TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ KINH SỚ

SỐ 1708 - NHÂN VƯƠNG KINH SỚ

Tác giả: Đời Đường. Pháp sư Viên Trắc

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG 1

Phẩm THỨ NHẤT: TỰ

QUYỂN THƯỢNG 2

Phẩm THỨ HAI: QUÁN KHÔNG

QUYỂN TRUNG 1

Phẩm GIÁO HÓA

QUYỂN TRUNG 2

Phẩm NHỊ ĐẾ

QUYỂN HẠ 1

Phẩm HỘ QUỐC

Phẩm TÁN HOA

QUYỂN HẠ 2

Phẩm THỌ TRÌ

Phẩm CHÚC LỤY

 


Muốn giải thích kinh nên chia làm bốn phần:

- Thuyết ý của kinh, giải thích tên kinh.

- Biện minh tông chỉ sở thuyên và thể của giáo năng thuyên.

- Hiển bày chỗ nương của giáo, chỗ vì các hữu tình.

- Thời đại phiên dịch, chánh thích theo văn.

1. Thuyết ý của kinh. Giải thích tên kinh:

Thật tướng thâm diệu, chẳng có bốn trí thì không thể chứng nguồn. Quán sát chỗ sâu xa vi tế, nhờ ba tạng mới có thể khai mở dấu vết. Do đó pháp vương đại Thánh, thuyết ba Bát-nhã để nêu tông, các bậc khai sĩ, thuyết bốn Tất-đàn mà quãng diễn nơi uyên áo. Tông chỉ Vô tướng, thật ở đây sao? Thế nhưng lắm chốn nhiều nơi, nhập lý chẳng một, vì nêu ở hai hộ, nên thuyết kinh này. Ba phần như Tự…, là lược thuyết phép tắc của các kinh, hoặc nghĩa của tám phẩm là hiển rộng tông chỉ của kinh này.

Đề nêu: "Phật thuyết Nhân vương hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật kinh" là tên chung của bộ kinh. "Tự phẩm đệ nhất" là tên gọi phẩm riêng bên trong. Tên thì chỉ một, nhưng nghĩa có bốn lý đều quy chơn, ý là hộ quốc: 1. "Phật thuyết"; là Pháp vương đối tượng được thỉnh, tự giác và giác tha đều đầy đủ, khai thị diệu pháp, nên nói là Phật thuyết; 2. "Nhân vương": Là Quốc vương chủ thể thỉnh. "Nhân" là nhẫn. Thiện và ác đều nhẫn chịu. "Vương" là vãng, là chỗ quy tụ qua lại của quần chúng; 3. "Hộ quốc": Là điều cầu xin thuyết giảng; 4. "Bát-nhã Ba-la-mật kinh"; biện về pháp có khả năng bảo hộ. Bátnhã là trí, Ba-la-mật là đáo bỉ ngạn. Nghĩa là do nhờ trí lực mà đến bờ Niết-bàn. "Kinh"; là Tố-đát-lãm; tiếng Hoa gọi là khế kinh. Khế nghĩa là khế hợp, khế đúng đạo lý, hợp với căn cơ của hữu tình. Kinh cũng có hai nghĩa: 1. Quán xuyên; 2. Nhiếp trì. Xuyên suốt pháp tướng, thâu giữ hữu tình, cho nên gọi là kinh. Căn cứ theo chủ thể thỉnh và đối tượng thỉnh, chủ thể hộ và đối tượng hộ, để nói lên nhân của kinh. "Tự" là nguyên do, nguyên do dẫn khởi chánh thuyết. "Phẩm" là phẩm loại, hay là nghĩa loại. Các nghĩa loại cùng theo nhau mà tôi nghe (ngã văn), gồm nhiều nghĩa khác nhau, gọi đó là phẩm. Trong tám phẩm, phẩm này là phẩm đầu tiên, gọi là đệ nhất. Nên nói là "Phật thuyết Nhân vương hộ quốc Bátnhã Ba-la-mật kinh Tự phẩm đệ nhất".

2. Biện minh tông chỉ của sở thuyên và thể của giáo năng thuyên.

Gồm có hai phần: Trước là biện minh thể của giáo, sau là hiển bày tông chỉ. Về thể của giáo, thì các tông giải thích khác nhau, tông phái Tát-bà-đa (thuyết Nhất thiết hữu bộ) Tỳ đàm Câu-xá, và cựu Tỳ

-bà-sa, đều có hai thuyết: 1. Thuyết âm thanh; 2. Danh cú văn. Tuy có hai thuyết, nhưng không có nhận định khác nhau, bản Câu-xá tận dịch phần thứ nhất đều có đưa ra cả hai giải thích, nhưng không có sự sai biệt. Luận Chánh lý phần thứ ba trình bày thuyết của hai sư, cũng giống như Câu-xá, nhưng có thêm phần hỏi đáp. Vì vậy, mà quyển thứ ba của Chánh lý có tụng:

Mâu ni thuyết pháp uẩn Số có tám mươi ngàn Thể ngữ hoặc danh kia Sắc, hành uẩn gồm thâu.

Luận: Có thuyết nói: Ngữ của Phật giáo (giáo pháp của Phật) là tự tính, Phật thuyết pháp uẩn đều gồm thâu trong sắc uẩn; ngữ dùng âm thanh làm tự tính. Có thuyết nói: Danh của Phật giáo là tự tính. Phật thuyết pháp uẩn đều gồm thâu trong hành uẩn, danh lấy bất tương ưng hành làm tính.

Hỏi: Ngữ giáo khác với danh, giáo bao gồm cả ngữ đó, danh và giáo, thể khác nhau, giáo sao lại là danh được? Luận kia giải thích: Phải có danh, mới thuyết thành giáo, do đó thể của giáo tức là danh. Nguyên do là sao? Ý nghĩa được nêu giảng như thật, nên gọi là Phật giáo. Danh có thể giảng giải ý nghĩa, nên giáo là danh, do vậy Phật giáo định danh làm thể, nêu danh làm đầu, để gồm thâu cú văn. Phần thứ ba của luận Hiển Tông cũng đồng với luận Chánh lý.

Giải thích: Các sư phương Tây, truyền giải thích đó, Câu-xá và Chánh lý, mỗi luận đều có một mục đích. Nguyên do là sao? Khiến vạn vật sinh vui mừng, thì âm thanh là tốt nhất. Nếu để giảng giải pháp thì danh là mạnh nhất. Cho nên biết sự đối trị đều phải có chuẩn định. Do vậy, cả hai thuyết đều là chánh nghĩa. Luận Đại Bà-sa quyển thứ một trăm hai mươi sáu, đều trình bày cả hai thuyết, chánh nghĩa thì lấy âm thanh làm thể, nên luận kia nói như thế.

Hỏi: Như vậy, Phật giáo lấy gì làm thể? Là ngữ nghiệp hay là danh v.v…?

Đáp: Nên nói như vậy: Ngữ nghiệp làm thể.

Hỏi: Nếu vậy, những điều được thuyết sau này làm thế nào thông được? Như nói danh của Phật giáo là pháp gì?

Đáp: Là danh thân, cú thân, văn thân. Theo thứ lớp mà sắp xếp, thứ lớp mà an bày biện, thứ lớp mà kiến lập trả lời. Văn sau là nói về dụng của Phật giáo, không muốn khai thị tự thể của Phật giáo, nghĩa là theo thứ tự mà sắp xếp an bày, kiến lập danh, cú, văn là dụng của Phật giáo.

Có người nói: Danh v.v… của Phật giáo là thể.

Hỏi: Nếu vậy, những điều được nói trong văn đó làm thế nào để thông? Như nói Phật giáo là gì?

Đáp: Là lời nói, xướng từ, bình luận, ngữ âm, ngữ lộ, ngữ nghiệp, ngữ biểu của Phật. Đó là Phật giáo. Câu trả lời đó là dựa theo nhân được trai triển, nên nói như vậy. Như trong thế gian, con và cháu lần lượt nối tiếp sinh ra. Nghĩa là lời khởi danh, danh hiển bày nghĩa.

Các nhà phê bình giải thích: Nói như vậy là lấy ngữ nghiệp làm thể. Vì ý Phật thuyết, người khác nghe. Nói cho đủ thì phải nói như thế.

Hỏi: Chưa chắc chánh lý đúng như nghĩa của các bình gia (nhà phê bình).

Đáp: Ý của sư Chánh lý, chủ yếu lấy lý làm chánh, cho nên sinh ra lý, danh v.v… là chánh. Lại giải: Các Hiền sĩ đều nêu ra hỏi đáp của cả hai nhà, chẳng phải tự mình phán định, vì vậy không trái với chánh nghĩa của các nhà phê bình. Nếu theo Kinh bộ thì lấy âm thanh làm thể.

Ở trong tông đó thì có thuyết của ba sư: Một sư nói: trong mười hai xứ, thanh xứ là tính. Vì lìa âm thanh thì không có riêng danh, cú, tự. Một sư cho Pháp xứ tương tục nhờ vào âm thanh cho là tự tính, nhưng chỉ là tính sở duyên của Ý thức. Một sư nói: Cả hai thanh giả và thật dùng chung, vì theo cả hai nghĩa trên. Nếu theo đại thừa thì các giáo bất đồng. Có nơi chỉ là thanh; như kinh Duyma nói: Phật dùng một âm diễn nói pháp, chúng sanh tùy loại đều hiểu được". Lại kinh Đại Giới nói: Trong một lời thuyết pháp của Như Lai diễn thuyết ra vô lượng biển khế kinh. Những giáo như vậy, thật sư dẫn chứng chẳng phải một. Có nơi chỉ dùng danh… làm thể; như luận Thành Duy Thức nói: "Nếu danh cú văn không khác với thanh, thì cảnh của Pháp Từ vô ngại, lẽ ra không khác". Có nơi hợp nói thanh và danh đều là tự tính. Như kinh Vô Cấu Xứng nói: "Hoặc lấy âm thanh, ngữ ngôn, văn tự mà làm Phật sự". Có nơi hợp năng thuyên và sở thuyên làm thể, như luận Du-Già quyển tám mươi mốt nói; "thể của khế kinh tóm lược có hai loại; 1. Văn; 2. Nghĩa. Văn là sở y (đối tượng được dựa vào). Nghĩa là năng Y (chủ thể dựa vào). Hai loại này, gọi chung là cảnh của tất cả sở tri Luận Hiển Dương nói cũng đồng như đây. Sở dĩ các giáo khác nhau như vậy. Sư Tam Tạng thích: Thật ra danh, cú văn thân, thanh và văn nghĩa đều hợp nói làm thể. Nhưng các Thánh giáo mỗi giáo đều dựa trên một nghĩa, nên tuy khác mà không trái ngược nhau. Lý do là sao? Vì giả theo thật, dùng thanh làm thể, vì lìa âm thanh không có danh, cú văn nào riêng khác. Vì thể theo dụng, danh… làm thể năng thuyên tự tánh các pháp sai biệt, cả hai đều là chỗ nương cho nhau. Giả và thật nhờ nhau hợp nói là thể, thiếu một thứ thì thuyết không thành mà sinh ra sự hiểu cuối cùng ắt phải do văn nghĩa. Thế cho nên các thuyết vậy chư pháp không trái ngược nhau.

Theo văn kinh này chỉ có hai môn: 1. Môn pháp số lấy bốn pháp như danh cú… làm thể, nên đoạn văn sau nói: "Danh vị cú nơi kinh này, cho đến ngàn Phật vạn Phật, thuyết danh vị cú." Lại phần sau kinh nói: "Danh, vị, cú quả của âm thanh, tất cả văn tự, ký, cú thảy đều là như."

2. Môn quy chân: Là lấy chân như làm thể, nên phần sau kinh nói: "Pháp bổn Như, Trùng tụng Như, cho đến Luận nghị Như." Nếu muốn phân biệt rộng thì như một kinh Giải Thâm Mật quyển một đã ghi.

Về tông của sở thuyên cũng có các thuyết khác nhau tóm lược có ba cách giải thích: 1. Ba loại Bát-nhã của kinh này, được dùng làm tông chỉ, nghĩa là: Lý "không" của sở quán, tức là thật tướng. Trí của chủ thể chứng đắc tức là quán chiếu. Thánh giáo của năng thuyên, là văn tự. Do đó, trong phẩm Quán Không, nói ba Bát-nhã; 2. Tông chỉ của kinh này nói rõ về nhị đế. Lý do là sao? Trong phẩm Quán Không, nói về hạnh tự lợi. Trong phẩm Giáo Hóa, nói về hạnh lợi tha. Môn quán của Bồtát, không ngoài hai hạnh đó, hai hạnh như vậy không ra ngoài hai đế. Nhờ Chơn đế nên không có chủ thể hộ và đối tượng hộ, nhờ Thế đế nên có chủ thể hộ và đối tượng hộ, hạnh tự lợi và lợi tha được thành. Nói Nhị đế tức một là Chơn đế, là lý "không" một là Thế đế, tức là môn Có. Trong phẩm Nhị đế sẽ phân biệt chi tiết; 3. Kinh này đức Thế Tôn tự phán định. Trong ba pháp luận, lấy Vô tướng làm tông. Cho nên kinh Giải Thâm Mật nói như vậy: "Ban đầu vì những người phát tâm hướng đến Thanhvăn thừa mà thuyết Tứ đế luân (như bốn kinh A-hàm). Tiếp theo là vì những người phát khởi Bồ-tát thừa mà thuyết Vô tướng luân (các Bát-nhã), sau cùng là vì những người phát khởi Nhất thiết thừa mà thuyết giáo liễu nghĩa." (đầy đủ như Kinh kia nói).

Hỏi: Vô tướng luân này, trong ba tính thì bỏ tính nào? Ở trong ba vô tính đó thì nương vào vô tính nào?

Giải thích: Các sư phương Tây, chia làm hai giải thích: 1. Ngài Thanh Biện thì bỏ cả ba tính, để lập thành "không", tức thuyết về lý "không", là Vô tướng, nói đầy đủ như trong luận Chưởng Trân; 2. Ngài Hộ Pháp thì chỉ bỏ sở chấp, là Vô tướng, như trong kinh Thâm Mật. Trong ba vô tính, Ngài Thanh Biện và Ngài Hộ Pháp đều nương vào ba thứ vô tự tính, cũng thành là Vô tướng. Do vậy, Ngài Chơn đế, Ngài Từ Ân, Ngài Tam Tạng, mỗi vị đều nương vào một tông. Chơn đế và Tam Tạng, như thứ lớp của chúng đều bỏ ba tính, lập ba vô tính: 1. Bỏ phân biệt tính để lập phân biệt Vô tướng tính; 2. Bỏ y tha để lập y tha vô sinh tính; 3. Bỏ chơn thật tính, để lập chơn thật vô tính tính. Do ở một Chơn như mà bỏ ba tính, lập ba vô tính, (nói đầy đủ trong luận Tam Vô Tính). Do đó, trên điểm chung thì Ngài Chân đế giống với Ngài Thanh Biện, nhưng điểm sai khác là; Bồ-tát Thanh Biện lập mà không kết hợp, còn ý của sư Chơn đế là giữ lại cả ba vô tính, phi an lập đế. Còn hai vị Từ Ân và Tam Tạng thì chỉ bỏ sở chấp, không bỏ hai tính, tình có lý không, lý có tình không, cả hai nghĩa riêng khác. Lại nữa, ba vô tính, như nói theo thứ tự của chúng thì ba tính thành là ba vô tính, nên Duy Thức Tam Thập tụng nói: "Tức nương vào ba tính này mà lập nên ba vô tính kia." (Nói đầy đủ như trong luận Thành Duy Thức và kinh Giải Thâm Mật). Do đó, hai vị Bồ-tát: Thanh Biện và Hộ Pháp, mỗi vị đều dựa vào tông của mình mà giải thích kinh này.

Hỏi: Sao biết được kinh này nói đủ ba loại vô tính?

Giải thích: Như kinh Giải Thâm Mật nói: Hoặc như kinh nói tất cả các pháp đều không có tự tính, vô sinh, vô diệt, bổn lai tịch tĩnh tự tính Niết-bàn. Nương vào mật ý gì đức Thế Tôn tự thuyết, tất cả các thuyết đều không có tự tính? Đó là đều nương vào mật ý ba loại vô tự tính. Nói tất cả các pháp đều không có tự tính, vô sinh, vô diệt,… là chỉ nương theo tướng tính vô tự tính mà thuyết, hoặc có thể nương theo tướng và vô tự tính thắng nghĩa mà thuyết.

Hỏi: Nếu vậy vì sao, Vô tướng thứ hai, gọi là bất liễu?

Giải thích: Thật ra nói đủ ba thứ tính vô tự tính, về lý không có sâu cạn, do tướng ẩn mất nên nói tất cả pháp không có tự tính, nhưng không kết hợp phân biệt, riêng với ba vô tính, các kinh như Giải Thâm Mật,… đã nói rất rõ về ba loại tính vô tự tính. Vì vậy trong môn của pháp luân thứ ba, thêm bốn chữ tính vô tự tính. Ý là riêng có cái lý của ba vô tính. Do vậy, gọi là liễu, bất liễu nghĩa, chứ chẳng phải lý sâu cạn mà gọi là liễu, bất liễu. Nếu phân biệt rộng thì như Quảng Bách luận quyển mười nói có ba sư giải thích: 1. Học phái Du già, lập Y tha hữu;

2. Bồ-tát Thanh Biện thuyết Y tha không; 3. Bồ-tát Hộ Pháp phá cả hai chấp kia.

1. Vì vậy trong luận kia nói: Học phái Du già, dùng lý nêu tông; thể của pháp phân biệt sở chấp là "không" thể của pháp do nhân duyên sinh khởi là "Có". Do vậy mà cảm quả, luân hồi trong ba hữu. Hoặc tu gia hạnh chứng tam Bồ-đề,… cho đến nói rộng. Vì chứng nghĩa đó nên dẫn Kinh tụng:-Biến kế sở chấp không,-Y tha khởi tính có.-Vọng phân biệt mất hoại,-Tùy tăng giảm nhị biên.

2. Thanh Biện giải thích kinh này: Danh: Là biến kế sở chấp. Nghĩa: Là Y tha khởi tính. Danh đối với nghĩa của nó thì phi hữu cho nên vô. Nghĩa; là tùy theo thế gian mà phi vô cho nên hữu không thể dẫn đây chứng minh Y tha có.

Tiếp đến học pháp Du-già phá giải thích trên. Văn có ba tiết: 1. Tổng phá là phi lý; 2. Nêu riêng bốn điều sai lầm; 3. Kết luận trái với kinh. Trong phần tổng phá nói giải thích trên không đúng, vì nghĩa trái ngược nhau. Trong phần nêu bốn điều sai lầm: 1. Nếu danh đối chẳng phải có với nghĩa phi hữu cho nên không thì nghĩa cũng đối với danh là không làm sao có; 2. Lại nữa, danh ngôn được lập do nghĩa đó, đã do nhân duyên sinh thì nghĩa phải có; 3. Nếu tánh của năng thuyên do vọng chấp không có thì tánh của sở thuyên do vọng chấp lẽ nào có; 4. Danh là tùy theo thế tục mà có công năng thuyên bày biểu hiện. Ông không chấp nhận làm tánh y tha khởi thì nghĩa cũng tùy theo tục mà giả thuyết là có công năng, sao không chấp nhận là biến kế sở chấp. Trong phần kết nói: Vì thế tục giả lập năng thuyên, sở thuyên nếu không thì đều không, có thì đều có. Như nay kinh thuyết là một hữu, một vô. Cho nên những điều ông nói không phù hợp với nghĩa của kinh.

Ngài Thanh Biện vì muốn chứng minh nghĩa của mình lại dẫn kinh nói: Do lập danh đây, đây để thuyên bày pháp kia. Pháp kia tánh đều chẳng phải có, do pháp tánh đều như vậy.

Pháp Du-già phá lời Kinh này nói: Ý kinh không nói danh đối với nghĩa là không có, chỉ nói tánh của pháp sở thuyên là chẳng phải có, làm rõ tánh các pháp đều chẳng thể thuyên bày, danh ngôn sở thuyên đều là công tướng tự tánh của các pháp đều bắt dứt danh ngôn, tự tướng chẳng phải không, công tướng chẳng phải có. Trong đây, nói tám lược vì tánh sở thuyên không có, không phải có tánh của năng thuyên là thật có. Cho nên Tượng chỉ nói "kia chẳng phải có". Nếu không vậy thì lẽ ra nói tánh này chẳng phải có.

Ngài Thanh Biện vì để chứng minh y tha tính là không có, lại dẫn tụng tóm lược ở trong kinh:

-Không có ít pháp sinh,-Cũng không ít pháp diệt.-Tịnh kiến, quán các pháp,-Phi hữu cũng phi vô.

Học Phái Du-già lại đả phá: Ý của tụng đây là nói về biến kế sở chấp, tự tính sai biệt. Thể của năng thuyên sở thuyên đều rỗng không, không sinh, không diệt, lìa chấp mà tịnh kiến, quán các thế gian đều sinh ra do nhân duyên, chẳng bao giờ chẳng phải không. Cho nên, đó chẳng chứng tỏ y tha là không có.

Bồ-tát Thanh Biện lại dẫn kinh để chứng thành y tha tính là rỗng không: Cho nên kinh nói: Các pháp từ duyên khởi, duyên, pháp, hai đều không, chánh tri được như vậy, là thông đạt duyên khởi. Nếu pháp từ duyên sinh, các pháp đều vô tính. Nếu pháp đều vô tính, pháp đó phi duyên sinh.

Phái Du-già lãnh hội kinh kia nói; như vậy cả hai kinh đều thuyết pháp duyên sinh, tuy không có tự tính, nhưng không trái ngược nhau. Theo duyên sinh pháp có hai loại: Một là biến kế sở chấp, hai là y tha khởi tính, trong đây ý nói rõ biến kế sở chấp, tự tính chẳng phải có, không nói về y tha. Nếu nói y tha thì đều không có tự tính, bèn bác bỏ hai pháp nhiễm và tịnh đều không có, gọi là "ác thủ không", tự tha đều tổn hại.

Bồ-tát Thanh Biện lại nói: Vọng phân biệt đó, ai có thể chặn đứng được? Đến khi đắc chánh kiến, tự nhiên sẽ trừ bỏ.

3. Bồ-tát Hộ Pháp, cùng phá cả hai chấp không và có, kiến lập trung đạo, y tha khởi tính, chẳng phải không chẳng phải có. Cho nên lại nói: Các loại như vậy, tùy sở kiến khác nhau, chia cách Thánh ngôn, hợp thành nhiều phần, cùng nhau tranh luận, mỗi chấp một bên, đều không thể trừ ác kiến trần cấu, thì làm sao khế hợp với diệu chỉ thanh tịnh đại thừa mà chư Phật Thế Tôn đã thuyết. Chưa hội được chơn lý, theo mình mà chấp tình, mình đúng người sai, thật đáng sợ thay! Phải xả bỏ chấp trước, hai bên không và có, lãnh ngộ trung đạo bất nhị của đại thừa,… (Nói rộng như luận kia).

Hỏi: Tông của Ngài Hộ Pháp như Thành Duy thức luận, không vứt bỏ y tha, như thế nào trong đây nói Y tha chẳng phải không, chẳng phải có?

Giải thích: Ngài Hộ pháp chính là nói như Luận Thành Duy Thức, không trái với y tha, nhưng nay muốn thành tựa ý luận Thánh Thiên nên lập trong đạo, mà không trái ngược nhau. Chánh tông của Ngài Hộ Pháp là lập trung đạo nghĩa mà Thành Duy thức, thuật về Du-già tông, cũng không trái nghịch.

3. Hiển bày đối tượng được nương tựa của giáo, đối tượng vì hữu tình.

Cũng có hai phần: 1. Hiển bày đối tượng nương tựa của giáo; 2. Đối tượng vì hữu tình. Nói đối tượng nương tựa là chỉ mười hai bộ kinh, ba tạng, hai tạng. Ba tạng là: 1. Tố-đát-lãm, tiếng Hoa gọi là Khế kinh, nghĩa như đã nói ở trên; 2. Tỳ-nại-da; tiếng Hoa gọi là Điều phục, điều phục bảy loại sai trái của thân và ngữ, hoặc điều phục ba nghiệp khiến không tạo nghiệp ác. Cũng gọi là điều phục; 3. A-tỳ-đạt-ma; tiếng Hoa gọi là Đối pháp. Thánh đạo vô lậu đối lại với với quả của cảnh, gọi là đối pháp. Hoặc gọi là Ma-đát-thi-ca: Tiếng Hoa gọi là Bổn Mẫu, do phân biệt pháp tướng, có thể sinh trí, gọi là Bổn Mẫu. Hai tạng là: Như Nhiếp Đại thừa, ba tạng như vậy có hạ thừa và thượng thừa sai biệt nên thành hai tạng: 1. Thanh văn tạng; 2. Bồ-tát tạng. Nói "mười hai bộ" là: Như kinh Giải Thâm Mật nói: Khế kinh, ứng tụng, ký biệt, phiên tụng, tự thuyết, nhân duyên, thí dụ, bổn sinh, bổn sự, phương quảng, hy pháp, luận nghị. Đến phẩm Nhị đế sẽ nói rõ về chi tiết. Bộ kinh này là tạng khế kinh trong ba tạng. Trong hai tạng là thuộc về Bồ-tát tạng. Trong mười hai bộ thì thuộc bộ đầu tiên. Nói "đối tượng vì" có hai nghĩa: 1. Vì ba thừa, như trong ba pháp luân của kinh Giải Thâm Mật: Vì những người phát khởi Thanh văn thừa mà thuyết Tứ đế luân. Vì những người muốn phát khởi Bồ-tát thừa mà thuyết giáo Vô tướng. Vĩ những người phát khởi Nhất thiết thừa mà thuyết luân thứ ba, nên biết kinh này là vì Bồ-tát mà thuyết. Nếu theo năm tính tức vì tính Bồ-tát và những người bất định mà thuyết kinh này. Nghĩa của năm tính, sẽ nói rõ ở chương khác.

4. Thời đại phiên dịch, chánh giải thích theo văn.

Tức có hai phần: 1. Thời đại phiên dịch; 2. Chánh giải thích theo văn. Về thời đại phiên dịch: Bộ kinh này dựa theo văn của kinh nói thì có hai bản: 1. Quảng bản. (Bản lớn). Cho nên phẩm Tán Hoa ở sau nói: "Bấy giờ, mười sáu đại Quốc vương nghe Phật đã thuyết giảng kinh mười vạn ức kệ Bát-nhã Ba-la-mật, mà rải hoa cúng dường." Vì vậy biết kinh này cũng có quảng bản; 2. Lược bản (bản tóm lược): Bản tiếng Phạm tuy chỉ có một cuốn, tùy theo dịch giả mà khác nhau, thành có ba bản dịch: 1. Thời nhà Tấn, năm thứ nhất niên hiệu Tần Thủy, Ngài Đàm ma la mật, Tam Tạng pháp sư của nước Nguyệt Chi, tiếng Tấn gọi Ngài là Pháp Hộ, dịch ra một cuốn, tên là Nhân vương Bát-nhã; 2. Thời Tần, năm thứ ba, niên hiệu Hoằng Thủy, Tam Tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, tiếng Tần gọi là Đồng Thọ, ở Biệt Quán, vườn Tiêu Dao, Tây Minh Các, thành Tây An, dịch ra một cuốn, tên là Nhân vương hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật; 3. Thời Lương, năm thứ ba, niên hiệu Thừa Thánh, Tam Tạng pháp sư Ba la mạt đà (Lương gọi là Chân đế) người nước Ưu Thiền Sai, Tây Thiên Trúc. Ở chùa Bảo Điền, Phủ Dự Chương, dịch ra một cuốn, tên là Nhân vương Bát-nhã kinh.

Phần sớ giải có sáu quyển. Tuy có ba bản, nhưng bản thời Tấn là dịch đầu tiên, e rằng không được chu tất. Bản của Ngài Chân đế thì ẩn kín, không lưu hành, cho nên nay ở đây theo một bản thời Tần. (theo Phí TrườngPhòng ở Bộ Tam bảo lục thì ba bản dịch đều là một quyển. Nhưng Phí Học Thất nhập vào mục lục tạng thì nói là hai quyển)

Kinh: Tôi nghe như vậy:

Giải thích: Từ đây trở về sau là phần hai: Chánh thức giải thích theo văn. Trong một kinh này, gồm có tám phẩm. Có hai cách chia phần: 1. Theo Bổn ký thì chia làm bốn phần chính: 1. Phần phát khởi: Tức phẩm Tự thứ nhất; 2. Phần chánh thuyết là năm phẩm tiếp theo; 3. Phần Vua được hộ quốc tức phẩm Thọ trì; 4. Phần lưu thông tức phẩm chúc lụy. Nay chia kinh này, theo Phật Địa Luận, chia làm ba phần chính: Một phẩm đầu tiên, gọi là phần nhân duyên giáo khởi. Năm phẩm tiếp theo, gọi là phần Thánh giáo thuyết giảng. Hai phẩm sau cùng, gọi là phần theo giáo phụng hành.

Hiển bày các điều đã nghe; tức là những nhân, những duyên mà giáo khởi, nên gọi là phần nhân duyên giáo khởi. Chánh thức hiển bày những pháp môn mà Thánh giáo đã thuyết; vì phẩm loại khác nhau, nên gọi là phần Thánh giáo thuyết. Hiển bày khi ấy, chúng đã nghe Thánh giáo của Đức Phật, hoan hỷ phụng hành, nên gọi là phần theo giáo phụng hành. Tức tương đương với cựu thuyết "tự, chánh, lưu thông". Tự là do tự; nguyên do dẫn khởi chánh thuyết. Chánh tức là chánh tông; biện về tông và nghĩa được nêu giảng. Thông; tức là lưu thông; bao gồm lợi ích lớn của đời mạt pháp.

Trong văn phần Tự, có hai phần riêng biệt: phần đầu là Tự chứng tín, Từ "bấy giờ, mười hiệu…" là tự phát khởi. Nhưng hai tự này, có ba sự khác nhau: 1. Danh khác: Một danh là chứng tín: Còn gọi là thông tự. Danh thứ hai là phát khởi; còn gọi là biệt tự. Nói "tôi nghe", là khiến vật sinh tín, gọi là chứng tín, các kinh đều giống nhau, gọi là thông tự. Dùng "phóng quang…" để phát khởi chánh tông, gọi là phát khởi, mỗi kinh mỗi khác, gọi là biệt tự; 2. Thời khác; danh thứ nhất là tự trước kinh, khi chưa thuyết kinh thì trước tiên đã phát khởi. Danh thứ hai là tự sau kinh; sau khi thuyết kinh rồi mới bắt đầu nói các duyên cớ; 3. Nhân khác: Danh thứ nhất là Như Lai tự, ở trong các kinh, do Phật phát khởi. Danh thứ hai là A-nan tự; do A-nan thỉnh xin mới bắt đầu thuyết.

Trong phần chứng tín, gồm có bốn phần: 1. Thuyết sự duyên khởi; 2. Thuyết về ý của sự; 3. Biện về sự nhiều ít; 4. Giải thích riêng theo sự.

- Nói "Duyên khởi" là như luận Trí Độ quyển thứ hai nói: Khi Phật Niết-bàn, ở nước Câu-thi-na-kiệt, giữa hai cây Tát-la, nằm đầu hướng Bắc, sắp nhập Niết-bàn. Bấy giờ Tôn giả A-nan, lòng thân ái chưa dứt, tâm chưa lìa dục, chìm trong biển buồn, không thể tự xuất, lúc ấy trưởng lão A-nậu-lâu-đậu, nói với Tôn giả A-nan: "Ông là người giữ gìn pháp tạng Phật, không nên như người phàm chìm trong biển u buồn, các pháp hữu vi đều là vô thường, ông sao lại sầu buồn, mất đi những sự đã nghe. Ông nên hỏi Phật; sau khi Phật Niết-bàn, làm thế nào để tu hành? Ai sẽ làm thầy? Ác khẩu Xa-nặc, làm sao cùng ở? (Quyển thứ tư Trường A-hàm thì nói là "Xiển-nô Tỳkhưu, làm sao cùng trú?), đầu các kinh Phật, viết những lời gì?". Tôn giả A-nan liền hỏi Phật những việc đó, Phật bảo Tôn giả A-nan: "Hành Tứ niệm xứ, giới kinh làm thầy, Xa nặc Tỳ-khưu, trị như pháp Phạm (Chánh thanh tịnh). (quyển thứ tư Trường A-hàm, quyển 36 Tăng nhất

A-hàm đều nói: "Trị bằng pháp Phạm, tức là không cùng nói chuyện… chi tiết như trong kinh kia nói.). Đầu các kinh Phật, đều xưng là "tôi nghe như vậy". Theo kinh Tập pháp và phần sau kinh Niết-bàn, đều giống với Trí Luận, e nhiều không nói ra đây. Kinh Đại Bi thì nói Tôn giả Ưu-ba-ly chỉ bày Tôn giả A-nan thưa hỏi, cho nên kinh luận nói khác. Mặc dù cả hai người cùng bày cho A-nan hỏi nhưng nghĩa cũng không trái ngược.

- Thuyết về ý của sự gồm hai loại: 1. Đoạn nghi; 2. Sinh tín.

Đoạn nghi: Sư Chân đế giải thích: Theo luật vi tế mà nói thì Tỳ-khưu A-nan, khi đang thăng tòa cao, xuất pháp tạng thân tức như Phật, đầy đủ tướng đẹp. Hoặc bước xuống tòa trở lại bản hình, chúng thấy điềm đó, bèn có ba nghi: 1. Nghi đại sư Thích ca Như Lai vì từ bi, từ Niết-bàn khởi tuyên lại pháp sâu xa; 2. Nghi chư Phật phương khác đến;

3. Nghi Tôn giả A-nan chuyển thân thành Phật. Nay vì muốn trừ bỏ ba loại nghi đó, nên nói "Tôi nghe như vậy" là để nói rõ chính Tôn giả A-nan nghe từ Phật, chẳng liên quang gì đến Phật từ bi từ Niết-bàn khởi, cũng chẳng phải các Phật khác từ phương khác đến, cũng chẳng phải Tôn giả A-nan chuyển thân thành Phật, tự thuyết kinh.

Sinh tín; theo luận Trí Độ nói: Vì người khi thuyết giảng muốn khiến tâm chúng sanh sinh tín.

-Về sự nhiều ít, có ba thuyết: Thuyết thứ nhất là sư Chân đế trong phần chú thích về bảy sự. Chia làm bảy sự: 1. "Như vậy"; là nêu pháp được nghe, văn và lý của cả bộ kinh, chắc chắn đáng tin; 2. Nói "tôi"; là xuất ra người chủ thể văn (người nghe) tức là Tôn giã A-nan.

3. Nói "nghe"; chính mình phụng chỉ âm thanh; 4. "Một thời"; là hiển bày pháp được nghe, khéo hợp với thời cơ; 5. "Phật Thế Tôn"; xuất ra sư chủ thể thuyết; 6. "Trú xứ"; hiển bày việc thuyết nói có nơi chốn; 7. "Đại Tỳ-khưu"; là nói về chẳng phải nghe riêng một mình. Nhưng bảy sự đó, nói chung thì chỉ có bốn ý: 1. "Như vậy" là nói về nơi đối tượng nghe pháp (pháp được nghe); 2. "Tôi nghe"; là biện về người là chủ thể nghe (người nghe); 3. Hai sự tiếp theo là chứng pháp được nghe; 4. Hai sự sau cùng là chứng cho người nghe. Thuyết thứ hai, theo luận Đại Trí Độ, Ngài Long Mãnh chia thành sáu sự: 1. Tín; 2. Văn (nghe); 3; Thời;

4. Chủ; 5. Xứ; 6. Chúng. Bồ-tát Thế Thân trong Đăng Luận, cũng chia sáu sự, nên tụng ở đó nói: Ba sự trước nói về đệ tử, ba sự sau chứng sư thuyết. Tất cả pháp môn Tu-Đa-la đều như vậy.

Thuyết thứ ba, theo Ngài Thân Quang trong luận Phật địa, gồm năm sự: 1. Hiển chung sự đã nghe; 2. Thời gian giáo khởi; 3. Hiển riêng giáo chu; 4. Hiển bày nơi giáo khởi; 5. Căn cơ mà giáo mang đến.

Về giải thích riêng theo sự; tuy có bảy sự, sáu sự, năm sự khác nhau, nhưng ở đây lấy theo năm sự để giải thích kinh này. Trong đó có sự đồng và dị, đến văn sẽ đối chiếu giải thích.

"Tôi nghe như vậy": là sự thứ nhất, hiển chung sự đã nghe có ba nghĩa giải thích: 1. Giải thích chung về tôi nghe như vậy; 2. Giải thích riêng về tôi nghe như vậy; 3. Nói về ý hợp thuyết. Giải thích chung truyền lời Phật dạy Mạn Thù Thất Lợi và A-nan đều nói lời đó. Nhưng lời như vậy, cú nghĩa thâm diệu, tôi xưa từng nghe. Nói giải thích riêng: trước giải thích chữ "như vậy", sau giải thích chữ "tôi nghe". Các sư ở Trung Hoa, tuy có nhiều cách giải thích. Nhưng ở đây xin nói về Tam Tạng Tây phương và luận thuyết của họ. Tam Tạng Tây phương, gồm có ba thuyết:

1. Ngài Tam Tạng Chân đế nói: Nói "Như vậy" là nghĩa quyết định hai thứ văn và lý. Văn là năng thuyên, lý là sở thuyên. A-nan đã truyền, văn và lý quyết định. Như lời Phật thuyết, nên nói là "như vậy".

2. Ngài Tam Tạng Trường Nhĩ giải thích có có ba nghĩa: 1. Theo Phật giải thích; chư Phật ba đời, đã thuyết giảng không khác, cho nên "như". Vì thuyết giống nhau, nên xưng là "thì"; 2. Theo Pháp giải thích: thật tướng của các pháp, cho nên là "như", như như mà thuyết, nên xưng là "thị"; 3. Theo Tăng mà biện: Những điều Tôn giả A na truyền, không khác Phật thuyết, nên gọi là "như", luôn lìa sai trái, xưng đó là "thị"; 3. Ngài Bồ-đề lưu-chi, gồm có bốn nghĩa: 1. Phát tâm như vậy: Nghĩa là tự nghĩ, ta sẽ phát tâm Bồ-đề như vậy tu các hạnh thiện; 2. Dạy người khác như vậy: Dạy người trước; nói ông phải phát tâm Bồ-đề như vậy, tu các hạnh thiện; 3. Thí dụ như vậy: Oai đức người ấy rực rỡ, như ánh mặt trời, trí tuệ sâu rộng, giống như biển lớn; diện mạo đoan nghiêm, giống như trăng tròn; 4. Quyết định như vậy: Tôi thấy, nghe như vậy, nay nói lại như vậy. Chỉ lấy nghĩa thứ tư, quyết định như vậy. Người truyền pháp nói: Những giáo lý tôi nghe từ Phật, nay tôi nói lại. Không nhiều không ít, không sai không lầm, quyết định chắc chắn như vậy. Truyền lại không sai sót, cho nên nói là "như vậy".

Theo các luận thuyết, cũng có ba giải thích:

1. Theo công đức thí, luận Bát-nhã nói: "Tôi nghe như vậy" là hiển thị kinh này là của đức Thế Tôn hiện giác mà diễn, chẳng phải tự mình làm ra.

2. Theo Ngài Long Mãnh, luận Trí Độ nói: "Như vậy" tức là tín, trong biển lớn Phật pháp, tín là khả năng hội nhập, trí tuệ là khả năng vượt qua. Người tin thuận thì nói việc đó như vậy. Người không tin thì nói việc đó không như vậy, (nói rõ trong luận kia).

3. Theo Ngài Thân Quang trong luận Phật Địa: Có bốn nghĩa: "Như thị" nói chung có bốn nghĩa chuyển: 1. Theo thí dụ: Nghĩa là sẽ nói văn, cú như vậy, như tôi xưa đã nghe. (Đây tức lấy nay dụ xưa); 2. Theo giáo dạy: Nghĩa là bảo với thời chúng. Như vậy sẽ nghe những điều tôi đã nghe xưa kia; 3. Theo vấn đáp: Nghĩa là, có người hỏi. Ông sẽ nói lại những điều xưa đã nghe sao?

Cho nên đáp: Như vậy tôi nghe;

4. Theo sự chấp nhận: Là khi kết tập, các chúng Bồtát, đều cùng thỉnh: Như ông đã nghe, nói đúng như vậy. Bồ-tát truyền pháp bèn chấp nhận lời kia. Sẽ nói đúng như vậy, những điều tôi nghe như vậy. Lại nữa, ngôn tín như vậy đáng thẩm định, nghĩa là pháp như vậy, tôi xưa từng nghe, việc đó như vậy, sẽ nói ra hết ở đây, chắc chắn không khác.

Lại nữa, trong luận Phật Địa có ba sư giải thích: Một sư nói chỉ lấy nghĩa thứ tư. Một sư nói: Trong bốn nghĩa chỉ theo hai nghĩa sau. Một sư nói: Nương theo cả bốn nghĩa mà thuyết. (nói rõ chi tiết trong luận kia).

Giải thích riêng về "tôi nghe"; trước là giải thích về tướng của tôi (ngã tướng), sau là giải thích chữ "nghe".

Gọi là "ngã" (tôi). Văn Thù và A-nan, truyền pháp trên thân năm uẩn, giả lập làm ngã (tôi). Nhĩ căn phát thức có thể nghe những gì nói ra, gọi là nghe. Cho nên Luận Phật địa nói: Ngã (tôi) là cái giả lập gọi năm uẩn thế tục. Nghe là nhĩ căn phát thức nghe nhận, bỏ riêng lấy chung, nên bảo là "tôi nghe".

Hỏi: Trong pháp Phật thì vô nhân, vô ngã, sao các kinh đều nói là "tôi nghe"?

Giải thích: Nghĩa này có các thuyết giải thích khác nhau. Theo tông của Ngài Long Mãnh như trong phần thứ nhất của luận Trí Độ. Nơi phần nói về bốn Tất-đàn: Thế giới Tất-đàn nên thuyết là có ngã. Với đệ nhất nghĩa Tất-đàn nên thuyết là vô ngã.

Hỏi: Trong môn thật tướng của Trung luận nói là phi ngã phi vô ngã, sao trong luận Trí Độ lại nói là vô ngã.

Đáp: Không trái nhau, với thế giới Tất-đàn thì thuyết là ngã, trong Đệ nhất nghĩa thì thuyết là vô ngã. Mỗi một cách thuyết đều là vì người, hoặc ngã và vô ngã, bỏ cả hai chấp, cũng có thể thuyết là phi ngã phi vô ngã. Vì vậy mà Trung luận nói: Chư Phật hoặc thuyết là ngã, hoặc thuyết vô ngã, trong thật tướng của các pháp thì phi ngã phi vô ngã. Nếu nghiêng về đối trị ngã thì thuyết là vô ngã làm thật tướng. Nếu bỏ cả hai chấp thì lấy phi ngã-phi vô ngã làm thật tướng. Mỗi thứ đều có một nghĩa, cho nên chẳng trái nhau.

Theo Luận Du già, quyển thứ sáu thuộc tông Di-lặc nói do bốn nguyên nhân, mà dựa vào trong các uẩn, giả nói là ngã: 1. Vì ngôn thuyết dễ dàng của thế gian; 2. Vì muốn tùy thuận các thế gian; 3. Vì để đoạn trừ chắc chắn các sợ hãi về vô ngã; 4. Vì tuyên thuyết sự được mất của mình và người, khiến tâm quyết định tín giải. Giải thích chi tiết bốn nguyên nhân như đã nói trong quyển thứ mười ba của Luận Tạp tập.

"Nghe" có hai nghĩa: 1. Theo pháp tướng; 2. Theo Duy thức. Theo pháp tướng có các thuyết khác nhau: Tông Tát-bà-đa nói: tai nghe chẳng phải thức. Luận sư pháp giáo nói thức nghe chẳng phải tai. Luận Thành Thật cũng giống vậy. Luận Thí Dụ nói hòa hợp mới có thể nghe như quyển mười ba của luận Đại-bà-sa đã nói. Nay ở đây dựa theo Long Thọ Bồ-tát của đại thừa, có hai giải thích: 1. Tai nghe chẳng phải thức; 2. Hòa hợp mới nghe. Như luận Trí Độ tuy có hai giải thích nhưng lấy sự hòa hợp làm giải thích chính.

Theo tông Di-lặc, tự có ba thuyết: 1. Tai nghe chẳng phải thức. Tạp Tập luận nói: Nhĩ giới có tướng gì? Là có thể nghe được âm thanh. Luận Du già nói: Tính ở âm thanh đó đền chủ thể nghe; 2. Thức nghe chẳng phải tai. Luận Phật Địa nói: Nghe là nhĩ căn phát nhĩ thức, nghe nhận. Lại Luận Du già giải thích: Nghe là lắng nghe tức là nhĩ căn phát ra nhĩ thức để nghe ngôn giáo. Lại giải thích cả hai luận là tai nghe biết, chẳng phải thức. Vì nhĩ căn là thể của nghe. Cho nên luận Tạp Tập nói:

Hỏi: Là mắt thấy sắc hay là thức? Đáp: Chẳng phải mắt thấy sắc, cũng chẳng phải thức thấy sắc, vì tất cả pháp không có tác dụng. Do có hòa hợp, giả lập là thấy tai nghe… cũng vậy. Nguyên do các luận khác nhau như thế, là vì để hiển bày việc nghe âm thanh là là chỗ nương dựa tối thắng. Luận Du già nói tai là nghe vì để hiển bày nghĩa phân biệt. Còn luận Phật Địa nói thức là nghe vì để hiển bày các pháp vô tác dụng. Luận Trí Độ và luận Tạp Tập nói hòa hợp làm nghe, mỗi luận đều Y cứ một nghĩa, không trái ngược nhau. Theo lý duy thức, để giải thích về cái nghe tự có hai giải thích: Có nghĩa bổn nguyện từ bi của Như Lai, duyên lực tăng thượng, cùng sinh ra văn nghĩa trên thức của người nghe, tướng của văn nghĩa đó tuy là nương vào thiện căn của chính mình mà khởi, nhưng nhờ ở duyên mạnh là Phật nói. Do lực của nhĩ căn mà tự tâm biến hiện, nên gọi là "tôi nghe". Có nghĩa nữa là duyên lực tăng thượng nơi bổn nguyện thiện căn của người nghe. Văn và nghĩa cùng sinh ra trên thức của Như Lai, tướng của văn nghĩa đó là do thiện căn lợi tha của Phật mà khởi, gọi là Phật thuyết. Tâm thức của người nghe tuy không thủ đắc, nhưng giống với tướng kia nên gọi là "tôi nghe".

Giải thích: Những nghĩa của hai sư trong luận Phật Địa nói. Nghĩa thứ nhất là của Na-già-tê-na. Na già tiếng Hoa gọi là Long, Tê na là quân, tức là luận sư Long Quân. Không chấp nhận Phật quả là có sắc thanh. Nghĩa của sư thứ hai, chấp nhận trong Phật quả có đủ cả sắc thanh, các Tông thuộc Ngài Hộ Pháp… đều theo nghĩa giải thích sau.

Hỏi: Tôn giả A-nan sinh ra nhằm ngày Như Lai thành đạo, qua hai mươi năm sau mới làm thị giả cho Như Lai, thì những kinh được thuyết trước đó đều chẳng nghe được. Sao ở các kinh A-nan đều nói là "tôi nghe"?

Đáp: Theo kinh Báo Ân, có ba nghĩa giải thích: Một là A-nan nghe kể lại từ chư thiên khác và bên các Tỳkhưu. Hai là Phật nhập vào tâm thế tục, khiến Tôn giả A-nan biết những kinh đã thuyết trước. Ba là những kinh đã thuyết giảng trước, Phật thuyết lại, nhờ lực thiện xảo của Phật. Ở trong một câu pháp, diễn vô lượng pháp, có thể dùng vô lượng pháp làm thành nghĩa một câu. Phật nên bày điều đó, Tôn giả A-nan đã biết được hết, nhờ lực trì giữ mạnh mẽ nhạy bén.

Hỏi: Tôn giả A-nan có ba: 1. A-nan-đà: Trì giữ pháp Thanh văn;

2. A-nan hiền: Trì giữ pháp Duyên giác; 3. A-nan hải: Trì giữ Ma-ha-diễn. A-nan thứ ba trì kinh đại thừa, nên không trái nhau. Như Kim cang Tiên luận và Ngài Chơn đế dẫn kinh Xà Vương Sám Hối đã nói.

Thứ ba là ý hợp nói: Luận Phật Địa nói: Nên biết nói là "tôi nghe như vậy" là ý muốn tránh sự sai lầm nơi phần khác tăng giảm. Nghĩa là, pháp như vậy, tôi nghe từ Phật. Chẳng phải nghe người khác nói lại. Để hiển thị người nghe có năng lực ghi nhận nổi những điều đã được nghe, đều lìa những sai lầm thêm bớt khác lạ. Chẳng như phàm phu không có khả năng ghi nhận những điều đã nghe, hoặc không thể lìa việc thêm bớt nói khác. Khi kết tập pháp, người truyền lại lời Phật dạy, theo đúng điều Như Lai đã dạy, đầu tiên nói lời này, để chúng sanh cung kính tin nhận nói; pháp như vậy, tôi nghe từ Phật. Văn nghĩa quyết định chắc chắn không có thêm bớt. Vì vậy người nghe phải lắng nghe, như lý mà suy tư, nên cố gắng tu học.

Kinh: Một thời.

Giải thích: Phần thứ hai. Thời gian khởi giáo. Các sư phương Tây, lược có ba giải thích: 1. Ngài Bồ-đềlưu-chi nói: Thời có nhiều loại: Ngày đêm, thọ trăm tuổi và tất cả thời. Nay chữ "một thời" là lúc mà Như Lai thuyết kinh này; 2. Ngài Trường Nhĩ nói: Thời có ba loại: 1. Ca-la thời: Tiếng Hoa gọi là Thời biệt tướng, là giới luật Như Lai, đại giới thời, xuất gia thời, chỉ Quốc vương nghe, các người khác không nghe chung; 2. Tamma-da thời: Tiếng Hoa gọi là phá tà kiến thời: Nghĩa là năm bộ A-hàm, chín phần Đạt-ma, bất kể thiện hay ác (trắng hay đen), tất cả đều được nghe. (Năm bộ A-hàm là: Trường, Tăng Nhất, Trung, Tạp, Hữu bộ. Chín phần Đạt-ma là; phân biệt thuyết giới, thế gian, nhân duyên, giới, đồng tùy đắc, danh cú văn, tập định, tập nghiệp, chư uẩn. Một phần có sáu ngàn kệ, sáu lần chín là năm mươi bốn, hợp lại có năm vạn bốn ngàn kệ, như nói trong phần thứ nhất của Chơn Luận Bộ Tập Ký.) 3. Lưu hành khắp ở đời: Như nói; một thời, Phật ở bờ sông Hằng. Một thời, ở rừng Thân Thứ. Nay nói "một thời", là chỉ theo hai loại sau, hoặc chỉ là loại thứ ba. Ngài Tam Tạng Chân đế nói có mười thời, e nhiều không ghi lại đây. Nay theo các luận cũng có ba thuyết:

1. Công đức thí: Luận Bát-nhã nói: Nói một thời là lúc thuyết kinh này, những lúc khác thì thuyết vô số kinh; 2. Theo Ngài Long Mãnh trong luận Trí Độ nói: Thời có hai loại: Một là: Ca la thời, chung cả giả và thật, dùng chung cả trong và ngoài. Hai là: Tam-ma-da thời, chỉ có giả, không thật. Kinh nói" một thời" là theo Tamma-da mà nói, để phá thật thời, nên nói giả thời; 3. Theo Ngài Thân Quang trong luận Phật Địa: Thời có ba loại: 1. Nghe và nói cứu cánh, gọi chung là một thời, nên luận kia nói: Nói "một thời" là lúc thuyết và nghe, đó là căn cứ Sát-na tương tục không dứt. Nói và nghe cho đến cuối cùng, gọi chung là một thời. (Đó tức là một hội thuyết pháp, nói và nghe đến cuối cùng của hội, gọi chung là một thời). Nếu không vậy, thì danh tự văn cú của thời thuyết và thời nghe khác nhau, thì sao gọi là "một" được. (Đây là lối giải thích phản chứng. Nếu không nói và nghe một mạch đến hết, như trước thì nói tự, tiếp thì nói danh, sau thì nói cú, cho đến tụng, phẩm, bộ, thời thuyết nói và nghe, khác nhau, sao gọi là "một" được.) 2. Trong khoảnh khắc một Sát-na, vừa có thể trì, vừa có thể thuyết, lãnh, thọ nhận, nên gọi là một thời. Vì vậy luận kia nói: Hoặc người chủ thể thuyết, đắc Đà-la-ni. Ở trong một chữ, trong khoảnh khắc một Sát-na, có thể trì, có thể thuyết tất cả pháp môn. Hoặc người chủ thể nghe, đắc nhĩ căn tịnh, trong một khoảng Sát-na, khi nghe một chữ, với tất cả pháp khác, đều không chướng ngại, đều lãnh thọ được, nên gọi là một thời. (Đầu tiên. Ở trên Đà-la-ni đắc công đức nhĩ căn, một khoảng Sát-na có thể trì, thuyết, lãnh, thọ được, nên gọi là một thời) 3. Cùng nhau hội ngộ, gọi là một thời. Vì vậy luận kia nói: Hoặc cùng hội ngộ, cùng lúc không khác, gọi là một thời. Nghĩa là nghe và nói cùng hội tụ, cùng trong một lúc (cảm Thánh đến căn cơ, lại gặp gỡ nhau, gọi là một thời. Hoặc có thể là bốn: Khai, nói, nghe khác thành là hai thời) Hỏi: Một và thời, thể của chúng là gì?

Đáp: Một là con số, thời là thời gian. Tông Tát-bàđa và tông Kinh Bộ, không có pháp nào riêng khác tức dùng năm uẩn làm tánh. Trong xứ, giới, môn thì lấy hữu vi làm tánh. Nay theo đại thừa, tự có hai giải thích: 1. Tông của Ngài Long Mãnh số và thời đều không có thể, chẳng bao gồm trong ba khóa: Uẩn, xứ, giới. Nên luận Trí Độ nói: Các phá: số và thời… cái thật không hề có, vì không gồm thâu trong ấm nhập, trì. (Trì tức là giới, duy trì tự tánh). Lại nữa, luận kia nói: Các danh tự, ly và hợp, chung một và riêng khác, dài và ngắn của thời gian và không gian là tâm chấp trước của người phàm, cho là thật có, (nói rõ chi tiết như trong luận kia); 2. Di Lặc tông: Số và Thời là giả lập phân chia ngôi vị trên pháp hữu vi. Trong hai mươi bốn pháp bất tương ưng là số và thời. Trong môn ngũ uẩn thì gồm thâu trong hành uẩn. Nơi môn giới xứ, pháp xứ, pháp giới là cảnh của ý thức. Luận Phật Địa nói: Thời tức là giả lập phân vị trên pháp hữu vi (giải thích theo pháp tướng), hoặc là hình ảnh phân vị trên tâm (giải thích theo duy thức), nương theo sắc tâm, đều là giả lập, thuộc về hành uẩn bất tương ưng. Hỏi: Sao không hiển bày riêng như sau, mà chỉ nói một thời? Đáp: Thời gian đêm ngày, các nơi bất định, không thể nói riêng, lại nữa, nghĩa bất định, hoặc một Sát-na, hoặc lại tương tục, không thể nói nhất định, vì tướng chung, chỉ nói một thời.

Kinh: Phật.

Giải thích: Phần thứ ba. Hiển bày riêng về giáo chủ.

Luận Trí Độ nói; người thuyết Phật pháp, có năm loại: 1. Phật tự thuyết; 2. Đệ tử thuyết; 3. Thần tiên thuyết; 4. Chư Thiên thuyết; 5. Hóa nhân thuyết. Vì để lược bớt bốn loại kia nên nêu là Phật. Tự giác giác tha, giác hạnh cùng mãn, gọi là Phật. Nói rõ chi tiết như các chỗ khác. Thế nhưng đầu các kinh thì nêu danh khác nhau. Có bốn loại: Có kinh thì nói "Phật". Như kinh Niết-bàn… có kinh thì chỉ dùng từ "Bà-già-bà". Như kinh Đại Phẩm… có kinh thì nêu cả hai hiệu, như kinh Vô Thượng Y… Hoặc có kinh văn, cả hai hiệu đều không có. Như kinh Đa Tâm… Nguyên do như vậy là vì các bản khác nhau. Kinh Đa Tâm… là trong một bộ, ghi chép riêng để lưu hành, nên không nêu danh. Ở phương Tây có ba thuyết:

1. Theo luận Chơn Thật: Tất cả đầu kinh, chỉ nói là Phật, cho nên luận kia nói. Hỏi: Đại sư mười hiệu, vì sao trong kinh không kể chín hiệu khác mà chỉ xưng là Phật? Đáp: Vì có mười nghĩa: 1. Giác thắng vô địch; 2. Không nhờ người khác mà ngộ; 3. Lìa hai vô tri. (Giải thoát chướng vô tri và Nhất-thiết-trí chướng vô tri.) 4. Đã vượt qua thùy miên; 5. Ví như hoa sen; 6. Tự tính vô nhiễm; 7. Đầy đủ ba nghĩa. (Ba nghĩa là:

1. Giả danh Phật, tức sáu thần thông; 2. Tịch tĩnh Phật. Vì hoặc không sinh; 3. Chơn thật Phật: Tức chơn như) 8. Đủ ở ba đức. (Pháp thân, Bát-nhã, Giải thoát) 9. Đủ tính Tam bảo; 10. Tự biết khiến cho người khác biết. "Phật" đủ cả mười nghĩa, các danh hiệu khác thì không được như vậy, cho nên đầu các kinh đều xưng là "Phật".

2. Theo luận Phật Địa: Tất cả đầu kinh đặt Bạc-giàphạm. Nghĩa là đủ sáu đức, phá bốn ma, nên luận kia nói: Tiếng Bạc-già-phạm dựa theo sáu nghĩa chuyển: 1. Nghĩa tự tại. Vì vĩnh viễn không bị trói buộc các phiền não; 2. Nghĩa xí thịnh: Vì được nung luyện do ngọn lửa trí hừng hực; 3. Nghĩa đoan nghiêm: Vì được trang sức với ba mươi hai diệu tướng đại sĩ; 4. Nghĩa danh xưng: Tất cả công đức thù thắng đều viên mãn, vì không có gì là không biết; 5. Nghĩa cát tường: Vì tất cả thế gian đều thân cận cúng dường, đều xưng tán; 6. Nghĩa tôn quý: Vì đủ tất cả đức, thường khởi phương tiện, tạo lợi ích an lạc cho tất cả hữu tình, không hề bỏ phế. Như có tụng nói:

Tự tại, xí thịnh và đoan nghiêm.
Danh xưng, cát tường và tôn quý.
Sáu loại nghĩa sai biệt như vậy.
Nên biết gọi chung là Bạc già.

Bốn ma oán là: Phiền não ma, uẩn ma, tử ma, tự tại thiên ma.

Hỏi: Phật đủ mười loại danh hiệu công đức, vì sao Như Lai dạy người truyền pháp, tất cả đầu kinh chỉ viết danh Bạc-già-phạm như vậy.

Đáp: Một tên gọi đó, người đời đều tôn trọng, nên các ngoại đạo đều xưng bổn sư là Bạc-già-phạm. Lại nữa, một danh đó thâu tóm cả các đức, các tên gọi khác thì không vậy, do đó đầu kinh đều viết tên gọi này. Luận Kim cang Tiên cũng đồng với luận Phật Địa. Nói chi tiết về Bà-già-bà, như đầu kinh Niết-bàn và luận Trí Độ.

3. Theo Ngài Chơn đế: Tất cả đầu kinh đều khiến nêu cả hai Phật, Bà-già-bà. Cho nên thất Sư ký nói: Phật, Bà-già-bà có bốn trường hợp:

1. Phật chẳng phải Bà-già-bà: Tức là Thanh văn nhị thừa. Quán thế đế, chứng Niết-bàn vô dư, ở trong tự vị, đắc danh là Phật, không tu công đức hạnh, cho nên chẳng phải là Bà-già-bà; 2. Là Bà-già-bà chẳng phải Phật: Tức là Bồ-tát, vì tu công đức, nên gọi là Bà già ba. Đã tại nhân vị, trí tuệ chưa viên mãn, không được danh Phật; 3. Chẳng phải Phật, chẳng phải Bà-già-bà: Tức là phàm phu, không tu công đức, cho nên chẳng phải là Bà-già-bà, không tu trí tuệ, cho nên không gọi là Phật; 4. Là Phật cũng là Bà-già-bà: Tức là Phật Thế Tôn, vì trí tuệ đã viên mãn, gọi là Phật. Vì công đức đầy đủ, là Bà-già-bà. Nếu chỉ là Phật thì e lẫn lộn với Nhị thừa. Nếu chỉ riêng Bà-già-bà thì lẫn lộn với Bồ-tát và chuyển luân vương, nếu nói hợp lại tức là Như lai. Cho nên đầu các kinh đều nêu hai hiệu. Tuy có ba giải thích, nhưng ở đây đồng với Chơn Thật luận, chỉ gọi là Phật.

Kinh: Ở thành Vương-xá, trong núi Kỳ-Xà-Quật.

Giải thích: Phần thứ tư. Nơi thuyết kinh. Tên nước là Ma-kiệt-đề, hoặc gọi là Ma-kiệt-đà, còn gọi là Hắckệ-đà, còn gọi là Ma-già-đà, đều là âm Phạm chuyển lệch lạc, Chính nói là Ma-kiệt-đà, tiếng Hoa gọi là Thiện Thắng quốc. Hoặc gọi là Vô não hại quốc. Ma-già là tên sao, tiếng Hoa gọi là Bất-ác. Đà là xứ. Gọi là Xứ-quốcbất-ác, còn gọi là Xứ-quốc-tinh-tú. Theo pháp Hoa luận, thành Vương-xá hơn các thành khác. Núi Kỳ-xà-quật hơn các núi khác. Do Phật ở thắng xứ, là hiển bày pháp môn này cũng thù thắng. Nay trước là giải thích về thành, sau là giải thích về núi.

Ngài Chơn đế nói: Luật Ty-bà-sa có ba giải thích: 1.

Vương tử Bà-tẩu khi bắt đầu cùng dân chúng làm nhà, liền bị quỉ thần phá hoại hết, chỉ để lại nhà Vương-xá cứ như vậy đến lần thứ bảy. Thái tử dạy: Làm nhà đều đề tên là Vương-xá (nhà của vua), nhờ vậy mà không bị hủy. Nhân đấy mà đặt tên là thành Vương-xá; 2. Luân vương xuất thế, đều cùng nhau trú ở đó, cho nên gọi là Vương-xá; 3. Tứ thiên vương cùng Tu la đục nhũ hải, đắc cam lộ, ở trong núi đó dựng nhà, bảy ngày thì lấy, sau đó mới chia ra, nhân đấy mà đặt tên là thành Vươngxá.

Theo luận Trí Độ, cũng có ba giải thích: 1. Vua nước Ma-già-đà, sinh một con trai, một đầu hai mặt bốn tay, sau lớn thành người, có thế lực lớn, trị cả thiên hạ Diêmphù-đề, bắt một vạn tám ngàn vua các nước, nhốt trong năm núi này, nhân đấy đặt tên là thành Vương-xá; 2. Vua Ma-già trước đã trú ở trong thành, bị hỏa hoạn, bị thiêu thì làm lại, cứ như vậy đến lần thứ bảy. Người cả nước mệt mỏi sức lực. Vua liền tìm trú xứ khác, thấy năm núi này bao quanh như thành, liền làm cung điện, trú ở trong ấy. Cho nên gọi là thành Vương-xá; 3. Thời xa xưa, nước đó có vua, tên là Quảng Xa, ra ngoài săn bắn, gặp thấy năm núi, bao quanh hùng vĩ, nhiều loại trang nghiêm đẹp đẽ, liền bỏ thành cũ, trú ở trong đó. Vì vua là người đầu tiên ở đó, nên gọi là thành Vương-xá.

Luận Thiện Kiến nói: Thành đó lớn nhất, dài rộng ba trăm do tuần, có tám ức vạn hộ, tám vạn thôn xóm. (Phân biệt chi tiết rõ ràng, như trong Tây vực truyện).

Về núi Kỳ-xà-quật: Âm bị lược bỏ bớt, nói đúng là núi Cật-túc-đà-la-củ-tra, tiếng nhà Đường gọi là Thứu Phong, còn gọi là Thứu Đài. Núi đó chim Thứu thường đến ở. Hình nó lại giống đài cao, nên lấy tên chim, xưa gọi là Thứu đầu, hoặc gọi là Thứu-lãnh, hoặc gọi là Linh Thứu, đều cùng một nghĩa. The luận Trí Độ giải thích có hai nghĩa: Một là: Đỉnh núi giống chim Thứu, nên gọi là Thứu đầu. Một là: Chim thứu ở đỉnh núi, nên gọi là Thứu đầu. Nghĩa là, phía nam thành Vương-xá, trong rừng Thi-đà, nhiều xác người chết, chim Thứu thường đến ăn xác, lại ở đỉnh núi, người thời đó bèn gọi là Thứu Đầu sơn.

Lại nữa, Biệt ký ghi: Linh là Tiên linh, chim đó có linh tính, biết người sống chết, khi người nào sắp chết, bay đến đậu ở trên nhà người ấy, đợi đến khi đưa xác vào rừng thì bay xuống ăn, vì nó có thể biết trước như vậy, nên gọi là Linh thứu. Lại nữa, Chân Đế Thất Sự ký nói: Luật Tỳ-bà-sa viết: Khi đức Thích ca còn hành đạo Bồ-tát, vì hóa đô muôn vật nên thọ thân chim Thứu, cha mẹ của chim già, hai mắt đã mù, vì để báo ơn, tìm mồi cúng dường. Thành Vương-xá có một trưởng giả, vào núi thấy vậy, mới hỏi cúng dường có công đức gì? Chim thứu như pháp mà thuyết, trưởng giả vui mừng nói: Ngươi là thiện thần trong núi, từ này về sau, đến khi ta chết, ta sẽ cúng dường ngươi. Tất cả các chim nhờ vậy đều được cúng dường. Thứu nói với các chim: Các ngươi nên báo ơn thí chủ, các chim không hiểu ý đó, hàng ngày trộm tài vật của người khác bỏ trước nhà trưởng giả, các người mất của kiện cáo lên vua. Vua hồi trưởng giả. Trưởng giả y theo chuyện phụng đáp, vua nghe kinh ngạc, bèn vào núi. Chim Thứu ấy thuyết pháp, vua rất hoan hỷ, sau đấy cho đồ cúng dường. Núi đó nhân vì là nơi ở của linh thứu, nên có tên là linh thứu sơn.

Kinh: Cùng chúng đại Tỳ-khưu tám trăm vạn ức.

Giải thích: Từ đây là phần thứ năm: Nói về căn cơ được nhận giáo pháp đó có hai phần: Phần đầu là kể riêng, tán thán đức. Phần sau từ "phương khác…" tổng kết tập hội. Phần kể riêng, có mười hai chúng: 1 Thanh văn; 2. Duyên giác; 3. Bồ-tát; 4. Ưu-bà-tắc; 5. Ưu-bà-di; 6. Cư sĩ; 7. Sắc thiên; 8. Dục thiên; 9. Nhân vương; 10. Tạp loại; 11. Tha phương; 12. Biến hóa. Tuy có mười hai, nhưng gồm chung làm ba: Mười loại đầu là phương này. Một loại tiếp theo là phương khác. Một loại sau cùng là biến hóa.

Ở chúng Thanh văn, văn chia làm bốn phần: 1. Nêu loại, biện về số; 2. Lược nói hạnh vị; 3. Tán thán riêng về đức; 4. Tổng kết về đức. Đây là phần một: Nêu loại, biện về số.

"Cùng chúng đại Tỳ-khưu chúng" là nêu phân biệt với loại khác. Loại có mười hai. Đây là loại thứ nhất, nói về chúng Thanh văn, lược bớt các thừa khác nên gọi là Thanh văn. Luận Thành thật nói: Nghe pháp đắc ngộ cho nên gọi là Thanh văn. Luận Phật Địa nói: Nghe ngôn âm của Phật mà nhập thánh đạo, nên gọi là Thanh văn. Lại nữa, luận Du già quyển tám mươi hai nói: Từ người khác nghe được ngôn âm chánh pháp, lại còn có thể khiến nghe được âm thanh chánh pháp của người khác, nên gọi là Thanh văn. Nay nói chúng Tỳ-khưu là biệt danh trong bảy loại, giản lược sáu loại như Tỳ-khưu ni, v.v… nên nói là Tỳ-khưu.

Nêu danh Tỳ-khưu để hiển chúng Thanh văn. Văn có bốn chi tiết:

1. Cùng; 2. Đại; 3. Tỳ-khưu; 4. Giải thích chúng. Thân Phật góp chung với chúng kia, gọi đó là cùng. Lại nữa, cùng là chung. Vì các chúng Tỳ-khưu có bảy nghĩa chung nên gọi là cùng. Luận Trí Độ nói: Một xứ, một thời, một tâm, một giới, một kiến, một đạo, một giải thoát, là bảy nghĩa chung. Chữ "cùng" ở kinh này, tức là cùng chung kia.

Chữ "đại": Theo luận Trí Độ: Có ba nghĩa: 1. Lớn; 2. Nhiều; 3. Thù thắng (Hơn). Vì đứng trên trong chúng. Vì đoạn dứt các chướng. Vì các vua kính trọng, gọi là lớn. Vì số rất nhiều, gọi là nhiều. Có thể phá trừ chín mươi sáu loại dị luận của ngoại đạo, nên gọi là thắng. Theo luận Phật Địa, đại có bốn giải thích: 1. Vì lợi căn nên đại; 2. Vì Vô học mà đại; 3. Vì hồi hướng lớn, mà đại; 4. Số nhiều nên đại.

"Tỳ-khưu": tiếng Hoa gọi là Khất sĩ. Luận Kim cang tiên nói: Tỳ-khưu là tiếng Phạm. Tiếng Hoa dịch theo nghĩa là Phá ác hoặc gọi là Bố ma. Lại nữa, Bổn ký nói: Tại nhân thì gọi là Bố ma, Khất sĩ, Phá ác, đến quả thì chuyển Bố ma thành Sát tặc. Đổi Khất sĩ thành Ứng cúng, đổi Phá ác thành Bất sinh. Lại nữa, luận Du già quyển hai mươi chín nói: Bí sô (Tỳ-khưu) có năm: 1. Khất cái Bí sô (thường đi khất thực);

2. Tự xưng Bí sô (phạm trọng mất giới mà tự xưng Ta là Tỳ-khưu); 3. Danh tưởng Bí sô (tuy cạo tóc nhuộm áo nhưng chưa có giới, chỉ có danh tưởng); 4. Phá trừ phiền não Bí sô. (Đắc quả Thánh nhân); 5. Tỳ-khưu bạch bốn yết ma. (Người phàm phu trì giới). Nay Tỳ-khưu ở đây, là loại thứ tư và thứ năm.

"Chúng": Tiếng Phạm gọi là Tăng-già. Tiếng Hoa gọi là Chúng hòa hợp. Nghĩa là lý và sự cả hai đều hòa, cho nên gọi là Chúng. Luận Phật Địa nói: Cùng là Tăng xuất gia, nên gọi là chúng. Luận Trí Độ nói: Nhiều Tỳkhưu, hòa hợp một nơi, gọi là chúng.

"Tám trăm vạn ức": Biện về con số. Hỏi: Vì sao không nói chúng Tỳ-khưu ni?

Đáp: Có hai nghĩa: 1. Vì lược bớt; 2. Vì lấy phần hơn.

Kinh: Học, Vô học, đều A-la-hán.

Giải thích: Phần hai. Lược biện về hạnh vị.

"Học, Vô học" như luận Câu-xá quyển hai mươi bốn nói: Nghĩa là trong tám người, bốn hướng ba quả đều gọi là Hữu học, vì đắc lậu tận thường lạc học. Người thứ tám, A-la-hán, gọi là Vô học vì đã hoàn tất những điều phải tu học nên không còn học. Thể của học và Vô học đều là giới, định và tuệ vô lậu. Thế nào Niết-bàn chẳng phải Hữu học, Vô học? Do với thân dị sinh (phàm phu) cũng thành tựu. Theo tông Kinh Bộ, giống với đại thừa. Theo các luận của đại thừa thì nói khác nhau. Nếu theo Tập luận thì thông cả ở dị sinh, gọi là Hữu học, nên ở cuốn thứ hai luận ấy nói: Người cầu giải thoát, toàn bộ pháp thiện là nghĩa Hữu học. Một phần của các uẩn mười giới bốn xứ, là nghĩa Hữu học. Đối với các học xứ, người đã đắc cứu cánh, toàn bộ pháp thiện là nghĩa Vô học. Nghĩa là toàn bộ các pháp thiện, bất thiện, vô ký thuộc các dị sinh và các pháp vô ký nhiễm ô của người Hữu học, các pháp vô ký của người Vô học, đều cùng là pháp vô vi, đó là nghĩa của phi học và phi Vô học. Đủ tám giới, tám xứ và sót lại một phần uẩn xứ giới, là phi học phi Vô học. (Nói chi tiết như trong luận tạp tập.) Nếu theo luận Du-già, chỉ lấy tất cả pháp thiện của Thánh nhân, gọi là Học, Vô học. Nên quyển sáu mươi sáu nói: Nghĩa là, pháp hữu vi xuất thế của hàng Dự lưu... hoặc pháp thiện thế gian, đó gọi là học. Pháp Vô học là gì? Pháp hữu vi xuất thế của A-la-hán, hoặc pháp thiện thế gian, đó gọi là Vô học. Nghĩa là ngoài các pháp thuộc học và Vô học đã nói trên, còn lại Dự lưu cho đến A-lahán, nếu rơi vào sự tương tục dự sinh, toàn bộ các pháp tăng thượng kia đều gọi là phi học, phi Vô học. Thế nhưng hai đoạn văn kia như chưa nói hết lý. Vì học và Vô học, toàn bộ diệt định gồm thâu trong phi học phi Vô học đó. (Luận Du già quyển sáu mươi hai nói: Những đẳng chí này ấy đều gọi là phi học phi Vô học, do phi sở hạnh tựa như Niết-bàn.

"A-la-hán": Là tên gọi chung cho hạnh vị. Tiếng Phạm là A-la-hán, được phiên dịch bao hàm nhiều nghĩa: Tát-bà-đa tông, giải thích có bốn nghĩa: 1.Ứng cúng: Ứng thọ nhận cúng dường thù thắng của thế gian; 2. Sát tặc: Diệt giặc phiền não khiến không còn sót; 3. Bất sinh: Không còn sinh trở lại trong pháp sinh tử; 4. Viễn ác: Lìa xa các ác, các pháp bất thiện, (nói chi tiết như trong quyển 94 của luận Bà-sa). Theo tông Kinh Bộ: Đoạn dứt hết hoặc nên gọi là A-ha-hán, cũng như luận Thành Thật đã nói. Nay y theo đại thừa giải thích, có ba nghĩa. Như Luận Thành Duy Thức quyển ba nói: Trong đây nói về A-la-hán là gồm thâu chung cả quả vị Vô học thuộc ba thừa, đều đã vĩnh viễn diệt giặc phiền não, ứng thọ nhận sự cúng dường vi diệu của thế gian, và vĩnh viễn không còn thọ nhận phân đoạn sinh (tử). Luận Trí Độ nói: Cũng giống với mười lăm nghĩa đã giải thích trong luận Pháp Hoa. E nhiều quá không thuật đây.

Hỏi: Quả thứ tư đủ cả ba nghĩa, có thể gọi là A-lahán. Các quả khác không đủ ba nghĩa, sao lại nói đều là A-la-hán?

Theo Bổn ký nói: Thanh văn hướng tịch (hướng đến Niết-bàn) thì không thọ giáo, gọi là Vô học. Còn Thanh văn hồi hướng (hồi đầu) hướng đến Bồ-đề, gọi là Hữu học. Lại giải thích: A-la-hán; có đủ bốn nghĩa: 1. Lìa phàm; 2. Sát tặc; 3. Ứng cúng; 4. Phá nhân duyên. Luận chung về bốn quả đều có bốn nghĩa, vì vậy bảo đều là A-la-hán.

Có người nói: Vì chuyển căn..., nên gọi là Hữu học. Không mong cầu quả nữa, gọi là Vô học. Nay giải thích về A-la-hán, tự có hai loại:

1. Hành A-la-hán, tức là Học nhân. Trú A-la-hán: Là quả thứ tư. Luận Thành Thật nói: Hai loại A-la-hán là trú và hành. Lại văn kinh sau nói "ngũ giới Hiền giả tức là hạng hành A-la-hán. Hoặc có thể phân ra nghĩa ứng cúng,… nên gọi là A-la-hán, vì vậy trong kinh này gọi chung là A-la-hán.

Kinh: Công đức hữu vi, công đức vô vi.

Giải thích: Từ đây là phần ba. Tán thán riêng về công đức, (trong phần chúng Thanh văn tức chia làm tám phần: 1. Đức hữu vi; 2. Đức mười trí sai biệt; 3. Đức ba căn sai biệt; 4. Đức mười sáu quán môn; 5. Đức tam giả quán môn; 6. Đức tam không quán môn; 7. Đức tứ đế quán môn; 8. Đức duyên sinh quán môn.

Đây là đức thứ nhất đức hữu vi vô vi. Tông Tát-bàba, tức dưới đây nói về đức của mười trí, đều là hữu vi, vì bị dời đổi trong bốn tướng. Tự tính xuất thể, tức dùng tuệ đại địa làm tự tính. Cùng hữu xuất thể tùy theo tương ứng với chúng mà bốn uẩn năm uẩn lấy làm tự tính. Công đức vô vi tức là diệt đế vô vi, hoặc là phi trạch diệt, còn gọi là đoạn đức.

Nghĩa là đoạn dứt vô tri trong tất cả sự. Luận Câuxá nói: Các nhất thiết chủng, các minh diệt,… là tán công đức của Phật. Nay theo đại thừa, về mặt phân biệt thô tướng của công đức hữu vi phần lớn giống với tông Tát-bà-đa, với lý thì không trái. Công đức vô vi, tức chơn như trạch diệt vô vi và phi trạch diệt. Nguyên do là sao? Niết-bàn bổn lai thanh tịnh, tức trong sáu vô vi là thuộc về phi trạch diệt. Lại nữa, đại thừa tông, trạch diệt vô vi, tức là được hiển bày trên chơn như khi lìa chướng, mà không có một thể riêng biệt nào khác. Vô vi như vậy, chẳng bị tướng dời đổi, nên gọi là vô vi. Thức tâm biến đổi, theo sinh diệt thật tựa như vô vi, nên cũng là vô vi.

Kinh: Vô học, Hữu học sáu trí.

Giải thích: Phần hai. Đức của mười trí sai biệt. Nhưng trong mười trí này, các giáo bất đồng. Tông Tát-bà-đa, lấy mười chủng trí gồm thâu tất cả trí, nên luận Câu-xá quyển hai mươi sáu nói: Trí có mười loại, gồm thâu tất cả trí: 1. Thế tục trí; 2. Pháp trí; 3. Loại trí; 4. Khổ trí; 5. Tập trí; 6. Diệt trí; 7. Đạo trí; 8. Tha tâm trí;

9. Tận trí; 10. Vô sinh trí. Mười loại trí như vậy, tóm gọn thì có hai loại: Hữu lậu và vô lậu. Vì tính sai biệt. Hai loại trí như thế, về tướng thì chia ra làm ba phần: Nghĩa là thế tục trí, pháp trí và loại trí. Hữu lậu trí trước, gọi chung là thế tục, vì đa phần là cảnh thế tục. Vô lậu trí sau, chia ra là pháp và loại riêng biệt. Trong ba thế tục trí, lấy khắp tất cả hữu vi vô vi làm cảnh của đối tượng duyên. Pháp trí và loại trí, như thứ tự của chúng, lấy bốn đế thuộc cõi dục và cõi trên làm cảnh. Pháp trí, loại trí, do vì cảnh sai biệt, chia làm bốn trí: Khổ, tập, diệt, đạo. Vì có thể duyên nơi tha tâm làm cảnh giới, gọi là tha tâm trí. Nếu chánh thật tự biết Ta đã tri khổ, Ta đã đoạn tập, Ta đã chứng diệt, Ta đã tu đạo. Do tất cả những điều đó mà trí kiến minh giác, giải quán tuệ quang, đó gọi là tận trí. Ta đã biết khổ, không ứng với còn biết nữa, nói rộng ra cho đến Ta đã tu đạo, không ứng với còn tu nữa. Do toàn bộ những thứ đó, rộng thuyết cho đến đó gọi là vô sinh trí. Vô lậu trí là gì? Có thể biết như vậy. Các luận sư nước Ca thấp di la nói: xuất ra từ hai trí. Trong hậu đắc trí, biết như vậy, cho nên không sai. Do hai trí hậu đắc riêng biệt nên tỏ rõ sự sai biệt của hai trí trong quán trước. Có người nói: Trí vô lậu cũng biết như vậy. Theo phẩm Thập Trí của luận Thành Thật, tông Kinh Bộ, nói: Biết pháp hiện thế, ấy gọi là pháp trí. Biết pháp quá khứ, vị lai, gọi là tỷ trí. Các trí khác cũng vậy. Nay theo đại thừa, kinh này dựa theo vị sai biệt mà nói ba loại: 1. Tại học vị thì đầy đủ mười trí; 2. Tại tu vị: Chỉ có tám trí, trừ tận trí và vô sinh trí. Nếu tại kiến đạo thì chỉ có sáu trí. Là trí bốn đế và pháp, loại trí. Đó là dựa theo hiện khởi, nếu thành tựu chung thì cũng đắc thế tục, ba loại trí biên, là thế tục trí. Có nơi thì nói là mười, như luận Hiển Dương ý giống với Câu-Xá. Hoặc nói mười một, thêm luận Trí Độ, như như thật trí. Nghĩa là có thể như thật biết các pháp. Hoặc nói mười ba, như Tập Luận. Nhưng nay ở đây nói về nghĩa của mười trí nên dựa theo luận Hiển Dương nói về tướng mười trí: Trí là mười loại trí: 1. Pháp trí nghĩa là trí vô lậu đối với cảnh giới các nghĩa sở tri cùng hiện thấy; 2. Chủng loại trí: trí vô lậu đối với các nghĩa sở tri không cùng liễu, không hiện tiền; 3. Tha tâm trí: Nghĩa là quả tu do tu sinh ra, có thể biết tâm của người khác và trí tâm pháp. Và chư Như Lai biết các chúng sanh, tùy ý giải đó, tùy miên đó mà giáo thọ, giáo giới chuyển khởi diệu trí; 4. Thế tục trí: Nghĩa là, tuệ thế gian nương vào đó. Như Lai vì các chúng sanh, tùy theo ý giải của họ, tùy theo tùy miên đó mà diễn thuyết diệu pháp; 5. Khổ trí: Nghĩa là ở trong các hạnh hữu lậu, vô thường, khổ, không, lìa ngã tư duy, hoặc trí hoặc kiến. Giác ngộ minh liễu, tính tuệ quán sát; 6. Tập trí: Nghĩa là; ở trong nhân của các hạnh hữu lậu, nhân tập sinh duyên tư duy hoặc trí hoặc kiến. Ngoài ra như đã nói trên; 7. Diệt trí: Nghĩa là, ở trong diệt, các hạnh hữu lậu, diệt tĩnh diệu ly, tư duy hoặc trí hoặc kiến. Ngoài ra như đã nói trên; 8. Đạo trí: Nghĩa là ở trong đạo vô lậu có thể đoạn dứt các hạnh hữu lậu, đạo như hành xuất, tư duy hoặc trí hoặc kiến. Ngoài ra như đã nói trên; 9. Tận trí: Nghĩa là khổ đã biết, tập đã đoạn, diệt đã tu, hoặc duyên tận cảnh, hoặc lại là tận, hoặc trí hoặc kiến, ngoài ra như đã nói trên; 10. Vô sinh trí: Nghĩa là khổ đã biết, không còn gì đáng biết. Tập đã đoạn, không còn gì đáng đoạn, diệt đã chứng, không còn gì đáng chứng, đạo đã tu, không còn gì đáng tu, hoặc duyên cảnh vô sinh, hoặc là vô sinh, hoặc trí hoặc kiến. Ngoài ra như đã nói trên.

