TẠNG LUẬN
SỐ 1694 - CHÚ KINH ẤM TRÌ NHẬP
Hán dịch: Đời Hậu Hán, Sa-môn An Thế Cao Chú giải: Trần Tuệ Ngô
Đối tượng hành của Kinh Phật là chỉ dạy, răn dạy.
Sư nói: Đối tượng hành là những điều nên thi hành, giáo hóa quần sanh, chỉ bày sự chân chính, răn bảo, khiến phá tan tà hạnh, tránh được tai họa cho chính mình. Đều do ba phần hợp lại mà thực hiện.
Ý nói sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp hợp tác với nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm.
Ba phần ấy là gì?
- Một là, năm ấm.
Thần thức vi diệu, qua lại không dấu vết, đến đi âm thầm, ra vào không gián đoạn, chẳng thấy hình bóng, nên gọi là ấm.
- Hai là, sáu bổn.
Bổn là căn gốc, hồn linh lấy sáu tình làm căn bản. Thân con người thọ nhận do cây giáo pháp, luân chuyển không ngừng nên gọi là ấm.
- Ba là, sở nhập.
Sáu thể là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm là nơi nhập vào của sắc, thanh, hương, vị, xúc, tà niệm (pháp), nên gọi là nhập.
Năm ấm gồm những gì?
- Một là sắc.
Bốn đại là đất nước gió lửa có thể thấy được, gọi là sắc.
- Hai là thống (thọ)
Đau thương sợ hãi làm lao nhọc tình ý, gọi là thống (thọ).
- Ba là tưởng.
Tưởng là hình bóng, ngày đêm nhớ nghĩ nơi sự thèm muốn, như đã thấy hình bóng của sự thèm muốn ở trước mắt, nên gọi là tư tưởng.
- Bốn là hành.
Đã tưởng tượng đến mức đó rồi, tâm cứ bị cuốn hút chạy theo mãi, nghĩ thiện nhớ ác, xoay vần mười phương, bị cuốn xoáy chẳng dứt, nên gọi là hành.
- Năm là thức.
Thức là biết. Đến lúc thấy được tâm sở hành liền biết đấy, nên gọi là thức.
Đó gọi là năm ấm, sắc ấm là mười hiện sắc nhập.
Sư nói: Mười hiện sắc nhập là trong, ngoài cùng nhập, không mất nhau, vì nhìn có thể thấy được, nên gọi là hiện.
Hỏi: Âm thanh không có hình bóng, sao gọi là sắc được?
Đáp: Lấy tai để nghe, tai có thể nghe thấy nên gọi là sắc, hơn nữa, vì âm thanh nhân ở bốn đại phát ra, mà bốn đại là sắc, còn sự mong muốn thì khác với sắc, ray rứt đau xót, đồng nghĩa với sáu tình.
Mười hiện sắc nhập là gì: 1. Nhãn; 2. Sắc; 3. Nhĩ; 4. Thanh; 5. Tỷ; 6. Hương; 7. Thiệt; 8. Vị; 9. Thân; 10. Lạc. Đó là mười hiện sắc nhập, còn gọi là sắc chủng.
Lạc là ái (thích), chủng là trồng bồi, ý nói sáu dục hưng phát thì thân sanh, tùy theo hành tức là sự tạo tác mà thọ nhận hình hài, các loài sinh vật hiện có, đều do hành khiến cho như vậy, nên gọi là chủng.
Thống chủng là những gì? Thống chủng là sáu thống (thọ) của thân. 1. Nhãn tri thống; 2. Nhĩ tri thống; 3. Tỷ tri thống; 4. Thiệt tri thống; 5. Thân tri thống; 6. Tâm tri thống. Đó là sáu thống (thọ) của thân, gọi là thống chủng.
Tư tưởng chủng gồm những gì? Tư tưởng chủng là sáu tư tưởng của thân:
1. Sắc tưởng.
Nghĩa của sắc giống trên.
2. Thanh tưởng.
3. Hương tưởng.
4. Vị tưởng.
5. Cánh (xúc) tưởng.
6. Pháp tưởng.
Tâm niệm nghĩ về thiện thì pháp thiện hưng khởi, niệm ác sanh thì pháp ác hưng khởi. Tâm là gốc của các pháp. Kinh Pháp Cú nói: "Tâm là gốc của các pháp" là đó vậy.
Đó là sáu tư tưởng của thân, gọi là tư tưởng chủng.
Hành chủng là gì? Hành chủng là sáu cánh (xúc) của thân:
Nơi để tâm đến, liền tiếp xúc lấy, nên gọi là cánh (xúc)
1. Sắc sở cánh. 2. Thanh sở cánh. 3. Hương sở cánh.
4. Vị sở cánh.
5. Xúc sở cánh.
"Thông thân" nghĩa là sáu tình (căn) chấp trước thông cả toàn thân, nên gọi là thông.
Sáu pháp sở cánh (đối tượng được tiếp xúc) là sáu sự tiếp xúc của thân, gọi là hành chủng.
Thức chủng là gì? Thức chủng là sáu thức của thân: Nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, tâm thức, đó là sáu thức của thân, gọi là thức chủng, gọi là năm ấm chủng.
Sư nói: Năm ấm chủng là thân, thân có sáu tình, tình có năm ấm. Tập khởi với mắt thành ra có ba sắc: Hảo sắc chuyển, trung sắc chuyển và ố sắc chuyển. Sắc có năm ấm, cùng tập hợp lại thành mười tám sự. Sáu tình mỗi tình cũng như vậy, cộng thành 10 tám kiết. Diệt ở đây, sanh ở kia, cũng giống như hạt lúa, sau khi hư nát ở dưới đất, mới thọ nhận thân cây ở trên đất. Lại giống như nguyên khí, mùa xuân sanh, mùa hạ trưởng, thu héo, đông khô, như trăm loài cỏ cây, tuy chết ở trên đất, nhưng nguyên khí vẫn tiềm ẩn, thân ẩn tàng ở dưới đất, đến tiết mùa xuân, là lúc âm dương thái hòa, nguyên khí chuyển mình ở dưới đất, thân cây vươn lên trên đất. Hồn linh của các loài có thức và mầm non của cây cỏ cùng bao hàm với nguyên khí, thăng giáng phế hưng, chết rồi lại sanh, luân chuyển trong ba cõi, không bao giờ ngừng nghỉ, cho nên gọi là chủng.
Phải biết, từ đâu mà biết những cái đó là phi thường (vô thường), khổ, không, phi thân (vô ngã). Từ đó biết, có 2 thứ biết, một là tuệ tri, hai là đoạn tri. Từ tuệ mà biết những gì là phi thường, khổ, không, phi thân, đó là từ tuệ tri, từ đoạn mà biết thế nào là ái dục đã đoạn dứt, đó là đoạn tri.
Vũ trụ thì có chung, thủy, quần sanh thì có hưng, phế, có thành thì phải có hoại, thịnh ắt phải suy, gọi là phi thường (vô thường).
Sanh lão bệnh tử, làm ác chịu tội, gọi là khổ.
Quần sanh chưa có nó vốn tự không, nay có thân cuối cùng cũng thành không, gọi là không.
Thân xác là bốn đại, chết thì mỗi đại đều quay về với nguồn gốc của chính nó, thân chẳng phải là đồ quý báu thường hằng của ta, gọi là phi thân (vô ngã).
Thấy một cách sâu xa giềng mối của bốn việc ấy, lòng dục đó phân biệt tìm nơi quy hướng mà luân chuyển trong ba cõi, bỏ thân xác nầy, lấy thân xác kia, chứa khổ vô số. Giữ chí ở chánh quán thấy ba cõi rỗng không, lòng dục bắt dính với cái vốn không ấy, thì các khổ được tịch diệt, đó gọi là tuệ tri.
Kinh Minh Độ nói: "Người si cho vô thường, khổ, không, vô ngã là thường, lạc, hữu, thân. Minh Độ làm thay đổi quan niệm ấy, nên gọi là Đại Minh".
Ấm căn là gì? Tích chứa thành ấm căn, đầy đủ thành ấm căn.
Tích chứa là tụ tập. Ý nói tâm âm thầm tích tụ năm ấm, chứa đầy đủ các khổ của sáu tình.
Thí như loài vật gọi là vật chủng, loài cây gọi là mộc chủng, loài lửa gọi là hỏa chủng, loài nước gọi là thủy chủng, tất cả năm ấm cũng đều như vậy.
Vật, cây, lửa, nước đều có tên gọi của nó, cây tự có tên gọi là cây, lấy đó làm thí dụ cho năm ấm, tên gọi của sáu tình cũng vậy.
Có mười tám bổn trì.
Sư nói: "Tâm là gốc chủ tất cả" nắm giữ các sự thèm muốn, nên gọi là trì.
Mười tám bổn trì là những gì?
1. Nhãn; 2. Sắc. 3. Thức.
Nhãn với sắc hợp lại, thức phân biệt sự xấu đẹp, nghĩa của sáu tình cũng vậy.
Kinh Lão Mẫu nói: "Mắt thấy sắc chính là ý, ý chính là sắc". Đức Phật nói: "Mắt theo sắc khiến cho thức sanh ra". Ý nghĩa cũng giống nhau.
4. Nhĩ; 5. Thanh; 6. Thức; 7. Tỷ; 8. Hương; 9. Thức; 10. Thiệt;
11. Vị; 12. Thức; 13. Thân; 14. Cánh; 15. Thức; 16. Tâm; 17. Pháp; 18. Thức. Đó là mười tám bổn trì, đã biết. Từ đâu mà biết là vô thường, khổ, không, vô ngã. Từ đó mà biết, biết ấy cũng có 2 thứ: một là từ tuệ mà biết, hai là từ đã đoạn mà biết.
Từ tuệ biết là những gì? Phi thường, khổ, không, phi thân, đó là từ tuệ mà biết. Từ đoạn mà biết là những gì? Ái dục đã đoạn, đó là từ đoạn mà biết. Kia là đầy đủ, đầy đủ là những gì? Hoặc gọi là đầy đủ không còn sót.
Sư nói: "Kia" (bỉ) là người tu hành kia. Các dục đã đoạn dứt. Ba mươi bảy đạo phẩm liền hiện, đã đủ hạnh cao, tâm hướng về tà đều hết tận, không còn sót lại.
Đã không còn sót khiến cho nhãn minh kiến minh.
"Minh nhãn" là tuệ minh, "kiến minh" là thiên nhãn. "Đạo minh" tức là đủ, đạo nhãn đã đủ rồi thì không gì không thấy. Mục Liên nói với Ma: "Ta lấy đạo nhãn xem trong, thiên nhãn nhìn ngoài, trong ngoài thanh tịnh trong suốt hơn cả lưu ly ở cung trời. Chẳng có vi trần nào mà chẳng thấy". Cho nên nói nhãn minh kiến minh.
Nhất hành giả thuyết thị, đã chặt đứt nhãn bổn, nhĩ bổn, biến thuyết như vậy.
"Nhất" là đạo. "Thị" là ba mươi bảy đạo phẩm. "Bổn" là gốc của sáu dục. "Biến" là các.
Người đạo hạnh nói, đã đắc tịnh hạnh của ba mươi bảy phẩm.
Các dục của sáu bổn năm ấm đều dứt đoạn.
Tốt (thì) gọi là bổn trì.
"Tốt" nghĩa là bèn, thì. "Trì" nghĩa là sáu tình cùng trì giữ lấy sắc, thanh, hương, vị, xúc và những điều khiến tâm ưa thích (pháp).
Ví như người đó bị phát sốt (đa nhiệt) như vậy gọi là biến.
"Đa nhiệt", ví như khi bệnh nặng, nóng sốt cả người. Do người đó đã bị mười tám bổn trì khiến thần thức luân chuyển, tiếp xúc với các nhập, năm ấm, sáu bổn, tụ hợp các khổ, lo, buồn, khổ, phiền não vì không như ý, gọi là túc.
Thí dụ đó gọi là "đầy đủ", cũng có mười hai nhập. Những gì là mười hai nhập? Tự thân có sáu nhập, bên ngoài có sáu. Sáu ở tự thân gồm những gì? Một là nhãn.
Sư nói: Mắt thấy sắc gồm có ba sự, sáu tình đều vậy. Tâm ý thức làm căn bản, một là niệm, hai là tác, ba là mong cầu. Niệm thuộc về tâm, tác thuộc về ý, cả hai đều không thuộc về hành vi của thức. Tất cả những thiện, ác đều nằm trong phạm vi của ba sự đó.
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm, đó là sáu nhập của tự thân. Bên ngoài có sáu là những gì? sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, đó là mười hai nhập. Theo đâu mà biết tất cả là phi thường, khổ, không, phi thân? Theo đó mà biết.
"Tất cả" tức là mười hai nhập, phải từ đâu mà biết đấy? Ý nói nếu có thể trả về cho năm ấm thì biết được bốn sự vô thường, biết được sáu tình ở bên trong thọ nhận sáu dục ở bên ngoài.
Cũng có hai thứ biết: Một là từ tuệ mà biết; Hai là từ đoạn mà biết. Từ tuệ mà biết là những gì? Là phi thường, khổ, không, phi thân. Đó là từ tuệ mà biết. Từ đoạn dứt mà biết là gì? Ái dục đã được chặt dứt, đó là từ đoạn mà biết. Nhập giải là gì? Từ đó mà khiến cho phát sanh, gọi là nhập.
"Nhập" nghĩa là mười hai nhập, từ sáu cái bên trong dẫn đến sáu cái bên ngoài, phải làm thế nào để biết? Hằng ngày phải lấy bốn vô thường để quán chiếu. Từ chỗ nhập mà hiểu, ví như từ kim (vàng) mà nhập thì gọi là kim địa, từ ngân (bạc) mà nhập thì gọi là ngân địa. Như vậy mỗi mỗi đều như thí dụ đó, từ chỗ nhập.
"Từ chỗ nhập" là mỗi thứ đều theo với phạm vi (địa) của nó. Mắt tự nhập vào sắc, sáu tình đều vậy.
Từ cái đó mà có cái kia như vậy, từ chỗ ý niệm nghĩa là một khi ý khởi lên thì thành nghiệp.
Chỗ ý niệm là ý, ý nghĩ nhớ về sắc liền thành hành, có tội. Có tội thành ra hiện diện đủ sự có khổ.
Có các pháp hành, tội, khổ như vậy.
Có làm hạnh ác thì chịu tội, ví như kẻ hành đạo thì đắc đạo.
Theo chỗ đạt đến ấy gọi là theo đó nhập.
Theo chỗ đạt đến, ví như sáu tình theo với sự nhớ nghĩ của ý mà biến thành sáu dục. Nhập là tà nhập vào sáu tình.
Cũng có tùng thị nhập, thí như vua có nhập tất cả các tên gọi cũng như vậy.
"Cũng như vậy" ý là đưa thêm một thí dụ nữa để nói về sáu tình.
"Vua có nhập", các quân hầu thuộc các quận huyện, đều lấy tên đất mình được phong làm tên mình, đều cống nhập cho vua, chỗ nhập của sáu tình cũng vậy.
Có bốn đế: khổ, tập, diệt, đạo. Cái chính yếu của khổ là thân và niệm.
Sư nói: Thân là gốc rễ của các khổ, khổ của thân và phiền não của thân, chính yếu ở hai cái đó, nên gọi là "yếu".
Cái chính yếu của tập là do si và yêu thích thế gian.
Sống chết hàng vạn lần, cực khổ vô cùng, mà kẻ ngu lấy đó làm vui gọi là tập. Tập đó là do si và ái, do không biết đó chính là khổ.
Cái chính yếu của tận (diệt) là tuệ và giải thoát.
Người sáng, thấy bốn vô thường, thì diệt si ái, si ái đã dứt thì giải thoát khỏi các kiết sử. Kiết sử là dục ái, sân giận hữu ái mạn vô minh, tà kiến và nghi chỉ là dừng mọi vọng niệm. Giữ tâm an tỉnh. Quán là quán sát rõ ràng. Kẻ kiết sử đã giải thì thoát khỏi ba cõi, là quán sát rõ ràng thấy được cửa đạo, họa phước đều hết.
Cái chính yếu của đạo đế là chỉ và quán.
Si ái đã dứt sạch, tâm tĩnh lặng, chỉ quán thấy ba cõi rỗng không, trả về bổn vô, gọi đó là đạo. Chỉ và quán là sự chính yếu của đạo.
Và có ba mươi bảy phẩm kinh pháp.
Ba mươi bảy phẩm là minh pháp để giải thoát thế gian.
Bốn ý chỉ (tứ Niệm xứ), bốn ý đoạn (Chánh cần), bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác ý, tám loại đạo hạnh của Hiền giả, cộng lại là ba mươi bảy phẩm kinh pháp. Phật quá khứ cũng có những thứ ấy, Phật hiện tại cũng có những thứ ấy, Phật vị lai cũng có những thứ ấy, Phật Bích Chi cũng từ đó mà đắc đạo vượt khỏi thế gian, đệ tử Phật cũng từ đó mà thành tựu đạo vô vi vượt khỏi thế gian.
