TẠNG LUẬN
SỐ 1695 - THUẬT TÁN VỀ PHẦN LÝ THÚ BÁT NHÃ CỦA KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Sa môn Cơ ở Chùa Đại Từ Ân soạn
I. NÓI VỀ LỜI TỰA TÔNG CHỈ CỦA KINH
III. LÀM SÁNG TỎ THẮNG ĐỨC CỦA KINH
Cúi lạy lìa tướng tính Lời tâm vốn rỗng lặng
Thường trú Tam Bảo chân Và giáo tôn chính con Pháp sâu thẳm lý thú
Con chẳng giải thích được Nay nương trí huệ Phật
Sức gia trì nên nói
Quyển thứ tám mươi hai luận Du Già nói:
Các Sư thuyết pháp Sắp muốn mở bày Trước phải khen Phật Hoặc lược hoặc rộng
Từ năm loại tướng mà lược tán Đức Phật:
Một là Diệu sắc Đủ ba mươi hai
Tướng đại trượng phu Viên mãn trang nghiêm Tám mươi vẻ đẹp Trang sức cơ thể
Ánh sáng chiếu rọi Như núi vàng lớn. Hai là yên tỉnh Đoan nghiêm thù diệu Các căn nhàn rỗi Tâm đó an nhiên
Đã khéo đắc được Điều thuận trên hết Rốt ráo lặng dừng Đã khéo đến được Bậc nhất điều thuận Lặng dừng bờ kia Khéo léo mật hộ Hàng phục các căn Là rồng trượng phu Không còn lầm lẫn
Ngưu vương trượng phu Nên ngự đại chúng Ngựa lành trượng phu Tâm điều thiện vậy Sạch sẽ không gợn
Như hồ suối trong Là vĩnh viễn nhổ Tập khí phiền não Ba là thắng trí
Là ở ba đời
Chẳng phải pháp thế Không ngại không mắc Bốn là chánh hạnh Sáu độ bốn nhiếp Hành lợi mình người Thảy đều viên mãn Năm là oai đức
Của các Như Lai Thần thông diệu dụng Oai đức lẫy lừng!
Lại có sáu khen ngợi: Công đức tràn đầy Xa lìa nhiễm ố Không có uế trược Không gì so sánh Duy lợi hữu tình
Lấy đó làm nghiệp Có sức kham nổi Với nghiệp dụng này.
Tán thán rộng thì vô biên nhưng cũng đều nói như thế.
Đã tán thán Phật rồi và phải thành tựu mười pháp mới gọi là thầy nói pháp. Mười pháp đó là:
1. Giỏi về nghĩa pháp: là phải khéo hiểu được sáu pháp mười nghĩa.
2. Có thể giảng rộng ra: nghĩa là nghe học nhiều, nhớ kỹ, sự học nghe đó phải được tích tập.
3. Có đầy đủ sự vô úy; tức không sợ hãi, khi tuyên thuyết chánh pháp phải là người hơn hết trong đại chúng; tiếng không khàn, nách không chảy mồ hôi, niệm không quên mất.
4. Ngôn từ khéo hay, lời nói tròn đầy. Thành tựu tám chi, dùng từ đầy đủ, ở chúng thuyết pháp.
5. Khéo léo tìm cách nói: Dùng hai mươi loại phương tiện thiện xảo để tuyên thuyết chánh pháp, như dùng thời, ân, trọng...
6. Thành tựu đầy đủ việc pháp tùy pháp hành. Không xem sự học hỏi là mục đích cuối cùng, mà phải thực hành những điều đã học hỏi được.
7. Oai nghi đầy đủ: nghĩa là khi thuyết pháp, không động chân múa tay, đầu không lắc lư, mặt không đổi sắc, mũi không đổi khác, đi đứng qua lại, thể thái oai nghi.
8. Dũng mãnh tinh tiến; là thường thích học hỏi, theo những pháp chưa nghe, khi đã nghe xong, chuyển khiến cho thông tỏ; không bỏ Du già, không xả bỏ tác ý, tâm không xả lìa nội xa-ma-tha.
9. Không biểu hiện mệt mỏi: Phải vì tứ chúng rộng nói Diệu pháp, thân tâm không mệt mỏi.
10. Đầy đủ nhẫn lực: Nếu có ai chửi mắng, trách cứ. Quyết không trả đũa; nếu bị khinh thường, không sanh tức giận...
Về người nghe pháp: Khi tổ chức thuyết chánh pháp, thầy thuyết pháp phải sắp xếp chỗ ở cho họ, khiến họ trụ tâm cung kính, không đảo ngược sự nghe học.
Nghĩa là do từ một hoặc cho đến mười nguyên nhân:
1. Cung kính nghe pháp: Trước mắt có thể chứng được lợi ích an vui. Ở đây có bốn trường hợp, như được thuyết trong pháp xứ của Bồ-tát địa.
2. Khéo kiến lập tất cả pháp xa lìa các lỗi lầm, có đủ nghĩa lớn.
-Người nói người nghe, đều có thắng quả.
3. Vì có thể khiến chúng sanh xả bỏ nẻo ác; đắc được nẻo thiện.
-Có thể mau chóng nhiếp dẫn vào nhân của Niếtbàn.
Ba việc như trên phải từ sự cung kính nghe pháp mới đắc được.
4. Vì có thể thông qua đó mà thấu đạt kinh điển.
- Chánh pháp như vậy, có thể khiến chúng sanh xả bỏ các điều bất thiện, nhiếp thọ các điều thiện. Nếu có người khéo nghe, thì có thể thọ xả.
- Do có sự xả thọ mà xả lìa được các nổi khổ sau này phải chịu do nhân ác hiện nay.
- Mau chóng chứng được Niết-bàn.
5. Là:
- Ta nay sẽ nghe những pháp chưa được nghe.
- Nghe xong nghiên cứu.
- Sẽ chặt đứt lưới nghi.
- Vứt bỏ các kiến.
- Ta phải nhờ tuệ để thông hiểu tất cả các nghĩa sâu thẳm.
Năm điều trên biểu hiện ba Tuệ. Hai điều đầu biểu hiện cho Văn; hai điều tiếp theo là Tư; điều sau cùng là Tu.
6. Là:
- Vì muốn kính báo ân ơn đức của đại sư. Nghĩa là: Phật vì ta mà thực hành vô lượng khổ hạnh khó hành mới cầu được pháp, bây giờ sao ta lại không nghe!
- Quán xét nghĩa, lợi mình.
- Là cứu cánh để có thể lìa tất cả phiền não.
- Khéo thuận chánh nghi.
- Dễ hiểu dễ thấy.
- Những người thông tuệ biết được nhờ nội chứng.
7. Là: Ta phải tập bảy loại chánh pháp; biết pháp biết nghĩa, và rộng thuyết cho có trên dưới những sai biệt của các pháp.
8. Là:
- Vì pháp Phật dễ đắc, ngay đến Chiên-đà-la mà Phật cũng khai thị chỉ bày.
- Vì dễ học; đi, đứng, ngồi, nằm, đều tu được.
- Có thể dẫn dắt phát sinh quả tăng thượng, quyết định thắng quả.
- Sơ thiện.
- Trung thiện.
- Hậu thiện.
- Cảm hiện lạc quả (cảm được niềm vui kiếp này).
- Dẫn đến niềm vui kiếp sau.
9. Là: Có thể giải thoát khỏi chín loại bức ép ở thế gian:
- Có thể ra khỏi nhà tù lớn sinh tử.
- Chặt đứt mãi mãi sự trói buộc tù túng của tham vọng.
- Vứt bỏ bảy tài bần; dựng xây bảy tài phú.
- Siêu độ thiện hạnh, nghe chánh pháp kiệm (cần kiệm) dựng xây thiện hạnh, nghe chánh pháp phong (vượng thịnh, to lớn).
- Diệt bóng tối vô minh, khởi ánh sáng trí huệ.
- Vượt qua bốn dòng nước xiết, tiến lên bờ Niết-bàn.
- Chữa trị rốt ráo bệnh phiền não.
- Giải thoát tất cả lưới tham ái.
- Có thể đi qua được rừng thâm u bát ngát sinh tử từ vô thủy.
10. Là: cung kính nghe pháp đắc được sức tư trạch, nhờ đó nhận được lợi lạc lớn khi nghe pháp.
Tóm lại: Như pháp cầu tài, không cầu phi pháp. Nghe pháp sẽ thấy được sâu xa những lỗi lầm tai họa mà biết cách thọ dụng; cho đến lý do thứ mười là có thể dẫn dắt tất cả thế gian, xuất thế gian tới chỗ tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí…. nói chi tiết như kinh trên.
Với người nói pháp cũng như người nghe pháp trước hết phải trụ thượng pháp mới có thế nói và nghe. Nếu không trụ như thế thì uổng công vô ích, cuối cùng cũng không có thành quả lớn.
Lược nói về Tán kinh văn, sẽ dựa theo bốn phần để giải thích.
1. Lời tựa tông chỉ của kinh.
2. Thể tính của kinh
3. Làm rõ thắng đức của kinh
4. Giải thích bổn văn kinh
Khoảng chín trăm năm, sau khi Đức Phật diệt độ, có một Đại sĩ ứng chơn tên là Thanh Biện. Thân tuy là thầy số Luận nhưng chẳng dính mắc vào băng đảng như hàng ngoại đạo; tâm ở nơi chân lý Thích Ca; tính chí không nghiêng lệch. Người thời ấy gọi ông là Bồ-tát Diệu Cát Tường, thánh đức thần thông của ông, nhiều không kể xiết. Ông viết cuốn "Chưởng trân luận" có ý nói: "Phàm cảnh biết được, gồm có hai loại: Một là hữu vi, hai là vô vi. Vì những người ngu, hiểu biết không đúng đắn rốt ráo về lý của thắng nghĩa đế, tính của hữu vi vô vi, chẳng khác nhau; vọng chấp, cho rằng tự tính của các pháp là khác nhau, làm tăng thêm hàng loạt mạng lưới tà kiến". Ví như ở đời, nếu có một họa sĩ không có trí, vẽ ra hình con ma Dược nhẫn dễ sợ hoặc hình cô gái, kẻ mắt lòa ý loạn thì cho là thật có; vì chấp thật có nên sợ hãi; hoặc sanh tham nhiễm với cảnh giới kia mà sinh nhiều tính toán, tăng trưởng thêm mạng lưới phân biệt các kiến. Nếu hiểu biết thật sự chân lý thắng nghĩa, hữu vi và vô vi không có tính điên đảo. Lúc bấy giờ, nếu đời có một họa sĩ trí huệ, không chấp đó là tự tính chân thật, cũng chẳng như người họa sĩ kia cho, cảnh giới hữu vi vô vi là sai khác, tự trói buột mình như tằm ở trong kén. Vì điều kia chẳng có, cho nên huệ vô phân biệt, thú nhập hạnh thành, rồi chứng trí vô phân biệt xuất thế gian. Cần phải tích chứa mới có thể làm hư hoại tất cả màng mắt tà kiến. Vô đảo quán không mà an lập vị thuốc Thiền na cứ! Như vậy mà tích tập vô đảo quán không; muốn có tự tĩnh văn tuệ để trừ tất cả sở duyên thì cần phải nghe kinh thâm sâu Bát-nhã này; nương vào những điều được nói ra đây làm tông chỉ. Về mặt chân tính, thì hữu vi là không, như huyễn vì là duyên sinh; vô vi là không có thật, không khởi, tựa như hoa đến trong không trung; trong đó, thế tục còn có một ít, nếu dựa vào thắng nghĩa, thì tất cả đều không. Thí dụ về sự sợ hãi và tham nhiễm của họa sĩ có trí và không trí là dụ cho Phật, Bồ-tát và tất cả phàm phu. Nghiệp là do mình tự chiêu cảm mà lại sinh ra thương ghét; kẻ trí biết tranh vẽ đều ở bình đẳng, không sinh sợ hãi, dính mắc!. Bài tụng Trung Biên ngài Di Lặc có nói:
Hư vọng phân biệt có Ở đây hai đều không Trong đấy chỉ có không Ở kia cũng có đây
Cho nên nói: Tất cả pháp chẳng không, chẳng bất không. Vì có vô mới có hữu, đó chính là khế hợp trung đạo. Ở đây lấy "Vô sở chấp hữu vi vô vi" làm tông chỉ.
Có năm loại Bát-nhã: 1. Thật tướng; 2. Quán chiếu; 3. Văn tự; 4. Cảnh giới; đó là chân đế, và tục đế; 5. Quyến thuộc; đó là tất cả phước trí, như đã nói trong phần mở đề.
Thể kinh gồm có: Văn và Nghĩa.
- Văn tự là văn; bốn loại còn lại là nghĩa.
- Thật tướng là tính của Bát-nhã.
Quán chiếu là tướng của Bát-nhã Văn tự là nhân của Bát-nhã Cảnh giới là cảnh của Bát-nhã Quyến thuộc là bạn của Bát-nhã
Cho nên năm loại đó đều gọi là Bát-nhã. Thầy Long Mãnh giải thích: "Với thắng nghĩa đế thì tất cả đều không". Giáo đã không có giáo, không có gì là không giáo, thể cũng không có thể, không có gì là không thể. Ở trong tục đế cũng có thể nói có. Câu, lời, chương luận, tiếng là giáo thể. Rộng nói như trong cuốn Bát-nhã đăng của ngài Thanh Biện. Thầy Hộ Pháp giải thích "Giáo thể có bốn:
1. Nhiếp tướng quy tính thể: Bát-nhã luận nói: "ứng hóa chẳng chơn thật, Phật cũng chẳng thuyết pháp". Thuyết pháp cũng không hai, lấy vô thuyết lìa tướng của lời nói. Phần sau của kinh này nói: "Vì tất cả hữu tình và pháp đều chính là chơn như". Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu xa cũng tức là chơn như. Ngài Vô Cấu nói rằng: "Lìa tính văn tự, không có văn tự, đó chính là giải thoát". Tướng của giải thoát chính là các pháp; vả lại; "Tất cả pháp cũng là như". Cho nên biết rằng thể tánh của Tánh Giáo tức là chơn như.
2. Nhiếp dư quy thức thể: (thu nhiếp những thức dư sót quay về với thể của thức) kinh Thập Địa nói: "Tam giới duy tâm, nhị thập duy thức ngôn", nghĩa là: Thức dư sót tương tục khác nhau, khiến cho thức sai biệt dư sót tương tục sinh ra, rồi lần lượt cùng nhau làm duyên tăng thượng; cho nên tâm của người nói và người nghe là Thể của giáo.
3. Nhiếp giả tùy thật thể: Luận Đối pháp nói: "Thành sở dẫn thanh là chư thánh sở thuyết" nên biết chỉ lấy âm thanh làm thể của giáo. Đó là gồm thâu những tên giả tùy thuộc theo âm thanh tiếng nói thật.
Tướng dụng biết luận thể: Người thuyết pháp, lấy âm thanh, tên gọi câu văn đã được hiện ở trên thức, làm giáo thể, lấy giả và thật làm giáo thể.
Luận Thập Địa có nói: "Người nói và người nghe đều dùng hai thứ mà được sự rốt ráo: Một là âm thanh tiếng nói; Hai là chữ". Hiện ra là do sức huân tập, sức biến hóa của duy thức; nó tụ tập ở trên tâm thức của người nói pháp, như đã nói riêng ở phần khác; ở đây không cần nói thêm.
Kinh này gọi tắt là: Bát-nhã lý thú. Gọi đúng nghĩa còn có mười bốn tên khác như sau:
1. Nhất thiết pháp thậm thâm, vi diệu thanh tịnh pháp môn. Xong, tin tưởng, thọ nhận thì đắc được tám thắng quả:
- Thậm chí vừa ngồi vào tòa Diệu Bồ-đề, thì tất cả các cái, các chướng đều không thể nhiễm. Nghĩa là phiền não chướng, nghiệp chướng, pháp chướng tuy tích tập nhiều nhưng không thể nhiễm.
- Tuy đã tạo nhiều thứ ác nghiệp nặng, nhưng vẫn dễ dàng tiêu diệt.
- Không đọa ác thú.
- Nếu luôn thọ trì, hàng ngày đọc tụng, siêng năng không ngừng; như lý mà suy nghĩ thì người đó, trong kiếp này, chắc chắn đắc được Nhất thiết pháp bình đẳng tính kim cang đẳng trì.
- Được tự tại ở tất cả các pháp.
- Thường thọ nhận tất cả niềm vui diệu thắng.
- Sẽ trải qua mười sáu đời đại Bồ-tát, nhất định đắc Như Lai chấp kim cang tính.
- Mau chóng chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
2. Tịch tĩnh pháp tính hiện đẳng giác môn:
Nếu có người nghe rồi, tin, hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, thì sẽ đắc hai thắng quả:
- Suốt cho đến lúc ngồi tòa Diệu Bồ-đề, tuy tạo tất cả ác nghiệp nặng, vẫn có thể vượt khỏi tất cả ác thú.
- Mau chóng chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
3. Điều phục chúng ác phổ thắng pháp môn:
Nếu có người nghe rồi, tin, hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, thì sẽ đắc được bốn thắng quả:
- Giả sử giết hại tất cả hữu tình trong ba cõi, nhưng không vì lý do đó mà đọa vào địa ngục, bàng sinh, quỷ giới; vì ác có thể điều phục tất cả ác nghiệp phiền não và tùy phiền não.
- Thường được sinh ở nẻo thiện, được niềm vui thắng diệu.
- Tu hành các hạnh của đại Bồ-tát.
- Mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
4. Bình đẳng trí ấn thanh tịnh pháp môn:
Nếu có người nghe rồi, tin, hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập, thì người đó đắc ba thắng quả:
- Tuy ở trong tham, sân, si; khách trần phiền não nhơ nhớp tích tụ, mà vẫn như hoa sen, không bị nhiễm bởi khách trần nhơ nhớp và những lỗi lầm.
- Thường tu tập được thắng hạnh của Bồ-tát.
- Mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
5. Quán đỉnh pháp môn đắc hai thắng quả.
6. Như Lai trí ấn kim cang pháp môn, đắc năm thắng quả.
7. Ly chư hí luận Luân tự pháp môn đắc hai thắng quả.
8. Nhập Quảng đại luân bình đẳng tính pháp môn; đắc hai thắng quả.
9. Chân tịnh cúng dường vô thượng pháp môn; đắc hai thắng quả.
10. Năng thiện điều phục trí tàng pháp môn; đắc sáu loại quả.
11. Tính bình đẳng, tính tối thắng pháp môn; đắc ba thắng quả.
12. Nhất thiết hữu tình trú trì biến mãn thắng tạng pháp môn; đắc hai thắng quả.
13. Vô biên vô tế cứu cánh lý thú kim cang pháp môn; đắc ba thắng quả.
14. Thậm thâm lý thú tối thắng pháp môn.
Người thọ trì sẽ có được mười tám thắng đức: 1. Diệt tất cả chướng.
2. Thành tựu theo tâm mình muốn. 3. Là mẹ chư Phật. 4. Người hay trì tụng diệt được tất cả tội. 5. Thường gặp chư Phật. 6. Đắc trí túc trí. 7. Nếu loài hữu tình, chưa trồng thiện căn, ở chỗ Phật; phát nguyện đã lâu mà với pháp môn tối thắng là Bát-nhã Ba-la-mật đa lý thú sâu xa, lại chưa được giảng nghe, sao chép, đọc tụng, thọ trì, cung kính cúng dường, tư duy tu tập... thì phải ở nhiều chỗ Phật, trồng các giống Bồ-đề, phát đại nguyện lâu dài, mới có thể được nghe một câu một chữ cũng pháp môn tối thắng lý thú sâu xa này huống nữa là đủ, đọc tụng, thọ trì, trọn cả kinh này!; 8. Nếu các hữu tình, cung kính cúng dường, tôn trọng, khen ngợi tám mươi vô số câu kỳ na dữu đa Phật, mới có thể nghe trọn được lý thú sâu xa, Bát-nhã Ba-la-mật đa này;...
13. Chư Thiên thường theo ủng hộ.
14. Không chết ngang trái hay đột ngột.
15. Không gặp hoạn nạn oan uổng.
16. Chư Phật Bồ-tát đều cùng hộ trì, khiến mọi lúc thiện tăng ác giảm.
17. Tùy nguyện qua lại ở các cõi Phật.
18. Không đọa thú cho đến lúc chứng Bồ-đề.
Các loài hữu tình mà thọ trì kinh này, sẽ được vô biên thắng lợi công đức. Tôi nay lược nói ít phần như vậy.
Kinh nói: Như thị ngã văn:
Thuật rằng: Ở trong kinh, gồm có ba phần: Bắt đầu từ chữ "Như thị", … viên mãn, thanh bạch phạm hạnh; là phần tự.
"Bấy giờ; thế tôn vì các Bồ-tát thuyết nhất thiết pháp sâu xa vi diệu… lược nói ít phần như vậy"; là phần chánh tông.
"Thời Bạc già phạm cho đến phụng hành"; là phần lưu thông. Xưa nay cứ như vậy mà luận thuyết. Nay giải thích ba phần:
1. Phần nguyên do đầu văn.
2. Phần ứng cơ nói rộng ra.
3. Phần cảm ngộ tu hành.
Ba phần này, tên gọi xưa nay có khác, nhưng nghĩa đều giống nhau. Ở trong phần đầu, theo bài kệ trong Thế Thân, thì chia làm sáu phần; đó là ba phần đầu là minh đệ tử, ba phần sau là chứng sự thuyết.
- Thứ nhất: "Như thị" là niềm tin của đệ tử. Lời nói như vậy nay nói không dối.
- Thứ hai: "Ngã văn" là tỏ rõ, chẳng phải là truyền thọ.
- Thứ ba: "Nhất thời" là có thời gian nghe pháp.
Trí Độ Luận nói: "Nói thời gian, không gian, con người, để người nghe sinh ra niềm tin".
- Thứ tư: Chủ.
- Thứ năm: Xứ.
- Thứ sáu: Cơ.
Dựa theo Phật địa luận, thì phần đầu có năm phần:-Thứ nhất: Bày tỏ là đã nghe; "Như thị ngã văn"-Thứ hai: Thời.
- Thứ ba: Chủ.
- Thư tứ: Xứ.
- Thứ năm: Cơ.
Nay theo kinh này, chia làm sáu phần; năm phần đầu giống như luận Phật địa. Phần thứ sáu khen Pháp có mười thắng đức, tuyên thuyết chánh pháp. Đầu, giữa, cuối đều thiện như nhau. Cách sắp đặt lời tựa, ghi chép những lời Phật dạy đều là Phật thuyết. Kinh Tập Pháp có nói: A Nan hỏi bốn việc: "Lấy ai làm thầy; nương pháp gì trụ; làm sao sửa người ác tính; đầu kinh nói lời gì". Phật đáp: "Giới có thể răn bảo, lấy đó làm thầy. Niệm xứ phá đảo, nương đó mà trú. Dùng pháp Phạm đàn (một trong các pháp trị Tăng Ni xấu tính) im lặng để chế phục người xấu kia". Phần đầu, của tất cả kinh đều nêu lên sáu việc; đầu tiên là chánh hạnh; tiếp đến là chánh giải; phần sau là biện trị những duyên làm chướng ngại tu hành. Tuy nhiên, với ba phần này, tất phải nương theo lời Phật dạy. Với câu hỏi về bốn việc, không thêm không bớt. Luận Trí Độ nói: A-nậu-lâu-đà bảo A-nan hỏi. Kinh Đại Bi thì nói là Ưu-ba-ly bảo. Hiện nay thì cho rằng cả hai người cùng bảo A-nan. Lại nữa, trong chuyện nhân duyên kết tập, có những cách sao chép khác. Như chân đế thì nói: "Vi tế luật minh, khi A-nan thăng tòa xuất pháp tạng, thân như chư Phật đủ các tướng tốt". Nay tra lại "Tập tạng truyện", cũng nói như thế; "khi xuống tòa trở lại hình dáng như cũ". Chúng Tăng có ba nghi:
1. Nghi là Phật từ bi, từ Niết-bàn khởi thuyết thêm diệu pháp.
2. Nghi là có Phật từ phương khác đến trú ở đây thuyết pháp.
3. Nghi là A-nan chuyển thân thành Phật, vì chúng thuyết pháp. Cho nên đầu kinh nói: "Như thị ngã văn" là khiến cho tin tưởng.
Từ "Như thị"; Pháp Hoa chú rằng: Đó là điềm cảm ứng. "Như" là thuận cơ; thị là không sai trái. Chúng sinh lấy sự không sai trái làm cảm, Như Lai lấy sự thuận cơ làm ứng. Người truyền kinh dùng danh giáo xuất từ sự cảm ứng; cho nên nói là "Như thị". Đó là lời giải thích của Triệu Công (Tăng Triệu). Với lại trong lời chú kinh vô lượng nghĩa có ghi: Thánh nhân thuyết pháp chỉ là hiển lộ NHƯ; chỉ có NHƯ là đúng (phải), cho nên nói là "Như thị".
Dao công cũng nói: "Lìa năm báng gọi là như thị. Bốn trường hợp trước lìa các báng tăng ích. Trường hợp thứ năm, theo kinh này là chẳng phải phi hữu chẳng phải phi vô; gọi là hý luận báng. Trường hợp thứ tư gọi là ngu si báng".
Sư Quang Trạch nói: "Như thị là đem truyền những điều được nghe, là đưa ra một tiền đề: chính tôi nghe được từ Đức Phật cả bộ kinh nghĩa như vậy".
Lương Võ Đế nói: "Như thị; là nói như thế, là Phật đã thuyết như thế; cho nên nói là: Như thị".
Năm cách giải thích trên, là lời dẫn giải của Cát Tạng pháp sư. Chân đế và Trường Nhĩ đều nói: "Như thị có ba nghĩa:
1. Với Phật; thì chư Phật ba đời cùng thuyết không khác, gọi là Như. Vì thuyết giống nhau, cho nên gọi là Thị; từ đó có thể tin, vì thuyết giống nhau.
2. Với Lý Sáng; thì thật tướng các pháp, xưa nay không khác, cho nên gọi là Như. Cứ Như Như mà thuyết, cho nên gọi là thị. Đã xứng lý, ngôn, không tăng không giảm, nhất định đáng tin, cho nên gọi là Như thị.
3. Với người; vì A-nan mong giáo pháp Phật được truyền không khác, cho nên gọi là Như; không có sai trái gọi là Thị".
Ba cách giải thích trên là dẫn giải của nhóm Tịnh pháp sư.
Lại có cách giải: từ "Như thị" nêu ra một phần Huyền tông, chính là hai đế chân và tục. Chân là Như; tục là Thị. Vì muốn lộ rõ những lời giải thích không khác về hai đó. Lại nữa, những lời thuận lý gọi là Như, ngăn chặn hư vọng đó là Thị. Lại muốn tỏ rõ ở khía cạnh hai trí vì giáo là nhân của hai trí. Như tính sở hữu là như, hết tính sở hữu là thị. Cho nên về sau nói: "Nhất thiết trí đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí vậy. Vả lại, nêu phước trí để tỏ rõ là nhân của hai nghiêm; Phước là nhân, trí là Thị. Lại nữa, giáo thuận với lý là như, nương theo giáo tu hành là thị. Cảnh là như, trí là thị. Sở thừa và năng thừa, thật tướng quán chiếu là để nêu ra đầu. Lại nữa, Như thị là lời nói tốt lành, muốn hiển lộ phần đầu kinh đều dẫn lời đó. Khác với ngoại đạo, tất cả đầu kinh của họ đều bắt đầu bằng hai chữ "A-ưu". Tám cách giải thích trên, đều được giải thích và lưu truyền do các tiên đức ở phương này.
Lại nữa, chữ "Như thị" nương theo bốn nghĩa mà có sự chuyển đổi:
1. Nương theo thí dụ: Như có người nói: "Phú quý như vậy; như tỳ sa môn". "Pháp được truyền, được nghe như vậy". "Như Phật đã nói: Định làm nhân phương tiện lợi lạc". "Như tôi đã nghe", hoặc "đã nói những câu văn như vậy".
2. Nương theo lời dạy bảo: Như có người nói: "Con phải đọc tụng kinh luận như vậy". "Như thị là như vậy", trong đó, xa tức là lời dạy của Đức Phật; gần là lời dạy của người truyền pháp. Hoặc khi bảo chúng phải như vậy, phải nghe những điều tôi đã nghe xưa kia.
3. Nương theo sự hỏi đáp: "Tôi nghe như vậy", "diễn nói như vậy", nghĩa là: Sẽ có người hỏi: "Ông sẽ nói những điều mà xưa kia ông đã nghe phải không?" Cho nên mới đáp: "tôi nghe như vậy!".
4. Nương theo sự đồng ý: Như có người nói: "Ta phải vì ngươi, như vậy mà suy nghĩ, như vậy mà làm, như vậy mà nói"; nghĩa là, khi kết tập, các chúng Bồ-tát sẽ có lời thỉnh cầu: "Ông nghe sao thì phải nói như vậy". Bồ-tát truyền pháp tỏ lời đồng ý; như vậy phải nói: "Như tôi đã nghe"; hoặc lời đáng tin: "việc đó như vậy"; nghĩa là; pháp như vậy, xưa tôi đã từng nghe. "Việc này như vậy, nói ở đây nhất định không có khác".
Bốn giải thích trên, là giải thích của Bồ-tát Thân Quang trong Phật địa luận.
Lại nữa: Như thị là từ chỉ sự tín thuận; cho nên Trí độ luận nói: "Như thị ngã văn sinh tín; Tín thọ phụng sinh trí. Tín là năng nhập; trí là năng độ. Tín là nền tảng đầu tiên để nhập pháp; Trí là huyền thuật rốt ráo. Tín thì lý của những lời nói ra đều thuận; thuận thì đạo thầy trò thành. Nhờ tín nên những pháp được nói ra đều thuận theo. Nhờ thuận nên người nói và kẻ nghe, tư cách thầy trò được dựng lập.
Trong chữ tín này, gồm mười giải thích; khiến sinh tín.
1. Thành Duy Thức nói: Tín như hạt châu Thủy thanh có thể làm trong sạch nước đục, có thể trị bất tín, trị tự tính vẩn đục; cho nên tín không thể bỏ.
2. Du-già nói: Tín là muốn, nương theo ước muốn làm chỗ nương cho tinh tấn, cho nên ý muốn là căn bản để nhập nhất thiết pháp. Tác ý ở chỗ sinh ra, xúc ở chỗ tập khởi, thọ ở chỗ dẫn nhiếp. Định làm Huệ tăng thượng tuệ, làm tối thắng, giải thoát làm cho kiên cố, Xuất ly làm hậu biên, vì tín đã là chỗ nương của dục (muốn); đó là lý do phải nói đầu tiên.
3. Người học Phật Pháp như voi Đại long; lấy tín làm tay, lấy xả làm ngà, lấy niệm làm cổ, lấy tuệ làm đầu, hai vai gánh vác thiện pháp. Những điều ấy nói trong Đại Tỳ Bà Sa.
4. Pháp là tay của chư Phật, Tín là tay của chúng sinh, cho nên Câu-xá nói: "Kéo chúng sinh ra khỏi bùn lầy sinh tử". Phần Chánh tông đã là tay Phật, thì phần tựa sanh tín là tay chúng sinh, hai tay tiếp nối nhau nên được kéo lên bờ kia, ra khỏi bùn sinh tử. Hai giải thích sau, là ý trong kinh Tối thắng quân vương.
5. Trôi trong biển cả thì phải nhờ tay chèo thuyền mới vượt qua sông sinh tử, cần tín để phát tuệ.
6. Đi trong đồng hoang bát ngát, tay cầm gậy chế ngự bọn giặc. Đi trong cánh đồng sinh tử, nhờ tín đó, mà tay cầm đao trí huệ, chế ngự bọn giặc phiền não.
7. Thấy tiền bạc ngọc báu thì dùng tay để lượm; nghe pháp bảo, thì nhờ tín mà đắc.
8. Tín là sự sơ khởi cho tài bảo của chư Thánh; cho nên đầu tiên phải khiến cho khởi tín. Hiển Dương nói: Bảy tài sản của Thánh là: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Cho nên khởi đầu khiến phải sanh tín.
9. Tín là bậc thang lên Thánh vị, cho nên bốn mươi tâm lấy tín làm đầu, có tín căn, tín lực. Có tín căn, nên vạn điều thiện nhờ đó sinh ra; có tín lực, nên bốn ma không thể khuất phục.
10. Các luận nói: Tín nghĩa là: Vượt được đường ác; lìa nhân nghèo khổ, cho nên có bốn tín bất hoại.
Do các nghĩa ấy, tất cả đầu kinh, đều nói: "Như thị" là để khiến sinh tín. Nói Tôi nghe (Ngã văn) có nghĩa là: Bồ-tát truyền pháp, tự chỉ chính mình. Pháp là như vậy, chính tôi nghe Phật nói; nên nói là "Tôi nghe". "Tôi" là cái giả của năm uẩn thế tục.
Ngã (cái tôi) gồm có ba:
1. Ngã do vọng chấp: ngoại đạo và phàm phu chấp Ngã lớn như hư không bầu trời hoặc nhỏ như hạt cải.
2. Ngã do giải bày: là thường, lạc, ngã, tịnh, là trong vô ngã giả bày là ngã để dẫn dắt hàng nhị thừa xả bỏ vô ngã quả của tiểu thừa. Như kinh nói: "Chư Phật có lúc thuyết ngã hoặc có lúc thuyết vô ngã, trong thật tướng chư pháp thì không có ngã cũng không có gì chẳng phải là ngã (vô ngã vô phi ngã)" nghĩa là vì Thanh văn mà thuyết vô thường, vô ngã,… để trừ bỏ bốn khái niệm sai lầm cho là thường, ngã,… khi còn phàm phu. Còn khi thuyết không có ngã hữu tình nhưng pháp có Nhân, cho nên về sau đức Phật vì Bồ-tát mà thuyết, thường, lạc, ngã,… là để trừ bỏ bốn sai lầm khởi lên khi còn là Nhị thừa. Do đó bổn tính của chư pháp là ly ngã, vô ngã mà thuyết là có ngã, cho nên đó là giả bày ra vậy.
3. Ngã lưu bố ở thế gian: là cái ngã hơn truyền trên thế gian, họ Trương họ vương,… tên Thiên Thọ,… Nay ở đây người truyền pháp thuận theo thế gian. Tự chỉ mình nói là "Tôi", nó khác với hai thứ ngã trên. Nó chẳng phải là Ngã vọng chấp, cũng chẳng phải là Ngã giả bày, mà thể của nó tức chính là Ngã của vô ngã.
Hỏi: Chư Phật thuyết pháp vốn để trừ ngã chấp; vì sao A-nan không xưng tên, lại xưng là "tôi"?
Đáp: Theo Lý mà nói, thì nên xưng tên. Nói chung xưng "Tôi", vì có ba ý:
1. Để Tông không trái tục: Tông là để hiển chơn, nhưng lời không ngược đời. Tuy không có ngã, nhưng vẫn đặt tên "Ngã", vì muốn tỏ rõ rằng chơn đế không lìa tục đế.
2. "Ngã" nghĩa là chủ tể tự tại. A-nan nghe nhiều nhớ kỹ, tích chứa nhiều điều đã nghe.
A nan lại có ba Tuệ đầy đủ, văn nghĩa đều nhớ: Tổng trì tự tại ở trong Thánh giáo. Nếu nói: "A-nan nghe pháp như vậy"; tuy đúng là mình, nhưng không đắc nghĩa, tự tại trong pháp. Muốn hiển bày rõ pháp; thành tựu được tự tại nên nói "Tôi nghe" mà không xưng "Khánh Hỷ".
3. "Ngã", nghĩa chính là mình: Thế gian cũng nói: "Tôi nghe thấy vậy"! Ý là chính mình chứng. Nếu chỉ nói chung là lời A-nan nghe có thể chẳng phải chính mình nghe, có thể do người khác nói lại. Nay để tỏ rõ là chính mình đã nghe đức Thế Tôn nói, chẳng phải nghe người khác nói lại; cho nên nói là "Tôi".
Do ba nghĩa đó, không xưng "Khánh Hỷ" (A-nan), mà nói là "Tôi nghe". "Nghe" nghĩa là chính nhĩ căn phát Thức (biết) ghi nhận hết thảy những lời đã nói. Nay bỏ tai riêng biệt, lấy "Tôi" để gọi chung; nên nói "Tôi nghe". "Nghe" gồm những phần gì? Mỗi thuyết khác nhau. Nay dựa theo Đại thừa; hòa hợp ba thứ; căn, thức, tâm sở, cảnh đến, mới gọi là nghe. Mà năm nghĩa của căn trội hơn các phần khác, cho nên gọi là "văn" Đối Pháp và ngài Long Thọ đều nói như vậy.
Nếu chỉ nghe âm thanh thì chỉ ở tai; nhưng thông với các duyên. Danh, chữ, lời... thì ở trong ý. Do đó chỉ một mình ý thôi mới gọi là nghe. Du-già nói: Nghe là ti lượng (so sánh), tai là người nghe; chính mình nghe âm thanh cùng với ý làm cửa. Người nghe lời dạy bảo là do tai nghe được cho nên có nhiều thứ tạo thành nghe, gọi chúng là nghe. Nhờ ở tai mà được; cho nên tai gọi là Nghe. Nhưng tai không thể tự chính nó nắm lấy các thứ pháp có tên gọi khác nhau. Nói nghe gồm những thứ tạo thành, là nói theo phương tiện. Khi cái nghe đã thành rồi, thì cùng gọi là "tai nghe". Như "Quán tháng hai, thấy vòng lửa xoáy..." hay "Vua Tỳ lưu ly giết dòng họ Thích"... đều là ngôn ngữ chỉ ý thức. Vì chính tai không có dính dáng gì!
Hỏi: A-nan lúc đó, chính mình thấy Phật thuyết, cũng chính mình giác, biết Phật thuyết. Vì sao không nói: tôi thấy, tôi giác, tôi biết như vậy, mà chỉ nói là tôi nghe?
Đáp: Có ba nghĩa:
1. Muốn chứng lý sâu, muốn ngộ Đạo lý phải nương vào nghe giáo. Thấy, giác, biết... chẳng phải là sự khởi đầu để đạt lý, tuy cũng thấy thật, nhưng chỉ được nói là tôi nghe;
2. Thế giới ta bà lấy âm thanh làm Phật sự, muốn tỏ khác với quốc độ của chư Phật khác, cho nên chỉ nói nghe. Các quốc độ khác; hoặc lấy ánh sáng, hương thơm mùi thơm... để làm Phật sự. Đầu kinh vẫn có thể nói được là tôi thấy, tôi giác, tôi biết, nhưng để khác kia, nên chỉ nói "nghe";
3. Muốn tỏ rõ trí giác Bồ-đề thì phải nhờ huân tập mới đắc. Nếu không nghe hiểu chánh pháp, thì ba tuệ nhờ đâu mà sinh? Nên đầu kinh nói "nghe", là muốn khiến cho sự huân tập tăng trưởng hữu lậu vô lậu; rồi cùng tăng trưởng sinh quả thế gian, xuất thế gian, nên chỉ nói "nghe".
Hỏi: Trong Đại Bát-nhã, Phật nói: "Ta từ lúc thành đạo cho đến khi Niết-bàn, suốt trong thời gian đó, chẳng nói một chữ". Vì sao Khánh Hỷ (A-nan) chê bai Phật thuyết pháp, tự xung "Tôi nghe"; lại nữa đức Phật nắm một nắm lá Nhiếp Ba lên dụ cho kinh nói; Những pháp đã nói, như lá trong tay; những pháp chưa nói, như lá trong rừng. Rõ ràng pháp Phật thuyết mà nay nói "tôi nghe"; lại nói "không thuyết", sao trái ngược vậy?
Đáp: Luận Phật Địa có nói: Như Lai có nghĩa, bổn nguyện từ bi, duyên lực tăng thượng, trên thức người nghe, tướng văn nghĩa sinh, tướng văn nghĩa này, tuy nương chính mình, tự nơi căn lành của mình mà khởi, lai gặp duyên hay, gọi là Phật thuyết. Do sức nhĩ căn, tự tâm biến hiện, nên nói "Tôi nghe". Ý của Sư đó nói: Phật có ba pháp là Định, Trí, Bi. Ba pháp làm thể, thật không thuyết pháp. Do trong bổn nhân, nguyện lợi lạc sinh, nên thường khởi đại bi. Chúng sinh tu lâu, nghiệp lành được gặp Phật, nay là lúc thành thục, từ trên thức tâm mình, nghe Phật thuyết pháp, biến tựa giáo sinh, mà thật ra là không thuyết. Ví như mẹ Tăng Sâm cắn đầu ngón tay; Tăng Sâm nhói tim, biết mẹ gọi về. Mẹ thật sự không nói, nhưng ý nhớ con, mây gió cùng cảm làm người con tim nhói, biến tựa như tướng của mẹ gọi mau mau quay về; quả đúng mẹ gọi!
Nay Phật như mẹ, chúng sanh dụ Sâm, có nói không nói, cũng giống như vậy. Cũng như có nữ nhân, mời thầy thuyết pháp, chỉ riêng thầy đi: thật ra không vì thuyết mà nữ nhân đắc đạo! Nói là nhờ ơn thầy; vì thầy Tỳ-khưu được xem là duyên tăng thượng, tâm đã chán sinh tử, bèn chứng được quả. Chúng sinh lấy Phật làm duyên tăng thượng, tự tâm biến đổi cho giống khởi giáo ba thừa, rồi từ duyên hay đó luận bàn gọi là Phật thuyết; chứ Phật thật không nói. Ở đây nói "Tôi nghe" là nghĩa đó vậy! Thiện căn của người nghe cọng thêm bổn nguyện đức Phật lực tăng thượng duyên làm cho trên thức Như lai. Tướng văn nghĩa sinh ra. Tướng văn nghĩa này, là Phật lợi tha, đã khởi do thiện căn, gọi là Phật thuyết. Tâm thức người nghe, tuy không chính mình đắc, nhưng giống tướng kia; thuyết rõ ràng, nên gọi "Tôi nghe". Ý sư đó nói: Phật có năm uẩn, mười tám giới,... Phật có thuyết pháp, làm việc lợi người, tuy không phân lợi, không khởi phần duyên, luôn vận dụng mọi thời, tùy cơ thuyết pháp, làm lợi lạc lớn, như ngọc Ma ni, như trống vua, Trời tuy không có tâm, cũng làm mưa đủ loại báu. Và vì vua trời, có lúc thuyết hay không thuyết? Nghiệp thiện của vua trời, chiêu cảm lực kia, nên trống chuyển tiếng vang, vua trời nghe đấy, mà tự nghiêm phòng. Nay Phật cũng thế, vô tâm phân biệt, thuyết và không thuyết, nghiệp thiện chúng sinh, nhân nghe pháp đã thành thục, được Như Lai nhậm vận, hiện ra việc thuyết pháp.
Trong đó thuyết pháp, thí như người huyễn vì người huyễn mà thuyết pháp. Lìa tính danh tự, không có văn tự; đó tức là giải thoát; chẳng phải như vọng chấp, cho rằng danh nhất định thuộc pháp và vọng chấp cho rằng, thực sự là có năng thuyết, năng thinh, sở thuyết, nên Phật nói rằng: "không thuyết một chữ". Bởi người thuyết pháp, không nói, không bày. Như huyễn sĩ, vì người huyễn mà thuyết, tức là phi vô. Nên kinh cũng nói: "thuyết pháp phi hữu diệc phi vô". Nhân duyên đối đãi, nên các pháp được lập. Phật đã thuyết pháp, chính Khánh Hỷ (A-nan) nghe, nên nói: "Tôi nghe". Trong hai cách giải thích đó; giải thích đầu là của các sư Long Quân; Vô Tính,… giải thích sau là của Hộ pháp Thân Quang. Nói "Tôi nghe như vậy" là ý muốn tránh lỗi lầm thêm bớt, sai khác; nghĩa là pháp như vậy, tôi nghe từ Đức Phật, chẳng phải do người khác nói lại. Biểu thị cho người nghe có khả năng gánh vác được, những gì nghe được đều không nói thêm bớt, sai khác hay lầm lẫn. Chẳng phải như kẻ ngu, không thể gánh vác nỗi những điều được nghe, bàn thêm bớt sai khác. Khi kết tập người truyền lại lời Phật dạy, nương theo lời dạy đức Như Lai, đầu tiên phải nói câu đó, để khiến chúng sanh cung kính tin nhận lời mình nói: Pháp như vậy, tôi nghe từ Phật. Văn và nghĩa chắc chắn không có sự thêm bớt. Vì vậy người nghe sau khi nghe xong, phải theo lý mà suy nghĩ, luôn chuyên cần tu học.
Kinh nói: Nhất Thời
Thuật viết: Phần thứ hai phần thời gian thuyết giáo, tức là thời gian giáo hóa, ngây giờ đức pháp vương khải hóa và đại chúng tụ hội, đây là sát na tương tục nhau không ngừng, thuyết và nghe rốt ráo xong xui, tùy theo giai đoạn thời gian đó mà gọi chung là "Nhất thời". Chẳng như chữ "Nhĩ" (bấy giờ) thời gian thuyết và nghe khác nhau.
-Vì sao gọi là "Nhất"?
Trong đó, không nhất định dựa vào một sát na nào; cũng không nhất định dựa theo một sự tương tục nào; không nhất định dựa vào bốn, tám hay mười hai thời hợp lại mà xong việc thành đạo. Khoảng thời gian nào đó gọi là "nhất thời". Đó là lúc hai bên thuyết và nghe cùng gặp nhau. Thuyết và nghe cho đến hết gọi là "Nhất thời". Người năng thuyết, nhờ đắc đà la ni, chỉ thuyết một chữ "thời", thì tất cả những thời gian khác đều đã diễn nói. Hoặc người năng nghe đạt được nhĩ căn thanh tịnh, thì tất cả những thời khác đều có thể hiểu rõ. Hoặc người năng thuyết đã qua nhiều sát na hoặc đã thuyết đi rồi trở lại thuyết nhiều kiếp; và người năng nghe đó, cũng hoặc cho đến nhiều kiếp được nghe; cho nên không thể định chắc thời gian của nhiều kiếp trong một niệm. Do bởi căn cơ của người nghe trong hội có người bén nhạy hay chậm lụt! Thần lực của Như Lai kéo niệm ngắn thành kiếp dài, co rút kiếp dài thành kiếp ngắn.
