, không biết ở chốn nào. Khi đó có một người đàn việt, thiết trai dâng cúng ở chùa, có một vị Tỳ-kheo, múc nước sạch mới trong phiên hành đường của mình, để phục vụ chúng tăng. Vị A-la-hán kia lấy bát bằng đồng trắng, nhận nước, muốn uống. Đầu ngón tay của ông chạm vào nước cực kỳ mát mẻ liền tự suy nghĩ. Thầy ta thuở xưa từng làm chủ chùa, không biết việc của đại chúng, sẻn tiếc các vật, tham đắm những vật nuôi sống, thường mong muốn thân sau sanh lại chốn nầy, có tội như thế, nếu đọa vào địa ngục biển đồng sôi, muốn uống nước cam tuyền này há có thể được sao?" Suy nghĩ như thế rồi, bèn nhập định tìm xem Bổn sư của mình. Tìm khắp trong các địa ngục, rồi đến chốn bàng sanh, ngạ quỉ thảy đều không thấy. Vị này lại suy nghĩ: "Há chẳng phải xưa kia gieo trồng thiện căn, nay được thành thục, thác sanh vào cõi tốt đẹp. Liền thứ tự, lần lượt quán sát khắp các cõi trời, mới thấy Bổn sư của mình sanh vào cõi Tứ Vương Thiên. Bấy giờ, tôn giả liền đi đến chỗ của Thầy mình, an ủi thăm hỏi, rồi nói với ông: "Con nghe cõi trời này, chỉ tu các điều thiện, giữ gìn tịnh giới chắc chắn, mới có thể sanh về. Thầy đời trước có tội tích chứa sao có thể về đây?" Vị trời này bảo với Tôn giả: "Tôi thuở xưa, từng làm chủ chùa, ngu si, hạnh ác không từng phát lồ, lúc sắp mạng chung, chí thành, khẩn thiết, chỉ có Phật Pháp Tăng là chỗ tôi quy y. Do đấy, duyên niệm ân lực của Tam Bảo, nương thiện căn này, được sanh về đây. Lúc ấy, Tôn giả kia nghe nói thế rồi, tâm thanh tịnh phát khởi, được điều chưa từng có. Tức ở trong đại chúng, người trời, bực hữu học, vô học, thốt lên ba lần: "Kỳ lạ thay”. Trình bày đầy đủ sự việc trên. Thần lực của Phật, Pháp, Tăng, công đức khó nghĩ bàn, có thể tiêu trừ vô lượng nỗi khổ cực nơi chốn địa ngục; có thể nuôi lớn vô lượng thiện căn của hữu tình. Đoạn trừ phiền não, xé tan các lưới nghi. Rốt ráo đi đến bờ giác ngộ. Những người có trí phải siêng năng tinh tấn, làm thanh tịnh thân, ngữ, ý; tu tập bố thí, trì giới, thiền định. Đây tức là có thể báo đáp hồng ân của chư Phật. Nhưng chúng hữu tình tánh dục mỗi người mỗi khác, dần dần khiến tu tập đầy đủ ba loại hành nghiệp này. Hoặc ưa thích hiện tại được giàu có, thọ dụng năm thứ dục, Thế Tôn phương tiện khuyến khích bố thí. Hoặc ưa thích sanh thiên, thọ những thú vui thù thắng, vi diệu, Thế Tôn phương tiện, khiến trì tịnh giới. Hoặc ưa thích giải thoát, xuất ly bờ khổ, Thế Tôn phương tiện, khiến tu tập thiền định. Cho nên đức Thế Tôn tuyên thuyết ba hành này, gọi là lọng phước, phải vâng làm đầy đủ. Ví như hai con quỉ tranh nhau ba món đồ: "cái tráp, đôi giày, cái chày. Cả hai, lời to tiếng lớn cùng tranh cãi với nhau. Nghe nói nơi chốn kia có Bà la môn, người này rất chính trực, có thể phân xử việc ấy. Hai con quỉ bèn khiêng ba vật đi đến chốn nọ, chắp tay thưa: "Bạch đại Bà la môn: "Xin ông vì chúng tôi chia đều những vật này". Vị Bà la môn nói: "Đây là vật nhỏ, sao phải tranh giành với nhau mà từ xa đến đây xin phân định?" Hai con quỉ nói: "Đây chẳng phải là vật nhỏ. Rất khó có được. Ông xem cái tráp nầy, là vật có thể biến hiện. Tùy theo ý muốn, đồ vật đều từ trong tráp nầy hiện ra. Còn đôi giày này, nếu ai mang vào thì có thể lên trời, thọ hưởng các sự an vui thù diệu, còn cái chày kia thì có thể đánh dẹp hết thảy oán địch, đều khiến phải lui tan". Vị Bà la môn nghe hai con quỉ nói thế rồi, liền bảo chúng lui ra đứng một bên, ông nói: "Ta nay sẽ vì các ngươi, suy nghĩ một chút, rồi phân chia ba món đồ này, mỗi người đều được bằng nhau. Vị Bà la môn kia nói xong liền vội vàng mang giày, rồi lấy cái chày và cái tráp, cỡi hư không bay đi. Hai con quỉ thấy thế, hối hận là đã cho kẻ kia biết được ba món đồ này nên bị ông ta chiếm hữu. Ở trong thí dụ này, phải khéo phân biệt. Bố thí như cái tráp, vì được như ý. Trì giới như đôi giày, vì được sanh thiên. Thiền định như cái chày vì có thể hàng phục chúng ma. Đây gọi là Thế Tôn nói Thí, Giới, Định, phương tiện thâu nhận lọng phước chánh hạnh.
Trong phần này lại nói rõ ba loại hạnh ác; đó là bỏn xẻn, phá giới và tán loạn, làm sanh khởi các tội lỗi, là căn bản luân hồi trong nẻo ác, thường phá hoại công đức của bố thí, trì giới và thiền định. Cho nên đức Thế Tôn dùng các cách hiển thị lỗi lầm của bỏn xẻn, giống như cấu uế vấy bẩn hữu tình, chiêu cảm lấy những điều bất xứng ý. Như thế, người bỏn xẻn tuy tích chứa tiền tài của báu nhưng không thường thí xả, thì giống như diều hâu, chim cú đậu giữa ngàn sen. Đối với cha mẹ, không thường cung cấp, Thân thích tụ họp thì lẫn tránh đi. Không tin lời hay tốt, không vui nghe kinh pháp. Ỷ mình giàu có, không hài lòng với vinh hoa của người khác. Giống như voi say, tánh khó điều phục. Cũng như rắn độc không ai muốn thấy. Người tốt thấy rồi, thảy đều lánh xa. Đối với nghiệp trước tốt đẹp không thích vui theo. Thấy người đến nhờ vả, lòng ắt khó chịu. Như ở giếng khô mà mong cầu nước. Lời nói thốt ra, người không muốn nghe. Theo chỗ đi đến, không có người cùng trò chuyện. Ở trong đại chúng thì như người ngu si. Qua ngả tư đường, giống như thây thúi. Người ngu si kia, tuy ở thế gian mà không thường xa lìa các lỗi xấu ác, không có thể hộ trì các công đức thiện, không thể nuôi lớn các chủng tử thiện. Người bỏn xẻn như thế tạo cái nhân bần cùng. Hiện tại tuy giàu có mà không thường thọ dụng. Người hạ mình đến cầu xin không thể thi ân một chút. Nên biết người này như rừng Thi Đà (rừng tử thi), mọi người ở thế gian không ai thích nương tựa. Nhân duyên bỏn xẻn này như trong kinh Đại Danh Trưởng Giả nói.
Lúc ấy đức Thế Tôn ở thành Xá vệ, trong khu vườn rừng Kỳ đà Cấp Cô Độc. Lúc bấy giờ trong thành kia có vị đại trưởng giả tên là Đại Danh, rất giàu có nhưng không có con bỗng nhiên mạng chung. Bấy giờ đại vương Thắng Quân, nước Kiều-tát-la nghe việc này rồi, vội đến nhà ông, bụi đất đầy mình. Đến rồi, thu lấy hết thảy kho tàng và các tài vật, tất cả đều giao cho quan lại. Việc xong, xa giá trở về, đi đến chỗ của Thế Tôn, đầu mặt lễ chân Phật, rồi lui ra, ngồi xuống một bên. Đức Phật hỏi: "Này Đại vương" Vì cớ gì mà vội vàng, bụi đất đầy mình, đến đây? "Nhà vua đem sự việc vừa rồi thuật lại đầy đủ cho Thế Tôn. Đức Phật nói: "Này Đại Vương" Vị Trưởng giả kia tài vật giàu có cỡ nào?" Nhà vua thưa: "Nhà ông ta rất giàu, có nhiều tài sản, vàng bạc, châu báu, kho lẫm các vật. Mỗi thứ có vô lượng trăm ngàn câu chi. Giàu có như thế, không người sánh kịp, thế nhưng ông ta chỉ dùng gạo giã thô to để ăn. Áo quần để mặc thì rách nát, cũ, xấu. Đi ra ngoài thì dùng xe cũ kỹ, kết lá làm lọng. Hễ lúc muốn ăn thì trước tiên đóng cửa lại. Mỗi ngày tuy có ăn uống nhưng chưa từng no đủ. Nếu như có Sa-môn hay Bà la môn, những người xin ăn. những kẻ đường xa lỡ bước, những người làm nghề... những người như thế đến xin ăn uống thì không có người nào từng được hứa cho chút ít". Lúc ấy, đại vương Thắng Quân lại thưa với Phật: "Bạch Thế Tôn" Xin vì con nói về trưởng giả Đại Danh, cái quả báo do lỗi lầm bỏn xẻn chiêu cảm, khiến cho người nghe đều được khai ngộ". Phật nói: "Này Đại Vương" Vị Trưởng giả như thế tuy là cự phú, nhưng không cung phụng cho cha mẹ, tự mình cũng không thường thọ dụng. Đối với phước điền thù thắng, không vui thích bố thí. Bạn bè quyến thuộc, chưa nghe ai được một chút ân giúp nào. Kẻ tôi tớ người giúp việc cùng dân chúng thảy đều lìa bỏ. Nên biết người này, tuy sống trong sự giàu có, nhưng do vì lòng bỏn xẻn nên không cùng thuận hợp. Như ở nơi bất tịnh mà sanh ra hoa sen. Như trong vườn rừng tốt đẹp, có con cọp dữ ngồi chực mồi. Như trong thức ăn ngon quý, bỏ thuốc độc vào đấy. Như châu báu ma ni, sinh ra nơi núi cao chót vót. Như trái chín ngon ngọt, trồng trên sườn núi cao. Như mặt đất sạch sẽ, đem phẩn uế bôi lên. Như uống thuốc độc, mong kéo dài thọ mạng. Như kẻ dâm nữ tự xưng phạm hạnh. Như kẻ nhiều sân hận muốn mọi người yêu kính. Như người giảng giải xằng bậy, tự xưng khéo luận nghị. Nói năng như trẻ ngu si. Không có chuẩn mực, phi pháp nói pháp, bất thiện nói thiện chịu nhiều sự chê trách của thế gian. Ở đây chỉ giữ tài sản, uổng danh nhà giàu, tuy có của báu mà không lợi ích cho ai, suốt ngày khổ nhọc như kẻ không tiền. Mọi người thấy rồi đều bảo rằng không tốt. Thân thích bạn bè trông thấy, không ai thèm thăm hỏi. Người bỏn xẻn như thế, mọi người đều ghét bỏ. Như bầy nhạn kia không đậu rừng lạnh. Do tài sản kia, tự tạo ràng buộc. Không biết mạng sống như thác đổ núi cao. Không nhớ nghĩ vô thường, nỗi sợ lớn sắp đến. Trong khoảnh khắc sát na, mạng sống mất đi. Nên biết giàu có cũng không trụ lâu, giống như tai voi, không tạm ngừng nghỉ. Ở nơi thầy giảng pháp, không thường hạ mình thưa hỏi. Nghe khen ngợi hạnh bố thí, tâm không vui tin. Thấy người đến hóa đạo, chạy trốn, tránh xa. Ví có kẻ được gặp quay lại chửi mắng. Kẻ ngu như thế tuy nhiều tiền của, như cái người ta có được trong mộng không khác, keo kiệt cho đến chôn giấu trong đất, ví gặp bệnh khổ, không cầu thuốc hay. Nghe mời thầy thuốc, tâm sanh ưu phiền. Do đây bệnh càng thêm nặng, cuối cùng mạng chung. Mọi người nghe kẻ kia mất, không ai là không hả hê. Hết thảy thân phần thân tướng vỡ ra, khó dám đến gần. Lửa dữ thiêu đốt, khói tanh bốc lên. Nên biết người này, nhất định phải đọa vào cõi ác. Ở trong địa ngục chịu khổ vô cùng. Ra khỏi địa ngục, sanh vào ngạ quỉ hình dạng dài lớn, thân thể trần truồng, đen gầy thường bị lửa dữ thiêu đốt, mọi chi phần đều cháy phỏng. Hai mắt sâu như hố, bụng cực kỳ to, cổ họng nhỏ như kim. Trải qua một kiếp dài không được ăn uống, da liền sát xương, không thể tự nhẫn chịu, thường ăn phân dơ để tự nuôi mạng, môi mép vấy bẩn, không sanh lòng gớm ghiếc. Nếu thấy đờm dãi, cùng nhau tranh cướp. Hoặc được chút phần, phải nhiều sự hoảng sợ. Hoặc lại sanh ra nơi chốn đồng hoang xa xôi, hoặc nơi biển cạn. Ở chỗ ấy không nghe đến tên nước. Thân thể cao lớn, giống như ngọn núi, bị gió mạnh thổi, lay động phát ra tiếng. Lại bị chim chóc bay đến đậu nghỉ, hoặc mổ hoặc nắm lấy. Phải chịu, cái nỗi khổ não. Từ đây được thoát ra, sanh vào các loài quỉ khác, đó là Dạ-xoa, La-sát-sa, Bố-đơn-na, Yết-trá-bố-đơn-na, Tắc-kiến-na, Ốt-ma-na v.v. Nếu như được làm người, thân hình xấu xí, da dẻ đen đúa, thô nhám. Hình dạng như hun khói. Các căn đóng kín, mắt không thấy rõ, nghèo cùng, đói khát, xin ăn để tự sống. Thường cầm gạch đá, tự đập ngực mình. Có được thức ăn dư thừa bỏ đi, hoặc đã sanh giòi, bèn cho là đủ. Thường bị gió mưa, nóng lạnh bức bách. Bị các loài côn trùng ruồi muỗi cắn chích. Trọn không có được sự tốt đẹp, vui vẻ. Những quả báo xấu ác như thế thật đáng ghê sợ". Hành nghiệp tham lam bỏn xẻn này, lại như kinh Tôn Giả Sở Vấn nói: "
Bấy giờ, đức Thế Tôn trụ ở thành Vương xá, trong rừng trúc Ca-lan-đà. Lúc ấy trong thành kia có con một vị trưởng giả thường đến chỗ Phật, vui thích nghe pháp, phát tâm tịnh tín, muốn cầu xuất gia. Liền thưa với mẹ: "Mong mẹ cho con, ở trong Pháp Phật, xuất gia cầu đạo". Người mẹ nói: "Nay mẹ chỉ có một mình con. Đợi khi mẹ chết rồi, lúc ấy con sẽ theo ý mình". Người con nghe theo lời dạy của mẹ, gắng sức kinh doanh, tài vật kiếm được thảy đều dâng mẹ: "Xin mẹ lấy tiền của nầy tùy ý tiêu dùng, nếu có dư thì tạo các nghiệp phước". Người mẹ có được tiền rồi, không chịu bố thí, chứa nhóm cho nhiều chôn giấu dưới đất. Nếu có Sa-môn đi đến khất thực thì vung tay chửi mắng, bảo là quỉ đến. Người con nghe biết lấy làm không vui: "Mẹ ta cớ gì đối với chút ít ẩm thực mà không bố thí" Lại tìm cách khuyến dụ. Người mẹ nói dối là đã cho rồi. Không lâu sau, người mẹ mạng chung, lúc ấy người con Trưởng giả bố thí rộng lớn để cầu phước báo cho mẹ. Sau đó bỏ nhà xuất gia. Đã vào pháp rồi, siêng năng tinh tấn, vui nghe chánh pháp, tư duy như lý thành căn lực, thông đạt hành hữu vi, giác ngộ pháp sanh diệt, dứt các nẻo luân hồi siêu việt năm nẻo, phá vỡ vỏ vô minh, lìa tham nơi ba cõi. Thấy vàng bạc châu báu giống như gạch ngói, tô cắt thân mình, không sanh lòng yêu, giận, tâm được bình đẳng giống như hư không. Chắc chắn đoạn hết thảy phiền não, hiện tiền chứng đắc quả A-la-hán. Vua Trời Đại Phạm, các chúng trời Đế Thích thảy đều tôn trọng, cúng dường tán thán. Bấy giờ, Tôn giả ở trong một thảo am bên bờ sông Hằng, tu tập thiền định, chợt có một con quỉ, hiện ra đứng trước mặt, thân hình trần truồng, xấu xí, đen đúa như gốc cây cháy, đầu tóc rối bù, bụng to, cổ nhỏ, mọi thân phần đều bốc cháy, phát ra tiếng kêu khóc thảm thiết. Tôn giả hỏi: "Ngươi là ai?" Quỉ thưa Tôn giả: "Tôi là mẹ Ngài". Từ khi mạng chung đến nay trải qua hai mươi lăm năm, đọa vào trong loài Ngạ quỉ, chịu đói khát vô cùng. Không nghe đến ăn uống và tên nước. Giá như thấy sông to, bỗng nhiên khô cạn, xa trông thấy rừng cây trái, đến nơi thì không có. Cho đến trong sát na cũng không có chút ít vui vẻ. Rất mong Tôn giả cứu giúp cho tôi. Xin nương chỗ nầy, cầu chút ít nước uống. Tôn giả nghe rồi buồn khóc, than: "Sanh tiền không tạo phước, chết đọa vào nẻo ác, phải phát lòng chí thành, sám hối tội lỗi trước". Quỉ nói: "Tôi bị phiền não bỏn xẻn che lấp tâm tư đối với các phước điền, chưa từng thí xả chút ít". Những tài vật sở hữu trước đây, thảy đều ở nhà cũ, đào đất chôn giấu, xin Tôn giả hãy vì tôi, mau lấy những vật này, tổ chức hội đại thí dâng cơm cúng dường Sa-môn và Bà-la-môn. Bố thí cho kẻ bần cùng, cúng dường chư Phật và chúng Hiền thánh, xưng gọi tên tôi, phát lồ sám hối, nguyện cho thân tôi sớm thoát khổ nầy. Tôn giả bảo: "Nếu có thể như thế, nghiêm khắc, trách mắng, hối hận lỗi lầm, tội sẽ được tiêu diệt. Quỉ thưa: "Tôi do thân trước không hổ, không thẹn nên chiêu cảm lấy thân thể trần truồng này, không kham ở như thế này". Tôn giả bảo: "Nếu đã tạo tác rồi, thì tâm không thương tiếc". Nghiệp kia quyết định. Nếu có thể phát lồ thì tội không tăng trưởng. Nay đã phát tâm, có thể được trụ ở đây. Lúc ấy, Tôn giả mời thân thuộc của mẹ mình trở lại ngôi nhà cũ, đào lấy các tài vật, như lời quỉ kia thỉnh cầu, vì quỉ tổ chức hội bố thí. Lấy các món ăn ngon bổ cúng dường Tam Bảo và các Bà la môn. Những người xin ăn đều cho no đủ. Lúc ấy mẹ của Tôn giả đứng một bên thấy vô số người, tụ hội đông đúc hổ thẹn hình dáng xấu xí của mình, rơi lệ kêu khóc, chỉ cầu xin Thế Tôn, thương xót cứu độ. Lúc ấy, Tôn giả nằm vóc sát đất, lớn tiếng vì mẹ mà gọi tên họ của bà, nguyện nương việc thiện này sớm được giải thoát. Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng diệu lực của phương tiện, hiện uy thần gia trì vì bà thuyết pháp và chúng hội kia có trăm ngàn chúng sanh nghe pháp giác ngộ, được sự hiểu biết chân thật. Quỉ được lìa khổ, liền mạng chung. Tôn giả, sau đó, lại nhập định xem xét thấy quỉ kia sanh lại trong loài quỉ có tài sản. Liền đi đến chỗ của quỉ, vì quỉ ấy giảng nói túc nhân khiến phát tâm, khuyên hành hạnh bố thí. Nay phải tu phước, sớm cầu xuất ly. Quỉ nghe khuyến hóa, suy nghĩ giây lát rồi thưa: "Bạch Tôn giả" Tôi không thể bố thí". Tôn giả nghe thế bèn than trách: "Ngươi thật là ngu si, tập khí bỏn xẻn vẫn còn". Không biết hắc nghiệp, lần lượt vây quanh, nẻo quỉ rất hung hiểm, sao không chán sợ?" Dùng đủ mọi cách khẩn thiết răn trách, kế đến dỗ dành khuyến hóa được hai tấm vải trắng. Tôn giả nhận rồi, cầm giữ bố thí cho chúng Tăng. Chưa kịp đổi bán, mới khiến một vị Tỳ khưu thu lấy cất giữ. Quỉ vẫn còn xẻn tiếc, tâm không muốn thí xả nên ngay đêm đó lén lấy đi. Vị Tỳ khưu sau khi phát hiện mất hai tấm vải mới đến bạch Tôn giả. Tôn giả suy nghĩ: "Đây chẳng phải người nào khác, ta sẽ đến lấy". Đã đến chỗ của quỉ rồi, quả nhiên lấy được tấm vải. Quỉ lại lén cắp ba lần như thế. Tôn giả cũng ba lần thu hồi lại như trước. Vị Tỳ-kheo thu giữ vải tâm cũng sanh phiền não, bèn chia xé ra, đem phân phát cho chúng Tăng. Ai nấy đều đã thọ nhận rồi, hoặc dùng để vá y. Quỉ kia lại đến, trộm lấy y đem đi.
