TẠNG LUẬN
SỐ 1709 - NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA KINH SỚ
Tác giả: Đời Đường, Lương Bí soạn thuật
Cúi lạy vô thượng giác
Thể khắp tướng tròn sáng
Ứng hiện trần sa thân
Đại bi không gì sánh
Pháp cam lộ đã thuyết
Tu-đa-la thanh tịnh
Khéo độ các quần sanh
Sâu rộng không thể lường
Trụ đạo quả thù thắng
Lân dụ, Bộ hành tôn
Năm nhẫn, các Thánh phàm
Con nay đều kính lễ
Tam bảo lực bi trí
Gia hộ thấy chẳng sót
Nay muốn tán chơn văn
Nguyện lợi đến muôn loài
Giải thích tên kinh, gồm nghĩa chung và nghĩa riêng: "Nhân vương Hộ quốc" nghĩa là nêu những việc làm của bậc chủ thưa hỏi. "Bát-nhã Ba-la-mật-đa" là làm sáng tỏ ý nghĩa sâu xa huyền diệu của cảnh trí. "Phẩm Tự thứ nhất" tức là tên riêng của một phẩm trong tám phẩm của bộ kinh, cũng có thể giải thích như sau: Nhân, là đức đứng đầu trong ngũ thường. Vương, là thống lãnh cả Tam tài Thiên Địa Nhân. Hộ, là sử dụng diệu lực từ bi để cứu độ chúng sanh. Quốc, là vùng thành cư trú. Bát-nhã, là tịnh tuệ, có thể phá tan mạng lưới phiền não của ngọn sóng tâm thức. Ba-la, là bờ kia, tức là ngôi nhà thanh tịnh. Mật-đa, là lìa bỏ, là đạt đến. Kinh, là liên tục thâu giữ. Tự, là nguyên do đầu mối khởi phát. Phẩm, là chia riêng từng phần. Đệ, là thứ đệ, thứ tự. Nhất, là con số đầu tiên.
Nhân và Pháp đều cùng được làm sáng rõ, cho nên gọi là: Kinh Nhân Vương Hộ Quốc Bát-Nhã Ba-La-MậtĐa
-------------------------
Giải thích kinh này, lược chia làm bốn phần:
1. Nêu khởi ý của kinh.
2. Làm rõ tông thể của kinh.
3. Nêu đối tượng thâu nhiếp, đón nhận.
4. Giải thích kinh văn.
Phần 1: Nêu Khởi Ý Của kinh: chia làm hai phần:
- Khởi ý của kinh.
- Niên đại phiên dịch.
Trong phần một lại có hai phần: Trước nêu chung, sau bàn riêng. Chư Phật xuất hiện ở đời, giáo hoá theo nhân duyên cảm ứng, nay thuyết giảng kinh này, nói riêng về hai hộ, trong mười bốn vị Quốc vương thì phàm Thánh đều có đủ, đều ấp ủ nguồn căn giải thoát và nuôi lớn sự nghiệp Bồ-tát. Vì vậy kinh nói có mười sáu vị Quốc vương như Ba-tưnặc v.v... thấy tướng hảo của Phật là hiếm có, đều tự nghĩ: đức Thế Tôn đại từ ban bố lợi lạc cho khắp cả quần sanh, đám tiểu vương chúng con làm sao hộ quốc? Như Lai đại bi bình đẳng làm lợi ích và cứu vớt chúng sanh. Phật nói: Này Thiện nam! Ta nay trước tiên vì các Bồtát thuyết giảng pháp mầu để hộ trì quả Phật, hộ trì thập Địa thập Hạnh, đó gọi là nội hộ. Lại nữa, phẩm Hộ quốc nói: Tất cả quốc độ nếu khi sắp loạn lạc, xuất hiện các tai nạn, giặc giã cướp bóc phá hoại... mà hóa giải hoặc chống ngăn được, thì gọi là ngoại hộ. Thuyết giảng kinh này là để trình bày hai hộ khiến mang lại lợi ích lâu dài. Tiếp đến là tỏ riêng, lược có sáu môn: 1. Phật mẫu; 2. Thắng đức;
3. Tu hành; 4. Thứ lớp; 5. Đồng thuyết; 6. Phật quả.
Chư Phật sanh ra ắt phải do trí tuệ làm mẹ (mẹ trí). Trí tuệ ấy xuất sanh Phật làm cho đức thuần khiết và tỏ sáng. Tu hành là bẩm thụ. Tu hành dần dần và thứ tự từ thấp đến cao từ cạn đến sâu, điều ấy chẳng riêng một vị Phật đề xướng mà là tất cả chư Phật cùng tuyên dương. Từ nhân được quả mà thuyết quả Phật viên thành, gồm trong sáu môn ấy như là ý nghĩa sâu xa của kinh này. Như con người trong thế gian đều do người mẹ hiền sanh ra, từ lúc vào thai đến khi nuôi lớn, trồng đức lập hạnh, từ ấu thơ cho đến khi trưởng thành được thầy bạn dạy bảo, lập thân nêu danh. Ý nghĩa phát khởi của kinh đại loại như vậy.
1. Phật Mẫu:
Tất cả chư Phật từ Bát-nhã sanh ra, do đó Bát-nhã tức là mẹ của chư Phật. Phẩm Bất-tư-nghì nói: Bát-nhã Ba-la-mật-đa này là mẹ của chư Phật, mẹ của chư Bồtát, là nơi sanh ra các công đức bất cộng, sanh ra thần thông. Lại nữa phẩm Phụng trì nói: Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể sanh ra tất cả pháp của chư Phật, sanh ra pháp giải thoát của tất cả chư Bồ-tát, sanh ra pháp vô thượng của tất cả các Quốc vương, sanh ra pháp xuất ly của tất cả hữu tình. Phật từ mẹ sanh, trở lại tỏ bày đức của mẹ. Diệu lực của Bát-nhã có thể hộ trì được đất nước, cho nên mới thuyết giảng kinh này.
2. Thắng đức:
Bát-nhã được nêu giảng có thể sanh ra chư Phật, giáo được giảng giải há so sánh được chăng? Phẩm Quán Như Lai nói: Nếu có người lấy bảy báu chất đầy cả hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới dùng để Bố thí cho tất cả hữu tình trong đại thiên thế giới đều đắc quả A-lahán, không bằng có người phát khởi tịnh tín đối với kinh này cho dù một niệm, huống hồ là có người thọ trì đọc tụng hiểu một bài kệ bốn câu. Lại nữa, Phẩm Nhị đế nói: Nếu có người phát khởi một niệm tịnh tín, đối với kinh này người ấy tức đã vượt khỏi trăm ngàn vạn kiếp sanh tử khổ nạn, huống hồ là công đức vốn được do viết chép, thọ trì đọc tụng, vì người khác mà giải thích thuyết minh, thì sẽ ngang bằng với tất cả chư Phật mười phương không khác. Nói rõ công đức thù thắng của kinh nhằm làm rõ pháp khó được nghe, xem nửa bài kệ còn đáng trân trọng hơn là bản thân mình. Các đức Phật cùng thuyết về nhân tố chân chánh để xuất ly phiền não nơi ba cõi, nếu không nương vào kinh điển thì chẳng có cách nào giải thoát cả. Vậy, có thể nói, vì mục đích làm cho tất cả chúng sanh giải thoát mà thuyết kinh này.
3. Tu hành:
Quả báo đau khổ của ba cõi thế gian khiến cho chúng sanh luân hồi nhiều kiếp không dứt, dù phát khởi tâm thật nhàm chán sanh tử vẫn không thể nào ra khỏi vòng sống chết. Những bọn ngoại đạo tu hành khổ hạnh như là đi vào núi sâu mà nhịn đói, hao tốn nhiều sức, uổng phí công lực mà vẫn chẳng mang lại kết quả nào. Như Lai thương xót thế gian bèn thị hiện nơi vương cung, nương theo năng lực đại trí đại bi, thuận theo tâm niệm chúng sanh mà tuyên thuyết, lược khai năm nhẫn thành mười bốn nhẫn. Phẩm Bồ-tát hạnh nói: Này thiện nam! Mười bốn nhẫn này là chỗ tu hành của tất cả Bồ-tát quá khứ, hiện tại, trong mười phương thế giới, là sự hiển thị của tất cả chư Phật. Chư Phật Bồ-tát Ma-ha-tát vị lai cũng lại như vậy. Nếu Phật, Bồ-tát không do môn tu này mà đắc Nhất-thiết-trí thì thật không có điều ấy. Vì sao? Vì chư Phật Bồ-tát không có con đường nào khác. Này thiện nam! Nếu có người nghe nhẫn Trú, nhẫn Hạnh, nhẫn Hồi hướng, nhẫn Hoan hỷ, nhẫn Ly cấu, nhẫn Phát quang, nhẫn Diệm tuệ, nhẫn Nan thắng, nhẫn Hiện tiền, nhẫn Viễn hành, nhẫn chẳng động, nhẫn Thiện tuệ, nhẫn
Pháp vân, nhẫn Chánh giác này, có thể khởi một niệm tín thanh tịnh, thì người ấy đã vượt quá tất cả những khổ nạn trong trăm ngàn kiếp, vô lượng vô biên hằng hà sa số kiếp, không bao giờ bị sanh ra trong cõi xấu ác, không lâu sẽ chứng đắc Bồ-đề vô thượng, ở trong các nhẫn, nói đủ hạnh thù thắng, khiến thoát trói buộc khổ não nên thuyết giảng kinh này.
4. Thứ lớp:
Bồ-đề, Niết-bàn là những cảnh giới cần được cầu chứng, phải tu vạn hạnh, trải qua A-tăng-kỳ kiếp, từ cạn đến sâu, tuần tự ngộ nhập. Phẩm Phụng trì nói: Làm thế nào để các Thiện nam ở trong kinh này nhận hiểu rõ ràng, vì người mà diễn thuyết? Phật nói: Đại vương! Ông nay lắng nghe, từ tập nhẫn đến định Kim-cương, như pháp tu hành mười ba môn quán, đều là pháp sư nương giữ kiến lập, nên mười ba môn là nói rộng về tu đoạn. một đức không đủ, thì không do đâu được trở về nguồn. Đừng bảo một môn chỉ hạ thủ công phu một chút lực mà có thể chứng ngộ Bồ-đề vô thượng một cách viên mãn. Cho nên, vì trình bày đầy đủ sự tu tập đoạn trừ mà thuyết giảng kinh này.
5. Đồng thuyết:
Chư Phật vì muốn lợi lạc chúng sanh cho nên tùy theo căn tánh mà thuyết pháp, nhưng cùng tột về lý và tông thì không khác. Phẩm Nhị đế nói: "Đại vương! Tất cả chư Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ta nay thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa, không hai không khác, đại chúng các ông thọ trì đọc tụng như thuyết tu hành, tức là thọ trì pháp của chư Phật". Nhưng Phật hóa tích im lặng hay nói đều đạt đến Bát-nhã, đều thuyết tương tự như nhau.
6. Phật quả:
Bồ-tát nhiều kiếp, chúng hạnh trang nghiêm, nhân tròn đầy quả vẹn toàn, là ngôi vị cứu cánh, không phải tướng mà cũng không phải vô tướng, vĩnh viễn vượt khỏi sanh diệt. Phẩm Phụng trì nói: "Này thiện nam! Khi tammuội Kim-cương hiện ở trước mặt, cũng chưa thể nhập vào quả vị Đẳng giác, vô đẳng đẳng" là nhân của Đẳng giác. Nếu ngôi vị giải thoát, nhất tướng vô tướng, vô sanh vô diệt, đồng chân tế, ngang pháp tánh, mãn công đức tạng, trụ nơi vị Như Lai", là nói rõ về quả Phật. Há không phải là quả vị Bồ-đề, Niết-bàn, từ sanh, liễu nhân, vẫn cứ tương tục. Điều đó không phải như vậy. Như đoạn văn nói về mười ba pháp sư, do đoạn dứt phiền não chướng, mà đắc chơn giải thoát, do đoạn dứt sở tri chướng mà đắc đại Bồ-đề. Kinh nói: Từ sơ tập nhẫn đến định Kim-cương đều gọi là điều phục tất cả phiền não. Phải phân biệt rõ do vậy mà bậc Đại giác, hiện hóa lợi sanh, sự hưng khởi của kinh này là ở đó.
Niên Đại Phiên Dịch
Từ đầu đời Tấn, đến nay là đời Đường, trước sau có bốn bản dịch:
1. Tấn triều, niên hiệu Thái thủy năm thứ ba, có Tam tạng pháp sư Đàm-ma-la-mật (Tấn gọi là Pháp Hộ), người nước Nguyệt Chi, dịch thành một quyển, tên là Nhân vương Bát-nhã.
2. Đời Hậu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy năm thứ ba, Tam tạng pháp sư Cưu-ma-la-thập, Tần gọi là Đồng Thọ, ở Trường An, gác Tây minh, vườn Tiêu dao dịch làm hai quyển tên là Nhân Vương Hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật.
3. Triều Lương, niên hiệu Thừa Thánh năm thứ ba, có Tam tạng pháp sư Ba-la-mạt-đà (Lương gọi là Chân đế), người nước Ưu-thiền-ni phía Tây Thiên Trúc, ở Hồng Phủ, chùa Bảo Nhân, dịch thành một quyển, tên là Nhân Vương Bát-nhã, đồng thời sớ giải thành sáu quyển.
Bản dịch đầu tiên vào đời Tấn thì sử dụng ngôn ngữ Trung Hoa còn kém, bản dịch đời Lương thì vì lý do nào không rõ, bị thất lạc không lưu hành. Bản dịch đời Tần thì lưu hành trong nước, từ xưa đến nay nhiều vị cao đức đã chú giải bản kinh này. đến đời Đường, Hoàng đế Túc Tông cung thỉnh Tam tạng Quán Đảnh tên A-mục-khư người nước Chấp Sư tử thuộc Nam Thiên trúc, Đường gọi là Bất Không, dịch truyền các kinh cầu cho quốc thái dân an, nguyện ấy chưa mãn thì đã thị tịch. Tôi nay, hoàng đế Bảo Ứng lại sửa đổi bộ máy càn khôn, cải cách lễ nhạc, theo lời dạy của tiên đế niên hiệu Vĩnh Thái năm thứ nhất, tức năm Ất Tỵ tháng tư ngày mồng hai, truyền chiếu.
Chiếu viết: Diệu chỉ của Như Lai, ơn thấm sanh linh, kinh báu Nhân vương, nghĩa trọng Hộ quốc. Bản dịch đời trước thì lý chưa dung thông, mong được phiên dịch lại, dựa theo bản Phạm ngữ, những lời ghi nơi lá bối, mãi không bị sót, những điều do kim khẩu của đức Phật thuyết giảng sẽ càng thêm rõ ràng.
Bắt đầu dịch từ ngày mồng một đến ngày rằm, tại điện Thừa Minh đạo tràng Quán đảnh. Vua cầm đọc bản mới, so với bản dịch cũ, bảo: Kinh cũ kinh mới, lý rất thuận hợp. Bản kinh mới dịch thì văn nghĩa rõ ràng hơn, ấy là do lời vàng ngầm khế hợp với tâm Thánh. Mặt trời Phật giáo lại mọc ở Phượng chiểu. Dịch truyền trước sau là ở đó. Trên là phần một, khởi ý của kinh.
Phần 2: Tông Thể Của Kinh Gồm có hai phần: 1. Tông của kinh. 2. Thể của kinh. Phần Tông của kinh lại có hai phần:
-Nói về các giáo.-Nói về kinh này. a. Nói về các giáo: Tông chỉ của các kinh thì tùy theo kinh mà lập nên, mỗi kinh mỗi khác. Như kinh Duy-ma thì lấy tính chất Bất tư nghì làm Tông. Kinh Pháp Hoa thì lấy Nhất thừa làm Tông. Kinh Lăng-già thì lấy Như Lai tạng làm Tông. Kinh Niết-bàn thì lấy Phật tánh làm Tông. Tông của các kinh đó, được thành lập theo sự đối đãi, vì nếu xét đến lý tột cùng thì pháp giới vốn thanh tịnh, tuyệt dứt ngôn ngữ, thì Tông ở chỗ nào? Trong kinh Lăng-già, để đối trị với tâm lượng, bị kẹt trong sự lập tông, vì vậy mà kệ của kinh nói: "Tùy theo chỗ lập tông, tức có quán nhiều nghĩa tạp v.v... tâm lượng, ngôn thuyết thì không thể đạt đến". Cho nên, biết, lập tông đều là tâm lượng. Nếu tông bất sanh thì tông vẫn sanh. Do đó pháp giới thanh tịnh thì không tông nào là không phải là tông, theo đó mà nói thì chẳng có gì để nói. Nay nương theo ngôn giáo không mong cầu điên đảo, vì muốn hiểu rõ ý chỉ của các tông nên đưa ra đây để nói mà thôi Ngoại đạo tuy có nhiều tông nhưng chỉ là ngã pháp, không phải chỗ cần thiết ở đây (nói rộng ở các văn khác). Nay theo văn mà xét giáo thì có ba loại: Phật xuất thế đầu tiên chuyển pháp luân thuyết giảng kinh A-hàm... đa phần là nói tông về Hữu. Tiếp đó là thuyết các kinh Đại thừa Bát-nhã, giáo lý vô tướng, đa phần nói tông về Không. Sau cùng là thuyết về đại thừa Giải Thâm Mật v.v… nói tông về chẳng Không chẳng Hữu, phi Không chẳng phải hữu, do đức Phật Thế Tôn tự tại nơi pháp, thuận theo căn tánh mà thuyết giảng nên có những giáo thuyết khác nhau như vậy. Từ lúc song lâm, Phật tịch diệt bắt đầu là các tông phái Tiểu thừa như Yểm Diệu cho đến kệ lan đau nhau khởi lên tranh biện trong bốn trăm năm chia thành hai mươi bộ phái, đầu đuôi ngọn ngành đều như các sách đã nói. Ở trong thời đó, các bậc Thánh truyền pháp, đa phần hoằng dương Hữu giáo. Tiếp đó, các Bồtát Mã Minh, Long Mãnh... tạo ra Luận Đại Trí Độ v.v... đa phần là hoằng dương giáo Không vô tướng của đại thừa. Sau đây, chư Bồ-tát Từ thị, vô Trước, tạo Luận Dugià... đa phần là hoằng dương giáo chẳng Không chẳng Hữu của Đại thừa. Sau khi Phật diệt độ và thời Phật tại thế đều giống nhau, là trước thì Hữu, tiếp đến là Không, sau là chẳng phải hữu phi Không. Tuy nói về Hữu và Không nhưng chẳng trái với Thánh ý, cho nên pháp Đại thừa trong khoảng một ngàn năm trở lại, kế thừa chánh pháp cho nhau, chưa từng thuyết khác nhau. Kịp đến sau một ngàn năm, hai tông Không và Hữu xuất hiện hai đại Bồ-tát Thanh Biện và Hộ Pháp, mỗi vị đều nương theo giáo liễu nghĩa của đại thừa để nói về Không và Hữu, kiến giải của mỗi vị đều khác nhau. Theo Tây Vực Ký, hai vị Bồ-tát đó cũng không đối địch để tranh luận hơn kém. Nói "Không và Hữu" là Tánh Biến kế sở chấp,
Tánh Y tha khởi, Tánh Viên thành thật. Ở trong ba tánh ấy thì thể của tánh của Biến kế sở chấp là Không thể của Tánh Viên thành thật thì lìa danh ngôn, mà cả hai vị đều chấp nhận (trong phần Nhị đế sau sẽ nói đầy đủ). Chỉ dựa vào tánh Y tha khởi bàn về Không và Hữu, ý nghĩa này gồm được trình bày có hai phần: 1. Dựa theo Thánh giáo. 2. Dựa theo các bậc cổ đức.
Trong phần một: Dựa theo Thánh giáo thì có hai phần: trước là nói về Không và Hữu, sau là nói về Nhị đế.
Về Không và Hữu thì Du-già và Duy Thức đều có những văn bản cụ thể, đã san định trong Sớ Kim-cương của Đông viện chùa Như Đương. Nay theo Luận Quảng Bách quyển mười thì vấn đề ấy được chia làm ba phần:
Sư Tông, Đặt vấn đề, Chánh nghĩa.
Phần một: Sư Tông lại có ba phần: 1. Học Đồ Dugià lập Y tha Hữu; 2. Bồ-tát Thanh Biện lập Y tha Không; 3. Bồ-tát Hộ Pháp cùng phá cả hai chấp, kiến lập Trung đạo, làm thành Luận Quảng Bách. Thánh Thiên tạo ra bản luận, Hộ Pháp chú giải mà thành phần ba-Chánh nghĩa. b. Đặt vấn đề: Văn lại có hai phần:
- Lập tông.
- Trưng hỏi.
Về phần Lập tông: Luận Du-già sư địa làm sáng tỏ Hữu tông cho: Thể của pháp, phân biệt chấp là vô, (không) Thể của pháp do nhân duyên sanh là Hữu (có). Do đây phát khởi tuỳ miên phiền não, trói buộc thế gian, luân hồi nơi ba cõi. Hoặc tu gia hạnh, chứng vô ngã, không, đắc tam Bồ-đề, thoát sanh tử khổ. Để chứng minh cho nghĩa đó nên dẫn bài tụng của kinh:
Biến kế sở chấp không
Y tha khởi tánh có
Vọng phân biệt mất hoại
Rơi nhị biên tăng giảm.
Bồ-tát Thanh Biện giải thích: Danh là kế chấp. Nghĩa là Y tha. Danh đối với nghĩa của nó thì chẳng phải có, cho nên là không. nghĩa tùy theo thế gian, chẳng phải không cho nên là có. Không thể dẫn điều đó để chứng minh có Y tha.
Về phần trưng hỏi: lược dẫn bốn văn: 1. Du-già thắc mắc với giải thích của Bồ-tát Thanh Biện, có ba phần: Đầu tiên là bác bỏ, cho giải thích ấy không đúng, vì nghĩa trái nhau. Tiếp đó là đặt ra bốn nạn vấn:
1. Nghĩa đảo danh không: Nếu danh đối với nghĩa là chẳng phải có cho nên không thì nghĩa đối với danh cũng là không, sao lại có được? 2. Danh đảo nghĩa có. Lại đối với nghĩa của nó mà danh ngôn được lập, đã là nhân duyên sanh thì nghĩa phải là có. 3. Danh nghĩa kế chấp, nếu vô tánh năng thuyên của cái đã vọng chấp là không thì tánh sở thuyên của cái vọng chấy ấy chẳng lẽ lại có? 4. Danh, nghĩa đều y tha: Danh thì tùy theo thế tục mà có công năng, thuyên biểu (khẳng định để biểu thị sự việc), nếu ông không chấp nhận là tánh Y tha khởi, thì nghĩa cũng tùy theo tục đế mà giả nói là có công năng, sao ông lại không nhận là Biến kế sở chấp? Sau cùng là tổng kết: Thế tục giả lập, năng thuyên (chủ thể nêu giảng) và sở thuyên (đối tượng được nêu giảng) thì đều cùng không, có thì đều cùng có, sao kinh lại nói một có một không, cho nên lời của ông nói không phù hợp với nghĩa của kinh. Phải tin Biến kế sở chấp, tánh là không, đó là vọng tình của các thế gian lập nên. Tánh Y tha khởi theo nhân duyên mà sanh, chẳng phải là vọng tình làm ra, phải tin là có.
Về vấn nạn thứ hai: Bồ-tát Thanh Biện, vì để chứng minh nghĩa của mình, dẫn kệ của kinh:
Do lập những danh đó,
Để giảng những pháp kia,
Tánh kia đều chẳng phải hữu
Do pháp tánh đều thế.
Những người Du-già chất vấn: ý kinh không nói danh đối với nghĩa là không, chỉ nói tánh của pháp sở thuyên là chẳng phải hữu, là nói tánh của các pháp đều không thể nêu bày (bất khả thuyên; cái tánh mà danh ngôn nêu bày (sở thuyên), đều là cộng tướng. Tự tướng của các pháp đều tuyệt dứt danh ngôn. Tự tướng thì phi không, công tướng thì chẳng phải hữu, nên Tụng chỉ nói là "kia chẳng phải hữu", nếu không vậy thì phải nói là "tánh này chẳng phải hữu".
Về vấn nạn thứ ba: Bồ-tát Thanh Biện chứng minh Y tha là vô, lại dẫn Tụng được thuyết ở trong kinh:
Không có một pháp sinh
Không có một pháp diệt
Tịnh kiến quán các pháp
Chẳng phải hữu cũng phi
vô.
Những người Du-già hỏi: Đó cũng không thể chứng minh tánh của Y tha khởi là chẳng phải hữu. Nguyên do vì sao? Vì ý của Tụng đó là nói về Biến kế sở chấp, tự tánh sai biệt. Thể của năng thuyên và sở thuyên đều là không, không sanh, không diệt. Lìa chấp, tịnh kiến quán các thế gian sanh ra do nhân duyên là chẳng phải hữu phi vô, vì vậy đó chẳng chứng minh cho Y tha khởi là không.
Về vấn nạn thứ tư: Bồ-tát Thanh Biện dẫn kinh để chứng minh cho tánh Y tha là không. Kệ của khế kinh viết:
Các pháp theo duyên khởi
Duyên và pháp đều không
Chánh tri được như vậy
Là thông đạt duyên khởi
Nếu pháp theo duyên sinh
Pháp đó đều vô tính
Nếu pháp đều vô tính
Pháp đó chẳng duyên sinh
Môn đồ của phái Du-già lãnh hội với kinh này và nói: Như vậy, hai kinh thuyết về pháp duyên sinh tuy không có tự tính nhưng không trái nhau. Vì pháp theo duyên sinh, có hai loại: 1. Biến kế. 2-Y tha. Ý của tụng đó là nói về tự tính của Biến kế sở chấp là chẳng phải hữu. Không nói về Y tha. Vì nếu nói về Y tha đều là không tự tính thì đã bác hai pháp nhiễm và tịnh đều không, như vậy gọi là Ác thủ không, tự và tha đều tổn.
Bồ-tát Thanh Biện thấy các sư Du-già đưa ra nhiều điều chất vấn phản bác, bèn trách: Đó là vọng phân biệt, ai mà có thể ngăn chặn được, đến lúc đạt được chánh kiến, tự sẽ trừ bỏ.
Chánh nghĩa:
Ngài Hộ Pháp nhận xét: Những giải thích như vậy là vì tùy theo kiến giải khác nhau, chia tách lời Thánh, khiến thành nhiều phần, nổi lên tranh luận, đều chấp một bên, chẳng những không thể trừ được những trần cấu của ác kiến, thì làm sao có thể đúng với diệu chỉ thanh tịnh của Đại thừa mà chư Phật Thế Tôn đã thuyết giảng? Chưa lãnh hội chân lý, chỉ theo tình chấp của riêng mình, tự cho mình đúng, người khác sai, thật đáng sợ thay! Phải bỏ chấp trước không, hữu hai bên để lãnh ngộ Trung đạo Bất nhị của Đại thừa.
Về Nhị đế-Luận nói:
Phật đã thuyết về pháp môn Nhị đế vô tướng thâm diệu, rất là khó lường. Nay chỉ nên khích lệ tự mình dựa nơi kinh liễu nghĩa, lược biện thú quy về, dứt các tranh luận. Thế tục đế: là từ duyên sinh, các pháp sắc tâm, thế xuất thế gian, tự chứng lìa ngôn thuyết, lần lượt có thể nêu bày được, tự chứng là trước, sau mới khởi nói. Thế tục đế này, vừa có vừa không, thành do giả hợp, như các việc ảo, từ phân biệt khởi, như trong giấc mộng, có tướng để nói, là Thế tục đế. Thắng nghĩa đế: những điều Thánh nhận biết, mọi danh ngôn phân biệt đều chẳng thể hiểu được, do tự nội chứng, không do duyên khác, không có tướng trạng (vô tướng) tuyệt dứt ngôn từ, là Thắng nghĩa đế. Lược thuyết như vậy về pháp môn Nhị đế, người học chánh pháp, không còn tranh luận. Người có đại tâm, phát thệ nguyện rộng, muốn làm lợi lạc cho hữu tình đến vô biên thời gian vị lai thì phải chánh đoạn trừ trần cấu của vọng kiến, phải khéo ngộ nhập thú chơn không của bậc Thiện Thệ, để viên mãn những mong cầu, phải siêng tu học.
Hỏi: Theo như trên nói thì mất tông chỉ của ngài Hộ Pháp. Trong Luận Duy thức, Bồ-tát Hộ pháp, nói nương vào viên hữu. Vì sao ở đây giải thích Thắng nghĩa đế vô tướng tuyệt ngôn, mà nói là không?
Đáp: Ngài Hộ Pháp căn cứ vào kinh Thâm Mật, xét cùng tột tính, tướng, nói cả hai tánh đều có. Còn đây là căn cứ vào Bát-nhã, lìa lời tuyệt tướng, cho nên ở đây nói là không. Lý và giáo rõ ràng, nên không có sai lạc.
Phần hai: Dựa theo các bậc cổ đức đối nơi ba tính lập ba vô tính.
Xin lược dẫn hai văn:
Tam tạng Chân đế theo Luận tam vô tính, dứt bỏ cả ba tính, lập ba vô tính: 1. Dứt phân biệt, lập phân biệt vô tướng tính; 2. Dứt Y tha, lập Y tha vô sinh tính; 3. Dứt chơn thật, lập chơn thật vô tính tính. Sự dứt bỏ đó là ở cùng một chân lý, dứt bỏ ba tính lập ba vô tính.
Tam tạng Từ Ân thì theo Luận Duy thức tức dựa theo ba tính lập ba vô tính: Như Tụng của Luận nói:
Tức dựa ba tính này Lập ba vô tính kia:
1. Dựa vào kế chấp, lập tướng vô tính; 2. Dựa vào Y tha, lập vô tự nhiên tính; 3. Dựa vào viên thành, lập pháp tính vô ngã.
Kế sở chấp thì tình có mà lý không. Y tha, viên thành thì lý có mà tình không. Quảng Diễn giải rộng như trong luận kia.
Hỏi: Cả hai loại ba tính được lập đó khác nhau như thế nào?
Đáp: Loại trước là dứt bỏ cả ba mà lập ba vô tính. Loại sau là nương theo cả ba mà lập ba vô tính. Loại trước là không, loại sau là có.
Nếu xét chí lý, thật ra chúng không trái nhau. Như ở sắc uẩn, lập ba vô tính là: theo trên sắc uẩn, cho là ngã pháp, là kế sở chấp. Sắc uẩn hữu vi, tức là y tha. Sắc tính chơn như, tức là viên thành thật. Nếu nói rằng ba tính đều có hay đều là không, thì cũng chẳng lỗi. Chỉ lãnh hội ý đừng vướng ở lời. Nói đều có là: Biến kế là vọng có, y tha là duyên có, viên thành là chơn thật có. Nói đều không là: Biến kế thì thể không. Y tha thì tự tính không. Viên thành thì thắng nghĩa không. Với nghĩa như vậy; Thánh Hiền đều đủ, đừng cho đoạn văn trên của hai vị Bồ-tát và đoạn văn dưới của hai vị Tam Tạng là trái ngược nhau. Nói không, có là vì ở trong những thời đó người vui thích nghe không và có có thể phát khởi tu chứng. Do các hàng phàm ngu, huân tập từ vô thủy, khởi chấp có, không. Những bệnh nặng kia, Phật vì nhằm đoạn trừ mà thuyết giảng như vậy. Các vị Bồ-tát, theo lời Phật dạy, đối với những chấp kiến sai lầm của thời đó, nương theo chơn giáo, hoằng dương rộng rãi. Xin hãy xét kỹ, đừng lại mắc bệnh. Như trên đã nói, ba tính vô tính, nhị đế có, không, đều là Tông của kinh này, đến văn sẽ nói đầy đủ về các giáo.
Nói về kinh này, tựa đề tên là Bát-nhã, tức lấy đó làm tông. Xem phẩm Như Lai, chia làm ba loại: Thật tướng Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã, Văn tự Bát-nhã. Tam tạng Từ Ân còn thêm hai loại: Cảnh giới Bát-nhã,
Quyến thuộc Bát-nhã. Với ba loại trên, thành ra năm pháp: Tính Bát-nhã, tướng Bát-nhã, nhân Bát-nhã, cảnh Bát-nhã, bạn Bát-nhã. Có người nói, Tông của kinh này, Quán chiếu làm tông. Kinh nêu năm nhẫn, tức là tuệ. Sinh không, pháp không, trí căn bản, trí, hậu đắc trí, xa gần gia hạnh, đều là tông của kinh. Trong mười bốn nhẫn, thâu nhiếp hết tất cả.
Có người: Của kinh này lấy thật tướng làm tông, vì trong kinh nói: tính do các pháp, là chơn thật, không lai không khứ, không sinh không diệt. Có người nói là: cả hai nghĩa đó, hợp thành tông của kinh. Tính và tướng, tuy tên gọi khác nhau, nhưng thể và dụng, thì không sai khác. Nhân hoặc đủ khuyết, quả thì đều có. Lại nữa, cả hai là điều cầu chính, hoặc nhân hay quả, đều có tu chứng. Lại nữa, cả hai là thân chơn thật, hợp lập làm tông, vì nghĩa thuận hợp.
Hỏi: Cảnh, bạn, văn tự, sao không làm Tông?
Đáp: Vì hai Bát-nhã kia là gốc. Ba Bát-nhã này là ngọn. Lại nữa, cảnh và bạn, với chủ thể nêu giảng kia, có thể là đủ, chẳng cần lập thêm.
Hỏi: Kinh nói Nhị đế, sao không làm tông?
Đáp: Cổ đức đã nói, làm tông cũng được. Đó là trí chứng, sự lý đều đủ, hơn nữa những điều đó đã thâu nhiếp trong ấy, không có gì khác. Phần nói về Tông của kinh đã xong.
Phần hai-Nói về Thể của kinh. Gồm có hai phần: trước thể sau tính. Nói về thể của Giáo, có chung có riêng. Nêu chung là: Luận Du-già quyển tám mươi mốt nói: 1. Thể của kinh có hai: văn và nghĩa. Văn là đối tượng dựa, nghĩa là chủ thể dựa. Do có thể nêu giảng, làm rõ văn nghĩa. Nêu riêng là: hai phần trên, lại chia làm năm; ba văn hai nghĩa. Văn có ba là: 1. Ẩn giả bàn thật, lấy thanh làm thể. Luận Câu xá viết: Có thuyết nói, Phật giáo dùng ngữ làm tự tính, nói pháp uẩn, đều do sắc uẩn thâu nhiếp, vì ngữ dùng âm thanh làm tự tính. Ý Phật giảng nói, người khác được nghe. Đối pháp luận thì dẫn chứng về âm thanh chứ không dẫn chứng các danh từ. Luận Duy thức nói: Nếu danh, cú, văn, lìa thanh mà thật có thì các sắc chẳng phải thật đều có thể nêu giảng, cho nên nói là Phật giáo lấy âm thanh làm thể. 2. Ẩn thật bàn giả: các danh làm thể. Luận Câu xá nói: Có thuyết nói Phật giáo lấy danh làm tự tính, nói pháp uẩn đều do hành uẩn thâu nhiếp. Gọi là hành bất tương ưng làm tính, phải do có danh, mới nói thành giáo. Vì vậy thể của Phật giáo tức là danh. nghĩa là danh, cú, văn thứ tự theo nhau, thứ tự mà sắp xếp, thứ tự liên hợp, cho nên nói Phật giáo lấy các danh làm thể. 3. Giả thật hợp luận: tính dụng làm thể. Luận Thập Địa nói: Người nói và người nghe đều dùng hai sự mà được cứu cánh. một là tiếng (thanh), hai là chữ. Chữ là chỗ dựa vì thâu nhiếp cả danh, cú. hai sự trên thành bốn pháp: Thanh, danh, cú, văn, vì mỗi thứ đều có tác dụng riêng. Danh thì nêu giảng về tự tính, cú thì giảng giải về sai biệt. Văn tức là chữ, làm chỗ dựa cho hai thứ trên. Cả ba thứ đó, tuy lìa thanh không có "thể" riêng khác, nhưng giả và thật thì khác nhau, cũng không phải chính là thanh. Do cảnh vô ngại giải của pháp và từ, có khác nhau. Pháp duyên với danh, từ duyên với thanh, nên nói Phật giáo lấy tính dụng làm thể. nghĩa có hai:
1. Thâu tóm cảnh theo tâm, duy thức làm thể. Kinh Hoa Nghiêm nói: Ba cõi duy tâm. Phần sau kinh này nói: Từ Sát-na đầu tiên, có bất khả thuyết thức, sinh hai pháp sắc và tâm của các hữu tình.
Luận Khởi Tín nói: Nếu lìa tâm niệm thì không có tướng của tất cả cảnh giới. Luận nói: tâm, tâm sở, sắc, bất tương ưng hành, các tính vô vi, đều không lìa thức. Thức có sai biệt, thuyết là giáo chân thật, người nghe là pháp, tương tợ nương pháp giới tịnh, bình đẳng lưu chảy. Nếu theo căn bản, chủ thể thuyết là tâm, nếu lấy ở ngọn, chủ thể nghe là thức. Sao biết được vậy? Duy thức Nhị thập Tụng Bồ-tát Thế Thân tụng nói:
Lực lần lượt tăng thượng
Hai thức thành quyết định.
Nghĩa là: Vì các thức tướng tục sai biệt còn sót lại, mà các thức tương tục sai biệt khác sinh ra, lần lượt cùng nhau làm thành duyên tăng thượng, cho nên nói là Phật giáo lấy duy thức làm thể.
2. Thâu nhiếp tương quy về tính: Chơn như làm thể. Cho nên kinh nói: Tất cả pháp cũng như, cho đến Di Lặc cũng như.
Phần sau kinh này nói: Tất cả tuyên thuyết, âm thanh, ngữ ngôn, văn tự, chương cú, ở các khế kinh thảy đều như, đều là thật tướng. Cho nên nói Phật giáo lấy chơn như làm thể.
Năm loại nêu trên, chung riêng cạn sâu, theo lý mà nói, tùy nêu một môn tức cùng thâu nhiếp lấy nhau không trái nhau.
Sau, nêu rõ về Tánh thâu tóm tướng quy về tính, tức là viên thành. Bốn môn trước chung cả y tha, viên thành. Nếu từ nơi những điều được nghe, làm biến đổi tâm hữu lậu, hoặc từ những văn nghĩa năng thuyết hữu lậu chỉ thuộc y tha, mà tâm vô lậu biến, hoặc thuyết vô lậu thuộc về chánh trí, chung cả viên thành thật, vì hữu vi vô lậu, thông cả hai tính.
Hỏi: Mười lăm hữu lậu trong mười tám giới, sao âm thanh cũng gồm trong vô lậu. Tự tánh của danh, cú, văn, đều là vô ký, sao có thể nói là chung cả vô lậu thiện?
Đáp: Theo tông Hữu bộ, nói mười lăm giới, chỉ là hữu lậu, các danh v.v... là vô ký. Nay ở đây là tông Đại thừa; Như Lai thuyết pháp thì thanh, danh, cú, văn đều là chân thiện vô lậu. Bồ-tát Thập địa, tùy thức mà phân định tánh. Nếu tâm vô lậu, người thuyết, người nghe, từ thức năng biến, là thiện vô lậu. Nếu tâm hữu lậu, người thuyết, người nghe, từ thức năng biến, là vô ký hữu lậu. Còn nhị thừa thuyết, nghe, chỉ là hữu lậu. Vì Tiểu thừa không có trí vô lậu thuyết, nghe. Chất ảnh các tâm hữu lậu, vô lậu tập hiện, như thường phân biệt.
Phần 3: Nêu đối tượng thâu nhiếp đón nhận: Phân hai: đối tượng được thâu nhiếp và đối tượng được gồm đủ.
Phần đối tượng được thâu nhiếp có năm phần: 1. Tạng; 2. Phần; 3. Thừa; 4. Thời; 5. Hội.
-Về tạng được thâu nhiếp: theo luận Du-già, nói có hai tạng:
1. Bồ-tát tạng; 2. Thanh-văn tạng. một ít giáo lý Độc giác nhập trong Thanh văn, gọi chung là Thanh văn tạng. Hoặc nói là ba tạng: 1. Tỳ-nại-da; 2. Tố-đát-lãm; 3. Atỳ-đạt-ma. Theo thứ tự là nêu giảng về giới, định, tuệ học. Hoặc nói là sáu tạng do Bồ-tát tạng và Thanh văn tạng, mỗi tạng được chia làm ba tạng. Kinh này là thuộc về Bồ-tát tạng, thuộc tạng Tố đát lãm trong Tam tạng.
- Về Phần được thâu nhiếp: Tức là Mười hai bộ kinh.
- Về Thừa được thâu nhiếp: Hoặc nói là nhất thừa, như kinh Pháp Hoa thuyết: Chỉ có pháp một thừa, không có hai, cũng không có ba. Hoặc nói là hai thừa như Nhiếp luận: 1. Đại thừa, tức là Thượng thừa; 2. Tiểu thừa, tức là Hạ thừa. Hoặc nói là ba thừa: 1. Bồ-tát thừa; 2. Độc giác thừa; 3. Thanh văn thừa. Trong các kinh đều thuyết giống nhau và thuyết về năm thừa, như phân biệt thông thường. Nay kinh này tức thuộc nhất thừa. Kinh Thắng man nói: Nhất thừa tức là Đại thừa. Trong hai thừa và ba thừa thì thuộc Bồ-tát thừa.
- Về Thời được thâu nhiếp: Lập thời giáo theo xưa, từ một đến năm. Pháp sư Từ Ân và Pháp uyển đều không chấp nhận, nay chỉ dẫn phần nghĩa chính. Ngài Tam tạng Từ Ân dựa theo kinh Giải Thâm mật quyển hai, lập ba thời giáo: kinh đó đã vì Bồ-tát Thắng nghĩa Sinh mà thuyết về ba tính và ba vô tính. Bồ-tát Thắng nghĩa Sinh đã lãnh hội một cách sâu xa, đức Thế Tôn khen ngợi là khéo hiểu được những điều vừa thuyết giảng. Bồ-tát Thắng nghĩa Sinh bạch Phật: Thế Tôn! Đầu tiên là ở thời thứ nhất, trong rừng Thí Lộc, trụ xứ của tiên nhân Ba-la-ni-tư, chỉ vì những người phát khởi hướng về Thanh văn thừa, mà dùng Tứ đế chuyển pháp luân lần đầu, tuy là rất mới lạ, rất hiếm có, tất cả thế gian, các hàng trời, người, trước đây không ai có thể như pháp mà chuyển.
Nhưng ở thời đó pháp luân được chuyển, dù là hơn hẳn, dù là bao quát nhưng vẫn là chưa hiểu nghĩa, là chỗ đứng cho các sự tranh luận. Thế Tôn! Trong thời thứ hai, chỉ vì những người phát khởi tu Đại thừa, nương theo tất cả pháp đều không có tự tính, không sinh không diệt, bản lai tịch tĩnh, tự tính Niết-bàn, dùng tướng ẩn mật, chuyển chánh pháp luân, tuy là càng kỳ lạ, càng hiếm có hơn, nhưng ở thời đó, pháp luân được chuyển, tuy cũng là hơn hết, cũng là bao quát nhưng vẫn chưa hiểu nghĩa, làm chỗ đứng cho các sự tranh luận. Thế Tôn! Nay ở thời thứ ba, khắp vì những người phát khởi hướng đến tất cả thừa, nương theo tất cả pháp đều vô tự tính, không sinh không diệt, bản lai tịch tĩnh, tự tính Niết-bàn tánh không có tự tính, vì hiển rõ tướng, chuyển chánh pháp luân, rất kỳ lạ, rất hiếm có bậc nhất. Pháp luân đức Thế Tôn đang chuyển hiện nay là vô thượng, là toàn vẹn, là chơn liễu nghĩa, chẳng còn có chỗ đứng cho các tranh luận. Các kinh như: kinh A-hàm, Bát-nhã, Thâm Mật, phối kết với ba thời. Lại nữa, kinh Kim Quang Minh nói về ba pháp luân là: Chuyển, Chiếu, Trì. Chuyển pháp tứ đế, dùng không để chiếu hữu là chẳng phải hữu phi không có thể nhân giữ. Nếu theo Đốn giáo thì thời chỉ duy nhất để đối với tánh bất định. Đại là do tiểu mà khởi, lần lượt đầy đủ, mà có ba thời. Kinh Giải Thâm Mật căn cứ theo đây để phân định. Nay ở kinh này, theo thứ tự lần lượt mà nói thì thuộc vào thời thứ hai. Nhưng theo tính của Đốn giáo thì đều không lập thời. Giả sử có lập thời thì kinh này thuộc về thời thứ ba. Vì sao biết thế? Kinh này đã nói rộng về mười bốn môn nhẫn của Đại thừa, từ cạn đến sâu, đổi phàm thành Thánh, nói rõ về không và hữu, trình bày đầy đủ các hành vị, há chỉ thuyết về không mà thành thời thứ hai sao?
Hỏi: Kinh Giải Thâm Mật, căn cứ thuyết về "không" giáo mà quy định các kinh Bát-nhã thuộc về thời thứ hai. Lại nữa, ở trong kinh Đại Bát-nhã, có mấy đoạn văn kinh, chư thiên tán thán Phật nói là thời thứ hai. Sao nay lại nói trái với kinh?
Đáp: Như trong kinh kia nói "phi không hữu" là thời thứ ba, cũng như Kinh Hoa Nghiêm, theo lý thật mà nói: Thập Địa Hoa Nghiêm, Kim Quang Minh v.v… đều nêu rõ đầy đủ: Đại thừa là phi không chẳng phải hữu, trị đoạn hành vị nơi ba Hiền địa thứ mười, nên là thời thứ ba. Kinh này cũng vậy, sao lại thời thứ hai. Lại nữa, kinh kia căn cứ vào thứ lớp lần lượt để nói là thời thứ hai. Ở đây căn cứ vào đốn ngộ mà nói là thời thứ ba, tiến thối rõ ràng, sao lại trái với giáo pháp.
- Về Hội được thâu nhiếp:
Kinh Đại Bát-nhã đều nương chung nơi bốn xứ, mười sáu hội mà thuyết. Nói bốn xứ là: 1. Núi Thứu phong ở thành Vương xá; 2. Vườn Cấp cô độc thành Thất-la-phiệt; 3. Điện Ma Ni bảo tạng ở cung trời Tha hóa; 4. Bên ao Bạch lộ nơi vườn Trúc lâm, thành Vương xá.
Về mười sáu hội, năm phần đầu không có ghi tên, chỉ dùng số thứ tự ghi về các mục, tiếp đến ba hội là lấy tên người thỉnh giáo: 6. Tối thắng thiên vương phần; 7. Mạn-thù-thất-lợi phần; 8. Na-già-thất-lợi phần. hai hội sau lấy những điều được nêu giảng làm tên: 9. Năng đoạn Kim cang phần-10. Bát-nhã lý thú phần. Sáu phần còn lại, theo thứ tự của sáu độ để đề tên phần.
Kinh này trong bốn xứ là xứ thứ nhất. Nếu trong mười sáu hội thì kinh này không có hội. Nó như một ngọn núi chót vót đứng sừng sững giữa trời trong cả dãy núi dài nối nhau không dứt. Người vén mở nó thì như ngồi ngắm cả ba kỳ. Người dùng nó thì như xem cả địa thứ mười. Người mê ngắm xem nó thì hết mê hoặc. Người ngộ nhờ nó mà thăng cao. Hạnh môn Bồ-tát rõ như bàn tay, quả Phật lâu gần như nắm gương soi tâm. Tịnh tín thì phước vượt hà sa, trì đọc thì cuốn tan tai ương. Khiến cho người dân được yên ổn và đất nước được giữ gìn, thì không gì lớn hơn ở đây, nhiều kiếp khen ngợi, nguyện gì được nấy.
Về phần đối tượng được đón nhận: Trước nói về căn tính, sau nói về giáo đón nhận. Về căn tính thì lập năm tính: Có rất nhiều thuyết, nêu chung thì gồm ba thuyết:
Có thuyết nói: Tất cả chúng sanh có năm loại tính:
1. Thanh văn tính; 2. Duyên giác tính; 3. Như Lai tính;
4. Bất định tính; 5. Vô chủng tính.
Vì sao biết được tính định, bất định và loại sau cùng vô chủng tính? Theo Kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm chín mươi ba. Thiện Dũng Mãnh nói: Những người tính quyết định ở ba thừa và những người tính không quyết định ở ba thừa, khi nghe pháp này đã mau chóng phát tâm vô thượng chánh đẳng giác". Tức là nói rõ về định hay bất định ở ba thừa. Kinh Phu Nhân nói: "Lìa thiện tri thức, những chúng sanh không nghe những pháp sai trái, nhờ thiện căn của trời người mà tự thành tựu". Kinh Thiện Giới nói: Người không có chủng tính, do vì không có chủng tính, dù có phát tâm siêng năng, tinh tấn thực hành, cuối cùng cũng không thể chứng đắc vô thượng Bồ-đề". Do vậy mà xét thì chủng tính gồm có năm loại.
Có thuyết nói: Tất cả chúng sanh đều có Phật tính, không có người định tính hay người vô tính. Vì sao nhận biết? Kinh Niết-bàn quyển hai mươi bảy nói: Tất cả chúng sanh thảy đều có Phật tính. Lại nói: Tất cả chúng sanh đều có tâm, hễ có tâm thì đều sẽ chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Căn cứ theo những lời văn ấy mà xét thì chúng sanh không ai là không có tính.
Có thuyết nói: Có tính hay không có tính, duy chỉ Phật mới biết được. Nhưng Phật Thế Tôn, tự tại ở pháp, mở rộng các giáo, tùy căn cơ mà thuyết giảng "có" hay thuyết giảng "không", đều vì để lợi lạc, đừng khư khư cho lấy hoặc bỏ làm đúng.
Hỏi: Có và không thì trái nhau, sao lại lợi lạc?
Đáp: Hữu tình xưa nay chủng tính sai biệt. Nếu nghe nói là vô tính thì e bị rơi vào dòng kia, Phật vì họ mà thuyết không, khiến mau xuất ly. Nếu nghe là hữu tính, thì mau khởi tiến cầu, Phật vì họ mà thuyết có, khiến không bị rơi lùi. Cho nên những điều Phật giảng nói đều là pháp luân. Nói "có" hay "không" đều vì làm lợi lạc. Luận Khởi Tín: do bản giác mê mà bất giác sinh, chiếu gốc về nguồn, ai cũng đều thành Phật.
Về phần Giáo đón nhận: văn kinh không chọn lọc, để hiển bày tâm bi sâu xa của Phật cho nên tứ sinh ba cõi đều được hoá độ. Phần ba đã nói xong.
Phần bốn: Theo văn chánh giải.
Chia làm hai: 1. Giải thích tên kinh. 2. Giải thích bản văn. a. Giải thích tên kinh:
Bản dịch đời Tấn và đời Lương đều là: Nhân vương Bát-nhã. Không có hai chữ Hộ quốc. Bản đời Tần tuy có hai chữ Hộ quốc lại không có chữ Đa. Bản dịch mới vào đời Đường này, văn nghĩa đều đủ. Trong phần giải thích tên kinh này, trước là giải thích tên chung, sau là giải thích phẩm hiệu. Trong phần giải thích chung, trước giải thích tánh rộng sau giải thích kết hợp.
So về tiếng Phạm và tiếng Đường: tiếng Phạm là Ma-nô, tiếng Hoa gọi là Nhân. Tiếng phạm Sản nại la, Trung Hoa dịch là Vương. Tiếng phạm Bạt-la hoa trung Hoa dịch là Hộ tiếng Phạm. La-sắt-trá-la, trung Hoa dịch là Quốc tiếng phạm. Bát la chỉ nhượng: Hoa dịch là Trí tuệ, Cực trí. Ba-la-di-đa, Hoa dịch là Đáo Bỉ Ngạn, tiếng Phạm Tố-đát-lãm; Trung Hoa dịch là Kinh. Nay tên kinh này là Nhân Vương Hộ Quốc Bát-Nhã Ba-la-mật Đa kinh gồm mười một chữ, bốn chữ trên và một chữ sau cùng đều là tiếng Hoa, sáu chữ ở giữa là Phạm ngữ.
Chữ "Nhân" theo giải thích cổ như Đại truyện nói: Vua Thuấn không đăng mà cao, không đi mà xa, cung kính đối với thiên hạ mà thiên hạ xưng là nhân. Sách Lễ ký viết: Trên dưới cùng thân, đó gọi là nhân. Lại nói: ôn hoà, hiền hậu là gốc của nhân, kính cẩn thận trọng là đất của nhân. Khoan dung là việc làm của nhân...
Vương: là chúa, vua.
Hộ: là gia hộ, bảo vệ, che chở. Quốc: là nước, khu vực, thành.
Bát-nhã: là tiếng Phạm, tiếng Hoa gọi là Trí tuệ. Ba-la là tiếng Phạm, tiếng Hoa là Bỉ Ngạn.
Mật đa là tiếng Phạm, có hai nghĩa: Đáo và Ly. Kinh là tiếng Hoa, âm phạm là Tu-đa-la.
-Giải thích tên phẩm: Phẩm Tự-Đệ-nhất
Tự là nguyên do. nghĩa là nguyên do dẫn đến thuyết giảng Bát-nhã. Phẩm là loại, văn và nghĩa tụ tập, chia ra từng đoạn. Đệ là thứ bậc. Nhất là con số đầu tiên.
Cả bộ kinh này gồm có tám phẩm, phẩm này ở đầu nên gọi là đệ nhất. b. Giải thích bản văn: gồm hai phần: 1. Chia chung các mục; 2. Giải thích văn kinh Ngài Chân đế giải thích kinh này thì chia làm bốn phần: 1. Phần Phát khởi, tức là phẩm Tự đầu tiên; 2. Phần Chánh thuyết là năm phẩm tiếp theo; 3. Phần Vua được hộ quốc tức là phẩm thứ bảy; 4. Phần Lưu thông tức là phẩm Chúc lụy.
Xưa có pháp sư Đạo An đời Tấn, chia các kinh làm ba phần: phần Tự, phần Chánh tông, và phần Lưu thông. Cho nên đến nay, thời Đại đường, ngài Tam Tạng Từ Ân dịch luận Phật Địa, Bồ-tát Thân Quang chú thích kinh Phật Địa, đều chia kinh làm ba phần. Tuy Đông độ và Tây thiên, cách nhau xa xôi, nhưng tâm Thánh ngầm khế hội, diệu chỉ thầm phù hợp. Nay chia kinh này cũng theo như trên, làm ba phần:
1. Phần Giáo khởi nhân duyên khởi giáo tức là phẩm Tự.
2. Phần lời Thánh giáo thuyết là sáu phẩm tiếp theo.
3. Phần y giáo phụng hành là phẩm Chúc luỵ.
Giải thích phần Tự thứ nhất, văn phân làm hai: Trước là nêu rõ Tự chung tức "Như vậy v.v…." Sau là nêu rõ về Tự riêng, là "Bấy giờ, đức Thế Tôn.
Nhưng hai từ này chung làm năm đôi (cặp) nghĩa: 1. Đôi chung, riêng: Các kinh là chung, có bộ là duyên riêng; 2. Đối chứng, phát: Vị đầu tiên truyền pháp dẫn chứng khiến tin. Người sau nói pháp là duyên riêng phát khởi; 3. Đối trước sau: Văn kinh bắt đầu "Như vậy" sau đó là giáo thuyết tức là trước. Văn kinh "Bấy giờ…" là sau duyên với phần đầu trước; 4. Đối thầy, trò: Như lai thuyết là thấy. A-nan thỉnh là trò; 5. Đối hiện, vị: A-nan sau đó thỉnh là lai. Đức Phật thuyết pháp là duyên khởi đương thời hiện tại.
Ba đối sau đều không theo thứ tự, chỉ chọn ngữ thuận theo nghĩa tức dựa vào kinh. Hai đối trong danh nghĩa đã đủ. Vì muốn hiểu rõ lý lẽ nên lập thành năm đối.
Giải thích Tự chung, có ba môn phân biệt: 1. Nguyên nhân kinh phát khởi chữ "Như thị"; 2. Lý do kiến lập; 3. Sự khai hợp khác nhau.
Nguyên nhân phát khởi chữ "Như thị" ở đầu các Kinh: Theo kinh Đại Bi, thì ngài Ưu-ba-di dạy A-nan và hỏi. Theo kinh Đại Diễn thì Ngài A-nậu-lâu, đâu dạy Anan và hỏi. Theo trí Độ luận, quyển thứ hai nói: Khi Phật Niết-bàn ơ rừng cây Sa la, đầu quay về hướng Bắc mà nằm, bấy giờ, A-nan trong lòng rất buồn phiền, rầu rĩ, A-nậu-lâu-đậu mới bào A-nan: Ông nay buồn rầu, quên mất những việc nhận làm. Kinh đại Diễn nói: A-nan thỉnh Phật bốn việc: 1. Sau khi Phật diệt độ chúng Tỳ kheo dựa vào ai làm Thầy? 2. Trụ vào pháp nào? 3. Điều phục các Tỳ kheo có tính ác như thế nào? 4. Đầu mọi kinh nên để chữ (câu) gì?
Đức Phật bảo A-nan: Sau khi Ta diệt độ, lấy Ba-la-đề-mộc-xoa làm Thầy của các ông. Trụ vào pháp Tứ niệm xứ. Dùng pháp Phạm im lặng xử trị các Tỳ kheo có tính ác, chỉ im lặng đuổi đi, không nên đánh, mắng. Đầu tất cả kinh nên để câu "Như thị ngã văn…"
Vì sao A-nan chỉ hỏi bốn việc? Đại khái ý muốn hỏi làm sao cho Tam bảo trường tồn chẳng đứt đoạn. Lấy giới Luật làm Thầy thì Phật bảo không đứt đoạn. Đầu kinh để chữ "Như thị" và trụ vào Tứ Niệm Xứ thì pháp bảo không đứt đoạn. Tỳ kheo hòa hợp thì tăng bảo không đứt đoạn. Tam bảo không đứt đoạn, thì tồn tại lâu dài ở đời, lợi lạc vô biên. Cho nên Phật sắp Niết-bàn A-na chỉ hỏi bốn việc.
Lúc Ngài A-nan kết tập kinh tạng cẩn trọng tuân theo lời Phật dạy, để đầu các kinh là chữ Như thị.
Lý do kiến lập: Có bốn ý kiến lập chữ "Như thị": 1. Loại trừ nghi ngờ; 2. Sanh tâm tin; 3. Phân biệt tà thuyết; 4. Hiển bày chánh thuyết.
Về loại trừ nghi ngờ, theo Sớ ký của ngài Chân Đế nói: Như chi tiết trong Luật ghi: Tỳ kheo A-na khi đang trên tòa cao tuyên nói pháp tạng (kinh), đại chúng có ba điều nghi: 1. Nghi A-nan là Phật. Do tâm đại bi nên xuất Niết-bàn mà thuyết pháp chăng? 2. Nghi Phật từ phương khác thị hiện đến thuyết chăng? 3. Nghi A-nan đã chuyển thân thành Phật thuyết pháp chăng?
Vì ba nghi ngờ ấy, nên nói "Như thị" để loại trừ không còn nghi nữa.
Sanh tâm tin: Trí Độ Luận ghi: Nói thời gian, phương sở, con người (người nghe) khiến sinh tâm tin. Lại nói "Tôi nghe như vậy" để sinh tâm tin. Tin thọ phụng hành để sinh trí tuệ. Đức tin là khả năng hội nhật trí tuệ, khả năng vượt qua. Văn không có ước lệ rườm rà, không tin thì không thể truyền. Do khởi tâm tin những lời nói thuận lý lẽ, do thuận lý lẽ tức đạo Thầy trò thành tựu, đều thuận tòng theo lời pháp. Thế nào gọi là tin? Tin đứng đầu trong mười một tâm sở thiện. Tánh của nó là làm lắng sạch những tâm sở khác. Như hạt châu Thanh thủy có thể làm trong sạch nước đục. Nó đối trị tâm bất tín vẫn đục, lấy vui thiện làm nghiệp, là gốc của các hạnh lành.
Nhân duyên gì ở đầu kinh sinh tâm tin là trước hết? Vì tín căn đứng đầu trong năm căn nên liệt kê trước, có tín căn mới có thể sinh vạn điều thiện, vì tín lực đứng đầu trong năm lực, có tín lực, thì mà không thể phá động. Cho nên Kinh Hoa Nghiêm nói: Tín là nguồn mạch của Đạo là mẹ của công đức. Lại tiến đến dục (mong muốn) pháp thiện của ba Thừa. Do có tin nên khởi mong cầu tốt đẹp. Tin là chỗ dựa đầu tiên sinh ra dục, lại phục nhẫn trong kinh này, đầu tiên nêu ra tâm Thập tín, là căn bản Thánh thai. Luận Hiển Dương nói về Thất Thánh tài thì Thánh tài đầu tiên là Tín, tiến đến Giới, Văn, Xả, Tuệ, Tàm và Quý. Luận chánh lý nói có bốn loại làm cho tâm lắng sạch: Phật, Pháp, tăng và Giới. Do tin Tam bảo, nên có thể vượt khỏi đọa cõi ác, tin Giới là nhân có thể lìa bần tiện, cứng phủ kim cương, bốn thứ chẳng hoại. Luận
Câu xá nói: Cứu vớt chúng sanh thoát khỏi bùn lầy sinh tử. Phần Tự khiến sinh tín như tin vào một cánh tay cứu chúng sanh, phần chánh tông sau là một cánh tay của giáo pháp Phật. Cả hai tay tiếp sức cho nhau cứu chúng sanh thoát khỏi bùn lầy sinh tử.
Trí Độ Luận nói: Có tâm tin, như người có tay đến núi báu tùy ý lấy giữ, không có tay thì không lấy được gì. người có tâm tin, đến núi Phật bảo, đắc đạo quả, người không tâm tin chỉ hiểu văn nghĩa, mà rỗng không chẳng chứng đắc gì. vì thế cho nên phần đầu kinh nói "Như thị" là để sinh tâm tin.
Phân biệt tà thuyết: Các bọn ngoại đạo đều đem giáo pháp của mình thây vào sắp xếp hai chữ A, Âu khởi đầu, nói Phạm vương huấn trị thế gian có bảy mươi hai chữ (mẫu tự) chúng sanh chuyển yếu, phạm vương giận dữ nuốt lấy các chữ, chỉ hai chữ này còn ở hai bên mép miệng. Chữ A tiêu biểu không, chữ Âu tiêu biểu có. Cho nên, đặt đầu cho giáo pháp của họ. Nay Đức Phật Thế tôn dạy để chữ "Như thị" ở đầu các kinh là để phân biệt với tà thuyết hóa.
Hiển bày chánh thuyết: Tam bảo là cát tường nhất. Đầu kinh của ta nói chữ Phật tức là Phật bảo. Câu "như vậy". Một thời, ở xứ… tức là pháp bảo. Hai chữ "Tôi nghe" và chúng Tỳ kheo tức là Tăng bảo. Nêu đầy đủ Tam bảo, là hiển bày chánh đạo.
Sự khai hợp khác nhau: Theo sớ ký của Ngài Chân đế thì chia (khai) làm bản sự:
Tôi nghe là hai sự. Năm sự còn lại như văn kinh.
Nay theo Trí Độ Luận, nói chung có sáu nghĩa: 1. "Như vậy" (như thị) là tín thành tựu; 2. Tôi nghe là nghe thành tựu; 3. "Một thời" là Thời thành tựu; 4. "Phật" là Chủ thành tựu; 5. "Vương xứ v.v…" là Xứ thành tựu; 6. Tỳ kheo v.v…" là Chúng thành tựu.
Bồ-tát Thế Thân, Bát-nhã Đăng luận cũng nói có sáu nghĩa. Như Tụng nói: Ba nghĩa trước chứng minh đệ tử, ba nghĩa sau dẫn chứng Thầy nói, tất cả Tu-đa-la, sự việc đều như thế. Giảm xuống còn năm cho đến một, đều có nghĩa. (Rộng như văn kia, e nhiều nên nay không thuật). Nay giải thích Tự chung tuy có sáu nghĩa thành tựu nhưng tạm thời giải thích năm nghĩa đầu. Nghĩa đó như thế nào?
Kinh: tôi nghe như vậy. một thời, phật ở tại núi thứu phong thuộc thành vương xá.
Giải thích: "Như vậy": là pháp đã nghe không có sai sót. Lược nêu ba giải thích:
1. Giải thích riêng về "Như thị" (như vậy). Pháp sư An nói: Có không đều không hai, gọi đó là Như. Như chẳng phải là hữu, vô, gọi đó là Thị. Như mà không có gì là Như, Thị mà không có gì là Thị, nên gọi là Như thị. Chú giải kinh vô lượng nghĩa nói: Người chí nhân thuyết pháp là để hiển rõ Như, duy chỉ như mới là thị, nên nói là Như thị.
Lương Võ đế nói: Như là chỉ về pháp, Thị là định rõ về từ ngữ. Lời nói như thế là lời của Phật đã thuyết.
2. Kết hợp giải thích "Như thị". Ngài Chân đế giải thích hai chữ "Như thị" là nghĩa quyết định. Quyết định có hai: Văn và lý. Văn là năng thuyên (chủ thể nêu giảng), Lý là sở thuyên (đối tượng được nêu giảng). Anan truyền văn và lý quyết nhất định chắn như lời Phật đã nói.
Ngài Pháp Trí giải thích: "Như thị" là từ ngữ của Tôn giả A-nan tự tỏ bày. Lời Đức Phật nói, ý chỉ sâu xa, chẳng thể lường xét, đầu đuôi chương cú, chính là như vậy.
Luận Phật Địa nói: "Như thị" nói chung, chuyển dựa theo bốn nghĩa: 1. Theo thí dụ: Như có người nói phú quý như vậy, Sa-môn như vậy; 2. Theo dạy bảo: Như có người nói, ông phải đọc tụng kinh luận như vậy; 3. Theo hỏi đáp: Như có người hỏi: ông kể lại những điều ông đã nghe trước đây chăng? Đáp: Tôi nghe như vậy. 4. Theo sự chấp nhận: Duy chỉ theo nghĩa này. nghĩa là: khi kết tập, chư chúng Bồ-tát đều cùng thỉnh nói: như ông đã nghe nên nói lại như vậy. Bồ-tát truyền pháp liền nhận lời: sẽ nói như vậy, như tôi đã nghe.
Lại nói Như thị" để khẳng định tâm tin. Nghĩa là đúng như pháp tôi từng nghe xưa kia, sự này đúng như thế, nay tôi nói quyết định không sai khác. Phần tóm lược dẫn sáu văn, như Luận kia diễn rộng. Nói "Tôi nghe" là biện minh khả năng nghe và người, không có lỗi phi căn. Lại phân làm ba:
1. Ngã (tôi) có ba loại: Một là loại Ngã của ngoại đạo vọng cố chấp. Hai là tạm thời sắp đặt như Thường, Lạc, Ngã, Tịnh của Đại bát Niết-bàn, loại trừ điên đảo của Nhị thừa mà gượng sắp đặt chữ Ngã… ba là thế gian lưu truyền rộng rãi chữ Ngã, chỉ danh xưng tự mình (tôi). Thể của biến kế vốn không có, viên thành vốn vô tướng, Bồ-tát truyền pháp trong y tha thuần thế gian giả nói xưng là ngã.
Hỏi: căn bản các Phật thuyết pháp để trừ bỏ ngã, sao không nói về ngã mà nói ngã văn (Tôi nghe)
Đáp: Luận Du già quyển thứ sáu nói có bốn nghĩa: 1. Dễ cho việc nói năng. Nếu nói vô ngã thì để hiểu thông Uẩn, Xứ, giới, là biết nói đến cái gì? 2. Thuận theo thế gian; 3. Trừ bỏ sợ vô ngã. Nói vô thì vì ai mà tu đạo? 4. Vì tuyên thuyết sự nghiệp nhân quả nhiễm tịnh của tự, tha, khiến sinh tâm tin, hiểu quyết định. Do đó, nên xưng là ngã.
Trí Độ Luận quyển một nói: Vì Thế giới Tất đàn trong bốn loại Tất đàn nên nói có ngã, tức nghĩa tương đương thuận theo thế gian của Luận Du già.
2. Nói "Văn" (nghe) Theo luận Bà-sa quyển mười hai nói: Theo tông Tát-bà-đa, đây là tai nghe, không phải thức. Tôn giả pháp cứu nói thức nghe không phải tai nghe. Luận Thành Thật nói: Các sư Thí dụ cho tâm, tâm sở pháp hòa hợp có thể nghe. Nay theo tại Tập luận của tông đại thừa quyển hai nói: Chẳng phải tai có thể nghe, cũng chẳng phải thức. Vì tất cả pháp không có tác dụng. Do có hòa hợp nên giả lập là nghe. Nếu xét trội về căn thì nói tai nghe vì tai là căn sở y. nếu xét theo khả năng phân biệt thì nói thức nghe. Đầy đủ cả hai nghĩa thì nói Căn, Thức nghe.
Luận Du-già quyển năm mươi sáu nói: Tự tánh các pháp là mọi duyên sinh, diệt trong Sát-na, nên không có tác dụng. Trí Độ Luận quyển sáu nói: Chẳng phải tai và thức Ý v.v... có thể nghe; các duyên hòa hợp nên được nghe tiếng. Lại nhĩ căn chỉ nghe được tiếng không nghe được giáo. Nếu xét theo danh, cú thì chỉ ý thức nghe. Vì thế Du-già nói: Nghe nghĩa là Tỉ lượng. Nhưng bởi nhĩ thức trực tiếp nghe tiếng là cánh cửa cho ý bước vào mới được nghe. Bỏ những tai v.v… ra gọi chung là "Tôi nghe". Vì thế Luận Phật Địa nói: Ngã là ái giả mượn của các uẩn thế tục. Nghe là nhĩ căn phát ra thức nghe luận. Phế bỏ riêng, xét theo chung nên nói "Tôi nghe"
Hỏi: Có cần bỏ riêng để nói chung là "Tôi nghe" chăng?
Đáp: Không nói tôi nghe, chỉ nói tai nghe, thì tai ấy chung, là tai của ai nghe? Lại khi nghe thì căn, cảnh, không gian tác ý, phân biệt, chủng tử nhiễm tịnh và căn bản y, nhất nhất bày hiện đủ trở thành rộng nhiều, nếu dùng một nghĩa trong số ấy thì không trọn vẹn, nên phế bỏ riêng, lập chung nói Tôi nghe là vậy.
3. Hỏi đáp:
Hỏi: Vì Phật thuyết pháp nên nói Tôi nghe hay vì Phật không thuyết mà nói Tôi nghe?
Đáp: Luận Phật Địa vốn có hai giải thích: 1. Theo như các ngài Long Quân Võ Tánh nói: Chư Phật Như lai chỉ có ba pháp: Đại định, trí và bi, từ lâu đã xa lìa hý luận, từng không hề thuyết pháp. Do bản nguyện từ bi duyên lúc cùng văn nghĩa trên nhận thức của chúng sanh tương sinh, nên mặc dù trực tiếp dựa vào lực tự thiện căn phát khởi, nhưng xét theo duyên mạnh, gọi là Phật thuyết. Ví như lực tăng thượng của chư Thiên…, khiến cho trong mộng thấy, được luận bàn chú. Như Ngài Thân Quan nói: Thân Phật vốn có đủ Uẩn, Xứ, Giới, do lìa phân biệt nên gọi là không hý luận đâu phải không thuyết pháp mà gọi là không hý luận! Nghĩa là thích nghi với lực thiện căn của người nghe, và do duyên lực bản nguyện của Như lai nên văn nghĩa trên ý thức tương sinh, do lực thiện căn của Phật phát khởi hạnh lợi tha gọi đó là Phật thuyết. Tâm thức của người nghe mặc dù không trực tiếp nhận được lời Phật thuyết, nhưng vì tướng pháp thuyết ấy phân minh hiển hiện. Do đó gọi là "Tôi nghe". Hỏi: A-nan sinh ra đúng ngày Đức Phật thành đạo, sau hai mươi năm làm thị giả của Phật, các giáo pháp trước đây, đâu được trực tiếp nghe?
Đáp: Có bốn ý nghĩa: 1. Do bổn nguyện lực. Vì kiếp quá khứ làm vị trưởng giả cúng dường một Sa di tụng kinh, nên nay được lực Tổng trì. Trong kệ của Ngài Long Thọ viết có đoạn. Diện mạo sáng trong như trăng rằm, mắt đẹp như đóa hoa sen xanh, bao nhiều Phật pháp như biển cả, đều chảy vào tâm của A-nan; 2. Nhờ Phật gia trì. Trong kinh Báo Ân nói: Phật hóa nhập vào tâm thế tục, khiến cho A-nan biết. Lại nói: Phật thuyết tóm lược, nêu lên ý chính, mà A-nan có thể hiểu hết;
3. Nhờ lực Tam-muội: Kinh Kim Cương Hoa nói: A-nan chứng đắc Tam muội vương Phật tánh, giác tánh tự tại thảy đều nhớ hết; 4. Lực nghe pháp. Kinh Quán Phật Tam muội Hải, quyển thứ năm nói: A-nan nghe Phật thuyết Bồ-tát hạnh, liền nhớ lại các kinh tạng mà Phật đã thuyết trong chín mươi ức quá khứ. Kinh Pháp Hoa quyển bốn nói: Tự mình nghe, được thọ ký… tức thời pháp tạng của chư Phật trong vô lượng ngàn ức kiếp quá khứ, thông suốt vô ngại, giống như nay nghe, bèn nói kệ: Thế tôn rất hiếm có, khiến con nhớ quá khứ, vô lượng chư Phật pháp, như nay con được nghe.
Hỏi: Tôn giả A-nan đã là Thanh văn sao có thể trì pháp tạng Đại thừa?
Đáp: Tập pháp truyện ghi: Có ba loại A-nan: 1. Anan, Trung Hoa dịch là Khai Hỷ, trì Thanh văn tạng; 2. A-nan Bạt đà, Trung Hoa dịch là Hỷ Hiền, trì Độc giác tạng; 3. A-nan Già la, trung Hoa dịch là Hỷ Hải, trì Bồtát tạng. Nhưng thật ra, A-nan tổng trì cả ba tự tại, tuy có ba tên gọi nhưng chỉ là một A-nan. Lại Luận Kim cương Tiên và kinh A-xà-vương sám hối do ngài Chân Đế dẫn chứng cũng nói như đây.
Hỏi: Các Bồ-tát rất nhiều đều có thể trì Phật pháp tạng, sao chi giao A-nan, không giao cho các Bồ-tát?
Đáp: A-nan đương thời theo hầu Như lai, trời, người đều biết, sự thuật tả chân thật hơn, nên được giáo trách nhiệm truyền đăng. Các Bồ-tát do hình tướng đổi khác, xứ sở lưu động vì lợi lạc chúng sanh, trang nghiêm quốc độ, mỗi mỗi tự duyên không thể đồng một tiêu biểu, chỉ có A-nan mới nói. Tôi nghe là phù hợp. Trí Độ Luận nói: A-nan đảnh lễ Tăng rồi, ngồi tòa Sư tử, nhất tâm chắp tay hướng đến phương Phật nhập Niết-bàn, nói như thế này: Khi Phật thuyết pháp đầu tiên, lúc ấy Tôi không thấy biết, như vậy lần lượt được nghe pháp Phật thuyết ở Ba-la-nại. Bấy giờ, có ngàn vị A-la-hán nghe nói thế, bay lên hư không cao đến bảy cây Đa-la đều nói: Vô thường lực lớn, như tận mắt chúng tôi thấy Phật thuyết pháp. Nên ngày nay, mới nói là "Tôi nghe như vậy". Luận Phật Địa nói: Nên biết Ý nói "Tôi nghe như vậy" để tránh lỗi lầm sơ xuất thêm bớt lời Phật dạy. Nghĩa là pháp như vậy, tôi đã nghe từ Phật, không nghe lần lượt từ người khác chỉ bày. Người nghe có khả năng nhận lãnh pháp được nghe chính xác không thêm bớt, không phải hạng ngu tối không có khả năng nghe, điều được nghe hoặc có thêm bớt thay đổi. Người truyền giáo của Phật khi kết tập pháp, Y theo giáo của Phật, đầu tiên nói lời này, vì để cho chúng sanh cung kính tin thọ, nói pháp tôi nghe từ Phật là như vậy, tức văn nghĩa quyết định không có thêm bớt. Nhờ đó, người nghe nghe đúng, tư duy như lý mà siêng năng tu học.
Nói "một thời", tức Thời thành tựu Như Lai thuyết pháp, khéo ứng hợp với căn cơ, hội ngộ không sai, gọi là một thời.
Theo Phật Địa Luận, có ba nghĩa: 1. Nghe và nói cùng một lúc. Đó là dựa theo Sát-na tương tục không dứt, nghe và nói cho đến cuối cùng, gọi chung là một thời; 2. Là sát-na lãnh ngộ cùng một lúc, một thời. Hoặc người thuyết đắc Đà-la-ni, ở nơi một chữ, trong khoảng một Sát-na, trì và thuyết tất cả pháp môn. Hoặc người nghe đắc nhĩ căn thanh tịnh, trong một Sát-na, khi nghe một chữ, với tất cả những điều khác đều không bị chướng ngại, đều có thể lãnh thọ, gọi là một thời.
Đó là những người thượng căn, ở một Sát-na nghe và nói mà lãnh ngộ;
3. Nói và nghe cùng trong một lúc, hoặc cùng gặp nhau một lúc, không có phân biệt, gọi là một thời.
Hỏi: Theo Đại thừa, quá khứ và vị lai, đã chẳng thật có ở trong ba đời, vậy cái gì gọi một thời?
Đáp: Có hai nghĩa:
1. Đạo lý thời: Người thuyết, người nghe tuy chỉ các hành của năm uẩn hiện tại từng Sát-na sinh diệt, chỉ có một niệm về pháp hiện tại, nhưng có sự tiếp trước dẫn sau, tức lấy sự tiếp trước đó, giả gọi là quá khứ, lấy những thứ dẫn sau đó, giả gọi là vị lai. Đối với hai loại ấy mà nói là hiện tại, thời quá khứ và vị lai kia đều dựa trên pháp hiện tại mà giả lập. Do vậy nói là người nghe sự việc nối tiếp đến cứu cánh, giả lập ba thời, gọi chung là một thời, chẳng phải là một thời của một sinh diệt.
2. Duy thức thời: Trên thức tâm, biến làm tướng trạng ba thời mà khởi. Nhưng người thuyết, người nghe, thật thì hiện tại, tùy theo phần hạn của tâm mà biến đổi thành dài hay ngắn, các sự đầu, cuối, gọi chung là một thời. Như mộng thấy, nhiều cảnh sinh ra, nhiều đời, tỉnh dậy chỉ là tâm, đều không có cảnh thật.
Hỏi: một niệm thuyết, nghe, sinh rồi liền diệt, làm sao trên thức tu tập để phát sinh hiểu biết?
Đáp: Tuy chỉ một niệm, do trước đã nghe, lần lượt huân tập, nên trên thức tâm sau, kết nối sinh, hiểu những điều nghe trước, tu tập hiển hiện. Như nói "các hành vô thường", khi đến chữ "thường" thì ba chữ trước, cùng một lúc tu tập, cho đến sau đó, một kệ một phẩm, kết nối nhau cũng vậy, cho nên tuy là sinh diệt, nhưng nghĩa thuyết giảng, thọ nhận đều thành. nghĩa của năm tâm như phân biệt thông thường.
Hỏi: Một và thời, lấy gì làm thể?
Đáp: Luận Thành Thật, Câu xá, Kinh bộ, nhiều tông, hai giả thật này, đều là tính của năm uẩn vì là pháp hữu vi trong môn xứ, giới. Nay theo Đại thừa, tự có ba giải thích: 1. Trí luận nói: Các pháp về số và thời, thật ra không có gì cả, vì chúng không thuộc về Ấm, Nhập, Trì. Ấm Nhập, Trì là Uẩn, Xứ, Giới; 2. Luận Phật Địa nói: Thời là trên pháp hữu vi, giả lập phần vị hoặc là phần vị trên tâm, vì hình ảnh nương vào sắc tâm mà giả lập; 3. Luận Bách pháp: một và thời, tức là nương vào sắc tâm giả lập phần vị. Đó là số và thời bất tương ứng. Trong môn năm uẩn thì thuộc hành uẩn thâu nhiếp. Trong môn Xứ, Giới, thì thuộc pháp xứ, pháp giới, vì là cảnh của ý thức, cũng tức là số thế thức của luận Du-già.
Hỏi: Phàm và Thánh cùng nghe thì nói chung là một thời. Tịnh và uế cùng lúc, đúng thì phải nói là một xứ?
Đáp: Tịnh và uế vốn đã khác nhau, nên được nói xác định, còn thời gian thì có hàng vạn thời khác nhau, nên nói chung là một. một thì hợp với căn cơ phàm Thánh hơn kém, lợi, độn, ngắn, dài, có nhiều sai biệt, không thể nếu ra xác định, nên nói chung là một thời.
Nói " Phật" là hóa chủ tức Chủ thành tựu. Trí Luận quyển thứ hai, nói có năm loại người có thể thuyết giảng: 1. Phật; 2. Thánh đệ tử; 3. Chư Thiên; 4. Thần tiên; 5. Biến hóa. Lược bớt bốn loại, chỉ nêu Phật.
Tiếng Phạm gọi là Phật đà, Trung Hoa dịch là Giác Giả (người giác ngộ). Theo luận Khởi Tín, Giác là tâm thể lìa niệm, vĩnh viễn lìa tâm vọng niệm bất giác, có đại trí tuệ, sáng tỏ chiếu khắp, ngang hư không giới, không đâu là không hiện bày, gọi đó là giác. Giác, ấy đủ ba nghĩa: Một là: Tự giác. Giác biết tự tâm vốn không sinh diệt, khác với phàm phu. Hai là: Giác tha. Giác tất cả pháp đều là như thị, khác với Nhị thừa. Ba là: Giác mãn. Lý cứu cánh viên, gọi đó là mãn, khác với Bồ-tát. Luận Phật Địa nói: "Đủ Nhất-thiết-trí, Nhất-thiết-chủng-trí, tự mình khai giác, cũng mở giác cho tất cả hữu tình. Như tỉnh giấc mộng, như hoa sen nở, nên gọi là Phật". Nhấtthiết-trí là: trí tự khai mở, như trí tỉnh mộng, trí quán ở không, lý trí, chân trí, vô phân biệt, trí như vốn có. Nói theo tướng chung, là trí chứng chơn. Nhất-thiết-chủngtrí là; trí giác hữu tình, như trí hoa sen, trí quán ở hữu, trí sự, trí tục, trí hậu sở đắc trí, hết thảy sở hữu. Nói theo tướng chung là trí đạt tục.
Hỏi: Căn bản trí và Hậu đắc trí, thể của chúng là đồng hay khác?
Đáp: Dựa theo phần sau kinh này, do đế mà chia hai. Thể của trí chỉ là một, thấu đạt một hai chơn đệ nhất nghĩa. Cảnh thì hai, trí thì một, đến phần sau kinh sẽ rõ.
Nói "Ở tại núi Thứu Phong thuộc thành Vương xá": là Xứ thành tựu chỉ về nơi chốn. Chỗ ở du hóa, gọi đó là trụ. Luận Phật Địa nói: Nếu không nói về nơi chốn và người là chủ thể thuyết, thì chẳng biết pháp đó được thuyết giảng ở đâu? Ai thuyết? Tất cả sẽ sinh nghi ngờ, nên cần phải nói đủ.
Văn phân làm hai: Trước giải thích thành, sau giải thích núi. Tiếng Phạm là Na thố đà, Trung Hoa dịch là Thiện Thắng, hoặc Vô não hại. Lại tiếng Phạm là Magià-tinh, Trung Hoa dịch là bất giác. Chữ Đà nghĩa là xứ. Gọi là xứ Bất ác cúng dường gọi là Tinh xứ quốc. Xưa nói Ma-già-đà, Ma kiệt-đà. Mặc kệ đà đều không đúng, mà là quốc hiệu.
Hạt-la-xà-cật-tứ là tiếng phạm Trung Hoa dịch là
Vương-xá, tức tên của thành. theo luận Tỳ-bà-sa có ba giải thích: 1. Vương tử Bà-tầu cùng nhân dân dựng xá (nhà) để ở bị quỉ thần phá hoại, chỉ còn lại nhà của vua là không bị phá. Bảy lần đều phá như vậy, Thái tử bèn bảo khi xây lại nên đề tên trước nhà là nhà của vua (vương xá), do đề tên ấy nên không bị phá hoại. Nhân đó mà có tên vương xá; 2. Chỗ ở của chuyển luân vương nối tiếp nhau ra đời, gọi là Vương xá; 3. Tứ thiên vương cùng A-tu-la khoan biển sữa tìm cam lộ, ở trong núi này dựng nhà để ở. Bảy ngày giữa cam lộ rồi sau mới phân ra, do đó đặt tên là Vương xá thành.
Trí Độ luận quyển thứ ba cũng có ba giải thích: 1. Vua nước Ma-già-đà đầu tiên sinh một người con có một đầu, hai mặt, bốn tay. Sau lớn lên, dùng uy lực thâu gồm các nước bắt một vạn tám ngàn vua các nước nhốt trong năm núi. Vì uy thế lớn mạnh thống trị là Diêmphù-đề, nhân đó đặt tên núi này là Vương xá thành; 2. Vua nước Ma-già-đà trước ở trong thành bị hỏa hoạn, rồi xây dựng lại. Cứ một lần xây lại một lần bị cháy, như thế đến bảy lần xây rồi lại cháy. Vua tìm thấy năm ngọn núi này bao chùm lại như thành lũy, tức liền xây cung điện giữa năm núi để ở. Vì thế nên có gọi Vương xá thành; 3. Thời xa xưa nước này có vị vua tên là Bà-tẩu, chán đời xuất gia, thân làm một tiên nhân. Người con tên là Quảng-Xa, kế thừa vương vị. Với suy nghĩ tìm một nơi riêng biệt để ẩn tu, nhân một ngày đi săn đến năm ngọn núi này thấy cảnh hùng vĩ, địa thế bao quanh lại rất uy nghiêm, tốt đẹp bèn bỏ thành ở trong đây. Do đó gọi là Vương xá thành. (Diễn rộng như Luận kia).
Tây vực ký ghi: Cư-xá-yết-la-bổ-la thành, đời Đường dịch là Thượng Nha thành, ở chính giữa của nước Ma-kiệt-đà là chỗ ở của các đời quân vương cổ đại. Nơi này xuất hiện nhiều loại cỏ cây cát tường thượng hạng, nhân đó lập tên là Thượng Nha. Núi cao bốn phía giáp vòng bao phủ như quách bên ngoài. Từ Đông qua Tây dài, từ Nam qua Bắc ngắn, chu vi một trăm năm mươi dặm. Tử thành trong cung chu vi hơn ba mươi dặm, cây Yết-ni-ca trồng khắp các đường đi, hoa thơm ngào ngạt, sắc rực rỡ hoàng kim, đêm xuân trăng tỏ, rừng đầy ắp sắc vàng. Vua Tần-tì-sa-la thường đến ở thành này. Nhận thấy các hộ sinh sống phần nhiều hay gặp hỏa tai, bốn phía nhà đề phòng hỏa tai không lúc nào ngơi, từ sản phá nghiệp, dân tình ta oán chốn ở chẳng an, Vua bèn nói: Ta không không có đức đối với đám kê dưới, trung thành, phải tu đức hạnh gì khả dĩ thoát khỏi tai này? Quần thần thưa: Đại vương dùng đức sửa trị, dạy bảo muôn dân đều sáng tỏ, do dân ngu không cẩn thận mới bị hỏa tai. Nay vua nên chế phạt nghiêm minh kẻ gây tội để làm gương cho kẻ sau. Nếu có họa tai, nên truy tìm nguồn gốc, phạt tội kẻ thủ phạm bỏ trong rừng lạnh mất mạng mà chết, ắt những người khác sẽ tự cẩn thận. Vua khen là kế chước hay, lệnh thông cáo khắp nơi. Bỗng một hôm trong cung vua bị cháy, vua bèn nói các thần, ta sẽ tự vào rừng lạnh, và lệnh Thái tử nhiếp lấy chính sự, nhằm để sáng tỏ quốc hiến nghiêm minh nên dời cư. Lúc ấy Vua Phệ-xá-tu nghe vậy bèn xây một sắc thành, vì là nhà trước đó của Vua nên gọi là Vươngxá-thành. Lại nói: Đến thời Vua Vi-Sanh. Oán kế vị trở về sau mới xây lại thành này cao, dày hơn. Cho đến thời Vua Vô Ưu dời đô thành Ba-tra-li lấy Vương-xá-thành cho Bà-la-môn. Những cách ngoài thành Vương xá đã sụp đổ, không còn tường chắn trong thành tuy đã hủy hoại nhưng nền đất còn cao, chi vi hơn hai mươi dặm có một cách cổng thành. ngày nay, trong thành cũ, chẳng còn dân ở chỉ dưới một ngàn nhà của Bà-la-môn.
Giải thích núi: Tiếng Phạm gọi là Cật-lật-đà-la-củtra, đời Đường Trung Hoa dịch là Thứu Phong, hay Thứu Đài.
Trí Độ Luận giải thích có hai nghĩa: Đầu ngọn núi giống hình chim Thứu, nên gọi là Thứu Đầu Thứu.
Lại nói trong rừng Thi Lâm phía Nam của thành vương xá chứa nhiều tử thi, nhiều chim Thứu đến đây ăn xong quay về ở trên đầu ngọn núi này, người thời ấy bèn đặt tên núi này là Thứu đầu sơn.
Lại có truyện ký khác nói: Loài chim Linh thứu có linh cảm biết trước người chết hay sống. Người sắp chết, chim bay đậu trước nhà, đợi đưa xác lên rừng, bèn bay xuống ăn. Bởi linh giác biết trước nên gọi là Linh Thứu.
Lại sớ ký của Ngài Chân đế, dẫn thuyết của Luận Tỳ-bà-sa nói: Bồ-tát Thích ca có một kiếp hóa thọ thân chim Thứu. (Như sớ ký kia nói, e nhiều là thuật ở đây).
Tây Vực ký ghi: Nói Thứu đài tiếp giáp phía Bắc; phía Nam ngọn núi có một nhành cây độc nhất mọc lên, chim Thứu làm tổ trên ấy. Lại như đài cao vút giữa khoảng không, xinh đẹp, ánh sáng tân sắc đậm, nhạt rực rỡ. Đức Như lai năm mươi năm hóa độ thế gian, phần nhiều ngự ở núi này rộng bày diệu pháp. Vua Tần tỳ-bàsa vì nghe pháp nên huy động mọi người cùng theo. Từ núi Ma Chí phải qua nhiều hang động, gò cao, những phiến đá trở ngại, rộng khoảng mười bước dài năm sáu dặm. Đường giữa có hai tháp nhỏ: Một để xuống xe (hạ thừa) tức vua đến đây, xuống xe cùng đi bộ tiếp. Một là thoái phàm dành cho người phàm, không khiến cho cùng đi với vua. Trên đầu ngọn núi, từ Đông sang Tây dài, từ Nam sang Bắc ngắn. Bờ núi Tây có Tinh xá làm bằng gạch đất cao rộng, xây dựng đặc thù, phía Đông có cửa. Đức Như lai xưa phần nhiều ở đây thuyết pháp. Ngày nay có tạc tượng Phật thuyết pháp, lớn bằng thân Như lai.
Hỏi: Cùng nêu núi, thành có ý gì?
Đáp: Theo như pháp Hoa luận nói: Vì thành núi này là tối thắng trong tất cả thành, núi khác, tiêu biểu Phật ngự ở đây thuyết pháp tối thắng.
Trí Độ Luận nói: Đất nơi Phật sinh thân vì báo ân đất, trụ ô thành vương xá nói pháp Bát-nhã.
Sớ Ký của Ngài Chân Đế ghi: Trụ xứ có hai: Cảnh giới xứ và y chỉ xứ. Vì hóa độ người tại gia xuất gia nên hiển bày Bi, Trí của Phật là đạo vô trụ, thế đạo đều hoàn thành, tự lợi, lợi tha cứu cánh đầy đủ những đức này nên đều nêu lên hai xứ.
Tiếp đến phần thứ sáu: Chúng thành tựu. Văn phân làm hai: 1. Liệt kê đại chúng; 2. Thoái lui về chỗ ngồi. Trong phần một lại phân làm hai: Một là chúng đương cơ, hai là chúng biến hóa.
Chúng đương cơ có mười loại:
1. Chúng đại đức Vô học; 2. Các Ni chúng dứt sạch kết; 3. Chúa ẩn hiển khó nghĩ bàn; 4. Các thánh chúng tại gia; 5. Chúng Thất Hiền tại gia; 6. Chúng Nhân Vương tại gia; 7. Chúng Chư Thiên Lục dục; 8. Chúng Chư Thiên Sắc giới; 9. Chúng các loài biến hiện; 10. Chúng Tu-la-bát-bộ.
Phần văn nói chúng đại đức Vô học lại phân làm ba:
- Nêu danh và số.
- Tán thán đức chúng, riêng.
- Tóm kết tán thán thành tựu. Nêu danh và số:
Kinh: Cùng chúng đại Tỳ kheo một ngàn tám trăm người đều hội đủ.
Giải thích: Nói về chúng cùng nghe. Có năm ý: 1. Vì chúng tín: Trợ thành cho Tôn giả A-nan, cùng nghe đáng tin; 2. Vì hiển đức: Như nói về chư Thiên, Thích Phạm vây quanh là để hiển về Phật là bậc Pháp vương, chư Thánh vây quanh; 3. Vì thỉnh cầu: Vua Ba-tư-nặc, ở trong đại chúng, hiển phát việc thưa hỏi; 4. Vì hợp căn: khiến chúng lúc ấy, ở trong đại thừa, thứ lớp tu hành mười bốn môn nhẫn đạt đến vô thượng giác; 5. Vì nhằm thâu dẫn: nếu không phải là bạn thù thắng thì tịnh tín bất sinh, dẫn thâu những kẻ hiện có khiến cùng tin học.
Nói "cùng" là gồm, đồng thời cùng chung nghĩa là cùng với Phật. Luận Trí độ quyển ba, chú thích có bảy nghĩa: là cùng một chỗ, một thời, một tâm, một giới, một kiến, một đạo, cùng một giải thoát với đức Thế Tôn, nên gọi là "cùng".
"Đại" có ba thuyết:
1. Ngài Chân đế chú thích chữ Đại có ba nghĩa:
- Số lớn như nói đại quân.
- Lượng lớn: như nói đại sơn.
- Thắng lớn: như nói là đại vương.
Tỳ-khưu cũng vậy. Chúng chẳng một người, đức thì khó lường, tu đạo Bồ-đề cao tột, vô thượng.
2. Luận Phật Địa giải thích bốn nghĩa:
- Chủng tánh Thanh văn lợi căn Ba-la-mật đa.
- Quả vô học.
- Chủng tánh bất định, hồi tâm hướng về đại.
- Vì số chúng nhiều.
3. Luận Trí độ giải thích năm nghĩa: Vì là tối thượng trong tất cả chúng. Vì đã đoạn đứt các chướng. Vì được các vị vua kính trọng. Vì con số rất nhiều. Vì có thể phá trừ chín mươi sáu loại luận ngoại đạo.
Ba đoạn văn trên, gồm có tám nghĩa: 1. Số lớn: một ngàn tám trăm người; 2. Danh lớn: danh tiếng truyền xa; 3. Quả vị lớn: vì A-la-hán; 4. Lìa bỏ lớn: vì đoạn trừ mọi chướng ngại; 5. Đức lớn: Là chủng tính của công đức trí tuệ Ba-la-mật đa; 6. Thức lớn: Thức của bậc đại nhân; 7. Hướng đến lớn: Hướng đến quả lớn; 8. Đối địch lớn: Có thể phá trừ tất cả luận của ngoại đạo. Đủ các nghĩa ấy, thì gọi là đại.
Nói "Tỳ-khưu": Tiếng Phạm là Bí-sô, phát âm sai thành Tỳ-khưu, do có đủ năm nghĩa, cho nên không dịch.
1. Bố ma: vì khi bắt đầu xuất gia, cung ma bị lay động; 2. Khất sĩ: Đã xuất gia rồi, thì khất thực mà sống; 3. Tịnh giới: Lần lần nhập tăng số, thọ trì tịnh giới; 4. Tịnh mệnh: Đã thọ giới rồi, ba nghiệp khởi lên luôn tương ưng với vô tham, không nương vào tham tà để nuôi sống mạng mình; 5. Phá ác: lần lượt điều phục đoạn trừ các phiền não.
Ngài Chân đế chú thích: ở trong nhân thì gọi là Bố ma, Khất sĩ, Phá ác, đến quả vị rồi thì chuyển nhân Bố ma thành Sát tặc, chuyển nhân Khất sĩ thành Ứng cúng, chuyển nhân Phá ác thành Bất sinh.
"Chúng": tiếng Phạm gọi là Tăng già. Tiếng Hoa gọi là Hòa hợp. Lý và sự hòa hợp, nên gọi là chúng. Bốn người trở lên gọi là chúng Tăng.
"Ngàn tám trăm người đều đủ" là nói về con số của chúng. "Đều đủ" là cùng một thời, cùng một chỗ.
Kinh: Đều là A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não.
Giải thích: Đây là phần chung nêu vị tán thán đức.
Nghĩa là: một ngàn tám trăm đều là quả vị vô học. Chữ A-la-hán là tiếng Phạm, có nhiều nghĩa: Theo Luận Bà-sa quyển chín mươi bốn có bốn nghĩa: A: chính là vô, không có, dịch theo nghĩa là sát, giết. La hán là giặc. Giết giặc phiền não, gọi là A-la-hán. Lại nói: ứng thọ thế gian diệu cúng dường. Lại nói: Bất sinh: không còn sinh ra trong pháp sinh tử. Lại nói: viễn ác, là xa lìa các pháp ác bất thiện. Trí luận, Duy thức đều dịch là ứng. Ứng có ba nghĩa: ứng là vĩnh viễn phá diệt giặc phiền não, ứng thọ diệu cúng dường của thế gian, ứng không còn thọ sinh tử phần đoạn.
Nói "các lậu": thể của lậu chẳng phải là một, nên gọi là "các".
Lậu có ba: dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu.
Kinh: Tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, chín trí, mười trí, việc làm đã xong.
Giải thích: Nói về các bậc vô học, chủng loại sai biệt. nghĩa là A-la-hán có hai loại:
1. Lợi căn: Gọi là chẳng động, không bị phiền não thối động, cũng còn gọi là Bất thời giải thoát, không cần các tư duyên thắng thượng. Đó là vị vô học tính kiến chí, đoạn phiền não chướng, gọi là Tuệ giải thoát, đắc định diệt tận, gọi là Câu giải thoát. Vì đều đã đoạn dứt hai loại chướng của định, tuệ, gọi là tâm giải thoát. Vì nguyện trí vô tránh, các pháp công đức ắt thành tựu đầy đủ.
2. Độn căn: Gọi là hạng thối pháp, nghĩa là gặp một ít duyên thì thối mất những thứ chứng đắc được, còn gọi là Thời giải thoát, vì phải đợi thời mới giải thoát.
Thời có sáu loại:
1. Được y phục tốt; 2. Được ăn ngon; 3. Được đồ nằm tốt; 4. Được chỗ ở tốt; 5. Được người thuyết pháp giỏi; 6. Được người đồng học tốt. Nếu không có những thứ đó thì không chứng đắc giải thoát. Đó là chủng tính tín giải của vị vô học, đó cũng có đủ tuệ giải thoát.
Tuệ giải thoát ở trong lợi và độn: đối với phần vô tránh đều không đủ, cho nên nói "khéo" là nói chung cho cả hai. Như điều phục ngựa xấu, lìa các bất thiện, dứt bỏ gánh nặng, đều gọi là khéo.
"Chín trí, mười trí": theo Luận Câu xá, tông Tát-bàđa: 1. Thế tục trí: đa phần duyên với cảnh của thế tục; 2. Pháp trí: là duyên với bốn Thánh đế nơi Dục giới; 3. Loại trí: Duyên với bốn Thánh đế thuộc hai cõi trên; 4. Khổ trí: là trí khổ đế; 5. Tập trí: trí Tập đế; 6. diệt trí: là trí diệt đế; 7. Đạo trí: là trí đạo đế; 8. Tha tâm trí: do duyên với tha tâm;
9. Tận trí: tận hết các hữu; 10. vô sinh trí: vì duyên với vô sinh. Trong mười trí đó, trí một và hai là hữu lậu, tám trí còn lại là vô lậu. Tha tâm trí thì chung cả hữu lậu và vô lậu.
Duyên biệt cảnh, nghĩa là Trí thế tục duyên với khắp tất cả hữu vi và vô vi làm cảnh của đối tượng duyên. Pháp trí thì duyên với Bốn đế làm cảnh. Loại trí thì duyên với bốn đế cõi trên làm cảnh. Tha tâm trí thì duyên với tâm người khác làm cảnh. Tận trí và vô sanh trí thì khi mới khởi, quán uẩn của cõi Hữu đảnh chỉ là khổ, tập làm cảnh giới, cho nên sau đó mới có thể duyên khắp cả bốn đế. hai trí nay khác nhau: Tận trí là khi bậc Thánh mới bắt đầu chứng quả vị vô học, nếu chánh tự nhận biết từ Tam muội khởi, mà nói lời này: "Ta đã biết khổ, ta đã đoạn tập, ta đã chứng diệt, ta đã tu đạo", đó là Tận trí. Còn vô sanh trí là bậc Thánh đã tự nhận biết rồi mà nói lời này: "Ta đã biết khổ, không cần phải nhận biết nữa. Ta đã đoạn tập, không cần phải đoạn trừ nữa. Ta đã chứng diệt, không cần phải chứng nữa. Ta đã tu đạo, không cần phải tu nữa". Đó là vô sanh trí.
Theo luận Thành thật, Tông Kinh Bộ nói: Biết pháp hiện tại, gọi là Pháp trí. Biết pháp quá khứ, gọi là Tỷ trí. Các trí khác thì như trên". Bậc vô học độn căn có chín trí trước, khách trần khởi phiền não, thối hiện pháp lạc. Còn vô học lợi căn thì có đủ cả mười trí, sau khi đã đạt vô sanh trí, không khởi phiền não, cũng không thối thất lạc trụ hiện pháp lạc.
Luận Hiển Dương quyển hai cũng nói về mười trí.
"Việc làm đã xong". Nghĩa là các bậc vô học, đắc đối trị thù thắng, có thể đoạn dứt phiền não, sinh tử oán địch, quả dị thục của nghiệp; tức là Khổ đế. Nhân phiền não của nghiệp, tức là Tập đế. Đã biết khổ, đoạn dứt tập, vượt khỏi dòng sinh tử, sự chứng đắc đó gọi là "làm những việc phải làm". Chỗ chứng đắc giải thoát tức là diệt đế. Diệu trí của chủ thể chứng là đạo đế. Các phần Bồ-đề, các pháp công đức đều đã tu xong, đó tức là "xong những việc phải xong". Đã xả bỏ chướng nặng, đã đủ thắng đức, vì vậy nói là "việc làm đã xong".
Kinh: Quán ba giả thật, quán ba Không môn.
Giải thích: Nói về môn quán, hành đối trị.
"Quán ba giả thật": là Quán pháp giả thật. Quán thọ giả thật,
Quán danh giả thật như nói trong kinh Đại Bát-nhã và phần sau kinh này.
Pháp: nghĩa là pháp của năm uẩn sắc tâm. Nhậm trì tự tính, quỹ sinh vật giải, (Nhận giữ tự tánh, làm khuôn phép khiến sinh hiểu biết về vật) gọi đó là pháp. Theo các duyên sinh, như các nhà ảo thuật, y tha không thật, nên gọi là giả. Tướng không có tự tính, thể chỉ là chơn như, chơn như thì không thay đổi, nên bảo là thật.
Quán: tức là chánh tuệ, tâm của chủ thể soi chiếu.
Do vậy mà nói, một chữ pháp là nêu lên cảnh của đối tượng được quán, hai chữ giả, thật là chánh giải hành tướng. Giả tức là thế tục. Thật tức là thắng nghĩa. một chữ quán, là tâm của chủ thể soi chiếu. Cảnh có riêng chung, chơn và tục là ở trong riêng. Trí có gia hạnh cho đến căn bản. Chủ thể và đối tượng cả hai đều nêu lên gọi là Quán pháp giả thật.
"Quán Thọ giả thật": Thọ trong Biến hành, tự tính của thọ là các tâm, tâm sở, tương ưng với thọ. Các sự khổ lạc là cảnh lãnh nhận của thọ, phước và phi phước là nghiệp nhận lãnh của thọ. Dị thục (quả báo) của các cõi là quả lãnh nhận của thọ. Mê đắm nơi sinh tử vì lực của thọ quá mạnh, nên ở trong tâm sở lập riêng làm uẩn. Do lỗi đã nặng vì thế phải đối trị riêng. Giả, thật và quán thì nghĩa như trên đã nêu.
"Quán danh giả thật ": Danh là tên gọi, biểu tỏ các pháp. Đắc cộng tướng của pháp, chẳng phải tự tính, vì tự thể tính của các pháp, lìa danh ngôn. Hữu tình vọng chấp điên đảo, sinh ra chấp trước. Dựa nơi danh chấp nghĩa, dựa nơi nghĩa chấp danh, từ vô thủy đến nay do lực huân tập vọng. Vì để dứt trừ nên chánh quán sát. Còn hai chữ giả và thật thì đều giải thích như trên.
"Quán ba Không môn ": là quán không, quán vô tướng, và quán vô nguyện. Theo Luận Câu xá nói: ở trong bốn hành tướng của khổ Thánh đế, học lấy không, vô ngã mà thành Không môn. diệt bốn hành dưới là môn vô tướng. Bốn hành của Tập, bốn hành của Đạo, hai hành khổ và vô thường, mười hành đó là môn vô nguyện. Hỏi: Sáu hành khổ, tập là hữu lậu thì không mong nguyện đã đành, còn đạo là vô lậu, sao Thánh lại không mong nguyện?
Đáp: Thánh đạo chưa mãn, thường khởi nguyện cầu. Quả vô học đã tròn thì không nguyện những thứ ấy, đến bờ thì xả bỏ bè, lý đó tất nhiên. nghĩa là đã vượt qua hiện tiền đối.
Theo Luận Phật Địa, quyển một nói: Biến kế sở chấp, ngã và pháp đều rỗng không, duyên với pháp Đẳng trì ấy, gọi là môn giải thoát Không. Niết-bàn vô tướng, lìa mười tướng, duyên với pháp Đẳng trì ấy thì gọi là môn giải thoát vô tướng. Nói mười tướng là: Tướng sắc, thanh, hương, vị, xúc tướng nam, tướng nữ, tướng sinh, lão, tử là mười tướng. Quán ba cõi khổ, không có gì mong cầu, duyên với pháp Đẳng trì ấy gọi là môn giải thoát vô nguyện.