Để phân biệt chữ "thời"; có hai cách giải thích:
Chữ "Thời" này là giả lập một giai đoạn trên pháp hữu vi. Gọi là thời đạo lý ngũ uẩn của người nghe thuyết và người nghe. Các hành sinh diệt theo từng sát na không có nhất định một thể thời gian nào, có pháp giả hiện tại do những pháp trước kia, dẫn sinh ra, tức là pháp được dẫn dinh ra từ những pháp trước kia, giả gọi chung là đời quá khứ và đời hiện tại, pháp giả ngủ uẩn của người nói và người nghe, khi sự việc thuyết và nghe đã xong xuôi, giả gọi là "Thời". Cho nên gọi chung là "Nhất thời". Chung là "Nhất thời"; ví như những người tính toán sổ sách cũng đều từ một hột con toán, qua các vị trí khác nhau, mà có số 1 số 10, 100, 1000, 10000... thật ra chỉ một hột toán thôi, nhưng vị trí ngang dọc khác nhau, mà có sự khác nhau. Pháp năm ấm hiện ra của người nói người nghe đó, từng có cái tên của kiếp trước, sẽ có cái tên của vị lai; nay có cái tên của kiếp này, tức gọi là "Thời"; nói là ba đời. Nay, những việc đầu tiên và cuối cùng của ba đời đó gọi chung là một thời.
1. Trên tâm thức người nói và nghe khi ấy biến đổi làm thành hành tướng. Thể của ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai khởi lên; đó chính là thức thời gian, gọi đó là một Niệm hoặc là suốt nhiều kiếp mà từ đầu đến cuối giả gọi là "Một thời". Ví như người trong Mộng, mơ thấy nhiều kiếp sống chết, gọi là ba đời dời đổi; tỉnh dậy, chỉ còn một tâm hư vọng, biết không ba đời! Nay theo lý mà nói, thể của thời gian cũng vậy. Chỉ có tâm hư vọng biến đổi tựa như ba đời, sự việc suốt từ đầu đến cuối, gọi chung là "Một thời". Về mặt nghĩa lý, chỉ có ý duyên với hành uẩn, gồm thâu trong pháp xứ, pháp giới.
Hỏi: Vì sao không nói một giờ nào đó trong mười hai giờ? Như ở những xứ Tịnh Thổ mà uế thổ, ngày đêm khác nhau, các phương khác nhau chẳng nhất định, cho nên ở trong thời gian chỉ gọi chung là "Nhất".
Hỏi: Trong xứ có nhơ và sạch không nhất định, sao chỉ nói "Một"? Các nơi chốn và thời gian khác nhau, sao chẳng xác định cụ thể để nói? Phàm phu thấy nhơ nhớp, biết là có tịnh độ của chư Thánh ở; sao không xét đến chỗ đó? Thời đã xác định đúng lúc thì mới biết những lúc khác.
Đáp: Hoặc một sát na, hoặc trải qua nhiều kiếp, không thể nói chắc. Bởi không hiểu một cách chính xác; do từ tướng chung đó mà chỉ nói là "Một thời". Số kiếp kéo dài, rút ngắn hoặc chỉ do ở thức. Hoặc do sở chấp, là song manh hoặc y tha; vì vọng pháp hay thật tính; vì bình đẳng hay thánh lực, vì sự gia trì, cho nên có sự kéo dài và rút ngắn. Chẳng cần nghi ngờ gì nữa, sự giải thích đã đúng với nghĩa lý!
Kinh nói: Bạc Già Phạm Thuật viết:
Từ đây trở xuống là phần thứ ba nói về giáo chủ. Muốn khen ngợi người nói ra pháp; thì pháp đó đặc biệt thù thắng.
Trong phần nói về giáo chủ, gồm có hai phần: phần đầu nêu tên gọi; phần sau ca ngợi công đức. Phần này là phần nêu tên.
Xưa gọi là Bà-già-bà, ý nghĩa như hiệu của Thế Tôn; nhưng nếu dịch nghĩa thì bị thiếu sót, cho nên không dịch nghĩa mà chỉ phiên âm. Quyển thứ tám mươi ba luận Du
Già có nói: "Thản nhiên an tọa, tòa diệu Bồ-đề, nhậm vận tự nhiên đẩy lùi tất cả ma quân; vì có thế lược lớn nên gọi là Bạc già Phạm".
Luận Phật địa cũng nói: Từ ngữ Bạc già phạm dựa theo sáu ý nghĩa: Tự tại Bừng cháy, đoan nghiêm, tên gọi, cát tường và tôn quý. Sáu loại nghĩa khác nhau như vậy, gọi chung là Bạc Già phạm. Trong đó ý muốn nói: người nào được xưng gọi là Bạc Già phạm tất có đủ những đức đó. Như vậy, tất cả Như Lai đều có đủ, đều không lìa xa tất cả các loại. Do đó, Như Lai gọi là Bạc Già Phạm; có nghĩa là; các Như Lai mãi mãi không bị trói buộc lệ thuộc các phiền não, nên đủ nghĩa tự tại. Được nấu luyện do lửa trí huệ hừng hực, cho nên có nghĩa là bừng cháy. Được trang sức bởi ba mươi hai tướng trượng phu, nên có nghĩa đoan nghiêm. Tất cả công đức thù thằng đầy đủ, không có gì mà không biết, nên đầy đủ nghĩa danh xưng. Có đầy đủ nghĩa cát tường, vì tất cả thế gian đều thân cận cúng dường, khen tụng. Có nghĩa là tôn quý, vì đủ tất cả đức, thường khỏi phương tiện, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, không biết mỏi mệt, hoặc có thể phá hoại bốn oán ma, cho nên gọi là Bạc Già Phạm. Bốn oán ma là: Ma phiền não, ma uẩn, tử, ma tự tại thiên ma. Phá tan những việc tu thiện của hữu tình gọi là Ma khi nhập. Vào kiếp thứ ba phá ma phiền não; ma tử khi sắp đạt đến tâm kim cang, phá cả Thiên Ma, khi khởi đạo giải thoát phá ma uẩn. Nếu xét về tướng, khi tâm kim cang thì phá ma phiền não. Khi dưới gốc cây Bồ-đề, phá tự tại thiên ma, khi xả bỏ thọ phần thứ năm nhập vào vô dư diệt, thì phá uẩn ma đó. Lại thêm ba tháng phá ma chết kia. Nếu theo thật nghĩa thì phiền não Bồ-tát, đều gọi là phiền não; hai chướng đều đủ khi. Tâm kim cang khởi, phá tan vĩnh viễn ma phiền não. Vì có hạt giống hai chướng, nên khi đạo giải thoát khởi lên, sẽ phá tan vĩnh viễn ma uẩn và ma chết. Đó là luận theo "cái chết thứ hai". Về việc chế phục thiên ma, chẳng thấy bài văn nào viết. Nay dựa theo "Nhất nghĩa", thì Bồ-tát thập tín, tám tướng thành đạo rồi thì sẽ chế phục thiên ma. Hoặc tâm thứ sáu của thập trụ, mới bắt đầu chế phục thiên ma. Trong đó, mãi mãi lìa xa sinh tử, ra khỏi ba cõi cho nên có thể chế phục được thiên ma. Hoặc vào sơ địa cũng chế phục được thiên ma. Theo Luận Phật địa; thì từ sơ địa trở lên luận xa lìa bốn ma thô, theo tình mà thủ-xả; cho nên phá bốn ma gọi là Bạc Già Phạm.
Hỏi: Phật đủ mười hiệu. Tại sao đầu kinh Phật lại bảo Khánh Hỷ (A-nan) gọi tên này?
Đáp: Bởi tên gọi đó, người đời tôn trọng, các ngoại đạo cũng đều xưng thầy mình là Bạc Già Phạm. Lại nữa một tên đó mà gồm thâu cả các đức, tên khác không được vậy; cho nên đầu kinh đều gọi tên này. Tuy nhiên, đầu các kinh vẫn nêu tên giáo chủ, nhưng mỗi kinh mỗi khác. Như cuốn kinh tán dịch: Xưng tán Đại thừa công đức. Kinh Trụ pháp giới tạng là hành của chư Phật. Trong vùng pháp tính, điện đại công đức được trong trí bằng các báu vật, chính là nói về pháp thân. Chỗ kinh Phật địa đó, được trang trí bằng bảy báu, hào quang tối thắng, cho đến rộng nói, trong cung điện lớn được vua Đại Bảo Hoa xây dựng, trong mười tám tịnh độ viên mãn đó là chỗ báo thân thiết. Đầu kinh đó, tuy nêu ra thật đức của Phật, nhưng hơi khác các kinh khác: chỗ ở chính là trong cung của vua trời Tha Hóa Tự Tại, nơi điện Mạc Ni; do Hóa Thân thuyết. Tuy vùng đất pháp tính chỉ Phật ở, nhưng cũng nói rằng, đức Nghiêm Hoa Bồ-tát cũng ở tại hội đó. Trong tịnh độ này, tuy chỉ có chư Bồ-tát nhưng trong kinh còn nói có cả các trời, rồng. Kinh đó, tuy chỉ nói các chúng của tha hóa cung, nhưng còn nói cả các đại Bồ-tát tròn đầy mười địa. Những điều đó, nói lên một ý: cùng là một, nhưng cái thấy thì khác nhau!
Luận Kim Cang nói: "Ứng hóa chẳng thật, Phật cũng chẳng thuyết pháp". Thuyết và pháp không hai, vô thuyết ly ngôn tướng suy cho vùng thì lấy pháp thân làm thân, các thân khác chẳng phải là thân, lấy pháp thân làm thuyết; hai thuyết (sở thuyết và năng thuyết) thì chẳng phải thuyết; thể nghĩa là trụ, gọi chung là thân. Pháp thân làm chỗ nương tựa cho thân thuyết, làm gốc căn bản cho thân thuyết. Hai thân vừa khởi, thì đó chẳng phải là thân thường và chẳng phải là thuyết thường! Bát-nhã chỉ lấy pháp tính làm tông, ý ở ngay đó, quên mất tướng. Vì hai thân, hai thuyết đều có tướng, cho nên gọi là phi thân, thuyết. Thực ra hai thân đó cũng có thân phi thuyết. Muốn tỏ danh và nghĩa sâu xa của Đại thừa, phải chứng cái lý hai không, mới có thể biết thuyết. Cho nên nương diệu thể là để tỏ rõ sự sâu xa của kinh. Trong Pháp tánh thổ mà thuyết: "Xưng tán Đại thừa công đức", thực ra theo lý, thì Nghiêm Hoa chỉ ở tịnh độ không ở pháp tịnh độ. Trong pháp tịnh độ không có thân, không có thuyết thì Bồ-tát do đâu mà có sự nghe học? Vả lại để hiển lộ chánh trí bên trong chứng chân không, nên gọi là ở pháp tánh thổ. Hậu trí khởi từ bi do hóa độ nên gọi là hư ở tịnh độ, cũng chẳng lỗi lầm gì. Thiên long bát bộ cũng thấy ở hóa thổ. Kinh Phật địa đó muốn tỏ cái tướng của mười tám cõi tịnh độ viên mãn. Nói về năm pháp thật đức của Như Lai, ký gởi tịnh độ là để tỏ sự sâu xa của kinh, nhưng thật ra chánh trí của Bồ-tát khế hợp với chân lý cũng ở tại pháp tính; thiên long nghe pháp cũng ở tại Hóa thổ. Bát-nhã này quán chiếu chứng thật tướng; tất cả Bồ-tát và Như Lai lấy vọng mất tướng làm gốc; thật sự đều ở tại pháp tính; nhưng thân hiện ở tại cõi tịnh độ, nhưng lại nói là cư ở Hóa độ, là để hiện rõ từ bi sâu dày, tán thán đức của báo thân. Nói về những người nghe pháp, cũng chỉ để nêu người có thắng đức tương xứng với thật đức của chư Phật. Gởi vào thổ hóa là để đưa ra ý khác, sẽ nói ở sau. Nay nói về Bạc Già nghĩa là ba thân đều có thể thuyết pháp, đồ chúng đều có trú tam thổ. Chỉ nếu đức của báo thân, thế nhưng không thấy lời kinh nói cư tại Báo độ; đức và xí của Phật biết Phật độ. Nay ở đây chữ Bạc Già Phạm là dựa theo những đức sau đây. Đó chính là nơi ở của thực đức báo thân; đó chính là hóa thổ nêu thắng thân, là để tỏ pháp thắng. nêu Hóa xứ là để hiển tỏ sự sâu xa của kinh. Muốn tỏ rõ bi và trí đều là sự pháp tu sanh thì không nói thân độ của pháp tính vậy!
Kinh nói:
1. Diệu thiện thành tựu nhất thiết Như lai Kim cang trú trì bình đẳng tính trí, chủng chủng hy hữu thù thắng công đức.
2. Dĩ năng thiện hoạch nhất thiết Như lai quán đảnh bảo quan Siêu quán tam giới.
3. Dĩ năng thiện đắc nhất thiết Như lai biến Kim cang trí đại quán tự tại
4. Dĩ đắc viên mãn nhất thiết Như lai quyết định như pháp đại diệu trí ấn.
5. Dĩ thiện viên chứng nhất thiết Như lai tất cánh không tịch bình đẳng tính ấn.
6. Ư chư năng tác sở tác sự nghiệp giai đắc thiện xảo thành biện vô dư.
7. Nhất thiết hữu tình chủng chủng hy nguyện tùy kỳ nô tội giai năng mãn túc
8. Dĩ thiện an trú tam thế bình đẳng thường vô đoạn tận quảng đại biến chiếu.
9. Thân ngữ tâm tính do như kim cang đẳng chư Như lai vô động vô hoại.
Thuật viết
Chín câu trên là ca ngợi đức của Như Lai, dựa theo các kinh luận; tóm lược lại có ba cách giải thích:
Cách giải thích thứ nhất: Theo sự giải thích của chính các kinh văn:
- Câu thứ nhất ca ngợi chung Như Lai kiêm luôn cả các đức dưới.
Tám câu còn lại tán thán từng đức khác nhau. Phần chánh tông dưới đây, có mười bốn đoạn để hiển hiện mười bốn thật đức của Thế Tôn. Câu đầu là nói chung các đức, riêng từng câu còn lại thuộc các pháp môn công đức. Câu "Kim cang trú trì bình đẳng tánh trí" là nêu ra thứ tự hai đức quán đảnh bảo quan siêu quá tam giới; tức là đoạn thứ ba trong mười bốn đoạn đó, điều phục chúng ác phổ thắng pháp môn, cũng là chỗ hiển hiện của pháp môn thứ năm Pháp Vương Quán Đảnh trí tạng. Nêu ra một đức và hai loại pháp môn; câu "Chủng chủng hy hữu thù thắng công đức" là chỉ chung những thắng đức của bảy câu còn lại, những pháp môn trong mười hai đoạn lại, ở đây chẳng thể giải thích từng thắng đức từng pháp môn, ở đây chỉ giải thích chung mà thôi. Nếu giải thích riêng: "Diệu" là công đức vi tế. "Thiện" có nghĩa là ngoài Phật chẳng ai đo lường nỗi! Lại nữa, nội đạo không hiểu gọi là diệu; ngoại đạo không biết gọi là thiện. Trí sâu khó lường gọi là diệu, phước nhỏ không thể biết gọi là thiện. Nói "Thành tựu" là tự tại nhậm vận, có khả năng hiện tiền. Lại nữa, gặt hái viên mãn cũng gọi là thành tựu.
"Nhất thiết Như Lai"; là muốn tỏ rõ đức của Phật, vì cùng chung là chư Phật. Bởi sự chung cùng đó, đức của Phật mới đáng tôn quý, đó là đức chân thật, tiếng Phạm gọi là Đạt tha yết đa, cổ gọi là: Đa đà a già độ; ở đây gọi là "Như Lai". Kinh Bồ-tát địa nói: "không có hư vọng, nên gọi là Như Lai". Kinh Niết-bàn nói: "Như Phật quá khứ thuyết các khế kinh, không có thay đổi, cho nên gọi là Như, từ ba mươi bảy phẩm Ba-la-mật, mười một không thấu đến Niết-bàn, nên gọi là Lai". Ý nói rằng: Như là ngang bằng chư Phật, nên thuyết diệu pháp; từ tu vạn hạnh đến thấu Niết-bàn; nên lời nói không hư dối; đó là nghĩa Như Lai. Lại nữa, nói lời không hư giả, thường thực hành lời nói chân lý đến thấu địa vị Phật, nên gọi là Như Lai. Luận Du Già nói: "Trong mười hiệu, hiệu đầu tiên là hiệu chung. Nếu trụ sinh tử, nhờ thực hành diệu hạnh, đi đến Phật vị, gọi là Tô-yết-đa; hiệu là Thiện Thệ, cổ gọi là: Tu-già-đà. Nếu trụ bờ kia, nhờ Như mà thành Phật, hiệu là Như Lai. Nhất-yết-đa nói: nghĩa thông cả đến và đi. Như nói: "Mật đa" là nghĩa thông cả sự tách lìa và đến với. Ở đây cũng như vậy; "Kim cang" là dụ. Trí mang tính bình đẳng, có khả năng điều điều phục các ác, hàng phục phiền não, phổ thắng tất cả, gọi là kim cang. Vì kim cương có khả năng phá vỡ. Nói "trụ trì" là đã đến địa vị pháp vương, có khả năng làm chủ thắng ở tất cả ba giới. Tất cả thắng pháp của thế gian, đều do trí đó trụ trì; làm cho chúng không hư hoại gọi là "Trụ"; giúp cho chúng sinh trưởng gọi là trì. Lại nữa, trí bình đẳng đó là kho chứa của các trí; tất cả phước trí lấy đó làm nhân, cái đó có khả năng trú trì tất cả đức của Phật, có khả năng diệt các hoặc, gọi là kim cang trú trì; đó là tác dụng của trí tính bình đẳng, bên trong có khả năng trú trì, bên ngoài có khả năng bẻ gảy hủy hoại. Trí bình đẳng chẳng phải là trí tánh bình đẳng thứ hai trong bốn trí. Trí có khả năng chứng được pháp tính bình đẳng rốt ráo rỗng lặng, gọi là "bình đẳng tính trí", tức là trí không phân biệt, có khả năng chân chính, chặt đứt mê hoặc, làm cho đạo không gián đoạn; nó giống như kim cương tức chánh trí trong trí diệu quán. Làm gốc của sự trú trì chúng đức, làm căn bản để phá hủy; Trí tức là bình đẳng tính trí. Nên có khả năng phá huỷ được sự dính mắc vào sinh tử và Niết-bàn, trú nếu ở chỗ không có chỗ trú; thì đó chính là bình đẳng tính trí đã thành từ thức thứ bảy. Nếu phá hủy được tất cả phiền não thuộc nhị thừa dị sinh, trú ở công đức từ bi lợi tha, đó chính là những tác động của bình đẳng tính trí tạo thành. Nay theo chánh nghĩa, thì trong các trí, tùy theo sự sở ưng của chúng mà chứng tính bình đẳng, đều có thể hủy hoại được sự phân biệt và hai chướng. Gốc của các đức gọi là kim cang trú trì bình đẳng tính trí, là sự mong cầu của tất cả các Bồtát như Bảo quan (mủ báu) của Quán đảnh vị. Tánh là vô lậu; lìa sự trói buộc của ba cõi, vĩnh viễn vô phân biệt. Phần này là đức thứ nhất đã nói xong. Tiếp theo dưới đây là các đức còn lại, chẳng giống nhau, nên gọi là "chủng chủng" (các loại); từ vô thủy chưa đắc được gọi là "hiếm có" (hy hữu); chỉ có Phật mới thành được; cho nên gọi là "thù thắng". Sức tích chứa đạo mới thành, gọi là "công đức"; những cái đó phần sau có nói, tất sẽ biết.
- Câu thứ hai nói: "Đã khéo thu được nhất thiết Như Lai Quán đảnh bảo quan siêu quá tam giới" tức trong mười bốn đoạn, sau, khi nói về pháp môn thứ ba điều phục chúng ác phổ thắng pháp môn và là chỗ hiển hiện của pháp môn thứ năm Quán đảnh trí tạng. Phần sau kinh giải thích: Nếu lấy quán đảnh vị của thế gian để bố thí; thì sẽ được quả quán đảnh vị xuất thế. Thái tử dòng Sát đế lị của thế gian ở Tây vực, khi sắp nhận ngôi vua; trước tiên phải mời các Bà-la-môn có đức để làm sư phụ, cởi voi ngàn dặm lấy nước của bốn biển lớn; rồi lấy cỏ cát tường nhúng vào nước biển đó, rảy lên đảnh đầu của thái tử, khiến cho sạch sẽ, làm đại cát tường, làm cho bốn phương quy phục; rồi mới nhận ngôi vua. Xưa phiên dịch là: "Nước Sát lợi tưới đầu vua"; nay tâm dịch là: "Dòng Sát đế lợi chủng quán đảnh đại vương", thân của vua tức là dòng Sát đế lợi, mời Bà-la-môn làm sư phụ là để tưới rảy đảnh đầu mình, bởi dòng họ Bà-la-môn chuyên giữ tịnh giới, tu phạm hạnh, nên Sát đế lợi thỉnh mời. Rảy đỉnh đầu cho mình, đó là nghi lễ khi nhận ngôi vua. Đó là Bồ-tát ở địa cuối cùng thứ mười sinh ra ở cung Đại tự tại trên cõi sắc, sắp khởi Kim cang định, thọ nhận ngôi vị Phật trong đài Hoa; hơn cả các Bồ-tát, là bậc tôn quý trong hàng các Bồ-tát. Con trai trưởng của Phật gọi là thái tử, chư Phật trong mười phương là sư phụ của thái tử đó; mỗi vị Phật đều đưa cao tay huệ với cánh tay phải dùng nước pháp trong sạch của Phật ba đời rảy tưới đỉnh đầu. "Đảnh" nghĩa là đỉnh của tâm và là đỉnh của đầu. Rảy tưới đỉnh đầu là để trừ những nhơ nhớp của hai chướng, ô nhiễm hữu lậu dính mắc từ vô thủy đến nay; làm cho ngôi vua được tràn đầy sự thanh tịnh vô lậu, trắng tinh thù thắng. Thái tử ở thế gian đã tưới đảnh đầu rồi, sắp nhận ngôi vua, đội mũ vua, mặc áo vua, ở cung điện của vua. Thái tử của Pháp Phật cũng lại như vậy; cũng sẽ nhận ngôi vua Pháp, chúa Pháp, đội mũ Phật, là Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí, đó là đội lên đảnh đầu tâm Phật tức là quán chiếu Ba-la-mật đa, pháp công đức đó quý báu chân thật; gọi đó là huệ tài trong bảy tài sản của bậc Thánh; mũ đó vì thế gọi là Bảo quan. Áo pháp công đức Phật, tức là loại áo của sự hổ thẹn, nhu hòa, nhẫn nhục. Mũ trí huệ đó là Đại trí tạng; vì tất cả pháp Thiện nhân đó mà sinh; ở bảo điện rỗng lặn của như Phật mười phương. Nhờ đội những mũ áo như vậy, từ vô thượng bạn xấu đã lấy nước phiền não rảy trên đỉnh tâm kia, dùng mũ xấu xí ngu si đội trên đầu tâm sinh tử, trong vòng sinh tử đã mặc những áo xấu không biết hổ thẹn, không biết mắc cỡ, cứng rắn gay gắt đầy giận dữ; đều được tiêu diệt, vứt bỏ vĩnh viễn. Mãi mãi không còn vào nhà tù ba cõi; cho nên gọi là "Hàng phục chúng ác phổ thắng pháp môn cũng gọi là: "Quán đảnh trí tạng pháp môn" do vậy thành chúa của ba cõi; thoát khỏi sự trói buộc của sinh tử hữu lậu, vượt khỏi ba cõi. Tự thể vô lậu gọi là "biến" khắp, phần sau sẽ nói. "Nếu thí bỏ ngôi quán đảnh của thế gian, thì sẽ đắc quả vị pháp vương xuất thế gian".
- Câu thứ ba nói: "Biến Kim cang trí đại quán tự tại"; tức pháp môn "Tất cả hữu tình trú trì biến mãn thắng tạng" nói ở đoạn mười hai trong mười bốn đoạn dưới. Đó là Phật chứng tất cả hữu tình đều Như Lai tạng. Bởi tự thể của Phổ Hiền Bồ-tát là biến khắp, có thể chứng được Như Lai tạng khắp cả các hữu tình. Trí năng chứng đó, gọi là Biến kim cang trí. Nó hủy diệt tất cả chướng của sinh tử nhưng do Bi, n quán thân, lời nói, tâm, hạnh của các hữu tình, kẻ nào có thể cứu vớt thì ứng hiện mà cứu vớt; nên các hữu tình đều là kim cang tạng. Vì được tẩy rửa bởi kim cang tạng, nên đều là chánh pháp tạng. Tất cả chánh ngữ đều tùy chuyển nên đều là Diệu nghiệp tạng; tất cả sự nghiệp đều nương gia hạnh. Do quán hữu tình mà khởi ba nghiệp, cho nên gọi là quán tự tại. Với những kẻ nhớ nghĩ cầu mong, nếu cần phải làm cho lợi lạc, thì không sai thời, xứ, pháp, khí,... cho nên gọi là Đại quán tự tại. Ví như chuyện hiển hiện của Tỳ-khưu ni bậc Thánh ở nước Quy Từ.
- Câu thứ tư nói: "Quyết định các pháp Đại diệu trí ấn"; tức là giác môn thứ hai Tịch tĩnh pháp tính Bát-nhã lý thú hiện đẳng (pháp tính yên lặng, lý thú Bát-nhã hiển hiện ngang bằng) trong mười bốn đoạn dưới. Nói chung, tất cả các pháp không quá hai thứ: Một là trí; hai là Cảnh. Trí đó là trí Kim cang; cảnh đó là Nhất thiết pháp. Lại có hai loại: một là năng thuyên, hai là sở thuyên. Năng thuyên là pháp, sở thuyên là nghĩa. Nay hiển hiện Thế Tôn quyết định ngộ giải không có nghi hoặc trong hai loại các pháp; biết được trí đó, gọi là Đại diệu trí ấn. Trí ấn đó quyết định hai hai loại pháp, lìa các lưới nghi. Những kẻ phàm ngu chẳng thể đó đo lường được, gọi đó là "Diệu". Thần dụng khó lường, gọi đó là "Đại"; tức là Quán có trí ấn, định các pháp, không có nghi hoặc.
- Câu thứ năm nói: "Nhất thiết Như Lai, tất cánh không tịch, bình đẳng tính ấn"; tức là pháp môn thứ năm trong mười bốn đoạn sau. Pháp môn thứ nhất: "Tất cả các pháp thâm sâu vi diệu thanh tịnh". Pháp môn thứ tư: "Bình đẳng trí ấn thanh tịnh". Pháp môn thứ bảy: "Lìa các hý luận Luân tự". Pháp môn thứ tám: "Nhập vào bánh xe pháp rộng lớn tính bình đẳng". Pháp môn thứ mười một: "Tính bình đẳng tính tối thắng". Nghĩa là: Xưa kia vọng tưởng cho rằng các pháp là có; bây giờ đã lìa vọng tưởng, trừ bỏ mãi mãi sự chấp trược cái chấp đã không còn, những điều chứng được cũng đã đầy, các vọng đã vứt bỏ vĩnh viễn; gọi là thanh tịnh. Thể của các vọng tưởng đó rốt ráo rỗng không, các pháp thế gian và xuất thế gian, nhiễm ố và thanh tịnh đều rỗng lặng, Thể tính của sự rỗng lặng chính là chơn như, chính là tính bình đẳng của Nhất thiết pháp. Lý đó quyết định chắc chắn trong khắp các pháp, gọi đó là Ấn (khuôn dấu). Phật đắc được cái Như đó; tất cả đều tròn đầy, cho nên gọi là "khéo chứng".
Luận Trung biên khi giải thích [rốt ráo không] trong hai mươi thứ không là: "Vì thường làm lợi ích cho hữu tình mà quán không, nên gọi là rốt ráo không". Ý đó nói rằng: Vì hữu tình, cho nên quán riêng nơi không, hoặc quán những điều làm cho hữu tình là không, quán hữu tình đó rốt ráo bất khả đắc, rốt ráo tức không, gọi là rốt ráo không. Rốt ráo rỗng lặng này trong tất cả hữu tình, tất cả pháp tính ấn của chủ nhân và pháp bình đẳng chư pháp, định lý tất cánh không bởi vì kế sở chấp nay lý nhị không đều là tất cánh không. Cách giải thích đó, chính là ý nghĩa to lớn của pháp môn thứ nhất: "Tất cả pháp sâu xa, vi diệu, thanh tịnh". Bốn pháp môn còn lại, đều nói ở phần sau, e văn rườm rà cho nên không giải thích ở đây.
- Câu thứ sáu nói: "Ư chư năng tác sở tác sự nghiệp giai đắc thiện xảo thành biện vô dư": Đây là cái đức được nói trong pháp môn thứ mười "năng thiên điều phục trí tạng". Cái được điều phục là những lỗi lầm nhơ nhớp, phẫn hận, nghĩa là Thế Tôn đã tự điều phục được những lỗi lầm phẫn hận đó. Cũng có thể điều phục được những sai lầm nhơ uế của tất cả hữu tình. Những triền cấu khởi lên bởi những chuyện thiện ác lớn nhỏ đó, Như Lai đều khéo léo điều phục được, thành biện trí đó, tất cả đều hết không còn dư sót, cho nên chư Phật Thế Tôn, tự trí viên mãn, chế phục được mọi ác nạn và cũng có thể điều phục được các triền cấu, các hoạn nạn của các loài hữu tình; cũng làm cho họ đến được Bồ-đề; đó gọi là thiện xảo thành biên vô dư. Chính khả năng điều phục những triền cấu, mà những phương tiện có được đều thành biện, nên gọi là thiện xảo thành biện vô dư. Trí tuệ thiện xảo gọi là "Năng tác sự nghiệp"; những thứ phẫn hận được chế phục, gọi là "sở tác sự nghiệp". Lại nữa, phương tiện trí huệ gọi là "Năng tác sự". Nghiệp thân-khẩu-ý được chế phục, khiến xa lìa triền cấu, gọi là "sở tác sự". Đó là khen ngợi đức Thế Tôn có đủ phương tiện trí, khéo léo điều phục được những phẫn hận của mình và người; tất cả đều không có dư sót.
- Câu thứ bảy nói: "Đều thỏa mãn được hết thảy mọi sự mong cầu của tất cả hữu tình, nếu không có tội". Đó là pháp môn thứ mười bốn: "Thậm thâm lý thú tối thắng", trong mười bốn đoạn dưới. Có nghĩa là: Chư Phật Thế Tôn, do đủ Bát-nhã Ba-la-mật đa phương tiện thiện xảo, mà thành lập được thắng trí; khéo làm tròn tất cả sự nghiệp thanh tịnh, khiến cho các hữu tình đều được thanh tịnh. Vả lại, lấy tham để điều phục thế gian, phổ biến khắp mọi nơi, mọi lúc; cho đến khi các hữu tình đều được thanh tịnh tự nhiên sẽ điều phục. Những cái tham lớn thì sẽ đắc được tài sản lớn, niềm vui lớn thanh tịnh, tự tại trong ba cõi, thường luôn được kiên cố, nhiêu ích cho hữu tình, do Đà-la-ni đó.
Dùng ngôn từ bí mật thuyết thần chú đó; người hay thọ trì diệt được tất cả chướng, tùy theo tâm mong muốn, đều được thành biện. Lại còn nói rõ: Nếu ai lìa xa phiền não, nghiệp ác; thì các điều mong muốn trong thế gian, hoặc xuất thế gian, trong hiện tại hoặc sau này; bởi không có tội, đều được thỏa mãn. Còn nếu khởi những căn bản ác nghiệp phiền não, là có tội; như vậy các điều mong muốn đều không ban cho. Cho nên nói: Thế Tôn không đoạt tất cả các điều mong muốn của hữu tình, nhưng không phải đều ban cho khắp. Chủ yếu không có tội! Nếu khỏi phiền não và mong nguyện xấu, thì dù có chí thành đi nữa, cũng chắc chắn không ban cho! Như ngọc như ý, nếu phát những nguyện tốt, thì tất cả đều được.
- Câu thứ tám nói: "Đã khéo an trụ ba đời bình đẳng thường không đoạn tận, Quảng đại biến chiếu". Đó là pháp môn thứ mười ba: Vô biên vô tế cứu cánh lý thú kim cang trong mười bốn đoạn sau. Ý này nói chung về Bát-nhã Ba-la-mật đa, hoặc thể, hoặc dụng, rộng lớn, sâu xa, không khác, tối thắng. Do đó Như Lai là vô biên vô tế, một vị rốt ráo thông suốt. Có thể quán thể dụng quảng đại của Bát-nhã... là cho nên vô biên. Có thể biến chiếu cho nên là vô tế. Do không đoạn nên chi là nhất vị. Do vô tân nên cho là tối thắng. Cho nên năng quán trí, khéo biết ba đời, biết đời quá khứ vị lai giống như hiện tại, nên gọi là bình đẳng.
Vả lại, Quán Chiếu Trí vô biên vô tế nhất vị cứu cánh là có thể quán cả ba đời cả lý, cả sự, mọi việc rõ ràng đều khéo léo liễu đạt, cho nên gọi là bình đẳng. Về lý nhất tướng, cũng gọi là bình đẳng. Nếu lý hay sự đều liễu đạt được; cho nên nói bình đẳng tức thông cả lý sự.
"Thường không đoạn tận, quảng đại biến chiếu" là dụng của trí. "khéo an trụ"; trí năng quán. Diệu đạt ba tế gọi là khéo an trụ.
Trong lý và sự đều không sai loạn, gọi là khéo an trụ. Với mọi thời, trí dụng rõ khắp là ý đó vậy.
Câu thứ chín nói: "Thân, Ngữ, tâm tính giống như kim cương, ngang bằng chư Như Lai, không lay động, không hư hoại". Đó là pháp môn thứ sáu: "Như Lai trí ấn kim cang" trong mười bốn đoạn dưới. Hiển hiện đoạn thứ chín là pháp môn chơn tịnh cúng dường cao thượng. Phật nhiếp thọ đủ hết thảy Như Lai kim cang thân ấn thì năng chứng hết thảy pháp thân của chư Phật. Phật nhiếp thọ đủ ngữ ân kim cang của chư Phật thì với tất cả pháp đều được tự tại chuyển.
Nhiếp đủ tâm ấn kim cang của chư Phật, thì năng đắc tự tại với tất cả định.
Nhiếp đủ trí ấn kim cang của chư Phật, thì năng đắc vô thượng diệu thân ngữ tâm; giống như kim cương, không động, không hoại, không bị lung lay vì phiền não, không bị ngoại đạo Ma vương phá hoại; khiến ba nghiệp bi động hủy hoại. Vì ba nghiệp của Phật lấy trí làm người dẫn đường đi trước, nên lìa được lỗi lầm, không khởi lỗi lầm, cho nên gọi là không động hoại. Không động hoại nghĩa là cùng với công đức của tất cả chư Phật là không sai biệt; cho nên gọi là ngang bằng. Ngang bằng với Như Lai chính là diệu nghĩa của tất cả pháp môn mà Như Lai đã nói; nó như kim cương không thể động hoại; nó là ba nghiệp thù thắng. Do nhân xưa ba nghiệp đã như pháp cúng dường chư Phật; đã vì pháp cúng dường, cho nên đạt đến ngôi Phật, đắc quả Phật. Chơn tịnh cúng dường thì quả báo đạt được là không thể động hoại. Nghiệp đó chẳng bị lay động bởi bạn ác ngoại đạo; chẳng bị phá hoại bởi bọn tà thiên ma; cho nên nói giống như kim cương, phá diệt được tất cả ba nghiệp sinh tử. Tính của ba nghiệp chính là thể của ba nghiệp, không có nghĩa nào khác.
Chín câu trên hiển hiện về chư Phật Thế Tôn, với mười bốn đoạn kinh sau là để tỏ rõ công đức Phật. Nay ca tụng công đức Phật là để khiến cho chúng sanh biết Phật có đủ đức, mà khởi tâm tôn trọng, tôn kính nghe nhận; hoặc nghe rồi sẽ phát khởi thắng tâm, mong cầu chứng đắc; hoặc để tỏ rõ Thế Tôn có đủ các đức đó, siêu vượt tất cả. Do đó nghĩa lý sâu xa này là thù thắng nhất, có thể nương theo đó mà học.
Cách giải thích thứ hai:
Theo như trong kinh nói: Phật có đủ hai mươi mốt đức; biệt phối ngang bằng chín câu trên. Lời kinh: "Kim cang trụ trì bình đẳng tính trí". Đó là hiện hành không hai của chư Phật; là công đức thù thắng một mực không chướng ngại; là hiển hiện sự đạt được mau lẹ tính bình đẳng của tất cả chư Phật; là đạt được sự nghiệp thù thắng công đức tương tự với tất cả Phật.
Ở câu thứ nhất: Hiển bày chung hai đức; nghĩa là chư Phật Thế Tôn đã lìa xa sự hiện hành sinh tử khởi tạp nhiễm của hàng phàm phu trụ trong sinh tử. Đã lìa sự hiện hành Niết-bàn, một mực chối bỏ những việc làm lợi lạc cho người khác của hàng nhị thừa trụ trước Niết-bàn. Thế Tôn không có hai chướng hiện hành đó. Do đó gọi là hiện hành không hai (Bất nhị hiện hành). Vì bi và trí biến khắp; sinh tử và Niết-bàn cả hai đều không trụ, nên mới gọi là bình đẳng. Vì có thể phá được hai chướng trên, nên giả dụ là kim cương. Trụ ở chỗ không có chỗ trụ, không trụ Niết-bàn cho nên gọi là trụ trì. Trụ trì trí bi, cho nên mau chóng đạt được tính bình đẳng của tất cả chư Phật. Nghĩa là cái lý sở chướng ngang bằng với trí năng chứng, ngang bằng với cái thân được thành tựu. Nghiệp của ý và hạnh của bi đều ngang bằng nhau. Từ sự bình đẳng đó, có thể làm hư hoại được sinh tử, cho nên gọi là kim cang, bình đẳng làm sự nương theo, có thể giữ được các đức; cho nên gọi là trú trì. Ở đây chỉ nêu ra một thứ bình đẳng, sự ngang bằng đó là rất nhiều, cho nên gọi là chủng chủng công đức thù thắng".
Ở câu thứ hai kinh nói: "Quán đảnh bảo quan, vượt qua ba cõi, tức là ba công đức của Phật". Một là cái trí chánh đáng cần cầu của tất cả chư vị Bồ-tát; hai là cùng cực ở pháp giới; ba là sở hành vô ngại. Trong đó công đức đầu là thù thắng, thành tựu hạt giống Phật không dứt đoạn phương tiện; nghĩa là chư Bồ-tát vì khiến cho hạt giống Phật không bị đứt tuyệt, cho nên siêng tu thêm hạnh, chẳng phải như nhị thừa. Do đó, chỉ có trí của Phật mới chính là cái đáng mong cầu của chư Bồ-tát. Với pháp Quán đảnh này, ngôi vị con vua cũng chỉ ở địa thứ mười. Đội mũ báu Phật, nối ngôi vị của Phật, chẳng phải như nhị thừa; nghĩa là phải làm cho chúng sanh cầu nghe Bát-nhã, là loại kinh điển sâu xa, để thành tựu được chủng giác, cũng tức là tiếp nối được ngôi vị Pháp vương. Do đó, nếu các chướng phá diệt chúng sanh, không cho tu học kinh điển Bát-nhã, tức làm đoạn tuyệt hạt giống chư Phật. Ở câu thứ hai này là chứng đắc tướng của quả công đức thù thắng; nghĩa là đắc được pháp giới thanh tịnh cùng cực. Pháp giới cực tịnh đó, là kết quả của tu đạo, mà trong tâm thường hiện tiền sự quán chiếu; cho nên mới dụ là mũ báu đội ở trên đầu. Mũ báu là đồ trang sức của thân ở trên cao. Pháp giới cũng là gốc rễ của công đức; cho nên dụ là mũ báu.
Trong câu thứ ba: "Hàng phục ma oán công đức thù thắng". Nghĩa là những đó làm nhiễu loạn tâm, cho nên chướng ngại những việc thiện, gọi đó là ma oán. Chư Phật Thế Tôn tâm đã khéo an trụ cho dù ý cảnh ý vô cùng khoái vui thì cũng không thể loạn động được. Tất cả công đức rất khéo thành tựu tròn đầy. Tất cả cảnh giới xấu không thể làm ngăn ngại. Vì có thể chế phục tất cả cảnh giới; vì tất cả sự thực hành không bị ngăn ngại, lại lìa pháp trói buộc dính mắc; cho nên đạt đến ngôi Phật, vượt qua ba cõi. Đó là đức của Thế Tôn ở trong câu thứ hai. Từ vô thủy không thành, bây giờ mới bắt đầu đắc được, gọi đó là sự thu gặt.
Ở câu thứ ba: Trí kim cang biến khắp, đại quán tự tại, tức là ba đức của Phật: 1. Không thể chuyển pháp; 2. Trụ ở ngôi Phật; 3. Với tất cả hạnh, thành tựu đại giác.
+ Công đức đầu là công đức thù thắng, hàng phục ngoại đạo, nghĩa là tất cả ngoại đạo không thể làm chuyển lui chánh pháp của Phật. Hàng phục ngoại đạo rồi, hiển bày chánh đạo của chính mình. Vì đã thành tựu trí kim cang cùng khắp, thuyết pháp sâu xa, hàng phục được ngoại đạo. Nhờ thành tựu trí biến khắp các pháp, nên có thể thuyết pháp sâu mà hàng phục ngoại đạo; cho nên nói trí đó dụ như kim cang. Nói biến trí, đó là Nhất thiết trí biến các pháp.
+ Công đức thứ hai là công đức thù thắng quán sở hóa sinh, nghĩa là trụ đại bi, ngày đêm sáu thời quán sát thế gian.
+ Công đức thứ ba, với hết thảy thừa sở hóa hữu tình; là có thể tùy theo sở ưng của các hữu tình mà thị hiện công đức thù thắng của tự thân; nghĩa là hiểu rõ tính hạnh khác nhau của tất cả hữu tình, đúng như những sở ưng đó mà hiện tự thân; cho nên là đại quán tự tại. Vì nếu quán tâm hạnh khác nhau của hữu tình mà không được tự tại, thì không thể tùy loài mà hiện thân; do đó phải năng tùy ứng mà hiện. Từ đó mới biết Phật đủ trí biến khắp đại quán tự tại. Lại nữa, câu đầu nói: Trí kim cang khắp là trí của hai mươi mốt công đức; là câu tổng quát về tối thanh tịnh giác; đó là sự khai mở tánh giác chân chánh đối với những cảnh của tất cả hữu vi, vô vi sở ưng giác; vì khai mở tánh giác chân chánh là tịnh diệu tròn đầy. Khai mở tánh giác chân chính với tất cả tánh, đến tận tất cả tánh; cho nên gọi là trí kim cang khắp. Hai đức bây giờ đã hiển bày, gọi đó là đắc.
Ở câu thứ tư: "Quyết định các pháp đại diệu trí ấn"; nghĩa là trí này đến phần địa thứ mười đã đắc được một phần; bây giờ đã hiển bày sự đầy tràn, hiển hiện hai loại đức: Một là không có nghi trệ và nhất thiết Pháp trí. Hai là không có một tí nghi hoặc nào với các pháp trí. Ở đây, câu đầu là công đức thù thắng đoạn dứt tất cả sự nghi ngờ; nghĩa là đối với các pháp đã đắc, trí quyết định đoạn trừ tất cả nghi hoặc; cho nên câu hai năng khéo léo liễu đạt tất cả pháp trí", để có thể tùy theo đối tượng thích hợp mà luôn dạy bảo công đức thù thắng. Vì kẻ còn nghi hoặc các pháp, thì không có năng lực đề tùy theo đó mà dạy bảo. Chỉ có chư Phật Thế Tôn là chứng thấy các pháp với trí khéo quyết định, mới có thể tùy theo đối tượng thích hợp mà dạy bảo không ngừng nghỉ. Nếu không có những quyết định chắc chắn với các pháp; lý tất không được như vậy. Vả lại đắc được ba pháp ấn:
1. Các hạnh vô thường hữu vi biệt ấn.
2. Niết-bàn vắng lặng vô vi biệt ấn.
3. Các pháp vô ngã nhị pháp biến ấn. Ba diệu lý ấn này quyết định các pháp, là ấn của sự tôn xưng. Phật đắc được trí ấy, gọi đó là Trí ấn.
Câu thứ năm: "Rốt ráo rỗng lặng, bình đẳng tính ấn"; là hiển bày hai loại đức: Một là đắc "Phật vô nhị, trú thắng bỉ ngạn". Hai là chứng vô trung biên, Phật địa bình đẳng". Trong câu thứ nhất là công đức thù thắng phần tự tính thân, Phật vô nhị trú tức là chơn như pháp thân làm thể, không có tướng sai biệt. Ở trong ấy, tất cả sự phân biệt về hai tướng đều không hiện hành; mà duyên với thắng định kia để thường trú ở trong ấy. Cho nên gọi là trú; tức trú không hai, gọi là thắng bỉ ngạn. Phật đã đến nơi, nên gọi là đắc. Chư Phật cùng với pháp thân đó, tính nó bình đẳng. Chủ yếu phải trừ hai ngã, quán hai ngã là rỗng lặng, mới bắt đầu viên chứng. Câu thứ hai là công đức thù thắng chứng chơn như tướng. Nghĩa là: Tướng chơn như xa lìa tất cả tướng hữu vi, vô vi, mé giữa; xa lìa tướng trên dưới nơi chốn, tức là pháp tính bình đẳng Phật địa. Từ sự chứng ấy, mới biết khắp các pháp, ở trong các pháp nhưng không nhiễm, lý chơn như đó, ấn với các pháp, khế hợp với rốt ráo rỗng không mới chứng hiểu được chư Phật đều là viên chứng.