Đức Phật dạy: "Nên biết tâm tham lam, bỏn xẻn là lỗi lầm lớn. Do sự trói buộc của tâm này vĩnh viễn đọa vào nẻo ác. Cho nên Ta nay phương tiện chỉ rõ, khiến các chúng hữu tình đoạn trừ cấu uế bỏn xẻn, vui tu hành nghiệp bố thí thanh tịnh rộng lớn. Đây gọi là nhiếp thọ chánh hạnh lọng phước bố thí.
Nếu có chúng sanh, dùng các thứ đồ vật bố thí cho chúng hữu tình, đó là thức ăn vật uống, y phục ngọa cụ, thuốc men, cho đến hết thảy các thứ châu báu quí giá và các kho tàng đều đem bố thí thì bố thí như thế gọi là bố thí rộng lớn. Hoặc các chúng sanh, tâm vui làm việc bố thí, nhưng chưa đạt đến các loại đồ vật như trên, tùy theo những thứ mình có mà có thể thí cho thì bố thí như thế gọi là Tùy phần thí.
Phật dạy, ở đây có hai loại thí: "Đó là nghiệp thân, ngữ, ý và các uẩn" Thọ, tưởng v.v... cùng với tư đều chuyển. Đồng thời tu tập, hiện tiền thí cho, vui thích tương tục. Đây gọi là thí. Hoặc trong khoảng sát na, phát khởi tâm tịnh, lấy vật mình có mà có thể đem cho cũng gọi là thí.
Lại nói rõ hai loại:
1. Không thanh tịnh.
2. Thanh tịnh.
Người khéo thực hành hạnh bố thí phải biết rõ thì có thể kiến lập Nhất thiết chủng trí.
Nếu người bố thí không có giới, không thuận chánh lý thì bố thí như thế không có quả báo. Hoặc người thọ nhận không có giới, không hiểu giáo pháp, chấp sâu tà kiến, nói bố thí không có kết quả thì bố thí cho kia cũng không có quả báo. Đây gọi là không thanh tịnh. Nếu người bố thí có trì giới, chánh kiến, hiểu giáo pháp, biết có quả bố thí thì bố thí như thế là có quả báo. Hoặc người thọ đủ giới, chánh kiến hiểu giáo pháp, nói có quả bố thí, thì đối với người thí kia là có quả báo. Đây gọi là người thí kẻ thọ, cả hai đều thanh tịnh, chánh hạnh viên mãn. Nếu người thí thanh tịnh, kẻ thọ không thanh tịnh, thì đây cũng gọi là thành tựu quả báo bố thí. Hoặc người thí không thanh tịnh, đó là người ngu kia giữ chặt tài sản của mình, giống như kẻ tôi tớ phụng sự chủ. Hoặc bị sai khiến, quan lại đốc thúc, bắt buộc buồn phiền, sau đó mới thí cho. Hoặc bị oán tặc cướp đoạt, tổn hại, chịu các nỗi kinh sợ, sau đó mới cho. Hoặc bị những nỗi khổ già bệnh ràng buộc dần dần bức bách, sau đó mới cho. Các loại cho như thế đều không gọi là bố thí. Hoặc xem ca múa, các loại nghệ thuật biểu diễn, để mua lấy tiếng tốt cho mình. sau đó mới cho. Hoặc thấy người khác cúng tiền tài của cải, tự nói là mình giàu có mà cho gấp bội. Đối với sắc đẹp của người khác, tâm sanh yêu thích, muốn thu lấy về mình, cho gấp bội giá trị của kẻ kia thì cho như thế đều không gọi là thí. Tại sao như vậy? "Bởi lẽ, kẻ kia tuy cho tiền tài mà tâm thường nóng bức, phiền não, cùng kết với Tham, Sân, Si, nghi hoặc v.v... không thuận với chánh lý, tương ưng với bất thiện, chỉ đi đến luân hồi, tạo ra điều không lợi ích, sao có thể chiêu cảm thiện căn xuất thế của kẻ kia?" Như Lai tướng tốt, giữa các ngón tay nối kết đẹp đẽ như mạng lưới là phước báo của bố thí. Những cách cho như trên, ở đây gọi là bố thí không thanh tịnh.
Lại nói hai loại:
1. Thí rồi không thanh tịnh.
2. Thí rồi, hồi hướng thanh tịnh.
Lúc ấy ở thành Vương xá, có các đàn việt đã tu tạo phước nghiệp rồi, ở nơi Tăng già lam, trong vườn của chúng Tăng đàn ca múa hát, vui chơi hoan lạc. Lúc ấy, chủ vườn đến thưa cùng chủ chùa. Vị Tỳ-kheo trưởng lão bảo với những người đàn việt kia: Các người vì lẽ gì lại đến đây buông lung? Tạm thời tuy được vừa ý, về sau sẽ chiêu lấy khổ báo? Vị Tỳ-kheo chủ vườn bạch cùng vị Trưởng lão: Những người đàn việt ở đây, lời lẽ hay đẹp khiến cho vui vẻ. Vì cớ gì mà trách họ, khiến mọi người sanh phiền não? Lúc ấy vị Trưởng giả quở mắng người chủ vườn: Ông trước chưa học, không biết giới luật, phục vụ bạch y. Nếu vì tài lợi của họ, thì ông hãy quán xem thọ dụng sự giàu vui này có thể khiến mọi người tâm sanh cuồng loạn, tác ý phi lý, là duyên hủy hoại chánh pháp.
Lúc ấy, vị trưởng lão kia nói kệ:
Nếu ở vườn chúng Tăng
Vui chơi thọ dục lạc
Kẻ ngu kia mù tối
Phá pháp đọa đường ác.
Phải ở trong chốn này
Tu bố thí, trì giới
Cùng hai hành làm bạn
Được đến cửa giải thoát.
Như hồ ao trong sạch
Bên trong trồng hoa sen
Hoa kia đã nở rồi
Sau phải kết thành quả.
Như thế nào nói là bố thí rồi hồi hướng thanh tịnh?" Do người thí kia giữ gìn tịnh giới bền chặt. Thể tánh vui vẻ, xưa nay thanh tịnh. Hết thảy vàng bạc, châu báu hiện có, kho tàng các vật, voi ngựa, xe cộ v.v... tâm không tham tiếc, thảy đều thường bố thí. Biết có quả báo bố thí và đời khác của quả báo ấy. Chán ghét luân hồi, lưu chuyển mau chóng, vui chứng chân thường, lìa các lỗi lầm. Đối với hoan lạc năm dục ở thế gian kia, không sanh nhiễm trước, đều luôn xả bỏ. Đối với sự khen, chê, tâm không dao động. Thấy người đến xin dịu dàng, an ủi, hỏi han, sắc mặt hòa nhã vui vẻ, tránh cau có, buồn bực, như trông thấy thân thuộc tôn kính, lòng không mệt mỏi chán nản. Tùy theo ý muốn của kẻ kia đều khiến cho được đầy đủ. Mau chóng lấy cho, không sanh nghi ngờ hối hận, xa lìa những sự dua nịnh dối trá. Trừ sạch cấu uế bỏn xẻn, chỉ vui với lợi ích của kẻ khác. Gánh vác cho mọi người. Giữ gìn uy nghi. Dứt bỏ những việc kiện cãi.
Hoặc có người đến xin một chi phần của thân thể, thì phải khéo tu nhẫn nhục, không sanh tâm nóng nảy bực bội. Tâm không tán loạn, vui vẻ bố thí tối thượng: Kẻ kia khéo theo phương tiện, cầu xin ở nơi ta. Ta phải vui vẻ mà bố thí cho họ. Khiến cho ta được đầy đủ tịnh giới, tinh tấn, thiền định, thắng tuệ, các Ba-la-mật mau chứng được lạc trú hiện pháp vô vi, thành tựu chánh đẳng vô thượng Bồ-đề.
Lại các chúng hữu tình, do kia giàu có, sắc lực khỏe mạnh, tham đắm dục lạc. Kẻ kia ở thế gian, không gần gũi bạn tốt, không thích nghe pháp Phật, ương ngạnh khó hóa độ. Cho đến phát khởi nhiều loại bệnh khổ: nhức đầu, vàng da, ho hen v.v... hoặc ba nhóm bệnh, làm cho mạng chung.
Lại, quan chức, nông dân, thương nhân thợ thuyền, hết thảy dân chúng ở trong thế gian, tâm thường vội vả, hấp tấp, không lúc nào thong dong, thư thả. Chỉ một bề dong rủi, tìm cầu những thú vui phóng dật, rơi vào hầm sâu hiểm nạn của năm dục, xoay vần luân hồi, không biết cách thoát ra. Dùng tâm đại bi khai thị, răn dạy. Đối với kẻ tối tăm ngu si, làm cho phát khởi trí sáng. Với người không ai cứu giúp, được diệt trừ khổ não. Người không chỗ nương tựa được nơi an ổn, cho đến kẻ đang chịu những đau khổ trong địa ngục, dùng phước nghiệp bố thí mà ta tu tập, bố thí cho chúng hữu tình, khiến đều lìa khổ. Dùng quả báo bố thí mà ta gặt hái được, không cầu những hoan lạc của năm dục ở thế gian, cũng không ưa thích sự giàu sang vinh hiển. Chỉ mong vượt khỏi luân hồi, cứu cánh giải thoát. Đây gọi là bố thí rồi, hồi hướng thanh tịnh.
Đức Phật dạy: Sự bố thí thanh tịnh được thực hiện như thế. Nhân duyên thuở xưa ta nay nói tóm lược. Trong vô lượng đời về quá khứ, có nước tên Thiện Thanh, vua là Thiện Thắng, giàu sang tự tại. Quyến thuộc rất nhiều, dân chúng đông đúc, yên ổn, giàu vui, yêu kính lẫn nhau, không có tranh cãi, kiện cáo, không nghe lời xấu ác, không có bệnh tật. Vườn rừng tốt tươi, cây trái ngon ngọt. Đất đai màu mỡ, không sanh gai gốc, vật dụng nuôi sống thảy đều đầy đủ. Cõi nước rất là thịnh trị. Nhà vua bẩm tánh nhân ái, hiền hòa, thảy xem lê dân giống như con đẻ. Yêu thích chánh pháp, chưa từng tạm bỏ. Tâm đại bi chắc chắn, thương xót hết thảy. Chán ghét lìa bỏ hữu vi, thấu rõ vô ngã. Là bậc đại trượng phu, mọi người đều khen ngợi. An trụ trong sự bố thí rộng lớn, tâm không tham tiếc. Hết thảy vật sở hữu, nhà vua đều thường xả bỏ. Mỗi sáng sớm, vào đàn bố thí, dùng lời lẽ dịu dàng an ủi những người đến xin,. Hoặc họ cần ăn uống thì ban cho món ăn ngon. Hoặc kẻ cầu áo quần thì cho y phục tốt đẹp. Cho đến vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chơn châu, ma ni, kho lẫm các vật, tùy theo ý muốn, thảy đều cung cấp cho. Bố thí như thế rồi, Nhà vua lại vào hậu cung, gọi các nữ quan, tôi trai, tớ gái, đại thần, quan lớn... mỗi mỗi thảy đều thí cho, khiến được đầy đủ. Các vật sở hữu, thảy đều thí xả hết không còn sót lại gì, chỉ còn bộ trang phục mặc trên người. Lúc ấy, vua Thiện Thắng suy nghĩ thế này: Nay trong thành nầy, hết thảy dân chúng ta đã chu cấp, đều được giàu có, đầy đủ, chỉ có những côn trùng là chưa từng được thấm nhuần ân huệ. Suy nghĩ dùng vật gì để có thể cứu giúp chúng. Lúc ấy nhà vua liền đi đến chỗ có nhiều ruồi muỗi cỡi chiếc áo đang mặc, để cho chúng chích hút, khiến đều được no đủ, tâm không chút khổ nhọc. Lúc ấy Đế Thích nhìn xuống cõi nhơn gian, thấy việc này rồi, lấy làm lạ chưa từng có. Vua Thiện Thắng kia, thường khởi tâm đại bi rộng lớn như vậy, làm lợi ích, an lạc cho hết thảy hữu tình. Ta sẽ tự thân hành đi đến để kiểm nghiệm lại sự thật tâm của vua. Vua trời Đế Thích bèn hóa thành con chim Thứu, lông cánh đen kịt, móng mỏ sắc bén, bay đến trước mặt vua muốn mổ lấy hai mắt. Vua tích chứa tâm từ nhẫn trọn không chút khiếp sợ, dùng mắt từ ái, đoái nhìn chim kia, nói: "Nay thân thịt của ta, người mặc tình ăn dùng. Chim vội cúi mình xuống, bỗng nhiên biến mất. Vua Đế Thích lại biến thân mình thành một Bà-lamôn, đi đến trước vua, gần gũi cung kính: "Rất mong đại vương bố thí cho tôi đôi mắt". Nhà vua liền bảo: "Này Đại Bà-la-môn! Ngươi nếu quả thật cần thiết thì hãy tự mình lấy đi. Ta đối với mắt mình, không chút tham tiếc". Bấy giờ Trời Đế Thích kia biết hạnh bố thí của nhà vua, chân thật không hư dối, liền ẩn mất thân Bà-la-môn, hiện thân tướng thật của mình, lòng rất hoan hỷ, tán thán: "Lành thay, Đại vương nay tâm đại bi kiên cố, nguyện lực chắc chắn. Nơi nơi chốn chốn, hết thảy chúng sanh nghe tên của đại vương đều được sự tốt lành to lớn. Không lâu sẽ chứng được quả Bồ đề tối thượng". Bố thí như thế, người chủ thí và vật được bố thí, hoặc nhiều rộng, hoặc nhỏ ít, không gì là không thanh tịnh. Người nầy sẽ chứng được Niệm xứ, chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, các pháp công đức. Đối với đạo Bồ đề, không còn thoái chuyển, là phước điền thanh tịnh tối thượng, có thể trưởng dưỡng thiện căn của hết thảy chúng sanh. Bậc đại trượng phu nầy là chỗ về nương của Cha mẹ, thân thuộc, bạn bè. Như nhà cửa tốt đẹp luôn ngăn chận gió mưa, nóng lạnh, các côn trùng, khiến được an ổn trụ, thường ở nơi vô số Sa-môn, Bà-la-môn v.v... ở trong đại chúng, khéo tuyên thuyết luận nghị, dung mạo hòa vui, thân tâm mạnh mẽ, tinh tường; dùng tuệ quyết định, hàng phục các dị kiến. Ví như hương tượng sức mạnh nơi núi Tuyết, đè bẹp những kẻ oán địch của mình, tâm không chút sợ hãi. Giống như bậc tôn sư, dạy bảo đồ chúng, không bỏ họ. Như mẹ nghĩ nhớ đến con. Phải biết người này, như ao nước trong mát thường cứu giúp hết thảy kẻ mệt khát. Như bông hoa kỳ diệu được mọi người yêu thích, tùy theo nở chỗ nào thì làm trang nghiêm chỗ đó, Như bậc y sư kia khéo điều trị các bệnh, đến chỗ nào thì thường đem sự an lạc đến chỗ đó. Như kẻ trì chú có thể trừ các rắn độc, người kia khéo trừ diệt các độc tham, sân, si, nhiều kiếp bị chìm đắm trong bùn nhơ sanh tử, khiến chúng tu tập các pháp thiện tương ưng và chơn thật, dần dần dẫn đến núi báu công đức. Như rừng chiên đàn, hương thơm theo gió bay xa, mọi người, theo chỗ nghe thấy, không ai không vui lòng. Tiếng tốt, này cũng giống như thế. Ở khắp mọi nơi đều được mọi người kinh vâng. Như kinh đô của vua, yên ổn không có gì lo sợ, hết thảy nhân dân nương tựa mà ở. Người này hành hạnh bố thí, được mọi người thân cận như trăng tròn mùa thu, ánh sáng vằng vặc, hết thảy thế gian, thảy đều chiêm ngưỡng. Người ưa thích tu bố thí cũng lại như thế. Như đấng Mâu ni, các căn tịch tĩnh, tuyên thuyết pháp giải thoát hoan hỉ bố thí, viên mãn rộng lớn, nối nhau không lười trễ. Đây gọi là Bố thí, chánh niệm, giải thoát thanh tịnh.