Kinh: Ba căn.

Giải thích: Phần thứ ba. Đức của ba căn sai biệt.

Nói "ba căn"; theo Bổn ký nói: 1. Tự tính căn: Là phàm phu; 2. Dẫn thủ căn: Là mười tín đến mười địa; 3. Đắc quả căn: Là Như Lai. Nay ở đây hiểu không phải vậy: 1. Vị tri đương tri căn; 2. Dĩ tri căn tri;

3. Cụ tri căn. Nhưng ba căn này đối với ba ngôi vị; kiến đạo, tu đạo và Vô học đạo là riêng biệt. Các tông bất đồng; tông Tát-bà-đa thì ba căn vô lậu; kiến đạo, tu đạo và Vô học đạo. Ba ngôi vị sai biệt, nghĩa là, mười lăm tâm, gọi là kiến vị, còn gọi là vị tri đương tri căn. Tâm thứ mười sáu cho đến Tam muội Kim cang, gọi là tu đạo, cũng gọi là dĩ tri căn. Sau khi đắc được tận trí, gọi là Vô học, và cụ tri căn. Sư ngoại quốc nói: Mười sáu tâm đều là kiến đạo, cũng gọi là vị tri đương tri căn, còn lại, như nói ở trên. Nếu phân biệt chi tiết thì như luận Chánh lý quyển chín đã nói. Nay theo thuyết của luận Đại trí Độ: Hoặc mười lăm tâm gọi là kiến đạo, hoặc mười sáu tâm gọi là kiến đạo. Nếu theo luận Thành Duy Thức thì kiến đạo có nhiều loại: 1. Vô tướng kiến đạo; 2. Ba tâm kiến đạo; 3. Hai loại mười sáu tâm; 4. Chín tâm kiến đạo. Vị có ba loại: 1. Vị căn bản: Nghĩa là tại kiến đạo, ngoại trừ Sát-na sau cùng, không có chỗ nào là chưa biết, đáng được biết; 2. Vị gia hạnh: Nghĩa là Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất pháp, có thể dẫn phát căn bản vị; 3. Vị tư lương: Nghĩa là từ đắc đế hiện quán phát khởi quyết định căn dục thắng thiện, cho đến chưa đắc toàn bộ thiện căn thuộc thuận phần quyết trạch, gọi là vị tư lương. Vì có thể dùng để sinh vị căn bản.

Kinh: Mười sáu tâm hành.

Giải thích: Phần bốn. Đức của mười sáu môn quán. Theo Bổn ký nói: Mười sáu tâm là ba mươi tâm địa tiền, hợp thành bốn tâm. Đăng địa là mười, Kim cang và Phật, hợp thành mười sáu tâm. Nay hiểu không vậy. Nghĩa là, duyên với bốn đế mà khởi mười sáu hành tướng, hành tướng thì dùng tuệ làm tự tính. Nói: "Tâm hành" là cái hành của tâm, chẳng phải tâm tức hành. Mười sáu hành đó như trong luận Câu-xá quyển mười sáu đã nói. Luận viết:

Có sư khác nói:

Mười sáu hành tướng, tuy gọi mười sáu tên n thật chỉ có bảy. Nghĩa là duyên khổ đế gọi là thật, đều có bốn. Duyên ba đế còn lại gọi là bốn, thật sự có một. Nói như thế thì thật cũng có mười sáu.

Nghĩa là: Khổ Thánh đế có bốn hành tướng: 1. Phi thường; 2. Khổ;

3. Không; 4. Phi ngã. Vì đợi duyên nên Phi thường. Vì tính bức bách cho nên Khổ. Trái với ngã sở kiến, cho nên là không. Trái với ngã kiến, cho nên là Phi ngã.

Tập Thánh đế có bốn tướng: 1. Nhân; 2. Tập; 3. Sinh; 4. Duyên. Như lý chủng (gieo giống), cho nên là nhân. Cùng hiện chủng, cho nên là Tập. Lý tương tục nên Sinh. Lý thành tựu nên Duyên. Thí như: Đất sét, bánh quay, dây thừng, nước… các duyên hòa hợp làm thành bình sứ…

Diệt Thánh đế có bốn tướng: 1. Diệt; 2. Tĩnh; 3. Diệu; 4. Ly. Vì các uẩn hết nên là Diệt. Vì ba hỏa đã tắt, nên Tĩnh. Vì không có các hoạn nạn, nên Diệu. Vì thoát các tai họa, nên là Ly.

Đạo Thánh đế có bốn tướng: 1. Đạo; 2. Như; 3. Hạnh; 4. Xuất. Vì nghĩa thông hành, nên là Đạo (con đường). Khế với chánh lý, nên là Như. Chánh hướng đến nên là Hành. Vì có thể vĩnh viễn siêu vượt nên là Xuất. Nếu phân biệt chi tiết thì như trong luận Đại Bà-sa quyển bảy mươi chín.

Kinh: "Pháp giả đến danh giả quán hư thật".

Giải thích: Phần năm: Đức của môn quán ba giả. Theo Bổn ký: Ba loại ba giả là nhân thành tựu của biệt giáo. Tông Thành thật luận: Nhân sinh duyên thành ba giả tương tục Thông giáo gọi là thọ... Đại Phẩm nói: Pháp giả thọ giả, Danh giả. Nay giải thích không như vậy. Theo Đại Bát-nhã ba giả là: 1. Pháp giả: Nghĩa là, năng thành năm uẩn, vì từ duyên sinh; 2. Thọ giả: Nghĩa là cái giả tương tục giả được thành do uẩn, thọ nhận năm uẩn; 3. Danh giả: Nghĩa là cả hai danh kia, không có thật thể. Ba thứ đều giả dối, quán lý thật tướng, gọi là quán hư giả.

Kinh: Môn quán ba không.

Giải thích: Phần sáu: Đức của môn quán ba "không".

Ba không là: 1. Môn Không; 2. Môn Vô tướng; 3.

Môn Vô nguyện.

Theo tông Tát-bà-đa, không vô ngã hành gọi là môn không; diệt bốn hành dưới gọi là Vô tướng, mười hành còn lại gọi là Vô nguyện ba loại này cũng gọi là ba Tam muội. Nay dựa theo Đại thừa Phật Địa luận nói: Biến kế sở chấp, sinh pháp vô ngã, gọi là không. Duyên với Tam-ma-địa, gọi là môn giải thoát không.

Tướng: Nghĩa là mười tướng; tức sắc, thanh, hương, vị, xúc, nam, nữ, sinh, lão, tử. (còn gọi là sinh, trụ, diệt) với Niết-bàn, không có các tướng này, nên gọi là Vô tướng. Duyên với Tam-ma-địa, gọi là môn giải thoát Vô tướng.

Nguyên: Là nguyện cầu, quán khổ trong tam giới, không có gì để nguyện cầu, nên gọi là vô nguyện. Duyên với Tam-ma-địa đó, gọi là môn giải thoát vô nguyện Luận Trí Độ quyển sáu nói: Biết thật tướng của tất cả pháp, vốn gọi là Tất cánh Không, chính là Tam muội Không. Đã biết Không đó rồi, không quán các pháp không hay là bất không, hữu hay vô, đó gọi là Tam muội Vô tác. Tướng hữu vô của tất cả pháp đều không thọ, không vướng. Đó gọi là Tam muội Vô tướng. Lại nữa, mười tám không, đó gọi là Tam muội không. Tâm không cầu trong nhiều loại hữu, đó gọi là Tam muội vô tác. Tất cả các tướng tan hoại, không nhớ nghĩ, đó gọi là Tam muội Vô tướng. (Nói đầy đủ như trong luận kia).

Kinh: Bốn đế, mười hai duyên.

Giải thích: Phần bảy-Đức của môn quán Tứ đế. Phần tám-Đức của môn quán duyên sinh.

Về bốn đế, chia làm hai phần: 1. Giải thích danh; 2.

Nêu ra thể.

Giải thích danh có hai: Thông, và biệt.

Nói "bốn đế": Tức là danh thông (chung). Bốn là nêu con số. Đế là nghĩa thật, nghĩa như, nghĩa không điên đảo, nghĩa không hư dối. Đó là theo luận Đại Bà-sa. Nếu theo đại thừa thì có ý nghĩa là không lìa bỏ các tướng như đã nói. Do quán những thứ đó mà đạt đến cứu cánh. Nghĩa thanh tịnh là nghĩa của đế. Như luận Du già đã nói.

Về biệt danh (tên riêng) thì: 1. Khổ; 2. Tập; 3. Diệt; 4. Đạo. Bức bách gọi là khổ. Sinh trưởng gọi là tập. Tịch tịnh, gọi là diệt. Xuất ly, gọi là đạo. Nói chi tiết như trong Tỳ-bà-sa, Câu-xá. Chánh lý phần hai: Xuất thể: Theo tông Tát-bà-đa thì năm thủ uẩn là khổ đế. Nhân hữu lậu là tập đế. Trạch diệt kia là diệt đế. Pháp học và pháp Vô học là đạo đế. Theo tông Kinh Bộ thì các danh sắc là khổ đế. Nghiệp phiền não là tập đế. Nghiệp phiền não tận là diệt đế. Chỉ quán là đạo đế. Theo tông đại thừa thì cũng giống với tông Kinh Bộ, nên không thuật ra đây.

"Mười hai duyên" là: Vô minh, hành… cho đến… lão, tử. Ngu trong ba đời, với cảnh không hiểu, cho nên gọi là vô minh, ba nghiệp các phước dời trôi tạo tác, gọi đó là hành. Tám thức nhãn v.v… hiểu biết phân biệt cảnh giới, gọi là thức. Các sắc các tướng, tức biểu chất ngại, gọi là danh sắc. Sáu căn: Nhãn,… sinh trưởng các tâm, gọi là sáu xứ. Ba xúc như khổ v.v... xúc đối tiền cảnh, nên gọi là xúc. Ba thọ, như khổ... thuận, chống trái, gọi đó là thọ. Các tham của tự thể, tham nhiễm tự cảnh, nên gọi là ái. Bốn thủ như dục..., chấp giữ các cảnh, gọi đó là thủ. Các loại hành, thức... có thể nhận lấy sự sinh, gọi đó là hữu. Năm pháp như thức..., vốn không nay có, gọi đó là sinh. Tức năm pháp kia, suy, biến, diệt, hoại, nên gọi là lão tử.

Kinh: Vô lượng công đức đều thành tựu. Giải thích: Phần bốn: Tổng kết về đức.

Kinh: Lại có tám trăm vạn ức đại Thiên Duyên giác. Giải thích: Phần hai: Biện về chúng Duyên giác.

Trong đây có ba phần: 1. Nêu số biện loại; 2. Tán thán công đức;

3. Tổng kết về công đức. Đây là phần một "Tám vạn ức"; là nêu con số chung.

"Đại tiên Duyên giác" là hiển bày sai biệt.

Theo Bổn ký nói: Tự nhiên tỏ ngộ, gọi là đại tiên. Nay giải thích: Tiên là thường vui với sự tịch tĩnh, như người ở núi, là đại tiên. Vì vậy luận Du già giải thích: Thường thích tịch tĩnh, không muốn tạp cư.

Không thầy mà tự mình tỏ ngộ, gọi là Độc giác. Nhưng tiên nhân kia có ba loại: 1. Phật; 2. Độc giác; 3. Năm thông. Như đã nói trong cuốn luận Đại bà-sa quyển một trăm tám mươi ba. Nay đối năm thông mà gọi là Đại tiên.

Hỏi: Trong chúng hội Phật, có Duyên giác không? Nếu nói là có thì sao có thể giải thích trong phẩm thứ nhất của kinh Đại Nghiêm nói: Nhất sinh bổ xứ Bồ-tát sắp hạ sinh. Có thiên tử xuống Diêm phù đề bảo Phật Bích Chi: Nhân giả! Nên xả bỏ đất đó. Vì sao? Mười hai năm sau, sẽ có Bồ-tát, giáng thần nhập thai. Lúc ấy, năm trăm Phật Bích Chi, nghe vị thiên tử nói xong, từ tòa mà khởi, nhảy lên không trung, cao bảy cây Đa la, hóa lửa thiêu thân, nhập Niết-bàn. Nếu nói là không thì kinh này nói tám trăm vạn ức Đại tiên Duyên giác, sao có thể thông được?

Đáp: Các thuyết khác nhau, một thuyết nói: Bí mật tức có, hiển hiện tức không có. Cho nên luận Trí Độ nói: Phật pháp có hai loại: Bí mật và hiển hiện. Mới bắt đầu chuyển pháp luân, có những người của ba thừa, mỗi thừa đều đắc quả. Đó là chúng bí mật. Nay trong kinh này, dựa theo bí mật mà thuyết, cho nên bảo là có. Còn kinh Đại Nghiêm đã nói, là dựa theo chúng hiển hiện, nên không trái nhau. Một thuyết nói: Độc giác có hai loại: 1. Bổn tính độc xuất; 2. Trước là Thanh văn, sau thành Độc giác. Như năm trăm tiên nhân cùng một thời mà xuất. Như cuốn trong cựu Bà-sa quyển bốn mươi hai đã nói.

Giải thích: Cả hai kinh mỗi kinh đều căn cứ vào một người, cũng không trái nhau. Có thuyết nói: Độc giác tự có hai loại: 1. Dụ như sừng kỳ lân, độc nhất không hai, nên biết là như Đức Phật; 2. Bộ hành, nhiều người cùng xuất, ở đó có hai loại: Một là Duyên Giác tính, như năm trăm tiên nhân. Hai là, Thanh văn chủng tính, cũng là năm trăm tiên nhân, cho nên Tân Bà-sa quyển hai mươi nói: Năm trăm tiên nhân đa phần là chủng tính. Giải thích: Đã có nhiều thuyết, tám trăm vạn ức tiên nhân ở kinh này, hoặc là Thanh văn chủng tính, hoặc là Duyên giác chủng tính. Mà nói là xuất sanh khi đời không có Phật là nói theo đa phần. Lại nữa, luận

Tạp Tập cuốn mười ba nói: Bổ đặc già la thuộc Độc giác thừa; nghĩa là trú pháp Độc giác, tính hoặc định hoặc bất định, trong đó căn tự cầu giải thoát, cho đến hoặc chưa khởi thuận phần quyết trạch, hoặc trước đã khởi, hoặc trước chưa đắc quả, hoặc trước đã đắc quả, xuất hiện khi đời không có Phật, duy chỉ nội tư duy Thánh quán hiện tiền, hoặc như sừng lân, hoặc lại Độc Thắng bộ hành. Nếu trước chưa khởi, cũng chưa đắc quả, mới thành sừng lân, ngoài ra thì gọi là bộ hành. (Nói rõ như trong luận kia).

Kinh: Phi đoạn, phi thường, bốn đế, mười hai nhân duyên đều thành tựu.

Giải thích: Phần hai: Tán thán riêng công đức. "Phi đoạn phi thường"; trong bốn đế thì tập đế là nhân, khổ đế là quả, mười hai nhân duyên sinh lần lượt cùng sinh. Nhân quả như vậy đều lìa đoạn thường. Lại có giải thích: Nhân và quả tương tục nhau không dứt, như trong luận thành Duy Thức. Nhân diệt, nên chẳng phải thường. Quả sinh, nên chẳng phải đoạn. Phi đoạn phi thường tức nhân quả trung đạo. Còn tứ đế duyên sinh thì nghĩa như đã nói trên.

Kinh: Vô lượng công đức đều thành tựu. Giải thích: Phần ba Tổng kết về đức.

Kinh: Lại còn có… Ma-ha-tát.

Giải thích: Phần ba: Hiển bày chúng Bồ-tát. Văn có bốn phần: 1. Nêu số biện loại; 2. Lược biện về vị địa; 3. Tán thán riêng về công đức;

4. Tổng kết về công đức. Đây là phần một. Thế nhưng chư Bồ-tát có hai loại: Một là: Thông danh: Có mười sáu loại: 1. Gọi là Bồ-tát; 2. Gọi là Ma-ha-tát…

16. Gọi là Pháp sư. Hai là: Biệt danh: Là Mạn Thù Thất Lợi và Di Lặc,… Nay nói "Bồ-tát Ma-ha-tát" là hai danh đầu trong mười sáu danh gọi. Hai danh gọi đó, theo âm Phạm thì phải nói là Bồ-đề Tát-đỏa Ma-ha-tát-đỏa, vì lược bớt, chỉ nói là Bồ-tát Ma-ha-tát. Bồ-đề là giác, Tátđỏa; là hữu tình hoặc có nghĩa là tinh tiến. Cho nên luận Nhiếp Đại thừa, Vô tánh giải thích, nói: Bồ-tát; là Bồ-đề Tát-đỏa làm cảnh của đối tượng duyên, nên gọi là Bồtát, theo cảnh mà đặt tên như quán bất tịnh,… hoặc vì tâm kia cầu Bồ-đề, có chí có năng lực nên gọi là Bồ-tát. Luận Phật Địa nói: Gọi là Bồ-tát, nghĩa là các Tát-đỏa cầu Bồ-đề. Đây là chung cho cả ba thừa, vì giản lược bớt lấy cái lớn nên lại cần nói thêm chữ Ma-ha-tát. Đầy đủ đại nguyện tự lợi lợi tha, cầu Bồ-đề để tạo lợi ích cho hữu tình. Lại nữa, Tát-đỏa, nghĩa là dũng mãnh. Tinh tiến dũng mãnh cầu đại Bồ-đề, nên gọi là Bồ-tát. Đó là chung cho cả các ngôi vị, ở đây là lấy theo các vị đại Bồtát trên địa, vì vậy mà nói là Ma-ha-tát.

Kinh: Đều hành A-la-hán.

Giải thích: Phần hai: Lược biện về hành vị.

Giải thích về nghĩa của A-la-hán như trên đã nói. Nhưng chư Bồ-tát gọi là A-la-hán thì có ba nghĩa: 1. A-la-hán hồi tâm hướng đại, vẫn gọi là A-la-hán; 2. Chư Bồ-tát mười địa đều thọ nhận ứng cúng; 3. Phật quả gọi là A-la-hán. Bồ-tát đại địa hành A-la-hán, cũng gọi là A-la-hán. Ý nghĩa này như nói trong luận Thành Duy Thức.

Kinh: Thật trí công đức… Kim cang diệt định.

Giải thích: Phần ba: Tán thán riêng về công đức.

Chia làm mười:

1. Công đức của hai trí phương tiện, và chơn thật; 2. Công đức chỉ hành đại thừa; 3. Công đức bốn nhãn; 4. Công đức năm thông; 5. Công đức ba đạt; 6. Công đức mười lực; 7. Công đức bốn vô lượng; 8. Công đức bốn biện; 9. Công đức bốn nhiếp; 10. Công đức Kim cang diệt định. Hoặc có thể chia thành mười một công đức, vì hai trí: Phương tiện trí và thật trí riêng biệt. Hoặc chia thành mười hai công đức, vì Kim cang và diệt định, hai loại riêng biệt. Tuy có ba thuyết, nhưng tạm dựa theo thuyết đầu.

Đây là phần một: Môn công đức của hai trí. Về hai trí này thì các thuyết bất đồng. Một thuyết nói: Chánh thể trí gọi là thật trí, vì duyên với thật cảnh, hận sở đắc trí là phương tiện, do phương tiện thiện xảo Quốc độ chúng sanh. Một thuyết nói: Chánh thể hậu đắc gọi là thật trí. Vì có thể duyên với hai cảnh thật chơn và tục. Lấy gia hạnh trí gọi là phương tiện, vì có thể dẫn sinh chánh thể trí. Nói: "Hành chỉ riêng đại thừa" là tán thán đức thứ hai. Bổn ký nói: Xuất khỏi nhị thừa. Đại thừa có hai: 1. Từ thập tín đến Thập giải là bất định, còn thối chuyển thành nhị thừa; 2. Từ Thập hạnh đến Thập địa là định, nên nói là hành riêng đại thừa. Nay giải không vậy: Bốn đế duyên khởi, đại tiểu cùng hành, sáu Ba-la-mật chỉ có Bồ-tát hành, nên bảo là hành riêng đại thừa. Hoặc có thể Bát-nhã có hai: 1. Đại và tiểu cùng hành; 2. Chỉ có Bồ-tát hành, nên bảo là hành riêng đại thừa.

Nói: "Bốn nhãn": Là tán thán đức thứ ba. Trong năm nhãn, nhục, thiên, pháp, tuệ, chỉ trừ Phật nhãn, vì chưa thành Phật. Hình hài da dẻ gọi là nhục, chiếu soi gọi là nhãn, nhục tức là nhãn nên gọi là nhục nhãn. Thiên nhãn có ba loại: 1. Báo đắc: Nghĩa là như các Tứ Thiên vương, và Sắc giới nhãn, nhãn của cõi trời. Nên gọi là thiên nhãn; 2. Phật, Bồ-tát báo đắc nhãn căn, vì nhãn của người tịnh, cũng gọi là thiên nhãn; 3. Nhãn căn sinh ra do bốn loại tĩnh lự, cũng gọi là thiên nhãn, đó là tu đắc.

Quán các pháp môn gọi là pháp nhãn. Thông đạt tướng không, gọi là tuệ nhãn. Bốn nhãn đó ở tại Phật thân, chuyển gọi là Phật nhãn. Trong năm nhãn: Nhục nhãn lấy sắc làm thể. Thiên nhãn thì thông cả sắc và tâm, thấy sắc hiện tại, tức là nhãn căn. Vì biết vị lai thì chỉ có tâm. Hai nhãn pháp và tuệ, dùng tuệ làm thể. Phật nhãn thì dùng bốn nhãn làm thể, hoặc có thể là tuệ, quán Như Lai tạng. Đó là dụng của tuệ nhãn. Nghĩa chi tiết của năm nhãn đó như ở chương khác.

Nói "năm thông": Là tán thán đức thứ tư, trong sáu thông chỉ trừ lậu tận, vì Bồ-tát chưa đoạn dứt hết phiền não. Ở trong đối tượng duyên không bị ngừng trệ, gọi đó là thông. Luận đại bà-sa nói: Ở tự đối tượng duyên, không bị đảo mà thông đạt, diệu dụng vô ngại, nên gọi là thông.

1. Thần cảnh trí chứng thông. Nghĩa là đẳng trì, do vậy có thể làm các việc thần biến. Các việc thần biến, gọi là cảnh.

2. Thiên nhãn trí chứng thông: Thù thắng gọi là thiên, nhãn này thù thắng, nên gọi là thiên, Sắc giới đại tạo, thuộc căn tịnh sắc, thấy xa không ngại, gọi là thiên nhãn.

3. Thiên nhĩ trí chứng thông: Thiên, đồng nghĩa với trên. Sắc giới đại tạo, thuộc về nhĩ tịnh sắc, nghe xa không ngại, gọi là thiên nhĩ.

4. Tha tâm trí chứng thông: Biết tâm người khác, gọi là tha tâm trí. Các sư Du già, ý vui gia hạnh, muốn biết tâm của người khác, nhưng chẳng biết tâm sở của người khác, vì vậy mà chỉ gọi là "tha tâm trí" ba chữ. Phải dùng tâm làm tiên quyết, cũng nhận biết cả tâm sở.

5. Túc trụ tùy niệm trí chứng thông: Các năm uẩn hữu lậu đời quá khứ, gọi là túc trụ. Tùy uy lực của niệm mà biết những thân năm uẩn trước kia, nên gọi là tùy niệm. Nghĩa là trong những tụ đó, tuy có nhiều pháp, nhưng niệm lực tăng thượng cho nên nói là tùy niệm.

6. Lậu tận trí chứng thông: Lậu nghĩa là phiền não, tận; tức là diệt tận, nên gọi là lậu tận. Hoặc có thể lậu tận trong thân khởi, gọi là lậu tận. Hoặc có thể duyên lậu tận, gọi là lậu tận thông về thể thì theo tông Tát-bà-đa: Sáu thông đều dùng trí tuệ làm thể. Luận Bà-sa cũng nói vậy. Nay theo đại thừa, sáu thông đều lấy định tuệ và pháp tương ưng, làm thể.

Nói "ba đạt" là tán thán đức thứ năm. Tức là ba minh, đạt và hiểu vô ngại, nên bảo là minh. Luận Bà-sa quyển một trăm lẻ hai nói: Thông đạt hiểu rõ, gọi là minh.

1. Túc trụ tùy niệm trí chứng minh: Vì thông đạt hiểu rõ pháp đời trước; 2. Tử sinh trí chứng minh: Vì thông đạt hiểu rõ pháp đời sau; 3. Lậu tận trí chứng minh: Thông đạt hiểu rõ tính Niết-bàn, đều gọi là minh. Nếu nêu ra thể thì tông Tát-bà-đa lấy tuệ làm thể, ở trong sáu thông, túc trú, thiên nhãn lậu tận làm tính. Như tiếp đối trị ba loại ngu trong đời trước sau và giữa.

Luận Câu-xá nói: Ba minh không tăng không giảm, chơn và giả phân biệt rõ ràng, lậu tận minh, thông cả giả và chơn, còn hai minh khác là giả, vì chỉ hữu lậu. Trí hữu lậu và trí vô lậu đều gọi là lậu tận. Vì đều sinh ra từ trong thân lậu tận. Chơn gọi là vô lậu. Giả; gọi là hữu lậu. Vì hình tướng hơn kém, nên nói là chơn, giả; 4. Phân biệt Học và Vô học, chỉ có ở tại Vô học vì Hữu học còn ám tối. Theo luận Bà-sa lập ba ý có hơi khác luận Câuxá. Như Bà-sa quyển một trăm lẻ hai nói. Nay ở đây theo đại thừa luận Phật Địa giống với Câu-xá. Luận Phật Địa nói: Vô học lợi căn đắc được ba thông, trừ nhiễm và bất nhiễm ngu trong ba đời, gọi là tam minh. Có người nói: Minh, lấy tâm tuệ làm tính, tuệ có thể trừ ám nên gọi là minh. Có người nói: Thiện căn vô ngại làm tính. Vì lật ngược vô minh.

Hỏi: Thông và minh khác nhau như thế nào?

Đáp: Trí Độ luận quyển hai nói: Chơn thật biết sự việc bổn mạng mệnh kiếp trước gọi là thông. Biết nhân duyên hành nghiệp của quá khứ gọi là minh. Biết một cách chơn thật chết ở đây sinh ở kia, đó là thiên nhãn thông. Biết nhân duyên của các hành, chứng hiểu không sai lầm, đó là minh. Biết đúng thật đã tận hết kiết sử, không biết còn sinh nữa hay không sinh nữa, đó là lậu tận thông. Nếu biết lậu tận không còn sinh lại nữa, đó gọi là minh. Ba minh này là chỗ chứng đắc của Đại A-la-hán, đại Phật Bích Chi, cho nên biết sự sai biệt giữa thông và minh, hơn và kém.

Nói "mười lực": Là tán thán đức thứ sáu. Có hai giải thích: Có thuyết nói: Chỉ có Phật mới có mười lực, ngoài ra chẳng ai có, nghĩa là; xứ, phi xứ, cho đến lậu tận. Có thuyết nói: Bồ-tát cũng có mười lực. Như luận Trí Độ quyển hai mươi tám nói: Phật có mười lực, bốn vô sở úy. Bồ-tát có hay không?

Đáp: Có. Là những gì? 1. Lực phát khởi Nhất-thiếttrí, tâm bền vững sâu xa; 2. Lực đại từ; 3. Lực đại bi; 4. Lực đầy đủ tinh tiến; 5. Lực thiền định viên mãn; 6. Lực trí tuệ đầy đủ; 7. Lực không chán sinh tử; 8. Lực vô sinh nhẫn; 9. Lực giải thoát đầy đủ; 10. Lực đầy đủ trí vô ngại. Nói "Bốn vô lượng" đó là tên gọi chung. Theo tông Tát-bà-đa.

Như luận đại Bà-sa quyển tám mươi mốt nói: Hỏi: Vì sao gọi là vô lượng? Vô lượng là nghĩa gì?

Đáp: Bốn loại như vậy là xứ hiển bày rộng diệu dụng của chư hiền thánh, nên gọi là vô lượng. Lại nữa, bốn loại như vậy, có thể duyên với vô lượng hữu tình làm cảnh, sinh ra vô lượng phước, dẫn đến vô lượng quả, cho nên gọi là vô lượng. Theo tông đại thừa thì lấy ba nghĩa để giải thích danh từ vô lượng. 1. Rộng; 2. Lớn; 3. Vô lượng. Rộng: Là tác ý do kiến hiện hành. Lớn là tác ý ở văn. Vô lượng; là chốn hành tác ý ở giác tri. Ba nghĩa như vậy, duyên khắp một phương, cho đến mười phương vô biên khí thế gian và hữu tình thế gian, nên gọi là vô lượng. Về biệt danh là: 1. Từ; 2. Bi; 3. Hỷ; 4. Xả. Như luận Câu-xá quyển hai mươi chín nói: Từ là cho niềm vui. Bi là nhổ dứt nỗi khổ. Hỷ là vui vẻ, an lạc. Xả là bình đẳng. Theo tông Kinh Bộ, như luận Thành Thật, phẩm Tứ vô lượng. Từ là tâm thiện trái ngược với sân.

Bi là tâm thiện trái ngược với não, hỷ là tâm thiện trái ngược với ganh tị. Cả ba tâm đó đều là sự sai biệt của tâm từ, có thể khiến cho cả ba tâm ấy bình đẳng gọi là xả. Nay theo đại thừa, như luận Hiển Dương đã nói: Từ vô lượng: Đối với chúng sanh không khổ, không lạc, muốn thí các thứ an lạc. Bi: Với chúng sanh có khổ, muốn nhổ dứt các thứ khổ. Hỷ: Với chúng sanh có lạc, thì tùy hỷ với lạc kia. Xả: Xả bỏ các tâm, không nhiễm ý lạc.

Nêu ra thể: Theo tông Tát-bà-đa, từ bi vô lượng tự có hai thuyết: Một thuyết nói đều lấy thiện căn vô sân làm thể tính, nhưng sai biệt nhau là; từ thì để trị với sân đoạn dứt mạng sống, bi là đối trị với sân đánh đập. Một thuyết nói: Từ lấy thiện căn vô sân làm thể tính.bi lấy thiện căn bất hại là tính, vì để đối trị với hại. Hỷ thì vô lượng tính. Xả thì thiện căn vô tham làm tính. Theo tông Kinh Bộ, như luận Thành Thật nói: Cả bốn đều là tuệ. Bốn vô lượng đó đều là tuệ tính. Nay ở đây theo đại thừa Tập Luận Tạp Tập: Bốn loại đều lấy hoặc định hoặc tuệ và các tâm, tâm pháp tương ưng với cả hai làm tự tính. Luận Hiển Dương quyển bốn: Từ lấy thiện căn vô sân làm thể. Bi lấy thiện căn bất hại làm thể. Hỷ lấy thiện căn không đố kỵ làm thể. Xả lấy thiện căn không tham, không sân làm thể. Vì đều là pháp thương xót chúng sanh. Trong bốn tâm đó, từ duy chỉ là không sân. Hai vô lượng tiếp theo là một phần vô sân. Xả là vô tham vô sân một phần. Lại còn tương ưng với đẳng trì nơi các tâm tâm pháp. Đều cùng là quyến thuộc của chúng, đều là thể của bốn vô lượng.

Nói "bốn biện" là tán thán đức thứ tám. Còn gọi là bốn vô ngại giải: Là pháp, nghĩa, từ, biện. Với pháp đã nêu giảng, với nghĩa đã nêu giảng, với từ ngữ của các vùng, với lý của chánh đạo, trong mỗi một pháp, đều thông đạt không ngừng trệ. Như thứ tự, gọi là pháp, nghĩa, từ, biện, bốn loại vô ngại. Nói chi tiết như trong luận Bà-sa, luận Câu-xá. Nếu theo đại thừa, luận Du già quyển bốn mươi lăm; ở trong chư pháp, tất cả dị môn, tất cả dị tướng, tất cả phẩm biệt, trong mỗi một pháp, tận tất cả tính. Như tất cả tính, nương theo tu mà thành, không bị trở ngại, không thối chuyển trí. Luận Nhiếp Đại thừa, Vô tánh giải thích: Do pháp vô ngại, tự tại liễu tri tất cả pháp cú. Do nghĩa vô ngại, tự tại thông đạt tất cả nghĩa lý. Do từ vô ngại, tự tại phân biệt tất cả ngôn từ.

Do biện vô ngại, khắp ở mười phương, tùy theo chỗ ứng hợp, tự tại biện thuyết. Nói chi tiết như trong luận Tạp Tập quyển mười bốn. Nêu ra thể tính; theo tông Tát-bà-đa thì bốn biện đều dùng tuệ làm tự tính. Nay theo đại thừa, dụng chung định tuệ và các pháp tâm, tâm sở tương ưng với cả hai làm tự tính, như luận Tạp Tập đã nói.

"Bốn nhiếp" là giải thích đức thứ chín, chia làm hai phần: 1. Giải thích danh; 2. Biện minh nghiệp. Phần giải thích danh có hai: Trước tổng, sau biệt. Nói bốn nhiếp là tên chung, lấy bốn loại pháp để thâu giữ lấy chúng sanh. Nên gọi là bốn nhiếp. Tên gọi riêng thì có bốn: 1. Bố thí; 2. Ái ngữ; 3. Lợi hành; 4. Đồng lợi. Theo luận Thành Thật. Phẩm tứ pháp, nói: Bố thí là dùng các đồ vật ăn, mặc,… để thâu nhiếp chúng sanh. Ái ngữ: Là theo ý mà nói, vì để lấy lòng họ. Lợi hành: Cầu lợi vì họ, giúp họ thành sự. Đồng lợi: Như cùng một thuyền, vui buồn giống nhau. Kinh Đại Phẩm nói: Hai loại tài, pháp, thâu lấy chúng sinh, gọi là bố thí. Dùng sáu Ba-la-mật, vì chúng sanh mà thuyết giảng gọi là ái ngữ. Giáo hóa chúng sanh, khiến hành sáu độ, gọi là lợi hành. Dùng lực thần thông, nhiều loại biến hóa, nhập vào trong năm đạo, đồng sự với chúng sanh, gọi là đồng sự. Nói đủ như kinh kia.

Nếu phân biệt chi tiết, như đại Bát-nhã và luận đại Trí Độ quyển bảy mươi mốt. Phần hai: Giải thích về nghiệp. Như luận Trang Nghiêm quyển thứ tám nói: Hỏi: bốn nhiếp nghiệp là gì? Kệ:

Khiến khí và khiến tin, Khiến hành và khiến hiểu, Như vậy làm bốn việc, Thứ tự bốn nghiệp nhiếp.

Giải thích: Bố thí là có thể khiến với pháp mà thành khí. Do tùy thuận với tiền tài thì chịu thọ nhận pháp. Ái ngữ là: Có thể khiến khởi tín với pháp. Do dạy ý nghĩa của pháp mà mối nghi của họ được đoạn dứt. Lợi hành là có thể khiến cho khởi hành với pháp, do như pháp theo hành. Đồng lợi là có thể khiến họ đắc giải thoát, do hạnh tịnh lâu ngày mà được lợi ích. Chi tiết như trong luận kia (hoặc có bản nói thuyết bốn hoằng nguyện, các chúng sanh biết khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo. Vì nhiều bản không có nói như vậy, cho nên không nương theo).

Nói "Kim cang diệt định" là giải thích đức thứ mười, là một niệm sau cùng của địa thứ mười. Có thể diệt hai chướng, nên bảo là diệt định. Nói là Kim cang diệt định, có hai nghĩa:

1. Định là chủ thể đoạn trừ: Không có vật gì mà không phá tan được, giống như Kim cang.

2. Đối tượng diệt là phiền não kiên cố khó đoạn dứt. Giống như Kim cang, định này có thể diệt, nên bảo là Kim cang diệt định. Do đó bản kinh đời Đường đặt tên là Năng đoạn Kim cang. Lại nữa, kinh Thập Luận, tụng thứ hai viết:

Phá tương tục là gì, Như Kim cang phiền não.

Trường hàng viết: Phá diệt tất cả phiền não tương tục của các loại chúng sanh, cứng như Kim cang. Có người nói: Diệt định tức là định diệt tận. Tám địa trở lên và chư Như Lai đều đắc diệt định. Bảy địa trở xuống, hoặc đắc, hoặc chưa đắc, chế phục hoặc phi tưởng, vì chưa quyết định.

Kinh: Tất cả công đức đều thành tựu.

Giải thích: Phần thứ tư. Tổng kết công đức. Đã rõ.

Kinh: Còn có ngàn vạn ức hiền giả năm giới.

Giải thích: Từ đây là phần bốn. Nói về chúng Ưubà-tắc. Văn có bốn phần: 1. Nêu số biện loại; 2. Biện về hạnh vị; 3. Tán thán riêng về đức; 4. Tổng kết về đức. Đây là phần một.

Nói hiền giả năm giới là cử pháp nêu người. Do trì năm giới nên bảo là hiền giả năm giới. Luận Bà-sa nói: Ô-ba-sách-ca có năm học xứ; lìa sát sanh, lìa không cho mà lấy, lìa dục tà hạnh, lìa lời hư dối va lìa uống các rượu. Kinh cũ phần nhiều ghi là Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Nếu theo kinh Chư pháp tối thượng vương thì gọi là gọi Ưu-bà-tắc-ca, Ưu-bà-tư-ca. Tam Tạng Từ Ân dịch các kinh, đều gọi là Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca. Tiếng Hoa gọi là Cận sự nam, Cận sự nữ. Luận Chánh lý quyển ba mươi bảy nói: Theo nghĩa gì mà nói là Ô-bà-tắc-ca? họ trước tiên phải quy Phật pháp tăng bảo. Thân cận phụng sự các bậc sư được tôn trọng, bền được Thi la. Nên gọi là cận sự, hoặc có thể tập gần với những việc làm như lý, hoại các nghiệp ác, nên gọi là cận sự. Hoặc được thân cận phụng sự Phật làm thầy, nên gọi là cận sự, phần đồng chư Phật, vì đắc Thi la tịnh ý lạc thiện. Lại nữa, luận đại Bà-sa quyển một trăm hai mươi ba nói:

Hỏi: Vì sao gọi là Ô-ba-sách-ca?

Đáp: Vì thân cận tu sự chư pháp thiện, có người nói: Thân cận thừa sự các thiện sĩ. Có người nói: Thân cận tu sự hạnh tinh tiến. Có người nói: Cận thừa sự chư pháp Phật. Năm giới này, ba giới đầu là hộ thân nghiệp, một giới tiếp theo là hộ ngữ nghiệp. Một giới sau cùng là hộ chung cả hai nghiệp thân và ngữ. Lý thật thì không bao gồm thân nghiệp, như Câu-xá đã nói, nay biện về cái dụng của hộ, vì vậy mà hộ chung cả hai nghiệp. Đối với lý thì không sai trái. Nghiệp thân và ngữ đó, mỗi một thứ đều dùng biểu và vô biểu làm tự tính. Theo tông Tát-bàđa, biểu thì được thu trong hai xứ sắc và thanh. Vô biểu đều gồm thâu do pháp xứ. Không thấy thì không có đối sắc vì thuộc cảnh giới của ý thức. Kinh bộ thì biểu nghiệp lấy tư làm thể, vô biểu tức là phi sắc phi tâm bất tương ưng hành, như luận Thành Thật. Nay theo đại thừa: Biểu tức thâu tóm hai xứ sắc và thanh, còn vô biểu là giả lập ở trên nghiệp năng phát, chủng tử tư. Vô biểu được gồm thâu do sắc xứ và pháp xứ. Tông Tát-bà-đa thì phải đủ năm giới. Còn kinh bộ, đại thừa thì một phần, hai phần, cho đến đủ cả năm. Tông Tát-bà-đa duy chỉ bao gồm cõi người. Đại thừa, kinh bộ thì thông cả với quỉ,…

Kinh: Đều hành A-la-hán mười địa. Giải thích: Phần 2-Biện về hạnh vị. Hành A-la-hán: đã nói chi tiết như trên.

Mười địa: Các thuyết bất đồng. Một thuyết nói: Thập giải ở đây, gọi là thập trụ, tức nói thập trụ là thập địa. Một thuyết nói: Câu văn này là theo cộng thập địa mà thuyết. Như luận Trí Độ. Địa có hai loại: 1. Bất cộng: Như các địa Cực hỷ… 2. Cộng thập địa: Là địa Càn tuệ,… nói chung cho địa của ba thừa thành là mười địa, nên gọi là cộng. Kinh Đại Phẩm nói: Nếu Bồ-tát đủ cả mười địa: Càn tuệ,… thì mau chứng Bồ-đề. Mười địa là: Càn tuệ địa, Tính địa, Bát nhân địa, Kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ tác địa, Bích chi Phật địa, Bồ-tát địa, Phật địa. Luận Trí Độ quyển bảy mươi tám nói: Càn tuệ địa có hai loại: 1. Thanh văn; 2. Bồ-tát. Người Thanh văn chỉ vì Niết-bàn, siêng năng tinh tiến trì giới, tâm thanh tịnh, gắn sức học đạo, hoặc tập quán Phật Tam muội, quán bất tịnh, hoặc hành các quán từ bi, vô thường, phân biệt tập các pháp thiện. Tuy có trí tuệ nhưng không đạt được nước thiền định thì không thể đắc đạo, nên gọi Càn-tuệ-địa (căn là khô). Bồ-tát thì sơ phát tâm, cho đến chưa đắc thuận nhẫn.

Tính địa: Người Thanh văn thì từ Noãn pháp cho đến Thế gian đệ nhất pháp. Bồ-tát thì từ đắc thuận nhẫn, ái chấp thật tướng của các pháp, cũng không sinh tà kiến, đạt được nước thiền định.

Bát nhân địa: Từ khổ pháp nhẫn, cho đến đạo tỷ nhẫn. Với Bồ-tát thì pháp vô sinh nhẫn, nhập vào ngôi vị Bồ-tát.

Kiến địa: Đắc Thánh quả đầu tiên, còn gọi là quả Tuđà-hoàn.

Với Bồ-tát thì là địa A-tỳ-bạt-trí.

Bạc địa: Hoặc là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm. Vì đoạn dứt một phần nơi chín loại phiền não thuộc Dục giới. Với Bồ-tát thì vượt qua địa A-tỳ-bạt-trí, cho đến chưa đoạn dứt các phiền não để thành Phật, các tập khí còn lại cũng mỏng.

Ly dục địa: Lìa các phiền não tham dục thuộc Dục giới. Đó gọi là A-na-hàm. Với Bồ-tát thì lìa các nhân duyên dục. Cho nên đắc năm thần thông.

Dĩ tác địa: Người Thanh văn thì đắc Tận trí, Vô sinh trí, A-la-hán vô trước. Với Bồ-tát thì thành tựu Phật địa. Bích chi Phật địa: Kiếp trước trồng nhân của Bích chi Phật đạo, kiếp này đắc một ít nhân duyên, mới xuất gia, cũng quán pháp nhân duyên sâu xa mà thành đạo, gọi là Bích chi Phật.

Bồ-tát địa Từ Càn tuệ địa cho đến Ly dục địa. Như đã nói trên. Lại nữa, Bồ-tát địa: Từ Hoan hỷ địa cho đến Pháp vân địa, đều gọi là Bồ-tát địa. Có người nói: Từ mới phát tâm, cho đến Tam muội Kim cang, gọi là Bồtát địa.

Phật địa: Nhất-thiết-chủng-trí, chư Bồ-tát Phật pháp, đầy đủ hạnh ở tự địa, đầy đủ trung quán ở địa khác, cả hai sự đều đầy đủ, cho nên gọi là Cụ túc.

Theo văn của kinh này thì có ba điều nghi vấn:

1. Ở Dĩ Biện địa, cũng đắc thành Phật, sao kinh này nói thập địa, mau chứng Bồ-đề?

2. Bồ-tát không thực hành hạnh Bích chi Phật, sao kinh lại nói đầy đủ Bích chi Phật địa.

3. Đã đắc Phật địa, không còn đắc thêm, sao kinh lại nói đầy đủ Phật địa, cho đến đắc Bồ-đề?

Giải đáp: Thật ra Dĩ Biện địa, sắp đắc thành Phật, ý kinh muốn nói rõ về thập địa, nên thuyết chung, mà không giải thích riêng. Về nghi vấn thứ hai, Bồ-tát Long Thọ, tự làm hai giải thích: Một là: Bồ-tát hành đầy đủ ở trong tự địa, quán đầy đủ ở trong địa khác, cả hai sự đều đầy đủ, nên gọi là đầy đủ. Nghĩa là với địa nhị thừa, quán biết pháp của địa nhị thừa nhưng không thực hành địa nhị thừa. Đầy đủ hạnh ở Bồ-tát địa, thực hành Bồ-tát địa, nên bảo là thập địa. Một giải thích nữa là: Bồ-tát có thể phân biệt biết chúng sanh, có thể dùng những nhân duyên của Bích chi Phật để độ. Do đó, Bồ-tát dùng trí tuệ, thực hành những sự việc của Phật Bích Chi. Như trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Văn Thù Sư Lợi, bảy mươi hai ức lần trở lại làm Bích chi Phật, Bồ-tát cũng như vậy. Về nghi vấn thứ ba; đầy đủ chín địa, tu tập pháp Phật, mười lực, bốn vô sở úy, tuy chưa đầy đủ, nhưng vì tu tập Phật địa, nên gọi là đầy đủ, do vậy mà bảo là thập địa đắc đạo vô thượng.

Nay giải thích về môn cộng và bất cộng trong thập địa: Về cộng thập địa, hoặc có thể nói chung cả cộng và bất cộng hai loại thập địa, không trái với lý vì đều là địa mà A-la-hán thực hành.

Kinh chứng khế nói, có bốn loại thập địa:

1. Thanh văn thập địa: Là trụ nơi địa tam quy hành, địa tùy tín hạnh, địa tùy pháp hành, địa thiện phàm phu, địa học giới, địa đệ bát nhân, địa Tu-đà-hoàn, địa Tư-đàhàm, địa A-na-hàm, địa A-la-hán.

2. Độc giác thập địa: Là chúng thiện tư lương địa, tự giác thâm duyên khởi địa, tứ thánh đế địa, thắng thân lợi trí địa, bát Thánh chi đạo địa, trí pháp giới hư không giới chúng sanh giới địa, chứng diệt địa, lục thông tính địa, nhập vi diệu địa, tập khí chuyển địa.

3. Bồ-tát thập địa: Là hoan hỷ địa, vô cấu địa, minh địa, diệm địa, cực nan thắng địa, hiện tiền địa, viễn hành địa, bất động địa, thiện tuệ địa, pháp vân địa.

4. Như Lai thập địa: Sẽ nói chi tiết ở đoạn sau.

Nay ý của kinh này là chung cả ba loại thập địa trên. Nguyên do là sao? Hai chữ "hiền giả" ở đây, theo bản tính mà nói, tức là Thanh văn, hồi tâm hướng đại thừa, đó là Bồ-tát. Tu tập cho đến mục đích cuối cùng, tất sẽ viên mãn, hoặc như nói trên, độ Duyên giác, cả bốn đều không sai.

Kinh: Hồi hướng năm phần pháp thân đầy đủ.

Giải thích: Phần ba: Tán thán riêng công đức. Xả hạnh tiểu thừa, hồi hướng đại thừa năm phần pháp thân. Còn gọi là năm thứ: 1. Giới; 2. Định; 3. Tuệ; 4. Giải thoát; 5. Giải thoát tri kiến. Cho nên luận đại Bà-sa quyển ba mươi ba nói: Vô học thân, ngữ, luật nghi và chánh mệnh, gọi là giới uẩn. Vô học không, Vô tướng, vô nguyện, ba Tam-ma-địa, gọi là định uẩn. Vô học chánh kiến trí, gọi là tuệ uẩn. Vô học Tận, Vô sinh, chánh kiến tương ưng với Thánh giải, gọi là giải thoát uẩn. Giải thoát thuộc hữu vi, vì tự tại với cảnh mà đặt tên, chẳng phải là trạch diệt vô vi giải thoát. Vô học Tận trí, Vô sinh trí, gọi là giải thoát tri kiến uẩn.

Hỏi: Vì sao cả hai trí đó gọi là giải thoát tri kiến uẩn? Đáp: Vì trong thân giải thoát, độc chỉ có cái đó. Nó có thể thẩm định quyết đoán về sự giải thoát.

Hỏi: Vô học tuệ uẩn và giải thoát tri kiến uẩn, khác nhau như thế nào?

Đáp: Vô học khổ tập trí, là tuệ uẩn. Vô học diệt đạo trí là giải thoát tri kiến uẩn. Lại nữa, Vô học khổ tập đạo trí, gọi là tuệ uẩn. Vô học diệt trí, là giải thoát tri kiến uẩn.

Trên là giải thích theo luận kia. Nay theo đại thừa, luận Phật địa quyển bốn có ba giải thích về tự tại. Luận đó nói: Tịnh giới vô lậu, gọi là giới uẩn. Định tuệ vô lậu, gọi là định tuệ uẩn. Thắng giải Vô học, gọi là giải thoát uẩn. Chánh kiến Vô học, gọi là giải thoát tri kiến uẩn. Ba pháp trước là nhân, hai pháp sau là quả. Ba pháp trước là pháp thuộc ngôi vị Hữu học, hai pháp sau là pháp thuộc ngôi vị Vô học. Có thuyết nói: Tất cả đều là pháp thuộc ngôi vị Vô học. Duyên với giải thoát tuệ, gọi là giải thoát tri kiến, các tuệ còn lại thì gọi là tuệ. (Năm loại đều là pháp Vô học vị, duyên với diệt đế trí, gọi là giải thoát tri kiến, các trí duyên với ba đế khác thì gọi là tuệ uẩn.) Có thuyết nói: Tất cả đều chung cả học và Vô học, Hữu học vị thì đắc một phần, còn Vô học thì viên mãn. Chư Phật Bồ-tát đều có đủ năm loại. Tông Tát-bàđa thì cho: Hai pháp: sắc và tâm sở làm thể. Nếu nói riêng thì định, tuệ, giải thoát, sắc vô biểu, bốn pháp đó làm thể. Trong học và Vô học chỉ ở tại Vô học. Nay theo đại thừa, giống với tông Tát-bà-đa nhưng có điều khác là: Trong vị Hữu học cũng có đủ cả năm loại.

Kinh: Vô lượng công đức đều thành tựu.

Giải thích: Phần bốn: Tổng kết công đức. Đã rõ.

Kinh: Còn có mười ngàn tịnh tín nữ năm giới.

Giải thích: Phần năm: Nói về chúng Ưu-bà-di. Văn có bốn phần: 1. Nêu số biện loại; 2. Lược biện hạnh vị; 3. Tán thán riêng công đức; 4. Tổng kết công đức. Đây là phần một.

Tịnh tín nữ là Ưu-bà-di, đúng âm Phạm là Ô-ba-tưca, tiếng Hoa gọi là Cận sự nữ. Giải thích chi tiết như trên.

Kinh: Đều hành A-la-hán mười địa.

Giải thích: Phần hai: Lược biện hạnh vị.

Kinh: Đều thành tựu cho đến: Cuối cùng sinh công đức.

Giải thích: Đây là phần ba: Tán thán riêng công đức. Theo Bổn ký nói: Trong ngôi vị mười trụ, mỗi một trụ đều có: Đầu tiên là phần nhập, tiếp đến là phần trụ, sau cùng là phần xuất, cho nên nói là "đầu là trụ, cuối cùng là sinh công đức".

Kinh: Ba mươi sinh công đức đều thành tựu.

Giải thích: Phần bốn Tổng kết. Mười địa, mỗi địa đều có đầu tiên là trụ, cuối cùng thì sinh ra ba loại công đức, cho nên bảo là ba mươi sinh công đức. Có thuyết nói: Trong hai chúng trên mười địa tức là vị mười giải.

Kinh: Còn có mười ức cư sĩ bảy hiền.

Giải thích: Phần sáu Chúng cư sĩ bảy hiền. Có bốn phần: 1. Nêu số biện loại; 2. Tổng nêu đủ đức; 3.Tán thán riêng công đức; 4. Tổng kết công đức. Đây là phần một.

Bổn ký nói: Có bảy hiền tài, không được pháp nhãn, thường thích tại gia, cho nên bảo là cư sĩ bảy hiền. (Kinh bổn nghiệp nói: Tín, thí, giới, văn, tuệ, tàm (hổ), quý (thẹn) gọi là bảy hiền tài.)

Nay giải thích: Bảy hiền ở tại bảy phương tiện, hiền nhưng chẳng phải Thánh, vì không có Thánh đạo. Cho nên gọi là cư sĩ bảy hiền. Bảy phương tiện là: 1. Ngũ đình tâm quán; 2. Biệt tướng niệm xứ; 3. Tổng tướng niệm xứ. 4. Noãn; 5. Đảnh; 6. Nhẫn; 7. Thế đệ nhất pháp. Ý nghĩa của chúng sẽ nói ở chương khác.

Kinh: Đức hạnh đầy đủ.

Giải thích: Phần hai: Tổng nêu đầy đủ. Phần sau sẽ nói.

Kinh: Hai mươi hai phẩm… đắc chín mươi nhẫn.

Giải thích: Phần ba: Tán thán riêng công đức. Gồm có chín môn: 1. Môn đạo phẩm; 2. Mười biến xứ; 3. Tám thắng xứ; 4. Tám giải thoát; 5. Ba tuệ; 6. Mười sáu đe; 7. Quán bốn đế; 8. Bốn quán hạnh; 9. Mười nhẫn.

"Hai mươi hai phẩm": Bổn ký nói: Thánh đăng địa trở lên đến Phật quả, có mười một địa, mỗi địa đều có định và tuệ, hợp thành hai mươi hai phẩm, chỉ đắc bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực: Hai mươi hai phẩm. Nhưng chưa thể đắc bảy loại giác phần, tám chi Thánh đạo, nên bảo là hai mươi hai phẩm.

Hỏi: Đã chưa đắc Thánh, sao nói là có đắc tám giải thoát?

Đáp: Đắc bảy trong tám, nên nói chung là đắc tám giải thoát.

Theo thật thì chưa đắc giải thoát diệt tận.

Hỏi: Nếu vậy thì trong đức của Bồ-tát, phải đắc năm nhãn?

Đáp: Kia thì theo nghĩa thật, đây thì theo số nhiều, mỗi thứ đều mang một ý nghĩa riêng, nên không trái nhau.

Ý nghĩa của đạo phẩm, sẽ nói rõ ở chương khác.

"Mười nhất thiết nhập": Là đức biến xứ thứ hai, là: Xanh, vàng, đỏ, trắng, địa, thủy, hỏa, phong, không vô biên xứ, thức vô biên xứ. Theo tông Tát-bà-đa, cũng như luận đại Bà-sa; thì tám biến xứ, lấy vô tham làm tính, vì để đối trị với tham. Kiêm luôn với tương ưng tùy chuyển. Hữu Dục giới thì bốn uẩn làm tính. Nếu Sắc giới thì năm uẩn làm tính. Hai biến xứ sau, đều lấy bốn uẩn làm tính. Theo tông kinh bộ thì định và tuệ làm thể, như luận Thành Thật. Nay theo đại thừa: Như luận Tạp Tập, định tuệ làm tính.

Giải: Tương ưng tùy chuyển, giống với luận đại Bàsa, lý cũng không trái.

Hỏi: Vì sao gọi là biến xứ?

Luận Tỳ-bà-sa nói: Do hai duyên: 1. Do vô gián; nghĩa là thuần xanh,… Thắng giải tác ý, vì không gián đoạn xen tạp nhau; 2. Do quảng đại; Đại đức nói: Đối tượng duyên rộng lớn, không có khe hở nên gọi là biến xứ. Luận nói: Lượng của nó rộng lớn, hiện khắp vô biên, gọi là biến xứ.

"Tám trừ nhập"; là đức thứ ba tức tám thắng xứ. Tám là:

1. Nội có sắc tưởng, quán ngoại sắc ít.

2. Nội có sắc tưởng, quán ngoại sắc nhiều.

3. Nội không sắc tưởng, quán ngoại sắc ít.

4. Nội không sắc tưởng, quán ngoại sắc nhiều.

5,6,7,8: Nội vô sắc tưởng, quán ngoại các sắc: Xanh, vàng, đỏ, trắng. Lại thành bốn loại. (Cộng lại là tám).

Về nêu thể thì các tông giống với phần biến xứ nói trên. Hỏi: Vì sao gọi là thắng xứ.

Đáp: Như luận Bà-sa; vì cảnh của đối tượng duyên là thù thắng, nên gọi là thắng xứ. Lại nữa, vì thắng các phiền não, nên gọi là thắng xứ. Tuy là hành quán, chẳng phải tất cả đều có cảnh nơi đối tượng duyên, là thù thắng nhưng không khởi phiền não với cảnh nơi đối tượng duyên, cũng gọi là thắng. Như khế kinh nói: Thắng ở xứ đó, nên gọi là thắng xứ. Luận Tạp Tập cũng nói vậy, vì thắng nơi đối tượng duyên, gọi là thắng xứ, đều là Sắc giới. Bốn thắng xứ trước, hai thắng xứ đều là tĩnh lự vị chí, trung gian. Bốn thắng xứ sau ở tại định thứ tư, cho đến những thứ đối tượng duyên, đều duyên nơi tất cả sắc xứ thuộc Dục giới.

Hỏi: Nếu vậy, kinh thuyết phải thông hiểu ra sao? Kinh nói: Tôn giả Vô Diệt, tại Thất la phiệt, ở một tinh xá, bấy giờ có bốn thiên nữ Ý vui mừng, đến chỗ Tôn giả, đứng ở trước tòa, bạch: Chúng tôi ở bốn sắc xứ, chuyển biến tự tại, tùy sắc mình thích, đều hóa tác được, cho đến: Tôn giả Vô Diệt, nhập sơ tĩnh lự, rồi đến đệ tứ, cũng không thể khởi tưởng bất tịnh.

Đáp: Tôn giả Vô Diệt, tuy không thể thắng. Nhưng Tôn giả Xá lợi tử… đều có thể thắng.

Hỏi: Duyên Phật thân, có khởi quán bất tịnh không?… Nói rõ như luận đại Bà-sa quyển tám mươi lăm.

Nói "tám giải thoát": Là đức của giải thoát thứ tư.

1. Nội có sắc quán các sắc; 2. Nội không sắc quán ngoại sắc; 3. Tịnh giải thoát trú đầy đủ; 4. Nhập không vô biên xứ; 5. Nhập vô biên thức xứ; 6. Nhập vô sở hữu xứ; 7. Nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ; 8. Nhập tưởng thọ diệt giải thoát.

Nhưng tám loại đó, các thuyết bất đồng: Theo tông Tát-bà-đa, luận Bà-sa nói: Ba loại đầu vô tham, vì đối trị với tham, kiêm tùy chuyển theo với những thứ tương ưng. Nếu Dục giới thì bốn uẩn làm tính. Nếu Sắc giới tức đủ năm uẩn. Bốn giải thoát vô sắc xứ, bốn uẩn làm tính, giải thoát thứ tám là gồm thâu do hành uẩn bất tương ưng. Theo tông Kinh Bộ thì có hai thuyết; một thuyết là đều dùng trí tuệ làm thể. Một thuyết là; bảy loại giải thoát trước là tuệ, loại giải thoát thứ 8 dùng hai loại Niết-bàn hữu dư và vô dư làm tự tính. Nay ở đây thì theo đại thừa; ba loại trước thì bốn uẩn, năm uẩn làm tự tính, bốn loại tiếp theo là bốn uẩn làm tự tính, loại giải thoát thứ tám là hành bất tương ưng phi sắc phi tâm làm tự tính.

Hỏi: Vì sao gọi là giải thoát?

Đáp: Như luận Bà-sa, từ bỏ là nghĩa của giải thoát. Hai giải thoát đầu là từ bỏ tâm sắc tham. Giải thoát thứ ba là từ bỏ tâm bất tịnh quán, bốn giải thoát vô sắc là bỏ tâm hạ địa, giải thoát tưởng thọ diệt, là từ bỏ tất cả tâm có sở duyên.

Hỏi: Giải thoát, thắng xứ, biến xứ, có sai biệt gì?

Đáp: Có thể có sự từ bỏ, gọi là giải thoát. Có thể có cảnh thắng phục, gọi là thắng xứ, có thể mở rộng đối tượng duyên, gọi là biến xứ. Chi tiết như nói trong luận Bà-sa quyển tám mươi bốn, tám mươi lăm.

Nói "ba tuệ" là phần năm: Đức của ba tuệ. Chia làm ba phần: 1. Giải thích danh; 2. Nêu ra thể; 3. Dựa theo giới. Trong phần giải thích danh trước chung, sau riêng. Nói "ba tuệ" là tên chung. Ba là nêu con số. Tuệ; tức là giản trạch. Tên riêng thì có ba: 1. Tuệ do Văn tuệ thành; 2. Tuệ do tư tạo thành; 3. Tuệ do tu tuệ thành. Thắng tuệ sinh ra do nương vào nghe giáo, gọi là văn tuệ thành. Nương vào suy tư chánh lý sinh ra thắng tuệ, gọi là tư tạo thành. Nương vào tu đẳng trì sinh ra thắng tuệ gọi là tu tuệ thành, như trong luận Câu-xá. Lại còn giải thích: Văn là nghe nhận, tức là nhĩ thức, từ văn nghe mà sinh ra tuệ hiểu được nghĩa của câu văn, gọi là văn tuệ thành.

Tư; nghĩa là tư duy, tức là xét tính, từ tư sinh ra tuệ hiểu pháp tướng, gọi là tư tuệ thành. Tu: nghĩa là tập, tức là thắng định, từ tu sinh ra tuệ, hiểu lý sự, gọi là tu tạo thành. Như Du già đã giải thích.

Nêu thể theo tông Tát-bà-đa thì tự tính chỉ là tuệ, nên luận đại Bà-sa quyển bốn mươi hai nói: Hai tuệ; Văn và Tư, chỉ là trí của thế tục, còn tu tuệ thành thì thông cả mười trí tính, như cùng quyến thuộc, thông cả tâm sở. Kinh bộ cũng nói tương tự. Như theo đại thừa, Du già thích luận: Tuệ và các tâm, tâm sở tương ưng làm tự tính, cũng giống tông Tát-bà-đa.

Về dựa theo giới: Tư tuệ duy chỉ Dục giới, Văn tuệ thông cả Dục và Sắc giới. Tu tuệ thì thông cả sắc và Vô Sắc giới. Như luận Bà-sa đã nói. Theo tông kinh bộ thì Dục giới và Sắc giới có đủ cả ba tuệ. Vô sắc chỉ có tu tuệ, như luận Thành Thật. Nay theo đại thừa, các luận Du già, giống với Tát-bà-đa. Theo luận Trí Độ thì Dục giới cũng có định điện quang, giống với kinh bộ, nghĩa cũng không trái.

Hỏi: Ba tuệ đó, Như Lai, Độc giác và Thanh văn, mỗi thứ có mấy loại?

Đáp: Phật đủ cả ba loại. Nhưng Tu Tuệ là hơn cả, vì tự nhiên giác, và đủ cả các lực, vô úy, nhờ tu công đức. Độc giác cũng có đủ cả ba tuệ, nhưng Tư Tuệ là hơn cả, vì tự tư duy mà giác, nhưng không có các lực vô úy, do tu công đức. Thanh văn cũng có đủ ba tuệ, nhưng Văn tuệ là hơn cả, nhờ từ nghe âm thanh của người khác mà nhập Thánh đạo.

Nói "mười sáu đế": Là phần sáu-Đức của môn quán mười sáu đế. Như đã giải thích trên.

Nói "bốn đế": Là phần bảy-Đức của môn quán tứ đế. Cũng như trên đã nói.

Nói "bốn, ba, hai, một phẩm quán": Là phần tám-Đức của quán bốn hạnh môn. Nghĩa là trung nhẫn vị, quán sát trong lý, thượng hạ tám đế. Tự có hai môn: 1. Bảy vòng giảm duyên môn; 2. Ba vòng giảm hạnh môn. Bảy vòng giảm duyên môn là khi mới bắt đầu thì đủ cả duyên thượng hạ tám đế, tức thuộc hạ nhẫn. Tiếp đó là quán hạnh, đầu tiên là quán sát bốn đế; khổ, tập… thuộc Dục giới, cho đến quán ba đế; khổ, tập, diệt thuộc hai giới trên, nhưng không quán đạo, như vậy là vòng thứ nhất giảm một đối tượng duyên, cứ như vậy từ ba đế Dục giới, cho đến giới trên giảm đế, trừ đạo thuộc Dục giới đó là vòng thứ hai, giảm hai đối tượng duyên. Cứ như vậy cho đến trừ khổ đế giới trên, thành là giảm duyên lần thứ bảy. Bảy vòng như vậy, giảm các đế nơi đối tượng duyên. Với khổ đế, có bốn hạnh: Khổ, không, vô thường, vô ngã. Mới bắt đầu thì quán đủ, tiếp đó trong bốn hạnh, lần lượt trừ hạnh, duy chỉ lưu lại một hạnh, cứ như vậy gọi là ba vòng giảm hạnh. Ở trong một hạnh; nhẫn tăng thượng, thế đệ nhất pháp, khổ nhẫn, khổ trí, đều cùng một Sát-na, cùng nương một địa, cùng nương một hạnh, mỗi cùng một Sát-na. Nay theo nhẫn vị, ba vòng giảm hạnh. Nương một hạnh quán. Nên bảo là "bốn, ba, hai, một phẩm quán". Vì vậy mà luận Thuận Chánh lý quyển sáu mươi nói: Làm thế nào phân biệt hạ, trung, thượng của nhẫn. Hạ phẩm nhẫn đủ cả tám loại tâm. Nghĩa là, sư Du già dùng bốn hành tướng để quán Dục giới khổ, gọi là một loại tâm, cứ theo thứ tự như thế mà quán sắc, vô sắc khổ tập diệt đạo đế, cũng quán như vậy, thành tám loại tâm, gọi là hạ phẩm nhẫn. Trong phẩm thì giảm bớt hành tướng nơi đối tượng duyên. Nghĩa là sư Du già, dùng bốn hành tướng, quán khổ Dục giới, cho đến đầy đủ, dùng bốn hành tướng quán đạo Dục giới. Ở đạo Dục giới, giảm một hành tướng, từ đó gọi là trung phẩm nhẫn sơ. Cứ theo thứ tự như vậy, lần lần giảm bớt hành tướng nơi đối tượng duyên, cho đến cực ít, chỉ dùng hai tâm, quán khổ Dục giới, như khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí vị, đủ những thứ đó, gọi là trung phẩm nhẫn mãn. Thượng nhẫn thì chỉ quán khổ đế Dục giới, tu một hành tướng, chỉ một Sát-na, đó là thiện căn khởi không tương tục. Thượng nhẫn vô gián, sinh ra Thế đệ nhất pháp. Như thượng phẩm nhẫn, duyên với khổ đế Dục giới, tu một hành tướng, duy chỉ một Sát-na.

Nói "đắc chín mươi nhẫn": Là đức thứ chín. Ở trên là giải thích về quán môn tiểu thừa, nay là hướng đại thừa, bèn thành chín mươi. Nghĩa là mới bắt đầu nhập mười tín, đều có chín phẩm, nên bảo là "chín mươi nhẫn". Lại giải thích: Học ba mươi tâm thuộc mười giải trở lên, mỗi tâm đều có ba vị; thủy, trụ, chung. Trong ba vị đó, mỗi một vị đều có ba phẩm, nên bảo là chín mươi. Một thuyết nói: Bốn, ba, hai, một, gồm chung làm hai phần, phần đầu bốn, ba, hai, cộng lại là chín, gia thêm một số, tức thành mười số, nên bảo là chín mươi, (Tịnh công nói). Một thuyết nói: Bốn, ba, hai, một, cộng lại là mười, đều có chín phẩm, nên bảo là chín mươi. Một thuyết nói: Đế quán hai mươi; nghĩa là mười sáu đế và bốn đế, phẩm quán có mười; nghĩa là bốn, ba, hai, một, cộng lại thành ba mươi, đều có ba phẩm, cho nên bảo là chín mươi.

Kinh: Tất cả công đức đều thành tựu.

Giải thích: Phần bốn: Tổng kết công đức, đã rõ.

Kinh: Còn có vạn vạn ức mười tám Phạm đến Hỷ lạc thiên.

Giải thích: Phần bảy: Nêu thiên chúng Sắc giới. Văn có ba phần: 1.

Nêu số biện đức; 2.Tán thán riêng đức; 3. Tổng kết đức. Đây là phần một.

Nhưng văn của kinh này có ba bản khác nhau. Một bản thì như trên. Một bản thì bỏ bốn chữ "mười tám Phạm thiên". Một bản thì bỏ "mười tám Phạm thiên", còn gia thêm một chữ "Phạm". Nghĩa là "ba Phạm, năm Hỷ lạc thiên". Tuy có ba bản, nhưng theo bản đầu. Đo đó, Bổn ký trước tiên là nêu tổng số, nên nói là "lại còn có vạn vạn ức mười tám phạm thiên. Ba tĩnh lự, mỗi tĩnh lự có ba thiên, tĩnh lự thứ tư có chín thiên, hợp thành mười tám. Luận Du già quyển bốn nói: Sắc giới có mười tám xứ; là Phạm chúng, Phạm phụ, Đại phạm, Tiểu quang, Vô lượng quang, Cực quang tịnh, Tiểu tịnh, Vô lượng tịnh, biến tịnh, vô vân, phúc sinh, quảng quả, Vô tưởng thiên, tức Quảng quả gồm thâu, không có xứ riêng. Lại có cung chư Thánh năm Tịnh cư, là Vô phồn, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến và Sắc cứu cánh. Lại có vượt qua đi cung năm Tịnh cư, là đại Tự tại trú xứ, Bồ-tát thập địa được sinh ở trong đó. Các chư thiên kia, như luận Thuận Chánh lý quyển hai mươi mốt chú thích nói; quảng thiện sinh ra, nên gọi là phạm. Phạm đó tức là đại, nên gọi là Đại phạm, do đắc được định trung gian. Sinh ra đầu tiên, chết đi cuối cùng, các oai đức thù thắng, nên gọi là đại…

Nói "chín phạm": Là chín loại cõi Trời thuộc tĩnh lự thứ tư. Đây tức là kể theo thứ tự từ trên xuống dưới.

"Ba tịnh": Là ba loại cõi trời tĩnh lự thứ ba. "Ba quang": Là ba loại cõi trời tĩnh lự thứ hai.

"Ba Phạm, năm hỷ lạc thiên" ba phạm là ba cõi trời sơ định, năm Hỷ lạc là năm chi đầy đủ, nên gọi là năm. Nói hỷ lạc là nói tóm lược. Tĩnh lự thứ hai, có hỷ không có lạc, tĩnh lự thứ ba có lạc không có hỷ. Trong cõi trời sơ định, có đủ cả năm chi, có cả hỷ và lạc, nên bảo là năm hỷ lạc thiên. Hỷ lạc này có hai nghĩa: 1. Tương ưng với nhãn, nhĩ, thân thức gọi đó là lạc. Tương ưng với ý thức, gọi đó là hỷ; 2. Ý thức tương ưng với hỷ thọ, có hai dụng: 1. Khiến cho thân vui, gọi đó là lạc;

2. Khiến cho tâm vui, gọi đó là hỷ. Như trong luận Hiển Dương đã nói.

Kinh: Thiên định, công đức định vị, thường lạc thần thông.

Giải thích: Phần hai: Tán thán riêng công đức.

"Thiên định": Là công đức do báo đắc. "Công đức định": Là công đức do tu sinh ra.

"Vị": Là tham định vị, theo nhau mà nói, chẳng phải là chính công đức, một thuyết nói; thuộc phần trên, nghĩa là "công đức định vị", là thọ nhận công đức định vị.

"Thường lạc thần thông": Là bốn loại tĩnh lự, đều có năm thông, hoặc có thể có sáu thông.

Kinh: Mười tám sinh xứ công đức đều thành tựu.

Giải thích: Phần ba. Tổng kết công đức, đã rõ.

Kinh: Lại có ức ức chư thiên tử Lục dục.

Giải thích: Phần tám-Nêu thiên chúng Lục dục. Văn có hai phần:

1. Nêu số biện minh loại; 2. Tán thán riêng công đức. Đây là phần một.

Lục-dục-thiên: như luận thuận Chánh lý quyển ba mươi mốt nói:

1. Tứ đại vương chúng thiên. nghĩa là ở đó có bốn đại vương và chúng dưới quyền, hoặc thiên chúng đó phụng sự bốn đại vương. Bốn đại vương đó lãnh đạo.

2. Tam-thập-tam-thiên: Cõi trời đó, là chỗ trú ở của ba mươi ba bộ chư Thiên.

3. Da-ma-thiên: Cõi trời đó, luôn luôn đa phần đều xưng là vui thú thay! Luận Du già gọi đó là thời phần thiên, tức giống với đây.

4. Đổ-sử-thiên: Cõi trời đó, phần nhiều với sự thọ nhận được của mình mà sinh tâm vui đủ.

5. Lạc-hóa-thiên: Là cõi trời đó lạc, thường hóa cảnh dục, ở trong ấy thọ lạc.

6. Tha-hóa-tự-tại-thiên: Cõi trời đó, tự tại thọ lạc cảnh dục được hóa ra người khác.

Luận Trí Độ nói: Tự hóa năm trần mà tự vui chơi thỏa thích, nên gọi là Hóa tự tại thiên. Đoạt những thứ hóa ra của kẻ khác mà vui chơi thỏa thích, gọi là Thahóa-tự-tại-thiên (bốn cõi trời trước, chỉ kể tên không giải thích).

Kinh: Quả báo mười thiện… đều thành tựu.

Giải thích: Phần hai: Tán thán riêng công đức. Là thắng xứ, do mười thiện mà thành, chung thì có hai loại; báo đắc và tu đắc. Thần thông ở đây là báo đắc, vì chư thiên Dục giới không tu định, hoặc có thể chung cả hai, nghĩa cũng không sai.

Kinh: Lại có mười sáu đến mười vạn quyến thuộc.

Giải thích: Phần chín: Nói về mười sáu vương chúng. Trong đó có hai phần: 1. Nêu số biện minh loại; 2. Tán thán riêng công đức. Đây tức là nêu số biện loại. Kinh: Năm giới, mười thiện… tín hạnh đầy đủ.

Giải thích: Phần hai: Tán thán riêng công đức. Đức có ba loại: 1. Đức của năm giới; 2. Đức mười thiện; 3. Đức ba đế. Phần sau "Tín hạnh đầy đủ" là tổng kết có đủ đức.

Kinh: Lại có tất cả chúng sanh nơi năm đường.

Giải thích: Phần mười. Biện minh về chúng năm đường, còn gọi là chúng tạp loại.

Hỏi: Địa ngục có đến không? Nếu đến thì theo Du già nói làm sao đúng? Luận kia nói: Địa ngục một mực thuần là khổ, bàng sinh, quỉ giới, một phần cũng vậy. Nếu không đến, sao kinh này nói có chúng nơi năm đường.

Đáp: Có hai giải thích: Một nói: Không đến, vì là nơi thuần là khổ như thuyết của luận Du già, nhưng kinh này nói chúng năm đường là nói theo đa phần. Một nói: Cũng đến. Vì kinh này thuyết có chúng năm đường, vì trong kinh Đà-la-ni, có chúng địa ngục. Du già nói: Khổ suốt một mực, là nói theo đa phần. Căn cứ theo thuyết tự lực, kinh Đại Phẩm nói: Phật quang chiếu chỉnh, khổ được dứt tắt.

Kinh: Lại có chúng tha phương không thể lường. Giải thích: Phần mười một. Chúng tha phương.

Hỏi: Trong chúng phương khác, chỉ có những Bồ-tát đắc thần túc hay là kể luôn cả các chúng khác chưa đắc thần thông?

Đáp: Đúng theo kinh Đại Phẩm và luận Trí Độ thì chung cả bảy bộ chúng, cùng đồng nam đồng nữ chưa đắc thần thông.

Hỏi: Nếu vậy, làm sao đến được?

Đáp: Đúng theo luận Trí Độ, những vị có thần túc, tự lực đến được, những vị lực thần túc mỏng kém, và những vị không có thần thông thì nhờ Phật lực của nước đó, cũng vừa nhờ lực của các đại Bồ-tát mà theo, cũng vừa nhờ lực hào quang của Phật Thích ca. Một lực còn đến được, huống chi là cả ba lực. Như khi Chuyển luân Thánh vương bay lên trời, bốn binh cung quán, cho để súc vật, thú vật, tất cả đều bay, vì nhờ công lực lớn của Chuyển luân Thánh vương có thể làm cho tất cả bay theo. Đây cũng vậy, tuy không có tự lực, nhờ tha lực mà đến được, nên không có sai, nói chi tiết như trong luận Trí Độ quyển mười ba.

Kinh: Lại có hiện bày khắp mười phương… Tu di Bảo Hoa.

Giải thích: Đây là phần mười hai: Chúng biến hóa. Văn có hai phần: 1. Đơn hóa; 2.Từ "Trên hoa đều có…" là trùng hóa. Phần đơn hóa có hai phần: 1. Chỗ nương tựa; 2. Chúng là chủ thể nương tựa. Đây là phần chỗ nương tựa. Có ba loại: 1. Quốc độ; 2. Hóa hư; 3. Hóa hoa. Tiếng Phạm gọi là Tu di Bảo Hoa, tiếng Hoa gọi là Diệu Cao hoa.

Kinh: Mỗi mỗi trước tòa trên hoa… ngồi Bảo Liên Hoa.

Giải thích: Phần hai: Nêu chúng là chủ thể nương tựa. Có bốn loại: 1. Vô lượng Phật; 2. Vô lượng Bồ-tát; 3. Vô lượng Tỳ-khưu; 4. Vô lượng tám bộ chúng. Tám bộ chúng, lược có ba loại: 1. Các trời, rồng tám bộ, như các kinh thuyết; 2. Tương truyền nói: Bốn thiên vương, mỗi vị lãnh đạo hai bộ. Lại nữa, tám bộ là như kinh Trường A-hàm quyển ba nói: Thế có tám bộ chúng: 1. Chúng Sát-lợi; 2. Chúng Bà-la-môn; 3. Chúng cư sĩ; 4. Chúng Sa môn; 5. Chúng Tứ thiên vương; 6. Chúng Đao lợi thiên; 7. Chúng ma; 8. Chúng Phạm. Luận Du già giải thích; tám chúng hội đến, gọi là tám chúng. Giống với A-hàm và luận Trí Độ.

Hỏi: Người và trời, mỗi loại có bốn chúng, có nguyên nhân gì?

Đáp: Như luận Du già quyển mười lăm nói: Có bảy nhân duyên kiến lập tám chúng; do bốn nhân duyên mà ở trong cõi người, kiến lập bốn chúng. Ba nhân duyên mà ở trong cõi người, kiến lập bốn chúng. Vì tối tăng thượng, vì thế gian cùng chấp nhận là phước điền, vì thọ dùng tư tài tiền của không do từ người khác, vì từ bỏ tất cả tiền tài của cải ở thế gian. Do bốn duyên đó, ở trong cõi người, kiến lập bốn chúng. Do biên vực y tha, biên vực Dục giới, biên vực các hạnh, do ba duyên đó, ở trong cõi trời, kiến lập bốn chúng. Nếu theo luận Trí Độ quyển mười, giải thích về nguyên nhân, e nhiều nên không nói ra đây.