Câu thứ sáu: "Đối với các năng tác, sở tác sự nghiệp đều thành biện một cách khéo léo không dư sót". Đó là hiển bày hai loại công đức của Thế Tôn: Một là; thân Phật trải khắp tất cả thế giới. Hai là; những điều được thành lập thì bất khả tư nghì. Câu thứ nhất là công đức thù thắng hiện xuống từ cung trời Đổ Sử Đa, có nghĩa là hóa thân hiện khắp tất cả các châu các đảo của thế giới, rồi cùng lúc nhập vào bụng mẹ; đó tức là tám tướng, thị hiện thành đạo; đó chính là những sự nghiệp Thế Tôn đã làm đều được thiện xảo. Hóa thân đủ như vậy; những báo thân cũng sẽ tùy đối tượng thích hợp mà hóa hiện, lý nó cũng như vậy. Với câu thứ hai, đó là công đức thù thắng an lập pháp giáo. Nghĩa là Phật đã an lập tất cả pháp giáo, vượt qua tất cả cảnh tầm tư. Nên gọi đó là sự nghiệp đã làm và đã đạt được thiện xảo. Phật nhân ba kiếp tu, vốn là vì hữu tình nên hiện thân thuyết pháp, làm lợi ích lớn. Nay đã viên mãn, cho nên gọi là đã thành tựu một cách khéo léo không dư sót.
Ở câu thứ bảy: Các loại hy vọng mong muốn của tất cả hữu tình, tùy theo sự vô tội của họ, đều được thỏa mãn. Đó là hiển bày hai loại công đức của Thế Tôn: Một là hướng tới pháp vô tướng. Hai là không xen kẻ nhau. Như Lai giải thoát, diệu trí rốt ráo. Trong câu đầu là nêu công đức thù thắng về phương tiện điều phục. Pháp vô tướng chính là Niết-bàn. Phật khéo biết rõ các hữu tình trong ba thừa, cả những thứ mà họ có thể kham chịu được, rồi dùng phương tiện mà điều phục. Vì họ mà thuyết như thật, khiến cho họ hướng tới, chứng được pháp vô tướng. Ý nói: Là tất cả hữu tình, mong cầu ra khỏi sinh tử, đều đắc được Niết-bàn. Những mong nguyện tốt đẹp của ba thừa, nhờ vô tội, Phật đều có thể làm thỏa mãn. Công đức thứ hai là công đức thù thắng thọ dụng phần thân. Nghĩa là thân thọ dụng, không xen kẻ lẫn nhau; vì mỗi thân thể mà tất cả Như Lai thọ dụng đều khác nhau. Diệu trí của Như Lai có thể khiến cho tất cả hữu tình được giải thoát; gọi là Như Lai diệu trí giải thoát. Phật đối với trí đó, đã đạt được sự rốt ráo. Trí đó của Như Lai không xen tạp nhau. Hiện thân thọ dụng ở cõi Phật, cũng không xen tạp nhau. Trong hội đại tập, hiện các loại thân để hưởng dụng pháp lạc với các Bồtát, cũng không xen tạp nhau. Như Lai với những thân những trí đã hiện ra đó đều đạt đến chỗ rốt ráo. Ý này nói: Trí của Như Lai và các thân đã hiện từ trí ấy, đều là cứu cánh. Tùy theo sự mong muốn, sự vui thích vô tội của các hữu tình; Phật đều có thể vì họ mà hiện phương tiện để cứu họ lìa khỏi sanh tử; cho nên gọi là thỏa mãn. Ở câu thứ tám: "Đã khéo an trụ ba đời bình đẳng (quá khứ, vị lai, hiện tại ngang bằng) thường không đoạn dứt hết tận mà rộng lớn chiếu khắp". Đó là ba loại công đức của Thế Tôn: Một là, dạo chơi với pháp tính ba đời bình đẳng. Hai là; tận cả tính hư không. Ba là; cùng tận bờ mé vị lai. Công đức đầu là công đức thù thắng riêng biệt ghi nhớ ba đời; nghĩa là hiện nay ghi nhớ phân biệt từng việc trong kiếp trước, kiếp sau, không bị trở ngại. Ví như ký biệt rằng Bát-nhã ở phương Đông Bắc, khi mới bắt đầu thì bị diệt, nhưng cuối cùng sẽ hưng thịnh. Cho đến các việc như khi chánh pháp đã bị diệt tận; ký biệt rằng pháp sẽ bị diệt ở nước Thiền Ba. Như việc, khi chánh pháp đã bị tiêu diệt, kinh thường rông nói về tướng. Lại còn ký biệt rằng; nếu khi thân của Bồ-tát Nhị Thạch bên cây Bồ-đề diệt tận, thì chánh pháp sẽ diệt, cho đến nay vẫn chưa nghiệm. Việc ghi nhận A-thu-già làm Luân Vương thì đã chứng rõ. Hai công đức sau là công đức thù thắng tự lợi lợi tha vô tận. Nghĩa là như hư không, trải qua hoại kiếp, tính vẫn thường vô tận. Tất cả công đức chân thật của Như Lai cũng lại như vậy là thường vô đoạn tận. Cho đến suốt cả vị lai sau này, thường làm những việc lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, cho nên gọi là chiếu khắp rộng lớn; tức là không bao giờ dứt đoạn sự chiếu dụng của công đức chân thực.
Ở câu thứ chín: "Thân, ngữ, tâm tính giống như kim cương, ngang bằng với chư Như Lai, không động, không hoại". Đó là nói hai loại công đức của Thế Tôn: Một là đến nơi vô ngại. Hai là không thể phân biệt những thân hiện ra.
+ Công đức đầu là công đức thù thắng đã tu tất cả kiết sử chướng ngại đối trị. Nghĩa là đã tu tập tất cả hai chướng đối trị với Thánh đạo; đã đến nơi chốn mà tất cả chướng được giải thoát; làm chỗ nương dựa, chỗ ở; cho nên gọi là nơi chốn (xứ). Do vậy tất cả ba nghiệp của Như Lai đều là thiện vô lậu; giống như kim cương trước tất cả chư Phật mà chẳng có một tí lay động, hư hoại nào cả!
+ Công đức thứ hai là có thể nhiếp thọ một cách chân chánh công đức thù thắng tự thân vô nhiễm; nghĩa là tự thân Phật chẳng phải là sự phát khởi do hư vọng phân biệt; không có sự tạp nhiễm sinh ra bởi phiền não; thân Như Lai chẳng phải do sự tạp nhiễm phân biệt khởi lên; nên không thể phân biệt. Ba nghiệp của Phật, bởi đã xa lìa sự lỗi lầm, nên không lay động, không hư hoại, giống như kim cương, ngang bằng với tất cả chư Phật.
Trong chín câu trên, nói chung đều khen ngợi hai mươi mốt đức, phần giải thích là dựa vào cuốn "Phật địa sơ thích". Sợ văn rườm rà, nên không sao chép thêm lời trích dẫn các bậc thầy sau này như các Luận Nhiếp Đại thừa, ở đây không thể mỗi mỗi đều nêu ra.
Cách giải thích thứ ba:
Trong chín câu trên, bốn câu đầu là ca ngợi báo thân; cụ thể là câu thứ nhất ca ngợi chung về bốn trí vi diệu viên mãn; là thật đức của báo thân chẳng kể pháp giới. Câu thứ hai ca ngợi Đạo hơn cả ngôi vua. Câu thứ ba ca ngợi Bi sâu trí khắp, hai quả đều tròn trịa. Câu thứ tư ca ngợi đức rộng lớn trí tuệ; nói chung ký biệt tất cả cókhông-lý-sự và chứng không sai lầm. Câu thứ năm ca ngợi chiếu tịch đoạn đức, tức là ca ngợi pháp thân. Bốn câu tiếp theo ca ngợi về Hóa thân; cụ thể là câu thứ sáu ca ngợi về ơn đức khéo thành. Câu thứ bảy ca ngợi chung về thần thông luân có thể làm mãn nguyện lành. Câu thứ tám ca ngợi về tâm ghi nhớ luân chuyển vì người mà thuyết pháp. Câu thứ chín ca ngợi về lậu tận luân; có thể hiện rõ việc lìa nhiễm, truyền dạy răn bảo.
Ở câu thứ nhất: ca ngợi chung về sự vi diệu viên mãn của bốn trí trong thật đức báo thân của Phật. Nói kim cang là tổng dụ cho bốn trí, là chỗ nương dựa của chơn như. Tính nó có thể làm hư hoại nên cùng tên với kim cang; nhưng chẳng phải vì vậy mà có tác dụng làm hư hoại. Nói trú trì tức là viên kính trí, tức là chứng sự trú trì của chơn như kim cang, đó là gốc căn bản của các thiện trong thế gian và xuất thế gian, lại còn làm căn bản cho các trí khác, cho nên gọi là trú trì. Dựa theo kinh Phật địa, có chín thí dụ về gương tròn: Dụ thứ nhất là nhờ vào tấm kính tròn mà các hình ảnh hiện ra; là dụ cho gương trí Như Lai, các hình ảnh xứ, cảnh, thức đều hiện rõ; do đó mà gọi là Nhất thiết trí. Các đức của thân Phật đều trú trì ở đó. Lại nữa, do gương trí tự dư tương tục nên các xứ, cảnh, thức thiện của thế và xuất thế đều nương vào như gương trí để được sinh ra, vì vậy mà gọi là trú trì. Dụ thứ hai là gương tròn thì không lay động. Chúng sinh quán sát sự được mất của tự thân là vì muốn giữ lại đức, xả bỏ các lỗi lầm, nên lấy gương trí Như Lai treo trên cờ hiệu pháp giới là dụ cho sự không gián đoạn, chẳng lay động. Vô số chúng sanh quán về tịnh, nhiễm, là vì muốn lưu giữ tịnh, xả bỏ các nhiễm. Dụ thứ ba là như gương sáng sạch thì ánh sáng soi khắp; dụ cho trí Như Lai đã lìa nhơ nhớp của hai chướng, nhờ sự mài giũa, nhiếp trì do định mà sáng soi làm các việc lợi ích lớn, gọi là ánh sáng chiếu khắp. Dụ thứ tư là như gương phải nương vào bản chất đồ vật mà có nhiều loại hình tướng sinh khởi. Dụ cho gương trí Như Lai là phải luôn nương vào duyên để cho ảnh, tướng của trí cùng sinh. Dụ thứ năm là mặt gương trong suốt, làm chỗ nương khởi cho các hình ảnh ở mọi nơi chốn; dụ cho gương trí Như Lai là chẳng dứt, là vô lượng thiện hạnh trong sạch, làm nơi nương duyên cho các hình ảnh của trí trong ba thừa. Dụ thứ sáu là các hình ảnh núi, sông, cung điện, nhà cửa trong gương, nhưng diện tích của ảnh trong gương không lớn bằng các cảnh thật, là dụ cho hình ảnh mười địa hiện ra trên gương trí Như Lai, tất cả hình ảnh của thế gian và xuất thế gian đều hiện ra, nhưng trí thì khác với phân lượng kia. Dụ thứ bảy là như gương tròn chẳng hiện những hình ảnh không phải là vật chất. Dụ cho gương trí Như Lai là chẳng hiện khởi ảnh trí của chúng sanh bị chướng ngại vì theo những giáo điều không đúng chánh pháp. Dụ thứ tám là gương ở chỗ tối thì không hiện hình ảnh. Dụ cho gương sáng Như Lai là chẳng hiện khởi ảnh trí những chúng sanh ngu muội thích ác; vì ngu muội nặng nề, dù có ruộng tốt Tam bảo sinh ra tất cả pháp thiện, nhưng lại không muốn nghe nhận, không thích quy y, lại tin vào ngoại đạo, ngu si quá nặng che lấp, cho nên gọi là phi khí (phi khí). Dụ thứ chín là gương tròn thì chẳng hiện các hình ảnh của các đồ vật ở xa bị che lấp. Dụ cho gương trí Như Lai là chẳng hiện những ảnh trí của các chúng sanh không có niềm tin, do kiếp trước đã phỉ báng kinh chánh pháp, vô lượng kiếp đã không nghe chánh pháp, bị chướng bởi nghiệp của chính mình hoặc vì không có tánh, không tin nhân duyên chẳng phải là pháp khí của bậc Thánh, cho nên chẳng duyên với họ.
Từ chín thí dụ đó, khéo làm nhân duyên với những đối tượng thích hợp thân mình và người, có tánh hay không có tánh, vì là nhân duyên với thế gian và xuất thế gian; cho nên gọi là trú trì.
Trí Tính Bình Đẳng; đó là mười bình đẳng:
1. Pháp tính bình đẳng với các tướng vui thích tăng thượng. Nghĩa là sinh vui thích với các tướng tốt đẹp; bây giờ đã chứng được pháp tính nên thảy đều ngang bằng.
2. Pháp tính bình đẳng với tất cả sự lãnh thọ duyên khởi; nghĩa là duyên khởi cả bên trong lẫn bên ngoài.
3. Pháp tính bình đẳng với sự xa lìa các dị tướng và phi tướng. Các hiện tượng thay đổi hư hoại khác nhau của các sắc, gọi là dị tướng; xa lìa các hiện tượng riêng biệt khác nhau đó, gọi là cộng tướng. Cộng tướng như vậy là lấy phi tướng làm tướng tức là tính bình đẳng của pháp; cho nên kinh có nói: "Tất cả các pháp đều đồng một tướng, đó gọi là phi tướng".
4. Pháp tính bình đẳng hoằng tế đại từ. Từ có ba loại:
- Một là hữu tình duyên; lấy sự duyên theo với hữu tình làm cảnh; đó là cảnh tu của Bồ-tát mới bắt đầu phát tâm.
- Hai là pháp duyên; duyên với chánh pháp làm cảnh; đó là pháp tu hầu hết của Bồ-tát chánh hạnh bởi duyên với giáo mà sinh.
- Ba là vô duyên; Lấy duyên với chơn như làm cảnh; đó là pháp tu của Bồ-tát vô sanh nhẫn. Từ này tuy có cái để duyên vào nhưng vì duyên với pháp giới; nên cũng gọi là vô duyên, vì không phân biệt. Chư Phật đều có đủ phước nghiệp bình đẳng, mãi không gián đoạn ân trọng vô dư; cho nên gọi là hoằng tế.
5. Pháp tính bình đẳng, đại bi không có sự đối đãi. Cái bi của nhị thừa không nhổ hết tất cả, chỉ nhổ dục giới tạm thời mà chuyển. Còn Như Lai thì nhổ khắp, duyên theo khắp cả ba giới, thường chuyển, không có chỗ xem xét đối đãi, thường cứu không xả bỏ, nhổ ba khổ của hữu tình, xem tất cả hữu tình như con một không sinh phân biệt đó là con mình hay chẳng phải là con mình mà cứu hay không cứu. Như Lai chứng đắc đại Bồ-đề thường nghĩ: "Ta luôn an lập căn bản các thiện của tất cả hữu tình, nếu kẻ nào chưa ngộ, ta sẽ khai ngộ". Đó là ba loại từ đã được nói tới.
6. Tùy theo sự vui thích của chúng sinh mà thị hiện Pháp tính bình đẳng. Như Lai tuy ở ngôi không có hý luận, nhưng bởi lực tăng thượng của Trí bình đẳng, nên đại viên cảnh trí tương ưng với tịnh thức mà hiện rõ các sắc thân vi diệu trong suốt như lưu ly, khiến cho thiện căn của các hữu tình thành tựu, tự tâm biến tựa như là thân tướng; có nghĩa là tự tâm thấy bên ngoài thân Như Lai.
7. Tất cả hữu tình kính cẩn thọ nhận Pháp tính bình đẳng đã thuyết. Tùy theo sự vui thích của chúng sanh, ngữ nghiệp như vậy, mà phát sinh hoan hỷ. Như Lai tức hiện, do vì bi nguyện cho nên thuyết ắt xứng với cơ, không uổng phí. Tuy có chúng sanh không thuận theo lời Phật, đó là hóa tác hoặc sẽ có ích, sau này tất tin nhận.
8. Thế gian tịch tĩnh đều đồng một vị Pháp tính bình đẳng. Năm uẩn Hữu lậu gọi là thế gian, ngay đó ngừng diệt gọi là tịch tĩnh, sinh tử và Niết-bàn, cả hai đều bình đẳng, nên gọi là một vị. Lại nữa, cái mà thế gian chấp bổn tánh không có, nên gọi là tịch tĩnh, ngay cái đó hiển bày NHƯ không có sai biệt cho nên gọi là một vị.
9. Các pháp thế gian khổ vui một vị Pháp tính bình đẳng. Thế gian có tám sự: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, ky, khổ, lạc. Đạt được việc vừa ý gọi là lợi; mất đi việc vừa ý gọi là suy; chê bai sau lưng gọi là hủy; khen ngợi sau lưng gọi là dự; khen ngợi trước mặt gọi là xưng; chê bai trước mặt gọi là ky; bức não thân tâm gọi là khổ; thân tâm sướng thích gọi là lạc. Thánh nhân ở trong đó mãi thường một vị, được lợi không tự cao, gặp suy không hạ thấp, cho đến gặp khổ không lo, được lạc chẳng yêu thích. Ưng như hư không, bình đẳng một vị.
10. Tu thực vô lượng công đức, rốt ráo bình đẳng Pháp tính. Công đức tức là Bồ-đề phần. Huân trồng, nuôi lớn, thành thục, giải thoát, gọi là tu thực.
Đủ cả mười đức trên gọi là Trí tánh bình đẳng.
Lại còn có hai thứ bình đẳng: Tất cả hữu tình bình đẳng và chư Phật bình đẳng. Theo "Nhiếp Đại thừa" giải thích: chuyển đệ thất (thức mà) đắc. Nhân xưa kia có ngã. Đây và kia không ngang bằng; nay đã lìa Ngã, cho nên gọi những điều đó là bình đẳng.
Câu "Nhiều loại công đức thù thắng hiếm có" chính là Trí diệu Quán và Trí thành sự. Mỗi trí đều có mười nhân:
Mười loại nhân của Trí Diệu Quan Sát là:
1. Nhân Kiến lập: Trí này trú trì tất cả Đà-la-ni-môn, Tam-ma-địa-môn, biện thuyết vô ngại những diệu pháp của chư Phật, ngang bằng với mười lực.
2. Nhân Sinh khởi: Trí này có thể bất chợt khởi tất cả những cái biết vô ngại diệu trí, chủng chủng vô lượng nhân duyên, tướng, thức. Nghĩa là Nhất thiết trí có thể bất chợt biết rõ tất cả cảnh tướng; tất cả cảnh tướng bất chợt khởi sinh ra nhân.
Nhân Hoan hỷ: Trí này rất đáng quý, trang nghiêm cho Ba-la-mật đa; pháp Bồ-đề phần; thập lực, vô úy, mười tám pháp bất cộng của Phật; rất được yêu thích.
3. Nhân Phân biệt: Trí này trở lên lấy sự suy thịnh nhân quả của Thế và xuất thế, ba thừa viên chứng, vô dư. Quán sát diệu sức gián liệt; thế gian thì lấy cõi dữ cõi lành làm nhân quả suy thịnh, xuất thế lấy nhị thừa Đại thừa làm nhân quả suy thịnh. Còn có một giải thích khác như ở Phật địa thứ năm.
4. Nhân Thọ dụng: Trí này giúp trí bình đẳng làm duyên tăng thượng, kích phát gương trí, tương ưng với tịnh thức hiện rõ thân thọ dụng, ở nhiều hội chúng, oai đức hừng hực, mưa những cơn mưa pháp lớn, làm cho chư đại Bồ-tát thập địa thọ nhận niềm vui đại pháp; cũng trợ giúp thành trí, hiện thân biến hóa và làm cho địa tiền sở hóa thọ dụng niềm vui pháp.
5. Nhân Thú sai biệt: Trí này trở lên nhân quả vô biên, năm sai biệt, hiển hiện đầy đủ.
6. Nhân Giới sai biệt: Trí này trở lên nhân quả vô biên, ba cõi sai biệt, đều hiển hiện đầy đủ.
7. Nhân của mưa các cơn mưa pháp lớn: Trí này trở lên, được dẫn dắt do oai thần của chư Phật Bồ-tát; có thể đạt được giáo pháp thâm sâu rộng lớn.
8. Làm nhân cho sự hàng phục oán địch: Trí này trở lên tất cả thiên ma, ngoại đạo, di luận không thể làm lay động, giáo pháp có thể đắc được pháp giới thâm sâu.
9. Làm nhân đoạn dứt tất cả nghi: Trí diệu quán sát không bị ngu bởi sự vây nhiễu của tất cả tự tướng, cộng tướng, trong đó nó quảng biện rõ thể của tự và cộng tướng.
Mười thứ nhân trên, tướng của chúng được nói rộng trong "Luận Phật địa".
Mười thứ nhân của Trí Thành Sở Tác. Đó cũng là ba nghiệp hóa:
1. Hóa độ bằng thân nghiệp: gồm có ba loại:
- Hóa độ bằng hiện thần thông: Nhờ đó mà Như Lai thị hiện nhiều loại công xảo để chế phục các chúng sanh ngạo mạn; nhờ sức phương tiện hay khéo đó, mà dẫn dắt chúng sanh nhập vào thánh giáo, thành thục giải thoát.
- Hóa độ bằng hiện thọ sinh: Nhờ đó mà Như Lai đến những nơi sinh sống của các loài chúng sanh; thị hiện cùng loài, ở ngôi tôn quý do sự thị hiện cùng loài đó, cho nên nhiếp phục tất cả chúng sinh khác loài.
- Hóa độ bằng hiện nghiệp quả: Nhờ đó Như Lai thị hiện lãnh nhận những bổn sự bổn sanh, khó tu, khó thực hành. Trong "Khế kinh" nói: Như Lai kiếp trước, thời đức Phật Ca Diếp, đã mắng rằng: "Nơi Sa-môn cạo bỏ râu tóc là có đại Bồ-đề sao? Vô thượng Bồ-đề là rất khó được. Do ác nghiệp mà nay phải chịu quả khổ khó thực hành như vậy!" lời nói đó là để chặn đứng những hành vi xấu, hiện hóa sở tác. Nếu không như vậy làm sao một đời hệ thuộc! Bồ-tát đã từng chính mình phụng sự vô lượng Như Lai, trồng các gốc thiện, tánh nhớ được kiếp trước, mà còn nói những lời không hay. Phải biết lời nói đó, là vì muốn hóa độ, muốn cho kẻ nghe lời đó được độ; vì muốn được ở chỗ Phật để lìa lời nói đó.
2. Hóa độ bằng ngữ nghiệp: cũng có ba loại:
- Hóa độ bằng lời khánh úy: Nhờ đó mà Như Lai tuyên thuyết những pháp tùy theo sở thích, lời và nghĩa hay khéo, chúng sanh trí nhỏ, mới nghe còn tin, nghĩa là âm thanh lời nói của đức Phật đủ sáu mươi đức, phàm phu ngu huệ, mới nghe qua đã tin hiểu, huống nữa là những người thông minh tuệ trí.
- Hóa độ bằng lời phương tiện: Do những lời ấy mà Như Lai lập nên học xứ chân chánh, chê bai sự phóng túng, khen ngợi sự không buông thả. Lại còn kiến lập tùy pháp hành cho những người tùy tín hành. Tất cả đều do đại bi. Vì các hữu tình mà an lập học xứ, chế phục các điều ác, tu các điều lành ở thế gian, an lập thánh đạo, chia ngôi vị khác nhau; làm cho các loài hữu tình nhập vào chánh đạo, ra khỏi ba cõi.
- Hóa độ bằng lời biện yết: Nhờ đó mà Như Lai chặt đứt vô số nghi hoặc của các chúng sanh. Nghĩa là trí hành sự; tùy theo ý ưa thích khác nhau của các chúng sanh mà hiện hóa ngữ nghiệp, nói nhiều loại nghĩa lý, chặt đứt các nghi hoặc. Đó là phát ra một âm thanh mà biểu đạt tất cả nghĩa lý, làm cho các hữu tình được ích lợi tùy theo loài của mình. Phật lấy một âm thanh mà diễn thuyết các pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loài đều hiểu được; được như vậy là do lực bất tư nghì dẫn ra từ bổn nguyện của Như Lai. Nếu là hóa thân, chỉ một chất, mà mỗi loài mỗi thấy khác nhau, làm thành sự lợi lạc.
3. Hóa độ bằng ý nghiệp: có bốn thứ:
- Hóa độ bằng ý Quyết trạch: Nhờ đó mà Như Lai chọn lựa một cách chắc chắn trong tám vạn bốn ngàn tâm hạnh khác nhau của chúng sanh. Nghĩa là tám mươi bốn ngàn bụi trần tâm hạnh khác nhau của chúng sanh, làm chướng ngại cho tám mươi bốn ngàn Ba-la-mật đa, Đà-la-ni-môn, Tam-ma-địa,... như trong kinh Hiền Kiếp đã nói về các tướng của chúng: Từ lúc bắt đầu tu tập "hành pháp Ba-la-mật đa" cho đến lúc cuối cùng "Phật thể Ba-la-mật đa" chia làm ba trăm năm mươi phần, mỗi phần đều có sáu đáo bỉ ngạn; như vậy tổng cộng có hai ngàn một trăm. Đối trị tham, sân, si và tám ngàn bốn trăm tâm hành khác nhau của các hữu tình; trừ bốn đại chủng và sáu lỗi lầm đã sinh bởi vô nghĩa, chuyển mười lần, hợp với số tám vạn bốn ngàn. Bởi tu tập ở đó, sau này được thành tựu tám vạn bốn ngàn Đà-la-ni-môn, Tam-ma-địa, v.v... đó chỉ là tóm lược, suy rộng ra thì vô lượng.
- Hóa độ bằng ý tạo tác: Nhờ đó mà Như Lai quán những hạnh mà chúng sanh thực hành; thực hành hay không thực hành, đức hay là lỗi lầm; để khiến lấy hay bỏ, mà tạo các pháp đối trị. Nghĩa là quán sát hành vi của tất cả hữu tình. Nếu là các hành vi xấu, thì không làm là có đức mà làm thì có lỗi. Nếu là các hành vi tốt; làm thì có đức, không làm là có lỗi. Quán sát như vậy vì muốn khiến họ lấy đức mà bỏ lỗi lầm. Với đức thì tạo tác sự giữ gìn, với lỗi lầm thì tạo tác sự xa lìa.
- Hóa độ bằng ý phát khởi: Nhờ đó mà Như Lai tuyên thuyết khi muốn đối trị kia, cho nên nói những câu mà họ thích. Nghĩa là tùy theo những điều mà chúng sanh thích, thuyết các pháp khiến họ phát khởi sự yêu thích mà phát sanh đối trị.
- Hóa độ bằng ý thọ lãnh: Nhờ đó mà Như Lai với định hay không định, hỏi ngược lại để ghi nhớ, làm thành sự ghi nhớ riêng về kiếp trước kiếp sau. Cho nên tùy theo những sở ưng đó mà thọ lãnh nghĩa của quá khứ, vị lai, hiện tại. Bốn thứ hóa độ bằng ý nghiệp này; một mực xưa nay vẫn phân biệt phản vấn ghi nhận bốn loại luận thuyết. Nghĩa là ruộng phước Tam Bảo ngang bằng với sự hóa độ bằng ba nghiệp trên; cũng chính là ba thần biến, nghĩa là thần thông ghi nhận ba loại: thuyết, giáo, giới. Từ ý nghĩa đó, cho nên gọi chư Phật Thế Tôn là Đại Thánh Trí Dược (thuốc trí của đại thánh), có thể trừ tất cả bệnh phiền não.
- Trí Diệu quán sát và Trí Thành sở tác; mỗi trí đều có mười nhân, cho nên gọi là "chủng chủng hy hữu công đức". Câu này hiển bày chung về thật đức của báo thân cho nên lấy bốn trí làm phần chú thích đầu tiên, còn đức của các hữu tình ở cõi sắc và phi sắc, đều nhiếp ở các loại phẩm của bốn trí.
Ở câu thứ hai: "Quán đảnh mũ báu vượt qua ba cõi". Câu đó ca ngợi Đạo hơn cả ngôi tôn quý. Ra khỏi địa thứ mười, với ngôi quán đảnh, đã đội mũ báu của Phật, diệu trí thù thắng, thân tịnh vô lậu; đã lìa sự trói buộc, chẳng bị nhiếp bởi các giới; gọi là vượt qua; do đó mà ngôi nhị thừa, dị sinh ngoại đạo đều thấp kém hơn. "Thập địa" nói: "có cõi Tịnh độ vượt khỏi ba cõi, Bồ-tát địa thứ mười sẽ sinh ra ở trong ấy. Nơi chốn ấy không lìa ba cõi, vì đã lìa sự trói buộc; nên gọi là siêu vượt, chẳng bị ở kia gồm thâu. Thân Như Lai cũng lại như vậy, chẳng phải hữu lậu nên gọi là vượt qua, chẳng phải lìa ba cõi sinh ra ở nơi khác.
Ở câu thứ ba: "Trí kim cang khắp, đại quán tự tại" là ca ngợi bi sâu trí rộng, hai quả đều tròn đầy trong nhân tu hành lợi mình lợi người. Bi trí làm nhân, đạo quả thành mãn. Quả đã thành, biết rõ các pháp, gọi là trí kim cang khắp. Năng chứng trí khắp, Năng diệt hai chướng nên dụ là kim cang; hoặc đã phá được hai chướng kiên cố khó hư hoại cũng dụ là kim cang. Năng chứng Biến, phá, giống như kim cang. Sở tri phiền não nhờ diệu trí chân thực; gọi là trí kim cang khắp. Đắc trí giác đó, có thể từ bi cứu vớt tất cả hữu tình. Lợi mình làm trí tròn đầy, lợi người làm bi đầy đủ gọi là Quán tự tại. Tùy theo chúng sanh đó, với ba nghiệp mong cầu mà thương xót cứu vớt ngay không bỏ sót, gọi là Đại quán tự tại. Hiển bày các đức của Phật không ngoài hai thứ trên.
Ở câu thứ tư: "Quyết định các pháp, đại diệu trí ấn" là ca ngợi sự rộng lớn của Tuệ và đức của Trí. Ấn chung tất cả có-không-sự-lý, thì chứng không sai lầm. Trí có hai loại. Hai loại vô tri đã dứt hết, cho nên đắc được hai trí. Trí hữu vi có thể biết hữu vi nhất định là vô thường. Trí vô vi có thể biết vô vi nhất định là vắng lặng. Hai vô ngã đó, ấn định pháp như thế, tất không còn do dự! Xử dụng rộng lớn, cho nên gọi là Đại diệu trí ấn. Nếu không có trí đó, thì đối với pháp không thể khởi trí quyết định.
Ở câu thứ năm: "Rốt ráo rỗng lặng, bình đẳng tính ấn"; là ca ngợi sự chiếu soi tịch lặng, đoạn dứt các đức. Là ca ngợi pháp thân, phải dứt hai chướng, mới chứng hai không. Lý của hai không ấn định các pháp. Các pháp bình đẳng đều do hai không, do hai không môn mà chứng pháp tính đó, gọi là tính bình đẳng. Còn rốt ráo không chỉ có thể nhập môn, chẳng phải là tính bình đẳng. Tính bình đẳng là thể của chân như, phi không phi hữu; nay theo phương tiện mà nói là rốt ráo không; bởi chứng đắc được từ quán hữu tình là rốt ráo không. Phật đã đắc trọn, cho nên gọi là chứng.
Ở câu thứ sáu: "Với các năng tác, sở tác sự nghiệp đều làm được một cách hay khéo, không có dư rớt". Sau bốn câu ca ngợi hóa thân; câu này ca ngợi ân đức khéo thành. Nghĩa là chư Phật Thế Tôn với sự nung nấu bởi đại bi, vì lợi ích cho hữu tình mà hiện phương tiện báo thân hóa thân; như thuyết pháp thích hợp làm lợi lạc cho cả hàng Bồ-tát và nhị thừa. Trí bình đẳng đó kích phát trí gương, vì chư Bồ-tát mà hiện tha báo thân, dùng trí Diệu quán sát thuyết pháp ở trong đó, để chặt đứt các lưới nghi. Trí thành sở tác kích phát trí gương khởi thân biến hóa vì nhị thừa mà hiện hóa thân ngữ; ở trong ấy, dùng trí diệu quán sát thuyết pháp, để chặt đứt các lưới nghi. Trí thành sở tác thị hiện sự hóa độ bằng ba nghiệp, gồm mười loại. Mười loại đó được giải thích như những đức chung trong câu đầu. Trí thành sự này và trí tính bình đẳng gọi là năng tác sự nghiệp. Những việc làm của trí bình đẳng trong mười thứ hóa độ là sở tác sự nghiệp. Thế Tôn đối với năng tác và sở tác đều thành tựu khéo léo không dư sót; tất cả đều được đầy đủ hay khéo.
Ở câu thứ bảy: "Những hy vọng mong muốn của tất cả hữu tình, tùy theo sự vô tội của họ đều được thỏa mãn"; là ca ngợi sự luân chuyển thần thông của Phật có thể thỏa mãn những mong nguyện tốt lành của chúng sanh. Do Phật có đủ oai lực thần thông; tất cả hữu tình ở thế và xuất thế, những điều mong nguyện vô tội, đều có thể thỏa mãn; nhưng không đều cho; nên nói là "có thể"; vì e ngại các hữu tình tăng thêm ác nghiệp. Nghĩa là thấy người nghèo thường cầu mong tiền bạc, đáng phải nên cho, nhưng được tiền rồi thì họ lại tăng thêm ác nghiệp; vì vậy mà không cho. "Nhiếp Đại thừa" có nói: "Thà thiếu thốn về tiền bạc mà xa lìa các hành vi xấu, lìa được cõi dữ". Đừng khiến họ khởi các căn lỗi lầm thác loạn mà cò thể cảm ứng quả báo khổ ở kiếp sau như là các căn khí bị khiếm khuyết! Suy đó mà biết! Nếu cầu trí tuệ, phước tuệ vô tội, thì đều cho. Như Mạc Lợi phu nhân mong nguyện làm vương phi, sau được quả Thánh; như năm trăm Thánh chủng mong thấy thân Phật nói chuyện về bổn sanh; như vợ chồng Ca Diếp mong thành tâm đạo mà quyến thuộc vợ chồng về sau đều đắc được Thánh quả. Như con gái vua A Dục mong muốn có tiền để bố thí, sau được làm con gái vua. Những thứ đó đều là mong muốn vô tội, đều có thể thỏa mãn. Khác với các bậc làm cha mẹ; thường cho và làm thỏa mãn những điều mong muốn có tội của các con; nhưng lại không thể cho và thỏa mãn những điều mong muốn vô tội! Lại nữa, hiện thần thông là tùy vào việc nên hiện, thì Phật liền hiện để thỏa mãn những mong cầu của họ. Như chuyện hiện thần thông vì ba vị: Ưu-Lâu, Tần-Loa, Ca-Diếp, là để điều phục bọn kiếp tỷ nô, khiến cho họ nhập đạo, đều là thỏa mãn nguyện lành.
Ở câu thứ tám: "Đã khéo an trú ba đời bình đẳng, thường không đoạn tận, quảng đại biến chiếu"; là ca ngợi tâm ghi nhớ của chư Phật Thế Tôn để có thể vì đối tượng mà thuyết pháp. Thiên nhãn thông biết rõ kiếp hiện tại như biết chuyện bò sinh nghé ở nhân gian. Trí sanh tử biết tương lai kiếp sau; như biết chuyện vị lai, bọn Bàla-môn sau khi phỉ báng sẽ tự bại. Nhờ trí túc trú mà biết người ăn xin phát thiện căn đã lâu đời. Vì người ấy mà thuyết pháp, cứu vớt làm lợi ích thêm. Ghi nhớ riêng ba đời để thuyết pháp; thực hành những chuyện làm lợi lạc, không sai khác chênh lệch; cho nên gọi là bình đẳng. Có thể quán trí đó cùng nhau tương tục hiện rõ ngay đó, thường không đoạn tận, không gì không biết, chiếu khắp rộng lớn.
Ở câu thứ chín: "Thân, ngữ, tâm tính giống như kim cang ngang bằng chư Như Lai không động không hoại"; là ca ngợi lậu tận luân, có thể hiện rõ sự lìa nhiễm để răn dạy truyền thọ; hoặc và nghiệp trong ba thân đều tận; cho nên chư Phật ngang bằng và giống với kim cang ở điểm không bị tất cả ngoại đạo thiên ma, bạn bè xấu của sinh tử làm loạn động hay hủy hoại khiến khởi lên những ác nghiệp; do trong ba nghiệp, tất cả lậu đã tận, cho nên có thể dạy dỗ truyền thụ cho chúng sinh, nên gọi là lậu tận, như Sớ giải thứ nhất của Luận đối pháp.
Lại có cách giải thích thứ tư:
Trong chín câu đó: câu thứ nhất ca ngợi chung về bốn trí; pháp thân báo thân. Câu thứ hai và thứ ba ca ngợi ngôi tôn quý đức rộng lớn. Ba câu thứ bốn, năm, sáu ca ngợi riêng về ba đức. Ba câu sau cùng ca ngợi riêng về ba thần biến. Nói chung là muốn khiến cho chúng sanh nghe được công đức của Phật mà sinh sự hoan hỷ đặc biệt, tôn trọng nghe pháp, khởi sự mong cầu, Phật có đủ những đức đó; đầu kinh ca ngợi là để biết những điều
Phật thuyết trong kinh là những điều thắng diệu nhất. (Sớ giải phần Bát-nhã lý thú).
Kinh viết: "Thị Bạc Già Phạm trụ đỉnh dục giới trong cung trời tha hóa tự tại" Tán rằng:
Từ đây trở xuống là phần thứ tư, nói rõ về giáo xứ. Ở trong hóa độ, tóm nêu bốn đức, để hiển bày sự đặc biệt của kinh. Nói về Hóa thắng xứ (nơi đặc biệt để hóa độ) để biểu thị Báo thân và Pháp thân, độ cũng bao hàm là thật đức.
- Đặc biệt thứ nhất là xứ Tôn; vì ở tại cung Tha Hóa của trời dục cực.
- Đặc biệt thứ hai là Đồng cư; vì đó là điện báu lớn, nơi chư Phật du hội.
- Đặc biệt thứ ba là Nghiêm lệ; vì có đủ các ngọc Mạt ni vô giá và các báu.
- Đặc biệt thứ tư là Ái trọng; vì là nơi vui sướng của hiền thánh thiên tiên.
Ở đây nói về xứ thứ nhất là Tôn Thắng.
- "Thị Bạc-già-phạm": là chỉ cho giáo chủ, người năng thuyết.
- "Trú": có nghĩa là chỗ ở, nơi dừng lại, nương tựa.
- "Dục": là tham ái, tức là tham về dâm, về ăn uống.
- "Giới": nghĩa là chủng tộc, nòi giống, cương lãnh, phạm trù.
Giới do dục sinh ra, năng sinh ở dục, nên gọi là "Dục giới".
- "Đỉnh": là đỉnh đầu, chỗ cao chót vót, nơi cao nhất trong cõi trời lục dục thuộc cõi dục, gọi là "Đỉnh dục giới". Tuy nói là thắng xứ. Nhưng vẫn chưa rõ tên, vì chỉ hiển hiện tên của trời. Phần tiếp theo của kinh nói về phước lực của chư Thiên ở cõi trời Tha Hóa; cần muốn điều gì, liền theo ý muốn mà hiện ra. Nghiệp của cõi trời thứ năm đã thù thắng; nhưng cũng không tùy theo ý muốn mà vật hóa ra, phải dùng lực biến hóa của mình biến ra các đồ vật cần dùng. Nghiệp của cõi trời thứ sáu này càng thù thắng hơn, vừa có các đồ dùng tuỳ theo ý muốn hiện ra, lại cũng có thể tự mình biến hóa các đồ vật khác dù mình không thọ dụng; hoặc chủ yếu đợi các trời khác biến làm nhạc cụ, rồi tự mình mới thọ dụng; vì nghiệp lực hơn. Do có nghĩa như vậy, nên gọi là "cõi trời tha hóa". Ở trong cõi trời đó, có sự sang, hèn. Vua tôi riêng biệt. Thế Tôn ở tại nơi tôn quý của cõi trời đó, chẳng phải ở nơi thấp hèn nhơ uế; cho nên kinh nói "trong cung vua trời"; điều này muốn hiển bày là pháp đức Phật thuyết nương ở chỗ cực kỳ tôn quý chẳng phải ở chỗ thấp. Như khi đã chứng Bồ-đề thì ngồi tòa kim cang; thuyết thắng pháp thì phải ở cung trời Tha Hóa; như "y thắng xứ" trong kinh "Thập Địa" vậy! Đó là biểu thị báo thân trú trong Tịnh độ vô lậu; đồng thời cũng là biểu thị cho pháp thân trụ ở pháp giới thanh tịnh, nơi lìa tham dục cực kỳ rốt ráo. Người chứng được pháp đó có thể làm những việc lợi cho người khác. Cũng vì lợi cho người khác, mà ở nơi Tịnh độ và pháp tính, trí vô phân biệt và trí Hậu đắc thần dụng vô phương gọi là tự tại. Đó là cung thất của chư vị pháp vương của các cõi trời từng ở. Cho nên các kinh còn nói: "lấy sự rốt ráo rỗng lặng làm nhà ở" vì ba thân làm lợi cho vật, mỗi cách đều có sự khác nhau, cho nên nơi ở của quốc độ cũng khác nhau, ở tại cung trời là ý nói ở nơi tôn quý có pháp hơn hết. Nói ở nơi đỉnh của giới, là để nói sự sâu xa của diệu lý.
Kinh viết: "Nhất thiết Như Lai tằng sở du xứ hàm cộng xưng mỹ đại bảo tàng điện"
Tán rằng: Đó chính là sự đặc biệt thứ hai "Đồng cư" cùng ở.
- "Thường" là từng
- "Du" là du chơi
- "Xứ" là chỗ nghỉ ngơi.
Nơi chỉ có một vị Phật ở, các vị Phật khác không ở; thì chẳng phải là nơi tốt. Nay nói, chư Phật quá khứ hiện tại trong mười phương đều đã từng ở cung trời Tha Hóa Tự Tại để du chơi an nghỉ; chư Thánh đều cùng đến; cho nên biết là nơi đặc biệt. Giả sử sau này chư Phật hiện, nhưng không ở, thì cũng luôn khen ngợi cung đó là đẹp đẽ.
- "Xưng" là xưng danh, là ca ngợi.
- "Mỹ" là khen đẹp.
Trong cung vua trời có vô số phòng, nay Phật Đại
Bảo tàng Điện của cung trời đó, là nơi được tạo thành do các đồ trân quý, nên gọi là "Báu", lấy báu làm chỗ chứa, nên gọi là "Bảo tàng". Bảo tàng chính là tên của cung điện, gọi là "Bảo tàng điện". Điện đã cao rộng, lại còn được trang trí bằng những thứ quý báu, nên gọi là "Đại bảo". Phật trú ở trong cung điện Đại Bảo Tàng của trời. Ý đó là biểu thị chung về trí vô phân biệt và trí hậu đắc của báo thân và pháp thân, ơ nơi mà chư Phật quá khứ và hiện tại đã từng ở, đều đã khen ngợi cái đẹp của cung điện Đại Bảo Tàng, đồng thời cũng để hiển bày nơi cùng ở, cùng khen ngợi của chư Phật; cho nên biết đó là nơi đặc biệt. Thân thọ dụng của đức Phật trú ở Báo thổ, và Trí Hậu Đắc phân biệt nghĩa lý của pháp tính, gọi là "Du". Trí vô phân biệt trú ở đất pháp tính, diệu dụng như lý gọi là "Xứ". Bởi vùng đất thọ dụng có đủ mười tám đức, vùng đất của pháp tính bao hàm vạn điều lành; do đó chư Phật thường cùng ca ngợi hai vùng đất đó, cho nên nói là "cộng xưng mỹ". "Xưng" là xưng dương; nghĩa là không gì bằng, không nơi nào bằng. "Mỹ" là ca ngợi, khen ngợi, mượn lời để nói về thật đức. Rộng như pháp giới gọi là "Đại". Tạo thành bởi vạn đức, gọi là "Bảo". Dung chứa bao gồm cả các thiện gọi "tàng". Cái phòng của sự rỗng lặng gọi là "Điện". Báo thân và pháp thân; Sơ trí và Hậu trí thường ở chỗ đó, thuyết pháp lợi người. Chư Phật cùng ở, là nói lên cùng đến mà ở.
Kinh viết: "Điện đó được tạo thành do ngọc Mạt ni vô giá cùng nhiều loại trân châu trang trí xen tạp"
Tán rằng: Đấy là đặc biệt thứ ba: sự trang nghiêm. Trong đó gồm có ba: một là nói rõ về sự trang nghiêm chung. Hai là liệt kê về những trang nghiêm riêng. Ba là những sự trang nghiêm còn lại.
-Về trang nghiêm chung: tiếng Phạm gọi là Ma Ni. Trung Hoa gọi là Như ý. Điện đó được tạo thành bởi ngọc thần Như ý vô giá; còn gia thêm bốn báu: Đế thanh, Đại thanh, Thạch tàng, Ngổ tàng cùng với bốn màu sắc, bảy thứ ngọc trân, bảy ánh sáng trang nghiêm xen lẫn, với những màu sáng đỏ tía lấp lánh. Ý này biểu thị chung về cung điện của pháp tính nó giống như ngọc Như ý, được trang nghiêm bằng vạn đức vô vi. Cung điện thuộc vùng đất thọ dụng, lấy Bát-nhã làm thể, giống với ngọc Ma ni kia. Còn các thiện thuộc hữu vi là dụ cho những đồ trân quý trang trí xen lẫn ở trong cung điện đó. Hai cung điện lớn là chỗ ở của hai thân; như ngọc Như ý, tất cả đều đắc được theo ý muốn của mình. Ngọc Ma ni vô giá còn trang trí thêm các đồ trân quý, là trí phải trang nghiêm thân vạn đức; đó là sự trang nghiêm chung.