Sư nói: Ba mươi bảy đạo phẩm là minh pháp chánh chân vô thượng. Đức Phật đã thấy và đem dạy lại, các đệ tử theo đó mà hành. Kinh Tuệ Ấn nói: "Trong Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, đức Phật là nhất, chỉ có Ngài mới có thể thuyết bảy giác ý cho những kẻ biếng trễ khiến pháp chưa hiện ra. Tam muội đó không thể tận. Phật nhờ ở tịnh định của bảy giác mới chứng đắc sự sáng suốt vô tận, chứng đắc tất cả nguyện. Bồ-tát hàng ngày hành theo lời dạy đó, không phạm ba mươi bảy phẩm, những việc làm của các bậc đại sĩ cũng từ gốc đó, cho đến tuệ vô cực. Thế Tôn, Duyên giác, Ứng nghi (A-la-hán), nhờ đó mà đắc đạo, có thể nói là tuệ vô thượng.
Bốn ý chỉ (Niệm xứ) là những gì? Hoặc có Tỳ kheo, tự thân, thân thân cùng quán hành chỉ. Ngoại thân, thân thân cùng quán hành chỉ. Nội ngoại thân, thân thân cùng quán hành chỉ.
Sư nói: Tự thân là thân mình, ngoại thân là thân của người khác, nội ngoại thân là thân của cây cỏ. Thân mình, thân người, thân cây cỏ, đều vô thường, hành giả chiếu soi rõ ràng, an trú ý vào đạo, cho nên gọi là hành chỉ. Kinh An Ban giải thích: Hơi thở từ bên trong thở ra, trong hơi thở có đủ bốn đại, mà tâm ở bên trong, gọi đó là nội thân. Hơi thở từ bên ngoài vào, bốn đại cũng vậy. Người tu thiền lấy hơi thở làm thân, buộc ý ở tại hơi thở, đừng khiến cho có tưởng tượng về thân (thân tưởng).
Tận ý niệm để đẩy lùi, bất tiện cho tâm si của thế gian.
"Tận" là dứt hết tâm. Không làm tiện lợi cho các tà. Người tu hành dứt hết tâm, khiến đạo lực lớn mạnh, phải dùng để đẩy lùi chúa giặc si của ba cõi, tâm mình lầm lạc khiến cho khổ, là báu vật của ba hoạt.
Nói cách khác, si uế đẩy lùi tâm đạo, tâm sáng tỏ không tiện cho si uế, cho nên gọi là "bất tiện".
Tự thống (thọ), thống thống cùng quán hành chỉ.
Tâm vui gọi là dương, tâm lo gọi là thống. Người tu hành được sáu dục thì không vui mừng, mất cũng chẳng lo buồn. Kinh Pháp Kính nói: "Không bị lay động do lợi, suy, hủy, dự, xứng, cơ, khổ, lạc", hết nhơ thì bên trong sạch, tâm tĩnh lặng rỗng không, nên gọi là thống dương (thọ) chỉ.
Ngoại thống (thọ), thống thống cùng quán hành chỉ. Nội ngoại thống, thống thống cùng quán hành chỉ. Tận ý niệm để đẩy lùi, bất tiện cho tâm si thế gian, tự ý, ý ý cùng quán hành chỉ.
Tưởng là hình bóng. Ý lưu giữ lại gọi là tư, phảng phất như thấy hình bóng của nó ở trước mặt gọi là "tưởng". Tự quán ý mình, quán ý của người khác, lại quán cây cỏ, đều nhân ở bốn đại làm thể, gọi là những loại, thấy chúng chẳng phải là của ta tâm liền không còn mong muốn gì nữa. Kệ nói: "Ta, người và thọ mệnh, cũng không chấp có hình bóng nầy, ý không nghĩ đến hữu và vô". Người trí tuệ phải xa lìa, đó mới gọi là người đã ngừng chỉ ý tư tưởng.
Ngoại ý, ý ý cùng quán hành chỉ. Nội ngoại ý, ý ý cùng quán hành chỉ. Tận ý niệm để đẩy lùi, làm bất tiện tâm si của thế gian. Tự pháp, pháp pháp cùng quán hành chỉ. Ngoại pháp, pháp pháp cùng quán hành chỉ. Nội ngoại pháp, pháp pháp cùng quán hành chỉ. Tận ý niệm để đẩy lùi, làm bất tiện tâm si của thế gian.
"Pháp" là pháp mười hai nhân duyên. Tâm đã tưởng thì thành hình bóng như đã tưởng. Lấy pháp để quán pháp, pháp đó là một, nhưng lấy tâm si tạo tưởng vô lượng thì có thân sắc thống dương (thân sắc thọ) vô tận. Tư tưởng ý dừng thì sanh tử ý cũng dừng, sanh tử ý đã dừng rồi thì thức tĩnh lặng không còn tưởng qua lại nữa. Kinh An Ban nói: "Niệm nhân ở có mà chia ra, niệm đã tận thì không có, cái rỗng không ấy không mong muốn, không có tưởng tượng, chắc chắn hướng đến môn Niết-bàn".
Kinh Tuệ Ấn nói: "Rỗng không, không vướng mắc vào đâu, ấy là Niết-bàn". Pháp sanh tử đó đã dừng.
Những gì là bốn ý chính đoạn? Hoặc có Tỳ kheo nếu chưa sanh pháp ý tệ ác, phát phương tiện khiến không sanh ra, khiến ý không xả bỏ phương tiện hạnh.
Sư nói: ngăn chặn bốn ý Hoặc nếu như. Pháp tức là pháp sanh tử của mười hai nhân duyên.
Khiến gốc tà sâu rộng không sanh trở lại, phải sớm phát đạo lực tiến ý, lấy đức giữ đạo, không hề biếng nhác.
Tinh tấn thâu giữ ý, xả bỏ ý xấu tán, đó là đoạn ý thứ nhất.
Ý nói, người tu hành tinh tấn tâm chí, thâu giữ sáu tình (căn), xả bỏ các dục, làm tan các niệm ác, tiến lên thành tựu các căn lực.
Nếu như đã sanh ra ý tệ ác, thì phải phát khởi pháp thanh tịnh để đoạn dứt ý tệ ác đó, khiến ý cầu phương tiện, hành tinh tấn thâu giữ ý, xả bỏ ý xấu đó là đoạn ý thứ hai.
"Pháp thanh tịnh" là chỉ quán.
Nghĩa là Chế ngừng tà niệm, chặt đứt gốc dục, quán bốn vô thường, gọi là pháp tịnh.
Nếu chưa sanh pháp thanh tịnh thì khiến ý phát phương tiện, khiến sanh hạnh, tinh tấn thâu giữ ý, xả tán ý xấu, đó là đoạn ý thứ ba.
Đã sanh ra pháp thanh tịnh rồi, khiến cho không quên hạnh tinh tấn, khiến pháp đó không bị thuyên giảm "Chỉ" là kiềm chế, ngưng lại.
Tịnh hạnh tình không quên đó, đừng khiến cho hạnh bị giảm.
Khiến cho hạnh bất thí (nhiều), khiến cho hạnh túc.
"Bất thí" là nhiều, "túc" là đầy.
Phải tiến đức hạnh, thành tựu ý vô tận, khiến cho đạo được đầy đủ.
Phát hạnh phương tiện, tinh tấn thâu giữ ý, xả tán ý xấu, đó là chánh đoạn thứ tư.
Những gì là bốn thần túc? Hoặc có Tỳ kheo, vì muốn định chặt đứt sanh tử tùy hành, tăng thêm thần túc.
Sư nói: Muốn ý được định để dứt đoạn sanh tử, thì theo hành mà tiến, làm tăng thêm đạo chí, để thành thần túc.
Ghét nương y sanh tử.
"Nương y" nương y vào mười hai nhân duyên, luân chuyển không ngừng, người tu hành ghét đấy.
Đẩy lùi lòng muốn nương dựa, dứt tận sự nương vào.
"Dục", sáu dục.
Khiến lìa bỏ đi những ý sanh ra từ bất tiện.
Mười hai nhân duyên là cội nguồn của các hạnh xấu, chẳng tiện cho mình. Người tu hành phải khiến nó bỏ đi, đừng để nó làm lụy mình, nên gọi là khiển.
Đó là tinh tấn định, thần túc thứ nhất.
Sư nói: Định tức là chúng ta phải thục hành sâu xa. Tinh tấn giữ tâm ở nơi đại định
Đoạn sanh tử, tùy theo hành, tăng thêm thần túc, ghét nương sanh tử, đẩy lùi lòng muốn nương, dứt tận sự nương vào, khiến lìa bỏ đi những ý sanh ra từ bất tiện. Đó là thần túc thứ hai, định đoạn sanh tử.
Sư nói: Đố kị, sân giận, nghi ngờ đã diệt, ý liền vắng lắng, gọi đó là ý định.
Tùy theo hành, tăng thêm thần túc, ghét nương sanh tử, đẩy lùi lòng muốn nương, dứt tận sự nương vào, khiến lìa bỏ những ý từ bất tiện sanh ra, đó là thần túc thứ ba, giới định đoạn sanh tử.
Tùy hạnh tăng thần túc, ghét nương vào sanh tử, đẩy lùi lòng muốn nương, dứt tận sự nương vào, khiến lìa bỏ những ý từ bất tiện sanh ra, đó là thần túc thứ tư.
Bốn ý chỉ, bốn ý đoạn, bốn thần túc, như vậy đã nói đủ.
Sư nói: bên trong si đã dứt hết thì sự sáng suốt được thịnh vượng. Mắt thấy suốt cả vũ trụ, tai nghe suốt khắp, thân có thể bay, biến hóa vô cùng, tâm biết những chuyện từ xa xưa đến nay, cho đến lời nói, tâm niệm, sự tiếp xúc thân của chúng sanh, đều biết rõ ràng. Đức Phật Duyên giác, Ứng nghi (A-la-hán), bốn thần đã đủ, không thầy mà được hưởng dụng, nên gọi là thần túc.
Năm căn là những gì? Tín căn, tinh tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Đó gọi là năm căn.
Sư nói: Cây mà chẳng có gốc rễ thì không sanh, đạo mà chẳng tín thì không thành. Tín là gốc rễ của đạo, đạo đức, tín căn lập, đạo mới thành. Do đó tín làm đầu. Tinh tấn tại hành, siêng năng giữ thân, như dứt niệm tà uế, tập chí ở tịnh định, quán bốn vô thường, nhập ba hoạt môn. Kinh Tuệ Ấn nói: "Là đưa tuệ nhập vào môn tuệ, môn tuệ tức là môn ba hoạt".
Căn đó là nghĩa gì? Gốc rễ là nghĩa của căn, thuộc là nghĩa của căn.
Căn là đạo căn, thuộc là thuộc đạo.
Lá, cành, đốt, hoa, trái, năm sự tuy khác nhau nhưng đều thuộc gốc rễ. năm đức, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ đều thuộc về đạo, cho nên gọi là thuộc.
Đáng vui (khả hỷ) là nghĩa của căn, không là đồng sự là nghĩa của căn.
"Khả" là căn gốc được lập nên. "Hỷ" là vui.
"Không đồng sự" là chảy theo dòng thác.
Người tu hành chứng đắc được năm căn thuộc đạo, vui vẻ để vun trồng đức độ, khác với người phàm tục, từ đầu tiên cho đến cuối cùng đều chảy theo dòng chảy khác, vui vẻ mà tự thích hợp, do đó gọi là căn khả hỷ.
Đó gọi là nghĩa của căn. năm lực là gì? Tín lực, tinh tấn lực, niệm lực, định lực, tuệ lực. Đó là năm lực. Lực nghĩa là gì? Không có gì làm hư hoại nó được là ý nghĩa của lực.
Sư nói: Đã đắc được bốn ý chỉ, năm căn liền lập nên, năm căn đã lập thì đạo lực liền thành. Thiên nữ đẹp đẽ không thể làm loạn mắt ấy, âm nhạc du dương không thể làm hại đến tai ấy. Mùi vị ngọt bùi là sự tôn quý của Ma vương, phi hành bay lượn là sự vẻ vang của Ngọc đế, sáu tình chẳng làm mê, chí như hư không, không thể lay động, gọi đó là lực.
Có ích là nghĩa của lực.
Đạo hạnh gọi là giáng, đức thấm nhuần cả quần sanh gọi là ích.
Có can đảm là nghĩa của lực.
Ức tám ngàn vạn Ma vương không thể làm động một sợi lông của Bồ-tát. Đạo lực giáng xuống, hàng phục Ma vương, gọi là đảm (can đảm).
Có thể nương dựa vào được là nghĩa của lực.
"Nương dựa vào", nương dựa vào hạnh không, bốn biển không thể nhận chìm, nhờ nương vào thuyền vượt biển.
Đó là nghĩa của lực. Có bảy giác ý, bảy giác ý là gì? 1. Niệm giác ý
Sư nói: Giác là biết được thiện và ác, niệm ác sanh thì diệt, niệm đạo sanh thì thâu giữ, gọi là niệm giác ý.
2. Pháp phân biệt quán giác ý.-Pháp là pháp thiện, ác.
-Quán là quán tịch đế.
Phân biệt là phân biệt thật, giả, chọn lấy pháp tịnh thì có thể tránh được ba cõi. Kinh An Ban nói là "Trạch pháp giác ý".
3. Tinh tiến giác ý.
4. Ái khả giác ý.
Kẻ ngu thì yêu thích sáu tà, cho đó là quý. Ở trên đã nói mười hai thần chiếu đó, tất phải họa. Chuyển tâm để thọ nhận đạo, lấy hạnh cao của ba pháp. Kinh Mười Diệu Pháp nói: "Lấy hạnh trực làm tiêu tan hạnh tà" là ý nghĩa như vậy.
5. Y giác ý.
Kẻ trí thường lấy ý nương tựa và bốn ý chỉ, bốn ấm sắc, thọ, tưởng, hành khởi lên liền giác biết diệt đi, gọi là y giác ý.
6. Định giác ý.
Đắc được chỉ đoạn, thần túc, căn, lực. Ý liền vắng lặng mà an trú trong định. Ở những chỗ tâm để ý đến, phân biệt trừ uế, giữ đạo, hạnh tịnh cứu xét. Bậc có đức cao, tiến tâm giữ lấy đạo, tiếng sấm sét nhưng tai chẳng nghe, nên gọi là định.
7. Hộ (Xả) giác ý.
Ý rộng lớn khó xả, nó vi diệu khó chế ngự. Nếu hành ở dục thì phải cẩn thận hộ trì, khiến ra khỏi dục, nếu ở tại sắc, ở tại vô sắc cũng phải hộ trì như vậy, nên gọi là hộ giác ý.
Đó gọi là bảy giác ý. Người đắc đạo có tám loại đạo hạnh. Tám đạo hạnh gồm những gì?
1. Trực kiến (Chánh kiến).
Thấy ba cõi chẳng thực, đều là huyễn hóa, chỉ có đạo mới là thường hằng, tinh tấn giữ lấy ý đó cho nên gọi là trực kiến.
2. Trực hạnh.
Nếu chẳng phải là hạnh trong sạch của ba ngôi (PhậtPháp-Tăng.) thì cuối cùng cũng không hạnh.
3. Trực ngữ.
Nếu chẳng phải là lời Phật dạy thì không nói.
4. Trực trị.
Lấy không dục làm trị.
5. Trực lợi.
Lấy đạo trong sạch làm lợi.
6. Trực phương tiện.
Chư Phật lấy ba mươi bảy phẩm làm phương tiện giải thoát thế gian.
7. Trực ý.
Ý xa ba cõi, ra thẳng mười hai môn, không còn bị tà lay động, gọi đó là trực ý.
8. Trực định. Đó gọi là tám đạo hạnh.
Định là định tại ba mươi bảy phẩm và ba hoạt, cộng lại là bốn mươi phẩm, là sự tôn quý của Phật. Kinh Thuần Chân nói: "Tâm nhập Niết-bàn từ bổn gốc, vốn tịch mà lại tịch, vì vậy mà quý báu". Lại nói: "Tâm hợp với ba mươi bảy phẩm, dùng để giải thoát các khổ, như thế là quý báu". Quý báu là nói theo thế sự.
Tám loại đạo hạnh vì rơi hợp thành ba chủng loại. 1. Giới chủng.
2. Định chủng. ba. Tuệ chủng.
Tóm lược ba mươi bảy phẩm thành tám đạo hạnh, hợp thành giới, định, tuệ. Giới tịnh để độ thoát Dục giới, định tịnh để độ thoát Sắc giới, tuệ tịnh để độ thoát Vô sắc giới. Ở giới định tuệ mà có mong tưởng, gọi là cấu uế, nhận chịu thức dục sắc của ba cõi, không thoát ra đó được.