Kinh: Trên hoa đều có… Như nay không khác.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Trùng hóa. Văn có hai tiết: 1 Nói về chúng tập; 2. Nói về chúng thuyết kinh. Đây là phần một.

Kinh: Mỗi một quốc độ đến Ba-la-mật. Giải thích: Nói về chúng thuyết kinh.

Kinh: Đại chúng phương khác… đều đến tập hội.

Giải thích: Phần văn nêu giáo pháp gồm đủ cơ duyên. Văn có hai phần: 1. Tán thán đức; 2. Từ "phương khác…" tổng kết tập hội. Ở trên kể về chúng đã xong, đây là phần tổng kết tập hội. Văn có ba phần: 1. Mười hai đại chúng tập hội; 2. Tọa xứ sai biệt; 3. Tọa nghi. Đây là phần một.

Kinh: Ngồi hoa sen chín kiếp,… an nhiên mà ngồi.

Giải thích: Phần nói tọa xứ sai biệt. Phần tọa nghi. Như kinh đã rõ.

Kinh: Bấy giờ mười phương… Phật Thích ca Mâu ni.

Giải thích: Từ đây là phần hai nêu rõ Tự khởi phát. Văn có năm phần: 1. Như Lai hiện điềm lành; 2. Đại chúng sinh nghi; 3. Giác ngộ Như Lai; 4. Phật thăng tòa hoa; 5. Đại chúng hoan hỷ. Trong phần hiện điềm, văn có năm phần: 1. Tán thán đức Như Lai; 2. Thời gian hiện điềm lành; 3. Chánh trụ mười địa; 4. Nhập đại tịch thất;

5. Suy tư duyên hiện điềm lành. Đây tức phần 1.

Nói "bấy giờ": Là lúc Như Lai Thích ca tọa mười địa.

Nói "mười hiệu,…": Là người đã thành đức. Đức có bốn loại: 1. Đức mười hiệu; 2. Đức ba minh; 3. Đoạn đức; 4. Trí đức. Nhưng đó là hiệu chung, các giáo bất đồng. Nếu theo kinh Bổn Nghiệp Anh Lạc quyển hai thì Thế Tôn không nhập vào số của mười hiệu, kinh kia nói: Chư Phật đạo đồng, quả và pháp không khác.

Gọi là mười hiệu: 1. Như Lai; 2. Ứng cúng; 3. Chánh biến tri; 4. Minh hạnh túc; 5. Thiện thệ; 6. Thế gian giải; 7. Vô thượng sĩ; 8. Điều ngự trượng phu; 9. Thiên nhân sư; 10. Phật đà. Nếu theo kinh Niết-bàn, phẩm Phạm Hạnh, thì ngoài hiệu thứ mười, có riêng một hiệu là Bà-già-bà. Tức giống với thuyết của Anh Lạc. Nếu theo luận Du già quyển ba mươi tám, luận Thành Thật, phẩm Thập hiệu thì Thế Tôn tức là danh hiệu thứ mười. Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu hợp thành một hiệu là hiệu thứ bảy. Thiên nhân sư là hiệu thứ tám, Phật là hiệu thứ chín. Thế Tôn là hiệu thứ mười. Còn sáu hiệu trước là giống trên. Cho nên nay theo tạm dựa thuyết của Du già. Luận đó nói: Lại chư Như Lai, lược có mười công đức danh hiệu, tùy niệm công đức. Những gì là mười? Là Bạc-giàphạm. Hiệu là Như Lai, Ứng chánh đẳng giác, Minh hạnh viên mãn, Thiện thệ, Thế gian giải. Vô thượng trượng phu, Điều ngự sư, Thiên nhân sư, Phật, Bạc-giàphạm.

Lời không hư vọng, cho nên gọi là Như Lai. Đã đắc tất cả những nghĩa đáng phải đắc; đáng nương theo, là thế gian vô thượng phước điền, đáng được tất cả cung kính cúng dường, vì vậy mà gọi là Ứng. Với thắng nghĩa đó mà giác các pháp gọi là Chánh đẳng giác.

Minh là ba minh. Hành như kinh thuyết, hai phẩm chỉ và quán cực thiện viên mãn, vì vậy gọi là Minh hành viên mãn.

Thăng lên tối cực, mãi không lùi lại, nên gọi là Thiện thệ.

Khéo biết thế giới và hữu tình giới, tất cả phẩm loại, tướng của nhiễm tịnh, gọi là Thế gian giải.

Trượng phu duy nhất, khéo biết phương tiện điều tâm tối thắng, do đó, gọi là Vô-thượng-trượng-phu, Điều-ngư-sư.

Vì là thật nhãn, vì là thật trí, vì là thật nghĩa, vì là thật pháp, cho nghĩa hiển rõ, vì khai đạo mà cho Nhấtthiết-nghĩa. Vì chỗ dựa mà cho bất liễu nghĩa. Vì chủ thể liễu biệt mà cho chỗ sinh nghi. Vì chủ thể đoạn trừ mà cho xứ thâm diệu. Vì chủ thể hiển, khiến cho minh tịnh mà cho Nhất-thiết-pháp. Vì căn bản, vì khai đạo, vì chỗ dựa mà có thể chánh dạy bảo, truyền thụ cho trời, người, khiến họ xuất lìa tất cả chúng khổ, vì vậy nói Phật là Thiên nhân sư.

Với khả năng dẫn thâu pháp tụ nghĩa lợi, với khả năng dẫn thâu phi pháp tụ nghĩa lợi, pháp tụ phi phi nghĩa lợi, với khả năng dẫn pháp tụ; phi nghĩa lợi, phi bất nghĩa lợi, hiện bày khắp Nhất-thiết-chủng, hiện tiền đẳng giác, nên gọi là Phật.

Có thể phá trừ các ma quân chúng đại lực, có đủ nhiều công đức, gọi là Bạc-già-phạm.

Nếu phân biệt chi tiết, như trong luận Du già quyển tám mươi ba, kinh Niết-bàn quyển mười tám phẩm Phạm Hạnh, luận Thành Thật phẩm thập hiệu. Luận đại Trí Độ quyển thứ hai.

Nói "ba minh": Là túc mệnh, sinh tử, lậu tận, nghĩa như đã nói trên.

Nói "đại diệt trí Kim cang": Là hai môn đức trí đức và đoạn đức.

Đoạn: là Niết-bàn, chơn như làm tính. Trí: tức là Bồđề. Bốn trí làm tính.

Nói "Phật Thích ca Mâu ni": Là người, đức đã thành. Thích ca là họ, Mâu ni là tên. Về dòng họ Như Lai thì các thuyết bất đồng. Dòng là như dòng Sát-đế-lợi, dòng Bà-la-môn. Họ là như họ Kiều-đáp-ma, Ca-diếp-ba,… Như luận Thuận Chánh lý quyển bảy mươi lăm: Nay gọi là Thích ca, tiếng Hoa là Năng nhân. Như kinh Trường A-hàm nói: Xưa, con trai thứ tư của Phạm ma Cổ vương, có lỗi, bị đưa vào núi tuyết trong rừng cây, tự mình sinh sống, người con thứ tư đến đó. Có thể tự giữ được cuộc sống. Vua khen con trai thứ tư, đúng chính là Thích tử, có thể tự mình sống còn. Nhân vậy mà họ là Thích. Từ đó Tổ thứ tư của Phật đến nay là họ Thích. Lại giải: Thích là tên của loài cây, người con trai sống dưới cây Thích, từ cây mà đặt tên, nên gọi là Thích. Vì vậy vốn họ là Cù-đàm, nay đổi là Thích ca. Nói "Cù Đàm" là sai, chính âm là Kiều-đáp-ma, tiếng Hoa phiên dịch là Cam Giá Chủng. Hoặc gọi là Nhật Thiên Chủng, hoặc gọi là Ngưu Phẩn Chủng. Đó là kiếp sơ, có vua Chiên-đà-la, giết các dòng họ Thích, đến lúc sắp bị giết hết, thì có một tiên nhân ở trong núi sâu, tu đắc thiên nhãn, thấy dòng họ Thích, bị tru diệt sắp hết, ý muốn lưu giữ lại dòng họ Thích, bèn cất giấu một đứa con trai dòng họ ấy để nối ngôi vua. Bấy giờ vị vua Chiên-đà-la kia, sai người xem thiên văn, xem sao biết được, có một người dòng họ Thích chưa bị diệt hết, vào núi tìm kiếm, gặp lúc Tiên nhân không có ở nhà, bắt đứa bé đem đi, phơi dưới ánh nắng mặt trời, khi đứa bé mệnh chung, tiên nhân thấy không thể cứu vãn, bên ở trong không vì nó mà thuyết pháp, hóa làm mỹ nữ, khiến sinh thế tâm, rồi có phần thân, vứt ở trên đất, Tiên nhân lấy đặt ở trong đống phân bò, để ở trong vườn mía, đầy đủ mấy tháng, từ trong đống phân bò, có đôi đồng tử hóa sinh, nhờ vậy mà nối dõi dòng giống Thích, dòng họ Thích hiện nay, đều từ đó sinh ra. Nếu người hảo tâm khen thì nói là dòng giống mặt trời ban ngày (Nhật Thiên Chủng), hoặc nói là dòng giống mía (Cam giá chủng). Nếu người tâm xấu hủy báng thì nói là dòng giống đất bùn, hoặc nói là dòng giống phân bò (Ngưu phẩn chủng).

Nói "Mâu ni" tức là tên, tiếng Hoa gọi là Tịch Mặc. Cho nên luận Bà-sa quyển một trăm mười bảy nói: Tam tịch mặc, nghĩa là thân, ngữ, ý. Và nói: Vô học trong thân. Ý phiền não rốt ráo diệt, tịch mặc viên mãn, cho nên gọi là tịch mặc, chi tiết như luận Câu-xá đã nói.

Kinh: Sơ niên nguyệt bát nhật.

Thích: Phần hai: Thời gian hiện điềm. Sau khi Như Lai thành đạo, năm thứ ba mươi, tháng giêng, ngày mùng tám, tức là thời thuyết kinh. Có người nói: Ý Tam

Tạng Chơn đế, Như Lai tại thế bốn mươi lăm năm, thuyết tam thừa pháp luân, vừa chuyển chuyển pháp luân, thuyết về tiểu thừa, nhưng chuyển thì có hiển và mật. Mật thì bắt đầu từ đêm đắc đạo, đến đêm Niết-bàn, chuyển đủ cả ba pháp luân. Hiển thì từ sơ thành đạo năm thứ bảy, chỉ chuyển chuyển pháp luân, bảy năm tiếp theo và trong ba mươi mốt năm sau cùng, gồm chuyển chiếu pháp luân, từ sau năm thứ ba mươi tám, trong bảy năm, chuyển chủng pháp luân, từ sơ chiếu đến chuyển trị, hợp lại có ba mươi mốt năm, hai mươi chín năm trước, đã thuyết các Bát-nhã khác, nay đến năm thứ ba mươi tháng giêng ngày mùng tám, mới thuyết Nhân vương Bát-nhã. Cho nên bảo là "Sơ niên nguyệt bát nhật". Nên nay Bổn ký nói: Nêu rõ là sơ niên nguyệt bát nhật là mùng tám tháng giêng. Như Lai thành đạo năm thứ bảy, thuyết Bátnhã. Dựa theo văn của kinh này thì đã là năm thứ hai mươi chín, đến thời đó, đúng là sau khi thành đạo, ba mươi sáu năm đó là ý của Bổn ký, nghĩa như ghi trên.

Kinh: Phương tọa mười địa.

Giải thích: Phần ba: Nêu chánh trụ thập địa. "Phương"; là chánh, chính. Nghĩa là chư Như Lai muốn hiện đoan tướng, phải chánh trụ mười địa. Nhưng mười địa đó, tự có hai giải thích: Một là nói các Bồ-tát mười địa như Cực hỷ,… Một giải thích nói là; kinh đại thừa đồng tính đã thuyết, là Như Lai mười địa trong bốn loại mười địa, như đã dẫn ở trên. Kinh Chứng Khế và kinh Đồng Tính là cùng một bản, nhưng hai người dịch khác nhau. Ba loại thập địa trước thì văn ý giống nhau, cho nên không ghi lại đây, còn loại Như Lai thập địa thì kinh

Đồng Tính nói: Tên gọi thứ nhất là: Thậm thâm nan tri Quảng Minh Trí đức địa (minh chứng khế gọi là tỳ phú La Quang Minh Trí tác địa). Trừ tất cả tập khí vi tế, với tất cả pháp đều đắc tự tại.

Tên gọi thứ hai là: Thanh tịnh thân phân oai nghiêm bất tư nghị minh đức địa. Chuyển chánh pháp luân, hiển nghĩa thâm diệu.

Tên gọi thứ ba là: Thiện minh nhân tràng bảo tướng địa. (Kinh chứng khế gọi là Bảo Xí Hải Tạng địa). Thuyết Thanh văn giới, hiển ba thừa.

Tên gọi thứ bốn là: Tinh diệu kim quang công đức thần thông trí đức địa: Thuyết tám vạn bốn ngàn pháp môn, hàng phục bốn ma.

Tên gọi thứ năm là: Đại luân oai tạng minh đức địa: Bẻ gãy các dị luận và pháp tà của chúng, điều phục tất cả những người hành cõi ác. (Kinh chứng khế dịch là: Quang Minh Muội Trường).

Tên gọi thứ sáu là: Hư không nội thanh tịnh vô cấu diệm quang khai tướng địa. (Kinh Chứng Khế dịch là: Không trung thắng tịnh cầm đuốc khai bày tướng địa.) Thị hiện sáu thần thông, hiện bày sáu đại thần thông, là hiện vô biên thanh tịnh cõi Phật công đức trang nghiêm, hiển hiện vô biên Bồ-tát đại chúng vây quanh. Hiển hiện vô biên quảng đại cõi Phật. Hiển hiện vô biên cõi Phật tự thể. Hiển hiện vô biên cõi Phật tự thể. Hiển hiện vô biên trong các cõi Phật. Từ cõi trời Đâu Suất xuống đầu thai, cho đến pháp diệt, thị hiện vô biên nhiều loại thần thông.

Tên gọi thứ bảy là: Quảng thắng pháp giới tạng minh giới địa. (Kinh chứng khế nói: Quang Minh khởi tác). Vì chư Bồ-tát, khai hiển như thật về bảy Bồ-đề pháp. Tự tính vô hữu, không chấp trước.

Tên gọi thứ tám là: Tối thắng phổ giác trí hải tạng, năng tịnh vô cấu, biến vô ngại trí thông địa. (Kinh Chứng Khế nói là: Tối thắng diệu hải Phật trí tạng quang minh biến chiếu thanh tịnh chư chướng trí biến địa), truyền thụ cho tất cả Bồ-tát đạo quả Bồ-đề vô thượng, bốn loại ký. (Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: 1. Vị phát tâm ký; 2. Biến phát tâm ký; 3. Mật thọ ký; 4. Đã đắc vô sinh nhẫn ký. Kinh Bảo Vân cũng nói giống vậy.)

Tên gọi thứ chín là: Vô biên ức trang nghiêm hồi hướng năng chiếu minh địa. (Kinh chứng khế thì: Vô biên trang nghiêm câu na nguyện Tỳ-lô-giá-na quang tác địa.) vì chư Bồ-tát mà hiện phương tiện thiện.

Tên gọi thứ mười là: Tỳ-lô-giá-na-trí hải tạng địa. (Kinh chứng khế nói là: Trí hải tín Lô giá na.) vì chư Bồtát mà thuyết tất cả pháp vô sở hữu bổn lai tịch diệt, đại bát Niết-bàn.

Tuy có hai thuyết, nhưng ý của Bổn ký là Bồ-tát mười địa, ký kia nói: Nay nói mười địa, là chung cả pháp môn của mười địa, nếu chỉ nhập địa thứ mười thì chín địa kia sẽ không hiểu, do hóa thân nên có xuất nhập, ứng thân thì thường tại định, pháp thân thì phi định, phi bất định.

Kinh: Nhập Tam muội đại tịch thất.

Giải thích: Phần bốn-Nhập đại tịch thất.

Nói "Tam muội": Là sai, lược bớt, theo đụng Phạm âm là Tam-ma-địa. Tiếng Hoa gọi là Đẳng trì. Lìa ở trầm, trạo gọi là đẳng, trì giữ tâm khiến trụ một cảnh tính. Gọi là trì, đó thông cả định và tán, tức trong biệt cảnh định luôn làm thể, mà có Tam muội đại tịch thất, tự có hai giải thích: Một giải thích là; Chơn như "không" tính là chỗ nương của chỉ và quán, gọi là đại tịch thất, từ cảnh mà đắc danh, nên gọi là Tam muội đại tịch thất., là giải thích theo Y chủ. Một giải thích là: Định cực tịch tĩnh, là chỗ nương của trí tuệ, gọi là Tam muội đại tịch thất. Tức giải thích theo Trì nghiệp. Hai loại trên là thắng duyên để hiện bày sự việc. Nhưng giải thích định này, có ba sai biệt: Danh thứ nhất là: Tam-ma-địa, như đã nói trên. Danh thứ hai là: Tam-ma-bát-để: Tiếng Hoa gọi là đẳng chí, nghĩa của đẳng như trên. Chí; nghĩa là chí cực nghĩa là chỗ tịch tĩnh chí cực kia. Danh thứ ba là: Tam-ma-sất-đa địa: Tiếng Hoa gọi là đẳng dẫn. Đẳng; nghĩa như đã nói trên. Dẫn có ba nghĩa: 1. Bình đẳng năng dẫn; 2. Hoặc là dẫn bình đẳng; 3. Hoặc là do bình bình đẳng mà dẫn phát. Ba định này mỗi định đều có rộng hẹp, danh Tam-ma-địa là tự trong tâm số, đẳng trì một pháp, gồm thâu chung tất cả hữu tâm, vô tâm trong các ngôi vị định, toàn bộ định thể, gọi là địa đẳng dẫn, tên chung cho tất cả hữu tâm vô tâm định vị công đức.

Kinh: Tư duy duyên phóng đại quang minh chiếu chúng sanh nơi tam giới. (hoặc có bản nói là: Chiếu trong tam giới.)

Giải thích: Phần năm-Tư duy duyên hiện tướng. Văn có năm phần: 1. Tư duyên phóng đại quang minh; 2. Trên đảnh xuất hoa; 3. Chư thiên mưa hoa; 4. Hoa Phật tự sinh; 5. Đại địa sáu động. Đây là phần một. Nghĩa là: Nay Thế Tôn, tư duy duyên phóng quang.

Chiếu trong ba cõi. Tư duy duyên thuộc đoạn trên.

Hỏi: Hai cõi có sắc, đúng là chỗ chiếu, trong Vô Sắc giới đều không có sắc, sao nói là chiếu ba cõi?

Đáp: Các tông bất đồng; Tông Tát-bà-đa và Kinh Bộ nói chỉ có bốn uẩn, nên không có pháp chủ thể chiếu và đối tượng chiếu còn bộ Ma-ha-tăng-kỳ thì có đủ cả mười tám giới, nên có chiếu và chủ thể chiếu. Nay theo đại thừa, kinh Trung Ấn nói: Như Lai đến Vô Sắc giới, chúng sanh vô sắc lễ bái Thế Tôn. Lại nữa, kinh Bổn Nghiệp nói: Như Lai thuyết pháp trong hội, chư thiên vô sắc đến trong hội. Cho nên biết; Vô sắc giới có đủ cả chủ thể chiếu và đối tượng chiếu. Lại nữa, phần sau kinh này nói: Trên hoa báu ở cõi trời phi tưởng phi phi tưởng, thời, Vô Sắc giới mưa vô lượng hoa hương, như mây hạ xuống. Nếu theo luận Du già thì trong Vô Sắc giới, duy chỉ có định pháp xứ sinh ra sắc. Giải thích: Theo luận Du già, theo những thuyết như vậy, như ở trên đã dẫn các kinh, đều dựa theo pháp xứ mà nói, còn hiểu được.

Kinh: Lại ở trên đảnh… quốc độ chư Phật.

Giải thích: Phần hai: Trên đảnh xuất hoa. Văn có ba phần: 1. Xuất hiện trên đảnh; 2. Hoa đến phi tưởng; 3. Đến các quốc độ Phật.

Hỏi: Trên kia thì phóng quang, sau là xuất hoa, là có ý gì? Theo Bổn ký nói: Phóng quang là nói về đoạn dứt cái ngu của chúng sinh, xuất hoa ý là tu nhân đắc quả, như hoa hiển quả.

Kinh: Lúc ấy, Vô Sắc giới… như mây hạ xuống.

Giải thích: Chư thiên mưa hoa. Văn có ba phần: 1.. Vô sắc mưa hoa; 2. Hoa Sắc giới; 3. Hoa Dục giới. Đây là phần một.

Kinh: Mười tám phạm thiên… Hoa sắc lạ. Giải thích: Hoa Dục giới.

Kinh: Phật… Phi phi tưởng thiên.

Giải thích: Phần bốn: Tự nhiên sinh hoa. Nhờ oai lực của Phật (kiếp; là tằng kiếp).

Kinh: Lúc ấy… sáu loại chấn động.

Giải thích: Phần nói về sáu loại chấn động. Lược có bốn nghĩa: 1.

Tướng động; 2. Nhân động; 3. Cảnh động; 4. Ý động.

Nói "tướng động" là: Theo cựu Hoa Nghiêm quyển hai. Biến động, cùng biến động, khởi, giác, chấn, hống (gầm), dũng, vọt lên đều có đủ cả ba tướng. Tướng truyện giải thích: Lay động không yên là động. Từ dưới thăng lên cao là khởi. Khiến sinh giác ngộ là giác. Đi ngấm ngầm có tiếng là chấn. Phát tiếng ầm ầm là hống (gầm). Lung linh lồi lõm là dũng (vọt lên).

Nói "nhân động" là: Trường A-hàm nói: Động có tám nhân duyên:

1. Động khi đại thủy động; 2. Khi tôn thần thử sức; 3. Khi Như Lai nhập thai; 4. Khi Như Lai xuất thai; 5. Khi thành đạo; 6. Khi chuyển pháp luân; 7. Khi tắt giáo; 8. Khi nhập Niết-bàn.

Tăng Nhất A-hàm thuyết có tám nhân: 1. Diêm phù đề phong luân, từ trên xuống dưới. Có địa, hỏa, thủy, phong, từ dưới lên trên. Theo thứ tự mà động; 2. Bồ-tát nhập thai; 3. Xuất thai; 4. Xuất gia học đạo thành chánh giác; 5. Nhập Niết-bàn; 6. Tỳ-khưu thần thông, tâm đắc tự tại; 7. Chư thiên mệnh chung. Sinh trở lại thắng xứ; 8. Chúng sanh mệnh chung, phước tận tướng xấu. Mà không có chuyển pháp luân.

Nói "cảnh động" là: Theo kinh Pháp Hoa, có hai nghĩa: 1. Động nhỏ: Sáu loại chấn động ở thế giới này; 2. Động lớn: Văn Thù nói kệ: Tất cả chư Phật độ, tức thời đại chấn động. Theo luận đại Trí Độ quyển mười nói: Nhân duyên địa động có lớn có nhỏ. 1. Diêm-phùđề có động, tứ thiên hạ có động, tiểu thiên quốc độ, tam thiên đại thiên quốc độ, ít động vì ít nhân duyên. Nếu người phước đức, hoặc sinh hoặc tử, một quốc độ địa động, đó là động nhỏ. Động lớn là vì nhân duyên lớn, như khi Phật mới sinh, khi thành Phật, khi sắp diệt độ, tam thiên đại thiên thế giới đều chấn động, lúc đó là đại động.

Nói "ý động" là tự có hai thuyết: Một thuyết là: Theo luận Thập Địa: Động địa trị bốn loại phiền não: 1. Chúng sanh tín sinh thiên. Tín hiện thiên báo, chấn động thiên cung. Liền sinh chán bỏ, khởi cầu tâm pháp; 2. Chúng sanh tạo ác, không biết vô thường, buông tâm thả thức, khiến nhân động địa, bỏ ác theo thiện; 3. Chúng sanh ngã mạn, hoặc nhân chú lực, hàm động địa nhỏ; 4. Khởi tâm cao ngạo, khiến nương đại động, biết mình còn kém.

Thuyết thứ hai là: Theo Luận-Kinh Thắng Tư Duy Phạm Thiên: Ý động có bảy: 1. Khiến các ma ác kinh sợ; 2. Khiến khi thuyết pháp, đại chúng không khởi tâm loạn; 3. Khiến người phóng dật sinh ra giác tri; 4. Khiến chúng sanh niệm nhớ tướng pháp; 5. Khiến chúng sanh quán về chỗ thuyết; 6. Khiến người thành tựu đắc giải thoát; 7. Khiến tùy thuận hỏi về chánh nghĩa.

Kinh: Bấy giờ, chư đại chúng… sinh nghi.

Giải thích: Phần hai-Chúng nghi. Văn có ba phần:. Chúng nghi;

2. Tướng nghi; 3. Hỏi chúng không quyết. Đây là phần một. Nghĩa là khi phóng quang, chúng cùng sinh nghi.

Kinh: Nói với nhau… đây là sự gì?

Giải thích: Phần hai Tướng chúng nghi. Văn có ba tiết: 1. Tán thán Phật đức; 2. Lãnh về sự việc trước; 3. Nói về nghi. Trong phần tán thán Phật đức, đầu tiên là nói về đức của người thành. Còn biện về bốn loại:

1. Bốn vô sở úy: Là Nhất thiết tri vô úy, lậu tận vô úy, tận khổ đạo vô úy, thuyết chướng đạo vô úy. Bốn vô úy này trong phẩm Thọ trì sau, đến đó sẽ nói.

2. Mười tám pháp bất cộng: Tự có hai loại: Một là: Mười tám pháp bất cộng trong tạng Thanh văn: Là mười lực, bốn vô úy, ba niệm xứ và đại bi, như luận Câu-xá. Nay đại thừa, mười tám pháp bất cộng là: 1. Thân không lỗi; 2. Khẩu không lỗi; 3. Ý không lỗi; 4. Không dị tướng;

5. Không bất định; 6. Đều biết đã bỏ; 7. Dục không giảm; 8. Tinh tiến không giảm; 9. Niệm không giảm; 10. Tuệ không giảm; 11. Giải thoát không giảm; 12. Giải thoát tri kiến không giảm; 13. Tất cả thân nghiệp hành theo trí tuệ; 14. Khẩu nghiệp hành theo trí tuệ; 15. Ý nghiệp hành theo trí tuệ; 16. Trí tuệ biết quá khứ vô ngại;

17. Biết vị lai vô ngại; 18. Biết hiện tại vô ngại. Không cùng chung với nhị thừa, gọi là pháp bất cộng.

3. Đức năm nhãn: Bốn nhãn như trên, thêm Phật nhãn. Phật nhãn dùng bốn nhãn làm thể, ở cùng một thân Phật, gọi chung là Phật nhãn. "Pháp thân": Có ba loại: 1. Gọi chung pháp thân: Gồm thâu chung

Phật đức; 2. Năm phần pháp thân: Như đã nói ở phần trên; 3. Chơn như pháp thân: Dùng "như" làm thể.

Nói "Đại giác Thế Tôn": Người thành tựu do đức. Cái giả của năm uẩn. Nói "trước đã vì chúng ta: Nghĩa là, trước đây đã vì đại chúng chúng ta, sau khi mới thành đạo, đã hai mươi chín năm thuyết bốn Bát-nhã: 1. Ma ha Bát-nhã; 2. Kim cang; 3. Thiên vương vấn; 4. Quang tán. Giải thích: Bổn ký nói: Nay theo kinh này thì phải là năm bộ. Cựu tướng truyện nói: Có hai loại tám bộ: Một loại là: Lưu hành ở Trung Hoa; tám bộ gồm: 1. Đại phẩm Bát-nhã; 2. Tiểu phẩm Bát-nhã; 3. Văn Thù Bát-nhã; 4. Kim cang Bát-nhã; 5. Quang tán Bát-nha; 6. Đạo hành Bát-nhã;

7. Thắng thiên vương Bát-nha; 8. Nhân vương Bátnhã. Loại thứ hai là: Theo Bồ-đề-lưu-chi, Kim cang Tiên luận đã nói về tám bộ: 1. Bộ mười vạn kệ; 2. Bộ hai vạn năm ngàn kệ. Hai bộ này Trung Hoa chưa có. 3. Bộ một vạn tám ngàn kệ tức kinh Đại Phẩm; 4. Bộ tám ngàn kệ, tức Tiểu phẩm Bát-nhã; 5. Bộ bốn ngàn kệ. Trung Hoa chưa có; 6; Bộ hai ngàn năm trăm kệ, tức Thiên vương vấn Bát-nhã; 7. Bộ sáu trăm kệ. Tức Văn Thù vấn; 8. Bộ ba trăm kệ. Tức Kim cang Bát-nhã. Nếu theo Ngài Chơn đế trong cuốn Kim cang Bát-nhã ký, nói về tám bộ Bátnhã, cũng giống với Ngài Lưu-chi, nhưng khác là bộ thứ sáu không nói là ở Trung Hoa chưa có.

Nay hỏi: Ngài Tam Tạng Nhật Chiếu và Ngài Vu Điền Tam Tạng đều nói: Xứ kia chưa nghe đến tên của tám bộ. Nay theo đại Bát-nhã thì có bốn xứ mười sáu hội, nhưng không bao gồm Nhân vương Bát-nhã. Lại nữa, Ngài Tam Tạng Từ Ân nói: Tây phương không giới hạn ở tám bộ.

Hỏi: Theo đại Bát-nhã, trong mười sáu hội, Ma ha Bát-nhã là hội thứ nhất, Kim cang Bát-nhã là hội thứ chín. Thiên vương vấn là hội thứ sáu. Quang tán cũng là hội thứ hai, sao kinh này lại không theo thứ tự mười sáu hội kia?

Đáp: Kinh này đúng lý thì phải nương theo thứ tự kia, cũng phải nói chung với các bộ khác, nhưng vì người phiên dịch theo với những điều họ đã được nghe tạm chỉ nói về bốn bộ.

Nói "bốn xứ" là: 1. Tại núi Linh Thứu thuộc Vươngxá thành; 2. Vườn Cấp-cô-độc, rừng thành Thệ-đa-thấtla-phiệt; 3. Tại cung điện Ma ni bảo tạng ở cung trời Tha hóa tự tại; 4. Tại vườn Trúc Lâm bên hồ Bạch Lộ ở thành Vương-xá, thuyết tuệ độ.

Nói "Mười sáu hội" là: Như biệt ký đã nói. Nhưng nay chia mười sáu hội, có ba tiết: Năm hội đầu, từ rộng đến lược, đều thuyết về sáu độ, văn tuy có rộng và lược nhưng nghĩa không có rộng hẹp. Vì vậy mà Bồ-tát Long Mãnh theo phần thứ hai tạo ra luận Trí Độ. Tiếp theo là có năm hội, rất khó phân biệt rõ. Sáu hội sau cùng, như thứ tự của chúng thuyết rộng sáu độ. Nhưng mười sáu hội đó không bao gồm bộ kinh này, vì Như Lai thuyết giáo, tùy theo cơ mà khác.

Kinh: Ngày nay Như Lai… Đây là sự gì? Giải thích: Phần ba-Tỏ bày nghi tình.

Nghĩa là: Trước đây phóng quang thuyết Bát-nhã. Nay phóng quang là làm việc gì?

Kinh: Lúc ấy, mười sáu… Tên là Nguyệt Quang.

Giải thích: Phần ba: Hỏi chúng chẳng quyết. Văn có hai phần: 1. Vương hỏi chúng, để nói rõ chúng không thể quyết nghi. Trong phần này có ba phần: 1. Biện về trú xứ; 2. Nêu tên riêng; 3. Tán thán đức.

Nói "Quốc chủ Xá-vệ" là: Nêu nước để hiển bày người. Theo luận Trí Độ; tên nước là Kiều-tát-la. Chủ tên là vua Ba-tư-nặc, nay gọi là nước Xá-vệ, hoặc gọi là thành Xá-bà-đề, hoặc gọi là thành Xá-la-bà-tất-đế-dạ, đều sai cả, chính gọi là thành Thất la bà tất để, tiếng Hoa dịch là thành Văn Giả. Kinh Pháp Kính nói: Nước Văn Vật. Kinh Thập Nhị Du nói là: Nước Vô Vật Bất Hữu. Luật Thiện-Kiến nói: Xá-vệ là tên người, người xưa ở thành đó. Xưa kia, có vị vua thấy đất ấy tốt đẹp mà lập tành nước, lấy tên người đó đặt tên nước là Xá-vệ. Còn có một tên nữa là nước Đa Hữu, các châu báu quý lạ nơi các nước, đều quy tụ về nước đó. Lại nữa, các điển ngữ phương Tây, gọi là Thất la phiệt, tiếng Hoa gọi là "trẻ nhỏ không thể hại". Do kiếp sơ có hai tiên nhân anh em, tu đạo ở đó, em tên là Thất la, tiếng Hoa gọi là ấu thiếu (trẻ nhỏ). Anh tên là A la phiệt. Tu đạo ở đó, nhân đấy đặt tên đất, dùng đất đặt tên nước, lấy tên nước để gọi tên thành. Gọi là nước Thất-la-phiệt, và thành Thất la phiệt. Trước đây dịch sai lược, nên gọi là thành Xá-vệ. Tên nước là Kiều-tát-la, tên thành là Xá-vệ. Trước đây người phiên dịch lấy tên của thành, gọi thành tên nước.

Nói "Vua Ba tư nặc": Tên là Nguyệt Quang. Là nêu tên riêng. Âm tiếng Phạm là Ba tư nặc, tiếng Hoa là Thắng Quân, tên tục là Nguyệt Quang. Bổn ký nói: Quốc vương họ Nguyệt, sau khi nghe pháp, lại đặt tên là Quang.

Kinh: Đức hạnh mười địa… Ma-ha-diễn hóa.

Giải thích: Phần ba. Tán thán đức. Nghĩa là ngôi vị đăng lên mười địa như Cực Hỷ,… hành sáu độ như thí,… và ba mươi bảy pháp như niệm trú,… như đã nói trên.

"Bốn tịnh bất hoại": Theo tông Tát-bà-đa; tín Tam bảo và tín giới bất hoại, thành bốn. Theo luận Thành Thật: tín Tam bảo và tín giới, bốn tín làm thể. Nay tông đại thừa, giống luận Thành Thật, nghĩa cũng không trái. "Hành Ma-ha-diễn hóa": Âm tiếng Phạm là Ma-hadiễn, tiếng Hoa là Đại thừa, hành tự lợi, lợi tha, hai hạnh bình đẳng nên gọi là Ma-ha-diễn hóa.

Kinh: Theo thứ tự mà hỏi… Không thể đáp được.

Giải thích: Phần nói rõ chúng chẳng quyết nghi. Văn có hai phần:

1. Hỏi cư sĩ; 2. Hỏi nhị thừa; 3. Hỏi Bồ-tát.

Bảo: Là Bảo Tích. Cái: Là Nguyệt Cái. Pháp: Là Pháp Tài. Tịnh Danh: Tức là Duy-ma-cật. Các vị đó đều tại gia, nên gọi là cư sĩ. Có người nói: Bảo Cái là trưởng giả Bảo Cái. Pháp là trưởng giả Hộ Pháp. Tịnh danh là Duy ma cật. Có người nói: Bảo là trưởng giả Bảo Tích, lấy lọng hiến dâng Phật, nên gọi là Bảo Cái. Pháp, Tịnh danh là Duy ma cật. Pháp; là quỹ tắc, tức những pháp đã giải, hiểu. Tịnh; là vô cấu, danh; là tên gọi, danh xưng. Nghĩa là cư sĩ rộng hiểu các pháp, không có phiền não cấu uế, danh tiếng mười phương.

"Tu-Bồ-đề": Tiếng Hoa gọi là Không Sinh. Hoặc Thiện Cát, Thiện Hiện,…

"Xá-lợi-phất": Tiếng Phạm là Xá-lợi-cục-đa-la, hoặc là Xá-lợi-phất đa la. Xá-lợi là tên mẹ, con ngươi mắt xanh gọi là Xá lợi. Lại nữa, mắt mẹ tựa như mắt Bồ câu. Trong kinh hoặc gọi là Thu Lộ, tử tức một cách phiên dịch khác.

Đây nói rõ Như Lai phóng quang, diệu ý khó biết, nên luận Trí Độ quyển mười một nói: Lực trí tuệ Phật, phương tiện thần thông. Những đại A-la-hán như Xá-lợiphất, đại Bồ-tát như Di-lặc còn không biết huống là phàm phu.

Kinh: Bấy giờ… có duyên ấy hiện.

Giải thích: Phần Giác ngộ Như Lai. Văn có ba phần: 1. Phương này bày nhạc để giác ngộ Như Lai; 2. Phương khác bày nhạc; 3. Cùng bày nhạc để giác ngộ Như Lai. Đây là phần một. Văn có hai phần: 1. Ba loại nhạc được trình bày, nghĩa là; đầu tiên là vua Nguyệt Quang, tiếp đó là mười tám Phạm thiên, sau nữa là chư thiên nơi lục dục; 2. Âm thanh động cả tam thiên; hiển bày uy lực của âm thanh. Như kinh đã rõ.

Kinh: Những thân phương khác kia nhập đại hội này.

Giải thích: Phần hai: phương khác bày nhạc. Văn có hai phần: 1. Đến tập hội; 2. Bày nhạc. Trong phần đến tập hội, văn có hai phần: 1 Giải thích riêng bốn phương; 2. Giải thích tương tự sáu phương. Đây là bốn phương, như kinh đã rõ.

Kinh: Sáu phương cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần giải thích tương tự sáu phương.

Kinh: Tạo nhạc cũng vậy.

Giải thích: Phần Giải thích tạo nhạc tương tự.

Kinh: Cũng lại cùng tạo… giác ngộ Như Lai.

Giải thích: Phần ba-cùng bày âm nhạc để giác ngộ Như Lai.

Kinh: Phật liền biết thời… như Kim cang sơn vương.

Giải thích: Phần Phật thăng tòa hoa. Nghĩa là biết căn đã thuần thục, ngồi tòa sư tử.

Kinh: Đại chúng hoan hỷ… Đại chúng mà trụ.

Giải thích: Phần Đại chúng hoan hỷ, hiện thần thông mà trú. Để hiển bày chúng nhiều và lực thần thông, nương nơi hư không và đất, mong đợi Phật thuyết. Hỏi: Chúng sinh hạng nào, nương hư không nương đất mà trú?

Đáp: Phương khác nương vào không trung, phương này nương vào đất. Hoặc có thể là chúng thật thì nương ở đất, chúng hóa thì nương vào hư không. Hoặc Thánh thì nương hư không, phàm thì nương đất. Hoặc có thể là tha lực tiếp đón phàm cũng tại hư không, tùy nhạc tùy thông, nên chia thành hai nơi.

----------------------

Chú thích phẩm này, có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Chánh giải thích văn.

Nói "quán không": Xưa nay các thuyết bất đồng, vô phân biệt trí, trong chứng chúng sinh, pháp cả hai đều không. Trừ được hai chướng, nên gọi là phẩm Quán Không. Ngài Từ Ân Tam Tạng luận rộng về "không", lược chia bốn loại: 1. Nói vô là không: Vì vậy, luận Du già, địa Bồ-tát nói; hữu vi vô vi, gọi là hữu. Không có ngã, ngã sở, gọi là vô;

2. Biệt không vô ngã: Nghĩa là, trên năm ấm hữu lậu, không có ngã, ngã sở. Tức nói năm uẩn là không, cho nên luận Thành Thật nói: Biệt không phi ngã, vì thuộc khổ đế; 3. Thông "không" làm ngã: Như Thế Tôn thuyết; tất cả pháp đều "không". "Không" không có thể ngã, thông cả tất cả pháp. Sinh và pháp cả hai đều không, chơn như hiển bày. Nói đó là "không", đó là tính của không.

Gọi tên là "Không", nếu theo âm Phạm, "không" có hai nghĩa: 1. Thuấn nhã, tiếng Hoa dịch là "không", nghĩa thứ nhất trong bốn nghĩa hiển bày nghĩa vô; (Không có) 2. Thuấn nhã đa: Tiếng Hoa gọi không tính. Tức là chỗ hiển chơn tính thứ tư. Nay luận Thuần nhã đa tuy nói là Thuấn nhã nhưng không phải như trước đây đã nói. Không tức là lý. Quán; là quán sát, tức quán trí.

Không là tính "không". Là cảnh của đối tượng quán. Vô phân biệt, trí quán chơn như, không cảnh và trí hợp lại mà nói, gọi là quán "không".

Kinh: Bấy giờ, Phật bảo… Quốc vương nhân duyên. Giải thích: Phần hai-Chánh giải thích theo văn. Từ phẩm này và năm phẩm sau là phần chánh thuyết. Tổng chia làm ba phần: Ba phẩm đầu là nội hộ, tiếp đến phẩm Hộ Quốc, là ngoại hộ. Phẩm Tán Hoa, mang ơn cúng dường. Hoặc phẩm Thọ Trì cũng là chánh tông; mang ơn mà rải hoa và thọ trì. Tuy có hai thuyết, nhưng nay tạm theo thuyết trước mà giải thích. Trong phần nội hộ, lại chia làm hai phần: 1. Lược triển khai hai hộ; 2. Từ "bấy giờ, đại vương…" hỏi đáp. Trong phần lược triển khai hai hộ lại có bốn phần: 1. Biết ý vua hỏi; 2. Lược triển khai hai hộ; 3. Khuyên phát ba tuệ; 4. Hoan hỷ cúng dường. Đây là phần một: Biết ý của vương.

Kinh: Ta nay trước tiên vì… thập địa hạnh nhân duyên.

Giải thích: Phần hai: Lược triển khai hai hộ. 1. Nhân duyên hộ Phật quả; 2. Nhân duyên hộ Phật địa hạnh. Trong đó, Phật quả làm đối tượng hộ, lấy thập địa Bát-nhã làm chủ thể hộ nhân duyên, do sinh ra Phật quả. Lại nữa, thập địa Bồ-tát làm sở hộ. Lấy địa tiền Bát-nhã làm hộ nhân duyên, vì có thể sinh ra hạnh Bồ-tát thập địa. Hoặc có thể hộ hạnh, cũng thông cả mười địa. Do bắt đầu từ sơ địa sinh ra địa thứ hai nên. Vì các địa lần lượt, địa trước sinh ra địa sau.

Hỏi: Vua hỏi cách hộ quốc, Phật lại thuyết hai hộ, thế không trái nhau sao?

Đáp: Lực hộ trì quốc độ, phải nương theo hai hộ. Vì vậy mà Như Lai, trước tiên thuyết về hai hộ.

Kinh: Lắng nghe! Lắng nghe!… Như pháp tu hành.

Giải thích: Phần ba Khuyên phát ba tuệ.

Nói "lắng nghe!": Là phát sinh Văn Tuệ, vì nhờ nghe mà sinh. "Khéo tư niệm nó": Là phát sinh tư tuệ, nhờ suy tư mà sinh. "Như pháp tu hành": Là hiển bày Tu Tuệ, nhờ tu thiền định mà sinh ra tuệ.

Kinh: Bấy giờ Ba tư nặc… che các đại chúng.

Giải thích: Phần tư Hoan hỷ cúng dường.

Nói "đại sự nhân duyên" là: như luận Trí Độ quyển chín nói: Phật thuyết Bát-nhã, vô số chúng sanh sẽ nối tiếp dòng giống Phật, ấy là đại sự nhân duyên. Lại nữa, quyển bảy mươi ba nói: Tu-Bồ-đề bạch Phật: Thế Tôn! Bát-nhã vì đại sự mà khởi. Ngài Long Thọ chú thích là: Có thể phá trừ các đại phiền não của chúng sanh, có thể cho đại pháp vô lượng của chư Phật, gọi là đại sự.

Nói "liền rải trăm ức hoa nhiều sắc" là thành hạnh hộ, dẫn đến sinh ra thắng quả.

"Biến thành trăm ức trướng báu che các đại chúng" là: Quả của đối tượng hộ trì đã viên mãn, trở lại nuôi nấng quần sinh.

Kinh: Bấy giờ, đại vương… nhân duyên hành mười địa.

Giải thích: Phần hai-Hỏi đáp. Trong đó có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Đây tức là Nguyệt Quang theo trước khởi hỏi. Hỏi có hai ý: 1. Hỏi nhân duyên hộ Phật quả; 2. Hỏi về nhân duyên hộ thập địa.

Kinh: Phật nói: Bồ-tát hóa bốn sinh.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Như Lai chánh thuyết. Văn có ba phần: 1. Phẩm Quán Không, nói về hạnh tự lợi, đáp câu hỏi trước; 2. Phẩm Giáo Hóa, nói về hạnh lợi tha. Đáp câu hỏi thứ hai. 3. Phẩm Nhị Đế. Nói về lý mà hai hộ nương vào. Ở phần đáp câu hỏi đầu, văn có hai phần: 1. Chánh giải thích về quán "không"; 2. Từ "Đại vương! Bồ-tát…" giải thích xong, tổng kết. Phần một lại có hai: 1. Nêu tông, chánh giải thích; 2. Từ "bạch Phật…" hỏi đáp giải thích lại. Đây là phần nêu tông, chánh giải thích.

Nhưng giải thích đoạn văn này, tự có hai thuyết: Theo Bổn ký thì văn chia làm ba phần: 1. Cảnh của đối tượng giáo hóa; 2. Trí của chủ thể giáo hóa; 3. Từ "ấy là…" kết thành thể của hóa.

Nói: "Bồ-tát hóa bốn sinh" là: Cảnh của đối tượng giáo hóa. Bốn sinh có ba nghĩa: Một là Hình sắc bốn sinh: Là thai, noãn thấp, hóa. Hai là Tiểu thừa tâm thần bốn sinh: 1. Nhất xiển đề; 2. Ngã kiến; 3. Thanh văn sợ hãi sinh tử; 4. Duyên giác hạnh tự lợi. Ba là: Đại thừa tâm thần bốn sinh: Có hai loại người vui thú với ba hữu: 1. Nhất xiển đề vui thích đại thừa; 2. Chấp trước ngã kiến, đại thừa ngoại đạo. Có hai loại người không vui thích ba hữu: Một loại người tức là nhị thừa, không vui nơi sinh tử, không thích Niết-bàn. Một loại người tức là Bồ-tát. Ba, bốn sinh đó tức là cảnh của đối tượng giáo hóa. Nên bảo là Bồ-tát hóa bốn sinh.

Nói: "Chẳng quán sắc như… nhị đế": Từ đây là phần hai-Nêu trí của chủ thể Quốc độ. Thấy các pháp như như, đồng một Vô tướng. Văn có ba phần: 1. Theo pháp; 2. Giải thích; 3. Kết thành.

1. Theo pháp: Nêu năm điều: 1. Năm ấm; 2. Chúng sinh; 3. Quả Phật; 4. Bồ-tát; 5. Chơn và vọng. Năm ấm là chỗ nương tựa của sinh tử người giả tạo trong sinh tử chúng sinh ngã nhân là chủ thể nương dựa. Bốn đức Phật quả là chỗ nương tựa của hàng xuất thế. Giải thích: Bốn đức quả Phật là chỗ nương tựa của Bồ-tát chủ thể giáo hóa. Vì vậy kinh nói: Bồ-tát hóa sinh, bất luận là với Phật tri kiến, thọ giả, Bồ-tát là chủ thể nương tựa. Bồ-tát có ba: 1. Vị; 2. Nhân; 3. Pháp. Ngôi vị có ba loại:

1. Chưa biết muốn biết; là mười tín, gọi là tri; 2. Mười giải, mười hạnh gọi là kiến; 3. Hộ tri tức là thọ giả. Từ mười hồi hướng đến Kim cang, gọi là thọ giả. Có thể hộ vệ thọ mệnh của trí tuệ, khiến không bị đứt đoạn, mất mát. Nhân; văn nói là Bồ-tát. Pháp: Văn gọi là sáu độ. Người muốn pháp. Chơn và vọng; là nhị đế. Như sinh tử là tục, xuất thế là chơn. Có hai giải thích: 1. Tổng; 2. Biệt. Tổng là: Văn nói "vì vậy, tất cả pháp tính chơn thật "không": Chia làm năm nghĩa: 1. Là lập danh chơn thật "không", (tên gọi thứ 12 của đại Bát-nhã), chơn như thật tế,… 2. Là tướng bất định: Hữu và vô… 3. Là nghĩa chủ thể nhận biết, có thể nhận biết không có thể riêng biệt nào khác.

Giải thích: Bổn giác phản chiếu bổn thể nơi thức thứ chín. Tức đệ nhất nghĩa Tất-đàn trong luận Trí Độ; 4. Là lược phân tích; đạo tiền bất tịnh, đạo hậu tịnh. Hữu cấu và vô cấu; 5. Là rộng phân tích: Nghĩa là mười sáu "không", mười tám "không"… Riêng biệt thì có năm: 1.

Văn nói: "Bất lai bất khứ" (không đến không đi) là sinh tử "không"; 2. Là văn nói: "Vô sinh vô diệt": là Niết-bàn "không". Sinh tử là đến, Niết-bàn là diệt. Vô khứ tức vô lai, nên là sinh tử "không". Vô sinh thì vô diệt, cho nên Niết-bàn "không"; 3. Là văn nói: "Đồng chơn tế" là Đạo tiền như; 4. Là văn nói: "Đẳng pháp tính": Là Đạo hậu như. Thật tế không cùng, pháp tính không đoạn, không cùng thì không có trước, không đoạn thì không có sau; 5. Là kết, có ba: Một là: Nêu không có ngã nhân và ngã pháp, nhân và pháp đều vô ngã; văn nói: "Vô nhị, vô biệt". Vô nhị là nhân vô nhã, vô biệt là pháp vô ngã. Ngã đối lại với ngã sở, cho nên thành là hai (nhị), vạn pháp bất đồng, cho nên thành biệt. Hai là: Tổng kết. Văn nói: "Như hư không" là tổng kết hai vô nhã. Ba là: biệt kết. Văn nói: "Không có ngã, ngã sở" là biệt kết về pháp không.

Phần thứ ba là kết thành. Quán giải như trên, tức là Bát-nhã mười địa, nên kinh Kim cang nói: "Pháp vô vi mà có sai biệt", tức là dùng vô vi, làm thể của Bồ-tát. Nay giải thích không vậy. Bồ-tát hóa sinh, văn có bốn phần: 1. Tổng nêu về chủ thể giáo hóa và và đối tượng giáo hóa; 2. Từ "không quán sắc…" là giải thích riêng về chủ thể giáo hóa đối tượng giáo hóa "không"; 3. Từ "do đó tất cả…" kết thành về nghĩa "không"; 4. Từ "ấy là Bồ-tát…" kết thành thể của hộ. Đây là phần một.

Nói: "Bốn sinh" là: Như luận Du già quyển hai nói: Noãn (trứng) sinh là gì? Nghĩa là chư hữu tình, phá bể vỏ mà sinh ra. Như vịt, nhạn… Thai sinh là gì? Là chư hữu tình, bị thai bao bọc, cắt thai mà sinh, như voi, ngựa… Thấp sinh là gì? Là chư hữu tình, tùy nhân một loại khí ẩm thấp mà sinh, như loài mọt v.v… Hóa sinh là gì? Là chư hữu tình do tăng thượng nghiệp, có đầy đủ sáu xứ mà sinh, hoặc lại không có đủ, như thiên, Na-lạcca có hoàn toàn, và người quỉ, bàng sinh có một phần.

Kinh: Chẳng quán sắc như, thọ tưởng hành thức như.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Giải thích riêng về chủ thể, đối tượng giáo hóa "không". Văn có hai phần: 1. Đối tượng hóa sinh và pháp cả hai đều "không"; 2. Từ "Bồ-tát như…" chủ thể hóa sinh và pháp cả hai đều "không". Trong phần một, có hai phần: 1. Pháp của đối tượng hóa là "không"; 2. Sinh của đối tượng hóa là "không". Đây là phần một.

Nói: "Chẳng quán sắc như": Chữ "Chẳng quán" là thông luôn với các câu sau. Riêng về "chẳng quán sắc như" thì các thuyết bất đồng: Theo Bổn ký; nếu hóa thì chẳng quán như, quán như thì bất hóa. Nay nói hóa sinh, nên bảo là chẳng quán như. Những lời văn chẳng quán tiếp theo đều chuẩn như vậy. Một thuyết nói: Chẳng quán sắc như, vì chấp như thì không có đối tượng quán. (đó là giải thích theo Y chủ). Một thuyết nói: Chẳng quán sắc và như đều là chỗ chấp, không có đối tượng quán. (Đó là giải thích theo Tương vi), còn lại đều vậy. Một thuyết nói: Thấy cái như của sắc, như tức là "không", "không" thì không có gì cả, nên nói là "chẳng quán sắc như". (Theo các tông: Như Thanh Biện…). Một thuyết nói: Lý thật thì khi Bồ-tát giáo hóa hữu tình. Thấy năm ấm kia và chơn như, mà không phân biệt là sắc, là như.

Nên nói là "chẳng quán". Vì vậy, luận Du già, địa Bồ-tát nói: Bồ-tát quán hạnh, tùy chỗ sự, tùy chỗ như, chẳng tạo sự đó, như đó. Do vậy, Bồ-tát, dụng mà thường tịch, tịch mà thường dụng, bốn uẩn; thọ… cũng luận như sắc vậy.

Kinh: Chúng sinh, ngã, nhân… Thọ giả như.

Giải thích: Phần hai: Sinh của đối tượng hóa là "không". Nghĩa là, trong năm uẩn, cho là ngã, cho là chúng sanh, ngã và nhân…. Vì tình có lý không, nên nói là "không". Hoặc ở trong uẩn, cho là ngã là thường, lạc, ngã, tịnh. Hoặc ở trong uẩn, như những thứ ứng với chúng tưởng cho thức uẩn là cái trí; một phần sắc uẩn, mắt làm thành cái thấy. Một phần hành uẩn, mệnh v.v… làm ra cái thọ giả, cũng là tình thì có mà lý thì không, vì chấp ở cái tình. Nói là sinh không. Các tông đồng dị, như trong tông đã nói.

Kinh: Bồ-tát như… Nhị đế như.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Chủ thể giáo hóa; sinh và pháp cả hai đều "không". Nói "Bồ-tát như" là; sinh của chủ thể hóa "không". Vì cái chấp về Bồ-tát, theo lý thì chẳng phải có.

"Sáu độ, bốn nhiếp, tất cả hạnh như" là: pháp của chủ thể giáo hóa là "không". Các pháp sáu độ thành Bồtát, theo lý thì chẳng phải có.

"Nhị đế như" là: Nêu chẳng những chủ thể quán, mà đối tượng quán cũng "không", nên nói là nhị đế như.

Kinh: "Do đó, tất cả… không có tướng gì cả.

Giải thích: Phần ba: Kết thành nghĩa "không". Văn có hai: 1. Kết tất cả pháp "không"; 2. Từ "do đó, ấm nhập…" kết thành hai khóa nghĩa "không". Nghĩa tướng, không trên đây như Bổn ký, cho nên không thuật nữa.

Kinh: Đó là Bồ-tát… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần bốn: Kết thành thể của hộ.

Kinh: Bạch Phật nói… là hóa chúng sanh chăng?

Giải thích: Phần hai: Hỏi đáp, giải thích lại. Trước hỏi, sau đáp.

Đây là hỏi.

Hỏi có ba ý: 1. Lãnh hội được ý đã thuyết trên nghĩa là: "Nếu các pháp đều "không"; 2. Nêu hóa sự: Là hộ hóa chúng sanh; 3. Chánh thức trình bày thắc mắc: Nghĩa là, nếu đều không, thì làm sao có Bồ-tát để giáo hoá chúng sanh? Như theo Bổn ký, thì ý giải đáp hỏi là: Nếu quán "không" thì không thể hóa. Nếu hóa thì chẳng quán "không". Hai nghĩa trái nhau hóa sao thành được?

Kinh: Đại vương! Pháp tính sắc v.v... thường lạc ngã tịnh.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Như Lai chánh thức đáp. Văn chia làm hai phần: 1. Nương theo chơn để quán "không", thì không hóa; 2. Nương theo tục thì có thể giáo hóa chúng sanh. Trong phần: Một có bốn phần: 1. Nêu cảnh; 2. Biện minh quán; 3. Hỏi; 4. Giải thích "không". Đây là phần nêu cảnh.

Nếu theo Bổn ký thì cảnh có hai loại: 1. Là năm uẩn, là cảnh trước địa; 2. Là thường lạc ngã tịnh: Là cảnh trong địa.

Nay giải thích không vậy: Năm uẩn là cảnh của đối tượng nương tựa. Thường, lạc là cảnh của chủ thể nương tựa. Hai loại cảnh như vậy, thông chung cả trước địa và trong địa.

Kinh: Chẳng trụ sắc… Chẳng trụ phi phi sắc.

Giải thích: Phần hai: Biện minh quán. Văn có hai phần: 1. Quán sắc ấm; 2. Giải thích riêng về bốn ấm. Đây là phần một: Nhưng giải thích văn này, các thuyết bất đồng.

Một thuyết nói: Theo Bổn ký; "chẳng trụ sắc", là câu thứ nhất, ngăn chặn sắc; sắc là sắc uẩn. Tức là vật chất ngăn ngại. "Phi sắc" là câu thứ hai. Ngăn chặn bốn uẩn; tức tâm liễu biệt. "Phi phi sắc" là câu thứ ba, lại ngăn chặn thêm về sắc tâm. Nếu nói cho đủ thì phải nói là: "Bất trú phi sắc phi phi sắc", vì lược bỏ bớt chỉ nói là phi phi sắc. Đây giải thích ý này nói: Trí của chủ thể duyên, quán chơn như kia; lìa sắc, lìa phi sắc, lìa cả hai sắc và phi sắc.

Một thuyết nói: Nói "chẳng trụ" là vì bên trong chứng trí không chấp trước, gọi là chẳng trụ. Như luận Nhiếp Đại thừa, sắc có ba loại: 1. Sắc phân biệt; tức là biến kế sở chấp; 2. Sắc chủng loại: Là y tha khởi;

3. Sắc pháp tính; là viên thành thật. Do ba vô tính mà bỏ ba sắc tính. Nên nói là chẳng trụ sắc. Cho đến chẳng trụ phi phi sắc.

Một thuyết nói: Pháp tính chơn như, lìa bốn câu, tuyệt trăm phi. Nói "chẳng trụ sắc…" là; nếu nói đầy đủ phải nói là: Chẳng trụ sắc; chẳng trụ phi sắc; chẳng trụ vừa sắc vừa phi sắc; chẳng trụ phi sắc phi phi sắc. Vì lược bớt nên bỏ câu thứ ba và hai chữ phi sắc trong câu thứ tư.

Kinh: Cho đến phi phi trụ.

Giải thích: Phần hai: Giải thích tương tự bốn uẩn. Nhưng nói: "Chẳng trụ phi phi trú" là nói lược bớt. Nêu sau để gồm thâu trước.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần ba: Nêu hỏi ngược lại. Đây có hai giải thích: Một giải thích nói: Chẳng lẽ chơn như đều chẳng cùng là một thể, sao lại còn giải thích riêng các uẩn là như?

Một giải thích nói: Đã có Chơn đế, tại sao chẳng trụ? Kinh: Phi sắc, phi phi sắc như.

Giải thích: Phần bốn: Giải thích chung. Cũng có hai giải thích:

1. Giải thích Ý hỏi trên. Nói: phi sắc như tức là phi phi sắc như. Lẽ ra nói ba câu, vì lược bớt nên nói hai câu. 2. Giải thích Ý hỏi sau: Nói: Như nghĩa là "không", tức là chân tính, rỗng không vô sở trụ, nên nói là "chẳng trụ".

Kinh: Vì thế đế… cho nên tất cả sinh tính thật.

Giải thích: Đây là phần theo tục có thể giáo hóa chúng sanh. Trong đó có hai phần: 1. Do hai duyên nên thấy chúng sanh là đối tượng giáo hóa; 2. Từ "cho đến…" nói có thể giáo hóa chúng sanh. Phần một có ba phần: Nói: "Thế đế cho nên ba giả.": Là xuất hai nhân, nói "vì thế đế"; thế đế có ba loại: 1. Là sắc đế: Bốn đại làm tính; 2. Là tâm đế: Thức giới làm tính; 3. Là không đế: Nói: "Ba giả": là pháp giả, thọ giả, danh giả. Tiếp đó là nói: "Gọi là thấy chúng sanh"; là nêu tông. Nương theo hai nhân mà có người là đối tượng giáo hóa. Sau là nói: "Tất cả sinh tính thật" lại xuất nhân. Bổn ký nói: Là trong phi thắng nghĩa, thật tính có thể đắc. Mà trong tục đế, tất cả bốn sinh cũng có nghĩa của thật tính. Đó là nương theo thọ giả. Hoặc có bản nói: "Do tất cả pháp tính thật". Dựa chung cả ba giả.

Kinh: Cho đến… cũng gọi là kiến.

Giải thích: Từ đây là phần hai Có khả năng giáo hóa. Trong đó có hai phần: 1. Dựa theo thọ giả để nói về hữu nơi chủ thể hóa; 2. Từ "Đại vương!…" lấy danh giả để nói khả năng giáo hóa. Trong phần một. Có hai phần: 1. Lấy theo chánh kiến, chứng minh là có khả năng giáo hóa; 2. Ngoại đạo tà kiến để chứng minh nghĩa kiến đó.

"Thất hiền": Là bảy phương tiện, hoặc là; tín hạnh, pháp hạnh, tín giải thoát, kiến chí, thân chứng, tuệ giải thoát, câu giải thoát.

"Tám Thánh": bốn hướng, bốn quả, gọi là tám Thánh. "Sáu mươi hai kiến"; nghĩa như ở chương khác.

Kinh: Đại vương! Đến phi phi kiến tất cả pháp.

Giải thích: Đây là theo danh giả chứng minh có khả năng giáo hóa. Như kinh đã rõ.

Kinh: Bạch Phật nói: Đến làm sao chiếu?

Giải thích: Từ đây là phần hai: Hỏi đáp để phân biệt quán chiếu Bát-nhã: Trước hỏi, sau đáp.

"Hữu pháp": Là cảnh thế tục.

"Phi phi pháp": Là cảnh của Chơn đế. Chấp các pháp có: là hủy báng về tăng thêm. Các pháp chẳng có (phi hữu) là là hủy báng về tổn giảm. Chặn đứng cả hai hủy báng, vì vậy mà lặp lại nói: "Phi phi pháp".

Ý nghi vấn: Vì như tục đế có pháp mà chiếu, vì như Chơn đế phi phi pháp chiếu. Hoặc có thể là; chư pháp đồng chơn tế, đẳng pháp tính, ly bốn câu, tuyệt trăm phi, tức là cảnh không, làm sao Bát-nhã lại có chiếu dụng phi?

Kinh: Đại vương!… Kiến phi phi pháp.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Như Lai chánh đáp. Trong đó có hai phần: 1. Nêu tông lược đáp; 2. Từ "Nếu pháp…": Theo tông rộng thích. Đây là phần lược đáp. Nghĩa là: Ma-ha-diễn thấy phi phi pháp vì chứng "không".

Kinh: Pháp nếu phi phi pháp. Đó gọi là phi phi pháp "không". Giải thích: Từ đây là phần nêu tông rộng thích. Trong đó có hai: 1.

Giải thích rộng về phi phi pháp; 2. Từ "vì Bát-nhã Ba-la-mật không…" là giải thích về trí của chủ thể quán, chiếu "không" và "Có". Trong phần 1. Có hai phần: 1. Phi phi pháp thuộc cảnh đương không; 2. Nêu môn biện minh "không". Đây là phần một.

Nghĩa là: Pháp nơi đối tượng duyên nếu phi phi pháp thì ở trong các "không", gọi là phi phi pháp không.

Kinh: Pháp tính "không"… mười hai duyên "không".

Giải thích: Từ đây là phần hai: Nêu môn biện minh "không". Trong đó có hai: 1. Trải qua môn biện minh "không"; 2. Từ "pháp đó…" lấy các tướng sinh… để thích thành nghĩa của "không". Đây là phần một.

Nghĩa là: phi phi pháp không, qua các pháp sai biệt, liền thành bảy không.

"Bảy không" là: Thật tính của chư pháp, bổn tính tự không, chẳng do trí lực, gọi là pháp tính không, chung luôn cả sáu môn. Hai là: Năm uẩn, ba là mười hai xứ, bốn là mười tám giới, ba khóa môn này nghĩa như nói trên. Năm là: sáu đại. Là bốn đại và không, thức. Sáu là bốn đế. Bảy la: Mười hai duyên sinh. Bảy môn trên đều là phi phi pháp, nên gọi là không.

Kinh: Pháp đó tức sinh… tức không.

Giải thích: Đây là phần hai: Do tướng sinh, v.v… để giải thích thành nghĩa "không". Văn có hai phần: 1. Lấy thức uẩn để giải thích nghĩa "không"; 2. Từ "cho đến…" giải thích tương tự bốn uẩn và tất cả pháp. Trong phần một. Có bốn: 1. Nêu tông; 2. Giải thích tương tự; 3. Trưng hỏi; 4. Giải thích "không". Đây là phần nêu tông.

Nghĩa là: Vì trong năm uẩn có năm tướng, gọi là "không". Nói "tức sinh…"; tự có hai nghĩa: 1. Dựa theo thể mà nói: Tức là tông Đại thừa thì khi thức sinh ra, theo từ nơi nhân mà khởi, giả nói là sinh, được gồm thâu do hành uẩn bất tương ưng, vì đó là giả. Khác với tông Tát-bà-đa: Thật mà phi giả, vì không tương ưng. Khác với tông Kinh Bộ thì nói các sắc v.v… gọi là sinh v.v... 2. Dựa theo thời danh mà nói thì các thuyết bất đồng; tông Tát-bà-đa thì; sinh ở vị lai, hai tướng trụ và diệt đều ở hiện tại. Ở trong hiện tại; tự có hai thuyết: Một thuyết nói là hai tướng có trước có sau. Một thuyết nói là hai tướng không có trước sau. Luận đại Tỳ Bà-sa nêu có đủ cả hai thuyết. Sư của luận Thuận Chánh lý thì nói là không có trước sau. Nay theo đại thừa; hai tướng sinh và trụ, đều có hiện tại. Tự có hai thuyết: 1. Sư Thắng Quân nói: Hai tướng trước sau, trước sinh sau trụ. 2. Ngài Hộ Pháp nói: Không có trước sau, cho nên luận Thành Duy Thức phá Thượng tọa bộ, làm sao một niệm lại có hai thời, vì vậy dựa theo thời, cũng gọi là tức. Vì các pháp như vậy không thành thật, nên tức có tức không.

Kinh: Sát-na, Sát-na… pháp diệt.

Giải thích: Phần hai giải thích tương tự.

Nghĩa là: Như Sát-na đầu tiên, các Sát-na khác cũng vậy. Pháp sinh, pháp trụ, pháp diệt. Âm Phạm là Sát-na. Tiếng Hoa gọi là thời gian cực ngắn. Nói đầy đủ thì phải nói là "tức không". Theo đó, có thể biết, lược bớt không nói.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần ba: Ngoại nhân hỏi văn. Sinh và diệt trái nhau, như đã nói trên, không cùng một lúc. Vì sao lại nói là tức sinh tức diệt? Hoặc lại nữa, hữu và vô ngược nhau, sao lại nói là tức hữu tức không?

Kinh: Chín mươi Sát-na… chín trăm sinh diệt.

Giải thích: Phần bốn: Đức Thế Tôn giải thích chung.

Lấy chín mươi Sát-na nhỏ, thành một niệm lớn, một Sát-na nhỏ trong một niệm lớn, lại có chín trăm sinh diệt. Vì vậy trước đó nói, lúc sinh ra thì đã có diệt. Hoặc lại nữa, nhiều Sát-na thành một niệm. Do đó, lúc niệm là giả có, chẳng thật. Vì chẳng thật, cho nên tức "có" tức không, cũng không trái nhau. Lại nữa, lúc niệm lớn, chia làm ba phần. Một phần có ba mươi, ba phần thì thành chín mươi, trong một đại niệm có chín mươi Sát-na, trong một Sát-na trải qua chín trăm lần sinh diệt, nếu xét chung cả sinh diệt thì có chín trăm sinh diệt, xét riêng thì có một ngàn tám trăm lần. (Một thuyết nói: Chín mươi Sát-na trải qua tám mươi mốt ngàn sinh diệt mới thành một niệm, xem luận Trang Nghiêm và luận đại Bà-sa.) Kinh: Cho đến sắc, tất cả pháp cũng như vậy.

Giải thích: Đây là phần hai: Giải thích bốn uẩn và tất cả pháp. Nghĩa là; như thức uẩn trước, tức trụ tức diệt, tức "có", tức "không".

Cho đến thọ tưởng hành, sắc, ngoài năm uẩn, từ sau hữu của mười hai nhân duyên, các môn đều như vậy.

Kinh: Do Bát-nhã Ba-la-mật không… nhất thiết pháp không.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Biện về trí của chủ thể quán chiếu không và có. Văn có hai phần: 1. Chiếu không và hữu; 2. Từ "Này thiện nam!…" biện về được, mất, thất. Phần một có hai phần: 1. Nói về chiếu không; 2. Từ "do pháp tập…" nói về chứng có. Vì vậy mà Bổn ký chia làm hai tiết: Trước là Vô tướng, sau là hữu tướng. Nói Vô tướng là; chẳng những không có đối tượng được chiếu, cũng không có chủ thể chiếu. Chiếu mà không có đối tượng được chiếu, đó là thuyết liễu nghĩa, nên kinh Đại Chỉ gọi là chơn thật Bát-nhã.

Nói hữu tướng là: Thâu dẫn cả phàm và Thánh, vô lượng giáo môn, có mười địa để tu, có Phật quả để đắc, vô chiếu mà nói chiếu, đó là nghĩa bất liễu. Nên kinh đại nhân gọi đó là Bát-nhã tương tự.

Trong phần chứng "không", văn chia làm hai phần: 1. Nói về Bát-nhã chứng cảnh không tướng; 2. Từ "nhân không …" biện về sự sai biệt của Nhất thiết pháp không. đây là phần một.

"Bát-nhã Ba-la-mật" là trí của chủ thể quán. Do có các sinh, còn gọi là không, vì trí không. Có thể chứng được ba không: 1. Không thấy duyên; là không thấy mười hai duyên; 2. Không thấy đế; là không thấy bốn đế; 3. Cho đến tất cả là không thấy pháp sáu đại, cho đến năm ấm hữu pháp không. Đó tức là giải thích theo từ sau hướng đến trước. Nói là "không thấy chứ chẳng phải là không chứng mà gọi là không thấy.

Kinh: Nội không… không không cho nên không.

Giải thích: Phần hai: Biện về sự sai biệt của Nhất thiết pháp không. Có mười hai loại: Nội không,… Nhưng tướng không đó, như luận Trí Độ nói: Nội là nội pháp, tức nội lục xứ. Trong ấy, nhãn do nhãn không. vì sao? Vì phi thường phi hại, vì bổn tính nó là vậy. Nhĩ… cũng như thế.

Ngoại: Là ngoại pháp, tức là ngoại lục xứ.

Nội ngoại: Là nội ngoại pháp, tức mười hai xứ. Hữu vi không: Là ba cõi như Dục giới.

Vô vi không: Là vô sinh vô trụ, vô dị vô diệt.

Vô thủy không: Là không có đầu tiên, ở giữa, cuối cùng để đắc và không có biên vực đến, đi để đắc.

Tính không: Là bổn tính không. Nghĩa là bổn tính của tất cả pháp, hoặc pháp tính hữu vi, hoặc pháp tính vô vi đều chẳng do ba thừa tạo tác.

Đệ nhất nghĩa không: Là thắng nghĩa không, nghĩa là thắng nghĩa Niết-bàn là do thắng nghĩa không đó.

Bát-nhã Ba-la-mật đa; như tên gọi đã biết. Nhân không: Là sáu độ không.

Phật quả không: Là Bồ-đề, Niết-bàn không.

"Không không" cho nên không: Luận Trí Độ nói: Tất cả pháp không, không đó là do "không không".

Lại nữa, luận kia viết: Hỏi: Sau các không, đều nói là phi thường phi diệt, nghĩa đó là gì?

Đáp: Nếu người không biết cái không đó, thì sẽ bị rơi vào nhị biên, hoặc là thường, hoặc là diệt. Nguyên do là sao? Nếu các pháp thật có thì không có nghĩa của diệt, bị rơi vào trong thường. Như người nói; một nhà nhập một nhà, mắt tuy không thấy, nhưng không gọi là không có. Chư pháp cũng vậy. Từ đời xưa nay nhập đời hiện tại, từ đời hiện tại nhập đời quá khứ. Cứ như vậy thì không diệt, hành giả vì có mà bị hoạn dùng không để phá có thì tâm trở lại quý không, chấp trước ở cái không thì rơi vào đoạn diệt. Vì lý do đó, thực hành cái không ấy để phá hữu cũng không chấp trước trước không, lìa hai biên ấy, dùng hành trung đạo, thực hành mười tám không, lấy tâm đại bi để độ chúng sanh. Do đấy, sau mười tám không đều bảo là phi thường, phi phi diệt, ấy gọi là Ma-ha-diễn, nếu khác với đó, tức là hý luận dối người. Ở trong pháp Phật, rỗng không, vô sở đắc, như người trong đống châu báu mà lại lấy hạt thủy tinh, mắt thấy tuy đẹp nhưng không có giá trị gì cả. Nói chi tiết như ở luận kia.

Kinh: Chỉ vì pháp tập… danh tập cho nên hữu.

Giải thích: Phần hai: Biện minh quán chiếu. Có tám hữu khác nhau.

Nếu theo Bổn ký; văn có ba tiết:

Tiết 1: Lấy theo ba giả:

Nói: "Pháp tập cho nên hữu": Là tính chơn thật. "Thọ tập cho nên hữu": Là tính y tha.

"Danh tập cho nên hữu": Là tính phân biệt.

Tiết 2: Biện minh nhân quả:

"Nhân tập cho nên hữu": Hai loại cảnh giới; cảnh giới phân biệt và cảnh giới chơn thật, vì có thể sinh ra tâm, gọi đó là nhân.

"Quả tập cho nên hữu": Là tính y tha, do từ cảnh mà sinh ra.

Tiết 3: Nói về ngôi bậc:

Nói: "Mười hạnh cho nên hữu": đây tức là trong đạo bắt đầu từ mười tín đến mười địa. Là y tha khởi.

Nói "Phật cho nên hữu": đây tức là đạo hậu, là tín chơn thật.

Nói: "Cho đến sáu đường tất cả hữu": đây tức là đạo tiền, hai loại tính; tính phân biệt và tính y tha.

Nay giải tám hữu, chi làm ba phần: 1. Môn tam giả; 2. Môn tứ đế;

3. Giới, cõi, sinh môn. Nói tam giả là như trong bài tự phẩm trên đã dẫn kinh đại phẩm để chú thích.

Kinh: Nhân tập cho nên hữu… Phật quả cho nên hữu. Giải thích: Phần hai: Tức là môn tứ đế.

"Nhân tập cho nên hữu": tức tập đế này là nhân của sinh tử. "Quả tập cho nên hữu": tức khổ đế là quả của sinh tử.

"Mười hạnh cho nên hữu": tức là đạo đế là nhân của Niết-bàn.

Nghĩa là từ mười tín cho đến mười địa: Năm loại mười hạnh, đều gọi là đạo đế. Khác với tông Tát-bà-đa: khổ nhẫn trở lên mới gọi là đạo đế, vì gia hạnh, tư lương, là gồm trong đạo đế.

"Phật quả cho nên hữu": Bồ-đề Niết-bàn, Bồ-đề là một phần của đạo đế, Niết-bàn chính là thuộc về diệt đế. Kinh: Cho đến tất cả sáu đường.

Giải thích: Phần ba: Hữu sai biệt, các sự thuộc giới, cõi, sinh.

Cho đến nói bao gồm các hữu trong tam giới, tứ sinh. Vì vậy mà kết nói là tất cả hữu.

Kinh: Này thiện nam!… không khác với thế gian.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Biện về quán được mất.

Nếu theo Bổn ký thì chia làm hai phần: 1. Biện đắc, thất; 2. Thuyết xứ. Trong đắc thất, từ phàm đến Phật. Phàm thì có bảy kiến: Kiến đầu tiên là thất, sáu kiến sau là đắc.

1. Hư vọng kiến: Là phàm phu, nhị thừa ở trước khi thập trụ thì chấp có Niết-bàn, tức là pháp ngã kiến. Chấp có chúng sinh… là nhân ngã kiến. Do đó không khác với thế gian. 2. Chơn thật kiến: Nghĩa là: Mười tín, tin chơn. Mười giải, hiểu chơn. Mười hạnh cùng thành tựu, không động. Vì vậy không động mà không đến, vì không đến thì không diệt, vì bất diệt nên Vô tướng, vì Vô tướng mà cũng vô Vô tướng. Do đó, tất cả pháp như.

3. Tối thắng kiến: Là mười hồi hướng, tức thể Vô tướng, Tam bảo một thể. Kinh Niết-bàn nói: Tam bảo cùng một thể. Lại nữa, Bồ-tát đó dẫn dắt nhị thừa nhập vào ngôi vị hồi hướng.

4. Nhập vị kiến: Từ sơ địa đến địa thứ bảy, đều thấy Đệ-nhất-nghĩa-đế, là chánh vị của Bồ-tát, một niệm có đủ cả tám vạn bốn ngàn pháp môn.

5. Thành tựu tha kiến: Địa thứ tám chứng thấy đệ nhất nghĩa. Cái thấy bắt đầu tròn đủ, nhưng chưa đủ để Quốc độ người khác, muốn thành tựu tha kiến; gọi là có thể chuyên chở, gọi là Ma-ha-diễn. Sau dùng như lý làm chủ thể vận tải. Vận là di động. Tải là thành trì. Hành do như lý, thành trì vận động, cho nên từ sinh tử xuất đến Nhất-thiết-trí, đều dùng vô đáo, vô xuất. Nói đủ như trong luận kia.

6. Thứ đệ kiến: Là đạo vô gián. Vì đạo giải thoát mà làm duyên thứ đệ, nên bảo là tức diệt, thành ra là Kim cang, liền có cái dụng của sự cứng bén, nên gọi là Kim cang, cũng còn gọi là định. Nhờ đạo vô gián phát khởi đạo giải thoát, như định phát tuệ.

7. Giải thoát kiến: Phật dùng Nhất-thiết-trí thấy tất cả pháp. Ở trong một hạnh, hành tất cả hạnh, cho nên gọi là Nhất thiết hạnh.

Dưới là nói về thuyết xứ, tổng kết bảy kiến, như đã thuyết trong Quang tán Bát-nhã. Nay hiểu không như vậy: Về phần biện quán đắc thất, văn có hai phần: 1. Nói về vọng kiến, gọi đó là thất; 2. Nói về chánh quán, tức gọi là đắc. Giải thích về nghĩa của vọng kiến thì nghĩa giống với Bổn ký.

Kinh: Nơi các pháp mà bất động… cũng như.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Nói về chánh quán. Văn có hai phần: 1. Nói về phương tiện chánh quán; 2. Nhập vị chánh quán. Đây là phần một. Nghĩa là, mười tín trở lên cho đến mười hồi hướng, đều hành quán này. Không lý được quán, ở trong các pháp, bình đẳng nhất vị, không có tướng của động chuyển. Vì không có động chuyển nên không đến, đến nghĩa là sinh. Vì không động nên không có sinh, vì không sinh nên không có tướng diệt. Vô sinh vô diệt, cũng không có tướng. Vì tướng đã không có thì đối với gì để nói là Vô tướng, nên nói là vô Vô tướng. Do những nghĩa đó, nên tất cả pháp đều như. Nếu theo giải thích trên về những bất động thì thuộc tâm của chủ thể quán thì ý nghĩa không thuận với câu văn này: "Chư pháp đều như".

Kinh: Đó tức Bát-nhã Ba-la-mật của sơ địa.

Giải thích: Phần hai: Nhập vị chánh quán. Văn chia làm hai phần:

1. Chánh quán; 2. Thuyết xứ. Trong phần một. Có ba phần: 1. Theo vị tán đức; 2. Nêu danh tán đức; 3. Theo dụng tán đức.

Đây là phần một. Giải thích về ngôi vị thì như trên, ý đồng với Bổn ký.

Nói "tám vạn bốn ngàn" là: Theo luận Câu-xá; vì thuyết của ba sư, nên có tụng viết:

Có nói các pháp uẩn
Lượng như luận thuyết kia
Hoặc nói các tùy uẩn
Như thật hành đối trị.

Luận viết:

Có các sư nói
Mỗi một lượng đẳng
Tám vạn pháp uẩn
Pháp Uẩn Túc luận.

