TẠNG LUẬN
SỐ 1719 - PHÁP HOA VĂN CÚ KÝ
Đời Đường Tông Thiên Thai Sa-Môn Trạm Nhiên Thuật
GIẢI THÍCH PHẨM NGŨ BÁCH ĐỆ TỬ THỌ KÝ
GIẢI THÍCH PHẨM THỌ HỌC VÔ HỌC NHÂN KÝ
GIẢI THÍCH PHẨM TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT
GIẢI THÍCH PHẨM THỌ LƯỢNG (Tiếp theo)
GIẢI THÍCH PHẨM PHÂN BIỆT CÔNG ĐỨC
GIẢI THÍCH PHẨM TÙY HỶ CÔNG ĐỨC
GIẢI THÍCH PHẨM PHÁP SƯ CÔNG ĐỨC
GIẢI THÍCH PHẨM THƯỜNG BẤT KHINH BỒTÁT
GIẢI THÍCH PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC
GIẢI THÍCH PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT
GIẢI THÍCH PHẨM TRANG NGHIÊM VƯƠNG
Tiếp, "Kệ" văn: Trên nói kệ văn lãnh giải đều trình bày. Trước trong trường hàng thì lấy thân làm lãnh, dùng ý làm giải hoàn toàn Tựa như đều trình bày; mà nói "hợp": là trong lãnh hợp giải, trong giải hợp lãnh cho nên nói hợp. Nay nói "các" (mỗi đều): là ba nghiệp đều có lãnh cùng giải, mặc dù giống như hợp nêu nhưng trong mỗi một nghiệp tự phân lãnh giải, cho nên gọi là "mỗi đều". Lược nên phân tiết, sau có thể y văn. Đã phân làm ba tức Nêu ra, Giải thích, Kết. Đầu tiên là thông nêu: "Con nghe" là nêu khẩu, "vui mừng" là nêu tâm. Nói "kiêm Phật": là kiêm theo Phật tức là kiêm nêu thân. Đã là tổng nêu lại dùng "Con nghe pháp âm ấy..." là lãnh, "Lòng rất đổi vui mừng" là giải.
Tiếp giải thích ba nghiệp: trong một hàng rưỡi đầu tụng thân lãnh giải, thì một hàng đầu là thân lãnh, tiếp nữa hàng là thân giải. Tiếp, "Con ở...": mười một hàng nêu khẩu lãnh giải, trong đó lại chia làm hai: Chín hàng đầu nêu thân xa, tiếp hai hàng nêu nhập pháp tánh. Chín hàng đầu chia làm hai: Tám hàng đầu nêu khẩu lãnh, tiếp một hàng nêu khẩu giải. Do lãnh mà giải (hiểu) lỗi ở khẩu xưa. Trong nhập pháp tánh lại chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng nêu khẩu lãnh, tiếp nửa hàng nêu khẩu giải. Do lãnh mà giải được sở đắc từ khẩu xưa.
Tiếp, "Mà nay...": chín hàng rưỡi tụng ý lãnh giải, chia làm hai: Tám hàng đầu tụng ý lãnh, sau một hàng rưỡi tụng ý giải. Cuối, hai hàng rưỡi tụng kết thông, có hai: Một hàng rưỡi đầu tụng kết lãnh, tiếp một hàng tụng kết giải. Lãnh là ngoài lãnh Phật thuyết, giải tức trong thọ ý Phật. Do đó trong trường hàng thì hợp, kệ tụng thì ly mà chung làm một ý. Lại tổng chín hàng rưỡi đây ý văn lãnh giải, tụng tâm đắc diệu giải bên trên. Vả lại, y văn trước đồng dùng giải làm danh, nhưng trong đó lại phải phân nhỏ, cũng có thể chia làm tám:
l) Hai hàng đầu tụng: xưa chẳng thật.
2) Một hàng: chánh tụng nghe diệu giải ở chu đầu, tức tụng trong phương tiện hiển thật.
3) Một hàng: trở lại tụng trên pháp thuyết thời chu đầu lược nói mà sinh nghi hối.
Một hàng: tụng chương môn chư Phật bên trên: chủng chủng lãnh khai quyền bên trên, thí dụ tụng Đàm hoa bên trên.
4) Từ "Phật thuyết..." trở xuống một hàng tụng chương môn Phật quá khứ.
5) "Hiện tại..." một hàng tụng chương môn Phật hiện tại, vị lai.
6) "Như nay..." một hàng tụng chương môn Phật Thích-ca bên trên.
7) "Thế Tôn..." một hàng rưỡi tụng hối lỗi tự trách.
Nghiệm biết đầu tiên nghi, lỗi tại mình. Trước trong thân lãnh giải: Kinh nói: "Sắc vàng ba mươi hai tướng cho đến mười tám pháp bất công..." đều như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Nay văn thuộc Viên tỷ dụ nói có thể thấy. Lại, tám mươi tướng tốt: Căn cứ văn Đại kinh nói tướng tốt của Phật thì vô lượng, đây ứng trong sắc chỉ có tám mươi. Chúng sinh thế gian thờ tám mươi thần, cho nên đức Phật có đầy đủ để sinh tôn kính. Nay kinh văn ý tổng trình bày lỗi xưa. Nhưng Tám mươi tướng tốt đều có đủ tứ Tất-đàn để lợi tha không hẳn hoàn toàn là tám mươi thần, cho nên mỗi một tướng tốt đều là biển tốt. Nay nghe khai quyền chánh lãnh lỗi xưa, là tướng tốt không thể nghĩ bàn.
"Đầy đủ như..." trong Điều-đạt nói: Ta từng ngày đêm...: Nếu các Thánh lại dùng tối sáng mà làm đêm tối, thì đối điều này tư duy đâu đủ để trình bày, cho nên trong đây nên theo sở biểu. Giải thích có hai lớp đều căn cứ giáo xưa. Trong cơ nhậm vận sâu kín có cái nghi này, vì chưa được rõ ràng nên có thuyết này. Nếu trong sinh tử có, thì là ý Đại thừa. Nếu trong sinh tử không có, thì là ý Tiểu thừa. Đã đắc Tiểu thừa rồi, không biết đây chứng tại nơi nào chấp nhận. Xưa trong căn cơ từng có nghi này đến nay, đây chính là dùng Tạng đối Diễn mà làm trong ngoài. Nếu nay thâu hoạch ngộ thì cái nghi này ắt bỏ. Lại "Sinh tử...": tiếp theo, vì sinh tử và Niết-bàn đều gọi là đêm, được nghe lý Trung đạo gọi là ngày, đây chính Biệt Viên dùng đối Tạng, Thông tối tăm sinh nghi. Sau nghe khai hiển thì nghi này mới trừ, đây là đối
Phương-đẳng Bát-nhã đều nghe: Nhưng văn sớ nói ít, lẽ ra lại nói: Thật lý trung đạo làm ngày. Tại xưa đối với Đại thừa nghe lý Trung đạo này tuy đối đã chứng mà còn tối tăm sinh do dự; chưa chứng lý Trung này như mặt trời vẫn ẩn dấu, vừa nghe lược khai vẫn còn có nghi đây, huống chi xưa ở Tiểu thừa. Nay nghe năm Đức Phật rộng hiển thật quyền mới trừ bỏ được hai nghi như mặt trời xuất hiện. Lại "Người đời...": Ý thí dụ Thanh văn từng trải qua các pháp hội, hoặc bị la mắng hoặc được gia-bị, hoặc vui hoặc lo buồn, đến Pháp Hoa trải các đủ các gian khổ, tự hành lợi tha đều nghe biết chỉ vì cho rằng không phải nhiệm vụ của mình nên tự tha có chút sai biệt, nên cùng các vị mới bắt đầu thì khác. Cho nên biết bắt đầu từ vi tiện trải qua đầy đủ văn võ, hiểu rõ từ cạn dần đến sâu, biết vật có khả năng hay là không. Như Hương Tích Bồ-tát lại học song lưu (hai dòng), cho nên thảo sáng (mới bắt đầu) ít am hiểu các hành. Nhưng lại hai đường xen lẫn làm hơn thua không thể nhất hướng.
Nói "Năm vị đào thải": là thông chỉ năm vị lấy làm đào thải, chẳng riêng gì Bát-nhã. Kinh nói: "Vô lậu khó nghĩ bàn...": Xưa nói rằng vô lậu chỉ đến Vô dư, nay mới biết đến thật đạo tràng. "Hiểu ma phi ma....": Xưa nghe khác bản, cho rằng Phật là ma. Nay mới biết vốn ngu, giác biết chỗ lầm ấy tức là Phật cho nên nói vậy. Kinh nói: "Phật dùng các món duyên...": Trước dùng Thíchca khai quyền giải thích chư Phật hiển thật, nói: "Ta dùng vô số phương tiện các thứ nhân duyên thí dụ ngôn từ..." cho đến "chương tam thế Phật", mỗi mỗi đều nói "cũng dùng" cho đến "pháp ấy đều là nhất Phật thừa". Trong Kết nói "Kết thành" lại có thể chia làm hai: Một hàng rưỡi đầu tụng Kết, tiếp một hàng tụng Thành. Phần đầu Kết có hai: Ba câu đầu kết âm thanh Phật tức khẩu hỷ. Ba câu sau kết ý hỷ. Lại do nghe Phật, dùng kiêm thân cho nên có hoan hỷ nghi trừ, sở chứng sở thành cảm báo tác dụng. Thuật thành ba ý trên: Thấy Phật thuật thân hỷ, nghe pháp thuật khẩu hỷ, ngộ giải thuật ý hỷ. Xưa vẫn từng giáo hóa Đại, đâu chỉ ngày nay mới được thân cận ư! Tuy lại mê trong đó mà từng nghe chẳng sai lầm, tức hiển ngày nay lập lại duyên nghe; giữa đường giáo hóa (dạy) Tiểu thừa còn không làm tiểu, nay lại được nghe thì tin do bởi xưa đã được dạy. Nghiệm nay ý giải căn cứ xưa không hư dối. Nhưng thấy Phật... ba thứ thông có ba lãnh. Nói "duyên thấy Phật": Do xưa thấy Đại thừa cho nên ngày nay đắc Thật là duyên, thật mới gọi là "thấy". Nói "duyên ưu hối nghe pháp": Tự mình trong đó quên đến nay, là do chấp Tiểu, lại nghe hai tô đến lược thuyết ở nay. Phàm ưu hối, đều do xưa chấp Tiểu thừa. Nói "bất hư": Xưa vốn nghe Đại, tin nay không dối gạt.
Tiếp, "dẫn Thập trụ Tì-bà-sa luận" để giải thích "Vô thượng"; tiếp "dẫn kinh Anh Lạc" để giải thích "Đạo", lại nhờ danh Biệt để hiển nghĩa Viên, nghĩa Viên danh Biệt tất cả đều rõ. Chỗ khác không có ý đây không thể lạm dụng. Bảy thứ vô thượng này văn chia hai lớp: Lớp đầu, một thứ trước là quả, sáu thứ sau là nhân. Hai nhân đầu là Lục hòa, hai nhân tiếp theo là Phước trí, hai nhân sau là Chứng hành. Tuy phân làm ba cặp xen nhau mà tướng và lực, cho nên sáu nhân đều gọi là Vô thượng. Vọng quả hành nhân cho nên quả trước nhân sau. Nói "Lục hòa": Đầu tiên thọ trì vô thượng tức thân khẩu ý, do có ba hòa cho nên tự lợi ích vô thượng. Đại thừa lục hòa nhiếp trọn các pháp. Hai chướng chỉ là phiền não và sở tri, hai chướng đây nếu biệt luận thì tại Biệt Địa tiền, Vô tri chỉ là ngoại giới trần sa. Nếu thông trên dưới, thì vô tri tức nhiếp vô tri trong ngoài và do vô minh, cho nên tri chỉ là khai hợp sai khác. Trong hành vô thượng chỉ nói Thánh phàm không có ba thứ khác. Thiên là sở chứng, bệnh trẻ con là quả dụng, tu hai chứng một có hai khả năng đây, vì vậy nên chỉ nêu hai mà không liệt kê ba thứ còn lại. Lớp thứ hai, lại từ quả lập tức do sáu nhân từ quả lập xưng, tầm danh dựa theo giải thích để xuất ý chỉ của kinh. Dưới đã kết nói chủng chủng là nêu rõ vô thượng đạo, cho nên đạo nghĩa vô lượng tùy giáo nào mà thành! Cho nên nói kinh này Viên Vô thượng đạo tức là đạo của Vô thượng gia gọi là Vô thượng đạo. Mỗi mỗi Vô thượng đều đầy đủ Vô thượng của các đạo. "Xưa tuy Đại hóa...": Giới nội vô minh cũng chưa từng phá, nên nói "Hoặc ám". Nếu sơ tâm Viên tu thì dù chưa phá Kiến tư, chỉ nghe một câu nạp chủng vào thức thì muôn kiếp không quên mất. Dùng ám vọng minh (tối đối sáng) mà còn chẳng lầm chân ngộ thì lẽ nào lại hư dối? Huống chi là ngộ chân có thứ lớp có siêu vượt đầy đủ như trước nói. Cho nên, "Hoặc ám" là chỉ sáu căn về trước. Sáu căn tuy tức chưa phá vô minh, tương tợ địa vị bất thoái còn gọi là "Bất ám". "Nếu đắc đại giải...": là trưng hỏi. "Thọ ký có bốn ý...": Đáp ý là "cần phải thọ ký". Bốn ý thọ ký đây nói đủ tại ba chu. Tại chu giữa, trong bốn ý ấy chỉ trừ chữ "trung" trong ý thứ hai. Cho nên, đến chu cuối thì chỉ có ba không có bốn ý. Lại trong bốn ý ở đây thì ý đầu có đầy đủ ba ý dưới. Lại, ý đầu và ý thứ tư thì đối xưa, ý thứ hai và thứ ba chỉ nay. Lại ý đầu và thứ tư chỉ "tự", ý thứ hai và thứ ba căn cứ "tha". Lại ý thứ ba thì thông hiện tại và vị lai, ý đầu chỉ hiện tại, ý thứ hai chỉ vị lai, ý thứ tư chỉ quá khứ. Gia Tường có mười ý nhiều mà không hợp. Nay điểm thô chỉ bày, khiến biết nhiều và lược.
l) Chứng giải bất hư.
2) Khiến không nghi hối. Hai thứ này thuộc Thuật thành, đâu cần lại nói thọ ký.
3) Dẫn vật sinh tin thuộc nay thứ ba.
4) Khiến Thân-tử hâm mộ quả, đây thuộc chương đầu tán thán hai trí của năm Đức Phật, vì muốn khai quyền, kiêm khiến mộ cực. Nay đây chỉ là thọ ký tám tướng, Sơ trụ tự đắc không cần nói "mộ".
5) Vì dẫn tám bộ, chánh dẫn đồng loại, bát bộ là phụ. Đây đồng văn nay ý phụ thứ hai. Xưa chưa thọ ký nhị thừa cho nên nhị thừa căn tánh vĩnh viễn tuyệt dứt kỳ vọng kia, mà nay thọ ký, phụ dẫn bát bộ cho nên nói "cần phải thọ ký".
6) Vì dẫn vật xưa sinh cùng ý nay đồng.
7) Hiển kinh bí mật, bí mật thuộc lý, thọ ký Tiểu thuộc sự. Lại, thọ ký thuộc hiển lộ, không gọi là bí mật, đây thuộc giáo xưa.
8) Muốn thành Đại thừa, đây thuộc ý đầu.
9) Hòa hội Đại tiểu nói "như xưa trách Di-lặc được nhận...". Hòa hội là biệt danh của Khai quyền, do khai quyền nên mới được thọ ký.
10) Vì dẫn người có duyên, cũng là ý thứ ba.
Mười ý số nhiều nghĩa ít nhưng thiếu văn ý thứ tư này. Nguyên phát tâm Đại thừa thì hy vọng được thọ ký, cho nên biết mười nghĩa đó tuy nhiều mà không đủ. Các văn của sớ kia, đây theo lệ rất nhiều, ngoài ra không thể trình bày. Chánh trong Thọ ký thì mười thứ: Hành nhân....., kinh văn đều có hai. Trong Thời tiết có thế có số, trong Hành nhân có cúng Phật và tu hành, trong Đắc quả có thông hiệu và biệt hiệu, trong Quốc tịnh có quốc danh (tên) và quốc tịnh, trong Thuyết pháp có tam thừa và nhất thừa. Kinh văn tuy không nói nhất thừa, đã đáp lời nguyện nói Tam, nói Nhất làm chánh, chánh phụ gồm đầy đủ. Trong Kiếp danh có nêu có giải, trong Chúng số có nhân có hạnh, trong Thọ lượng có thọ lượng của Phật và thọ lượng của nhân dân. Riêng luận thọ mạng sau thành Phật, cho nên trừ vương tử. Trong Bổ xứ có y báo có chánh báo, trong Pháp trụ có chánh pháp và tượng pháp. Trong Viên tịnh, "trước, lập danh cõi kia....": là tướng. Không cao thấp gọi là "bình", không thiên lệch gọi là "chánh". "An ổn....": là độ (cõi), "dùng lưu ly.....": là nêu tướng thù thắng. Trong Thuyết pháp thì căn cứ nay Đức Thích-ca cho nên nói "cũng vậy".
"Xá-lợi....": là nêu thuyết ý Tam thừa. Cõi tịnh chỉ có một, đáp lời nguyện thuyết Tam, tức thiết lập tức phế bỏ.
Hỏi: Nguyện nói nơi nào?
Đáp: Căn cứ kinh Đại Bi Không Tạng nói: "Trong sáu mươi kiếp hành Bồ-tát đạo, nhân khi Bà-la-môn xin mắt, mà thoái lui. Nguyện ngày thành Phật khai pháp tam thừa".
Hỏi: Đã được thọ ký rồi, vì sao lại trải qua bao nhiêu kiếp ư?
Đáp: Nếu thọ ký Bồ-tát thì chỉ thông đồ (đường lớn) nói "đắc vô sinh....". Nay thọ ký Thanh-văn phải căn cứ kiếp nước, nơi Phật ứng thân thành cần có cơ duyên. Các Thanh-văn đây xưa chưa từng có hạnh của tịnh độ, nhờ thọ ký rồi sau mới cùng chúng sinh kết duyên. Căn cơ chúng sinh không đồng dẫn đến có kiếp nhiều ít. Long nữ tuy là Súc sinh mà dùng "thừa cấp" cho nên trước tu tập phương tiện. Nếu căn cứ quyền tích thì đây lại biệt luận. Lại các Thanh văn thời không đồng: Vì thích hợp chúng sinh nên tùy căn cơ dài ngắn, cơ duyên không đồng sơ trụ đâu có gì sai khác. Người đời thấy Thanhvăn được thọ ký thì cơ hiềm kiếp số dài xa, thấy Long nữ thành Phật bèn nghi thời tiết ngắn ngủi? Hoặc nghi ít lỗi mà mắc tội rất lớn, hoặc suy nghĩ ít thiện mà chiêu cảm công tự nhiên nhiều; hoặc chỉ trích Phật nói hồi hoặc bất định; hoặc trách Bồ-tát chỉ bày tích sai khác. Hoặc nghe thắng hạnh nhiều kiếp thì nghi giáo môn hư cấu, nghe chư Phật thần biến thì cho là tướng thuật thế gian bao gồm. Hoặc nghi sáu mươi tiểu kiếp coi như nửa ngày; hoặc mê một sát-na trải qua vô lượng kiếp. Nói như vậy là tà thì không thể biết số, chính vì hạt giống tà kiến mạnh, đời trước sức huân tập tu yếu, chắp tay ngay ngắn mà giữ cái tệ lậu, nhàn rỗi mà đàm luận thị phi. Chỉ tin giáo ngưỡng mộ lý, đâu cần suy đoán chủ quan. Phó duyên ích vật chẳng phải điều mà thế gian biết. Phải biết người này đâu hiểu Sơ trụ đắc tám tướng thọ ký, mười phương làm Phật thị hiện các thứ. Tuy thị hiện các thứ mà cùng Pháp thân thọ ký sai khác. Nếu không vì vật tu hạnh tịnh độ, thì nơi thành Phật vì sao chấp cõi? Trong phần "Kệ tụng", kinh nói "Thập lực đẳng": tức chỉ Phật quả mới gọi là "lực". Sơ trụ phần đắc, gọi là "công đức". Nói "đẳng" là chẳng những chỉ cúng Phật kiêm tu hạnh tịnh độ, hoặc có thể do đắc thập lực công đức phần, thành sơ trụ thọ ký. Nếu dẫn Đại luận thì Bồ-tát có mười thứ lực phần, tức đây nêu nhập trụ Bồ-tát đầy đủ nhân thập lực. Kinh nói "Mỗi người đều cởi y trên của mình....": Trong đây chung nói bốn chúng tám bộ và hai chúng xuất gia. Nói "y trên": tức Đại y. Nếu luận ba y thì đều không thể bỏ, do pháp ở phương Tây phần nhiều chỉ ba y. Như trong kinh Đại Phẩm, thì ba trăm Tỳ-kheo nghe Bát-nhã rồi đều lấy Tăng-già-lê để cúng dường. Trong Luận hoặc nói "quên tướng là pháp"; hoặc nói "ngày ấy lại đắc". Hoặc chung nói "đó vì bao gồm tục". Hoặc như Đại luận. Kinh nói "mà tự xoay chuyển": là tiêu biểu nghe Thân-tử được thọ ký, pháp tánh tự nhiên mà chuyển, nhân quả y chánh tự tha đều chuyển.
Kinh nói "Tối đại Pháp luân" (Pháp luân rất lớn): "Tối" là kinh này khai trong Viên. "Đại" là Nhân (người)....bốn thứ Diệu, hoặc là mười thứ: Cảnh v.v..., hoặc là ba thứ: Phật v.v..... Luân của diệu pháp gọi là "Diệu pháp luân". Đây lược đối đầu cuối, không thuật chặng giữa Phương-đẳng Bát-nhã, đầy đủ như trong Huyền Văn. Kinh Hoa Nghiêm nói mười việc gọi là chuyển pháp luân, đây mới thông phương. Lại nói Viên âm không còn Đại tiểu, mà chúng sinh tự sai khác. Đây chính là từ chối chê bai diệu pháp, sao gọi là xưng tán, sao cho là hoằng kinh? Bốn hàng rưỡi cuối là tự thuật: Chỉ liệt kê ba danh. Trong đó nên phân một hàng đầu tự thuật. Tiếp hai hàng rưỡi tùy hỷ. Một hàng cuối là hồi hướng. Nên cần đối với văn, vi tế thuật ý kia. Trong năm pháp (sám) hối không có ba loại này, đã dự biệt ký không có tội có thể hối. Đã thâu hoạch phần thọ ký cho nên không khuyến thỉnh, đã có chỗ đến nên lược không phát nguyện, nếu vọng cực quả chỉ trừ sám hối. Bốn thứ còn lại đều trong năm hối, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. "Như Thân-tử...": ở trước bốn văn chỉ thuật ba đoạn: Pháp trước cùng nghe không cần thuật lại, chỉ thấy Thân-tử lãnh giải... ba thứ, con nay đồng nghe cũng nên cùng đắc đều là quyền: chỉ vì duyên thật hành chưa thuần thục, quyền hạnh đồng sinh, cho nên hơn bốn mươi năm không hiển chân thật, vừa nghe diệu lý của năm Đức Phật, bỗng nhiên liền phá vô minh, tìm kiếm có thể được thọ ký. Thật bệnh đã lành, Quyền tật cũng giảm, lẽ nào một đời giáo hóa công toàn là đảm nhiệm thật hành? Trong cụm từ "Bồ-tát cũng chưa lành bệnh vân vân", thì "vân vân" là: lẽ ra rộng trình bày các cõi, chỉ bệnh và lành bệnh.
Trong câu "A-nan dẫn nhân duyên Không Vương mà được thọ ký vân vân" thì "vân vân" là: cũng nên vượt qua nơi đây và bốn đoạn của chu dưới, đều căn cứ Thí và Nhân duyên. "Văn sau ở trong phẩm Pháp Sư vân vân": văn nói nhân duyên đời trước sau đó bốn chúng hoan hỷ, là chỉ đoạn đầu văn trường hàng trong phẩm Pháp Sư. Đầu tiên nêu ra nhân loại trong đó liệt kê đầy đủ hàng tứ chúng tam thừa. Đã nói: "Các loại như vậy đều ở trước Phật nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa một câu, một bài kệ, nhất niệm tùy hỷ", cũng phải là văn hoan hỷ. "Nay mới vận đại bi...": Chu đầu vốn là tự nghi, trong đây nhất hướng lợi vật mới vận đại bi, đây tức cần phải tu hạnh tịnh độ, là nền tảng của Bồ-tát hạnh. Căn cứ đây giải thích ý trước thì có thể thấy. "Có người nói...": là người xưa nói. Thân-tử pháp thí đầu hai chu đều có một nghi, cho nên nói "mới cũ (tân cựu)". Dùng 1200 người tại chu đầu chưa nghi, cho nên chỉ có "tân". "Nay cho rằng thượng căn...": là Thượng căn ban đầu nghe lược thuyết động chấp sinh nghi, nhờ chương ngũ Phật liền thâu hoạch đại ngộ. Trung căn chấp nặng khi nghe lược thuyết thì cùng thượng căn đồng nghi, tại pháp thuyết mà chưa ngộ thì nghi kia vẫn còn. Lẽ nào chẳng phải trung căn nghi nhiều hơn thượng căn? Cho nên, Thân-tử tự trình bày nói: "Con nay không còn nghi hối".
"Các vị một ngàn hai trăm đây...": là thuật chúng đồng có nghi hoặc, sao lại nói Thân-tử nghi nhiều?
Hỏi: Phàm phu cũng có người một phen nghe liền ngộ, đã nghe lược rộng năm Đức Phật khai quyền, và nghe Thân-tử lãnh thuật được thọ ký, long quỉ còn hay dẫn theo lệ, trung hạ căn tại sao ngu độn còn mê ư?
Đáp: Đây có hai nghĩa: 1) Chấp lâu; 2) Nhập vị. Giải tức phá chấp, chấp phá thì nhập trụ. Phàm phu không có hoặc đây sẽ dễ lãnh ngộ. Hàng Thanh văn do hai nghĩa, tuy nghe mà chưa chứng, đối với hạng chấp lâu này căn tánh không đồng, cho nên chia làm ba phẩm.
Kinh nói: "Nghe những điều chưa từng nghe": Nghe Thân-tử bốn đoạn mà giáo xưa không có, căn cứ chương môn năm Đức Phật, ta chẳng phải tri kiến Phật. Nghiệm sở đắc xưa biết là không chân thật. Nay xưa chân thật đồng khác không phân biệt, cho nên nói "nghi hoặc". "Vì bốn chúng phổ thỉnh...".
Hỏi: Trước trong Pháp thuyết cũng trước ba sau một, nghe đã không ngộ. Nay lại thỉnh cũng trước ba sau một, thì cùng trước có gì sai khác?
Đáp: Nói "nhân duyên" tức là trước ba sau một, đầu cuối căn do, cho nên nói nhân duyên. Chương bốn Đức Phật lược, Thích-ca hơi rộng, tuy dùng Ngũ trược để giải thích nơi Quyền, mà đầu cuối chưa rõ cho nên khiến trung căn nơi đây không hiểu. Thí thuyết nêu rõ tướng luân hồi, nêu đầy đủ nguyên do cho ba xe để ra khỏi nhà lửa, kiêm chỉ ý đòi ba cho một. Rộng trình bày đồng ban cho, con bình đẳng, tâm bình đẳng, đây mới đáp nhân duyên thỉnh.
Trong đây "bốn chúng", ở trong chương bốn Phật trước, chẳng những hai chúng Đương cơ và Kết duyên, mà còn phát ngôn và lãnh giải, tức là hai chúng Phát khởi và Ảnh hưởng. "Đỗi": là oán hận. "Khai thí": Căn cứ Đại kinh dụ có thể nói "biến dụ", thông giới nội ngoại và Đại tiểu thừa... Cũng có thể nói "phi dụ": Thế gian không có nhà lửa đây từ đầu đến cuối và người cứu lửa ắt dùng xe vận chuyển. Trước cho sau đoạt, trước ba sau một, nhưng Thí cùng Hợp xen nhau có rộng lược. Nếu Thí lược hợp rộng, thì trước nhiếp Hợp văn đến đối Thí xong, đến Hợp lại phải đều hiểu rõ. Nếu Thí rộng Hợp lược, thì Thế Tôn đâu có thể lo lắng, phải hiểu rõ Thí hợp chỉ lược đối. Trong "Tổng thí" nói "Một môn": Trên nói chủng chủng đối bất chủng chủng tức "một môn". Trên nêu sở thi đối Phật đạo thuyết; Phật đạo tức là "một môn", chủng chủng tức là thi quyền. Nay đưa ra sở hiển chỉ nói một môn; cũng là đều đưa ra khả năng kia, dùng năng đối sở, ý kia không khác biệt, tư duy có thể thấy. "Danh như khách...": Hành thì tại ngã rồi, danh thì từ người khác truyền, Thật hành thì thân, Quyền hành thì sơ. Hành thân thì danh xa, khắp ba cõi. Hành sơ thì danh gần, chỉ tại Đồng cư. Phương tiện Thật báo thay đổi làm xa gần. Tuy là thân sơ lại xen nhau hiển danh hạnh tương xứng, người khác không lầm truyền. Bởi vì hạnh cao thì danh xa, danh dày ắt hạnh thân, cho nên dùng "xứ" để tiêu biểu đó, nghiệm danh hạnh không xen lạm. "Phong cương...": "Phong" nghĩa là được thống lĩnh khu vực có giới hạn, "cương": tức bờ cõi sở phong. Nhỏ thì gọi là "bang", lớn thì gọi là "quốc".
Lại nói: Thiên tử kiến lập quốc thì dùng nơi rất xa làm "quốc", "tể" là chủ tể, chỗ có chủ cai trị là "ấp", trong ấp đều ở gọi là "tụ lạc", cho nên ấp, tụ lạc... xuống dần nhỏ lại. "Không dùng cựu thích": Chỉ dùng hư không đối nơi Tam thiên cõi Đồng cư, thiếu hai cõi Phương tiện và Thật báo, vì vậy nên không dùng. Tiếp, dẫn ý luận: Rộng bàn đồng và khác, phàm nói lập Thí dụ thì thủ xả không đồng, luận thì nhân quả đều luận, nay tạm đơn cử nói quả báo. Vả lại thí dụ "Trưởng giả" là quả Phật, tức nghĩa tu nhân chẳng phải là điều nay luận. Trong cực quả vẫn dùng Y báo để hiển Chánh báo, cực quả nói thành ắt khắp ba cõi. Thể của cõi tuy tức ngang dọc tương "đới", nhị mà bất nhị, nay theo dụng của cõi chỉ căn cứ dọc mà luận, cho nên rộng hẹp không đồng để hiển ở khắp. "Từ Bản thùy tích...": Ngày nay, trước thì từ bản Tịch quang thị hiện ba cõi tích, đến hội Pháp Hoa thì nhiếp ba cõi tích, quy về bản Tịch quang. Hành sở khế lý bản, danh sở cập xứ tích. Lý khắp ba cõi, hóa cảnh ắt khắp, trọn không có hành kém mà danh rộng. Tức thể dụng tương xứng, cho nên nói không có khách chủ sai khác, tức danh hạnh thân cõi đều tương xứng. Như xưa giải thích không chọn hai cõi, chính vì dùng xứ được từ bi gia-bị làm "quốc", thì khiến cõi Đồng cư và "ấp" không sai khác. Cho nên không biết xứ được từ bi gia-bị kia rộng hẹp, mà làm quốc, thì hoàn toàn lỗi ở Thật báo, Phương tiện. Văn vẽ rực rỡ sáng tỏ, tức văn thể phân minh tướng đáng sợ. "Dương dật" (biển lớn tràn đầy): Trong đầy ngoài đủ. Trong đầy cho nên hành khắp, ngoài đủ cho nên danh bố. "Tam hoàng": Phục Hy, Thần Nông và Hoàng Đế. "Ngũ đế": Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường và Ngu. Hai thứ này đồng chỉ Sát-đế-lợi. Lại mượn đây để so sánh kia. "Hoàng" là trung, "Đế" là đức, tượng trưng thiên địa. Cõi đây các "tánh" (họ) ai mà không nương theo? Hể trước nay còn dùng thì chẳng phải là giữa đường hẻo lánh xa xôi riêng được, mà là dòng dõi của gốc kia (kỳ bản duệ). "Duệ" là y mạt (gấu áo), tức có bản (thân áo) để nương theo. Có người nói: Miêu duệ: Cỏ mới sinh gọi là miêu (mầm mống), tức bắt đầu có tánh (họ), nối dòng không lẫn lộn như mầm mống đầu nối dõi sau. "Tả điêu hữu sáp" (đuôi chim điêu cắm vào). "Điêu": sách Thuyết Văn nói: "Điêu" tợ như chuột, xe cộ y phục rộng lớn thong thả đi. Chú giải rằng: giữa mũ tả điêu hữu thiền hầu hai bên, như (thiền) con ve sầu thanh cao uống giọt sương chứ không ăn. Lại nói "hữu sáp" (cắm vào) là cài trâm. "Tả phụ hữu bật" (phụ tá vua) là thừa tướng. "Diêm mai a hành": là giải thích thừa tướng. Như giàu sang cao quí đáng tôn trọng thăm hỏi truyền nói, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. "A" là "ỷ"(dựa, tựa). Ỷ là ký (nhờ). "Hành" là "bình" (công bằng). Đồng lăng.....: Như Đặng Thông. Hán Văn đế mộng thấy rơi xuống giếng được Thông cứu, liền triệu Thông đến xem bói nói là không tránh khỏi chết đói, Đế liền sai người đến núi Thục Đồng đúc tiền, cung cấp thì đâu còn chết đói ư! Sau Ai Đế đăng vị mang tố cáo đúc tiền riêng dùng, nhân đó bị giam tù chết đói.
Có người nói chỉ là Văn Đế bị người khác ghen ghét, sau liền đói chết. Lại nhờ ban đầu giàu sang mà nói. Như Sách đời Tấn nói: Thạch Sùng có Kim cốc (hang vàng) tại phía Đông tỉnh Lạc Dương kéo dài sự tiến tới cũng là dẫn dắt. Nghĩa là uy do nghiêm túc vật không gắng gỏi mà thành, nghiêm cẩm tinh khiết như sương, lắng cao, cao mà lại nặng không sai mà tự đi, có thể đi vạn dặm, cũng như kho vũ khí, binh khí nào mà không có dùng thì hành động, bỏ thì cất giữ... Bạch khuê: Là ngọc tốt Thuyết văn nói: Ngọc may mắn, trên tròn dưới vuông. Bạch hổ thông nói: Ngọc trong sáng ưa chiêm ngưỡng.
"Nhất nhân (một người)": Hiếu kinh nói Thiên tử. "Xuất thế trưởng giả": mười văn đầy đủ. "Phật từ...": là tánh, "công thành...": là vị, "pháp tài...": là (sang giàu) phú, "thập lực...": là uy, "nhất tâm...":là trí, "sớm thành...": là kỳ (già), "ba nghiệp...": là hạnh, "cụ Phật...": là lễ, "mười phương...": là kính, "bảy thứ......": là qui. Nếu dùng quả vọng nhân thì nên gọi là Viên giáo từ Đẳng giác trở lại, kỳ thật nhân phát tâm cứu cánh hai không sai biệt, cho nên mười đức đây đều từ cực quả. Nếu từ đương phần quả phân quyền thật thì Quyền ba Thật một, mười đức danh đồng, danh... thể đương giáo biện rõ sai khác, cho nên khiến thật tế ba đế không đồng, cho đến sở qui nhiều ít cũng sai biệt. Sở dĩ "Trưởng giả" danh thông nay phải theo biệt, do biệt đứng đầu thông tức vượt bậc.
"Quán tâm Trưởng giả" có mười: "Quán tâm...": là tánh, "tam hoặc...": là vị, "tam đế...": là phú, "chánh quán...": là uy, "trung đạo...": là trí, "cửu tích (lâu đã tích chứa)....": là già dặn "đây quán...": là hành, "lịch duyên...": là lễ, "năng như...": là kính, "thiên long...": là qui. Mười đức này không ra ngoài Cảnh, Trí, Hạnh ba thứ. Tuy chưa nhập vị như vương tử ở trong thai, cho nên gọi là "quán hành mười đức của Như Lai". Nếu đối xuất thế lại tùy giáo kia quán biệt, quả biệt; chuẩn theo giáo vọng quán nhân quả tự phân tức dùng tam quán đối nơi tứ giáo, đủ xem đức tướng để tán thán nơi quán, khiến người học sau tu nhân đầy đủ. Do quán mười đức thành quả mười đức, do năng nhất tâm chiếu đủ ba pháp, tức là quán tâm mười đức đầy đủ. Cho nên văn "dẫn Phật tử..." lấy làm chứng minh quán tâm, như trong Chỉ Quán đủ thành oai nghi. Lại mười đức đây tức mười pháp thành thừa, thứ lớp hợp thì có thủ đắc. Vì sao? Vì thật tướng tức là chánh cảnh, duyên lý khởi thệ nguyện cho nên gọi là trụ nhẫn. Do tâm an lý xứng lý hàm tàng, trừ ba đế hoặc, được phá danh khắp, Trung đạo song chiếu không tắc không thông, vô tác đạo phẩm quá Thất phương tiện, trợ giúp khiến ba nghiệp đối lý không có lỗi, đối cảnh không lầm do y chân vị. Tín giải đã sâu cho nên năng an nhẫn, không sinh pháp ái mới cảm sự cung cấp kẻ dưới. Ba giáo mười pháp triển chuyển giải thích nêu khiến thành mười pháp quán tâm của kinh này. Mười quán như đây không những ngang trong quán hạnh vị, mà từ sơ tâm đến mười quán sau đều đầy đủ. Cho nên mười đức đây nghĩa lại dọc sâu, lại cùng ngang dọc mười thừa hợp hết. Huống chi mười đức điểm tô kinh nghĩa đầy đủ. Phân lược xem khắp: Bộ phân mưu lược cho nên có xem khắp đại độ thông thấy. "Ti": Sách Thuyết Văn nói: "ti" là tài (của cải). Sở dĩ nên lập ba loại Trưởng giả là vì: Hiệu "trưởng giả" vốn dùng thế đạo (đạo thế gian) để thí dụ xuất thế. Nguyên do xuất thế đều cần phải quán, cho nên biết thẳng nói xuất thế quán tâm, không phân quyền giáo và dùng viễn bản nhưng vẫn còn lược. Trong đây đã thành ba cách giải thích: theo Nhân duyên, căn cứ Giáo, và Quán tâm. Lược thì mười tám...: Giải thích trí năng thác (nương gá). Môn tuy lược rộng không ra khỏi nhà sở nhập. Nói lược rộng: Nhất cảnh nhất không, cũng có thể cảnh cảnh đầy đủ tất cả mười tám cho nên nói vô lượng. Như cho rằng nhất sắc nhất tâm đều đủ mười tám, như sắc đối căn, căn nội sắc ngoại và nội ngoại đều có, Không đây cũng Không cho nên nói Không Không. Nếu đắc ý này cho đến không có pháp, có pháp căn cứ đây nói có thể biết, chỉ từ tổng nói Không mười tám hữu, gọi là "Mười tám Không", cho nên nói lược. Trong Mười tám có rộng lược nhiều ít, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói, và Pháp Giới Thứ Đệ, Đại luận rộng nêu. "Nếu luận...": nêu phước tuệ để giải thích ruộng vườn nhà cửa. "Có nhiều ruộng nhà": một nhà một cửa mà cửa kia còn nhiều, huống chi nhà giàu nhà rộng. Một nhà nhiều cửa lý hợp vô lượng, cửa là đường đi ra khỏi nhà, đường đi vào nhà, cho nên cửa không thể một. "Điền" (ruộng vườn): Nghĩa là phương thức nuôi sống thân mạng, đối với mạng, ruộng không thể hẹp. Lại, bao gồm khắp Quyền Thật, cho nên gọi là nhiều môn (nhiều cửa). Nếu y tứ quán đồng quán thì xa môn trạch môn (cửa xe cửa nhà) không sai khác.
"Đồng bộc" đến "đầy đủ": "Đồng bộc" như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Xét đồng bộc: Là giúp đỡ thân mạng, cho nên biết đều là trợ giúp định tuệ nhất Thật, trợ giúp không thiếu nên gọi là "đầy đủ". Dụng cùng quyền biến cho nên gọi là "hòa quang...". "Huyệt huyệt": là Thặng (dư thừa), cũng là địa vị quan ngoại nhàn rỗi, chúng sinh ở ngoài Thánh vị cho nên nói "huyệt huyệt". Đối các giáo quán khác còn lại còn không sở thuộc, huống chi năng thuộc vị Thánh tột cùng! "Đều là trạch (nhà)": Nhà là Chỗ ở, không ra ngoài ba cõi, từ lâu ở, cho nên gọi là nhà (trạch), thế gian đều như vậy, cho nên nói "đều" (giai). Như Lai dẫn dụ "Vật thống nhi (giống như) gia". "Thống" là chủ. "Gia" cũng là chỗ ở. Có người lấy đệ bát thức làm "gia" (nhà), đều là tùy mê, tại sao không tổng tám mà nói đệ bát? Đạo tràng quán ý lý là trí thông, lý đã là một môn đâu dung chứa hai, xuất ắt do môn cho nên không khác đường. Quang Trạch lấy giáo làm môn. Trạch (nhà): Là tam giới. "Chín mươi": Văn nói theo lược, tức chín mươi sáu. Chín mươi sáu: là nhiều đường: Nếu muốn ra khỏi nhà thì chỉ dùng một cửa. Chín mươi sáu đường tuy đều nói là đường chân thật. Như theo chiều ngang qua lại rong ruổi chạy, cho nên Chín mươi sáu đạo thì kinh nói chỉ có một đạo là chánh, (dư) còn ngoài ra đều là tà. Có người dẫn nhiều luận nói: Lục sư đều có mười lăm đệ tử và Bản sư sáu, tức Chín mươi sáu. Căn cứ Kinh Cửu Thập Lục Đạo: không nói điều này, Kia luận tự là một đường, đâu có thể lục sư nhất định mỗi sư đều chỉ mười lăm đệ tử. Trong chín mươi sáu có tà có chánh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. "Nay nói...": là phá hai luận già. Trong đó chia làm năm:
1) Trước phá hai sư. "Nếu riêng lý...": trước nạn vấn đạo tràng, lý là sở thông. Nếu dùng sở làm năng, thì năng thông là sở, sao lại sở thông? Nghĩa môn không thành thì sao gọi là môn? "Riêng giáo...": tiếp phá Quang Trạch. Nếu không vì sở lập năng đắc năng, thì chúng cuối cùng không có chỗ đến, nhưng lý không dung nạp nhiều, môn lẽ nào chỉ có một? Nay nói "một": đầy đủ như sau giải thích. Nhà đã là nơi nghỉ ngơi thì chỉ nên dựng lập một, còn nói là có nhiều, huống chi môn năng thông tức môn Bất nhị trong kinh Tịnh Danh có tám ngàn. Nay lý giáo tương vọng không thể riêng luận.
2) "Tiếp nay dùng...": là định tướng môn kia tức lấy giáo của lý làm môn, lý đã là một giáo không chứa hai, lại tổng làm một. Chỉ một câu đây song phá hai sư, tức lấy năng của sở, cho nên từ năng có đến. Tuy không chánh phá đạo tràng dụng trí mà trí vọng nơi giáo đồng là năng lấy, giáo năng đã phế bỏ, trí năng cũng như vậy. Nhưng trí chắc y giáo mà quán nơi cảnh, nghĩa đã kiêm năng sở, lại không thể nói đắc trí. Tuy nhiên, hiện trái kinh văn. Kinh nói giáo môn, mà Quán sư nói lý trí, cho nên cũng cùng Quang Trạch đồng hoại.
3) "Văn nói...": là dẫn chứng, giáo là năng thuyên Niết-bàn là sở đều khác với hai sư.
4) "Môn lại có hai..." phân biệt, giải thích. Trong giải thích lại có hai: Đầu phân biệt Đại tiểu tuy đồng mà có năng sở, Đại tiểu ngăn cách như trời vực vì vậy cho nên cần phải biện rõ Quyền Thật hai năng. Nếu biết hai năng, thì hai sở có tồn tại. Nếu biết Thực sở thì năng sở quyền đều thành thực năng. Khéo biết phân biệt rồi sau mới luận hội.
5) "Nếu trạch (nhà)...": thiết lập nạn vấn, lại dùng xưa nay đối đãi nhau làm vấn nạn. Trạch là sở xuất, xe là sở nhập, cửa nhà là đường đi ra, cửa xe là đường đi vào. Hai đường đã không đồng, ra vào đều sai khác; vì vậy cho nên cửa nhà chẳng phải cửa xe. Cho nên nay nạn rằng: Nếu cửa xe và cửa nhà là một, thì tại sao ra khỏi nhà vẫn chưa được xe?
Nếu tuyệt đối đãi thì nay nên nêu câu hỏi: Nếu cửa của xe lớn chẳng phải cửa nhà thì khi đòi cũng nên riêng có đường ra, vì sao lại từ nơi ra xin xe lớn? Trưởng giả cũng chỉ ở đây cho xe lớn (Đại). Lại, hỏi: Được trạch môn rồi mà chưa được xa môn thì trú ở nơi nào?
Đáp: Đại tiểu khác đường cho nên nói "biệt", khai tiểu tức Đại đồng khác như thế nào! Cho nên nay trình bày bài xích thì xa và trạch (xe nhà) hoàn toàn sai khác.
Khai thì hai môn không khác, nhà cùng xe một, hai môn đâu có sai khác. Cho nên tam thừa có đủ hai nghĩa: Nương giáo ra khỏi nhà không thấy tiểu xa (xe nhỏ), trung gian đã trải qua hai vị điều hòa thuần thục mới theo cha đòi xe mà trước cha đã hứa cho. Đã đòi thì phải cho, khai tiểu môn kia đều là Đại giáo. "Môn...": tiểu lý trọn không sai biệt, tuyệt lý không hai thô diệu, thể chỉ một. "Pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường", thì tam giới còn có gì sai khác? Nếu không trước khác thì làm sao luận đồng? Người không có khổ đối nay đều hội. "An ổn đối pháp không an ổn": Như Lai đã trụ Niết-bàn an ổn, đối với pháp ngũ trược kia không an ổn, cơ cảm gặp nhau gọi là "đối"; nơi không an ổn cũng lại như vậy.
"Tường bích" (vách phên) dụ chi tứ đại: Ứng thông ba cõi đều giảm tổn, vô sắc tuy không có tứ đại tạo sắc mà định quả sở vị đều là vách phên. Ba cõi đều do ý thức duy trì. Nếu căn cứ các tông, thì vô sắc chẳng phải hoàn toàn không có sắc tứ đại, mà tao nhã thích hợp kia. "Muốn khiến..." là quán giải: Trước thì thông ba cõi mình người, cho nên thuộc nơi sự, đây quán thân mình tức nghĩa quán tâm. Có người đến đây lại dùng y chánh hai báo hợp dụ có gì không thể ư? Lại như thành hoại mỗi hai mươi trung kiếp. Nếu không có hữu tình thì làm sao giải thích trược? Nghĩa thiêu ít ngăn cách, cho nên không dùng. Văn nay chỉ căn cứ ba cõi chánh báo nhân quả, lấy Chánh báo nhiếp Y báo, nghĩa kia tự đủ. "Hốt nhiên (bỗng nổi lên)....": Nếu chỉ căn cứ tiểu thừa thì vô thủy tương tục bèn thành bản hữu (vốn có), niệm niệm sinh diệt bèn là nay không có. Nay thêm Đại thừa tánh lý vốn không, do vô minh cho nên "có". Cho nên, nói "xưa không, nay có". Nói "vô minh" là bao hàm thô tế; nay chỉ thô là tế lẽ nào có thể có các đường khác? Nhưng nói "vốn không" thì người thường nói, đây là rất khó. Cho nên Đại kinh nói: "Vốn không nay có, vốn có nay không, ba đời có pháp, thì không có lý đó". Nay tuy dẫn một câu cùng ba câu liên quan nhau, cho nên cần lược biện phân biệt Đại ý. Nhưng một bài kệ này bốn xứ xuất, người xưa gọi là Niết-bàn tứ trú cũng gọi là tứ xuất kệ. Cho nên biết giải thích không đúng lý thì nhà Niết-bàn nghiêng đổ. Nói "tứ xuất": Nghĩa là Thứ chín, Mười lăm, Hai mươi lăm, Hai mươi sáu. Đại lý tuy đồng nhưng đối văn thì có chút sai khác. Thứ chín: Giải thích phẩm Bồtát, nghĩa sai biệt không sai biệt. Thứ mười lăm: Giải thích phẩm Phạm Hạnh, nêu đắc tức không đắc, không đắc tức đắc. Thứ hai mươi lăm: Phẩm Sư Tử Hống, giải thích hữu bất định hữu, vô bất định vô. Thứ hai mươi sáu: Phá định tánh, nêu vô tánh. Xưa nay giải thích tùy tình không đồng. Thành luận sư nói: Trước Kim cang tâm thì vô thường, thường thì vốn có nay không, vô thường thì vốn không nay có. Lại nói: Vốn có phiền não nay không Bát-nhã, như đây có không đều tại xưa, cho nên ở trước Kim Cang, sau ba đời có pháp thì không có lý đó. Địa luận sư nói: Thường pháp thể dụng vốn có nay không. Chương An vấn nạn rằng: Bản ẩn nay hiển, cũng nên hiển rồi lại ẩn. Tam tạng nói: Chúng sinh vô thủy mà hữu chung, Niết-bàn vô chung mà hữu thủy. Nay nạn vấn, pháp vô thủy chính là vô chung, pháp vô chung ắt phải vô thủy. Nếu phiền não hữu chung là pháp có thể hoại, pháp đáng hoại nghĩa ắt có thủy, hữu thủy hữu chung đều từ duyên sinh tại sao đắc Niết-bàn mà nói hữu thủy. Hữu thủy ắt chung toàn đồng phiền não. Lẽ ra nói phiền não vô thủy thể tức Bồ-đề, cho nên vô chung; Bồđề vô thủy tức phiền não. Niết-bàn sinh tử cũng có thể căn cứ đây biết. Nay tức căn cứ Đại, cho nên lại nói "vốn (xưa) không, nay có". Kỳ thật vốn có, tức sinh tử là Niếtbàn; do từ mê cho nên mà nay không, lý tịnh vốn không từ mê mà nay có, cho nên nói vốn không nay có. Tiểu tông nếu nói "vốn không nay có" thì từ duyên sinh cho nên nói vô minh. Quán sát ý các sư cùng Niết-bàn lý đều không tương đương.
Chương An có năm giải thích:
1) Căn cứ ba đế.
2) Căn cứ thường vô thường.
3) Căn cứ trí ba trí.
4) Căn cứ Tứ Tất-đàn.
5) Căn cứ bốn môn.
Nay văn chinh là cùng nghĩa thứ hai đồng, vốn không nay có thường tức vô thường... Riêng căn cứ Tiểu tông, chỉ nên căn cứ kệ bên dưới đầu tiên giải thích nghĩa "lâu cũ", mà nói ba cõi vô thủy là "lâu", chẳng phải nay tạo cho nên gọi là "cũ". Nay khai giáo vi diệu, cần phụ tông vi diệu. Cho nên giải thích "hốt nhiên" nói "vốn không nay có", chỉ y Chương An ý giải thích thứ hai, văn nghĩa thì hợp. Cho nên, biết lại dụng vô thường một bên, tức thường một bên nghĩa sẽ lại che phủ. Lại người khác đến đây rộng nêu bày chương nghĩa bát khổ tứ sinh, chẳng phải chánh ý văn chỉ biết mà thôi. "Không có căn cơ này là Năm trăm người" là các con nói chung. "Ba mươi người" là chỉ riêng, cho nên biết lúc trước thông năm đường, nay tại chúng Kết duyên. Nói đây không có căn cơ là từ khước chỉ trước liệt nêu, vậy thì nói Năm trăm chỉ có Chánh nhân. Luận ba mươi biệt tại Duyên và Liễu. Trong văn liệt, do năm trăm người đây là sinh cơ xứ. "Hoặc là Tiểu thừa nhiếp...": Gặp đời có Phật đời không có Phật không đồng. "Đều nói mười": Trong văn hợp nói hoặc mười, hoặc hai mươi cho đến ba mươi. Ý nói tam thừa đều mười mà thôi. Đều nói "trong có trí tánh", là trí ắt đầy đủ mười, so với mười một trí trong kinh Đại Phẩm vì không có Như thật trí. Nói mười trí: Nghĩa là Thế trí, Tha tâm trí, Khổ, Tập, Diệt, Đạo trí, Pháp Tỷ trí, Tận, Vô sinh trí, lược như trong Huyền Văn Diệu trí nói, rộng như trong phẩm Trí ở luận Câu-xá nói.
Văn kia tổng làm sáu môn giải thích: l) Hữu lậu vô lậu.
2) Triển chuyển tương nhiếp.
3) Cùng tam Tam-muội tương ưng.
4) Cùng căn tương ưng.
Nêu duyên cảnh nhiều ít... Như mười trí này thì Tam tạng, tam thừa trước sau đều tu, cho nên người tam thừa nhờ đó mà ra khỏi nhà, chẳng phải chánh ý nay không tiện rộng nói. "Thân thọ...": đảo sở y. "Từ đây...": là đảo tướng. Lược như trong Chỉ Quán quyển bảy văn ghi chép. Chuẩn theo kinh luận thứ lớp lập. Đây trước nên lập Ngũ đình tâm vị. Luận Câu-xá nói: Nhập tu cần hai môn là Bất tịnh quán và Sổ tức. Người tham tầm tăng thượng, như thứ lớp nên tu. Vì thông trị bốn thứ tham lại biện quán xương tiêu, rộng đến như biển. Lại lược gọi là "bắt đầu huân tập nghiệp vị", trừ chân đến nửa đầu gọi là "đã tu thuần thục". Buộc tâm tại mi gian (giữa chân mày) gọi là "siêu tác ý vị". Cái gọi là tham: Hiển sắc hình sắc cung phụng xúc cảm. Với Đại luận nói sáu tức thiếu nhân tướng, âm thanh phóng túng. Sổ tức...: A-na đây nói bỏ đến, Ban-na đây nói bỏ đi chỉ là hơi thở ra vào. "Bát khổ": là đảo quả. Đại Kinh quyển 12 nói: "Cái gọi là khổ: Lấy sự bức bách làm nghĩa". Nói bức bách: Là ba khổ, tám khổ. Nói ba khổ: Là y ba thọ mà sinh. Khổ thọ sinh khổ khổ, sinh tại Dục giới. Khổ v.v.... ba đường cho nên gọi là khổ khổ. Tam giới đã khổ, Dục giới lại khổ, cho nên nói khổ khổ. Lạc thọ sinh hoại khổ, khi lạc hoại thì khổ... nơi ba đường cho nên nói hoại khổ. Khổ trong hành xử, gọi là hành khổ, thông đến Vô sắc. Câu-xá nói: Như để một lông mi trong lòng bàn tay thì người không biết, nếu để trên tròng con mắt thì làm tổn hại không an. Phàm phu như bàn tay, bất giác hạnh khổ như mí mắt Cho nên Đại kinh nói: Ở trong khổ các cõi dưới, ngang nhiên sinh lạc tưởng. Biệt luận tuy vậy mà thông khắp tam giới, đều đủ ba khổ. Nói tám khổ: Tức sinh....
Sinh khổ có năm: 1) Sinh khổ tức lúc đầu thọ thai. 2) Đến cuối cùng. 3) Tăng trưởng. 4) Xuất thai. 5) Chủng loại.
Lão khổ có hai thứ: Niệm niệm, chung thân. Lại có hai thứ: Tăng trưởng và Diệt hoại.
Bệnh khổ: Một tứ đại không điều hòa, tức có hai thứ nghĩa là thân bệnh, tâm bệnh.
Tử khổ: Có ba: l) Nghiệp báo. 2) Ác đối. 3) Thời tiết đối dứt. Lại có hai thứ: Bệnh tử, ngoại duyên....
Ái biệt ly khổ: Xả đối tượng ái tức là hoại khổ.
Oán tắng hội khổ: Tức là khổ tâm, khổ tâm lãnh nhận nơi khổ cảnh.
Cầu bất đắc khổ: Trở lại căn cứ ái biệt ly, oán tắng hội để nói. Ngũ ấm xí thạnh khổ: Kinh giải thích bảy thứ khổ trước là ngũ ấm xí thạnh khổ.
Ca-diếp hỏi rằng: Nghĩa ấy không đúng. Như xưa đức Phật nói tất cả chúng sinh đều mong cầu nơi sắc, sắc nếu là khổ thì không nên cầu sắc? Phật dạy: Khổ có ba thứ: Tức là ba thọ, tuy cầu không được không khổ như trước. "Nếu biết....": khởi quán niệm xứ. Luận Câu-xá nói: Tu Ngũ đình rồi thì tiếp tu Niệm xứ, nghĩa là dùng chỉ quán tự tướng công tướng tu thân thọ tâm pháp, tự tướng biệt tu. Tất cả các pháp hữu vi đều là tướng Vô thường, tất cả hữu lậu đều là tướng Khổ và tất cả pháp tướng Không, ngoài ba thứ này đều là pháp niệm xứ thu nhiếp. Mỗi mỗi đều có ba duyên: Nghĩa là tự, tha, đều có tổng thành mười hai, từ thô đến tế. Nói tổng tướng: Hoặc tổng hai, ba, bốn, đây tổng nhưng biệt, chỉ pháp niệm tổng, đầy đủ như trong Huyền Văn tứ cú phân biệt. Tứ sinh: Thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh, đầy đủ như trong luận Câu-xá quyển 8 phẩm Thế gian nói rõ. Luận nói: Trong đó có tứ sinh hữu tình, nghĩa là noãn..., người, bàng sinh đầy đủ bốn, địa ngục và chư thiên, trong đó có chỉ hóa sinh; quỉ thì chung thai hóa hai thứ.
"Liền rất kinh sợ" đến "có khổ": Trưởng giả đại bi ứng Tiểu thừa và thoái tâm Đại thừa kia, đồng thời mà khởi. Nói "không vui, có khổ" nghĩa bao gồm Đại tiểu. Xưa từng nghe Đại nghĩa như có vui, thoái Đại thừa lưu chuyển quên mất quán giải kia. "Từ niệm không vui (lạc)", chỉ có khổ kia, vì khổ cho nên thích hợp "bi". Đại tiểu ứng pháp cần phải giải thích "xuất". "Ta dù có thể" đến "nghĩa từ bi": Tuy xuất mà nhập, cho nên thành "từ bi". Tiếp, "Tuy là...": giải thích chữ "tuy". Trong đó trước là thông thích đại ý, tiếp là biệt thích môn sở cảnh. Đầu văn: Trưởng giả trước đã ở ngoài an ổn, tuy an ổn mà sợ, tuy xuất mà nên nhập, mới biết Như Lai thường trụ Đại bi, ở yên trong Niết-bàn mà không lìa tam giới, cho nên dùng "an ổn đắc xuất" để giải thích "kinh sợ". Thấy con về bản chất có chí lớn (Đại) như từ lâu đã an ổn, do thoái đọa khổ, lại khởi tiểu bi như bắt đầu kinh sợ. An ổn không lâu cho nên gọi là "tuy". "Mà chúng sinh...": giải thích nguyên do khiến cha kinh sợ, do chưa được cùng cha đồng an ổn.
"Như Lai...": Nêu nguyên do vào nhà lửa là do tiểu bi. Con đã đọa khổ, dùng nơi con khổ để giải thích an ổn, cho nên nói "không bị tám khổ bốn đảo...". Cho nên nói "Phật trí" tuy thông Bản thật, lại phân quyền tích mà làm chánh giáo. Cho nên dưới giải thích "môn" thì từ thuyên giảng tiểu thừa mà giải thích. Tiếp, "Kinh nói...": Là biệt nêu nghĩa môn để giải thích nghi. Trước, lại nêu kinh. Tiếp, "Nay hỏi...": Là biệt giải thích. Đầu tiên, lập nghi. "Bào chữa nói...": là người khác tuy bào chữa vẫn chưa thông, sợ thiêu giáo có lỗi, bèn tránh giáo mà thiêu người, người còn bị thiêu thì cần gì giáo ấy. "Như môn...": người khác lập dụ. Nay hỏi: dù khiến không thiêu, từ nhân (người) được tên, người quyết định bị thiêu không? Người nếu quyết định bị thiêu thì đâu khác Chín mươi (ngoại đạo)? Huống chi kinh nói: "Dùng Phật giáo môn xuất khổ tam giới", thì người đâu từng bị thiêu? Nếu vậy, cả hai đều không bị thiêu thì có hai lỗi (thất): 1) Đều thường, mà đây chưa nêu thường. 2) Trái kinh. Kinh nói: cửa nhà bị cháy an ổn đắc xuất, khiến không có gì ngăn ngại. Từ "Lại hỏi..." trở xuống: lập lại ý nạn vấn: Lại lập nạn vấn thiêu cháy nhà. Nếu không cho phép thiêu giáo thì nên thường trụ, nay muốn chánh giải. "Nay giải...": là chánh giải thích. Có thí dụ có hợp. Ý nêu Tiểu giáo đã chẳng phải sắc, tức Trung đạo pháp giới, giáo đây sao được không gọi là Vô thường? Nhưng Tiểu lý bất diệt Đại giáo ức chế. Tiểu giáo vô thường, nghĩa đồng bị thiêu, cũng như cửa gỗ. Lý chẳng phải vô thường, cũng như cửa Không. "Thiêu" và "an ổn" hai nghĩa đều thành. Nếu y cứ người xưa, thì người đã bị thiêu không được gọi là "an ổn đắc xuất". Bản ý lập môn khiến kia không thiêu, chỉ có bị thiêu mà không có xuất thì nghĩa "môn (cửa)" không thành, "Đại kinh...": Dẫn chứng. Kinh: Dùng nhân trước của mười tiên, nghĩa đồng năng thuyên, dùng nhân vọng quả cũng có thể mượn để dùng, như nhân Tiểu chứng Đại. Tiểu không có vô thường, thì Đại lẽ nào vô thường? "Nếu tiểu...": đây lại đem Tiểu thông đối Diễn môn.
Nói "Văn tự tức giải thoát....": Đại Tiểu sắc giáo đều là thường. Chỉ có tức bất tức sai khác, mới thành thiêu bất thiêu sai biệt. Tùy nghi cho nên "bất tức", thuận lý cho nên "không thiêu". Nay đều khai hiển tức thiêu không thiêu. "Nếu căn cứ...": lại dùng Quyền Thật hai trí đối giải thích. Từ thi (thiết lập) Quyền biên cho nên nói "Quyền từ sở thiêu". Đồng thể Quyền vốn tự thường trụ, dù tùy theo che phủ mà nói Quyền là sở thiêu, vẫn phải phân biệt, thì trong Quyền của ba giáo chỉ có Quyền của Tam tạng sinh diệt gọi là thiêu, hai thứ còn lại thì có chút sai khác. "Cho nên trước...": dẫn chứng Đức Phật vốn muốn dụng Thật trí ví như kỷ án (bàn ghế), sự không thâu hoạch rồi mới thiết lập nơi vô thường, tức là sở thiêu Quyền trí. Có người nói: Căn cứ người không tin gọi là "sở thiêu", đức Phật xưa từ đó mà xuất ra cho nên gọi là "an ổn". Tuy là một đường không bằng văn nay. Kinh nói: "Nếu không kịp thời ra thì ắt sẽ bị thiêu cháy". Cho nên nói "đắc xuất" (được ra) thì chẳng phải riêng trưởng giả, nói "bị thiêu" lẽ nào chỉ là kẻ không tin? Nên biết giáo pháp sinh diệt gọi là "sở thiêu", chẳng phải do chúng sinh không tin cho nên diệt, nhà do trược (xấu) cho nên bị thiêu cháy, giáo môn tại sao có trược? Chỉ thanh giáo không trụ, nghĩa đồng sinh diệt, sinh diệt nói thiêu cho nên phải phân phán.
"Nhạo trước hi hí...."(Ưa vui chơi....): Trước là phân chữ để giải thích. "Hi" là du nhạo. Du gọi là vui thích khắp, cho nên thí dụ Kiến hoặc khắp tam giới. "Hí" tuy cũng nhạo mà tùy chỗ, chẳng khắp vì trong tam giới bị trói buộc riêng biệt. "Lại, đam miện...": hợp chữ mà giải thích: hai chữ này nghĩa thông gọi là "nhạo", cho nên dùng hai chữ đều thông Kiến Tu, do "trước" ái kiến đều mất đạo. Ái Kiến là Tập, Tập ắt chiêu Khổ; đầy đủ Khổ, Tập nên ắt không có Đạo, Diệt.
"Bất giác bất tri...": Căn cứ Tứ đế giải thích bốn câu đây. Chỉ đầu tiên nêu văn nên liệt kê đủ bốn câu, chỉ là văn lược trong đó chia làm ba: 1) Căn cứ phàm giải thích.
2) Căn cứ vị giải thích.
3) Căn cứ ba đời.
Phần một lại có ba: Nêu, Giải thích, Kết.
Phần Nêu: "Đều không nói...": là nêu Khổ. "Hỏa": Tam giới ngũ trược bát khổ. "Không hiểu hỏa...": là nêu Tập. Hỏa vốn năng thiêu như Tập chiêu cảm khổ. "Đã không biết...": là nêu lỗi Đạo. Đã không sợ tổn thương cho nên nói "bất kinh" (không sợ), thương tổn tức lỗi. "Không lo đoạn... ": là nêu lỗi Diệt. Không đạo đế thân, thì Tuệ mạng cũng đoạn. "Chúng sinh...": giải thích bốn câu trước. Ấm ắt là khổ giải thích khổ trước có. Đã hoàn toàn bất giác tức là không biết khổ. "Bất tri...": giải thích Tập trước. "Bốn đảo ba độc" giải thích Tập trước có, đã hoàn toàn bất tri (không biết), cho nên không biết Tập. Ba độc là Tu hoặc, bốn đảo là Kiến hoặc. "Đã không...": giải thích lỗi Đạo Diệt. Do bất tri khổ Tập nên Đạo Diệt đều lỗi. "Không biết Hoặc" là không biết Tập. Đã không biết tập nên không ưu lo khổ.
Hoặc xâm tổn pháp thân lỗi Đạo đế, ắt tổn tuệ mạng lỗi Diệt đế.
"Như thị...": là kết. "Do không nghe...": là tiếp, nương vị giải thích. Trong đó, đầu tiên là dùng hai câu đầu hai lớp thuận giải thích. Tiếp, dùng hai câu sau trở lại giải thích. Đầu văn trước dùng hai câu đối nơi Văn, Tư, nên nói "bất giác Văn, Tư, bất tri Tu tuệ", chỉ là văn lược, Tiếp dùng hai câu tiến đến Thánh vị. Tiếp trở lại giải thích: Lẽ ra nói không kiến đế cho nên "bất kinh (không sợ)", không tư duy cho nên "bất bố"(không hãi). Trong văn phản thích, nên nói "Kiến đế tức kinh ngộ".... Đây nêu Tứ đế quán thành Kiến hoặc và Tư hoặc cứu cánh tận. Do Hoặc tận cho nên Tứ đế hoàn toàn hiển. Bắt đầu đắc Kiến đế mê ngộ bắt đầu phân, như từ lâu mê bắt đầu chánh cho nên nói "kinh ngộ". Lại nhàm chán sợ hãi thi đường mê mới tận (hết). Tiếp, căn cứ ba đời: Không nói quá khứ và dùng Tập, tức hiện tại quán vị lai Khổ là do hiện tại Tập. Lại quán hiện tại Khổ là do quá khứ Tập, như trong nhân duyên gọi là luân hồi. Tuy luận ba đời mà chánh là quán hiện tại Khổ; do đoạn Tập hiện tại, nay sẽ dứt khổ. Cho nên biết bất giác hiện khổ, tức Khổ Tập đều mê. Do đây năng chiêu Khổ đời vị lai, đã mê Khổ Tập, thì về lý tất nhiên là không có Đạo Diệt. Nêu hai đời khổ để nhiếp ba đời, đầy đủ như dẫn văn, cũng chỉ dùng Khổ mà nhiếp nơi Tập. Nhưng ba giải thích trước tuy lại căn cứ phàm, căn cứ vị... ba thứ. Tóm lại mà nói: Đều là mê đế, do mê đế nên tám khổ bức bách thân.
"Năm thức...": Bức bách gần. Trược tại năm thức, gọi là "gần", vì rất gần với mình nên gọi là "bức thân", đồng thời ý thức đều thọ cảnh khổ, chẳng phải sát-na đầu tiên khi chưa phân biệt. Lại chỉ thể của năm thức này là dị thục bát khổ. Gần lẽ nào quá đây, cho nên đây đồng thời đâu có thể chán lo. Cho nên ở đây tâm vương tâm sở không thể do ý thức đây thành quán, chỉ có thể phân biệt để thành ba thọ. Ba thọ nghĩa thành cho nên nói rất gần với mình. Rất bức bách nên gọi là rất gần. Cho nên mỗi một khổ đều do năm thức để đối nơi cảnh. Tiếp, đến thứ sáu mà lập lại phân biệt, lại lập khổ nhân, tại sao năng sinh nhàm chán?
"Cũng nói...": xuất các giải thích khác. Xưa kết Đại thừa gọi là "chủng". "Công đức" tức là "pháp thân trí tuệ", tức lấy trí này làm thể. Bị khổ bức bách, đại lý trí thừa đều gặp khổ tập. Bất giác bất tri gọi là bị lửa bức. "Nay cho rằng...": chỉ căn cứ tên "trược", không cần đối Đại thừa. Đã lưu chuyển rồi, thì Tiểu còn không biết, cho nên tổng các nghĩa cộng thành năm trược. Bốn câu Bất giác v.v... là Chúng sinh trược, vì bốn câu chỉ là mê nơi Tứ đế. Do mê đế cho nên Chúng sinh tức trược.
Tiếp, "Lửa đến...": là Mạng trược: Khổ thạnh, thọ ngắn ngủi, khiến mạng thành trược. "Tâm chẳng nhàm...": là Kiếp trược. Do không nhàm khổ, thường tại tam giới ắt gặp tam tiểu, gọi là Kiếp trược. Trong câu "Như thế cùng Năm trược tương đương vân vân" thì "vân vân" là: Ý bài xích sư xưa không cần đem đây đối Đại thừa nói. Dùng năm trược chỉ là rộng nói thấy lửa bên trên, bởi vì trên chỉ nói "thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên". "Ông Trưởng giả đó lại nghĩ...": Trước, giải thích "năng thi" tay và thân. Tiếp, giải thích "sở thi" vạt áo. Năng sở đều phế bỏ, cho nên nói "không được". Phần trước, văn chia làm mười phần:
1) Nêu.
2) Dẫn hợp thí.
3) "Y Tam-muội...": nêu hai nghĩa sở y.
4) "Trí đoạn...": nêu hai nghĩa công năng.
5) "Đây là...": nêu hai nghĩa môn.
6) "Khuyến tức...": dùng tứ Tất-đàn giải thích.
7) "Như Lai...": nêu ý dùng hai nghĩa.
8) "Cho nên biết...": là kết quy.
9) "Cho nên văn trên...": dẫn chứng.
10) "Trước tán thán...": lập lại chỉ trước chứng.
Bốn phần trước có thể biết. Phần thứ năm: "Đây là...": Tức dùng nhân quả tương đối, Khuyến là môn của Trí, Giới (răn) là môn của Đoạn, cho nên nói "từ hai môn nhập". Nay trong môn Khuyến lại nói Giới (răn), thì thể môn lý hợp xen nhau đầy đủ, đều một nghĩa tiện cho nên lại biệt nói. Trong phần thứ sáu: dùng tứ Tất, nói "Hai Tất-đàn này là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn mà làm phương tiện": hai Tất-đàn là tu đắc Trí, Đoạn. Đệ nhất nghĩa tức tánh đức pháp thân. Đầu phẩm Phương Tiện do Pháp thân Trí Đoạn áp dụng cho vật không được, cho nên thôi hóa.
Hỏi: Vì sao không nói Thế giới Tất-đàn?
Đáp: Đều hai môn không đồng tùy thích đều có biệt. Lại nghe hai việc hoan hỷ đều là Thế giới, cho nên Phật thừa đây sinh thiện diệt ác, sinh khắp tám môn, Viên Biệt bốn môn đều hai đều bốn. Cho nên hai môn đây nhiếp tất cả pháp, ngoài ra như văn.
"Trong Giải thích sở thi" văn chia làm ba phần:
1) Xuất sở y Tam tạng.
2) Xuất cựu giải.
3) "Nay dùng...": là chánh giải thích.
Phần đầu tuy y Tam tạng chỉ biện rõ vật tướng, chưa nêu pháp môn. Tiếp, trong phần cựu giải, Sư đầu tiên nói: Đại thừa nhân quả, lý tại sao không thể? Chỉ thiếu tướng thi hóa, cho nên không dụng. Sư thứ hai đã nói rút trong kinh A-hàm, không nên dùng Tiểu mà giải thích về Đại. Dù nói Đại thừa tại sao có khác Tứ giai (thành đạo)? Có người nói "giới" (vạt áo) là tay áo. Nay không dùng, lẽ nào dùng tay áo chứa đựng con (thạnh tử) để cứu lửa? Tiếp, trong phần Chánh giải thích "Cũng dùng...." là hợp thí. Phật tự giải thích nghĩa, lẽ nào đồng tình thế gian? Trong đó chia làm năm phần:
1) Dẫn văn dưới.
2) "Thần lực...": là chánh giải thích, thân tay chỉ trước giải thích vạt áo...
3) "Như Lai...": nêu rõ dùng ba ý.
4) "Vạt áo..." nêu ý lập danh. Ba phần trước: có thể biết. Nói "Danh lược nghĩa huyền": Biết và thấy là hai chữ, cho nên "danh lược", nhiếp tất cả pháp cho nên "nghĩa huyền", như một vạt áo cũng đủ cho nên "lược", chứa đựng (thạnh) nhiều gọi là "huyền". "Bốn vô sở úy" lược như trong Pháp Giới Thứ Lớp và Chỉ Quán quyển bảy nói, Trí luận rộng giải thích. Thông nói "Vô úy": Thập lực nội sung ngoại dụng không khiếp sợ, gọi là "vô úy". Đức Phật tự thành thật nói: "Ta là bậc nhất thiết tri nhất thiết kiến, không có tất cả Sa-môn và Bà-la-môn, hoặc Thiên; Ma, Phạm và các chúng khác nói Như Lai bất tri (không biết)", cho đến "không có chút tướng sợ hãi". "Dùng đối Tứ đế": Tận khổ đạo tức Khổ đế, nói chướng đạo tức Tập đế, nhất thiết trí tức Đạo đế, lậu tận tức Diệt đế. Tứ chủng tứ đế tức bốn tứ vô úy. Nay nên tại Viên khắp tất cả bốn, ly hai làm bốn. Hai đều y đế, đế làm sở y cho nên gọi là "an".
Tiếp, trong "Thập lực", Thông nói "lực": Bên trong cái mà chư Phật chứng đắc Thật trí dụng rõ ràng phân minh. Không gì có thể hơn, không gì có thể hoại được, cho nên gọi là "lực". "Vô úy" và "lực" trong ngoài sai biệt, mỗi mỗi nhiếp khắp cho nên gọi là "hoành (ngang)", thập lực y lý cho nên gọi là "thụ (dọc)", thì mười xứ rõ đế lẽ nào không "đại an" ư? "Vô úy" và "lực" tuy có trong ngoài, nay đều căn cứ dụng cho nên trong ngoài đầy đủ. Năm, ba, bảy... là kết ý thi hóa. Nói "mà chúng sinh không kham": đây chánh thiết lập Đại; nói "không kham" là chọn ý nói. "Chỉ có một cửa" cho đến " hẹp nhỏ": Trong đó có hai phần: 1) Chỉ trên loại đồng. 2) Phân môn giải thích. Đầu tiên nói "Nghĩa như trên nói": Như xa môn nói trên, trong đây cũng là tuyên bày xa môn nhất Phật thừa. Hoặc là đã xuất trạch môn mà chưa nhập xa môn, dùng khó xứng cho nên gọi là "hẹp nhỏ". Đầu tiên nói "biệt": Biệt là dựa ba nghĩa phân chữ giải thích. Trong đó, trước là chánh giải thích. "Giáo lý...": là giải thích lý do. Chánh giải thích: Đã là lý môn lại thuộc giáo, Tiểu tức không có căn cơ, do vô hành cho nên không nhập lý giáo, gọi là "hẹp nhỏ". Nói "Không dung đoạn thường Thất phương tiện": lẽ ra nói đoạn thường và Thất phương tiện, đối Thật không nhập nghĩa nói là "không dung". Nói "Chúng sinh không thể dùng giáo lý đây để tự thông": tức chỉ tuân theo phương tiện mà thực hành. Nói "thông thích": Lý, giáo, hạnh ba thứ, mỗi mỗi thông nêu một môn hẹp nhỏ. Do không nhập nên không đắc đến quả. Đầu tiên, căn cứ lý, chỉ một pháp giới cho nên nói "không tạp". Do lý nhất nên khắp thông tất cả, khiến đến lý đây cho nên nói "năng thông". Do con không vào nên nói "khó biết". "Căn cứ giáo": Chỉ căn cứ Viên lý đối giáo để nêu, vì xuất nhập chỉ là lý giáo. Nói "phàm phu không biết xuất xứ" tức là không bằng nhị thừa đã từ trạch môn Tiểu giáo mà xuất. "Không biết nhập": là không biết cửa xe (xa môn). Hai giáo nhị thừa chỉ từ môn mà xuất cho nên nói "ít biết". Xưa giáo chưa thuyên bày thì vĩnh viễn không biết nhập. "Bồ-tát tuy tự biết xuất...": là Thông giáo Bồ-tát. Tam tạng Bồ-tát tuy có xuất giáo trải qua ba tăng-kỳ trăm kiếp đều chưa xuất. Lại, Thông giáo Bồ-tát căn cứ độn căn, chưa biết nhập xứ cùng Nhị thừa đồng cho nên nói là "cũng chưa biết nhập".
"Đoạt Thất phương tiện": Trước cho nói phương tiện cũng nói "biết xuất", còn chưa nhập thật gọi là "không biết nhập". Nếu đoạt thuyết thì xuất cũng không biết. Vì sao? Vì không tự biết thượng trung hạ tánh cho nên không biết xuất, nên nói như thế. Thông biệt Diễn môn còn có thể biết nhập, nhưng "đới" giáo đạo. Cho nên, đoạt thuyết tức là Biệt giáo địa tiền đều không biết, còn không tự biết thượng trung hạ tánh, huống chi một tiếng động đất một trận mưa. Từ không biết Quyền biên mà nói "đều không biết". Cho nên, Biệt giáo địa tiền tuy biết Trung đạo mà giáo đạo vẫn là Quyền. Căn cứ giáo đạo mà luận cho đến nhập địa. Nhập địa ắt chứng cho nên phế bỏ không luận. Tiếp, "Văn trên nói...": dẫn văn. Người Thất phương tiện đều chưa nhập Phật thừa. "Không thể dùng giáo...": Nói "phương tiện" ắt là dùng để thông Thật. Nếu Phật chưa khai thì đều không thể dùng giáo mình thông đến tột cùng. Nói "sẽ luận đàm": bởi vì trước lúc ấy, chưa bài xích cho nên không nói "không có căn cơ", lược khai phương tiện cho nên nói "sẽ luận đàm". "Căn cứ hạnh": có thể biết.
"Ấu trĩ (thơ bé) không biết": Sư xưa hoặc nói thiện của nhân thiên là ấu trĩ. Nay thì Đại thiện chưa sinh tại sao gọi là ấu trĩ? Y nay làm chánh. "Luyến trước (mê đắm)...": Trước nêu thiện yếu cho nên chưa hiểu biết, nay nêu ác mạnh đùa giỡn cho nên bị thiêu cháy. "Nhân thời": Khi bắt đầu thoái Đại. "Quả thời": Thời thọ tám khổ. Thoái Đại về sau đắm nhân ái kiến. Y báo Chánh báo tức là quả ái kiến. "Dục giới" đắm Y báo. "Sắc giới và Vô sắc giới" đắm Chánh báo, cho nên nói "thiền vị, định...". "Tướng đối trị" đến "Tiểu thừa". Giới môn của Đại thừa gọi là đối trị, không đồng Vô thường v.v... của Tiểu thừa, cho nên dẫn kinh Đại Phẩm nói Tứ niệm xứ... đều là Ma-ha-diễn. Quán bất tịnh... năng sở đều vong đều "bất khả đắc".
Hỏi: Nếu như vậy thì chỉ là quán lý, tại sao gọi là đối trị?
Đáp: Khi tu đối trị thì năng sở đều không, nay đây cũng vậy.