Theo Luận Trí Độ: biết thật tướng của pháp là Tất cánh Không, gọi là Tam muội Không. Biết thật tướng của tất cả pháp là vô tướng, bất thọ bất chấp, đó là Tam muội vô tướng. Đã biết pháp Không rồi, không quán các pháp là không hay chẳng không là hữu hay vô, đó là Tam muội vô tác. (Tam muội vô nguyện).
Ba đoạn luận văn trên, đoạn trước là tiểu thừa, hai đoạn sau là đại thừa.
Kinh: Công đức hữu vi, công đức vô vi, đều đã thành tựu.
Giải thích: Phần tán thán các công đức đều thành tựu
"Công đức hữu vi": Là các pháp công đức của các phần pháp Bồ-đề, nguyện trí vô tránh, các đạo vô lậu, định hữu lậu tịnh, Tam ma địa Từ, mười trí và định, trong thân bậc vô học. Các định tức là thông cả định đại địa. Các trí, tức là thông cả tuệ đại địa. Đó là công đức hữu vi.
"Công đức vô vi": là công đức trạch diệt vô vi trong thân bậc vô học vốn có. Theo tông hữu bộ, trong vị kiến đạo của vô học có tám nhẫn, trong vị Tu đạo địa thứ chín mỗi địa có chín phẩm làm thành tám mươi mốt. Cộng với tám phẩm của kiến đạo, hợp cả hai nói thành tám mươi chín phẩm là công đức hữu vi của các đạo vô gián giải thoát… Công đức trạch diệt vô vi do các đạo giải thoát tám mươi chín phẩm gọi là công đức vô vi của bậc vô học. hai đức của Hữu học chuẩn theo đây nên biết. Nhưng tông đại thừa dựa với Chân như tạm kiến lập trạch diệt và phi trạch diệt mà không có "thể" thực riêng, cũng không có phẩm sô nhiều ít. Chỉ do tuệ lìa chướng, hiển bày như lý viên mãn tức là công đức hữu vi vô vi. Do đức của bậc vô học đầy đủ nên nói là thành tựu.
Kinh: Lại có chúng Tỳ-khưu ni, tám trăm người đều hội đủ, đều là bậc A-la-hán.
Giải thích: Nói về các Tỳ-kheo ni vô học, (A-lahán) chữ Tỳ kheo như đã giải thích ở trước. Ni là tiếng gọi Nữ. Tiếng Phạm có tiếng gọi Nữ này xưng hô như vậy (Ni) tám trăm người đều hội đủ là nói số chúng. Đều là A-la-hán tức tán thán vô học từ đây, tiếng xuống là nêu chúng ẩn hiển khó lường. Văn phân làm ba: 1. Nêu số nói rõ loại; 2. tán thán đức chung và riêng; 3. Tóm kết việc tán thán thành tựu. Nay nói phần một.
Kinh: Lại có vô lượng vô số Bồ-tát Ma-ha-tát.
Giải thích: Nêu chúng Bồ-tát
"Vô lượng vô số": theo kinh Hoa Nghiêm quyển bốn mươi lăm: đạt đến một trăm lẻ bốn gọi là vô số, đạt đến một trăm lẻ sáu gọi là vô lượng. Nay trong kinh này là nói về chúng rất nhiều, vì vậy nói là vô lượng vô số. Lại bản dịch cũ đã nói "chín trăm vạn ức", bản dịch này chỉ nói vô lượng vô số, tiêu biểu số nhiều, cần gì phải nêu con số.
"Bồ-tát Ma-ha-tát": tiếng Phạm là Bồ-đề Tát-đỏa, lược nói là Bồ-tát, Bồ-đề là tiếng phạm, tiếng Hoa dịch là Giác. Tát-đỏa dịch là Hữu tình. Hạnh của Bồ-tát, gồm có hai môn: 1. Tự lợi: lấy đại trí làm đầu. 2. Lợi tha: lấy đại bi làm đầu. Bồ-đề là giác, cầu quả do trí. Tát-đỏa là hữu tình, độ sinh do bi.
Kinh: Thật trí bình đẳng, vĩnh viễn đoạn trừ mọi chướng hoặc, phương tiện thiện xảo, khởi đại hạnh nguyện.
Giải thích: Tán thán chung về hai trí: hai câu trước là nói về trí tự lợi, hai câu sau là nói về trí lợi tha.
"Thật trí" là Căn bản trí. Thật: nghĩa là thể chơn như không thay đổi, trí chứng đắc thật, gọi là thật trí.
"Bình đẳng" là không có cao thấp.
"Vĩnh viễn đoạn trừ chướng hoặc": Hoặc nghĩa là phiền não, chướng nghĩa là hai chướng, do phân biệt mà khởi. Sơ địa đạt kiến đạo chủng, vĩnh viễn đoạn dứt hai chướng, câu sinh đến địa thứ mười mới trừ được một phần, tới định Kim cang mới đoạn dứt mãi mãi. Cho nên do từ hai chướng ban đầu mà nói vĩnh viễn đoạn trừ, nếu sau này đến quả, hai chướng mới hết.
"Phương tiện" là Hậu đắc trí, tuy thấu suốt tánh y tha, như huyễn như dợn nắng, nhưng vì tâm đại bi cứu vớt, không bỏ hữu tình, tạo nhiều loại lợi tha, gọi là phương tiện.
"Thiện xảo" là đối với cảnh của đối tượng được hóa độ, khéo ứng hợp căn cơ, đối với tâm của năng hóa (chủ thể), khéo léo không chấp trụ.
"Khởi đại hạnh nguyện" là phát khởi hạnh nguyện thù thắng quảng đại. nghĩa là các Bồ-tát trong địa thứ bảy đầu trí đạt Tục chứng Chân không thể cùng khởi, mọi hạnh nguyện hoặc nhất định hoặc phân tán là đều do công dụng tu hành của Hậu đắc trí sau này. Cho nên, địa thứ tám trở đi, cùng khởi duyên Chân tục, tự tại tu hành, mà không dựa vào công dụng. Theo nghĩa phân loại là sau mới được, nhưng đây nói chung là khởi hạnh nguyện. Lại giải thích: Chính thức thể nhập Hậu đắc trí, đều gọi là Thật trí, có thể duyên hai cảnh thật chân tục. Trí gia hạnh gọi là phương tiện vì có thể dẫn sinh trí tuệ chánh giác. Về nghĩa tuy không sai trái, nhưng nay chọn giải thích trước.
Kinh: Dùng Tứ nhiếp pháp, làm lợi ích hữu tình. Giải thích:
Từ đây là tán thán về đức của địa thứ mười, văn có mười phần: đây là phần nói về tướng của sơ địa.
Tán thán về hạnh vô tham. Bồ-tát cứu vật, đắc đồng thể Bi, khi làm lợi người, tức làm lợi mình, không thấy lìa mình, riêng có lợi tha.
"Tứ Nhiếp pháp" là để thâu nhiếp, giáo hoá hữu tình. Luận Thành Thật nói: 1. Bố thí: dùng các thứ thức ăn, Y phục… để thâu giữ chúng sanh; 2. Ái ngữ: Lời nói tùy theo ý, mà được lòng họ; 3. Lợi hành: vì họ cầu lợi, giúp họ thành việc; 4. Đồng sự: Như cùng một thuyền, lo, vui giống nhau. Lại nữa, Kinh Đại Phẩm nói: dùng hai thứ của cải và giáo pháp để thâu giữ chúng sanh, gọi là Bố thí. Dùng sáu Ba-la-mật vì chúng sanh mà thuyết giảng, gọi là Ái ngữ. Giáo hóa chúng sanh, khiến thực hành sáu độ, gọi là Lợi hành. Dùng lực thần thông, biến hóa nhiều loại, vào năm cõi, cùng các chúng sanh, cùng tạo sự nghiệp, gọi là Đồng sự. Nghiệp dụng của Tứ nhiếp pháp thế nào? Luận trang nghiêm quyển tám, có kệ tụng: Làm thành khí khiến cho tin, tạo thành hành, cũng giải thoát. Bố thí có thể làm pháp thành khí, do tùy thuận sự thọ nhận pháp của chúng sinh. Ái ngữ khiến cho tin do chúng sinh dứt trừ nghi ngờ nghĩa pháp. Lợi hành khiến cho thực hành pháp do nương pháp, chữ pháp mà hành. Đồng sự làm cho giải thoát do được hành lâu dài, đem đến lợi ích chúng sinh.
Theo lý thì ở sơ địa, vạn hạnh đều tu, đây là thuận theo Thí độ nêu tán thán thiên về. Tiếp đến là hai địa, nghĩa ấy thế nào?
Kinh: Bốn tâm vô lượng, che chở khắp cả.
Giải thích: Tán thán về hạnh vô sân. Bồ-tát lợi sinh, oán thù và thân hữu đều bình đẳng, che chở tất cả.
"Bốn vô lượng" là: từ, bi, hỷ, xả. Theo Luận Câu xá: Từ là cho vui, bi là cứu khổ, hỷ là vui mừng vỗ về, xả là bình đẳng. Lại nữa, luận Thành Thật nói: Từ là tâm thiện trái với sân. Bi là tâm thiện trái với não. Hỷ là tâm thiện trái với ganh ghét. Cả ba tâm đó đều là sự sai biệt của tâm từ. Khiến cho cả ba đều bình đẳng, gọi đó là xả. Theo luận Hiển Dương: Từ vô lượng là đối với chúng sinh không khổ, không lạc, muốn cho điều vui. Bi vô lượng là đối với chúng sinh khổ, muốn cứu trừ điều khổ.
Hỷ vô lượng là đối với chúng sinh vui, tùy hỷ theo vui của họ. Xả vô lượng là tâm xả hết vui khổ. Không nhiễm Ý vui thích. Thể của bốn vô lượng theo luận Bà-sa nói có hai thuyết về hai loại Từ Bi:
1. Đều lấy vô sân làm thể. Từ có thể đối trị sân đoạt vật mạng. Bi có thể đối trị sân hận đánh đập; 2. Từ lấy vô sân làm thể. Bi lấy thiện căn bất hại làm thể đối trị hại. Hỷ cũng có hai: 1. Thiện căn làm thể; 2. Hỷ lấy vui làm tự tính. Xả lấy thiện căn vô tham làm thể tương ưng trợ bạn đều là tánh năm uẩn. Luận thành thật nói bốn vô lượng này do đều là tánh tuệ. Luận tạp tập Đại thừa nói bốn vô lượng đều lấy hai pháp định tuệ và các tâm pháp tương ưng làm tự tính. Lại luận Hiển Dương nói: Từ lấy thiện căn vô sân làm thể. Bi lấy thiện căn bất hại làm thể. Hỷ lấy thiện căn không ganh ghét làm thể. Xả lấy vô tham vô sân làm thể, đều là pháp thương xót chúng sinh. Từ chỉ lấy vô sân, hai loại bi, hỷ lấy một phần vô sân. Xả lấy một phần tham, vô sân tương ưng, quyến thuộc đều làm thể.
Theo luận Hiển Dương: Từ vô lượng là đối với chúng sinh không khổ, không lạc, muốn cho điều vui. Bi vô lượng là đối với chúng sanh khổ, muốn cứu trừ điều khổ. Hỷ vô lượng là đối với chúng sanh vui, tùy hỷ theo vui của họ. Xả vô lượng là tâm xả hết vui, khổ. Không nhiễm ý vui thích. Thể của bốn vô lượng, theo luận Bàsa nói có hai thuyết về hai loại Từ Bi: 1. Đều lấy vô sân làm thể. Từ, có thể đối trị sân đoạt vật mạng. Bi có thể đối trị sân hận đánh đập; 2. Từ lấy vô sân làm thể. Bi lấy thiện căn bất hại làm thể đối trị hại. Hỷ cũng có hai: 1.
Thiện căn làm thể; 2. Hỷ lấy vui làm tự tính. Xả lấy thiện căn vô tham làm thể tương ưng trợ bạn đều là tánh năm uẩn. Luận thành thật nói bốn vô lượng này đều là hạnh tuệ. Luận Tạp Tập Đại thừa nói bốn vô lượng đều lấy hai pháp định, tuệ và các tâm pháp tương ưng làm tư tỉnh. Lại luận Hiển Dương nói: Từ lấy thiện căn vô sân làm thể; Bi lấy thiện căn bất hại làm thể. Hỷ lấy thiện căn không ganh ghét làm thể. Xả lấy vô tham, vô sân làm thể đều làm pháp thương xót chúng sanh. Từ chỉ lấy vô sân, hai loại Bi, hỷ lấy một phần vô sân. Xả lấy một phần vô tham, vô sân tương ưng, quyến thuộc đều làm thể. Đối với tiểu thừa, cả bốn thứ này đều là môn quán, còn Bồtát vì lợi tha, nên cả bốn đều là thật hạnh.
Tiếp đến là Ba địa, nghĩa đó là gì?
Kinh: Ba Minh soi đạt, đắc năm thần thông.
Giải thích: Tán thán đầy đủ đức hạnh, Bồ-tát nơi địa này, chánh đoạn vô minh, định thù thắng tương ưng, đủ cả minh và thông.
"Tam Minh soi đạt", xưa nói là: 1. Túc mệnh minh; 2. Thiên nhãn minh; 3. Lậu tận minh. Theo Luận Bà-sa quyển một trăm lẻ một nói:
1. Túc trụ tùy niệm trí chứng minh: do thông đạt hiểu rõ pháp nơi đời trước; 2. Sinh tử trí chứng minh: thông đạt hiểu rõ pháp nơi đời sau; 3. Lậu tận trí chứng minh: do thông đạt hiểu rõ tính Niết-bàn.
"Soi": Đó là mắt tuệ, chủ thể soi chiếu nơi tâm. "Đạt" là thấu đạt, tức cảnh của đối tượng được quán.
Đối trị cái ngu tối của ba đời nên gọi là soi đạt. Theo luận Câu xá thể của hai Minh đâu là hữu lậu, tánh tục trí, thể của minh sau chung cả vô lậu nghĩa là tánh sáu trí hoặc mười trí.
"Đắc năm thần thông", theo Luận Bà-sa, đối với cảnh sở, duyên thấu đạt không điên đảo, diệu dụng không ngại, không bị ngừng trệ, gọi là thần thông. 1. Thần cảnh trí chứng thông: Thần là đẳng trì (định); cảnh là hành hóa. Trí chứng thần cảnh không ngưng trệ gọi là thông; 2. Thiên nhãn trí chứng thông: Thù thắng gọi là thiên. Đại nơi Sắc giới tạo nhãn căn tịnh sắc. Trí: là tuệ tương ưng với nhãn thức. Thấy xa không ngại, gọi là Thiên nhãn thông; 3. Thiên nhĩ trí chứng thông: đại nơi Sắc giới tạo nhĩ căn tịnh sắc. Trí là tuệ tương ưng với nhĩ thức, nghe xa vô ngại, gọi là Thiên nhĩ thông; 4. Tha tâm trí chứng thông: Biết tâm của người khác gọi là tha tâm trí. Nếu dựa theo căn bản trí thì biết tâm chẳng đối tượng sở tri nào chẳng phải là tâm. Tùy ý nhớ nghĩ đây là dựa theo gia hạnh mà gọi là Tha tâm thông; 5. Túc trụ tùy niệm trí chứng thông. Ở những việc xưa, tùy theo sự. Nghĩa là: nhớ đến những niệm trước, lần lượt quán nghịch, cho đến có thể nhớ sơ tâm trung hữu gọi là Gia hạnh mãn. Khi căn bản đã thành, có thể nhớ được ở chỗ nào đó, đã mang họ tên gì, loại thân gì, sự nghiệp gì, gọi là túc trú. Nghĩa là: những tâm tụ kia tuy có nhiều pháp, nhưng niệm lực thù thắng, trí tùy niệm lực có thể biết những điều đó, nên gọi là tùy niệm. Trí chứng túc trụ, không có ngưng trệ, gọi là thông.
Nói về năm thể, theo Luận Câu xá thì năm thông đó thuộc về đạo giải thoát, tuệ làm thể của chúng. Thần cảnh, Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Túc trụ, cả bốn đều là tục trí, chỉ là hữu lậu, còn tha tâm trí thông thì năm trí làm thể. nghĩa là: Pháp, Loại, diệt, Đạo, Thế tục. Tha tâm thông chung cả lậu và vô lậu, vì lấy đó làm thể.
Về địa nương tựa thì ở vô Sắc giới, quán giảm chỉ tăng, cả năm thông phải nương vào chỉ và quán, chỉ bốn thiền căn bản và cận phần địa là không có. Theo Luận Hiển Dương, năm thông đều lấy hai pháp định, tuệ và pháp tương ưng làm thể, tức Hậu đắc trí chỉ là vô lậu.
Hỏi: Trước nói Tam minh tức nói lậu tận, trong năm thông sao không nói? Đáp: Theo mỗi địa riêng mà nói; địa sau luận về thần thông không có Luận tận.
Tiếp đến là Địa thứ tư, nghĩa nó thế nào?
Kinh: Tu tập vô biên, pháp Bồ-đề phần.
Giải thích: Tán thán về hạnh tu tập.
Nói "vô biên": Là tu hành thường tập, rộng lớn vô biên
"Pháp Bồ-đề phần": Bồ-đề là giác, là điều được mong cầu. Phần là nhân, còn gọi là chi phần. Ba mươi bảy pháp thuận hướng đến Bồ-đề, phần của Bồ-đề, gọi là Bồ-đề phần.
Nói về thể, như luận Câu xá quyển hai mươi lăm có kệ tụng: Đây thật sự chỉ mười. Nghĩa là Tuệ Cần, Định, Tín, Niệm, Hỷ, Xả, Khinh an và Giới, tầm làm thể? Tuệ bao gồm tám chữ như là Tứ niệm trụ (Tứ niệm xứ), Tuệ căn, Tuệ lực, trạch pháp giác chi, Chánh kiến đều lấy Tuệ làm thể. Cần cũng gồm thâu tám thứ: Tứ Chánh đoạn, Tinh tấn căn, Tinh tân lực, Tinh tấn giác chi và Chánh tinh tấn, đều lấy Cần làm thể. Định cũng gồm thâu tám thứ: Tứ thần túc, Định căn, tịnh lực, Định giác chi và Chánh định đều lấy định làm thể. Tín chỉ gồm thâu hai: Tín căn, Tín lực đều lấy Tín làm thể. Niệm chỉ gồm thâu bốn: Niệm căn, Niệm lực, Niệm giác chi và Chánh niệm đều lấy Niệm làm thể. Hỷ chỉ gồm thâu một: Hỷ giác chỉ lấy Hỷ làm thể, xả chỉ gồm thâu một: Xả giác chi, hành xả làm thể, không phải Xả thọ. Khinh an gồm thâu một khinh an giác chi, lấy khinh an làm thể. Giới gồm thâu ba: Chánh ngữ, chánh nghiệp và Chánh mạng, lấy Giới làm thể. Tầm gồm thâu một: Chánh tư duy lấy Tầm làm thể. Vì thế cho nên thể của ba mươi bảy pháp Bồ-đề phần chỉ có mười.
Người tu tập những pháp này, quán hai lợi tu hành, như kinh Hoa nghiêm nói: Đều vì không bỏ chúng sanh, cho đến an trụ Nhất-thiết-trí trí.
Kinh: Công xảo kỹ nghệ vượt mọi thế gian
Giải thích: Tán thán hành phương tiện. Bồ-tát địa này tu các đế quán (quan sát rõ ràng) làm những công việc thiện xảo nhằm lợi ích hữu tình. Luận Câu xá nói: Tâm khởi làm công việc khéo léo chỉ là nói ý thức. Có hai nơi để thực hiện: Thân hành động công xảo lấy bốn trần. Ngữ thực hiện công xảo lấy năm trần làm thể. Nói "Kỹ nghệ" là nghề nghiệp. "Vượt mọi thế gian" là đều vì dẫn dắt nhiếp phục chúng sanh. Như kinh Hoa nghiêm nói: Bồ-tát địa này vì muốn lợi ích các chúng sanh, nên các nghề nghiệp thế gian đều học tập và thực hành. Đó là các nghề như thông hiểu giỏi về văn tự, toán số (tính toán), vẽ, in ấn, các thứ đàm luận về đất, nước, gió, lửa v.v… thông hiểu và thành thạo nhưng không bị thiện căn của thế gian làm xao động
Thâm nhập duyên sinh, Không vô tướng nguyện
Giải thích: Câu trên nói duyên sinh, câu dưới nói về quán. "Thâm nhập" là trí chứng.
"Duyên sinh": Duyên là chúng duyên, sinh là sinh khởi, các pháp hữu vi đều theo duyên sinh.
"Không vô tướng vô nguyện": là theo duyên mà biện minh quán. Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Duyên sinh nói: Bồ-tát địa này, quán các duyên khởi. Biết con người là vô ngã, hiểu rõ là không có tự tính, rỗng không, không có người tạo tác, kẻ thọ nhận, đắc môn giải thoát Không. Quán các hữu chi, đều tự tính diệt, tất cánh giải thoát, không có một tí tướng sinh nào, đắc môn giải thoát vô tướng. Cứ như vậy mà nhập Không, vô tướng rồi, không có nguyện cầu, đại bi làm đầu, giáo hóa chúng sanh, đắc môn giải thoát vô nguyện, cho đến Bồ-tát trụ địa Hiện tiền, đắc nhập trăm ngàn môn Tam muội không, vô tướng, vô nguyện, tức ba môn Tam muội đều hiện tiền.
Tiếp nói địa thứ bảy.
Kinh: Xuất nhập diệt định, thị hiện khó lường.
Giải thích: Tán thán về hạnh tự tại.
Nói "xuất nhập": là tâm xuất nhập của diệt định.
"Diệt định": là Bồ-tát này không còn lậu diệt, tâm tịch nhiên không khởi tựa như Niết-bàn. Như luận Dugià nói: người trụ diệt định, thân, ngữ, tâm hành đều diệt.
"Thị hiện khó lường": là nói về Bồ-tát ấy thị hiện tùy loài, ẩn hiện khó lường. Như Kinh Hoa Nghiêm viết: Bồtát địa này, do trí lực Tam muội, dùng đại phương tiện, tuy thị hiện sinh tử mà thường trú Niết-bàn. Tuy bà con thân thích vây quanh mà thường vui với hạnh xa lìa, tuy dùng nguyện lực thọ sinh ở Ba cõi, nhưng không bị nhiễm ô theo thế pháp.
Tiếp nói địa thứ tám.
Kinh: Bẻ gãy ma oán, song chiếu nhị đế.
Giải thích: Tiếng phạm gọi là Ma-la, tiếng Hoa gọi là hại giả (Kẻ phá hoại).
Làm hại phẩm thiện của người, gọi là Ma oán. Ma có bốn loại. Như Luận Phật Địa quyển một nói: Phiền não, Uẩn, Tử, Thiên ma. Phiền não ma là một trăm hai mươi tám phiền não và tùy phiền não. Uẩn ma là năm thủ uẩn, Tử ma là pháp bên trong của hữu lậu, các tướng vô thường. Thiên ma: là các thiên tử nơi cõi trời Tự Tại thứ sáu thuộc Dục giới. Bốn loại ma đó đều có thể làm tổn hại các pháp thiện. Loại Ma đầu là nhân sinh tử. Thiên ma là duyên sinh tử là quả sinh tử. Do Dị thục, sĩ dụng tự nó tương hại.
Nói "Bẻ gãy (tồi phục)" như Luận Trí độ quyển hai mươi lăm nói: Các Bồ-tát đó, đắc đạo Bồ-tát, phá trừ phiền não ma, tức là chơn kiến đạo, phân biệt hai chướng, phá diệt Ma oán. Đắc pháp thân nên có thể phá trừ uẩn ma. Đắc đạo pháp thân, nên phá trừ được Tử ma. Khi ở sơ địa, pháp thân và đạo cũng có thể phá một phần Uẩn ma Tử ma. Lúc tâm ban đầu thành Phật, mới có thể phá trừ vĩnh viễn. Cho nên Luận Phật Địa nói: Do bốn ma ấy mà sinh ra các thứ sợ hãi. Như Lai vĩnh viễn lìa bốn loại ma, nên Tam muội chẳng động có thể phá trừ Thiên ma. Nay địa thứ tám gọi là chẳng động, vừa nhập địa này thì phá diệt Thiên ma, nên nói địa này là chế phục, trừ diệt vĩnh viễn.
"Song chiếu nhị đế": là nơi cảnh và trí, chơn và tục đều cùng quán chiếu. Phần sau sẽ nói rõ. Tiếp nói địa thứ chín.
Kinh: Pháp nhãn thấy khắp, biết căn của chúng sanh, bốn vô ngại giải, diễn nói về vô úy.
Giải thích: "Pháp nhãn thấy khắp": Pháp là giữ lấy theo phép tắc, thông cả cảnh chơn và tục. Nhãn: là tuệ tịnh chiếu các hữu tình, tùy theo chủng tính, đều biết được.
"Bốn vô ngại giải": Luận Nhiếp Đại thừa, Bồ-tát vô Tánh giải thích nói: Do pháp vô ngại, tự tại biết rõ tất cả pháp cú. Do nghĩa vô ngại, tự tại thông đạt tất cả nghĩa lý. Do từ vô ngại, tự tại phân biệt tất cả ngôn từ. Do biện biệt vô ngại, hiện bày khắp mười phương, tuỳ chỗ ứng hợp sâu xa mà tự tại biện thuyết. Chung lấy định, tuệ và pháp tâm tâm sở tương ưng với chúng làm tự tính.
"Diễn thuyết vô uý": nghĩa là pháp nhãn của Bồ-tát đó có thể thấy căn thượng, trung, hạ. Bốn vô ngại giải theo đúng căn cơ mà diễn thuyết.
Nói "vô úy": Theo Luận Trí Độ quyển hai mươi bốn nói: Hỏi: bốn vô sở úy, Bồ-tát có không?
Đáp: Có.
1. Văn trì vô úy: Các Đà-la-ni, nhớ nghĩ không quên, thuyết pháp trước hội chúng đều không hề sợ hãi; 2. Giải thoát vô úy: Tất cả pháp dược, đều có thể phân biệt, biết căn tánh của chúng sanh, tùy chỗ ứng hợp thuyết không hề sợ hãi; 3. Xử chúng vô úy: Có người khắp mười phương, đến vấn nạn nơi ta, ở trong đại chúng, thuyết pháp vô úy; 4. Đáp nạn không sợ hãi: Tất cả mọi người, đến vấn nạn ta, ta đều trả lời đầy đủ có thể đoạn dứt nghi hoặc của họ, ở nơi đại chúng, thuyết pháp không sợ hãi. Do đủ bốn thứ đó mà đạt được tự tại. Như Kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi tám nói: Bồ-tát địa này, đắc trí vô ngại, đắc pháp tạng vi diệu của Như Lai, tác đại pháp sư, do đắc bốn môn Đà-la-ni vô ngại, dùng trăm vạn Atăng-kỳ âm thanh thiện xảo, mà diễn thuyết các pháp.
Tiếp nói địa thứ mười:
Kinh: Mười lực diệu trí, pháp âm vang động, gần ngôi vị vô đẳng đẳng, Tam muội Kim cang.
Giải thích: Tán thán hạnh mãn túc (đầy đủ).
"Mười lực diệu trí, pháp âm vang động": là mười lực nơi quả Phật, như xứ và phi xứ v.v…. Bồ-tát nơi địa này, đắc được một phần các pháp kia. Luận Trí độ quyển hai mươi bốn nói:
Hỏi: Phật có mười lực, Bồ-tát có không?
Đáp: Có. 1. Lực của tất cả trí tâm sâu bền vững chắc; 2. Lực đầy đủ đại từ, do không xả bỏ chúng sanh; 3. Lực đầy đủ đại bi, do không cần tất cả cung kính cúng dường; 4. Lực tinh tấn: siêng cầu tất cả pháp Phật, tâm không nhàm chán; 5. Lực thiền định: Tuệ hành nhất tâm, oai nghi không hoại; 6. Lực đầy đủ trí tuệ: Đoạn dứt tất cả phân biệt suy tưởng, hý luận; 7. Lực không chán ghét sinh tử vì thành tựu hết thảy chúng sanh; 8. Lực của pháp nhẫn vô sanh: Do quán thật tướng của tất cả pháp; 9. Lực Giải thoát: nhập nơi giải thoát không, vô tướng vô tác;
10. Lực đầy đủ trí vô ngại: pháp sâu xa tự tại, biết rõ những tâm hành dấy khởi của các chúng sanh. Mười lực ấy ở trong địa thứ mười, mỗi lực tùy theo mỗi địa mà tăng nên có ba đức khác nhau: Lực thiền định, Lực trí tuệ, Lực vô sinh, Lực giải thoát, bốn lực đó đều là tự lợi. Thâu tóm, tán loạn, đoạn trừ vọng là nhân của Đoạn đức.
Chánh quán giải thoát nhân của trí đức. Lực Đại từ, Lực đại bi, Lực không chán sinh tử, Lực trí vô ngại, bốn lực đó là của lợi tha Ân đức: hai lực từ và bi làm tâm của chủ thể hoá độ, hai lực không chán sinh tử và trí vô ngại là cảnh của đối tượng được hoá độ. Còn lực tinh tiến thì chung cả hai lợi. Nên mười lực nầy định tuệ làm tính, những quyến thuộc tương ưng đều làm thể. Đủ mười trí lực, diệu ứng hợp căn cơ, diễn thuyết chánh pháp, giống như sấm rền vang. Như kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi chín nói: Bồ-tát nơi địa này, dùng lực tự nguyện, khởi mây đại bi, động sấm đại pháp, minh thông vô úy dùng làm ánh chớp, phước đức trí tuệ làm đám mây dày, hiện nhiều loại thân, biến khắp mười phương, diễn thuyết chánh pháp.
Là bậc đạt Tam muội Kim cang, gần với ngôi vị vô đẳng đẳng. Phật so với Bồ-tát, gọi là vô đẳng, ngang đạo chư Phật, gọi đó là đẳng. Địa thứ mười này, gọi là cận kề với quả. Tam muội Kim cang là định tối thắng sau cùng. Thắng dụng kiên cố là định Kim cang, nên một chữ "cận" chung cả dụng và định.
Mười đoạn trên đây là tán thán riêng về địa thứ mười. Lại nữa, địa sau, tất có đủ đức của địa trước nên trên đây là tán thán chung, cũng không trái nhau. Sau đây là phần ba, kết tán thành tựu, nghĩa đó thế nào?
Kinh: Công đức như vậy, thảy đều đã đầy đủ.
Giải thích: Bồ-tát có đủ các công đức kể trên.
Dưới đây là phần bốn-Các Thánh chúng tại gia, nghĩa ấy là thế nào?
Kinh: Lại có vô lượng chúng Ưu-bà-tắc, chúng Ưubà-di, đều kiến Thánh đế.
Giải thích: Kinh cũ thì căn cứ theo người, chia làm hai chúng. Đây đều là cận sự, nên kinh hợp chung làm một.
Nói "vô lượng" là con số rất nhiều.
"Chúng Ưu-bà-tắc, chúng Ưu-bà-di" là nói về từng loại. Đây thuận theo cổ dịch, có phần và lược. Ngài Tam Tạng Từ Ân dịch các kinh đều viết: Ô-ba-tư-ca, Ô-basách-ca. Ô-ba tiếng Phạm nghĩa là Cận, ca nghĩa là sự. Sách nghĩa là nam, Tư nghĩa là nữ. Luận Thuận Chánh Lý quyển ba mươi bảy nói. Dựa vào nghĩa gì gọi là Ôba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca? nghĩa là người nam, người nữ kia, trước tiên quy y Tam bảo, thân cận phụng sự bậc Thầy mà mình tôn kính và hộ trì Thi-la. Hoặc thường thực tập gần gũi. Như lý, hoại bỏ ác nghiệp. Hoặc thường gần gũi phụng sự Phật làm thầy, một phần đồng với Phật là được tịnh giới, Ý thiện lạc trụ. Tịnh giới là năm giới của tại gia: Ba giới bảo hộ thân nghiệp, một giới bảo hộ ngữ nghiệp, và một giới thông chung ba nghiệp. Bốn giới trước là tánh giới, một giới sau là Giá giới. Đều lấy biểu, vô biểu làm thể. Tông hữu bộ cho Biểu nghiệp là thân nghiệp, nơi sắc pháp xứ vô kiến, vô đối. Luận Thành Thật cho biểu nghiệp là thân ngữ còn vô biểu tức hạnh không tương ưng, phi sắc tâm. Đại thừa cho biểu nghiệp chính là Tư, còn vô biểu là giả lập dựa theo tư thù thắng không phải thật sự thuộc về pháp xứ. Do đủ giới đức có thể thân cận, thừa sự Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, vì vậy mà dịch nghĩa là cận sự nam, cận sự nữ.
"Đều kiến Thánh đế": là tán thán về Thánh đức, nói rõ tại gia đều chứng đế. Thể của kiến tức là tịnh Tuệ vô lậu. Thánh đế tức là bốn đế như khổ v.v... Từ thiện căn thế đệ nhất, không gián đoạn, tức duyên với, cảnh của khổ Thánh đế, nơi Dục giới sinh pháp vô lậu, gọi là khổ pháp trí nhẫn. Như vậy cho đến niệm thứ mười lăm là đạo loại trí nhẫn đều gọi là Kiến đế.
Vị này đoạn trừ thế nào? Luận Phật địa quyển một nói: Đã đoạn được một trăm mười hai loại phiền não của kiến đạo gọi là Sớ quả. Thật ra Vô học cũng đều là kiến đế. Nay dựa vào kiến ban đầu gọi chung là kiến đế. Hỏi: Kinh nói kiến đế chỉ là nói chung, lý thật tại gia đắc được quả gì?
Đáp: tại gia đắc được ba quả đầu, còn quả A-la-hán chỉ hàng xuất gia. Giả như chứng quả thứ hai, sinh nơi biên địa không có Phật pháp, thì khi chứng quả A-la-hán, râu tóc tự rụng, thành tướng Sa môn. (Như luận Ba-sa nói) Kinh này trước đã nêu rõ chúng vô học, sau nói chúng cận sự chỉ nói kiến đế tức không có lý ngăn chận, không chứa ba quả đầu. Sao biết như vậy? Như phần tiếp theo của kinh này nói: Liền hỏi các Ưu-bà-tắc Bảo cái, Vô cấu xứng… những cư sĩ này còn là chúng Đại Bồ-tát ứng hiện, huống là ba quả đầu mà không chứng được ư.
Kinh: Lại có vô lượng tu hạnh bảy hiền
Giải thích: "Vô lượng" là rất nhiều
"Tu hạnh bảy hiền": tu, nghĩa là tiến tu. Hiền nghĩa là hiền thiện, hiền hòa. Có bảy ngôi vị Hiền nên gọi là bảy Hiền.
Kinh: Niệm xứ, chánh cần, thần túc, căn, lực, tám thắng xứ, mười biến xứ.
Giải thích: Như luận Chánh lý đã nêu là thuộc về bảy Hiền. "Niệm xứ" là bốn niệm xứ, thân thọ tâm pháp, dùng tuệ làm tính thâu tóm cả phần chung riêng là nghiệp vị thứ nhất.
"Chánh cần" siêng năng đoạn hai ác, siêng tu hai thiện, lấy tinh tiến làm tính, là Noãn vị tăng.
"Thần túc" là Dục, cần, tâm, quán, lấy định làm tính, là Đảnh vị tăng.
"Căn" là năm căn, nhẫn ắt không thối chuyển là nhẫn vị tăng. "Lực" là năm lực tức Thế đệ nhất pháp. Hoặc không thể khuất phục, là lực tăng thắng.
Những niệm trụ đó, có đủ tính năm uẩn, không có giác đạo chi, vì là vô lậu.
Tám Thắng xứ: Như nơi luận Chánh lý đã nêu rõ.
Mười Biến xứ: Là quán đủ khắp về bốn đại địa thuỷ hoả phong, bốn sắc xanh vàng đỏ trắng cùng hai vô biên xứ là Không, Thức.
Kinh: Mười sáu tâm hành, hướng đến hiện quán đế. Giải thích: "Mười sáu tâm hành" theo luận Chánh lý, là từ Noãn pháp tu bốn Thánh đế, với mỗi một đế có bốn hành tướng, bốn đế có mười sáu hành tướng khổ đế có bốn hành tướng: vô thường, khổ, không, vô ngã, Tập đế có bốn: Nhân, tập, sanh, duyên. Diệt đế có bốn: Diệt Tĩnh, Diệu, Ly. Đạo đế có bốn: Đạo, Như, hành, Xuất. Kiến duyên với tướng gọi là tâm hành, đều lấy tuệ làm thể, đầy đủ năm uẩn.
"Hướng đến hiện quán đế". Hướng đến nghĩa là chủ thể hướng tới, tức là mười sáu hành. Hiện-quán-đế là đối tượng được hướng tới, cho nên sau Thế đệ nhất, gọi là Hiện-quán-đế. Như luận Câu-xá nói: Hiện-quán-đế có ba loại: 1. Kiến-hiện-quán: Duy chỉ tuệ vô lậu kiến đế phần, gọi là Kiến-hiện-quán; 2. Duyên-hiện-quán: Tuệ vô lậu đó và tuệ tương ưng với tâm, tâm sở pháp, cùng một đối tượng duyên, gọi là Duyên-hiện-quán; 3. Sưhiện-quán: nghĩa là chỗ tương ưng trước và đạo cùng ngang nhau, cùng một sự nghiệp, gọi là Sự-hiện-quán.
Kinh: Lại có mười sáu đại Quốc vương, như vua Batư-nặc... cùng với ngàn vạn quyến thuộc đều hội đủ.
Giải thích: Tên mười sáu nước, sẽ liệt kê ở phần sau, các Quốc vương đó cùng đến dự hội. Dưới đây là phần thứ bảy, nêu chúng chư Thiên nơi sáu cõi trời thuộc Dục giới:
Kinh: Lại có các Thiên vương nơi sáu cõi trời thuộc Dục giới như Thích Đề Hoàn nhân.... cùng với quyến thuộc, vô lượng thiên tử đều hội đủ.
Giải thích: "Thiên vương nơi sáu cõi trời thuộc Dục giới" là nêu về loại. Dục: nghĩa là Dục giới, dâm và sự ăn uống dẫn đến tham. Ở trong Dục giới có sáu cõi trời như luận Thuận Chánh lý, quyển ba mươi mốt nói: 1. Trời Tứ đại vương chúng ở núi Diệu cao tại tầng cấp thứ tư. Nghĩa là những thiên chúng ấy phụng sự bốn đại vương, do bốn đại vương đó lãnh đạo; 2. Trời Tam thập tam (Đao lợi): trú ở đỉnh núi Diệu cao. nghĩa là cõi trời đó là chỗ ở của chư Thiên ba mươi ba bộ; 3. Trời Dạma-thiên: nghĩa là cõi trời đó thường thường hay nói "vui sướng thay!"; 4. Trời Đổ-sử-đa (Đâu suất): nghĩa là cõi trời đó, với những thứ mình nhận được đều sinh tâm vui đủ. 5. Trời Lạc-biến-hóa: Cõi trời ấy, vui thích hóa cảnh dục, ở đó thọ lạc. 6. Trời Tha-hóa-tự-tại: Cõi trời này, tự tại thọ nhận sự vui thú trong cảnh diệu dục do kẻ khác hóa ra.
Các thiên vương đó đều đến dự hội.
"Thích Đề Hoàn Nhân..." là Thiên chủ của cõi trời Tam thập tam. Tiếng Phạm gọi là Thích-ca-đề-bà-nhânđạt-la. Thích ca là họ, tiếng Hoa dịch là Năng. Đề bà là Thiên. Nhân Đạt La, dịch là đế. Ở đây chính dịch là Năng thiên đế. Nay kinh này nói là "Thích Đề Hoàn Nhân" là tiếng Phạm phát âm bị lệch. Như các kinh khác gọi là "Thiên đế Thích" là nói đảo lại mà thôi. Thời quá khứ xưa kia có tên là Kiều thi ca, tiếng Hoa gọi là U Nhi, còn có tên là A-ma-yết-đà, tiếng Hoa dịch là vô độc hại, tức là nước Ma-yết-đà. Thời quá khứ Đế Thích tu nhân ở nước đó nên dùng làm tên nước. Nước đó tên gọi cũ là nơi đặt Cam lồ. Như Trí luận nói: kiếp sơ, Đế Thích và A-tu-la dùng núi làm mũi đục, đục biển sữa đạt được Cam lồ, đặt ở vùng đất đó, nhân vậy dùng làm tên gọi. Đế Thích xưa kia có ba mươi hai người làm đồng bạn có pháp thiện. Thiên nhân viên sinh, Thiên nhân hoan hỷ, Thiên nhân thuyết chi phu nhân, cùng tu thắng nghiệp, cho nên sinh trong cõi trời có Thiện pháp đường, cây Viên sanh, vườn Hoan hỷ và nữ A-tu-la là phu nhân thiết chi. Những nhân duyên này như nhiều nơi khác đã nói, nên nêu Đế Thích và năm Thiên chủ khác.
"Cùng với quyến thuộc": Là nói về các thiên chúng cùng theo với Thiên chủ đến, nên nói là vô lượng.
Dưới đây là phần tám-Các thiên chúng nơi Sắc giới:
Kinh: Bốn tĩnh lự nơi cõi Sắc, các Đại Phạm vương, cũng cùng với quyến thuộc, vô lượng Thiên tử, đều hội đủ.
Giải thích: "Bốn tĩnh lự nơi cõi Sắc": là nêu về loại. Sắc: là Sắc giới. Trong địa định của cõi Sắc. Tĩnh lự có bốn: Tĩnh là tịch tĩnh. Lự là duyên lự, suy tư chuyên một cảnh, gọi là Tĩnh lự. Luận Thuận chánh lý, quyển hai mươi mốt nói: Thiên xứ của Tĩnh lự thứ nhất có ba: 1. Trời Phạm chúng: do Đại phạm hiện có, hóa hiện và thống lãnh, gọi là Phạm chúng; 2. Trời Phạm phụ: Những thị vệ xếp hàng trước sau Đại phạm, gọi là Phạm phụ; 3. Trời Đại phạm: Được sinh ra do nhiều sự thiện, nên gọi là Phạm. Phạm này lớn, nên gọi là đại, do đã đắc định trung gian, mà được sinh ra đầu tiên và chết cuối cùng, oai đức đều thù thắng nên gọi là đại.
Thiên xứ của Tĩnh lự thứ hai có ba: 1. Trời Thiểu quang: Vì trong cõi trời đó, ánh sáng ít nhất; 2. Trời vô lượng quang: Ánh sáng chuyển tăng, rất khó lường; 3. Trời Cực quang tịnh: Tịnh quang chiếu khắp tự địa xứ.
Thiên xứ của Tĩnh lự thứ ba có ba: 1. Trời Thiểu tịnh: ý địa thọ lạc, gọi là tịnh, vì tịnh này kém nhất ở trong tự địa; 2. Trời Vô lượng tịnh: Tịnh này chuyển tăng, lượng rất khó lường. 3. Trời Biến tịnh: Tịnh này hiện bày đủ khắp, nên gọi là Biến tịnh. Ý hiển rõ, không có lạc nào vui hơn.
Thiên xứ của Tĩnh lự thứ tư có chín: 1. Trời Vô vân: ở dưới bầu trời, nơi trụ của cõi trời, như mây dày đặc, nên gọi là vân. Các cõi trời ở trên ấy không có vùng mây trụ ở tại chỗ không có mây, nên gọi là vô vân; 2. Trời Phúc sinh: phải là hàng dị sanh (phàm phu) có thắng phước mới có thể vãng sinh đến cõi đó; 3. Trời Quảng quả: ở trong chỗ quả của hàng dị sinh, đây là nơi tối thắng; 4. Trời Vô tưởng: khi tu gia hạnh, rất ghét nơi tưởng, lấy tưởng diệt làm chính, nên gọi là Trời vô tưởng. Từ đây trở lên năm cõi trời, gọi là Ngũ tịnh cư. Các Thánh lìa dục, dùng nước Thánh đạo, rửa sạch mọi cấu uế của phiền não, nên gọi là tịnh. Chỗ ở của thân tịnh, gọi là tịnh cư. Gồm: 1. Trời Vô phồn: Phồn là phồn tạp, còn gọi là phồn quảng (nhiều, rộng). Trong chỗ không có phồn tạp, đây là tối sơ. Trong cõi trời phồn quảng, đây là kém nhất;
2. Trời Vô nhiệt: Đã khéo điều phục, dứt trừ, tạp tu tĩnh lự các phẩm, thượng, trung, ý thích nhu hoà, lìa các nhiệt não; 3. Trời Thiện hiện: Tạp tu tĩnh lự đã đắc thượng phẩm, quả đức dễ tỏ; 4. Trời Thiện kiến: Tạp tu định, trừ chướng, phẩm cực vi tế, kiến cực trong sáng; 5. Trời Sắc cứu cánh: không còn có xứ, ở trong hữu sắc, có thể vượt qua, gọi là sắc cứu cánh.
"Các Đại Phạm thiên vương": tiếng Phạm gọi là Phạm ma, tiếng Hoa gọi là Tịch tĩnh, cũng gọi là nghĩa thanh tịnh, thanh khiết, tức bốn tĩnh lự đều được gọi là phạm. Chủ của Đệ tứ thiền, gọi là Đại phạm, nên kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm bảy mươi nói: Chủ thế giới Kham nhẫn là Đại Phạm thiên vương, tức giống với kinh Pháp Hoa nói: Chủ thế giới Ta bà là Phạm thiên vương. Nhưng các đại thiên giới thuộc đệ tứ Thiền, ba tĩnh lự sau đều có Phạm vương. Là tôn quý trong tự địa, cũng được gọi là "đại". Vì Phạm vương vô lượng, nên nói là các, nhiều. Kinh chỉ nói chung các Đại Phạm vương thuộc bốn tĩnh lự nơi Sắc giới. Các Đại Phạm vương đều đến hết.
"Cũng cùng với quyến thuộc, vô lượng thiên tử đều hội đủ": là giống như Dục giới đã đến, nên lại nói là "cũng". Vua đã đến thì thần dân quyến thuộc đều theo đủ. Số đã nhiều nên nói là "vô lượng". Hóa thân biến độ, nghĩa như thường nói.
Dưới đây là phần chín-Các chúng biến hóa nơi các cõi nghĩa đó như thế nào?
Kinh: Các thú biến hóa có vô lượng hữu tình
Giải thích: "Các thú biến hóa": Là sáu cõi chẳng phải là một, nên gọi là các. Thú là nơi chốn hướng đến, vô-phú vô-ký. Biến là chuyển đổi, hóa là hóa hiện.
Hỏi: Chúng biến hóa này, định tên cõi nào?
Đáp: Trong kinh không có nói riêng, chỉ gọi chung là sáu thú. Nhưng thần thông biến hóa như Luận Câu xá quyển hai mươi bảy nói: Có năm loại: 1. Tu đắc; 2. Sinh đắc; 3. Chú đắc; 4. Dược đắc; 5. Nghiệp đắc. Cõi trời thì có đủ cả năm loại, cõi người chỉ có bốn thứ, vì không có loại sinh đắc. Cõi quỉ cũng có bốn, không có loại tu đắc. Bàng sinh và địa ngục thì có sinh đắc và nghiệp đắc. Những người có thể dấy khởi thần thông đều đến được.
Hỏi: Nếu vậy, hai thú cõi người và trời như trên đã nói đủ. Tu-la và quỉ, súc như tiếp theo sẽ biện biệt riêng. Biến hóa thì những chúng đó là gì? Trong cõi địa ngục, làm sao biến hóa? Nếu có biến hóa thì có được nghe kinh không?
Đáp: Đây là quyền, đó là thật, cũng không trái nhau. Kinh Chánh Pháp Niệm nói: Địa ngục căn bản và xứ quyến thuộc, vì lực của nghiệp ác nên có vô số loại biến hóa. Luận Chánh lý, quyển ba mươi mốt nói: Địa ngục Cô độc, cũng có biến hóa, tuy thuần là cõi khổ, nhưng cũng được nghe kinh. Làm sao biết được? Vì như kinh Đại Bát-nhã quyển một nói: "Bấy giờ, đức Thế Tôn không rời khỏi chỗ ngồi mà nhập đẳng trì, sư tử du hí hiện lực thần thông, khiến tam thiên đại thiên thế giới này, có đủ sáu loại chấn động. Lúc đó, toàn bộ các cõi địa ngục, bàng sinh quỉ giới và các cõi khác đầy dẫy hầm hố nguy hiểm hiện có nơi thế giới này, tất cả hữu tình đều lìa khổ nạn, từ bỏ thân mạng ấy, được sinh trong cõi người và các cõi trời lục dục, đều nhớ được kiếp cũ, hoan hỷ tột cùng, cùng đến chỗ Phật, dùng tâm ân tịnh cung kính đảnh lễ nơi chân Phật". Dựa theo đó, thì sáu cõi thú đều đến dự hội. Nếu theo sự giải thích ấy, thì kinh nói "biến hóa" là chung cho hai điều: 1. Là do Như Lai trước khi thuyết giảng kinh, thần lực động địa, đại bi biến hóa thành thục hữu tình; 2. Là nghiệp ác của hữu tình nơi cõi khổ, nhờ oai thần của Phật mà nghiệp lực biến hóa, thoát khổ đắc lạc, đến dự hội nghe kinh.
Dưới đây là phần mười, nói về tám bộ chúng hộ pháp như A-tu-la v.v... nghĩa đó thế nào?
Kinh: A-tu-la v.v... cùng từng ấy quyến thuộc đều hội đủ.
Giải thích: "A-tu-la, v.v...": là một trong tám bộ chúng hộ pháp Thiên, Long, Dược-xoa, Kiện-đạt-phược,
Yết-lộ-đồ, Khẩn-nại-lạc, Mạc-hô-lạc-già. Vì tám bộ chúng này thường theo Phật. Gọi "A-tu-la" là sai, cách gọi mới là: A-tố-lạc: A: là phi; Tố lạc là thiên. Vì hay dối trá không có hạnh của chư thiên, cho nên gọi là phi thiên. Các luận Phật Địa, Du-già thì cho A-tu-la thuộc về cõi trời. Luận Tạp tâm thì cho thuộc cõi quỉ. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ thì nói A-tu-la thuộc về cõi quỉ, súc sinh. Kinh Gia đà thì cho là thuộc về cả ba cõi: quỉ, súc sanh và trời. A-tu-la La-hầu là con của sư tử, nên thuộc về cõi súc sinh. Kinh Thập Địa nói có năm loại: 1. Loại cực yếu: ở trong nhân gian nơi các hang hốc lớn thuộc chốn rừng sâu, chẳng phải là cung trời. Bên dưới hai vạn một ngàn do tuần của đại hải phía bắc núi Diệu cao, có cung La hầu, tiếng Hoa gọi là Chấp nhật. Tiếp dưới nữa có cung Dũng kiện, rồi lại có cung Hoa man, mỗi một cung cách nhau hai vạn một ngàn do tuần. Thấp nhất thì có cung Tỳ-ma-chất-đa-la cách, gọi mới là Phệma-chất-đát-lợi, Hoa dịch là Ỷ-la-tận. Cha vợ của trời đế thích gọi là Chi phụ, ở dưới biển lớn, có lúc lại xướng to: "Ta là A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa".
"Thiên thần": Là thân có hào quang, trú ở không cung.
"Long thần": kinh Chánh pháp niệm xứ nói: có hai loại: 1. Pháp hạnh: rồng là Nan đà v.v…; 2. Phi pháp hạnh: là sắc đen, như thường phân biệt.
"Thần Dược xoa": Tiếng Hoa gọi là Dũng kiện, còn gọi là Khinh tiệp. Bay trong không trung là thuộc Hư không bộ, đi trên đất là các La sát. Như kinh Khởi Thế nói có ba loại: 1. Ở trên đất; 2. Ở trong không; 3. Ở cõi trời thuộc Dục giới bảo vệ cửa thành. Nói "Dạ xoa" là sai. "Kiện-đạt-phược": tiếng Hoa gọi là Tầm hương, là
Thần nhạc của chư thiên. Ở trên đất, trong các động núi, khi chư thiên cần nhạc, thân liền có tướng hiện, bèn lên cõi trời. Nói "Càn-thát-bà" là sai.
"Yết-lộ-đồ": tiếng Hoa gọi là Diệu-sí. Diệu-sí là thần chim. Nói "Ca-lâu-la-kim-sí-điểu" là sai vì màu sắc của lông xen lẫn nhiều màu báu, chứ chẳng phải chỉ có màu vàng ròng.
Dưới đây là phần hai. Nói về chúng biến hóa, trong đó có ba phần: 1. Nói rõ về hiện pháp tòa; 2. Hiện hoa báu; 3. Hiện khắp các nước. Nơi phần một lại có hai phần:
- Tòa được hiện bày, nghĩa đó thế nào?
Kinh: Lại có biến hiện mười phương tịnh độ, hiện ra trăm ức tòa sư tử.
Giải thích: "Lại có biến hiện mười phương tịnh độ". Biến: là chuyển đổi, chuyển nhơ uế ẩn giấu, thị hiện ra sạch trong. Thể của độ (cõi) vốn có mà được biến chuyển gọi là Hiện. nghĩa hóa hiện, không mà bỗng dưng thành có. Tòa hoa vốn không có, nên gọi là hóa hiện. Người năng biến (chủ thể) chỉ là Phật, Bồ-tát. Cõi sở biến (đối tượng) là bốn trần tịnh diệu, rộng rãi trang nghiêm khắp mười phương. Tức là Luận Du-già quyển ba mươi bảy nói bốn loại biến: Thị hiện, chuyển biến việc làm tự tại và năng thí an lạc.
"Tòa Sư tử": Chỗ Phật ngồi thuyết giảng, gọi là tòa Sư tử. Dưới đây là phần hai:
- Hiện chủ thể thuyết pháp, nghĩa đó thế nào?
Kinh: Phật ngồi trên đó, rộng tuyên giảng pháp yếu. Giải thích: Đã hiện tòa pháp "Phật ngồi trên ấy, rộng tuyên giảng pháp yếu", tức nội dung pháp thuyết, chính là Bát-nhã.
Kinh: Trước mỗi một tòa, đều hiện một hoa. Trăm ức hoa ấy, trang nghiêm bằng nhiều báu.
Giải thích: "Trước mỗi một tòa": là tòa pháp được hiện do tịnh độ biến ra. Trên tòa có Phật, trước tòa hiện hoa. Số hoa đồng với số tòa pháp cũng là trăm ức.
"Chúng báu trang nghiêm": Nhiều báu trang nghiêm, thể tức là bốn đại. Trước là hiện ra tòa, sau là hiện ra hoa.
Kinh: Ở trên mỗi mỗi hoa, lại có vô lượng hóa Phật, vô lượng Bồ-tát, bốn chúng tám bộ thảy đều vô lượng.
Giải thích: "Ở trên mỗi mỗi hoa": trên mỗi mỗi cánh hoa đều có hóa Phật. Phật và các chúng đều vô lượng.
Kinh: Mỗi mỗi vị Phật trong đó đều tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: Hỏi: Những biến hiện đó là Phật Thích Ca hóa ra hay là các Phật khác hóa ra?
Đáp: Cả hai đều không sai. Điềm lành ứng hiện biểu thị về pháp thù thắng có thể cát tường. Lại biểu hiện cho thể của độ (cõi nước), tịnh và uế không hai. Lại biểu thì cho pháp được thuyết giảng, chơn và hóa không hai. Hoặc Đại Bồ-tát trang nghiêm đạo tràng, dẫn thâu khiến vui vẻ hướng nhập, cho nên hiện hóa.
Kinh: Lần lượt hiện bày khắp hằng hà sa các Phật quốc độ trong mười phương.
Giải thích: Tịnh độ và chư Phật hiện ra lần lượt chuyển khắp mười phương cõi Phật.
Kinh: Các đại chúng vân tập tới như vậy, đều đến lễ nơi chân Phật, lùi ra ngồi qua một bên.
Giải thích: Trước khi sắp thuyết giảng kinh thì phóng quang triệu tập, như trăng sáng mùa thu, làm mờ các ngôi sao, như mặt trời mùa hè, đoạt hết các màu sắc khác. Từ đây trở xuống là Tự phát khởi gồm hai:
1. Tướng lành trước khi nói kinh; 2. Hiện hoa triệu tập chúng.
Phần một gồm ba văn: 1. Hiện các tướng lành; 2. Đại chúng kinh nghi; 3. Trổi nhạc cúng dường. Trong phần hiện tướng lành lại có bốn tiết: 1. Như lai nhập định là:
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn, đầu năm tháng Giêng, ngày mồng tám, nhập Đại Tam-ma-địa vi diệu tịch tĩnh.
Giải thích: "Đầu năm tháng Giêng ngày mồng tám là thời điểm Phật diễn thuyết. Trung Hoa chia làm bốn thời (mùa), mỗi thời có ba tháng. Lịch đời Đường lập tháng Giêng (Chánh nguyệt) là tháng Dần. Các nước ở phương Tây (Ấn độ) có ba mùa, mỗi mùa có bốn tháng. Đầu mùa Đông bắt đầu tháng mười một, giống như xưa lập tháng Tý làm chánh. Nửa tháng tối trăng là chỉ bắt đầu, nên ngày hai mươi ba tức ngày thứ tám. Lại Kim Quang Minh quyển thứ chín lập làm bốn thời. Như Tây Vực ký quyển hai nói: Từ mười sáu tháng giêng đến rằm tháng tư là ba tháng mùa Xuân. Do đó ngày hai mươi ba tháng Giêng tức là ngày mồng (thứ) tám của tháng đầu năm.
Nhập Đại tịch tĩnh: nhập là chứng nhập. Đại tịch tĩnh tức là thắng định. Nếu theo Luận Phật Địa Ngài Long Quân giải thích thì đại định là một trong ba pháp của Phật.
Hỏi: Phật không có tán tâm, không lúc nào không định, có ghi trong kinh này nói nhập? Đáp: Phật không có tán tâm, nhưng để làm phép tắc của vị thầy nên hiển bày tuệ phải dựa vào định, thị hiện trước nhập vì định tuệ song tu không khuynh động, nên nhập định phóng quang theo đến thuyết pháp, tam nghiệp thị hiện dẫn dắt tức tam mật. Pháp thường của Như lai là tôn kính Bátnhã, nên sắp diễn thuyết phải thị hiện cung nghi tôn kính. Diệu tam-ma-địa: Chỉ một mình Phật chứng được, nên xưng là diệu Tam-am-địa, trung Hoa dịch là Đẳng trì. Thể lìa hôn trầm, trạo cử nên gọi là Đẳng. Chuyên chú một cảnh tức gọi là trì. Cũng gọi là Tam-ma-đề. Ở vị nhân thì Đẳng trì thông địa định tán, ở vị quả chỉ có địa định, chỉ là hữu tâm cùng chỉ vô lậu. Nếu nói Đẳng chí thì thông cả hữu, vô tâm. Nếu nói đẳng dẫn tức chỉ hữu tâm. Cả hai đều thông chỉ là định, lậu v.v… Nói Tam-ma-địa là giản lược hai loại sau.
Giải thích: "Các lỗ chân lông nơi thân": vì muốn thuyết giảng kinh, trước hết phải nhập định, nhằm làm kinh sợ các hàng phàm Thánh mà hiện điềm phóng quang, từ chân Phật cho đến đảnh đầu, lỗ chân lông khắp thân đều toả chiếu sáng.
"Chiếu khắp hằng sa Phật độ trong mười phương": có duyên thì hiện rõ, tức là đối tượng được soi chiếu.
Kinh: Lúc đó, vô lượng chư thiên nơi Dục giới, mưa vô số hoa diệu.
Giải thích: Sáu cõi trời thuộc Dục giới, vô lượng thiên chúng, đều mưa diệu hoa để cúng dường.
Kinh: Chư thiên nơi Sắc giới, cũng mưa Thiên hoa.
Giải thích: Thiên chúng nơi Sắc giới cũng mưa hoa diệu như chư Thiên Dục giới.
Kinh: Nhiều màu xen lẫn, rất đáng yêu thích.
Giải thích: Cả hai cõi đều mưa hoa, hoa có nhiều hình lạ kỳ, nhiều màu nhiều sắc xen kẽ, nên nói là xen lẫn, thích xem không chán nên nói là yêu thích.
Kinh: Khi ấy, vô Sắc giới mưa các thứ hương hoa, hương như Tu di, hoa như xa luân, như mây hạ xuống, che khắp đại chúng.
Giải thích: "Khi ấy, vô Sắc giới mưa các thứ hương hoa". Đó là nêu chung.
Nói về nghĩa Vô sắc giới, các tông phái có nhiều ý kiến bất đồng.
- Tông Nhất-thiết-hữu-bộ, Luận Câu-xá tụng nói: Vô sắc là không sắc, sắc khởi sau theo tâm
- Tông Kinh Bộ nói: Hai thứ sắc, tâm nương giữ lẫn nhau.
Cả hai Tông đều chỉ cho là bốn uẩn, không có khổ sở y riêng ở dục Sắc giới.
- Đại chúng Bộ nói: Đủ cả mười tám giới, nhưng có sắc thô mà sắc tế không phải không có sắc thô mà sắc tế không phải không có.
- Luận Chánh lý vừa xác nhận và phủ nhận đầy đủ.
- Kinh Trung Ấn nói: Như lai đến vô sắc giới, chúng sanh Vô sắc lễ lạy Thế tôn. Kinh bản nghiệp nói: Như lai thuyết pháp, chư Thiên Vô sắc đến vào trong hội: Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát người thấy mùi hương của cung điện Vô sắc giới. Luận Du-già quyển năm mươi bốn nói: Chư thiên sắc giới, Vô sắc giới biến thân vạn ức, cùng dựng đứng cả chân công. Do có những văn này… biết cõi Vô sắc kia không phải không có sắc.
Nếu vậy, thế nào gọi là Vô sắc giới? Đáp: Căn cứ bốn loài sắc khác nhau: Hai loại sắc của quả nghiệp quả thống nhất định là không có. Hai loại sắc của quả định, cảnh định thì chấp nhận là có. Cho nên nói Vô sắc giới có sắc không sắc đều không mâu thuẫn.
Câu "Hương như hoa Tu-di…" là nói hình trạng "Như vậy…" là trạng thái rơi xuống.
Kinh: Khắp thế giới Phật hiện đủ sáu loại chấn động. Bấy giờ, đại chúng tự hỏi: "Đức Thế Tôn Đại giác, trước đây đã vì chúng ta thuyết giảng vô số vô lượng Bát-nhã Ba-la-mật đa như Ma ha Bát-nhã Ba-la-mật đa, Kim cang Bát-nhã Ba-la-mật đa, Thiên vương vấn Bátnhã Ba-la-mật đa, Đại phẩm v.v.... Hôm nay, Như Lai phóng đại hào quang, như thế là để làm gì?
"Khắp thế giới Phật? Là như kinh Hoa nghiêm nói: Thế giới kham nhẫn có Phật hiệu Tỳ-lô-giá-na Như lai, tức đại thiên thế giới. Không chỉ từng ấy ánh sáng tức là "Chiếu khắp" động cũng ắt có đủ cả. Vì thế, Kinh đại Bát-nhã nói: Từ đại thiên thế giới này sáu loại chấn động lần lượt chuyển đến khắp hằng hà sa số thế giới chư Phật ở mười phương. Vì thần lực của Phật đạo thành sáu loại biến động. Vì kia làm chuẩn cho kinh này nên đây nói:
Khắp thế giới Phật".
Sáu loại chấn động tóm lược có ba nghĩa:
Một là Nhân động: Kinh Tăng Nhất A-hàm nói có tám nhân: 1. Do phong luân chuyển từ trên xuống dưới nên động; 2. Bồ-tát nhập thai, xuất gia; 3. Xuất gia thành Chánh giác (Phật); 4. Phật chuyển pháp luân; 5. Đức Phật nhận Niết-bàn; 6. Tỳ-kheo chứng đắc thần thông tâm tự tại; 7. Chư Thiên mạng chung, sinh lại nơi tốt đẹp; 8. Chúng sanh phước hết chuyển đổi lẫn nhau.
Lại Động có lớn nhỏ: động nhỏ như kinh Pháp Hoa nói: Mà thế giới này, sáu loại chấn động. Động lớn như văn thù nói kệ: tất cả cõi Chư Phật, tức thời chấn động lớn. Luận Trí độ quyển mười nói: Là Bồ-tát thì động cõi Diêm-phù-đề, bốn thiên hạ, trung thiên, đại thiên thế giới. Là Phật Thế tôn thì động vô lượng.
Hai là Tướng động: Như kinh Hoa Nghiêm nói: Đó là các tướng Chấn, Động, Dũng, Vận, Hống và kích. Bắt đầu nhỏ là chấn (rung) dần dần lớn là Động; chuyển trên xuống dưới và ngược lại là Dũng; chuyển qua lại tới lui là vận; tiếng kêu lớn là Hống; như trống rền vang là kích. Kinh Đại Bát-nhã nói: Động là dao động, Dũng là chìm nổi, Chấn là thanh rung rung, kích như đánh thành tiếng, Hống tức phát âm vang, Bạo tức tiếng thất kinh.
Sáu loại chấn động trên, mỗi thứ có ba hạng, hợp thành mười tám. Nghĩa là ví như động nhỏ, biến động các xứ, và khuynh động lớn khắp. Năm loại còn lại theo đây mà biết.
Lại kinh Đại Bát-nhã quyển đầu, kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi đều nói: Động vọt lên, Tây chìm xuống, tây vọt lên, Động chìm xuống, nam, bắc, chính giữa, bên cạnh cũng như vậy. Cho nên, sáu loại chấn động cũng có thể hiểu như đây.
Ba là Ý động: Như Luận Thập Địa quyển mười hai nói: Dựa theo bốn loại chúng sanh: 1. chúng sanh bất thiện, không nhận thức vô thường, buông tâm phóng đãng. Nhân đó đất động, nhằm cảnh tỉnh họ tu thiện; 2. Chúng sanh sinh thiên tin hiện báo cõi Trời, nên đất chuyển động ngã nghiêng khiến sinh tâm chán, bỏ mà cầu pháp; 3. Chúng sanh ngã mạn, thường khởi các loại ngã mạn cao như núi, nên đất động khiến cho biết lẽ vô thường đừng kiêu mạn nữa; 4. Chúng sanh hành chú thuật thiếu năng lực, đất động liền sinh cao ngạo, do đó đất chấn động mạnh khiến cho biết mình còn yếu kém.
Lại như Kinh Luận Thắng Tư Duy Phạm Thiên nói có bảy nguyên do làm đất chấn động: 1. Muốn cho các Ma sinh tâm hoảng sợ; 2. Muốn cho chúng sanh đương thời, tâm không phân tán; 3. Muốn cho người phóng dật sinh tâm giác ngộ; 4. Muốn cho chúng sanh nhớ nghĩ pháp tướng; 5. Muốn cho chúng sanh quán sát xứ, thuyết; 6. Muốn cho đảo điên sinh tâm hiểu rõ. Vì thế cho nên chấn động.
"Ma Ha" là Đại, nghĩa là Đại Bát-nhã. Kim cang Bát-nhã, tức là hội thứ chín. Thiên vương vấn Bát-nhã là hội thứ sáu. Đại phẩm là hội thứ hai, có một vạn tám ngàn tụng Ba-la-mật-đa.
Nghĩa là: trước đây thuyết về Bát-nhã đều có điềm lành tướng, nay thì sinh nghi; lại có tướng như thế là nhằm hiện bày sự gì?
Kinh: Lúc này, Vua Ba-tư-nặc chủ nước Thất-laphiệt, suy nghĩ như vầy: "Nay Phật hiện tướng hiếm có ấy, ắt sẽ mưa pháp xuống, khắp chốn đều lợi lạc".
Giải thích: "Thất la phiệt" là lược bớt, nêu đầy đủ phải là "Thất-la-phiệt-tất-để". Tiếng Hoa gọi là Phong đức.
1. Đủ tài sản châu báu.
2. Cảnh diệu dục.
3. Nhiều bậc đa văn.
4. Nhiều bậc giải thoát.
"Thất-la-phiệt" này là kinh đô của nước Kiều-tát-la ở Trung Ấn Độ. Theo sách Tây vực ký thì có hai Kiềutát-la, lược bớt nước ở phía nam mà nêu cả hai.
"Vua Ba-tư-nặc": Như kinh Ương-quật-ma-la nói: Ba-tư-nặc, Tiếng Hoa gọi là Hòa duyệt. Vua thấy điềm lành, mới nghĩ: Nay Phật hiện tướng hy hữu đó, tất sẽ thuyết giảng đại pháp, mưa đại pháp vũ. Các vua chúng ta làm thế nào để hộ quốc? Như Lai đại bi luôn làm lợi lạc khắp. Hưng khởi của cả bộ kinh là do đây vậy. Từ đây là phần ba. Hỏi các chúng hội.
Kinh: Liền hỏi các Ưu-bà-tắc Bảo Cái, vô Cấu Xứng... các đại Thanh văn: Xá-lợi-phất, Tu bồ-đề... Các Bồ-tát Ma-ha-tát: Di-lặc, Sư Tử Hống...: Như Lai đang hiện bày là tướng của điềm lành gì?
Giải thích: "Bảo Cái" là Trưởng giả Bảo Tích, cầm lọng tự che hoặc do phụng cúng cho Phật, nên gọi là Bảo cái.
"Vô Cấu Xứng" tức là Trưởng giả Tịnh Danh (Duy-ma Cật). "Xá-lợi-phất": Nói đủ thì phải là "Xá-lợi-phất đa-la". "Xá lợi" là tên của một loài chim. "Phất" là con trai. Mắt của mẹ Tôn giả như mắt của chim Thu lộ, hình tướng viên tịnh, âm thanh dễ nghe, nhân ở mẹ mà được gọi là Xá-lợi-phất. Tu-bồ-đề, Hoa dịch là không sanh. Hoặc gọi là Thiện Cát, Thiện Hiện.
"Di-lặc": Tiếng Hoa dịch là Từ, hay tu hạnh từ, lại cũng là họ. "Sư tử hống": tiếng Phạm là Tăng-già-na-na, Tiếng Hoa gọi là Sư-tử-hống.
Hỏi khắp những vị như trên.
Kinh: Thời các đại chúng, không ai có thể đáp được. Giải thích: "Không ai có thể đáp được" vì pháp quá sâu xa, không ai có thể biết được.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc... nhờ thần lực Phật, trổi âm nhạc khắp.
Giải thích: Như Lai trụ nơi định, không hợp với sự ồn ào. Vua Ba-tư-nặc và các hội chúng nhờ thần lực Phật mà trổi âm nhạc.
Dưới đây là phần hai-Chư thiên trổi nhạc.
Kinh: Chư thiên nơi Dục giới, đều tấu vô lượng âm nhạc cõi trời.
Giải thích: Âm nhạc của chư thiên, không cần gõ tấu cũng tự kêu vang. Nay nói về cõi dục, sắc trổi thiên nhạc.
Kinh: Âm thanh vang khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Giải thích: "Tam thiên đại thiên": như thường đã rõ.
Đoạn văn lớn thứ hai: Hiện hoa chiêu tập đại chúng, văn chia làm ba phần:
1. Phóng vô lượng quang.
2. Hiện vô số hoa.
3. Chiêu tập chúng phương khác.
Dưới đây là phần một-Phóng vô lượng quang.
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn lại phóng ra vô lượng A-tăng-kỳ hào quang, ánh sáng đủ màu sắc.
Giải thích: Phóng quang ở đoạn văn trước không nói về con số. Nay ở đây nói: "Lại phóng ra vô lượng Atăng-kỳ", là nói rõ nhiều màu sắc. Trước là lý, sau là sự, biểu thị cho hai trí.
Tiếp đến là phần hai-Hiện vô số hoa, văn chia làm hai: đây là phần một-Hiện vô số hoa.
Kinh: Trong mỗi mỗi hào quang, hiện ra hoa sen báu. Hoa có ngàn cánh đều màu vàng ròng.
Giải thích: "Trong mỗi mỗi hào quang": Hào quang phóng ra, số đã là vô lượng, nên hoa hiện ra trong hào quang cũng là vô lượng.
Dưới đây là phần hai-hóa Phật tuyên thuyết pháp yếu.
Kinh: Trên có hóa Phật, tuyên thuyết pháp yếu.
Giải thích: Văn đã rõ.
Kinh: Hào quang của Phật ấy trùm khắp hằng hà sa quốc độ chư Phật trong mười phương, có duyên thì thấy. Giải thích: "Có duyên thì thấy": Là hiện lực đại bi, chiếu khắp mười phương. Người nghiệp chướng nặng, không có duyên, tuy gần cũng không thấy. Người không có chướng ngại, duyên chín muồi, dù xa cũng đến, nên nói: Hằng hà sa, có duyên thì hiện.
Tiếp đến là phần hai-Kể danh hiệu các Bồ-tát-văn có năm đối:
1. Đối chiếu khắp không nhiễm.
Kinh: Trong cõi Phật địa phương đó, phương Đông là Bồ-tát Ma-ha-tát Phổ Quang, phương Đông nam Bồtát Ma-ha-tát Liên Hoa Thủ.
Giải thích: Mười vị Đại Bồ-tát này, vạn hạnh đều tu, dựa theo tên gọi mà làm rõ về hạnh thù thắng.
"Bồ-tát Đại Phổ Quang": là như hào quang chiếu khắp, không kể cao hay thấp, Bồ-tát cứu giúp làm lợi cho hữu tình, không kể oán hay là thân.
"Bồ-tát Liên Hoa Thủ": là nhiều hạnh như hoa sen không nhiễm trần cấu.
Dưới đây là phần hai-đối Hoan hỷ phá chọn.
Kinh: Phương Nam là Bồ-tát Ma-ha-tát Ly Ưu. Phương Tây nam là Bồ-tát Ma-ha-tát Quang Minh.
Giải thích: "Bồ-tát Ly Ưu": là thuyết giảng không phân biệt, tự và tha đều vô ưu, hoặc tùy văn, kiến đều vô ưu.
"Bồ-tát Quang minh": là trí, bi khởi lên đều có thể phá trừ tối tăm.
Dưới đây là phần ba-đối Chẳng trụ tối thắng.
Kinh: Phương Tây là Bồ-tát Ma-ha-tát hành Tuệ, phương Tây bắc là Bồ-tát Ma-ha-tát Bảo Thắng.
Giải thích: "Bồ-tát hành Tuệ": là trong hai lợi hạnh khởi khả năng hành bi tuệ, không chấp trụ.
"Bồ-tát Bảo Thắng": là hai thứ báu tài và pháp ban cho không bao giờ cạn.
Dưới dây là phần bốn: đối Thắng Thọ-Ly Trần.
Kinh: Phương Bắc là Bồ-tát Ma-ha-tát Thắng Thọ, phương Đông bắc là Bồ-tát Ma-ha-tát Ly Trần.
Giải thích: "Bồ-tát Thắng Thọ": là có thể đem đến sự an lạc cho chúng sanh thọ hành, niệm xả bình đẳng.
"Bồ-tát Ly Trần": là trí thường chiếu như, hành lìa trần nhiễm.
Dưới đây là phần năm-đối Thường hỷ-thanh tịnh
Kinh: Phương trên là Bồ-tát Ma-ha-tát Hỷ Thọ. Phương dưới là Bồ-tát Ma-ha-tát Liên Hoa Thắng.
Giải thích: Hai Bồ-tát thường đắc hỷ thọ và thanh tịnh như hoa sen.
Kế tiếp là phần ba-Nói rõ quyến thuộc của họ
Kinh: Đều cùng với vô lượng trăm ngàn câu chi Bồtát Ma-ha-tát, đều đến nơi này.
Giải thích: Mười phương Bồ-tát, mỗi phương đều có vô lượng trăm ngàn câu chi Bồ-tát đều vân tập đến đây.
Tiếp theo là phần bốn-Đều hiến hương hoa.
Kinh: Mang nhiều loại hương, rải nhiều loại hoa, tác vô lượng âm nhạc để cúng dường Như Lai.
Giải thích: Như văn đã rõ, dưới đây là phần kết làm rõ việc lui ra ngồi qua một bên.
Kinh: Đảnh lễ nơi chân Phật, im lặng lui ra ngồi về vị trí mình, chắp tay cung kính, nhất tâm quán Phật.
Giải thích: Đảnh lễ chắp tay, là thân nghiệp cung kính. Nhất tâm quán Phật, là ý nghiệp cung kính, im lặng lùi ngồi, chỉ mong đợi mưa pháp.
---------------------
Phần văn lớn thứ hai, từ phẩm thứ hai: Quán Như Lai trở đi có sáu phẩm, biện minh về Phần Chánh Tông của kinh. Ý nêu rõ hộ quốc là nội dung chính của kinh. Quốc có tịnh uế nên phân làm hai hộ: ba phẩm trước là nêu về nội hộ. Ba phẩm sau là nêu về ngoại hộ. Phẩm Quán Như Lai làm rõ về quả đức của chư Phật Bồ-tát.
Phẩm Bồ-tát hạnh nói nhân tu. Phẩm Nhị Đế là chỗ dựa của hai phẩm trước (Như lai, Bồ-tát hạnh) Ba phẩm sau là hộ trì quốc độ của Vua: Phẩm Hộ Quốc nêu rõ báo được. Phẩm Bất Tư Nghị nêu khả năng thù thắng của pháp. Phẩm Phụng trì sau cùng nêu rõ hai phẩm trước nó.
Lại Phẩm làm ba: Ba phẩm đầu là Nội hộ, một phẩm kế tiếp là Ngoại hộ, hai phẩm cuối là tổng kết; tổng nêu công đức của kinh, và nội dung phần trước.
Lại phân làm bốn: Hai phần đầu như trên (Nội, Ngoại), riêng phần tổng kết chia làm hai: 1. Hiển bày công đức của Kinh, chỉ rõ ý nghĩa không thể nghĩ bàn; 2. Tóm kết nêu đầy đủ hai phần Hộ trước.
Lại phân làm năm: 1. Hai phẩm đầu nói rõ sự hơn, kém của Nội, Ngoại hộ; 2. Phẩm kế nêu tổng kết dựa vào thông trước lẫn sau; 3. Phẩm kế là nói Ngoại hộ thỏa mãn mọi mong cầu vốn có; 4. Phẩm kế nêu nhân tung rải hoa, tiêu biểu nét đặc thù của kinh; 5. Phần kế tóm kết bốn phần trước. Nội, Ngoại nương, trì theo hạnh mười ba pháp sư, từ nhân đến quả, là báu vô thượng của mười sáu vua…
Lại phân làm sáu. Đầu tiên triển khai quả nhân riêng biệt, tức vì nói hợp làm một. Dựa vào hai để pháp định trong đó: Nội không phải không có Ngoại, Quả không phải không có Nhân. Mỗi thứ đầu căn cứ vào nghĩa trội để hiển bày, làm rõ Nội Ngoại bình đẳng. Thứ tự ba phần đầu là trước nêu rõ công đức của quả, khiến sinh vui thích mong cầu. Vui thích mong cầu ắt phải dựa vào nhân để tu thắng hạnh. Tu thắng hạnh bất luận nhận quả ắt phải có Pháp dựa vào. Lại trong vị quả, như, Trí bình đẳng, tu nhân tiến đến quả, hai lợi đều rõ; trụ Quả tu nhân đều dựa vào cảnh. Lại ngay ở Cảnh có một phần, có toàn vẹn là nơi cư trú vẹn toàn thù thắng. Phần đầu cư trú chỗ kim, vị kế tiếp phân biệt hơn kém thì cảnh sau đó mới rõ. Lại căn cứ ở Quả để luận bàn Nhân, tu Nhân tiến về Quả, tuy là hai nhưng cảnh chỉ là một. Vẫn Nhân Quả này, đều được tên "Hộ" thì quả chẳng đối Nhân, còn hộ cái gì? Cho nên, nói thứ tự ba phẩm Nội Hộ là như thế, nên biết.
Tiếp giải thích tên phẩm: Quán Như lai. Quán là năng quán, lấy Tuệ làm thể. Nghĩa là văn, tư tu đều không, gia hạnh, căn bản, hậu đắc… đều gọi là Quán. Lấy bốn uẩn tương ưng câu hữu, năm uẩn tùy ứng làm tánh. Như lai là sở quán, tức bản giác, chân thường tánh không sinh diệt, chẳng giác mê bổn, vọng thức luân hồi. Trái với bổn là vọng, trừ bỏ huyễn mộng, đều tịch lặng, như trở về bản lai, nên gọi là Như lai. Tuy đi mà không đi, đến mà không chỗ nào đến, đối với bất giác đi nên gọi là Lai. Lại nữa, thân ứng hóa, tâm đại bi cảm hóa mà đến, tùy căn cơ mà ứng hiện, chở Như mà đến (thừa Như nhi lai) cũng gọi là Như lai. Nếu nói quán "không", thì chỉ bàn về Pháp tánh, đây gồm cả người và pháp nên nói Quán Như lai.
Lại lập tên gọi Phẩm, có ba loại: 1. Theo lược. Trước nói rộng Bát-nhã sau nói quán Như lai, dùng lược để làm rõ rộng, nên gọi là Phẩm Quán Như lai; 2. Theo rộng, phẩm Bồ-tát hạnh, từ đầu đến cuối đều nói về hạnh Bồtát, nên gọi là phẩm Bồ-tát; 3. Theo tương đương cơ: Bốn phẩm sau. Dựa vào tên gọi trình bày nghĩa, để nêu lên tên gọi phẩm tức hai phẩm đầu và sau. Dựa theo rộng lập danh, loại nghĩa tùy thuộc theo, nội dung cũng chỉ nêu như vậy.
Giải thích "phẩm" và thứ số, như trước đã giải thích, nên biết.
Tiếp đến phân chia bố cục: Ba phẩm Nội hộ nói chung theo văn kinh phân làm ba đoạn: 1. Tổng nêu; 2. Trả lời; 3. Tóm kết.
Riêng phẩm Quán Như lai, để hiểu cũng chia làm ba phần: 1. Nêu ra hai Hộ; 2. vấn đáp; 3. Sự lợi ích. Phần một theo văn được phân làm năm: Phần một là
Kinh: Bấy giờ, đức Thế tôn Xuất Tam muội (xuất định), ngồi ở tòa Sư tử.
Giải thích: Hiển bày chánh niệm chánh tri, chẳng an trụ đạo: Phật Thế tôn sắp muốn diễn thuyết nên xuất Tam muội, chấn động mọi thức tình. Nói Tam muội là tiếng Phạm, đồng với Tam ma địa, đều được dịch là Đẳng trì. Xưa dịch là Thiên na. Hoặc nói Tư duy tu và công đức lâm đều là phiên dịch nghĩa. Tâm nhất cảnh tánh tức là Đẳng trì, là định trong biệt cảnh. Muốn diễn thuyết nên nói là xuất (khởi).
"Ngồi tòa Sư tử", Luận Trí Độ nói: Không phải con sư tử thật, hay sư tử bằng gỗ đá… Vì ví Phật như chúa Sư tử trong loài người, nên chỗ ngồi, nghỉ của Phật đều được gọi là tòa sư tử.
Lúc ấy, đại chúng thảy đều chí thành, Phật từ định xuất ra, bước lên tòa mà ngồi. Lại hiểu ngồi tức nghĩa tại vị, không phải di chuyển chỗ khác, cũng nói lên nghĩa chánh trụ, oai nghi không hề khuynh động nên nói là ngồi.
Như kinh Đại Bát-nhã nói: "Lúc ấy, Đức Thế tôn trên tòa sư tử tựa trải Ni-sư-đàn, ngồi kiết già phu, thân đoan nghiêm, chánh nguyện, niệm hiện tiền… như núi Diệu cao bốn báu quý, tỏa chiếu sáng các núi, đến tận chỗ xa…" Theo đây mà hiểu nghĩa ngồi sẽ rõ đầy đủ.
Phần hai là:
Kinh: Bảo đại chúng: Ta biết mười sáu các Quốc vương đều nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn đại từ, đều làm lợi lạc, các vua chúng mình, hộ quốc thế nào?
Giải thích: Bậc Chánh biến tri, khéo biết được tâm của người khác, biết các Quốc vương, thấy tướng mà khởi nguyện, ngưỡng mong mưa pháp, cho nên Phật nói: Ta biết các ông đều nghĩ như vầy: Đức Thế Tôn đại từ, đều làm lợi lạc khắp các vua chúng mình, làm thế nào để hộ quốc? Là hỏi về ngoại hộ.
Dưới đây là phần ba-đáp về nội hộ.
Kinh: Này thiện nam! Ta nay trước vì chư Bồ-tát Ma-ha-tát, thuyết giảng về việc hộ trì Phật quả, hộ trì hành thập địa.
Giải thích: Phật đại bi, bình đẳng cứu giúp, bảo hộ, nếu chỉ ngoại hộ thì lợi lạc không đều. Định hỏi ngoại hộ, lại đáp về nội hộ, vì lòng từ bi sâu xa, không hỏi mà thuyết. Lại nữa, nếu chỉ ngoại hộ, thì sự tướng tuy nghiêm nhưng bên trong không lắng trong. Lại nữa, ngoại nghiêm, nội tinh khiết thì tương ưng nhau. Lại ngoại nhân ở nội mới được không tai họa. Tam độc trong tâm không trừ thì tâm tại bên ngoài dấy khởi. Nhờ nội hộ, bên ngoài được hộ, cho nên nói trước lại nói nội ngoại là dựa trên hai tướng để nói, do ngộ, chưa ngộ, tu, không tu có sâu cạn, nên lý lẽ thứ tự phải có.
"Này thiện nam!" Là chỉ cho vua Ba-tư-nặc v.v...
"Ta nay..." là nói về người của đối tượng được hộ trì. "Hộ Phật quả": tức là phẩm này. "Hộ hành thập địa" tức là phẩm sau.
Chủ thể hộ và đối tượng được hộ: Chủ thể hộ là pháp Bát-nhã. Đối tượng được hộ thì theo kinh chia làm hai: phàm và Thánh, uế độ và tịnh độ. Tiếp theo là phần thứ tư: lệnh bảo lắng nghe.
Kinh: Các ông đều phải lắng nghe! Lắng nghe và khéo suy nghĩ.
Giải thích: Lắng là xét. Thâu giữ tai lắng nghe âm thanh phát sinh là văn tuệ, khéo suy xét là tư tuệ, nhớ nghĩ là tu tuệ. Suy xét câu kệ, tư duy nghĩa lý, như thuyết tu hành khiến lắng nghe. Lại nữa, lắng là khiến tâm tịch tĩnh, đối trị với tâm tán loạn, trạo động. Khéo tư duy là khiến tâm điều nhu, đối trị tư duy bất chánh, tà vọng kia. Niệm là khiến tâm nhớ rõ, đối trị tâm quên mất, điên đảo. Những điều được đối trị là chướng ngại để sinh ra thắng tuệ. nghĩa là, nếu có những tính đó thì không thể gắng nhận chịu được, như đồ đựng bị che đậy, bị rò rỉ, bị nhơ uế, dù được vị cam lồ, cũng mất, cũng chảy, không dùng được. Vì vậy đức Thế Tôn mới khuyên là hãy lắng nghe. Kệ trong Luận Trí Độ nói: Người nghe đoan nghiêm, mắt nhìn thẳng như khát được nước, nhất tâm thâu nhập từng lời từng nghĩa, vui mừng háo hức nghe pháp, tâm từ bi, hoan hỷ, người như thế, đáng được thuyết pháp. Tiếp là phần thứ năm: Đại chúng tán thán, kính ngưỡng. Văn phân làm ba. Dưới đây là phần một: Đại chúng tán thán: Lành thay!
Kinh: Khi ấy, đại chúng vua Ba-tư-nặc v.v… Nghe Phật nói như vậy, đều cùng tán thán; Lành thay! Lành thay!
Giải thích: Đầu tiên nghe được Phật nói vui mừng không xiết, nên đồng thời cùng nhất tâm chí thành kính ngưỡng ngợi khen. Bởi lòng ngợi khen, kính ngưỡng đến tột cùng nên nói hai lần "Lành thay! Lành thay". Lại nữa, nói lành thay đầu là ca ngợi đức tâm hóa độ. Lành thay sau là ca ngợi Phật khởi tâm Bi sâu sắc. Tam bảo không dứt đoạn thì không có bảy nạn. Thế nên nói hai lần "Lành thay"
Kinh: Liền rải vô lượng các hoa diệu báu, ở trong hư không biến thành lọng báu, che các đại chúng, thảy đều phủ khắp.
Giải thích: Đây là phần hai và ba. Ban đầu, mỗi người trung hoa, mọi tâm khát ngưỡng, sau biến thành lọng báu, tức một pháp mà đều thấm nhuần. Lại tự tuy nhiều nhưng chân lý chỉ một, hạnh tu đủ loại nhưng quả không khác. Lại nữa, lọng cùng với hoa chẳng phải nhiều cũng chẳng phải một, mà tánh và tướng chẳng phải khác cũng chẳng phải đồng. Đây nêu rõ tung hoa rải rác mà trụ thành lọng không rơi. Nói "thảy đều phủ khắp là không dư không sót hiển bày pháp thuyết không giảm không tăng tùy theo căn cơ. Phần nêu tổng quát hai hộ xong, tiếp là phần vấn đáp.
Kinh: Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc, liền từ tòa ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật, chấp tay quỳ xuống, bạch Phật: Thế Tôn! Bồ-tát Ma-ha-tát làm thế nào để hộ trì quả Phật? Làm thế nào hộ trì hành thập địa?
Giải thích: "Liền từ tòa ngồi đứng dậy": là khác với các chúng. "Đảnh lễ chân Phật": là lấy mình tôn quý đảnh lễ nơi chân Phật là khiêm hạ.
"Chắp tay quỳ xuống" là nghi lễ khi thỉnh hỏi. "Bạch Phật" là nói điều mình hỏi.
"Bồ-tát" là nêu người của chủ thể hành.
"Làm thế nào..." là hỏi về hạnh của đối tượng hành.
Hỏi: Bồ-tát ở ngôi vị nhân, còn có thể nói là hộ, quả Phật thì đã viên tròn, sao còn cần phải hộ?
Đáp: Quả từ nhân mà hiển bày, quả đức đã viên mãn, nhưng tính không lìa nhân, cho nên nói là hộ quả.
Hỏi: Như vậy, hộ quả tức là nhân thì sau còn có gì; bởi nhân quả là một sao cần phần hai? Đáp: Nội trong phẩm này là dựa quả bàn nhận, trong phẩm sau… là theo nhân tiến về quả sự tướng nhân quả riêng biệt nên phân hai, lý không khác nên đều nói "hộ"
Kinh: Phật bảo vua Ba-tư-nặc: Hộ quả Phật là chư Bồ-tát Ma-ha-tát nên trụ như vậy.
Giải thích: "Nên như vậy mà trụ" là trụ nơi tâm bi trí.
Theo ngài vô Trước, luận giải thích kinh Kim cang; "làm sao trụ" là dục nguyện. Dục (muốn) là chánh cầu. Nguyện là vì điều mong cầu cố khởi tâm tư niệm. Mới bắt đầu phát tâm để nhập vào các pháp thiện thì dục (muốn) làm căn bản. Luận gọi đó là chánh cầu, hoặc mong cầu chân chánh, dùng dục (muốn) làm đầu mới dấy khởi nguyện. Nguyện theo bách pháp Luận, thì không có "thể tính" riêng khác. Theo luận của ngài vô Trước thì tư, niệm làm thể. Theo Luận Trang Nghiêm thì tư dục làm Thể. Theo luận Duy thức thì ba pháp: tín, dục, thắng giải làm thể. Tổng cả ba luận văn thì có năm pháp làm thể. nghĩa là: tư, niệm, dục, tín, thắng giải. Dùng dục nguyện kia để giải thích trụ này.
Kinh: Giáo hóa tất cả: Noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh.
Giải thích: Chánh nói về tu hành, theo tâm trụ trên, tư nguyện rộng lớn về hạnh lợi tha.
"Giáo hóa" là tùy bệnh cho thuốc. Bồ-tát lợi vật là cơ hội để mình tu hành thương chúng sinh cần hóa độ. Tuy rộng nhiều trong ba cõi, nhưng hàm thức, chỉ là bốn loài. Luận Du-già nói: năm uẩn sơ khởi, gọi đó là sinh. Như chim sẻ v.v... từ trứng mà ra, gọi là noãn sinh. Như bò, ngựa v.v... từ thai tạng mà ra, gọi là thai sinh. Như con ngài (bướm) bay từ khí ẩm ướt sinh ra, gọi là thấp sinh. Như chư thiên, các căn bỗng đủ, không mà hóa có, gọi là hóa sinh.
Luận Câu-xá nói: tâm đảo hướng đến cảnh dục. Thấp hóa sinh thì bị nhiễm chỗ hương thơm. Noãn thai sinh ở vị trung hữu, do nghiệp lực đã tạo, khởi tâm điên đảo, đuổi theo cảnh dục. Tuy ở xứ xa có thể thấy được cha mẹ, ở vị kết sinh, là nam hay nữ, khởi tâm yêu giận, tùy một thứ hiện tiền, trái phải hướng hông tùy yêu thích mà kết hợp, liền sinh ra hữu thân, dần dần thêm lớn. Thấp sinh thì nhiễm hương, nghĩa là ở xa ngửi biết hơi hương thơm ở xứ sinh, liền sinh ái nhiễm, nghiệp có hơn kém, hương có hôi, thơm.
Hóa sinh nhiễm xứ, ở xa quán thấy chỗ sẽ sinh ra theo nghiệp tội phước, mà xứ có khổ hay vui, cho nên nói: Ba cõi, nhân ở ái, thọ mà sinh. Hình dáng sinh ra, phẩm loại trung hữu như thường phân biệt.
Lại nữa, luận Du-già nói: Nội tâm tư nghiệp, làm thành nhân, vỏ trứng, thai tạng, ẩm ướt bên ngoài làm duyên. Noãn sinh thì có đủ bốn. Thai sinh thì ba. Thấp sinh thì hai. hóa sinh chỉ một, đó là tư nghiệp. Nhờ duyên nhiều ít, xét về hơn kém, ít duyên là trên. Người và bàng sinh, đều có đủ bốn. Quỷ thì chung cả thai sinh và hóa sinh. Cõi trời và địa ngục thì chỉ là hóa sinh. Trong Dục, Sắc giới thì thân đủ cả năm uẩn. Nếu vô Sắc giới thì bốn uẩn thành thân. Ở hữu Sắc giới thì thân có lớn có nhỏ, bỗng nhiên hoặc dần dần sinh diệt, nghĩa như thường nói. Bồ-tát tuy nguyện hóa độ Tứ sanh, nhưng lý thật ra tùy thuận cơ duyên được hóa độ là xứ nạn hay không nạn, mà đợi thời thành thục v.v… như Luận của ngài vô Trước nói.
Hỏi: Vì cớ gì trong kinh không nói Giới, Thú mà nói tứ sanh? vô giới chung cả phi tình có thú không có trung hữu. Lại như ngoại đạo Ni-kiền-tử, chấp cỏ cây sinh…. Do đó, kinh này nói Tứ sinh.
Kinh: Không quán sắc tướng, không quán sắc như, thọ, tưởng, hành, thức, ngã, nhân, tri, kiến, thường, lạc, tịnh đảo.
Giải thích: Nói rõ về chỗ đối trị. "Không quán sắc tướng, không quán sắc như". Đó là nêu chung. Ở trong năm uẩn nêu sắc làm đầu. Sắc: nghĩa là chất ngại, biến ngại làm tính. Như là chơn như, vô ngại làm tính. Khởi tâm phân biệt thì thấy có sắc và như. Khiến tâm phân biệt đó trừ dứt. Nếu không phân biệt thì tương ưng với thắng nghĩa. một chút thiện nhỏ làm phát tích đến Phật. nghĩa không phân biệt này bao trùm cả lời văn sau.
"Thọ, tưởng, hành, thức": Thọ là lãnh nhận khổ, lạc, xả thọ. Tưởng là khả năng giữ lấy các hình ảnh oán thân. Hành là tạo tác thiện nhiễm, vì các hành cũng trôi chảy, dời đổi. Thức là liễu biệt, tức là các thức như nhãn v.v… Tức là: đối với bốn uẩn đều lìa phân biệt. Tính và tướng bình đẳng, cảnh và trí đều như, để đối trị Y tha.
"Ngã nhân, tri kiến, thường, lạc, tịnh đảo": là dựa vào uẩn mà vọng chấp. Trước là ngã, sau là pháp, đều có bốn đảo. Ngã là chủ tể. Chỉ có định Tuệ không phân biệt mới có thể đối trị được hai đảo ngã và pháp.
Kinh: Bốn nhiếp sáu độ, hai đế bốn đế, Lực, vô úy v.v… tất cả các hành.
Giải thích: Trên là cảnh của đối tượng được đối trị, khởi tâm thành điên đảo. Đây là hành của chủ thể đối trị, động niệm thành bệnh.
Kinh: Cho đến Bồ-tát, Như Lai cũng lại như vậy, là không quán tướng, là không quán như.
Giải thích: Không chỉ ở hành, khiến tâm chẳng chấp trụ, mà dù quán Phật, Bồ-tát cũng khiến tâm chẳng chấp trụ. Nếu là tâm phân biệt, thấy tướng thấy như, đó tức là đối tượng được đối trị, khiến cho không phân biệt, cho dù Phật, Bồ-tát thù thắng không có gì bằng. Ở phần vị không phân biệt khởi tâm phân biệt, tức khiến cho đối trị trụ nơi vô tướng. Nếu vậy thì phải lìa tướng cầu sao? Đó cũng không phải. Ngay ở tướng mà quán vô tướng, tức vô tướng chẳng phải cho là ngoài tướng còn cầu thêm một cái vô tướng nào khác. Nếu còn cầu thêm một thứ nào khác, tức đó là bệnh. Nhưng Phật, Bồ-tát là tụ công đức thù thắng, nếu xưng niệm thì được diệt trừ vô số tội chướng. Đối với tâm thắng nghĩa mà bảo là đừng trụ, chẳng phải là sự tướng của Thế đế, bài bác là không có, nếu khởi tâm đó thành ra là đại tà kiến, chẳng hợp ý kinh, nói về quán vô tướng.
Hỏi: Trước nói là Bồ-tát Ma-ha-tát phải trụ như vậy. Ở đây lại nói là đến Bồ-tát cũng không quán tướng như, thành ra chủ thể trụ tức lại là đối tượng được quán hay sao?
Đáp: Giả sử như vậy thì cũng không sai. nghĩa là: khiến Bồ-tát vô tướng hiện tiền, vì sở tu hạnh thù thắng đều là vô tướng. Giả như người đối với hạnh thù thắng cũng không khởi tâm, chính là lìa tự và tha mà trú nơi vô tướng. Lại hiểu "nên trú như vậy" là nói trụ tâm. "Giáo hóa bốn sinh" là nói về tu hành. Từ "Không quán...." đến hết đoạn văn đó, là nói về hàng phục.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì mà không quán tướng như? Dưới đây là phần giải thích. Văn chia làm hai phần:
1. Giải thích các pháp là không
Kinh: Vì các pháp tính, tức là chơn thật, không đến không đi, vô sinh vô diệt, đồng chơn tế, đẳng pháp tính, không hai, vô biệt, giống như hư không.
Giải thích:
"Các pháp" tức là năm uẩn trên, pháp tính vắng lặng tức là chơn thật.
"Không đến không đi, vô sinh vô diệt" là giải thích về bốn đảo của pháp. Theo uẩn mà vọng chấp cho là thường, lạc v.v... tâm bị các thứ kia huân tập làm sóng thức trôi động mà có đến có đi, có sinh có diệt. Nếu hiểu rõ thể của những đảo vọng kia tức là không, vốn không đến đi, không sinh diệt.
"Đồng chơn tế, đẳng pháp tính": là giải thích về các chánh hạnh, bốn nhiếp sáu độ, vạn hạnh mình tu, đều là pháp giới tịnh, phương tiện diệu dụng, dụng không lìa thể, tương ưng với lý thì mỗi một hạnh đều đồng chơn tế, ngang với pháp tính.
"Không hai không khác, giống như hư không": là giải thích về các Bồ-tát tuy tánh các pháp xưa nay là thường trụ nhưng không nói rõ ra thì không có gì dùng để chứng tu. Vì vậy mà Phật, Bồ-tát xuất hiện ở đời là để khai thị rộng rãi. Người tu hành cần phải hiểu rõ, chủ thể thuyết và đối tượng được thuyết, pháp giới một tướng, phàm Thánh không hai, tự tha không khác, giác tính thường trụ, giống như hư không. Đối với Phật, Bồtát, nên quán như vậy. Lại giải: các pháp là năm uẩn, tính chúng chơn thật, bị vọng huân tập mà có đến có đi, có sinh có diệt, nhưng bản tính vắng lặng, không đến không đi, không sinh không diệt.
"Đồng chơn tính, đẳng pháp tính": là uẩn và chơn tính, là sự và lý nương dựa giữ nhau, như sóng nương vào nước, nên đồng chơn tế. Lý không lìa sự, đều như pháp tính. Các pháp với tính là không hai không khác, hiểu pháp tức tính, giống như hư không.
Lại giải: Pháp tính thường trụ, nên không có đến đi. Pháp tính không biến đổi, nên không có sinh diệt. Do người tu hành nhận rõ tính pháp rỗng không thì tâm. Tu tập hạnh thù thắng là tâm đồng chơn tế. Hành cùng pháp tính, sự nhân và quả khác nhau nhưng lý của đối tượng quán thì giống nhau, nên bảo là không hai. Chủ thể quán không khác, nên bảo là không khác. Lâu ngày không gián đoạn, chướng hết, quả tròn, giống như hư không, động mà thường tịch là nói rõ về quả vị.
Dưới đây là giải thích về ngã không.
Kinh: Uẩn xứ giới tướng, không có ngã và ngã sở.
Giải thích: Trước khi nói về ngã không, nêu pháp của đối tượng được nương dựa nói rõ bày chủ thể nương dựa là không.
Nghĩa của các uẩn là gì? Câu xá Tụng nói: chủng tộc tụ sinh môn. Là nghĩa uẩn xứ giới. Tụ là nghĩa của uẩn, tức là năm uẩn. Sắc tụ, tâm tụ, nên gọi là uẩn. Uẩn là hữu vi chẳng phải vô vi. Sinh môn nghĩa của xứ tức là mười hai xứ. Sáu căn, sáu cảnh là tâm và tâm sở, môn là xứ của sinh trưởng. Do sáu thức thân, nương theo căn mà giữ lấy cảnh, gọi là sinh môn. nghĩa của chủng tộc, giới tức là mười tám giới. Vì nhân đồng loại, mỗi thứ đều sinh ra quả đẳng lưu của tự loại.
Vì sao mà đức Thế Tôn thuyết uẩn xứ giới? Như tụng kia nói: "Ngu căn ưa thích ba, nên thuyết uẩn xứ giới". Ngu có ba: 1. Hữu tình chấp ngã một, thường, ngu tâm sở là ngã nên vì họ thuyết năm uẩn. Ba trong năm uẩn là tâm sở; 2. Hữu tình ngu chấp sắc là ngã, nên vi họ thuyết mười hai xứ. Mười trong mười hai xứ là sắc; 3. Hữu tình ngu sắc tâm là ngã, nên vì thuyết mười tám giới, trong mười tám giới lìa sắc tâm căn thượng trung hạ theo thứ tự thích nói lược vừa, rộng. Cho nên Phật thuyết Uẩn, Xứ, giới.
"Không có ngã và ngã sở": Ngã tức là ngã nhân tri kiến nêu trên. Ngã sở: tức là những vật dụng nuôi sống ngã. Uẩn, xứ, giới đó, từ nhân duyên khởi, thể của chúng không có, huống nữa là Ngã và Ngã sở, từ kế chấp sinh mà thể lại là có sao? Cho nên đều không. Dưới đây là phần bốn. Kết về tu Bát-nhã.
Kinh: Đó là Bồ-tát Ma-ha-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: Nếu có thể trụ ở tâm bi trí như trên, địa thượng, địa tiền, tu các hạnh thù thắng mà tâm không chấp trước nơi tính tướng, tất sẽ đắc quả viên mãn. Đó là chơn tu hành đến bờ kia.
Cả đoạn văn của kinh ở trên là lược nêu về Tông chỉ, đức Thế Tôn nói chung về ý của cả bộ kinh, đoạn văn sau là nói về chi tiết, lý và sự tuy có hơi khác, nhưng xét cho cùng lý thì cũng chẳng có gì khác nhau.
Lại nữa, không chỉ là một bộ kinh, mà cả giáo pháp Đại thừa cũng đều là mở rộng. Cùng một lý mà quán chung cả trụ tu, đoạn chướng.
Các đoạn văn sau, trước là nói lược, sau là mở rộng. Tiếp theo là đoạn văn lớn thứ hai, nói về hỏi đáp riêng. Văn chia làm ba phần: 1. Hỏi đáp riêng; 2. Hỏi đáp chung; 3. Kết về hộ trì quả.
Phần một: Hỏi đáp riêng, văn chia làm ba: 1. Thật tướng; 2. Quán chiếu; 3. Văn tự.
Phần một: Nêu rõ về Thật tướng, văn chia làm 2: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi-nghĩa đó là gì?
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Nếu tính của Bồ-tát và chúng sinh là không hai không khác, thì Bồ-tát dùng tướng gì để giáo hóa chúng sinh?
Giải thích: Ý hỏi là: Do các hữu tình mê mờ không có mắt tuệ, mong Bồ-tát từ bi lợi sinh. Hoặc Bồ-tát và chúng sanh cùng một pháp tính, pháp tính bình đẳng, tức không hai khác. Nếu không hai khác thì Bồ-tát dùng pháp gì để giáo hóa chúng sanh?
Sau đây là phần hai-Như Lai chánh đáp. Văn chia làm hai phần:
1. Thắng nghĩa không; 2. Thế tục có.
Phần một có ba: 1. Pháp tính; 2. Nguyên do; 3. Giải thích các pháp không. Trong phần pháp tính, văn lại chia làm hai. Dưới đây là phần một, nêu chung về pháp đảo.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, thường, lạc, ngã, tịnh.
Giải thích: Đầu tiên là nêu năm uẩn, nêu chung về hữu vi, sau là liệt kê bốn đảo, nêu chung về ngã pháp.
Trước nêu hai thứ đó là để nói rõ pháp không.
Tiếp đến là phần hai-Chánh đáp về chẳng trụ.
Kinh: Pháp tính chẳng trụ sắc, chẳng trụ phi sắc. Thọ, tưởng, hành thức, thường lạc ngã tịnh, cũng chẳng trụ tịnh, chẳng trụ phi tịnh.
Giải thích: "Pháp tính chẳng trụ sắc, chẳng trụ phi sắc": Sắc là sắc uẩn, những thứ ngoài sắc uẩn ra đều gọi là phi sắc.