Trực ngữ, trực nghiệp, trực trị gọi là giới chủng. Trự phương tiện, trực niệm, trực định gọi là định chủng. Trực kiến, trực hạnh, gọi là tuệ chủng, đều từ giáo giới, khiến nhiều (bất thí) giáo giới, khiến nhiều giáo ý, khiến nhiều tuệ giáo giới.
"Bất thí" là nhiều. Người tu hành nhờ trì giới nhiều kiếp, tích chứa hạnh không thiếu, vì vậy khiến cho giới nhiều. Tu thiền lâu dài, do đó làm cho ý hạnh vượt qua bốn thiền, nhập sâu vào các định. Học ở chư Phật, hiểu tuệ vô lượng nhưng vẫn không cho là đủ, phải tiến thêm giới, định, tuệ đó cho đến lúc đắc đạo, vì vậy mà gọi là "bất thí" (nhiều).
Tỳ kheo đó lấy giới chủng để nhổ dứt sân giận và gốc ác, làm tán kiết sử sân giận.
"Tán" là khiên, lấy sự khoan thứ để nhổ độc sân giận, làm tan các oán, giải cởi các kiết sử, hưng khởi từ, bi, hỷ, hộ (xả), tế độ khắp quần sanh.
Vì để hợp sân sanh.
Sân độc hưng khởi làm nguy thân mạng, gọi là sang (nhọt), sân giận đã diệt thì sang nhọt hợp.
Vì để biết khổ thọ, vì để độ thoát Dục giới.
Khổ là thân, thân đau đớn vì sanh lão bệnh tử, hành giả soi chiếu nó, nhàm chán sự đau khổ của thân, chặt đứt lòng dục, diệt sân giận, độ thoát Dục giới.
Tỳ kheo đó, lấy định chủng để nhổ gốc keo kiệt, để tán dục kết, để hợp dục sang, để biết lạc thọ, để độ thoát Sắc giới.
Định tức là chỉ, nghĩa là dừng mọi vọng niệm những thứ mong muốn của sáu tình gọi là lạc, mất những thứ đó thì não, gọi là thống (thọ) đang lấy giới mà cầu đạo, nhưng lại âm thầm thích cái vui của chư Thiên, do đó là gốc của phúc họa, cửa ngõ của lạc khổ, hạnh tịch lặng, chiếu xa xôi, biết con đường ấy sau tất sẽ khổ, nhổ sự keo kiệt của sáu dục, diệt các tưởng về sắc thân, định ở tại bốn chỉ, không thọ nhận niềm vui, gọi đó là độ thoát sắc.
Tỳ kheo đó lấy tuệ chủng để nhổ gốc si xấu, đến tán si kết, để hợp không muốn sang, để biết bất lạc bất khổ thọ, để được độ thoát Vô sắc giới. Đó là ba chủng.
"Bất khổ bất lạc" nghĩa là ý chưa khởi được đều thiện, cũng chưa ở tại ác, ở khoảng giữa mong lung sau đó mới thọ nhận cái thân khổ não, thân đó tiếp xúc với khổ, đó là thống (thọ). Người tu hành, ý tại không, nhưng không thể không không, vui thích cái không của cõi trời vô sắc, tâm kết mắc tại đó, trên đời có Phật nhiều như cát sông Hằng, nhưng mình không học hỏi được, hết phước nhập vào ba đường ác, tiếp xúc với các khổ não, đó gọi là thống (thọ). Kẻ trí tuệ lấy phi thường, khổ, không, phi thân, mắt quán ba cõi, chẳng có nơi nào ẩn núp để tránh được chết không chịu khổ, lìa niệm nghĩ về không, diệt mọi nguyện vọng, thành tựu định vô tưởng, nhập vào ba hoạt môn (tuệ môn). Kinh Tuệ Ấn nói: "Rỗng không, chẳng vướng mắc vào đâu, ấy là Niếtbàn".
Tỳ kheo lấy định chỉ để nhổ bật gốc ba ác, tiêu tan ba ác sử, hợp bốn thứ ung nhọt, biết ba thống (thọ), độ thoát ba cõi.
Ba ác tức là ba độc.
Bốn sang (ung nhọt) là: 1. Dục sang; 2 kiến kiết sang; 3. Giới nguyện sang; 4. Thân kiết hành sang.
Tâm là nhân của ba độc, thọ nhận bốn sang đó, sử của nói khó xét nên gọi là sử.
Ba thống (thọ) là ba cõi thần. Thức thần chịu khổ vì bị trôi chảy không có bờ bến. Hành giả nên ngay ở ba độc, tích chứa đức không ngừng nghỉ cho đến lúc đạt Niết-bàn. Kinh Minh Độ nói: "Nếu Bồ-tát bên trong khiến nhập vào pháp sâu xa thì phải hành không, vô tưởng, vô nguyện, vô thức, không sanh diệt, cho đến Niết-bàn thì thôi".
Những gì là mười hai chủng?
Mười hai chủng là nhân duyên, chia làm ba phần hành, bốn nhân duyên trên thuộc quá khứ, bốn nhân duyên giữa thuộc vị lai.
Từ cầu, đúng như cầu đẳng sanh.
Từ (tùng) là từ si.
"Như" là như sự mong cầu, như điều mong cầu. "Đẳng" là đều.
Nghĩa là, thức vốn trong sạch, từ khi chưa cấu uế, liền được như điều mong muốn.
Mười hai nhân duyên lần lượt cùng một lúc đều sanh cho nên gọi là đẳng sanh.
Từ nhân duyên si khiến cho có hành.
Si là u tối.
Hành nghĩa là thần thức của quần sanh bị chìm đắm trong si tối, như người vui không biết sự an nguy, bỏ phước lấy họa. Thức thần vốn si, vui thích với cái khổ của thân, không biết chính nó là tôn quý, lại muốn hướng vào đó, rồi nương đó mà thọ nhận thân. Kinh Trung Tâm nói: "Vốn từ trong si đến, nay làm người lại si" là ý đó.
Từ hành khiến có thức.
Thức là biết.
Hồn linh thọ nhận thân, liền biết xấu đẹp, rồi có tâm thương ghét.
Từ thức khiến có danh tự (danh sắc).
"Tự" là sắc, thọ, tưởng, hành thức là "danh". Địa, thủy, hỏa, phong có thể thấy được, gọi là sắc.
Từ danh tự khiến có sáu nhập.
Do năm ấm thọ thân, khiến sáu tình (căn) sanh mà có sáu tà nhập.
Từ sáu nhập khiến có trí (xúc).
Sáu tình đã đầy đủ liền dẫn đến sắc, thanh, hương, vị, xúc, chúng niệm. Kinh Liễu Bổn nói: "Cánh lạc (xúc), mắt tiếp xúc với sắc, tâm vui theo đấy", gọi là cánh lạc (xúc).
Từ trí (xúc) khiến có thống dương (thọ). Từ thống dương (thọ) khiến có ái.
Già đến thân bệnh, mệnh chung đau đớn, tâm si thương yêu quyến luyến, lời nói nghẹn ngào, gọi là ái.
Từ ái khiến có thọ (thủ).
Vì ái cho nên năm ấm hiện bày mãnh liệt, thọ nhận vô lượng thân kiếp sau.
Từ thọ khiến hậu hữu.
Do có thọ nên các ấm đầy đủ, khiến có thân sau, tai họa nối tiếp nhau, triền miên chẳng dứt.
Từ hữu khiến có sanh.
Đã có đầy đủ ấm, thức thần nhờ ở cha mẹ, thọ nhận thân xác lại sanh.
Từ sanh khiến có lão, tử, ưu bi, khổ, không vừa ý khiến bị phiền não, như vậy đã đầy đủ các khổ chủng làm thành tập.
Bốn đại khô héo gọi là lão, mạng hết thần dời gọi là tử, ray rứt bên trong gọi là ưu, sụt sịt thở dài gọi là bi, không thích mà tự đến, muốn lìa xa nhưng không tránh được, tâm đầy nội kiết gọi là não.
Thức là hạt giống sanh ra mười hai nhân duyên, khiến khổ có đủ, nhưng lại không cho là khổ, lâu dần nó quen (tập). Sanh tử lấy khổ tập làm gốc, đạo lấy tận làm nền, nền đã dựng lập đạo chẳng thành được sao?
Si đã tận thì hành tận, hành đã tận thì thức tận, thức đã tận thì danh tự (Danh sắc) tận, danh tự đã tận thì sáu nhập tận, sáu nhập đã tận thì thì trí (xúc) tận, trí (xúc) đã tận thì thống dương (thọ) tận, thống dương (thọ) đã tận thì ái tận, ái đã tận thì thọ (thủ) tận, thủ đã tận thì hữu tận, hữu đã tận thì sanh tận, sanh đã tận thì lão tử tận, lão tử đã tận thì ưu bi, khổ, tâm sầu não liền tận, những khổ chủng đầy đủ như vậy liền được tận.
Mười hai nhân duyên tận tức là Niết-bàn.
Si, vì không biết bốn đế như có.
Đế, đế có khổ, tập họa hoạn, mình đã bị khốn ở đó nhưng lại không biết, ngưng dứt mọi dục vọng, đoạn trừ mọi phiền não, quán tịnh đắc đạo, an sang không hoạn nạn, nhưng mình lại không thọ nhận, thực hành, gọi là si.
Không hiểu, không thấy, không tương ưng, không thọ nhận, không cởi, không mở căn, đó gọi là si.
Đạo thì chánh nhưng tâm của quần sanh thì tà, trái với lời Phật dạy gọi là bất ưng.
Si đó làm nhân duyên cho hành. Hành là gì? Là sáu vọng thọ. sáu vọng thọ là gì? Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là sáu vọng thọ của thân, đó gọi là hành.
Sáu tình mong ước sáu tà, rồi tâm thọ nhận mà thành pháp.
Hành đó làm nhân duyên cho thức, thành sáu thân thức: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm, đó là sáu thân thức.
Sáu thức hưng khởi liền gieo thành hình bóng của thân, do đó gọi là sáu thân thức.
Thức đó làm nhân duyên cho danh tự. "Tự" là "Sắc". Bốn bất sắc ấm (vô sắc ấm), thống (thọ), tưởng, hành, thức gọi là danh.
Bất tức là vô.
Nghĩa là, thọ, tưởng, hành, thức không có hình bóng để thấy, nên gọi là bất sắc (vô sắc). Sắc là gốc của bốn đại, gồm địa, thủy, hỏa, phong. Bốn thứ trước (thọ, tưởng, hành, thức) là danh. Bốn thứ nầy (địa, thủy, hỏa, phong) là sắc. Hai thứ ấy liên kết với nhau chung thành danh sắc.
Chất cứng của thân xác là địa, ướt mềm là thủy, ấm nóng là hỏa, hơi thở là phong, bốn đại ấy có thể thấy được gọi là sắc, thức thần vì danh sắc đó mà ở ba cõi.
Danh tự đó làm nhân duyên cho sáu nhập thọ của thân. Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm là sáu nhập thọ.
Sáu nhập đó làm nhân duyên cho sáu tư vọng của thân; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm là sáu tư vọng.
Tư vọng đó làm nhân duyên cho sáu thống (thọ) của thân; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm gọi là thân sáu thống. Sáu thống (thọ) đó làm nhân duyên cho sáu thân ái, sắc ái, thanh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái, đó gọi là sáu thân ái.
Ái đó làm nhân duyên cho thọ (thủ) gồm bốn thọ
(thủ):
1. Dục thọ (thủ).
Nghĩa là ở Dục giới, thọ nhận dục thân.
2. Kiến kiết thọ (thủ).
Cõi trời sắc thấy được sắc thân, tâm kiết thọ chịu sanh tử.
3. Giới nguyện thọ.
Người tu hành giữ giới là để cầu đạo, nhưng lại thích hưởng phước ở cõi trời, mong được thăng thiên, sống thọ ở đó, gọi là nguyện thọ.
4. Thân kết hạnh thọ.
Tâm kết tác hạnh thích thành thân, thành thân do kết hạnh. Nếu được chỉ bày thì giải mở kết mắc, vì ngu nên cho bất tịnh là tịnh, khiến thọ nhập vào vực dục. Cho khổ là vui, khiến thọ nhập vào vực hữu. Cho phi thường là thường, khiến thọ nhập vào vực kiến. Lấy phi thân làm thân, khiến thọ nhập vào vực bất minh, bốn thọ, bốn vực, ý nghĩa tương đương.
Đó gọi là bốn thọ (thủ), thọ (thủ) đó làm nhân duyên cho hữu, gồm ba hữu: 1. Dục giới; 2. Sắc giới; 3. Vô sắc giới. Đó là ba hữu.
Ba hữu có thân sanh tử trong ba cõi.
Hữu đó làm nhân duyên cho sanh, là sáu trì sáu nhập của năm ấm đã nói trên.
"Trên" nghĩa là ba phần đã nói trên, đã có ba phần thì thức luân chuyển thọ sanh.
Đã có như hữu.
"Đã có" là đã có ba phần tà thức thần trên, nhân đó mà tác hành, như thế mà gieo hữu mới có thân ảnh, nên gọi là như hữu.
Sanh trụ.
Nhà si tụ tập năm ấm, sáu nhập, cùng dựa vào bốn đại mà sanh thì có sự sanh tử trong năm đường.
Đã vãng đọa trí phân biệt căn (đã đến mức rơi vào khiến các căn chia ra khác nhau).
"Vãng" là đi đến chỗ ba phần. "Đọa" là rơi vào hành ba phần. "Trí" khiến dẫn đến sáu tình. "Phân" là phân biệt các căn khác nhau.
Đã nhập thì đắc hữu.
Căn của sáu tình đã có đủ, sắc thì nhập nhãn, năm tình khác đều như vậy.
"Đắc" là sáu tà được sáu tình, sáu tình không thấy được, cho nên gọi là đắc.
Có hữu thì có sanh lão bệnh tử, ba cõi đã sẵn đủ các khổ hoạn.
Đó gọi là sanh tử. Những gì gọi là người người, sở tại, ở tại sở vãng, đã vãng thì hoại, đã quá.
"Người người" tức là quần sanh. "Sở tại" tức là chỗ ở. "Sở vãng" nghĩa là nơi đi đến của thân thức thì khác nhau. "Hoại" là hư hoại. "Quá" là đi qua. Chỗ đến để thọ thân, không có chỗ nào là chẳng hư hoại, mạng sống rồi cũng sẽ qua đi. Kệ nói:
"Không có nơi chốn nào Thoát chết không nhận khổ Dù ở trong không, biển Hoặc ở giữa đá núi".
Là ý nghĩa đó.
Khi chết, thị mệnh, căn đã bế tắc.
"Thị" là quần sanh. "Mệnh" là hơi thở. "Căn" là sáu căn.
Quần sanh khi chết, hơi thở dứt, thân xác lạnh, căn của sáu tình đều bế tắc, rồi hồn linh theo đi, gọi là tử.
Trước khi chết, đã già, sau đó mới chết, do đó gọi là lão tử.
Kệ nói: "Vừa sanh liền bệnh, sau đó già chết". Như ý nghĩa ấy.
Tướng của si là gì? Là thấy tối trong bóng tối.
Thức thần vốn chìm trong vực thẳm tối tăm của năm ấm ba độc, lại vì sáu tình hấp thu sáu tà để tự che lấp, gọi là "thấy tối trong bóng tối". Kinh Đạo Địa nói: "Thí như người nhắm mắt đi trong đêm khuya tối thì lúc nào mới thấy sáng", đó là tướng của si.
Như có kẻ không hiểu.
"Như" là tối tăm. Thần linh bỏ thân nầy nhận thân kia, tùy theo hạnh mà chịu quả báo, việc đó có thật mà kẻ ngu không hiểu. Kinh Trung Tâm nói: "Không biết sanh từ đâu đến, chết linh hồn đi về đâu, gọi là si".
Từ đó khiến xúc rơi vào hành tưởng xứ. Hành tướng là gì? Là khiến cho kiếp sau lại có, từ trên đó mà phát khởi.
"Trên" là si. Từ si mà phát khởi, rồi đến hành tướng, cho nên nói "từ trên đó mà phát khởi". Kinh Pháp Cú nói: "Si là mẹ của mười hai nhân duyên".
Từ đó khiến xúc rơi vào thức xứ. Thức tướng là gì? Là biết vật, biết sự việc, là thức tướng.
Thức phân biệt sự vật, gọi là sáu thức tướng.
Từ đó khiến xúc rơi vào xứ danh tự. Tướng Danh tự là gì? Là đều nương dựa vào.
Nghĩa là hành tướng của năm ấm nương dựa vào để thành các sử.