Nghĩa là: Mỗi một phần có sáu ngàn tụng, như luận Pháp Uẩn Túc thuyết trong đối pháp, hoặc nói các câu pháp uẩn, tùy uẩn,… mỗi một sai biệt, số có tám vạn, nghĩa là các uẩn, xứ, giới,… mỗi một giáo môn, gọi là một pháp uẩn. Như thật mà nói, có tám vạn hạnh riêng biệt khác nhau để giáo hóa các tham, sân,… của hữu tình. Vì để đối trị tám vạn hạnh, Thế Tôn tuyên thuyết tám vạn pháp uẩn. Nếu theo luận chánh lý thì có ba sư thuyết; hai sư trước thì giống với Câu-xá, sư thứ ba thì phá chánh nghĩa thứ ba của Câu-xá, nên luận nói; đó tức là thuyết theo thuận thành tùy uẩn, chứ không có các uẩn. Không vì để đối trị các hành bệnh của hữu tình. Theo luận đại Tỳ Bà-sa thì có sáu sư thuyết, chi tiết như trong sách thâm mật ký. Nếu theo kinh hiền kiếp; bắt đầu từ quang diệu độ cho đến cuối cùng phân chia ban bố xá lợi độ. Tổng cộng có ba trăm năm mươi môn công đức, mỗi một môn công đức đều tu sáu độ, tức thành là hai ngàn một trăm, đem hai ngàn một trăm đó đối mười pháp bốn đại sáu suy, mỗi một trong mười đó đều thuyết hai ngàn một trăm, tức thành là hai vạn một ngàn, lại đem hai vạn một ngàn đối bốn chúng sinh: 1. Đa tham; 2. Đa sân; 3. Đa si; 4. Một phần các tam độc. Bốn thứ đó, mỗi thứ có hai vạn một ngàn, bốn thứ hai vạn một ngàn tức có tám vạn bốn ngàn.

Kinh: Tức tải gọi là Ma-ha-diễn (hoặc có bản viết: tức có thể vận chuyển gọi là Ma-ha-diễn)

Giải thích: phần hai: Lấy danh để tán thán đức. Âm Phạm là Ma-ha-diễn. Tiếng Hoa gọi là hạnh đại thừa, đó tức là thông cả nghĩa mười địa trước cũng không sai. Kinh: Tức diệt là Kim cang, cũng còn gọi là định.

Giải thích: Phần ba: Dựa theo dụng để tán thán đức. Văn có hai phần: 1. Tán về đẳng giác; 2. Tán về diệu giác. Đây là phần một. Nghĩa là một niệm cuối cùng của địa thứ mười, có thể phá trừ hai chướng như Kim cang phá trừ hai chướng như Kim cang phá trừ vật.

Kinh: Còn gọi là hết thảy hạnh, như thuyết trong Quang Tán Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai: Tán thán riêng về diệu giác. Ở trong tất cả hạnh có đủ tất cả hạnh, nên gọi là tất cả hạnh. Tức là đạo giải thoát. Đạo giải thoát này như đã nói trong kinh Quang Tán Bát-nhã Ba-la-mật. Là nói về thuyết xứ. Đó tức là quyển thứ tám. (Xem đại Bát-nhã) Kinh: Đại vương!… thuyết danh vị cú.

Giải thích: Phần ba: Tán thán về văn tự Bát-nhã. Văn có hai phần:

1. Tán thán giáo thù thắng; 2. Từ "Đại vương! Nếu Bồ-tát…" nương giáo phát quán. Trong phần một. Nếu theo Bổn ký thì có bốn vô thượng: 1. Người thuyết vô thượng; 2. Tín vô thượng; 3. Điều được thuyết giảng vô thượng; 4. Trí tuệ vô thượng. Những điều được nói ra đây là từ bậc đại giác, cho nên phải tin nhận, lại nữa, những điều đã nói phù hợp với chánh lý, nên đắc được thắng giải.

Nay hiểu không vậy; tức chia làm ba phần: Ba vô thượng trước thì giống trên, còn vô thượng thứ tư thuộc phần vô thượng thứ ba. Đoạn văn này thuộc vô thượng thứ nhất: Người thuyết vô thượng tất cả chư Phật đều thuyết giống nhau, đó là tướng danh vị cú sai biệt. Theo tông đại thừa, trên âm thanh giả lập danh vị cú thân. Đó là do bất tương ưng hành uẩn gồm thâu. Danh là nói lên tự tính. Câu cú là để nói lên sự sai biệt. Cả hai nương vào nhau tạo thành câu văn.

Kinh: Ở trong hằng hà sa… huống gì là hiểu một câu.

Giải thích: Phần hai: Tín thọ vô thượng. Đây tức là so sánh để ca ngợi sự đặc biệt.

Nói: "Ở trong hằng hà sa tam thiên đại thiên quốc" là: Chỗ cất chứa của báu, cả một núi Diệu cao, đếm đầy cả ngàn, gọi là tiểu thiên, tức tiểu thiên đó, đếm đầy đủ cả ngàn, gọi là trung thiên, một ngàn trung thiên, gọi là đại thiên. Luận Trí Độ nói: qua hai thì trở lại ba, nên bảo là tam thiên (ba ngàn), ba ngàn là con số trùng, nên gọi là đại thiên (đại ngàn), nếu phân biệt chi tiết như trong thâm mật ký đã nói. Nghĩa là các thí bảy báu trước, khiến đắc các hạnh, tín của thất hiền. Bốn quả: Dự lưu,… vì chẳng thuyết không, cho nên phước ít. Kinh này thuyết không, khiến chư chúng sinh đắc đại Bồ-đề nên biết là thắng.

Kinh: Vì cú phi cú, phi phi cú.

Giải thích: Phần ba: Những điều thuyết ra là vô thượng. Văn có ba phần: 1. Văn không; 2. Văn và nghĩa đều không; 3. Nhân và pháp đều không. Đây là phần văn không. Có hai phần: 1. Cú phi cú: Cú ấy tính không, thể của tất cả danh cú, bổn lai vốn không có tự tính; 2. Phi phi cú; là phi hữu phi vô. Tu đắc thì bỏ hữu, vô. Không phi cú là tính đắc, phi phi cú là tu đắc, bỏ tính.

Kinh: Bát-nhã phi cú, cú phi Bát-nhã.

Giải thích: Phần hai: Văn và nghĩa đều không. Bátnhã phi cú, là nghĩa không. Cú phi Bát-nhã, là văn không. Trong văn, cầu Bát-nhã bất khả đắc. Trong Bátnhã, lìa văn thì không có nghĩa, lìa nghĩa thì không có văn, mới thành bình đẳng. Ý nghĩa của sự không có đó là để tỏ rõ về bình đẳng, lược nói là sự hỗ tương không có.

Kinh: Bát-nhã cũng không Bồ-tát.

Giải thích: Phần ba: Nhân và pháp đều không. Đây tức là pháp không, đúng thì phải nói là nhân không. Xem thì biết, do lược bớt không nói. Trong phần pháp không, văn có hai phần: 1. Dựa theo ngôi vị thuộc nhân để biện về pháp không; 2. Theo quả vị để giải thích pháp không. Trong phần một: Có ba phần: 1. Nêu; 2. Trưng hỏi; 3. Giải thích. Đây tức là phần một-Nêu.

Nghĩa là Bát-nhã là pháp, Bồ-tát là nhân (người) trong nhân (người) cầu pháp bất khả đắc, tức là pháp không.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai, Trưng hỏi.

Kinh: Mười địa… ba mươi sinh không.

Giải thích: Phần ba: Giải thích về pháp không. Nghĩa là: ở mười địa đều có mới sinh, trụ sinh, chung sinh đều bất khả đắc. Mỗi địa đều có ba sinh, thành ba mươi sinh.

Kinh: Cũng phi Nhất-thiết-trí… vì không.

Giải thích: Phần hai: Dựa theo quả để giải thích về không.

"Tát-bà-nhã": là tiếng Phạm. Dịch là Nhất-thiết-trí. Nghĩa là: thể của Bát-nhã chẳng những chỉ phi Bồ-tát mà còn phi Nhất-thiết-trí, chẳng phải chỉ là thể "không" mà hạnh dụng của đại thừa cũng không.

Kinh: Đại vương!… Người phàm phu.

Giải thích: Phần hai: Nương giáo phát khởi quán. Văn có hai phần:

1. Nói về quán đảo tưởng; 2. Từ "Thấy ba cõi…" nói về chánh quán. Đây tức phần một.

Nghĩa là: Nếu Bồ-tát thấy cảnh, thấy thật tướng, thấy cái trí, thấy quán chiếu, thấy thuyết nói, thấy văn tự Bátnhã, thấy cái thọ nhận, ở trong các cảnh do có chấp trước thì chẳng phải là cái thấy của bậc thánh, đó tức là cái thấy tưởng đảo nơi người phàm phu.

Kinh: Thấy ba cõi… cái danh của quả báo.

Giải thích: Phần hai: Nói về chánh kiến. Văn có hai phần: 1. Nhân và quả nhiễm tịnh, nói về tướng không; 2. Từ "Này thiện nam!…" dựa theo không có nghe và nói để biện minh tướng không. Trong phần đầu có hai phần:

1. Sinh tử không; 2. Từ "Kim cang Bồ-tát…" giải thích về nguyên do không. Trong một phần lại có hai phần: 1. Hai sinh tử phân đoạn và biến dị không; 2. Từ "Kim cang Bồ-tát…" giải thích về nguyên do không. Trong phần một lại có hai phần: 1. Sinh tử phần đoạn; 2 Sinh tử biến dị. Phần một lại có ba phần: 1. Danh gọi của quả, nhưng không có thật thể.

Kinh: Sáu thức… Vô Sắc giới tạng không. Giải thích: Phần hai nói về nghiệp không.

Nghĩa là: Trong Dục giới, khởi đủ cả sáu thức, khởi vô lượng dục. phát nghiệp thọ sinh. Ý văn trong đó, tức thuyết nghiệp, gọi đó là tạng, vì nó gồm chứa quả, hoặc lấy nghiệp kia làm nghiệp quả vì phát khởi do các phiền não.

Kinh: Ba cõi không… tạng vô minh cũng không.

Giải thích: Phần ba phiền não không. Có hai giải thích:

1. Theo Bổn ký thì văn có ba tiết:

"Tam giới "không": là phiền não da trong ba cõi, nghĩa là sự mê, các tham,…

a. "Tam giới căn bản "không": là phiền não thịt trong ba cõi nghĩa là mê lý, các kiến các không. Đối với da làm gốc.

b. "Tam giới gốc tạng vô minh cũng "không": là phiền não tim trong ba cõi. Nghĩa là sở tri chứng, toàn bộ các không, theo thắng thuyết chỉ nói là vô minh, vì nó làm căn bản cho cả da và thịt. Sáu chữ "tam giới căn bản cũng không" là nói chung cho cả hai loại phiền não da và thịt.

Một giải thích khác là: "Tam giới không": là kết hai đoạn văn nói về nghiệp quả ở trên. "Tam giới căn bản vô minh tạng cũng không", nghĩa là phiền não kiến, tu đoạn trong ba cõi, theo căn bản mà nói, nên chỉ nêu là vô minh.

Kinh: Ba địa, chín sinh diệt… quả báo không. Giải thích: Phần hai sinh tử biến dị không.

Giải thích về đoạn văn này, tự có hai giải thích: Nếu theo Bổn ký thì thì bốn loại sinh tử biến dị lấy vô minh tập làm duyên, đắc quả này.

Văn nói: "Ba địa" là: 1. Kiến địa; từ hồi hướng thứ mười đến địa thứ ba. Trừ bạn là xuất quán chấp chặt do kiến hữu, nên gọi là bạn. Pháp trợ đạo cũng gọi là bạn; 2. Tu địa: từ địa thứ tư đến địa thứ bảy, trừ yếu kém xuất quán kiến hữu chấp không là yếu kém; 3. Cứu cánh địa; địa thứ tám đến địa thứ mười, trừ vi tế. Chỉ chấp do kiến hữu, không hiện tiền, gọi là vi tế.

"Chín sinh" là: hợp cả mười địa thành ba địa, một địa có ba sinh; thủy, trụ chung. Ba địa đó thành chín sinh. Đó là kết chung cả mười địa trên dưới.

"Quả báo của diệt tiền tam giới vô minh tập đều không": là nói về đối tượng diệt của địa thứ mười, diệt không đối tượng diệt. Vô minh hoặc gọi là tam giới tập, nên bảo là vô minh tam giới tập. Quả báo của tập, tức là biến dị sinh của thập địa trí thắng sắc diệu, nên bảo là biến dị sinh.

Nay ở đây dựa theo Ngài Tam Tạng Từ Ân, giải thích ý văn này.

Tự có hai thuyết:

1. "Ba địa, chín sinh diệt": là thâu gồm địa sai biệt nghĩa là trong ba địa; tám, chín, mười đều có ba sinh diệt; thủy; trụ, chung. Gọi là chín sinh diệt. Nguyên do là sao? Trong bảy địa trước, tự có hai nghĩa: 1. Thọ phần đoạn sinh: Luận Trí Độ nói: Bồ-tát bảy địa thọ thân sâu bọ, thân xác thịt; 2. Một loại Bồ-tát, từ sơ địa trở lên thọ biến dị sinh. Do đó, luận Trí Độ nói: Chưa xả nhục thân, nhập ở sơ địa, vì tám địa trở lên, tất cả phiền não đều không hiện tiền, duy chỉ thọ biến dị. Cho nên bảo là ba địa, chín sinh diệt.

2. "Trong ba cõi, vô minh tập quả còn sót lại "không": là đối duyên mà nói về quả. Nghĩa là, như kinh Thắng Man nói: Vô minh trụ địa làm duyên, đắc ba loại ý sinh thân, nên bảo là vô minh tập quả báo còn sót lại "không". Phân biệt chi tiết đầy đủ, sẽ nói ở chương khác. Nên biết, ba địa chín sinh diệt mà Bổn ký đã nói, không gồm cả mười địa, chỉ là chín sinh diệt nơi ba địa. Lại nữa, sinh kia nói; từ mười hồi hướng đến ba địa, trừ bạn phiền não, thì trái với kinh giải thâm mật. Kinh kia nói: Tùy miên có ba loại: 1. Tùy miên hại bạn; nghĩa là, ở năm địa trước, đều không sinh phiền não hiện hành, đều sinh phiền não trợ bạn hiện hành. Bấy giờ các thứ ấy mãi mãi không có hậu hữu. Do đó gọi là tùy miên hại bạn; 2. Tùy miên yếu kém, nghĩa là ở trong địa thứ sáu và địa thứ bảy. Hiện hành vi tế, như tu mà điều phục thì không hiện hành; 3. Tùy miên vi tế: Nghĩa là, ở địa thứ tám trở lên, từ đó trở đi, tất cả phiền não không còn hiện hành duy chỉ có chỗ dựa của sở tri chướng làm nơi y chỉ. Kinh: Kim cang Bồ-tát… nhân không cho nên không.

Giải thích: Phần hai giải thích nguyên do không. Đây là nói về Kim cang Bồ-tát đắc Tam muội lý tận. Hai loại sinh tử hoặc nghiệp đều không. Cái gọi là hoặc, nghĩa là làm phát khởi quả nghiệp phiền não, tức là phát nguyện do hoặc, hoặc nghiệp như vậy đều có sinh diệt. Tổng thuyết là không.

"Hữu quả không": hoặc nghiệp sinh ba biến dị quả không. "Nhân không cho nên không": là giải thích lại về nguyên do quả không. Do nhân của hoặc nghiệp đã không, nên quả cũng không.

Kinh: Nhất-thiết-trí đến hoặc trước đã không.

Giải thích: Phần hai nói về Phật quả không. Văn có hai phần: 1.

Trí đoạn không; 2. Ba vô vi không. Đây là phần một. "Nhất-thiết-trí cũng không": tức là trí đức không.

Nói "diệt quả không": là đoạn đức không. Đoạn đức có hai: 1. Niết-bàn phương tiện tịnh; 2. Niết-bàn tính tịnh. Đây là phương tiện. Nói "hoặc trước đã không cho nên là Niết-bàn tịnh tính"; nghĩa là vốn từ xưa nay tự tính thanh tịnh. Nên kinh Duy Ma nói: Bất đoạn phiền não, thọ Niết-bàn là sự việc đó.

Kinh: Phật đắc ba quả vô vi… Niết-bàn không.

Giải thích: Phần hai ba vô vi không. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. giải thích; 3. Thuộc về.

Nói "đắc ba vô vi": là nêu chung.

Nói "trí duyên diệt": hoặc gọi là trạch diệt.

Nói "trí duyên diệt": còn gọi là phi trạch diệt. Vì không do trí lực diệt, gọi là phi trí duyên diệt. Như Niếtbàn tính tịnh đã nói trên.

Nói "hư không": tức hư không vô vi. Nghĩa là ở trên chơn như, hiện do vô sắc, nghĩa nói là hư không.

"Quả Nhất-thiết-trí không": là thuộc về thứ ba. Nghĩa là quả Nhất-thiết-trí trên thể của vô vi, nghĩa nói về ba loại.

Kinh: Này thiện nam!… đều như.

Giải thích: Phần hai dựa theo sự không có nghe và nói để nói về tướng "không". Văn có ba tiết: 1. Pháp; 2. Dụ; 3. Hợp.

Nói "không có người nghe người nói": như phần sau kinh nói; như thân huyễn hóa thấy huyễn hóa: Là Bồ-tát chơn hóa. Phần dụ và hợp đã rõ.

Kinh: Đại vương! Bồ-tát… là như vậy.

Giải thích: Ở trong phần đáp đầu tiên. Chánh giải thích về quán "không". Văn có hai phần: 1. Giải thích; 2. Kết. Trên đã giải thích xong, đây là phần kết. Văn có hai phần: 1. Kết về thể của chủ thể hộ; 2. Từ "Bát-nhã…" là kết về dụng của chủ thể như kinh đã rõ.

Kinh: Phật thuyết pháp… Bồ-tát đại hạnh.

Giải thích: Phần hai thời chúng đắc ích. Nếu theo Bổn ký thì có hai loại ích: 1. Tiểu thừa ích: Nghĩa là đều đắc pháp nhãn tịnh, là đã kiến đế; 2. Đại thừa ích: Có bốn:

a. Tính địa: Trước mười tín, địa thuộc hữu tính.

b. Đắc tín địa: Tức mười tín.

Mười giải trở lên: Gọi là đại không, vì mới bắt đầu đắc giải không.

c. Mười hồi hướng trở lên: Gọi là đại hạnh, do hành Đệ-nhất-nghĩa-đế. Nay nói "pháp nhãn tịnh": là giống với Bổn ký.

"Tính địa": là tam hiền địa tiền, nhờ ba chủng tính; tập, tính, đạo.

"Tín địa": Là sơ địa trở lên, do đã đắc tín bất hoại vô lậu.

"Đại không": Bồ-tát tám địa do quán, trí hai không, thường bất thối chuyển.

"Đại hạnh": Chín địa trở lên, do lợi tha. Các thuyết đồng dị, không thể nói hết.

Chú thích phẩm này, lược có hai nghĩa, trước giải tên phẩm, sau chính giải thích văn.

Bồ-tát hóa sinh, dùng thiện dạy chúng, gọi là giáo. Khiến họ cải ác, gọi là hóa. Nghĩa phẩm như trên. Hoặc dạy chúng lìa ác, hóa khiến trụ thiện, gọi là giáo hóa.

Theo Bổn ký nói: Tông chỉ của phẩm này là phân chia ngôi bậc của Bồ-tát đắc "không". đúng thì phải đặt tên là phẩm Năm nhẫn. Nhưng gọi là phẩm Giáo Hóa là có hai nghĩa: 1. Bồ-tát năm nhẫn thâu phục giáo hóa chúng sanh; 2. Như Lai dùng giáo pháp năm nhẫn để giáo hóa các ma. Nên gọi là phẩm giáo hóa.

Kinh: Bạch Phật… chúng sanh có thể giáo hóa.

Giải thích: Phần hai theo văn chính thức giải thích. Phần giải thích rộng hai hộ ở trên văn có ba phần: 1. Phẩm Quán Không: Nói về hộ Phật quả; là hạnh tự lợi; 2. Phẩm Giáo hóa: Giải thích về Bồ-tát thập địa, hạnh lợi tha; 3. Phẩm Nhị đế: Biện minh lý nương vào của hai hộ. Trên đã giải thích xong hạnh thập địa, ở trong phẩm này, chia làm hai phần chính: 1. Vua phát khởi ba câu hỏi; 2. Phật chánh thức đáp. Đây là phần một. Văn có hai tiết:

1. "Bạch Phật; hộ Bồ-tát thập địa hạnh": là nhắc lại phần hộ hạnh thập địa trong phẩm trước, Bồ-tát tức là người của chủ thể hộ; 2. "Làm thế nào để thực hành?" Là lời phát hỏi. Hỏi có ba ý: 1. Hạnh để thực hành: Là hỏi về Bồ-tát hành pháp tự lợi; 2. Làm thế nào để hành hóa chúng sanh? Hỏi về hạnh lợi tha. Nghĩa là nương theo hạnh địa gì để có thể giáo hóa chúng sanh; 3. Lấy tướng gì nơi chúng sanh để hóa. Hỏi chúng sinh được Quốc độ thật hay không thật tướng?

Lại giải đáp câu hỏi thứ nhất, hạnh tự lợi nương vào hạnh tướng gì? Cho nên lấy hạnh năm nhẫn để đáp. Câu hỏi tiếp là lợi tha nương vào hạnh của ngôi vị nào? Cho nên lấy hạnh thập địa để đáp. Câu hỏi sau là tướng chúng sanh gì để giáo hóa? Cho nên lấy thân huyễn hóa thấy chúng sanh huyễn hóa mà giáo. Đến văn sẽ giải thích.

Hỏi: Chẳng phải là phẩm này thuyết về hạnh lợi tha, sao câu hỏi đầu tiên lại hỏi về hạnh tự lợi?

Đáp: Hộ hạnh Bồ-tát, lợi chung cả tự và tha, do chỗ thuyết mà chỉ gọi là giáo hóa.

Kinh: Phật bảo: "Đại vương! Năm nhẫn là pháp của Bồ-tát". Giải thích: Phần hai Như Lai chánh đáp. Trong đó có hai phần: 1.

Đáp hai câu hỏi trước; 2. Từ "Phật bảo: Đại vương! Ông trước đã nói…": Đáp câu hỏi thứ ba. Trong phần một có ba phần:

1. Chánh đáp hai câu hỏi.

2. Từ "bấy giờ, trăm vạn…" vua dùng kệ để tán.

Từ "Phật bảo: Các vị đắc đạo…" Như Lai thuật nói.

Trong phần đáp hai câu hỏi. Có hai phần: 1. Chánh đáp câu hỏi trước, kiêm đáp về lợi tha; 2. Từ "bạch Phật…" chánh đáp câu hỏi sau, gồm đáp về tự lợi. Trong phần một lại có ba phần: 1. Nêu tông lược đáp; 2. Từ "Này thiện nam!…" thứ lớp giải thích; 3. Từ "bổn nghiệp của chúng sanh…" giải thích xong, tổng kết. Trong phần lược đáp, văn lại có ba phần: 1. Nêu con số lược đáp; 2. Theo số nêu tên; 3. kết chỉ bày tự tính. Đây là phần một. Theo đoạn văn kết sau, là gốc nơi chỗ tu hành của chư Phật Bồ-tát, nay tùy hỏi đáp, chỉ nói là Bồ-tát.

Kinh: Phục nhẫn thượng trung hạ… Nhẫn tịch diệt thượng hạ. Giải thích: Phần hai theo số nêu tên. Nghĩa là: Tam hiền địa tiền, chưa đắc vô lậu, không thể nội chứng, chỉ có thể phục trừ, nhưng không vĩnh viễn đoạn dứt, gọi đó là phục. Nhẫn là nhẫn giải, thể là tuệ, dùng phục nêu nhẫn, gọi là phục nhẫn. Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, đắc tín vô lậu, nên gọi là tín nhẫn. Tứ địa, Ngũ địa, Lục địa, hướng đến vô sinh nhẫn, gọi đó là thuận. Thất địa, Bát địa, cửu địa, an trú nơi tâm tuệ, trong lý vô sinh, gọi là vô sinh nhẫn. Bồ-tát quán đảnh và Như Lai địa, quán đệ nhất nghĩa, chơn như tịch diệt, gọi là nhẫn tịch diệt. Nhưng năm nhẫn đó, các giáo bất đồng:

Nếu theo kinh Bổn nghiệp Anh Lạc thì lược chia thành sáu tính: 1. Tập chủng tính; 2. Tính chủng tính; 3. Đạo chủng tính; 4. Thánh chủng tính; 5. Đẳng giác tính; 6. Diệu giác tính. Giải: Ý kinh kia là: Như thứ tự của mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, tâm Kim cang và địa Như Lai, nếu chia chi tiết thì có bốn mươi hai Hiền, Thánh, đó gọi là mười giải, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, Đẳng giác, Diệu giác.

Theo kinh Thiện Giới, luận Du già quyển bốn mươi bảy, phần địa Bồ-tát: Chia ra mười ba trụ: Một là chủng tính, hai là giải hạnh, mười địa nữa là mười hai, thêm Phật địa là mười ba, gọi là mười ba trụ.

Những văn như trên không thể nói hết ra đây. Về ba vị phục nhẫn có ba giải thích:

Một giải thích là: Bổn ký nói; mười tín là tập chủng tính. mười giải là tính chủng tính. mười hạnh là đạo chủng tính. Mười hồi hướng trở lên, tức thuộc kiến đạo. Kinh thuyết về các tín là tính của chúng. Lại nữa, phần sau kinh nói: Mười tín, mười chỉ, mười kiên tâm, cho nên biết mười tín là tập chủng tính.

Một giải thích nói: Mười tín của kinh này là tập. Mười giải mười hạnh là tính, mười hồi hướng là đạo chủng tính. Vì sao biết được mười tín là tập? Đáp: Như Lương Nhiếp luận: Luận viết: Ở trong mấy thời tu hành. Mười địa chánh hạnh đắc viên mãn. Luận viết: Có năm người, với ba A-tăng-kỳ kiếp tu hành viên mãn, hoặc bảy A-tăng-kỳ, hoặc ba mươi ba A-tăng-kỳ. Nói năm người là: Một người là nguyên lạc hành; đầy đủ tăng kỳ thứ nhất. Tiếp nữa có ba người; là thanh tịnh ý lạc hành, hữu tướng hành và Vô tướng hành. Ở sáu địa trước và địa thứ bảy, đầy đủ A-tăng-kỳ thứ hai. Từ đó về sau là người thứ năm, vô công dụng hành, đầy đủ tăng-kỳ thứ ba. Luận kia nói: Người nguyện lạc hành, tự có bốn loại; là mười tín, mười giải, mười hạnh, mười hồi hướng. Như trước Tu-đà-hoàn có bốn phương tiện. Nói chi tiết như trong luận kia. Giải thích: Mười tín sơ tâm. Nhập tăng kỳ số, đúng lý thì thuộc về ngôi vị tập chủng tính. Do vì nghĩa ấy, mười giải, mười hạnh là thuộc tính chủng tính, mười hồi hướng tâm, thuộc về đạo chúng tính. Như lý thì biết.

Một giải thích nói: Ba phẩm phục nhẫn của kinh này như ba loại phục nhẫn trong kinh Anh Lạc.

Tuy có ba thuyết, nhưng thuyết sau là chánh. Nguyên do là sao? Nếu như thuyết thứ nhất thì sao kinh lại nói là phục nhẫn Thánh thai ba mươi người. Phải là bốn mươi người chứ? Lại trái với kinh Bổn Nghiệp nói Hiền, Thánh có bốn mươi hai loại, đúng thì phải thuyết năm mươi hai loại. Nếu như thuyết thứ hai cũng bị hai điều sai như trên. Lại nữa, thuyết kia dẫn về bốn loại người trong vị nguyện lạc là sư Chân Đế tự viết, chẳng phải là chánh văn của luận, do vì bản luận của Ngài Thế Thân đời Đại Đường và bản Đại Nghiệp, đều không có đoạn văn đó, cho nên trong ba giải thích trên, thuyết sau là chánh, thuận với các thánh giáo, không trái với đạo lý. Kinh: Gọi là chư Phật Bồ-tát tu Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần ba-Tổng kết. Năm nhẫn là pháp có thể hành trì, dùng tuệ làm tính. Như kinh đã rõ.

Kinh: Này thiện nam!… Tu hành phục nhẫn.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Giải thích rộng năm nhẫn. Tức chia làm năm phần. Ở trong phục nhẫn, tam Hiền bất đồng, lại chia làm ba. Đây là phần thứ nhất, giải thích về tập chủng tính. Trong đó có năm phần: 1. Nói về phương tiện; 2. Bồ-tát nhập vị; 3. Hiển hóa lực; 4.

Siêu quá; 5. Thắng nhân. Đây là phần một-Nói về phương tiện.

Nói: "Sơ phát tướng tín": Là người chưa nhập mười trụ, mười tín. Nghĩa là mới phát tâm, nhưng chưa thấy lý, gọi là tưởng tín. Ngài Tam Tạng Trường Nhĩ nói: Trước tập chủng tính, có ba tưởng phát tâm: Là giả tưởng phát, khinh tưởng phát, tín tưởng phát. Giả tưởng phát là nhờ mượn ba loại lực: 1. Thiện hữu lực: là hai lực, là thiện tri thức; 2. Hành lực là thọ luật nghi; 3. Pháp lực thông và biệt. Thông là Như Lai tạng. Biệt: là năm căn như tín,… Duyên với ba lực đó, đối với Phật Bồ-đề, giả khởi tưởng Bồ-đề, cầu để tự an và an tha. Như Thanh văn giả quán, chẳng phải xanh mà tưởng xanh, có thể trị hoặc. Trong đó cũng vậy, gọi là giả tưởng phát. Từ đó về sau tưởng tưởng không ngừng, nghĩa còn khó biết. Ví như sợi lòng nhẹ không bám víu chỗ nào, gọi là khinh tưởng phát. Từ đây về sau đường tâm chuyển sáng, hạt ngọc tín hiển hiện, gọi là tín tưởng phát, liền nhập vị mười tín, cho nên gọi là sơ phát tưởng tín.

"Hằng hà sa chúng sanh", người hiển phát tâm đa phần thường nhập ngôi vị nhỏ, vì vậy kinh nói: Thí như cá nhỏ, hoa của cây Am-la, kết trái rất nhỏ.

"Tu hành phục nhẫn": Tức tu mười tín, vì phương tiện phục nhẫn, nên kinh Anh Lạc nói: Nhất hiền danh môn. Nghĩa là: sơ phát tâm, chưa lên trụ tiền. Có mười hằng sa Bồ-tát danh tự, thường tu mười tâm, nghĩa là tín, tiến, niệm, định và tâm chí nguyện. Lại nói: "Mười tín trở về trước, thực hành trong tưởng tâm, là thối phần thiện căn. Nếu một kiếp đến mười kiếp, tu hành mười tín, đắc nhập mười trú.

Kinh: Ở trong Tam bảo… Tâm hồi hướng.

Giải thích: Phần chánh biện minh nhập vị.

Ở ruộng Tam bảo, sinh mười loại tâm. Trong mười tâm đó: năm tâm đầu là tự lợi, năm tâm sau là lợi tha. Năm tâm trước là năm căn: tín, tinh tiến… năm tâm sau là: 1. Thí; 2. Giới; 3. Hộ Tam bảo; 4. Cầu thắng quả, gọi là nguyện tâm; 5. Hồi cầu Bồ-đề, gọi là tâm hồi hướng.

Hỏi: kinh Anh Lạc và kinh Hoa Nghiêm thuyết về mười trụ khác với kinh này, là có ý gì sao?

Mười trú kia là: 1. Phát tâm trụ; 2. Trì địa trụ; 3. Tu hành trụ; 4. Sinh quý trụ; 5. Phương tiện cụ túc trụ; 6. Chánh tâm trụ; 7. Bất thối trụ; 8. Đồng chơn trụ; 9. Pháp vương tử tru; 10. Quán đảnh trụ.

Giải thích: Xưa nay tương truyền có hai loại thập trụ: 1. Biệt tướng thập trụ như các phát tâm trụ… trong kinh Anh Lạc; 2. Thông tướng thập trụ: Là tín tâm… lấy làm thể của thập trụ, vì các ngôi vị đều hành mười tín tâm. Do đó trong kinh Bổn nghiệp, Bồ-tát sơ địa, nói trăm pháp minh môn, tức là mười tín; mỗi tín có mười tâm, tức là trăm pháp. Nay trong kinh này, dựa theo thông tướng mà thuyết, cho nên không trái nhau.

Kinh: Đó là Bồ-tát… hóa chúng sanh.

Giải thích: Phần hiển bày hóa lực. Nghĩa là: Bồ-tát mười trụ làm Đồng Luân vương. Vua hai thiên hạ, hai phương Nam và Tây, nên nói là hóa sinh một phần nhỏ.

Kinh: Đã vượt qua tất cả địa thiện thuộc nhị thừa.

Giải thích: Phần bốn-Siêu vượt qua địa nhị thừa.

Kinh: Tất cả chư Phật… làm Thánh thai.

Giải thích: Phần Thành thắng nhân. Nghĩa là chư Bồ-tát nuôi lớn các hạnh, mười tâm khiến thành Thánh thai.

Kinh: Lại nữa, Này thiện nam!… Có mười tâm. (Hoặc có bản viết: "Thứ lớp khởi ở tuệ địa. Tính chủng tính có mười tâm.)

Giải thích: Từ đây là phần-Nói về tính chủng tính, văn có bốn phần: 1. Nhập vị; 2. Vị thể; 3. Nhiếp hóa; 4. Lìa qua. Đây là nói về nhập vị. Ở ngôi vị thứ hai trong ba nhẫn, cho nên bảo là "lại nữa". Thứ hai trong ba vị, gọi là trung phục nhẫn. Kế tiếp với văn tuệ trước mà sinh ra, tức là tư số, không nương vào nước Định nên gọi là Càn tuệ (tuệ khô), tức là tư tuệ. Hiện nay viết là can tuệ, chữ đó sai. Kinh Anh Lạc thuyết về sáu tính, còn gọi là sáu tuệ. Sáu tính là; như trên đã dẫn tập chủng tính, tính chủng tính, đạo chủng tính, Thánh chủng tính, đẳng giác tính, diệu giác tính. Sáu tuệ là: Văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, chiếu tịch gọi là tính tuệ, tịch, chiếu tuệ. Cho nên biết can tuệ tức là tư tuệ. Tập đã thành tính, gọi là tính chủng tính.

"Có mười tâm": Là tổng nêu số của chúng.

Hỏi: Kinh Thiện giới… nói tính trước, tập sau, vì sao kinh này lại tập trước, tính sau.

Đáp: Luận Du già v.v… thuyết: Lập thứ thức tám, phân biệt sự khác nhau giữa các chủng tử, hiện hành. Cho nên kinh luận kia nói trước tính, sau tập. Nay ở kinh Nhân vương bổn nghiệp, không nói thức thứ tám, chỉ là hiện phi chủng, mới bắt đầu khởi gọi là tập, tập để thành tính, nên những thuyết kia không trái nhau.

Kinh: Là bốn ý chỉ… vô ngã.

Giải thích: Phần hai-Hiển vị thể tính. Văn có ba phần: 1. Bốn ý chỉ, tức bốn niệm xứ; 2. Nói về ba ý chỉ, tức ba thiện căn; 3. Ba ý chỉ, tức là nhân quả nhẫn của ba đời.

Nói "bốn ý chỉ" là: Dùng tuệ làm thể. Nhưng nói ý chỉ thì ý là tâm vương, do tuệ lực, khiến tâm chỉ trú trong bốn loại cảnh, cho nên bảo là ý chỉ.

"Thân thọ tâm pháp": là biện minh cảnh sở quán.

Nói "bất tịnh, khổ, vô thường, vô ngã": nói về bốn quán trừ bốn điên đảo: Quán thân bất tịnh, có thể trừ đảo tịnh. Quán thọ là khổ, trừ đảo lạc. Quán tâm vô thường, trừ đảo thường. Quán pháp vô ngã, có thể trừ đảo ngã.

Kinh: Ba ý chỉ, ba thiện căn, từ, tín, thí, tuệ.

Giải thích: Phần nói ba thiện căn đoạn dứt tham, sân, si. Đây là nói về ba thiện căn khiến tâm chỉ trú ở ba loại cảnh, cho nên gọi là ba ý chỉ. Từ là vô, thí là vô tham, tuệ là vô si. Như thứ tự của chúng, trừ tham sân si. Tông Tát-bà-đa nêu nghĩa như trên.

Nay theo đại thừa, tự có hai giải thích: Một giải thích giống với tông Tát-bà-đa; thiện căn vô si, dùng tuệ làm thể. Một giải thích là: lìa ngoài tuệ còn có riêng vô si. Như luận Thành Duy Thức… Nay đoạn văn này của kinh, giống với tông Tát-bà-đa, dùng tuệ làm thể.

Kinh: Ba ý chỉ… vị lai quả nhẫn.

Giải thích: Phần nói duyên nhân quả nhẫn của ba đời. Nghĩa là duyên với quá khứ, chỉ có nhân chẳng quả.

Nếu duyên hiện tại thì vừa nhân vừa quả, do đối chiếu trước sau. Duyên đời vị lai, chỉ quả chẳng nhân, vì ở thời sau, đây cũng là tuệ, nhẫn chịu cảnh trước mắt, gọi là nhẫn.

Kinh: Bồ-tát ấy cũng có thể hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Phần ba nói về nhiếp độ giáo hóa. Đã rõ.

Kinh: Đã có thể vượt quá… không bị hoại.

Giải thích: Phần bốn nói lìa qua. Nghĩa là vượt quá ngã, nhân… xa lìa ngã kiến. Nhưng ngã kiến kia có rất nhiều tên gọi: Là ngã, nhân, tri giả, kiến giả, chúng sanh. Như luận Du già thì có tám loại tên gọi. Theo đại Bátnhã thì có mười ba tên gọi.

Nói "ngoại đạo đảo tưởng": Là sáu mươi hai kiến.

Kinh: Lại nữa, người thiện nam! Tu hành phục nhẫn tiến vào, đạo bình đẳng, gọi là địa đạo chủng tính. (Hoặc có bản nói: lại có mười đạo, mười chủng tính địa.)

Giải thích: Phần nói địa đạo chủng tính. Văn có bốn phần: 1. Nêu vị tổng danh; 2. Nêu ra vị thể tính; 3. Nhiếp hóa sai biệt; 4. Thắng dụng. Đây là phần một. Nghĩa là nhập sơ địa, ly chủ thể và đối tượng giữ lấy Thánh đạo bình đẳng, vì đây làm tính nhân cho Thánh đạo, nên gọi là đạo chủng tính.

Kinh: Là quán sắc… giải thoát nhẫn.

Giải thích: Phần hai-Nêu riêng về thể tính. Văn có ba phần: 1. Năm nhẫn; 2. Ba nhẫn; 3. Biện minh hai nhẫn. Hợp thành mười nhẫn.

Ý giải thích chung: Hữu tình lưu chuyển, năm uẩn làm thể, trôi nổi trong ba cõi, tìm căn gốc của nó thì không lìa hai đế. Cho nên thành mười nhẫn. Nhẫn là nhẫn giải, thể tức là tuệ. Năm nhẫn trước là từ quả mà đặt tên, do quán năm uẩn mà đắc năm phần pháp thân. Năm nhẫn sau, từ cảnh mà đặt tên tìm có thể biết. Đó tức là phần một nói về quán năm uẩn nhẫn. Đắc năm nhẫn trước. Biểu là quán sắc uẩn liền đắc giới nhẫn, do biểu và vô biểu giới đều là sắc uẩn. Đúng với văn kinh này, biểu và vô biểu đều là sắc uẩn.

Quán thức uẩn, đắc tri kiến nhẫn, dùng thức liễu biệt và tuệ tri kiến, nghĩa thuận nhau.

Quán tưởng uẩn, đắc định nhẫn, do dùng giả tưởng kia có thể nhập định. Như bốn vô sắc là do tưởng mà đắc.

Quán thọ uẩn, đắc tuệ nhẫn, vì y theo thọ mà lập bốn thiền, do nương vào thiền, có thể phát khởi trí tuệ. Do đó quán thọ mà đắc tuệ nhẫn.

"Giải thoát nhẫn": Là thân giải thoát. Giải thoát có hai loại: 1. Giải thoát hữu vi, tức là thắng giải; 2. Giải thoát vô vi. Đó là nói về do đoạn dứt phiền não thuộc về hành uẩn mà riêng đạt được thắng giải thuộc về hành uẩn, gọi là giải thoát nhẫn. Do tự tại với cảnh, nên gọi là giải thoát. Vì thế luận Bà-sa và luận Phật địa đều nói thắng giải là giải thoát thân, cho nên bảo là do quán hành uẩn mà đắc giải thoát nhẫn.

Kinh: Quán nhân quả ba giới… Vô tướng nhẫn.

Giải thích: Phần hai-Giải thích ba nhẫn.

Nghĩa là: Quán tam giới khổ, đắc nhẫn "không", do ở trên quả khổ lập nghĩa "không". Đối với nhân của tam giới, đắc nhẫn vô nguyện, do lấy nghiệp phiền não làm nhân cho đế. Quán chung cả nhân và quả, đắc nhẫn Vô tướng. Do nhân và quả đều "không", chứng Vô tướng.

Lại giải thích: Quán nhân quả của Dục giới, đắc vô nguyện, vì rất đáng chán. Quán nhân quả Sắc giới, đắc "không". Vì lìa thô pháp. Nương theo dục, sắc đắc Vô tướng, do mười tướng các pháp đa phần đã hết. Những giải thích như vậy, không thể kê ra đầy đủ.

Kinh: Quán nhị đế hư thật… đắc vô sinh nhẫn.

Giải thích: Nói về Nhị đế nhẫn. Nghĩa là quán Tục đế, đắc vô thường nhẫn. Quán chân đế, đắc vô sinh nhẫn. Đó là dựa theo hữu vi và vô vi để giải thích về nhị đế.

Kinh: Bồ-tát ấy… bốn thiên hạ.

Giải thích: Nói về nhiếp hóa sai biệt.

Nghĩa là: Đạo chủng tính, làm Kim Luân vương giáo hóa bốn thiên hạ. Lại giải thích: "Mười kiên tâm của Bồtát ấy": là kết về mười nhẫn trên.

Kinh: Sinh tất cả thiện căn chúng sanh.

Giải thích: Biện minh dụng thù thắng. Nghĩa đã rõ. Kinh: Lại nữa, Bồ-tát tín nhẫn gọi là người thiện-đạt minh hạnh.

Giải thích: Nói về tín nhẫn. Văn có bốn phần: 1. Nêu danh phối hợp vị; 2. Trừ chướng; 3. Nhiếp hóa sai biệt; 4. Phát hạnh chủng tử. Đây là phần một. Nêu danh phối hợp vị.

Nói "tín nhẫn": là nêu danh. Vì tín vô lậu, tin Tam bảo, nên gọi là tín nhẫn.

Nói "là người thiện đạt minh hạnh" là phối hợp với vị, như phần sau kinh nói. Thiện; là thiện giác. Bồ-tát sơ địa, hiện chứng hai không, cho nên danh là thiện giác. Đạt: tức là lìa đạt, là nhị địa, lìa bỏ cấu uế phạm giới, đạt cảnh chơn và tục, cho nên gọi là lìa đạt. Minh tức là minh tuệ, nghĩa là đệ tam địa, dùng ba tuệ quang, minh giải các pháp gọi là minh tuệ. Ba địa kể trên, năm uẩn dựa vào người, gọi là người thực hành.

Kinh: Đoạn phiền não sắc trói buộc nơi ba cõi. Giải thích: Phần hai-Nói về trừ chướng.

Nhưng, phần trừ chướng này, các giáo nói bất đồng. Theo thật Chánh lý, như luận Thành Duy Thức quyển mười nói: Tất cả chướng, thuộc về hai chướng thì trong phiền não chướng là loại do kiến đạo đoạn. Nơi địa cực hỷ, kiến đạo bắt đầu đoạn. Chướng kia hiện khởi, địa tiền đã điều phục, loại do tu đạo đoạn. Định Kim cang dụ, lúc đang hiện tiền thì tất cả đều đoạn ngay. Chướng kia hiện khởi, địa tiền lần lần chế phục, sơ địa trở lên có thể hết ngay, khiến cho mãi không còn hiện hành. Như A-la-hán, do lực cố ý, nơi bảy địa trước, tuy tạm hiện khởi, nhưng không bị mất. Địa thứ tám trở lên thì rốt ráo không hiện hành nữa. Trong sở tri chướng, loại do kiến đạo đoạn, nơi địa cực hỷ, kiến đạo bắt đầu đoạn. Chướng kia hiện khởi, địa tiền đã chế ngự. Loại do tu đạo đoạn, ở trong địa thứ mười lần lượt đoạn dứt. Khi định Kim cang dụ hiện tiền, mới vĩnh viễn đoạn hết hẳn. Chướng kia hiện khởi, địa tiền chế ngự dần, cho đến mười địa mới vĩnh viễn đoạn dứt. Địa thứ tám trở lên, sáu thức cùng kết hợp, không hiện hành nữa. Tâm quán vô lậu cùng quả tương tục, có thể trái với chứng kia…

Kinh: Có thể hóa… vô lượng công đức.

Giải thích: Phần ba-Nhiếp hóa sai biệt. Nghĩa là: sơ địa thì trăm Phật quốc, địa thứ hai (Nhị địa) ngàn Phật quốc, địa thứ ba (Ta địa) vạn Phật quốc, hóa thân hiện bày ba địa khác nhau, theo văn thì rõ, lại hiện thần thông, vô lượng công đức sai biệt: Nghĩa là, sơ địa thì thần thông động cả trăm Phật quốc, địa thứ hai thì động cả ngàn Phật quốc, địa thứ ba thì vạn quốc độ Phật.

Kinh: Thường dùng mười lăm tâm làm đầu.

Giải thích: Phần bốn-Phát hành chủng tử. Văn có ba phần: 1. Tổng nêu. Dùng mười lăm tâm đầu; 2. Liệt kê mười lăm tâm; 3. Tổng kết. Đây là phần tổng nêu. Mười lăm tâm làm hột giống gốc để phát khởi hành.

Kinh: Bốn nhiếp pháp… Ba môn giải thoát.

Giải thích: Liệt kê mười lăm tâm. Nghĩa là: bốn môn công đức như bốn nhiếp… thành mười lăm tâm công đức.

Nói "hoằng nguyện"; như kinh Anh Lạc thuyết: Nguyện tất cả chúng sanh, độ khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, gọi là bốn hoằng thệ nguyện. Thuyết đầy đủ như trong kinh kia.

Kinh: Bồ-tát ấy từ địa thiện (hoặc có bản viết: Từ thiện giác địa)… Căn bản chủng tử.

Giải thích: Phần ba. Tổng kết. Đã rõ.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát thuận nhẫn… hiện pháp.

Giải thích: Phần Thuận nhẫn. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Trừ chướng; 3. Nhiếp hóa sai biệt. Đây tức là phần một. Thuận quán vô sinh, nhẫn gọi là thuận nhẫn.

Nói "kiến thắng hiện pháp": là phối vị. Kiến: nghĩa là Diệm Tuệ, tức là địa thứ tư, đắc Kiến đạo phẩm, nên gọi là Kiến. Thắng: tức là Nan thắng, là địa thứ năm. Chữ Nan có hai nghĩa: 1. Khuyến hóa chúng sinh khó Quốc độ, tâm không có sợ khó; 2. Đối tượng được Quốc độ không thuận theo, tâm không cấu uế vì khó khăn. Đẩy lùi được hai điều khó đó, đắc thắng đối với sự khó khăn, gọi là Nan thắng địa.

Nói "Pháp hiện": Tức chính là địa thứ sáu, Hiện tiền địa, quán mười hai nhân duyên, thường hiện ngay trước, nên gọi là Hiện tiền địa.

Kinh: Năng đoạn… phiền não trói buộc.

Giải thích: Phần hai-Nói về sự trừ chướng. Nghĩa là: Trong ngôi vị này, đoạn dứt sự trói buộc duyên với tâm phiền não, gọi là tâm phiền não buộc, hoặc so với tiền vị phiền não sắc thô hiển. Của vị trước thì quả vị này, tâm phiền não vi tế, nên dụ với tâm. Gọi là "đẳng (v.v…) là các tâm sở.

Kinh: Nên hiện một thân… hóa chúng sanh.

Giải thích: Phần ba-Nhiếp hóa sai biệt. Nghĩa là: hiện một thân thật ở trong Phật quốc mười phương. Hiện vô lượng Thần thông Quốc độ chúng sinh. Hoặc có thể ở mười phương quốc độ mỗi phương hiện một hóa thân để Quốc độ chúng sanh, cho nên nói là một thân.

Hỏi: Vì sao Tín nhẫn hiện trăm thân… trong Thuận nhẫn này chỉ nói là một thân?

Đáp: Tín nhẫn nói về hóa thân, cho nên nói là nhiều thân. Đây nói thân thật, cho nên nói là một thân.

Hỏi: Thân của Bồ-tát, cùng một lúc đến mười phương không?

Đáp: Có hai thuyết: Một thuyết nói: đến được, vì chẳng thể nghĩ bàn, một thuyết nói: Không đến, vì thân thật không thể ở tại nhiều xứ. Tuy có hai giải thích, nhưng chỉ theo giải thích sau.

Kinh: Lại nữa, vô sinh nhẫn… quán tuệ.

Giải thích: Nói về vô sinh nhẫn. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Trừ chướng; 3. Nhiếp hóa sai biệt.

Nói "vô sinh nhẫn": Các thuyết bất đồng, có thuyết cho biến kế sở chấp, gọi là vô sinh, vì không có tự thể, hoặc nói Biến kế sở chấp và Viên thành thật, đều gọi là vô sinh. Như kinh Giải Thâm Mật và luận Du già. Hoặc nói là ba tính đều gọi là vô sinh: là bổn tính vô sinh, tự nhiên vô sinh, hoặc khổ vô sinh. Như nói trong luận Thành Duy Thức.

"Viễn bất động quán tuệ"; là phối vị. Địa thứ bảy gọi là viễn hành, là đến biên vực cuối cùng của tâm công dụng. Địa thứ tám gọi là bất động, do tướng dụng phiền não không thể lay động. Địa thứ chín gọi là quán tuệ, do bốn vô ngại giải, Quốc độ hữu tình.

Kinh: Cũng đoạn dứt tập phiền não của sắc tâm trong ba cõi.

Giải thích: Phần hai-Nói về trừ chướng. Nghĩa là ở vị trước, đã đoạn dứt phiền não sắc tâm. Nay trong vị này đoạn các vi tế, gọi là tập phiền não của các sắc tâm.

Kinh: Hiện bất khả thuyết… thần thông.

Giải thích: Phần ba-Nhiếp hóa sai biệt, như kinh đã rõ.

Kinh: Lại nữa, nhẫn tịch diệt.

Giải thích: Biện minh tịch diệt nhẫn. Văn có bốn phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Biện minh trừ chướng; 3. Dựa theo đế biện giải sự khác nhau; 4. Từ "vô duyên…": Sai biệt về đối tượng giáo hóa. Trong phần một, có ba: Một là phần nêu danh. Hai là tán thán dụng. Ba là phối hợp vị.

Nếu theo Bổn ký thì tịch là định, diệt là tuệ. Do diệt các lậu, nên gọi là tịch diệt nhẫn. Một thuyết nói: Lìa các pháp tướng, cứu cánh chơn như, gọi là tịch diệt, duyên với cảnh, trí kia, gọi là tịch diệt nhẫn.

Kinh: Phật và Bồ-tát… Nhập Tam muội Kim cang. Giải thích: Phần tán thán về dụng.

"Kim cang" có hai nghĩa: 1. Chủ thể đoạn trừ gọi là Kim cang, vì có thể đoạn trừ tất cả các phiền não. Nay ở kinh này, theo nghĩa đó mà nói; 2. Đối tượng được đoạn trừ là hoặc, gọi là Kim cang tánh chứng chắc khó đoạn. Cho nên kinh Bát-nhã mới phiên dịch, tên là năng đoạn Kim cang. Hoặc khả Kim cang, cũng thuộc về chủ thể đoạn. Do nghĩa đó cho nên Phật và Bồ-tát, đồng dùng nhẫn ấy.

Kinh: Hạ nhẫn hành trung hành… Nhất-thiết-trí.

Giải thích: Phần ba-Phối vị Tát-bà-nhã: Tiếng Hoa gọi là Nhất-thiết-trí.

Kinh: Cùng quán Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Phần Biện minh trừ chướng. Văn có ba phần: 1. Nói về quán cảnh; 2. Biện minh trừ chướng; 3. Hiển bày hai tướng sai biệt của hai đạo. Đây là phần một-Nghĩa là Phật và Bồ-tát cùng quán chân như, Đệ-nhấtnghĩa-đế.

Hỏi: Đồng quán ở ngôi vị này, có sự hơn kém không? Nếu có sự hơn kém, sao trong kinh Bổn Nghiệp lại nói là Đẳng giác? Nếu không có hơn kém, sao trong luận Du già, phần chú thích lần thứ tám lại nói có sai biệt hơn kém?

Đáp: Các thuyết bất đồng: một thuyết nói duyên với chơn thì không có hơn kém, nếu duyên với tục thì có hơn kém khác nhau, cho nên kinh và luận, không trái. Một thuyết nói căn cứ theo sự thật thì hơn kém khác nhau, nên kinh Niết-bàn nói: Bồ-tát thập địa thì văn kiến Phật tính, ở địa Như Lai thì nhãn kiến Phật tính, nói đủ như kinh kia. Lại nữa, luận Du già quyển mười bốn, mười lăm, viết: Thấy Nguyệt Quang dùng dụ cho hai ngôi vị, nên biết hai ngôi vị chắc có hơn kém. Nhưng nói ngang bằng là cùng ngang bằng nơi việc đoạn dứt một chướng, nên nói là đẳng (ngang bằng). Ngài Tam Tạng Từ Ân, ý cũng theo giải thích sau.

Kinh: Đoạn tập tâm tam giới.

Giải thích: Phần hai-Chánh biện minh trừ chướng. Ở ngôi vị trước, đã đoạn dứt của hai loại tập thô của sắc, tâm. Nay trong ngôi vị này, cũng đoạn dứt hai loại tập vi tế sắc và tâm. Vì để tỏ rõ đối tượng bị đoạn dứt rất vi tế, nên chỉ gọi là tâm tập.

Kinh: Tướng vô minh tận… là Nhất-thiết-trí..

Giải thích: Phần ba chánh biện minh tướng sai biệt của hai đạo.

Nhưng giải thích đoạn văn này thì các thuyết bất đồng.

Một thuyết nói: Tướng vô minh tận làm tướng Kim cang tận là hiển bày tướng của đạo vô gián. Căn cứ theo thật thì tất cả các phiền não đều tận hết, là nói theo căn bản. Vì vậy chỉ nói là tướng vô minh tận. Tức dùng tướng đó làm tướng Kim cang tận. Trong đạo giải thoát, đã vượt qua tướng vô minh tận, nên nói Vô tướng làm Nhất-thiết-trí.

Nếu theo Bổn ký tướng vô minh tận là Kim cang, thì hiển bày tướng của đạo vô gián. Nghĩa là ở ngôi vị này, có dẫn đến tướng tận, nói theo căn bản, nên bảo là tướng vô minh tận là tướng Kim cang tận.

"Vô tướng làm Nhất-thiết-trí". Để hiển rõ đạo giải thoát mà nói là tận tướng, lúc đạo vô gián, tướng hoặc tuy đã hết, nhưng còn dị tướng của cảnh và trí, nên không nói là Vô tướng. Nơi ngôi vị này, hết tướng của vô minh, cũng không có dị tướng của cảnh và trí, nên tận hết tướng, Vô tướng là Nhất-thiết-trí. Tuy có hai giải thích, nhưng lại theo giải thích sau.

Kinh: Vượt qua thế đế… Đẳng pháp tính.

Giải thích: Phần ba-Dựa theo đế biện minh sự khác nhau.

Ba Hiền phần nhiều trụ thế đế, mười địa phần nhiều trụ Chơn đế. Vì độ ba Hiền, nên vượt thế đế. Vì độ mười địa, cho nên vượt Đệ-nhất-nghĩa-đế. Do siêu thế đế cho nên phi hữu. Do siêu vượt cả Đệ-nhất-nghĩa-đế, cho nên phi vô. Vì vậy mà thành ra là địa thứ mười một.

"Tát vân nhã giác"; tự có hai thuyết;

Một thuyết là: Tát-bà-nhã gọi là Nhất-thiết-trí. Tát vân nhã, gọi là Nhất-thiết-chủng-trí. Nếu theo Bổn ký thì đều phiên dịch là Nhất-thiết-trí.

Nói "an nhiên thanh tịnh, thường trụ bất biến, đồng chơn tế, đẳng pháp tính" là giải thích thêm về Nhất-thiếttrí. Tướng của thường trụ. Các thuyết bất đồng: Một nói: Tức theo văn này, Như Lai thường trụ vô sinh, vô diệt. Một thuyết nói: Vì tương tục thường, cho nên nói là thường trụ. Đầy đủ như trong chương nói về ba thân.

Kinh: Vô duyên đại bi đến hóa tam giới.

Giải thích: Phần bốn-Nhiếp hóa sai biệt. Văn có hai phần: 1. Nêu tông lược giải thích; 2. Theo tông rộng giải thích. Đây là phần một.

Nghĩa là: Tất cả hữu tình, chủ thể giáo hóa và đối tượng tượng giáo hóa đều không lìa tam giới. Đại bi là công cụ của chủ thể giáo hóa. Chúng sanh là cảnh của đối tượng được giáo hóa. Nhất-thiết-trí là thể của chủ thể giáo hóa.

Đại bi có ba: 1. Chúng sanh duyên; 2. Pháp duyên; 3. Vô duyên. Loại đại bi chúng sanh duyên chung cả ngoại đạo, pháp duyên chung cả nhị thừa, đại bi vô duyên, duy chỉ Phật và Bồ-tát. Nếu phân biệt chi tiết thì như luận Trí Độ quyển hai mươi ba và luận Phật địa quyển năm.

Nay Phật Thế Tôn, dùng lực đại bi để Quốc độ tất cả chúng sanh, vận hành Nhất-thiết-trí đến giáo hóa tam giới.

Kinh: Này thiện nam!… cũng không xuất ra ba cõi.

Từ đây là phần hai-Theo tông rộng giải thích. Văn có ba phần: 1. Nói về chánh lý; 2. Từ "ngoài ba cõi…" phá thuyết của dị sư; 3. Từ "Đại vương! Ta nói…" dẫn xưa làm chứng cho nay. Đây là phần một.

Nếu theo Bổn ký: thì ở đây có bốn nghĩa: 1. Nhân phiền não, do hoặc phát nghiệp, sinh ra báo của tam giới; 2. Sinh tử quả... nghĩa quả bị chiêu cảm, thể thuộc ba cõi. Trong hai mươi hai căn; ba căn vô lậu tuy chẳng phải là tam giới, nhưng nương vào thân của ba cõi nên bảo là không xuất; 3. Trí tuệ thể. Là tất cả trí tuệ của ba thân Phật, gọi là trí tuệ thể. Quốc độ tam giới xứ, nên bảo là không xuất; 4. Trí tuệ dụng: Trái lại hiển bày bên trong cõi có chúng sinh được Quốc độ. Ý nói tác dụng của Phật trí Quốc độ tam giới, ý tỏ Phật trí hóa tam giới dụng. Tuy trong danh tướng có bốn nghĩa đó, nhưng đều là hư vọng. Nếu xuất ra khỏi sự trói buộc của tam giới, tức là thấy đệ nhất nghĩa. Như lý thì không còn thấy có chủ thể hóa và đối tượng được hóa.

Nay giải thích đoạn văn này, có ba nghĩa: 1. Phiền não và quả, thể thuộc ba cõi, ở tại tam giới xứ, nên bảo là không xuất; 2. Biện minh hai mươi hai căn là ba căn vô lậu ở tam giới, năm căn như nhãn v.v… và năm thọ căn, nam, nữ, ý, mệnh. Thể thuộc tam giới. Còn năm căn như tín… có thuộc, hữu lậu; 3. Ba thân của Phật, tuy chẳng thuộc ba cõi, nhưng cũng ở ba cõi, nên bảo là "bất xuất". Hoặc có thể ba căn vô lậu cũng từ trong chín căn của tam giới mà khởi, nên thuyết là "tại giới".

Kinh: Ngoài tam giới… chẳng phải là bảy Phật thuyết.

Giải thích: Phần hai-Phá các thuyết của dị sư. Văn có hai tiết: 1.

Nhắc lại các kế chấp của ngoại đạo; 2. Chỉ ra giống với ngoại đạo.

Nghĩa là: Ngoại đạo nghi há chẳng phải bậc Thánh nhị thừa xuất ra ngoài tam giới? Nếu nói ngoài tam giới không có chúng sanh thì của nhị thừa của Phật, Quốc độ gì? Do vậy mà cho, có chúng sanh ngoài tam giới để hóa. Vì thế đức Thế Tôn phá trừ: Ngoài tam giới có một giới chúng sanh, đó là điều được nói trong kinh Đại Hữu của ngoại đạo Phệ thế sử ca, chẳng phải là lời nói của bảy Phật.

Nói: "Đại Hữu" là: Kinh kia thuyết sáu câu nghĩa: 1. Thật; 2. Đức;

3. Nghiệp; 4. Đại hữu; 5. Đồng dị; 6. Hòa hợp cú nghĩa. Nói "Đại hữu" là kinh Đại Hữu.

Hỏi: Há chẳng phải ngoài tam giới có sinh tử biến dị hay sao? Sao kinh này lại nói ngoài tam giới không có chúng sanh?

Đáp: Ngài Tam tạng Chơn Đế tự có hai giải thích:

1. Thường hiển là: Theo thật thì ngoài giới có biến dị sinh. Nhưng trong kinh này chưa nêu rõ về nghĩa đó, cũng không có sai lầm. Theo trong Phật giáo, như bốn A-cấp-ma trong Thanh văn tạng. Chỉ nói Phật thân là pháp vô thường, chưa nói về nghĩa thân thường trụ của Phật tính. Nói Phật là vô thường, cũng không sai lầm.

Đây cũng như vậy, vì cũng theo Phật dạy.

2. Theo lý giải thích: Tùy tâm phân biệt, cho là có ba cõi và ngoài ba cõi có chúng sanh biến dịch. Đều không đúng với lý. Do để đoạn dứt vọng chấp đó, sinh tử ở ngoài cõi, căn cứ thật thì vẫn là không xuất ra tam giới. Cho nên kinh Đại Phẩm nói: Xuất từ trong ba cõi, đến Nhất-thiết-trí, do bất động. Theo các kinh ấy, ngoài tam giới không có riêng một hữu tình nào khác. Giải thích đoạn văn kinh này cũng theo ý đó. Ngài Tam tạng Từ Ân giải thích như thế này: Sinh tử biến dị, không có nghiệp quả nào riêng khác, tức là dựa theo toàn bộ nghiệp quả trong ba cõi, do biên tế quyết định chuyển thành thắng, chuyển thành diệu, nên gọi là biến dị. Trong môn tam giới, theo quả của bổn nghiệp, tức là bao gồm trong cõi kia, cho nên kinh này nói: Ngoài tam giới, không có hữu tình nào khác, mà các Thánh giáo, không trái nhau.

Kinh: Đại vương! Ta thường nói… giác tính Nhấtthiết-trí. Giải thích: Phần ba-Dẫn chuyện xưa để làm chứng cho nay.

Nếu theo Bổn ký: "Đoạn tam giới, là trừ thức thứ sáu, gọi là nghiệp tịnh. "Đoạn phiền não" là A-đà-na, tức thức thứ bảy, gọi là phiền não tịnh. "Quả báo tận": Là Trừ A-lại-da, gọi là quả tịnh. Ba tịnh như vậy, gọi đó là Phật. Tự tính thanh tịnh, gọi là tính Nhất-thiết-trí.

Ý đó là: Tất cả chúng sanh, người có ba loại tịnh, tức gọi là Phật.

Do vậy mà biết, dù đắc Phật quả, cũng không ra ngoài tam giới.

Kinh: Bổn nghiệp của chúng sanh là chỗ gốc tu hành của chư Phật Bồ-tát.

Giải thích: Phần ba-Giải thích xong, tổng kết. Văn có hai phần:

1. Tổng kết năm nhẫn; 2. Biện minh ngôi vị dài ngắn. Đây là phần tổng kết, như kinh đã rõ.

Kinh: Trong năm nhẫn, mười bốn nhẫn đầy đủ.

Giải thích: Phần hai-Đối mười bốn nhẫn, biện minh ngôi vị dài ngắn. Nghĩa là; năm nhẫn đối với mười bốn nhẫn, lần lượt gồm thâu nhau, suy xét thì sẽ rõ.

Kinh: Bạch Phật… Hóa chúng sinh.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Chánh đáp về lợi tha. Kiêm giải thích tự lợi. Trong đó có hai phần: Trước hỏi sau đáp. Đây tức là phần hỏi.

Kinh: Phật nói: "Từ một địa… Tất cả tri kiến".

Giải thích: Đây là phần hai-Như Lai chánh thức đáp lại. Có hai phần: Trước lược, sau rộng. Đây tức là phần đáp lược. Văn có ba tiết:

1. Địa mà nghiệp nương vào. Nghĩa là từ địa Cực-hỷ cho đến địa Pháp vân.

Hỏi: Văn này vì sao chỉ nói mười địa?

Đáp: Ba Hiền ở địa tiền, hiền nhưng chẳng phải Thánh. Một địa Diệu giác, đã siêu vượt Bồ-tát, cho nên trong vị nhân tùy, theo chỗ hơn mà đáp.

2. Giản biệt hai hạnh: 1. Tự sở hành xứ; nghĩa là cảnh hành của chính mười địa; 2. Phật sở hành cảnh xứ: Nghĩa là: cảnh giới hành của địa Diệu giác. Mười địa trước, chỉ hành tự sở hành xứ. Một niệm Kim cang sau cùng, hành thông cả hai xứ. Cho nên phần sau kinh nói: "Đắc Tam muội lý tận, đồng Phật hành xứ, như cảnh giới của Phật." Nói rộng chi tiết thì như kinh Anh Lạc nói: "Phật tử, Bồ-tát bấy giờ, trụ môn đại tịch. Cho đến vượt quá chỗ hiểu của mười địa, cùng ngồi với Phật." Sau đó, kinh nói là: "Do tất cả tri kiến" giải thích kết thành nghĩa thanh tịnh. Nghĩa là: hạnh của mười địa, bổn nghiệp thanh tịnh, đều do lực tri kiến sinh ra.

Kinh: Bổn nghiệp.

Giải thích: Phần hai-Rộng đáp về bổn nghiệp.

Văn có ba phần: 1. Nhắc lại; 2. Giải Thích; 3. Từ "do đó…": Kết. Đây là phần một.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Rộng giải thích về mười địa. Tức chia làm mười phần. Đây là phần một-Giải thích địa thiện giác. Văn chia làm năm phần: 1. Nêu quốc độ rộng hẹp; 2. Phối hợp thuộc vương vị.; 3. Hiển bày pháp môn tu tập; 4. Thích hành riêng của địa; 5. Biện minh nghiệp chung của địa.

"Trú trăm Phật quốc": là nêu quốc độ rộng hẹp. Bổn ký nói: Quốc độ có ba: 1. Thuyết pháp độ: Trăm ức nhật nguyệt, Quốc độ tiểu thừa; 2. Thần thông độ: Ức ức nhật nguyệt, Quốc độ trung thừa; 3. Trí tuệ độ: Vô lượng thế giới, Quốc độ Bồ-tát.

Nay nói "trăm Phật quốc độ": là thuyết pháp độ.

Nói "làm bốn Thiên vương Diêm phù đề": là phối hợp thuộc vương vị.

Hỏi: Ý của kinh này, chỉ lấy Thiên vương, chẳng phải là Diêm phù đề. Sao đây lại nói là làm bốn thiên vương-Diêm phù đề?

Đáp: Có hai giải thích: Một thuyết nói: trong bốn Thiên vương, chỉ làm Tăng Trưởng thiên vương thống lãnh Diêm phù đề. Do cõi Nam thù thắng, không làm các vương khác. Một thuyết nói: Làm cả bốn loại thiên vương, do phương tiện thù thắng, nên chỉ nói là Diêm phù đề vương. Nhưng về mười vương này các giáo bất đồng. Theo kinh Thập Địa Bồ-tát sơ địa làm Diêm phù đề vương. Bồ-tát nhị địa, làm Chuyển luân Thánh vương. Trong lục dục thiên, trừ Tứ thiên vương. Trong bốn tĩnh lự, trừ đệ tam thiền. Tám xứ còn lại, như thứ tự của chúng, làm tám ngôi vương. Nay theo kinh này, trong sáu cõi trời thuộc Dục giới và bốn tĩnh lự, theo thứ tự thọ nhận mười ngôi vua. Trừ Diêm phù vương và Chuyển luân vương.

Nói "trăm pháp môn": là phần ba-Hiển bày pháp môn tu tập. Tức hành tự lợi, như đã nói trên. Ở trong mười tín, mỗi một tín hành đủ cả mười tín, nên nói là "trăm pháp môn".

Nói "nhị đế tâm bình đẳng": là phần bốn-Giải thích hành riêng của địa. Nghĩa là ở sơ địa, mới chứng chân như, như thật biết rõ chân và tục một vị. Phi tức, phi ly. Phi tức thì nghĩa giáo hóa được thành. Phi ly, nên chứng pháp đều "không".

Nói "Quốc độ tất cả chúng sanh": là phần năm-Hiển bày hành chung của địa. Mỗi một địa đều dùng Quốc độ chúng sinh làm nghiệp. Chín địa sau, đa phần chia làm năm đoạn như vậy, cứ theo đấy mà giải thích.

Kinh: Nếu Bồ-tát… giáo hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Phần giải thích địa Ly đạt. Văn lại có năm: 1. "Trong ngàn quốc độ Phật" là nơi trụ rộng hẹp; 2. "Làm Đao-lợi Thiên vương" phối thuộc vương vị. Đao-lợi thiên là tiếng Phạm, tiếng Hoa là Tam thập tam thiên; 3. "Tu ngàn pháp môn": hiển bày pháp môn tu tập. Nghĩa là mười tín tâm, mỗi một tâm tăng tu một trăm tâm, nên gọi là ngàn pháp môn. Sau cứ lần lần tăng tu, theo đấy thì biết; 4. "Thập thiện đạo"; là giải thích hành riêng của địa. Tu mười nghiệp thiện, hành giới địa; 5. Quốc độ tất cả chúng sanh": hiển địa thông hành.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Quốc độ tất cả chúng sanh.

Giải thích: địa Phát Quang. Văn lại có năm: Nói "Diệm thiên"; tiếng Hoa gọi là thời phân. Những câu văn khác như trên.

Kinh: Nếu Bồ-tát… tất cả chúng sanh.

Giải thích: Diệm tuệ địa. Văn lại có năm phần.

"Đâu suất thiên": tiếng Hoa gọi là Hỷ Túc. "Đạo phẩm": tức là ba mươi bảy đạo phẩm.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Hóa tất cả chúng sanh. Giải thích: Nan thắng địa. Văn có năm câu:

Nói: "Nhị đế: tức là Thế tục đế và Đệ-nhất-nghĩa-đế. Nói: "Tứ đế": tức là khổ, tập, diệt, đạo đế.

Nói: "Bát đế": các thuyết bất đồng: Có thuyết nói hai loại tứ đế hữu tác và vô tác, hợp lại là tám đế. Nếu theo Bổn ký thì khổ, khổ, hoại khổ, hành khổ, phân đoạn, biến dị, thiện, bất thiện, chánh hạnh gọi là bát đế. Luận Hiển Dương quyển tám nói hành khổ đế, hoại khổ, khổ khổ, lưu chuyển, lưu tức, (luận Du già gọi là hoàn diệt), tạp nhiễm, thanh tịnh, chánh phương tiện đế (luận Du già gọi là gia hạnh). Gọi là bát đế.

Giải thích: Như ba khổ tiếp theo lưu chuyển sinh tử, lưu dứt, Niết-bàn, ba loại tạp nhiễm, đoạn sở đắc, thanh tịnh vô vi, tức chủ thể đoạn, phương tiện Thánh đạo, gọi là bát đế. Nếu theo luận Du già quyển 46 thì cũng giống với luận Hiển Dương. Nhưng hai luận kia, là môn tăng số, tăng một đến mười. Nay theo kinh Thập Địa, trong phần mười bốn đế, lấy tám đế sau để chú thích đoạn văn ấy. Sáu đế trước là nhị đế, tứ đế trong kinh này. Nói "bát đế": theo kinh Thập Địa nêu: Biết rõ tự tướng pháp đồng tướng, là khéo biết tướng đế. Biết pháp sai biệt, là khéo biết đế sai biệt. Biết phân biệt ấm giới nhập, là khéo biết thuyết thành đế. Biết rõ thân tâm khổ não, là khéo biết sự đế. Biết các đạo sinh tương tục, là khéo biết sinh đế. Rốt ráo diệt tất cả phiền não, là khéo biết tận vô sinh trí đế. Khởi hành bất nhị, là khéo biết khiến nhập đạo trí đế. Chánh giác tất cả pháp tướng, là khéo biết tất cả Bồ-tát thứ đệ thành tựu đế, và khéo biết tập Như Lai trí đế. Nhờ lực tín giải mà biết, chẳng phải là đắc tất cả trí cứu cánh.

Hỏi: Kinh nói chín đế, sao lại nói là tám?

Đáp: Ý kinh muốn hiển bày Diệu giác là thù thắng, nên khai thành hai đế. Còn ý của luận thì muốn nói đồng chung là đại thừa, nên hợp thành một số. Bảy đế trước là thông cả đại, tiểu thừa, cho nên kinh này theo bát đế mà nói.

Kinh: Nếu Bồ-tát… hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Hiện tiền địa cũng có năm câu theo như trên.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Viễn hành địa, cũng có năm câu.

Nói: "Phương tiện trí, nguyện trí": không xả bỏ chúng sanh, khởi pháp vô ngã, gọi là phương tiện trí. Do lực phương tiện, tạo bảy môn gồm thâu chúng sanh sự, nguyện lực giữ lấy chúng sinh, thường làm đứng đầu trong các nguyện, gọi là nguyện trí. Tức nguyện trí này, gồm thâu trong môn thứ nhất của phương tiện trí, chẳng phải là phương tiện và nguyện trong mười độ.

Nói: "Bảy môn": là 1. Nguyện lực giữ lấy chúng sinh: Để giáo hóa các chúng sinh còn lại; 2. Thuyết đối trị: Vì để diệt phiền não nhiễm và tùy phiền não, khiến cho tịch diệt; 3. Vì để diệt các chướng; 4. Hội tập ở chúng đại pháp; 5. Thấy nghe thân cận, cúng dường tu hành, sinh phước đức; 6. Vì chuyển pháp luân; 7. Khéo giải thích những điều được hỏi. Đầy đủ chi tiết như trong luận Thập Địa quyển chín đã nói.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Đẳng quán địa. Cũng có năm câu.

Nói: "Song chiếu trí phương tiện, thần thông": Là song chiếu cả chân và tục không trái ngược với nhau. Vì phương tiện: ở trong nhập quán, có thể phát khởi thần thông, nên gọi là thần thông trí.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích Thiện tuệ. Cũng có năm câu, như văn đã rõ.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Như cảnh giới Phật.

Giải thích: Pháp vân địa. Cũng có năm câu.

Vô minh là nguồn gốc của tam giới, địa này có thể dứt tận hết vô minh gọi là dứt nguồn. Nếu theo Bổn ký thì thức A-lại-da là bổn nguyên (nguồn gốc).

Kinh: Do đó… Hạnh tịnh.

Giải thích: Phần ba tổng kết. Văn có hai phần: 1. Tổng kết nghiệp của Bồ-tát; 2. Tổng kết nghiệp của Như Lai. Đây là phần một.

Kinh: Nếu mười phương… vô lượng chúng sanh.

Giải thích: Phần hai kết về hành nghiệp của Như Lai.

Kinh: Bấy giờ… Ba-la-mật.

Giải thích: Đây là phần hai-Nguyệt Quang dùng kệ tán thán. Trong đó có ba phần: 1. Đại chúng cúng dường; 2. Nguyệt Quang chánh tán thán; 3. Từ "thời, chư…" biện minh chúng được lợi ích. Đây tức phần

1. Văn có hai tiết: 1. Hương hoa cúng dường; 2. Chắp tay lắng nghe.

Theo luận Thập Địa: Cúng dường có ba loại: 1. Lợi dưỡng cúng dường: Là áo quần, đồ nằm… 2. Cung kính cúng dường: Là hương hoa phướn lọng… 3. Hành cúng dường: Là tu hành tín, giới, hạnh… Đây là cung kính cúng dường.

Kinh: Nay ở trước Phật, dùng kệ tán thán:

Giải thích: Nguyệt Quang chánh thức tán thán. Có hai phần: 1.

Phát khởi tụng văn; 2. Dùng kệ chánh tán. Đây là phần một.

Được gọi là kệ, tự có hai thuyết: Một thuyết nói kệ là kiệt, gồm hết tận nghĩa, gọi là kệ. Một thuyết nói theo chánh âm Phạm, gọi là Già tha; tiếng Hoa gọi là tụng, mà nói là kệ thì hơi sai. Còn nói kệ thì phải có đủ bốn câu âm Phạm là Bát đà: tiếng Hoa dịch là Tích. Thí như bốn chân voi thành thân, kệ cũng như vậy.

Kinh: Thế Tôn! Đạo sư thể Kim cang. Tâm hành tịch diệt, chuyển pháp luân.

Giải thích: Từ đây là phần dùng kệ chánh thức tán thán. Trong đó gồm có hai mươi chín kệ rưỡi. Chia làm ba phần chính: 1. Một kệ rưỡi: Lược tán thán Phật đức; 2. Từ "năm nhẫn…" hai mươi lăm kệ. Rộng tán thán đức của năm nhẫn; 3. Từ "Như Lai…" có ba kệ, tán thán nghiệp Quốc độ của Phật. Ở phần tán thán Phật đức. Văn có ba phần: 1. Nữa kệ tán: Thán tự thể Phật, tức tán thán Phật bảo; 2. Có nữa kệ: Thán Phật thuyết pháp, tức là tán thán pháp bảo. 3. Có nữa kệ: Thán Phật gồm thâu chúng, tức là tán thán tăng bảo. Đây là phần một. Nhưng tụng văn này, các thuyết bất đồng;

Nếu theo Bổn ký, hai câu đầu của tụng là nói về ba nghiệp của Phật: 1. "Thế Tôn": là oai đức; 2. "Đạo sư": Là trí tuệ đầy đủ; 3. "Thể Kim cang": là pháp thân đầy đủ; 4. "Tâm hành tịch diệt": là giải thoát đầy đủ; 5. "Chuyển pháp luân": là hóa tha đầy đủ.

Giải thích: Trong năm câu, thể Kim cang là tán thán đức của pháp thân, ba câu còn lại, là tán thán thân thọ dụng. "Chuyển pháp luân": là tán thán hóa thân. Tướng riêng về ba thân, nêu đầy đủ ở chương khác.

Một thuyết nói: Hai câu đầu là tán thán ba mật của Phật. Câu đầu là tán thán thân mật của Phật, đủ tất cả đức, chúng đều tôn trọng, gọi là Thế Tôn. Tướng tốt viên mãn, dẫn dắt chúng sinh, gọi là đạo sư. Thân ấy không hoại, giống như Kim cang, nên gọi là thể Kim cang. Ở trong câu sau, tán thán hai loại mật, bốn chữ đầu, tán thán ý mật. Nội chứng chân như, lìa tướng chủ thể, đối tượng gọi là tâm hành tịch diệt. Ba chữ sau, tán thán ngữ mật xa gần cùng nghe, không bị ngăn bít, gọi là chuyển pháp luân. Nếu phận biệt rõ ràng, như kinh Tam Mật.

Kinh: Bát biện hồng âm vì chúng thuyết.

Thời chúng đắc đạo trăm vạn ức.

Giải thích: Tán thán Phật thuyết pháp. Văn có hai tiết:

1. Tán diệu biện.

2. Tán thán được ích.

Ngôn từ xảo diệu là biện. Xa gần đều biết khắp là hồng.

Nói "bát âm": như kinh Phạm ma dụ nói: Âm thanh Phật thuyết có tám loại: 1. Tiếng rất hay; 2. Tiếng dễ hiểu; 3. Thanh dịu dàng mềm mại; 4. Thanh điều hòa; 5. Thanh tuệ; 6. Thanh không dối; 7. Thanh thâm diệu; 8. Không phải âm thanh nữ. Lại nữa: Kinh Anh Lạc nói nội, ngoại, nhân, quả và bốn thanh vô ngại, là tám. Lại nữa, kinh Hiền Ngu, kinh Thập Trụ Đoạn Kiết… cũng thuyết tám loại, khác với trên, e nhiều không kể ra đây.

Nói "thời chúng đắc đạo trăm vạn ức": là phần hai tán thán chúng được lợi ích, như kinh đã rõ.

Kinh: Lúc ấy, Lục Thiên, nhân đều nhập đạo xuất gia đạo, thành chúng Tỳ-khưu hành Bồ-tát.

Giải thích: Phần ba-Tán thán Phật thâu giữ chúng. Nghĩa là: khi thuyết pháp, chư Thiên lục dục và chúng dân, thành đạo xuất gia và hạnh Bồ-tát.

Hỏi: Sao Lục thiên lại có chúng xuất gia?

Đáp: Theo Bổn ký có hai loại chúng xuất gia: 1. Tâm xuất gia; 2. Hình xuất gia. Nay chư Thiên Lục dục, nương ở pháp Phật đều xuất sinh tử gia, nên không trái nhau.

Kinh: Công đức của năm nhẫn… có thể tận nguồn.

Thích: Phần lược tán thán Phật đức ở trên đã xong. Từ đây là hai mươi lăm kệ. Rộng tán thán về năm nhẫn. Trong đó có hai: 1. Có một tán tán thán chung về năm nhẫn; 2. Từ "Phật chúng…": Hai mươi bốn kệ, tán thán riêng về năm nhẫn. Đây là phần một. Văn có ba tiết: Một câu đầu là tán thán pháp đã hiểu rõ tiếp đến một câu là nói về người hiểu rõ. Hai câu sau là hiển bày sự hơn kém. Đây là nói về: Ngoài Phật ra, vì chướng chưa trừ nên không thể cùng tận, vì thế không gọi là trí, chỉ là nhẫn. Chỉ một mình Phật, tận nguồn nhẫn, vì chướng đã hết.