Trụ và chẳng trụ là dựa theo sự đối đãi mà lập nên, như vì thấy trụ mà nói là chẳng trụ. Pháp tính trong đó, lìa lời nói, tuyệt suy nghĩ, tịch nhiên nhất tướng chỉ dùng trí chứng, chẳng lẽ giống với sự đối đãi trụ và chẳng trụ hay sao?
"Thọ tưởng hành thức, thường lạc ngã tịnh cũng chẳng trụ tịnh, chẳng trụ phi tịnh": nghĩa giống như trên, nên nói là "cũng". Như kinh Niết-bàn nêu: Vì tất cả pháp, bản tính tự không làm nhân, nên Bồ-tát tu không mà thấy "không". Nếu tất cả pháp, bản tính tự không thì đâu cần Bồ-tát tu "không" thấy "không". Nếu tất cả pháp bản tính tự "không", thì Bồ-tát tu không sao có thể thấy "không". Phật nói: Tuy tất cả pháp bản tính là không, cũng nhân ở Bồ-tát tu không mới thấy "không". Nói bản tính không là cảnh của đối tượng chứng là không. Tu "không" thấy
"không" là chủ thể chứng trí không. Vì chủ thể và đối tượng chứng đều đã là không, cho nên chủ thể hóa và đối tượng hóa đều chẳng trụ.
Tiếp đến là phần hai-Trình ra nguyên do của nó.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Pháp tính phi chẳng phải trụ chẳng phải chẳng trụ. Vì sao?
Dưới đây là Phần ba-Giải thích các pháp không
Kinh: Vì tính của các pháp thảy đều đã là không
Giải thích: Vì pháp tính không, mà không có trụ hay là chẳng trụ, để nói tính pháp Bồ-tát tương ưng hóa độ mà không trụ, giống với pháp tính.
Tiếp theo là phần hai-Nói về Thế đế "có". Văn gồm ba phần:
1. Nêu chung về Thế đế; 2. Nói riêng về các hữu; 3. Tổng kết chẳng phải thật.
Tiếp theo là phần một-Nêu chung về Thế đế Kinh: Vì do Thế đế. Vì do ba giả.
Giải thích: Thắng nghĩa đế nêu trên là nói về các pháp là không. Đây là dựa theo Thế tục đế mà nói về chư pháp là có. Do các tính và tướng, thể không lìa nhau, như đoạn, chứng, tu. Do thuộc thế gian là có thể hủy hoại, gọi chung là tất cả pháp hữu lậu, hữu vi. Do ba giả là Pháp, thọ và danh giả như đã giải thích ở trên đều gọi là Thế đệ.
Sau đây là phần hai-Nói riêng về các hữu. Văn chia làm ba. Đây là phần một-Nói về Hữu của ba cõi.
Kinh: Tất cả pháp uẩn xứ giới của hữu tình, tạo phúc phi phúc, các hành chẳng động, nhân quả đều có.
Giải thích: Đây là nói về nhân quả của các hữu tình trong ba cõi. "Tất cả hữu tình": Là lược bỏ phi tình.
"Pháp uẩn xứ giới": là đối tượng nương dựa của nghiệp.
"Tạo phúc phi phúc, các hành chẳng động": Như kinh Đại Bát-nhã nói: 1. Nghiệp phúc; 2. Nghiệp phi phúc; 3. Nghiệp chẳng động. Nghiệp thiện nơi Dục giới, gọi là nghiệp phúc, có thể chiêu cảm các quả đáng yêu thích ở cõi trời, người. Nghiệp bất thiện nơi cõi dục gọi là nghiệp phi phúc, tổn não hữu tình, chiêu cảm ba cõi ác, chẳng phải là quả đáng yêu thích. Nghiệp nơi cõi sắc và vô sắc gọi là nghiệp chẳng động, có thể chiêu cảm quả chẳng động ở hai cõi ấy.
Tiếp sau là phần hai-Nói về hữu của ba thừa.
Hỏi: Nếu vậy vì sao Luận câu xá nói: Như Thế Tôn nói sơ tĩnh lự có tầm có động, tĩnh lự thứ hai có hỷ thọ động, tĩnh lự thứ ba có lạc thọ động, như vậy gọi là chẳng động? Đáp như tụng Luận Câu-xá nói: Căn cứ ở nghiệp quả xứ sở của tự địa mà nói. Tuy ba tĩnh lự dưới có tai họa động, nhưng căn cứ ở nghiệp quả xứ ngôn mà nói chẳng động. Như nghiệp Sơ thiền không chấp nhân chuyển đến xứ Nhị thiền lãnh thọ. Xứ của nghiệp quả cố định quả cố định nên lập tên gọi chẳng động; không giống nghiệp của chưa thiên và cõi Dục là căn cứ riêng khiến ở lực chuyển khiến ở nơi khác trong cõi người… thọ nhân. Do đó gọi là nghiệp động.
Tiếp sau là phần hai: Nói về hữu của ba thừa.
Kinh: Hiền Thánh ba thừa, các hành đã tu, cho đến quả Phật, đều gọi là có.
Giải thích: "Các hành Thánh Hiền của ba thừa đã tu" là do nhờ Bát-nhã dẫn khởi thâu tóm theo căn, tùy tự chứng tu, của mỗi loại mà có ba hạng khác nhau.
"Ba" là thượng, trung, hạ căn. "Thừa" là giáo lý hành quả, tức là đối tượng được vận hành. "Hiền" nghĩa là hòa thiện tức vị gia hạnh, tư lương. "Thánh" là các tập thông đạt, tu tập cứu cánh. "Các hành đã tu" là tu hành theo ba thừa trên.
1. Thanh văn thừa: như Kinh Hoa Nghiêm nói: Thượng phẩm thập thiện, tu hạnh tự lợi, trí tuệ hạn hẹp, sợ ba cõi, thiếu đại bi, nghe âm thanh từ người khác mà được hiểu rõ gọi là Thanh văn thừa. Theo tông Hữu bộ thì có đủ bảy tiền phương tiện, như đã giải thích ở trên.
2. Duyên giác thừa: Như Kinh Hoa Nghiêm nói: Thượng phẩm thập thiện, tự lợi thanh tịnh, không nhờ người khác dạy, tự mình giác ngộ, phương tiện đại bi không đầy đủ, tỏ ngộ sâu xa pháp duyên sinh, gọi là Duyên giác thừa. Như luận Du-già quyển ba mươi bốn, phần địa Độc giác nói có năm loại: 1. chủng tính. 2. Đạo. 3. Tập. 4. Trụ. 5. Hạnh.
- "Chủng tính" có ba loại: 1. Trần cấu mỏng: lìa xa chỗ ồn động, thâm tâm thích ở chỗ tịch tĩnh; 2. Thiếu tâm bi: tâm không thích thuyết pháp lợi người, ít thích vướng bận, tịch tĩnh mà trụ; 3. Căn tính bậc trung: là loại thực hành từ từ, thâm tâm mong cầu, không thầy, không kẻ đối địch mà chứng Bồ-đề.
- "Đạo" cũng có ba loại: 1. Đã trăm kiếp gặp Phật, chính mình thừa sự, thành tựu tương tục, chuyên tâm cầu chứng Bồ-đề Độc giác. Với uẩn, xứ, giới, duyên khởi, xứ phi xứ và đế, sáu thứ này, khéo léo siêng tu tập, ở đời vị lai mau chứng đắc Bồ-đề Độc giác, gọi là Lân giác dụ; 2. Có một loại, gặp Phật xuất thế, thân cận thiện tri thức, nghe hiểu chánh pháp, tác ý như lý, chưa từng tu tập thuận phần quyết trạch, các thiện căn noãn... tu các loại như vậy thiện xảo, ở đời vị lai, chứng đạt Bồ-đề, đắc quả Sa môn; 3. Có một loại: gặp Phật xuất thế, thân cận thiện tri thức, được nghe chánh pháp, tác ý như lý, chứng pháp hiện quán, đắc quả Sa môn, nhưng không có lực có thể đạt đến cứu cánh là quả A-la-hán.... thiếu Hiền Thánh đại thừa đến phần sau sẽ biện biệt.
Kinh: 62 kiến cũng gọi là hữu.
Giải thích: Không chỉ là ba cõi, và trong ba thừa nơi thế tục đế, do y tha nên có mà ngoại đạo kiến nhiễm, vọng chấp là hữu. Sáu mươi kiến, theo kính Hiền kiếp nói: Chấp năm uẩn là Ngã, Ngã sở. Như nói sắc là ngã ngã có sắc, sắc thuộc ngã, ngã trụ trong sắc. Câu đầu chấp ngã, ba câu sau chấp ngã sở, bốn uẩn còn lại cũng chấp như vậy, thành hai mươi kiến. Phối với ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai thành sáu mươi, cộng với đoạn kiến, thường kiến thành sáu mươi hai kiến.
Kinh: Đại vương! Nếu chấp trước nơi danh tướng, phân biệt các pháp, sáu thứ, bốn sanh, hành quả tam thừa, tức là không thấy thật tính của các pháp.
Giải thích: "Nếu chấp trước danh tướng, phân biệt các pháp": Đây là nói rõ hư vọng điên đảo chấp tướng mê chơn, là ba pháp trước trong năm pháp: tướng, danh, phân biệt, chánh trí, chơn như.
"Sáu thú, bốn sanh của hành quả ba thừa" như giải thích ở trên. "Tức là không thấy thật tính của các pháp".
Nếu chấp trước danh, tướng, phân biệt các pháp, cho đến hành quả, chấp là thật có, thì không thể thấy thật tính các pháp, để làm rõ người không còn chấp mới thấy thật tính. Phẩm Nhị đế sau, nhân ở đây mà hưng khởi.
Biện minh về quán chiếu Bát-nhã.
Từ đây là phần nói về: Quán chiếu Bát-nhã. Văn chia làm hai phần.
Đây là phần thứ nhất: Vua Ba-tư-nặc hỏi:
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: "Thật tính của các pháp, thanh tịnh bình đẳng, chẳng phải hữu phi vô, trí làm sao chiếu? Giải thích: Nêu pháp tính ở phần trước để hỏi về trí. "Thật tính của các pháp" tức là tính của các pháp. "Thanh tịnh" là chẳng bị nhiễm trần.
"Bình đẳng" là không có cao, thấp.
"Chẳng phải hữu phi vô" là nêu "như" để hỏi về trí.
Pháp nếu là hữu thì lường xét về hữu mà biết. Pháp nếu là vô thì lường xét về vô mà hiểu. Đã nói là chẳng phải hữu phi vô thì làm sao trí chiếu (lường xét)?
Tiếp đến là phần hai: Như Lai chánh đáp, trong đó chia làm ba:
1. Các pháp là không; 2. Các pháp là giả có; 3. Thứ lớp của Thánh trí. Nơi phần một, văn phần làm hai: 1. cảnh chẳng phải hữu, phi vô; 2. Trí chiếu rõ là không. Phần cảnh này văn có hai phần: 1. Tự tính pháp là không; 2. Dùng sinh diệt nêu rõ về không. Trong phần một, Tự tính pháp không, văn lại có ba phần.
Đây là phần một-Đáp trí hữu không.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Trí chiếu thật tính, chẳng phải hữu phi vô.
Giải thích: Trí là năng chiếu (chủ thể) lường xét (xứng) cảnh mà quân; cảnh chẳng phải hữu phi vô vi thì trí cũng chẳng phải hữu phi vô. Pháp sư Duệ nói: Vạn vật phi vô, tông là vô tướng. Hư tông chẳng phải hữu, chiếu là vô tâm. Cho nên Thánh nhân dùng chơn trí vô tâm chiếu hư tông vô tướng, trong và ngoài cả hai đều sâu thẳm, cảnh và trí đều tịch lặng, tức là chiếu.
Sau đây là phần hai-Nêu hỏi nguyên do.
Kinh: Nguyên do là sao?
Giải thích: Nguyên do vì sao trí chiếu thật tính chẳng phải hữu phi vô.
Tiếp theo là phần ba-giải thích các pháp là không, văn chia làm hai phần:
1. Nêu chung pháp là không.
Kinh: Vì pháp tính "không".
Giải thích: Pháp là các pháp. Tính là thật tính. Pháp và pháp tính thảy đều là không. Nhưng đối với các pháp thì chấp kiến khác nhau. Phàm phu đối với pháp thì chấp có đúng, sai. Ngoại đạo đối với pháp thì chấp ngã, chấp pháp. Tiểu thừa với pháp thì chấp là sắc tâm thật. Đại thừa với pháp thì đạt vô tự tính. Hiểu pháp tức không, gọi là pháp tính "không".
Dưới đây là phần hai-Ngay ở pháp làm rõ "không". Kinh: Đó tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại sáu giới, mười hai nhân duyên, hai đế, bốn đế, tất cả đều không.
Giải thích: Nghĩa là: uẩn, xứ, giới, sĩ phu bảy đại, sáu giới, ngoại đạo phàm phu, chấp thật dấy khởi điên đảo, nêu ra để nói về không.
Mười hai nhân duyên là nói về Độc giác quán. Bốn đế là nói về Thanh văn quán.
Hai đế là nói về Bồ-tát quán.
Đều vô tự tính nên tất cả đều không.
Tiếp đến là phần hai-dùng sinh diệt nói rõ không. Văn chia làm bốn.
Phần một: Nêu sinh diệt không.
Kinh: Các pháp ấy, tức sinh tức diệt, tức có tức không, từng Sát-na, Sát-na, cũng lại như vậy.
Giải thích: Trước đã nói về các pháp không có tự tính, nên là không. Đây là nói về các pháp sinh diệt, nên là không, tùy thuận căn cơ của hữu tình, mà phá chấp.
"Các pháp ấy, tức sinh tức diệt, tức có tức không" Nghĩa là: các uẩn trước là các pháp hữu vi, thể không bền giữ, niệm niệm dời đổi, tùy sinh tức diệt, niệm niệm đều không. Dựa theo tướng hữu vi, hoặc có bốn tướng, như Luận Bà-sa nói: Có thể khởi, gọi là sinh. Có thể an gọi là trụ, có thể suy tổn gọi là dị, có thể bị hoại gọi là diệt. Sinh là ở thời vị lai, còn ba tướng kia là ở thời hiện tại. Lại nữa, Luận Duy thức viết: Vốn không nay có, ở phần vị có gọi là sinh. Tạm ngừng ở phần vị sinh gọi là trụ. Trụ thì có trước, sau gọi là dị, tạm thời có lại trở về không, lúc không gọi là diệt. Ba tướng trước là ở thời hiện tại. diệt thì ở thời quá khứ, đó là chính.
Hoặc có thuyết nói là ba tướng: Như luận Câu xá, dẫn chứng theo kinh, nói là ba tướng: 1. Khởi; 2. Trụ, dị; 3. Tận. Trong luận có hai giải thích, như thường phân biệt.
Hoặc nói là hai tướng, như kinh này nói là: tức sinh tức diệt. Luận Du-già cũng nói giống với kinh này. Luận nói: sinh và trụ dị, đều gọi là phẩm sinh, diệt gọi là phẩm diệt. Các chúng đệ tử, phải quán các pháp sinh diệt mà trụ.
Hoặc nói là một tướng, như kệ kinh nói: Các hành vô thường. "Các" là nhiều, hành là dời đổi, trôi chảy, gọi chung là Hữu vi, đều gọi là các hành.
Nói "vô thường" như luận Du-già quyển tám mươi mốt nói: cái "có" khởi rồi tận hết, nên gọi là vô thường. Hợp cả hai sinh và diệt gọi chung là vô thường. Quyển năm mươi hai lại nói: Nếu do những tướng đó mà khởi tư duy chán ghét, lìa dục giải thoát, hợp nói sự sinh diệt thành ra là vô thường. Sao gọi là vô thường? Vì có chẳng có mãi, không chẳng không mãi, cả hai đều không có tướng thường, nên gọi là vô thường. Kinh nói "Sinh, diệt" là nói tóm lược.
"Sát-na, Sát-na cũng lại như vậy: Sát-na, là thời gian cực ngắn. Như nói cực vi sắc là cực ít, cực nhỏ. Sinh diệt có hai: 1. Sát-na; 2. một thời kỳ. Đây chẳng phải là một thời kỳ mà là Sát-na.
Sát-na là gì? Duyên pháp hòa hợp, được tự thể hiển. Lại nữa, pháp vận hành chuyển động một cực nhỏ như vậy gọi là một lượng Sát-na, lặp lại một từ "Sát-na" là để phá tình chấp. Hữu tình vọng đảo, chấp pháp thường có. nghĩa là: nghe nói các pháp sinh diệt, nên là không, bèn chấp: chỉ có pháp hiện tại là Sát-na sinh diệt, còn quá khứ, vị lai thì thể phải thường trụ. Vì để phá chấp đó mà nói rõ các pháp từ vô thủy đến nay, quá khứ đã diệt, hiện tại nay diệt, vị lai sẽ diệt, niệm niệm dời chảy, đều là Sát-na diệt. Do đây kinh nói: "Sát-na Sát-na cũng lại như vậy".
Hỏi: Tức diệt là đồng một Sát-na, hay là khác thời?
Đáp: Vì một niệm có nhiều Sát-na, ở một Sát-na có nhiều sinh diệt, lấy nhiều sinh diệt đó hình thành một Sát-na. Tức "thể" làm rõ không, nên là đồng một niệm. Điều đó giống với kệ của Kinh Hoa Nghiêm: Ví như gió mạnh thổi, Mặt trống sinh lay động. Cả hai không biết nhau, các pháp cũng như vậy. Sinh diệt tức là không, không cùng biết nhau.
Sau đây là phần hai-Nêu hỏi nguyên do Kinh: Vì sao?
Giải thích: Các pháp hữu vi, Sát-na sinh diệt là vì nguyên do gì? Tiếp đến là Phần ba, giải thích về nhiều sinh diệt.
Kinh: Trong một niệm có chín mươi Sát-na, một Sát-na trải qua chín trăm sinh diệt.
Giải thích: Từ thô đến tế, chuyển tiếp phân tích để rõ là không. Các hữu vi pháp, trôi đuổi không dừng, quá khứ đã không, vị lai sẽ không, một niệm hiện tại, đừng cho thật có. Tách một niệm này, có chín mươi Sát-na, đừng cho Sát-na là có "thể" thật. Tách một Sát-na có chín trăm sinh diệt. Vì nhiều sinh diệt mà thành một Sát-na, nên Sát-na không có "thể". Vì nhiều Sát-na hợp thành một niệm, nên niệm cũng không có thể thật, vì vậy mà nói các pháp niệm niệm đều không.
Hỏi: Niệm nhớ cảnh riêng, lấy sự ghi nhớ làm tính. Sao ở đây lại nói niệm sinh diệt là không?
Đáp: Danh từ "niệm" thì giống nhau, nhưng nhân của chúng thì có khác nhau. Niệm (nhớ) cảnh riêng thì lấy sự ghi nhớ làm tính, còn niệm ở đây là trong thời không tương ưng mà giả lập một khoảnh khắc thời gian sinh diệt, giả lập danh gọi là niệm. Niệm không có "thể" thật, đều là không.
Dưới đây là phần bốn-Kết, về các pháp không.
Kinh: Các pháp hữu vi đều là không
Giải thích: Kết về pháp hữu vi sinh diệt, nên là không và hiểu về vô vi tuy là tịch mà thường.
Tiếp theo là phần hai-Nói rõ về trí chiếu không, văn chia làm hai. 1. Nêu về trí chiếu không
Kinh: Dùng Bát-nhã Ba-la-mật đa thâm diệu, chiếu kiến các pháp, tất cả đều không.
Giải thích: Như đã giải thích trong phần tông, tóm lược lại là: "Bát-nhã thâm diệu" tức là tuệ tịnh.
"Ba-la-mật đa" là đến bờ kia.
"Chiếu kiến": tức chiếu là thể của trí. Kiến là dụng của trí. Thể của chiếu tức là kiến, gọi là tâm vô tướng. Do tuệ tịnh này mà đạt đến bờ giác.
Nói "các pháp" là cảnh đối tượng được chiếu. Cảnh và trí đều tịch nên bảo là "Tất cả đều không".
Hỏi: Câu ở trên "Bốn đế... tất cả đều không". Câu ở đây "các pháp... tất cả đều không". Hai đoạn văn này khác nhau như thế nào?
Đáp: Đoạn trước là chỉ cảnh không, còn đoạn này thì nêu trí cũng không. Tuy cảnh và trí, đều tự tính không, nhưng để hiển về trí chiếu như, trí tức là vô tướng nên kết hợp nói.
Dưới đây là phần hai-Nêu dẫn pháp để nói rõ về không. Văn có sáu phần.
1. Nói về nội và ngoại không.
Kinh: Nội không, ngoại không, nội ngoại không.
Giải thích: Văn kinh dưới đây là nói về chánh trí.
Tức có (ngay ở có) quán không thì có mười tám không.
Mười tám "không" đó thì văn nói bốn "không" sau cùng khác với kinh đại Bát-nhã. Như Đại Bát-nhã quyển năm mươi mốt: Tôn giả Thiện hiện phát hỏi, đức Thế Tôn đáp. Lược dẫn kinh ấy để giải thích đoạn văn này:
"Nội không". Nội là nội pháp, tức nhãn nhĩ, thiệt tỷ, thân ý. Ở đây, Nhãn do nhãn không, tỷ, nhĩ, thiệt... cũng như thế. Phi thường phi hoại, bản tính là vậy. Trên nói nhãn tức là nhãn xứ do nhãn không thì nhãn không có tự tánh. Nhãn xứ tức không thì các xứ khác cũng vậy. Như luận Trí độ quyển bốn mươi sáu nói; Nếu chẳng tu tập "không" thì sẽ rơi vào nhị biên. Dùng không phá hữu, cũng không bị vướng mắc ở không. Không có ngã và ngã sở vì bản tính là vậy, đoạn văn sau lý cũng giống như thế, vì e rườm nên lược bớt.
"Ngoại không": Ngoại là ngoại pháp, tức là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, trong đó, sắc do sắc không nên thanh v.v... cũng vậy.
"Nội ngoại không": là pháp nội ngoại. Pháp Nội là sáu căn xứ, ngoại là 6 trần xứ. Ở đây, sáu xứ nội do sáu xứ ngoại không, sáu xứ ngoại do sáu xứ nội không.
Trước riêng sau chung nên đều là không.
Tiếp đến là phần hai-Nói về các không.
Kinh: Không không, Đại không, Thắng nghĩa không.
Giải thích: "Không không": nghĩa là tất cả pháp không. Không do không nên không.
"Đại không": nghĩa là mười phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn hướng, trên dưới, trong đó, phương Đông do phương Đông không, các phương Nam v.v... cũng vậy.
"Thắng nghĩa không": Thắng nghĩa là Niết-bàn. Thắng nghĩa đó, do thắng nghĩa không.
Tiếp theo là phần ba: Hữu, vô vi không
Kinh: Hữu vi không, vô vi không
Giải thích: "Hữu vi không": là Dục giới, Sắc giới, vô Sắc giới đều không.
"Vô vi không": là không sinh, không trụ, không dị, không diệt. Vô vi này do vô vi không, vì tướng và vô tướng đều không.
Sau đây là phần bốn-Nói về ba đời không.
Kinh: Vô thủy không, tất cánh không
Giải thích: "Vô thủy không": là thuận theo cách dịch cổ. Tân dịch là vô tế không. nghĩa là: không có đời sơ, trung, hậu tế có thể đạt được và không có đời quá khứ vị lai có thể đạt được. vô tế đó là do không có đời nào có thể đạt được. Cho nên vô tế không.
"Tất cánh không": nghĩa là các pháp rốt cùng là chẳng thể đạt được. Tất cánh đó là do tất cánh không, vì đời, chẳng phải đời đều không.
Tiếp đến là phần năm-Nói về tính tướng không
Kinh: Tán không, bản tính không, Tự tướng không, Nhất thiết pháp không.
Giải thích: "Tán không": nghĩa là có thả, có dứt, có bỏ, khả đắc. Tán đó là do Tán không. Kinh kia tiếp đó lại nói "vô biến dị không". nghĩa là không thả, không dứt, không bỏ khả đắc. Vô biến dị này là do vô biến dị không. Trước là hữu, sau là không. Vì tướng cùng đối với nhau. Kinh này tuy thiếu về vô, nhưng nghĩa đã có ý đối.
"Bản tính không": nghĩa là, bản tính của tất cả pháp, hoặc tính pháp hữu vi, hoặc tính pháp vô vi, đều chẳng phải là do Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, Như Lai làm ra, cũng chẳng phải là do kẻ khác làm ra. Bản tính này do bản tính không.
"Tự tướng không": nghĩa là tự tướng của tất cả pháp, như chất ngại là tự tướng của sắc, lãnh nạp là tự tướng của thọ, giữ lấy hình ảnh là tự tướng của tưởng, tạo tác là tự tướng của hành, hiểu biết phân biệt là tự tướng của thức, những thứ như vậy, hoặc tự tướng của pháp hữu vi, hoặc tự tướng của pháp vô vi, những tự tướng đó đều là không.
"Nhất thiết pháp không": nghĩa là năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới, hoặc là pháp hữu sắc hay không sắc, hữu kiến hay không kiến, hữu đối hay vô đối, hữu lậu hay vô lậu, hữu vi hay vô vi, tất cả pháp đó do tất cả pháp không.
Sau đây là phần sáu: Nói về nhân quả không.
Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa không, nhân không, quả Phật không, không không cho nên không.
Giải thích: "Bát-nhã Ba-la-mật-đa không": là trí quán chiếu không.
"Nhân không": là các Bồ-tát, từ bậc đẳng giác trở về trước, tất cả đều không.
"Quả Phật không": Những lực mà chư Phật có, như vô úy... các pháp bất cộng, thể tịch cho nên không.
"Không không cho nên không": Luận Trí độ nói: không không, là trước tiên dùng các không để phá các pháp nội, ngoại.... đều không. Lại lấy cái không đó để phá các không trước, đó gọi là không không.
Hỏi: Không không trước và không không này khác nhau ra sao?
Đáp: Trước là phá các không nên nói là không không. Ở đây là phá các không trước mà gọi là không không.
Hỏi: Nếu vậy, do các pháp có phá, nên bảo là không, không đã không phải là pháp, rỗng không bị phá chỗ nào?
Đáp: Phá các pháp rồi, chỉ có ở không. Không cũng phải xả bỏ, cho nên cần phải không không. Như thuốc để chữa bệnh, bệnh lành thì phải bỏ thuốc. Thuốc nếu không xả bỏ, thì thuốc đó lại thành là bệnh. Vì e "không" sẽ thành bệnh, tức lấy không để bỏ không, nên bảo là không không.
Dưới đây là phần hai-Các pháp là có giả, trong đó chia làm hai phần: 1. Nói về các pháp có; 2. Nói về ngã pháp không. Trong phần một các pháp có giả phân ba: phần một: nêu các pháp có.
Kinh: Pháp hữu vi, pháp tập mà có, thọ tập mà có, danh tập mà có.
Giải thích: Trước là nói về chánh trí, đối tượng chiếu đều không.
Đây là trí phương tiện, không hoại bỏ các pháp, tức ngay ở nơi không mà quán có.
"Pháp hữu vi": Câu này là nêu chung về pháp hữu vi của thế gian và xuất thế gian. Sau đó là nói riêng về có.
"Pháp tập mà có": năm uẩn tích tập, gọi là pháp tập có. "Thọ tập mà có": lãnh nạp tác nghiệp, gọi là thọ tập có
"Danh tập mà có": danh là biểu thuyên (nêu lên khẳng định), tập cho nên có.
Tuy cả ba tập này, nghĩa thông cả vô lậu, nhưng đoạn văn trên và dưới đây chỉ dựa theo hữu lậu.
Tiếp theo là phần hai-Thế gian có
Kinh: Nhân tập nên có, quả tập nên có, sáu thú nên có.
Giải thích: "Nhân tập nên có": là các nghiệp mà thiện nhiễm hữu lậu gây tạo là nhân của ba hữu.
"Tập đế nên có, quả tập nên có" là ở trong ba cõi, nghiệp chung, riêng, cảm quả tịnh, vô ký.
"Khổ đế nên có, sáu thú nên có". Thú là dị thục nơi sáu thú: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, Tu-la, nhân, thiên. Khả năng hướng đến (năn thú) ấy tức là nhân, chỗ hướng tới tức là quả. Trước là riêng, sau là chung, nói về ba cõi. Kế đến là phần ba-Nói về xuất thế gian có.
Kinh: Thập địa nên có, quả Phật nên có, tất cả đều có
Giải thích: "Địa thứ mười nên có": Văn nói địa thứ mười là gồm cả ba Hiền là nhân có của Bồ-tát.
"Quả Phật nên có" là ba thân, cho nên có. Cũng có thể nói là: Vị Nhân hướng tiến, đạo đế chưa tròn; vị quả phẩm trí, thì đạo đế viên mãn. Cho nên giải thoát, pháp thân, diệt đế đã tròn đủ. Với khổ và tập nêu trước thành là bốn đế.
"Tất cả đều có": Câu này là tổng kết, thế và xuất thế gian tất cả đều có.
Tiếp theo là phần hai-Ngã pháp không, trong đó chia làm hai: 1. Ngã pháp không; 2. Không khởi kiến. Phần một ngã pháp không lại có ba phần. Đây là phần một: Nêu tướng của ngã pháp.
Kinh: Này thiện nam! Hoặc Bồ-tát chấp trụ ở pháp tướng có tướng ngã, tướng nhân, hữu tình, tri kiến là trụ nơi thế gian tức chẳng phải là Bồ-tát.
Giải thích: Nghĩa là: Bồ-tát tuy quán ở "có" nhưng không nên trụ.
"Trụ ở pháp tướng": tức hữu vi nêu trước, gọi chung là pháp. Vì mỗi một pháp đều có tướng được giữ lấy theo phép tắc. nghĩa là: Hoặc Bồ-tát tuy quán các thứ là có, nhưng không hoại pháp, thông đạt thật tính, không nên trụ nơi tướng. Nếu trụ tướng thì sẽ sinh ra chấp có.
"Có tướng ngã" là ngã, nhân, tri, kiến bốn thứ như trước đã giải thích.
Ngoại đạo chấp ngã, cũng gọi là hữu tình. Tác nghiệp và thọ quả đều cho là ngã.
"Là trụ nơi thế gian, tức chẳng phải là Bồ-tát". Trụ nơi tướng ngã pháp tức là phàm ngu, là trụ nơi thế gian, chẳng phải là Bồ-tát.
Kế đến là phần hai: Nêu hỏi nguyên do Kinh: Nguyên do là sao?
Giải thích: Vì sao trụ nơi tướng ngã pháp thì chẳng phải là Bồ-tát?
Sau đây là phần ba-Kết về các pháp không Kinh: Vì tất cả các pháp đều là không.
Giải thích: Không hiểu về các không, tức chẳng phải Bồ-tát. Ngộ tất cả pháp đều không tịch (rỗng lặng) đối với có nhưng không trụ, tức là Bồ-tát.
Dưới đây là phần hai-không khởi kiến, trong đó có ba phần:
1. Nói về không khởi kiến.
Kinh: Nếu đối với các pháp mà đạt được sự chẳng động, bất sinh bất diệt, vô tướng, vô vô tướng tức không nên khởi kiến.
Giải thích: Đây là nói về Bồ-tát ngay nơi pháp mà quán không. "Nếu đối với các pháp mà đạt được sự chẳng động": Nếu các Bồ-tát tuy quán các pháp, nhưng thấu đạt được có tức không. Không cho chẳng động, không, chẳng động nên bất sinh bất diệt.
"Vô tướng": Tướng là các pháp, vô tướng tức không. Vì ngộ tướng tức không, nên bảo là vô tướng.
"Vô vô tướng": Chẳng phải cho rằng dứt bỏ tướng mà cho đến, trụ ở vô tướng, vô tướng cũng dứt trừ, cho nên bảo là vô vô tướng.
"Không nên khởi kiến": "Trụ ở tướng thì kiến sinh ra, không trụ nơi có, không có thì không có kiến chấp". Cho nên pháp sư Tăng Triệu nói: Môn của Bát-nhã là quán không, môn của phương tiện là đi vào có. Đi vào có nhưng chưa từng mê chấp không. Cho nên ở nơi có mà không bị nhiễm. Không chán bỏ có nhờ quán không, nên quán không nhưng không chứng. Là nghĩa đó. Dưới đây là phần hai-Nêu hỏi nguyên do Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao lại không nên khởi kiến? Tiếp theo là phần ba-Giải thích pháp đều như.
Kinh: Tất cả pháp đều như-Chư Phật, Pháp, Tăng cũng như.
Giải thích: Trước là nêu pháp sau là nêu Tam bảo.
Không luận hơn hay kém, tất cả đều như. Luận Bảo tính nói: Như ba thứ đồ chứa khác nhau, nhưng khoảng không thì không khác. Tất cả chúng sanh, Bồ-tát, chư Phật đều không có sai biệt, đều đồng một như.
Sau đây là phần ba-thứ tự của Thánh trí. Trong đó chia làm bốn phần. Đây là phần một-Thánh trí thứ 1:
Kinh: Thánh trí hiện tiền, một niệm tối sơ, đầy đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa, gọi là địa Hoan hỷ.
Giải thích: Trên đã nói về trí chiếu không và hữu, không biện minh vị địa, chỉ là luận chung. Từ đoạn văn này mới nói về địa thứ nhất… và hiểu rõ văn trên hầu hết là dựa theo trí thuộc địa tiền, lìa có, không mà tu, chẳng chấp trụ.
"Thánh trí hiện tiền, một niệm tối sơ, gồm đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa": Nghĩa là đầu tiên của bậc kiến đạo thật sự, hiện đoạn trừ, hai chấp phân biệt, chủng tử từ vô thỉ đến nay vĩnh viễn dứt hết và đầy, đủ các đức. Do vậy mà nói so với ngôi vị ba Hiền, toàn bộ công đức vốn có do tu hành trong cả một kiếp cũng không thể sánh bằng một niệm tối sơ này.
Sao gọi là "Gồm đủ tám vạn bốn ngàn", do đối trị với Hoặc, mà có số ấy.
"Địa Hoan hỷ" sinh ở nhà Như Lai, trụ ở địa cực hỷ. Phần sau sẽ nêu rõ.
Kế đến là phần hai-Tỏ chung về địa thứ mười.
Kinh: Chướng hết thì giải thoát, vận tải gọi là thừa.
Giải thích: Nêu chung cả địa thứ mười.
"Chướng hết": Là địa thứ mười phần đoạn dứt hai chướng câu sanh, định Kim cang thì dứt sạch.
"Giải thoát": Giải là lìa trói buộc thoát là tự tại. Tùy theo địa thứ mười, chướng đoạn dứt, hiển bày như. Sau tâm Kim cang, thì giải thoát viên mãn.
"Vận tải" tức nghĩa là thừa: Vận có đủ bốn nghĩa: Vận chuyển chướng khiến cho tận hết. Vận lý khiến cho hiển rõ. Vận chuyển hành khiến cho đầy đủ. Vận chuyển quả khiến cho viên mãn đến ngôi vị cứu cánh. Đó là giải thích sự vận dụng của thừa. Thể của thừa là giáo lý hành và quả như trên đã giải thích.
Dưới đây là phần ba-Nói về địa Đẳng giác.
Kinh: Khi tướng động diệt, gọi là định Kim cang.
Giải thích: "Khi tướng động diệt": là định cuối cùng của địa thứ mười.
"Tướng động": Là như Luận Khởi Tín nói: Như gió nương nhờ nước mà có tướng của động. vô minh nương theo chơn mà khởi tướng của nghiệp. Nay ở ngôi vị Đẳng giác, như gió đã diệt thì tướng của động cũng diệt theo, nhưng nước thì không diệt. vô minh kia diệt, tướng của nghiệp cũng diệt theo, nhưng chơn thì không diệt. Cho nên, nói ở ngôi vị này tướng động diệt. Gọi là Kim cang định, nghĩa là chư Bồ-tát đến ngôi vị này, những định thù thắng nương vào, giống như Kim cang, đều có thể đoạn trừ được các chướng vi tế.
Tiếp sau là phần bốn-Nói về Địa Như Lai.
Kinh: Thể tướng bình đẳng, gọi là Nhất-thiết-trí. Trí.
Giải thích: "Thể tướng bình đẳng": Đây có hai loại:
1. Thể bình đẳng; Sở chứng của tất cả chư Phật đều bằng nhau; 2. Tướng bình đẳng: Hằng sa công đức của tất cả chư Phật đều bằng nhau.
"Gọi là trí Nhất-thiết-trí": Đây có hai trí; 1. Nhấtthiết-trí, tức là trí chứng đắc như; 2. Chữ trí ở sau là Nhất-thiết-chủng-trí: là Hậu đắc trí. Hai trí chân và tục, chư Phật đều bằng bằng. Đây chính là vị nhân quả của quán chiếu Bát-nhã.
Dưới đây là phần ba: Văn tự Bát-nhã. Như Bản ký nói: có bốn thứ vô thượng. 1. Năng thuyết là vô thượng; 2. Tín thọ vô thượng; 3. Sở thuyết là vô thượng; 4. Trí tuệ vô thượng.
Dưới đây là phần một-Người thuyết giảng vô thượng.
Kinh: Đại vương! Văn tự, chương cú của Bát-nhã Ba-la-mật đa này, trăm Phật, ngàn Phật, trăm ngàn vạn ức tất cả chư Phật cùng thuyết giống nhau.
Giải thích: Cái thật tướng sở chứng (thật tướng Bátnhã) và quán chiếu năng chứng (Quán chiếu Bát-nhã), ắt phải có thể nêu giảng. Thế nhưng năng thuyết (chủ thể) thì các cõi Phật khác nhau. Như kinh Duy-ma-cật nói: Hoặc dùng cơm thơm, hoặc dùng hào quang, hoặc dùng vườn rừng, hoặc vô ngôn thuyết. Ở thế giới Kham nhẫn (Sa bà) tức dùng âm thanh văn tự Bát-nhã mà làm Phật sự. Cho nên có văn nói ở đây.
"Văn tự" tiếng phạm gọi là Tiện thiện na, tiếng Hoa dịch là văn. Văn tức là tự. Như nói: ô! a! nương theo âm thanh mà hiển bày, là trong bất tương ưng hành uẩn. Tự chẳng phải là chữ viết bằng mực.
"Chương cú": Tiếng phạm gọi là Bát-đà, chánh dịch là "tích", dịch theo nghĩa là "cú". Cú là chương, nêu giảng nghĩa cứu cánh. Tức như kinh nói: các hành vô thường v.v... là chương cú. Chính dịch là "tích", nghĩa là như vết chân voi. Voi có bốn dấu chân, tìm theo dấu chân thì được voi. một bài kệ có bốn cú, tìm theo cú thì được nghĩa. Văn tự Bát-nhã, thể tức là bốn pháp, nghĩa là danh, cú, văn và với âm thanh. Danh thuyên bày về tự tính, như gọi các sắc,... vì các pháp, sắc, thọ v.v... tự tính khác nhau. Cú thì nêu giảng về sự sai biệt, như nói vô thường, khổ, không, vô ngã, là những pháp sai biệt khác nhau. Văn tức là tự, vì nó hiển bày danh cú. Thanh tức là âm thanh, là những thứ do tai nghe. Theo âm thanh dài, ngắn, gọi là danh, cú, văn. Cả ba thứ đó lìa âm thanh tuy không có thể riêng nhưng giả và thật thì khác nhau. Cũng không phải chính ngay ở âm thanh hợp thành Bátnhã, mà là nhân của giải thoát. Đừng cho văn tự của kinh này chỉ một mình đức Thế Tôn thuyết giảng mà trăm ngàn vạn ức tất cả chư Phật cùng thuyết giảng.
Tiếp đến là phần hai-Tín thọ vô thượng, trong đó chia làm hai.
Đây là phần một: Tài thí là kém.
Kinh: Như có người dùng bảy báu chứa đầy trong hằng hà sa tam thiên đại thiên thế giới, Bố thí cho tất cả hữu tình khắp đại thiên thế giới đều đắc quả A-la-hán.
Giải thích: Nêu dụ để so sánh
"Hằng hà": Tân dịch là Căng-già-hà. Trong sông nhiều cát, lấy mỗi một hạt cát dụ cho số đại thiên giới, bảy báu đầy trong Tam thiên đại thiên giới nhiều như cát đó, như thường phân biệt.
"Bố thí cho tất cả hữu tình khắp đại thiên thế giới": Bố thí rộng lớn. Dùng bảy báu quý giá trong các cõi nhiều như cát sông Hằng Bố thí cho hữu tình trong sáu thú bốn loài cả đại thiên giới đều bình đẳng Bố thí cho nên kinh nói chung là tất cả hữu tình.
"Đều đắc quả A-la-hán": Những người thọ nhận sự Bố thí đó, tất cả hữu tình, phát tâm Thanh văn, tu hạnh tự lợi. Theo kinh cũ nói là: "Đắc bốn quả của bảy Hiền. Còn ở đây là chỉ nêu theo phần thù thắng là quả La hán, hiển bày trong chỗ Bố thí đạt đến quả tối là hơn.
Tiếp đến là phần hai-Tín thọ thắng
Kinh: Không bằng có người đối với kinh này, cho đến khởi một niệm tịnh tín, huống chi là có người có thể thọ trì, đọc tụng, hiểu rõ một câu.
Giải thích: Tín tâm lắng sạch là gốc của các thiện. Nếu người thường tín thì không có cách gì so sánh được. Chỉ một niệm tịnh tín với kinh, còn hơn cả phước trên.
"Huống chi...": một niềm tin ít ỏi mà phước còn hơn kia, huống nữa là đọc tụng thọ trì, tâm sinh chánh giải, thì chẳng có gì bằng.
"Thọ trì..." Thọ nghĩa là nhận lãnh. Trì: nghĩa là không quên. Như trong luận Biện Trung biên, phần hành thập pháp tụng nói:
Viết, chép để cúng dường
Cho người, nghe, cầm đọc
Thọ trì, chánh khai diễn
Phúng tụng và tư, tu.
Tám thứ trước là văn tuệ.
Hai sau là tư, tu tuệ.
Tức là Tam tuệ.
Ở kinh này nêu bốn thứ: ba thứ thuộc văn tuệ, một thứ thuộc tư tuệ. Chỉ hiểu một ít thôi, thì đã hơn phước kia.
Hỏi: bảy báu đầy Hằng sa giới, rộng thí hữu tình, họ lại tu hành đến quả vô học, đủ cả ba tuệ này là hơn, sao lại kém hơn một niệm tín?
Đáp: bảy báu là tài, do thí trụ nơi tướng, hai thứ kia tuy nhiều nhưng có phân biệt. Quả A-la-hán, tự cầu giải thoát, vì là tiểu thừa, cho nên là kém. Giáo Bát-nhã này, là mẹ của chư Phật, sinh ra chư Phật, rộng lớn thâm diệu, chẳng có gì sánh bằng, chỉ một niệm tín, liền vượt phước trước.
Dưới đây là phần ba-sở thuyết (văn tự) là vô thượng-Trong đó chia làm hai. 1. Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Nguyên do là gì?
Giải thích: Nguyên nhân của tịnh tín trì tụng thắng hơn là gì? Sau đây là phần hai-Nêu nguyên do thắng hơn.
Kinh: Văn tự tính lìa, không có tướng của văn tự, chẳng phải pháp phi, chẳng phải pháp.
Giải thích: "Văn tự tính lìa, không có tướng văn tự": là nói về giáo, cái chủ thể thuyên bày (lý lẽ)… biển hiện ra, thuyết bày ra. Vì các pháp không có tự tính, nên bảo là lìa tính. Do vì tính lìa, nên vô tướng. Vì vậy, kinh Tịnh Danh nói: Văn tự tính lìa, tức là giải thoát.
"Phi pháp" tức văn tự vốn là không.
"Phi phi pháp": là tuy lìa tướng mà thể của cái được nêu ra (sở thuyên) không phải là không có.
Lại giải thích "chẳng phải pháp" là lý của cái được nêu giảng, trí không phải tướng có "chẳng phải phi pháp" là pháp đã tu chứng thì chẳng giống như sừng thỏ không phải không có pháp. Do giáo và lý đều lìa nhị biên, cho nên là vô thượng.
Tiếp đến là phần bốn-Nêu trí tuệ vô thượng. Trong đó chia làm ba phần.
1. Bát-nhã không.
Kinh: Bát-nhã không, cho nên Bồ-tát cũng không.
Giải thích: "Bát-nhã không": là cảnh trí không.
"Bồ-tát cũng không": Tức Bồ-tát, là chủ thể hành chiếu cũng không.
Sau đây là phần hai-Nêu hỏi nguyên do Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì mà Bồ-tát cũng không?
Kế đến là phần ba: Giải thích về nguyên do không. Trong đó chia làm hai phần. 1. Nhân của Bồ-tát là không. Kinh: Ở trong địa thứ mười, mỗi địa đều có mới sinh, trụ sinh và chung sinh, ba mươi sinh đó đều là không.
Giải thích: Nêu đối tượng nương dựa là không, để hiển bày chủ thể nương dựa là không.
"Ở trong địa thứ mười": Là địa Hoan hỷ v.v... nương dựa duy trì sinh trưởng, gọi là địa.
"Mới sinh, v.v...": là nói về địa thứ mười không. Ở mỗi một địa đều có đủ ba sinh. Như sơ địa; kiến đạo đầu tiên, gọi là mới sinh. Trong sơ địa, khi tu đủ hạnh thù thắng trải qua thời gian lâu dài, gọi là trụ sinh. Sơ địa sắp mãn, tiến cầu địa sau, nơi tâm sau cùng, gọi là chung sinh. Tức nhập, trụ, chung là ba sinh. Địa thứ chín còn lại cũng vậy, tức thành ba mươi sinh. Tuy ba địa sau cùng, không có sự cố gắng nào khác, cứ theo tự nhiên mà gia hạnh, nhưng vẫn có ba sinh.
"Đều là không": Chung thì địa thứ mười, riêng thì ba mươi sinh, do chủ thể nương dựa và đối tượng được nương dựa của ngôi vị nhân này đều là không.
Tiếp theo là phần hai-Quả Phật không.
Kinh: Nhất-thiết-trí, Trí lại cũng đều không
Giải thích: "Nhất-thiết-trí trí" là toàn bộ hai trí: Căn bản Trí và hậu đắc trí của Phật, không chỉ những văn tự, mà theo đến đối tượng được nêu giảng và Bồ-tát đều không, thậm chí quả vị Phật, các tướng vĩnh viễn tịnh lặng, cũng đều là không.
Trên đây là đã giải thích riêng về ba loại Bát-nhã, cả ba đều chung cho nhân và quả. Như văn đã giải thích xong.
Đoạn văn lớn thứ hai, biện minh chung về Bát-nhã, trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu chung về cảnh, trí; 2. Giải thích riêng về cảnh, trí;
3. Tổng kết đều là như. Đây là phần một. Nêu chung về cảnh và trí.
Kinh: Đại vương! Hoặc Bồ-tát thấy cảnh, thấy trí, thấy thuyết giảng, thấy thọ nhận, tức chẳng phải Thánh kiến mà là phàm ngu kiến.
Giải thích: Đoạn văn này là nói chung về Thánh và phàm.
Ở trên đã nói về ba loại Bát-nhã khiến các Bồ-tát tu chứng như vậy. Cảnh và trí tuy giống nhau nhưng do mê và ngộ nên khác nhau. Sau đây là so sánh giữa phàm và Thánh. Cảnh của chư Bồ-tát thấy tức là thật tướng Bátnhã. Nói thấy trí tức là quán chiếu Bát-nhã. Thấy thuyết, thấy thọ tức là văn tự Bát-nhã. nghĩa là với ba thứ Bátnhã trên, dùng tâm vô tướng thường chứng tu thuyết. Không hoại ở tướng, đạt đến không chấp trụ mới là chơn Bồ-tát chân thật. Nếu tâm chấp giữ nơi tướng thì những cảnh thấy được đều là sáu trần.
"Thấy trí" là trí vọng phân biệt.
"Thấy thuyết, thọ": là chấp trước tướng thuyết giảng thọ nhận.
Mê tính mà chấp giữ tướng là chấp của ngu phu.
Hỏi: Cảnh, trí, thuyết, thuộc phàm phu và cảnh, trí, thuyết của Bồ-tát, thể của cả ba là khác nhau hay giống nhau?
Đáp: Vì trụ tướng, nên chẳng đồng, vì chiếu giải nên chẳng khác.
Cho nên không nhất định.
Tiếp theo là phần hai: Nói riêng về cảnh và trí. Trong đó có ba phần:
1. Cảnh trí của phàm; 2. Cảnh trí của Thánh; 3. Nói và nghe.
Trong phần một cảnh trí của phàm. Chia làm ba phần:
- Nêu chung về quả báo.
- Giải thích về nghiệp của ba cõi.
- Kết về nghiệp quả là không.
Đây là phần một-Nêu chung về quả báo.
Kinh: Quả báo ba cõi của hữu tình là hư vọng.
Giải thích: Đây là nói về phần đoạn sinh tử trong ba cõi. "Hữu tình" là hữu tình thế gian.
"Quả báo": Nghiệp quả nơi sáu thú. "Ba cõi" là khí thế gian bên ngoài.
"Hư vọng" nhân và quả đó, cả hai đều không thật. Như kinh Bất Tăng Bất giảm nói: Pháp thân thanh tịnh bị các phiền não làm lay động, nên qua lại nơi sinh tử, gọi là chúng sinh. Nói về các hữu tình, bản tính thanh tịnh, vì bị nghiệp vô minh làm lay động nên ngủ mê trong ba cõi, trôi chuyển trong sáu đường, qua lại sinh tử, giống như diễn viên thay đổi nhiều vai, đều là hư vọng.
Sau đây là phần hai-Giải thích về nghiệp ba cõi, trong đó chia làm ba phần: 1. Nghiệp nơi Dục giới.
Kinh: Dục giới phân biệt đã gây tạo các nghiệp.
Giải thích: "Dục giới" là cảnh giới thuộc về hai loại tham thực và dục. nghĩa là cả bốn thú thì hoàn toàn, cõi Trời thì một phần và nơi chốn nương dựa đều gọi là Dục giới.
"Phân biệt": Là hữu tình nơi Dục giới, các thức tán động, thân khác nhau, tưởng khác nhau, nhiều loại khổ vui, khởi vọng phân biệt.
"Đã gây tạo": nghĩa là thân khẩu ý vọng tưởng tạo tác.
"Các nghiệp": Thể của nghiệp là Tư. Nghiệp hành phước, phi phúc, như đã giải thích trên.
Kế tiếp là phần hai-Nói về nghiệp của Sắc giới Kinh: Tạo nghiệp của bốn tĩnh lự định của cõi Sắc. Giải thích: "Sắc" là Sắc giới.
"Bốn tĩnh lự địa": như đã giải thích ở trên. "Định" là tâm một cảnh tính.
"Tạo nghiệp" lược có ba loại: 1. Tầm tứ: nghĩa là sơ tĩnh lự có tầm có tứ. Nếu trung gian thiền thì không có tầm, chỉ có tứ. Ba tĩnh lự tiếp theo thì không có tầm, không có tứ. Cùng với ba loại nầy tương ưng với định tịnh, đó tức là hành chẳng động, có thể sinh ra những nghiệp kia.
Tiếp theo là phần ba-Nêu nghiệp của vô Sắc giới. Kinh: Những nghiệp khởi do bốn định không ở vô sắc. Giải thích: Hai chữ "vô sắc" như đã giải thích trên.
"Bốn không" là 1. Không vô biên xứ; 2. Thức vô biên xứ; 3. Vô sở hữu xứ; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ. "Định": nghĩa như đã nêu trên. Không có tầm, tứ, chỉ có những khởi nghiệp do định thắng tịnh. Như Luận Câu-xá nói: Khi tu gia hạnh, suy tư về vô biên không, lìa đệ tứ thiền, sinh lập không vô biên xứ, nương theo cận phần này mà các đạo vô gián, nhàm chán hữu lậu nơi các cõi dưới. Cả ba thô, khổ, chướng, tùy một hành tướng, các đạo giải thoát, vui nơi căn bản không. Tĩnh, diệu, ly cả ba, tùy một hành tướng, đắc sinh bốn uẩn tạo thành thân. Nương theo mệnh căn nơi chúng đồng phận thọ hai vạn kiếp. Ba xứ như Thức v.v... theo đó mà biết thọ bốn vạn kiếp, sáu vạn, tám vạn kiếp, do định dần dần thù thắng.
Dưới đây là phần ba-Kết về nghiệp quả không, trong đó chia làm hai phần:
1. Nghiệp quả không.
Kinh: Nghiệp quả của ba hữu, tất cả đều không.
Giải thích: "Ba hữu": là Dục hữu, Sắc hữu, vô sắc hữu.
"Nghiệp quả": Nghiệp là nghiệp thiện, bất thiện hữu lậu và lực trợ duyên là phiền não chướng. Quả là dị thục của các thú cảm nhận, như thân mệnh dài ngắn, tùy theo lực nhân duyên có hạn định, là quả phần đoạn.
"Tất cả đều không": Tức những thứ kia đều không có tự tính, đều là không.
Dưới đây là phần hai-Kết về vô minh không.
Kinh: vô minh căn bản nơi ba cõi cũng không.
Giải thích: "Vô minh căn bản": Như Luận Duy thức nói: Thức thứ bảy đều thường hành tuy vô minh, thường tương tục nhưng chẳng thể phát nghiệp. Thức thứ sáu thì mê lý mà khởi, chỉ chấp giữ lấy có thể phát các hành phước v.v... chính là đứng đầu của duyên sinh, làm căn bản.
Như luận Khởi Tín nói: vô minh có hai loại: 1. Căn bản; 2. Cành ngọn. Tướng ngọn cành thì tế, nghĩa là nghiệp chuyển hiện, dựa nơi hiện thức đó khởi các sự thức. Tức như kinh Lăng Già nói: "Gió cảnh giới lay động, sóng bảy thức lưu chuyển" cùng nhau dẫn phát mà thọ nhận phần đoạn sinh, tức là cành ngọn. "Căn bản" là vì không biết như thật về pháp chơn như, tâm bất giác khởi mà có niệm đó. Niệm không có tự tướng, không lìa bản giác, giống như người mê, dựa vào phương mà mê, nếu lìa phương, thì không có mê. Chúng sinh cũng vậy, vì nương theo giác mà mê, nếu lìa tính giác thì không có gì là không giác, đó là "căn bản".
"Cũng không": Há chỉ là nghiệp quả vì không có tự tính nên không, mà ngay cả vô minh căn bản mà những nghiệp quả kia nương vào, cũng không có tự tính, nên cũng không.
Tiếp đến là phần hai-Nêu rõ cảnh trí của bậc Thánh.
Trong đó chia làm ba:
1. Nêu Biến dịch không:
Kinh: Các địa của Thánh vị vô lậu sinh diệt, ở trong ba cõi, vô minh tập còn lại quả báo biến dịch, cũng lại đều không.
Giải thích: "Thánh vị": Đây là nói bậc chứng đắc, chẳng phải hạng phàm phu đạt được.
"Các địa": theo kinh cũ dịch là "ba địa chín sinh diệt". Ba địa là địa thứ tám, thứ chín, và mười. Mỗi địa đều có mới, trụ, chung sinh là chín sinh diệt. Kinh Lăng già bản bốn quyển nói: Bồ-tát Ma-ha-tát đắc pháp nhẫn vô sinh, trụ nơi địa thứ tám, chuyển các tâm xả, đắc ý sinh thân.
Lại nữa, quyển bốn nói: Đại Tuệ! Thanh văn, Bích chi Phật, vì chưa chứng pháp vô ngã, chưa đắc lìa biến dịch sinh bất tư nghị. Lại nữa, kinh phu nhân nói: 1. A-la-hán; 2. Độc giác; 3. Bồ-tát đã đắc tự tại, thọ thân biến dịch.
"Tự tại" tức là địa thứ tám đắc tự tại ở tướng và cõi.
Lại nữa, kinh Lăng già quyển ba nói: Có ba loại ý sinh thân: Ý sinh thân do Tam muội lạc chánh thọ ý sinh thân do, giác tính tự tính pháp và Ý sinh thân do, chủng loại câu sinh vô hành tác. Thuộc địa thứ mười: Từ sơ địa đến địa thứ bảy thì đắc thân thứ nhất. Địa thứ tám thì đắc thân thứ hai, từ địa thứ chín đến địa thứ mười thì đắc thân thứ ba. Do đó mà nói: chỉ thẳng hướng đến Bồ-tát. Cả ba đoạn văn trên đều giống nhau. Thanh văn, Độc giác, cả hai kinh đều nói: Hàng Nhị thừa vô học, hồi tâm hướng đại thừa, địa tiền cũng đắc thọ sinh biến dịch huống nữa là chư Bồ-tát đã đạt địa thứ nhất.
Nói "vô lậu" ở đây là nói về nhân. Lậu là phiền não, khởi nhiều lỗi lầm không cùng tận. Trí này không có lậu đó, nên bảo là vô lậu.
"Sinh diệt": Tuy căn bản trí, tự thể sinh diệt, nhưng chứng bất sinh, cho nên chẳng phải là nhân của biến dịch, chỉ sau khi đắc duyên pháp sinh diệt, có phân biệt, mới làm nhân của biến dịch. Luận Duy thức nói: nghĩa là các nghiệp vô lậu có phân biệt làm nhân. Ở trong ba cõi, các vô minh tập còn sót lại làm duyên. Chướng có hai loại: Bậc đắc biến dịch thì không có phiền não chướng, chỉ có sở tri chướng. Đó là sự sót lại của phiền não trong ba cõi. Sở tri chướng tức là vô minh. Kinh Phu Nhân nói: "vô minh trụ địa". Ngài Từ Ân thì dịch là "vô minh tập địa, vì từ vô thủy đến nay do vô minh huân tập". Luận Duy thức quyển tám nói: "Do duyên trợ lực của sở tri chướng nên làm duyên". vô lậu làm nhân, sở tri chướng làm duyên chiêu cảm quả dị thục thù thắng vi tế.
"Biến dịch": Đó là tên gọi. Biến: là cải đổi. Dịch là chuyển dịch. Chuyển đổi thân mệnh, gọi là biến dịch. Ở đây có ba tên gọi. Luận Duy thức nói: Do nguyện lực bi, chuyển đổi thân mệnh, không có hãn định, gọi là biến dịch hoặc gọi là ý thành thân, tức do nguyện lực bi, do ý nguyện mà thành. Còn gọi là Biến hóa thân, vì do lực vô lậu chuyển khiến trở nên khác xưa, như biến hóa.
"Quả báo": Nghĩa là chư Bồ-tát, nương thân cõi Dục Sắc, tùy các giới, địa, khiến thân đó chuyển đổi, với dị thục vô ký vi tế, sáng, diệu, trong sáng nơi tính của năm uẩn. Chỉ vì thân tự loại và các cảnh của Bồ-tát ở vị sau tốt hơn, chẳng phải là cảnh kém, cho nên đâu cần chiêu cảm quả ác hữu lậu. Để nhằm tự chứng Bồ-đề, tạo lợi lạc cho người khác, nghĩa là: các Bồ-tát đã mãi mãi đoạn trừ, điều phục phiền não chướng, cho nên không chịu thọ nhận thân phần đoạn, sợ bị uổng phí nhiều thời gian tu hạnh Bồ-tát, bèn dùng nhân nguyện lực của định thù thắng vô lậu, như pháp kéo dài thọ mạng, hổ trợ hiện thân, khiến được dài lâu, cùng với quả không dứt. Như vậy, nguyện lực định trợ giúp, luôn luôn cho đến khi chứng đắc Bồ-đề vô thượng, đâu cần tác động của sở tri chướng? Do chưa viên chứng đại bi vô tướng, không chấp Bồ-đề, hữu tình là thật có, thì không do đâu phát khởi bi nguyện mãnh liệt. Lại nữa, vì sở tri chướng làm chướng ngại đại Bồ-đề, vì để đoạn trừ vĩnh viễn, cho nên lưu giữ lại thân mà trụ. Lại nữa, kinh Lăng-già nói: Tùy nhớ nghĩ về cảnh giới của bản nguyện, vì để thành thục cho chúng sanh, đắc tự giác về Thánh trí, do các nguyên nhân như vậy nên tạo mọi chiêu cảm. Dựa theo đó mà xét thì tính của biến dịch sinh tử là thuộc về quả dị thục hữu lậu; đối với nghiệp vô lậu là quả tăng thượng. Nếu có Thánh giáo nói là vì vô lậu xuất ba cõi tức tùy thuộc nhân hỗ trợ mà nói như thế. Như kinh Phật Đại nói: Có Tịnh độ vi diệu vượt ngoài ba cõi, Bồ-tát địa thứ mười nên sinh ở trong đó. Nói "cũng lại đều không". Chẳng những phần đoạn sinh tử vì không có tự tính nên không, mà ngay cả sinh tử biến dịch không có tự tính này cũng là không.
Dưới đây là phần hai-Nêu Đẳng giác không
Kinh: Bồ-tát Đẳng giác, đắc định Kim cang, hai thứ nhân quả của sinh tử là không, Nhất-thiết-trí cũng không.
Giải thích: Bồ-tát Đẳng giác: là vị Đẳng giác ở sau Địa thứ mười. Đắc định Kim cang, là định thú thắng sau cùng.
Hai thứ nhân quả của sinh tử là không: nghĩa là Bồtát đó do trị được hai chướng vi tế của hai loại sinh tử là phần đoạn và biến dịch.
Hỏi: Ở ngôi vị này mà có phần đoạn sinh tử sao?
Đáp: Do phiền não chủng làm nhân. Lại nữa, do vô lậu kéo dài phần đoạn uẩn mà thành là biến dịch. Lại nữa, vô minh căn bản từ gốc hướng ngọn, làm nhân.
"Nhất-thiết-trí" là trí của chủ thể đoạn. Chủ thể đoạn và đối tượng được đoạn kia đều không có tự tính, nên bảo là cũng không.
Tiếp theo là phần ba-Nêu Quả đức không.
Kinh: Phật vô thượng giác, chủng trí viên mãn, trạch phi trạch diệt, pháp giới chân tịnh tính tướng bình đẳng, ứng dụng cũng không.
Giải thích: "Phật vô thượng giác": Tiếng Phạm gọi là Phật đà, nghĩa như trên đã nêu. Thù thắng không gì sánh nên gọi là Vô thượng giác. Đây là nêu chung.
"Chủng trí viên mãn": Chủng tức là trí sự. Trí là trí lý tức là Trí và đức viên mãn.
"Trạch phi trạch diệt": Tức là trạch diệt và phi trạch diệt. Trạch tức là Tuệ tịnh, đoạn hoặc hiển bày "như", gọi là trạch diệt. Duyên khuyết mà hiển bày như không do ở lực trạch diệt, gọi là phi trạch diệt, tức giải thoát viên mãn.
"Pháp giới chơn tịnh": Chân là chơn như, pháp giới thanh tịnh, nhờ ở pháp thân viên mãn.
"Tính tướng bình đẳng": Tính là chơn như, tướng là trí, đều đã viên mãn tột cùng tức là bình đẳng.
"Ứng dụng": là đại bi cảm nhận dẫn đến thân ứng, hóa. Dụng mà thường tịch lặng, nhờ ứng hóa đủ đầy. Tất cả hằng sa công đức nơi ba thân ba đức mà Như Lai hiện có cũng đều là không.
Dưới đây là phần ba-Nói về thuyết giảng và nghe đều không.
Trong có hai phần: 1. Thuyết giảng và nghe không.
Kinh: Này thiện nam! Nếu có người tu tập Bát-nhã Ba-la-mật đa, người thuyết giảng người nghe, thì ví như người ảo thuật, không có nói, không có nghe, pháp đồng pháp tính, giống như hư không.
Giải thích: "Nếu có người tu tập Bát-nhã..." nghĩa là: nếu nói nghe không có tướng của nói, nghe.
"Ví như..." là nêu dụ nói rõ.
Hai câu dụ cho nhân, hai câu dụ cho pháp.
"Ví như người ảo thuật": là những người biến hóa giả tạo. Hoặc như người gỗ, chúng tuy là chuyển động, nhưng không có chủ tể. Quán thân như huyễn, tuy có nói nghe nhưng mất tướng nói nghe vì không phân biệt.
"Pháp đồng pháp tính, giống như hư không": Chữ pháp ở trước là những pháp vốn có tỏ ngộ hiểu rõ lý sự. Đồng pháp tính, tức là chơn như. Ở chỗ ngộ hiểu, tinh tấn tu hành, hiểu rõ tướng tức là tính, giống như hư không.
Kế tiếp là phần hai-Kết về nhân, pháp không.
Kinh: Tất cả pháp đều như.
Giải thích: Nếu có phân biệt thì thấy nhân và pháp khác nhau mà trụ. Nếu không phân biệt thì tất cả pháp đều như.
Dưới đây là đoạn văn lớn thứ ba: Tổng kết về phần Hộ trì quả.
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát hộ trì quả Phật là như vậy.
Giải thích: Như trên đã nói, hỏi đáp chung và riêng, rộng nói về tu hành tướng không phân biệt, hộ trì quả Phật là làm như vậy.
Tóm lại, phần hỏi đáp riêng đã xong.
Tiếp theo là đoạn văn thứ ba-Hỏi thẳng đáp thẳng.
Trong đó chia làm ba phần: 1. Như Lai nêu hỏi; 2.
Vua Ba-tư-nặc đáp; 3. Như Lai ấn kết.
Đây là phần một-Như Lai nêu hỏi,
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vua Ba-tư-nặc, ông dùng tướng gì mà quán Như lai.
Giải thích: Trên đã nói rõ quả đức Bát-nhã. Ý hỏi ở đây Như Lai tức tướng mà quán tính. Lại nữa, lúc ấy, đại chúng tuy nghe thuyết giảng về thắng không, nhưng chưa hiểu về vong tướng, vì vậy Phật nêu hỏi khiến chánh quán.
"Ông dùng tướng gì" Lấy tướng hữu vi hay là lấy tướng vô vi để Quán Như Lai.
Tiếp theo là phần hai-Vua Ba-tư-nặc đáp:
Trong đó chia làm ba phần: 1. Nói thẳng thật tướng;
2. Dựa theo pháp nói chi tiết; 3. Kết về quán Như Lai. Đây là phần một-Nói thẳng thật tướng.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc thưa: Quán thật tướng thân, quán Phật cũng vậy.
Giải thích: Thế Tôn trước tiên là hỏi về quán Như lai. Vua Ba-tư-nặc lại đáp về quán thật tướng của thân. Hỏi và đáp khác nhau, vì có bốn nghĩa: 1. Khiến cho người quán tỏ ngộ nhân biết rõ quả, quán thật tướng của mình giống với Như Lai, vì pháp thân cùng một; 2. Khiến cho người quán rõ ngộ quả biết rõ nhân. Pháp thân của Như Lai cùng một thể với chính mình, chỉ cần chứng lý viên mãn thì thành Phật; 3. Khiến người quán tỏ ngộ nhân và quả là đồng. Ở chỗ tự thân có đủ hằng sa công đức của Như Lai tương ứng với chí cầu; 4. Khiến người quán tỏ ngộ, nhân và quả là đồng, tu hai lợi đều không trụ nơi tướng, tức là chứng thật tướng bình đẳng nơi các pháp. Vì đủ các nghĩa ấy nên nêu về tự thân.
"Thật tướng": là chân thật vô tướng, gọi là thật tướng.
"Quán Phật": Phật có ba thân: 1. Quán hóa thân, quyền ứng thị hiện; 2. Quán Báo thân, năm uẩn chơn thường; 3. Quán Pháp thân, hiển do hai không. Pháp thân chơn thường là đối tượng quán ở đây, hóa tức là pháp. Nhưng văn kinh này phần sau nói chút ít khác với phẩm Kim cang thân và phẩm Phạm hạnh trong kinh Niết-bàn, văn niệm Phật, tán thán Pháp thân trong Kinh vô lượng nghĩa, Phẩm A-súc Phật trong kinh Duy-ma-cật, phẩm quán như lai trong kinh vô cấu xứng.
"Cũng vậy": là quán tự thật tướng cũng giống như pháp thân Phật, cho nên bảo là cũng vậy.
Sau đây là phần hai-Dựa theo pháp nói chi tiết riêng. Trong đó có sáu mươi lăm câu, chia làm năm loại: 1. Dựa theo sắc tâm, văn có tám đối; 2. Dựa theo sự tướng, văn có tám đối; 3. Dựa theo cấu tịnh, văn có sáu đối; 4. Dựa theo tri kiến, văn có mười đối; 5. Dựa theo bỏ, nêu, văn có hai đối. Chung và riêng khác nhau có ba mươi ba đối.
Phần một-Dựa theo sắc tướng, gồm tám đối. Đây là phần một-Ba tế đều không.
Kinh: Không có tế trước, không có tế giữa.
Giải thích: Tế là bờ mé biên vực nghĩa là pháp hữu vi bị rơi vào ba đời. Có hai loại ba đời: 1. Ba đời lưu chuyển: Đã qua đi gọi là về trước, như ngày hôm qua, hôm kia. Chưa đến gọi là về sau như ngày mai, ngày mốt; 2. Ba đời pháp hành: chưa đến gọi là trước, phía trước, như nói tiền lộ, con đường phía trước. Đã đi qua gọi là sau, như nói: qua sáu. Pháp thuộc sắc tâm, tướng tự dời đổi, thành ra ba đời, thật tướng vô vi, không có trước, sau, giữa, nên bảo là vô tế.
Tiếp theo là phần hai-Ba tế tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ ba tế, chẳng lìa ba tế.
Giải thích: Trên đã nói thể của vô vi không có ba tế. Ở đây nói vô vi không trụ nơi ba tế, tuy pháp vô vi có tự tính trụ, nhưng trong đó có sự khác nhau là trụ và chẳng trụ. nghĩa là: do tính của thật tướng tự nó là rỗng lặng, tịch tĩnh, không thể nói là trụ ở đây hay trụ ở kia, nên bảo là chẳng trụ. Hiện bày khắp tất cả pháp, nên không thể nói là lìa, thể chẳng phải là trụ lìa, mà được gọi là trụ lìa. Nếu nhất định trụ thì lìa tức không thể cùng thời. Các đoạn văn sau cũng theo với lý đó mà hiểu.
Dưới đây là phần ba-Năm uẩn tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ năm uẩn, chẳng lìa năm uẩn.
Giải thích: Năm uẩn sắc tâm: nghĩa là tích tụ. Thật tướng chẳng phải tụ nên bảo là chẳng trụ. Hiện bày khắp sắc tâm, cho nên bảo là chẳng lìa.
Kế tiếp là phần bốn-Bốn đại tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ bốn đại, chẳng lìa bốn đại.
Giải thích: Bốn đại, là địa, thủy, hỏa, phong. nghĩa là: cứng, ướt v.v... đến phần sau sẽ nêu đủ. Một khi khởi ắt đều có, xứ vô sắc thì không. Thật tướng chẳng phải là những thứ đó, nên bảo là chẳng trụ. Thể hiện bày khắp cả bốn đại, cho nên bảo là chẳng lìa.
Sau đây là phần 5-Sáu xứ tức lìa.
Kinh: Chẳng trụ sáu xứ-chẳng lìa sáu xứ
Giải thích: Sáu xứ: là sáu xứ nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý. Năm xứ trước là sắc. Như luận Câu xá nói: "Thân căn chín sự, mười sự là các căn khác, ý xứ thứ sáu, là tâm pháp" đều là những môn xứ do tâm, tâm sở sinh ra. Thật tướng chẳng phải là những thứ đó, nên bảo là chẳng trụ. Thể thì hiện khắp cả sáu xứ, nên bảo là chẳng lìa.
Kế đến là phần sáu: Hợp ba đối nói.
Kinh: Chẳng trụ ba cõi, chẳng lìa ba cõi. Chẳng trụ phương, chẳng lìa phương, minh và vô minh bình đẳng.
Giải thích: Đối thứ sáu là ba cõi tức lìa. Thể của thật tướng chẳng phải là nghiệp quả của sinh tử, nên chẳng trụ. Ba cõi, thể ở khắp những thứ kia, nên bảo là chẳng lìa.
Đối thứ bảy là: mười phương tức lìa. Nói phương là dựa theo sắc mà lập. Mặt trời mọc ở phương Đông, lặn ở phương Tây, đúng ngọ là Nam, nửa đêm là bắc, bốn góc của phương là bốn hướng, trên và dưới, thành ra mười phương. Lại nữa, trên một hạt bụi đều có phương. Nay ở đây nói về trụ và lìa. Có hai giải thích: 1. Môn dứt bỏ tướng: Không có xứ nào có thể trụ, cho nên bảo là chẳng trụ phương. Không có chấp nào có thể xa lìa, nên bảo là chẳng lìa; 2. Môn Hiển đức: Thật tướng thì luôn vượt quá hữu, nên bảo là chẳng trụ phương. Dụng thì hiện bày khắp cả pháp giới, nên bảo là chẳng lìa phương. Đối thứ tám là: Sáng tối tức lìa. Về minh và vô minh thì có hai Giải thích: 1. Dựa theo sắc mà nói, thì ngày và đêm khác nhau. Lại thể có ánh sáng và thể không có ánh sáng nên sáng và tối khác nhau. Thật tướng thì chẳng sáng chẳng tối; 2. Dựa theo tâm mà nói: tịnh tuệ vô lậu, gọi đó là minh. Hữu lậu mê tối, gọi đó là vô minh. Thật tướng thì chẳng phải là tâm, chẳng phải là sáng tối.
"Đẳng": là chẳng trụ chẳng lìa.
Dưới đây là phần hai-Dựa theo sự tướng mà nói. Văn có tám đối, trong đó chia làm hai phần. Bốn đối đầu là cùng phủ định để nói rõ.
Kinh: Chẳng phải một chẳng phải khác. Chẳng phải đây, chẳng phải kia. Chẳng phải tịnh, chẳng phải uế.
Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.
Giải thích:
1. Đối nhất, dị (chung một, riêng khác) có hai nghĩa:
a. Môn lìa tướng: không bị hữu câu thúc, nên bảo là chẳng phải một. Thể hiện khắp cả có không đều, nên bảo là chẳng phải khác.
b. Môn hiển đức: Thể đủ vạn đức, cho nên bảo là chẳng phải một. Vạn đức đều như, cho nên bảo là chẳng phải khác. Do vậy mà nói là chẳng phải một chẳng phải khác.
2. Đối thử, bỉ (đây, kia). Nói đây và kia là: Đây là sinh tử, kia là Niết-bàn. Sinh tử và Niết-bàn, là mê và ngộ đối đãi, lìa ngôn tuyệt đãi, xưa nay bình đẳng, thì đâu là đây, kia. Lại vật đây kia là nương nơi sắc xứ mà thuyết. Như chẳng phải tức, lìa, chẳng phải đây, kia.
3. Đối tịnh, uế: Tịnh uế, nghĩa có hai giải thích:
- Dựa theo sắc mà xét. Tịnh độ là chỗ ở của tất cả Thánh chúng. Uế độ là chỗ ở của tất cả phàm ngu. Lại nữa, Thánh và phàm, tịnh và uế, thật tướng không phải sắc, nên không phải tịnh uế.
- Dựa theo tâm mà xét, các tuệ vô lậu, gọi là tịnh. Khách trần phiền não, gọi là uế. Thật tướng thì chẳng phải tâm, cho nên chẳng phải tịnh uế. Do vậy mà bảo là chẳng phải tịnh uế.
4. Đối vi và vô vi: Chẳng phải hữu vi là các pháp hữu vi, niệm niệm dời đổi. Thật tướng thì vắng lặng, cho nên chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi: Nhưng thật tướng đó tức chơn vô vi, vì để ngăn chặn sự chấp giữ nên bảo là "chẳng phải".
Tiếp đến là phần hai-bốn đối sau, dùng "Cùng không có" để nói rõ.
Kinh: Không có tự tướng, không có tha tướng. Không có danh, không có tướng. Không có mạnh không có yếu, không có chỉ bảo, không có diễn thuyết.
Giải thích:
1. Đối không có tự tha. Nói tự tha là dựa theo sắc tâm mà lập, hình đối đãi nhau. Đối tha nói tự, đối tự nói là tha. Thật tướng thì dứt đối đãi nên không có tự tha.
2. Đối không có danh tướng. Danh là năng thuyên (vật chủ diễn bày) tướng là sở thuyên (vật bị diễn bày), thông cả có không đều. Thật tướng thì chẳng phải là những thứ đó, vì nó không có danh tướng.
3. Đối không có mạnh, yếu: Nói cường nhược (mạnh yếu) là các lực của sắc... dựa theo đối đãi với quán mà nói. Thật tướng chẳng phải những thứ đó, vì nó không có mạnh hay yếu.
4. Đối Không có chỉ bảo, diễn thuyết: Chỉ bảo và diễn thuyết là vì có tướng mới có thể chỉ bày, có danh mới có thể diễn nói. Thật tướng thì không có tướng, nên không thể chỉ bày. không có danh, nên không thể diễn nói.
Dưới đây là phần ba. Dựa theo sự nhơ sạch nói rõ.
Văn có sáu đối.
Kinh: Chẳng phải Bố thí, chẳng phải bỏn xẻn.
Chẳng phải giới, chẳng phải phạm. Chẳng phải nhẫn, chẳng phải sân. Chẳng phải tinh tấn chẳng phải lười biếng. Chẳng phải định, chẳng phải loạn. Chẳng phải trí chẳng phải ngu.
Giải thích: Đây là dùng hạnh sáu độ, đối lại với sáu tệ cấu. Quán thiện ác đối đãi, có Bố thí và keo xẻn. v.v... Thật tướng thì dứt tuyệt mọi đối đãi, vì chẳng phải là những thứ đó.
Tiếp theo là phần bốn-Dựa theo tri kiến nói rõ. Văn có mười đối, trong đó chia làm hai phần một. Có sáu đôi dựa theo tướng nói rõ.
Kinh: Chẳng phải lai phi khứ, chẳng phải nhập phi xuất, phi phước điền chẳng phải không phước điền, chẳng phải tướng chẳng phải vô tướng, chẳng phải thủ phi xả, chẳng phải đại phi tiểu.
Giải thích:
1. Đối lai và khứ: Các pháp thì có động, có đến có đi. Thật tướng thì chẳng động, vì không có đến, đi.
2. Đối xuất và nhập: Mê thì nhập sinh tử, ngộ thì xuất sinh tử, cho nên có nhập có xuất. Lại nữa, pháp vãng lai (qua lại) có sự nhập xuất. Thật tướng thì tịch nhiên, vì chẳng nhập chẳng xuất.
3. Đối phước điền không hước điền: Điền có bốn loại như luận Bà-sa đã nói: hướng đến, khổ tạo ân đức sinh trưởng phước. Thật tướng thì chẳng phải hữu, cho nên chẳng phải phước điền. Thật tướng chẳng phải không, cho nên chẳng phải không phước điền. Lại nữa, vì tính không nên chẳng phải phước điền, vì đủ các đức, nên chẳng phải không phước điền.
4. Đối chẳng phải tướng, vô tướng: Thật tướng thường tịch, cho nên chẳng phải hữu tướng. Diệu dụng tùy duyên, cho nên chẳng phải vô tướng.
5. Đối chẳng phải thủ xả: Pháp hữu vi có thể thủ, có thể xả. Thật tướng vô vi thì phi thủ xả.
6. Đối chẳng phải đại, tiểu: pháp có hình chất có thể định được lớn nhỏ. Thật tướng của nó không có hình chất nên chẳng phải đại, tiểu.
Tiếp đến phần hai-Dựa theo cảnh nói rõ. Có bốn đối:
Kinh: Chẳng phải thấy, chẳng phải nghe, chẳng phải nhận biết, chẳng phải hiểu biết.
Giải thích: Thật tướng thì chẳng phải sắc, cho nên chẳng phải thấy. Phi thanh cho nên chẳng phải nghe. Phi hương, vị, xúc cho nên chẳng phải nhận biết. Chẳng phải pháp trần, cho nên chẳng phải hiểu biết.
Tiếp theo là phần 5-Văn có hai đối. Dựa theo nêu, bỏ mà tỏ bày.
Kinh: Tâm hành xứ diệt-Ngôn ngữ đạo đoạn, đồng chơn tế, đẳng pháp tính.
Giải thích: Tâm hành xứ diệt-là tâm duyên lự dứt. Ngôn ngữ đạo đoạn: là ngôn thuyết chẳng thể diễn bàn. Đồng chơn tế, đẳng pháp tính: nghĩa là Vua Ba-tưnặc quán thật tướng thân, thể giống với chơn tế, lượng ngang với pháp tính. Thế nhưng các hữu tình từ vô thủy đến nay vì ngã pháp điên đảo, vì lực huân tập mà tự tha sai biệt, do vì nghiệp lực mà hình hài bị chiêu cảm ở sáu đường khác nhau. Xét về thật tướng thì đồng với chơn tế, ngang với pháp tính.
Dưới đây là Phần ba-Kết về quán Như Lai Kinh: Con dùng tướng mà quán Như Lai.
Giải thích: Vua Ba-tư-nặc nói: Con dùng những tướng đã nói trên để quán Như Lai.
Phần trên là phần trả lời thẳng, đã xong.
Tiếp đến là phần ba-Như Lai ấn kết. Trong đó chia làm hai. 1.
Ấn chứng những lời đã nói.
Kinh: Phật bảo: Này thiện nam! Như ông đã nói, các lực vô úy các pháp bất cộng... hằng hà sa công đức của chư Như Lai đều là như vậy. Giải thích: Này thiện nam! Như ông đã nói: Tức không chỉ thật tướng mà thật sự chư Phật chứng trí bình đẳng, toàn bộ mười lực, bốn vô úy, hằng hà sa công đức, các pháp bất cộng v.v… như ông nói, đều là như vậy.
Sau đây là phần hai-Biện minh quán chánh tà.
Kinh: Người tu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, phải quán như vậy, nếu quán khác đây, gọi là quán tà.
Giải thích: Người tu Bát-nhã phải quán như vậy.
"Tha quán"(quán khác): ở đoạn văn trên, chỉ nghiêng lệch giữ lấy một vế tức chẳng phải chánh quán, đều gọi là khác, là quán tà.
Đoạn văn lớn thứ ba nêu nghe pháp được lợi ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, vô lượng đại chúng, đắc pháp nhãn thanh tịnh.
Giải thích: Đức Phật trả lời vua, thuyết giảng về hộ trì quả Phật, vô lượng đại chúng nghe pháp đắc pháp nhãn thanh tịnh.
Pháp nhãn tịnh: là tuệ vô lậu. Nếu chứng ngã không, tức là Sơ quả. Người chứng pháp không, tức là Địa thứ nhất.
---------------------
Giải thích phẩm này, văn chia làm ba: 1. Biện minh ý nối tiếp. nghĩa là: Hai vấn đề được nêu ở đầu phẩm trước, thì phần một trình bày về quả đức của phẩm trước đã nói xong. Tiếp sẽ biện minh về nhân thù thắng đầy đủ ở đây. Khiến người tu hành, quán quả tu nhân, vui nguyện tiến tu, nên có phẩm này; 2. Giải thích tên phẩm; Bồ-tát là như phẩm Tự đã nói. Hạnh là khởi bi trí, tu hạnh nhị lợi (tự lợi lợi tha) là đạo vô trụ. Cách dịch cũ là "giáo hóa" là căn cứ theo môn lợi tha. Đạt được tâm bi đồng thể, thì lợi tha tức là tự lợi, cũng không nhau gì sai;
3. Chia văn giải thích, trong đó phân làm ba phần:
- Vua Ba-tư-nặc.
- Như Lai chánh đáp.
- Nghe pháp được ích.
Đây là phần một-Vua Ba-tư-nặc hỏi-nghĩa đó là sao?
Kinh: Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Hộ trì hạnh thập địa, Bồ-tát Ma-ha-tát phải tu hành như thế nào? Làm sao giáo hóa chúng sanh? Lại dùng tướng gì mà trụ để quán sát?
Giải thích: Hộ hạnh thập địa: là nhắc lại câu hỏi trước.
Bồ-tát Ma-ha-tát: là nói về người năng chủ hộ trì, (chủ thể) cả người chưa tu và người đã tu.
"Phải tu hành..." là chánh nói về ba câu hỏi.
Ý hỏi: người phát khởi tu đại thừa thì tu hành như thế nào? Nếu người tu hành thì làm sao để hóa độ tạo lợi? Hoặc tu hoặc hóa thì làm thế nào quán sát được lìa chướng, đạt đến quả đức viên mãn? Chính là để mong cầu quả đức vô thượng nên từ đầu đến cuối, chủng tánh không bị đoạn, mà nêu ba câu hỏi, không tăng không bớt. Ba câu hỏi này, là ba loại diệu quán của người phát tâm cầu Bồ-đề. Chán lìa hữu vi, vui cầu Bồ-đề, thương xót hữu tình. Ba loại tâm này theo thứ lớp sinh khởi, là đoạn, tu, hóa lợi. Lấy sau làm trước nên cũng được gọi là ba tụ tịnh giới: nhiếp thiện pháp giới, nhiếp chúng sinh giới, nhiếp luật nghi giới. Theo thứ lớp của trị đoạn, thì tu hành hóa lợi, lìa xa các chướng. Thuận theo ba câu hỏi, tức là nhân của ba đức Trí, Ân, Đoạn. Như thứ tự, có thể chứng đắc được quả Báo, hóa, Pháp thân cứu cánh.
Dưới đây là phần hai-Phật đáp riêng từng phần; gồm ba: 1. Đáp về tu hành; 2. Đáp về hóa độ chúng sinh; 3. Đáp về quán sát.
Trong phần một, đáp về tu hành. Văn chia làm hai: 1. Lược nói năm nhẫn; 2. Rộng nói năm nhẫn. Trong phần lược nói, văn lại chia làm ba:
1. Nêu chung về năm nhẫn.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Chư Bồ-tát Ma-ha-tát nương vào pháp năm nhẫn để tu hành.
Giải thích: Đó là nêu chung. Dưới đây là phần hai-Liệt về năm nhẫn.
Kinh: Đó là Phục nhẫn, Tín nhẫn, Thuận nhẫn, vô sinh nhẫn, mỗi nhẫn đều có thượng, trung, hạ, còn Tịch diệt nhẫn chỉ có thượng và hạ.
Giải thích: Nhẫn nghĩa là chấp nhận nhẫn chịu. Lấy tuệ làm thể, tương ứng với trợ bạn đủ tính năm uẩn.
Phục nhẫn: Phục là chiết phục. Ở ngôi vị Tam hiền, chưa tự mình chứng được lý, nương theo lực thắng giải mà tu chánh quán, cả hai môn phước và trí, tự lợi lợi tha đều chưa mất tướng. Phân biệt hai chướng khiến cho không khởi hiện hành. hai tùy miên Thủ đã điều phục nhưng chưa đoạn dứt, nên gọi là Phục nhẫn. Tức nhẫn của nhẫn, nhẫn có phục ấy. Với ba nghĩa trên mà được tên, tức là Tương tự giác trong luận Khởi Tín nói.
Tín nhẫn: Tín là chứng tín, Sơ địa, hai địa, ba địa gọi là Tín nhẫn.
Thuận là thuận hướng, thuận hướng vô sinh. Địa thứ năm, địa thứ sáu, gọi là Thuận nhẫn.
Vô sinh: gọi là "Như" Địa thứ bảy, địa thứ tám, địa thứ chín tuệ thường chiếu lý, gọi là vô sinh nhẫn.
Tịch diệt tức "Như". Địa thứ mười, Phật địa, chiếu tịch, tịch chiếu, gọi là tịch diệt nhẫn.
Vì đại quả khó chiêu cảm, nên phải trải qua năm nhẫn, vì vạn hạnh khó đủ nên lần lượt mà tu. Từ nhân đến quả, tổng cộng mười bốn nhẫn.
Nhưng bàn về năm nhẫn này, thì Kinh Luận nói khác nhau:
Như Kinh Bản Nghiệp Anh lạc lược chia làm sáu tính: 1. Tập chủng tính: tức là thập trụ; 2. Tính chủng tính: tức là thập hạnh; 3. Đạo chủng tính tức là mười hồi hướng; 4. Thánh chủng tính tức là địa thứ mười; 5. Đẳng giác tính là tâm Kim cang tâm; 6. Diệu giác tính là địa Như Lai. Còn gọi là sáu tuệ: văn tuệ, tư tuệ, tu tuệ, vô tướng tuệ, tịch chiếu tuệ, tuệ tịch chiếu, như theo thứ tự của sáu tính. Với sáu sinh kia đủ nêu rõ bốn mươi hai quả vị Hiền Thánh. Tuy năm nhẫn ở kinh này khác với số kê về sáu tính ở kinh kia, nhưng hai tính sau của kinh kia kết hợp là Tịch diệt nhẫn của kinh này thì nghĩa không gì sai.
Lại nữa, Luận Du-già quyển bốn mươi bảy nói về mười ba trụ:
1. Chủng tính trụ: tức là bản tính trụ chủng tính, chưa nhập tăng kỳ, tức giống với vị thập thiện của kinh này.
Luận kia nói: nghĩa là tính của chư Bồ-tát vốn tự nhân hiền, tự thành tựu công đức của Bồ-tát. Bồ-tát ứng hợp với nhiều pháp thiện, cũng hiển hiện do tính nhân hiền, gấp tạo phương tiện, khiến chuyển ở thiện, chẳng do xét chọn, có chỗ chế ước, có chỗ phòng giữ. Trụ trong trụ này thì trụ giữ tất cả chủng tử Phật pháp. Ở trong tự thể, đã có đầy đủ tất cả Phật pháp, tất cả chủng tử, Không thể hiện khởi phiền não thượng phẩm trói buộc, tạo nghiệp vô gián, hoặc đoạn thiện căn. Nói chi tiết như trong Luận kia.
2. Thắng giải hạnh trụ: Tức giống với ba phẩm của phục nhẫn ở kinh này. Luận ấy nói: chư Bồ-tát từ mới phát tâm cho đến chưa đắc ý lạc thanh tịnh, toàn bộ tất cả các hành Bồ-tát, nên biết đều gọi là Thắng giải hạnh trụ. Ở trong trụ này, hiện bày khắp ở tất cả Bồ-tát trụ còn lại và Như Lai trụ, đều gọi là phát khởi hướng đến (Phát thú). Trong trụ trước, tuy tu các thiện, vì tính nhân hiền, nhưng những điều mình đã làm đều chẳng phải là Bồđề, cố ý mà làm, chưa được gọi là phát khởi hướng tới, không nhập tăng kỳ. Còn những thứ tu ở trụ này đều gọi là phát khởi hướng tới. Nhưng trong trụ này, bằng lực tư trạch gia hạnh thực hành mạnh hơn, vì tu tuệ chưa đắc kiên cố, tương tục không thối chuyển. Pháp sư Từ Ân nói: Đó là nói chưa đạt. Tu tuệ vô lậu, không phải nói trụ này không đạt tu tuệ hữu lậu. Hoặc đó là nói về khi mới phát tâm. Bồ-tát mười tín, tám tướng thành đạo, chưa vượt quá năm thứ sợ hãi, những tu tuệ vốn có chưa kiên cố. Lại nữa, ở trong ba xứ quên mất chánh niệm.
Ở cảnh giới vừa ý hay không vừa ý, sáu cảnh như sắc v.v... tâm bị điên đảo, quên mất chánh niệm.
- Ở trong những thân thọ sinh, đã thọ sinh rồi thì quên mất những chuyện kiếp trước.
- Với các pháp đã thọ trì, quên mất những điều đã làm, đã nói trước đây. Hoặc ở một thời nào đó, đầy đủ trí tuệ minh mẫn, vì người khác mà thuyết pháp, cố gắng mà chuyển, như bắn tên ở trong bóng tối hoặc trúng hoặc không trúng. Hoặc ở một thời, với đại Bồ-đề, tuy đã phát tâm nhưng lại thối bỏ. Hoặc có lúc dứt bỏ những luật nghi tịnh giới mà mình đã thọ học, không thể thọ học. Hoặc có lúc xả bỏ việc làm lợi lạc cho hữu tình sinh ra nhàm chán việc làm lợi ích an lạc chưa được rộng lớn. Ở trong những thứ chư Bồ-tát học, chưa thể học hết. Đối với những tướng của Bồ-tát, đều chưa thành tựu, chưa thể hiện bình đẳng trong những gia hạnh chân chính của hai loại Bồ-tát xuất gia và tại gia. Những tướng trạng của các hành đã nói ở đây, khi hạ nhẫn chuyển sang các hành thượng phẩm, khi trung nhẫn chuyển thì các hành ở trung phẩm, khi thượng phẩm chuyển thì các hành ở hạ phẩm, mà mỏng nhẹ dần. Lúc nhập Sơ địa thì tất cả những tướng này đều không có.
3. Cực hoan hỷ trụ: còn gọi là Tịnh thắng ý lạc trụ, tức là tín nhẫn bậc hạ của kinh này.
4. Tăng thượng giới trụ: Tức là tín nhẫn trung phẩm.
5. Tăng thượng tâm trụ: Tức là tín nhẫn thượng phẩm.
6. Giác phẩm tương ưng tăng thượng tuệ trụ: Tức là thuận nhẫn hạ phẩm.
7. Các đế tương ưng tăng thượng tuệ trụ: Tức là thuận nhẫn trung phẩm.
8. Duyên khởi lưu chuyển chỉ tức tương ưng tăng thượng tuệ trụ: Tức là thuận nhẫn thượng phẩm.
9. Vô tướng hữu công dụng trụ: Tức là vô sinh nhẫn hạ phẩm. 10 Vô tướng vô công dụng tru: Tức là vô sinh nhẫn trung phẩm.
11. Vô ngại giải trụ: Tức là vô sinh nhẫn thượng phẩm.
12. Tối thượng thành mãn Bồ-tát trụ: Tức là tịch diệt nhẫn hạ phẩm.
13. Tối cực Như Lai trụ: Tức là tịnh diệt nhẫn thượng phẩm.
Tuy mười ba trụ so với mười bốn nhẫn, là thiếu một mà lại rộng. Vì chủng tính trụ thứ nhất, không gồm thâu nhẫn. Giống với tụng sau của kinh này nói vị thập thiện. Nếu lấy vị Thập thiện làm phương tiện nhẫn thì con số của luận kia so với kinh này là tương đương. Luận Nhiếp Đại Thừa thì từ mười Tín cho đến Phật địa gồm có ba mươi bốn nhẫn. Địa tiền có ba nhẫn, trong địa thứ mười, mỗi địa có ba nhẫn thành ba mươi nhẫn, Phật địa có một nhẫn, thành ra là ba mươi bốn nhẫn. Lại nữa, Ngài Chân đế chú thích: năm nhẫn này, mỗi nhẫn trị ba chướng. Luận Du-già quyển bảy mươi chín nói là địa thứ bảy. Luận Duy thức thì nói là: Năm vị tu tập, đều cùng thuộc về năm nhẫn trong kinh này. Người giảng xin nêu ra như vậy.
Hỏi: Kinh liệt kê các nhẫn nói là thượng, trung, hạ. Thuận lý thì phải nói là hạ, trung, thượng, vì sao không theo thứ tự như thế?
Đáp: Căn cứ theo chủ thể hành hạnh thì lý thật phải vậy, nhưng nếu dựa theo chướng để đối trị thì cũng không trái với lý.
Tiếp sau là phần ba. Kết luận, chỉ bày tu hành.
Kinh: Gọi là Bồ-tát tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: Là phần kết.
Sau đây là phần hai-Nói rộng về năm nhẫn, trong đó chia làm hai: 1. Rộng nói về năm nhẫn; 2. Kết luận, tu các nhẫn.
Nói rộng về năm nhẫn, văn lại chia làm năm:
1. Nói về Phục nhẫn, trong đó chia làm ba phần:
- Tập chủng tính.
- Tính chủng tính.
- Đạo chủng tính.
Trong phần một-Tập chủng tính, chia làm ba:
- Nêu vị-Biện minh tướng.
- Chánh giải tu hành.
- Kết làm Thánh thai.
Đây là phần một-Nêu vị biện minh tướng
Kinh: Này thiện nam! Thứ nhất là vị Phục nhẫn, khởi tập chủng tính, tu hạnh Thập trụ.
Giải thích: "Vị Phục nhẫn": Trong năm nhẫn, Phục nhẫn xếp thứ nhất. Bên trong phục nhẫn, là vị đầu tiên trong ba phẩm, bắt đầu nhập vào Tăng kỳ, nên gọi là "thứ nhất". "Phục" nghĩa là chiết phục, "nhẫn" nghĩa như trên. "vị" là ngôi vị, vị thứ. Đây là hạ nhẫn.
"Khởi tập chủng tính": Khởi là sinh khởi, vượt qua thập thiện trước đó, nhập vào vị nhẫn. Tập là tu tập. "chủng tính" là tương ưng thuận lý, làm nhân thù thắng cho về sau này, nên được gọi là "chủng" do hiện chủng huân tập, tập thành tính.
"Tu hạnh thập trụ": Kinh này chỉ lược nêu không liệt kê các tên gọi của thập trụ. Như kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập trụ nói; là Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ, Sinh quý trụ, Cụ túc phương tiện trụ, Chánh tâm trụ, Bất thối trụ, Đồng chơn trụ, Vương tử trụ, Quán đảnh trụ. Về hành tướng của trụ thì đến đoạn sau sẽ nêu rõ.
Kế tiếp là phần hai-Chánh giải tu hành, trong đó có bốn:
1. Tướng Phát tâm:
Kinh: Một là Tướng phát tâm, có hằng hà sa chúng sanh thấy Phật Pháp Tăng.
Giải thích: "Một là tướng phát tâm": Ngài Tam Tạng Trương Nhĩ nói: Thứ nhất là tập chủng tính có ba tướng phát tâm: 1. Phát tưởng giả;
2. Phát tưởng khinh; 3. Tín tưởng phát.
Phát tưởng giả: Nhờ ba loại lực: 1. Thiện hữu lực: là thiện tri thức;
2. Hạnh lực: là thọ luật nghi; 3. Pháp lực: là hai nhân chung và riêng. Chung là Như Lai tạng. Biệt là năm căn như Tín... nhờ ba lực đó, ở Bồ-đề Phật, giả khởi tưởng Bồ-đề, để cầu tự an và an cho các hữu tình.
Giống như các Thanh văn quán các thứ chẳng phải màu xanh, giả khởi tưởng màu xanh nên có thể chế phục được hoặc. Đây cũng vậy nên gọi là phát tưởng giả. Từ đó về sau, những tưởng tiếp theo, tu tập không ngừng, nghĩa còn khó biết, ví như sợi lông nhẹ, không vướng mắc vào đâu, gọi là phát tưởng khinh. Tiếp tục, những tâm sau này, ngọc tín hiển hiện, gọi là tín tưởng phát, đắc nhập mười tín, gọi là Tướng phát tâm.
"Có hằng hà sa chúng sanh": Đây là nói về số người phát tâm tuy nhiều, nhưng người đạt đến bất thối, nhập vào vị nhẫn thì con số rất ít. Ví như trứng cá và hoa của cây Am La, cả hai thứ đó tuy số rất nhiều nhưng kết thành cá con và trái thì rất ít.
"Thấy Phật Pháp Tăng": là nói về duyên phát tâm, hoặc lại nghe thuyết về tam bảo nhất thể, tự tính thường trụ, hoặc thấy biệt tướng của trụ trì Tam bảo, do lực chỉ dạy, ở trong Tam bảo, phát khởi vô thượng, tưởng phước điền, tốt đẹp sinh tin chắc, nhập vào mười tín.
Tiếp sau là phần hai-Nói về tâm mười tín:
Kinh: Phát khởi mười tín, là tâm tín, tâm niệm, tâm tinh tiến, tâm tuệ, tâm định, tâm bất thối, tâm giới, tâm nguyện, tâm hộ pháp, tâm hồi hướng, tức đủ mười tâm đó.
Giải thích: Câu đầu là nêu chung:
Tâm Tín: là trong lắng làm tính, khéo thuận Tam bảo, lìa bất tín.
Tâm Niệm: là tính ghi nhớ rõ, khiến cho tâm chẳng đoạn, lìa sự quên niệm.
Tâm Tinh tiến: cả ba nghiệp đều cố gắng, đều khiến bất thối, lìa biếng nhác.
Tâm Tuệ: là lựa chọn làm tính, khiến tâm trị đoạn lìa ác kiến. Tâm Định: là chuyên chú làm tính, khiến tâm chẳng động, lìa tán loạn.
Năm tâm trên tức là năm căn, sinh ra tất cả các công đức, cũng tức là năm lực, không bị tất cả những chướng ngại mình đối trị làm khuất động.
Tâm Bất thối: khiến cho năm căn lực, có đủ sức chịu đựng, sẽ không bị thối chuyển khởi tà kiến mạnh chặt đức thiện căn làm xiển đề. Vì vậy mà quyển sau nói: "Nếu đạt đến vị nhẫn, nhập chánh định tụ, không tạo năm nghịch, không hủy báng Phật pháp". Do vậy mà nói đạt đến tâm thứ sáu thì không bị những thứ bất thiện làm cho thối động. Là tín bất thối trong bốn bất thối.
Tâm Giới: ngăn chặn đề phòng thân, ngữ, khiến cho tâm được điều hòa, lìa sự phá giới.
Tâm Nguyện: Về thể thì như trên đã nói, cầu Bồ-đề, nguyện lợi lạc hữu tình, nguyện không bị gián đoạn.
Tâm Hộ Pháp: Là thủ hộ sáu căn, lìa cảnh trần, bảo vệ, giữ gìn chín tâm kia, đừng để bị mất, hoặc với Tam bảo, không tiếc thân mạng, thường bảo vệ.
Tâm Hồi hướng: Là chín tâm đã tu trên và Hạnh thù thắng, hồi hướng thí cho chúng sanh, hồi hướng cầu Bồđề, Hồi hướng Niết-bàn, không cầu pháp Thế gian và Nhị Thừa.
Lại nữa, Kinh Anh Lạc nói: Mười tâm hổ trợ nhau, mỗi tâm có mười, tức là tu hành môn trăm pháp sáng tỏ, thường phát vô lượng vô đại nguyện, hữu hành, vô hành, đắc nhập Tập chủng tính.
Đủ mười tâm: Là đối với mười tâm, cần phải tu cho đầy đủ, thiếu một trong những tâm đó thì chẳng phải là ngôi vị này. Mười thứ đó đều gọi là tâm, vì tâm thì lấy duyên lự làm chính. Năm tâm từ tâm tín đến tâm thứ năm là tâm Sở Pháp luôn dựa nơi tâm trụ khởi tất tương ưng. Năm tâm sau từ tâm bất thối là thắng dụng của chúng. tâm tự tại, nên đều gọi là tâm. Đoạn trên kinh này đã nói: "Thứ nhất là vị phục nhẫn, khởi tập chủng tính, tu hạnh thập trụ." Nay liệt kê ra mười Tín, nói là đủ mười tâm, tức là ý nói người tu đủ cả mười tâm mới nhập Thập trụ. Do đâu mà biết? Kinh Anh Lạc nói: Cả Hiền và Thánh, có mười tâm đó, mới gọi là Thập Trụ.
Trong kinh Hoa Nghiêm vốn nói đủ cả hạnh vị. Địa Tiền có ba mươi, Thập trụ là đầu không khác với thập tín, không ứng hợp thập tín tức cho là ngoại phàm. Tức trái với vị Phục nhẫn ở kinh này. Do đây Thập Thiện, tuy là tu hành, nhưng có tiến có thối giống như lông tơ. Với mười ngàn kiếp, tu tập tăng thắng, đầy đủ không thối chuyển mới gọi là nhập kiếp, xưng là vị Tập nhẫn, tức trong Thập trụ thuộc về Phát tâm trụ.
Dưới đây là phần ba: Lợi sinh sai khác.
Kinh: Mà Nhưng có thể giáo hóa một phần ít các chúng sanh Giải thích: Nói về lợi tha. Như đoạn sau nói: "Tập chủng Đồng luân, giáo hóa hai thiên hạ. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát trụ này khuyên học mười pháp, là siêng cúng dường Phật, thích trú nơi sanh tử, chủ đạo hướng dẫn thế gian, khiến trừ nghiệp ác, dùng pháp thắng diệu thường hành dạy bảo, tán thán pháp vô thượng, học công đức
Phật, sinh trước chư phật, thường nhờ thâu nhận, tạo phương tiện diễn thuyết Tam muội tịch tĩnh, tán thán việc xa lìa sinh tử luân hồi, làm chỗ quy y cho những chúng sanh khổ nạn.
Pháp thứ ba-Chủ đạo thế gian, tức là Luân vương này.
Pháp thứ mười: Làm chỗ quy y cho chúng sanh khổ nạn, tức là tám tướng thành Phật.
Kinh này nói: "giáo hóa các chúng sanh", tức là trong kinh Hoa Nghiêm nói thế, xuất thế giáo hóa.
Hỏi: Sau khi gồm vào bậc đầu, phải biết Thập trụ, Nếu vậy sao lại nói là giáo hóa một phần nhỏ.
Đáp: So với Thập thiện trước thì có thể nói là lớn, nhiều. Nhưng so với những ngôi vị sau thì chỉ nói là một phần nhỏ.
Tiếp theo là bốn phần-Vượt địa Nhị thừa.
Kinh: Vượt quá, tất cả Địa Thiện của Nhị Thừa.
Giải thích: Vượt qua quả Hữu học và vô học của Nhị Thừa.
Tất cả Địa Thiện: Theo kinh Đại Bát-nhã: Cả ba Thừa cùng hành chung địa thứ mười: 1. Càn-tuệ-địa; 2.
Tính Địa; 3. Bát Nhân Địa; 4. Kiến Địa; 5. Bạc Địa; 6.
Ly Cấu Địa; 7. Dĩ Biện Địa; 8. Độc Giác Địa;
9. Bồ-tát Địa; 10. Như Lai Địa.
Trong địa thứ mười này, Bồ-tát là địa thứ chín. Nay Tập chủng vị ở đây, do phát đại tâm, cùng tu hai lợi, tuy là Hạ nhẫn nhưng vượt cả địa thứ tám trước, nên bảo là vượt quá tất cả địa thiện. Lại nữa, nói theo nghĩa thì Nhị thừa đều dùng Hữu Kiến mà tu vô học, Bồ-tát thì siêu vượt những thứ kia, nên bảo là tất cả.
Sau đây là phần ba-Kết, làm Thánh thai.
Kinh: Đó là Bồ-tát, bắt đầu nuôi dưỡng tâm, là Thánh thai.
Giải thích: Ở Vị ba Hiền, đều gọi là Thánh thai. Nêu ra ở đây là thâu nhiếp gồm luôn ở những ngôi vị khác.
Thai: Tự chủng làm nhân, bạn thiện làm duyên, do Tịnh pháp giới, đẳng lưu của nghe, chánh pháp, tu tập nuôi lớn. kiến đạo của sơ Địa, sinh vào nhà Phật.