Căn cứ thiết lập Đại thừa giáo hóa lại khiến lìa trược, đối với Đức Phật chính là tướng Ma-ha-diễn, vì vậy cho nên được gọi là tướng Đại thừa trị. "Đã mê đắm...": sở trị của Đại thì thích nghi nên dùng Đại để xả ác. "Nếu từ lâu (cửu)...": Từ lâu trụ ở Kiến Tư, Đại tiểu đều lỗi. "Chẳng sợ" đến "như trên": Như các văn giải thích bất giác v.v.. bên trên, rộng căn cứ phàm phu và ba đời. "Bối minh...": Đông Tây ví như Khổ tập, nếu thấy rõ Khổ tập thì Đông Tây hướng đến sáng. Do không biết Khổ cho nên khởi nơi Tập, như mặt trời mọc hướng Đông mà rong ruổi hướng Tây. Không biết Tập cho nên chiêu cảm Khổ, như mặt trời phía Tây mà rong ruổi hướng Đông. Rong chạy nghĩa một cho nên kinh nói "hý". Tử như qua, sinh như lại, trở lại rồi qua, sinh tử không dứt, không có thọ mạng biến dịch hai cõi kia như tốc tật (nhanh chóng). Lại từ Khổ khởi Tập như qua, từ Tập thọ Khổ như lại. Một Khổ một Tập, một Sinh một tử, cho nên gọi là chạy rong qua lại. "Tuy dùng Đại dự định thích nghi": Nghe mà không chịu, "nhìn cha mà thôi", như tuy thấy cha mà sợ bỏ trốn, mất cái lợi ích của thấy nghe, cho nên nói "mà thôi". Dĩ là thôi. Lại, căn cơ bấu víu ở ứng, nên gọi là "nhìn", cơ sinh không thọ nên nói "mà thôi".
Từ "Đại thừa" đến "mạng cha đoạn": Đều dùng Đại thừa làm mạng cha con, tuy Đại thừa cứu chưa được mà hạt giống không thể vong (mất), do đó tuy muốn tiểu hóa, vì còn Đại mạng nên không phế bỏ công hóa độ. Trước nói "thiết dĩ": đầu tiên khi thoái Đại chợt khởi năm trược, như mới bức bách thân, đại thiện dung chứa vẫn còn. Nếu lâu không xuất lưu chuyển năm trược, thì gọi là "chắc bị thiêu cháy", tức Đại tiểu đều thất (mất). Đây nói khi khởi tiểu ứng, cho nên nói "nếu không kịp thời". Đại thừa thiện căn lý thật không đoạn, ý khiến mau xuất ắt là do chết bức bách. Nếu lâu không xuất, thì nghĩa đồng nơi chết, cho nên nói "nghĩa chết". Tức văn trên từ "bị thiêu" đến "nếu không kịp thời ra".
Hỏi ý: "Được ra" và "đều bị cháy" trong ngoài nghĩa khác biệt, hai văn tương phản nghĩa kia như thế nào? Tiếp, "Trước đắc xuất...": là Đáp ý: Pháp ứng không đồng hai nghĩa đều khác biệt, theo văn theo lý hai ý không đồng. Nếu căn cứ văn trước thì văn đã ký Tiểu (nương Tiểu thừa). Trở lại từ Tiểu giáo cửa bị cháy mà ra, thì trở lại căn cứ ngũ phần pháp thân. Nếu nghĩa kiêm nơi lý, thì pháp thông hai thứ. Nếu Pháp, Ứng tương đối; thì lý nên thường trú pháp thân đã xuất, nay luận ứng thân vật cơ thọ hóa thì cơ ứng đều cứu giúp cho nên nói "kịp thời ra", không thọ hóa thì cơ dứt nên thôi. Khôi Đoạn, nhập diệt nghĩa "đều sẽ bị cháy". "Bị cháy", cho nên nghĩa sẽ là cha con mạng đoạn, lấy đây dự định thích nghi mà bức bách thúc giục.
Hỏi: Trước đã nói "được ra" là Pháp thân, Đại cùng Tiểu pháp đều không bị cháy, thì đâu cần nói "ra"?
Đáp: Chỉ do không bị cháy, gọi đó là "ra", vậy thì Pháp thân, Ứng thân đều không bị thiêu, Ứng vốn đồng vật, từ vật nói là thiêu, theo lý thì Pháp Ứng không hoại, theo sự thì vật bị thiêu, Phật ra. Nay nói "đều bị thiêu", ý tại đồng ra, cho nên nói: "Nếu không kịp thời ra.....".
Có người nói: Cảm ứng đồng thời. Nay cho rằng chỉ được lý đều được ra mà mất nghĩa đều bị thiêu, cho nên dùng đều bị thiêu để chủ yếu là khiến đồng ra. "Từ Biết tâm con lúc trước...": là nêu rõ có tiểu cơ nên tiếp dùng tiểu. Khai một làm ba, cho nên gọi là "đều". "Lại biết" đến "tiểu mạnh": Đại thoái cho nên yếu, Tiểu mạnh hai nghĩa:
1) Nhàm chán khổ. 2) Chính là trị. "Trong sáu tâm thoái": Căn cứ theo ý Kinh Anh Lạc, Thân-tử trong Thập trụ tâm thứ sáu thoái. Sợ là trước lúc ấy Kiến hoặc Tư hoặc đều đoạn, khi đến tâm thứ sáu, Kiến còn chưa tận, lục tâm còn thoái.
"Tán thán ba xe": Có người hỏi: Vì sao dùng xe thì ba, Sứ giả thì hai, thành thì một, thành thì có, xe thì không? Đều là thí phương tiện mà số không đồng? Người khác đáp có dư, nay lại vì đáp. Phàm lập thí đều từ một bên, không thể chấp một mà nghi đường khác. Cho nên một hai ba chỉ là ly hợp, vì đối tam chu thì tín giải... sai khác cho nên khác biệt đó thôi! Đều thí dụ phương tiện nghĩa kia không khác. Xe thì thông nêu phương tiện cho nên có ba. Sứ giả thì từ nạn biệt đối cho nên có hai. Thành là xứ của hai, ba cho nên một. Nên biết thành cũng từ người cho nên hai, cho nên nói chỗ nghỉ ngơi thì nói hai. Xe cũng từ nạn chỉ có hai. Sứ giả cũng nghĩa kiêm Bồ-tát. Ba thứ đây đều có Nhân (người) Lý, Giáo Hạnh. Thành hoặc nói hóa, cho nên cũng không. Xe dựa vào tạo tác, cho nên lại có. Sứ giả căn cứ Quyền đồng cho nên cũng có, Quyền chính là chẳng Thật, cho nên cũng không. Quyền Thật tương đối đều thông bốn câu, theo Quyền hóa cho nên đều có, theo Thật nghĩa cho nên đều không, đều thông Quyền Thật cho nên có không, đồng căn cứ một lý cho nên cả hai phế bỏ.
"Khuyên, chỉ, chứng": Chỉ bày lẽ ra phải ở trước, theo thứ lớp trong kinh cho nên trước khuyên sau chỉ, cũng ưng không lỗi. Trong chứng, đều nói "cùng" (dữ): chỉ là mình đã chứng cũng khiến người khác chứng, cho nên gọi là "cùng". Nói "Kệ trước bản lược": thí bản chỉ nói "đó gọi là chuyển pháp luân...". "Rộng nêu" đến "sáu câu": Hiền hợp làm bốn, Kiến Tu làm hai. Hiền sở dĩ hợp: Pháp tứ niệm đồng cho nên làm một; Noãn, Đảnh đồng thoái cho nên làm một; Nhẫn không ngoài quán cho nên làm một; Thế đệ nhất vô thượng cho nên tự làm một. Kiến Tu đạo khác cho nên đều là một. Rộng như luận Câu-xá trong phẩm Hiền Thánh nói. Đây chỉ cần lược nêu. "Ba mươi hai đế": Trên dưới đều có mười sáu hạnh tướng, trên dưới hợp luận, cho nên thành ba mươi hai, đầy đủ thì như trong Câu-xá, Thích Tiêm chỉ lược nêu. "Cùng Khổ pháp nhẫn không khác biệt": Thế Đệ nhất tâm đồng sát-na này, tức nhập Khổ nhẫn, đồng quán Khổ đế. Lẽ ra nói: Trong bốn tùy quán một hạnh, cùng Khổ nhẫn đồng cho nên tổng nêu. "Rong chạy, là nhập Kiến đạo mười lăm tâm": Sau thế đệ nhất, sát-na thứ mười sáu đều là vô lậu.
Có người nói: "Mười sáu tâm vẫn tại kiến đạo", vì bộ khác không đồng.
"Tiện có Niết-bàn âm": Đây căn cứ sơ chuyển mà nói. Trong phần "Giải thích theo Quán tâm" dùng Đại thừa quán: Phàm phụ thêm văn làm quán phần nhiều tại Viên, khiến mỗi mỗi văn không trái sự tu tập chẳng kể đến cái khác. Từ đầu đến "sở nguyện": Tâm vọng quán cảnh, gọi đó là "nguyện", tâm chưa xứng cảnh cho nên chẳng thích ứng nguyện. "Cảnh" đến "dõng mãnh": Cảnh nhiều quán ít không phải dõng mãnh tiến. "Cảnh nghiên tâm": Trở lại dùng tâm tư duy diệu cảnh mà nghiên cứu tâm, luôn luôn làm điều đó, tâm quán mới lợi. "Tâm cảnh tương nghiên": Hướng khiến dùng cảnh nghiên cứu (tìm đến) tâm, trước lại dùng tâm quán cảnh cho nên gọi là "hỗ tương". "Tâm vương...": Bắt đầu tâm tu quán đều dùng đệ lục vương sở làm khởi đầu phát quán. Dù khiến quán cảnh viên dung không hai, mà kia như thô hoặc còn chưa rơi trước, cho nên vẫn đều thuộc đệ lục vương sở, cho đến chưa tịnh lục căn đến nay cũng chưa lìa vương sở. Đây là tâm vương, sở của nhà Kiến Tư. Nếu muốn căn cứ giáo thì có bốn giáo Hiền, Thánh vị biệt. "Chạy rong" không đồng nay tại Tam tạng. "Trên trong Pháp thuyết trước nêu...": là trên chương Thích-ca tụng trong hiển thật có sáu hàng kệ. Trước, căn cứ Tứ nhất tức là hiểu rõ văn. Tiếp, căn cứ đòi xe tức là căn bản thí dụ, nghĩa là hai hàng đầu từ "Ta thấy Phật tử..." tức là nghe các phương tiện giáo trước tam Bồ-tát. Tiếp, "Ta liền nghĩ..." hai hàng và một câu, nêu chướng trừ, Phật hoan hỷ. Nói "Nay ta vui vô úy": Tức chướng trừ cho nên vui. Nay trước nêu thoát nạn sau nêu đòi xe: trước sau đã khác lạ. Quang Trạch thẳng đem căn cơ Đại thừa để đối thoát nạn, do đó phá. Đây nêu rõ kinh văn trước sau không đồng, chẳng cho rằng chướng từ có trước sau.
Do các Thanh-văn đều có trược trước trừ, thì Đại cơ nay phát. "Khổ đầy đủ...": Do văn pháp thí, thoát nạn cùng cơ, trước sau hồi hỗ, nương đây không đồng giải thích ra bốn câu. Trước giải thích hai câu, còn lại hai câu chỉ trên. Nay hai câu: Dùng hai câu trước, chỉ kinh văn xen lẫn nhau nghĩa không thành. Muốn khiến thành thì xen nhau đối Hoa Nghiêm..., tức danh đồng nghĩa khác. Câu đầu tuy dẫn bốn đại Thanh-văn mà thông chỉ La-hán nghĩa kịp tam chu. Câu tiếp sở dẫn phàm phu lý thông đầu cuối, trong câu tiếp nghĩa bao gồm giáo Hoa Nghiêm và Pháp Hoa: là khác câu đầu trước, hai câu còn lại nói như trên, chỉ trên tụng chương Thích-ca.
Trong kệ Tứ nhất nêu ở cuối văn. Trong bốn câu liệu giản, hai câu một và hai cùng đây giống nhiều, nhưng có chút ít sai biệt cho nên lại giải thích. Câu đầu kia nói tại thời Tam tạng, chưa nói cuối Đại Phẩm... Câu tiếp chỉ nói các phàm phu trong Pháp Hoa, không nói người trong Hoa Nghiêm. Kia nói tuy thiếu, nhưng phần lớn ý chỉ đồng. Nói "Hai câu còn lại như trên": tức câu thứ ba và thứ tư. Kia nói "chướng tức trừ, cơ tức phát", như trong Vô-lượng-nghĩa đắc Tiểu quả, thì liền tại pháp hội nghe Đại thừa. "Chướng chưa trừ, cơ chưa phát", như năm ngàn người đứng dậy bỏ đi, chỉ có câu thứ tư, chẳng phải người trong Pháp Hoa. "Nếu Đại căn cơ...": lập lại chỉ kinh văn trước nay hồi hỗ. "Nếu Đại căn cơ...": Như trước nay dẫn văn của phẩm Phương Tiện, chỉ vì văn phẩm kia, văn có trước sau, không phải cho rằng phẩm kia nói trước Đại cơ phát sau chướng trừ. Nếu trước chướng trừ: thì như văn trước dẫn nói "Nay trong thí đã...". " Tứ đế đồng hội Kiến đế": Trong Kinh A-hàm cũng có "Tứ cù" dụ cho Tứ đế... Hoặc tận.
Tiếp, nêu nghĩa "Đòi xe", nói "Nêu mười vấn nạn": Người xưa lập vấn nạn, không chấp nhận Bồ-tát có nghĩa đòi xe, hội hai qui một. Thời đại gần đây bỏ dùng, đâu đủ làm lạ! Cho nên, nay trình bày phá, khiến có đòi có hội. Trước là thuật, tiếp là phá. "Hai vấn nạn đầu" có thể thấy. "Vấn nạn thứ ba": Nói sở hóa là phàm phu chưa xuất tam giới, không nên có đòi, năng hóa vị ở Tam thập tam tâm, không thể nơi đây lại nói có đòi. Nếu nhập Phật quả, thì Phật quả không hai, Phật theo ai để đòi? "Vấn nạn thứ tư": Nêu trước đoạn chánh sử, tu tập không biết tại lý không hợp nghĩa đòi, đoạn tận thành Phật, Phật lại không đòi. "Vấn nạn thứ năm": Dẫn kinh văn nay để chứng Bồ-tát. "Vấn nạn thứ sáu": Nói "Từ Đại Phẩm...": Xưa để Bát-nhã ở trước Phương-đẳng, cho nên nói "Đại Phẩm về sau". Trước dẫn ngăn ngại, nói "Pháp Hoa về trước đều là phương tiện", trước định giao phó cho cùng tử... là thiết lập nạn, Nhị thừa lãnh thọ nghiệp đều là Bồtát pháp. Nếu là phương tiện thì của cải giao phó, vì sao lại nói đều là ta có? Nếu giao phó tài... là lập lại trưng dẫn. Nếu của cải giao phó là chân thật, thì Bồ-tát đối kia trước được tài vật đây đã thành chân thật, lẽ nào đến Pháp Hoa lại đòi chân thật. "Vấn nạn thứ bảy": Phẩm Phương Tiện nói: "Hết thảy Thanh-văn Bích-chi-phật không thể biết việc ấy", cho nên Tiểu gọi là phương tiện, cho nên phải đòi. Phật tử Đại thừa: Kệ nói: "Phật tử hành đạo rồi, đời sau được làm Phật". Làm Phật là thật, thật thì không cần đòi. "Ba vấn nạn cuối": có thể thấy. Xưa nay sở chấp không ngoài mười thứ này. Tiếp trong phần phá, nói riêng tổng biệt lẫn lộn, nên riêng phá. "Bác" là ban bác (loang lỗ), hình trạng không thuần cũng là lẫn lộn. Phá: cho rằng kia như lẫn lộn, chánh giải thích như thuần nhất.
"Cái gọi là Tổng": Là thông lập Bồ-tát có nghĩa đòi xe thì mười nghĩa đều phá. "Đòi là cầu thỉnh" đến "gọi là cầu đòi": dẫn trước ba nghiệp đều có văn đòi, có pháp dụ hợp. Pháp ý: là hàng tam thừa thành tựu chưa đủ, đều chưa khéo hành, đến kinh này đều phải có "đòi". Ba câu trong Dụ thứ lớp để đối ba pháp. "Phàm cư...": trong Hợp đầu tiên nêu ý đòi. Nghĩa "Đòi" gồm ba và dẫn văn chứng đủ từ đầu đến cuối. Do "đòi" cho nên "hứa", do "hứa" nên "cho". "Hứa và cho" có văn, thì đâu được không "đòi". Đầu tiên nêu thỉnh, trung thỉnh đã nêu Dilặc ở trước, hứa lẽ nào riêng đáp lời Thân-tử? Huống chi Thân-tử thấm nhuần ân khắp thỉnh vì tự tha, cho nên nói "nguyện vì bốn chúng". Bốn chúng lẽ nào riêng Nhị thừa? Đức Phật hứa chẳng chuyên chúng Tiểu thừa, cho nên chỉ nói chung: "sẽ vì nói...". Văn hứa, có thể thấy. Cho nên biết tam chu thông nói tam thừa. Pháp thuyết xong Thân-tử hoan hỷ, tức đầu quyển thứ hai. Thí thuyết xong Ca-diếp hoan hỷ, như đầu phẩm Tín Giải nói: "Nghe Đức Thế Tôn thọ ký Xá-lợi-phất, thì các ngài Cadiếp phát tâm hy hữu vui mừng hớn hở". Nghe nói nhân duyên đời trước thì Phú-lâu-na hoan hỷ. Như đầu phẩm Ngũ Bách Đệ Tử Thọ Ký nói: "Lại nghe việc nhân duyên đời trước, tâm thanh tịnh hớn hở". Tiếp "Biệt bác (lẫn lộn)": Trước phá nạn thứ nhất, nói "Tề Tam tạng nêu rõ Bồ-tát không đoạn Hoặc": trước nói Bồ-tát chưa đến nơi hứa, do không đoạn Hoặc, cho nên không cùng Nhị thừa đồng đến nơi hứa quả. Cho nên không đòi, tức là chỉ trong Tam tạng nêu rõ Bồ-tát không đoạn, cho nên phán là "Tề". Nói "Y Pháp Hoa có bốn câu": nghĩa là căn cứ kinh này nên làm bốn câu thì nhiếp căn cơ mới tận. Nếu không có bốn câu thì sợ người cho rằng cơ phát chỉ tại nơi người không chướng ngại, cho nên câu thứ hai tức Tam tạng Bồ-tát. Nếu riêng Nhị thừa, thì Nhị thừa sao từng có chướng chưa trừ? Cần phải liệt kê hai câu căn cơ phát phá xưa không đòi. Nếu không đòi thì do đâu cơ phát? Nhưng cơ không động cũng có chướng trừ tức câu thứ ba vậy. Chưa phát vả lại chỉ Pháp Hoa về trước. Nếu đến Pháp Hoa thì trừ năm ngàn người bỏ đi, ngoài ra không có người nào không phát. Phá nghĩa thứ hai: ý Sư kia nói: Đòi chỉ tại Tiểu, các kinh Đại thừa đều không có nói Bồ-tát đòi quả Tiểu thừa, kinh này Bồ-tát lẽ nào ưng đòi Tiểu quả? Cho nên nay phá, nói: "Nhập Niếtbàn đã đồng, sao được không đòi?", nghĩa là chính dùng Thông giáo phá. Ông nói Bồ-tát không đòi Tiểu quả, nhưng thông hàng Tam thừa đắc lý đã đồng, đều bị bài xích, nói: "Đều là phương tiện". Muốn lại cầu thật lý cần phải đều đòi, Thông giáo còn đòi huống chi Tam tạng ư! Phá thứ ba: Văn kia nói: Sở hóa ba A-tăng-kỳ, trăm kiếp đến Bổ xứ, còn là phàm phu đạo lý không đòi. Đây là chê bai thái quá, lẽ nào ba tăng-kỳ trăm kiếp hoàn toàn đồng phàm? Văn vẫn không phá, chỉ phá năng hóa tam thập tam tâm kia tư duy vẫn chưa tận cho nên không ưng đòi, đến nghĩa Phật lại không đòi xe, chỉ tổng phê phán nói Thuộc tam tạng đó thôi! Cho nên "Bồ-đề thọ hạ tam thập nhị tâm" còn gọi là Bồ-tát, thời tiết đã ngắn, nghĩa đòi không thành, đây thì có thể như vậy.
Nói "tư duy chưa tận", đây không nên như vậy cho nên lấy Kiến-hoặc phàm phu so sánh thì Hoặc chướng toàn tại Đại cơ còn phát, huống tam thập tam tâm? Nói "Phật không đòi", đạo lý như vậy. Kia cũng không biết nhân không đến quả, đến tam thập tam tâm ắt không thật hành. Có thể trong đây Phật thật là ba tăng-kỳ đến quả chỉ đoạn Kiến Tu mà thôi! Lại đồng La-hán, như nói thế gian có sáu La-hán, La-hán đâu được không đòi xe ư? Chỉ do kia không biết Quyền, cho nên lại nạn vấn. Giáo kia đã Quyền, tiến thoái có ngăn ngại. Trong phá ý thứ tư, cũng trước lập lại nói: "Bồ-tát chưa đoạn tập" cho đến "đoạn tận...": đây dùng văn thứ ba làm theo lệ. Văn thứ ba trước, nói nếu Bồ-tát tiến tới đoạn tập khí vô tri, lý hợp thành Phật, nghĩa "đòi" không thành. "Đây tam thừa...": chánh phán xét thuộc Thông giáo, đã chưa thật Bồ-tát phải "đòi".
Tiếp, dùng "cụ phược" để so sánh, phá ý thứ năm: Kia cho rằng trong tam thừa, Bồ-tát là duy nhất (chỉ riêng). Tiếp, "Bị hội...": là phá. Dù cho phép Bồ-tát phục đoạn không đồng, nhưng vọng người Nhị thừa cũng gọi "duy nhất". Nên biết, nói "duy nhất" là thông đối đãi Nhị thừa không hạn cuộc. Kia lấy đối tượng đối đãi là Nhị thừa, ngoài đó ra chỉ một duy nhất, mà không biết bốn giáo đương giáo Bồ-tát đều gọi là "duy nhất", cho nên ba mà duy nhất cần đòi xe. Nên biết ba trước là đối đãi hai duy nhất, Viên giáo duy nhất mới là tuyệt đãi; như ngoài Tam tạng duy nhất, còn có tam giáo, Thông, Biệt có thể biết, như ngọc châu, trăng sáng tỏ về đêm.
"Phá ý thứ sáu": Kia nói Bát-nhã đến Pháp Hoa một mực chân thật. "Ông không...": là dùng cộng bất cộng để trách. "Cộng bất công" văn xuất từ Đại luận. Bất công Bồ-tát cho phép có thể không đòi, vì kia có Viên. Lại Bất cộng kiêm Biệt. Biệt còn phải đòi huống chi Cộng Bồ-tát, cho nên ông không biết tài sản giao phó bao gồm Cộng và Bất cộng, mà chỉ một hướng nói chân thật không đòi! Lại, nếu nói trong Bát-nhã Bồ-tát chân thật không đòi, thì nay hỏi ngược lại: Nhị thừa ở Bát-nhã được giao phó chân thật, tức đồng Bồ-tát tại sao lại cần đòi? Huống chi ông tự nói đến Pháp Hoa đều là chân thật, do ông không biết Tam-muội sai khác. Trong "Phá ý thứ bảy", lập lại nạn vấn đã xong. Tiếp, trong phá dẫn văn Bản môn, văn Bản môn kia vì Đại tiểu mình người đều là phương tiện. Vọng bản văn kia thì Viên còn là phương tiện huống chi Thiên ư! Nay trong Tích thì tam giáo đều là phương tiện, huống chi đầu phẩm Phương Tiện nói: "Phật dùng phương tiện lực dạy cho ba thừa giáo", sao riêng nói duy chỉ dạy cho Nhị thừa, cả ba đều phương tiện cho nên đều đòi. "Phá ý thứ tám": Cũng trước trình bày nạn vấn. Tiếp "Ông không nghe...": là phá, cũng nên dẫn mười nghĩa đầu của tam chu bên trên, trong đó có văn lãnh. "Phá ý thứ chín": Đã như trước phá. "Phá ý thứ mười": Nói cũng như là nghĩa trước, không ngoài Tam tạng, phá cũng như trước. Người đời làm rõ nghĩa phần nhiều không chịu nói theo Tứ giáo, nay chỉ phá nói "Tứ giai" và dùng Tam thừa cộng vị cùng Bồ-tát trong Hoa Nghiêm không đồng. Nếu lại không chấp nhận, thì xin xem luận Bà-sa Câu-xá và kinh Đại Phẩm hoặc trở lại Thiên Trúc! "Tự có hành thôi nghỉ...": là đại tiểu sai biệt cho nên Tiểu thừa thôi đòi, Bồ-tát chưa thôi giáo Quyền, cho nên đòi.
"Lại, Bồ-tát...": lại dùng nghĩa phá. Xin là tên khác của cầu thỉnh, lẽ nào có không cầu mà đắc. "Quán kỳ quỷ lũy": "Quỷ" là dối trá; "lũy" là chồng chất. Mười nghĩa phần nhiều giả vờ chồng chất Thông Tạng, cho nên ý câu một, ba, chín, mười toàn là Tam tạng; bốn, năm, sáu rộng phụ Thông giáo; ba ý còn lại nghĩa bao hàm Tạng, Thông. Kia do thông thấy Anh-lạc, hạnh vị còn thuộc thiết lập Quyền, phi thị phát tâm cả hai không khác. Nếu là thực, thì hạnh nguyện Phổ Hiền ở kinh Hoa Nghiêm là đồng hay khác? Nên một nhà lập nghĩa biệt còn phải có "Đòi", huống chi tại Tạng Thông, do kia lập Bồ-tát không đoạn, và do đoạn Hoặc chưa cùng tận đều không cần đòi?! Nhị thừa đoạn Hoặc, nên cần phải đòi! Đây tức hoàn toàn mê ở đoạn Hoặc Bồ-tát cũng phải xin xe, huống chi chướng chưa trừ Đại cơ động nhân. "Nay sẽ...": tách làm bốn câu: Đoạn, không đoạn, có đòi, không đòi. Huống lại mười sáu câu biến khắp. Căn cứ năm thời, đầu tiên chấp nhận người xưa rơi tại một câu, nếu đến mười sáu câu tức khiến không đòi thành đòi thì hoàn toàn khiến rơi vào câu nghĩa phi, vô mà có thể đắc. Trong đó trước nêu bốn câu.
Hỏi: Câu đầu cùng người xưa Bồ-tát không đòi có gì sai biệt?
Đáp: Nay biệt có ý phê phán ở Tam tạng. Kia nói tất cả Bồ-tát không đoạn cho nên đều không đòi, hoặc là đoạn chưa tận cho nên không đòi.
Lại dẫn kinh luận hợp thành Thông Tạng, do kia không biết nghĩa Biệt Viên. Nếu bản biết thì việc gì không lập? Cho nên nay đầu tiên lại tách làm bốn câu, dùng đối bốn giáo thứ lớp trải qua năm vị. Trong câu đầu vọng ba câu sau, danh đồng Sư xưa mà ý hoàn toàn khác. Một phen đối câu lại lập căn bản, gọi là "không đòi". Do Tam tạng Bồ-tát từ đầu đến cuối không đoạn, dù bị bài xích thì cũng không thể đòi. Nhất vãng (một phen) tuy vậy, còn chưa tận lý cho nên lại khai làm mười sáu câu. Lại trong câu căn bản câu thứ hai là Thông giáo, tam thừa đều đoạn cho nên đều đòi xe. Câu thứ ba căn cứ chưa phá vô minh gọi là không đoạn, cho nên phải đòi. Đăng địa đã đoạn, cho nên không đòi. Đây thì vĩnh viễn khác xưa nay các Sư, huống chi câu thứ tư đều là pháp giới, lại làm sao đoạn đòi? Cho nên câu thứ tư mới gọi là không đòi. Trong ba câu trước, câu đầu tuy không đòi nhưng cuối cùng phải đòi, cho nên trong ba câu đều gọi là đòi. "Lợi": thì trước đòi. "Độn": thì nay đòi. Do cần phải khai cho nên cần phải đòi. Viên giáo còn không thích hợp đối với không đòi, thì làm gì có đòi ư? Cho nên không đồng xưa lập mười nghĩa.
Tiếp, lại tùy vị đầy đủ giáo nhiều ít chuẩn theo lệ nói, cho nên trước Pháp Hoa Tam giáo Bồ-tát hết thảy chấp nhận đòi. Hai giáo Nhị thừa căn cứ thời trước sau, hiển mật không đồng, lại căn cứ năm vị bởi có nguyên do. Hoằng cương đại thống (rộng bày cương lãnh, thống lãnh đại ý): Lại lập bốn câu để đối năm vị, chưa phân nhỏ. Nói "mỗi một câu": tức như bốn câu trước. "Mỗi một ý": Nếu trực đối câu thì chỉ là câu nói bốn giáo lại chia làm bốn, cho nên câu cũng gọi là ý. Ý: Chỉ là câu trong giáo, như nói "nhũ vị hai ý...". Cho nên biết chướng trừ chỉ là Hoặc đoạn, cơ động lý hợp đòi xe. Căn cứ câu trong đây nếu từ căn bản, thì câu đầu trong bốn làm đứng đầu, lẽ ra trước từ chướng chưa trừ cơ chưa động, tách làm bốn câu, nên nói chưa trừ chưa phát, đã trừ chưa phát, cũng trừ cũng chưa trừ chưa phát. Không phải trừ, không phải chưa trừ chưa phát. Chưa phát chẳng phải tông cho nên không dụng. Văn đầu vả lại dùng trừ... đối động, tợ như trong căn bản, trên câu thứ hai khai xuất. Đã nói mỗi một câu đều khai làm bốn, chỉ là đều dùng bốn câu trong văn liệt nêu trên các giáo. Vậy thì bốn giáo đều dùng trừ..., đối động làm câu để nêu rõ đòi xe. Chính tại động, cho nên trong mỗi một giáo đều dùng trừ... đối động mà nói. Cho nên văn chỉ liệt kê bốn câu làm thử (thí), vẫn đem câu đây trải qua năm vị để xem, khiến biết trong bốn vị các cơ chưa thuần. Cho nên có đương giáo, hậu giáo không đồng. Dựa theo ý kinh này, tuy có các giáo chướng trừ không trừ, mà cơ động ắt chỉ có Viên giáo.
Hỏi: Ba giáo trước đương giáo luận phát, trở lại đối đương giáo trừ không trừ... Đây thì có thể thấy. Nếu đều hướng về Viên cơ luận phát thì Bồ-tát thông với Nhị thừa trước bất định, Viên giáo làm sao luận bốn câu: đoạn... ư? Vì sao lại động?
Đáp: Nên đem Sơ trụ để đối trước trụ mà luận bốn câu, tất cả phàm phu không đoạn năm phẩm gọi là "đoạn". Sơ tâm tu quán tuy tức pháp tánh, nhưng phải tác ý đoạn cho nên tạm lập tên "đoạn". Lục căn tức là câu thứ ba, dùng câu thứ tư làm câu căn bản Viên giáo, cần trở về Sơ trụ nên như vậy. Cho nên các câu giáo trước Pháp Hoa, thì giáo chưa dung thông, đến Pháp Hoa chỉ có bốn trừ dùng đối một phát, nên đến Pháp Hoa đều có đòi. Miệng đòi đã như vậy cơ tình có thể biết, vậy thì mỗi một vị, không vị nào có không đòi, chỉ cơ tình bí mật cho nên không luận. Do đó lại đối hiển giáo các vị để thành các câu, "đòi" cùng "đoạn" nghĩa kia rất nhiều, vì sao chỉ dùng một lời liền phê phán, cho nên nói "tông đây không thấy...".
Tiếp, nêu "Thể, số không đồng": Xưa trong ba sư, sư đầu nhất toàn sai, sư tiếp tợ như đương nhiên, sư thứ ba nay không hoàn toàn chấp nhận. Lý kia chưa hiển, đều do không nói Phật, Bồ-tát thừa ly hợp đầu cuối đồng khác. Sở dĩ nên hợp không hợp. "Sở dĩ...": phá xưa. Trước, Thông không phải; tiếp, Biệt dẫn giáo. Đầu dẫn xưa ba, ba đã tại xưa nghiệm biết một tại nay. Tiếp, "Hoa Nghiêm...": đều dẫn chứng bốn, tức năng sở liệt kê đủ. Đầu, nói thuyết; tiếp, nói xuất Thuyết căn cứ giáo pháp, Xuất căn cứ hạnh nghi. Một và ba từ ứng, thứ hai từ cơ. Nên biết định có bốn pháp. "Địa luận...": Địa luận tại Biệt, còn liệt kê bốn quán, quán nơi Thập thiện. Nên biết các pháp đều thông bốn quán.
Anh Lạc tam thừa tức ba giáo trước. Ba đều khai ba, tức Biệt giáo thừa, bình đẳng tức Viên giáo thừa. "Nay căn cứ giáo...": lần nữa lại dùng giáo môn để phê phán ba, bốn trước nay. Chỉ nói ba bốn mà chưa nói hơn, kém, cho nên cần giáo phán xét. Nếu tam thừa đối chân mà luận đồng khác, thì tức phán nhà đầu tiên. Phán ba, bốn, chín thuộc Biệt Viên, lại phải căn cứ Hạnh mới phân biệt Viên, nên biết Tạng, Thông đại ý cũng vậy. Tuy dẫn kinh trước đầy đủ bốn giáo, diệu bộ chưa hiển lại phải trải qua vị mới biện rõ kinh này. Trong Chánh Pháp Hoa cũng trước nói voi, ngựa, dê; sau mới đều ban cho xe đại bạch tượng, đồng một Phạm văn, ai sai ai đúng?
Có người hỏi: Ra không thấy xe cho nên liền đòi, đây chưa lập thành nên phải đòi thành ư? Nay vì đáp: Thành thì căn cứ có thí dụ, thấy tại sao phải đòi?
Hỏi: Xe thành đều là phương tiện, có không nghĩa ắt đồng, vì sao có không khác đến nổi khiến đòi không đồng?
Đáp: Xe do bài xích phương tiện, thất (mất) thật cho nên phải đòi.
Thành nếu chẳng chân thật cũng đồng với nơi xe không có.
Hỏi: Nếu vậy thì nên đều đòi, vì sao đòi không đồng?
Đáp: Xe chỉ nói phương tiện cầu thật cho nên có đòi. Thành nói thật ở gần, cho nên không cần đòi.
Hỏi: Phương tiện lược khai ba chưa thật, cho nên có đòi. Đã nghe chương Ngũ Phật, vì sao trong thí dụ đòi ư?
Đáp: Trung căn mê pháp thuyết, cho nên nói xe là dối thí dụ, có không rõ ràng. Người đầy đủ trí thì không có vấn nạn đây.
Có người hỏi: Ba xe thì cho phép có thể có thượng hạ, một thành đâu được có xuất nhập ư?
Đáp: Xe cũng không có văn nói có hạ, thành cũng không từng nói có xuất. Xe bị bài xích hư dối nghĩa đồng hạ căn. Thành nghe nói hóa nghĩa đồng xuất. Kia đây từ Thí bao hàm nghĩa lập, đều đã nhập chứng đều phải khai. Đại xa bảo sở đã không sai khác, hai xứ diệu lý tại sao sai khác? "Người đời...": là nêu rõ thể của Đại xa, nên như Huyền Văn, hiển thể biện rõ; đây vì phá xưa mà lược biện khác đồng. Trên tuy nêu số và đòi không đòi. Nếu không biện thể thì dùng cái gì để nêu nguồn gốc của giải hạnh ư? Sắp xuống các sư Chương An sở dẫn, cho nên nêu nay giải thích nói Thiên Thai sư. Đầu tiên Quang Trạch trang nghiêm tuy đều nói cao rộng, mà căn cứ quả chấp nhân đối xưa chưa dứt, cho nên Quang Trạch chỉ quả đây có năm lỗi:
1) Nhân thừa vô thể thừa làm sao mà xuất?
2) Danh lạm dụng Tiểu thừa quả còn phải đòi.
3) Do dụng làm thể, năng sở không phân.
4) Đợi xưa không tuyệt khai quyền không thành.
5) Nhiếp pháp không khắp vì ngăn cách phàm hạ.
Biệt không nói Tận trí, huống chi Viên ư! Viên Biệt tuy có nói tên Vô sinh mà đồng ý biệt, đoạn chứng vĩnh viễn trái cho nên không dùng, huống chi dụng nay đối đãi xưa mới gọi cao rộng. Nên biết đương thể không cao rộng, trang nghiêm tại nhân quả ắt không có thể, huống chi Hạnh thì đầy đủ độ cũng chẳng phải sở nghiêm. Thượng cầu hạ hóa bốn giáo đều như vậy, huống chi chỉ biết nói kia cao rộng mà không hiểu thủy chung bất nhị. "Cựu sư không dùng công đức" ý để bài xích trang nghiêm, muốn đồng Quang Trạch lại không nói quả. Trí thuộc bạch ngưu, thể cũng không thành, lỗi căn cứ trước nói. Lại "một sư dùng Phước Tuệ" để tổng phá ba thứ trước, dẫn vô lậu căn lực... thuộc Tuệ, Thiền định giải thoát... thuộc Phước. "Lẽ nào chỉ Tuệ ư?": Chính là bài xích ý thứ ba, phước tuệ đã chẳng phải thể xe, lại lầm dẫn văn xưa để chứng nay, sự sâu xa không thể được. Lỗi lầm v.v... lại dùng "Hữu giải", tựa như phù hợp với ngài Quang Trạch. "Không giải" không động cho nên không dùng tức, ý nói nghĩa vận chuyển không thành, không có ý vận đều không có thể. Tận Vô Sinh trí tức "Hữu giải", từ sở tận, sở vô mà lập danh. Lại một sư phân đối Tiểu thừa, Đại thừa chỉ dùng thật tuệ phương tiện, vận động như trước. "Riêng nói...": Chương An bài xích chung. "Ngà...": tuy voi mà thông biệt không đồng, thông thì đều là thân voi, biệt thì thân chẳng phải tai... Căn cứ thí dụ phá nghĩa, ý cũng có thể biết. Cho nên quên thể thì thông biệt đều mê. "Đến trong ban xe điểm xuất": cao rộng làm thể vĩnh viễn khác các sư xưa.
Tiếp, biện "Xe nhỏ và vận, không vận", kiêm biện "nhân quả và đòi không đòi". Nhân tiện nêu rõ khiến biết sở khai. Vì trước đòi Tiểu, thì trước phải biết Tiểu. Nói "Tám trí thông nhân quả": Cũng nên nói thông lậu vô lậu, như tha tâm trí tức dùng pháp, loại, đạo, và Tục trí sở thành. Vì sao? Nếu tha tâm trí duyên tha Vô lậu tâm, thì nên dùng pháp loại đạo tha tâm trí để biết. Nếu tha tâm trí duyên tha Hữu lậu tâm, thì nên dùng thế tục tha tâm trí để biết. Nếu quả địa tha tâm trí, thì dùng quả địa tha tâm thế tục trí để biết. Nếu nhân nhân (người) tha tâm trí, thì dùng nhân địa tha tâm thế tục trí để biết. Tự còn lại sáu trí. Nếu là sơ quả nhân (người) đoạn kiến thì sáu trí rõ ràng thuộc nhân. Nếu là quả thứ hai, thứ ba và vì phi tưởng còn một phẩm, thì sở hữu sáu trí cũng thuộc nơi nhân, một phẩm sau cùng mới thuộc quả. Nếu y người xưa dẫn giáo phá trước nhất hướng dụng quả. "Nhưng chỉ...": là người xưa chánh giải thích. "Nguyên nhân chủ yếu...": là giải thích sự ngăn ngại có phụ có chánh. "Nếu nội nhân...": lại lập nghĩa ngăn ngại. "Nhưng quả...": là giải thích sự ngăn ngại. Quả không tự khắc, mà do nhân đến, cho nên khiến quả này đắc, gọi là "vận chuyển tốt". Trung đạo không đạt, là tiêu biểu chẳng vận chuyển tốt. Từ "cái chủ yếu" mà đặt tên, cho nên gọi là "vận chuyển tốt". Thừa chỉ là xa, xa (xe) vốn động vận, vận nhân đến quả được gọi là "vận chuyển tốt". Vì có thể đều phân phát, về lý cần phải song lập. "Nếu thừa...": người xưa thừa hướng đến chỗ giải thích, lập sự ngăn ngại đòi xe. "Xưa nói...": là giải thích sự ngăn ngại, giải thích khước thành ngăn ngại. Ý xưa giải thích, nói "Cơ đòi có thể hiểu": tức cơ chứa ở bên trong có thể phát gọi là "đòi", cơ tuy có đòi chỉ âm thầm tại tâm, tình chưa do dự cho nên khiến không thuật. Tuy tình động bên trong nhưng chưa hiển rõ nơi khẩu, chỉ do tình cho nên dùng thiên nhãn quán. Tiến thoái sinh nghi tình theo Phật đòi. "Nếu tìm...": nay phá xưa, có hai sự ngăn ngại của văn và nghĩa. Trong ngăn ngại thứ hai có bốn mâu thuẫn.
1) Cùng đương văn diệt tưởng mâu thuẫn.
2) "Lại, Phật..." cùng cần gặp Phật khác quyết liễu tức mâu thuẫn.
3) "Lại, ban đầu...": cùng dưới không thấy trên tức mâu thuẫn.
4) "Lại La-hán...": Khi cùng tu nhân chưa thấy quả tức mâu thuẫn. Hai mâu thuẫn đầu có thể thấy; mâu thuẫn thứ ba dẫn theo lệ. Lại "trái với Nhiếp Đại Thừa": Các luận về thiên nhãn (hạ) dưới không thấy trên, ắt không có Nhị thừa thấy ở ngoài giới. "Nay nói...": là chánh giải thích. Nói "ngày xưa": Xưa trụ nơi tiểu giáo, vì kia bị bài xích tình có sở vọng. Căn cứ đây phê phán ý tình thông hai vị, nhân bài xích xưa giải thích tình đòi lý trái, cho nên nay là lập nghĩa tình đòi. Nếu riêng luận tình dùng ý làm lời vì nói, vì cơ Sinh do đó tình động, nên cơ tình đòi thông khắp hai tô, biệt phân hai vị. "Đòi cầu" đến "là thật": nếu là phương tiện, thì xưa thật tại đâu! "Cơ tại Đại thừa...": là giải thích ý cầu thật cho đến miệng đòi thì Đại căn cơ đã phát, tình cầu xưa thật ý tại nay chân thật. Đây thì cơ thật mà tình giả. "Lại, tình...": là lần nữa lại trình bày giả để nêu thật. Cho nên tình thật mà miệng giả, cho nên khi cơ tình chưa hiển rõ nơi miệng, thì ngày miệng đòi ắt đầy đủ cơ tình. "Lục độ Thông giáo theo lệ như vậy": Trước nay nêu rõ hai giáo Nhị thừa đã vậy, cho nên biết hai giáo Bồ-tát cũng vậy. Vì sao? Xưa năm trăm, tám ngàn người đều bị bài xích, Bát-nhã đào thải thọ lợi ích sự đồng. Đã thấy Thân-tử hiện nghi, Phật giải thích lý nên thấm nhuần rồi, im lặng tại tòa đợi Thánh trình bày thông. "Có hai chương, hai rộng, hai giải thích": đây y chưa thứ lớp, sớ liệt kê có chút ít tợ như khó thấy. Căn cứ văn thứ tự hai chương đều nêu, rộng giải thích trong đó nêu ra.
Từ " Thứ nhất: Con bình đẳng" trở xuống: là nêu hai chương môn. Nói "Các con thì tâm bình đẳng": Trước nói các con tức đều là con, cho nên tâm ắt bình đẳng. Tâm kia nếu bình đẳng thì đối các con ắt bình đẳng. Tâm tức tâm tánh, cho nên Phật tánh bình đẳng. Do đều là con, cho nên tâm không thiên vị, tài pháp lại nhiều cho nên tâm bình đẳng. "Xe bình đẳng": Đầu tiên nêu ý bình đẳng, vì đối tượng ban cho không có hai cho nên nói "bình đẳng". Chỉ vì điểm sở tập đều là diệu thừa, chỉ duyên tánh đồng, nghĩa ban cho thì bình đẳng. "Mà nói..." lại dùng con bình đẳng để giải thích nghi xe bình đẳng. Đã nói "xe bình đẳng", vì sao "đều ban cho"? Xưa huân tập không đồng, các vị chẳng phải một đến đây nói đều là nhất thừa. Vì sao vậy? Nếu một người không khắp thì không gọi là con bình đẳng. Lại nói xưa huân tập nên biến khắp các pháp. Một vật không cho không gọi là "ban cho bình đẳng". Cái gọi là sắc tâm, nghịch thuận, y chánh, hạnh lý, nhân quả, tự tha, giải hoặc, Đại tiểu, Tuệ phước, cho nên biết: "ban cho bình đẳng" chỉ là khai tam thừa lục đạo kia, đều là nhất như. Cho nên mỗi mỗi như đều nhiếp khắp, đủ khắp, nhập khắp. Hết thảy chúng sinh ai mà không có phần tứ phương đạo tràng, sao vô lý có đại xa cụ độ ư? Đợi thời đợi duyên cho nên như vậy. Cho nên đến ngày nay mới gọi là "đều ban cho (các tứ)".
Nói "hoành chu... (rộng khắp theo chiều ngang)": Pháp giới tam đế đều chẳng ngang dọc, tuy không ngang dọc mà pháp giới theo khắp. Nói "ngang" thì tiện, tam đế tên khác; nói "dọc" thì tiện, bất nhị xen nhau hiển tư duy có thể thấy. Nói "Tứ biện": gọi là Pháp, Nghĩa, Từ, Thuyết. Thất biện đại đồng. Pháp: Là tất cả các pháp danh tự phân biệt không vướng đọng, phân biệt tam thừa không hoại pháp tánh. Nghĩa: Là các pháp nghĩa rõ ràng thông đạt, biết tất cả nghĩa đều nhập thật tướng. Từ: Tức ngôn thuyết danh tự trang nghiêm tùy sở ứng mà năng khiến đắc giải. Tất cả chúng sinh khác phương, khác loại, nhiều ít rộng hẹp các đạo nam nữ, các giáo các môn ba đời, chín đời người nghe đều hiểu. Nhạo thuyết: Nghĩa là khả năng đối một chữ nói tất cả chữ, đối trong một lời nói tất cả lời, ở trong một pháp nói tất cả pháp, bất kỳ pháp nào nói ra đều là chân thật, mười hai bộ kinh, tám vạn pháp môn tùy căn ưa thích mà vì họ nói. "Tứ vô lượng": Tứ đế làm cảnh, hai khổ hai lạc, bản là phạm hạnh bất tư nghì. Cho nên Đại kinh nói: "Từ", nếu có, không, không phải có, không phải không, Từ như thế gọi là Như Lai từ, cho nên tam đế Từ nhiếp tứ biến. Tứ hoằng tứ nhiếp đều y cảnh phân biệt mới khác các kinh khác. Tứ hoằng đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một và quyển năm nói. Tứ hoằng đây tức là trước đến Tứ vô lượng tâm. Tứ nhiếp: Lược như Chỉ Quán quyển bảy nói. Thần thông Thất giác đều lấy vô duyên làm sở y, như Chỉ Quán quyển bảy trong phần Vô tác Đạo đế nêu rõ. "Uyển diên": Là thêu vẽ trên mũ áo của thiên tử rủ xuống trước sau. Chẳng phải trong ý đây, đây nên làm chiếu tức chiếu ngồi nằm.
"Quán luyện huân tu": như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ nêu đủ danh tướng, như trong Chỉ Quán nói thiền cảnh, trong Huyền Văn định Thánh hạnh, đều là thật tướng cho nên tu, đến trong quả thiền trong thắng dụng vô tận. "Đơn chẫm (gối đỏ)": để chống đỡ tức gối để ngoài xe, xe dừng thì phải có gối chống đỡ cho nên gọi là chi ngang (chống đỡ) chi trì (giữ gìn) ngang nêu (dơ cao). "Ví như động tịnh tương tức": xe đi thì gối rãnh, xe dừng thì gối dựng, khi dùng thường tĩnh, khi nhàn thường động, thật thể cùng dụng cũng lại như vậy. Tự nhân quả pháp tánh không động, do đó như gió không dời đổi, vắng lặng mà đến, vạn hạnh vô tác, các trí chẳng quán. Đây thì ba đức đều bất nhị. Do ba tức một cho nên khiến như vậy. "Gối trong xe": trí đầu, hạnh thân, "tam muội" như "gối", chỗ dừng đắc lý pháp lý rõ ràng. "Màu đỏ sáng...": Không có pháp khác xen gọi là "vô phân biệt", dùng "ánh sáng" dụ trí cho nên gọi trí quang, màu chu là chính, màu tía xen lẫn cho nên dùng "màu đỏ" tiêu biểu cho ánh sáng không tạp. Ngài Nam Sơn chú thích âm kinh nói: Người Tây phương (Ấn độ) không có gối gỗ, đều dùng da màu đỏ bên trong độn lông bông chưa kéo sợi dùng để dựa ngồi nằm. "Màu đỏ (xích)" cũng lại sáng. "Bạch ngưu (trâu trắng)" chia làm ba:
1) Nêu công năng.
2) "Bạch (màu trắng) là....": là biện thể đức.
3) "Lại, Tứ niệm...": là luận hành tướng.
Văn đầu: Tu đắc Bát-nhã thì năng dẫn dắt Giả, Trung, tam giáo đế duyên đều đạt đến cùng cực cho nên nói "đáo". Đây danh thông hữu nên thể giản. Tiếp trong phần Thể đức, nói "bạch" là gốc của các màu (sắc bản), bản thể không dơ nên nói "bản tịnh", tu xứng với tánh nên nói "tương ưng". "Thể đầy đủ...": là hiển Viên trí. Thể của phiền não vốn tịnh (Hoặc thể bản tịnh) căn cứ tánh mà luận tu thì gọi là "không nhiễm". Đây tức bên trong thì "đầy (sung)" mà ngoài thì "sạch (khiết)". "Lại, Tứ niệm...": Tức căn cứ cảnh để giải thích hành tướng, "niệm" tức là trí, "xứ" tức là cảnh. Tứ quán là quán xứ, xứ quán nhất hợp, như toàn thân là trắng, tức đây quán cảnh, thiện mãn ác tận, có thể ví như "Chánh cần", do đó mà thành. Lại khiến Dục niệm tư duy nhất tâm thành vô ký thông, hóa hóa bất tuyệt nhậm vận thường như vậy. Đi đứng tự tại cho nên gọi là xứng ý, các pháp còn lại theo lệ, như Đạo phẩm nói.
Hỏi: Trong đây đại xa đồng cho các con, các con được rồi mới đến Sơ trụ, cho đến còn tại danh tự Quán hạnh, tại sao thuần dùng nghĩa quả để giải thích?
Đáp: Dùng chứng để chỉ bày người, người hành sai biệt, hiểu rõ các nhân bình đẳng, nêu sự chỉ bày lý, cho nên chỉ bày nói " Sở hành của các ông là đạo Bồ-tát".
"Tâm, Phật, chúng sinh" ba thứ không sai biệt cho nên theo lý ban cho, hạnh vị bình đẳng ban cho tức quả ban cho. Quả lý tại hạnh, mới có thể gọi là "ban cho". Lẽ nào có thể lý quả ban cho chúng sinh? "Bộc tùng (tôi tớ đi theo)": Chuẩn đối ba đức, nên trong thể của xe phân Chánh và Duyên, đối ngưu làm Liễu. Đây thì nghĩa đương tu hai tánh một. Một lại đủ ba cao rộng không hai.
Trong đây "bộc tùng" và trong kệ nói "Tấn tùng", lời thì khác ý đồng. "Tấn" là tiến, dẫn dắt. "Thị vệ" là cung ứng hai bên. "Bộc" là hạ phẩm. Nay tập Đại thừa, tự lượng tâm mình, cùng kinh văn đây liệt kê có đồng có khác. Nếu một câu tức thị, thì là thị câu gì? Một câu tức đủ thì đâu cần các câu? Lẽ nào Đức Phật lầm nói mạnh thẳng, phiền nêu xe đến làm huyễn hoặc ngài Ca-diếp. Đây là Đại La-hán, đứng đầu chúng Tăng hơn bốn mươi năm không thọ chân hóa, mới nghe phương tiện thông đạt tán thán hai trí, lược khai hiển rồi động chấp sinh nghi tình mới do dự. Ân cần ba phen thỉnh, rộng nghe năm Đức Phật mười phen khai Quyền. Lại thấy Thân-tử ba nghiệp lãnh giải tám bộ dẫn làm ước lệ, bốn chúng đáp ân, Như Lai thuật thành phân minh thọ ký. Trải qua chồng chất hạt giống đời trước chưa khai mở, mới nghe đại xa (xe lớn) liền kham biệt ký, cho nên biết đây nương quán pháp đầy đủ, vẫn còn cắt lược, thô điểm mười quán. Nếu rộng mở hạnh tướng thì do đâu có thể đầy đủ? Không biệt giải thích tức ngộ vô sinh, vọng trên xứng giữa so sánh dưới vẫn lợi. Nếu đây một câu thí dụ xe uổng công thiết lập, thì rõ ràng Phật có làm ỷ ngữ, hoặc đưa ra lỗi của người kết tập thêm thắt, và trách lỗi dịch giả hỗn tạp. Nếu thuộc đối có nguyên do, thì hạnh nghi có thể làm khuôn phép, lẽ nào học Đại quán nhanh như vậy hoàn toàn vứt bỏ? Đã thất mất kiểm tra Đại, thì đường tắt Tiểu chẳng theo. Đại Tiểu đều vong, e rằng theo tà cứu giúp. Cưỡi xe lừa hư hoại thì vì hướng đến phương nào? Ví như quả địa phước đức viên mãn, thì Hạnh Lý cùng tột, phước thành hạnh, tuệ hướng lý. Tự hạnh đức đầy đủ, cho nên nói "nội sung (trong mập)". Hóa tha đức đầy đủ cho nên nói "ngoại dật (ngoài đầy đủ)". Biến nhất thiết pháp nên "tài (của) vô lượng", đều đầy đủ hai đức nên nói "chủng chủng". Liệt kê hai tạng, tức Hạnh xứng Lý nên Lý nương Hạnh. Lại thâu nhiếp lẫn nhau mới kham ban cho bình đẳng.
"Nhất thiết...": là dẫn chứng hai tạng, như kia không hiểu Ấm nhập lý tạng, uổng tự gắng tu các độ hạnh tạng. Nói "Nhất thiết thú": Văn tại kinh Đại Phẩm trong phẩm Phát Thú. Thú là thú nhập, tức tất cả pháp nhập trong một pháp. Một pháp đã vậy, các pháp cũng đều như vậy. Hạnh lý nhiếp đủ tất cả pháp. "Tất cả pháp thú" văn tướng khai hợp như trong Chỉ Quán quyển hai dẫn. "Tự hành cái hạnh lý này...": là tiếp giải thích "sung dật (đầy đủ)". Trước là trực tiếp căn cứ Hạnh Lý. Tiếp, "Thật trí...": là năng dẫn dắt năng chiếu, tức là ý tu đắc tam đức. Quả cùng cực lợi vật cho nên gọi là "sung dật (đầy đủ)". Tuy có hai giải thích mà Phật trí không khác. Trong phần "Rộng nêu tâm bình đẳng" cũng có hai, chỉ dùng tâm giải thích con, cho nên nói "tâm". Văn đủ ba nghĩa thì mới gọi là "tâm bình đẳng".
1) Tài phú.
2) Đều là con.
3) Không thiên vị, cho nên nói "tâm bình đẳng".
Cũng nên lại nói "Sở dĩ tâm bình đẳng" là do đều là con. Tài phú vô lượng là tự hạnh mãn. Đều là các con. Không thiên vị tức hóa duyên thuần thục. "Nếu giàu (phú)...": ngược lại dùng nghĩa không bình đẳng để giải thích bình đẳng. Do của cải và con thiếu lẫn nhau, khiến tâm không bình đẳng. Nên biết chẳng phải con sánh kịp tài thì không bình đẳng. Vì dựa vào giáo xưa cho nên xưa Thiên giáo, thì giáo chủ và hóa cơ hai nghĩa đều thiếu. Như hai giáo, vì giáo chủ nghèo pháp tài cho nên không được gọi là "phú". Không biết thường trụ nên không được nói "đều là con". Dù đương giáo gọi là "con" mà thâu nhiếp căn cơ không cùng khắp, cho nên cũng chẳng phải con, tức là thành có thiên vị. Lẫn xen thiếu chẳng bình đẳng, đều thiếu, có thể biết. Biệt giáo giáo đạo tuy nói đều là con mà hai nghĩa còn không có, chứng đạo tự đồng, phần bình đẳng không thiếu. Dưới giải thích con..., theo lệ có thể biết. Cho nên kinh này ngoài nhất Thật thì hoàn toàn không có pháp nào khác, tất cả chúng sinh đều là con ta. Duyên nhân còn thâu nơi tán thiện. Liễu chủng thông nhiếp một câu, chính là không bỏ vô gián mới xưng gọi "nhất thiết". Cho nên Huyền Văn nêu rõ trong lợi ích thì Tựa, Chánh, Lưu thông vị lai vĩnh vĩnh (lâu dài). Trang Nghiêm Vương, Điều-đạt, Bất Khinh, Long nữ, căn cứ nghĩa thì có thể biết, huống chi ưng nói làm sao giản biệt nơi bốn thú? Giáo tùy nghi không chọn nơi thuận nghịch, đây là Đại thể đồng ban cho. Cho nên, biết rằng nói "con bình đẳng, tâm bình đẳng", lẽ nào riêng bốn đại Thanh văn mà thôi? Vì thế, các pháp đều hàm chứa con không thiên vị.
"Nay bảy báu...": giải thích ba nghĩa: Trước nêu "của cải nhiều". Nói "giáo, hạnh": Cơ ứng tương đối, lại theo văn hiện tại thì lợi ích là thuyết. Tiếp, "Mỗi mỗi...": nêu "Chính là con" không thiên vị. Nói "mỗi mỗi": Do đều là con. "Không sai biệt": là do không thiên vị. "Đều ban cho bình đẳng một" chỉ là khai quyền. Tiếp giải thích nghĩa "các (đều)", cho nên dẫn Thân-tử... Xưa huân tập không đồng cho nên mỗi đều đồng nhập thật nên bình đẳng. Lại Phương-đẳng Bát-nhã: Căn cứ pháp đã khai căn lực tự tại. Người độn căn kia đối hai vị đầu được lợi ích trong phương tiện giáo, đối kia được lợi ích các vị các pháp không đồng, cho nên đều dùng thật đương vị khai. "Sở dĩ...": là giải thích trong nghĩa "các con". Nói "Hai bình đẳng": Lẽ ra chỉ nói đều là con, nói "Hai": e rằng. Văn nêu "của cải bình đẳng" so sánh ở con đồng. Lại dùng xứ bình đẳng mà so sánh con bình đẳng. Con vốn ở một nhà, nay khắp một nước huống gì con ư! Nói "Một nước": là cõi Tịch Quang, khắp lợi ích pháp giới lý cũng không cùng, huống chi cõi Đồng cư kết duyên người ư! Đây nêu xứ rộng, dùng so sánh người lược.
"Tiếp, giải thích...": là chánh nêu rõ "con bình đẳng" lại dùng thí dụ "không phải con" để so sánh. Nói "không phải con" thì chê (biếm) Chánh nhân không đồng Duyên, Liễu, nên gượng nói "không phải con". Các ấm bình đẳng không thiên vị, ví với con kết duyên. Cho nên, căn cứ "Vô duyên từ" đối bản có lý. "Đều là con ta", là nương nghi thức giáo hóa mà nói. Lại, do đời xưa chưa kết duyên, mà làm "không phải con". Như Lai thường hộ giúp (cấp), mà con tự không trở về. Vô duyên che phủ chung cho nên nói "chu cấp (hộ khắp)". Nhân thiên thiện ác cùng pháp giới đồng, cho nên "xe cha coi là quả", thì "xe con coi là lý". Chỉ khai tình kia thì giả gọi "ban cho bình đẳng". Chúng sinh vô tận xe cũng vô cùng, không cùng cho nên không thiếu thốn, không thiếu nên không thiên vị. Vọng mê mà nói là khai ngộ, Bản thì chẳng đóng. "Vô duyên mà còn độ": Con Duyên nhân Liễu nhân, là trước kết duyên mà thục thoát. Con Chánh nhân chưa kết duyên, vì là hạ chủng kia, nên nói "mà còn độ". Cho nên dùng "chủng" là để ví với trước kết duyên. Trong phần giải thích "Bất hư", thì phần đầu là Phật hỏi: "Trưởng giả hứa ba mà nay cho một, thì có hư vọng hay không?". Vì muốn khiến Thân-tử lãnh giải Thật, cho nên dùng hư vọng để hỏi! Đáp: Đầu tiên là thoát nạn, trong giải thích bất hư. Kinh nói: "Nếu toàn thân mạng": nêu đủ thân mạng để ví với bạt tế. Ý nói: Toàn nơi Tiểu thừa ngũ phần pháp thân nhập Không tuệ mạng thì "đã đắc các đồ chơi (sở ngoạn)" xưa nay; huống chi nơi nhà lửa thì phương tiện cứu khổ vốn tại Đại!
Hỏi: Kinh văn tức dùng bạt tế, để ví với thân mạng. "Bạt tế" chánh nên dùng Đại để sánh với thân mạng Tiểu thừa. Vì sao Sớ văn không dùng "bạt tế" mà nói "mạng trọng thân khinh"? Bèn dùng Tiểu thừa ngũ phần làm thân, dùng để so sánh với Đại thừa thật tuệ làm mạng. Tại sao dùng Tiểu thân đối Đại mạng ư?
Đáp: Đây chính là mượn nghĩa xen nhau nói. Trong Tiểu Thừa thì tự lấy Vô lậu tuệ làm mạng, Đại thừa thì tự có bình đẳng pháp thân, đầy đủ nên dùng Đại tiểu thân mạng lấy làm đối so sánh.
"Tránh khỏi tám khổ...": là kết ý trước nói "mạng trọng thân khinh". Nên biết: nương nơi Tiểu mạng làm Đại mạng, ban đầu dùng Tiểu để tế tồn ngũ phần thân. Đã được đồ chơi quý giá huống chi thường ở nơi nhà lửa phương tiện dạy Tiểu thừa vốn tại nơi Đại, mà nay thâu hoạch Đại, thì lẽ nào hư vọng? Tiểu thừa ngũ phần pháp thân đầy đủ như luận trong Câu-xá vân vân. "Huống chi hai vạn ức Phật..." là chỉ nhân xưa, trong Kinh chỉ dùng nhà lửa đời nay mà so sánh. Trong Sớ nói thêm nơi xưa Đại thừa để giải thích. Từ "Viên nhân thành...": chỉ quả nay. "Không trái bản ý": đây thuật bản ý của trưởng giả hoặc Tiểu hoặc Đại đều có bản tâm. Đại vốn là bản ý tiểu vốn chẳng phải bản ý. Hứa Tiểu mà không cho, vẫn không trái, huống chi lại cho Đại lẽ nào trái bản ý? Như hứa cho ít của cho ít thì chẳng hư vọng, huống chi cho Đại được hơn đối với xưa, lẽ nào chẳng phải bản tâm? Tin biết Như Lai vốn chẳng phải giáo hóa Tiểu thừa, do đó của cải chỉ thoát khởi nơi nghèo phân đoạn, địa vị thì siêu việt sự hèn kém của hai sinh tử, một nghĩa kiêm đủ tại sao có trái nghịch? Nhưng Tiểu thừa chẳng cứu cánh không cần lại cho nên nói "không cho". "Vốn biết không ba" đến "bản tâm": là ý nêu rõ không cho, xưa chẳng phải bản ý cho nên nay không cho.
Kinh nói: "Phương tiện khiến ra (xuất)". Sớ nói: "Khiến không rơi vào đường ác". Khiến không đọa lạc nên Phương tiện khiến ra. Phương tiện khiến ra nên khiến không đọa ác tức là một ý. "Kết chương trước...": là song giải thích hai kết đều an tợ. Văn tợ thiên kết, lý ắt kiêm đủ. Hai luân biệt cho nên sở đối không đồng, cho nên mượn hai luân để hiểu rõ hai kết.
Tự thể: Là cõi Thật báo. Đây là Nhiếp Đại Thừa sư theo nhân lập danh, gọi là: Hữu vi duyên tập tức nhân cõi Đồng cư; Vô vi duyên tập tức nhân cõi Phương tiện;
Tự thể duyên tập tức nhân cõi Thật báo. Cũng nói pháp giới duyên tập. Nay sớ thì hai thứ trước vẫn theo xưa từ quả lập danh, một nhân sau y kia từ nhân lập xưng. Đều là diệu sắc diệu tâm báo xứ, tức đã nói là cha của tất cả thế gian cho nên biết ba cõi đều là chứng đạo sắc tâm báo xứ. Cõi Tịch Quang đã biến khắp Giá-na cũng đồng đẳng. Các thân đã cùng pháp thân lượng đồng, thì các cõi cùng cùng Tịch Quang không khác. Như bóng, như ăn, như gương soi, như bát đựng, có thể biết, tất cả chúng sinh đều có đủ các thứ đây. Quả báo chưa mãn hoàn toàn hạn cuộc nơi mê. Mê nên ấm chất hạn cuộc nơi thái hư kia, mãn nên cùng khắp pháp giới đồng lượng. Ứng ba cõi, từ hóa sự mà nói cho nên gọi là "xứ đẳng". Đối với các sự sợ hãi bình đẳng: Lại căn cứ giới nội nhân quả mà nói, do đối với các con là sở úy cho nên nói "vĩnh tận". Sở ly đồng thô năng ly lý cực cho nên nói vô lượng tri kiến đẳng. Có người dùng Sơ địa lìa năm sự sợ hãi, dùng để giải thích trong đây đều không liên quan nhau. Trên không bằng chư Phật, dưới vượt qua cõi lìa, vọng các giải thích nghĩa theo lệ như đây. Chỉ là trong Thí dụ nói "kinh sợ" ở trước thì: Trước, nói "tức rất kinh sợ mà suy nghĩ rằng...". Tiếp, nói "luyến trước (chấp đắm)", tức là lập lại giải thích sở kiến. Nay Hợp "bất giác" ở trước: Trước, nói "Chúng sinh đắm chìm ở trong đó" tức là lược, sau lại nêu rộng. Bạt khổ... ở sau: Tiếp văn này, sau mới nói "Ta là cha của chúng sinh nên cứu khổ nạn v.v...". Từ "nên cứu khổ chúng", đến "sức Từ": là Đại bi, vả lại theo bạt (trừ) trược, Đại từ cho chúng đại lạc (vui lớn). Cho nên Từ là theo ý hóa, Bi là theo dụng tiểu.
Trên Thí dụ có Khuyến và Giới (khuyên răn)...: Giải thích Thí và Pháp ý có không, tức là phụ và chánh tương tức, tức là thể kia vốn đồng, huống chi hai văn đây đã là hai Tất-đàn. Nên biết khuyên thiện vốn khiến đoạn ác, đoạn ác vốn khiến khuyên thiện.
Hỏi: Hai thể đã đồng, tại sao cần lập hai Trước biện hỗ vô (xen nhau không), lẽ nào còn tương tức nữa?
Đáp: Vì môn thì biệt, hai thể thì đồng, tức tuy lại "khuyên" tức là "răn". Chỉ là răn của khuyên; răn tức là khuyên. Chỉ là khuyên của răn, cho nên hai môn đều tồn tại không ngăn ngại thể một.
Hỏi: Nếu vậy một môn lý phế bỏ, thì tại sao sai?
Đáp: Nếu khéo thông đạt hai môn, thì một môn cũng đủ. Chỉ vì một môn nếu phế bỏ thì hai nghĩa đều thiếu, huống chi biểu hiện cha ân cần, trước khuyên lại còn răn. Hoặc thời đều hợp với cơ nghi không đồng. Hóa thời không riêng, thì chung thành một sự.
"Ta sinh đã tận...": tức là vô học tứ trí La-hán đều đủ, hoặc tuệ giải thoát chưa đắc Vô sinh. Nay lấy "Vô y" (không nương) là hai trí đầu cuối. "không cầu" là hai trí trung gian. Hậu hữu tức là sở y xứ. Nếu sinh đã tận thì vị lai vô y, hai trí trung gian hết nhân ba cõi gọi là "đã làm xong..." cho nên "không cầu". "Trên có bốn vị: Chân, Tương tự v.v...", Hiền hợp làm hai, và Thánh vị hai. Nay y ngoại phàm ở trước cũng chỉ Văn tuệ làm một, Tư Tu làm một. Bích chi là pháp hành nhân: Nhất vãng lại đối Thanh-văn nhờ giáo, do đó Bích-chi-phật tự tư duy làm pháp. Nhưng Bích-chi-phật ắt tự chứng, Thanh-văn đầy đủ Tín, Pháp. Tín, Pháp đủ như Chỉ Quán quyển năm viết dẫn văn Bà-sa luận..: Nghe pháp ít là Bích-chi-phật; hoặc nghe giáo đọa ở Thanh-văn cũng là do tin, chỉ nói "nghe ít". Từ "Môn đây" đến "chẳng phải Phật...": Đại luận nói: Có một đạo nhân hỏi Phật: "Đại đức, mười hai nhân duyên là do Phật sáng tác ư?". Phật đáp: "Ta bất tác". Lại hỏi: "Người khác sáng tác ư?" Phật đáp: "Cũng chẳng phải người khác sáng tác. Có Phật hay không Phật thì bản tánh vẫn có". Có bốn cách trả lời câu hỏi. Đây tức trả lời theo cách quyết định. Hoặc kia rộng nêu tam tạng đế duyên, đầy đủ như trong luận Câu-xá, Bà-sa. Huyền Văn lược nêu. "Chỉ hợp...": Do trong bốn thứ đây thì hai chánh hai phụ. Nên biết do thoát nạn nên đòi xe, do đồng ban cho xe nên hoan hỷ.
"Môn có ba nghĩa": Trong ba đó thì "xuất biệt" là môn, "nhập" là nghĩa lập. Từ một sắc tâm nhập một sắc tâm. Môn lấy việc đi qua làm nghĩa. Chỉ vì chưa xuất thì gọi là nhập. Từ một nhập một nghĩa ngôn làm nhập, thật chẳng phải ngoài đến. Nếu tác xuất thì phải kiêm Tam tạng giáo, nay lập Thông giáo sở thuyên, vì hai giáo này sở thuyên đồng. Nói "Nếu biệt nghĩa": là y người biệt lý. Nói "sở thuyên" là ý hiển riêng giáo môn nghĩa không thành. Kinh tuy nói giáo ắt phải đối lý, cho nên biết biệt giáo, tuy thuyên biệt lý cũng chẳng phải xa môn, chỉ đối Thông Tạng mà lập biệt danh, do duyên biệt lý cho nên gọi là Biệt. Thứ lớp đầu tiên cùng người Tạng Thông đều ra khỏi nhà lửa, căn cứ ra khỏi nhà lửa đồng, vẫn có thể danh thông. Đầu (sơ) chứng lại đồng Niết-bàn của hai giáo cho nên cũng có thể nói đắc Niết-bàn lạc. Ba đức, đầy đủ như Huyền Văn nói ba pháp và Chỉ Quán quyển ba trong phần hiển thể nói. Đây giải thích có chút khác với trước: Trước nói ý không tại ba, nay nói vốn muốn ban cho Đại, tuy lại có chút sai khác mà danh khác nghĩa đồng.
"Có một nhà rất lớn": Có người nói: Lại chỉ một phương ba cõi cho nên nói "một". Người khác thì rộng liệt kê lợi độn chương môn. Tam giới vô thủy làm nghĩa "lâu".
Hỏi: Nếu theo nhân mà nói thì hoặc đương vô thủy, nếu từ y báo sơ thiền trở xuống thì hiền kiếp cận (gần) thành, vì sao gọi là vô thủy ư?
Đáp: Chúng sinh vô thủy đủ nhân tam giới; chủng Hoặc không mất nên gọi là vô thủy. Cho nên y báo xứ hoại mà lại thành.
Đệ tứ thiền trở đi đến Vô sắc giới, tuy không có tai hoại mà nhân quả tương thành đều là vô thủy vô thường. Nhưng rốt cuộc cũng không bằng căn cứ Chánh báo mà giải thích lý kia rất tiện. Niệm niệm nối tiếp: Nối tiếp nên "cao", vô thường nên "nguy". Ý thức ràng buộc thống ngự một thân kia cũng như cột kèo chống đỡ một nhà. "Bỉ sách: (sụp đổ)": Trên dưới rạn nứt. Lõa là dáng mạo.
Hai cách giải thích theo Nhân duyên và Quán tâm: như nói đầu là "điện", bụng là "đường"(nhà) tức Quán tâm. Như nói sắc "đường", dục "xá" tức Nhân duyên. "Mạng căn" trở xuống, văn đều nói Quán tâm. Tám loài chim dụ cho tám loại kiêu (mạn): Chỉ vì "mạn" và "kiêu", năng sở sai biệt. Các giáo cũng dùng bảy mạn giải thích mạn, trong đây giải thích phần lớn đồng luận
Câu-xá, ý kia có chút sai biệt nay lược so sánh. Nhiều tráng kiện, kiêu căng như ngã mạn cùng Câu-xá danh nghĩa đều đồng. Tráng khỏe nên ngã mạnh, tánh kiêu như đại mạn. Câu-xá nói: Đối với người khác hơn mình mà cho là mình hơn, như họ tộc thấp ít còn chưa từ chối ở nhà cao như chim Kiêu còn ăn thịt mẹ huống chi họ tánh cao quý ư! Giàu sang kiêu như "quá mạn". Câu-xá nói: Đối người hơn mà cho là mình hơn... Như người đời nghèo khổ, còn không hạ thấp với Thạch sùng huống thật giàu ư! Tự tại kiêu như "tà mạn". Câu-xá nói: Bên trong có đức cho là mình có đức. Như bạt hựu (đức mỏng) còn không chịu khuất phục người có đức huống người có tự tại. Thọ mạng kiêu như "tăng thượng mạn". Câu-xá nói: Chưa đắc cho là đắc, thọ mạng cao chấp thường như trẻ tuổi còn chưa chịu tôn kính bậc lớn tuổi, huống chi thọ mạng cao. Thông minh kiêu như "kiêu mạn". Câu-xá nói: Đối người khác bằng cho là mình bằng, đối với bằng mà khinh, như sức yếu còn muốn khinh chê người huống chi thật ngang sức ư! Hành thiện kiêu như bất như mạn. Câu-xá nói: Đối người hơn nhiều phần cho là mình thua chút ít, đức nghiệp cách trời vực cho là hơi thấp đối với người cao huống chi thua chút ít ư! Sắc kiêu như "kiêu mạn". Câu-xá nói: Sắc không bằng người mà cho là mình bằng, lậu mà tự đắc chưa chịu kém hơn huống chi dáng mạo đẹp, lược đối lại như vậy như danh không đồng. Trong đây thẳng vậy có tám việc đây, cho nên kiêu mạn chưa hẳn hoàn toàn có. Tự ái vì tham... lại dùng ba độc theo lệ giải thích đồng khác, cho nên bốn tư duy đều có hai tên đã từ đó được danh bất định. Trùng tướng trạng thú, thể quỷ, hình dáng thần, tuy tức chẳng thiết yếu mà cho khiến làm thí dụ cũng có thể lược biết. "Ngoan" tức loài rắn đen. Cho nên Hán Thư nói: Huyền ngoan phúc. Nhĩ Nhã nói: "Hủy" (rắn) dài ba tấc lớn bằng ngón tay. Ở Giang Nam gọi "Hủy" là "phúc" có răng độc trên mũi có kim châm. "Ngô công": Là con rết, có người nói loại này năng chế ngự rắn hoặc hàng phục rắn, phần nhiều chân màu đỏ, đây nói có tổn hại không suy nghĩ đến báo. "Thủ cung" là thằn lằn, có người nói tại nhà là "thủ cung", tại ao đầm là "yển đình". "Dứu" tợ chuột, hoặc thứu gọi dứu, tợ như "viên" (vượn). Nếu nói Dứu, thì Ngọc Thiên nói giống như Ly cũng ăn. Trời nếu mưa thì trèo lộn ngược đuôi lên cây, có hai cánh tẻ ra dùng che hai lỗ mũi. Chữ "ly", Thuyết Văn nói "trĩ". "Hề", Thuyết Văn nói là chuột nhỏ. Ngọc Thiên nói có nọc độc người và thú không thể chịu được (rất đau đớn) tức từ miệng chuột. "Chớ" (nhấm) chỉ là Tước (nuốt). Đánh tát cũng là tát, cũng là vỗ.
"Ái tâm tham...": là dựa vào đây cùng độn sử đối biện minh, các kiến ở sau trong thần quỷ nêu rõ cũng có thể là lợi trong độn. Nếu từ độn nói đạo lý cũng là đạo lý trong độn. "Suy cầu..." là giải thích. Như tông chỉ Nho học Trung Hoa cũng chấp thiên mạng khí... đều thuộc độn sử, muốn so sánh với đại lý Tây phương thì cách nhau như trời với vực. "Nói...": lập lại hoàn toàn giải thích độn sử. Tra: Giải thích gọi là xoa nghĩa là năm ngón tay đều nắm lại xông lên lôi kéo cũng như hướng trước là tra (cấu xé), hướng sau là kích (đấm đá). "Nhai sài (gầm gừ)": Chữ "sài" cũng là cắn, hở môi lộ răng. "Hào phệ (gào sủa)": Là phát ra lớn tiếng. "Ly, mị": Là vật tinh. Thông văn thế tục nói: Quái ở núi đầm gọi là "Ly". Tây Kinh Vũ nói: Thần núi hình như hổ gọi là Ly. Trạch thần đầu như heo hình như người gọi là "mị". "Võng lượng": Gỗ đá biến quái. Ngọc Thiên nói là thần nước. "Phu Nhũ (ấp trứng)": Ngọc Thiên nói Phục noãn gọi là "phu". Thông Tục Văn gọi noãn hóa gọi là phu. Quảng Nhã nói: Phu thì sinh, Nhũ thì dưỡng. Nên loài chim sinh là Phu, Thú sinh là Nhũ. Nói "tự loại...": Tức đồng loại nhân thì đắc quả đẳng lưu. Do con tợ cha cho nên dùng dụ. Câu-xá nói: Đồng loại nhân tương tợ, tự bộ địa đời trước, tức năm bộ chín địa, chỉ ước quá khứ lấy hiện tại làm nhân, rộng như văn kia.
"Cưu-bàn-trà": Là loài quỷ đáng sợ, ngồi chồm hổm. Tiếp, "Nắm hai chân của chó...": Đây có một giải thích cho nên nói một, chân chó như nhân, nắm như hủy báng, nắm chân đánh như muốn cho dứt tiếng cho nên nói: "khiến chúng thất thanh". Nhân quả pháp nhĩ không thể do chấp không; trước lấy do bắt đánh do đó có tiếng. Như do chấp nên sở dĩ có sinh. "Dùng chân đạp trên cổ": Tiếng kêu không tuyệt dứt nên lại dùng chân chó chặn lên cổ chó; hủy báng trên không nhân thổ lại bác bỏ không quả khổ, ví như "dùng chân đạp lên cổ chó", mong ắt được tuyệt dứt tiếng, tiếng kêu lẽ nào không thể; bác nhân còn sinh, bác quả càng quá. "Tập bản đắc quả...": là giải thích câu trên. Nắm hai chân chó thì lẽ nào có thể tuyệt dứt tiếng? Dua theo hủy báng không nhân quả thì làm sao có thể tránh khỏi quả. "Tập vô đắc khổ...": giải thích câu dưới. Như đạp cổ chó muốn cho tuyệt dứt tiếng kêu, do thêm tiếng kêu lớn. Lại, hủy không có nhân khổ, chỉ chẳng phải nhân chấp nhân, tức là báng. Xưa là nhân thế gian, nay là xuất thế gian, tức đương hủy báng không có hai nhân.
"Quán giải": Trước căn cứ sự mà giải thích, phần nhiều tại đoạn kiến cho nên nói "bác không...". Nay căn cứ Quán giải thì nghĩa thông thường kiến cho đến tà chánh. Do đệ tử Phật cũng có tu hành lục hạnh quán, cho nên nay dụng. Nếu ngoại nhân tu thì phần nhiều chấp thường, hoặc là chấp tứ thiền cho đến Phi tưởng, là thường. Phàm nói Quán giải phải thuận bên trong. "Lại nói Quán bất tịnh...": ý đây cũng là dùng "xuất" thanh làm "thất"; do quán cho nên sinh, ví như do đánh cho nên kêu. "Khiến không được khởi": lại dùng tuyệt thanh để giải thích "thất", cho nên nói "bất khởi". "Thụ (dọc) nhập...": Như sáu mươi hai kiến tuy có nhiều giải thích, mà phần nhiều căn cứ ba đời: Quá khứ vị lai hiện tại, từ hiện tại nhập vị lai cho nên gọi là "thụ" (dọc). "Hoành (ngang) khắp...": Như hai mươi thân kiến một ấm bốn câu. Bốn câu hướng vào nhau không còn hơn thua tốt xấu, cho nên gọi là "hoành". "Không tu thiện pháp" là đây buông lung, cho nên không tu không phải bác bỏ không. Tuy không bác bỏ không cũng gọi là "vô tàm". Nói kiến thủ "là chẳng phải quả mà chấp là quả, Phi tưởng không phải quả Niết-bàn, mà chấp đó là thường. Chấp không có sắc mà chỉ có tâm, gọi là "cổ nhỏ". Thọ tối đa trong tam giới gọi là "mạng nguy", chấp cho là thường gọi là "giữ gìn thọ mạng", chỉ là nghĩa chấp quả. "Phi tưởng...": là lại giải thích lỗi lầm chấp.