Kinh: Phật chúng pháp hải Tam bảo tạng.

Vô lượng công đức thâu ở trong.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Có hai mươi bốn kệ, tán thán riêng về năm nhẫn. Văn có bốn phần: 1. Có năm kệ. Tán thán phục nhẫn; 2. Năm kệ từ "thiện giác…" tán thán tín nhẫn; 3. Từ "Diệm Tuệ…" có bốn kệ tán thán về thuận nhẫn; 4. Từ "Viễn đạt…" có mười kệ. Hợp giải thích hai vô sinh nhẫn và tịch diệt.

Trong phần phục nhẫn. Văn có ba phần: 1. Có một kệ rưỡi, tụng về phương tiện; 2. Có một kệ, hiển bày chánh vị; 3. Hai kệ rưỡi, hiển bày uy lực.

Trong phần một lại có ba: Hai câu đầu. Cảnh của tán nương vào. Tiếp theo hai là phát tín tâm. Hai câu sau là phối thuộc vương vị. Đây tức là phần một.

Kinh: Bồ-tát mười thiện… Biển khổ luân.

Giải thích: Phần hai: Nói về phát tâm. Theo Bổn ký Bồ-tát mười tín, do phát đại tâm, cầu xuất tam giới, tuy chưa liền được vĩnh vĩnh ra khỏi tam giới, nhưng có thể nhờ đó xa lìa khổ của ba đường ác vì vậy nói chung là "trường biệt tam giới".

Kinh: Trung hạ phẩm… Thiết Luân vương"

Giải thích: Phần phối thuộc vương vị nói người trung hạ phẩm hành mười nghiệp đạo thiện đắc vương vị Túc tán vương. Người thượng phẩm đắc thiết luân luân vương, các vua nhỏ rất nhiều cũng như Túc Tán. Từ dụ lập hiệu gọi là Túc Tán. Dựa theo kinh Bổn Nghiệp, thì Thập thiện có ba loại Thượng phẩm là Thiết Luân, trung phẩm là Túc Tán và Hạ phẩm là Nhân vương.

Kinh: Tập chủng… Hạ phẩm nhân vương

Giải thích: Phần hai: Một kệ tụng về chánh vị. Nghĩa là, Bồ-tát thập trụ tập chủng tính, làm Đồng Luân vương, vua hai thiên hạ. Bồ-tát thập hạnh Tính chủng tính, làm Ngân Luân vương, vua ba thiên hạ. Bồ-tát thập hồi hướng, Đạo chủng tính, làm Kim Luân vương, vua bốn thiên hạ.

Nói "thất bảo": là luân bảo, chủ binh thần bảo, chủ tạng thần bảo, tượng bảo, mã bảo, nữ bảo, như ý châu bảo.

Hỏi: Bảy báu như vậy, bốn loại Luân vương đều có đủ cả hay không?

Đáp: Đều có đủ cả, nhưng hơn kém khác nhau. Vì theo luận đại Bà-sa quyển ba mươi nói: Các Chuyển Luân vương, lực cũng bất định, vua bốn châu là có lực Na-la-diên (Na-la-diên, tiếng Hoa gọi là loài người, giống người. Người và thiên nữ hòa hợp sinh ra, căn bản là loài người, nên gọi là nhân chủng.) vua ba châu là có lực Đại căn già. Vua hai châu là có lực Bát la tắc kiện đề (là đại lực. Quỷ thần là thuộc về quỉ thú.) vua một châu là có lực Ma ha lộ kiện na, (tiếng Hoa gọi là lộ hình, là thần trong người). Bốn luân bảo đó cũng có sai biệt, vua bốn châu thì có kim luân Bảo, lượng của nó ngang bằng bốn câu lô xá. Vua ba châu thì có Ngân Luân Bảo, lượng của nó ngang bằng với ba câu lô xá. Vua hai châu thì có Đồng Luân Bảo, lượng của nó ngang bằng với hai câu lô xá. Vua một châu thì có Thiết Luân Bảo, lượng của nó ngang bằng với một câu lô xá. Như bốn Luân Bảo có sai biệt như vậy, tức biết các bảo khác cũng có sự hơn kém. Nghĩa là vua bốn châu thì các báu khác tối thắng, còn một châu thì các báu khác kém nhất.

Kinh: Phục nhẫn Thánh thai… Tâm thập hiền.

Giải thích: Phần ba: Hiển bày uy lực. Văn có hai phần: Một kệ đầu là đối Phật biện minh lực. Một kệ rưỡi sau là theo Bồ-tát mà biện minh lực. Phần trước có hai phần: Hai câu đầu nêu ba phục nhẫn, hai câu sau là chánh tán thán uy lực. Đây là hai câu đầu.

Nếu theo Bổn ký thì đầu tổng nêu về ba mươi nhẫn. Câu sau là phối hợp riêng ba vị.

Nói "mười tín là": tức vị mười hạnh. Mười chỉ; tức là vị mười giải.

Tâm mười kiên: tức là vị mười hạnh.

Nay giải thích không vậy: Mười tín là mười giải cũng gọi là mười trụ. Mười hạnh gọi là mười chỉ. Mười hồi hướng gọi là mười tâm kiên như đã nói.

Kinh: Ba đời chư Phật… phục nhẫn sinh.

Giải thích: Chánh tán thán về uy lực, như văn thể rõ.

Kinh: Tất cả Bồ-tát… Tín tâm khó.

Giải thích: Đối với chư Bồ-tát mà biện. Có hai phần: 1. Sơ Phát tâm; 2. Giải thích hai lợi. Đây là phần một.

Nói "phát tâm" theo luận Hiển Dương quyển hai: Có hai phát tâm: Một là thế tục phát tâm: Như có một người tùy thuận theo trí, trước đó cung kính mà trụ khởi ý tăng thuận phát thệ nguyện rằng: Trưởng lão nhớ nghĩ… Hoặc nói: Thánh giả nhớ nghĩ… Hoặc nói: Ô-ba-hoagia, tôi tên như thế… từ ngày nay bắt đầu phát tâm vô thượng Bồ-đề, vì muốn làm lợi ích hữu tình. Từ nay về sau phàm có sở tu gì về sáu Ba-la-mật. Nguyện đều vì chứng đắc quả vô thượng Bồ-đề. Cho nên nay cùng với các đại Bồ-tát hòa hợp xuất gia, nguyện tôn giả chứng trí cho Tôi là Bồ-tát. Nói như vậy, lần hai, lần ba cũng vậy. Hai là chứng pháp tánh phát tâm như có người đã trải qua A-tăng-kỳ-kiếp thứ nhất, đã chứng địa Cực hỷ đầu tiên của Bồ-tát, đã vào vị quyết định vô sanh của Bồtát, đã biết như thật phương tiện vô thượng Bồ-đề, đã ngộ tự thân ở gần hoặc xa quả vị vô thượng Bồ-đề, hiểu rõ tự tha bình đẳng, đắc ý Đại thừa đã đạt bà-la-môn Bồtát đạo, tịch diệt không trụ lưu chuyển. Do đạt được ý rộng lớn như thế nên nguyện đại Bồ-đề không thoái chuyển, đó gọi là chứng phát tâm.

Luận trang nghiêm quyển bảy: Phát tâm có bốn loại: Tín hành phát tâm là tín địa. Tịnh y phát tâm là bảy địa trước. Bái đắc phát tâm là ba địa sau. Vô chướng phát tâm là Như lai địa. Nếu dựa theo Du già quyển bảy mươi hai nói mười loại phát tâm, e nhiều nên không thuận nữa. Nay kinh văn này tức tương đương thế tục phát tâm trong hai loại và tín hành phát tâm trong bốn loại. Nếu y theo Bổn nguyện thì ở vị mười tín gọi là Thập tín tâm. Tín tâm có mười, tu trăm pháp môn nên nói hành bổn. Hoặc trong mười trụ là sơ phát tâm trụ.

Giải thích: Phần hai: Giải thích hạnh tự lợi. Văn có ba phần: 1. Hai câu đầu: Nói về hạnh tự lợi; 2. Có một câu. Hiển bày hạnh lợi tha; 3. Một câu sau kết cả hai lợi. Đây là phần một.

Nói "tín tâm" Theo luận Trang Nghiêm, đây đúng là thượng phẩm. Cho nên quyển bảy của luận ấy nói: Hành hết A-tăng-kỳ, tín lớn khiến tăng trưởng. Chúng thiện theo tín tập, cũng đủ đầy như biển. Giải thích: Nếu chư Bồ-tát hành hạnh, hết một A-tăng-kỳ kiếp. Bấy giờ trưởng dưỡng ở tín, mới đến thượng phẩm. Nếu đúng theo văn kia thì phải là mười hồi hướng. Nay văn kinh này, nêu rõ lại trụ thứ bảy là trụ bất thối trong mười trụ.

Hỏi: Bồ-tát chủng tính ấy như theo kinh này, ắt bất thối chăng? Hoặc có thối chăng? Nếu nói là thối thì những điều kinh này nói làm sao giải thích? Nếu nói bất thối thì các kinh như bổn nghiệp nói làm sao giải thích?

Đáp: Nghĩa này có hai giải thích khác nhau:

1. Tông của Bồ-tát Long Mãnh, chủng tính Bồ-tát, quyết định là bất thối. Cho nên trong luận Kim Cương Tiên quyển một, nói như sau: người tập chủng tính ấy cũng có hai loại: 1. Tính quyết định; 2. Tính bất định. Bất định là chưa thể quyết định nhập ở tính địa, cho đến sơ địa, vẫn có tiến thối. Nên nói là bất định. Nếu gặp thiện tri thức thì bất thối. Nếu không gặp thì bị thối rơi vài ngoại đạo, phàm phu, và địa nhị thừa. Hoặc tính chủng tính, còn bị thối đọa nơi địa ngục. Luận Khởi Tín của Bồ-tát Mã Minh, cũng nói như vậy. Lại nữa, kinh lạc Trang Nghiêm nói: Bồ-tát tính địa, quyết định bất thối. Vì vậy trong luận Bảo Nang có người hỏi Bồ-tát Long Thọ: Nơi kinh Địa Trì, Bồ-tát đạo tính địa bị thối đọa địa ngục A-tỳ. Nghĩa đó là sao? Bồ-tát Long Thọ đáp: Nơi kinh Địa Trì, tuy nói Bồ-tát tính địa đọa vào địa ngục, nhưng ta không dám nói như vậy. Vì sao? Như trong kinh bất tăng bất giảm, nói về Bồ-tát tính địa, rốt ráo không bị đọa nơi địa ngục. Lại nữa, như nơi kinh Trang Nghiêm nói: Bồ-tát tính địa, nếu một thời giết chúng sinh cõi Diêm phù đề, tuy có tội đó, nhưng không bị đọa địa ngục. Nếu giết bốn thiên hạ, cho đến nơi chúng sanh đại thiên thế giới, cũng không bị đọa địa ngục. Vì sao? Người đó nhiều kiếp tu hành, cúng dường nhiều chư Phật, công đức trí tuệ, thiện căn thuần thục, tuy tạo tội nặng, nhưng nhờ diệu lực của phước đức, tội liền tiêu diệt, không bị đọa địa ngục. Như sắt nóng đỏ, lấy một giọt nước nhỏ ở trên sắt, liền tư tiêu diệt. Do đó nghiệm biết, Bồ-tát tính địa, không bị đọa địa ngục.

Hỏi: Nếu vậy thì hai kinh trái nhau, làm sao hiểu thông?

Giải: Trong kinh Địa Trì nói nhập là để dọa hàng địa tiền khiến cho sinh sợ, mau chóng chứng đắc sơ địa, chẳng phải nói thật nhập địa ngục A tỳ. Như bảy điều khuyên trong kinh Thập Địa, khuyên Bồ-tát tám địa, đừng vui trụ nơi tịch diệt, nhưng Bồ-tát tám địa đã ở ngôi vị thì tự xuất ra công dụng, vĩnh viễn dứt tuyệt các thức vụ, niệm niệm vô sinh, vận hành tự tiến, chẳng lẽ có vui trụ nơi tịch diệt nhờ khuyên mới tiến được sao? Muốn mau nhập vào chín địa, mười địa, cho đến Phật địa, do đó thêm lời khuyên, chẳng phải nói thật vui trụ nơi tịch diệt. Đây cũng như vậy. Không thật bị đọa địa ngục, nói đọa là muốn khiến mau chứng sơ địa, chẳng nghĩa là thật đọa. Cho nên biết, tính chủng trở lên, một mực là bất thối.

2. Tông của Bồ-tát Từ Thị: Bồ-tát chủng tính cũng có thối chuyển nhập cõi ác, đọa vào ngoại, phàm, như đã dẫn trên. Kinh bổn Nghiệp quyển một nói: Hành giả trong tâm tín, tưởng, là phần thiện căn. Này các thiện nam! Nếu một kiếp, hai kiếp, cho đến mười kiếp, tu hành mười tín, đắc nhập mười trụ, người ấy bấy giờ, từ sơ trụ cho đến trong sáu trụ, nếu tu Bát-nhã Ba-la-mật thứ sáu, thượng quán hiện tại tiền, sau này gặp chư Phật, Bồ-tát, tri thức hộ trì, nên xuất đến trụ thứ bảy, thường trụ bất thối, từ trụ thứ bảy trở về trước, gọi là thối phần Phật tử. Nếu người bất thối, nhập Bát-nhã độ, tu hành với không, vô ngã, là chính thì rốt ráo vô sinh, ắt nhập vị quyết định. Phật tử, nếu không gặp bậc thiện tri thức, hoặc một kiếp, hai kiếp cho đến mười kiếp, thối tâm Bồ-tát, như trong chúng hội đầu tiên của ta, có tám vạn người thối, như thiên tử Tịnh Mục, Pháp Tài vương, Xá-lợi-phất… Muốn nhập vào trụ thứ bảy, mà ở đó gặp nhân duyên xấu, thối nhập vào hàng phàm phu bất thiện, thì không còn gọi là người tập chủng tính, thối nhập ngoại đạo. Nếu một kiếp, nếu mười kiếp, cho đến ngàn kiếp, tạo đại tà kiến và ngũ nghịch, không có việc xấu nào không làm, đó là tướng thối chuyển. Theo những lời văn đó là cũng có thối chuyển mà kinh Lạc Trang Nghiêm v.v… thuyết là bất thối. Như kinh bổn nghiệp, nói tu độ thứ sáu (Bátnhã), gặp thiện tri thức v.v... cho nên biết Bồ-tát chủng tính, có thối và không thối,

Hỏi: Vị thập tín, có bất thối hay không?

Đáp: Có hai giải thích, một là: cũng có bất thối. Cho nên kinh bổn nghiệp quyển một nói: Tâm thứ sáu trong thập tín gọi là tâm bất thối. Nhưng với thập trụ thì có sai biệt là-Trụ thứ bảy của thập trụ là vị bất thối, còn tín thứ sáu của thập tín là tín bất thối. Một giải thích nói: Không có nghĩa bất thối. Do đó kinh này, thứ sáu gọi là thí. Kinh bổn nghiệp thì thứ hai gọi là giới tâm. Do vậy, trụ thứ sáu trở về trước trong thập trụ, một mực là thối, sau trụ thứ bảy mới gọi là bất thối, mà nói tín thứ sáu của thập tín là bất thối, đó là sai lầm của người dịch.

Kinh: Giáo hóa chúng sanh hành trong giác.

Giải thích: Phần hai: Hiển bày hạnh lợi tha. Như văn đã rõ.

Kinh: Đó gọi là Bồ-tát sơ phát tâm.

Giải thích: Phần ba: Tổng kết về hai lợi. Ở trên đã nói về tín bất thối là phục nhẫn vị. Lại giải: Một kệ rưởi từ câu tất cả Bồ-tát…" là nói về phương tiện của tín nhẫn. Luận Trang Nghiêm nói thượng phẩm tín cuối cùng của-tăng-kỳ kiếp thì không trái với lý.

Kinh: Bồ-tát thiện giác bốn thiên vương.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Có năm kệ, giải thích riêng tín nhẫn. Văn có bốn phần: 1. Có hai kệ, giải thích về địa Thiện Giác; 2. Có một kệ, nói về địa Ly đạt; 3. Có một kệ, nói về địa Minh Tuệ; 4. Có một kệ nêu đoạn chướng sai biệt. Đây là phần một. Văn có bảy tiết:

1. Nêu danh phối vị; 2. Hiển hành riêng của địa; 3. Quốc giáo Quốc độ rộng hẹp; 4. Biện đăng nhất thừa; 5. Giải thích tên khác của địa; 6. Hiển bày đức đầy đủ; 7. Nhập lý bất động. Đây là tiết một: Nêu danh phối vị.

Nghĩa là: Mới bắt đầu giác ngộ, biết sinh và pháp cả hai đầu không. Kiến đạo Vô tướng và ba tâm, nên gọi là thiện giác, phối vị như trên.

Kinh: Song chiếu hai đế đạo bình đẳng.

Giải thích: Phần hai: Hiển bày hành riêng của địa. Theo Ngài Chơn đế giải thích về song quán, có hai nghĩa: 1. Nhập quán kiến chơn;

2. Xuất quán kiến tục. Xuất và nhập hợp thuyết, nên gọi là song quán. Theo Ngài Tam Tạng Từ Ân thì một lúc gồm cả hai duyên, nên gọi là song quán. Lược có bốn loại: 1. Phương tiện song quán: Nghĩa là bốn vị thiện căn trong mười hồi hướng, với một Sát-na, duyên các danh, nghĩa…" giả có, thật không". Giả có là tục, thật không là chơn. Trong đó mới bắt đầu tập, thì có trước sau, nếu vị thuần thục, tức đắc song quán. 2. Chứng vị song quán: Tức như kinh này; 3. Công dụng song quán: Nghĩa là Nan Thắng; 4. Nhậm vận song quán: Là địa thứ tám trở lên, nay ở trong kinh này là chứng vị song quán.

Kinh: Quyền hóa chúng sanh đi đến trăm nước. Giải thích: Phần ba: Quốc độ rộng hẹp.

Kinh: Mới đăng nhất thừa đạo Vô tướng.

Giải thích: Phần bốn: Biện đăng nhất thừa. Nhưng giải thích về đoạn văn này, các thuyết bất đồng; một thuyết nói: theo lý mà thuyết là nhất thừa. Một thuyết nói: theo hành mà thuyết là nhất thừa. Sẽ nói đầy đủ ở chương khác.

Kinh: Nhập lý Bát-nhã gọi là trụ. Trụ sinh đức hạnh gọi là địa.

Giải thích: Phần năm: Thích địa biệt danh. Là địa cực hỷ, còn gọi là trụ, do trí trụ ở lý, tức Bát-nhã. Còn gọi là địa, do sinh các đức.

Kinh: Một tâm nơi sơ trụ đủ đức hạnh.

Giải thích: Phần sáu: Hiển đức đầy đủ. Nghĩa là: một niệm nơi sơ địa, đầy đủ tám vạn bốn ngàn Ba-lamật.

Kinh: Nơi đệ nhất nghĩa mà bất động.

Giải thích: Phần bảy: Nhập lý bất động. Nghĩa là: Lúc nhập lý chẳng bị động do phân biệt, gọi là bất động.

Hoặc vì bất thối, nên gọi là bất động.

Kinh: Khai sĩ Ly đạt Đao-lợi vương. (Đến).

… Vô vô vô sinh, vô nhị chiếu.

Giải thích: Phần hai: Tụng văn này, giải thích về địa Ly-đạt. Văn có ba tiết: 1. Nêu danh phối vị; 2. Quốc độ rộng hẹp: Như kinh đã rõ; 3. Hiển địa biệt hạnh.

Nói: "Khai sĩ Ly đạt Đao Lợi vương": là nêu danh phối vị. Ly phạm giới cấu uế, đạt chiếu nhất vị chơn như. Nên gọi là Ly đạt, tức làm thiên vương ba mươi ba trời.

Nói: "vô duyên…" là phần ba: Hiển độ biệt hành. Giải thích văn kinh này các thuyết bất đồng;

1. Bổn ký nói: Câu trên là nói về cảnh tịnh. Câu dưới là nói về trí tịnh. Nói "vô duyên" là nương vào giả duyên khác, rỗng lặng Vô tướng, phân biệt giả tướng không. "Đế thứ ba": là chơn thật tính không, giải nói; trừ bỏ ba tính, còn lại ba vô tính. Nói "vô vô": là tính không phân biệt, vì thể là vô, nói "vô sinh": là y tha tính không. Nói "vô nhị chiếu": là Viên thành thật tính không. Nhưng chiếu này thông cả hai điều trên.

2. Tam Tạng Từ Ân nói: Trên là cảnh tịnh, dưới là trí tịnh, như giải thích trên. Nói "vô duyên": Là sinh không có tự tính. Tính thể tức là y tha, do không có tự tại thiên v.v... làm duyên sinh. Nói "Vô tướng"; là tướng không có tự tính. Tính tức là tướng bị chấp. Vì không có tự thể làm tính của nó. Nói "đế thứ ba": là thắng nghĩa không có tính tự tính. Chơn như làm thể, nhưng không có chỗ chấp, vì tướng của chơn không, giải thích về trí năng tịnh, theo trên thì sẽ rõ.

Kinh: Minh tuệ "không" chiếu … Biến hóa sinh.

Giải thích: Phần ba: Có một kệ. Giải thích Minh tuệ địa. Văn có ba tiết: 1. Nêu danh hiển vị; 2. Quốc độ giáo hóa rộng hẹp. Như kinh đã rõ; 3. Hiển bày tên khác của địa.

Nói "tâm nhẫn": là trí của chủ thể quán. Nói "vô nhị": là lìa hai tướng hữu và vô. Tức dụng vô nhị, làm đế thứ ba. Nói "xuất nhị": là xuất hữu nơi tam giới. Nói: "Nhập vô": là ly hữu phân đoạn, nhập biến hóa sinh. "Biến hóa sinh": tức là sinh tử biến dịch. Làm sao biết được? Trong đệ tam địa, xuất hữu nhập vô. Biến hóa sinh tức là sinh tử biến dịch. Giải: Như luận Hiển Dương; sinh tử biến dịch còn gọi là biến hóa. Lại nữa, địa thứ ba tức là địa tu định trong tu thí, giới. Do lực của biên tế định, thọ biến dị sinh, nên biết địa thứ ba, thọ biến dị sinh.

Kinh: Thiện giác… không sót chiếu.

Giải thích: Phần bốn: Có một kệ. Nói về đoạn "hoặc" sai biệt. Nghĩa là: Bồ-tát nơi ba ngôi vị Thiện Giác, Ly Đạt, Minh Tuệ.

Có thể đoạn dứt sự trói buộc của phiền não sắc trong ba cõi. Nguyên do là sao? Vì chấp sắc nơi ba cõi là thật có. Sau đó có nữa kệ giải thích về nguyên do đoạn dứt; do nhờ Bồ-tát trở lại quán pháp tính trên thân, khẩu, sắc thuộc ba cõi, đệ nhất chơn như, không có chiếu sót, mới có thể đoạn dứt. (Hoặc có bản viết la: không có duy chiếu, là sai.)

Kinh: Diệm Tuệ Diệu Quang… liễu "không hữu".

Giải thích: Từ đây là phần hai: Có bốn kệ giải thích về thuận nhẫn. Trong đó có hai phần: 1. Có ba kệ, chánh nói hành vị; 2. Có một kệ. Nói về đoạn "hoặc" sai biệt. Trong phần một: Có ba phần: 1. Có một kệ, nói về địa Diệm Tuệ; 2. Có một kệ, nói về địa thắng tuệ; 3. Có một kệ, nói về địa Pháp Hiện. Đây là nói về địa Diệm Tuệ. Tức là địa thứ tư trong mười địa. Đây văn có ba chi tiết: 1. Nêu danh phối hợp vị; 2. Cõi Quốc độ rộng hẹp; 3. Hiển bày hành riêng của địa. Diêm tuệ. Diệu quang là chi tiết nêu danh. Đạo phẩm tuệ quang đoạn sở tri chướng như đốt cháy củi. Đây là pháp dụ cùng nêu gọi là Diệm tuệ Diệu quang. Hành tinh tiến độ gọi là đại tinh tiến; phối hợp với quốc độ của vua, như kịp có thể rõ. Nói về hành riêng tức thật trí duyên đạo phương tiện tịch tĩnh, tóm lược chia hai bi: 1. Thật căn bản trí chỉ duyên chân như tịch tĩnh; 2. Hậu sở đắc phương tiện trí, duyên chung chân, Tục. Nên ở đây chỉ nói về đạo phương tiện, không bàn về đối tượng duyên. Câu sau lập lại về hai trí. "Đạt vô sinh" là: giải thích thật trí trên. "Chiếu liễu không, hữu": là hậu đắc trí, chiếu chung cả chơn và tục. Kinh: Thắng tuệ… Nhập vô gián.

Giải thích: Phần hai: Một kệ, nói về địa Thắng Tuệ. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Quốc độ rộng hẹp; 3. Hiển bày hành riêng của địa. Nói "thắng tuệ"; tức Nan thắng địa. Hai trí chơn và tục, tuy khó hợp nhưng hợp lại được, nên danh là nan thắng. Nay ý của kinh này, biết rõ về chơn và tục, và đệ nhất nghĩa, vì có thể biết rõ được, gọi là thắng tuệ. Về phần phối vị sai biệt, như kinh đã biết.

Nói "không không đế quán… Nhập vô gián": là phần ba: Hiển bày hành riêng của địa. Bổn ký chú thích: Với môn Chơn đế, hai nghĩa không và hữu: 1. Nhân không; 2. Pháp không. Nên bảo là không không đế quán. Hoặc có thể là hữu và vô đều không, gọi là không không. Lìa tướng của hữu và vô, gọi là "không có hai tướng". Trong môn tục đế, biến hóa nơi sáu nẻo, không có phần vi tế nào mà không nhập được, nên bảo là "nhập vô gián".

Kinh: Khai sĩ pháp hiện tự tại vương.

Giải thích: Phần ba: Có một kệ, giải thích về địa thứ sáu, văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Hiển bày hành riêng của địa; 3. Quốc độ sai biệt.

Nói "pháp hiện": là địa thứ sáu. Do duyên quán sinh không, pháp hiện tại tiền, gọi là pháp hiện, tức trong sáu cõi trời dục thiên là vương của trời tha hóa tự tại.

Nói "vô nhị vô chiếu đại trí quang": là hiển hành riêng của địa chơn tức là tục, tục tức là chơn, nên bảo là vô nhị. Hoặc có thể là lìa tướng của hữu và vô, nên bảo là vô nhị. Không có chủ thể chứng và đối tượng được chứng, nên bảo là vô chiếu. Sinh và pháp cả hai đều không, nên bảo là đạt lý không. Chứng đủ cả hai đế tục và chơn, và đệ nhất nghĩa, nên bảo là "ba đế hiện tiền đại trí quang" về phần Quốc độ rộng hẹp, như văn đã rõ.

Kinh: Diệm thắng… tâm mê hoặc.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Có một kệ, nói về đoạn hoặc sai biệt. Văn có hai phần: 1. Nữa kệ trên, nói về đoạn hoặc; 2. Nữa kệ dưới, nguyên do đoạn hoặc. Đây là phần một.

Diệm; là diệm tuệ. Thắng; là thắng tuệ. Pháp hiện; tức là pháp hiện. Ba người như vậy, khởi định vô lậu, đều lìa hai tướng hữu, vô và không có tướng của chủ thể thủ và đối tượng được thủ. Gọi là định Vô tướng. Ba trí trên có thể tẩy rửa "hoặc" thô của mê nơi tam giới. Theo lý thì đoạn dứt cả hoặc của tâm mê sắc nơi tam giới. Vì muốn hiển bày sự hơn kém nên chỉ nói tâm mê.

Kinh: Định tuệ tịch nhiên … vô lượng báo.

Giải thích: Phần hai: Giải thích nguyên do.

Duyên "không" làm cảnh, nên bảo là "không tuệ". Hành tướng tịch tĩnh, không có tướng của chủ thể duyên và đối tượng duyên, nên gọi là "vô duyên quán". Trước nói về định Vô tướng là hiển bày định đối tượng nương tựa. Câu này tức nói về trí quán là chủ thể dựa. Hoặc tâm mê trên là duyên với tâm làm cảnh. Cho nên trí chủ thể quán, trở lại quán tâm không. "Vô lượng báo": là hiện cảnh đối tượng quán, vô lượng tâm báo nơi tam giới.

Kinh: Viễn đạt vô sinh sơ thiền vương.

Giải thích: Từ đây là phần bốn: Có mười kệ. Giải thích về hai nhẫn sau. Trong đó có ba phần: 1. Hai kệ rưỡi, giải thích riêng về vô sinh nhẫn hạ phẩm; 2. Năm kệ, từ "đẳng quán…" hợp giải thích hai nhẫn; 3. Hai kệ rưỡi từ "viện trí…" thích tịch diệt nhẫn thượng phẩm.

Trong phần một có hai phần: 1. Hành tướng; 2. Đoạn hoặc sai biệt.

Trong phần hành tướng. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Quốc độ rộng hẹp; 3. Hiển bày biệt tướng của địa. Đây là phần một.

Nói "viễn đạt vô sinh sơ thiền vương": là nêu danh phối vị. Địa thứ bảy này đến vị công dụng, là biên vực sau cùng, thuần là tác chơn như quán vô sinh. Nên bảo là địa viễn đạt. Như kinh Giải Thâm Mật nói, nghĩa là trong địa này, không khuyết, không gián, chứng nhập Vô tướng. Khác với địa thứ sáu, chỉ hiện tiền tạm thời. Lại còn cận kề với địa thanh tịnh thứ tám, có đủ hai nghĩa đó, gọi là địa viễn hành.

Kinh: thường vạn ức độ giáo hóa chúng sanh.

Giải thích: Phần hai: Quốc độ rộng hẹp. Theo như trên, nói trăm vạn ức là nêu số lớn, nên bảo là vạn ức.

Kinh: chưa độ báo thân… hạnh "không tịch".

Giải thích: Phần hai: Hiển bày biệt tướng của địa. Văn có năm tiết: 1. Thời gian trụ báo: Nghĩa là trong địa này, thọ phân đoạn sinh, duy chỉ tại một thân. Nên luận Trí Độ nói: Bồ-tát địa thứ bảy, chưa xả thân sâu bọ, thân xác thịt. Hoặc có thể trong hai mươi mốt sinh, là một sinh cuối cùng, nên bảo là nhất sinh; 2. Tiến nhập thắng vị: Nghĩa là nhập vào địa. Song quán cả hai đế, nên bảo là "đẳng quán". Thánh đạo hằng hành, nên bảo là "pháp lưu"; 3. Thủy nhập hành tướng: Đây có hai giải thích: Một giải thích là bắt đầu nhập địa thứ tám. Tùy ý mà khởi, cho nên nói là "vô duyên". Công dụng bất động, giống như Kim cang. Một giải thích là; địa thứ bảy, bắt đầu sơ chứng vô sinh. Lìa tướng phân biệt, gọi là "vô duyên". Trí của nó cứng bén, gọi là "Kim cang nhẫn";

4. Không thọ phân đoạn: Cũng có hai giải thích; một giải thích là: Tám địa trở lên, mãi mãi không thọ. Một giải thích là: Bảy địa thì đã mãi không thọ; 5. Theo cảnh biện quán: Câu đầu là quán chơn, câu sau là duyên tục. Cũng có hai giải thích: Một giải thích là; địa thứ tám quán đế thứ ba, lìa tướng hữu, vô. Gọi là vô nhị chiếu. Trí quán có hai mươi mốt sinh phân đoạn, tác hành "không tịch". Một giải thích là địa thứ bảy tác quán hai đế, tương tự như giải thích trên.

Kinh: Tam giới ái tập… chỉ một hiểu rõ.

Giải thích: Phần hai: Đoạn "hoặc" sai biệt. Nhưng giải thích đoạn văn này, các thuyết bất đồng:

1. Theo Bổn ký nói: Một câu "tam giới ái tập": nghĩa là tam giới ái đều thuận với như lý, không thấy riêng nữa, nên bảo là thuận đạo định. Một câu "viễn đạt…" khác trước chưa chứng thấy như như, nên bảo là "độc liễu" (hiểu riêng một mình). Chỉ một loại các sư dựa theo kinh Thập Địa, cùng giải thích là: hữu ái Phật tập, không trái với đạo định, nên gọi là thuận đạo định. Ái tập như vậy, chỉ một mình chánh sĩ viễn đạt mới có thể hiểu rõ. Nhưng đoạn văn này không nói về đoạn "hoặc".

Nay hiểu không như vậy. Đoạn văn này là nói về đoạn hoặc sai biệt. Nguyên do biết được là như trong các ngôi vị, lý đúng thì phải hợp thích cả đoạn hoặc sai biệt, cho nên biết đoạn văn này chánh nói về đoạn hoặc. Nay dựa theo hai kinh để giải thích ý của đoạn văn này:

1. Theo kinh Thập Địa nói: Địa Viễn hành này, không gọi là có phiền não, vì tất cả phiền não không hành. Tham cầu trí tuệ Như Lai chưa đầy đủ, nên không gọi là không phiền não. Kinh này cũng vậy. Ái Phật trí tuệ Phật, vì tập chưa đoạn. Nên thuận đạo định, chánh sĩ viễn đạt, một mình hiểu rõ đúng thật mà thôi. Đế: là đế thật, sáu địa trước, chỉ đoạn phiền não, chưa đoạn tập khí. Cho nên nay địa thứ bảy, gọi là độc đế liễu (riêng hiểu rõ đúng).

2. Theo kinh Giải Thâm Mật hơi khác với trên. Nghĩa là từ sơ địa cho đến thập địa, do ý lực cũ mà khởi phiền não, không có tướng nhiễm ô, vì không sinh khổ ở trong tự thân. Không có lỗi lầm, ở hữu tình giới, có thể đoạn dứt nhân của khổ, có vô lượng công đức, vì ba nghĩa đó, kinh này nói là định thuận đạo. Còn nói là "tam giới ái tập" là: Kinh kia thì gọi là thô nặng, đây thì gọi là ái tập. Nghĩa của nó là một.

Kinh: Đẳng quán Bồ-tát nhị thiền vương.

Giải thích: Phần hai: Năm kệ. Hợp thích hai nhẫn. Văn có hai phần: 1. Có bốn kệ. Giải thích riêng ba phẩm; 2. Có một kệ. Đoạn "hoặc" sai biệt. Trong phần một có ba phần:

1. Một kệ rưỡi. Giải Thích đẳng quán địa.

2. Một kệ giải thích địa tuệ quang.

3. Một kệ rưỡi giải thích vị Quán đảnh. Trong phần đẳng quán. Văn có bốn phần:

1. Nêu danh phối vị.

2. Hiển bày thắng dụng của nó.

3. Quốc độ rộng hẹp.

4. Hiển bày hành riêng của địa. Đây là phần một. Nêu danh phối vị.

Kinh: Biến sinh pháp thân vô lượng quang.

Giải thích: Phần: Hiển bày thắng dụng. Nghĩa là ở địa này, thọ biến dịch sinh. Gọi là pháp thân. Thân được sinh ra do chứng pháp tính như, gọi là pháp thân, hoặc là chỗ y chỉ của các công đức, gọi là pháp thân. Phóng vô lượng quang chiếu các quốc độ.

Kinh: Nhập trăm hằng độ hóa chúng sinh. Giải thích: Phần ba: Quốc độ rộng hẹp.

Kinh: Viên chiếu tam thế hằng kiếp sự.

Giải thích: Phần bốn: Có ba câu. Hiển bày hành riêng của địa. Có ba nghĩa: Câu đầu là chiếu tục, câu tiếp giải thích lại. Câu sau là chiếu chân. Đây tức là đầu. Theo Bổn ký nói; trước đạo là quá khứ, trong đạo là hiện tại, sau đạo là vị lai.

Kinh: Phản chiếu lạc hư không tận nguồn.

Giải thích: Câu thứ hai. Giải thích lại về viên chiếu ba đời.

Theo Bổn ký: "Phản chiếu": là phản chiếu chuyện quá khứ nơi địa tiền. "Lạc hư": là duyên với lạc hiện tại, hư nên không thật lạc. "Không tận nguồn": là chiếu biết đạo vị lai về sau, nhưng không thể tận hết nguồn của nó. Kinh: Nơi đế thứ ba thường tịch nhiên.

Giải thích: Câu thứ ba. Nói về chiếu chơn. Nghĩa là: địa thứ tám, quán trí tịch nhiên, chiếu biết chơn như, là đế thứ ba.

Kinh: Tuệ Quang khai sĩ…. Một niệm rõ ràng.

Giải thích: Phần hai: Một kệ. Giải thích địa Tuệ Quang. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Quốc độ rộng hẹp. Như văn đã rõ; 3. Hiển bày hành riêng của địa. Nghĩa là: trong địa này, đắc được bốn biện, tuy tại chơn như vô vi không hành, nhưng ba tạng Thánh giáo của hằng sa Phật, chỉ trong một niệm có thể hiểu được hết.

Kinh: Bồ-tát Quán đảnh tứ thiền vương.

Giải thích: Phần ba: Một kệ rưỡi, giải thích vị Quán đảnh. Văn có ba phần: 1. Nêu danh phối vị; 2. Quốc độ rộng hẹp; 3. Hiển bày hành riêng của địa. Đây là phần một.

Nói: "Quán đảnh": kinh Hoa Nghiêm quyển hai mươi bảy nói: Thí như Thái tử Luân vương, thành tựu vương tướng, lấy nước của bốn biển lớn, rưới lên đảnh đầu của Thái tử, liền gọi là Đại vương quán đảnh. Bồ-tát cũng như vậy, khi thọ đức, chư Phật lấy nước tri, rưới lên đảnh đầu Bồ-tát đó gọi là Pháp vương quán đảnh. Đó gọi là Bồ-tát nhập quả vị đại trí tuệ.

Kinh: Ở ức hằng quốc độ hóa quần sinh.

Giải thích: Phần hai: Quốc độ rộng hẹp, như văn đã rõ.

Kinh: Mới nhập Kim cang … thường trong lặng.

Giải thích: Phần ba: Hiển bày hành riêng của địa. Văn có bốn tiết:

1. Nói về thắng dụng nghĩa là một niệm Kim cang, đoạn chướng đã hết. Hoặc có thể chiếu cảnh đã rõ hết; 2. Biện về độ sinh: Nghĩa là trong ba mươi sinh, còn một sinh chưa tận; 3. Hiển bày phẩm số: Ngôi vị tại hạ nhẫn; 4. Biện về nhập vị: nghĩa là đạo giải thoát, liền hành Diệu giác.

Kinh: Đẳng tuệ… tất cả tận.

Giải thích: Phần hai: Một kệ. Đoạn hoặc sai biệt. Ở ba phẩm Đẳng quán, tuệ quang, Quán đảnh trên, trừ tâm duyên trước và vô minh tập hết. Nghĩa là khi đạo vô gián hiện ở ngay trước thì vô minh tập tướng, phiền não… tất cả đều dứt hết.

Kinh: Viên trí Vô tướng… Bi Vô cực.

Giải thích: Phần ba: Có hai kệ rưỡi, nói về vị Diệu giác. Văn có hai phần: 1. Chính tán thán đức; 2. Từ "Đệ nhất nghĩa…" tán thán lại đức đó.

Trong phần một có bốn phần: 1. Nêu danh phối vị. Nghĩa là trí viên mãn. Vì duyên với Vô tướng, gọi là Vô tướng. Hoặc có thể do trí dụng lìa chủ thể duyên, đối tượng duyên, nên gọi là Vô tướng; 2. Tận sinh biệt vị: Nghĩa là đã hết ba mươi sinh, đối với tất cả cảnh, đều bình đẳng giác ngộ, gọi là đẳng Đại giác. Hai câu trên là tán thán trí đức; 3. Chứng đại vô vi: Nghĩa là hai loại viên tịch; hữu dư và vô dư. Không thể hủy hoại, như Kim cang tạng. Một câu này là tán thán Đoạn đức; 4. Đủ đại từ bi: Nghĩa là hết sinh tử, đủ Bi Vô cực. Đây là hiển bày Ân đức. Cùng tận đời vị lai, nên bảo là vô cực.

Kinh: Đệ-nhất-nghĩa-đế… Diệu trí còn.

Giải thích: Phần hai: Có một kệ rưỡi, tán thán lại đức đó. Văn có ba tiết: 1. Hai câu đầu ở cảnh mà tán thán về trí; 2. Có hai câu. Ở vị mà tán thán trí; 3. Có hai câu: Dựa theo thời tán thán đức. Đây là phần một. Nghĩa là: nội chứng Chơn đế, chẳng bị động do phân biệt, nên nói là thường an ổn. Cùng nguồn tục sinh tử. Tận chơn tính Niết-bàn, thành trí Diệu giác, nên nói là diệu trí còn.

Kinh: Ba Hiền mười Thánh… ở tịnh độ.

Giải thích: Phần tán thán đức. Nghĩa là bắt đâu từ ba Hiền đến vị Quán đảnh, hữu lậu chưa hết, nói là trú quả báo, duy chỉ có một mình Phật, báo sinh tử đã hết, không có pháp hữu lậu, nên ở tịnh độ.

Kinh: Tất cả chúng sanh… ở tịnh độ.

Giải thích: Phần dựa theo thời tán thán đức. Nghĩa là; tất cả chúng sanh tuy không có sự khởi thủy, nhưng có thời tận, gọi là báo tạm trú. Duy chỉ có một người như Phật, có thủy nhưng không có chung, gọi là ở tịnh độ.

Kinh: Ba nghiệp Như Lai… lễ Tam bảo.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Tán thán về ba nghiệp của Phật. Văn có năm phần: 1. Hai câu đầu, tán thán chung ba nghiệp; 2. Có một kệ. Tán riêng ba nghiệp; 3. Có nữa kệ. Tán thuyết vô úy; 4. Có nữa kệ. Tán năng động địa; 5. Có nữa kệ. Tán thán Phật khéo thuyết giảng.

Trong phần tán thán chung, một câu đầu, tổng tán ba nghiệp. Câu sau hiển bày mình quy lễ.

Nói: "Ba nghiệp đức vô cực" là như trên đã nói; thân nghiệp kiên cố, ý nghiệp tịch tĩnh, khẩu nghiệp năng thuyết, đều vô cùng tận. Nên bảo là vô cực. Do vậy, nay con kính lễ Tam bảo.

Kinh: Pháp vương vô thượng… vô duyên chiếu.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Có một kệ. Tán thán riêng ba nghiệp. Trong đó có ba phần: 1. Có hai câu. Tán thán riêng thân nghiệp. Thí như cây to che mát nhiều người. Thân lực của Như lai che chở cũng thế; 2. Có một câu. Tán thán riêng khẩu nghiệp. Xứng lý mà thuyết pháp, đều đúng nghĩa lợi; 3. Có một câu. Tán thán riêng ý nghiệp. Tâm đó tịch tĩnh, đại bi vô duyên, soi khắp hữu tình.

Kinh: Sư tử cõi người… rải hoa vàng.

Giải thích: Phần ba: tán thuyết vô úy. Văn có hai tiết: câu đầu là tán thuyết vô úy. Câu sau là hoan hỷ cúng dường.

Kinh: Trăm ức vạn cõi… thọ diệu báo.

Giải thích: Phần bốn: Có nữa kệ. Tán thán về khả năng động địa.

Văn có hai tiết: 1. Tán thán Phật động địa; 2. Chúng thọ diệu báo.

Kinh: Thiên tôn khéo thuyết… lược thán Phật.

Giải thích: Phần năm: Có nữa kệ. Tán thán Phật khéo thuyết. Văn có hai tiết: Câu đầu tán thán Phật khéo thuyết các vương. Câu sau nêu rõ ý đã tán thuyết.

Kinh: Bấy giờ các đại chúng… lược tán thán Phật.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Biện minh chúng được ích. Nếu theo Bổn ký thì có bảy loại ích, tức chia làm bảy phần, đây là phần ích thứ nhất: Được lợi ích khai tuệ.

Kinh: Đắc đại pháp lợi.

Giải thích: Phần hai: Được lợi ích tư tuệ. Nhờ tư tuệ đã có, thắng hơn văn tuệ, gọi là đại pháp lợi.

Kinh: Liền ở trong chỗ ngồi… vô sinh nhẫn. Giải thích: Phần ba: Đắc tu tuệ.

Nói "tam thú": Là ba cõi ác.

Hỏi: "Sao cõi ác lại được ích lợi tu tuệ?

Theo tông Tát-bà-đa thì không chấp nhận cõi ác có thể đắc được tu tuệ. Nay tông Đại thừa thì cho là cũng đắc tu tuệ.

Vì như kinh Đại Vân nói: các loài súc sinh, đắc định, luật nghi.

Kinh: Bát độ… trên cõi trời thọ đạo.

Giải thích: Phần bốn: Hiện tại an lạc trú.

Nói "tám bộ A-tu-la": là dưới chỗ ở của bốn Thiên vương, có bốn A-tu-la vương: 1. A-tu-la La hầu; 2. Tỳma-chất-đa-la; 3. Ba-lợi; 4. Tỳ-lâu-đồ. Dưới núi Tu-dilại có bốn đại A-tu-la: 1. Đà-nậu; 2. Phú-lâu-ma; 3. Ba-la-ha; 4. Đâu-mâu-lâu.

Kinh: Ba sinh… Đắc nhập chánh vị.

Giải thích: Phần năm: Nêu chánh vị. Kinh: Chứng tính Thánh nhân.

Giải thích: Phần sáu: Tịnh nhãn vị. Bốn chữ "chứng tính Thánh nhân" là sở đắc của nhị thừa.

Kinh: Đắc tất cả vô lượng báo.

Giải thích: Phần bảy: Nêu lạc trụ vị lai. Đã nghe được Thánh giáo, đắc vô lượng quả sinh báo và hậu báo. Lại nói: Trong phần đắc ích. Văn có hai phần: 1. Nói về lợi ích chung nghĩa là chúng nghe pháp; 2. Tức là phần sau, hiển bày lợi ích riêng. Nghĩa là: chư thiên, quỉ thần, cho đến người, súc vật, địa ngục, đắc vô sinh pháp nhẫn sơ địa, các văn khác cũng giống thuyết trên. Tuy có hai thuyết, nhưng theo thuyết trước, vì địa ngục mà đắc được vô sinh sơ địa thì không ứng với lý.

Kinh: Phật bảo: "Chư hành đắc đạo… Đại sư tử gầm".

Giải thích: Từ đây là phần ba: Như Lai thuật thành. Văn có hai phần: 1. Tán thán vương là chủ thể thuyết; 2.

Từ "Này thiện nam! …" là tán pháp được thuyết.

Trong phần một có hai phần:

1. Tán vương là chủ thể thuyết; 2. Thế Tôn thuật tán. Trong phần một: Văn lại có hai tiết: 1. Nêu về chúng được bảo.

2. Đối chúng chánh tán thán. Đây là phần 1 nêu chúng.

Nghĩa là: trong thính chúng thì thiên chúng là tối thắng. Hoặc đắc Thánh quả, là thật chẳng hóa, nên bảo là đắc đạo quả.

"Thật thiên chúng nói: Thiện nam tử…" là phần hai: Chánh tán thán đối với chúng. Thời nay hơn xưa, thành sư tử hống. Nghĩa là: ở thời quá khứ, bên Phật Long Quang là khai sĩ địa thứ tư Diệm Tuệ, Ta là khai sĩ địa Đẳng quán thứ tám. Ta nay thành Phật. Ông đến địa thứ chín, tạo tiếng sư tử gầm.

Kinh: Như vậy! Như vậy!… biết việc ấy.

Giải thích: Phần hai: Như Lai thuật thành. Văn có hai tiết: 1. Tán thán giáo xứng lý; 2. Hiển bày lý được nêu giảng. Đây là phần một. Giáo mà vương đã thuyết, xứng với lý đã được nêu giảng, giáo tương ứng với lý, vì vậy mà nói lặp lại như vậy! Như vậy!

Nói "bất tư nghị": là chẳng phải cảnh giới của ba Hiền, gọi là bất tư nghị. Ngài Long Thọ chú thích: Nẻo ngôn ngữ dứt, xứ tâm hành diệt. Ngài Thế Thân nói: Tuyệt nẻo tâm ngôn. Nghĩa giống nhau. Chẳng phải là cảnh thuộc mười địa, gọi là "không thể lượng xét". Đây tức là so sánh công đức nan thắng, do đó chỉ có Phật với Phật mới biết việc ấy.

Kinh: Này thiện nam!… Bất khả tư nghị.

Giải thích: Phần hai: Tán thán pháp đã thuyết. Văn có ba phần: 1. Chánh tán thán pháp đã thuyết; 2. Từ "Này thiện nam! Mười bốn pháp môn đó…" tán thán dụng khuyến tu; 3. Từ "thời trong chư chúng…" là đại chúng cúng dường. Ở trong phần chánh tán, văn có ba phần: 1. Giải thích về bất khả tư nghị; 2. Từ "Này thiện nam!…" giải thích về "bất khả độ lượng"; 3. Từ "Ta nay…" là giải thích chỉ có Phật mới biết.

Trong phần bất khả tư nghị. Văn có ba phần: 1. Nêu tông lược thuyết; 2. Ngoại đạo nêu câu hỏi; 3. Thế Tôn rộng giải thích.

Trong phần một: Lại có bốn phần: 1. Tổng nêu con số: Là mười bốn Bát-nhã; 2. Kể riêng về hiện thuộc: Nghĩa là ba nhẫn địa tiền, mỗi địa có ba phẩm, thành là ba mươi nhẫn; 3. Phân biệt hai tạng: Nghĩa là; "tạng tất cả hành"; là mười ba nhẫn trước. "Tạng tất cả Phật": là nhẫn thượng tịch diệt. Do hai loại đó, gồm thâu các công đức. Gọi đó là tạng.

4. Kết về bất tư nghị. Hai tạng như vậy, gọi là bất khả tư nghị.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai: Ngoại nhân thắc mắc. Dựa theo nghĩa gì mà hành tạng, Phật tạng đều bất khả tư nghị?

Kinh: Tất cả chư Phật… trong đó hóa.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Theo tông rộng thích. Văn có hai phần: 1. Chỉ với Phật tạng, nói về bất tư nghị;

2. Từ "tất cả chúng sanh…" hợp giải thích về hai tạng. Đây là phần một: Nói về bất tư nghị.

Nhưng đoạn văn này, tự có hai thuyết:

Một thuyết nói: "Sinh trong ấy, diệt trong ấy, hóa trong ấy": là pháp thân không có hình tượng, vì vật mà có hình dáng. Lấy vương cung mà hiện sinh, song lâm mà gởi diệt, theo cảm ứng mà hóa, "vô sinh, vô diệt, vô hóa": là dụng đó tịch lặng, nên "thể" không có sinh, diệt, hóa. "Vô tự tha" kia, mình cả hai đều bặt. "Đệ nhất vô nhị": là cảnh và trí đều tuyệt dứt. "Phi hóa phi bất hóa" nói theo đại tịch thì phi hóa, căn cứ vào đại dụng thì phi bất hóa. "Phi vô Vô tướng"; hữu và vô đối đãi nhau; nếu có hữu thì có vô, nếu có vô thì phải có hữu. Nay tỏ hữu và vô đều không có, cho nên bảo là phi vô Vô tướng. "Vô lai khứ": là nói về tướng đến và đi tuyệt dứt. Cho nên Trung luận nói:

Đã đến cũng không đến,
Chưa đến cũng không đến.
Lìa đã đến chưa đến,
Tướng đến không thể đắc
Đã đi cũng không đi,
Chưa đi cũng không đi
Lìa đã đi chưa đi,
Tướng đi không thể đắc.

Nay giải thích đoạn văn này, trong đó có hai phần: 1. Với hóa thân, tức tướng Vô tướng (ngay ở tướng mà không có tướng) để nói về bất tư nghị; 2. Theo sự thắc mắc mà giải thích lại. Trong phần một: Lại có hai phần:

1. Lập ba tướng; 2. Bỏ ba tướng. Đây là phần một. "Sinh trong ấy" là nói về trí đức. "Diệt trong ấy": là biện minh đoạn đức. "Hóa trong ấy": là hiển bày Ân đức. Đó là dựa theo hóa thân mà giải thích như vậy. Hoặc có thể dựa chung cả thân thọ dụng, pháp thân mà giải thích các sinh, diệt, hóa trên, suy ngẫm như lý.

Kinh: Như vô sinh, vô diệt, vô hóa.

Giải thích: Phần hai: Vứt bỏ ba tướng sinh, diệt, hóa. Dựa theo tướng thì không có tự tính, nên thuyết là không có ba tướng sinh, diệt, hóa.

Kinh: Vô tự tha… vô khứ lai.

Giải thích: Phần hai: Theo thắc mắc mà giải thích lại.

Tuy nói là không có hóa, nhưng tướng đó khó biết, nên giải thích lại. Trong đó có hai phần: Trước là pháp, sau là dụ, pháp có năm nghĩa: Lần lượt mà giải thích cho nhau. 1. Vô tự tha; giải thích vô hóa trên; đã không có hóa thì làm sao có mình và người; 2. Đệ nhất vô nhị: là giải thích về vô tự tha. Trong đệ nhất nghĩa, không có mình và người; 3. Phi hóa phi bất hóa, giải thích về vô nhị trên. Nghĩa là: hóa; tức chủ thể hóa, bất hóa; tức đối tượng hóa. Chủ thể và đối tượng đều phi, nên là đệ nhất nghĩa, không có cái hai; 4. Phi vô; bỏ vô, trước đã bỏ hữu, bèn bác cho là vô, đồng với chấp thủ không, vì vậy mà bảo là phi vô; 5. Vô tướng vô lai khứ; bỏ cả hai hữu và vô, cái gọi là tướng của hữu và vô. Đến: là tướng hữu. Đi: là tướng vô. Nay Bát-nhã này, bỏ cả hai hữu và vô, nên bảo là Vô tướng, vô khứ lai.

Kinh: Vì như hư không.

Giải thích: Phần hai: Nêu pháp cùng dụ.

Kinh: Tất cả chúng sanh… hành không.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Hợp giải thích hai tạng, để nói về bất tư nghị. Văn có hai phần: Trước là giải thích, sau là kết. Trong phần giải thích có hai phần: 1. Nhân và pháp tương đối nhau, biện về bất tư nghị; 2. Cảnh và trí tương đối nhau, biện minh bất tư nghị. Trong phần một lại có hai: Trước là nói về nhân không, sau nói về pháp không. Đây là phần trước. Văn có hai tiết: 1. Lấy ba nghĩa để biện về tướng ngã không; 2. Từ "phiền não…" căn cứ theo nhiều tên gọi của ngã, để biện minh nhân là không. Đây tức ba nghĩa biện minh tướng không. Nói ba nghĩa là: 1. Không sinh không diệt; 2. Không buộc không mở; 3. Phi nhân phi quả, phi bất nhân quả.

Nói "không sinh không diệt": các thuyết bất đồng: Một thuyết nói; không sinh không diệt là câu nêu chung. Nghĩa là, tất cả chúng sanh đều có sinh và tử, gọi là sinh và diệt. Dứt bỏ cả hai tử và sinh, cho nên bảo là không sinh không diệt. Một thuyết nói: Không sinh là dứt bỏ thường kiến. Vì chấp ấy cho ngã sống mãi bất diệt. Không diệt là để dứt bỏ đoạn kiến. Vì chấp ấy cho ngã đã diệt thì không còn kế tục nữa.

Nói "không buộc không mở" từ đây là giải thích riêng: Đã không có chúng sanh thì ai bị trói buộc, ai được cởi trói. Cho nên luận Đại trí độ quyển năm mươi mốt, phẩm Thoát buộc nói: Năm chúng không trói không thoát. Như rốt ráo rỗng không, không có kẻ tạo ra thì ai trói ai mở. Pháp người phàm phu, là hư dối, chẳng thể có được, cho nên chẳng mở thoát, cho đến nói là Bồ-tát trụ trong đạo ấy, các phiền não không thể lôi kéo rơi vào trong phàm phu, nên bảo là không bị trói, không nhờ các pháp vô lậu để phá trừ phiền não, nên bảo là không giải mở. Nói đủ như luận kia. Ngài Chân đế giải thích: Người rỗng không chơn như, chẳng bị phiền não trói buộc, cũng chẳng do trí tuệ giải hiểu, do rỗng không có đắc gì cả.

Nói "phi nhân phi quả": là vứt bỏ cả hai. Phái ngoại đạo Vệ Thế sư cho ngã là kẻ tạo tác, gọi đó là nhân. Ngoại đạo Tăng-khư, cho ngã là kẻ thọ nhận, gọi đó là quả. Cho nên bảo là chẳng nhân chẳng quả.

Nói "phiền não…" là dựa theo nhiều tên về ngã mà biện minh nhân không. Trong đó có hai phần: 1. "Phiền não": là xuất ra pháp chủ thể chấp. Đó là phiền não do ngã kiến. Ta, người, tri kiến… làm não loạn hành giả, cho nên gọi là phiền não; 2. "Ngã, nhân, tri kiến…" biện về ngã của đối tượng chấp, có nhiều tên gọi. Trong đó có hai phần: Phần một-Biện năm tên gọi về ngã: 1. Ngã; 2. Nhân; 3. Tri giả; 4. Kiến giả; 5. Thọ giả. Phần hai: Các ngã sở: Biện minh ngã sở là không. Nghĩa là, năm loại ngã trên, mỗi ngã đều có ngã sở. Nêu chung cả năm loại, nên bảo là "ngã sở không". Những pháp còn lại, thể gồm thâu chung cả ba thọ; khổ thọ gọi là khổ khổ, lạc thọ gọi là hoại khổ, xả thọ gọi là hành khổ, do đó ba thọ, gọi chung là khổ thọ, tức ba thọ này đều là hành hữu vi, cùng là những pháp còn lại của ngã sở, nên nói hành của tất cả khổ thọ là khổ.

Kinh: Tất cả pháp tập… Tịch nhiên không.

Giải thích: Phần hai: Nói về pháp không. Có năm câu:

"Tất cả pháp tập": nêu danh biện minh giả. Nghĩa là, vì tất cả pháp tập, nên gọi là giả.

1. "Năm ấm huyễn hóa": nêu dụ xuất thể. Do năm ấm như huyễn, chẳng phải là người (nhân). Gọi là pháp giả.

2. "Không hợp không tán": hiển bày biệt tướng của pháp. Các thuyết bất đồng. Một thuyết nói: Năm ấm thành thân xác, gọi đó là hợp. Sau đó khi lìa tan, gọi là tán. Vì dứt bỏ cả hai tướng nên bảo là "không hợp không tán". Do vô phân biệt trí, không trú ở sinh và tử, cho nên gọi là không hợp. Thường khởi đại bi mà không nhập Niết-bàn, nên bảo là không tán.

5. "Pháp đồng pháp tính": môn thâu vọng quy chơn, tất cả các pháp đều dùng "như" làm tính.

Kinh: Cảnh giới của pháp là không… vì như hư không.

Giải thích: Phần hai Cảnh và trí tương đối, biện minh về bất tư nghị. Trong đó có hai: 1. Biện minh cảnh không; 2. Trí không. Phần một có hai phần: Trước là pháp, sau là dụ. Trong phần pháp có hai:

1. "Cảnh giới của pháp là không": nêu chung về tướng không. Nghĩa là, tất cả cảnh, không có cảnh nào là chẳng không.

2. "Không Vô tướng, bất chuyển…": giải thích tướng "không" riêng. Văn có ba tiết:

Tiết 1: Nói về pháp không.

Tiết 2: "Không Tam bảo" thông cả người và pháp cả hai đều không.

Tiết 3: "Không Thánh nhân sáu đạo": là nói về người không. Đầu nói "không" là cảnh Tam muội rỗng không.

Nói "Vô tướng" là không có tướng, cảnh Tam muội. Vì không có mười tướng. Nói: "Bất chuyển" là cảnh Vô nguyện Tam muội. Vì khổ tập nhiễm, không thể chuyển thành tịnh vô lậu. Ba cảnh như trên đều phi điên đảo, phi như, huyễn hóa, vì đó là hư vọng. Tiếp đó nói là "không Tam bảo" là cùng hiển người và pháp, cả hai đều không. Sau nói là "không thánh nhân"; là nói về chủ thể giáo hóa không. Nói "sáu đạo": là biện minh đối tượng giáo hóa không. Nói "vì như hư không": là phần hai: Nêu dụ. Dụ pháp không tướng.

Kinh: Bát-nhã vô tri… chiếu tướng nên hành đạo.

Giải thích: Phần hai: Trí không. Trong đó có ba phần: 1. Pháp; 2. Dụ; 3. Hợp. Trong phần pháp có hai phần:

1. Dứt bỏ sáu tướng về tri… So lường gọi là trí. Suy cầu gọi là kiến, trải qua cảnh gọi là hành. Trù tính gọi là duyên, chiêu vời quả gọi là nhân, lãnh nhận gọi là thọ. Sáu tướng như vậy, tất cả đều là không.

2. Nguyên do vứt bỏ: Nên bảo là "tất cả tướng chiếu chẳng đắc", vì thực hành tướng của đạo.

Kinh: Do tướng hành đạo ấy như hư không. Giải thích: Phần hai: Nêu pháp cùng dụ.

Kinh: Pháp tướng như vậy… vô tâm đắc.

Giải thích: Phần ba: Tổng hợp. "Pháp tướng như vậy": Là hợp sáu loại tướng không trên, nói sao thể có tâm đắc. "Vô tâm đắc" là: Hữu tâm là phân biệt. Vô tâm là không có tâm phân biệt, sao lại hữu tâm đắc, vô tâm đắc. Hoặc có thể "sao có thể hữu tâm đắc" là: ngăn chặn hữu tâm đắc, cảnh chúng đều không, làm sao có tâm đắc cảnh không, không có tâm phân biệt, có thể đắc không.

Kinh: Đó là nhờ Bát-nhã… mà hành.

Giải thích: Phần hai: kết bốn nghĩa trên. Văn có bốn tiết: 1. Hành trong nhân (người) bất khả đắc, vì sinh không; 2. Hành trong pháp bất khả đắc, vì pháp không; 3. Hành trong cảnh bất khả đắc, vì đối tượng duyên không; 4. Hành trong giải bất khả đắc, vì chủ thể duyên không.

Kinh: Do đó, Bát-nhã… bất khả tư nghị.

Giải thích: Phần ba: Cùng kết hai tạng bất khả tư nghị. Văn có hai phần: 1. Dựa theo trí mà tổng kết; 2. Dựa theo nhân (người) mà biệt kết. Đây là phần một.

Kinh: Mà tất cả Bồ-tát (hoặc có bản viết: Chư Phật, Bồ-tát)… cũng bất khả tư nghị.

Giải thích: Phần hai: Dựa theo nhân (người) để nói về bất khả tư nghị. Văn có hai phần: 1. Nói về Bồ-tát không cảnh mà hành. Cũng bất tư nghị; 2. Nói về chư Phật hành hóa chúng sanh trong cảnh như huyễn cũng bất tư nghị. Hoặc trước là kết đoạn văn sau, Phật, Bồ-tát tạng. Sau là kết đoạn văn trước, Phật, tạng bất tư nghị.

Kinh: Này người Thiện nam!… như một giọt nước biển.

Giải thích: Từ đây là phần hai: So sánh khen hơn. Giải thích về ý không thể đo lường nói trên. Nghĩa là: những công đức Bát-nhã mà vương đã thuyết, như nước biển lớn, còn Bồ-tát Quán Đảnh thuyết về công đức chỉ như một giọt nước biển. Cho nên biết công đức Bát-nhã là bất khả tư nghị. Không thể nghĩ bàn.

Hỏi: Bồ-tát Quán Đảnh, ngôi vị hơn vương, sao thuyết đức lại không bằng vua Nguyệt Quang?

Giải: Về ngôi vị mà xét thì vương không bằng Bồtát, nay nhờ Phật gia hộ nên vương hơn Bồ-tát.

Kinh: Ta nay lược kể… tất cả chúng sanh.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Giải thích về ý chỉ có Phật mới biết ở trên. Văn có ba tiết: 1. Nói về: Nay Phật thuyết pháp Bát-nhã chỉ một phần nghĩa công đức; 2. Từ "cũng vì…" là tỏ: chư Phật thuyết giống nhau; 3. Từ "ba hiền…" là nói về mười ba khai sĩ cùng thuyết về công đức. Nói "phần nghĩa" là nêu: Công đức vương nói không bao giờ nói cho hết, gọi là "phần nghĩa". Hoặc có thể là ba hiền, mười thánh. Nghĩa là, chấp nhận Nguyệt Quang vương, tán thán về vô lượng công đức của ba hiền, mười thánh.

Kinh: Này người Thiện nam!… cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần hai: Tán thán dụng khuyến tu. Trong đó có ba phần: 1. Chánh tán thán khuyến tu; 2. "Vì sao?" Là phản vấn của đại vương; 3. Từ "tất cả Phật…" rộng giải thích.

Trong phần một: Có hai phần: 1. Chánh tán thán khuyến tu; 2. Từ "nếu tất cả…" là hiển bày không có con đường nào khác. Đây là phần một. Nghĩa là: Này thiện nam! Mười bốn pháp môn là chỗ tu tập của tất cả chúng sanh, chư Phật nơi ba thừa, cho đến chư Phật thời vị lai.

Kinh: Nếu tất cả chư Phật… không có chuyện đó.

Giải thích: Phần hai nói về: Không có con đường tu nào khác, như văn đã rõ.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai: Đại vương nêu hỏi lại.

Kinh: Tất cả Phật… không có con đường nào khác.

Giải thích: Phần ba: Rộng giải thích. Văn có ba phần: 1. Nêu lên con đường chánh; 2. Từ "do đó…" chỉ bày con đường chánh; 3. Từ "người đó vượt quá…" nêu quả tán thán thắng. Đây là phần một. Duy chỉ có môn này không có con đường nào khác nữa.

Kinh: Do đó, tất cả… Nhẫn viên giác.

Giải thích: Phần: Bày con đường chánh. Nghĩa là: vì không còn con đường nào khác, phải nương theo môn mười bốn nhẫn trên, nên phải tu học.

Kinh: Người đó vượt quá… Thiện thân đắc báo.

Giải thích: Phần ba: Nêu quả tán thán thù thắng. Có hai lợi ích:

1. Siêu vượt các khổ nạn.

2. Hiện thân đắc báo. Nghĩa là đắc Thánh quả…

Kinh: Lúc ấy, trong các chúng… mười bốn chánh hạnh.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Đại chúng cúng dường. Văn chia ba phần: 1. Bồ-tát được đại chúng dùng hương hoa cúng dường thuyết mười bốn chánh hạnh; 2. Từ "mười tám Phạm thiên…" chư thiên cúng dường, thọ trì đọc tụng; 3. Từ "vô lượng quỉ thần…" là nêu quỉ thần tu hành Bát-nhã. Văn đã rõ.

Kinh: Phật bảo: "Đại vương!… Chúng sinh tướng để hoá.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Đáp câu hỏi thứ ba. Hóa sinh không điên đảo. Văn chia làm ba phần: 1. Nhắc lại câu hỏi trước; 2. Phật chánh đáp; 3. Từ "thời các cô lượng…" thời chúng đắc ích. Đây tức là phần một. Nghĩa là: Phật nhắc lại câu hỏi thứ ba: Trong môn giả, thật, dùng tướng chúng sanh gì để hóa?

Kinh: Nếu dùng… chân thành hóa chúng sanh.

Giải thích: Phần hai: Như Lai chánh đáp. Văn có hai phần: 1. Lược đáp; 2. Rộng đáp. Đây là phần một. Nghĩa là: "Dùng thân như huyễn"; là Bồ-tát chủ thể hóa. "Thấy người huyễn hóa": là đối tượng hóa như huyễn. Sự như huyễn này, tự có hai giải thích: Một giải thích là: Chủ thể hóa và đối tượng được hóa, đều là y tha, nhưng vì chẳng thật, gọi đó là như huyễn. Như kinh A-tỳ-đạtma, có tám dụ để hiển bày về y tha. Một giải thích là: Vì là vô cho nên như huyễn vì pháp do nhân duyên sinh đều là không, gọi đó là như huyễn. Trong phần văn đáp sau về các Bát-nhã, đều lấy theo giải thích này.

Kinh: Chúng sanh… khác gỗ đá.

Giải thích: Từ đây là phần hai có hai phần: 1. Đối tượng được hóa như huyễn; 2. Từ "Đại vương! Nếu Bồtát…". Chủ thể hóa như huyễn.

Ở phần đối tượng được hóa. Văn có hai phần: 1. Giải thích; 2. Từ "tất cả huyễn hoá…" tổng kết như huyễn. Trong phần chánh giải thích. Thích về bảy loại giả: tức chia làm bảy phần. Bảy giả là: 1. Pháp giả;

2. Thọ giả; 3. Danh giả; 4. Tương tục giả; 5. Tương đãi gia; 6. Duyên thành giả; 7. Nhân sinh giả. Đây là phần một. Nói về pháp giả. Văn có hai phần: Trước là chánh nói về pháp giả. Sau là từ "Đại vương! Phàm phu…" phàm và Thánh giữ lấy cảnh, hơn và kém sai biệt. Trong phần trước có hai phần: 1. Bổn thức có thể sinh ra sắc tâm; 2. Từ "căn bổn của chúng sanh…" sắc tâm thành ấm, giới… Trong phần một có ba phần:

1. Nói về thức thọ sinh.

2. Từ "sinh đắc thiện…" nói về chủng tử thức thiện ác.

3. Từ "một niệm đầu…" dựa theo thời, nói về thành sắc tâm chúng sanh. Đây là phần một.

Nói "thức chúng sanh": là tổng nêu các thức, tự có hai giải thích: Một giải thích là của Ngài Tam Tạng Chân đế; lập ra bốn thức. Một thức A-ma-la. Chơn như bổn giác làm tính, tại triền gọi là Như Lai tạng. Xuất triền gọi là pháp thân. A-ma-la thức, tiếng Hoa gọi là Vô cấu thức. Như nói trong chương chín thức. Tám thức còn lại thì giống với các sư khác.

Một giải thích của Ngài Tam Tạng Từ Ân: Chỉ lập tám thức không có thứ thứ chín. Nhưng nói A-ma-la là phần tịnh thứ tám trong thức thứ tám. Nhưng các giáo lập thức không nhất định; có nơi chỉ thuyết thức thứ sáu, không nói thức thứ bảy và thức thứ tám. Như chư Bátnhã. Hoặc thuyết tám thức như kinh Kim Quang Minh… mà ở các kinh Bát-nhã, thuyết về thức thứ sáu. Tự có ba phẩm. Là thượng, trung, hạ. Thượng phẩm thì vi tế, gọi là A-lại-da. Trung phẩm gọi là Mạt na. Hạ phẩm gọi là thức thứ sáu. Ba phẩm như vậy, từ ý căn sinh, nên gọi là ý thức.

Nói "một niệm đầu của thức, khác với gỗ đá": là tùy theo sinh ở xứ nào, Sát-na thọ sinh, một niệm đầu nơi thức, gọi là chánh thọ sinh thức, chỉ là dị thục, tự tính phân biệt, khác với gỗ đá, không có phân biệt mạnh.

Kinh: Nếu thiện sinh đắc gốc thức.

Giải thích: Phần hai: Nói về chủng tử thiện ác nơi thức. Nếu phân biệt đầy đủ thì có cả ba huân tập: 1. Huân tập danh ngôn; 2. Huân tập hữu chi; 3. Huân tập ngã kiến. Huân tập danh ngôn thì chung cả ba tính, lấy đó làm nhân duyên, sinh ra quả pháp. Huân tập hữu chi là chỉ sinh ra tính thiện ác, sau khi đã hướng đến thiện ác, huân tập ngã kiến chỉ là sự nhiễm ô. Hai loại sau chỉ làm duyên tăng thượng cho quả được sinh ra. Về thức thứ tám, tự có ba tướng: 1. Nhân tướng: Là thức chủng tử;

2. Quả tướng. Thức thọ sinh; 3. Tự tướng: Hợp cả hai loại làm tự tướng. Căn cứ theo sự thật thì chủng tử có đủ cả ba tính. Vì dựa theo thù thắng mà nói nên không nói vô ký. Thiện ác như vậy, đều có hai loại: 1. Sinh đắc; 2. Phương tiện. Khi mới bắt đầu thọ sinh, chỉ là sinh đắc, nhưng chẳng là phương tiện. Hoặc có thể trong đó chỉ nói về sinh đắc, không nói đến phương tiện. Nếu theo Bổn ký thì: "thiện ác sinh đắc": là vì có Như Lai tạng, có cái tâm tránh khổ cầu lạc, tâm này từ bổn tính mà có, không do duyên ở bên ngoài, nên bảo là sinh đắc. Trái lý thành vọng, vì vọng mà khởi ác, ác cũng là sinh đắc, không do hóa.

Kinh: Một niệm đầu… sắc tâm chúng sanh.

Giải thích: Phần ba: Dựa theo thời biện minh thành sắc tâm của chúng sanh.

Nghĩa là do chủng tử, từ một niệm sơ khởi, cho đến niệm Kim cang, trong khoảng đó sinh ra không thể nói hết thức dị thục làm gốc, thành sắc tâm của chúng sanh.

Hỏi: Thành chúng sanh phải có đủ cả ba tụ, nghĩa là sắc, tâm và bất tương ưng. Sao lại không nói đến pháp bất tương ưng?

Giải: Dựa trên sắc và tâm mà giả lập các bất tương ưng. Là giả chẳng thật. Do theo thật mà nói, nên chỉ nói tâm.

Lại giải: Các giáo đại thừa bất đồng: Như luận Nhiếp Đại thừa dịch vào đời Lương viết: Các pháp hữu vi, không ra ngoài sắc và tâm. (Xem kinh Mật Nghiêm, luận Bách Pháp, dẫn kinh nói về bất tương ưng).

Hỏi: Chư chúng sanh có bổn tế hay không? Nếu nói là có, sao kinh nói bổn tế của chúng sanh không thể viết.

Thì làm sao không? (Xin xem kinh bất tăng bất giảm…) Giải: Theo nghĩa đó, dựa theo các tông, các thuyết khác nhau; có bốn trường hợp:

1. Hữu thủy vô chung: Nghĩa là: trong bộ Di-sa-tắc, lập có chúng sanh thời đầu, tùy duyên mà có. Như trong cuốn bộ chấp ký do sư Chơn đế dịch đã nói. Nhưng trong tông kia, tuy không có thành văn, nhưng nghĩa thuyết là không có tính bát Niết-bàn, và quả Phật bất diệt, đắc thành câu đầu tiên.

2. Vô thủy hữu chung: Nghĩa là như tông Tát-bà-đa và Kinh bộ và nhị thừa định tính trong đại thừa.

Hữu thủy hữu chung: Như trong tông bộ Di-sa-tắc, nhị thừa Thánh là nhập vị vô dư.

3. Vô thủy vô chung: Không có tính Niết-bàn, chủng tính bất định và Bồ-tát chủng tính, như luận Du già… còn thuyết của các sư khác, không thể kể ra đầy đủ được. Nếu theo Bổn ký thì có hai nghĩa: 1. Dựa theo lý mà xét: Thì không thể nói là phiền não ở tại trước hay ở tại sau; 2. Dựa theo môn giáo hóa: Thì chỉ lấy lúc thọ sinh mà nói đó là bắt đầu.

Kinh: Căn bổn của chúng sinh… Thân gọi là tích tụ. Giải thích: Phần hai: Sắc tâm thành ấm, giới… văn chia làm hai phần: 1. Nói về thành ấm; 2. Từ "Đại vương!…" thành mười hai xứ… Đây là phần một. Văn có hai phần: 1. Giải thích riêng năm ấm; 2. Giải thích về danh và nghĩa của cái. Nghĩa là: sắc căn bản của chúng sanh, gọi là sắc cái, còn gọi là sắc ấm. Như sau này sẽ giải thích. Tâm gọi là thức cái. Đó tức là triển khai tâm thành bốn ấm: Thọ, tưởng… "gọi là cái": là thích danh nghĩa của ấm. Xưa dịch là ấm. Ấm nghĩa là che. Ngài Tam Tạng Từ Ân dịch ra là uẩn, uẩn nghĩa là tích tụ. Ở mỗi một uẩn, do nhiều pháp tập thành, nên gọi là uẩn. Nói "thân gọi là tích tụ"; là giải thích về danh và nghĩa của thân. Nghĩa là pháp năm uẩn đều gọi là thân, nghĩa là uẩn.

Kinh: Đại vương!… Sinh vô lượng sắc.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Sắc tâm thành mười hai xứ… Văn có ba phần: 1. Nói chung về một sắc sinh ra vô lượng sắc; 2. Từ "nhãn sở đắc …" tỏ riêng về các sắc sinh ra; 3. Từ "một sắc như vậy…" tổng kết về chủ thể sinh sắc tâm. Đây là phần một. Nghĩa là: một sắc pháp có thể sinh ra năm sắc trần. Nếu đủ thì phải nói là một tâm pháp này sinh ra một tâm pháp, hoặc vô lượng tâm. Nay vì tổng lược nên chỉ nói là sinh thức.

Kinh: Nhãn sở đắc là sắc… Thân đắc là xúc.

Giải thích: Phần hai: Sinh ra nhiều sắc. Văn chia làm hai phần: 1. Sinh năm cảnh; 2. Sinh năm căn. Trong cảnh có hai phần: 1. Năm cảnh của đối tượng tạo; 2. Bốn đại là chủ thể tạo. Đây là giải thích về năm cảnh. Nếu đủ thì phải nói là pháp xứ thuộc về sắc. Hoặc có thể là kinh này không nói về pháp xứ thuộc về sắc, cho nên không nói.

Kinh: Kiên trì gọi là địa… nhẹ động gọi là phong.

Giải thích: Phần hai Bốn đạo là chủ thể tạo. Như văn đã rõ.

Kinh: Sinh năm thức xứ gọi là căn.

Giải thích: Phần hai: Sinh năm căn. Nghĩa là: bốn đại tạo ra năm căn; nhãn, nhĩ… Sinh ra năm thức, nên gọi là năm căn.

Kinh: Như vậy một sắc một tâm… Sắc tâm.

Giải thích: Phần ba: Tổng kết. Một sắc sinh mười loại sắc, là năm căn năm cảnh. Lược bớt không nói về sắc pháp xứ. Một tâm với mười hai xứ, sinh ra ý căn. Với mười tám giới, sinh ra sáu thức và ý giới. Trong văn kinh không nói là vì lược bớt.

Kinh: Đại vương! Phàm phu… vô lượng giả sắc pháp.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Phàm Thánh giữ lấy cảnh, hơn kém sai biệt. Văn có hai phần: 1. Phàm cảnh.

Đắc giả chẳng thật; 2. Thánh cảnh: Đắc thật chẳng giả. Đây là phần một.

Kinh: Sáu thức của thánh nhân… Tất cả thật pháp.

Giải thích: Phần hai: Thánh cảnh đắc thật chẳng giả. Nhưng ý nghĩa của văn này khó hiểu, các thuyết bất đồng: Nếu theo Bổn ký thì sáu thức của phàm phu, lấy tướng chung mà giữ pháp, cho nên đắc giả. Thánh nhân phân minh rõ ràng mà giữ bốn vi, nên bảo là đắc thật. Lại giải phàm phu tục, sáu thức hư vọng mà đắc pháp thế đế giả danh. Nay giải: Năm cảnh; sắc… đều có hai tướng: Một là tự tướng; tức là thật có. Hai là cộng tướng, tức là giả có. Năm thức dị sinh, đồng thời với ý thức, đều đắc tự tướng, vì là hiện lượng. Ý thức niệm sau, chỉ đắc cộng tướng, vì là tỷ lượng. Thánh nhân giữ lấy cảnh, cũng lại như vậy. Nay ý kinh này là dựa theo môn thô tế thì chỗ đắc của phàm phu, vì thô là hiện lượng cho nên chỉ đắc giả cảnh. Hiện lượng của Thánh nhân, vì cực tế, nhưng nói là đắc thật, đó chỉ là giả nói.

Kinh: Chúng sanh là tên gọi (danh) của thế đế.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Thọ giả. Chia làm bốn môn: 1. Môn nhị đế phân biệt; 2. Môn hữu vô; 3. Môn sáu đường; 4. Môn tứ tính môn. Đây là phần một: Môn nhị đế.

Như trên đã nói chủ thể thành năm uẩn, gọi là pháp giả. Người là đối tượng thành, gọi là thọ giả. Thọ giả như vậy, trong môn nhị đế, là pháp giả, tên gọi của thế đế.

Kinh: Hoặc hữu hoặc vô… vì huyễn hóa cho nên hữu.

Giải thích: Phần hai: Môn hữu, vô phân biệt. Nghĩa là: ở trong tục đế vì cái hữu giả gọi đó là hữu, vì tính chẳng thật, còn gọi là vô. Thọ giả như vậy là thế đế giả. Huyễn dối cho nên có, nhưng chẳng thật có.

Kinh: Cho đến chúng sanh huyễn hóa trong sáu đạo thấy huyễn hóa.

Giải thích: Phần ba: Môn sáu đạo. Nghĩa là: thọ giả bốn sinh ba cõi, cho đến sáu đạo, thọ giả thành, đều là chúng sinh huyễn hóa, thấy huyễn hóa là chúng sinh chẳng thật.

Kinh: Huyễn hóa thấy huyễn hóa… gọi là huyễn đế. Giải thích: Phần bốn: Môn tứ tính phân biệt. Văn này có hai giải thích: Một là: "Huyễn hóa thấy huyễn hóa" là: nêu chung chủ thể hóa và đối tượng được hóa đều là huyễn hóa. "Bà-la-môn… gọi là huyễn đế" là: Song hiển cả chủ thể hóa và đối tượng được hóa, đều đủ cả bốn họ. Thần ngã hữu tình, đủ cả sắc, tâm đều gọi là huyễn đế. Một là: Nói "huyễn hóa" là nêu người chủ thể hóa. "Thấy huyễn hóa… gọi là huyễn đế"; đều là đối tượng được hóa.