Đó gọi là tướng danh tự. Từ đấy khiến xúc rơi vào sáu nhập xứ, Tướng sáu nhập là gì? Là phân biệt căn, đó là tướng sáu nhập. Từ đó khiến xúc rơi vào xứ tư vọng. Tướng tư vọng là gì? Là tương hội cánh (xúc) sinh (cùng tiếp xúc hội họp với nhau mà sanh ra), đó là tướng tư vọng.
Mắt hội với sắc, thức thần vui đấy, gọi là "tương hội cánh" (cùng tiếp xúc hội hợp với nhau). Kinh Liễu Bổn nói: "Cha, mẹ, thức, cả ba hội hợp tiếp xúc".
Từ đó khiến xúc rơi vào thống (thọ) xứ. Thống (thọ) tướng là gì? Là tiếp xúc biết, đó là tướng của thống (thọ). Từ đó khiến xúc rơi vào xứ ái. Tướng Ái là gì? Là sự phát đi, đó là tướng ái.
Tình bên trong ham muốn, rồi tâm phát đi.
Từ đó khiến xúc rơi vào thọ xứ. Tướng Thọ là gì? Là sự thọ trì, đó là tướng thọ.
"Thọ" là nhận các dục, rồi tâm giữ lấy không xả bỏ.
Từ đó khiến xúc rơi vào xứ hữu. Tướng Hữu là gì? Khiến đọa nơi nhiều chỗ đó là tướng hữu.
Đã có thọ thì có thân, thọ thân ở nhiều chỗ, nghĩa là chẳng thọ thân một nơi.
Từ đó khiến rơi vào sanh xứ. Tướng Sanh là gì? Là đã có năm ấm, đó là tướng sanh.
Sanh tức đã thọ thân thì hiện ra năm ấm. Đó là sanh tướng.
Từ đó khiến xúc rơi vào xứ lão. Tướng Lão là gì? Là chuyển thành chín, đó là tướng lão. Từ đó khiến xúc rơi vào xứ tử. Tướng Tử là gì? Là mệnh, căn dứt tận, đó là tướng tử. Từ đó khiến xúc rơi vào xứ khổ. Tướng Khổ là gì? Là thân gấp vội, đó là tướng khổ.
Ý nói: Thọ mệnh dứt tận, bốn đại phân tranh với nhau, đau đớn vô cùng, cho nên nói: "Thân gấp vội là khổ".
Từ đó khiến xúc rơi vào xứ bất khả. Tướng Bất khả là gì? Là tâm ý gấp, đó là tướng bất khả.
"Xứ Bất khả" là xứ lão bệnh tử. Mệnh bị nhiễu loạn, gọi đó là gấp vội. Tuy tâm không thích, nhưng đã hội hợp tất phải đi đến đấy. Trưởng giả Duy Ma Cật nói: "Hết thân nầy đến thân khác, vì đạo hợp với lão tử" Ý nghĩa cũng như vậy.
Từ gốc đó khiến rơi vào lo âu áy náy. Tướng áy náy là gì? Là năm ấm âu lo.
Năm ấm là gốc, mười tám hành là cành. Kinh Phí Ca Sa nói: "Chặt đứt gốc cành, triệt bỏ gốc rễ, không còn sanh lại nữa". Là ý đó vậy.
Từ đó khiến rơi vào xứ sầu não. Tướng bi sầu là gì? Miệng phát ra tiếng, khiến áo não buồn bã. Buồn bã vì áo não, áo não cũng vì buồn bã.
"Phát ra tiếng", người bệnh khi sắp chết, tâm phát ra tiếng buồn bã để từ biệt những người thân ái.
Chín tuyệt xứ là nơi tất cả các hạnh ác hội hợp lại. "Chín tuyệt xứ" đúng ra câu nầy phải nằm ở đoạn sau. Từ lưu hành.
Si lưu hành đến sanh tử, chảy về ba cõi, nên gọi là lưu.
Thành ra có hai gốc. Từ hữu kết thành tội, là gốc ba ác và bốn đảo của hữu. Hai gốc tội não đó là gì? Một là si, hai là rơi vào hữu ái, gọi là hai gốc. Ba gốc là gì? Một là tham dục, hai là sân giận, ba là si hoặc. Đó gọi là ba gốc ác. Bốn đảo thuộc hữu là gì? Phi thường cho là thường. Đó là tư tưởng đảo, là ý đảo, là kiến đảo, cho khổ là lạc, phi thân là thân, bất tịnh là tịnh. Tư, tưởng, ý, kiến đảo đã nói như trên. Đó gọi là bốn đảo, si gọi là không hiểu về bốn đế, bất tuệ.
Ngược với bốn đế, theo bốn điên đảo gọi là không hiểu Bất kiến.
"Bất kiến" là không thấy Phật.
Bất tương ưng, bất giải, thọ nhận là ác, đó là si.
"Bất giải (không hiểu)", không quy hướng về Tăng, không thọ nhận pháp thâm diệu của Phật, ác đó rất lớn, gọi là si.
Hữu ái đó là gì? Dục ở thế gian cứ phát đi không xả, là hữu ái. Đó gọi là hai gốc.
"Không xả": Nghĩa là luôn hiếu thảo không giây phút nào xả bỏ.
Gốc dục tham đó là gì? Là chủng tham nơi sở tại.
"Chủng" là gieo trồng. "Sở tại" là ở trong năm đạo, gieo trồng sự ham muốn tại nơi ở.
Vì châu báu kia, vì tài sản kia, vì tiện nghi kia mà có sự đố kị, ganh tị với kẻ khác.
Chữ "kỳ" là kia, người kia. Ý nói, quần sanh thấy những đồ vật mình ham muốn, nhưng không có, sanh tâm tham lam, đố kỵ, ghen ghét đối với kẻ kia, nên nói là "Tật tại kỳ".
Tham cái mình ham muốn, đi đến tướng ái, tướng thương yêu, đến không xả bỏ, đó là gốc tham ác.
Người ngu, tham cái mình ham thích, tà và dục cùng hấp thu nhau, kia và đây cùng yêu nhau, ngu và ái cùng thương nhau, bắt đầu có chúng sanh cho đến nay, truyền mãi không ngừng. Kinh nói: "Người đạo hạnh, vì đạo mà cùng tụ hội, cùng nhau soi sáng. Còn phàm phu thì lại cho tà là chánh, cho nhơ nhớp là sạch sẽ, tụ hội với nhau vì những điều sai trái, gọi đó là gốc ác.
Gốc ấy là gì? Là tất cả tham, là những việc làm phi pháp của thân, là những lời nói phi pháp của khẩu, là những ý nghĩ phi pháp của tâm, các nhân duyên khác đều cùng liên hệ với các loại ác, ý niệm là gốc pháp, do đó gọi là gốc tham ác.
"Ai" là Hỏi: Xin cho biết các pháp đó là ai? Đáp: Do những việc làm phi pháp của thân khẩu tâm. Các nhân duyên khác cũng như vậy.
"Gốc pháp" là gốc của chánh pháp, chân tuệ. Tà tuệ gọi là gốc ác.
Gốc phạm giới sân giận đó là gì? Là tại người khác, là tại hành, cùng nhau sân giận.
Hành, tại người, tiểu nhân ham muốn sáu tà, chỉ muốn có riêng cho mình mà thôi, thấy người ta có thì sanh ganh tỵ, ganh tỵ nhiều thì sân giận phát sanh. Thánh Hiền rộng lượng, làm việc nhân nghĩa bố thí cho người, còn tiểu nhân vì ích riêng cho mình mà làm việc độc hại cho người sự sân giận của mình đưa đến cho người thì người liền trả lại bằng sự sân giận, cho nên gọi là "cùng nhau sân giận".
Không nhẫn, không thức.
Kẻ ngu, vô minh, vì danh sắc làm cuồng loạn, không thể lấy đạo lực nhẫn hàng phục tâm tà, vì ngu, làm điều sai trái không biết hoạn nạn, vì tham mà sanh ra đố kỵ, nên nói là không thức.
Nhân duyên sân giận phát sanh bình phẩm.
Sân hận uất ức ở trong, tiết hơi ra ngoài thành lời chê trách người khác.
Niệm bất khả (nghĩ không đúng), thuyết bất khả (nói không đúng), cái được nghĩ đến và cái được nói ra không tốt, khiến ý lại nhập vào hành ác.
Chẳng phải là Phật, Pháp, Tăng mà để tâm, niệm nghĩ đấy, gọi là niệm không đúng (niệm bất khả), chẳng phải là mười hai bộ kinh pháp mà cứ trình bày, nói ra, gọi là thuyết bất khả (nói không đúng). Không đáng để nghĩ, nói mà cứ nghĩ và nói, gọi đó là "không tốt", khiến tâm lại nhập vào hành ác.
Đó là gốc phi pháp của sân, gốc đó là gì? Là gốc phi pháp, là tội của thân, là tội của lời nói, là tội của tâm, chúng cùng liên hệ với ý niệm, là gốc của pháp đó, do đây thành sân, gọi là gốc phi pháp. Vì sao người ấy bị si hoạt gốc phi pháp? Vì họ không biết "bốn Hiền giả đế" như có.
"Bốn Hiền giả đế" nghĩa là bốn đế của Hiền giả, Phật và mười hai vị Hiền giả, với trí tuệ sáng suốt vô lượng thấy thật có bốn đế, nhưng kẻ ngu lại không biết, nên nói là bất tri.
Không hiểu, không thấy, không tương ưng, không rõ thọ phi pháp, hoặc tùy thuận hoặc thọ nhận, hoặc tại hoặc không biết, hoặc si tối, tại u tối bị che lấp khiến cho u tối, khiến cho không có mắt, khiến cho tuệ bị hư hoại, sự nhận biết bị diệt tận, không thể đạt đến vô vi để độ thoát thế gian.
"Si tối" tức là tâm.
"Tại u tối" tức là ở năm ấm.
Ý nói: Tâm vốn si lại ở năm ấm, lại bị năm cái che lấp, khiến mắt mù, tuệ hư hoại, sự hiểu biết bị dứt tận, chìm đắm trong bốn vực, trôi dạt trong các biển khổ, luân chuyển trong ba cõi, không đắc được đạo vô vi giải thoát thế gian.
Gốc hành phi pháp của si hoặc đó, gốc ấy là gì? Là hoặc phi pháp, thân hành tác, khẩu hành tác, tâm hành tác, và các tướng chung trợ gi-úp cho phi pháp, ý niệm nghĩ về phi pháp, đó gọi là gốc phi pháp của Hoặc.
Ý nói, mười ác trợ giúp cho những sai trái của thân khẩu ý, thành gốc phi pháp.
Người đó phải biết về điên đảo, và phải biết về nơi chốn điên đảo, phải biết từ chỗ điên đảo, phải biết như vậy.
Chữ "bỉ" là người tu hành đó.
Người tu hành phải biết, tâm thế gian nhiều điên đảo, trái ngược với tâm đạo, đó gọi là biết chỗ điên đảo là rất nhiều chỗ
"Nơi chốn điên đảo" là chẳng phải chỉ có một đảo.
"Tùng sở đảo" tâm ngu vô minh theo với nhân duyên tà mà thọ nhận điên đảo và nghịch đảo, kẻ sáng suốt phải biết đấy.
Người tu hành có đảo thứ nhất, từ đảo thứ nhất thành đảo thứ tư, rồi từ các đảo đã có thành đảo thứ ba. Đảo thứ nhất là gì? Là đối hoặc là cho: phi thường là thường, khổ là lạc, phi thân là thân, bất tịnh là tịnh, đó là đảo thứ nhất. Đảo thứ tư là gì? Tất cả những thân thống (thọ), ý pháp, đó là đảo thứ tư. Đảo thứ ba là gì? Một là tưởng ý, hai là ý, ba là kiến, đó là đảo thứ ba.
Trong một tưởng thấy có bốn đảo, ý và kiến cũng như vậy. Trong khoảng thời gian ngắn như búng một ngón tay ý chuyển lần, nên nói là "sử".
Những ý căn của người đó cùng liên hệ.
Hai chữ "liên hệ vướng mắc" nghĩa là tưởng về tà đảo, tưởng trước tưởng sau cùng nằm trong một phạm vi, gọi là "liên hệ".
Như sắc, như hình bóng thành thọ tưởng, đó là dục tưởng.
Ý si thấy hình bóng đẹp, liền chấp giữ, tìm kiếm thành dục, nên gọi là dục tưởng.
Vì có dục tưởng cứ theo mãi không dứt.
Từ khi có chúng sanh cho đến nay, tâm hạnh tà, hoặc ngược với tịnh, hướng về si vọng, đã có từ xa xưa cho đến nay vẫn không dứt.
Tại ý niệm, đó là là niệm chủng, những tưởng kia phân biệt mà thọ, đó gọi là tưởng đảo.
"Phân biệt" Nghĩa là sáu tình, mỗi tình đều có những thọ riêng biệt, thanh và sắc đi riêng. Kinh Trung Tâm nói: "Mắt chỉ thấy, không thể nghe" là nghĩa đó vậy.
Hoặc ý ấy không như có thọ, chỗ tùy theo không nên thọ, hiểu, đó gọi là ý đảo.
"Như" là thật, thật có bốn đế nhưng người ngu đó, tâm bị mê hoặc mà không thọ nhận.
"Chỗ tùy theo": theo với các điên đảo không phù hợp với đạo hạnh lại thọ nhận sáu tà, gọi đó là ý đảo.
Do đó, thọ nhận tại ý không xả, niệm tại sắc.
"Không" là không xả bỏ các ý tưởng điên đảo lưu giữ ở tại ý. "Tại sắc" là sắc thân, ở thân cũng lưu giữ.
Bất tịnh, ý cho là tịnh, nghe theo (thính) nhớ nghĩ hợp ý, chỗ thấy thích mắt nên đến thọ nhận (thọ vãng), đó là kiến đảo.
Chữ "Thính" là theo.
Chữ "thọ vãng" là vãng thọ, là đến thọ nhận.
Theo với những điều tâm ngu cho là đúng, siêng năng nhớ nghĩ về nó, thấy được những điều thích mắt liền đến thọ nhận các dục, đó gọi là đảo kiến tức là cái thấy điên đảo.
Những thứ mà người đó thấy, đã là tướng phân biệt, phải là mười hai đảo. mười hai đảo là gì? Tại thân có ba, tại thống (thọ) có ba, tại ý có ba, tại pháp có ba. Có bốn tướng đảo, ý đảo cũng có bốn, kiến đảo cũng có bốn. Cũng là tại nhập nhân duyên tương hợp với sắc.
"Tại nhập" nghĩa là sắc không nhập vào mắt, mà mắt đi tìm cầu sắc, đó là nội sắc.
Khiến thành mười hai đảo, thân ba, thống (thọ) ba, ý ba, pháp ba hợp thành mười hai đảo.
Tại thân có ba là: 1. Tưởng đảo; 2. Ý đảo; 3. Kiến đảo. Trong đảo đó có bốn đảo. Bốn đảo là lấy bốn vô thường làm thường là bốn đảo.
Cứ như vậy làm sáu.
Đã có mười hai nhân duyên thì có sáu nhập.
Thành bảy mươi hai đảo, bắt đầu khởi từ nhân duyên đã được, tùy theo nhân duyên nhiều ít, không có hạn lượng.
Tuy có bảy mươi hai đảo, tùy theo nhân duyên mà khởi thì đảo đó không có hạn lượng số.
Không thể đến, ở tại người không có số, không có số đảo.
Ý khởi lên ở tại người, tức là đảo.
Năm ấm đó là bốn thân hữu.
Bốn thân là: thân, thống (thọ), ý, pháp. Tưởng ấm và hành ấm hợp thành pháp thân.
Từ tất cả sắc ấm là thuộc thân.
Sắc ấm là thân, thống (thọ) ấm là thân, ý ấm là thân. Từ có thống (thọ) ấm là thuộc thống (thọ) thân, từ có thức ấm là thuộc ý thân.
"Thuộc ý thân" là thức ấm thuộc ý.
Từ có tưởng ấm và hành ấm là thuộc pháp thân.
Pháp thân nghĩa là sáu phần pháp trong thân, cũng có nghĩa là thọ nhiều pháp sanh tử.
Từ có năm ấm ấy khiến thọ bốn thân nhân duyên hữu.
"Bốn thân" là bốn thân kể trên. "Nhân duyên" là mười hai nhân duyên.
Đã có năm ấm thì có bốn thân, khiến có đủ mười hai nhân duyên.
Thân đó bất tịnh cho là tịnh, đó là thân đảo.
Thống (thọ) khổ đó cho là lạc, đó là thống (thọ) đảo. Ý đó phi thường cho là thường, đó là ý đảo. Pháp đó không là thân lại cho là thân (vô ngã), đó là pháp đảo. Vì muốn tu sửa bốn đảo đó, Phật mới thuyết bốn ý chỉ (Niệm xứ), phân biệt đó là thân, thân tướng. Quán hành chỉ cho những kẻ ý niệm bất tịnh, ý niệm tịnh thì đảo được giải.