Lại vị bố thí kia thấy có người đến, cầu xin nơi mình, phải đứng dậy, đón tiếp, an ủi. Trước tiên thăm hỏi, dâng các loại nước hương, để người kia rửa tay. Sau đó, như pháp bày biện thức ăn vật uống. Theo chỗ mong cầu của kẻ kia đều thí cho. Nhẫn đến cảnh giới vui vẻ sở hữu, tâm cũng không tham tiếc, hoan hỉ dâng cho. Đã bố thí như thế rồi, người kia tức có thể xả bỏ hết thảy sự ngăn che, trói buộc, có thể thâu lấy hết thảy thiện căn. Một khi bỏ thân này rồi, trung hữu sáng suốt, linh lợi, nhất định sanh về cõi trời Tri Túc, cảnh giới an ổn, diệu lạc bậc nhất. Lúc ấy, cùng trời kia có cây Kiếp-ba, lá tươi tốt xanh biếc, tỏa ánh sáng vi diệu. Hoa báu nở ra, hương thơm xông khắp. Lại còn sanh ra các loại Thiên y thù diệu, trùm các chúng trời, lấy dùng tùy ý. Lại có cung điện thanh tịnh rộng lớn, do châu báu tạo thành, vàng ròng xen lẫn, vô số bình báu, xếp hàng vây quanh. Phan phướn thêu vẽ diệu kỳ, phất phơ theo gió. Lại có vô số trăm ngàn Thiên nữ, hình dáng thướt tha, diễm lệ, không gì sánh kịp. Những vòng hoa thù diệu nối kết trang sức xiêm y. Đai áo bằng châu báu, dùng buộc thân hình, xuyến vàng, khoen ngọc, ngọc kha, ngọc bội, châu anh lạc, theo bước đi uyển chuyển khua vang, nghe thật đáng yêu. Những thiên nữ như thế trong cõi kia đông đầy. Lúc ấy, Thiên nữ đẹp đẽ bậc nhứt kia biết có một thiên tử mới sanh về cõi nầy, bèn cùng các quyến thuộc biểu diễn các thứ kỹ nhạc, đi đến cửa thành cõi trời, cung nghinh đón tiếp. Khi đó trong chúng vị thiên tử mới sanh về, uy đức tôn quý riêng biệt hình sắc khác lạ, tóc xanh biếc mềm mại, nhuần thấm, xoắn quanh phía hữu. Hết thảy bụi bặm đều không thể dính. Mắt trong sáng, dài. rộng như hoa sen xanh. Sắc môi đỏ đẹp như trái tần bà. Răng trắng đều khít như ngọc kha, như tuyết. Thân phát ra ánh sáng, cùng mặt chiếu sáng, dài ngắn xứng hợp, người nhìn thấy vui vẻ. Vị Thiên nữ đẹp đẽ bậc nhất kia thưa cùng thiên tử: "Nay trong cõi trời này, những hoan lạc thù diệu, trọn không có cõi nào hơn. Rất mong nhân giả cùng tôi kết làm phu thê, an trụ lâu dài nơi cõi này, cùng nhau vui vầy. Liền lấy bình vàng, rót nước rửa tay, và mũ báu cõi trời, các loại anh lạc, các vật dụng trang nghiêm thân, đều lấy dâng cho thiên tử. Lại có Thiên nữ, tay cầm phất trần trắng dẫn đường, đi đến rừng hoa báu, biểu diễn múa hát, tấu các loại âm nhạc. Cả hai cùng nhìn nhau hưởng thọ dục lạc thù diệu. Kế đến lại bay lên lầu quán vi diệu giữa trời, dạo chơi mọi nơi chốn, nghỉ ngơi, tùy ý tự tại. Hoặc trong ao báu cùng dạo chơi vui đùa. Các thiên nữ kia giành nhau hái hoa sen, ai nấy đều dâng lên vị thiên tử mới sanh. Hoặc là rải hoa, trải khắp mặt đất. Mọi người đều sanh tưởng dục, đều đến gần gũi. Lại có một vị trời đi tới vui mừng, an ủi: Nhân giả thuở xưa, nơi cõi nhân gian, tu hạnh Du Già phá trừ tham dục, diệt nhân duyên bất tịnh, nay được sanh về đây, thọ lạc thù thắng được các Thiên nữ cũng kính, vây quanh. Lúc ấy vị trời kia liền đảnh lễ, hoan hỷ, khen ngợi rồi nói kệ:
Lành thay, Nhân giả sanh trời này
Được thọ năm thứ dục thù thắng
Như trăng tròn sáng đẹp trời cao
Nở đóa sen xanh hương tỏa ngát
Xưa tu muôn hạnh thiện rộng lớn
Thân phát ánh sáng tịnh vi diệu
Thường dùng mắt từ nhìn chúng sanh
Nên được người trời đồng cung kính.
Lại có rừng chiên đàn thanh tịnh
Cành lá nương nhau thật đáng yêu
Dây dài trải khắp, rũ bốn phương
Hoa thơm chen lẫn thảy tốt tươi
Có các Thiên nữ ở trong đây
Dung nhan trắng sạch rất đoan nhã
Thân hình mềm mại tỏa hương diệu
Đua tài ca múa không biết mệt
Tôi nay được hầu hạ nhân giả
Mắt sáng lòng vui chưa từng có
Đời này thỏa ý không luống bỏ
Nào phải chút duyên mà có được
Trăm ngàn Thiên nữ thường vây quanh
Nhờ hành phước trước mà trang nghiêm
Thí báo như thế khó nghĩ bàn
Cần phải dứt hẳn các nghi hoặc
Lúc ấy vị Thiên tử mới sanh dùng kệ đáp:
Nếu muốn tăng trưởng kho công đức
Phải tu thí thanh tịnh rộng lớn
Chắc chắn có được vui thượng diệu
Nước, lửa, phi nhơn không thể phá
Hoan lạc Thiên giới thật hy hữu
Thọ dụng tùy ý thảy hiện tiền
Những người thông tuệ ở thế gian
Phải phát tâm tịnh hành bố thí
Các chúng hữu tình phải khéo suy nghĩ, bố thí như thế rồi, thọ báo thù thắng cõi trời, sau sanh vào cõi người, trong gia đình vọng tộc, đầy đủ uy danh lớn, sắc tướng đoan nghiêm, được mọi người vui thích nhìn. Thân thuộc đầy đủ, giàu có vô lượng. Ví gặp duyên xấu ác cũng không thể phá hoại. Như trong kinh Nhân duyên, mẹ của vua Tỳ Xá Khư nói: Lúc ấy, con gái của vua cùng với quyến thuộc đi ra khỏi cung, đến hoa viên du ngoạn. Sau khi vui chơi rồi bèn nghỉ ngơi, cởi những vật trang sức bằng châu báu quý ra, lấy để vào trong khăn bịt đầu rồi giao cho tỳ nữ của mình. Lại đi đến chỗ Phật, vui nghe chánh pháp. Nghe xong, trở về cung. Nữ tỳ chợt quên mất món đồ mình giữ. Cô con gái của vua nghe, lấy làm không vui. Cô thưa cho vua cha biết. Người mẹ nói với nhà vua: "Vật này nhất định còn. Giả sử có người thấy, cũng không thể lấy được. Ta ở trong nhiều kiếp, cho đến đời này, đối với vật của người khác, không sanh một chút ý tham. Nếu như khởi niệm này, thì ta phải muốn lấy hết thảy tài vật, thân phần của chúng sanh, ta phải không thể được thấy chư Phật, khiến chúng hữu tình được quả báo như ý". Lúc ấy, Tôn giả A-nan trông thấy vật này rồi, bèn lấy cất, sáng hôm sau đi đến cung, dâng nộp cho vua. Vua nói: Vật bị đánh mất kia, nhờ Tôn giả trông thấy. Người khác nếu nhặt được ắt đã giấu đi. Người mẹ nói với vua: "Sao con không tin?" Ta đem vật này ném ở nơi ngã tư đường để kiểm chứng phước lực của mình, xem ai có thể lấy nó?. Sau khi đã vất bỏ như thế rồi, những người qua lại, ai nấy đều trông thấy, lấy làm lạ, hoặc nói là bất tịnh, hoặc nói là rắn độc, rồi bỏ đi. Vua vẫn con nghi, chờ mẹ ngủ say, tháo lấy chiếc nhẫn của Bà ném xuống sông. Bà mẹ thức dậy hỏi: "Ai lấy chiếc nhẫn đi?" Vua thưa: "Nhờ phước lực giữ gìn, người nào dám lấy?". Người mẹ nói: "Chờ đấy! Sau nhất định sẽ tìm được". Bỗng một hôm, sai người vào chợ mua một con cá đem về. Lúc mổ bụng cá thì thấy chiếc nhẫn. Mọi người đều kinh lạ. Nhà vua liền tán thán: "Hay thay, Mẹ ta, lời nói chắc thật như tiếng gầm của Sư tử". Về sau, Tôn giả A nan lại đến chỗ vua. Nhà vua bội phần tin tưởng, bèn nói: "Phước lực chân thật như thế, rốt cuộc tôi sẽ vui tu phước nghiệp".
Phật dạy: Đại vương! Nên biết hết thảy chúng sanh ở thế gian, do vì bố thí thanh tịnh nên phước báo lãnh thọ, kẻ oán thù không thể phá hoại. Giả sử trăm ngàn người cũng không thể cướp đoạt. Đi đến chỗ nào phước cũng dẫn đầu, cho đến đời khác, phước cũng như vậy, giống như bạn bè, thường tìm kiếm theo đuổi. Bấy giờ, Thế Tôn bèn nói kệ:
Do đời trước tích tập
Những phước hạnh rộng lớn
Nay được làm đế vương
Đủ an lành tôn quý
Trăm ngàn kẻ tùy tùng
Xếp hàng trước mặt vua
Do phước lực thâu phục
Chiêm ngưỡng đều kính sợ
Phải biết phước nghiệp kia
Như mắt bụng, tay chân
Thường yêu thương, giữ gìn
Khiến nối nhau không dứt
Ta xưa tu hạnh thí
Hết thảy đều xả bỏ
Chỉ giữ một con voi
Theo ý mình cỡi đi
Vui nương chốn núi rừng
Tu tập các thiền định
Lúc ấy dân trong nước
Thảy đến cùng đi theo
Tay cầm phất trần trắng
Hoặc là cầm tán lộng
Lại lấy các đệm cỏ
Trải giường tòa chỗ đến
Mọi người cùng thưa vua
Chúng tôi không phước tuệ
Nay mong đều gần gũi
Cùng tu các hạnh lành
Phước là tài sản báu
Thường được vui chơn thật
Phước là người thân nhất
Dẫn đến nơi an ổn
Phước tợ ngọc như ý
Đặt trong lòng tay mình
Tạo an lành tối thượng
Chỗ cầu đều thành tựu
Đủ sắc tướng tốt đẹp
Thọ năm dục vui vẻ
Lời nói người thích nghe
Khéo léo thật rõ ràng
Thọ mạng được dài lâu
An ổn không lo phiền
Hết thảy mọi chúng sanh
Trông thấy như thân hữu
Nếu các hữu tình, ở nơi phước điền thù thắng, thuận theo chánh lý, chuyên tâm bố thí, chắc chắn trong đời này, hiện tại có được phước báo tương ưng giàu có sung túc. Như phu nhân Kim Phát, nghe công đức Phật, tâm sanh kính ngưỡng, bèn lấy tóc vàng vi diệu có trước của mình, dâng lên Như Lai. Lại, con gái của vua Thiện Tư, dùng món ăn ngon lạ cúng dường cho Tôn giả Tu Bồ Đề. Lại, con gái của Bà-la-môn Tu Phát, tự cắt tóc mình đem bán để thết cơm cúng dường Tôn giả Đại Ca Chiên Diên, tóc lại mọc như cũ. Ba người con gái này, do bố thí thanh tịnh, thân hiện lại đều được làm hoàng hậu của nước. Lại, Trưởng giả Phước Nghiêm, cúi mình tới thỉnh Phật và các vị La Hán đến nhà thết trai cúng dường, kho lẫm lại đầy tràn. Như cô gái chăn trâu cầm hương chiên đàn và cô gái nhà nông lấy bông lúa mạch cúng dường tháp Phật. Cả hai cô gái đều được sanh Thiên. Như thế được thọ hưởng nhân duyên của quả báo hiện tại. Như kinh Thắng Quân vương nói: Lúc Phật ở thành Xá-vệ, phu nhân Mạt Lợi, vợ vua Thắng Quân, mới sanh một bé gái, đủ mười tám tướng trạng cực xấu. Tuổi lớn dần phải tìm nơi gả chồng. Những nhà quý tộc kia, không ai muốn làm cha chồng cô gái. Còn những dòng họ thấp kém, ý vua không bằng lòng. Khi ấy, có con một người trưởng giả nước ngoại, sinh sống lâu trong thành này, mọi chi phí tiêu dùng đều cạn sạch, lẻ loi đi khắp nơi, chưa có chỗ sánh đôi. Quan lại tâu với vua, có thể cho kẻ kia yết kiến. Vua bèn triệu đến và bảo anh ta: Ta có một trưởng nữ, nhận khanh làm rễ. Nếu cùng theo nhau thì phú quý trọn đời. Nếu như muốn về nước, cũng có thể cùng về.
Con gái con vua bèn lấy những thứ châu báu quý giá trang sức nơi thân, rồi vua đem gả cho kẻ kia cùng ban cho vô số các loại tiền của vật báu. Người con trưởng giả, khi ấy, bèn lấy cô công chúa nầy làm vợ. Chẳng bao lâu sau, hai vợ chồng cùng trở về bản quốc. Đã về đến nhà, bà con thân tộc của người con trai bày lễ xin gặp mặt. Người con trưởng giả nói: "Vợ tôi là con gái của vua, xem mặt đâu có dễ. Nếu muốn xem, tất phải chọn ngày". Về sau, những người thân thuộc lại đến nhà. Người con Trưởng giả nói: "Xin hẹn bảy ngày sau, ra khỏi thành đến hoa viên sẽ cùng gặp nhau ở đấy".
Mọi người hỏi gạn lại: "Lời nói này chắc chắn. Nếu không đến ta sẽ phạt năm mươi vạn tiền". Bảy ngày đã đến, người con trưởng giả kia bày biện đầy đủ các loại thức ăn ngon lạ. Trước lấy một phần đem để trong phòng, rồi báo cho vợ biết, khóa chặt cửa phòng lại, tiếp theo người con trưởng giả mang khoản tiền bị phạt và thức ăn, vật uống đi vào hoa viên. Lúc ấy, mọi người ở trong vườn, xa thấy người con Trưởng giả kia chỉ đến một mình, đều bảo nhau: "Người này nói dối không theo sự nghị bàn trước".
Khi đã đến vườn, người con Trưởng giả thưa cùng bà con thân thuộc: "May mắn là không thấy ai nóng giận, xin được nộp khoản tiền phạt. Mọi người nói vợ ông là hạng tôn quý, giấu kín trong nhà, ánh sáng của mặt trời mặt trăng còn không cho gặp huống gì chúng ta, làm sao có thể thấy được"
Lúc ấy, con gái của vua tự than thầm: "Ta tuy tuổi trẻ mà hình dung xấu xí. Đây là nghiệp ác gì mà chiêu cảm lấy sự thô xấu này" Rồi lớn tiếng than: "Khổ thay Khổ thay! Khiến cho chồng ta phải chịu nhiều sự hỗ thẹn, thường phải nói dối và bị trách phạt. Sống ở trên đời như thế thì sống làm gì" Than xong liền lấy dãi lụa tự thắt cổ mình. Lúc ấy, vị thần thủ hộ nhà thấy sự việc này bèn nói với cô gái con vua: "Ta phải cởi ra để bảo toàn tánh mạng, không để cho chết yểu. Nên biết đức Thế Tôn, đại bi vô tận, thường vui cứu độ các chúng hữu tình, thường khởi niệm thế này:
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào giảng nói pháp chánh yếu, khiến sanh tín hiểu?
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến chúng tẩy trừ cấu uế tham dục.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ dứt trừ lỗi lầm của sân hận
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến diệt trừ ngu si ám độn.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ tăng trưởng hết thảy thiện căn.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ xuất ly bùn nhơ sanh tử.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ vượt qua biển khổ luân hồi.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ giải thoát khỏi sự cột trói của phiền não.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ nhổ bỏ tên độc tuệ ác.
Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ cắt dứt bốn dòng thác dữ, khiến đến bờ kia.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ thoát khỏi các loại khổ độc của ba đường ác.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, bố thí nước pháp, khiến họ dứt trừ khát ái.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ chán ghét bệnh ung nhọt của cảnh giới.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ phá vỡ màng vỏ vô minh từ vô thỉ.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ đè bẹp núi cao ngã mạn.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ xa lìa các điều ác, mặc áo hổ thẹn.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ tu tập đầy đủ Giới, Định, Tuệ học.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ thông đạt các pháp, tâm được tự tại.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ đạt được tuệ nhãn thanh tịnh.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ vượt vào cửa đại giải thoát.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, khiến họ phát khởi tâm Đại Bồ Đề.
- Ta nay phải đối với những chúng sanh nào, dùng vòng hoa Bồ đề kết vòng trên đầu chúng.
- Ta nay phải khiến cho con gái vua Thắng Quân, thay đổi hình dạng xấu xí, được sở nguyện.