Kinh viết: "Các màu sắc lấp lánh, phóng ánh sáng lớn"
Tán rằng: Đây là phần thứ hai nói về sự trang nghiêm riêng. Trong đó gồm có mười bốn thứ trang nghiêm riêng. Ở đây có hai thứ trang nghiêm: Bảy loại ngọc xen lẫn, cho nên nhiều màu sắc lấp lánh. Bốn sự soi sáng huy hoàng, nên phóng ánh sáng lớn. Vả lại chính đỏ tía tương tạp mới nói đến lấp lánh; chính màu vàng tinh khiết thoát ra lìa khỏi chất mà phóng ánh sáng lớn. Ý này là biểu thị chung về pháp tính không có sự dính mắc các duyên. Niết-bàn phân tứ thí như tiếp nhận sự lấp lánh của các vật để thành các màu sắc. Lại trí phân biệt được chơn và tục tợ như nhiều màu sắc lấp lánh; cả hai cái đó cùng hợp lại thành, như màu sắc phóng ánh sáng vậy. Vừa có cái công chiếu sáng lại còn kiêm luôn cả cái sức phá tan bóng tối. Hai câu đó chính là sự trang nghiêm thứ hai.
Kinh viết: "Chuông lắc báu, chuông rung vàng treo bày khắp nơi, gió hiu hiu thổi lay, xuất ra tiếng hòa nhã" Tán rằng: Ở đây có bốn thứ trang nghiêm: Một là treo chuông lắc báu, hai là bày chuông rung vàng, ba là gió hiu hiu thổi lay và bốn là âm thanh phát ra hòa nhã.
Đã leng keng thành tiếng thì nên quán nghe để sáng tâm. Chuông lắc báu cũng giống như ý vận lục thông. "Chuông rung vàng" làm chấn hãi phi hố tứ biện. "Khắp nơi"; nghĩa là tùy cơ đem lợi lạc đến cứu vớt chúng sanh thương xót mà tuyên dương chân lý. Còn nói "Treo bày" là kén chọn chỗ hiển hiện. Nếu không có, ngọn gió đại bi thổi quạt, thì âm thanh của bảy biện không phát ra. Nên biết là đạo cảm ứng thành thì phải đầy đủ cái đức kia của Trí và Bi. Nói bảy biện là: Biện luận ngay tức khắc; biện luận nhanh chóng; biện luận thích hợp; biện luận không sai sót; biện luận không đoạn tận; biện luận trong khi diễn thuyết để bảo vệ nghĩa; biện luận đặc biệt hay nhất trên tất cả thế gian. Các ý nghĩa về lục thông sẽ giải thích sau.
Kinh viết: "Lọng lụa, hoa-cờ-phướn lụa; tràng hoa phất ngũ sắc, châu báu; chuỗi ngọc; trăng bán nguyệt; trăng tròn đầy"
Tán rằng: Ở đây có tám thứ trang nghiêm: Lọng che tròn viền lụa dây; cờ phướn gió thổi cong lên giống hình cầu vòng; "Tràng hoa" như ngàn mây; "Phất ngũ sắc" kéo lê dưới đất; "ngọc báu" lấp lánh như những vì sao; chuỗi ngọc trong suốt hơn cả gương vàng; vầng thúy cùng nâng ánh trăng bán nguyệt; ngọc xanh treo trang nghiêm như ôm nét đẹp trăng tròn. Đó chính là sự trang nghiêm đẹp đẽ của Hóa thổ sở cư thiên cung.
Ý trên là sự hiển bày chung về hai vùng đất của Pháp thân và báo thân. Bốn vô lượng tâm như cái lọng lụa hoa che chở cho quần sinh. Bốn tổng trì như cờ phướn lụa để chuyển các ác. Ba Tam-ma-địa dụ cho tràng hoa kia, vì được trang sức bởi trăm ngàn công đức. Bốn loại nhiếp sự là dụ cho Phất ngũ sắc, bởi rủ xuống khắp các loài phủi sạch bụi trần, Bốn tổng trì, ba tam muội, sẽ giải thích phần sau. Bốn vô lượng và bốn nhiếp sự thì chúng ta đã biết. Ba niệm trụ là "ngọc báu" vì mọi lúc đều bình đẳng. Bốn hoằng thệ nguyện là chuỗi ngọc, vì nó hỗ trợ cho các hạnh. Vô úy là "trăng bán nguyệt" vì có thể phá ngoại đạo, tiêu trừ ác. Mười lực là "trăng tròn đầy", vì có thể phá thiên ma, trừ bỏ các ác. Lấy lục độ làm "ngọc báu", vì gồm thâu suốt cả vạn hạnh. Ba niệm trụ; một phần là khen ngợi nhưng không ưa thích; một phần là chê bai nhưng không sanh sân giận. Ở trong một hội, nữa chê nữa khen, cũng không yêu không ghét; trong ba niệm đó, chỉ trụ niệm đại xả gọi là niệm trụ. Bốn hoằng thệ nguyện là:
1. Chưa lìa khổ, nguyện lìa.
2. Chưa đắc lạc, nguyện đắc.
3. Chưa phát tâm tu đoạn, nguyện phát tâm tu đoạn.
4. Chưa thành Phật, mong sớm thành Phật. Mười lực vô úy phần sau sẽ biết. Trên đây là sự trang nghiêm đặc biệt thứ hai.
Kinh viết: "Nhiều loại trang sức khác dùng cho sự trang nghiêm".
Tán rằng: Đây là trang nghiêm đặc biệt thứ ba khác. Ngọc Ma ni đã trang nghiêm đại diện đẹp đẽ như vậy, còn trang trí thêm những chi tiết khác như của sổ, nóc, mái, lan can, có đủ chính là hiển bày sự giải thoát thắng xứ, biến xứ, vô tránh, nguyện trí, vĩnh viễn dứt bỏ tập khí, tất cả diệu trí, trăm ngàn công đức. Những thứ đã trang nghiêm cho hai vùng đất hữu vi vô vi; lý nó là như vậy.
Kinh viết: "Là nơi mà Hiền Thánh Thiên tiên đều ái lạc"
Tán rằng: Đó chính là sự đặc biệt thứ tư Bảo trọng. Phàm phu thuộc năm thừa gọi là Hiền; chứng quả ba thừa gọi là Thánh, cõi cao nhất trong năm cõi gọi là "Thiên". Người có đức của thần gọi là "Tiên". Quý mà trọng gọi là Ái. Khao khát mong cầu gọi là Lạc. Phàm hay thánh trong ba thừa đều rất ưa thích mong chứng được vùng đất hóa đó, gọi là Ái lạc. Đó là nói về hai thân pháp và báo tùy ưng với vùng đất đó.
Kinh viết: "Cùng đủ tám mươi ức đại Bồ-tát"
Tán rằng: Phần thứ năm dưới đây là nói về chỗ giáo hóa những căn cơ kia. Trong kinh này là nói cho cả phàm lẫn thánh như kinh nói sau đây: "Chư đại Bồ-tát kim cang thủ đẳng và dư thiên chúng, nghe Phật thuyết, đều tin nhận phụng trì". Kim cang thủ đẳng là chúng Thánh Nhân. Dư thiên đẳng là chúng phàm phu. Nên biết là hội này gồm cả phàm lẫn Thánh. Lại nữa xứ Hóa này ở cung Tha hóa; về lý hiển nhiên hiện rõ chỗ ở vùng đất hóa. Thiên cung chẳng phải là tịnh độ. Nếu theo kinh Thập Địa thì chư đại Bồ-tát phải ở Hóa xứ, không nói là Thiên cung. Nay lại nói thiên cung là nói phàm phu đều ở "uế thổ". Ở đây chỉ nói chúng Bồ-tát tụ hội, vì giáo lý quá sâu thẳm, người ngu không thể đo lường được nên chỉ đưa ra hàng Bồ-tát, thích hợp cho sự thông suốt căn cơ. Nêu sự đặc biệt của Hóa xứ, mà nói thiên cung, vì muốn nói lên sự tôn quý của thính chúng, nên chỉ nói là Bồ-tát, chứ không phải Thế Tôn chỉ giáo hóa cho Bồ-tát mà thôi. Trong phần căn cơ kia, thế văn có bốn: 1. Nói về số; 2. Trình bày đức; 3. Liệt kê tên gọi; 4. Chương quỹ.
Câu nói về số này chỉ số lượng. "Dữ" nghĩa là cùng và hội. Một ức là mười vạn, tám mươi ức là tám trăm vạn. Chữ "Đại" lược nói có bốn nghĩa:
- Số nhiều: vì có tới tám trăm vạn Bồ-tát tập hội để nghe pháp.
- Đức lớn; vì đều có đủ tổng trì các công đức lớn.
- Nghiệp lớn: vì đều có đủ biện tài hay khéo, thuyết pháp làm lợi cho chúng sinh.
- Danh lớn: Như kim cang thủ ngang bằng mười địa đầy đủ tên gọi.
"Bồ-tát câu"; là hiển hiện giáo lý thâm diệu, đủ đủ căn cơ thượng thặng vì muốn làm cho hữu tình đắc được pháp hiếm có, siêng năng cố gắng, tin nhận, thực hành.
Kinh viết: "Tất cả đều đủ các môn Đà-la-ni; môn Tam-ma-địa, vô ngại diệu biện".
Tán rằng: Dưới đây là trình bày về Đức; gồm có hai phần: phần đầu liệt kê tên gọi, phần sau là lệ chỉ. Nói về tên "Đà la ni"; Trung Hoa gọi là tổng trì, lấy niệm tuệ làm tính. Gồm có bốn thứ: Pháp-nghĩa và Minh-chú; có thể đắc được Bồ-tát nhẫn. "Pháp" nghĩa là năng thuyên; bởi ở trong một Danh, trì cả các danh. "Nghĩa" là sở thuyên; ở trong một nghĩa, trì các nghĩa. "Chú"; như nói dưới đây: có thể đắc Bồ-tát nhẫn; nghĩa là, có một chú mau đắc Bồ-tát vô sinh pháp nhẫn. Di Lặc Bồ-tát thuyết: "Nhất chi mật chi cát chi tư sằn Để Bác Đà Nị Sa ha".
"Tam-ma-địa", Trung Hoa gọi là đẳng trì, xưa dịch là Tam muội. Nghĩa là các định hữu lậu vô lậu, đều có thể bình đẳng trì tâm ở cảnh gọi là Đẳng trì, nghĩa là ngang bằng với Đại không, ngang bằng với ba tam muội.
"Vô ngại diệu biện" nghĩa là; lời pháp, nghĩa biện thuyết vô ngại.
Hai đức đầu là hạnh lợi mình, đức thứ ba là hạnh lợi người. Ba thể tính đó là y xứ, tu pháp, đắc vị. Nhất thiết nghĩa môn sẽ nói ở đoạn khác.
Kinh viết: "Những loại như vậy, vô lượng công đức; giả sử trải qua nhiều kiếp, thuyết cũng không thể hết".
Thuật viết: Đây chỉ là Lệ. "Kiếp" là chỉ khoảng thời gian. Bồ-tát tu Nhân, thời gian và hạnh đều to lớn; cho nên khen ngợi công đức trải qua nhiều kiếp không cùng; nghĩa là vô sinh Nhẫn chuyển pháp luân, e văn rườm rà nên chỉ nói qua. Vì sao cần phải khen ngợi công đức của Bồ-tát? Vì để xả bỏ tâm khinh mạn của chúng sanh; có người nói rằng: "Các chúng Thanh văn tu phạm hạnh lâu, các chúng Bồ-tát phải kính lễ"; lại còn khiến cho chúng sanh khởi tâm thanh tịnh. Bồ-tát một mực có công đức như vậy, huống chi là Như Lai. Cho nên các hữu tình phải hết lòng đem thân quay về cùng nguyện để mau chứng.
Kinh viết: "Tên chư vị Bồ-tát đó là: Bồ-tát Ma ha tát Kim cang thủ; Bồ-tát Ma ha tát Quán Tự Tại, Bồ-tát Ma ha tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Ma ha tát Kim Cang Quyền, Bồ-tát Ma ha tát Diệu Cát Tường, Bồ-tát Ma ha tát Đại Không Tạng, Bồ-tát Ma ha tát Phát tâm liền chuyển pháp luân, Bồ-tát Ma ha tát Diệt hết tất cả oán ma"
Thuật viết: Đấy là phần liệt kê tên, gồm có tám vị. Nêu các đặc biệt của nó.
Nói "Bồ-tát Ma ha tát"; có nghĩa Bồ-đề là giác, tức là Nhất thiết trí. Tát đỏa là hữu tình; tức những hữu tình cầu Bồ-đề, đó là những người thông cả ba thừa. "Ma ha" là Đại tát đỏa. Đại gọi tắt của Ma ha tát. Lại nữa, Bồ-đề là cầu quả trí cảnh. Tát đỏa là cứu vớt hữu tình bi cảnh; chính là hai đức lợi mình lợi người. Lại nữa, Tát đỏa; nghĩa là mạnh mẽ, vì tinh tấn dũng mãnh cầu đại Bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Hai giải thích sau, thông cả phàm lẫn thánh.
"Kim cang thủ". Nghĩa của chữ thủ (tay) là lấy, là nắm, cầm bởi thường đưa tay tín lấy các công đức, đưa tay trí tuệ cầm và nhận pháp tính vốn là kim cang. Lại nữa, vì hai tay Tín và Trí giống như kim cang, kiên cố khó hoại, chẳng bị bọn tà ác có thể làm cho hư hoại.
"Quán tự tại" tức Quán Thế âm. Quán là quán sát; quán thân, ngữ, tâm tính của các hữu tình, khi chịu khổ hoặc khi cầu nguyện, thì ứng thời đến cứu vớt, gọi là Quán tự tại. Vì thần dụng của ngài khắp nơi, đều đắc tự tại.
"Hư không tạng" lấy hư không làm kho tàng, chứa các đồ quý giá. Khi thấy các hữu tình nghèo không có tiền của, từ trong hư không mưa các loại báu vật cho các người nghèo khổ thiếu thốn.
"Kim cang quyền": Quyền là nắm tay, có khả năng đấm nát, phát khởi quả đấm trí tuệ kiên cố đấm phá tan nghiệp sinh tử phiền não; ví như dùng quả đấm kim cang đấm tan các vật vậy mà đặt tên!
"Diệu cát tường" chính là Văn Thù Sư Lợi, trước kia gọi là "Diệu Đức". Diệu nghĩa là khéo; do khéo làm những việc phước lợi nhiều ích cho hữu tình, nên gọi là Diệu cát tường.
"Đại không tạng": Đại không chính là đầy khắp cả pháp giới. Lý không của chân như lấy đó làm kho chứa; vì các hữu tình mà thuyết pháp Đại không; nhờ sự bố thí pháp, khiến cho các hữu tình đều thu gặt được nhiều loại của cải thuộc Thánh pháp gọi là Đại không tạng.
"Phát tâm liền chuyển pháp luân": Luận nghĩa là đùa đẩy, di chuyển. Pháp nghĩa là giáo pháp. Pháp luân là theo như pháp mà luân chuyển việc nói pháp cho Bồ-tát từ lúc mới bắt đầu phát tâm, cho đến lúc đạt địa thứ mười; tất cả hành vi thuộc nghiệp của thân ngữ ý đều vì hữu tình mà thuyết lý thâm diệu, chuyển đại pháp luân, làm việc lợi ích.
"Bồ-tát diệt hết tất cả ma oán": Ma nghĩa là bốn loại ma như đã nói ở phần trước. Bốn ma đó, có thể phá các việc thiện của chúng sanh, là kẻ thù của chúng sanh. Đại Bồ-tát đó phải trụ tâm kim cang. Lìa xa sự phân đoạn tử và các phiền não nên có thể diệt hết tất cả ma oán.
Trong tám tên gọi ở trên: Kim Cang thủ trí lấy thiện làm tên gọi. Quán tự tại lấy bi cứu khổ, làm hiệu. Hư không tạng giúp nghèo làm tên gọi. Kim Cang quyền là phá ác. Diệu cát tường là tác thiện. Đại không tạng là hiển chơn. Chuyển pháp luân là thuyết pháp làm lợi. Đẩy lùi các ma oán-hại giặc là có ích. Hoặc trí tuệ và từ bi làm thành một đối; hoặc hiển chơn và hiển vọng làm thành một đồi. Vì nắm tay (quyền) như là vọng pháp; hoặc hiển hữu vi, vô vi thiện pháp thành một đồi, hoặc tấn thiên, phá ác thành một đối. Tùy theo đối tượng thích ứng của chúng mà đúng với tên gọi và biết được ý nghĩa của chúng.
Kinh viết: "Như vậy làm thượng thủ, có tám trăm vạn đại Bồ-tát vây quanh trước sau"
Tán nói: Đây là phần (vây quanh) chương quỹ. Tám trăm vạn là tám mươi ức (8 triệu). Nói trước sau là vì lấy phương hướng làm đầu, cho nên có trước sau. Đều thấy Thế Tôn ngồi ở trước nói pháp. Đã không cùng hướng làm sao có trước sau. Như các sao đều cùng hướng về trăng sáng; như dùng núi vàng để nói núi Diệu cao; như chúng Phạm vây quanh Phạm vương, cũng tựa chư Thiên vây quanh vua trời. Phải tôn người và trọng đạo, khát khao pháp lợi ích hiếm có, một lòng chăm chú nghe để tới được chỗ sâu xa.
Kinh viết: "Tuyên thuyết chánh pháp; đầu, giữa, sau đều là thiện; văn nghĩa hay khéo, thuần nhất viên mãn; phạm hạnh trong sạch".
Tán nói: Đây là phần thứ sáu khen ngợi đức hơn hẳn của Pháp. Tuyên thuyết chánh pháp là câu nói chung; san định thành quy tắc, lìa sự phân biệt lệch lạc, gọi là chánh pháp. Tuyên là hiển hiện những điều chưa được nghe là cái trí mới bắt đầu mở; thuyết là làm rõ cái lý đã có từ xa xưa, là người ngộ đạo đã lâu.
Bài kệ thứ tám mươi ba của Luận Du Già Sư, viết rằng: 1. Sơ thiện; 2. Trung thiện; 3. Hậu thiện; 4. Văn xảo; 5. Nghĩa diệu; 6. Thuần nhất; 7. Viên mãn; 8. Thanh tịnh; 9. Tươi sáng; 10. Phạm hạnh.
Luận đó giải thích rằng: Sơ thiện; nghĩa là sau khi nghe sinh ra hoan hỷ; do pháp thù thắng nên mới được nghe đã sinh vui vẻ.
Trung thiện; là khi tu hành, không gian nan khó khăn, xa lìa nhị biên. Nương dựa vào trung mà thực hành để cầu xuất thế, nên gọi là trung thiện.
Hậu thiện là cực kỳ rốt ráo, bởi lìa các cấu uế và tất cả cứu cánh lìa dục vì bờ sau. Nghĩa là lời Phật dạy; về lý cực kỳ rốt ráo, về tính lìa các cấu uế, có thể hiện rõ Niết-bàn. Người nương vào đó mà tu hành thì có thể lìa dục.
Văn xảo; nghĩa là lời văn hay khéo biên tập rõ ràng. Nghĩa diệu; nghĩa là có thể dẫn phát để đạt được những lợi lạc dặc biệt.
Thuần nhất; nghĩa là khác với tất cả ngoại đạo, những giáo lý Phật thuyết giảng, chỉ có đức Phật mới thuyết được, còn các ngoại đạo không thể thuyết được. Pháp được đức Phật thuyết không xen tạp các pháp tà ác của ngoại đạo.
Viên mãn; nghĩa là vô hạn lượng, đặc biệt quý giá nhất, ý nghĩa thâm sâu vô lượng, người tu học pháp đó công đức vô lượng, cho nên rất đặc biệt tôn quý.
Thanh tịnh; vì tự tính đã được giải thoát, cho nên thuyết pháp dù trong một sát na, cũng không lầm lỗi nào; lìa được ba độc căn bản, lìa các sự trói buộc; cho nên tính giải thoát chẳng có ba độc mà khởi thuyết pháp.
Tươi sáng; sự trói buộc đã được giải thoát; thì chẳng phải chỉ một niệm không bị mắc lỗi lầm, mà những niệm liên tục vẫn lìa xa sự lỗi lầm. Lại nữa, pháp thể thanh tịnh trước đã lìa khỏi sự lỗi lầm, sự tươi sáng ở trong đó, khiến cho thân của cái giác cũng được tươi sáng.
Phạm hạnh; là tám chi Thánh đạo, xuất ra thể của phạm hạnh. Nên biết, đạo ấy là do thuần nhất, bình đẳng với những hiển hiện của bốn loại diệu tướng được thuyết. Tám thánh đạo tên gọi là Phạm hạnh. Nếu nương theo cách giải thích đó, thì không giống cách giải thích xưa: chín đức trên là hiển bày chung những cái hơn hết của kinh.
Kinh viết: "Bấy giờ, đức Thế Tôn vì các Bồ-tát thuyết Nhất thiết pháp thậm thâm vi diệu Bát-nhã lý thú thanh tịnh pháp môn. Môn đó chính là cú nghĩa Bồ-tát". Tán rằng:
Dưới đây là nói về phần thứ hai ứng cơ quảng thuyết. Trong đó gồm có mười bốn đoạn kinh, chia làm ba phần. Sáu đoạn đầu nói rõ cảnh của Bồ-tát; sáu đoạn tiếp nói rõ hạnh của Bồ-tát; hai đoạn sau cùng nói rõ quả của Bồtát. Nghĩa lý của tất cả giáo pháp của đức Phật đều nằm trong ba phần đó.
Trước hết thuyết về cảnh, là để biết được pháp nhiễm hay tịnh; nhân quả thiện hay ác; cái đáng thích hay đáng chán; cái đáng tu hay đáng bỏ. Tiếp đó, thuyết về Hạnh để nương vào cảnh mà khởi sự tu hành pháp dứt bỏ. Sau cùng thuyết về quả, để biết mà thực hành, hạnh sẽ đắc được cái tướng của quả thù thắng.
Sáu đoạn đầu nói về cảnh, lại chia làm ba phần: Hai đoạn đầu nói về cảnh của thể. Thứ nhất là thậm thâm vi diệu thanh tịnh pháp môn; tức là thể của cảnh đối vọng hiển chơn, chơn như thật tướng. Đoạn thứ hai là tịch tĩnh pháp tính hiện đẳng giác môn; tức là trừ ám tối, hiển bày thể của cảnh quán chiếu chánh trí. Chơn như là tính, chánh trí là tướng. Nói có trước có sau, đều là chuẩn nên biết. Hai đoạn kế tiếp nói về cảnh của hạnh. Đoạn thứ ba là Điều phục chúng ác phổ thắng pháp môn. Do quán thật tướng mà chế phục được các điều ác. Đoạn thứ tư là bình đẳng trí ấn thanh tịnh pháp môn. Do quán, quán chiếu trí tuệ được chiếu sáng. Hai đoạn sau cùng nói về cảnh của quả.
Đoạn thứ năm là pháp vương quán đảnh Trí tàng pháp môn; hiển bày do hai hạnh đắc quả tài vị. Thứ sáu Như Lai trí ấn kim cang pháp môn. Hiển bày do hai hạnh mà đắc quả tự thể. Đoạn sáu đoạn tiếp nói về hạnh, lại chia làm ba phần; hai đoạn đầu nói về nương vào thật tướng, tướng của tu đoạn. Thứ bảy Ly chư hý luận luân tự pháp môn; bởi nhờ ở quán vô tướng, mà đoạn dứt phân biệt. Thứ tám nhập Quảng đại luân bình đẳng pháp môn, bởi nhờ ở quán bình đẳng mà tu chứng chơn. Hai đoạn tiếp nói về nương vào Quán chiếu, tướng tu đoạn.
Thứ chín chơn tịnh cúng dường vô thượng pháp môn; bởi do nương vào quán chiếu tu chơn cúng dường. Thứ mười, năng thiện điều phục trí tạng pháp môn; bởi do nương vào quán chiếu có thể trừ sân hận. Hai đoạn sau cùng nói về nương vào tướng biến tu của hai pháp. Thứ mười một; tính bình đẳng, tính tối thắng pháp môn; bởi do tu quán thật tướng, tất cả người và pháp bình đẳng, đầy khắp. Thứ mười hai, hữu tình trụ trì thắng tạng pháp môn; bởi do tu quán, quán chiếu khắp các pháp và người, đều là thiện duyên. Do trước quán sáu cảnh mà khởi sáu hạnh.
Hai đoạn sau cùng nói về đắc quả. Thứ mười ba vô biên vô tế cứu cánh pháp môn; bởi khi đắc quả thứ hai, vì sâu rộng thông suốt một vị, cực kỳ thù thắng, cho nên là đức của quả tự lợi. Thứ mười bốn thậm thâm lý thú vô thượng pháp môn; đã đắc hai quả rồi; thì lợi mình lợi người là chúa của ba cõi tùy theo những mong nguyện của các hữu tình, đều chứng được đức của quả lợi người. Ở đoạn một, "Thậm thâm vi diệu thanh tịnh pháp môn", tức là đối vọng hiển chơn, thể của cảnh thực tướng chơn như, trong đó chia làm ba; phần đầu nói về tên gọi pháp môn mà đức Thế Tôn thuyết phần tiếp là nghĩa về Lý thú mà Thế Tôn thuyết. Phần sau là Thế Tôn thuyết về đức. Đấy là nói về hiệu của pháp môn.
"Bấy giờ" là mở đầu, ở cung trời, mây tụ tập, sở hóa cơ cảm, pháp vương ứng hiện, ở hội thuyết pháp nghe pháp, cho nên bảo là "Bấy giờ".
"Thế Tôn" là giáo chủ năng thuyết, vì các Bồ-tát đã đủ cơ sâu.
Thuyết Nhất thiết pháp, các sự thể pháp hữu vi vô vi.
"Thậm thâm vi diệu, pháp tính chơn như"; kẻ phàm phu chẳng thể đo lường được gọi là "thậm thâm". Nhị thừa chẳng biết nỗi, gọi là "vi diệu".
"Bát-nhã lý thú" chính là lý của Pháp thâm sâu vi diệu. Đó là cái đạo lý, nghĩa lý của pháp tính.
"Thú" nghĩa là cái chỗ hướng đến của ý, chỉ cái thú. Ý nói: Văn Bát-nhã thâm thúy, quán chiếu Bát-nhã, thu nhận được ý nghĩa lý thú.
Tự tính trong sạch gọi là "Thanh"; lìa các nhơ nhiễm gọi là "Tịnh".
"Môn" là con đường thông suốt hướng vào, tức là do từ đó mà hiển chiếu hội chứng lý hội chứng. Muốn chứng nhị không phải nghe giáo lý đó, nương đó tu học, mới có thể hội chơn; chẳng biết phải gọi tên gì, gượng gọi là "Môn". Môn đó là gì? Môn chính là Bồ-tát cú nghĩa. Ba ý nghĩa về Bồ-tát đã giải thích như trên. Nói các nghĩa; thì cú nghĩa là sự khác nhau âm thanh của năng thuyên; không gọi là "văn" mà gọi là "cú". Vì "cú" có đủ cả ý nghĩa của lời dạy. "Nghĩa"; là sự sai biệt khác nhau của pháp được giảng ra, không nói là "Tự thể" mà chỉ nói là "Nghĩa", vì nghĩa của pháp tròn đủ chẳng phải là tự thể. "Cú" đã là năng thuyên, thì sở thuyên chỉ là nghĩa; muốn hiển bày giáo lý đó, tất cả năng thuyên đều phải tròn đầy; bởi vậy cho nên, tất cả sở thuyên cũng phải có đủ. Mở rộng năng thuyên và sở thuyên thì văn, danh, thể, pháp đều đã gồm thâu trong ấy. Ở loài hữu tình, muốn cầu Bồ-đề thì khởi trí đại bi để tu học và cần cầu Bồ-đề. Phát tâm một cách dũng mãnh gọi là Bồ-tát. Nay trong lý thú đó, chỉ dạy của năng thuyên chính là cú của Bồ-tát năng thuyên. Lý của sở thuyên chính là nghĩa của Bồ-tát sở thuyên. Nếu nương vào sự chỉ dạy đó mà thực hành nghĩa đó, chứng lý đó, thì gọi là Bồ-tát. Sau này, khi đạo đã tràn đầy, thì gọi là Phật; rồi xả bỏ cái gọi là Nhân. Bồ-tát nói ở đây, gồm có ba thứ vị: 1. Sơ phát tâm;
2. Tu chánh hạnh; 3. Chứng pháp tính. Ba thứ vị trên đều cần phải nương vào đó mà tu học, mới có thể đắc chứng, cho nên bảo là "Môn".
Kinh nói: Sao gọi là Bồ-tát cú nghĩa?
Tán rằng: Phần hai dưới đây theo thứ tự Phật thuyết về nghĩa của lý thú. Trong ấy có ba phần: Phần đầu đức Phật tự hỏi; phần tiếp Phật nói về nghĩa; phần sau cùng khuyến khích sự tu học. Đấy là phần hỏi đầu tiên.
Kinh viết: "Là Cú nghĩa tột cùng diệu lạc thanh tịnh là cú nghĩa Bồ-tát".
Tán rằng: Sau đây nói về nghĩa ấy. Nó bao gồm hai phần: Phần đầu giải thích nghĩa; phần sau nói về nguyên do. Theo Ngài Thanh Biện thì; đối với thế tục còn có thể có, nhưng đối với thắng nghĩa thì đều là không. Đoạn này kinh nói về chánh nghĩa rỗng lặng. Nếu theo Ngài Hộ Pháp thì giải thích như sau: Gồm có bốn mươi mốt cú nghĩa. Riêng phần giải thích về cú nghĩa Bồ-tát, thì chia làm hai phần:
- Phần đầu có mười môn, nói về Bồ-tát tu quả thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa mà Bồ-tát có được; phần hai, ba mươi mốt môn sau phần sắc uẩn rỗng lặng" là dựa vào bổn tính chư pháp và cho do cú nghĩa không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa Bồ-tát có được.
Trong mười môn đầu Bồ-tát tu quả thanh tịnh cú nghĩa để hiển bày tất cả cú nghĩa Bồ-tát, lại chia làm năm phần; mà Bồ-tát tu gồm có năm loại: 1. Tập tổng tu; 2. Vô tướng tu; 3. Vô công dụng tu; 4. Sí thịnh tu; 5. Vô hỷ túc tu.
- Tập họp tất cả, gom tụ lại thành một, tu tập cái chính yếu. Người mới bắt đầu tu hành; các ác đều đoạn dứt, các thiện đều tu tập, các chúng sinh đều độ thoát. Hoặc quán tất cả là xương cốt, hoặc quán thân xác này từ đầu đến chân chỉ là máu mủ; gọi đó là Tập tổng tu.
- Ở trong chân pháp giới, lìa mười tướng khiến sự sai khác mà tu tập; nên gọi là vô tướng tu.
- Người tu hành tuần tự nên quán vô tướng để khiến cho sự tu đó được thuần thục tự tại, không cần công sức mà vẫn hiện tiền nhậm vận; gọi là vô công dụng tu.
- Tuy tu không tốn sức nhưng vẫn có sự hơn kém; và để tăng thêm cái hơn kia nên gọi là Sí thịnh tu (bừng bừng).
- Hoặc tuy bừng bừng, nhưng sợ có một ít sở đắc, bèn vui vẻ thỏa mãn, cho như vậy là đủ rồi, cần gì đạt đến quả Bồ-đề, cho nên gọi là vô hỷ túc tu.
Nay nói về Bồ-tát trước khi đắc chuyển y, địa vị đó gọi là ích lực tổn năng chuyển. Do tập hổ thẹn và hiểu biết đặc biệt; cho nên tăng ích cho thánh đạo lực; hao tổn năng lượng của hai chướng, cũng có thể chia quả của năm tu, mười địa, chánh chứng, chánh hạnh, năm tu. Ở đây, mười cú này hiển bày quả của năm tu, với văn nên biết như vậy.
Đây tức là thuận thanh tịnh phần thứ nhất vô sở phân biệt. Vô tướng hiện hành, tương lai thành Phật quả, gọi là Thanh tịnh phần; cái đó dẫn đến cái kia, nên gọi là thuận. Như Phật Luân Vương, các uẩn trong trắng không có chỗ phân biệt, vô tướng hiện hành là nhờ đắc được thuận thanh tịnh phần vô phân biệt. Tỏ ngộ cực diệu lạc tức trí vô lậu, trên địa chánh chứng, trước địa được phần. Nếu có sự phân biệt, không thuận theo với thanh tịnh, thì bị quả xấu khổ. Nay nhờ vô phân biệt, thuận thanh tịnh phần cho nên mới cực kỳ diệu lạc, quả khổ mãi mãi không có; bởi tiếp xúc với cái lạc vô tướng; sự cực diệu lạc đó, chẳng phải do sự phân biệt dẫn sanh cho nên gọi là thanh tịnh. Năng thuyên câu đó, câu đó sở thuyên chính là cú nghĩa Bồ-tát.
Kinh viết: "Các kiến giải mãi mãi tịch lặng thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa, vi diệu vui duyệt thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Hai cú nghĩa đó; tức trong năm quả lìa các loại tưởng, đắc cái vui vườn pháp, do kiến đả mãi mãi lặng yên, cho nên lìa được các tướng; các tướng phần nhiều do các kiến sinh, mà đã đạt được cái vui vườn pháp; cho nên vi diệu vui duyệt. Các kiến là năm kiến. Trước địa trên địa đều hàng phục, chặt đứt không dư sót, cho nên bảo là mãi mãi tịch lặng. Lấy pháp giới làm vườn, vui chơi sung sướng trong đó, gọi là cái vui vườn pháp. Chứng hiểu gọi là đắc. Như sung sướng vui chơi trong vườn ngự uyển ở cung điện nhà vua. Pháp giới cũng vậy; cầu chứng, chánh chứng đều sanh ra sự vui sướng.
Kinh viết: "Khát ái vĩnh tức, thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Thai tạng siêu việt, thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Chúng đức trang nghiêm, thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Trong ba cú nghĩa trên: Khát ái là tham dục, tham dục do khát ái sinh ra, nên gọi là khát ái. Ví như con nai khát nước, từ xa nhìn ánh phản chiếu của mặt trời, tưởng là nước, tham muốn chạy đến chỗ đó. Loài hữu tình cũng vậy! Do khát phiền não, thấy vật bất tịnh, tưởng là tịnh, rồi khởi tham cầu, nên gọi là khát ái. Càng ngày càng thấm sâu, lấy ái làm đầu tạo ra các nghiệp. Mọi phiền não đều lấy tham làm đầu.
Trước địa lần đầu chế phục, trên địa có thể trừ được; cho nên bảo là vĩnh viễn ngừng (vĩnh tức). Do nhân đã diệt, nên quả khổ không sinh, do đó thai tạng cũng có thể siêu việt. Nói một thai sinh là vì ý đã lìa sự phân đoạn, ở vào chỗ biến dịch. Đó là nhân quả sinh tử đã hết, đã đắc được biến dịch dị thục thù thắng; cho nên ở trước địa, trồng các nhân tướng tốt sẽ hóa thành tám tướng, đến ngôi vị thập địa thì đắc đủ các tướng tốt, thanh tịnh công đức, trang nghiêm thân đó. Ác pháp đã mất, thắng quả đã khởi, tức là niệm niệm làm tiêu tan, tất cả những vật nặng nề bám dính thân thể hữu lậu. Bám dính vào bản thức làm cho bất an, gọi là nặng nề. Ví như những ung nhọt. Ba khổ bức bách thì không được an ổn! Nếu ở trước địa nhờ nghe Bát-nhã tu hành vô tướng, khiến cái nghe được huân tập tăng làm tiêu tan những sự nặng nề bám trên bản thức; cũng như vị thuốc hay sẽ làm tiêu trừ các khối bệnh. Nếu đạt đến thập địa, thì có thể chặt đứt được nó, gọi là tiêu tan. Sự năng nề đã diệt, nên khát ái tắt. Thai tặng được siêu việt thì không còn nặng nề. Chúng đức trang nghiêm, ái năng nhuận phát. Trong phần sau, phần "Duyên sinh" sẽ nói rõ.
- Về thân thai tạng, luận Du già nói: thai tạng có tám vị:
- Đã ngưng kết loãng ở bên trong, gọi là yết thích lam vị.
- Bề ngoài như máng sữa chưa thành thịt, gọi là Án Bộ đàm vị.
- Như đã thành thịt nhưng vẫn rất mềm; gọi là Bế thi vị.
- Nếu đã dày cứng gọi là Kiện nam vị.
- Khối thịt chuyển tăng trưởng, hiện rõ hình dáng, gọi là Bát la xa khu vị.
- Sau đó lông, tóc, móng, răng sinh, gọi là mao phát trảo xi vị.
- Rồi các căn hình thành đầy đủ gọi là căn vị.
- Y xứ phân minh hiển danh hình vị.
Do bởi nghiệp kiếp trước và những nhân duyên xấu của mẹ, có thể làm cho thai tạng đó hoặc tóc, hoặc sắc, hoặc da hay tay chân biến đổi một cách khác lạ lúc sinh ra; hoặc do nghiệp hoặc do mẹ ăn nhiều vị mặn làm cho lông tóc lưa thưa; hoặc do nghiệp, do mẹ thường ở nơi nóng, khiến cho sắc đen tối; ở gần chỗ lạnh sẽ khiến màu da trắng bạch; ăn nhiều đồ nóng sinh sắc da rất đỏ. Hoặc do nghiệp hoặc do mẹ quen thói dâm dục nên da hay bị ngứa hoặc nổi ghẻ lở. Do nghiệp hoặc do mẹ thường quen chạy nhảy, bị té làm cho tay chân bị khuyết thiếu. Nữ thì ở bên trái hông, dựa lưng, hướng bụng. Nam ở bên phải hông, dựa lưng, hướng lưng. Khi thai đã đủ tháng, mẹ không chịu nỗi sức nặng của thai, nội phong khởi làm mẹ đau đớn; với lại nghiệp báo sinh phần cùng phong khởi lên, khiến cho đầu hướng xuống dưới, chân hướng lên, bọc thai hướng về cửa sản môn. Khi đang ra, bọc thai vỡ. Khi sinh gọi là chánh sinh vị. Lúc ấy, người mẹ đau đớn vô cùng, thai nhi cũng vậy. Đoạn trên được nói trong quyển thứ năm trăm tám mươi chín của kinh Đại Bát-nhã. Thân thai tạng đó được tạo thành do ba mươi sáu vật bất tịnh: lông, tóc, móng, răng, da... đã sinh trưởng rồi, tiếp đó khởi sáu xúc, tiếp nữa là tùy theo cái học thế gian, rồi dựng vợ gã chồng, rồi tạo nghiệp, rồi thọ nhận các cảnh giới khổ lạc thuộc sắc giới, rồi theo cái nghiệp đã tạo mà thọ nhân thân này. Bồ-tát thì không như vậy! Tùy theo nguyện mà thọ sinh, dù nhập thai mẹ, đến Bát la xa khư vị, tự thân không có ác nghiệp; cũng không làm cho mẹ tiếp cận duyên xấu để tự hư tổn tóc... cũng không làm cho mẹ thọ các khổ não. Đã sinh trưởng rồi, cũng không bị những lỗi lầm xấu như đã nói trên. Chỉ lấy Bi và Trí thọ sinh thành nghiệp cho nên gọi là Siêu Việt. Không có chuyện thân bị biến đổi. Đủ cả ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tự nhiên cho nên bảo là chúng đức trang nghiêm. Bởi bi trí huân tu mới được thân như vậy.
Kinh viết: "Ý cực ỷ thích thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; đắc đại quang minh thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Hai cú nghĩa đó chính là có thể hiểu biết chính xác rõ ràng đại pháp quang minh là vô lượng vô phân hạng tướng; vì đã đặt được pháp giới mười phương vô biên vô phân lượng tướng. Cực ý thích hiển bày chiếu hạnh nên gọi là pháp quang minh. Đã có thể quảng đạt khế hội với pháp tính; chứng được cái lý chân diệu; ý cực ỷ thích, là có thể hiểu được trí đó hiển chiếu rõ ràng; gọi là pháp quang minh. Cả hai đều ly cấu, cho nên gọi là thanh tịnh.
Kinh viết: Thân khéo an lạc thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát của nghĩa; Ngữ khéo an lạc, thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; Ý khéo an lạc thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa.
Tán rằng: Ba cú nghĩa đó, tức phần thứ năm, là khiến cho pháp thân viên mãn thành biện để có thể nhiếp thọ đúng hậu thắng nhân sau này.
Địa thứ mười gọi là viên mãn. Tại Phật địa gọi là thành biện; cảm được cái nhân đó, là thù thắng nhất; gọi là Thắng Nhân. Tức là trong đó, mang ý nghĩa ba nghiệp an lạc thanh tịnh. Chánh là do ý nghĩa của địa vị trước, khéo an lạc hai nghiệp ngữ và thân, trợ giúp cho sự an lạc. Hậu pháp thân sau đó viên mãn thành biện. Ba nghiệp bất tịnh bức bách hiện tiền, thì không có an lạc; hậu pháp thân sau đó cũng không được thành biện. Mười cú nghĩa trên nói về Bồ-tát tu quả thanh tịnh cú nghĩa, hiển này tất cả cú nghĩa của Bồ-tát, trong đó thanh tịnh nếu bị nhiễm, thì lìa bỏ sự thanh tịnh. Nếu người khéo tu tập thanh tịnh, thì cú nghĩa Bồ-tát không lìa, cho nên địa tiền phần đắc, địa thượng được chánh chứng; cho nên lực chuyển sự lợi ích ở tại vị địa tiền.
Kinh viết: "Sắc vẫn không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Thọ, tưởng, hành, thức uẩn thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Nhãn xứ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xứ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Sắc xứ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; Thanh, hương, vị, xúc, pháp xứ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Nhãn giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Sắc giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa; Thanh, hương, vị, xúc, pháp giới thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Nhãn thức giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa, Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồtát cú nghĩa."
Tán rằng: Sau đây là phần thứ hai, ba mươi mốt môn nương vào bản tính các pháp và đã do không tịch thanh tịnh cú nghĩa để hiển bày tất cả cú nghĩa của chư Bồ-tát. Ở đây chia ra hai phần; phần đầu có hai mươi sáu môn, nêu rõ thế tục thắng nghĩa pháp, sở y sở tòng bản tính không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát. Phần thứ hai gồm năm đồi dưới thiện phi thiện, thông cả những sai biệt nhiễm pháp và tinh pháp bản tính không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cù nghĩa của Bồ-tát.
Trong phần đầu chia làm ba: Chín môn đầu tiên chỉ nói về thế tục pháp sơ y bản tính không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát.
Tiếp đến gồm mười sáu môn, chỉ nói về thắng nghĩa pháp sở tòng bản tính không tịch cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát. Sau cùng có một môn, nói tổng quát về pháp thế tục và thắng nghĩa sở y bản tính không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát.
Trong chín môn đầu thì chia ra làm chín; trong đó có ba cú nghĩa tức ba khoa pháp. Lại như phàm phu biến kế sở chấp các pháp sắc uẩn. Bổn lai không tịch; không tịch tức thanh tịnh. Bởi chỉ có vọng tâm, chứ cảnh đều không có! Nương vào môn khác mà có, bản tính cũng không! Kinh tự nói: Sắc như tụ nước bọt; thọ dụ là bọt nước nổi; tưởng giống với bóng nắng (dương diễm); hành tựa Ba tiêu; Thức như các việc Huyễn hóa. Sắc như tụ nước bọt, bởi mau tăng mau giảm, bởi do nước sinh ra. Vì nghĩ đến chuyện ăn uống do nước sinh; không thể bóp nặn, chẳng như cục đất sét mà có thể bóp nặn, tạo ra các đồ vật khác! Lại nữa, thực ra chẳng phải tụ mà tựa như tụ, hiển hiện cho đến khi có thể phát khởi cái hiểu hữu tình.
Thọ dụ cho bọt nước nổi; bởi ba thứ hòa hợp mà sinh, đứng yên không lâu, tương tựa pháp. Nghĩa là, ở dưới có nước, ở trên có mưa gió kích động, mới có bọt nước sinh ra. Ba thứ hòa hợp làm duyên sinh; thọ cũng như vậy. Các pháp tâm sở tiếp xúc với nhau không nói là vì duyên; lại lên xuống mau chóng không đứng yên. Tưởng giống với dương diễm, vì có tính chất động nhanh chóng; vô lượng các loại tướng biến đổi khác nhau sinh ra; khiến cho sở duyên phát sinh điên đảo, khiến các cảnh giới đó hiển hiện rất rõ ràng. Do sự phân biệt đó, mà các tướng nam nữ, thành ra có khác biệt!
Hành như cây Ba tiêu; vì nó không chắc thực; cành lá tuy to lớn nhưng hư hoại mau chóng. Như người mắt sáng cầm dao bén vào rừng, chặt lấy cây Ba tiêu có thân trụ thẳng, vứt bỏ cành lá, rễ, vỏ cây, trong lòng cây chẳng có gì cả! Làm gì có thực! Nghĩa là đệ tử Thánh, lấy con dao diệu Tuệ ở trong rừng năm nẻo, chặt lấy cái ngã kiến gọi là trụ gốc. Chặt đứt gốc nó là đoạn ngã kiến; chọn lựa kỹ càng gọi là lột bỏ cành lá; thì chỉ còn có các pháp sai biệt, các loại hành như là tư v. v... làm gì còn cái ngã thường hằng nào; cho nên gọi là như cây Ba tiêu.