"Đầu như...": Ngã căn bản như trâu. Thế gian cho rằng sức trâu là đại tự tại, chấp ngã cũng vậy. Trong đó lại chấp ngã có không, như sinh hai sừng. "Vì thân là ngã...": Do ngã cùng thân lại xen lẫn không và có. "Vì thân là ngã", tức chấp ngã sở vi. "Vì ngã là thân", tức dùng năng làm sở, thân tức là sở, ngã tức là năng; như dùng năm ấm chấp một ấm làm ngã, còn lại đều là ngã sở. Nghĩa là tôi tớ, anh lạc, hang nhà. Nếu chấp thường thì thân chẳng phải là ngã, thân đoạn ngã thường. Nếu chấp đoạn thì thân đoạn ngã đoạn, hoặc là đều thường đoạn, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm, dẫn Ahàm bản kiếp bản kiến mạt kiếp mạt kiến, nhưng kia sở chấp năng sở tuy sai khác chấp có nghĩa... "Hoặc khi...": Là các ngoại đạo trong một thân trước sau chấp chuyển, cùng cực của sở chấp là tột cùng đến Phi tưởng, lấy sở chấp làm "đầu". Địa kia đoạn thường lại xen nhau khởi chấp, như "đầu tóc rối tung lên". "Chấp thường...": Xen nhau phải trái (thị phi). Mạnh hàng phục yếu, yếu thì theo mạnh, đều phá người khác từ bản thân "như tàn hại lẫn nhau". Chấp ngã đây, có đoạn có thường, tức biên kiến.
"Dạ xoa...": hai câu đầu tổng kết dục, chưa phân lợi độn. "Cũng là...": lại biệt nói ý lợi độn, cũng chỉ hai câu đầu tức câu trên lợi câu dưới độn. "Đều là hữu lậu...": là giải thích câu thứ ba, tâm hữu lậu đều không có thức ăn đạo vị. "Cơ" là đói, vì đói cho nên sinh tử, nhanh chóng cho nên gọi là "cấp". Kinh văn nói "Tứ hướng (bốn bề)": Kiến hoặc tuy nhiều không ngoài bốn câu, lợi độn đều có nghĩa "đói gấp (cơ cấp)". Kinh văn lại dùng lợi sử để giải thích. "Khuy khán": là rình xem. Xem bất chánh do ngăn cách cửa sổ, cho nên kiến Không mà thiên lệch. Không thì chẳng có thiên hay chánh. Về lý thì chẳng thị phi, người chấp thành lỗi, nên nói tâm chấp đắm phần nhiều không hợp chánh lý. Cho nên, biết tà chánh ai không đều gọi là ngưỡng mộ đến đạo ư! Hai câu đây thông kết hai sử. Tiếp dưới hai câu thâu rộng kết phi.
"Nhà cũ mục nát ấy...": Văn trên nói: "Nay đây ba cõi này đều là của ta cả", đây theo Hóa chủ tóm lại mà nói, vì sinh chấp cõi. Nói "cũ mục nát" (hủ cố): là tùy thuận chúng sinh mà nói, cho nên văn trước sau nói "nước, thành, nhà..." là tùy xu thế của nghĩa, hoặc hơn hoặc kém đều thuộc chúng sinh, đều quy Trưởng giả, nhất sắc nhất hương tất cả đều như vậy. "Trưởng giả...": là giải thích hai câu dưới. "Nội hợp" đến "xả ứng": hợp hai câu này. Nếu dùng mười sáu vương tử làm thường giáo, thì nên nói "vương tử xả ứng". Nay theo quả mà nói, cho nên gọi là "Như Lai". Lại, xả ứng không cô độc do vì đại tương, cho nên biết rằng: "Chẳng những sau xả ứng thì khởi trược, mà còn chính do trược khởi cho nên xả ứng". Cho nên biết các văn Khởi các trược, Cứu lửa, Đại hóa dự định thích nghi....ở trước, thì ý đều dò xét dùng văn Đại Thông ở sau. Căn cứ trong đây ý tùy căn thượng hạ tam chu không đồng, xét kỹ nguồn gốc kia thảy đều như thế, cho nên được thông dụng. "Thọ lượng": Trợ giúp thành nghĩa cận (gần) thật thành đã xa trung gian thường thành. Thành tức là "xuất". Lại căn cứ một kỳ, cho nên không gọi là nhiều. Lại che lấp bản cho nên không thể nói nhiều. "Uy thế lửa bốc cháy": Trong đây tướng uy thế đều phải làm hai giải thích Kiến, Tu.
Nên biết thông luận uy thế có hai thứ: 1) Thế phần. 2) Uy thế. Thế phần thì thông đến Phi tưởng, Uy thế thì thiêu hoại tất cả. Nay đương giới (cõi) hai thứ thế cũng lại như vậy. Trạch (Nhà) rộng, Xá (nhà) hẹp. Ba cõi là trạch (nhà rộng). Năm ấm là xá (nhà hẹp). Nếu lại chỉ Dục giới, thì chuẩn theo lệ có biết. Do trược điên đảo cho nên thân mạng vô thường. Thế nên dùng Vô thường để hiểu rõ văn đây.
Trong "tướng bị thiêu" chia làm ba nghĩa: Hai câu đầu thuộc Kiến, tiếp một câu thuộc Tu, tiếp ba câu không ngoài nguyên do. Chuyên do nơi Kiến, cho nên lập lại nói "bàn-trà". Lại hai câu đầu thông liệt kê cho nên nói "quỷ thần..." đồng dùng "trùng thú". Tiếp một hàng biệt liệt kê cho nên lại nói "Cưu-bàn-trà...": Trong hai câu đầu, câu dưới chính nêu rõ tướng thiêu đốt cho nên nói "kêu to". Hai câu dưới trong một hàng tiếp nêu "ngu không biết đường ra", chính do không ra nên bị thiêu cháy, cháy thiêu nên không ra được, cho nên tổng kết thuộc tướng thiêu. "Khóc lóc đồng cất tiếng": Đây dùng "sầu, than, ưu, não" sau Mười hai chi nhân duyên giải thích văn này. Đây là người xưa giải thích khóc lóc... thông khắp ba cõi. Nay không dùng giải thích của người xưa. Chỉ tại Dục giới trong cõi Nam châu có xứ Lễ-độ, không thuộc về xứ khác. Giới thủ vốn không chấp đoạn như thế, vì nhân dự tính quả. Sắc giới lửa bốc cháy thiêu cháy chúng sinh trong đó, cũng hai câu đầu là độn sử, tiếp hai câu lợi sử. Nhưng văn nói uy thế lửa thì lược, không phân lợi độn, lẽ ra cần nói nghĩa. Cho nên, trong Dục giới cũng không phân lợi độn, nay Sắc giới cũng vậy. Tiếp, nêu rõ trong tướng mới đủ lợi độn, tức tương đoạt... Đã ở trong thiền khởi các Kiến-hoặc, đới kiến tu thiền, hoặc thiền. Đã kiến khởi hoặc thiền kiến đều phát; hoặc thiền rồi kiến, hoặc có thể kiến còn, hoặc lại đều mất. Sở chấp sai khác, đầy đủ như bản kiếp bản kiến... Nói "mặc nhiên": Đây căn cứ Đại thừa, trong mỗi một thiền đều lập mặc nhiên. Như trong Sơ thiền thì mặc nhiên thứ sáu, cho đến Tứ thiền thì mặc nhiên thứ năm. Do chấp "mặc nhiên" nên mất Vô lậu. Y các kinh luận khác, thì đạo do chấp thiền mà làm mặc nhiên, hoặc dùng chi "Nhất tâm" mà làm "mặc nhiên". Dục giới tham, vị lai định đã đoạn, tức là chướng tánh chưa trừ gọi "phục" là đoạn. Cho nên khi ác thú ăn, thì mới gọi là "tận". "Dục giới" đến "như lửa mạnh...": khói lửa bay lên do khói quá hơn lửa cho nên dùng dụ cho "Sắc". Lại lửa mạnh khói nhẹ như Sắc khinh Dục trọng. "Thân..." là "Tứ đảo" khắp hai cõi, cho nên gọi là "bốn phía..." cũng thông dưới cũng có thể song thí hai loại Bốn phía cho nên da thịt Tứ đại ở bốn bên của thân; như bốn phía đều khổ cho nên nói "Phủ khắp bốn bề".
"Ngô công...": nêu việc ở không trung. Trước nói "núp trong hang" để dụ Sắc giới, nay mới "ra khỏi hang" cho nên dụ Vô sắc. Nói "không trung", chẳng phải là hư không, vì đã dùng "trong nhà" để dụ cho Dục, "vào hang" dụ cho Sắc. Nay dùng "đất trống ngoài hang" làm Không, để dụ cho Vô sắc. Sắc giới như hang, nhàm chán xuống như bị thiêu đốt, vui thích lên như ra khỏi hang. Nếu vậy thì sân thông tam giới: Trước, trong Dục giới thì dùng "ngô công" dụ cho sân, trong đây theo lệ không riêng phân ra. Đã nói "ngô công" lại là Vô sắc, cho nên dụ cho sân của Vô sắc. Trong Sắc giới tuy không có "ngô công" mà nói "độc trùng", tức bao gồm ngô công. Như Sắc giới, lợi gọi Tỳ-xá-xà tức gồm các loài quỷ, cho nên biết "Sân thông tam giới". Trong Tiểu thừa nói thượng giới không có nhuế, thì chẳng tận lý. Song các phiền não khinh trọng tuy sai khác mà còn đến Đẳng giác, lẽ nào bỏ qua Vô sắc? Chỉ vì danh đồng mà thể khác, lý cần phân biệt. Nay loài bị cháy lược không có quỷ thần. "Nếu đắc..." như Vô sắc định khởi tầm tức sinh chấp cho nên gọi là "tùy". Đã lìa duyên dưới nhất định chấp Phi tưởng, cho nên nói "Lại có các ngạ quỷ trên đầu lửa bực cháy". Phi tưởng cũng có tám khổ: Văn đã liệt kê bảy, còn thiếu Ái biệt ly lẽ ra nói "Thất định thời khổ". Gọi là Ái biệt ly, chỉ vì bốn khổ đầu của bảy khổ trong văn. Căn cứ thể của định kia sinh tưởng vi tế; sát-na không trụ gọi là "niệm niệm", bệnh tử có thể biết. Tiếp, có hai khổ dùng đối tu nói tu, trên thất dưới thông được gọi là ly. Tiếp "ngũ thạnh ấm" lại căn cứ quả định. Bốn khổ trước và khổ thứ tám tại quả; Hoặc nhân hoặc quả đều căn cứ định kia, cho nên được nói như thế. "Không ở tòa Đệ nhất nghĩa Không: Là Đệ nhất nghĩa không làm trí, lý hợp cùng bi đồng thể. Nay nói không trụ trí không có bi, thường ở bi có trí, cho nên nói "bất xử". Cho nên biết vô duyên từ bi mới có thể cùng trí đồng thể. "Xưa nói...": Đức Phật lẽ nào không biết mà đợi người khác bảo? "Lại nói...": Lẽ nào có vật cơ trở lại từ chối nói Phật rằng con ông? Vì dù cảm ứng tương quan để sinh, trông mong
Phật vì mọi người thì có gì mà không thể được? Nhưng hiểu kinh văn nói nghe có..., từ chối như lấy dưới nói trên, cho nên không dụng. "Nay nói...": là chánh giải thích. Phàm nói "ông": Có thể thiết lập ở Sư, Sư tức pháp, các nghĩa khác và hai lý trên đều thành.
Hỏi: Chân như pháp giới có thể là Phật Sư (thầy Phật), quán cơ Tam-muội ví dù gọi là pháp, chỉ là chiếu Tục, vì sao gọi là Sư?
Đáp: Quán thuộc trí, trí tức là Phật. Y Tam-muội khởi chiếu, cho nên được gọi là Sư. Tuy nói quán cơ mà chiếu thể là pháp, như Phật nhãn quán... Cho nên có nhãn này, mới có thể quán cơ nghĩa như thiếu sót.
"Lại nói...": căn cứ Đại bi: Các nghĩa " người khác" lại thân cận, nghĩa "ông" ít cần, vì Vô-duyên-từ hướng về Ứng thân, cho nên Vô-duyên-từ bảo với Ứng thân khiến khởi hóa vật. "Vân vân": Đối trên biện rõ sai khác, nêu ý quán sơ sài, chỉ khiến thí dụ pháp là chánh, vả lại phân biệt thành.
Hỏi: Con vốn bình đẳng ư? Trong đáp hai giải thích diệu đắc sự lý. Việc đầu đáp: Tuy chưa từng xuất nghĩa tợ như trước xuất, tuy tức chẳng phải nhập nghĩa tợ sau nhập, do xuất chưa xuất cho nên nhập tợ nhập. Lại dưới căn cứ lý giải thích: Bản tịnh cho nên xuất, vô minh cho nên nhập, cũng từ nghĩa lập, chẳng xuất chẳng nhập mà nói xuất nhập. Trong căn cứ sự giải thích, tức sau thoái đại. Do chấp ngũ dục mà làm du hý, căn cứ trong lý giải thích tức dùng hý luận mà làm "du hý". Nói "hý luận" tức tam giới Kiến Tư. Kiến Tư tức lý cho nên xuất, lý tức Kiến Tư cho nên nhập. Như trong kinh Tịnh Danh còn dùng Tiểu chứng mà làm hý luận, cho nên nói: "Nếu nói ta đương kiến khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo, thì là hý luận chớ chẳng cầu pháp". Cho nên ngoài thật tướng đều gọi là hý luận. Cho nên, sự lý hai giải thích đều ở thời Đức Phật Đại Thông. Tuy phát Đại tâm nhưng chưa phá vô minh, cho nên đầy đủ nơi sự lý hai nghĩa.
"Đại thiện...": là giải thích nguyên do thoái và do đắm trước. Xưa kết duyên nông cạn gọi là "chưa đắm", sau khi thoái lưu chuyển thì chỉ có vô minh, cho nên gọi là "vô tri". Tức đây giải thích ý cũng đầy đủ hai giải thích, suy nghĩ có thể thấy. Bốn hàng rưỡi tụng "Ta sẽ..." bên trên: là môn răn bảo, dự định thích nghi nên lại lược phân. Một hàng đầu chánh nêu dự định thích nghi. Một câu tiếp, tổng lập sở thiêu tức là Kiến Tư. Một câu tiếp tổng nêu uy thế lửa đốt. Hai câu tiếp lược nói tướng thiêu. Một hàng rưỡi, rộng nêu sở thiêu. Trong văn lẫn liệt kê hai loại Kiến, Tư, không theo thứ lớp. Tiếp một hàng, là tụng kết so sánh. Trong đó hai câu đầu nêu đối tượng so sánh, tiếp hai câu là chánh so sánh. Do không có định tuệ, cho nên "đói khát". Đã đáng sợ hãi huống chi lại bị chìm trong lửa thiêu hại, như khi đắc thượng giới hữu lậu định, không có vô lậu định đã bị lửa nhỏ Phạm thiên thiêu đốt huống chi rơi xuống Dục giới bị lửa lớn thiêu đốt, tức chỉ đói khát lấy làm khổ đây. Thế nên ưng cầu Đại thừa vĩnh viễn lìa khổ.
"Các con...": ba câu không thọ tức không có căn cơ, cũng là nhỏ dại không biết. Trong văn lược cho nên chỉ nói "vô tri". Kinh nói "Cứ vẫn còn ham ưa", tức là: Đã không có Đại chí lại không huân tập Tiểu. Đã nói không có Đại tiểu lại chấp đắm ba cõi. Tiếp một câu trong ý thứ ba chánh là dứt hóa, Kiến Tư không ngừng cho nên dứt đại hóa. Nếu Kiến Tư không ngừng, còn có đại cơ, thì Như Lai lúc bấy giờ cũng không tiếc rẻ Đại, chỉ vì duyên Đại tiểu đều mất, chỉ có Kiến Tư cho nên ở hai đường; lại khiến vượt ra khỏi trược, thì trước nên thiết lập Tiểu đó thôi. Ba hàng tụng trước dụ định thích nghi thì một hàng đầu nêu ý dự định thích nghi, tiếp một hàng dùng nguyên do tiểu. Do chấp Kiến Tư cho nên chỉ cho Tiểu. Tiếp nửa hàng dùng ý Tiểu thừa. Nếu không dùng Tiểu, thì Đại Tiểu đều mất, cho nên nói "sắp bị lửa hại"; hại cho nên bỏ thân, nên mất mạng. Tiếp, nửa hàng chánh tư duy dùng Tiểu. Trong Khuyến chuyển, kinh nói "diệu bảo", vẫn thuộc phương tiện; như Diệt chỉ diệu ly. Kinh A-hàm nói diệu trong diệu... Nếu "diệu bảo" là Đại, thì vì sao đều đến chỗ cha đòi xe? Trong Thị chuyển, kinh nói "ở ngoài cửa", như chỉ bày Tứ đế khiến biết xuất thế, cho nên lập lại trong Khuyến nói: "Các con ra đây" là khuyên hành tướng kia. Cần phải quán đế mà được ra khỏi nhà lửa. Tiếp, trong Chứng chuyển, ý kinh văn nói: "Ta khéo tạo xe để cung cấp cho tất cả". Nghiệm biết tự mình ắt không thiếu xe, dẫn tự mình không lầm, chứng minh ban cho không dối, nên biết lấy xe mình sử dụng, khuyên kia khiến được, là nêu mình làm ước lệ cho kia. Cho nên nói "xe ở ngoài". Kinh nói "tứ cù (ngã tư đường)" tức Tứ đế. Trước không chấp nhận làm bốn trược giải thích, tức là căn cứ ý trong đây: "Bắt đầu, ở nơi ngoài cửa": Đầu tiên con còn ở trong, cho nên cha "đứng ở nơi ngoài cửa", nay con đã ra khỏi nhà cho nên cha "ngồi": Lại đại cơ chưa hợp nên nói "lập (đứng)".
Tiểu hóa đã cùng khắp nên nói "an tọa". Cho nên, biết rằng: "đứng" là ngầm lợi, "ngồi" là hiển ích.
Kinh nói "Mà tự vui mừng nói...": Vì được căn cơ sở hóa cho nên vui mừng. Hai vạn ức Phật sở giáo làm đại duyên kia cho nên nói "sinh", trung gian Tiểu thừa thuần thục cho nên nói "dục (nuôi dưỡng)". Trải qua nhiều thời thường thành thục, nuôi dưỡng không dễ cho nên nói "khó lắm". Đại yếu ớt cho nên ngu, "tiểu" khởi trược do "vô tri", do nhân chiêu cảm quả cho nên nói "vào nhà". Kinh nói "Có nhiều loại trùng độc...": hai câu thuật kia sinh khởi lửa Kiến Tư. Kinh nói "Đại hỏa...": hai câu thuật kia bị uy thế lửa thiêu đốt. Kinh nói "Mà các trẻ con đây..." là hai câu hợp Kiến Tư kia. " Nay Ta đã cứu chúng...": hai câu nêu nguyên do hoan hỉ. Kinh nói "Vì thế các người ơi..." là kết ý hoan hỷ. "Biết cha...": ba hàng tụng đòi xe, hai câu đầu nêu khi đòi xe nghiệm biết văn trên là "cha ngồi". Tiếp hai hàng chánh đòi, tiếp hai câu kết đòi. Ở trong Chánh đòi, thì một hàng đầu là Chánh đòi, tiếp một hàng là thuật hứa. Trong "đồng ban cho" nói văn trên đến hợp có năm văn, tức không hợp giải thích "tâm bình đẳng". Trong tụng hợp lại "không rộng nêu tâm bình đẳng". Đã có "xe bình đẳng" ắt biết "tâm bình đẳng". Hành đủ tất cả pháp gọi là "tàng". Chỉ căn cứ hàm tàng làm nghĩa. Sáu căn đầy đủ tất cả pháp gọi là "kho". Tàng thì rộng, kho thì hẹp. Cũng có thể xen lẫn luận v.v... chỉ căn cứ chứa nhiều các kho không đồng. Như căn đều sai khác tuy khác mà đều đủ, cho nên trong các căn đầy đủ tất cả hạnh. Do hành trải qua các căn tức là căn hành đều đủ các pháp, tức tàng sâu kho gần, như hành xa căn cạn. Tuy có xa gần mà đầy đủ các pháp. Căn cứ căn luận hành không còn sai biệt tự chẳng phải một nhà y kinh thuật giải thích theo lệ chương sớ. Lẽ nào có thể nghe đây dùng căn dùng hành làm tàng làm kho, đầy đầy đủ các pháp!
Ý trong kinh nói "xe lớn": Nhân quả sở hữu tổng gọi "các báu". Căn cứ giáo tu đắc nghĩa như tạo. Tánh tu không đồng, quyền nghi gọi là "tạo". Hành nhiều con nhiều, nên xe chẳng phải một, cho nên sở tạo nhiều "chư" mà lại "đại (lớn)". Lại phải chỉ bày mới biết (tử) con tu gọi là "tạo". Vì tánh hết tu tạo, trở lại bản hữu tức thể xe. "Trang sức...": tức cụ độ. Một hàng đầu như trước giải thích. Kinh nói "Chân châu...": Xuất tướng tràng cái Từ môn chẳng phải một, cũng như lỗ lưới trong mỗi một lỗ đều có một chân châu, như các Từ môn đều xưng là "chân". Văn trước chỉ nói "treo các hoa anh lạc", chỉ là khiến người thấy vui mừng. Nay nói "Lòng thòng rũ khắp chỗ", chính là nêu các căn cơ khắp vui mừng. Kinh nói: "Các màu trang sức...": Câu trên nêu nơi rũ hoa, vì bày biện nên không đồng. Câu dưới nêu nhiếp vật thích nghi không chút nào thiếu. "Nhu nhuyến": Trước nói trải chồng nay thêm tán thán mềm mại (nhu nhuyến), lại dùng vải quý tốt mà trùm phủ lên trên. Các thiền tự tại cho nên nói "nhu nhuyến", dùng diệu che thô, như vi tế che lên trên. "Nhân": Thuyết Văn nói là chiếu kép trong xe. Đầy đủ sự thiền có khác phàm phu tiểu thừa, cho nên nói "Bóng láng trắng sạch sẽ". Trong phần Được xe hoan hỷ, nói "ngang vui chơi (hoành du)...": Các pháp tại nơi một hành một pháp Quyền Thật đầy đủ.
Cho nên tuy hợp nhất mà bốn tướng rõ ràng; "Bốn môn" đến "bốn mươi mốt vị": đầy đủ như trong pháp thuyết bốn giải thích lý nhất. Vị môn hai giải thích nghĩa kia đã đủ, hai thứ còn lại đã như trước nói. Căn cứ ý giải thích trên, vốn không ngang dọc mà nghĩa phân bốn tướng, nay cũng như vậy. Vốn không có ngang dọc, nương nơi Vị môn mà luận ngang dọc cũng có thể đế là căn cứ trí. Trước từ năng chiếu, nay từ sở y, vọng trước chỉ thiếu một thứ Quán tâm. "Rốt ráo bốn đức" tức đạo tràng. "Chín thứ thế gian": chỉ là chín giới. Bảy vọng nơi chín, chỉ trừ Tứ thú ly khai Bồ-tát. Do nghĩa con thông, cho nên thế gian theo chín. Vì nghĩa kết duyên hạn cuộc, cho nên phương tiện chỉ bảy. Kinh nói: "Tất cả các chúng sinh đều là con của ta". Như trong Đại kinh nói tất cả chúng sinh đều đến Đại bát Niết-bàn. Con là nghĩa tại nhân, Niết-bàn tại quả. Đại thừa tông yếu chẳng vượt qua hai thứ này, đều nói là có, sao thuận quyền giáo nói một phần không? Kinh nói "Không có chút tuệ tâm" tức là thông nói không thật.
"Các khổ...": trong đó hai câu đầu là tổng nêu, hai câu tiếp là giải thích, hai câu tiếp là kết. Kinh nói "Tịch nhiên...": Là tại Vương Tam-muội dụng trí tức là "an xử". Kinh nói "Bất thoái Bồ-tát" tức bất thoái nghĩa Thông, cũng kiêm Tam tạng... Trường hàng không hợp đòi và hoan hỷ, vì thoát nạn kiêm đòi, vì đồng ban cho xe kiêm hoan hỷ. Trong hợp chỉ hợp hai sau, không hợp hai cái trước. Trong bốn đoạn, thì thoát nạn và đòi xe là phụ; ban cho đại và hoan hỷ là chánh. "Ta tuy..." là đoạn thứ ba, một hàng rưỡi chia làm hai: Một hàng đầu nêu chướng trừ, nửa hàng tiếp là toại bản tâm. "Nếu người trí nhỏ...": bảy hàng, đoạn thứ hai, nêu đủ Tứ đế: hai hàng đầu Khổ đế, tiếp hai hàng Tập đế, tiếp một hàng Diệt đế, tiếp nửa hàng chánh nêu Đạo đế, tiếp một hàng rưỡi nêu Tứ đế đây giải thoát chẳng cứu cánh. Trong hai hàng Khổ đế: một câu đầu nêu nguyên do khổ, do tiểu trí, chỉ có thế trí chỉ kham nói tiểu. Tiếp một câu nêu do tập nặng cho nên phải nêu rõ Khổ đế. Tiếp một câu lập lại chỉ nguyên do khổ. Tiếp một câu chính nêu nói khổ. "Chúng sinh tâm hỷ...": một hàng nêu xứng bản huân tập. Trong hai câu đầu nêu (căn) cơ, hai câu tiếp nêu ứng. Trong Ứng, nói "không khác", là như kinh Di Giáo nói: Thật sự khổ, không thể khiến vui. Tiếp hai hàng trong Tập đế: một hàng đầu chánh nêu Tập đế, tiếp nửa hàng hiển Tập đế năng trị, tiếp nửa hàng nêu lỗi của Tập đế. Tiếp một hàng Diệt đế: Nửa hàng đầu nêu công năng diệt tập, tiếp nửa hàng đắc danh. Tiếp một hàng rưỡi, nói giải thoát chẳng cứu cánh: Nửa hàng đầu lại lần nữa nêu đắc thoát, tiếp "Người đó...": hai câu trưng hỏi, quán đế đắc thoát gọi là thoát gì? Tiếp "Chỉ xa rời...": là giải thích lìa giới trói buộc chỉ nêu giải thoát Tiểu thừa.
Tiếp, "Kỳ thật...": là giải thích, "ly...": ba hàng giải thích: một hàng rưỡi đầu dùng vô thượng đạo pháp để bài xích. Tiếp một hàng rưỡi, xuất bản tâm Phật. Nêu rõ ác số: nay văn chỉ nói thuyết bất thuyết. Có người phân chia đây nói: Trước liệt kê nhân ác, tiếp nêu quả ác. Nhân ác có mười bốn:
1) Kiêu mạn.
2) Giải đãi.
3) Chấp ngã.
4) Thức cạn.
5) Đắm dục.
6) Không giải.
7) Không tin.
8) Buồn bã.
9) Nghi hoặc.
10) Phỉ báng.
11) Khinh thiện.
12) Ganh thiện.
13) Ghét thiện.
14) Giận thiện.
Tiếp, trong quả ác thì trước là giải thích.
Tiếp, "Xá-lợi-phất...": hai hàng tụng kết. Đầu lại có hai: Đầu nêu do hủy báng đọa vào đường ác. Tiếp, "Như đây...": nêu do đọa vào đường ác, nên không được gặp Phật. Văn đầu lại có ba: Đầu tiên là địa ngục, rộng trình bày phi thời. Như dây phân văn không phải bất nhất mà không có nguyên do. Tiếp, trong Súc sinh, nói "đoạn hạt giống Phật": chỉ là phá hoại hai nhân Duyên Liễu. Văn trước thì "đoạn hết thảy hạt giống Phật ở thế gian". Đây thì kinh nói "Khắp khai Phật chủng trong sáu đường". Nếu hủy báng kinh này thì nghĩa sẽ đoạn.
Hỏi: Hủy báng kinh sinh tội, không phải kinh làm duyên tội ư?
Đáp: Tội phước do tâm, kinh chỉ là duyên trợ, kia cũng như tứ đại tổn hại hay ích lợi do đây thành. Nhưng theo Phật dạy vốn ý chỉ là sinh phước. Chính là lỗi của người mê, chẳng phải lỗi của đường đi. Ba tiện nhân (người nghèo). Tiếp, văn lại có ba:
1) Nêu không gặp Phật.
2) Lại vào đường ác.
3) Lại được làm người.
Có người dùng "Tín và Giải" đối nhau mà làm bốn câu: Độn căn chánh kiến thì Tín mà không Giải (hiểu); Lợi căn tà kiến thì Giải mà không Tín; Lợi căn chánh kiến thì có Tín có Giải; Độn căn tà kiến thì không Tín không Giải. Hai câu đầu dựa vào đâu mà được gọi? Nếu câu thứ ba đương nơi phẩm này, thì hoặc là căn cứ Tiểu thừa mà được nói như đây, không hợp giải thích đây. Nếu trong pháp chấp, kiến v.v..., thì Thanh văn khi lãnh giải hợp nhập thất địa, tại sao còn ở sơ tín tâm ư? Có người dùng thông đại địa, Tín số Tuệ số làm thể Tín Giải. Nay hỏi: Thể lấy nghĩa gì chỉ tâm sở ư? Như tâm sở này Thánh vị nhiếp ư? Hay phàm vị nhiếp ư? Nếu Thánh vị thì đại Thánh hay tiểu Thánh ư? Tiểu thì chẳng phải ý nay. Đại thì sâu cạn? Huống chi nay nghe thật mà lãnh giải ư! Cho nên tín giải kinh này rồi nhập Sơ trụ thì chẳng phải Tiểu thừa tâm sở sở nhiếp. Nêu một lệ, các thứ khác đều chuẩn theo đây.
Có người nói: Đối trước bảy dị (khác) không thành dị:
1) Sở tùng (dị) khác; nay cho là không như vậy, hàng tam căn nghe lược đều sinh nghi động chấp, chỉ vì trước sau Tín giải đâu được nói Thân-tử tùy theo nghi? Trong đây từ chấp có nghi ắt có chấp; có chấp ắt có nghi, huống chi nghi chấp danh thông mà phải giản Tiểu. Tiểu thừa nghi chấp kiến đạo đã trừ, sao ngăn cách hai tô vẫn phải xen nhau lập?
2) Rộng lược sai khác: Đây cũng không như vậy, chỉ văn khác nghĩa đồng, cho nên Thân-tử nói "Chẳng phải ma..." và thuật năm Đức Phật. Nói lược mà ý rộng, lẽ nào gọi là lược ư?
3) Viễn cận sai khác: Đây cũng không như vậy, văn nghĩa đều đồng, chẳng những văn đây thuật trước đạo thọ, Thân-tử cũng thuật khi xưa chấp tà kiến, cũng quá đạo thọ cho nên không khác.
4) Thông biệt sai khác: Đây cũng không như vậy, văn khác ý đồng. Thân-tử đã nói: "Chúng con không can dự"; lại nói "Chúng con đồng nhập pháp tánh", lại nói: "Nếu chúng con đợi nói sở nhân", lại nói "Chúng con không hiểu phương tiện". Văn trình bày lỗi bốn độ nói..., lẽ nào có thuật được riêng biệt tại một thân? Đây tuy biệt nêu đứng đầu bốn vị Tăng lại hạn cuộc, vậy thì Thân-tử thông đến tất cả, Ca-diếp biệt tại bốn người. Nếu vậy thì chu đầu tại sao không thọ ký nhiều Thanh văn ư?
Đáp: bốn chúng tám bộ tức là người kia.
5) Không luận.
6) Hoan hỷ sai khác: Đây cũng không như vậy, nếu nói một mình Thân-tử có lo trước mừng sau, trước nói sắp xếp... thì lo chung cho tất cả, cho nên biết vui mặc dù có trước sau, mà lo thì không có cấp bậc.
Nói một, bốn không đồng. Ý không như vậy, cũng như trước phá có dẫn luận Bà-sa nói: Thân-tử thượng, Mục-Liên trung, các người khác hạ; kia nói tợ đồng Tiểu thừa kia nay thật. Văn ý hoàn toàn sai khác, không thể đồng. Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Tín Nhạo. Nghĩa kia tuy thông Nhạo (ưa) mà không bằng Giải. Nay nêu lãnh giải, vì sao nói Nhạo? Nay chưa giải thích tên phẩm, tiện dẫn người xưa phê phán ý phẩm, giải thích đề lỗi chính là lý do làm mất ý văn. Trong đó, đầu tiên thông nêu ba thời, nói "Nhất vãng...": là do trong phẩm này lãnh giải nay đủ từ đầu đến cuối, sau khi thoái thất Đại thừa lại dùng Tiểu thừa khởi phát lấy làm "Nhất vãng", trung gian làm "đuổi theo", sau cùng làm "Tất cánh". Người xưa chỉ đắc danh ba thời, không hiểu ý kia. Nay làm năm thời thêm suy xét lãnh Pháp thân hóa, còn sợ không hiểu lòng Tứ Thánh, mà chỉ làm danh "Nhất vãng..." thì sao có thể hiểu rõ phẩm này? Cho nên, cần phải dẫn phá thì mới hiểu chánh lý. Tổng có sáu sư: Tăng-na, Trung Hoa dịch là Hoằng Thệ. Tiếp "Riêng cho là...": là phá, đầu tiên tổng bài xích: Sách Thư nói: "Cắt dây tơ đầy tráp, không thể may làm dây lụa, ngọc vụn đầy hộp không thể mài giũa làm ngọc Quế Chương quý giá". Các giải thích tạp, vụn không thể y cứ.
"Xét rằng nhất vãng...": là biệt phá, vẫn trước là nêu đầu cuối, lược xuất đại chỉ, trung gian thì theo lệ có thể biết. Tiếp, trong chánh biệt phá, thì hai câu đầu dù cho phá, chính là chấp nhận câu thứ hai, thứ ba "nhất vãng". Cho nên, lấy "nhất vãng" kia mà phá Sư đầu và Sư thứ năm. Tiếp, "Nếu Pháp Hoa...": lại dùng Sư thứ năm nhất vãng đối thứ hai nhất vãng mà làm theo lệ. Tiếp "Lại, nhị thừa...": dùng Sư thứ ba nhất vãng, phá Sư thứ nhất nhất vãng, trong đó trước đều phá. Tiếp, Nếu một phá một không phá...": là lập theo lệ. Tiếp "Lại, cha con...": là riêng phá Sư đầu Tất cánh. Xa thấy cha ngồi, tức gọi là thấy nhau. Gọi là Tất cánh (rốt ráo), thì thời Hoa Nghiêm giáo đã nên đắc thọ ký, tức Pháp Hoa không dùng. "Nếu hậu cánh...": là đều đảo ngược, nếu sau đúng thì trước không còn dùng; nếu không còn dùng thì ngày xưa nghe Đại kết duyên không thành. Lại nếu Sư thứ hai, ba, tư lập Tất cánh (rốt ráo) đều tại Pháp Hoa, thì ý có thể như vậy. "Nhất vãng", "đuổi theo" thì cận viễn khó nương. Sư thứ năm "nhất vãng" đã đồng trước phá, "đuổi theo" "Tất cánh" chẳng phải giải thích Pháp Hoa, đâu có thể hiện tại nhất hóa ắt khiến đến nơi Kim Cang. Sư thứ tư, Ngài Chương An không phá chỉ là lược thôi! Kia nói nhất vãng ở nơi chuyển giáo, thì chuyển giáo trở về trước hướng đến chẳng phải nhất vãng, lấy gì đặt tên để đắc ngộ làm rốt ráo. Năm phẩm sáu căn lại chẳng phải "nhất vãng" cho đến "đuổi theo" đặt những tên gì? Nhưng các sư nói rốt ráo, đều không phá. Bốn vị trước và thứ năm phần nhiều đều đến Pháp Hoa. Nói đến Phật quả dù có lỗi Tiểu mà không có lỗi Đại, chỉ không thể quyết định dùng Kim Cang tâm làm cứu cánh đó thôi. Nay ý sư: "Nhất vãng..." là nói đợi đến hạ căn luận đời trước thì mới có thể thương lượng. Dùng nhân thiên thừa cho đến nói Đại tại thuở xưa cho nên từ xưa trở về sau đều gọi là "đuổi theo", vì sao Sư thứ hai, ba, tư dùng ba vị ngày nay mà làm "đuổi theo"? Cho nên không dùng.
Tiếp, "Riêng cho rằng...": là phá bản tích, nếu chỉ đây làm tích thì nên đã là bản môn động chấp, nếu dự định nói phẩm sau chính là trong đây thành hiển bản xong. Văn sau không dùng cho nên không thể. "Nay giải thích phẩm...": nay ý lại luận về trung căn tín giải cho nên dùng năm trong mười nghĩa đầu của tam chu, mà phán xét ý kia. Phàm căn có lợi độn, tức trước chuyển căn, không chuyển căn cảm có dày mỏng, tức trước hoặc có dày mỏng. Nói có pháp thí trước thông biệt ngộ có trước sau tức trước ngộ không ngộ và ngộ có sâu cạn, các ý khác chẳng phải chánh, vì nghĩa ấy nên sở dĩ ba căn trước sau đều lãnh giải đâu cần nơi đây lập "nhất vãng..."
"Oản đậu": Như nói chữ an đao là cắt khoét. Người Nhị thừa đối trước Pháp Hoa như sinh oản đậu (một loại đậu) dao đâm không vào. Chỉ niệm không vô tướng nguyện: Đương giáo kia nhập vô lậu môn cho nên thường tư duy. "Vui mừng hớn hở...": Trong văn tuy dùng bốn chữ Tín v.v..., dùng đối Tín giải lấy làm Vị nhân, thiện đây ắt nhờ sơ hoan hỷ, huống chi theo lý thiện sinh phá ác thâu hoạch chứng, viên dung tứ Tấtđàn đồng đời đều đắc tức phần chứng Đệ nhất nghĩa. Ba Tất-đàn còn lại đương vị làm danh, tùy theo nhau nói là phần. Cho nên, tứ Tất-đàn đây phát ắt đồng thời chỉ dùng Tín giải đối Vị nhân cho tiện. Lại biệt nói đây chính là biệt trong. Trong đây vì sao Tứ tất đều thật? Do từ nghe pháp được hiểu, không đồng văn trước liệt chúng theo Tiểu thừa ba Tất-đàn tại sự, Đệ nhất nghĩa vẫn cần giáo phân, cuối năm thời mới biện rõ ý nay.
Tiếp, "Bẩm thọ Tiểu thừa...": căn cứ giáo giải thích, đây muốn căn cứ vị để giải thích "Tín giải", nên nêu đủ bốn giáo, chỉ tổng nêu nói bẩm thọ tiểu Đại giáo. Tiểu tức tam Tạng đại phải chỉ Viên. Lại lược trong hai thứ do Đại giáo tiểu giáo đều lập hai hành hai đạo, cho nên trước nêu tiểu. Tiếp "Chuẩn theo Tiểu v.v...": lấy Đại vọng tiểu bèn phân hai chữ để thuộc hai đạo. Phá nghi cho nên nói "Tín", tiến nhập gọi là "Giải". "Tín" thông hai đạo, "Giải" chỉ ở Tu, cho nên nói Tu đạo gọi là "giải". Nếu căn cứ ý đây, chỉ nên dùng Sơ trụ để làm Kiến đạo, bắt đầu Kiến lý, Sơ trụ gia công gọi là tu đạo y lý tu. Trong văn không nói Nhị trụ trở đi chỉ nói tiến nhập tức từ Sơ trụ ắt có tăng tiến. Cho nên các Thanh-văn nghe pháp rồi, sau phần nhiều nhập Tu đạo, nay từ biên hạn nghe pháp tăng tiến để nói cho nên gọi "Tín giải", cũng như mười sáu tâm gọi là Tu đạo. Nếu xưa mật nhập thì đến đây rõ ràng hoàn toàn thành tu đạo, từ hiển lộ nói Tín giải đồng thời. Tiếp, "Văn nói...": lại thông chứng nhập vị không phân tín giải. "Cận lãnh giải nhà lửa...": Nghe Thí giải (hiểu) rồi ắt giải nơi Pháp, lẽ nào có ngộ sau mà lại mê trước? Vì vậy cho nên đều phải Pháp và Thí song lãnh.
"Tuệ mạng" có hai giải thích: Trước là giải thích theo Nhân duyên, Tiếp "Các tuệ..." là căn cứ Giáo. Ba, một đối biện từ sự hành sai khác, cho nên thuộc Nhân duyên. Phật mệnh chuyển giáo thuộc căn cứ giáo: Đây có hai ý, thuộc Thục-tô giáo. Đã gọi là căn cứ giáo đến Thục tô thời, ngầm thành Biệt nhân. Lại gọi là căn cứ giáo cũng nên đủ đối năm vị bốn giáo, tư duy có thể biết. "Ba đệ tử...": là giải thích nghi, chẳng phải hoàn toàn không chuyển, mà luận nhiều ít đó thôi. Tân dịch gọi là "Cụ thọ", "Cụ" không bằng "Tuệ", "thọ" lẽ nào quá "mạng". Thí dụ bốn phen: Trường hàng kệ tụng đều có tổng biệt, cũng có thể đều có Khai thí Hợp thí. Hai đường bốn phen đều có khai hiển. Nhưng trước giải thích hơn, tức ứng văn sau hai mươi hai phen. "Tâm phát" đến "ý": Căn cứ đây chỉ do nghe Thí, tín sinh, nhập vị, tức Sơ trụ trở đi không luận Kiến Tu. "Ví như Thân-tử...": "phát tâm hy hữu" là tâm lãnh giải, tức "từ tòa đứng dậy" là thân lãnh giải, "mà bạch cùng Phật rằng" là khẩu lãnh giải. Nên chú thích v.v..., là khiến như hướng đối, đầy đủ như Thân-tử lãnh giải kệ. Văn không có, là lược. Trình bày đứng đầu Tăng cùng ba lỗi không cầu là thuật lỗi xưa. Lỗi thứ nhất: Chấp Tiểu lạp thì Đại pháp hoàn toàn thiếu, không bỏ tiểu do chưa biết khai ba, tự kiên cố thì Tiểu chấp chưa thay đổi, ủng hộ kia bèn mê nơi phép tắc Đại. Lỗi thứ hai: Một đời đoạn chứng nên tự khinh bỉ tuổi cao, bại chủng chưa đuổi trừ, vẫn còn thấy không kham nhậm. Lỗi thứ ba: Xưa mê ý nghĩa luống công chấp chánh vị, do đây cố tình cho nên Đại tâm khó phát.
"Cao nguyên...": là dẫn thí dụ tự bài xích. Trước là thí dụ sau là hợp. Đã có đắc cho nên không cầu. Kinh nói "chỉ nhớ nghĩ ba pháp...": cũng có thể đủ y luận Câuxá, xuất nêu mười sáu hành lấy làm sở tư. Mười sáu hành đối ba Không, như Chỉ Quán quyển bảy nói. "Hoặc chỉ" đến "Là đứng đầu Tăng không cầu": Do đứng đầu Tăng chúng cho nên ở Đại tiểu các tòa từ lâu đã nghe. "Vô lượng trân bảo": Xưa Bát-nhã lãnh giáo nói là làm Bồtát, lẽ nào mong ở đây toàn được đồng ban cho? Trong cụm từ "Tư phát vân vân", thì "vân vân" là: Nên như lễ thế gian muốn có sở quyết; phải trước hỏi han phát biểu. "Văn thí dụ chia làm năm": Bắt đầu từ "thất lạc nhau", tức kết duyên về sau, cuối cùng đến "đồng ban cho" tức khi nghe Thí dụ. Nếu hợp ý thứ tư và thứ năm lại thì chỉ thành bốn đoạn. Mười thí dụ mà Quang Trạch nói thì không ứng với văn nay. Văn trước nói: đối bốn người trái lìa, lìa phá Quang Trạch, trái bài xích các sư. Các sư tuy không tách làm mười thí dụ, mà đối với tướng đương văn lại cũng trái mở, đầy đủ như trước bài xích.
"Tây phương...": Di-đà và Thích-ca, hai đức Phật đã sai khác, lẽ nào khiến Di-đà ẩn mặc y phục trân quý bèn khiến đức Thích-ca mặc y thô xấu? Dáng mạo đức Thích-ca không có y phục trân quý nào có thể che dấu, đức Di-đà duy nhất hình dáng thắng diệu, huống chí duyên đời trước biệt hóa đạo không đồng, kết duyên như sinh, thành thục như dưỡng, sinh dưỡng duyên khác, nghĩa cha con không thành xấu tốt phân đường, mặc cởi ngăn cách sai khác, tiêu kinh sự thiếu, điều thục nghĩa trái văn đương bộ vĩnh viễn không có ý chỉ đây. "Xá-na cởi mặc...": Mê ở Xá-na không động mà đi. Di-đà mặc y xấu thô, các giáo không có văn, nếu luận Bình đẳng ý thú kia thì đâu có tự kiêu căng. Ví dù khác vì thân ta trở lại thành ta hóa, Ta lập hình tượng như người khác, bèn trợ tha duyên (khác), người không thấy hóa duyên liền loạn, cho nên biết luận kết duyên đều căn cứ ứng thân. Như nói "Ta xưa từng ở nơi hai vạn ức Phật...", huống chi mười sáu vương tử từ đầu đến nay cơ cảm tương thành tùy vận dụng phân giải, cho nên không thể dùng Di-đà làm đây biến đổi. Chẳng kết duyên nơi cõi mình: Xưa kết Đại duyên Tịch Quang làm cõi, kỳ vọng tâm khế hợp pháp giới làm cơ, thoái Đại đến nay cơ cõi đều thất (lỗi). Nay lưu chuyển năm đường vọng bản làm tha. Phương tiện hữu dư còn chẳng phải cõi mình, huống lại năm đường lưu chuyển ư! Nay cùng tử hiện ở trong năm trược lại dùng sở trụ vọng bổn làm tha, từ lúc ấy đến nay thường ở trong tam giới cho nên nói "trụ lâu". "Duyên đây" đến "trưởng thành": trong căn cơ dần dần dày lại cùng chấp danh vẫn chưa trở lại ban đầu chỉ nói ba mươi. "Duyên đã...": lấy khổ làm cơ, cho nên biết cũng ở trước tiểu hóa. "Đến" mà không biết cho nên gọi là "gặp". Do xưa từng thấy cho nên gọi là "bản". Khổ làm cơ: Đã thất Đại tiểu chỉ có sinh tử, ở trong sinh tử có cơ có thể phát, ngầm bấu víu thành Đại bi diệu ứng. Đại ứng còn sơ (sài), cơ lại đối nơi khổ.
"Thứ nhất: khổ vì nhớ nghĩ đến đứa con bị thất lạc...": Do nhớ con khổ, là tư duy các môn; nghĩ tìm được con nên vui, là lại tư duy một môn. Tuy lại song niệm, mà cả hai đều chưa có thể. Nay bỗng được tức từ bản chí nói sẽ tuyên bày Phật đạo lại nói một môn. "Con đã...": là giải thích hai ý trên: thứ nhất, bỏ đại thiện mà nhập sinh tử cho nên nói không đảm đương. Trước giải thích môn trong thí dụ có nghĩa nhập, bởi do đây, cho nên động cha lo lắng giải thích ý thứ nhất. Lìa ý của cha các lời dỗ dành tức vốn dùng viên môn thông, đương có nghĩa đắc, dự báo động cha vui giải thích ý thứ hai. "Thí dụ đầu như" đến "lãnh giải": Thứ ba đầu kinh thuật lãnh giải không sánh bằng ý đây. Trong mười giới bảy thiện tiến thoái... thì Bồ-tát rất khó, do kiêm ba cho nên biệt nói. Bồ-tát còn vậy Phật giới vĩnh viễn tuyệt dứt. "Giải tâm không có sức" đến "trưởng thành": xưa tu quán hạnh tuy quán lý tức mà chưa nhập Tương tợ giải, không thể trừ trược, cho nên nói "không có sức lực", nghĩa là như trẻ con. Thoái Đại về sau danh tự hoàn toàn mê, nghĩa như "dày nặng", trong như huân thêm cho nên gọi là "bị" (gia bị). Đại vẫn chưa toại chỉ có thể trước tiểu, đại thiện sẽ toại gọi là dần dần muốn rõ, đây là dò tìm về sau nói.
"Đào thệ (trốn đi)...": Đức Phật lẽ nào bỏ chúng sinh, vì cách cho nên không thấy, nghĩa đương nơi "đào (trốn)". Nói "Sinh tử ngũ dục lấy làm nước khác": vì Đại Niết-bàn mới thành nước mình, cho nên lại lấy năm đường lưu chuyển làm nước khác. "Hoặc mười đến năm mươi năm": Là tự thoái Đại đến nay thăng trầm bất định, cho nên chấp hoặc nói. "Ấu (trẻ) có hai nghĩa" đến "đam (đắm chấp) thuật nghĩa không trở lại": Đầu nêu hai nghĩa "Thì không...": là kết thành. Tiếp, "Thí dụ...": là trong hợp thí nói kết duyên về sau. Một câu tổng hợp thông suốt hai câu dưới. Tiếp, "Đại giải...": là hợp nghĩa đầu. "Còn có...": là hợp nghĩa tiếp. Do phát Đại đến nay ba hoặc toàn tại nghĩa như si. Giải tâm tuy mỏng mà ngầm giúp xa thấm nhuần. Mật lợi ích không nhẹ vì duyên chút ít nên khuất phục nói phước tàn, từ đó về sau chưa rơi vào ba đường ác gọi là "chưa gặp khổ", chỉ bảo đảm đời vui cho nên chưa trở lại ban đầu. Tiếp, "Nay huân tập...": ngược lại hai nghĩa trên. Văn đầu ngược lại nghĩa trước tiên. Đã có chút ít hướng đạo có nghĩa đoạn hoặc, nghĩa tương tự khỏi si. "Gặp khổ...": là ngược lại nghĩa kế trước, thâu nạp hạt giống bên trong cho nên gọi là "ngầm huân", lại bị ngoại duyên trung gian kích động từ đó vi tế phát sinh. Lại do gặp khổ làm duyên giúp phát khởi, cho nên thiện ác hai đường mờ tỏ huân tập gia bị. "Hai thứ này làm cơ": Nếu đời trước không có Đại duyên và trung gian Tiểu thuần thục, thì nhờ khiến gặp khổ cơ cảm không thành, chỉ do Đại Tiểu hai nghiệp ngầm huân tập thành cơ cảm Phật. Phật ở bổn quốc (nước mình), nghĩa phải hướng về nước. "Nếu do thiên nhân...": Nếu không có Đại chủng, chỉ riêng nhân thiên thiện, thì không có nghĩa cảm Phật, không thể riêng vì nhân thiên mà Phật thị hiện tám tướng. Nếu có căn cơ xuất thế thì chư Phật Bồ-tát còn vào đường ác, huống chi nhân thiên ư!
"Tại tam giới...": Nêu rõ các con bình đẳng nhưng nếu Đại thiện chưa thuần thục thì dù sinh trong nhân thiên cũng chưa cảm Phật. "Nay Phật...": vì có bài xích không đủ, chỉ Tứ kiến. Nêu rõ cơ thành thì cảm Phật, và Phật xuất thì cơ thành. Nếu thông luận cơ thì tuy thông mười pháp giới, mà cuối cùng ở mười pháp giới nhận lấy căn cơ xuất thế. Nay từ Biệt an trí Thông dùng hiểu rõ phẩm này, cho nên văn dưới nói phương Đông, Nam, Phạm văn nói "Một trăm tám mươi kiếp trống vắng qua không có Phật", cho đến phương trên nói: "Ở trong vô lượng ức kiếp luống quá không có Phật". Đức Đại Thông xuất thế nương ánh sáng mà đến. Phải biết trung gian đều nhờ ngầm gia bị. "Ở trong đó cầu chánh đạo...": lấy chấp thường v.v... mà làm chánh đạo, lấy các thứ khổ hạnh làm trợ đạo. Tuy tư duy tà lý, mà có khả năng làm chánh cơ, do lâu xa Đại chủng đã huân tập gia bị. "Đại kinh nói: Đế quán bốn phương": là Đại kinh quyển ba mươi nói như trong Hằng hà bảy loại chúng sinh: Loại người thứ nhất: Vào nước liền chìm mất ví như Nhất Xiển-đề. Loại người thứ hai: Ra rồi lại chìm, có tin cho nên "ra", không tu cho nên "chìm". Loại người thứ ba: Ra rồi không chìm tức Nội phàm. Loại người thứ tư: Vào rồi chìm, chìm rồi ra, ra rồi trú; quán khắp bốn phương. Thân nặng nên chìm, có lực nên ra, quen nổi nên trụ, không biết chỗ ra. Cơ biến quán bốn phương, ví như Tứ quả quán Tứ đế. Loại người thứ năm: Vào rồi chìm, chìm rồi ra, ra rồi trú rồi quán phương, quán phương rồi đi; sợ nên liền đi ví như Bích-chi-Phật. Loại người thứ sáu: Vào rồi liền đi, nơi cạn liền trú. Vì sao vậy? Quán giặc gần xa nên ví như Bồ-tát, không trú trong sinh tử cho nên đi. An tâm nên trú nơi cạn. Loại người thứ bảy: Liền đến bờ bên kia. ngoại đạo đắc độ đều do quán đế, cùng quán phương nghĩa đồng, cho nên tạm dẫn.
"Bản quốc như trên": Trên lấy Phật cõi mình làm bản quốc, ngoài ra đều thuộc nước khác... "Văn dưới...":
Hỏi: Thành nhà nói bên dưới và nước nói ở trên, có gì sai khác? "Tất cả...": là muốn biện rõ đồng khác, lần nữa lại giải thích ra khỏi nước. "Tất cả Phật pháp" và "cõi Phật nói bên trên", lời khác mà ý đồng, thành nhà cũng đều như vậy. Đoạn đức trở lại phải đầy đủ Phật pháp, đại bi cũng từ Đoạn đức mà thành, hai thứ này đều tóm thâu hết thảy Phật pháp. Chỉ căn cứ chọn cơ, dùng nước vọng thành, dùng thành so với nhà, nghĩa lập thưa dầy, chỉ do hết thảy Phật pháp nghĩa rộng. Đoạn đức chế ngự ác tợ hẹp. Đại bi đối con lại gần, đồng là sở y của thật tuệ Trưởng giả, đồng được Ứng thân quyền trí thác gửi. Trước khi khởi ứng, căn cơ bám víu đây trước cho nên nói "đến nước thành...", "dừng lại tại thành nước ấy..."." Ở lại tại một thành trong nước đó...": Lại dùng một phương một loại mà làm một người con, cho nên tiếp hợp nói không vì một (nơi) xứ, xứ ắt ở người chỉ là đồng cư. Giống loại như người chưa thuần thục, vả lại dừng ở phương tiện, không phế bỏ nghi thức hóa. Luận Bà-sa chỉ kia lấy làm các phương còn lại. Nếu nói căn cứ các phương còn lại thì lẽ ra chỉ mười phương quốc độ thiết lập sự giáo hóa ở mười cõi, đầy đủ như Diệu Âm. Luận Bà-sa đã nói vậy, các phương khác căn cứ theo đây. Trong đây vẫn còn tư duy cõi đồng cư này vì được nghĩa con tiện lợi.
Lại nói Hữu dư, nếu nói thùy hình lục đạo sự thì không tiện vì sau lưu chuyển lẽ nào không như vậy ư? Nay cơ đã thân cận cần phải từ nghĩa hơn mà nói! Nếu vậy thì tại sao không nói tại Thật báo độ ư?
Đáp: Về lý không phải không thể, nhưng Thật báo nghĩa đối lúc phát đại tâm nên thoái Đại về sau tư duy cơ Đồng cư, lại hiểu nghĩa chữ " trong" thuận tiện. "Xưa nói...": là trình bày ý xưa. "Nay cho rằng...": là phá. "Nay dùng...": là chánh giải thích. Lại đối với Niết-bàn trong nước Hữu dư gọi là "thành trong nước", cũng trụ trong Niết-bàn này, gọi đó là "dừng". Lại y Niết-bàn đây mà làm chỗ ở, cho nên gọi là "nhà".
Hỏi: Trước đáp hỏi nói rằng lấy thành đây làm Đoạn đức, lấy ở dưới đều làm từ bi, vì sao đến nay thì nói thành là nhà Hữu dư cũng y Niết-bàn đây?
Đáp: "Nước, thành, nhà" tuy có rộng hẹp sai khác, cũng đều là sở y Hữu dư không vượt qua Đoạn đức. Nhà này đối trân bảo, cho nên nói "thật cảnh"; nhà ở dưới đối căn cơ của con, nên nói từ bi. Cho nên biết nói vô duyên từ bi ắt cần bình đẳng với thật tướng, cho nên hai nhà nghĩa một, tùy sở đối mà thôi!
Câu trên đã nói tìm con không được, đã y cõi Tựthọ-dụng nhất thật từ bi. Tìm con không được, nên nay dừng ở trung gian tự tha, trụ nơi phương tiện. Trở lại dùng bản nương vào từ bi mà suy nghĩ ở con. Cho nên nước thì dân ở, thành thì chủ an, nhà vốn nuôi dưỡng tánh. Vì chưa nhập Viên, tức thất phương tiện, dân mang hình phương tiện, trụ Hữu dư kia tư duy cầu Viên cơ, cho nên ở kia hóa sự không bỏ, tư duy căn cơ cõi Đồng cư nghĩa đó văn thành. Gia đã là nhà (xá), ở cõi Hữu dư vận dụng Vô-duyên-từ cho nên nói "ở nơi đây", do đó dừng ở nhà Vô-duyên-tư, khởi hai Ứng thân Thắng Liệt, Thiên Viên, nhưng kia chỉ nên dùng Thắng ứng. Nói Thắng liệt, thì Thắng ứng kiêm hai nơi, Liệt ứng thân thì chỉ tại Lộc uyển. Tiểu cơ nếu khởi lý thì sẽ hợp đến. Đầu cuối cả hai nêu rõ ràng, cho nên nói Thắng liệt. Đã nói năm người cõi kia sinh đều là Bồ-tát, cho nên tám, sáu đến cõi kia thì không cần Tiểu hóa. Dần đến Viên thật lẽ nào vẫn đắm trệ nơi thiên? Huân tập phương tiện phần nhiều mê nơi giáo. Chỉ Quán quyển bảy phân biệt tám, sáu... giáo đạo phải phế bỏ. Pháp Hoa khai hiển mới kham nổi nghe đây, Bồ-tát cơ thành sở ứng đâu sai khác. "Năm người" tức là bốn quả và Bích-chi-phật, từ bản lập danh, gọi là Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi-phật. Đoạn tận mới gọi là "đoạn Thông hoặc". hoặc là dùng Tam tạng Nhị thừa và Thông Tam thừa làm "đoạn Thông hoặc" đây cũng có thể như vậy. Tam tạng năm người tự nhiếp Thông năm. Thông giáo Bồ-tát trước gọi là Bồ-tát. Không thể lại nói đến kia đều là Bồ-tát. Nên biết toàn chỉ hai giáo Nhị thừa gồm Thông Bồ-tát. Nếu dùng bốn người ví như Thông Bồ-tát đều gọi là Bồ-tát, thì có gì không thể ư? Chỉ kia đối Thắng ứng nghĩa kia không thành, chỉ hai giáo Nhị thừa kia còn hồi tâm, Thông giáo Bồ-tát lẽ nào ứng thủ cựu? Nếu căn cứ sửa đổi quán thì Thông Biệt Bồ-tát đều phải phát tâm. Cho nên nói huấn dạy khiến tu học, thì không thể nói Biệt bởi vì năm người đây chứng đồng. Nếu như vậy Thông luận số người phương tiện thì nên nói chín: Tạng hai, Thông ba, Biệt ba, Viên một, không được nói là năm. Nay tạm đối Tiểu cho nên nói năm. "Đại phú" đến "vô lượng": Cõi tuy Hữu dư thân cận nhà sở y mà không trái thật tướng. Nói "vô lượng": là đầy đủ lục độ, "đại phú" là tổng xưng, "tài bảo" là biệt. Tuy phân tài bảo Bát-nhã dẫn dắt năm độ mà đều thành thật, huống chi tất cả hạnh đều thành trân quý, cho nên nói "vô lượng".
"Kim ngân...": Đẳng cấp báu vật khác, tức các trợ hạnh đạo phẩm khác. "Bảo" không ra ngoài bảy thứ, có thể thí dụ bảy khoa. Thế nên bảy khoa, sáu độ thâu nhiếp hết. Cho nên trong Đại Tập lấy ba mươi bảy phẩm làm bảo cự tổng trì của Bồ-tát, kia quý giá như bảo vật, sáng tỏ như đuốc (cự) lớn phá tan sự tối tăm. Đầy đủ tất cả pháp gọi là tổng trì. Nói "Đại thừa": Lẽ ra nói Viên thừa, văn tùy tiện đó thôi! Nói "Thiền sinh một trăm lẻ tám": là đạt thật tướng thiền. "Tự nuôi dưỡng...": là trí định đều có tự tha nay đủ, như trước giải thích.
"Đồng bộc (người hầu hạ)...": Phương tiện Ba-lamật căn cứ tự hành quyền mãn. "Khuất khúc...": nêu quyền dụng lợi tha đều là công của đồng bộc. Như từ hạng áo vải bị sai khiến cộng đến địa vị giàu sang, đồng thành quyền bên trong thể. Sự lý không hai, nên đều gọi là "xứng". "Căn cứ vị": Hướng Thông căn cứ phương tiện chỉ nói đồng bộc. Từ địa vị Biệt phán xét nhiếp Tạng Thông Biệt, vọng thật vọng chánh, nghĩa tương đương hàng hạ tiện phục dịch. Thông luận cũng có thể thâu đắc nhân thiên, dùng phương tiện khác tức là ý này. Biệt Viên Thập địa: Vẫn còn giáo đạo cho nên lập danh Biệt. Do không có hai lớp Thập địa. Trước nay trong "đồng bộc" đã có Biệt tam thập tâm, nay vị "thần tá" là Viên tứ nhất tâm, kiêm thâu Biệt giáo Thập địa mà thôi!
"Tùy theo cõi...": Ý giải thích thần tá (lại dân)... các địa vị sâu cạn. Thâu tóm đã nhiều gọi là "tùy cõi", tuy đồng nhà Phật mà không thể không không có đẳng cấp. Sơ Thông đều là Thánh. "Tuy đắc...": tức là Thập trụ đắc nhập Thánh vị, đồng chỗ vua ở cảnh cõi chân thật, mà địa vị lại thấp nhất. Đầu từ Thập hạnh, cuối đến như địa vị thần đều là Viên tiệm, cho nên cần phải dựa Viên giải thích. Tiếp, "Nhất tâm tam quán" đến "pháp Nhị thừa": Tiếp nêu đồng bộc (tôi tớ) thần tá lại dân sở thừa, bởi vì sở thừa không ngoài các quán cho nên vậy. Tùy theo giáo dụng quán tức tương đương sở thừa, nhưng cảnh trí đây tuy tức tùy giáo mà đồng là Viên nhân sở dụng đốc thúc sai khiến. Tuy thông nhân quả mà không đồng trải qua địa vị, biệt biệt đương phần, cho nên nhân quả đây đều là Viên gia sở dụng. "Vô số": Do đây các pháp này không ngoài quyền thật. Thần tá lại dân sở dụng thật. Đồng bộc... là sở dụng quyền. Đây cũng là nhất thể quyền thật, đều là sở hữu của trưởng giả. "Chẳng những...": là kết nhiếp giải thích trước, không ngoài giáo quán. Giáo quán có nhiều, cho nên mỗi giáo bốn môn, mỗi môn có quán. Tuy là vô lượng mà chúng sinh được gia bị không dư. Hai chữ "nhập xuất" trong văn có bốn giải thích: Ba giải thích đầu là tự hành, một giải thích sau là tự tha. Trong ba tự hành thì dùng song phi làm "nhập", song chiếu làm "xuất". Phen tiếp: Xuất nhập tương đối, bản tương tức. Gọi là "xuất nhập" cũng lại xen nhau đắc, cho nên trí thể đây xuất nhập xen nhau chiếu. Hai giải thích này căn cứ Tam đế mà nói. Tiếp "vô lượng...": là căn cứ Nhị đế mà nói. Hai, ba khai hợp đầy đủ như Huyền Văn. Thứ tư, trở lại dùng thứ hai, ba trước, tự lợi hóa tha. Cho nên biết đây đều là Thánh vị, nghĩa tự tha bao hàm ý "giàu", nên cần các giải thích. Đây là quán đế, lại chỉ tại Thật, đối Quyền nghĩa lập có gì không thể ư? Chỉ dùng hai đối bất nhị, nhị đã nhiếp Quyền, cho nên không nhọc. "Hành nơi phi đạo": về lý thông ba cõi, ngoài pháp tánh đều gọi là phi đạo, từ pháp tánh mà xuất làm lợi ích cho chúng sanh trong ba cõi. Công quy về nơi Phật, cho nên gọi là trở về chính mình (quy kỷ). Đây chỉ là công quy pháp tánh Phật đạo.
"Khách thương buôn bán (thương cô cổ khách)...": Lẽ ra nói chữ "mãi", nghĩa là ở nơi mua bán gọi là "mãi", thông vật gọi là "thương". Nếu nói chữ "giá" thì chẳng phải chánh ý văn. Chẳng những đức Phật tự hóa chúng sanh vô biên, mà còn khiến Bồ-tát hóa cảnh cùng khắp. Bồ-tát hóa độ lợi ích cũng như giúp cho bản Phật. "Qua lại các nước": đầy đủ như các kinh nói Bồ-tát trong mười phương qua lại thọ lợi ích. Kinh Hoa Nghiêm, kinh Đại Tập cũng theo lệ kia. "Như thế gian...": Thí dụ hướng hai giải thích, khiến tha như Bồ-tát, cũng tự như hai thân. "Đầu tiên, bên trong hợp...": Đầu tiên thông luận Đại ý. Tiếp, "Quán...": nêu tà tuệ sở quán. Nói "Quán sát năm ấm...": trở lại dùng tà quán, quán ấm đoạn thường. Dùng tà tuệ đây ngầm giúp chánh, trở thành nguyên do thấy Phật. "Khổ cảnh làm cơ": Lại hướng tà tuệ trợ chánh thành cơ, nhưng nhân khổ ngoại đạo ứng chiêu cảm khổ quả, cho nên nói "khổ cảnh". Do đới chánh chủng huân tập tà tuệ tâm, cho nên được thành cơ cảm chánh tuệ Phật. "Niết-bàn thông bán mãn": Danh đồng mà thể khác, đều hiện sở cư, hóa vật danh khác mà cảnh Phật không khác, cho nên chỗ con đến hai nghĩa song thành. Cơ thuần thục, nếu chứng thì chứng cái mà cha chứng, gọi là "đến thành cha". Đây chính là tiểu căn cơ trước bấu víu đại ứng nghĩa lập cùng tử rồi đến thành cha, cho nên khiến thành gọi là "Niết-bàn". Đại tiểu cả hai đều đắc cho nên dùng "bán mãn" chung thâu tóm vật cơ. Cơ đã không đồng thâu cũng trước sau. "Cha hằng nhớ con...": Trước tuy cơ dần dần bám víu Thánh, nay nêu Thánh dần thâu cơ, nghĩ hóa đạo nên nói "lo nghĩ".
"Chưa từng hướng đến người nói...": Văn căn cứ hai ý để trình bày nghĩa đây. Trước phương tiện, tiếp cõi đây. Đầu tiên, phương tiện: Trong phương tiện kia chẳng những chỉ có Địa tiền, Trụ tiền, mà còn có thùy tích đăng Địa đăng Trụ, tức thần tá... lẽ nào hoàn toàn không biết cơ tánh cùng tử? Chỉ căn cứ cùng tử nói "Thời chưa đến". Chủ bạn cùng nhau che Thật chưa thích nghi, Quyền từ căn cơ chúng sinh cho nên gọi là "không nói". Do trong giới nội năm người đoạn Thông hoặc, tức chưa kham hiện rõ ràng nghe nói "như vậy", cho nên không hướng đến thần tá... nói. Lấy làm thần tá mà ý tại đồng bộc. Trong đó chỉ Tiểu cho nên nói "không hướng đến". Sở dĩ trong tâm trưởng giả đều nghĩ là con mình, nhưng từ cơ khác cho nên lập lấy Tiểu danh, dần dần dẫn dụ mới thành "thần tá". Cho nên biết pháp thân vốn tự cao xa mà sáng suốt. "Lại từ khi xuất thế đến nay...": là ý thứ hai: Dẫn nêu cõi đây giáo xưa hiển lộ chưa nói, đối đây che kia, cho nên gọi là "không nói". Vậy thì trước lập nghĩa thắng Ứng, nghĩa kiêm hai nơi. Nói Liệt ứng để hợp căn cơ thiên lệch kia, cho nên nói là "không nói" thông đến bốn vị, trong bốn vị đầy đủ thần tá và đồng bộc... "Đã chẳng phải...": là giải thích người Tiểu thừa trong ý thứ hai. "Như điếc câm...": chỉ thời Hoa Nghiêm. "Hoặc hoa trước...": chỉ thời Phương-đẳng, nói "không kịp" tức kiêm nơi Bát-nhã, mà không mong cầu lấy tức việc kia. "Hoa trước...": tức Thân-tử. "Khí bát" tức Không-sinh (Tu-bồ-đề). Cho nên phải biết rằng nói "không nói" thì có liên quan gì đến Pháp thân Bồ-tát?
"Tâm rất ăn năn...": Là giải thích nguyên do xa, nguyên do xa tức là duyên không nói. Bởi do xưa khi kết Đại thừa chưa nhập tương tợ. Cảnh tỉnh mình chê trách con cho nên nói không siêng. Do đây thoái đại mất sự điều phục thuần thục giữa đường, cho nên nói "không có dạy bảo". Trái mình hướng đến người, Cho nên nói "trốn chạy". "Trốn chạy" có ba nghĩa:
1) Cơ dứt ứng với từ chối.
2) Trái mình hướng người.
3) Ở nơi không nên ở, tức năm đường.
Cho nên khiến Như Lai vô duyên mà nhớ. "Giận con...": là chuyên bài xích nơi con. Chẳng những hối việc minh sớm dứt cũng chính giận con cơ sinh đến nỗi khiến xa thưa theo chánh pháp ta, thân gần theo sáu trần khác. "Nội hợp...": Vì luận thoát nạn phải tịnh sáu căn. Căn cứ lý thoái, phần nhiều tại trước ngũ phần vị để đối với vị Bất thoái. Lại dùng năm phẩm làm Thoái vị. Văn giải thích hối hận, phân đối tự tha, theo ý cũng có thể đều đối kia đây. "Kỳ hạn hóa độ...": Căn cứ ý sau giải thích, tức ứng thế cho đến trước Pháp Hoa, cho nên nói "già yếu (lão hủ)". "Cũng không căn cứ đây...": Là không căn cứ ứng hóa Thanh-văn. "Dận" là nối nghiệp. "Nếu Thân-tử thọ quyết" đến "bất đoạn": nghiệm biết thọ ký vì dẫn căn cơ chúng sinh. Quyền Thật đều như vậy cho nên nói "chúng sinh đời sau...". Lại tu tịnh độ cùng chúng sinh kết duyên, khi Thân-tử thành Phật, khai quyền hiển thật thì Phật chủng không đoạn nơi phương kia. Cơ duyên thành thục nơi cõi kia, trong đó cũng có chủng ở nơi Đức Phật Thích-ca, thoát quy về Thân-tử cho nên phải hội đây rõ ràng phát ngôn. "Nếu Thân-tử không thể hóa..." trở lại dùng không để giải thích có. Nếu
Thân-tử tự không có căn cơ thành Phật, thì Thân-tử sở hóa sao được thành ư? Cho nên lấy đây hiển nay khiến có cơ sở. Kinh nói "chung một (khi chết)": Là chỉ khi Niết-bàn. "Lại nghĩ...": ý thứ hai: Trước nêu khổ mất con, vốn hiển tìm được con thì vui, cho nên kinh nói "Nếu ta gặp đặng con...". Dùng hiện tại để nói vị lai, là nêu sinh lĩnh giải thuần thục. Tổng thí dụ luận đủ Quyền Thật từ đầu đến cuối cho nên được song biện Thắng liệt hai ứng và dùng Liệt ứng hóa đạo từ đầu đến cuối. Cho nên, trong bản thí một hàng trước nói Thật, một hàng sau nói Quyền, huống chi khai sáu nghĩa Quyền Thật đối nhau. Từ "Pháp thí" đến "xen nhau nêu": Cảm ứng đạo giao không trước không sau, chỉ tùy văn tiện xen nhau nêu một biên. Trước nêu không đồng. Tiếp, "Căn cứ Phật...": căn cứ chúng sinh và Phật xen nhau luận như Chỉ Quán nêu trong ý cảm ứng. Trước phàm Thánh tương vọng xen nhau làm nhân duyên. Tiếp cảm ứng đạo giao tự tha phá rồi thì mới gọi là "bất tư nghì phát". "Nay dùng văn tiện lợi": Đây tuy có ba văn, lại y hai văn giải thích cho tiện, chẳng phải tức hai văn này khiến thấy có trước sau. Cho nên, phần đầu biệt thí lại theo phần sau thoái Đại ở thời ngũ trược, nên có ba văn.
Từ "Nguyên do thấy cha"... đến "triển chuyển (lần hồi đến nhà cha)": Là do chán khổ... Tánh của hai thứ Kiến, Tu đều có nghĩa chán. Tu suy tìm lý, kiến yếu đuối sinh đoạt độn. Các kiến xen nhau hưng khởi đều có thể suy tìm lý. Pháp "dung nhậm (làm thuê làm mướn)" là dùng sức để đổi lấy tài vật. Vốn khởi tà kiến lại mong thoát khổ. Tuy lại là tà cầu mà đã ngầm giúp cho chánh đạo. Cho nên, khiến thế gian chán khổ, bèn trở thành xuất thế thiện cơ. Thế đổi lấy xuất thế cho nên nói "làm thuê làm mướn". Từ một đến một cho nên nói "lần hồi". Nói "thiện căn": Cũng là nghĩa có khả năng sinh, nên có lý chuyển đến. Cho nên nói: do đây bèn đến nhà cha. Không cầu mong mà hội, cho nên gọi là "ngộ" (gặp). Không là ý nhân nơi pháp thế gian bỗng cảm đến từ bi xuất thế gian, lại không là ý thế gian tà suy tìm mà sinh chánh kiến cảm đến Phật. Lại không là ý trong Tiểu thiện mà ngầm vào Viên môn Đại thừa. Đại Tiểu hai cơ cùng bấu víu nhà này. Đại cơ chưa thuần thục, chính là thấy đó mà xa. Tiểu cơ cảm ứng khá gần nên đứng bên cửa mà trốn. Do đó từ Thoái từ Cuối nghĩa tương đương cả hai cùng bấu víu từ Bản từ Đại riêng tại nơi Viên, từ cận mà luận đàm căn cơ thiên lệch trước cho toại ý. "Nơi thấy cha tức bên cửa": Trước thì ở nơi Đại Tiểu cùng bấu víu, nay mới riêng chỉ "bên cửa" do Tiểu cơ gần. Nói "Hai quán là phương tiện": tức là Nhị biên đều có nghĩa được thấy, cho nên tổng mượn chứng. Nhị biên đều thiên, thiên chân rất hẹp. Từ "Chánh kiến có hai" đến "gọi là xa": là trong chánh kiến lại phân đây làm hai: Gần tức các chúng Bồ-tát trong Hoa Nghiêm; xa tức Nhị thừa, cả hai đều chưa hợp chỉ ở bên cửa. Trong văn có hai giải thích: Trước cơ, sau ứng, đều gọi là "xa". "Ngồi giường Sư tử"; là giải thích sở biếu: Về sự thì tòa Sư tử cũng không có hình dáng Sư tư, chỉ có sở biểu. Cho nên Đại luận nói: Đức Phật làm Sư tử trong loài người, cho nên chỗ Phật ngồi gọi là "tòa Sư tử", điều Phật nói gọi là "Sư tử hống". Các người Thanh-văn thuật lời Phật nói mà còn được gọi là "tác Sư tử hống". Bộ tuy kiêm Biệt mà theo thắng theo bản, cho nên gọi là "Viên báo", đây chính là dùng bản của căn cơ. Cho nên từ đây trở xuống đây đều cần giải thích theo Viên giáo.
"Bảo kỷ (ghế báu)...": một ghế đỡ hai chân, định tuệ sở y không sai khác, từ định gọi là đế, từ tuệ gọi là cảnh, đầy đủ như Chỉ Quán quyển ba nói. Cho nên hợp nói "Vô sinh định tuệ nương Chân như cảnh" tức sức định tuệ trang nghiêm pháp thân, từ sở gọi năng cho nên nói "Vô sinh định tuệ". Nói "nương Chân như cảnh": Dựa cảnh thành tựu quán nên gọi là "nương", quả thể khởi dụng lại gọi là "nương". Lại từ nhân mà nói, thì nhân tánh có tu cho nên gọi là "nương". "Xưa nói..." là nêu giải thích của người xưa, hơi giống như nghĩa Biệt, chẳng phải là cái mà nay dùng, chuẩn theo lệ dễ biết cho nên không cần phá. Tiếp, "Xưa nói kinh này...": là xưa có bốn lỗi:
1) Pháp thân không phải thường.
2) Tha phương vì đây.
3) Lấy ứng làm pháp.
4) Đối diện trái giáo.
"Nay cho rằng...": trong phần phá nói "cha con...": Cha con ví như cơ ứng, trước là thí dụ sau là pháp. "Mặc, cởi" ví như thể dụng, đầu là pháp sau thí, cả hai đều không thành, vì "nghĩa mặc cởi" sai khác. Văn trước đã phá.
Từ "Lại không chấp nhận...": lại phá phương khác tự có ba tiết. Sư đây cũng dùng tha phương là Di-đà. Nếu dùng thân tôn đặc (tôn trọng) làm Di-đà thì đây có ba (thất) lỗi: Đại tiểu hai cơ đều tại Phật nay, chính là thành thấy y xấu làm bấu víu đây, thấy chuỗi anh lạc làm bấu víu Trưởng giả kia. Kết duyên cũng như vậy. Lại, ngày xưa Đại tiểu hai duyên đều tại đức Thích-ca, nay thân tôn đặc, y xấu đều tại Di-đà lại thật đáng cười! Cho nên ý thứ ba lập nạn càng khó. Xưa duyên Đại tiểu nhất định tại Phật nay, lẽ nào ứng ngày nay song ứng phương khác? Lại sao được Đại ứng tại cõi kia, Tiểu ứng tại cõi đây? Ý thú bình đẳng nghĩa cũng chưa thành, đầy đủ như trước phá.
"Nay nêu rõ...": là chánh giải thích: Đây tức nối tiếp trước giải thích từ Phật ứng thế đến nay. Cho nên, biết Thắng ứng tại Hoa Nghiêm. "Nay kinh...": là phá không phải thường trụ. Người xưa đều nói: "Niết-bàn nêu thường, Hoa Nghiêm pháp giới, Pháp Hoa không nêu", tức là không hiểu bộ loại "Kiêm, Đản, Đối Đới". "Cấu y (y xấu)": chính là trình bày xưa nói; xưa còn không nói y xấu, tại sao có thường trú? Từ "Sở thuyết pháp tướng" đến "không khác biệt": là nay ý kinh kết hội từ đầu đến cuối. Giả sử luận pháp tướng như kia Viên thuyết, thì nay chẳng phải hoàn toàn không có mà văn tướng có lược. Trong bộ Hoa Nghiêm không ngoài bốn mươi hai vị, y chánh tự tại gần thiện tri thức. Kinh nay nêu vị, đầy đủ như mưa bốn thứ hoa. Khai thị ngộ nhập; tri thức đầy đủ như các phẩm Quan Âm, Diệu Âm, Dược Vương, Nghiêm Vương; y chánh đầy đủ như phẩm Phân Biệt Công Đức, Bảo Tháp, Thần Lực, chỉ có lược rộng có chút khác, nêu một ước lệ cho nhiều. Cho nên, bên dưới văn sớ nêu mười nghĩa biện rõ sai khác, đầy đủ như nói mười phương, có chỗ nào không nhiếp? Lý thật tướng không sự nào không thâu! Lẽ nào mê rộng lược mà mất Đại thể? Tổng như Huyền Văn nói Thập diệu dẫn các văn để chứng minh, tức tướng kia. Người không thấy điều đó, thì vọng sinh bỏ chọn. Cho nên, kinh này nói "Không, vô sở hữu...": là nói Thật tướng các pháp. Thấy Phật thường tại bình đẳng với người cõi này không hủy báng các sự. Lầu nhà các thứ trang nghiêm, chúng sinh đủ thứ dạo chơi trong đó, cho đến tích môn nhân quả các tướng. Phần nhiều người lấy văn Hoa Nghiêm để tiêu kinh, tính toán thông suốt chứa đựng ở kinh điển này là hàng đầu lấy cho phân tán ở các kinh. Nếu Đại bản mất, thì uổng luận Tiểu lợi. Từ: "Cư sĩ" đến "tức tam thập tâm": giữa đường dừng trong đó lấy "dân" làm Thập trụ, "thần" làm Thập địa, nay cư sĩ là dân, do văn hẹp nên không phân thần... cũng Viên bốn mươi mốt vị vậy. Từ: "Chân châu" đến "Pháp thân": đều là cứu cánh giới Lăng Nghiêm định Nhất thiết chủng tuệ Pháp âm Đà-lani trang nghiêm Viên nhân bốn mươi mốt địa. Địa là đối tượng bước lên, thân là chủ thể bước lên. Tứ là năng nghiêm, thân là sở nghiêm. Nếu dùng nhân xa cũng dùng sơ tâm viên giới định... để nghiêm tánh đức. Nếu từ nhân nói thì cũng là phục sức của bốn mươi mốt vị đến quả, đồng đều trang nghiêm pháp thân cùng tột.