Phật thấy tâm quần sanh bị chìm đắm trong vực thẳm u tối, vì để cải chính các đảo, do đó đã phân biệt thuyết về bốn ý chỉ, khiến cho thấy Đồ vật đã dư thì thật khó bảo toàn, giúp đỡ kẻ sáng phải thức tỉnh, trả sự nhơ uế cho ba cõi, làm sạch tâm đó mà nhập "vô", gọi đấy là từ đảo mà được giải.
Đó là thống (thọ), thống (thọ) cùng quán với nhau, khổ lại cho là lạc, đảo ấy được giải. Ý và ý cùng quán với nhau, phi thường lại cho là thường, đảo ấy được giải. Là pháp, pháp cùng quán, phi thân cho là thân, đảo đó được giải. U tối trong u tối, nhưng có bất giải, đó là tướng si khiến đọa vào nhiều nơi điên đảo, muốn đi đến đó, đấy là tướng ái, khiến từ đó mà thọ nhận sắc thành thân, do đó khiến khi dối (khi kỳ), đó là tướng tham, khiến rơi vào chỗ không cho mà lấy.
"Kỳ" là họ, nó.
"Không cho mà lấy là ăn cắp.
Vì có thân nên liền khinh khi người khác, gọi là "khi kỳ". Sắc không đến cho mắt, mà mắt âm thầm đến lấy sắc, sáu tình đều đến nên gọi là không cho mà lấy.
Những điều ưa thích lại không như ý, đó là tướng sân hận, khiến đọa vào xứ sát, vì không hiểu rõ sự. Đó là tướng si hoặc, khiến thọ nhận tà, rơi vào xứ tà. Vì làm những pháp hành đó mà không từ khước thọ tướng.
Nghĩa là, ý không từ bỏ các điều ác, cứ theo với những việc làm ấy do đó thọ nhận tướng ác.
Đó là khiến rơi vào tưởng hữu thường, không biết thân.
Bốn đại gọi là thân.
- Khu.
Khu là thể, sáu tình gọi là thể.
- Vật.
Vật là ba mươi sáu vật ở trong thân.
Vì tướng cánh (xúc), tướng hội khiến cho là tướng lạc, thành thân xứ, vì không hiểu rõ.
Nghĩa là ý không nhập vào ba mươi bảy phẩm để hiểu rõ nó.
Những pháp tướng ấy thành có thân tưởng, khiến đọa. Đó là những chỗ của ta, thành bị đọa, thọ nhận sắc tướng, khiến cho đó là tịnh tưởng, khiến từ đó mà đọa không thâu giữ căn xứ.
Nghĩa là không thâu giữ căn của sáu tình.
Đó là chín phẩm đã phân biệt, đã nói là tất cả không thể hành bạn phi pháp.
"Bạn", bạn của sáu tình. Mắt với sắc là bạn, sáu tình cũng như vậy
Vì vậy, kẻ đa văn mới có thể lý giải.
Nghe nhiều thấy rộng, mới có thể hiểu được đó.
Không đa văn tốt thì không hiểu.
"Tốt" rồi thì không nghe nhiều, lại không thấy rộng, thực hành rời rạc nên không hiểu.
Người có trí tuệ thì hiểu, người không có trí tuệ thì không hiểu.
Nghĩa là, người ngu si không học rộng biết nhiều, mới nghe qua thì không hiểu.
Thực hành thì có thể hiểu.
Nghĩa là thực hành thì có thể hiểu được, không thực hành thì cuối cùng cũng không hiểu rõ.
Không thực hành theo thì không lý giải. Có chín tuyệt xứ khiến cho tất cả các pháp tịnh tụ họp. chín tuyệt xứ đó là gì? 1. Chỉ. 2. Quán. ba. Không tham. bốn. Không sân. năm. Không si. sáu. Vô thường. bảy. Khổ. tám. Phi thân (vô ngã). chín. Bất tịnh. Đó là chín tuyệt xứ.
Sư nói: Tuyệt, nghĩa là đoạn tuyệt với các ý ác, đắc được hạnh chỉ quán, không tham các sự ham muốn ở thế gian, không có tâm sân giận, ngu si, biết rõ các đế là phi thường, khổ, không, phi thân, bất tịnh.
Chỉ đó gọi là ý chỉ, tại xứ có thể chỉ, đã chỉ, đang chỉ, thâu tóm chỉ, không mất chỉ, không dốc sức chỉ, tâm tĩnh lặng trong sáng, nhất nhất hướng đến niệm, gọi là chỉ.
Sư nói: Nghĩa là có thể chỉ ở tại xứ, tại thống (thọ), tại ý, tại pháp liền có thể chỉ. "Bất chí" là ý. "Đang chỉ" là bốn ý chỉ. "Thâu tóm" là thâu tóm sáu tình tĩnh lặng đạt được định ý. "Nhất hướng niệm" như sáu tình trong an ban (niệm hơi thở), nơi đâu cũng một tướng.
Quán là gì? Quán gọi là biết rõ về ấm.
Thức thần vi diệu, các ấm khó xét, phải hiểu rõ thấu suốt lý, quán trong một hơi thở có năm ấm. Nghĩa là, khi mới bắt đầu đếm hơi thở là hơi gió, gọi là sắc ấm, nhớ đếm hơi thở e bị sai, là thống (thọ) ấm. Có hai niệm ấy, là tưởng ấm, từ hơi thở đến tưởng là hành ấm. Ý đã biết hơi thở, là thức ấm. Đó là trong một hơi thở có năm ấm, phân biệt biết năm ấm, đó là biết rõ về ấm.
Là hiểu rõ trì.
Tổng trì sáu tình. Giữ tất cả cho sáu tình
Là hiểu nhập.
Phải từ khước sáu tà, không để cho sáu tà nhập vào sáu tình.
Hiểu danh tự (danh sắc), hiểu từ gốc sanh.
Bốn ấm vô sắc là danh, bốn đại là tự. "Từ gốc sanh" là nói: Vốn từ mười hai nhân duyên mà khởi. Năm ấm, sáu bổn từ chỗ nhập mà sanh.
Hiểu đã sanh từ pháp gốc.
"Pháp" là pháp sanh tử, phải biết rõ về nó.
Hiểu rõ khổ, hiểu rõ tập, hiểu rõ tận (diệt), hiểu rõ đạo hạnh.
Nghĩa là người hành đạo phải hiểu rõ, biết khổ, tập, tận, đạo, là hiểu rõ về bốn đế.
Hiểu rõ thiện ác từ pháp đó sanh.
Phải hiểu rõ thiện từ diệt trừ mọi nguyên nhân của khổ và con đường của khổ sanh ra ác là từ sự khổ và nguyên nhân sự khổ sanh ra, người tu hành phải thực hiểu rõ chúng.
Hiểu tăng thêm lại tăng thêm.
Một khi hiểu rõ được nguyên nhân của cái thiện và ác, mà tu hành theo đó, lại tăng thêm đạo hạnh.
Hiểu trắng đen.
Đạo là trong trắng, thế gian là đục đen. "Đen" tức là u tối.
Hiểu cái ấy có thể theo.
Nghĩa là biết được đạo hạnh thì có thể theo.
Không thể theo.
Nghĩa là tà hạnh thì không thể theo, phân biệt biết những trắng đen đó.
Như có phân biệt.
Phân biệt một cách đúng đắn về những trắng đen.
Là kéo.
Kéo, kéo đi, đạo có thể hành. Tức là chúng ta phải làm theo đạo
Không kéo.
Tà dục thì không thể hành. Biết đó là tà thì chúng ta không thể làm theo Là hạ.
Gánh nặng dục dưới.
Phục hạ.
Phục hạ là nhớ về đạo ở dưới, nhớ không quên.
Là niệm.
Từng niệm từng niệm đếm hơi thở (sổ tức).
-Phục niệm.
Tinh tấn hành đạo một cách triệt để gọi là phục niệm Kinh An Ban viết: "Niệm giác chủng ý" là do nghĩa đó.
Là tư quán.
Thường nhớ nghĩ các điều đã quán.
Là thức.
Thức, nhớ, thường nhớ biết những điều đã thực hành.
Là tuệ.
Không có gì là không biết.
Là nhãn.
Nhãn, đạo nhãn, đã đắc được tâm đạo, mắt không có gì là không thấy.
Là mưu.
Mưu, giỏi quyền biến một cách từ bi.
Là đầy đủ.
Quán đã đầy đủ hạnh.
Là hiểu rõ.
Hiểu biết chỗ sâu xa của đạo, thoát khỏi ba cõi.
Là tuệ vi minh.
Hiểu rõ điều sâu xa của đạo, độ thoát ba cõi, đắc được không có gì là không biết, thành nhất thiết kiến. Còn gọi là tuệ minh, nghĩa là hạnh đó là tuệ trong tuệ, cái sáng suốt lớn trong sáng suốt. Tuệ chính Là dục.
Dục, dục đạo là muốn đạo, tâm thường vui đạo hạnh. Là ánh sáng.
Hành đã đầy đủ, tuệ giải, vui với tâm sáng, từ bi rải khắp, hào quang trùm khắp mười phương, quần sanh được ân triêm công đức gọi là quang.
Là dám không lìa.
Một đã hiểu rõ, không dám không lìa xa các sự cấu uế của thế gian.
Là quán pháp.
Pháp là pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
Là giác ý.
Từ tự giác, đạt được không có gì là không biết.
Là trực kiến.
Trực, tám trực, thấy đạo. Một cách sáng suốt Là đạo chủng.
Hành ba mươi bảy phẩm, là gieo đạo chủng.
Đó gọi là quán, cũng có nhiều cặp đối quán.
Ý đã thấy biết, là đã gieo đạo chủng, nên gọi là quán. "Nhiều cặp đối quán" nghĩa là đạo thì sanh tịnh, đời thì như thế, nhiều sự việc nên gọi là từng ấy.
- Một là quán tịnh.
Nơi vắng vẻ tịch tĩnh, quán ba mươi bảy phẩm, là quán tịnh.
- Hai là quán bất tịnh quán.
Quán ba phần hành là quán bất tịnh.
- Ba là quán thanh tịnh.
Ý niệm ngưng (chỉ) là thanh, hết cấu uế là tịnh, gọi là thanh tịnh.
- Bốn là quán bất thanh tịnh.
- Năm là quán hắc.
- Sáu là quán bạch.
- Bảy là quán khả hành.
"Khả hành" là pháp tịnh có thể hành, quán nghiệp là thực.
- Tám là quán bất khả hành.
- Chín là quán tội hành.
"Tội quán hành", quán làm việc tà, thì nhập vào ba cõi ác, tâm mê hoặc.
- Mười là quán họa phước.
Quán biết hạnh nào thuộc họa phước.
- Mười một là quán trói buộc.
Quán biết thức thần bị trói buộc tại mười hai nhân duyên.
- Mười hai là quán giải thoát.
Biết xả bỏ mười hai nhân duyên sẽ được giải thoát.
- Mười ba là quán hữu sở ích.
Đã đắc giải thoát là có những ích lợi.
- Mười bốn là quán thất vô sở ích.
"Thất" là mất đạo hạnh, vô ích cho ta.
- Mười năm là vãng quán.
"Vãng quán" là sáu tình đến với sáu điên đảo, nghe theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, nhiều niệm.
- Mười sáu là quán hoàn.
"Hoàn" là quán lại thân.
- Mười bảy là quán thọ tội.
Tạo mười hai nhân duyên là thọ tội.
- Mười tám là quán trừ tội.
Quán đoạn dứt mười hai nhân duyên là trừ tội.
Đó gọi là quán. Có hai nhân duyên khiến thuyết về chỉ, vì tất cả người trong thiên hạ có hai bệnh. Là hai nhân duyên gì? Đó là hai bệnh: Một là si, hai là ái. Do đó Phật thuyết hai phương thuốc, là những gì? Một là chỉ, hai là quán. Nếu dùng hai phương thuốc ấy thì hai bệnh kia sẽ lành. Chỉ, quán là hai thứ thuốc. Si và ái là hai bệnh. Đức Phật lấy chỉ quán để trị hai bệnh, gọi là lành bệnh.
Khiến cho tự chứng.
Chỉ diệt ái, quán diệt si. Si diệt thì chứng đắc đạo.
Tham ái dục, không lại tham.
Chỉ quán thì đạo được đầy đủ. Si ái liền diệt, no đủ ở đạo, không đói khát ở tục, gọi là "Không lại tham".
Niệm ý được giải thoát, si đã giải, khiến từ tuệ được giải thoát. Đạt được trực tịnh bốn vô thường, liền không còn để tâm ở ba cõi, gọi là giải thoát.
Phương thuốc trị bệnh ái dục là gì? Là chỉ.
Ái đã giải thì ý cũng giải, ý đã giải thì bệnh liền lành.
Bệnh ái, phương thuốc chỉ.
Phương thuốc trị bệnh si là gì? Là quán.
Si đã trừ bỏ, từ tuệ mà giải thoát, là lành bệnh. Phật thuyết giảng như vậy. Hai pháp như vậy, phải biết một là tự, hai là sắc. Hai pháp phải xả bỏ, một là si, hai là ái. Si và ái, nghĩa là bốn ấm là tự, bốn đại là sắc, hợp ở trong thân, chỉ có si ái danh và tự. Người tu hành phải lấy chỉ quán để tiêu trừ hết.
Hai pháp phải tự biết, một là tuệ, hai là giải thoát. Hai pháp đáng hành, một là chỉ, hai là quán, đã thực hành chỉ đó, khiến biết được sắc, đã biết được sắc rồi thì ái được xả bỏ.
Biết bốn đại gọi là thức (biết) sắc, ý liền không còn bị nhiễm sắc nữa, không nhiễm sắc thì không bị rơi vào vọng, nên nói: "Thức sắc khiến ái được xả".
Ái đã giải thì ý liền được giải thoát, tự mình chứng biết, chỉ đã thực hành đầy đủ, liền được bỏ si.
Thực hành pháp chỉ đầy đủ, liền được bỏ si.
Si đã được xả bỏ, liền từ tuệ được giải thoát, tự mình chứng biết. Nếu Tỳ kheo lấy hai pháp đó, trị biết tự và sắc, lấy hai pháp để xả si và ái, cùng lúc như vậy liền dứt hết mọi chấp trước, đã xong.
Nghĩa là, chỉ quán trừ si và ái, là việc làm đã xong. Muốn độ thế, đó là còn sót lại (hữu dư) vô vi chưa độ. Nghĩa là đã Niết-bàn nhưng chưa nhập Niết-bàn.
Đã vô vi xong. Là đã đắc Niết-bàn. Mệnh đã xong xuôi.
Nghĩa là không còn chịu sanh tử thọ mệnh nữa.
Liền hết khổ, khiến sau nầy không còn khổ, người đó vì có ấm nầy, vừa trì vừa nhập, đã ngưng chỉ hết, tịch nhiên lặng lẽ, sau nầy không có ấm để giữ để nhập, không có liên hệ, không khởi lại nữa.
Nghĩa là ý ác đã diệt, không còn khởi sanh tử nữa.
Đó là vô dư (không còn sót lại).
Đã đắc vô vi vượt qua thế gian rồi. Đó là hai loại vô vi. Người đó không tham thanh tịnh bổn. Thanh tịnh bổn là gì? Là chẳng thủ đắc, chẳng mong cầu trong ba cõi.
Người đã đắc ba định, sáu tình không còn có những tìm cầu trong ba cõi nữa, gọi là gốc thanh tịnh.
Đó gọi là không tham thanh tịnh bổn. Bốn đó là gì? Là không tham thân thanh tịnh, lời thanh tịnh và những pháp thanh tịnh liên hệ khác, chỗ niệm của ý là bổn.
Nghĩa là không còn những niệm tà khởi nữa, ở tại ba mươi bảy phẩm kinh.
Đó là không tham gốc thanh tịnh, cũng có gốc thanh tịnh bổn, đức Phật thuyết thành tám loại hạnh, là gốc thanh tịnh đó là ba đạo chủng thanh tịnh, đó là không tham bổn. Những gì là ba? Một là trực phương tiện trị, hai là trực niệm, ba là trực định, đó là ba đạo chủng gốc thanh tịnh, do đó gọi là không tham gốc thanh tịnh.
Không sân không phạm pháp bổn là gì?
Nếu nhẫn những hành, sau nầy sẽ không xuất ra nhân duyên sân, phẫn thành không sân, không sân thì không bị họa, không nhuế thì không có sân cũng không sân.
Có nhuế (giận dữ) thì sân đến, nên không có giận dữ thì không có sân.
Không oán cũng không tưởng oán, đó là không nhuế không phạm pháp bổn, nên gọi là không giận dữ, không phạm pháp bổn. Cũng có ba đạo chủng thanh tịnh.