Thức giống như Huyễn sự. Ví như nhà ảo thuật, đứng ở ngã tư đường, ảo hóa ra bốn thứ chuyện. Nói nhà ảo thuật; là dụ cho tùy phước phi phước bất động hành thức. Ở ngã tư đường, là trụ vào bốn thức trụ. Bốn chuyện ảo hóa, đó là voi ngựa v.v... những thứ đó, tuy là thấy được, nhưng không thực là voi, ngựa v.v... như vậy nên biết, tùy theo phước mà thức trụ ở thức trụ; tuy có cái tướng của ngã tác thọ, nhưng không có được cái tính ngã chân thực. Lại nữa, ở trong thức uẩn chứa thật tính, bên ngoài hiện ra những tướng khác lạ giống như hình ảnh ảo. Cho nên biết y tha cũng là tính rỗng lặng. Pháp huyễn ảo ở trên không có tính tự nhiên, cho nên gọi nó là không. Theo thật lý, thể viên thành thì phi không bất không; nương vào hai môn không, mới có thể hiển chứng, để cũng có thể gọi là không. Cho nên ba loại pháp đều là không. Ở trên là giải theo Ngài Hộ Pháp. Ngài Thanh Biện thì giải thích:
Lại nữa, thế tục vọng nói, sắc có thể có thắng nghĩa, nhập vào chân sắc thì đều là vô, cho nên vốn rỗng lặng, như thắng thứ hai vọng hữu tức chân vô, cho nên vốn đều rỗng lặng; các rỗng lặng sau đây đều chuẩn với cái biết đó; nhưng chỉ giải pháp không giải lý. Thuyên không tịch cú, là đã hiển hiện không tịch, tức là cú của năng thuyên Bồ-tát. Nghĩa của sở thuyên, nương đó chứng đó gọi là Bồ-tát. Cho nên gánh vác gom tụ lại là uẩn nghĩa; sinh ra là xứ nghĩa; nhân chủng tộc dòng họ là giới nghĩa; biến ngại gọi là sắc; lãnh nạp gọi là thọ; giữ lấy hình bóng gọi là tưởng; tạo tác gọi là hành; hiểu biết gọi là thức. Hai pháp thọ, tưởng trong tâm sở hỗ trợ riêng cho tâm cường mạnh, tu thiền vô sắc đặc biệt dùng hai thứ đó. Ngoại đạo cho là nhân của sanh tử, cho nên có tên riêng là uẩn. Bởi uẩn chỉ gồm thâu hữu vi vô vi, chẳng tụ; cho nên sinh ra gọi là xứ; căn không hoại cảnh hiện tiền có thể sinh ở thức; cho nên căn và cảnh đều được gọi là xứ. Thức được sinh ra không khai mở thành xứ, nên cũng thông với vô vi. Vì cảnh sinh thức sáu căn có thủ, mỗi căn tự dùng cảnh riêng của mình cho nên đặt tên riêng. Sáu cảnh làm thành căn, mỗi cảnh đều thủ riêng, cho nên tên có khác nhau. Nghĩa của tính, của nhân gọi là giới, cho nên mở rộng sáu thức, lập thành mười tám giới, cũng thông với vô vi. Để phá cái chấp phiền não thức của hữu tình mà thuyết ba khóa đó cho ba căn cơ thượng, trung, hạ. Ba khóa đều thông với hữu lậu vô lậu. Các ý nghĩa khác, cũng giống như những điều đã nói trong các luận.
Kinh viết: "Nhãn xúc không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là cú nghĩa Bồ-tát. Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là cú nghĩa Bồ-tát. Nhãn xúc làm duyên sinh ra các thọ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là cú nghĩa Bồ-tát. Nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý xúc làm duyên sinh ra các thọ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là cú nghĩa của Bồ-tát".
Tán rằng: Trong hai cú nghĩa đó, ở trong tâm sở, hai thứ đó làm đầu; vì có ba vị, năm vị khác nhau. Khi các căn sinh, vì gần cận nên thắng; vì có thể sinh tâm sở xúc mạnh mẽ. Xúc nghĩa là xúc đối, tức là xúc số, khiến cho tâm, tâm sở cùng xúc với cảnh gọi đó là xúc. Xúc do căn, cảnh, thức hòa hợp mà sinh có thể hòa hợp ba thứ lại với nhau, cho nên các kinh luận gọi là Tam Hòa. Do căn biến dị khi dẫn đến xúc khởi, thì thức, cảnh là hơn hết, cho nên gọi là nhãn xúc cho đến ý xúc.
Kinh viết: "Địa giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Thủy, hỏa, phong, không, thức giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Pháp môn đó chính là sáu giới thành chúng sinh; nên biết là bốn đại. Cái đã gọi là không chính là cái sắc của không giới trong nội thân. Thức nghĩa là tám thức. Trong đó chỉ nói ba loại căn bản; nghĩa là: sắc chỉ nương vào tứ đại. Hành động chỉ nương vào không giới; vì trong thân nếu không có cái sắc của không giới đó, thì không thể cử động được. Tâm sở chỉ nương vào thức. Vì chỉ xét về căn bản, nên chỉ nói sáu căn; tích tụ thành hình cho nên nói là tứ đại; có thể khởi phân biệt cho nên gọi là thức. Có thể có các nghiệp chuyển động qua lại cho nên nói là rỗng lặng, không tăng không giảm.
Kinh viết: "Khổ Thánh đế không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Tập, diệt, đạo Thánh đế không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Pháp môn đó chính là Tứ đế; vì nhị thừa mà an lập sai biệt, nên gọi là Thế tục. Khổ nghĩa là bức bách không an ổn, không vui, tức là pháp hữu lậu, tất cả đều như vậy. Vì tất cả hữu tình và đồ vật trong thế giới đều là khổ; vì khổ nghiệp phiền não đều là khổ. Quả khổ có ba loại hoặc tám loại. Ba loại gồm: Hành khổ, khổ khổ, hoại khổ. Tám loại gồm: Sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, ghét mà gặp khổ, yêu mà xa khổ, cầu mà không được khổ, gồm thâu ngủ thủ uẩn khổ. Sinh khổ có hai nhân: 1. Các khổ bức bách; 2. Các khổ khác nương vào. Nghĩa là khi ở trong bụng mẹ, bị đủ các thứ bất tịnh bức bách khổ. Khi thai đang sinh ra, lại bị thân thể tay chân bức ép đại khổ. Vì có sinh ra, cho nên có các lão, bệnh, tử khổ... lão khổ là cái khổ của từng phút từng giây biến đổi hư hoại...
Đế là thật nghĩa. Khổ đúng thật là khổ, càng không có cái khổ nào khác, cho nên gọi là Đế. Phàm phu không biết, chỉ có bậc Thánh mới biết. Đế của bậc Thánh cho nên gọi là Thánh đế.
Tập nghĩa là Nhân, nghiệp phiền não có khả năng tập nên sinh ra khổ. Khổ gồm thâu cả hữu lậu, tập trừ quả khổ.
Diệt là trạch diệt, tức là Niết-bàn; có bốn loại.
Đạo là Thánh đạo, con đường thông vận, tức chư Thánh thực hành hữu vi vô lậu; hai đế đầu là hữu lậu; hai đế sau là vô lậu. Bốn diệu lý đó, Thể là một chơn như; do nương vào thuyên mà phân làm bốn loại, cho nên tính thanh tịnh.
Kinh viết: "Nhân duyên không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Đẳng vô giáng duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Chính mình có thể biện thể, sinh trưởng các pháp, gọi tên là Nhân. Lấy nhân làm duyên, nên gọi là Nhân Duyên. Duyên là duyên tịch, gọi chung cho bốn duyên; tức ngoài Phật quả ra, ở địa vị nhân, thức thứ bảy kiến tướng phần... có thể luân chuyển gọi là nhân duyên. Chủng tử thông cả các địa vị, tự loại tương sinh và hiện sanh đều gọi là nhân duyên, vì đều chính nó biện thể mà sinh quả.
Đẳng vô gián tức tâm, tâm sở; mỗi tự thức tụ, trước vọng về tâm sở sau thành vô gián duyên. Chữ Đẳng có hai nghĩa: Một là tương tựa gọi là đẳng; trong tâm sở, tâm sở trước cũng một thọ, tâm sở sau cũng một thọ, vì thể nó đẳng, cho nên gọi là tương tự. Hai là lực ngang bằng, gọi đó là đẳng; hoặc niệm trước một pháp ngang với một pháp sau thành vô gián duyên. Niệm trước tất cả đẳng có thể cùng với một pháp sau, thành vô duyên gián; cho nên bảo là Đẳng vô gián duyên; là nghĩa khai đạo. Như niệm trước, nhãn thức tụ với tự nhãn thức sau, thành vô gián duyên, chẳng thể ngang bằng với Nhĩ, hoặc đều cùng sinh nhưng nhiều ít đều có sự không ngang bằng.
Sở duyên duyên là cảnh có thể, pháp có khả năng sinh các tâm, gọi đó là duyên. Các tâm trước mang theo cảnh tướng đó, các cảnh mang theo đó, gọi là sở duyên, cả hai thứ đó có sự khác nhau.
Tăng thượng duyên là nghĩa oai thế; với oai thế đó khiến sinh đẳng. Đẳng vô gián duyên thể chỉ là tâm và tâm sở, còn sở duyên duyên thì thông luôn tất cả pháp. Hai duyên trên chỉ đợi tâm và tâm sở làm quả. Cái thể của nhân duyên, thông tất cả hữu vi, quả của nó cũng vậy. Còn tăng thượng duyên, thể và quả đều thông hết tất cả pháp.
Kinh viết: "Vô minh không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Trong mười duyên khởi đó, vô minh lấy si làm thể, phát cái hoặc của nghiệp. Hành thì thông cả ba nghiệp; phước và phi phước là nghiệp bất động; hai chi này đều thông với hiện hành chủng tử. Thức là bản thức. Danh sắc thông ngũ uẩn. Lục xứ là lục căn. Hai pháp xúc, thọ là tính dị thục. Đương thể làm thể. Năm chi sau thức là chủng tử. Ái là tham ái, lấy tham làm tự thể. Thủ thông với tất cả phiền não, làm tính; hai chi đó cũng thông với hiện hành chủng tử. Hữu; thể dùng chung, sáu chi làm thể; nghĩa là ái và thủ đã tràn đầy, thì sáu chi kể từ chi Hành sẽ thành quả mà hiện khởi, Quả hậu Hữu (Hậu hữu là thân kiếp sau) sinh ra gọi đó là Hữu. Hữu chỉ là chủng tử. Từ ngôi vị Trung Hữu đến ngôi vị Bổn Hữu thì chưa suy biến, đến lúc có ngũ uẩn đều gọi là chi sinh. Tất cả ngũ uẩn từ suy biến vị đến lúc mạng chung gọi là lão, tử. Nghĩa là do vô minh tạo hạnh thiện ác, hun tập với bản thức, đã cùng nhau để lại những tương cảm với thức. Ái và thủ hợp vào đó làm mạnh thêm. Sáu chi trước, có thể ngay nơi đó sinh quả, gọi là hữu; hướng đến chỗ cùng nhau sinh khởi gọi là sinh. Suy biến, mệnh chung gọi là tử. Mười hai chi Hữu thể chỉ là hữu lậu, như duy thức đã nói rõ về các tướng của chúng. Kinh nói: "Bố thí Ba-la-mật đa không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa. Tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, Bát-nhã Ba-la-mật đa không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Dưới đây là phần thứ hai, có mười sáu môn nói rõ Thắng nghĩa pháp là do bản tính không tịch cú nghĩa. Để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát, trong đó chia ra ba phần: 1. Nói về hạnh, có sáu môn;
2. Nói về vị, có hai môn; 3. Nói về đức, có tám môn. Trong hạnh có ba: 1. Hạnh tổng lục độ; 2. Hạnh sở quán lý; 3-Hạnh biệt tu khởi. Đấy chính là địa thứ nhất. Thí gồm có ba loại: Tài, pháp, vô úy; ở đây dùng không tham và từ không tham đó khởi hai nghiệp làm tính.
Giới gồm có ba: Luật nghi, nhiếp thiện, nhiêu ích hữu tình. Nó lấy ba nghiệp khi thọ Bồ-tát giới, lấy ba nghiệp làm tính.
An nhẫn có ba loại: An thọ khổ, nhịn chịu sự oán hại, Đế sát pháp; trong đó theo thứ tự lấy không sân, tinh tiến, thẩm tuệ và ba nghiệp đã khởi lên ở đó làm tính.
Tinh tiến có ba: Che chở, nhiếp thiện, lợi lạc. Ba tinh tiến đó lấy động và ba nghiệp đã khởi lên ở đó làm thể.
Tĩnh lự có ba: An trú, dẫn phát, biện sự. Ba tĩnh lự đó chỉ làm tính.
Bát-nhã có ba: Gia hạnh, chánh trí, hậu trí. Ba Bát-nhã đó đều lấy trạch pháp làm tính.
Những điều trên chỉ nói về tự tính. Nếu thực hành theo tất cả quyến thuộc của mỗi thứ, thì lấy tất cả công đức cùng theo nó làm tính.
Vì sao sáu thứ trên gọi là đến bờ kia? Vì chúng được nhiếp thọ bởi bảy tối thắng:
1. An trú thắng: Chủ yếu có Bồ-tát tính.
2. Y chỉ thắng: phải có tâm đại Bồ-đề.
3. Ý lạc thắng: phải thương xót hữu tình.
4. Sự nghiệp thắng: phải đủ tất cả hạnh.
5. Xảo tiện thắng: phải nhiếp bởi vô tướng trí.
6. Hồi hướng thắng: phải hồi hướng Bồ-đề.
7. Thanh tịnh thắng: không bị xen tạp bởi hai chướng.
Đủ bảy nghĩa gọi là đến bờ kia; không như vậy thì chẳng phải! Do vậy mà những thí đều có bốn trường hợp:
1. Thí phi Ba-la-mật không có đủ bảy thắng.
2. Ba-la-mật phi Thí; thấy người khác thực hành thí tự mình đủ bảy thắng.
3. Diệc thí diệc Ba-la-mật; tự mình thực hành bố thí lại có đủ bảy thắng.
4. Phi thí phi Ba-la-mật: tự mình không hành bố thí, thấy người khác thực hành bố thí, lại không sinh tùy hỷ.
Tu lục độ đó, có năm cách:
1. Y chỉ nhậm trì tu.
2. Y chỉ tác ý tu.
3. Y chỉ ý lạc tu.
4. Y chỉ phương tiện tu.
5. Y chỉ tự tại tu.
-Thứ nhất y chỉ nhậm trì tu: có bốn
1. Nương theo nhân mà tu; nghĩa là nương theo lực của chủng tính mà tu tập chính hạnh.
2. Y chỉ báo tu; nghĩa là do thắng thân và tu tập chính hạnh.
3. Y chỉ nguyện tu; nghĩa là do bổn nguyện mà tu tập chính hạnh.
4. Y giản trạch tuệ tu tập chính hạnh.
-Thứ hai Y chỉ tác ý tu cũng có bốn:
1. Nương vào hiểu biết đặc biệt, càng hiểu thêm đối với tất cả khế kinh tương ưng.
2. Nương vào sự thích thú; càng thích thú một cách sâu xa các thắng công đức.
3. Nương vào sự tùy hỷ, thân sinh tùy hỷ đối với tất cả hữu tình đã thực hành sáu độ.
4. Nương ý lạc tu; đối với thắng phẩm lục độ tương lai của mình và người, thân sinh nguyện lạc.
-Thứ ba Y chỉ ý lạc tu gồm có sáu:
1. Ý vui không chán; ví như người bố thí không bao giờ chán, nghĩa là Bồ-tát trong một sát na, lấy bảy báu trong ba ngàn đại thiên thế giới bố thí cho một hữu tình. Lại lấy vô số thân mạng bố thí. Bố thí như vậy trụ trong nhiều kiếp với một hữu tình. Cứ như vậy cho đến tất cả cõi hữu tình cũng đều bố thí như vậy, khiến cho mau chóng thành tựu Bồ-đề. Bồ-tát bấy giờ vẫn không chán; gọi là ý vui không chán.
2. Thí ý lạc rộng lớn; Bồ-tát cứ như vậy mà tiến triển liên tục không có sát na nào thối lui hay đứt đoạn; cho đến lúc cuối cùng được ngồi tòa Bồ-đề; gọi là Thí ý lạc rộng lớn.
3. Hoan hỷ ý lạc; khi Bồ-tát thực hành bố thí như vậy, người đến xin được đại hoan hỷ. Người đến xin tuy được đại hoan hỷ, nhưng không bằng Bồ-tát; nên gọi là Thí hoan hỷ lạc ý.
4. Ân đức ý lạc: khi Bồ-tát thực hành bố thí như vậy, quán người đến xin kia có đại ân đức với mình; không thấy mình có ơn với người. Nhờ đó mà trợ giúp vô thượng Bồ-đề cho mình, nên gọi là thí ân đức ý lạc.
5. Vô nhiễm ý lạc. Bồ-tát được phước thí như vậy với vô lượng các hữu tình, nhưng không cầu mong báo ơn ở kiếp sau, nên gọi là thí vô nhiễm ý lạc.
6. Thiện hảo ý lạc. Bồ-tát như vậy, lấy sự tu hành tích tụ việc bố thí rộng lớn, đã đắc được dị thục mà thí cho các hữu tình, không tự vì mình, lại lấy phước đó, cùng chư hữu tình hồi hướng vô thượng chánh đẳng Bồđề; gọi đó là thí thiện hảo ý lạc. Năm độ còn lại như đối pháp.
- Thứ tư y chỉ phương tiện tu: nghĩa là nhờ trí vô phân biệt, quán sát ba luân đều là thanh tịnh, nhờ đó mà mau thành những điều tu hành.
- Thứ năm Y chỉ tự tại tu, gồm có ba:
1. Thân tự tại: nghĩa là tự tính thị dụng thân.
2. Hạnh tự tại: các thân biến hóa, thị hiện chư hữu tình tất cả loài vì cùng pháp hạnh.
3. Thuyết tự tại: thuyết lục độ Nhất thiết chủng sai biệt không bị trệ ngại.
Kinh viết: "Chơn như không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Pháp giới, pháp tính, bất hư vọng tính, bất biến dị tính, bình đẳng tính, ly sinh tính, pháp định pháp trú thực tế, hư không giới, bất tư nghì giới không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai Hạnh sở quán lý.
Tám tên gọi trên, Thể của chúng cùng một chơn như. Chơn: nghĩa là chơn thực hiển bày, chẳng phải là hư vọng. Như: nghĩa là như thường không có biến đổi; tức là nghĩa trạm nhiên không hư vọng; ngăn chận vọng, hiển bày thường gọi là chơn như.
Pháp giới là nơi nương tựa diệu pháp của ba thừa. Pháp tính là bản thể chơn thực của tất cả các pháp.
Bất hư vọng tính là lìa vọng điên đảo, không tính vọng. Bất biến dị tính nghĩa là tất cả thời đều không thay đổi. Bình đẳng tính là các pháp có khắp.
Ly sinh tính; Sinh nghĩa là sinh ngạnh, ví như sinh thuộc; đó chính là các pháp hữu lậu; lìa được sinh ngạnh đó là tính của sự kiên cường. Lại nữa, sinh là sinh diệt, lìa thể sinh diệt gọi là Ly sinh tính.
Thực tế; là không điên đảo sở duyên. Thực là không điên đảo; chỗ đó rốt ráo, nên bảo là Tế. Vượt qua tính vô ngã, vì không có chỗ mong cầu.
Ở đây, chỉ tóm lược nêu ra tám tên gọi. Trong hội thứ nhất có mười hai tên gọi. Trong các đối pháp có sáu tên gọi. Thể là nhất Như, tên gọi thì có khác nhau, tùy theo sự đối trị và sự giáo hóa mà thành nhiều loại khác nhau.
Kinh viết: "Bốn tĩnh lự không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Bốn vô lượng; bốn vô sắc định không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần ba: Hạnh biệt tu khởi. Trong ấy có bốn:
1. Thiền vô sắc Hạnh; 2. Bồ-đề phần hạnh; 3. Giải thoát môn hạnh; 4. Biệt trí đối trị.
Đầu tiên là Tĩnh kỳ tâm chuyên nhất lự, Định tuệ ngang nhau, công đức thù thắng, được gọi là Tĩnh lự. Lìa các pháp bất thiện, những thèm muốn xấu xa, có tầm có tư, lìa sinh hỷ lạc; gọi là sơ tịnh lự (sơ thiền). Thứ hai là lìa tầm, tư, hỷ tĩnh lự (nhị thiền). Thứ ba là đã lìa hỷ lạc tĩnh lự (tam thiền). Thứ tư là đã lìa tầm tư hỷ lạc, xả niệm thanh tịnh tĩnh lự (tứ thiền). Những thứ đó, nói chung là sơ, nhị, tam, tứ để làm tên riêng; chẳng có tên nào khác. Chỉ ở tại sắc địa thông cả hữu lậu và vô lậu.
Bốn vô lượng là từ, bi, hỷ, xả. Cho niềm vui gọi là từ, là tính không sân. Bạt khổ gọi là bi; không hại là tính; không lìa lạc là hỷ, lấy thiện căn và không đố kỵ làm tự tính khiến cho lợi ích là xả; xả thiện căn là tính.
Thông cả hữu lậu, vô lậu; có khắp ở bốn thiền; cảnh hạnh đều rộng rải, cho nên gọi là vô lượng.
Bốn vô sắc là: không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ, những cái đó thông cả hữu lậu, vô lậu. Cả ba thừa đều khởi.
Kinh viết: "Bốn niệm trụ không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Bốn chánh đoạn; bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai: Hạnh Bồ-đề phần. Bốn niệm trụ là: Thân, thọ, tâm, pháp. Lấy tuệ làm tính. Tuệ nhờ niệm tương ưng, trụ trong bốn cảnh đó; gọi là niệm trụ. Bốn chánh đoạn là:
1. Luật nghi đoạn: nghĩa là đã sinh ra pháp xấu, nhưng phải khiến cho đoạn dứt, nên lấy đó để cố gắng cảnh giác.
2. Đoạn đoạn: nghĩa là chưa sinh pháp ác, nhưng vì khiến cho đừng sinh, cho nên phải cảnh giác cố gắng.
3. Tu tập đoạn: nghĩa là pháp thiện chưa sinh mà muốn cho nó sinh nên cảnh giác tâm, gìn giữ tâm.
4. Phòng hộ đoạn: nghĩa là pháp thiện đã sinh và muốn cho nó trụ nên sách tâm trì tâm.
Bốn loại đó lấy tinh tấn làm thể, cố gắng phát triển ở tuệ, thì tự nó dần dần điều phục, nên gọi là chánh đoạn. Bốn Thần túc là; muốn siêng năng tâm quán, phải nhờ bốn cái đó dẫn đến định. Bốn thần túc lấy định làm thể. Vận chuyển tối thắng tự tại là Thần do định mà có thể đắc, có thể chứng gọi là thần túc.
Năm căn là: tín, niệm, định, tuệ sinh ra pháp xuất thế, năm điều đó làm đầu, cho nên gọi là căn. Nhờ năm căn đó mà sinh ra những hiểu biết đặc biệt thù thắng trong pháp xuất thế.
Thanh tín khó chế phục gọi là lực. Vì các thiên ma ngoại đạo và các sa môn không thể chế phục. Năm cái đó tùy theo tên gọi, mỗi cái tự nó làm thể.
Bảy đẳng giác chi là trạch pháp, tinh tiến, hỷ, khinh an, định, xả và niệm. Bảy thứ đó là vô lậu, khởi lên ở kiến đạo vị. Giác là trạch pháp. Chi là chi phần.
Trạch pháp giác, giác đó cũng là giác chi; còn các giác chi khác chẳng phải giác, như tự danh của nó, tức làm thể của nó. Bảy cái đó có thể quán khắp các pháp, cho nên gọi là Đẳng. Đẳng có nghĩa là khắp.
Tám Thánh đạo chi là; Chánh kiến, chánh tư duy, chánh tinh tấn, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh niệm và chánh định. Ngữ, nghiệp, mệnh thuộc về ba giới uẩn; các thể còn lại như tên gọi, khởi lên ở tu đạo vị. Chư Thánh bậc Hữu học do tám chi nhiếp hạnh tích. Chánh đạo không thể dư sót, đoạn dứt tất cả phiền não, có thể chứng được giải thoát rốt ráo. Do đó, tám thứ đó gọi là Thánh đạo chi. Hợp lại là ba mươi bảy đạo phẩm, đều lấy mười một pháp làm tự thể.
1. Tuệ: tức các chi của bốn niệm trụ, tuệ, căn, lực, trạch pháp, giác, chánh kiến.
2. Tinh tiến tức bốn chánh đoạn tinh tiến, căn lực tinh tiến, giác chi chánh tinh tiến.
3. Định: tức bốn thần túc định, căn lực định, giác chi chánh định.
4. Tín: tức tín căn lực.
5. Niệm: tức niệm căn lực, niệm giác chi, chánh niệm.
6. Dục: tức bốn thần túc.
7. Hỷ thọ: tức hỷ giác chi.
8. Khinh an: tức an giác chi.
9. Xả: tức xả giác chi.
10. Tầm: tức chánh tư duy, thực thể tức là tuệ.
11. Sắc: tức vô biểu giới, chánh ngữ, nghiệp mệnh. Trong đó; giả thực, tu pháp, phế lập, khai hợp, học nhiếp, thể chi, đối biện; thì cũng như các chú thích khác.
Kinh viết: "Không giải thoát môn không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Vô tướng, vô nguyện giải thoát môn không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba: Hạnh giải thoát môn. Quán không, vô ngã, gọi là không.
Quán diệt, lìa tướng, gọi là vô tướng.
Quán khổ, tập, đạo, các pháp hữu vi không sinh ra nguyện cầu gọi là vô nguyện. Nhờ ba thứ đó mà có thể nhập được Đế lý gọi đó là môn. Thể là pháp vô lậu, lại có khả năng chứng giải thoát cho nên gọi là giải thoát.
Nếu chỉ nói không, vô tướng, vô nguyện, tức thông cả ba tuệ; định và tán, thông hữu lậu, vô lậu. Nếu nói tam muội tức chỉ tu tuệ; chỉ có định chẳng có tán, thông hữu lậu, vô lậu. Nói giải thoát môn tức chỉ tu tuệ; chỉ có định chẳng có tán, không thông hữu lậu. Ba thứ đó hoặc chung hoặc riêng, duyên với đế như các chỗ khác đã nói. Lại nữa, trừ kiến nói là không, lìa ái gọi là vô nguyện, lìa vô minh gọi là vô tướng. Kinh viết: "Tám giải thoát không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Thuật rằng: Đây là phần thứ tư: Hạnh đối trị riêng biệt.
-Tám giải thoát là:
1. Nội có sắc quán các sắc.
2. Nội không sắc quán các sắc.
3. Tịnh giải thoát, thân tác chứng.
4. Không xứ.
5. Thức xứ.
6. Vô sở hữu xứ.
7. Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
8. Diệt tận giải thoát.
Nghĩa là các bậc Thánh, có thể thuận vô lậu, có thể lìa các chướng; gọi là giải thoát.
-Tám thắng xứ là:
1. Nội có sắc quán ngoại sắc ít, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc hơn hoặc kém. Với các sắc đó, thắng tri thắng kiến, đắc như thật tướng.
2. Nội có sắc, quán ngoại sắc nhiều, như ở trên đã nói.
3. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc ít.
4. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc nhiều.
5. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại các sắc; nếu xanh thì xanh hiện, xanh hiện thì ánh sáng xanh.
6. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc vàng.
7. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc đỏ.
8. Nội vô sắc tưởng, quán ngoại sắc trắng. Thắng phục sở duyên, gọi là thắng xứ.
- Chín thứ đệ định gồm bốn tĩnh lự, bốn vô sắc và Diệt tận định.
Lần theo thứ tự thô và tế, trên và dưới.
- Mười Biến xứ: Địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng, không vô biên xứ, thức vô biên xứ. Quán khắp tất cả, lượng của nó rộng lớn, gọi là Biến xứ. Sự tăng giảm về thể tánh của những thứ đó, do ở vô lượng nghĩa môn, như đã nói ở những nơi khác.
Kinh viết: "Cực hỷ địa không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Ly cấu địa, phát quang địa, diễm tuệ địa, cực nan thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, vân vô pháp thiện tuệ địa không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai, nói về thắng nghĩa vị. Trong đó có hai phần; phần đầu đại thừa vị, phần sau tam thừa vị. Đây là phần đầu. Chỉ nói về mười địa Bồtát trong nhân:
1. Cực hỷ địa; bắt đầu gặt được tánh thánh, chứng đủ hai không; có thể làm lợi ích cho mình và người, nên sinh ra vui lớn.
2. Ly cấu địa; có đủ tịnh giới; xa lìa những khả năng khởi hủy phạm vi tế phiền não cấu.
3. Phát quang địa; thành tựu thắng định, tổng trì đại pháp, có thể phát vô biên diệu tuệ quang.
Diễm tuệ địa; an trú tối thắng Bồ-đề phần pháp, đốt rụi củi phiền não, tuệ thêm sáng.
4. Cực nan thắng địa; Hai trí chơn và tục, hành tướng của chúng trái ngược nhau hợp chúng lại khiến cho tương ưng với nhau là điều cực kỳ khó khăn.
5. Hiện tiền địa; Trú vào trí duyên khởi, dẫn Bát-nhã tối thắng vô phân biệt, khiến cho hiện tiền.
6. Viễn hành địa; Đến vô tướng trụ, công dụng ở bờ sau, vượt ra ngoài đạo nhị thừa của thế gian.
7. Bất động địa; Trí vô phân biệt, nhậm vận liên tục; phiền não không thể lay động.
8. Thiện tuệ địa; Thành tựu vi diệu bốn vô ngại giải, có thể khéo thuyết pháp khắp mười phương.
9. Pháp vân địa; Mây trí đại pháp, ngậm nước nhiều đức, tệ như không, thô trọng sung mãn pháp thân.
Những địa trên, đều lấy tất cả công đức của hữu vi, vô vi làm tự tánh; cùng với sự tu hành làm cho sự nương giữ càng đặc biệt, khiến được sanh trưởng, nên gọi là địa.
Kinh viết: "Tịnh quán địa không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Chủng tính địa, đệ bát địa, cụ kiến địa, bạc địa, ly dục địa, dĩ biện địa, Độc giác địa, Bồ-tát địa, Như Lai địa, không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai; nói về tam thừa vị. Trong hai địa đầu, có hai cách giải thích:
- Cách giải thích thứ nhất là: Tịnh quán địa ở tại giải thoát phần vị và ba thiện căn trước. Chủng tính địa chỉ ở tại pháp thế đệ nhất; cho nên Bà Sa nói: có thuyết cho rằng chủng tính địa pháp, cũng có thể nói có sự thối lùi.
- Cách giải thích thứ hai là: Tịnh quán địa ở tại giải thoát phần vị, chưa là đế quán. Chủng tính chưa định; chỉ tịnh tu tâm, quán thân, thọ v.v... cho nên gọi là tịnh quán. Chủng tính địa thông ở bốn thiện căn. Trong đẳng vị, chủng tính mới định, không thể chuyển đổi.
- Đệ bát địa là Dự lưu hướng. Vì từ A-la-hán hướng số trước, tức trú kiến đạo mười lăm tâm trước.
- Cụ kiến địa là quả Dự lưu, vì vị đó có đủ mười sáu tâm.
- Bạc địa là nhất lai; vì đã đoạn dứt sáu phẩm trong chín phẩm hoặc của dục giới.
- Ly dục địa là bất hoàn; vì quyết định đã lìa hết các hoặc dục giới.
- Dĩ biện địa là A-la-hán; vì ta đã hết sinh, việc làm đã xong. Ba địa còn lại, theo tên gọi mà giải thích ý nghĩa. Trước chỉ đạt một thừa, nay thông cả thầy trò, hay dở mà nói; cho nên có mười địa khác nhau.
Kinh viết: "Tất cả Đà la ni môn không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Tất cả Tam ma địa môn không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần ba, nói về sở thành đức. Vì nương vào hạnh mà nhập vị, thành đức đó. Trong ấy có tám đức, đây là đức thứ nhất, dẫn sinh các đức. Một là tổng trì môn; hai là đẳng trì môn. Ở bài tựa kinh này, trong phần đức của Bồ-tát đã có giải thích qua, đều là do hai loại dẫn sinh các đức.
Kinh viết: "Ngũ nhãn không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Lục thần thông không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây tức phần thứ hai vế quán chiếu hóa sinh đức.
Ngũ nhãn là: Nhục nhãn, thiên nhãn, tuệ nhãn, pháp nhãn và Phật nhãn. Có nghĩa chiếu rõ dẫn đường gọi là nhãn.
Lục thần thông gồm thần cảnh thông; thiên nhĩ thông; tâm sai biệt thông; túc trụ tùy niệm thông; tử sinh thông; lậu tận thông. Vận chuyển tự tại gọi là thần. Việc không bị làm chướng ngại gọi là thông. Thể tánh của hai thứ đó như kinh đã nói và đã được giải thích như đối pháp thứ năm mươi bốn và đối pháp thứ sáu mươi chín trong Du già Luận quyển thứ mười bốn.
Kinh viết: "Như Lai thập lực không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp bất cộng không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba về Hàng phục bất cộng Đức.
-Mười lực là:
1. Xứ phi xứ trí lực.
2. Tự nghiệp trí lực.
3. Tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí trí lực.
4. Căn thắng liệt trí lực.
5. Chủng chủng thắng giải trí lực.
6. Chủng chủng giới trí lực.
7. Biến thú hạnh trí lực.
8. Túc trụ tùy niệm trí lực.
9. Tử sinh trí lực.
10. Lậu tận trí lực.
Lo cho sự lợi ích mà sinh công đức tương ưng, cuối cùng thắng phục tất cả ma oán. Có đại oai lực nên gọi là lực. Nói chung đều lấy năm căn gồm: tín,... làm tánh.
- Bốn vô úy là: 1. Chánh đẳng giác vô úy; 2. Lậu tận vô úy; 3. Chướng pháp vô úy; 4. Xuất khổ đạo vô úy. Ở trong đại chúng chính là sư tử hống; Sa-môn ma phạm không thể làm khó; cho nên gọi là vô úy.
- Bốn vô ngại giải là: 1. Pháp vô ngại giải; 2. Nghĩa vô ngại giải;
3. Huấn từ vô ngại giải; 4. Biện tài vô ngại giải. Thông đạt vô ngại, gọi là vô ngại giải.
- Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả là duyên khắp ba cõi, trùm cả bốn loài; hạnh và cảnh rộng rãi, cho nên gọi là đại. Còn các tướng từ bi đã nói như trên. Bốn vô lượng cảnh kẹp ở tại dục và sắc; thông ở ba thừa; gồm thâu giá thực quán. Những điều đó chỉ có đức Phật là đủ cảnh và hạnh, rộng khắp, thông ở ba cõi; chỉ có như vậy mới thật quán.
- Mười tám pháp bất cộng của Phật là:
1. Thân không bị sai lầm.
2. Không chết bạo kêu la.
3. Không quên; nhớ lâu những việc đã làm.
4. Vô bất định tâm, thường ở tại định.
5. Không có các tướng sinh tử Niết-bàn.
6. Vô bất trạch xả lợi lạc.
Sáu thứ trên do sở tri chướng mà có tập đó.
7. Ý muốn không bao giờ thối lui.
8. Tinh tiến không thối lui.
9. Niệm không thối lui.
10. Định không thối lui.
11. Tuệ không thối lui.
12. Giải thoát không thối lui.
Sáu thứ trên nương sở tri chướng tu đoạn; trong tất cả các việc đó đều không thoái giảm.
13. Thân nghiệp, lấy trí đi trước dẫn đường.
14. Ngữ nghiệp, lấy trí đi trước dẫn đường.
15. Ý nghiệp, lấy trí đi trước dẫn đường.
16. Biết quá khứ.
17. Biết vị lai.
18. Biết hiện tại không sai biệt, vô ngại.
Sáu thứ trên cũng do có tập của sở tri chướng đó. Mười tám pháp trên chỉ đức Phật mới có. Nhị thừa không thể, cho nên gọi là bất cộng. Còn sự phế lập, tăng giảm các thể nghĩa môn khác thì như Du già luận đã nói.
Kinh viết: "Ba mươi hai tướng không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Tám mươi tùy hảo không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đấy là phần thứ tư nói về đức và tướng tốt đặc biệt khác lạ. Nay dựa theo quyển ba trăm tám mươi mốt của kinh đại Bát-nhã Ba-la-mật đa: Phật nói: Này Thiện Hiện! Ba mươi hai tướng đại sĩ của Như Lai ứng Chánh đẳng giác là gì? Này Thiện Hiện! Dưới chân Thế Tôn có tướng ngang đầy. Khéo léo đứng yên như đáy hộp, mặt đất tuy gồ ghề, nhưng khi đạp lên mặt chân đều tiếp xúc ngang bằng với đất đó là tướng thứ nhất,... Thiện Hiện! Đó là ba mươi hai tướng Đại sĩ. Này Hiền Thiện! Tám mươi tùy hảo của Như Lai ứng Chánh đẳng giác là gì? Này Thiền Hiện! Móng tay của Thế Tôn thuôn dài mỏng bóng láng sạch sẽ tươi tắn như hoa hồng đỏ; đó là tùy hảo thứ nhất... Thiện Hiện! Đó là tám mươi tùy hảo. Này Thiện Hiện! Như Lai ứng Chánh đẳng giác, vì thành tựu các tướng đẹp như vậy, nên tùy ánh hào quang của thân, có thể chiếu khắp ba ngàn đại thiên thế giới, không nơi nào là không có. Nếu khi tác ý, là có thể chiếu khắp vô lượng vô biên vô số thế giới; nhưng vì thương xót các hữu tình, nên nhiếp thu lại ánh sáng chỉ còn một tầm. Vì nếu buông thả ánh sáng của thân, thì tất cả ánh sáng mặt trời mặt trăng đều không hiện rõ, các loài hữu tình sẽ không biết ngày đêm, năm tháng, ngày giờ; và những việc làm của hữu tình sẽ cũng không thành. Âm thanh của đức Phật tự nhiên có thể biến khắp cả ba ngàn đại thiên thế giới; nếu khi tác ý, thì có thể tràn khắp vô lượng vô biên vô số thế giới, nhưng vì lợi lạc cho các hữu tình, cho nên âm thanh tùy theo lượng của mỗi chúng sanh mà không giảm không tăng. Thiện Hiện! Công đức thù thắng như vậy, trước kia khi ta còn ở Bồtát vị, tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa, đã có thể thành biện; cho nên nay tướng tốt tròn đầy trang nghiêm, tất cả hữu tình thấy được đều hoan hỷ, đều thu gặt được lợi ích thù thắng an lạc. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ-tát Ma ha tát thực hành Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu xa, thì có thể lấy hai loại là tài và pháp bố thí để gồm thâu các hữu tình; đó là pháp rất hiếm có và kỳ lạ.
Kinh viết: "Pháp không quên mất không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Thường trụ tánh xả không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ năm nói về đức thường ghi nhớ bình đẳng. Nghĩa là chư Như Lai thường tùy theo sự ghi nhớ về những chuyện, những nơi chốn, thời gian,... có những việc gì đều tùy chánh niệm, phổ biến khắp tất cả những sự việc đã làm; phổ biến khắp tất cả nơi chốn khác nhau; phổ biến khắp tất cả những phương tiện đã làm; phổ biến khắp tất cả giờ giấc khác nhau; nhớ nghĩa đều không quên, thường trú chánh niệm, gọi là không quên niệm. Thường trú tánh xả, nghĩa là pháp trú sáu hằng; đối với sáu căn môn, không lo không mừng, chỉ khởi tánh xả, bình đẳng quán cảnh.
Kinh viết: "Nhất thiết trí không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Đạo tướng trí, Nhất thiết tướng trí không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán: Đây là giác liễu thứ sáu không hữu đức. Quán Trí tánh không trí gọi là Nhất thiết trí; tức chánh thể trí trong quán hữu trí chia ra làm hai: một là quán vô lậu đạo; và một là quán sở dư pháp tướng. Tướng là tướng khác nhau của tướng trạng tức là hậu đắc trí. Trí quán vô lậu đạo; đấy gọi là đạo tướng trí. Quán sở dư pháp gọi là Nhất thiết tướng trí; vì Nhất thiết chủng trí chia làm hai. Kinh viết: "Tất cả hạnh đại Bồ-tát không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là hai môn thứ bảy, thứ tám, nói về nhân quả vị nhị mãn tổng đức. (Đức chung nhân và quả vĩ cả hai đã đầy). Các công đức đã nói trên, nếu ở tại nhân vị gọi là hạnh của Bồ-tát. Nếu ở tại quả vị thì gọi là Bồ-đề của Phật. Bồ-đề nghĩa là giác. Trí Bồ-đề đó và Bồ-đề đoạn dứt tất cả, gọi chung là Bồ-đề, cho nên tất cả công đức tùy ưng hữu vi và vô vi đều nhiếp ở hai thứ đó. Kinh viết: "Tất cả pháp dị sinh không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Tất cả pháp Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba, nói chung về thế tục thắng nghĩa pháp nương vào bổn tính không tịch cú nghĩa; để hiển bày tất cả cú nghĩa có được của Bồ-tát.
Tất cả dị sinh chỉ ở tại phàm vị. Vì nghiệp phiền não mà phải luân hồi sáu cõi, bậc dị thánh sinh ra, cho nên gọi là dị sinh. Tất cả Dự lưu đều cùng là Thánh vị. Dự lưu hướng hay quả, đều gọi chung là Dự lưu; không bị gián đoạn, lần lần vượt qua ba cõi, kiến đạo, hết các phiền não. Mười lăm tâm đến đều gọi là Hướng; tâm thứ mười sáu gọi là Quả. Dự dòng Thánh nên gọi là Dự lưu; từ đó tiến Hướng, kiến hoặc ba cõi đều đã dứt hết. Tu đạo ở dục giới, tận hết năm phẩm trước; gọi là Nhất lai Hướng. Khi hết sáu phẩm gọi đó là quả. Người đó ở dục giới chỉ có một kiếp. Nếu sinh làm người tu đắc quả thứ hai; thì khi xả thân này rồi, sẽ sinh vào trong cõi trời; sau khi chết ở cõi trời lại đến sinh trong cõi người, liền đắc vô học; cho nên gọi là Nhất lai. Ngay đó tiến hướng đã đoạn kiến hoặc dứt hết. Ở dục giới tu hoặc, đoạn dứt bảy, tám phẩm, gọi là Bất hoàn hướng. Ở dục giới tu hoặc đều phải đoạn dứt hết, tâm không còn sinh lại ở dục giới; cho nên gọi là Bất hoàn. A-la-hán, gọi là ưng: 1. Ưng hại vĩnh viễn giặc phiền não; 2. Ưng kiếp sau không còn thọ sinh phân đoạn; 3. Ưng thọ diệu cúng dường. Kiến hoặc ba cõi đều cùng dứt hết. Từ sơ định trở lên, tất cả tu hoặc có được nhiều hay ít, cho đến phẩm tám phi tưởng, phẩm chín giải thoát, trước vô gián, có thể đoạn dứt hết, gọi là A-la-hán hướng. Kiến, tu trong ba cõi đều cùng đoạn tận, gọi là A-la-hán quả. Những quả, hướng, vô gián, giải thoát trên đều đúng với thuyết này.
Quán đế lý này; nếu suy tư về gió lay động cây, ngộ mười hai nhân duyên khởi, không nhờ thiện hữu mà tự đắc được Bồ-đề. Hoặc lân giác, hoặc chúng xuất, gọi là Độc giác. Đã qua mười địa địa gọi là Bồ-tát. Sau pháp vân địa, gọi là Như Lai. Đó cũng là hai mươi sáu môn ban đầu, nói rõ về thế tục thắng nghĩa pháp, chỗ nương theo bổn tính không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát.
Kinh viết: "Tất cả pháp thiện và phi thiện không tịch thanh tịnh cú nghĩa là Bồ-tát cú nghĩa. Tất cả pháp hữu ký vô ký, pháp hữu lậu vô lậu, pháp hữu vi vô vi, pháp thế gian xuất thế gian không tịch thanh tịnh cú nghĩa, là Bồ-tát cú nghĩa".
Tán rằng: Thuận lý ích vật, gọi đó là thiện, thông, hữu vi vô vi. Trái ngược với đó gọi là phi thiện. Bất thiện vô ký, tự thể thù thắng, và có quả đáng để ký riêng, gọi đó là ký. Tức thiện bất thiện ngược lại với đó gọi là vô ký. Tăng trưởng, tương ưng, tương tạp, tương tùy với lậu phiền não gọi là hữu lậu. Lậu nghĩa là rò chảy; chảy ra ở cửa sáu căn, cho nên hủy hoại, gọi là Lậu. Vô lậu thì ngược lại. Vì đó mà nói, làm cũng gọi là sinh, có làm có sinh, gọi là hữu vi, ngược lại gọi là vô vi. Thể, Dụng hiển hiện, dời đổi gọi là Thế. Rơi vào trong hư giả gọi là vì gian; ngược lại với đó, gọi là xuất thế gian. Những sai biệt đó nương vào bổn tính chơn như không tịch thanh tịnh cú nghĩa, để hiển bày tất cả cú nghĩa của Bồ-tát, vì vọng tức chơn, vì tánh tức tướng.
Kinh viết: "Nguyên do là gì?"
Tán rằng: Đây là phần thứ hai của toàn văn, giải thích nguyên do. Trong đó có hai phần; trước hỏi sau giải thích. Đây là phần hỏi, có nghĩa là: Cú pháp thanh tịnh cú nghĩa đó, tức là tất cả cú nghĩa Bồ-tát, nguyên do nghĩa đó là sao?