Nói "giá trị": Có sang, hèn nên như các vị. "Lại, dân...": Trước nói "vây quanh" thì không nói "lại, dân". Nay nêu đứng hầu thì cùng "tôi tớ" chung hạng cho nên biết lập danh tùy nghĩa không thể nhất định. Vốn thí dụ sự lý sao được như ôm cây đợi thỏ, nên trước dùng "lại dân" tại Thật, nay đây "lại dân" Quyền nhiếp. Cho nên, tại đồng khác hai môn, bỏ qua chi tiết là đồng, đương phần là khác. Vậy thì, đồng là đồng thể, khác là khác thể. Khác thì căn cứ thiết lập Quyền, đồng thì dựa theo khai hiển, chỉ một lại dân mà nghĩa đương thuộc hai. "Nội cùng...": Là giải thích chữ "đồng", đồng từ bên trong đồng được tên, bên ngoài đồng làm hiển bên trong. "Dụ như...": là dụ hai nghĩa trước, cũng như quan lại hiền lành thì bên trong ứng ý chủ, bên ngoài dùng sai khiến, cũng như yếu thần bên trong thì làm bầy tôi của nước, bên ngoài thì làm chủ lớn của dân. Thể thần không riêng sở đối không đồng.
Hỏi: Trong đây tuy là tòa Hoa Nghiêm, "Thắng ứng tướng trạng" cùng "trước giữa đường dừng" nghĩa ý phần lớn đồng, vì sao trước dùng "nô tỳ (đồng bộc) làm Biệt giáo Hiền vị, "lại dân" làm Viên giáo Thánh vị ư?
Đáp: Nói tuy có chút khác mà ý cũng không khác, tùy cách nói kia bèn thuận tiện để hiểu kinh, vì ngoài đồng bộc ở trước còn có thần... bốn thứ nên biệt phân. Trong đây chỉ nói: "lại, dân, đồng bộc" chung làm một vị vì làm đối tượng sai khiến. Lại, ý ở đây đoạn Biệt hoặc, tức nhập Địa, Tru, chẳng phải người sai khiến. Lại, đây cùng dừng lại trong thành, tuy tức đồng mà là tha thọ dụng báo.
Đây đã thị nhập Nhẫn giới làm Bồ-đề tràng, làm khởi đầu các giáo, cho nên thêm như thế để phá bụi trần "bạch phất", che phủ lấy từ bi làm "bảo trướng". Trước trình bày chỗ ở, sở hữu của trưởng giả, nay nêu sở kiến sở hữu của cùng tử. Sở hữu đã đồng rộng lược chuyển dụng. Trong cụm từ "Đứng hầu vân vân" thì "vân vân" là: Trong nay vì là phương tiện trung đạo, đều thích hợp Địa tiền để giải thích "lại dân", giữa chánh, hai bên, dân, chủ sai khác, căn cứ theo bộ nên nêu rõ thứ lớp và không thứ lớp, cho đến hai giáo, giáo chủ không đồng, đều có nghĩa "đứng hầu, quét bụi" khác nhau. "Các hoa phan đẹp thòng xuống": Tứ nhiếp hiện thần thông lợi hạ gọi là "thùy"; tuy hoa và phan đều rũ xuống mà hoa trang sức cho phan như thần thông có tứ nhiếp, người thấy thì sinh hoan hỷ. Lại tuy phan và hoa đều động mà được danh xứ sai khác. Phan đặc biệt dịch chuyển, hoa thì căn cứ đoan trang tốt đẹp. Thần thông hạ hóa khiến chúng sinh vui thích, vận hai thứ này, ắt là thượng đẳng vô duyên, cho nên đều như "trướng" treo lơ lửng, dụng xứng nơi thể như che khắp trên Phật. "Hương thủy...": Nếu căn cứ tự hành thì như giải thích thứ hai. Nếu không dùng "nước thơm tưới lên đất", thì trướng, phan hoa bị vấy bẩn bụi trần nên dùng nước trí hương tưới đất thật tướng, trị sạch tam hoặc trần thì Như Lai trưởng giả Từ... đều tịnh. Nếu căn cứ giải thích đầu thì nước thơm tưới đất tâm Bồ-tát. Đã từ lợi tha tu nhân để giải thích, cho nên biết bảy thứ tịnh phải từ nhân Bồ-tát hạnh để giải thích, danh tuy đồng tiểu mà đây tức Viên giáo. Cho nên, nêu tam tụ và Lăng-nghiêm... Nếu y phương tiện thì tùy giáo nghĩa biệt. Nay y Viên tâm đều do bảy thứ đây ban khắp các địa. Tự hành thì hành nay, khiến tha tu nay, cho nên trong văn đều y Viên giải thích.
"Trưng bày la liệt...": Hoa tiêu biểu nhân nghiêm, báu tiêu biểu quả đức, nhân quả vạn đức đều nghiêm thật lý cho nên khiến la liệt bày đều tại nơi đất. Đất chẳng phải là hoa báu mà bày khắp hoa báu, lý chẳng phải nhân quả mà tu chứng nhân quả. "Xuất nạp: như trước giải thích vân vân": chỉ bốn lớp trước, chỉ vì trước thì chỉ tại quả nay có thông nhân. "Tướng hải (biển)": Toàn chỉ Hoa Nghiêm phẩm Như Lai Tướng Hải và dùng phẩm Tùy Hảo Quang Minh trong đó nêu rõ Tỳ-lô-giá-na đầy đủ mười Liên-hoa-tạng thế giới hải vi trần số tướng, mỗi mỗi đều dùng diệu tướng trang nghiêm, cho nên nói: "cần giải thích theo nghĩa Phật Xá-na".
"Thấy cha sợ tránh": Cha con thấy nhau tuy ví như cảm ứng đạo giao bất khả tư nghì. Nhưng nếu căn cứ hóa sự tiệm giáo để luận, thì nói "Cha trước thấy con" là Như Lai quán xét căn cơ, đạo lý như đây. Nay nói "Con trước thấy tướng cha và xứ...": chẳng phải tức đã thấy mà đều là căn cứ cơ ứng, thuật đủ đầu đuôi nguyên do thọ hóa. "Hoặc là vua, hay bực đồng vua": Đã nói thấy cha sợ tránh tức tại sơ giáo đốn tiệm. Nếu căn cứ trước đốn tiệm thì chưa có nghĩ sợ ma, căn cứ tiệm cơ đối Đại thì luận "sợ tránh...", cho nên nói "chưa từng thấy nghe...". Từ "Lược khai" trở xuống: là dùng sau để nghiệm trước, nghiệm trong khả năng của xưa, đầu tiên cho Đại thì quá sức Thân-tử khi nghe Phật lược thuyết, cho nên nói: "Quá sức ngày nay". "Lại nữa...": là lập lại giải thích ý. Căn cơ tiểu thừa lúc ấy lẽ nào biết hai thân? Cho nên thuật trong căn cơ không thọ, cũng như cùng tử thấy vua hoặc bậc đồng vua.
Hỏi: Pháp thân là thầy của Báo, sư đệ nghĩa khác biệt vì sao nói là ngang đồng?
Đáp: Đây đồng là con của thầy như Pháp, Báo tương xứng. "Các kinh phần nhiều gọi là Kinh vương...": Lần nữa lại căn cứ Giáo mà giải thích. Các kinh có nêu nghĩa Pháp thân tức gọi là Kinh vương. Trí khế hợp pháp tương xứng gọi là bình đẳng. Cho nên trong căn cứ cơ đối pháp đối trí, gọi là "vua, bực đồng vua", tức các bộ Đại thừa cùng Tiểu thừa đối nhau. Người đời không hiểu thấy các kinh Đại thừa xưng là Kinh vương, bèn cho rằng kinh Pháp Hoa đồng các giáo kia. Nay cho là nhũ và hai tô đều luận Pháp Báo, tuy đều xưng vua mà chẳng phải vua của các kinh.
Dù có kinh nói: "Vua của các kinh", nhưng không thể nói từ xưa đến nay đương thuyết pháp đệ nhất tối thắng. "Kiêm, Đản, Đối, Đới" nghĩa kia có thể biết. "Tư" là phóng ra, phô bày ra. "Khi đó ông trưởng giả giàu..." là "thí dụ thấy con": Nhưng các Thanh-văn trước lập thí dụ con thấy cha, ví khéo dụ lãnh Tiểu gặp Đại mà trong căn cơ không thọ. Nay lập thí dụ cha thấy con, là diệu dụ lãnh Phật thấy căn cơ mà không mưu tính nhưng thường biết rõ. "Thấy con, xử lý": Như Lai chẳng khởi Không tòa mà hoan hỷ thích hợp nguyện. Cho nên chỉ căn cứ hóa nghi mà nói cha thấy con. Lẽ nào dùng Phật nhãn mà Phật đợi con thấy rồi sau cha mới thấy ư? "Nay cơ đến xứng hợp lòng Từ", Đại Tiểu đều đắc gọi là "lai xứng". "Kia nêu rõ cứu khổ...": là phẩm Thí Dụ, cũng nên nói Thí dụ trước thì Như Lai ban Từ, sợ chúng đọa khổ. Đây dụ các con lãnh thọ nhận đức Phật ban vui. Như Lai cứu khổ vốn ở ban vui, con lãnh thọ lạc rồi biết cứu khổ. Hai nơi nghĩa đồng, tùy văn xen nhau nêu ra. "Liền suy nghĩ rằng" đến "bất đắc": đây cũng thuật từ nơi thoái đại đến nay. Đã nhập ngũ trần, Đại pháp không phù hợp để trị, tìm mưu tính dùng Tiểu, Tiểu lại liền đến. Nay cơ tiệm đến mới thi thiết Tiểu hóa. Nói "dùng Tiểu": tức không phải cho rằng thời xưa đã đắc nơi tiểu, cũng chẳng phải đời nay mới dần dần đến Tiểu. Cho nên, ngày xưa không gọi là "cơ đến", thì có ai đâu để luận trao của cải? Cũng không hoan hỷ, cho nên chỉ nói "xưa thấy muốn cho bình đẳng...". "Ngày nay" đến "có người để giao phó": thấy Tiểu căn cơ đến, thì biết cách Đại chẳng xa. Cho nên, mừng vì chúng là chỗ để giao tài sản.
"Ta thường...": là giải thích trước nay thoái Đại về sau, trước đốn tiệm không có thời nào mà không tư duy Đại Tiểu nhị hóa. Tuy Đại Tiểu đều lỗi, mà vì để lưu chuyển đối với tâm bi, nên khiến ngày nay giao phó tài sản có nơi. "Nay có căn cơ đáng độ sinh...".
Hỏi: Căn cơ sinh (là) do Phật, sao nói tự đến ư?
Đáp: Tuy cơ sinh là do Phật cảm mà cũng do chúng sinh. Lại, nhờ vào Trưởng giả thế gian tán thán con tự đến, tức xưa thì cơ không sinh nhưng nay thì có thể phát, vì tán thán cơ phát nên nói là "tự đến". Nếu cơ vẫn còn sinh thì truy tìm cũng không đến, sao có thể tự đến! "Ta tuy...": là dò xét nói hy vọng về sau. Hoặc như một kỳ báo thân sắp dứt, không có người giao phó nên tiếc. Như xướng diệt độ pháp đều tùy diệt, thị hiện diệt vẫn còn tiếc, cho nên gọi là "tuy".
"Liền sai người hầu bên cạnh...": Từ đây mới lãnh thi thiết đốn tiệm hóa, cho nên biết trước lúc ấy thí dụ đốn, trước tiệm hoặc Đại hoặc Tiểu. "Chỉ vì phẩm Phương Tiện" đến "đều lãnh giải": Ý nói văn tuy giảm, ý ắt đều tồn tại. Phẩm Phương Tiện đã vì thượng căn cho nên không cần biệt nói, Thí thuyết đã vì hàng trung căn cho nên cần phải tách tổng ra biệt. Trong hợp và tụng tuy lại thiếu lược mà dùng thí dụ làm chánh, còn lại đều kiêm xen nhau. Nay đã lãnh thí, cần phải thuật khắp. Nói "Chỉ vì phẩm Phương Tiện tổng răn, khuyên v.v...": sợ người suy tìm lộn xộn nên lập lại sớ nêu xuất. Trong chương Thích-ca ở văn phẩm Phương Tiện, chỉ nói "nghĩ Đại thiết lập Tiểu", tuy không nói khuyên răn sai biệt mà ý nói tại khuyên, cho nên nói "trong ba tuần tư duy các việc như vậy"; tức là dự định cho Đại vậy. Các căn chúng sinh độn, tức không có cơ. Các loại như đây, tức thôi hóa. Tức đến Ba-la-nại... tức thiết lập Tiểu. Tuy không nói răn mà nghĩa bao hàm hai môn. "Nhà lửa khai khuyến xuất giới": trước đây theo pháp thuyết tại Khuyến khai Giới, giải thích đều có ba. Trong Khuyến môn có ba: Đầu tiên nói "Trưởng giả tư duy rằng..." là dự định thích nghi. "Lại tư duy rằng nhà..." tức không có cơ duyên. "Hoặc đương đọa lạc...": tức buông bỏ. Trong Giới môn có ba: Đầu tiên nói: "Ta sẽ vì nói..." tức dự định thích nghi. "Cha tuy thương xót...": tức không có duyên. "Đông Tây ruổi chạy...": tức buông bỏ. Trường hàng hợp Khuyến, không hợp Giới. Trong Khuyến có ba: Đầu tiên nói: "Như Lai lại tư duy rằng: Nếu ta chỉ dùng..." tức dự định thích nghi. "Vì sao vậy? Vì các chúng sinh chưa tránh khỏi...": tức không thọ. "Như Trưởng giả kia tuy lại...": tức thôi hóa. Nói "Thôi hóa văn rộng": Trước trình bày trước sau ba thí dụ. Tiếp mới dùng ba hợp chánh nêu rõ thôi hóa. Đầu tiên, "Như trưởng giả kia": Là trình bày đầu không đắc một thí, chánh nêu rõ thôi hóa. Tiếp, "Chỉ do ân cần...": là thiết lập Tiểu. "Rồi sau đều cùng ban...": là đồng ban cho. Hai thí dụ này là phụ, hợp nghĩa thôi hóa. Tiếp, "Như Lai cũng lại...": mười sáu chữ, đầu tiên là chánh hợp thôi hóa cho nên nói rộng.
Trong kệ chỉ nói Giới (răn): Cùng đầy đủ có ba:
1) "Mới thích nghi cứu giúp...": Xuống bốn hàng rưỡi là tụng dự định thích nghi.
2) "Các con không biết xuống...": ba câu tụng ý không thọ.
3) "Hy hý...": một câu tụng thôi hóa.
Từ đây trở xuống dưới thuộc văn dùng xe. Đây tụng văn thí thì đầy đủ có ba. Chỉ tụng trong hợp cũng chỉ hợp Giới (căn). Có một hàng văn trường hàng và tụng vẫn tiến thoái hai giải thích. Đầu tiên giải thích cũng đầy đủ có ba. "Tuy lại dạy bảo", một câu: Dự định thích nghi. "Mà không tin thọ" một câu: Không có cơ duyên, "Ở các dục nhiễm" hai câu: Thôi hóa. Lại nói: "Hoặc có thể...": hai câu cũng tụng ý không có cơ duyên. Y giải thích thứ hai, cho nên nói "không tụng thôi hóa". "Liền sai người hầu bên cạnh...": là nêu đều lãnh thọ, nhưng nghĩa thì có sáu, văn chỉ có năm: Trước khuyến, giới đều có hai nghĩa là dự định thích nghi và không có cơ duyên. Tiếp, Khuyến và Giới hợp nhất, tức hai môn thôi hóa.
Tiếp "Sai người bên cạnh": Là căn cứ giáo, căn cứ nhân. Căn cứ giáo thì Lý giáo vọng nhau, căn cứ nhân thì Sư đệ vọng nhau. Nhân ắt chỉ giáo, giáo ắt đãi nhân. Hai giải thích mới cùng khắp không thể hiển thiên vị. Đầu tiên ước giáo; lý tức Pháp thân, trí tức Báo thân. Do trí, nên nói "trí gọi là năng sai khiến", trí tuy năng sai khiến mà sở y thì nơi lý. Năng sai khiến như "thần", sở y như "vương". Sở sai khiến là giáo, cho nên lý thì chánh giáo thì phụ. Cho nên, báo vọng giáo, thì báo cũng gọi là chánh. Nhưng báo do lý thành, lý thì gần báo thì xa, cho nên trong hai chánh thì theo gần để nói. "Lại, người bên cạnh...": là căn cứ nhân giải thích: Trong kinh Hoa Nghiêm sau phẩm Hiền Thủ, phẩm Thập Trụ nói tại cung trời Đao-lợi, thập Tuệ Bồ-tát, thì Pháp tuệ là đứng đầu, chín Tuệ còn lại đều dùng kệ tán thán. Tiếp, Pháp Tuệ Bồ-tát rộng nói Thập trụ. Tiếp, phẩm Dạ-ma Thiên Tự Tại có thập Lâm Bồ-tát, chín Lâm cũng đều dùng kệ tán thán rồi. Công Đức Lâm rộng nói Thập hạnh. Tiếp Phẩm Thăng Đâu-suất có thập Tràng Bồ-tát, chín Tràng cũng đều dùng kệ tán thán rồi tiếp Kim Cang Tràng rộng nói Thập hướng. Tiếp phẩm Thăng Tha Hóa có ba mươi sáu Tạng Bồ-tát, Kim Cang Tạng đứng đầu, có Bồ-tát tên là Giải Thoát Nguyệt thỉnh nói Thập địa. Bốn Bồ-tát khi nói các giai vị "Trụ, Hạnh, Hướng Địa" đây đều nói rằng: "nhờ Phật lực mà nói", cho nên gọi là "sở sai khiến".
Tiếp, trong phần "Giải thích Chạy nhanh" cũng căn cứ nhân, giáo. Trước, trong căn cứ giáo chỉ dùng hiển lộ làm "nhanh". "Nếu dùng Bồ-tát...": là lần nữa thuật căn cứ nhân. "Bồ-tát tự có thần thông, lại được Phật gia bị", cho nên gọi là "nhanh". "Trái tâm...": Trái ắt không biết kinh sợ, ắt ngạc nhiên như thấy bất ngờ, trái tâm không biết, giáo đây đối với kia cũng lại như vậy. "Lớn tiếng kêu oan": Kinh chỉ nói "oan" mà không nói khổ, trong sớ văn giải thích sở dĩ kêu lớn tiếng là vì khổ đau, do đó đầy đủ có hai nghĩa: Gặp oan ắt khổ nên gọi là kêu lớn, nghĩ như thế nghĩa lý hợp đúng. "Nếu khuyến phiền não tức Bồ-đề" thì chính là khiến cùng tử không đoạn phiền não. Phiền não không đoạn ắt chiêu cảm khổ báo; lẽ nào có "sinh tử tức Niết-bàn" ư! Vì vậy cho nên "lớn tiếng kêu oan" nghĩa đương nhân quả, văn ý trình bày cả hai. "Tự nghĩ mình vô tội...": Là tự tỉnh chưa thể đồng chúng sinh nhập ác khởi tham dục.... Nay nếu làm điều đó thì gọi là tội hành. Bồ-tát ắt vào sinh tử lao ngục, cho nên nói "bắt giữ". Không có đại phương tiện: Là không nhập giả trí khiến khởi tham dục, vào sinh tử gọi là mất tuệ mạng. "Ắt đọa...": hai giải thích, "đọa trong ba đường khổ" thì Đại Tiểu đều mất. "Chìm đắm trong vô minh địa", "địa" cần theo nghĩa bao gồm giới nội và giới ngoại.
"Căn cứ nhân làm sứ giả": Pháp chọn căn cơ cần thân đồng loại. "Tịnh Danh...": Sai hóa Bồ-tát qua lấy hương phạn, Bồ tát cõi kia thấy hỏi hóa Bồ-tát. Hóa Bồ-tát đáp, do Bồ-tát kia nghe nói cõi uế đây Đức Phật và Bồ-tát có khả năng nhọc nhằn, khiêm tốn, vị kia nghe muốn đến thành tựu hạnh song lưu. Đức Phật kia khuyên răn dạy rằng: "Nhiếp thân hương...". Bồ-tát kia đến nơi đây cũng khiến ở cõi này người chưa phát tâm thì phát tâm, người đã phát tâm rồi thì tu hành, cho nên khiến nhiếp thắng theo liệt, hiện đồng loại. "Phổ Hiền nhập Sa-bà...": Phổ Hiền Bồ-tát thân lượng vô biên âm thanh vô biên, sắc tượng vô biên. Muốn đến nước này, ngài bèn dùng sức tự tại thần thông thúc thân khiến nhỏ, vì người cõi Diêmphù đề ba chướng nặng nề; dùng sức trí tuệ hóa cưỡi voi trắng, cũng vì chúng sinh không thích nghi thấy Thắng ứng thân. Cho nên Bồ-tát thắng báo thân cũng không thể khiến nhị thừa thấy.
Hỏi: Nếu như vậy, thì kinh tại sao không nói "Ông chớ khiến thấy thân uy đức" mà chỉ nói "Chớ cưỡng đem đến" ư?
Đáp: Thân nếu đồng loại thì dẫn dụ ắt đến, thân ông còn hơn ắt khiến kia sợ hãi. Cho giả rằng: nên bảo sứ không cần cưỡng dùng thắng thân để giáo hóa, cho nên nói "chớ cưỡng ép".
Nói "chớ cưỡng ép" giải thích thành câu trước. "Riêng bảo rằng...": trong đây tuy không nói "tư duy", nhưng tại văn thí dụ Khuyến và Giới môn đều có lời nói này. Trong Khuyến môn, dự định thích nghi tức nói: "Liền suy nghĩ: thân và tay ta có sức mạnh". Trong Giới môn, dự định thích nghi tức: "Tư duy như vậy đầy đủ, rồi bảo với các con". Cho nên, riêng dẫn. Cần thì liền sinh thiện cho nên nói "không cần" tức thôi khuyến thiện. "Cưỡng ép" tức răn ác, cho nên nói "chớ cưỡng ép", tức thôi răn ác. Từ "Nên dùng" đến "như mặt": Biết chúng sinh kia chỉ thích hợp nghe giáo sinh diệt, cho nên dùng lý "Khôi thân diệt trí" mà thuyết giáo lý Hữu, cho nên nói "nước Lý". "Mặt" là dùng hướng để giải thích. Có trái sinh tử hướng cơ Niết-bàn, cho nên gọi là "diện (mặt)". Chẳng phải cho rằng: "Sái" Niết-bàn kia, gọi là "diện (mặt)". "Đừng nói chi với nó": "Nói" chỉ là giáo. "Không nói với người khác" cho đến "Bồ-tát": Trong đây nhất vãng chỉ nói xưa Tiểu nhưng trước Pháp Hoa các kinh Đại Thừa không nói Nhị thừa là Bồ-tát dẫn hộ trì Nhị thừa, lẽ nào liên quan đến Bồ-tát? Che Thật giữ Quyền cho nên nói "che giữ", cũng là che ấm đem hộ không hiển rõ Thật kia. Cho nên, trước Pháp Hoa ngoài nhất Thật ra đều gọi là "tùy tha". Lại nói "ẩn bốn vị", thông nói Tiểu thừa giáo. Do xưa hai vị còn có Tiểu giáo, nhất định không có nói "Tiểu thừa thành Phật", cho nên Nhũ và hai tô đều đối với Tiểu cơ mà nói là: "Không nói" đó thôi! Chính do bài xích thêm nói được tên hai vị. "Tức là thôi hóa" đến "từ đất mà đứng dậy": Trong đây có hai giải thích, hai địa không đồng hai khởi không biệt, cho nên dứt một đại hóa lìa hai chủng địa. Tán thán đại đọa lạc khổ cho nên có trước giải thích, dùng tiểu nhận được cho nên có giải thích tiếp.
Trong phần Giải thích tiếp, nói "Vô minh địa": Nếu nói "nằm ở đất" tức thí dụ hai vô minh, nếu nói "mà đứng dậy" thì lại từ giới nội, cho nên biết không giải Đại tiểu; đầy đủ hai vô minh đều gọi là "nằm". Đây phù hợp tiểu pháp, trước là trị giới nội cho nên lại nói "đứng dậy". "Trong Tứ đế" đến "y thực": thích nghi hướng đến cảnh sở đối, cho nên nói "qua đến". Tiểu vẫn tại cơ, cho nên dùng "muốn" để giải thích "cầu". Câu dưới mới nói "Trưởng giả toan muốn". Cảnh nhiếp pháp hẹp, cho nên nói "xóm nghèo". Muốn hướng đến Tiểu quả, lại cần chánh trợ cho nên nói "y thực". "Lại một ngày khác... là dùng ý lãnh Pháp thân địa": Kinh văn nói "ông ở trong cửa sổ" thì chữ "trong" đó là nói "tại trước Đạo thọ"; ý thì đều chỉ trước Tiệm Đốn giáo, để nói đến nạn vấn tôn đặc cho nên biết Thông đến trước Đốn.
Hỏi: Bốn đại đệ tử....Ý trong đáp: Đã nghe thí dụ rồi lãnh đủ hai chu, nhập Đại không dối cho nên tự xét nói "Nếu bắt đầu..." Nạp pháp đã trọng ắt có biết đây.
Căn cứ hóa nghi nói từ chỗ chấp nhận tiến thoái cho nên trước bằng nhau sau dò xét, lẽ nào có tự thâu hoạch Tiểu đến nay mới năm mươi năm mà đủ thấy cảnh giới Bồ-tát khó nghĩ bàn, nghe khắp các pháp dung thông hết thảy? Chẳng phải hoàn toàn không biết, nhưng chưa lường được nguồn gốc, tự xét mình tuyệt phần dự lãnh. Nay nhờ Pháp Thí, nhiễm được phần nào Viên thường, suy biết Như Lai ngày xưa như mặt trời trước chiếu. Cho nên, dưới đức Phật tán thán rất là hy hữu. Vì thế, dùng hai vị thấy, nghiệm trước thấy chẳng phải chân. "Thoát tướng Đại tiểu": Tướng là biển tướng lớn, hảo là biển tướng nhỏ. Toàn ẩn thân biển vô lượng tướng hảo, cho nên thí dụ nói "thoát". Tướng hảo khó lường dụ cho biển lớn khó lường.
"Mật sai hai người": Trong đó, trước là giải thích "hai người". Tiếp, "Đầu tiên dự định Đại...": mới giải thích "mật sai". Người là sở khiển, mật là ý sai khiển. Đầu văn trước hết nêu rõ ý chỉ có hai, cho nên đối Bồtát lại thông chỉ hai người. Tiếp, "Căn cứ pháp...": là căn cứ pháp căn cứ người để phân hai. Tiếp, "Giải thích mật sai": Trước thì đối người bên cạnh để biện rõ khác biệt, tức cùng mật hiển che lấp sai khác. Nay nêu "mật sai": Che thật gọi là "mật", dùng Tiểu gọi là "sai". Che lấp "mãn", nêu "bán", căn cứ theo lệ có thể biết tức là phân bán tự và mãn tự để giải thích. Cũng là từ Đại thiết lập Tiểu cho nên gọi là "sai", Tiểu không lường được Đại, cho nên gọi là "mật". Nhưng "bán tự mãn tự" không đồng giải thích của người xưa, nay phải tại Viên, đầy đủ như Huyền Văn. Căn cứ người, chuẩn theo lệ có thể biết. "Hình...": là tiếp giải thích hình sắc, cũng đầy đủ hai ý: Thứ nhất, căn cứ Tiểu giáo, trăm kiếp sở chủng tuy tại Tiểu luận mà không tại Nhị thừa. Cho nên Nhị thừa giáo không nói sắc hình tốt đẹp, mà nói vô thường gọi là "tiều tụy". Thứ hai "Căn cứ người...": ẩn Bản làm "mật", hiện Tích làm "sai", đầy đủ như văn dưới trong Phú-Lâu-na nói.
Hỏi: Nếu chuẩn theo văn dưới thì chỉ phát các Tích của Mãn nguyện và A-nan, vì các Thanh-văn cũng có bản ư?
Đáp: Nhập Đại Thừa luận nói: Không chỉ La-vân riêng là Bồ-tát, như các đồng tử, A-nan, Nan-đà và Điềuđạt... đều là Bất thoái Bồ-tát. Nếu vậy thì chỉ có Quyền mà không có Thật ư?
Đáp: Dùng Quyền dẫn Thật, lẽ nào ngoài các Bồ-tát này đều là Quyền ư? Đây cũng là nghĩa sẽ giải thích nơi bản tích.
Nếu giải thích "vô oai đức" thì tùy nơi hình sắc để giải thích. "Đại giáo...": Trước Đại giáo nhanh, cho nên nói "liền sai". Muốn hộ giúp chí Tiểu thừa, cho nên nói:
"từ từ nói". "Trả giá gấp bội...": Trong đó hai giải thích: Đầu dùng Giới thiện đế duyên tương đối làm một gấp bội, giới thiện tại Dục, đế duyên xuất giới. "Lại ngoại đạo...": lậu vô lậu tương đối làm một gấp bội, cũng là nội ngoại hai đối trị không đồng, gọi là một gấp bội. "Sáu hạnh" chẳng vĩnh viễn "đoạn", cho nên chỉ nói "phục hoặc", lược như Chỉ Quán quyển sáu nói. "Cùng tử nếu chịu...":
Là đối kia không chịu, cho nên phải nói "nếu". Hóa nghi chấp nhận cho nếu thuận vật tình, cho nên nói vậy. "Không luận tịnh Phật quốc độ": Tịnh Phật độ, nghĩa lược như trong kinh Tịnh Danh phẩm Phật Quốc nói ngang mười bảy câu, dọc mười ba câu, rộng như trong kinh Hoa Nghiêm phần hồi hướng nói, và các kinh Niếtbàn, Đại Tập, Trí luận các văn đều nêu đủ. Tiểu thừa không có điều này, mà chỉ khiến "hốt (trừ) phân", cho nên được thọ ký rồi mới tạo tu cùng chúng sinh kết duyên, chẳng liên quan đến đủ hạnh. "Nhị thừa" đến "trước hỏi lấy" là: Trước hỏi giá tiền công, cho nên nói "trước hỏi lấy", chẳng phải cho là đã lãnh hội cho nên nói "hâm mộ qua".
"Người cha thấy con...": Hỏi: Nếu "thương xót và trách nó", thì vì sao mật sai dạy cùng tử nhận lấy quả ư? Đáp: Người bên cạnh đuổi theo không đến sự cần phải mật sai. Tuy dạy "hốt phân" mà chẳng phải cha vĩnh viễn nhớ mong, muốn có sự rõ ràng để nói lời giao phó nên trước thương và trách nó. Đều ở đây là lãnh pháp thí đến văn đó xong, đây là thôi Đại cho Tiểu hai nơi đều có đoạn văn trước xong. Từ văn đây về sau, Pháp thuyết chỉ có khai quyền, Thí thuyết chỉ có đồng ban cho, đều thiếu hai vị trung gian. Nếu luận xét lãnh Pháp Thí hai nơi, thì tuy không có chánh văn nhưng chỉ nhãn (mắt) năng thấy pháp thí tức là Pháp thân. Cho nên tề giáo lãnh mà lại lãnh tiệm sơ, do đó bẩm thọ Tiểu gọi là "tề giáo". Biệt có xét lãnh cho nên nói "Lại một ngày khác", trong đó trước tổng thuật Lai ý, tiếp liệt chương, văn chia bốn đoạn. Nói "dự định thích nghi...": ý nói: Phật tại pháp thân dự biết ta có Đại Tiểu bốn ý cho nên nói "dự định thích nghi...". Tiếp giải thích chữ "lại (hựu)": Trước giải thích chữ, tiếp giải thích nghĩa. Tiếp, giải thích "ngày khác", giải thích hai chữ "ngày khác", trong đó trước tách ra để giải thích hai chữ, tiếp "Tề giáo...": là căn cứ hai lãnh tề thám, hợp xét hai chữ. Đầu tiên trong phần tách để giải thích nghĩa kia thì là tổng, do chưa phân tề giáo thám lãnh, tiếp hợp xét trong đó nghĩa thì phân biệt. "Tự tha..." ba thứ làm giáo thám. Đầu văn giải thích "tha" chia làm hai: Đầu giải thích, tiếp phê phán. Đầu giải thích: Căn cứ người Nhị thừa dùng Tiểu vọng Đại làm "tha". Tiếp phê phán: Trước nay căn cứ Nhị thừa, tuy dùng Đại làm "tha" mà chưa biết Đại đây vốn dùng thân nào? Nay phán đó tức Pháp thân. Tiếp giải thích "nhật": Đối pháp thân địa đã dùng Quyền Thật, Thật tự Quyền tha, trong pháp nhị thừa không có trí pháp thân cho nên gọi là "tha".
"Nếu từ...": là phán xét: Nếu từ pháp thân dùng Quyền trí, thì đối với người Nhị thừa cũng gọi là "tha". Tha đây phải chỉ Quyền trí Phật.
Tiếp, hợp chữ để giải thích: Trong đó có ba giải thích, tức y Đại kinh nói tùy tha v.v... và nói hóa tha..., có làm pháp thức vẫn đối hai thời tề giáo thám lãnh. Văn chia làm ba:
1) Giải thích ba tướng.
2) "Nếu từ...": là phán xét thuộc về nay.
3) "Nay từ...": dùng ý nay kết.
Phần một có hai: Trước, căn cứ hóa tha tức chỉ Tề giáo. Tiếp, căn cứ tự hành và dùng tự tha tức chỉ Thám lãnh. Nói "Tề giáo": Tức Pháp Thí hai văn chỉ đến Lộcuyển. Dựa theo giáo cho nên nói Tề giáo. Cái gọi là "Thám": Nghĩa là quá khứ dò xét hướng trước đạo thọ tịch tràng. Đầu tiên, Tề giáo: Tức thuộc nghĩa thứ nhất, trước căn cứ cơ thuyết, vì vậy cho nên Tề giáo chỉ lãnh giải Hóa thân, tức thời không phải hóa thân thì gọi là "ngày khác". Tiếp, "Nếu căn cứ..." thám lãnh. Văn lại có hai: Chánh nêu hai nghĩa. Tiếp "Đây thì...": là kết. Đầu văn: Tuy là Pháp thân đã dùng tự hành đối tha, cho nên dùng hóa tha Quyền Thật đều là tha, do đó Nhị thừa xưa cũng không lường nổi ý chỉ kia. Trong đây nói "tự hành" tợ như "tự tha", dùng đối tự biện tha đều có Quyền Thật, cho nên song nói như thế. Tiếp trong Tự tha, tự cùng tha đều riêng nói Quyền Thật, tức là căn cứ lý hợp song, Trong đây nói "tợ tự hành", vì đối hóa tha thành tự tha, do đó tự hành cũng chỉ hóa tha làm tha, tự tha cũng chỉ hóa tha làm tha. Cho nên biết trong Thám đều chỉ pháp thân thời quyền, Nhị thừa đối kia tuy thọ theo Tiểu hóa, mà đồng thể Quyền thì nhị thừa không hiểu. Đối Phật hai tự đều chỉ đồng thể pháp thân thời Quyền. Tuy có hai ý mà "ngày khác" đều thành.
Tiếp, trong "phần Kết" nói: "Hoặc có hoặc không...": kết nơi pháp thân quyền trí sở chiếu, hoặc có cơ hoặc không cơ. Nói "Có thể không?": Là nêu rõ pháp thân dùng trí hợp vật xứng cơ không thể và xứng cơ hay không? Thời đến làm có thể, đợi thời được không? Tuy có và không có thể hay không đều là quyền trí quyền cơ được gọi là "ngày khác". Tiếp trong phân phán nói: "Nếu từ...": là phán hướng Tề Thám. "Thám lãnh tự tha": "tự" là nghĩa tự hành thứ hai, "tha" là nghĩa tự tha thứ ba. Nên lập lại nói "tự" mới hiển rõ nghĩa thứ ba. Đều là đối pháp thân làm "tha", cho nên chẳng phải việc Nhị thừa. "Tuy có hai y" mà trong hai thứ Tề và Thám đều có nghĩa "tha", cho nên nói "đều thành". Trong Tề thì dùng pháp thân chiếu cơ làm tha; hai nghĩa trong Thám thì dùng trung của Như Lai tự hành đều lấy quyền làm tha, tha tức nhị thừa sở dụng. Tuy có nhị thừa sở dụng và phi nhị thừa sở dụng, hai ý không đồng mà đều được gọi là tha. "Nay y...": thuộc đối ý văn, "Nay y Nhị thừa sở lãnh" tức Tề giáo Thám lãnh. "Lại theo ngày khác" tức Thám và Tề giáo hai xứ ba tha. Cho nên, Nhị thừa lãnh làm giáo của mình vọng ở Phật. Lại lãnh Như Lai dụng tha. Nói "Thám lãnh" cũng nên nói "Tề giáo". Chỉ vì là văn lược, cho nên hai lãnh đều chỉ Pháp thân dùng cơ, chỉ theo nghĩa biệt hai tha không đồng.
"Song dũ" (cửa sổ): Thuyết Văn nói: Ở phòng gọi là "song", ở tường vách gọi la "dũ". Chẳng phải "hộ" (cửa đi) cho nên "thiên (lệch)", nêu rõ xứ vẫn là bên kia. Nay cũng như thế. Chẳng phải chính giữa nên "thiên (lệch)", không khắp nên "hẹp", nên pháp thân địa quán không có Đại cơ, chỉ thấy thiên hẹp trước thuần thục. Chính do con ngăn cách bên ngoài cửa sổ, đâu liên quan đến lỗi trưởng giả thấy thiên lệch? Huống chi là trưởng giả muốn dùng thiên cơ. Đối với Viên thì vẫn còn xa, cho nên nói "xa". "Cởi y phục tốt" đến "đồ trang sức": Như trước đã giải thích. "Sinh nhẫn Pháp nhẫn...": Nhẫn hữu tình não gọi là "Sinh nhẫn", nhẫn vô tình não gọi là "Pháp nhẫn", nghĩa là nhẫn với lạnh, nóng, mưa, gió v.v... thuộc Pháp nhẫn. "Tay trái...": Quyền thật trong Tiểu. "Tướng trạng có vẽ e sợ": là trạng tương tợ, quyền dùng thật; đầy đủ như Thích Tiêm dẫn văn Thành Thật luận. "Lại có gió rét...": Đại luận quyển chín nói Đức Phật có não, nghĩa là sáu năm khổ hạnh. Tôn-đà-lợi hủy báng, Kim Thương, Mã mạch, Lưu ly giết dòng họ Thích, khất thực bát không, Chiên giá nữ hủy báng, Điều-đạt xô núi đá, Gió rét xin y và Song thọ đau lưng, tổng cộng là mười. Nếu căn cứ Hưng Khởi Hạnh kinh chỉ có bảy duyên, không có Tôn-đà-lợi hủy báng và khất thực không được. Đại luận thẳng nêu ra, Hưng Khởi Hạnh kinh dựa theo đều giải thích.
Tiếp, "Bảo những người làm rằng...": ví như Tứ niệm xứ trở đi tức đối vị. Nay chỉ lược đối không nêu hành tướng nữa. Thất giác ở trước Bát chánh, trong luận
Bà-sa, có đầy đủ Liệu giản (giải thích), lược thì như Chỉ Quán quyển bảy nói. Không nói Ngũ đình: vì đình tâm chỉ là đối trị trừ chướng, khiến có khả năng tu quán. Từ Tứ niệm xứ chánh tu để nói; tuy nói "căn cứ vị" mà phải kiêm tương sinh mới kham hiểu ý đây. Cho nên văn dưới nói: "Siêng tu niệm xứ...". Sinh Không Như Lai: Giáo đây tác pháp sở hữu Sinh Pháp không liên quan Đại thừa, tức trong A-hàm là lão tử, ai lão tử? Cho nên Sinh Pháp hai Không đều thuộc Chánh đạo, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. Vô thường... là trợ: Như trong Đế quán nói vô thường chính là chánh quán, nay dùng hai Không vọng ở trong sự đối trị vô thường, chỉ được gọi là trợ, huống chi lại do nhất kỳ (một thời kỳ) niệm niệm lấy đó làm trợ. Như trong Đại kinh Đại thừa trị môn, cho đến dùng thường, tại sao chỉ là vô thường? "Gần" chỉ bốn vị Noãn v.v..., ngoại đạo cầu lý ở trước địa vị này cho nên gọi là xa. Nên nói Tứ niệm xứ..., chỉ là tùy tiện mà nói thôi! Đây văn...: Do Thế đệ nhất là vị Ngũ lực không có năm lỗi. Hạ nhẫn mười sáu sát-na xuống đến Thế đệ nhất pháp vị, tức là Nhẫn ứng thượng hạ đều có mười sáu hành, mới thành ba mươi hai quán. Nay văn lại dùng Tứ đế nói, đối với ba mươi hai tiệm giảm duyên hạnh, hai mươi bốn chu giảm hành, bảy chu giảm duyên cho đến cuối cùng, chỉ lưu một hành. Quán một sát-na nhập Thế đệ nhất, lược như Huyền Văn Thích Tiêm lược dẫn văn Câu-xá. "A-hàm" đến "nghĩa con chưa thành": vì trong kinh A-hàm cũng nêu Bồ-tát không đoạn kết, mà Đại luận bài xích đó là quyền, chẳng phải hoàn toàn không có. Luận nói Ca-chiên-diên tạo: Từ chỗ tạo luận và chỗ tính toán nói, lẽ nào dùng gộp cả hai lại quy về A-hàm. Pháp Hoa căn cứ xưa trước mười hai năm dùng một nghĩa đâu đáng cười ư! "Đắc sơ quả" đến "Đại thừa": ý nói: Từ sau Kiến đạo không phát Đại tâm, trở lại khiến trong đạo Tiểu thừa đoạn kết, cho nên nói "vì cớ đó mà". Nếu căn cứ Đại luận thì đến sơ quả đã gọi đó là chết, không còn phát lại. Đại sư theo sự chấp nhận trong Chỉ Quán, tiến thoái hai giải thích do đó sơ quả cũng gọi là chết...: Có thể phát tâm "hai mươi năm": Văn hiện có bảy giải thích: Đầu giải thích: hợp số làm hai mươi; tiếp sáu giải thích: chỉ lập hai danh, như đoạn Kiến làm một, đoạn Tư làm một. Đầu văn: Kiến đoạn cùng phục không còn trước sau tức dùng tám Nhẫn thông phục tám trí, thông đoạn Tu Đạo chín, chín thông làm một, chín cho nên chỉ tổng lập chín vô ngại chín giải thoát.
"Ngũ thượng phần": Là trạo cử, mạn, vô minh, sắc nhiễm, vô sắc nhiễm. "Ngũ hạ phần": Thân kiến, giới thủ, nghi, tham, sân. Trong Ngũ thượng phần thì Sắc nhiễm và Vô sắc nhiễm hoàn toàn ở thượng. Trạo cử... ba thứ còn lại tuy thượng mà thông hạ, không thể vướng hạ nên gọi là "thượng phần". Nói "hạ phần": Tham tuy thông thượng nhưng không phải chỉ có ở thượng, Sân chỉ ở hạ không thông thượng, ba thứ còn lại nhiếp khắp tất cả Kiến hoặc. Tuy lại thông thượng mà năng vướng hạ, cho nên gọi là "hạ". Do đó Câu-xá luận nói: Do cả hai mà không siêu vượt cõi Dục, do ba lại trở lại hạ phần tức dù đoạn tham... đến Vô sở hữu, do Thân kiến... lại trở lại Dục giới, rộng như trong Câu-xá nói. Nói "Như ở trong pháp Nhị thừa đoạn Tư hoặc": Trước trong kiến đạo không phát, cũng như khiến đoạn tận Tư còn sót lại. Nói "cùng đoạn dư kết": Hoặc ở trong ngoại đạo đoạn chút ít Tư hoặc, lại y Quyền hạnh mà đoạn khiến không còn. "Thứ tư: Thí dụ lãnh phó chúc": Thứ tư, năm hợp làm một đoạn, tức dùng văn Lộc-uyển sau không nhập văn Phương-đẳng. Đại chương tuy vậy, chia nhỏ vẫn có văn thoát nạn... để ứng thuyết một đời năm thời. Nay cũng còn khai tiêu biểu lãnh và phó chúc. "Lãnh" nghĩa là lãnh gia nghiệp, chỉ trong Phương-Đẳng, Bát-nhã. "Phó" tức giao phó tài sản ở trong Pháp Hoa. Văn thí dụ chia làm bốn chương: đồng ban cho v.v... tức trong văn nay hai trước hai sau: tức thoát nạn, đòi xe, đồng ban, hoan hỷ. Coi Phương-đẳng Bát-nhã là đòi xe: Văn hai chu kia sau thoát nạn tức nói đòi xe. Chỉ văn đòi xe ngắn đã không đối hai vị cho nên dùng miệng đòi đối. Nay dùng hai vị làm đòi cũng chỉ là đối cơ tình. ""Đòi" danh tuy đồng mà không phải là không có chút sai biệt, huống chi văn đòi ở trước nghĩa chẳng hạn cuộc nơi miệng đòi. Nay nói đòi: Không hạn cuộc cơ tình. "Cũng là bốn ý hiển Thật đã nêu trong phẩm Phương Tiện": phần kệ của phẩm Phương Tiện bên trên văn tụng hiển Thật ở chương Thích-ca, trong đó trường hàng chỉ nói "Như vậy đều vì đắc nhất Phật thừa Nhất-thiết-chủng-trí. Trong phần tụng Thí bản chia làm bốn ý:
1) Từ "Xá-lợi-phất phải biết, Ta thấy các Phật tử...": hai hàng nêu Đại cơ động, làm bản thí dụ nay đòi xe.
2) Từ "Ta liền suy nghĩ rằng...": hai hàng và một câu nêu Phật hoan hỷ; làm bản thí dụ nay thoát nạn.
3) "Ở trong hàng Bồ-tát chính bỏ ngay phương tiện...": ba câu chánh là hiển thật, làm bản thí dụ nay đồng ban cho xe.
4) Từ "Bồ-tát nghe pháp ấy...": một hàng nêu thọ hành ngộ nhập làm bản thí dụ nay được xe hoan hỷ. "Do tâm tướng thể tín" trở xuống, sinh khởi bốn dụ. Tiếp, "Trong hợp..." là dự định hợp văn từ trước đến nay sinh khởi bốn thí du, tức là bắt đầu từ Phương-đẳng cuối đến Pháp Hoa, trong Thí dụ chỉ là một đồng ban cho xe thôi! Nếu chia mười thí thì không ưng tín giải, bởi do đây.
"Lại trước trong thí Dẫn dụ" đến "Tư tận": Nói "dẫn dụ": Là mật sai hai người. Nói "ra khỏi nhà...": Là "ra khỏi nhà" và "Tư tận", hai thứ cuối cùng nghĩa đồng. Pháp thân và Đạo tho, cận viễn (gần xa) không đồng. "Nay lãnh cũng có hai": Nay đến lãnh đồng ban cho, trong đó tổng hợp hai thứ thủy chung trong văn trước làm một thủy chung cho nên nói "cận viễn thủy chung". Đó là "Tề giáo" làm "cận thủy", "Thám lãnh" làm "viễn thủy", hai tứ chung (cuối cùng) chỉ cộng làm một. Vọng bên trong dụ dẫn... cuối cùng thì tột cùng nơi đồng ban cho, cho nên nói thủy bốn vị, chung phó tài. Đã dùng bốn vị làm thủy, nghiệm biết Thám lãnh đến trước tịch tràng. Tiếp, "Vì sao vậy?": là giải thích, giải thích xuất cộng làm một thủy chung tương tức năm vị. "Người bên cạnh ví như trâu":
Hỏi: Trước dùng người bên cạnh tức trong Hoa Nghiêm nói bốn đại Bồ-tát, trong Đại kinh nói từ trâu xuất ra nhũ (sữa), dụ cho từ Đức Phật xuất ra mười hai bộ kinh; nay sao được dùng trâu dụ Bồ-tát làm người bên cạnh ư?
Đáp: "Phật thêm Bồ-tát" và "Phật" không khác biệt, tuy chủ bạn sai khác đều là năng thuyết, nghĩa sở thuyết phải đều từ ngưu xuất ra.
"Bao biếm": "Bao" là khen ngợi, tuyên dương. "Biếm" là chê bai bài xích "Đã lãnh biết" đến "lẽ nào không vui ư?": là căn cứ không mong cầu lấy thì chưa gọi là vui muốn. Vì lãnh biết rồi thì tăng trưởng hâm mộ vui thích về sau. Cơ hội đến gần được giao phó tài sản, gọi là "thoát đổi". Cơ đã ngầm hợp cho nên gọi là "vui thay!". "Phán thiên tánh": lý tánh đồng. "Định cha con": Hội kết duyên. Nhị thừa tại xưa thì "thiên tánh, cha con" hai nghĩa đều mê, đến khi Pháp thuyết "khai" tri kiến kia, gọi là hội thiên tánh. Thiên tánh nếu hội thì nghĩa cha con thành "Thị" (chỉ) cho biết sự mê trong đó, nên gọi là hội. Trung căn còn mê muội đến Thí thuyết rồi mới định sở sinh, vì thế bốn người đến phẩm này mới tin ngộ. "Bồtát nghi trừ" bởi vì trong Pháp thuyết vì khiến tất cả lẽ nào riêng chỉ Nhị thừa! Trong thí dụ đồng ban cho chẳng phải chỉ có căn bại, chỉ do lực người lãnh giải chưa sánh bằng chúng khác cho nên khiến trong lời nói không liên quan đến chúng khác. Mình là chánh người khác là bên (phụ) chưa vội vã đề cập đến người khác. Bản thân khó, người khác dễ, cho nên lại theo khó. Lại, mình biệt tại nay, người khác thông giáo xưa, cho nên lại theo biệt. Mình chết, người khác sinh, lại theo bắt đầu sống. Người khác theo xưa hiển, bản thân chỉ nay hiển, cho nên lại theo nay. Thấy nhiều ý đây, thì còn lại có thể biết. "Từ Bát-nhã" đến "vị thứ năm".
Hỏi: Trước hội tam nói thuyết Pháp Hoa, nay trở lại dẫn Đại kinh nói xuất Niết-bàn, thế nào đồng được?
Đáp: một nhà nêu nghĩa nhiều nơi nói không phiền biện rộng. Muốn luận lần nữa, lại trình bày mong muốn Đại, phân biệt vị đồng thời mà có bộ khác. Căn cứ lý, danh biệt đều quy về thường trú, xét về cơ kia xứng nhặt nhạnh. Căn cứ pháp, kia còn ba quyền, luận ý thì kia đới luật nghi, nói chứng thì kia kiêm Tiểu quả, thọ lợi ích kia không rộng thọ ký, thuyết thời dài ngắn vĩnh viễn sai khác, đàm luận thường quá khứ vị lai không đồng. Luận thí dụ đại trận còn lại bè đảng. Hiện điềm lành tiêu biểu đều sai biệt. Phá chấp khó dễ không đồng. Lãnh giải cận viễn cũng trái, thuật thành căn không đồng, dụng trị sinh tử không đồng. "Phó chúc có...": có đây, được mười sáu ý, căn cứ đây lược biết. Sự khác ý đồng, không thể mất ý chỉ. Lỗi đây đồng khác giảng giải trao rất khó. Lẽ nào chỉ có hai kinh? Còn lại cũng không dễ. "Nay sơ tướng": Nếu không xen nhau giải thích thì nghĩa "tướng" không thành. Nhưng con "thể" cha: dùng Đại mà so sánh Tiểu, cha "thể" con: dùng Tiểu mà không trái. Đầu cuối mà luận con chưa "thể" cha, cho nên thấy thân cha tôn quí đặc thù, thấy mà không chịu nhận. Thấy thân đã vậy, các lệ có thể biết. "Do đây thấy thân tôn đặc": Như trong kinh Tịnh Danh nói "Ví như Tu-di Sơn vương hiển nơi biển lớn, an xử các tòa sư tử báu, che khắp tất cả đại chúng đến". Trong kinh Dược Sư nói "Cao lớn uy nghiêm như trăng giữa các vì sao". Trong kinh Đại Tập nói "Tập hợp trong khoảng hai cõi". Các kinh Phươngđẳng thì theo lệ chẳng phải một. Cho đến nghe thuyết đại pháp, thấy đại thần thông, thấy đại Bồ-tát khó tư duy đại sự..., đều do đã đắc quả A-la-hán. Chê bai đoạt lấy không nghi cho nên nói "do đây". "Kim (vàng) tức Biệt giáo...":
Hỏi: Đại Phẩm có Viên, vì sao chỉ nói không xuất Thông Biệt ư?
Đáp: Chỉ nói lý Thông Biệt thì đã nhiếp hai giáo kia. Luận giáo năng thuyên ắt đủ bốn, "kim" lại theo lý cho nên nói không ngoài hai thứ đây, bao gồm lại Nhị thừa đến đây phần nhiều thành thông Biệt. Cũng tạm nói như thế. "Thông biệt kho đụn": căn cứ đây có thể biết. "Trong đó nhiều ít" cho đến "tướng rộng lược": phẩm Phương Tiện thứ hai mươi mốt nói: Tu-bồ-đề bạch Phật: Như Phật đã nói hoặc rộng hoặc lược, các Bồ-tát vì sao cầu ư? Phật dạy: Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu đại Bồ-tát học Bát-nhã rộng nhiếp này thì biết tướng rộng lược của tất cả pháp. Lại nói hai chu trước sau thời thuyết Bát-nhã tức tướng rộng lược. "Lại, Nhị thừa...": lập lại giải thích ý: Là mật "thị" (chỉ) tri kiến đồng cho nên nói "thể ý".
Nói "thể pháp không": Thật lý bất nhị. Đây có ba:
1) Chính là ý trong Bát-nhã.
2) Căn cứ lý ở thời Bát-nhã mật nói Bất nhị mà Nhị thừa không biết, nghĩa là tại Bát-nhã ý thông Pháp Hoa.
3) Căn cứ ý nay, đối với Phật tức là phó tài, Nhị thừa tự cho là nói thêm. Cho nên, trong Bát-nhã nói: Lẽ nào hàng Thanh văn dám có sở thuyết? Có sở thuyết, đều nhờ Phật lực, do cơ chưa chuyển, tạm nói "gia bị thêm". "Phải gắng dụng tâm thêm... "Là trình bày nguyên ý của Phật không ngoài hai thứ đây. Hiển tại Bồ-tát, mật gia bị Nhị thừa, nhưng lãnh bốn thời trên đều đủ hai ý:
1) Thuật Phật hóa ý.
2) Đã nạp mật cơ.
Vậy thì thân ta lãnh hai nghĩa của Phật, cho nên gọi là "lãnh".
Nếu đến Pháp Hoa thì ý Phật cũng tận, cơ hiển chẳng phải mật.
Hỏi: Thời gian nào gọi là "một ít thời gian"?
Trong phần Đáp chia làm hai: Một, căn cứ thời gian giữa hai kinh. Hai căn cứ thời Vô Lượng Nghĩa. Văn đầu, tức là biên hạn giữa hai loại xin ý và miệng, Bátnhã chẳng phải một nên gián đoạn thời gian rộng. Tổng gọi "một ít thời gian" tức hướng về thời gian bức bách sau cho nên tùy theo lãnh giải một thời một hội đều có suy lường.
"Mất hay không mất": "Mất" thì bản thân không có phần, "không mất" lại chưa đồng Bồ-tát. Trong thời gian do dự tức là thời gian cơ muốn phát; chính thức phát chính là ở ba phen thỉnh. Tiếp, căn cứ Vô Lượng Nghĩa: Cách Pháp Hoa rất gần thời gian rất ít. Đã nghe từ một xuất nhiều nghĩa, ắt thâu nhiều quy về một, là cuối cùng của bốn vị cho nên nói "dần đã". Cơ không con ngăn cách sai khác, cho nên nói "thông thái". Phát tại chốc lát cho nên gọi là "tức phát".
"Chánh giao phó gia nghiệp": Trước nói "giao của" (phó tài) nay nói phó nghiệp. Tài từ chỗ kinh doanh, nghiệp tức tạo tác, đều là tác nghiệp của Bồ-tát tu đắc ba nhân. Danh khác nghĩa đồng nên được xen nhau nêu. "Linh sơn tám phen": Pháp Giới luận của Bồ-đề-lưu-chi nói: Sau khi đức Phật thành đạo bốn mươi hai năm mới thuyết kinh Pháp Hoa.
"Người phương Bắc": được các văn nêu phần nhiều là Tướng châu Bắc đạo Địa luận sư. Xưa hoằng Địa luận Tướng châu tự phân chia Nam Bắc hai đạo sở chấp không đồng, Nam thì chấp pháp tánh sinh tất cả pháp, Bắc thì chấp Lê-da sinh tất cả pháp. Tông phái đã riêng biệt thì giải thích nghĩa không đồng, lẽ nào Địa luận khiến như vậy ư? "Nếu vậy...": phá cả hai nhà.
Nói "Tích môn thuyết pháp": Chỉ là tam chu. "Kia giải rằng...": Địa luận sư bào chữa. "Nay cho rằng...": lại phá. Từ xưa không biết "khai cận hiển viễn" vĩnh viễn sai khác các kinh, cho rằng Tích thuyết xong không thể chứng. Nếu nói là "nói không sắp xếp trùng nhau", tức hướng đến phẩm Pháp Sư ở sau, thì vì sao phẩm Phương Tiện ở trước không biên chép? Nếu nói Phật nhập định rồi xuất không được nói, thì việc gì kinh gia không biên chép trước ư? Nếu đắc Tích môn xong, thì vì sao không đợi sau Bản tích? Duệ công sinh khởi tiện là vô dụng, một nhà thứ lớp đạo lý lặng lẽ. "Y Tát Vân kinh": Như phẩm Đa Bảo bên dưới dẫn. Nếu khi ba phen thỉnh mà Phật chưa thuyết kinh, thì sao được kinh nói "Đức Phật thuyết vô ương số kệ" Cho nên biết nói vô số tức phẩm Bảo Tháp về trước. Đã nói vô ương số kệ lẽ nào chỉ có ba quyển rưỡi kinh? Huống chi Bồ tát từ đất vọt lên tán thán kệ văn kia số rất nhiều, xưa truyền Pháp Hoa Tây phương còn rộng căn cứ theo văn đây. "Nay nêu rõ...": Ý nói tuy chẳng phải thân sanh, mà trong Tích đã đồng nghiệp thì chẳng phải không có liên quan nhau. Cho nên dòng dõi cha theo nghĩa tương đương chú bác nên biết ngày nay hưởng tại xưa đều có cao thấp. Vậy thì xưa chỉ địa vị cao như "bác", chỉ vị thấp như "chú", đều là họ hàng cha cho nên nói "thân tộc", và chữ "hội" xuyên suốt xuống dưới.
Từ "Quốc vương" đến "là vua": Trước căn cứ các bộ của giáo xưa làm các vua. Nói "hưng phế": Tùy luận "hưng phế" đầy đủ như trong Huyền Văn quyển chín nêu. Nay muốn lược luận đối bộ nói, thì Hoa Nghiêm có hai hưng hai phế, cho đến Pháp Hoa một hưng ba phế, đây chính phế các tiểu vương chỉ lập một chủ tể, vì vậy cho nên kinh Pháp Hoa gọi là vua trong các (kinh) vua. Tiếp, "Lại kinh đây...": căn cứ kinh này hội giáo, do bộ trong kinh này không còn có các giáo khác. Bộ tức là tôn trọng cùng cực trong bộ, làm vua. Giáo tức là giáo chủ trong bộ, làm vua. Vì giáo phân Đại tiểu, vương cũng có tôn ty, cõi nước có rộng hẹp, dân có nhiều ít, của cải sản nghiệp đều sai khác, chỗ xuất cũng không đồng, cho nên giáo trong bộ có Thông Biệt hai lối. Biệt thì đương giới thi ân, Thông cần phải quy về nước lớn. Cho nên biết bộ giáo đều phải "hội thông", nên trước nói bộ, sau mới nói giáo. Tại xưa chưa hội; như trong một nước lớn có hai, ba vua nhỏ đều theo lý phẩm vật buôn bán chưa quy về nước lớn, cho nên phương tiện giáo thì tên chủ vua không thể không có, chỉ vì kiêm Viên cực trong bộ nên chủ non yếu. Nếu hội rồi sau đồng thấm nhuần nhất hóa. Dân không có hai chủ, nước không có hai vua. Từ đây về trước, hoặc trở về không trở về. Không trở về thì vẫn là tiểu vương chịu sự phụ giúp không thâu hoạch mà làm thống lãnh. Tiểu vương vốn không trái nghịch nước lớn bởi do dân tâm chưa quy về. Dân nếu quy về thì từ vua thống nhất một mối, do đây hội tụ pháp nghĩa có thể so sánh biết.
"Trong Vô lượng nghĩa trước đã thâu tập": Tuy nói từ một xuất nhiều, mật dự định nhiều đều thuộc một, cho nên nói "thâu tập". Lại chính do trước nói một xuất nhiều mới có thể định khởi thâu nhiều trở về một. Cho nên biết trước lúc ấy đương cơ lợi ích vật, tuy ở một thiết lập ba, mà ba che đậy một. Muốn nói thâu nhập cho nên dự định luận "khai". Kia nói dưới dẫn kinh Vô Lượng Nghĩa "thị" (chỉ bày) tướng, làm sao biết được thâu tập các kinh? Kinh kia đã nói các kinh vô lượng đều từ một mà xuất, cho nên chỉ kinh trước lấy làm vô lượng. Tứ đế, Nhân duyên tức Lộc-uyển, Phương-đẳng Bát-nhã thứ lớp rõ ràng. Nói "Hoa Nghiêm" là có đủ hai nghĩa đã tại Huyền Văn. "Di-lặc...": Giáo xưa vì thiên viên chưa dung hợp; người cũng là quyền thật chẳng phải một. Nay giáo đã hội thì Bổ xứ lẽ nào nhiều? Bổ xứ đã vậy các thứ còn lại... chuẩn theo đây. Dân quy thuận vua, như trước đã luận. "Sơ địa...": Là hội thiên giáo cho nên không nói Viên.
"Mổ thành": Vua vốn cũng chỉ nói ở một thành. "Độn": nghĩa thông trốn, ẩn. Đây "bỏ trốn" tức là ẩn. "Nay ta" đến "hết thảy sở hữu": sở phó Bát-nhã có cộng và bất cộng không ngoài nhân quả, Nhân là "vạn hạnh", Quả là "vạn đức". Hạnh tức đế, duyên, thập bát không... Đức là thập lực, tứ vô sở úy, bất cộng pháp.... Đầy đủ như Thừa rộng, không gì không phải Diễn. Đây đức của ta đã nói là "con có". Phải biết các ông đều có kho tàng nhân quả của Như Lai, cho nên thêm nói tức là lãnh khẩu. Lại trong Bát-nhã thường thấy phóng quang, thấy thân khó nghĩ bàn thân tức khiến lãnh thân, Bát-nhã Phương tiện tức lãnh ý. Cho nên biết rằng: "tri" (biết) và "kiến" (thấy) đều là "sở hữu", vì thế Pháp Hoa chỉ tổng nói "Tri kiến Phật". "Mà nay bỗng nghe...": Dùng người khác căn cứ bản thân vì Pháp và Thí đều giải, ắt biết nhất định đồng Thân-tử được thọ ký. Gia Tường đến đây lại trở lại tổng kết trước, đều làm năm cặp mười đơn:
1) Từ "người bên cạnh" chỉ Hoa Nghiêm làm Đốn, từ "nước tưới" đến Pháp Hoa làm Tiệm, tức Tiệm đốn một cặp. Nay hỏi: Nếu làm ba thứ pháp luân mà đây chỉ phán làm hai giáo, thì tự nói tương phản, quy đốn không thành, làm sao xả phương tiện duy có Phật thừa hội vạn thiện hiển giáo lâu xưa mà làm Tiệm ư?
2) Từ "tưới nước trên mặt" trở đi là thế gian, từ "hốt phân" đến Pháp Hoa là xuất thế gian, Thế xuất thế là một cặp. Nay cho là các con không bẩm thọ Nhân thiên thừa, cho nên biết Nhân thiên chẳng phải bắt đầu tiệm giáo. Nếu coi "hốt phân" trở đi là xuất thế thì chưa xét kỹ sau Lộc-uyển nói giới thiện ư! Huống chi mười hai năm đầu cuối đến Pháp Hoa đồng lập nói xuất thế, đâu riêng hiển Pháp Hoa?
3) Căn cứ trong xuất thế thì Đại Tiểu là một cặp. Chưa xét kỹ Phương-đẳng Bát-nhã như thế có Tiểu thừa không? Đại của ba vị đồng làm một phán định, làm sao có thể hiện khả năng diệu pháp?
4) Căn cứ trong Đại thì Tự tha là một cặp. Tức chỉ "phó tài" làm hóa tha, lãnh nghiệp làm tự hành. Chưa xét kỹ các bộ Bát-nhã có tự hành không? Thanh-văn tại xưa nói vì Bồ-tát, Phật hóa vốn ý chánh giao phó khiến biết, huống chi khi lãnh nghiệp vốn ở tự lợi. Từ lúc ấy về sau chưa sửa đổi Tiểu đồ.
5) Từ "sai hai người đến" là mật, lãnh nghiệp là hiển, Hiển mật là một cặp. Nếu vi mật làm mật thì Pháp Hoa là mật. Nếu dùng hiển mật làm mật, thì nay đây Thanhvăn từ Lộc-uyển đến đều bẩm thọ hiển giáo, tại sao gọi là mật? Trước bấy giờ được thọ ký mới gọi là mật, đến đây mới đòi thì nghiệm biết chẳng phải trước bấy giờ huống chi ba thứ và năm cặp lý tự tương phản...
Nếu dùng năm đơn lẽ thì đồng tại Pháp Hoa như trước đã phá. Nếu từ rộng hẹp dùng một cặp sau cùng làm Pháp Hoa, hoàn toàn không nói khai, thì trở lại đồng Đại xưa, dẫn đến khiến người học sau đối số mà thôi! Không cầu giáo chỉ dạy thì dùng giáo làm gì ư? "Quý tại đắc ý": Trong Thí dụ đã ủy thác cho nên không luận nữa. "Tợ có hai nghĩa": Do kết duyên không hoại, tuy Đại tiểu mà đều tương tự, tuy chê nói mà nghĩa tương tự con không mất.
Tiếp, "Con đã...": là nêu chánh nhân để so sánh. Nếu luận chánh nhân thì không tương tợ cũng là con, huống chi tương tợ ư! Đã từng kết duyên thì tại sao chẳng phải con chân thật? Căn cứ từng chạy trốn, cha lại chê bai, do địa vị cạn mê sâu, chê trách nói "tương tợ". "Vân vân": là như trên phân biệt.
"Hỏi: Đầu giải thích phẩm nói đã được nhập chân...": Chân là tu vị tức Sơ trụ trở đi. Đầu phẩm lại nói tuổi đã già yếu, Tiểu còn chẳng phải vị tương tợ, "đây tại sao nói tợ?"
Đáp: Ý nói nếu căn cứ sau con trốn cha thì Đại Tiểu đều chẳng phải tương tợ vị, huống chi chân thật ư! Vẫn chỉ khi kết duyên, đối với nay dần mới được gọi là tợ. Mà "chỉ hợp thấy con liền biết": Trên thấy cha có bốn là: nguyên do, xứ, tướng và tránh. Thấy con cũng có bốn là: xứ, biết, vui, vừa ý. Nay một câu: "Thấy con liền biết", tức gồm tám văn trước. Văn tuy có trước sau, ý chắc đồng thời, lẽ nào chẳng phải lúc con thấy cha tức cha thấy con thấy cho nên liền biết. Tuy lại trốn chạy mà cơ tại không lâu cho nên cha cũng vui. Cho nên biết một văn tức thâu nhiếp cả tám văn. "Chúng con do ba món khổ...": trong Thí dụ hai môn: Khuyến Giới: Trước đều luận dự định thích nghi, không căn cơ; sau hợp luận hai môn thôi hóa. Nay ba cặp hợp lãnh. Đầu từ "Thượng sơ...": trước vượt lên ba ý. "Người bên cạnh truy tìm" tức hai ý trong Khuyến môn. "Truy tìm lần thứ hai" tức hai ý trong Giới môn. "Phóng xả" tức hai môn thôi hóa. Nói "ba khổ": Do có ba khổ nên năm trược thêm nặng, do đó hai môn đều không có Đại cơ, chỉ kham Tiểu hóa. Vì năm trược bức bách cho nên có khổ, vì vô minh che lấp cho nên bị vô tri. "Nay hợp...": chánh hợp "hai môn vô cơ" là: "Vì sao lại bị bắt" tức Khuyến môn vô cơ. "Tự nghĩ mình vô tội" tức Giới môn vô cơ. Không nói "hai môn dự định thích nghi", bởi vì hai môn vô cơ kiêm luôn.
Tiếp, "Ưa thích pháp Tiểu thừa": Hợp có Tiểu chí tức hai môn thôi hóa. Nói "không hợp phóng xả": Xã tức là thôi. Chỉ văn thí dụ bên trên thôi hóa có bốn:
1) Tư duy thôi hóa.
2) Giải thích thôi hóa.
3) Chánh thôi hóa.
4) Thôi hóa được thích nghi.
Phần Tư duy lại có hai: 1) Biết Đại yếu; 2) Biết Tiểu mạnh.
Nay nói "có Tiểu chí" tức văn thứ hai. Nói "không hợp phóng xả", là không hợp ý thứ ba chánh thôi hóa. Vậy thì chỉ hợp văn đầu và thứ hai, tức thu nhiếp thứ ba dưới và thứ nhất đầu. Cho nên văn trên chính phóng xả, nói "Ta nay thả người đi đầu tùy ý". Vì biết có Tiểu chí, cho nên đối Đại phóng xả. "Trên có Tề giáo và Thám lãnh, nay hợp hai ý": Hai văn trên đều có bốn: Tiểu dự định Thích nghi, Biết tâm ngày trước, Tán thán ba xe, Thích hợp sở nguyện. Nay trong Tề giáo chỉ hợp môn thứ ba trình bày đủ việc trên, tức Tán thán ba xe, và thứ tư "trước hỏi lấy giá cả" thích hợp sở nguyện. Thiếu văn thứ nhất, hai. Hai văn này nhậm vận kiêm đắc hai thứ còn lại, tư duy có thể biết. Trên có bốn văn, nay chỉ có ba thiếu một là Thích hợp sở nguyện, ba cái còn lại thứ thứ lớp đối dự định thích nghi... Chỉ đủ văn Tề giáo. "Dạy làm" tức là văn Thám lãnh, hợp thí dụ phó gia nghiệp. Trên có nguyên do có giao phó. Nguyên do trên có viễn cận tức Tiểu quả là viễn, thể nghiệp là cận, nay chỉ hợp cận. Trên có mệnh lệnh có thọ nhận, nay chỉ hợp thọ không hợp mệnh lệnh. Vì có thọ ắt biết đã có mệnh lệnh. "Mà tự...": Là kiêm đắc hai thứ còn lại.
Trên giao phó gia nghiệp có bốn:
1) Thời tiết.
2) Gọi con, tụ hội chúng để làm chứng.
3) Kết hợp cha con.
4) Chánh giao phó gia nghiệp. Nay vì giao phó vẫn gồm ba thứ trên, phải nêu ý kia. Trên khai Thí có bốn tướng thất lạc...: bốn tướng này nêu văn, văn tợ bốn chương, chỉ thành ba đoạn, mới lược truy đuổi dụ dẫn, dưới giải thích có đủ. "Tạo lập xá trạch": Cõi Hữu dư chẳng phải Tịch quang tự nhiên, hiện thắng Ứng thân chẳng phải Pháp thân vốn có, đối nơi kia lại vận y Không, Từ bi cho nên nói "tạo lập".
Kinh nói: " Liền ở lại (đốn chỉ) một thành". "Đốn" là đốn pháp, thị (chỉ bày) tướng Tích, nghĩa đồng ở Tích. Lại "Liền ở lại" tức không đi, chỉ ở trong đó tìm cầu căn cơ của con.
"Siêu tụng thứ tư Ưu niệm...": Chỉ tụng con bỏ cha mà đi tức khổ mất con mà không có vui được gặp con. Khổ do mất con và vui do được con, đều tại hoài bảo của cha, thế nên khi mất đã ôm ấp cái vui ắt biết thời sau sẽ trở lại. Xa xem xét cơ duyên chưa được như Phật. Kinh nói "Ngày đêm luôn suy nghĩ": Có người nói: Tự hành là "đêm", lợi tha là "ngày". Đây không ưng như thế! "Ngày" là sáng sớm, là khởi đầu sáng; "đêm" là tối, là hoàng hôn. Sáng sớm liền hóa, đầu hôm là cuối cùng hóa. Đại hóa từ đầu đến cuối theo thuyết trên có thể biết. Nếu thân Phật một trượng sáu thường thuyết vô thường, thì hóa dục chung thời tiết tiết xướng diệt. Nếu nói tự hành làm đêm, thì không thể tự hành cũng nói là thời chết sắp đến.
"Hữu, vô thiện thượng...": Tuy lại có khi duyên vô sở đắc thiện mà chưa thể đoạn kết, cho nên đây trên thể vẫn có Kiến Tư. "Pháp thân là vua là sư (thầy)...: Văn đây hợp tại văn tiếp trong đoạn sợ tránh. Nếu căn cứ văn trên thì chỉ ứng pháp thân như vua. Biên soạn thêm chữ "sư", lại thêm một thí dụ. Báo nên là trưởng giả chỉ nên nói Báo như vua... Kiêm nói ứng thân: báo là thắng ứng. Do trưởng giả như vua, hoặc là bậc đồng vua, cho nên tiện nói. "Riêng nói dùng rộng hiển lược...": Như trong kinh Hoa Nghiêm rộng nêu thân tướng, quốc độ, hạnh nguyện, vốn muốn dùng Phật tri kiến rộng lớn đây để hiển thể thật tướng cho nên nói "dùng rộng hiển lược". "Thọ quyết": Văn trước Hoa Nghiêm không có nói thọ ký, phẩm Nhập Pháp Giới phụ luận thọ ký, cũng được gọi là thọ ký. "Hoằng thệ và hạnh": Được ủy thác tất cả tốt nhất của Bồ-tát. Lại "thệ là khoán", thệ hứa lợi tha có như khoán ước, tùy tu tùy thường "Sớ" tùy hoàn, đến Bồ-đề thường (hoàn lại) mới xong. Lại trong Hoa Nghiêm Bồ-tát hạnh nguyện phần nhiều nêu sự số, gọi là kế toán (tính kể). Văn "người truy đuổi" nói trên lại có ba: 1) Hô hoán là hai nghĩa Khuyến môn; 2) Hô hoán là hai nghĩa Giới môn; 3) "Người ấy...": hai hàng tụng "vô cơ", tức "phóng xả". "Vô cơ": Là lập lại hai môn vô cơ, do vô cơ cho nên mới thôi hóa, nên nói "giải thích phóng xả". "Ba hàng đầu tụng dụ thuê làm" đến "dạy làm": "Thuê làm" tức trên nói Tề giáo, "dạy làm" tức trên nói Thám lãnh. Tề giáo văn ý từ đạo thọ đến. Do chấp nghĩa Tiểu cơ là "thuê làm". Thám lãnh văn ý pháp thân địa thời không lúc nào không thương, đâu từng không dạy, lẽ nào đợi thuê làm? Cho nên nói "dạy làm". "Dầu xoa chân...": Có người nói: Nước ngoài ẩm ước người làm việc chân phần nhiều hay bị nứt cho nên dùng dầu bôi, đây nói công việc rất hèn hạ. Trong kinh này nói sách (nứt) dụ sông..., sao lại dầu thoa? Trên nhận mệnh lệnh có bốn, nay chỉ tụng ba. Thứ nhất, như văn. Thứ ba là thứ tư, đại cơ sắp động, chỉ thiếu thứ hai: mà không mong lấy. "Thứ nhất: Hai mươi năm": Văn trên dẫn đủ trong đây hai mươi năm đã biện rõ sai khác xong. Nay "nói chuyển giáo": Trước nói trụ Nhị thừa chuyển giáo, nay dùng Biệt hoặc Kiến Tư gọi là "hai mươi năm". Trong hợp thí Đức Phật cũng như vậy. Hợp thất lạc nhau: Trên thất lạc có bốn: Biết con ưa Tiểu, hợp cha con thấy nhau. Văn thấy nhau (tương kiến) ở trên có hai: Con thấy cha lại có bốn, cha thấy con cũng có bốn. Nay lại nên biết nếu riêng dùng một câu: "Đức Phật cũng như thế", thì hợp cha con thất lạc nhau ý vẫn chưa hiển. Tiếp một câu "Biết con ưa Tiểu thừa", là hợp cha con tương kiến ý cũng chưa hiển. Vì sao? Vì câu trên mượn câu dưới mà thành, biết ưa Tiểu thừa nên nghĩa đương thất lạc nhau. Tiếp câu dưới mượn câu trên mà thành. Đức Phật biết chúng sinh ưa thích Tiểu thừa cho nên được thấy nhau. Ưa Tiểu do thoái Đại do đó thất lạc nhau. Thoái Đại do ưa Tiểu, do đó thấy nhau. Cho nên, hai câu tương thành nhiếp tám câu. Câu biết ưa Tiểu nghĩa tương đương liền biết. Từ: "Chưa từng" đến "ý kia": chỉ một phen truy đuổi hô hoán liền đủ hai nghĩa, cho nên nói "tổng". Văn trên trong thí dụ thì Tề giáo và Thám lãnh đều có bốn đoạn; dự định thích nghi, có cơ, hoan hỷ xe, vừa ý nguyện, đã chỉ nói thành tựu Vô lậu. Trong Tiểu thừa giáo nói Vô lậu thông nơi các quả. Nói "thành tựu":
Chỉ tại vị sau, cho nên cũng tổng nhiếp hai nhóm bốn văn. Trên hợp có hai Tướng Tín ủy nghiệp. Nay không hợp Thể tín, nghiệm biết Tướng Tín là phụ, ủy nghiệp là chánh. Nói "ủy nghiệp": "Ủy" tức là mệnh lệnh. Nay đầu một hàng trường tụng thọ mệnh lệnh lãnh biết trên tụng sở vô. Trên tụng trong thí dụ hoàn toàn không khiến biết, chỉ có ba thứ trong thọ mệnh lệnh. Một hàng đầu nêu Đoạn đức, để nói rõ "Nội diệt". Nội tức Hoặc thể, tam giới Hoặc tận, cho nên nói "Nội diệt", nên thuộc "Đoạn đức". Tiếp nêu "Trí đức": Đã nói hoặc nghe, nghe giáo thuộc Trí cho nên nói "Trí đức". Do Tiểu trí đầy đủ nên không ưa thích Đại trí, hai trí đây đều nêu nghĩa thất lạc hiển lỗi.
Tiếp, "Vì sao vậy?...": sáu hàng song thích Trí Đoạn. Hai hàng đầu giải thích Đoạn, tiếp một hàng rưỡi giải thích Trí, tiếp một hàng rưỡi lại giải thích Đoạn; tiếp một hàng lại giải thích Trí. Cho nên biết hai hàng đầu nêu rõ tự trụ Tiểu Đoạn; tiếp một hàng rưỡi nêu thất (lạc) Đại trí; tiếp một hàng rưỡi lại giải thích Tiểu Đoạn; tiếp một hàng giải thích thất Đại trí. "Phần đắc Đại thừa tập quả": Khi đắc Sơ trụ phá một phẩm vô minh gọi là Tập quả. Nói "ngưu đầu (đầu trâu)": Hoa Nghiêm gọi là xuất Lycấu sơn, nếu dùng thoa thân thì lửa không thể cháy.
Trong văn nói "mười ân"; tự đối nhà y tòa ba thứ. Đầu tiên, "nhà" có ba ân: Một ân thứ nhất là Thông gia bị khắp. Hai ân tiếp là Biệt cứu khổ cho vui. Thông bị là khởi đầu của Tứ hoằng thệ nguyện, Biệt bị là cuối cùng của tô bồi nguyện, tức là sau phát tâm thì đến khởi hạnh. Tự thành đạo trước khắp nơi nhuần lợi ích, tướng nhuần lợi ích không ngoài cứu khổ ban vui. Thấm nhuần ân cứu khổ ban vui, biết làm sao có thể báo đáp? Sở dĩ khó báo: Đầu tiên vì chân thật tự hành khiến ta tu tập, tự bẩm thọ giáo sau thoái Đại luân hồi, từ bi không lìa nơi nơi cứu khổ cho vui. Tiếp, ân y (áo) có bốn: Con thọ giáo rồi Đại tiểu đều vong, nơi nơi dừng biết làm toại căn cơ con liền ở cõi này đốn tiệm đạo thành. Tuy trước chính là vì Đại cơ và cũng lo hạt giống thiện của con, cho nên sau Đốn liền thùy Tiểu hóa. Bài xích, đào thải nên giả rèn đúc. Chê bai đó thì dùng bần sự thảo am, dẫn dụ con thì dùng gia nghiệp giàu có. Hạt giống đời trước dần dần nứt ra còn chưa đủ tốt, ân lâu dài do dâu có thể báo? Vì vậy cho nên ân đầu trong bốn là Nhân thiên, tiếp đề cập đến ba vị. Ân tòa Như Lai có ba: Đến thời Pháp Hoa bắt đầu thâu hoạch lợi ích vi diệu, kiêm năng lợi vật hóa đạo ban đầu thành ân khó báo, bởi có nguyên do. Sở dĩ thứ tám là ân thọ ký, ân thứ chín, mười khiến ta năng lợi vật. Do đó nhà được áo, cho nên có ân che chở nuôi dưỡng. Nhà có tòa, nên thành dụng bạt khổ ban vui. Tòa nhờ áo, nhà khiến hạnh tự tha thành. Y nhờ tòa nhà, nay từ đầu đến cuối lý hiển, cho nên ba nghĩa hợp thành đại ân. Ân từ đầu đến cuối này lấy gì báo đáp nổi? Các nhà chú giải chỉ nói vật, không đáp thí nơi thiên địa. Con không cảm ơn cha mẹ sinh vì quên cảm báo ân đây. Nay ý chánh luận mang ân khó báo, tại sao được dùng quên báo ân để giải thích? Huống chi lại chỉ duyên khiến con quên báo ân, ân này báo đáp rất lớn, cho nên không được trực tiếp dùng quên báo để giải thích. Phàm nói "quên": Trị kia không quên, nay chẳng lãnh quên chỉ lãnh khó báo. Hai thời đã riêng, vả lại giải thích ý mang ân.