Tiếp đây là phần hai-nói về tính chủng tính, trong đó có ba phần:
1. Nêu vị, biện minh tướng; 2. Chánh giải tu hành;
3. Kết, vượt đảo tưởng.
Đây là phần một-Nêu vị, biện minh tướng.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Tính chủng tính tu hành mười loại Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Tính chủng tính: Tính nói ở đây là tính của Tập chủng trước đã tu tập mà thành, nên bảo là Tính. Nói? "chủng tính": Tập chủng tính trước đã hiện rõ, như nhân đồng loại, dẫn sinh ra chủng tính này. Tức là hạt giống của Tính, tính chất của hạt giống.
Hỏi: Luận Du-già nói: 1. Bản tính trụ chủng tính. 2. chủng tính do tu tập mà thành.
Kinh này lại nói: 1. Tập chủng tính; 2. Tính chủng tính. Vì sao Kinh và Luận nói về hai tính đó thứ tự trước sau lại trái nhau?
Đáp: Ý trong Luận nói là: Trước tiên lấy tính làm gốc, nương theo gốc tu tập, sau đó quen dần thành tính. Ý trong Kinh nói là: Trước tiên là tu tập, tập thành chủng tính, sau đó lấy cái tập thành làm tính chủng tính. Luận thì dựa theo góc tập, chưa tập, đã tập, còn Kinh thì chỉ Tu tập, mới tập, Tập lâu. Mỗi cách nói đều căn cứ theo một nghĩa, cũng không trái nhau.
Nói Bồ-tát: là Bồ-tát Thập hạnh. Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập hạnh nói là: Hạnh Hoan hỷ, Hạnh nhiêu ích, Hạnh không trái nghịch, Hạnh không quấy nhiễu, Hạnh lìa Si Loạn, Hạnh Thiện Hiện, hạnh không chấp trước, hạnh nan đắc, hạnh thiện pháp, hạnh chơn thật.
Tu hành mười loại Ba-la-mật đa: là thực hành mười độ. Bồ-tát Thập hạnh, mỗi bậc tu một Hạnh, tức là mười độ.
Tu hành những gì? Các hành Bố thí, Trì giới... gọi là Ba-la-mật đa. Luận Duy thức nói: phải được thâu nhận thọ trong bảy tối thắng, mới có thể kiến lập Ba-la-mậtđa. 1. An trụ tối thắng; nghĩa là phải An trụ nơi chủng tánh Bồ-tát; 2. Y chỉ tối thắng; là phải y chỉ nơi tâm Đại Bồ-đề; 3. Ý Lạc tối thắng: là phải thương xót tất cả Hữu tình; 4. Sự nghiệp tối thắng: là phải thực hành đủ tất cả sự nghiệp; 5. Xảo tiện tối thắng: là phải thuộc về trí vô tướng. 6. Hồi hướng tối thắng: là phải Hồi hướng đến Bồ-đề vô thượng; 7. thanh tịnh tối thắng là không bị hai chướng xen tạp. Nếu người thọ trì chẳng thuộc về bảy điều trên thì những hạnh mà mình tu chỉ gọi là Bố thí... chẳng phải là đến bờ giác (Ba-la-mật). Bồ-tát ở Ngôi vị này, nương theo tương tự mà tu chứng, những hạnh khi đăng Địa đều đạt đến bờ giác.
Tiếp đến là phần hai-Chánh giải tu hành. Trong đó chia làm ba:
1. Nêu mười đối trị. 2. Chánh giải về đối trị, 3. Lợi sinh sai khác, đây là phần một-Nêu mười đối trị.
Kinh: khởi 10 đối trị:
Giải thích: Khởi: nghĩa là Sinh khởi. 10: là nêu chung. Đối là đối quán. Trị tức là trị bỏ.
Kế tiếp là phần hai-Chánh giải về đối trị. Văn có ba phần:
1. Đối trị bốn đảo:
Kinh: Nghĩa là quán sát thân, thọ, tâm, pháp là bất tịnh, các khổ, vô thường vô ngã.
Giải thích: Quán sát: Quán: là Đối Quán. Sát: là xem xét, thẩm xét. Thể của quán là Tuệ.
Thân Thọ tâm pháp; là cảnh sở quán. Thân: là sự tương tục. Như trong Trí Luận nói: Thân: là sắc uẩn Thọ: là Thọ uẩn. Tâm là Thức uẩn. Pháp xứ, pháp giới đều gọi là pháp. Bất tịnh v.v... là hành của năng tri. Do lực vọng phân biệt từ vô thủy đến nay, nên đối với Thân, thọ v.v... cho là tịnh. Nhờ quán sát mà biết Thân là bất Tịnh, biết Thọ đều là khổ, biết tâm là vô thường, biết pháp là vô ngã, nên lìa tưởng điên đảo. Lại nữa, hiểu rõ được Thân, Thọ... tự tính của chúng là "không", thì đều Lìa bỏ tất cả đảo.
Sau đây là phần hai-đối trị ba độc:
Kinh: đối trị ba căn bất thiện: tham, sân, si. khởi ba loại căn thiện: thí, từ, tuệ.
Giải thích: Trị: là nêu chung năng tri và sở tri tham sân si là sở tri. nghĩa là: Do ý thức đối cảnh vừa ý thì sự tham muốn càng tăng theo, với cảnh không vừa ý thì sân hận tăng theo. Cảnh trung bình thì vô minh tăng theo. Vì ba loại căn bất thiện căn đó mà sinh ra mạn... và tùy phiền não. Nếu cả ba thứ đó đều được điều phục thì các tùy phiền não khác cũng được chế phục.
Khởi thí, từ, Tuệ: là hành của năng trị. Thí là không tham, xả thí tài và pháp. Từ: là không sân, cho người khác niềm vui. Tuệ là do không Si, tức là Chánh Tuệ. Nhờ ba loại căn thiện đó mà sinh ra các công đức của vạn hạnh.
Kế đến là phần ba-Đối trị Tam thế (ba đời).
Kinh: Quán sát ba đời: nhẫn nhân của quá khứ; nhẫn nhân quả của hiện tại, nhẫn quả của vị lai.
Giải thích: Thể của nhẫn tức là Tuệ đã giải thích như trên.
Quán nghiệp quá khứ, khởi nhẫn nhân quá khứ từng làm. Quán sắc tâm hiện tại là quả của nhân quá khứ từng làm, là nhân của quả đương lai mà khởi nhẫn về nhân quả. Quán pháp vị lai khởi nhẫn về quả đương lao.
Quán pháp vị lai, khởi Quả nhẫn sẽ có. Tuy chỉ là hiện tại, Thể của Quá khứ, vị lai không có, nhưng do sự báo trả và sự dẫn khởi mà giả biến thành Quá Khứ, vị lai. Lại nữa, theo pháp duyên sinh là: vô minh hành làm nhân của đời trước. năm chi thức v.v... làm Quả hiện tại. Ái, Thủ, hữu, làm Nhân hiện tại. Sinh, Lão tử làm Quả vị lai. Đó là dựa theo phần vị nơi Nhân quả của ba đời. Vì để phá chấp cho là không có nhân quả và chấp Đoạn Thường, khiến biết Nhân duyên như huyễn ảo, tựa như có quán sát. Bồ-tát ở vị này, quán bốn thứ; Thân, Thọ tâm pháp... để lìa bốn đảo. Quán ba thứ tâm v.v... mà lìa sự trói buộc trong tu hành. Quán pháp ba đời (thời gian) có nhưng không thật. Vì vậy khiến cho quán sát, để tu hạnh tốt hơn.
Dưới đây là phần ba-Phạm vi lợi sinh.
Kinh: Bồ-tát nơi vị này, rộng làm Lợi ích chúng sinh Giải thích: Tính Chủng làm Ngân Luân vương, hóa độ ba thiên hạ, hơn vị Tập chủng trước, cho nên bảo là rộng làm lợi ích.
Kinh: vượt quá các tưởng Ngã kiến, Nhân kiến, Chúng sanh kiến... không bị các tưởng điên đảo của ngoại đạo hủy hoại.
Giải thích: Ngã, Nhân v.v... là các loại Ngã như Thọ giả, Tác giả, Mệnh giả, Sĩ phu.
Ngoại đạo: là các Sư của Tà Luận
Tưởng đảo: là bốn tưởng đảo, tương ưng với bốn tướng điên đảo.
Không thể hủy hoại: Người năng chấp (tà sư) và pháp sở chấp của họ (tà pháp) không thể hủy hoại, Vì do lực Thắng giải của Bồ-tát đó đều vượt qua các tà sư, tà pháp.
Sau đây là phần ba: Nói về Đạo chủng tính. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu vị, biện minh Tướng:
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Đạo chủng tính tu mười Hồi hướng.
Giải thích: Đạo chủng tính: là địa thứ nhất bình đẳng với Thánh đạo. Đây dẫn khởi cho kia sinh làm hạt giống cho Đạo. Tính của Hạt giống, hạt giống của Đạo, gọi là Đạo chủng tính, cả hai đều nương vào chủ.
Nói Bồ-tát: là nêu người thực hành (chủ thể).
Tu Mười hồi hướng: là Lược nêu. Như Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Thập Hồi hướng nói: là Hồi hướng cứu hộ tất cả chúng Sanh, lìa chúng sanh. Hồi hướng Bất Hoại. Hồi hướng đẳng nhất thiết Phật. Hồi hướng đến tất cả xứ. Hồi hướng vô Tận Công Đức Tạng. Hồi hướng tùy thuận kiên cố tất cả Thiện căn. Hồi hướng Cùng Tùy Thuận tất cả chúng Sanh. Hồi hướng chơn thật. Hồi hướng giải thoát không bị vướng mắc, không bị trói buộc. Hồi hướng vô lượng pháp giới bình đẳng. nghĩa của chúng như sau sẽ giải thích.
Tiếp đến là phần hai-Chánh giải tu hành. Trong đó có hai phần:
1. Nêu chung về mười nhẫn:
Kinh: Khởi mười tâm nhẫn
Giải thích: Đây là nêu chung.
Sau đây là phần hai-Chánh biện minh về đối trị. Trong đó có ba:
1. Đối quán năm nhẫn.
Kinh: nghĩa là quán năm uẩn: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức, đắc giới nhẫn, định nhẫn, tuệ nhẫn, giải thoát nhẫn, giải thoát tri kiến nhẫn.
Giải thích: Năm uẩn và nhẫn, nghĩa chúng như trên đã giải thích. Đối quán năm uẩn, đắc uẩn giải thoát. nghĩa là, Quán lỗi lầm của tự thân, lời nói, do Lực của tư nguyện, chặn ngừa bảy chi tội về thân ngữ mà đắc giới nhẫn. Tiếp nữa là quán Thọ uẩn, vọng sinh thâu nạp các thọ lay động, do Định Chuyên chú mà đắc Định nhẫn. Tiếp nữa là quán Tưởng uẩn, giữ lấy những hình ảnh yêu, ghét... lý luận phân biệt, khởi lên các danh từ, ngôn ngữ, lời nói, như Họa sĩ, tô màu vẽ cảnh, do Tuệ phân biệt lựa chọn giản trạch mà đắc Tuệ nhẫn, Tiếp nữa là quán hành uẩn, tạo tác nhiều loại nghiệp trong ba cõi, bị sinh tử trói buộc, do Tuệ lìa trói buộc (Ly hệ) mà giải thoát tự tại, đắc Giải thoát nhẫn. Sau là quán Thức uẩn, do vọng tưởng phân biệt, khởi các tri kiến chấp giữ sáu trần. Do Tuệ không phân biệt, (vô phân biệt trí) mà giải thoát thanh tịnh, đắc giải thoát tri kiến nhẫn. Từ đối năm uẩn mà đắc giải thoát uẩn. Đó là dựa theo ngôn thuyết mà kiến lập theo thứ tự. Như theo thật nghĩa thì dùng Tuệ vô phân biệt, quán năm uẩn đều là không, ở trong từng mỗi niệm đều có đủ năm nhẫn.
Kế tiếp là phần hai-Đối quán ba nhẫn
Kinh: Quán nhân quả trong ba cõi đạt được không nhẫn, vô tướng nhẫn, vô nguyện nhẫn.
Giải thích: Ba cõi là Xứ nương tựa để quán.
Nói Nhân quả: Là nghiệp nhân, thức quả tức là chủ thể sinh. Quán năng cảm, sở cảm mà đắc ba nhẫn. nghĩa là đối với ba cõi và nhân quả kia, chấp là có "thể" thật, quán đó là không chỉ do biến kế mà đắc không nhẫn. Không đó hiển rõ ra Chơn Như thanh tịnh, không có mười tướng, cho nên đắc vô tướng nhẫn, Nhân và Quả Hữu Lậu là hư vọng chúng sinh, nương theo đó mà tu hành, đối với nhân quả này không nguyện cầu nên đắc vô nguyện nhẫn
Dưới đây là phần ba-Đối quán hai nhẫn.
Kinh Quán hai đế giả thật, các pháp vô thường, đắc vô thường nhẫn. Tất cả pháp không, đắc vô Sinh nhẫn.
Giải thích: Quán hai đế Giả Thật; Giả tức là Thế Tục. Thật tức là Thắng nghĩa, là nêu hai đế.
Các Pháp vô thường, đắc vô thường nhẫn Hữu Vi thì biến đổi tàn lụi, sát-na không dừng, đắc vô thường nhẫn. Quán tất cả pháp không có tự tính, Thể rỗng lặng, chẳng sinh diệt, đắc vô sinh nhẫn. Cả hai thứ đó dẫn khởi sinh ra hai loại chánh quán an lập và phi an lập đến phần sau sẽ nêu rõ. Bồ-tát ở vị này quán uẩn lưu chuyển, đắc uẩn giải thoát. Quán nhân quả trong ba cõi, đắc Tam không nhẫn. Quán hai đế thật giả, đắc vô sinh nhẫn, đều là nương theo giải thoát đối trị Đảo, tiến tu dẫn sinh Thánh đạo mà chứng Địa thứ nhất.
Kế đến là phần ba-kết, nói rõ việc hóa độ lợi ích.
Kinh Bồ-tát ở vị này, làm Chuyển Luân vương, có thể rộng hóa độ tạo lợi lạc cho tất cả chúng sinh.
Giải thích: Tức là kim Luân vương, giáo hóa bốn thiên hạ, vượt qua vị trước, nên bảo là "rộng hóa độ".
Sau đây là phần hai-Nói về vị Tín nhẫn. Văn chia làm ba phần như trên: 1. Nêu nhẫn, biện về vị.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát Tín nhẫn là Địa Hoan hỷ, Địa Ly cấu, Địa Phát Quang.
Giải thích: Đó là Thánh Vị:
Nói Tín nhẫn: Là chứng Tín. Bồ-tát ở vị này chính mình chứng Chơn như, tam bảo và Giới đều là chứng tịnh, nên ba Địa này cùng gọi là Tín nhẫn. Tuy các Địa sau cũng có bốn thứ này (Tam bảo và giới), nhưng đây là mới bắt đầu hiện chứng được nên gọi là chứng Tịnh, gia hạnh và hậu đắc đa phần là duyên theo đó.
Hoan hỷ: nghĩa là mới bắt đầu đạt được tánh Thánh, chứng đủ cả hai Không, có thể làm ích lợi cho mình và người nên sinh đại hỷ.
Địa: là chỗ nương vào đó mà sinh trưởng, Trí, Như tương ưng.
Phần sau sẽ nêu rõ.
Địa Ly cấu: là có đủ tịnh Thi la thanh tịnh, xa lìa các phiền não cấu các thứ hủy phạm giới vi tế.
Địa Phát Quang; là Thành tựu định thù thắng, đại pháp tổng trì, có thể phát vô biên Tuệ Quang vi diệu.
Dưới đây là phần hai: Chánh giải tu hành, trong đó chia làm hai:
1. Đoạn trừ ba chướng.
Kinh: Có thể đoạn trừ ba chướng, phiền não trói buộc của Sắc.
Giải thích: Nói ba chướng là: như phần sau của kinh nói: Sơ Địa diệt các Tham trong ba cõi. Địa thứ hai đoạn tập Sân… Địa thứ ba diệt vô minh ám. Ba chướng này đến phần sau sẽ nói rõ. Về chướng bị đoạn như Luận Duy Thức quyển mười nói: Chướng có hai loại:
1. Phiền não chướng.
2. Sở tri chướng.
Trong Phiền não chướng, loại do Kiến đạo đoạn thì Nhị thừa kiến đạo, đều có thể đoạn dứt hết. Còn loại do Tu đạo đoạn, thì đến định Kim-Cang mới có thể đoạn dứt hết. Hoặc Bồ-tát thì loại do kiến đạo đoạn đến kiến đạo đoạn hết, còn loại do Tu đạo đoạn thì phải đến định Kim cang, trong một lúc tức thì đoạn dứt. Trong Sở tri Chướng loại do kiến đạo đoạn cũng đến kiến Đạo thì đoạn. Còn loại do tu đạo đoạn thì từ sau Sơ Địa cho đến định Kim-cang mỗi Địa đoạn riêng từng phần. Kinh này nói ác chướng ở ba Địa cùng hiện hành với Tham, Sân, Si và loại do tu đạo đoạn.
Khắp sáu thức, có thể phát khởi nghiệp sắc hoặc là duyên với cảnh sắc, gọi là phiền não sắc, Tự tính của phiền não là pháp trói buộc, nên gọi là "trói buộc". nghĩa là trong cả ba địa mỗi địa đều tu hạnh thù thắng. Tham đều trừ bỏ vĩnh viễn gọi là đoạn.
Sau đây là phần hai: Nói về các hành. Trong đó chia làm hai: 1.
Tu các hành; 2. Kết về Hạnh căn bản.
Trong phần một-Tu các hành, lại chia làm bốn:
1. Bốn Nhiếp pháp.
Kinh: hành bốn Nhiếp pháp là bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự Giải thích: Bố thí v.v... là do tương ưng với các Thiện căn không tham mà thâu giữ lấy chúng sanh. nghĩa như ở trên đã giải thích, là phương Tiện giáo hóa.
Tiếp theo là phần hai-Nêu bốn vô lượng tâm
Kinh: Tu bốn vô lượng tâm: Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng, Xả vô lượng.
Giải thích: Từ Bi v.v... là do thiện căn không Sân v.v... tương ứng với sự làm lợi vô lượng. nghĩa như trên đã giải thích là sự thương xót hóa độ.
Kế nữa là phần ba-Nêu bốn Nguyện rộng.
Kinh: Đủ bốn Hoằng Nguyện, đoạn các thứ Triền cái thường hóa độ chúng sanh, tu tri kiến Phật, thành vô thượng giác.
Giải thích: Bồ-tát đã tu ắt đủ vạn hạnh, đại nguyện đã phát có bốn thứ ấy.
Đoạn các triền cái: do phiền não nên trói buộc hữu tình, do chỗ nhận biết nên che lấp thắng tuệ không được hiện khởi. Hoặc là mười Triền, năm Cái, kiến hoặc, tu hoặc theo chỗ ứng hợp, như phân biệt thông thường. Đó là nói về Đoạn.
Thường hóa độ chúng sanh: là tất cả bốn loài hữu tình (tứ sanh) ở trong hai cõi. Đó là nói về thường hóa độ.
Tu tri kiến Phật: là đều tu tập hằng sa diệu hạnh của Chư Phật, Thế Tôn. Đó là nói về thường tu.
Thành vô thượng giác: Nghĩa là Địa thứ nhất này đối với Chánh Giác vô thượng của Chư Như Lai nêu rõ là sẽ chứng đắc. Bốn nguyện rộng này, câu đầu và cuối là tự lợi, hai câu giữa là lợi tha.
Tiếp sau là phần bốn-Nói về ba Giải thoát môn.
Kinh: Trụ nơi ba Giải thoát môn không Giải thoát môn. vô tướng Giải thoát môn, vô nguyện Giải thoát môn.
Giải thích: Nghĩa của ba Giải thoát môn như trên đã giải thích. Nói ba Tam muội thì chung cho cả hữu lậu và vô lậu, nói Giải thoát môn thì vô lậu. Ba Giải thoát môn chung cho cả các Địa.
Dưới đây là phần hai-Kết về Hạnh căn bản.
Kinh: Đó là căn bản của các hành thuộc về Bồ-tát Ma-ha-tát từ sơ phát tâm đến Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Đó là các hành như bốn Nhiếp v.v... nghĩa là các Bồ-tát từ mới phát tâm, tùy lực tu tập, cho đến thành Phật, đều dùng những thứ đó làm căn bản các hành.
Tiếp đến là phần ba: Kết về hóa lợi.
Kinh: Lợi ích an lạc cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát Sơ Địa đi đến trăm cõi Phật. Bồtát Địa thứ ba đi đến ngàn cõi Phật. Bồ-tát thứ ba Địa đi đến vạn cõi Phật, tạo lợi ích, an lạc cho các chúng sanh ở đó.
Sau đây là phần ba: Nói về vị Thuận nhẫn. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu nhẫn biện minh vị:
Lại nữa, Bồ-tát Thuận nhẫn: là Địa Diệm Tuệ, Địanan thắng, Địa Hiện tiền.
Giải thích: Nói Thuận nhẫn là: Chủ thể thuận là Tuệ, đối tượng được Thuận là Như. Do Tuệ tùy thuận, thuận hướng, thuận quán, đến vô sinh ở sau tức là nhẫn của nhẫn, gọi là Thuận nhẫn. Như Luận Thập Địa quyển tám nói: Tùy thuận pháp Chơn Như bình đẳng, Địa thứ tư thứ năm đắc nhẫn hạ phẩm, trung phẩm. Địa thứ sáu đắc nhẫn thượng phẩm thảy đều tùy thuận vô sinh pháp nhẫn. Còn nhẫn này thì chẳng phải là vô sinh nhẫn.
Địa Diệm Tuệ: là an trú nơi pháp Bồ-đề phần tối thắng, đốt củi phiền não, lửa Tuệ thêm sáng.
Địa-nan-thắng: hai trí Chơn và Tục, hạnh và tướng kết hợp nhau, khiến tương ưng với rất khó vượt qua.
Địa Hiện tiền: Trụ nơi trí duyên khởi, dẫn phát Bátnhã vô phân biệt tối thắng, khiến trí ấy hiện tiền.
Dưới đây là phần hai-Chính nói về đoạn chướng
Kinh: Có thể đoạn trừ ba chướng, phiền não buộc tâm
Giải thích: Có thể đoạn trừ ba chướng: như phần sau kinh nói. Địa thứ tư vĩnh viễn đoạn thân biên kiến vi tế. Địa thứ năm, đoạn tâm ưa thích cầu Niết-bàn. Của Tiểu thừa. Địa thứ sáu đoạn các tướng thô hiện hành của các tập nhân tập nghiệp nơi ba cõi. Phiền não buộc tâm: Ba chướng nêu trên chỉ là ý thức nên đều gọi là tâm. Nói Phiền não: Như nơi Luận Thập địa đã nói rõ. Sau đây là phần thứ ba: Kết nêu rõ về lợi tha.
Kinh: Có thể với một thân, đến khắp ức cõi Phật trong mười phương, hiện bày thần thông không thể nói hết, biến hóa tạo mọi lợi lạc cho chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát địa thứ tư đi đến ức cõi Phật. Bồtát địa thứ năm đi đến trăm ức. Bồ-tát địa thứ sáu đi đến ngàn ức.
Không thể nói hết: Là hiển bày về số nhiều.
Tiếp theo là phần bốn: Nêu rõ về vô sanh pháp nhẫn. Văn gồm ba như trước.
Phần một là nêu nhẫn. Biện về Vị.
Kinh: Lại nữa, Bồ-tát vô sanh nhẫn, là Địa Viễn hành, Địa chẳng động, Địa Thiện tuệ.
Giải thích: Nói vô sanh: Tức là lý chân. Trí chứng đắc lý chân, gọi là vô sanh nhẫn. Kinh giải Thâm Mật. Luận Du-già, Luận Duy Thức đều nói ba Tính gọi là vô sanh: Bản tính vô sanh, tự nhiên vô sanh, Hoặc khổ vô sanh. Nếu trí của chủ thể chứng đắc thì gọi là vô sanh nhẫn. Gồm luôn Như của đối tượng được chứng đắc, gọi là vô sanh pháp nhẫn.
Địa Viễn hành là đạt đến vô tướng trụ, biên vực sau cùng của công dụng, ra khỏi đạo Nhị thừa thế gian.
Địa chẳng động: Là vô phân biệt trí tự nhiên hiện hành tương tục, đối với tướng, dụng, phiền não không thể làm cho lay động.
Địa Thiện Tuệ: Là thành tựu bốn vô ngại giải vi diệu, có thể hiện bày khắp mười phương khéo thuyết giảng chánh pháp.
Sau đây là phần thứ hai chính nêu về đoạn chướng.
Kinh: Có thể đoạn trừ tập khí sắc tâm nơi ba chướng. Giải thích: Có thể đoạn ba chướng: Như phần sau của kinh nói: Địa thứ bảy đoạn trừ tướng hiện hành vi tế của các nghiệp quả.
Địa thứ tám đoạn trừ các công dụng địa thứ chín đoạn trừ chướng không còn trở ngại, tức là đoạn trừ ba chướng.
Tập khí sắc tâm: Là chung cho chủng tử và hiện hành. nghĩa là đối với Sở tri chướng, Địa thứ sáu trước trong địa thứ mười, mỗi Địa đều đối trị một phần, là hạ phẩm của chướng ấy tức các thứ thô trọng của Sắc tâm, nên ba địa này đều đoạn trừ riêng.
Tiếp sau là phần ba tóm kết về lợi tha.
Kinh: Mà có thể thị hiện thân tướng tùy theo loài không thể nói hết, tạo lợi ích cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát địa thứ bảy an trụ ở trăm ức cõi Phật. Bồ-tát địa thứ tám trụ nơi trăm vạn ức vi trần số cõi Phật Bố-tát Địa thứ chín trụ nơi trăm vạn ức A-tăngkỳ vi trần số cõi Phật, đi đến những cõi kia, hiện thân không thể nói hết, tùy theo loài, tạo lợi ích cho các chúng sanh.
Tiếp sau là phần năm-Nói về Tịch diệt nhẫn. Văn có ba phần như trên.
1. Nêu nhẫn biện vị.
Kinh: Lại nữa, Tịch diệt nhẫn là Phật và Bồ-tát cùng nương theo nhẫn này.
Giải thích: Tịch diệt: tức là Chơn Như. Trí chứng Tịch diệt, gọi là Tịch diệt nhẫn, tức là nhẫn của nhẫn theo hai cách giải thích mà được mang tên. Theo phần sau kinh, nói thì khi nhập vào Địa này thì đoạn dứt mọi chướng của thần thông, đến sau sẽ nêu rõ.
Phật và Bồ-tát: là nêu người năng nhẫn chủ thể. nghĩa là Bồ-tát đó, bắt đầu nhập vào Địa thứ mười, gọi là pháp vân. Ngôi vị sau Địa thứ mười gọi là Đẳng giác.
Cùng nương vào nhẫn này: nghĩa là ở đây so với Phật thì hơn kém khác nhau, nhưng đều cùng một nhẫn.
Tiếp theo là phần hai-Chánh giải tu hành. Trong đó có ba phần:
- Hạ thượng nhẫn.
- Đẳng Diệu giác.
- Tam thân Phật.
Đây là phần một-Nêu Hạ Thượng nhẫn.
Kinh: Định Kim cang Dụ trụ nơi vị Hạ nhẫn gọi là Bồ-tát. Đến nơi Thượng nhẫn gọi là Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Định Kim cang dụ là Định thù thắng sau cùng. Định này hiện tiền thì có thể đoạn dứt tất cả các loại chướng vi tế, gọi là định Kim cang. Định này mới bắt đầu khởi ở thân của Bồ-tát gọi là Hạ nhẫn. Nơi vị sau, tức vị giải thoát thành là Nhất-thiết-trí, gọi là thượng nhẫn.
Kế đến là phần hai-Nêu Đẳng Diệu giác.
Kinh: Quán Thắng nghĩa đế, Đoạn Tướng vô minh, đó là Đẳng Giác, Nhất tướng, vô tướng, bình đẳng không hai, là Địa thứ mười một Địa Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Trên nói "Quán": tức Chánh Trí của chủ thể quán. Chánh trí có hai: Đẳng giác chiếu tịch và Phật quả tịch chiếu. Đó là Trí làm chủ thể quán, dựa theo Nhân và quả mà chia thành hai.
Thắng nghĩa đế: tức là Chơn như, thể của Chơn như cùng sáng tỏ, cùng chứng đắc.
Đoạn tướng vô minh: Là chướng vi tế nơi Địa thứ mười một. Có hai giải thích: Thể của vô minh chung cả hai chướng. Chủng tử vi tế đó đến vị này đều đoạn dứt.
2. Vô minh căn bản thì bất Giác. Trí chiếu Bản giác, nên gọi là đoạn. Phần sau sẽ nói rõ.
Đó là Đẳng giác: là kết về Ngôi vị đoạn.
Nhất tướng vô tướng: là nói về quả Phật. Thể của Như và Trí giống nhau, nên bảo là Nhất tướng. Trí khế hợp ngầm với Chơn lý nên bảo là vô tướng.
Bình Đẳng không hai: Là Đạo của Chư Phật ngang bằng nhau, không hai.
Là Địa thứ mười một: Địa thứ mười là Nhân, Phật Địa là Quả.
Vượt qua địa thứ mười trước là Địa thứ mười một.
Địa Nhất-thiết-trí: Là Phật Địa viên mãn đó là đạo giải thoát, tóm kết về quả vị.
Tiếp đến là phần ba-Nói về ba thân của Phật. Có ba phần: 1: Nói về thân Pháp tính:
Kinh: Chẳng phải hữu Phi vô, trong lặng thanh tịnh, không đến, không đi, thường trú bất biến
Giải thích: Chẳng phải hữu Phi vô: là công đức của Tính. Nghĩa là Tính Đức nhiều như hằng hà sa của chư Như Lai khác với vạn tượng, nên bảo là chẳng phải hữu. Khác với sừng thỏ là không hề có, nên nói chẳng phải không.
Trong lặng thanh tịnh: Vĩnh viễn lìa bỏ các tướng nên bảo là trong lặng, không cùng kết với hữu lậu nên bảo là thanh tịnh. Là đức vô vi.
Không đến không đi: là Thân pháp tính. Tính bản giác tịnh, thể thường bất sinh, nên bảo là không đến. Thể thường chẳng diệt, nên bảo là không đi. Không tùy tính mê ngộ mà có động tịnh, nên bảo là thường trú. Không tùy theo tính phàm Thánh mà thay đổi, nên bảo là bất biến, tức là Pháp thân.
Sau đây là phần hai-thân Trí đức
Kinh: Đồng Chơn tế, đẳng Pháp tính.
Giải thích: Chơn nói là Chơn tế, tức là Pháp thân.
Nói đồng: là Trí đồng với Lý. nghĩa là chư Như Lai, trong vị Đẳng giác, chướng vô minh đã hết nên đồng với Chân tế. Trong Vị giải thoát, chứng lý viên mãn tột cùng nên ngang với Pháp tính. Đây với Pháp Thân, chẳng phải tức Pháp thân, chẳng phải lìa pháp thân mà đầu hiện bày khắp pháp giới thường an lạc.
Tiếp theo là phần ba-Nói về Ứng, Hóa thân. Trong đó có hai phần: 1. Thân Ứng hóa; 2. Nêu chủ thể hóa, đối tượng được hóa. Đây là phần một thân Ứng hóa.
Kinh: Vô duyên đại bi, thường hóa độ chúng sanh. Vân hành Nhất-thiết-trí thừa đến giáo hóa ba cõi.
Giải thích: Vô Duyên Đại Bi: Bi có bốn loại: 1. Ngoại đạo, phàm phu, khởi nhận thức yêu thương là Bi; 2. Thanh văn, Độc giác duyên khổ dục sinh khởi tâm bi, gọi là quán hành Bi; 3. Bồ-tát vì lợi lạc chúng sinh, chứng đắc đồng thể Bi; 4. Chư Phật Thế Tôn chứng đắc vô duyên Bi.
Thường hóa độ chúng sanh: là nói Ứng thân. Nghĩa là, Chư Như Lai vốn ở cõi thuần tịnh, vị các chúng Bồtát trụ Địa thứ mười, tùy theo loài mà hiện thân, hiện đại thần thông, chuyển chánh pháp luân, khiến cho họ thọ dụng an lạc trong pháp thừa, không có gián đoạn, nên bảo là thường hóa độ.
Vận hành Nhất-thiết-trí thừa đến giáo hóa ba cõi: là nói về hóa thân. Chủ thể thừa (cỡi, vận hành) là Bi, đối tượng được thừa (vận hành) là Trí. nghĩa là từ trí tối thanh tịnh của pháp giới sanh ra Trí, Bi, diễn nói các giáo lý. Đó tức là Trí thuộc về sự. Vận hành nơi lý mà trí sinh, vì dùng Nhất-thiết-trí làm đối tượng vận hành.
Đến giáo hóa ba cõi: là xứ của đối tượng được hóa. Thế giới hư không đều là vô biên, nên nêu về chỗ dựa để nói về nơi chốn đến giáo hóa. Như Kinh Pháp Hoa nói: "Các con ta, trước vì vui chơi, đến vào nhà này". Trưởng giả sợ "vào" kinh này tức là "đến". Vì sao cần phải giáo hóa? Như kinh kia lại nói: Ta vốn lập thệ nguyện, muốn khiến cho tất cả chúng sanh ngang bằng như ta không khác. Như ta xưa đã nguyện, nay đã đầy đủ, hóa độ tất cả chúng sanh khiến đều nhập Phật đạo, nên hiện Ứng hóa để giáo hóa chúng sanh.
Dưới đây là phần hai-Nói về chủ thể hóa và đối tượng được hóa.
Trong đó chia làm bốn phần:
1. Cảnh của đối tượng được hóa.
Kinh: Này thiện nam! Các loài chúng sanh, tất cả phiền não nghiệp quả dị thục của hai mươi hai căn, không ra ngoài ba cõi.
Giải thích: Các chúng sanh: là tất cả những loài hàm thức sinh ở các cõi, các thú. Cảnh giáo hóa của chư Phật, Bồ-tát hoặc khác nhau, nhưng chủng loại sinh nơi đối tượng được giáo hóa thì chỉ như thế.
Tất cả phiền não: là Lý sự phát nghiệp, sinh ra trợ phát duyên cho tất cả phiền não.
Nghiệp: Là các nghiệp phước và phi phước v.v... nhiễm tịnh, chiêu cảm sinh Nhân.
Quả Dị thục: là Quả vô ký chiêu cảm do thiện nhiễm tác nghiệp nên chiêu cảm quả. Thời gian trước sau chẳng đồng nên gọi là dị. Thục của dị v.v... như thường phân biệt.
Hai mươi hai căn: Như có Tụng nói:
Thủ cảnh tục gia tộc.
Mạng sống quả thọ dụng.
Thế gian, xuất thế Tịnh.
Theo lượng đó lập căn.
Thủ cảnh là sáu căn. Tục gia tộc: Là hai căn Nam, Nữ. Mạng sống tức là Mạng căn. Quả thọ dụng là năm căn: khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Thế gian Tịnh: là năm căn: tín, tấn, niệm, tịnh, tuệ. Xuất thế gian tịnh là ba căn vô lậu: Vị tri đương tri, dĩ tri cụ tri. Về Thể của chúng Tụng kết nói.
Sắc cùng bất tương ưng Tâm vương và tâm Sở. Bảy một một chỉ mười. Ba thể tính tùy ứng.
Hai câu sau là giải thích bốn câu trên. Bảy là bảy sắc căn. một, một là Mạng căn và ý căn. Chỉ mười là mười tâm sở như năm thọ tín v.v... Ba Thể tùy ứng: là ba Thể vô lậu nơi chín căn... Tính tùy ứng: là sắc mạng vô ký, ý năm, thọ ba tín v.v... chỉ là thiện.
Không ra ngoài ba cõi: Là kết về phần đã nói trên, đều nằm trong ba cõi.
Hỏi: Trong hai mươi hai căn, mười chín căn trước là hữu lậu, nên có thể thuộc ở trong giới. Còn ba căn sau cùng thể là vô lậu, sao lại không ra ngoài giới.
Đáp: Đây là nói về đối tượng được giáo hóa nên chỉ xét về tướng chung. Lý thật thì ba căn ấy chẳng hệ thuộc trong giới. Nói "không ra ngoài" là có hai nghĩa: 1. Dựa theo chủng loại, chưa khởi hiện hành, theo thức đã nương nên bảo là không ra ngoài; 2. Xét theo hiện hành: Nhị thừa vô học, và tất cả Bồ-tát, chưa đến vị Đẳng giác tuy vô lậu hiện hành ở thức thứ sáu thứ bảy nhưng chỗ nương vào mà phân định thuộc dị thục hữu lậu, thì cũng không ra ngoài.
Dưới đây là phần hai-nói về Thân của chủ thể giáo hóa.
Kinh: Chư Phật chỉ bày, dẫn dắt, ứng hóa pháp thân, cũng không lìa ba cõi.
Giải thích: Chỉ bày dẫn dắt là khai thị, hướng dẫn.
Ứng hóa: Tức là Tha thọ dụng và biến hóa lớn, nhỏ, gọi chung là ứng hóa, chỗ dựa của ứng hóa là pháp giới thanh tịnh, cùng chủ thể dựa Thể là phi tức phi ly, nên nói Ứng và hóa đều gọi là Pháp thân. Nghĩa là: Chư Như Lai ở khắp pháp giới, ứng hiện nơi ba cõi cũng đồng với đối tượng được giáo hóa, nên nói là không lìa.
Tiếp sau là phần ba-Nêu sự sai trái của ngoại đạo.
Kinh: Như có thuyết nói: ở ngoài ba cõi, còn có riêng một cõi chúng sanh gì tức là nói theo kinh Đại Hữu của ngoại đạo.
Giải thích: Chư Phật đã thuyết giảng ngoài ba cõi không có chúng sanh. Nếu nói ngoài ba cõi có chúng sanh nữa, tức là theo cách nói của Kinh Đại Hữu trong sáu cú nghĩa của ngoại đạo Phệ thế sử ca, chẳng phải là lời Phật dạy.
Hỏi: Nếu vậy, cõi báo của Nhị thừa vô học, Bồ-tát Thập Địa cư trụ, chẳng phải là ngoài giới sao.
Đáp: Căn cứ theo trợ duyên tức ở ngoài ba cõi, nhưng thể là dị thục, nên chẳng phải là ngoài.
Dưới đây là phần bốn-Hiển bày về giáo hóa thành phật
Kinh: Đại vương! Ta thường nói: các chúng sanh chỉ đoạn trừ hết vô minh nơi tức gọi là Phật
Giải thích: Hai chướng trong ba cõi gọi chung là vô minh. Chỉ cần đoạn dứt phiền não, chỉ cần tránh được sự trói buộc của cõi đoạn dứt hết Sở Tri gọi là vô minh hết, tức là Phật.
Đã giải thích xong phần hóa độ. Dưới đây là phần ba-Kết về quả vị viên mãn.
Kinh: Tự tính thanh tịnh, gọi là Tính Bản giác, tức là Nhất-thiết-trí trí của chư phật.
Giải thích: Tự Tính thanh tịnh, gọi là Tính Bản giác: Tức là Chơn như. Theo Luận Khởi Tín thì: Câu trước là dứt tuyệt đối đãi, câu sau là đối đãi: Đối Bất giác mà nói là Bản giác.
Tức là Nhất-thiết-trí trí của Chư Phật: có hai thuyết giải thích:
1. Chơn như là Pháp thân của Phật, Pháp thân, Trí thân và tính và Tướng bình đẳng. Thể và tướng cùng theo nhau, cũng được gọi là Nhất-thiết-trí trí. Như thật thì chẳng phải Trí.
2. Chơn Như tức "Nhất-thiết-trí". Tâm quay về với nguồn gốc, ngầm hợp không khác. Tướng và dụng chẳng phải không có một thể riêng biệt, tức là lấy Chơn như làm Nhất-thiết-trí trí.
Dưới đây là đoạn văn lớn thứ hai, kết về tu các nhẫn.
Kinh: Do đây mà được làm căn bản của chúng sanh, cũng là căn bản của hạnh của Chư Phật, Bồ-tát. Tức chính là mười bốn nhẫn trong năm pháp nhẫn của Bồ-tát vốn đã tu hành.
Giải thích: Do đây mà được làm căn bản của chúng sanh: Có hai thuyết nói:
1. Do Bản giác nêu trên. Nghĩa là do Bản giác tùy theo Bất giác mà đánh thức tính sáu cõi luân hồi trong Ba cõi, nên Bản giác này làm căn bản của chúng sanh. Cũng là căn bản hạnh Chư Phật, Bồ-tát: vô minh mỏng nhỏ thì lực của Bản giác tăng. tâm quay về với nguồn. Từ ngọn hướng về gốc, theo thứ tự mà kiến lập năm nhẫn. Đạt đến Tịch diệt nhẫn thì Bản giác như nhiên vắng lặng. Vốn không có lay động nên nay không có tịch lặng. Bản giác này cũng là căn bản của hạnh chư Phật, Bồ-tát.
2. Do năm nhẫn, là gốc tu hành từ đầu đến cuối của người phát khởi Đại Thừa, hướng đến đạo quả vô thượng, cũng là căn bản của hạnh Chư Phật, Bồ-tát. Cũng là căn bản pháp giới đã thành, chưa thành nơi Phật, Bồ-tát.
Dưới đây là phần hai-Trả lời về hóa độ chúng sanh. Trong đó có bốn phần: 1. Mười Ngôi vua; 2. Thuyết kệ tán; 3. Nêu Cảnh trí của nhẫn; 4. Chư Phật đồng tu.
Trong phần Mười Ngôi vua lại có ba:
- Nhắc lại câu hỏi, lược nêu.
- Nói về mười ngôi vua.
- Kết, Nói về Chư phật.
Dưới đây là phần một. Nhắc lại câu hỏi lược nêu.
Kinh: Phật nói: Đại Vương! Ông trước đã hỏi; Bồtát làm sao để giáo hóa chúng sanh? Bồ-tát Ma-ha-tát nên như vậy mà giáo hóa. Từ Địa đầu tiên đến Địa cuối cùng, nơi hành xứ của mình đến hành xứ của Phật, tất cả Tri kiến.
Giải thích: Từ "Phật nói v.v...": là nhắc lại câu hỏi trước.
Từ Địa đầu tiên: là Địa Hoan hỷ đến Địa cuối cùng: là Địa pháp Vân. Nơi hành xứ của mình: là hành xứ của Bồ-tát trong mỗi một Địa. Hành xứ của Phật: Tức là xứ hóa độ của Phật nơi địa thứ mười.
Lại hành xứ của Như Lai, tức Địa thứ mười một.
Tất cả Tri Kiến: là Tri kiến như thật, thực hành hai lợi của Bồ-tát Chư Phật chứng chơn, đạt tục.
Hỏi: một Địa đầu tiên chẳng phải là Tập chủng tính sao?
Đáp: Đây là nói về sự hành hóa tạo lợi ích của mười vua, Tam Hiền đã xong rồi, nên ở đây không xét.
Tiếp theo là phần hai-Nói về mười ngôi vị vương, văn chia làm mười phần. Trong mỗi một Địa đều chia làm năm phần: 1. Quốc độ rộng hẹp; 2. Phối thuộc ngôi vị của vua; 3. Tu pháp nhiều ít; 4. Biện minh tu hạnh thù thắng; 5. Nói về chốn lợi sinh. Trong năm phần thuộc Sơ Địa, dưới đây là phần một-Quốc độ rộng đẹp.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm cõi Phật.
Giải thích: Bồ-tát Sơ Địa trụ trăm đại thiên. Vì sao biết được? Một cõi Phật hóa độ tức là một đại thiên một trăm cõi Phật hóa độ là một trăm Đại Thiên.
Hỏi: Quốc độ ở gồm có mấy loại? Lấy gì làm thể? Vì sao địa thứ mười có sự rộng hẹp khác nhau?
Đáp: Theo Luận Phật Địa: Các cõi trú tương đối nhau gồm hai loại: tịnh và uế. Trong tịnh có mười ba cõi cõi: Ba cõi quả và mười cõi nhân. Ba cõi trú quả là: Hoặc cõi pháp tính Chơn như làm thể; hằng sa tính đức nương vào tự tính. Hoặc cõi Báo đắc, cảnh Trí (Đại viên cảnh trí làm thể, các chủng vô lậu nương vào chính cõi trú. Cõi Tha thọ dụng, bình đẳng tính trí làm thể cho cõi này, hiện thân lớn hay nhỏ đều nương vào cõi trụ của mình. Hoặc cõi Biến hóa, Thành sự tác trí sự làm thể cho cõi đó. Hiện thân biến hóa nương vào cõi trụ của mình. Họp cả hai cõi Tha thọ dụng và Thân Biến hóa thành tức cõi trú thứ ba tức cõi trú Ứng hóa.
Mười cõi Nhân: là cõi mà Bồ-tát mười Địa nương vào, lấy bản thức làm Thể, tức thuộc về khổ đế hữu lậu. Hoặc do Hậu đắc trí biến hiện ảnh tượng hơn kém thuộc về đạo vô lậu mà cõi trú rộng hay hẹp khác nhau. Các báu trang nghiêm đều do tự trí biến ra, nên có sự tự thọ dụng thô hay diệu khác nhau. Cõi biến dịch của Nhị Thừa tuy thể đồng với Bồ-tát nhưng thô kém. Tây phương Tịnh độ (cõi trú tịnh) là thuộc chúng sinh địa tiền (Địa tiền là trước khi vào Sơ Địa, thuộc Tam Hiền, Thất hiền), lấy bản thức làm thể, nhờ lực bản nguyện của và Phật tự hành, nên được vãng sinh, vì không có trí vô lậu làm vốn liếng chiêu cảm nên tự thọ dụng ngôi vị bảy báu.
Trong cõi uế, mọi giới, thú (loài chúng sinh) hơn hay kém là do tự thức biến ra, cứ theo như vậy thì rõ. Sự khác giống giữa cõi trú Tịnh và cõi trú uế là do nghiệp riêng của chúng sinh, như thông thường đã phân biệt.
Tiếp theo là phần hai-Phối thuộc ngôi vị của vua.
Kinh: Làm Chuyển Luân Thánh Vương ở châu Thiệm Bộ.
Giải thích: Như Kinh thập Địa: Sơ Địa làm Vua cõi Diêm-phù-đề. Kinh Anh Lạc nói: Sơ Địa trở lên làm Lưu ly Luân vương. Kinh Hoa Nghiêm nói: Sơ Địa làm vua cõi Diêm-phù-đề. Kinh này nói là Luân vương. Nói "Diêm phù" là nói trú xứ. Nói "Lưu Ly" là nói về chỗ Thắng diệu. Nói "Luân vương" là nêu về Luân Bảo. Cõi cư trú và cảnh giáo hóa không trái nhau.
Hỏi: Thế thì trong kinh này, Bồ-tát Sơ Địa và Đạo chủng tính Luân vương khác nhau thế nào?
Đáp: Như kệ sau nói: "Quyền hóa hữu tình đi trăm nước". Trăm này là vì Thánh và phàm khác nhau.
Tiếp đến là phần ba: Tu pháp nhiều ít.
Kinh: Tu trăm Pháp minh môn.
Giải thích: Kinh này nêu chung, không phân biệt về danh số.
Kinh Anh Lạc nói: Mười Tín, mỗi một Tín có mười, tức là trăm pháp minh môn. 1. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát ở Địa này, nếu hành trì tinh tiến xả bỏ nhà cửa, vợ con, xuất gia học đạo, trong khoảnh khắc một niệm, đắc trăm Tam muội, dùng thiên nhãn tịnh, thấy trăm quốc độ Phật; 2. Thấy trăm Như Lai; 3. Chấn động trăm thế giới. Thân cũng có thể đi đến những thế giới Phật kia, phóng đại quang minh; 4. hóa thành trăm loài, khiến người khác thấy được; 5. Thành thục trăm loài hữu tình được hóa độ; 6. Nếu muốn lưu lại thân thì trụ được trăm kiếp; 7. Thấy được các việc đời trước đời sau trong trăm kiếp tiền, hậu te; 8. Trí kiến có thể nhập trăm pháp minh môn; 9. hóa làm trăm thân; 10. Thân đều có thể hiện ra trăm Bồ-tát Quyến thuộc. Nếu dùng nguyện lực tự tại thị hiện thì vượt quá số đó, cho đến trăm ngàn ức Na-do-tha kiếp không thể tính biết.
Kinh: Dùng Đàn Ba-la-mật đa trụ nơi tâm bình đẳng.
Giải thích: Trong mười độ, Thí độ viên mãn, đủ bảy điều tối thắng, ba luân thanh tịnh, đạt vô phân biệt, trú tâm bình đẳng. Chuyên tu độ này, tất cả thường xả, các độ còn lại đều được tu theo phần lực.
Sau đây là phần năm-Nói về lợi sinh.
Kinh: Hóa độ tất cả chúng sanh nơi bốn thiên hạ.
Giải thích: Dùng đạo mười thiện, hóa độ tạo lợi cho chúng sanh. Các vương sau này đều dùng mười thiện để hóa, xứ có rộng hẹp, hạnh có hơn kém khác nhau.
Dưới đây là phần hai-Nói về Địa Ly cấu, văn chia làm năm phần.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ngàn cõi Phật làm Đao lợi Thiên vương, tu ngàn pháp minh môn, thuyết giảng đạo mười thiện để hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Cư độ (Cõi trú) rộng dần, làm Thiên đế Thích, mở rộng Sơ Địa trăm minh môn thành ngàn minh môn, tu giới độ viên mãn, dùng mười thiện để hóa độ.
Dưới đây là phần ba-nói về Địa phát quang, văn chia làm năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi vạn cõi Phật, làm Dạ-ma Thiên Vương tu vạn pháp minh môn, nương theo bốn Thiền Định mà hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Bồ-tát nơi địa này, đắc các định thù thắng, thì từng phần, Thiên vương dần dần rộng lớn. Dưới đây là phần bốn-Nói về Địa Diệm Tuệ, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ức cõi Phật, làm Thiên vương cõi trời Đỗ Sử Đa, tu ức pháp minh môn, hành pháp Bồ-đề phần, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Thiên Vương Tri túc, tu các ức môn Bồđề phần, dùng Trí để hóa độ chúng sanh. Tiếp theo là phần năm-nói về Địa-nan Thắng, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi trăm ức cõi Phật, làm hóa Lạc Thiên vương, tu trăm ức pháp minh môn, dùng Nhị đế, Tứ đế, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Sở tu càng lúc càng hơn, trăm ức các môn, quán đủ các đế, để hóa độ chúng sanh. Tiếp đến là phần sáu-nói về Địa Hiện Tiền, văn có năm phần như trên.
Kinh: Nếu Bồ-tát Ma-ha-tát trú nơi ngàn ức cõi Phật, làm Tha hóa tự Tại Thiên vương, tu ngàn ức pháp minh môn, dùng trí mười hai nhân duyên, để hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trụ ở đỉnh của Dục giới, làm Thiên vương cõi Trời Tha hóa, những sở tu, sở ngộ thảy đều đã chuyển mạnh hơn. Dùng trí Duyên sinh mà hóa độ tạo lợi ích cho chúng sanh. Từ đây là phần bảy, nói về Địa Viễn hành, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi vạn ức cõi Phật, làm Sơ Thiền Phạm Vương, tu vạn ức pháp minh môn, dùng trí phương tiện thiện xảo, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở Đại Phạm thiên, Cảnh và tu đều thắng diệu, đắc phương tiện trí giáo, hóa, lợi lạc chúng sanh. Tiếp sau là phần tám-nói về Địa chẳng động, Văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm vạn vi trần số cõi Phật, làm đệ Nhị Thiền Phạm vương, tu trăm vạn vi trần số pháp môn, dùng Trí song chiếu Bình đẳng Thần thông Nguyện, hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở cõi Trời Biến Quang Tịnh, cảnh tu chuyển thắng diệu, song chiếu chân tục hiện đại thần thông, dùng trí đại nguyện để hóa độ lạc, lợi chúng sanh. Sau đây là phần chín: Nói về Địa Thiện Tuệ, văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi trăm vạn ức Atăng-kỳ vi trần số cõi Phật, làm Tam Thiền phạm vương, tu trăm vạn ức A-tăng-kỳ vi trần số Pháp minh môn, dùng Trí bốn vô ngại mà hóa độ tất cả chúng sanh.
Giải thích: Trú ở cõi trời Biến Tịnh, cảnh tu chuyển thắng diệu, Trí dùng bốn vô Ngại, hóa, lợi chúng sanh. Từ đây là phần mười: Nói về Địa Pháp vân. Văn có năm phần như trên.
Kinh: Hoặc Bồ-tát Ma-ha-tát, trú nơi số cõi Phật không thể nói hết được, làm Đại phạm Thiên Vương đệ tứ Thiền, làm chủ của ba cõi, tu số pháp minh môn không thể nói hết được, đắc hết lý Tam muội, đồng với hành xứ của Phật, tận nguồn của ba cõi, lợi khắp chúng sanh như cảnh giới của Phật.
Giải thích: Bất khả thuyết (không thể nói hết được): Như Kinh Hoa Nghiêm quyển bốn mươi lăm nói: Bất khả thuyết tức là một trăm mười chín con số. Nếu "bất khả thuyết, bất khả thuyết" tức là hơn hai trăm hai mươi con số.
"Trú ở đỉnh của Sắc giới, cung Đại tự tại, làm chủ cả ba cõi, cảnh tu tối thắng; đắc hết lý Tam muội": là chiếu giải lý tột cùng, nên gọi là hết lý tận. Tam muội thì có thể nhận biết. Đó tức là định Kim-cương sau cùng.
Đồng với hành xứ của Phật: là đồng với nhẫn Tịch diệt.
Tận Nguồn của ba cõi; Theo Bản ký nói: Thức Alại-da được xem là Bản Nguyên. Như Khởi Tín Luận nói: ở vô minh Căn bản mà khởi Nghiệp Thức. gốc Tập, gốc Khổ là gốc của Ba cõi. Thánh Trí đoạn dứt những thứ đó, nên gọi là Tận.
Lợi khắp chúng sanh...: Nghĩa là trong Địa này lợi cho hữu tình, chứng Chơn đạt Tục, đều là phần tối thắng, giống với cảnh Phật. Cho nên kinh Đại phẩm nói: Bồ-tát Thập Địa nên biết là như Phật. Lại nói: Kiến tánh chưa rõ, tức là nghĩa đó.
Từ đây là phần ba-kết về chư Phật, trong đó chia làm hai phần.
Phần một-kết về chư Bồ-tát.
Kinh: Đó là vì Bồ-tát Ma-ha-tát hiện thân các vua để làm việc hóa độ dẫn dắt.
Giải thích: Như văn đã rõ. Từ đây phần hai-Kết về chư Phật
Kinh: Mười phương Như Lai cũng lại như vậy, chứng Vô thượng giác, thường hiện hữu khắp pháp giới, lợi lạc chúng sanh.
Giải thích: Không những Bồ-tát nương theo đó lợi sinh, mà mười phương Như Lai cũng lại như vậy. Thường làm lợi lạc khắp pháp giới.
Từ đây là phần hai: Nêu Thuyết kệ tán. Trong đó có ba phần:
1. Đại chúng cúng dường; 2. Vua thuyết kệ tán; 3. Nghe pháp được ích. Dưới đây là phần một-Đại chúng cúng dường.
Kinh: Bấy giờ, tất cả đại chúng liền từ chỗ ngồi đứng dậy, rải hoa Phạm, hương thơm không thể nói hết, cung kính cúng dường, xưng tán Như Lai.
Giải thích: Được nghe pháp vui mừng, cúng dường xưng tán.
Tiếp theo là phần hai-vua thuyết kệ tán. Trong đó chia làm hai đây là phần một-Nêu vua thuyết kệ.
Kinh: Lúc này, Vua Ba-tư-nặc, liền ở trước Phật dùng kệ tán thán.
Giải thích: Chữ kệ ở đây có ba giải thích: 1. Kệ là hết, tức thâu nhiếp hết các nghĩa; 2. Kệ là nghỉ ngơi, dừng lời nghỉ ngơi; 3. Tiếng Phạm gọi là Già Tha, tiếng Hoa gọi là phúng tụng. Người dịch Kinh xưa, dùng chữ "Kệ Tha", rồi lược bỏ chữ Tha, chỉ dùng chữ kệ.
Từ đây là phần hai-Chính nói về kệ tán, gồm ba mươi kệ. Chia làm ba phần: 1. Có ba kệ: Tán thán về ba đức của Phật; 2. Có hai mươi sáu kệ rưỡi: tán thán rộng về năm nhẫn; 3. Nửa kệ, kết tán, Kính lễ. Trong phần tán thán về ba đức, chia làm ba phần: 1. Tán thán về đức của ba nghiệp; 2. Tán thán về các thứ vi diệu có đủ; 3. Tán thán về sự sâu xa của pháp đã thuyết.
Dưới đây là phần một: Tán thán về đức của ba nghiệp.
Kinh:
Thế Tôn đạo sư, thể Kim cang
Tâm hành tịch diệt, chuyển pháp luân
Tám biện viên âm nhằm khai diễn
Thời chúng đắc đạo trăm vạn ức.
Giải thích: Thế Tôn: như đã nói trên
Đạo sư: Thiện xảo đầy đủ như người thuyền trưởng hướng dẫn tìm được châu báu ở biển. Ở đây là hướng dẫn thành Phật.
Thể Kim cang: là kiên cố đầy đủ. Thể là thân. Thân Phật kiên cố giống như Kim cang, là tán thán về đức của thân.
Tâm hành: là Bi Trí đầy đủ, bốn phẩm trí tâm gọi chung là tâm, thường chiếu hai đế, cho nên gọi là hành.
Tịch diệt: là giải thoát. Càng động càng tịch, gọi là tịch diệt. Là tán tán đức của tâm. Như kinh Tịnh Danh nói; "tâm tịnh đã độ các thiền định" là không trái với đây.
Chuyển pháp luân: Là tán thán đức của Ngữ. Chuyển là khởi. Pháp là pháp của giáo lý hành quả nơi ba thừa đã thuyết giảng. Luân là tròn đủ, giống như bánh xe, vì phá bỏ các chướng ngại, có thể vận dụng. nghĩa là Đức Phật đã chuyển diệu pháp vô thượng đến người khác, người khác cứ như vậy mà chuyển cho nhau. nghĩa của Chuyển pháp luân như thường phân biệt.
Tám biện: Tám là tám âm. Biện là bảy biện. Tám âm là như kinh Phạm Ma Dụ nói: 1. Thanh hay nhất; 2. Thanh dễ hiểu; 3. Thanh điều hòa; 4. Thanh mềm mại; 5. Thanh không lầm; 6. Thanh không nữ; 7. Thanh tôn tuệ; 8. Thanh sâu xa.
Bảy Biện là: 1. Biện nhanh: cần nói liền nói không bị trở ngại;
2. Biện chóng: như thác đổ không chậm chạp; 3. Biện đúng: đúng thời, đúng cơ, không tăng giảm; 4. Biện không sai sót: những điều nói ra đều kết hợp với lý, không sai lệch; 5. Biện không dứt hết: Tương tục liên hoàn không bao giờ hết; 6. Biện nói nghĩa vị phong phú: vì mỗi một câu nói đều hàm chứa nhiều sự ly; 7. Là lời biện giải tối thượng diệu trong tất cả thế gian: đầy đủ sâu xa, như sấm rền.
Viên âm: một âm, viên âm, nghĩa thông suốt nhiều cách hiểu. Có thuyết nói: chư Phật vô hình, vô thanh, vì đối với các căn thích hợp, như hang sâu rỗng, tiếng vang hiện ra vô lượng âm thanh, tùy theo mỗi mỗi căn tính, nhận được một âm, khắp cả mười phương, nên gọi là viên âm.
Có thuyết nói: Chư Phật thật có sắc thanh, âm Phật Viên mãn, không có vận khúc khác lạ. Như Kinh nói: Phật dùng một âm diễn thuyết pháp, chúng sanh tùy loài đều được hiểu.
Có thuyết nói: Chư Phật thật có nhiều loại âm thanh, nhưng do Phật âm vô chướng, Không ngại, tất cả tức là một nên gọi là một âm. một tức tất cả nên gọi là Viên âm, do đủ các đức rộng vì các loài mở bày diễn nói. Đó là tán thán đức của Ngữ. Đức của ba nghiệp trên, tức là ba Mật môn, tức là ba sự chỉ dẫn trong sự dụng.
Thời chúng đắc đạo trăm vạn ức: là tán thán sự, thuyết giảng đúng với căn tánh.
Tiếp theo là phần hai-tán thán về các thứ vi diệu được nhận.
Kinh:
Trời người đều tu hạnh xuất ly.
Thường tập tất cả đạo Bồ-tát.
Giải thích: Trời và Người đều tu: Hoặc Trời, hoặc Người tuy khác loài nhưng thọ nhận bình đẳng, đều có thể tu tập đạo, Bồ-tát xuất ly của đại thừa. Do đây nói, chủng tính ba Thừa hễ đến hội này thì đều tu Đại Thừa. Những điều nói trên tức là Tam bảo. Tiếp đến là phần ba: tán thán về sự sâu xa của pháp đã thuyết, trong đó chia làm ba: 1. Nói về đức của năm nhẫn.
Kinh:
Công đức năm nhẫn diệu pháp môn.
Mười bốn Bồ-tát thường hiểu rõ.
Giải thích: Năm nhẫn: năm nhẫn như trên đã nói. Công đức: Công đức của vạn hạnh mà Bồ-tát đã tu Diệu pháp môn; là pháp môn thâm diệu từ phàm đến Thánh.
Mười bốn Bồ-tát: Ba Hiền, mười địa và Đẳng giác thành là mười bốn. Thường hiểu rõ: Là kiến giải, chứng tu, có thể hiểu rõ.
Từ đây là phần hai-Nói về Nhân quả khác nhau.
Kinh:
Ba Hiền mười Thánh, hành trong nhẫn.
Chỉ một mình Phật mới tận gốc.
Giải thích: Bồ-tát trong nhân nương vào đó hướng đến cầu, nên là hành trong nhẫn, chỉ quả Phật là tròn đủ, Đức và Hạnh đều viên mãn, chỉ một mình Đức Phật mới tận nguồn. Tiếp theo là phần ba: Nói về Tam bảo Tạng.
Kinh:
Phật Pháp Chúng biển tạng Tam bảo
Vô lượng công đức thâu trong đó.
Giải thích: Phật pháp chúng: là nêu tên của Tam bảo. Cùng một thể Chơn như tức là tánh nhẫn. Chủ thể thuyết, đối tượng được thuyết, các người tu hành, tức là tướng riêng.
Nói biển tức tán thán nhẫn sâu rộng, bao hàm cả Tam bảo, tích chứa làm Tạng (kho tàng).
Vô lượng Công đức: tán thán về chỗ nêu giảng hết sức sâu xa. Hằng sa Công đức hữu vi vô vi đều chứa trong nhẫn, nên gọi là thâu nhiếp.
Dưới đây là phần hai-Có hai mươi sáu kệ rưỡi, tán thán rộng về năm nhẫn. Phân hai: 1. Có hai mươi bốn kệ tán thán rộng về năm nhẫn;
2. Có hai kệ rưỡi, tán thán về đức Bi sâu xa của Phật. Trong phần đầu nói về năm nhẫn có hai: Phần đầu có hai mươi ba kệ, nêu rõ rộng về năm nhẫn phần sau có một kệ nêu rõ về nhân quả đối xứng. Hai mươi ba kệ đầu chia làm sáu: 1-4 kệ rưỡi: Nói về Phục nhẫn. Trong đó chia làm hai:
- Tán thán chung bốn vua.
- Nói chung về Phục nhẫn.
Phần một-lại có hai phần: 1. Nói về Vị Thập Thiện.
Kinh:
Bồ-tát Thập thiện phát đại tâm
Trường biệt Tam khổ giới biến khổ luân
Thiện Phẩm trung hạ Túc tán vương.
Thập Thiện Thượng phẩm Thiết luân vương.
Giải thích: "Thập Thiện": Như phần sau nói: Vị Thập Thiện này trải qua mười ngàn kiếp mới nhập Phục nhẫn, vì đó là phương tiện của nhẫn.
"Phát Đại tâm": Các đối tượng hóa độ, đoạn trừ tu tập, hướng đến đều là lớn, nên gọi là phát đại tâm
"Trường biệt ba cõi": Trước khi phát đại tâm, gồm có hai loại; một là thẳng đến, hai là hồi tâm. Nếu trước phát tâm tức thì, tất phải kiên, mãnh, tuy chưa đoạn dứt Hoặc nhưng chắc sẽ vượt qua, gọi là thẳng đến. Hồi tâm tức sau đó mới ngộ dần. Quả Hữu học và vô học của Nhị thừa nơi Thánh đạo đoạn trừ chướng, gọi là Trường biệt.
"Biển khổ luân": Khổ chung cả ba cõi, gọi là ba khổ, vì nương theo khổ, lạc, xả mà lập thành khổ. Tới lúc không ngừng, xoay tròn như bánh xe luân, thăng trầm chìm nổi, sâu lớn như biển.
"Thiện phẩm trung hạ": Tu thập thiện đã lâu ngày, ngôi vị đầu tiên, giữa. sau cùng, thành là Hạ, Trung, Thượng. Trung phẩm và Hạ phẩm thì làm Túc Tán Vương tức vua nhỏ, nhiều như hạt thóc vụn. Theo thí dụ mà đặt tên gọi. Nếu người đạt Thượng Phẩm thì làm Thiết Luân vương.
Từ đây là phần ba-nói về vị Tam Hiền.
Kinh:
Tập chủng đồng luân hai thiên hạ
Tính chủng tính ngân luân tam thiên,
Đạo Phẩm đức vững, Chuyển luân vương
Bảy báu Kim luân bốn Thiên hạ.
Giải thích: Bồ-tát Thập trụ làm Đồng Luân Vương. Thập hạnh làm Ngân Luân. Mười Hồi hướng vị làm Kim Luân vương. Nhưng bốn Luân vương về cảnh hóa khác nhau: một châu, hai châu, ba châu, bốn châu khác nhau. Cho nên Luận Thuận Chánh Lý nói: Tuổi thọ của những người ở châu này là vô lượng, cho đến tám vạn tuổi có Chuyển Luân vương sinh ra. Khi hết tám vạn, hữu tình vui giàu, thọ lượng bị tổn giảm, các điều ác càng lúc càng nhiều, không còn khí chất đại nhân, cho nên không có Luân vương. Vị vương này do Luân xoay chuyển nên dẫn dắt, oai đức chế phục tất cả, gọi là chuyển Luân vương. Kim, Ngân, Đồng, Thiết Luân nên khác. Nếu Vương sinh ra ở chủng tộc Sát-đế-lợi thì quán Đảnh nối ngôi, thọ trai giới trong mười lăm ngày, lúc ấy mới tắm rửa thân đầu, thọ thắng trai giới thù thắng. Ngồi trên đài cao nơi điện vua có các vị đại thần phụ tá. Phương Đông bỗng có Kim Luân báu hiện ra. Còn các Chuyển Luân vương khác nên biết cũng vậy. Luân vương như Phật không có hai vị cùng sanh. Tất cả Luân vương đều không ai có thể làm tổn thương mà đều khiến cho mọi loài khắt phục dưới mình, an vui mà sống. Đồng thời khuyên bảo hướng dẫn cho mọi người tu thập thiện nghiệp đạo.
"Thất bảo": là bảo thứ báu: Xe, voi, ngựa, Châu ngọc, nữ nhân, Quan giữ kho tàng và quan chủ việc binh. Ngựa voi v.v... là thuộc về hữu tình. Châu ngọc và xe là thuộc về phi tình. Kinh Chánh Pháp Niệm Xứ lại nói Thất bảo là: Kiếm, da, giường, rừng, cung điện, áo quần, giày dép. Những báu này đều do tu tập thiện căn không sân hận mà chiêu cảm được. Tất cả những oai đức và phong hóa của Vương, đã nói rõ trong kinh Chánh Pháp Niệm Xứ và kinh Khởi Thế.
Dưới đây là phần hai: Nói chung về Phục nhẫn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nói chung về Thánh thai.
Kinh:
Phục nhẫn Thánh thai ba mươi người
Mười trụ, mười hạnh, Mười Hồi hướng
Ba đời chư Phật học trong ấy.
Đều từ Phục Nhẫn này sinh ra.
Giải thích: Người trụ nơi Phục Nhẫn gọi là Thánh thai, vì chư Phật ba đời đều từ đó sinh ra.
Tiếp theo là phần hai-Nói về khó đắc nhập.
Kinh:
Căn bản hạnh tất cả Bồ-tát
Do đó phát tâm tín tâm khó
Nếu đắc tín tâm ắt chẳng thối.
Tiến vào đạo vô sinh Sơ địa.
Giải thích: "Căn bản Hạnh tất cả Bồ-tát..." Đây là nói về gốc hạnh của Bồ-tát nhập kiếp, tức là tâm mười Tín. tâm này rất khó phát, như phần trước Kinh nói: Có hằng hà sa người thấy Phật Pháp Tăng, nhưng số người đắc nhập Tín thì rất ít. Nếu đắc mười tín, đến tâm thứ sáu thì bất thối, là Tín không bị thối lùi, vì chắc chắn sẽ chứng được vô sinh, đạt đến Sơ địa. Tuy trước bảy trụ còn là Nhị thừa, nhưng không lâu chắc chắn sẽ đạt đến.
Lại có giải thích: Nếu người đắc được tâm tín, tức tâm mười tín thì người ấy ắt chẳng thoái chuyển. Ngôi vị thứ bảy trong mười trụ chẳng thoái chuyển, ngôi vị trước đó thì còn bị thoái chuyển. Như Kinh Anh Lạc nói; Tịnh Mục Thiên tử, Pháp Tài Vương tử, Xá lợi phất... muốn nhập ngôi vị thứ bảy, nhưng gặp duyên mà thối lùi.
Tiếp đến là phần ba-Kết danh biện tướng.
Kinh:
Hóa độ lợi mình, người bình đẳng
Gọi là Bồ-tát mới phát tâm.
Giải thích: Hóa độ lợi mình người; là nói về tướng phát tâm. Hoặc lúc ấy Bồ-tát quán người khác như mình, đắc tâm bình đẳng mà tu hai lợi, thì mới gọi là tướng Bồtát mới phát tâm, nhập vào trụ thứ nhất.
Phần nói về phục nhẫn đã xong. Sau đây là phần hai-Có năm kệ rưỡi, nói rộng về Tín nhẫn. Trong đó có hai phần: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Tổng kết về đoạn chướng.
Phần một-Nói về ba Địa. Văn chia làm ba:
-Nói về Hạ nhẫn. Văn lại chia làm ba. 1. Hoan hỷ Địa.
Kinh:
Bồ-tát Hoan hỷ Chuyển Luân vương
Sơ chiếu lý hai đế bình đẳng
Quyền hóa hữu tình du trăm cõi
Đàn thí thanh tịnh lợi mọi loài.
Giải thích: "Hoan hỷ...": Là nêu tên của Trụ Địa, nói về vương vị.
"Sơ chiếu lý hai đế bình đẳng" nghĩa là: đây bắt đầu chứng bình đẳng Chân như đoạn dứt sự phân biệt.
"Quyền hóa hữu tình": Hoặc là vua là Phật quyền biến ứng hiện hóa thân.
"Đi trăm cõi": là nói về cảnh hóa độ
"Đàn độ thanh tịnh": là hạnh lợi sinh thù thắng Tiếp theo là phần hai
-Nói về Địa được mang tên.
Kinh:
Nhập lý Bát-nhã gọi là Trụ.
Trụ sinh đức hạnh gọi là Địa.
Giải thích: "Nhập" là chứng. "Bát-nhã" là vô phân biệt Trí chứng lý thật tướng, đều gọi là Bát-nhã. "Trụ": chẳng động gọi là trụ, nghĩa của sự dựa nương, giữ lấy.
"Trụ sinh đức hạnh gọi là Địa": Trí ngầm hợp với lý chơn thì có thể sinh hiển thành đức vô vi, công đức hữu vi nhờ vậy mà sinh, công đức vô vi nhân đó mà hiển rõ. Năm tướng hiển phát, hai nghĩa trụ, sinh, nên gọi là Địa, là Đạo Địa thứ mười. Như luận Duy Thức quyển chín nói: Địa thứ mười như vậy, gồm thâu công đức hữu vi, vô vi, lấy đó làm tự tính, làm chỗ nương giữ tốt nhất cho những thứ mình tu hành, khiến được sinh trưởng, gọi đó là Địa.
Kế đến là phần ba-Sơ tâm đủ đức.
Kinh:
Một tâm Sơ trụ đủ các Đức
Ở trong thắng nghĩa nhưng chẳng động.
Giải thích: "Sơ trụ": là kiến đạo chứng Như, gọi là Sơ trụ. "Một tâm": tức là một tâm kiến đạo chân thật.
"Đủ các đức": Như phần trước kinh nói: đầy đủ tám vạn bốn ngàn đức.
"Ở trong Thắng nghĩa": là Thanh thứ bảy nói về Cảnh. Nghĩa là Trí chứng chơn tịch nhưng chẳng động. Đây là mới nhập Địa, đến phần sau sẽ rõ. Tiếp sau là phần hai-Nói về nhẫn Trung phẩm. Trong đó có hai phần: 1. Nói về Địa Ly cấu.
Kinh:
Bồ-tát Ly cấu Đao lợi vương
Hiện hình sáu thú ngàn quốc độ
Giới độ thanh tịnh đều viên mãn.
Vĩnh viễn lìa các tội sai phạm.
Giải thích: Nêu tên của Địa, nơi ở của vương, cảnh hóa độ, tu Hạnh thù thắng. Giới độ viên mãn là nói về lìa xa tội lỗi, vi tế nhỏ nhặt cũng không phạm. Tiếp theo là phần hai-Nói về trí của cảnh tu.
Kinh:
Vô tướng vô duyên chơn thật tính
Vô thể, vô sinh, chiếu (rõ) không hai.
Giải thích: Câu trên là nói về cảnh, vọng chấp Duyên Sinh và Viên Thành là khác nhau. Câu dưới là nói về Trí, thấu đạt cảnh ấy là không có "thể", không có sinh chứng đắc lý "không hai". Nói về Trí chiếu, hiểu rõ vô phân biệt, tuy năm nhẫn có sự hơn kém khác nhau, nhưng xét về cảnh và trí đều theo đúng như vậy.
Sau đây là phần ba-Nêu Địa Phát quang.
Kinh:
Bồ-tát Phát Quang Dạ Ma Vương
Ứng hình đến vạn cõi chư Phật
Giỏi thông đạt được Tam ma địa
Ẩn hiển tự tại đủ ba minh.
Giải thích: Nêu về tên Địa, nói về chỗ ở của vương, cảnh của đối tượng được hóa, nói về Bồ-tát đắc định, những đức vốn đủ. "Ẩn Hiển": là Năm Thông tự tại, có đủ Ba Minh, như đã nói trong phẩm Tựa. Tiếp đến là phần hai-Tổng kết về đoạn chướng.
Kinh:
Hoan hỷ, Ly cấu và phát quang
Diệt được các phiền não sắc buộc
Quán đủ tất cả Thân khẩu nghiệp
Phát tính thanh tịnh, chiếu đều trọn.
Giải thích: Tóm kết ba Địa trên có thể đoạn dứt sắc buộc, nghĩa là tham v.v... như giải thích ở phần trước.
"Quán đủ tất cả Thân khẩu nghiệp": là hiển bày lìa sắc buộc, Sắc nghiệp tự tại. "Pháp tính" là thật tính của sắc và tâm, tức là Trí chơn như chiếu viên mãn.
Dưới đây là phần ba-Có bốn kệ, nói về Thuận nhẫn. Trong đó chia làm hai phần: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Tổng kết đoạn chướng. Trong phần một-Nói về ba Địa, văn chia làm ba phần: 1. Địa Diệm tuệ.
Kinh:
Bồ-tát diệm tuệ đại tinh tiến
Đổ Sử Thiên vương đi ức cõi
Thật trí tịch diệt trí phương tiện
Đạt lý vô sinh rõ "Hữu không".
Giải thích: Nêu về tên Địa, tu hạnh thù thắng, chỗ ở của vương. "Thật trí tịch diệt": là Trí chứng Như.
"Phương tiện Trí": là Trí duyên sự, "Đạt lý vô Sinh": tức chính là cảnh của chánh trí Chơn như. "Rõ Không Hữu": tức là cảnh của phương tiện lý sự. Tiếp theo là phần hai-Nêu Địa-nan-Thắng.
Kinh:
Bồ-tát Nan thắng đắc bình đẳng
Hóa lạc Thiên vương trăm ức nước
Không không đế quán Không hai Tướng
Hiện hình đều khắp cả sáu đường.
Giải thích: Nêu về tên Địa, tu chánh quán, hai trí Chơn và Tục, hành tướng trái nhau, hợp lại khiến tương ứng nhau, nên gọi là bình đẳng. Nói về chỗ ở của vua.
"Không không đế quán": là đầu tiên "Không" để hiển bày Như, sau đó "không" để dứt bỏ tướng. Hoặc nói là sắc tâm. Hoặc nói là ngã pháp. nghĩa là trong Địa này, lý và sự hợp chiếu, cho nên gọi là đế quán.
"Không hai tướng": là có thể hợp cái khó hợp khiến cho tương ứng, không có hai Tướng.
"Hiện hình...": là nói về cảnh của đối tượng hóa độ. Sau đây là phần ba-Nêu Địa Hiện tiền.
Kinh:
Bồ-tát Hiện Tiền Tự Tại vương
Thấy rõ tướng duyên sinh tướng không hai
Trí Quang thắng nghĩa thường đầy khắp
Đến ngàn ức cõi độ chúng sanh.
Giải thích: Nêu về tên Địa, nói về chỗ ở của vua.
"Chiếu kiến duyên sinh": Trí thường chiếu giải tướng mười hai duyên sinh là không hai.
"Trí-quang-thắng-nghĩa": Trí duyên theo Thắng nghĩa gọi là Trí Thắng nghĩa. Trí có thể chiếu lý, nên gọi là Quang. Thấy hiểu rõ giải Thể viên mãn, nên gọi là đầy khắp. "Đến ngàn ức cõi": là nói về đối tượng hóa độ. Tiếp đến là phần hai-Tổng kết về đoạn chướng.
Kinh:
Địa Diệm tuệ, nam thắng, hiện tiền
Thường đoạn ba chướng tâm mê hoặc
Tuệ "không" vắng lặng vô duyên quán
Soi lại chiếu tâm Không vô lượng cảnh.
Giải thích: tóm kế ba Địa trên. "Thường đoạn ba chướng tâm mê hoặc": là ba loại chướng ngại sự thấy biết... vừa nói. Nói "Tuệ Không" là kết về thật trí. Nói "vắng lặng" là kết về Bình Đẳng. "Vô duyên quán" là kết về sự thấy rõ tướng duyên sinh là không hai. "Soi lại tâm không": là chướng ngại của bản thân đã đoạn thấy rõ như của địa mình. Đức của Trí, như lớn, nên gọi là vô lượng.
Dưới đây là phần bốn-có hai kệ rưỡi, nói về Địa Viễn hành, trong đó chia làm ba phần: 1-Nêu Địa Viễn hành.
Kinh:
Bồ-tát Viễn hành, Sơ Thiền vương
Trụ ở vô tướng, vô sinh nhẫn
Phương tiện thiện xảo đều bình đẳng
Thường độ sinh ở vạn ức cõi.
Giải thích: Nêu về tên gọi của Địa. Nói về chỗ ở của vương. "Vô tướng vô sinh nhẫn": Bồ-tát Địa này thuần là quán vô tướng. Ý nói Trí vô tướng chứng nhẫn vô sinh.
"Phương tiện thiện xảo": là nói về tu hạnh thù thắng thù thắng, cứu độ làm lợi cho hữu tình thảy đều bình đẳng.
"Thường độ...": là nói về cảnh của đối tượng giáo hóa Tiếp theo là phần hai-vượt khỏi phần đoạn
Kinh:
Tiến vào Địa dòng pháp chẳng động
Vượt qua Hữu, không còn phần đoạn.
Giải thích: Bồ-tát Địa này tất ắt có thể tiến vào dòng pháp Địa chẳng động sau này.
"Không còn phần đoạn": từ Địa này trở về trước còn có phần đoạn, thọ sinh trong ba cõi. Nay trong Địa này, công dụng phần đoạn đã đến biên hạn rốt cùng.
"Vượt các Hữu": là Định vô lậu và Nguyên vô lậu trợ giúp cho Thân thù thắng kia, khiến quả báo chiêu cảm, dần dần tăng tưởng, cho đến ngôi vị Đẳng giác, thọ Biến dịch sinh, vượt qua ba hữu.
Tiếp đến là phần ba: Nói về đoạn chướng.
Kinh:
Thường quán Thắng nghĩa, chiếu không hai
Hai mươi mốt sinh, hành không tịch
Thuận Đạo pháp ái vô minh tập
Chỉ Đại sĩ Viễn hành, thường đoạn
Giải thích: "Thường quán": là quán không gián đoạn. "Thắng nghĩa": là nói sở chứng của địa. "Chiếu không hai": là song chiếu chơn và tục, không có hai khác.
"Hai mươi mốt sinh": là các bậc Thánh kinh sinh. Mỗi Địa có ba sinh. Nay ở đây là Địa thứ bảy, trải qua hai mươi mốt sinh. Trí đều chiếu Như gọi là "hành không tịch". Lý thật trụ Địa thì có hai mươi sinh, địa này ắt sẽ đạt được lần sinh rốt cùng.
"Thuận đạo pháp ái": là ái pháp Thiện. Trong Luận Bà-sa gọi là Thiện pháp dục (mong muốn pháp thiện). Luận Trí Độ nói: Đảnh vị chưa điều phục thuận đạo pháp ái, không thể gọi là vị Đoạn.
"Đoạn" nói ở đây, nghĩa là sáu Địa trước có định, tán. Vị tán thì khởi ái. Nay nhập Địa này, tuy có gia hạnh, nhưng nhờ kết chặt vô tướng nên tương tục hiện tiền, nên không có phân tán, vui cầu vĩnh viễn không có ái.
"Vô minh tập": Như phần sau kinh nói: "Đoạn các nghiệp quả, Tướng hiện hành vi tế". Các nghiệp quả là phần đoạn sinh; tế hiện hành vi tế là sở tri chướng. Chấp tướng vi tế hiện hành và có sinh diệt làm chướng ngại đạo vô tướng vi diệu của Địa này. Thể của sở tri chướng tức là vô minh, bao gồm ái của các Địa trước, khi nhập Địa này thì đều được đoạn dứt. Cho nên kệ nói: Chỉ "Đại sĩ viễn hành đoạn". Địa thứ bảy, thứ tám, thứ chín trong phần văn xuôi nêu trước là đều đạt vô sinh nhẫn, hợp thành một văn nói đoạn tập của sắc, tâm, ở đây thì kết riêng: Vĩnh viễn không có pháp ái vượt qua phần sinh, biên hạn rốt cuối của công dụng; pháp ái đủ cả ba nghĩa ấy, nên đó là kết riêng.
Dưới đây là phần năm, có năm kệ, nói về ba Địa sau, trong đó chia làm hai: 1. Nói riêng về ba Địa; 2. Nói chung về đoạn chướng. Phần một-Nói riêng về ba Địa, văn chia làm ba: 1-Địa chẳng động, văn lại chia làm hai:
1. Nói về Địa chẳng động.
Kinh:
Bồ-tát chẳng động Nhị thiền vương
Đắc thân biến dịch thường tự tại
Luôn ở trăm vạn cõi vi trần cõi
Tùy theo hình loại độ chúng sanh.
Giải thích: Nói về Trung nhẫn. Nêu tên của Địa, nói nơi ở của vương và sự được thân thù thắng. "Thường tự tại": là Hiện tướng và cõi đều tự tại. Cảnh của đối tượng giáo hóa tùy theo loài mà hóa độ.
Tiếp theo là hai: Nói về thường chẳng động.
Kinh:
Biết cả ba đời vô lượng kiếp
Với Đệ nhất nghĩa thường chẳng động.
Giải thích: "Biết cả ba đời": là nói về trí chiếu. "Vô lượng kiếp": là biết vô lượng đời quá khứ và đời vị lai. "Với Đệ nhất nghĩa": là Bồ-tát nơi địa này tuy thường chứng Như, nhưng song chiếu chơn, tục, thường chẳng động.
Tiếp theo là phần hai: Nói về Địa Thiện Tuệ.
Kinh:
Bồ-tát Thiện tuệ Tam thiền vương
Một lúc hiện ở ngàn hằng cõi
Thường hành không tịch tại vô vi
Một niệm hiểu hằng sa Phật tạng.
Giải thích: Nói về Thượng nhẫn. Nêu tên của Địa, nơi ở của vương, cảnh tượng giáo hóa, và tu chỉ quán. Trí thường chứng Như, Chơn và Tục bình đẳng vì đều là không tịch.
"Hằng sa Phật tạng": là nói về có đủ các đức. Các giáo lý lưu xuất ra từ hằng sa chư Phật. Bồ-tát nơi địa này với bốn vô ngại giải ở trong một niệm đều có thể hiểu rõ.
Tiếp đến là phần ba-Nói về Địa Pháp Vân, trong đó có hai phần:
1. Nêu Địa Pháp Vân.
Kinh:
Bồ-tát Pháp vân Tứ thiền vương
Ở ức hằng cõi động chúng sinh
Mới nhập Kim cang hết thảy rõ
Vĩnh viễn qua hai mươi chín sinh.
Giải thích: Đây là Hạ phẩm trong Tịch diệt nhẫn. Nêu về tên của Địa, chỗ ở của vương, cảnh của đối tượng giáo hóa. "Mới nhập Kim cang": là Định thù thắng cuối cùng. Mới là bắt đầu. Nhập là chứng. tâm cuối cùng của Địa này khởi định Kim cang. Khởi đầu Đạo vô gián chứng lý, hiện tiền hoặc chướng vĩnh viễn không có. Thấu hiểu tột cùng gọi là hết thảy rõ. Vị Đẳng giác này thu trong Địa Pháp vân.
Sau đây là phần hai-Nói về nhẫn Hạ phẩm.
Kinh:
Nhẫn Quán hạ trong nhẫn Tịch diệt
Nhất Chuyển Diệu giác vô Đẳng Đẳng.
Giải thích: Nêu tên của nhẫn, quán của hạ nhẫn. Nói "Một chuyển": là nói về ngôi vị của nhẫn. Ngôi vị vô gián này chuyển thành giải thoát gọi là một chuyển, tức gọi là quả Phật Diệu giác viên mãn.
"Vô đẳng đẳng": Là nếu Sát-na trước dùng Nhân để so với Quả gọi là vô đẳng. Đến ngôi vị giải thoát, đạo bình đẳng với chư Phật thì gọi là Đẳng. Vị Hạ nhẫn này nói rõ đang chuyển. Tiếp theo là phần hai: Nói chung về đoạn chướng.
Kinh:
Địa chẳng động, Thiện tuệ, Pháp vân
Trừ tất cả vô minh tập trước
Tướng vô minh tập thức đều chuyển
Lý Nhị đế viên mãn trọn hết.
Giải thích: Nêu ba Địa trên.
"Trừ tất cả vô minh tập trước": là sở tri chướng. Ngoài bảy Địa trước, mỗi Địa đều trị một phần chướng sắc tâm ra, còn lại là chướng tế, ở trong ba Địa, mỗi địa đều đoạn dứt mỗi phần.
"Tướng vô minh tập thức đều chuyển": nghĩa là loại phiền não chướng do tu đoạn và toàn bộ vô minh có ở Địa thứ bảy, những thứ vi tế đó, khi đạt đến ngôi vị Đẳng giác, do cùng hiện hành với thức, nên gọi là đều chuyển. Như Luận Khởi Tín nói: Vô minh căn bản cùng hiện hành với nghiệp thức, gọi là chuyển xả.
"Lý Nhị đế viên mãn trọn hết": là nói về ngôi vị Đẳng giác. Hiểu rõ (chiếu giải) về "Thể" viên mãn những thứ cần đoạn cần bỏ không còn gì nữa.
Dưới đây là phần sáu-có một kệ rưỡi, nói về Ngôi vị Chánh giác.
Trong đó chia làm hai phần: 1. Chánh giác viên mãn: Kinh:
Chánh giác vô tướng khắp pháp giới Hết ba mươi sinh, trí viên minh.
Giải thích: Tiếng Phạm gọi là Tam Bồ-đề, tiếng Hoa gọi là Chánh giác. "Vô tướng": Là chủ thể chứng và đối tượng được chứng đều vô tướng.
"Khắp pháp giới": Hằng sa công đức, mỗi một công đức đều vô biên, cho đến đầu sợi lông cũng đều hiện bày khắp pháp giới.
"Hết ba mươi sinh": là vượt qua Địa thứ mười, những sinh kia đều đã hết. "Trí Viên Minh": là Trí viên mãn tột cùng.
Tiếp theo là phần hai-Nói về Phật có đủ các đức
Kinh:
Tịch chiếu vô vi chân giải thoát
Đại bi ứng hiện không ai bằng
Trong lắng, chẳng động thường an ổn
Quang minh chiếu khắp mà không chiếu.
Giải thích: Nói "Tịch chiếu": là Trí, đức viên mãn. "Vô vi chơn giải thoát": là nói Đoạn đức viên mãn. "Đại Bi ứng hiện": là nói về Ân Đức tròn vẹn
"Không ai bằng": là đức viên mãn không ai sanh bằng.
"Trong lắng chẳng động": là nói Trí Ân Đức. Do nguyện lực đại bi lợi Tha của Phật mà ứng hiện thân lớn hay nhỏ, nhiều loài. Động mà thường tịch, nên gọi là trong lắng, tuy thị hiện đến và đi nhưng thể thường chẳng động.
Nói "An ổn": là thị hiện để giáo Hóa Như Đức Phật thị hiện ăn lúa mạch của Ngựa và thị hiện bị chảy máu, nhưng thân tâm chưa từng dao động, vẫn thường an ổn.
"Quang Minh chiếu khắp": Là thể của Ân đức như hạt châu ma ni trong sạch. Thể hiện hữu khắp cả pháp giới, chiếu nhưng không chiếu.
Tiếp, đoạn văn lớn thứ hai, kết về nhân Quả nêu trước.
Kinh:
Ba Hiền mười Thánh, trụ quả báo
Chỉ một mình Phật ở Tịnh độ
Tất cả hữu tình đều tạm trụ
Lên nguồn Kim cang thường chẳng động.
Giải thích: "Ba Hiền mười Thánh trụ quả báo": Là dựa theo Người (Nhân) mà nói, dựa theo hai loại sinh tử là phần đoạn và biến dịch, như thân hoặc là độ (cõi), theo nhân mà chiêu cảm quả, trụ nơi quả báo.
"Chỉ một mình Phật ở tịnh độ": Như Lai còn gọi là Bậc giác ngộ vô Thượng. Thân trụ ở đâu thì ở đó đều là Tịnh độ.
"Tất cả hữu Tình đều tạm trụ": là nói dựa theo pháp. Chưa đến vị Đẳng giác, thì Hiền hay Thánh đều trụ nơi hữu vi sinh diệt, Sát-na không dừng. Nếu chứng Như cũng là tạm trụ.
"Lên nguồn Kim cang thường chẳng động": Đây có hai nghĩa: Có thuyết nói: Quả Phật là ngôi vị Chân giải thoát. Trí thường chứng như. Trí như bình đẳng nên gọi là chẳng động. An nhiên tương tục đều đủ, gọi là Thường. Có thuyết nói: Quả Phật sau Định Kim cang, chứng nguồn tịch diệt thì thân trí an nhiên thường chẳng động.
Dưới đây là phần hai, có hai kệ rưỡi, tán thán tâm bi sâu xa của đức Phật. Trong đó có ba phần. Đây là phần một: tán thán chung tâm bi sâu xa.
Kinh:
Ba nghiệp Như Lai đức vô lượng
Tùy thuận chúng sanh thương như nhau.
Giải thích: Tán thán chung đức hạnh nghiệp của Phật thì vô lượng.
"Tùy thuận chúng sanh thương như nhau" tán thán tâm bi sâu xa của Phật. Tâm bi của Phật rộng lớn, thương xót chúng sinh bình đẳng tùy theo chủng tính của các chúng sanh mà chỉ bày vô thượng Thừa. Thật là tâm bi sâu xa!
Tiếp theo là phần hai-tán thán riêng về ba Nghiệp Kinh:
Pháp vương vô thượng cây trong người
Che khắp đại chúng sáng vô lượng
Miệng thường thuyết pháp chẳng vô nghĩa
Tâm Trí tịch diệt chiếu vô duyên.
Giải thích: "Cây trong người": Là nêu dụ để nói rõ, thán thân nghiệp của Phật như bóng mát trừ bỏ mọi phiền não nóng bức, ánh sáng có thể phá tan bóng tối.
"Miệng thường thuyết pháp": là tán thán ngữ nghiệp, thuyết tức là thanh sâu rền như sấm, có đủ Phạm thanh.
"Chẳng vô nghĩa": Ngoại đạo, phàm phu thuyết thì có chữ nhưng không có nghĩa. Nhị Thừa thì kém hẹp, Bồ-tát thì chưa được trọn vẹn, chỉ những điều Phật thuyết giảng thì có chữ có nghĩa, đều viên mãn.
"Tâm trí tịch diệt": là tán thán chánh Trí. Vì trí ngầm hợp với chơn Lý thường tịch diệt.
"Chiếu vô duyên": là tán về nghiệp dụng, ngầm hợp với chơn trí mà khởi hóa, đều là vô tướng, chiếu mà không chiếu, hóa nhưng không hóa. Tiếp sau là phần ba-tán thán về thuyết giảng sâu xa.
Kinh:
Sư tử trong cõi người diễn thuyết
Câu nghĩa sâu xa chưa từng có
Trần sa cõi nước đều chấn động
Đại chúng hoan hỷ thảy được ích.
Giải thích: "Sư tử trong cõi người": Sư tử cất tiếng thì trăm thú đều ẩn núp, dụ cho Như lai diễn thuyết thì các mây chướng đều tiêu tan. "Diễn Thuyết": là tán thán về năm nhẫn.
"Cú nghĩa...": Nhị thừa không đo lường được, cho nên nói là hết mực sâu xa, chưa từng có vì nhiều kiếp khó nghe được.
"Trần sa..." Nhờ oai lực của pháp mà nghe được những điều chưa được nghe, trầm sa cõi nước đều chấn động.
"Đại chúng..." Đại chúng nghe pháp hiểu mà hoan hỷ, phàm và Thánh đều được ích lợi, có đủ các đức đó cho nên tán thán tâm bi thâm diệu.
Sau đây là phần ba: kết tán thán kính lễ.
Kinh.
Thế Tôn khéo thuyết mười bốn vương
Do đó con nay đầu mặt lễ.
Giải thích: Văn dễ hiểu có thể biết được. Đây là kết về phần tán thán.
Dưới đây là phần ba-Nghe pháp được lợi ích.
Kinh: Bấy giờ, trăm vạn ức hằng hà sa đại chúng nghe đức Phật Thế Tôn và vua Ba tư mặc thuyết về vô lượng công đức của mười bốn nhẫn, được đại pháp lợi, nghe pháp ngộ hiểu, đắc vô sinh pháp nhẫn, nhập ở chánh vị.
Giải thích: "Vô sinh nhẫn": là tùy theo với những thứ nó ứng hợp,. Đây thuộc về hạng Địa tiền. "Nhập ở chánh vị": tức là Sơ Địa. Kệ và phần văn xuôi có sai biệt: tu hành các nhẫn thì hạnh tự lợi tăng. Hóa sinh làm vua thì hạnh lợi tha phát triển hơn. Kệ thì gồm chung cả hai điều trên, tức gọi là sai khác.
Tiếp sau là phần ba: Nêu cảnh và trí của vị nhẫn, văn chia làm ba phần: 1. Xác nhận những điều đã nói; 2. Cảnh và trí của vị nhẫn; 3. Tán thán đức sâu rộng của nhẫn. Trong phần một: Xác nhận những điều đã nói chia làm bốn phần. Đây là phần một: Nêu nhân của đời trước.
Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo cho đại chúng:
Vua Ba-tư-nặc này đã là Bồ-tát địa thứ tư, ta là Bồ-tát Địa thứ mười trong pháp của Đức Phật Long Quang vương ở thời quá khứ mười ngàn kiếp.
Giải thích: Dẫn trong nhân xưa để nói về đồng sự. Tiếp theo là phần hai-Nói về kệ tán hôm nay.
Kinh: Nay Đại sư tử gầm vang trước mặt ta.
Giải thích: Kệ tán ở trước Phật, đắc được quyết định thuyết. Kế đến là phần ba-Xác nhận những điều đã nêu. Kinh: Đúng vậy! Đúng vậy! Như ông đã nói, đắc nghĩa chơn thật, không thể nghĩ bàn.
Giải thích: Lặp lại lời "đúng vậy", như ông đã nói: Là xác nhận lời văn của chủ thể giảng nói "Đắc nghĩa chơn thật": là xác nhận nghĩa nơi đối tượng được giảng nói. Do đó mà lặp lại hai lần "Đúng vậy! Đúng vậy!".
"Không thể nghĩ bàn": là Đức Phật khen văn nghĩa của vua Ba-tư-nặc, dứt bặt tâm, tư, ngôn ngữ.
Tiếp sau là phần bốn-Duy chỉ Phật mới biết được.
Kinh: Chỉ Phật với Phật mới biết điều ấy.
Giải thích: "Chỉ..." Bồ-tát tu chứng các nhẫn chưa trọn vẹn chỉ có chư Phật chứng hiểu nhẫn đã viên mãn, cho nên biết hết.
Dưới đây là phần hai: Nêu cảnh trí của vị nhẫn, văn chia làm ba phần: 1. Nhẫn khó lường; 2. Trưng hỏi tướng chung; 3. Phân biệt giải thích. Đây là phần một-nhẫn khó lường.
Kinh: Này thiện nam! Mười bốn nhẫn này là Pháp thân của chư Phật, là hạnh của chư Bồ-tát, không thể nghĩ bàn, không thể đo lường. Giải thích: Trong phần văn xuôi trước, Phật thuyết về mười vua, tiếp đến là ở trong kệ, vua tán thán riêng về nhẫn, cảnh trí của nhẫn, hoặc là nhân hay là quả, ở đây đều nói đủ.
"Mười bốn nhẫn này": là nhắc lại lời văn trước.
"Pháp thân của chư Phật": nghĩa là Ứng thân và hóa thân đều là Pháp thân.
"Hạnh của chư Bồ-tát": là tất cả hạnh trước ngôi vị Đẳng Giác. "Không thể nghĩ bàn...": là tâm không thể suy tính, miệng không thể nói bàn, vượt quá cảnh đo lường, gọi là không thể. Ý nói: Phật, Bồ-tát đều nương theo nhẫn này, tính mọi nghĩ bàn, đo lường tánh tướng của Nhẫn này đều không thể hết. Tiếp nữa là phần hai: Trưng hỏi tướng chung.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao chư Phật, Bồ-tát đều nương theo mười bốn nhẫn này là không thể suy lường.
Kế đến là phần ba: phân biệt giải thích, văn chia làm hai phần: 1.
Nói về cảnh trí của Phật; 2. Nói về cảnh trí của Bồtát.
Trong phần cảnh trí của Phật, chia làm ba:
- Nêu về Phật sinh hóa diệt.
- Giải thích vô sinh hóa diệt.
- Kết: Như hư không. Đây là phần một: Nêu Phật sinh hóa diệt.
Kinh: Tất cả chư Phật đều sinh ra trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, hóa trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa, diệt trong Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Thật tướng Bát-nhã thì không có sinh, hóa, diệt. Chư Phật hóa viên mãn tương ứng mười phương thị hiện sinh, hóa, diệt ở trong Bát-nhã, tức là các sự sinh ra ở trong cung điện vua, chuyển pháp luân để hóa độ và sau cùng nhập diệt ở rừng cây Song Lâm.
Tiếp theo là phần hai: giải thích về vô sinh, hóa, diệt, trong đó lại có hai phần: Đây là phần một-giải thích về vô sinh,...
Kinh: Thật ra chư Phật sinh mà không hề có sinh, hóa không hề có hóa, diệt mà không hề có diệt.
Giải thích: Ý nói Thể của chư Phật rộng khắp là, tướng viên dung, động mà thường tịch, không có sinh, hóa, diệt. Dưới đây là phần hai-Cảnh và trí đều vẳng lặng.
Kinh: Là đệ nhất, không có hai, chẳng phải tướng chẳng phải không tướng, không tự không tha, không đi không đến.
Giải thích: Nói "Đệ Nhất" là hơn hết, không có gì bằng. Nói "không hai": là vì Như và Trí không khác
Nói "chẳng phải tướng": là vì nó không giống với hình sắc. "Chẳng phải không tướng": là không giống như sừng thỏ. "Không tự không tha": là Ứng thân và hóa thân hiện ra thì có hơn kém khác nhau, nhưng với Thân pháp tính thì không có tự, tha. "Không đi, không đến": Vì hóa hiện ứng vật thị hiện nên có đến có đi, nhưng Thể thường chẳng động, nên không có đến, đi.
Kế đến là phần ba: Kết-Như hư không.
Kinh: Vì như hư không.
Giải thích: Tĩnh lặng mà không trái với động, động nhưng thường vẳng lặng, ngay ở động mà tĩnh, như hư không.
Dưới đây là phần hai: Nói về cảnh, trí của Bồ-tát. Văn chia làm hai phần: 1. Ngay ở cảnh quán không; 2. Ngay ở trí quán không.
Nơi phần một: Ngay ở cảnh quán không, Văn có hai:
- Biệt tướng quán không.
- Tổng tướng quán không.
Ở phần Biệt tướng quán không, văn có hai:
- Ngay ở pháp quán không.
- Ngay ở Thọ quán không.
Trong phần một-Ngay ở pháp, văn lại chia làm ba: Đây là phần một: Không sinh diệt.
Kinh: Này người thiện nam! Tất cả chúng sanh, tính không sinh diệt.
Giải thích: Hiển bày theo Chơn. "Tất cả chúng sanh": là chung cả chủ thể hóa và đối tượng được hóa. Tự tính các uẩn, thể tức chơn như, không có sinh diệt.
Tiếp theo là phần hai-Nói về pháp là không thật.
Kinh: Do các pháp tập họp huyễn hóa mà có. Tướng của uẩn xứ giới, không hợp không tán.
Giải thích: Nghĩa là, từ vô thủy đến nay do mê tự chơn tính, bị tướng làm lay động này khiến cho biết đó là huyễn.
"Do các pháp tập họp, huyễn hóa mà có": là pháp năm uẩn. Năm uẩn hòa hợp, gọi là tập. Đó không có "thể", do thật huyễn hóa mà có.
"Uẩn, Xứ, giới": là nói pháp huyễn.
Nói "không hợp": là uẩn từ duyên mà khởi, tự tính của duyên là không, cho nên không hợp.
Nói "không tán": các duyên giả tập, tạm có hiển hiện, cho nên không tán.
Tiếp đến là phần ba-nói về pháp tính không.
Kinh: Pháp đồng pháp tính, vẳng lặng rỗng không.
Giải thích: Chữ "pháp" nói trên là pháp của các uẩn... "Đồng pháp tính": là đồng tính chơn như. Tính và tướng nương giữ nhau, Thể không lìa nhau. Hiểu tướng tức là Tính vẳng lặng rỗng không.
Dưới đây là phần hai-Ngay nơi Thọ quán không. Văn chia làm ba phần: 1. Thể tính thanh tịnh; 2-hành không thật; 3. Tổng kết nói không.
Đây là phần 1-Thể tính thanh tịnh
Kinh: Tất cả chúng sanh, tự tính thanh tịnh.
Giải thích: Đây là nêu lên chân tính của chúng sanh vốn thanh tịnh. Khác với trên là Thể của các uẩn vốn không sanh diệt, còn đây là nói tự tính của tác nghiệp vốn thanh tịnh. Trước nói Quả, sau là nói Nhân. Trước pháp sau là thọ. Trước là khổ, sau là Tập, khác nhau là ở chỗ đó.
Tiếp theo là phần hai-Nói hành không thật. Văn lại chia làm hai phần. Đây là phần một-Nói về hành không thật
Kinh: Các hành vốn tạo tác, không có trói không có mở, chẳng phải Nhân chẳng Quả, chẳng phải không nhân quả.
Giải thích: Nói về tác nghiệp. "Các hành vốn tạo tác": Các tức là nhiều, Hành là tạo tác, làm ra. Theo thân khẩu ý tạo tác nghiệp thiện nhiễm của sáu cõi, gọi là các hành. "không trói không mở": là vì vọng chấp lay động cho là phiền não trói buộc, nên mong cầu sự mở trói: do đó có trói và mở. Hiểu rõ Thể tức là chơn, vốn tự nó không có trói thì ai lại mong cầu mở trói, liền không có Trói và mở". Chẳng phải nhân chẳng phải quả": Những hành đã làm vì vọng nên thấy là có, tự tính của vọng rỗng không, không có cho nên chẳng phải nhân quả. "Chẳng phải không nhân quả": khi chưa hiểu rõ tự tính thì vọng tưởng trôi đuổi, theo nhân mà cảm quả, như là huyễn có. Kế đến là phần hai: Nói về thọ không thật.
Kinh: Các hành khổ thọ, phiền não, sở tri, Ngã tướng, nhân tướng, tri kiến, thọ giả.
Giải thích: Nói về vọng thọ. "Các khổ": Là xét chung trong Ba cõi gồm có ba khổ. Ba khổ khác nhau nên gọi là các. "Hành thọ": Thọ là thâu nạp, các cảnh thuận nghịch, và không thuận nghịch tướng đó làm tính gọi là hành thọ. Hoặc đối với tạo tác của nghiệp kia là tướng. Nói "phiền não": Phiền mệt khuấy rầy, các hữu não loạn. "Sở tri": Chướng ngại trí tuệ không sinh; sở tri là chướng, đó tức là hai chướng. "Ngã Tướng...": Đã giải thích như trước tức chướng dựa vào chấp mà sinh ra. Chướng thì rộng, chấp thì hẹp, sinh đủ cả hai chướng, nên nói riêng từng chướng.
Kinh: Tất cả đều không.
Giải thích: Nói về các hành cho đã tạo tác đến thọ giả theo vọng tình lưu động cho là có, thì đều không có tự tính, nên tất cả đều không. Dưới đây là phần hai: Tổng tướng quán không, văn chia làm ba phần: 1. Nêu cảnh giới không; 2. Giải thích về cảnh giới không; 3. Kết.
Như hư không. Đây là phần một: Nêu cảnh giới không.
Kinh: Cảnh giới của các pháp không.