Kinh: Pháp huyễn đế… không có nghĩa danh.

Giải thích: Phần ba: Danh giả. Văn có hai phần: 1. Thời trước Phật, không có tên gọi; 2. Từ "Đại vương!…" Như Lai đặt tên. Trong phần một có ba phần:

Thế đế không có tên gọi và nghĩa của tên gọi.

Huyễn pháp không có danh tên, không có thể.

Ba cõi, sáu đạo đều không có tên gọi. Đây là phần một. "Pháp huyễn đế": tức là thế đế.

Nói "trước kia không có Phật xuất thế…"; khi Phật chưa xuất, không có ai nói về tên gọi, cũng không có ai nói về nghĩa của các tên gọi đó.

Kinh: Huyễn pháp huyễn hóa… không có thể tướng.

Giải thích: Phần hai: Huyễn pháp vô danh vô thể. Nghĩa là: pháp huyễn có cái dụng của huyễn hóa, thể, dụng, như vậy đều không có tên gọi, cũng không có thể tướng, như không hóa.

Kinh: Không có tên gọi tam giới, không có tên gọi quả báo thiện ác nơi sáu đường.

Giải thích: Phần ba: Ba cõi sáu đường đều không có tên gọi. Như văn đã rõ.

Kinh: Đại vương! Do đó… Tên gọi ba cõi, sáu đường.

Giải thích: Phần ba: Như Lai đặt tên. Văn có ba phần:

1. Thế Tôn đặt tên; 2. Kết. Tên chẳng cùng một; 3. Chỉ sự giải thích lại. Đây là phần một.

Nghĩa là: Phật chưa xuất thì không có các tên gọi, do đó, Thế Tôn vì các chúng sanh mà thuyết các danh tự, tên gọi.

Kinh: Đó gọi là vô lượng tên gọi.

Thích: Phần hai Kết. Tên chẳng phải là một. Như văn đã rõ.

Kinh: Như không pháp… Sắc pháp.

Giải thích: Phần ba: Chỉ sự giải thích thêm.

Nghĩa là: vô lượng tên gọi, như nói về thành thân chúng sanh, có bảy tên gọi: 1. Không pháp; là không giới sắc; 2. Bốn đại thì chia làm bốn; 3. Tâm pháp: là sáu thức tâm và toàn bộ tâm sở; 4. Sắc pháp: là năm căn, năm cảnh. Pháp xứ thuộc về sắc. Tên gọi như vậy, nhiều loại khác nhau.

Kinh: Giả pháp tương tục phi nhất phi dị. (Chẳng một chẳng khác)

Giải thích: Từ đây là phần bốn: Giả pháp tương tục. Văn có ba phần:

1. Nêu tông; 2. Phản thích; 3. Thuận kết. Đây là phần một.

Như Bổn ký nói: "Một": là thường kiến: Trước kia và sau này là một, do nghĩa không có diệt (vô diệt). "Khác": là đoạn kiến; trước kia và sau này mỗi một đều khác nhau. Do nghĩa không có tương tục (vô tục). Cho nên nói là: Tướng của nó chẳng một chẳng khác.

Kinh: Một cũng bất tục (kế tục), khác cũng bất tục.

Giải thích: Phần hai: Phản thích. Cái sai lầm của cùng một và khác nhau. "Một cũng bất tục": là vì không có nghĩa kế tục. "Khác cũng bất tục" rõ ràng là khác thể, do không có nghĩa tương tục.

Kinh: Chẳng một chẳng khác, nên gọi là đế kế tục. Giải thích: Phần ba. Thuận kết, đã rõ.

Kinh: Tương đãi giả. Gọi là tất cả danh tương đãi, còn gọi là tương đãi bất định.

Giải thích: Phần năm Tương đãi giả. Văn có hai phần: 1. Nêu hai loại: một là đối đãi tránh nhau: Hoặc gọi là tương đãi quyết định, như tất cả pháp, lần lượt đối đãi với nhau. Hai là; đối đãi đoạt nhau. Còn gọi là tương đãi bất định. Như một đồ vật dài một thước, hoặc dài hoặc ngắn, vì nhìn thấy khác nhau. Nói là dài thì đoạt ngắn. Nói là ngắn thì đoạt dài. Cho nên Bổn ký nói: Tất cả đều đối đãi với nhau, tức là đối đãi tránh nhau, bởi một pháp đối đãi với tất cả pháp. "Tương đãi bất định"; tức là đối đãi đoạt nhau. Như trượng, thước, v.v… có người nói: "Chánh tương đãi" là: như nói hữu và vô… hoặc sắc đối nhãn, thanh đối nhĩ, … "Tương đãi bất định" là: tương đãi dựa nhau. Như năm cảnh lần lượt đối đãi nhau.

Kinh: Pháp như năm sắc v.v… như tất cả các pháp hữu, vô.

Giải thích: Phần hai Chỉ sự biện về chánh tương đãi.

Kinh: Tất cả pháp đều duyên thành, chúng sanh giả thành.

Giải thích: Phần sáu. Duyên thành giả.

Nghĩa là: năm ấm làm duyên, thành giả chúng sanh, nên gọi là duyên thành giả.

Hỏi: Nếu vậy, có khác gì thọ giả đâu?

Giải rằng: Duyên thành nhiếp cả thọ giả, thọ giả không thể nhiếp duyên thành.

Kinh: Nhân quả câu thành… Ba đời thiện ác.

Giải thích: Phần bảy Nhân sinh giả.

Nghĩa là; nhân quả cùng một lúc. Như nói; hiện hành huân chủng tử, chủng tử sinh hiện hành… tức là nhân quả câu thời. Chủng tử tự loại tương sinh cho nhau… tức là môn tiền hậu nhân quả.

Kinh: Tất cả huyễn hóa, là chúng sanh huyễn đế.

Giải thích: Ở trong đối tượng được hóa. Văn có hai phần: Trước là thích, sau là kết. Trên đã thích về đối tượng được hóa như huyễn rồi. Đây là phần sau kết thành đối tượng được hóa như huyễn.

Kinh: Đại vương!… là như vậy. Đều là huyễn hóa.

Giải thích: Đây là phần hai: Kết thành chủ thể hóa đều là huyễn hóa.

Kinh: Bấy giờ, có vô lượng… bất khả thuyết đức hạnh.

Giải thích: Phần ba: Thời chúng đắc ích. Văn có ba: 1. Đắc phục nhẫn: Tức là ba hiền; 2. Đắc không, vô sinh nhẫn: Đắc hai loại nhẫn; không và vô sinh nhẫn. Mỗi nhẫn đều thông cả ở mười địa; 3. Từ "cho đến…" là môn đắc địa. Nghĩa là nhờ lực nghe giáo mà đắc được toàn bộ đức hạnh từ sơ địa cho đến mười địa.

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Giải thích chánh văn.

Giải thích tên phẩm; đế có hai loại:

1. Thế đế: là pháp hữu vi, từ duyên mà sinh, giả mà chẳng thật, gọi là thế đế.

2. Chơn đế: Thật tướng chơn như, bổn sinh thanh tịnh, thật mà chẳng giả, gọi là Chơn đế.

Hoặc gọi là đế thế tục và thắng nghĩa. Thế; nghĩa là lấp kín. Tục; là nghĩa hiển thô. Nghĩa là; các sắc tâm là hiện pháp thô hiển che lấp thắng nghĩa. Thế tức là tục, nên gọi là thế tục. Đó là giải thích theo trì nghiệp. Thắng nghĩa là thắng trí. Nghĩa; tức là nghĩa của cảnh. Nghĩa là lý chơn như, đó là nghĩa cảnh của thắng trí, đó là giải thích theo chủ. Đều gọi là đế như luận Du già nói: Đế có hai nghĩa: 1. Như tướng đã thuyết: Nghĩa là không lìa bỏ; 2. Do nhờ quán nơi đó mà đến được nơi cứu cánh, nên gọi là đế. Gọi chung là phẩm nhị đế, đó là giải thích theo số; ở trong phẩm này biện minh nghĩa của hai đế, nên gọi tên là phẩm nhị đế.

Kinh: Bấy giờ… có thế đế hay không?

Giải thích: Phần hai: Chánh giải thích theo văn. Trong phần nội hộ, văn chia làm ba phần: 1. Phẩm Quán không; nói về hạnh tự lợi; 2. Phẩm Giáo hóa; nói về hạnh lợi tha; 3. Phẩm Nhị đế; nói về chỗ nương dựa của hai hộ. Ở trên đã giải thích xong hai hạnh trước. Đây là phần ba-Chỗ nương tựa của hai hộ.

Nếu theo Bổn ký thì phẩm này chia làm ba phần: 1. Hỏi đáp phân biệt hai đế, bất nhị; 2. Từ "bạch Phật…" hỏi đáp phân biệt, thuyết pháp bất nhị; 3. Từ "bạch Phật nói…" hỏi đáp pháp môn bất nhị.

Nay giải thích thì chia làm năm phần: Ba phần đầu giống trên. 4. Từ "Đại vương! Bảy Phật…" tán công đức của kinh; 5. Từ "Đại vương! Kinh này…" tán thán danh, khuyến trì. Ở trong phần một: Trước hỏi, sau đáp. Nơi phần hỏi có ba phần: 1. Hai nêu hỏi; 2. Hai thắc mắc; 3. Tổng kết. Đây tức là phần một, là hai nêu hỏi của vương. Nghĩa là: trong Đệ-nhất-nghĩa-đế, là có Thế đế? Hay là không có Thế đế? (Chữ bất nghĩa là không có), vì thắc mắc, cho nên nêu hỏi hai điều.

Kinh: Nếu nói là không có thì… Trí không nên là một.

Giải thích: Phần hai: Cùng vấn nạn về có và không. Trước là không, sau là có. Nhưng hai vấn nạn này, các thuyết bất đồng.

Theo Bổn ký nói: Nếu nói là không có thì trí của phàm phu không nên là hai, nghĩa là chơn và tục. Nếu nói là có thì trí của thánh nhân không nên là một, nghĩa là trí Đệ-nhất-nghĩa-đế. Căn cứ theo lý mà xét thì không một, không hai. Nếu định chắc là một thì phàm phu thấy tục, cũng vừa thấy chơn, tức đúng phải thành Thánh. Nếu theo kinh bổ nghiệp, phẩm Phật mẫu; có hai câu hỏi: Một câu hỏi là hỏi về một và hai, một câu là hỏi về có và không. Có bốn lớp kinh ấy nói; pháp tính của hai đế là một hay là hai? Là có hay là không? Sau đó Phật đáp; Phật tử! Hai đế là: Thế đế có (hữu) cho nên chẳng không. Vô đế thì không, cho nên chẳng có. Cả hai thường vậy, cho nên là bất nhất. (không một). Thánh chiếu không, cho nên bất nhị (không hai). Dù có Phật hay không có Phật thì pháp giới cũng không thay đổi, vì pháp thường thanh tịnh, cho nên không hai. Chư Phật trở lại làm phàm phu, cho nên chẳng không. Không có "vô", cho nên chẳng có. Thật không cho nên bất nhất. Bổn tế bất sinh, cho nên bất nhị, chẳng hoại tướng các pháp giả danh, cho nên chẳng không. Chư pháp tức phi chư pháp, cho nên bất nhất. Nói đủ như ở kinh kia.

Kinh: Nghĩa của một và hai, sự chúng là gì?

Giải thích: Phần ba Tổng kết. Đã rõ.

Kinh: Phật bảo: "Đại vương!… Nghĩa một, nghĩa hai.

Giải thích: Phần hai: Thế Tôn chánh đáp. Văn có hai phần: 1. Thế Tôn lược đáp; 2. Từ "bảy Phật…" rộng giải thích câu hỏi trước. Trong phần lược đáp có ba phần: 1. Tán thán câu hỏi có nguyên nhân; 2. Lược bày đầu mối của nghĩa; 3. Khuyên phát ba tuệ. Đây là phần một. Nghĩa là: vương đã từng hỏi bảy Phật thời quá khứ, nên nay mới hỏi nghĩa về một, hai.

Nói "bảy Phật quá khứ" là: 1. Trước thời Phật Tỳbà-thi còn có một Phật, theo thứ tự; 2. Phật Ty-bà-thi; 3. Thức-Phật; 4. Thi-khí; 5. Tỳ-xá; 6. Câu-na-hàm; 7. Cadiếp. Lại có giải thích: Tỳ-bà-thi Phật là thứ nhất. Thích ca văn Phật là vị Phật thứ bảy. Theo thật thì Phật Thích ca tức chính là Phật hiện tại.

Kinh: Ông nay không có nghĩa một nghĩa hai.

Giải thích: Phần hai: Lược bày đầu mối của nghĩa.

Nghĩa là: ông nay không có nghe, ta nay không có thuyết. Bổn ký nói: Có nghe có thuyết, tức là không một. Không có nghe, không có thuyết, tức là không hai. Chính là hai đế. Một: là chơn. Hai: là tục. Không hai: tức chính là Đệ-nhất-nghĩa-đế. Phi chơn phi tục, nên gọi là Đệnhất-nghĩa-đế.

Một thuyết nói; không một: tức chính là nghĩa sai biệt của nhị đế. Không hai: tức chính là nghĩa không có sai biệt của nhị đế, chẳng phải là ngoài hai đế còn lập thêm một đế thứ ba.

Tuy có hai thuyết, nhưng lấy thuyết sau làm chánh. Nếu không vậy thì phải gọi là phẩm Tam đế.

Có người chất vấn: Có nói, có nghe tức thành ra là hai, thì trái với thuyết trên, hai đế là hai, do nghe và nói đều là nghĩa tục đế. Nay giải thích không vậy; muốn chặn đứng sự chấp chặt chơn và tục là cùng một hay là hai khác, nên nay mới phân biệt rõ; theo với phàm tình mà lấy hai đế định chắc khác nhau. Theo với Thánh trí mà nói là chẳng có sai biệt, chẳng nói là nghe và nói, phối riêng với hai đế.

Kinh: Vương nay lắng nghe… Như pháp tu hành.

Giải thích: Phần ba: Khuyến phát ba tuệ, theo trên đã rõ.

Kinh: Kệ bảy Phật như vậy.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Rộng giải thích về câu hỏi trước. Văn có hai phần: 1. Dẫn kệ của bảy Phật để giải thích một và khác; 2. Trong trường hàng (văn xuôi) là lời Phật nay thuyết, đã thông câu hỏi trước. Trong phần một có hai phần: 1. Nêu văn xuôi phát khởi; 2. Chánh dẫn văn tụng. Đây là phần một.

Kinh: Đệ nhất nghĩa Vô tướng… vô tự, vô tha tác.

Giải thích: Chánh dẫn văn kệ. Có tám kệ rưỡi, chia làm ba phần chính: 1. Có ba kệ nói về hai đế; 2. Có ba kệ: Nghĩa của một và hai. Giải thích câu hỏi của vua; 3. Hai kệ rưỡi, biện về thế đế hư giả. Kết thành nghĩa trên. Trong phần một có ba phần: Theo Bổn ký: 1. Có một kệ, nói về thể của hai đế đều là vốn có; 2. Một kệ. Dùng nghĩa của ba giả để biện về hữu và vô của nhị đế; 3. Văn một kệ: Dứt bỏ tướng của hữu và vô để biện về nhị đế.

Trong bài kệ đầu: Nửa trên là nói về chơn thì vốn có. Nghĩa là Vô tướng chơn như, bổn lai tự có.

"Vô tự": Là hiển bày nhân không. "Vô tha": là hiển bày pháp không.

Lại giải thích: "Vô tự": là vô ngã. "Vô tha": là không có ngã sở. Lại có một thuyết là: "vô tự": là không từ tự sinh. "Vô tha": là không từ tha sinh.

Nếu nói một cách đầy đủ thì phải nói thêm là: "Bất cộng bất vô sinh" vì lược bớt, cho nên chỉ nói hai câu đầu.

Tuy là có ba giải thích, nhưng lấy ý của giải thích đầu.

Nửa kệ dưới là nói về tục hữu. Nghĩa là pháp nhân duyên, dù có Phật hay không có Phật, bổn lai vốn vẫn có nó. "Vô tự": là lý không nhân trên pháp hữu vi. "Vô tha": là lý pháp không trên pháp hữu vi, lại có hai giải thích, theo trên thì rõ.

Kinh: Pháp tính vốn Vô tướng… tam gia tập mà giả có.

Giải thích: Phần hai: Có một hàng kệ, dùng nghĩa của ba giả, để lập hai đế hữu vô. Do ba giả, trong chỗ không có danh, tướng mà nói thành danh, tướng. Ở đây có ba phần: 1. Hai câu đầu, nói về nghĩa của chơn vô; 2. Có một câu, nói về nghĩa của hữu; 3. Có một câu, cùng kết hai đế, đều là giả có.

Nói "pháp tính vốn Vô tướng": là thật tính của các pháp, bổn lai vốn Vô tướng, đó là nghĩa của chơn vô.

"Đệ nhất nghĩa không như": là tên gọi khác để giải thích thêm một lần nữa. Còn gọi là đệ nhất nghĩa không. Còn gọi là chơn như.

"Các hữu vốn pháp hữu": đó là nói về nghĩa hữu của tục đế.

Nghĩa là: các pháp uẩn… Hữu vi, là do nhân duyên mà có. "Tam giả tập giả hữu": là song kết hai đế đều là giả lập.

Nói "tam giả" là: Bổn ký nói: Do hai loại giả, danh tướng, y tha mà lập tục đế hữu. Do một loại giả, Vô tướng vô sinh mà lập nghĩa chơn vô.

Có thuyết nói: Nửa trên của tụng là nói về chơn. Nửa dưới là nói về tục. Nói "tam giả" là pháp, thọ, danh giả. Nghĩa như đã nói trên.

Kinh: Vô vô đế thật vô… Nghĩa hữu và vô như vậy. Giải thích: Phần ba: Có một kệ, nói về mất thì bất nhị, còn thì bất nhất. Văn có ba phần: 1. Hai câu đầu, tỏ nghĩa chơn vô; 2. Có một câu, hiển nghĩa tục hữu; 3. Có một câu, cùng kết hữu và vô.

Nói "vô vô đế": là dứt bỏ danh tướng của hữu, tức là nghĩa vô. Đắc cái hữu mà không có danh tướng, cũng là nghĩa của vô. Cùng lập lại cả hai vô, cho nên gọi là vô vô đế. Tức cả hai vô đó, đúng thật là vô, nên bảo là thật vô.

"Tịch diệt đệ nhất không": là dứt bỏ hai vô ở trước, nghĩa là hai vô ở trên: Vô đối lại với hữu tức an lập đế chẳng phải là lý cứu cánh. Câu thứ hai là nói về chẳng phải đế an lập. Đoạn hoặc mà chứng diệt, nên bảo là tịch diệt. Thể tức một vì chơn như, cho nên nói là đệ nhất nghĩa không.

"Chư pháp nhân duyên hữu": giải thích về nghĩa của tục hữu. Thứ tư là song kết. Đã rõ.

Nhưng ba bài kệ này, các thuyết bất đồng: Có thuyết nói; ba hàng trên; hàng đầu là nhân không, hàng thứ hai là pháp không, hàng thứ ba là nhắc lại cả hai đều vô, cho nên bảo là vô vô. Có thuyết nói: Kệ đầu là xuất thể của nhị đế, kệ thứ hai là giải thích về nghĩa của nhị đế, kệ thứ ba là song kết về nghĩa hữu và vô của hai đế. Một thuyết nói: Hiển bày hai đế thì có ba môn: Kệ một là môn nhân duyên nhị đế Vô tướng. Kệ hai là môn nhị đế thật giả. Kệ ba là môn nhị đế hữu vô.

Kinh: Hữu vô vốn là hai… Hai đế thường bất tức.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Có ba kệ. Nói về nghĩa một, hai. Phần chính thông câu hỏi của vua. Văn có ba phần: 1. Một kệ: Lý và trí đối nhau, hiển bày phi nhất phi nhị; 2. Có một kệ. Trí và lý đối nhau, dứt bỏ chấp cùng một và hai khác; 3. Có một kệ: Trí và lý tương đối nhau. Tán thán nghĩa nhập chơn. Đây là phần một. Trong đó nửa kệ trên là nêu dụ để hiển bày pháp. Nghĩa là: cảnh chơn và tục, vốn tự hằng có, như hai sừng của con bò. Nửa kệ sau nói về phi nhất phi nhị; do bậc Thánh đạt các pháp không lìa chơn. Theo tướng mà lập lý, hữu và vô cùng như nhau.

Kinh: Tâm hiểu thấy bất nhị… phi nhị sao có thể đắc?

Giải thích: Phần hai: Trí và lý tương đối nhau. Dứt bỏ chấp hai, một. Nghĩa là: trí vô phân biệt, vì duy chỉ chứng chơn, nên không thể chấp là hai. Đạo lý được lập, do có hữu và vô riêng biệt, nên không thể chấp là một.

Kinh: Đối với hiểu thường tự một… chơn thật nhập đệ nhất nghĩa.

Giải thích: Phần ba: Trí và lý tương đối nhau: Tán thán nhập chơn nghĩa.

"Vô nhị đó": là lặp lại "nghĩa hiểu thường một" ở trên. Nghĩa là vô phân biệt trí, chứng một Như Lai, ngoài ra không có tục đế nào khác, nên bảo là thông đạt vô nhị đó, chơn nhập đệ nhất nghĩa.

Kinh: Thế đế huyễn hóa khởi… nhân duyên mà dối có.

Giải thích: Đây là phần ba. Có hai kệ rưỡi. Biện minh thế đế hư dối, kết thành nghĩa trên. Trong đó có ba phần: 1. Một kệ. Tổng hiển bày thế đế hư giả; 2. Có một kệ, chủ thể hóa và đối tượng hóa đều hư giả; 3. Nửa kệ. Kết quán, quy về người (nhân). Trong kệ đầu: câu thứ nhất là hiển bày pháp thế đế là hư giả, như huyễn khởi. Ba câu sau là nêu dụ để hiển pháp. Dụ có ba loại: 1. Hoa đốm trong hư không; 2. Bóng cây; 3. Cánh tay thứ ba. (Có bản viết là: Cái đầu thứ ba là sai)

Nhưng giải thích thí dụ này, các thuyết khác nhau: Có thuyết nói; hoa đốm hư không hoa thì có tướng nhưng không thể, dụ cho tính phân biệt. Bóng cây thì nương nhờ ở vật mà khởi, là dụ cho tính y tha. Cánh tay thứ ba; tướng và tính đều không có, dụ cho tính chơn thật, là an lập. Rồi thế đế đó, do nhân duyên, vọng chấp là có.

Một thuyết nói; cả ba dụ là dụ cho tất cả pháp không. Cho nên, các kinh Đại Phẩm v.v… hiển bày mười dụ để thuyết về các pháp không có pháp nào là chẳng không.

Một thuyết nói: Cả ba dụ là hiển bày chỗ chấp không. Cho nên kinh Giải Thâm Mật nói: Do tính của đối tượng chấp mà lập ba vô tính.

Hội Bát-nhã nói: Tất cả các pháp không có tự tính. Dựa theo tính tướng vô tự tính mà nói, cho nên biết không dứt bỏ y tha, cũng là không. Nói đầy đủ như ở chương khác.

Kinh: Huyễn hóa thấy huyễn hóa… Đế thật thì đều vô.

Giải thích: Phần hai: Hiển bày chủ thể năng hóa và đối tượng được hóa đều hư giả. Nghĩa là: "huyễn hóa thấy huyễn hóa"; đều chẳng thật có. Cho nên kinh DuyMa-cật nói: Người thuyết pháp: là không thuyết không chỉ bày. Người nghe pháp: là không nghe, không đắc. Các thuyết bất đồng, theo trên thì rõ.

Kinh: Gọi là chư Phật quán. Bồ-tát quán cũng vậy.

Giải thích: Phần ba: Kết quán, quy về người. Như trên đã nói; nghĩa một và hai là đối tượng quán của Phật, Bồ-tát.

Kinh: "Đại vương!… Hóa chúng sanh".

Giải thích: Từ đây là phần hai: Nay Phật thuyết về nghĩa của một, hai. Văn có hai phần: 1. Nói về nghĩa hai; 2. Từ "Phật và…" giải thích về nghĩa một. Đây là phần nghĩa hai.

Nghĩa là: Phật bảo đại vương, Bồ-tát Ma-ha-tát, ở trong Đệ-nhất-nghĩa-đế, vì Quốc độ chúng sanh mà thường chiếu hai đế. Do Bát-nhã, thường chiếu Chơn đế, không vướng mắc sinh tử, khác với phàm phu, do đại bi, thường chiếu tục đế. Không vướng mắc Niết-bàn, khác với nhị thừa. Đó tức là nghĩa hai.

Kinh: Phật và chúng sanh… Một mà không hai.

Giải thích: Từ đây phần hai: Giải thích về nghĩa một. Văn có ba phần: 1. Chủ thể hóa, đối tượng hóa để nói về nghĩa một; 2. Từ "tất cả pháp…" cảnh và trí tương đối nhau để nói về nghĩa một; 3. Từ "Bồ-tát…" nhiễm và tịnh tương đối nhau để nói về nghĩa một. Trong phần một: Chủ thể hóa lại chia làm ba phần: 1. Nêu; 2. Trưng hỏi; 3. Giải thích. Đây là phần nêu tông. Nghĩa là: trong phần lược đáp. Không nghe, không nói, là nghĩa một.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai Trưng hỏi. Chủ thể và đối tượng đã khác biệt, sao lại nói là một?

Kinh: Vì chúng sanh không, nên đạt được chúng sanh không.

Giải thích: Phần ba: Thích thành nghĩa một. Tùy theo chủ thể hóa và đối tượng hóa. Tướng của tục tuy khác nhau nhưng lý không, cùng là một. Do đối tượng hóa ấy mà chủ thể hóa cũng không, chủ thể và đối tượng đều không, là nghĩa một của nó.

Kinh: Vì tất cả pháp không, cho nên không không.

Giải thích: Phần hai: Cảnh và trí tương đối nhau, để nói về nghĩa một. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Trưng; 3. Thích. Đây tức là nêu tông. Chỉ nương theo một môn mà biện minh tất cả pháp, không ngoài cảnh trí đều không, nên bảo là không không.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Trưng hỏi. Cảnh và trí đã khác nhau, thì rỗng không, nên chẳng phải là một.

Kinh: Bát-nhã Vô tướng, nhị đế hư không.

Giải thích: Phần ba: Thành nghĩa một. Văn có hai phần: 1. Chánh giải thích nghĩa một; 2. Từ "Bát-nhã…" theo thắc mắc mà giải thích lại. Đây tức là phần một. Nghĩa là: Bát-nhã đối cảnh, vì không có tướng chủ thể thủ và đối tượng được thủ, cho nên không. Hai đế đối với đệ nhất nghĩa thì không có sự sai biệt, cho nên không. Do đó Bát-nhã, nhị đế, một mà không hai.

Kinh: Bát-nhã không… không có tha tướng.

Giải thích: Phần hai: Theo với thắc mắc mà giải thích lại. Nguyên do là sao? Tất cả pháp không tướng, đã rõ. Còn Bát-nhã không tướng thì không có sai biệt gì? Vì vậy mà chỉ nghiêng về nói Bát-nhã không tướng. Văn có hai phần: 1. Dựa theo các ngôi vị để hiển bày tướng không của thể; 2. Dựa theo Phật quả để hiển bày tướng không của dụng.

Đây tức là phần một.

Nghĩa là: Bát-nhã không, từ ở ngôi vị sinh tử mười hai duyên sinh, cho đến ngôi vị Niết-bàn Nhất-thiết-trí. Vì không có tướng nhân (người), nên không có tự tướng. Vì không có pháp tướng, cho nên không có tha tướng, tức lấy nhân và pháp cả hai đều không mà làm thể tướng. Kinh: Khi năm nhãn thành tựu thì thấy mà không có gì để thấy (vô sở kiến).

Giải thích: Phần hai: Là dựa theo quả Phật để hiển bày tướng không của dụng. Văn có hai phần: 1. Không có kiến dụng; 2. Không có thọ dụng. Đây là phần một.

"Khi năm nhãn thành tựu": là tổng nêu năm nhãn, ý lấy ba nhãn sau. Vì nhục nhãn và thiên nhãn chẳng phải là Bát-nhã. Khi ba nhãn thấy, thì không có tướng của chủ thể thấy (kiến), tức chính là nghĩa không.

Kinh: Hành cũng chẳng thọ… tất cả pháp cũng chẳng thọ.

Giải thích: Phần hai: Nói về không có thọ dụng.

Nói "chẳng thọ": nghĩa là không chấp trước. Chẳng thọ có bốn:

1. Hành: Nghĩa là chấp hành. 2. Bất hành: nghĩa là không chấp trước hành; 3. Phi hành phi bất hành: tức là hành vô ký; 4. Chẳng thọ tất cả pháp: Đây là nói về ba nhãn ở trong bốn cảnh đều không chấp trước, không có chấp trước dụng, cho nên thuyết là không. Vì đó đều không, cũng là nghĩa của một.

Kinh: Khi Bồ-tát chưa thành Phật… Lấy phiền não làm Bồ-đề.

Giải thích: Phần ba: Nhiễm và tịnh tương đối nhau để giải thích nghĩa một. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Trưng; 3. Giải thích. Đây là phần một. Nhiễm: là phiền não, là căn gốc của sinh tử. Tịnh; nghĩa là Bồ-đề, là gốc của Niết-bàn. Hai loại như vậy, dùng không làm tính. Vì khi chưa ngộ, mê tính Bồ-đề mà thành phiền não. Đến khi đã ngộ, giác tính phiền não tức là Bồ-đề.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai: Trưng hỏi. Nghĩa là: nhiễm và tịnh trái ngược nhau. Sao lại thành một?

Kinh: Ở đệ nhất nghĩa… do tất cả pháp như.

Giải thích: Phần ba: Giải thích thành nghĩa một. Có hai nhân: 1. Ngăn chặn; 2. Biểu hiện. Nghĩa là: trong đệ nhất nghĩa, vì không có tướng nhiễm, tịnh nên nói là vô nhị. Vì tất cả các pháp đều là "như", đó là nghĩa một, không. Theo Bổn ký thì có chín loại nghĩa để giải thích bất nhị (không hai) e nhiều nên không kể ra đây.

Kinh: Bạch Phật rằng… mà hành các pháp tướng.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Hỏi đáp phân biệt thuyết và pháp bất nhị. Trong đó có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Đây là phần hỏi. Ý hỏi: Nếu tất cả pháp là "như", trong "như" không có văn tự, thì sao chư Phật lại nương ở văn tự mà hành các pháp tướng?

Kinh: Đại vương!… Luận nghị "như".

Giải thích: Phần hai: Như Lai chánh đáp. Văn có hai phần: 1. Thuyết không: Tức là lợi tha; 2. Tu không, là tự lợi không. Phần một có ba phần:

1. Tỏ riêng mười hai bộ không.

2. Từ "là danh vị…" tổng biện minh giáo không.

3. Từ "nếu người thủ…" là hiển bày bất hành không.

Nói "pháp luân": pháp luân có hai: 1. Giáo; 2. Hạnh. Trong đó, thuyết giáo làm pháp luân.

Nói: "Pháp bổn như": là liệt kê mười hai bộ kinh. Nhưng mười hai tên gọi, các giáo bất đồng; có kinh thì chỉ dùng tên tiếng Phạm chứ chẳng phiên dịch, như kinh Thâm Mật Giải Thoát, quyển ba, gọi là; Tu-đa-la, Kỳdạ, Hòa-già-la-na, Già-đà, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-bàđà-na, Y-đế-ưu-đa-già, Đồ-đa-già, Tỳ-Phật-lược, Aphù-đà-đàn-ma, Ưu-ba-đề-xá. Có kinh văn chỉ dịch chẳng có tiếng Phạm. Như kinh Giải Thâm Mật, quyển ba: Gọi là Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Nhân duyên, Thí dụ, Bổn sự, Bổn sinh, phương quảng, hy pháp. Luận nghị. Có kinh văn thì vừa Phạm vừa dịch dùng lẫn lộn. Như kinh Pháp Hoa quyển một:

Gọi là; Tu-đa-la, Già đà, Bổn sự, bổn sinh, Vị tằng hữu, Nhân duyên, Thí dụ, Kỳ-dạ, Ưu-bà-đề-xá… Các bản khác nhau như vậy là do các thời đại phiên dịch, theo ý thích riêng. Kinh Thâm Mật Giải Thoát và kinh Giải

Thâm Mật là cùng một bản gốc mà dịch khác. Các nghĩa như vậy, có đủ ở chương khác. Nay nói "pháp bổn như…" là:

1. Âm tiếng Phạm là Tu-đa-la tiếng Hoa gọi là Pháp bổn. Có hai nghĩa:

- Lấy giáo làm gốc của lý.

- Lấy chung làm gốc riêng.

2. Kỳ-dạ: Tiếng Hoa gọi là Trùng tụng là tụng lại phần văn xuôi ở trước.

3. Hòa-già-la-na: Tiếng Hoa gọi là Thọ ký. Thọ nhận Phật ký riêng.

4. Già-đà: tiếng Hoa gọi là Kệ chẳng tụng, còn gọi là phúng tụng, không tụng phần trường hàng (văn xuôi).

5. Ưu-đà-na: Tiếng Hoa gọi là Vô vấn tự thuyết (không ai hỏi mà đức Phật tự thuyết).

6. Ni-đà-na; tiếng Hoa gọi là Nhân duyên. Còn gọi là điều phục. Do phần ấy nói chi tiết về duyên khởi chế giới, nên còn gọi là giới kinh.

7. A-bà-đà-na: Tiếng Hoa gọi là Thí dụ.

8. Y-đế-ưu-đa-già: Tiếng Hoa gọi là Pháp giới. Còn gọi là Bổn sinh. Giới; nghĩa là sinh.

9. Vì-đa-già: Tiếng Hoa gọi là Bổn sự.

10. Tỳ-Phật-lược: tiếng Hoa gọi là Phương quảng.

11. A-phù-đà-đàn-ma: tiếng Hoa gọi là Vị-tằng-hữu (chưa từng có).

12. Ưu-bà-đề-xá: Tiếng Hoa gọi là Luận nghị.

Mười hai bộ kinh như vậy, đều nói là như. Như là nghĩa không.

Kinh: Là danh vị cú… Tất cả như.

Giải thích: Phần hai: Tổng biện về giáo không.

Nếu theo Bổn ký thì có bốn nghĩa: 1. "Danh vị cú": là ứng thuyết;

2. "Âm thanh": là chánh thuyết; 3. Quả báo: là chủ thể thuyết; 4. Tất cả như: tức là y thuyết, nương theo lý chơn như đó mà thuyết pháp.

Nay giải thích không như vậy mà đây tức là phần tổng biện về giáo thể không, nhưng nêu giáo thể thì các thuyết bất đồng; có nơi nói danh, vị cú làm thể, có nơi nói là âm thanh làm thể, có nơi nói là cả hai làm thể. Có đủ như nói ở chương khác. Nay theo kinh này: danh cú văn thân và âm thanh làm thể, cho nên phẩm Quán Không trước đã nói: "Phật thuyết cú Thanh văn". Ở đây là "danh vị cú quả âm thanh": là các danh là giả, thể của thanh là thật, nương theo trên thanh thật mà giả lập các danh, nên nói là quả thanh. Các văn chữ câu ghi như vậy đều là như.

Kinh: Nếu người chấp thủ văn tự thì chẳng hành "không".

Giải thích: Phần ba: Chẳng hành không. Nghĩa là: nếu chỉ dựa theo văn tự thì chẳng ngộ "như", nghĩa là như các v.v… chẳng hành "không".

Kinh: Đại vương! Như như văn tự, tu trí mẫu của chư Phật.

Giải thích: Phần hai: Tu không. Nếu theo Bổn ký: Phần hai: Tu học không, có năm:. Chủ thể tu; 2. Đối tượng tu; 3. Bổn tính; 4. Như lý tu; 5. Kết thành.

Trí của chủ thể tu: là tu Phật mẫu như như. Vì có thể sinh ra Phật, cho nên gọi trí là mẹ (trí mẫu).

1. Đối tượng tu chính là Phật mẫu: tức là Tát-bà-nhã, tức là Nhất-thiết-trí, có ba nghĩa: 1. Tính chúng sanh: thí như hạt châu như ý, cần gì được nấy; 2. Căn chúng sanh; thí như nước trong, bóng hòa với sự trong xanh, như tâm từ bi; 3. Trí chúng sanh: Thí như hư không, đối với như như, tính không chuyển không khác, nghĩa là không thay đổi. Cầu thì sẽ đắc, là không thay đổi. Căn: là nghĩa của chủ thể sinh, có thể sinh ra từ bi. Làm lợi ích cho tất cả chúng sanh.

2. Lấy bổn tính làm mẹ: Khi chưa đắc Phật, thì lấy hiện Phật làm trí mẫu. Như khi đắc Phật, tức Tát-bà-nhã, là Nhất-thiết-trí. Khi chư Phật chưa thành Phật, gọi là tự tính, tức là ẩn làm Như Lai tạng. Sau khi tu đắc Phật, giải thoát đạo tính hiển rõ thành là pháp thân, tức Tát-bà-nhã. Giác hiển bổn tính gọi là tu để hóa độ; vì hóa độ, hóa có thể hiển bổn Phật, nên gọi là mẹ trí (trí mẫu) "chưa đắc là tính": là vì khi chưa đắc thì chỉ có bổn tính cho nên gọi là tính Phật tính. Nếu trong đạo dẫn xuất ra Phật tính, quả tức Niết-bàn. Tức là: đến quả Phật tính. Vị lai đắc thông cả hai tính, đã đắc chỉ là tính Niết-bàn. Tam thừa có ba loại tam thừa: 1. Nhất thừa tam thừa: Thọ vương Phật là đại thừa trong tiểu, Duyên giác là trung. Thanh văn là tiểu trong tiểu, do cùng quán tứ đế. 2 Đại thừa tam thừa: Một là Thanh văn Duyên giác, chuyển hướng quán như, đắc nhân vô ngã không là hai Bồ-tát địa tiền đồng quán như đắc nhập kiến vô ngã không, cho nên đại. Nếu cùng đối chiếu nhau thì; hồi Thanh văn Duyên giác chuyển hướng đại làm nội, đại thừa nội. Thanh văn Duyên giác, tịch tĩnh trong tiểu là ngoại, là ngoài đại thừa. 3. Sau sơ địa là ba. Sơ địa gọi là kiến. Hai địa đến địa thứ bảy là tu. Địa thứ tám đến Phật địa là địa cứu cánh. Nếu lấy đại, mà so với tiểu thừa thì đồng quán tứ đế, đều gọi là tiểu. Nếu tiểu mà đối chiếu với đại thì cùng duyên với như như, đều gọi là đại. Căn cứ vào tu tập thì tuy có ba thừa, nhưng xét về bổn tính, đều là bất sinh diệt. "Tất cả chúng sanh, đều lấy đó làm tính giác" là kết chung cả nghĩa của bổn tính.

3. Như lý tu: Văn nói: "Nếu Bồ-tát vô thọ…": có năm Ba-la-mật:

1. Vô thọ vô phân biệt nên Ba-la-mật. Vô thọ có hai Phàm phu không thể thông đạt, cũng gọi là vô thọ, vì không thọ nhận, vướng mắc. Còn Bồ-tát thì thông đạt mà không thọ nhận vướng mắc, do chủ thể chẳng thọ; 2. Ba-la-mật vô văn tự, vô ngôn ngữ: Giả nói văn tự, lý xét thì không có; 3. Ba-la-mật ly văn tự, vô nhị; 4. Ba-lamật phi phi văn tự, vô quả: Bồ-tát tu giải, có thể lìa văn tự, đắc giải thoát. Giải đó là quả, là hiểu rõ phi văn tự. Hiểu đó cũng rỗng không, nên bảo là phi phi văn tự; 5. Ba-la-mật vì tu văn tự mà sáng tỏ nhất vị: Chứng chơn tính là tối thắng. Nên dịch Ba-la-mật là tối thắng cứu cánh.

5. Kết Hộ Phật quả: Hộ thập địa, hộ nhân. Lợi tha hộ hóa chúng sanh.

Nay giải thích không như vậy: Phần hỏi đáp phân biệt thuyết và pháp bất nhị. Văn có hai phần: 1. Hỏi đáp phân biệt thuyết và pháp bất nhị; 2. Từ "Đại vương!…" theo phần thuyết pháp trên, tu các trí mẫu. Ở trên đã giải thích xong về không.

Từ đây là phần hai. Tu các trí mẫu. Văn có ba phần: 1. Rộng biện minh tu tập; 2. Từ "tam thừa…" dựa theo thắc mắc mà giải thích lại. 3. Từ "đại vương!…" kết, tu thành.

Trong phần tu tập. Văn có hai phần: 1. Nói về trí mẫu ở ngôi vị nhân; 2. "Tức thành là thể của Tát-bà-nhã (Nhất-thiết-trí)"; quả của trí mẫu. Ở trong phần nhân vị. Văn có hai phần: Nói về tu tính trí mẫu. 2. Từ "tất cả …" nói về lý tính trí mẫu. Hai tính như vậy, có thể sinh ra Phật trí, nên bảo là trí mẫu. Đây là phần 1. Nói về tu tính trí mẫu. Nghĩa là; từ địa tiền đến ngôi vị Kim cang, nương theo giáo không mà tu tập, sinh ra quả Nhất-thiếttrí, thọ dụng thân, tức là sinh nhân. Nếu so với pháp thân, tức là liễu nhân. Hoặc cũng có thể theo chỉ thị của như, cũng có thể hiển bày mười hai văn tự phi nhất. Vì vậy lặp lại là văn tự như như. "Tu các Phật trí mẫu"; là trong các ngôi vị, các hạnh đã tu có thể sinh ra các trí Phật, cho nên bảo là trí mẫu của chư Phật.

Kinh: Tính căn của tất cả chúng sanh vốn có trí mẫu.

Giải thích: Từ đây là phần 2-Nói về lý của tính trí mẫu. Nghĩa là; ở vị trí các nhân là chơn như Phật tính, có thể hiển bày pháp thân trí quả bổn giác nên nói là "tính căn vốn có trí mẫu". Tức là chánh nhân, nếu đối chiếu với thọ dụng, tức là y nhân.

Kinh: Tức là thể của Tát-bà-nhã.

Giải thích: Hiển bày quả trí mẫu. Nghĩa là; Tát-bà-nhã (Nhất-thiết-trí) là căn bản của trí chư Phật, còn gọi là trí mẫu.

Kinh: Chư Phật chưa thành Phật… Đã đắc thành là Tát ba nhã.

Giải thích: Đây là phần hai Theo thời thuộc về. Nghĩa là; chư Phật chưa thành Phật, lấy đương Phật làm trí mẫu. Dùng pháp thân, báo thân làm trí mẫu.

"Chưa đắc, là tính": là tại trong địa vị nhân tu, thực hành tính lý tính, lấy đó làm Phật tính.

"Đã đắc, là Tát-bà-nhã": là trong địa vị đạt được quả. Pháp thân bổn giác, báo thân diệu giác, là Nhất-thiết-trí. Kinh: Ba thừa … lấy đó làm tính giác.

Giải thích: Từ đây là phần hai Dựa theo thắc mắc mà giải thích lại.

Nghĩa là văn trước nói: Tu trí mẫu chư Phật, hoặc nói; tính căn bổn trí mẫu, tướng của chúng khó hiểu quá, vì vậy mà nay giải thích lại một lần nữa. Văn có hai phần: 1. Giải thích về lý tính; 2.Từ "Bồ-tát…" giải thích lại về hành tính. Đây là phần một.

Nghĩa là; trước đã nói "tính căn bổn trí mẫu" là trong thân tam thừa, lý tính Bát-nhã, bất sinh bất diệt, tự tính thường trú. Do đó, tất cả chúng sanh lấy đó làm Phật tính. Tức là dùng đoạn văn này: Tất cả chúng sanh đều có chơn như, Phật tính. Hoặc có thể Bồ-tát tam thừa, đều gọi là giác, dùng thật tướng Bát-nhã đó làm giác tính tam thừa.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai: Giải thích lại hành tính. Nghĩa là: trước đã nói; như như văn tự, tu các trí mẫu, nhưng chưa thể hiển bày tu tướng sai biệt. Cho nên nay giải thích lại. Văn có hai tiết: 1. Giải thích như như văn tự"; 2. Từ "Tu vô tu…" giải thích về tu các trí mẫu. Nghĩa là: nếu Bồ-tát vô thọ, cho đến phi phi văn tự. Gọi là như như văn tự. Nhưng bốn câu này, các thuyết bất đồng.

Một thuyết nói: "Vô thọ" là câu tổng. Bồ-tát không chấp văn tự, nên nói là chẳng thọ. "Vô văn tự" là sau có ba câu, giải thích riêng về chẳng thọ: "Chẳng thọ vô văn tự"; là do không chấp trước vô văn tự. "Ly văn tự" là nghĩa phi văn tự. nếu văn tự ứng với phi văn tự, nên nói lời này "chẳng thọ ly văn tự". Nếu phi phi văn tự thì ứng với phi phi văn tự, vì vậy mà nói lời này "chẳng thọ phi phi văn tự".

Một thuyết nói: "Chẳng thọ vô văn tự" là không thọ nhận những văn tự đã được chấp. "Chẳng thọ ly văn tự" là không thọ nhận y tha. "Chẳng thọ phi phi văn tự" là không thọ tính viên thành thật nơi văn tự.

"Tu vô tu văn tự…": là giải thích về tu các trí mẫu Phật trên. Nghĩa là; Bồ-tát tu hành, không tác niệm này: Ta là chủ thể tu, văn tự là đối tượng. Mới đắc chơn tính Bát-nhã Ba-la-mật.

Kinh: Đại vương!… Là như vậy.

Giải thích: Phần ba: Kết-Những điều tu hành. Nghĩa là: nếu Bồ-tát tu tập như trên. Có thể thành ba ích; là hộ Phật, hộ hóa, hộ hạnh mười địa.

Kinh: Bạch Phật rằng… Là vô lượng sao?

Giải thích: Phần ba: Hỏi đáp phân biệt pháp môn bất nhị.

Nếu theo Bổn ký thì văn có ba phần: 1. Chánh nói pháp môn bất nhị; 2. Tán thán đức của kinh; 3. Đặt tên kinh. Trong phần một: Trước là hỏi, sau là đáp. Đây là vương hỏi. Hỏi về ba điều:

1. Hỏi căn: Căn có hai:

a. Phật tính làm căn.

b. Trung đạo làm căn.

2. Hỏi hạnh: Tức là tám vạn bốn ngàn các môn ấm nhập.

3. Hỏi pháp môn: Có hai:

Pháp môn phương tiện: Vô lượng tùy chúng sanh phẩm tu học.

a. Pháp môn chánh: Thường tu bất nhất, bất nhị. Điều hỏi thứ nhất là hỏi lý. Thứ hai là hỏi hành. Thứ ba là hỏi giáo.

Nay giải thích không như vậy: Đây là đoạn thứ ba trong năm đoạn bên trong phẩm này. Hỏi đáp phân biệt về số lượng pháp môn. Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Đây là phần hỏi.

Nghĩa là: vua hỏi; định có tà, chánh v.v…, vô lượng phẩm căn, chúng sanh thì có lợi, độn, tức có vô lượng. Hoặc các tham, nạn. Hoặc mê các ấm, có vô lượng tâm hành. Kinh đã thuyết các pháp quán môn, là một hay là hai, hay là vô lượng?

Kinh: Đại vương!… là có vô lượng.

Giải thích: Phần hai: Như Lai chánh đáp. Văn có ba phần: 1. Tùy hỏi lược đáp; 2. Từ "nếu Bồ-tát…" rộng giải thích; 3. Từ "chúng sinh phẩm phẩm…" kết. Văn có hai phần: 1. Nói về môn quán; 2. Nói về pháp của đối tượng quán. Đây tức là phần một: Nghĩa la: môn quán đã thuyết, chẳng chỉ là một, hai, mà có vô lượng.

Kinh: Tất cả pháp, cũng phi hữu tướng, phi phi Vô tướng.

Giải thích: Phần hai: Nói về pháp sở quán, chẳng chỉ có một hay hai. Cho nên nói là "cũng". Nhưng giải thích đoạn văn này, các thuyết bất đồng.

Có thuyết nói: "Cũng phi hữu tướng": là chỉ riêng phá hữu tướng. "Phi phi Vô tướng": là lại phá hữu tướng một lần nữa.

Theo Bổn ký nói: Tướng bất khả đắc, cho nên nói là phi hữu tướng. "Phi phi": là phi Vô tướng. "Tướng kia": Là tướng với pháp là một mà cho tướng khác nhau. Tướng Bát-nhã và pháp là một. Khi pháp chưa thành tựu thì ai cho tướng là một. Nếu đã thành tựu thì không có tướng đối tượng.

Có thuyết nói: Phải làm bốn trường hợp. Nghĩa là: phi hữu tướng. Phi Vô tướng. Phi phi hữu tướng. Phi phi Vô tướng. Vì lược bớt mà chỉ nói trường hợp đầu và trường hợp sau.

Nay giải: Theo trên thì có ba câu: 1. Phi hữu tướng. Nếu vậy, phải là Vô tướng? Nên bảo là phi Vô tướng. Nếu chẳng vậy thì phải là phi Vô tướng? Nên bảo là phi phi Vô tướng. Ở đây chỉ nêu hai trước và sau, vì theo đó thì hiển hai câu ở giữa, cho nên chỉ là hai.

Kinh: Nếu Bồ-tát… Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Rộng giải thích. Văn có ba phần:

1. Nương theo hai đế, hiển các pháp tướng; 2. Nương theo ba đế, hiển các pháp tướng; 3. Lấy ba giả để biện minh các pháp là không. Đây là phần một.

Nghĩa là: nếu Bồ-tát quán chúng sanh một hay hai, là tục đế. Không thấy một hay hai là Chơn đế. Nay ở đây là nói về tục tức là chơn. Nói "một, hai": đó là Đệ-nhấtnghĩa-đế.

Kinh: Đại vương! Hoặc hữu hoặc vô, tức là thế đế.

Giải thích: Theo thật thì hữu, vô tức là tục đế. Phi hữu phi vô tức là Chơn đế. Nay là chánh hiển quán tục, cho nên nói hữu vô tức là thế đế. Hoặc có thể hữu: là sắc đế, tâm đế. Vô là không đế.

Kinh: Lấy ba đế gồm thâu tất cả pháp.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Dựa theo ba đế để nói về tất cả pháp. Văn có ba phần: 1. Tỏ ba đế gồm thâu tất cả pháp; 2. Kê tên ba đế; 3. Dẫn thuyết chứng thành. Đây là phần một.

Kinh: Không đế, sắc đế, tâm đế.

Giải thích: Phần hai: Kê tên ba đế.

Ba đế là: 1. Không đế: Là Đệ-nhất-nghĩa-đế; 2. Sắc đế: Là năm căn… 3. Tâm đế: Là sáu thức; nhãn, nhĩ… Trong nhị đế môn: đế đầu là chơn. Hai đế sau là tục. Phân biệt như trong Bổn ký.

Kinh: Cho nên Ta nói tất cả pháp không ra ngoài ba đế.

Giải thích: Phần ba: Dẫn thuyết chứng thành.

Kinh: Ngã nhân… tất cả pháp không.

Giải thích: Phần ba: Theo ba giả để nói về tướng không. Ngã, nhân, tri kiến, danh giả nên không. Năm thọ ấm, vì thọ giả, nên không. Tất cả pháp, pháp giả nên không.

Kinh: Chúng sinh phẩm phẩm… phi nhị pháp môn.

Giải thích: Phần ba: Kết đáp. Bổn ký nói: "Lý xét thì chẳng một chẳng hai, tục lại vô lượng": là không đúng. Vốn hỏi có ba: Là một, hay là hai, hay là vô lượng? Đều theo nghĩa tục.

Kinh: Đại vương! … không hai không khác.

Giải thích: Từ đây là phần bốn: Tán thán về đức của kinh. Văn có ba phần: 1. Nói về bảy Phật cùng thuyết giống nhau. Khuyến chúng thọ trì; 2. Từ "kinh này…" tỏ nhiều Phật đồng thuyết. Tán thán kinh khuyến trì; 3. Từ "huống nữa lại…" theo nay Phật thuyết, khuyên chúng thọ trì. Đây tức là phần một. Văn có hai tiết: 1. Đồng thuyết; 2. Từ "các ông…" khuyên chúng thọ trì.

Kinh: Công đức của kinh này… không thể cùng tận.

Giải thích: Phần hai: Nhiều Phật đồng thuyết. Khuyên chúng thọ trì. Văn đã rõ ràng, nên không nói thêm.

Kinh: Huống nữa… Đắc Phật không lâu.

Giải thích: Phần ba: Theo nay Phật thuyết. Khuyên chúng thọ trì. Văn có hai phần: 1. Khuyên chúng thọ trì; 2. Thời chúng đắc ích. Đây là phần một.

Kinh: Lúc ấy, đại chúng… Tính thập địa.

Giải thích: Phần hai: Chúng bấy giờ được lợi ích. Nếu theo Bổn ký: Ba không: là ba giả không, quán thuộc địa tiền. Đại không: là đăng địa. Hoặc có thể ba không là không, Vô tướng, vô nguyện.

Kinh: Đại vương!… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần năm: Tán danh khuyên thọ trì. Văn có ba phần:

1. Nêu danh khuyên thọ trì; 2. Trùng tán thán danh khác; 3. Nêu dụ khuyên thọ trì. Đây là phần một.

Kinh: Kinh này lại còn có… Tất cả thân chúng sanh. Giải thích: Phần hai: Tán thán các tên gọi khác. Tên gọi có bốn loại:

1. Hộ quốc; 2. Pháp dược; 3. Hộ xá; 4. Hộ thân. Kinh: Tức Bát-nhã này… cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần ba: Nêu dụ khuyên thọ trì. Văn có ba phần: 1.

Pháp thuyết; 2. Nêu du; 3. Từ "các ông…" nêu pháp đồng dụ.

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Chánh thích văn.

Về phần giải thích tên phẩm, nếu theo Bổn ký thì quốc độ có hai loại: 1. Thế gian: Nhị thừa phàm phu; 2. Xuất thế: Mười tín đến mười địa. Giặc thì có hai loại: 1. Ngoài: cướp trộm, cầm thú,… 2. Trong: là phiền não. Hộ: có hai loại: 1. Ngoài: tức là trăm bộ quỉ thần; 2. Trong là trí tuệ. Hoặc trong hoặc ngoài đều là thần lực của chư Phật, Bồ-tát.

Nay giải thích: Bát-nhã có thể bảo hộ quốc độ của người, trời cho nên gọi là hộ quốc.

Kinh: Bấy giờ… Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Giải thích theo văn.

Có thể hộ quả Phật và hành thập địa, đều là nội hộ. Hộ các xứ của trời, người là ngoại hộ. Ở trên đã giải thích xong hai loại nội hộ. Đây là phần hai: Nói về phẩm Hộ quốc.

Nếu theo Bổn ký thì chia làm bốn phần: 1. Hành pháp; 2. Chủ thể hộ; 3. Dẫn chứng; 4. Đắc ích.

Phần hành pháp có ba phần:

1. Bảo lắng nghe.

2. Khuyên thọ trì.

3. Thuyết hộ.

Đây đúng là hai phần trước. Như kinh đã rõ.

Nay giải thích không như vậy: Trong cả phẩm này, văn có ba phần: 1. Bảo nghe, khuyên thọ trì; 2. Từ "khi quốc độ…" rộng giải thích về phương pháp hộ; 3. Từ "bấy giờ, Phật Thích ca…" chúng đắc ích. Đây là phần một. Bảo hãy nghe, hứa sẽ nói. Khuyên thọ trì, như kinh đã rõ.

Kinh: Khi quốc… giặc đến phá nước nhà.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Rộng giải thích về phương pháp hộ đất nước. Trong đó có ba phần: 1. Rộng giải thích hộ pháp; 2. Từ "Đại vương! Ngày xưa…" Dẫn chuyện xưa để làm chứng cho nay; 3. Từ "Đại vương!

Mười sáu…" kết, nêu bày khuyên thọ trì.

Trong phần một lại chia làm ba phần:

1. Hộ quốc.

2. Từ "Đại vương! Không chỉ…" hộ phước.

3. Từ "Đại vương! Không những chỉ…" hộ nhiều nạn. Ở trong phần hộ quốc, văn lại có bốn phần:

- Hộ thời.

- Hộ pháp.

- Từ "nước ông…" nói về có thể hộ thể.

- Từ "Đại vương!…" hộ nạn. Đây là phần một-Hộ thời.

Căn cứ theo thật thì hộ quốc là chung cả mọi thời mọi lúc, vì để hiển bày lúc cầm kíp mà nói là kiếp thiêu… để đối trị lại mà thuyết phương pháp hộ quốc. Nói "kiếp thiêu": do làm tổn hại quốc gia, gọi là kiếp thiêu. Chẳng phải là đại hỏa tai trong tam tai.

Kinh: Phải thỉnh trăm tượng Phật… trăm tượng La hán.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Hộ pháp. Có ba phần: 1. Thỉnh phước điền; 2. Cúng dường; 3. Thuyết thời.

Trong phần phước điền, văn có ba phần:

1. Phước điền chư Thánh.

2. Giảng hội thính chúng.

3. Thỉnh sư giảng thuyết. Đây là phần một.

Nghĩa là thân thật tam tôn trên thì khó chiêu tập. Vì để chung cho các đời sau, phước điền đầy đủ, nên nói là đặt trăm tượng.

Kinh: Trăm chúng Tỳ-khưu… Bảy chúng cùng nghe.

Giải thích: Phần ba: Thính chúng ở giảng hội. Có ba: 1. Trăm Tỳ-khưu; 2. Trăm bốn đại chúng; 3. Trăm bảy chúng.

Nói: "Trăm Tỳ-khưu": có thuyết nói: trước mỗi một tòa đều có trăm vị Tỳ-khưu, như vậy thành là một vạn người, nếu số người không đủ thì giảng pháp bất thành. Nay nói: Trăm là trước mỗi một tòa là một vị Tỳ-khưu kiểm hiệu đồ chúng, cho nên nói là trăm.

Nói "bốn đại chúng": là Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Cận sự nam, Cận sự nữ. Có thuyết nói: Giảm lược bớt Sa di, Sa di ni, Thức-xoa-ma-ni. Nay nói là gồm thâu trong chúng Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni.

Nói "bảy chúng": là nói bốn chúng trên và ba chúng như Sa di,… Bảy chúng là chúng vãng lai.

Hỏi: Trước mỗi một tòa đều có sáu loại, đều có số trăm. Đó là có ý gì?

Đáp: Là vì để trang nghiêm hội thuyết pháp.

Hỏi: Bốn chúng thì gồm cả Tỳ-khưu, sao còn cần phải nói riêng trăm Tỳ-khưu nữa?

Đáp: Để hiển trong mỗi một hội, cần định một người lên tòa, cho nên nói là trăm.

Hỏi: Bốn đại chúng và bảy chúng khác nhau như thế nào?

Đáp: Có người nói vì phần riêng biệt cho nên nêu ra, nhưng chưa chắc là có sự riêng biệt. Hoặc có thể là bốn đại chúng đều là chúng đại thừa. Nói là "bảy chúng" là chúng Thanh văn.

Kinh: Thỉnh trăm pháp sư… giảng Bát-nhã Ba-lamật.

Giải thích: Thỉnh sư giảng thuyết.

Kinh: Trăm sư tử… cúng dường Tam bảo.

Giải thích: Phần ba: Tỏ về pháp cúng dường. Chia làm ba phần: 1. Ba sự cúng dường Tam bảo: Là đèn, hương và hoa. Nói "Trăm đèn": là trước mỗi một tòa đèn đều có một đèn, một hương, một hoa. Nếu không vậy thì liền thành vạn hoa, việc đó khó thành.

Kinh: Ba y, mười vật cúng dường pháp sư.

Giải thích: Phần hai: Riêng cúng pháp chủ.

Nói "mười vật" là: Đây có hai giải thích. 1. Tướng truyện nói: Y áo tức là ba, bát là bốn, tọa cụ là năm, dao cạo là sáu, dao là bảy, bọc lọc nước là tám, bọc đựng bát là chín, ống kim là mười. 2. Ngài Tam Tạng Tịnh nói: "Ba y mười vật" là: do sự sai lầm của người dịch kinh, tách ra làm hai phần, tách số ba và số mười ra thành hai phần. Đó là nghĩa của "mười ba tư cụ (đồ dùng)". Nói "mười ba tư cụ": Là 1. Tăng già lê; 2. Ôn-đản-la-Tăng-già; 3. An-đản-bà-sa; 4. Ni-sát-thiền-na; 5.

Ni-đại-san-na; 6. Phó-nê-đại-san-na (quần phụ); 7. Tăng-kiếp-bì-ca; 8. Phó-tăng-cước-bì-ca; 9. Bột-lý-sakì-ca (áo mưa); 10. Ca-da-bảo-chiết-na (khăn-lau-thân); 11. Mục-khước-bảo chiết-na (khăn lau mặt); 12 Kê-xábát-lạc để-yết-lạt-kha (khi cạo tóc, che chùi tóc); 13. Kiệm đậu bát-để-xa-thiền-na.

Tuy có hai giải thích: Nhưng ở đây vì chưa rõ bản tiếng Phạm kinh Nhân vương là số mười, trăm hay là chữ thập.

Kinh: Tiểu Phạm, cơm trưa, cũng lại đúng thời.

Giải thích: Phần ba: Đồ ăn, thức uống cúng dường pháp chủ. Hoặc có thể cúng chung cả đại chúng.

Kinh: Đại vương! Một ngày hai thời giảng kinh. (Có bản nói: Giảng tán kinh này).

Giải thích: Phần ba: Chia thời gian giảng kinh. Giảng thì phải nhờ tịnh lực, cho nên theo hai buổi ăn, giảng cũng phải hai thời.

Kinh: Trong quốc độ của ông… hộ quốc độ ông.

Giải thích: Phần ba: Nói về chủ thể hộ.

Nếu theo Bổn ký: "Trăm bộ thần" là: Xuất từ nghĩa của Kim nhãn tiên nhân. Tiên nhân này thống lãnh quỉ thần, căn bản có mười xứ, triển khai thành một trăm. Mười là:

1. Đại thần: Có thể hóa ra các thần.

2. Đồng tử thần: Là con trai của Ma-hê-thủ-la. Ban đêm lẻn vào phòng của tiên, phép tắc của tiên là không giết trẻ con. Tiên nhân mới ghi nhận là năm mười sáu tuổi, thành đại tiên thì chết. Lời nói đó đã chẳng không, điều đó không thể tránh được. Ma-hê-thủ-la bèn trụ giữ đứa con trai này mãi mãi mười bốn tuổi. Đứa bé dùng trẻ con làm bè nhóm mình, hại trẻ con ở thế gian. Nếu qua mười lăm tuổi thì đứa bé không còn bị hại nữa.

3. Mẫu thần: Tức là nhũ mẫu của đồng tử;

4. Phạm thần: Trên mặt có ba mắt, có Nhất-thiết-trí. Nếu mất đồ mà không lấy lại được thì chú tiểu nhi, chú trên mặt tiểu nhi sinh thêm một mắt. Đến lúc lấy được vật, trở lại mất mắt.

5. Thần đầu voi: Làm chướng ngại tất mọi mong nguyện, việc thiện ác không thành tựu.

6. Long thần: Nhiều tham sân.

7. Tu la thần: Có thể trói người, trời. Lại còn có hai đứa con kiện nhi.

8. Sa thần: Ăn thịt kẻ phước đức mỏng. Thân như đất cát.

9. Dạ xoa thần: Có đại thần thông.

10. La sát thần: Dịch là cực nạn.

Kinh: Đại vương! Quốc độ… có nhiều giặc nổi.

Giải thích: Phần bốn: Nói về các nạn được hộ. Văn có ba phần: 1. Nạn các quỉ; 2. Nạn ba tai; 3. Từ "tất cả các nạn…" đối nạn nói về hộ. Đây tức phần 1. Lược gồm tám nạn: 1. Quỷ loạn; 2. Vạn người loạn; 3. Giặc đến cướp nước; 4. Trăm họ chết chóc; 5. Vua tôi thị phi phải trái;

6. Trời đất hiện quái lạ; 7. Tinh tú thất độ; 8. Nhật nguyệt thất độ, có nhiều giặc nổi. Các nạn như vậy, không thể kể hết.

Nói: "Nhị thật bát tú": là như kinh Đại Tập phần Nguyệt Tạng, quyển mười, phẩm Tinh Tú Nhiếp Thọ nói: Một phương có bảy tú (sao) bốn phương hợp có hai mươi tám tú. Bảy tú ở Đông phương là: Giác, cang, để, phòng, tâm, vỹ, kỳ. Nam phương bảy tú là: tỉnh, quỉ, liễu, tinh, trương, dực, chẩn. Tây phương bảy tú là; khuê, lâu, vị, ngang, tất, tử, tham. Bắc phương bảy tú la: đẩu, ngưu, nữ, hư, nguy, thất, bích. Lại nữa, phần Nguyệt Tạng, quyển mười, hơi khác với trên, e rườm không kể.

Kinh: Đại vương!… Tất cả các nạn.

Giải thích: Phần hai: Nạn về hỏa, thủy, phong…

Kinh: Cũng nên giảng kinh này. Dùng pháp đã nói như trên. (Hoặc có bản nói: Giảng đọc kinh này.)

Giải thích: Đây là phần hai: Nói về pháp hộ. Văn có ba phần: 1.

Nêu; 2. Giải thích; 3. Theo pháp hộ như trên. Như văn đã rõ.

Hỏi: Nhà giàu sang còn sắp đặt giảng. Nhà nghèo hèn làm sao có thể làm thành được?

Theo các thắc mắc sau, đúng là có các trở ngại đó, nếu dựa theo thắc mắc ấy thì giảng đọc kinh này, lấy việc đó làm chính.

Kinh: Đại vương! Không những chỉ hộ phước, cũng còn hộ cho nhiều nạn.

Giải thích: Phần ba: Nói về hộ các nạn. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Thích; 3. Chuẩn theo. Đây là phần nêu. Kinh: Như tật bệnh khổ nạn… Tất cả vô lượng khổ nạn.

Giải thích: Phần hai: Giải thích các nạn. Nghĩa là: các tật bệnh… các gông cùm. Quả báo nạn. Hoặc bốn trọng nghiệp, năm nghịch nhân, tám nạn, sáu đạo nghiệp nạn, tất cả vô lượng quả khổ nạn.

Nói "bốn trọng" là bốn tội dâm, đạo, sát sinh, vọng ngữ.

Hỏi: Giảng đọc kinh này có thể hộ bốn trọng nghiệp không? Nếu có thể hộ thì đúng là chẳng mất giới. Nếu đã mất giới thì làm sao hộ được?

Giải: Các tông bất đồng: Nếu theo tiểu thừa, tự có hai thuyết. Như luận Câu-xá quyển mười lăm, nói về giải thích của ba sư:

1. Tông Tát-bà-đa, giới biệt giải thoát, do xả năm duyên. Nên tụng nói:

Xả biệt giải điều phục
Do vì xả mệnh chung
Và hai hình điều sinh.
Đêm tận hiện căn đoạn.
Khi phạm tội căn bổn
Không xả giới xuất gia.

Vì sao? Chẳng phạm một biên, tất cả luật nghi phải xả khắp.

Nhưng có hai tên gọi; là trì, giới phạm. Như người giàu có lúc nợ người khác, vẫn gọi là người giàu và người mắc nợ. Nếu với những điều đã phạm thì phát lộ sám hối trừ bỏ, gọi là đầy đủ Thi la, không gọi là phạm giới. Nếu trả nợ xong, chỉ gọi là người giàu.

2. Các sư Kinh Bộ nói: Sáu duyên xả và giới Tỳkhưu biệt giải thoát. Nghĩa là với năm điều trên, gia thêm phạm trọng.

3. Bộ pháp mật nói: Bảy duyên xả biệt giải thoát giới. Nghĩa là với sáu duyên trên thêm chánh pháp diệt.

Kinh Bộ chất vấn Tát-bà-đa: Nếu vậy thì với duyên gì mà Bạc-già-phạm (đức Phật nói): Người phạm bốn trọng, không gọi là Tỳ-khưu, không gọi là Sa môn, chẳng phải là con của Thích ca. Phá thể của Tỳ-khưu, hại tính của Sa môn. Hoại diệt, đọa lạc mà đặt ra những tên gọi khác?

Tông Tát-bà-đa đáp: Theo thắng nghĩa Tỳ-khưu mật ý nói: Khi chánh pháp diệt, không đắc mới, chẳng xả giới cũ.

Nay theo đại thừa: các giáo bất đồng: Nếu theo luận Du già: phạm trọng thì mất giới, không nói đến hộ pháp. Quyển bốn mươi nói: Do hai duyên mà xả tịnh giới luật nghi của chư Bồ-tát: Một là: dứt bỏ đại nguyện vô thượng chánh đẳng Bồ-đề. Hai là: hiện hành thượng phẩm triền, phạm tha thắng xứ, pháp tạng. Các Bồ-tát, tuy lại chuyển thân khắp mười phương giới, ở mọi sinh xứ, nhưng không xả Bồ-tát tịnh giới luật nghi, do Bồ-tát đó không xả đại nguyện vô thượng Bồ-đề, cũng không hiện hành thượng phẩm triền, phạm tha thắng xứ pháp. Lại nữa, quyển năm mươi ba nói:

Hỏi: Có mấy nhân duyên, luật nghi Tỳ-khưu, thọ rồi lại xả.

Đáp: Hoặc do xả những học xứ, hoặc do phạm tội căn bổn, hoặc do hình mất, hai hình sinh, hoặc do thiện căn bị đoạn dứt, hoặc do dứt bỏ chúng đồng phân thì luật nghi Tỳ-khưu đã thọ rồi lại xả. Nếu chánh pháp hủy hoại, chánh pháp ẩn mất, tuy không có thọ mới luật nghi Tỳkhưu nhưng trước đã thọ đắc, phải biết là không xả.

Nếu theo kinh Phổ Hiền Quán nói: Nếu Thanh văn hủy phá tam quy ngũ giới, tám giới, Tỳ-khưu giới, Tỳkhưu ni giới, Sa di giới. Sa di ni giới, Thức-xoa-ma-nigiới, và các oai nghi, do ngu si bất thiện, tâm ác tà, mà thường phạm các giới và các oai nghi. Nếu muốn trừ diệt, khiến không có lỗi lầm, trở lại làm Tỳ-khưu có đủ pháp Sa môn thì phải siêng năng tu tập, đọc kinh điển phương đẳng, suy tư đệ nhất nghĩa thâm diệu pháp không, khiến tuệ "không" tương ứng với tâm. Phải biết người đó, ở khoảnh khắc giữa mỗi niệm, tất cả tội cấu mãi mãi hết sạch không còn dư sót. Đó gọi là có đủ giới pháp của chư Sa môn. Có đủ các oai nghi. Theo kinh phương đẳng và kinh này, cũng được sinh trở lại. Cho nên, kinh Đại phương đẳng Đà-la-ni, quyển một nói: Nếu hai mươi bốn giới Bồ-tát, mười giới Sa-di, giới Thức-xoa, Sa-di-ni, giới Tỳ-khưu, giới Tỳ-khưu ni, các giới như vậy, nếu phạm mỗi một các giới, phải nhất tâm sám hối, nếu không sinh trở lại, thì không bao giờ có việc đó, ngoại trừ không chí tâm, hoặc phạm năm tội nghịch, như thân bị ghẻ trắng, nếu không chữa lành bệnh, thì không có việc đó. Lại nữa, quyển bốn nói: Nếu có Tỳ-khưu, hủy bốn trọng cấm, chí tâm nhớ niệm kinh Đà-la-ni này, tụng một ngàn bốn trăm biến, tụng một ngàn bốn trăm biến rồi sám hối, thỉnh một Tỳ-khưu làm người tác chứng. Tự trình bày tội mình trước hình tượng cứ như vậy thứ tự, trải qua tám mươi bảy ngày, ân cần sám hối rồi, các giới căn đó nếu không sinh trở lại, thì không có việc đó. Người kia trong tám mươi bảy ngày đã ân cần sám hối rồi, nếu không kiên cố nơi đạo quả Bồ-đề vô thượng thì cũng không có việc đó.

Nếu theo kinh Niết-bàn thì vừa xả vừa không xả. Nếu mất thọ lực thì gọi là xả, không mất thọ thể thì gọi là không xả. Giống như hạt giống bị cháy có thể mà không có lực. Cho nên kinh Niết-bàn quyển ba mươi mốt nói: Này Thiện nam! Ta thường nói trong kinh như vậy: nếu có Tỳ-khưu, phạm bốn trọng rồi, không là Tỳ-khưu, là phá Tỳ-khưu, là mất Tỳ-khưu, không còn sinh ra giống mầm thiện, thí như hột giống bị nướng, không còn sinh ra quả trái, như đọt cây Đa-la bị chặt thì không sinh quả trái. Tỳ-khưu phạm trọng; cũng lại như vậy. Các đệ tử ta nghe nói vậy rồi, không hiểu ý ta, xướng; Như Lai nói chư Tỳ-khưu đã phạm trọng cấm, mất giới Tỳ-khưu. Này thiện nam! Ta thường nói trong kinh, vì Thuần-đà mà thuyết bốn loại Tỳ-khưu.

1. Cuối cùng đạt đạo.

2. Lạc đạo.

3. Thọ đạo.

4. Làm nhơ nhớp đạo.

Người phạm bốn trọng đức là làm nhơ nhớp đạo. Các đệ tử Ta, nghe nói vậy rồi, xướng, Như Lai nói, Tỳkhưu phạm bốn trọng rồi, không mất giới cấm.

Các tông như vậy, phải làm thành bốn trường hợp:

1. Hoàn toàn là không xả: Như Tát-bà-đa.

2. Hoàn toàn là xả giới: Như Kinh Bộ, và Du già…

3. Vừa xả vừa không xả: như kinh Niết-bàn…

4. Chẳng xả chẳng không xả: Như kinh Phương Đẳng và kinh Phổ Hiền quán.

Nếu sám hối thì không xả, không sám hối thì xả. Thành trường hợp thứ ba và trường hợp thứ tư. Nguyên do là sao? Luận rộng về bốn trường hợp thì có hai loại: Một là biệt thể, như luận Bà-sa: Thứ ba thứ tư là pháp riêng biệt mà thành trường hợp. Hai là: Gián thể: Thứ ba và thứ tư là một pháp già, biểu. Nếu môn biểu thuyên (khẳng định) thì thành trường hợp thứ ba. Nếu là môn già thuyên (phủ định) thì thành trường hợp thứ tư. Do vậy: Niết-bàn và Phương đẳng, pháp thì đồng nhưng trường hợp thì riêng biệt. Nay theo kinh Phương Đẳng và kinh này: bốn trọng năm nghịch, các nghĩa được thành.

Nói "năm nghịch", còn gọi là nghiệp vô gián: giết cha, giết mẹ, phá hòa hợp tăng, giết A-la-hán. Và làm chảy máu thân Phật.

Hỏi: Nghiệp năm nghịch này, có được hộ không?

Nếu hộ được thì chẳng phải định nghiệp. Nếu không hộ được, thì văn này trái nhau.

Giải: Chư Tông bất đồng; theo tông Tát-bà-đa thì quyết định chắc chắn thọ nghiệp, không có phương pháp hộ. Theo tông kinh bộ thì… Nay theo đại thừa, các giáo bất đồng; nếu chẳng gặp thắng duyên thì sinh địa ngục. Nếu dựa theo thắng duyên, tự có hai thuyết: 1. Dựa vào tạo tượng, kinh, tuy bị nhưng nhẹ, nên kinh kia nói: Do duyên tạo tượng, dù chịu quả nơi ba cõi ác, dù bị nhưng mau ra, mà không chịu khổ, như mũi tên bắn xuyên rừng, không trụ mà qua. Kinh Quán Vô Lượng nói; người có năm nghịch cũng sinh Tây phương. Kinh Vô Lượng Thọ nói: Không chấp thuận sinh sang kia. Theo kinh Niếtbàn, quyển hai mươi, phẩm Phạm hạnh: Vua A-xà-thế phát tâm Bồ-đề, nên không vào địa ngục. Cho nên kinh đó nói: Bấy giờ, Thế Tôn khen vua A-xà-thế. Lành thay! Lành thay! Nếu có người phát tâm Bồ-đề, phải biết người ấy đã trang nghiêm đại chúng Phật. Đại vương! Ông xưa đã ở nơi Phật Tỳ-bà-thi, sơ phát tâm Bồ-đề cầu đạo giác ngộ, từ đó đến nay, đến Ta xuất thế, ở trong khoảng ấy, chưa từng đọa vào địa ngục chịu khổ. Đại vương! Nên biết, tâm Bồ-đề, có quả báo vô lượng như vậy. Đại vương! Từ nay về sau, thường thường siêng tu tâm Bồ-đề. Lại nữa, đoạn văn trước nói: Do vua A-xàthế phát đại tâm, toàn bộ tội nặng đều được mỏng nhẹ. Lại nói: vua A-xà-thế nói với Kỳ bà: Ta nay chưa chết mà đã được thân trời, xả ở đoản mệnh mà đắc trường mệnh. Nói đầy đủ như ở kinh ấy.

Nói "Tám nạn" là: theo kinh đại Bát-nhã quyển năm trăm sáu mươi tám nói: Thiên vương nên biết, Bồ-tát cuối cùng cũng không sinh ra ở những chốn không tự tại. Vì chư Bồ-tát ấy không có nghiệp ác để bị đọa cõi địa ngục, không có phá giới để đọa bàng sinh, không có đố kị để đọa cõi quỉ đói. Không sinh tà kiến, thường gặp bạn lành, không khuyết các căn, thành pháp khí Phật. Không sinh nơi biên địa, căn độn ngu si, không sinh cõi trời trường thọ không thể lợi người, không gặp Phật. Không sinh ra ở thế giới không có Phật, nơi Bồ-tát sinh, tất đủ cả Tam bảo. Kinh Thắng Thiên vương Bát-nhã (cựu bản) cũng nói như vậy. Lại nữa, kinh Tăng nhất Ahàm, phẩm Bát nạn nói: Tỳ-khưu nên biết, có tám điều không nghe, tám điều gì: 1. Địa ngục; 2. Súc sinh; 3. Ngạ quỉ; 4. Trường thọ thiên; 5. Sinh ở vùng biên địa, phỉ báng Hiền, Thánh, tạo các nghiệp ác; 6. Tuy sinh ở nơi trung tâm của cả nước nhưng sáu tình (căn) lại không đủ, không phân biệt được tốt xấu lành dữ; 7. Tuy sinh ở trung tâm của cả nước, sáu tình đầy đủ, nhưng tâm thức lại bị tà kiến; 8. Tuy sinh ra ở trung tâm cả nước, có đủ sáu tình, nhưng Phật không xuất thế, cũng không thuyết pháp. Nói đầy đủ như trong kinh kia.

Hỏi: Trường thọ thiên là gì?

Đáp: Theo luận Trí Độ quyển ba mươi ba: Trường thọ thiên là cõi trời Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ thọ tám vạn đại kiếp. Hoặc có người nói: Tất cả định Vô sắc giới, gọi chung là Trường thọ thiên, vì vô hình không thể hóa độ, không kham nổi đắc đạo, vì thường là xứ phàm phu. Hoặc từ sơ thiền đến tứ thiền, trừ Tịnh cư thiên, đều gọi là Trường thọ thiên vì đắm trước vị vướng mắc tà kiến, không thể thọ nhận đạo. Cho đến… Hỏi về chấp trước vướng mắc? Do tâm thiện khó sinh. Lại nữa, đoạn văn sau của luận kia nói: Trong Vô Sắc giới, không có hình, nên không thuyết pháp được, không sinh ra tại trong ấy. Nơi Sắc giới tuy có sắc thân, có thể thuyết pháp, nhưng vướng mắc sâu vào thiền vị, không thể làm lợi ích lớn cho chúng sanh, vì vậy không sinh ở trong đó. "Tất cả vô lượng khổ nạn": là tổng kết về các nạn.

Kinh: Nếu giảng kinh này, dùng pháp như nói trên.

(Có bản nói là: đọc kinh này)

Giải thích: Phần ba: Dựa theo giải thích trên.

Kinh: Đại vương! Xưa… muốn diệt nước đó.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Dẫn chuyện xưa để ví cho nay. Văn có hai phần: 1. Dẫn chuyện Đế Thích. Chứng chư quốc trên; 2. Từ "Đại vương! Xưa có…". Dẫn chuyện vua Phổ Minh, làm chứng cho hộ thân trên. Trong phần một có ba phần: 1. Nói về nạn sự; 2. Nói về pháp hộ; 3. Thuyết xứ. Đây là phần một.