Pháp Hoa luận dùng bảy thí dụ lập bảy đối trị: Điên đảo công đức tăng thượng mạn phiền não xí nhiên, cầu quả báo Nhân thiên nói dụ Nhà lửa để trị. Hàng Thanh văn cùng Như Lai thừa... nói dụ Cùng tử để trị. Hàng Đại thừa thượng mạn cho rằng không có Nhị thừa, thì nói dụ Mây mưa để trị. Thật không có Niết-bàn mà sanh Niếtbàn tưởng thì nói dụ Hóa thành để trị. Không cầu Đại thừa dùng hư vọng giải thoát làm Đệ nhất nghĩa, thì nói dụ buộc châu để trị. Người có Đại thừa chấp phi Đại thừa thì nói dụ Châu ở búi tóc để trị. Người không có công đức không chấp đệ nhất thừa, thì nói Y sư (thầy thuốc) để trị. Nếu chỉ y bảy thứ đây đều có đối trị, thì tức vì pháp làm thí dụ, nói thí dụ lãnh giải. Đức Phật dùng Thí thuật v.v... về lý tợ như không thành. Nên biết luận ý. Nhà lửa không chỉ đại xa biên. Cùng tử chánh dùng ý lãnh giao phó gia nghiệp. Mây mưa khiến khai Quyền nhị thừa, Hóa thành dùng Bảo sở dẫn, còn lại thì có thể biết. Hoặc người khác nói: Phẩm này chỉ xuất sinh, hoàn toàn thông đạt ý chỉ kinh, huống lại luận văn theo nghĩa năng thấm nhuần, dùng mưa đặt tên. Kinh thì theo đối tượng được thấm nhuần, nên gọi là "Dược thảo". Dược thảo thì Nhị thừa đều có, một trận mưa thì trình bày kia quy về Đại. Gia Tường nói: Thảo mộc có hai: l) Không biết đồng.
2) Không biết khác.
Nếu có thảo (cỏ) tốt tức năng biết đồng, thì để dụ Ca-diếp. Đây thì chỉ từ điều mà Ca diếp lãnh giải, có thể biết như vậy. Nếu từ Đức Phật thuật thì lẽ nào có thể Dược Thảo khác đều nói không biết? Lại cũng không biết "ba cỏ hai cây" là thụy hay phi thụy? Cho nên cần phải nói "nay xưa" mới hiển sự lành đó là đúng hay sai. Nay cho rằng đến Pháp Hoa đây tại sao lại có cỏ phi thụy? Nên nói đúng là thảo mộc tuy vốn từ một đất sinh ra một vị, một trạch (thấm nhuần) mà không tự biết, chợt nhờ khai hiển, không gì không là tường thụy (điềm lành)! Mà còn khiến đàn chỉ (gảy móng tay) chắp tay, chung thành Diệu nhân, Sinh Vô sinh tuệ đều thành Chủng trí. Nhưng trong văn tứ Tất-đàn lại từ Ca-diếp lãnh thuật biên nói. Trong đó, trước là tổng trưng khởi. Tiếp, "Đất đai" trở xuống: là biệt giải thích tứ Tất-đàn để đáp câu hỏi ở trước.
Trong nghĩa Thế giới Tất-đàn có hai phần: Trước thí, sau hợp. Trong phần thí dụ, đất đai căn cứ nay, thảo mộc kiêm xưa cho nên nói "thông đều hữu dụng". "Dược thảo" tại nay, dược là thảo nên gọi dược thảo. "Sở sinh...": Nếu theo các biên nghĩa do Phật nói thì không gì không phải là dược, cho nên nói "thông đều hữu dụng". Nếu theo năng lãnh, trung thảo là tên, thì chỉ nên nói phẩm Trung Thảo mà thôi! Cho nên nói Dược Thảo dụng mạnh. "Hữu lậu..." là hợp. Trước, là hợp xưa. Tiếp, "Vô lậu..." là hợp nay. Trong đó trước hợp tiếp dẫn chứng. "Thuật...": là kết ý.
Văn đầu, hỏi: Nếu theo Phật thuật thì nên nói thảo mộc và do đất mưa. Nay phẩm đã là văn thuật thành, vì sao chỉ chỉ hạng Thanh-văn trung thảo, nói bốn đại đệ tử...ư?
Đáp: Thật như đã hỏi, nói thông ý biệt cho nên gọi là "dược thảo". Nói biệt ý thông lại chỉ Thanh-văn. Ý Phật tuy thông thuật họ đắc giải mà biệt ở Ca-diếp. Thuật các điều bất cập và cập của họ, là vì muốn lần nữa "thị" (chỉ bày tri kiến Phật). Hoặc biệt hoặc thông đều thành dược thảo. Đất và mưa, lại là thuật kia lãnh giải Thật, cho nên không biệt nói.
"Đức Phật tán thán..." là dẫn chứng. Kinh nói "bảo Ma-ha Ca-diếp": vì Ca-diếp đứng đầu chúng Tăng. Cho nên, biết trong phẩm Tín Giải tuy liệt kê đủ bốn người, Tu-bồ-đề là người được nêu đầu, nhưng người tự xướng trình bày là Ca-diếp, cho nên nay bảo riêng Ca-diếp. Lại nói "và các đại đệ tử": Tin biết đắc ngộ không riêng chỉ bốn người. "Thuật kia...": Ngộ ắt thông khắp, lãnh thuật theo biệt. Đức Phật song thuật "Hay thay! Hay thay". Cadiếp lãnh thông gọi là "Dược Thảo" và cùng hoan hỷ ý đồng và lãnh kiêm thuật đồng, gọi là Thế giới Tất-đàn. Cho nên có thể theo thông.
Văn tiếp có hai: Trước thí dụ, sau hợp. Trong thí dụ nói "tòng (tụ họp) có...": là thí dụ xưa, đều có thói quen lâu đời (tích tập) cho nên gọi là tụ họp nuôi dưỡng. "Thời lâu": Trải qua hai vạn ức kiếp còn tại phương tiện nay mới khai hiển, nên nói được nhuần một trận mây mưa. "Đây...": thí dụ nay, "mây mưa" như dưới giải thích. Nói "phù sơ": Phù": là phù trợ. Nhĩ Nhã nói: Rừng có cây cỏ gọi là "sơ". Dùng xưa trợ giúp nay mới có thể kham thọ ký. Nói "Vi hoa": là sáng rực đầy đủ. Một trận mây mưa thấm nhuần khiến cây cỏ tươi tốt. Vô thủy tánh đức như "đất". Phát tâm Đại thừa như trồng cây. Phát tâm Nhị thừa, như cây cỏ nẩy mầm. Nay nhập Sơ trụ như đồng thành mầm cây Phật thừa... Trong đầy đủ mười lực, gọi là "lực", lực có thắng năng làm dụng, đối với mầm giống thân cho nên đầy đủ gọi là bên trong tiểu quả được thọ ký như mầm giống tốt tươi... "Thí các...": hợp xưa. "Nay được...": hợp nay. Trước hợp tiếp chứng, sau kết ý.
Văn đầu: Đã khai hiển rồi tự lợi kiêm vật, từ nơi tự tha thọ lợi ích được tên, gọi là Vị nhân. Tiếp, Đối trị và Đệ nhất nghĩa, trong đó có hai: Thí dụ và hợp. Trong thí dụ cũng đầu tiên là thí dụ xưa. "Nay nhờ...": là thí dụ nay. Nói "Tứ đại...": ba bậc dược ở thế gian đều chẳng phải Dược Vương. Bậc hạ trị tứ đại, bậc trung lợi ích năm tạng, bậc thượng có thể trẻ lại. Nói "gió lạnh": Lược nêu hai đại, xưa trừ bệnh Tứ trí, chỉ nuôi dưỡng ngũ phần thân, kéo trẻ lại chân lý, nghỉ tạm nơi Biến dịch sắc. Nay dùng mây vô duyên từ để che mát, rửa sạch thì dùng mưa pháp vô tư, khiến hạt giống xa thâu hoạch lợi ích không thiên vị, khiến cỏ vô thường yếu ớt bèn trở thành thường trụ Dược Vương. Tự hành kiêm nhân đều trừ ba hoặc, cho nên nói "trị khắp". Phải biết tự tha đều thành thường thân Phật đại tiên. Tiếp, bốn chữ: "Thí chư vô lậu": hợp xưa, từ "Nghe kinh...": là hợp nay, cũng là hợp chứng kết ý. Nói "Gia trước": "Gia" là thiện, "trước" là lậu. Chữ "xứng" đọc khứ thanh. Thiện bắt đầu khiến đến cuối gọi là "Gia trước". Nghe khế lý, nên nói "xứng vi". Lại nương nhị thừa lãnh giải để nói cho nên đều gọi là Vô lậu, đây đều thành Phật thừa. Tứ Tất đàn nói là "Đối trị và Đệ nhất nghĩa": Theo biến trị biên, tức nghĩa Đối trị. Theo thành tiên biên, tức Đệ nhất nghĩa. Ngoài ra ba thứ căn cứ Giáo... không ghi. "Vân vân" là: cỏ cây là ba giáo, đất mưa là Viên giáo, tức là căn cứ Giáo.
Nếu bản tích thì: Bản trụ trí địa từng cho mây mưa, Tích là cỏ cây dẫn kia tăng trường. Quán tâm, đầy đủ như trong Huyền Văn lợi vật vi diệu về sau. Lại, căn cứ dược làm quán: Như Chỉ Quán quyển 10 nói. Tứ dược trị kiến đủ thuật quyền thật, tư duy cũng theo lệ như vậy. Các sư xưa tuy nói trình bày ân Phật sâu, mà không có ý mười ân thì thuật cũng không khắp. Sư xưa cũng không dùng "dạy làm" mà làm Thám lãnh. Ví như lập Thám lãnh, đây cũng chỉ như văn dưới Nam Nhạc phán quyền công đức. Sư nói: Chánh chỉ Nam Nhạc Nhị thừa tuy lại tự lãnh biết cõi mình. Đã nói là "khéo thuyết" tức lãnh đủ một đời Quyền Thật.
Nay Đức Phật thuận theo tất cả thuật sở lãnh của họ. Mười ba hàng kệ văn dưới đem ý xưa đã dẫn trở lại phá xưa. Ca-diếp tuy tự lãnh ân sâu của Phật mà đó như Phật thuật khéo nói công đức chân thật của Như Lai, lẽ nào riêng pháp nhị thừa ư? Thí dụ dạy làm là công đức quyền của Phật, cũng là bài xích người xưa thuật không cùng khắp. "Thí dụ người dạy làm" là ít phần trong pháp quyền mà thôi! Đầy đủ như trước giải thích nghĩa "Ngày khác" tức là hai nghĩa tha (khác) trước; tha tức là quyền.
Lẽ ra nói: Đây thật là con ta, lẽ nào riêng người dạy làm ư? "Nay nói...": là sư nay giải thích. "Bắt đầu thiên tánh...": Thiên tánh tức chỉ nơi Đức Phật Đại Thông, như ý đầu trong mười ân. "Trung gian..." đầy đủ như chín ân dưới. Thiên tánh còn thông kết duyên theo biệt. "Tự vi..." Tự là từ, từ Tiểu đại đến ân thứ mười cho nên nói "nhiều", lẽ nào chỉ một đời giáo ư? "Song thuật...": hai nơi nghĩa là hai phương tiện nhà lửa. Do trong Tín Giải lãnh giải cả hai nơi, nay cũng song thuật hai nơi lãnh giải. Nếu không như vậy, thì luống thuật có lợi ích gì? "Khéo thuyết...": là thuật kia lãnh đủ Như Lai Quyền Thật giáo pháp, đây là căn cứ Nhân duyên mà giải thích, cho nên không đồng nơi khác (tha) dẫn luận phá không có Tiểu. "Lại Hoa Nghiêm nói...": là thuật khắp sở lãnh tức căn cứ Giáo. Trước giải thích còn tổng, đây giải thích thì biệt. Tổng biệt nghĩa một bản tức Quán tâm đại ý đồng trước. "Lãnh sở bất cập": là nêu "bất cập" của Cadiếp để làm rõ loại chúng khác có phần. Lại, nêu "bất cập" của Ca-diếp chỉ bày sự lãnh khắp của Ca-diếp. Lại, chỉ bày sự lãnh khắp của Ca-diếp, tức biết một nhiếp thu tất cả. Trong đó, trước là nêu, tiếp "Vì sao vậy?...": là giải thích. Giải thích ý: Nếu chỉ thuật Nhị thừa thì chỉ nên theo trung thảo làm đề phẩm và ngoài sở lãnh giải lại thuật "bất cập". Khiến biết ý như sở lệ trước nay. Lại nói "thuyết không thể hết" là nêu bất tận, Phật thuyết còn không hết huống chi Ca-diếp ư! Trong đó, trước trình bày ý Phật, ý Phật đã khắp nghiệm biết sự lãnh giải có tột cùng.
Tiếp "Sao bỗng...": là trách Tề giáo kia thông suốt các câu. "Không nói rõ (Bất đáo)...": là chánh thuật "bất cập thoái tiến..." dùng vị nhị thừa vọng trên làm tiến, vọng dưới làm thoái. Mười giới mỗi mỗi tự có nhân quả, không do thứ lớp cho nên gọi là "ngang", một người tiệm khởi cũng được gọi là "dọc". Nay dùng tạp khởi và đủ hữu biên, chỉ được gọi là "ngang". Lại, do nhiều người thứ lớp tương vọng và pháp sâu cạn cũng được gọi là "dọc". Người người đều trú cũng được gọi là "ngang". Thất phương tiện là dọc. Nếu bảy người đều bảy, thì trước sau tương vọng, bảy người đều một thì Đại Tiểu tương vọng. Bảy người truyền nhập, bảy người nhập thật, đều được gọi là "dọc". Lại, ba đời gọi là "cũng ngang cũng dọc". Đời đời biến khắp mười phương mười giới cũng gọi là "ngang". Như vậy, phẩm loại đều theo các vị, tám giáo điều thục, mới đối ngày nay cùng Cadiếp... hoặc là đồng hoặc là biệt, chưa nghe khắp lãnh cho nên Phật chỉ bày. "Phàm núi sông" đến "bất cập": Đây là "Chẳng ngang chẳng dọc bất cập". Như các văn dưới kết sai không sai. Không sai tức sai, sai tức không sai, không đúng ngang dọc. Không sai biệt tức sai biệt mà ngang mà dọc, nay theo không sai biệt mà gọi chẳng ngang dọc. Từ mà sai biệt biên, như ngang... nói ở trên. Đầu tiên, "núi sông...": đối đủ các pháp, đều cùng lý bình đẳng đồng dùng một đất mà tổng xuyên suốt. Đầu tiên, có người dùng đất ví như Lại-da thường trụ, lý đó không thành. Đối ngũ ấm thế gian để nêu rõ nhất Thật sai biệt không sai biệt, đều là thật tướng cho nên tổng gọi là "địa".
Tiếp, "Cỏ cây...": căn cứ nhân tu tập Ngũ thừa Thất thiện. Đối nơi nhất thật nêu sai biệt không sai biệt v.v... Tiếp, "một đám mây..." đến "đầu ba cuối một": căn cứ năm thời giáo đối nay nhất Thật nêu sai biệt không sai biệt. Trước là thí dụ, tiếp "Như Lai...": là hợp. Sinh công dùng mây dụ cho pháp. Nhà chú giải dùng mây dụ ứng, làm sao trung đạo thiên chân mà từ chối con thế tục ư? Đốc thúc luận lý kia tại sao nói là tục ư! "Như rồng khởi..." là thí dụ trong thân Phật năng mang pháp thể. "Tổng thí đó là...": tổng hợp, lại không tiến thoái ngang dọc... Tuy đủ ngang dọc và cũng ngang dọc đối với nhất thật, nhậm vận thiếp lập luận chẳng phải ngang dọc. Căn cứ khai hiển nói, kết sai biệt không sai biệt thì khai tất cả trước đều thành không sai biệt. Tiếp, "Bất cập...": nêu ý Đức Phật bài xích "bất cập". Nhị thừa bắt đầu nghe mới nhập Sơ trụ. Lại tự thuật pháp sở nhập của mình, đức Phật muốn qua đó thuật những gì không lãnh, pháp ấy còn nhiều, Nhị thừa nếu nghe cũng thành lãnh khắp, đầy đủ như trước nói. Nói "chưa cùng": Cực chỉ địa sau dọc nhập biên nói. Nếu muốn thuật khắp thì chưa rỗi thuật đến cuối cùng, do đó Ca-diếp thuật bản thân là vậy. Đầu tiên là giải thích theo Nhân duyên. "Lại, sơ ngộ...": là căn cứ giáo. Nếu Ca-diếp lãnh ngộ mình thì tức là nhiếp tất cả, dùng viên đối thiên tức khắp lãnh giáo.
Ca-diếp sở chứng tức bắt đầu chữ A, vì rằng liền sau là chữ Trà, khắp lãnh không sai biệt. "Lại, Quyền hành...": là Bản tích, chỉ thiếu Quán tâm, đầy đủ như Huyền Văn giải thích pháp. Nếu y nay lãnh, thì tức
Không cho nên sai biệt tức không sai biệt, tức Giả cho nên không sai biệt tức sai biệt; tức Trung nên phi sai biệt phi bất sai biệt. Ngang dọc theo lệ biết. Trong rộng thuật thành có hai đoạn: Văn đầu thuật đủ ba cây hai cây sai biệt không sai biệt, tức là rộng giải thích lãnh sở bất cập. Vì trách Ca-diếp lãnh sở bất cập do đó văn dưới vẫn tán thán Ca-diếp, nêu rõ kia tuy có lãnh bất cập mà dù lãnh các ý cũng không ngoài Quyền thật, lại tiếp dẫn đó. Cho nên kết tán nói: "Các ông năng biết công đức Như Lai". "Khuyên tin": Ở đây các "bất cập" bởi vì chỉ có Như Lai năng biết, cho nên nêu "Pháp vương" để khuyên những gì mà Ca-diếp bất cập, thì càng phải tín thọ. Nếu y đây lãnh rồi thì năng biết.
"Vì nêu thí dụ Mây lớn làm bản": Mây lớn bủa khắp tất cả, mưa lớn thấm khắp tam thiên. Thọ lợi ích đã thật, năng gia-bị đến chẳng dối. "Đối với tất cả...": Nếu không có trí thì không thể thuyết, nếu không có giáo thì không thể thuyên (giảng). Muốn biết trí tại thuyết, quán giáo mà biết trí. Nay theo thuật giáo, cho nên trước là giáo. Nếu đầu phẩm Phương Tiện muốn dẫn năm Đức Phật sở thuyết thì trước tán thán hai trí. Đã là tương thành tức trước sau xen nhau nêu. "Nhất thiết pháp...".
Hỏi: Vì sao Thất phương tiện trong văn trước nói lãnh bất cập, thì phương tiện là dọc, nay sao nói là ngang?
Đáp: Căn cứ nhân (người) cho nên dọc, căn cứ pháp cho nên ngang. Lại nhân pháp đều có ngang cùng dọc, đầy đủ như trước nói không thể phán cố định. Cho nên lại dùng ngang đối Thật, cũng gọi là dọc.
"Nếu nói không như vậy...": là giải thích ngang dọc đây. Đầu tiên trong giải thích dọc nói: Nếu nói tất cả pháp không phải là Thất phương tiện dùng đối nhất Thật làm dọc, thì như ở nơi hai vạn ức Phật sơ phát Đại tâm tức là tất cả pháp thật, trung gian lưu chuyển hoặc lại phát tâm, không ngoài bảy pháp. Cho nên, bảy pháp là ngang đối nhất Thật làm dọc. "Lại, mười pháp giới...": là giải thích ngang. Trong thân một người mà còn đầy đủ mười, huống chi lại không đủ bảy ư! Một người đã vậy, nhiều người cũng vậy. Một thú đã vậy, các thú khác cũng vậy. Cho nên bảy pháp là ngang. Trong thân Như Lai hoặc mười hoặc bảy, nhất niệm chiếu suốt ngang dọc không bỏ sót. "Pháp đây tuy nhiều...": Bảy thu nhiếp Quyền hết tất cả vì hợp cơ không ngoài bảy pháp. "Vì nhân thiên...": nêu rõ Phật năng chiếu cho nên năng thuyết, trong này đã riêng nêu Nhị thừa, cho nên Tam tạng sự độ tức Bồ-tát. Thông vô sinh gọi là Thông tam thừa. Thuật kia khai tam: Trình bày đủ bảy thiện mà nói ba: Ba từ xuất thế chỉ khai Bồ-tát thêm nhân thiên nghĩa nên thông bảy. "Cứu cánh....": Đây nên các Quyền đều quy về Thật tướng, cho nên tam giáo giáo trí chưa hội thì không gọi là Nhất. Lại không phải chỉ rõ pháp đây từ nơi bản vô trụ mà lập cho nên không được nói "cứu cánh bất nhị". Nay nói bất nhị, là thủy chung nhất. "Tánh kia...": "Quảng bác" thì là "nhất", cho nên gọi là "thiết". Chữ "thiết" đều thông huấn dạy chúng. Cùng hiển bất nhị là thiết của một nhà, gọi Nhất thiết trí.
"Tịch mà thường chiếu": Trí sở y địa năng sinh các trí, cho nên gọi là "trí địa". Đây từ cảnh thuyết. Nếu trí tức địa thì năng sở không hai, cho nên trí cũng gọi là bản vô tru, cho nên cũng được gọi trí là địa. Chánh hiển năng lập, lập cũng sinh, nên trí địa đây năng sinh các pháp cho nên song song gọi trí địa là bản vô trụ. "Vì sao vậy?...": Vì để bài xích sư xưa, bỏ ngoài những ý trên, các giải thích khác đều không đúng, như đã trời tối mà lại ngủ mê sâu. Ở đêm vô minh, lại mê muội giải thích lời Thánh, sao có thể hợp lý ư? "Ví như Đại Phẩm...": là dẫn chứng trí địa cho nên trước dịch tên. Thật tướng là thể, trí tức là dụng. Nếu địa của trí gia tức chỉ thật tướng, thì hết thảy đều là đại. Do trí hiển địa, do thường đến cực cũng là từ thủy đến chung y địa đến cực. Đại sự đại thừa đều phải chọn trang nghiêm trâu trắng. "Ngoài ra hai...": Chỉ không là một, đều gọi là hai. "Đây là căn cứ" đến "khai Quyền hiển Thật": vì trong tiệm đốn không ngoài Thất phương tiện, cho nên trong tiệm đốn có Quyền thì đều khai.
"Từ: Như Lai" đến "giải thích giáo": Quyền giáo đều thành thật Giáo là bởi do dùng trí bất nhị mà đồng chiếu "Biết sở quy thú" đến "đều có quy thú": năng có sở thú, cho nên gọi là chỗ hướng đến (sở thú). "Giới thiện...": nêu Thất phương tiện. Pháp đều có viễn cận: Đương vị gọi là cận, đến tột cùng gọi là viễn. Đương vị gọi là Quyền, hướng đến tột cùng gọi là Thực. Quyền dược sở trị thì gọi là Quyền bệnh. Trong quan hệ đó chỉ có viễn thì cũng không đúng. Thiện không tự tánh, viễn cận do người; trong đấy trước nêu giới thiện cận tại người trời. Nói "làm duyên": Từ viễn được tên, nên nói "nếu làm". "Niệm xứ...": nói "phước đức": là ý Đại kinh. Kinh nói
Thanh-văn: Phước đức trang nghiêm hữu vi hữu lậu, cũng do ở sau Pháp Hoa cho nên nói khai tướng có thể trang nghiêm Pháp thân. Niệm xứ kiêm nơi hai giáo Nhị thừa, nay vả lại đối với Tam tạng Thanh-văn. Ở giữa siêu vượt ba người cho nên nói: "cho đến". "Lục độ Thông Biệt" mỗi mỗi thiện căn đều có hai thú, Đức Như Lai khéo biết.
Hỏi: Biệt thú đã viễn (xa) tại sao cũng hai?
Đáp: Mười hai phẩm hoặc và dùng quả của ngã làm nhân của tha, lẽ nào chẳng phải cận ư?
"Lại, cận viễn": Cận từ vật tình, viễn có ba ý:
1) Thiện thể.
2) Từ bản kỳ.
3) Từ ý Phật.
Ý Phật lại có hai:
1) Thuận cơ.
2) Theo thể.
Chỉ có Như Lai khéo biết thể tánh, nói thể tánh lại thông hai đường, tiếp cận khiến viễn thể tánh đều còn. Đây là ở trong quyền lấy ý thật giải thích, tức là chánh ý quyền thật của kinh này. "Lại, giới thiện...": là lại giải thích: Riêng (đơn) từ bên dược mà giải thích Thất phương tiện, gọi là biết dược (thuốc), thâm tâm sở hành gọi là biết bệnh. Năng tri tức là biết dược. Nói "hai thứ": Sở chấp kiêm Hoặc vi tế, y chánh chỉ có Hoặc thô. "Chướng nhân thiên": lại từ cận nói. "Đắm sở chấp": Do Tứ đảo... đều đối các thừa, nhưng thô Hoặc chẳng phải hoàn toàn không chướng ngại thừa, chỉ vì không chấp lý cho nên nghĩa chướng thừa yếu. "Đắm sở chấp": không phải không có Thập ác làm mất Nhân thiên thừa. Bất cứ sâu cạn đều gọi là "chấp", cho nên dùng chấp... tùy nghĩa đối với nó. "Một trí chiếu khắp" nên chẳng phải chỉ chiếu hết thảy mà thôi, cần phải đối một dược một bệnh mà thấy tất cả dược tất cả bệnh. Văn dưới đã nói tất cả pháp, tức là mười giới cho nên một dược một bệnh đều đủ mười giới. Biết các pháp tận, gọi là biết bệnh, nhờ dược hiển bệnh. "Biết tất cả thâm tâm...": Nếu không biết dược thì không biết thâm thâm, nhờ bệnh hiển rõ dược.
"Nhược can" nghĩa là bao nhiêu, nhiều. Như pháp thể kia pháp thể vốn Không, cho nên "nhược can vô nhược can" (nhiều không nhiều). Lại như dưới nêu tâm pháp trần, ví như sai biệt không sai biệt. Hai câu đầu nêu pháp tướng, căn cứ tâm sở duyên pháp trần để biện rõ. Tiếp, "Tâm có...": là biện rõ biệt: Tiếp, "Tâm bất ly...": là biện rõ tức. Tiếp, "Vô số...": là biện rõ tức tướng. "Quyền thật...": là hợp thí. Chân pháp vốn không do tâm có số gọi pháp là số. Toàn tâm là pháp, toàn pháp là tâm, không thể hợp đủ, chỉ khiến thuật cho nên chú giải "vân vân". "Ví như..." thứ hai là Thí thuyết văn chia làm hai: "Đầu, thí. Sau, lại tông xưng tán": Căn cứ trước sơ khai nói: Đầu thuật khai hiển, tiếp kết tán thán. Trong văn đầu tự phân chia làm ba: Pháp, thí, hợp. Nay đến trong thí lại nói "trước thí, tiếp lại tông". "Bởi do các ông! Ca-diếp..." văn đủ hai nghĩa: Cũng gọi là kết trước khai hiển tức như trước đã khai, cũng gọi là lại tông xưng tán, như sau sở khai. Nói "lại tông": Trong đây đại ý vốn thuật Ca-diếp, trong đó rộng xưng tán Như Lai nhị trí, tợ như chỉ tán thán Như Lai không liên quan đến thuật thành. Cho nên văn sau nói: "Ca-diếp! Các ông rất là hy hữu". Đây thì lại tông trước thuật Ca-diếp, trong đây dùng thuật Cadiếp làm tông cho nên nói "lại tông". Do tán thán Như Lai là tán thán Ca-diếp, cho nên nói "xưng tán".
"Ba cỏ, hai cây...": là thuật thí dụ, giải thích nghĩa sai biệt không sai biệt. Tiếp, "Nếu quán...": là biện rõ nguyên do thí dụ sai biệt không sai biệt. Nếu quán ngọn nhánh thảo, mộc thì có sai biệt. "Nội hợp phương tiện...": hợp Quyền trí. "Thật trí...": hợp Thật trí. Trong cụm từ "Sai biệt vân vân" thì "vân vân" là: Đều nên nói chi tiết: lấy sai biệt không sai biệt dùng đối nhất Thật và dùng Thất thiện, Ngũ thừa. Gieo trồng hạt giống do trí địa của Như Lai. Vật tình tự cho là sai biệt, đầy đủ tươi tốt do mưa pháp của Như Lai. Pháp chẳng do tình mà năng sai biệt. Chúng sinh sở thọ cũng là trí địa, địa cũng là pháp chỉ lúc gieo trồng giống. Trí địa nghĩa kiêm tâm địa chúng sinh, cho nên sơ tâm gọi là "địa". Giải thích "Thí dụ sai biệt":
Hỏi: "Đất đai" và dưới nói "một đất" sai khác thế nào, mà trong đây thí dụ sai biệt, bên dưới thí dụ không sai?
Đáp: Dùng thí dụ đều sai biệt, dưới thí dụ thật lý, đây thí dụ báo ấm, cho nên không đồng.
Trong đây trước phá xưa: Tập nhân và báo quả, hai nghĩa không đồng, cho nên biết người xưa không nên dùng sông núi... mà thí dụ Tập nhân, bởi vì tập nhân ắt phải tăng trưởng. Cho nên văn dưới đây thì "Ba cỏ, hai cây" đều có nghĩa tăng trưởng, tức Tập nhân. Nay văn chánh giải thích chỉ dùng sông núi..., dùng thí chúng sinh ngũ ấm hai thứ thế gian giả thật không đồng, cho nên nay dẫn hai văn dưới đều chứng nghĩa báo quả của nhân thiên v.v... "Lại...": là biệt thí: Trước thông vì năm thừa, năm ấm làm thí dụ. Nay đều thí dụ năm thừa năm ấm. Như núi tuy cao nhất cũng có gò cao thấp... năm tướng. Chữ ô: Gò thấp, nếu y nghĩa đây nên viết chữ huyệt, ao. Cũng nên nói chữ sa (trũng) gò cao, nghĩa là sông núi hang cốc khe đất đai trong một mỗi tướng lại có năm tướng. Như đất tuy bằng cũng có cao thấp tợ như núi... xuyên: (sông): Là nước lớn năng xuyên thông cho nên gọi là "xuyên". Phan Nhạc Quan Trung ký nói: Nước có tám dòng sông: Kinh, Vị, Bá, Sản, Phong, Cao, Lao, Duật. Nên biết chỗ nước thông đều gọi là "xuyên". "Khê": Là cùng tận sông ngòi, nguồn xuất ra từ núi cho nên gọi là cùng. "Cốc": Nước chảy ở khe. Lại suối thông sông gọi là cốc, đâu có ngăn ngại gì đây... đều có năm tướng cho nên dùng thí dụ Ngũ thừa ngũ ấm. Trong cụm từ "Sông núi y thế giới vân vân" thì "vân vân" là: tế hợp ấm nhập Tập nhân pháp tánh ba pháp, tướng xoay chuyển nương nhau. Nên nói Tập nhân khai làm Duyên, Liễu, cùng ấm nhập kia bất tức bất ly. Ấm tập cùng chánh pháp, tánh bất tức bất ly. Sáu văn rõ rằng, trách nơi người xưa không lập thứ sáu làm nghĩa Tập nhân tăng trưởng.
Nói sáu: 1) Đất đai. 2) Thảo mộc cho đến thứ sáu là tăng trưởng.
Cho nên biết nghĩa đầu chỉ tương đương sông núi chưa liên quan đến hai nghĩa chủng tử tăng trưởng. "Lại tiếp... như đây" đến "trước sau ư!" Các sư xưa dùng nghĩa thứ sáu của sư nay đặt làm nghĩa thứ nhất, cho nên trách nói sao chép trước sau. Lại dùng nghĩa đất làm cuối cùng và nghĩa đầu: tam thiên làm tổng mà dùng khe hang... làm phân biệt gián đoạn cho nên nói lẫn lộn kinh văn. Trị bệnh lực dụng thù thắng. Nếu phân biệt hai chữ "dược thảo", thì dùng tiểu thảo riêng gọi tên "thảo", ngoài ra thì gọi chung là "dược", tức chỉ vô lậu. Lại, hàng nhị thừa theo sở thuật mà nói thì gọi là trung thảo, cho nên xưng hạ thảo trị bệnh lực yếu, thượng thảo đồng phàm phu trị bệnh cũng kém. Từ phát đại tâm cho nên cũng gọi là "dược". Hai cây (mộc) lại từ phú ấm (che lấp) làm công cho nên biết thông đề, biệt tại trung thảo, thông luận đều là dược chỉ lược chữ mộc thôi! Đầy đủ như đầu phẩm phân biệt có thể thấy. "Chất cán" là pháp thể, "Phúc ấm" là từ bi. "Khí dụng" là lợi vật. "Ví như hai Bồ-tát": Thông Biệt Bồ-tát. Nếu vọng hai giáo thì nhị thừa và Tam tạng Bồ-tát, vả lại nói đại. Nhưng Thông Bồ-tát nếu vọng Tam tạng, cảnh thệ nguyện rộng tuy không hơn kém, mà dùng Thông Bồ-tát:
1) Diễn môn thông viên. 2) Thông nơi biệt cho nên nói rộng. Thất thiện chỉ là Thất phương tiện thôi! Như từ tu tập đương thể đặt tên, phương tiện tiến thú công năng lập xưng. "Mây dày tức tam mật": Phàm nói tam mật ắt căn cứ Ứng Hóa. Tự thọ dụng báo bình đẳng pháp thân, thì ở đâu mà luận về mật? Phúc ấm ví như từ bi của đức Phật...: Che rộng thì chất lớn, che hẹp thì chất nhỏ, chất nhỏ thì lợi cận, chất lớn thì lợi viễn. Viễn mật cận sơ, tùy đều sai khác, tùy kia mà dụng trí hóa cảnh không đồng.
Trong cụm từ "Không mưa vân vân" thì "vân vân" là: nhân đem mây... để thí dụ tam mật, tiện dẫn sắc mây không đồng. Điện Sư danh khác có lôi (sấm), do duyên mưa không đồng. Nay dùng mây dụ ứng thân, sấm thí dụ danh xưng, sấm dụ phóng quang, mưa dụ thuyết pháp. Trường hàng không có nói sấm chớp, trong tụng có đủ. Có chớp ắt có sấm, sấm ắt có mây, mây ắt rót mưa. Nay không dùng "mưa không có chớp không có sấm, mây không mưa", làm thí dụ, nên dùng ý đây hợp thân mây..., ứng sắc chẳng phải một. Vả lại rộng nêu năm để ứng Ngũ thừa. Đức Phật làm giáo chủ, thí như điện sư, căn cơ chúng sinh cũng như điện sư, cảm ứng hợp nhau giống điện sư đấu tranh, tùy cơ có cảm ứng phát ánh sáng. Lại tứ đại đấu tranh cũng thí dụ cơ ứng. Nói "Năm việc không mưa": Tổng dùng không có cơ Ngũ thừa để giải thích có cơ, do không có cơ nên mưa pháp không giáng xuống. Phàm dẫn sự thí đều có cận viễn, trong đó không cần dùng Lục thiên, Tứ vực trong kinh Hoa Nghiêm, chỉ mượn ý kinh A-hàm làm thí dụ thôi?
Lại nữa Tạp A-hàm nói; Trời Phong Vân suy nghĩ rằng: Ta nay muốn dùng thần lực du hý, suy nghĩ rồi thì gió mây liền nổi. Điện trời sấm chớp, trời tạnh trời lạnh nóng cũng lại như vậy.
Hỏi: sáu thí dụ này vốn thí dụ sai biệt, sao một trận mưa mây dày làm thí dụ không sai biệt?
Đáp: Văn dưới nói mây mưa chỉ là mây mưa trong đây thí thôi!
Nay từ sở vũ được gọi là sai biệt.
Hỏi: Nếu như vậy thì cùng thảo mộc đâu khác biệt?
Đáp: Thảo mộc chỉ từ thảo mộc lập tên, mây mưa chính từ sở hiển làm năng, cho nên không đồng.
"Tám âm bốn biện" như trong sách Pháp Giới Thứ Đệ nói. Lẽ ra phân giáo biệt, nay từ tột cùng thuyết. "Thấm khắp...": Tuy nói Ngũ thừa vốn gia bị Nhất thật, lẽ nào khi thọ thấm nhuận ly thật địa ư! "Tín giới...": Ngũ thừa đều nhờ bốn pháp đây, chỉ có Nhân thừa thiếu định tuệ, dùng tâm sở thì xứng. "Nêu rõ thảo mộc kia tùy phần" đến "hai nhân": Tập nhân tăng trưởng để thành báo nhân, cho nên tập nhân tăng trưởng tức báo nhân tăng trưởng, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 8 ghi. Lược thuật các luận về tập báo nhân..., chỉ kia nêu rõ phát tướng đây biện rõ tu tập. Sáu tế kia độ bảy phương tiện đây, lấy đây làm khác.
"Hoa quả đơm kết" đến "hai quả": Hoa như tập quả, quả như báo quả. Đây cách chữ làm đối, lẽ ra nói đơm hoa kết quả, cũng có hoa mà chưa đơm, quả mà chưa kết. Cũng có thể thí dụ hai nhân. Nay dùng "đã phu đã thật (đã đơm kết)", cho nên khi đến quả thì y chánh rõ ràng. "Đạo tiền tâm địa" đến "Trí địa": Đây gọi là "Đạo tiền hậu", danh có thông biệt, Đạo hậu định tại quả hậu, Đạo tiền thông đến phàm phu. Cho nên trong phẩm Phương Tiện cũng lấy Đẳng giác về trước làm Đạo tiền. Trong đây phải dùng bạc địa phàm phu không giới thiện làm Đạo tiền, dùng Ngũ thừa làm Đạo trung, do đó Đạo tiền Đạo hậu lý chân như bình đẳng đều là địa. Địa thể không sai biệt nhưng đều năng sanh, cho nên biết chúng sanh Đạo tiền tâm địa, sao thường không có tánh năng sinh ư? Mà không năng sanh không năng thành. Ắt nhờ vào cực quả trí địa của đạo hậu khiến sanh khiến thành. Phát tâm về sau cứu cánh về trước, đều nhờ Trí địa mà thành thục. "Khai phát Đạo trung": Lại đem sơ vọng hậu, Ngũ thừa ở giữa. Không phải cho rằng Ngũ thừa tức có chân như. Ngũ chủng thiện căn tức Ngũ thừa, đều căn cứ Như Lai hóa ý biên nói, cho nên nói "cuối cùng là nhất âm". Nói "cuối cùng là": cuối cùng không định năm, cho nên nói vậy. Chúng sinh được gia bị tuy năm, hóa ý chỉ một, từ biên hạn quyền nghi phải gọi là bốn vị.
"Hợp thí thứ lớp": Trong đây chỉ nêu trong hợp tương sinh, căn cứ lý thì cũng nên nêu thí dụ tướng sanh. Thí dụ tương sinh: Do có chúng sinh ngũ ấm cho nên có Ngũ thừa thảo mộc. Có ngũ thừa chủng tử cho nên mật vân (mây dày) ứng thế, nên ắt thuyết pháp, thuyết ắt có thấm nhuần, thấm nhuần ắt tăng trưởng. "Vân vân" là: nên dùng sai biệt đối nhuận đồng nói sai biệt không sai biệt bình đẳng. "Chương môn": "Mười hiệu" như trong Chỉ Quán quyển hai lược giải thích. "Tứ hoằng": Triệu sư nói: "Phát tăng na ở tâm ban đầu, cuối cùng dùng đại bi ứng phó nạn". Bản Nghiệp Anh Lạc đủ đối Tứ đế. Nhưng kia thuộc Biệt, nay phải tại Viên. "Tri đạo...": ba thứ "bất hộ": Thường cùng trí đồng. Sáu thứ pháp môn bắt đầu từ mười hiệu cuối đến ba nghiệp, các giáo hóa nêu tất cả quả địa, thần dụng pháp môn. Sáu thứ đây nhiếp đủ cho nên lược nêu, huống chi sáu môn đây mỗi môn xen lẫn nhiếp. Đây sáu thứ lớp: Do đủ mười hiệu cho nên có Tứ hoằng cho nên nói người chưa được độ thì làm cho được độ.... Tuy dùng Tứ hoằng, nếu không có Tam đạt chiếu cơ thì bất biến, ba trí đầy đủ mới gọi là "đạt". Trí ắt có nhãn. Ba pháp đã lấy định tuệ làm nhân, mà thâu hoạch nhãn trí hai quả, cho nên có trí ắt có nhãn. Như đây năm khoa đều do ba nghiệp tùy trí tuệ hành, cho nên lược nêu sáu khoa để chỉ bày năng ứng. Đức Phật tự xưng đây để hiển nghĩa năng mưa pháp. "Tức là mười pháp giới" đến "sai biệt", tuy thông mười pháp giới mà tứ thú nghĩa không tăng trưởng.
"Bấy giờ": là khi quán căn cơ. Nói "nếu luận": Lại nêu Hoa Nghiêm. Nói "lợi độn" thông ba, bốn vị, mười pháp giới. "Thông biệt viên vân vân": Đây phải cần ba phen lần lượt nêu lợi độn. Nhưng câu đầu nói Thanh-văn quán sanh diệt, Bồ-tát quán bất sanh diệt đã là thông. Văn dưới lại nêu đủ ba Thông v.v..., là chỉ lần nữa nêu đối Biệt, Viên thôi! Tức dùng Thanh-văn khắp thâu Tạng giáo. Trong cụm từ "là tinh tấn vân vân" thì "vân vân" là: Cần căn cứ ba giáo Bồ-tát cầu Phật truyền nêu "tấn đãi" (siêng và lười). "Tùy kia" đến "không có lỗi tăng giảm": là xứng căn cớ Ngũ thừa cho nên không tăng giảm. Như căn cơ người trao dùng Thập thiện làm tăng, căn cơ Trời trao dùng Ngũ giới làm giảm. Như vậy cho đến Bồ-tát lần lượt tương vọng cũng vậy. "Báo nhân" đến "tập quả": Văn trước chỉ nói Đơm hoa kết quả để dụ hai quả. Nay trong hợp bèn dùng hoa hợp Báo quả, quả hợp Tập quả. Nếu không y đây hợp tức căn cứ văn trước; hoặc là biệt có ý. "Như nói Bát-Nhã Phương-Đẳng nêu các địa ngục": trong kinh Đại Phẩm nói: "Như Lai phóng quang chiếu các địa ngục", đầy đủ như Thích Tiêm dẫn. Nói kinh Phương-đẳng cũng như Thích Tiêm. Trong đây dẫn ba ác: Trong kinh chỉ nói thiện xứ, nay dùng ác đạo: 1) Vì muốn nhiếp mười pháp giới.
2) Ba ác có bảy thiện cơ, nay nói "cũng" là dùng ý để giải thích. "Sinh thân Bồ-tát" lại chỉ Địa tiền, nhưng căn cứ Quyền giáo địa tiền không thể Nhất sinh cho nên phải y Thật giáo để nói. "Sau sinh Tịnh mãn giới": Xána kia âm, đây chỉ cõi Thật báo là "Tịnh mãn giới". "Bồtát thừa xuất nạp không có lợi trí": lại chỉ Tam tạng Bồtát.
"Hỏi...": Hiện văn đều có tám lớp hỏi đáp. Ý muốn như hỏi mà không biệt nói, chỉ ghi chú "vân vân" là: Căn cứ nghĩa vẫn có ý đầu trong tám, chỉ nên dùng xuất thế mới chính gọi là thừa. Vì sao phải liệt kê Nhân thiện thừa ư? Cho nên liệt kê rộng các ý để biện minh tướng tùy nghi hợp vật. "Lại Nhân thiên...": Căn cứ đây cũng nên nói Bồ-tát cũng đoạn, cũng không đoạn, chỉ là văn lược.
Tiếp, nói "Nhị thừa cũng đoạn, cũng không đoạn": Nhị thừa tuy đoạn, đoạn vẫn chưa tận cho nên nói "cũng đoạn cũng không đoạn", các thứ khác có thể biết. Coi đây là mẫu, lấy ý các kinh tự tại mà hỏi, cho đến đầy đủ trải qua tứ giáo Thất phương tiện làm câu hỏi. Đây đều một nhà y nghĩa giả nói hỏi đáp đó thôi! Tiếp,"Đại luận...": lại dẫn văn lập câu hỏi, nêu công thức ly hợp, thông các ý trước. Đại luận liền đối Ngũ thừa làm năm thiện căn cho nên được đối với Tạng v.v... làm câu hỏi. "Nhân thiên...": là đáp, trong năm thừa hợp nhị thừa khai Phật, Bồ-tát làm hai. Đây dùng năm thiện vọng năm thừa mà nói. "Bốn tạng hợp phàm khai Thánh": đem bốn tạng để vọng năm thừa, cho nên bốn tạng hợp Nhân thiên tại trong Nhị thừa khai Nhị thừa làm hai, Phật Bồ-tát làm hai. Nếu dùng năm thừa vọng bốn tạng, thì là đều khai Nhân thiên nhị thừa mỗi thứ làm hai, vẫn hợp Phật Bồtát làm một. Đã nói vì duyên không đồng do đó cũng được làm Tam thừa, chỉ là phàm Thánh đều hợp đó thôi! Chỉ do danh hẹp nhiếp pháp không khắp, nêu các loại không hiển, cho nên không được chỉ dùng Nhị thừa để nhiếp. Nếu trực tiếp luận về thừa thì pháp gì lại không đắc? Đầy đủ căn cứ ý trên tư duy có thể biết. Mưa thấm khắp tất cả thuận hợp sáu chương môn. Sáu chương chính nêu tướng mưa tuôn.
"Nhất tướng" đến "nhất địa": chân như chỉ là Nhất thật tướng. Bảy tướng chỉ là Thất phương tiện, dùng Thật tướng đối bảy tướng, cho nên nói "tướng", tức hành tướng. Bảy giáo chỉ là Thất phương tiện giáo, lấy giáo đối giáo, cho nên nói "giáo". "Từ "cái gọi là" trở xuống, là song thích": Đầu tiên, song nêu lý giáo. Tiếp, "Chúng sinh...": là trước giải thích tánh đối với tướng lý đức. Đầu tổng nêu. "Giải thoát...": là liệt nêu kết. Tánh này ba đức tuy có ba tướng chỉ là một tướng. "Như Lai...": là giải thích một vị, do Phật thuyết. Tánh đây có thể tu, tánh vốn không có danh mà đầy đủ các danh. Cho nên không nói mà nói, nói tức thành giáo, y giáo tu tập mới gọi là tu tam. Ví như người đọc giáo này mà không biết tu tánh, thì làm sao hiểu mà giải thích sớ văn trong đây? Kính thỉnh người đọc người hành tư duy soi chiếu. "Ba tướng đây...": là lần nữa lại chỉ tánh ba, lấy làm cảnh tu. "Duyên sinh...": là lần nữa lại nêu tướng tu, cho nên gọi là hạnh, hạnh tức nhân. "Cuối cùng thì...": là nêu quả địa ba. Ba trí mãn, cho nên theo trí mà đặt tên, tức là trí ba, hạnh ba, tánh ba. Khai hợp nhiều ít, chuẩn vọng có thể biết. "Có khi...": là nêu phân văn không đồng. "Giải thoát...": là rộng giải thích tướng vị. Trước tướng, sau vị. Đầu tiên, trong giải thích tướng thì tánh đức chỉ là bản hữu ba đường (đạo).
Tướng giải thoát: Tức nơi nghiệp đạo là đức giải thoát. Ly tướng: Tức nơi phiền não là đức Bát-nhã. Tướng tịch diệt: Tức là khổ đạo, tức đức Pháp thân không có sinh tử..., dựa vào tu để giải thích. "Duy có...": là kết, cho nên nói Thật tướng. "Nhất tướng...": là chuyển giải thích Nhất tướng vô trụ bản lập tất cả pháp. Lý thì tánh đức duyên liễu, sự thì tu đắc ba nhân. Mê thì lưu chuyển trong ba đường, ngộ thì thắng dụng trong quả. Như vậy bốn lớp đều do mê trung đạo thật tướng mà lập. Vô trụ đây vốn đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển bảy đã giải thích, cho nên vô minh thật tướng đều gọi là vô trụ. Nay dùng vô tướng đối nơi sai biệt, chuyên chỉ Thật tướng gọi là bản vô trú. Vô trụ tức bản, gọi là bản vô trụ. Tùy duyên bất biến lý ở nơi đây. Hai môn Khởi và Trụ, nghĩa căn cứ đây có thể biết. Nhiễm tịnh hai loại đều tại mười môn. "Nhất vị...": là căn cứ giáo giải thích, tướng trên chỉ nói không có sinh tử thôi! Căn cứ sau mới nói không có nhị tử, là vì giáo tại phân biệt. Trước, tướng chỉ nói "ly tướng là không có tướng Niếtbàn", giáo đây mới nói đắc trí tuệ trung đạo cho đến lìa chấp nhị biên. Trước, tướng chỉ nói "vô tướng cũng vô tướng", nay trong giáo nói nhị biên nhân quả diệt, lẽ ra nói Thông Biệt nhị hoặc trong ngoài nhị tử diệt. Nay đối trung đạo, trung đạo từ lý nên nhân quả gọi là lìa nhị biên, hai thứ Niết-bàn đây vĩnh viễn sai khác sách Tiểu thừa. Sách Tiểu thừa nói nhị diệt ắt không đồng thời, trong đây thì nhị diệt hoàn toàn không có trước sau. "Câu câu theo lệ làm nghĩa sai biệt và không sai biệt": vì câu câu căn cứ giáo, giáo cũng cần hiển nghĩa sai biệt không sai biệt, cho nên lẽ ra đầy đủ như trước nói trong một tướng, tức văn nói từ: "vô trú bản" đến "tức là không sai biệt". Cho nên, nay đối giáo nêu rõ nghĩa sai biệt không sai biệt. Nếu không như vậy thì luống khai, phí hợp, dối nói, hành vô ích, nêu suông cái danh Nhất thừa, cuối cùng không có tôn chỉ Nhất thừa. Người bẩm thọ Quyền giáo còn phải biết Quyền, huống chi đối ở điểm cuối cùng này sao được chẳng sáng Thật? Quên rằng đều chưa nghe nói "tánh ác", thì làm sao tin nổi "có hạnh tánh đức".
"Cứu cánh...": Trước trong tổng giải thích đã lược nêu xong. Nay rộng giải thích lý giáo, song kết chỗ trở về, năng thuyên sở thuyên đều giúp cho quả trí, cho nên nói cứu cánh thông luận lý giáo. Có đủ ba pháp mà chỉ nói Chủng trí, là vì từ trí lấy cảnh. "Thất chủng (bảy thứ)...": Cũng có người nói: Các câu trong đây mỗi mỗi đều nói Ngũ thừa Thất thiện, là ý gì? Quá phiền để lập lại! Nay xin ông lìa ngoài giải thích đây mà hợp với kinh này, thì không có việc ấy! Cho nên, biết không dùng Thất thiện để phân biệt thì không do đâu mà hiển Thật. Thứ hai...: sáu khoa trước hiển Nhân pháp năng tri, nay giảm biện Nhân pháp sở tri, cho nên nêu mười thứ đây nhiếp hết các pháp. Lại trước chỉ là căn cứ nơi năng, nay thì căn cứ năng mà luận sở, các thứ tứ tam tuệ sở thủ. Bốn pháp sở thủ không ra ngoài nhân quả. Thể nhân quả, thể duy thật tánh, nhất nhất đối biện rõ mười pháp ở kinh khác. Ba đạo là ba đức chủng, tức tánh chủng. Vì hữu tánh sinh, cho nên gọi là chủng. Khi sinh chủng đây thuần biến làm tu, tu tánh nhất như không còn thể riêng biệt. Nói tương đối: Lại từ đương thể đối địch ngược nhau. Tức sự lý nhân quả mê ngộ buộc thoát... thủy chung lý nhất cho nên gọi là tánh. Nghĩa sóng nước chuẩn hướng nhau có thể biết. Sóng là, nước lẽ nào không tin ư? Nếu căn cứ loại: Loại nghĩa là giống như lệ, tức tu đức. Chúng sinh từ vô thủy thường ở trong ba đường, trong đó chỗ nào không có một chút chủng loại? "Phàm có tâm... chủng pháp thân": hợp tánh kia ba làm một pháp thân, đối với tu mới hợp căn cứ tánh thường khai. Ba thứ đây từ biệt, nhất nhất đều sai khác.
Hỏi: Nếu như vậy, Bát-nhã giải thoát có chủng loại và dùng đối luận, thì Pháp thân loại chủng và Đối luận chủng là đồng hay khác?
Đáp: Theo lý thì một, còn nghĩa thì khác. Nói "theo lý thì một" là chỉ duyên Lý nhất, cho nên tánh tu tương đối ly hợp. Nói "nghĩa thì khác": Là đối sinh tử biên gọi là tương đối. Lý thể bản tịnh gọi là chủng loại.
Lại, nghe năng quán trí, gọi là chủng liễu. Nghe sở duyên lý, gọi là chủng chánh. Tức là lý tịnh và sự tịnh làm loại. "Các chủng sai biệt...": Cần căn cứ các giáo các pháp giới mà rộng nói, không thể thuật đủ, chỉ là lý thể nhất ba đức chủng Như Lai năng biết. Nếu căn cứ giáo: Biệt giáo chỉ có chủng loại chủng mà không tương đối, ở trong đó chủng loại pháp thân vẫn Biệt, thủy chung thường tịnh chỉ không từ che lắp cho nên được gọi là chủng. Tạng, Thông hai giáo hoàn toàn không có nghĩa đây chỉ căn cứ đương giáo danh kia chẳng phải không có. Nhân thời ba học làm năm phần chủng. Đạt phần tức là hai giải thoát chủng. Niệm xứ tức là Bát-nhã chủng, ẩn hiển đều biệt đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba nói. Cho nên ba giáo, giáo đạo có sai biệt, bản tại Viên thật không sai biệt. "Tướng, thể, tánh" ba thứ đã thông đầu cuối. Sở dĩ cần "căn cứ mười pháp giới mười như để giải thích": là ở trước giải thích chữ "chủng" đã dùng tương đối và chủng loại để giải thích, nay đây ba pháp cũng nên theo lệ. Lại, trước trong chủng thì không nói mười giới mà lấy giới thấp nhất, trong loại thì tự nói thế trí... Cho nên mười giới đây không ngoài nhất niệm. Như trong phần rộng giải thích "Thập như" kia đã nêu. Lại, trước giải thích chủng không căn cứ mười giới, là vì muốn nêu rõ ba đức nghĩa tiện. Tướng đây... ba thứ cũng là ba đức. Đã có nghĩa chủng không cần y trước căn cứ giới thì tiện, cho nên trong mười giới có Phật cùng phàm, luận sai biệt không sai biệt, hoặc đối tam đế.
Tiếp, "Căn cứ ba pháp" tức là ba tuệ. Trong ba lớp thì đầu tiên đều nói "niệm", niệm sở thủ cảnh. Tư Tu cũng như vậy. Cảnh tức sở văn, sở tư, sở tu. Đều nói "Vì sao?" là chỉ cảnh sở thủ. "Sở niệm...": là giáo hạ sở thuyên. Trước thì bốn pháp tùy giáo tức là có Tư Tu không đồng, đối giới là cảnh tăng giảm nhiều ít. Quán thể xảo chuyết (khéo, vụng) tùy nghĩa nên biết, là sai biệt không sai biệt dùng quyền đối thật. Đầu tiên nói dụng:
Có thủ cảnh tuệ thì mới có sở thủ, nêu sự hiển tuệ cho nên nói dụng. Cái gọi là "thể": tức đương thể. Trong cảnh nêu sự, sự là sở thủ. "Niệm...": ở trước thủ sự sở thủ, nay thì trước nói thế nào? Chỉ năng niệm thể, Tư Tu cũng vậy, cho nên biết tức là đương thể của ba tuệ. Thể đây tức là năng Văn năng Tư năng Tu cho nên nói "ghi chép các pháp sở văn". Nói "nhân duyên": Nghĩa là nói vì sao cần phải nghe giáo! "Niệm...": tức là năng văn... không do năng thủ khiến cho khác mà làm biệt tướng. Chính do pháp sở văn khác nhau mà phân Ngũ thừa Thất thiện. Năng sở hòa hợp tức nhân duyên văn tư tu. Nói "thủ cảnh nghe (văn) pháp là nhân duyên": Sở thủ năng thủ đều gọi là nhân, nghe pháp là duyên, sinh tuệ tức là sở sinh pháp. Lại, thủ cảnh: thủ cảnh ắt phải nghe pháp làm nhân. Lại trước nêu như thế, cho nên ba cảnh làm nhân, nghe pháp làm duyên. Tức ban đầu tuy có nghe... lại phải nghe pháp lấy làm duyên lành, nên nói nhân duyên. Nên biết ba tuệ cảnh thể và dùng nhân duyên tuy ba mà hai. Lần nữa lại giải thích nhân duyên, hợp cảnh thể trước, thể tức là trí cảnh ắt từ thể đặt tên. Thể ắt do cảnh lập xưng. Lần nữa lại nói nhân duyên: Đã thêm nghe pháp phòng chấp tự tha và lập lại lẫn xen nhân duyên. Ba nghĩa đầy đủ mới thành tuệ và thành sở vi (việc làm). "Như đây tam thừa...": Ngũ thừa trừ Nhân thiên, bởi vì Nhân thiên thừa chưa gọi là tuệ.
Hỏi: Trước nói mười pháp giới, vì sao trong đây chỉ nói ba thừa?
Đáp: Rộng lược tuy khác, lý kia chỉ một, chỉ vì chủng thông, thừa hạn cuộc hợp đại khai tiểu, cho nên chỉ có ba thừa.
Lại nữa, chủng... bốn thứ ắt biến khắp mười pháp giới, trong đó khởi tuệ ắt chỉ có tam thừa, bởi vì tam thừa thông bốn pháp giới. "Nhân của Ngũ thừa...": Tuệ ắt chỉ có ba nhân quả thông năm. Ly Bảy căn cứ giải thích có thể dùng ý hiểu. Không nói bốn thứ khởi: Lại từ thăng xuất, Sinh công căn cứ đủ các pháp: độ... để biện rõ Văn Tư Tu. Nhưng lục độ chưa thể phân nơi tam thừa. Lục độ thì thông khắp, ba thì nhiếp sáu. "Chính là căn cứ một pháp": ba ý trước trong bốn ý, là căn cứ sở mà biện năng, đây thì căn cứ năng mà luận sở. Trong sở không sai biệt tức một pháp, cho nên ba ý trước Như Lai đều có một pháp không sai biệt, chỉ vì lại căn cứ nguyên do đối năng biết. "Không sai biệt vân vân" thì "vân vân" là: Chỉ là như trước nói sai biệt không sai biệt mà làm phân biệt.
"Vô lượng trong một": Ý nói là vô lượng của một nhà, trong mỗi một đức đều có thể làm duyên phân biệt vô lượng, như nói nhiều các danh tự.... "Một trong vô lượng": căn cứ đây có thể biết. "Vì sao?...": đối Tiểu biện rõ Biệt! Vì sao dùng người Nhị thừa cũng có hai, đã lìa (trước) chấp trước mà nhập tịch, danh đồng mà thể khác, lần nữa lại đối giải thích. "Thường tịch diệt...": lại dùng nghĩa không sai biệt kết Nhị thừa sai biệt. "Cuối cùng trở về Không": căn cứ theo lệ có thể thấy. "Trịnh trọng cầm tay": cầm tay là tiêu biểu nhắc nhở siêng năng, trước đã giải thích xong. Nay lại giải thích. Việc đây không dễ cho nên lần nữa lại khuyên siêng năng. Đức Phật tại thế còn như vậy huống chi đời mạt pháp. Bài xích: "Xưa nói" đến "như Phật...": Người xưa dùng đây giải thích Thọ lượng bên dưới, mất tôn chỉ càng xa. Nay lại dùng đây để giải thích giáo thường trú cho nên nói "làm khổ kinh". Bất sinh bất diệt mà nói gián đoạn (sắp đoạn) cho nên nói "làm khổ Phật". Kinh và Phật không có khổ, lỗi là do thêm vào, cho nên nói "làm khổ Phật...". Ngài Quang Trạch nói Hữu dư mà chưa đủ biện rõ khác, nhưng các văn của Quang Trạch đều phá tam Tăng-kỳ Bồ-tát. "Không biết việc gì" đến "đây tức dùng tên Hữu dư của Tiểu thừa": để hiểu rõ Tất cánh Không. "Có người...": người khác vấn nạn Quang Trạch: Các sư xưa còn có người không chấp nhận sự giải thích này, huống chi các sư nay. "Kinh văn...": Sư nay chính giải thích. Trước, "đối Nhị thừa", lần nữa lại giải thích bởi có nguyên do. "Long Ấn...": dẫn các giải thích xưa để trách ngài Quang Trạch. Nhất vãng lại như vậy. Nhưng cũng không biết xưa Đệ nhất nghĩa Không cùng Tiểu thừa có gì sai khác? "Tùy tam Tất-đàn": cũng lấy nhất thật làm Đệ nhất nghĩa đối Quyền làm ba, tức ngày xưa tùy muốn thuận quyền cơ.
"Lại nữa, tông giải thích nghi": Nói tuy chưa mà chấp nhận làm đồng loại được thọ ký rồi tức chứng phần chân thật Phật, từ sau Lộc uyển thì lãnh đủ Quyền thật, đến thời Đề-hồ thì lãnh nghiệp bất hư. Phải biết trước tán thán Thích-ca, vốn muốn xưng tán Ca-diếp sở lãnh. Nói giải thích nghi là e rằng thời chúng đây nghe đức Phật thuật kia lãnh sở bất cập, không hiểu ý chỉ của Phật mà cho là Ca-diếp lãnh giải không đúng, cho nên thuật mình Quyền thật để tán thán Ca-diếp năng biết Như Lai tùy nghi thuyết pháp. Tuy tự lãnh mà thật đã kiêm tất cả.
Hỏi: Vì sao không giải thích thám nghi (dò xét nghi) ư?
Đáp: Tề giáo hiển lộ hư thật dễ biện. Cho nên đức Phật lại căn cứ Tề giáo thuật tán thán.
Hỏi: Nếu vậy, thì Thám rất đáng nghi, đâu riêng Tề giáo?
Đáp: Tuy khó mà dễ. Thời chúng nghe nói Như Lai nhị trí, biết Pháp thân Phật thường tư duy đại tiểu, chỉ sợ lãnh giáo chưa hẳn tận thiện cho nên Phật dùng hai giáo hai trí thuật Tề giáo kia không có sai lầm.
Lại, Tề giáo thuật còn tự không hư dối, nghiệm biết Thám lãnh cũng nên chẳng sai. "Giải thích ý thuật": Trước vừa bài xích kia sở lãnh bất cập lẽ nào đến trong đây tức nói sở lãnh giải rất là hy hữu? Cho nên biết văn trước chỉ là Như Lai tự thuật năng biết, liên quan gì đến Ca-diếp? Cho nên, nay giải thích rằng: Thế Tôn tuy tức tự thuật mà về lý coi như Ca-diếp tất cả đều lãnh giải. Từ đầu đến cuối Ca-diếp đã tự lãnh giải mà cũng trải qua năm thời quyền thật, nghĩa xả tất cả cho nên cũng kham tán thán rất là hy hữu. Nhưng Chương An lần nữa lại giải thích chỉ thuật mười ba bài kệ của phẩm trước tán thán ân sâu của Phật, tức là đương giới năng biết tùy nghi. Đương giới sự lý biến thâu tất cả.
Hỏi: Trong đây thuật trước tán thán ân sâu của Đức Phật và người xưa có gì sai biệt?
Đáp: Người xưa trực tiếp nói ân sâu mà không biện rõ ân xa gần, cho nên trước dùng mười ba bài kệ lãnh đầy đủ từ đầu đến cuối. Nay Đức Phật thuật đủ mới gọi là thuật thành.
Đây là Chương An trợ giúp thấy, y ý đại sư tự thành tinh tế sâu xa. "Lẽ nào có...": tức chỉ Ca-diếp... lấy làm một cơ, chỉ cõi Ta-bà đây lấy làm một phương, các căn cơ khác không lãnh giải cho nên nói thuyết bất khả tận. Ca-diếp... bốn vị ở phẩm trước chưa thể, chỉ nói ân lớn của Như Lai. Như Lai từ xa quán sát biết Ca-diếp đã có khả năng lãnh giải hai thứ Giáo và Thám, thì lẽ nào không thể biết bốn ân đầu sâu rộng lớn ư! Cho đến sau cùng khiến ta hóa tha, nghi thức mười phương cũng không ngoài điều này. Cho nên nay trong văn trường hàng kệ tụng này thông thuật khắp, thì ba cỏ hai cây một đất một mưa thuật hết lãnh giải của Ca-diếp từ đầu đến cuối. "Thân tâm tài pháp": Thân được thọ ký, tâm thâu hoạch pháp tài. Đã chứng đệ nhất nghĩa nhất thật Không tòa. Nếu y nghĩa đây thì Đức Phật vốn khắp thuật Cadiếp lãnh giải từ đầu đến cuối. Thời chúng không lãnh giải, cho nên cần phải trừ nghi. Cho nên giải thích nói Ca-diếp năng biết. Nếu suy tìm ý đây thì tại sao được nói dùng bốn phục nạn cùng đây đồng? Nếu không như vậy, thì nói đại ân chủ ở chỗ nào? Thuật ân không khắp, ngược lại thành trái nghĩa. Nếu như vậy, ra đời trở lại nên tự chê, vì sao Phật tán thán năng tín năng thọ?
Tiếp, trong tụng không tụng, lược chỉ tụng rộng, bởi vì rộng nhiếp lược. "Tiếp, Người trí...": là căn cứ quyền trí.
Hỏi: Đã nói "Người trí nếu được nghe", đây ắt thuộc cơ, tại sao thuộc Phật?
Đáp: Nếu chẳng phải người có trí nói, thì làm sao có thể khiến người có trí tin. "Từ trước đây đều gọi là tà".
Ca-diếp... bốn vị chưa nghe trước thí dụ, nghĩa đương tà kiến, vì kiến chưa chánh. Cho nên biệt Đại kinh nói Ca-diếp Đồng tử tự thuật làm gương. Kia cũng chưa nghe, Niết-bàn về trước tự xưng tà kiến. Ứng thân" đến "hàm nhuận": Phàm nói "thuyết pháp" chính là đối "ứng thân", cho nên Thắng liệt ứng đều là sắc thân khẩu nghiệp tuyên biện. Tân kinh chính dùng Tha thọ dụng báo mà làm Xá-na, còn chẳng phải tự báo, lẽ nào không nói ư? Nếu nói thể tức, mười thân đều tức, đâu riêng gì ứng ư? Mới có thể nói ba thân tức một, nói nín không khác, tại sao bỏ thân trượng sáu mà thiên chấp tôn tướng như hải? Như Không làm hoa, ngoài hoa thì chẳng có không. Công năng đầy đủ... cho nên biết xưa thì kinh sách nói thiên về Tiểu thừa, như mưa Viên thường không rơi xuống để khai hiển Phật tánh trong mười hai bộ kinh, cho nên mây không thể hàm nhuận. Trong hai vị trước tuy nói không thọ, tuy có nghĩa bất biến mà chẳng hàm nhuận, "Phật Tu Phiến Đa không thuyết pháp" đây dùng "hoàn toàn không thuyết" làm nghĩa "không bao hàm", là ở văn Đại luận. "Đức Phật Đa Bảo không thuyết": nghĩa như văn dưới.
"Chín mươi tám sử", đầu tiên đoạn kiến ái đắc ích chân đế. Nói "địa thượng thanh lương": là vị sáu căn thanh tịnh cũng lại trừ kiến ái. "Nói bách cốc (trăm thứ lúa) thông" đến "trăm điều thiện": là Ngũ thừa đều lấy trăm điều thiện làm gốc. Nói "năng sinh": Là theo quả mà nói, nếu theo nhân thì nói chính là trăm thiện sinh Ngũ thừa. Nhân Đại Tiểu thừa lẽ nào vượt quá mười thiện! Cho nên lấy mười thiện lại xen lẫn trang nghiêm.
Nếu không năng tu xen lẫn nhân trang nghiêm, thì nay đã không luận. Nếu vậy thì Nhân thừa không có trăm thiện ư?
Đáp: Rượu phòng ý địa, thông nói chẳng phải không có. "Cam giá...": Đã nêu hai vật nên có thuộc đối, nay thử đối no. "Cam giá"(mía ngọt) chất chỉ là một, có thể dùng ví như định. "Bồ đào" (nho) hình nhiều dùng dụ cho tuệ. Tuệ căn cứ sở phá, định căn cứ sở duyên, tạm phân làm nhiều một. "Đã hiện ra trong đời..." ba hàng tụng mười hiệu, văn lược nghĩa hợp. "Xuất thế", tức Vô thượng sĩ và Phật. "Vì thuyết" tức Chánh biến tri và Minh mạnh túc. Thế Tôn tức hiệu thứ mười. "Trong hàng Nhân thiên" tức Điều ngự trượng phu và Thiên nhân sư. Như Lai tức hiệu thứ nhất. Đến thiện, đi thiện kiêm nơi Thiện thệ. Lại "xuất thế" tức Thế gian giải. "Thấm nhuần khắp tất cả..." là bốn hoằng thệ: Thấm nhuần chúng sinh đầy đủ tức hoằng thệ đầu, đều khiến lìa khổ tức thệ thứ hai, đều khiến lìa nơi nhân quả khổ cho nên được vui an ổn tức thệ thứ ba, và Niết-bàn lạc tức thệ thứ tư. Ngũ thừa đều có vui thế gian đều khiến được vui Đệ nhất. Trong "Khuyên nghe thọ" lại chia làm hai: hai hàng đầu trước tán thán Phật. Tiếp, "Vì các đại chúng...": là người năng thuyết thì tôn quý, cho nên sở thuyết là diệu pháp. Thất thiện đều quy nhất thừa, cho nên khuyên nghe thọ. Đây nêu nghĩa không sai biệt để giải thích sai biệt. "Đức Phật bình đẳng thuyết...": Có yêu ghét cho nên có đây kia. Chẳng phải đối với căn cơ Phật thì yêu, cơ khác thì ghét. "Sang hèn và thượng hạ": căn cứ ở vị. "Trì giới hay phá giới": căn cứ hành. "Lợi căn hay độn căn": căn cứ tu tập. Cũng phải trải qua đủ Ngũ thừa Thất thiện lần lượt nói đó.
"Có người...": tiếp giải thích "ba cỏ hai cây". Sư xưa nói không đồng, chỉ loại cỏ lớn, hai cây, không nhất định dùng danh hợp, hai loại cỏ nhỏ và vừa thì kinh tự kết danh hợp, ắt không nghịch cãi. Nhưng không biết có hai thứ Nhị thừa, cho nên sư đầu tiên nêu đủ năm vị. Sư thứ hai, thứ ba chỉ nêu ba vị, do hai loại cỏ ý đồng ba đều chưa xưng. "Nhưng ba có...": nay giải thích. Trước là tổng phi. Nói "tâm sư phản Phật trái kinh": không thọ theo Phật nên là "tâm sư", ý Phật không như vậy tức "phản Phật". "Trái kinh": Kinh nêu thọ nhuần không đồng để đối Ngũ thừa sai biệt, vì sao ba vị đều đồng tại một giáo? "Trong biệt thọ thấm nhuần" có hai giải thích tiến thoái: Đầu, chánh hiểu rõ kinh văn. Tiếp, dùng mộc lệ thảo căn cứ nghĩa để giải thích, thảo đã có ba, mộc cũng nên theo lệ, Trong phần "Nhân kiến thương thảo", nói "cầu Thế Tôn": là nghĩa cũng thông sau. Trong "kiến tiểu thọ", nói "chuyên tâm nơi Phật đạo": nghĩa là thông từ đầu đến cuối. Trong "kiến đại thọ" nói "độ vô lượng muôn ức": nghĩa, là thông hai thứ trước, tiện làm một thứ trải qua vị giải thích. Dùng cận đại, bỏ kinh xưa, mà luận các giáo Bồ-tát, đây là đại hoạn trong việc hiểu và giải thích kinh. Cho nên, nay biệt giải thích ngầm thuận với kinh văn. Thượng thảo là lục độ, đã nói hành Tinh tấn, Định. Trong lục độ thì Tinh tấn là tối thượng. Cho nên Đại luận nói: Thí, Giới, Nhẫn là thường pháp thế gian. Muốn tu định tuệ ắt phải tinh tấn, huống lại thông tinh tấn nhập khắp trong năm độ kia; vì nghĩa này cho nên tinh tấn nhiếp sáu độ, không thể hai cây (mộc) chỉ tại ba kỳ. Trong phần tiểu thọ, kinh đã nói "Thường thực hành từ bi, tự biết mình làm Phật". Lục độ Bồ-tát đệ tam tăng-kỳ mới quyết định biết, cho nên bất cập Thông, chỉ quá nhị địa ắt biết làm Phật, cho nên cùng trước khác, chính từ nghĩa thù thắng nêu. Trong phần đại thọ đã nói chuyển bất thoái chuyển, Biệt nhân Sơ địa năng chuyển pháp luân, đó là Niệm bất thoái. Tạng, Thông đến quả mới chuyển pháp luân, lẽ nào được gọi là Bồ-tát như vậy? Cho nên, biết là tại Biệt.
Tiếp, nghĩa lập ba cây (mộc) thông ba Bồ-tát. Khiến biết thông phương cho nên lại giải thích. Nên đầu Chánh Pháp Hoa theo lệ thì nói "ba cây hai cỏ", dùng cỏ nhỏ làm "du du dược", dùng cỏ lớn (thượng thảo) làm "thượng tôn dược". Tụng văn chính nói ba loại cỏ thuốc và hai loại cây cho nên văn nay thông biệt hai giải. Trong phần giải thích tăng trưởng, Nhị thừa tăng trưởng hai giải thích không đồng, đều là ý sư nay. Trước giải thích đắc Tiểu thừa, hết sinh tư, mới gọi là "tối hậu".
Tiếp, trong giải thích Đại thừa mới gọi là "hậu thân". Đại Tiểu hai thứ đều gọi là tăng trưởng, tăng trưởng đều do gặp Phật. Chúng sinh tự cho là đương phần tăng trưởng, nay căn cứ ý Phật thì đều là đất, mưa, cho nên khiến đương phần viễn (xa) có tăng trưởng, do đó đến phương này mới biết hợp nhất. Nói "không có hậu" (vô hậu) là tạm tùy Tiểu giáo, tạm gọi là "không có", chẳng phải vĩnh viễn không có. Nếu được pháp thân Đẳng giác một phen chuyển đương nhập Diệu giác thì mới gọi là "tối hậu".
Luận nói: La-hán phát tâm về sau, biên tế định lực khiến Phần đoạn thân kéo dài đến Biến dịch, không còn cải báo, thành tựu quả vô thượng, đây phần nhiều thuộc nghĩa Thông, bởi vì thông Bồ-tát quá Nhị thừa địa, mê hoặc nhuận sinh thân, hoặc là không trải qua sinh mà thành lẽ nào Chánh giác. Hoa vương Phật quả mà dụng Nhị thừa biên tế định thân? Cho nên, ứng với câu hỏi: "Định đây cùng định Thủ Lăng-nghiêm kia đồng hay khác?". Các luận đều nói xả thân Phần đoạn mà nhập Biến dịch. Theo Thiên Thân luận thì chủ ý chưa hẳn vậy; chỉ e rằng luận giải thích nghĩa không chính xác. Cho nên, biết: nói "tối hậu tăng trưởng" thì Đại tiểu đều sai biệt. "Không người có giáo" rất có thể làm pháp tắc.
Hỏi: Nếu vậy thì ba vị còn lại đều ứng với hai giải thích: 1) Ba vị nếu không gặp Phật thì đều không tăng trường, nếu được gặp Phật thì đương vị tăng trưởng. 2) Ở trước Pháp Hoa trú thân bốn vị được Phật điều thục, nếu đến Pháp Hoa được nhập nhất Thật thì mới gọi là tăng trưởng. Phải chăng?
Đáp: Nhưng trong năm vị thì Nhị thừa chấp mạnh cho là tối hậu, cho nên phải hai giải thích, ba thứ còn lại đã có rõ ràng trong văn tất cả văn ý trên dưới đều như vậy.
Hỏi: Nhị thừa đồng nói trú nơi thân tối hậu (sau cùng) ắt phải thấy Phật, Duyên-giác không như vậy là vì sao?
Đáp: Tuy sinh đời sau Phật, nguồn gốc nhân đời có Phật, tư duy có thể thấy. Tăng trưởng hậu..., nêu đủ ý Đại Tiểu xưa nay. Năm vị tuy tức tự nó là tăng trưởng, mà bắt đầu manh động đều là do đất, mưa. Nói đất mưa tuy về sau mới có tăng trưởng mà chắc chắn có từ ban đầu khởi chút ít. Nay mới chỉ do đất mưa từ đầu đến sau vậy. Cũng nên tùy nói ý Thông, Biệt tăng trưởng.
"Hỏi: Một đám mây một trận mưa cùng một âm, là đồng hay khác?" Ý của câu hỏi: dùng một đám mây một trận mưa và giáo một âm là đồng hay khác? Ý của lời đáp: một đám mây, một trận mưa đây là biệt thí khai hiển, giáo một âm kia thì thông nhân quả và dùng Thiên Viên.
Trong đó, trước là phân nhân quả, tiếp là biện Thiên Viên. Trước nhân quả biệt, biệt ý tuy vậy cũng tùy các giáo. Hai thứ mây mưa dùng thí dụ các giáo, nhân quả tùy phân một âm. Nay từ cứu cánh mây mưa để hỏi, trong đáp thì biệt trình bày hai thứ một âm. Nói "hạ địa": Hoặc là chỉ Viên giáo sáu căn, hoặc chỉ Biệt giáo địa tiền, hoặc là chỉ Sơ trụ trở lên, Đẳng giác về trước. Lẽ nào có thể hoàn toàn không có tùy loại một âm? Tiếp, trong biện Thiên Viên thì trước là nêu xưa trái. Tiếp trong chánh giải thích có ba:
1) Viên,
2) Thiên.
3) Nêu tự báo.
Trong Viên, dẫn Đại luận: Phá ba sư trên. Cái gọi là "báo": tức là đáp trả. Như một âm đây cũng thông hạ địa, chỉ có không liên quan đến sáu căn. Tiếp, "luận Tỳ-Bàsa...": dẫn Thiên để phát thảo Viên, đại khái theo lệ muốn đồng, nhưng kia chỉ là một âm của Phật theo Tam tạng giáo. Nếu không như vậy, thì có thể dùng luận Bà-sa giải thích Hoa Nghiêm chăng? Trong năm trăm La-hán có bảy Bồ-tát kiến giải hay không? Du-già còn biệt đồng khác vĩnh viễn trái nhau.
"Ca-diếp nên biết": Trong tụng Khai thí, đầu tiên đã nói: "Bọn ông, Ca-diếp nên biết..." cho nên tụng văn sau không còn chủ yếu lập lại xưng tán là bởi do đây. Đời Tùy ngài Cấp-đa dịch gọi là "Thêm Phẩm Pháp Hoa", ngoài ra các văn hoàn toàn dựa vào diệu bản. Kia thấy chánh bản sau kệ lại có một trường hàng kệ tụng, bèn dịch lại, thêm sau văn đây; lại dời phẩm Chúc Lụy để sau phẩm Khuyến Phát. Ngoài ra, phần trước giải thích đều không sửa đổi. Dịch lại, ngôn từ phần nhiều tợ như chánh bản. Phần thêm là phần đầu trong trường hàng. Trước dùng thí dụ nhật nguyệt để tán thán Phật trí (đây cùng văn trước cho nên ngài La-Thập không dịch). Tiếp nêu trong Ngũ thú có Tam thừa. Trong Tam thừa mà nói bình đẳng (cũng trùng lặp tợ như văn trước). Tiếp, Cadiếp hỏi: Vì sao thi thiết Tam thừa giáo? Đức Phật dùng đồ gốm làm thí dụ, nghĩa tiêu biểu không đồng chẳng dính dáng đến bùn sai khác.