Giải thích: "Cảnh giới của các pháp": Tức các hành vốn tạo tác của uẩn… trong pháp và thọ. Ba Tính sáu cõi cho đến Tam bảo đều gọi là pháp, đều là không. Tiếp theo là phần ha: Giải thích về cảnh giới không. Văn chia làm ba: 1. Nói về Ba tính không.
Kinh: Không, vô tướng, Vô tác, chẳng thuận điên đảo, chẳng thuận huyễn hóa.
Giải thích: Nói "không" là vọng đảo không. "Vô tướng": là Chơn như vô tướng. "Vô tác": là hữu vi vốn không thật không có tự tác. "Chẳng thuận điên đảo": là Thể của vọng vốn không, không có gì thể thuận. "Chẳng thuận huyễn hóa": Tướng thì không có tự tính vì thể của nó rỗng không, vẳng lặng.
Kế đến là phần hai: Nói về vô tướng không
Kinh: Không có tướng của sáu cõi. Không có tướng bốn loài, không có tướng Thánh nhân, Không có tướng Tam bảo.
Giải thích: Ba tính của cõi hướng đến loài sinh ra và vô ký, chúng đều không có tự tính, hiểu rõ vốn là "không". "Không có Thánh nhân": bậc Thánh Nhị Thừa và Bồ-tát thập địa đều không có tự tính. "không có Tam bảo": Biệt tướng, Trù trì, hai loại Tam bảo là thân Phật thị hiện, hiểu rõ đều không có tự tính, thấu đạt không có "thể" thật, đều không có tướng.
Tiếp sau là phần ba: Kết: như hư không.
Kinh: Vì như hư không.
Giải thích: Chiếu rõ cảnh rỗng lặng như hư không.
Dưới đây là phần hai: Tức trí quán không. Văn chia làm ba phần: Đây là phần một-nói về Trí chiếu không.
Kinh: Này người thiện nam! Bát-nhã rất sâu xa, không tri, không kiến, chẳng hành, chẳng duyên, chẳng xả, chẳng thọ.
Giải thích: "Bát-nhã rất sâu": Là Chánh trí. Nói "không Tri": là không phân biệt. Nói "không kiến": là vì không tìm cầu. Nói "không hành": là vì trí ngầm hợp với chơn. Nói "chẳng duyên": là không có tướng duyên. Nói "chẳng xả": là không đổi thoát, "Chẳng Thọ": là không có lãnh nạp. Sáu nghĩa trên đều là chánh trí. Lại giải thích: không gì là không biết, biết nhưng không biết. Không gì là không thấy, thấy mà không thấy... Không gì là không thọ, thọ nhưng không thọ. Sáu nghĩa sau này, chung cả chơn và tục, nhưng trong sáu nghĩa sau thì hành là vạn hạnh, duyên là Lý sự, xả là tài pháp hoặc đại xả, thọ là chơn tục bất biến. Do đã chứng chơn đạt tục, đắc vô trụ.
Tiếp đến là phần hai-nói về Không có tướng của chiếu.
Kinh: Chánh trụ quán sát nhưng không có tướng của chiếu.
Giải thích: Vô phân biệt trí, chánh trụ hiện tiền, chiếu nhưng không có chiếu, vì không trụ tướng. Tiếp sau là phần ba-kết về Trí, nói về Không.
Kinh: Vì người hành đạo ấy như hư không.
Giải thích: "Người hành đạo ấy": Nghĩa là chư Bồtát nương theo đây để tu chứng. Cảnh và Trí đều Tĩnh lặng như hư không. Lại nữa, dùng đoạn văn này để đối những người không biết dứt bỏ tướng sinh ra chánh giải. Vì lập lượng nói: quán chiếu Bát-nhã làm Tông. Lấy pháp Hữu quyết định cho pháp không có tướng của chiếu làm tông. Pháp và pháp Hữu hòa hợp làm tông, vì không biết, không thất… Cả ba thứ hợp lại làm một dùng làm pháp nhân. Do Như hư không, đó là dụ cho pháp.
Sau đây là phần hai: giải thích, Kết về khó lường.
Văn chia làm 2: 1. Giải thích về sự khó lường; 2. Kết về sự khó lường. Trong phần Giải thích văn lại chia làm ba phần.
Đây là phần một-Nêu về Chẳng thể đạt được.
Kinh: Pháp tướng như vậy, Đắc tâm có sở đắc. Tâm không sở đắc đều không thể đạt thuộc chẳng thể đạt được.
Giải thích: "Tướng của pháp như vậy": là cảnh và Trí đã nói trên.
"Tâm có sở đắc": là tâm giữ lấy tướng. "Tâm không sở đắc": là Vô phân biệt trí
"Đều chẳng thể đạt được": Trước là tâm chấp có đắc là vọng nên chẳng thể đạt được, sau chấp trí vô đắc là chân nên chẳng thể đạt được. Nếu chẳng phải tự chứng mà, tương tự duyên Như thì cũng chẳng thể đạt được, tức trong bốn câu trên, câu trước là nêu, tiếp là kê riêng, sau là tổng kết.
Tiếp theo là phần hai-giải thích chẳng phải Tức và Lìa.
Kinh: Là vì Bát-nhã, chẳng phải tức năm, chẳng phải lìa năm uẩn, chẳng ở ngay chúng sanh, chẳng lìa chúng sanh, chẳng phải tức cảnh giới, chẳng lìa cảnh giới, chẳng phải tức ở hành giải, chẳng phải lìa hành giải.
Giải thích: Bốn câu văn trên nói Thể đều là Bátnhã, do tâm mê hay ngộ nên trói hay mở khác nhau.
"Là vì Bát-nhã": là nêu lên để giải thích pháp.
"Chẳng phải tức năm uẩn": vì uẩn là huyễn vọng mà có. Bát-nhã chẳng phải là huyễn vọng nên là phi tức (chẳng ở ngay)
"Chẳng lìa năm uẩn": Thật tướng bình đẳng, Thể hiện bày khắp tất cả nên chẳng lìa. Đây là giải thích câu trên nói, do các pháp tập họp huyễn hóa mà có.
"Chẳng phải tức chúng sanh": chúng sanh thì vọng đảo, Bát-nhã chẳng vọng đảo, nên chẳng phải tức, "chẳng phải lìa": giống như trên. Giải thích tiếp theo nói các hành mà chúng sanh đã làm.
"Chẳng phải tức cảnh giới": các cảnh giới trước đây không hiểu rõ nên là vọng. Thật tướng thì chẳng vọng nên chẳng phải tức. "Chẳng phải lìa": Giống như trên. Giải thích văn nói cảnh giới ở trên.
"Chẳng phải tức hành giải": hành giải tức chính là Trí quán chiếu. Hoặc trụ ở tướng, nên bảo là chẳng phải tức. Hoặc vô phân biệt nên bảo là chẳng phải lìa. Đó là giải thích về quán chiếu. Cho nên tri, đoạn, chứng, tu là bốn thứ khác nhau.
Kế đến là phần ba: Giải thích chung về nghĩa khó lường.
Kinh: Các tướng như vậy không thể suy lường.
Giải thích: Như vậy, các tính tướng nơi nhẫn kể trên của chư Phật. Bồ-tát là không thể tư duy, không thể suy lường, có thể biết được đức đó là vượt quá sự suy lường.
Dưới đây là phần hai-kết về khó lường. Văn chia làm ba phần.
Đây là phần một: Kết về Hạnh Bồ-tát.
Kinh: Do đó, tất cả đại Bồ-tát tu các hành chưa đạt đến cứu cánh mà ở hạnh trung.
Giải thích: Đây là kết nêu Hạnh Trung đạo của chư Bồ-tát. Nói "Do đó": là từ ngữ kết phần nói trên. Nói "Tất cả": là chư Bồ-tát thuộc Địa tiền và Địa thượng, từ Sơ phát tâm cho đến chưa thành Phật đều ở trong nhẫn mà tu hành. Tuy thể tính của nhẫn, không có Thánh phàm, nhưng nương theo nhẫn nói về tu, cho nên gọi là Bồ-tát.
Tiếp theo là phần hai: Kết về chư Phật hóa.
Kinh: Tất cả chư Phật biết như huyễn hóa, không trụ tướng mà ở trong ấy hóa độ
Giải thích: "Tất cả chư Phật": Đây là kết, nêu lên Pháp thân của chư Phật.
"Biết Như huyễn hóa": biết những chúng sinh mà mình hóa độ là Như Huyễn không thật. Nếu chẳng có sự che chở của giáo pháp thì không cách gì thoát được sợi dây trói buộc của huyễn. Vì vậy mà khởi hóa độ.
"Đắc vô trụ tướng": Tất cả phàm phu vui thích trụ trong sinh tử, bậc thánh Nhị thừa thì vui thích trụ trong Niết-bàn, chư Phật Thế Tôn đắc không trụ và đại bi đại trí, do đó không trụ đạo sinh tử, Niết-bàn.
"Mà hóa ở trong": ấy hóa độ". Ở trong sự nhẫn chịu cõi, loài Thánh hiền mà hóa độ.
Sau đây là phần ba: Kết-nhẫn khó lường.
Kinh: Cho nên, mười bốn nhẫn chẳng thể suy lường.
Giải thích: Đây là phần kết. Tiếp theo là phần ba: Tán thán đức sâu xa của nhẫn, văn chia làm ba: 1. Lợi ích rộng lớn; 2. Dụ nói nghĩa khó lường; 3. Chư Phật khen ngợi.
Đây là phần một: Lợi ích rộng lớn.
Kinh: Này người thiện nam! Ông nay đã nói kho tàng công đức đó, có lợi ích lớn cho tất cả chúng sanh.
Giải thích: Tán thán những nhẫn đã nói, chính là kho tàng công đức, sinh ra văn, tư... làm lợi lạc rộng lớn.
Tiếp theo là phần hai-Dụ nói nghĩa khó lường.
Kinh: Giả sử vô lượng hằng hà sa số Bồ-tát mười Địa nói công đức ấy trăm ngàn ức phần như một giọt nước biển.
Giải thích: Nói rõ đức rộng lớn. "Giả sử vô lượng hằng hà sa": là số cực nhiều. "Bồ-tát mười Địa": là tỏ sự hơn thắng. Trong hàng Bồ-tát, mười Địa hơn hết. "Nói công đức ấy": là công đức của nhẫn. "Trăm ngàn ức phần...": là nêu dụ để nói rõ. Nghĩa là đức nhẫn trọn đủ, lượng đồng với pháp giới, giống như biển lớn. Bồ-tát mười Địa thuyết trăm ngàn ức phần cũng chỉ như một giọt nước mà thôi.
Hỏi: Nếu vậy, vua Ba-tư-nặc chứng đến tột cùng cực cũng chỉ ngang mười Địa, vì sao Bồ-tát mười Địa dù có tán thán cũng kém hơn?.
Đáp: Vua Ba-tư-nặc thuyết về nhẫn đồng với Phật thuyết. Tiếp theo là phần ba-Chư Phật khen ngợi.
Kinh: Chư Phật ba đời có thể biết như thật, tất cả Hiền Thánh đều xưng tán. Do đó, Ta nay lược kể một phần ít công đức.
Giải thích: Toàn bộ công đức của mười bốn nhẫn này, chư Phật ba đời biết được như thật. Tất cả Bồ-tát, Hiền, Thánh đều xưng tán, đều nương theo nhẫn mà tu hành. "Do đó...": Nếu Phật nói đủ thì e rằng chúng sinh phạm loạn, vì vậy mà Phật chỉ lược kể một ít phần công đức mà thôi.
Dưới đây là phần bốn: Tán Phật đồng tu. Văn chia làm hai phần:
1. Chư Phật đồng tu; 2. Khởi tịnh tín. Trong phần một chư Phật đồng tu, văn chia làm hai: 1. Ba đời đồng tu; 2. Phải tu tập.
Văn phần một-lại có ba: 1. Quá khứ và hiện nay đồng tu.
Kinh: Này người thiện nam! Mười bốn nhẫn này là sự tu hành của tất cả Bồ-tát ở thời quá khứ và hiện tại trong mười phương thế giới.
Giải thích: Nói về tất cả Bồ-tát cùng tu môn nhẫn này. Tiếp đến là phần hai-Phật hiển thị.
Kinh: Là sự hiển thị của tất cả chư Phật.
Giải thích: Do cùng thuyết như nhau. Tiếp sau là phần ba-Hợp nói về vị lai.
Kinh: Chư Phật, Bồ-tát Ma-ha-tát thời vị lai cũng lại như vậy Giải thích: Liệt kê quá khứ, hiện tại. Sau đây là phần hai: Nói về việc phải tu tập. Văn chia làm ba: 1. Phải tu tập.
Kinh: Nếu Phật, Bồ-tát không do môn này mà đắc Nhất-thiết-trí, thì không có chuyện đó.
Giải thích: Nói "không do" nghĩa là nguyên do, nguyên nhân. Nếu Phật, Bồ-tát không nhân ở nhẫn, không nhập vào cửa này mà đắc thành quả Phật Nhấtthiết-trí, thì không bao giờ có việc đó.
Tiếp theo là phần hai-Hỏi về nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao người không tu nhẫn thì không thành Phật? Kế đến là phần ba: Giải thích về nguyên do
Kinh: Vì chư Phật, Bồ-tát không có con đường nào khác
Giải thích: Vì chư Phật, Bồ-tát không tu tập thứ tự theo Môn nhẫn thì không có con đường nào khác để đắc thành Phật.
Sau là phần hai-Khởi tịnh tín. Trong đó chia làm hai phần. 1. Tín thì vượt kiếp.
Kinh: Nếu Người nghe nhẫn Trụ, nhẫn hành, nhẫn Hồi hướng, nhẫn Hoan hỷ, nhẫn Ly cấu, nhẫn Phát Quang, nhẫn Diễm Tuệ, nhẫn Năng Thắng, nhẫn Hiện Tiền, nhẫn Viễn hành, nhẫn chẳng động, nhẫn Thiện Tuệ, nhẫn Pháp Vân, nhẫn Chánh Giác đó, có thể khởi một niệm Tín thanh tịnh, thì người ấy vượt qua tất cả khổ nạn trong trăm kiếp, ngàn kiếp, vô lượng vô biên hằng hà ha kiếp không sinh cõi ác.
Giải thích: Sinh tử nhiều kiếp, do không nghe biết danh. Nếu có người nghe được không sinh nghi báng, sinh tín tịnh sâu, cho đến chỉ một niệm cực ít.
"Thì người ấy vượt qua trăm ngàn..." tức là vượt qua các khổ tám vạn, không sinh cõi ác của hằng hà số kiếp. Huống chi là thọ trì đọc tụng, khởi văn tư tu lâu ngày, mà không vượt qua được sao?
Tiếp theo là phần hai-Đắc Bồ-đề.
Kinh: Không bao lâu, sẽ đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Giải thích: Do từ Tín Tịnh trước, không những là vượt khổ mà còn không bao lâu sẽ đắc Bồ-đề.
Dưới đây là phần ba-Đại chúng tu hành. Văn chia làm ba phần:
1. Người nghe pháp.
Kinh: Lúc ấy, mười ức đại Bồ-tát cùng tên Hư không Tạng, và vô lượng vô số những đại chúng vân tập đến đều vui hớn hở.
Giải thích: Khi nghe nhẫn, Bồ-tát có cùng tên gọi, và các đại chúng tức là những đại chúng đã liệt kê trong phần phẩm Tựa, đều hoan hỷ cùng tột. Tiếp theo là phần hai: Thấy chư Phật.
Kinh: Nương oai thần Phật, thấy khắp mười phương hằng hà sa chư Phật, mỗi một vị đều ở đạo tràng thuyết mười bốn nhẫn, như đức Thế Tôn ta đã thuyết giảng không khác.
Giải thích: Nhờ nghe pháp, cho nên nương oai thần Phật, liền thấy mười phương hằng sa đức Phật.
"Mỗi vị đều ở đạo tràng...": Nghĩa là mỗi vị đều ở đạo tràng hải hội quốc độ của mình thuyết mười bốn nhẫn. Như nay Thế Tôn đã thuyết không khác. Là biểu thị cho chủ thể thuyết và đối tượng thuyết giống nhau. Nhờ oai lực của pháp mà được Nghe và Thấy giống nhau. Như kinh Hoa Nghiêm: Bồ-tát Pháp Tuệ thuyết Thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm thuyết Thập hạnh, Bồtát Kim cang Tràng thuyết Thập Hồi hướng, Bồ-tát Kim cang Tạng thuyết Thập địa. Cuối mỗi một Hội, trang nghiêm đạo tràng càng trang nghiêm hơn với nhiều loại rực rỡ hơn, vô số cờ phướn báu, lọng báu, khiến cho chúng thời đó thấy khắp mười phương Bồ-tát cùng tên, cùng thuyết tu hành. Nay kinh này đức Thế Tôn tự thuyết, cho nên thấy mười phương hằng hà sa số hải hội chư Phật đều đồng thuyết.
Tiếp đến là phần ba-Như thuyết tu hành.
Kinh: Mỗi mỗi Hoan hỷ, như thuyết tu hành Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: "Hoan hỷ tu hành": như văn dễ hiểu. Sau đây là phần ba-Trả lời câu hỏi về quán sát. Văn có ba phần: 1. Nêu chung về câu hỏi trước; 2. Biệt tướng đối trị; 3. Kết: Chánh Quán sát. Trong phần nêu chung về câu hỏi trước, văn có ba: 1. Nêu chung câu hỏi trước.
Kinh: Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo vua Ba-tư-nặc: Ông trước đã hỏi lại dùng tướng gì mà trụ quán sát.
Giải thích: Nhắc lại câu hỏi trước, đầu tiên là nói về năm nhẫn, hạnh tự lợi tăng thêm, tiếp đó là thuyết về mười vua, hạnh lợi tha tăng thêm. Như tự lợi và lợi tha đều khiến quán sát. Quán là chiếu tuệ, sát là xét kỹ. Quán chiếu xét kỹ, nên bảo là quán xét.
Tiếp theo là phần ba-trụ bình đẳng.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát nên quán như vậy, dùng thân huyễn hóa mà thấy huyễn hóa, chánh trụ bình đẳng, không có kia, Ta.
Giải thích: "Nên Quán như vậy": là nêu bày quán hành. "Dùng thân huyễn hóa": là quán tự mình như huyễn. "Mà thấy huyễn hóa": là quán tha (người khác) như Huyễn. "Chánh trụ bình đẳng": là vô phân biệt trí, chánh trụ hiện tiền, không có tướng mình, người, tức bình đẳng. "Không có kia, ta": thấu đạt hữu như huyễn. Hai lợi đã tu lâu ngày không gián đoạn thì chấp người, ta dứt mất.
Tiếp sau là phần ba-Kết-Nêu bày tu hành.
Kinh: Quán sát như vậy, hóa lợi chúng sanh.
Giải thích: Nên quán hành như vậy mà hóa độ lợi ích.
Dưới đây là phần hai-Biệt tướng đối trị, văn chia làm hai: 1. Biệt quán các giả; 2. Kết: chỉ bày chánh quán. Trong phần biệt quán, văn chia làm bảy: 1. Pháp giả; 2. Thọ giả; 3. Danh giả; 4. Tương tục giả; 5. Tương đãi giả; 6. Duyên hành giả; 7. Nhân thành giả.
Trong phần pháp giả, chia làm ba:
- Tâm pháp.
- Sắc pháp.
- Tổng kết đối trị.
Nơi phần tâm pháp, văn chia làm hai:
- Nói riêng về hai chỗ nương tựa.
- Sắc tâm rộng lớn.
Văn phần một lại chia làm hai: 1-Chỗ nương của mê và ngộ.
Kinh: Mà những hữu tình ở kiếp lâu xa, Thức Sátna đầu tiên khác với gỗ đá.
Giải thích: "Mà những hữu tình": Gồm chung tất cả phàm, Thánh trước ngôi vị Đẳng giác.
"Ở kiếp lâu xa": là từ vô thủy, nhưng chỉ nói là kiếp lâu xa. "Thức đầu Sát-na tiên khác với gỗ đá": Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: Thức đầu tiên tùy ở cõi nào thì tiếp tục trong phần vị sinh Sát-na đầu tiên, là thức thứ tám. Thức thì có duyên lự, khác với gỗ đá không có duyên lự. Có thuyết nói: Thức đầu tiên giống như quyển một trong kinh Lăng già bản bốn quyển, nói: Các Thức có ba loại tướng, là chuyển tướng, nghiệp tướng, chơn tướng. Về chơn tướng pháp sư Hải Đông nói: chơn tâm bản giác không nhờ vào vọng duyên, gọi là Tự chơn tướng. Tiếp đến là nghiệp và chuyển. Lại nữa, Luận Khởi Tín nói là nghiệp chuyển hiện đại thể giống với kinh Lăng Già nhưng tên gọi thì hơi khác. Pháp sư Hải Đông nói: "Nghiệp Tướng" là vô minh căn bản dấy khởi Tĩnh khiến cho động, động thành ra là nghiệp thức, rất vi tế. "Chuyển tướng" là chủ thể kiến đó nương theo Nghiệp tướng trên mà chuyển thành chủ thể duyên, tuy có chủ thể duyên nhưng chưa thể hiển rõ cảnh sở duyên. "Hiện Tướng" tức là cảnh giới nương theo chuyển tướng trên mà hiện ra cảnh, nên kinh Lăng già nói: Ví như gương sáng lưu giữ hình tượng, hiện thức hiển hiện cũng lại như vậy. Tiếp theo kinh lại nói: là bỗng phân biệt biết, tự tâm hiện thân và thân an lập, cảnh giới thọ dụng, tức là căn thân, khi thế giới bên ngoài. Năm cảnh như sắc... tự nhiên hiện ra ở mọi thời. Đó là ba vi Tế, tức là bản thức.
Hỏi: Nếu vậy, kinh gọi là Thức đầu tiên thì cái gì nương theo cái gì để huân tập thành nhân duyên sinh?
Đáp: Nghiệp thức tối sơ tức là Thức đầu tiên, nương theo môn sinh khởi thành là thứ lớp. Lại nữa, từ những kiếp lâu xa đến nay, không có mới bắt đầu. quá khứ vị lai không có thể, huân tập chỉ là tâm vọng niệm là đầu tiên, dấy khởi trái chân. Kinh Lăng già nói: Huân tập bất tư nghị Biến chuyển bất tư nghị, là nhân của Hiện thức. Pháp sư Hải Đông giải thích: vô minh căn bản Huân tập Bản giác, gọi là Huân tập bất tư nghị, Bản giác động theo gọi là Huân. Lại thể của Bản giác kia, Thể tuy bất biến, nhưng do tùy duyên mà nói là Biến. Hoặc Huân hoặc Biến đều bặt dứt, tâm tư, ngôn ngữ, gọi là bất tư nghị.
"Nhân của Hiện thức": thật ra đó là Nhân của Nghiệp Thức. Về Nhân duyên thì bản giác là Nhân, vô minh là duyên mà khởi nghiệp thức.
Dưới đây là phần hai-chỗ nương của tịnh nhiễm.
Kinh: Sinh đắc nhiễm, tịnh, mỗi tự có thể làm vô lượng số căn bản của thức nhiễm tịnh.
Giải thích: "Sinh đắc nhiễm, tịnh": là cùng sinh ra với thân, vừa sinh ra liền đắc. Đây cũng là những thứ được sinh ra từ vô thủy. Nhiễm có hai loại: Hữu phú và bất thiện. Tịnh có hai loại: vô ký và thiện.
Nói "Mỗi tự": là từ nhiễm sinh ra nhiễm, từ tịnh sinh ra tịnh, như nhân đồng loại dẫn đến quả Đẳng lưu, gọi là "Mỗi tự".
"Có thể làm vô lượng số": gồm hai loại vô lượng số: 1. Vô lượng số về thời nhiều kiếp lâu dài; 2. Vô lượng số nhiễm tịnh sinh ra.
"Căn bản của thức nhiễm tịnh": Do trước sinh đắc mà dẫn khởi tự loại sau. Nên trước là làm căn bản của cái sau gọi là căn bản của thức. Về sự khác nhau của các thức, ở đây có hai nghĩa: Có thuyết nói: Thức thứ tám chỉ tịnh, vô ký là gốc sinh ra các cõi. Thức thứ bảy cũng thường hữu phú và Thiện. Sáu thức trước thì gián đoạn, thông cả ba tính, chỉ thức thứ sáu thì nhiễm và tịnh đều tăng, là thức tối thắng trong tu đoạn sự. Tuy năm thức còn lại cùng nhau huân tập làm nhân để sinh nhưng vốn đều có chủng tử từ xưa dấu khởi, mỗi thứ đều từ chủng tự riêng sinh ra thức nhiễm tịnh làm căn bản cho sự sinh đời sau. Có thuyết nói: Nghiệp thức là lực vô minh làm tâm bất giác động, dựa vào tâm động mà khởi chuyển thức có thể thấy tướng. Dựa vào khả năng thấy mà khởi hiện thực, đó gọi là khả năng hiện tất cả cảnh giới". Dựa theo Hiện thức mà khởi trí thức, phân biệt nhiễm tịnh khởi Ngã pháp. Dựa vào trí thức mà khởi thức tương tục, trụ giữ những nghiệp thiện ác qua khứ khiến cho không mất, và thành thục các quả báo khổ, lạc của hiện tại và vị lai không hề sai trái. Ba vi tế trước tuy vô minh khởi, nhưng không tương ưng với Tịnh, vô ký. Tịnh và Nhiễm sau, tuy khác nhau về hơn kém, nhưng theo trước mà sinh, lấy nghiệp làm gốc. Có sự sai khác là: Nghiệp từ Bản Giác khởi, Bản giác là gốc của Nghiệp. Nghiệp sinh ra các nhiễm, tịnh khác. Nghiệp là gốc của tịnh, nhiễm. Lấy tướng nghiệp làm gốc của tịnh nhiễm.
Hỏi: Nếu vậy, Thức có mấy loại, làm thế nào mà huân tập thành nhân duyên sinh?
Đáp: Kinh Lăng già nói: Này Đại Tuệ! Lược nói thì có ba loại Thức, Rộng nói thì có tám tướng. ba loại Thức là: Chơn thức, Hiện thức và Phân Biệt sự thức. Ngài Hải Đông giải thích: Chơn thức là Bản Giác, Hiện thức là thức thứ tám, còn bảy thức khác là Thức Phân biệt sự. Tuy Thức thứ bảy không duyên với ngoại trần, vì duyên với Thức thứ tám, nên gọi là Thức phân biệt sự. Về huân tập, theo kinh Lăng già: Hiện thức và phân biệt sự thức, lần lượt cùng làm nhân cho nhau. Chủng thức thứ tám làm nhân sinh ra bảy thức. Bảy Thức trước có thể huân tập sinh ra lại Thức thứ tám, vì từ vô thủy đến nay luôn lần lượt làm Nhân cho nhau, lại nhân duyên: Tự chủng là nhân các cảnh do Hiện thức hiện ra làm duyên, hợp với nhiễm, tịnh mà sinh các Thức. Có người cho Bát-nhã không có tám Thức, để bác điều đó mà dẫn văn kinh để chứng minh.
Dưới đây là phần hai-Sắc tâm rộng lớn, văn chia làm hai phần:
1. Nêu bày trước sau; 2. Sắc tâm rộng lớn. Đây là phần một-Nêu trần trước sau.
Kinh: Từ Sát-na đầu tiên kiếp không thể nói hết, cho đến một Sát-na cuối cùng của định Kim cang.
Giải thích: Trước là căn cứ theo sinh khởi, từ tế đến thô. Đây là nêu trước và sau làm rõ khoảng giữa nhiều.
"Từ Sát-na đầu tiên": Tức là sơ, đầu tiên trước.
"Kiếp không thể nói hết": Là sinh tử lâu dài không thể nói được về con số, nên kinh chỉ nói là "không thể nói hết".
"Cho đến định Kim cang": Định rốt sau của Bồ-tát là nói đích cuối cùng. Tuy người Nhị thừa đạt vị vô học mà cũng khởi Định này, bởi chưa đạt tới cứu cánh, nên lược bỏ không nói.
"Một Sát-na cuối cùng": khi Bồ-tát Đẳng Giác nương theo định Kim cang, đạo vô gián là sau cùng, trong khoảng giữa đó có bao nhiêu sinh diệt? Kinh Lăng già nói: "Bồ-tát Ma-ha-tát Đại Tuệ bạch Phật: Thế Tôn! Các Thức có mấy loại sinh, trụ, diệt? Phật bảo: Đại Tuệ! Các Thức có hai loại sinh trụ diệt, chẳng thể suy lường biết được, là Lưu chú sinh trụ diệt và Tướng sinh trụ diệt. Ngài Hải Đông giải thích: Lưu chú là Thức thứ tám, ba tướng vi ẩn, chủng, hiện không ngừng, gọi là lưu chú, do vô minh duyên, đầu tiên khởi nghiệp thức nên nói là sinh. Nối tiếp nhiều kiếp nên gọi là Trụ. đến Định Kim cang một niệm Đẳng giác, chặt đứt vô minh căn bản, gọi là lưu chú diệt.
"Tướng sinh trụ diệt" là tâm cảnh thô hiển của bảy Thức còn lại, gọi là Tướng. Tuy thức thứ bảy duyên với thức thứ tám, nhưng so với Thức thứ sáu thì vi tế. Có đủ cả bốn Hoặc nên cũng gọi là thô, dựa vào các cảnh của tự chủng hiện thức, duyên hòa hợp sinh ra bảy Thức gọi là Tướng sinh. Huân Tập Lâu đời lâu kiếp gọi là Tướng Trụ, từ ngọn trở về gốc, lần lần phục và đoạn đến Địa thứ bảy thì mãn gọi là Tướng diệt. Nương theo sinh diệt trước mà lập ra chỗ dựa của Mê Ngộ. Nương theo sinh diệt sau mà lập ra chỗ dựa nhiễm tịnh. Sau thì ngắn trước thì dài. Đoạn văn kinh trên tức là nằm trong tướng sinh trụ diệt thuộc sinh diệt trước.
Dưới đây là phần hai-Sắc tâm rộng lớn. Văn chia làm ba phần: Đây là phần một-Từ tâm sinh tâm.
Kinh: Có bất khả thuyết bất khả thuyết Thức.
Giải thích: "Bất khả thuyết Thức": Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: bản thức từ một kỳ thọ mệnh kết sinh ban đầu cho đến Sát-na thức diệt cuối cùng, trong khoảng thời gian giữa hai điểm mốc đó, không Sát-na ngừng nghỉ. Sự sinh diệt của Thức thì không thể nói hết được, như trong khoảng từ cõi Hữu Đảnh đến vô gián từ đầu đến cuối còn không thể nói hết, huống nữa là trường kiếp mà có thể nói hết hay sao? Có thuyết: Nghiệp thức sau khi bắt đầu khởi đến trước khi đoạn dứt, trong khoảng giữa đó, vô thủy sinh diệt tạo nghiệp chịu quả sinh ra trong các cõi giới, theo tâm mà sinh tâm, các thức Nhiễm Tịnh, Sát-na tương tục đều không thể nói. Vì vậy mà kinh lặp lại hai lần "Bất khả thuyết" (không thể nói hết).
Tiếp theo là phần hai-Theo tâm sinh ra sắc.
Kinh: Sinh ra hai pháp sắc và tâm của các hữu tình.
Giải thích: "Sinh hai pháp" Sắc và tâm của các hữu tình: theo Luận Khởi Tín thì sau khi theo chuyển hướng mà khởi hiện tướng, hiện cảnh mới có Sắc Trần, tức là sau khi chuyển Thức mới sinh Sắc. Điều này không phải vậy. Hiện thức, hiện cảnh là nhờ sáu thức trước, huân tập, đâu thể cho hiện cảnh liền theo tâm mà khởi. Chẳng lẽ các hình ảnh ở trong gương lại từ gương mà sinh ra hay sao? Như theo luận Duy Thức thì trong ba loại cảnh, đều như tính cảnh, khi huân tập sắc ở trong Tướng phần. Chủng nhờ tâm huân hiện từ Thức khởi, theo tâm sinh Sắc, có gì sai đâu? Điều đó cũng không đúng. Vì duyên lự và chất ngại hai cái khác nhau. Chủ thể huân tập duy trì chủng đều là tự loại sinh. Há cho huân tập duy trì, thể tức là sắc? Điều đó cũng không đúng. Huân và trì là do tâm, nên bảo là tâm sinh. Nếu không Sinh thì sao lại gọi là Duy Thức? Huống nữa, kinh Lăng già quyển ba nói: Đại chủng vọng tưởng ẩm ướt sinh ra thủy giới nội ngoại. Đại chủng vọng tưởng năng lượng sinh ra hỏa giới nội ngoại. Đại chủng vọng tưởng lay động sinh ra phong giới nội ngoại. Đại Chủng vọng tưởng chặt đứt Sắc sinh ra Địa giới trong ngoài. Kinh kia đã nói: Vọng tưởng chủng sinh ra, thì đây nói tâm sinh Sắc, có sai lầm gì.
Nếu chất ngại khác với tư lự, suy tư, thì chắc chắn là có thể riêng thì sao lại tu đoạn mà đắc được vô lậu. Lại nữa, Phật, Bồ-tát từ sợi lông có thể chứa cả biển lớn, hạt cải thâu nạp cả núi Tu di, sắc nếu chắc chắn là ngại thì sao lại không gây trở ngại? Chỉ vì đối vọng tình mà nói là ngại và tư lự khác nhau, nếu đắc được tự tại thì thật ra không có gì là khác nhau. Tướng của tâm ấy, từ tâm mà sinh, lấy Chánh lý của Thánh giáo làm định lượng.
Tiếp đến là phần ba-nghĩa của sắc tâm uẩn.
Kinh: Sắc gọi là Sắc uẩn. Tâm gọi là bốn uẩn, đều mang tính tích tụ, che giấu sự chơn thật.
Giải thích: Trong năm uẩn, uẩn đầu tiên là Sắc uẩn, bốn uẩn sau là tâm uẩn.
"Đều mang tính tích tụ": Là nói ý nghĩa của uẩn. "Che giấu chơn thật": là nói về chướng ngại chơn thật.
Pháp giới thanh tịnh, Thể đó vắng lặng trong sáng, bị uẩn che đậy, nên không hiển hiện.
Tiếp sau là phần hai-Nói riêng về Sắc pháp. Trong đó chia làm bốn phần: 1. Sắc sinh sắc.
Kinh: Đại vương! Một sắc pháp đó, sinh vô lượng sắc.
Giải thích: Đây là nêu chung. Gọi là "Sắc" tức lấy chất ngại làm tính, một Sắc uẩn từ vô thủy đến nay thọ nhận nhiều thân ở các cõi giới, tự loại tương sinh nhau, sinh ra vô lượng.
Kế đến là phần hai-Nói sắc được tạo ra (sở tạo).
Kinh: Mắt nhận được là sắc, tai nhận được là tiếng, mũi nhận được là hương, lưỡi nhận được là vị, thân nhận được là xúc.
Giải thích: Nêu căn lấy trần, không nói về căn, về danh số tự loại năm trần có nhiều ít, như thường giải thích của Đại, Tiểu thừa giáo.
Sau đây là phần ba-Đại là chủ thể tạo.
Kinh: Cứng chắc gọi là đất, ẩm ướt gọi là nước, nóng ấm gọi là lửa, nhẹ động gọi là gió.
Giải thích: Ở trong xúc trần, có bốn đại xúc, "Cứng chắc ẩm ướt...": Cứng, ướt, nóng, động là Thể riêng của chúng. Đất, nước, gió, lửa là liệt kê bốn tên gọi.
Tiếp sau là phần bốn-Nói về năm sắc căn.
Kinh: Sinh năm Thức xứ, gọi là năm sắc căn.
Giải thích: Tịnh sắc là Thể của năm sắc căn. Tiếp sau là phần ba: Tổng kết về đối trị.
Kinh: Một sắc một tâm, cứ như vậy mà lần lượt sinh ra vô lượng sắc tâm, không thể diễn nói đều là như huyễn.
Giải thích: "Cứ như vậy mà lần lượt": Nghĩa là từ vô thủy đến nay cứ nương theo một Sắc tâm mà sinh ra vô lượng sắc tâm không thể diễn nói. Đây là nói số nhiều, khiến sinh ra sự chán ghét, nếu không đối trị để dứt bỏ thì vĩnh viễn kiếp luân hồi.
"Đều là như huyễn": là bảo quán sắc tâm như huyễn không thật.
Lìa các lỗi lầm, tức là đối trị.
Dưới đây là phần hai: Quán thọ giả, văn có ba phần: 1. Tổng nêu thọ giả; 2. Nói về hành tướng của Thọ; 3. Bày cách đối trị. Đây là phần một-Tổng nêu Thọ giả.
Kinh: Này người thiện nam! Thọ của hữu tình, là nương theo thế tục mà lập.
Giải thích: Nói "hữu tình": là lược bỏ phi tình.
Năm uẩn Thọ nhận, gọi chung là Thọ uẩn. Nếu nói riêng thì có sự lãnh nạp riêng, nên bảo đó là thọ. Thể của thọ là tâm Sở. Là Thọ ở trong biến hành. Pháp giả là năm uẩn. Thọ giả là Thọ uẩn, trước là nói chung, sau là nói riêng.
"Theo thế tục mà lập": hai chữ thế tục sẽ giải thích sau. Câu này là nói về không thật.
Tiếp theo là phần hai: Hành tướng của thọ. Văn chia làm hai phần:
1. Tác nghiệp của Thọ.
Kinh: Hoặc có hoặc không, hễ sinh ra vọng tưởng nhớ nghĩ của hữu tình tạo nghiệp nhận quả, đều được gọi là Thế đế.
Giải thích: "Hoặc có hoặc không ": Là thứ Thọ đã lãnh nhận. Lãnh nạp đối với các pháp sắc tâm hiện tiền, nên bảo là "hoặc có". Duyên với pháp thật ngã, với pháp không có ở quá khứ vị lai, không đối hiện tiền và pháp không có "thể", nên bảo là "hoặc không". Cảnh tuy muôn thứ khác nhau nhưng đều bao gồm ở trong Thế đế.
"Chỉ sinh ra vọng tưởng nhớ nghĩ của hữu tình": Nói rõ thọ nhận là hư vọng, điên đảo, lãnh nạp các cảnh thuận, nghịch, có, không, hoặc không thuận nghịch mà lên nhiều loại vọng tưởng, nhiều loại nhớ nghĩ thuộc ba tính tùy theo ứng hợp. Tuy thể của tưởng và niệm chẳng phải là Thọ nhưng nhân ở Thọ, do thọ lãnh nạp tương ưng.
"Tác nghiệp chịu quả": Tạo tác các nghiệp phúc, phi phúc, chẳng động... Cho nên bảo là tác nghiệp, có thể chiêu cảm các quả báo thuận đời nay, thuận đời sau và báo bất định, nên bảo là thọ quả. Tuy thể của nghiệp và quả, suy lường, nhưng do những điều mà nó lãnh nhận nên gọi là thọ.
"Đều gọi là Thế đế": Là nói chúng không thật. Tiếp đến là phần hai-Chỗ dựa của Thọ.
Kinh: Ba cõi, sáu thú (nẻo), tất cả hữu tình Bà-lamôn, Sát-đế-lợi Tỳ-xá, Thủ-đà.
Giải thích: Nói "Ba cõi": Là nơi nương tựa của thọ.
"Sáu thú là cõi sinh ra của thọ
"Tất cả hữu tình": là người của chủ thể khởi thọ "Bàla-môn...": là nói vọng phân biệt của thọ.
Bà-la-môn: Tiếng Hoa gọi là Tĩnh Chí. Sát-đế-lợi tiếng Hoa gọi là Vương-chủng. Tỳ-xá: là theo cách dịch cổ, nay dịch là Phệ-xá, tiếng Hoa gọi là Thương gia. Thủ-đà cũng thuận theo cách dịch cổ, nay dịch là Thúđạt-la, tiếng Hoa gọi là làm nông. Thọ ở bốn đẳng cấp đó, sự lãnh nhận và hiểu biết hơn kém nhau, khiến tác nghiệp khác nhau, đều gọi là Thọ.
Sau đây là phần ba-Hiển bày đối trị vọng.
Kinh: Ngã nhân, tri kiến, sắc pháp, tâm pháp, như cảnh thấy trong mộng.
Giải thích: "Ngã, nhân, tri kiến": là vọng đảo của thọ.
"Sắc pháp tâm pháp": là chỗ nương của thọ. Thọ nương theo sắc tâm mà khởi, vì điên đảo Ngã pháp mà lãnh nạp và nhận hiểu nhiều loại pháp hư vọng.
"Như cảnh thấy trong mộng": là nói chúng là không thật. Khi ở trong mộng thì cho là thật, tỉnh dậy rồi thì đều không có gì cả. Luận Duy thức nói; khi chưa đắc chơn giác, thường ở trong mộng. Chư Phật nói đó là "Đêm dài sinh tử". Vì vậy mới biết tác nghiệp chiêu cảm quả, đi lại trong các cõi loài đều là như trong mộng, đều không thật. Nếu đắc được chơn giác sẽ tự hiểu rõ.
Tiếp theo là phần ba-Quán danh giả. Văn chia làm bốn phần.
Đây là phần một-Nêu Danh là không thật.
Kinh: Này người thiện nam! Tất cả các danh đều là giả đặt ra.
Giải thích: "Tất cả": Là pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp Thế, pháp xuất thế, nên bảo là tất cả.
"Các danh": Danh là tiêu biểu, diễn bày. Tất cả các pháp tùy theo phương cõi mà có muôn tên gọi khác nhau, nên bảo là các danh?.
"Đều là giả bày ra": Nói rõ chúng là không thật. Danh diễn bày cộng tướng của tự tánh các pháp, là duyên tăng trưởng của ý, không đắc thể pháp, nên bảo là giả. Như luận Duy Thức nói: Danh diễn bày tự tính. Ở đây sao lại nói là không đắc thể pháp? Ví như nói "lửa", không là thiêu lửa. Nói "ăn" không là no. Nếu nó xứng với thể pháp thì người nghèo khổ nói là "nhiều" thì châu báu đầy kho.
"Giả đặt bày": là nói rõ không thật.
Tiếp đến là phần hai-Vốn không có Danh.
Kinh: Trước khi Phật chưa xuất thế, Thế đế là pháp huyễn không có danh, không có nghĩa, cũng không có thể tướng, không có tên gọi ba cõi, không có tên gọi quả báo thiện ác của sáu nẻo.
Giải thích: "Pháp huyễn Thế đế": vì Pháp là giả, Thọ là giả đều là như huyễn, tức không thật.
"Không danh không nghĩa": Danh là chủ thể diễn bày, nghĩa là đối tượng được diễn bày, ngôn luận của thế tục, theo tình mà bày ra, không xứng với pháp cảnh. Vì những thứ đó đều không thật, nên bảo là "không". Lại nữa, ngôn luận thế tục của các thế gian là hủy bỏ sự sai lầm của chúng, nên không có danh, nghĩa.
"Cũng không có thể tướng": huyễn pháp hữu vi nhờ các nhân duyên nên không có tự thể tướng, giống với danh nghĩa trên nên bảo là "cũng không".
"Không có ba cõi": Nếu không nhờ Phật nói ra thì không biết sự trên dưới, lớn nhỏ của ba cõi.
"Quả bảo thiện ác": Tùy theo các nghiệp thiện, ác mà được quả báo hơn kém tốt xấu như thế nào.
"Tên của sáu cõi": Thọ sinh khác nhau, ở trong sáu cõi đều không có tên gọi, đều không biết.
Sau đây là phần ba-Phật kiến lập.
Kinh: Chư Phật xuất hiện, vì hữu tình mà giảng nói về vô lượng tên gọi Ba cõi, sáu thú (nẻo), nhiễm tịnh.
Giải thích: Chư Phật Thế Tôn sở dĩ xuất hiện: là vì chư hữu tình, khiến cho xuất ly. Nên lập nhiều loại tên gọi, nói ba cõi là vì để chỉ bày sự hơn kém tốt xấu. Nói sáu thú là để chỉ bày chỗ sinh ra. Nói Nhiễm tịnh là chỉ bày làm cho đoạn dứt nhiễm tu tập, tịnh khiến vô lượng danh thuộc thế và xuất Thế.
Dưới đây là phần bốn-Đối trị tướng.
Kinh: Như vậy tất cả như âm vang của tiếng hô gọi. Giải thích: "Như vậy tất cả": Là tất cả những ngôn từ thuộc thế và xuất thế gian.
"Như âm vang của tiếng hô gọi": Là chính chỉ bày phép đối trị. Vì các ngôn luận của thế gian đều là không thật. Ngôn giáo xuất thế lìa tướng mà tu, đều là như âm vang.
Dưới đây là phần bốn-Tương tục giả. Văn chia làm ba phần. Đây là phần một-Nêu tương tục giả.
Kinh: Chư pháp tương tục, niệm niệm chẳng trụ.
Giải thích: "Các pháp tương tục": Các uẩn khác nhau, gọi là các pháp sinh diệt dời trôi, nên bảo là tương tục. Như kinh Duy-ma nói: Sinh là tướng tương tục của pháp hư dối. Tử là tướng hủy hoại của pháp hư dối, tương tục với nhau.
"Niệm niệm chẳng trụ": là chánh nêu rõ giả.
Tiếp theo là phần hai-Nói về nghĩa của tương tục.
Kinh: Sát-na, Sát-na, chẳng phải một chẳng phải thường, chóng khởi chóng diệt, phi đoạn phi thường.
Giải thích: "Sát-na Sát-na, chẳng phải một chẳng phải khác": Nói lên pháp sinh diệt chẳng nhất định là một hay khác.
"Chóng khởi chóng diệt, chẳng phải đoạn chẳng phải thường": là giải thích về pháp sinh diệt chẳng nhất định là đoạn hay thường, là một hay khác. Nếu chấp các uẩn thời quá khứ, vị lai là không có thì vì chóng khởi nên chẳng phải đoạn. Nếu chấp thể của các uẩn là thường thì vì chóng diệt, nên phi thường. Do vì phi thường nên chẳng phải nhất định là một. Do chẳng phải đoạn nên chẳng phải nhất định là, khác. Diệu lý thì lìa đảo đoạn thường, nhất dị. Đó gọi là quán sát tương tục giả.
Tiếp đến là phần ba-Kết-chỉ bày đối trị.
Kinh: Các pháp hữu vi như dợn nắng.
Giải thích: "Như lợn nắng": Là chỉ về sự để nói. Nắng xuân phát sinh, khí động ở vùng hoang dã. Nếu cho là thật có thì càng chuyển đến gần càng không có. Nếu cho là không có nhưng lại có thể dối gạt kẻ khát nước, cho nên thể của pháp hữu vi là chẳng phải có, chẳng phải không, chỉ bày chúng không thật như là dợn nắng (dương diệm).
Tiếp sau là phần năm-Nêu Tương đãi giả. Trong đó chia làm hai phần: 1. Quán đãi giả; 2. Hình đãi giả.
Đây là phần một: Quán đãi giả.
Kinh: Các pháp tương đãi. Gọi là Sắc giới, nhãn giới, Nhãn Thức giới... cho đến pháp giới, ý giới, ý thức giới, giống như ánh chớp.
Giải thích: "Chư pháp tương đãi": Đó là nêu chung. "Đãi" là nhờ, dựa. Nghĩa là: Uẩn, xứ, giới, các pháp hữu vi thiếu duyên thì không khởi, luôn mượn nhờ nhau.
"Gọi là Sắc giới, nhãn giới, nhãn thức giới": là nói hành tướng. Căn, cảnh, thức cả ba nếu bất đồng và thiếu một thì thức chắc chắn sẽ không sinh ra. Cảnh đang hiện tiền, căn đang phát khởi, thức đang hiểu cảnh, ắt phải nhờ nhau nới hiểu rõ.
"Giống như ánh chớp": là kết luận nghĩa không lâu dài, vì giả, không thật ngay đó đã diệt, không có.
Tiếp theo là phần hai-Hình đãi giả
Kinh: Bất định, tương đãi, có không, nhất dị, như mặt trăng thứ hai.
Giải thích: "Bất định tương đãi": Đó là Sơ nêu. Hình của các pháp đối đãi nhau, đẹp và xấu, cao và thấp, dài với ngắn... Sắc tâm hình đãi đều là không thật.
"Có, không, một khác": Có không tự nhiên có, vì đối với không nên Có. Không, không tự nhiên không, vì đối đãi với có nên Không. Một và khác cũng vậy cùng nhau hình đãi, không có một định thể chắc chắn. Lại nữa, mượn Hữu để hiện vô, đắc vô thì dứt bỏ hữu. Đãi vô mà quán hữu, lập hữu thì mất vô, lần lượt qua lại đều không có Thể. Một và khác cũng vậy, cho nên kệ Mật Nghiêm nói: Thế gian vọng phân biệt, Thấy như con bò v.v... có sừng, không hiểu sừng không có. Nhân nói sừng thỏ không, Phân tách đến cực vi, Cầu sừng không thật có, phải đãi với pháp có, mà khởi chấp Thấy không.
Hỏi: Có không đó là một pháp trước sau hay là hai pháp cùng một lúc đối đãi với nhau?
Đáp: Có không đều thì cùng một lúc, đối đãi chỉ là một pháp, như đem một trượng mà so với một trượng rưỡi thì một trượng kia có tướng ngắn, nhưng đem so với năm thước thì không có tướng ngắn mà có tướng dài. Thể của cả hai tướng ngắn và dài của một trượng kia đều không có. Trước và sau cùng một pháp; theo ví dụ trên thì rõ.
"Như mặt trăng thứ hai": là phần kết, không có thể thật, do bị bệnh mắt, nên thấy mặt trăng thứ hai, cùng mở mắt cùng tiếp xúc với một mặt trăng, nhưng thấy một mà cho là hai, nếu mắt không bị bệnh thì không có hai. Do vì bị tâm bệnh nên vọng thấy có không đều, một và khác, đẹp xấu, dài ngắn...
Tiếp nữa là phần sáu-Duyên thành là giả.
Kinh: Chư pháp duyên thành, pháp uẩn xứ giới như bọt trên nước.
Giải thích: "Chư pháp duyên thành": Là nêu về hữu vi, như hạt lúa nẩy mầm phải nhờ vào nước và đất...
Hỏi: Sao không nói là sinh mà nói là duyên thành? Đáp: Nhân sinh và duyên thành là hai thứ khác nhau.
"Pháp uẩn xứ giới": là hiển thị các pháp. Cả ba thứ này thâu nhiếp đủ tất cả hữu vi, chỉ nói riêng sắc tâm cũng đều có đủ trong đó, tuy xứ và giới cũng chung cho cả vô vi, nhưng chỉ lấy hữu vi là nhờ vào duyên mà thành. "Như bọt trên nước": Bọt thì không có "thể" chân thật, từ duyên mà thành pháp, chẳng lẽ pháp đó lại thật sao?
Sau đây là phần bảy: Nhân thành là giả.
Kinh: Chư pháp nhân thành, tất cả hữu tình nhân quả cùng thời nhân quả khác thời, ba đời thiện ác, như mây bầu trời.
Giải thích: "Chư pháp nhân thành": Hữu vi phải nhờ nhân mà sinh ra. Thành ở đây là sinh thành. Trước là tăng thượng, đây là nhân duyên, hai thứ đó khác nhau. "Tất cả hữu tình": Là biểu thị chúng sinh này có nhân, lược bỏ ngoài phi tình, không có nhân duyên. Cây cỏ v.v... tuy là từ chủng tử mà khởi lên, nhưng đó là tăng thượng duyên, chẳng phải là Nhân duyên.
"Nhân quả cùng thời": Tất cả chủng tử thuộc ba tính hữu lậu, vạn hạnh vô lậu đều có đủ ở trong bản thức như hiện trong thân, cùng một Sát-na, từ chủng sinh hiện, hành hiện hành có thể huân tập chủng. Cả ba pháp xẩy ra cùng một lúc, có hai nhân quả. Luận Duy Thức nói: Như bấc đèn sinh ra ngọn lửa, lửa sinh ra cháy bấc đèn, cả ba pháp lần lượt cùng một lúc thay nhau, hai nhân quả cùng thời.
"Nhân quả dị thời": Là như chủng tử ở trong thức, trước và sau cùng đối chiếu nhau, hoặc trồng ở đời hiện tại, nhưng quả thì ở đời vị lai vì không cùng khởi nên gọi là dị thời.
"Thiện ác ba đời": Nghiệp chủng, Thức chủng chỉ ở hiện tại, còn tác nghiệp chiêu cảm quả thì có ở cả ba đời.
"Như mây bầu trời": là chỉ bày đối trị. Như bầu trời trong sáng, không thấy có đám mây nào, gặp đầy đủ duyên, kết thành dày đặc sấm mưa rào rạc. Chủng tử ở trong thức cũng vô hình vô tướng, gặp duyên giới địa thì khổ và lạc hiển hiện rõ ràng. Lại nữa, chủng tử của các uẩn có hay không có cũng như mây, uẩn theo chủng mà sinh, như mây cho nên là giả.
Tóm tắt bảy loại trên là: Quán thể và dụng của uẩn, quán về danh của thể dụng: sinh và diệt nhờ đối đãi. Hiện và nhân. Thật, thường đối trị, tên gọi của lãnh nạp, đoạn thường tự nhiên không, vô nhân.
Tiếp sau là phần hai: kết-Chỉ bày chánh quán. Văn chia làm ba phần: Đây là phần một-Hạnh Bồ-tát.
Kinh: Này người thiện nam! Bồ-tát Ma-ha-tát trụ không phân biệt, không tướng bỉ thử, không Tướng Tự Tha, thường hành hóa lợi, không tướng hóa lợi.
Giải thích: Nói về chánh quán.
"Trụ không phân biệt": là định tuệ tương ưng với không phân biệt. "không tướng bỉ thử": do không phân biệt nên không có đây, kia.
"Không tướng tự tha": do không có đây, kia, mình và người bình đẳng không có hai tướng.
"Thường hành hóa Lợi, không tướng hóa lợi": Bồtát lợi vật là để thỏa tâm Bi của mình, tuy thường làm lợi cho người khác nhưng không trụ tướng.
Dưới đây là phần hai-Nêu hạnh ngu phu.
Kinh: Do đó nên biết, Ngu phu thức cấu, nhiễm chấp hư vọng, bị tướng trói buộc.
Giải thích: "Ngu phu": Kinh xưa viết là Ngu si, phàm phu, còn gọi là tiểu nhi phàm phu. Nay kinh mới này lược bớt chỉ nói là Ngu phu. Ngu là vô trí.
"Thức cấu": Vô thủy trần cấu vọng phân biệt nên gọi là Thức cấu.
"Nhiễm chấp hư vọng": Là không thể quán sát uẩn, xứ, giới... như áo bị thấm ướt, bụi nhơ dính vào, nên bảo là nhiễm vướng, không hiểu rõ về chơn thật, cho nên bảo là hư vọng.
"Bị tướng trói buộc": là bị trói buộc do tướng của pháp hư vọng trói buộc. Như Luận Hiển dương quyển mười chín nói: Sợi dây tướng trói buộc chúng sanh cũng là do trói buộc thô trọng phải tu song song chỉ quán mới đắc câu giải thoát. Do không hiểu cảnh chỉ là tự tâm. kiến bị tướng câu thúc, cho nên bảo là tướng trói buộc.
Tiếp theo là phần ba-kết-chỉ bày chánh quán
Kinh: Bồ-tát chiếu kiến, biết như huyễn sĩ, không có thể tướng, chỉ như không hoa.
Giải thích: "Bồ-tát chiếu kiến..." Chư Bồ-tát trụ vô phân biệt, chiếu kiến hữu vi, đạt như huyễn sĩ, không có thể tướng.
"Chỉ như không hoa": là nói về không có "Thể". Mắt bị nhặm thì thấy hoa, không bị nhặm thì thấy không có hoa. Cùng một chỗ, cùng một thời mà thấy và không thấy khác nhau. Chiếu uẩn, xứ, giới, có, không cũng vậy. Kế đến là phần ba-kết về chánh quán.
Kinh: Đó là Bồ-tát Ma-ha-tát, trụ lợi tự tha như thật quán sát.
Giải thích: Chư Bồ-tát có thể quán như trên là tu hai lợi, chánh quán sát.
Dưới đây là phần ba-Nghe pháp được ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, trong hội, vô lượng đại chúng nhân Thiên có người đắc phục nhẫn, Không, Vô sinh nhẫn, Địa thứ nhất, Địa thứ hai cho đến Địa thứ mười. vô lượng Bồ-tát đắc Nhất Sinh bổ xứ.
Giải thích: Do nghe pháp mà mỗi vị đều được thăng tiến, như những vị ngoài kiếp thì đắc phục nhẫn, là ngôi vị Ba Hiền.
"Không, vô sinh nhẫn": không là ba không và vô sinh nhẫn, Sự chung và riêng của nhẫn này như đã giải thích ở trên.
"Địa thứ nhất": tức là Sơ Địa, cho đến thắng tiến tới Địa thứ mười.
"Nhất sinh bổ xứ": Như Luận Du-già nói là Thân bổ xứ tôn quý nơi cõi Trời Tri Túc (Đâu Suất).---------------------------
Đại ý nối tiếp: hai phẩm trước nói về nhân quả, phẩm này nương theo hai phẩm ấy nói chung về hai đế. Phẩm Quán Như Lai ở trên trong phần nói về thật tướng, đã lược nêu rõ về chơn, tục. Phẩm này mở rộng phần văn trên.
Giải thích tên phẩm: Tên của phẩm này là hai đế: 1. Thế đế; 2. Chân đế. Cảnh của hai Trí, vạn hạnh đều là tông, không và có đối nhau cho nên bảo là hai đế.
"Thế đế": nghĩa là Thể của pháp hữu vi, từ duyên mà sinh, giả mà chẳng thật nên bảo là Thế đế.
"Chân đế": Thật tướng chơn như, bản tính thanh tịnh, thật mà chẳng giả, nên gọi là Chân đế.
Kinh nói là Thế Tục và Thắng nghĩa.
"Thế tục": tiếng phạm là Tam-phật-lật-để, tiếng Hoa là nghĩa ẩn hiển. Ngài Hộ Pháp giải thích; Thế, là ẩn núp, nghĩa là có thể bị hủy hoại. Tục, là biển hiện, nghĩa là trôi theo dòng đời. Như nhà ảo thuật thắt gút chiếc khăn tay thành ra là con thỏ. Tướng hiện thì ẩn chơn.
"Thắng nghĩa": kinh xưa viết là Đệ nhất nghĩa, Thắng là nghĩa Thù Thắng. nghĩa có hai loại: 1. Cảnh giới gọi là nghĩa; 2. Đạo lý gọi là nghĩa. Chơn lý gọi là nghĩa, thắng tức là nghĩa. hai trí, cảnh y tha và viên thành nên nghĩa của thắng trí. Đó là giải thích theo y chủ.
"Đế": là thật. Sự như thật sự, lý như thật lý. Lý và sự đều không sai trái, gọi là đế. Như Luận Du-già nói: đế có hai nghĩa: 1. Như tướng đã thuyết, không lìa bỏ; 2. Do quán tướng đó nên đạt đến cứu cánh, gọi là đế.
Nói theo nhân thì như kinh Niết-bàn nói: Những điều bậc thượng trí biết gọi là thắng nghĩa. Những điều bậc trung trí biết gọi là thế tục, những điều cả hai Trí biết đều chung cả không và có.
Nói theo pháp thì: Pháp có hơn kém, cùng nhau đối đãi mà thành ra là chơn và tục, tổng nương theo năm pháp mà kiến lập nên bốn lớp:
1. Nhị đế giả thật: Chiếc bình, đoàn quân, rừng cây... giả là thế tục. Uẩn, xứ, giới... thật là thắng nghĩa; 2. Nhị đế lý sự: Sự pháp như các uẩn là thô, là thế tục. Đạo lý của bốn đế là Tế, là thắng nghĩa; 3. Nhị đế cạn sâu: An lập nghĩa bốn đế cạn là thế tục. Chơn như hai không sâu xa là thắng nghĩa. 4. Nhị đế thuyên chỉ: Chơn như hai "không" còn vướng diễn đạt, là thế tục. Nhất chơn pháp giới trừ bỏ diễn đạt là thắng nghĩa.
Một pháp đầu tiên là chỉ là tục, một pháp sau cùng chỉ là chơn, ba pháp ở giữa vừa chơn vừa tục. Luận Duy Thức quyển chín và Luận Hiển dương quyển sáu đều nói rất rõ. Nay ở trong kinh này, dựa theo cảnh và trí mà biện về có không, còn một, hai đến phần văn sẽ nêu đủ.
Phẩm thứ tư: như văn đã nêu.
Giải thích văn kinh: Chia làm ba phần chính: 1. Hỏi đáp phân biệt;
2. Chư Phật đồng thuyết; 3. Nghe pháp được ích. Trong phần một. Hỏi đáp phân biệt chia làm ba: 1. Hỏi đáp cảnh trí; 2. Hỏi đáp tu chứng; 3. Hỏi đáp lý sự. Còn được gọi là Nhị đế bất nhị, Văn tự bất nhị và Pháp môn bất nhị. Nơi phần một: Hỏi đáp cảnh trí, văn chia làm hai: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi; 2. Như lai chánh đáp. Trong phần hỏi lại chia làm ba: Dưới đây là phần một: Hỏi về đế có, không.
Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật: "Thế Tôn! Trong Thắng nghĩa đế có thế tục đế không".
Giải thích: Đây là hỏi về cảnh. Thắng nghĩa chơn thường là chủ, Thế tục sinh diệt như khách trụ, nên hỏi trong Thắng nghĩa có Thế đế không.
Tiếp theo là phần hai-hỏi về trí là một hay hai.
Kinh: Nếu nói không có thì Trí không nên có hai, nếu nói là có thì trí phải không nên là một.
Giải thích: "Nếu nói là không có..." Đây là dạng hỏi song song (có hoặc không).
Nếu nói trong Thắng nghĩa đế không có Tục đế thì Trí phải là không hai, sao lại nói là hai trí chơn và tục. Nếu nói là có thì Trí không phải là một, sao khi chơn trí chứng, hiểu lại không có hai. Theo người mà biện minh phàm phu mê chơn, trí chỉ duyên với tục. Lý sự hai thừa duyên, định tán riêng biệt. Bồ-tát ở vị địa, thật trí chỉ chơn. Địa thứ năm trở về trước thì căn bản chứng chơn, sau đó thì đạt tục, không hiện hành cùng lúc hai Trí của chân đế và Tục đế. Địa thứ tám trở lên mới đạt đến cảnh giới của chư Phật, tuy có hai Trí nhưng đều dung hợp. Tóm lại, đều nương theo nghĩa đó mà ứng đáp cho người hỏi.
Tiếp đến là phần ba: kết luận song song như thế nào. Kinh: Nghĩa một, hai, sự đó thế nào?
Giải thích: "Nghĩa một hai...": Là cảnh một trí hai, cảnh hai trí một. Song kết song song cảnh và trí, việc đó như thế nào.
Từ đây là phần hai-Như Lai chánh đáp. Văn chia làm hai. 1. Đáp về Nhị đế; 2. Nói về chánh trí.
Trong phần một văn lại chia làm hai:
- Văn xuôi lược đáp.
- Thuyết kệ diễn rộng.
Trong phần một lại chia làm ba phần: Đây là phần một-Xưa kia đã hỏi.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Ông từ thời quá khứ, trong pháp của Phật Long Quang Vương đã hỏi nghĩa này.
Giải thích: Nêu câu hỏi xưa kia. Tiếp theo là phần hai-lược đáp về một hai.
Kinh: Ta nay không nói, ông nay không nghe, không nói không nghe ấy tức gọi là nghĩa một nghĩa hai.
Giải thích: "Ta nay không nói..." Như Bản ký nói: Có nói có nghe tức là không một, không nói không nghe tức là không hai. Không một không hai tức là Đệ-nhấtnghĩa-đế. Xưa Giải thích đoạn văn này có hai cách:
1. Không một tức là Nhị đế Chơn và Tục. Không hai tức là Đệ-nhất-nghĩa-đế, chẳng phải chân, chẳng phải tục nên là Đệ-nhất-nghĩa-đế.
2. Không một tức chính là nghĩa sai biệt của hai đế. Không hai, tức chính là nghĩa không sai biệt của hai đế. Chẳng phải ngoài hai đế còn có đế thứ ba. Nay lại giải thích: Thấy có nói nghe vì là tục, nên không một. Không có Tướng nói nghe, vì là Chơn, nên không hai. Tức là tướng mà không có tướng (tức tướng vô tướng) là nói rõ một hai.
Tiếp đến là phần ba-Bảo hãy lắng nghe.
Kinh: Ông nay lắng nghe, Ta sẽ vì ông thuyết.
Giải thích: Bảo hãy nghe cho kỹ. Sau đây là phần hai-Thuyết kệ rộng tỏ. Trong đó chia làm hai: Đây là phần một-Đức Thế Tôn thuyết kệ.
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn liền thuyết kệ.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai. Thuyết kệ diễn rộng. Trong đó có hai phần: 1. Nói riêng hai đế; 2. Kết: khuyên chánh quán.
Nơi phần một chia làm ba:
- Thể của Nhị đế.
- Đối nói cảnh trí.
- Dụ nói Tục đế.
Trong phần một, văn lại chia làm ba: 1. Thể của hai đế.
Kinh:
Thắng nghĩa đế vô tướng,
Thể chẳng tự tha tác
Nhân duyên như huyễn có
Cũng chẳng tự tha tác.
Giải thích: Nửa trên nói về chơn. Nửa dưới nói về tục.
"Thắng nghĩa đế vô tướng": là nói Thể của chân đế. Không có mười tướng kia, nên bảo là vô tướng. Thể thắng trí chứng được tức là Chơn thường, nên bảo là Thắng nghĩa.
"Thể chẳng tự tha tác": là ngăn chận ngã và ngã sở. Thể chẳng phải là ngã tác, nên chẳng phải tự tác, chẳng phải ngã sở chẳng phải tha tác. Ngã và ngã sở đều không, chẳng phải chúng tạo tác.
"Nhân duyên như huyễn có": là nói thể của Tục đế. Pháp thuộc sắc tâm, chủng tử làm nhân, hoặc làm duyên tương tự. Hoặc nhân tức duyên, sinh các hữu vi, như là huyễn có.
"Cũng chẳng phải tự tha tác": Như kinh Đại phẩm nói: Mười hai nhân duyên là ai làm ra? Phật nói: chẳng phải Phật làm, chẳng phải Bồ-tát làm, cho đến chẳng phải tất cả người làm. Cho nên pháp nhân duyên không có tự tha tác. Lại nữa, như luận đã nói: các pháp hữu vi, không từ tự nó sinh, nên chẳng phải tác, không theo cái khác sinh ra, nên chẳng phải tha tác. Như Thắng nghĩa trên, do đó lược nói là "cũng chẳng phải tha tác". Nếu nói cho đủ thì phải là: "Cũng không cùng tạo tác, cũng không thể không nhân tạo tác" nghĩa là, pháp hữu vi hiện, chủng huân sinh, không có ngã, ngã sở, như là huyễn có (có giả tạo).
Tiếp theo là phần hai-Nêu thể có không.
Kinh:
Pháp tính vốn vô tính.
Thắng nghĩa đế không như
Các hữu pháp huyễn có
Ba giả tập giả có.
Giải thích: "Pháp tính vốn vô tính": Tính chơn thật của các pháp hữu vi, thường tự nó tịch diệt, vô tướng làm tính.
"Thắng nghĩa đế Không Như": Tức là pháp tính đó bất sinh bất diệt, thường không biến đổi, nên bảo là Không, Như.
"Các hữu pháp huyễn có": Ba hữu, không phải là một, nên gọi là các hữu. Nói về Thể thì Sắc tâm các uẩn gọi là các hữu. Vì không thật, cho nên bảo là huyễn có.
"Ba giả tập giả có": Do pháp giả, Thọ giả, danh giả, tập hợp mà có, nhưng không thật, gọi là giả có.
Kế đến là phần ba-Kết: nói về không có.
Kinh:
Vô vô đế thật vô
Tịch diệt thắng nghĩa không
Chư pháp nhân duyên có
Nghĩa có không như vậy.
Giải thích: "Vô vô đế thật vô": Ngã và pháp đều không có, nên bảo là vô vô. Thật tướng thì chơn vô, gọi là đế thật vô.
"Tịch diệt Thắng nghĩa Không": Tướng hoặc vĩnh viễn diệt nên bảo là tịch diệt, là đế của Thánh trí, kết về không thù thắng.
"Các pháp nhân duyên có": Các hữu trên có nhân duyên tương tự nên gọi là có.
"Nghĩa có không như vậy": kết luận không của Thắng nghĩa. "Không" của trí chứng. Kết luận có của thế tục, có của Nghĩa như vậy.
Dưới đây là phần hai-Đối nói cảnh trí. Trong đó chia làm ba: 1.
Nói về thể một hai.
Kinh:
Có không vốn tự hai
Thí như hai sừng bò
Chiếu giải thấy "không" hai
Nhị đế thường chẳng tức.
Giải thích: "Có không vốn tự hai": là nói về Thể của đế. Tục đế là có, chân đế là không, nên bảo là có không. Từ xưa đến nay, Tính và tướng cùng nương giữ nhau, thể chẳng tức là nhau, chẳng rời lìa nhau, nên bảo là vốn tự hai.
"Thí như hai sừng bò": nghĩa là, Chơn và Tục đế nếu duyên với tục trí thì thấy là hai.
"Hiểu rõ thấy "không" hai": Chơn trí đó lìa tướng dứt tuyệt đối đãi, chứng không hai.
"Hai đế thường chẳng tức": nghĩa là do chứng hiểu không có hai tướng. Nếu chơn và Tục có hai thì có thể tức là nhau. Chân đế và Tục đế không hai thì không có gì tức là nhau.
Tiếp theo là phần hai-Dứt bỏ một hai.
Kinh:
Hiểu tâm thấy "không" hai
Cầu hai không thể được.
Chẳng cho hai đế một
Một cũng không thể được.
Giải thích: "Hiểu tâm thấy "không" hai": là Trí chứng.
"Cầu hai không thể được": Đó là dứt bỏ hai. Trí hiển hiện chứng Như, cầu hai tướng chân đế và tục đế riêng biệt thì không thể được.
"Chẳng cho hai đế một": Một cũng không thể được; đó là dứt bỏ một, chẳng phải nói chứng như không hai mà có một, cầu tướng một đó cũng không thể được.
Tiếp đến là phần ba-Kết luận một hai.
Kinh:
Với giải thường tự một
Với đế thường tự hai
Thấu đạt một hai đó
Chơn nhập Thắng nghĩa đế.
Giải thích: Nói rõ cảnh và trí là một hay hai trong câu hỏi trước. "Với hiểu thường tự một": Vô phân biệt trí hiểu rõ về tướng và vô tướng là thường một.
"Với đế thường tự hai": Đối với chân đế và tục đế không cho là hiểu một, tức là không hai.
"Thấu đạt một hai đó": Thấu đạt Trí đế: vì tục nên không là một.
Chơn nên không là hai.
"Thật vào Thắng nghĩa đế": Chơn, là trí chứng. Thắng nghĩa đế; là liễu đạt trí đế không nhất nhất định là có một hay hai, tức là thật chứng.
Tiếp sau là phần ba-Dụ tỏ Thế đế, trong đó chia làm hai phần:
1. Dụ tỏ Thế đế.
Kinh:
Thế đế huyễn hóa khởi.
Thí như Hoa hư không
Như bóng, như sợi lông
Nhân duyên mà huyễn có.
Giải thích: "Thế đế huyễn hóa khởi? Nói chung hữu vi huyễn hóa dấu khởi, hai câu tiếp là nêu riêng ba thí dụ.
"Thí như hoa hư không": Là dụ cho vọng có, là vì tính kế chấp, không có "thể" thật.
"Như bóng": Bóng trong nước, gương... đều nhờ vật chất mà sinh, dụ cho tính y tha, nghiệp duyên mà hiện.
"Như sợi lông": Là hợp phần nói trước. Do bị đau mắt mà có khác, nên thấy có sợi lông. Nếu không có bệnh mắt thì cả hai đều không có. "Nhân duyên mà huyễn có": kết luận pháp Thế đế do tựa nhân duyên, tương tự, giống như huyễn có.
Dưới đây là phần hai-Nêu huyễn.
Kinh:
Huyễn hóa thấy huyễn hóa
Ngu phu gọi huyễn đế
Huyễn Sư thấy huyễn pháp
Đế, huyễn đều là không.
Giải thích: "Huyễn hóa thấy huyễn hóa": là nói về chủ thể thấy và đối tượng được thấy của các thế gian đều là không thật, đó là huyễn hóa.
"Ngu phu gọi huyễn thật": Nghĩa là: phàm phu ngu si không có mắt tuệ, thường ở trong huyễn, gọi là huyễn đế.
"Huyễn sư thấy huyễn pháp": Nghĩa là các Bồ-tát chứng đắc thân này như huyễn, thấy Thế đế huyễn ảo không thật.
"Đế huyễn đều là không": Hiểu rõ người và pháp là rỗng không, thảy đều không có.
Dưới đây là phần hai-Kết-khuyên chánh quán.
Kinh:
Nếu hiểu pháp như thế Tức hiểu nghĩa một hai Đối với tất cả pháp, Nên quán sát như vậy.
Giải thích: Hai câu trước là kết luận đoạn văn trên. Hiểu rõ được các Tính, tướng, Cảnh, Trí như trên là hiểu rõ nghĩa một và hai. hai câu dưới là khuyên bảo chánh quán, Tính và tướng, chơn và tục không lìa nhau, nên quán như vậy.
Tiếp theo là phần hai-Nói về chánh trí, trong đó có ba phần:
1. Cảnh Trí không; 2. Mê ngộ không; 3. Nhiễm Tịnh không. Trong phần cảnh Trí, văn có bốn phần: Đây là phần một-Nêu cảnh trí không.
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát trụ nơi thắng nghĩa đế, hóa độ chư Hữu tình, Phật và hữu tình một mà không hai.
Giải thích: Nói về quán chiếu, đồng với phần văn sau của phẩm Như Lai về thật tướng. Trên là đối hai đế, biện minh Trí một hai. Đây là nói về Thể của Trí hiểu rõ chúng đều là không.
"Bồ-tát Ma-ha-tát": là Người hành quán.
"Trụ Thắng nghĩa đế": là Hành Tương ưng với Trí. Đó là tự lợi. "Hóa độ các hữu Tình": là hành lợi tha. "Phật và hữu tình, là một mà không hai": Đây có hai nghĩa: 1. Chơn lý không hai. Vì tính bình đẳng; 2. Sự tướng không hai. Vô phân biệt trí, không giữ lấy hai tướng mà khởi phân biệt hơn kém. Như Kinh Duy-ma nói: Thọ nhận Anh Lạc thí cho người ăn xin thấp nhất, và phụng cúng cho Như Lai Nan Thắng, không có phân biệt... và pháp thí. Giống câu nói một mà không hai ở đây.
Tiếp đến là phần hai-trình hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì sao Phật và hữu tình là một không hai?. Sau đây là phần ba-Giải thích cảnh, nói về không. Kinh: Hữu tình, Bồ-đề, cả hai đều không.
Giải thích: "Hữu tình": là chúng sinh do tâm bi hóa độ.
"Bồ-đề": Là giác mà Trí mong cầu. Bồ-đề có hai loại: Tính Tịnh Bồ-đề, tức là Bản giác. Và vô Thượng Bồ-đề là cứu cánh Giác. Hai Bồ-đề này và chúng sinh được hóa độ, hiểu rõ đều bình đẳng, cả hai đều là không. Dưới đây là phần bốn-Kết-kết luận cảnh, nói rõ không.
Kinh: Vì hữu tình không, đạt được ở Bồ-đề không.
Vì Bồ-đề không đặt được ở hữu tình không.
Giải thích: "Vì hữu Tình không...": Vì chúng sinh và Bồ-đề không, không có hai. Nghĩa là: Tính Tịnh Bồđề, cùng với tự và tha Bình Đẳng. Cả hai đều không là các pháp hữu tình không có tự tánh là "không". Bồ-đề thanh tịnh, tính tịnh nên là không. Nói rõ tu hai Lợi, không có tướng của chủ thể và đối tượng nên dùng hai tính đó để nói rõ về không.
Tiếp theo là phần hai-Mê ngộ không. Văn chia làm bốn phần:
1. Nêu chư pháp không; 2. Trưng hỏi nguyên do; 3. Giải thích cảnh trí không; 4. Kết luận cảnh trí không.
Dưới đây là phần một-Nêu các pháp không.
Kinh: Vì tất cả pháp không không, cho nên không.
Giải thích: "Tất cả pháp": Là Nhị đế, Sinh tử, Niếtbàn đều không.
"Không không cho nên không": Chủ thể và đối tượng đều không, ngã và pháp đều không, nên bảo là không không. Hiểu rõ giải không tịch, nên bảo là không.
Kế đến là phần hai-Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì những thứ kia đều không? Tiếp sau là phần ba-Giải thích cảnh trí không.
Kinh: Bát-nhã vô tướng, Nhị đế đều không.
Giải thích: "Bát-nhã vô tướng": Trí của chủ thể chiếu là không. "Nhị đế đều không": là sinh tử và Niếtbàn đều là không.
Sau đây là phần bốn: Kết luận cảnh Trí không. Văn có hai: Trí Nhân quả không.
Kinh: Nghĩa là từ vô minh đến Nhất-thiết-trí, không có tự tướng, không có tha tướng.
Giải thích: Nói về gốc và ngọn đều không. Đây có hai giải thích. Có thuyết nói: Mười hai duyên sinh vô thủy, từ vô minh, hành cho đến ngôi vị Nhất-thiết-trí sau cùng đều không có tướng Nhân, (người) nên gọi là không tự tướng. Không có tướng pháp, nên gọi là không có tha tướng. Lại không có Ngã. Ngã sở, hai thứ đó đều không, nên gọi là không có tự Tha tướng. Có thuyết nói: Từ vô thủy vô minh căn bản, thuận tự mà ngược tha, cho nên ngủ mê trong sinh tử, tỉnh mê trở về nguồn, ngược tự thuận Tha, đạt đến Nhất-thiết-trí. Mê và ngộ, Tự và Tha đều nương theo đối đãi mà lập. Hiểu rõ thì dứt tuyệt đối đãi vì chúng đều là không.
Tiếp theo là phần hai-Cảnh tính tướng không.
Kinh: Đối với thắng nghĩa đế, thấy không có gì là thấy, nếu có tu hành, cũng không chấp trước, Nếu không tu hành, cũng không chấp trước, phi hành chẳng phải không hành cũng không chấp trước, ở tất cả pháp đều không chấp trước.
Giải thích: "Đối với thắng nghĩa đế": là nêu ra sở chứng.
"Thấy mà không có gì là thấy": Vô phân biệt trí, soi rõ lý sự đều bình đẳng, tức là thấy mà không có gì là thấy.
"Nếu có tu hành cũng không chấp trước": Nói về tất cả sự tu hành thuộc ngôi vị Ba Hiền, tuy chưa bỏ tướng, tu không phân biệt nhưng, ở trong các pháp không chấp trước, dấy khởi nhiễm chấp, nghĩa của các chữ "chấp trước"; ở sau cũng như vậy.
"Nếu không tu hành": Nghĩa là, Trí căn bản ngầm hợp với chơn lý nhưng không có tướng của tu, gọi là không tu hành, chẳng phải là buông lung tản mạn không tu hành.
"Ở trong các pháp cũng không chấp trước": Theo giải thích trên. "Chẳng phải hành chẳng phải không hành" Nghĩa là: Hậu đắc Trí do có mang Tướng, chẳng phải là thân chứng Như, gọi là phi hành, hiểu rõ huyễn thì lợi lạc tức là chẳng phải không hành.
"Ở tất cả các pháp đều không chấp trước": là đối với Lý và sự đều không chấp trước.
Dưới đây là phần ba-Nhiễm tịnh không. Văn chia làm ba phần.
1. Nêu ngôi vị Nhiễm tịnh; 2. Trưng hỏi nguyên do;
3. Giải thích Nhiễm tịnh không.
Đây là phần một-Nêu vị nhiễm tịnh
Kinh: Bồ-tát khi chưa thành Phật, lấy Bồ-đề làm phiền não. Bồ-tát khi đã thành Phật, lấy phiền não làm Bồ-đề.
Giải thích: "Bồ-tát khi chưa thành Phật...": Đây có hai nghĩa. Có thuyết nói: Phiền não và Bồ-đề có sự hơn kém nhau, như vị ở phàm thì phiền não hiện tăng, Bồ-đề chủng bị sút kém. Ở vị Thánh thì Bồ-đề hiện tăng, phiền não chủng sút kém. Ở trong ngôi vị trước thì nói là phiền não, ở nơi ngôi vị sau thì nói là Bồ-đề. Với thành và chưa thành, nói thành ra là hai. Có thuyết nói: Phiền não và Bồ-đề, tính của chúng là không hai khác. Ở ngôi vị tùy theo Nhiễm thì Tính Tịnh Bồ-đề động thành ra là phiền não. Ở ngôi vị Tính tịnh thì phiền não vọng diệt, tức là Bồ-đề. Nhiễm Tịnh tuy là khác nhau, nhưng tính của chúng thì không khác.
Tiếp đến là phần hai-Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Nhiễm và tịnh trái ngược nhau, sao lại không khác?
Tiếp theo là phần ba-Giải thích nhiễm tịnh không. Văn lại chia làm hai phần: 1. Nhiễm và Tịnh đều không. Kinh: Đối với Đệ nhất nghĩa nên không có hai.
Giải thích: "Đối với Đệ nhất nghĩa...": Nghĩa là trí chứng Như, phiền não và Bồ-đề đều chẳng thể đạt được, không có hai thể.
Kế đến là phần hai-Tướng đều không.
Kinh: Chư Phật, Như Lai và tất cả pháp đều là Như. Giải thích: Do trí chứng lý, lý thì không hai. Do trí đạt sự, sự tướng đều không. Chư Phật và tất cả pháp đều Như.
Tiếp sau là phần hai-Hỏi đáp tu chứng. Văn chia làm hai phần:
1. Vua Ba-tư-nặc hỏi.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Chư Phật, tất cả Bồ-tát ở mười phương vì sao không lìa văn tự mà hành thật tướng.
Giải thích: Hỏi về văn tự, giống với phần Quán chiếu thuộc phẩm Như Lai.
"Chư Phật mười phương": là nói vị đã tu. "Tất cả Bồtát": là nói vị đang tu.
"Vì sao...": Là hỏi pháp tu.
"Không lìa văn tự": Sao lại không lìa.
"Mà hành thật tướng": Tu tập như thế nào mà hành thật tướng.
Dưới đây là phần hai. Như Lai chánh đáp. Văn chia làm hai phần: 1. Đáp riêng về tu hành; 2. Kết: Hộ trì các quả.
Trong phần một chia làm ba:
- Tướng văn tự.
- Thật tướng Tu.
- Dứt bỏ tướng văn tự.
Văn phần một lại chia làm ba: 1. Tổng nêu văn tự:
Kinh: Phật nói: Đại vương! Văn tự là: Khế kinh, Ứng tụng, ký biệt, Phúng tụng, Tự thuyết, Duyên khởi, Thí dụ, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy hữu, Luận nghị.
Giải thích: "Phật nói..." là nhắc câu hỏi trước.
"Là: khế kinh..." là liệt kê tên. Người là chủ thể thuyết có năm vị, như trước đã nói. Số giáo pháp thì vô số, tựu trung lại chỉ có mười hai phần giáo đó. Tên gọi theo tiếng phạm là: Tu-đa-la, Kỳ Dạ, Hòa già-la-na, Giàtha, Ưu-đà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-Việt-đa-già, Xà-đa-già, Tỳ-Phật-lược. A-phù-đà-đạt-ma, Ưu-ba-đề-xá. Phiên dịch lại tiếng Hoa như trên đã kê.
Tiếp theo là phần hai-Đều là Thật tướng.
Kinh: Toàn bộ các thứ tuyên thuyết, âm thanh, ngữ ngôn, văn tự, chương cú, tất cả đều Như, không có gì không phải thật tướng.
Giải thích: Đây là nêu ra Thể. "Toàn bộ tuyên thuyết": là nêu những điều đã thuyết.
"Âm thanh, ngữ ngôn": Các thuyết về lời Phật dạy lấy thanh làm thể, là thuộc về Sắc uẩn, tức là câu này.
"Văn tự chương cú": Các thuyết về lời Phật dạy lấy thanh làm Thể, là hành uẩn thâu nhiếp, tức là câu này.
"Tất cả đều Như, không gì không phải thật tướng" Nghĩa là: khế kinh... năng thuyên, sở thuyên đều gồm thâu sự trở về Như, không gì chẳng phải là thật tướng. Lại nữa, Phật thuyết pháp chính là để hiển Như. Lìa ngoài Như, càng không có một chữ cho nên âm thanh và văn tự thảy đều là Như.
Sau đây là phần ba-Kết luận ngược lại chẳng phải Như.
Kinh: Nếu chấp giữ lấy tướng văn tự, tức chẳng phải thật tướng.
Giải thích: "Nếu chấp giữ lấy tướng văn tự..." là chấp trước. Nghĩa là: không phân biệt thì không chấp trước tướng văn tự, nếu tu thật tướng mà còn chấp giữ lấy tướng văn tự tức chẳng phải Thật tướng.
Dưới đây là phần hai-Tu Thật tướng. Trong đó có hai phần: 1. Nương theo văn tự mà tu; 2. Nói về Phật mẹ trí. Trong phần một lại chia làm ba: 1. Như văn tự tu.
Kinh: Đại vương! Người tu thật tướng, như tu văn tự.
Giải thích: "Người tu thật tướng": là nhắc lại người chủ thể tu "Như tu văn tự": là chỉ rõ pháp sở tu.
Văn tự được thuyết giảng lý và sự đều Như, như văn tự mà tu thì đắc thật tướng.
Tiếp theo là phần hai-Mẹ của trí.
Kinh: Thật tướng tức là mẹ của trí tuệ chư Phật, là mẹ căn bản trí của tất cả hữu tình.
Giải thích: Câu trước là nói về chư Phật đã tu thật tướng.
Câu sau là hữu tình hiện đang tu. nghĩa là văn tự thật tướng trong khế kinh... là nêu giảng về sự và lý. Sự thì có đoạn tu, tu thì có vạn hạnh, vạn hạnh tuy có khác nhau nhưng thật tướng thì đồng một thể cho nên bảo Thật tướng là mẹ trí tuệ của chư Phật.
"Mẹ của trí Hữu tình": Nghĩa là chư Hữu tình, với thật tướng bình đẳng, nghe danh mà tín hiểu, tức là căn bản là mẹ. Lại nữa, Thật tướng tức là bản giác, do nhờ Bản giác mà phát sanh chánh trí, đạt đến cứu cánh giác, Nhất-thiết-trí tròn đủ Bản giác tức là mẹ trí tuệ của chư Phật mẹ của trí hữu tình là hữu tình do bổn giác làm gốc cho các hành, cho nên lấy Bản giác làm mẹ của trí.
Tiếp đến là phần ba-Kết: Làm Trí Thể.
Kinh: Đó gọi là Thể của Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Tức Thật tướng đó làm Thể của trí.
Tiếp sau là phần hai-mẹ trí của Phật. Văn chia làm ba: 1. Nói về Mẹ trí tuệ của Phật.
Kinh: Chư Phật chưa thành Phật và Phật hiện tại là Mẹ trí. Chư Phật đã thành Phật tức là Nhất-thiết-trí, chưa đắc là tính, đã đắc là Trí.
"Chư Phật chưa thành Phật": là đang ở tại Nhân.
"Và Phật hiện tại làm Mẹ trí". Nghĩa là: thật tướng trên nói tức chính là Bản giác. Bản giác trong Nhân, bị vô minh che lấp, đối với sau sẽ là quả ắt là chánh trí viên mãn, là nhân trí cho chính Phật hiện tại. Như hạt châu Như ý, tạm thời bị nhơ nhớp, hết nhơ nhớp thì thể tròn đủ, nói cái đầu tiên là mẹ.
"Chư Phật đã thành Phật: tức là Nhất-thiết-trí": là nói về quả đức viên mãn, Giác ngộ, hiểu rõ viễn mãn, tột cùng tức là Trí.
"Chưa đắc là Tính, đã đắc là Trí": là nói về nhân và quả. Trong nhân bị chướng che phủ thì làm Phật tính. Khi quả đức hiển hiện thì gọi là Nhất-thiết-trí.
Dưới đây là phần hai-Tính ba thừa.
Kinh: Ba thừa Bát-nhã, chẳng sinh chẳng diệt, tự tính thường trụ.
Giải thích: Nói "Ba thừa": là Người thuộc ba thừa.
Nói "Bát-nhã": là Thật tướng...
"Chẳng sinh chẳng diệt": là nói thể là thường.
"Tự tính thường trụ": nghĩa là Thật tướng, Thể chẳng sinh chẳng diệt, không biến đổi, tuy nơi ba Thừa chứng hiểu khác nhau, nhưng luận về thể của trí thì không khác.
Tiếp theo là phần ba-Nói chung về tính giác.
Kinh: Đây là tính giác của tất cả hữu tình.
Giải thích: Chẳng riêng chư Phật và ba thừa, mà tất cả hữu tình chẳng kể lớn nhỏ, đều lấy thật tướng bình đẳng làm tính giác.
Tiếp theo là phần ba-Dứt bỏ Tướng văn tự. Văn chia làm ba: 1.
Dứt bỏ tướng văn tự.
Kinh: Nếu Bồ-tát không chấp trước văn tự, không lìa bỏ văn tự, không tướng văn tự, chẳng phải không có văn tự.
Giải thích: "Hoặc Bồ-tát": là nói người tu hành. "Không chấp trước văn tự": Dứt Như là chấp. "Không lìa văn tự": là không nên bác bỏ là không. "Không tướng văn tự": là không nên trụ nơi tướng
"Chẳng phải không có tự": là lìa phân biệt, như văn tự mà tu mỗi một văn tự đều đắc trí thật tướng giải thoát. Đầu tiên là lìa chấp có, tiếp đó là lìa bác bỏ không, tiếp nữa là không trụ tướng, sau cùng là thuận giải thoát. Tiếp đến là phần hai-Dứt bỏ tướng tu hành.
Kinh: Thường tu như vậy, không thấy tướng tu. Đó tức gọi là người tu văn tự mà có thể chứng đắc với chơn Tính Bát-nhã.
Giải thích: Câu đầu là dứt bỏ Tướng tu hành, hai câu tiếp là thuận theo văn mà tu, câu sau là đắc Tính Bátnhã.
Tiếp sau là phần ba-Kết luận: Tu Bát-nhã.
Kinh: Đó là Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: Người có thể như trên, trí tùy thuận văn tự mà chứng Thật tướng. Đó tức gọi là đến bờ giác ngộ. Dưới đây là phần hai-kết về Hộ trì quả...
Kinh: Đại vương! Bồ-tát Ma-ha-tát, Hộ trì quả Phật, Hộ hạnh Thập địa, Hộ hóa hữu tình là như thế.
Đoạn văn này là kết về hai phẩm Quả, Nhân bên trên, hiển bày cái riêng, nương theo cái chung, làm sáng tỏ thù thắng này, không có tu tập điên đảo tức là hộ quốc.
Tiếp theo là phần ba-Hỏi đáp về lý và sự. Văn chia làm năm phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi; 2. Thế Tôn tổng đáp; 3. Trưng hỏi nguyên do; 4. Giải thích về một và nhiều; 5. Kết luận: Chẳng phải một hai. Đây là phần một-Vua Ba-tư-nặc hỏi.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Chơn Tính là một, hữu Tình phẩm loài căn hành thì vô lượng thì pháp Môn là một hay là vô lượng?
Giải thích: "Chơn tính là một": nêu cái Lý đã chứng, chơn Như pháp Tính, Thể là một.
Nói "hữu tình": là chung cả các Thánh, phàm, tất cả Hữu tình.
Nói "phẩm loại": là Ba Thừa trong Thánh, sáu cõi trong phàm. Vả lại, các loài trong cõi người đã là vô số, huống nữa là trong các cõi giới, thú khác, ai mà lường được.
Nói "căn hành": có ba loại, căn thì có thượng, trung, hạ, hành thì có đốn, tiệm, lợi, độn khác nhau.
Nói "vô lượng": là chung cả bốn loại trên: 1. Hữu tình; 2. Phẩm loại; 3. Căn; 4. hành. Từ rộng đến hẹp đều là vô lượng là nêu lên số nhiều.
"Pháp môn là một hay là vô lượng?" Là phát khởi hai câu hỏi. Pháp Bát-nhã mà Như Lai đã thuyết là như pháp môn Chơn Tính như, là một hay là như Hữu pháp môn tình, là vô lượng?.
Tiếp đến là phần hai-Như lai tổng đáp.
Kinh: Phật nói: Đại vương! pháp Môn chẳng phải một, cũng chẳng phải vô lượng.
Giải thích: "Pháp môn chẳng phải một": Phật đối đúng căn, theo bệnh cho thuốc, chỉ một âm diễn thuyết, tùy theo loài, mỗi loài đều hiểu rõ cho nên chẳng phải một.
"Cũng chẳng phải vô lượng": Dạy bảo đúng bệnh, tuy nhiều như số trần sa, theo lý đã chứng thì chẳng phải là vô lượng. Lại lý sở chứng căn cứ ở tâm hữu tình, trong mỗi một môn đều đạt giải thoát, cho nên chẳng phải một. Hữu tình cho đến cuối cùng thì không có hạnh gì là không tu, không có chướng gì là không hết, đạt đến vô thượng giác, quả Phật viên mãn nên, chẳng phải vô lượng.
Tiếp đến là phần ba-Nêu hỏi chung về nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Vì nguyên do gì mà chẳng nhất định là một hay nhiều?.
Dưới đây là phần bốn-Giải thích riêng về một và nhiều. Văn chia làm hai phần: 1. Pháp một, nhiều; 2. Đế một, hai.
Trong phần một lại có hai: 1. Pháp môn nhiều.
Kinh: Do các hữu tình, sắc pháp, tâm pháp, tướng năm thủ uẩn Ngã nhân, tri kiến, nhiều loại căn hành, phẩm loại vô biên nên pháp môn tùy thuận theo căn cũng có vô lượng.
Nêu rõ chẳng phải một. "Do các hữu tình": là tổng nêu về loại.
Nói "Sắc pháp": là có Sắc sai biệt trong Sắc giới. Nói "Tâm pháp": là tâm khác nhau trong Ba cõi.
"Tướng năm thủ uẩn": là hợp nói về Sắc và tâm. "Thủ" nghĩa là: phiền não, chấp trước sinh tử, nên gọi là Thủ. Nói "Thủ uẩn": Là uẩn từ thủ sinh nên gọi là Thủ uẩn, theo từ nhân mà đặt tên, như gọi lửa, cỏ, lửa trấu. Hoặc là uẩn sinh ra thủ, nên gọi là Thủ uẩn, theo từ Quả mà đặt tên, như cây hoa quả. Hoặc là uẩn thuộc Thủ, nên gọi là Thủ uẩn, theo hệ thuộc mà đặt tên, như quan của đế vương. Sắc tâm thuộc ba cõi đều gọi là thủ uẩn.
"Ngã Nhân tri kiến": là vọng đảo.
"Nhiều loại căn hành, phẩm loại vô biên": Như trên đã rõ. "Pháp môn tùy thuận theo căn cũng có vô lượng":
Cho thuốc ứng với bệnh, các giáo vô số, gọi là tùy căn cũng vô lượng. Tiếp theo là phần hai-Nêu chẳng phải vô lượng. Kinh: Tính các pháp đó, chẳng phải tướng, chẳng phải vô tướng mà chẳng phải vô lượng.
Giải thích: Nêu rõ là một. "Tính Các pháp đó": tức là Thật tính. Nói "chẳng phải tướng": Là chẳng phải mười tướng.
"Phi vô tướng": do Trí chứng, cho nên chẳng phải hoàn toàn không có như sừng thỏ.
"Mà chẳng phải vô lượng": Tùy thuận chứng tuy là nhiều, nhưng lý giải thoát là một Tướng một vị, chẳng phải là vô lượng.
Tiếp nữa là phần hai-đế một hai. Văn lại chia làm ba: 1. Thấy một hai.
Kinh: Hoặc Bồ-tát tùy thuận các hữu tình mà thấy là hai, đó tức là không thấy nghĩa của một, hai.
Giải thích: "Hoặc Bồ-tát..." Nghĩa là: Hoặc Bồ-tát không thể dứt mất tướng, thấy là không có gì thấy, mà khởi phân biệt, thấy Thật tướng là một, thấy hữu tình là nhiều, nên bảo là "hai".
"Đó tức là không thấy nghĩa của một, hai": Tức chính là chấp giữ tướng, vọng thấy một, hai không thể hiểu, ngộ được. Chơn không trái với tục, tùy thuận tu chứng nhiều, môn giải thoát nhiều, Tục không trái với chơn, Thể của Thật tướng là một, vạn hạnh quy về một, đó là nghĩa của một, hai của chơn, Tục.
Tiếp theo là phần hai-Giải thích về Thắng nghĩa đế. Kinh: Mới biết một hai, mà chẳng một chẳng hai, tức là Thắng nghĩa đế.
Giải thích: "Mới biết một hai": Là hiểu rõ một và hai nói trên. "Chẳng phải một chẳng phải hai": Là hiểu rõ về Chơn chẳng phải là một nhất định, hiểu rõ tục chẳng phải là thọ nhận hai. Tỏ ngộ như trên tức là Thắng nghĩa đế không phân biệt.
Sau đây là phần ba-Giải thích Thế tục đế.
Kinh: Chấp giữ một hai, hoặc có hoặc không, tức Thế tục đế.
Giải thích: "Chấp giữ một, hai": Giữ lấy tướng, chấp trước, thấy một nhất định là một, thấy hai nhất định là hai.
"Hoặc có hoặc không": Chấp tục nhất định có chấp Thắng nghĩa nhất định là không đây đều là vọng tình thế tục đế.
Dưới đây là phần năm: Kết, chẳng phải một chẳng phải hai.
Kinh: Do đó pháp môn chẳng phải một chẳng hai.
Giải thích: "Do đó,...": Có thể dùng tâm rỗng lặng mà dung hòa diệu chỉ ấy. Do đó, pháp môn chẳng phải một chẳng phải hai, phá hữu tình chấp từ ba môn Môn trên, cảnh Trí văn tự và pháp Môn, do nương theo nói Nghe, như văn tự mà tu, ngộ tỏ pháp Môn là chẳng một chẳng hai, từ cạn đến sâu, nói về hai đế.
Từ đây là phần hai-Phật đồng thuyết, trong đó chia làm ba phần:
1. Phật đồng thuyết; 2. Công đức nhiều; 3. Thọ trì thù thắng, Nơi phần một. Văn chia làm hai phần: 1. Nêu Phật đồng thuyết.
Kinh: Đại vương! tất cả chư Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa, Ta nay thuyết Bát-nhã Ba-la-mật Đa, không hai không khác.
Giải thích: Là hiển bày sự cùng thuyết như nhau. Tiếp theo là phần hai-Thọ Trì,...
Kinh: Đại chúng các ông, thọ trì đọc tụng, như thuyết tu hành, tức là thọ trì pháp của chư Phật.
Giải thích: 1. Thọ trì; 2. Đọc; 3. Tụng; 4. Thực hành như thuyết. Đó là bốn pháp hành, tức là thọ trì tất cả các pháp của chư Phật đã thuyết giảng chẳng phải là pháp chỉ riêng một mình đức Thế Tôn thuyết.
Từ đây là phần hai-Công đức nhiều. Văn chia làm ba phần. 1. Nêu công đức nhiều; 2. Nhiều Phật cùng thuyết; 3. Ít so với nhiều. Đây là phần một-Nêu công đức nhiều.
Kinh: Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa này công đức vô lượng.
Giải thích: "Bát-nhã...": Năng thuyên và sở thuyên đều gồm trong cả bộ này, gọi chung là Bát-nhã. Lại không chỉ vậy, vô số giáo pháp đều gọi là Bát-nhã.
"Công đức vô lượng": Công đức của Bát-nhã giống như hư không, không thể lường được.
Tiếp theo là phần hai-Nhiều Phật cùng thuyết, văn lại chia làm hai: 1. Nhiều chủ thể thuyết.
Kinh: Nếu có chư Phật nhiều như số cát nơi sông Hằng, mỗi một vị Phật ấy giáo hóa vô lượng hữu tình không thể nói hết, mỗi một hữu tình đó điều đắc thành Phật, chư Phật ấy… lại giáo hóa vô lượng hữu tình không thể nói hết, cũng đều thành Phật.
Giải thích: Đoạn văn trên là ba lớp dùng dụ mà nói, toàn bộ số lượng chư Phật thì chỉ có Phật mới biết được, là hiển bày nhiều Chủ thể thuyết giảng.
Tiếp đến là phần hai-Nhiều đối tượng được thuyết. Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa do số chư Phật ấy thuyết giảng có vô lượng Na-du-đa ức kệ, không thể tính kể nói không thể nào hết.
Giải thích: "Bát-nhã,...": mỗi vị Phật đều thuyết Bát-nhã. "Có vô lượng.." nhiều đối tượng được thuyết.
Kế tiếp là phần ba-Lấy ít so với nhiều.
Kinh: Ở trong những kệ ấy lấy một kệ chia làm ngàn phần, lại từ trong ngàn phần đó mà thuyết một phần câu nghĩa thì công đức đã vô cùng tận, huống nữa là tất cả công đức của vô lượng câu nghĩa như vậy.
Giải thích: "Ở trong..." là lấy một kệ chia làm ngàn phần. "Lại từ...": là nói thuyết một phần đã là vô cùng tận.
"Huống nữa là...": Nhiều Phật thuyết vô lượng câu nghĩa, thì tất cả công đức đó khó mà lường nổi.
Dưới đây là phần ba-Thọ trì thù thắng. Văn chia làm hai phần: 1.
Thọ trì thù thắng; 2. Sẽ đắc Bồ-đề.
Phần một lại chia làm hai: 1. Thọ trì thù thắng.
Kinh: Nếu người có thể khởi một niệm tịnh tín thì người ấy tức siêu vượt trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn kiếp sinh tử khổ nạn.
Giải thích: Nêu rõ một Niệm tin đã vượt qua nhiều kiếp khổ. Tiếp theo là phần hai-Ngang đồng chư Phật.
Kinh: Huống nữa là biên chép, thọ trì, đọc tụng, vì người giải nói, công đức đạt được so với tất cả chư Phật ở mười phương đều ngang bằng không khác.
Giải thích: "Huống nữa...": Là nói về thọ trì, giải nói là thù Thắng.
Tiếp nữa là phần hai-Sẽ đắc Bồ-đề.
Kinh: Nên biết người đó, được chư Phật hộ niệm, không bao lâu sẽ thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Giải thích: "Chư Phật hộ niệm": là hiển bày pháp thù thắng, sẽ đắc Bồ-đề pháp lực tu hành.
Dưới đây là phần ba-Nghe pháp được ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp này, có mười ức người, đắc ba không nhẫn, trăm vạn ức người, đắc đại không nhẫn, vô lượng Bồ-tát, đắc trụ Địa thứ mười.
Giải thích: Theo Bản ký thì một là: Đắc ba không, tức vị ba Hiền, ba giả không. Hai là đắc Đại không, tức là Địa thứ nhất. Ba là đắc Địa thứ mười. Tùy theo Địa tăng tiến, đều được ích lợi.
Giải thích: Đoạn văn lớn thứ hai gồm ba phẩm sau, nói về ngoại Hộ: (Hộ trì bên ngoài) Phẩm Hộ quốc nói về ngoại hộ, phẩm Bất Tư Nghị nói về đức thù thắng, phẩm Phụng Trì nói về Người phụng trì dứt trừ các tai nạn. Trước nói ngoại hộ, các Vua thành tâm, bày pháp khiến tuân, hiện lực khó lường, nương giữ đủ đức, trong sáng ngoài trong, do vậy mà có ba phẩm sau này.
Nói về ý tiếp nối: Theo Bản ký nói: Quốc độ có hai. Một là Thế gian: Cõi nước của Nhị thừa, phàm phu. Hai là xuất thế gian: cõi nước từ Tín cho đến Địa thứ mười. Giặc có hai loại: 1. Giặc cướp ở bên ngoài;
2. Giặc phiền não ở bên trong. Hộ có hai loại: 1. Quỷ thần; 2. Trí Tuệ. Trong và Ngoại đều là Phật, Bồ-tát hộ. Đã nói về Nội Hộ, nay nói về Ngoại Hộ, để thỏa mãn nguyện vọng của các vị vua nên có phẩm này.
Giải thích về tên phẩm: Phần trên đã giải thích tên chung, còn đây là hiệu riêng: Ân tuệ gọi là Nhân, tự tại gọi là vương. Che chở gọi là Hộ. Lãnh thổ gọi là quốc, đã giải thích đầy đủ ở phần trên.
Nghĩa của Hộ lược dùng bốn môn để nêu rõ.
1. Người là chủ thể Hộ: Chư Phật, Bồ-tát xem chúng sinh như con, như tình thương của người mẹ. Kinh Duyma nói: Như Bồ-tát nghĩa là không lìa bỏ đại từ, không xả bỏ đại Bi, phát tâm Nhất-thiết-trí sâu xa cầu không hề quên sót, giáo hóa chúng sanh không bao giờ mệt chán. Lại nữa, chư Bồ-tát hiện nhiều loại thân, tùy niệm mà ứng. Như Bồ-tát Quán âm... tức là Hộ. Lại nữa, chư vương dùng nhân tuệ từ bi nuôi dưỡng muôn dân làm tâm, trăm quan đại thần phụng thừa pháp cũng là hộ. Hỏi: Nếu vậy thì tự Hộ, cần gì kinh này nói. Đáp: Thế gian và xuất thế gian, khác nhau là ở chỗ đó.
2. Pháp là sở hộ: Không có pháp nào hơn Bát-nhã Ba-la-mật-đa. Tín thọ đọc tụng, y giáo tu hành, thiên, long ngầm hộ vệ, còn đắc được thành Phật huống hồ là bảy nạn, chẳng thể diệt trừ được sao"? Như vương pháp, là đạo thuộc văn và võ, có quyền thưởng phạt, tiến thiện diệt ác. Đây là gốc của việc hóa độ.
Cho nên kinh Kim Quang Minh, quyển thứ tám, kệ viết:
Quốc nhân tạo nghiệp ác Vua bỏ không cấm chế Ấy chẳng thuận chánh lý Trị đuổi phải như pháp. Nếu thấy ác không ngăn Phi pháp liền tăng trưởng
Bèn khiến trong vương quốc Gian trá ngày càng tăng Bị nước địch xâm chiếm Phá hoại quốc độ đó.
Do nhờ chánh lịnh của quốc gia, cũng là Hộ pháp.