1. Không giận dữ thì không phạm pháp bổn là chánh ngữ.
2. Chánh nghiệp.
3. Chánh trí lợi.
Nghĩa là người đắc đạo làm lợi lạc, từ trên thân, ý lấy tám đạo hạnh, cũng có nghĩa là: từ phát ý chỉ, cho đến đắc đạo, là trí lợi.
Đó là ba đạo chủng thanh tịnh, nên gọi là không giận dữ, không phạm pháp bổn.
Không mê lầm về thanh tịnh bổn là gì? Là từ tuệ thấy bốn đế như có, như có thì phải thọ nhận thanh tịnh, không ngu, không hoặc, không tùy hoặc cũng không rơi vào hoặc.
Đã đắc ba mươi bảy phẩm thì sẽ không rơi vào các việc của hoặc đó.
Tuệ minh minh tương kiến tuệ sáng tỏ cùng thấy.
Ba độc đã trừ là tuệ minh, thông cả tám trực đạo là cùng thấy.
Từ pháp thanh tịnh đó thành không hoặc, thanh tịnh bổn. Bổn ấy là gì? Là không hoặc, thanh tịnh, những thân hành, những ngôn hành, những tâm hành và những pháp thanh tịnh cúng liên hệ, là ý tư duy cùng niệm những pháp bổn.
"Pháp bổn" là ba mươi bảy phẩm pháp.
Cũng là từ hai đạo chủng thanh tịnh thành không hoặc bổn, một là trực kiến, hai là trực hạnh, đó là từ hai đạo chủng thanh tịnh bổn, nên gọi là không hoặc, bổn thanh tịnh. Đó là ba thanh tịnh thành tám chủng đạo đã "phân" tại những "tùy ứng".
Âm như chữ phận của từ bộ phận, tùy ứng, tùy Phật giáo ứng với ba mươi bảy phẩm hạnh.
Phi thường là như vậy, tưởng phi thường đó là gì? Tất cả những hành là tưởng phi thường, chấp những tưởng là biết, đó là thọ.
Đã chấp có tưởng liền tự biết, rồi làm không ngừng thành thọ.
Đó là tưởng phi thường, theo đó có tám pháp thế gian. Tám pháp gì? Có lợi.
Người tu hành được cúng dường lợi lộc, tâm không vui.
Không có lợi.
Tu đức nhưng lại hao tốn, gọi là không có lợi.
Danh tiếng.
Đức thịnh tiếng thơm bay xa, gọi là danh tiếng.
Không danh tiếng.
Hạnh đủ đức cao, thành ra đám tà ngăn cấm, gọi là không danh tiếng.
Có luận nghị.
Thanh tịnh đạm bạc, tà đảng vu khống, chê bai, gọi là luận nghị.
Không có luận nghi.
Đức cao ngăn cấm sự chê bai, không để kiêu ngạo.
Nếu khổ.
Lập chí giữ đạo nhưng hoạn nạn liên tiếp, hoặc cháy nhà, hoặc tù tội, gọi là khổ.
Nếu vui.
Được vinh dự của vua trời, thỏa lòng mãn nguyện, gọi là vui.
Là ý không đọa, không thọ.
"Đọa" là lạc, được vinh không kiêu, hạnh không đọa lạc. Lấp lánh đẹp đẽ, sáu tình không nhận. Lợi không lấy làm vui, hao cũng chẳng buồn. Kinh Pháp Kính nói: "Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc, không thể lay động" nhờ ở lực của định tịnh.
Từ những tư không thọ, chỉ hộ trì cho quán, tư ác được ngừng dứt. Hộ trì quán không khiến mất sự thích nghi, chỉ khiến ngừng thọ nhận những tư tưởng trên, thực hành hai ý đó, nên ác ngừng dứt.
Đó gọi là tưởng phi thường, tưởng khổ đó là gì? Là tất cả hành thế gian. Đó là những tưởng của khổ, biết thọ.
Nghĩa là, biết khổ đã xong, cho nên thọ. Hành giả phải biết vừa diệt.
Đó là tưởng khổ, từ đó mong gì? Mong tưởng khổ, là đã tập, đã tăng, những niệm đã nhiều.
Tất cả các khổ, từ tập mà tăng thêm nhiều.
Là tham đã đủ.
Tham từ vạn vật sanh, mong từ nguy nan sanh, sân từ đố kỵ sanh, si từ u tối sanh. Tham vọng, sân giận, ngu sanh đó là đủ.
Là không rơi vào tham.
Nghĩa là, người vì tham vọng mà già lão, vì sân giận mà bệnh, vì ngu si mà tử, nhờ phước đức mà sanh. Hành giả đã đắc ba mươi bảy phẩm diệu hạnh thì không rơi vào tham.
Vì ý không thọ, không đọa, cùng khiến không đọa.
"Khiên" là "nối liền". Đạo và ý cùng liền với nhau không khiến bị đọa nơi sanh tử.
Bất niệm.
Không niệm ác.
Nhiều ý hộ trì quán thành tị (đức), ác (lục tình) đắc chỉ.
"Tị" là đức. "Ác" là sáu tình. "Đắc chỉ" đắc chỉ, quán. Từ tư vọng đó dẫn đến mong ước. Tưởng Phi thân đó là gì? Là tất cả pháp không kế chấp thân, không rơi vào thân.
Ý nói, tất cả pháp bốn đại, không chấp là thân, vì bốn đại vô thường nên thân cũng là vật vô thường, người sáng suốt không đọa vào nơi sự mong cầu của thân
Là tưởng biết tưởng thọ, đó gọi là phi thân tưởng. Từ đó là gì? Mong dẫn đến tưởng phi thân, đã thành niệm thành tư, thành rồi càng thêm, khiến tự cho đây chính là ta.
"Thị thị" là ý nói tự kế chấp đây là thân ta.
Vì vậy, vì ý không thọ, xả bỏ nhiều trạng thái.
"Trạng thái" là tám mươi bốn trạng thái. Ý nói đã giác tám mươi bốn trạng thái, liền xả không thọ.
Không thọ trú làm quán uế ác, đắc chỉ.
Không chấp chặt vào bất cứ một nơi nào không ngừng quán hơi thở, cho nên có thể từ khước tám mươi bốn trạng thái, chính từ đó thấy được chân tướng của các việc ác mà, chứng đắc chỉ.
Đó là từ yếu dẫn đến.
Yếu là tạo tác tưởng phi thân thành ra phải dẫn đến.
Ác đó, tưởng Bất tịnh là gì? Là tất cả hạnh thế gian, là tưởng bất tịnh, tự biết thọ, đó gọi là tưởng bất tịnh, từ tưởng ấy thành những gì? Mang dẫn đến tưởng bất tịnh, đã thành niệm thành tư, là đã tăng, khiến ý từ bỏ năm lạc của thế gian, ý không khiến, không thọ, không bị đọa lại, nhiều niệm đã được hộ trì, làm cho si ác ngừng lại. Đó là từ trí chính yếu ấy.
Yếu trí là tác ý tưởng phi thường.
Đó là bốn tư tưởng niệm hạnh.
Bốn tư tưởng, tư tưởng bốn thiền. Niệm đã dứt đoạn, không còn hành nữa.
Vì sao? Vì khiến biết năm ấm.
Nghĩa là vì đắc tứ thiền liền biết chỗ khởi của năm ấm.
Cho nên Phật thuyết giảng như vậy là phân biệt để thấy tưởng bất tịnh hạnh làm cho sắc ấm từ đó được giải. Nghĩa là, bốn đại đều thuộc sắc, người tu hành luôn xem xét nhơ uế trong thân để trừ bỏ sắc dục, nên nói là "từ đó mà được giải".
Tưởng Khổ hạnh khiến thống (thọ) ấm từ đó được giải.
Hành gia rõ biết khổ thống (thọ) ấm của thân, thống (thọ) ấm liền diệt.
Tưởng Phi thân hạnh, tư tưởng ấm và hành ấm từ đó được giải. Đạt được ý niệm phi thân thì hai ấn tượng và hành đều diệt Tưởng Phi thường hạnh đó, khiến thức ấm từ đó được giải. "Thức" biết vạn vật vô thường, ý không tham vướng, nên nói:
"Thức giải".
Từ chỉ hạnh đó.
Chú giải "chỉ" là thâu tóm, thâu tóm sáu tình trả về cho ý, không thọ nhận nữa, đó là tưởng chỉ.
Khiến ái từ đó được giải. Từ quán hạnh ấy, khiến si được giải. Từ không tham đó thành xả bỏ tham.
Xả bỏ tham ý không còn sót lại một tí nào cả.
Từ không giận dữ đó mà xả giận dữ, từ bất hoặc đó mà xả si, từ tưởng phi thường đó khiến giải hữu thường, từ tưởng khổ đó mà giải tưởng lạc. Từ tưởng phi thân đó mà giải tưởng thân, từ tưởng bất tịnh đó mà giải tưởng tịnh, từ chỉ thâu tóm mà ý được trả về, đó là tưởng chỉ, khiến từ đó chỉ thiền.
"Chỉ" là trú, dừng lại, dừng ý ở bốn thiền.
Từ tất cả pháp tĩnh lặng đó, thọ được giải khiến chỉ, trú nơi nhất tri.
Từ quán và phân biệt rõ biết được tất cả pháp. Đạt được pháp tĩnh lặng nên ở nơi nhất thiết tri.
Từ dục có thể trả về lại cho tưởng, đó là tướng không tham, khiến trả về lại cho "bất dữ thủ" chỉ.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc, tà niệm, gọi đó là "bất dữ thủ" (không cho mà lấy), hành gia đã đắc bốn thiền, trả về lại sáu tình, không còn thọ nhận sáu dục bên ngoài, nên nói: "Trả về cho bất dữ thủ".
Từ đó về sau không còn sanh ra si nữa, đó là không có tưởng giận dữ, khiến từ sát trả về mà đắc được chỉ, biết sự và vật, đó là tướng bất hoặc, khiến đắc chỉ, làm dừng lại những hành vi thế gian, những pháp có thể thọ tướng. Đó là tưởng phi thường, khiến biết từ đâu mà sanh ra và từ đâu mà diệt.
Từ đâu sanh là từ tham dục sanh. Hành giả biết từ đâu sanh thì biết nơi có thể diệt.
Thức là xứ đó.
Thức, biết là nơi ba độc.(Tham sân si)
Là hạnh thế gian, tiếp xúc với thế gian, những thức tưởng. Đó là khổ, thành những tư tưởng, đó là thống(thọ) chủng xứ, tất cả những pháp tưởng không trú, đó là tưởng phi thân. Đó là phi thân tưởng xứ. Đã thấy xác thân hư hoại, phình trướng là thọ tướng đó.
Đoạn trên đã nói, thọ tướng tử. Bởi vì tham sân si mà thọ thân tướng. Từ nơi thân tướng mà có tướng tử tức là tướng thân hư hoại, chết. phình tướng….
Đó là tư tưởng bất tịnh.
Tư tưởng niệm nói trên là bất tịnh.
Từ đó thành hối lỗi, từ khước, khiến chỉ tĩnh lặng. Đó là chín phẩm xứ, đã phân tích ở đoạn trên. Hiện cắt đức chín phẩm Là tất cả bộ vô vi.
Là định bộ bạn.
Nói đầy đủ đó là gì? Kẻ đa văn thì nhận biết, kẻ thiểu văn thì không thành tuệ. Không có tuệ thì ý không thường tại kinh. Vì ý tưởng liên tiếp sanh, vì từ bất quán phân biệt, khiến không đắc tưởng phi thường, không thọ tưởng phi thường, khiến từ đó rơi vào năm lạc, bị năm lạc che lấp, từ chỗ hành sai đó, khiến không rõ tưởng khổ, khiến rơi vào năm ấm thọ nhập, khiến ý kế chấp thân nầy là nhiều gốc, chẳng phải một gốc, bất xả, bất quán, khiến không được vào tưởng phi thân, vì ý vui tại màu sắc đẹp đẽ, nên cho thân nầy là tịnh, không cho đó chỉ là da dẻ bề ngoài, khiến không được bất tịnh tưởng, không trú thọ.
"Không thọ nhận" người ngu bị vọng tưởng làm điên đảo.
Hãy ngừng lại, tưởng đó bất tín, khiến không có tưởng, không thọ hỷ, vì từ đó bốn chủng đã mất.
Bốn chủng là bốn vô thường.
Rơi vào chủng xứ vô vi.
Đức Phật thuyết, Tỳ kheo muốn thấy biết trí căn, phải cầu tại bốn thánh chủng, là pháp thanh tịnh.
Thực hành sáu thứ an ban, đắc hạnh thành thanh tịnh mới rơi được vào bốn ý chỉ.
Không xả bỏ tướng phương tiện, để được thanh tịnh. Từ thanh tịnh phát khởi mà đắc được bốn ý chỉ. Đức Phật nói: Tỳ kheo có tinh tấn căn muốn thấy biết, phải tại bốn ý đoạn, dứt những xúc quá khứ.
Tiếp xúc với bốn ý chỉ.
Cùng không quên niệm, từ không quên đó mà được bốn ý chỉ.
Đức Phật thuyết: Niệm căn, Tỳ kheo muốn thấy biết, phải quán tại bốn ý chỉ, thành một ý tưởng. Đó là định từ bất hoặc mà khởi, khiến được rơi vào xứ bốn thiền.
Đức Phật thuyết: Tỳ kheo ấy muốn biết định căn phải biết tại bốn thiền.
Hơi thở làm cho thân và ý ngừng. Tiếp đến ngưng ở nơi ý. chỉ là ý ý chỉ, quán là ý niệm về các pháp điều ngưng là bốn thân đã dứt thì năm ấm liền dứt Đó là trả về, trả về tịnh là ứng với tứ thiền.
Từ hiệu kế đó thành tuệ, như có khả năng giữ vững được.
"Trì" là nắm giữ sáu tình.
Từ đó phát khởi được vào đế.
Nhờ đại trí thâu giữ sáu tình, khiến cho ý được vào bốn đế.
Đức Phật thuyết: Tỳ kheo muốn thấy tuệ căn, phải tại bốn đế, gồm có bốn luân: Là hảo quận huyện cư luân, y tuệ nhân luân, tự bổn chính nguyện luân, tức mệnh hữu phước luân.
"Luân" là dụ chiếc xe, có thể chuyên chở đồ vật, ý nói, người có bốn xe ấy, cũng có thể chuyên chở người trên đường đạo. Bốn luân ứng với bốn đế, bốn thiền thuộc đạo hạnh, trăm pháp và bốn luân đồng nghĩa.
Cùng ở với những người đạo đức, là hảo quận huyện cư. Nương dựa vào người hiền, nhờ đó mà được đạo đức, là y tuệ nhân. Từ đó được vào xứ chánh nguyện, mà đắc được tướng chánh nguyện, đó là thân chánh nguyện, khiến được vào xứ phước, từ hạnh thanh tịnh có chỗ tướng nhập, đó gọi là phước, khiến đi vào năm xứ lạc.
Năm căn là năm xứ lạc.
Đó là mười một bổn giới pháp. Một là sắc trì không hối.
Sắc thân, thân trì giới không phạm bảy ác. Hai là đã không hối, khiến đắc được ý hỷ. Thân không phạm ác, cho nên ý được vui vẻ. Ba là đã có hỷ khiến ái sanh.
Bốn là ý đã đắc được ái, thành ra thân được nương. Năm là thân đã được nương, liền đắc lạc.
"Nương", nương vào bốn ý chỉ. "Lạc" là đắc đạo an lạc.
Sáu là ý đã an lạc liền đắc chánh chỉ. Bảy là ý đã đắc chánh chỉ, liền biết như có. Tám là đã biết như có liền tịch nhiên. Chín là đã tịch nhiên liền được xa lìa.
Lìa sự tối tăm của năm ấm.
Mười là đã đắc xa lìa liền đắc giải thoát. Mười một là đã đắc giải thoát liền thấy tuệ.
Đã hiểu phi thường, khổ, không, phi thân là có tuệ.
Có tuệ liền biết sanh tử đã hết.
Mười hai nhân duyên diệt thì hết sanh tử.
Đạo hạnh đã hoàn tất, việc làm đã xong, không còn chịu khổ lại nữa.
Đắc được ba hoạt (tuệ) gọi là xong. Đầy đủ hạnh trong sạch, ý hết lậu gọi là cánh (xong). Nhập thẳng Niết-bàn, không trở lại ba cõi chịu khổ.
Giới tướng là gì? Trì giới cho đến chết, do vậy mà không có hối hận. Thân không tăng tội, vì không có hối hận, do vậy mà hoan hỷ, khiến đắc xứ hỷ, tướng vừa ý thành hỷ, khiến dẫn đến xứ ái, tướng vui đủ thành xứ.
"Túc" là đầy đủ.
Khiến dẫn đến có y xứ.
"Y", nương, nương ba mươi bảy phẩm.