Ca-diếp lại hỏi: Các thứ kia giải xuất ngoài tam giới là một hay hai hay ba ư? Đức Phật đáp: Nếu giáo thể bình đẳng thì không còn hai-ba (đây cũng đồng trong quyển thứ nhất nói diệt độ tưởng). Tiếp, nhân đây về sau Đức Phật vì Ca-diếp nói Thí dụ mù bẩm sinh. Đầu tiên, "không thấy sắc", dụ các phàm phu; tiếp, "dùng nhãn khai" ví như Nhị thừa; tiếp, "thiên nhãn khai", ví Đại thừa. Kệ lập lại tụng đó thôi! Cho nên, biết rằng: không có ở đây thêm văn vì đại chỉ không thiếu. Nếu kia có thì thuật thành lại dư. Ngài Thập Công không dịch ý không phiền văn. Nam Sơn nói: Cấp-đa thì thay đổi phẩm Chúc Lụy. Căn cứ đây cũng nên nói "Di Phẩm Pháp Hoa".
Nhà chú giải nói: Nghiệp tợ trước trái tâm phù hợp sau thuận, đã phớt qua âm sai khác đâu sai 1 vị quả ư! Cho nên thọ ký. Nay nói sự tợ trước trái tâm cơ vốn thuận, nhưng các Bồ tát lẽ nào không trước trái sau thuận ư? Cho nên biết nay thọ ký Thanh văn phải trừ thông giải thích. Giải thích tên phẩm đây thì trước là phiên dịch, tiếp là liệu giản. Trong đó đầu "Các kinh..." trước dẫn trong kinh hỏi. Đầu văn tổng nêu ý hỏi. Tiếp, "Tịnh Danh..." là biệt dẫn ba kinh. Đầu dẫn kinh Tịnh Danh: Di-lặc được thọ ký đã là Bổ xứ, ắt sanh Đâu-suất làm chủ cõi trời kia. Các thiên tử kia dự biết đời sau tu kính, Di-lặc nhân vì họ nói nguyên do được thọ ký, do Bất thoái vị, rộng vì thiên tử nói hạnh bất thoái tức nhân bất thoái, mới bị Duy-ma-cật trách rằng: "Tất cả chúng sanh đều Như, các pháp Hiền Thánh đều Như, cho đến Di-lặc cũng Như. Nếu Di-lặc được thọ ký thì tất cả chúng sinh cũng nên được thọ ký, đâu riêng gì Di Lặc". Huống chi Như vô sanh diệt vì sao đắc ký?
Tiếp, kinh Tư Ích nói: Do ký hư giả nguyện không nghe danh.
Kinh Đại Phẩm cũng vậy. Trong đáp chia làm tám:
1) Thông đáp.
2) Căn cứ Nhị đế.
3) Căn cứ Tứ tất.
4) "Nếu thông suốt...": là chánh căn cứ kinh này.
5) "Các kinh khác...": là đối các kinh để biện rõ có không.
6) "Vốn chư Phật...": rộng căn cứ Tứ tất.
7) "Thọ ký...": phân biệt năng sở khác danh.
8) "Trung căn...": là ý. Văn đầu, nói "kiến đây cần phải phá...": ý nói chấp hữu kiến cần phải phá, nguyện thọ ký cần phải cho, lẽ nào có thể chuyên dẫn Tịnh Danh... ư? Nếu căn cứ kinh này thì cần phải đủ năm ý.
1) Phá phương tiện giáo sở đắc cận ký.
2) Phá ban đầu thọ ký sanh tâm nhiễm trước.
3) Vì hiển Diễn môn thọ ký không có tướng thọ ký.
4) Vì chưa hợp, thọ ký là dứt tâm hy vọng.
5) Vì thích nghi nghe, phá chấp trước được lợi ích, nên Diễn môn phá Tiểu nghĩa kiêm tướng thọ ký của tam giáo, tứ môn v.v...
Tiếp, "Căn cứ Nhị đế": Tứ giáo đều như vậy, đâu được dùng Chân đế nạn vấn Tục đế?. Tiếp, "Căn cứ Tứ tất": Lược đồng Nhị đế, rộng như dưới giải thích. Đâu được dùng một nạn vấn ba? Tiếp, "Chánh căn cứ kinh này" có năm:
1) Thông biệt.
2) Tam nhân.
3) Nhanh chậm.
4) Thầy trò.
5) Huyền ký.
Nên nói "hiện chưa" chỉ là văn lược, nhưng năm ý đây phải căn cứ kinh này để phân biệt các kinh, hoặc chậm như Thanh-văn hoặc nhanh như Long nữ. Tiếp, "đối các kinh để biện rõ có không" lại có hai: 1) Nêu nay có. 2) "Anh Lạc...": biện không để rõ có. Lại các kinh vì đối Bồ tát, phần nhiều thọ ký quả vị pháp thân cứu cánh. Nay trong phẩm này chỉ thọ ký tám tướng, như trước sau nói. Kinh Anh Lạc nói tám tướng thọ ký: Kinh này chúng đã đều biết cho nên trong bốn câu trước, nay kinh chỉ có câu thứ ba hoàn toàn hiển lộ, trong đó không hẳn tại địa thứ bảy như trong phẩm Bất Khinh một câu thông thọ ký, cho nên các kinh thọ ký sâu. Trong bốn câu sau, thì câu đầu tuy nói viễn xứ bất giác nhưng hóa đạo đồng cho nên cũng chẳng phải bất giác. Cho nên kinh này có câu thứ ba nghĩa đồng câu đầu và câu thứ ba, vì thế biết các kinh thật nghĩa chưa thích hợp. Nói "chưa đắc Vô trước hạnh và Thất địa": Nói "vô trước" (không chấp trước) thì phải căn cứ Thông mà phán xét. Trong Biệt Viên giáo ban đầu nhập Địa Trụ đã là "vô trước". Hoặc là tại Biệt giáo thì căn cứ giáo đạo, nhập Vô công dụng thì mới không chấp trước cho nên căn cứ Không quán thành tựu chỉ hợp tại Thông.
Nói "Thất địa": Ở Thông giáo, do quá Nhị thừa nên kham thọ ký. Nhưng trong luận văn, trước đã nêu bốn hạng Thanh-văn, thì hạng thoái đại, và Ứng hóa được thọ ký, hạng Tăng thượng thì quyết định không được thọ ký. Có người bào chữa nói: hạng Quyết định cũng được thọ ký. Đây cũng không đúng! Người kia chấp quyết định tức là định tánh vĩnh viễn không phát tâm, phải chỉ kinh văn nói: tuy sanh Diệt tưởng mà cõi kia được nghe tức nghĩa kia tự hoại, đâu cần biệt cầu! Chỉ dùng Diệt tưởng để giải thích phàm phu, hiểu kinh văn một cách cong vẹo khiến thành nghĩa riêng của mình! Lại, luận Bảo Tánh chỉ nói Thanh-văn xuất giới căn độn, không nói căn bại. Nói "căn bại": Ca-diếp nơi Phương-đẳng tức là người kia, nếu đến Pháp Hoa thì bại căn trở lại, nếu nhập diệt thì xuất giới mới sanh. Sanh Công nói: Hội lý không lụy lẽ nào dung chứa có cõi nước (quốc)? Tuy nói không cõi mà không phải không cõi, không thân không danh mà thân danh càng có, cho nên quốc độ danh hiệu ứng vật mà như vậy, dẫn không đủ đó thôi! Nếu đạt ý này thì chỉ nói tám tướng dẫn dụ vật. Đây nói che khắp, Pháp Hoa luận nói: Nhị thừa có Phật tánh pháp thân cho nên được thọ ký, chẳng phải tu hạnh đầy đủ. Luận nói "chưa đủ": là căn cứ cực quả vậy. Lẽ nào có thể không tu Tịnh-độ hạnh ư? Căn cứ đây rõ ràng, lại phải cúng Phật. Nếu người Duyên-giác nhập Thanh-văn số, thì đồng Thanh-văn, xuất hiện ở đời không có Phật thì đồng quyết định tánh.
Tiếp, "Vốn là chư Phật..." là rộng căn cứ Tứ tất, tổng có mười lớp để thành Tứ tất.
Trong Thế giới Tất-đàn có hai:
1) Căn cứ cơ ứng tương đối.
2) Riêng (đơn) căn cứ vật cơ, tuy nghĩa nói "đơn" mà cuối cùng thành cơ ứng, cơ cảm tương xứng như hoan hỷ.
Trong Vị nhân có hai:
1) Cải đổi Tiểu nhập Đại tức đã sinh thiện của mình.
2) "Thời chúng...": là các nguyện, lại có thiện lợi tha. Đối trị Tất-đàn có bốn:
1) Phá ác: Bồ-tát thoái làm Tiểu.
2) Phá ác: muốn phát Tiểu tâm.
3) Chánh phá ác: Tiểu.
4) Phá ác: sắp muốn chứng Tiểu. Đối trị thứ ba là đã chứng, đối trị thứ tư là đã nhập Hiền vị, cho nên khác đối trị thứ hai. Nếu đối Bồ-tát thì công kích tiểu nhân kia, các kinh khác cũng có nói. Nay nói rõ thọ ký Tiểu lại dẫn người Tiểu thừa, cho nên chỉ kinh này.
Đệ nhất nghĩa Tất-đàn có hai:
1) Chánh giải thích.
2) Giải thích nghi.
Nghi văn có thể thấy. "Nhưng chúng sinh...": là giải thích, vì thành ý Đệ nhất nghĩa. Ba Tất-đàn trước không hẳn vô sinh. Lại, trong Đệ nhất nghĩa chỉ căn cứ tự ký, ba Tất-đàn trước thì có khi kiêm tự tha, như trong Đối trị Tất-đàn thì hoàn toàn là đối tha. Trong Vị nhân, thì lớp đầu kiêm tự tha, lớp sau thì chỉ có tha. Lớp đầu trong Thế giới Tất-đàn, nếu đem hóa chủ để đối sở ký thì cũng chỉ ở tha. Tuy có mười thứ đây cũng vẫn căn cứ thọ ký Nhị thừa để thuyết. Một câu Phật thọ ký và Bồ-tát thọ ký... trong đây chưa luận. Đầu tiên trong phần Ca-diếp tụng, thì bốn hàng đầu hành nhân, tiếp nửa hàng tụng đắc quả, tiếp sáu hàng tụng quốc độ tịnh. Tiếp, nửa hàng tụng thọ mạng Phật. Tiếp một hàng tụng thời chánh tượng, tiếp nửa hàng tổng kết kiếp các cõi nước tên. Nói "Ba người được thọ ký đều có hành nhân" cho đến "số lượng": như văn. Chỉ có Chiên-diên không có tên kiếp, nước, còn lại các văn đều đồng. Tiếp Tu-bồ-đề, văn trường hàng có thể thấy. Trong kệ, một hàng đầu răn bảo nên nghe, hai hàng tiếp hành nhân, tiếp một hàng đắc quả, tiếp sáu hàng rưỡi quốc độ tịnh, tiếp nửa hàng thọ mạng Phật, tiếp một hàng chánh tượng, thiếu tên kiếp nước. Trong phần Chiên-diên trường hàng như văn, trong kệ một hàng đầu tụng khuyên răn lắng nghe, tiếp hai hàng hành nhân, đây có ba câu nói đắc quả, tiếp ba hàng và một câu quốc độ tịnh, thiếu thọ mạng Phật và chánh tượng. Trong phần Mục-kiền-liên trường hàng như văn, trong kệ bốn hàng rưỡi đầu tụng hành nhân, tiếp một hàng rưỡi tụng đắc quả gồm tên nước, tiếp nửa hàng tụng thọ mạng Phật (dài), tiếp hai hàng rưỡi tụng quốc độ tịnh, tiếp một hàng tụng chánh tượng (pháp).
--------------------------
Trong phần giải thích theo Nhân duyên chia làm bốn phần:
1) Căn cứ thí dụ giải thích danh.
2) Dùng pháp hợp.
3) "Tô tức...": nói ý hóa.
4) "Quyền giả...": tổng kết.
Văn đầu: Do Đại Niết-bàn chẳng hóa làm nên không chuyên chế ngự địch, tức lý tánh đầy đủ các đức. Tiếp trong hợp, đầu tổng nêu. "Quyền trí...": hợp thần lực tạo tác. "Dùng quyền...": hợp không có mà bỗng có. "Dùng giáo...": hợp hóa. "Phòng tư duy...": hợp thành, bởi vì giáo không thật cho nên gọi là "bỗng có". Nói "không phải địch ví như Kiến Tư": Chẳng tha thứ địch gấp thấy bức xúc tư duy xa thấy tự thân ngại, tư duy không chướng ngại quả. "Phần ba: Nói ý hóa": Tô tức thi Tiểu dẫn nhập hiển bày Đại. Hai Tô gọi là dẫn Đề-hồ mới nhập gọi là giáo đạo. "Mà nói...": là khích giải thích thành. "Quyền giả...": tổng kết, biện rõ khác thật. Trong bốn thứ đây, lập tứ Tất-đàn: Nếu thông phương thì nghĩa lập từ nơi quyền trí, nếu từ cơ thì nói không mà muốn thấy, thấy rồi sinh vui tức Thế giới lợi ích. Được vào "Tô tức", tức Vị nhân lợi ích. "Phòng phi chế ngự địch", tức Đối trị lợi ích. "Mà nói diệt độ", tức Đệ nhất nghĩa lợi ích. Nếu từ năng dẫn quyền lập thành này, tức Thế giới hóa; vì sinh Tiểu thiện, tức Vị nhân hóa; lại trừ Kiến Tư, tức Đối trị hóa; cuối cùng dẫn nhập Đại, tức Đệ nhất nghĩa hóa.
Tiếp, "Căn cứ giáo", Tam tạng giáo: Bồ-tát hoàn toàn chưa phát đủ vì vậy không luận. Thông giáo: Bồ-tát tuy đồng đến thành, vào mà năng xuất không đồng Tiểu, vốn xuất giới nên "một chân vào thành", do đại bi nên không chứng Hữu dư, cho nên "một chân ngoài cửa". Tam giới căn cơ gọi đó là con, từ lâu đã phát tâm nghĩa như vợ. Thông giáo coi Nhị thừa là ác đạo, Biệt giáo coi sinh tử là hiểm trở. Đến Niết-bàn mà không vào, cho nên gọi là "tắt qua". Nói "không tột cùng" là đối Tiểu để nói Viên giáo. Nói "hóa": Tại xưa thì xích đoạt, chỉ nói không kham, cũng chưa từng nói Niết-bàn là hóa, nên đến giáo nay động chấp khai Quyền, mới nói là hóa, cho đến hiển thật hóa bèn thành tựu chân tức bảo chữ. Cho nên biết Tạng Thông cho là tột cùng chẳng phải hóa, Biệt giáo không phải tột cùng, không phải hóa, Viên giáo không phải tột cùng là hóa, cũng có thể là tột cùng là hóa, cũng có thể là tột cùng không phải hóa, cùng với Tạng Thông giáo nói đồng ý biệt. "Nay là...": cũng từ phá chấp cho nên lại nói hóa, nếu khai hiển rồi thì đều là chân thật. Giải thích theo Bản tích và theo Quán tâm không ghi chép, có thể so đây biết. Cho nên nói Bản thì trụ ở thành tam đức Niết-bàn, Tích thì nhập Hóa thành. Nếu từ hóa chủ thì Tích là chỉ bày nói (thị thuyết) hóa.
Hỏi: "Phẩm này....": người đây dựa vào Chánh Pháp Hoa mà thiết lập câu hỏi đây. Chánh Pháp Hoa gọi là phẩm Vãng Cổ, người hỏi dần sửa đổi nói phẩm Túc Thế, cho nên trong lời đáp không trái. Người hỏi do thuận Chánh kinh có thể hiểu bộ này.
"Lại nữa, thượng căn...": căn cứ ba thời giải thích. Nói "Thám thủ....": Văn kia tuy tại Pháp thuyết thuật thành mà thuật thành chánh là dẫn khởi trung căn, cho nên văn giải thích thí dụ ấu trĩ (trẻ nhỏ)... đều dẫn dụng. "Nếu từ...": là tự căn cứ đương phẩm. Biệt luận ba thời, hai kinh đều đầy đủ. Chánh kinh từ đầu nói không bằng xứ trong kinh này, đều không nói Bảo sở. Như trong Dược Thảo không nói đất mưa, như Tín Giải, Thí Dụ đề thông ý biệt. Biệt tại Thật, cho nên Dược Thảo Hóa Thành đề biệt ý biệt.
"Hỏi: Hóa thành...": có thể biết. "Đáp" ý: Trong văn đây thúc giục không còn hai vị, chỉ trình bày thành, sau liền hướng đến Bảo sở.
Chuẩn theo ý văn đây, nói hóa tức khai Quyền, khai Quyền tức là hiển Thật, hiển thật chỉ là nói hóa nên trước trong căn cứ giáo là Viên giáo. Cho nên, biết chính khai hiển là viên mãn. "Lại, lãnh giải...": giải thích ngăn ngại để trình bày như sau thọ ký mới lãnh, hoặc lãnh sau ký là lãnh đủ, lãnh nghe pháp và để thọ ký. "Hoặc văn thiếu....": thông có các ý. "Như nay vân vân" thì "vân vân" là: lẽ ra nêu tướng trước tiệm sau đốn, đầy đủ như trong văn xưa nay hai thứ đồng.
Tiếp, kệ bảy hàng tụng ba nghĩa trước:
1) Một hàng tụng các việc thấy.
2) Bốn hàng tụng thí dụ lâu xa.
3) Hai hàng tụng kết xưa nay.
Kinh nói "Đức Phật kia...": hết thảy tám tướng thùy tích là xứ, đều trước là "phá ma", là căn cứ thuyết Pháp Hoa, cũng nên trước tiệm. Lại nói "phá ma" tợ đồng cõi uế. Nếu căn cứ thọ mạng lâu dài thì lại chẳng phải cõi uế, nên biết đồng cư tịnh uế tướng kia ngăn che nhiều. Cho nên, thành đạo... không thể hoàn toàn đồng tam tạng cõi này. Do đó biết không thể hoặc dẫn Tiểu giáo cõi đây để hiểu rõ văn kia.
Hỏi: Lúc các Phạm thiên mưa xuống các hoa Trời, hoa kia như núi, tòa vẫn còn ở dưới cội cây, tướng kia như thế nào?
Đáp: Việc bất tư nghì kia đây không ngăn ngại, liệt bày thì Phạm văn nói "mười phương". Trong chánh bản thì trước là bốn phương, tiếp bốn hướng cạnh, tiếp trên dưới, đây thì đều tùy ý người dịch, không biết bản gốc Phạm văn thứ lớp như thế nào, nhưng chánh bản liệt số cùng đây phần nhiều khác sai.
"Tương ưng vân vân" thì "vân vân" là: Đều căn cứ các văn kệ Phạm thiên thỉnh pháp cũng cùng ý đại, tiểu, bán, mãn đồng. Nhưng đức Phật kia thuyết pháp cũng căn cứ năm vị cho nên y xưa khó hợp. "Gọi là Thị, Khuyến, Chứng vân vân". Lẽ ra lược biện rõ tướng tam chuyển: "Thị": "Đây là khổ", cho đến "đây là Đạo". "Khuyến": Khổ nên biết, Tập nên đoạn, Diệt nên chứng, Đạo nên tu. "Chứng": "Khổ ta đã biết không còn trở lại biết", cho đến "Đạo ta đã tu không còn trở lại tu". "Thị": Nghĩa là chỉ bày tướng trạng kia. "Khuyến": Nghĩa là khuyến kia tu. "Chứng": Nghĩa là dẫn mình chứng kia. Đại luận Câu-xá, các văn dựa đây giải thích. Nếu dùng kinh Đại Tiểu luận nghĩa chuyển pháp luân các tướng đồng khác, đem biên soạn hết vào trong đây thì hàng trăm trang giấy đầy còn không thể chép hết. Ý khiến cho biết kia trước Tiểu sau Đại đồng cõi đây mà thôi, nên không thuật nhiều. Nay biện rõ các môn lược chỉ bày đồng khác, trong đó chia làm bốn:
1) Căn cứ sở đối.
2) "Vì Thanh văn...": căn cứ sở vi.
3) "Vì sao...": nêu ý tam chuyển.
4) "Hỏi...": liệu giản. Văn đầu có hai:
1) Đối bốn pháp.
2) Đối ba đạo, do trong bốn pháp nghĩa loại đồng.
Trong ý thứ ba nói "vì chúng sinh có ba thứ căn", trong Thanh-văn thừa tự có ba căn đây, cho nên nơi Lộcuyển chấp ngộ không đồng. Đại luận Bà-sa cũng nói ba căn, Thượng căn nghe sơ chuyển, trung căn hạ căn chuẩn theo đây biết.
Hỏi: "Ban đầu là....": Đã nói Thanh-văn tự có ba căn, năm người đều là căn tánh Thanh-văn. Vì đủ ba căn, lại có chư thiên tại sao không có ba ư? "Vì sinh...
Đáp": Nhân thiên thông có ba nghĩa, gọi là tuệ, căn, đạo. Văn v.v.. không đồng, là ba tuệ. Ngộ có trước sau tức ba căn. Kiến, Tu, Vô học tức ba đạo. Sắc, Vô sắc, nghĩa chung chuẩn cũng có, nhưng chẳng phải nhân chuyển pháp luân đắc.
Tiếp giải thích mười hai hàng, chia làm hai: Đầu song nêu hai môn. Giáo mười hai: dưới Giải thích. Trong giải thích lại có sáu:
1) Lược giải thích.
2) "Lại giáo...": là phân biệt năng sở.
3) "Mười hai...": phân biệt luân phi luân.
4) "Nếu tác...": phân biệt giáo hạnh.
5) "Giáo luân...": phán định danh thể rộng hẹp.
6) "Hoặc thông...": phán xét Thông Biệt. Trong văn đầu nói "mười hai hành": Tứ đế đều dùng thị... làm giáo, một phen chuyển đều sinh nhãn... làm hạnh. Nói "năng sở": Tứ đế đều do đức Phật nói cho nên nói "năng", độ nhập tâm kia cho nên nói "sở". Nói "thị luân phi luân": Luân dùng nghĩa phá nghiền, chỉ có giáo mà không hành thì đâu thể tồi phá mê-hoặc, nếu không tồi phá mê-hoặc thì cũng không gọi là "luân". Đức Phật biết cơ biết thời cũng đều hành mà theo chuyển. Nay nói "phi": Giáo từ hóa sinh, hành từ người thọ, cho nên hành luân từ người thọ, được công quy về hóa chủ. Từ Phật đắc do chưa tận lý cho nên lần nữa lại giải thích. Nếu tác hai luân giáo hạnh thì tùy theo cùng năng tồi phá mê-hoặc, huống chi giáo hạnh đều do Phật chuyển, cho nên giáo hạnh đều được gọi là "luân", chỉ nhãn trí... không có thể riêng nên trở lại chỉ nhẫn.... Hạnh: nhãn v.v...,căn cứ nơi đế giáo mà thành mười sáu cho nên người ba căn nghe ba phen chuyển giáo đều sinh nhãn... thành bốn mươi tám. Trong "rộng hẹp" nói "Giáo luân": Là hóa tha trí chỉ thuộc một quyền tức năng chuyển chỉ một; sở chuyển mười hai, tức là năng chuyển thì danh hẹp thể rộng, sở chuyển thì danh rộng thể hẹp. "Hành pháp luân": Giáo là năng thuyên, hành là sở thuyên, cho nên hành tùy giáo đều có mười hai, tuy đều có mười hai, nhưng rộng hẹp có khác; giáo định mười hai hành sinh nhãn... Nếu dùng thị... sinh nhãn..., thì số đồng danh khác.
Tiếp trong phần biện thông biệt, nói "hoặc": là bất định từ, hoặc ba người đều nghe ba phen chuyển, hoặc một người trước sau nghe ba. Đầu, là biệt giải thích. "Nay căn cứ...": là chánh giải thích. Sơ chuyển pháp luân đắc kiến đế giải, người hàng tam thừa mới có mười hai. "Sở bất năng...": giải thích không thể chuyển, lại chia làm hai: Đầu, lược chỉ người kia. Tiếp, "Có giải...": nhân đây thông biện rõ đại tiểu thông biệt. Văn đầu lại có hai: Trước, chánh chỉ người. Tiếp, "Phàm chuyển...": nêu ý "bất năng chuyển". Văn đầu nói "Sa-môn" nghĩa là người xuất gia trong Phật pháp, không nhờ Phật nói thì còn không biết tên, lẽ nào năng chuyển ư? Cho nên, tên "pháp luân" chỉ từ Phật đắc, Sa-môn mà còn vậy huống chi các chúng khác ư!
Có người nói "Trong ngoại đạo xuất gia, gọi là Samôn". Nếu vậy thì vì sao nói "còn không thể biết"? Phải biết đó là dùng chánh so sánh tà. "Có giải" đến "ý Quyển (thu lại) và Thư (dãn ra)": Sư nay có khi giải ý này, nhân đây thông biện chẳng phải sơ chuyển trong đó có bốn:
1) Nêu rõ một đời thu, dãn.
2) "Tiểu thừa...": biện rõ thể một đời.
3) "Mười hai...": biện rõ danh thể đồng khác.
4) "Lại có ba người...": biện rõ thông biệt.
Văn đầu, từ thể Tứ đế để luận thu dãn, từ không có dãn ra bốn, thu lại bốn trở về không có. Thu lại và dãn ra chỉ là ý khai hợp thôi, đầy đủ như trong Huyền Văn nói thất trùng nhị đế. Nói "đại tiểu": Lại căn cứ Tiểu, Diễn để giải thích xuất thể, tùy biết rõ lẽ ra căn cứ năm vị bốn giáo để nêu khai hiển, đầy đủ như trong Huyền Văn và dùng thuyết trong Chỉ Quán biện rõ thể. Tiếp trong phần ba Biện danh thể, nói Mười hai nhân duyên là biệt tướng:
1) Tổng ly mà làm ba đời.
2) Biệt ly làm nhân hai quả năm, nhân ba quả hai, đầy đủ như trong Huyền Văn và Câu-xá... nói.
Tiếp, trong phần bốn Biện thông biệt, chia làm ba:
1) Căn cứ Nhân duyên.
2) Căn cứ Tứ đế.
3) Căn cứ Lục độ.
Văn đầu văn lại có hai: Trước, đối ba người. Tiếp "Vô sinh...": nêu ý thu dãn. Văn trước: "Ba người...": thông biệt có thể thấy. "Tương sinh truyền truyền diệt": Dãn ra thì truyền sinh, thu lại thì truyền diệt, đầy đủ như trong Huyền Văn dùng biện rõ hưng phế. Phần hai Căn cứ Tứ đế: chỉ dùng nhị thừa đối Bồ-tát, chỉ là văn lược, cũng nên trước nêu ly hợp. Tiếp, đối tam thừa tứ giáo, sau nêu thu dãn. Phần ba Căn cứ Lục độ: có bốn:
1) Nêu thông tiểu.
2) Nêu thông phàm.
3) "Nếu vậy...": là giải thích nghi. Trong giải thích nghi chỉ nói Nhị thừa, không nói phàm phu, vì nhị thừa còn có phần đắc.
4) "A-tỳ-đàm...": là dẫn tiểu chứng thông. "Kinh Bảo Vân nêu Tam thừa Tỳ-ny": dẫn sự chứng thông. "Vân vân": lẽ ra nêu đủ nguyên do thoát hai trói buộc của Tử và Quả (hạt và quả), trình bày đầu hiển sau. "Câu giải thoát vân vân": Lẽ ra giải thích ba tướng giải thoát đối ba niệm xứ, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói, chính hiển rõ người Câu giải thoát, đầy đủ sự định gọi là "thâm diệu".
"Các căn...": Văn có hai giải thích: Ý, đầu giải thích tức Tương tợ vị. Tiếp, giải thích nói "Nhập cảnh giới Phật", tức Sơ trụ vị, đầy đủ như trong Hoa Nghiêm mười thứ sáu căn, trong tụng văn dưới nói phân biệt pháp chân thật, là phân biệt nên bắt đầu từ sắc tâm cuối cùng đến chủng trí đều không ngoài thật tướng cho nên nói chân thật. "Tám vạn bốn ngàn kiếp vân vân" thì "vân vân" là: Phải nêu đủ ý thời tiết, chư Phật đâu từng không cùng đều có định? Chỉ do căn cơ chúng sinh, tại mười sáu người con kết duyên đồng hạn; thời gian Phật ấy chấp thuận đầy đủ như văn tiếp thuật. Chánh Pháp Hoa nói: "Nhập định trải qua ba mươi vạn kiếp"; không biết nguyên nhân gì mà ngài Pháp Hộ dịch số kiếp kia vừa ngắn vừa sai?!
Gặp gỡ có ba loại: Hai loại trước có thể biết, loại thứ ba đã nói: chỉ luận gặp tiểu nói trung gian, tự vọng về lúc ban đầu kết tiểu duyên. Loại người thứ ba chưa từng nghe Đại, tức liền lưu chuyển, người này tức do ban đầu nghe Tiểu làm kết duyên ban đầu. Lại ở thời trung gian chỉ tu tập theo Tiểu. Nay gặp vương tử ban đầu lại nghe Tiểu, người ấy thấy được một phần trong một đời giáo hóa của Đức Phật Thích-ca. Thấy người hàng Thanh-văn chưa phát tâm, thì liền phán rằng vĩnh viễn diệt không phát tâm, vậy thì không biết đức Như Lai giáo hóa lâu dài.
Tiếp "Vấn đáp": Trong đáp thì căn cứ tứ Tất-đàn mà nói, văn ít không có thứ tự. Trước là Đối trị, tiếp là Vị nhân, tiếp là Ưa muốn, tiếp là Đệ nhất nghĩa.
Hỏi: Kinh này vì sao văn đến sự vui kia lại ngắn?
Đáp: Long Nữ là trong phẩm Pháp Sư, tuy không có thời tiết nhưng tính toán nên chẳng xa, trong Tiểu thừa giáo còn chỉ nói sáu mươi lần trăm kiếp xuất giới, chỉ trải qua tám, sáu, bốn hay hai tuy Đại Tiểu có sai khác cũng tại Quyền giáo, cho nên trong Thật giáo sáu căn năm phẩm một đời có thể hy vọng. Cho đến kinh Kim Quang Minh nói Nhất sinh Thập địa, cho nên ngài Nam Nhạc dùng ý kinh Phổ Hiền Quán nói: Sáu căn cực chậm không vượt ngoài ba đời. Tuy tứ Tất phó cơ mà tùy ưa có dài ngắn. Luận tự hành kia cuối cùng không có chắp tay ngay ngắn. Căn cứ luận tức là chúng sinh ý nhạo ý thú. Ý nhạo, chính là Tất-đàn ban đầu của tứ Tất, vẫn thiếu ba thứ còn lại. Nếu chỉ đức Phật khác làm bình đẳng, trọn không bằng dùng ý tứ Tất-đàn.
Hỏi: Pháp Hoa thật giáo chỉ ứng Thật thuyết, vì sao kiếp số còn ngắn nói dài ư?
Đáp: Nói quyền thật, luận thời tiết của pháp sở hành chính là dẫn dắt kẻ mệt nhọc kia tiến lên. Nên biết Quyền giáo hoàn toàn nói dài. Như luận Bà-sa nói tam kỳ và các kinh Đại thừa nói vô lượng kiếp, đây thì nhất định không thể ngắn.
Tuy trong Thật giáo có dài có ngắn. Nếu y Thật đạo thì định ngắn làm chánh, như Thường Bất Khinh bị chúng khinh hủy, chỉ trải qua bốn ngàn ức Phật thảy đều đắc độ, lẽ nào có quyết chắc trải qua nhiều trần kiếp ư? Tuy nhiên dài ngắn tại cơ, về lý lẽ nào có như vậy ư? Vì dài ngắn là căn cứ nhân (người), chỉ vì không dốc lòng tự siêng năng, cần gì luận thời khác ngắn dài ư?
"Tam thừa Thông giáo hữu dư quốc": Một nhà (Nhất gia) nêu nghĩa dùng cõi đối giáo, đầy đủ như trong Chỉ Quán và sớ Tịnh Danh, đều có dùng giáo ngang dọc hai đối. Theo chiều ngang mà luận thì thể cõi cùng giáo tương đương, theo chiều dọc mà luận thì căn cứ cõi dụng giáo nhiều ít, thì người Nhị thừa đối với hữu dư kia đã thành người Thông giáo, cho nên nói "Thông giáo hữu dư quốc". Cũng có ở đây đã thành người Thông, nghĩa là từ Lộc-uyển đến Phương-đẳng bộ, lại nhập Thông giáo thành người Vô sinh, cũng chẳng phải lại dụng giáo đây để đoạn lậu hoặc. Giáo đạo là hóa đạo, giáo vì hóa đạo cho nên gọi giáo đạo. "Chúng lại thanh tịnh" đến "lập": là hóa đạo sắp xong do căn cơ chúng thành thục. Thành thục tức là Trí Đoạn hai đức đầy đủ. Nói "thanh tịnh" là tiêu biểu phiền não tận, cho nên nói "Đoạn đức". "Chánh giải" thuộc trí, trí ắt chiếu đế cho nên nói "liễu đạt". Nói "các thiền" nghĩa thông Trí Đoạn, giới nội hoặc tận. "Bốn bất hoại tín": Luận Câu-xá quyển hai mươi lăm nói: Chứng tịnh có bốn thứ, nghĩa là Phật, Pháp, Tăng, Giới. Kiến tam đế đắc Pháp và Giới. Kiến đạo kiêm Phật và Tăng. Pháp nghĩa là tam đế, toàn Bồ-tát Độc giác đạo. Tín và Giới, hai thứ làm thể, bốn đều chỉ vô lậu. Luận cho rằng: kinh nói có bốn chứng tịnh, nghĩa là Phật... bốn thứ. Bốn thứ là sở chứng khi kiến tam đế thì đắc hai thứ Pháp và Giới, khi kiến Đạo đế thì kiêm đắc Phật và Tăng. Rộng như luận văn, đây hoàn toàn từ tiểu giải thích. Đây dùng Lộc uyển đối thời Niết-bàn.
Trong giải thích tiếp, chỉ có một câu thanh tịnh tại Tiểu thừa. "Tín giải...": đầy đủ vượt qua giáo hai vị trong Tiệm giáo. Trước giải thích theo ý phẩm Phương Tiện và Thí Dụ, tiếp giải thích theo ý phẩm Tín Giải. "Nếu thế gian không có Nhị thừa...": ý của câu hỏi là: Căn cứ lý thế gian không có một người hợp vĩnh viễn nhập diệt, hội ắt Đại, tại sao dùng thiết lập Tam? Ý của lời đáp thì có thể thấy.
Thế gian nói "nhập": Chỉ tự mình cho rằng như vậy. Kinh văn đã nói không có Nhị thừa mà được diệt độ, lẽ nào đáng phải lập Định tánh ư? "Nếu trung gian" đến "thí dụ thứ hai": hai thứ trung gian đây đều có hai ý. Nếu là Bồ-đề thì phải đã nhập Bất thoái vị, hoặc là sơ tâm thì không hẳn hết thoái. Nếu trú Thanh-văn hoặc là sơ tiểu, hoặc là giữa đường hai loại, đều phải thiết lập thí dụ Hóa thành.
Hỏi: "Trong đây...", tức là hỏi: Phẩm Hóa Thành chỉ nói "thủy chung tùy trục", vì sao không có nghĩa cha con thất lạc như trong phẩm Tín Giải và kinh (sơ) nhập hỏa trạch của phẩm Thí Dụ...? Nếu các nghĩa đó không có, thì phẩm này không có tùy trục. Lại cũng nên cùng trung căn thượng căn vĩnh viễn trái; đâu được lấy đây mà ước lệ nơi kia ư?
Ý của câu Đáp là dùng phương pháp thí dụ không đồng. Văn không hợp dùng, chẳng thiếu ý, cho nên nói mà ý kia thì thông. Như nói thông là thất lạc rồi gặp nhau. Đã là trung căn ngộ rồi sau lãnh giải đối ngày nay chưa có đại tiểu hóa, trước đó gọi là "bỏ cha" và nêu lỗi thấy cha không biết. Trong Thí dụ nói "kinh nhập...": Con tuy bỏ cha mà cha không bỏ con, thường tư duy căn cơ của con vì bắt đầu cơ sinh nên có nghĩa "kinh nhập". Nếu luận cơ ứng kết duyên về sau, thì tại sao từng không tùy theo văn như đây ư? Trong đây đã nói trung gian gặp nhau, cho đến ngày nay gặp nhau được độ, cho nên biết trung gian không thể không có nghĩa thất lạc, kinh nhập... Phải biết "tùy trục" do kinh nhập, kinh nhập nên thấy nhau, thấy nhau do đã từng thất lạc nhau, đều nêu một biên, Đại chỉ không khác.
Tiếp, Hỏi: Đã nói "tùy trục" không nói thất lạc..., nay đã được lợi ích sao không có "thí dụ bất hư"?
Đáp: Ý nói khai hiển rồi, phần nhiều chấp tin là dễ, không cần dùng thí dụ bất hư. Lại, trên vì trung hạ chưa ngộ, nay đây tích sự đã cùng khắp. "Hai mươi hai phen": giải thích như sớ văn dưới.
Hỏi: Năm xứ khai quyền có gì sai khác?
Đáp: Trong đó nêu đủ năm văn xứ sở, cho nên biết đây trước chỉ có bốn xứ. Bốn xứ thì có hai mươi hai phen. Chương ngũ Phật là một xứ, trường hàng và kệ tụng mỗi thứ đều có năm tức mười phen. Trong phẩm Thí Dụ thì có khai có hợp, mỗi thứ có trường hàng và kệ tụng cho nên có bốn phen. Trong phẩm Tín Giải lãnh khai hợp bên trên, mỗi thứ đều có trường hàng và kệ tụng, lại có bốn phen. Trong phẩm Dược Thảo Dụ cũng có khai và hợp, mỗi thứ đều có trường hàng và kệ tụng, lại có bốn phen. Ba lần bốn và mười tức hai mươi hai lược khai. Chỉ là động chấp sinh nghi chẳng phải chánh khai hiển, cho nên trong tụng tuy có các văn lược tụng, chỉ thuộc trong Chương Thích-ca chung làm một ý. Pháp thuyết tuy có lãnh giải thuật thành mà chẳng phải chánh khai hiển. Trong sớ giải thích phẩm Dược Thảo, tuy nói trước trí tiếp giáo, mà tổng là khai hợp, nếu đều lập thì thành nhiều phen, có gì mà không thể? Vì vậy cho nên cứ dựa vào sớ văn làm nhất định.
Trong phần giải thích "Năm trăm do tuần" trước nêu người khác giải thích:
Cơ sư thì trước thuật, tiếp phá, nói: Nay cho rằng chẳng biệt chẳng thông tức là: Thất địa đoạn tập chẳng phải nghĩa chánh Biệt. Bát địa đoạn vô minh, lại chẳng phải nghĩa Thông, chánh tợ như Biệt tiếp Thông. Luận nói: "Sơ địa Kiến đạo, Nhị địa trở đi nhập Tu đạo" là nên biết Địa tiền tức hàng phục Biệt hoặc, đăng Địa thì đoạn đồng thể Kiến Tư. Nếu không như vậy thì lẽ nào có Đại thừa Hồi hướng mà ngang bằng Tiểu thừa thượng Nhẫn. Thập trụ đã đoạn hết giới nội hoặc. Kinh Anh Lạc nói: "Thất (bảy) tâm Bất thoái chỗ nào Noãn vị gọi là Bất thoái ư? Thập Hạnh biến nhập mười phương thế giới, Đảnh pháp vẫn thoái sao có thể dạo khắp Nhẫn mà không có văn xuất (nói) quán ư? Sao có thể hồi hướng pháp giới? Kinh Anh Lạc nói Sơ địa tam quán hiện tiền, vì sao Sơ địa mới nhập Kiến đạo? Xin đem "Tứ thập tâm vị" nhất nhất để hiểu rõ văn nói phàm. Phục đoạn nghĩa khác công dụng, cách cả Trời vực. Luận trung phá ngoại, phá tiểu vốn khiến nhập chính, nhập đại vậy. Còn định tánh mà khiến vĩnh viễn diệt, Tiểu thừa tự cho là trú quả. Đại phán định cuối cùng đều sinh, nên biết sau khi diệt thì ở cõi kia được nghe, không thể lại dựa vào không nghe để luận. Luận tông đã không nói khai quyền, vĩnh viễn diệt chính là văn che thật. "Có định, bất định" chỉ có thể là kinh dùng trình bày ý chê và đoạt. Phế thiên phế Tiểu thì con đường Quyền Thật vĩnh viễn bị ngăn cách, đủ hiểu rõ ý đây các giáo tự hiển.
"Có nhà nói: "Lưu lai...": Dựa theo luận Nhiếp Đại Thừa, sư lập "Bảy thứ sinh tử" vẫn thiếu Hữu hậu sinh tử và Vô hậu sinh tử. Lại hợp hai thứ Phản xuất sinh tử và Lưu lai sinh tử lại làm một, cho nên chỉ nói bốn; đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy ghi. Văn kia phá, nói cắt đứt hai món tử phế bỏ bên ngoài... Văn nay chính là thành tựu cắt bỏ bốn thứ, cho nên cần phải hỏi lại...
Chính là lấy sinh tử làm thí dụ, vì sao hợp Phản xuất và Lưu lai? Lại không có hai thứ sinh tử khác, trung gian tức là Phương tiện sinh tử. "Có người nạn": vấn nạn hướng Nhiếp sư. Xét nhân quả tương đương căn cứ giáo, để lập xưng nhân quả, đầy đủ như kinh Thắng Man. Kia dùng năm nhân đối hai quả. Tứ trụ tức là nhân của Phần đoạn, Vô minh tức là nhân của Biến dịch. Ông ở trên quả Phần đoạn đã lại lập Lưu lai, ở trong quả Biến dịch lại khai Trung gian, cũng ứng Tứ trụ, vô minh đều lại lập riêng. Đầy đủ như trong Chỉ Quán phá.
Tiếp, "dẫn Đại luận" hai văn chứng minh sinh tử chỉ có hai thứ. Nói "nhục thân": Tứ trụ chưa tận, gọi chung là nhục thân. Nói "Pháp thân": lại thông giới ngoại hai cõi đều gọi là Biến dịch và Pháp tánh thân. Đây chứng minh hai món tử, chẳng luận thân thường. Đây Đại luận chánh văn, Đại thừa sư thời bấy giờ, lẽ nào vượt quá Long Thọ? Nói A-la-hán phải xả Phần đoạn mới nhập Biến dịch. "Có người nói...": Sở chấp của sư này tợ nghĩa Thông giáo, cho nên nói "trung gian hai nước khó qua", do Lục địa cùng Nhị thừa ngang bằng, đến đây phần nhiều rơi vào Nhị thừa địa. "Nạn.....": người khác nạn vấn nghĩa trước đã lập. Ông dùng Bốn trăm dụ Thất địa, cho nên Lục địa phải đối Ba trăm. Ba trăm lại cùng với Nhị thừa công ngang bằng, vì cùng Nhị thừa cùng đi ba trăm. Đến đây đi đứng không đồng, sao gọi là cùng đi? Cho nên dưới nạn rằng "không nên được ngang bằng". Nói "Sáu mươi kiếp...": Thanh Văn "cực lâu sáu mươi kiếp", Bích-chi-phật cực lâu một trăm kiếp. "Nhị thừa đối Phật đạo xa xôi": Nêu rõ hàng Nhị thừa cùng hành Bồ-tát đạo biệt, lại thủ chứng. "Nay cho rằng....": là phá, nói "chẳng Thông chẳng Biệt", phá nạn vấn kia. "Hai mươi hai đại tăng-kỳ" cho nên "chẳng Thông". "Lục địa ngang bằng Nhị thừa", cho nên "chẳng Biệt". "Hai mươi hai tăng-kỳ", xin kiểm chứng trong Đại luận, đây cũng tợ như nghĩa Biệt tiếp Thông.
"Có người nói...": nghĩa Biệt không thành, không ứng Thất trụ trở lên làm "Năm trăm". "Như Đại kinh nói: Sơ quả tám vạn kiếp đến...": Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy ghi, dẫn đủ ba văn của Đại kinh. Ý của Sư đây lấy phát Bồ-đề tâm xứ làm Thất trụ trở lên. Nói "Như tam căn...": Ý của Sư đây dùng tam chu đắc thọ ký làm "người tam căn", do đồng đến phát Bồ-đề tâm xứ mà Đại kinh nói. Nói "Năm hạng người": Là chỉ bốn quả mà Đại kinh nói ở trước và Bích-chi-phật. Năm hạng người này phát tâm đồng người tam chu "vượt qua năm trăm do tuần". "Đây chấp...": là phá trước đã dẫn, nêu tám vạn cùng tam chu không đồng. Phải biết Sư đây hoàn toàn không biết (mê) thứ vị, cũng hoàn toàn không biết "nói tám vạn", cũng không hiểu vị Nhị thừa được thọ ký, cũng không biết giáo giới nội ngoại. Hoặc tỏa (chịu thua) hoặc dẫn ý kia đều sai biệt, cho nên phải khéo biết. "Nạn rằng...": là ý văn nay vấn nạn: Kinh nói vì hàng Nhị thừa mà lập Hóa thành cho nên nói "Nhị địa lẽ nào vượt qua Tam thừa?". Và nói "Bồ-tát khi đến Lục địa... ư?". Người hàng Tam thừa bất tận trú thành, dù vào thành rồi cũng không đều đến nổi tám-sáu-bốn-hai phát tâm thì mới ra. Tiếp, "Nếu năm người....": dù khó, dù có nghĩa đây, như trong Niết-bàn người Nhị thừa ắt đến ngoại giới mới vượt qua năm trăm do tuần, nghĩa "bất tận" như vậy, cho nên nói " ý của Đại kinh".
Nói "nhất ý" là: Kinh tồn tại giáo đạo, người bị độn căn lẽ nào có thể hiểu như vậy ư? Lại nữa, kinh tuy ba văn chỉ là một nghĩa, cho nên nói "nhất ý". Nhưng ý của Đại kinh khiến ẩn xa kia nhanh chóng khiến hiện phát, lẽ nào có thể nhất hướng đợi ngoại giới ư? "Trong đây...": là lược giải của Kim gia (tức là Trí Khải đại sư), ý hóa thành này vốn vì người đời nay trước quyền sau thật. "Nếu năm người...": là nêu năm người đây. Nếu đối ngoại giới trải qua thời gian dài đều tự năng tiến, thì chẳng phải ý trong đây. Nếu người trước Pháp Hoa mật tiến, là tự tiến thì cũng chẳng phải ý trong đây. Căn cứ ý kinh này, đợi phế bỏ thì mới tiến, cho nên không thể nghe kinh vi diệu. Tự độ tự tiến cũng mất ý hóa thành tức mất ý kinh này. Ý kinh này là ra ở ngoại giới cũng cần phải nghe kinh, huống chi ở cõi này ư!
"Có người nói: Tam giới là ba trăm...": Đầy đủ như trong Chỉ Quán phá, phá Nhị thừa kia không đợi khai quyền mà tự hiển thật, gọi là thường đi bốn trăm, năm trăm do tuần. "Phàm phu...": Kim gia hợp nêu vượt qua hai chướng, diệt hai kiến, lìa nước lửa, thoát hai ngục, siêu (vượt) nhị biên, vượt tự tha, đều đến Năm trăm. "Đại Phẩm...": đây lập nghĩa thông, khiến biết chẳng thật vì đã là nghĩa thông, cho nên hợp Nhị thừa cùng làm "Một trăm". Luận văn dùng Nhị thừa làm Bốn trăm, cho nên đến Pháp Hoa lại phải khai lấy làm Năm trăm. Năm trăm cần phải vượt qua, đầy đủ như trong chánh giải nói. Tiếp dẫn Đại Phẩm để biện rõ không phải thật đến. Trong Đại Phẩm kia nêu rõ Thông Bồ-tát quá nhị thừa địa. Đã chưa nói rõ thành này là hóa, cho nên biết bộ kia kiêm quyền hiển thật. Nếu nói hóa thành thì phải dẫn tiến. Nếu dẫn tiến thì phải thọ ký Nhị thừa. Đã chưa thọ ký Nhị thừa, nên biết bộ kia nói thành vẫn là thật. "Đã chưa luận...": văn nay thiết lập trình bày. Đã chưa nói thành là hóa, tức chưa khai quyền. Nếu chưa khai quyền thì nên cũng không thật. Vì sao Bát-nhã đã nêu thật tuệ, vì thật tuệ tức là Bảo sở? Đáp ý: Hiển thật nói thông khai quyền hạn cuộc mười nghĩa đây. Trong nghĩa Biệt hành nhân sáu trăm kiếp: E rằng văn lầm, lẽ ra nói sáu mươi kiếp một trăm kiếp. Thanh-văn sáu mươi kiếp, Bích-chi-phật một trăm kiếp, còn lại có thể thấy. "Nhà lửa, ba xe nay là hai trăm": nay văn giả lập nạn. Vì sao Phẩm Thí Dụ thì ba xe cần bỏ, Hóa Thành chỉ nói ý hai trăm phải tiến vì hai trăm chỉ là Nhị thừa?
"Tam căn...": đáp. Trước, đáp ba xe: Tam thừa căn tánh đều bị lửa thiêu, đều cầu ra khỏi nhà lửa cho nên dùng dụ ba xe. Tiếp, "Phật đạo...": đáp hai trăm. Nói "Phật đạo": Chỉ Viên quả, nên Tạng, Thông Nhị thừa cách Phật quả còn xa, cho nên cần phải quá Nhị thừa hai trăm mới đến Phật quả. Nói "Phật thừa không phải chướng" là Tạng Thông Bồ-tát cũng gọi là Phật thừa, trước lúc đó đều tiến cho nên nói "không phải chướng". Lại Tam tạng Bồ-tát nếu căn cứ đoạn hoặc kém hơn Nhị thừa, thì ba trăm cần phải ly, lẽ nào hai trăm ư? Nhưng Bồ-tát này đã phát Đại tâm, tuy chưa đoạn hoặc vẫn gọi là Phật thừa. Người thấy Phật thừa tiện làm gộp chung lại. Nếu vậy đức Mâu-ni thuyết pháp tích chứa nên đã thu nhiếp chín hội, năm trăm La-hán nên là bốn Bồ-tát. Thế phẩm nên thuyết Liên hoa tạng hải, Hiền Thánh phẩm nên thuyết bốn mươi hai vị, Định phẩm nên là Lăng-nghiêm Tam-muội, Trí phẩm nên là các Đà-la-ni. Hoặc pháp hoặc chúng kia đã không đồng, thì hóa chủ hóa sự lẽ nào có thể không khác biệt? Như vậy thì biệt tướng vô lượng vô biên, không thể nêu đủ. Bồ-tát cầu thừa đây cũng vẫn gọi là Ma-ha-tát.
"Vì sao?...": là nạn vấn. Vì sao phàm phu giới nội khai làm ba trăm, Thánh nhân giới ngoại chỉ làm hai trăm? Ý của câu hỏi này: Lìa Phần đoạn giới nội cho nên ngắn, mê Phật đạo giới ngoại cho nên dài, vì sao khước từ ngắn? "Đây dẫn.....": là đáp, có thể thấy.
"Nếu vậy...": là nạn vấn nếu. Kinh này là liễu nghĩa, thì vì sao thật ít mà nói nhiều, thật nhiều mà nói ít? "Phật đạo...": là đáp, giới nội tuy ít do có đọa khổ mà khó hành, giới ngoại tuy nhiều đã trụ pháp tánh mà dễ tiến. Căn cứ hành mà luận khó dễ, chẳng căn cứ địa gần xa, cho nên sở thuyết là chân liễu nghĩa.
Hỏi: "Hai trăm là Nhị thừa khó đi...": ý hỏi Bảo sở tổng có năm trăm do tuần, phàm phu Nhị thừa đều phải qua, không nói phải qua Bồ-tát. Bồ-tát nên không phải là khó? "Bồ-tát...": dùng Bồ-tát lập lại trưng dẫn. Nếu Bồ-tát không phải khó thì vì sao nói xin cho chúng con ba thứ xe báu? Nếu đều có cần xe thì ba người đều chướng ở Ba trăm. Đã được ra rồi nên đồng Nhị thừa. "Hai trăm là chướng vân vân": Trước dùng Thông giáo đáp ý nạn vấn này. Phàm phu cần ra ngoài giới (cõi) cho nên Ba trăm là khó, Nhị thừa cần phải phát tâm cho nên Hai trăm là khó. Bồ-tát đã phát tâm tuy khó mà có thể qua, Bồ-tát khi ở phàm, thì đồng phàm lìa Ba trăm, không cùng Nhị thừa chứng, không lo Hai trăm là khó. Nếu bắt đầu Biệt giáo Bồ-tát thì cũng đồng phàm phu, vốn kỳ vọng nơi Năm trăm. Người Viên giáo sơ phát tâm tức gọi là đến Bảo sở. "Đại luận...": là dẫn luận biện rõ Biệt là ý Thông giáo. Phải biết cùng Nhị thừa đồng đến nơi Bốn trăm. Kinh này riêng tại Viên giáo, hết thảy Quyền đã phế, phế rồi tất cả đều khai, đều là Bồ-tát đạo, cho nên Thất phương tiện đều vượt qua Năm trăm do tuần. Cho nên Đại luận thông nghĩa Tam thừa nơi dừng nghỉ đồng đều gọi là Bốn trăm. Bồ-tát đến vị đây có thể vào cõi, hóa độ chúng sinh, nơi bắt đầu cất chân đi, lại gọi là "Một trăm". "Kinh này...": nêu rõ Viên khác Thông. Trong Năm trăm thì ngôi vị ở Bồ-tát, gọi là Bồtát đạo. Quá Năm trăm thì gọi là quả đạo khai quyền hiển thật. Tạng, Thông Bồ-tát là Bồ-tát đạo, nên nói "liền nhập Phật đạo". "Vân vân": Lẽ ra nêu rõ các giáo Phật đạo không đồng, song về sau khai quyền thì luận nhập không nhập. "Nay y...": chính là chánh giải thích, thân cận vâng theo Thánh âm mà vẫn còn nói là "khó biết". Tuy nói khó biết không ngoài ba thứ đây. "Hai hiểm nạn" đến "gọi là đường ác": Ý đạo sư muốn vượt qua Năm trăm do tuần, do người Tam tạng tự đi vào chốn hoang vắng ghê sợ. Đi được ba trăm do tuần thì bọn họ sinh mệt mỏi, nên đạo sư lập hóa thành nơi hoang vắng ấy, người vào thành phần nhiều là Tam tạng Nhị thừa. Lại nói "không có người" là căn cứ lý thông nơi Thông giáo
Nhị thừa. Nói "có người" là thông chỉ Diễn giáo, Viên Biệt hai giáo chẳng hoang vắng mà có người, cho nên "có chỗ nương hay không chỗ nương" đều là đường đi rộng rãi, tức Tạng Thông Nhị thừa. "Có một đạo sư" đến "sáu căn thanh tịnh": Tức mười thứ sáu căn. Sơ trụ phần đắc tức mười sáu vương tử ban đầu kết duyên. Như các phương Phật từ nay trở về trước hoặc có thể cũng tại Sơ trụ trở lên. Nay tám phương làm Phật chỉ tại cực quả, cho nên giải thích "tuệ minh" nói rõ tam trí ngũ căn tam minh thập lực. Kinh nói "tuệ", luận văn nói "trí". Tùy thuận tiện mà nói đó thôi! Nhưng "minh tuệ..." cũng thông nhân Sơ trụ chân thật phần thành, do đó nên biết thông chỉ xưa nay đều gọi là "Đạo sư", đều sáu căn thanh tịnh. Dưới giải thích nhiều hạng đạo sư đều cùng tại nơi đây.
"Chúng nhân được dắt đi...": Trên lập nạn vấn nói: Vì sao không lập nghĩa thất lạc và kinh nhập hỏa trạch? Nay tuy không có lời nói kia mà tợ như có nghĩa đó. Vì nói người được dắt thì ý kia còn rộng, cùng người được dẫn dắt chung làm nghĩa "nhập". Cho nên, nói biệt thí rộng tụng...."Thứ hai: Bạch đạo sư rằng" đến "Đạo sư kết duyên": Đây có bốn hạng Đạo sư:
1) Thông nhân quả.
2) Chỉ tại nhân. và 4) Chỉ tại quả. Nói "thông đồ": thông tha nhân.
Nói "kết duyên": Hạn cuộc thầy ta. Nói "quyền trí": Khi dùng thiết lập Tiểu. Nói "thật trí": dùng khi khai quyền. Bốn hạng tùy thời sai khác, người chỉ là một, đều là vương tử từ đầu đến nay. Nói "bạch kết duyên": Ban đầu thoái về sau Tiểu cơ muốn sinh gọi là "bạch (thưa)".
Ngày chỉ cho biết thành, thì thông xưa và nay. Tuy có ba loại kia, ắt phải Thông đồ đạo sư thường tùy theo nhau. "Cảm nơi Pháp thân": tức Đại cơ đã diệt, Tiểu cơ đang sinh, cho nên chưa thấy Ứng Phật, ngầm cảm Pháp thân, chẳng phải ẩn chẳng phải hiển ứng. "Hóa làm nói hóa": Trước tuy nói hóa làm một thành, chính là ý luân. Cho nên biết "nói hóa" tức khẩu luân, chẳng phải ý không dùng nói, nếu nói ắt có thân luân. Thân luân chỉ căn cứ thị hiện làm thân trượng sáu. Trước cần ý luân không mưu tính mà vận chuyển. Cho nên, biết tam luân chưa từng tạm lìa. "Các ông chớ sợ...": nghĩa bao hàm tam luân. Văn không thứ lớp, nêu hóa thành đầy đủ nghĩa tam chuyển, thì đâu cần thứ lớp.
"Trước đến Bảo sở": Đầu văn này chính giải thích nghĩa, tại Diễn môn căn cứ cộng với Bồ-tát. Tiếp "Một thuyết...": người khác giải thích khác. "Nếu vậy...": văn nay phê phán điều này. Trong Tam thừa vẫn chấp nhận Bồ-tát, tợ đồng Biệt giáo, từ Giả nhập Không. Nếu dẫn kinh Thắng Man thì chỉ là Thông đồ luận thoái đại, cho nên cũng nên nói nghĩa Biệt không thành. Lại nhất vãng, vì sao? Vì trong Biệt thì hoàn toàn không làm văn nói Nhị thừa, nhưng trong Đại kinh cũng mượn Nhị thừa để phân biệt vị Biệt, cho nên lại nói vậy. "Lại nói...": người khác giải thích. "Đại Phẩm...": nay sư dẫn Đại Phẩm Tịnh Danh để phán xét hướng một sư. Nói "Biệt tiếp Thông": chỉ vì vào hóa thành xong là "Thông", rồi sau mới tiến về phía trước: là "Biệt tiếp".
Trong kinh Đại Phẩm nêu ba hạng Bồ-tát đều nói Sơ phát tức là Bị tiếp. Như thế hàng Nhị thừa rõ ràng không có việc đây. Kinh Tịnh Danh cũng cùng nói như vậy, tợ Biệt tiếp Thông đó thôi. Lại người Nhị thừa nghe pháp bất tư nghì của Bồ-tát mà vẫn chấp Tiểu quả, chỉ ở nơi tòa đây liền bị quở trách, và thêm nói Đại. Cho nên biết từ đây mật nhờ Bị tiếp. Nếu dựa theo Huyền Văn thì đến thời Bát-nhã, tức ngầm thành Biệt nhân, cho nên hiển lộ tiếp chỉ là Bồ-tát. Nhị thừa mật đắc không nơi nào không thông. Nếu nói đến thời Bát-nhã thành Biệt nhân thì vẫn là thứ lớp mật, không phải không thứ lớp. Không thứ lớp mật thì nơi nơi hiển thật, lẽ nào chỉ Biệt ư? "Chỉ vì đối Đức Phật nay..." là giải thích nêu ý kia. "Cũng như nay người...": Chẳng phải chánh ý văn đối thoái đại...; nhất vãng mà nói như thế. Đầy đủ nên như văn từ "Nay hiện tại" trở xuống. Nói "Nay hiện tại....": là chỉ trước Phật chưa khai quyền, cho nên biết cuối đời nhất thời được nghe, nghe mà sinh tin, sự cần phải gieo trồng đời trước như ý trong Niết-bàn tức mười tiên..... đến trong Pháp Hoa. Hóa đạo đã đủ cho nên ở Niết-bàn hiển lộ trong giáo. Chọn Tiểu quả: Đều biết là chân thật.
"Đại Kinh có ba văn": ba văn này lời thì có chút khác, ý thì phần lớn đồng. Nếu đến Bồ-đề tâm thì ắt đến Bồ-đề Niết-bàn. Một văn đầu tiên là nhân, hai văn sau là quả. Trong quả đã là Trí, Đoạn hai đức, cho nên sơ phát tâm Bồ-tát có thể chỉ Sơ trụ phần đắc Trí, Đoạn. Nhưng kinh ba văn đều nói tám-sáu-bốn-hai, lẽ nào có thể nhân quả đồng kinh chấp nhận thời gian ư? Đây lại nhất vãng cho nên Bồ-đề, Niết-bàn đều thông nhân quả. Nếu giáo vẫn quyền chỉ đến Sơ trụ, dù đến cực quả giáo kia cũng quyền, đâu hẳn tám-sáu... mới đến cực quả ư? Tức là cùng Nhất sinh, bát địa sinh thân đắc Nhẫn làm ngăn ngại. "Nhưng vượt quá Năm trăm có ba nghĩa": Trước nêu ba ý. Tiếp, "Bồ-đề tâm...": là giải thích thành ba ý, Bồ-đề tâm tức Sơ trụ Bồ-đề, hành giả tức từ Sơ trụ khởi hành. Hai văn đều tại nhân, tức văn đầu của Đại kinh. "Đắc Phật đạo": tức hai văn thứ hai và ba, là cực vị Bồđề, Niết-bàn, nhưng cần nương lý khiến nghĩa Bảo sở thông, đây cũng đâu cần dùng cực quả làm Bảo sở. Tuy có hai ý tương ưng từ đầu nói, mà bởi do Bảo chữ Bồ-đề Niết-bàn kia danh đã thông, cho nên được hai giải thích. Cho nên từ nghĩa viên, từ sơ phát tâm ba nghĩa đầy đủ.
"Văn dưới nói..." đến "đắc Phật đạo": là dẫn văn nay để chứng minh ba nghĩa. "Vì sao?...": là hỏi Nhị thừa. Đáp bên dưới, là nhất vãng từ quả. "Phật thừa độ năm trăm do tuần, thoát nạn căn cơ Đại thừa phát sinh", do văn hẹp cho nên căn cứ phẩm Thí Dụ có thể biết. "Đại kinh...": chính phán định chỉ đến Sơ trụ. "Đây chỉ độn căn": Có hai nghĩa:
1) Trong năm người, thì ba người trước độn do trụ quả.
2) Năm người Đại thừa căn độn do giáo quyền.
Cho nên nói "Nếu như trong Tam tạng...thì lẽ nào cần tám vạn cùng mười ngàn ư?". Nghiệm biết tám vạn... giáo kia là quyền, chưa đến ngoại giới còn nơi đây sinh Pháp Hoa liền phát sinh, lẽ nào nhất định ngoại giới chấp nhận như vậy ư? "Vân vân" là giải thích nêu nguyên do giáo quyền cần phải phế bỏ. Phải biết vị dài ngắn của các giáo phần nhiều tại giáo đạo, lẽ nào có xuất giới nghe Thắng ứng thuyết, ắt cần phải lại trải quả tám-sáu-bốnhai! Tuy vậy nếu không giải thích không khai quyền diệu kinh đây thì đâu tiện rộng nói đây ư! Nay người căn cạn liền sinh nghi báng. Đức Phật tại thế còn trải qua hơn bốn mươi năm không hiển chân thật, nếu trừ sau khi Phật diệt độ và Thủ Lăng-nghiêm thì hủy báng cũng thành chủng, chỉ không phiền não cũ thành chủng, thì có gì nghi.
"Dần vào Phật tuệ": Trong đây văn hẹp, chỉ nói diệt Hóa thành tức đến Bảo sở, không nói trong thành trải qua các vị, chuẩn theo văn phẩm Tín Giải thì lý ắt phải có. "Xưa hỏi": Trước lập ngăn ngại, tiếp "Xe vì sao...": nêu ba câu hỏi. Trong đáp thì trước đáp có không: Đầu, căn cứ Thí dụ. Tiếp, "Lý giáo...": là căn cứ pháp. Trước thí dụ: Nay hỏi xe, thành hai thí dụ đều ra khỏi nhà ba cõi, cùng Ba trăm đều thí dụ ba cõi, có thể do đối xe khiến ba cõi cùng Niết-bàn có ngăn cách, có thể do đối thành khiến ba cõi vọng Niết-bàn tức xa xôi. Tiếp, căn cứ pháp: Thành tại ngoại giới, vì sao chấp giáo? Tức khiến lý có Trưởng giả nói xe, không nên chỉ lý giáo đâu hẳn là không có? Nhưng chỗ thí là đồng đâu được xe cách thành xa. Trưởng giả đã ngồi nơi đất trống, xe cũng lẽ ra xa, đường kia đã trải qua ba trăm do tuần thì thành cũng lẽ ra ngăn cách. Nếu nói đường kia hoang vắng nguy hiểm là xa, thì cửa nhà đều cháy tại sao có ngăn cách. Đã nạn vấn pháp dụ không thể làm chỗ nương, vì sao có không không đồng mà làm đáp ư? Nay căn cứ pháp, nương thí dụ thì mới làm thông suốt. Xưa che thật hiển quyền, quyền ẩn nơi thật, cho nên nói xe ngăn cách. Nay hiển rõ nói thành là hóa, cho nên nói chỗ đất xa xôi, lẽ nào có chấp giáo chấp lý khiến một lý là có chấp lý chấp giáo, khiến ba giáo thành không. Nếu như vậy thì xe thành đều có lý giáo, đều là có không.
Tiếp, "Xe ba...": là đáp trong ba, một thì cũng trước là căn cứ Thí dụ, tiếp là căn cứ lý giáo. Phần đầu trong căn cứ thí dụ nói chỗ nghỉ ngơi và sở thích ba một không đồng. Xe có thể chẳng phải là nơi nghỉ ngơi, thành có thể chẳng phải là sở thích. Xe đã đều nói vận tải, dứt đông tây ruổi chạy kia. Thành nói mau được an ổn, khiến kia vui dừng ở trong đó. Tiếp, trong căn cứ pháp nói "Tận Vô sinh trí không khác...": Đều là Thông nghĩa mất Tạng tam thừa và Biệt Bồ-tát Tận Vô sinh trí không gọi là lý. Tập tận bất tận không gọi là giáo, tri kiến đắc hay không cũng lại như vậy, vì sao ban đầu lập lý giáo? Chính dùng trí tập để giải thích! Huống chánh đương Tam tạng Nhị thừa mà chỉ dùng Thông giáo đáp nghĩa cho nên không thể. Nên biết Thông giáo ba người đều chứng Vô sinh, cho nên Tam tam nhân đồng ngồi tòa giải thoát: Một tức là nhân lý vọng nhau vọng nhân ba, lý một; Tam tạng nhân lý vọng nhau cũng như vậy. Chỉ Bồ-tát cùng Nhị thừa không được cùng đồng ngồi tòa giải thoát. Tiếp, "Ba nhà...": là đáp động tĩnh. Thành lẽ nào không có ngày tạo lập và phải năng thông đường, xe có thể không lúc nào làm xong và vì nó đến tột cùng, cho nên biết quả. Thành được nhân xe đi đến, quả xe dẫm đạp đường thành là năng thông. Cho nên khiến đòi xe tức là cầu mong đòi thành. Diệt thành tức là đồng ban cho, hai nghĩa không sai khác, đâu đủ biện sai khác, cho nên giải thích vẫn thiếu văn thí dụ trước.
"Nạn v.v...": Ý khiến chuẩn theo vọng văn khác nạn vấn, lược như trước biện, thuận ý chú thích đây cho nên lược luận. Tiếp, "Nay nêu rõ...": chánh giải thích ban đầu bài xích có không. Từ "Ba xe..." là bài xích ba, một. "Hỏi: Thành cùng hai sứ...": là phá động tĩnh, phá trong văn đầu nói căn cứ tâm chúng sinh là có: 1) Vốn có. 2) Giữa đường. Nay căn cứ giữa đường nên cả hai đều có. Lại cũng có thể nói: Nguyên phát Đại tâm, cho nên không có ở giữa dùng Tiểu tiếp, cho là có.
Tiếp, căn cứ Phật trí trước lập câu. Tiếp giải thích cũng lẽ ra lại phải nói ngược lại Thật trí nói rõ thành làm hóa, cũng không có quyền trí nêu rõ. Vì con tạo xe cho nên cũng có... nên phải nêu đủ nhiều thứ có, không. Căn cứ năng thiết lập giáo nên đều có, sở chứng lý cho nên đều không. Che thật nên có, khai quyền nên không, thiết lập quyền nên có, phế quyền nên không, đều là tạo tác cho nên có, đều là hóa tha cho nên không. Cho nên biết Pháp Hoa chẳng những hóa thành cũng là hóa xe đều tùy tiện đó thôi! Hóa thành chánh ý vì người thoái đại, lại cùng trên hỏi đối luận đồng khác, cho nên văn nay nói: Đường trước còn xa nay muốn thoái lui. Hai chu trên chưa có nói đây, chỉ nói chìm trong khổ và do bị thiêu. Đây cũng một phen xưa cũng có thể thoái đại: Lợi thông hai chu trên nguyên là tiểu, độn ứng tại thứ ba. "Ba xe thông xưa nay...": Xưa chỉ ba vị, nay là Pháp Hoa, cho nên trong hai giáo đều có ba xe, chỉ là xưa chánh dùng, nay thuật xưa. Lại nên dùng thể ngoại thể nội gọi là tóm lược xưa nay. "Nói Hóa thành...": cũng lại nên nói hóa thành chỉ tại nay. Nói "ý giáo": Nếu không đối kinh này để nói ý giáo thì cũng không thể liền nói Tiểu quả là hóa, chánh khi thiết lập Tiểu nói là thật cho nên nói chưa đến đạo là hóa, đến trong kinh này khi đầu thiết lập tức nói hóa làm, vì khi Thanh-văn Đại cơ động được nói ý giáo nói thành là hóa. Cho nên biết hóa thành tại xưa đối nhân cũng ba, ba xe tại xưa đối lý cũng một.
Hỏi: "Hóa làm ba xe...": là ý hỏi: Xe thành hai quả đều tại Niết-bàn, thành có tên hóa, xe lẽ nào chẳng hóa? Bỗng nếu chịu hóa thì đồng khác như thế nào? Trong đáp thì nhất vãng, hai luân tuy lại có chút sai khác luận kia thiết hóa ý chỉ Đại vẫn đồng. Nay từ tiện dễ thông lại từ hóa nói thích nghi từ giáo.
Lại cũng nên nói ví như huyễn sĩ vì người huyễn nói, xe cũng gọi là hóa mà đối trung đạo (ở giữa đường) nói hai thành Niết-bàn cũng là giáo. Cho nên biết không thể theo Thí dụ xen nhau chấp. Lại căn cứ thanh sắc cũng tạm xét dụ cho xe, cũng thông sắc nói là thành giáo ấy như trước... "Hỏi: Thành cùng..." là hỏi. "Khiến năng...": là đáp. Cũng lại nhất vãng thành cũng là giáo. "Cho nên..." là nêu nhân duyên Tứ đế trở lại là thành, nhà năng thuyên giáo. Thành đã có giáo, thành lại là động. "Vì sao chỉ tĩnh giáo thông nhân quả?": là năng thuyên nhân quả! Xe thành chỉ là quả làm dụ cho nên biết đều là giáo và quả, cần gì biệt đồ? "Giáo thông hữu vi vô vi....": cũng căn cứ năng thuyên hữu vi vô vi. Xe thành tại quả căn cứ vô vi cho nên ý cũng như trước khiến không đều chấp, cho nên lại đối quyền trí rộng phá định chấp năm xứ. Trong nêu khai quyền nói: Tuy đều đối giáo hạnh nhân lý và biết không biết, lại tùy văn tướng nhất vãng mà nói. Cho nên mỗi một văn đều cần phải đầy đủ Tứ nhất, nêu rõ Như Lai biết không biết...
"Nay vì các ông... làm đại đạo sư": Là hợp chung nhiều người. Tức đây dùng năng dẫn để hiển sở dẫn. Nói "Hai thứ Niết-bàn...": Trong đây có ba giải thích: Đầy đủ như văn trước căn cứ phiền não, sinh tử và trí. Văn đầu căn cứ hoặc, văn tiếp căn cứ nhị thừa là căn cứ ở trí, văn sau căn cứ sinh tử. Nói "Trung đạo vân vân" thì "vân vân" là: trung gian hai tử gọi là trung đạo. Nên biết cũng có thể làm Không, Hữu nhị biên, cộng bất cộng, chân tục, quyền thật, Đại tiểu... mà nói. "Như văn vân vân" thì "vân vân" là: khiến dẫn văn. Trên trong biếng nhác thoái lui có ba, nay lược không tụng nghĩa thứ nhất: giữa đường, lại không tụng thứ ba không thể lại tiến, văn thiếu. "Không tam muội": Đại luận nói: "Vô tướng vô tướng" cho đến "vô nguyện vô nguyện". Quán tâm giải thích hóa cũng phải căn cứ Viên. Trong phần tụng hợp thí. Kinh nói: "làm tất cả đạo sư". Văn nói "hợp năm trăm", tức thí dụ Đạo sư. Năm trăm do tuần là từ sở hành mà nói. Trong phần tụng khai trên thì không tụng nghĩa "giữa đường", cũng là văn lược. Nên nói cũng không tụng nghĩa "không tiến", nay tụng hợp nghĩa giữa đường. Lại không có hai thứ khác, không dọc không ngang, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai, ba nói và Huyền Văn ba pháp.
Trước nêu "Ngũ bách (Năm trăm)" cho nên phải làm chữ "thọ (nhận)". Năm trăm là số, chẳng thiết yếu. "Tại hai chu trên....": là hỏi. Tiếp, "Trên là...": đáp, cũng đầy đủ tứ Tất-đàn. Văn đầu là Thế giới ba hạng sai khác. "Lại, trên thì...": là Đối trị, vì trừ hiềm (nghi) ác. "Lại, mặc niệm...": là Vị nhân, vì sinh đại thiện. "Lại, quyền thật...": là Đệ nhất nghĩa, bởi vì lý thì chẳng nói nghĩ. "Trên vì ý gì...": chỉ là giải thích nghi chẳng thuộc tứ Tất. "Chúng con ở nơi công đức của Phật...": là thuật lãnh bất cập. Bên trên: trung căn nghe thí dụ lãnh đủ năm thời và Pháp thân địa, phương tiện nghỉ giữa đường thấy thắng Ứng thân. Đức Như Lai còn bài xích lãnh sở bất cập. Con nay nghe đây tuy muốn lãnh hội, lẽ nào có thể vượt quá bốn đại đệ tử? Nên biết ngoài sở lãnh thì bất cập nhiều nơi, cho nên cũng nói "sở bất năng tuyên". Nhưng nghe Ca-diếp, Thân-tử lãnh giải đầy đủ, Như Lai tùy thuật, thì chẳng phải hoàn toàn không biết ý chỉ (muội chỉ), chỉ vì ngưỡng mộ Phật pháp cao sâu cho nên chưa dám vượt qua các bậc đã ngộ trước.
"Trợ tuyên pháp của ta...": Nếu dùng Bản vọng Tích thì lẽ nào không từng nơi Phật quá khứ hoặc trợ giúp đơn bán đơn mãn, mà phải trong mãn tương đối và khai... ư? Đối với Đức Phật hiện tại xuất hiện ở đời ác năm trược tuyên dẫn giáo hóa khai quyền phế hợp..., cho nên đều từ đồng loại để nói. Như Văn-thù dẫn việc xưa ánh sáng chiếu phương Đông, lẽ nào không có các phương khác, tức dẫn đồng theo lệ thôi! "Ngoài Đức Như Lai ra" đến "phương tiện": là nếu căn cứ nói "trừ Đức Phật" thì Bổ xứ cũng nên không thể lường, vì kia không thể lường cho nên Bản tích cũng khó lường. Tại sao chỉ từng nơi chư Phật quá khứ? Cũng có thể bản cùng Phật quá khứ ngang bằng. Căn cứ Phật quá khứ thì bản lại khó lường. Nếu đáng thì cũng là Thầy của Phật quá khứ, đâu chỉ ngang bằng ư?
Nói "Bảy thứ phương tiện": Lại dùng thiên viên tương đối luận cho nên biết viễn bản xa xôi man mác bởi vì khó lường. Nếu vậy thì đây là bản trong tích đó thôi! Sáu Ba-la-mật xen lẫn thâu nhiếp đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. Kinh Đại Phẩm ở Phẩm Phú-lâu-na nói Lục độ xen nhau trang nghiêm. "Tại văn có thể hiểu v.v...": Kinh văn tướng trạng đối nghĩa phân minh. Lại như các văn nêu năm thời, thuần là thiện đạo, trong đó cũng có phẩm loại sai khác không đồng. Nếu không có người nữ thì chắc không có ác đạo. Hoặc khi có người nữ cũng không có ác đạo, như nước của Đức Phật A-súc tuy có người nữ mà không việc nữ. Nước của Phật Vô Lượng Thọ thì cả hai thứ đều không có. Các tướng bất đồng không thể nêu đủ, chỉ do thừa, giới đều có ba bậc đan xen lẫn nhau, lược căn cứ đây có thể biết. "Kinh Nguyệt Tạng quyển chín nói: Pháp thực v.v...": "Pháp thực" là nghe pháp, như ở cõi An-dưỡng người hạ phẩm sinh trong hoa sen thường nghe đức Di-đà, Quan Âm thuyết pháp. "Pháp hỷ thực": Nghe pháp hoan hỷ, đang nghe thuộc Pháp thực, nghe rồi là Hỷ thực. "Thiền thực": Nghĩa là dùng pháp thiền tự nuôi, không cần Đoạn thực. Hoặc có thể pháp tức là hỷ (thực). "Kinh Nguyệt Tạng quyển năm nói": Thập thiện đều có mười công đức. Cũng cùng kinh Tịnh Danh nói thập thiện là tịnh độ của Bồ-tát, ý đồng. Cho nên mỗi mỗi cuối văn đều nói "về sau thành Phật...".
Kinh kia quyển năm phẩm Tín Kính nói: Giới thanh tịnh bình đẳng, cái gọi là "Thập thiện nghiệp đạo thôi dứt". Thôi dứt sát sinh thì được mười công đức. Những gì là mười:
1) Đối các chúng sinh đắc vô sở úy.
2) Đối các chúng sinh đắc đại từ tâm.
3) Đoạn ác tập nghiệp.
4) Ít bệnh quyết đoán.
5) Thọ mạng lâu dài.
6) Phi nhân ủng hộ.
7) Không có các ác mộng.
8) Không oán.
9) Không sợ ác đạo.
10) Lúc mạng chung sinh đường thiện.
Nếu có thể đem thiện căn dứt sát sinh này hồi hướng Bồ-đề thì ắt đến Bồ-đề, thành vô thượng trí. Đến Bồ-đề thì sẽ lìa được các binh khí gây hại, chúng sinh sống lâu, đời sau sinh về cõi đức Phật kia. Chín thiện dưới đều có mười công đức.
"Từ nếu có thể... đều đồng", cho nên khi nhân Bồtát hành bất sát làm nhân tịnh độ, mà tự không sát giáo hóa người khác không sát... Bốn pháp đầy đủ, sau khi thành Phật mười loại chúng sinh đồng sinh cõi kia. Cho nên kinh Tịnh Danh nói: Thập thiện là Bồ-tát tịnh độ, Bồ-tát khi thành Phật mạng sống không bị yểu ngắn bằng với chúng sinh đến sinh cõi đức Phật đó. Cho nên trong Trí Độ luận nói Bồ-tát hành nơi một hạnh đều đủ bốn pháp mới thành nhân tịnh. "Thân-tử thị hiện sân...", đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai dẫn. Trong văn chánh ý nói chỉ bày vì phàm phu ngoại đạo cho nên nói tà kiến ba độc, chỉ kiêm bên ngoài thị hiện tu tập Tiểu thừa còn chỉ thông hai nghĩa cho nên lại nói. Trong cụm từ "Điều-đạt thị hiện si vân vân" thì "vân vân" là: muốn dẫn đủ sự liệt kê hạnh, kiêm các Thánh giả đều có thị hiện Tiểu thừa (thiên thị).
"Kiều-trần-như...": Hỏi: Nếu Trần-như đứng đầu được biệt ký, vì sao không thọ ký tại chu đầu?