Tâm của chủ thể Hộ: Vô duyên, từ của Phật và bi của Bồ-tát, ứng với niệm như tiếng và vang, không nói ra mà vẫn biết tức là tâm Hộ. Nếu các vua, quan, thường dùng chánh trực, không tham sân si, y văn phụng pháp, cũng là tâm Hộ, nên Luận Chánh lý nói: Do người thời đó tham lam, không bình đẳng, thiên long giận trách, không giáng mưa ngọt, nên bị đói kém. Lại người thời đó, không tâm bình đẳng, phi nhân tạo độc, bệnh dịch khó cứu. Lại người thời đó, không bình đẳng, tham, sân độc tăng thượng, nên có chiến tranh, tàn hại lẫn nhau. Do tham sân si, tích chứa bên trong, ba tai họa bảy diệu, (sao) tai biến ở ngoài. Nội tâm bất bình, muốn cầu ngoại hộ, nước sôi muốn đông thành băng thật khó lắm thay! Không tham sân si, theo hóa như dòng chảy, đó chính là ý nghĩa ngoại hộ ở trong kinh này.
3. Sự của sở hộ: Trang hoàng đạo tràng, nghe thọ, trì đọc, hiếu dưỡng cung kính, vua quan chánh trị… phần sau nói đủ, đến văn sẽ rõ.
Giải thích văn kinh: Văn chia làm ba đoạn: 1. Chính nói hộ quốc;
2. Dẫn việc hộ quốc xưa; 3. Nghe pháp được ích. Phần nói về hộ quốc, văn có hai:
- Nói pháp hộ quốc.
- Nói trừ tai nạn.
Phần một chia ba:
- Nói pháp hộ quốc.
- Trang hoàng đạo tràng.
- Nói về nói nghe.
Phần nêu pháp hộ quốc văn lại chia ba: 1. Nói về hộ quốc. Nghĩa đó là gì?
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Vua Ba-tư-nặc...:" Các Đại Quốc vương! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta vì các ông thuyết giảng về pháp hộ quốc.
Giải thích: Đáp điều nguyện trước. Nếu không lắng nghe, nghe rồi quên mất, nên bảo nghe kỹ. Dưới đây là phần hai-Nói về thời Hộ quốc. Nghĩa đó là sao?
Kinh: Tất cả cõi nước, nếu khi sắp loạn, có các tai nạn, giặc đến phá hoại.
Giải thích: "Tất cả cõi nước": là mười sáu nước, đối với các vua mà nói "tất cả". Lại không chỉ vậy, các nước lớn nhỏ ở châu thiệm Bộ tùy theo tiếp nhận giáo đủ khắp tức là "tất cả".
Nêu giáo pháp đủ khắp nên nói là «tất cả", thì người ba châu, giáo pháp cũng có đến nơi tức cũng gọi là "tất cả". Thiên cung, long cung, giáo pháp cũng có đến cũng gọi là tất cả. Như thế không mất tâm từ vô hạn, các nơi kia cùng nghe các giáo ắt đủ khắp, hoặc là hiện nay, hoặc là sau này, chỗ giáo pháp hiện đủ khắp đều là tất cả. Nếu không phải vậy, nước lớn Đại Đường chẳng lẽ không hộ?.
"Nếu khi sắp loạn": là nêu về thời gian hộ. Cảnh nước thanh bình là được thường hộ. Nếu có tai nạn là nêu lúc cầu hộ.
"Có các tai nạn": Tai là tam tai. Như trên đã dẫn luận Chánh lý nói; Tai họa chiến tranh, dịch bệnh đói khát. Nạn là bảy nạn, đoạn sau sẽ rõ.
"Giặc đến phá hoại": là tướng của nạn.
Tiếp theo là phần ba, nói về thọ trì kinh. Nghĩa đó là gì?
Kinh: Chư vương các ông, phải nên thọ trì đọc tụng Bát-nhã Ba-la-mật-đa này.
Giải thích: Bảo các vị vua, chính mình thọ trì hoặc đọc hoặc tụng, là thực hành ba pháp. Nếu thường trì tụng, nạn sẽ không sinh. Nếu có nạn sinh, khuyên bảo trì đọc. Như kinh Niết-bàn quyển hai mươi nói: tâm của cha mẹ, chẳng phải là không bình đẳng, nhưng đối với con bị bệnh, tâm tức lo nhiều. Do đó, khuyên thọ trì kinh để trừ nạn.
Tiếp đến là phần hai: Trang nghiêm đạo tràng văn chia ba: 1. Trang nghiêm đạo tràng.
Kinh: Trang nghiêm đạo tràng, đặt trăm tượng Phật, trăm tượng Bồ-tát, trăm tòa Sư tử, mời trăm pháp sư, giải nói kinh này.
Giải thích: Câu đầu là nêu chung, các câu tiếp theo như văn đã rõ khiến trong kinh này, hơi giống các lời ở kinh khác. Như kinh Kim Quang Minh, quyển sáu, phẩm Hộ quốc nói: "Lúc ấy, Tứ thiên vương bạch Phật: Thế Tôn! Ở đời vị lai, nếu có vua người vì hộ tự thân, hậu phi, vương tử, ở quốc độ mình khiến không có các sự việc oán địch, ưu não, tai ách. Bạch đức Thế Tôn! Vua người như vậy không nên phóng dật, khiến tâm tán thán loạn, trước phải tạo sự trang nghiêm đẹp đẽ nơi các cung thất chỗ vua yêu trọng. Những chốn ra vào nước thơm rảy đất, rải những danh hoa, đặt pháp tòa Sư tử thù thắng, dùng các thứ châu báu để trang hoàng. Cho đến đoạn sau: Khi ấy vua người, phải mặc áo sạch, thuần khiết, và trang sức bằng những loại anh lạc, tự mang lọng trắng… dùng hương hoa đủ cả sự cung kính, tạo sự an lành.
Với những điều trên, so với ở đây là đủ nghĩa. Tiếp sau là phần hai-Hương hoa cúng dường.
Kinh: Ở trước các tòa thắp nhiều loại đèn, đốt những loại hương, rải các tạp hoa, cúng dường rộng lớn.
Giải thích: Trước mỗi một tòa, trang sức đầy đủ. Tiếp đến là phần ba-Một trăm lẻ một sự cúng dường.
Kinh: Y phục, thức ăn uống, đồ nằm thuốc thang, phòng xá, giường ghế, tất cả vật dụng cúng dường.
Giải thích: Mỗi một sự cúng dường là biểu thị cho sự kính trọng. Sau đây là phần ba-Nói về việc nói nghe. Văn chia làm ba phần: 1. Hai thời giải thuyết.
Kinh: Mỗi ngày hai thời, giảng đọc kinh này.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai-Vua tôi nghe nhận.
Kinh: Nếu vương, đại thần, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nghe nhận đọc tụng.
Giải thích: Quốc vương, đại thần, trên hành dưới hóa, bốn chúng nghe nhận, thảy đều thành thiện, tức là tự hộ. Kinh Kim Quang Minh lại nói: Bấy giờ vua đó, phải tắm sạch sẽ, dùng hương xoa thân, mặc áo sạch mới, ngồi ghế nhỏ thấp, không sinh cao ngạo, xả ngôi tự tại, lìa những kiêu mạn, đoan tâm chánh niệm, nghe Kinh vương này.
Những điều đó so với kinh này, đều là nói về sự kính trọng. Tiếp theo là phần ba: Như thuyết tu hành.
Kinh: Như pháp tu hành, tai nạn liền diệt.
Giải thích: "Như pháp tu hành": Nương theo lý và sự trên, phải thực hành như lời đã dạy, uống thuốc thì bệnh lành, lý ắt phải vậy. Đến đây tức sự mà kể chuyện: Tháng Tư năm ngoái, nội dịch kinh xong, tôi sau hết lòng nơi đạo, trì đọc nghe văn, kịp đến tháng chín, bày trăm tòa đề xuất giảng kinh, mưa thu tạnh ráo, mây kéo đầy trời, từ giờ mão đến giờ thân, bỗng nhiên vạn biến, có vị dáng dấp như Tướng quốc cùng với trăm quan, lính ngựa tràn cả thành ngoài, chen lấn nhìn xem, có người thì lễ bái, có người thì nhảy nhót vui mừng, nước mắt như mưa. Ngày mùng hai tháng đó, Vua ơn ban sắc: "Sư đã lâu vụn trồng mầm trí, cao treo gương tâm, khai tạng mật của pháp vương, diễn lời huyền của kim khẩu. Ba đời lưu truyền, bốn loài mong nhờ, mà đạo thì hợp với chơn Thánh, lý thì khế với trời, người, mưa dầm lại tạnh, mây lành đầy sắc, lực của cảm thông, trong triều ngoài nội cùng vui, lời vụng tuyên dương, để tăng thành kính." Hạ tuần tháng đó, Tây Nhung, Bắc Địch đem quân vây thành, không cần xuất quân chống cự, giặc tự sợ hãi mà tan rã. Nếu chẳng phải minh chúa chí tín, đại thần tận tiết, trên hành dưới hóa, sấm động mây hành, đạo tục tinh thành, thì ai có thể hưng lên ở đây, pháp thiện rõ ràng, chẳng hề hư dối!.
Từ đây là phần hai-Trừ tai nạn. Trong đó chia làm hai: 1. Trừ tai nạn; 2. Xứng với mong cầu.
Trong phần một văn chia làm hai:
- Các tai nạn.
- Tai nạn diệt.
Trong phần nêu các tai nạn văn lại chia làm ba:
- Quỷ thần hộ.
- Nói về chết chóc.
- Liệt kê các tai nạn.
Đây là phần một-Quỷ thần hộ.
Kinh: Đại vương! Trong các cõi nước, các vô lượng quỉ thần, mỗi mỗi quỉ thần lại có vô lượng quyến thuộc. Nếu họ nghe kinh này thì sẽ hộ vệ quốc độ của ông.
Giải thích: Vô lượng quỉ thần ở trong các nước, mỗi vị đều có quyến thuộc nghe kinh mà hộ quốc. Như kinh Kim Quang Minh quyển tám nói: Đại tướng Dược xoa tăng thận nhĩ đa cùng với hai mươi tám Bộ chư thần Dược xoa bạch: Thế Tôn! Nếu đời hiện tại và đời vị lai, những chỗ đang được tuyên dương lưu bố, như ở thành ấp, xóm làng đầm rừng rú, hoặc cung điện vua, hoặc chỗ ở của Tăng, chúng con và chư thần đều đến chỗ đó, mỗi tự ẩn hình, tùy xứ ủng hộ Sư thuyết pháp kia, khiến lìa suy não, thường nhận an lạc... ngôn từ nói xong, đầy đủ trang nghiêm, còn khiến tinh khí theo lỗ chân lông nhập vào. Thân lực sung túc, uy quang mạnh mẽ, trí sáng khó lường, đều được thành tựu và người nghe pháp là nam hay nữ, thọ trì cúng dường, chúng con sẽ thâu nhận khiến không bị tai nạn. Cho đến thường gặp chư Phật, mau chóng đạt đạo quả chánh đẳng Bồ-đề vô thượng.
Sau đây là phần hai: Nói về chết chóc. Trong đó có hai phần: 1.
Nói về chết chóc.
Kinh: Nếu đất nước sắp loạn, quỉ thần loạn trước, vì quỉ thần loạn thì vạn người loạn, thường có giặc giã nổi lên trăm họ chết chóc.
Giải thích: Do quỉ thần loạn, tiếp theo mới vạn người loạn, trăm họ chết chóc.
Tiếp theo là phần hai-Vua tôi tranh chấp.
Kinh: Quốc vương, Thái tử, vương tử, trăm quan, thị phi với nhau.
Giải thích: Trên bất hòa. Tiếp đến là phần ba-Các tai nạn.
Kinh: Trời đất biến quái. Mặt trời, mặt trăng, các sao mất thời, mất sáng, lửa lớn, nước lớn, gió to…
Giải thích: "Trời đất biến quái": Các hiện tượng trên trời biến đổi, đất có yêu quái, đó là tỏ chung.
Nói "Mặt trời, mặt trăng": Như trong phần sau kinh nói tức là nạn thứ nhất.
"Các sao": tức là nạn thứ hai.
"Mất thời mất sáng": Tức là hai nạn trên mất thời, mất độ sáng "Lửa lớn": là Nạn thứ ba
"Nước lớn": là nạn thứ tư
"Gió to": là nạn thứ năm. Nạn thứ sau là kháng dương (phần dương thái quá). Nạn thứ bảy là giặc đến, đến đoạn sau sẽ rõ.
Vì sao các Quỷ thần ấy loạn trước, rồi trăm họ chết chóc, vua tôi bất hòa, bảy nạn đều khởi, như phần sau kinh nói: Do tất cả dân chúng của các nước lớn nhỏ ở châu Thiệm Bộ, bất hiếu với cha mẹ, không kính sư trưởng, Sa môn, Bà-la-môn, Quốc vương đại thần không hành chánh pháp, do các ác kia mà có những nạn ấy dấy khởi. Đó là nhân của Nạn, đến phần sau sẽ rõ.
Sau đây là phần hai-Nói về tai nạn diệt.
Kinh: Các nạn ấy dấy khởi, đều nên thọ trì, giảng nói Bát-nhã Ba-la-mật này.
Giải thích: "Các nạn dấy khởi": Mỗi một nạn khởi, đều cần phải giảng đọc, như thuyết tu hành, tức là lương dược (thuốc hay).
Dưới đây là phần một-Xứng với điều cầu mong.
Kinh: Nếu ở kinh nầy, thọ trì, đọc tụng, tất cả mọi điều mong: quan vị, giàu có, con cái, tuệ giải, đi lại, tùy ý, quả báo nơi cõi người, Trời đều được đầy đủ.
Giải thích: "Tất cả mọi điều mong": là nêu chung. Trong đó có bảy điều: 1. Cầu quan vị thì được ngôi vị vinh hiển; 2. Cầu giàu có thì được phước lợi; 3. Cầu sinh con trai, con gái thì đều được; 4. Cầu Tuệ giải thì được tri kiến Thế gian và xuất thế gian thù thắng; 5. Đi lại, là cầu vãng lai, đi bộ hay cỡi ngựa đều được an ổn, bình an; 6. Quả báo trong cõi Người; 7. Quả báo trong cõi Trời. Những điều trên đều do oai lực của việc thọ trì đọc tụng kinh nên những điều mong nguyện đều được thỏa mãn. Như kinh Bảo Vân nói: Ví như cây thuốc tên là Thiện kiến, nếu có chúng sanh được gốc thân, cành, lá, hoa, quả của nó, hoặc thấy sắc, ngửi mùi thơm, nếm vị, tiếp chạm, trong mười thứ đó, tùy thứ đạt được, bệnh đều trừ lành. Do đó, ở trong mười pháp thực hành của kinh, tùy theo sự trì đọc, những mong nguyện thuộc thế gian và xuất thế gian đều được thỏa mãn.
Tiếp theo là phần hai-Giải thoát ách nạn.
Kinh: Dịch bệnh, ách nạn, liền được trừ yên, gông cùm xiềng xích, trói buộc thân này, đều được giải thoát.
Giải thích: Hai câu trên là nói về ách nạn được trừ, ba câu dưới là nói kẻ bị trói buộc thì được giải thoát.
Tiếp theo là phần ba-Các tội diệt
Kinh: Phá bốn giới trọng, tạo năm tội nghịch và hủy các giới cấm, vô lượng lỗi lầm đều được tiêu diệt.
Giải thích: "Phá bốn giới trọng": là dâm, trộm, giết, vọng ngữ là giới trọng về tính.
"Tạo năm tội nghịch": Như luận Câu Xá, quyển 18 nói: là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Trong năm tội đó, bốn thuộc về thân, một thuộc về ngữ.
"Và hủy các giới": Đó là các giới như Tàn...
Giới Biệt giải thoát thì mỗi giới đều có chi nhân. Luật nghi thì có tám. "Thể" thì chỉ có bốn, theo duyên đủ hay thiếu, nghĩa như thường hiểu nhưng thể của chúng là: Hữu Tông thì vô biểu sắc, Thành thật thì bất tương ưng. Nay Tông Đại Thừa thì theo tư nguyện chủng mà giả lập làm Thể, không tùy tâm giới, bốn tâm ba Tính đều được hiện tiền. Xả duyên khác nhau là: Hữu Tông thì xả năm duyên. Như Luận Câu Xá quyển mười lăm tụng: "Xả Biệt giải điều phục, do cố xả mệnh chung, Và nhị hình cùng sinh, đoạn thiện căn hết đêm.". Tông Kinh Bộ thì gia thêm phạm trọng. Pháp Mật Tông thì thêm pháp diệt duyên xả khác nhau. Luận Du-già quyển năm mươi ba nói xả có năm duyên: Xả Học xứ phạm căn bản tội, vì nhị hình sinh mà thiện căn đoạn, xả đồng phần, xả Tỳ-khưu luật nghi. Nếu chánh pháp hủy hoại, chánh pháp chìm ẩn, tuy không thọ mới nhưng giới cũ không xả, cho nên đắc giới chưa xả. Thân có luật nghi mà gặp duyên hủy phạm, gọi là hủy các giới. Nếu không có duyên sám hối riêng, (biệt sám) chắc chắn bị đọa Địa ngục như đã phân biệt thông thường. Như duyên sám hối, theo Đại thừa giác như kinh tạo tượng thuyết, do tạo kinh tượng, chỉ chịu nghiệp ít ở ba đường ác nhưng mau ra khỏi, mà không chịu khổ. Lại nữa, kinh Quán vô Lượng Thọ nói: Người có năm tội nghịch cũng sinh Tây phương. Lại nữa, kinh Niết-bàn quyển hai mươi nói: Vua A-xà-thế phát tâm Bồ-đề, không vào địa ngục. Chi tiết tán thán rộng về tâm Bồ-đề như kinh đó đã nói. Lại nữa, kinh Đại Phương Đẳng, Đà-la-ni quyển một nói: Nếu phạm hai mươi bốn giới của Bồ-tát, nếu phạm mỗi một giới của Tỳ-khưu... nhất tâm sám hối, nếu không sinh trở lại, thì không có việc ấy. Nay ở đây kinh này nói: vô lượng tội lỗi đều được tiêu diệt. Tức do nghe kinh thọ trì đọc tụng, tội đều diệt.
Dưới đây là phần hai-Dẫn chuyện hộ quốc thuở xưa.
Trong đó chia làm hai phần: 1. Dẫn chuyện hộ quốc thời xưa; 2.
Kết. Khuyên thọ trì.
Trong phần một: Văn chia làm ba. 1. Chuyện Thiên vương thời xưa; 2. Nhân vương thời xưa; 3. Liệt kê về các vua.
Trong phần Thiên vương, văn lại chia làm ba: 1. Vua Đảnh Sinh.
Kinh: Đại vương! Thời quá khứ xa xưa, Thích Đề Hoàn Nhân bị vua Đảnh sinh thống lãnh bốn quân chúng lên cung trời muốn diệt đế Thích.
Giải thích: "Lãnh bốn quân chúng": là voi, ngựa, xe, bộ binh. Nhân duyên này như đã thuyết trong phẩm Đảnh vương, kinh Hiền Ngu và quyển mười hai của kinh Niết-bàn.
Tiếp theo là phần hai-Đế Thích phụng pháp.
Kinh: Bấy giờ, Thiên chủ kia y theo giáo pháp của chư Phật thời quá khứ, bày trăm tòa cao, mời trăm pháp sư, giảng đọc kinh Bát-nhã Ba-la-mật.
Giải thích: Nói về y theo pháp. Tiếp đến là phần ba-Thiên chúng an lạc.
Kinh: Vua Đảnh Sinh liền thối lui; Thiên chúng an lạc
Giải thích: Là kết nêu an lạc. Tiếp đến là phần hai. Vua cõi người thời xưa. Trong đó chia làm ba: 1. Vua Ban Túc; 2. Vua Phổ Minh; 3. Nghe pháp được tỏ ngộ.
Phần một: Vua Ban túc, văn chia làm hai: 1. Vua Ban Túc; 2.
Được ngàn vua. Văn phần một lại chia làm ba: 1. Vua Ban Túc.
Kinh: Đại vương! Thời xa xưa, vua nước Thiên La có một Thái tử, tên là Ban Túc.
Giải thích: Tiếng Phạm gọi là Đề Bà La, tiếng Hoa gọi là Thiên La. "Ban Túc": Vì chân có nhiều đốm, nên tên là Ban Túc. Như kinh Hiền Ngu và luận Trí Độ đã kể chuyện đó.
Tiếp sau là phần hai-Tà sư Quán đảnh.
Kinh: Khi lên ngôi vua, có ngoại đạo sư tên là Thiện Thí, hành pháp quán đảnh cho vua.
Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần ba-Thọ giáo tế trời.
Kinh: Bèn bảo Ban Túc lấy ngàn đầu vua, để tế nơi mộ Thiên Thần Ma Ha Ca La Đại Hắc.
Giải thích: Nói "giữa mộ": là trụ xứ của Thiên thần Đại Hắc, Ma Ha Ca La. Ma Ha: tiếng Hoa dịch là Đại. Ca la là Hắc Thiên, Từ ngữ trước là tiếng Phạm, từ ngữ sau là tiếng Hoa. Thiên Thần Đại Hắc là vị Thần chiến đấu. Nếu lễ bái vị thần đó thì tăng thêm oai đức, do vậy nên cúng tế. Vì sao biết? Trong Tam tạng, dẫn thêm về các sách khác nói; Kinh Khổng Tước Vương nêu rõ: phía Đông đô thành nước Ô Thi ni có một khu rừng tên là Xama-xa-na, tiếng Hoa gọi là Thi Lâm, rừng đó rộng một do tuần, có Thiên Thần Đại Hắc, là thân biến hóa của Ma-hê-thủ-la cùng với vô lượng quyến thuộc của các quỉ thần, thường du hành trong rừng vào ban đêm, có đại thần lực, nhiều đồ quý báu, có thuốc tàng hình, có thuốc sống lâu, du hành bay trên không, trao đổi các thứ thuốc ảo thuật với loài người. Lấy máu thịt người sống, giao ước trước về cân lượng máu để đổi lấy những thứ thuốc. Nếu ai muốn đến lấy thuốc đổi máu thì trước tiên phải dùng Đà-la-ni để gia trì thân mình, sau đó mới đến trao đổi. Nếu không có Đà-la-ni gia trì, những quỉ thần kia sẽ tự tàng hình, trộm quá cân lượng, máu huyết của người đó, càng lấy càng mất nhiều, không đúng với sự giao ước trước, cho đến lúc lấy hết máu của người đó, cân lượng không đúng thì thuốc cũng không lấy được. Nếu có Đàla-ni gia trì thì đổi được bảo bối và các loại thuốc, làm gì tùy ý đều được thành tựu. Nếu cúng tế cho những thần đó thì dùng máu người, khiến Thần có đại lực gia hộ cho người sự dũng mãnh và các pháp chiến đấu, được thắng. Do đó, Thần Đại Hắc tức chính là thần chiến đấu. Như kinh Hiền Ngu nói là cúng tế La sát. Kinh Phổ Minh Vương nói là lấy trăm vị vua để cúng tế Thọ Thần. Kinh Sư Tử Đoạn Nhục thì nói là để cúng tế Sơn thần.
Sau đây là phần hai. Bắt được ngàn vị vua. Trong đó chia làm hai:
1. Bắt được những vị vua.
Kinh: Từ khi lên ngôi vua, đã bắt được chín trăm chín mươi chín vua.
Giải thích: Ban Túc lên ngôi vua, nhờ oai lực hiện có nên bắt được các vị vua gần đủ số ấy. Tiếp đến là phần hai-Bắt được vua Phổ Minh.
Kinh: Chỉ thiếu một vua, bèn đi vạn dặm về phương Bắc, bắt được một vua tên là Phổ Minh.
Giải thích: Nói rõ về bắt được vua. Dưới đây là phần hai-Nói về vua Phổ Minh. Trong đó chia làm hai phần: 1. Phần kiến lập bằng văn xuôi; 2. Phần thuyết pháp bằng kệ.
Trong phần văn xuôi lại chia làm bốn: 1. Nguyện của vua Phổ Minh.
Kinh: Vua Phổ Minh thưa với Ban Túc: Nguyện được cho phép một ngày để lễ kính Tam bảo, cúng dường cơm nước cho Sa Môn.
Giải thích: Theo kinh Hiền Ngu thì nguyện được cho bảy ngày, lễ kính Tam bảo, cơm nước cho Sa môn.
Dưới đây là phần hai-Ban Túc chấp nhận.
Kinh: Ban Túc nghe xong, liền chấp nhận.
Giải thích: Ban Túc đồng ý chấp nhận. Sau đây là phần ba-Y pháp kiến lập.
Kinh: Vua bèn theo giáo pháp của chư Phật thời quá khứ đã nêu giảng bày trăm tòa cao, mời trăm pháp sư.
Giải thích: Nói về y theo giáo. Sau đây là phần bốn:
Thuyết Bát-nhã
Kinh: Một ngày hai thời giảng nói Bát-nhã Ba-lamật-đa có tám ngàn ức kệ.
Giải thích: Nói về việc tuyên thuyết Bát-nhã. Tiếp theo là phần hai-Dùng kệ thuyết pháp, trong đó chia làm hai: 1. Nói về người thuyết kệ.
Kinh: Lúc này, trong chúng kia, pháp sư thứ nhất, vì vua Phổ Minh, thuyết kệ:
Giải thích: Nêu người thuyết. Tiếp theo là phần hai-Kệ được thuyết.
Trong đó chia làm bốn: 1. Pháp là vô thường; 2. Các pháp là khổ; 3. Các pháp là không; 4. Các pháp là vô ngã. Trong phần vô thường lại chia làm hai phần: 1. Ngoại giới vô thường.
Kinh:
Kiếp hỏa cháy dữ
Đại thiên đều hoại
Tu di biển lớn
Tàn diệt không sót.
Giải thích: "Kiếp hỏa cháy dữ: là Hỏa tai. Luận Dugià quyển hai nói: Ba đại tai là thủy, hỏa, phong, cùng nhau theo thứ tự mà khởi. Trong ba thứ đó, đây là nêu thứ đầu tiên: Hỏa tai.
"Đại thiên đều hoại": là nói cả một đại thiên cùng bị hủy hoại. Hai câu cuối là: cả chín núi tám biển, mỗi thứ số lên đến cả trăm ức đều bị hủy diệt không còn sót gì cả. Tướng của thành, trụ, hoại, không, theo thứ tự mà khởi. Đây nói về kiếp hoại.
Tiếp đến là phần hai-Hữu tình vô thường.
Kinh:
Phạm thích, thiên, long
Nhiều loại hữu tình
Còn bị tàn diệt
Huống là thân này.
Giải thích: "Phạm Thích, Thiên, long": Phạm là Phạm vương, chung cả Tứ Thiền, Thích là đế Thích. Chủ cõi trời Đao-lợi. Đây là bao gồm cả Thiên xứ khác, cả hai cõi đó đều tự tại cho nên nêu lên. Thiên, Long là chúng Bát bộ.
"Các hữu tình": là cõi còn lại ngoài những cõi đã nói trước. "Còn bị tàn diệt": là nói về vô thường.
"Huống nữa thân này": cõi dù lớn hay nhỏ, tình dù hơn hay kém đều bị tàn diệt, huống nữa là thân này, là nêu bày sự vô thường. Dưới đây là phần hai-Các pháp khổ. Trong đó chia làm hai: Đây là phần một-Liệt kê các khổ.
Kinh:
Sinh lão bệnh tử
Ưu bi khổ não
Oán thân bức bách
Trái với nguyện mong.
Giải thích: "Sinh lão bệnh tử": đó là bốn khổ.
"Ưu bi khổ não": Là tùy gặp các duyên khổ, nhiều loại ưu buồn ray rức. hai câu sau chữ "não" là nói về bốn khổ: Oán là oán ghét nhau mà gặp nhau là khổ. Thân là yêu nhau mà bị xa lìa là khổ. Bức Bách: là năm ấm mãnh liệt khổ. Nghĩa là thân năm uẩn mang tính sinh diệt dời đổi. "Trái với mong nguyện": là khổ vì mong cầu không được. Lại nữa, "Năm ấm mãnh liệt khổ" là lưu chuyển khổ, chung cả ba cõi là hành khổ. Oán ghét gặp nhau khổ và yêu nhau xa nhau khổ là trái nghịch khổ, thuộc về Khổ khổ, chỉ là Dục giới cầu không được khổ thuộc về Hoại khổ, cũng chỉ ở Dục giới, dựa theo lạc thọ thì cũng thông cả Sắc giới.
Tiếp theo là phần hai-Nhân quả của khổ.
Kinh:
Ái dục kết sử
Tự thành ung nhọt
Ba cõi không an
Nước có gì vui.
Giải thích: "Ái dục kết sử": Đó là nói về Nhân. Ái là Nhân thuộc Hữu, làm Thấm Nhuần các Nghiệp. Dục là tham dục ở cảnh, đuổi theo sự mong cầu.
"Kết sử": Kết là kết buộc, trói buộc. Sử là sai khiến. Nghĩa là... mười thứ kết như tham v.v... kết buộc hữu tình, sai khiến trong Tam hữu, gọi là kết sử.
Lại nữa, Luận Câu xá nói: Kết có chín loại: 1. Ái kết; 2. Sân kết;
3. Mạn kết; 4. Vô minh kết; 5. Kiến kết là Ba kiến; 6. Thủ kết. Là hai thủ; 7. Nghi kết; 8. Tật kết; 9. Xan kết. Ba loại kết: Sân, Tật, Xan duy chỉ thuộc về Dục giới sáu loại còn lại thì thông cả ba cõi. Vì bị sai khiến do kết, cho nên gọi là Kết sử.
"Tự thành ung nhọt": là quả khổ thuộc về ba Hữu như là ung nhọt.
"Ba cõi không an": hoặc là giới hoặc là tình đều là hành khổ, vì bị bức bách do hữu lậu nên gọi là không an.
"Nước có gì vui": Điều vua Phổ Minh coi trọng là yêu nước yêu thân, trong và ngoài đều bất an, là nói về nỗi khổ.
Kế đến là phần ba-Nói về các pháp không. Trong đó chia làm hai phần: Đây là phần một. Tỏ chung về pháp không.
Kinh:
Hữu vi không thật
Từ nhân duyên khởi
Thịnh suy chuyển chớp
Tạm có liền không.
Giải thích: "Hữu vi không thật": là y tha hữu vi, là huyễn không thật.
"Từ nhân duyên khởi": là chính cộng tướng tự chủng sinh ra, thế gian trong ngoài, do Nhân duyên khởi.
"Thịnh suy chuyển chớp": Nghĩa là, pháp hữu vi đều có thịnh suy, khởi và diệt như chảy, không dừng trụ như tia chớp.
"Tạm có liền không": Tạm thời như tia chớp, có đó liền không. Tiếp theo là phần hai-Nói về cõi không.
Kinh:
Các cõi thú sinh
Tùy nghiệp duyên hiện
Như bóng, tiếng vang
Tất cả đều không.
Giải thích: "Các cõi thú sinh": là ba cõi, sáu nẻo và tứ sinh. Đó là nêu chung.
"Tùy nghiệp duyên hiện": là nói về nhân quả, theo nghiệp của các cõi mà hiện sinh ở đó.
"Như bóng như tiếng vang": là nêu dụ nói rõ. Do quả làm chất, hiện nghiệp như bóng. Nghiệp như âm thanh, quả như tiếng vang. Đó là nói lên sự không thật.
"Tất cả đều không": Nói chung cả các giới, tất cả hữu vi đều là không.
Kế đến là phần bốn-Pháp là vô ngã. Trong đó chia làm hai phần: Đây là phần một, Vọng khởi ngã.
Kinh:
Thức do nghiệp trôi
Theo bốn đại khởi
Vô minh ái buộc
Ngã, ngã sở sinh.
Giải thích: "Thức do nghiệp trôi": Thức là Bản Thức, thường chuyển như dòng chảy, do nghiệp như gió, làm khởi lên sóng Thức. Thức thuận theo nghiệp, nên gọi là Nghiệp trôi. Lại nữa, nghiệp chủng nương theo Thức, nhờ hiện duyên mà khởi, hiện khởi các nghiệp, theo gió cảnh giới, động sóng Bản thức. Kinh Lăng già bản bốn quyển, quyển một kệ nói:
Thí như sóng biển lớn
Là do gió lớn khởi
Sóng lớn vỗ ghềnh sâu
Chẳng có lúc đoạn dứt
Biển Tạng thức thường trụ
Gió cảnh giới làm động
Rất nhiều các sóng thức
Tung tóe mà chuyển sinh.
Nghiệp gió cảnh giới, lay động sinh ra sóng thức, cho nên bảo là trôi.
"Theo bốn đại khởi": là cõi hữu Sắc cõi. vô Sắc thì chẳng hiển rõ, nên lược bớt không nói. Lại nữa, Thân của Vua tức chính là bốn đại, nêu lên để khiến tỏ ngộ là không thật.
"Vô minh ái buộc": Vô minh làm gốc, phát nghiệp thành sinh, do ái và vô minh tự trói buộc.
"Ngã, Ngã sở sinh": Nghĩa là nương theo năm uẩn mà khởi ngã, ngã sở. Lại nữa, chấp năm uẩn làm ngã, chấp quốc gia thành trì mà chấp làm Ngã Sở, đều là do vô minh mà Khởi Kiến ấy.
Dưới đây là phần hai-Nói chung về vô ngã.
Kinh:
Thức tùy nghiệp dời
Thân tức vô chủ
Nên biết quốc độ
Huyễn hóa cũng vậy.
Giải thích: "Thức tùy nghiệp dời": nghĩa là tổng báo Thức tùy nghiệp sinh. Nghiệp không còn, nghiệp mới sắp thành thục, cho nên dời đổi đến cõi khác.
"Thân tức vô chủ": Thân nghĩa là sự tương tục, tức là bốn đại. Thân chấp giữ thọ, thức thì dời đổi, tức là vô chủ. Lại nữa, chủ là chủ tể, tức là Ngã. Thức tùy theo Nghiệp mà đi. Thân thì vô ngã, ngã đã không có, nên ngã sở cũng không có. Vì Thân đã vô chủ, nên hai câu sau nói về không có Ngã Sở. Trước tiên là yêu thân, Thân đã vô Ngã, thì quốc độ, đất đai bên ngoài đều là huyễn hóa cũng vậy, nên biết trong và ngoài đều là vô Ngã. nghĩa là không hiểu được thân này là vô thường, Khổ, không, vô ngã, Ngã sở, thì vọng sinh yêu thương chấp trước tất cả mọi sợ hãi đều sinh ra. Nghe pháp hiểu rõ được không, thì còn có gì đáng để sợ hãi.
Dưới đây là phần ba: Nghe pháp ngộ, hiểu. Trong đó chia làm ba phần:1. Phổ Minh ngộ, hiểu; 2. Các vua Ngộ, hiểu; 3. Ban Túc Ngộ, hiểu.
Trong phần Phổ Minh Ngộ, hiểu, văn chia làm hai: 1. Phổ Minh Ngộ, hiểu; 2. Chuyển dạy các vua.
Trong phần một văn lại chia làm hai: 1. Phổ Minh ngộ, hiểu.
Kinh: Bấy giờ, khi pháp sư thuyết xong kệ đó, vua Phổ Minh nghe pháp ngộ hiểu chứng Tam muội không.
Giải thích: "Chứng Tam muội không": Nếu chứng sinh không thì đắc sơ Quả. Bài kệ đã nói rõ hành của khổ-đế. Hoặc nghe pháp chứng không tức là Pháp không, theo lý thì đạt đến Sơ Địa.
Tiếp theo là phần hai-Quyến thuộc ngộ Không.
Kinh: Các quyến thuộc của vua, đắc pháp nhãn không.
Giải thích: "Đắc pháp nhãn không": là như vua đã đắc.
Tiếp đến là phần hai-Chuyển dạy các vua. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một-Đến nước Thiên La.
Kinh: Cùng đi với vua đến nước Thiên La.
Giải thích: Những điều mong nguyện đã thỏa mãn, nghe pháp chứng không, sợ hãi đã không còn nữa, đi đến đúng theo lời hẹn.
Dưới đây là phần hai-Kết chỉ bày các vua.
Kinh: Ở trong chứng của các vua, nói: "Quý vị là những người sắp chết đến nơi".
Giải thích: "Sắp chết đến nơi": Là nêu lên chuyện sợ hãi để khiến họ phát tâm.
Tiếp theo là phần ba-Chuyển dạy Bát-nhã.
Kinh: Phải nên trì tụng kệ Bát-nhã Ba-la-mật-đa của Chư Phật thời quá khứ đã thuyết giảng.
Giải thích: Tức lấy bài kệ trên, bảo họ tụng trì. Kế đến là phần hai-các vua ngộ hiểu.
Kinh: Các vua nghe xong, cũng đều ngộ hiểu, đắc Tam muội không, mọi người đều trì tụng.
Giải thích: Các vị vua đó, vì sợ hãi mà phát tâm, Nhân duyên đều tốt, Nghe pháp ngộ hiểu, như vua Phổ Minh. Cho nên lại bảo "Cũng đắc Tam muội không", mỗi vị đều tụng trì.
Tiếp sau là phần ba-Ban Túc ngộ hiểu: Trong đó chia làm ba phần: 1. Vua Ban Túc hỏi; 2. Vua Phổ Minh đáp; 3. Ban Túc ngộ hiểu. Dưới đây là phần một-Vua Ban Túc hỏi.
Kinh: Bấy giờ vua Ban Túc hỏi các vua: Các ngươi ở đây đang tụng pháp gì?
Giải thích: Duyên của Ban Túc đã chín muồi, cho nên phát hỏi. Dưới đây là phần hai-Vua Phổ minh đáp. Kinh: Khi ấy vua Phổ Minh liền dùng kệ trên, đáp vua Ban Túc.
Giải thích: Như văn đã rõ. Tiếp theo là phần ba-Ban Túc Ngộ hiểu. Trong đó lại chia làm bốn phần: 1Ban Túc ngộ hiểu.
Kinh: Vua nghe pháp ấy, cũng chứng định không.
Giải thích: Nghe pháp chứng hiểu, như các vua trên, nên bảo là "cũng".
Tiếp theo là phần hai-Tỏ hối hận về tà sư.
Kinh: Hoan hỷ tột cùng bảo các vua: Ta vì bị lầm, ngoại đạo tà sư, chẳng phải lỗi các ông.
Giải thích: Vui mừng chứng hiểu, hối hận lỗi trước. Tiếp đến là phần ba-Bảo mọi người đều phụng trì.
Kinh: Các ông về nước, phải mời pháp sư, giải thuyết Ba-la-mật đa.
Giải thích: Bảo lưu bố rộng. Sau đây là phần bốn-Xuất gia đắc nhẫn.
Kinh: Bấy giờ vua Ban Túc trao nước cho em, xuất gia vì đạo, vô Sinh Pháp nhẫn.
Giải thích: "Vô Sinh Pháp nhẫn": Tức là nhẫn thứ tư trong năm nhẫn.
Bồ-tát hóa tích: Nghịch thuận thật khó lường được, hoặc vì hướng dẫn quần mê mà hiện việc này. Sau đây là phần ba-Nêu rõ các vua.
Kinh: Đại vương! Quá khứ lại có năm ngàn Quốc vương, thường tụng kinh này, hiện đời được báo.
Giải thích: Thuyết quá khứ trước, thường tụng kinh ấy, đời này được báo. Tiếp theo là phần hai-Kết khuyên thọ trì. Trong đó chia làm hai phần: 1. Khuyên bảo thọ trì.
Kinh: Các ông, mười sáu vị vua nước lớn, tu pháp hộ quốc, sẽ phải như vậy, thọ trì đọc tụng, giải nói kinh này.
Giải thích: Trước đã dẫn các chuyện xưa, đây thì khuyên bảo tu pháp hộ quốc. Như trên đã rõ. Tiếp sau là phần hai-Khuyên đời sau thọ trì.
Kinh: Nếu đời vị lai, những vị Quốc vương, người muốn hộ quốc hay hộ thân mình, cũng nên như vậy, thọ trì, đọc tụng giải nói kinh này.
Giải thích: Răn bảo đời sau, hộ quốc cũng vậy. Sau đây là phần ba. Nghe pháp được ích.
Kinh: Khi thuyết giảng pháp ấy, vô lượng chúng cõi người đắc Bất thối chuyển, các A-tu-la được sinh lên Trời, vô lượng vô số chư thiên cõi trời thuộc Dục giới đắc vô sinh nhẫn.
Giải thích: "Đắc Bất thối": Bất thối có bốn loại: Tín vị chứng hành, từ cạn đến sâu, tức là loại thứ nhất và thứ hai. A-tu-la và bảy bộ còn lại, được sinh lên cõi Trời, chư Thiên cõi Dục và cõi sắc, đắc vô sinh nhẫn. Tổ Thiên thai chú giải: Tức là Thập hạnh hoặc tức là Sơ Địa. Như kinh Đại phẩm nói: Bồ-tát Sơ Địa đắc vô sinh nhẫn.
-------------------------
Chú giải phẩm này, nói về ý nối tiếp: pháp để Hộ quốc, chỉ có Bát-nhã, Nội hộ chứng tu, cũng chỉ Bát-nhã. Oai đức Bát-nhã, khó mà lường xét, nhờ sự nói rõ, càng thêm kính sâu, vì vậy mà nhân ở rải hoa, gặp Phật nghe pháp, được thấy thần biến, hiếm có khó lường, dùng sự để biểu tỏ kinh, tức là ý nối tiếp.
Sau đây là giải thích tên phẩm: "Bất Tư Nghị": Công đức thần biến, diệu dụng của chư Phật, tâm và lời không thể lường được, nên bảo là Bất Tư Nghị. Vì vậy kinh pháp Hoa nói:
"Miệng chẳng thể tuyên nói, tâm chẳng thể lường xét". Luận Trí độ nói: "Xứ tâm hành diệt, nẻo ngôn ngữ dứt": Kinh Đại Bát-nhã nói: "Tuyệt nẻo tâm ngôn". Những câu đó đều là giải thích chữ "Bất Tư Nghị". Xưa thì dùng từ ngữ "tán hoa" để đặt tên của phẩm. Ở đây dùng thấy sự thần biến, đặt tên phẩm là Bất Tư Nghị, mỗi phần đều nương theo một nghĩa, cũng không trái nhau.
Giải thích bản văn: Văn chia làm ba đoạn: 1. Đại chúng rải hoa; 2. Phật hiện thần biến; 3. Nghe pháp được ích. Trong phần rải hoa, văn chia làm ba: 1. Đại chúng hoan hỷ; 2. Rải hoa cúng dường; 3. Các vua phát nguyện. Dưới đây là phần một-Đại chúng hoan hỷ. nghĩa đó là gì?
Kinh: Bấy giờ, mười sáu vị Quốc vương và chư đại chúng, nghe Phật thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa, câu nghĩa, thâm diệu vô cùng hoan hỷ.
Giải thích: Vì các vua đã nghe ý nghĩa sâu xa về pháp hộ quốc cho nên vui mừng. Tiếp là phần hai-Rải hoa cúng dường. Trong đó chia làm ba phần: 1. Rải hoa sen báu; 2. Hoa phân Đà Lợi; 3. Hoa Mạn thù sa. Trong phần rải hoa sen báu, văn lại chia làm bốn: Đây là phần một. Nêu hoa đã rải.
Kinh: Rải trăm vạn ức những hoa sen báu.
Giải thích: "Hoa sen báu". Hoặc là những châu báu làm thành hoa, hoặc là hoa như những châu báu, nên gọi là Hoa báu. Xưa thì gọi là hành hoa. Thiên Thai chú thích: là biểu thị cho hành nơi vô lượng phước Tuệ ngôi vị Tam Hiền đã tu. Nay ở đây nói là Hoa sen là biểu thị cho hành không bị nhiễm. Lại còn biểu thị cho chủ thể diễn bày (năng thuyên) tức văn tự Bát-nhã, câu và kệ vô lượng, đều là không nhiễm. Kế đến là phần hai-Hoa thành tòa báu.
Kinh: Ở trong hư không, thành tòa hoa báu.
Giải thích: Hoa thành tòa báu, là chỗ nương của chư Phật, là chỗ ở đầu tiên của ngôi vị Hiền, là gốc của Thánh, lại còn hiển bày về văn tự là chỗ nương của tu chứng.
Tiếp sau là phần ba-Chư Phật diễn thuyết.
Kinh: Chư Phật ở mười phương, vô lượng đại chúng cùng ngồi nơi tòa đó, thuyết Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Nói các Phật đồng thuyết như nhau.
Dưới đây là phần bốn-Hóa chúng rải hoa.
Kinh: Các đại chúng ấy, cầm mười ngàn hoa sen vàng tung rải lên Phật Thích ca Mâu Ni, hợp thành lọng hoa lớn, che các đại chúng.
Giải thích: "Cầm mười ngàn": kinh cũ viết là "Vạn vòng lọng hoa"
"Thích ca": Là họ. "Mâu ni" tiếng Hoa gọi là Tịch Mặc. Phiền não tranh luận hoàn toàn tịch lặng.
"Che Phật và chúng": Người đã tu hay chưa tu, hành ắt đều giống nhau, Phật này hay Phật khác đều thuyết không khác nhau.
Tiếp theo là phần hai-Rải hoa Phân-đà-lợi. Trong đó chia làm bốn phần:1. Nêu về rải.
Kinh: Lại rải tám vạn bốn ngàn hoa Phân-đà-lợi. Giải thích: Các vua... Rải thêm lần nữa, bảo là "lại".
"Tám vạn bốn ngàn": là biểu thị cho Đăng Địa. Như phần trên của kinh đã nói: "Một niệm đầu tiên, đã gồm đủ tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật-đa", tức là Sơ Địa. Kinh cũ viết là: "Rải hoa Bát-nhã Ba-la-mật đa": từ nơi tâm của chủ thể tán hoa để đặt tên Hoa. Ở đây thì viết là "Hoa Phân-đà-lợi" là hoa sen trắng, tức là từ nơi hao rải nêu tên. Chánh trí vô lậu, chủ thể biểu thị và đối tượng được biểu thị giống nhau, quán chiếu ở Sơ địa cho đến Địa cuối cùng cũng đều cùng là một.
Tiếp theo là phần hai-Hoa thành đài mây.
Kinh: Ở trong không trung, thành đài mây trắng.
Giải thích: Như phần sau kinh nói: "Thí như có người, lên đài cao lớn" là vị Đẳng giác tiêu biểu chung cả địa thứ mười, cho nên hiện đài. Tiếp sau là phần ba nói Phật diễn thuyết.
Kinh: Trong đài, Phật Quang Minh vương cùng chư Phật mười phương, vô lượng đại chúng, diễn nói Bátnhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Nêu Phật, liệt kê chúng, nói rõ đồng thuyết. Dưới đây là phần bốn-Hóa chúng rải hoa.
Kinh: Các đại chúng đó, cầm hoa Mạn-đà-la rải lên Phật Thích ca Mâu ni và các chúng hội.
Giải thích: "Mạn-đà-la": tiếng Hoa gọi là hoa Thích Ý, người thấy nó thì tâm vui vẻ, tức là Thiên hoa. Tiếp theo là phần ba-Rải hoa Mạn Thù Sa. Trong đó chia làm bốn phần: Tiếp theo là phần một-Nêu hoa được rải. Kinh: Lại rải hoa Mạn-thù-sa.
Giải thích: Là đại chúng rải. nghĩa lại như trên. Kinh cũ viết là Diệu giác là nói về quả đức viên, kinh mới viết là Mạn-thù-sa, tiếng Hoa gọi là mềm mại, làm cho người thấy nó lìa sự thô cứng, tức là Thiên hoa, người và trời đồng một hội, tùy theo chỗ rải.
Kế đến là phần hai-Biến làm thành báu.
Kinh: Ở trong hư không, biến làm thành báu Kim cang.
Giải thích: "Thành báu Kim cang": là biểu thị cho thật tướng, tức là thành Niết-bàn. Giống như Kim cang, Thể không bị hư hoại.
Tiếp sau là phần ba-Phật diễn thuyết.
Kinh: Trong thành, Phật Sư Tử Phấn Tấn Vương cùng chư Phật, chúng Đại Bồ-tát ở mười phương chứng diễn thuyết Thắng nghĩa Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Thắng nghĩa: Tức là thật tướng. Ở trên đã hiện tòa hoa, đài, thành là nói về ba Bát-nhã: Văn tự Bát-nhã Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Tam Hiền, Thập Thánh, quả đã viên mãn, như phải hiển thị về Bất tư nghị.
Tiếp nữa là phần bốn-Hóa chúng rải hoa, văn lại chia làm ba phần: 1. Rải hoa thành lọng.
Kinh: Lại rải vô lượng các loại hoa diệu cõi Trời, ở trong hư không thành lọng mây báu.
Giải thích: Những Thiên hoa đã rải như lọng hoa báu. Hiện Bất tư nghị tuy khác với hiện trong phẩm Như Lai, nhưng nghĩa thì như nhau. Dưới đây là phần hai-Che phủ rộng lớn.
Kinh: Che khắp Tam thiên đại thiên thế giới. Giải thích: Nói về sự rộng lớn, đầy cả tam Thiên.
Hỏi: Kinh cũ thì viết là rải hoa hành... kinh này lại nói là hoa sen báu... Đó là vì Hoa trên cạn dưới nước ở các mùa phải không?.
Đáp: Như kinh Đại Bát-nhã quyển tám mươi bốn, phẩm Tán Hoa nói: "Bấy giờ, Thiên đế Thích và tất cả Tứ Đại vương chúng thiên trong tam thiên đại thiên thế giới, cho đến cõi trời Sắc Cứu cánh đều nghĩ như thế này: Tôn giả Thiện Hiện, thừa thần lực Phật, vì tất cả Hữu tình mà mưa cơn mưa pháp lớn. Chúng ta nay nên hóa các hoa diệu cõi Trời, phụng rải Như Lai Thích Ca và Bồ-tát Ma-ha-tát, cùng Tỳ-khưu Tăng.
Tôn giả Thiện Hiện cũng rải Bát-nhã Ba-la-mật đa thâm diệu đã thuyết giảng để cúng dường. Khiến chư Thiên chúng nghĩ như vậy rồi, mỗi vị đều hóa nhiều loại Hoa Hương vi diệu phụng rải Như Lai, chư Bồ-tát... Lúc đó, ở Thế giới của chư Phật trong tam thiên đại thiên, hoa đều tràn đầy, nhờ thần lực Phật ở trong Hư không hợp thành đài hoa, trang nghiêm thù diệu, che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Thiện Hiện thấy vậy nghĩ: Hoa rải ở đây so với các cõi Trời là chưa từng thấy có. Hoa ấy thù diệu, chắc chắn chẳng phải cỏ cây trên cạn dưới nước sinh ra, phải là chư Thiên vì cúng dường mà từ tâm hóa ra. Lúc đó, Thiên đế Thích biết tâm Thiên Hiện, bèn nói với Thiện Hiện: Sự rải hoa này thật ra chẳng phải cỏ cây đất nước sinh ra, cũng không từ tâm thật hóa xuất, chỉ là biến hiện mà thôi. Cụ Thọ Thiện Hiện nói với đế Thích; hoa ấy không sinh thì chẳng phải là hoa. Đế Thích hỏi: là chỉ Hoa ấy không sinh hay là các pháp khác cũng không sinh? Thiện Hiện đáp: chẳng những Hoa ấy không sinh, các pháp khác cũng vậy. Tất cả uẩn, xứ, giới, bốn đế, mười hai Nhân duyên, sáu độ, bốn nhiếp, các pháp công đức đều là chẳng sinh, giống với hoa này.
Trên đây là nói hoa rải, hoặc là cõi người hoặc là cõi trời, lý Bát-nhã giống nhau. Theo trong kinh cũ, nghĩa giống với đó.
Tiếp theo là phần ba-Mưa hoa cúng dường.
Kinh: Trong lọng hoa ấy, mưa Hằng hà sa hoa, từ trên không tuôn xuống.
Giải thích: Từ lọng mưa hoa, là điềm hiếm có. Tiếp đến là phần ba. Các vua phát nguyện. Trong đó chia làm hai phần: 1. Các vua phát nguyện; 2. Như Lai ấn thuật.
Trong phần một lại chia làm ba: Đây là phần một-Các vua xưng tán.
Kinh: Bấy giờ, Vua Ba-tư-nặc và các đại chúng, thấy việc ấy rồi, khen ngợi là chưa từng có.
Giải thích: Cùng nhau khen là hiếm có. Dưới đây là phần hai-Nguyện Phật sẽ thuyết.
Kinh: Chấp tay hướng Phật, mà nói: Nguyện chư Phật quá khứ hiện tại vị lai thường thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: "Thường thuyết...": là Bồ-tát Địa thượng (đã lên ngôi Địa) thấy Phật thuyết. Còn Bồ-tát Đại tiền (chưa lên ngôi Địa) ở trong hội lúc có, lúc không có thuyết. Vua và Đại chúng mới phát nguyện.
Sau đây là phần ba-Nguyện chúng thường thấy.
Kinh: Nguyện các chúng sanh, thường được thấy nghe, như ta ngày nay, ngang bằng không khác.
Giải thích: "Nguyện các chúng sanh": Là trừ trong hội này ra, các cõi khác và đời vị lai, nguyện thường thấy Phật thường nghe Bát-nhã, như nay không khác.
Dưới đây là phần hai-Như Lai ấn thuận thuật lại. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một. Như Lai ấn thuận thuật lại.
Kinh: Phật nói: Đại vương! Như ông đã thuyết.
Giải thích: "Như ông đã thuyết": như Luật Tứ phần, không cho mong nguyện điều lỗi, nguyện thanh tịnh thì được, nguyện thấy nghe này không trái với luật kia cho nên Phật chấp nhận: "Như ông đã nói".
Tiếp theo là phần hai-tán thán thán pháp xuất sinh.
Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa này là mẹ của chư Phật, là mẹ của chư Bồ-tát, nơi công đức bất cộng thần thông xứ sinh.
Giải thích: Câu đầu chỉ cho pháp, câu tiếp là chỉ về xuất sinh. Sinh ra chư Phật, Bồ-tát... mà thành ra là mẹ. Vì vậy Phật và pháp thì ai trước ai sau. Nói: Pháp Bátnhã sinh ra Phật, Bồ-tát. Phật nhờ pháp mà thành, pháp trước, Phật sau. Như kinh Niết-bàn quyển bốn nói: "Pháp là Thầy của chư Phật". Vì pháp là thường nên chư Phật cũng là Thường. Từ Bát-nhã sinh pháp là chính, vì vậy nếu thành chánh giác, nhờ pháp bi sâu mà thuyết pháp Bát-nhã. Phật từ đầu kinh đến cuối kinh, khuyên bảo chỉ bày đạo, khiến cho xuất ly mà Phật và pháp tương quan với nhau. Nay ở đây là nói chư Phật, Bồ-tát nhân ở Bát-nhã sinh ra, nên nói Bát-nhã là mẹ của chư Phật, Bồ-tát.
"Công đức Bất cộng": là nói về pháp, tức là mười tám pháp Bất cộng của Đại Thừa và Tiểu Thừa. Lại nữa, Luận Du-già nói; một trăm bốn mươi công đức Bất cộng.
"Nơi thần thông sinh": là mười thân tướng tác Niếtbàn trong kinh Hoa Nghiêm, nghĩa của tám tự tại trong kinh Niết-bàn, đều Nhân ở Bát-nhã Ba-la-mật đa làm nơi sinh ra.
Kế đến là phần ba-kết khuyên thọ học
Kinh: Chư Phật đồng thuyết được nhiều lợi ích, vì vậy các ông thường nên thọ trì.
Giải thích: Chư Phật đồng thuyết, khuyên thọ trì. Dưới đây là phần hai-Phật hiện thần biến. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu bày thần Biến; 2. Hiện thần Biến;
3. Kết. Bất tư nghị. Đây là phần một-Nêu Bày thần biến. Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn, vì các đại chúng, hiện thần thông biến hóa không thể nghĩ bàn.
Giải thích: "Bất tư nghị": Nghĩa như trên đã giải.
"Thần thông": Là Thần cảnh trí thông của Phật, Thế Tôn.
Đây là tâm chung. "Biến hóa": Luận Du-già quyển hai mươi bảy nói có hai loại: 1. Biến thông, nghĩa là chuyển đổi; 2. Hóa Thông là hóa hiện. Đây là phần hai-Hiện Thần Biến. Trong đó chia làm bốn phần: 1. một và nhiều dung chứa nhau; 2. Lớn và nhỏ dung chứa nhau; 3. Thánh và phàm dung chứa nhau; 4. Sạch và nhơ dung chứa nhau. Trong phần một-Một và nhiều dung hợp nhau. Văn lại chia ba: 1. Nhiều hoa dung hợp nhau.
Kinh: Một hoa nhập vào vô lượng hoa, vô lượng hoa nhập vào một hoa.
Giải thích: Như một và nhiều nhập vào nhau ở phần rải hoa. Sau đây là phần hai-Cõi Phật độ dung hợp.
Kinh: Một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật vô lượng cõi Phật nhập vào một cõi Phật.
Giải thích: Khiến cho chúng đều thấy thế giới nhập vào nhau. Kế sau là phần ba-Trần sát dung hợp.
Kinh: Một trần sát độ nhập vô lượng trần sát độ. Vô lượng trần sát độ nhập một trần sát độ.
Giải thích: Khiến cho chúng kia, ở trong một hạt bụi mà thấy được cõi nước của Phật là một và nhiều tương nhập vào nhau. Ba thứ trên là rộng hẹp dung hợp nhau. Tức chính là mười ba chốn tạo tác tự tại. Tiếp theo là phần hai-Lớn nhỏ dung hợp nhau.
Kinh: Vô lượng biển lớn nhập vào trong một lỗ chân lông. Vô lượng núi Tu Di nhập vào trong một hạt cải.
Giải thích: Khiến cho đại chúng đều thấy biển nhập vào trong một lỗ chân lông. Hạt cải dung nạp cả núi Tu Di, tức chính là chuyển biến tự tại thứ năm. Kế tiếp là phần ba-Thánh phàm dung hợp nhau.
Kinh: Một thân Phật nhập vô lượng thân chúng sinh. Vô lượng thân chúng sinh nhập vào một thân Phật.
Giải thích: Khiến cho đại chúng đều thấy phàm và Thánh nhập vào nhau, tức chính là hai loại Biến thứ chín và mười là chúng tướng nhập thân và Đồng loại vãng thú. Đó cũng là chủ thể hóa là Thần cảnh Trí Thông, tự tha hơn kém nơi vô số Thân. Dưới đây là phần bốn-Tịnh uế dung hợp nhau.
Kinh: Lớn lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn. Tịnh lại hiện uế, uế lại hiện tịnh.
Giải thích: Phật tự hiện thân, hoặc lớn hoặc nhỏ tức chính là Biến thứ bảy và thứ tám. Biến co, Biến duỗi. Hiện cõi nước ở hoặc tịnh hoặc uế, tức là Biến thứ mười một và biến thứ mười hai. Biến ẩn và hiển.
Các điều trên đều để phá tình chấp, khiến sự một hay nhiều, khiến tướng lớn hay nhỏ, khiến thân phàm hay Thánh, khiến Phật hơn hay kém, Khiến cõi Tịnh hay uế, để phá sự vọng sinh phân biệt từ vô thủy đến nay của các hữu tình, thấy một nhất định là một, thấy nhiều nhất định là nhiều... cho đến thấy tịnh nhất định là tịnh, thấy uế nhất định là uế. Tức là pháp chấp. Thấy Phật thần biến, ngộ được sự là do ở tâm, hiểu được tướng tức là tính, làm tan biến, dứt bỏ các chấp.
Lại nữa, Bản ký nói: Biến có ba ý: 1. Khắp không. Một hoa nhập vào vô lượng hoa, là để trừ chướng ngại không vui thích Đại Thừa;
2. Chuyển biến. Một cõi Phật nhập vào vô lượng cõi Phật, là để trừ chướng chấp Ngã Sở, nên có chuyển biến; 3. Hiển liễu. một thân Phật nhập vào vô lượng thân của chúng sinh, là để trừ chướng sợ hãi sinh tử, mà hiển hiện rõ ràng.
Hỏi: Núi Tu di và biển lớn nhập vào trong lỗ chân lông và hạt cải, lớn và nhỏ khác nhau, làm sao nhập được?
Đáp: Chư sư ở Tây phương, có ba giải thích: Một là tất cả pháp, lấy Như làm thể. Đối tượng dựa là chơn như, lìa các tướng, nên các pháp là chủ thể dựa không có nhất định là lớn hay nhỏ, vì vậy mà có thể cùng dung chứa với nhau. Hai là: Theo lý của Duy thức tất cả các pháp đều không lìa thức, tùy tâm mà biến hiện, không có tướng nhất định, vì vậy mà dung hợp nhau. Ba là: Tất cả các pháp, theo nhân duyên sinh, Nhân duyên thì như huyễn, không có tướng nhất định vì vậy mà dung hợp được.
Hỏi: Trong sắc có lớn nhỏ, chấp nhận là nhỏ có thể chứa lớn.
Trong thời gian thì có dài ngắn, kiếp dài nhập vào kiếp ngắn sao?.
Đáp: Việc này không quá khó, vì Phật đã đạt được, tự tại co duỗi hiếu có. Có thể rút ngắn nhiều kiếp thành một kiếp, kéo dài một kiếp thành nhiều kiếp. Những văn nói như thế để chứng minh, ở trong các kinh không phải ít.
Hỏi: Nếu vậy, một kiếp kéo dài thành ba kiếp, ba kiếp co lại thành một kiếp, một và ba không có lượng nhất định, vậy chẳng đã trái với lời văn của kinh và Phật nói Bồ-tát phải trải qua ba vô số kiếp, tu đủ vạn hạnh chứng Đại Bồ-đề.
Đáp: Câu hỏi này không đúng. Bởi trên đáp là quả đức tự tại chẳng phải cảnh ở nhân tu hành. Luận Hiển Dương và Du-già đều nói như vậy, người đối với Bất Tư Nghị mà gượng ép suy lường thì bị quả báo cuồng loạn. Dưới đây là phần ba-Kết: luận nghĩa "Bất tư nghị". Kinh: Thân Phật chẳng thể nghĩ bàn, thân chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn... cho đến... Thế giới chẳng thể nghĩ bàn.
Giải thích: Thân của chư Phật khắp ở thân của chúng sinh. Thân của chúng sinh khắp thân chư Phật. Thể biến khắp lẫn nhau chẳng thể nghĩ bàn. Dứt hẳn tâm tư, ngôn ngữ thì gọi là "chẳng thể nghĩ bàn".
Tiếp theo là phần ba-Nghe pháp được ích.
Kinh: Đang khi Phật hiện thần biến đó, mười ngàn nữ nhân, hiện chuyển thân nữ, đắc thần thông, Tam muội, vô lượng trời người đắc vô sinh pháp nhẫn, vô lượng A-tu-la thành tựu đạo Bồ-tát, hằng hà sa Bồ-tát hiện thân thành Phật.
Giải thích: Được lợi ích có bốn: 1. Hiện chuyển thân nữ, đắc như huyễn; 2. Trời, người đắc nhẫn, thấy được lý của pháp; 3. Bát Bộ Tu La thành Bồ-tát; 4. Hằng hà Sa Bồ-tát hiện thành Phật.
Hỏi: Trong một thế giới, có nhiều Phật cùng ra đời hay không?. Đáp: Luân vương còn không có hai vị cùng xuất, huống hồ là bậc
Đại giác có hai vị cùng ra đời sao!.
Hỏi: Nếu vậy, sao lại hằng hà sa Bồ-tát hiện thân thành Phật. Đáp: Không phải vậy, đây là ở các cõi khác, có gì sai đâu? Như
Long Nữ trong kinh pháp Hoa.
Hỏi: Hiện thân thành Phật, đó có phải là cứu cánh hay không? Đáp: Như trong kinh Đại Bát-nhã nói: Thập địa gọi là thập chủng
Phật. Lại, chỗ khác cũng nói Địa tiền hiện hóa. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phân biệt công đức nói: Bồ-tát nhiều như số vi trần ở bốn thiên hạ, một đời sẽ đắc Bồ-đề vô thượng. Luận pháp Hoa chú thích: Tức là Sơ Địa. Do vậy mà nói nhờ oai lực của pháp mà nêu là hiện thành, đã nói là hiện thành thì chẳng phải là cứu cánh.
------------------
Nói về ý nối tiếp: Trên đã nói đủ cả Nội Hộ và Ngoại Hộ do phải phụng trì cả hai, nên có phẩm này.
Giải thích tên gọi của phẩm: Phụng nghĩa là tôn kính tiếp nhận. Trì nghĩa là không quên. Như Luận trí Độ nói: do lực tín nên nghe mà tín phụng, do Niệm lực cho nên không quên là Trì. Nếu nói là Thọ trì, nhận lãnh thì cũng không sai.
Giải thích văn kinh: Phẩm kinh này, chư vị cổ đức: Trắc pháp sư, Huyền Phạm pháp sư ở chùa Tây Minh và Tuệ Tĩnh pháp Sư ở chùa Kỷ Quốc đều cho phẩm này là phần Lưu Thông. Thiên Thai Trí giả, Đạo An pháp sư, An Quốc pháp sư đều cho phẩm này là phần Chánh tông. Tuy các lý lẽ đều có căn cứ, nhưng nay ở đây theo Thiên Thai Trí giả... chia phẩm kinh này thành ba phần lớn: 1. Vua Ba-tư-nặc Hỏi; 2. Như Lai chánh đáp; 3. Nghe pháp được ích. Phần vua Ba-tư-nặc hỏi, văn lại chia làm ba: Dưới đây là phần một-Thấy chư Phật. Nghĩa đó là sao?.
Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc, thấy rõ thần biến của Phật, thấy trên ngàn đài hoa có Như Lai Biến Chiếu, trên ngàn cánh hoa có ngàn hóa thân Phật, trong ngàn cánh hoa có vô lượng chư Phật, mỗi mỗi vị đều thuyết giảng Bát-nhã Ba-la-mật đa.
Giải thích: "Thấy thần biến của Phật": là thấy Phật hiện thần biến trong phẩm trước.
"Thấy trên ngàn đài hoa, Như Lai Biến chiếu": Tiếng phạm gọi là Tỳ Lô giá-na, còn gọi là Vỹ-lô-già-na, cũng gọi là Phệ Lộ Già Na. Tiếng Hoa gọi là Biến Chiếu, cũng gọi là Đại Nhật, đến đoạn san sẽ rõ. Theo kinh Hoa Nghiêm quyển tám: Thế giới ta bà, Tỳ-lô-giá-na Như Lai tức là Báo Thân Phật. Tiếng phạm là Lô-xá-na, hoặc gọi là Lu-thác-na, hoặc gọi là Lu-chiết-la, cũng gọi là Biến Chiếu. Theo kinh Phạm võng là Thân tha thọ dụng. Nhưng cả hai tên gọi đó có người cho rằng Thể thì giống nhau, nhưng vì trước và sau phiên dịch khác nhau hoặc có người cho là hai Báo Thân tự và tha. Như Luận Phật địa: pháp giới thanh tịnh là thân tự tính. Bốn Trí tâm phẩm là Thân tự thọ dụng. Lại nữa, thân tha thọ dụng và Thân biến hóa đều là phương tiện thị hiện để hóa độ chúng sinh, tùy theo sự thị hiện mà có lớn hay nhỏ khác nhau. Theo Luận Phật Địa: Như Lai Biến chiếu tức là thân tha thọ dụng hoặc là Thân ứng hóa vì thân tự thọ Dụng, lượng đồng pháp giới, không thể nói lượng thân đó là lớn hay nhỏ. Còn kinh cũ thì viết là: "Tất cả Phật hóa Thân chủ". Nếu thân Tha thọ dụng gọi là Thân ứng hóa thì nương theo tự Báo Thân mà khởi Thân Tha Thọ Dụng. Nếu hóa lớn hóa nhỏ gọi là hóa thân thì tha thọ Dụng là hóa chủ. Vì tự, tha, và báo, thể của chúng chẳng phải tức chẳng phải lìa đều không trái với lý.
"Ngàn hóa thân Phật trên ngàn cánh hoa": Là hóa Phật lớn.
"Vô lượng chư Phật trong Ngàn cánh hoa": là hóa Phật nhỏ. Do gia hạnh, tư lương, nhị thừa và phàm phu thấy có khác nhau. Giống như kinh Phạm võng: "Ta nay Lô Xá Na, vừa ngồi đài hoa sen, vòng quanh trên ngàn Hoa, Lại hiện ngàn Thích ca, một hoa trăm ức cõi, một cõi một Thích ca, đều ngồi cội Bồ-đề, cùng lúc thành Phật đạo" nghĩa không trái nhau.
Tiếp theo là phần hai-Pháp vô lượng.
Kinh: Bèn bạch Phật; Thế Tôn! Như vậy là vô lượng Bát-nhã Ba-la-mật đa không thể dùng Thức mà biết, không thể dùng Trí mà biết.
Giải thích: "Như vậy vô lượng": là nói những điều đã nghe. Nghĩa là vua Ba-tư-nặc như kinh cũ nói: hành hạnh thập địa, tùy tương ưng mỗi địa, thường thấy chư Phật, nay thấy thần biến, thấy thân lớn nhỏ, mỗi mỗi tuyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật đa vì dẫn đạo chư đại chúng mà nói là vô lượng.
"Không thể dùng Thức mà biết": là Thức cạn cợt này không thể biết được.
"Không thể dùng Trí mà biết": là Trí thấp kém này, không thể biết được.
Đây nói rõ pháp được thuyết là nhiều vô lượng, sâu xa không thể dò, chẳng thể nhận biết được.
Kế đến là phần ba-Chánh hỏi phụng trì.
Kinh: Này các thiện nam! Làm thế nào, đối với kinh này lý giải, lãnh hội hiểu rõ vì người khác mà diễn nói.
Giải thích: "Làm thế nào": là từ ngữ hỏi chính. "Chư Này thiện nam": là những người tu hành.
"Đối với kinh này": tức là kinh này, những điều thấy được tuy là nhiều nhưng Bát-nhã thì như nhau.
"Minh liễu": là đối với lý và sự đều hiểu rõ.
"Giác giải": Giác là hiện chứng, giải là ngộ hiểu. Đối với lý thì chứng ngộ sáng suốt, đối với sự thì hiểu biết rõ ràng. Do đó gọi là Minh liễu, giác giải. Đó là tự lợi. "vì người mà diễn thuyết" là lợi tha.
Dưới đây là phần hai-Như Lai chánh đáp. Chia làm hai phần chính: 1. Mười ba pháp sư phụng trì; 2. Mười sáu Quốc vương phụng trì.
Trong phần pháp sư, văn chia làm hai phần: 1. Lược nêu pháp sư;
2. Nói rộng hạnh vị.
Trong phần một, văn lại chia làm hai phần: 1.
Khuyên bảo lắng nghe.
Kinh: Phật bảo "Đại vương! Ông nay hãy lắng nghe!".
Giải thích: Bảo hãy nghe cho kỹ. Dưới đây là phần hai-Lược bày hạnh vị.
Kinh: Từ Tập nhẫn đầu tiên đến định Kim cang, như pháp tu hành mười ba môn quán đều là pháp sư nương giữ kiến lập.
Giải thích: "Từ Tập nhẫn đầu tiên": là nêu ngôi vị đầu tiên "Đến Định Kim cang": là ngôi vị sau cùng.
"Như pháp tu hành mười ba môn quán": Từ đầu tiên cho đến cuối cùng gồm có mười ba Ngôi vị, mỗi ngôi vị đều nương theo hành vị, như pháp tu hành môn quán của mình.
"Đều là pháp sư": Đó là tên gọi chung, đều tu hai lợi gọi là pháp sư.
"Nương giữ kiến lập": Y theo đây tu trì khiến không mất. Mới bắt đầu khởi thì gọi là kiến, cuối cùng thành tựu thì gọi là lập.
Tiếp đến là phần ba-Kết. Khuyên cúng dường.
Kinh: Đại chúng các ông nên xem như Phật mà cúng dường trăm ngàn vạn ức thiên hương hoa vi diệu, cúng dường dâng lên.
Giải thích: Vì pháp thù thắng, ở chỗ nào thì chỗ đó được tôn quý, ở người nào thì người đó được tôn trọng, đối với những người tu hành thì báo các vua kính họ như Phật.
"Thiên hương hoa vi diệu": là cúng phụng những điều cực kỳ tốt đẹp.
Dưới đây là phần hai-Nói rộng về hành vị. Chia làm hai phần:
1. Nói riêng về Hạnh vị; 2. Kết luận, thọ trì.
Trong phần một-chia làm mười ba phần như sau sẽ rõ:
1. Tập chủng tính.
Trong đó chia làm ba phần:
- Nêu vị biện Tướng.
- Nói về pháp tu.
- Kết trình bày vị mãn. Đây là phần một-Nêu vị biện tướng.
Kinh: Này người thiện nam! Pháp sư đó là Bồ-tát Tập chủng tính.
Nếu Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.
Giải thích: "Pháp sư đó": Là tên gọi chung. Thông cả mười ba Ngôi vị đều gọi là pháp sư.
"Tập chủng tính": Như trên đã giải thích. Hai chúng tỷ khưu, xa lìa năm Tà.
"Sách ca, Tư ca": là Nam nữ thọ năm giới. Bốn chúng này như đã giải thích trong phẩm Tựa.
Dưới đây là phần hai-Nói về pháp tu. Trong đó chia làm hai phần:
1. Tu Thập trụ; 2. Nội ngoại.
Trong phần một lại chia làm hai phần: 1. Thập trụ;
2. Tu thập hạnh.
Trong phần một lại chia làm hai phần: 1. Tu thập trụ.
Kinh: Tu hạnh thập trụ.
Giải thích: Trong Tam Hiền, ngôi vị này là kém nhất, lấy Thể mà đặt tên, tiếp đến là Thập hạnh, sau cùng là mười Hồi hướng, còn Bồ-tát mười địa thì đã đăng ngôi vị Thánh, đã đắc hiện chứng theo Địa mà đặt tên.
Đầu tiên là giải thích tên gọi của Trụ. Trước là tên chung sau là tên riêng. Thập trụ là: nhập vị bất thối gọi là Trụ. Trụ pháp viên mãn gọi là Thập, gộp chung lại gọi là Thập trụ, mang số đặt tên Giải thích biệt danh thì nói về Thể của trụ. Nếu dựa theo đối tượng duyên thì hai đế làm Thể. Nếu dựa theo Chủ thể duyên thì Bi và Trí làm Thể, hợp cả cảnh và Trí mà làm Thể của Trụ, tương ứng trợ giúp nhau đủ cả năm uẩn. Nếu dựa theo theo Thân thì duy chỉ người ba châu, tức là bốn chúng kể trên, gộp có phàm và Thánh, Đốn và Tiệm.
Tiếp theo là phần hai. Nói về tướng của trụ, văn chia làm mười phần: Dưới đây là phần một-Phát tâm Trụ.
Kinh: Thấy Phật Pháp Tăng, phát tâm Bồ-đề.
Giải thích: Giải thích theo tên của Trụ là: ở đối với Bồ-đề khởi tâm quyết định nhập vào ngôi vị Bất thối gọi là phát tâm trụ.
"Thấy Phật Pháp Tăng": là duyên phát tâm, Phật là bậc giác, là người có thể khai phát, pháp là các giáo, sinh ra chánh giải Tăng là hòa hợp, là Hiền Thánh ba Thừa, là phước điền tốt. Đầu tiên là nhân ở Tam bảo mà phát tâm vô thượng, đến ngôi vị cứu cánh thì thường hiện tiền. "Phát tâm Bồ-đề": là phát tâm vô thượng, khởi ba diệu quán, như
Giải thích trước. Nhiếp Luận tụng:
Lực thanh tịnh tăng thượng
Tâm kiên cố thắng tiến
Danh Bồ-tát mới tu
Vô số ba đại kiếp.
Tâm đại Bồ-đề lấy thiện căn làm thể, lấy đại nguyện làm duyên không thối lùi, không khuất phục làm động lực thúc đẩy, mới có thể khởi. Thiện căn làm Nhân gọi là lực thanh tịnh, nhờ đó có thể hàng phục những gì mình đối trị. Đại nguyện làm duyên gọi là lực Tăng thượng, thường gặp bạn lành khiến cho tăng tiến. tâm kiên cố: là tuy gặp bạn xấu phá hoại nhưng cuối cùng cũng không thối xả tâm Bồ-đề, gọi là kiên cố. Thắng Tiến là: Thiện căn mình tu, lần lần tăng trưởng chuyển thành Thắng tiến. Thập Tín trước đây, tâm người nhập vào Trụ này, do đủ cả mười thứ kia, đối với đại Bồ-đề, kiên cường không thối, đủ cả những thứ đó, gọi là bắt đầu Sơ kiếp. Tức là lấy tâm đó làm gốc cho Thập Trụ, tâm đó lần lần tăng lên thành các Trụ sau. Cho đến quả tột cùng cũng do đó mà đắc. Có thuyết nói: Thập trụ đồng với hạnh Thập Địa.
Tiếp theo là phần hai-Trị địa trụ.
Kinh: Đối với các chúng sanh, lợi lạc thương xót.
Giải thích: Giải thích theo tên của Trụ là: mài giũa tâm đó, lìa sự cấu uế, lắng trong, sàng lọc các nhiễm ô, gọi là Trị địa trụ. "Đối với các chúng sanh, lợi lạc thương xót": lợi là lợi ích, lạc là an lạc. Thương xót: là hành cứu vớt. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Tụng tập đa văn, rỗng vắng tịch tĩnh, gần thiện tri thức, liễu đạt ở nghĩa, như pháp tu hành, An trụ chẳng động. Kế đến là phần ba-Tu hành trụ.
Kinh: Tự quán thân mình, các căn sáu giới, tất cả vô thường, khổ, không, vô ngã.
Giải thích: Giải thích Tên trụ: quán sát tự thân, lìa xa Không và hữu, chánh hành tu tập gọi là Tu hành trụ.
"Tự quán thân mình": đó là nêu chung. "Sáu giới": là sáu giới như đất nước v.v...
"Chư căn": là các căn như mắt... Như nơi kinh cũ nói mười bốn căn: năm sắc, năm thọ, nam, nữ, ý, mệnh. nghĩa là quán sáu giới và các căn sinh diệt bức bách đều là không vô Ngã. Đối trị những điên đảo hư vọng.
Tiếp sau là phần bốn-Sinh quý trụ.
Kinh: Nhận biết rõ nghiệp hành, sinh tử, Niết-bàn.
Giải thích: Giải thích Tên trụ: sinh tại nhà Phật, dòng họ tôn quý, đó tuy chỉ là nuôi lớn nhưng đã hơn các thừa khác, nên gọi là Sinh quý trụ. "Liễu tri nghiệp hành, sinh tử Niết-bàn": là hiểu rõ các hành nghiệp thiện và ác của mình và người, hành đó là thuận theo với sinh tử, hành đó là thuận theo với Niết-bàn, như kệ của kinh Hoa Nghiêm bản cũ nói: "Đệ tứ sinh quý chơn Phật tử" từ chánh pháp của chư Hiền Thánh sinh ra. Các pháp thuộc có, không đều đều không hề đắm trước. Xả lìa sinh tử, xuất khỏi ba cõi. Đắm trước có hữu là sinh tử, đắm trước không tức là Niết-bàn. Cả hai đều không đắm trước thì sẽ xuất ly.
Dưới đây là phần năm-Cụ túc phương tiện trụ.
Kinh: Có thể tạo lợi tự tha, lợi ích an lạc.
Giải thích: Giải thích tên trụ: khéo léo không làm ngưng trệ chơn. Khởi tâm thương xót, song tu cả hai hành chơn và tục, gọi đó là Cụ túc phương tiện trụ.
Câu trước là hai lợi, câu sau là lợi tha. Như kinh nói: Tu các thiện căn đều để cứu giúp làm lợi ích an lạc, thương xót độ thoát tất cả chúng sanh khiến lìa tai nạn, xuất ly sinh tử, chứng Niết-bàn. Tiếp theo là phần sáu-Chánh tâm Trụ.
Kinh: Nghe ca tụng Phật, hủy báng Phật, tâm định không động.
Giải thích: Giải thích tên trụ là: quán lý không hai, lần lượt thuần thục nghe ca tụng hay hủy báng Phật tâm không bị lay động gọi là Chánh tâm trụ.
"Nghe ca tụng Phật...": Nghĩa là Bồ-tát đó khéo quán các pháp không có thể, không có tính, đạt như huyễn mộng. Nghe tán thán hay hủy báng Phật tâm định chẳng động. Như kinh thuyết: Tán thán pháp, hủy báng pháp, tán thán hay hủy báng, Bồ-tát nghe nói chúng sinh có cấu hay không cấu, đễ độ hay khó độ đều định không động.
Kế tiếp là phần bảy-Bất thối trụ.
Kinh: Nghe có Phật, không Phật, tâm định không thối lui.
Giải thích: Giải thích tên trụ: chỉ và quán song tu, duyên không thể làm hư hoại, nghe nói có hay không có, tâm định không thối gọi là Bất thối trụ. Ở đây cũng dựa theo nghĩa trội hơn mà nói: "Có Phật không Phật, tâm định bất thối": như kinh kia thuyết: pháp và Bồ-tát nghe nói có hay không, tâm định bất thối. Nghĩa là có thể liễu tri vô tướng tức tướng, tướng tức vô tướng. Ở trong Phật pháp, tâm không thối chuyển. Sau đây là phần thứ tám:
Đồng Chơn Trụ.
Kinh: Ba nghiệp không lỗi, khởi sáu hòa kính.
Giải thích: Giải thích tên trụ: ba nghiệp sạch, sáng, lìa nhiễm ô, như trẻ thơ, hành tánh thành tựu, vật không thể làm hư hoại, gọi là Đồng chơn trụ.
"Tam nghiệp...": là thân, khẩu, ý, cả ba lìa sự sai lầm tội lỗi. Như kinh cũ nói; là ba Nghiệp đồng, giới kiến học đồng với lục hòa kính như kinh kia thuyết: thân hành không có sai lầm, ngữ hành không có sai lầm, ý hành không có sai lầm, siêng năng học, tu tập du hành vô số thế giới, lãnh thọ vô số pháp Phật, hiện thân biến hóa, tự tại xuất ra âm thanh rộng lớn đầy khắp trong một Sát-na, thừa sự cúng dường vô số chư Phật. Đó là ba Nghiệp hành.
Dưới đây là phần thứ chín. Pháp vương tử trụ.
Kinh: Phương tiện thiện xảo, điều phục chúng sinh
Giải thích: Giải thích tên trụ: khéo thuyết hợp đúng với căn, nói dõi pháp vương, gọi là pháp vương tử trụ.
"Phương tiện...": là phương tiện diễn thuyết đều thiện xảo khéo léo, khéo điều phục các chúng sinh.
Tiếp theo là phần thứ mười: Quán đảnh trụ.
Kinh: Khuyên học mười trí, thần thông hóa, lợi.
Giải thích: Giải thích tên trụ: Ngôi vị trụ được đầy đủ, thành tựu thân Trí. Nước Pháp của chư Phật rưới lên đỉnh đầu gọi là Quán đảnh trụ. Phép Quán Đảnh như kinh Kim cang Đảnh bản tiếng Phạm nói: Có năm loại Quán Đảnh: Đó là mão báu ấn khế, dùng nước quang minh và đặt tên hiệu. Ba hiền mười thánh khi sắp thành Chánh giác, trong mỗi một ngôi vị, Phật, Bồ-tát cho quán đảnh.
"Khuyên học mười trí": Như kinh thuyết: Học tam thế trí, Phật pháp trí, pháp giới vô ngại Trí, Pháp giới vô biên trí, sung mãn nhất thiết thế giới, Trí, phổ chiếu khắp tất cả thế giới Trí, Trụ trì tất cả thế giới Trí, Tri tất cả chúng sanh Trí, Tri nhất thiết pháp Trí, tri vô biên chư Phật Trí. Năm Trí đầu là biết thế giới, theo thứ tự là: tùy tâm chuyển Trí, chánh giác chiếu Trí, chiếu pháp giới Trí, tự tại phổ nhập Trí, đến xứ đều nghiêm Trí. Ba Trí tiếp theo là biết tâm của chúng sinh, đó là Trí biết tất cả tâm, Trí biết tâm cảnh, Trí biết các căn Tính. hai Trí sau là nói đức thành của chúng đó là Trí hợp căn và pháp, Trí khiến diệt các hoặc.
"Thần Thông hóa Lợi": Như kinh cũ, kệ giải thích Thập trụ nói:
Thanh tịnh diệu Pháp thân
Hiện ứng nhiều loại hình
Giống như Đại huyễn sư
Sở thích đều được hiện
Hoặc ở vì chúng sinh
Cứu cánh Hạnh Bồ-tát
Hoặc lại hiện sơ sinh
Xuất gia hành học đạo
Hoặc ở dưới cây vua
Tự nhiên thành chánh giác
Hoặc ở vì chúng sinh
Thị hiện nhập Niết-bàn.
Đó đều là Thần thông hành hóa lợi. Tụng kết:
Phát tâm trị tu hành
Sinh quý đủ phương tiện
Chánh tâm và Bất thối
Đồng chơn vương Quán đảnh.
Dưới đây là phần ba-hành tu tập.
Kinh: Tu tập Hạ phẩm tám vạn bốn ngàn Ba-la-mật đa. Giải thích: "Hạ phẩm": là bậc đầu tiên của Tam Hiền.
"Tu tập...": Thời gian ở Ngôi vị này lâu dài tu đủ cả phước, trí, các hành, nguyện.
Tiếp theo là phần hai-Nội Ngoại. Trong đó chia làm hai phần:
1. Nhẫn phương tiện; 2. Chánh Định tụ.
Phần một văn lại chia làm hai: Dưới đây là phần một-Nhẫn tiền phương tiện.
Kinh: Này người thiện nam! Trước hết là Tập nhẫn, trải qua mười ngàn kiếp hành hạnh mười thiện Hạnh có thối có tiến.
Giải thích: "Tập nhẫn" trở về trước là ngoài kiếp.
"Trải qua mười ngàn kiếp": Là thời gian phải trải qua. Đó là đi đến thẳng, khác với kinh Niết-bàn là tám vạn, sáu vạn, bốn vạn, hai vạn, mười ngàn kiếp... vì ở đây là đốn, kia là tiệm mà có sự sai biệt.
"Hành hạnh mười thiện": là Thân ba, khẩu bốn, ý ba thành là mười.
"Có thối có tiến? Là không nhất định. Tiếp nữa là phần hai-Nêu dụ thích thành. Kinh: Thí như lông nhẹ, theo gió đông tây.
Giải thích: Mười thiện thì có tiến có thối, như lông nhẹ lúc đông lúc Tây. Từ đây là phần hai-Chánh Định tụ. Trong đó chia làm hai phần: Dưới đây là phần một-Chánh Định tụ.
Kinh: Nếu đạt đến vị nhẫn, nhập chánh định tụ, không tạo năm nghịch, không hủy báng chánh pháp.
Giải thích: "Nếu đạt đến vị nhẫn": là tu Thập thiện. Thượng phẩm thành mãn phát Bồ-đề tâm, bất thối như trên, gọi là đến vị nhẫn.
"Nhập chánh Định tụ": Nhập là tiến nhập, tức nhẫn vị đó, là chánh Định tụ, khác với Tiểu Thừa. Luận Câu xá nói: Chánh tính ly sinh, gọi là chánh định.
Hai câu sau nói không tạo nghịch tức chẳng phải là Xiển-đề.
Sau đây là phần hai-Nhẫn đối trị.
Kinh: Biết tướng ngã, pháp thảy đều là "không", an trụ nơi giải thoát.
Giải thích: "Biết tướng ngã, pháp": là phân biệt hai chấp. Do Tà giáo và Tà sư, tự phân biệt tà cho Ngã là chủ tể, pháp là các uẩn, như đã nói trên. Sáu mươi hai kiến bao gồm hai mươi cú (câu) phân biệt tức uẩn lìa uẩn là chấp Ngã, pháp. Do hai chấp đó mà hai chướng sinh đủ. Đây là chế phục hai chấp và các chướng tương ưng. Chế phục hiện hành kia, thảy đều là không. hai chấp và tùy miên đều chưa diệt.
Hỏi: Nếu vậy, vì sao kinh Hoa Nghiêm quyển mười giải thích mười về thập Trụ nói: Trừ diệt các phiền não, vĩnh viễn không còn sót, vô ngại tịch diệt Quán, ấy tức Phật chánh pháp. Sao ở đây lại nói là tùy miên chưa diệt. Đáp: Kia là dựa theo sự phục diệt các ngã chấp, pháp chấp, trợ bạn phiền não, vô minh bất cộng của tà giáo, tà sư, đã dấy khởi nên bảo là vĩnh viễn hết, chẳng phải là tất cả phiền não do tự phân biệt sinh và câu sinh phiền não, vĩnh viễn hết. Vì vậy kinh Duyên khởi nói; Người phàm phu nội pháp không phóng dật, ta không nói là vô minh duyên hành. nghĩa là mọi bất cộng tương ưng vô minh do tà giáo phát khởi đã vĩnh viễn hết. Cho nên không nói là vô minh duyên hành, tuy nhiên phiền não do tự phân biệt và phiền não câu sinh hiện hành thì dần dần chế phục, chủng đều chưa dứt hết, khi đạt đến ngôi vị kiến Đạo các chủng tử của hai chướng phân biệt toàn sẽ đoạn dứt tức thì đến đoạn sau sẽ rõ.
"Trụ vị giải thoát"; Đây là vị phục nhẫn do có hai tên gọi: đối chiếu quả Bồ-đề, nên gọi là tư lương. Đối chiếu với quả Niết-bàn nên gọi là giải thoát. Thuộc phần giải thoát, nên gọi là vị giải thoát.
Tiếp theo là phần ba-kết. Luận trình bày vị mãn.
Kinh: Ở một A-tăng-kỳ kiếp, tu tập nhẫn này, thì có thể khởi thù thắng.
Giải thích: "Với một A-tăng-kỳ kiếp": là thời gian trải qua.
A là vô, không có. Tăng kỳ là con số. Kiếp là tiếng phạm, đủ thì phải nói là kiếp Ba: là thời gian, dịch thành tiếng Hoa đời Đường là "Một thời gian vô số".
"Tu tập nhẫn này": là kết ngôi vị này.
"Khởi hành thù thắng": là khởi Tính chủng tính mười hạnh vị. Về A-tăng-kỳ kiếp này, xin lược phân biệt là: như kinh Hoa
Nghiêm bản mới, quyển bốn mươi lăm, phẩm Atăng-kỳ: có một trăm hai mươi con số, từ Sơ Bách Lạc xoa đầu tiên đến con số thứ một trăm lẻ ba, gọi là Atăng-kỳ tức là vô số kiếp. Như Du-già quyển bốn mươi sáu sau khi đã nói xong mười ba Trụ, phần sau phân biệt: Tức là ở trong mỗi một trụ đó, trải qua nhiều câu chi trăm ngàn đại kiếp, hoặc vượt quá con số đó mới chứng được một trụ thành mãn, do vậy đã rõ. Nay trong kinh này, trong mười pháp sư trước cứ mỗi một pháp sư tăng một Tăng kỳ. Du-già tiếp đến nói; mà tất cả trụ đều phải trải qua ba vô số đại kiếp mới chứng Bồ-đề vô thượng, viên mãn, nghĩa là phải trải qua vô số đại kiếp thứ nhất mới khởi vượt qua Thắng giải hành Trụ, chứng Hoan hỷ trụ. Đó là người thường dũng mãnh tinh tiến, chứ chẳng phải người không dũng mảnh siêng năng tinh tiến. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ hai mới vượt qua cực Hoan hỷ Trụ, cho đến có gia hạnh có công dụng vô tướng Trụ, chứng Đắc Địa thứ tám đến đây tức là quyết định. Do Bồ-tát ấy đắc tịnh ý lạc, quyết định dũng mãnh tinh tiến. Lại trải qua vô số đại kiếp thứ ba mới vượt qua vô cộng dụng trụ, vô ngại giải trụ, chứng đắc trụ tối thượng, thành mã tức là Địa Pháp Vân. Nên biết, trong đó có hai loại vô số đại kiếp: 1. Ngày, đêm, nửa tháng, một tháng, dùng phương tiện tính toán con số thì thời gian vô lượng, còn gọi là vô số đại kiếp; 2. Đại kiếp: phần trước Luận kia nói: dùng không đại kiếp. Gió phương tiện tính toán, vượt qua tất cả các con số tính toán, cũng còn gọi là vô số đại kiếp. Nếu theo vô số đại kiếp nói trên thì phải trải qua vô lượng vô số đại kiếp mới chứng vô Thượng chánh Đẳng Bồ-đề. Nếu so với đoạn văn trên thì vô số A-tăngkỳ trong kinh này cũng không trái lý.
Hỏi: Luận đã nói: Trải qua ba đại kiếp nhưng một đại kiếp thì thời gian là bao lâu?
Đáp: Như kinh Anh Lạc quyển hạ nói: như có tảng đá lớn vuông vức tám trăm dặm, dùng áo cõi Trời Tịnh cư cứ ba năm, một lần phẩy, thời gian phẩy quét đến hết tảng đá đó gọi là một A-tăng-kỳ kiếp.
Hỏi: Nếu như vậy, Luận Bà-sa nói: Bồ-tát Thích ca, siêu vượt chín kiếp là chín kiếp gì?.
Đáp: Du-già tiếp đó nói: Nếu chánh tu hành tối thượng thượng phẩm, dũng mãnh tinh tiến, hoặc có người có thể chuyển nhiều kiếp, tiểu tam tai kiếp, nên biết không ai chuyển được vô số đại kiếp. Ở đây giống với Luận Bà-sa nói về tu diệu tướng chuyển đại kiếp.
Hỏi: Nếu vậy, thời gian đã lâu dài vậy thì do đâu thành Phật?.
Đáp: Ở trong mộng thì cho là nhiều năm. Khi tỉnh giấc mơ thì chỉ là một khoảnh khắc, thời gian tuy là vô lượng, ngộ thì chỉ là một Sát-na thường tự siêng năng đừng ôm lòng sợ hãi. Do vậy phải nói là ba A-tăng-kỳ mài luyện tâm.
Dưới đây là phần hai-Nói về tính chủng tính.
Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu vị biện tướng; 2. Chánh niệm tu hành; 3. Kết. Mãn vị. Đây là phần một nêu vị biện tướng.
Kinh: Tiếp đến là Bồ-tát tính chủng tính, Trụ vô phân biệt.
Giải thích: "Tính chủng tính": Như giải thích ở trước.
"Trụ vô phân biệt": là nêu ở trong ngôi vị này, tu mười hạnh thù thắng, xa lìa chấp tướng phân biệt tự tha. Lại nữa, hiểu rõ ba giả, quán vô phân biệt.
Tiếp theo là phần hai-Chánh biện về tu hành. Trong đó có ba phần:
1. Tu mười Hạnh; 2. Đối tượng đối trị; 3. Đối tượng tu quán.
Trong phần một lại có hai phần: 1. Mười tuệ Quán.
Kinh: Tu mười tuệ quán.
Giải thích: Mười tuệ Quán: Tức là thập hạnh. Tuệ tức là tâm của chủ thể quán biệt cảnh. Tu hành mười Hạnh như Thí v.v... mười hạnh là: Thí, giới v.v... tu khởi gọi là hành, hành pháp viên mãn gọi là Thập, gọi chung là mười hạnh, theo số đặt tên tức là Hạnh của các hành. Tự và Tha khác nhau. Về biệt danh thì: nếu nói; Thí, giới... thì theo Thể mà đặt tên nói Hoan hỷ... thì theo dụng mà đặt tên. Nêu thể và biện minh nhân (người) thì như giải thích ở trụ trước.
Kế đến là phần hai-Tỏ riêng về Thập hạnh. Văn chia làm mười phần:
1. Hoan hỷ.
Kinh: Xả bỏ tài sản, mạng sống.
Giải thích: Giải thích về tên của Hạnh: Bố thí làm vui mình, vui người gọi là Hoan hỷ hạnh. Ba nghiệp không tham làm tự tính. "Xả bỏ tiền tài, mạng sống": xả tức là thí do tâm thường xả bỏ, mà hành sự bố thí. Tài là tiền của, đồ dùng, pháp tài. Mạng là thân xác, và hạnh vô úy, đều có thể xả bỏ.
Tiếp sau là phần hai-Hạnh nhiêu ích.
Kinh: Trì giữ tịnh giới.
Giải thích: Tên hạnh: Hộ trì tam tụ, làm ích lợi cho mình và người, gọi là nhiêu ích hạnh. Thọ trì tịnh giới thì lấy ba nghiệp làm tự tính.
"Trì giữ tịnh giới": Là thủ hộ luật nghi, ba nghiệp không phạm sai lầm. Kế nữa là phần ba-Hạnh không trái nghịch.
Kinh: Tâm khiêm cung.
Giải thích: Tên hạnh; nhẫn lực trị được sự sân hận của mình và người, gọi là hạnh không trái nghịch. Ba nghiệp không sân làm tự tính.
"Tâm khiêm cung": Nhiều thứ hủy nhục, bức bách não hại, tâm vẫn khiêm cung, đều có thể nhẫn được.
Dưới đây là phần bốn-Hạnh không bị khuất phục, nhiễm loạn.
Kinh: Lợi tự tha.
Giải thích: Tên hạnh; tinh cần siêng năng tu tập, tâm không hối loạn gọi là hạnh không bị khuất phục nhiễu ba nghiệp siêng năng làm tự tính.
"Lợi tự tha": là nổ lực tinh tấn các căn, tu các Hạnh thù thắng, đều không thối khuất, tinh tấn làm ích tự tha. Dưới đây là phần năm-Hạnh lìa ngu si, loạn động.
Kinh: Không loạn sinh tử.
Giải thích: Tên hạnh; khéo tu Chỉ phẩm, Đẳng thù thắng Trì gọi là Hạnh lìa ngu si loạn động. Lấy định làm tự tính.
"Không loạn Sinh tử"; như kinh thuyết: ở trong thế gian chết ở đây sinh ra ở kia, vào, trụ, ra thai đều không si loạn, là hạnh thiền định. Tiếp theo là phần sáu-Hạnh thiện Hiện
Kinh: Vô tướng thâm diệu.
Giải thích: Tên hạnh; quán thật tướng của pháp, thấu rõ hiện tiền gọi là hạnh thiên hiện (khéo hiện tiền). Lấy Trạch pháp làm tính.
"Vô tướng Thâm diệu"; như kinh thuyết: Niệm Niệm quán sát, tất cả chúng sanh, lấy vô tính làm tính. Tất cả các pháp lấy vô vi làm tính. Tất cả quốc độ lấy vô tướng làm Tính ngay ở Tướng mà quán tính, gọi là thâm diệu tức tu hạnh Tuệ.
Sau đây là phần bảy-Hạnh không chấp trước.
Kinh: Thấu của đạt có như huyễn.
Giải thích: Tên Hạnh; khéo tu Hạnh thù thắng không bị ngưng trệ ở không và có, gọi là hạnh không chấp trước, lấy Trạch pháp làm Tính.
Thấu suốt "có" Hữu Như huyễn: hiểu rõ hữu vi ra là như huyễn không thật. Như kinh thuyết: Quán các pháp như huyễn, chư Phật như ảnh, Bồ-tát hành như mộng, Phật thuyết pháp như tiếng vang, Thế gian như hóa hiện, do hiểu các điều đó nên không đắm trước không và có; tức là hành phương tiện
Tiếp theo là phần tám-Hạnh khó được.
Kinh: Không cầu quả báo.
Giải thích: Tên Hạnh: Thường lấy đại nguyện để thâu nhiếp các Thiện căn thù thắng nên, gọi là hạnh khó đạt được, dùng ý, dục thắng giải tín, tư, niệm... làm tự tính.
"Không cầu Quả báo": là tự mình tu Hạnh thù thắng, không mong cầu quả sau này. Làm lợi lạc hữu tình, không mong cầu họ báo đáp lại.
Kế tiếp là phần chín-Hạnh hiện pháp.
Kinh: Đắc vô ngại giải.
Giải thích: Tên Hạnh; Hiểu rõ sâu xa căn khí, khéo dùng pháp hóa độ, gọi là hạnh Thiện Pháp, tư trạch làm tính.
"Đắc vô ngại giải". Nghĩa là đắc bốn loại: pháp, nghĩa, từ, biện, lực vô ngại giải, tư trạch tu tập hạnh hai Lợi.
Tiếp nữa là phần mười-Hạnh chơn thật.
Kinh: Niệm niệm thị hiện thần lực Phật.
Giải thích: Tên hạnh. Lời nói việc làm tương ưng chân thành, đúng thật gọi là hành chân thật. Trạch pháp làm tính.
"Niệm Niệm thị hiện thần lực Phật": là như kinh thuyết: Bồ-tát ma ha ha tát đó, thành tựu ngữ chân thật đệ nhất, như nói có thể hành, như hành có thể nói, tùy thuận theo bản thệ nguyện đều đạt sự cứu cánh, niệm niệm khắp đến mười phương thế giới. Niệm Niệm đến thăm khắp các Quốc độ Phật. Niệm Niệm đều thấy chư
Phật và Quốc độ trang nghiêm thanh tịnh không thể nói hết. Thị hiện thần lực tự tại của Như Lai khắp cả pháp giới hư không giới. Đại Sư tử hống, đắc vô sở úy, có thể chuyển pháp luân thanh tịnh vô ngại, đến đáy nguồn thật tướng nơi biển pháp Phật. Thực hành hạnh hai Lợi. Tóm kết mười hạnh, tụng sau:
Hoan hỷ, nhiêu ích, không trái nghịch Không khuất phục, lìa si loạn động Thiện hiện, không chấp, khó đạt được Thiện pháp và nói hành chân thật.
Sau đây là phần hai-Đối tượng trị. Trong đó chia làm hai phần:
1. Trị mười đảo.
Kinh: Đối trị bốn đảo, ba căn bất thiện, hoặc nghiệp ba đời, mười điên đảo.
Giải thích: Mười tuệ Quán trên là hành năng trị, mười Đảo dưới đây là chướng Sở trị.
Nói "Đối trị": đó là nêu chung. "Bốn Đảo": là Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Trong Tập chủng tính trước, tu hành trụ thứ ba đã nói về đối trị, còn ở đây là vĩnh viễn diệt trừ. "Ba căn bất thiện": là Tham, Sân, Si. Hạnh thứ nhất Hoan hỷ thì Trị kia. Hạnh thứ ba không trái nghịch thị trị sân, Hạnh thứ sáu Thiện hiện thì trị si.
"Hoặc nghiệp của ba đời": là nhẫn nhân quá khứ, nhẫn nhân quả hiện tại và nhẫn quả vị lai. Hạnh thứ bảy không chấp trước thì trị quá khứ, hiện tại. Hạnh thứ tám khó đạt được thì trị quả vị lai. Theo hạnh mà có đời trị riêng.
"Mười điên đảo": Mười tổng kết về đối tượng trị (sở trị). Tiếp theo là phần hai-Ngã, pháp không.
Kinh: Ngã, Nhân, Tri kiến, niệm niệm giả dối.
Giải thích: "Ngã Nhân, Tri kiến": là nêu sở tri. Tập chủng tính trên nói chỉ lần lần chế phục trừ bỏ, ở đây nêu lên niệm niệm của uẩn tức sở y, sở trị đều giả dối.
"Niệm niệm giả dối": là chỉ rõ chúng là không thật, cái Ngã đối Trị đó mãi mãi không hiện hành.
Dưới đây là phần ba-nói hành quán. Trong đó chia làm hai phần:
1. Quán pháp tu.
Kinh: Thấu đạt danh giả, Thọ giả, pháp giả, đều chẳng thể đạt được, không có tướng tự tha, trụ chơn thật mà quán.
Giải thích: Thông đạt thể của danh, thọ, pháp đều là giả dối, không có chơn thật, không thể đạt được. Trước kia là nương theo sinh khởi dùng pháp, Thọ, danh làm thứ yếu. Nay ở đây là nói về đối trị từ dễ đến khó nên khác thứ tự.
"Không có tướng tự tha": Nghĩa là tu mười Hạnh và trị mười Đảo, khống trụ nơi Tướng phân biệt tự và tha, hiểu rõ ba giả không, không khởi phân biệt. Đó tức là thuận hướng đến lý vô sinh là quán chơn Thật. Thiên Thai gọi đó là trong Thập hạnh có vô sinh nhẫn, cũng tương tự với đây.
Dưới đây là phần hai-hành tu tập.
Kinh: Trung phẩm, tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-lamật đa. Giải thích: Trong ngôi vị Hiền, cho nên văn dễ hiểu.
Tiếp theo là phần ba-Kết. Trình bày vị viên mãn.
Kinh: Ở hai A-tăng-kỳ kiếp, hành các hạnh thù thắng, đắc vị nhẫn kiên cố.
Giải thích: Ngôi vị này thời gian dài hơn ngôi vị trước một kiếp. "Hành Hạnh thù thắng": Là kết về mười Hạnh đó.
"Đắc vị nhẫn kiên?": Là được vào ngôi vị sau
Kế đến là phần ba-Đạo chủng tính, văn chia làm ba phần như trên phần một. 1. Nêu vị biện tướng.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Đạo chủng tính, trụ trong Nhẫn kiên cố, quán tính các pháp, đắc vô sinh diệt.
Giải thích: "Đạo chủng tính": như trên đã giải thích.
"Trú trong nhẫn kiên cố": kiên, nghĩa là kiên cố không thể hư hoại. Như kinh Phạm Võng nói: Thập Hồi hướng là Thập Kim cang.
"Quán tính các pháp": là tính pháp Hữu vi
"Đắc vô sinh diệt": là hiểu rõ hữu vi không, rõ về vô sinh diệt.
Dưới đây là phần hai-Chánh biện về tu hành, trong đó chia làm hai phần: 1. Mười Hồi hướng; 2. Đối trị; 3. Biện về sinh sai biệt. Tuy nhiên mười hồi hướng nghĩa là những điều mình đã tu phát khởi lên tư nguyện, mạnh hơn. Có ba nghĩa: chiếu lý bất trú, gọi là Hồi, Đại Bi cứu vật gọi là Hướng, là Hướng chúng sanh. Lại nữa, hành không trú ở có, gọi là Hồi. Thắng đến Bồ-đề gọi là Hướng, là Hướng Bồ-đề. Lại nữa, nhưng không trụ ở tướng gọi là Hồi, đạt sự chiếu Như gọi là hướng, là Hướng Thật tế. Do những nghĩa đó gọi là Hồi hướng. Hồi hướng viên mãn, nên gọi là mười. Nói là mười Hồi hướng là theo số mà dặt tên. Mười Hồi hướng này đều đủ cả ba nghĩa: 1. Hướng chúng sanh: là Thiện căn nương vào chúng sinh mà được tăng trưởng lại vì đại bi, nên khác với Nhị Thừa; 2. Hướng Bồ-đề: là tâm nương theo Bồ-đề phát thuận hướng đến Bồ-đề, mong quả vô thượng, mau viên mãn; 3. Hướng Thật tế; thiện căn nương theo Thật tế, ắt sẽ quay về với lý, trí khởi chiếu Như, mong được chứng viên. Do vậy Hồi hướng này có đủ ba nghĩa. Nêu thể chung tức là đại nguyện, riêng thì bốn pháp; Định Tuệ Nguyện Bi, đủ cả năm uẩn. Về biệt danh và tướng sẽ giải thích sau.