Theo kinh Hiền Ngu, phẩm Đảnh-Sanh vương: Bấy giờ, Thế Tôn thấy các Tỳ-khưu tham trung sức đẹp, vướng mắc danh lợi, tích góp thêm nhiều tiền của không chán, mới kể chuyện thời quá khứ, có một đại Quốc vương, tên là Cù-tát-ly-vi-tư (kinh Niết-bàn thì gọi là Thiện Trụ vương). Trên đảnh đầu vua mọc ra một bọc nhỏ, sạch sẽ tinh khiết, cũng không cảm thấy đau đớn, sau đó cái bọc lần lần chuyển lớn như một trái bầu, liền cắt ra xem, thấy một đồng tử, rất là đoan nghiêm, tóc xanh, thân màu vàng tử kim, bèn mời thầy xem tướng. Xem đoán là người có đức, sau này sẽ là một Thánh vương, thống lãnh bốn cõi, nhân đấy đặt tên là Đà-kiệt, tiếng Hoa gọi là Đảnh Sanh. Đến lúc trưởng thành, người rất đức độ anh minh. Khi vua cha băng hà, các phụ dung vương đều cùng bạch với Đảnh Sanh: Đại vương đã băng hà, mong Ngài nối ngôi vị. Đảnh Sanh đáp: Nếu phước ta ứng với làm vua thì Tứ Thiên vương và Đế Thích tôn kính đến nghinh trao mới đăng ngôi. Vừa lập lời thề xong, Tứ Thiên Vương liền xuống, mỗi vị đều cầm bình báu chứa đầy nước thơm rưới đảnh đầu, rồi trời Đế Thích lại cầm mũ báu đội lên đầu Đảnh Sanh. Ở Diêm Phù Đề, thỏa thích năm dục, trải qua tám vạn bốn ngàn tuổi, Dạ xoa hiện ra, thỉnh dạo chơi Đông-Phất-bàđề, trải qua tám ức tuổi, lại thỉnh đến Tây Cù-da-ni, trải qua mười bốn ức năm tuổi. Đến Bắc Uất-đơn-việt, mười tám ức năm. Đến xứ Tứ Thiên Vương, trải qua mười bốn ức năm. Ý lại muốn lên cõi trời Đao Lợi, năm trăm tiên nhân giúp, xe ngự một voi, cùng lên trên trời, khi sắp đến, xa xa đã thấy thành cõi trời, tên gọi là Khoái Kiến thành, có một ngàn hai trăm cửa, chư thiên sơ hãi, đều đóng kín các cửa, khóa ba lớp khóa sắt. Binh chúng của Đảnh Sanh, tiến thẳng không trở ngại gì cả, vương vừa thổi tù và, giương cung bắn, một ngàn hai trăm cửa cùng một lúc mở ra. Đế Thích đi ra, cùng gặp mặt, nhân vậy mới cùng chia tòa cùng ngồi, vương ở trên trời, thọ năm dục lạc, hết ba mươi sáu đời vua Đế Thích. Đế Thích cuối cùng là Ca-diếp Bồ-tát. Khi ấy, A-tu-la vương, đem quân lên trời, đấu với Đế Thích, Đế Thích thua, rút quân vào thành, Đảnh Sanh lại ra, thổi ốc và, bắn cung, Tu la bèn bỏ đi. Đảnh Sanh tự nghĩ; lực ta như vậy, không có ai bằng, sao nay lại phải cùng chia ngôi với Đế Thích, chi bằng hại Đế Thích, một mình độc bá thì vui thích biết mấy. Tâm ác đã phát, vì vậy mà liền bị đọa lạc. Vua Đảnh Sanh, thống lãnh bốn vực, trải qua bốn mươi ức năm nhưng chưa đủ chán, do bởi tham mà chết. Vì thế, này các Tỳ-khưu! Lợi dưỡng thật là đại hoạn. Rộng nói như kinh kia.

Theo kinh Niết-bàn quyển mười hai nói: Bấy giờ, Đế Thích thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa. Vì người khác mà diễn thuyết. Nhờ lực nhân duyên mà có oai đức lớn. Bởi Đảnh Sanh sanh ra tâm ác với Đế Thích ấy, liền bị đọa, trở lại Diêm-phù-đề. Do tâm thương nhớ người trời ly biệt, sinh ra đại khổ não, lại gặp bệnh nặng, liền mệnh chung. Đế Thích bấy giờ chính là Phật Ca-diếp, Chuyển luân vương chính là thân ta. Rộng nói như kia, có hơi khác với kinh Hiền Ngu, nhưng e nhiều nên không kể.

Kinh: Lúc ấy, Đế Thích thiên vương… Đảnh Sanh liền thối.

Giải thích: Phần hai: Nương theo kinh nói về hộ pháp. Như văn đã rõ.

Kinh: Như đã thuyết trong kinh Diệt Tội.

Giải thích: Phần ba: Nêu bày nơi thuyết. (Kinh này tức là kinh Niết-bàn. Hoặc có thể là chưa dịch).

Kinh: Đại vương! Xưa có… Thái tử Ban túc.

Giải thích: Phần hai: Dẫn chuyện vua Phổ Minh, làm chứng cho phần hộ thân ở trên. Văn có hai phần: 1. Nói về nạn sư; 2. Từ "Vị Phổ Minh đó…" biện minh khả năng hộ được nạn. Đây là phần một.

Trong đó có ba phần: 1. Nói về nhân duyên của Ban Túc; 2. Thọ nhận sự dạy bảo của tà sư; 3. Phần chính tạo ra nạn sự. Đây là phần một.

Nói "Ban Túc": Chú thích có ba nghĩa:

1. Như kinh Hiền Ngu nói: Tiếng Hồ gọi là Ca-masa-ba-đà-vương. Tiếng Hán gọi là Bác Túc, còn gọi là Ban Túc. Vua Ba-la-đạt đem bốn loại binh vào núi săn bắn, gặp sư tử cái, tâm dâm quá mạnh, ép vua hành dục, vua sợ nghe theo, sư tử có thai, ngày tháng đầy đủ, sinh một bé trai, thân hình giống người, chỉ chân ban đốm giống sư tử, sư tử mẹ gặm đến trao vua, vua nhận làm con, đặt tên là Ban Túc.

2. Ban Túc phi hành ăn thịt người. Nhân duyên cũng như kinh Hiền Ngu. Nhưng có thêm chuyện; vua Ban Túc hàng ngày thường cúng cho một tiên nhân những món tịnh thực, không có thịt cá. Một ngày nọ, tiên nhân không đến. Có một thiên thần hóa làm hình tiên, giả nhập cung vua, đòi ăn cá thịt. Vị cũ ngày hôm sau, đúng giờ lại đến, vua dâng thịt cá, tiên nhân nổi giận trách, sao lại thử mình, bèn nói với vua; vua sẽ thường ăn thịt người trong mười hai năm. Tiên nhân nói xong, bay về núi. Sau đó, nhà bếp quên không lo chuẩn bị trước. Ra ngoài tìm mua thịt, lại không có thịt, nửa đường thấy xác chết một đứa bé, trắng mập ở bên đường, nghĩ là chỉ cần gấp, liền bỏ đầu chân, làm món ăn cho vua, ăn xong thấy ngon, liền hỏi nguyên do, nhà bếp thật đáp, vua nói từ nay thường dùng thịt này. Nhà bếp sợ vua, chuyên bắt trẻ nhỏ, giết làm món ăn, hàng ngày cho vua. Người trong nước mất con, đi tìm khắp nơi, bèn gặp nhà bếp bắt trói con họ. Dân tố cáo với vua. Vua nói: Chính ta giết. Dân chúng nghe vậy, đều bảo; chính vua là kẻ đại thù của ta, đợi vua đi tắm ở hồ, phục binh bắt vua. Vua đã bị trói, bèn nói với dân; xin tha Ta lần này lần sau không còn giết nữa. Dân cả nước không chịu. Vua bèn khởi nguyện: Nguyện các thiện mà Ta tu từ xưa đến nay, xoay chuyển ngày hôm nay biến thành La sát, phi hành ăn thịt người. Nói xong liền bay lên trên không, xướng: Từ nay về sau sẽ thường ăn thịt vợ con yêu của các ngươi. Mọi người nghe đều chạy trốn. Có nhiều La sát theo làm vây cánh tùy tùng. Đồ chúng lần hồi rất nhiều, người bị hại cũng rất nhiều. Sau đó, các La sát bạch với Ban Túc; chúng ta vì vua, vua nay phải vì bọn ta bắt một ngàn vị vua, để đãi một bữa tiệc lớn. Ban Túc nói: Tốt, liền lần lượt bắt được chín trăm chín mươi chín vị vua, còn thiếu một vị, không thể làm việc. Các vua bị bắt bảo nhau: Đám ta ngày nay, chẳng còn cách gì thoát thân. Nếu bắt được vua Tu đà tố, vị vua này có đại phương tiện, có thể cứu được chúng ta. Nghĩ kế vậy rồi, bèn bạch với vua Ban Túc: Vua muốn làm tiệc, Tu đà tố vương là người có danh đức cao. Nếu bắt được ông ta đến, thì tiệc hội của vua mới được viên mãn. Thời vua La sát, liền bay đi bắt Tu đà tố vương. Gặp lúc Tu đà tố vương ra ngoài thành, đi đến vườn, định vào hồ để tắm, nửa đường gặp người hành khất theo vua để xin. Vua nói: Đợi ta tắm xong, rồi về sẽ thí cho đạo sĩ. Vương mới vào hồ tắm, vua La sát từ trên không bay xuống bắt Tu đà tố vương về nhốt trong núi. Tu-đà-tố vương do buồn thương khóc. Vua Ban túc nói: Nghe ngươi danh đức bậc nhất, bậc trượng phu sao lại buồn khóc như trẻ con ở đời. Tu đà tố vương nói: Ta không thương thân, tham tiếc thọ mạng. Sáng ra gặp kẻ xin hứa cho, vào lúc nhà vua đến bắt, e trái với sự thành tín, vì vậy mà khóc. Mong vua trả ta bảy ngày, bố thí cho đạo sĩ. Ban Túc chấp thuận. Vua trở lại nước Bố thí xong. Sau đó, các Bà-la-môn thấy vua muốn trở lại chịu chết, e vì nhớ nước nhà, mới vì vua mà thuyết kệ, kệ giống với kinh này. Tám hàng tương tự, duy chỉ có một câu "thiên long nhân quỉ điêu tán ở trong" là khác kinh này. Tu đà nghe kệ, suy tư nghĩa lý mà hoan hỷ, bèn lập Thái tử thay làm vua, từ biệt đến chịu chết. Ban Túc biết đã đến ngày hẹn, trông ngóng đợi chờ, thấy Tu đà đến, hình có sắc vui, Ban Túc lấy làm lạ hỏi: Ông nay sắp chết, sao lại hoan hỷ? Tu đà đáp: Đại vương ân rộng, cho Ta bảy ngày, bố thí đạo sĩ, lại nghe pháp diệu, tâm tự khai mở. Nguyện ta đã thỏa, tuy đến chỗ chết, tâm vui không buồn. Ban Túc hỏi: Ông nghe pháp gì? Thử nói Ta nghe. Tu đà bèn vì Ban Túc mà tuyên thuyết tám kệ pháp diệu đã được nghe. Còn vì Ban Túc mà thuyết thêm về tội báo sát sanh. Ba Túc nghe xong, bèn thả Tu đà và các vị vua trở về nước mình. Tu đà tố vương, bèn bảo binh chúng, trở lại ngôi vua trước. Tu đà tố vương chính là Phật Thích ca. Ban Túc vương chính là ương quật ma. 3. Các kinh nói về Ban Túc thì khác nhau, như trong Trí Luận nói: Ban Túc vương gọi là Lộc Túc vương, lốm đốm như chân nai nên gọi là Lộc Túc. Còn gọi là Lưỡng Sí vương. Chỉ nói là Lộc Túc muốn ăn thịt trăm vua. Như kinh Phổ Minh vương nói: Ban Túc vương gọi là Hà

Quần vương, vào núi gặp thần Đại Thọ, hứa cống trăm vua. Phổ Minh vương vì Hà Quần vương mà tuyên thuyết bốn bài kệ, Hà Quần vương nghe kệ, thả Phổ Minh và chín trăm chín mươi chín vua. Kinh Nhân Vương này và kinh Hiền Ngu tuyên thuyết là một ngàn vua, các kinh khác vốn là một nhưng với đối với người kiến văn khác nhau mà dẫn đến sự sai biệt.

Kinh: Ban Túc chấp nhận cho một ngày.

Giải thích: Phần hai: Cho thả một ngày. Nếu theo kinh Hiền Ngu thì cho bảy ngày.

Kinh: Bấy giờ, Phổ Minh vương… kệ xong.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Dựa theo thời để nói về chủ thể hộ. Văn có hai phần: 1. Theo chủ thể hộ mà bảy Phật đã thuyết; 2. Từ "Đệ nhất pháp sư…" Theo thuận biệt lý, để nói về nhân của chủ thể hộ. Đây là phần một.

Hỏi: Làm sao trong một ngày mà có thể thuyết tám ngàn ức kệ. Đáp: Nhờ đức Như Lai ngầm gia hộ, cho nên có thể thuyết được.

Số kệ nhiều ít, sẽ giải thích sau.

Kinh: Đệ nhất pháp sư vì vương mà thuyết kệ.

Giải thích: Phần hai: Theo thuận biệt lý để nói về chủ thể hộ. Văn có hai phần: 1. Chánh thuyết về pháp hộ; 2. Từ "bấy giờ…" nghe pháp được ích. Trong phần một có hai phần: 1. Phần văn xuôi phát khởi; 2. Nêu tụng chánh thích. Đây tức là ở trong trăm tòa. Đệ nhất pháp sư thuyết tám tụng. Theo kinh Hiền Ngu thì đạo sĩ thuyết. Do người dịch khác nhau.

Kinh: Kiếp thiêu chung xong… Nước có gì thường?

Giải thích: Phần hai: Chánh giải thích hộ pháp. Có tám hàng kệ, thuyết về bốn đạo lý, tức chia bốn phần:

1. Hai kệ thuyết về lý vô thường.

2. Hai kệ thuyết về lý của đạo khổ.

3. Hai kệ thuyết về lý của đạo không.

4. Hai kệ thuyết về lý của vô ngã.

Đây là phần một. Trong đó có ba phần: 1. Có một kệ, biện minh khí thế gian kiếp hoại vô thường; 2. Có nửa kệ, nói về một thời kỳ vô thường ở bên trong nội thân; 3. Có nửa kệ, nêu hơn so kém.

Nói "kiếp thiêu chung xong": là kiếp thiêu chung thì bắt đầu khởi kiếp thủy. Từ phong luân cho đến sơ thiền. Cho nên nói là chung xong. "Càn khôn động nhiên": càn là thiên. Càn là kiện. Thiên hành không dứt, nên nói là càn, khôn là địa. Khôn là thuận. Địa thuận bốn mùa, sinh trưởng vạn vạn, gọi là khôn. Thiên địa bị thiêu cả, cho nên bảo là động nhiên.

"Tu di cự hải": núi và nước tương đối với nhau, đều thành tro tàn.

Phần hai có nửa kệ: Thiên long điêu biểu, đều do bởi nghiệp nếu theo kinh Hiền Ngu thì "Thiên long nhân quỉ, ở trong điêu táng".

Nói "hai nghi còn mất, nước có cậy gì.": Nêu hơn để so với kém. Như trên đã thuyết, khí và thế gian. Hai nghi thiên địa phải có ngày mất, huống chi là quốc lại không bị diệt sao?

Kinh: Sinh lão bệnh tử… Nước nhờ vào đâu.

Giải thích: Phần hai: Hai kệ. Giải Thích tướng của khổ. Văn có hai phần: 1. Một kệ rưỡi, chính nói các khổ; 2. Có nửa kệ, nêu hơn để so với kém.

Trong phần một có hai phần: 1. Có hai câu, nói về bốn khổ tương tục với nhau không dứt; 2. Có hai câu, hiển chung về ba khổ: Là oán ghét gặp nhau khổ, yêu thương xa nhau khổ, mong mà không được khổ, đều là trái với những điều mong nguyện, hoặc vì u buồn làm hại; 3. Có hai câu, nói về năm uẩn xí thịnh khổ, chư dục là tập đế. Họa trùng là khổ. Khổ tập như vậy, giống như ghẻ lở. Khổ tập như vậy, không lìa tự thân, không ngoài tam giới, cho nên nói là "không ngoài". Ba giới đều khổ, nước có gì vui. Nêu hơn để so với kém. Nghĩa là ba cõi hơn kém, đều là khổ, huống nữa là quốc độ, nhờ đâu mà chẳng khổ.

Kinh: Gốc hữu là vô… Quốc độ cũng như.

Giải thích: Phần ba: Hai kệ nói về "không". Văn có hai phần. Phần một: Có một kệ, nói về pháp "không". Câu đầu nói về tính sở chấp. Ba câu sau nói về y tha "không". Nghĩa là trên y tha, không có tính sở chấp.

"Chúng sanh xuẩn xuẩn, đều như huyễn cư": Phần hai: Nói về sinh không. Nói "thanh, hương đều không, quốc độ cũng như": Là lấy hơn để so với kém. Nghĩa là: thanh và âm hưởng đều ở chỗ nói, chẳng thật có tính, giống như thanh hưởng, chẳng thật cho nên là không. Quốc độ cũng vậy. Nhân duyên các pháp mà thành pháp, cũng thuyết là không.

Kinh: Thức thần vô tình… Há lại có nước?

Giải thích: Phần bốn Hai kệ. Hiển bày lý vô ngã. Trong đó, hai câu đầu nói về tâm thức vọng chấp bốn đại, cho nó là ngã sở. Một câu tiếp theo là nói về sắc thân vô ngã. Tiếp một câu nữa là nói về sắc thân chẳng phải là chỗ trụ của ngã. Hai câu sau là nêu vô ngã trước, so cùng quốc vô ngã.

Lại giải thích: Một kệ rưỡi đầu là thân vô ngã. Hai câu sau nhắc lại vô ngã để nói quốc cũng không có. Bài kệ đầu trong phần trước, tỏ tâm là khổ để hiển bày vô ngã, trong đó nữa phần trên là nói về tâm thần vô hình. Đó là nói về tâm thần không có hình, giả ngã như bốn rắn, y chỉ bất an, nên là khổ, bốn đại là chỗ dựa, cùng tượng phản nhau. Từ thí dụ gọi là rắn. Phần dưới nói về kẻ si ôm cho là xe vui. Từ nữa kệ sau là nói về hình là vô thường. Thần không có nhà thường, để hiển bày vô ngã. "Hình vô thường chủ": là nói về hình vô thường. "Thần vô thường gia": là nói về thần vô thường. Sau nhắc lại huống nữa là quốc hình, thần sẽ lìa, là nhắc lại đoạn trước. Nữa hệ sau, há có nước sao? So sánh nước cũng không có.

Kinh: Bấy giờ, pháp sư… đắc pháp nhãn "không".

Giải thích: Từ đây là phần hai: Nghe pháp được ích. Trong đó có ba phần: 1. Nghe pháp được ích; 2. Từ "trong chúng …" chuyển dạy chư vương; 3. Từ "thời Ban Túc…" chư vương ngộ đạo. Trong phần một có hai phần: 1. Quyến thuộc đắc ích; 2. Vương tự đắc ích. Đây là phần một. Nghĩa là: quyến thuộc của vương đắc pháp nhãn không, đó tức là trí nhân không.

Kinh: Vương tự chứng đắc… Chỗ Ban Túc vương.

Giải thích: Phần hai: Vương tự đắc ích. Nghĩa là: Vương tự chứng các định về hư không. Nghe pháp tỏ ngộ, hiểu, đó tức là quán. Do định lực đó mà đến chỗ của Ban Túc.

Kinh: Trong chúng liền bảo… các kệ cú trong kinh. Giải thích: Phần hai: Chuyển dạy lại các vua. Văn có bảy phần:

1. Dạy lại các vua.

2. Vua Ban Túc hỏi.

3. Phổ Minh phụng đáp.

4. Các vương đắc ích.

5. Thả các vua, đúng ngày hẹn mà đến nên tụng câu kệ trong kinh của bảy Phật thời quá khứ.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc… đều tụng pháp gì?

Giải thích: Phần hai: Vương hỏi về việc đọc tụng.

Kinh: Bấy giờ Phổ Minh… trả lời vương.

Giải thích: Phần ba: Phổ Minh phụng đáp. Đã rõ.

Kinh: Vương nghe pháp đó… ba môn định tam không.

Giải thích: Phần bốn: Chư vương đắc ích. Nghĩa là: Ban Túc vương đắc Tam muội "không". Các vua khác đều chứng ba định là Không, Vô nguyện, Vô tướng.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc vương… Danh vị cú.

Giải thích: Phần năm: Lệnh thả các vua. Trong đó có ba phần:

1. Sinh đại hoan hỷ, chỉ bày lỗi lầm, tự quy; 2. Thả về bản quốc; 3. Khuyên chúng trì kinh.

Kinh: Bấy giờ Ban Túc… Chứng vô sinh nhẫn.

Giải thích: Phần sáu: Đem nước trao em, chứng vô sinh nhẫn.

Kinh: Như thập vương địa… Hiện thế sinh báo.

Giải thích: Phần bảy: Dẫn thuyết chứng thành. Nghĩa là: Thập vương địa nói; năm ngàn Quốc vương, nên tụng kinh này, ở trong hiện báo, đắc hiện pháp lạc, và trong sinh báo đắc sinh vào cõi trời, người, lìa các nạn.

Kinh: Mười sáu đại Quốc vương… ông nên thọ trì.

Giải thích: Từ đây là phần ba: Kết khuyên thọ trì. Văn có ba phần:

1. Khuyên vua Nguyệt Quang; 2. Khuyên nơi sáu dục; 3. Khuyên tiểu vương. Đây là phần một. Văn có hai tiết: 1. Tóm kết chỉ bày pháp để hộ quốc; 2. Khuyên Nguyệt Quang vương, ông nên thọ trì.

Kinh: Trên trời trong cõi người… Danh vị cú.

Giải thích: Phần hai: Khuyên chúng trong sáu đạo (cõi), đều nên thọ trì.

Kinh: Đời vị lai… La mật.

Giải thích: Phần ba: Khuyên các tiểu vương, như pháp thọ trì.

Kinh: Bấy giờ, Phật Thích ca… Đắc nhập sơ địa.

Giải thích: Từ đây là đoạn lớn thứ ba. Chúng bấy giờ được lợi ích.

Nếu theo Bổn ký, văn có hai phần: 1. Được lợi ích; 2. Từ "Ta nay…" tổng kết về được ích.

Trong phần một có sáu lợi ích: 1. "Bấy giờ trung vương đắc nhập sơ địa" là năm trăm ức người đắc nhập sơ địa. Sơ địa tức là mười tín; 2. "Lại có Lục dục thiên đắc địa tính không"; chư thiên lục dục, tám vạn ức người, đắc địa tính không, tức là thập giải; 3. "Lại có mười tám vương đắc pháp lạc nhẫn": mười tám Phạm vương đắc pháp vô sinh nhẫn, tức là mười hạnh. Đắc vô sinh nhẫn pháp lạc, tức là mười hồi hướng; 4. Lại có đạt cho đến mười địa": Nghĩa là học vị Bồ-tát có người chứng từ sơ địa cho đến thập địa; 5. "Lại có tám bộ vương lên trời chánh thọ" là Tu la được lợi ích. Tu la được lợi ích có hai loại; một là đắc mười Tam muội, và hai Tam muội. Mười Tam muội là mười Nhất thiết xứ. Hai Tam muội là nhị đế Tam muội. Hoặc có thể là nhập Thánh đạo, ắt có đủ Tam muội. Mười Tam muội là Vô tưởng Tam muội, vì diệt chướng của mười địa, cho nên gọi là mười Tam muội. Hai Tam muội là Không Tam muội và Vô nguyện Tam muội. Hai là: chuyển quỉ thần lên trời chánh thọ; chánh thọ là đắc Thánh đạo vô lậu; 6. "Người ở hội này đến vô lượng không tín": đó là tỏ phàm phu đắc tín Phật tính. Gọi là tín tự tính. "Vô lượng tín không" là tin pháp "không".

Kinh: "Ta nay lược thuyết, …": là tổng kế đã rõ.

-------------------------

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Chánh thích về văn.

Giải thích tên phẩm: Chư vương nghe pháp, nhớ ơn Phật rải hoa cúng dường, gọi là phẩm Tán Hoa.

Kinh: Bấy giờ… Hoan hỷ vô lượng.

Giải thích: Phần hai: Theo văn chánh giải thích. Bốn phẩm trên biện minh về nội ngoại hộ. Đây tức thuộc phần ba: Mang ơn cúng dường. Trong đó có ba phần: 1. Chư vương rải hoa, cúng dường Thế Tôn; 2. Phật hiện thần biến, khiến chúng được lợi ích; 3. Nhất-thiết-trí khuyên chúng thọ trì.

Trong phần một có ba phần:

1. Nghe kinh hoan hỷ.

2. Rải hoa cúng dường.

3. Phát nguyện thọ trì. Đây tức phần một.

Văn có ba tiết: 1. Người là chủ thể nghe văn; 2. Pháp của đối tượng được văn; 3. Tâm hoan hỷ.

Nghĩa là: Chư vương nghe mười vạn ức kệ, hoan hỷ vô lượng. Hỏi: Bát-nhã được thuyết trong kinh này, gồm ba chỗ khác nhau:

1. Trong phẩm Nhị đế thuyết tám vạn ức kệ; 2. Cuối phẩm Hộ Quốc thì tám ngàn ức kệ; 3. Phẩm tán hoa này mười vạn ức kệ. Ba chỗ đã thuyết, có sai biệt gì?

Giải: Trong phẩm nhị đế, hợp thuyết ba thời, chư Phật đã thuyết, gồm có bốn vạn ức kệ. Trong phẩm Nhân Vương Hộ quốc là dẫn riêng bảy Phật thời quá khứ đã thuyết Nhân vương Bát-nhã. Còn trong phẩm này là Phật nay thuyết Nhân vương Bát-nhã. Do vậy mà ba chỗ thuyết khác nhau.

Hỏi: Phẩm Hộ Quốc nói là một ngày thuyết xong tám ngàn ức kệ, làm sao một ngày mà có thể thuyết tám ngàn ức kệ như vậy?

Giải: Nhờ thần lực của Như Lai ngầm gia bị. Như kinh Báo Ân; nói A-nan chỉ trong một lúc mà lãnh hội được tất cả các kinh Như Lai đã thuyết trong hai mươi năm. Đây cũng như vậy. Chư vương nghe Phật thuyết mười vạn ức kệ, sinh hoan hỷ, rải hoa cúng dường. Rải hoa cúng dường tức là phẩm Tán Hoa. Theo văn kinh ấy thì bộ kinh này, tự có phần rộng và lược, cả hai bản như trên đã rõ.

Kinh: Liền rải… che chư đại chúng.

Giải thích: Phần hai: Rải hoa cúng dường. Trong có ba phần: 1. Rải hoa hạnh; 2. Hoa Bát-nhã; 3. Hoa diệu giác. Ba loại hoa này đều từ sự biểu hiện để đặt tên hoa. Đầu tiên là rải hoa hạnh để biểu thị cho ba hiền, là hạnh hữu lậu. Thành; biểu thị Niết-bàn, bởi tối đại thắng.

Ở phần hoa hạnh, văn có bốn tiết: 1. Chư vương rải hoa; 2. Ở hư không, hoa biến làm tòa; 3. Từ "mười phương…" hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ "bốn vô lượng …" hóa chúng rải hoa. Hóa Phật thuyết pháp. Biểu cho pháp là chơn. Vì đồng thuyết. Hóa chúng rải hoa để biểu thị cho nhân là thắng. Vì kham chịu cúng dường. Phần dưới cũng theo cách giải thích này.

Kinh: Lại rải… và chư đại chúng.

Giải thích: Phần hai: Rải hoa Bát-nhã. Văn có bốn tiết: 1. Chư vương rải hoa; 2. Từ "ở hư không…" hoa biến thành đài; 3. Từ "Trong đài…" hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ "Trong đài…" hóa Phật thuyết pháp, chúng rải hoa.

Kinh: Lại rải… Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Phần ba: Rải hoa diệu giác. Văn có bốn cho tiết: 1. Chư vương rải hoa; 2. Từ "ở hư không…" hoa biến làm thành; 3. Từ "trong thành…" hóa Phật thuyết pháp; 4. Từ "Thời thành…" hóa chúng rải hoa. Đây là phần đầu. Kim cang dụ cho trí. Thành dụ cho Niết-bàn. Trí đoạn là nói rõ về cả hai, gọi là thành Kim cang.

Kinh: Lúc ấy trong thành… mà xuống.

Giải thích: Phần bốn: Hóa chúng rải hoa. Do hoa diệu giác, lực công đức thắng, do đó ba lớp rải hoa ở đấy, hai lớp biến hiện; đầu tiên là Bồ-tát rải hoa biến thành đài, tiếp đó là trong đài các Phật rải lọng che thành, sau là trong lọng che, thiên nhân rải hằng hà sa hoa.

Kinh: Bấy giờ các Quốc vương… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai: Chư vương phát nguyện. Trong đó có hai:

1. Chư vương phát nguyện; 2. Thế Tôn ấn chứng và thuật. Đây tức là phần phát nguyện. Nguyện có hai: 1.

Nguyện chư Phật thường thuyết;

2. Nguyện bốn chúng thường hành.

Kinh: Phật bảo: Đại vương!… Thần thông sinh xứ.

Giải thích: Phần hai: Thế Tôn ấn chứng và thuật. Ấn chứng hai nguyện. Lặp lại hai lần như vậy!

"Chư Phật mẫu": là hiển bày Bát-nhã thật tướng. "Bồ-tát mẫu": là Bát-nhã quán chiếu.

"Thần thông sinh xứ": là Bát-nhã văn tự.

Lại giải: Bát-nhã có thể sinh ra chư Phật Bồ-tát và thần thông, cho nên nói là mẫu (mẹ). Như kinh Kim cang Bát-nhã nói: Tất cả Bồ-đề vô thượng của chư Phật đều từ kinh này xuất. Tất cả chư Phật Như Lai đều từ kinh này mà sinh ra.

Kinh: Lúc ấy Phật vì vương… Thần biến.

Giải thích: Phần hai: Phật hiện thần biến, khiến chúng được lợi ích. Trong có hai: 1. Phật hiện thần biến; 2. Thời chúng đắc ích. Trong phần một có hai phần: 1. Nêu chương nói số; 2. Thứ lớp kể riêng. Đây là phần một.

Thần: Nghĩa là đẳng trì. Biến tức là chuyển biến. Do lực đẳng trì mà tự tại chuyển biến. Cho nên gọi là thần biến.

Bất tư nghị: là tâm không thể suy tư, lời không thể bàn nói, gọi là bất tư nghị. Nên kinh Pháp Hoa nói: Miệng chẳng thể tuyên thuyết được, tâm chẳng thể lường tính được. Luận Trí Độ nói: Xứ tâm hành diệt. Đường ngôn ngữ dứt bặt. Đại Bát-nhã nói: Tuyệt đường tâm, ngôn. Gọi là bất tư nghị.

Kinh: Một hoa nhập… Thân hỏa phong.

Giải thích: Phần hai: Thứ lớp kể riêng. Trong đó có hai phần: 1. Kể riêng; 2. Tán lại. Đây là phần kể riêng. Nhưng năm biến này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói:

1. "Một hoa…": là lấy theo hoa và cõi. Một và nhiều tương nhập vào với nhau.

2. "Vô lượng Phật độ nhập vào lỗ lông": là rộng và hẹp tương nhập với nhau.

3. "Vô lượng Tu di…": là thô và tế tương nhập với nhau.

4. "Một Phật nhập vô lượng chúng sinh…": là nhân và quả tương nhập với nhau. Trong đó trước là lấy một cõi để tương nhập, sau là lấy sáu cõi tương nhập.

5. "Phật thân nhập thân bốn đại": là tình và phi tình tương nhập với nhau.

Một thuyết nói:

1. Dựa theo hoa: một và nhiều tương nhập với nhau.

2. Dựa theo Phật độ: Một và nhiều tương nhập với nhau.

3. Phật độ và lỗ chân lông; một và nhiều tương nhập với nhau.

4. Tu di… thô và tế tương nhập với nhau.

5. Lấy phàm và Thánh, nội và ngoại tương nhập.

Nếu theo Bổn ký thì năm biến thì có ba ý: Năm biến là: 1. Hoa; 2. Phật độ; 3. Tu di; 4. Phật thân; 5. Nhập địa, thủy, hỏa, phong. Ba ý là:

1. Hiện bày khắp "không": Một hoa nhập vô lượng hoa là trừ chướng bất nguyện vui ưa đại thừa, cho nên có hun khắp không.

2. Chuyển biến: Một Phật độ nhập vô lượng Phật độ, là để trừ chướng chấp ngã sở. Cho nên có chuyển biến.

3. Hiển bày rõ: Một thân Phật nhập vô lượng chúng; là để trừ sợ hãi sinh tử. Cho nên hiểu rõ nhập nơi sáu đạo.

Hỏi: Tu di biển lớn nhập vào trong hạt cải, thô và tế trái nhau, làm sao nhập vào được?

Giải rằng: Các sư phương Tây, lược có ba giải thích: Một thuyết nói: Tất cả chư pháp, dùng "như" làm tính. Lấy chỗ dựa là như, mà lìa các tướng phần. Các pháp chủ thể dựa không có lớn hay nhỏ một cách định chắc, do đạo lý này mà tế nhỏ bằng với Tu di.

Một thuyết nói: Theo lý Duy Thức thì tất cả các pháp đều không lìa thức thì tất cả các pháp đều không lìa thức, tùy theo sự biến chuyển của tâm, cũng không có tướng định mắc. Do nghĩa ấy, tế nhỏ ngang với Tu di.

Một thuyết nói: Tất cả chư pháp, theo đạo lý nhân duyên đều không có tướng định chắc. Do nhân duyên đó, sự tế nhỏ ngang với núi Tu di.

Hỏi: Sắc có thô, tế có thể đắc tương nhập. Thời gian có dài, ngắn cũng đắc tương thân?

Đáp: Cũng không sai, vì Phật tự tại. Một niệm làm nhiều kiếp. Nhiều kiếp làm một niệm, những giáo như vậy, thành và chứng khác nhau.

Hỏi: Chư Phật đắc tự tại, một niệm gồm thâu nhiều niệm chư Phật đắc tự tại, một kiếp thành nhiều kiếp. Nếu vậy, cả ba kiếp đúng phải không khác nhau, thì trái với Thánh giáo; Bồ-tát phải trải qua ba vô số kiếp siêng năng tu tập mới chứng Bồ-đề.

Đáp: Thắc mắc đó không đúng. Các cảnh giới phi phàm. Luận Hiển Dương và Du già đều nói thế. Ở bất tư nghị, mà kẻ gượng suy lường thì đắc báo thô dối.

Kinh: Phật thân… Thế giới bất khả tư nghị.

Giải thích: Phần hai: Trùng tán. Hợp năm biến trên thành ba bất tư nghị. Phật thân tức là Phật thân phần một trên. Chúng sinh tức là thân vô lượng chúng sanh ở sáu đường. Thế giới tức là bốn đại và bốn loại biến trước.

Có một thuyết nói; thế giới là trừ bốn biến trước. Các nghĩa khác thì giống trên.

Kinh: Phật hiện… Thần thông Tam muội.

Giải thích: Phần hai: Chúng bấy giờ được lợi ích. Có bốn loại: 1. Thiên nhân mười phương đắc Phật hoa định; 2. Mười hằng sa Bồ-tát hiện thân thành Phật; 3. Ba hằng sa Bát bộ thành đạo Bồ-đề; 4. Mười ngàn nữ nhân đắc định thần thông.

Hỏi: Trong một thế giới, có nhiều đức Phật đồng thời xuất không?

Đáp: Chuyển luân vương còn chẳng có hai vị đồng thời xuất, huống nữa là Phật mà cùng xuất sao?

Hỏi: Nếu vậy, sao kinh này lại nói mười hằng sa Bồtát hiện thân thành Phật?

Đáp: Chỉ nói hiện thân, không nói là tức thành, hiện thân thành Phật ở sáu cõi khác thì có sao đâu. Như kinh Pháp Hoa nói long nữ hiện thân thành Phật ở phương khác. Ở đây cũng như vậy.

Hỏi: Như mười ức Bồ-tát hiện thành chánh giác ở cuối phẩm thọ trì, giải thích ra sao?

Đáp: Danh từ "Phật" là chung cho cả mười địa. Kinh đại Bát-nhã, thì nói mười địa gọi là mười loại Phật. Lại như kinh Pháp Hoa, phẩm phân biệt công đức; bốn thiên hạ vị trần Bồ-tát. Một đời đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Pháp Hoa luận: Tức là sơ địa Bồ-đề vô thượng. Kinh này cũng dựa theo kia, nghĩa cũng không sai sót.

Kinh: Thiện nam Tử!… Như pháp tu hành.

Giải thích: Phần ba: Tán thán về ích lợi của Bát-nhã. Khuyên chúng ta hành. Văn có hai tiết: 1. Tán thán Bát-nhã có ích lợi cả ba đời;

2. Khuyên lắng nghe, suy tư nhớ niệm tu hành. Lắng nghe là văn tuệ. Tư niệm là tư tuệ, tu hành là tu tuệ.

Giải thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Giải thích văn kinh.

Về phần giải thích tên phẩm. Theo luận Trí Độ: Do tín lực nghe mà phụng hành là thọ. Do niệm lực, lâu ngày không mất, gọi là trì. Phẩm này chính là nói về mười ba pháp sư thọ trì Bát-nhã. Lại bảo người khác thọ gọi là phẩm Thọ trì.

Kinh: Bấy giờ, Nguyệt Quang… Bát-nhã Ba-la-mật. Giải thích: Phần hai: Chú thích theo văn. Trong năm phẩm trước, đã biện minh phần chánh tông. Cho nên hai phẩm sau này là nương theo giáo mà phụng trì. Trong đó có hai phần: 1. Thọ trì; 2. Trao gởi. Đây là phần một. Cả trong một phẩm, văn có ba phần: 1. Hỏi đáp chánh thuyết mười ba pháp sư; 2. Từ "Phật bảo Ba tư nặc…" trao vua thọ trì; 3. Từ "lúc ấy chư đại chúng…" Lúc ấy, chúng được lợi ích. Trong phần một có hai phần: 1. Nguyệt Quang vương hỏi; 2. Đại mâu ni Như Lai chánh thuyết. Trong phần thỉnh có hai phần: 1. Thấy điềm mà nghi; 2. Phát lời xin hỏi. Đây là phần một. Văn có ba tiết: 1. Thấy năm loại thần biến của Phật Thích ca; 2. Thấy Phật Bảo Mãn trên đài: "Là tất cả Phật hóa thân chủ" nếu theo kinh Phạm Võng thì đó là Phật Lô-xá-na, còn gọi là Lô-chiết-la. Tiếng Hoa gọi là chiếu. Vì sắc tịnh của báo Phật hiện rõ khắp pháp giới. Lại nữa, ánh sáng đèn Nhật Nguyệt tỏa khắp một xứ, cũng là Lô-xána. Hoặc có thể phiên dịch theo ý nghĩa, gọi là Bảo Mãn. Phật này hóa ngàn lá Thích ca Phật và hóa Phật trên trăm ức cánh hoa, cho nên bảo là hóa thân chủ; 3. "Lại hiện ngàn Phật trên thế giới cánh hoa": tức là ngàn Phật trên ngàn cánh hoa: và trăm ức Phật trên mỗi một cánh. Trong đó chư Phật như trên, mỗi một Phật đều thuyết Bát-nhã Ba-la-mật. Đó là đúng với kinh Phạm Võng nói:

Ta nay Lô-xá-na
Vừa ngồi đài hoa sen
Châu vòng trên ngàn hoa
Lại hiện ngàn Thích ca
Một hoa trăm ức nước
Một nước một Thích ca
Đều ngồi cội Bồ-đề
Một lúc thành Phật đạo.

Hỏi: Phật Bảo Mãn trên, trong ba thân thì được gồm thâu trong thân nào?

Có thuyết nói: Là thân tự thọ dụng. Thuyết đó không đúng, vì cõi tự thọ dụng thì không có pháp chúng. Có thuyết nói: Thân tha thọ dụng. Đây cũng không đúng. Vì các chúng vi trần đều nghe Phật thuyết pháp. Nay giải; ở trong hóa thân, gốc ngọn sai biệt, chẳng phải là thân thọ dụng. (xem thêm kinh Vô thượng y, kinh Đại thừa Đồng tính, phần Tỳ-lô-giá-na và Thích ca, có gì sai biệt.)

Kinh: Bạch Phật… không thể dùng thức mà biết.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Phát lời xin hỏi: Trước là tán thán sau là thỉnh. Đây là phần tán thán.

Nếu theo Bổn ký: vì vượt qua cả ngôn thuyết, nên không thể thuyết nói được. Vì vượt qua cả tâm tưởng, nên không thể giải, hiểu. Vì vượt qua cả sự thấy biết, nên không thể dùng thức mà biết được. Đó là đúng với luận Trí Độ nói: Dứt đường ngôn ngữ, diệt xứ tâm hành. Theo kinh giải Thâm Mật thì tuyệt đường lời ý.

Kinh: Làm thế nào… Khai mở con đường pháp "không".

Giải thích: Phần hai: Thỉnh, Khai: là khái phát. Đạo là con đường thánh đạo. Ở cảnh nhân, pháp, khai phát tuệ "không", gọi là đạo pháp "không".

Ý hỏi là: Bát-nhã thâm diệu mà chư Phật đã thuyết. Là khó nói ra, khó biết được, thì làm thế nào để các thiện nam ở trong kinh này hiểu biết rõ ràng, phải nương theo quán môn gì để khai mở con đường pháp "không".

Kinh: Đại Mâu ni nói: Là đại pháp vương.

Giải thích: Phần hai: Như Lai chánh thuyết. Trong có ba phần: 1. Tổng nêu; 2. Từ "Này thiện nam! Pháp sư đó…" giải thích riêng; 3. Từ "Này thiện nam! Chư Bồtát như vậy…" Tổng kết. Trong phần một. Có ba phần: 1. Tổng nêu; 2. Kể riêng; 3. Khuyên cúng. Đây là phần một.

Kinh: Từ tập nhẫn… y trì kiến lập.

Giải thích: Phần hai: Kể riêng. Y: là chỗ dựa. Trì: là thâu giữ. Vì chỗ dựa của chúng mà có thể thâu giữ chúng, kiến lập chánh pháp.

Kinh: Đại chúng các ông… mà cúng dường.

Giải thích: Phần hai: Khuyên cúng.

Đã rõ. Kinh: Này thiện nam! Pháp sư đó.

Giải thích: Phần hai: Giải thích về mười ba pháp sư. Văn có hai phần: 1. Nêu tên chung; 2. Thứ lớp giải thích. Đây tức là phần một.

Kinh: Bồ-tát tập chủng tính.

Giải thích: Từ đây là phần hai: Thứ lớp giải thích riêng mười ba pháp sư. Chia làm mười ba phần: Đây là phần một. Tập chủng tính. Văn có năm phần: 1. Nêu ngôi vị, kể tên; 2. Biện minh loại sai biệt; 3. Hạnh nghiệp bất đồng; 4. Nêu kém để hiển hơn; 5. Thời gian nhập vị. Đây là phần một: Nêu vị kể tên.

Nghĩa là: trong mười ba pháp sư, pháp sư thứ nhất tên là Bồ-tát tập chủng tính.

Kinh: Nếu tại gia… Tỳ-khưu-ni.

Giải thích: Phần hai: Biện minh loại sai biệt. Biện minh về bốn chúng: 1. Bà-sai; 2. Ưu-Bà-sai; 3. Tỳ-khưu; 4. Tỳ-khưu-ni.

Bà-sai: còn gọi là Ưu-bà-tắc. Đều là lược sai, đúng thì: Ô-ba-sách-ca. Tiếng Hoa gọi là Cận sự nam. Ô-batư-ca: tiếng Hoa gọi là Cận sự nữ. Sách là nam thanh. Tư là nữ thanh. Nghĩa là: họ thân thừa thiện sĩ lâu ngày, nên gọi là cận sự. Đã giải thích rộng như trên, Tỳ-khưu và Tỳ-khưu-ni; cũng đã giải thích như trên.

Kinh: Tu hành thập thiện.

Giải thích: Phần ba: Hành nghiệp bất đồng. Văn có ba phần: 1. Tu thập thiện; 2. Tu nhẫn bất tịnh; 3. Trú ở Phật gia. Đây là phần tu thập thiện. Nghĩa là: mười nghiệp đạo thiện. Không sát sanh… hoặc có thể là mười tín. Mười loại tín tâm tuy có hai thuyết, nhưng theo Bổn ký, ý lấy mười tín.

Kinh: Tự quán thân mình… phần phần bất tịnh.

Giải thích: Phần hai: Tu nhẫn bất tịnh, tự có ba loại: 1. Quán sáu đại bất tịnh; 2. Quán các căn bất tịnh; 3. Quán tam giới bất tịnh. Đây là quán sáu đại.

Nghĩa là: Sáu giới thành thân của các hữu tình. Là bốn đại, và không giới, Sắc giới hữu lậu thức, đều là hữu lậu, vì có thể bị hư hoại. Gọi là bất tịnh. Quán riêng từng sáu giới, cho nên bảo là phần phần.

Kinh: Lại quán mười bốn căn… tâm Bồ-đề.

Giải thích: Phần hai: Các căn bất tịnh.

Nghĩa là: ở trong hai mươi hai căn, lại quán mười bốn căn, là bất tịnh. Là năm căn, có năm thức tình, hoặc có thể là gồm thâu hữu tình số, gọi là năm tình căn. Năm thọ căn là; khổ, lạc, ưu, hỷ, xả, và nam, nữ, ý, mệnh, đều là hữu lậu, có lỗi lầm vô lượng, nên thuyết là cả mười bốn thứ đều là bất tịnh. Năm căn; tín… và ba vô lậu đều chỉ là thiện tính. Không có thuyết về các lỗi lầm, nên người quán hạnh là quán mười bốn căn, thì phát tâm Bồđề vô thượng.

Kinh: Thường tu tam giới… Môn nhẫn quán.

Giải thích: Phần ba: Quán tam giới bất tịnh.

Nghĩa là: pháp trói buộc trong tam giới đều là hữu lậu, cho nên cũng là bất tịnh.

Hỏi: Bốn tĩnh lự và Vô Sắc giới, cũng có pháp tịnh, sao lại nói là bất tịnh?

Đáp: Bất tịnh có nhiều loại. Như luận Du già quyển hai mươi sáu nói: Có sáu loại bất tịnh.

1. Ô uế bất tịnh tự có hai loại:

- Nương theo bất tịnh ở bên trong; là lông, tóc…

- Nương theo bất tịnh ở bên ngoài; bầm xanh, …

2. Khổ não bất tịnh: Nghĩa là thọ sinh ra do tiếp xúc khổ.

3. Hạ liệt bất tịnh: là Dục giới.

4. Quán đãi bất tịnh: Như so với sự thanh tịnh của vô sắc thì các pháp thuộc Sắc giới tựa như là bất tịnh. So với Bồ-ca-da, Niết-bàn tịch diệt, thì cho đến hữu đảnh, đều tựa như là bất tịnh.

5. Phiền não bất tịnh: Nghĩa là: tất cả mọi kết phược, thùy miên, tùy phiền não triền có trong tam giới.

6. Ví hoại bất tịnh: Nghĩa là: năm thủ uẩn, vô thường vô hằng. Không thể bảo tín, biến hoại pháp tính. Nói đủ như nơi Luận kia. Do vậy tĩnh lự, vô sắc đều gọi là bất tịnh.

Kinh: Trú ở Phật gia.

Giải thích: Phần ba: Trú ở Phật gia. Văn có hai phần: 1. Trú tại Phật gia; 2. Tu sáu hòa kính. Đây là phần một.

Nghĩa là: không, vô ngã là trụ xứ của Phật, gọi là

Phật gia. Tập chủng tính đó, mới bắt đầu chứng lý "không", nên gọi là trú.

Kinh: Tu sáu hòa kính.... Ba-la-mật đạo.

Giải thích: Phần hai: Tu sáu hòa kính. Nghĩa là: Do trú ở Phật gia, cho nên tu sáu hòa kính; là ba nghiệp; đồng giới, đồng kiến, đồng học tám vạn bốn ngàn Ba-lamật là sáu hòa kính.

Kinh: Thiện nam tử!.... có thối có tiến.

Giải thích: Phần bốn: Nêu cái kén để hiển cái hơn. Văn có hai phần: 1. Nêu kém. 2. Từ "Làng định...." hiển bày hơn.

Trong phần một có hai phần: 1. Giải thích về ngôi vị kém trên; 2. Từ "tuy dùng..." thích về phục khó. Trong phần một có ba phần: Pháp, Dụ, Hợp. Đây là phần pháp thuyết.

Nghĩa là: Bồ-tát thập tín, trước khi đạt tập nhẫn, thì có thối có tiến, cho nên gọi là ngôi vị kém.

Kinh: Thí như lông nhẹ theo gió mà khi đông khi tây.

Giải thích: Phần hai: Nêu dụ. Đã rõ. Kinh: Bồ-tát ấy cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần ba: Hợp Dụ. Đã rõ.

Kinh: Tuy dùng mười ngàn kiếp... gọi là người bất định.

Giải thích: Phần hai: Điều phục khó. Văn có hai tiết: 1. Nhắc lại ba điều phục khó: 2. Từ "Nhưng không thể... " là nêu tông.

Lược đáp về Bồ-tát thập thiện, có ba nghĩa: 1. Dùng mười ngàn kiếp thực hành mười chánh đạo; 2. Phát tâm Bồ-đề, sẽ nhập nhẫn vị tập; 3. Cũng thường học ba phục nhẫn, đã đủ ba nghĩa, đúng là phải bất thối, sao nay lại nói là có thối có tiến? Vì vậy mà nói lời đó. Tuy là có ba sự, nhưng không thể đặt tên. Là Tập chủng tính, đó danh là Người bất định.

Kinh: Người định đó.... tính Thánh nhân.

Giải thích: Phần hai: Hiển bày Thắng vị thù thắng. Văn có hai phần:

1. Chứng lý; 2. Lìa lỗi. Đây là phần một.

Nghĩa là: Ngôi vị là Thập trú, mới bắt đầu chứng lý sinh "không". Do bởi chứng đắc tính Thánh nhân. Danh là Người định, cũng là Bất thối.

Hỏi: Bồ-tát chủng tính đó, như kinh này là chắc chắn không thối sao? Hoặc có thì sao?

Giải rằng: Giả sử vậy có sao đâu, phân biệt chi tiết đã nói ở trên.

Kinh: Ắt sẽ không khởi.... không có chuyện đó.

Thích viết: Phần hai: Lìa lỗi (lìa lỗi lầm). Có bốn trọng:

1. Không khởi năm nghịch: giết cha, mẹ, A-La-Hán, làm chảy máu thân Phật, phá hòa hợp Tăng.

2. Không khởi sáu trọng: Như kinh Ưu-bà-tắc giới, quyển bốn, phẩm Thọ giới nói: không sát sanh, không trộm cướp, không dâm đảng, không vọng ngữ, không nghiện rượu, không hủy báng lỗi lầm của bốn chúng xuất gia và tại gia. Nói chi tiết như kinh kia. (Các kinh khác hoặc nói là bốn trọng, tám trọng. Bốn trọng là: 1. Tham lam đố kị; 2. Keo kiết; 3. Sân giận; 4. Báng bổ. Tam bảo Tạng nói tám trọng là: tức tám trọng của Bồ-tát. Bốn trọng trước gia thêm bốn trọng, thì gọi là tám trọng. Nói mười trọng là: Sáu trọng trên gia thêm bốn, (các tham,... cực nặng trong các lỗi lầm, gọi là trọng.)

3. Không khởi hai mươi bốn khinh: cũng như kinh Ưu-bà-tắc, phẩm Thọ giới nói: 1. Không cung cấp nuôi nấng cha mẹ, Sư trưởng;

2. Đam mê vui thú uống rượu; 3. Ghét bỏ không thăm nom người bệnh khổ; 4. Thấy có người ăn xin, không thể nhiều ít tùy nghi mà cho, để họ tay không trở về; 5. Như gặp Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, trưởng lão, tiên túc, chư Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... không đứng dậy nghinh đón, lễ bái hỏi han; 6. Nếu thấy Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hủy giới đã thọ, tâm sinh kiêu mạn, nói là ta hơn họ, họ không bằng ta; 7. Trong hàng tháng, không thể sáu ngày thọ trì tám giới, cúng dường Tam bảo;

8. Trong vòng bốn mươi dặm có nơi giảng pháp, không đến nghe; 9. Thọ đồ dùng giường nằm, chỗ ngồi của Tăng Chiêu đề; 10. Nghi nước có sâu trùng mà vẫn cứ uống; 11. Những nơi nguy hiểm, đi một mình không có bạn cùng đi; 12. Ở lại chùa ni một mình; 13. Vì tiền mà đánh mắng các nô tỳ, đồng bộc, người ngoài; 14. Lấy đồ ăn dư thí cho Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưubà-di; 15. Nuôi mèo chồn; 16. Nuôi dưỡng voi, ngựa, bò, dê, lạc đà, tất cả súc thú. Không tịnh thí cho những người chưa thọ giới; 17. Không tích chứa Tăng già lê y, bát, thau, tích trượng; 18. Nếu vì thân mạng, cần phải làm ruộng, không cầu nước sạch, và xứ lục chủng; 19. Nếu làm buôn bán, cân đong bán hàng, vừa trả giá xong, không được cướp trước, bỏ rẻ bán mắc, đong cân lường hàng, không đúng cân lượng; 20. Như ở chỗ phi xứ, phi thời hành dục;

21. Làm ăn buôn bán, không nộp thuế quan, trốn thuế bỏ đi; 22. Nếu phạm quốc che; 23. Nếu thu được lúa gạo rau quả mới, không trước tiên phụng sự hiến sư, cúng dường Tam bảo, mà tự thọ dụng trước; 24. Tăng nếu không nghe thuyết pháp tán thán, liền tự ý tự tác; 25. Trên đường đi, đi trước chư Tỳ-khưu, Sa-di; 26. Múc đồ ăn trong Tăng, nếu thiên lệch về một sư, chọn lựa các thức ăn ngon, đưa cho quá phần; 27. Như nuôi tằm; 28. Đi đường gặp người bệnh, không dừng lại xem xét, để giúp phương tiện, gởi gắm chỗ ở, mà bỏ đi.

4. Không khởi hủy báng pháp: Nghĩa là người định vị, không báng pháp Phật, kinh sách, nói là chẳng phải Phật thuyết.

Kinh: Có thể dùng một A-tăng-kỳ.... vị Tăng-già-đà. Giải thích: Phần bốn-Thời gian nhập vị.

Tiếng Phạm là A-tăng-kỳ kiếp, tiếng Hoa gọi là vô số kiếp. Nghĩa là số năm tháng ngày, không thể đếm được, gọi là A-tăng-kỳ. Hoặc kiếp tam tai, cũng không thể đếm được. Còn tông Đại Tiểu thừa gọi Tam A-tăngkỳ là A-tăng-kỳ. Nay ở đây thì theo số ngày tháng năm chẳng phải là tam Tai... Vị Tăng-già-đà: Tướng truyền chú thích: là Tính chủng tính, hoặc gọi là Ly chấp trước. Nghĩa là chứng nhân (người) "không", nhưng không chấp trước các ngã, hữu tình....

Ý đó nói: Một tăng kỳ tu hành tập nhẫn, mới bắt đầu nhập tính chủng tính.

Kinh: Lại nữa, tính chủng tính.

Giải thích: Phần hai-Tính chủng tính. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên. 2. Biện minh quán sai biệt. 3. Thời gian nhập vị. Đây tức phần một.

Sơ học gọi là Tập. Do tập lâu thành tính, mười hạnh mới gọi là tính chủng tính.

Kinh: Thực hành mười tuệ quán.

Giải thích: Phần hai-Biện minh quán sai biệt. Trong đó có năm phần: 1. Hành quán hạnh; 2. Diệt chướng; 3. Biết tục; 4. Luyện quán; 5. Tu hạnh. Đây tức phần một.

Nói "Thực hành mười tuệ quán": là bốn niệm xứ, ba thiện căn và quán ba đời. Như trong phẩm Giáo Hóa trước đã nói.

Kinh: Diệt mười điên đảo.

Giải thích: Phần hai-Diệt chướng. Nói: "Diệt mười điên đảo": là quán bốn niệm xứ trừ bốn điên đảo, quán ba thiện căn trừ ba độc, Quán ba đời trừ chấp vào ba đời; định chắc là có nhân quá khứ, có quả vị lai, và nhân quả hiện tại mà chấp, đều không thuận lý, đều gọi là điên đảo.

Kinh: Và Ngã, Nhân, Tri kiến.... bất khả đắc. Giải thích. Phần ba: Biết tục.

Nghĩa là Ngã, Nhân, Tri kiến là dựa theo thế tục mà nói. Từng phần giả ngụy mà chẳng thật có, chỉ có danh, tức chính là giả danh. Chỉ có thọ, tức là thọ giả. Chỉ có pháp, tức là pháp giả, do đạo lý đó, thật bất khả đắc, nên biết ngã, nhân... đều là thế tục hữu.

Kinh: Tướng vô định.... tu đạo "không" quán.

Giải thích: Phần bốn-Luyện quán. "Vô định tương" là nêu chung về ngã pháp. "Không có tướng định, do không có tướng tự tha": là giải thích riêng về ngã pháp không có tướng tự tha. Đây thì có hai giải thích: một thuyết nói: vô tự tướng là hiển bày tướng vô ngã. Tướng vô tha là tướng vô pháp. Một thuyết nói là vô tự tướng là không có tướng nhân ngã, pháp ngã. Vô tha tướng: là không có tướng của hai loại ngã sở nơi nhân ngã và pháp ngã. "Tu Hộ Quán môn": như quán môn trên. Chưa đắc thì gọi là tu. Đã đắc thì gọi là hộ. Ý nghĩa đoạn văn trên khó hiểu, có các thuyết khác, e nhiều nên không kể.

Kinh: Cũng thường hành trăm vạn... niệm niệm không bỏ tâm.

Giải thích: Phần năm-Tu hành. Nghĩa là trong ngôi vị này, quán lần lần thắng, cho nên hành các Ba-la-mật thường không lìa tâm.

Kinh: Dùng hai A-tăng-kỳ.... vị Ba-la-đà Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập vị.

"Ba-la-đà" nếu theo Bổn ký thì dịch là Thủ Hộ, nghĩa là ngôi vị đạo chủng tính, hạnh đó kiên cố chắc chắn, không mất tự tính, gọi là vị thủ hộ, đây là nói về mười hạnh dùng hai A-tăng-kỳ, thực hành pháp chánh đạo, đắc trụ mười hồi hướng. Nếu theo Bổn Ký thì phối thuộc mười hạnh, gọi là đạo chủng tính, tức trái với kinh thuyết là Phục Nhẫn Thánh Thai ba mươi người.

Kinh: Lại nữa, Đạo chủng tính.

Giải thích: Phần ba-Đạo chủng tính. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Chủng tính của Thánh đạo trên địa, cho nên gọi là Đạo chủng tính. Vì vậy kinh trên nói: Tu hành thượng phục nhẫn, tiến nhập đạo bình đẳng, gọi là đạo chủng tính.

Kinh: Trú trong kiên nhẫn.... vô sinh vô diệt.

Giải thích: Phần hai-Biện minh quán sai biệt. Trong đó có hai phần: 1. Biện minh quán sai biệt; 2. Thọ báo hơn kém. Trong phần. Có ba phần: 1. Tổng nêu quán tướng; 2. Kể riêng về mười quán; 3. Nêu thắng lược kém. Đây là phần một.

Trú mười kiên tâm, gọi là trú nhẫn. Nghĩa là ở trong ngôi vị này quán tất cả pháp đều là vô sinh, sinh đã bất thành, liền không có trụ, diệt. Là nghĩa của quán "không".

Kinh: Gọi là năm thọ... do bất khả đắc.

Giải thích: Phần hai-Kể riêng về mười quán.

Gọi là năm thọ, ba cõi nhị đế: năm thọ; năm uẩn hữu lậu, tham những sở thủ, gọi là năm thọ uẩn. Do quán những thứ ấy mà đắc năm phần pháp thân. Quán tam giới đắc ba không nhẫn. Quán nhị đế đắc hai nhẫn vô thường, vô sinh. Chi tiết như đã nói trên. Mười pháp như vậy, không có tướng tự, tha và tính như thật, do bất khả đắc, đều thuyết là không.

Kinh: Mà thường nhập... tâm tâm tịch diệt.

Giải thích: Phần ba-Nêu thắng lược kém.

Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, tuy hành mười nhẫn, nhưng trong phần mãn, lược bớt chín nhẫn, thực hành nhẫn quán Chơn đế thứ mười. Tức thuyết là quán vô sinh nhẫn, gọi là Đệ-nhất-nghĩa-đế quán. "Tâm tâm tịch diệt"; tịch; nghĩa là tịch tĩnh. Diệt: là trừ diệt. Tức tâm hành kia niệm niệm tịch tĩnh, diệt trừ tán động, nên gọi là tâm tâm tịch diệt.

Kinh: Mà thọ sinh ba cõi.

Giải thích: Phần hai-Thọ báo hơn kém. Văn có ba phần: 1. Nêu.

2. Trưng dẫn; 3. Quả báo.

Giải thích: Đây tức là nêu chung. Tuy tâm tịch tĩnh nhưng thọ sinh ba cõi quả báo.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần hai-Trưng dẫn. Nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; đã đắc tịch diệt, sao lại có thể thọ báo phần đoạn?

Kinh: Nghiệp tập nghiệp báo.... thuận đạo sinh.

Giải thích: Phần ba-Chánh thích. Nghĩa là: do lực tập nghiệp huân tập mà thọ nhận sinh tử phần đoạn trong ba cõi. Có thể vì y chỉ ở Thánh đạo, gọi là Thuận đạo sinh. Hoặc có thể vì để giáo hóa hữu tình mà thọ thân nơi sáu đạo (cõi). Do thuận theo với thánh đạo, nên gọi là thuận đạo sinh. Tuy có hai giải thích, nhưng giải thích trước thì đúng hơn. Vì như trên đã nói, Bồ-tát chủng tính, không sinh ở cõi ác.

Kinh. Lại dùng ba A-tăng-kỳ kiếp.... chánh vị.

Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập vị.

Nói "Bình đẳng Thánh Nhân địa danh": nghĩa là nhập sơ địa Thánh đạo, Lìa tướng của chủ thể thủ và đối tượng thủ tướng. Hoặc có thể sơ địa song chứng cả hai đế. Nên bảo là bình đẳng. A-tỳ-bạt-trí: tiếng Hoa gọi là Bất Thối. Nghĩa là: sơ địa trở lên, chứng lý bất thối gọi là bất thối. Nghĩa là: ba A-tăng-kỳ tu các độ, sẽ nhập Thánh vị, sẽ trụ bất thối.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát Thiện Giác.

Giải thích: Phần bốn-Thiện Giác. Văn có năm phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh tu sai biệt; 3. Từ "Dùng bốn..." Thời gian nhập Tạng; 4. Từ "Không có ba cõi..." nói về thọ sinh sai biệt; 5. từ "Thường tu..." Đăng vị khác nhau. Đây tức là phần một. Nêu vị kê tên theo trên đã rõ.

Kinh: Trụ nhẫn bình đẳng... tâm không xả.

Giải thích: Phần hai-Biện minh tu sai biệt. Văn có hai phần: 1. Hiển bày tướng riêng của hai trí; 2. Từ "Như vậy! Này thiện nam!..." Nói lại về sự đồng dị của hai trí.

Trong phần một có hai phần:

1. Lập hai chương.

2. Từ "Nhập xả Vô tướng..." là giải thích riêng hai chương. Đây tức là phần một.

Nói "Nhẫn bình đẳng": là chương thứ nhất nói về thật tướng lìa hai tướng hữu và vô, gọi là nhẫn bình đẳng. Nói "Tu hành bốn nhiếp, niệm niệm không bỏ tâm": là lập chương thứ hai trí phương tiện. Nghĩa là: dùng bốn nhiếp, hóa độ chúng sanh, gọi là trí phương tiện.

Kinh: Nhập xả Vô tướng... phiền não tham.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Giải thích riêng về hai chương. Trong đó có hai phần: 1. Thật trí. Giải thích bình đẳng trên; 2. Từ "Vô lượng..." Hiển bày trí phương tiện. Giải thích bốn nhiếp trên. Trong phần một có ba phần:

1. Tổng nêu thật trí, diệt tham của tam giới.

2. Giải thích riêng về thật trí, chứng ba vô vi.

3. Hiển bày vô vi, lìa tướng hữu và vô.

Đây tức phần một. Lìa xả tam luân. Vì không có tính tham nên có thể diệt phiền não tham dục trong ba cõi.

Kinh: Ở đệ nhất nghĩa.... là pháp tính vô vi.

Giải thích: Phần hai-Giải thích riêng về thật trí. Chứng hai vô vi. Văn có ba phần: 1. Pháp tính vô vi; 2.

Trạch diệt vô vi; 3. Phi trạch diệt vô vi. Đây là phần một.

Ở đây có hai tên gọi: 1. Pháp tính; 2. Hư không.

Kinh: Duyên với lý mà diệt... vô vi Vô tướng.

Giải thích: Phần hai-Trạch diệt vô vi. Nghĩa là duyên với chơn như, diệt tất cả các tướng phiền não. Chơn như được hiển là trạch diệt vô vi. Có ba tên gọi: 1. Trạch diệt. Thể tức là trí. Trạch: nghĩa là giản trạch. Chọn lựa diệt đạt được, gọi là trạch diệt; 2. Số duyên diệt. Số nghĩa là tuệ số. Tuệ số đắc được, gọi là số duyên diệt; 3. Trí duyên diệt. Trạch và trí, nghĩa của chúng là một.

Kinh: Khi trụ sơ nhẫn.... vô vi Vô tướng.

Giải thích: Phần ba: Phi trạch diệt vô vi. Nghĩa là: trụ trong tín nhẫn, đệ nhất hạ nhẫn, thì mãi mãi đoạn dứt tất cả phiền não phân biệt. Cho nên có thể ở trong vô lượng pháp vị lai, đắc phi trạch diệt. Vô vi Vô tướng. Đây có ba tên gọi: 1. Phi trạch diệt; 2. Phi số duyên diệt; 3. Phi trí duyên diệt, theo trên đã rõ. Nhưng hai diệt này, có sự sai biệt là; theo tông Tát-bà-đa, do trí đoạn chướng, gọi là trạch diệt. Diệt không do trí, gọi là phi trạch diệt. Theo tông Kinh bố trí hữu lậu đoạn dứt, gọi là phi trạch diệt, trí vô lậu đoạn dứt gọi là trạch diệt. Nay theo đại thừa, giống với tông Kinh Bộ, đã nói đầy đủ như ở chương khác.

Hỏi: Chẳng phải hư không và cảnh trí phi trạch diệt phi vô lậu, thì làm sao trí vô lậu chứng được ba vô vi.

Giải: Các tông bất đồng; tông Tát-bà-đa không chấp nhận trí vô lậu duyên với hai vô vi. Theo tông Đại thừa thì ở trên chơn như do giả an lập, nên chấp nhận là duyên hợp.

Kinh: Vô vi Vô tướng... vô Vô tướng.

Giải thích: Phần ba-Hiển bày ba vô vi, lìa tướng Hữu và Vô. Ý hiển bày tính của ba loại đó đều không.

Nhưng giải thích đoạn văn này thì các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Giải thích Vô tướng có ba câu: 1-Vô tự tha, là dứt bỏ tướng hữu. Vô vô là dứt bỏ tướng vô. Nói là do Vô tướng; là dứt bỏ cả hai tướng hữu và vô. Hoặc có thuyết nói: dứt bỏ cả bốn câu: Vô tướng tự tha; là dứt tướng hữu. Vô vô là dứt bỏ tướng vô. Nói Vô tướng: là dứt bỏ câu thứ ba: vừa hữu vừa Vô tướng và câu thứ tư: phi hữu phi Vô tướng. Nay giải thích: vô tự tha: là dứt bỏ ngã tướng tức hiển bày lý sinh không là vô. Vô Vô tướng là hiển bày lý pháp không là phi Vô tướng, nên bảo là vô vô. Phi hữu tướng nên bảo là Vô tướng.

Kinh: Vô lượng phương tiện đều Quán Hiện Tiền.

Giải thích: Phần hai-Hiển bày trí phương tiện. Văn có hai phần:

1. Tổng nêu sáu loại; 2. Giải thích riêng về sáu loại. Đây tức phần một. Cũng chẳng phải một, nên gọi là vô lượng. Chẳng phải nội chứng trí, nên gọi là phương tiện. Kinh: Thật tướng phương tiện.... không điên đảo.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Giải thích riêng về sáu loại phương tiện. Tức chia làm sáu phần. Đều có hai đoạn: trước là nhắc lại, sau là giải thích. Đây là phần thích thứ nhất về thật tướng phương tiện. Duyên với đệ nhất nghĩa, nên gọi là thật tướng, khởi công năng khéo léo, gọi là phương tiện.

Hỏi: Có sai biệt gì với trí căn bản?

Giải rằng: Như luận Thành Duy Thức nói: trí căn bản thì chứng tự thể ở bên trong, không biến hình ảnh. Trí hậu đắc này thì duyên với cảnh chơn như, biến hình ảnh mà duyên, không thể tự nó chứng ở Đệ-nhất-nghĩađế. Nói không chìm, thì các thuyết bất đồng. Nếu theo Bổn ký thì phàm phu gọi là trầm chìm, vì chìm trong sinh tử. Nhị thừa thì gọi là xuất ra, vì xuất ra khỏi sinh tử. Ba mươi tâm đến địa thứ mười, đã hoàn trả gọi là bất chuyển. Phật địa thì gọi là bất điên đảo. Trong mười hồi hướng thì học pháp này. Thuyết đó không đúng, nguyên do là sao? Vì kia giải thích về "Như vậy! Này thiện nam!..." Là mới thuộc về sơ địa, mà các đoạn văn kinh ở trên là thuộc mười hồi hướng, không đúng với ý kinh, nên nay không theo. Nay giải thích không như vậy: Sơ và nhị địa như trên, mười trụ hạnh có thể chuyển, mười hồi hướng còn có điên đảo. Sơ địa thì lìa bốn ngôi vị trước, cho nên nói là "Tứ bất". Trầm: nghĩa là hôn trầm tức làm chướng định. Xuất: tức là trạo cử, tức là chướng tuệ. Chuyển: là nghi và các hoặc điên đảo sót lại, tức là các đảo về ngã kiến. Khi nhập sơ địa, thì lìa bốn lỗi trên, gọi là "Tứ bất".

Kinh: Học khắp phương tiện.... học tất cả.

Giải thích: Phần hai-Học khắp phương tiện. Theo Bổn ký nói: trong tục có chơn chẳng phải chứng. Trong chơn có tục chẳng phải không chứng. Có thuyết nói: Trong năm thừa, không chọn người, trời và nhị thừa, cho nên chẳng phải chứng. Do có đại thừa, cho nên là chẳng phải không chứng. Như Luận Thành Thật nói: Rộng học các dị luận, biết khắp ý bậc Thánh. Lại nữa, kinh Thiện Giới nói: Học khắp năm minh luận, nhưng không phân biệt chứng hay không chứng, tuy chẳng phải chứng, hông chứng, nhưng có thể học tất cả pháp. Có bản nói: "Học tất cả" là sai.

Kinh: Hồi hướng phương tiện mà hướng đến Nhấtthiết-trí.

Giải thích: Phần ba-Hồi hướng phương tiện. Nghĩa là: cầu đại Bồ-đề, khác với nhị thừa, cầu trụ tiểu quả, gọi là phi trụ quả. Khác với phàm phu không có cầu trụ quả, gọi là phi chẳng trụ. Cầu hướng đến Bồ-đề, gọi là Hướng Tát-bà-nhã (Nhất-thiết-trí).

Kinh: Tự tại với ma... không bị lay động do bốn ma. Giải thích: Phần bốn-Phương tiện tự tại đối với ma là phương tiện tiếp dẫn. "Phi đạo mà hành Phật đạo": tức như kinh Duy-ma nói: hoặc hiện làm dâm nữ, tiếp dẫn những người hiếu sắc; trước là lấy dục để dẫn dắt, sau là làm cho nhập vào Phật đạo.

"Ma bất động": tức trong kinh Duy ma; lại tại dục mà hành thiền khiến tâm ma loạn, không đắc những tiện lợi đó.

"Bốn ma" là: 1. Phiền não; 2. Ấm ma; 3. Tử ma; 4. Thiên ma. Bốn ma đó gia thêm vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ gọi là tám ma. Lại giải thích: tuy hành ma sự, xảo tiện tự tại, cho nên gọi là phương tiện tự tại đối với ma. Vì vậy mà kinh Duy-ma-cật nói: Bồ-tát giải thoát trú bất khả tư nghị, dùng lực phương tiện giáo hóa chúng sanh, hiện tác ma sự. Lại nữa, phẩm Phật đạo nói: Nếu Bồ-tát hành ở phi đạo. Ấy là thông đạt Phật đạo.

Hỏi: Sao Bồ-tát lại thực hành ở phi đạo?

Đáp: Bồ-tát hành năm vô gián mà không có não loạn, cho đến thị hiện có thê thiếp nô tì, nhưng thường xa lìa bùn lầy năm dục. Đó là Bồ-tát thông đạt Phật đạo. Nói đủ như kinh kia.

Kinh: Nhất thừa phương tiện... tất cả hạnh.

Giải thích: Phần năm-Phương tiện nhất thừa.

Nghĩa là: lý và thể không hai, cho nên thuyết là nhất thừa. Ở pháp nhất thừa, khéo biết tướng sai biệt của chúng sanh, gọi là phương tiện. "Tướng bất nhị": là giải thích về nhất thừa trên. "Ở trong thông đạt tất cả Hành tướng": là giải thích về phương tiện đó. Lại nữa, kinh Quang Minh nói: pháp giới không có phân biệt. Vì độ chúng sanh mà phân biệt thuyết ba thừa. Lại nữa, kinh

Pháp Hoa nói: chư Phật dùng lực phương tiện, ở một Phật thừa, phân biệt thuyết thành ba. Nói đủ về nhất thừa, nghĩa như chương khác.

Kinh: Phương tiện biến hóa... Tịnh Quốc Độ Phật.

Giải thích: Phần sáu-Phương tiện biến hóa. Nói: "Biến hóa": là tên gọi khác của biến dịch, cho nên luận Hiển Dương và Duy Thức, theo đó nói là Biến sinh tử, gọi là biến hóa sinh.

Ở đây là nói về Bồ-tát địa thượng. Do nguyện lực ở trong tịnh độ, thọ biến sinh, không thọ cái thân phần đoạn trong tam giới, nên gọi là phương tiện biến hóa.

Kinh: Như vậy! Này thiện nam!... Thật trí chiếu.

Giải thích: Phần hai-Hiển bày lại sự giống và khác nhau giữa hai trí. Trong đó có ba phần: 1. Kết tướng khác nhau trên; 2. Nêu dụ để hiển phi nhất phi dị; 3. "Dùng tất cả hạnh thành tựu"; là hiển hạnh thành tựu. Đây tức là phần một. Văn có hai phần: 1. Hiển bày tướng của thật trí; 2. Hiển bày trí của phương tiện. Đây tức là phần một. Nghĩa là: ở sơ địa, trí căn bản sinh ra, bắt đầu giác biết sinh và pháp cả hai đều không, nên bảo là sơ giác trí. Tức là giác trí này, ở tướng hữu và vô, nhưng không hai khác, đó là vì thật trí chiếu. Như đoạn văn trước đã nói: do Vô tướng tự tha, vô Vô tướng.

Kinh: Xảo dụng không chứng... phương tiện quán. Giải thích: Phần hai-Hiển bày trí phương tiện.

Nói "xảo dụng": là nêu chung cả bốn dụng, nghĩa là hậu đắc trí ở địa đó, bốn dụng xảo diệu, gọi là xảo dụng.

"Không chứng...": là nói riêng bốn dụng. Không chứng khác với ngoại đạo chứng bốn tĩnh lự, cho là Niếtbàn. Không trầm; là khác với phàm phu, chìm trong sinh tử. Không xuất; là khác với nhị thừa xuất ly sinh tử. Không đến; là khác với Bồ-tát địa tiền, không đến sơ địa. Hoặc có thể nói "không đến" là sai lầm, phải nói là "không" đảo: nghĩa là Bồ-tát địa tiền còn khởi điên đảo, vì lược bỏ, nên nói là không đảo. "Đó là Quán phương tiện": là kết bốn dụng trên, đều là trí hậu đắc.

Kinh: Thí như nước và sóng không một không khác. Giải thích: Từ đây là phần hai-Nêu dụ. Hiển bày phi nhất, dị. Văn có hai phần: 1. Nói về hai trí không một không khác; 2. Hiển bày các hạnh.

"Cũng thể phi nhất, dị" nghĩa là: hai trí trên cùng một Sát-na, hai dụng khác nhau, cho nên là không một. Do cùng một tuệ cho nên là không khác. Thí như sóng và nước, thể và tướng khác nhau, nên không một. Sóng tức là nước, nên không khác.

Kinh: Cho đến tất cả hành... không một không hai.

Giải thích: Phần hai-Giải thích loại. Các hành cũng phi nhất phi dị. Nghĩa là: Như hai trí không một không khác, như vậy cho đến tất cả tám vạn bốn ngàn hành Ba-la-mật, các môn thiền định và môn Đà-la-ni, lần lượt so vọng với nhau, đều phi nhất, dị.

Kinh: Mà từng mỗi một hành thành tựu.

Giải thích: Phần ba-Hiển bày hành thành tựu. Nghĩa là: ở trong vị này, do hai trí thành, mà tất cả các hành khác, đều thành tựu.

Kinh: Dùng bốn A-tăng-kỳ... môn công đức tạng.

Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập tạng, nghĩa là: ở địa này, quán vô lậu thành, thâu chứa tất cả các môn công đức. Do vậy mà biệt lập môn công đức tạng. Lý phải ứng với các ngôi vị, phải có môn này, vì chẳng phải là khởi đầu, nên không biệt lập, trong đây ý nói bốn Atăng-kỳ thực hành các hạnh mà nhập môn ấy. Có giải thích nói: Đoạn văn này đúng thì phải nằm sau đoạn văn trên, phải đặt sau đoạn văn tất cả tịnh độ, mới nói đoạn văn này, nguyên do là sau? Vì bốn kiếp đã mãn mới nhập ngôi vị sau.

Kinh: Không có nghiệp của tam giới... do rốt ráo mà không tạo mới.

Giải thích: Phần bốn-Thọ sinh sai biệt. Văn có hai phần: 1. Bất sinh tam giới; 2. Sinh ở tịnh độ. Đây là phần một.

Nghĩa là: Nhập sơ địa, đoạn dứt phân biệt ngã kiến, không tạo nghiệp trong tam giới, cho nên xong hết các nghiệp cũ, mà không tạo mới.

Hỏi: Bồ-tát Địa thượng, không thọ thân phân đoạn. Các đoạn văn nói về thọ báo làm mười vua thì lấy gì để thọ dụng?

Đáp: Các sư ở Tây phương. Tự có hai giải thích: Một giải thích là Bồ-tát Địa thượng đều thọ biến dị sinh, cho nên thọ mười vua đều là hóa thân, nếu không vậy thì mười xứ phải không thấy vua, do diệu thân biến dị chẳng phải là cảnh kia.

Một giải thích nói: có một Luận sư, tên là Điều Phục Quang. Theo kinh Giải Thâm Mật nói như thế này: tám địa trở lên, thân vương được hiện ra đều chỉ là biến hóa. Bảy địa trở về trước, vì khởi phiền não làm nghiệp trong tam giới, thọ thân phân đoạn, đó tức thật thân, thọ báo mười vua, nên không có sai.

Kinh: Nhờ nguyện lực... tất cả tịnh độ.

Giải thích: Phần hai-Nhờ nguyện lực, sinh ở tịnh độ. Có thuyết nói: Theo đa phần mà nói, nếu phiền não trợ lực thì hoặc sinh ở tam giới, như Điền Phục Quang đã nói.

Kinh: Thường tu quán xả... thường trao cho người.

Giải thích: Phần năm-Đăng vị sai biệt. Văn có hai phần: 1. Nói về đăng vị; 2. Nói về Thí báu. Đây là phần Đăng vị Cưu ma gia. Nếu theo Bổn ký thì dịch là Thắng ma ác. Sơ địa thì lìa năm bố úy vượt, qua ma nhị thừa.

Kinh: Dùng bốn đại bảo tạng thường trao cho người.

Giải thích: Phần hai: Bảo thí. Các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Tam Tạng và Tạp Tạng, Thí cho chúng sanh. Một thuyết nói: Theo kinh Thắng Man, có bốn loại Bảo Tạng: 1. Vô giá: là Bồ-tát thừa; 2. Thượng giá: Là Duyên giác thừa; 3. Trung giá: Là Thanh văn thừa; 4. Hạ giá: là Nhân thiên thừa. Nếu theo kinh Địa Trì thì bốn nhiếp làm ích cho vật, gọi là bốn Bảo tạng.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Đức Tuệ.

Giải thích: Phần năm-Bồ-tát Đức Tuệ. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây tức phần một. Nghĩa là: có đủ luật, nghi, ba loại giới đức, cùng đều sinh ra với tuệ, gọi là Đức Tuệ.

Kinh: Dùng bốn vô lượng tâm.

Giải thích: Phần hai-Biện minh quán sai biệt. Văn có ba phần: 1. Hiển bày hành riêng của địa; 2. Trừ chướng; 3. Vị sai biệt. Đây là phần một. Vì muốn đối trị phiền não sân mà tu bốn vô lượng. Nghĩa như trên đã nói.

Kinh: Diệt các phiền não sân nơi ba Hữu.

Giải thích: Phần hai-trừ chướng. Do tu tuệ mà có thể diệt các phiền não sân trong tam giới. Nhưng về phiền não sân thì các tông bất đồng: Nếu theo Tát-bà-đa thì chỉ tại Dục giới. Nếu theo Tông Kinh Bộ thì sân thông cả ba cõi. Theo tông Đại thừa, các thuyết của Du-già thì giống với Tát-bà-đa. Nay theo kinh này thì giống với thuyết của Tông Kinh Bộ. Hoặc có thể kinh này tùy chuyển lý môn. Hoặc có thể là đoạn văn này là nói chung mà có ý riêng, nghĩa là: trong ba hữu. Dục giới thì có sân, nên bảo là các sân trong ba hữu. Căn cứ theo thật thì không thông các cõi trên.