Kinh viết: "Vì tất cả pháp, tự tính là không, tự tính viễn ly"
Tán rằng: Phần sau sẽ giải thích nguyên do Như Huyễn... thế tục vọng có thắng nghĩa. Biết không, cho nên nói các pháp không tịch cú nghĩa, chính là tất cả cú nghĩa có được của Bồ-tát. Cho nên nói các pháp tự tính không, để giải thích nguyên do trên. Vì muốn hiển phát Bát-nhã tôn thắng; nên lấy tự tính không để giải thích những viễn ly, bởi thắng nghĩa của các pháp, tự tính không, vô tính đó; cho nên lìa xa tướng điên đảo hư vọng.
Kinh viết: "Do lìa xa, cho nên tự tính tịch tĩnh. Do tịch tĩnh, cho nên tự tính thanh tịnh; do thanh tịnh, cho nên Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu xa tối thắng thậm thâm".
Tán rằng: Sinh tử hiếu phiền, chơn như tịch tĩnh, cho nên đều do ở viễn ly. Tự tính cũng tịnh. Phiền não có nhiễm tính không thanh tịnh, cho nên nhờ tịch tĩnh mà hiển bày thể thanh tịnh. Ý đó nói chung là do tất cả pháp tự tính không, cho nên không tịch cú nghĩa, là tất cả cú nghĩa của Bồ-tát. Các pháp đã là không, cho nên lìa hư vọng; lìa hư vọng, thì thể không lay động, cho nên tính tịch tĩnh. Đã không có lay động, tự tính không tịch, nên không ô nhiễm, tự tính thanh tịnh. Tự tính thanh tịnh thì hiển bày Bát-nhã tối thắng thanh tịnh. Quán chiếu Ngộ thì bổn tính đó thanh tịnh, chân tướng tự thể xưa nay vốn thanh tịnh. Cho nên văn tự ngang bằng với sự thậm thâm của Bát-nhã tối thắng thanh tịnh. Hai Ngài Thanh Biện và Hộ Pháp đều giải thích là tùy ứng.
Kinh viết: "Nên biết Bát-nhã Ba-la-mật đa như vậy, tức là Bồ-tát cú nghĩa. Các chúng Bồ-tát đều nên tu học"
Tán rằng: Đây là phần thứ ba, kết khuyến tu học. Văn tự Bát-nhã tức Bồ-tát cú nghĩa. Cầu cái đó, học cái đó, gọi là cú. Bốn Bát-nhã còn lại gọi là Bồ-tát nghĩa. Vì sự dạy dỗ khuyên bảo của Bồ-tát là bốn thứ Bát-nhã đó. Đã thành Bồ-tát là nhờ ở năm thứ Bát-nhã ấy. Năm thứ Bát-nhã ấy tức là nghĩa năng thuyên và sở thuyên của Bồ-tát. Chư Bồ-tát ở hạ vị và trung vị, mong tiến lên thượng vị phải siêng năng tinh tấn học năm thứ đó.
Kinh viết: "Phật thuyết pháp thanh tịnh Bồ-tát cú nghĩa Bát-nhã lý thú như vậy rồi".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba kể về đức của pháp môn Phật đã thuyết. Trong ấy gồm có hai: Phần đầu tóm kết nghĩa trên để phát khởi đầu kinh; phần sau bảo cho biết đức của những điều được thuyết. Đây là phần đầu.
Kinh viết: "Nói với Bồ-tát kim cang thủ: Nếu có người nghe được "Nhất thiết pháp thậm thâm vi diệu Bát-nhã lý thú thanh tịnh pháp môn" này mà tín thọ sâu xa, cho đến đang ngồi ở tòa diệu Bồ-đề, thì tất cả chướng phiền não đều không thể nhiễm! Nghĩa là, tuy tích tập nhiều phiền não chướng, nghiệp chướng, pháp chướng nhưng không thể nhiễm. Tuy đã tạo nhiều loại ác nghiệp cực nặng, nhưng vẫn dễ tiêu diệt, không bị đọa cõi ác".
Tán rằng: Trong đó lại chia làm hai phần; phần đầu nói về quả thọ nhận khi nghe kinh và tin sâu. Phần sau nói về các quả khi siêng năng thọ trì. Sở dĩ chỉ nói kim cang thủ là vì muốn cho hữu tình nhậm trì đại trân báu của tất cả chư Phật.
Văn nghĩa là nghe. Tín nghĩa là thuận theo. Thọ nghĩa là lãnh nhận. Trân trọng cúng dường cung kính gọi là thâm. Ý đó là hiển bày chung về nghe, tin, nhận, trân trọng; bắt đầu từ hôm nay cho đến Bồ-đề, ba chướng và năm cái đều không thể nhiễm. Cái là ngũ cái; đó là tham muốn về lạc khi ở xuất gia vị; sân nhuế về giác khi ở tà hạnh vị; hôn trầm thụy miên trạo cử làm ác và cùng nghi cái đối với chỉ, cử, xả vị; có thể che lấp tâm, gọi đó là cái.
Chướng là chướng ngại, là chướng đạo chẳng sinh, ngại diệt chẳng chứng, những thứ ấy có ba loại kinh văn ghi chép; trong tiểu thừa cho phiền não khó chế phục, khó trừ bỏ; gọi là phiền não chướng. Các tội ngũ nghịch như giết cha,... gọi là nghiệp chướng; hợp cả ba cõi ác, cõi người Bắc châu cho đến cõi trời vô tưởng; gọi là dị thục chướng; nhưng lại không thấy nói về pháp chướng. Nay ở đây giải thích rằng những Hoặc làm chướng ngại giải thoát gọi là phiền não chướng.
Kinh Tát Già Ni kiền Tử cho rằng: Phá hoại chùa tháp... thành tội ngũ nghịch. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi thì nói có bảy tội nghịch, nhưng không khác với năm loại mà Kinh Ni Kiền đã nói và gọi là nghiệp chướng. Nói về pháp chướng thì Dị thục chướng ở trên cũng gọi là pháp chướng cảm mà để lại pháp nghiệp, gọi là pháp chướng. Hoặc kiếp trước làm chướng ngại chánh pháp, ảnh hưởng đến người khác tu định, không trồng các hột giống nghe pháp, cho nên kiếp này với pháp, không nghe, không tin, không ngộ, gọi là pháp chướng. Tập nghĩa là làm; tích nghĩa là tích tạo. Tuy tích tập nhiều nhưng không bị nhiễm gọi là do hiểu được pháp không, không vui với sinh tử. Tuy khởi phiền não, nghiệp nặng chướng pháp; nhưng nhờ oai lực của kinh mà không bị nhiễm. Nhiễm là nhiễm ố; làm cho cảm với quả khổ, gọi là nhiễm. Lại nữa, tuy làm nhiều thứ ác nghiệp cực nặng; nhưng do thể tánh của nó là không, phiền não cũng không kiên cố, nên dễ tiêu diệt, cho nên không rơi vào cõi ác. Nghiệp đã dễ mất thì quả ác làm sao mà khởi! Do pháp tánh không, thể hội thật lý các pháp, soi rọi, ba chướng mới bị tiêu diệt.
Kinh viết: "Nếu có thể thọ trì, ngày ngày đọc tụng chuyên cần không gián đoạn, như lý tư duy; thì người đó kiếp này, chắc chắn đạt được tính bình đẳng của tất cả pháp, kim cang đẳng trì, đối với tất cả pháp đều đắc tự tại, thường thọ nhận tất cả thắng diệu hỷ lạc".
Tán rằng: Đây nói về các quả siêng năng thọ trì. Nói thọ trì là yêu thích, trân trọng, lãnh nhận ở nơi tâm, giữ gìn chẳng quên. Ví như nhớ con, thì ở tâm không thể nào quên.
"Ngày ngày đọc" là đọc văn. "Tụng" là nói thầm.
Tinh là chuyên tinh. Cần là thân tâm cố gắng ngày đêm sáu thời không gián đoạn. Như lý thú đó mà tư duy đúng đắn, thì người đó trong kiếp này, hiện rõ báo quả; chắc chắn đạt được tính bình đẳng của tất cả pháp và lý chân như.
Kim cang đẳng trì: Đẳng trì là định; kim cang là dụ. Có thể phá những phiền não, phân biệt chấp trước tướng; đó là quán tất cả pháp đều bình đẳng, tính chơn như, lý không; tất cả đẳng trì (định) có thể phân biệt phá tan các chấp tướng điên đảo, gọi là kim cang. Lại nữa, lý chân như cũng gọi là kim cang. Duyên với định đó, gọi là kim cang đẳng trì. Nghĩa là có thể thọ trì. Tâm, tâm không quên, ngày ngày đọc tụng, tinh cần tư duy pháp tính như vậy, nên đắc được định đó. Phải khởi thắng tuệ, phá các phân biệt điên đảo chấp trước về tướng; thời nay chứng kim cang đẳng trì đó. Văn tự trong vị tương ưng với định. Ở đây có năm loại pháp hạnh: Nghe, thọ trì, đọc, tụng, tư duy. Ngoài ra năm pháp: Ghi chép, cúng dường, cho người khác, khai diễn, tu hành; cũng góp phần hỗ trợ việc hiển bày, nhưng không nói ở đây. Thật ra thực hành mười pháp hạnh đó cùng đắc được quả ấy. Đọc tụng còn đắc, huống nữa là có thể diễn thuyết và tu hành! Với tất cả pháp đều đắc tự tại; chưa là thể chơn không thì lý sự đều bị che lấp. Thể hội với chơn, soi xa với lý đã thông, nên đắc tự tại. Tự tại nghĩa là vô ngại.
"Thường thọ nhận tất cả thắng diệu hỷ lạc"; nghĩa là chấp trước pháp thì có âu lo có hờn giận; đối với chơn thì hiểu không, đối với tục thì thể vọng. Đã không còn lo âu sợ hãi, nên thường được thọ nhận diệu hỷ lạc; vì đã nghe được pháp tính, vui mừng chân thực, chưa từng đắc được! Kinh viết: "Sẽ trải qua mười sáu đời đại Bồ-tát, thì nhất định đắc
Như Lai, nhậm trì kim cang tính, mau chóng chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Thế Tôn tự thuyết, người khéo tu thần túc có thể trú một kiếp hoặc hơn một kiếp.
Bồ-tát mười sáu đại sinh; tức phải mười sáu kiếp.
Kim cang tính; là chơn như tính, có thể phá tan lỗi lầm sinh tử, gọi là kim cang.
Thể của các pháp gọi là tính.
Chấp nghĩa là thọ nhận; chính mình nhậm trì nó nên gọi là chấp; tức là chính thể trí có thể duyên, với không; hoặc chấp giữ tính của kim cang chính là chơn như; vì phải trải qua mười sáu đời mới đắc chơn tính đó. Bởi thực hành các pháp hạnh của kinh này nên có thể vượt khỏi sinh tử, không cần phải trải qua tăng kỳ kiếp, chỉ qua mười sáu kiếp, liền nhập sơ địa. Vì cái lý về thật tướng trong kinh này nói, có đại thần nghiệm, nghe pháp này, nên siêu sinh tử vô biên kiếp lượng; đã vậy, cho nên có thể mau chóng chứng Vô thượng Bồ-đề. Trong đó nói: Hiện tại chắc chắn đắc kim cang đẳng trì; đối với pháp được tự tại; thọ nhận sự hỷ lạc đặc biệt; những chướng kiếp sau đều không thể nhiễm; không đọa cõi ác; đắc tính kim cang; mau chóng đắc Bồ-đề... đều là nhờ ở lực của kinh.
Bát-nhã Lý Thú phần sớ.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng biến chiếu Như Lai".
Tán rằng: Phần trên là phần thứ nhất nói về thực tướng cảnh pháp.
Dưới đây là phần thứ hai nói về Tịch Tĩnh pháp tính hiện đẳng giác môn. Tức là quán chiếu chánh trí thể cảnh chơn tính của các môn trước. Ở đây nói về tướng của trí; trong đó cũng có ba phần: Phần đầu Phật thuyết danh hiệu của pháp môn; môn này cũng có hai phần: Phần đầu nói rõ chỗ nương vào tướng của Như Lai; phần sau trình bày tên gọi các pháp môn đã nói. Đây là phần đầu vậy.
Các môn trước nói về tính, pháp của bản thể chẳng gọi là tướng, những môn sau là nghĩa; do đó mà gọi là tướng. Tổng thể Như Lai là biệt hữu đa năng. Nay nương vào một nghĩa, chính là tướng của biến chiếu Như Lai. Tướng là tướng của nghĩa, tướng của thể, tướng trạng; chẳng phải là cái tướng của sự phân biệt có tướng. Nay đối với pháp của vô tướng, sau sẽ nói cái tướng của nghĩa tướng. Do Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí đoạn dứt mê hoặc, du quán hai chủng trí, nên với tất cả pháp đều có thể hiểu biết, gọi là Biến chiếu. Cái Trí của sự Biến chiếu, tức là tướng Như Lai. Nay dựa vào tướng của thể đó mà nói với pháp môn, cho nên gọi là nương vào tướng của Biến chiếu.
Kinh viết: "Vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa. Nhất thiết Như Lai tịch tĩnh pháp tính, thậm thâm lý thú, hiện đẳng giác môn".
Tán rằng: Đây là sự trình bày về tên của pháp môn đã thuyết. Nhất thiết Như Lai tịch tĩnh pháp tính thậm thâm lý thú; tức ở trên đã nói thật tướng diệu pháp là lý thú thăm thẳm pháp tính yên lặng của tất cả chư Phật.
Hiện đẳng giác môn: Hiện là biểu hiện, hiện tiền, rõ ràng, chính mình tự chứng. Đẳng là nghĩa của Biến khắp. Giác là nghĩa của chiếu. Ý này là hiển bày Trí vô phân biệt rõ ràng, chính mình có thể biến chiếu pháp tính.
Hiện đẳng giác thể tức trí vô phân biệt.
Môn nghĩa là con đường nhập vào. Vì có thể nói các pháp nhờ đó thành con đường để nhập vào pháp tính. Trí vô phân biệt, nhờ giáo lý sâu xa đó làm con đường nhập vào Hiện đẳng giác.
Kinh viết: "Gọi là kim cang bình đẳng tính hiện đẳng giác môn là vì đại Bồ-đề rất kiên cố, thật khó bị hư hoại như kim cang vậy".
Tán rằng: Đây là phần hai, có bốn môn. Thứ nhất có thể chặt đứt sanh tử vì tính cứng rắn, ngang với tính chất của kim cương. Hiện đẳng giác là năng phá sinh tử. Cái giác của hiện đẳng giống như kim cương. Bởi vì pháp tích Bồ-đề, sở chứng của trí, kiên cố chân thực khó có thể phá hoại như kim cương. Cho nên cái trí năng chứng gọi là trí kim cang. Kim cang Bát-nhã, gọi là kim cang, nghĩa cũng như vậy. Bởi vì sở chứng tính như kiên cố chắc chắn, cho nên cái trí năng chứng cũng như kim cang có thể phá sanh tử.
Kinh viết: "Nghĩa Bình đẳng tính, Hiện đẳng giác môn bởi Đại Bồ-đề; nghĩa của nó là một".
Tán rằng: Đây là trí thứ hai, quán sát Trí sở thuyên. Tất cả các nghĩa hữu vi vô vi đều bình đẳng; vì pháp bổn tính chơn như Bồ-đề nghĩa đó là một, cho nên tính không có sai biệt.
Kinh viết: "Pháp Bình đẳng tính, Hiện đẳng giác môn vì đại Bồ-đề tự tính tịnh".
Tán rằng: Đây là trí thứ ba, Quán Sát Năng thuyên Trí. Vì cái lý sở chứng, tính đại Bồ-đề, tính thanh tịnh; đối với giáo lý năng Huyên, ngộ nó là bình đẳng.
Kinh viết: "Tất cả pháp bình đẳng tính Hiện đẳng giác môn; vì đại Bồ-đề đối với tất cả đều không phân biệt".
Tán rằng: Đây tức trí thứ tư, thông chứng chư pháp trí.
Tất cả pháp nghĩa là trong các pháp hữu vi, vô vi đều Hiện đẳng giác vì bổn tính pháp ở trong các pháp, đều không có phân biệt. Cho nên bổn tính pháp cũng tính bình đẳng. Giống như mây mù trong bầu trời; giống như các hình vẽ trên tấm bình phong; bầu trời và bình phong đều không phân biệt, mây và hình vẽ hiện khởi đủ thứ tướng.
Kinh viết: "Phật thuyết Tịch tĩnh pháp tính, Bát-nhã lý thú, hiện đẳng giác] như vậy rồi".
Tán rằng: Từ đây là phần kết thứ ba khen ngợi Đức của pháp.
Đây là phần kết vậy.
Kinh viết: "Nói với nhóm Bồ-tát kim cang thủ rằng; Nếu có người nghe được bốn loại Bát-nhã lý thú hiện đẳng giác môn như vậy rồi, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, tu tập; cho đến đang ngồi tòa diệu Bồ-đề tuy tạo tất cả ác nghiệp cực nặng, thì vẫn có thể vượt khỏi tất cả cõi ác, mau chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đây là ca ngợi về Đức. Theo trong kinh thì có mười pháp hạnh. Ở trên chỉ nói có sáu pháp hạnh: 1. Nghe; 2. Tin hiểu; 3. Thọ trì; 4. Đọc; 5. Tụng; 6. Tu tập. Bắt đầu từ hôm nay, nếu thực hành mười pháp hạnh suốt đến tương lai, ngồi tòa Bồ-đề thành Phật, tuy tạo tất cả ác nghiệp cực nặng; nghĩa là tà kiến trong kiến, ý nghiệp trong nghiệp phá hòa hợp tăng... đều đã tạo, nhưng nhờ ngộ giải cho nên không bị nhiễm, mà còn có thể vượt khỏi tất cả các cõi ác. Bởi nghe kinh và hành các đại oai thần lực; nên các ác nghiệp đó không tăng trưởng, nên không đọa ba đường ác, mà còn mau chứng Vô thượng Bồ-đề. Các công đức đó giống với các công đức trước; nhưng để nói lên sự thắng dụng riêng của kinh, cho nên nhắc lại.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Thích Ca Mâu Ni Như Lai, điều phục tất cả ác pháp". Tán rằng: Dưới đây là phần thứ hai của hai đoạn kinh nói về thực hành cảnh pháp. Trong hai đoạn ấy: đoạn đầu là điều phục chúng ác phổ thắng pháp môn; do quán thật tướng nên có thể chế phục các ác. Đoạn sau là bình đẳng trí ấn thanh tịnh pháp môn; do quán quán chiếu trí huệ chiếu minh.
Đây là đoạn đầu; trong ấy có ba phần: Phần đầu nói về danh hiệu của pháp môn được thuyết. Trong ấy lại có hai: Phần đầu nói chỗ nương vào tướng Như Lai. Ở đây là phần đầu.
"Tất cả ác pháp"; là nhị chướng phân biệt; là nhân quả phân biệt; là nhiễm tịnh phân biệt; đều có thể trừ.
- Thích Ca nghĩa là năng.
- Mâu Ni nghĩa là tịch mặc.
Có khả năng điều các ác, lìa các huyên động; pháp huyên động là pháp sinh tử, cho nên gọi là tướng Như Lai năng tịch mặc. Nương vào Tướng Như lai năng tịch, điều phục tất cả ác pháp, đó mà thuyết pháp môn này.
Kinh viết: "Vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, nhiếp thọ tất cả pháp bình đẳng tính thậm thâm lý thú phổ thắng pháp môn".
Tán rằng: Đây là phần trình bày tên gọi pháp môn được thuyết.
Nhiếp thọ tất cả pháp bình đẳng tính; nghĩa là nhiếp tất cả nhiễm tịnh, nhân quả đều nhập hết vào trong pháp giới tính bình đẳng. Vì vậy mà phổ thắng các ác; do đó pháp môn này gọi là pháp phổ thắng.
Kinh viết: "Nghĩa là tính của tham dục không có hý luận, cho nên tính của sân nhuế cũng không có hý luận; tính của sân nhuế không có hý luận, cho nên tính của ngu si cũng không hý luận. Tính của ngu si không hý luận, cho nên tính do dự cũng không hý luận. Tính của do dự không hý luận, cho nên tính của chư kiến cũng không hý luận. Tính của chư kiến không hý luận, cho nên tính của kiêu mạn cũng không hý luận".
Tán rằng: Dưới đây là nói phần hai; nói về chánh thuyết pháp môn; trong đó có ba phần: Phần đầu nói riêng về tính của các pháp hoặc nghiệp sinh tử, không có hý luận. Phần hai nói tính của các pháp nhiễm và tịnh không hý luận. Phần ba nói Bát-nhã cũng không hý luận, kết quy về thâm thú. Trong phần đầu lại có ba: 1. Nói phiền não tính không hý luận; 2. Nói về nghiệp; 3. Nói về quả. Trong phần phiền não lại có hai phần: Phần đầu nói về căn bản phần sau nói về tùy hoặc. Đây là phần căn bản, căn bản có sáu; do sáu thứ đó làm gốc rễ cho nên tất cả phiền não đều tăng trưởng.
Câu: "Nghĩa là tính tham dục không có hý luận", nghĩa là tính của pháp nhiễm vọng tức chơn như. Pháp thể của chơn như thì không có hý luận.
Hý luận nghĩa là tướng của phân biệt, tướng của lời nói, tướng của tầm tứ. Do hý luận, cho nên có những phân biệt chấp trước nhiễm và tịnh. Vì phân biệt cho nên sinh ra sinh tử. Biết không có hý luận, thì nhiễm và tịnh đều mất; nhiễm tịnh mất thì tính vô phân biệt; vì vô phân biệt cho nên sinh tử diệt; và có thể trừ ác. Phần sau cũng giải thích như vậy ba phần. Ba thứ đầu là ba độc. Do dự là nghi. Chư kiến là năm kiến tức là Da thôi Độ. Kiêu là kiêu dật. Mạn là bảy mạn; ỷ mình khinh người gọi là mạn. Sáu căn bản đó bẩn tính chơn như, tính không hý luận; tính không hý luận, cho nên có thể lìa phân biệt, khế hợp bổn tính đó thì lìa phân biệt, không hý luận, tất cả ác pháp đều được hàng phục.
Kinh viết: "Tính của kiêu mạn vô hý luận, cho nên tính của các Triền cũng vô hý luận. Tính của các Triền vô hý luận, cho nên tính của phiền não cấu cũng vô hý luận".
Tán rằng: Đây là nói về tùy hoặc.
Triền là số, số tăng thịnh, hiện tiền ràng buộc nơi tâm, nên gọi là triền; gồm có tám thứ: Hôn trầm, Thùy miên, làm chướng ngại chỉ (Định). Trạo cử ác tác, làm chướng ngại cử. Tật san (keo kiết đố kỵ) làm chướng ngại cho xả. Không mắc cỡ, xấu hổ, làm chướng ngại giới cho nên chỉ lập tám thứ.
Cấu có sáu thứ: Hại, hận, não, siễm, cuồng, kiêu; những thứ này làm nhơ nhớp chúng sanh, cho nên gọi là cấu. Sáu tướng thô đó rất đáng chê trách, lấy tên là cấu.
Kinh viết: "Tính của phiền não cấu không có hý luận cho nên tính của ác nghiệp cũng vô hý luận. Tính của các ác nghiệp vô hý luận, cho nên tính của các quả báo cũng vô hý luận".
Tán: Các Hoặc ở trên vô hý luận thì nghiệp quả cũng như vậy. Tóm lại, tính của các pháp sanh tử vô hý luận. Chứng không có hý luận đó cho nên lìa được tất cả ác pháp của sinh tử.
Kinh viết: "Vì Tính của các quả báo không có hý luận, nên tính của pháp tạp nhiễm cũng không hý luận. Tính của pháp tạp nhiễm không hý luận, nên tính của pháp thanh tịnh cũng không hý luận. Tính của pháp thanh tịnh không có hý luận; nên tính của tất cả pháp cũng không hý luận".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai, nói về tính của các pháp nhiễm và tịnh không hý luận.
Tạp nhiễm là gồm thâu hết tất cả pháp hữu lậu bị nhiễm tạp.
Thanh tịnh là gồm thâu hết tất cả pháp vô lậu Nhất thiết pháp là tổng gồm thâu tất cả hữu lậu, vô lậu, hữu vi vô vi, sanh tử luân hồi. Trước nhiễm, sau tịnh; trước riêng sau chung, vì theo nghĩa thứ đệ.
Kinh viết: "Tánh Nhất thiết pháp vô hý luận, nên phải biết Bát-nhã Ba-la-mật đa cũng không có hý luận". Tán rằng: Do tính của cảnh sở quán không có ý luận nên trí của năng quán cũng không hý luận; vì biết như thật. Do cảnh, trí đó đều không có hý luận, cho nên lìa tất cả phân biệt trong sinh tử; hàng phục tất cả ác pháp, tất cả pháp ác đều hết tận.
Kinh viết: "Phật thuyết điều phục chúng ác Bát-nhã lý thú phổ thắng môn như vậy rồi".
Tán rằng: Từ đây là phần ba ca ngợi ý đức của kinh này. Đây là câu đã kết ở trước.
Kinh viết: "Bảo với Bồ-tát Kim Cang Thủ v.v… rằng: Nếu có người được nghe Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm lý thú như vậy mà tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Giả sử có sát hại tất cả hữu tình trong ba cõi, nhưng không do vậy mà bị đọa ở địa ngục, bàng sanh, quỷ giới; vì có thể điều phục được tất cả ác nghiệp phiền não và tùy phiền não".
Tán rằng: Nhờ oai lực của kinh nên có thể điều phục các ác, cho nên tội sát ấy điều được tiêu trừ. Do ngộ pháp tính khởi thắng hạnh ấy, cho nên tội lớn đó không chiêu cảm quả ác. Vì nhờ oai lực của kinh, khéo điều phục được tất cả ác nghiệp phiền não và tùy phiền não, nên dù có làm các tội ấy cũng không chiêu cảm quả ác. Tướng trói, trói buộc chúng sanh, cũng do sự thô trọng trói buộc cái thiện. Sau này dùng song tu chỉ quán mới được giải thoát. Tất cả ác nghiệp từ phiền não sinh ra; tất cả phiền não từ phân biệt mà khởi lên! Nay lìa hý luận, đoạn dứt các phân biệt. Phân biệt đã hết thì nghiệp hoặc cũng mất, cho nên tội lớn đó, nhờ nghe kinh, tin hiểu chắc chắn được tiêu diệt.
Kinh viết: "Thường được sinh ra ở cõi thiện, thọ nhân thắng diệu lạc, tu hạnh đại Bồ-tát mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề."
Tán rằng: Phần trên thì có thể trừ ác; phần dưới thì có thể nhiếp thiện. Trong hai quả ấy; một là quả của thế gian, một là quả của xuất thế gian.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của tính tịnh Như Lai; vì các Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, Nhất thiết pháp Bình-đẳng-tính, Quán-tự-tại-diệu-trí-ấn-thậm-thâm-lý-thú-hanh-tịnhpháp-môn."
Tán rằng: Đây là đoạn thứ tư; do Quán quán chiếu trí tuệ chiếu minh; để hiển bày hạnh cảnh giới trong văn có ba phần, cũng giống giải thích ở trên.
Do trí năng quán, chứng hội các pháp bổn tính thanh tịnh; cho nên trí, tướng phân biệt đều lìa, gọi đó là tính tịnh, nay gọi là đắc thanh tịnh.
"Nhất thiết pháp bình đẳng tính chính là chơn như quán tự tại là bi hạnh. Diệu trí ấn là trí hạnh. Lại nữa, vì quán tự tại tức diệu trí ấn là ấn nhất thiết pháp bình đẳng. Các câu văn còn lại có thể hiểu rõ.
Kinh viết: "Nghĩa là tất cả tham dục bổn tánh thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên khiến cho thế gian sân nhuế thanh tịnh. Tất cả sân nhuế bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho thế gian ngu si thanh tịnh. Tất cả ngu si bổn tính thanh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho thế gian nghi hoặc thanh tịnh. Tất cả nghi hoặc bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh cho nên có thể khiến cho thế gian kiến thú thanh tịnh. Tất cả kiến thú bổn tánh thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho thế gian kiêu mạn thanh tịnh."
Tán rằng: Đoạn trên gồm ba phần, như trên đã nói. Đoạn trước là cảnh; đoạn này là trí; vì chiếu minh trước. Nghĩa là đối với tham dục cực chiếu minh trong cảnh bổn tính chơn như thanh tịnh. Năng chiếu sáng chính là trí; vì tham dục là gốc sinh ra sân.
Kinh viết: "Tất cả kiêu mạn bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho triền và kết sử thuộc thế gian thanh tịnh. Tất cả triền và kết sử bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh, cho nên có thể khiến cho cấu uế của thế gian được thanh tịnh."
Thuật rằng: Đây nói về tùy phiền não bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh. Nghĩa của triền cấu giải thích như trên. Đã nói kết tức là chín kết sử: Ái, nhuế, mạn, vô minh, kiến, thủ, nghi, tật đố, keo kiết. Kết là kết buộc; có thể hòa hợp khổ, khó có thể giải mở cho nên gọi là kết.
Kinh viết: "Tất cả cấu uế bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho ác pháp thế gian được thanh tịnh. Tất cả ác pháp bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho sinh tử thế gian thanh tịnh."
Tán rằng: Phần trên nói về Hoặc. Đây nói về nghiệp quả. Vì nghiệp sinh tử bức bách nghiệp quả, nên gọi là ác pháp. Nói sinh tử là quả dị thục, tức các quả khổ của ác nghiệp trước.
Kinh viết: "Tất cả sinh tử bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; nên có thể khiến cho thế gian các pháp thanh tịnh."
Tán rằng: Các pháp thế gian tức các pháp tạp nhiễm, gồm thâu cả hữu lậu. Dưới đây là phần hai, tổng nhiếp các pháp.
Kinh viết: "Vì tất cả pháp bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh, cho nên có thể khiến cho thế gian hữu tình thanh tịnh."
Tán rằng: Vì có pháp hữu lậu mà thành hữu tình; cho nên sau khi nói hữu lậu, rồi mới nói về hữu tình.
Kinh viết: "Vì tất cả hữu tình bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh, cho nên có thể khiến thế gian nhất thiết trí thanh tịnh."
Tán rằng: Trong xuất thế gian, nhất thiết trí là gốc. Trí ấy gồm thâu hết các pháp thanh tịnh khác. Ba thừa tổng quán các trí vô ngã, gọi là Nhất thiết trí.
Kinh viết: "Vì nhất thiết trí bổn tính thanh tịnh cực chiếu minh; cho nên có thể khiến cho thế gian thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa tối thắng thanh tịnh."
Tán rằng: Đây là phần ba Bát-nhã thanh tịnh. Do có thể chiếu sáng tất cả pháp tính bổn tính thanh tịnh; cho nên trí năng quán tối thắng thanh tịnh rất tương ứng với cảnh sở duyên.
Kinh viết: "Phật thuyết pháp thanh tịnh bình đẳng trí ấn Bát-nhã lý thú như vậy rồi."
Tán rằng: Từ đây trở đi là đoạn thứ ba nói về thắng đức của kinh. Bình đẳng trí ấn nghĩa là tất cả pháp tính vô hý luận. Trí của năng quán gọi là bình đẳng trí ấn.
Kinh viết: "Nói với Kim cang thủ Bồ-tát v.v… biết rằng: Nếu có người nghe được Bát-nhã Ba-la-mật đa thanh tịnh lý thú như vậy mà tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập; thì dù có ở trong tụ cấu uế của tất cả tham sân si khách trần phiền não cũng vẫn như hoa sen, không bị nhiễm bởi những lỗi lầm nhơ nhớp của tất cả khách trần."
Tán rằng: Do trí năng quán, quán pháp nhiễm tịnh bổn tính thanh tịnh; cho nên trú ở phiền não nhưng không bị nhiễm ô. Vì ngộ bổn tính nên ở đây nói là lìa lỗi lầm.
Kinh viết: "Thường có thể tu tập thắng hạnh của Bồtát, thì mau chứng Vô thượng chính đẳng Bồ-đề."
Tán rằng: Đây là giải thích về sự đắc quả thiện. Do khởi pháp hạnh, ngộ ở chơn trí, cho nên thường tu tập thắng hạnh của Bồ-tát, cho đến cuối cùng mau chứng Bồ-đề.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng Như Lai thắng chúa của tất cả ba cõi."
Tán rằng: Trong sáu phần nói về cảnh, từ đây là phần ba, có hai đoạn kinh nói về cảnh pháp quả. Trong hai đoạn ấy; đoạn đầu là pháp vương quán đảnh trí tạng pháp môn, do hai hạnh mà đắc tài vị quả. Đoạn sau là Như Lai trí ấn kim cang pháp môn, do hai hạnh mà đắc tự thể quả. Ở đây là đoạn đầu, trong ấy có ba phần như những đoạn trên. Phần đầu nói về tên gọi của pháp môn; trong này lại có hai phần đầu nói về nương vào tướng của Như Lai, phần sau nói tên của pháp môn đã thuyết. Ở đây là phần đầu.
Căn nhà ba cõi! Quấy nhiễu bất an, phiền não trùng thú, ngọn lửa khổ não, bức bách không lường, nhiều thứ sợ hãi, khiến cho hữu tình sống trong nguy nan. Nhờ chư Phật Thế Tôn, như một đại trưởng giả thương xót các con, ra tay cứu giúp; cho nên chư Phật Thế Tôn được xưng là chúa của ba cõi. Phật là vua pháp, cho nên gọi là thắng chúa, theo địa vị tôn quý đó mà thuyết pháp môn.
Kinh viết: "Vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa. Tất cả Như Lai hòa hợp cùng quán đảnh thậm thâm lý thú trí tạng pháp môn."
Tán rằng: Đây nói về tên hiệu của pháp môn đã được tuyên thuyết. Khi nói đến địa thứ mười, sắp thọ nhận ngôi vua pháp Như Lai. Tất cả Như Lai ở mười phương hòa hợp cùng tưới rửa đỉnh đầu đó. Như phép nhận ngôi vua của giai cấp quý tộc Sát-đế-lợi vậy. Nay Bồ-tát đó nhận ngôi vị Phật tôn quý thì lấy nước pháp gì để tẩy rửa đỉnh đầu họ, khiến cho họ được an lành? Đó là nước pháp trí tuệ có trí thù thắng của hết thảy chư Phật. Sinh ra các đức, ôm chứa các đức, ví như kho chứa lấy nước trí đó, tưới đỉnh đầu của Bồ-tát, khiến cho hai chướng cấu từ vô thủy đến nay đều hết sạch; công đức tốt lành của tất cả Như Lai đều đã viên mãn. Nay thuyết pháp đó, để nương vào đó mà thú hướng nhập vào. Vì vậy gọi là Môn.
Kinh viết: "Nghĩa là nếu lấy ngôi quán đỉnh của thế gian đem thí cho; thì sẽ đắc quả là ngôi vua pháp của ba cõi. Nếu lấy nghĩa vô thượng của xuất thế gian để thí; thì sẽ thỏa mãn được tất cả ý nguyện hiếm có. Nếu lấy pháp vô thượng của xuất thế gian để thí; thì ở nơi tất cả pháp sẽ đạt được tự tại. Nếu lấy tiền bạc, đồ ăn của thế gian để thí, thì sẽ được niềm vui của tất cả thân, lời, tâm ý. An lạc nếu lấy nhiều loại tài pháp để thí; thì có thể khiến cho bố thí Ba-la-mật mau đắc viên mãn."
Tán rằng: Từ đây là phần hai; hiển bày pháp môn đã thuyết. Sáu độ viết thành sáu đoạn. Trong bố thí có nêu: 1. Thí ngôi vị; 2. Thí nghĩa;
3. Thí pháp; 4. Thí tiền của; 5. Tổng thí vô úy. Thực ra cả năm thí, mỗi thí đều đắc nhiều quả. Ở trên chỉ nói năm quả tương tự.
Nếu xả bỏ ngôi vị tôn quý mà tu chánh pháp, thì sẽ được thành Phật, làm vua pháp của ba cõi.
Do thí nghĩa thuận với lý, cho nên những sở nguyện trong tương lai sẽ thỏa mãn.
Nhờ thí pháp nên có thể hiểu rõ tất cả Phật Pháp.
Nhờ thí tiền bạc, đồ ăn uống làm cho ba nghiệp được ích lợi đầy đủ, nên tương lai sẽ đạt được niềm vui của ba nghiệp.
Nếu lấy nhiều loại pháp để thí, nghĩa là lấy tài pháp để nhiếp thủ chúng sanh, khiến cho họ không sợ hãi thì gọi là vô úy thí.
Kinh Bồ-đề Tâm nói: "Nguyện thực hành pháp bố thí tiền bạc phải có năm thứ: 1. Chí tâm; 2. Tín tâm; 3.
Theo thời; 4. Tự tay mình;
5. Như pháp".
Như có bài tụng nói: Người cho thù thắng, đầy đủ niềm tin, cung kính đúng lúc, tự tay cho.
Lại có tụng nói: Lợi người thêm hạnh với hữu tình chẳng kể có lực hay không lực; ở tất cả mọi lúc, tất cả sự thí cho, tùy vào khả năng của mình mà thuyết pháp làm lợi ích.
Không nên cho cũng có năm: Tiền phi lý chẳng nên cho, vì tiền đó bất tịnh. Rượu và chất độc không nên cho, vì làm loạn sinh mạng. Lồng, bẩy, lưới máy không nên cho, vì làm não hại sinh mạng. Dao, gậy, cung tên không nên cho, vì làm hại sinh mạng. Âm nhạc, nữ sắc không nên cho, vì làm hư hoại tịnh tâm.
Thí có năm lợi: 1. Thường gần Hiền thánh; 2. Chúng sinh thích gặp; 3. Hòa nhập vào chúng sinh và được tôn kính; 4. Tiếng tốt vang xa;
5. Làm nhân cho Bồ-đề. Bồ-tát Vô trước nói rằng.
Tu sáu loại ý lạc: 1. Rộng lớn; 2. Lâu dài; 3. Hoan hỷ; 4. Mang ơn; 5. Chí lớn; 6. Thuần thiện. Trong sáu đều đó, khởi lên ba ác ý: 1. Ái trọng; 2. Tùy hỷ; 3. Vui vẻ. Nghe sáu loại đó chỉ cần có thể khởi một niệm tín tâm còn có thể phát sinh vô lượng phước tụ, các nghiệp chướng ác cũng sẽ tiêu diệt; huống chi là Bồ-tát.
Kinh viết: "Thọ trì nhiều loại thanh tịnh cấm giới, có thể khiến cho tịnh giới Ba-la-mật đa, mau đắc viên mãn. Đối với tất cả tu học an nhẫn có thể khiến cho an nhẫn Ba-la-mật đa mau được viên mãn. Với tất cả sự việc mọi lúc, tu tập tinh tấn có thể khiến cho tinh tấn Ba-la-mật đa mau được viên mãn. Đối với tất cả cảnh, tu hành tĩnh lự, có thể khiến cho tĩnh lự Ba-la-mật đa mau được viên mãn. Đối với tất cả pháp thường tu diệu tuệ có thể khiến cho Bát-nhã Ba-la-mật đa, mau được viên mãn".
Tán rằng: Ba loại giới pháp đều có thể viên mãn. Cỏ kết thành hạt châu thiên nga mà có khả năng không bị hoại. Ba giới chẳng phải là một, nên gọi là nhiều loại (chủng chủng). Sự sự (mọi chuyện) đều nhẫn nhịn được; tất cả mọi lúc đều siêng năng vì không mệt mỏi biếng nhát, ở tất cả cảnh đều có thể tĩnh lự không tán loạn tâm. Với tất cả pháp tu huệ đều có thể chọn lựa. Thực hành sáu độ đó thì đắc được sáu quả báo:
1. Phú quý; 2. Đại sinh; 3. Đại bằng hữu quyến thuộc; 4. Đại nghiệp thành tựu. 5; Không dính mắc phiền não; 6. Đạt ngũ minh. Có thể làm những việc nghĩa lợi, như trong luận nhiếp Đại thừa đã nói rõ.
Kinh viết: "Phật thuyết quán đảnh pháp môn Bát-nhã lý thú trí tạng pháp như vậy rồi. Nói với kim cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người nghe được Quán đảnh thậm thâm lý thú trí tàng pháp môn như vậy; rồi tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập sẽ mau đạt được đầy đủ các hạnh Bồtát, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Nhờ nghe lục độ mà hạnh Bồ-tát thành tựu. Cầu Bồ-đề cũng mau chứng đắc.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào Trí Ấn của tất cả Như Lai, trì pháp môn bí mật của tất cả Phật. Vì các Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa nhất thiết Như Lai trú trì trí ấn thậm thâm lý thú kim cang pháp môn".
Tán rằng: Đây là đoạn thứ hai nói về Như Lai trí ấn kim cang pháp môn; hiển bày do hai hạnh mà đắc tự thể quả. Về văn gồm ba phần như trên; đây là phần một nêu tên gọi của pháp môn đã nói. Dùng diệu trí ấn nhậm trì pháp thậm thâm của tất cả Phật thể tính pháp thậm thâm của Phật khó biết, gọi là bí mật. Dùng một trí ấn nhậm trì pháp của chư Phật; pháp của tất cả Phật đều nhập vào đó, cho nên gọi là nhậm trì. Nay thuyết pháp đó, khiến cho siêng năng lý thú nhập vào, nên gọi là Môn; có thể phá hoại tất cả sinh tử. Thể của trí chắc chắn, cho nên gọi là kim cang.
Kinh viết: "Nghĩa là nhiếp thọ đủ kim cang thân ấn của tất cả Như Lai, sẽ chứng pháp thân của tất cả Như Lai. Nếu nhiếp thọ đủ kim cang Ngữ ấn của tất cả Như Lai, thì sẽ đắc tự tại trong tất cả pháp".
Tán rằng: Do ở trong Nhân, thực hành riêng biệt Nhân, Ấn ba nghiệp của Như Lai; nên khi đắc quả, thì đắc quả như kim cang pháp thân.
Kinh viết: "Nếu nhiếp thọ đủ kim cang tâm ấn của tất cả Như Lai; thì sẽ đắc tự tại ở tất cả định. Nếu nhiếp thọ đủ kim cang trí ấn của tất cả Như Lai; thì có thể đắc tối thượng diệu thân ngữ tâm, giống như kim cương không lay động không hư hoại".
Tán rằng: Do ở trong Nhân, thực hành đủ ba nghiệp kim cang trí ấn, khi đắc quả, có thể đắc tối thượng diệu thân ngữ tâm. Nghĩa là như kim cang, không sợ bạn xấu làm lay động, không bị sinh tử phá hoại. Ý nói, thực hành riêng nhân của ba nghiệp thù thắng mà đắc riêng ba quả. Thực hành đủ tất cả thắng nhân của ba nghiệp, chỉ đắc chung một quả. Ba nghiệp cứng chắc như kim cang không thể lay động, hư hoại.
Kinh viết: "Phật thuyết: Như Lai trí ấn Bát-nhã lý thú kim cang pháp như vậy rồi; nói cho các kim cang thủ Bồ-tát biết rằng: Nếu có người nghe được trí ấn thậm thâm lý thú kim cang pháp môn như vậy, rồi tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập; thì tất cả sự nghiệp đều có thể thành biện, thường hòa hợp với tất cả thắng sự, ý muốn tu hành tất cả thắng trí và các thắng phước nghiệp đều mau viên mãn".
Tán rằng: Từ đây là phần ba, ca ngợi đức của kinh này.
Tất cả sự nghiệp đều đắc thành biện nghĩa là các việc đều thiện, thuận với lý, không có tội.
Thường hòa hợp với tất cả thắng sự là kiếp này, kiếp sau thường hòa hợp tương ưng với thắng sự; những sự việc suy giảm đều lìa xa; những phước tuệ tu hành đều mau viên mãn. Đó là nói về những lợi ích đắc được ở Nhân vị.
Kinh viết: "Sẽ đắc tối thắng, tịnh thân, ngữ, tâm, như kim cang không thể phá hoại, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đây nói về đắc quả vị thù thắng trong tương lai.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai tất cả vô hý luận; vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm lý thú. Luân tự pháp môn".
Tán rằng: Sáu đoạn kinh trên đã nói về thắng cảnh. Tiếp theo sẽ có sáu đoạn nói về thắng hạnh. Lại chia làm ba phần: Hai đoạn đầu, hiển bày việc nương vào tưởng của thuộc tướng đoạn tu. Hai việc tiếp nói về việc nương vào tướng của Quán chiếu đoạn tu. Hai đoạn cuối nói về việc nương vào tướng Nhị pháp biến tu.
Ở hai đoạn đầu, nương tướng của thuộc tướng đoạn tu; trong đó có hai phần: Phần đầu, Ly chư hý luận luân tự pháp môn. Nhờ quán chơn như mà đoạn dứt phân biệt; sau đó nhập vào Quảng đại luân bình đẳng tính môn. Nhờ quán bình đẳng, tu chứng nhơn. Dưới đây là đoạn đầu, mạch văn có ba phần: phần đầu nêu tên pháp môn được thuyết; trong đó lại chia làm hai; phần đầu nói về tướng của Như Lai nương vào; bởi pháp tính chơn như lìa các phân biệt, lìa văn tự lời nói. Vô hý luận chính là nương ở tướng của pháp thân.
Luân tự pháp môn: Luân có hai nghĩa, nghĩa tròn trịa và nghĩa hủy hoại. Do quán chơn như tính vô hý luận, khắp tất cả pháp, cho nên gọi tròn trịa. Nhờ quán ấy cho nên lìa chấp phân biệt. Tất cả chấp trước trong sinh tử, cho nên gọi là hủy hoại. Giải tất cả pháp môn của lý luận đó gọi là luân tự pháp. Giáo có thể giải rõ nên gọi là môn; nhờ nghe giáo đó bèn khởi luân hành. Khởi luân hành rồi, đắc luân quả; đắc luân quả rồi, lại vì người khác mà chuyển, cứ như vậy mà xoay chuyển.