Nói về mười Hồi hướng, văn chia làm mười phần. Dưới đây là phần một Hồi hướng-Cứu hộ tất cả chúng sanh, lìa tướng chúng sanh.
Kinh: Bốn tâm vô lượng, phá tan các ám.
Giải thích: Tên gọi cứu vớt là cứu, gia trì hộ vệ là hộ. Đối với những cứu hộ, hiểu rõ bình đẳng gọi là lìa tướng. Lại nữa, Bi có thể cứu hộ, Trí có thể lìa tướng, hành lìa tướng là hồi Hướng.
"Bốn vô lượng tâm": là tâm cứu hộ.
"Phá tan các ám": là cứu vớt hữu tình, phá tan bóng tối phiền não.
Dưới đây là phần hai-Hồi hướng chẳng hoại.
Kinh: Thường thấy chư Phật rộng khởi cúng dường. Giải thích tên này: Tam bảo và giới là tính chẳng hoại. Lấy thiện căn kia mà thành tựu Hồi hướng này.
"Thường thấy chư Phật": là dựa vào cao nhất, thù thắng nhất để nói, theo lý thì đủ cả Pháp, Tăng và Giới. "Rộng khởi cúng dường": là nói rõ phước tư lương, rộng cúng dường.
Dưới đây là phần ba-Hồi hướng bình đẳng tất cả chư Phật.
Kinh: Thường học chư Phật, trụ tâm Hồi hướng.
Giải thích: Tên gọi học tập theo hạnh làm của chư Phật ba đời mà hồi hướng, niệm niệm tu học, thành tựu Hồi hướng này.
Nói "Thường học": là tâm thọ học. Nói "Chư Phật": là chỗ thọ học. "Tâm Hồi hướng": là sự việc thọ học.
Như kinh Hoa Nghiêm nói: Đạo Hồi hướng của chư Phật đức Thế Tôn gồm có ba loại: 1. Những Thiện Căn đã tu, Hồi hướng về pháp giới, không gì sánh bằng; 2. Hồi hướng Bồ-đề, mong được viên mãn; 3. Hồi hướng chúng sanh thân cận với Tam bảo. Thọ trì thực hành ba điều đó tức là thường học. Dưới đây là phần bốn-Hồi hướng đến tất cả xứ sở.
Kinh: Những thiện căn tu, đều như Thật tế.
Giải thích: Tên gọi này tất cả những thiện căn mà Bồ-tát đã tu đạt đến mọi xứ, thành Hồi hướng này.
"Những thiện căn tu": là các Thiện căn đã tu, phước Tuệ, tự Lợi, lợi Tha, vô lượng Hạnh nguyện.
"Đều như thực tế": là nêu dụ nói rõ thành. Thật tế thì bình đẳng khắp cả mọi nơi, các hành đã tu do không Trụ tướng, nên bằng với thực tế. Dưới đây là phần năm-vô lượng công Hồi hướng vô lượng tạng công đức.
Kinh: Trong Tam muội, rộng làm Phật sự.
Giải thích tên gọi này: dùng pháp mà mình đã tu tập vô tận các hành pháp công đức mà thành tựu Hồi hướng này.
"Trong Tam muội": là nêu nương theo định
"Rộng làm Phật sự": là sự việc hóa lợi. Như kinh Hoa Nghiêm nói; nghĩa là Bồ-tát đó sám hối trừ chướng nặng, lễ kính chư Phật, thỉnh xin tất cả chư Phật thuyết pháp, tùy hỷ tất cả Thiện căn của chư Phật, Bồ-tát. Phàm hễ những đức hạnh tri kiến của tự mình tu đều Hồi hướng làm trang nghiêm tất cả cõi Phật, nhập, Tam muội tự tại không thể diễn bày và phương tiện thiện xảo làm Phật sự.
Tiếp theo là phần sáu-Hồi hướng vào tất cả thiện căn bình đẳng.
Kinh: Hiện nhiều loại thân, thành tựu bốn nhiếp pháp.
Giải thích tên gọi: rộng tu Đàn Thí, đắc ba luận thanh tịnh, trụ tâm bình đẳng thành tựu Hồi hướng này.
"Hiện nhiều loại thân": là hiện thân tôn quý tùy theo từng loài.
"Hành bốn nhiếp pháp": là hành lợi tha. Như kinh Hoa Nghiêm thuyết, hoặc làm đế Vương, hoặc làm Chuyển Luân vương bố thí tiền của ngoài thân và thân thể. Có một trăm hai mươi môn với chi tiết khác nhau. Từ môn thứ hai mươi lăm đến hết môn thứ hai mươi tám là nói về Hạnh Đàn (Bố thí). Dưới đây là phần bảy-Tùy thuận tất cả chúng sinh bình đẳng Hồi hướng.
Kinh: Trụ không phân biệt, hóa lợi chúng sanh.
Giải thích tên gọi này: Thiện căn rộng lớn, phương tiện thiện xảo, tùy thuận chúng sanh, thành tựu Hồi hướng này.
"Trú không phân biệt": là tuy trụ nhiều tướng nhưng giống như không phân biệt.
"Hóa độ lợi ích chúng sanh": là Hạnh lợi tha thù thắng. Tiếp theo là phần tám-Hồi hướng tướng chân thật.
Kinh: Trí tuệ sáng tỏ. Quán sát sâu xa.
Giải thích: Tên gọi; các hạnh đã tu, phước Tuệ vô lượng, đều đồng là chơn thật, thành tựu Hồi hướng này.
"Trí Tuệ sáng tỏ": nghĩa là quán lý và sự hiểu sáng tỏ liễu rõ ràng.
"Quán sát sâu xa" Hành hợp với lý gọi là sâu xa. Không trụ có và không đều, tức là khéo quán sát. Dưới đây là phần chín-Về giải thoát không trói buộc, không chấp trước Hồi hướng.
Kinh: Tất cả hành nguyện, khắp đều tu tập.
Giải thích: Tên gọi không bị tướng trói, không chấp trước các kiến, mọi tạo tác tự tại, thành tựu Hồi hướng này.
"Tất cả hành": là các hành như Bố thí… "Tất cả các nguyện": là nguyện rộng lớn cả hai thứ hổ trợ nhau ắt cùng khởi.
"Khắp đều tu tập": do không bị trói buộc chấp trước nên, giải thoát tự tại, vô lượng hạnh nguyện đều tu tập.
Dưới đây là phần mười vô lượng pháp giới bình đẳng Hồi hướng.
Kinh: Có thể làm Pháp sư, điều ngự hữu tình.
Giải thích: Tên gọi các hành đã tu, lìa tướng rộng lớn, đều ngang bằng với pháp giới, thành tựu Hồi hướng này.
"Có thể làm Pháp sư": là vì đắc vô ngại giải, khéo hóa độ, dẫn dắt.
"Điều Ngự hữu tình": Diễn thuyết đúng với căn, khiến khéo điều phục, lợi lạc rộng lớn. Như kinh Hoa Nghiêm nói; như dải lụa lìa sự nhơ nhớp mà bịt trên đỉnh đầu, trụ ngôi vị pháp sư, rộng hành pháp thí, khởi đại từ bi, an lập chúng sanh, đối với đạo Bồ-đề, thường tạo lợi ích, không có nghĩ ngơi, dùng tâm Bồ-đề, nuôi lớn thiện căn, vì các chúng sinh mà làm thầy hướng dẫn (Điều ngự sư), chỉ bày cho con đường Nhất-thiết-trí. Đó tức là nói về Hạnh hóa Lợi kết thành tụng là:
Cứu hộ, chẳng hoại, tất cả bình đẳng Đến tất cả xứ và vô Tận
Tùy Thuận, bình đẳng, tùy và cùng chơn thật Không nói, không chấp, bình đẳng, pháp giới.
Tiếp theo là phần hai-Nói đối trị (sở trị). Trong đó chia làm ba phần: 1. Sở trị; 2. Biện sai biệt; 3. Chỗ tu chuyển thắng.
Phần một-Sở trị.
Kinh: Khéo quán năm uẩn, ba cõi hai đế, không có tướng tự tha, chứng đắc tính như thật.
Giải giải: "Khéo quán năm uẩn...": là như trên đã giải thích. Nghĩa là quán năm uẩn chứng đắc giải thoát uẩn, Quán Nhân quả trong ba cõi đắc các nhẫn, không... Quán hai đế giả thật đắc sinh vô sinh nhẫn.
"Không có tướng tự tha": Nghĩa là quán các uẩn thảy đều chẳng trụ, không có năng sở không có tự, tha, tức là vô phân biệt. Văn lại chia làm ba phần: 1. Sinh trong ba cõi.
Kinh: Tuy thường tu Thắng nghĩa, nhưng thọ sinh trong ba cõi.
Giải thích: "Tuy thường tu thắng nghĩa...": là giải thích sự thắc mắc nghi hỏi. Nghĩa là: Đã tu Hạnh thù thắng trước đây đều thuận với Thắng nghĩa thì sau này sẽ sinh ra ở đâu? Tuy thường tu tập đều thuận với Thắng nghĩa, nhưng do cảm sinh tử phân đoạn trong ba cõi, Tập chủng chưa mất, chưa lìa tướng trói buộc, cho nên Hạnh tu vẫn Sinh ra ở Ba cõi. Kinh nói ba cõi là nói theo Tướng chung, đa phần là chỉ sinh ở Dục giới, như tiếp sau sẽ rõ. Dưới đây là phần hai-Hỏi về nguyên do.
Kinh: Vì sao?
Giải thích: Là nêu hỏi. Tiếp theo là phần ba-Giải thích nguyên do.
Kinh: Vì quả báo của nghiệp tập chưa hoại hết, cho nên ở trong cõi người cõi trời, thuận đạo mà sinh.
Giải thích: Nói "Nghiệp Tập": Đó là Nhân. Nói "Quả Báo". Đó là làm Quả. "Chưa hoại hết": là do chưa đoạn dứt nghiệp, làm Nhân cho sự cảm sinh. Vì phân đoạn sinh chưa hoại hết. "Ở trong cõi Trời, Người": là chỉ thọ sinh tốt đẹp ở Dục giới: Trời, Người. Vì sao chẳng như hai ngôi vị trên mà chỉ Dục giới Trời Người.
Vì có hiệu quán đây là kề với Sơ Địa chẳng phải hai bậc trước kia.
"Thuận đạo sinh": Trải qua nhưng không quên Tính thành tựu, đó là chủng tính thẳng đến. Nếu người Hồi tâm thì trong phần Biến dị trước đã phân biệt rõ.
Tiếp theo là phần ba-nói Hạnh tu tập.
Kinh: Thượng phẩm tu tập tám vạn bốn ngàn Ba-lamật-đa. Giải thích: Tam Hiền trở lên, các câu khác thì đã rõ.
Dưới đây là phần ba-Kết. Trình bày vị mãn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Số kiếp phải trải qua.
Kinh: Ba A-tăng-kỳ kiếp, tu hành hai lợi, tạo ích rộng lớn.
Giải thích: "Ba A-tăng-kỳ": là gia thêm một kiếp so với bậc thứ hai trước, tu đủ cả hai lợi, nhiêu ích rộng lớn. Kế đến là phần hai-Hạnh Xuất Ly.
Kinh: Đắc thiện điều phục các tam ma địa, trụ thắng quán sát tu hạnh xuất ly.
Giải thích: "Đắc thiện điều phục": là ở ngôi vị Tam Hiền, khéo điều phục.
"Tam ma địa": Tiếng Hoa gọi là Đẳng Trì. Thường tương ứng tu các định thù thắng đã tu.
"Trụ quán sát thù thắng": là Thượng, trung, hạ phẩm tu tuệ thù thắng vì dẫn đến Hạnh xuất ly ở Sơ Địa. Lại còn giải thích; tu hạnh hai lợi là làm ích lợi rộng lớn, đó là kết về vị Tư lương ở trên, đa phần là trụ Ngoại Môn, tu Hạnh Bồ-tát, sau câu "Đắc thiện điều phục" là văn nói về ngôi vị gia hạnh. Hai câu trước là nói về Định mà mình nương vào... "Đắc Thiện Điều phục" là đã đắc Thượng phẩm điều phục tâm. "Các Tam Ma Địa": là đắc các Định Sở y. Cả bốn Định đó chẳng phải là một cho nên gọi là các Định. hai câu sau là nói các vị Noãn v.v… nương theo bốn tầm tư, bốn Như thật Trí, gọi là Quán sát thù thắng.
Dưới đây là phần ba-Kết. Các Địa thù thắng ở sau. Kinh: Có thể chứng đắc địa Thánh nhân bình đẳng.
Giải thích: "Có thể chứng đắc bình đẳng": là Biệt vô lậu trí, thân chứng Chơn Như. Như tức là bình đẳng Địa của Thánh Nhân.
Tiếp sau là phần bốn-Hoan hỷ Địa. Trong đó có ba phần: 1. Nhập Tướng Địa; 2. Trụ Địa tu hành; 3. Kết, nói vị viên mãn.
Trong phần một lại có ba phần: 1. Tướng Nhập Địa. Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Hoan hỷ địa, vượt hạng ngu phu, sinh nhà Như Lai, trụ nhẫn bình đẳng.
Giải thích: Hễ sắp đăng Địa thì trước tiên phải có tướng lành. Như kinh Kim Quang Minh quyển bốn nói: Phật bảo Bồ-tát Sư Tử Tướng vô Ngại Quang Diệm rằng: Này người thiện nam! Bồ-tát Sơ Địa, trước tiên là hiện tướng tam thiên đại thiên thế giới vô lượng vô biên nhiều loại tạng, báu, đều tràn đầy, Bồ-tát đều thấy, điều đó giống với đoạn văn nói về Thập Địa trong kinh Đại bảo Tích quyển một trăm mười lăm, tức là tướng trước tiên.
"Hoan hỷ Địa": là bắt đầu chứng đắc tâm xuất thế, xưa chưa đắc nhưng nay bắt đầu đắc nên sinh ra cực Hỷ. "Địa" đức hữu vi, vô vi làm tự tính, như trên đã giải thích.
"Vượt qua Địa Ngu phu": Ngu, nghĩa là phàm ngu, vô minh làm Địa. Vô lậu đoạn dứt vô minh nên bảo là vượt qua.
"Sinh ở nhà Như Lai Nhiếp Luận của Vô Tánh nói: Phật pháp giới gọi là Nhà Như Lai, chứng hội với đó nên gọi là sinh. Sơ sinh Thánh thai, nối dòng giống Phật. Như kinh thập Địa nói: Quá Địa phàm phu, nhập vị Bồtát, sinh tại nhà Phật, chủng tính tôn quý.
"Trụ bình đẳng nhẫn": Chơn thì không có cao thấp, cho nên bảo là bình đẳng. Chánh trí chứng hội là nhẫn Trụ vậy.
Dưới đây là phần hai-Như sở chứng.
Kinh: Thứ nhất là Trí vô tướng, chiếu Thắng nghĩa đế, nhất tướng Bình đẳng, chẳng phải tướng vô tướng.
Giải thích: "Thứ nhất là Trí vô tướng trí". Nghĩa là chơn kiến đạo, vô phân biệt, chứng lý hai không. Trí đó là Trí đầu tiên cho nên gọi là thứ nhất.
"Chiếu Thắng nghĩa đế": là chứng pháp tính như Thắng nghĩa chân thật mà hai "không" hiển hiện.
"Nhất tướng bình đẳng": Trí Như chẳng hai, tức là Nhất tướng bình đẳng.
"Chẳng phải tướng vô tướng": không có tướng của năng và Sở, tức là chẳng phải tướng vô tướng.
Dưới đây là phần ba-Chướng sở đoạn.
Kinh: Đoạn các vô minh, diệt tham ba cõi, vô lượng sinh tử vị lai vĩnh viễn không sinh.
Giải thích: "Đoạn các vô minh": là phân biệt khởi trong hai chướng vô minh chẳng phải là một, cho nên gọi là các tuy chỉ nói là đoạn dứt vô minh những các chấp chướng đều đoạn, vì chấp chướng nương vào gốc vô minh, chỉ cần đoạn dứt vô minh thì các chướng khác cũng theo đó mà đoạn dứt, cho nên chỉ nói là vô minh.
"Diệt Tham ba cõi": Đó là cái mà tu đoạn. nghĩa là Tham phiền não và vô minh đều chướng ngại Thí độ. Khi nhập Sơ Địa thì Tham thô năng liền vĩnh viễn đoạn dứt.
"Vô lượng sinh tử vị lai vĩnh viễn không sinh": Do phần biệt hoặc tạo ra mười ác và các Thiện nghiệp mà cảm vô lượng sinh tử ở cõi ác kia và các cõi Trời Trường Thọ ở Bắc câu Lô Châu, khi nhập Sơ Địa thì mãi mãi không sinh. Như kinh Kim Quang Minh quyển bốn. Đoạn hai Vô minh: 1. Vô minh Ngã pháp chấp trước tướng có. Nghĩa là trong hai chướng chấp trước tướng có. Vì hai chấp làm gốc cho là Ngã, pháp tức giống với đây "Đoạn chư vô minh"; Vô minh sợ hãi sinh tử cõi ác: Nghĩa là cảm các nghiệp quả cõi ác tức là đây với vô lượng sinh tử vị lai.
Dưới đây là phần hai-Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Tu bi trí; 2. Trí nhất dị; 3. Tu trí nguyện.
Phần bi trí, văn có ba phần:
- Tổng nêu bi trí.
- Tu hạnh thù thắng.
- Y Địa biện minh đức.
Dưới đây là phần một-Tổng nêu bi trí.
Kinh: Đại bi làm đầu, khởi đại nguyện, với Trí phương tiện, niệm niệm tu tập, vô lượng hạnh thù thắng. Giải thích: "Đại bi làm đầu": là gốc của lợi tha.
"Khởi các đại nguyện": là chỗ nương của Hạnh, do Hạnh và Nguyện nương dựa duy trì lẫn nhau, cả hai điều đó cùng tu không khởi riêng biệt.
"Đối với phương tiện Trí": là Trí thấu đạt tục. Như kinh Thập Địa nói: Đại bi làm đầu, trí tuệ tăng thượng là các trí thuộc về, phương tiện thiện xảo, sở nhiếp chư Trí. Theo kinh đó thì rõ ràng là nương vào Bi và Trí.
Niệm Niệm tu tập, tự lợi lợi Tha, vô lượng Hạnh thù thắng đều là Thiện xảo. Tiếp theo là phần hai-Tu Hạnh thù thắng, văn lại chia làm hai phần: 1. Tu khắp các hành.
Kinh: Học khắp tất cả, chẳng phải chứng, chẳng phải không chứng.
Giải thích: "Chẳng phải chứng": là phương Tiện Trí. "Chẳng phải không chứng": là hình ảnh. Nếu theo Bản ký thì trong chơn có Tục, cho nên bảo là chẳng phải chứng. Trong Tục có chơn cho nên là chẳng phải không chứng.
"Học khắp tất cả": là Trú trong Địa này, một vô số kiếp, vạn hạnh trang nghiêm, tu học khắp. Như Thành Thật luận nói; Rộng học Dị Luận ý biết khắp, Như kinh Thiện giới nói: Học khắp các luận Ngũ Minh... Lại nữa, Hoa Nghiêm quyển ba mươi bốn. Thập địa Luận quyển hai và ba đã nói chi tiết về Hạnh.
Kế đến là phần hai-Hướng Nhất-thiết-trí.
Kinh: Hướng Nhất-thiết-trí, chẳng phải trụ, chẳng phải không trụ.
Giải thích: "Phi trú": là tu khắp các hành, chẳng trú dừng. "Chẳng phải không Trú": Với các hành tu, tâm không tán loạn thường tịch tịnh. "Hướng Nhất-thiết-trí": là các hành nguyện đã tu đều hướng vào Nhất-thiết-trí.
Tiếp sau là phần ba-Y Địa biện minh đức. Trong đó có bốn phần:
1. Ma không thể động.
Kinh: Hành ở sinh tử, ma không thể động.
Giải thích: "Hành ở sinh tử" là xứ lợi sinh.
"Ma không thể động": Nghĩa là bốn Ma, phiền não, uẩn, tử và Thiên, như phẩm Tự trên đã phân biệt rõ. Như Phật Địa Luận quyển một nói: Sơ Địa trở lên, các Đại Bồ-tát ở trong tịnh độ, lìa bốn ma thô, không năm sợ hãi. Tiếp phần hai: Lìa các sợ hãi.
Kinh: Lìa ngã, ngã sở, không có sợ hãi.
Giải thích: "Lìa ngã ngã sở" đã mãi mãi đoạn dứt những dấy khởi do phân biệt, không sợ hãi có năm: 1. Sợ không thể sống; 2. Sợ tiếng xấu; 3. Sợ chết; 4. Sợ ác đạo; 5. Sợ oai đức của đại chúng. Biện minh năm y. Thập địa Luận quyển hai nói: Năm sợ hãi này là chướng của Sơ Địa. Loại một, hai năm là y nương vào Thân khẩu ý. Loại ba, bốn y nương vào Thân. Vì Thân có yêu ghét khác nhau. Nói rõ năm nhân, lược có hai loại: 1. Vì Tà Trí vọng thủ, tưởng kiến ái trước; 2. Thiện căn ít ỏi.
Năng đối trị là như kinh Thập Địa và kinh Hoa Nghiêm nói: Bồ-tát đó lìa Ngã tưởng, còn chẳng yêu Thân, huống nữa là tiền của, không sợ không thể sống, thì không mong cấu sự cúng dường ở người khác, chỉ chuyên thí cho tất cả chúng sanh, không sợ tiếng xấu, vì xa lìa ngã tướng, không có ngã kiến không có sợ chết, tự biết chết rồi chắc chắn không lìa chư Phật, Bồ-tát, không sợ ác đạo. Vì chí vui thích thế gian. Không có ai bằng, huống nữa là có hơn, nên không sợ oai đức của đại chúng, đây gọi chung là không còn sợ hãi.
Dưới đây là phần ba. Thường hóa độ chúng sanh.
Kinh: Không tướng tự tha, thường hóa độ chúng sanh.
Giải thích: "Không tướng tự tha": là đắc vô phân biệt, chẳng trú tướng.
"Thường hóa độ chúng sanh". Như kinh Thập địa nói: lại phát Đại nguyện, chịu trói buộc ở ba cõi, đi vào sáu cõi, tất cả sinh xứ, thuộc về danh sắc. Các loài như vậy, Ta đều giáo hóa, khiến nhập Phật pháp, đều khiến đọa dứt tất cả cõi thế gian. Khiến an trú đạo Nhất-thiếttrí. Cho đến tận hết đời vị lai, không bao giờ ngừng nghỉ. Đây là "thường hóa độ". Dưới đây là phần bốn-Sinh chư Tịnh độ.
Kinh: Nguyện lực tự tại, sinh các cõi tịnh.
Giải thích: "Nguyện lực tự tại". Nguyện do hành lực mà đắc tự tại.
"Sinh các cõi tịnh": là cõi mà chư Phật thọ dụng.
Cõi tự thọ dụng của Bồ-tát đó với cõi xứ của chư Phật không có
"Thể" khác nhau như đã phân biệt ở phần trên.
Hỏi: Cõi thọ dụng này, thể trạng ra sao? Nương theo đường, xe nào, được sinh?
Đáp: Như Phật Địa kinh luận quyển một nói: Tịnh độ của chư Phật, chu không giới hạn khó lường, vượt quá những xứ sở hành trong Ba cõi, hơn cả những sở khởi của xuất thế gian, lấy thức thanh tịnh tự tại cao tột nhất làm Tướng là chỗ mà Như Lai, thấy chỗ vân tập của chúng đại Bồ-tát. Lấy Đại niệm Tuệ hành làm con đường đi, Đại chỉ diệu Quán làm xe đi, đại không, vô nguyện, giải thoát làm cửa vào. Kinh này phần trên nói tu Tam thoát Môn, nay ở phần này lại nói Tự tại Nguyện lực rõ ràng là Nguyện do hành mà đắc tự tại, theo con đường và xe ấy được sinh đến.
Hỏi: Dựa vào đâu mà biết được họ sinh ra ở cõi này? Đáp: Luận kia giải rằng: cõi tha thọ dụng, Bồ-tát đã vào địa mới được sinh.
Dưới đây là phần hai-Trí là một hay khác (Nhất Dị). Trong đó chia làm ba phần: 1. Căn bản Trí.
Kinh: Này người thiện nam! Giác trí này chẳng phải Như, chẳng phải Trí, chẳng phải có, chẳng phải không, không có hai tướng.
Giải thích: "Giác trí thứ nhất này": là Trí nhập Địa. Giác là Trí giác chiếu tức là chứng chơn Trí.
"Chẳng phải như, chẳng phải trí": là cảnh và Trí đều không "Chẳng phải có, chẳng phải không": là có và không đều đều vắng lặng.
"Không có hai tướng": là Năng và Sở cả hai đều mất, tức là thức thứ sáu và Thức thứ bảy quán sát bình đẳng, hai Trí phẩm này là khởi đầu tiên.
Dưới đây là phần hai-Phương tiện Trí.
Kinh: Phương tiện diệu dụng, chẳng phải đảo, chẳng phải trụ, chẳng phải động, chẳng phải tĩnh.
Giải thích: "Phương tiện diệu dụng": là Đạt Tục Trí. Thể đủ cả bốn đức cho nên bảo là Diệu dụng.
"Chẳng phải đảo": là tuy mang tướng mà duyên không điên đảo. "Chẳng phải trú": là vạn hạnh đều tu, chẳng trú vào một hạnh "Chẳng phải động": là duyên với Như trước, trí không tán động. "Chẳng phải tĩnh" là Thừa đại Trí Đại bi, tu vô Trú. Lại nữa, câu đầu là khác với Ngoại đạo câu tiếp là khác với phàm Thiên, hai loại động và tịnh thì khác với Nhị Thừa, Họ không có trí đó, khác với ở đây.
Kinh: Hai lợi tự tại, như nước với sóng, chẳng phải một chẳng phải khác, Trí khởi các Ba-la-mật-đa, cũng chẳng phải một, chẳng phải khác.
Giải thích: "Hai lợi tự tại" chơn trí thì tự lợi, phương tiện trí thì lợi tha với hai lợi đó tác dụng tự tại
"Như nước với sóng": là nêu dụ để giải thích thành. Nước dụ cho Bản Trí, sóng dụ cho hậu trí dụng của hai thứ đó như sóng nước.
"Chẳng phải một chẳng phải khác": là do động tịnh khác nhau cho nên chẳng phải một Lìa nước thì không có sóng, cho nên chẳng phải khác (chẳng phải khác) tức là nghĩa hai trí chẳng phải một.
"Trí khởi các Ba-la-mật đa cũng chẳng phải một Dị": nương theo Trí khởi hành, hành và trí đều cùng khởi cũng như Nước và sóng chẳng phải một khác.
Dưới đây là phần ba-Tu Trí Nguyện. Trong đó chia làm hai phần:
1. Hạnh tu.
Kinh: Ở bốn A-tăng-kỳ kiếp, tu tập đầy đủ vạn vạn hạnh nguyện.
Giải thích: "Bốn A-tăng-kỳ" ngôi vị trước là ba, nay gia thêm một kiếp.
"Tu tập..." tu hành ở trong đây, khác với ngôi vị Hiền
Theo Du-già Luận nói: vô số kiếp thứ nhất gọi là Ba-la-mật đa, ở trong một Hạnh, tu một hạnh. vô số kiếp thứ hai gọi là cận Ba-la-mật đa, ở trong một hạnh mà tu tất cả Hạnh. vô số kiếp thứ ba gọi là Đại Ba-la-mật đa, ở trong tất cả hạnh mà tu tất cả hạnh. Giải Thâm Mật quyển bốn và Duy Thức quyển chín cũng nói giống vậy. Nay ở đây tu tập đó tức là kiếp thứ hai, cho nên có khác với ngôi vị Hiền.
Dưới đây là phần hai-Trí Nguyện lực.
Kinh: Bồ-tát nơi địa này, không có nghiệp tập của Ba cõi, càng không tạo thêm mới, do tùy Trí lực để nguyện sinh.
Giải thích: "Không có Nghiệp Tập của ba cõi". Nghiệp là hành, Tập là Tập khí, tức chung chủng tử và hiện hành không còn.
"Càng không tạo thêm nghiệp mới". Mê lý vô minh chuyển phát nghiệp mới.
Đã đoạn dứt nghiệp cũ, không tạo thêm nghiệp mới. Từ đây về sau cho đến Địa thứ mười những hạnh nguyện mà mình tu đều không chiêu cảm sinh do bởi bắt đầu nhập Địa thì vô minh bị đoạn.
Hỏi: Nếu vậy, vô minh ở địa sau khác với trước ra sao? Bồ-tát vào Địa hiện những tham, sân,... chẳng phải là nghiệp sao?
Đáp: Vô minh ở Địa sau, chỉ là câu sinh hoặc, tuy có nhưng không khởi, không phải phát nghiệp. Lại nữa, chư Bồ-tát hóa độ nhiều loại tính dục của chư hữu Tình, duyên để giáo hóa không chỉ là một, do lực đại bi mà hiện tham sân. Như kinh Hoa Nghiêm quyển sáu mươi tám nói về Bà tu mật nữ, quyển sáu mươi sáu nói về vô Yểm Túc vương, mỗi vị đều đắc vô lượng Tam muội chẳng giống bất thiện như mình thấy.
Hỏi: Nếu vậy, những báo tốt đẹp ở Địa phải là không có Nhân. Đáp: Cũng không phải vậy. Do vô minh của các ngôi vị tư lương... thuộc Địa tiền phát hành làm nhân.
"Do tùy trí lực để nguyện sinh". Các sư ở Tây phương có hai giải thích. Có thuyết nói: Do người tiệm ngộ và Trí tăng thượng nên đoạn dứt phiền não do tái sinh, không còn phân đoạn sinh trong Ba cõi. Quả báo của mười vua do tùy Trí lực và Định nguyện vô lậu mà thọ biến dịch sinh. Vì nếu không vậy thi phải không có mười vua kia. Nếu sinh ở ngoài ba cõi chẳng phải cảnh phàm thì chư Phật, Bồ-tát phải chẳng thấy. Có thuyết nói; có một Luận sư tên là Điều phục Quang dựa vào kinh Giải Thâm Mật mà nói như sau: một loại người do đốn ngộ mà bi tăng thượng những huân tập ở Địa tiền chiêu cảm thân thù thắng, nhân đó, lưu lại các Hoặc chủng thuộc sư, tùy theo nguyện lực thấm nhuần ở đó mà sinh. Địa thứ tám trở lên thì chỉ có Biến hóa sinh tùy địa định, tán đều có thể thấy. Vì vậy địa trước, quả mười vua đều là thật sự sinh.
Dưới đây là phần ba-Kết. Địa mãn.
Kinh: Niệm niệm thường hành Đàn Ba-la-mật đa, Bố thí, Ái ngữ Lợi hành, Đồng sự, thanh tịnh rộng lớn, khéo có thể an trú, tạo lợi ích cho chúng sanh.
Giải thích: "Niệm niệm thường hành": trong mười Độ nghiêng nhiều về đàn độ bố thí tài, pháp, vô úy để làm viên mãn tu, những độ khác chẳng phải là không tu nhưng tùy theo khả năng.
"Bố thí, Ái ngữ..." Tu tập rộng lớn đều là thanh tịnh ở đây có hơi khác với Thập Địa Luận nói; dùng hai nhiếp pháp để thâu giữ chúng sanh là Bố thí và Ái ngữ, còn hai nhiếp sau chỉ tín giải lực hành chưa thông đạt.
"Khéo an trú...": là Kết, Viên Mãn.
Dưới đây là phần năm-Ly cấu Địa văn có ba phần như trên: 1.
Nêu nhập tướng địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Ly cấu địa, bốn tâm vô lượng, tịch diệt tối thắng, đoạn tập của sân v.v...
Giải thích: Là nói về nhập Địa. Như kinh Kim
Quang Minh nói; Nhị Địa Bồ-tát Hiện trước tiên là tướng này, Tam thiên đại thiên thế giới đất bằng phẳng như lòng bàn tay, đồ dùng để trang nghiêm thì vô lượng vô biên trân bảo thanh tịnh nhiều loại diệu sắc.
"Ly cấu Địa" các cấu vi tế tội lỗi phạm giới đều đắc thanh tịnh gọi là vô cấu.
"Bốn vô lượng tâm": Nghĩa là ở Địa này đoạn dứt Tập khí các sân bốn vô lượng tương ứng với tâm nhập Địa mà khởi.
"Tối thắng tịch diệt": là chứng Như. Đây giống với tối thắng Như trong nhiếp Luận. Nghĩa là có đủ vô biên công đức thù thắng. "Đoạn tập sân…": là Sở đoạn. Tập là tập khí, chữ Tập ở đây có hai nghĩa:
1. Chủng tử phiền não của Sân...; 2. Tính chất không tự tại do sân... huân nhiễm sâu nặng. Chữ "Đẳng" v.v… cũng có hai nghĩa: Đẳng thứ nhất là: Các tùy phiền não phẩm, nhuế, hại... Đẳng thứ hai là: những thứ đó cùng có tri chướng và sở đoạn. Ở đây lại có hai nghĩa như kinh Kim Quang minh nói: Một là Vi tế Học xứ lầm phạm vô minh tức là một phần câu sinh của địa này. Hai là vô minh phát khởi nhiều loại nghiệp hành. Tức là lầm phạm ba Nghiệp khởi do vô minh. Những vô minh này đều chướng Thi La hết sức thanh tịnh của Địa thứ hai. Khi vào nhập Địa thứ hai thì đều đoạn dứt mãi mãi.
Đoạn sai biệt là: ở đây chỉ câu hữu sân... chỉ đoạn dứt Tính thô trọng không tự tại, không đoạn dứt chủng. Vì chủng sân... thuộc tu sơ đoạn. Duy Thức quyển mười nói: về Tu sở đoạn thì Địa tiền phục dần dần, Sơ Địa trở lên nhanh chóng phục hết khiến vĩnh viễn không hiện hành, trong những địa trước Địa thứ bảy tuy tạm hiện khởi nhưng không bị lỗi lầm, Địa thứ tám trở lên thì rốt ráo không hiện hành nữa trong cả địa thứ mười thì không đoạn dứt chủng, đạt đến Kim cang định thì tất cả được nhanh chóng đoạn trừ.
Hỏi: Sở Tri chướng đó và Sân thô trọng, cả hai loại bất đồng đều bị đoạn dứt cùng lúc sao?
Đáp: Nói về sở đoạn, hai loại tuy là khác nhau nhưng chẳng phải lìa ngoài chướng riêng khởi vô gián, đoạn sân thô trọng mà chúng từ vô thủy đến nay đều câu hữu với Sở tri và lấy sở tri chướng làm gốc. Dùng đạo vô gián đoạn gốc chướng đó cho nên trong giải thoát đạo, tính thô trọng của Sân và Tính thô trọng của sở trí chướng đều cùng lúc xả bỏ.
Riêng về thời gian đoạn: khi vô gián đoạn khởi thì chủng của chướng không còn nữa, nhưng chưa xả bỏ tính chất không tự tại kia. Vì xả bỏ tính này, cho nên khởi giải thoát đạo. Giải thoát đạo khởi chẳng phải chỉ vì tính này. Cho đến chứng trạch diệt vô vi của phẩm này, thì tính chất không tự tại và đạo vô gián đều diệt mà chướng vô vi, đắc sinh cùng một lúc với giải thoát Đạo. Ở trong địa thứ mười hai chướng Sở đoạn đoạn chủng và đoạn tập cho đến đạo vô gián giải thoát năng đoạn đều dựa theo trên thì rõ.
Tiếp là phần hai-Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần:
1. Tu hạnh Thập thiện.
Kinh: Tu tất cả hạnh là: lìa xa sát hại, không cho thì không lấy, tâm không nhiễm dục, đắc ngữ chơn thật, đắc ngữ hòa hợp, đắc ngữ nhu hòa, đắc ngữ điều phục, thường hành tâm xả, thường khởi tâm từ trú tâm chánh trực.
Giải thích: "Tu tất cả hạnh" đó là nêu chung.
"Là..." Nói về Thập thiện. Ba điều đầu là Thân nghiệp lìa sát đạo dâm, bốn điều tiếp là khẩu nghiệp, xa lìa lời nói giả dối ly gián, thô xấu, tạp uế, ba điều sau là ý nghiệp; lìa các bất thiện căn tham, sân, si. Nghĩa là Bồtát này, Giới Độ viên mãn ba nghiệp thanh tịnh có đủ Thập Thiện.
Biện minh Thể của thập thiện: Hữu Tông cho là bảy sắc và ba tâm sở. Kinh bộ Tông thì duy chỉ là tư vận thân, phát ngữ, suy Tính quyết định cả ba tác động là ba. Đại Thừa thì cũng là Tư, giả cũng là sắc.
Biện minh sai biệt như Thập Địa kinh Luận quyển bốn nói: bởi tập nhân duyên thập thiện nghiệp Đạo mà sinh ra ở cõi Người đến hữu đỉnh xứ. Lại nữa, Thượng phẩm thập thiện nghiệp đạo này và Trí tuệ quán hòa hợp nhau mà tu hành nhưng vì tâm đó hẹp hỏi. Vì chán ghét sợ hãi ba cõi vì xa lìa Đại Bi vì từ người khác nói giáo pháp mà ngộ hiểu cho nên thành là thanh văn Thừa. Lại nữa, Thượng phẩm Thập Thiện nghiệp đạo này tu trị thanh tịnh, không do lời dạy của Người khác mà tự giác Ngộ, nhưng vì không đầy đủ phương tiện Đại Bi, nhờ Ngộ hiểu sâu xa pháp Nhân duyên, nên thành là Độc giác Thừa. Lại nữa, Thượng phẩm Thập thiên nghiệp Đạo này, tu trị thanh tịnh, tâm rộng vô lượng đầy đủ thương xót, thực hành phương tiện phát sinh đại nguyện không xả bỏ chúng sanh, mong cầu đại trí của chư Phật tịnh trị các Địa Bồ-tát Tịnh tu tất cả các Độ thành tựu hạnh rộng lớn của Bồ-tát. Lại nữa, Thượng Thượng phẩm Thập Thiện nghiệp Đạo, nhất thiết chủng thanh tịnh, chứng mười lực, bốn vô úy, tất cả Phật pháp đều thành tựu. Đó tức là nói đầy đủ các thú, các Thừa, cho đến Phật quả đều do Thập Thiện.
Trái với đó là quả mười bất thiện. Có ba loại Dị thục quả. Kinh kia tiếp đó nói: Thượng phẩm Thập bất thiện nghiệp đạo thì làm nhân Địa ngục trung phẩm thì làm nhân súc sanh, phẩm làm Nhân Ngạ Quỷ. Do đó mà bị sinh ra trong ba nẻo ác. Do quả đẳng lưu nên sinh trong loài người thì sát sinh có hai hai quả: Đoản mệnh và nhiều bệnh Trộm cắp có hai quả: nghèo khổ mất tiền tài, không tự tại Dâm có hai quả; vợ không trinh lương, không được được quyến thuộc tùy ý. Nói lời giả dối có hai quả: hay bị phí báng bị người khác lừa phỉnh. Ly gián có hai quả: quyến thuộc xa lìa trái khuấy thân tộc tệ ác. Thô ác có hai quả: thường nghe tiếng xấu lời nói hay bị tranh tụng. Tạp uế có hai quả: lời mình nói không có ai nghe nhận, lời nói không rõ ràng. Tham dục có hai quả, tâm không tri túc, đa dục không chán. Sân Nhuế có hai quả: thường bị người khác phê bình, lại thường bị người khác não hại. Tà kiến có hai quả: Sinh ra trong nhà tà kiến, tâm Siểm khúc cong vẹo. Đó tức là Đẳng lưu Quả trong cõi người. Tăng Thượng Quả là như Luận Bà-sa nói: Thân không bóng láng thường bị mụn nhọt, thân nhiều bụi nhơ miệng thường hôi thối,... tức là Tăng Thượng Quả trong cõi người. Kinh đó kết rằng: mười bất thiện Đạo có thể sinh ra vô lượng vô biên nhiều tu khổ lớn. Vì vậy nên lìa xa. Mười thiện nghiệp là vườn pháp đẹp, thường tự an trú cũng khuyên người khác an trú.
Dưới đây là phần hai-Lý Quá tu hành.
Kinh: Tịch tĩnh thuần thiện, lìa cấu nhiễm phá giới hành quán đại từ, niệm niệm hiện tiền.
Giải thích: "tịch tĩnh thuần thiện" là ba Nghiệp Tịch tĩnh lìa huyên náo, loạn động Thập Thiện không tạp tức là thuần Thiện.
"Lìa cấu nhiễm phá giới": là Hạnh thanh tịnh. "Hành Đại từ Quán": là được định thù thắng. "Niệm Niệm hiện tiền": là không có gián đoạn.
Dưới đây là phần ba-Kết. Trình bày Địa viên mãn.
Kinh: Ở năm A-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ thanh tịnh giới Ba-la-mật đa ý chí dũng mãnh, lìa hẳn các nhiễm.
Giải thích: "Năm A-tăng-kỳ" trước là bốn, nay gia thêm một kiếp.
"Đầy đủ..." tăng thiên về giới độ còn các độ khác thì tùy phần. "Ý chí dũng mãnh": là hạnh không có thối lùi. "Lìa hẳn các nhiễm": là thanh tịnh viên mãn.
Dưới đây là phần sáu-Phát Quang Địa. Văn lại chia làm ba phần như trên. 1. Nêu tướng nhập địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Phát quang Địa, trụ không phân biệt, diệt vô minh ám.
Giải thích: Tướng nhập Địa Như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ ba tướng ấy trước hiện tự thân dũng kiện giáp phục trang nghiêm tất cả giặc oán đều bị chế phục. Bồ-tát thấy rõ.
"Phát Quang Địa": là vô lượng trí tuệ, Tam muội quang minh không thể khuynh động không ai có thể bẻ gãy chế phục được lấy văn trì Đà-la-ni làm căn bản, gọi là phát Quang Địa.
"Trụ vô phân biệt". Nghĩa là ngay khi nhập Địa thì vô phân biệt trí. Chỉ nói Trí Năng chứng ắt phải có Như sở chứng. Theo Duy Thức luận Bồ-tát nơi Địa này chứng Thắng Lưu chơn Như. nghĩa là giáo pháp chảy ra từ chơn như đó so với các giáo pháp khác là cực kỳ thù Thắng. nghĩa là do ba Tuệ đắc được từ Địa này thấu rõ pháp Đại Thừa mà chứng chơn như căn bản của giáo pháp đó.
"Diệt vô minh ám": là nói đoạn chướng. Nghĩa là nhập Địa này, đoạn dứt chướng ám độn. Trong sở tri chướng câu sinh một phần chướng ba Tuệ thù thắng phát ra do Định thù thắng Tổng Trì ở Địa thứ ba đó. Như kinh Kim Quang Minh nói: Có hai vô minh: 1. Trước chưa ái, nay ái tức là vô minh nghĩa là chướng hai định thù thắng và tu Tuệ. Ái là phiền não câu hữu vô minh đều là năng chướng; 2. Có thể chướng tổng Trì thù thắng. Nghĩa là chướng Tổng trì văn, tư, Tuệ. Tiếng phạm gọi là Đà-lani, tiếng Hoa gọi là Tổng Trì, Niệm Tuệ làm Thể. Theo Địa Trì Luận thì có bốn loại: 1. Pháp Trì: trì danh cú văn; 2. Nghĩa Trì: trì nghĩa đã thuyên giảng; 3. Từ vô ngại giải; 4. Biện tài không dứt. Do đắc nhẫn Trí mà không quên bốn Tổng Trì này. Địa này đối với pháp, chí cầu không bao giờ mệt, như Thập Địa Luận quyển năm nói; giả sử tam thiên Đại thiên thế giới, đầy lửa lớn, chạy qua đống lửa đó để cầu một câu pháp mà Phật đã thuyết.
Dưới đây là phần hai-Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Đắc Ba Minh.
Kinh: Ở nhẫn vô tướng mà đắc Ba Minh, biết rõ ba đời vô lai, vô khứ.
Giải thích: "Ở nhẫn vô tướng": là Trí duyên với vô tướng, gọi là vô tướng nhẫn. "Mà đắc Ba Minh": 1. Túc Trú Trí Minh; 2. Tử-sinh-trí Minh; 3. Lậu-tận-trí-minh. "biết rõ ba đời vô lai vô khứ": là do ba Minh đó, đầu tiên là biết quá khứ, tiếp đến là biết vị lai, sau là biết hiện tại, biết rõ ba đời, đạt thể nó là "không", không đến không đi.
Dưới đây là phần hai-Định Sở Tu.
Kinh: Nương theo bốn Tĩnh lự, bốn định vô sắc, vô phân biệt trí, thứ lớp tùy thuận.
Giải thích: "Nương bốn tĩnh lự, bốn định vô sắc". Tĩnh lự và Vô sắc như trên đã giải thích. Định Địa của hai giới gồm có tám loại sai biệt bảy loại trước mỗi loại có ba vị tịnh vô lậu, do phàm thánh khác nhau. Hữu đỉnh chỉ có hai không có vô lậu.
"Vô phân biệt Trí": Tức là gia hạnh căn bản hậu đắc đều là vô phân biệt.
"Thứ đệ tùy thuận": là Hậu đắc trí. Vì sao biết vậy? Vì Gia hạnh trí dẫn căn bản, căn bản Trí phẩm chứng chơn lý chỉ Hậu Đắc trí, nhiều loại tu hành đạt ở tám Địa thì đều tu tập. "Tùy thuận" nghĩa là tu tập từ dưới lên trên, tùy thuận hướng vào như "tu siêu đẳng chí" trong quyển hai mươi tám của câu xá Luận. Luận đó tụng rằng:
Hai loại định thuận nghịch
Đều gián, thứ và siêu
Chí gián, siêu được thành.
Với tám Địa trước thì thiện căn bản, Đẳng chí chia làm hai loại:
1. Hữu hậu; 2. Vô lậu. Hướng lên gọi là Thuận, trở xuống gọi là Nghịch. Đồng loại gọi là đều, khác loại là gián, gần nhau gọi là Thứ vượt một gọi là Siêu. Ý chí gián được thành: Nghĩa là người Quán hành khi tu siêu định, đối với Bát Địa Hữu lậu, thuận nghịch đều thứ, hiện tiền thường tập, vô lậu thất Địa thì thuận nghịch đều thứ, lậu vô lậu Địa thì thuận nghịch gián thứ. Với hữu Lậu Địa thì Thuận nghịch đều Siêu. Với vô lậu Địa thì thuận nghịch đều siêu hiện tiền thường tập gọi là gia hạnh mãn, vô lậu Đẳng chí. Thuận nghịch gián siêu gọi là siêu được Thành. Đó tức là tùy thuận kinh Đại Bátnhã Bồ-tát Ma-ha-tát Sư Tử Tần Thân Tam Ma Địa, tập Tán tam ma địa đến đoạn sau sẽ rõ. Như Thập địa Luận nói; Bồ-tát nơi địa này vì nghĩa gì mà nhập Thiền vô sắc, vô lượng thần thông? Vì năm loại chúng sinh: 1. Vì những chúng sinh yêu thích Thiền mà kiêu mạn nên nhập các Thiền; 2. Vì những chúng sanh giải thoát mà kiêu mạn nên nhập Vô sắc định; 3. Vì những chúng sinh khổ não khiến an ở Thiện xứ mãi mãi cho lạc vì để giải nổi khổ của họ khiến không thọ nhận mà nhập các Thiền Định khởi từ Bi vô lượng;
4. Vì những chúng sanh đã đắc giải thoát nên nhập Hỷ xả vô lượng; 5. Vì những chúng sanh quy y Tà mà nhập thần thông khiến họ chánh Tín. Địa này gặt được Bất Thối Thiền cho nên gọi là Tam muội Địa Tiền Địa, bốn môn trong năm loại trên là thuộc đoạn này môn thứ năm thần thông là thuộc đoạn sau.
Dưới đây là phần ba-Đắc Ngũ Thông. Trong đó chia làm hai phần: 1. Nêu chung các Định.
Kinh: Đầy đủ Định thù thắng đắc năm thần thông.
Giải thích: "Đầy đủ định thù thắng": là tám Định trước bốn định đầu là chỗ nương của năm thần Thông.
"Đắc năm Thần thông": Đó là nêu chung. Dưới đây là phần hai-Nói riêng về năm thông.
Kinh: Hiện thân lớn nhỏ, ẩn hiển tự tại. Thiên nhãn thanh tịnh, thấy rõ các cõi. Thiên nhĩ thanh tịnh nghe hiểu nhiều tiếng. Dùng Tha tâm trí biết tâm chúng sanh, có thể biết được vô lượng sai biệt về đời trước.
Giải thích: Trong năm thứ đó, loại một, ba, bốn là cảnh duy chỉ hiện tại. Vì hiện nghe, biết đều là hiện tại. Giới hạn của cảnh là như phần trước của kinh đã nói; muôn cõi nước Phật. Loại thứ năm là biết Quá khứ. Như Thập Địa kinh nói: Như thật niệm, biết vô lượng trăm ngàn vạn ức na do tha kiếp, quá khứ. Loại thứ hai là biết vị lai như nghĩa của biết Quá khứ.
Lại nữa, Thập Địa Luân nói về Trí, kiên thì bốn thông là trí, loại thứ năm là kiến. Nhưng Thập Địa Luận liệt kê năm thông là: 1. Thần thông; 2. Nhĩ thông; 3. Tha tâm thông; 4. Túc mệnh thông; 5. Thiên nhãn thông. Theo thứ tự đó mà nói về Trí và kiến thì khác với ở đây. Về ba Nghiệp khác nhau là: Luận đó tiếp theo nói; Thần thông đầu tiên là Thân nghiệp thanh tịnh. Thiên nhĩ và Tha tâm là khẩu nghiệp thanh tịnh. Túc mệnh tử sinh là ý nghiệp thanh tịnh. Về sở tri khác nhau là; thần thông thứ nhất là có thể vận thân đến chỗ chúng sanh hiểu ý một cách nhanh chóng. Thiên nhĩ trí thông có thể biết nghĩa âm thanh thuyết pháp. Tha tâm thông thì tùy theo các âm thanh lời nói đều biết hết. Theo với nghĩa đó nhiều loại tên khác lạ, tùy theo chúng sanh mà thuyết. Hai thông Quá khứ và vị lai thì biết hết Quá khứ vị lai của chúng sanh mà thọ hóa.
Dưới đây là phần ba-kết về địa viên mãn.
Kinh: Đối với sáu A-tăng-kỳ kiếp, hành tất cả nhẫn Ba-la-mật đa, đắc Đại Tổng trì, lợi ích an lạc.
Giải thích: "Sáu A-tăng-kỳ"; là như trên gia thêm
"Nhẫn Ba-la-mật"; thiên mạnh ở Độ này chẳng phải là không tu các Độ khác mà tùy theo lực phần. "Đắc Đại tổng trì"; bốn loại như trên đều được viên mãn.
"Lợi ích an lạc"; là kết lợi tha
Dưới đây là phần bảy-Nói về Diễm Tuệ Địa. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu tướng nhập Địa tướng.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Diệm tuệ địa tu hành Thuận nhẫn, không có gì nhiếp tha vĩnh viễn đoạn trừ thân biên kiến vi tế.
Giải thích: Về nhập Địa, như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ tư trước tiên là hiện tướng này; bốn phương phong luân nhiều loại diệu hoa đều rải đầy trên Địa Bồ-tát thấy rõ
"Diệm Tuệ Địa": là dùng lửa trí tuệ thiêu đốt các phiền não tăng trưởng quang Minh tu giác phần.
"Tu hành Thuận nhẫn": là Hạ phẩm nhẫn trong nhẫn thuận thứ ba. Tu là tu tập. Hành là Tiến thứ chữ nhẫn là tên gọi chung. Nay Nhập Địa này trí chứng nhơn gọi là Thuận nhẫn mới bắt đầu chứng lý này nên nghĩa nhẫn mạnh.
"Không có gì nhiếp thọ": là Như sở chứng. nghĩa là chơn như đó không hề trói buộc lệ thuộc chẳng lệ thuộc Ngã chẳng phải là chỗ nương lấy do Ngã chấp.
"vĩnh viễn đoạn vi tế thân biên kiến"; là chướng sở đoạn nghĩa là ý thức cùng tu đoạn phiền não thân biên kiến của Tu đoạn. Nói vi tế; là Thân biên kiến này là phẩm thấp nhất vì duyên với chẳng tác ý vì nó xa tùy hiện hành, cho nên gọi là vi tế. Nó làm chướng Bồ-đề phần pháp ở Địa này khi nhập vào Địa này liễn vĩnh viễn đoạn dứt. Kiến cùng với vô minh thành là sở tri chướng. có hai loại: như kinh Kim Quang minh nói: 1. Đắm vị Đẳng chí vui mừng là vô minh: Tức gồm có ái định ở trong Địa này ở trong định thanh tịnh mà sinh ra đắm trước; 2. Vi diệu tịnh pháp yêu thích là vô minh: tức gồm có ái pháp ái trong đó. Tịnh pháp nghĩa là chơn như pháp và Bồ-đề phần pháp mười hai phần giáo pháp. Cả hai vô minh đó thành ra là sở tri chướng, tương ưng với hai ái phiền não kia. Lại nữa, cả hai vô minh từ vô thủy đến nay càng nhận vận trong ý thức mà sinh ra hai kiến thân biên tương ưng mà dấy khởi. Nay nhập Địa này vì vô minh đoạn dứt nên hai ái kiến vĩnh viễn không hành. Đoạn chủng đoạn hiện dựa theo giải thích trên thì rõ.
Địa này khác với ba Địa trước là: Ba địa trước hành Thí, Giới tu thì tương đồng với thế gian. Nay Địa thứ tư này đã đắc vô lậu Bồ-đề phần pháp gọi là xuất thế gian.
Dưới đây là phần hai-Trụ Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu hành Sở Tu.
Kinh: Tu tập vô biên pháp Bồ-đề phần.
Giải thích: Nói "Tu Tập": là như Thập Địa Luận nói; trong địa này Tu Bồ Đề phần hành tướng vô biên hoặc là lợi vô biên hoặc liền hướng đến quả đức vô biên, gọi là vô biên.
"Phần": Nghĩa là Nhân, cũng có nghĩa là chi phần, hướng đến mỗi mỗi quả quả phần, gọi là phần pháp.
Dưới đây là phần hai-Nói về Bồ-đề phần.
Kinh: Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc. Căn, Lực, Giác, Đạo, đầy đủ.
Giải thích: "Niệm xứ,..." Ba thứ đầu mỗi thứ có bốn, hai thứ tiếp mỗi thứ có năm, thứ tiếp theo (giác) có bảy, thứ sau cùng (Đạo) có tám cọng lại thành ba mươi bảy. Liệt kê tên gọi và xuất thể đã nói ở phần phẩm Tự trên. Những thứ tu ở Địa này đều là vô lậu như kinh Thập Địa; tu Niệm, Trú, Căn, mỗi thứ đều bảo là trừ bỏ tham lam lo buồn ở thế gian, từ phần thần túc trở về sau đến hết Bát chánh Đạo, mỗi một thứ đều có đủ bốn điều; y chỉ yểm, y chỉ ly, y tâm diệt, y chỉ xả. Kinh Hoa nghiêm nói: Hồi hướng ở xả. Như Luận sa bà nói: Tuệ duyên với khổ, Tập, gọi là yểm (chán). Năng đoạn hoặc đạo gọi là ly, bởi lìa phiền não. diệt nghĩa là Hoặc không còn nữa, Lý của diệt được hiển rõ. Xả: nghĩa là đại xả, vì trú tịch tịnh. Nói chi tiết như trong Câu xá Luận quyển hai mươi lăm phần thứ mười nói về Đối pháp.
Dưới đây là phần ba-Quả hướng đến.
Kinh: Vì muốn thành tựu lực, vô sở úy, Phật pháp bất cộng.
Giải thích: Vì hướng đến quả Phật. Văn dể hiểu đã rõ.
Dưới đây là phần hai-Thời gian trải qua viên mãn Địa.
Kinh: Ở bảy A-tăng-kỳ kiếp, tu tập vô lượng tinh tấn Ba-la-mật đa, xa lìa biếng trễ lợi khắp chúng sanh.
Giải thích: "Ở bảy A-tăng-kỳ kiếp" gia thêm như trên.
Nói "Vô lượng": là chúng hạnh rộng lớn, tu tập bất thối đều là tinh tấn, nghiêng về Độ này các độ khác thì tùy phần lực.
"Viễn ly giải đãi": vĩnh viễn đoạn dứt các chướng. "Phổ lợi chúng sanh": là bình đẳng lợi Tha.
Dưới đây là phần tám-Nan thắng địa. Văn có ba phần như trên:
1. Nêu tướng nhập Địa tướng.
Kinh: Tiếp nữa, là Bồ-tát Ma-ha-tát Nan thắng địa, dùng bốn vô úy tùy thuận chơn như, thanh tịnh bình đẳng, tướng không sai biệt đoạn thuận vui cầu Niết-bàn. Giải thích: Tướng nhập Địa là như kinh Kim Quang minh nói: Bồ-tát địa thứ năm, trước tiên là hiện tướng này; Có Diệu Bảo nữ, các anh lạc báu, trang nghiêm toàn thân, đầu đội danh hoa, để làm trang sức, Bồ-tát thấy rõ.
"Nan thắng Địa": là tu hành phương tiện, thắng trí tự tại, đắc được những thứ khó đắc, gọi là Nan Thắng Địa.
"Dùng bốn vô úy". Đây có hai loại: 1. Bốn vô úy của Phật Quả Nhất-thiết-trí vô úy, Lậu tận vô úy. Chướng Đạo vô úy, xuất khổ đạo vô úy; 2. Bốn vô úy của Bồ-tát: Văn trì vô úy, giải thoát vô úy chúng vô úy, Đáp nạn vô úy như trên đã giải thích. Nếu bốn loại sau chuyển được tăng tiến, rộng hành lợi lạc, gia hạnh dẫn phát thì nhập Địa này, như bốn loại trước. Do trong Địa này, trí năng chứng và chướng sở đoạn biết phần chướng đạo và xuất đạo ở trong các Địa đều đồng một quả, gọi là vô úy.
"Tùy thuận chơn Như": Là như Thập Địa Luận quyển tám nói: Tùy thuận bình đẳng chơn như pháp, theo Luận đó thì Trí Năng chứng tùy thuận bình đẳng chứng lý Chơn như, là trung phẩm Thuận nhẫn.
"Thanh tịnh bình đẳng, vô sai biệt tướng": là Như Sở chứng. Nhiễm và Tịnh đều bình đẳng, không có sai biệt khác nhau, chẳng phải như nhãn, nhĩ, tỉ... có sai biệt khác nhau.
"Đoạn thuận vui cầu Niết-bàn của tiểu thừa": là chướng sở đoạn nghĩa là trong địa trước tu Bồ-đề phần, tuy đắc vô lậu do sở tri chướng khiến thiện tâm... có sự vui, ghét, giống với hàng Tiểu thừa kinh. Kim Quang Minh nói: 1. Muốn bỏ sinh tử vô minh; tức là chán sinh tử trong đoạn văn này; 2. Mong hướng Niết-bàn vô Minh: Tức là vui thích với Niết-bàn ở đoạn văn này. Cả hai vô minh đó làm chướng đạo vô sai biệt ở Địa thứ năm. Khi nhập vào Địa thứ năm thì đoạn dứt mãi mãi.
Dưới đây là phần ba-Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm ba phần: 1. Quán các đế; 2. Tập kỹ nghệ; 3. Xuất chướng đạo. Dưới đây là phần một-Quán các đế.
Kinh: Tích tập các công đức, quán đủ các đế, đó là khổ Thánh đế, Tập, diệt, Đạo đế, thế tục, thắng nghĩa, quán vô lượng đế.
Giải thích: "Tập các công đức": là tích tập vô lượng hạnh nguyện công đức, như Thập Địa Luận quyển bảy nói; Tu tập Bồ-đề tâm đắc Đại nguyện lực tâm. Không mệt mỏi, từ bi không xả bỏ chúng sanh. Đắc Thiện căn lực, tu tập công đức Trí Tuệ hạnh nên không xả bỏ chúng sanh lực không, ngừng nghĩ các hành. Lực chánh tu hành, khởi phương tiện thiện xảo, lực không chán đủ hiểu rõ thượng địa thượng tâm: đắc tha thắng lực chánh thọ nhận Như Lai gia hộ tự đắc thắng: đắc niệm định tuệ. Dưới đây là phần hai-Tập kỹ nghệ, văn có hai phần: 1. Tập kỹ nghệ.
Kinh: Vì lợi chúng sanh, tập các kỹ nghệ, văn tự, y phương, tán vịnh, vui đùa, ta hát công xảo chú thuật, dị luận ngoại đạo, chiêm tướng lành dữ không một sai lầm. Giải thích: "Vì làm lợi cho chúng sanh mà tập các kỹ nghệ": là nêu Lợi tha. Kỹ nghệ nghề nghiệp có sai biệt khác nhau.
"Văn tự": là ghi chép. "Y phương": là cứu chữa, chữa bệnh. "Tán thán vịnh": là văn từ. "Hý hiếu là ca nhạc. "Công xảo": là điêu khắc, thêu thùa... "chú thuật": là ẩn tàng, hiểu lộ... "Ngoại đạo dị luận" là mười sáu dị luận. "Cát hung chiêm tướng" Chiêm: nghĩa là Bốc phệ. Tướng là xem Tướng mặt, Tướng tay hoặc đoán mộng, xem sao... đều rành rõi, khéo giỏi. Chiêm tướng có thể biết được cát hung họa phúc, không bao giờ sai lầm.
Dưới đây là phần hai-Hướng Bồ-đề.
Kinh: Nhưng không làm tổn hại chúng sanh mà làm lợi ích, đều khai thị cho họ, dần dần khiến an trú nơi Bồđề vô thượng.
Giải thích: Khai mở cái này, chỉ bày cái kia. Các câu văn khác thì dễ hiểu.
Dưới đây là phần ba-Xuất chướng Đạo.
Kinh: Biết các thú xuất đạo, và chướng đạo trong các Địa.
Giải thích: Nghĩa là biết các tâm nhập, trú, mãn, Xuất đạo chướng đạo trong các Địa đều biết rõ. Dưới đây là phần ba-Kết. Mãn Địa.
Kinh: Ở tâm A-tăng-kỳ kiếp, thường tu Tam muội, khai phát các hạnh.
Giải thích: "Ở tám A-tăng-kỳ" là gia thêm như trên. "Thường tu Tam muội": Nghiêng về Thiền Độ. Còn các độ khác thì tùy lực phần. Nương theo Định mà khai phát các hành nguyện.
Dưới đây là phần chín-Hiện tiền Địa. Văn có ba phần như trên.
Dưới đây là phần một-Nêu Tướng nhập Địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Hiện tiền địa, đắc Thượng thuận nhẫn, trú ba môn giải thoát, có thể dứt hết mọi, tập nhân tập nghiệp tướng thô hiện hành nơi ba cõi.
Giải thích: Tướng nhập Địa như kinh Kim Quang Minh nói Địa thứ sáu Bồ-tát thì trước tiên là hiện tướng này: Hồ Hoa bảy báu, có đường bốn cấp, cát vàng trải khắp thanh tịnh không nhơ, rước tám công đức đều đã tràn đầy. Hoa-Ôn-bát-la, Hoa-ba-đầu-ma. Hoa-phânđầu, Hoa-phân-đà-lợi, tùy xứ trang nghiêm. Ở chỗ hồ hoa, dạo chơi vui vẻ, mát mẻ vô song, Bồ-tát thấy rõ. "Hiện tiền địa": hành và pháp tương tục nhau, hiển hiện rõ ràng. vô tướng tư duy, đều đã hiện tiền.
"Đắc thượng Thuận nhẫn"; là Trí năng chứng, là Thượng phẩm nhẫn.
"Trụ Tam thoát môn": Như Thập Địa Luận quyển tám nói: Muốn nhập Địa thứ sáu. Phải đắc tất cả pháp tự tính vô tướng bình đẳng. Theo đó, tức là hiển chứng chơn lý Bình đẳng của ba Giải thoát môn.
"Năng tận Ba cõi,..": là chướng sở đoạn, Năng tận nghĩa là Đoạn dứt hết. Tam giới: là nói về Sở y. Tập Nhân: là câu sinh phiền não và Thức chủng. Tập nghiệp: là các nghiệp chủng của phúc và phi phúc, đều là Nhân thuộc phân đoạn của Tập đế.
"Thô hiện hành tướng": là Sở tri chướng. Nghĩa là do Địa trước quán về bốn đế: Hai Nhiễm hai tịnh, chấp là có Nhiễm có tịnh, thô tướng hiện hành, làm chướng đạo không có nhiễm tịnh ở Địa thứ Sáu. nghĩa là vô minh đó có hai loại, như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh Quán hành Lưu chuyển. Tức là chấp có nhiễm ở đây; 2. Vô minh Thô Tướng hiện tiền: Tức là chấp Tịnh ở đây. Vì thủ tướng tịnh đó mà Tướng quán nhiều hành, chưa thể nhiều thời trú vô tướng quán, Khi nhập Địa này thì hai vô minh kia và Tập Nhân tập nghiệp đều đoạn dứt mãi mãi.
Dưới đây là phần hai-Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Duyên sinh Quán.
Kinh: Đại bi tăng thượng, quán các sinh tử, vô minh ám che, nghiệp tập thức chủng, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ ái, thủ, hữu sinh, lão tử, v.v... đều do chấp ngã.
Giải thích: "Đại Bi Tăng thượng, Quán các Sinh tử": là trước tiên khởi tăng thượng đại bi lợi Sinh mà quán thọ nhận Sinh tử trong các thế gian. Như kinh Thập Địa nói: Chỗ thọ nhận thân sinh ra ở các thế gian khác nhau đều do bởi chấp trước dính mắc Ngã. Nếu lìa ở Ngã thì không có sinh, lão...
"Vô minh che ám": là phát nghiệp vô minh, mê ám làm Tính vì che đậy Lý chơn thật, là gốc của Sinh tử.
"Nghiệp tập": Nghiệp là các hành chẳng động phúc và phi phúc Tập là Huân Tập. "Thức chủng": là nói chung về chúng Báo Thức... ở kết sinh vị thì chủng sinh hiện.
"Danh sắc": là sơ kết sinh vị, bốn uẩn phi sắc, gọi chung là danh. "Lục xứ": là Danh sắc tăng trưởng, có nhãn, nhĩ... sinh ra sáu căn xứ.
"Xúc": là xúc đối, căn, cảnh, Thức, cả ba hòa hợp lại mà sinh ra.
"Thọ"; là lãnh nạp, Nhân ở xúc mà sinh ra. "Ái": là làm nhuận Hoặc. Ái tăng lên gọi là thủ, Nghiệp... cả sáu loại tăng trưởng gọi là hữu. Hữu làm Quả, tùy ở các cõi, uẩn khởi thì gọi là Sinh, Suy thoái, thay đổi thì gọi là lão, hư hoại diệt chết thì gọi là tử ".v.v..." là ưu, bi, khổ, não đó. Cũng là hiển về duyên khởi, trường kiếp luân hồi, trị Đạo lúc chưa sinh ra, thường hằng vô tận.
"Đều do chấp ngã": Bồ-tát Quán trường kiếp Luân hồi kia do bởi có Ngã nên Sinh tử không đoạn dứt.
Dưới đây là phần hai-Tam thoát môn quán.
Kinh: Vô minh nghiệp quả, chẳng phải hữu phi vô, nhất tướng vô tướng mà là bất nhị.
Giải thích: "Vô minh nghiệp quả" là vô minh, Ái, Thủ, cả ba là vô minh. Hành có hai chi, thông cả hai nghiệp; năm chi Thức... và bảy chi sinh, Lảo, tử là Quả...
"Chẳng phải hữu phi vô": là không Giải thoát môn. Quán Duyên Sinh, Ngã, pháp chẳng phải hữu, thật Tính thì phi vô. Như Thập Địa Luận quyển tám nói: cứ như vậy mà Quán sát pháp nhân duyên rồi. Không có Ngã tác giả. Tự Tính không, ly, đắc không Giải thoát môn.
"Nhất tướng vô tướng": là vô tướng Giải thoát môn. Luận đó nói tiếp. Quán hữu chi đó, tự tính diệt, cứ như vậy, không thấy một tí pháp Tướng nào, đắc vô tướng Giải thoát môn.
"Mà là Bất nhị": là vô nguyện Giải thoát môn. Luận đó tiếp nói: thấy pháp Nhân duyên, không có một tí pháp Tướng nào để có thể sinh nguyện lạc, duy chỉ đại bi giáo hóa chúng sanh đắc vô nguyện Giải thoát môn, Đó tức là hiển bày rõ vô nguyện với cảnh Bi là không hai.
Dưới đây là phần ba-Kết. Viên mãn Địa.
Kinh: Ở chín A-tăng-kỳ kiếp, hành trăm vạn Tam muội không, vô tướng, vô nguyện, đắc tất cả Bát-nhã Ba-la-mật-đa, vô biên ánh sáng tỏa chiếu.
Giải thích: "Chín A-tăng-kỳ kiếp": Là như trên, gia thêm một kiếp.
"Hành trăm vạn..." Như kinh Thập địa nói, ở mỗi ba Tam muội Môn đều đắc trăm ngàn vạn Tam muội hiện tiền là giống với ở đây. "Đắc tất cả Bát-nhã..." Đắc là chứng đắc, gặt hái được nghiêng về Tuệ Độ, các độ khác thì tùy phần lực. Vô biên quang chiếu là đạt không, đạt Hữu đều là vô biên. Dưới đây là phần mười-Viễn hành Địa. văn có ba phần như trên: 1. Nêu Tướng nhập địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Viễn hành địa tu vô sinh nhẫn, chứng pháp vô biệt, đoạn dứt tướng hiện hành vi tế của các nghiệp quả.
Giải thích: Về Nhập Địa: Như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ bảy trước tiên là hiện tướng này. Ở trước Bồ-tát có những chúng sanh đúng thì phải đọa Địa ngục, nhờ lực của Bồ-tát liền không bị đọa không bị tổn thương cũng không bị khủng bố sợ hãi.
"Viễn hành Địa": là vô lậu vô gián, vô tướng tư duy giải thoát Tam muội, viễn tu hành.
"Tu Vô sinh nhẫn": là nhẫn thứ tư trong năm nhẫn, nói về Trí Năng chứng là Hạ phẩm nhẫn.
"Chứng pháp vô biệt": là Như, Sở chứng nghĩa là Chơn như này tuy nhiều giáo pháp, nhiều loại an lập nhưng không khác.
"Đoạn chư nghiệp Quả": là nói về sở đoạn, các nghiệp quả cảm bởi Địa tiền, đến Địa này đều vĩnh viễn đoạn. "Tướng Hiện hành vi tế" là Sở Tri chướng. Chấp có sinh diệt, Tướng tế hiện hành làm chướng đạo Diện vô tướng của Địa này.
Dưới đây là phần hai-Trú Địa tu hành. Trong đó có hai phần: 1. Diệt định hạnh.
Kinh: Trú ở diệt định, khởi hạnh thù thắng, tuy thường tịch diệt, mà rộng hóa chúng sanh.
Giải thích: "Trụ ở diệt định": là Định sở đắc. Thập
Địa Luận quyển chín nói: là Tịch diệt Định, còn các luận khác đều gọi đó là diệt Tận định. Kinh Đại Bát-nhã thì gọi là diệt Thọ tưởng Định giải thích tên gọi này khiến không thường hành tâm nhiễm ô, tâm sở diệt tận, khiến mệnh thân an hòa, nên còn gọi là Định.
Dưới đây là phần hai-Thị hiện Hành.
Kinh: Thị hiện nhập Thanh văn, thường tùy trí Phật, thị hiện đồng ngoại đạo, thị hiện làm Ma vương, tùy thuận thế gian nhưng thường xuất thế.
Giải thích: "Thị hiện nhập Thanh văn" thị hiện nhập vào Tiểu Thừa nhưng khác với họ chỉ cầu tự độ, mà rộng lợi hữu tình tùy thuận Trí Phật.
"Thị hiện đồng ngoại đạo": là trước dính các kiến. "Đồng với chứng Ma": là vui với Sinh tử. "Tùy Thuận thế gian": là thế gian phàm phu, nhiễm dính điên đảo. Bồ-tát thị hiện giống với họ. "Thường tu xuất thế": là khiến họ đều đắc xuất thế, đồng một loài để mà hóa.
Dưới đây là phần ba-Kết. Viên mãn Địa.
Kinh: Ở mười A-tăng-kỳ kiếp, hành trăm vạn Tam muội, phương tiện thiện xảo, rộng tuyên pháp tạng, tất cả trang nghiêm đều được viên mãn.
Giải thích: "Mười A-tăng-kỳ": là gia thêm như trên. "Hành trăm vạn Tam muội": là như Thập Địa luận nói: Bồ-tát Trú Địa thứ bảy này có thể thập trăm ngàn vạn Bồ-tát Tam muội Môn để tịnh trị Địa này. "Thiện xảo phương tiện": là nghiêng về điều đó. "Rộng tuyên pháp tạng" là lợi lạc tha. "Tất cả trang nghiêm" là Bi, Trí, Hạnh, Nguyện để tự trang nghiêm.
Dưới đây là phần mười một. Bất động Địa. Văn có ba phần như trên: 1. Nêu tướng Nhập Địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát chẳng động địa, trụ vô sinh nhẫn, thể không tăng giảm, đoạn các công dụng.
Giải thích: Về Nhập Địa, Như Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ tám trước tiên là hiện Tướng này, ở hai bên thân, có sư tử vương làm hộ vệ, tất cả các thú vật đều phải sợ hãi. Bồ-tát thấy rõ.
"Chẳng động": là vô tướng tư duy, tu đắc tự tại, các thành phiền não không thể làm lay động. "Trụ vô sinh nhẫn": là nói về Trí Năng chứng là trung phẩm nhẫn. "Thể không tăng giảm": là nói về sở chứng. Thể nghĩa là chứng hội, hoặc tức là chơn như, là thể Tính của các pháp. nghĩa là chơn như này lìa cái chấp về tăng và giảm, không tùy nhiễm tịnh. "Đoạn các công dụng" là chướng sở đoạn. "Công dụng" nghĩa là gia hạnh. Nghĩa là do công dụng khiến cho vô tướng quán không ý khởi. Năm Địa trước thì hữu Tướng quán nhiều, vô tướng quán thì ít. Ở Địa thứ sáu thì hữu Tướng quán ít vô tướng quán nhiều. Trong Địa thứ bảy thì thuần là vô tướng quán, tuy thường tương tục nhưng có gia Hạnh chưa thể tùy ý hiện thân và Thổ, cứ như vậy mà gia hạnh thì làm chướng vô công dụng Đạo trong Địa đó. Về Thể của công dụng đó có hai vô minh, như Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh vô tướng quán công dụng: Nghĩa là chưa đắc tự tại trong vô tướng vì phải nhờ công dụng mới đắc khởi; 2. Vô minh chấp Tướng tự tại: Nghĩa là vì chấp Tướng mà khiến không đắc tự tại ở trong Tướng, vì còn nhiếp một phần tướng quốc độ. "Tướng là gì" Nghĩa là thị hiện tướng thân và tịnh độ đều gọi là Tướng cả hai vô minh đó khi nhập Địa này liền vĩnh viễn đoạn. Trong đó đắc được hai tự tại. Địa này trở lên thuần là vô lậu Đạo, thường nhậm vận tùy ý khởi, phiền não thuộc Ba cõi mãi mãi không còn hiện hành. Trong thức thư bảy mọi sở tri chướng vi tế còn hiện khởi, vì để sinh ra quả trí không, không trái với trên.
Dưới đây là phần hai-Trú Địa tu hành. Trong đó có hai phần: 1. Không có tướng của Thân và tâm; 2. Chư
Phật gia trì.
Trong phần một lại có hai phần: 1. không có Tướng Thân tâm.
Kinh: Tâm tâm tịch diệt, không tướng thân tâm, giống như hư không.
Giải thích: "Tâm tâm": Là tâm trước tâm sau, hoặc là tâm, tâm sở. "Tịch diệt" Là nói về chứng lý. "Vô tướng thân tâm", hoặc là thân hoặc là tâm không có chỗ để thi thố, vì tịch lặng chẳng động. Câu trước là nói về tâm, câu sau là nói về Tướng hai thứ khác nhau. "Giống như hư không" là lấy dụ nói rõ chung. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Ly tất cả tâm ý thức phân biệt, không còn thủ trước, giống như hư không, nhập tất cả pháp, như Tướng của hư không.
Dưới đây là phần hai-Bất khởi tâm.
Kinh: Bồ-tát đó, tâm Phật, tâm Bồ-đề, tâm Niết-bàn, thảy đều không khởi.
Giải thích: Là nói Bồ-tát này, tâm Phật đại bi, tâm Bồ-đề, tâm cầu Niết-bàn, những tâm đó còn chẳng khởi, huống nữa là khởi tâm thuộc về thế gian. Dưới đây là phần hai-Chư Phật gia trì. Trong đó chia làm hai phần:
1. Chư Phật gia trì.
Kinh: Do bản nguyện cho nên chư Phật gia trì.
Giải thích: "Do bởi bản nguyện": là do Bản Thắng nguyện của Bồ-tát đó. Nghĩa là trong Địa nhập vào biển vô tướng, thân tâm tịch diệt. Nếu không có thắng nguyện thì mãi mãi không bao giờ khởi.
"Chư Phật gia trì": duy chỉ có chư Phật gia hộ nhiếp trì thì có thể khởi tâm thú đến vô thượng. Như kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi tám và Thập địa Luận quyển mười đều nói: Thập phương chư Phật tất là đều hiện tiền cùng cho Trí Như Lai, khuyên bảy điều. Nay theo kinh Hoa Nghiêm nói về bảy điều khuyên là: 1. Khuyên nên hướng đến Quả Đức: kinh nói: Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! nhẫn này là Đệ Nhất thuận chư Phật pháp. Mà này, Này thiện nam! Chúng ta có toàn bộ mười lực vô úy, mười tám Bất cộng, pháp của chư Phật. Con nay chưa đắc, con muốn thành tựu pháp này khuyên con nên phải Gia thêm tính tấn, đừng lại buông xả. Là khuyên tinh tấn với nhẫn Môn này; 2. Khuyên thương nghĩ chúng sanh: Kinh nói: Lại nữa Này thiện nam! con tuy đã đắc tịch diệt giải thoát ấy, nhưng chư phàm phu chưa thể chứng đắc, nhiều loại phiền não đều đang hiện tiền, nhiều loại giác Quán thường đến xâm hại, con nên mẫn niệm xót thương những chúng sanh như vây. Đó là khuyên hóa; 3. Khuyên nhớ bản Thệ: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con nên nhớ nghĩa về Bản thệ Nguyện của mình, làm lợi ích rộng khắp cho tất cả chúng sanh đều khiến được vào cửa trú tuệ chẳng thể nghĩ bàn. Đó là khuyên viên mãn bản nguyện; 4. Khuyên đừng đồng nhị thừa: Kinh nói: Lại Này thiện nam! pháp Tính này, Phật xuất thế hay Phật không xuất thế thì vẫn thường Trú không khác. Chư Phật không phải nhờ đắc pháp đó mà gọi là Như Lai, tất cả Nhị Thừa cũng có thể đắc được pháp vô phân biệt đó. Đó là khuyên song tu; 5. khuyên khiến thành (chỉ về sự): Kinh nói: lại nữa, Này thiện nam! con Quán chúng ta đây Thân Tướng vô lượng, Trí Tuệ vô lượng, Quốc độ vô lượng, phương tiện vô lượng, Quang Minh vô lượng, thanh tịnh Âm thanh cũng vô lượng. Con này nên phải thành tựu pháp đó. Đó là khuyên tu thành; 6. Khuyên đừng sinh thỏa mãn ngừng nghĩ: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con nay vừa mới đắc một pháp Minh này, pháp minh đó gọi là tất cả pháp vô sinh vô phân biệt. Này thiện nam! Còn pháp Minh của Như Lai thì vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng chuyển, cho đến trăm ngàn ức Na do Tha kiếp không thể biết được. Con nên tu hành thành tựu pháp đó. Đó là khuyên tu khắp; 7. Khuyên phải nên thông đạt: Kinh nói: Lại nữa, Này thiện nam! Con Quán Thập phương vô lượng Quốc độ; vô lượng chúng sanh, vô lượng pháp, nhiều loại sai biệt khác nhau. Phải nên như thật thông đạt đó là khuyên biết khắp, thuyết bảy điều khuyên rồi. Kinh đó kết rằng: Nếu chư Phật không cho Bồ-tát đó khởi Trí Môn thì Bồ-tát đó lúc ấy sẽ nhập cứu cánh Niết-bàn, vứt bỏ tất cả nghiệp lợi chúng sanh. Đó tức chính là nghĩa của chữ gia trì trong đoạn kinh trên.
Dưới đây là phần hai-Khởi độ lợi ích.
Kinh: Trong khoảng một niệm, mà khởi Trí nghiệp, song chiếu bình đẳng, dùng Trí mười lực, hiện bày khắp, đại thiên thế giới không thể nói hết, tùy các chúng sanh đều tạo lợi lạc khắp.
Giải thích: "Trong một niệm khoảnh" là nhờ sự răn bảo rồi, trong một Sát-na. "Mà khởi Trí nghiệp" là nghiệp lợi sinh. "Song chiếu bình đẳng" là song chiếu chơn và Tục, lợi hành bình đẳng. "Dùng Trí Thập lực" một phần giống với trí Thập lực của chư Phật. "Khắp bất khả thuyết đại thiên thế giới": Tức là trăm vạn vi trần số Phật xát mà phần trước kinh đã nói. "Tùy chư chúng sanh" là hiện thân theo loại, đúng với căn cơ mà làm lợi lạc. Như kinh Hoa Nghiêm nói Trí nghiệp được sinh ra ở trong khoảnh khắc một niệm tất cả các hành tu từ sơ phát tâm cho đến Địa thứ bảy, không bằng một phần trăm trí nghiệp đó. Cũng không bằng một phần trăm ngàn ức na do tha Thí như chèo thuyền vào biển lớn, khi chưa đến biển thì phải dùng nhiều sức lực, nếu vào giữa biển rồi thì chỉ theo gió mà đi, không cần sức người mà thuyền vẫn chạy trên biển, một ngày đi được so với khi thuyền chưa vào biển, giả sử trải qua cả trăm năm cũng không bằng Bồ-tát Ma-ha-tát cũng lại như vậy, tích tập rộng lớn thiện căn tư lượng, người con thuyền Đại Thừa đến biển hạnh Bồ-tát trong khoảnh khắc một niệm nhờ vô công dụng Trí mà nhập vào cảnh giới của Nhất-thiếttrí trí. Công Dụng hạnh vốn có, trải qua vô lượng trăm ngàn ức Na do tha kiếp, đều không bằng được.
Dưới đây là phần ba-Kết. Viên mãn Địa.
Kinh: Ở ngàn A-tăng-kỳ kiếp, đầy đủ trăm vạn đại nguyện, tâm tâm hướng nhập Nhất thiết chủng, Nhấtthiết-trí trí.
Giải thích: "Ở ngàn A-tăng-kỳ kiếp" là vượt con số trước, như ba vô số kiếp của Du-già đã nói ở trên. Địa này mới bắt đầu nhập vào kiếp thứ ba, cho nên khác với trước, tuy là văn trước sau con số có nhiều ít nhưng thời gian trải qua trọn ba kiếp thì không khác. "Đầy đủ trăm vạn đại nguyện" là hạnh và nguyện cùng dưỡng nhau, cho nên bảo là mãn túc đầy đủ, nghiêng tăng về Nguyện độ các độ khác thì tùy phần. "Tâm tâm thú nhập" là tu không gián đoạn "Nhất thiết chủng, Nhất-thiết-trí trí" trước là Tục sau là chơn. Dời chữ Trí ở sau đặt ở chữ Chủng là kết chỗ thú đến.
Dưới đây là phần mười hai-Thiện Tuệ Địa. Văn có ba phần như trên. 1. Nêu tướng nhập Địa.
Kinh: Tiếp nữa, Bồ-tát Ma-ha-tát Thiện tuệ địa, trụ thượng vô sinh nhẫn, diệt tướng tâm tâm chứng Trí tự tại, đoan chướng vô ngại.
Giải thích: Về nhập Địa, như kinh Kim Quang Minh nói: Bồ-tát địa thứ chín trước tiên hiện Tướng này; chuyển luận Thánh vương, vô lượng ức chúng vây quanh cúng dường. Long trắng che trên đảnh đầu được trang nghiêm bởi vô lượng các báu. Bồ-tát thấy rõ.
"Thiện Tuệ Địa": là thuyết về nhiều loại sai biệt khác nhau của Tất cả pháp đều đắc tự tại, không khó khăn không mệt mỏi, Tăng trưởng trí Tuệ, tự tại vô ngại. "Trú thượng vô sinh nhẫn diệt tâm tâm tướng" là nói về trí Năng chứng, là Trú thượng phẩm nhẫn. Niệm niệm tịch diệt vô tướng làm Tướng. "Chứng trí tự tại" là như, Sở chứng. Do chứng chơn như mà trí đắc được tự tại. Nghĩa là: Nếu Địa này đã chứng chơn như rồi thì với vô ngại giải mà đắc tự tại. "Đoạn vô Ngại chướng": là chướng sở đoạn. Bồ-tát nơi địa này đắc vô ngại giải, do bởi chướng làm chướng ngại vô ngại giải đó, cho nên gọi là vô ngại chướng. Vô minh của chướng đó có hai loại, như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh ở nghĩa sở thuyết và danh cú văn, cả hai vô ngại đó chưa thiện xảo. Nghĩa sở thuyết": là nghĩa vô ngại. "Danh cú văn": là pháp vô ngại. Cả hai thứ đó mỗi thứ đều có vô lượng sự sai biệt khác nhau, gọi là vô lượng vì chưa đắc thiện xảo với hai loại đó; 2. Vô minh với từ ngữ biện tài, không tùy ý. Vô minh từ ngữ nghĩa là không có từ ngữ làm trở ngại Biện tài vô ngại, nhưng do vô minh cho nên không được tùy ý. Cả hai vô minh đó là chướng ở Địa này. Bốn vô Ngại giải không đắc tự tại, khi nhập Địa thứ chín liền đoạn dứt mãi mãi. Dưới đây là phần hai-Trú Địa tu hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Vô Ngại giải; 2. Lợi chúng sanh.
Trong phần một lại có hai phần: 1. Hộ pháp Tạng.
Kinh: Đủ đại thần thông, tu lực vô úy, khéo hộ trì được pháp tạng chư Phật.
Giải thích: "Đủ đại Thần thông" là nói đã đắc. "Tu lực vô úy": là nói về tu tập. "Khéo thủ hộ được pháp tạng chư Phật": bốn vô ngại giải là pháp tạng của Phật khéo trì thuyết là Thủ hộ, hoặc là ở trong bốn vô ngại giải; đắc loại thứ nhất và thứ hai (nghĩa và danh cú văn) là Phật pháp Tạng, đắc hai loại sau Từ ngữ và biện tài là năng Thủ hộ. Như kinh Hoa Nghiêm nói: Làm Đại pháp sư, có đủ Hạnh của pháp sư, khéo thủ hộ được pháp Tạng của Như Lai, dùng Trí thiện xảo mà khởi bốn vô ngại dùng ngôn từ của Bồ-tát mà diễn thuyết. Theo ý của kinh đó thì Thập nhị phần giáo là Phật pháp tạng, có đủ hai lợi là Năng Thủ hộ, khởi bốn vô ngại là sự lợi lạc.
Dưới đây là phần hai-Vô ngại giải.
Kinh: Đắc vô ngại giải: Pháp, nghĩa, Từ, Biện, diễn thuyết chánh pháp không dứt, không hết.
Giải thích: "Đắc vô Ngại giải" đến Địa này thì gặt hái được Trí vô Ngại gọi là Đắc như phần giải thích về vô tánh trong Nhiếp Đại Thừa Luận nói: bốn vô Ngại giải thông cả định tuệ và pháp tâm tâm sở tương ứng làm tự tính. "Pháp, nghĩa, Từ Biện"; "pháp": là biết tự Tướng của các pháp. "Nghĩa" là biết sai biệt của các pháp. "Từ" là nói không lầm lẫn, "Biện" là thuyết không bao giờ dứt hết, Như Thập Địa luận nói: khẩu nghiệp thành tựu. "Diễn thuyết chánh pháp không dứt không tận" là Biện vô Ngại.
Dưới đây là phần hai-Lợi chúng sanh.
Kinh: Trong khoảnh khắc một Sát-na, ở trong các thế giới không thể nói hết được, tùy các chúng sanh, tất cả thắc mắc một âm giải thích, khiến cho hoan hỷ.
Giải thích: "Tùy chư chúng sanh": là các cõi người, Trời...
"Tất cả thắc mắc" theo âm thanh tiếng nói của mỗi loài, nhiều loại danh nghĩa mà thắc mắc vấn nạn.
"Một âm giải thích": Năng giải là từ và biện, Sở giải là pháp và nghĩa. "Khắp khiến Hoan hỷ" tùy theo chủng tích, lợi căn trung căn, độn căn phổ khắp được ích, khiến cho Hoan hỷ, như kinh Thập Địa nói: Bồ-tát đó ở một chỗ Phật, dùng mười A-tăng-kỳ trăm ngàn Đà-la-ni môn nghe nhận pháp đó, ở vô lượng vô biên chỗ chư Phật khác, cũng lại như vậy. Bồ-tát đó, ở trong khoảng thời gian một niệm, hoặc một đại thế giới hoặc hai, ba, bốn, mười trăm, ngàn vạn ức thế giới, hoặc mười ức trăm ức, ngàn vạn ức Na do tha, cho đến số Đại Thiên Thế giới không thể nói, không thể nói, chúng sanh đầy cả trong đó, với khoảng thời gian một niệm, chỉ dùng một âm đều khiến khai hiểu, tức là ở trong một Danh, câu chữ mà thuyết tất cả các Danh, câu, chữ. Ở trong một nghĩa mà thuyết tất cả nghĩa. Trong âm thanh tiếng nói của một phương mà hiện tất cả âm tiếng. Ở trong một pháp đều ứng đúng với căn, diễn thuyết vô tận, gọi là vô Ngại giải. Dưới đây là phần ba-Kết. Viên mãn Địa.
Kinh: Ở vạn A-tăng-kỳ kiếp, hiện trăm vạn hằng hà sa thần lực của chư Phật nơi pháp tạng vô tận, lợi ích viên mãn.
Giải thích: "Ở vạn A-tăng-kỳ": là thời gian trải qua vượt con số của Địa trước. "Hiện Trăm vạn...": là hiện thần lực chư Phật, tức nói Thần thông. Bồ-tát này, trong mười Độ thì nghiêng về Lực Độ. "Vô tận pháp tạng": là bốn vô Ngại giải, Rộng Làm lợi lạc.
Dưới đây là phần mười ba nói: Pháp vân Địa. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu nhập Địa Tướng; 2. Trụ Địa tu hành; 3. Kết. Mãn vị. Dưới đây là phần một-Nêu Tướng Nhập Địa.
Kinh: Tiếp nữa là Bồ-tát Ma-ha-tát Pháp Vân Địa, vô lượng trí tuệ, tư duy quán sát, từ phát tín tâm, trải qua trăm vạn A-tăng-kỳ Kiếp, rộng tập vô lượng trợ đạo Pháp, tăng trưởng vô biên đại phước trí, chứng nghiệp tự tại, đoạn chướng thần thông.
Giải thích: Về nhập Địa: Kinh Kim Quang minh nói: Bồ-tát địa thứ mười, trước tiên hiện tướng; thân của Như Lai, Kim sắc huy hoàng, vô lượng Tịnh Quang đều đã viên mãn, có vô lượng ức phạm vương vây quanh, cung kính cúng dường, chuyển ở vô thượng vi diệu pháp luân, Bồ-tát thấy rõ.
"Pháp vân Địa": là pháp thân Như hư không, trí tuệ như đám mây lớn, đều có thể che đầy khắp tất cả. hai chữ Pháp vân là tên gọi riêng của Trí Như. Duy thức luận nói: Mây trí đại pháp, ngậm nước các đức. "Vô lượng trí tuệ tư duy quán sát". Đó tức là gia hạnh, quán sát khắp. "Từ phát tín tâm": là nêu tối sơ. "Trải trăm vạn A-tăngkỳ kiếp" là thời gian đã trải qua khi đạt viên mãn Địa thứ chín. "Rộng tập vô lượng trị đạo pháp": là nói về đã tu tập tất cả hạnh nguyện, pháp để trị đạo. "Tăng trưởng vô biên Đại phước trí": là nói đã tăng trưởng phước trí rộng lớn. Quán sát như vậy, dẫn đến trí năng chứng, chứng Tịch diệt nhẫn, mà nhập vào Địa này. "Chứng nghiệp tự tại": là nói về sở chứng. nghĩa là, Trong Địa này, Chơn như đó khắp ở tất cả thần thông, tác nghiệp, tổng trì định môn đều trị tại. Tuy ở trong Địa thứ mười mà Chơn Như không có riêng khác tùy theo Hạnh năng chứng mà giả đặt Tên gọi. "Đoạn Thần Thông chướng": là chướng sở đoạn (chướng bị đoạn dứt). Thần Thông chướng là dựa theo nghĩa chính mà đặt tên gọi. Thông chướng Địa mày khiến chư pháp không được tự tại, cũng làm chướng ngại mây Trí Đại pháp và những sự nghiệp hàm tăng được khởi. Đây có hai loại vô minh như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh với đại thần thông chưa đắc tự tại biến hiện, tức chính là chướng những sự nghiệp khởi ở trong đó, câu này đúng thì phải nói thế này: vô minh với đại thần thông biến hiện chưa đắc tự tại, như vậy văn mới thuận; 2. Vô minh về vi tế bí mật chưa thể hiểu ngộ sự nghiệp, tức là làm chướng ngại mây trí đại pháp và những hàm chứa trong ấy, Do cả hai vô minh làm chướng Thần Thông, khi nhập vào Địa này liền vĩnh đoạn.
Dưới đây là phần hai-Trụ Địa tu hành. Trong đó có ba phần: 1.
Hạnh lợi tha.
Kinh: Trong khoảng một niệm, khắp mười phương trăm vạn ức A-tăng-kỳ thế giới vi trần số quốc độ đều biết tâm hành nơi căn thượng trung hạ của tất cả chúng sanh, vì họ thuyết giảng pháp ba Thừa, khiến đều tu tập Ba-la-mật đa.
Giải thích: "Trong khoảnh một niệm...": là nói về khi năng hóa khắp cả quốc độ giáo hóa hữu tình đúng căn được ích, theo pháp đều tu tập. Dưới đây là phần hai-Tu chuyển y.
Kinh: Nhập hành xứ, lực, vô sở úy của Phật tùy thuận Như lai, tịch diệt chuyển y.
Giải thích: "Nhập hành xứ, lực vô sở úy của Phật". Nhập: nghĩa là chứng Nhập hoặc là hướng nhập, chứng chơn lợi lạc hành xứ của Phật. Lực vô úy… là công đức bất động đều hướng vào. "Tùy thuận Như Lai Tịch diệt chuyển y": là những chuyển y do tu tập Quả vị. Chuyển: là chuyển dịch. Y: là Sở y. chuyển đổi sự kém cõi đắc sự thắng tốt là nghĩa của chuyển y. Nhưng chuyển y đó có sáu loại khác nhau như Duy Thức Luận nói: 1. Chuyển tổn lực ích Năng; ở ngôi vị Tam Hiền, do nhờ tu tập thắng giải và hổ thẹn làm tổn thế lực nhiễm chủng trong Bản thức, làm ích công năng tịnh chủng trong bản thức, dần dần chế phục hiện hành gọi là chuyển; 2. Chuyển thông đạt: nghĩa là ở ngôi vị sơ địa, do lực của kiến đạo và thông đạt chơn như, đoạn dứt hai chướng thô trọng do phân biệt sinh ra, chứng đắc một phần chơn thật chuyển y; 3. Chuyển Tu Tập: nghĩa là chuyên thông cả địa thứ mười do bởi tu tập nhiều hạnh thập địa dần dần đoạn dứt hai chướng thô trong câu sinh, dần dần chứng đắc chơn thật chuyển y. 4. Chuyển Quả viên mãn: nghĩa là ở Ngôi vị cứu cánh cuối cùng, do bởi ba Đại A-tăngkỳ kiếp tu tập vô biên, Hạnh thù thắng hạnh khó làm khi Kim cang Định hiện tiền rõ ràng thì mãi mãi đoạn dứt tất cả thô trọng, chứng ngay Phật Quả, viên mãn chuyển y cùng tận vị lai, lợi lạc vô tận; 5. Chuyển hạ liệt: nghĩa là ngôi vị nhị thừa chuyển cầu tự lợi, chán ghét khổ đau, vui thích tịch lặng không có sự kham năng chịu đựng, gọi là chuyển hạ liệt; 6. Chuyển quảng đại: nghĩa là Ngôi vị Đại thừa vì Lợi Tha cho nên hướng Đại Bồ-đề. Sinh tử hay Niết-bàn đều không chán ghét hay yêu thích. Có sự kham nhẫn Tốt, gọi là chuyển Quảng Đại.
Dưới đây là phần ba-Phục diệt đốn tiệm. Trong đó chia làm hai phần: 1. Phục, diệt khác nhau; 2. Thấy Đốn, Tiệm trong phần một lại chia làm ba phần: 1. Nêu chung về phục vị.
Kinh: Này người thiện nam! Từ Tập nhẫn đầu tiên đến Định Kim cang đều gọi là điều phục tất cả phiền não.
Giải thích: "Từ sơ Tập nhẫn": là nêu đầu tiên. "Đến Kim cang Định": là nêu cuối cùng. Nêu từ đầu tiên cho đến cuối cùng là nói về phục đó. "Phục" là như trong các đoạn văn khác. Thế đạo gọi là phục, điều phục phiền não hiện Thánh đạo thì gọi là đoạn, đoạn dứt phiền não chủng, chữ phục ở Địa này hợp với hai đạo trên đều gọi là phục. Đối với Ngôi vị Kim cang Định thì dùng chữ phục thuộc Thánh đạo. Tuy là hai chướng thô phẩm không còn nữa, nhưng vi tế phục là chủng do bởi chưa đoạn dứt, cho nên bảo là phục. Như trong khởi Tín Luận: trước khi Đoạn chuyển Thức, gốc ngọn vô minh cũng gọi chung là Đoạn, nhưng vì vọng Bổn Bất giác, cho nên gọi là phục. Như Bản ký nói: Từ Sơ Thập Tín đến Kim cang Định, chưa đoạn dứt A-lai-da-thức, một Sát-na còn tồn tại cho nên nói là phục tất cả phiền não.
Dưới đây là phần hai-Nói riêng về Đoạn diệt.
Kinh: Tín nhẫn vô tướng, chiếu Thắng-nghĩa-đế diệt các phiền não. Sinh Trí giải thoát.
Giải thích: "Vô tướng Tín nhẫn": là nhập sơ địa, chơn kiến đạo. Trí chứng chơn như, cho nên bảo là vô tướng là sơ Tín nhẫn. "Chiếu Thắng-nghĩa-đế": là chứng
Như. "Diệt các phiền não", hai chướng nên gọi là các. Thể đều là vô minh gọi chung là phiền não kiến Đạo sơ đoạn cho nên gọi là diệt. Trước so với câu sinh nên gọi chung là phục, đó là dựa theo phân biệt đương Thể diệt. "Sinh giải thoát Trí": Nghĩa là quán pháp không sinh quán sát bình đẳng Trí phẩm, gọi là giải thoát Trí. Lại tức là pháp thân Bồ-tát vị Thủy Giác trong Khởi Tín Luận.
Dưới đây là phần ba-Cứu cánh diệt.
Kinh: Dần dần phục, diệt, dùng tâm sinh diệt, đắc không sinh diệt, tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt.
Giải thích: Ở đây có hai nghĩa, có thuyết nói: "Dần dần phục diệt". Theo Duy Thức quyển mười trong tu sở đoạn phiền não liền phục, sở tri liền diệt, ở trong địa thứ mười mỗi Địa đều vậy, cho nên bảo là tiệm tiệm, hơn nữa, tất cả những hiện khởi của phiền não chướng, Địa tiền thì dần dần phục Sơ Địa trở lên thì đều hàng phục hết, tùy theo những tương ứng với Trí chướng ở các Địa như sơ Địa thì Tham. Nhị Địa là Sân... mỗi Địa đều phục, chủng tử của những chướng đó đến Kim cang Định tất cả đều được nhanh chóng, như tất cả những hiện khởi của Sở Tri chướng, Địa tiền thì tiệm phục, cho đến Địa thứ mười mới vĩnh viễn đoạn dứt hết. Địa thứ tám trở lên sáu thức câu sinh đều không còn hiện hành vì vô lậu Quán tâm và Quả tương tục ngược lại với chúng, câu sinh với Thức thứ bảy còn có thể hiện hành đến quả trí pháp "không" khởi lên mới phục. Năm chuyển Thức trên giả như chưa chuyển y, vô lậu phục nên chướng không hiện khởi, nhưng chủng tử của những chướng đó, ở trong địa thứ mười dần dần theo thứ tự mà đoạn diệt, đến Kim cang Định mới vĩnh viễn đoạn dứt hết. Phục và diệt hai chướng có những khác nhau như trên.
"Dùng tâm sinh diệt": là Trí Năng chứng. "Đắc vô sinh diệt": là Như sở chứng. "Tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt". Đó là tâm tập khởi, tức là tập khí vô minh thức thứ tám thường nương vào tâm đó. Ngôi vị tâm vô lậu thì Thức hữu Lậu diệt vì những chủng tử vô minh kia đều đã diệt.
Có thuyết nói: "Dần dần phục diệt", theo khởi Tín Luận: là từ ngọn mà hướng về gốc, như người phàm phu vì hiểu biết niệm trước khởi ác nghiệp nên có thể ngừng niệm sau khiến nó không khởi, tuy lại gọi là Giác nhưng chính là Bất giác. Nhị thừa quán trí, mới Bồ-tát phát ý là vị tương tựa với giác vị, giác ngộ niệm khác không có tướng khác, xả phân biệt Thô, gọi là dần dần phục. Sơ Địa trở lên pháp Thân Bồ-tát tùy phần giác ở Niệm. Niệm không có Tướng Trú gọi là dần dần diệt, gọi chung là dần dần phục diệt. "Dùng tâm sinh diệt đắc vô sinh diệt": là dùng tùy phần giác tâm của sinh diệt, tu chứng không ngừng mà đắc đến cứu cánh vô sinh diệt. "Tâm đó nếu diệt thì vô minh diệt": như hết Bồ-tát Địa trong ngôi vị Đẳng giác, khi Kim cang Dụ Định hiện rõ tại tiền đầy đủ phương tiện thì tức là phương tiện Đạo một niệm tương ưng tức vô gián đạo, tướng đầu tiên của tâm giác ngộ tức là nghiệp Tướng nhân ở vô minh căn bản mà nghiệp Tướng động niệm, nghiệp Tướng tâm diệt thì vô minh diệt.
Dưới đây là phần hai-Kiến độn tiệm.
Kinh: Trước định Kim cang, vốn có các tri kiến đều không gọi là kiến, chỉ có Phật một lúc hiểu ngay, đủ Nhất-thiết-trí, thì tất cả tri kiến đó mới được gọi là kiến. Giải thích: "Trước định Kim cang": là trước ngôi vị Đẳng giác. "Toàn bộ tri kiến": là chứng Chơn đạt tục, Tuệ tri kiến. "Đều không gọi là kiến": vì Trí phẩm chưa đủ, hiểu biết giác ngộ chưa trọn vẹn, nên không gọi là kiến. "Duy chỉ Phật một lúc hiểu ngay, có đủ Nhất-thiết-trí, thì Tri kiến đó mới đắc gọi là kiến tức đủ cả bốn Trí phẩm, hiểu biết giác ngộ viên mãn tột cùng nên gọi là kiến.
Hỏi: Phật Trí dần dần viên mãn, vì sao lại gọi là đốn? (Một lúc ngay).
Đáp: Phàm luận về tiệm đốn thì có bốn loại: 1. Giáo tiệm đốn; phương tiện thì thuyết có ba. Nói thẳng thì chỉ có đại thừa; 2. Lý Tiệm Đốn: vì theo thứ tự dần dần ngộ nhập và chiếu Thật Tính; 3. hành tiệm đốn; Nhị thừa hồi tâm và thẳng đến; 4. Quả tiệm đốn: hai Trí phẩm trước dần dần theo thứ tự và viên mãn. Như gương trí phẩm hoàn hảo một lúc đầy đủ hình tượng. Thể của Niết-bàn Sở chứng chẳng có Tiệm hay đốn, đó là nói theo trí năng chứng, cũng không sai. Lại nữa, Bồ-đề vô thượng theo với tiệm tu mà viên tròn. Tính tịnh Bồ-đề thì vốn đã Mãn túc. Nay ở đây, quả vị Phật quả, giải Lý viêm cực, mộng tưởng đều hết. Giác biết tự tâm vốn không lưu động nay vô sở Tịnh, thường tự một tâm, trú giường Nhất Như, Như kinh Kim cổ nói: Trong mộng qua sông đến bờ bên kia rồi tức gọi là kiến ấy.
Dưới đây là phần ba-Kết. Vị viên mãn. Văn lại chia làm hai phần: 1. Đẳng giác; 2. Phật Quả.
Trong phần một lại có hai phần: 1. Đẳng giác vị.
Kinh: Này người thiện nam! Khi Kim cang Tam muội hiện tiền rõ ràng, nhưng vẫn chưa thể ngang bằng vị vô đẳng đẳng.
Giải thích: Ở vị Đẳng giác có sơ vị và hậu vị. Đây là Hậu vị. Nghĩa là: Bồ-tát đó, trú đệ tứ Thiền, cung Đại Tự Tại có quốc độ diệu tịnh. Như Thập Địa Luận quyển một nói: Tịnh độ do tự tâm của Bồ-tát Địa thứ Mười biến ra. Có hai loại: Nếu tịnh độ do Thức thứ tám biến ra, là còn thuộc về hữu lậu thức tướng phần. tuy được tu huân do Thiện lực vô lậu nhưng tướng tịnh Diệu đó là khổ đế nhiếp. Nếu theo tâm vô lậu Hậu đắc mà biến ra hình ảnh tịnh độ thì đó là vô lậu, từ chủng tử vô lậu Thiện mà sinh ra Thể là vô lậu, thuộc về Đạo đế. Ở trong Thổ đó mà tu giác. Như kinh Anh Lạc nói: Đẳng giác Bồ-tát dùng Đại nguyện lực Trú thọ trăm kiếp tu ngàn Tam muội ngàn kiếp học oai nghi Phật, vạn kiếp học hóa hiện của Phật. Từ đoạn này trở về trước là nói về những tu hành thuộc vị Đẳng giác.