Kinh: Trụ trong Trung Nhẫn, hành các công đức.

Giải thích: Phần ba-Vị sai biệt. Nghĩa là Tín Nhẫn trụ, thông cả ba địa. Đây đúng là bậc thứ hai, nên gọi là Trung nhẫn. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, lấy vô lượng làm chính, tu chung thông cả các hạnh.

Kinh: Dùng năm A-tăng-kỳ... hóa tất cả chúng sanh. Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập vị. Xà-đà-Ba-la, nếu theo Bổn ký thì dịch là Lực Mãn Túc. Nghĩa là: năm đại kiếp hành quán đại từ, do thường hiện tiền mà trí lực được đầy đủ, hóa độ các chúng sanh cũng nhập vị Xà-đà-ba-la. Còn gọi là Ly ám, còn gọi là Vô úy.

Kinh: Lại nữa, Minh Tuệ Đạo nhân.

Giải thích: Phần sáu-Bồ-tát Minh Tuệ. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, hành quán ba Minh, nên gọi là Minh Tuệ.

Kinh: Thường dùng Vô tướng.... Quán ba Minh

Giải thích: Phần hai-Biện quán sai biệt. Văn có ba phần: 1-Hành riêng của địa; 2-Trừ chướng; 3-Mãn túc.

Trong phần một có hai phần:

1. Quán ba Minh.

2. Tướng hành. Đây là phần một.

"Quán ba Minh" là: 1. Túc mệnh trí minh; 2. Sinh tử trí minh; 3.

Lậu tận trí minh. Giải thích như trong phẩm Tựa. Kinh: Biết pháp ba đời... tâm tâm tịch diệt. Phần hai-Tướng của hành.

"Biết pháp ba đời, vô lai, vô khứ, vô trụ xứ": là cảnh thực hành của ba Minh. Nghĩa là: vị lai chưa có, quá khứ thì đã diệt, hiện tại thì không dừng lại. Khác với Tông Tát-bà-đa, ba đời đều có thật thể.

"Tâm tâm tịch diệt": do đối tượng duyên là vô, cho nên cái tâm của chủ thể duyên niệm niệm tịch diệt.

Kinh: Hết phiền não si nơi tam giới.

Giải thích: Phần hai-Biện minh ngôi vị. Do trừ chướng biết ba đời, cho nên có thể trừ cái ngu mê ba đời nơi tam giới.

Kinh: Đắc tam minh quán tất cả công đức.

Giải thích: Phần ba-nói về đức đầy đủ. Nghĩa là: trừ cái ngu của ba đời, mà đắc tùy thuận tam minh quán các công đức.

Kinh: Thường dùng sáu A-tăng-kỳ.... tất cả pháp.

Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập vị. Gia-la-đà: tiếng Hoa gọi là Độ Biên. Nghĩa là ở trong ngôi vị này, lìa các kiến hạ tiện biên lậu, nên bảo là Gia-la-đà. Tuy có giải thích đó; nhưng cũng chưa đủ. Nghĩa là: sáu đại Tăng Kỳ, tập vô lượng minh mới nhập vị Gia-la-đà dùng hạnh Vô tướng mà thọ trì các pháp.

Kinh: Lại nữa... Bồ-tát Thánh Giác.

Giải thích: Từ đây là Pháp sư thứ bảy. Văn có ba phần: 1. Nêu danh kê tên; 2. Hiển bày hành riêng của địa; 3. Thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Nói "Nhĩ diệm": tiếng Hoa gọi là Trí-mẫn. Nghĩa là ở trong ngôi vị này, sinh và pháp cả hai đều không, có thể sinh Thánh đạo, nên gọi là Trí-mẫn. Nói "Đạt Thánh giác": tức là Thánh trí được sinh ra, do ba địa trước, hành về Thí, giới, tu tương đồng với phàm phu. Ở trong ngôi này, khởi quán Đạo phẩm, sơ chứng Thánh giác, đạt lý hai không, gọi là đạt Thánh giác.

Kinh: Tu hành thuận Pháp Nhẫn

Giải thích: Phần hai-Hành riêng của địa. Văn có ba phần: 1. Tu nhẫn pháp vị; 2. Khởi năm thần thông; 3. Diệt chướng.

Trong phần một. Văn có hai phần:

1. Thuộc thuận nhẫn. 2. Trú vị. Đây là phần một. Nghĩa là: Trong thuận nhẫn, có ba ngôi vị: là thượng, trung, hạ. Địa thứ tư này, ở trong ba nhẫn, ngôi vị tại sơ nhẫn, do thuận Thánh đạo, cho nên gọi là tu hành thuận pháp nhẫn.

Kinh: Nghịch năm dòng kiến... trụ Tu-đà-hoàn. Giải thích: Phần hai-biện minh trú vị.

Nói "Tu-đà-hoàn": có hai nghĩa: 1. Nghịch lưu; 2. Tu tập. Ở trong địa này, khởi quán Đạo phẩm. Nghịch năm dòng kiến tập vô lượng đức, cho nên gọi là trụ vị Tu-đà-hoàn. Theo luận Du già thì dịch là Dự Lưu. Dự là nhập. Lưu tức loại dòng. Bắt đầu nhập vào dòng Thánh, nên là Dự Lưu.

Hỏi: Đó không phải là người đã khởi riêng năm kiến phần, khi nhập sơ địa, đều đã mãi mãi đoạn dứt. Sao ở đây lại nói theo địa thứ tư, nghịch năm dòng kiến.

Giải: Thật sự mà nói thì năm kiến, ngôi vị sơ địa đã đoạn dứt, nay đoạn tập khí, gọi là đoạn năm kiến. Nếu không vậy thì Nghi chỉ thuộc về phiền não phân biệt, duy chỉ bị kiến đoạn. Sao ở đây lại nói là địa thứ năm đoạn. Cho nên biết đó là dựa theo Tập khí mà nói.

Kinh: Thường dùng thiên nhãn... Thân thông đạt.

Giải thích: Đây là phần hai. Khởi năm thần thông. Ở trong vị này, chưa đến cứu cánh, nên ngoài Lậu tận thông trong sáu thần thông. Nhưng trong luận Trí Độ và đoạn văn sau nói là Bồ-tát lậu tận: là dựa theo ngôi vị chưa tận mà giả nói lậu tận, nên không trái nhau.

Kinh: Trong niệm niệm diệt tất cả kiến nơi tam giới.

Giải thích: Đây là phần ba. Diệt chướng sai biệt. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, phối hợp với Tu-đà-hoàn, nên nói là có thể diệt các kiến trong ba giới.

Kinh. Cũng dùng... không lìa tâm.

Giải thích: Phần ba-Thời gian hành vị. Dùng bảy đại kiếp, hành năm thần thông và Ba-la-mật, mà ở trong mãn phần, công đức như trên, thường không lìa sắc.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Thắng Đạt.

Giải thích: Biện minh Pháp sư thứ tám. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Hiển bày hành riêng của địa; 3. Thời gian tu hành. Đây là phần một. Nghĩa là có thể liễu đạt Nhị đế, Tam đế, gọi là Thắng đạt còn gọi là Thắng tuệ. Hoặc có thể địa này chơn và tục đều song hành. Việc khó như vậy mà địa này thắng được. Cho nên gọi là Thắng Đạt.

Kinh: Ở Thuận đạo nhẫn dùng bốn vô úy.

Giải thích: Phần hai-Hiển bày hành riêng của địa. Văn có ba phần: 1. Hành bốn vô úy; 2. Trừ chướng; 3.

Nhập vị.

Trong phần địa số. Văn có hai phần:

1. Tổng nêu bốn số.

2. Thứ tự giải thích riêng. Đây là phần một.

Nghĩa là; Địa thứ năm nương theo Thuận đạo mà nhẫn, khởi bốn vô úy, với bốn nạn ở bên ngoài. Tâm không có sợ hãi, nên gọi là vô úy.

Kinh: Quán-na-do-tha-đế... Bậc Nhất-thiết-trí.

Giải thích: Phần hai-Thứ lớp Giải thích riêng. Về bốn vô úy thì chia làm bốn phần: Đây là phần một. Nhấtthiết-trí vô úy.

Nghĩa là: đối với hai cảnh, không có chỗ nào là không biết. 1. Quán-na-do-tha-Đế: nghĩa là Nhị, Tam đế và Bát đế,... con số rất nhiều, gọi là Na-do-tha; 2. Quán nội đạo luận: tức Nội minh luận trong năm Minh. Ngoại đạo Luận: là Nhân minh và Thanh minh. Dược phương tức là y phương. Công xảo cứu thuật; đều là Công xảo minh luận. Cả bốn Minh luận này tuy chung cả nội ngoại. Nhưng nay theo Nhất tướng, chỉ nói là ngoại. "Ta là bậc Nhất-thiết-trí"; là tự xướng lên đức hiệu. Đối với bốn vô úy đều có hai nghĩa: 1: Chấp tích sinh nghi: Nghĩa là ngoại đạo nghi thắc mắc: Phật hỏi: A-nan từ đâu đến? Hoặc hỏi: âm thanh bên ngoài là âm thanh gì vậy?... Nếu đã là người Nhất-thiết-trí, sao lại còn hỏi làm gì; 2. Tự xướng lên đức hiệu: ta là Nhất-thiết-trí là do tùy thuận với thế gian mà Phật hỏi như vậy.

Kinh: Diệt tam giới... tướng ngã đã tận. Giải thích: Phần hai-Lậu tận vô úy.

Nghĩa là: 1. Ngoại đạo thắc mắc: Thế Tôn hoặc có lúc dùng lời ngọt ngào với La-hầu, có lúc lại mắng Đềbà, sao lại gọi là Lậu tận. 2. Tự xướng lên đức hiệu "Lậu ta đã tận (hết)". Thuận với thế gian mà thị hiện thương, ghét (hoặc có bản nói: "Tướng ta đã tận" là sai).

Kinh: Biết mỗi địa đều có chỗ xuất, nên gọi là xuất đạo. Giải thích: Phần ba. Vô úy xuất khổ đạo.

Cũng có hai sự: 1. Chấp tích sinh nghi: nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; các Thánh-đạo không thể hết khổ, thấy A-la-hán bị các khổ rắn, trăn... tựa như là không hết khổ; 2. Tự xướng đức hiệu; nghĩa là: A-La-Hán đoạn dứt nỗi khổ vị lai, nên nói là đoạn khổ, chứ không nói khổ hiện tại không có mà nói là đoạn.

Kinh: Có gì bất xuất, gọi là chướng đạo.

Giải thích: Phần bốn: Nêu Hoặc có thể làm Chướng đạo vô úy. Cũng có hai sự: 1. Chấp tích sinh nghi: nghĩa là, các bậc Tu-đà-hoàn, tuy là có các ái, nhưng nhờ có Thánh đạo. Dục không thể làm chướng đạo; 2. Tự xướng đức hiệu: tuy không thể chướng các quả Dự lưu, nhưng có thể làm chướng ngại các Đạo A-na-hàm.

Ở trên đã giải thích về bốn vô úy của Phật, nay ở trong văn này; nói về vô úy của Địa Bồ-tát thứ năm, tướng của vô úy, có thể suy ra thì rõ.

Kinh: Nghịch nghi nơi tam giới.

Giải thích: Phần hai-Trừ chướng. Đây là theo tập khí, mà thuyết thì trừ nghi, theo Phật thì đã đoạn, chỉ phân biệt mà thôi.

Kinh: Tu tập vô lượng... nhập vị Tư-đà-hàm.

Giải thích: Phần ba-Nhập vị. Nghĩa là: trong địa này, đã diệt các hoặc nghi nơi tam giới, tu tập vô lượng thắng phần công đức, do vậy liền nhập vị Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm: tiếng Hoa gọi là Nhất vãng lai, nghĩa là đoạn hết sáu phẩm Hoặc nơi Dục giới, vì còn ba phẩm, ở trong cõi người, trời, một lần vảng lai, gọi là Nhất vảng lai.

Kinh: Lại tập hành... tâm không bỏ.

Giải thích: Phần ba-Thời gian tu hành. Nghĩa là: ở địa này, tám kiếp tu hành chư Đà-la-ni và bốn vô úy, thường không bỏ tâm.

Kinh: Lại nữa, Thường hiện chơn thật.

Giải thích: Pháp sư thứ chín. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2.

Biện quán sai biệt; 3. Thời gian tu hành. Đây là phần một.

Kinh: Trú trong Thuận Nhẫn.

Giải thích: Phần hai-Biện quán sai biệt. Văn có năm: 1. Phối nhẫn khác nhau; 2. Tạo quán riêng của địa; 3. Biện thủ trừ chướng;

4. Biện minh Hành tướng quán; 5. Lập quả sai biệt. Đây là phần một. Nghĩa là: Trong Thuận Nhẫn, thuộc về Thượng phẩm nên bảo là trú Trong Thuận Nhẫn.

Kinh: Tác quán Trung đạo.

Giải thích: Phần hai-tạo quán riêng của địa. Nghĩa là: nhập quán Vô tướng, lìa ở hữu, vô và thường, đoạn... Hoặc nương quán mười hai duyên sinh. Do lìa Đoạn, Thường, nên gọi là quán Trung đạo.

Kinh: Tiết tập nhân tập quả, tất cả phiền não nơi ba cõi.

Giải thích: Phần ba-Trừ chướng. Nói "Tập nhân": là nêu chung về ba phiền não, và nghiệp, gọi là Tập đế. Nói "Tập Nghiệp": là giải thích riêng các nghiệp tội. "Tất cả phiền não": là Giải thích riêng các phiền não căn bản, tùy Hoặc... Hoặc có thể "Tập Nhân" là phát nghiệp phiền não. "Tất cả phiền não": là Nhuận Nghiệp phiền não.

Kinh: Quán phi hữu phi vô... mà vô nhị.

Giải thích: Phần bốn-Biện minh hành tướng quán. Nói "Tất cả": là chơn như nhất vị tướng. Tức là nhất tướng, gọi là Vô tướng. Kinh Vô Lượng Nghĩa nói: Nhất tướng tức là Vô tướng. "Mà vô nhị": là kết một tướng và Vô tướng trên, đều không có các tướng hữu và vô.

Kinh: Chứng vị A-na-hàm.

Giải thích: Phần năm-Lập quả. Nghĩa là nơi địa này, tuy đã đoạn tất cả phiền não trong tam giới, nhưng vi tế thì còn hiện ở ngay trước. Đó là lấy theo kinh Giải Thâm Mật nói: chư Bồ-tát chứng đến địa thứ bảy, còn khởi các phiền não tham ở tam giới. Do đó, trong này lập A-na-hàm. A-na-hàm; dịch là Bất Hoàn căn cứ theo thật thì Bồ-tát địa thứ sáu, cũng còn sinh nơi Dục giới, như luận Trí Độ. Nay phối với nhất tướng mà nói là Bất Hoàn.

Kinh: Lại tác chín A-tăng-kỳ kiếp... tất cả Phật độ.

Giải thích: Phần ba-Thời gian tu hành. Lạc: nghĩa là nguyện lạc.

Nghĩa là: ở địa này, chín A-tăng-kỳ tập quán Trung đạo, tùy theo lực nguyện lạc mà sinh nơi các cõi Phật.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Huyền Đạt.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười. Văn có ba phần: 1. Nêu vị kê tên; 2. Thời gian nhập vị; 3. Từ "Thường hành ba không... " là Biện minh quán sai biệt. Đây tức là phần nêu tên.

Huyền: nghĩa là huyền đạt. Đạt: tức là thông đạt xa đến công dụng hậu biên, gọi là Huyền bắt đầu nhập Vô sinh nhẫn, gọi là Đạt.

Kinh: Trong mười A-tăng-kỳ kiếp tu Vô sinh nhẫn pháp lạc. Giải thích: Phần hai-Thời gian nhập vị... Văn có năm phần: 1. Nhập vị sai biệt; 2. Biện minh Diệt; 3. Trú thân phần hạn; 4. Đủ các đức; 5. Lập quả. Đây tức phần một. Phần hạn nhận vị.

Trong năm nhẫn, nhẫn thứ tư, vô sinh nhẫn có ba phẩm. Đây là Hạ phẩm. Bồ-tát địa này mười tăng kỳ, tu học vô sinh nhẫn.

Kinh: Diệt tập nhân nghiệp quả trong tam giới.

Giải thích: Phần hai-đối tượng được diệt trong ngôi vị này, diệt Tập nghiệp quả tế trong tam giới.

Kinh: Trụ trong hậu thân.

Giải thích: 3. Trú thân sai biệt. Trú trong sinh tử phần đoạn, là thân sau cùng, đến Địa thứ tám thì thành Biến dịch báo.

Kinh: Vô lượng công đức... đều đầy đủ.

Giải thích: Phần bốn-có đủ các đức. Nghĩa là: sáu thần thông, tận vô sinh trí, cho đến năm phần pháp thân đều đầy đủ. Các đức như vậy, đều đã nói như trên.

Kinh: Trụ Địa thứ mười... vị Phạm Thiên.

Giải thích: Phần năm-lập quả. Nghĩa là: trong mười ba Pháp sư, trụ ngôi vị Pháp sư thứ mười. Trong bốn quả thì quả thứ tư "vị Phạm Thiên": Phạm là tịnh. Do đã trú Hạnh vị Thanh Tịnh.

Kinh: Thường tu ba không... Hoằng hóa pháp tạng.

Giải thích: Phần ba-Biện minh quán sai biệt. Nghĩa là: trong địa này, các Tam muội "không", đã đắc viên mãn, đầy đủ trăm vạn Tam muội. Lại dùng các Tạng Tuđa-la, nơi ba tạng Thánh giáo của Như Lai mà hoằng hóa chúng sanh.

Kinh: Lại nữa, bậc Đẳng-giác.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười một. Văn có ba phần:

1. Nêu vị kê tên; 2. Biện minh Quán sai biệt; 3. Từ "Ngàn A-tăng-kỳ..." Thời gian tu hành. Đây là phần một. Giả: nghĩa là kẻ. Nghĩa là: địa thứ tám, với mọi lúc, chơn và tục cùng quán, gọi là bậc Đẳng giác.

Kinh: Trụ trong vô sinh nhẫn.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Biện minh quán sai biệt. Văn có ba phần: 1. Trở về Quán hữu và vô; 2. Biện minh quán mười lực; 3. Đăng vị sai biệt.

Trong phần một có hai phần:

1. Phối thuộc nhẫn vị.

2. Chánh nói về hữu vô quán. Đây là phần một. Nghĩa là: ở trong ba phần vô sinh nhẫn thì trú trong phẩm nhẫn.

Kinh: Quán tâm tâm tịch diệt... vô tri tri.

Giải thích: Phần hai-Biện về hữu vô quán. Văn có ba phần: 1. Riêng giải thích hữu, vô; 2. Kết hợp giải thích hữu vô; 3. Song kết hữu vô. Trong phần một có hai phần: 1. Tịch mà thường dụng; 2. Dụng mà thường tịch. Đây là phần một.

Trong Địa này, "Quán tâm tâm tịch diệt": là niệm niệm đều không mà tâm tâm tịch diệt. Đó là hiểu về nghĩa thường tịch tĩnh. Nói "Vô tướng tướng, vô thân thân, vô tri tri": là hiểu về nghĩa thường dụng. Nghĩa là thường tịch, nên lìa tất cả tướng. Nhưng nương theo tục mà thị hiện Vô tướng. Tựa như sắc thân thường không tịch, nhưng nương theo tục mà sắc thân thường dụng, vì thường tịch, nên vô tri, nhưng nương theo nên hằng năng chiếu.

Kinh: Mà dụng Tâm... trú ở vô trú.

Giải thích: Phần hai-Dụng mà thường tịch. Hai câu đầu là hiển bày hữu dụng. Từ "an nhiên" là chỉ rõ nghĩa thường tịch.

Kinh: Tại hữu... thường vạn hóa.

Giải thích: Phần hai-kết hợp giải thích hữu và vô.

Nói "Tại hữu thường tu không": là giải thích về dụng mà thường tịch trên. "Hư không thường vạn hóa": là giải thích về tịch mà thường dụng trên.

Kinh: Song chiếu tất cả pháp.

Giải thích: Phần ba-Song kết. Nghĩa là: Tục không lìa chơn nên tịch mà thường dụng. Chơn không lìa Tục nên dụng mà thường tịch.

Kinh: Biết xứ ấy phi xứ, cho đến Nhất-thiết-trí, do Quán Thập lực.

Giải thích: Phần hai-Nói về quán mười Lực. Nghĩa là: ở trong ngôi vị này, học quán mười Lực. Nêu hai Lực đầu và cuối, hiển chung tám Lực ở giữa, có quán mười Lực, mười nghĩa khác nhau, nghĩa như ở chương khác.

Kinh: Có thể phát vị Ma-ha-la-già, giáo hóa tất cả quốc độ. Giải thích: Phần ba-Đăng vị sai biệt.

"Ma-ha-la-già": Nếu theo Bổn ký thì dịch là Đại Thánh. Tức là đại tướng của Pháp Phật. Hoặc dịch là Vị trí Vô công dụng, hoặc dịch là Đại Lực, hoặc dịch là Long Tượng.

Kinh: Ngàn a-tăng-kỳ-kiếp... Tam muội thấy Phật.

Giải thích: Phần ba-Thời gian tu hành. Đây là kết về vị trí trụ tự, trải qua bấy nhiêu kiếp, từ đây về sau, do công càng khó thành cho nên thời gian càng lúc càng nhiều.

Kinh: Lại nữa, Bậc Tuệ quang Thần biến.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười hai. Văn có ba phần:

1. Nêu vị kê tên; 2. Biện quán sai biệt; 3. Từ "Vạn A-tăng-kỳ..." là nói về thời gian nhập vị. Đây là phần một.

Nghĩa là: Địa thứ chín, bốn trí vô ngại, Quốc độ các hữu tình, hoặc khởi sáu thần thông, gọi là bậc Tuệ quang và Thần biến.

Kinh: Trú Vô sinh nhẫn Thượng thượng

Giải thích: Phần hai-Biện minh quán sai biệt. Văn có bốn tiết:

1. Phối với ba phẩm Nhẫn; 2. nói về diệt tâm tâm tướng; 3. Bốn nhãn thấy Pháp quán; 4. Sinh tịnh độ. Đây tức phần một. Phối với ba ngôi vị nhẫn.

Nghĩa là: vô sinh nhẫn có ba phẩm, đây tức là thượng phẩm mà nói "thượng thượng phẩm"; chữ thượng ở trước là thắng nghĩa, chữ thượng ở sau là phẩm số. Nghĩa là Địa thứ chín này, đắc bốn Biện... Nên bảo là Thắng.

Kinh: Diệt tâm tâm tướng.

Giải thích: Phần hai-nói về diệt tâm tướng. Ở trong ngôi vị này, trừ diệt tâm tâm có chấp tướng mà nói là Thắng. Về "Diệt tâm tâm tướng", có thuyết nói là diệt hai tướng của kiến phần và tướng phần, nên nói là Diệt tâm tâm tướng. Nay giải thích: Diệt tự tính Tâm, gọi là diệt Tâm. Nếu diệt sự sai biệt trên tâm thì gọi là Diệt tâm Tướng.

Kinh: Pháp nhãn thấy tất cả pháp, ba nhãn thấy sắc, không.

Giải thích: Phần ba-Môn Bốn nhãn quán.

Nghĩa là: pháp nhãn thấy tất cả pháp là bệnh thuốc có nhiều loại tướng khác nhau. "Ba nhãn thấy sắc, không" nghĩa là: nhục nhãn thì thấy sắc thô. Thiên nhãn thì thấy thô, tế, Tuệ nhãn thì thấy sắc không. Căn cứ theo thật thì tuệ nhãn quán chư pháp không. Nay để đối với hai nhãn nhục, thiên mà chỉ nói là thấy sắc không. Nếu theo Bổn ký thì pháp nhãn thấy tất cả chơn như, ngoài ra thì như đã nói trên.

Kinh: Dùng đại Nguyện Lực, thường sinh nơi tất cả tịnh độ.

Giải thích: Phần bốn-Thường sinh tịnh độ.

Kinh: Vạn A-tăng-kỳ... Tam muội Phật Hoa.

Giải thích: Phần ba-Thời gian nhập vị. Vị Bạc-giàphạm. Tiếng Hoa gọi là Thế Tôn; vì đủ các đức. Còn gọi là địa thứ chín, gọi là Thế Tôn. Tam muội Phật Hoa, cũng lại như vậy, vì tựa như Phật định, gọi là Phật Hoa.

Kinh: Lại nữa, Bồ-tát quán Phật.

Giải thích: Biện minh về Pháp sư thứ mười ba. Văn có bốn phần:

1. Nêu vị kê tên; 2. Thời gian đăng Trú; 3. Từ "thiện nam!... " các ngôi vị đối nhau để biện về tướng sai biệt; 4. Từ "Thường tu..." nói về Nhập vị trụ định. Đây là phần một. Nêu vị kê tên.

Nghĩa là: trong ngôi vị này, hai loại quán Phật: 1.

Nhãn kiến: chỉ là thân Tha thọ dụng; 2. Định tâm kiến: Quán thông cả ba thân.

Kinh: Trú Nhẫn tịch diệt... Trụ đài Kim cang.

Giải thích: Phần hai-Thời gian đăng vị. Văn có bốn tiết: 1. Phối với năm Nhẫn; 2. Trải qua thời gian sai biệt; 3. Biện minh về tu đức; 4. Hiển bày đăng trụ vị.

Nói "Trú Nhẫn tịch diệt": là phối với năm nhẫn vị. Nghĩa là nhẫn tịch diệt tự có hai loại: Hạ phẩm và Thượng phẩm. Nay địa thứ mười là trong nhẫn tịch diệt thứ năm. Ngôi vị nhẫn hạ phẩm.

Nói "từ khởi thủy đến trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp": là tính chung từ tập chủng tính đến nhẫn quán đảnh.

Nói "tu trăm vạn A-tăng-kỳ kiếp công đức": là biện minh vô lượng đức đã tu. Nói "Đăng tất cả pháp giải thoát": là ở ngôi vị đang đến, tức là Diệu giác. "Trú đài Kim cang": là Tam muội Kim cang chánh nói về Đẳng Giác Như Lai. Hoặc có thể giải thoát, tự có hai loại; Đẳng Giác và Diệu giác. Nay Kim cang này tuy chẳng phải gồm thâu trong quả giải thoát Diệu giác, mà thành Đẳng giác giải thoát, nên gọi là đăng tất cả pháp giải thoát.

Kinh: Thiện nam tử!... tất cả phiền não.

Giải thích: Từ đây là phần ba-các ngôi vị cùng đối nhau để biện về tướng sai biệt. Văn có năm phần: 1. Phục, Đoạn sai biệt; 2. Tín, Kiến sai biệt; 3. Đốn, Tiệm sai biệt; 4. Khác nhau giữa Thường và Vô thường;

5. Khác nhau giữa Đẳng và Vô đẳng. Đây là phần một. Sự khác nhau giữa Phục và Đoạn. Văn có hai phần: trước là phục, sau là đoạn. Đây là phần phục.

Nghĩa là: từ tập nhẫn đến đảnh Tam muội, đều gọi là phục điều phục tất cả phiền não; do nghĩa của phục là rộng, nên gọi chung là phục. Theo Bổn ký nói: Đều gọi là phục, là từ mười tín đến cuối Kim cang. Đoạn dứt thức A-lại-da tại một Sát-na, nên nói là phục tất cả phiền não. Kinh: Mà tin Vô tướng... chiếu Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Giải thích: Đây là phần hai. Đoạn: Sơ địa trở lên, tín vị vô lậu, mới đoạn dục. Nói "Vô tướng": tức là vô lậu. Không có tướng của hữu lậu nên gọi là Vô tướng, nghĩa là tín Vô tướng, là đạo vô gián, đoạn diệt tất cả phiền não, sinh ra đạo giải thoát, chiếu kiến Đệ-nhấtnghĩa-đế.

Kinh: Không gọi là kiến, gọi là kiến, là Tát-bà-nhã

(Nhất-thiết-trí).

Giải thích: Phần hai-Tín, Kiến sai biệt. Văn có hai phần: 1. Chánh thích về Tín, Kiến; 2. Dẫn thuyết chứng thành. Đây là phần một.

Trước khi thành Phật, chỉ nói là Tín, không gọi là Kiến, gọi là Kiến, là Nhất-thiết-trí.

Kinh: Do đó... bất kiến, bất giác. (Có bản nói: duy Phật sở tri là sai).

Giải thích: Phần hai-Dẫn thuyết chứng thành.

Tri, kiến, giác, khác tên nhưng đồng một thể, tuy chung cả nhân và quả, mà đều được tên đó. Nay nói theo phần hơn, cho nên chỉ nói tại quả.

Kinh: Chỉ Phật mới giải, hiểu tức thì, không gọi là tín, lần lần phục.

Giải thích: Phần ba-Tiệm, Đốn sai biệt. "chỉ Phật mới giải tức thì, không gọi là tín, dần dần phục": Nguyên do là sao? Do đốn đoạn dứt ngay tất cả, hai chướng. Chỉ gọi là kiến, không gọi là Tín, cũng không gọi là từ từ chế phục.

Kinh: Tuệ tuy khởi diệt... vô sinh vô diệt.

Giải thích: Phần bốn-Khác nhau giữa thường và vô thường. Hoặc có thể vô ngại khác với giải thoát. Theo đoạn văn này, có hai giải thích:

1. Ngài Tam Tạng Chơn đế lập nghĩa như vậy: Phật quả công đức, Bồ-đề Niết-bàn đều không có sinh và diệt, cho nên chung cả phục nạn, dùng nghĩa của tam tông. Nghĩa là: ngoại đạo thắc mắc; khi đạo vô gián, Tuệ có sinh, diệt thì làm sao lại có thể sinh ra trí vô sinh diệt? Vì vậy mà nói câu này; khi đạt định Kim cang, tuệ tuy có sinh diệt, nhưng có thể chứng biết lý vô sinh diệt, do thắng tuệ ấy mà chứng lý sâu xa. Tâm này nếu diệt thì có thể chứng đắc Niết-bàn lụy tận, còn có thể chứng đắc vô sinh vô diệt, thường trú Bồ-đề, vì vậy đoạn trước kinh nói: "Nhất-thiết-trí giác phi hữu phi vô, an nhiên thanh tịnh, thường trụ bất biến, đồng chơn tế, đẳng pháp tính". 2. Ngài Tam Tạng Từ Ân thuyết như vậy: Thời Kim cang, tuệ tuy có sinh diệt, nhưng có thể chứng giải lý vô sinh diệt, nên có thể chứng đắc Niết-bàn quả tận, cũng có thể chứng đắc pháp đại Bồ-đề thường trụ. Đoạn trước kinh thuyết: "Thường trú Bất Biến" là nói theo phần thắng, chỉ thuyết về thật tướng nhưng chẳng quán chiếu. Kinh: Nhập lý tận Tam muội Kim cang... đẳng vô đẳng đẳng.

Giải thích: Phần năm-Sự khác nhau giữa đẳng và vô đẳng. Hoặc có thể là sự khác nhau giữa vô gián và giải thoát. Văn có ba phần: pháp, dụ và hợp. Đây là nói về pháp.

Nghĩa là: nhập lý tận Tam muội Kim cang. Thanh tịnh vô nhiễm, ngang đồng với Chơn như tế, Đạo hậu, ở đạo tiền là pháp tính chơn như. Nói "nhưng chưa thể đẳng (ngang) vô đẳng đẳng" nghĩa là: dưới Phật Thế Tôn, ví không bằng, gọi là vô đẳng. Ngang với chư Phật, thì gọi là đẳng. Kim cang trở về trước thì không có thể đẳng nên gọi là Vô đẳng đẳng.

Kinh: Thí như có người... thấy rõ cả.

Giải thích: Phần hai-Nêu dụ. Đã rõ.

Kinh: Trú lý tận Tam muội, cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần ba-Hợp dụ. Đã rõ.

Kinh: Thường tu tất cả Tam muội Phật Tuệ.

Giải thích: Phần bốn-Nhập vị trụ định.

Nghĩa là: trong ngôi vị này, tất cả sáu độ và bốn nhiếp, thực hành đã viên mãn, đủ công đức tạng, nhập Bà-già-độ, trụ Tam muội Phật Tuệ. Âm Phạm là Bà-giàđộ, tiếng Hoa gọi là Thế Tôn, tức là một hiệu trong mười hiệu. Trú trong ngôi vị này, Quán Tam muội ba thân, mới đắc viên mãn.

Kinh: Thiện nam!... Ngang bằng không khác.

Giải thích: Đây là dựa theo phần chánh thuyết mười ba Pháp sư. Văn có ba phần: 1. Nêu; 2. Từ "Thiện nam!..." Giải thích; 3. Từ "Thiện nam!..." Tóm kết tán thán. Ở trên đã giải thích xong hai phần trước. Đây là phần ba-kết. Tán thán thắng đức không khác với Phật. Kinh: Phật bảo vua Ba-Tư-Nặc... Bát-nhã Ba-lamật.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Trao vương thọ trì. Văn có bốn phần: 1-Tán dụng khuyến trì. 2-từ "Đại vương! Bát-nhã ấy..." tán danh khuyến trì. 3-từ "Đại vương! Ta nay..." giải thích nguyên do khuyên. 4-từ "Đại vương! Nay..." xưng tên trao gởi.

Trong phần một có hai phần: 1. Lược tán khuyến trì; 2. Từ "Đại vương!..." rộng tán khuyến trì.

Trong phần lược tán có năm phần: 1. Ứng thời khuyên thọ trì; 2. Nguyên do khuyên thọ trì; 3. Kết thuộc các vương; 4. Ngoại nhân thắc mắc; 5. Như Lai giải thích. Đây là phần một.

Nghĩa là: khi chánh pháp ta diệt, thọ trì cả bộ nhân vương Bát-nhã.

Kinh: Đại tác Phật sự...... Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Phần hai-Nguyên do khuyên thọ trì. Có ba loại: 1. Đại tác Phật sự. Nghĩa là: diệt ác sinh thiện; 2. Quốc độ an lập; 3. Trăm họ vui vẻ an lạc. Hoặc có thể là phần một là nội hộ, hai phần sau là ngoại hộ. Lợi ích như vậy, đều do nhờ Bát-nhã.

Kinh: Do đó, gởi trao.... Thanh tín nữ.

Giải thích: Phần ba-Kết, thuộc các vua.

Kinh: Vì sao?

Giải thích: Phần bốn-Ngoại nhân thắc mắc.

Kinh: Không có lực của bậc vua.... hiểu như lý.

Giải thích: Phần năm-Như Lai giải thích.

Kinh: Đại vương! Ta nay... đế vương hoan hỷ.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Rộng tán thán khuyên thọ trì. Văn có hai phần: 1. Tổng nêu. Trừ nạn phước sinh; 2. Hỏi đáp phân biệt: giải thích riêng về bảy nạn. Đây là phần một.

Nói "bảy phước": như Bổn ký nói; ngược lại với bảy nạn trước, là bảy phước. Bảy phước là: 1. Muôn họ yêu trọng Quốc vương; 2. Bốn biển chầu phục; 3. Oán địch lùi tan; 4 Quốc vượng tự thọ thân mình; 5. Bốn phương ca ngợi; 6. Trăm họ giàu vui; 7. Vị lai nhập vào thiện đạo.

Kinh: Nạn là gì?

Giải thích: Phần hai-Hỏi đáp phân biệt giải thích về bảy nạn.

Văn có hai phần: Trước hỏi, sau đáp. Đây là phần hỏi.

Kinh: Nhật nguyệt thất độ.... là nan thứ nhất.

Giải thích: Phần hai-Đáp. Ở phần đáp về bảy nạn, chia làm tám phần: Đây là phần một-Nạn Nhật nguyệt thất độ. Nghĩa là: thời tiết chuyển khác, hay khiến đói kém. Số lượng chuyển khác, khởi nhiều chiến tranh. Sắc tướng chuyển khác, nhiều tật bệnh.

Kinh: Nhị thập bát tú... là nạn thứ hai.

Giải thích: Phần hai-Nạn tinh tú biến đổi quái lạ.

Kinh: Đại hỏa thiêu quốc... là nạn thứ ba.

Giải thích: Phần ba-Nạn đại hỏa thiêu đốt.

Kinh: Đại thủy trôi chìm... là nạn thứ tư.

Giải thích: Bốn-Nạn đại thủy chìm trôi.

Kinh: Đại phong thổi hại... là nạn thứ năm.

Giải thích: Năm-Nạn Đại phong thổi hại.

Kinh: Thiên địa quốc độ.... là nạn thứ sáu.

Giải thích: Sáu-Nạn hạn hán nóng bức.

Kinh: Bốn phương giặc đến.... là nạn thứ bảy.

Giải thích: Phần bảy-Nạn giặc ác xâm bức.

Kinh: Đại vương! Bát-nhã... Long Bảo Thần vương. Giải thích: Phần hai-Tán danh khuyên thọ trì. Văn có hai phần:

1. Tán danh thù thắng; 2. Khuyên thọ trì, vương cúng dường. Đây là phần một.

Nhưng tám tên gọi này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Danh đầu tiên trong tám danh là hiển bày Thật Tướng Bát-nhã, vì đó là thể tâm thần của chư phàm thánh. Danh gọi thứ hai là nói về quán chiếu Bát-nhã, vì sinh ra tâm tuệ giải của chư Quốc vương. Sáu danh gọi sau là biện về văn tự Bát-nhã, do có sáu thắng nhân để hộ quốc độ. Một thuyết nói: đó có thể làm chỗ nương dựa cho phàm, thánh, nên gọi là thần bổn. Có thể sinh ra ngôi vua, nên dụ là phụ mẫu, có thể hộ thân mệnh, nên dụ là thần phù. Có thể trị tà ma, nên gọi là Tị quỉ châu (hạt châu tránh quỉ) có thể thỏa mãn các nguyện nên gọi là Như ý châu, làm cho nước nhà yên ổn, gọi là châu hộ quốc, tỏ hiển nhân quả, gọi là gương thiên địa. Tối thắng trong pháp, oai lực khó lường, gọi là Long Bảo Thần vương. Bổn ký nói: Thức thứ sáu, gọi là Tâm. Thứ bảy gọi là Thức, thứ tám gọi là Thần. Kinh này có thể làm chỗ nương cho tám thức phàm thánh, nên gọi là gốc. Có thể sinh ra Quốc vương Thế gian và xuất thế, nên dụ là phụ mẫu. Ngoại đạo Ma vương không thể hàng phục, nên dụ là thần phù. Có thể trừ năm loại bố úy: bất hoạt,... danh là châu trừ quỉ. Có thể gồm lợi cho chúng sanh, danh là châu Như ý. Có thể hàng bảy nạn, danh là châu hộ quốc. Có thể hiển bày mọi đối tượng nhận biết, danh là gương Thiên Địa. Đạo Tiền, Đạo Hậu, thanh tịnh không khác, danh là Long Bảo Thần Vương. Nói rộng như sách ấy.

Kinh: Phật bảo... Đặt kinh ở trên.

Giải thích: Phần hai-Khuyên vua cúng dường. Văn có hai phần:

1. Chỉ bày pháp cúng dường; 2. Chỉ bày riêng đi, đứng cúng dường. Đây là phần một.

Pháp có sáu sự: 1. Phướn chín màu, dài chín trượng; 2. Hoa chín màu, cao hai trượng; 3. Đèn ngàn cành, cao năm trượng; 4. Rương chín ngọc; 5. Khăn chín ngọc; 6. Bàn bảy báu.

Nói "chín màu". Theo Bổn ký nói: trắng, đen, vàng, đỏ, xanh, đó là sắc năm trần, cùng với sắc bốn đại là chín. Sắc bốn đại là: Địa thì sắc tro, Thủy thì theo sắc Phả-lê thủy tinh. Hỏa thì sắc quang hỏa châu. Phong thì sắc khói.

Kinh: Nếu vương khi đi.... tội lỗi không sinh.

Giải thích: Phần hai-Đi, đứng cúng dường. Văn có hai phần: 1. Pháp cúng dường khi đi; 2. Pháp cúng dường khi đứng. Đây là phần một. Khi đi.

Kinh: Nếu khi vương đứng... như phụng sự Đế Thích.

Giải thích: Phần hai-cúng dường khi đứng. Như kinh đã rõ.

Kinh: Đại vương! Ta nay năm nhãn.... bảy nạn tất khởi.

Giải thích: Phần ba-Thích về nguyên do khuyên. Văn có hai phần: 1. Nói về phước ba đời của chư vương có hưng có suy; 2-Nói về vị lai hộ trì, làm lợi ích lớn. Đây là phần một.

Kinh: Nếu đời vị lai... đến hộ nước đó.

Giải thích: Vị lai hộ trì. Văn có ba phần: 1. Nêu chương nêu số; 2. Thứ đệ giải thích; 3. Kết. Khuyến cúng dường. Đây là phần một.

Kinh: Một, Kim cang hống... đến hộ nước đó.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Thứ lớp giải thích. Văn đã rõ.

Kinh: Năm đại lực sĩ đó,... mà cúng dường.

Giải thích: Phần ba-kết. Khuyên cúng. "Năm đại lực sĩ đó": là kết về năm Bồ-tát. "Năm ngàn thần vương,..." giải thích về lợi ích.

Từ "phải lập hình tượng..." khuyên cúng dường. Khuyên pháp cúng dường như nói trong kinh ngũ Thần Vương Nhân Duyên, trong phần nhân duyên Bồ-tát Điện Lôi Hống, dạy người pháp đọc kinh, viết chép kinh. Dụng pháp là: phải làm một căn phòng tám góc tám bức vách, hiên ngoài tùy sức mà trang hoàng, nay chỉ nói phần chính. Trong tám góc, mở một góc cửa để người ra vào. Ở bên trong phòng, đặt một giường tám mặt chừa lại một khoảng trống nhỏ để người làm việc hành xử, trong ngoài tám vách, trét đất thơm, trên mỗi bức vách, đều lường thân ngồi, ngay đúng khoảng hai mắt mở hai lỗ để thấy được kinh, ngay đúng hai tay, lại mở thêm hai lỗ vừa với bàn tay thò ra để nắm kinh. Khi muốn đọc kinh, đặt kinh ở ngoài vách, trên bàn giá, trong vách ngoài vách đều đốt hương thơm, dùng nước nóng hương thơm đậu miến để tắm rửa thân tay và súc miệng. Cần phải khéo giỏi xem gió, nếu là gió đông thì đặt kinh quyển ngoài vách Đông. Ở bên trong vách đọc kinh về hướng Đông, khiến gió thổi hơi miệng theo gió bay về hướng Tây, không ập vào kinh quyển. Vì miệng luôn có hơi khí, nên phải làm phòng này, về chép kinh pháp dùng cũng như trên.

Kinh: Đại vương! Ta nay, Tam bảo... tất cả các vua. Giải thích: Phần bốn-Gọi tên trao gởi. Văn có ba phần: 1. tỏ chung trao gởi; 2. Kể tên các nước lớn; 3. Từ "Như vậy, tất cả...." kết. Khuyên phải thọ trì. Đây là phần một.

Kinh: Nước Kiêu-Tát-La... nước Ba đề. (Hoặc có bản kinh; chỉ kê ra mười lăm nước, thiếu nước Sa Đà Vệ)

Giải thích: Phần hai-Kể tên các nước chính. Về danh hiệu mười sáu nước lớn, thì kinh Đại Tập phần Nguyệt Tạng chia làm mười sáu. Luận Đại Tỳ-bà-sa quyển một trăm hai mươi bốn, thì âm Phạm khác nhau.

Kinh: Như vậy, tất cả... Ba-la-mật.

Giải thích: Phần ba-kết. Khuyên trì.

Kinh: Lúc ấy các đại chúng... Nguyện không sinh ra ở nước kia.

Giải thích: Phần ba-Thời chúng đắc ích. Trong đó có năm phần:

1. Nói về Tu-La được ích; 2. Hiển bày về vua người được ích; 3. Biện minh về các Phạm thiên được ích; 4. Các chúng khác được ích; 5. Bồ-tát được ích. Đây là phần một.

"Lúc ấy chư đại chúng": là câu nêu chung từ "A-tuluân..." là hiển bày lợi ích. Nghĩa là: Tu-la kia nghe thuyết về bảy nạn, thân sợ thất thanh, phát nguyện không sinh ra ở các quốc độ xấu ác kia, tức là sự ích lợi ghét ác thích thiện.

Kinh: Lúc ấy mười sáu Quốc vương.... xuất gia tu đạo.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Vua người được ích. Trong đó có hai phần: 1. Chư Vương xả tục nhập đạo; 2. Tu đạo khởi quán sai biệt khác nhau. Đây là phần một.

"Đem nước trao em": tức là xả tục. "Xuất gia tu đạo": tức là nhập đạo. Giải thích rõ về tại gia thì mắc lỗi, xuất gia thì lợi lạc. Như kinh Văn Thù Vấn quyển hai.

Kinh: Quán bốn đại... Thắng xuất tướng.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Tu đạo khởi quán khác nhau. Văn có hai phần: 1. nói về các Quán; 2. Từ "Đó là..." kết thành chứng đắc. Trong phần một có bốn phần: 1. nói về tám thắng xứ; 2. nói về mười biến xứ; 3. Hiển bày về tướng sơ địa; 4. Tướng của chín địa. Đây là phần một.

Quán Địa, Thủy, Hỏa, Phong tạo ra bốn Đại. Xanh, vàng, đỏ, trắng, tạo ra bốn sắc, gọi là tám thắng xứ. Cảnh của đối tượng duyên thắng phiền não, cho nên gọi là thắng xứ. Xuất lìa tham dục cho nên gọi là thắng xuất. "Tướng": nghĩa là thể tướng, hoặc là tướng trạng, hoặc là hành tướng. Đó là tướng hành giải của tám thắng xứ. Theo kinh Đại Bát-nhã thì hơi khác. Kinh ấy nói: 1. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc ít; 2. Nội hữu sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều; 3. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc có bốn; 4. Nội vô sắc tưởng quán ngoại sắc nhiều. Nội vô sắc tưởng quán ngoại các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, lại thành là bốn loại. Gọi là tám thắng xứ. Theo kinh Anh Lạc thì tám gọi lại khác nhau, bốn đại thì giống với kinh này, bốn sắc thì giống với kinh Bát-nhã. Còn bốn hữu sắc thì không nói là xanh, vàng,... là bốn sắc. Hoặc có thể kinh này giống với kinh Anh Lạc, nghĩa cũng không trái.

Kinh: Bốn đại bốn sắc... nhập hành tướng.

Giải thích: Phần hai-nói về mười biến xứ: Địa, thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng, không xứ, thức xứ, gọi là mười biến xứ. Còn gọi là mười Nhất thiết nhập, tức là xứ duyên với rộng lớn, không có khe hở, nên gọi là hành tướng biến xứ. Tức là mười tướng hành giả của Nhất thiết nhập. Nói "không dùng": là ngữ thừa tiếp. Vì vậy mà không nói về tám giải thoát. Ba khóa pháp này là quán của những người thuộc ba căn thượng, trung, hạ. Trong đó chỉ có hai căn thượng và trung, vì không có hạ căn nên không xét đến.

Kinh: Ba mươi nhẫn là tướng sơ địa.

Giải thích: phần ba-nói về tướng của sơ địa.

Ba mươi tâm địa tiền, gọi là ba mươi nhẫn. Tức là tướng phương tiện của sơ địa. Sơ địa thì dùng Đệ-nhấtnghĩa-đế làm Thể.

Kinh: Đệ-nhất-nghĩa-đế, tướng của chín địa.

Giải thích: Phần bốn-nói về tướng của chín địa.

Sơ địa chứng Như. Cảnh và trí bình đẳng ngang nhau, gọi là Đệ Nhất nghĩa. Làm tướng nhân cho chín địa sau, gọi là Tướng chín địa. Vì vậy mà Nhiếp Luận nói: Nếu ở sơ địa, khi đạt pháp giới, mau chóng thông đạt, tất cả sau đều nói là Như Địa.

Tụng nói:

Như phá vỡ đốt đầu.
Các đốt khác mau phá.
Đắc chơn trí sơ địa
Các địa khác mau thành.

Kinh: Do đó, Đại vương!... Bát-nhã Ba-la-mật.

Giải thích: Đây là phần hai-kết thành chứng đắc. Văn có hai tiết:

1. Xả phàm nhập Thánh; 2. Xả phân đoạn nhập dị biến.

Nói "Do đó, Đại vương" kết về người được bảo. Nói "xả thân phàm phu": nghĩa là, xả thân phàm phu Địa tiền. Nói: "nhập thân lục trụ": là nhập sơ địa đến thân trụ địa nơi sáu địa. Đó tức là xả phàm nhập thánh ở trên. Nói: "xả thất báo thân": nghĩa là xả báo thân phân đoạn nơi bảy địa, cho nên luận Trí Độ nói: Bảy địa chưa xả thân sâu bọ thân xác thịt. Nói là: "Nhập Bát pháp Thân": nghĩa là nhập pháp thân biến không tám địa trở lên. Cho nên kệ trên nói:

Chưa độ Báo thân một sinh còn Tiến vào đẳng quán pháp lưu địa.

Nói "Nhất Địa hành Bát-nhã Ba-la-mật": đó là vạn hạnh, pháp thân đều có đủ, hoặc có thể nói chung cả mười địa vạn hạnh đều có đủ.

Kinh: Mười tám Phạm Thiên vương đồng với cảnh vô sinh.

Giải thích: Từ đây là phần ba. Phạm Thiên đắc ích thủ ngang bằng với các a tu luân. Trong đó có hai phần: 1. Đắc ích; 2. Hiển bày cúng dường. Đây là phần một.

Nghĩa là: các Phạm Thiên, tùy theo căn tính của họ, chứng đắc quán môn chơn thật của ba Thừa.

Kinh: Lại rải hoa cúng dường.

Giải thích: từ đây là phần hai-Giải thích cúng dường. Văn có ba phần: 1. Tổng nêu về cúng dường; 2. Kê riêng về tên hoa; 3. Hiển bày cúng dường. Đây là phần một.

Cúng dường có hai loại: Pháp và Tài. Nay trong văn này là hiển bày pháp cúng dường.

Kinh: Hoa không.... Hoa ba mươi bảy phẩm.

Giải thích: Phần hai-Liệt kê riêng về tên Hoa: Hoa không: là Hiển bày nhân không, hoa pháp tính, là nói về pháp không. Hai loại hoa này là biểu thị cho phục nhẫn, vì địa tiền nhờ học quán nhị không. Hoa thánh nhân là biểu cho tín nhẫn, vì mới bắt đầu nhập vào thánh pháp tín vô lậu. Hoa thuận: là biểu cho thuận nhẫn, vì địa thứ tư, thứ năm, thứ sáu thuận vô sinh. Hoa vô sinh, là biểu cho hạ, trung, phẩm nơi vô sinh nhẫn, vì mới bắt đầu chứng giải vô sinh. Hoa Pháp lạc: là biểu cho thượng phẩm vô sinh nhẫn, do bốn biện tự tại thuyết pháp lạc. Hoa Kim cang: là biểu cho hạ phẩm tịch diệt nhẫn, vì Tam muội Kim cang phá các kết. Bảy hoa trên là biểu cho pháp đại thừa. Hoa duyên quán Trung Đạo: là biểu cho pháp Duyên giác, do chứng giải duyên sinh Quán Trung đạo Hoa ba mươi bảy phẩm: là biểu thị cho pháp Thanh văn, vì đắc tự tại trong quán đạo phẩm.

Kinh: Mà rải trên Phật... chúng đại Bồ-tát.

Giải thích: Phần ba-Chánh hiển cúng dường do các vị Phạm Thiên trên đắc Tam thừa quán, dùng hoa Tam thừa, rải trên Phật.

Kinh: Tất cả chúng còn lại chứng quả đạo tích.

Giải thích: Phần bốn-Chúng khác được ích. Văn có ba đoạn: 1. nói về được ích; 2. Liệt kê tên hoa; 3. Chính cúng dường. Đây là phần một.

Đạo tích: là Hướng, Quả; tức là Quả đó. Lại giải; Đạo tích: là Hữu học, Quả tức là Vô học, thông cả ba Thừa. Trước là đắc quán Tam Thừa, đây là chứng quả Tam thừa, mà có sự khác nhau.

Kinh: Rải hoa tâm Không... Hoa Diệu giác

Giải thích: Phần hai-Liệt kê riêng tên Hoa. Hoa ba Không là bốn Không. Trong ba học thì gọi là Tâm học. Hoa Tâm Thọ: là Quán duyên sinh. Mười hai Duyên Sinh gọi là Hoa Thọ (thọ là cây). Hoa sáu Ba-la-mật; là hạnh Thập Địa. Ba hoa trên theo thứ tự hiển bày pháp Tam Thừa. Hoa Diệu giác: là Phật quả hạnh, trong Nhân mà nói Quả, gọi là Hoa Diệu giác.

Kinh: Mười ngàn Bồ-tát nghĩ về chúng sanh đời sau. Giải thích: Phần năm-Nói về Bồ-tát đạt lợi ích, trong đó có hai phần: 1. nói về mười ngàn Bồ-tát đắc Tam muội ích; 2. Hiển bày mười ức Bồ-tát hiện thành Phật ích. Trong phần một có hai phần: 1. Người năng chứng; 2. Định được chứng đắc. Đây là phần một.

Nghĩa là: đây đều là những Bồ-tát Địa Thượng đắc đồng Thể Đại Bi, thương xót nghĩ đến chúng sanh cõi ác đời vị lai.

Kinh: Liền chứng... Kim cang Tam muội.

Giải thích: Phần hai-Định được chứng đắc, trong có ba phần: 1.Duyên quả định; 2. Duyên nghĩa định; 3. Đắc định khác. Đây là phần một.

Nghĩa là: Đức diệu Phật quả gồm cả chơn và tục, nên bảo là Diệu giác. Chiếu lý viên tận, nên bảo là viên minh. Không hư hoại nên gọi là Kim cang. Nay những Bồ-tát đó chứng đắc cái Định duyên vào ba, từ nơi đối tượng duyên mà đặt tên.

Kinh: Tam muội Thế đế... Tam muội Đệ-nhấtnghĩa-đế.

Giải thích: Phần hai-Duyên Nghĩa Định. Trong đó có hai: 1. nói về ba định; 2. Hiển bày ba thù thắng. Đây là phần một.

Biết Định Hữu Lậu, gọi là Tam muội Thế Đế. Biết Định vô lậu, gọi là Tam muội Chơn đế. Biết phi chơn như an lập gọi là Tam muội Đệ-nhất-nghĩa-đế.

Kinh: Tam muội ba đế này... Tam muội vương

Giải thích: Phần hai-Hiển bày ba thù thắng. Ba Tam muội đó thâu tóm hết tất cả Tam muội, có đại Thắng dụng, nên gọi là Vương. Luận Trí Độ nói: Tam muội vua của Tam muội.

Kinh: Cũng đắc... Tam muội Nhất thiết hành Giải thích: Phần ba-Đắc các định khác. "Tam muội vô lượng": là định bốn vô lượng.

"Tam muội bảy Tài": là Định duyên bảy tài: 1. Tín; 2. Giới; 3. Tàm (hổ); 4. Quý (thẹn); 5. Thí; 6. Văn; 7. Tuệ. Như kinh Anh Lạc đã nói. Chú thích chi tiết như Luận Tập Dị Môn quyển mười sáu.

Tam muội hai mươi lăm hữu: là chứng giải Định hai mươi lăm hữu. Bốn người, bốn cõi ác, bốn không, bốn thiền, phạm vương, sáu cõi trời Dục, vô tưởng, và NAhàm, đó gọi là hai mươi lăm hữu. Như kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn và luận Trí Độ đã nói. Lại giải: đối trị hai mươi lăm định Hữu, gọi là Tam muội hai mươi lăm Hữu, vì vậy mà kinh Niết-bàn nói: Tam muội Vô cấu có thể đối trị Địa ngục hữu, cho đến Tam muội đắc Ngã có thể đối trị phi tưởng phi phi tưởng Hữu.

"Tam muội tất cả hạnh": là gồm thâu chung các hạnh định.

Kinh: Lại có hiện thành Chánh giác.

Giải thích: Phần hai-Lợi ích của mười ức Bồ-tát hiện thành Phật.

Nghĩa là: những vị đó đều là Bồ-tát địa thứ mười, do từ diệu lực nghe kinh mà lên tòa Kim cang, tọa định Kim cang, hiện thành Phật.

----------------------

Chú thích phẩm này, lược có hai nghĩa:

1. Giải thích tên phẩm.

2. Chánh giải thích văn.

Về giải thích tên phẩm: chú; nghĩa là trao gởi, dặn dò. Lụy nghĩa là trùng lớp. Như Lai trao gởi kinh này, lưu hành nhiều đời nhiều lớp, nên gọi là phẩm Chúc Lụy. Kinh: Phật bảo...Ta khuyên bảo các ông. (Có bản không có chữ "các" là sót)

Giải thích: Từ đây là phần hai. Chánh thích kinh văn. Phẩm trước đã nói về lưu thông khuyên học. Phẩm này nói về lưu thông dặn dò. Trong đó có hai phần: 1. Dặn dò khuyên răn; 2. Từ "Bấy giờ, vô lượng..." nương theo lời dạy mà phụng trì. Trong phần một có hai phần:

1. Nhiều lần dặn dò răn bảo; 2. Rộng thích về trao gởi răn khuyên. Đây là phần một. Răn: Nghĩa là răn khuyên, tức nêu bảy điều răn. Bảo: Nghĩa là dạy bảo, nói về sự dặn dò.

Kinh: Sau khi ta diệt độ.... không có tín nữ.

Giải thích: Phần hai-Rộng thích về trao gởi dặn dò răn khuyên. Có hai phần: 1. Trao gởi dặn dò; 2. Từ "Năm trược... " rộng tỏ răn bảo.

Trong phần một có hai phần: 1. Thời dặn dò; 2. Chánh nói về dặn dò. Đây là phần một.

Nói "Tám mươi năm...": chú thích đoạn văn này, các thuyết bất đồng: Một thuyết nói: Sau khi Phật diệt độ, trong khoảng một trăm năm, có năm người trụ trì: 1. Ca diếp hai mươi năm; 2. A-nan hai mươi năm; 3. Mạt điền địa hai mươi năm. Ba người trụ trì giữ pháp trải qua sáu mươi năm, gặp Phật tại thế để hành pháp, giữ pháp không bị diệt.

4. Thương-na-hòa-tu, trì giữ hai mươi năm; 5. Ưubà-cúc-đa, cũng hai mươi năm. Thương Na-hòa-tu vì không gặp Phật mà hóa, cho nên pháp oai nghi bị diệt.

Nói "Tám trăm năm": là trong khoản năm trăm năm chánh pháp, có hai mươi lăm sư trú trì Pháp Phật, đều cùng là thánh nhân tương truyền cho nhau Phật Pháp không bị diệt. Năm thứ sáu trăm thì Bồ-tát Mã Minh. Năm thứ bảy trăm thì Bồ-tát Long Thọ, nhờ hai người trì giữ mà Pháp Phật bất diệt. Trong khoảng năm tám trăm, người trì pháp nhỏ ít, cho nên nói là pháp diệt.

Nói "Tám ngàn năm": là Tượng pháp, Mạt pháp, chúng sanh hành pháp tà, nên hai thời tượng và mạt, pháp diệt. Kinh Niết-bàn nói: "Mạt thế có mười hai vạn đại Bồ-tát khéo trì pháp ta không diệt", theo cái thấy của phàm tục, mà bảo là diệt mà thôi.

Một thuyết nói: "Tám mươi năm" nói ở đây là tám mươi năm sau cùng trong thời chánh pháp năm trăm năm. "Tám trăm năm" là tám trăm năm sau cùng trong thời tượng pháp một ngàn năm, cho nên nói là tám trăm năm. "Tám ngàn năm" là lấy theo tám ngàn năm sau cùng trong thời mạt pháp mười ngàn năm. Tuy có thuyết đó, nhưng chưa thành văn, nên không thể theo. Nhưng về thời chánh pháp, Tượng pháp, Mạt pháp, ý nghĩa đó rất khó hiểu, vì vậy mà nay lấy năm phần để phân biệt: 1. Giải thích tên gọi; 2. Xuất thể tính; 3. Thời gian chia dài ngắn; 4. Tướng của Diệt pháp; 5. Hội thích với các văn trái ngược. Chi tiết như đã nói ở Biệt ký. Nói "khi không có Phật... không có tín nữ": là hiển bày phần trên. Chỉ nêu lên ý tám mươi năm, tám trăm năm, tám ngàn năm, vì trong những thời đó Tam bảo bị chìm, ít người hoằng pháp, vì vậy chỉ nêu tám mươi năm,... là khi không có Phật Pháp. Chữ "vô" (không có) nói ở đây là ít có gọi là vô, cũng vừa có nhưng làm cho không có, gọi là vô.

Kinh: Tam bảo kinh này... đọc tụng hiểu nghĩa.

Giải thích: Từ đây là phần hai. Chánh nói về gởi gắm dặn dò. Văn có hai phần: 1. Trao pháp khiến thọ trì; 2. trao chúng khiến giáo hóa. Đây là phần một.

Nghĩa là: thời ác này, giao cho vương bốn chúng, đều khiến thọ trì đọc tụng hiểu nghĩa.

Kinh: Vì chúng sanh nơi tam giới... Hóa tất cả chúng sanh.

Giải thích: Phần hai-trao chúng khiến hóa. Nghĩa là: khai mở ba hạnh hoá cho chúng sanh nơi Tam giới.

Ba Hạnh là: 1-Hạnh "Không";

2. Hạnh bảy Hiền; 3. Hạnh Thập Thiện.

Có thuyết nói: Phần giao dặn có hai: 1. Giao dặn khiến hiểu; 2. từ "Vì chúng sanh..." là giao chúng khiến hóa.

"Khai đạo Không Tuệ": là Tuệ vô lậu. "Hạnh bảy Hiền" là bảy phương tiện quán. "Thập thiện hạnh" là mười nghiệp thiện đạo, đó là nói từ cao xuống thấp, hoặc có thể hạnh bảy Hiền là các Hạnh, Tín,...

Hỏi: Vì sao phẩm trước chỉ giao cho các vương, trong phẩm này là giao chung cho cả bốn chúng?

Giải: Phẩm trước giao gởi là để hộ trì, cho nên chỉ giao cho chư vương, phẩm này giao dặn khiến hiểu để hóa chúng sanh, cho nên chung cả bốn bộ chúng.

Kinh: Đời năm ô trọc (ô trược) sau này... diệt phá pháp ta.

Giải thích: Từ đây là phần hai-Rộng biện về bảy điều răn. Văn có hai phần: 1. Rộng biện về bảy điều răn; 2. Từ "Bấy giờ, mười sáu Quốc vương..." nương theo giáo phụng trì. Đây là phần một. Rộng biện về bảy điều răn. Tức chia làm bảy phần: 1. Điều răn về các lỗi lầm diệt pháp; 2. Điều răn về làm hư hoại hạnh của bốn Bộ; 3. Điều răn về lấy theo Nhân cấm, không nương theo pháp; 4. Điều răn về tự mình hủy hoại; 5. Điều răn về sự sai khiến nô dịch; 6. Điều răn về lỗi lầm của tự mình; 7. Điều răn về tin lầm. Đây tức là phần một. Các lỗi lầm diệt pháp. Văn có ba phần: 1. Người Diệt Pháp; 2. Từ "Minh tác...." biện về lỗi lầm làm pháp diệt; 3. từ "phải biết..." kết về lỗi lầm thành. Đây là phần một. Văn có ba tiết:

1. Đời năm ô trọc: là thời gian diệt pháp, tức là thời năm trọc. Nghĩa của năm trọc này, lược dùng ba môn để phân biệt; 1-Giải thích Danh; 2. Xuất Thể; 3. Lập năm nguyên do. Về phần thứ nhất, giải thích tên gọi thì có hai loại: 1. Tên chung; 2. Tên riêng. Nói "năm trọc" tức là tên chung. Năm: là nêu con số. Trọc: là làm nhơ nhớp cái đẹp. Luận Câu-xá quyển mười hai nói: Thời kiếp giảm sắp Mạt, các Thọ thấp kém, như chất nhơ uế, gọi đó là trọc. Lại nữa, luận Thuận Chánh Lý quyển ba mươi hai nói: Nghĩa của trọc là gì? Vì cực kỳ thấp kém, phải tìm cách xả bỏ, như chất cặn bã. Năm trọc là tên gọi chung. Tên gọi riêng là: 1. Thọ mạng trọc; 2. Kiếp trọc; 3. Phiền não trọc; 4. kiến trọc; 5. hữu tình trọc. Luận Du già quyển ba mươi bốn nói: Như ở thời nay, tuổi thọ con người rút ngắn. Người cực trường thọ, không quá trăm năm. Thời xưa không vậy, đó gọi là Thọ trọc. (Như kinh văn Thù Vấn nói: mười tuổi mà sống, hai mươi tuổi, ba mươi tuổi, cho đến ngàn tuổi, vì có dài, ngắn, đó là Mệnh trọc). Như ở thời nay, lần lần nhập đến trong kiếp tam tai, hiện có nhiều loại đói khát dịch bệnh, chiến tranh. Thời xưa không có vậy, ấy là kiếp trọc. Như Thời nay, hữu tình đa phần tập sự tham lam trái pháp, tham bất bình đẳng. Cầm dao kiếm, gậy gộc đấu tụng tranh giành, hay hành dối trá dua nịnh vọng ngữ, thâu giữ pháp tà, có vô lượng loại ác, pháp bất thiện, thời xưa không vậy. Ấy gọi là phiền não trọc. (Kinh nói; nhiều tham, sân, si gọi là phiền não trọc). Như ở thời nay, hữu tình đa phần làm hại chánh pháp, làm diệt chánh pháp, tạo lập nhiều loại hình tựa như chánh pháp, suy cầu tà pháp, tà nghĩa, lấy đó làm đầu. Thời xưa không vậy. Ấy gọi là kiến trọc. (Kinh nói: Tà kiến, giới kiến thủ, kiến thủ, thường kiến, đoạn kiến, hữu kiến, vô kiến, ngã kiến, chúng sanh kiến, ấy gọi là kiến trọc). Như ở thời nay, hữu tình đa phần không biết cha mẹ, sa môn, Bà-la-môn. Không biết gia trưởng, bậc đáng tôn kính, mà làm những điều nghĩa lợi, làm những điều phải làm. Nay đối với tội đời sau, không biết sợ hãi, không tu tuệ thí, không làm nghiệp phước. Không thọ trai pháp, không thọ tịnh giới. Thời xưa không vậy, đó gọi là hữu tình trọc. Năm trọc nói trong luận địa trì, cũng giống với luận Du già. (Kinh nói: chúng sanh thiện ác, hạ trung thượng chúng sanh, chúng sanh thắng, liệt, đệ nhất, bất đệ nhất chúng sanh, đó gọi là chúng sanh trọc). 2. Về phần xuất thể; thọ mạng trọc, thì lấy mệnh căn làm tính. Kiếp trọc, chúng sanh trọc, thì lấy năm uẩn làm tính. Phiền não trọc thì trừ năm kiến, lấy tất cả phiền não làm tính. Kiến trọc thì dùng năm kiến làm tính; 3. Lập năm nguyên do: Luận Thuận Chánh Lý nói: Ba loại trọc; thọ, kiếp, hữu tình không lìa xa nhau. Kiến trọc thì dùng phiền não làm tính. Khi cực tăng thịnh thì theo thứ tự mà hiển rõ năm loại suy tổn. Năm loại suy tổn là gì? 1. Thọ mệnh suy tổn, vì thời gian sống cực ngắn ngủi; 2. Đồ dùng sinh sống bị suy tổn: Vì thiếu sự sáng sủa; 3. Phẩm thiện suy tổn: Vì vui thích với các hạnh ác;

4. Tịch tịnh suy tổn: Lần lượt trái ngược nhau, vì tranh cạnh nhau; 5. Tự thể suy tổn: Do chẳng phải là công đức khí của xuất thế gian. Vì muốn hiển bày thứ tự năm loại suy tổn khác nhau, mà chia thành năm trọc. Luận hiển tông cũng nói giống vậy. Lại nữa, luận Câuxá quyển mười hai nói: Do hai trọc trước, như thứ tự của chúng; thọ mệnh và đồ dùng sinh sống cực kỳ suy tổn. Do hai trọc tiếp theo, phẩm thiện suy tổn, vì chìm đắm trong dục lạc, mà tổn hạnh tự tại, hoặc tổn tại gia, xuất gia thiện. Do một trọc sau cùng, làm suy tổn tự thân.

Tiếp đó là các Tỳ-khưu… biện minh về người diệt pháp. Có bốn loại người diệt pháp: 1. Bốn bộ chúng nói "Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, đệ tử bốn bộ": là nêu riêng để hiển chung; 2. "Thiên Long Bát Bộ": tức tám bộ chúng. Đây cũng là nêu riêng để hiển chung; 3. Quỷ thần chúng;

4. Quý chúng các vương … "tự ỷ cao sang, diệt phá pháp Ta": là diệt thắng duyên của pháp, do vì cao quý tạo thành các sai lầm.

Kinh: Minh tác chế pháp… Phật tháp hình.

Giải thích: Phần 2-Biện về lỗi lầm diệt pháp. Văn có hai phần:

1. Chế bốn phúc; 2. Lập bốn tà. Đây là phần chế bốn phúc:

1. Chế xuất gia.

2. Chế hành đạo.

3. Chế tạo tượng.

4. Chế tạo tháp. Như kinh đã rõ.

Kinh: Lập thống quan… đều chẳng phải là pháp của Ta.

Giải thích: Phần 2-Lập bốn t giáo: 1. Sai lầm về lập thống quan chế chúng, an tịch ghi tăng, không nương theo pháp tăng; 2. "Tỳ-khưu địa, lập bạch y ngồi cao": Đó là làm mất đi tướng cao, thấp. Câu này có hai chú thích: Một là: ở trong tăng địa, bạch y ngồi cao. Hai là: cùng bắt Tỳ-khưu ngồi dưới thấp, bạch y thì ngồi cao; 3. Binh nô làm Tỳ-khưu; bên trái với tướng tôn quý của phước điền; 4. Thọ nhận biệt thỉnh mời riêng, làm mất đi tướng của phước điền, đó là pháp của ngoại đạo, chẳng phải là pháp Ta. Do đó, kinh Tỳ-khưu ứng cúng pháp hạnh nói; nếu đệ tử Ta có người thọ nhận sự thỉnh mời riêng, thì người đó chắc chắn đã làm mất nhất quả, nhị quả, tam quả, tứ quả. Không gọi là Tỳ-khưu. Đó là không được đi trên đất của Quốc vương. Không được uống nước của Quốc vương. Có năm trăm đại quỉ thường chặn ở trước mặt. Tỳ-khưu ấy bảy kiếp không gặp Phật. Phật không trao truyền tay. Không được thọ nhận đồ vật của đàn việt. Năm ngàn đại quỉ thường theo phía sau, gọi là giặc lớn trong pháp Phật. Chư Tỳ-khưu phải tác thứ lớp thỉnh tăng. Pháp của bảy Phật là như vậy, có tăng Phật hóa, tăng tứ quả, tăng Bồ-tát, tăng thất hiền, tăng phàm phu. Vì muốn khiến cho đàn việt thí chủ bốn phương đều được Tăng như vậy, cho nên đừng nhận lời những cuộc mời riêng nói đầy đủ như trong kinh kia.

Lại nữa, kinh Phạm Võng nói: Tất cả không được nhận lời mời riêng. Lợi dưỡng nhập vào mình, nhưng lợi dưỡng đó là thuộc Tăng mười phương, nhận lời mời riêng tức là lấy đồ vật của Tăng mười phương mà nhập vào mình. Lại nói: "thứ lớp thỉnh": Tức là đắc thập phương hiền Thánh Tăng. Người đời biệt thỉnh năm trăm La hán, không bằng một Tăng thứ lớp phàm phu. Nếu người biệt thỉnh là pháp ngoại đạo. Bảy Phật không có pháp đó, nói đủ như kinh kia. Kinh cư sĩ thỉnh Tăng phước điền, đại ý cũng như vậy.

Kinh: Nên biết bấy giờ… không lâu.

Giải thích: Phần 3-Kết về lỗi lầm. Đã rõ.

Kinh: Đại vương!… Đó là các ông làm.

Giải thích: Phần 3-Bốn bộ hành diệt hoại. Văn có bốn phần: 1. Nêu tên gọi về lỗi lầm; 2. Biện về tướng của lỗi lầm; 3. Hiển bày lụy của chúng; 4. Kết. Lỗi nặng. Đây là phần một. Làm hư loạn chánh đạo mà bốn bộ đã thực hành.

Kinh: Tự ỷ oai lực… Đệ tử.

Giải thích: Phần 2-Biện về tướng của lỗi lầm. Nghĩa là: chế ngự chánh lý mà bốn bộ đã thực hành.

Kinh: Trăm họ tật bệnh… Nhân duyên phá nước.

Giải thích: Phần 3-Hiển bày quả. Do bốn bộ chế, hiện cảm báo ác.

Kinh: Nói về tội… không hết.

Giải thích: Phần 4-Kết lỗi nặng. Như kinh đã rõ.

Kinh: Đại vương!… Các hành phi pháp.

Giải thích: Phần 3-Răn về dựa theo tù cấm, không nương theo luật của pháp. Văn có bốn phần: 1. Nêu chung về lỗi lầm; 2. Biệt hiển tướng của lỗi; 3. phi pháp… là nói về tù cấm phi pháp; 4. "Nên biết…" là kết về lỗi nặng. Đây là phần một.

Kinh: Cùng với Phật pháp… Làm các tội lỗi.

Giải thích: Phần 2-Biệt hiển tướng lỗi lầm. Như kinh đã rõ.

Kinh: Phi pháp, phi luật… Như pháp tù cấm.

Giải thích: Phần 3-Phi pháp tù cấm.

Kinh: Đương thời bấy giờ, pháp diệt không lâu.

Giải thích: Phần 4-Kết. Lỗi nặng.

Kinh: Đại vương!… Diệt phá Tam bảo.

Giải thích: Từ đây là phần 4-Điều răn bảo về tự hủy. Văn có ba phần: 1. Tự hủy; 2. Khởi ác; 3. Chiêu cảm quả báo. Trong phần tự hủy: Trước là pháp, sau là dụ. Đây là phần pháp. Như kinh đã rõ.

Kinh: Như trùng trong thân sư tử… chẳng phải là ngoại đạo.

Giải thích: Phần 2-Nêu dụ giải thích lại, giải thích dụ này. Như kinh Liên Hoa; Phật bảo tôn giả A-nan: thí như sư tử, mệnh chung thân chết, tất cả chúng sanh hoặc ở trong không hoặc ở trong đất, hoặc ở trong nước hoặc ở trên đất liền, đều không dám ăn thịt thân sư tử kia, duy chỉ thân sư tử tự sinh ra các sâu trùng lại tự ăn thịt của sư tử. A-nan! Pháp Phật của Ta, chẳng có loại người nào khác có thể phá hoại, mà chính là các Tỳ-khưu xấu ác trong pháp Ta, phá tan pháp Phật mà Ta đã siêng năng cần khổ thực hành tích tập trong ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Giải kinh đó chỉ dụ cho những Tỳ-khưu xuất gia, không như kinh này dụ chung cả đạo và tục.

Kinh: Làm hư hoại Phật pháp Ta… chỉ còn trăm tuổi.

Giải thích: Phần 2-Nói về khởi ác. Ác có ba loại: 1-Hoại pháp đắc tội; 2. Chánh giáo không hành; 3. Ác Tăng thọ giảm.

Kinh: Người hoại Phật giáo… họa liền ngang dọc.

Giải thích: Phần 3-Chiêu cảm quả báo, trong có ba phần: 1.

Pháp; 2. Dụ; 3. Hợp. Đây tức phần pháp thuyết.

Trong đó có ba phần: 1. Nói về hiện báo; 2. Hiển bày sinh báo; 3. Biện về hậu báo.

Đây là nói về hiện báo. Có năm loại:

1. Hủy hoại Phật giáo.

2. Không có con hiếu thảo.

3. Bà con thân thích bất hòa. (Cha mẹ, anh em, vợ chồng).

4. Thiên thần không phù hộ.

5. Tai nạn lạ lùng không dứt.

Kinh: Chết nhập địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh.

Giải thích: Phần 2-Hiển bày sinh báo.

Kinh: Nếu xuất ra được làm người thì bị quả báo làm binh nô.

Giải thích: Phần 3-Biện về hậu báo. Về chi tiết của ba báu, xin xem ở chương khác.

Kinh: Như tiếng vang như ảnh… Lửa tắt chữ còn.

Giải thích: Phần 2-Nêu dụ. Dụ có ba loại: Hai dụ đầu là dụ về hiện báo: Như có âm thanh và hình thì chắc chắn phải có tiếng vang và bóng. Có nơi hiện nghiệp, báo định cùng một lúc. Một dụ sau là dụ cho sinh báo. Như người viết chữ vào ban đêm, đèn tắt chữ vẫn còn. Hiện nghiệp tuy đã diệt, nhưng hai báo vẫn còn. Hoặc có thể hai dụ trước là dụ chung cho cả ba thời. Nếu có ba nghiệp thì chắc chắn phải có quả theo. Như nơi có âm thanh, hình, thì tất phải có tiếng vang và bóng.

Kinh: Quả báo nơi tam giới, cũng lại như vậy.

Giải thích: Phần 3-Hợp pháp binh nô.

Kinh: Đại vương!… Như pháp binh nô.

Giải thích: Phần 5-Điều răn bảo về sai dịch. Văn có bốn phần: 1.

Hoành chế; 2. Sử dịch; 3. Ghi sổ; 4. Nêu bày lỗi lầm.

Phần ngang nhiên chế có ba: 1. Chế người; 2. Ngang nhiên chế điều răn; 3. Thuộc bạch y. Đó là pháp binh nô. Kinh: Nếu đệ tử ta… Đó là pháp binh nô.

Giải thích: Phần 2-Sai khiến, nô dịch. Văn có ba tiết: 1. Lập tịch;

2. Cưỡng ép sai khiến; 3. Hiển bày chẳng phải là đệ tử Phật. Đó là pháp binh nô.

Kinh: Lập thống quan để thâu tóm Tăng… pháp của binh nô.

Giải thích: Phần 3-Ghi chép cai quản. Văn có bốn tiết: 1. Quan nhiếp. (Bị quan lại quản chế); 2. Điển nhiếp (sổ sách ghi chép); 3. Tăng nhiếp (bị tăng quản chế). 4. Đều thuộc về tù ngục, pháp binh nô.

Kinh: Đương thời như vậy, Phật pháp không lâu.

Giải thích: Phần 4-Nêu bày lỗi lầm.

Kinh: Đại vương!… là con đường thực hành thường của chư Phật.

Giải thích: Bảy điều răn về tin lầm. Văn có bốn phần: 1. Chỉ rõ thiện; 2. Chỉ rõ ác; 3. Tin lầm; 4. Thị lỗi. Đây là phần thị hiện. Kinh này là pháp khí của bảy Phật, là con đường thường thực hành của chư Phật mười phương, cho nên phải lưu thông.

Kinh: Các Tỳ-khưu xấu ác… Nhân duyên phá nước, giải thích: Các Tỳ-kheo cầu lợi, ở trước mặt các vua, tự thuyết về các nhân duyên phá pháp phá nước. Tỳ-khưu tự thuyết, gọi là phá pháp. Chỉ bày cho vua khiến vua làm, gọi là phá nước.

Kinh: Vua đó không rõ… không nương theo pháp Phật.

Giải thích: Phần 3-Tin lầm. Các vị vua không biết là họ vì cầu danh cầu lợi, tin nhận lời dối gạt dua nịnh của họ, tạo pháp chế bậy không nương theo giới Phật.

Kinh: Đó là phá Phật pháp… chánh pháp không lâu. Giải thích: Phần 4-Chỉ rõ lỗi lầm. Tin theo lời dua nịnh của họ, không tin theo lời Phật, chắc chắn đó là nhân duyên phá nước, pháp diệt không lâu.

Kinh: Bấy giờ, mười sáu… mất ánh sáng không hiện.

Giải thích: Từ đây là phần 2-Đại chúng phụng trì. Trong có hai phần: 1. Vua người thương cảm; 2. Vua trời thở than. Trong phần đầu có hai phần: 1. Nói về thương cảm; 2. Hiển bày thọ trì. Đây là phần một.

Mười sáu đại vương nghe Phật nói về bảy điều răn sự ác thời vị lai, buồn khóc ra tiếng. Chấn động ba ngàn, các ánh sáng không còn hiện.

Kinh: Lúc ấy các vương… đúng như Phật dạy.

Giải thích: Phần 2-Thọ trì lời Phật dạy, theo như Phật răn, không dám trái nghịch.

Kinh: Bấy giờ, đại chúng… là không có Phật tại thế. Giải thích: Phần 2-Vua trời than thở. Nghĩa là: các vua trời, than thở thời ác, không có Phật tại thế, là hư không.

Kinh: Bấy giờ… Vua A-tu-luân.

Giải thích: Từ đây là phần 2-Đại chúng phụng hành. Trong đó có hai phần: 1. Nói về người là chủ thể thọ trì; 2. Hiển bày pháp là đối tượng được thọ. Đây tức phần một. Văn có ba tiết: 1. Là Bồ-tát; 2. Là Thanh văn; 3. Là tạp phẩm.

Kinh: Nghe Phật đã thuyết… Ba-la-mật.

Giải thích: Phần 2-Kết về pháp được lãnh thọ.

Nghe Phật đã thuyết về nhân duyên hai hộ, cung kính thọ trì, phụng hành pháp đó.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Kinh Sớ][Mục lục tổng quát]