Từ hành vi, đó là đắc y tướng, khiến dẫn đến xứ lạc, đã không có não là tướng an lạc, khiến từ đó dẫn đến xứ định.
"Dẫn đến xứ định" nghĩa là tại chỗ đắc định. Nói cách khác, diệt mọi ý ác, dẫn đến nơi mà ý thiện trước lấy.
Ý tùy theo đó khiến không quên, là tướng định.
Đạo lực chế phục được ý, khiến cho không quên.
Khiến như có chỗ tuệ không, hoặc như có sự tùy theo, đó là xứ tịch nhiên. Nếu biết phi thân đó là tướng tịch nhiên.
Đắc phi thân, niệm ý liền vắng lặng
Khiến từ đó dẫn đến chỗ xa nhau, không gần gũi là xa nhau.
Ý tịnh thì lìa xa với nhơ uế. Đức sâu dày không gần gũi với ác.
Từ đó mà giải thoát, đã là phi pháp hạnh, không chịu họa.
Nếu được bất thối chuyển và Thánh đạo thì không còn chịu họa cũ ở Thái sơn.
Đó là giải thoát tướng, khiến dẫn đến tuệ kiến giải thoát.
"Tuệ kiến cái thấy sáng suốt ở nơi bốn đế
Thành ra có bốn địa đạo đức. Thế nào là bốn? Là bốn hạnh, phước đó nếu như trí có biết.
Người thế gian chỉ biết sáu nhập, người tu đạo còn biết bốn ý chỉ.
Đó là kiến địa, là chứng đắc đạo tích.
"Đạo tích" là Tu-đà-hoàn.
Đó là đắc được phước của đạo, người đó nếu như có biết, đó là trừ bỏ ác.
"Như có biết", như sự hành biết ba mươi bảy phẩm, đã biết ba mươi bảy phẩm thì ý đó thanh tịnh liền ghét những thọ nhận của sáu tình lìa ba cõi.
Đó gọi là Bạc địa, vì phước có vãng lai.
"Vãng lai" là trú địa của Tư-đà-hàm. Ba độc mỏng ít, theo nghĩa của kinh An Ban.
Người đó vì ghét mà từ khước, thành ra không cầu.
"Ghét" là ghét thân nầy. "Không cầu", không cầu vinh hoa của thế gian.
Đó gọi là địa tương ly. Kia đã lìa xa nhau, đó là phước không trở lại.
"Không trở lại", A-na-hàm, sinh lên cõi trời, không trở lại nhân gian, gọi là Bất hoàn.
Đó là muốn thành tựu địa Vô sở trước. Hành giả phước nghĩa là gì?
Hỏi ý nghĩa như thế nào.
Đệ tử của đạo, có tám loại hạnh.
Bốn loại người kể trên, gieo đạo hạnh thanh tịnh, đều đắc nhập đạo hạnh.
Đó gọi là hành giả, vì là phước ấy, nên gọi là hành giả phước. Vì sao? Vì hạnh thanh tịnh thành tên, đó là phước thanh tịnh, đó là đạo đức. Có tám loại thanh tịnh đạo hạnh, vì phước ấy, nên gọi là phước thanh tịnh. Người đó đáng đắc đạo tích (Tu-đà-hoàn). Vì sao? Vì đã thực sự tương ưng với đạo.
Đã đắc đạo tích (Tu-đà-hoàn) là tương ưng với bốn đế.
Đệ tử liền dứt ba kiết phược, ba kiết phược đó là gì? Một là biết thân chẳng phải thân. Hai là không nghi. Ba là giới hạnh không mua bán.
Người trì giới để lấy tuệ, yên ổn ở trong định không còn vọng tưởng, cứu độ ba cõi, không lấy giới đó để mua bán trao đổi sự vinh dự vui sướng trên cõi trời.
Đã đoạn dứt ba kiết phược ấy liền rơi vào đạo tích (Tu-đà-hoàn), không còn đọa vào cõi ác, hoàn tất đạo phải bảy lần trên trời và nhân gian đã xong, tại chỗ vãng lai liền dứt khổ, từ khổ mà đắc giải.
Nghĩa là bậc Thánh bảy lần chết, bảy lần sanh mới đắc được ứng nghi.
Đó gọi là kiến địa, vì đắc phước đạo tích (Tu-đàhoàn phước).
Kiến địa là chỗ thấy rốt ráo ở nơi đạo.
Người đó vì sao khiến ý đọa vào thân đó và biết thân đó. Hỏi: Hành gì khiến tâm mê hoặc mà có thân, vì hữu sao? Đáp: Năm ấm làm mê hoặc.
Si là vì không học, vì người thế gian không gặp Phật, cũng không thọ nhận giáo giới từ những người có học, cũng vì người có học chưa phân biệt rõ chánh pháp, vì ý cho sắc ấy là thân, thấy khắp sắc là thân, sắc ấy cũng là thân, sắc cũng là thân ta, thống (thọ), tưởng, hành, thức, đã nói như trên. Đã đắc quán như vậy, liền thọ nhận năm lạc.
"Đắc quán" Nghĩa là người ngu tà kiến, do năm ấm làm thân, liền thích năm dục, cho là sướng. Kinh Liễu Bổn nói: "Vì ở trong nghi, nghi khiến phải như vậy". Phật nói vì si, là nghĩa đó.
Khiến phải chịu thân ấy.
Người ngu lấy năm lạc làm vinh, vui sướng khi nhận được thân, cứ như vậy xả bỏ thân rồi thọ nhận thân, luân chuyển và chịu khổ mãi Vì rơi vào thân.
"Đọa" là chìm, ý chìm ở tại thân.
Khiến ý cho ta là đây.
"Đây" là thân, ý nói những điều ta thấy thật là chân chính, đúng với chân lý.
Ta vì đó mà bị vướng mắc với nhau, không được tự tại, bị lôi kéo theo như vậy, mới có những sự nhẫn nhục.
Kẻ ngu tự cho ý chí mình là nhất, là đó nên bị trói buộc với đời, trôi theo dòng sanh tử, cam chịu tội lỗi chẳng biết nhục khổ.
Những thứ vừa ý, cho là có thể thọ nhận, đã thọ nhận rồi, kiến theo với hạnh.
"Những thứ vừa ý", những điều thích của tâm ngu, tìm kiếm rồi nhận lấy, tâm làm chủ muôn hạnh Đó là tà kiến, nhận lấy thân nầy.
"Tà kiến" thấy thân năm ấm, cho là ta.
Người đó vì thấy năm tà ấy khiến rơi vào nghi không có.
Nghĩa là, không có Phật, Pháp, Tăng, không có tội lỗi phước báo.
Năm tà kiến là gì? Nếu vì những sắc thành kiến, là thân như trên.
"Như trên" là đoạn trên đã nói về năm ấm.
Thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, đó là năm tà kiến khiến cho không có kiếp sau, mười lăm tâm còn lại rơi vào thường.
Không chỉ tưởng phi thường mà rơi vào tưởng thường.
Tà kiến như vậy, khi thân nầy đã dứt, liền cho sáu tà kiến đã xả bỏ.
Cho mình đã đắc đạo, năm ấm đã dứt, sáu mươi hai tà kiến liền diệt.
Không rơi vào chấp thường, phi thường, đã bỏ thường và phi thường, bèn nói "Đệ tử không có điên đảo, tà kiến, chỉ là độ thế".
Năm ấm diệt thì các niệm đều lặng hết, không có tưởng về phi thường và thường. Kinh Đại Minh Độ nói: Ngươi vô niệm, nay thấy Minh độ". Minh độ nghĩa là độ thế.
Trực kiến là gì? Khiến không rơi vào tà kiến về thân, nếu đệ tử tu đạo vì văn.
"Văn" đắc độ là nhờ được nghe học và hành theo ba mươi bảy đạo phẩm.
Nhờ trực kiến, thấy thông cả kinh gia.
Như Tôn giả A-nan thông mười hai bộ Kinh Phật.
Vì đã thọ nhận độ thế vô vi, vì đã hiểu pháp độ thế.
Hiểu ba mươi bảy phẩm, giải thoát khỏi pháp thế gian.
Không còn kiến, sắc nầy là thân, thấy khắp sắc là thân, sắc ấy cũng là thân sắc, sắc cũng là thân ta, thống (thọ), tưởng, hành, thức đã không thấy như vậy.
"Như vậy" như trên đã nói, cái hại của năm ấm được bốn ý chỉ, rồi thì năm ấm liền diệt, ba kiết dưới đây đều được giải.
Liền giải ba kiết sử.
Sử, khiến nhanh chóng thay, vô số.
Ba kiết sử gì? Một là không cho là thân. Hai là không giận dữ. Ba là không nghi. Đã như vậy, đệ tử tu đạo thành ra không có nghi.
Hết nhơ thì sáng tỏ, các nghi ngờ đều được giải.
Tại Phật cũng không nghi.
Tại Phật, Phật là đấng Chí Tôn, đã thành tựu vô lượng tịnh hạnh.
Đệ tử cũng không nghi, cho nên kệ nói:
"Đã không chốn lại, Đầu không nghi không chuyển" như nghĩa đó vậy.
Thành tín, thành hỷ, thành Phật. Như vậy, Như Lai Vô sở trước chánh giác tuệ hạnh đã đủ thành lạc.
Sanh tử không còn cảnh giới Niết-bàn hiển hiện. gọi đó là lạc.
Vì thế gian đã giải.
Ý nói, giáo hóa thế gian đã xong, cái đáng độ đã độ, không còn dư sót.
Không có lỗi, pháp nầy ngự pháp tùy, làm thầy.
"Ngự" là chỉ. Cho ở nơi pháp tùy pháp hành.
Làm giáo, trên trời dưới trời Phật là tối thượng, là đáng tín không nghi, vì theo pháp hạnh nầy là tại pháp, không nhơ không nghi, thành tín thành hỷ, Phật thuyết pháp nầy rõ ràng, có thể học, có thể dẫn đến.
Ý nói, có thể đến với đạo.
Rõ ràng tự thấy.
Vì các việc thiện ác Phật đều đã thấy, nên cũng dạy cho người thấy.
Đã giải, thành tuệ, vì những đói khát kề cận ấy đã dứt.
Tình người đói khát sáu món, người đạo hạnh đã dứt trừ chúng.
Tùy theo đã dứt.
Nghĩa là không tùy theo sáu tình.
Không, không nơi nào là không ứng hợp.
Tâm rỗng lặng, bên trong tịnh, thì tai họa không đến, cho nên nói: bất ưng, không ứng với tà. Đáng chịu không chịu, không chịu họa.
Ái đã hoại.
Hư hoại hết, ái dục đã hết.
Đã lìa đã hết.
Lìa ái tức hết sự mong muốn, không để tâm ở ba cõi. Đó gọi là định bất nguyện.
Là vô vi.
Cái mong cầu và không mong cầu đều tĩnh lặng, không có mong muốn nơi ba cõi. Kinh Pháp Kính nói: "Không có ý mong cầu ở Niết-bàn, huống nữa lại có nhọc tưởng thay" là chỉ cho vô vi.
Vì vậy không có kiết thứ hai.
Kiết thứ nhất là đói khát, thứ hai là cùng kéo dài, so ra kiết thứ hai là không có, không có kiết năm ấm, mười hai nhân duyên.
Không có nghi.
Nghĩa là, kiết đã giải thì không còn nghi ở chánh pháp.
Đắc pháp tùy pháp hạnh.
"Pháp" là pháp bốn ý chỉ. "Tùy" là tùy theo pháp mà hành Là đồng học tụ, vì khiến kiết không nghi, đã có thọ có hỷ. "Thọ", thọ nhận đạo phẩm đó.
Đệ tử đắc đạo, vì học mà tụ hội.
Tụ là hội, nghĩa là tụ hội với những người cùng chí hướng đều còn ở ba cõi muốn học để trở về với bổn vô.
Chánh thọ hạnh là như phải nên thọ. Giới đã được lập, định đã định, tuệ đã đắc, giải thoát đã thành, giải thoát tuệ đã hiện, đã đến.
"Chánh thọ hạnh" là giữ và làm theo những pháp chân chánh "Như" như thọ nhận những thứ tương ưng ở dưới, như giới, định, tuệ, giải thoát, độ tri kiến, hành giả chánh thọ.
Đó là hành giả đệ tử Phật, tụ thành bốn người, theo hàng bốn đôi, gọi là tám người đạo hạnh.
Bốn đôi tám người (Bốn hướng Bốn quả) là người đã đắc Hướng ứng nghi (A-la-hán) và đạo ứng nghi. Người đã đắc Hướng bất hoàn (A-na-hàm) và đạo bất hoàn, đã đắc Hướng Tần lai (Tư-đà-hàm) và đạo tần lai, đã đắc Hướng câu cảng (Tu-đà-hoàn) và đạo câu cảng, gọi là bốn đôi tám người (Bốn hướng Bốn quả).
Là sự tôn trọng của thế gian.
Nghĩa là, tám người đó là những người sáng suốt ở trong thế gian được tôn trọng kính yêu.
Là không có gì so được, đáng cúng dường, đáng thờ, đáng cung, là phước địa không lỗi, là sự tôn thờ của người và trời.
Tế thần để cầu phước, không bằng cúng dường tám
Thánh đó, phước ấy rất lớn Đó là thứ ba.
Thứ ba là Tần lai (A-na-hàm) Đã là pháp vô nghi.
An ban giải: Tần lai (A-na-hàm) ở trong dục quả, đã xả bốn điên đảo lớn, không còn dư sót lại nghi kiết.
Tùy pháp hành tất cả hạnh là khổ.
Ương họa hành là khổ. Làm những việc mà gieo mầm móng tai họa là khổ.
Đã không có nghi kiết, đã thọ đã hỷ, từ ái thành tập. Tin lời Phật thì kiết được giải, thọ nhận pháp hỷ, thích đó không thôi lâu ngày chất chứa thành tập. "Tập" đạo tập, đạo, đắc đạo.
Khổ cũng từ ái tập.
Khổ do ái dục sanh ra, không biết khổ đó là khổ, vì cái tập đó đã thành quen.
Đã không có nghi kiết, đã thọ, đã giải, đã hỷ, đã hết ái, đó là hết khổ, liền không nghi, không kiết, đã đắc thọ đó liền đắc hỷ, đã hết ái là hết khổ, không nghi, kiết, đã giải thọ liền đắc hỷ, làm thành tám loại đạo hạnh. Từ thọ hạnh đó khiến hết khổ, liền không nghi, không nghi thì không kiết lại, rơi vào giải đắc được hỷ, nếu vốn có nghi thì không giải, không hiểu ở Phật, không hiểu ở pháp, chỉ tụ ở các hạnh.
"Vốn" (bổn), kiếp trước, có nghi ở nơi Phật, Pháp, Tăng. Nay đều đã được lý giải, hiểu rõ, không còn nghi nữa.
Nếu vốn có nghi tại khổ, tại tập, tại tận, tại đạo.
Kiếp trước, hoặc có ý nghi tại bốn đế, nay đều đã được lý giải, hiểu rõ.
Thực hành những điều mê lầm, những điều không hiểu, để tâm theo với những điều nghi hoặc, là như vậy. Sang (mụt nhọt) là gì? Vì là đã giải, gốc đã đứt cây không còn đứng vững.
"Sang" là mụt nhọt, mụt nhọt là chỉ cho mầm móng của bệnh tật, nghi hoặc cũng như thế. Nghĩa là năm ấm sáu suy (trần), ba độc.
Kinh nói: "Sáu suy hướng đến, lại nhận lấy nó, liền bị ba trăm ổ trùng, nhưng người lại không biết, trong thân một người, đều có một ngàn tám trăm ổ trùng". Nghĩa là, mắt thọ nhận sắc, mệnh thân bị khổ, là tội của mắt, sáu tình (căn) đều như vậy, gốc của vô số năm ấm như vậy đã được giải mở, chặt đứt, thí như cây đã đổ, không còn dựng đứng nữa.
Đã tan không còn hiện lại nữa.
Năm ấm sáu suy đã tiêu tan, không còn hiện lại nữa.
Từ nay pháp ấy không còn sanh lại nữa.
"Pháp" năm ấm không còn sanh lại nữa.
Người đó hành trì giới chuyển thành buôn bán trao đổi vì hai thứ:
1. Vì rơi vào khát ái; 2. Vì không biết giữ gìn mà hành trì giới chuyển thành buôn bán trao đổi.
Phải lấy giới để hành đạo, mà chuyển ý trao đổi với cõi trời, vì vậy mà nói là: "Không hiểu sự giữ gìn". Kinh An Ban lại giải: "Chuyển giới bản nguyện, phải lấy giới để cầu đạo, lại mong cầu sự vinh lạc trên cõi trời". Đó gọi là chuyển giới. Vốn nguyện cầu đạo, mà thành phản đạo sao? Cái hạnh bất hoàn (A na hàm) không còn có nữa, cho nên nói là hết.