Đây là đức Thế Tôn, trong từng sát-na, sát-na, niệm niệm quán sát hết thảy chúng sanh, hoặc gần, hoặc xa, hoặc tốt đẹp, hoặc xấu kém, tánh thượng, trung, hạ, đều hay cứu độ. Mắt tuệ thảy đều thấy, không bỏ sót một chúng sanh nào. Như có kệ nói:
Phật không bỏ chúng sanh
Xa gần đều hóa độ
Như trái lúc chín tới
Tự nhiên sanh vị ngọt
Cho nên đức Mâu Ni
Oán thân chỉ một tưởng
Lợi lạc các chúng sanh
Cũng không mong quả báo
Bấy giờ, đức Thế Tôn, trước vì thu phục, giáo hóa ngoại đạo lõa hình Ni Kiền Tử nên hiện tướng đại nhân ngồi trên hoa sen báo, thân mặc y hồng, rực rỡ như mặt trời mới mọc, sắc tướng tịch tĩnh, an trụ uy nghi, giống như núi vàng phát ánh sáng vô cùng tận. Ở trong đại hội vô số người trời, như ở giữa muôn vì sao hiện rõ ánh trăng tròn. Cũng như cây Đa-la báu nơi thiên cung, gió nhẹ lay động, mọi người thích nương ở. Như cây Sanhô, hoa báu trang nghiêm. Như trong mâm vàng, đốt đèn đuốc lớn. Như voi hương trắng lội vào sông Ni liên, được bụi phấn nơi nhụy hoa sen vàng phủ đầy. Cũng như mùa xuân, cây Yết-ni-ca nở ngát hoa vàng, mọi người đều ưa thích, khéo có thể điều phục hết thảy hữu tình; vào trong các đường ác, không sanh mệt chán, du hóa nẻo thiện, khéo thuyết giảng các pháp, đều khiến phát tâm được vui an ổn. Do chúng hữu tình từ vô thỉ đến nay, nối nhau tạo tác các hạnh ác, tham, sân, si v.v... Hoặc oán hoặc thân và không thân oán, bình đẳng thương xót giống như một người con, đều khiến xuất ly khỏi hiểm nạn luân hồi. Như mặt trời xua tan bóng đêm, khiến hết hẳn không còn sót. Bấy giờ, đức Thế Tôn dùng âm thanh của bậc Nhất thiết trí, vì ngoại đạo kia, lược nói pháp chánh yếu. Nên biết thế gian, pháp động, bất động, dùng trí thấu suốt, thảy đều "không tịch". Do tâm hư vọng, mê lầm nơi nhận thức chơn thật, tự tánh Niết-bàn xưa nay thanh tịnh. Ngoại đạo kia nghe thuyết giảng như thế, tâm được khai ngộ, liền có thể đoạn trừ các ngã mạn chấp chặt. Ví như sư tử cất tiếng gầm rống, tự nhiên có thể làm rạn nứt tảng đá to. Lúc ấy, đức Như Lai bẻ gãy những dị kiến kia, luận nghị thù thắng, hiện đại thần thông, bay lên cõi trời A-ca-ni-trá. Tất cả chúng sanh ở trong cõi nầy, thảy đều ngợi khen công đức của Phật, hết thảy thế gian không ai có thể hơn. Lại hiển hiện tướng ô-sắt-ni-sa: Tướng vô kiến đảnh, ly cấu tối thắng. Sắc xanh biếc xoay quanh phía hữu, nhuần thấm rất đáng yêu. Lại phóng ánh sáng từ tướng bạch hào ở giữa hai mắt, như trăng tròn mùa thu. Đây là công đức đệ nhất của Như Lai, chẳng phải cùng điều thiện nhỏ của Phạm Thiên mà cảm được. Là do tâm đại bi, lợi tha của Phật phát khởi. Giả như các chúng sanh nhiều như vi trần nhóm họp, an trụ trong chánh tư duy, cũng không thể suy lường được tướng ô-sắt-ni-sa kia. Chẳng cứng, chẳng mềm; chẳng thành, chẳng hoại; chẳng gấp, chẳng hoãn, chẳng động, chẳng tĩnh; chẳng trầm trệ, chẳng dao động; chẳng bằng phẳng, chẳng hiểm trở; chẳng hợp, chẳng tan; chẳng bám, chẳng lìa; chẳng siêng, chẳng lười; chẳng lo, chẳng toan, chẳng bệnh, chẳng não. Hết thảy chúng sanh bình đẳng cùng có công đức đệ nhất, an lành tối thắng. Khi đó ngoại đạo kia, tâm tin hiểu thanh tịnh, ở trong pháp Phật, được trụ an ổn.
Bấy giờ, cô gái con vua, ở trong nhà mình, nhờ hào quang của Phật chiếu, tâm được an ổn vui vẻ, liền khởi suy nghĩ thế này: Nay Phật ở đời, làm lợi lạc chúng sanh. Có kẻ gặp nguy nan đều nhờ Phật tế độ. Chỉ mong Thế Tôn, không bỏ lòng Đại bi, thương xót che chở, hộ trì, hiện thân trước con. Nói những lời như thế rồi hướng về phía xa, rạp mình kính lễ, buồn khóc rơi lệ. Phật biết được ý của nàng, khiến trong căn nhà ấy hốt nhiên nghiêm tịnh. Lúc ấy, đức Như Lai, từ đất vọt lên, thân sắc vàng ròng, tướng hảo đoan nghiêm. Cô gái con vua, thấy thân tướng Phật, tán thán chưa từng có, dùng hương hoa thù diệu kính dâng cúng dường. Lại dùng ngọc anh lạc, châu báu quí giá phụng cúng. Chấp tay đảnh lễ, cung kính gần gũi. Bóng Phật che thân, mau được đoan chánh. Lòng rất vui mừng, hân hoan cực độ, cúi mình trước Phật, dùng kệ tán thán:
Thích Sư tử tối thắng
Nương hang đá Chỉ la
Đủ thiểu dục tri túc
Lìa lỗi lầm thế gian
Trí tuệ là răng bén
Tàm, quý là tóc râu
Hàng phục các ma oán
Như ngoạm loài hươu nai
Nhẫn là áo giáp chắc
Từ lực lấy làm cung
Khéo bắn tên trí tuệ
Diệt trừ giặc phiền não
Tâm giải thoát làm ao
Chánh hạnh làm bờ đê
Nước tinh tấn không nhơ
Nở hoa sen ý giác
Dũng mãnh lìa các lỗi
Dứt trừ căn ba cõi
Thí pháp lạc bình đẳng
Lành bệnh Tham, Sân, Si
Đủ uy đức mạnh mẽ
Tướng tốt để trang nghiêm
Tăng trưởng tâm công đức
Gánh vác cho hữu tình
Khéo trụ các uy nghi
Các căn không tán loạn
Như hoa câu phược la
Người thấy sanh vui thích
Không sợ không cấu nhiễm
Tâm tối thắng tịch tĩnh
Giải thoát hết buộc trói
Thành tựu hết thảy trí
Mâu ni, Đại ngưu vương
Thế gian không ai sánh
Thường cứu các chúng sanh
Hoặc bệnh, hoặc ưu não
Mặc Tăng-già-lê hồng
Lặng trong mà bất động
Con dùng các thí dụ
Tâm thanh tịnh xưng tán
Như cây đa-la vàng
Thân cao thẳng uy nghiêm
Cũng như cây trụ vàng
Tỏa ánh sáng rực rỡ
Lại như thỏi vàng kia
Mạ bột gỗ chiên đàn
Thân tướng Phật như thế
So sánh không thể biết
Hoặc bảo núi vàng diệu
Một ngọn cao chót vót
Bị cuồng phong thổi dữ
Trụ vững vàng như cũ.
Hoặc bảo A-tu-la
Cùng vua trời đánh nhau
Xe vàng kia rơi xuống
Bổng hiện ra nơi đây
Hoặc bảo cờ Đế Thích
Do vàng ròng tạo thành
Uy nghiêm lại rực rỡ
Bỗng hiện ra nơi đây
Hoặc bảo trời Đa văn
Lầu gác báu vi diệu
Dùng châu báu trang nghiêm
Bỗng hiện ra nơi đây
Hoặc Phật mẫu Trì Địa
Lộ ra kho báu quý
Phóng ánh sáng rực rỡ
Bỗng nhiên hiện nơi đây.
Đức Phật bố thí hóa độ rồi, bỗng nhiên ẩn mất. Khi ấy, cô gái con vua kia ngồi kiết già, một lòng chuyên chú, tưởng niệm thân Phật. Lúc này, người con trưởng giả, trước ở trong vườn, bị bạn bè thân thích ép uống đến say bí tỉ. Mọi người cùng luận bàn với nhau: Có thể lấy chìa khóa cửa trong tay nó. Rồi cả đám mau chóng đến nhà kia, mở cửa mà nhìn, mới thấy vợ của người này, hình dáng như tiên nữ. Ai nấy đều ngạc nhiên, bất giác cung kính thi lễ. Lúc ấy, người con trưởng giả về đến, thấy vợ mình dung nhan đoan chánh. Người vợ bèn đem sự việc trên thuật lại cho chồng biết. Nay Phật Thế Tôn, bậc phước điền tối thượng, con nay lại đến, cung kính cúng dường. Đã làm Phật sự rồi bèn tự mình phát thệ: "Nếu các nghiệp ác mà thân này của tôi sở hữu, chiêu lấy quả báo xấu xí này, mong không thọ lại nữa". Cho đến hết thảy chúng sanh trong thế gian lìa thân thô xấu, đều được đoan chánh. Liền ở trước Phật, dùng kệ nói lại ý này:
Thế Tôn sắc tướng diệu
Trang nghiêm đều đầy đủ
Thường khiến chúng hữu tình
Người thấy được như ý
Con nay đem chút thiện
Đến khắp chúng hữu tình
Thảy dứt nhân thô xấu
Đều được báo đoan nghiêm
Phật nói: Này hiền nữ! Ta không tự tán thán, không nói lời dối trá, không cầu mong cúng dường. Tùy theo nghiệp báo thọ lãnh của chúng hữu tình, khởi tâm đại bi mà cứu độ chúng. Bèn nói kệ:
Ta là Điều Ngự Sư thế gian
Không cầu tiếng khen và lợi dưỡng
Thường giỏi bẻ gãy cờ năm dục
Đều khiến chúng sanh tâm tịch tĩnh
Ba minh, hai hành thảy đầy đủ
Tạo an lành cho chúng nhơn thiên
Ta đã hàng phục các ma oán
Rốt ráo không người có thể hơn
Lìa hẳn lỗi lầm trong ba cõi
Không sanh phiền não, tâm giải thoát
Tập khí kia dứt hết không còn
Được thọ thế gian, rộng cúng dường
Nếu có chúng sanh đến gây ác
Tâm vẫn bất động như hư không
Thề sẽ đảm đương chúng phàm ngu
Chứng được trí vô lậu viên minh
Nếu có đủ bốn chúng Tỳ-kheo
Cùng đến chỗ ta vui nghe pháp
Đều khiến đầy đủ các luật nghi
Chắc chắn sẽ được thành bậc trí
Ta là Thái tử vua Tịnh Phạn
Vui tu khổ hạnh nơi hang núi
Thoát được nguồn khổ sanh, lão, bệnh
Do đấy thành tựu đạo vô thượng
Cô gái con vua kia, do ở nơi Phật Thế Tôn, tâm tịnh bố thí nên hiện thân chứng được sắc tướng đoan nghiêm. Nếu người mong cầu an lạc tối thượng, phải ở nơi Phật cúng dường thanh tịnh. Đây gọi là Phật nói chánh hạnh lọng phước. Tỳ-kheo các ông, phải thường vui thích thọ trì. Đối với Thí, Giới, Định phải siêng tu học.
Nếu đối với phước điền tối thắng của Phật v.v... chuyên tu hạnh bố thí, thì nhất định sẽ gặt hái được quả báo. Như thế cho đến, hiện thấy ở thế gian, sự phú quý của bậc vua chúa được tôn sùng không ai sánh kịp. Đầu đội mũ báu, châu báu xen lẫn, khoen tai, xuyến, vàng ngọc rực rỡ, ánh sáng giao nhau. Dung nghi trắng sạch, đủ tướng đoan nghiêm, vòng báu ngọc châu, anh lạc dùng trang sức y phục. Cung điện chỗ ở cao rộng, nguy nga, tráng lệ. Lầu gác, cửa nẻo thảy đều tinh xảo, khéo léo. Tơ thêu, lụa vẽ đủ màu, màn che giăng khắp. Thú ngọc, sư tử, chim câu chi la, đặt ở trong lồng, dùng để thưởng ngoạn. Tường thành cao chót vót, các lực sĩ bảo vệ vòng quanh, voi, ngựa, xe cộ qua lại tấp nập. Dân chúng cư trú, an ổn, giàu vui, không có tranh cãi, kiện cáo, trộm cắp, trốn chạy, các việc quấy nhiễu, khủng bố v.v... Nơi nơi đều có cây ta-la, cây đa-ma-la, cây chiêmbác-ca, cây vô-ưu v.v... cành lá, hoa quả tươi tốt đáng yêu. Chỗ vua muốn đi, ở nơi ngã tư, dọn dẹp sạch bụi bặm dơ bẩn, ngói đá, gai góc. Dùng các loại nước thơm rải khắp trên mặt đất. Trăm ngàn loại kỹ nhạc: Tiêu, sáo, đàn không hầu. Đánh trống, thổi loa, kẻ tùy tùng dẫn đường trước sau. Vua cỡi long tượng, uy đức tôn quý riêng biệt, vô cấu tối thượng. Gỗ ngưu-đầu-chiên-đàn, mài dùng để xoa thân. Hương thơm nghe xa. Áo quần lụa đỏ như mặt trời mới mọc. Tay phải cầm phất trần trắng thật đẹp, báu phệ lưu ly dùng làm cán. Căng dù lọng đẹp, hoàng kim làm thân. Vô số các loại châu báu trang trí rực rỡ. Lúc bấy giờ trong thành kia, hết thảy dân chúng hoan hỷ chắp tay, đồng tâm tán thán, rải các thứ danh hoa, trải khắp mặt đất. Có các văn sĩ, nhân sĩ chọn những ý tưởng hay khó, làm ra những bài ca vịnh, ghi chép tán dương đức hóa của vua. Vua nghe rồi, vô cùng vui thích. Quả báo tốt đẹp như thế, do bố thí mà được. Đây nói: đó là ở nơi phước điền thù thắng, chuyên tu hạnh thí, thành tựu lọng phước.
Bố thí thế nào khiến các hữu tình hoàn toàn thu được sự giàu vui thế gian, thọ dụng cảnh giới năm dục thù diệu? Phải biết, phước nghiệp bố thí như thế không chỉ chiêu lấy sự giàu vui rộng lớn mà thậm chí nhân vô thượng trí cũng có thể thành tựu. Phải biết sự bố thí này là kho tàng vững chắc, không bị nước, lửa, giặc cướp phá hoại, phải biết sự bố thí này là người bạn tốt nhất, đời này, đời khác luôn là bạn tốt. Phải biết sự bố thí này như hạt giống tốt, mọi thời, mọi lúc đều được quả như ý. Nên biết sự bố thí này như thềm thang kỳ diệu hay dẫn lên cõi trời, thọ các lạc. Nên biết sự bố thí này giống như ngọn đèn sáng có thể phá tan bóng tối tham lam, bỏn xẻn của Ngạ quỉ. Ở trong nẻo ác thường làm sự cứu giúp. Ở chốn hiểm nạn, thường làm sự cứu hộ. Vượt biển sanh tử, có thể đến bờ kia. Nếu các chúng sanh biết như thế rồi, luôn luôn phát khởi tác ý thanh tịnh, siêng tu bố thí nối nhau không dứt. Đối với những vật sở hữu tâm không xẻn tiếc, cũng không uổng phí, giác ngộ sâu sắc. Đây thảy đều là những vật không bền chặt. Cuối cũng vui tu nghiệp thí thanh tịnh. Do vì lẽ này, tiếng tốt lan xa, người thấy vui kính, thường được người tốt nương tựa cùng ở, ở trong đại chúng, tâm không khiếp nhược. Khéo trụ uy nghi, tán thán công đức bố thí. Có thể nhận lấy sự giàu có, xa lìa đường ác, được sanh lên cõi trời, đi đến thành giải thoát. Khiến người khác tin hiểu, lìa cấu uế xan tham. Nên biết người này là đại Bồ tát, là Thiện trí thức là Đại trượng phu, thường nuôi lớn thiện căn chơn thật của chúng hữu tình. Hết thảy chúng sanh phải đi đến thân cận cúng dường, vui nghe chánh pháp, như lý tu tập, cầu đạo xuất ly.
Như trên đã nói. Nếu đối với Phật v.v... chuyên tu hạnh Thí, nhất định thu được quả báo. Giả sử không gặp một Phật, Bồ tát nào mà có thể giữ gìn tâm thí như thế, thì quả báo chiêu cảm cùng đồng như trước không khác. Cho nên đức Thế Tôn dùng phương tiện chỉ bày khiến các chúng sanh thứ tự, lần lượt tu học.
Bấy giờ, đức Thế Tôn du hóa, nương ở tại thành Vương-xá, trong rừng trúc Ca-lan-đà. Khi ấy, Tôn giả Mục-kiền-liền, suy nghĩ thế này: "Nay đức Thế Tôn cùng các Thanh văn, chúng đại đệ tử, trụ trong rừng này, cần phải xây dựng một tăng phường thanh tịnh. Suy nghĩ như thế rồi, Tôn giả bèn đến chỗ của Đế Thích, thưa: Thưa Thiên chủ! Dám xin nhân giả, vì Phật Thế Tôn, xây dựng tịnh xá trong thành Vương-xá, nơi rừng trúc Ca-lan-đà, để Ngài và các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, cùng an cư ở đây. Vua trời Đế Thích, nghe nói thế rồi lòng rất hoan hỷ, vâng dạ nhận lời. Liền lấy vô số vàng bạc, châu báu, đế thanh, ma ni, phệ, lưu ly v.v... xây dựng hai lớp cửa, hành lang, hiên mái, cửa nẻo, cung điện lầu gác. San-hô làm cột, dùng các loại châu báu trang hoàng. Lại lấy các loại ngọc báu khắc thành hình các loài phi cầm quí, treo lơ lửng trong hư không, tư thế như đang cất cánh bay liệng. Vô số gương báu, bao quanh treo rủ xuống, trong suốt không vết nhơ, rực rỡ như trăng, sao. Vô số y trời, sáng sạch mềm mại, vàng ròng làm giá, dùng để phơi trải y áo bên trên. Vòng báu kim cang, vòng hoa chơn châu, tạp xí xếp hàng thứ tự, lấy làm trang nghiêm. Đốt các thứ danh hương, khí quyện tỏa tan khắp. Đốt vô số loại đèn, ngày đêm chiếu sáng. Cúng dường như thế, là việc thế gian chưa từng có. Ở trong vườn kia, nơi nơi đều trồng hoa long-tự-tại, hoa chiêm-bác-ca, hoa ngung-lỗ-ma, hoa câu-trá-ba, hoa vôưu. Hoa nở khắp nơi, trông rất đáng yêu. Ở trong rừng hoa có đình bằng san hô, cửa nẻo chạm khắc kỳ xảo. Đều dùng các loại châu báu trang hoàng nghiêm sức. Gió nhẹ thổi hoa, mùi hương thoảng bay rất xa. Có các Thiên nữ đạo chơi, dừng ở trong vườn. Những món trân kỳ thượng diệu lấy làm châu anh lạc, thú ngậm chân đeo, phát ra tiếng kêu leng keng. Trong rừng còn có các Dược xoa nữ, hình dung đoan nghiêm, tranh nhau cùng đuổi chạy xem, búi tóc còn sót lại hoa báu, thay nhau vui cười.
Còn các hồ ao thanh tịnh rộng lớn do các thứ báu họp thành, nước hương tràn đầy. Trong hồ còn có hoa sen báu to lớn. Bạc trắng làm lá, hoàng kim làm thân.