"Sắp thành chánh giác, khởi Kim cang Tam muội": như Thập Địa Luận quyển mười và kinh Hoa Nghiêm quyển ba mươi chín đều nói: Bồ-tát Ma-ha-tát nhập Thọ Thức Địa đã đắc trăm vạn A-tăng-kỳ Tam muội đều hiện tiền rõ ràng. Tam muội cuối cùng tên là Thọ Nhất-thiết-trí Thắng chức vị, Tam muội đó hiện có Đại Bảo Liên hoa bỗng nhiên xuất sinh, Hoa đó rộng lớn ngang bằng với trăm vạn Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới, dùng nhiều diệu báu trang nghiêm xen lẫn, vượt quá tất cả cảnh giới tất cả thế gian là sự sinh khởi do Thiện căn xuất Thế. Thường phóng hào quang chiếu khắp cả pháp giới, số hoa sen nhiều như số bụi trần của Tam thiên Đại Thiên Thế giới làm quyến thuộc. Bấy giờ, thân thù diệu của Bồ-tát đó ngồi trên tòa Hoa đó, Tướng của thân lớn hay nhỏ vừa hợp với hoa. vô lượng Bồ-tát làm quyến Thuộc mỗi vị đều ngồi trên các Hoa sen còn lại, vây nhiễu chung quanh mỗi một vị đều đắc trăm vạn Tam muội, hướng về Đại Bồ-tát nhất tâm kính ngưỡng, toàn bộ hào quang và tiếng nói của Bồ-tát đó và quyến thuộc, tràn đầy khắp cả mười phương pháp giới. Tất cả thế giới đều chấn động cõi Ác dừng tắt Quốc độ nghiêm tịnh những Bồ-tát cùng hạnh đều đến tu tập. Dưới chân Bồ-tát đó phóng Hào quang chiếu các Địa Ngục. Đầu gối phóng hào Quang chiếu các cõi Súc Sinh. Vùng rốn phóng hào Quang chiếu cõi giới Diêm la, hai sườn phóng hào quang chiếu các cõi người, hai tay phóng Hào Quang chiếu cõi Thiên và Tu la. hai vai phóng hào quang chiếu khắp Thanh văn, đỉnh lưng phóng hào quang chiếu Bích chi Phật mặt phóng quang chiếu sơ phát tâm cho đến Bồ-tát địa thứ chín giữa chặng mày phóng quang chiếu khắp cả Bồ-tát thọ chức ở mười phương, trên đảnh đầu phóng Quang chiếu khắp tất cả đạo tràng của chư Phật ở Mười phương rồi nhiễu phải mười vòng, trú giữa trong hư không, thành cưới hào Quang, mưa đồ trang nghiêm để cúng dường. Lại nhiễu mười vòng từ dưới chân các Như Lai mà vào. Bấy giờ chư Phật và chư Bồ-tát biết ở Thế giới nào đó, Bồ-tát Ma-ha-tát nào đó đến thọ nhận chức vị. Các Bồ-tát kia đều đến quan sát, mỗi vị đều đạt được mười ngàn Tam muội, giữa mày của tất cả chư Phật xuất ra hào quang chiếu khắp tất cả Thế giới mười phương, nhiễu quanh phải mười vòng thị hiện Phật sự; mà đến trên Hội của Bồ-tát đó. Nhiễu phải chung quanh thị hiện nhiều loại sự việc trang nghiêm xong, từ đỉnh đầu của Đại Bồ-tát mà nhập vào, đắc trăm vạn Tam muội mà trước đây chưa từng đắc, gọi là đã thọ chức ngôi vị. Như Thái tử do chuyển Luân vương sinh ra. Mẹ là Chánh hậu, Thân Tướng đầy đủ, Vua bảo Thái tử ngồi tòa báu vàng thù diệu voi trắng, lưới màn tràng phan, rải hoa tấu nhạc, lấy nước bốn biển chứa trong bình vàng, vương cầm bình đó, rưới đầu Thái tử. Lấy ấy tức gọi là thọ chức vị vua. "Khi Kim cang Tam muội hiện tiền rõ ràng": tức phần trước sinh nói; đắc Tam muội sau cùng chưa từng đắc trong trăm vạn Tam muội trước đây, nương theo Định thù thắng đó mà khởi vô gián Đạo, đoạn vi tể chướng, đây có hai nghĩa: có thuyết nói: Đây là đoạn chướng của Địa thứ mười một, Như Lai Địa. Có hai vô minh. Như kinh Kim Quang Minh nói: 1. Vô minh với tất cả cảnh vi tế Sở tri chướng Ngại. Tức chính là sở tri chướng vi tế ở trong đó; 2. Vô minh cực tế phiền não thô trọng: tức chính là tất cả chướng phiền não ở dạng chủng tử tùy tiện. Hai vô minh đó làm chướng Phật Địa. Khi vô giáo đạo, những thứ đó bị đoạn xả mà Bản Thức chủng hiện. Có thuyết nói; đoạn là Như khởi Tín Luận, duy chỉ Tướng của tâm diệt, chứ chẳng phải thể của tâm diệt. Diệt tức là đoạn. Tự Tướng tâm thể, nêu Thể là vô minh kia khởi. Đó là kích tịnh khiến động, chẳng phải là nói vô tâm khiến làm, Nhân động của tức có tâm chính là vô minh khởi thành nghiệp tướng. Nay ở ngôi vị Đẳng giác, đoạn dứt gốc vô minh. Căn bản vô minh đã hết thì Tướng động cũng diệt theo. Nhưng chỉ diệt Tướng tâm không diệt Thể tâm. Hai thứ khác nhau là: trước là đoạn dứt chuyển Thức, sau là đoạn dứt Bản Thức. Hợp cả hai đoạn văn, mà chọn nghĩa phù hợp.
"Nhưng chưa thể ngang bằng vị vô đẳng đẳng": Vị này còn kém chưa thể ngang bằng với Phật. Phật thì siêu vượt ngôi vị này cho nên gọi là vô đẳng. Đạo của chư Phật thì ngang nhau, cho nên gọi là đẳng đẳng.
Dưới đây là phần hai-Nêu dụ giải thích thành.
Kinh: Thí như có người lên đài cao lớn, nhìn khắp tất cả, không gì là không rõ.
Giải thích: "Lên đài cao": là ở đỉnh, vị cao nhất của Bồ-tát như trên đỉnh. Dưới đây là phần hai-Quả vị Phật. Kinh: Vị giải thoát, nhất tướng vô tướng, không sinh không diệt, đồng chơn tế, đẳng pháp tính, đầy tạng công đức, trụ Như Lai vị.
Giải thích: "Vị giải thoát": là đạo giải thoát. Bản Thức chủng hiện, vô lậu kém cõi và vi tế chướng bị đoạn dứt, bị vứt bỏ. Vô gián giải thoát như trên đã nói; "Nhất Tướng": tức là Tịnh pháp giới một chơn Tướng "vô tướng": là bốn Trí tâm phẩm, tùy chứng Như thường vô tướng. "Không sinh không diệt", Thể tuy là tương tục, nhưng thường hợp bằng Như, không có gián đoạn. "Đồng chơn Tế": là Trí ngang với Như. "Đẳng pháp Tính": là không biến đổi. "Đầy công đức Tạng": là công đức hữu vi đầy thân Trí đức. Công đức vô vi tính tự đầy mãn. "Trú Như Lai vị": là vị đã viên mãn.
Dưới đây là phần hai-Kết. Thọ trì. Trong đó có hai phần: 1-Kết. Thọ trì; 2. Tin hiểu. Dưới đây là phần một.
Kết. Thọ trì.
Kinh: Này người thiện nam! Như vậy, chư Bồ-tát Ma-ha-tát, thọ trì giải nói đều đi đến mười phương cõi nước của chư Phật, lợi an hữu tình, thông đạt thật tướng, như ta ngày nay, ngang bằng không khác.
Giải thích: "Như vậy..." là kết chung phần trên. Thọ trì giải thuyết đến các cõi Phật, lợi lạc so với Phật thì có hơn kém khác nhau nhưng về phần hóa lợi thì giống nhau, cho nên bảo là không khác.
Dưới đây là phần hai-Kết. Tín giải. Trong đó có hai phần: 1. Trường hàng hiển thị; 2. Thuyết kệ tỏ lại. Dưới đây là phần một-Trường hàng hiển thị.
Kinh: Này người thiện nam! Thập phương pháp giới, tất cả Như Lai đều nương theo môn này mà được thành Phật. Nếu nói vượt đây mà được thành Phật, đó là Ma nói, chẳng phải là Phật thuyết. Do đây, các ông nên như vậy biết, như vậy thấy, như vậy tin, hiểu.
Giải thích: "Đều nương theo Môn này": là nêu rõ đồng tu. "Nếu nói vượt đây...": là chẳng phải Phật thuyết. "Do đó..." là khuyên sinh chánh giải. "Thấy..." như Trí Luận nói: Nếu Trí nương dựa y chỉ ở Xa-ma-tha gọi là biết, nương vào Ty-bát-xá-na gọi là kiến. Cả hai thứ đó y chỉ vào Tam Ma Đề cho nên là Trí giải. Vì Tam Ma Đề tác dụng tự tại, cởi mở duyên níu ở bên trong do có hình ảnh nên gọi là Thắng giải.
Dưới đây là phần hai-Thuyết kệ nói lại. Trong đó chia làm hai phần:
1-Nêu Phật thuyết kệ. 2. (???)
Kinh: Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại lần nữa nghĩa này mà nói kệ:
Giải thích: Tụng lại nghĩa trước, Dưới đây là phần hai-Kệ tụng tỏ lại. Trong đó chia làm ba phần: 1. Có một hàng, nói chung về Tam bảo;
2. có mười hàng rõ riêng về địa thứ mười; 3. Có một hàng. Kết. Phật Quả. Dưới đây là phần một-Tỏ chung về Tam bảo.
Kinh:
Bồ-tát phục nhẫn kia
Nơi pháp Phật nuôi lớn
Kiên cố ba mươi tâm
Gọi là Bất thối chuyển.
Giải thích: Nói về nhẫn sở y nuôi lớn Thánh thai, kiên cố không thối Tín vị và tâm, kết ba bất thối.
Dưới đây là phần hai-Nói về địa thứ mười. Văn có mười phần: Dưới đây là phần một-Hoan hỷ Địa.
Kinh:
Sơ chứng tính bình đẳng
Mà sinh nhà chư Phật
Do mới đắc giác ngộ
Gọi là Địa Hoan hỷ.
Giải thích: Bắt đầu, giác ngộ tức sở chứng sở sinh. Kết về tên gọi có thể biết.
Dưới đây là phần hai-Ly cấu Địa.
Kinh:
Xa lìa mọi nhiễm ô
Các sân nhiều loại cấu
Đủ giới Đức thanh tịnh
Gọi là Địa Ly cấu.
Giải thích: Sở ly, Sở đoạn, đủ giới đức. Dưới đây là phần ba-Phát Quang Địa.
Kinh:
Diệt hoại vô minh ám
Mà đắc các thiền định
Sáng chói do Tuệ quang
Gọi là Địa Phát Quang.
Giải thích: Sở đoạn, Sở đắc, Định Tuệ tự tại. Dưới đây là phần hai-Diễm Tuệ Địa.
Kinh:
Bồ-đề phần thanh tịnh
Lìa xa Thân, Biên kiến
Trí tuệ chiếu sáng tỏ
Gọi là Địa Diệm tuệ.
Giải thích: Sở tu, sở đoạn, Diệm Tuệ tăng thêm.
Dưới đây là phần năm-Nan Thắng Địa.
Kinh:
Như thật tri các đế
Các kỹ nghệ thế gian
Nhiều loại lợi quần sinh
Gọi là Địa-nan thắng.
Giải thích: Sở quán Sở tập, kết hợp hai lợi. Dưới đây là phần sáu-Hiện tiền Địa.
Kinh:
Quán sát pháp duyên sinh
Vô minh đến lão tử
Thường chứng chúng sâu xa
Gọi là Địa Hiện tiền.
Giải thích: Sở quán sở chứng hiểu, rõ nhiễm tịnh. Dưới đây là phần bảy-Viễn hành Địa.
Kinh:
Phương tiện Tam ma địa
Thị Hiện vô lượng thân.
Thiện xảo ứng quần sinh
Gọi là Địa Viễn hành.
Giải thích: Hạnh thù thắng tương ứng với Hiện thân thiện xảo. Dưới đây là phần tám-Bất động Địa:
Kinh:
Trụ ở biển vô tướng
Tất cả Phật gia trì
Tự tại phá quân Ma
Gọi là Địa chẳng động.
Giải thích: Sở trú, Sở Khuyến (khuyến khích gia hộ), như văn trên. Phá quân Thiên Ma, rốt ráo ở Địa này.
Dưới đây là phần chín-Thiện Tuệ Địa.
Kinh:
Đắc bốn vô ngại giải
Một âm diễn tất cả
Người nghe đều hoan hỷ
Gọi là Địa Thiện tuệ.
Giải thích: Sở đắc, Sở lợi, sinh Hoan hỷ. Dưới đây là phần mười-Pháp vân Địa.
Kinh:
Trí tuệ như mây dày
Đầy khắp ở pháp giới
Rưới mọi pháp cam lồ
Gọi là Địa Pháp vân.
Giải thích: Như mây đầy khắp, rưới xuống mưa như pháp. Dưới đây là phần ba-Kết. Quả vị Phật.
Kinh:
Đầy đủ giới vô lậu
Thường tịnh giải thoát thân
Tịch diệt bất tư nghị
Gọi là Nhất-thiết-trí.
Giải thích: Nói "Mãn túc": tức là cứu cánh nghĩa. Nói "vô lậu" là lậu đã vĩnh tận. "Giới": nghĩa là Tạng vì gương trí bao hàm cả Đại công đức, hoặc nghĩa là Nhân, xuất sinh các Thừa làm lợi lạc rộng lớn. "Thường tịnh giải thoát thân": là chuyển năm uẩn vô Thường, chứng được pháp Thường, là thanh tịnh pháp giới không có sinh diệt, tức là chơn giải thoát, Thể an lạc. "Tịch diệt Bất tư Nghị": là Bồ-đề và Niết-bàn đều tịch diệt. Quả cứu cánh đó đều không thể nghĩ bàn vượt quá con đường suy tư nghị luận. "Gọi là Nhất-thiết-trí": là nêu Trí kết về tên gọi.
Phần văn trên là mười ba pháp sư phụng trì.
Dưới đây là phần hai: Mười sáu Quốc vương phụng trì. Trong đó chia làm ba phần: 1. Các vua phụng Trì; 2. Nói về pháp hộ quốc; 3. Chư vương được ích.
Trong phần một. Các vua phụng Trì. Văn chia làm năm phần: 1. Nói pháp hộ quốc; 2. Nói bảy Nạn; 3. Nguyên nhân các Nạn; 4. Đức của Bát-nhã; 5. Giáo hưng phế.
Trong phần một văn lại chia làm hai phần: 1. Thời hộ quốc; 2. pháp được trao.
Văn phần một lại chia làm hai phần: 1. Thời hộ quốc. Kinh: Phật bảo vua Ba-tư-nặc: Sau khi Ta diệt độ, lúc pháp sắp diệt, vì tất cả hữu tình tạo nghiệp ác làm cho các quốc độ khởi lên nhiều loại tai họa.
Giải thích: "Ta diệt độ": là nêu chung về thời gian. "Khi pháp sắp diệt": Nhất thể, biệt tướng, đều là thường trú, còn trú trì Tam bảo, thì thời có suy diệt, ngược lại là hiển bày bất diệt. Có tu hành là Thời tốt, không có các nạn. "Tất cả hữu tình tạo Ác nghiệp": là do pháp suy diệt mà mười ác tăng. "Khiến khởi lên nhiều loại tai nạn ở các Quốc độ": do bởi mười ác tăng mà có nạn khởi lên, giải thích theo phép triển chuyển dẫn đến.
Dưới đây là phần hai-Khuyên vua trì đọc.
Kinh: Vua của các nước, muốn hộ tự thân, Thái tử, vương tử, hậu phi, quyến thuộc, trăm quan, trăm họ, tất cả quốc độ, nên thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật đa này, sẽ đều được an lạc.
Giải thích: Khuyên các vua đề cao pháp thù thắng này, mỗi vị đều tự trì đọc đều được An lạc. Dưới đây là phần hai-Pháp được trao gởi. Trong đó có bốn phần: 1. nói về pháp được trao gởi.
Kinh: Ta lấy kinh này trao gởi cho Quốc vương, không trao cho Tỳ-khưu, Tỳ-khưu ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bàdi.
Giải thích::Chỉ có Quốc vương mới có khả năng dựng xây chánh pháp nên lấy kinh trao gởi, không trao gởi hạng khác.
Dưới đây là phần hai-Trưng hỏi nguyên do.
Kinh: Nguyên do là sao?
Giải thích: Vì nguyên nhân gì mà không trao gởi người khác. Dưới đây là phần ba-Giải thích ý không trao.
Kinh: Không có oai lực của Vua thì không thể dựng lập.
Giải thích: Những hạnh khác đều nương dựa vào vua, không có lực để kiến lập. Dưới đây là phần bốn-Kết. Khuyên thọ trì.
Kinh: Do đó, các nông thường nên thọ trì, đọc tụng, giải nói.
Giải thích: Vua tự thọ trì giáo hóa phổ cập đến cỏ cây, tôi, dân đổi thiện, tai nạn tự trừ tức là Hộ quốc vậy. Dưới đây là phần hai-Nói rộng bảy nạn. Trong đó chia bốn phần.
1. Cảnh sở hóa; 2. Nói bảy nạn; 3. Liệt kê các Nạn;
4; Kết. Khuyên thọ trì. Trong phần cảnh sở hóa văn lại chia làm hai phần: 1. Nói chung về hóa cảnh; 2. Nói riêng về châu Thiệm Bộ. Dưới đây là phần một-Nói chung về hóa cảnh.
Kinh: Đại vương! Ta nay hóa đại thiên thế giới, trăm ức Tu Di, trăm ức nhật nguyệt, mỗi một Tu Di có bốn thiên hạ.
Giải thích: Nêu chung đại thiên là nói về hóa cảnh. Dưới đây là phần hai. Nói về Thiệm Bộ. Trong đó chia làm ba phần: Dưới đây là phần một. Nói chung các nước. Kinh: Châu Thiệm Bộ này, mười sáu nước lớn, năm trăm nước vừa, mười vạn nước nhỏ.
Giải thích: "Châu Thiệm Bộ này": là theo tên cây mà đặt tên. Hình lớn nhỏ, thân lượng, thọ lượng, tác nghiệp thú quả ở châu này, như thường đã phân biệt rõ. "Mười sáu nước lớn": đến phần sau sẽ kê tên.
Hỏi: kinh cũ chỉ nói là mười ngàn nước nhỏ, ở đây lại nói là mười vạn nước nhỏ, sao nhiều vậy ư?.
Đáp: Kinh cũ thường dùng nơi giáo đạt đến (phổ cập) mà luận. Vì sao biết vậy? Như kinh Kim Quang Minh phẩm thứ sáu phẩm Hộ quốc nói: Châu Thiệm Bộ này, tám vạn bốn ngàn thành ấp tụ lạc, tám vạn bốn ngàn các Vua Người, mỗi vị đều ở nước họ hưởng các khoái lạc, đều đắc tự tại, cho đến từ Bi khiêm nhường tăng trưởng thiện căn, nhờ nhân duyên ấy mà an Lạc giàu vui. Đây tuy thừa nhỏ, có gì làm lạ, bản tiếng phạm khác nhau, mỗi bản đều văn như vậy.
Dưới đây là phần hai-Có nạn thọ trì.
Kinh: Trong các nước ấy, nếu bảy nạn dấy khởi, tất cả Quốc vương vì để trừ nạn mà thọ trì giải nói Bát-nhã Ba-la-mật đa này.
Giải thích: Trong các nước ấy nếu thường thọ trì thì nạn quyết không dấy khởi. Hoặc có nạn được thoát thì chỉ có thọ trì. Nhà nhà làm Thiện thì điều vui lành có dư.
Dưới đây là phần ba-Nạn trừ, an lạc.
Kinh: Bảy nạn liền diệt, quốc độ an lạc.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần hai-Chính nêu về bảy Nạn. Trong đó chia làm hai phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi.
Kinh: Vua Ba-tư-nặc nói: Bảy Nạn là gì?
Giải thích: Hỏi: Dưới đây là phần hai-Như Lai chánh đáp. Trong đó chia làm bảy phần: 1. Nạn nhật nguyệt bạc thực (Nhật thực, nguyệt thực).
Kinh: Phật bảo một là: Nhật nguyệt thất độ, nhật sắc biến đổi, sắc trắng, sắc đỏ, sắc vàng, Sắc đen, hoặc hai, ba, bốn, năm mặt trời cùng chiếu. Hoặc sắc mặt trăng biến đổi. Sắc đỏ, sắc vàng. Nhật Nguyệt bạc thực hoặc có trùng luân. Một, hai, ba, bốn, năm trùng luân hiện.
Giải thích: Trong văn có năm thứ: thất độ, màu sắc biến đổi, tăng nhiều mặt trời, nhật nguyệt bạc thực và trùng luân, như văn đã rõ.
Dưới đây là phần hai-Nạn các sao biến đổi.
Kinh: Hai là tinh thần (các sao) thất độ, sao Chổi, sao Mộc, sao kim, sao Thủy, sao Thổ... các sao mỗi mỗi sao đều biến đổi, hoặc lúc ban ngày lại xuất hiện.
Giải thích: Trong văn có bốn: Thất độ, Sao chổi, năm sao thay đổi, và hiện ra ban ngày. Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba-Nạn các lửa thiêu đốt.
Kinh: Ba là lửa rồng, lửa quỉ, lửa người, lửa cây, lửa lớn, bốn bề dấy khởi thiêu đốt vạn vật.
Giải thích: Trong văn có năm thứ: Lửa nồng là sấm sét khởi lửa. Lửa quỉ là có thể làm ra bệnh ôn dịch. Lửa Người là những người đắc Ngũ Thông, gặp trái duyên hiện tại, ý muốn khởi lửa. Lửa cây là khi hạn hán nóng bức quá mức, cây gỗ khởi lửa. Lửa lớn bốn bề khởi là nghiệp bất thiện chín mùi, tùy nơi mà lửa khởi thành ra là Nạn.
Dưới đây là phần bốn-Nạn khí hậu biến đổi.
Kinh: Bốn là Thời tiết biến đổi, nóng lạnh bất thường, đông thì mưa sấm chớp, hạ thì tuyết băng sương, mưa đất đá núi, cùng những sỏi cát mưa đá phi thời, mưa nước đỏ, nước đen, sông ngòi lụt lội, đá chảy, núi trôi.
Giải thích: Trong văn có sáu thứ: 1. Thời tiết biến đổi; 2. Mùa đông mùa hè, mỗi màu có ba thứ la; 3. Mưa đất Đá núi: kinh chánh pháp Niệm quyển hai mươi nói: Vua A-tu-la chiến tranh với Chư Thiện hoặc nâng đá lớn vuông vứt tám trăm dặm hoặc lấy núi lớn tên là Ba lợi khư rộng năm trăm do tuần, ném đánh với chư Thiên nhờ oai lực của Trời liền ở trong không, bắn tên khiến đá bị tan vỡ hoặc dùng lửa thiêu diệt, tiếp ngọn núi lớn đó đánh lại A-tu-la quân A-tu-la bị hung ác phá tan, chạy tán loạn xuống dưới biển, về núp ở cung điện của mình cá lớn ở biển đều sợ hãi chạy tán loạn, mưa đất, đá núi là tương tự như vậy; 4. Mưa đá trái thời; 5. Nước mưa đổi màu; 6. Mưa quá mức lớn làm sông ngòi lụt lội. Đá trôi núi nổi.
Dưới đây là phần năm-Nạn gió lớn khởi.
Kinh: Năm là gió bão khởi lên, che mờ nhật nguyệt, tốc nhà, đổ cây cát bay đá chạy.
Giải thích: Câu đầu là nêu chung, ba câu sau là nạn, như văn đã rõ.
Dưới đây là phần sáu-Nạn trời đất hạn hán.
Kinh: Sáu là: hạn hán, sông kiệt hồ cạn, cỏ cây chết khô, lúa gạo không thành.
Giải thích: Nêu nạn như trên. Lúc đó là Năm thứ hai đời Vĩnh Thái, năm canh Ngọ tháng sáu mùa hạ, trời không có mưa, cầu núi, sông Xuyên sắp quá mùa mà vẫn không ứng nghiệm, kể đến đây, thẹn mình không có năng lực bèn để quyển kinh trước mặt quán trưởng lâu dài, thành tâm cáo bạch. Lúc đó, ngẫu nhiên tế hội, hiệu nghiệm lạ kỳ. Chư Thiện nghe được đến gặn hỏi han. Tháng đó ngày ba mươi có chiếu chỉ của Vua viết: "Nhân vương chơn kinh, nghĩa tông Hộ quốc, Sư diễn thuật diệu chỉ, hoằng Thệ càng sâu, liền được mây từ kết bóng, mưa pháp chảy nhuần. Lúc mùa xanh tươi. Cả năm được mùa, công phu chí thành, rất đáng khen ngợi". Đó thật ra là do minh Chúa chí Đạo, đại thần tin sâu, sự gia hộ bởi từ lực của Bồ-tát năm phương.
Dưới đây là phần bảy-Nạn bốn bề giặc đến.
Kinh: Bảy là bốn phương giặc đến, xâm lăng trong ngoài, chiến tranh phát khởi trăm họ chết chóc.
Giải thích: Nêu nạn như trên, phần trên gồm bảy đoạn văn, riêng thì có hai mươi chín thứ.
Dưới đây là phần ba-Liệt bày các Nạn.
Kinh: Đại vương! Ta nay lược nêu các nạn như vậy, trong đó có: Mặt trời ban ngày không hiện. Mặt trăng ban đêm không hiện. Trời nhiều loại tai: không có mây, mưa, tuyết. Đất nhiều loại tai: nứt nẻ động đất, hoặc lại máu chảy, quỉ thần xuất hiện, chim thú quái lạ, tai nạn như vậy, vô lượng vô biên.
Giải thích: Trong văn có năm thứ: 1. Nhật nguyệt không hiện; 2. Trời nhiều loại tai ách; 3. Đất nhiều loại tai ách; 4. Quỷ thần xuất hiện;
5. Chim thú quái lạ. "Tai nạn như vậy,.." là liệt kê nhiều thứ khác. Các điềm chẳng lành cầu vồng trắng, đen. Sói cọp lộng hành, sâu bọ hại cây cỏ, nhiều loại nạn cho nước cho nhà.
Dưới đây là phần bốn-Kết. Khuyên thọ trì.
Kinh: Mỗi một tai nạn dấy khởi, đều cần phải thọ trì đọc tụng giải nói Bát-nhã Ba-la-mật đa này.
Giải thích::Nói "Mỗi một"; là tai nạn không kể là lớn hay nhỏ đều khuyên thọ trì, đọc tụng giả thuyết. Ở trên đã nói bảy nạn liền diệt, quốc độ an lạc, cho nên ở đây chỉ khuyên không nói diệt thôi.
Dưới đây là phần ba-Nói về Nhân của các nạn. Trong đó chia làm ba phần: 1. Vua Ba-tư-nặc hỏi
Kinh: Bấy giờ! Mười sáu Quốc vương nghe Phật đã nói, thảy đều kinh sợ. Vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Vì sao trời đất có những tai nạn ấy?
Giải thích: "Mười sáu Quốc vương"; Thánh chúng tuy nghe những đã vượt qua sự sợ hãi. Còn các Vua vì nước mình, nên đều kinh sợ. Vì vậy mà Vua Ba-tư-nặc phát lời hỏi đó.
Dưới đây là phần hai-Thế Tôn chánh đáp
Kinh: Đại vương! Do châu Thiệm bộ, quốc ấp lớn nhỏ, tất cả dân chúng bất hiếu cha mẹ, bất kính sư trưởng, sa môn, Bà-la-môn, Quốc vương, đại thần không hành chánh pháp.
Giải thích: "Do Châu Thiệm Bộ" là nêu chung. Ở bốn đại châu tai nạn khác nhau; như kinh Chánh Pháp Niệm quyển mười tám nói: ở Đông phất bà đề, người ở châu đó, không tu pháp hành thì rồng dữ Tăng trưởng gồm rống Sấm lớn, như núi lớn đổ hoặc chớp tia sáng, rồng hiện trong mây, giống như mây đen, cổ có ba đầu, hoặc làm thân rắn. tâm họ yếu mềm thấy việc ấy đều bị bệnh khổ mà suy não. Ở Tây Cù Đà Ni tâm chúng sanh ướt át, không tu pháp hành, bị rồng dữ phi pháp, ở vùng hẻo lánh hiểm trở giáng mưa lớn làm tất cả nước bị vẩn đục người uống nước ấy thì bị suy yếu buồn khổ. Ở Bắc Uất đơn việt như cõi trời thứ hai. Nếu người thế gian đó, bất hiếu cha mẹ thì rồng dữ tự tại khởi mây đen lớn, giống như núi đen, che kín mặt trời. Hoa sen liền khép lại không có mùi thơm mất ánh sắc vàng. Ở núi Tăng ca xa, chim hót tiếng thô xấu, họ thấy việc ấy sầu não sợ hãi, trong mây khởi gió thổi bay các tiếng âm nhạc âm nhạc tan mất không còn thích thú. Ở trong Diêm-phù-đề gồm có bốn duyên: 1. Đói khát; 2. Chiến tranh; 3. Gió độc; 4. Mưa dữ. Do những duyên đó mà bỏ mất thân mệnh. Đó là nói chung.
"Quốc ấp lớn nhỏ": là nêu về sự khác nhau.
Có sáu duyên: 1. Bất hiếu với cha mẹ, là người sinh ra thân mình;
2. Bất kính Sư trưởng là người thành tựu đức mình; 3. Bất kính sa môn là phước điền lành; 4. Bất kính Bàla-môn là người có chí hướng tu đạo;
5. Quốc vương không hành chánh pháp; 6. Đại thần không hành chánh pháp. Có một trong sáu điều đó thì tai nạn sẽ sinh nếu đủ cả sáu điều thì tai nạn luôn khởi.
Dưới đây là phần ba-Kết. Các nạn khởi.
Kinh: Do các ác đó, nên có nạn ấy hưng khởi.
Giải thích: Văn dễ, đã rõ. Dưới đây là phần bốn-Đức của Bát-nhã. Trong đó có hai phần: 1. Đức Bátnhã; 2. Khuyên phụng trì.
Trong phần Đức Bát-nhã văn chia làm hai phần: 1. Có đủ các Đức; 2. Nêu dụ làm rõ. Dưới đây là phần một-Có đủ các đức.
Kinh: Đại vương! Bát-nhã Ba-la-mật-đa có thể xuất sinh tất cả pháp của chư Phật, tất cả pháp giải thoát của Bồ-tát, tất cả pháp vô thượng của Quốc vương, tất cả pháp xuất ly của Hữu tình.
Giải thích: "Bát-nhã Ba-la-mật": là chỉ bày thể của pháp. Tiếp nữa là nói về mẹ của Phật, chư Bồ-tát là pháp giải thoát. Tiếp nữa chư Quốc vương nguyện hộ quốc là vô Thượng pháp bảo, không có gì bằng. Sau cùng là tất cả hữu tình nếu xưng tên hoặc lại với kinh thọ trì đọc tụng thì chắc chắn được xuất ly.
Dưới đây là phần hai-Nêu dụ giải thích thành. Trong đó có ba phần: 1. Nói chung dụ về Thể; 2. Hiển riêng về Đức thù thắng; 3. Kết Bát-nhã. Dưới đây là phần một-Nói chung dụ về thể.
Kinh: Như báu Ma ni, thể đủ các đức.
Giải thích: "Như": nghĩa là nêu dụ. Tiếng phạm gọi là Ma Ni tiếng Hoa gọi là Bảo, (báu) thuận theo cách dịch cũ, dịch mới là Mạt-ni-cụ-túc, đúng thì Chấn-dimạt-ni tiếng Hoa là Tư duy bảo. Hội ý dịch là Như ý Bảo Châu, tùy ý sở cầu đều là mãn túc. "Thể đủ các đức": là nêu các Đức ở phần sau:
Dưới đây là phần hai-Hiển bày riêng về đức thù thắng.
Kinh: Có thể ngăn giữ được rồng độc, các quỉ thần ác, làm toại lòng người, thỏa mãn sự mong muốn, có thể ứng với Luân vương, gọi là ngọc Như ý, có thể khiến các đại Long vương như Nan đà, Bạt Nan đà... giáng xuống mưa ngọt, cỏ cây tươi tốt. Nếu ở đêm tối, đặt ngọc báu ấy trên chỗ cao, ánh sáng soi cả trời đất, sáng như mặt trời mọc.
Giải thích: "Ngăn chận được rồng độc": là đức trấn rồng quỉ dữ. nghĩa là ngọc báu Ma ni bảo trấn các rồng độc, làm ngừng lặng mưa gió dữ trấn quỉ thần dữ, không hành ôn dịch, không làm phi pháp giết hại hữu tình. "Làm toại lòng người"; là đức thỏa mãn mong cầu của người: nghĩa là ngọc Ma Ni, nếu có người mong cầu về áo quần, ăn uống, đồ trân bảo, đều có thể được. "Có thể ứng với Luân vương": là đức châu ý Luân vương. Nghĩa là Ma ni bảo ứng với chuyển Luân vương, theo ý của vương cần gì được nấy. "Có thể khiến các...": là đức của rồng giáng mưa ngọt: nghĩa là Ma ni bảo có thể khiến cho Nan Đà (tiếng Hoa dịch là Hỷ) Bạt Nan Đà (tiếng Hoa dịch là Hiền Hỷ) các Đại Long vương tùy thuận pháp hành, giáng xuống mưa ngọt, cỏ cây xanh tươi. "Nêu ở đêm tối": là đức ánh sáng quang chiếu thiện địa. nghĩa là Ma ni bảo, vào đêm tối đặt ở trên chỗ cao chiếu sáng khắp cả như mặt trời mọc.
Dưới đây là phần ba-Kết. Bát-nhã
Kinh: Bát-nhã Ba-la-mật đa này cũng lại như vậy.
Giải thích: Nghĩa là: Bát-nhã này có đủ các đức kê trên, có thể trấn giữ tin, hiểu, trấn rồng ác ba độc các quỉ năm kiến của tất cả hữu tình. Lại nữa, nếu Người thọ trì đọc tụng tất cả những điều mong cầu; Quan vị; giàu có, con cái, Tuệ giải đều được tùy ý. Quả báo cõi Trời cõi người đều được thỏa mãn.
Lại nữa, đó tức chính là chư Phật pháp vương, Bồđề Niết-bàn vô thượng ý châu vì bởi từ trong Tịnh pháp giới lưu xuất...
Dưới đây là phần hai-Kết. Khuyên phụng trì, trong đó chia làm bốn phần: 1. Khuyên vua cúng dường.
Kinh: Chư vương các ông, nên làm cờ báu và dùng phướn, lọng thắp đèn rải hoa, cúng dường rộng lớn.
Giải thích: Xây dựng đạo tràng, tỏ lòng cung kính. Dưới đây là phần hai-Nơi đặt kinh.
Kinh: Dùng hộp báu đựng kinh, đặt ở bàn báu.
Giải thích: Hộp báu, bàn báu; là tỏ sự tôn trọng.
Kinh: Nếu khi sắp đi, thường kinh đi trước.
Giải thích: Khi vua muốn đi, thường để kinh này dẫn dắt đi trước. Nghe nói các xứ có Phật pháp ở phương Tây, Quốc vương các nước đều dùng Bát-nhã làm vật báu trấn quốc, Nếu vua xuất hành để kinh đi trước thì cả nước không có tai nạn.
Dưới đây là phần bốn-Trú xứ cúng dường.
Kinh: Trú xứ hiện tại làm trướng bảy báu, các báu làm tòa, đặt kinh ở trên, cúng dường nhiều loại, như thờ cha mẹ, cũng như chư Thiên phụng sự đế Thích.
Giải thích: "Trú xứ hiện tại": là chỗ đặt kinh. văn dể hiểu đã rõ. Dưới đây là phần năm-Giáo hưng phế. Trong đó có hai phần: 1. Nhân giáo hưng khởi.
Kinh: Đại vương! Ta thấy tất cả vua người ở các nước, đều do quá khứ cúng dường năm trăm Phật, cung kính cúng dường đắc làm đế vương. Tất cả Thánh nhân được đạo quả, sinh đến nước đó, làm lợi ích lớn.
Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai-Các nạn khởi.
Kinh: Nếu vua hết phước, vô đạo, thì Thánh nhân bỏ đi, tai nạn tranh khởi.
Giải thích: Như văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai-Pháp Hộ quốc. Có ba phần: 1. Người hộ quốc; 2. Pháp hộ quốc; 3. Thế Tôn ấn thuật. Trong phần hộ quốc, văn có hai phần: 1. Phật khiến Hộ quốc; 2. Bồ-tát kính thừa, văn phần một lại có ba phần: 1. Cáo thị chư vương; 2. Răn bảo chư Bồ-tát; 3. Làm tượng cúng dường. Dưới đây là phần một-Cáo thị các vua.
Kinh: Đại vương! Nếu đời vị lai, có các Quốc vương, kiến lập chánh pháp, hộ trì Tam Bảo, thì ta khiến chúng Bồ-tát Ma-ha-tát ở năm phương đến hộ trì nước đó.
Giải thích: "Kiến lập chánh pháp". Đây có hai loại: 1. Thế gian chánh pháp, như kinh Kim Quang Minh nói: Cai trị như pháp; 2. Xuất thế chánh pháp: là các pháp giải thoát do chư Phật đã thuyết.
Dưới đây là phần hai-Răn bảo chư Bồ-tát. Trong đó chia làm năm phần: 1. Bồ-tát ở Đông phương.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Thủ ở phương Đông, tay cầm chày Kim cang, phóng ra hào quang xanh, cùng với bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.
Giải thích: "Kim cang" kinh Kim cang đảnh Du-già bản phạm nói: có đủ cả hai nghĩa: kiên cố, bén nhọn. Cả năm Bồ-tát đều nương theo hai loại luân để hiện thân. 1. Pháp luân hiện chơn thật thân: thân báo đắc do tu hạnh nguyện; 2. Giáo lệnh Luân thị hiện thân: do khởi đại bi mà khởi thân uy mãnh. Bồ-tát Kim cang Thủ đó tức chính là Bồ-tát phổ Hiền oai nghi dữ tợn.
"Tay cầm chày Kim cang": là do chánh trí khởi, giống như Kim cang có thể chặt đứt Ngã pháp vi tế chướng, nương theo giáo lệnh Luân hiện thân oai nộ thị hiện ba đầu tám tay hàng phục tất cả trời Ma-hê-thủ
-la, ở cõi Trời Đại Tự tại các chúng ma quân điều phục những người làm hại chánh pháp, não hại chúng sanh.
"Phóng hào quang xanh": là khả năng trừ diệt chúng ma.
"Bốn câu chi": một câu chi là như kinh Hoa Nghiêm quyển bốn mươi lăm, phẩm A-tăng-kỳ nói: một trăm Lạc Xoa thành một câu chi, tức là bằng trăm ức ở nước Đại Đường.
Dưới đây là phần hai-Bồ-tát ở Nam phương.
Kinh: Bồ-tát ở Nam phương, Ma-ha-tát Kim cang Bảo, tay cầm Ma ni Kim cang, phóng ra hào quang sắc trắng, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.
Giải thích: "Kim Cang bảo" như kinh kia nói: là Bồ-tát Hư không Tạng nương theo pháp luân trước hiện Thân thắng Diệu, tu các hành Đàn (bố thí).
"Tay cầm Ma ni Kim cang": là Thể tịnh kiên mật giống như Kim cang tức chính là Kim cang Như ý bảo, các hữu tình cầu gì được nấy. Nương theo Giáo lệnh Luân hiện thân oai Nộ, Cam lộ quân tra lợi Kim cang thị hiện tám tay hàng phục tất cả A-tu-la viêm ma, quyến thuộc các quỉ thần ác, não hại hữu Tình hành bệnh ôn dịch khiến cho điều phục.
"Phóng hào quang sắc trắng": là nói khả năng trừ diệt các Tu la. Cùng với Nam phương Tăng trưởng Thiên vương và đem vô lượng chúng Trà bạn trà. Tiết Lệ Đa chúng mà làm quyến thuộc.
Dưới đây là phần bốn-Bồ-tát ở Tây phương.
Kinh: Bồ-tát, Kim cang Lợi Ma-ha-tát ở Phương tây tay cầm kiếm Kim cang, phóng ra hào quang sắc vàng, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.
Giải thích: "Kim cang Lợi' như kinh kia nói là Bồtát văn Thù Sư Lợi nương pháp Luân trước hiện thân Thắng Diệu, chánh trí viên mãn, đắc tự tại. "Tay cầm kiếm Kim cang": là nói về những tác dụng của Bồ-tát đó. Có thể đoạn dứt chướng tự tha câu sinh, nương theo pháp lệnh luận, hiện làm oai nộ thân, Lục Túc Kim cang, sáu đầu sáu tay cởi trên trâu nước, hàng phục tất cả các rồng độc dữ và mưa gió ác tổn hại hữu tình, khiến cho điều phục.
"Phóng hào quang sắc vàng": là nói trừ rồng dữ... cùng với Tây phương Quảng Mục Thiên vương và đem vô lượng chư Long phú Đơn Na chúng mà làm quyến thuộc.
Dưới đây là phần bốn-Bồ-tát ở Bắc phương.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Dược Xoa ở phương Bắc, tay cầm linh Kim cang, phóng ra hào quang sắc, lưu ly, cùng bốn câu chi Dược xoa đến hộ trì nước đó.
Giải thích: Tiếng phạm gọi là Dược Xoa, tiếng Hoa gọi là Oai Đức. Lại dịch là tận vì có thể tận hết các oán như kinh kia nói: Tồi Nhất Thiết Ma Oán Bồ-tát (Bồ-tát bẻ gãy tất cả Ma ám) nương theo pháp luân trước hiện thân sự thắng diệu và trí viên mãn đắc tự tại.
"Tay cầm linh Kim cang" một tiếng linh đánh thức giác ngộ hữu tình, biểu thị cho dùng Bát-nhã để cảnh tỉnh quần mê. Nương theo Giáo lệnh Luân hiện làm thân Kim cang oai nộ thanh tịnh, thị hiện thân có bốn tay, hàng phục tất cả các Dược Xoa đáng sợ, thường ngày đêm tìm cách đoạt tinh khí của Người, làm hại hữu tình. Bồ-tát khiến họ điều phục.
"Phóng hào quang sắc lưu ly? Là nói trừ diệt các Dược xoa cùng Đa văn Thiên vương ở Bắc phương kia và vô lượng Dược xoa, vô lượng chúng La Sát mà làm quyến thuộc.
Dưới đây là phần năm-Bồ-tát ở phương giữa.
Kinh: Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Ba-la-mật đa ở phương giữa, tay cầm Kim cang luân, phóng ra hào quang năm sắc, cùng bốn câu chi Bồ-tát đến hộ trì nước đó.
Giải thích: "Kim cang Ba-la-mật-đa" tiếng Hoa gọi là Đáo Bỉ Ngạn như kinh kia nói: là Bồ-tát chuyển pháp Luân, nương theo pháp Luân trước hiện thân thắng diệu hạnh nguyện viên mãn Trú Đắng Giác vị.
"Tay cầm Kim cang luân": là Tỳ-lô-giá-na Phật khi mới thành chánh giác xin chuyển pháp luân để biểu thị. Lại nữa, dùng pháp luân để hóa Đạo hữu tình khiến vô số lượng đến bờ giác ngộ nương theo giáo lệnh Luân hiện làm oai Nộ chẳng động Kim cang, hàng phục tất cả Quỉ mị hoặc loạn các chướng não khiến cho điều phục.
"Hào quang Ngũ sắc": là tỏ có đủ chúng đức phá các ám trên.
Dưới đây là phần ba-Lập tượng cúng dường.
Kinh: Năm vị Bồ-tát Ma-ha-tát đó, mỗi vị cùng với vô lượng đại chúng như vậy, ở trong nước ông làm đại lợi ích, nên lập hình tượng mà cúng dường họ.
Giải thích: Văn dễ hiểu. Dưới đây là phần hai-Bồtát kính thừa.
Trong có ba phần: 1-Bồ-tát kính thừa.
Kinh: Bấy giờ, Bồ-tát Ma-ha-tát Kim cang Thủ... liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ nơi chân Phật rồi đứng qua một bên.
Giải thích: Nói về kính thừa. Dưới đây là phần hai-Tỏ nơi có kinh
Kinh: Bạch Phật: Bản nguyện của chúng con là nương theo thần lực Phật ở mười phương thế giới, tất cả quốc độ, nếu nơi nào có thọ trì đọc tụng, giải nói kinh này, con sẽ cùng với quyến thuộc như vậy, trong khoảnh khắc một niệm, liền đến chỗ đó, hộ trì chánh pháp, kiến lập chánh pháp.
Giải thích: "Bản nguyện chúng con": 1. Tức là bản nguyện; 2. Tức là nương thần lực Phật. "Trong khoảnh một niệm": là nói về sự nhanh chóng kiến lập thủ hộ pháp Bát-nhã. Dưới đây là phần ba-Trừ tai nạn.
Kinh: Khiến cõi nước đó, không có tai nạn, chiến tranh dịch bệnh, tất cả đều trừ.
Giải thích: Hai câu trước là nêu, hai câu sau là liệt kê.
Dưới đây là phần hai-Nói pháp Hộ quốc. Trong đó có hai phần:
1. Tỏ có Thắng pháp; 2. thuyết Đà-la-ni.
Trong phần một lại có hai phần: 1. Tỏ có pháp thù thắng.
Kinh: Thế Tôn! Con có Đà-la-ni có thể gia trì ủng hộ. Đó là gốc của tất cả Phật, là môn tu hành mau chóng.
Giải thích: "Đà-la-ni": tiếng Hoa gọi là Tổng Trì. Thần lực gia trì oai linh không gì bằng, trừ tà diệt ác, gọi là Đà-la-ni.
"Có thể gia trì ủng hộ": nghĩa là ủng hộ gia trì chủ
Quốc vương kiến lập chánh pháp và ở đâu có thọ trì. "Đó là...": Đà-la-ni đó là mật nói Thật Tướng Bát-nhã và Quán chiếu Bát-nhã, Phật từ đó mà sinh ra, nhân ở đó mà thành Phật tức là Môn xuất sinh mau chóng.
Dưới đây là phần hai-Nói về Trừ tai nạn.
Kinh: Nếu người nghe được, vừa qua ở tai, toàn bộ tội chướng tất đều tiêu diệt, huống nữa là còn tụng tập, khiến cho thông lợi, nhờ oai lực của pháp khiến cả cõi nước mãi không có các nạn.
Giải thích: "Toàn Bộ tội chướng": Nghĩa là nếu vừa nghe thì ba chướng đều diệt huống nữa là tụng tập tu hành thông lợi thì nước nhà làm gì có tai nạn. Dưới đây là phần hai-Thuyết Đà-la-ni. Trong đó chia làm hai phần: 1. Đồng thuyết.
Kinh: Liền ở trước Phật, khác miệng cùng âm, thuyết Đà-la-ni: Giải thích: Nói về đồng thuyết. Dưới đây là phần hai. Thuyết Đà-la-ni. Trong đó chia làm hai phần: 1. Tam quy y; 2. Tông chỉ, trong phần một lại có hai phần. 1. Nêu chung về Tam quy.
Kinh: Na-mô-la-đát-na-đát-la-dạ-da.
Giải thích: Tiếng phạm là na mô, tiếng Hoa gọi là Quy mạng. Tiếng phạm là La-đát-na tiếng Hoa dịch là Bảo. Tiếng phận là Đát-la-dạ-da tiếng Hoa dịch là Tam, kia thì Quy mạng Bảo Tam. Đây thì Quy mạng tam bảo. nghĩa là do trì kinh tụng Đà-la-ni là Mật Ngữ, gọi là Quy mạng Tam bảo. Từ đoạn này về sau, được đối chiếu dịch giải theo bản tiếng phạm kinh Tam tạng Kim cang Đỉnh Du-già. Như kinh kia nói; Người quy y Phật Đà thì được chư Phật năm vị Bồ-tát cùng tất cả các quyến thuộc Bồtát đều đến gia Hộ. nghĩa là chư Bồ-tát tôn kính tâm Bồđề, thấy người phát tâm Bồ-đề quy y Phật, thì thường gia hộ, Quy y Đạt Ma thì đắc được đế Thích cùng các quyến thuộc tứ Thiên vương đều đến gia hộ. nghĩa là, do thời xưa Vua đế Thích bị nạn nguy hiểm được pháp Bát-nhã gia hộ mà được ích, cho nên thường tôn kính. Quy y Tăng già thì được sắc cứu cánh Thiên, Ngũ tịnh cư thường tôn kính. cùng các quyến thuộc đều gia hộ. Nghĩa là chư Bồ-tát và Thanh văn tăng ở trong cõi trời kia trú hiện pháp lạc cho nên thường tôn kính.
Dưới đây là phần hai-Nói riêng về Tam quy. Trong đó chia làm hai phần: 1. Quy Phật Bảo.
Kinh: Na-mô, a-lý-dạ, phệ-lộ-giả-na-dã, đát-thađọa-đa-dạ, la-ha-đế, tam-miệu-tam-một-đà-dã.
Giải thích: "Na-mô" là Quy mạng còn gọi là khể thủ, còn gọi là Đảnh lể. "A-lý-dạ": tiếng Hoa gọi là Thánh. "Phệ-lộ-giả-na-dã": tiếng Hoa gọi là Biến Chiếu còn gọi là Đại Nhật, như mặt trời ở thế gian không chiếu thế giới khác, chỉ được gọi là Nhật chứ không được gọi là Đại. Tỳ-lô-giá-na, gọi là Đại Nhật là sắc thân pháp thân khắp cả pháp giới, mười phương thế giới đều chiếu sáng. Nếu người xưng danh Quy mạng lễ bái thì được pháp giới chư Phật, Bồ-tát Thánh Hiền tám bộ gia trì vệ hộ. "Đát-tha-đọa-đa-dạ": tiếng Hoa gọi là Như Lai. "La-ha-đế"; tiếng Hoa gọi là ứng cúng còn gọi là hại oán, còn gọi là Bất sinh. "Tam Miệu": tiếng Hoa gọi là chánh. "Tam-một-đà-dã": tiếng Hoa gọi là Đẳng giác thuận theo ngôn ngữ của Nước Đường này thì gọi là: "Quy Mạng Thánh Giả Biến Chiếu Như Lai ứng cúng chánh Đẳng giác": tức là Bản sư. Ở đây thiếu pháp bảo vì trong phần Tông chỉ sau Nói chi tiết về pháp bảo, cho nên ở đây lược bớt. Dưới đây là phần hai-Quy Tăng Bảo.
Kinh: Na-mô-a-lý-đã, tam-mãn-đa, bạt-nại-la-dãmạo, địa-tát-đát-phược-dã-ma-ha-tát-đát-phược-dã-mahạ-ca-lo-ni-ca-dã.
Giải thích: "Na mô": như trên. "A-lý-dã" là Thánh. "Tam-mãn-đa": là phổ, còn gọi là Biến. Còn gọi là Đẳng. "Bạt-nại-la": tiếng Hoa gọi là Hiền. Nói về chữ "Dã": là nương theo thanh mà tỏ pháp, là thanh thứ tư trong tám chuyển thanh. Có nghĩa là "Vì". Vì kia mà tác lể, cho nên gọi là vi. Các chữ Dã ở phần sau đều theo đó mà biết. nghĩa là Bồ-tát đó thuyết môn Tam Mật nói rộng về hạnh nguyện. Nếu có chư Phật không tu môn Tam Mật, không nương theo hạnh nguyện phổ Hiền mà đắc thành Phật; thì không có việc đó. Nếu đã thành Phật mà có sự ngừng nghĩ ở môn Tam Mật hạnh nguyện Phổ Hiền thì cũng không có việc đó. Cho nên bảo là Quy mạng.
"Mạo địa tát đát phược dã": cũ gọi là Bồ-đề nay gọi là Mạo địa, gọi theo cách cũ là Tát-đỏa. Nay gọi là tát đát phược. Trong năm chữ đó, ở nước này lượt bớt bỏ bớt ba chữ chỉ gọi là Bồ-tát
"Ma hạ tát đát phược dã": tiếng Hoa gọi là Đại Dũng Mãnh. "Ma hạ ca lô ni ca dã" tiếng Hoa gọi là Đại Bi
Thuận với ngôn ngữ ở vùng này (Trung Hoa) là Quy Mạng Bậc Thánh Phổ Hiền Bồ-tát bậc Đại Dũng Mãnh, Đại Bi do quy y đó mà được chư Phật, Bồ-tát mười phương gia hộ. nghĩa là chư Phật, Bồ-tát tu môn Tam Mật hành hạnh Phổ Hiền, được chứng thù thắng quả cho nên thường gia hộ. Trên là đã nói về quy y Phật tăng.
Dưới đây là phần hai-Chánh nói về Tông chỉ. Trong đó chia làm ba phần. 1. Quán Hạnh; 2. Tam Mật Môn; 3. Quả Đức. Trong phần một văn lại chia làm hai phần: 1-nêu chung về Sở Vi.
Kinh: Đát nhĩ dã tha.
Giải thích: Tiếng Hoa gọi là "Sở Vi", thời cổ gọi là Tức thuyết. Dưới đây là phần hai-Rộng nói về Quán hạnh. Có mười sáu câu trong đó chia làm ba phần. 1. Gồm mười hai câu, nói riêng về Nhân vị; 2. Có hai câu tỏ chung về Quả vị; 3. Có hai câu nói về Phật, Bồ-tát Mẫu.
Trong phần một nói về Nhân, văn chia làm bốn phần: 1. Bản Hậu Trí; 2. Thật Tướng Trí; 3. Nhị Lợi Trí; 4. Đại Phổ Hiền Địa. Trong phần một Bản Hậu Trí văn lại chia hai phần: 1. Căn bản Trí; 2. Hậu Đắc Trí.
Trong phần một văn lại chia hai phần: 1. Trí Đăng cú (câu).
Kinh: Chỉ-nhương-na-bát-la-nhĩ-bế.
Giải thích: Tiếng phạm Chỉ-nhương-na, tiếng Hoa dịch là Trí. Bát-la-nhĩ-bế dịch là Đăng (Đèn) do đến trí đó mà phá tan bóng tối vô minh. Du-già chú thích rằng: dùng vô sở Đắc Trí làm phương tiện. Vô trí vô đắc tức thành đèn Trí Bát-nhã Ba-la-mật-đa chiếu khắp tất cả pháp giới vô phân biệt.
Kinh: A-khất-xoa-dã-cú thế.
Giải thích: Chữ "A" là hô thượng thanh, tiếng Hoa dịch là Vô. Nhưng trong bản phạm chữ A này vì tùy theo thanh nhiều lúc hô là chữ Ác, chữ ác. Chữ Ố ở trên kinh tức là chữ A này.
"Khất xã dã": tiếng Hoa dịch là Tận.
"Cú thế": tiếng Hoa gọi là Tạng tức là Trí Đăng trên là Tạng vô Tận.
Du-già giải thích rằng: chữ A là chủng tử, chủng tử có hai nghĩa:
1. Đản sinh; 2. Nhiếp trì đến phần sau sẽ rõ. Nói chữ "A" là thuyên bày nghĩa tất cả pháp vốn bất sinh mà chữ A là mẹ của các chữ, có thể sinh ra các chữ. Nếu đắc A tự Môn thì đắc vô tận pháp Tạng của chư Phật ngộ các pháp bản lai bất sinh, do như hư không, một Tướng thanh tịnh bình đẳng không hai tức chính là căn bản vô phân biệt Trí.
Dưới đây là phần hai-Hậu đắc cú.
Kinh: Bát-la-để-bà-na-phược-để.
Giải thích: "Bát-la-để-bà-na": tiếng Hoa gọi là Cụ thuận theo tiếng Hoa là cụ Biện Tài. Du-già giải thích rằng: Chữ bát-la là chủng tử. Chữ bát-la là thuyên Bátnhã Ba-la-mật đa vô sở đắc, do chứng chư pháp bản lai bất sinh mà đắc vô tận pháp Tạng của chư Phật. ở trong Hậu Đắc trí có đủ cả bốn vô Ngại giải, biện thuyết tự tại.
Dưới đây là phần hai-Thật Tướng Trí. Văn có bốn Câu: 1. Thật Tướng Cú.
Kinh: Tát-phược-một-đà-phược-lô-chỉ-đế.
Giải thích: Tát Phược: tiếng Hoa gọi là Nhất Thiết. Một Đà: tiếng Hoa gọi là Giác. Phược-lô-chỉ-đế; tiếng Hoa gọi là sở Quán. Tức là Thật Tướng mà tất cả Phật đã Quán. Du-già giải thích rằng: chữ Tát là Chủng Tử, Chữ Tát là thuyên bày nghĩa tất cả pháp bình đẳng. Người Trú Du-già thì Năng duyên và Sở duyên đều bình đẳng, Trí chứng chơn Lý, nhập dòng pháp tức đồng với vô biên, là cảnh sát của chư Phật. Dưới đây là phần hai-Viên Thành cú.
Kinh: Du-nga-bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh.
Giải thích: "Du nga"; cũ gọi là Du-già, tiếng Hoa gọi là tương ưng. "Bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh": tiếng Hoa gọi là Viên thành, viên mãn. Thành Thật gọi là viên thành. Thuận theo tiếng Hoa nói là viên thành tương ưng.
Du-già giải thích: Chữ Du là chủng tử, chữ du là thuyên bày tất cả Thừa vô sở đắc. Quán Trí tương ưng chứng lý viên thành, tức là giáo lý hạnh Quả ở các Thừa đều chứng đắc cùng một chơn pháp Tính. Dưới đây là phần ba-Thậm Thâm cú.
Kinh: Nghiễm-tị-la-nỗ-la-phược-nga-hệ.
Giải thích: "Nghiêm Tị La": Tiếng Hoa gọi là Thậm Thâm (rất sâu).
"Nỗ-la-phược-nga-hệ": Tiếng Hoa gọi là Nan trắc (khó lường). Du-già giải thích; chữ nghiêm là chủng tử. Chữ Nghiêm là thuyên bày pháp Chơn Như, không đến không đi, tính lìa ngôn thuyên. Duy chỉ tự giác Thánh Trí lìa Tướng mà chứng đắc cho nên bảo là thâm sâu khó lường.
Dưới đây là phần bốn-Tam Thế viên thành cú.
Kinh: Để Lý-dã-trì-phược-bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh.
Giải thích: "Để lý dã trì phược"; tiếng Hoa gọi là Tam thế (ba đời).
"Bì-lý-nhĩ-sáp-bì-ninh": Tiếng Hoa gọi là Viên thành. Tức là Tam thế viên Thành. Du-già giải thích ba chữ "để-lý-dã": là một chữ phạm làm chủng tử, để thuyên bày tất cả pháp Chơn như bình đẳng vô số công đức tự thành tựu, pháp chơn như đó, tuy khắp tất cả nhưng thể chẳng phải là thời gian mà quá khứ hiện tại, vị lai là từ hư vọng mà Sinh. Đó là thuộc về Hành uẩn bất tương ưng, nhiếp bởi hành uẩn, Đó là Hữu vi, cho nên chơn Như tuy là khắp nhưng không đồng với hữu vi.
Dưới đây là phần ba-Nhị lợi Trí, văn có bốn cú: 1. Bồ-đề tâm cú.
Kinh: Mạo-địa-chất-đa-tán-nhạ-na-nhĩ.
Giải thích: "Mạo địa chất đa": Tiếng Hoa gọi là chánh giác tâm, Tán Nhã Na Nhĩ": Tiếng Hoa gọi là Năng sinh. Thuận theo tiếng Hoa là: Tam Thế viên thành trên có thể sinh ra tâm Bồ-đề. Du-già giải thích rằng: chữ "Mạo" làm chủng tử, chữ Mạo là thuyên về nghĩa tất cả pháp không có trói buộc. Nếu biết rõ tự tánh của tâm Bồđề trong chính thân mình thì thành tựu ba đời bình đẳng cũng như hư không. Nếu lìa bỏ tất cả tướng thì có thể biết rõ tâm của tất cả Hữu tình và tâm của chư Phật đều như tự tâm, bản lai thanh tịnh, thì khởi đại bi thâm sâu sinh ra thương xót, nhiều loại phương tiện khiến các hữu tình Lìa khổ giải thoát đạt đến cứu cánh không trói không mở, Đó mới là tâm Bồ-đề rộng lớn.
Dưới đây là phần hai-Quán Đảnh cú.
Kinh: Tát-phược Tỳ-li-ca Tỳ-sắc-ngật-đế.
Giải thích: "Tát-phược-Tỳ-li-ca": Tiếng Hoa gọi là Nhất thiết Quán đảnh.
"Tỳ-sắc-ngật-đế": Tiếng Hoa gọi là sở quán
Hội ý dịch là: dùng pháp Quán đảnh mà Rưới đảnh đầu. Pháp Quán Đảnh thì theo kinh kia có năm thứ: Mũ báu, Án khế nước, ánh sáng, danh hiệu mà Quán Đảnh.
Du-già giải thích: chữ tát làm chủng tử. Chữ Tát là thuyên bày nghĩa tất cả pháp không có nhiễm trước. Do Quán tâm tự tha và chư Phật đồng một chơn như, nên đắc đồng thể bi, do đó đạt được không nhiễm không chấp trước và được mưa pháp của tất cả chư Phật mười phương quán đảnh, nghĩa là trong địa thứ mười, Địa nào cũng được pháp quán đảnh thù thắng tối thượng, ba nghiệp gia trì mà đối với vô lượng Tu-đa-la diễn thuyết tự tại, Lợi Tha rộng lớn.
Dưới đây là phần ba-Pháp hải xuất sinh cú. (Câu "biển pháp sinh ra).
Kinh: Đạt-ma-bà-nga-la-tam-bộ-đế.
Giải thích: "Đạt ma": Tiếng Hoa gọi là pháp. "Bà la nga": Tiếng Hoa gọi là Hải. "Tam bộ đế": là xuất Sinh... Nghĩa là: từ Biển pháp xuất sinh ra ngộ giải không chướng ngại, không gián đoạn.
Vô Ngại giải, vô Đoạn tận.
Du-già giải thích rằng: chữ Đạt làm chủng tử, thuyên bày tất cả pháp nhiễm tịnh thể của cả hai đều chẳng thể có được, dùng chánh Thể Trí đoạn dứt câu sinh Trí chướng trong Bản Thức, thì thành pháp Hải, chảy ra giáo pháp, làm lợi lạc rộng lớn.
Dưới đây là phần bốn-Vô gián Thính văn cú.
Kinh: A-mộ-già-thất-la-phược-ninh.
Giải thích: Chữ "A": là hô ngắn Thượng thanh. "Mộ già" tiếng Hoa dịch là vô gián đoạn, cổ dịch là Bất không, là sai. "Thất-la-phược-ninh": Tiếng hoa dịch là "văn" nghe thuận theo tiếng này dịch là: ở chỗ bày chư Phật lắng nghe không gián đoạn. Du-già giải thích: Nay nương theo thanh mà Luận nói, giải thích vô gián. Chữ A làm chủng tử, thuyên chư pháp Bản lai tịch tịnh, Bản lai Niết-bàn, do chứng pháp này, biến khắp pháp giới, quốc độ chư Phật, đại tập trong hội, nên đối với giáo pháp đã nghe từ chư Phật trước đây đều đã nhớ trì mãi mãi không quên.
Dưới đây là phần bốn-Đại Phổ Hiền Địa cú.
Kinh: Ma-hạ-tam-mãn-đa-bạt-nại-la-bộ-di-niết-lýdã-đế.
Giải thích: "Ma-hạ": là tiếng Hoa dịch đại. "Tammãn-đa": là phổ. "Bạt-nại-la": là hiền. "bộ-di": là tiếng Hoa dịch địa. "Niết-lý-dã đế": là tiếng Hoa dịch xuất sinh. Thuận theo tiếng hoa câu này là: từ các hành nguyện đã tu ở các Địa trước có thể xuất sinh ra Địa Đại phổ Hiền này, tức là Đẳng giác Địa sau Thập Địa.
Trong Du-già, từ phàm đến Thánh gồm có địa thứ tư: 1. Thắng giải Hạnh Địa, gọi chung là tiếng Hoa dịch Địa tiền; 2. Phổ Hiền hạnh Nguyện Địa, gọi chung cho cả địa thứ mười; 3. Đại phổ Hiền Địa tức là Đẳng giác Địa; 4. Phổ Chiếu Diệu Địa tức là thành tựu Chánh giác Địa. Theo kia giải thích là: chữ ma làm chủng tử thuyên bày tất cả pháp, Ngã pháp không. Nghĩa người hành Dugià, đoạn chướng vi tế, chứng Ngã pháp không, tức là vượt qua Đại phổ Hiền. Địa chứng chiếu diệu thành Đẳng chánh giác phước và Trí trang nghiêm, thọ dụng thân và pháp thân đều viên mãn.
Trên là đã nói về Nhân, tiếp theo là phần hai. Nói về Quả vị. Văn có hai cú: 1. Quả viên mãn cú.
Kinh: Vỹ-dã-yết-la-nỗ-bì-lý-bát-la-bì-nhĩ.
Giải thích: Năm chữ đầu, tiếng Hoa gọi là Thọ ký. Sáu chữ sau là hoạch đắc (thu hoạch được) Thuận theo tiếng Hoa câu này dịch là thu hoạch được thọ ký, tức chính là Trước đắc thọ ký, nay được đầy đủ.
Du-già giải thích rằng: chữ Vỹ dã làm chủng tử, chữ Vỹ Dã là thuyên tất cả pháp rốt ráo cuốn cùng chẳng thể đạt được. Do Quả viên mãn, cứu cánh cuối cùng chứng đắc tất cả các pháp tự Tính là tịch tịnh, tự tính Niết-bàn. Năng chứng và sở chứng đều đồng một Tính, bất tăng chẳng giảm thường viên mãn.
Dưới đây là phần hai-Lễ kính cú.
Kinh: Tát-phược-tất-đà-na-ma-tắc-ngật-lý-đế.
Giải thích: "Tát-phược-tất-đà": Tiếng Hoa dịch là người thành tựu tức Bồ tác Thập Địa. "Na-ma-tắc-ngậtlý-đế": tiếng Hoa gọi là Tác Lễ. Lễ có hai nghĩa: 1. Lễ pháp Bát-nhã kia; 2. Lễ Người Thành chánh giác. Vì có đủ cả hai nghĩa đó, cho nên bậc Thập Địa là nơi mình làm lễ.
Du-già giải thích: Chữ Tát là chủng tử, chữ Tát là thuyên bày nghĩa Sinh diệt. Ở trong chữ tát, có chữ A thuyên về nghĩa vô sinh. Nhưng do chứng chữ A trong quả vị, nên thể bất sinh bất diệt, thường kiên cố, giống như Kim cang Thắng dụng tự tại, tức có thể hiện khắp vô biên ứng hóa, nhiều loại lợi lạc thị hiện có sinh có diệt nhưng thật ra là vô sinh vô diệt.
Ở trên đã nói về quả. Dưới đây là phần ba-Mẹ của chư Phật, Bồ-tát. Văn có hai cú: 1. Xuất sinh Bồ-tát cú. Kinh: Tát-phược-mạo-địa, tát-đát-phược, tán-nhãna-nhĩ. Giải thích: "Tát phược": tiếng Hoa gọi là nhất thiết (tất cả)
"Mạo-địa-tát-đác-phược": tiếng Hoa gọi là Bồ-tát. "Tán-nhã-na-nhĩ": là xuất sinh. Thuận với tiếng Hoa là: xuất sinh tất cả Bồ-tát.
Dưới đây là phần hai-Phật Thế Tôn Mẫu cú.
Kinh: Bà-nga-phược-để-một-đà-ma-đế.
Giải thích: "Bà Nga phược để": tiếng Hoa dịch là cụ phúc giả (người đầy đủ phước). Hội ý dịch là Thế Tôn. "Một đà?" là tiếng Hoa dịch giác. Ma đế: là Mẫu. Thuận theo tiếng Hán là Phật Thế Tôn Mẫu. Bà già phạm là tiếng xưng hô Nam, Bà Nga phược để là tiếng xưng hô nữ, hội ý cả hai dịch là Thế Tôn. Nếu nương theo thanh dịch theo nghĩa đối thì, Bà già dịch là phá, phạm dịch là Năng, Năng phá bốn Ma, gọi là Bà già phạm. Lại nói Bạch-a-phạm theo thanh minh luận chia chữ mà giải thích thì; bạc là phá, A: là vô sinh, phạm mà phá phiền não, cho nên Phật Thế Tôn bất sinh bất diệt, bất Lai bất khứ, bất Nhất bất Dị, bất thường chẳng đoạn, bất tăng bất giảm. Có đủ các đức như vậy gọi là Bạc-a-phạm. Lại nữa, Bạc-già-phạm; Bạc gia: là phúc Trí, phạm dịch là cụ. Hội ý dịch là: do có đủ phúc và trí trang nghiêm mãn túc gọi là Bạc-già-phạm cũng là Nam Thanh.
Du-già giải thích rằng: chữ Bà làm chủng tử chữ Bà là thuyên về tất cả pháp có chẳng thể đạt được, do tâm nhiễm cho nên có sanh tử, do tâm tịnh mà có Niết Bàn hai kia Lìa tâm đều chẳng thể đạt được, nghĩa là do Bátnhã mà sinh ra liễu Nhân thì có thể sinh ra tất cả chư Phật cho nên gọi là Mẫu. Mười sáu câu trên như trong kinh Du-già cũng thuộc mười sáu Hạnh Phổ Hiền.
Dưới đây là phần hai-Tam mật Môn.
Kinh: A-la-nhĩ-la-nhĩ, a-la-nỗ-ca-la-nhĩ.
Giải thích: Mười chữ đó, nghĩa của chúng rất thâm mật, chỉ có Phật mới biết được. Nếu theo chữ mà giải thích thì cũng có thể gọi là ba nghiệp thanh tịnh. A Tự Môn là thuyên tất cả pháp bản lai bất sinh. La tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp Ly trần. Nhĩ Tự Môn là thuyên về Tất cả pháp vô Tránh, do bởi biết chư pháp vô sinh, cho nên Ly trần, do ly trên Mà đắc vô tránh gọi là A La Nhĩ. Ca tự Môn là thuyên về tất cả pháp vô tạo tác. La Tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp thanh tịnh. Nhĩ Tự Môn là thuyên về nghĩa tất cả pháp vô tránh, do bởi biết chư pháp không có tạo tác cho nên thanh tịnh, do thanh tịnh mà đắc vô tránh gọi là Ca La Nhĩ. A Tự Môn là thuyên tất cả pháp Bản Lai Tịch Tịnh, La Tự Môn thuyên tất cả pháp vô cấu, Nổ Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô tránh. Do Biết chư pháp tịch tịnh cho nên vô cấu do vô cấu mà đắc vô tránh, gọi là A La Nổ. Ca tự Môn là thuyên tất cả pháp vô tạo tác. La Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô phân biệt. Nhĩ Tự Môn là thuyên tất cả pháp vô động, do biết chư pháp vô tạo tác cho nên vô phân biệt, do vô phân biệt mà chẳng động, do chẳng động mà chứng Ma Ha Bát-nhã Ba-la-mật đa, đắc vô Trú Đạo gọi là Ca la Nhĩ. Dưới đây là phần ba-kết. Quả Đức.
Kinh: Ma-ha-bát-la-chỉ-nhương, bá-la-nhĩ-đế-saphược-hạ.
Giải thích: "Ma hạ": là tiếng Hoa dịch Đại. Bát La chỉ Nhương: tiếng Hoa gọi là Cực trí. Bá La Nhị đế: nghĩa là Ly, Đáo. Dựa theo thanh minh luận phân câu mà giải thích. Ba Lam Y (thượng thanh) Đa Y đa là Thử Ngạn. Bá lam: là Bỉ Ngạn. Nương đại cực trí lìa sinh tử Bờ này đến Niết-bàn bờ kia. Đắc vô Trú Đại Niết-bàn Sa-phược-hạ: là bờ này đến Niết-bàn bờ kia, đắc vô Trú xứ Đại Niết-bàn. Sa Phược-ha: tiếng Hoa gọi là thành tựu, còn gọi là cát tường, còn có nghĩa là viên tịch, còn có nghĩa là dứt tai nạn tăng ích, còn có nghĩa là vô trú. Nay ở đây lý nghĩa vô Trú tức chính là vô Trú Niết-bàn. Nương theo Niết-bàn đó cho đến tận vị lai lợi lạc hữu tình không bao giờ hết gọi là Sa Phược-hạ.
Ở trên nói chữ chủng tử là có hai nghĩa: 1. Dẫn đến, sinh ra; 2. Nhiếp trì. Như mười chữ hợp thành một câu, dùng chữ thứ nhất mà làm chủng tử. Lại chín chữ sau là toàn bộ Quán Trí, chữ đầu tiên là đản sinh, chín chữ sau thâu nhiếp vào dựa vào chữ đầu tức chính là chữ đầu nhiếp trì chín chữ còn lại. Do đó mà nói; nếu biết một pháp tức biết tất cả pháp. Nếu biết một pháp không tức biết tất cả pháp không. Nếu có thể đối với một chữ, chuyên chú Quán sát tu các hành nguyện thì tất cả Hạnh nguyện đều đạt được viên mãn, tức là nghĩa của Đà-lani Tổng Trì. Lại nữa, những nghĩa sai biệt ở trên là thâu nhiếp mười sáu câu của văn trường hàng bên trân, nhiếp mười sáu câu thành mười hai chữ, nhiếp mười hai chữ thành mười chữ đó, nhiếp mười chữ đó quy về một chữ Địa, từ rộng đến lược dần dần thâm sâu. Một chữ hiện tiền, vòng khắp pháp giới, tính tướng Bình Đẳng đến ngôi vị cứu cánh.
Dưới đây là phần ba-Thế Tôn ấn thuật.
Kinh: Bấy giờ! Đức Thế Tôn nghe thuyết chú đó rồi, tán thán các Bồ-tát Kim cang Thủ... Lành thay! Lành thay! Nếu có người trì tụng Đà-la-ni này, Ta và chư Phật mười phương đều thường gia hộ. Các quỉ thần xấu ác đều kính trọng người đó như Phật, không lâu sẽ đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Giải thích: "Lành thay! Lành thay!": là lời ấn chứng chư Phật đồng hộ tôn kính mẹ, Quỷ thần kính ngưỡng vì oai lực của pháp. Sẽ đắc Bồ-đề là đạt quả thù thắng. Dưới đây là phần ba-Các vua được ích. Trong đó chia làm ba phần: 1. Nêu các Quốc vương.
Kinh: Đại vương! Ta đem kinh này giao phó cho các ông. Nước Tỳ-xá-ly, nước Kiều-tát-la, nước Thất-Laphiệt, nước Ma-già-đà, nước Ba-la-ni-tư, nước Ca-tỳ-la, nước Câu-thi-na, nước Kiều-thiểm-di, nước Ban-già-la, nước Ba-tra-la, nước Mạt-thổ-la, nước Ô-thi-ni, nước Bôn Tra-bạt-đa, nước Đề-bà-bạt-đa, nước Ca-thi, nước Thiệm Ba, tất cả các Quốc vương như vậy đều nên thọ trì Bát-nhã Ba-la-mật-đa.
Giải thích: Trao cho các Quốc vương, khiến thọ trì, tôn kính an lập chánh pháp, mãi mãi không có các nạn, mười sáu nước lớn liệt kê ở trong này hơi khác với kinh cũ, phạm ân khác với kinh Đại Tập, phần Nguyệt Tạng quyển mười sáu và Luận Đại Tỳ Bà-sa quyển một trăm hai mươi bốn.
Dưới đây là phần hai-Đại chúng kinh ngạc, tán thán.
Kinh: Lúc này, các đại chúng A-tu-la v.v... nghe Phật nói rõ về các chuyện tai nạn, lông thân đều dựng đứng, cất tiếng xướng: Nguyện cho chúng ta vào đời vị lai không sinh nơi nước đó.
Giải thích: "Lúc ấy", chư đại chúng"; là nêu chung. "A-tu-la,..."; là nêu riêng. "Tai nạn": là bảy nạn. Vì thời trược ác nên nhân bảy nạn, các nghiệp ác tăng "không sinh nước đó": có hai nghĩa: Đại Bi phương tiện, chê chẳng nguyện sinh và Báo lực thấp kém, thật sự chẳng nguyện sinh.
Dưới đây là phần ba-Các vua được ích.
Kinh: Khi ấy, mười sáu Quốc vương liền xả bỏ ngôi vua, xuất gia tu đạo, có đủ cả tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ, đắc Phục nhẫn, Tín nhẫn, vô sinh pháp nhẫn.
Giải thích: "Xả bỏ Ngôi vua": là thật sự bỏ ngôi vua có, thân tùy xuất gia là xả bỏ tâm cao Ngạo ở Ngôi vua, phát tâm Bồ-đề tức là xuất gia "Tám Thắng xứ..."như trên đã giải thích.
Kinh: Bấy giờ, tất cả đại chúng người, trời, A-tu-la... đều tung rải hoa Mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Bà-sưca, Hoa-tô-mạn na, để cúng dường Phật, tùy theo chủng tính mà đắc ba môn giải thoát, sinh không, pháp không, pháp phần Bồ-đề.
Giải thích: "Bấy giờ, tất cả..." là chúng cùng nghe. Hai loại hoa đầu là loại hoa trời, hai loại sau ở cõi người. Những hoa đó nếu là Hoa Thật thì như văn đã rõ. Nếu là hoa biến hiện thì theo như giải trước sẽ rõ. "Tùy theo chủng tính": là chủng tính thuộc Tam Thừa. "Đắc ba Thoát Môn và sinh không": là thông cả Tam thừa đều đắc. "Pháp không": là chỉ có Đại Thừa Đắc. "Bồ-đề phần pháp": cũng thông cả Tam Thừa nhưng pháp Bát-nhã thì đắc quả cả Tam thừa, như kinh Đại Bát-nhã quyển năm trăm chín mươi ba nói; Thiện Dũng Mãnh nói; "Duy nguyện Thế Tôn, thương xót chúng con": vì chúng con mà tuyên thuyên đầy đủ cảnh trí của Như Lai. Nếu loài Hữu tình bậc thuộc Tính thanh văn thừa quyết định, khi nghe pháp này rồi, thì mau chóng có thể chứng đắc địa vô lậu của tự mình, thuộc Độc giác Thừa Tính quyết định, khi nghe pháp này rồi thì mau chóng nương theo tự thừa mà được xuất ly, thuộc vô thượng thừa Tính quyết định nghe pháp này rồi thì mau chóng chứng vô thượng chánh đẳng Bồ-đề, cho đến những người Tam thừa, tính bất định khi nghe pháp này rồi mau chóng phát tâm vô thượng chánh Đẳng giác. "Tức là pháp Bát-nhã chẳng phải chỉ Đại Thừa mà cũng khiến nhị thừa đắc tự quả.
Dưới đây là phần hai-Bồ-tát được ích, văn lại chia làm hai phần:
1. Được các nhẫn thù thắng.
Kinh: Vô lượng vô số Bồ-tát Ma-ha-tát rải hoa Câu vật đầu. hoa Ba đầu ma mà cúng dường Phật, vô lượng Tam muội thảy đều hiện tiền, được trụ thuận nhẫn, vô sinh pháp nhẫn.
Giải thích: Chúng Bồ-tát nhiều, nên gọi là vô lượng số. Rải hai thứ hoa san màu đỏ, màu hồng. "Tam muội và nhẫn"; thì như trên đã giải thích.
Dưới đây là phần hai-Hiện thân thành Phật.
Kinh: Vô lượng vô số Bồ-tát Ma-ha-tát, đắc hằng hà sa các môn Tam muội, chơn Tục bình đẳng, có đủ vô ngại giải, thường khởi đại bi, ở trăm vạn ức A-tăng-kỳ Phật sát vi trần số thế giới, rộng lợi chúng sanh hiện thân thành Phật.
Giải thích: "vô lượng,..." Là nói về Bồ-tát rộng lớn. "Hằng hà sa Tam muội": là Tam muội rất nhiều. "Chơn Tục,..."; là cảnh đế; nói về Bi, có đủ Đức. "Vi trần số thế giới..." là đều được ích nhờ nghe pháp
-----------------------
Là đoạn văn lớn thứ ba, nói về phần lưu thông.
- Ý nghĩa nối tiếp: Ở phần trước nói rộng về Chánh Trí, sau là nói về Bi sâu. Tuy Trí và Bi của Phật thường không gián đoạn, nhưng dựa theo văn trước sau thì có lúc nghiêng về Trí, có khi lại nghiêng về Bi, đoạn văn sau đây là nói về các điều răn bảo.
- Về giải thích tên phẩm: "Chúc": nghĩa là trao. "Lũy": là trọng trách gánh vác trọng trách của Phật gọi là Chúc Lũy. Lại nữa, lấy pháp này trao cho các vua, bảo gánh vác hoằng tuyên khiến hột giống Phật không bị dứt đoạn. Lại nữa, trao Bát-nhã, gánh vác lưu truyền nhiều đời khiến trừ tai nạn lợi lạc hữu tình. Như kinh Đại phẩm trao gởi thanh văn kinh pháp Hoa thì trao cho Bồ-tát đúng căn nhiếp ích tùy loại khác nhau. Đây là khiến cho Tam Bảo được Trú lâu dài thì chỉ có vua mới có khả năng kiến lập.
- Về chia văn giải thích: văn chia làm ba đoạn: 1. Nêu về pháp được trao; 2. Các lời răn bảo; 3. Hỏi tên phụng hành. Phần pháp trao lại chia làm hai phần: 1. Thời trao pháp.
Kinh: Phật bảo vua Ba-tư-nặc: Nay khuyên bảo các ông, sau khi ta diệt độ, chánh pháp sắp diệt, sau năm mươi năm, sau năm trăm năm, sau năm ngàn năm, không có Phật Pháp Tăng, thì kinh này là Tam Bảo trao cho các Quốc vương kiến lập, gìn giữ.
Giải thích: "Nay khuyên bảo các ông": răn bảo nghĩa là dạy bảo, răn dạy, răn bảo là vì Phật đại bi. E rằng sau khi diệt Độ, chánh pháp bị chìm ẩn, các loài hữu tình, mười ác chuyển tăng, nhiều kiếp luân hồi, không ai cứu hộ. Răn bảo các vua, khiến họ kiến lập. Lại còn răn dạy các phàm và Thánh, nhận trì thủ hộ, thì các Quốc độ vĩnh viễn không có tai nạn.
"Sau năm mươi năm...": Đó là thời chánh pháp. Tượng pháp, Mạt pháp. Như kinh Đại Thừa Đồng Tính quyển hạ nói: Như Lai hiển hiện từ cung Trời Đâu Suất xuống, cho đến Trú trì tất cả chánh pháp, tất cả tượng pháp, tất cả diệt pháp, những sự giáo hóa như vậy đều là ứng thân, Lại nữa, Thiện kiến luận nói; một ngàn năm thứ nhất nếu các Đệ tử siêng năng tu hành tinh tấn, thì đắc Quả A-la-hán. Ngàn năm thứ hai thì đắc Quả thứ ba.
Ngàn năm thứ ba thì đắc quả thứ hai. Ngàn năm thứ tư thì đắc Sơ Quả, từ đó về sau là thời Mạt pháp. Theo văn luận thì, thời chánh pháp, đa phần là đắc quả vô học. Lại nữa, như Biệt ký nói; chánh pháp một ngàn năm. Tượng pháp một ngàn Năm, Mạt pháp một vạn năm. Sự khác nhau của ba Thời kỷ đó là: Có giáo, có hành, có đắc Quả chứng gọi là chánh pháp. Có giáo, có hành nhưng không có đắc Quả chứng, gọi là tượng pháp chỉ có giáo, không có hành không có chứng gọi là Mạt pháp. Nhưng kinh pháp Hoa và kinh Kim cang đều nói là năm trăm năm, kinh này thì nói là năm mươi, ý đó là gì? Như kinh ký pháp Trú dùng số hàng trăm, lấy năm mươi năm sau để nói về thời kỳ suy thoái, như tuổi thọ của con người là một trăm năm, thì năm mươi năm sau là thời kì suy yếu, lấy đó mà dụ cho pháp, do những thời kỳ trước đó là thời kì tốt đẹp, kiến lập pháp chẳng khó, thời kỳ sau thì xấu xa, cho nên đều phải trao gởi dặn dò vậy. Lại nữa, như Luận Xa Bà nói: tất cả Hữu Tông đều nói Chánh Pháp là năm trăm năm, tuy thuyết Bát Kính, nhưng do vì không hành. Đại Chúng Bộ thì nòi là chánh pháp một ngàn năm, chẳng hoàn toàn là không hành. Cũng có hành. Tuy có hai thuyết, nhưng đa phần là nương theo thuyết sau. Lại nữa, Kinh Pháp Trú ghi rằng: mười sáu A-la-hán, mỗi vị đều đem vô lượng quyến thuộc, khi tuổi thọ của loài người đã dần dần tăng đến bảy vạn tuổi, với bản nguyện lực, dùng bảy báu làm Tháp cho Phật. Xá Lợi của Đức Phật Thích ca tự nhiên chảy vào trong tháp, sau đó Tháp xá Lợi Phật đều hãm nhập vào trong đất, đến Thời Kim cang Tế, Các A-la-hán, hóa lửa thiều thân, nhập bát Niết-bàn, tiếp đó có bảy câu kỳ Độc giác xuất thế hóa chư chúng sanh. Đến khi tuổi thọ của loài người dần dần tăng giảm tám vạn tuổi thì cùng một lúc nhập vô dư Niết-bàn, tiếp sau đó Phật Di Lặc mới xuất thế. Lại nữa, kinh Liên Hoa Diệu nói: khi cuối cùng Phật pháp diệt tận thì xá lợi của Như Lai hãm nhập vào Long cung. Pháp ở Long Cung diệt thì hãm nhập vào Kim cang Tế. Tiếp đó bảy ngày bảy đêm trời đất tối đen, có ngoại Đạo ở trong không trung cất tiếng nói rằng; pháp của sa Môn Cù Đàm nay đã diệt tận, chúng ta sẽ giáo hóa chúng sanh ở tất cả thế giới, vừa phát lời đó rồi thị hiện thân hãm nhập vào Địa Ngục, sau đó thì Phật Di Lặc xuất Thế. "không có Phật pháp Tăng": là như sông thiếu nước, cũng là nghĩa không có nước, cho nên dựa vào thiếu ba thứ ấy Tam bảo (nên đem kinh trao gửi) nếu đã hoàn toàn là không có thì trao gởi làm gì?.
Dưới đây là phần hai-Tuyên thuyết tu hành.
Kinh: Nay bốn Bộ các đệ tử của Ta, thọ trì đọc tụng hiểu rõ nghĩa lý, rộng vì chúng sanh tuyên thuyết pháp yếu, khiến họ tu tập xuất ly sinh tử.
Giải thích: "Bốn bộ"; là hai chúng xuất gia và hai chúng tại gia như trên. "Xuất ly": là Tam Thừa tu tập đều xuất ly sinh tử.
Dưới đây là phần hai-Rộng tỏ các điều răn bảo. Trong đó chia làm ba phần: 1. Rộng tỏ các điều răn bảo; 2. Các vua cung kính thửa hành; 3. Đại chúng mũi lòng than vãn. Phần một. Các điều răn, văn chia làm bảy phần: 1. Người kiến lập.
Kinh: Đại vương! Đời năm trược sau này, tất cả Quốc vương, vương tử, đại thần, tự ỷ minh cao quý, phá diệt giáo pháp của ta.
Giải thích: "Năm trược" theo câu xá Luận quyển mười hai nói, gồm: Mệnh trược, kiếp trược, Phiền não trược, kiến trược, Chúng sanh trược. Gọi là Trược, như câu xá Luận nói: kiếp diệt sắp mạt, các thọ thấp kém giống như chất cặn bã, gọi là trược. Chánh lý quyển ba mươi hai nói: vì rất ư hèn hạ thân kém nên phải vứt bỏ như bỏ đồ dơ vậy, gọi là trược. Ngũ trược là gọi chung, mang thêm con số mà giải thích. Giải thích về từng tên gọi riêng là: như Du-già Luận quyển bốn mươi bốn nói: 1. Mệnh trược: như thời nay, tuổi thọ con người ngắn ngủi; 2. Kiếp trược: dần dần nhập vào Tam tai trung kiếp, tổn hao tư cụ đồ dùng; 3. Phiền não trược: hữu tình đa phần tập gần phi pháp, bị tham-sân-si quấy nhiễu; 4. Kiến trược: Hữu Tình đa phần là hoại diệt chánh pháp, giả dối vọng tìm cầu do năm kiến tăng trưởng; 5. Hữu tình trược: Hữu tình đa phần không biết cha mẹ, không thấy sợ hãi, các ác tăng trưởng. Thứ độ của những thứ đó là: Thọ, tư cụ, độ lợi, tác nghiệp, Quả duyên nhân nương theo Khổ Tập mà thành. Có nơi nói: Lợi Độn, tác nghiệp cảm quả nội ngoại là nương theo trị đoạn.
Thể của năm trược, mệnh trược thì thọ dựa mệnh căn, dựa thức làm Tính. Kiếp trược Hữu tình thì lấy uẩn làm Tính. Phiền não và kiến trược thì lấy tâm sở làm Tính. một loại mà bốn hiện, lấy năm uẩn làm Thể. Về Nguyên Do thì; như chánh lý nói; Thọ trược, kiếp trược, hữu tình trược, cả ba thứ đều không thành năm trược. Kiến trược thì dùng phiền não trược làm Thể, đúng thì không thành năm trược, nhưng vì thứ tự thì hiển rõ năm tướng suy tổn. Tăng mạnh năm suy tổn là gì? 1. Thời suy tổn rất ngắn ngủi; 2. Vật dụng suy tổn, thiếu sắc tươi nhuận; 3. Thiện phẩm suy tổn thích làm việc ác; 4. Tịch tĩnh suy tổn lần lượt thành trái ý nhau thành ra tranh luận; 5. Tự thể suy tổn chẳng chứa đựng công đức thế gian. Lại nữa, Câu xá luận nói: do hai trược đầu, Thọ mệnh và vật dụng suy tổn, cùng cực. Do hai trược tiếp mà Thiện phẩm suy tổn thích tự khổ, hoặc tổn hại Thiện tại gia và xuất gia. Do một trược cuối mà suy tổn tự thân. Pháp đối trị với những trược đó là do ba thiện căn, khởi các chánh kiến, tu Thập Thiện hạnh đắc quả vi diệu thù thắng.
"Tất cả Quốc vương": là tất cả Quốc vương trong Châu Thiệm Bộ.
"Vương tử, đại thần": là như văn đã rõ. Nghĩa là ba loại người đó, lực dụng tự tại, nhận sự trao gởi, kiến lập chánh pháp nhưng lại không kiến lập, tự ỷ cao quý mà phá diệt.
Dưới đây là phần hai-Nói về phi pháp.
Kinh: Tự tạo pháp chế, chế ngự các đệ tử ta, Tỳkhưu Tỳ-khưu-ni không thuận cho xuất gia, tu hành chánh đạo. Cũng lại không nghe, cho tạo tượng Phật, tháp. Bạch y ngồi cao. Tỳ-khưu đứng đất, giống pháp binh nô, không có gì khác.
Giải thích: "Chế đệ tử ta" là không cho xuất gia. "Tu hành chánh đạo": là hàng đầu đà... "Tạo Tháp tượng Phật?" Là chế tạo Phật tượng, chế tạo Tháp tượng. "Bạch y ngồi cao": là tại gia thì ngồi ở trên cao, còn xuất gia thì đứng ở dưới đất, cả hai điều đó đều là phi pháp như dụ đã rõ.
Dưới đây là phần ba-Kết, nói nghĩa không lâu.
Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.
Giải thích: Do điều thứ nhất nên hoàn toàn không có người truyền pháp do các điều sau mà không lâu.
Dưới đây là phần hai-Răn bảo Quốc độ phá diệt. Văn có ba phần: 1. Nêu người Năng chế.
Kinh: Đại vương! Nhân duyên phá nước, đều do các ông tự làm, ỷ oai lực mình, cấm bố Bộ chúng, không nghe cho tu phước.
Giải thích: Cấm tu tam học giới định tuệ, cấm tu cúng dường là nghiệp sự phước chân thật.
Dưới đây là phần hai-Nói rõ phi pháp.
Kinh: Chư Tỳ-khưu ác, thọ pháp biệt thỉnh, Tỳ-khưu tri thức cùng chung một lòng, ngang bằng thân thiện, cùng hợp cầu phước, ấy là pháp ngoại đạo, chẳng phải giáo pháp của Ta, trăm họ dịch bệnh, vô lượng khổ nạn.
Giải thích: Biệt thỉnh là nhận thỉnh mời riêng, như Ngoại đạo. Do chúng xuất gia không khéo thủ hộ, làm phi pháp đó, là nguyên nhân chính của sự rối loạn. Cấm tu phước nghiệp là nhân bất Thiện. Khiến rồng dữ, quỉ dữ làm ra các khổ nạn. Dưới đây là phần ba-Kết, phá diệt.
Kinh: Nên biết bấy giờ, cõi nước phá diệt.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba-Răn bảo không lâu, pháp diệt. Văn có ba phần: 1. Nên người Năng tác.
Kinh: Đại vương! Vào thời mạt pháp, Quốc vương đại thần, bốn bộ đệ tử, đều làm phi pháp.
Giải thích: Đó là nêu chung, Dưới đây là phần hai-Nói về phi pháp.
Kinh: Trái lời Phật dạy, làm các lỗi lầm, phi pháp phi luật, trói buộc Tỳ-khưu, như ở ngục tù kia.
Giải thích: Làm các lỗi lầm, phi pháp trói buộc như Ngục tù. Dưới đây là phần ba-Nói về không lâu.
Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.
Giải thích: Là kết. Dưới đây là phần bốn-Theo Nhân cảm Quả. Trong đó chia làm ba phần: 1. Người tự hủy; 2. Phi pháp bị báo; 3. Nêu dụ giải thích thành. Trong phần một lại có hai phần: 1. Nêu người tự hủy.
Kinh: Đại vương! Sau khi Ta diệt độ, bốn chúng đệ tử, tất cả Quốc vương, vương tử, trăm quan, chính là những người trụ trì Tam bảo, mà cũng chính mình phá diệt.
Giải thích: "Bốn bộ đệ tử" là chúng Trụ trì. "Quốc vương trăm Quan" là chúng lập hộ. Giáo nương vào hai chúng đó mà được trụ ở thế gian. Không trì, không hộ tức là phá diệt.
Dưới đây là phần hai-Nêu thí dụ nói rõ lỗi.
Kinh: Như sâu trùng trong sư tử, tự ăn thịt sư tử, chẳng phải do ngoại đạo.
Giải thích: "Như sâu trùng trong thân sư tử" như kinh Liên Hoa diên nói: Phật bảo A-nan: Thí như Sư tử, nếu mệnh chung, tất cả chúng sanh ở trong nước hay ở trên đất đều không dám cắn ăn chỉ thân sư tử tự sinh ra các sâu trùng trở lại ăn thịt sư tử. A-nan! Phật pháp của ta người khác chẳng thể làm hư hoại được mà chính là những Tỳ-khưu xấu trong pháp Ta đã tự hủy hoại. Như trong kinh kia chỉ dụ cho người xuất gia. Nay trong kinh này nói đủ cả bốn chúng không thể hành hộ thì giống như kinh kia. Dưới đây là phần hai-Phá hoại pháp bị Quả báo. Trong đó chia làm ba phần: 1. Thuận hiện báo; 2. Thuận sinh báo; 3. Thuận hậu báo. Trong phần một lại có hai phần "1 Các ác tăng trưởng.
Kinh: Người hủy hoại pháp ta, bị tội lỗi lớn, chánh pháp suy mỏng, dân không chánh hạnh, các ác dần tăng, tuổi thọ ngày giảm, không có hiếu tử, sáu thân bất hòa, trời, rồng không giúp.
Giải thích: "Người hủy hoại..." hai câu đầu là nêu: "Chánh pháp suy mỏng" là nói về tà hạnh. "Các ác dần tăng..." là ác hạnh dần dần tăng lên, tuổi thọ ngắn ngủi. "Không có hiếu tử,..." nhà không có con hiếu thảo, bà con thân thích bất hòa. "Thiên long không giúp" là Bát bộ Thiên Long rời bỏ mà đi.
Dưới đây là phần hai-Tai quái khởi.
Kinh: Quỷ dữ, Rồng ác, ngày đến xâm hại, tai quái liên tục, làm họa ngang dọc.
Giải thích: "Quỷ dữ, rồng ác" Quỷ dữ làm dịch bệnh. Rồng ác làm hạn hán lụt lội, mưa gió thất thường. "Tai quái liên tục": là chúng nạn tranh nhau khởi lên. "Tung hoành" Nam-Bắc là tung, Đông-Tây là hoành tức bốn phương có tai nạn. Dưới đây là phần hai-Thuận sinh báo.
Kinh: Sẽ bị đọa địa ngục, bàng sinh, ngạ quỉ.
Giải thích: "Sẽ đọa..." là làm nghiệp bất thiện có quả báo dị thục thượng, trung, hạ, ở ba cõi ác.
Dưới đây là phần ba-Thuận hậu báo.
Kinh: Nếu được làm người, thì bần cùng hạ tiện, không đủ các căn.
Giải thích: Nói về hậu báo. Dưới đây là phần ba-Nêu dụ giải thích thành.
Kinh: Như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, như viết trong đêm, đèn tắt chữ còn, quả báo hủy hoại pháp, cũng lại như vậy.
Giải thích: "Như bóng theo hình" bóng và thân đều là Dụ cho thuận hiện báo "Như vang ứng tiếng" tiếng mất, thì âm vang ứng. Là dụ cho Thuận sinh báo. "Như viết trong đêm, tắt đèn chữ còn" lửa đèn là dụ cho tác tập. Chữ là dụ cho huân nghiệp. Lửa đèn và chữ hiện cả hai, là dụ cho chủng tử hiện hành, nêu cái thấy của mình để hiển bày cái không thấy, do đó lửa nghiệp tuy diệt nhưng chủng tử chữ không mất, chiêu cảm thuận hậu báo mà thành thục, gần hay xa.
Dưới đây là phần năm-Răn bảo Phật pháp không lâu dài. Văn chia làm ba phần: 1. Người chế pháp.
Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, tất cả Quốc vương, vương tử, đại thần.
Giải thích: Người thiết lập pháp. Dưới đây là phần hai-Nói phi pháp.
Kinh: Đối với đệ tử của Ta, đăng ký ghi sổ, đặt quan điểm chủ, gồm trị mọi tăng lớn nhỏ, sai khiến phi lý.
Giải thích: Những người xuất gia ở các nước phương Tây không lập sổ ghi đăng ký cũng không có người chủ điển quản lý, không có kẻ thống nhiếp trong Tăng. "Phi lý sai dịch" là sai khiến sai dịch giống như thế tục.
Dưới đây là phần ba. Kết pháp không lâu.
Kinh: Nên biết bấy giờ, Phật pháp trụ thế không lâu.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần sáu-Răn bảo về nghe theo tà mà chế. Văn có ba phần: 1. Nêu người y pháp.
Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, tất cả Quốc vương, bốn Bộ đệ tử sẽ nương nơi chỗ hành đạo của tất cả, chư Phật mười phương, để kiến lập, lưu thông.
Giải thích: Kiến Lập ba Học: tức là thường Đạo. Dưới đây là phần hai-Nói về phi pháp. Văn lại chia làm hai phần: 1. Khởi phi pháp.
Kinh: Nhưng Tỳ-khưu xấu, vì cầu danh lợi, không dựa nơi pháp của ta, ở trước Quốc vương, tự thuyết giảng sai lầm, làm duyên phá pháp.
Giải thích: "Không dựa vào pháp của Ta": là ngoài ba học ra, thì đều chẳng phải là Phật pháp. kề cận với sự phá pháp. Dưới đây là phần hai-Ngang ngược chế pháp. Kinh: Vua đó không rõ, tin nhận lời ấy, hoạch lập chế pháp, không theo giới Phật.
Giải thích: Các Bộ luật thuyết là do Phật tùy chế, phải như pháp mà hành, những điều Phật không chế thì không nên ngang ngược chế. Chế tức là sai. Dưới đây là phần ba-Kết nói nghĩa không lâu.
Kinh: Nên biết bấy giờ, không lâu pháp sẽ diệt.
Giải thích: Như kinh đã rõ. Dưới đây là phần bảy-Răn bảo về tự làm phá nước. Văn có ba phần: 1. Nêu người tự tác.
Kinh: Đại vương! Trong đời vị lai, Quốc vương, đại thần, bốn bộ đệ tử.
Giải thích: Nêu về người. Dưới đây là phần hai-Nói về phi pháp.
Kinh: Tự tạo nhận duyên phá pháp, phá nước, thân tự chịu lấy, chẳng phải lỗi của Phật pháp, trời, rồng bỏ đi, năm trược chuyển tăng.
Giải thích: "Tự làm phá pháp": nghĩa là bốn bộ chúng, không thể y giáo, như pháp tu hành. "Nhân duyên phá nước"; Quốc vương đại thần, tự không giữ chánh, kiến lập chánh pháp. hai thứ đó nương nhau làm cho chánh pháp bị chìm mất, trời rồng không hộ vệ, làm năm trược tăng thêm. Dưới đây là phần hai-Kết. Tội lỗi vô tân.
Kinh: Nếu nói cho đủ, cùng kiếp không hết.
Giải thích: Kết gần thì ác trược vô tận, kết xa thì sáu chủng loại trên vô tận. Dưới đây là phần hai-Các vua cung kính thừa hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Các vua xúc động, buồn thương.
Kinh: Bấy giờ, mười sáu Đại Quốc vương, nghe nói những điều khuyên dạy như vậy vào thời vị lai, đều buồn bã la khóc, tiếng động Tam thiên, trời đất tối tăm, ánh sáng không hiện.
Giải thích: Các vua buồn khóc, chấn động đại thiên, mặt trời mặt trăng không hiện thì mờ tối. Dưới đây là phần hai Theo lời dạy bảo, cung kính thừa hành.
Kinh: Lúc này các vua... mỗi mỗi vị đều chí tâm, thọ trì lời Phật, không cấm bốn bộ, xuất gia học Đạo, làm như Phật dạy.
Giải thích: Như văn đã rõ. Dưới đây là phần ba-Đại chúng mũi lòng than vãn.
Kinh: Khi ấy hằng hà sa vô lượng đại chúng đều cùng than: đúng vào thời đó, thế gian rỗng không, ấy đời không Phật.
Giải thích: Thương xót than vãn, chánh tuệ mất diệt, trú trì giáo mất tức là không có Phật. Dưới đây là phần ba-Hỏi tên phụng hành. Trong đó chia làm hai phần: 1. Hỏi tên kinh; 2. Phụng hành.
Trong phần một lại có năm phần: Dưới đây là phần một-Nhân vương phát hỏi.
Kinh: Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc bạch Phật: Thế Tôn! Kinh này tên là gì? Chúng con làm sao phụng trì?.
Giải thích: Hỏi tên để phụng trì. Dưới đây là phần hai-Thế Tôn đáp.
Kinh: Phật bảo: Đại vương! Tên kinh này là Nhân Vương Hộ quốc Bát-nhã Ba-la-mật đa. Cũng được gọi là Cam lộ pháp dược. Nếu có người uống, thực hành thì có thể chữa lành các bệnh tật.
Giải thích: Tên kinh này là: đầu tiên tức là Nhân vương. Là người thỉnh hỏi, lấy theo thỉnh chủ mà nêu tên. Tiếp đó nương theo đức nói rõ, khả năng chữa lành các bệnh tật sinh tử, thân sâu nhiều đời con hết được huống nữa là tai khổ thiển cận chẳng diệt được sao?.
Dưới đây là phần ba-Công đức của kinh.
Kinh: Đại vương! Công đức của Bát-nhã Ba-la-mật đa vốn có, giống như hư không, không thể lường tính được.
Giải thích: Theo các nghĩa câu, như hư không khôn lường. Dưới đây là phần bốn-Năng hộ vương thần Kinh: Nếu có người thọ trì, đọc tụng, thì công đức đạt được có thể hộ trì Nhân vương và các chúng sanh.
Giải thích: Lực kinh thâm diệu, tùy đọc mà hộ trì. Đại bi oai Quang... không có cao thấp. Dưới đây là phần năm-Dụ hiển rõ thọ trì.
Kinh: Giống như vách tường, cũng như thành trì. Do đó các ông, phải nên thọ trì.
Giải thích: Hộ nhà, hộ nước. Cả hai dụ cho thọ trì. Dưới đây là phần hai-Đại chúng phụng trì.
Kinh: Phật thuyết giảng kinh này xong... vô lượng Bồ-tát Ma-ha-tát như Di Lặc, Sư Tử Nguyệt... vô lượng Thanh văn như Xá-lợi-phất, Tu-bồ-đề, vô lượng thiên nhân nơi Dục giới, Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, A-tu-la... tất cả đại chúng, nghe Phật giảng nói đều rất hoan hỷ, tín thọ phụng hành.
Giải thích: Đại chúng nghe pháp, vui mừng phụng hành.
Lương Bí than mình ở cuối đời Tượng pháp, không gặp được Phật uổng nhớ vận Huyền, buồn bưng hào quang rực rỡ còn sót lại, Sớ củ truyền kinh đã lâu tràn khắp. Nay thuộc Đại Đường, ngự lịch bốn biển quang lâm, dịch lại kinh này, chiếu bảo tán thuật. Lương Bí trong Tăng chí thấp, ha dám nơm châm, nhưng vì kinh đã phát luân hành lấy lửa đom đóm mà giúp mặt trời lần theo dấu vết xưa cũ, như đi trong bóng tối e gặp chỗ thâm sâu, từ ngữ ý tứ sơ vụng, càng thêm thẹn sợ. Xin các bậc tôn thượng xem mà sửa cho.
Chọn tập kinh Luận các yếu chỉ Tán thêm Bát-nhã diệu khó lường Lấy tấm lòng này thí quần sinh Nguyện cùng mau chứng vô thượng giác