Kinh viết: "Là vì tất cả pháp không, không có tự tính; nên tất cả pháp vô tướng, lìa các tướng; nên tất cả pháp vô nguyện, không có sở nguyện".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai; phần chính đã nói; trong đó có bốn: phần đầu là ba cảnh giải thoát môn. Biến kế sở chấp tất cả đều không, viên thành vô tướng, y tha vô nguyện. Lại nữa, ba loại đó đều thông cả ba tính. Với lại chỉ có hai thứ là vọng và chơn. Chơn và vọng đều thông cả ba loại. Chẳng phải ta có gọi là không; lìa mười gọi là vô tướng; không mong cầu gọi là vô nguyện!
Kinh viết: "Tất cả pháp viễn ly vì vô sở trước. Tất cả pháp tịch tĩnh vì mãi mãi tịch tĩnh".
Tán rằng: Đây tức là phần thứ hai; lìa chấp trước, lìa sinh.
Kinh viết: "Tất cả pháp vô thường, vì tính thường không có. Tất cả pháp vô lạc, vì phi khả lạc. Tất cả pháp vô ngã, vì chẳng tự tại. Tất cả pháp vô tịnh, vì lìa tướng tịnh".
Tán rằng: Đây tức là phần ba; lìa bốn chấp điên đảo. Kinh viết: "Tất cả pháp bất khả đắc, vì suy tìm tính của nó bất khả đắc. Tất cả pháp bất tư nghì, vì tư nghì tính ấy vô sở hữu. Tất cả pháp vô sở hữu, vì các duyên hòa hợp lại là giả xếp bày. Tất cả pháp vô hý luận, vì bổn tính không tịch lìa lời nói. Tất cả pháp bổn tính tịnh, vì Bát-nhã Ba-la-mật đa sâu thẳm bổn tính tịnh".
Tán rằng: Đây là phần tư, lìa các chấp trước. Vì không có cái như sở chấp mà có cái sở đắc. Vì cái tâm tầm tư, lời bàn của ngôn thuyết bất khả tư nghì. Pháp giả xếp bày vì không thực có, vì pháp tính lìa lời nói, không hý luận cho nên pháp tính vốn tịnh. Vì thật tướng Bát-nhã bổn tính tịnh. Những cái đó đã là pháp tính; mà các pháp đều theo với bản thể cho nên đều là không.
Kinh viết: "Phật thuyết Ly chư hý luận Bát-nhã lý thú Luân tự pháp như vậy rồi; nói cho Kim cang thủ Bồtát biết rằng; Nếu có người nghe được pháp môn Vô hý luận Bát-nhã lý thú, luân tự này; rồi tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập thì sẽ đắc vô ngại trí ở tất cả các pháp, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: đây là phần ba; ca ngợi thắng đức của kinh đạt pháp tính không; cho nên đắc vô ngại trí đối với các pháp.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai, nhất thiết Như Lai luân nhiếp; vì các Bồtát; tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, nhập quảng đại luân thậm thâm lý thú bình đẳng tính môn".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai; nhập quảng đại luân bình đẳng tính môn. Do quán bình đẳng, tu chứng chơn. Trong đó có ba. Đây là phần nêu tên pháp môn được thuyết. Phần trước chỉ nói Luân tự, chưa nói rõ pháp nhiếp. Nay nói các pháp đều nhiếp bởi chơn; tròn đầy, viên mãn, vì lìa chấp trước; cái đó đầy khắp, nên gọi là Quảng đại; không có pháp nào mà không nhiếp nên gọi là bình đẳng, bổn thể của các pháp, nên gọi là tính.
Kinh viết: "Nghĩa là vì nhập Kim cang bình đẳng tính, nên có khả năng nhập Nhất thiết Như Lai tính luân. Vì nhập nghĩa bình đẳng tính, nên có khả năng nhập nhất thiết Bồ-tát tính luân. Vì nhập pháp bình đẳng tính, nên có khả năng nhập Nhất thiết pháp tính luân".
Tán rằng: Dưới đây là phần hai, là phần trình bày chính; trong đó có ba phần; phần đầu nói riêng tính luân; phần sau nói chung về tính luân. Trong phần nói riêng tính luân, gồm có ba; phần đầu nói về tính luân của bậc Thánh; phần hai nói về tính luân của pháp; phần ba nói về tính luân của Hữu tình. Trong phần đầu lại có ba; phần đầu nói về tính luân của Phật. Bổn tính pháp thân có thể phá sinh tử, vì cứng rắn khó bị hư hoại như kim cang. Pháp của Bồ-tát nương theo sở thuyên của giáo để thực hành tu chứng. Nghĩa bình đẳng gọi là Bồ-tát tính. Phật cũng là nghĩa bình đẳng tính. Vì lìa nghĩa của năng thuyên cứng chắc, nên gọi riêng là kim cang, không gọi là nghĩa. Bồ-tát chứng tới đó, chưa đắc kim cang viên mãn pháp tính; nên chỉ gọi là nghĩa. Hai năng thuyên đó, gọi chung là pháp. Pháp nghĩa là giáo pháp; vì muốn hiển bày thắng pháp nhân quả sở thuyên, nên giáo của năng thuyên đều cùng nhiếp vào với pháp tính luân. Tùy thuận mà nói riêng, thực ra tính cũng đều là chơn.
Kinh viết: "Nhập uẩn bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả uẩn tính luân. Nhập xứ bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả xứ tính luân. Nhập giới bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả giới tính luân".
Tán rằng: Từ đây trở đi là phần hai; nói về pháp tính luân, trong đó có ba: Đầu là biệt pháp; tiếp đến là thông pháp; sau cùng là vị pháp. Trong biệt pháp có bảy, thì đây là ba khóa đầu. Nói riêng về nghĩa là ba thế chơn pháp tính.
Kinh viết: "Nhập đế bình đẳng tính, có thể nhập vào tất cả Đế tính luân. Nhập duyên khởi bình đẳng tính, có thể nhập vào tất cả Duyên khởi tính luân. Nhập Bảo Bình đẳng tính, có thể nhập vào tất cả Bảo tính luân. Nhập thực bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả thực tính luân".
Bốn Biệt pháp này: Đế là bốn Đế. Duyên khởi có mười hai. Bảo là ba Báu, thực đó là bốn thực: Đoạn thực, Xúc thực, Tư thực và Thức thực. Ba tên hương, vị, xúc gọi là Đoạn thực. Xúc đó là xúc số, câu với thức thứ sáu. Tư thực đó là Tư số, tức đệ lục câu. Thức thực đó là thức uẩn tức chỉ đệ bát thức. Tùy duyên mà thuyết bốn nhiếp quy về pháp tính.
Kinh viết: "Nhập thiện pháp bình đẳng tính, vì có thể nhập tất cả thiện pháp tính luân. Nhập phi thiện pháp bình đẳng tính; vì có thể nhập tất cả phi thiện pháp tính luân. Nhập hữu ký pháp bình đẳng tính, vì có thể nhập tất cả hữu ký pháp tính luân. Nhập vô ký pháp bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả pháp vô ký tính luân. Nhập hữu lậu pháp bình đẳng tính, vì có thể nhập tất cả pháp hữu lậu tính luân. Nhập vô lậu pháp bình đẳng tính, vì có thể nhập tất cả pháp vô lậu tính luân. Nhập hữu vi... nhập vô vi... nhập thế gian pháp... nhập xuất thế gian pháp...".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai, nói về các thông pháp nhập pháp tính luân; trong đó có năm; nghĩa nó như văn.
Năm thông đó ở tại hai loại nhân, pháp.
Kinh viết: "Nhập dị sinh pháp,... nhập Thanh văn pháp,... nhập Độc giác pháp,... nhập Bồ-tát pháp,.. nhập Như Lai pháp... ".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba, nói về các vị pháp nhập vào pháp tính luân; trong đó có năm: Một phàm pháp và bốn Thánh pháp.
Kinh viết: "Nhập hữu tình bình đẳng tính, vì có thể nhập vào tất cả hữu tình tính Luân".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba nói về hữu tình nhập bổn tính luân.
Kinh viết: "Nhập tất cả bình đẳng tính; vì có thể nhập tất cả tính luân".
Tán rằng: Đây tức phần thứ hai, nói chung về tính luân. Thánh hay phàm, nhân hay pháp, tất cả đều nhập vào bổn tính luân. Muốn hiển bày tất cả đều quay về nhiếp với Bổn Tánh Quảng Đại Luân.
Kinh viết: "Phật thuyết nhập Quảng Đại Luân Bát-nhã lý thú bình đẳng tính như vậy rồi, bảo với kim cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người nghe được luân tính thậm thâm lý thú bình đẳng tính môn như vậy; rồi tín giải, thọ trì, đọc tụng, tu tập; thì có thể khéo ngộ nhập các bình đẳng tính, mau chứng vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba, ca ngợi thắng đức của kinh. Nhờ nghe pháp môn đó, mà kiếp này, kiếp sau có thể khéo ngộ nhập các bình đẳng tính. Học ngộ, chứng ngộ đều khéo ngộ nhập, cho đến cuối cùng mau đắc Bồđề.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai, Nhất thiết quảng thọ cúng dường chơn tịnh khí điền; vì các Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-lamật đa, nhất thiết cúng dường thậm thâm lý thú vô thượng pháp môn".
Tán rằng: Hai đoạn dưới đây nói về Hạnh; hiển bày việc nương vào tướng quán chiếu tu đoạn. Đoạn đầu là chơn tịnh cúng dường vô thượng pháp môn; do nương vào quán chiếu mà tu cúng dường. Đoạn sau là khéo điều phục được trí tàng pháp môn; do nương quán chiếu trừ những phẫn hận. Đây là đoạn đầu, trong đó có ba: đầu nêu ra tên gọi của pháp môn.
Quảng thọ cúng dường chơn tịnh khí điền; là do Phật thực hành đủ các hạnh cúng dường chơn thực, vì có thể thực hành tất cả pháp hạnh chơn thực, nên khi thành Phật, thì tất cả đều đầy đủ; ba nghiệp thuần tịnh, có thể nhận được sự cúng dường rộng lớn của chúng sinh; làm pháp khí chơn thật, làm tịnh điền chơn thật cho các chúng sanh; cho nên gọi là vô thượng. Còn các nhị thừa, tuy là ruộng phước chơn thực nhưng chẳng phải vô thượng.
Kinh viết: "Đó là phát tâm vô thượng Chánh đẳng giác ở nơi các Như Lai, rộng bày cúng dường nhiếp hộ chính pháp. Các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả Ba-la-mật đa. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả Bồ-đề phần pháp. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả đẳng trì tổng trì. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành hết thảy năm nhãn sáu thông. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả tĩnh lự giải thoát. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả Từ bi hỷ xả. Ở nơi các Như Lai rộng bày cúng dường, tu hành tất cả pháp bất cộng của Phật. Ở nơi các Như Lai mà rộng bày cúng dường".
Tán rằng: Dưới đây là phần chính nói về trong Nhân do thực hành đúng đắn cúng dường, sau này sẽ làm nhân tịnh. Trong ấy có ba: Đầu là tu tập Hạnh, phần tiếp là quán sát Hạnh, phần sau cùng là hành pháp Hạnh. Đây là phần đầu; trong phần này lại có ba: đầu là phát tâm hạnh; thứ là nhiếp hộ hạnh; sau cùng là tu tập hạnh. Trong mọi sự cúng dường, lấy pháp cúng dường là tối thắng.
Hội Thiên Vương có nói: "Hai người lìa xa vua, giặc không thể xâm nhập kho báu lớn". Trăm ngàn vạn kiếp khó nghe được pháp nay được nghe, chẳng trì, chẳng thí. Tâm đại Bồ-đề hộ trì chánh pháp; như giáo tu hành, tâm tịch tĩnh; lợi mình lợi người, tâm bình đẳng. Đó chính là chân thật cúng dường Phật.
Đại Bồ-đề tâm, là như Phật đã nói: Các Bồ-tát, khi mới bắt đầu phát tâm, phước đức quả báo của một niệm thấp kém; trăm vạn kiếp nói còn không hết, huống nữa là trải qua nhiều kiếp! Thí như Biển lớn, khi mới bắt đầu khởi dần dần dâng lên, thì đã làm nơi chốn của vô số châu báu, vì tất cả châu báu đều do biển sanh ra. Ba ngàn đại thiên thế giới khi mới bắt đầu khởi, liền làm nơi y chỉ của tất cả chúng sanh hai mươi lăm Hữu. Bồ-tát phát tâm cũng lại như vậy. Khi mới bắt đầu khởi đã làm nơi y chỉ cho tất cả vô lượng chúng sanh. Bồ-tát phát tâm, lấy từ bi làm đầu. Ví như hư không, không nơi nào là không bao phủ. Hư không vô lượng, cho nên chúng sanh cũng vô lượng. Chúng sanh vô lượng, cho nên Bồ-tát phát tâm cũng lại như vậy. Vì như vậy mới có thể che chở cho tất cả chúng sanh trong tất cả thế giới.
Bồ-tát thân cận thiện tri thức, cúng dường chư Phật, tu tập thiện căn, chí cầu thắng pháp, tâm thường nhu hòa gặp khổ nhẫn được, từ bi thuần hậu, thâm tâm bình đẳng, tín lạc Đại thừa, cầu Phật trí tuệ. Người nào có đủ mười pháp như vậy, mới có thể phát tâm vô thượng Chánh đẳng chánh giác. Như kinh rộng nói:
Nhiếp hộ chánh pháp: Nhiếp là nhiếp thọ, nhiếp trì, tức là thắng hộ nhiếp thọ chánh pháp. Hộ là ủng hộ, Hộ niệm; tức là hộ niệm việc chánh pháp phó chúc. Nhiếp thọ; ủng hộ là vì pháp mà làm thành lũy, không tiếc thân mạng thiết bày cúng dường. Ba-la-mật đa. Dưới đây là hạnh tu tập. Trong ấy có bảy: Tổng trì là Đà la ni, đẳng trì là Tam ma địa. Tịnh lự đó là bốn tịnh lự. Giải thoát đó là tám giải thoát. Từ-bi-hỷ-xả tức bốn vô lượng bất cộng pháp của tất cả Phật là Bồ-tát địa thuyết. Chư Phật Thế Tôn có một trăm bốn mươi bất cộng Phật Pháp: Đó là ba mươi hai; tám mươi tùy hảo; bốn nhất thiết chủng thanh tịnh; mười lực; bốn vô sở úy; ba niệm trú; ba bất hộ; đại bi; vô vong thất pháp; vĩnh hại tập khí và nhất thiết chủng diệu trí của chư Như Lai. Đó gọi là bất cộng pháp của tất cả chư Phật.
Bốn nhất thiết chủng thanh tịnh là:
1. Nhất thiết chủng sở y thanh tịnh, là phiền não, tập khí thô trọng đều vĩnh tận; vả lại ở trong tự thể, đúng như những điều mình muốn; trong thủ, trú, xả, đều tự tại mà trú.
2. Nhất thiết chủng sở duyên thanh tịnh: Đó là với nhiều loại dù hóa hay biến, hay hiển hiện; tất cả sở duyên đều tự tại chuyển.
3. Nhất thiết chủng tâm thanh tịnh: vì lìa vĩnh viễn các tâm thô trọng, nên tất cả thiện căn đều được tích chứa.
4. Nhất thiết chủng trí thanh tịnh: vì lìa vĩnh viễn vô minh thô trọng, vả lại trí biến sở tri và trí vô chướng ngại đều tự tại chuyển.
Ba niệm trú là: Các Như Lai ở trong đêm dài đều có ý muốn như vậy. Phải làm thế nào để các loài hữu tình như thật tùy trú vào trong pháp hạnh không điên đảo Tỳ nại gia mà ta đã khéo thuyết giảng. Như vậy, trong đêm dài, muốn làm vui lòng chúa pháp, khi hóa ngự chúng; nếu những đều mong muốn thành hay không thành đều không sinh ra tạp nhiễm. Ba niệm trú chỉ trình bày sơ lược, vì ba niệm trú đó lại do ba chúng khác nhau. 1. Toàn bộ chánh hạnh; 2. Toàn bộ tà hạnh; 3. Một phần chánh hạnh, một phần tà hạnh. Đức Phật không sanh tâm vui buồn, chỉ sinh tâm đại xả.
Ba bất hộ: Đó là ba nghiệp của Như Lai, thanh tịnh hiện hành. Tập khí vĩnh tận; nghĩa là tập khí đều đoạn dứt không còn dư sót; nghĩa là chư Như Lai đi đứng nằm ngồi tựa như có phiền não, nhưng những nghiệp đã làm đa phần không có hiện hành.
Nhất thiết chủng diệu trí là tóm chung các pháp vô điên đảo trí.
Các Phật Pháp còn lại như đã giải thích trên.
Kinh viết: "Quán tất cả pháp, thường hay vô thường đều bất khả đắc; đều rộng bày cúng dường với các Như Lai.
Quán tất cả pháp lạc hay khổ đều bất khả đắc, đều rộng bày cúng dường với các Như Lai.
Quán tất cả pháp ngã hay vô ngã đều bất khả đắc, đều rộng bày cúng dường với các Như Lai.
Quán tất cả pháp tịnh hay bất tịnh đều bất khả đắc, rộng bày cúng dường với các Như Lai."
Tán rằng: Dưới dây là phần thứ hai quán sát hạnh tướng; trong đó có ba: 1. Hạnh lìa bốn điên đảo; 2. Hạnh ba môn; 3. Hạnh lìa chấp trước sinh diệt. Đó là phần đầu. Dị sinh đa số chấp thân thọ nhận và tâm pháp là tịnh, lạc, ngã, thường. Để phá những thứ đó, nên thuyết lý tứ đế. Đã vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, thì sẽ khiến chán sinh tử, hướng cầu nhị thừa. Nhị thừa bèn chấp chơn thực hữu với bốn thứ, vô thường, vô lạc,... kia; đã có phá chấp, lại nương bám vào tiểu quả, không muốn Đại thừa, sau đó Thế Tôn thuyết kinh Đại Bát Niết-bàn, thường lạc ngã tịnh, khiến cho họ xả tiểu quả, hướng cầu Đại thừa. Họ nghe xong bèn chán ghét xả bỏ, liền đắc Phật quả. Cả hai thứ đó đều là phương tiện dẫn nhiếp, chẳng phải là đạo lý chơn thật; các pháp thực ra chẳng phải những thứ đó; cho nên có thuyết nói: Chư Phật có khi thuyết là ngã, có khi thuyết là phi ngã. Trong thật tướng của các pháp, không có ngã cũng không có phi ngã! Ba cái kia cũng vậy. Nay quán thật tướng để lấy đó thiết lập sự cúng dường; cho nên quán các pháp thường hay vô thường đều bất khả đắc.
Kinh viết: "Quán tất cả pháp; không hay bất không đều bất khả đắc; lấy đó cúng dường cho các Như Lai.
Quán tất cả pháp; hữu tướng hay vô tướng đều bất khả đắc; lấy đó cúng dường cho các Như Lai.
Quán tất cả pháp; hữu nguyện hay vô nguyện đều bất khả đắc; lấy đó cúng dường cho các Như Lai."
Tán rằng: Đây là phần thứ hai, nói về ba hạnh.
Nếu là nhị thừa; quán khổ là không, tức là hạnh không vô ngã; quán tập, đạo toàn khổ đế phần ít là Hạnh vô nguyện; quán diệt đế là hạnh vô tướng; thành ra có chuyện yêu ghét. Còn Đại thừa thì quán biến kế sở chấp thực ngã pháp là hạnh không. Quán y tha khởi là hạnh vô nguyện. Quán viên thành thực là hạnh vô tướng. Lại nữa, cả ba đều không; không, vô tướng, vô nguyện đều là để phá những cái chấp vọng tưởng, phân biệt ngã, pháp của phàm phu. Cho nên, bất không là cái chấp của phàm; hữu nguyện, hữu tướng cũng đều như vậy! Các hạnh không,... đó đều là môn của phương tiện để thú nhập. Theo lý thì thật tướng chẳng phải không hay bất không, chẳng phải hữu nguyện, hay vô nguyện, hữu tướng hay vô tướng. Nay bởi quán thật tướng cho nên bất khả đắc. Vì suy từ một pháp mà thông đạt tất cả pháp; cho nên luận thuyết nói: gọi đó là tính không vì pháp tính chẳng phải là không, chẳng phải là tính của không, thuần nhược Đa.
Kinh viết: "Quán tất cả pháp; viễn ly hay không viễn ly đều bất khả đắc, cúng dường cho các Như Lai.
Quán tất cả pháp tịch tịnh hay không tịch tịnh đều bất khả đắc, cúng dường cho các Như Lai."
Tán rằng: Phàm phu vọng tưởng, vui dính với sinh tử, tính không được tịch tịnh; nên có sự bất viễn ly và bất tịch tịnh. Để phá những cái đó, cho nên thuyết là viễn ly và tịch tịnh. Nương vào môn viễn ly và tịch tịnh để phá bệnh đó. Nhờ nhập với chơn, nên gọi là viễn ly và tịch tịnh. Theo thể của thực pháp thì phi viễn, bất diễn, phi tịnh, bất tịnh. Vì tịnh, bất tịnh đều là cửa vào, chẳng phải la pháp tính; bởi Thể của thực tướng tuyệt đường danh ngôn; dứt đường tầm tư; cho nên những thứ như viễn ly... đều bất khả đắc.
Kinh viết: "Với Bát-nhã Ba-la-mật đa: Ghi chép, nghe, thọ trì, đọc, tụng, suy tư, tu tập, vì người khác tuyên thuyết, lưu hành rộng rãi; hoặc tự mình cúng dường; hoặc thí cho người khác cúng dường các Như Lai".
Tán rằng: Đây là hạnh thứ ba, hạnh pháp hành.
1. Ghi chép; 2. Nghe; 3. Thọ trì, yêu thích, trân trọng không lìa ở tâm, sinh tử oai nghi, nguyện cùng theo; 4. Đọc; 5. Tụng; 6. Tư duy; 7. Tu tập thực hành; 8. Vì hữu tình tuyên thuyết lưu hành rộng rãi; 9. Tự cúng dường; 10. Thí cho người khác. Mười cái đó gọi là thực hành hạnh pháp hành; đều do chính mình làm, dạy cho người khác tụng vui vẻ tùy hỷ. Trong cúng dường, nói tự mình là để đối lại với thí cho người, nên lại nói là tự; thực ra thì tự cúng dường và dạy người khác ca ngợi tùy hỷ vui vẻ đều cùng đắc cúng dường. Những chuyện thí cho người ghi chép, cho đến dạy cho người, thí cho người sự ca ngợi đều gọi là pháp hạnh gọi là cúng dường vì người thực hành mười pháp hạnh thì phước tụ vô lượng cho nên vô tận; bởi nhiếp người khác không ngừng nghỉ, như trong Luận Trung Biên đã nói.
Kinh viết: "Phật thuyết chân tịnh cúng dường thậm thâm lý thú vô thượng pháp như vậy rồi, bảo cho kim cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người nghe được pháp môn vô thượng cúng dường Bát-nhã Ba-la-mật lý thú như vậy, rồi tín giải, thọ trì, đọc, tụng, tu tập; thì có thể mau chóng làm viên mãn các Bồ-tát hạnh, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đó tức là phần thứ ba, ca ngợi thắng đức của kinh. Lấy pháp cúng dường tức Bồ-tát hạnh, cho nên hạnh Bồ-tát mau viên mãn.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai tất cả đều có thể khéo điều phục; vì các Bồtát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, nhiếp thọ trí mật, điều phục hữu tình thậm thâm lý thú Trí tàng pháp môn".
Tán rằng: Nương vào tướng của Quán chiếu tu đoạn. Đây là pháp môn thứ hai, Năng thiện điều phục Trí tàng pháp môn. Nhờ nương vào Quán chiếu để trừ sự phẫn hận. Đây là phần tổng quát nói về tên gọi của pháp môn. Năng thiện điều phục; nghĩa là có khả năng trừ được phẫn hận, gọi là thiện điều phục.
Nhiếp thọ trí mật điều phục hữu tình; nghĩa là trí quán chiếu vi diệu, gọi là Mật. Trí đó làm kho chứa, có thể nhiếp thọ tất cả công đức của tất cả Phật Pháp, gọi là nhiếp thọ; cũng còn gọi là trí tàng. Nhờ trí tàng đó, mà có thể trừ được sự phẫn hận của mình và người; nên gọi là điều phục. Môn này tỏ rõ do trí quán chiếu đạt đến bổn tính của pháp, cho nên các pháp ác phẫn hận đều có thể bị điều phục.
Kinh viết: "Nghĩa là, tính bình đẳng của tất cả hữu tình chính là tính bình đẳng của sự tức giận".
Tính điều phục của tất cả hữu tình, chính là tính điều phục của sự tức giận. Tính chơn pháp của tất cả hữu tình, chính là tính chơn pháp của sự tức giận.
Tính chơn như của tất cả hữu tình, chính là tính chơn như của tức giận.
Tính pháp giới của tất cả hữu tình, chính là tính pháp giới của sự tức giận.
Tính Ly sinh của tất cả hữu tình, chính là tính Ly sinh của sự tức giận.
Tính Thực tế của tất cả hữu tình, chính là tính giận.
Thực tế của sự tức Tính Vốn không của tất cả hữu tình, chính là tính Vốn không của sự tức giận.
Tính Vô tướng của tất cả hữu tình, chính là tính Vô tướng của sự tức giận.
Tính Vô nguyện của tất cả hữu tình, chính là tính Vô nguyện của sự tức giận.
Tính Viễn ly của tất cả hữu tình, chính là tính Viễn ly của sự tức giận.
Tính tịch tịnh của tất cả hữu tình, chính là tính tịch tịnh của sự tức giận.
Tính Bất khả đắc của tất cả hữu tình, chính là tính Bất khả đắc của sự tức giận.
Tính vô sở hữu của tất cả hữu tình, chính là tính vô sở hữu của sự tức giận.
Tính nan tư nghì của tất cả hữu tình, chính là tính nan tư nghì của sự tức giận.
Tính vô hý luận của tất cả hữu tình, chính là tính vô hý luận của sự tức giận.
Tính như kim cang của tất cả hữu tình, chính là tính như kim cang của sự tức giận.
Tán rằng: Cả đoạn này gồm hai phần: Phần đầu nói về mười bảy thực tướng tức thực tướng của tức giận; phần sau giải thích nguyên do. Đây là phần đầu; phần này chia làm năm:
1. Lấy ba loại thực tướng bất nhị, trừ đoạn vô biến. Ở ngay sự tức giận. Khi người ta tức giận thì mình phải tác niệm như thế này: Pháp đã là bình đẳng, sao lại có sự sân giận? Pháp đã là lìa nhiễm, tức giận làm sao điều ta. Pháp đã là vô biến, tính tức giận cũng vậy; thì cần gì mà phân biệt! Thấy người ta nổi giận mà khởi lên giận hờn làm gì! Quán như vậy rồi, thì trừ diệt được tất cả Hoặc.
2. Lấy bốn loại thực tướng: Thuộc thường, đức tính, diệt phá, chân cảnh để ngay ở sự tức giận.
3. Lấy ba loại thực tướng: Phi hữu, ly tướng, bất cầu, để ngay ở sự tức giận.
4. Lấy hai loại thực tướng: Đoạn nhiễm pháp, ly sinh để ngay ở sự tức giận.
5. Lấy năm loại thực tướng: Vô đắc, hư ngụy, thâm diệu, ly ngôn, kiên thật, để ngay nơi sự tức giận.
Mỗi mỗi phối hợp theo thứ tự đó. Những pháp môn đó đã giải thích ở trên kia rồi; cho nên ở đây không giải thích. Trong các phiền não sân nhuế là nặng nhất; cho nên ở đây mới đặc biệt nêu ra; thực ra nó thông với tất cả các nhiễm khác.
Lấy sự tức giận để ngay nơi chơn, thì gốc biết hết nhiễm. Khi hữu tình khởi lên sự tức giận, thì bổn tính của sự tức giận chính là bổn tính của hữu tình. Bổn tính của người và pháp đều là thực tướng, vì không chia hai; đã biết vậy rồi thì không thấy tức giận; cho nên không còn sinh những lỗi lầm của phiền não!
Kinh viết: "Vì sao? Vì tính chơn điều phục của tất cả hữu tình chính là vô thượng chính đẳng Bồ-đề; cũng là Bát-nhã Ba-la-mật đa; cũng là trí nhất thiết trí của chư Phật".
Tán rằng: Dưới đây là phần hai giải thích nguyên do. Vì hữu tình bổn tính điều phục, thực tướng tức là pháp thân vô thượng chính đẳng Bồ-đề. Thực tướng vốn tính Bồ-đề nói ở đây cũng là pháp tính và pháp tướng của năng quán quán chiếu Bát-nhã; thể của chúng không khác; ví như dao và sự sắc bén của dao, thể của chúng không khác. Do đó mới biết, bổn tính của tức giận cũng là trí Nhất thiết trí của chư Phật. Có nhiều giải thích về chơn trí và tục trí.
Giải thích thứ hai là Nhất thiết trí là Phật, trí là cái trí mà Phật thành tựu. Bổn tính Bát-nhã đó, tức là trí của Phật. Vì sự tức giận chính là chơn như, cũng chính là trí của Phật; cho nên tính của phiền não tức là giác phần vì không còn gì khác! Lại nữa, giác tri là phiền não cho nên vĩnh viễn không khởi lên, pháp tính vốn giống nhau vì cái dụng không khác. Lại nữa, tính điều phục tức là thực tướng. Bồ-đề cũng là thực tướng. Bát-nhã cũng là bổn tính của trí chư Phật. Bổn tính gọi là trí, vì là gốc của trí. Bốn tên gọi tuy có khác nhau, nhưng thể của chúng là một, cho nên tương tức. Trí và trí xứ đều gọi là Bát-nhã, vì ý nghĩa của chúng giống nhau.
Kinh viết: "Phật thuyết, năng thiện điều phục, thậm thâm lý thú trí tàng pháp môn như vậy, rồi bảo cho kim cang thủ Bồ-tát biết rằng:
Nếu có người nghe được pháp môn điều phục Bát-nhã lý thú trí tàng như vậy rồi, tín giả, thọ trì, đọc tụng, tu tập; thì có thể tự mình điều phục những lỗi lầm của tức giận; và cũng có thể điều phục cho hết thảy hữu tình".
Tán rằng: Đấy là phần thứ ba ca tụng thắng đức của kinh. Những tạp nhiễm đó mất đi sự tức giận, nghĩa là thông suốt các nhiễm vậy.
Kinh viết: "Thường sinh cõi lành, nhận được các diệu lạc, kẻ oán địch trong kiếp này đều khởi từ tâm".
Tán rằng: Đây là phần hai thắng quả ở thế gian. Sự tức giận chỉ khởi từ bất thiện tất đưa đến khổ. Nay lìa các tức giận, cho nên được sinh vào cõi lành, thọ nhận quả thắng lạc, do không có sự tức giận. Vì không bực bội với người khác, cho nên oan gia kiếp này cùng nhau từ tâm.
Kinh viết: "Khéo tu hành các hạnh Bồ-tát, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đây là quả thắng thiện của xuất thế.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai; tất cả có thể khéo kiến lập tính bình đẳng pháp, vì các Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa Nhất thiết pháp tính thậm thâm lý thú tối thắng pháp môn".
Tán rằng: Trong phần nói về Hạnh, tổng cộng có sáu đoạn. Hai đoạn cuối cùng dưới đây, nói về việc nương vào tướng của hai pháp biến tu. Đoạn này nói về tính bình đẳng tính tối thắng pháp môn; vì tu quán thật tướng nhân pháp bình đẳng đều đầy khắp. Đoạn sau nói về hữu tình trú trì thắng tạng pháp môn; bởi tu quán quán chiếu biến khắp các nhân pháp đều là thiện duyên.
Trong đó có ba, đây là phần thứ nhất, nêu tổng quát tên gọi của pháp môn; có thể khéo léo kiến lập tính bình đẳng pháp nghĩa là tính bình đẳng pháp đó là chơn như biến khắp cả với nhân pháp, gọi là tính bình đẳng. Tính chơn thực đó không thể diễn bày bằng ngôn từ phân biệt; nay lại diễn bày thành tính bình đẳng pháp, nên gọi là kiến lập. Pháp tính chơn thực, nên gọi là tối thắng pháp; khiến thú nhập nên gọi là môn.
Kinh viết: "Nghĩa là tất cả hữu tình, tính bình đẳng, nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tính bình đẳng.
Tất cả pháp, tính bình đẳng; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm, cũng là tính bình đẳng.
Tất cả hữu tình tính điều phục, nên Bát-nhã Ba-lamật đa thậm thâm, cũng tính điều phục.
Tất cả pháp, tình điều phục, nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm, cũng tính điều phục.
Tất cả hữu tình, có thật nghĩa, nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm, có thật nghĩa; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm, cũng có thật nghĩa.
Tất cả pháp, có thật nghĩa, nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm, cũng có thật nghĩa".
Tán rằng: Dưới đây là phần chánh thứ hai gồm sáu phần: Phần thứ nhất, lấy ba thứ nhân pháp biến mãn là Ly, nhiễm, chơn lý Bát-nhã, đều giống pháp môn trước. Tên gọi phần thứ ba pháp môn trước là Vô biến; đây gọi là chơn lý; nghĩa là trước gọi chơn pháp, đây gọi là thật nghĩa. Thế và xuất thế gian đều chẳng quá hai loại; một là hữu tình, hai là pháp ngộ, hai loại này tức là trí của Bát-nhã Ba-la-mật đa quán chiếu. Bổn tính của hai loại tức thành thật tướng Bát-nhã Ba-la-mật đa, cho nên đều tương tức.
Kinh viết: "Bởi tất cả hữu tình tức chơn như; cho nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức chơn như.
Tất cả pháp tức chơn như; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức chơn như.
Tất cả hữu tình tức pháp giới; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức pháp giới.
Tất cả pháp tức pháp giới; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức pháp giới.
Tất cả hữu tình tức pháp tính; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức pháp tính.
Tất cả pháp tức pháp tính; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức pháp tính.
Tất cả hữu tình tức thật tế; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức thực tế".
Tán rằng: Thứ hai là lấy bốn loại thật thường, đức tính, pháp thể, chơn cảnh của nhân và pháp dĩ tức Bát-nhã.
Kinh viết: "Tất cả hữu tình tức bổn không; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức bổn không.
Tất cả pháp tức bổn không; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức bổn không.
Tất cả hữu tình tức vô tướng; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức vô tướng.
Tất cả pháp tức vô tướng; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức vô tướng.
Tất cả hữu tình tức vô nguyện; nên Bát-nhã Ba-lamật đa thậm thâm cũng tức vô nguyện.
Tất cả pháp tức vô nguyện; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức vô nguyện".
Tán rằng: Thứ ba là lấy ba thứ: Phi hữu, ly tướng, bất cầu của người và pháp để tức Bát-nhã.
Kinh viết: "Tất cả hữu tình tức viễn ly; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức viễn ly.
Tất cả pháp tức viễn ly; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức viễn ly.
Tất cả hữu tình tức tịch tĩnh; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức tịch tĩnh.
Tất cả pháp tức tịch tĩnh; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng tức tịch tĩnh".
Tán rằng: Thứ tư là lấy hai thứ: Ly nhiễm, ly sinh của nhân pháp để tức Bát-nhã.
Kinh viết: "Tất cả hữu tình bất khả đắc; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng bất khả đắc.
Tất cả pháp bất khả đắc; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng bất khả đắc.
Tất cả hữu tình vô sở hữu; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô sở hữu.
Tất cả pháp vô sở hữu; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô sở hữu.
Tất cả hữu tình bất tư nghì; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng bất tư nghì.
Tất cả pháp bất tư nghì; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng bất tư nghì.
Tất cả hữu tình vô hý luận; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô hý luận.
Tất cả pháp vô hý luận; nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô hý luận".
Tán rằng: Thứ năm là lấy bốn thứ: Vô đắc, hư ngụy, thâm diệu, ly ngôn của người và pháp để tức Bát-nhã.
Kinh viết: "Tất cả hữu tình vô biên tế, nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô biên tế.
Tất cả pháp vô biên tế, cho nên Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng vô biên tế.
Tất cả hữu tình có nghiệp dụng, cho nên phải biết Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm cũng có nghiệp dụng". Tán rằng: Thứ sáu lấy hai loại: Quảng đại và tác dụng của Nhân và pháp để tức với Bát-nhã. Vì trí quảng đại của cảnh cũng như vậy, cảnh có đủ nghiệp dụng lưu chuyển; Bát-nhã cũng có tác dụng đoạn trừ khi quán chiếu cảnh giới.
Kinh viết: "Phật thuyết tính bình đẳng, tính thậm thâm lý thú tối thắng pháp như vậy rồi; bảo với kim cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người nghe được pháp môn bình đẳng Bát-nhã lý thú tối thắng như vậy; rồi tín giải, thọ trì, đọc, tụng, tu tập; thì có thể thông đạt bình đẳng pháp tính thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa".
Tán rằng: Phần thứ ba ca ngợi Đức.
Tính Bình đẳng, tánh nghĩa là chơn như thực tướng, thể tính bình đẳng; là bổn tính của Nhân và pháp; cho nên gọi là tính Bình đẳng tính, tức có thể thông đạt được bình đẳng pháp tính do nghe, tu... nhờ lực oai thần của tính bình đẳng đó, cho nên có thể thông đạt pháp tính bình đẳng.
Pháp tính bình đẳng tức Bát-nhã Ba-la-mật đa thâm sâu. Nghĩa thâm sâu của Bát-nhã Ba-la-mật đa gồm hai loại. Một là thực tướng, hai là Quán chiếu. Nay đạt thật tướng là nhờ quán Bổn tính biến khắp cả nhân và pháp, những sở tức Bát-nhã thâm sâu ở trên chính là quán chiếu. Nếu không vậy, thì thực tướng Bát-nhã sao cũng có nghiệp dụng.
Kinh viết: "Với các hữu tình, tâm không quái ngại, mau chứng vô thượng chính đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Sở y pháp tính năng thông đạt, Lý của năng y nhân pháp cũng vô ngại.
Quái là chướng, Ngại là câu ngại. Thông đạt người và pháp cũng không có chướng ngại. Vì sở y đạt, cho nên năng y cũng đạt.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai, tất cả trú trì tàng pháp. Vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa Nhất thiết hữu tình trú trì Biến mãn thậm thâm lý thú thắng tàng pháp môn". Tán rằng: Đây là đoạn thứ hai, Hữu tình trú trì thắng tạng pháp môn. Nhờ tu quán chiếu biến khắp các nhân pháp đều là thiện duyên. Trong văn kinh có ba, đây là phần thứ nhất; nêu tên gọi của pháp môn đã nói; trong đó lại có hai phần: phần đầu nói nương vào tướng; phần sau nói về tên gọi của nó.
Trú nghĩa là trú chỉ, là Như Lai tạng, mà hữu tình từ vô thủy đều nương vào đó trú. Hoặc cái đó trước tiên trú trong các hữu tình. Trì nghĩa là trú trì, là Như Lai tạng trú trì hữu tình. Vì hữu tình vốn cũng có thể trú trì tất cả chủng tử của Phật Pháp. Tạng pháp nghĩa là Như Lai tạng, tức trong vô vi hàm chứa vô biên Phật công đức, cho nên gọi là tạng.
Nhất thiết Hữu tình trú trì biến mãn; nghĩa là Như Lai tạng đầy khắp, thân tâm của hữu tình nương trụ vào đó, có thể trì giữ tất cả công đức của pháp Phật; đó tức là kho báu của tất cả sự thù thắng, thuyên giải giáo pháp đó, gọi là pháp môn. Nghĩa của Như Lai tạng là tên gọi căn bản, cho nên không nói các kim cang tạng khác.
Kinh viết: "Nghĩa là tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng Phổ Hiền Bồ-tát, tự thể biến khắp".
Tán rằng: Dưới đây là phần chính thứ hai; trong đó có bốn phần; đây là phần thứ nhất.
Tất cả hữu tình đều là Như Lai tạng: Như Lai tạng tức tên gọi của chơn như tại triền. Khi ra khỏi sự vây bọc gọi là pháp thân. Tạng nghĩa là kho tàng, kho chứa. Tất cả công đức có được của chư Phật đều ở trong đó, gọi là Như Lai tạng. Vì công đức hiện hành chưa có thể khởi được, cho nên không gọi là pháp thân. Vả lại, chơn tính chính thật trong Như Lai tạng tại triền (Như Lai đang bị vây bọc) gọi là Như Lai tạng. Tất cả chúng sanh đều có chơn lý, cho nên kinh Thắng Mạn có nói: "Ôi sinh tử là Như Lai tạng!"
Phổ Hiền Bồ-tát tự thể biến khắp: Hiền, nghĩa là hiền thiện, Thể biến khắp ba nghiệp vì tất cả đều hiền thiện, cho nên gọi là Phổ Hiền.
Bồ-tát chứng được cái lý hiền thiện phổ khắp này. Lại nữa, tự thể của nó phổ khắp đều hiện tiền. Các pháp ba nghiệp, tất cả đều hiền. Do chơn lý sở chứng của Bồtát và các pháp tự thể hữu vi năng chứng. Tất cả đều thuận, đều cùng hiền thiện. Lại nữa, do tính thể đó biến khắp ba nghiệp, có thể làm cho ba nghiệp đều hiền thiện, cho nên gọi là Phổ Hiền. Thế nhưng, nay vì bổn tính phổ hiền của Bồ-tát, tức là Như Lai tạng; cho nên nói tự thể của Phổ Hiền Bồ-tát biến khắp thể của hữu tình. Hữu tình đều là Như Lai tạng. Bỏ dụng, hiển bày thể gọi là phổ hiền biến khắp.
Kinh viết: "Tất cả Hữu tình đều là Kim Cang tạng; vì được kim cang tạng tưới rửa".
Tán rằng: Đây là phần thứ hai; tất cả Hữu tình đều Kim cang tạng tức Như Lai tạng, cứng rắn khó hư hoại, có cái đức phá tan sinh tử, gọi là Kim cang tạng. Bồ-tát Kim cang tạng có thể chứng được Lý Kim cang tạng đó; cũng có thể thu được trí Kim cang tạng, nên gọi là Kim Cang tạng. Thế nhưng, nay thì cả bản thể của tất cả hữu tình đều là Kim Cang tạng, tất nhiên lấy giáo lý Bát-nhã Kim Cang tạng tưới rửa thân tâm thì sẽ được sự cứng chắc, phá tan được pháp sinh tử kiên cố; vì thế mà biết hữu tình đều là Kim Cang tạng. Tưới có nghĩa nhập vào thân tâm. Rửa là phá nghiệp sinh tử; vì khi được tưới rửa dần dần bởi giáo lý Kim Cang tạng đó thì phá được sinh tử.
Kinh viết: "Tất cả hữu tình đều là chánh pháp tạng; vì tất cả đều theo chánh ngữ mà chuyển".
Tán rằng: Đây là phần thứ ba.
"Tất cả hữu tình đều là chánh pháp tạng: Chánh pháp tức là chơn giáo Bát-nhã, Tạng là kho chứa; Tất cả hữu tình đều là kho chứa của chánh pháp.
Vì các hữu tình đều có thể tùy thuận chánh ngữ mà chuyển: Chánh ngữ là lời nói thuận lý; tức là khế kinh. Nghĩa là các hữu tình đều có thể tùy thuận theo chánh ngữ mà chuyển. Chuyển là chuyển động. Có thể thực hành theo pháp Thánh giáo chánh ngữ mà đắc pháp kiên thật. Tính và tướng của hữu tình gộp lại gọi là hữu tình. Từ các hữu tình mà phát khởi chánh ngữ, cho nên các hữu tình gọi là Chánh pháp tạng".
Kinh viết: "Tất cả hữu tình đều là Diệu Nghiệp tạng; là nơi nương gia hạnh tất cả sự nghiệp".
Tán rằng: Đây là phần bốn; Tất cả hữu tình đều là Diệu Nghiệp tạng. Diệu nghiệp tức là tất cả các thiện ba nghiệp tạng của Bồ-tát. Nghĩa giống với trên. Tất cả hữu tình đều là kho chứa diệu nghiệp của Bồ-tát. Bồ-tát muốn khởi các sự nghiệp lành, đều là vì hữu tình, hoặc vì chứng bổn tính hữu tình kia; hoặc vì muốn nhổ bỏ khổ não sinh tử của họ mà phát khởi gia hạnh, cho nên, hữu tình là nơi nương của gia hạnh. Chỗ nương đó tức là tạng; vì từ hữu tình mà khởi diệu nghiệp. Bốn loại kể trên: Thứ nhất là pháp thể bàn xét bổn tạng. Thứ hai là pháp dụng phá sinh tử. Thứ ba là giáo nương vào gốc bổn gốc vô đảo. Thứ tư là đức nương vào, căn bản của đức. Nếu không hiểu được thì sẽ có sự trái ngược với những điều đó!
Kinh viết: "Phật thuyết pháp về hữu tình trú trì thậm thâm lý thú thắng tạng như vậy rồi; bảo với Kim Cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người đã nghe được pháp môn Biến mãn Bát-nhã lý thú thắng tạng như vậy rồi; mà tín giải, thọ trì, đọc, tụng, tu tập; thì có thể thông đạt thắng tạng pháp tính, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồđề!"
Tán rằng: Từ đây trở xuống là phần ba, ca ngợi thắng đức của kinh.
Thắng tạng pháp tính là bốn loại thắng tạng của Như Lai tạng, là bổn tính của pháp; nhờ nay đã nghe được, nên sau này thông đạt.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai, pháp cứu cánh vô biên tế, vì các Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa cứu cánh trú trì pháp nghĩa bình đẳng kim cang pháp môn".