Các Thiên nữ thù diệu đứng ở bên trong đổi sắc mặt làm vui, dâng các điệu ca múa vi diệu. Lại còn có vô số hoa sen màu vàng, hoa ưu-bát-la, hoa câu-một-na, hoa-caha-la, chiếu sáng rực rỡ hương thơm tỏa ra, mùi hương hòa quyện xông ngát. Có các loài chim nước: Chim tử uyên ương, chim le le, chim nhạn, bay liệng, đậu làm tổ trong hoa, sửa sang lông cánh. Lại có các chú cá đùa giỡn, nhởn nhơ bơi lội qua lại, chạm hoa, lật mình trên sóng làm kinh sợ những chú có bể, vịt nước. Bao quanh hồ đều lấy vàng, bạc, pha lê và các trân báu mà làm bực thềm. Trên bờ ao lại có rừng cây kiếp ba, cành dài đong đưa trên nước, lá dầy kín, giao tàn rợp bóng, các loại hoa kỳ diệu, xen nhau nở rực. Vô số trăm ngàn nhân sĩ, dân chúng, giàu có, trang nghiêm, biểu diễn các thứ kỹ nhạc, tới lui thưởng ngoạn không có chướng ngại. Lúc ấy vị Thiên chủ kia, vì Phật Thế Tôn tạo lập Tinh xá tròn một tháng mới xong. Sửa sang bày biện những việc phải làm, không để có chỗ thiếu sót, vô số kho tàng, thảy đều đầy tràn. Trước tiên đi đến chỗ Phật thưa thế này: Đất này tốt lành, rộng rãi trang nghiêm, thanh tịnh, so với vườn Hoan hỷ bằng nhau không khác. Rất mong Như Lai đến đây an cư. Lúc ấy, Phật vì thương xót Thiên chủ kia, liền nhận lời. Lại dùng trăm ngàn long tượng tối thắng dâng cúng Như Lai. Và lấy trăm ngàn thiên nữ thù diệu che lọng, cầm phất trần quạt gió mát để hầu hạ các vị đại đệ tử. Lại lấy trăm ngàn chúng Càn-thát-bà tấu âm nhạc thù diệu cúng dường.
Bấy giờ, trong thành Vương xá có một Trưởng giả, nhà rất giàu, tiền tài của báu vô lượng, sánh với vua trời Đa văn vẫn còn hơn. Nhưng Trưởng giả kia nhiễm sâu tà kiến, tín thọ pháp của ngoại đạo Ni Kiền Tử. Vị Trưởng giả thấy sự việc này rồi, ôm lòng nghi hoặc. Lúc ấy Tôn giả Đại Mục-kiền-liên biết thời cơ của Trưởng giả kia đã chín, liền đến giáo hóa dẫn dắt, vì ông mà thuyết giảng pháp yếu, tán thán công đức của Phật. Trưởng giả kia nghe pháp rồi, tâm sanh ngộ giải, thưa cùng Tôn giả: "Tôi nay phát tâm, quy y Như Lai, muốn đến thân cận, cung kính cúng dường". Bèn cùng Tôn giả đồng đến chỗ Phật, đầu mặt lễ chân Phật, đứng qua một bên. Tôn giả bạch Phật: Vị đại Trưởng giả này, bỏ tà về chánh mới phát tín tâm, nay muốn cúng dường Phật và chúng Tăng. Duy nguyện Đại bi nhận lời cầu thỉnh của kia. Phật biết việc này rồi, lặng yên chấp nhận. Lúc ấy Trưởng giả kia biết Phật đã thọ thỉnh, tâm vô cùng hoan hỷ, khúm núm trở về, liền lấy vô số các loại trân báu tơ lụa thượng diệu, nghiêm sức chỗ ở của mình, cửa nẻo, lầu gác, phòng xá đều làm cho sạch mới. Nấu nướng thức ăn vật uống, trăm món ngon khéo. Sửa sang xếp đặt xong xuôi liền sai sứ giả đến trước bạch với Thế Tôn: Giờ ăn sắp đến, chỉ mong Đại Bi thọ nhận sự cúng dường nhỏ mọn của con. Lúc ấy đức Thế Tôn từ Tăng phường đi ra, uy đức tự tại tướng hảo đoan nghiêm, thân phóng ánh sáng, như mặt trời to đỏ ửng, cùng các đệ tử, các vị Đại A-la-hán, các căn tịch tịnh, tâm được tự tại, đi đứng trang nghiêm, tao nhã, đến nhà của vị Trưởng giả kia. Lại có trăm ngàn thiên tử, thiên nữ, tâm ý thư thái, lìa các tán loạn, bột chiên đàn xoa thân, cung kính vây quanh. Dân chúng trong thành thấy việc này rồi, quái lạ chưa từng có, đi đến thưa chuyện với vị Trưởng giả. Lại có trăm ngàn thanh nam, tín nữ tâm sanh hoan hỷ, trong khoảnh khắc đều đảnh lễ, mỗi người mang bột kiên hắc chiên đàn đốt để cúng dường. Hương được đốt quá trăm ngàn hộc. Lại tấu lên vô lượng âm nhạc vi diệu, du dương, âm thanh chấn động khắp mặt đất. Lúc ấy vị Trưởng giả kia, dùng phướn lọng thứ tự bày bố, khắp nơi màn che trướng phủ châu anh lạc trang nghiêm, đốt hương báu lớn, tự thân đi nghinh đón. Những thân tộc nội ngoại của Trưởng giả, mỗi người mang theo các thứ danh hoa, đầy hai bàn tay để rải cúng dường. Lúc này, Phật Thế Tôn đã đến nhà Trưởng giả kia rồi. Ở chính giữ nhà, vì Phật thiết tòa, tơ lụa thượng diệu, trải chồng hai lớp mềm mại. Đệm chiếu bằng lụa năm màu, trải khắp mặt đất, cờ báu bày biện ngay hàng thẳng lối. Lưới châu bốn phía rủ xuống. Treo các cờ phang rực rỡ, màu sắc che lẫn. Trăm ngàn linh báu phô bày, nối liền bên trên. Gió nhẹ lay động, phát ra âm thanh du dương. Vòng hoa chơn châu. Màn báu rủ khắp. Hương hoa, hương đốt, bình tắm, nước sạch, thảy đều bày biện, chuẩn bị xong. Thỉnh Phật thăng tòa. Lại dùng lụa trắng thượng diệu, mới mẻ, cắt may y mặc, quỳ dâng cúng Phật. Sau đó vị đại A-la-hán thượng thủ và các Tỳ kheo tân học đi vào trong nhà thứ tự lần lượt ngồi, Kế, dùng những món thượng vị trong những thức ăn vật uống, cúng thí cho Phật và Tăng, thảy đều được đầy đủ. Ăn xong mọi người cất bát, rửa tay. Lúc ấy vị trưởng giả kia chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Thế Tôn, rồi dùng kệ tán thán:
Như Lai đầy đủ tướng thù thắng
Vẻ đẹp tùy hình trang nghiêm thân
Tóc dài, dày kín không rối loạn
Bóng mượt, xanh biếc như ong chúa
Như Lai trán rộng lại bằng phẳng
Cũng không khuyết giảm rất bền chắc
Lông trắng giữa mày thường xoắn phải
Như trăng thu tròn tỏa ánh vàng
Như Lai hai mắt rất thanh tịnh
Mi như trâu chúa không hề chớp
Dài rộng tốt đẹp thường chiếu sáng
Như hoa câu na thật đáng yêu
Như Lai đầy đủ bốn mươi răng
Sạch trắng bằng khít như ngọc kha
Tướng lưỡi rộng dài thật khó bàn
hồng tươi như hoa Bát-la-xa
Như Lai lại có mũi công đức
Cao vót, ngay thẳng lộ không hiển
Môi không vểnh, sứt, không trề xuống.
Tươi nhuận như màu quả Tần-bà
Như thế, Đại Tiên mặt tròn đầy
Đôi tai mềm mại cùng đối xứng
Ví như đóa sen màu nở trọn
Xa lìa cấu nhiễm nhìn không chán
Như Lai thân tướng như thỏi vàng
Kiên cố đầy chắc không gì sánh
Sắc vai giống như hoa Chiêm-bặc
Cũng không ốm gầy lộ gân mạch
Hai tay no tròn thật nhuần thấm
Chỉ tay hiện rõ các hình tượng
Đủ dấu bánh xe; trục, căm, vành
Cờ báu, bình báu và cả cá
Ngực rộng như ngực loài sư tử
Đức tướng hỷ toàn phân minh hết
Lượng bụng phẳng đầy xứng thân hình
Rún sâu, xoáy phải, trong tròn sạch
Hai bắp chân như chân hươu chúa
Đi không xoay lại thân đều chuyển
Chân phải cất trước hiện dấu ấn
Thong thả, vững vàng như Sư tử
Như Lai xuất hiện ở thế gian
Như mặt trời lên chiếu sáng khắp
Thường tạo an lành cho chúng sanh
Trời, A-tu-la đều tin lễ
Trưởng giả dùng kệ tán thán đức Phật rồi, tâm vô cùng hoan hỷ, tín lực kiên cố, ở trong Đại chúng, lại nói kệ:
Mâu ni bậc mười lực
Phá diệt các lưới ma
Lìa hẳn phiền não cấu
Các căn thường tịch tĩnh
Tộc họ thù thắng nhất
Là giòng họ Cam-giá
Mạnh mẽ, thật tinh tấn
Giác ngộ các lỗi lầm
Thích Sư tử vô úy
Đầy đủ các công đức
Thành tựu pháp vi diệu
Vì chúng sanh khai thị
Trong biển khổ ba cõi
Các hiểm nạn luân hồi
Lấy Giới làm căn bản
Cuối cùng thường siêu việt
Do thọ trì tịnh giới
Điều phục tự tâm mình
Khéo khuất phục ma oán
Xứng thọ cúng dường tốt
Đủ đại trí đại bi
Không bỏ thệ nguyện xưa
Thương xót các hữu tình
Đều khiến lìa ưu khổ
Thầy Điều Ngự tối thắng
Tam giới không ai sánh
Khéo nhổ các tên độc
Dứt ràng buộc ba cõi
Hiển hiện đại thần thông
Thường bẻ các dị kiến
Khai thị tám Thánh đạo
Khiến tu các phạm hạnh
Đây gọi thương chủ lớn
Luôn tạo hội thí lớn
Đây gọi bậc đại trí
Vì làm mắt thế gian
Đây gọi đại trượng phu
Thường chóng xa các ác
Dứt thác dữ sanh tử
Đến được bờ yên ổn
Thế Tôn, đại đạo sư
Họ lớn Kiều Đáp Ma
Đủ thân tướng kim sắc
Người thấy không biết chán
Dẫn dắt các chúng sanh
Nhập hiểu nơi chánh giáo
Lìa hẳn các bất thiện
Tâm thanh tịnh không nhơ
Như mây ở trên trời
Rót vị pháp cam lồ
Khiến hết thảy hữu tình
Nhuần chủng tử thiện căn
Như Lai, bậc đại Thánh
Và các chúng Tỳ-kheo
Trụ an ổn tối thượng
Được đến nơi bờ kia.
Trưởng giả lại dùng kệ xưng tán Phật rồi, tiếp phát lời chí thành thệ nguyện rộng lớn: Đem công đức thiện căn tu tập của con, nguyện đời vị lai được thành Phật đạo, cũng như Thế Tôn, thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, dùng pháp dược vô thượng của trí vô ngại, chữa lành bệnh tham, sân, si của chúng sanh. Đối với người không thân thích, vì họ làm chủ tể. Đối với người tối tăm, vì họ mà soi sáng. Người chưa điều phục khiến khéo điều phục. Người chưa tín hiểu, khiến sanh tín hiểu. Người chưa yên ổn, khiến được yên ổn. Người chưa Niết-bàn, khiến chứng Niết-bàn. Rốt ráo xa lìa sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ não. Đều khiến cho được sanh Thiên, thọ hưởng an lạc thù diệu. Lại thường khuyên tu hành tám Thánh đạo. Khai thị tuyên dương pháp Bốn Thánh đế khiến chúng hữu tình kia nghe rồi, tâm được ngộ giải, tán thán vô số các công đức của Phật, Pháp, Tăng, vô lượng trí tuệ, tự tánh thanh tịnh, thần thông rộng lớn, không ai có thể hơn, thường nhổ mọi gốc khổ não sanh tử luân hồi. Phương tiện khuyến dụ, dẫn dắt vào thành giải thoát, dần dần khiến tu các pháp công đức, thủ hộ tịnh giới, tu Xa-ma-tha, Tỳ-bát-xá-na. Đối với bốn thứ vô úy, Bốn loại Thần túc, Bốn pháp chánh cần v.v... sửa trị các sự lười biếng phóng dật. Đối với bốn niệm xứ, ghi nhớ rõ không quên. Đối với Bốn tâm vô lượng, bình đẳng tu tập. Nương nơi ngũ căn, ngũ lực, đoạn trừ chướng nơi năm nẻo, hiểu rõ tướng năm uẩn, mình người đồng đẳng, thành tựu viên mãn Sáu Ba-lamật. Dùng bảy Thánh tài rộng thí cho hết thảy. Tu giới thanh tịnh đầy đủ, đi trên hoa bảy Giác chi, nhất tâm an trụ nơi bảy phương tiện quán, phân biệt diễn thuyết tám chi Thánh Đạo, thường giỏi tu tập chín Định thứ đệ. Đầy đủ mười lực danh truyền mười phương, được mười loại tự tại cho đến thành Phật.
Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy Trưởng giả kia ở trong đại chúng, phát thệ nguyện rồi, khen ngợi: Lành thay! Người này thật là rộng lớn trong loài người, sư tử trong loài người, tối thượng tối thắng. Đại tiên trong loài người, lìa các cấu nhiễm, như hoa sen trắng; có thể chuyên chở hết thảy chúng sanh, có thể gánh vác quả Bồ đề vô thượng. Khi ấy đức Thế Tôn bèn duỗi cánh tay kim sắc như hoa sen nở. Mạng lưới trên ngón tay, hoa văn khéo léo, như cha vỗ về con, vỗ vào đảnh đầu của Trưởng giả, dùng Phạm âm, như sấm sét mùa xuân, nói: Ngươi ở đời vị lai, sẽ được làm Phật, hiệu là Năng Mãn Chúng Sanh Chí Nguyện gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Đầy đủ mười lực, phá diệt chúng ma, cõi nước thanh tịnh, rộng lớn giàu vui. Lúc ấy, ở trong hư không có các vị Thiên tử mưa hoa hương vi diệu để cúng dường. Hết thảy hữu tình khắp thế giới của Phật đều phát tín tâm, vui tu phước hạnh. Đức Thế Tôn nói kệ:
Người ở đời vị lai
Chứa công đức thù thắng
Ở trong biển sanh tử
Cứu vớt kẻ chìm đắm
Qua vô số kiếp rồi
Sẽ được thành Phật đạo
Tuệ nhãn sạch không dơ
Hiện chứng hết thảy pháp
Đủ tướng phóng ánh sáng
Như mặt trời ban mai
Khiến hết thảy chúng sanh
Trừ tối tăm ba độc
Trong đại chúng trời người
Tối thắng không ai hơn
Khéo điều phục hữu tình
Đều khiến tu phạm hạnh
Là đạo sư bậc nhất
Đầy đủ Nhất thiết trí
Được Bồ đề tối thượng
Như hoa sen khỏi nước.
Khi ấy, đức Thế Tôn, ở trong đại chúng, thọ ký thành Phật cho Trưởng kia rồi, lúc nầy dân chúng trong nước của vua Tần-bà-ta-la đều phát tín tâm, khen là chưa từng có. Do ở nơi chư Phật v.v... chuyên tu hạnh thí, nên ở trong cõi trời, người thường làm bậc chủ tể, có uy đức lớn. Thường dùng lòng đại bi làm lợi ích an lạc cho hết thảy chúng sanh. Quả vị Bồ đề vô thượng quyết định đạt được. Cho nên Phật dạy: Các thầy Tỳ-kheo v.v... đối với kinh điển này, thường phải thọ trì, vì chúng nhân mà tuyên thuyết.
Đã thuyết minh rộng hạnh Bố thí, sợ nhiều hãy tạm dừng. Nay sẽ hiển bày công đức Trì giới. Vì sao sau Bố thí, liền nói Trì giới? Đây là nương theo các kinh, thứ tự như thế. Lại các chúng sanh, phóng dật, tham đắm dục lạc, phần nhiều do trong tâm tự suy nghĩ tà vạy, rồi thuận theo tạo tác, cho đến hiện hành, lưu chuyển nơi thân, ngữ, phá hủy giới cấm. Vì khiến chúng sanh phát khởi đối trị, nên sau bố thí nói tướng trì giới. Nếu đệ tử Phật và các bạch y đối với giới cấm kia, giữ gìn chắc chắn, không hủy phạm, đó gọi là trì giới thanh tịnh. Hoặc các chúng sanh phát khởi suy nghĩ tà, thân, ngữ, ý nghiệp tạo tác nhiều tội, sát hại chúng sanh, đoạn mạng căn người. Vật sở hữu của người khác, không cho mà lấy. Tham vướng nhiễm dục, tâm không tạm bỏ. Nói dối, nói thêu dệt, nói lời hung ác, nói hai lưỡi; khởi tà kiến lớn, bài bác không có nhân quả. Giết cha, hại mẹ, giết A-lahán. Dùng tâm ác độc, làm thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng, phá tháp, hủy hoại chùa, trộm vật của chúng Tăng, làm nhơ tịnh hạnh Ni, đối với những người thiện ưa thích nhục mạ. Thường vui tụ tập, nói lời vô nghĩa, khinh chê giáo pháp, tham kinh doanh việc thế gian, Tà mạng nuôi sống, tạo các nghiệp ác: quết thịt nghêu sò làm nem, làm lính coi giữ ngục, đồ tể giết hại, đánh bắt cá, đào tường khoét vách, trộm cắp. Cho đến, người nghèo có chút ít tài vật cũng tước đoạt. Cho người khác thuốc độc, làm tổn hại chúng sanh, voi, ngựa, trâu v.v... vui vì đấu chọi. Phá hoại xóm làng, chặt đốt cây cối. Phát ngôn sàm độc, chê trách bậc hiền thiện. Dối hiện uy nghi, tâm dua nịnh quanh co, luôn nói điều bất thiện. Đã tạo các tội ác rồi, lúc sắp mạng chung, vô số tướng khổ thảy đều hiện tiền, thần thức đã diệt, nghiệp ác theo đuổi, đọa vào địa ngục, thọ khổ vô cùng.
Địa ngục có bốn:
1. Lửa than
2. Phẩn tử thi
3. Rừng kiếm
4. Sông tro.
Bốn địa ngục này gọi là cận biên. Lại có tám địa ngục căn bản nóng.