Đáp: Đại tiểu duyên khác nhau, hai cái bắt đầu không đồng, dẫn vật hy vọng hướng đến, hai ý đều sai khác. Pháp thùy tích không thể một chuẩn mực. "Thí thuyết có hai... hiển thật": đều nói lãnh pháp thí cho nên trước trong khai thí bản thì trực tiếp khai quyền hiển thật, tức là ứng văn ba chu và tín giải năm trăm người lãnh giải. Ba tiết khai văn ý tại nơi đây. Nói "Thí như có người, tức người nhị thừa": là nói căn cơ nhị thừa. Tiểu cơ đương khởi bấy giờ cũng còn Đại. "Say có hai nghĩa" cùng hai nghĩa đọa lạc trước, ý đồng. Đầu tiên là trẻ con ví như đắm ngũ dục, chỉ như Pháp Sư, Thường Bất Khinh..., hoặc một câu kết duyên. Tiếp là thiện yếu, hoặc là năm phẩm lúc đầu chưa nhập tương tợ cho nên nói "yếu". Do kết duyên dày mỏng không đồng, bèn gọi là vô minh, lấy làm khinh trọng cho nên nói say có hai thứ. Nên biết người nghèo xưa nay say trước, như nhờ ăn đồ ngon thọ rồi mà nằm. Tam giáo trợ đạo cũng như thức ăn ngon. Lại dùng phương tiện khác trợ hiển đệ nhất nghĩa. Ăn thức ăn ngon rồi liền tiêu như phương tiện giáo chẳng rốt ráo lợi ích. Xưa tại đời Đức Phật Đại Thông chưa kết Đại duyên, đã trước trải qua trong các vị đều nghe tam giáo cho đến Pháp Hoa tuy nghe Viên đốn, chỉ thành kết duyên như hệ châu. "Châu báu vô giá... chân như báu": Đây là căn cứ giáo, chính lấy liễu nhân mà làm "hệ châu". Trong giáo thuyên lý, nên nói "chân như", giáo là trí dụng cho nên nói "trí báu". Căn cứ thọ hóa thì giáo năng sinh trí cũng gọi là "trí". "Báu" có hai nghĩa đều là báu của Trí gia. "Buộc ở áo trong (lót)": Ban đầu khi kết duyên đầy đủ hai áo, đủ tàm quý nên có tin ưa, mới có thể kết duyên, thoái đại đọa ác thì không có áo ngoài. Nếu căn cứ hiện tại không tin ưa thì tợ như áo trong cũng không có. Vả lại căn cứ đương thời châu buộc trong áo vẫn còn, tức cùng xưa tín đều có, nghĩa như áo trong vẫn còn, chỉ là áo rách chứ chẳng phải hoàn toàn không có áo. Cho nên bạn thân chỉ cho, lại chỉ trong áo có báu, tức là chỉ bày thời tàm tín xưa. Căn cứ thời đây mà nói thì không có áo buộc thân, lý cũng không sai. "Đứng dậy rồi dạo đi" cho đến "cầu cơm áo Tiểu thừa": Lẽ ra là cầu y báu ăn uống cõi trời, mà chỉ cầu áo xấu vừa đủ che thân và thức ăn đủ nuôi thân thể, bởi vì hướng đến nước khác (tha quốc). Trong văn hai giải thích nghĩa "khác (tha)" đều thành. Nếu luận có cầu thì ngày nay hơi chút cần thiết, nên nói "nhàm chán khổ...". "Nếu ma Phật đối nhau...": Ngày nay bắt đầu được Tiểu thừa là nước khác. Lại từ Đại tiểu để nói, cho nên biết hoặc đến nước khác cầu cứu giúp. Chẳng những cơm áo không đủ mà còn không biết mình có hạt châu trong áo. Bạn chỉ châu báu vốn ở nước mình. "Khuyên đổi ra xài, ví như được thọ ký làm Phật" tức là: Châu tuy giá trị bằng vô số báu ắt phải đổi ra mới có dụng cứu giúp. Liễu nhân nội giải tuy lại cứu cánh mà ắt do chủng dễ hiện. Lấy xưa "một phen giải tất cả giải", mà đổi "một hành tất cả hành", thể của châu không kiệt cạn, đổi chác cũng không cùng. Cho nên lại phải nghe phải tu thì mới hiển công dụng của thật. Như trong kinh Hoa Nghiêm được Ma-ni châu, mười loại trong suốt chữa trị mới có thể mưa báu, giải hạnh tương xứng mới kham được Phật thọ ký. Từ đây về sau tức có đầy đủ áo tịch diệt nhẫn nhục, cơm Thủ Lăng-nghiêm, vô lượng các báu tự hành hóa tha vô công dụng lập kia đây không cùng. "Ba chu đều có ý đây": Nếu dùng hệ châu vọng hai chu trên thì pháp thuyết chỉ tại Phật thọ. Khi ban đầu ngồi dưới cây đạo thọ tư duy dùng đại, tức khi dùng pháp thuyết chưa luận Cổ Phật xưa. Lại căn cứ văn hiện tại nếu trong chu Thí dụ tại hai vạn ức Phật thì văn kia cũng chưa luận cõi điểm bụi trần, nhưng hai chu thượng trung lẽ nào cũng không có ở nơi Đức Phật Đại Thông từng buộc châu ư? Như trong Thám lãnh còn lãnh pháp thân lẽ nào chỉ đạo thọ? Lại căn cứ văn hiện tại đó thôi! Chỉ do căn lợi nghe liền tín giải không cần chỉ xưa. Vì vậy cho nên cuối cùng luận trong văn trước coi "phát chẩn học Tiểu" là trung gian, không chỉ tại thời đạo thọ. Nói "Ngày tháng năm đó...": chỉ tại cõi uế trược không thông hai chu. "Vô lượng Phật bảo": Bảo do trao đổi mà được, cũng có thể nói đắc Phật bảo tức lợi tha vậy.
----------------------
Văn đầu tiên giải thích theo Nhân duyên, ứng đủ tứ Tất-đàn: Học, Vô học biệt tức Thế giới Tất-đàn, Kiến đạo vị tức Vị nhân, Tu đạo vị tức Đối trị, Vô học vị tức Đệ nhất nghĩa. Lại đắc thọ ký tức Đệ nhất nghĩa. Căn cứ Giáo: Ba giáo như văn. Nghiên cứu Như Lai tạng... là Viên giáo. Lại như trong Thông tựa giải thích, nếu căn cứ Quán tâm, thì trong Lục tức cứu cánh tức là vị Vô học, bốn thứ còn lại gọi là học, lý tức phi học phi vô học. Lại Lục tức: Thông thì đều "phi học phi vô học", phần chân trở đi thì "mà học mà vô học". Trong cụm từ "Mà học mà Vô học vân vân" thì "vân vân" là: như trước lược nêu. "Hai người tại trong số trên": Là trong đa tri thức liệt nêu, nay đắc thọ ký vì sao ở đây? Trong câu đáp, tổng luận đắc thọ ký, tại trong một ngàn hai trăm vẫn là thượng lưu trong hạ căn. Tuy có nhiều người được biết, ý là dẫn hạ căn. Nếu vậy thì không đáp câu hỏi trên. Ý hỏi vì sao không đồng chu trên, nay trong đáp chỉ nói thượng lưu trong hạ thì làm sao xứng câu hỏi, nhưng chẳng phải thượng căn là vì dẫn thật cho nên nói tứ Tấtđàn.
Giải thích phẩm này chia làm hai: Đầu tổng giải thích, sau biệt giải thích. Văn đầu lại có hai phần:
1) Giải thích năm hạng Pháp sư.
2) Giảm số giải thích.
Phần đầu lại có hai: Đầu, xuất kinh luận dùng biện rõ ly hợp có không. Tiếp, phán xét Thông Biệt để kết phẩm danh. Trong phần đầu lại có hai:
1) Y kinh này phân biệt làm năm.
2) "Đại luận...": là nêu xuất khác giải thích danh, đối nay để biện nghĩa ly hợp có không. "Cho đến như...": là giảm số để giải thích cho nên hoặc nhiều hoặc ít, đều gọi là "Pháp sư".
"Năm hạng đầu nêu Pháp sư": Chưa có một văn nào biên soạn nói một, hai hạng Pháp sư, xưa nay cùng lập xưng làm năm hạng Pháp sư, kinh luận lập nhiều ít không đồng, do đó phẩm đây chỉ gọi chung là Pháp sư. Thiên Vương Bát-nhã nói: Thọ trì kinh này có mười thứ pháp:
1) Viết chép.
2) Cúng dường.
3) Lưu truyền.
4) Lắng nghe.
5) Tự đọc.
6) Nhớ trì.
7) Rộng nói.
8) Tụng.
9) Tư duy.
10) Tu hành.
Trong mười thứ thì thứ nhất là hạng thứ năm của kinh này. Thứ tư, thứ sáu là hạng nhất. Thứ năm thì đây hạng hai, thứ tám thì đây hạng ba, thứ bảy thì đây hạng tư. Lưu truyền thì nhiếp trong văn rộng nói, ba thứ còn lại đều nhiếp trong văn nhớ trì. Kinh kia Ức (nhớ) chỉ là thọ. Trong Đại luận phân "Thọ trì" làm hai, thì nên không được riêng nói "nhớ trì". "Đây biệt luận...": phán xét thông biệt để kết phẩm danh, trong đó trước phân tự tha để biệt địa vị Sư. Nói "Đại kinh phân chín phẩm...": Vốn là biệt nghĩa, tạm mượn để chứng minh năm hạng Pháp sư. Chín phẩm chỉ là Hy liên và Bát hằng. Thứ tư thường rộng nói, trong 16 phần giải thích nghĩa một phần, nói 4 trước không giải là: 3 hằng và hy liên, 5 hằng 8 phần, 6 hằng 12 phần, 7 hằng 14 phần, 8 hằng đầy đủ giải tận nghĩa kia, cho nên phải từ năng giải một phần nghĩa trở đi! Năng vì người khác nói tức là địa vị Sư.
Tiếp, "Thông luận...": là xả biệt theo thông, tự tha đều đắc thọ danh phẩm này. Theo nghĩa thông biên không có một câu không đảm nhận làm Sư.
Tiếp, "giảm số" giải thích lại có bốn: Nghĩa là bốnba-hai-một đều là triển chuyển tóm lược nhiều thành ít đều là Pháp sư. Nói "Như sau thuyết" đầy đủ như trong phẩm An Lạc Hạnh ban đầu giải thích bốn hạnh. Bốn hạnh đã chỉ pháp sư, ở đây lẽ ra dùng bốn hạnh này để kết tên phẩm, văn không có tức lược. Đã có trước sau, trong đó theo lệ có thể biết. Nếu muốn biết thì chỉ là: trước phán xét thông biệt. Tiếp từ thông bốn để kết tên phẩm, tóm lược bốn thành ba.
Lại chia làm ba ý: 1) Ba nghiệp; 2) Ba môn; 3) Ba pháp. Mỗi mỗi đều trước là giải thích, tiếp là phán thông biệt để kết tên phẩm. Tiếp, Tóm lược ba thành hai: Nghĩa là tự hành hóa tha. Nói "không thọ ký lại": căn cứ trước thì có thể biết cũng là trước giải thích. Tiếp, phán thông biệt để kết tên phẩm, do tự tha đây đã khắp ở ba trước, cho nên biết tự tha cũng có thông biệt. Biệt luận đều biệt thông luận xen lẫn thông, tự tha đều xen nhau kham nhận. Nay thông từ hóa tha cho nên gọi là "phẩm Pháp Sư". Tiếp, Tóm lược hai thành một: Nghĩa là Như Lai hạnh đủ tất cả hạnh, đây y văn Đại kinh phẩm Thánh Hạnh nói. Lại có một hạnh là Như Lai hạnh, cái gọi là Đại thừa Đại Bát Niết-bàn; Niết-bàn chỉ là ba đức bí tạng cho nên nay dùng nhà tòa áo ba thứ để giải thích ba đức. Ba đức chỉ là một đại Niết-bàn. Đại Niết-bàn đây khắp tất cả nơi, khắp tất cả pháp, tổng gọi là Nhất.
Trước, giải thích. Tiếp, chỉ rộng. Trong phần giải thích chia làm hai: Đầu thông sau biệt. Thông: một hành thông đủ ba pháp: nhà tòa áo. Biệt đối chia làm hai: Trước đối, sau liệu giản. Văn đầu lại có chín, trong đó đều dùng ba pháp đối các pháp:
1) Đối tướng thiện ác và động.
"Lại từ nhẫn...": là phước tuệ. "Trí tuệ là mắt...": cũng nên nói mắt chân đầy đủ ắt có chỗ nương, chỗ nương đủ hai.
2) "Lại, từ bi...": là đối bài xích thiên kiến tà, cũng có hai: trước là giải thích, tiếp là dẫn kinh Tịnh Danh làm chứng, thắng Thiên tà, dũng mãnh tu Viên.
3) "Lại, từ bi...": là phá bốn ma, cũng có hai: trước là giải thích. Trong giải thích đều phải căn cứ ngoại giới viên giải thích. Tiếp là dẫn chứng Không, "vân vân" là: giải thích nêu xuất ý kia.
4) "Lại, từ bi...": nêu đủ hai thứ nghiêm vẫn làm hai giải thích, chỉ là dịch ngược trước giải thích, căn cứ sau vọng trước, trước nên nói từ nhẫn.
5) "Từ nhẫn...": căn cứ thí dụ phá lập... đủ hai theo lệ trước.
6) "Lại, từ bi cho nên đâu có...": là căn cứ thể dụng: Dụng tức lìa lỗi.
7) "Xuất ba đế....": là căn cứ danh, không đồng thứ lớp ba đế. Nhà từ bi bao hàm áo nhẫn nhục Tam-muội.
8) "Kinh nói...": là dẫn kinh, Vô tướng là tòa.
Phần tiếp, chỉ rộng: nói không thể hết. "Vân vân" là: đầy đủ như trong Huyền Văn nêu đủ năm hạnh nhiếp tất cả hạnh, cũng như trong Chỉ Quán nói mười thừa mười cảnh ngang dọc khắp thâu, và pháp môn ngang dọc trong khắp phá, cho đến bốn thứ Tam-muội thâu tất cả hạnh. Tất cả hạnh chỉ là một hạnh, cho nên làm chín văn để giải thích. Tiếp, "Hỏi...": là liệu giản. Đầu hỏi: Căn cứ ban đầu giải thích phẩm thì nên nói năm hạng, căn cứ sau giảm số thì nên nói một pháp. Vì sao chỉ dùng áo, tòa, nhà ba thứ mà đối các pháp ư? Đáp: Căn cứ sự hiển lý cần phải đủ ba pháp, huống chi y văn hiện tại nên đủ ba pháp bèn vì chúng nói. Cho nên đủ sự lý hai-ba mới có thể nói pháp. Cho nên trước là sự giải, tiếp là sự lý hợp, sau riêng ước lý. Sự giải như văn. Trong hợp thích nói ba môn: thì hai môn đầu thuộc sự, môn thứ ba thuộc lý. Sự lý đều là cảnh sở mê. Đầu tiên, căn cứ khổ quả cho nên dùng Từ bi môn, khổ phải cần cứu. Tiếp, căn cứ kết nghiệp, cho nên dùng Nhẫn môn, y lý lìa. Sau căn cứ đế cảnh cho nên dùng Không môn khéo an trú nơi Không. Thứ ba, riêng căn cứ lý: Lý tức đế lý cho nên căn cứ ba đế, tức hướng thứ ba đủ ba đế. Nói "vân vân": lẽ ra dùng nhiều thứ ba pháp đối giải thích ba thứ đây khiến thành viên dung thông thích hợp tự tại, chính là biết văn đây nhiếp tướng giáo khắp. Cho nên bên dưới tổng căn cứ giáo, nói: Phàm có nhiều cách giải thích phẩm đều căn cứ Viên giáo.
"Tiếp, Pháp..." là biệt giải thích. Hai chữ "Pháp Sư" thông suốt từ trên xuống tất cả các giải thích. Do các pháp trên là pháp của Sư cho nên nay thích danh cũng căn cứ hai hạng, cho đến năm hạng. "Nếu tự...": là giải thích theo Nhân duyên. Đầu tiên tự tha không đồng, tức Thế giới, tức tự dùng phép tắc dạy bảo người. Tự hành thành tựu tức Sinh thiện. Hóa tha, trừ ác tức Đối trị. Tự tha đều đắc gọi là Pháp sư, là Đệ nhất nghĩa. "Phàm nhiều thứ...": căn cứ giáo như trước nói nhiều thứ không thể thấm nhuần các giải thích khác. "Ngoại phàm...": là nay văn chánh giải thích. Nếu vậy thì cùng xưa có gì sai biệt?
Đáp: Nay nêu rõ vì tự tha nên khác với Thanh-văn. Tự hành không có lo lắng bị đuổi nhục nhã. Lợi tha không có sức, yếu đuối hèn kém, nên chỉ có một phần thoái mất tợ như xưa, cho nên nói "chưa hẳn". Nói "ngoại phàm" đến "không lo nguy khổ": Ngoại phàm năm phẩm vui thích phước hoằng thông pháp, Thanhvăn nhất hướng tuyệt dứt tâm lợi vật, nghe các đại sĩ bị chúng xua đuổi, tự nhìn lại mình chưa đủ sức lực, nếu không nương tựa phước đó thì bên trong ô nhiễm tịnh quán, bên ngoài chiêu cảm sự chê trách, mất đạo lợi người. Cho nên, đức Phật vì họ nói bốn An lạc hạnh khiến không phải lo ấy, xa lìa mười sự não kia nên nói "không lo". Vừa chứng minh vừa trợ giúp: Bảo tháp chứng kinh cho nên đến, phân thân trợ khai cho nên chúng tập. Do chứng do trợ nhân vì ngưỡng mộ lưu thông. "Lại, chỉ bày phương pháp lưu thông kinh": Mặc áo... ba thứ đầy đủ như sau nói. "Nhân bảo...": Vốn nhờ Dược vương nhân đây bảo chúng khác, kinh này lưu thông. Đầu tiên, "bảo tám vạn Đại sĩ": Đại luận nói: Pháp Hoa là bí mật phó thác cho các Bồ-tát. "Như nay...": là văn gọi hạ phương, còn đợi bản quyến thuộc, nghiệm biết họ chưa kham nổi. "Tổng biệt ký": Tổng làm bảy trăm, biệt làm kiếp quốc...
"Cho đến nhất niệm...": Nương niệm đây chắc đắc Bồ-đề, nhân viễn không mất nhờ đây mà phát sinh, không đồng thiện khác cho nên chọn lọc. Luận cho cùng ắt phải tận hành đạo pháp của chư Phật, nhị thừa được thọ ký rồi còn trải qua kiếp số. Nhưng hiểu ý chỉ của kinh cùng đầy đủ có gì sai khác? Chỉ tự hành hóa tha khiến từ đầu đến cuối mà thôi. "Nghe một câu kinh một bài kệ": Thông luận chỉ nói nghe pháp rất ít, nêu ra công sâu hoằng kinh, trong bộ tùy lấy một câu một bài kệ. Biệt luận khiến nghĩa hợp lưu quyền thật bản tích thập diệu,
Tứ nhất. Công phước đều như vậy. Nhưng nghĩa thông Đại tiểu, cho nên dưới dẫn "Tăng Nhất Tập nói: Như dòng Tứ đế" cho đến dẫn "bốn An lạc hạnh"... Nay cũng căn cứ theo đây. Nói "đều thọ ký cho": Ắt do kinh này thành Bồ-đề, tuy không có kiếp quốc mà sẽ được lý đồng, trong đây chấp nhận dùng Biệt thời ý thú, vì thế nên cần phải dùng nghe. Căn cứ hạnh, rộng nêu cúng dường, tuyên giảng thông lợi ích tha, nội quán đầy đủ, đủ như trong Chỉ Quán. Lẽ nào có thể chắp tay ngay ngắn chỉ ngưỡng mong sơ tâm? Trung thượng cũng vậy. Nếu không như vậy thì lẽ nào có thể chu thượng chỉ tại một người, chu trung bốn người được thọ ký ư? Nói nhờ vào việc đây bèn thông đến kia cho nên nói "cũng vậy".
"Kinh Kiến Thật Tam-muội...": quyển 4 nói: Trước thọ ký Bát bộ; tiếp quyển năm phẩm Không Thiên nói Không hành chư thiên thấy Bát bộ cúng dường được thọ ký, tức liền cúng dường đều được thọ ký, đồng tên là Hỏa Trì. Tiếp, Tam thập tam thiên trong phẩm Thọ Ký nói: Có tám ức chư thiên Đao-lợi thấy chư thiên trước cúng dường được thọ ký nên cũng hóa làm đồ cúng dường đầy đủ đồng thời được thọ ký tên là Nhân-đà-la Tràng, nói pháp như huyễn. Tiếp phẩm Dạ-ma Thiên có bốn ức Dạ-ma cũng thấy chư thiên cúng dường được thọ ký cũng dùng hóa sự và dùng nói kệ, cúng dường Phật rồi đồng thời được thọ ký đồng tên là Tịnh Trí. Nói "Câu-dực": Kinh kia không có, e rằng lầm lẫn.
"Quán tâm": Dùng nhất thật quán xuyên suốt những pháp tụng kia, cho nên gọi là nhất, là không một câu kệ nào không nhập thật. Nói "vân vân" là: nên nêu rõ tướng nhất quán. Cho đến Đại sư tụng kinh quán pháp, trở lại căn cứ tụng trì để thành tướng quán tư duy vi tế. Khuyến phát bốn ý:
1) Chư Phật hộ niệm.
2) Gieo trồng gốc đức.
3) Nhập chánh định tụ.
4) Phát tâm cứu hết thảy chúng sinh.
Văn dưới cũng dùng bốn pháp đối khai thị ngộ nhập. Tuy là Tích cần thiết mà hiển bản rồi tức thành bản cần thiết, đầy đủ như dưới biện rõ.
"Hỷ tâm có hai": Ngang dọc hai giải thích lại có hai:
1) Chánh giải thích.
2) Dung thông.
Đầu tự hai: Đầu tiên luận dọc: tùy hỷ chia làm ba:
1) Tức quyền mà thật.
2) "Tức nơi...": là song phi, song phi tuy không khác đối với hướng thật, lại năng giải thật tức song phi. Đầu, trong nhất niệm: Không phải chỉ cần trải qua thời gian một niệm mà chỉ nhất tâm pháp, gọi là "nhất niệm". "Tin Phật tri kiến": Ở trong sơ tâm tin sâu diệu lý, lý đây đã là cảnh tri kiến Phật, cảnh chẳng quyền thật cho nên gọi là song phi, dùng lý hướng về nghe, nghe cạn lý sâu cho nên gọi là dọc, đây tức vị tướng sơ tùy hỷ.
3) "Lại năng...": hướng song phi lại song chiếu, sự lý viên dung tức gọi bí tạng. "Đầy đủ phiền não...": tuy chưa nhập phẩm mà cũng có thể thông chứng, đầy đủ tánh phiền não năng biết. Phiền não vọng tạng, tạng sâu Hoặc cạn cho nên cũng gọi là dọc. Tiếp, "Lại, nếu nghe...": là ngang luận tùy hỷ. Trở lại chỉ trước bất nhị quyền thật, cho nên nói "nếu nghe...".
Bốn pháp ngang luận để giải thích tùy hỷ:
1) Tâm.
2) Pháp.
3) Thuyết.
4) Người.
Nói "tâm": Tức dùng nhất tâm hướng đến tâm khác, gọi đó là ngang. Trong đây nhất tâm không còn có các tâm khác, cho nên văn dưới nói "tức ngang mà dọc". "Và nhất thiết pháp": Dùng nhất thiết tâm vọng nhất thiết pháp, cũng gọi là ngang. Nhất tâm nhất pháp đều là duyên ngang, pháp thuần là tâm, tâm thuần là pháp. Cho nên dưới kết nói: "Ngang tức là dọc". Trong đây tự nói đều là Phật pháp. Phật pháp về lý hợp ngang dọc bất nhị. "Nếu muốn...": tiếp, căn cứ "thuyết": Năng rộng phân biệt mỗi một tâm pháp.
"Một tháng, bốn tháng đến một năm": Tuy văn dẫn ý căn mà chẳng phải là địa vị lục căn thanh tịnh. Nay lại dựa theo quán, "tuy chưa...": căn cứ nhân có thể thấy. "Dẫn Đại kinh": Đây nhất niệm ban đầu chính đang nghe ít hiểu nhiều, cũng gọi là nghe nhiều hiểu ít, cho nên lại nêu. Do bài xích nghe nhiều mà không biết nghĩa, sau sẽ lại nói. Tại quyển kinh thứ 6, ban đầu nói "thượng hạ phẩm sư" là chỉ căn cứ phàm vị để phán xét. Mười thứ cúng dường: l) Hoa.
2) Hương.
3) Anh lạc.
4) Hương bột.
5) Hương xoa.
6) Hương đốt.
7) Phướn lọng.
8) Y phục.
9) Kỹ nhạc.
10) Chắp tay.
Âm nhạc như trước đã giải thích.
Tiếp, "Dược vương... người ấy tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh": Do bi nguyện dẫn dắt, vẫn là nghiệp sinh, chưa có thông ứng. Nguyện kiêm nghiệp, đầy đủ như trong Huyền Văn phẩm Quyến Thuộc nói. "Như Thích luận nêu hữu tuệ vô văn...": Kệ đây và kệ bốn Pháp Sư, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Cho nên, biết cũng chấp nhận là hoằng pháp. Ở trong nội giáo rộng huân tập nghĩa sai khác để trợ giúp chánh giáo. Thế gian có huân tập sách thế tục mà nói trợ chánh, thì trái lại vướng vít đến lý. "Nên biết người ấy...": Như vua sai truyền lệnh. Nếu ứng phó theo tâm chủ thì nên được gọi là "sứ", được gọi là "sở khiển". Đầu, "Kinh là Như trí sở thuyết...": là giải thích Như Lai năng khiển, năng khiển là giáo. Tiếp, "Ngày nay...": là giải thích sở khiển, sở khiển là người. "Làm việc của Như Lai...": là giải thích sự việc được sai khiến. Trước, căn cứ tự hành giải thích sự, Đức Phật không có các việc khác, chỉ chuyên chiếu lý. Tiếp, "Ngày nay...": ta nay chỉ làm việc của Như Lai, chân như là lý, chiếu tức gọi sự. " Nhất như trí...": là căn cứ hóa tha giải thích. Như Lai lợi vật do cảnh trí bao hàm, trở lại nói lý đây, lấy làm hóa sự, cho nên biết Đại bi trở lại y Như lý chiếu Như thuyết Như, gọi là Như Lai sự. "Ngày nay...": y lợi tha này gọi là "hành Phật sự". "Phật thì bình đẳng, việc ác không hề hấn": Nếu vậy cúng Phật không có phước, thì đâu cần cúng Phật? Hủy Phật không có tội thì đâu cần chế tội ư?
Đáp: Thật ra điều ấy chỉ là để so sánh, hướng đến nói không thể luận phước điền tốt xấu. Nếu căn cứ (phước) điền mà luận thì phàm xấu thánh tốt, cho nên nếu chê cúng dường thì là nặng ở phàm. "Ví như" đến "đều nhẹ" cũng căn cứ sơ tâm dễ thành hoại mà nói. Nếu căn cứ điền mà nói thì nghĩa theo lệ có thể biết. Như trong tám hạng phước điền thì chăm sóc bệnh là hạng nhất, người phần nhiều chán ghét cho nên người chăm sóc thì phước tăng, đây chính là căn cứ tâm khó dễ. Nếu căn cứ điền tại sự, thì lẽ nào một người bệnh so với Đại thánh và diệu pháp ư? Như giúp kẻ thất phu và hiến cúng người chủ, thì cách nhau trời vực, ân thất phu không thể tự che, ân chủ thấm nhuần đến muôn dân.
Tứ Tất thích nghi không thể nhất định, nhưng căn cứ công cao lý tuyệt của kinh này, thì được nói như đây, các kinh khác không như vậy. "Gánh được cái gánh trên vai Như Lai...": Phật đắc quyền thật và phi quyền thật, ta cũng đắc pháp ấy tương xứng Phật đắc, vậy thì nghĩa tương đương gánh được cái gánh trên vai trên lưng của Phật. Cũng là dùng các pháp quyền thật của Phật, gọi là gánh được cái gánh trên vai trên lưng của Phật. Cũng là chúng sinh thường gánh nơi vai lưng, thường ngày sử dụng mà không biết. Các kinh khác không như vậy cho nên cần phải nói. Nếu không như vậy, thì lẽ nào người trì kinh mà gánh được trọn cái gánh trên vai Như Lai. Thế nên văn đây cần phải phế bỏ giải thích theo sự. Nếu không biết văn này thiết lập khai quyền thật, thì dù dùng tên quyền thật để giải thích kinh cũng chưa biết được diệu chỉ này. Kinh nói "nên đem thiên bảo (báu cõi trời)...": trước đã nêu đồ cúng dường bậc thượng trong loài người, tiếp là dùng báu trời để so sánh, còn dùng báu trời phụng hiến cho nên nói "nên đem", huống chi đồ cúng dường bậc thượng trong loài người. Có người nói người Tây phương đề cao những gì tốt nhất (thắng) đều gọi là thiên. Nếu vậy thì trước nói "đồ cúng dường bậc thượng trong loài người" tức là thiên cúng, tại sao lại nói nữa?
Trong trường hàng đầu tiên tán thán pháp sở trì...: Trước căn cứ năng trì tức lợi tha tin, chê để chọn người, đây nêu sở trì thì nêu nhân (người) xứ nhân quả để tán thán pháp. Trong đó trước liệt kê năm chương, tiếp nêu sinh khởi, cho nên biết nhân (người) pháp xứ ba thứ xen nhau hiển sáng mới thành nhân cảm quả. "Có sư...": là thuật giải thích khác. "Kinh tán thán Pháp Hoa" đến
"thiếu một chi tiết": là phá. Chỉ lập quá khứ, vị lai để làm sở hiệu (đối tượng khảo sát), tức dùng Pháp Hoa làm hiện tại làm năng, sư đây thiếu sở hiệu trong đó cho nên nay nói "thiếu một chi tiết". "Vân vân": y dưới văn đây giải thích chi tiết xuất hiện. "Nay đầu...": Trong đây chánh giải thích, trước liệt kê ba thời ở ngoài Pháp Hoa. Tiếp, "Đại Phẩm...": nêu ba thời không bằng Pháp Hoa. Cho nên dùng Pháp Hoa nhân (người) pháp hoàn toàn khác các kinh. Nếu không như vậy, thì phá là muốn bài xích bẻ gãy vi diệu của Pháp Hoa, chê bai ở trong đó thì sao thành hoằng dương tán thán? Gia Tường còn vậy, huống chi các người khác! Đại Phẩm... "đới", đủ như Huyền Văn, mỗi một chi tiết nêu rõ năm vị. Nếu không như vậy thì làm sao biết từ xưa chưa từng hiển thuyết? Tạng bí mật không vọng trao cho người, vì có nhiều oán hiềm... "Đương phong": Pháp Hoa ở trước như trận lớn khó phá, Niết-bàn ở sau như các phe đảng không khó. Đầu tiên phong phá trước, việc này làm không dễ. "Kinh này nói đủ" đến "cũng tức là tạng bí mật": Đầu là khai quyền cũng tức là bên dưới hiển thật. Quyền tức là thật, cho nên nói "cũng tức". "Khi Như Lai... oán ghét": Tư duy việc các đời trước là "oán", ganh thiện hiện tại là "ghét", nên chướng chưa trừ là "oán"; không ưa nghe thì gọi là "ghét". Nay thông luận: Tích môn thì coi "Nhị thừa và độn căn Bồ-tát" là "oán ghét". Năm ngàn người đứng dậy đi chưa đủ đáng ghét (hiềm). Bản môn thì coi "Bồtát trong đó lạc cận thành tựu" là oán ghét (hiềm). Toàn chúng đều không biết, đâu được cho là lạ? Nay vẫn tại tích, ý thì có thể thấy. "Lý tại khó hóa": là nêu rõ lý đây, ý ở chỗ khiến biết chúng sinh khó hóa.
"Tứ tín...tam lực": Trong văn có hai giải thích cùng hiển bày một ý: Đầu đối ba đức, tiếp đối ba pháp, cho nên Tứ tín là hạnh mở đầu, tứ hoằng là năng dẫn dắt, đại trí là năng khai. Cho nên tứ tín đây cần phải căn cứ Viên thừa, nghĩa là nhất thể Tam bảo nhất niệm thập giới mới là đứng đầu Viên môn tứ hoằng. Cho nên văn tiếp nói: "Tín thì tin lý, lý tức pháp thân". Nếu có pháp thân thì có lý tánh nhất thể tam bảo. "Chí nguyện là lập hạnh", tứ hoằng đại thệ lập tất cả hạnh. Pháp thân căn cứ sở tín, các hành căn cứ sở dẫn. Gốc các thiện tức là Bát-nhã, cho nên trong sở tín có đủ bốn pháp. Đã đối ba đức, tức từ thắng lập tên. Nếu không như vậy thì đâu có được chư Phật cõi này cõi khác hộ niệm! "Hàng sơ tâm ở đây...": Đây dùng sở biểu như nghĩa gánh vác ở trước. Nếu không như vậy thì sắc thân "cùng ở chung" cho đến "xoa đầu" là bất tịnh, đối lý đâu có lợi ích? Các xứ sinh, đắc đạo chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn... đầy đủ trong Chỉ Quán quyển bảy nói Hóa thân tám tướng. Đây bốn tướng xứ còn nên xây tháp huống chi chỗ có năm hạng Pháp sư và kinh này hiện hữu, tức là pháp thân bốn xứ đều nên xây tháp, huống chi kinh nói "trong tháp thì đã có pháp thân toàn thân xá-lợi". Cho nên, dẫn luận chứng Sinh thân và Pháp thân xá-lợi đều có toàn thân và toái thân. "Vân vân" là khiến giải thích ra bốn tướng. Sinh thân xálợi toàn và toái như đức Thích-ca, Đa Bảo. Pháp thân xálợi có hai: Các phương tiện giáo là pháp thân xá-lợi toái, Pháp Hoa nhất thật là pháp thân xá-lợi toàn. Bốn giáo năm thời, tùy chọn có thể thấy. Cho nên biết các kinh chỉ là phân nửa tướng toàn toái. Chỉ có kinh Pháp Hoa đây, pháp thân toàn thân hoàn toàn không có pháp khác, vì đều nhập thật.
Nhà Chú thích nói: "Trước coi người là mục đích (cá, thỏ) nên ngang bằng công của thân trượng sáu, nay coi ngôn từ là phương tiện thuyên đề (nơm lưới), cho nên cùng xá-lợi đẳng diệu". Nếu kia không chọn lọc sự thô diệu của ngôn từ lại cùng sắc thân ngang công. Kinh này đâu khác A-hàm, Bà-sa! Cho nên biết, nhà chú giải kia không hiểu người trì và pháp, Phật cùng ở, không biết sở trì và pháp thân giới (cõi) ngang bằng. Cho nên, trong mười bảy tên của kinh Pháp Hoa, có một tên gọi là Kiên Cố Xá-lợi, toái thân xá-lợi thì thân giới không được gọi kiên cố. "Xảo (khéo) độ": Như Chỉ Quán quyển sáu viết giải thích Xảo chuyết hai độ. Đại luận kia văn chung dùng Diễn môn làm "xảo", nay riêng dùng Nhất thật làm "xảo", thì có hai thứ: Đầu, liệt hai văn. "Nay nói...": là lựa chọn ý đầu. "Lại vọng...": là giải thích cận đương thể, trước căn cứ Thiên làm viễn, dùng Viên làm cận. Tiếp, "Nay dùng...": là hiểu rõ ý chánh của văn, dùng nhất như thật trí làm nhân, hướng đến cận viễn hai quả Bồ-đề, cho nên nhân nêu cận quả. "Đạo tiền chân như" đến "làm Liễu nhân": Đây dùng tu đắc đối chánh nhân kia. Duyên, Liễu trong chánh đồng thành Chánh nhân. Chánh nhân trong tu đồng thành Duyên Liễu. Căn cứ chân duyên liễu, cũng gọi "tức chân duyên liễu", đều có thể nói "chân như duyên liễu". Toàn tánh là tu, tức nghĩa đây vậy. Chỉ có pháp này, thế pháp không thể nhiễm, ma không thể hoại, nhị thừa không năng diệt. Đây chính dùng Bạc địa làm Đạo tiền, phát tâm về sau làm Đạo trung. Vị đạo trung phân làm hai: Sơ trụ về trước là Duyên, đăng trụ trở đi là Liễu. Một vị phân làm hai, cho nên gọi là "cũng". Diệu giác chứng về sau, gọi là Đạo hậu, cùng trước có chút sai khác đối văn phân biệt, nên trong Thí dụ ắt phải giáo quán hai lớp mới tận lý kia. Giáo quán tùy theo cùng hiển diệu kia. Giáo quán nếu thiên thì cả hai đều không có lực. Đầu, "căn cứ Quán" trong đó đầu tiên tổng nêu quán. Nói tuy thông các mà ý lại tại Viên. "Y Thông quán...": trải qua giáo nêu quán, cầu thể lý đồng cho nên lược bớt Tam tạng. "Pháp Hoa luận...": Thủy (nước) như Phật tánh, nhận lấy không đồng nên nói "thứ lớp", tức các giáo, quán tướng cạn sâu không đồng, cần phải hiểu rõ ý chỉ kia cho nên nói "phải biết".
Trong phần "Căn cứ Giáo" có hai: Cũng trước là tổng nêu. "Tam tạng giáo môn...": biệt căn cứ bốn vị, nay luận bắt đầu tiệm cho nên đầu tiên nêu Tam tạng. Hoa Nghiêm, sau nêu trước trong căn cứ quán. Đã nương bốn giáo cho nên nay căn cứ mùi vị để hiển bộ vi diệu. Nếu trong Chỉ Quán lại căn cứ bốn giáo. Lý cũng như vậy. Huyền Văn, tất cả đều trước căn cứ bốn giáo. Tiếp, dẫn "kinh Hoa Nghiêm" chứng minh được "nước" đồng. Tiếp, "Có người...": Năm nhà, bốn giải thích. Ba nhà đều căn cứ năm thời để giải thích. Nhưng dùng thời không tận (hết) và không thứ lớp. Trong tiệm giáo nhà thứ nhất bỏ qua thời đầu và thời thứ ba. Nhà thứ hai bỏ qua hai thời đầu và thời thứ tư. Nhà thứ ba tuy dùng Đại Phẩm tại sau Tịnh Danh, cũng bỏ giáo trước và trái năm thời. Sinh công cùng người chú giải: Toàn trong thời Pháp Hoa phán xét cũng chưa hoàn toàn đúng còn bị người khác phá. Cho nên nói: "Cách Phật có xa gần..." Chính do ba sư trước đồng dùng năm thời làm một giải thích, Sinh Công và người chú giải, đồng đối Pháp Hoa làm một giải thích. Nay sư chấp nhận ý phá này, cho nên chép ra. Ý sư đây muốn phán xét bốn giải thích của năm sư trước, tức trước ba sau hai, cả hai theo lệ phá. Cho nên ba nhà trước dùng các kinh cách Phật xa, đối Pháp Hoa về sau đều dùng Phật quả mà làm thanh thủy (nước trong). Cho nên biết ba sư cách Phật xa.
Một giải thích gần: Hai sư sau căn cứ Pháp Hoa luận viễn cận (xa gần), bắt đầu từ đất khô, cuối cùng đến nước trong, đều ở thời Pháp Hoa. Nếu vốn y thật giáo, thì đạo lý như vậy. Nếu dùng thật đối quyền thì lý không hoàn toàn như vậy. "Tìm kinh...": Sư nay hòa hội, do ba Sư trước chỉ ở các giáo trước, không có nước trong. Lại dùng năm thời đều có lỗi tiểu, hai giải thích sau chỉ ở trong Pháp Hoa để luận cận viễn. Lỗi nơi khai quyền, Pháp Hoa về trước là sở khai. Sư nay đưa ra hai nghĩa căn cứ giáo, và căn cứ (mùi) vị. Căn cứ giáo: tức đối ba giáo trong tiệm giáo trước là thô, cho nên lại phải chỉ có căn cứ Viên trong Pháp Hoa để giải thích. Căn cứ (mùi) vị: thì đối trong bốn vị trước, chưa chuyển là thô. Đến vị thứ năm giáo tuy đã chuyển, hoặc hành chưa nhập, cho nên cần phải đối vị thứ năm làm giải thích viễn cận. Cho nên hai giải thích thiếu một nên không thể.
Hỏi: "Các kinh...": Người khác hỏi giải thích đầu trong hai giải thích trước. Nhân hướng người khác phê phán giải thích của ba sư trước rằng các giáo cách Phật xa. Căn cứ trong văn "Đáp", đáp đầy đủ nghĩa viễn cận. Cũng nên hỏi đủ hai ý viễn cận. Căn cứ thuần Bồ-tát và người Nhị thừa thì chuẩn theo ý vốn hóa độ, vốn cầu Phật quả đối xưa chưa khai quyền, cơ chưa chuyển cho nên nói "chưa quyết".
Tiếp, hỏi: "Kinh Bát-nhã vì sao cách Phật xa?": Xưa nay cũng chấp nhận Bát-nhã năng sinh A-nậu Bồ-đề, vì sao cũng cùng các kinh đồng xa? "Đáp" ý: Đại chỉ đồng trước nhưng phân hai nghĩa: Trước căn cứ cộng Bồ-tát đồng nơi Nhị thừa, chưa khai quyền biên thì gọi là "cách Phật xa". Tiếp, "Xét Bát-nhã...": lần nữa lại thuận hỏi đáp, Bát-nhã chẳng cách Phật xa, năng sinh Phật pháp có gì xa? Do đầy đủ Quyền Thật hai tuệ, cho nên nêu thí dụ nói: "Như người bệnh...". Người bệnh: Bồ-tát mới phát tâm trong Cộng Bát-nhã. "Lưỡng kiện": Là hai tuệ. Do hai tuệ đây khiến đến Bồ-đề cho nên nói: "Khắp có thể đi xa".
Nói "tối thắng": Ý tại bất cộng, đồng nơi Pháp Hoa nên tạm nói "thắng". Cho nên nói Pháp Hoa khai quyền không khác Bát-nhã hiển thật, nên khai quyền cùng hiển thật như trái, phải hai bên khác tên. Pháp Hoa trở lại khai quyền trong Bát-nhã, nhập Bát-nhã thật, cho nên nói không khác và dùng tên khác, do đó thông luận. Tức là bất cộng Bát-nhã cùng Pháp Hoa chủng trí tại sao khác? Căn cứ "Đới Bất đới, Khai vị (chưa) khai" biệt. Không thể không có đồng khác. Các sư toàn thuận nghĩa này, nên chỉ thẳng chép ra đây mà không luận phá. "Bồ-tát...": hợp thí. Văn đã căn cứ Pháp Hoa mà nói cho nên có thể y trước lấy làm hai giải thích. Trong giải thích "khai phương tiện môn" dùng giải thích trước, rộng dẫn liệu giản, đây là đại chỉ của Tích môn. Đại chỉ đây nếu nghiêng đổ thì lấy gì lưu thông? Trong đó trước nêu Quang Trạch, tiếp riêng phá, nói "chính là phá, chẳng phải khai". Do Quang Trạch nói "phế trừ giáo xưa"; không nói "chính là" nên, nghĩa khai không thành. Lại, do Quang Trạch nói "xưa biệt chỉ Lộc-uyển", cho nên biết hiểu rõ giải thích lời nói ấy không dễ dàng. Do một chữ trừ có tiện làm Tạng hay không? Gia Tường cũng nói: Khai nhị chủng là phương tiện, Thị (chỉ bày) nhị chủng là chân thật. Xưa không nói nhị chủng là phương tiện cho nên môn bế. Nay nói nhị chủng là phương tiện, cho nên phương tiện môn khai. Nay nghĩa khai khéo thành. Nhị bèn trái giáo, Kinh nói: Đức Phật dùng sức phương tiện chỉ bày dùng tam thừa giáo, đâu từng chỉ có hai? Nay văn còn có năm, bảy đều khai, đâu chỉ có ba ư? Nhưng đây chính là văn lúc chưa sửa đổi bèn khiến người sau hỗn tạp sử dụng. "Hà Tây nói: Thẳng gọi ba là phương tiện": Ý nói xưa cho là thật không hy vọng nhập thật, cho nên môn kia còn đóng. Nay cho là phương tiện có hy vọng tiến đến thật, cho nên môn kia gọi là khai.
Trở lại dẫn đầu phẩm Phương Tiện nói: "Phật dùng sức phương tiện chỉ bày dùng tam thừa giáo". Cho nên, Chương An thuận với giải thích này. Thế nên, người xưa lập nghĩa chọn dụng thật khó. "Có người...": Nói thập nhị bát vạn: Chỉ là mười hai bộ tám vạn tạng thôi! "Riêng cho rằng... chẳng phải nghĩa khai thị": Ấn sư theo Long
Thọ, Long Thọ theo Viễn sư. Nghĩa này Ấn sư đã dùng giáo thân hai thứ phương tiện, cho nên biết phá người kia trộm nghĩa của hai sư Long, Ấn và đem phá nghĩa để giải thích khai môn, đâu có khác đối với nghĩa của Quang Trạch ư? Cho nên lược phá. Tuy dùng giáo thân lại tránh né hội nhập hai.
Hỏi: "Phương tiện đương thể...": Riêng giả thiết đây hỏi muốn nêu sau đáp, riêng trong đáp: đầu tiên chánh nêu ra hai môn, tiếp "Hai môn này...": là giải thích hai môn, trong đó đều có hai nghĩa khai bế (mở, đóng). Nói "đương thể": Chưa có sở thông căn cứ thể ngoại mà nói. Lại do đương giáo có thể nhập, gọi là "môn". Nếu nói "làm thật tướng môn" thì căn cứ năng thông đến thật tướng để nói. Dẫn "tính hạt cát, quán biển": "tính hạt cát" như Thích Tiêm quyển bốn nói. "Quán biển": Tức kinh Hoa Nghiêm tân dịch quyển sáu mươi bảy nói: "Có thành tên là Lâu-Các, trong đó có thuyền sư tên Bà-đàla nhóm tập các thương nhân, vì họ thuyết pháp môn nhất thiết hải". "Hai môn này đều có khai bế": Năng thông đương thể, pháp thể không sai biệt. Theo nay và xưa mà nói, nên xưa bế (đóng) nay khai (mở), thật tướng cũng vậy. Trong đó trước nêu đương thể, tiếp nêu năng thông hai nghĩa đều đối chân thật để nói, vì thật tướng cũng có đương thể năng thông hai nghĩa. Trong đương thể tuy cũng gọi là môn, nhưng đối thật còn đóng nên cần phải nêu khai. Nhưng chỉ vì nói Ba là phương tiện, cho nên phải nói Một là chân thật, tương đối luận vậy. "Hai là..." tiếp giải thích năng thông, tức vì thật làm môn. Căn cứ bản ý Phật đều là năng thông, căn cứ cơ duyên chúng sinh thì có hai điều giải thích: Các độn Bồ-tát cũng có năng biết ba giáo năng thông, chỉ vì trước Pháp Hoa thì cơ chưa hợp, cho nên tại xưa đều "bế", tại nay đều "khai", cho nên cũng cùng thật đối biện. Lẽ nào năng thông phương tiện khai. Thật tướng còn đóng phương tiện vẫn đóng mà chân thật được khai?! Đây giải thích đồng với Hà Tây. Thật tướng cũng có hai: Trước chỉ có thẳng đối phương tiện, cho nên nay tùy luận, đồng với phương tiện, cho nên nói "cũng".
1) "Hư thông": Giải thích thật đương thể làm môn, không ngại gọi là "hư", không bít lấp gọi là "thông", cho nên được toàn thể thành tựu năng thông môn, bao hàm thọ lãnh tất cả không gì ngăn cách, được gọi là "môn". Biến khắp tất cả mọi nơi đều là môn. Vậy thì căn cứ thật không thông mà thông, cho nên nói "bất nhị" và dùng pháp giới. Pháp giới tức môn, gọi là pháp giới môn, không đồng tính hạt cát đương thể môn.
2) "Năng thông phương tiện làm môn": Khiến phương tiện đến thật, cho nên gọi là năng thông. Nếu chẳng phải lực thật tướng thì phương tiện không do đâu mà được khai, cho nên biết chỉ Nhất thật, lý từ hai được tên. Do hư thông cho nên khiến người khác qui về như tha thân thể trói, thì bao nhiêu nguyên nhân tội đều bỏ. Ý của "Lưu Cầu": Câu đầu chính nêu chân thật vì phương tiện làm môn, câu tiếp nêu ba phương tiện vì chân thật làm môn. "Nói chẳng phải ba...": là nêu hai môn xen nhau khai, cho nên Lưu Cầu đều cùng ý riêng giải thích xứng hợp, chỉ lời nói lược, ý chìm ẩn, tôn chỉ kinh khó hiển bày.
"Có người nói...." Người khác lập ba chương môn xen nhau làm phương tiện "xen nhau làm môn". Nếu so với nhà chú giải thì lời kia rất phiền, lý kia hỗn loạn. Tuy nhiên, nhiều nói ít thật không bằng giữ một. Trong đó trước là liệt nêu, tiếp, "Như dùng...": là giải thích. Đây là trong giải thích phẩm Phương Tiện, thêm ý tam chuyển của nhà giải thích năm thời bên trên; chỉ lại thêm xen lẫn làm môn là khác. Chỉ giải thích chương đầu, hai chương còn lại chỉ liệt nêu. Ý chương đầu: Quyền bị tình lấp, nay đã khai quyền cho nên nói "thông". Thật vốn chẳng có ba, vì vật nên nói ba, nên nói "khởi". "Cho đến...": hai thứ còn lại theo lệ. Trong đó trước làm lệ mẫu, tiếp "Chỉ không được...": là nói văn ý thông tắc. Nếu muốn trình bày nêu thứ hai theo lệ, như dùng ba, một môn làm môn phi ba phi một. Do đạt ba, một thông đến song phi, tức dùng ba, một làm song phi. Do song phi cho nên khởi ba, một. Cho nên phi ba, phi một làm môn ba, một. Thứ ba chuẩn theo lệ cũng có thể thấy.
Nói thông tắc: Nếu năng thông năng khởi thì có thể xen nhau luận môn, chỉ vì không không được dùng một làm quyền, lấy ba làm thật, dùng văn Thắng Man thì chẳng phải ý này. Hai chương dưới cũng vậy, chỉ được lại xen nhau làm môn. Tiếp, riêng trong phá thì chỉ phá chương đầu, hai chương còn lại cũng theo lệ ở trong chương đầu. Chỉ phá ba làm một môn, chưa phá một làm ba môn. Văn đầu có hai lớp, đầu phá nghĩa môn, tiếp dùng nghĩa "không phải nhân" để phá. Đầu nghĩa môn: Câu đầu quyết định trong đó chỉ là câu ba thông một, phá nghĩa môn kia chỉ vì không thông mà lấp, tức tùy tự nó chẳng phải môn. Cũng nên lại nói nếu kia thông thì xưa sao không thông mà để đến nay ư? Xưa không thông thì xưa không phải môn. "Nếu khai...": đến nay tức khai. Khai rồi thì chẳng phải ba, tại sao được dùng ba làm một là môn? Rõ ràng người khác không biết thể nội thể ngoại, cho nên cần phải phá. Căn cứ bản ý Phật vốn là thông một, cho nên khi chưa khai thì xưa nay là môn. Kia chưa nói khai, mà nói là môn, vì vậy cần phải phá. Cho nên biết ba làm một môn còn tự không thể, thì một làm ba môn tại sao đợi biệt phá? Nếu vậy thì vì sao kinh nói khai phương tiện môn ư?
Đáp: Nếu từ ý này thì môn tuy chưa khai nhưng có nghĩa có thể khai, cũng được gọi là môn. Như vốn là cửa thì khi đóng, lẽ nào không phải cửa? Chỉ gọi bế môn, khai rồi không có ba, tại sao ngại từ xưa lấy ba làm môn. "Lại, Ba chẳng phải nhân Phật": là phá ý đồng trước. Nếu chưa khai, thì Biệt còn chẳng phải nhân. Nếu kia khai rồi thì tán tâm vẫn phải. Tiếp, theo lệ phá hai thứ còn lại, dựa theo cái thứ nhất nên biết. "Vân vân": là hoặc dựa theo phá chương đầu, nửa chương tiếp cho rằng thật là quyền môn và hai chương dưới. Phiền toái nghĩa mỏng không thể thuật đủ, người khác đã phá, bản thân dựa vào nay bèn có thể lại lập hai câu, phá người khác đã hoại, lập nghĩa tự thành, đầy đủ như trước giải thích.
Hỏi: "Phương tiện...": Nay thiết lập hỏi đây là muốn khai đầu mối nghĩa của bốn câu kia, nên Sư nay nói văn trước tự có hai câu, thì lại được làm hai câu còn lại hay không? "Đây có...": là đáp: có đủ bốn câu, hai câu sau lý không có hướng khác, chỉ nương danh nghĩa trình bày giải thích tướng câu, trong đó trước chỉ hai câu trước, tiếp nêu hai câu sau.
"Như danh...": Tiếp dẫn theo lệ giải thích. Trước liệt kê danh, nghĩa. "Do phương tiện...": tức theo lệ giải thích. Nghĩa là ý chỉ dưới danh, cho nên được xen nhau làm môn. Trong đó, trước giải thích phương tiện, tiếp, "Thật tướng...": chỉ dùng theo lệ giải thích. Trước theo lệ, tiếp "Tựa của Trung luận...": là dẫn chứng. Thật danh thật nghĩa lại xen nhau làm môn. Thật là nghĩa, Trung là danh (tên), cho nên nương danh Trung để hiển nghĩa Trung, tức danh ấy làm nghĩa môn. Văn chỉ nêu một bên. Cũng lại nên nói: cũng do thật nghĩa năng ứng danh Trung, vì danh chẳng thật không thể lập. Cho nên, nêu thật để dẫn.
Hỏi: "Có được dùng tam hiển tam...?": Phương tiện chân thật chỉ là tam, nhất. Phương tiện chân thật đã làm bốn câu, thì tam, nhất cũng lệ theo có hai câu sau ư? "Đây cũng...": là đáp. Nói hai như trước là ba làm một môn như dùng tam hiển nhất; một làm ba môn như dùng nhất hiển tam. "Dùng tam hiển tam...": là giải thích hai câu sau, hai câu trước đã dùng tam, nhất, vọng nơi quyền thật danh nghĩa tương hiển. Nếu hai câu sau, thì trước tuy danh nghĩa tương đối nghĩa lập, nay không được dùng danh nghĩa để giải thích, chỉ dùng pháp thể tương đối giải thích. Trong đó có ba phần:
1) Đối giải thích.
2) "Tam, nhất đã không...": là chánh phân biệt kết.
3) "Do nhân duyên...": là tu tánh tương hiển.
Phần một lại có hai: Nêu và giải thích, đầu văn chỉ nêu một câu lược không nêu dùng Nhất hiển một câu. "Nói xưa...": là giải thích trong đó đầy đủ bao hàm hai câu lại có hai: Trước nêu phi. Tiếp "Phá bệnh này...": là chánh giải thích. Trước nêu phi: Nhờ khai hiển thuyết, phá xưa nay sai khác. Trong đó đầu nêu tướng phi, đây còn không được tam, nhất xen nhau thông, huống năng dùng tam thông tam dùng nhất hiển nhất. "Cho nên nhất...": là kết phi. Nói Nhất phi tam, nhất...: Do tam, nhất kia đã không tương tức, nếu không khai thì tương hiển không thành cho nên một không phải một của ba nhà; ba không phải ba của một nhà. Tiếp "Phá bệnh này...": y kinh này chánh giải thích. Trước dẫn nhất Phật thừa phân biệt nói ba, chứng tức ba của một. Tiếp, dẫn: "Sở hành của các ông là Bồ-tát đạo", chứng tức một của ba, tức là một thiết lập ba, một của ba, chính là ba, một của khai tam hiển nhất. Câu trước hướng đến xưa cho nên nói "phân biệt thuyết tam", câu tiếp hiển nay cho nên nói là "Bồ-tát đạo". Xưa giáo chưa nói nên ba, một còn ngăn cách, không nói tương hiển là một; ba, một là ba, một. Do nay nói đã là ngoài một thì không có ba, đây ba là ba của một nhà, tức là do xưa ngoài một thì là ba hoàn toàn thành ba của một nhà cho nên nói "dùng tam hiển tam". Đã khai thành một, ba ngoài ra không có một, lại là một của ba nhà, tức là do xưa ngoài ba thì là một hoàn toàn thành tức một của ba, nên nói "dùng nhất hiển nhất". Cho nên biết do ba của thể ngoại, hiển tức một là ba; do ngoài ba là một cho nên hiển tức ba là một.
"Tam, nhất đã không...": là phán xét kết. "Muốn khai...": văn nhân duyên tam, nhất, cho nên trước phán xét. Nói "Tam-nhất đã không khác nhau": phán xét trước khai hiển toàn thuộc nhân duyên. Nói "nhân duyên": Chỉ là cảm ứng hóa nghi, cũng gọi là "tu đắc".
"Do nhân duyên...": là tu tánh hợp biện. Tự tánh: Tức là tánh đức, cho nên tánh đức ba, một. Tuy lại vốn có phi tu, phi tác mà chính do nhân duyên tức ba mà một. Năng hiển tánh đức tức một của ba. Lại, do tánh đức tức ba mà một; năng thành nhân duyên tức một của ba, cũng do nhân duyên tức ba của một, mới hiển tánh đức ba trong một. Lại do tánh đức ba trong một, năng thiết lập nhân duyên tức ba của một. Vậy thì, nhân duyên tức một của ba, hiển tự tánh tức một của ba gọi là "dùng nhất hiển nhất". Do nhân duyên tức một mà ba, hiển tự tánh tức một mà ba; gọi là "dùng tam hiển tam". Dùng tánh hiển duyên, căn cứ nói có thể biết. Trong văn kết bên dưới thì ba một xen nhau nêu ra. Dùng xen lẫn để hiển không xen lẫn. Dùng tam hiển tam chỉ là dùng tam hiển nhất; dùng nhất hiển nhất chỉ là dùng nhất hiển tam. Tuy nhân giải thích ngại với tận căn nguyên nghĩa Diệu mà tìm được giáo môn một nhà. Nếu mê lầm ý đây thì luống phí tâm thần.
"Dẫn mười lăm chỗ để nêu rõ môn": Tuy liệt kê đầu số cũng lại không biết thế nào là phải khai. Thế nào là đã khai, môn tướng như thế nào? Như kia không phân biệt luống công nêu ra số có ích lợi gì? Căn cứ ý văn nay nói mười lăm chỗ, trong cửa chỉ là phương tiện đều cần phải khai đầy đủ như tùy văn giải thích, trong đó có trái giải thích nay cũng nên phá. Như dẫn "phẩm Phương Tiện, trí tuệ làm môn". Đây là đồng thể quyền trí, sao được nói là thật làm môn? Tiếp, "chủng chủng môn", đây là quyền môn mà chỉ nói Đại thừa giáo ư? Tiếp "Chỉ có một cửa...": không chuyên ở giáo. "Cửa bị thiêu cháy, căn cứ giới hạn tam giới", thì đâu có thể chỉ nói từ giới hạn cõi này ra? Tiếp, "Xe tại ngoài cửa, nói tam giới": Phá cũng đồng trước. Tiểu giáo làm môn thì chưa phán xét thiêu... Đứng ở ngoài cửa phân làm hai giải thích: Nói chánh tập tận chỉ tại ý thông, cửa bên nếu lớn thì lẽ ra đã đắc đại, "Còn ở ngoài cửa, cũng như trước" là cùng hai giải thích trước đều không tương ưng. Trong cửa như trước: Ý cùng trước đứng ngoài cửa ý đồng. Trước ở ngoài hai cửa tử, nay không thể ở trong hai cửa tử. Mở cửa cam lồ nói Đại tiểu: Là văn nói mười phương Phạm thỉnh, hoặc đang như đây. Không biết nay Đại tiểu giáo ở chỗ nào ư! Nay văn ý: Vốn vì khai môn không vì số môn, vốn là giải môn không vì biết số. Hoặc như số mà chọn lược, chọn lược rồi khai số thì cũng đâu có lỗi.!
"Xưa nói nhất thiết thế gian...": Lại dẫn ý căn giải thích ý khai hiển, là khai các môn số của người xưa, giúp sinh đối với xưa còn chẳng phương tiện, đối nay hiến rồi đều là chân thật, huống lại tam thừa ngũ thừa...ư! Hoặc môn hoặc phi môn: Phi môn nghĩa là lý giáo Tiểu thừa sắc hương giúp sinh..., là môn tức Biệt giáo nhị quán làm phương tiện. Từ đầu nói cho nên có môn phi môn, đối nay tất cả đều là cách thông. Khuyên tu: Trú nơi ba pháp vẫn khuyên tâm không biếng nhác song sau mới nói, cho nên biết đây là hai vị đầu trong Quán hạnh vị vậy. Thế nên, khuyên hoằng Viên kinh để lợi người khác, công hóa độ trở về mình, đến Tương tợ vị, tùy ý vân dụng
Diệu âm đầy khắp tam thiên, thì không phải đợi khuyên.
Ở trong đó ba pháp tương vọng danh đều đủ ba: Đầu, nêu từ bi. Tiếp, "Nếu căn cứ...": nêu trong một đầy đủ ba: "Tu Như Lai...": nêu nhu hòa. Tiếp "Nếu cứ...": nêu trong một đầy đủ ba. "Nếu có thể ngồi...": là không nêu mà thẳng nêu rõ ba trong Bát-nhã, tuy lại mỗi đầy đủ mà chỉ là một, ba. Ba còn chẳng phải ba, đâu thể tách lìa làm chín! Vậy thì Bồ-tát thường quán Niết-bàn nên khuyên người hoằng kinh mà thường quán đó. Mong người hoằng kinh quán mà hoằng đó. Nếu không quán tâm năng hoằng thì đâu hiểu lý sở hoằng, cho nên đức Phật dạy vào nhà ta mặc áo ta, ngồi tòa ta. Nếu không có ba pháp thì sao gọi là hoằng kinh? "An Lạc Hạnh...": là dẫn phẩm dưới văn đồng. Có lợi ích thế nên khuyên người hoằng kinh y theo phương pháp. "Văn trên...": là dẫn văn trên giải thích thành. "Năm việc": Như trước trong lợi ích liệt kê năm việc: Thứ nhất sai người hóa v.v...
Trong đây bốn lần nói "Kiến Bảo Tháp". Văn dưới nói bốn phen tức tứ Tất-đàn. Trong nghĩa Thế giới đầu tiên, tên phiên dịch nghĩa có không ba đời không đồng. Thấy ắt phải hoan hỷ cho nên là Thế giới. Nói "Kinh dạy Phật có ba thứ thân": là nói theo Phổ Hiền Quán kinh. Đã kết kinh này cho nên có thể chứng đồng. Đương Phật cũng như vậy: Vị lai có chỗ thuyết kinh Pháp Hoa thì tháp đây trở lại hiện, đức Phật kia cũng ngồi. Bản luận cũng nói kinh này làm ba thân Bồ-đề. Kinh này đã nói Sư đệ nhân quả, cho nên cổ Phật chứng, tập họp phân thân Phật. Kinh Hoa Nghiêm kia thêm bốn Bồ-tát, nói Bồ-tát nhân quả, năng thêm chỉ là tích Phật chủ bạn, cho nên không mượn nhóm tập Phật, chỉ nói mười phương xen lẫn làm chủ bạn, vẫn không nói bạn là phân thân Phật chỉ nói quyến thuộc mà thôi. Trong văn các phẩm đều nói nhóm tập các Bồ-tát. Nhà chú giải nói: Đạo chẳng tồn vong, xưa nay cùng một lý lẽ. Vậy thì đất nứt tháp vọt hiện để tiêu biểu Song lâm bất diệt, lại kéo dài tiếp ảnh hưởng vi diệu thân một trượng sáu không phải sinh cho nên nói Phẩm Kiến Bảo Tháp. Nay cho là tháp của Phật xưa, Phật nay ngồi là tiêu biểu xưa nay thật đạo bất sinh, chưa hẳn dự báo song lâm bất diệt. Nhất vãng quán đó, nghĩa là nay Phật hiện tại vào tháp của Phật xưa đã diệt độ, là tiêu biểu diệt mà bất diệt. Nay cho là không như vậy. Tháp Phật xưa hiện ra là chỉ bày diệt mà bất diệt, đức Thích-ca vào tháp là chỉ bày sinh mà bất sinh. Bất sinh bất diệt cho nên đều ngồi để tiêu biểu.
Nhóm tập phân thân mời gọi bản quyến thuộc, chính hiển bày Xá-na chẳng thành, lẽ nào chỉ có thân trượng sáu thị hiện diệt? Người khác hỏi: Đại chúng thấy tháp vì căn hay thức hay tháp khiến thấy? Rộng căn cứ Thí loại để phá nghĩa tự tha, người này sâu xa không hiểu đại chỉ của kinh sau ba chu dù có phàm phu đều khác biệt phàm thấy, nhưng trong đó luận quán pháp gia-bị hạng độn căn đời mạt pháp. Phật hiện đời chúng đương cơ đâu nhọc thiết lập đây! Hiểu rõ kinh quán hạnh lý hợp như vậy. Phàm các nhà giải thích kinh nếu không có cái nhìn thông suốt thì khiến người hậu học sau không tập quen lề lối tông môn. Nay chinh là làm chứng kinh, phụ thêm luận sở biểu.
Có người hỏi: Mời gọi cổ Phật nhóm tập phân thân, thân vì sao nhiều, tháp vì sao chỉ một? Nay vì đáp chứng minh kinh nghĩa đủ, cho nên Bảo tháp không nhiều mà hợp nguyện của Phật Đa Bảo, cho nên phân thân không phải một. Nếu như để chứng kinh cần phải nhóm tập nhiều tháp, thì tháp lẽ nào không thể nhiều? Đã năng ứng hiện mười phương tin biết thì tháp cũng chẳng phải một, cho nên phân thân là hóa tháp cũng thích hợp quyền.
Nay từ sở biểu, một thân Đức Phật nay mà nhóm tập nhiều thân, là ngầm biểu tích dụng thì chẳng phải một.
Cổ Phật nhiều, tháp chỉ thị hiện một tháp, là hiển biểu thật lý không hai, huống chi từ đất tại hư không và các thứ trang sức đều chẳng uổng vậy. Hiển rõ việc đây: ba đời chư Phật chuyển pháp luân... đều đến Pháp Hoa nói việc xuất thế, cho nên nay kinh văn thêm "Tứ chi trưng". Dẫn "kinh Anh lạc...": là Vị nhân, dùng để so sánh phước làm sinh thiện. "Thiện Cát hỏi...": Phẩm cúng dường xálợi thứ chín nói: Đức Phật nhân Thiện Cát hỏi: "Cúng dường xá-lợi toàn thân và toái thân của Sinh thân và Pháp thân, đồng hay khác?" Đức Phật rộng so sánh, nói: "Như xây tháp cúng dường xá-lợi của một đức Phật đầy khắp một tứ thiên ha, không bằng cúng dường sinh thân, do sắc thân có xá-lợi. Lại xây tháp đầy khắp đại thiên để cúng dường sắc thân, thì không bằng cúng dường pháp thân, do pháp thân có sắc thân". Nên biết thấy sắc không bằng nghe kinh, do vì nghe kinh có pháp thân. Cho nên kinh thiên, viên tức pháp thân toàn thân và toái thân, công đức không bằng nhau. "Đảnh vương...". Từng xét nghiệm Đại thừa Đảnh Vương kinh và Phương-đẳng Đảnh Vương kinh đều một quyển, đều chưa thấy có nghĩa này.
Ý vấn nạn: Giáo cùng xá-lợi thời đồng, lợi ích đồng thì tại sao được không bằng nhau?
Đáp: Xá-lợi thời đồng cũng là lực sinh thân. "Bắc địa sư...": Phá lầm chê sai, nghĩa đương phá ác tức đối trị.
Nói "Thuyết kinh xong": Ý nói chánh kinh đã xong. "Địa sư...": tiêu biểu thân bất nhị, do xứng lý cho nên thuộc Đệ nhất nghĩa. "Thích luận...": chứng minh Địa sư sai. Sư nói là Nam Nhạc vậy. Tuy nói ba thân mà ý đem Pháp Báo thân để bài xích Địa sư. "Không đến": Là không hợp phương Đông đến. "Không xuất": Không ứng dõng xuất. "Nguy nguy": Không ứng trong tháp. "Ứng thân": Không ứng chỉ có như thế. Nếu tức là những thứ này, thì theo như Nam Nhạc thuật ba thân thắng tướng. Nếu đó thẳng nói Đa Bảo là pháp Phật, thì chắc chắn không thể. Còn chẳng phải ứng thân, lẽ nào đủ ba thân? Cho nên, biết Đa Bảo là pháp thân thì chưa cùng tận ý chỉ kinh. "Chỉ là biểu thị...": chỉ dùng các việc của đức Thích-ca để tiêu biểu lý đáng. Vì thế, biết không phải thẳng đến chứng minh mà chính là tiêu biểu kinh thường. Cho nên Đa Bảo tiêu biểu pháp và đủ ba thân. Đa Bảo đã diệt từ lâu, nay xuất hiện chứng minh kinh, là nghĩa "sinh bất sinh". Khi xưa diệt độ, nay còn hiện toàn thân, tức nghĩa "diệt phi diệt". Đã không phải sinh diệt thì thường trú không đời đổi, có thể tiêu biểu Pháp thân. Đức Thích-ca nhập tháp hai thân tướng xứng, như trí xứng cảnh cho nên có thể tiêu biểu Báo. Phân thân tiêu biểu Ứng thân, văn lý tự thành. Như cảnh trí tương minh cho nên năng khởi ứng. "Tam Phật" đến "mà không một không khác": năng biểu trong ba thân đều có ba cho nên "không một", sở biểu trong ba đều là một cho nên "không khác". Lại, ba thân trong năng biểu khác nhau nên "không một", pháp thể đồng cho nên "không khác". Lại, trong sở biểu cũng do thể đồng cho nên "không khác", do thân khác biệt nên "không một". Lại hóa đạo biệt cho nên "không một", chung thành tựu đây cho nên
"không khác". Tóm lại, tức ba mà một cho nên "không khác", tức một mà ba cho nên "không một".
Trong cụm từ "Kiến bảo tháp vân vân" thì "vân vân" là: Ở bốn văn trước nêu bày bốn tướng để hiểu rõ bốn văn, lược như trước giải thích, bốn đều thuộc Viên. Từ "Tháp hiện ra có hai việc...": Theo thứ tự: căn cứ giáo bản tích: Đầu, song nêu hai nghĩa; tiếp, giải thích xuất hai ý. Trong giải thích lại có bốn: 1) Chánh giải thích. 2) "Nếu tháp từ đất...": là biện rõ đồng khác. 3) "Nếu tháp đến...": là phân biệt hiển mật.
4) "Nay chọn...": là giải thích ngăn ngại.
Văn đâu lại có hai: Đầu, nêu tháp xuất hiện là chứng minh trước, khởi sau. Tiếp, nêu tại hư không để tiêu biểu hai ý. Cho nên, hai văn đều dùng chứng trước là đương căn cứ giáo, sau khởi sẽ là bản tích. Đầu tiên, chứng minh trước, trong đó có hai: Trước xét theo chân thật. Tiếp, căn cứ "đại tuệ". Do hai thứ đây là Đa Bảo chứng minh nói. Văn đầu có ba phần:
1) Chỉ ba chu đều viên thật.
2) Biện rộng lược.
3) Chỉ bày lưu thông.
Phần một như văn. Văn tiếp: Trước lược sau rộng. Lược: Đã lần nữa lại thuật chứng chỉ có thể theo lược, cho nên chỉ nói chân thật. Huống chi ở trung đạo và rộng đều căn cứ sở phi. Sở phi ắt nhiều, năng phi chẳng phải một. Cho nên trong ba chu tuy hoặc Tứ nhất hoặc mười hoặc nhiều, không ngoài thật tướng. Tiếp ở trung đạo trong đó, nói "Bát bất", đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 6 dẫn văn Trung Luận. Trung Luận hiển lý cho nên dùng Bát bất để tán thán Phật. Tháp chứng Kinh trung đạo cũng là Bát bất tán thán thật. Cho nên việc tháp xuất hiện lại tiêu biểu Bát bất. Do nghĩa đồng cho nên nói tháp từ dưới đất vọt hiện. "Lại chứng...": là chỉ bày chứng lưu thông cũng là chân thật.
Hỏi: Vì sao không chứng tựa?
Đáp: Hai đoạn đã thật thì tựa kia lẽ nào dối?! Nếu vậy thì sao không đợi đến cuối phẩm An Lạc Hạnh mới vọt hiện ư?
Đáp: Do trong Pháp Sư nêu đủ phương pháp người và pháp, các nhân quả Thầy trò của hiện tại, vị lai và dùng xứ sở Thiên, Long làm hộ trì, hóa nhân tập hợp nghe kinh, đủ biện minh việc hoằng kinh nên Đa Bảo xuất hiện chứng minh. Chứng rồi sai tìm người hoằng thông nên dẫn phẩm Đạt Đa đến để chứng minh lợi ích của đức Phật nay, mà khuyên lưu thông, đề cao người trong phẩm Trì để chứng minh người hoằng kinh mà khuyên lưu thông. Tuy vậy chưa có pháp bắt đầu thực hạnh hoằng thông, cho nên lại nêu An Lạc Hạnh. Nên An Lạc Hạnh chưa liên quan đến phẩm Dũng Xuất. Tiếp căn cứ "Đại tuệ", "Chân thật": thông tuy tứ-nhất, biệt tại sở hiển, cho nên trước tán thán Đại tuệ, tiếp tán thán pháp sở thuyết sở hiển.
Đại tuệ chỉ là chủng trí trước đã giải thích đầy đủ, nay chỉ lại cùng Bất cộng Bát-nhã biện rõ đồng khác thôi! Trong đó:
1) Hỏi
2) "Thích luận...": là đáp.
3) "Như nhất...": là thí dụ. Bát-nhã kia và Đại tuệ đây đều năng nhập. Nói diệu pháp nhất phần thông trí.
4) "Phải biết...": là kết hai văn ý đồng.
Tiếp, "Khởi sau nêu bản": Đối tích nêu bản, có thể gọi là Bản tích. Trong đó có hai: Nêu nguyên do khởi các việc sau, do tháp xuất hiện nên thỉnh mở, do tháp mở nên thấy Phật, do thấy Phật nên thỉnh gia-bị, do được gia-bị nên ở tại hư không, do tại trên không nên bảo chúng đến, do bảo chúng nên âm thanh thông suốt, do âm thanh thông suốt nên chúng đến, do chúng đến nên sinh nghi, do sinh nghi nên vì nói. "Tỏ rõ sự phó chúc mầu nhiệm...": lược nêu đề kinh huyền diệu tóm thâu một bộ, do nên nói "Đức Phật muốn dùng diệu pháp đây...".
Nói "Tháp lâu xa...": là nêu năng khởi sở biểu, tiêu biểu Bản địa lợi ích ba đời. Từ lâu đã diệt nay xuất cho nên nói "thần thông". Hiện được lơi ích tại thuyết cho nên nói "âm thanh", thệ nguyện không ngừng cho nên nói "tận vị lai", dùng đây để khởi các việc kia cho nên nói "khai".
Hỏi: Trong kinh chỉ nói "Đại tuệ chân thật", có xứ nói "chứng minh nghe nói cho nên xuất", đâu có nói "chứng trước và khởi sau" ư!
Đáp: Văn thì không nhưng lý thì có, từ trong đây xuất tìm tán thán chân thật, cho nên biết là "chứng trước", như nêu rõ nguyên do khởi các việc tức là "khởi sau".
Tiếp, tại hư không cũng đầu tiên căn cứ giáo, "Thất phương tiện" người thấy lý viên. Tiếp, "Tu đắc..." là bản tích, cũng trước trình bày tích. Tiếp, "Nếu phát...": là nêu bản. Trong phần giải thích theo Quán tâm đã nói y kinh tu quán. Phải biết mỗi kinh đều có thể tu tập, vì sao chương sớ đều không liên quan nói? Cho nên, tông đây theo hành giải không bỏ, hiểu rõ văn, lý quán hai nghĩa không thiếu. Người mong nhớ Đạo, tôn kính còn thế huống chi mỗi lần thấy tôn chỉ đây thì hận mình chưa thấm tỏ, loanh quanh tư duy cung kính đảnh lễ kinh trọn đời. Trong đó có ba:
1) Nêu ba thân đều có năng biểu và dùng sở biểu. Đầu tiên nêu lấy quán làm nhân đắc pháp thân quả, khi đắc pháp thân không riêng chỉ pháp thân nên nói cảnh trí ắt hội nhập. "Như tháp...": là năng biểu. "Cảnh trí...": là báo thân. "Như Thích-ca...": là năng biểu, "do đại báo...": là ứng thân. "Như phân thân...": là năng biểu.
2) "Do Đa Bảo...": là tổng nêu tiêu biểu. Phải biết căn cứ quán trì kinh mới đủ ba thân.
3) "Kinh Phổ Hiền Quán...": là dẫn chứng, đắc ba thứ thân đều là Phương-đẳng Đại thừa giáo.
Tiếp "Có người...": là nêu xưa phân văn. Phẩm này trở xuống nên nói mười sáu phẩm. Trước, từ "Di-lặc hỏi" trở đi chỉ có mười phẩm. Đây là ý của Lô Sơn Long Thọ. Nói "rất sớm vân vân": lẽ ra trình bày văn trên dưới cùng phân tề để chứng minh, thì Sư đây phân văn rất sớm. Như phá ý "Tư thổn" làm mẫu của Quang Trạch bên trên. Đây tạm căn cứ danh bản tích để phá. Nhưng căn cứ ý Sư đây nói "căn cứ thân", dùng Đa Bảo làm bản Thích-ca làm tích. Trước căn cứ nói: Đức Thích-ca tự nói ba chu khai quyền và để lưu thông, nay sở dĩ từ danh phá, là do Sư đây không biết kinh này hiển xa, các kinh khác không có, mới mong một đời và trước tích môn mới thọ danh bản; tại sao cần ở đây tức nói bản tích? Nếu ý dự định mật báo thì có thể đúng. Đối đây phân văn, cho nên trở thành "rất sớm".
"Bảy báu làm tháp": Tức Thất giác và Thất Thánh tài. Thất thánh tài nghĩa là văn (nghe), tín, giới, định, tiến, xả, tàm. Tùy giáo vị kia mà nêu bảy thứ sâu cạn. Đã là bảy báu của tháp Phật lại chứng minh thật kinh tức đều dùng vô tác Thất giác, Thất tài. Trong vô tác còn cần tánh đức, huống gì tu đắc. Thất giác, Thánh tài đều tu đắc. Tuy phân báu sai biệt, mà bảy báu tức tháp năng sở không sai biệt. Nhưng tháp là sở y, nghiêm là năng y.
"Cao năm trăm do tuần...": Đã là tháp sở biểu cần đều viên giải thích. Dọc tức trong nhân vọng quả, vạn hạnh một hạnh tất cả hạnh. Báo đáp trong nhân quả vạn đức một đức tất cả tức, từ đầu đến cuối gọi đó là "dọc". Đương vị đầy đủ gọi đó là "ngang". Phàm tất cả hạnh trải duyên đối cảnh đế duyên độ..., đều trang nghiêm từ nhân đến quả, hoặc ngang hoặc dọc đều cần phải hữu thể, mới có thể gọi là "vạn thiện trang nghiêm". "Địa": Là dừng trụ đệ nhất nghĩa không, nhưng thể vô minh tức đệ nhất nghĩa không, nên vô minh vô sở phá, cũng vô sở trụ. Cho nên đệ nhất nghĩa không tức vô năng trụ, vô năng trụ nên địa đã không phá mà phá, Không cũng không trụ mà trụ. "Các món...": Định tuệ không có nhiều đối với tối tăm, tán loạn mà nói. Lại định tuệ khắp nhiếp nên cũng nói là nhiều, đầy đủ như trong Chỉ Quán phần Nhiếp pháp nói. "Nhà Vô lượng từ bi": dùng khám làm nhà, cho nên nói "khám thất". Lập lại nói "cũng là": lập lại giải thích thất (nhà), thất cũng gọi là "xá". "Tràng" là giống như phan, như trong phần Đại Trưởng giả nói. "Chuỗi ngọc báu rủ xuống...": Từ nhân đến quả, quả đức đều nhờ vạn hạnh trong nhân do trang nghiêm cho nên tức năng hạ hóa. Như nghiêm sức rủ xuống. "Bốn mặt...": Tức vô tác tứ đế. Do "gió đạo tứ đế" tứ phương thổi hương thơm bốn mặt bốn đức, đầy mà lại khắp, tức là lý bốn đức thiên nhiên, nhờ tu đức để che phủ xa. "Bình đẳng có hai: Pháp bình đẳng": Đại tuệ sở quán lý. "Đồng đắc": Đều dùng nhân lý để đến quả. Nếu lý sở quán cùng chúng sinh sai khác thì không gọi là Đại tuệ. "Như thế! Như thế: 1) Như pháp tướng": Tán thán Phật sở thuyết xứng thật. "2) Như căn tánh": Đến thời thứ năm không sai cơ.
Trong "Trước, đáp câu hỏi thứ hai": Hỏi đầu tiên nói đất vọt lên, đây nói Đông phương là đâu?
Đáp: Đông thuật bản duyên, dũng (vọt) trình bày nguyện xưa.
Nếu sở biểu, thì: Mới bắt đầu tiêu biểu "khai", địa dũng (đất vọt hiện) là tiêu biểu "hiển".
"Bảo các Tỳ-kheo...": Nghiệm đủ bốn chúng đều thuyết pháp. "Nên biết là Đa Bảo": Hỏi: Mười phương thế giới lẽ nào không có một đức Phật không được khai hiển? Không khai hiển: thì đều nên phát nguyện đâu riêng Đa Bảo? Nếu không phát nguyện thì Phật đạo không đồng. Nếu phát nguyện thì đều hợp nghe kinh. Lại chư Phật giáo hóa đều biết trước căn cơ, lẽ nào thành Phật xong mà không được khai hiển, mới bắt đầu phát nguyện?