Vì ý nghĩ, từ chỗ thâu giữ giới hạnh ấy, từ đó đáng được làm cõi trời và hơn cả cõi trời, đáng được những ngọc nữ trên cõi trời, ngọc nữ đó tên là… ngọc nữ phải vì đó cùng vui sướng ở chung với nhau. Mong như vậy, được như vậy.
Được, được ngọc nữ trên trời cùng ở chung thọ vui.
Suy tư ý muốn gặp nhau như vậy, đó là khát ái, tuy hành trì giới mà thành ra mua bán, người đó vì không hiểu trì hành giới mà chuyển thành mua bán. Là vì sao? Người giới hạnh thành ra chuyển bán giới, chuyển bán vì những gì? Vì sanh khởi ý cho, từ giới đắc được tịnh, từ giới đắc giải thoát, từ giới đắc xuất yếu, vì khổ lạc đắc độ.
"Khổ lạc đắc độ" không còn khổ lạc vì tội phước.
Hoặc sanh khởi ý cho, từ nguyện đắc độ. Đó là không hiểu hành trì giới, chuyển thành bán buôn.
Đã hành giới thì phải chuyển lên thực hành ba mươi bảy phẩm, nhưng lại dừng hẳn sự cầu mong độ thoát thế gian của giới nguyện vì vậy nói là "không hiểu".
Nhân duyên gì làm cho không hiểu chuyển thành bán buôn? Ý sanh ra từ bị phục.
"Bị phục", ba pháp y của Tỳ kheo.
Thuyết khác nói, là y phục trên cõi trời.
Và từ mong cầu được độ thoát thế gian, được khước lìa khổ lạc.
Từ khước, xa lìa khổ và vui.
Vì từ hai nghiệp bị phục và nguyện làm khuôn mẫu đó. Khuôn mẫu là gì? Vì kế chấp vào hai giới bị phục và nguyện ý đó, cho từ ấy được giải thoát, từ ấy được xuất yếu, từ ấy được vượt qua khổ lạc, từ khổ lạc ấy đắc được vô vi, từ kế chấp bất chính pháp đó.
"Kế chấp Bất chính" là cho tà chính.
Không từ đó được giải thoát, mà ý lại cho từ đó được giải thoát, bất chánh lại cho là chánh, theo với hạnh ấy mà có như vậy.
Theo với các hạnh trên, như vậy liền có sanh tử.
Nhẫn, đúng với ý mong, kiết thành kiến.
"Nhẫn", "sanh tử", "ý", ý thích sự sung sướng cõi trời như vậy thành kiết kiến, chẳng phải chân kiến.
Là từ đó làm hiểu.
Từ thấy hợp với sự mong muốn vọng tưởng cho là đã hiểu
Đó là không hiểu trì giới chuyển bán buôn, đó là hai kiết, đệ tử đắc đạo đã xả bỏ.
Ý nói, người đã đắc, xả bỏ những hạnh bán buôn.
Thành không có, gốc đã dứt.
Không còn gốc giới nguyện nữa.
Cây đã nhổ, không còn hiện lại nữa, sau nầy không còn sanh lại pháp ấy nữa liền đã thành tịnh giới. Nếu đắc đạo thì giới tùy hạnh nhưng không bị phá.
Người đã đắc đạo, gọi là trì giới không phá bỏ thiếu sót.
Không bị xuyên thủng.
"Thủng" là rò rỉ, nghĩa là mình đã có đủ ba mươi bảy phẩm hạnh đó không bị rõ rỉ. Kinh An Ban giải "Tinh tấn tại hạnh, đầu đuôi cùng liền, tà niệm không thể nhập vào giữa đó, gọi là không rò rỉ" là ý đó.
Không mất mát, không hối hận, chỉ có tăng như tuệ là đúng.
Ý nói, tuệ thì được.
Không gì có thể đoạt được.
Nghĩa là, hành như pháp, không có gì có thể đoạt mất chí đó.
Là được từ ấy đưa đến định. Đó là ba sự trói buộc, đệ tử tu đạo đã chặt đứt, theo với đạo tích không còn bị rơi vào pháp ác, tất độ thoát thế gian sau khi đã hoàn tất kỳ hạn bảy lần vãng lai trên cõi trời và trong loài người. Nghĩa là, câu cảng (Tu-đà-hoàn) bảy lần sanh, bảy lần chết. Vãng lai nơi cõi trời, cõi người, bảy lần như vậy mới đắc ứng nghi (A la hán) hoàn tất thời gian vãng lai sanh tử.
Liền được ra khỏi khổ.
"Xuất khổ" ra khỏi ba cõi, lìa các khổ.
Có bốn tương ưng. bốn tương ưng là gì? Một là đã lý giải tương ưng.
Đã giải khổ, ý nói, câu cảng (Dự lưu) đã đắc đạo.
Hai là đã đoạn xả tương ưng. Ba là tự chứng tương ưng. Nghĩa là bất hoàn (không trở lại), ý nói khổ đã hết, đã dứt. Bốn là tăng đầy tương ưng.
Nghĩa là hạnh ứng nghi (hạnh A-la-hán) đã đầy đủ. Đệ tử đạo đức đó từ khổ thành là đã lý giải tương ưng. Từ khổ đã giải là ưng giải khổ đế.
Từ tập thành là đã đoạn xả tương ưng, từ tận thành là tự chứng tương ưng.
"Tận, tự chứng" là chứng năm ấm, sáu suy, mười hai hai nhân duyên đã dứt tận.
Từ đạo thành là tăng tương ưng, ấy là chỉ quán đều tùy hành.
Nghĩa là, bốn đế chỉ quán, tất cả đều cùng hành.
Một xứ, một thời, một ý.
"Xứ", lặng sáng, không có ý.
Xưa nay vốn có cái ấy, có ý, khiến làm thành bốn sự. Bốn sự gì? Một là khổ, từ khổ đã lý giải làm cho tương ưng với khổ. Hai là tập, từ tập đã đoạn xả làm cho tương ưng với tập. Ba là tận, từ tận tự chứng làm cho tương ưng với tận. Bốn là đạo, từ đạo tăng đầy khiến cho tương ưng với đạo. Vì sao? Từ khổ đã lý giải mà tương ưng. Vì sao? Từ tập đã đoạn xả mà tương ưng. Vì sao? Từ tận đã tự chứng mà tương ưng. Vì sao? Từ đạo đã tăng đầy mà tương ưng.
Nghĩa là, thuyết hết bốn đế rồi, mãn tương ưng.
Là có thí dụ, như bọt trôi trong nước.
Nước nâng đỡ bọt khiến độ.
Từ đầu chí cuối là có bốn hạnh, từ bờ bên nầy, dẫn qua bờ bên kia, qua xong, dứt mạch.
"Dứt mạch", dứt mạch nước.
Ấy cũng như vậy, đôi chỉ, quán đều cùng hành. Một xứ, một thời, một ý, từ đầu chí cuối.
Nghĩa là, người tu hành lấy hai thanh kiếm chỉ, quán, chặt đứt mạch mười hai nhân duyên, cùng ngăn dòng lấy đạo. "Một xứ" là Niết-bàn, một thời một ý cũng như vậy. Làm thành bốn sự. Thí như mặt trời mọc lên cho đến cùng, làm bốn việc, làm cho sáng, phá tan bóng tối, hiện rõ sắc màu, hiện rõ xong.
Bốn việc nầy là dụ cho bốn đế, nghĩa giống với An ban.
Thí như đưa thuyền, xả bỏ bờ bên nầy, đưa qua bờ bên kia.
Nghĩa là, hạnh Bồ-tát làm như người đưa thuyền, đưa người và vật qua bờ bên kia, sự cứu độ của Bồ-tát cũng như vậy.
Đưa vật, dứt mạch, chỉ quán cũng như vậy, phát hành song đôi.
"Phát hành" đều hành.
Là một xứ, một thời, một ý. Từ đấu chí cuối là làm bốn sự, để lý giải khổ, như ưng tương ứng là đoạn tập, như ứng tương ưng là tận, tự chứng, như ưng giải tương ưng là hành đạo yếu, như ưng tương ưng. Vì sao? Vì khổ từ cánh giải tương ưng, tập từ đoạn giải tương ưng, tận từ tự chứng giải tương ưng, đạo từ hành yếu giải tương ưng. Chỉ quán cũng như vậy, là một đôi cùng liền nhau mà hành, một xứ, một thời, một ý. Từ đầu chí cuối là thực hành xong bốn việc, là khổ cánh, là tập đoạn, là tận tự chứng, là hành đạo mãn.
Thí như thắp đèn sáp, từ đầu chí cuối là làm bốn việc: Là làm sáng, là xua tối, là hiện rõ sắc màu, là từ khước nghi.
"Dứt trừ" tiêu tan, ý nói, tiêu tan sự nghi ngờ không hiểu, lửa có thể làm tiêu tan cái đó.
Chỉ quán cũng như vậy, là làm bốn việc, là biết khổ, là dứt tập. Đã đắc ba mươi bảy phẩm, là biết không còn thọ nhận đấy nữa. Là tận tự chứng, là hành đạo mãn.
Thí như thắp đèn, từ đầu chí cuối có bốn nghĩa, là hiện sáng, là xua tan bóng tối, là hiện rõ sắc màu, là hết bấc dầu.
Chỉ quán cũng như vậy.
Bệnh của đời, chỉ khổ và tập, cái vui của đạo, là chỉ và quán, như thắp đèn dầu, cho đến hết dầu.
Hành theo đôi. Một xứ, một thời, một ý, chỉ đến cùng là làm bốn sự, là biết khổ, tương ưng với khổ, là đoạn tập, tương ưng với tập, là tận tự chứng, tương ưng với tận. Là hành đạo mãn, tương ưng với đạo. Vì sao? Vì biết khổ, tương ưng với khổ. Vì sao? Vì đoạn tập, tương ưng với tập. Vì sao? Vì tận tự chứng, tương ưng với tận. Vì sao? Vì hành đạo mãn, tương ưng với đạo.
Nên làm theo pháp nào? Là theo chỉ quán, nên làm những gì? Nên trì như thế nào? Ý buộc quán đã xong, ý buộc quán, liền thấy năm ấm khổ. Nơi mà ý buộc, đó là chỉ, đã thấy năm ấm là khổ, đó là quán.
Đoạn trên là phân biệt sự thành hoại của tứ đế.
Nơi đó là kề cận với năm ấm.
Năm ấm cùng nương kề với sáu tình (căn).
Có thể phát đi dục trước, mong được cùng đi, không xả chỗ tập, là đã đoạn, đã tận. Chỉ quán đạo cũng như vậy, khiến đạo đức tứ đế ấy. Một xứ, một thời, một ý, từ đầu chí cuối là khiến tương ưng với tứ đế. Như vậy, đệ tử đạo đức đã làm pháp ấy rồi, tương ưng với pháp, đó gọi là kiến địa.
Thấy đạo tích (dấu vết của đạo).
Đã đắc được đạo mạch, đến trú nơi đạo tích, làm lại chỉ quán.
Lại quán lần nữa, tăng thêm thực hành chỉ.
Khiến lại trừ bỏ thêm lần nữa những trói buộc sai khiến do dục sân, làm cho ái dục hết chỗ sai khiến.
Đệ tử đắc đạo, nhờ hạnh ấy đủ, đã từ vãng lai, liền hủy hoại gốc khổ, đó là Bạc địa. Đã xong phước vãng lai, đã đến đắc được chỉ tại đức.
Chỉ ở tại đạo đức.
Lại tăng thêm chỉ quán khiến xả bỏ hết những kiết sử của ái dục sân, dục giận dữ chưa xả hết.
"Chưa xả hết" vì kiết sử động, liền trở lại nhập vào trong sự u tối của năm ấm.
Làm hết sử kết, đã hết, là đệ tử đắc đạo, liền giải năm kết dưới, đã hết. năm kết dưới là những gì? Một là thấy thân là vô ngã. Hai là giải nghi. Ba là không mê lầm, không bán giới. Bốn là không mong. Năm là không giận (nhuế). Đó là năm kiết đã hết. Đệ tử đắc đạo, không còn trở lại thế gian, đệ tử đó đã độ thế, không còn trở lại thế gian nầy nữa. Đó gọi là khước địa, đã đạt đến phước chỉ bất hoàn.
"Khước địa" là từ khước các địa ác.
"Bất hoàn" nghĩa là người đó đắc đạo, không còn trở lại thế gian để chịu thân khổ nữa.
Lại tăng thêm cánh cho chỉ quán khiến làm sự giải bỏ cho năm kiết trên. năm kết trên là những gì? Một là sắc dục. Hai là Bất dục sắc. Ba là si. Bốn là không muốn. Năm là bất giải.
Đã đủ năm hạnh trên, là đã xả bỏ năm kết, liền vô sở trước, đã độ thể vô hữu lậu, đã xong, từ chánh đắc giải thoát, đó là Tất địa.
Ý nói: Ứng nghi (A-la-hán) xử đời như hư không cho nên nói:
"Vô sở trước". năm kiết trên đều đã tiêu, nên nói "Giải thoát hết".
Vô sở trước còn có diệu vô vi, xả bỏ hết rồi. Mệnh căn thế gian hết, khổ thế gian cũng hết, không còn nỗi khổ sanh trở lại nữa, vì người đó đã hết ấm trì nhập. Tịch nhiên không có ấm trì nhập, không còn liền nhau nữa, không phát lại.
Trên kinh nầy đã giải thích, "không còn liền nhau nữa" nghĩa là tuyệt với năm ấm, sáu nhập. "Không phát lại", không phát khởi lại năm ấm sáu nhập, đó là tịch nhiên, cho nên gọi là "bất phục phát".
Đó gọi là đã xong vô vi, là đã thuyết về chỗ tương ưng với đế, và thuyết vì tương ưng với phận.
"Phận" là bộ phận nơi tứ đế.
Và thuyết về địa.
Bốn tiên là địa.
Và thuyết phước, thuyết đoạn.
Đoạn các ác.
Thuyết tội, thuyết lìa, thuyết hai vô vi, là tất cả như vậy thuyết, đức Phật đã độ thế rồi, nếu người muốn độ thế phải thực hành điều ấy.
Chín chánh định thứ đệ tư duy gồm những gì? Là tứ thiền, tứ định vô sắc và định dĩ tận tất, là chín định thứ đệ.
Thiền thứ nhất, đã xả bỏ năm loại, theo năm loại chánh. Đã xả năm loại là những gì? Là năm cái. 1. Ái dục. 2. Sân giận. ba. Thùy miên. bốn. Bất liễu hối (trạo hối). năm. Là nghi (nghi pháp). Đó là năm loại. Thiền trên đã xả cái ái dục ấy là những gì? Ái vướng năm dục lạc, bị cuốn hút theo những điều mong cầu, không xả bỏ được, gọi là ái dục cái. Sân hận cái là gì? Phát ra tướng não, giận dữ những pháp trái tình, gọi là sân nhuế cái. Thùy miên cái là gì? Thùy là thân ngừng, là ý ngừng, làm thân ngừng, làm ý dừng.
Nghĩa là thân, ý ngừng, không còn theo, là năm cái (ngăn che).
Làm thân si, làm ý si, làm thân nặng nề, làm ý nặng nề, làm thân không tiện, làm ý không tiện, làm thân không sai khiến, làm ý không sai khiến, đó là thùy minh. Vì sao? Vì ý theo nhau khiến cho minh động theo với nhau.
Chưa xả xong, vì kết sử nặng nề, cùng nhau động khiến thành vô minh.
Khiến không làm việc, đó là minh. Đầu tiên vì thùy (ngủ nghĩ sau thành ra minh (tối), cộng lại thành cái thùy minh.
"Cái" vì mô mạc che mắt, khiến mắt không thấy nên gọi là cái.
Cái không liễu hối là gì? Vì thân không dừng lại ở hối hận. Vì sao? Vì nghĩ đúng, chẳng có gì đáng hối hận, đó là ban đầu vì không hiểu, sau thành ra hối, cộng lại gọi là cái không liễu hối.
Cái Nghi là gì? Nếu không tin Phật, không tin Pháp, không tin hành giả tụ.
"Hành giả tụ" là Tỳ kheo tăng.
Không hiểu khổ tập tận đạo, tỷ kiết sử.
"Tỷ" số có kiết sử, "tỷ" cũng là thứ bậc.
Và phát khởi theo, đó gọi là nghi cái, cũng có năm nghi, có quận huyện nghi.
Quận huyện nhiều người, thuyết đạo khác nhau, ý hành giả nghi.
Có nghi phát giáo, có nghi đạo phân biệt.
Lời dạy khác nhau, cho nên nghi.
Có nghi dục hạnh định, có nghi đắc đạo phước. Như vậy đó là nói về định nghi, đó là năm cái.