1. Đốt cháy
2. Đốt cháy dữ dội
3. Chúng hợp
4. Kêu la
5. Kêu la to
6. Nóng cháy
7. Nóng cháy cực độ
8. Vô Gián.
Lúc ấy, trong địa ngục kia, có các ngục tốt bộ dạng xấu xí, hung ác, thật đáng kinh sợ hoặc làm đầu trâu, đầu lừa, đầu voi v.v... Thân hình mập mạp, mạnh mẽ, da dẻ đen đúa, lông tóc đỏ hoe, cau mày trợn mắt, mũi hếch, môi trề, hai tay cứng rắn, cầm gậy sắt hoặc cầm búa bén sáng, kích, chùy sắt, cưa sắt, bánh xe kiếm v.v... vô số các loại khổ cụ đều phát ra lửa dữ. Những ngục tốt này hung hiểm, gấp gáp, đối với những tội nhân kia không có chút tâm từ. Hoặc đốt, hoặc nấu, hoặc chặt, hoặc cưa. Bỗng chốc mạng chung, nhưng trong khoảnh khắc sống lại. Hoặc lại chạy vào địa ngục tro nóng, địa ngục phẩn tử thi. Bàn chân cháy chín, cất bước lên thì lại như cũ. Xa thấy rừng cây, liền chạy đến trốn tránh. Đến rồi thì cành lá đều là mũi nhọn, từ trên rơi xuống, chặt cắt thân hình. Lại có các loài thú dữ: "chim, thú, cọp, tê giác, sư tử, cá ma kiệt v.v... há miệng phun lửa. Răng chúng bén nhọn, nhấm nháp, ăn nuốt. Những hữu tình tạo ác có cây to bằng sắt, gọi là cây Ta-lạp-mạt-lê, bên trên có trăm ngàn gai sắc bén nhọn. Mỗi một gai sắt dài mười sáu ngón tay. Khi đó ngục tốt xua đuổi tội nhân, theo vị trí trên dưới của chúng trên cây mà khiến gai đâm ngược vào. Các loài chim hung ác, tranh nhau đậu lên trên chúng, mỏ bén, móng cứng. Hoặc mổ, hoặc quặp. Ngục tốt hoặc dùng hòn sắt nóng to, lại dùng kềm banh miệng ra, bức bách phải nuốt. Hoặc nước đồng nấu chảy, rót vào miệng tội nhân, từ cổ họng suốt đến dưới, thảy đều cháy bỏng chín. Hoặc dùng đinh sắt đóng xuống lưỡi, rồi lấy cày sắt khiến trâu cày lên trên, hoặc ném tội nhân vào cối sắt to, lại lấy chày mà quết nát nhừ. Hoặc lấy hộp sắt kẹp lấy thân hình tội nhân. Nơi tai, mũi, miệng thảy đều vọt máu ra, hết thảy thân phần bị hủy hoại không còn sót chỗ nào. Lại có hầm than lớn rất sâu, cháy nóng dữ dội. Bắt những tội nhân kia ném vào trong ấy, giây lát biến thành khói lửa. Lúc này những ngục tốt đều quở trách: "Ngươi, thuở xưa tạo nhiều điều ác, tâm không từ bi, hủy phạm giới cấm. Nay thọ quả báo như thế, tự mình phải biết. Trong địa ngục này rất đau khổ, khó kham, khó nhận, lâu dài thọ tội, nghiệp hết mới thoát ra". Cho nên Phật dạy: "Tỳ kheo, các ông, thường phải ở nơi kinh này, thọ trì đọc tụng, vì chúng nhân mà diễn nói, khiến tu Thí, Giới, thành tựu được lọng phước".
Phật dạy: Kẻ phá giới kia, do tuệ ác, trong tâm suy nghĩ, không khởi đối trị, nhiệt não bức bách, gây tạo các tội. Giống như trong bọng cây khô đặt vào mồi lửa, tất sẽ bị thiêu cháy. Như hạt giống hư, tuy gieo vào ruộng tốt nhưng cuối cùng không thể nảy mầm. Kẻ phá giới, ở nơi ruộng pháp Phật, không thể sanh mầm thiện cũng giống như thế. Lại như cây rừng, thảy đều đốn gốc thì thân cây, cành, lá không thể lại tươi tốt, kẻ phá giới, chặt đứt thiện căn, hoại pháp công đức, cũng lại như vậy. Giống như giếng cạn những kẻ khô khát muốn tìm lấy nước, tất không thể được. Kẻ phá giới, hết thảy người thiện cầu pháp nơi họ, cũng không thể được. Như Chiêntrà-la, không thể làm vua, hết thảy dân chúng không chịu tin phục. Người phá giới, không kham nói pháp, hết thảy chúng sanh, không hay nghe thọ. Thí như người, ở nơi cây mía chín rục, muốn tìm cầu vị của nó, trọn không thể được. Nếu ở nơi người hủy phạm giới cấm, mong cầu công đức rốt cuộc không thể có. Lại các bạch y thấy Samôn kia, đơn độc không vướng bận tịch tĩnh an lạc, xả bỏ gia đình, vui làm Sa-môn. Còn kẻ kia không có nhân chánh, tâm không quyết định, ngu si ám độn. Đã làm Samôn rồi lại vui thích kinh doanh, sự nghiệp của thế tục, tham đắm, nhiễm dục, phá hủy giới cấm. Lúc ấy trong đại chúng, có các vị Trưởng lão cao đức quở trách và vì kẻ phá giới nói kệ:
Ngươi giữ ba y Phật
Ưa làm hạnh phi pháp
Ô nhục chúng thanh tịnh
Không khác Chiên-trà-la
Trong tâm suy nghĩ tà
Các cảnh giới năm dục
Giống như trâu nghé kia
Thường nghĩ đến cỏ nước
Vui làm việc thế tục
Buôn bán các châu báu,
Thêm bớt giá trị hàng
Nói năng không chơn thật
Kia như nguồn lợi tràn
Tâm thường không biết đủ
Vì cầu chút tài lợi
Gây tạo sự dối trá
Ví như ong hút hoa
Phải nương rừng hoa sen
Trái lại vào bụi gai
Uổng công chịu gian khổ
Trong biển pháp Phật ta
Trọn không chứa tử thi
Ở trong ruộng muối kia
Không sanh lại hạt giống
Như bệnh hủi bám quanh
Không cách nào chữa trị
Ngươi tạo các nghiệp ác
Sao không thấy hoảng sợ
Giống như chiếc thuyền thủng
Mình người sao qua sông?
Phật dạy: "Người phá giới không thể làm được gì do vì đa dục, tâm nhiều mong cầu, xâm phạm sắc đẹp của kẻ khác; thường ôm lòng lo sợ, danh tiếng hủy hoại, xa lìa thiện tri thức. Nên biết những kẻ ấy như người tham lam bỏn xẻn kia, rốt cuộc không có một chút công đức bố thí. Người phá giới, như kẻ nghèo cụt tay, tuy đến được núi châu báu mà không lấy được gì. Như bình không sạch, tuy đầy mà vô ích. Như hố bẩy thú, người thấy đều lánh xa. Như rắn ở trong nhà, người thường lo sợ. Như vườn rừng đẹp, bên trong lù lù một con cọp dữ. Như đường hiểm ác, không ai muốn đi đến. Như xe bị phá hư không thể vận chuyển. Như kẻ xấu ác, mọi người đều xua đuổi. Như rắn độc kia, mắt không muốn nhìn. Như rừng Thi đà, mọi người đều chán ghét. Như voi điên kia bị người hung dữ chế ngự. Như kẻ trộm cắp, người giàu ghét sợ. Giống như họa vẽ hoa chiêm bác ca. Kẻ kia không có hương Giới cũng lại như vậy. Như rừng chiên đàn, có cây côn ma, mùi hôi thối của nó cùng hòa lẫn, phải mau chóng đốn bỏ, Giả sử trong miệng có trăm ngàn lưỡi không thể nói hết lỗi lầm của sự phá giới, muốn biết số lượng, thật không có bờ bến. Do phá giới nên không thể làm tăng trưởng hết thảy pháp thiện bình đẳng của chúng sanh. Như trong khế kinh nói: "Có một người đàn ông, bảo với rể của mình: "Ngươi nay sửa soạn xe vào rừng đốn cũi". Do vì đốn cũi, kẻ ấy để lạc mất con bò. Thế rồi do đi tìm bò, lại để người ta lấy mất xe. Bò còn chưa tìm được, xe lại mất, người này hoảng hốt, tìm kiếm khắp nơi. Đi đến một cái ao, thấy có chim chóc, liền lấy búa từ xa ném vào chúng. Chim không trúng mà búa lại rơi xuống ao. Liền cởi áo để trên bờ rồi lội xuống ao tìm búa. Búa không tìm được mà áo lại bị người trộm, ở trần về nhà. Lúc ấy đã chiều tối. Về đến đầu cổng, núp dòm vào cửa sổ. Người nhà đều cho là đạo tặc đến, dùng gậy mà đánh, bị thương hết một mắt, máu trong mắt trào ra, bấc tỉnh nằm trên đất. Lại có loài côn trùng dữ từ trên rơi xuống, ngửi thấy mùi máu tanh, lại ăn một con mắt. Đến sáng, cha vợ từ nhà đi ra, biết là chàng rể, lấy làm lạ hỏi duyên cớ. Anh ta mới thuật lại đầy đủ sự tình. Người cha liền vì chàng rể nói kệ:
Mất áo rồi hư mắt
Thân người sao chịu thế?
Đã không kham việc làm
Do đấy mà bỏ xa
Cũng như đệ tử Phật
Thà phế bỏ đa văn
Nơi giới phải hộ trì
Phá giới như không mắt
Nên biết người hủy giới
Giả danh làm Sa môn
Không xứng thọ cúng dường
Mất các công đức lành
Ở đây lại nói, ví như trưởng giả có nhiều con, thường khuyên răn dạy dỗ, khiến không phóng túng, liền đem kho tàng, vô số các loại tài vật, nô tỳ tôi tớ, thảy đều giao phó cho. Như thế thì có thể giữ sự giàu vui lâu dài. Trong số các người con, hoặc có kẻ xa xỉ, hoang phí, mê đắm nữ sắc. Trưởng giả nghe rồi, liền nhóm họp thân thuộc tha thiết trách mắng, lấy một ít tài vật phân cho và đuổi ra khỏi nhà, lại răn đe: "Cẩn thận chớ phóng túng, hủy hoại tiêu tan tài sản của ngươi, sau phải chịu nghèo khổ, bị người khác bỏ đi. Người con này của Trưởng giả, không theo lời cha dạy. Chẳng bao lâu sau, tiền bạc đều hết sạch, hình dung tiều tụy, phải xin ăn để tự nuôi sống, bị thân tộc khinh ghét. Lúc ấy, người cha thấy thế sanh lòng sầu não, tâm quyết định bỏ. Ở trước mọi người, lớn tiếng tuyên bố: "Đây không phải là con ta. Đây không phải là con ta. Khiến kẻ kia nghe rồi, ôm lòng hổ thẹn.
Phật dạy: "Ta cũng như thế, nếu các đệ tử phá hủy giới cấm, không hổ không thẹn tức liền đuổi hẳn ra khỏi pháp Phật, cũng không giao phó cho Bồ đề phần v.v... các pháp công đức, các loại Thánh tài. Bèn ở nơi Trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn v.v... ở trong đại chúng, lớn tiếng nói: "Người này phá giới, chẳng phải là đệ tử ta, khiến kẻ kia nghe rồi xấu hổ với tội lỗi".
Lại các bạch y, đã xuất gia rồi, phải nương nơi Samôn thanh tịnh mà trụ, mặc y cà sa, cầm giữ bình bát, đội đèn tinh tấn, tu tập đa văn. Trái lại nương thế tục, sinh sống bằng nghề bất chính, cỡi voi, ngựa, thân mang giáp trụ, cầm cung, đeo tên, vào trong quân trận. Những việc như thế ở trong pháp ta, hủy hoại luật nghi, mắt không muốn thấy. Ví như thế gian họa vẽ đèn đuốc, dẫu cho thật nhiều cũng không thể xua tan bóng tối. Người ngu si kia không thể phát khởi Thánh trí vô lậu, chiếu sáng thế gian, cũng lại như thế. Như kẻ phường chèo, mặc áo mũ đẹp, ở trước mọi người, tự xưng là vua, nhưng kẻ kia thật sự không có niềm vui bậc nhất đó. Người phá giới tuy mặc cà-sa, làm hình tướng Sa-môn nhưng không có cái vui vi diệu xuất thế thanh tịnh. Lại như người nghèo, dối xưng giàu sang. Ở trong đại chúng, lớn tiếng tự nói: "Ta là trưởng giả. Nhưng kẻ kia thật sự không được tự tại tùy ý. Người phá giới giả danh Samôn ắt không thể được quả giải thoát thù diệu".
Ở đây lại nói: Người phá giới, đối với vô số các loại pháp thiện công đức hiện có của Như Lai, không thể thành tựu. Ví như con gái vua bị đem gả cho kẻ nghèo. Đã về nhà kẻ kia rồi, bảo với chồng: "Ta là con gái vua, điều mong muốn phải được như ý. Phải có các vật trang sức nơi thân như các chuỗi châu báu anh lạc, vòng hoa, hương đốt thù diệu, Kho tàng của cải vật dụng thảy đều đủ cả. Nếu được như thế ta sẽ ở đây". Người chồng nghèo nói: "Những vật như trên, trong nhà đều không có". Cô gái con vua nghe rồi bèn trách mắng chồng: "Nghèo thiếu như thế, Ta sẽ bỏ đi".
Phật dạy: "Người phá giới cũng lại như thế, không thể chu toàn cho người con gái giải thoát thanh tịnh tối thượng. Cũng không thể thành tựu được các hương Noãn, Đảnh, Nhẫn v.v... để đốt. Cũng không thể được hoa giới Biệt giải thoát. Cũng không thể thành tựu được vòng hoa do Thiền định giải thoát. Cũng không thể được các loại kho tàng Bồ đề phần v.v... Cũng không thể thành tựu được Trí vương do văn, tư tu v.v... Cũng không thể được Bồ đề Chánh Đẳng tối thắng, tối thượng. Cũng không thể được hàng Duyên Giác, Thinh văn làm quyến thuộc. Người phá giới này, do không có nghiệp thiện, ở trong đời hiện tại, không có phước đức. Hết thảy người thiện không vui thích ở chung. Có nói ra điều gì người không tin dùng. Đối với pháp tài, công đức xuất thế gian Như Lai hiện có thì vĩnh viễn mất phần.
Bấy giờ trong chúng hội, Tôn giả A-Nan liền từ tòa ngồi đứng dậy, tiến tới trước bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Người hủy phạm giới, trong chúng đệ tử, vì sao không vì họ thuyết giảng pháp chánh yếu? Lại không thâu nhận mà bị đuổi ra? Mọi người đều nói Như Lai chẳng phải là bậc Đại bi.
Phật bảo Tôn giả A-nan: Ta đối với hết thảy chúng sanh trong thế gian, thương xót bình đẳng, đối với pháp tuyên thuyết, tâm không sẻn tiếc. Do kẻ kia không phải là pháp khí, không thể nhận lãnh nổi nên không tuyên thuyết trao cho họ. Chẳng phải như kẻ trí ở thế gian thuyết pháp, đối với các chúng sanh, có tướng trái thuận. Nếu người chống trái, không vì kẻ đó nói pháp như vật giữ trong nắm tay, giữ kỹ không trao cho. Như có quốc vương mở hội bố thí lớn, thỉnh các Sa-môn, Bà-la-môn, những vật cần dùng đều cung cấp đủ. Có Bà-la-môn từ phương khác đến, đứng trước mặt vua, xin nhiều vật. Vua nghe nói rồi, thảy đều không cho. Khi ấy có vị cận thần, khuyên vua tùy ý thí cho Bà-la-môn. Vua bèn trả lời: Chẳng phải là có chỗ xẻn tiếc. Vì người này không có đức, nên không cho. Phật nói: Này A-nan! Ta cũng như vậy. Do kẻ kia phá giới chẳng phải là pháp khí nên không vì họ mà thuyết giảng. Ví như vì kẻ kia mà thuyết, kẻ ấy cũng không thể lãnh thọ, như bình có lỗ thủng không thể chứa nước, giá như ngày đêm gắng sức múc nước, chẳng mấy chốc lại chảy ra hết. Người phá giới này không thể dung nạp nước pháp công đức, cũng lại như thế. Nếu chỉ vi phạm phần nhỏ giới cấm, người này đối với các loại pháp bảo Bồ đề phần v.v... cũng không thể thành tựu. Phải biết người ấy, thọ trì tịnh giới, không được viên mãn. Cũng không tăng trưởng. Giới hạnh như thế vì không tăng trưởng nên ở nơi pháp giải thoát cũng không tăng trưởng, do đó chỗ sở đắc của kia chẳng phải là đạo tịch tĩnh. Chỉ được gọi là tương tợ giải thoát. Nếu ở nơi Giới pháp, giữ gìn chắc chắn không hủy phạm, người này ắt ở nơi các loại pháp tài: "Bồ đề phần v.v... mỗi mỗi đều đạt hiểu biết, tư duy như lý được trụ yên ổn. Tỳ-kheo các ông, ở nơi kinh điển này, thường vui thọ trì, vì người diễn nói công đức của Bố thí, Trì giới, thành tựu được lọng phước.
Nếu các Tỳ-kheo trụ nơi chánh Tư duy, gần gũi bạn lành, vui nghe chánh pháp thường từ bỏ những nhiệt não buồn sợ của thế gian, ngăn dứt pháp ác, không để cho sanh khởi. Như diệt lửa dữ, khiến không còn sót. Nếu các Tỳ-kheo trụ nơi tà tư duy, dẫn đến sanh phóng dật, khiến tâm tán loạn, thì chỉ thâu lấy nhân duyên năm dục, là chỗ phát sanh phiền não của các hữu tình, quyết định hoại mất các pháp công đức. Như mưa đá phi thời làm tổn hại lúa mạ, thường tạo nên các loại tai nạn ở thế gian. Thường ôm lòng dua nịnh quanh co, không có hổ thẹn, bị hàng bạch y chê bai khinh mạn. Người phi pháp này, ý chí thấp kém. Đối với quả thiện thanh tịnh của Sa-môn, tâm không vui cầu. Đối với các nước pháp cam lồ của Như Lai thì không thể uống. Ưa làm các việc ác, mong cầu đi đến đường hiểm, thâu lấy địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, các chốn ác khổ cùng cực, lấy làm chỗ nương tựa. Hoặc đối với lời Phật dạy, tâm không tín thọ. Tuy hủy phạm giới chút ít mà phải thọ báo vô cùng. Huống chi tạo tác nghiệp ác rộng nhiều, quả chiêu cảm, khổ báo là khó lường. Như kinh Y La Diệp Long Vương Nhân Duyên nói:
Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ Phật ở tại thành Phược-la-noa, trong rừng Thi Lộc, chỗ đọa của Tiên nhân, vì các đại chúng tuyên thuyết pháp chánh yếu. Lúc ấy, Y-la-diệp Long Vương biết Phật Thế Tôn đang ở tại thành kia thuyết pháp, bèn phát tâm thanh tịnh, muốn đi đến chỗ Phật, thân cận cúng dường, liền khởi suy nghĩ thế này: Thân ta thuộc loài rồng. có nhiều oán cừu, nếu như cùng gặp gỡ, ắt bị tổn hại. Bèn biến thân mình làm Chuyển Luân Thánh Vương, tướng mạo đoan nghiêm, uy đức tự tại. Dùng các châu anh lạc báu trang sức nơi thân hình. Cầm lọng tán khéo đẹp, cỡi xe báu, đủ bảy báu, ngàn người con, trong ngoài đi theo. Lại lấy chín mươi câu chi quân binh, trước sau vây quanh. Lại có trăm ngàn ngoại đạo Phạm chí, Bà-la-môn v.v... những người xin ăn, thảy đều đi theo, uy thần phòng giữ, như Thiên Đế Thích, liền đi nhanh đến pháp hội Như Lai.
Bấy giờ, đức Thế Tôn, có bốn chúng đệ tử, các chúng Thiên, long Dạ-xoa, Càn-thát-bà v.v... cung kính vây quanh, vì họ thuyết pháp. Lúc ấy nơi chúng hội, thấy sự việc này rồi đều sanh kinh nghi, tiến tới trước bạch Phật:-Đây là vua nào mà uy thần như thế?