Tán rằng: Dưới đây là hai đoạn của phần thứ ba, nói về thực hành đắc quả. Trong đó chia làm hai: đoạn đầu là vô biên vô tế cứu cánh pháp môn. Khi đắc quả thứ hai, là một vị sâu rộng cực kỳ thù thắng. Cho nên là đức của quả lợi mình. Đoạn sau là thậm thâm lý thú vô thượng pháp môn. Đã đắc quả thứ hai rồi tự lợi lợi tha, làm chúa của ba cõi, sẽ tùy theo các điều mong nguyện của hữu tình đó là đức của quả lợi người. Đây chính là đoạn đầu. Văn trong đoạn đầu này phân làm ba phần; đây là phần thứ nhất; nêu tổng quát tên hiệu của pháp môn được thuyết. Trong phần này lại có hai; đầu nói về chỗ nương; sau nói về tên hiệu đó. Cứu cánh là tối thắng nghĩa, đệ nhất nghĩa, vô thượng nghĩa, cùng cực nghĩa.
Vô biên là rộng, vô tế là sâu.
Ý nói: Thân Phật tối thắng, là pháp sâu rộng.
Cứu cánh trú trì pháp nghĩa bình đẳng: cứu cánh như giải thích trên. Trú là nương ở. Trì là trú trì. Pháp là giáo lý văn tự của năng thuyên. Nghĩa: Ý nghĩa lý thú sở thuyên. Bình đẳng là tương tự nghĩa không khác nghĩa. Kim cang là nghĩa chắc chắn, cứng rắn, nghĩa có thể phá những cái khác. Đó là nơi y chỉ tối thắng, gìn giữ giáo lý bất dị, phá tan sinh tử. Pháp môn là pháp và nghĩa đều có thể vô bờ bến.
Lại nữa, cứu cánh trú trì; là trú trì tất cả các Phật Pháp. Pháp và nghĩa bình đẳng, cùng thuận với nhau không hai. Kim cang pháp là pháp môn chắc thật có khả năng phá sinh tử.
Kinh viết: "Thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa vô biên; cho nên tất cả Như Lai cũng vô biên".
Tán rằng: Dưới đây là phần chính thứ hai; trình bày điều đã nói.
Trong pháp môn tính bình đẳng, tính tối thắng ở trên, nói tất cả hữu tình vô biên; cho nên thậm thâm Bát-nhã cũng vô biên. Bát-nhã đã thông thật tướng, năm thức quán chiếu văn tự, ba thân Như Lai theo đó cũng vô biên. Lý của thật tướng là pháp thân vô biên. Trí của quán chiếu là báo thân vô biên. Nương vào hai loại hóa thân đó mà ứng vật tùy duyên. Tức hiện nghiệp dụng vô biên. Vô biên là rộng lớn khó dò, tướng tốt các căn, mỗi mỗi đều vô biên, được sinh ra bởi những căn lành vô hạn.
Kinh viết: "Thậm thậm Bát-nhã Ba-la-mật đa vô tế; cho nên tất cả Như Lai cũng vô tế".
Tán rằng: Vô tế là thâm diệu khó biết; đắc được nhờ tu trong ba kiếp nạn. Thâm Bát-nhã gọi là vô tế. Cái thành ba thân đó cũng gọi là vô tế. Hàng nhị thừa, phàm phu, thập địa Bồ-tát không thể biết được.
Kinh viết: "Thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa một vị, cho nên tất cả pháp cũng một vị".
Tán rằng: Sự quán chiếu của năng quán và Lý phương tiện của sở quán ngang bằng với năm pháp đều là một vị, cho nên gọi là bình đẳng.
Một vị có nghĩa là một tướng. Đó là nghĩa không có tướng hòa hợp, nghĩa không phân biệt. Lại nữa, một vị nghĩa là cứng rắn, cho nên lìa tướng khổ lạc không có mừng lo. Tất cả pháp đó; giáo hay nghĩa đều cũng một vị. Tùy cả hai Bát-nhã không có chướng ngại. Kinh Phật Địa nói: "Thí như cõi trời thứ ba mươi ba chưa nhập vào rừng tạp; thì cuối cùng cũng không thọ dụng sự hòa hợp ngã và ngã sở đối với sự hay với thọ". Nếu nhập vào rừng tạp, thì không phân biệt, tùy ý thọ dụng. Bởi rừng tạp có cái đức như vậy, khiến cho chư Thiên nhập vào rừng đó. Cái quả báo của cõi trời, về sự hay về thọ, không có sự tư duy hòa hợp thọ dụng. Như vậy, Bồ-tát nếu chưa chứng đắc vô sinh pháp nhẫn thì cuối cùng cũng không thể đắc cái tâm bình đẳng, cái xả bình đẳng, chẳng khác gì tất cả Thanh văn Duyên giác. Vì có hai tướng, họ không thể trú vào trí sự thọ dụng hòa hợp một vị. Nếu đã chứng đắc vô sinh pháp nhẫn, làm tan hai tưởng, nên đắc bình đẳng tâm; thì khác với Thanh văn Độc giác. Nhờ bình đẳng tâm mà có thể trú xả, thọ dụng hòa hợp trí sự một vị.
Luận có nói: Cõi trời ba mươi ba có một rừng tạp, nơi chư Thiên hòa hợp, do cảm bởi phước lực; khiến cho chúng chư Thiên không ở trong cung điện của rừng đó. Sự khổ và thọ lạc hơn kém khác nhau. Có sự thọ dụng khác nhau giữa ngã và ngã sở. Nếu ở trong rừng đó, sự hay thọ đều không có hơn kém, đều đồng với thượng diệu; không có ngã, ngã sở thọ dụng hòa hợp; nhưng có thể khiến cho bình đẳng hòa hợp thọ dụng, nên gọi là rừng tạp. Đó là bởi mỗi chư Thiên đều tu bình đẳng hòa hợp, sức tăng thượng phước nghiệp; khiến cho bổn thức của các chư Thiên đó biến hiện cùng một xứ, cùng một lúc, cùng một pháp tướng. Bởi tăng thượng lực của rừng tạp đó, khiến cho chuyển thức kia cũng cùng biến hiện, tuy mỗi vị mỗi thọ dụng nhưng không sai khác. Bồ-tát địa tiền, địa thượng. Sai biệt và không sai biệt cũng lại như vậy. Vì sinh dẫn bởi tướng và vô tướng, chưa đắc vô sinh mà sai biệt. Cho nên kinh đó nói: "Lại ví như nhiều dòng chảy lớn nhỏ khác nhau; khi chưa nhập vào biển lớn thì chỗ nương của mỗi con sông đều có sự khác nhau: nước khác nhau, nước nhiều ít, nước có tăng giảm... tùy theo nghiệp của nước đó mà có tác dụng khác nhau, một ít sinh mệnh các loài thủy tộc được nuôi dưỡng. Nếu đã nhập vào biển rồi thì chỗ nương giống nhau, nước không sai biệt, nước không hạn lượng, nước không tăng giảm, và tác dụng thì rộng lớn, nuôi dưỡng sinh mạng rất nhiều loài thủy tộc. Bồ-tát cũng vậy; nếu chưa chứng biển lớn pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì mỗi vị đều có chỗ nương khác nhau. Trí khác nhau, Trí nhiều hay ít, Trí có tăng hay giảm, tùy theo nghiệp của Trí mà việc làm mỗi cái có khác, chỉ làm chỗ nương trú cho một số ít chúng sanh căn lành thành thục. Nếu đã chứng nhập vào biển lớn pháp giới thanh tịnh của Như Lai, thì chỗ nương không còn phân biệt, Trí vô hạn lượng, Trí vô tăng giảm, thọ dụng hòa hợp một vị sự trí, là nơi nương trú của vô lượng chúng sanh thành thục thiện căn. Luận kia còn nói: Chỗ nương khác nhau của nước là Địa phương nơi chốn khác nhau; chỗ nương của Bồ-tát hoàn toàn khác với chỗ nương của Như Lai.
Nước khác nhau là dòng nước trong, đục, đẹp xấu khác nhau; mỗi vị Bồ-tát có mỗi trí khác nhau, do bởi tu mà thành những thắng giải khác nhau. Thí dụ về những pháp còn lại thì cứ theo nghĩa mà biết. Bồ-tát là vậy; cho nên khi tu thành ngôi Phật thì ba thân vạn đức đều chỉ là một vị".
Kinh viết: "Thậm thâm Bát-nhã Ba-la-mật đa rốt ráo; cho nên tất cả pháp cũng rốt ráo".
Tán rằng: Quán chiếu đó và năm thứ Bát-nhã, cảnh, văn tự, là tối thắng đệ nhất; gọi là cứu cánh; các pháp và nghĩa theo Bát-nhã cũng vậy. Trong đó ý nói: Do nhân vị Bát-nhã, văn tự Bát-nhã, quyến thuộc Bát-nhã, cảnh giới Bát-nhã, vô biên vô tế Bát-nhã là một vị rốt ráo. Hạnh đã thực hành đắc quả ba thân. Nghĩa của pháp đã thuyết ra, tùy theo thân cũng vậy. Bổn tính của các pháp có Bát-nhã sâu xa; bổn tính đã một vị rốt ráo; cho nên pháp cũng vậy.
Kinh viết: "Phật thuyết về vô biên vô tế cứu cánh lý thú kim cang pháp như vậy rồi; bảo với Kim Cang Thủ Bồ-tát rằng: Nếu có người được nghe cứu cánh Bát-nhã lý thú kim cang pháp môn như vậy; rồi tín giải, thọ trì, đọc, tụng, tu tập; thì tất cả pháp chướng đều được tiêu trừ, chắc chắn đắc được "Như Lai chấp kim cang tính", mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề".
Tán rằng: Đây là pháp thứ ba, ca ngợi thắng đức của kinh. Đã nghe Bát-nhã và tất cả pháp, nghĩa, vô biên tế,... của ba thân Phật thì tất cả pháp chướng đều tiêu trừ, chắc chắn đắc được tính Như Lai chấp kim cang. Nghĩa là lãnh nhận pháp giới chơn như, bổn tính chơn thực, phá được sinh tử, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề; trong đó có đủ hai thắng đức diệt ác và nhiếp thiện.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn lại nương vào tướng của Như Lai Biến chiếu; vì chư Bồ-tát mà tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, đắc được pháp tính bí mật của chư Như Lai và tính vô hý luận của tất cả pháp, đại lạc kim cang, bất không thần chú, kim cang pháp môn, đầu, giữa, sau, tối thắng đệ nhất, thậm thâm lý thú vô thượng pháp môn".
Tán: Đây là đoạn thứ hai về thậm thâm lý thú vô thượng pháp môn. Đắc nhị quả rồi, lợi mình lợi người, làm chúa ba cõi, đều tùy theo mong nguyện của hữu tình, mà đắc quả lợi người.
Biến chiếu trí là Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí như tỉnh giấc mộng, như hoa sen nở. Thông đạt các pháp, có thể làm lợi mình và lợi người; gọi là biến chiếu.
Đắc pháp tính bí mật của chư Như Lai:
Đắc là chứng được, nghĩa là pháp môn đó có thể đắc được các bí mật. Đáng quý đáng trọng gọi là Bí. Thầm kín khó biết, gọi là mật tức là tất cả các pháp u tế thù thắng thuộc hữu vi, là Bồ-đề đó!
Tính vô hý luận của tất cả pháp tức là chơn pháp giới, vì lài các danh ngôn và phân biệt.
Đại lạc: là đắc vô lậu lạc. Lạc có năm loại: 1. Nhân lạc; 2. Thọ lạc; 3. Khổ đối trị lạc; 4. Đoạn thọ lạc; 5. Vô não hại lạc. Trong đó còn có bốn: 1. Xuất ly lạc; 2. Viễn ly lạc; 3. Bồ-đề lạc; 4. Niết-bàn lạc. Nay đắc năm lạc đó và bốn lạc sau, cho nên bảo là Đại lạc. Đầy khắp pháp giới cũng đều là lạc.
Kim cang có nghĩa là năng phá; vì tất cả pháp chướng đều phá được.
Bất không là hiển bày diệu pháp đó; chẳng phải là rỗng không, không có quả; tất phải có linh nghiệm, Dị quả thù thắng gọi là Bất không.
Thần chú: Thần là thánh đức, lý và sự tự tại. Chú là tổng trì; nghĩa là chư Phật mười phương cùng có Thánh đức, gọi đó là Thần. Nói chung có đủ Thánh đức được tất cả Phật Pháp; thì phá diệt tất cả oán địch trong sanh tử. Bao gồm các đức, cho nên gọi là Tổng trì; ở đây gọi là chú.
Kim cang pháp tính; Bát-nhã của chư Phật làm chắc thật các pháp, đó là đệ nhất; cho nên gọi là pháp tính.
Trước là pháp môn sở thuyên và Hạnh sở đắc; sau đó là pháp môn năng đắc.
Vị trí đầu, giữa, sau đó là ba bậc thuyết trong kinh này: sơ thuyết, trung thuyết, hậu thuyết. Hoặc phát tâm tu hành ba bậc chứng đắc. Hoặc nghe mà tu hành ba bậc ly dục. Đấy là pháp hạnh tối thắng vô nhị, đệ nhất vô thượng. Do pháp môn đó là tối đệ nhất; cho nên chứng được các pháp tính bí mật của Như Lai.
Kinh viết: "Các Đại tham,... tối thắng thành tựu; khiến cho Đại Bồ-tát đại lạc tối thắng thành tựu".
Tán rằng: Dưới đây trở đi là phần chánh thứ hai trình bày những sở thuyết trong văn có hai: Phần đầu thuyết về Bồ-tát hạnh, lợi quả đắc được do các nhân trong thập ác nghiệp đạo. Phần sau thuyết về Đà La Ni. Trong phần đầu có ba lần "Lại nữa". Trong phần "Lại nữa" đầu có hai phần, phần đầu nói về các lợi quả đắc được do các tham,... trong ác nghiệp đạo làm Nhân. Phần sau nói về các lợi quả đắc được do Bát-nhã trong thiện nghiệp đạo làm nhân. Trong phần nói về tham làm nhân, đầu nói về quả tự lợi; sau nói về quả lợi tha. Trong phần nói về quả tự lợi; do tham làm nhân, dần dần đắc bốn loại quả: 1. Do tham làm nhân, đắc đại lạc; 2. Đại lạc làm nhân, đắc Đại giác; 3. Đại giác làm nhân, đắc khả năng hàng phục được bốn ma; 4. Hàng phục bốn ma làm nhân, đắc tự tại. Sao nói các "Đại tham, tối thắng thành tựu", có nghĩa là Bồ-tát ở trong nhân đó, lật ngược sinh tử, thập ác nghiệp đạo, tự thực hành mười ác nghiệp đạo xuất thế:
1. Sát sinh: Chặt đứt dòng trôi chảy sinh tử của chúng sanh; chặt đứt nghĩa là sát.
2. Không cho mà lấy: không có kẻ cho, tự nhiên gom lấy; nghĩa là không có mong cầu khác, tự mình nhiếp lấy sự ích lợi!
3. Dục tà hạnh: Biết rõ dục là tà, mà tu ở chánh hạnh. Như cảnh giới dục hay phân biệt dục, biết thật nó chỉ là tà. Như có tụng nói:
Phật thuyết tham nhuế Si Đều từ phân biệt khởi Tịnh bất tịnh điên đảo Ấy cũng là duyên sinh!
Tịnh và bất tịnh điên đảo làm duyên mà có, nghĩa là tự tính kia đều không có; cho nên hiển bày phi chơn thật. 4. Vọng ngữ: Nếu ở trong vọng, năng thuyết là vọng. Như có tụng nói: Tất cả pháp hư vọng pháp Thế Tôn như thật thuyết Ở trong pháp hư vọng Các hành hư vọng nhất 5. Ly gián ngữ: Bối thú ni là gì? Là thường ở tối thắng không. Nói Bối thắng ni là tên bề ngoài Ly gián ngữ, mật nghĩa hàm ý là tối thắng không. Bối là thắng, Thú là không, Ni là thường. Nay lấy mật nghĩa.
6. Thô ác ngữ: Ba lỗ sư là gì? Là khéo an trú cái biết bờ bên kia. Ba lỗ sư đó, tên bên ngoài thô ác ngữ, Mật giải là Trú bờ kia. Bờ kia tức là Nhất thiết trí. Đức Phật khéo an trú trong đó, gọi là Ba lỗ sư.
7. Ỷ gián ngữ (lời thêu dệt): Ví như chánh thuyết pháp, phẩm loại khác nhau.
8. Tham dục; Luận nhiếp Đại thừa nói: "Nếu có số số Dục, tự chứng đắc vô thượng tĩnh lự" Ý đó nói từ tán dẫn sinh, chỉ gọi là tham dục định; đó là khởi Đại tham muốn, muốn vô thượng Bồ-đề. Tham ở sinh tử đi độ thoát hữu tình; gọi là tham dục.
9. Sân nhuế: Nếu với tâm ấy, ghét tất cả phiền não, đã đoạn đã diệt, là ý nghĩa của ghét.
10. Tà kiến: Nếu ở tất cả xứ, tính tà hạnh biến khắp, đều như thật kiến; tức là thấy được tất cả hư vọng, phân biệt tà loạn là tính.
Tuy các Bồ-tát mật hành thập ác nghiệp đạo, nay chỉ đưa ra đại tham thuộc nghiệp ý làm đầu; theo thật thông hạnh thì lấy ba nghiệp làm nhân; nhờ đó mà Bồ-tát tối thắng thành tựu. Thực hành mười nhân đó, cho nên cảm được năm loại lạc trên, hơn cả các vui thú của bậc phàm, cho nên gọi là tối thắng. Lại nữa, Đại lạc nghĩa là năm quả tu, lìa các tướng, đắc pháp uyển lạc (niềm vui vườn pháp) như trên đã nói.
Kinh viết: "Đại lạc tối thắng thành tựu, khiến cho Đại Bồ-tát tất cả Như Lai Đại giác tối thắng thành tựu".
Tán rằng: Chứng đắc năm lạc, pháp uyển lạc, nên có thể đắc đại giác. Biết mình và biết người, như lý như sự. Bồ-tát vị đắc tất cả Phật nhân, Phật vị, gọi là đắc Đại giác viên mãn.
Kinh viết: "Tất cả Như Lai, đại giác tối thắng thành tựu; khiến cho Đại Bồ-tát hàng phục tất cả đại ma, tối thắng thành tựu".
Tán rằng: Do biết được sự và lý, tà và chính của mình và của người; cho nên có thể chặt đứt vĩnh viễn bốn loại đại ma.
Kinh viết: "Hàng phục tất cả Đại ma, tối thắng thành tựu, khiến cho Đại Bồ-tát phổ đại ba cõi tự tại tối thắng thành tựu".
Tán rằng: Do hàng bốn ma, vượt qua ba cõi, đắc quả ở ngôi tôn quý; cho nên phổ khắp ba cõi, không bị bốn ma sinh tử phá hoại, nên gọi là tự tại. Tự tại gồm mười loại: 1. Thọ tự tại; 2. Tâm tự tại; 3. Chúng cụ tự tại. Ba nhân đó làm cho bố thí Ba-la-mật được viên mãn;
4. Nghiệp tự tại; 5. Sinh tự tại, do giới Ba-la-mật viên mãn; 6. Thắng giải tự tại, do Nhẫn Ba-la-mật viên mãn; 7. Nguyện tự tại, do Tinh tấn Ba-la-mật viên mãn; 8. Thần lực tự tại, do định Ba-la-mật viên mãn; 9. Trí tự tại; 10. Pháp tự tại, do Bát-nhã Ba-la-mật viên mãn. Như quyển thứ chín của Nhiếp luận có nói: Mười tự tại đó, theo tông mà nói, thì gọi là Quả tự lợi. Khi chứng đắc cũng có phân vị, cho nên Phật tự tại rộng khắp ở ba cõi; vì vậy có tụng nói:
Cõi trời đất này, nhà Đa văn;
Cung Thệ cõi trời mười phương không. Trượng phu, ngưu vương, đại Sa-môn, Tìm đất do rừng khắp không bằng.
Cho nên chư Phật Thế Tôn phổ đại khắp ba cõi. Nói tóm lại, được trang nghiêm là nhờ hai loại phước đức và trí tuệ. Pháp giới thanh tịnh đại nên mãn là Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, thành sở tác trí; vì vậy mà tối thắng!
Kinh viết: "Phổ đại khắp ba cõi, tự tại tối thắng thành tựu; khiến cho Đại Bồ-tát có thể cứu vớt hữu tình không bỏ sót, làm lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình; rốt cùng được đại lạc tối thắng thành tựu".
Tán rằng: Trước nói tự lợi, sau nói lợi tha; trong đó có hai: Phần đầu nói về tâm đệ nhất quảng đại, hạnh lợi người. Vì sao vậy? Vì phần sau sẽ nói; thường tâm, bất điên đảo tâm, Hạnh lợi người.
"Có thể cứu vớt giới hữu tình không bỏ sót", tức là tất cả chúng sanh. Chúng sanh bao gồm trứng sanh, thai sanh, ẩm ướt sanh, hóa sanh; hoặc hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng; tất cả đều được bạt khổ cho vui không có một chúng sinh nào là chẳng phải cảnh của Bi trí; vì vậy mà không bỏ sót. Sót nghĩa là sót lại, rơi lại rơi lạc mất. Dư là thừa lại, vét không hết. Bạt là cứu vớt, cứu vớt các hữu tình, không có một hữu tình nào bị rơi lạc, thừa sót mà không cứu vớt! Ý vui lạc đầy khắp cả ba cõi mười phương, bốn loài năm nẻo; cho nên bảo là Quảng đại tâm.
"Làm lợi ích an lạc, cuối cùng được đại lạc, tối thắng thành tựu": Lợi ích có mười Lợi, theo Bồ-tát địa nói: 1. Thuần lợi; 2. Cộng lợi, 3. Lợi ích chủng loại lợi; 4. An lạc chủng loại lợi; 5. Nhân nhiếp lợi; 6. Quả nhiếp lợi; 7. Kiếp này lợi; 8. Kiếp khác lợi; 9. Rốt ráo lợi; 10. Không rốt ráo lợi. An lạc gồm có năm loại, như trên đã nói. Lại nữa, nhiếp thiện cũng gọi là lợi ích. Lìa ác gọi là an lạc, gồm mười đối như giải thích của Duy Thức Sớ. Tất cánh Đại Lạc là Niết-bàn. Kinh Kim Cang nói: "Ta luôn khiến cho nhập vào vô dư Niết-bàn", đều thông cả ba thừa, nên chỉ nói là Niết-bàn, không nói gì khác. Nay lấy Bồ-đề và niềm vui Niết-bàn, chính là tất cả công đức vô lậu của hữu vi và vô vi; khiến cho các hữu tình đều thuận, thích hợp, không trái ngược. Không có sự bức não, nên gọi là Đại lạc; tức đệ nhất tâm. Muốn làm cho hữu tình trú vào nơi cực thắng, nên gọi là đệ nhất.
Kinh viết lý do: "Vì sao? Cho đến sinh tử lưu chuyển trú xứ; kẻ có thắng trí ngang với đó thường, lấy pháp không gì bằng, làm lợi ích cho hữu tình, không nhập tịch diệt".
Tán rằng câu lý do: "Vì sao?"; nguyên do vì sao lại có thể cứu vớt hữu tình không bỏ sót, dẫn đến cõi Niếtbàn.
Câu "cho đến sinh tử lưu chuyển trú xứ là có thể tâm thối vị lai vô hạn, có thể theo thời gian lưu chuyển sinh tử của tất cả hữu tình trong mười phương; thời là thời tiết. Cái chỗ trú ở trong cả thế giới mười phương là ý muốn hiển bày không gian và thời gian rộng lớn.
"Kẻ có thắng trí"; nghĩa là cùng lìa ngã và ngã sở, lìa chấp người và pháp; gọi là kẻ có thắng trí. Hai trí sinh và pháp đều đã viên mãn, tức ý nói tâm không điên đảo, gọi là thắng trí vì lìa hai chấp.
"Ngang bằng đó, thường lấy pháp không gì bằng, làm lợi ích cho hữu tình, không nhập tịch diệt": Ngang với giới xứ mười phương, ngang với bờ mé vị lai, thời gian của sinh tử; thường lấy loại pháp không có gì bằng, tối thắng đệ nhất đó, làm lợi lạc cho hữu tình, vì hữu tình thì vô hạn, thời gian nhập vào Niết-bàn thì không thể cùng tận; nên kẻ thắng trí, tùy theo các hữu tình mà không nhập tịch diệt. Vì sao vậy? Vì không còn cái chấp về pháp và cái chấp về hữu tình, không có tướng mình và tướng người; làm lợi cho hữu tình thường vô cùng tận. Ví như bậc làm cha mẹ trên thế gian, cứu vớt con cái của chính mình, tâm sinh thương xót, không có các tướng mình và người! Vì không ngại khó nhọc, nên có thể sinh ra ý thương cứu dài lâu. Bồ-tát cũng vậy, nên gọi là thường tâm. Bốn tâm trong Nhân đã viên mãn rồi, vì vậy, đến ngôi Phật thì có thể làm ích lợi cho hữu tình thời hạn vô tận. Thường có thể cứu vớt mười phương pháp giới, đều được độ thoát hết; chính là nhân của bốn loại tâm kim cang đắc bốn quả.
Kinh viết: "Lại lấy phương tiện thiện xảo của Bát-nhã Ba-la-mật đa, thành lập thắng trí; khéo làm tất cả các sự nghiệp thanh tịnh, có khả năng khiến cho các hữu tình đều đắc thanh tịnh".
Tán rằng: Trong "Lại nữa" phần đầu ở trên, từ đoạn "Lấy tham làm nhân mà đắc quả lợi", đến đây thì lấy Bát-nhã làm nhân mà đắc quả lợi.
Phương tiện: là do sức của trí tuệ, tùy bệnh của hữu tình mà hành; cơ khí ý lạc ứng thời, tức làm các việc hiển hiện như thuyết pháp,... nên gọi là phương tiện. Ví như đi trên đường, gặp người đuổi thỏ, họ hỏi có thấy hay không? Ngồi xuống đáp: tôi thực không thấy, vì tránh sự giết chóc, nên hiện ra tướng ngồi, nói: tôi không thấy. Vì chẳng phải lúc đứng, tôi không thấy! Vậy là không phạm vọng ngôn, mà được việc tránh giết chóc. Bồ-tát cũng vậy; muốn khiến chúng sanh xả ngụy nhập chơn; với pháp không có danh tự nhưng lại lấy danh tự để thuyết, thích hợp với sự nặng nhẹ, thời lúc, ứng cơ mà thuyết, khiến họ nhập đạo. Lấy hình tượng để biểu thị cái không hình tượng, lấy lời nói để bày tỏ cái không có lời nói; nó không xứng với chơn, cho nên gọi là phương tiện. Khéo được mục đích, ứng vật theo thời, xử sự khoảng giữa, cũng không mắc lỗi lầm, vì vậy gọi là thiện xảo.
Thành lập thắng trí là nhờ sự thiện xảo đó làm nhân, được quả là thắng trí. Thắng trí chính là gồm cả hai trí phương tiện thiện xảo Ba-la-mật. Sự sai biệt của trí có hai loại: 1. Hồi hướng; 2. Cứu vớt hồi hướng đó. Cuối cùng đều quay về với Nhất thiết trí.
"Khéo làm tất cả các sự nghiệp thanh tịnh", đó là ba loại gồm: Thần thông, ký tâm (tâm nhớ kiếp trước, biết kiếp sau) và lậu tận. Hai nhân, phước và trí; hai lợi; lợi mình và lợi người; tất cả việc thiện đều khéo làm, khiến cho các hữu đều đắc thanh tịnh. Ba hữu, chín hữu, nhân quả đều mất; nhiễm ố sinh tử đều tiêu tan; nên gọi là thanh tịnh; tức tất cả ác đều đã trừ diệt, cái tham làm nhân trước đây, tuy có hai lợi, nhưng cái chính là ở chỗ lợi người. Khởi bốn loại tâm, ở đây lấy Bát-nhã làm nhân để tu thiện, trừ ác. Tâm Bồ-đề gồm có ba loại, thì quả lợi đắc được cũng có ba thứ. Tuy pháp môn trước nói lấy tham làm nhân, nhưng thể chính là Bát-nhã. Nói cách khác, tất cả đều lấy Bát-nhã làm tính. Trên đây là giải thích cho phần "Lại nữa" đầu.
Kinh viết: "Lại lấy tham để điều phục thế gian, biến khắp lâu dài cho đến lúc chư hữu đều thanh tịnh, tự nhiên điều phục".
Tán rằng: Dưới đây là giải thích lại phần thứ hai, quả lợi đắc nhờ tham. Trong đó có hai: Phần đầu nói về lợi tha; phần sau nói về tự lợi.
Ở đây là nói về lợi tha.
"Lấy tham để điều phục thế gian": nghĩa là chư Phật Bồ-tát quán các hữu tình đa phần bị sự keo kiệt che lấp. Tuy có tiền bạc của cải nhưng không tu phước, cũng không biết dùng. Ví như cắt thịt ở thân thì sanh đau tiếc thống thiết! Bồ-tát biết đó là bởi keo kiết che lấp, nó làm nhân để tăng trưởng ác nghiệp, nên thường đọa cõi ác, không có kỳ ra; bèn khởi đại tham, gom giữ tài bảo đó. Khiến cho xả bỏ keo kiết thì không khởi ác nghiệp. Thực ra ở Bồ-tát là trong trí hậu đắc trí, với tâm đại bi, khởi lên tham đó, không phải vì mình hay vì danh lợi, hay để được bà con cung kính. Vì vậy, khởi lên một tham, mà tăng thêm trăm ngàn thiện. Cũng như Thiện Tài khi đi tìm cầu thiện tri thức, gặp một vị vua trói giết, đánh đập vô lượng chúng sinh. Thiện Tài đau lòng không hiểu. Vua nói: Các chúng sinh đó, ngu độn dữ dằn, nếu không khổ sở hoàn toàn không thể điều phục, nên ta làm khổ họ. Thiện Tài mới hiểu. Như vua nước Tiên Dự, giết năm trăm Bà-la-môn, mà lại tăng thêm công đức; ở đây cũng giống vậy. Tất cả nghiệp đạo thập ác, đều suy từ đó mà biết. Cho nên khi khởi tham mà Bồ-tát đại lợi là vậy!
Kinh viết: "Lại như hoa sen, hình sắc bóng loáng, không bị tất cả vật chướng làm nhiễm. Như vậy, tham mà làm lợi ích cho thế gian, trú quá, hữu quá, thường không thể nhiễm".
Tán rằng: Đây là nói về hạnh tự lợi của tham. Thâm tâm của Bồ-tát, khởi lên tham đó, hình sắc sáng bóng, không bị ô nhiễm bởi tất cả vật uế phiền não; cho nên lưu giữ phiền não trợ giúp cho nguyện thọ sinh, tác đại tự tại; lấy tham đó để làm lợi ích cho hữu tình. Giả sử trú vào tâm lầm lỗi phiền não, trú vào tâm thiện vô ký, hữu lậu khác, gọi là hữu quá. Quá nghĩa là lậu, với ba tính đó, trong tất cả thời, đều không thể nhiễm ố. Như hoa sen, tuy từ bùn ra, nhưng không nhơ vì bùn! Tâm của Bồ-tát, cũng lại như vậy!
Kinh viết: "Lại nữa, Đại tham có thể đắc thanh tịnh, đại lạc, đại tài, ba cõi tự tại, thường vững chắc có thể làm lợi ích cho hữu tình".
Tán rằng: Đây tức là phần "Lại nữa" thứ ba, giải thích lại. "Lại nữa, Đại tham": nghĩa là ngã tham. Tham là ham thích. E sợ thân tạo ác, sẽ đọa sinh tử. Ham thích tự thân tu đạo lìa khổ, cho nên Duy Ma nói: "Thà khởi ngã kiến to như núi Tu-di, chẳng khởi không kiến nhỏ như lông tóc". Vì tà kiến không thì không có tu đoạn. Nếu tham có ngã, e tăng thêm tiếng xấu, liền tăng thêm tu đạo. Lấy tham làm nhân, thì đắc quả đại lạc, được bảy loại tài sản cõi Thánh, châu báu của pháp giới; làm chúa ba cõi; không bị nhiễm bởi lậu hoặc, đắc mười tự tại. Ở mọi thời, mọi nơi, mọi sự, kiên cố làm ích lợi cho mọi hữu tình. Hữu tình được ích, tức là cái lợi của Bồ-tát. Trong ba loại đó, do trong nhân xưa hoặc ở quả hiện tại, đã lấy tham làm nhân mà tu tập. Vì vậy, ở quả vị hiện tại đắc quả vô biên. Đầu tiên là thật hạnh, vì ngược với ác; nên thuyết về tương tựa tham. Thứ hai là do sự bức bách của Đại Bi mà thuyết tương tựa tham. Thứ ba là vì cầu lợi kỹ mà thuyết tương tựa tham. Nhưng hạnh chân chánh khởi thì ác nghiệp phiền não sinh tử đều diệt; vì vậy mà các nhiễm tham, tất cả đều mất làm sao khởi được!
Kinh viết: "Bấy giờ, Như Lai liền thuyết thần chú:
Na Mô Bạc Ca Phiệt Đế (1), Bát Thích Nhưỡng Ba La Nhị Đa Duệ (2), Bạc Để Phiệt Sát La Duệ (3), Yểm Bi Lí Nhị Đa Lâu Nô Duệ (4), Tát Phuộc Đát Tha Yết Đa Bỏ Lý Bố Thị Đa Duệ (5), Tát Phuộc Yết Tha Đa Nô
Nhưỡng Đa Nô Nhưỡng Đa Bật Nhưỡng Đa Duệ (6), Đát Điệt Tha (7), Bát Thích Hê Bát Thích Hê (8), Mô Ha Bát Thích Hê (9), Bát Thích Nhưỡng Bà Sa Yết Li (10), Bát Thích Nhưỡng Lộ Ca Yết Lệ (11), An Đạt Ca La Tỳ Đàm Mạt Nê (12), Tất Đệ (13), Tô Tất Đệ (14), Tất Điện Đô Mạn Bạc Ca Phiệt Để (15), Tát Phòng Ca Tôn Đạt Lệ (16), Bạc Để Phiệt Sát Lệ (17), Bát Thích Sa Lý Đa Hát Tất Đế (18), Tham Ma Thấp Phuộc Sa Yết Lệ (19), Bột Đà Bột Đà (20), Tất Đà Tất Đà (21), Kiếm Ba Kiếm Ba (22), Chiết La Chiết La (23), Hạt La Phuộc Hạt La Phuộc (24), A Yết Xa A Yết Xa (25), Bạc Ca Phiệt Để (26), Ma Tỳ Lạm Bà (27), Sa Ha (28)".Thần chú nầy, chư Phật ba đời đều cùng tuyên thuyết, cùng hộ niệm. Người thọ trì được thì tất cả chướng đều diệt; những điều tâm muốn đều được thành biện, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
Bấy giờ, Như Lai lại thuyết thần chú:
Na Mô Bạc Ca Phiệt Đế (1), Bát Thích Nhưỡng Ba La Nhị Đa Duệ (2), Đát Diệt Tha (3), Mâu Ni Đạt Mê (4), Tăng Yết Lạc Ha Đạt Mê (5), Át Nô Yết Lạc Ha Đạt Mê (6), Tỳ Mục Để Đạt Mê (7), Tát Đạt Nô Yết Lạc Ha Đạt Mê (8), Phệ Thất Lạc Mạt Nô Đạt Mê (9), Tham Mạn Đa Nô Bả Lý Phiệt Thích Đát Na Đạt Mê (10), Lâu Nô Tăng Yết Lạc Ha Đạt Mê (11), Tát Phuộc Ca La Bả Lý Ba Thích Na Đạt Mê (12), Sa Ha (13).Thần chú này là mẹ của chư Phật, người năng tụng trì, diệt được tất cả tội, thường gặp chư Phật, đắc trí túc trụ, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề.
Bấy giờ, Như Lai lại thuyết thần chú:
Na Mô Bạc Ca Phiệt Đế (1), Bát Thích Nhưỡng Ba La Nhị Đa Duệ (2), Đát Diệt Tha (3), Thất Lệ Duệ (4), Thất Lệ Duệ (5), Thất Lệ Duệ (6), Thất Lệ Duệ Tế (7), Sa Ha (8).Thần chú này có đủ uy lực, người năng thọ trì, tiêu trừ được nghiệp chướng; chánh pháp đã nghe thì nhớ hết không quên, mau chứng vô thượng chánh đẳng Bồđề".
Tán: Dưới đây là đoạn thứ hai, ba lần thuyết chú. Chú thứ nhất, ca ngợi đức như lời văn.
Miệng chư Phật đồng thuyết, tâm đều cùng hộ niệm. Hộ là gia trì, niệm là ghi nhớ. Tâm của chư Phật gia trì không quên. Theo những điều mà tâm muốn, trừ những mong muốn xấu ra, còn những mong muốn tốt đều theo sở nguyện.
Chú thứ hai; trong phần ca ngợi đức; sinh ra chư Phật gọi đó là mẹ; vì đó là gốc sinh ra tất cả chư Phật.
Trí túc trụ; nghĩa là những xứ sinh ra, đều đắc diệu trí; biết những chuyện của những kiếp trước; những nhân quả thiện ác đều biết rõ, tức trí túc trụ.
Chú thứ ba; trong phần ca ngợi đức; đủ đại oai nghĩa là chúng đức trang nghiêm, tất cả đều kính nể. Lực; là có khả năng chế phục tất cả.
Chánh pháp đã nghe, nhớ hết không quên; nghĩa là đắc được nhờ trì ý nghĩa của pháp; niệm huệ ghi nhớ rõ ràng, nên mãi mãi không quên. Còn những câu khác thì có thể theo nghĩa mà hiểu.
Kinh viết: "Bấy giờ, Thế Tôn thuyết chú ấy rồi, nói với Kim Cang thủ Bồ-tát rằng: Nếu các hữu tình vào buổi sáng hàng ngày, chí tâm nghe tụng pháp môn tối thắng, Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm lý thú, không gián đoạn; thì các nghiệp chướng xấu đều được tiêu diệt, các thắng thiện lạc thường hiện rõ ngay tại chỗ".
Tán rằng: Dưới đây là phần ba ca ngợi thắng đức của kinh; trong đó chia làm hai phần: phần đầu ca ngợi riêng một đoạn pháp môn này; phần hai tổng ca ngợi đức của cả cuốn kinh. Ở phần đầu gồm ba phần: phần đầu ca ngợi đức diệt ác nhiếp thiện. Phần hai là trồng nhân mới gặp được đức. Phần cuối ca ngợi đức ứng tại chỗ. Trong phần ca ngợi chung về đức của đoạn ác đắc thiện là phần đầu; phần sau ca ngợi riêng về những đức sinh ra các thiện. Ở đây là phần đầu.
Kinh viết: "Đại Lạc kim cang bất không thần chú, hiện thân tất đắc cứu cánh thành mãn Kim Cang bí mật của tất cả Như Lai, tối thắng thành tựu, không lâu sẽ đắc đại chấp Kim Cang và tính Như Lai".
Tán rằng: Đây là ca ngợi riêng về đức làm sinh ra các thiện. Trong đó có ba: 1. Thành mãn đại lạc kim cang chú; 2. Thành tựu mật pháp kim cang mật; đó là giáo hạnh và lý pháp bảo hiện tiền tất đắc; 3. Đắc tính Như Lai chấp kim cang; đấy là ở tại ngôi Phật đại chấp kim cang; là chơn trí của Phật. Tính Như Lai tức là pháp thân, quả là pháp bảo.
Hai quả sau đó nhân vị bất thành, cho nên bảo sẽ đắc khi đã đến ngôi Phật.
Kinh viết: "Nếu loài hữu tình chưa trồng chúng thiện căn ở nhiều chỗ Phật, chưa phát đại nguyện dài lâu đối với pháp môn tối thắng, Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm lý thú này; thì không thể nghe, ghi chép, đọc, tụng, cung kính cúng dường, tư duy, tu tập".
Tán rằng: Đây là phần hai; trồng Nhân mới gặp được Đức. Hể tu tập thì Hạnh và Nguyện tất phải gồm đủ; nếu đầu tiên mà không có hai thứ đó, thì không thể khởi mười pháp Hạnh. Trên đó đã có bảy pháp hạnh: 1. Nghe; 2. Ghi chép; 3. Đọc; 4. Tụng; 5. Cung kính cúng dường; 6. Tư duy. 7. Tu tập. Ba pháp hạnh còn lại cũng như vậy; đó là Thí người, thọ trì, khai diễn. Trong pháp Hạnh "ghi chép" phải nhờ Nhân mới gặp, huống nữa là các pháp Hạnh thọ trì... Điều đó nói rõ là không có Nhân thì không gặp.
Kinh viết: "Chủ yếu là phải ở nhiều chỗ Phật, trồng nhiều thiện căn, phát Đại nguyện lâu dài mới có thể nghe được pháp môn tối thắng thậm thâm lý thú dù chỉ nghe một câu một chữ huống nữa là đọc, tụng, thọ trì đầy đủ cả".
Tán rằng: Đấy là nói về có Nhân mới gặp; cứ theo lời văn thì hiểu.
Kinh viết: "Nếu các hữu tình, cung kính cúng dường tôn trong tán thán nhiều tới tám mươi khắc ca sa câu Na đu đa Phật, mới có thể nghe đầy đủ Bát-nhã Ba-la-mật đa thậm thâm lý thú".
Tán rằng: Đoạn trên nói nghe được một câu một chữ còn phải nhờ Nhân trước. Đoạn này nói từ đầu chí cuối, chuẩn bị đầy đủ nhiều hạnh. Bốn sự đều đủ gọi là cúng dường. Ba nghiệp thành khẩn gọi là cung kính. Ân cần đội trên đầu gọi là tôn trọng, trước bàn bạc không ngừng, gọi là tán thán. Khắc ca là tên vị thần sông Hằng. Đẳng: là tương tự. Số Phật ngang bằng và giống với số cát, trong sông Hằng chỉ có cát không có đá, cũng giống như sông Vị Thủy, chỉ có cát không có đá. Câu chi là số triệu. Na Du Đa là số trăm triệu. Một hạt cát là một Câu Chi Na Du Đa. Phật bảo cúng dường ngang với số trăm triệu Phật của tám mươi triệu số cát sông Hằng mới nghe được đầy đủ kinh sâu xa này. Nếu không được vậy thì không thể nghe được nghĩa thâm sâu. Vì lý thâm sâu của kinh người tiểu trí ngu muội không thể hiểu nổi; cho nên phải nhờ nhân lớn, nay mới tu ngộ. Vui thay! Nay may mắn gặp linh văn.
Kinh viết: "Nếu ở phương khác lưu hành kinh này thì tất cả người, trời, A tố lạc,... đều phải cúng dường. Như những linh miếu thờ chư Phật. Nếu đặt kinh này, ở nơi thân hoặc tay, thì chư Thiên, nhơn cũng đều phải cung kính đảnh lễ".
Tán rằng: Đây là phần ba, đức được tôn trọng tại chỗ. Đức ở tại chỗ nào, thì chỗ đó được tôn trọng, ở nơi người nào thì người đó được quý trọng, cứ theo lời văn thì hiểu. Phật chế Đa; xưa gọi là chi đề, tức tháp miếu. Tháp miếu chỉ là nơi cất giữ xương cốt của hóa thân để lại mà còn phải nghiêm kính; huống nữa là pháp thân sao lại không cúng dường!
Kinh viết: "Nếu loài hữu tình thọ trì kinh này nhiều kiếp câu chi thì đắc trí túc trú, thường siêng năng tinh tiến tu các thiện pháp; ác ma ngoại đạo không thể ngăn cản. Tứ Đại Thiên Vương và chúng Thiên khác luôn theo ủng hộ, không lìa bỏ, không bị chết dữ, không bị hoạn suy oan uổng; chư Phật Bồ-tát thường cùng hộ trì, khiến cho mọi thời mọi lúc thiện tăng ác giảm; tùy nguyện vãng sinh ở nơi đất Phật; cho đến lúc đắc Bồ-đề, không đọa cõi ác".
Tán rằng: Đây là ca ngợi chung, thắng đức của cả quyển kinh. Trong đó có hai phần: Phần đầu ca ngợi riêng, phần sau ca ngợi tổng kết. Đây là phần đầu; trong đó có mười đức: 1. Đắc trí túc trú nhiều kiếp; 2. Chỗ được sinh ra thường tinh tiến tu thiện; 3. Các ma không làm trở ngại; 4. Chư Thiên thường hộ vệ; 5. Không chết dữ; 6. Không bị hoạn nạn oan uổng; 7. Được Phật và Bồtát thường hộ niệm; 8. Khiến cho ác diệt, thiện sinh; 9. Tùy nguyện mà sinh ở cõi Phật; 10. Từ đây cho đến lúc được Bồ-đề không bị đọa vào cõi ác. Cõi ác nói ở đây kể cả ba loại xấu trong loài người, đó là: vô hình, hoàng môn nhị hình, nữ nhân.
Kinh viết: "Các loài hữu tình, thọ trì kinh này, chắc chắn gặt hái được vô biên thắng lợi công đức. Ta nay chỉ nói qua một phần nhỏ như vậy".
Tán rằng: Đây là ca ngợi tổng kết. Chơn tướng sở thuyên cùng thấu sự thậm thâm của bổn tính. Giáo môn năng thuyên, là nhân cực diệu của huyền tông. Người thọ trì, gặt hái được sự lợi ích vô biên, không thể nói ra hết; cho nên bảo là một phần nhỏ! Người tu hành muốn chứng được đức đó, phải siêng tu học, cuối cùng sẽ thủ chứng; mới biết là kinh này đặc biệt lợi ích vô cùng.
Kinh viết: "Lúc Bạc Già phạm thuyết kinh này rồi, các kim cang thủ, các đại Bồ-tát và thiên chúng khác được nghe Phật thuyết, đều vô cùng hoan hỷ, tín thọ phụng hành".
Tán rằng: Đây là phần ba cảm ngộ tu hành. Các Đại Bồ-tát là những thượng Nhân tập hợp ở Báo thổ và các chúng Trời khác đã cùng hội với Đại sĩ hóa thân; đều cảm được lời nói của Như Lai, ngộ được hồng tông của tịch chỉ, thâm tâm thuận lãnh tu hành, rồi giải tán.