Phật nói với đại chúng: Đây là vua loài phi nhân. Hãy chờ trong chốc lát, tự sẽ biết vị này.
Khi đó Long vương đã đến chỗ Phật, đầu mặt cung kính đảnh lễ Phật, lui ngồi qua một bên.
Phật nói: Long vương! Ngươi xưa ngu si, nay thọ báo nầy. Lại do duyên gì mà đến đây? Phải nên mau chóng đứng lên rời khỏi chỗ này, bỏ sự biến hiện trở lại nguyên hình, thì có thể tới đây, hiển thị cho hội chúng. Long vương thưa:
Bạch đức Thế Tôn! Chúng con thân rồng, có nhiều kẻ đối nghịch. Nếu bỗng nhiên gặp nhau ở đây, nhất định khởi lên tai nạn. Do vì lẽ này, nên phải biến hóa.
Phật Thế Tôn nghe vua kia nói như thế rồi, bèn ra lệnh cho thần Đại Dược Xoa Kim Cang Thủ đi theo đi theo để bảo hộ Long vương khiến tới chỗ khác, lúc này mới trở lại hình dáng cũ. Thân hình dài lớn, thô xấu, các loại tướng ác, chứa nhóm thành thân. Do vì nghiệp trước mà có bảy đầu, trên mỗi một đầu có cây Y-la. Do vì cây ấy cứ lung lay làm cho khổ sở, máu mủ tuôn trào, rất là hôi hám dơ uế, bị vô số loài giòi trùng rúc rỉa. Đã hiện bày nguyên hình rồi, trở lại đến chỗ Phật, đầu của rồng tại thành Phược-la-noa, đuôi đến nước Bạc-xoa-thi-la. Bấy giờ, các đại chúng, người lìa tham đã lâu, thấy hình trạng xấu ác này còn sanh kinh sợ, đều khởi suy nghĩ: "Đây là loài hữu tình gì mà chiêu cảm quả báo như thế, lại đi đến đây?"
Phật bảo đại chúng:
- Đây là hữu tình vừa biến làm Chuyển Luân Thánh
Vương đi đến chỗ ta. Ta khiến rời đi, hiện nguyên hình.
Các Sa-môn nghe Phật nói thế đều buồn rầu, than thở im lặng mà trụ. Long vương Y-la-diệp đã hiện thân rồng rồi, buồn khóc bạch Phật:
- Ngưỡng mong Thế Tôn, đại bi thương xót, dự ghi cho con bao giờ thoát khỏi nẻo ác này?
Phật nói: Long vương, Ta nay sẽ vì ngươi nói rõ, nên sanh lòng tin chắc chắn. Lui về sau, ở đời vị lai, lúc thọ mạng của chúng sanh tám vạn tuổi, có Phật ra đời gọi là Từ Thị; Phật ấy sẽ dự ghi thời gian phải trải qua của ngươi, thoát khỏi thân rồng này.
Long vương nghe Phật nói bèn cất tiếng khóc rống lên, nước mắt chảy như sông. Phật dùng tâm đại bi, lời lành dạy bảo:
Ngươi nên tự hối lỗi mình, không thể chỉ thêm buồn khổ. Nay trong hội này, khó có thể ở lâu.
Long vương kia tự nơi thâm tâm tự nghiêm trách mình: "Nghiệp ác ấy của ta không có ai tương tợ. Nguyện nương Phật lực, sớm lìa khổ này. Bèn phát thệ nguyện: Từ đây về sau, đến hết đời vị lai, tâm không suy nghĩ tà, không sanh phóng dật. Cho đến con dế, con kiến cũng không sanh tâm sát hại. Nói lời thề này rồi, đảnh lễ chân Phật, liền trong hội chúng, bỗng nhiên biến mất".
Lúc ấy, Tôn giả A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, một lòng chắp tay thưa hỏi Như Lai: "Vị Long vương này trước kia tạo nghiệp gì, phải đọa vào loài rồng?" Lại do nghiệp gì mà có bảy đầu, trên mỗi một đầu, có cây Yla, mỗi khi lay động, thật là thống khổ, máu mủ trào ra?" Kính mong Như Lai, vì chúng con giảng nói nhân duyên ấy, khiến rõ tội phạm.
Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A Nan: "Ngược về quá khứ, trong Hiền kiếp lúc thọ mạng của chúng sanh hai vạn tuổi, có Phật ra đời, tên là Ca Nhiếp Ba gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thời đó, Long vương kia, ở trong pháp Phật, xuất gia tu đạo, Làm Tam Tạng Tỳ-kheo, chán sợ phiền não, tu hạnh xa lìa, ở chốn vắng lặng, tu tập Xa-ma-tha. Từ định ra rồi, mặt trời đã quá giữa, bèn vào xóm làng kia mà hành pháp khất thực. Hoặc có được đồ vật, hoặc không được đồ vật, bị người chửi mắng, sanh khởi phiền não. Ra khỏi xóm làng ấy về đến A-lan-nhã, dưới cây Y-la, rồi du hành trở lại, nhân đó dùng hai tay hái lá, gồm bốn lần, hái rồi lại hái, vò nát rồi vứt đi. Phật biết được chuyện này, bèn quở trách Vị Tỳ-kheo kia, và nói giới tướng khiến Tỳ-kheo ấy hối lỗi. Vị Tỳ-kheo đó do không tin thọ lại nói: "Đây là vật vô tình, đâu có lỗi gì" Do hai nhân duyên, nên thọ khổ báo như thế: "Khất thực quá giờ, phải chịu quả báo sanh vào loài rồng, do không tin lời Phật nên sanh cây y-la trên đầu".
Phật bảo các vị Tỳ-kheo: Long vương Y-la-diệp kia, chỉ tạo chút nhân ác, nay phải chịu nhiều thống khổ. Tự mình tạo nhân, tự mình thọ quả. Chẳng phải Địa giới, Thủy Hỏa, Phong giới bên ngoài có thể chiêu tập mà thảy đều do nội tâm tạo tác.
Nếu các hữu tình, rốt ráo ưa tạo hắc nghiệp phi pháp thì chắc chắn phải thọ khổ báo ở trong đường ác. Nếu các hữu tình, rốt ráo vui tạo bạch nghiệp thanh tịnh thì nhất định thọ báo vui ở trong cõi người, trời. Nếu các hữu tình, nghiệp gây tạo, thiện ác xen lẫn thì lãnh thọ quả báo lẫn lộn. Cho nên, các thầy Tỳ kheo, đối với hắc nghiệp kia, rốt ráo chớ tạo, đối với bạch nghiệp, nhất định tu tạo. Quả báo chợt đến, giống như dòng thác dữ, nghiệp thiện ác, ảnh hưởng không sai. Như có bài tụng:
Dù trải vô lượng kiếp Nghiệp kia không thể hoại Lúc quả báo thành thục Chúng sanh nhất định thọ
Phật nói: Tỳ-kheo các ông, phải nương theo lời Phật, tư duy như lý, đối với giới cấm không nên phạm dù chút ít. Cho nên ta nay phân biệt tỉ mỉ nỗi lo sợ lỗi lầm của sự hủy phạm giới. Vì khiến hữu tình sanh tâm sợ hãi sâu xa, dứt hẳn các điều ác, siêng làm các điều thiện, Tỳ-kheo các ông, ở nơi kinh điển này, vì mọi người diễn thuyết, khiến thành tựu lọng phước.
Bấy giờ, trong chúng hội, Tôn giả A-nan-đà thưa Phật:
-Bạch Thế Tôn, tướng trì giới này, làm sao biết rõ?
Phật bảo Tôn giả A-nan: Muốn vào pháp Phật, trước phải giữ năm giới, đó là: Không sát sanh, lìa lấy vật không cho, lìa tham muốn tà hạnh, dứt lời nói hư dối, lìa phóng dật uống rượu. Hành tướng như thế, mỗi mỗi rõ biết. Này A-nan! Nơi nơi xứ xứ, thành ấp xóm làng có các thiện nam, tín nữ nương tựa nơi pháp thiện, vui giữ tịnh giới, phát sanh tâm thanh tịnh, ở nơi năm giới này trọn đời có thể vâng giữ.
Như kinh Tạo Tác Phước Nghiệp nói: Như thế nào là trì giới được thành việc phước. Nếu người có thể đối với hết thảy hữu tình, không làm việc giết hại, người này được gọi là trì giới không giết hại. Người sát sanh, từ nơi tâm sơ khởi, quyết định sẽ giết hại những vật nào, hoặc khiến người khác giết. Khởi tâm gia hạnh thật sự đoạn mạng sống của hữu tình kia, chặt cắt thọ dụng. Người này gọi là phạm tội sát sanh.
Nếu người đối với tài vật sở hữu của người khác, lìa sự không cho mà lấy. Hoặc làm việc cướp lấy. Hoặc kẻ khác để quên, giấu không trả. Thậm chí, từ đầu, khởi tâm gia hạnh, trộm lấy vật kia. Người này gọi là phạm tội trộm cắp.
Nếu người có thể lìa hết thảy nhiễm dục, hoặc ở nơi sắc của người khác, không sanh tâm xâm phạm. Người này được gọi là trì giới không dâm. Người ham muốn tà hạnh, chẳng phải trong thân tộc, làm trò, buôn bán nơi xóm làng, chỗ sanh nhiễm dục, đều không nên đến. Hoặc thân quyến kẻ khác, thường được giữ gìn, khéo sắp đặt phương tiện, để lại châu báu của mình, hoặc kẻ khác gặp nạn mà sanh cưỡng bức. Khởi tâm như thế cho đến việc làm, người này gọi là phạm tội tà dục.
Nếu người thường lìa lời nói hư dối, phát ngôn chân thật, tâm miệng không trái, người này gọi là trì giới không nói dối. Người nói dối đó là thấy nói không thấy, không nói đúng sự thật. Như trong Luật nói: "Như có Tỳ-kheo, từ phương xa đến, hoặc có người hỏi: "Có thấy người này, nọ không?" Vị kia thật sự đã thấy nhưng đáp: "Không thấy. Những sự loại như thế gọi là mắc tội nói dối.
Nếu người đối với rượu, đã răn không uống. Hoặc gió thổi bay mùi thơm, cũng không muốn ngửi, người này gọi là trì giới không uống rượu. Rượu có ba loại:
1. Tô-la. Là lấy gạo, men trộn lẫn tạo thành.
2. Mai-lý. Loại này chỉ dùng rễ, quả, hoặc hoa, lá v.v... lấy nước làm thành. Hai loại rượu này đủ sắc, hương, vị. Do gió thổi mùi hương, nghe đều muốn uống. Uống rồi mê say, ắt sanh phóng dật.
3. Ma-tha. Loại này lược không nói rõ. Ba loại rượu này, nếu vui thích uống, người này gọi là phạm tội uống rượu.
Lại như kinh Nan-nỉ-ca nói: "Rượu Ma-tha đó, không nên làm ra. Tỳ kheo uống vào rồi dẫn đến phóng dật, hao tổn tài vật, thọ dụng không đủ tăng thêm sân hận, hoặc cùng đánh đuổi nhau, cùng thêm vào lời hung ác, tranh cãi, cho đến mất áo, khỏa thân, không biết xấu hổ. Tiếng xấu lan rộng, người tốt lánh xa. Bỏ quên việc tụng tập kinh điển Đại thừa, tổn giảm trí tuệ, tăng trưởng vô minh. Không kính Tam Bảo, cha mẹ, tôn thân. Ở trong dòng họ, không được tôn trọng. Như thế, người phá giới do vì uống ba loại rượu kể trên, sanh các lỗi lầm. Cho nên phải biết, đối với việc sát sanh v.v... không gây tạo nữa, thường phải xa lìa.
Nay ở đây lược nói tướng trì giới. Bắt đầu từ các căn, nhận giữ kín đáo. Uống ăn biết lượng, giảm trừ ngủ nghỉ, thường vui tôn trọng, tu các phạm hạnh, nghe những việc hưởng thọ dục lạc thuở xưa không thích nghĩ tưởng. Lại có thể hiển thị công đức của Sa-môn, xuất ly mọi lỗi lầm của luân hồi nơi nẻo ác. Thân cận thiện tri thức, tác ý như lý, vui nghe chánh pháp, hiểu sâu nghĩa lý, trừ tham, sân, si, dứt các phiền não, bỏ tưởng hư vọng, thêm lớn minh tuệ, chỉ mong giải thoát, không sanh mệt mỏi. Nếu như có hủy phạm tội cấu vi tế thì không che giấu. Hết thảy tài vật tâm không keo kiệt, thường vui thí giúp cho những chúng sanh nghèo khổ. Biết rõ năm dục có nhiều tội lỗi. Đối với quyến thuộc của mình, ân ái ràng buộc, sanh tưởng xa lìa. Ở một mình trong rừng, nơi đồng hoang, bỏ chốn ồn náo. Không nuôi lớn vật khác với những kẻ tham. Có người đến cầu pháp, không sanh lòng tiếc sẻn, ganh ghét. Liền vì những kẻ ấy thuyết giảng khiến họ tin hiểu. Thường dùng kiếm tuệ diệt giặc phiền não. Được các thiện nhơn tôn trọng ngợi khen, xứng đáng thọ những vật cúng dường của thế gian như: "Y phục tốt đẹp, ngọa cụ, các thức ăn uống v.v... Đối với những mùi vị thịt, ý tưởng dứt tuyệt, quên hẳn. Nơi danh lợi thế gian tâm không mong cầu, tranh lấy. Đối với hai loại nghiệp đạo thiện, bất thiện, hoặc làm, hoặc ngừng, tin hiểu chắc chắn. Đã tự mình hiểu biết rồi, trừ bỏ ngã mạn, dùng tâm lợi lạc, vì người khác diễn thuyết, hóa độ các Ni Kiền tử ngoại đạo v.v... khiến họ cũng sanh tâm tin hiểu, an trụ trong pháp Phật. Ngoài ba y của mình, những vật sở hữu khác, dùng tâm thanh tịnh mà bố thí cho mọi người. Người như thế tức là đã ở trong chủng tộc Thánh. Thân tâm mát mẻ, lìa các nóng bức, ưu não. Rõ biết sáu xứ không có chân thật, giống như ung nhọt. Bị vật ngăn che, thường bị ruồi muỗi phiền não cắn hút. Những người có trí, siêng cầu phương tiện, nương nơi chánh niệm xứ và tám Thánh đạo dùng khói hương pháp thiện, xông lên đuổi đi. Rõ biết năm uẩn giống như cây chuối, nếu sanh tâm tham, thì khởi tưởng không bền chặt. Do vì lòng tham kia làm hư hoại chánh đạo. Trước chế ngự các căn, khiến không tán loạn. Dần dần khiến tu tập, trụ vào Tam-ma-địa. Rõ biết cảnh giới, bản tánh chỉ là khổ, giống như rừng gai, rậm rạp khó vượt qua. Cũng như bụi bặm, ô nhiễm hữu tình. Dùng nước chánh pháp gội rửa sạch. Quán sát như thế, uẩn, xứ, giới kia, sanh trưởng các phiền não mê muội, không đáng yêu thích.
Đây nói rõ Trì giới, có hai loại:
1. Trì giới không thanh tịnh.
2. Trì giới thanh tịnh.
Như trong luật nói: "Có hai vị Tỳ-kheo, tinh tấn trì giới. Mỗi người ở một nơi, tiếng tốt đồn xa. Lúc ấy, dân chúng đều kính ngưỡng đạo đức của họ, cùng nhau đi đến chỗ ở của hai vị, thân cận cúng dường. Bấy giờ có Nhà vua tên là Ca-ni-sắt-sá, nghe biết hai vị Tỳ-kheo này hộ trì tịnh giới, nên cùng với quần thần đi đến chỗ của họ. Thấy một vị lão niên, uy nghi trang nghiêm, tu tập thiền định, bèn sanh tâm kính ngưỡng, ý muốn thưa hỏi. Vua thưa: "Bạch Đại Đức! Trì giới như thế, ý mong cầu điều gì?" Vị Tỳ-kheo đáp: Mong muốn của tôi là đời sau được làm vua Nhà vua nghe nói thế, lòng thấy không vui: Trì giới như thế sao không có trí tuệ biện biệt chọn lựa. Lại đi trở vào vòng trói buộc của sanh tử luân hồi? Ngươi làm điên đảo mê hoặc chư Thiên và dân chúng. Ta nay ở đây, không cúng dường. Trì giới như thế gọi là không thanh tịnh.
Nhà vua lại đi đến chỗ ở của vị Tỳ-kheo tân học. Đến rồi, vua liền hỏi: "Thầy nay trì giới, ý mong cầu điều gì?" Vị Tỳ-kheo thưa: "Ơn vua đoái hỏi, điều mong cầu của tôi là nguyện chứng thành Bồ đề, làm lợi lạc quần sinh. Vua nghe nói thế, lòng rất vui: "Trì giới như thế thì không lầm lẫn, xa lìa các cấu nhiễm, gọi là thanh tinh. Ta nay phải thực hiện sự cúng dường tối thượng". Samôn như thế, phát tâm rộng lớn, Đế Thích, chư Thiên đều nên cúng dường. Lúc ấy dân chúng, nghe vua ngợi khen, đều cùng chắp tay, đảnh lễ xuống chân vị Tỳ-kheo. Vua bèn quay nhìn các vị cận thần theo hầu, bảo: "Các ngươi mỗi người hãy lấy vật quý báu mà dâng cúng. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.
Như đức Thế Tôn nói: Có mười loại duyên, gọi là trì giới không thanh tịnh:
1. Thâu lấy tổn hại.
2. Đắm sâu nhiễm dục.
3. Không cầu xuất ly.
4. Thường sanh lười biếng.
5. Mong cầu mưu tính khắp.
6. Thoái thất chánh hạnh.
7. Tà mạng nuôi sống.
8. Mất vui yên ổn.
9. Nghe ít không học.
10. Bỏ quên việc tụng tập.
- Thế nào gọi là Thâu lấy tổn hại? Đó là đối với vua, con vua, các đại thần, sợ uy thế của họ, thường phải xa lìa, cho đến vô số các loại luật nghi ác. Tỳ kheo, nếu bị bức bách vì khát không nên ở những nơi kia, cầu xin nước để uống. Vì chưa dứt trừ phiền não, chưa chứng được thần túc, không thể tự điều phục mình, sanh nhiều sự sợ hãi.
- Thế nào gọi là đắm sâu nhiễm dục? Đó là ở nơi năm trần cảnh, liên tục khởi tưởng bất chính, tự tánh buông lung, phóng túng, bỏ việc tu tập thiện.
- Thế nào gọi là không cầu xuất ly? Đó là xả bỏ chỗ tốt đẹp hướng đến chỗ lỗi lầm, lại chê bai chỗ tốt đẹp tán thán năm dục lạc.
- Thế nào gọi là thường sanh lười biếng? Đó là luôn luôn nghĩ nhớ những việc lợi phi nghĩa đã làm trong quá khứ, cùng nhau tranh chấp. Ỷ vào của cải mình có, tiêu dùng tùy ý sanh kiêu mạn. Phần nhiều đối với những bậc cao niên đức độ, không thường kính trọng, không khởi ý thưa thỉnh.
- Thế nào gọi là mong cầu mưu tính khắp? Đó là đối với những vị thiện tri thức, đồng phạm hạnh, dua nịnh, tán dương lẫn nhau, vì cầu lợi dưỡng.
- Thế nào gọi là thoái thất chánh hạnh? Đó là ưa tạo các điều ác, trái vượt giới pháp, không có phương tiện thiện để khởi đạo đối trị.
- Thế nào gọi là tà mạng nuôi sống? Đó là sợ mình khó nuôi dưỡng nỗi mình, tâm không biết dừng đủ. Như ở trong Luật nói: "Tỳ-kheo sinh sống bất chính, làm luật nghi phi pháp, giả hiện dị tướng. Ở trong đại chúng, tự khoe đức mình. Nói nhiều, không biết hỗ thẹn. Hoặc ỷ lại dòng họ, đa văn luận nghị. Hoặc có lúc phi thời thuyết pháp cho kẻ khác, tuy có chút ít đức, do vì tham lợi, người nghe pháp, phần nhiều không tin thọ. Nghe có người nói, ở nơi chốn nọ, có Trưởng giả thuộc tộc họ lớn Bà-la-môn, bố thí áo quần, các loại vật dụng nuôi sống, liền đi đến đó, nói với trưởng giả: "Ta là Trưởng lão đức độ, sẽ lấy những vật tốt đẹp bậc nhất, mong sẽ được thí trước". Bấy giờ vị Trưởng giả sợ tranh giành ầm ĩ, không muốn trái ý nên cấp cho. Kẻ giúp việc thấy thế, đều sanh lòng khinh chê, vật thí không đem cho, lại xua đuổi khiến bỏ đi. Lúc này vị Tỳ kheo kia tâm sanh buồn phiền, ở trước mặt Trưởng giả nói lời thế này: "Ta trước đã không muốn đi đến chỗ tộc họ thấp kém để cầu những vật cầu dùng. Nay đã không được, ở cũng không hổ thẹn, kẻ kia tuy dòng họ thấp kém nhưng cũng hay vui thí xả". Tỳ kheo như thế, xảo ngôn dối trá để mong cầu nhiều, tâm thường nóng bức phiền não.
- Thế nào gọi là mất vui yên ổn? Đó là người trì giới phải nên an trụ việc làm trong chỗ không khổ, không vui. Chẳng phải như các ngoại đạo Ni kiền tử, nằm ngồi trên gai gốc, năm thứ lửa, nướng thân, luống thọ khổ nhọc, không có được chút lợi lạc nào. Nếu bám nơi lạc cũng không có chỗ chứng đắc, chỉ tăng thêm phóng dật, sau ắt chiêu cảm lấy khổ báo.
- Thế nào gọi là nghe ít, không học? Đó là bên ngoài tuy phòng giữ lỗi ác, bên trong không có tuệ sáng, chỉ có ngu si, lại không thường thưa hỏi.
- Thế nào gọi là bỏ quên việc tụng tập? Đó là chỉ nghĩ đến việc ăn no, không thể tấn tu. Ăn no đầy ruột, đầy bụng bất tịnh chảy tràn. Thật chẳng phải là Sa-môn, mà tự xưng phạm hạnh. Giống như thổi loa ốc, chỉ đuổi theo tiếng hư ảo.
Mười duyên như thế, tùy theo đầy đủ một loại, gọi là trì giới không thanh tịnh. Những người tu hành phải khéo biết rõ.
Nếu người thâm tâm tin hiểu chắc chắn, cho đến một lỗi nhỏ, cũng sanh lòng sợ hãi, phải biết người này khéo trụ tịnh giới. Như trong Luật nghi nói: "Có một Trưởng giả mua được một nô bộc, đã nhỏ lại nghèo, bán thân để tự cứu giúp. Nhưng kẻ kia trong tâm thọ trì giới Phật. Một hôm, Trưởng giả sai sát sanh, kẻ nô bộc liền thưa: "Trưởng giả là bậc chánh nhân, sao lại khiến người tạo nghiệp sát?" Ở nơi việc thiện, bất thiện cần phải phân biệt" Vì giữ giới Phật nên không dám theo lệnh" Trưởng giả thức tỉnh, bèn dừng việc sát hại.
Lại có vị Quốc vương tên là Kế-la-ca, thường dùng hình phạt nghiêm khắc để cai trị muôn dân. Nếu kẻ thứ dân kia, có các lỗi lầm, thuộc về quan gia, tất sẽ tru lục. Lúc ấy, có một người, sắp sửa bị giết. Kẻ Chiên-trà-la kia dập đầu trước vua thưa: "Tôi nay phát tâm, mới lãnh thọ giới Phật. Đối với các tội nhân, thề không giết hại. Thậm chí loài dế, kiến cũng không làm tổn hại". Nhà vua nói: "Ngươi tôn trọng giới Phật, chống lại lệnh nước. Đã không có chỗ dùng, nuôi ngươi phỏng ích gì?" Lúc ấy, kẻ Chiên trà la lại thưa vua: "Tôi nay nhất định không hủy phạm tịnh giới, xin vua xem thử: "Đế Thích, chư Thiên, ở nơi giới Phật chế còn không dám trái vượt, huống chi chúng tôi" Nhà vua nói: "Nếu thật vậy sẽ dùng nghiêm hình trước chặt đầu ngươi". Chiên trà la thưa: "Nay thân này của tôi, thuộc về nhà vua. Nhưng ở đời sau, trọn không có thân nào sót lại. Dùng công đức của thiện căn trì giới này, nguyện sẽ được sự an vui hạnh phúc tốt đẹp nhất ở thế gian, cho đến chư Thiên, theo nguyện ý mà đi tới. Ở đời vị lai, vui cầu pháp thiện, tăng trưởng sức mạnh: Tín, Tấn, Niệm, Định và Tuệ. Dùng nước công đức rửa sạch cấu nhiễm ba độc: Tham v.v... rửa sạch không còn thừa lại gì. Quyết định sẽ được các quả: "Dự lưu, cho đến Pháp thân vi diệu, thanh tịnh của Như Lai". Đã phát nguyện này xong, ở trước đại chúng, cao tiếng xướng: "Tôi nay thân này từ nhân duyên sanh, trong khoảng sát na, ắt sẽ chấm dứt, vì hộ trì giới Phật, tâm không lo sợ" Nhà vua nghe kẻ kia nói thế, càng thêm phẫn nộ, liền sai sứ giả, đuổi kẻ chiên-trà-la, vào rừng Thi-đà giết hại mạng nó. Lúc ấy dân chúng đều kinh sợ than thở, bèn nói với nhau: "Người này là bậc đại trượng phu, thật là ít có. Vì hộ trì giới của Phật mà bỏ thân mạng mình."
Cho nên phải biết, hết thảy chúng sanh, chẳng hạng lớn nhỏ, chủng tánh cao thấp, chỉ trong tâm sâu xa có thể đủ sự hổ thẹn, tin hiểu chắc chắn mà không hủy phạm, thì được gọi là trì giới thanh tịnh.
Ở đây lại nói rõ trì giới không thanh tịnh. Như trong Luật nói: Có một vị Tỳ-kheo, tu hạnh xa lìa, trú trong hang núi. Bỗng nữa đêm, tự lấy lương khô ăn. Do vì vội vàng nên làm bể cái bình. Lúc ấy chúng nghe, rồi quở trách vị Tỳ-kheo kia: Dù ở trong hang núi mà lại ăn phi thời thì cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.
Lại có vị Tỳ kheo vốn là Bà-la-môn, sau nương theo pháp Phật, xuất gia tu đạo, vui ở chốn đồng hoang, sống một mình. Do vì thói quen, thường vào ban đêm, gấp y cà sa lại xoạc chân mà ngồi. Có đám học trò trước, chợt đến thăm hỏi. Bèn nói với họ: "Đây nếu không có người, ngươi có thể vào trong rừng Am-la kia, hái trái cây mang về". Đệ tử vâng lời dạy, liền đi đến chỗ ấy, bèn bị người chủ bắt trói. Đây cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.
Lại có Tỳ-kheo, ở nơi A-Lan-nhã, tu hạnh tịch tịnh. Vào làng khất thực, lạc qua nhà mại dâm. Cô gái kia hỏi: "Tỳ-kheo trì giới, vì cớ gì đến đây, chỗ không giải thoát?" Nếu vui thích hòa hợp sẽ vào hầm lửa". Tỳ-kheo như thế, khó ở chốn vắng lặng vì không khéo quán sát nên bị kẻ kia chê trách. Đây cũng gọi là trì giới không thanh tịnh.
Có hai vị Tỳ-kheo, trụ ở A-lan-nhã, nhưng thật sự không có đức, tự bảo có đức. Theo đám thương nhân vào trong biển lớn. Gió đen hung dữ thình lình nổi lên, sóng to ầm ập đến. Mọi người đều kinh hoàng. Các loài thủy tộc, cá Ma-kiệt v. v... tới lui, qua lại ngang dọc, húc đâm làm hư hoại tàu thuyền. Mọi người đều rối loạn, kêu khóc bi thương. Hoặc nổi lên được cứu vớt, hoặc bị chìm đắm. Lúc ấy, vị Tỳ-kheo già, đã rơi xuống nước rồi. Nghĩ lại mình già yếu, mạng không thể thoát được, liền cởi các phao ra, cho người bạn đồng hành. Kẻ kia đã được phao rồi, lấy nhiều châu báu, ngọc ma-ni, v.v... bèn bị mất mạng. Đây gọi là trì giới không thanh tịnh.
Kế lại nói rõ trì giới thanh tịnh. Có một vị Tỳ-kheo, lặn lội đường xa, bèn bị các đạo tặc, cướp đoạt hết cả y áo. Trong số có một người, trước làm Sa-môn, biết vị này hộ trì giới, bèn bảo đám kia: Lấy cỏ trói lại, bỏ ông ta đó rồi đi. Vị Tỳ-kheo luôn nghĩ tưởng giới Phật chế. Hết thảy cỏ lá không được bứt đứt, nằm nép bên đường, không dám động đậy. Gặp lúc vua đi săn bắn. Từ xa trông thấy, tưởng là ngoại đạo lõa hình, do ngã mạn không chịu đứng dậy. Liền đi đến cật vấn, mới biết đây là Tỳ-kheo, vì hộ trì tịnh giới, không làm tổn hại cỏ lá. Vua khen là chưa từng có, rồi sai người cởi trói cho ông ta, cho ăn uống lại cung cấp cả áo quần. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.
-Có hai vị Tỳ-kheo từ phương xa lại, muốn đi đến cúng dường Xá-lợi của Như Lai. Hành trình vất vả, mệt khát, muốn tìm nước uống. Vị Tỳ-kheo thứ nhất bị cơn khát bức bách, không bận tâm xem suy xét, uống nước liền. Vị Tỳ-kheo thứ hai tuy cũng khát nhưng xem xét coi nước có trùng không. Vị này bảo với bạn đồng hành của mình: "Thà tự mình chết khát, không làm thương tổn sinh mạng kẻ khác". Không chịu trái phạm giới luật của Thế Tôn, ngồi ngay thẳng trong rừng, chịu khát mà chết. Do nhân duyên này được sanh lên cõi trời Đao-lợi, gặp Phật nghe pháp, chứng quả Dự-lưu. Đây gọi là trì giới thanh tịnh.
Có vị Ưu Bà Tắc, tu phạm hạnh đã lâu. Bỗng một hôm, nhà ông bị lửa cháy. Ông răn bảo các con: "Các con cẩn thận chớ lấy nước có trùng tưới vào lửa. Tại sao như vậy?" Ta hộ trì những con trùng nhỏ nhít trong nước, không đoái tiếc tài sản, của cải. Há vì chút lợi nhỏ mà phải đọa vào đường ác. Đây gọi là trì giới thanh tịnh. Cho nên, người trí cần phải an trụ trong sự trì giới thanh tịnh, rốt ráo xa lìa sự trì giới không thanh tịnh. Nên biết đức Như Lai xuất hiện ở thế gian, thường vui làm lợi ích cho hết thảy mọi hữu tình, đóng cửa vào nẻo ác, chỉ đường sanh lên Trời. Đốt củi phiền não, nhổ gốc tham dục, giáo hóa các chúng sanh, lìa bỏ nhà, dứt trói buộc, đều khiến gặt được sự tốt lành an vui. Cứu cánh vượt qua dòng thác dữ sanh tử, cỡi thuyền trí tuệ đến nơi bờ kia. Dần dà, chứng đắc trọn vẹn đạo quả Bồ đề Niếtbàn; kiến lập cờ pháp lớn, hàng phục các ngoại đạo, ngã mạn, kiêu căng, các pháp bất thiện, thảy đều khiến phát tâm. Dõng mãnh tinh tấn, dùng nước chánh pháp, tẩy rửa sự khát ái. Kẻ nghe pháp rồi, nương theo lời dạy mà tu học. Tích tụ pháp tài, kho tàng báu công đức, an trụ nơi thần thông, xuất ly ba cõi, thấu rõ thắng nghĩa đế, an trụ chốn giải thoát. Trì giới như thế, được chư Phật khen ngợi. Phải biết người này là mắt của thế gian, thường dẫn dắt chúng sanh đến nơi an ổn. Cũng như đèn sáng, thường phá bóng tối si mê. Như nước trong sạch, thường tẩy rửa bụi nhơ tội lỗi. Như thuốc hay, chữa lành bệnh phiền não, khéo nhổ mũi tên dục. Như ruộng tốt ở thế gian, sanh trưởng lúa công đức. Luôn giỏi chỉ dạy những chúng sanh lười biếng, khiến sanh tâm hoan hỉ, vui giữ tịnh giới.
Nếu người ưa tạo tác nghiệp đạo bất thiện, như ở chung với kẻ oán thù, ắt sẽ bị tổn hại. Như nương theo pháp của ngoại đạo, Bà-la-môn, mà cầu xuất ly, trở lại chiêu cảm lấy tai vạ lỗi lầm. Phải nương trụ nơi giáo pháp của chư Phật xưa, lấy y ca sa làm tướng cờ hiệu để cầu giải thoát thì có thể tiêu diệt được các cội gốc bất thiện, khiến chúng ma quân sanh lòng lo sợ. Dùng dao trí tuệ chặt đứt phiền não, được danh xưng lớn, lìa các sự suy hoại, họa hoạn. Cứu cánh là thành tựu đạo Bồ đề mầu diệu. Như nói: Trí giả Mã Minh kiên trì tịnh giới, khéo nói pháp yếu, hiện đời có được danh tiếng, nghĩa lợi. Lại sanh về cõi Trời, hưởng thọ phước báu thù thắng, tăng trưởng các loại công đức tuệ sáng. Nên biết người luôn giỏi hộ trì tịnh giới như người nghèo có được bình quý, theo chỗ mong cầu thảy đều được như ý. Thường phải tinh tấn, cung kính hộ trì. Như phụng thờ thầy tổ không có ý tưởng mỏi mệt. Người giữ gìn tịnh giới cũng lại như vậy.
Như đức Thế Tôn nói: Trì giới thanh tịnh, thì có thể đạt được mười công năng:
1. Do trì giới, nên những việc làm ra đều không có chỗ lầm lẫn. Không sanh phiền não, tâm thường vui vẻ. Do vì vui vẻ, thâm tâm vui với chánh pháp. Do vì vui nơi chánh pháp, thân được nhẹ nhàng an ổn. Do vì khinh an, thọ vui thắng diệu. Do vì diệu lạc, dẫn đến sự sanh khởi thiền định. Do vì được định, rõ biết bờ mé chân thật. Do vì rõ biết bờ thật, an trụ nơi Bồ đề, lìa bỏ nhiễm ô chướng ngại, an trụ trí vô ngã, ắt có thể dứt hẳn phiền não vi tế: Sự sanh của ta đã tận, phạm hạnh đã lập, không thọ thân sau, đi đến cảnh giới Niết-bàn.
2. Do vì trì giới, ba nghiệp hiện có không tạo tội ác, xa lìa đường dữ. Lúc sắp mạng chung, tâm không sợ hãi. Nghiệp phước tự tạo, các điều thiện hiện tiền, tùy ý vãng sanh cõi đẹp hưởng vui.
3. Do vì trì giới, tiếng tốt lưu truyền khắp, người nghe khen ngợi.
4. Do vì trì giới, ngủ yên ổn, thức yên ổn, thân tâm không ưu não.
5. Do vì trì giới, thường được chư Thiên, thương tưởng, hộ trì.
6. Do vì trì giới, ở trong đại chúng, tâm không khiếp nhược.
7. Do vì trì giới, không bị loài phi nhơn dò tìm chỗ yếu của mình.
8. Do vì trì giới, được các người ác, xem như thân tộc.
Do vì trì giới, vật dụng không thiếu, không phải mong cầu, thường được người thiện cung kính cúng dường. l0. Do vì trì giới, những điều mong cầu, tùy tâm đều được thành tựu. Nếu muốn sanh vào dòng họ tôn quý, trưởng giả, giàu có lớn, nhà Bà-la-môn, hoặc lại mong cầu sanh vào chư Thiên nơi Sáu cõi trời thuộc cõi Dục cho đến cõi trời cõi Sắc, cõi Vô sắc, hoặc cầu quả lìa dục A-la-hán, giải thoát tịch tĩnh đều được toại ý.
Trì giới như thế, công đức đạt được, ví như biển lớn, sâu rộng vô biên, Nếu ta thứ tự tuyên thuyết đầy đủ, cùng tận đời vị lai cũng không thể nói hết. Như đã nêu ở trước, công năng trì giới, những người nào từng đạt được quả báo thù thắng như thế?" Như Phật, bậc Đại tiên, thảy đều thành tựu. Từ lúc mới phát tâm, tu trì tịnh giới, cho đến đạt được ba minh, sáu thần thông, Lực, vô úy v.v... ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp, đẹp đẽ vi diệu, rõ ràng, tròn đầy không bớt. Tóc xanh biếc xoay quanh phía mặt, nhuần thấm như màu đen con ong. Sau cổ treo một vòng ánh sáng tròn đầy giống như ánh trăng tròn. Diện mạo đoan nghiêm như hoa sen nở, hình nghi đĩnh đạc như núi vàng ròng. Hai bàn chân bằng phẳng đứng yên tốt đẹp, vững vàng. Tay chân tròn đầy như cây Ni-câuluật-đà. Thường dùng mắt từ ái nhìn các chúng sanh. Hết thảy người trông thấy Phật, đều được lợi ích, phương tiện cứu tế, xa lìa đường ác. Trong các thế gian, không ai sánh bằng, cho nên gọi là Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.
Nếu các chúng sanh thọ trì tịnh giới, thì có thể đạt được công đức như trên, cùng các đức Như Lai, bằng nhau không khác. Khéo lợi lạc hết thảy hữu tình, cho nên sau Bố thí nói rõ sự trì giới, hành tướng thứ tự, như trước đã nói. Tỳ-kheo các ông, thường phải nhất tâm, vui hành trì bố thí, trì giới, vì người chỉ bày. Đây gọi là thành tựu đầy đủ lọng phước.