Đáp: Đồng cùng không đồng, khai cùng không khai, có nguyện không nguyện đều là tùy duyên. Nếu thích nghi có nguyện thì thảy đều đến hết, tại sao lo không nhóm tập? Sau mới phát nguyện cũng là xét vật. "Ba lần biến thành Tịnh độ do Bối xả...": Hỏi: Phật có sức Lăng-nghiêm Tam-muội, vì sao vẫn dùng Tiểu thừa sự thiền ư? Lại biểu hiện phá tam hoặc, lại không phải sở trị ư?
Đáp: Là định Thánh hạnh dẫn dắt nhân thành quả, quả địa sự dụng không sai ở lý, tức trong Lăng-nghiêm đầy đủ các Tam-muội. Chẳng phải lúc xưa nhân thấy thiền pháp giới, lẽ nào Bối xả... biến quá tam thiên? Nhưng hóa Phật sự nên phụ thêm tiểu danh. Cho nên trong Đại luận cũng là chuẩn theo tiểu. Vì thế, muốn được tự tại thì tu Thắng xứ, muốn đắc rộng khắp thì tu Nhất thiết xứ. Nếu chỉ tiểu dụng thì chỉ có tam thiên.
"Lại, đầu tiên một biến...": là tiêu biểu phá tam hoặc. Vì rằng trong Lăng-nghiêm tức sự của Lý, không ngăn ngại mỗi mỗi đều phá tam hoặc, huống chi nay Tammuội thẳng luận công dụng. Phá hoặc chính là sở biểu mà thôi; tiêu biểu trước phá rồi tiêu biểu sau lại phá. "Như ý trong Tăng dữ dục": không hẳn hoàn toàn đồng pháp sự trong Tăng, cho nên nói "như". Đa Bảo nguyện lực cần chư Phật tập hợp, lại khiến cho thời hội biết phân thân nhiều, cho nên chư Phật đây vì mở tháp nên vân tập. Vân tập lại không đến chỉ sai thị giả truyền lời hỏi han... tướng trạng "như dữ dục", cho nên các thị giả chỉ trình bày hỏi thăm, không có lời thuyết dục. "Kinh Đại Tập nói: Bao nhiêu Phật dữ dục": ở hai cõi Dục, Sắc dừng lại giữa hư không lớn, rộng vân tập mười phương hết thảy chư Phật. Quyển hai mươi mốt nói: Phương Nam có Đức Phật tên là Kim Tạng, các Bồ-tát ở cõi kia thấy hào quang rồi hỏi đức Phật kia, đức Phật kia đáp: Thế giới phương Bắc có đức Phật tên là Thích-ca Mâu-ni muốn vì đại chúng nói pháp phá đại kiêu mạn, liền sai sứ tuân theo ta sách dục, ta nay dữ dục. Các phương khác cũng lại như vậy, đều khiến một vị đại Bồ-tát cùng mười hằng sa chư Bồ-tát đồng đến cõi ấy dùng kệ tán thán, cũng không có lời thuyết dục khác nhau. Kinh Đại Phẩm cũng nói Ngàn đức Phật đồng thuyết. Nay đã khai quyền, tiếp muốn hiển viễn, khiến chư Phật đạo đồng, cho nên khiến chư Phật dữ dục.
Có người hỏi: Chúng đều ở tại hư không, phân thân vì sao còn ở tại mặt đất ư? Nay đáp: Thời chúng đã nghe tích môn khai quyền, bắt đầu nhập cõi Tịch Quang, cho nên dùng "ở tại hư không" để tiêu biểu, Phân thân chỉ bày tích đều có ở cõi sở hóa, cho nên ở tại mặt đất để tiêu biểu. Lại nữa đức Thích-ca không lâu đã hiển bản cũng trước ở hư không để tiêu biểu, đều có kia đến không cần nghi.
"Bấy giờ đức Thích-ca...": cũng căn cứ sở biểu vì khai quyền. Đa Bảo vốn làm chứng kinh cho nên đến, nên khiến chúng thấy. Phật thân tiêu biểu thật, tháp mở tiêu biểu quyền, cho nên mở tháp tiêu biểu khai quyền, thấy Phật tiêu biểu hiển thật. Có người đối với điều này lập Bản Tích thì không đúng, vì văn nói về bản tích ở dưới.
Hỏi: Phàm nói bản tích thì bản nên thắng tích, vọng dưới bản môn thì Thích-ca hiển bản, Xá-na còn tích, vì sao tích hơn mà bản kém ư?
Đáp: Nghĩa đây không như vậy, Xá-na là tích trong tích, khi tự vọng bản, Xá-na là bản, Thích-ca khai rồi vọng tích thành diệu, Xá-na tích diệu, tích diệu còn thô, đầy đủ như trong Huyền Văn bản môn thập diệu nói.
Kinh nói "Thấy hai vị... ngồi kết già": Pháp Hoa luận nói: Vì hiển ba thân làm thành đại sự. "Tám vạn hai vạn": tám vạn tại đầu phẩm Pháp Sư, hai vạn tại đầu phẩm Trì. Phần thứ hai trong kệ có tám hàng rưỡi tụng phân thân Phật vân tập, văn trên có bảy. Nay tụng rất lược vẫn không có thứ lớp. Ba hàng đầu tụng ý thứ hai nên vân tập, nghĩa bao gồm Đại Nhạo Thuyết muốn thấy và vì thỉnh vân tập. Tiếp, một hàng tụng cõi tịnh. Tiếp, bốn hàng rưỡi tụng chư Phật đồng đến, nêu khó trì trong đó kinh nói tám vạn bốn ngàn đều không bằng, gọi tám vạn không hẳn hoàn toàn lớn, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một dẫn Câu-xá, các Kinh Báo Ân..., cho đến mười hai bộ cũng thông Đại tiểu, đầy đủ như Huyền Văn nói pháp Diệu. Chỉ khiến cho người khác đắc tiểu lục thần thông cũng chưa gọi là khó. Hoặc đứng nơi hữu đảnh, đây căn cứ người không đắc thông làm ví dụ so sánh. Cho nên biết Viên kinh tạm đọc tạm nói, thật là không dễ. Nếu có người năng trì thì trì Phật thân, tức là thể, tông, dụng ba thứ; y, tòa, thất ba thứ tức ba thân đó vậy.
Trong chú giải bốn giải thích chỉ không có Quán tâm. Đầu tiên, trong giải thích theo Nhân duyên chỉ thông nói cảm ứng, cho nên nói "sinh thời...":
Hỏi: Người ác xuất thế, sao gọi là cảm ứng?
Đáp: Khiến vô lượng người không dám tạo ác. "Thiên nhiệt": Là theo sự mà nói đó thôi! Hỏi: Vì sao không có nói tứ Tất-đàn?
Đáp: Nghĩa lập chẳng phải không có. Người thấy thích bản thân mình không làm tức Thế giới Tất-đàn, không tác thiện sinh tức Vị nhân, không tạo ác biên tức Đối trị, không chướng quả sự tức Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.
"Nhân hạnh...": là căn cứ giáo. Lý thuận tức Viên giáo, sự nghịch tức tam giáo. Chỉ có Viên giáo ý nghịch tức là thuận, tự ba giáo còn lại nghịch thuận định. Trong Bản tích nói "đồng bệnh với chúng sinh"; Đại kinh nói Đề-đạt-đa chắc không phá Tăng. Kinh Báo Ân nói: Nếu có người nói Đề-bà-đạt-đa thật là người ác đọa ngục A tỳ, thì không có việc đó. Kinh Đại Vân nói: Đề-bà-đạtđa bất khả tư nghì, chỗ tu hành nghiệp đồng với Như Lai. Các chương cũ, mới đều nói La-thập dịch vốn không có phẩm này, đều căn cứ Tề Tống lục nói: Chùa Thượng Định Lâm Thích Pháp Hiến ở nước Vu-điền nhận được bản Phạn văn. Chùa Ngõa Cung, Sa-môn Thích Pháp Ý đời Tề niên hiệu Vĩnh Minh tháng 12 năm thứ 8 dịch xong, vẫn tự riêng làm. Đến đầu đời Lương, có Mãn Pháp sư giảng kinh một trăm biến thiêu thân tại chùa, đem phẩm này đặt trước phẩm Trì, cũng chưa lưu hành thiên hạ. Đến cuối đời Lương, ở nước Tây Trúc có Samôn Câu-la-na-đà, đây gọi là Chân Đế dịch lại phẩm này, để sau phẩm Hiện Bảo Tháp. Nay cho rằng nếu căn cứ Chánh Pháp Hoa, thời Tây Tấn dịch đã có phẩm này thì bản gốc Phạn văn chẳng thể không có. Nếu quan sát phần dịch thì hoàn toàn tợ như thể văn của ngài Thập Công. Nếu cân nhắc theo ba nghĩa của Gia Tường:
1) Tương truyền ra nước ngoài, từ Lưu Sa về sau phần nhiều không có phẩm này, sợ Ngài Thập Công chưa thấy. Nay cho rằng Thập Công đích thân đến Ngũ Thiên trúc, đâu riêng gì vùng Lưu Sa.
2) Tháp Công dịch kinh phần nhiều ưa tóm lược, như lưu Trí Độ, Bách luận. Đây cũng không đúng, vì Tây phương ưa rộng, chỉ lược phần lập lại, đâu có thể hoàn toàn bỏ chánh văn một phẩm.
3) Nói rằng Bảo Tháp bảo người, thì phẩm Trì nên là bảo, dùng phẩm Đề-bà xen giữa thì hoàn toàn thành thừa kinh, tại sao đem để đây? Văn nay không thể nói Chân Đế dịch lại. Lại nói riêng ngài Nam Nhạc sắp xếp, nếu chắc Chân Đế lại dịch không hư dối, thì đâu ngăn ngại bản dịch Giang-đông chưa có? Lấy đây mà nghiệm, bèn trở thành ba người đều khế hợp kinh lý; tức đối với ba nghĩa của Gia Tường, thì hoàn toàn không thể nương tựa.
Thiệp Pháp sư nói: Không hợp để đây, thọ ký Điềuđạt nên để trong phẩm Thọ Học Vô Học ký, sau Trí Tích về sau nên để trong phẩm Thần Lực. Nay cho là nếu vậy thì Vu-điền lẽ ra đem cả hai bản kinh đến, Pháp ý bèn trở thành có lỗi bổ sung. Nếu vậy thì sao không thọ ký cho Đề-bà-đạt-đa trong phẩm Thọ Học Vô Học ký? Vô Học đem nhập vào trong một ngàn hai trăm, Học nhân tự làm một phẩm, huống chi là Đề-bà-đạt-đa không thể nói đắc quả ư! Mà bỗng đặt trong Học, Vô học thì hai còn hai mất: Văn nói: Kinh này trải qua năm năm dịch, Đông An Pháp sư nói trải qua bảy năm ba tháng mười sáu ngày dịch xong. Ngài Tuệ Viễn dịch tựa kinh đồng nói dịch xong vào tháng 2 năm Hoằng Thủy thứ mười; việc không đồng chưa thể truy tìm. Ngài Trúc Pháp Hộ dịch xong vào ngày 11 tháng 8 niên hiệu Thái Khang, làm thành mười một quyển, gọi là Chánh Pháp Hoa, cũng nói tám quyển, cũng rút ra trong Nhiếp Đạo chân Lục, hai bản này vẫn còn.
Tiếp, có Sa-môn Chi Đạo Căn thuộc đời Tấn niên hiệu Hàm Khang dịch làm năm quyển gọi là Phươngđẳng Pháp Hoa. Có Sa-môn ngoại quốc tên Chi Cương Lương tiếp đời Ngụy niên hiệu Cam Lộ tháng 7 ở Giao châu dịch, Sa-môn kia tên Thích Đạo Phu viết chép chia làm sáu quyển tên Pháp Hoa Tam-muội, rút ra trong Diệu Lục Ngụy Lục. Vũ Khưu Đạo lượng nói có năm bản, gồm bốn bản như trước và thêm một bản Tát-vân Phân-đà-lợi, đã có ở đời bèn thành ba bản còn giữ. Ngài Duệ Công mở ra Cửu triệt. Ngài La-thập vừa dịch xong thì Duệ Công liền đem giảng, khai làm Cửu triệt, người bấy giờ gọi tên ngài là Cửu Triệt Pháp sư: Hôn Thánh tương khấu triệt tức phẩm Tựa, tiếp có bảy triệt tức là phần Chánh tông: l) Là Thiệp giáo qui chân triệt vì hàng thượng căn tức phẩm Phương Tiện.
2) Hưng loại tiềm chương triệt vì hàng trung căn tức phẩm Thí Dụ.
3) Thuật cùng thông tích triệt, trung căn lãnh giải, là phẩm Tín Giải.
Chương nhân tiến ngộ triệt, vì hàng hạ căn, tức các phẩm Hóa Thành, Thọ Ký.
4) Tán dương hành lý triệt, tức phẩm Pháp Sư vì Như Lai sứ.
5) Bản tích vô sinh triệt, tức phẩm Đa Bảo, Đa Bảo bất diệt, Thích-ca bất sinh, Đa Bảo là bản, Thích-ca là tích, bản đã bất diệt, tích lẽ nào có sinh? Bản tích tuy khác nhưng bất tư nghì nhất.
6) Cử nhân trưng quả triệt, tức các phẩm Dũng Xuất, Thọ Lượng: Di-lặc nêu nhân trưng quả, Phật nêu nguyên do thọ lượng nhân quả.
7) Xưng dương viễn tế triệt, tức phẩm Tùy Hỷ cho đến hết kinh thuộc phần lưu thông. Danh mục rất hay mà tông thể không hiển.
Duệ Công lại có hai mươi tám phẩm sinh khởi, rất có rõ ràng như trước mắt đối nay không ngại, nhưng tôn chỉ phẩm chưa được rõ, mà mục đích không nói đến viễn bản chỉ nói đến nhân quả, tại sao thành phát tích? Tứ độc: Giang, Hà, Hoài, Tế; ý nói thiên hạ đại đồng. "Đề-bà-đạt-đa... làm ngũ nghịch": Câu-xá luận nói: giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Nay đầu tiên nói phá Tăng, lược như trước trong duyên Mục-liên và Chỉ Quán quyển một nói. Xuất huyết: Như đức Phật ở ao A-nậu-đạt bảo Xá-lợi-phất: Đời xưa ở La-duyệt-kỳ có trưởng giả tên là Tu-đàn giàu sang bảy báu có người con tên là Tu-ma-đề, sau khi cha mạng chung có người em khác mẹ tên Tu-na-xá, Tu-mađề lập kế không chia gia tài cho em khác mẹ ấy và muốn giết hại em, liền nói với em rằng đến núi Kỳ-xà-quật cùng anh nói chuyện, người em nghe theo liền đến đúng hẹn, người anh đẩy em xuống vực núi bị đá đè chết. Đức Phật bảo Xá-lợi-phất, trưởng giả lúc bấy giờ nay là Đại Vương, Tu-ma-đề tức là thân ta, người em khác mẹ tức là Điều-đạt, do nhân duyên đó nên trải qua vô số kiếp ta bị đọa trong ngạ quỉ vào trong địa ngục. Do duyên còn sót lại nên ta ở trong núi Kỳ-xà-quật kinh hành, Đề-bàđạt-đa ở trên núi cao đem tảng đá dài ba trượng rộng một trượng sáu ném lên đầu ta. Thần núi Kỳ-xà-quật tên là Bễ-la lấy tay đỡ đá nên viên đá nhỏ rơi xuống làm tổn thương ngón chân cái của đức Phật làm chảy máu. Kinh Hưng Khởi Hành nói: Đề-bà-đạt-đa xúi A-xà-thế thả voi say hại Phật, đầy đủ như trong Thích Tiêm quyển ba nói. Các văn khác có thể thấy, nêu đủ trong các kinh luận. Luận Câu-xá Phẩm Nghiệp nói: Ngũ nghịch đều là nghiệp chướng. Nhiếp căn cứ xứ, người thì trừ Bắc Câulô châu, xét theo người trừ Phiến-đệ, bốn thân một ngữ nghiệp, ba sát một hư cuống một sát sinh gia hạnh, vô gián một kiếp thuần thục, tùy tội tăng thì khổ tăng. Nhập Tỳ-kheo phân hai dùng làm sở phá Tăng.
Nói "Nếu làm...": như văn. Điều-đạt chỉ có ba nghịch: phá Tăng, làm Phật chảy máu giết A-la-hán, và hai phương tiện giết: thả voi say, tẩm độc vào móng tay. Chánh gồm phương tiện lại nói năm, có đồng loại ngũ nghịch là ô nhục mẹ, Vô học ni, sát trú định Bồ-tát và Thánh giả Hữu học, sát Thánh giả Hữu học, là sát đồng loại La-hán, đoạt duyên tăng hòa hợp, là phá tăng đồng loại, phá hoại Tháp là xuất huyết đồng loại (đồng loại với làm thân Phật chảy máu: Không dùng voi thả tẩm độc và móng làm đồng loại tức, kia là phương tiện chẳng phải đồng loại. Nhập Đại Thừa luận hỏi: Đề-bà-đạt-đa kia đời đời bị Phật oán vì sao gọi là Đại Bồ-tát? Luận đáp: Nếu là oán tại sao mà được đời đời gặp nhau, như hai người cùng đi Đông Tây mỗi một bước chuyển xa đâu được gọi là bạn. Duyên ngũ nghịch đương nhân duyên giải thích.
"Nếu giải thích theo Bản tích": Trước trong chú thích Đề, lại đều lược thuật xong. "Lai ý của phẩm này...": riêng nêu "Lai ý". Nghiệm thấy ba ý của Gia Tường, hoàn toàn không có nguyên do. Trong cụm từ "Có thể dùng ý mà biết vân vân" thì "vân vân" là: lẽ ra lần nữa lại trình bày Văn-thù là du phương Đại sĩ, hoằng kinh khắp mười phương cho đến vào biển chỉ thường tuyên giảng kinh Pháp Hoa, cho đến tất cả các kinh Đại thừa, Văn-thù đều là chúng phát khởi. "Độ có nghĩa rất nhiều...": Đại luận bắt đầu từ quyển mười lăm cuối đến hai mươi mốt rộng giải thích Lục độ, trong mỗi một độ đều còn các giải thích. Đây góp đại lược kia, văn tương hiển ghi chép chia làm bốn loại, cũng chẳng phải nhất xứ thứ lớp nêu bày. Nếu muốn dựa theo biết thì tìm bản văn luận. Các nhà lấy bỏ rộng lập nghĩa môn, tạp dẫn đại tiểu không thể nhậm chứng cứ, không biết vì sao là Thích-ca sở hành đầy đủ, khiến một nhà lập giáo thì thể tướng có thể biết. Tích chỉ bày bốn tướng, Bản hạnh chỉ có Viên. Đầu tiên, trong Tam tạng có hai phần:
1) Lược giải thích.
2) Phân biệt. Phần đầu lại có hai:
a) Thẳng nêu sáu tướng.
b) Lược thập thiện làm lục độ, do lục độ đây thuộc pháp thế gian, vả lại vì thập thiện thế gian mà dùng đối. Phân biệt: Dẫn kinh Thiện Giới tự khai ba thứ: Trong văn trước nêu "Đối trị" tức sở trị. Tiếp "Tướng sinh": Căn cứ hành thứ lớp. Trong "Quả báo": nói "đầy đủ" nghĩa là các căn đầy đủ, "Sắc" nghĩa là đoan chánh, "lực" thuộc tinh tấn. "Nếu nói....": nói sáu độ mỗi độ đều có mười gọi là xuất Địa Trì Hoa Nghiêm. "Kinh Nguyệt tạng...": thuộc Viên giáo. Trong đó trước trách tâm thế gian. Tiếp khiến y đệ nhất nghĩa để thành Ba-la-mật: Nghĩa là chỉ dùng sơ tâm nhất niệm đầy đủ thì một sắc một hương đều là Thập độ.
"Hoa Nghiêm...": nhờ giáo đạo kia địa vị sâu xa để chứng minh sơ tâm của người Viên giáo, nghiệm biết Hoa Nghiêm còn nơi giáo đạo, biệt nghĩa nêu rõ. Nếu nói theo Viên cực thì lẽ nào đến thất địa mới đủ mười ư? Cho nên trong kinh Địa Trì nói niệm niệm đầy đủ mười. Sáu cùng mười khai hợp không đồng, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói. Nếu niệm niệm đủ mười thì hạnh nào niệm nào lại không đủ mười? Một hạnh tất cả hạnh là nghĩa đây vậy. Trong kinh dùng (do) trì Bát-nhã để so sánh vượt qua xả hằng sa thân, chính là do thật hành "đối sự xả" mà nói đó thôi! Nếu sáu đều là pháp giới, thì đây không như vậy. Cho nên không thể dùng ba sự đều không và dùng thứ lớp sinh ra các hạnh mà so sánh. Lại, sáu độ đây các văn trên dưới đều lược giải thích xem văn ý ấy tùy sự đều khác biệt. Nếu trong Tựa thấy theo chiều ngang chỉ là hiện tướng phát Di-lặc nghi,
Văn-thù dẫn xưa, nói các thứ là dẫn đồng. Chương quá khứ Phật là khai ngũ thừa, văn Bồ-tát nói lục độ rất lược. Trong Dược Thảo Dụ nói ba ngôi vị Bồ-tát mà không nói hành tướng, ý để biện minh nghĩa sai biệt và không sai biệt. Phẩm Phân Biệt Công Đức lược nêu năm độ, là so sánh bản, cũng chẳng phải chánh ý, nên không có hành pháp. Chỉ trong đây kinh văn tuy lược nêu mà chánh nêu tướng hành nhân đến quả, cho nên giải thích tùy liệt nêu khiến tất cả hạnh hội nhập nhất thừa.
"Ba mươi hai tướng": Các giáo nêu bày sự tu đắc không đồng, phần nhiều ở giáo đạo. Nếu thật đạo: Chỉ là phát đắc không cần đều tu, như dưới Long Nữ tán thán Phật trong kệ nói. Tự không thấu đạt sâu xa thì sao có thể đầy đủ tướng. Đủ như trong Chỉ quán quyển một, trong "kiến tương phát Bồ-đề tâm" đã lược biện rõ. Nay văn tuy tức đối đủ bốn tướng, ý tại phát đắc. Cho nên văn tiếp nói thật tướng là viên giáo tướng bản, tuy tu phát không đồng mà tướng thể phần nhiều đồng. Nay văn phần nhiều tại Đại luận kiêm tại các kinh. Pháp Giới Thứ Đệ nêu đủ danh xong. Nay cùng văn kia nhưng có đồng khác. Nay thừa có hai tướng. Lại gót chân thẳng, mắt cá chân không hiện đỉnh đầu sáng, có chữ Vạn, và tóc xanh, năm tướng đây trong Pháp Giới Thứ Đệ không có. Trong Pháp Giới Thứ Đệ có tướng ánh sáng dài một trượng, và tướng tốt của dịch vị tiết trong cổ, hai tướng đây văn nay không có. "Tám mươi vẻ đẹp": văn cũng không đồng, chỉ là kinh, luận dịch khác. Chẳng phải hóa sinh của thai, noãn, thấp, hóa tức là không đồng hóa sinh của tứ sinh nội giới như chư thiên hóa sinh vẫn ở đầu gối cha... chư Thiên sinh còn thế huống đồng trong bốn loài ư! Nay đây bỗng nhiên mà có. Như trong phẩm Dược Vương nói: Ở nơi Vương gia Tịnh Đức bỗng nhiên hóa sinh. Cũng gọi là thấp noãn...: chỉ do hoa sen ở nơi ẩm ướt chưa nở cũng như thấp sinh, noãn sinh bao hàm nghĩa trong hoa như thai. Kinh Đại Bảo Tích nói: Bồ-tát thành tựu tám pháp thì ở trước chư Phật hoa sen hóa sinh:
1) Cho đến rất mạng cũng không nói lỗi người.
2) Hóa người khiến quy y tam bảo.
3) An trí tất cả nơi Bồ-đề tâm.
4) Phạm hạnh không nhiễm.
5) Tạo hình tượng Phật tôn trí trên tòa hoa.
6) Năng trừ các ưu não cho chúng sinh.
7) Đối với người cố cao ngã mạn thì tự khiêm hạ mình.
8) Không xúc não người khác. Một kinh đây tuy vậy mà do các kinh luận tùy nghi nói. Giả sử tất cả kinh luận nêu bày duyên sinh hoa sen đều là văn nay, thì nghe phẩm công đức tức đều vượt qua. Cho nên, hoa sinh tuy đồng bản duyên sai biệt. "Vân vân" là: cũng có thể giải thích ngăn trái ý văn nay.
"Lúc đó ngài Văn-thù sư-lợi...": là tìm đến. Có người hỏi: Trong Tựa nói tại tòa, nay vì sao nói từ biển đến? Nay là đáp: Lẽ nào đem phàm tình mà đo lường cảnh Thánh? Không khởi hội đây, ở nơi biển hóa vật, nghĩa cũng đâu ngăn ngại! Cũng đâu phải tại Tựa một kỳ lợi ích xong. Khi bỏ đi đâu cần thiết bạch cho biết, thời đến đại lợi mới sinh cho chúng, tự mình từ biển mà đến. Nếu theo lệ từ đất hiện lên Bồ-tát dùng lợi tán thán thì kinh đây rất lược. Hoặc đương kia có văn rộng đủ có nói xuất khỏi hội mà truyền đến đây, thì lược bớt vậy.
Hỏi: Ngoài tam thiên đều có bốn trăm vạn ức, không còn đại hải, Văn-thù vì sao vẫn nói từ biển đến?
Đáp: Sự giải thích chưa sai, huống chi là bất tư nghì, Nay có ba nghĩa thông việc đó:
1) Đã dời thiên nhân và biến đại hải, từ nơi bị đổi đời mà đến, nên không xa khuất.
2) Biển dù đổi dời mà Long cung bất động, Rồng cho rằng bất động mà chỗ ở đã biến đổi. Từ chỗ "biến mà không biến" mà đến thì có gì không thể ư?
3) Vô duyên: Chịu tùy theo, hữu duyên nay đến, đây bất tư nghì núi biển rõ ràng tự nhiên, khiến chúng không thấy, chỉ là biến thấy chẳng phải cho là cải đổi thể Vănthù.
Đã không khởi mà đến, cõi kia cũng tức uế mà tịnh. Cho nên Tịnh Danh nói di (dời), đến cõi khác đều không khiến người có tướng qua lại, trong đây chính là khiến có tướng qua lại mà bản không dời đổi, nên biết ứng có cơ thì cõi biến, chúng dời mà vẫn còn đến! Kia vô duyên, cõi trở lại, chúng lại đến mà không đến. Do đó lý tuy bất động, hóa sự thành phép tắc, cho nên khiến chỗ thấy không đồng thời qua lại sai khác. Bồ-tát hóa nghi còn như vậy, lẽ nào Phật thiết lập biến đồng với phàm ư?
Hỏi: Không khởi mà lại, vì sao nói đến?
Đáp: Chỉ bày kia đây chúng biết công lực của kinh, biết thọ bẩm lợi ích của giáo, cho nên phải nói "đến". Không đi mà đi, không đến mà đến, đều vì lợi ích chúng sinh, tại sao cần nạn vấn như thế? Cho nên biết cõi khác chưa hẳn thấy đến, kia không thấy đến, đây không thấy đi, không đến không đi mà sự đổi dời rõ ràng. Như Tịnh Danh ngón chân chạm đất.
Lúc bấy giờ đại chúng tự thấy ngồi tòa sen báu mà cõi uế như cũ. Trong kinh Văn-thù tán thán Long Nữ không ngoài các hạnh hoằng thệ định tuệ. "Trí tuệ...": là tuệ. "Thâm nhập...": là định. "Từ niệm.....": là thệ, "công đức...": là hạnh. Dưới các văn có theo lệ này, căn cứ đây nên biết. Chánh chỉ bày trong Viên quả, nói Long Nữ thành Phật.
Hỏi: Vì không xả phân đoạn liền thành Phật ư? Nếu không tức thân thành Phật thì đây là Long nữ thành Phật và Thai Kinh kệ nói làm sao thông ư?
Đáp: Nay Long Nữ văn từ quyền mà nói để chứng minh Viên kinh thành Phật nhanh chóng. Nếu Thật hạnh không nhanh thì Quyền hạnh theo đó dẫn. Vậy thì Quyền Thật nghĩa đồng, lý không uổng vậy. Cho nên Thai Kinh kệ từ Thật được nói. Nếu thật đắc thì từ lục căn tịnh đắc Vô sinh nhẫn, ứng vật thể hiện dung mạo đẹp đẽ, khởi thần biến, hiện thân thành Phật và chứng Viên kinh.
Đã chứng Vô sinh thì lẽ nào không thể biết vốn không xả thọ, đâu ngại xả đây đi đến kia. Các giáo còn lại thì phàm vị đến trong hội đây, tiến đoạn vô minh cũng lại như vậy. Phàm ước lệ như đây ắt phải quyền thật bất nhị, dùng giải thích nghi ngại. Nói "quyền xảo": tức không hẳn chuyên chỉ làm quyền giải thích, chỉ nói Long Nữ đã đắc Vô sinh thì căn cứ thể dụng mà luận quyền xảo. Không phải cho rằng chuyên căn cứ Bản tích làm quyền xảo. Cho nên quyền thật hai nghĩa lực kinh đều thành. Người khác giải thích như thế. Hoặc nói "Thất địa thập địa...": không thể hiển bày lực dụng của kinh.
Có bản nói Khuyến Trì, nghĩa phải đều còn, tùy đề đều được không so sánh từ đầu, cho nên văn chia làm hai đoạn: Nếu muốn ở đây lập tứ Tất-đàn thì, hai giải thích tợ Thế giới, Hai vạn tợ Vị nhân, Tám mươi tợ Đối trị, ý Phật tợ Đệ nhất nghĩa. Cho nên ý Phật nói song song chỉ hai đoạn. Trong Ni thỉnh ký nên khai văn đây làm bốn: hai phần trước Ni đều có thỉnh và ký. Phần ba Các Ni lãnh giải. Phần bốn Các Ni phát thệ. Kinh nói "di mẫu": Bản Hạnh Tập nói: Thích chủng Thiện Giác sinh tám người con gái. Lúc bấy giờ bốn anh em Tịnh Phạn vương mỗi người thâu nạp hai người nữ. Tịnh Phạn vương phi, tức Ma-da và Ái Đạo. Ma-da sinh xong bảy ngày sau thì mạng chung sinh lên cõi Đao-lợi. Ái Đạo là dì cho nên nói "di mẫu".
Tiếp, hỏi đáp: Trong đáp nói vì dẫn ban đầu hành và khai An lạc hạnh: Ban đầu hành, thấy các đại đức còn không thể ở cõi này hoằng kinh, huống chi chúng con ư? Vì vậy cho nên cần phẩm An Lạc Hạnh tiếp theo sau làm pháp tắc ban đầu hành. Lẽ nào được hạ phương chưa xuất mà dự nói dũng xuất sở hành? Nếu như vậy thì đầu phẩm, Văn-thù lẽ ra hỏi Bồ-tát Dũng xuất, đương hành hạnh gì, mà chỉ nói ở đời ác sau... ư! Bỗng nghe "dũng xuất" thời chúng lẽ ra hỏi dũng xuất là ai?!
Tiếp kệ tụng: Là cô khởi kệ, nói "các Bồ-tát... thỉnh hộ trợ hoằng kinh", tức là tự thuật phương pháp hoằng kinh. Vì bởi Đức Phật trong phẩm Pháp Sư đã nói phương pháp xong. Phẩm Kiến Bảo Tháp chiêu mộ tìm người dùng phương pháp. Phẩm Đề-Bà-Đạt-Đa dẫn xưa dùng phương pháp. Thích-ca tức là bẩm thọ phương pháp nhiều cho nên nói "dùng thân làm sàng tòa...". Phẩm Trì tức nói phương pháp ở đời ác. An lạc hạnh là phương pháp bắt đầu hành, nên nói trú Nhẫn nhục địa v.v..., đầy đủ như phẩm sau nói. Nếu không như vậy thì hoằng kinh không có phép tắc, không có phép tắc hoằng kinh đây không có việc ấy. Như thân trần vào trận ắt bị tổn thương không sai. Nói "mặc áo giáp" tương ưng nghĩa không uổng lập. Mười bảy hàng đầu nói mặc áo nhẫn nhục có ba:
1) Một hàng tổng luận thời tiết để nêu rõ mặc áo.
2) "Có những...": chín hàng biệt nêu cảnh sở nhẫn.
3) "Chúng con...": bảy hàng nêu ý mặc áo.
Phần một như văn. Phần hai văn có ba: Một hàng đầu nêu chung người tà, tức chúng thế tục. Tiếp một hàng nêu hạng tăng thượng mạn trong đạo môn. Bảy hàng sau nêu tăng thượng mạn giả Thánh. Cho nên, trong ba loại người đây thì: thứ nhất đáng nhẫn, thứ hai nặng hơn trước, thứ ba quá sâu, vì càng về sau càng khó nhận thức. Văn thứ nhất và thứ hai như văn, trong văn thứ ba nói: "Kinh Bảo Vân quyển sáu nói A-lan-nhã...": thì e rằng lầm, vì văn ở quyển thứ năm. Trước giải thích danh: "A" là "vô", "Lan-nhã" gọi là "tránh"(tranh cãi). Trong văn nói sự, có sự cho nên tranh cãi. Nay y kinh, trước thì nêu chánh hạnh, tiếp mới biện rõ tà. Đầu văn nói "trú A-lan-nhã", là không cùng thế gian tránh luận, "không gần không xa" là để tiện việc khất thực, có bóng cây che, có nhiều hoa quả đầy đủ nước sạch, không nạn sự không hiểm trở dễ bước lên, một mình không có bạn tụng sở văn... Có vua Đại thần trưởng giả... đến tìm đến, liền nói rằng: "Hay thay! Hay thay!". Nếu đến trú xứ thì nên mời ngồi, nếu họ không ngồi thì chớ tự ngồi một mình. Nếu không vì chỗ ngồi xấu, thì nên dùng mọi thứ an ủi và vì họ nói pháp, nếu họ không ưa nói rộng thì nên nói lược... Nếu không như vậy thì chẳng phải hạnh Lan nhã. Phàm ở Lan-nhã là vì điều phục phiền não. Tự đề cao mình, chê bai người, thì chẳng phải hành Vô tránh, chưa biết ý chắp tay cung kính là gì! Khinh, ngông thầy bạn, ngạo mạn vương thần, huống khiến cho người không biết cho là Thánh, khiến người có mắt thì trong tâm lạnh giá, thì hạnh La-vân vĩnh viễn sai trái, đức của Không sinh ở đâu? Chỉ do tâm không có nội thật, chuyên đem thân mưu tính việc hư dối bên ngoài, luận thuần đạo kia, không có gì để nói! Xét như Tân-đầu-lô biết bảy năm mất nước, và Trù Thiền sư tiến hay không làm vua, cho nên khởi ở hợp thời đâu được nhất hướng. Luận Thập trụ Bà-sa nêu rõ Lan-nhã Tỳ-kheo cho đến đủ năm mươi pháp mới kham dừng trú, cho đến mười hai hạnh Đầu-đà đều đủ mười pháp. Nếu không như vậy thì hãy tìm thầy tấn đạo, tại sao cứ chấp giữ cái ngu? "Không phép tắc thích ứng": xuất gia lìa thế gian, cắt bỏ ái, mộ đạo, nên dùng Ngũ phần làm phép tắc chánh. Còn trái phép tắc Tiểu thừa, mà trở lại khinh nơi Đại giáo, thì càng rất tệ hại. Nếu dùng danh đây mà quân bình nơi Đại, thì Viên thừa tam học, hai giải thoát đáng để làm khuôn phép cho mình, mới ứng hợp với phép tắc xuất gia chốn Lan-nhã. "Tuy nói... được nuôi sống...": nghĩa là chấp lấy lời nói mà chẳng siêng thực hạnh, chuyên tư duy tự nuôi sống mình. Hạng người như đây, gọi là Tương tợ tam học, Giả vờ tam học, Tặc tam học, Ngụy trá tam học. Mà muốn khinh người thông kinh, cho nên khiến người hoằng kinh phải mặc áo nhẫn nhục chuyên hoằng chánh pháp. Người có giới, thêm đủ tam học mới gọi là tăng giới. Giữ một giới mà không hành để mặc, thì biết là giới giảm. Giới mà còn không hành, thì sao hành định tuệ? Vậy nên phải "đối trước Ngũ phần" mà xem xét.
Tiếp nêu ý mặc áo. Văn dẫn "Trung A-hàm quyển năm nói Hắc Xỉ Tỳ-kheo mách với Đức Phật", căn cứ trong đó, bao gồm ý thứ ba. Nêu "Người có năm hạng" trở xuống, văn tương ưng. Kinh kia Xá-lợi-tử tương ưng phẩm. Kinh Thủy Dụ nói: Đức Phật tại vườn Cấp Cô Độc, Xá-lợi-tử bảo các Tỳ-kheo: Ta nói ngũ ấm não có năm duyên, thế nào gọi là năm? Tức dùng năm dụ, ví như nơi ba nghiệp, lại kiểm chứng lần trải qua thứ năm. "Người có năm hạng": Chỉ là ba nghiệp. Đơn thiện làm ba câu, đều thiện làm một câu, đều ác làm một câu. Nếu lại lấy song thiện làm ba câu, tức thành tám câu. Ác biên nhất định không có đơn và song, vì đơn thiện, tức là song ác, song thiện tức là đơn ác, cho nên không được có câu ác biên. Trong kinh không làm thêm ba câu còn lại, hoặc nêu năm biết tám, hoặc là tùy cơ. Có trong văn, đầu tiên nói: "Thân ác, khẩu ý thiện" thì e rằng lầm. Căn cứ trong hợp dụ chỉ có đơn thiện. Chỉ nên nói "thân thiện khẩu ý ác, khẩu thiện thân ý ác, ý thiện thân khẩu ác". Cho nên thí dụ đầu tiên nói: "Nạp y....": Đây là thân thiện khẩu ý bất thiên, để hợp văn nói "niệm dụng thân tịnh, bỏ khẩu ý".
Trong khẩu thiện thí dụ: mang cỏ tránh nóng là thân tướng bất thiện, bụm nước không tương xứng là ý bất thiện. Nước đến được miệng, tạm gọi là thiện. Văn nói hoặc bụm nước, hoặc dùng tay, chỉ là tay bụm nước mà thôi! Tuy thân khẩu đều xấu, chỉ vì làm ngưng khát cho nên gọi là ý thiện. Nếu muốn dụ ba cặp thiện thì căn cứ đơn tư duy. Thí dụ ba đều là thiện: Ao đã rộng mát vào thì thân thiện, không bụm nước là khẩu thiện, ngưng khát là ý thiện. "Luận Bà-sa quyển tám nói: Nghĩ đến mắng là một lời nói..."
Luận Tạp Kiền-độ quyển thứ mười, trong phẩm Trí hỏi: Khi hành bị mắng, làm sao quan sát danh cú thân... khiến tâm nhuế chẳng sinh?
Đáp: Hoặc có người nói: A-câu-lô-xa nước Tần gọi là "mạ", Câu-lô-xa, Tần gọi là hoán thanh. Ta nay không nên niệm chữ A kia, nếu có chữ A thì gọi là "mạ (mắng)", nếu không có chữ A tức gọi là hoán thanh. Phải biết Tây phương có tam hợp thanh, A cùng Câu-lô-xa hợp mới thành danh cú, mới gọi là "mạ". Phương này là hèn mọn thấp kém, phương kia lại là xưng tán, theo lệ đây rất nhiều. Như nói Thi-la Sằn-đề đối với phương này chưa gọi là đoan chánh, phương kia chính là Ba-la-mật thứ hai. Lại, quán chữ mạ đây...: Phương đây cũng có nói đảo ngược tức trở thành mắng mà khen, như thấy khách đi bảo là "đi sớm", tức là muốn giữ lại. Nếu nói "sớm đi" tức phát lời khiến đi, phát đó là "mạ", lưu giữ là khen. Như đang lúc ăn gặp khách, nếu nói "đến sớm" tức là "mạ". Nếu nói "sớm đến" tức là khen. Người đời chấp lãm định có trước sau cùng làm nghĩa mắng, khen. Vọng tình chấp chứa tiếng nói vốn không. Lại, "mạ là một chút ít phần của giới...": tức là ý tư quanh co, hạnh uẩn, pháp xứ, một phần ít thuộc giới pháp. Đây mượn văn luận Bà-sa. Làm cảnh sở quán, bèn dùng bốn câu ba giả quán đó. Dùng thanh đối căn, thức và Không, suy tìm nghĩa không có tự tánh, thành tựu tánh tướng, mới gọi "tức Không". Lại, "mạ" đã là thanh, thanh giới có tám có chấp thọ không chấp thọ, đại chủng làm nhân, đều có tên hữu tình tên phi hữu tình, khả ý và bất khả ý. Trong thân hữu tình phát ra âm thanh, gọi là có chấp thọ, vì ngữ thanh của chúng sinh có thuyên biểu, các tiếng vỗ tay v.v... không phải thuyên biểu nên tiếng gió, rừng, sông... gọi là chấp thọ. Tên hữu tình với nghĩa không chấp thọ, tức như tiếng nói của hóa nhân, tuy không chấp thọ mà có năng thuyên biểu, ngoài ra theo lệ tư duy có thể biết. Nay đây tiếng mắng (mạ) đã là có chấp thọ tên hữu tình là tiếng không vừa ý, chỉ là một trong tám thứ, nhưng do chấp kia từ đầu đến cuối mà thành danh cú. Nếu nói thanh giới là mạ thì phải tám thứ mới gọi là mạ. Nay còn không có bảy sao gọi là mạ! Huống lại trong một thì niệm niệm không dừng. Một phần ít thanh nhập, phần ít sắc ấm, phần ít mạ v.v... tức quán ngã đã là cảnh sở mạ. Hoặc khi mạ sắc tức không mạ tâm, khi mạ tâm tức không mạ sắc. Hình hiển thọ..., căn cứ đây có thể biết. "Thành tựu tự nơi người ấy...": người ấy tự khuấy động thanh để thành danh cú mà cho là mạ. Ta quán nhân duyên niệm niệm không trụ, đây quán nhân duyên vậy. "Lại, mạ là một chữ...": quán tương tục. "Lại, năng mạ...": đối suy tìm tướng đối đãi. "Dùng Không": tức Thông giáo. Cho nên biết nhờ luận Bà-sa hiến cảnh nhân duyên, mỗi mỗi suy tìm tiện thành tức Không. Lời nói lược ý rộng, đầy đủ như Chỉ Quán trong nhập Không Vô sinh quán đã nói. "Quyển mười bảy nói: Phàm Thánh đều có ba loại thọ", e rằng văn lầm. Văn ở quyển thứ mười, văn nói cũng có lo sợ, là qua ở đời khác và do Thánh giả tức có sợ cho nên liền đủ ba thọ. Cũng nói năm thọ: năm thọ tức ưu
-hỷ-khổ-lạc-xả. Lại có năm thọ toàn là ba thọ. Nghĩa là chưa đắc lạc thọ, đã đắc lạc thọ, đã sinh khổ thọ, chưa sinh khổ thọ; không khổ không lạc thọ. Chỉ vì Thánh nhân không dùng tâm thọ nên có phàm Thánh sai biệt cũng là mượn luận Bà-sa kia phân biệt. Tứ Thánh là Thánh, lục phàm là phàm, mười giới không đồng để thành nghĩa sai biệt. Nay "Kinh này...": tức Viên giáo. "Niệm Phật": Quán thọ làm pháp giới cho nên gọi là "niệm Pháp, Phật...". Do năng quán biệt được tên các giáo, sở quán năm thọ tướng kia không sai biệt cho nên người trì kinh nên quán ba thọ. Vì thế nói năng thọ các ác hạnh... Khải là áo giáp vậy.
Xưa nay giải thích phẩm đều có sinh khởi mười duyên hay năm duyên... và nêu Lai ý ba ý hay năm ý. Nay thì không như vậy, chỉ tùy xu thế của văn phẩm theo nghĩa giải thích, không hẳn cứ một mực cho nên đến giải thích phẩm này nên tùy ý bốn phẩm trước nghĩa là từ phẩm Pháp Sư trở xuống thêm ba phẩm tiếp. Thông dùng ba thứ: Nhà, áo, tòa của Pháp sư làm khuôn mẫu lưu thông. Cho nên, giải thích đề của ba phẩm trước cho đến để hiểu rõ văn, đều nương ba phẩm đây nêu rõ ý nguồn gốc phẩm. Nếu tùy văn tướng riêng sinh khởi thì không đồng văn khởi hết. Dùng phẩm Pháp Sư bắt đầu làm lưu thông cho nên nêu đủ ba pháp làm khuôn mẫu. Huống chi người lưu thông kinh diễn khắp chánh thuyết cho nên khiến người nói dựa ba thứ này lập chí, mới có thể hiển rõ kinh điển sở hoằng, khiến chúng sinh ngưỡng mộ pháp có thể hoằng thông, ngầm giúp hiển bày lợi ích làm sứ giả của Như Lai. Nếu không như vậy thì sao đức Thế Tôn lại bảo người hoằng kinh lượng công dụng kia có khả năng giữ gìn, cho nên khiến cõi này cõi kia phương trên phương dưới, tiến hay không, khác dấu vết. Nếu mình tự hành mà không làm tăng trưởng lòng tin của chúng sinh, thì giống như người bị bệnh nhiệt mà bán thuốc lạnh. Vì vậy cho nên không thể không cẩn thận khi truyền kinh. Cho nên ba chu khai hiển, hoặc pháp hoặc dụ không vượt quá ba đức. Hoặc tu hoặc tánh, căn cứ đây mà làm phép tắc, tánh đức không đương khai cùng không khai, tu đức tùy thời chuyển gọi là phó vật (tùy theo căn cơ của chúng sinh). Tại nay đồng khác đều là Nhất thừa.
Nhất thừa là Phật tánh, đầy đủ như Đại kinh nói Phật tánh ba thứ tức là bí tạng, cho nên bắt đầu lưu thông thì trở lại căn cứ tạng đây lấy làm phép tắc. Sở dĩ Pháp Sư gọi là nhà, áo, tòa vì nghĩa hoằng rộng tiện dụng. Trong phẩm Bảo Tháp nếu căn cứ tháp mà nói thì tháp vọt hiện ra tức tại Không là tòa, nơi nơi chứng minh kinh là nhà, các báu trang nghiêm là áo. Nếu căn cứ Đức Thích-ca thì tại Không là tòa, vào tháp là áo, bảo hoằng kinh là nhà. Lại dùng ba Đức Phật tiêu biểu ba thân cũng là ba thứ đây. Phật Đa Bảo là áo, Phật Thích-ca là tòa, Phật phân thân là nhà. Nếu căn cứ sở biểu của ba lần biến mà nói thì biến lần thứ nhất là tiêu biểu phá tòa Kiến Tư, biến lần thứ hai là tiêu biểu phá nhà vô tri, biến lần thứ ba là tiêu biểu phá áo vô minh. Cho nên bảo người hoằng kinh khiến dựa ba pháp hoằng ba thứ vi diệu đây. Như trong phẩm Đề-bà-đạt-đa dùng thân làm sàng tòa, nếu chẳng thâm đạt ba pháp này thì đâu thể khinh sinh mạng mà trọng pháp, cho nên thân tướng hảo ắt có pháp báo. Pháp thân là áo, Báo thân là tòa, Ứng thân là nhà. Nếu căn cứ nhân hành thì năm Ba-la-mật làm áo, Bát-nhã Ba-la-mật là tòa, từ bi hỷ xả là nhà, huống chi sư đệ thành đạo đầy đủ ba thân. Cho đến phẩm Trì, kệ văn nêu rõ ba pháp mà hoằng kinh này. Phẩm An Lạc Hạnh đây tuy là bắt đầu hành cũng dùng ba đức và dùng làm tiêu đề phẩm, do trong một phẩm đều có ba đức và hành ba đức. Trong đó có năm:
1) Dùng ba nghĩa tổng giải thích.
2) Nêu Lai ý của bốn hạnh.
3) Nêu bốn hạnh thứ tự.
4) Nêu bốn hạnh thể sai khác.
5) Chánh giải thích.
Đầu văn có hai: Trước nêu liệt. Tiếp giải thích. Trong giải thích thì trước lược, sau rộng. Trong lược:
1) "Y sự" giải thích.
2) Nghiệp an lạc tiến ở hạnh khẩu nghiệp hoằng kinh. Trong "Phụ văn" có hai: Đầu phụ phẩm Pháp Sư, tiếp phụ phẩm này. Đầu văn đều căn cứ ba đức ba phép tắc. Pháp thân hoặc có hạnh của ba đức nên khiến sở nghiêm pháp thân an. Cho nên Huyền Văn nói Pháp thân thể nguyên chất, thiên long bỗng nhiên yếu kém cho nên nêu đủ ba pháp cùng dẫn dắt hành hoằng kinh.
Hỏi: Nếu như vậy thì cùng Niết-bàn có gì sai biệt?
Đáp: Diệu pháp chỉ là nhất tâm tam đức xưa nay không riêng biệt, kia do thị hiện diệt mà gọi là Niết-bàn đó thôi!
"Phụ văn" phẩm này, tức tiến là hành, chỉ do tự tiến cho nên hoằng kinh. "Pháp môn": Dẫn ba môn được nêu trong các kinh luận để giải thích thành ý đây, tức "Bất động..." trong đó nêu giải thích. Trong giải thích mỗi mỗi đều trước nêu hành tướng, tiếp nêu sở ly, sau kết ý. Đầu tiên, "Bất động" chính là trung đạo, dẫn văn đều tiêu biểu bất động. "Năm thọ": Kinh nói: Hành cũng bất thọ, cho đến bất thọ cũng bất thọ. Kinh kia tại Diễn vì phá Tam tạng gia, không thọ năm thọ của phàm phu. Cho nên bên dưới rộng giải thích. Thông thường căn cứ bốn câu ngoại đạo... và dùng tuyệt ngôn. Tuyệt ngôn cũng xả, cho nên nói năm bất thọ, cho đến Viên giáo bốn môn và tuyệt. Nếu như vậy, thì chưa chứng thật đến đều gọi là thọ. Nếu chấp viên môn thì năm thọ còn gọi là thọ, thể giáo nhập lý, lý không có sở thọ thì mới gọi là "bất thọ".
Tiếp, rộng giải thích: Đầu, trong rộng giải thích sự: Nhân quả đối biện, chỉ là lần lượt giải thích ba An Lạc Hạnh đây khiến biết cực địa ba đó thôi! "Đại Phẩm...": Lại mượn kinh kia nói "như thật xảo độ" để đối Tiểu. Trong Diễn môn kia ba giáo đều là nhân quả đều có lạc. Khắc thể mà luận, cần phải nên phân biệt lựa chọn, tên Lạc đã đồng chỉ là thiên viên mà dùng phán xét. Thông giáo tam thừa nhân quả đều Thiên, Biệt giáo Bồ-tát nhân Thiên quả Viên, Viên giáo Bồ-tát nhân quả đều Viên, cho nên lấy nghĩa "đều có lạc" và Viên làm tên phẩm này. Dẫn chứng ở Đại kinh, Bồ-tát còn thông vướng là dưới kết ý phẩm văn ắt dùng Thất phương tiện phân chọn, mới xứng với kinh này.
Tiếp, rộng phụ văn: Rộng phụ phẩm trên giải thích thành phẩm này. Do bốn hạnh phẩm này không ngoài ba nghiệp Chỉ Quán và từ bi. Trong đó chia làm ba:
1) Lập cảnh năng thú và sở thú.
2) "Hạnh có...": là giải thích Hạnh năng thú.
3) Vấn đáp liệu giản.
Trong Hạnh năng thú chia làm mười:
1) Liệt kê ba hạnh,
2) "Chỉ hành...": là giải thích.
3) "Tổng đây..." là kết đối cảnh hạnh.
4) "Cảnh xưng...": là kết trở về tên phẩm.
5) "Đại luận...": dẫn chứng. Quán cảnh tức nhân quả.
6) "Nhân thời...": phán xét vị.
7) "Nhân danh...": phán xét nhân quả tên khác.
8) "Lại, nhân...": phán xét nhân quả tên khác, để biện rõ hóa dụng. Nói "ba nghiệp...": ba nghiệp ba mật ba luân đều là tên khác của ba đức. Ý mật tức Bát-nhã, khẩu mật tức Giải thoát, thân mật tức Pháp thân.
9) "Như đây...": là tổng kết.
"Đây hành...": dẫn đồng hội nhập khác. Tổng có hai lớp: Đầu tổng, sau biệt. Biệt tự phân làm ba, tổng biệt đều là tên khác nghĩa đồng. "Tóm lại mà nói...": Tổng không khác, là Như Lai Niết-bàn nhân (người) pháp tên khác lý Đại không khác, bởi vì nhân tức pháp. "Biệt không khác": trong đây chia làm áo nhẫn... ba thứ, kinh kia chia làm pháp thân... ba thứ. "Đây nêu...": là giải thích hai xứ tướng không khác cho nên dẫn kinh kia nói cây báu... ba thứ và dùng năm hạnh. Đầu, ba thí pháp thân... ba thứ, ba dụ đủ như trong Huyền Văn và Thích Tiêm dẫn, tức văn Đại kinh quyển 10. Y tòa đây để đối ba đức cũng có thể thấy. Lại trong năm hạnh cũng cùng áo... đồng, Thánh hạnh là tòa, thiên hạnh là áo, ba hạnh còn lại là nhà. Nhà Phạm hạnh là nhân, nhà bệnh nhi là quả. Nên biết phẩm này đầy đủ mười ý đây. Chính tại nơi nhân, trong nhân chánh là gia-bị cho hạng Ngũ phẩm đệ tử, đến hạng Lục căn tịnh. Vì vậy cho nên tên của phẩm này là từ hạnh mà đặt tên, tức hạnh của nhà An Lạc.
Tiếp, trong "Vấn đáp liệu giản", trước hỏi sau đáp. Văn ý: Tuy lại phụ, chánh mà hai nơi xen nhau có, nay lại phân tích nhiếp để đối hai Tất, nhưng kia đây đều có bốn Tất thì có hay không có cũng không nghi ngại. "Nhất tử địa": Đại kinh nói "Thánh hạnh trụ tam địa, Giới Thánh hạnh trụ Kham nhẫn địa, Định Thánh hạnh trụ Bất động địa, Tuệ Thánh hạnh trụ Vô sở úy địa". Phạm hạnh thành thì trụ nhị địa. Từ, bi, hỷ, thành thì "trụ Nhất tử địa". Xả thành thì trụ Không bình đẳng địa. Nay lại dẫn "Từ bi nhất tử" mà phản chất, "cầm cung mang tên" chưa là thông đồ, cho nên nói chưa từng không nhiếp thọ. Ngũ địa đồng tại Sơ hoan hỷ địa, địa đây không giống nào không gieo, phổ hiện sắc thân tùy nghi lợi vật cho nên phân nhiếp hai môn thâu nhiếp tất cả giáo, hoặc hiện hoặc ẩn, không nên hỏi thiên vị. Nay nói "đồng", là đồng (mùi) vị đồng lý đồng nhân đồng quả. "Rộng giải thích theo pháp môn" cho đến "không ghi chép": là căn cứ trước giải thích. Lại nên dùng các thứ ba pháp thông giải thích văn đây, đầy đủ như mười thứ ba pháp căn cứ theo lệ có thể biết. Nếu lấy nghĩa đây làm tứ Tất-đàn thì: Ba pháp sai khác tức Thế giới, Giải thoát tức Vị nhân, Bát-nhã tức Đối trị, Pháp thân tức Đệ nhất nghĩa. Hai giải thích đều nói đều là tứ Tất.
Tiếp, "Phẩm này...": là giải thích nguyên do, lại có hai: Đầu tiên, nêu hành sâu không cần. Tiếp, "Nếu sơ y...": chính nêu bắt đầu cần hành cho nên có phẩm này. Văn đầu nêu người không cần. Nói "Nếu hai vạn tám mươi ức....": là đầu phẩm Trì nói hai vạn Bồ-tát quyến thuộc theo, đều ở trước Phật phát thệ hoằng kinh. Có bản kinh nói tám ngàn ức, nên nói tám mươi ức, tức trong phẩm Trì nói chư Ni cầu xin Phật thọ ký được Phật thọ ký rồi, chư Ni nói kệ tán thán Phật.
"Bấy giờ Đức Thế Tôn nhìn tám mươi ức các vị đại Bồ-tát...": Đức Phật xưng tán rồi. "Các vị Bồ-tát đó một lòng chắp tay mà nghĩ rằng: Nếu Thế Tôn dạy bảo thì chúng con sẽ như lời Phật dạy...". "Biết sâu xa...": là chánh nêu hạnh không cần đầy đủ đối bốn hạnh để luận không cần. Bắt đầu hiểu sâu quyền thật cho nên không cần hạnh đầu, do trong hạnh đầu khiến cho không cùng Nhị thừa cộng trụ..., vì sợ lạm thọ quyền pháp. "Rộng biết" là nêu rõ không cần hạnh thứ hai, do trong hạnh thứ hai khiến không nói lỗi của tiệm pháp, khiến không ỷ Viên chê Thiên, Thiên chỉ là tiệm. "Lại, thông đạt...": là nêu không cần hạnh thứ ba, do trong hạnh thứ ba khiến ủng hộ Nhị thừa và khiến không dùng Viên trách Biệt. "Thần lực...": là nêu không cần hạnh thứ tư, do trong hạnh thứ tư khiến sau đắc thần thông mới khiến nhập thật. "Nếu sơ y...": là người mới bắt đầu hành thì không có bốn hạnh đây, dùng bốn hạnh phòng hộ kiêm kham tự tiến, nên nói "muốn tu Viên hạnh", muốn lợi tha. Cho nên nói: "vào đời ác trược mà hoằng kinh". "Bị ác trược...": nêu không có bốn hạnh này, tự tha đều mất. "Vì hạng người này...": chánh kết Lai ý. Nói "Nếu sơ y thủy tâm": hạng Ngũ phẩm đệ tử vị và hạng Lục căn thanh tịnh vị đều thuộc "sơ y". "Thủy tâm" tức sơ tâm của Ngũ phẩm đệ tử vị, cho nên trong phẩm đầu (Tùy hỷ phẩm) tuy chẳng phải địa vị thuyết pháp mà tùy sức hoằng kinh cho nên cần phải có bốn hạnh đây. Đến phẩm thứ ba (Thuyết pháp phẩm), chinh đương thuyết pháp để giúp tự hành. Thuyết tức là hoằng, về lý thì cần đem phẩm này lấy làm phương pháp.
"An Lạc Hạnh này...": hành thứ lớp, trong đó có bốn: 1) Nêu không thứ lớp.
2) "Nay vả lại...": nương nơi phẩm trước để nêu tướng thứ lớp không đồng.
3) "Nếu căn cứ...": là căn cứ hành thứ lớp.
4) "Tuy nói theo thứ tự này...": là căn cứ hành không thứ lớp, đầy đủ như Văn Trí Giả giải thích bốn hạnh. Bốn hạnh đã là ba nghiệp Chỉ, Quán và do hoằng thệ đều hạnh đều vận Chỉ Quán đồng thời, huống chi mỗi một hạnh nhiếp tất cả hạnh, huống chi trước đầu phẩm nói áo, tòa, thất ba thứ không sai biệt, cho nên không thứ lớp.
Tiếp, nêu hành thể: Trước, nêu xưa giải thích. Sư thứ nhất nói: "Giả thật" thì giáo nào mà chẳng có? Cho nên chưa hiển hạnh này.
"Thuyết pháp, lìa lỗi": tuy tợ một đường, mà không có tướng từ bi chỉ quán. "Thứ tư: Từ bi" mà lạm hướng ba hạnh. "Cơ sư" giải thích không bằng Sư trước. "Long sư" nói hạnh đầu hơi gần ý nay. "Ngài Nam Nhạc" giải thích như hướng về ý của Ngài Thiên Thai mà vẫn chưa thật đầy đủ. Cho nên Ngài "Trí Giả" giải thích nói: "Chỉ Quán...": ba hạnh trước đều có từ bi Chỉ Quán. Lại đầu tiên, thân nghiệp lại có ba:
1) Nêu có sở ly cho nên không đọa.
2) "Có Chỉ hạnh cho nên..." đủ ba phương pháp.
3) "Chỉ hạnh lìa...": đầy đủ ba đức. Trong đó trước nêu đủ đức, tiếp nêu tương sinh. "Ngoài ra khẩu...": theo lệ. Ba nghiệp đều có từ bi, thệ nguyện cũng đầy đủ Chỉ Quán, cho nên bốn hạnh theo lệ đồng. Cho nên biết trở lại dùng phẩm trước làm tướng của hạnh nay. Nếu không như vậy thì chẳng khéo hoằng kinh.
Tiếp chánh giải thích: Trong giải thích Hành xứ Cận xứ thì đầu tiên nêu ý của ba sư xưa. Tiếp Chương An phá. Do các sư đầu tiên nói Hành xứ thì cạn, Cận xứ thì sâu, tức hai sư đầu tiên; trong đó sư thứ hai có hai giải thích: Trước giải thích nhân quả sai biệt, sau giải thích không nhân quả. Cho nên phá sư thứ nhất và giải thích đầu tiên của sư thứ hai, nói: Thập địa có Hành, không chỉ riêng sơ tâm. Tiếp, phá sư sau: Diêu sư dùng Thất trụ trở lên làm Hành, Thất trụ về trước làm Cận. Cho nên dẫn Tịnh Danh, nói: "Đẳng giác cực sâu cũng gọi là Cận". "Nếu hai hạnh...": là tổng phê phán lỗi của ba sư. Nói "hai hạnh": Hành, Cận hai xứ đều được gọi là "hạnh", cho nên đều cạn đều sâu đều có lỗi. Nói "Phẩm trước": Chỉ trong phẩm Trì "năng nhẫn cảnh trái ngược", tức là hành sâu, thì có liên quan gì trong đây? Nói "Thất phương tiện": Quyền hành sở hành không liên quan đến phẩm này. "Nhưng Hành gọi là...": là lập lý phá. Được tên gọi tuy riêng biệt mà hai nghĩa nhờ vào nhau, trong mỗi một hạnh đều có tập cận (gần gũi làm quen), cho nên đều thông sâu cạn, không thể đều sâu đều cạn và xen lẫn sâu cạn. Nhưng văn phẩm này bắt đầu hành thì chỉ là đều cạn, và vĩnh viễn khác Sư xưa. Do thông đều sâu, khác Thất phương tiện, cạn tuy thông nhưng ý kia đều biệt. Trở xuống dưới văn căn cứ vị trí, nghĩa thông nơi sâu, bởi vì dùng sâu nhiếp cạn. "Lại nữa, Hành, Cận...": dẫn nghĩa để phá. Đã là ba thứ áo, tòa, thất trong phẩm Pháp Sư tức về lý thì không có sâu cạn. "Lại, nhẫn nhục...": là căn cứ hành để phá. "Nếu vậy..": là trưng khởi giải thích nghi. "Vì đến lý...": là chánh phán xét. Nói "đến lý": Do kinh nói "trụ Nhẫn nhục địa". "Phụ sự": Lìa mười não loạn.... Trong sự văn dưới cũng nói quán Không..., như dẫn nghĩa Trung đạo tịch diệt nhẫn cùng Tất cánh Không đâu thể chấp nhận cạn sâu! Chỉ đối sự mà nói thì được tên Áo Nhẫn nhục, căn cứ lý mà nói thì được tên Tòa Không. Cho nên, "phụ sự" ắt y lý, từ lý ắt kinh qua sự; không nên viên hạnh sự lý từng điều như vậy, cũng như hai đế ắt Chân Tục tương tức, đều nói một bên thì chẳng phải Vô sở nghệ. Căn cứ hành chuẩn thuyết.
Hỏi: Đã đối "Áo, tòa" sao không đối "nhà"?
Đáp: "Nhà" thông hai hạnh, thông suốt từ đầu đến cuối. Hai hạnh tuy sai khác mà nghĩa từ bi bình đẳng.
Hỏi: Nêu Từ bi huân Chỉ Quán dẫn ba nghiệp, mà bên dưới giải thích chỉ thấy Chỉ Quán ba nghiệp, mà không thấy Từ bi là sao?
Đáp: Thệ nguyện không chỉ riêng thông trước mà còn khắp dẫn dắt, huống chi đều có vì thuyết, đều là từ bi.
Hỏi: Đầu tiên là thân nghiệp, văn chỉ nói Hành Cận, sao gọi là thân?
Đáp: Hành Cận hai văn chỉ rộng lược sai khác, cho nên lìa mười não loạn, chỉ là nơi thân. Căn cứ cận luận cận, rõ ràng tại thân. Nên biết trụ nhẫn thì cũng là thân trụ, nhẫn địa tức là ấm thật tướng.
Mười tám Không trở lại quán Giới Nhập. Nếu là khẩu ý hai văn thì Chỉ Quán nêu rõ thân, sao không có ư?
Đáp: Khẩu ý là biệt nêu, trong thân là hợp nêu. Vì rằng Cận xứ thì cả ba đều nói là trợ quán, là trợ Chỉ Quán trước, lời nói đó tuy đơn mà tức là song trợ Chỉ Quán.
"Nay căn cứ ba pháp...": là chánh giải thích Hành xứ. "Tức là Nhẫn địa...","cũng bất hành phân biệt". Căn cứ ba pháp tăng số để làm ba lớp. Đầu tiên, căn cứ một pháp, lại có hai: Đầu nêu một pháp tức duyên đế, "trực duyên nhất đế" mà lập ba hạnh. Chỉ nói "một pháp": Vì năng từ sở cho nên chỉ thọ tên "một". "Nhất đế là sở quy...": nêu công năng lý Nhất. Lý đã năng "là nhất thiết sở quy" cho nên năng y ba hành công cũng như thế. Trong đó lại có năm:
1) Liệt kê công năng có ba, tức là sở quy, tác bản và vô phân biệt, cho nên ba đó là hành, duyên nơi nhất xứ.
2) "Nhất thiết sở quy là...": giải thích ba hạnh.
3) "Không có ba hạnh..." là đối xứ kết danh.
4) "Hành xứ như đây...": nêu cùng phẩm trước nói ba pháp nghĩa hợp.
5) "Đây gọi là...": tổng kết.
Trong Giải thích ba hạnh tự có ba:
1. Giải thích hạnh thứ nhất lại có hai: Trước hiểu rõ kinh, tiếp kết danh. Hiểu rõ ý kinh: Địa sở trụ nghĩa là thật lý. Tiếp "Các hành...": nêu năng trụ hành tức y lý khởi hành. "Đây tức..." là kết danh. Nói "hành mà bất hành": Lý tuy không hành, y lý mà hành. Hành đắc lý thôi dứt tức gọi "bất hành". Năng trụ là hành nhân đắc lý. Năng hành thắng hạnh, hành tức bất hành cho nên nói "hạnh hành mà bất hành".
2. Giải thích hạnh thứ hai: Cũng trước hiểu rõ kinh, tiếp kết danh. Hiểu rõ kinh: Cũng chỉ nhất địa trước. Làm tất cả bản: Bản là nhẫn địa, trú nhất địa cho nên đầy đủ nhu hòa... ba thứ. Đầu tiên, "Như vạn vật...": là tổng nêu nhất địa trước lập hạnh thứ hai. Câu đầu nói thí dụ, "các hạnh đắc lý mà thành": là hợp thí. "Nếu đắc...": chính nêu công năng sinh, trong đó riêng nêu ra ba câu. Đây tức căn cứ lý mới có "tại cương năng nhu" cho đến "tại kinh sợ năng an ổn". "Vô lượng...": đức giải thích nguyên do công đức. "Địa vô sở sinh", là chỉ thật lý trước; "mà sinh công đức" tức nhu hòa... "Tức là hạnh Bất hành mà hành": là chánh kết danh hạnh. Y lý bất hành mà hành nơi hành.
3. Giải thích hạnh thứ ba: Cũng trước hiểu rõ kinh. Tiếp, "Tức là phi hành...": kết danh hành. Nói "khắp vô phân biệt": Hành cùng bất hành tánh tướng không hai, kiến các pháp thật gọi là "bất phân biệt", vô bất phân biệt gọi là "cũng bất hành bất phân biệt". Tiếp, "Không có ba...": là đối xứ kết danh vì đắc thật xứ, khiến hạnh kia có tướng ba mà một. Tiếp, "Hành xứ như đây...": cùng phẩm trước nghĩa hợp. Câu đầu tổng nêu. "Dừng nghỉ...": đối ba câu trước, "dừng nghỉ các hành": tức là "hành bất hành", "tùy sinh....": tức "Bất hành hành". "Khắp vô phân biệt": tức "phi hành phi bất hành". Tiếp, "Đây gọi là...": tổng kết có thể biết. Cho nên biết một pháp tức ba pháp. Ba pháp làm bản, cho nên trước nêu.
Tiếp, "Căn cứ hai pháp, tức dùng Sinh Pháp hai nhẫn" hiểu rõ văn, trong đó chia làm bốn:
1) Nêu.
2) "Hai nhẫn...": hợp tên khác, tức là hai không.
3) "Hai không...": biện rõ khác. Trong đó đầu nêu. Tiếp "Vì sao...": giải thích tướng khác. Chân tục giả thật thông nơi ba giáo. Nay ý tại Viên đâu chỉ khác nhị thừa ư! Lại tùy nạn biện rõ cho nên tạm đối. Nói chân tục giả thật nêu rõ nhị không, Chân đế tức pháp không, Tục đế tức sinh không, tục giả chân thật, cho nên Huyền Văn nói: Thế đế phá tánh, Chân đế phá giả, giả phá tức tương không, tánh phá tức tánh không, cho nên chân tục bất nhị. Nhị không đồng thời. Vì đối sở phá để phân chân tục, tức chân tục bất tư nghì. Trong thông cũng có hai thứ Không đây, danh đồng nghĩa khác, cùng thời không sai khác phải khéo châm chước. Tiếp, "Nếu lại khai...": là nêu khai hợp. Nếu khai làm bốn nhẫn, hai chữ "nhu hòa" làm phục nhẫn, hai chữ "thiện thuận" làm thuận nhẫn. "Lại nữa...": là Vô sinh nhẫn. "Cũng không...": tức Tịch diệt nhẫn. Nếu làm năm nhẫn tức tách chữ "Thiện" trong thuận nhẫn còn lại đồng bốn nhẫn. Nếu làm sáu nhẫn tức tách chữ hoà trong phục nhẫn, còn lại đồng năm nhẫn. Nếu lại khai làm bốn mươi hai nhẫn chỉ xuất ở trong hai nhẫn Vô sinh và Tịch diệt. Nếu đối Trụ tiền tùy bốn, năm, sáu nhẫn, trước tăng giảm có thể biết, nghĩa đều thông sau. Nếu nói một địa đầy đủ bốn mươi mốt, thì địa địa có bốn mươi mốt nhẫn, cũng địa địa có phục thuận... Hiệp thì y trước làm bốn hay làm hai, hai lại làm một đồng lập tên nhẫn. Địa địa đều là phục thuận vô sinh tịch diệt.
4) "Nay vả lại...": là chánh giải thích vẫn lìa nhị Không lấy làm bốn nhẫn, thì trong kinh các câu đều đầy đủ hai Không bốn nhẫn.
Trong đó có mười:
1) Nêu.
2) Liệt danh.
3) "Bốn nhẫn đây...": nêu Biệt khác Viên.
4) "Nay Viên...": nêu ra ý Viên nay biện rõ khác với Biệt.
5) "Đại kinh...": là dẫn chứng.
6) "Nếu căn cứ...": căn cứ không cạn sâu để nêu bốn nhẫn.
7) "Nghe sinh tử...": hiểu rõ kinh.
8) "Hành đây...": dùng ba pháp kết:
9) "Hai không..." kết danh.
10) "Đó gọi...": tổng kết.
Thứ nhất, hai như văn. Thứ ba nêu trong Biệt giáo tức dùng hai nhẫn phán xét bốn nhẫn kia, tức phục thuận tại Địa tiền cho nên nói Sinh nhẫn, vô sinh tại Địa thượng, tích diệt tại cực quả. Cho nên từ sơ địa y pháp đắc nhẫn, thông gọi là pháp nhẫn. Thứ tư, nay trong Viên, Viên vị các nhẫn đều không có sâu cạn. Thứ năm, dẫn chứng Bất nhị nêu văn tại đây. Thứ sáu, căn cứ không sâu cạn lập bốn nhẫn. Nếu nhờ Biệt gọi Viên vả lại dùng phục thuận làm Trụ tiền, Vô sinh làm đăng trụ, tịch diệt làm Diệu giác. Tạm ly đối đương hành lý ắt dung hợp cho nên nói đều thấy lý trung đạo, nên như văn nay để đầu phục nhẫn, cũng thông Kim Cang, tịch diệt vô sinh cũng thông dưới. Thứ bảy, chánh hiểu rõ trong kinh, sở dĩ không tiêu trụ nhẫn nhục địa.. là hướng lập Viên bốn nhẫn đều do trú nhẫn nhục địa cho nên lại để qua. Lại không tiêu Pháp nhẫn chỉ lược tiêu Sinh nhẫn, nhưng sinh nhẫn nghĩa sâu pháp nhẫn có thể biết. Trong Sinh nhẫn lại không tiêu nhu hòa thiện thuận tức tâm không gấp gáp không kinh sợ, là các đức nhu hòa v.v... Đã hiểu rõ tâm không hốt hoảng ở nơi bạo ngược... trước thì căn cứ đây mà biết cho nên biết bốn nhẫn đều y lý để hiển Viên. Trong lược giải thích hai câu đầu, giải thích: mà không hốt hoảng nơi bạo ngược. Tiếp, "Nghe Phật...": giải thích tâm cũng không kinh sợ, câu này đã dung thông, các câu còn lại có thể thấy. Cho nên nói nghe sinh tử Niết-bàn cho đến chẳng khó chẳng dễ, thì biết tâm kia thường trú nhẫn địa. Thứ tám, dùng ba pháp kết cũng là hành bất hành... ba hành. Thứ chín, mười, có thể thấy.
Thứ ba, Căn cứ ba pháp lại có tám:
1) Thẳng nêu ba pháp.
2) Ba pháp... chỉ ba pháp tướng.
3) "Trú nhẫn...": chánh tiêu kinh văn. Câu đầu tổng, "nhu hòa..." là biệt. Trong biệt nói nhẫn kiến ái... đây là chân đế không do dựa lý Trung. Lại căn cứ Không biên cho nên nói kiến ái. Nếu từ lý nói tức đồng thể kiến tư.
4) "Đây thì...": kết danh.
5) Hành cũng có ba... kết thành ba hành ba pháp.
6) Đó là... tổng kết.
7) Đưa ra giải thích khác.
8) "Kia nêu rõ...": căn cứ giáo không bài xích. Trong cụm từ "Không dung thông vân vân" thì "vân vân" là: lẽ ra nêu đủ viên tướng để hiển bày kinh này. Nếu không như vậy thì chẳng phải hành An Lạc Hạnh.
Tiếp "Thế nào gọi là Cận xứ...": Giải thích Cận xứ vì đối lìa biên nên căn cứ Khứ thanh. Hai chữ "cận viễn" nếu đối sở cận ứng đều là thượng thanh. Nay nêu năng hạnh đối pháp sở ly cho nên đều Khứ thanh, trong đó chia làm bốn:
1) Nêu.
2) "Viễn (xa) mười...": liệt kê ba môn.
3) "Trên thẳng...": chỉ bày ba ý nguyên do.
4) "Căn cứ đầu có...": là chánh giải thích ba nơi, trong đó liệt kê tam học đều nói "trợ": Người mới hành hoằng kinh cần sự trợ giúp này, tam học năng trợ trợ nơi chánh hành.
Hỏi: Chẳng viễn chẳng cận tức là chánh hạnh, vì sao nói trợ?
Đáp: Đây là phép tắc quán hành sơ tâm, phụ tam học đây gọi là sở phụ làm trợ, trợ pháp hoằng thông cho nên gọi là trợ.
Đều nói phụ: Chẳng hoàn toàn chánh thể, phụ cận mà thôi! Lại như đầu môn chỉ là tùy cần thiết, tóm lược dẫn nơi mười, giới cũng chưa cùng khắp. Tiếp môn lại nói tu nhiếp tâm kia định cũng chưa cùng khắp. Thứ ba tợ chánh viên tuệ, tuệ cũng không cùng khắp. Vì sao? Nếu chánh lập Viên giới cần chỉ Phạm võng không vì không phải cụ túc. Nếu Viên định tuệ cần phải mười pháp thành thừa, biện đủ các cảnh. Nhất vãng lại nêu mười tám Không. Tiếp nêu ý nguyên do. Đối hành xứ trên để biện rộng lược mà làm khác, nay muốn lập lại nêu cho nên nói.
Hỏi: Vì sao những pháp trợ, thông gọi là quán ư?
Đáp: Tùy luận tu hành đầy đủ như Chỉ quán. Nếu rộng vậy, thông luận thì nêu quán nhiếp chỉ. Cho nên hành giả hoằng kinh cần phải chuyên tu diệu quán dùng ba làm trợ mới hợp Thánh ý.
Nên biết hành xứ tức chánh hạnh, cận xứ tức trợ hạnh. Chánh trợ hợp hành ba hạnh gồm lý, cho nên chẳng cận viễn đối sự lập quán dùng trợ chiếu lý chánh quán.
Hỏi: Nếu chánh trợ hợp hành vì sao trước nói trợ tương tự chân ư?
Đáp: Chánh trợ hợp hành ở thể nhập tương tợ chân. Nếu chánh nhất hướng tại chân vị thì đâu gọi là phát tâm, hai không sai biệt ư!
Nói "chẳng cầm dao gậy...": Nay nêu viên hành đối cảnh sở nhục, tức ở giữa "trung đạo" mà nói, không đồng phàm phu giao gậy tự phòng, cũng chẳng phải Nhị thừa buông bỏ không quán. Tuy lại chánh hành mà cần phải xa lìa sự ấy, dùng mười tám không quán năng sở kia, đâu đồng phàm phu Tiểu thừa hoặc bỏ hoặc phòng. "Đều nói rộng như trên...": Văn tuy trước sau, hành ắt đồng thời, nói tuy rộng lược pháp thể không hai. Cho nên dùng trước lược để đối nay rộng, không đồng Cổ đức là chia xẻ kinh văn.
Tiếp trong chánh giải thích: Đầu giải thích căn cứ viễn luận cận. "Hào thế": Sợ người ỷ cậy mất chánh đạo, mới đầu giống như lợi nhỏ lâu thì tổn lớn. "Nhân pháp tà": Sợ người nhiễm tập mê nơi chánh lý, chánh quán chưa thành cần phải phòng đoạn, việc tại gia phạm gọi là Phạm chí, xuất gia ngoại đạo chung gọi là Ni-kiền. Lộ-già-da... Nhà chú giải nói: Trước như cõi đây lễ nghĩa gọi là giáo, sau như cõi đây Trang Lão huyền thư. "Giàda-đà" cũng gọi là Vi-đà. "Cận hung hí": Sợ phóng dật. "Na-la" đây gọi là lực, tức là giác lực hý, cũng là cân lực hý (đùa giỡn...), gần gũi hạng Chiên-đà-la khiến người không có lòng từ, gần hàng Nhị thừa khiến người xa Bồđề. Tây phương không tạp cho nên nói hoặc lại đến thời. Đã chưa thọ đại, không ngại tiểu chí cho nên nói tùy nghi vì dục tưởng sát hại Bồ-đề tâm, dục tưởng như Chỉ Quán quyển tám nói. Bất nam làm hoại loạn chí Bồ-đề. Có năm hạng Bất nam: Nghĩa là sinh, kịch, cấu, biến, bán. Sinh nghĩa là trong thai hoặc lúc sơ sinh, Kịch nghĩa là đứt ngang... Cấu là nhân người khác, Biến là căn, Bán nghĩa là nửa tháng còn lại tức không có khả năng, rộng như Luận giải thích. Nơi nguy hại hiểm nạn không hợp để vào, vì cơ hiềm tăng bất thiện tâm cho người, nuôi dưỡng chướng ngăn người chánh tu nghiệp. Như vậy mười pháp các giáo đều rõ ràng chỉ lìa Nhị thừa các giáo có chút sai khác. Nay hoằng Viên kinh cần phải thuộc Viên nhân. Đây đương căn cứ Nhân duyên và căn cứ giáo hai giải thích chỉ thiếu Bản tích. Nếu muốn lập Bản tức lìa mười thứ nhị biên cảnh giới, Tích chỉ lìa mười thứ não đây thôi!
Quán tâm mười thứ v.v... khiến so sánh giống như nói, nên tác tổng biệt hai thứ: Tổng đều là pháp giới, đâu chỗ nào có thể lìa, đâu chỗ nào không lìa, chẳng lìa, chẳng không lìa mà luận lìa, trở lại đồng với chẳng viễn, chẳng cận mà luận cận. Sơ tâm tuy rõ tất cả vốn không mà phải thường thường cận ở viễn ly Biệt: thì viễn ly ba giáo, giáo chủ thế lực lớn mạnh (hào thế). Hành nhị biên tức là tà hành, người nhị biên tức là người tà. Nhị quán thần thông gọi là hung hý, tam hoặc rất hại sát mạng tam trí. Thiên không diệt tưởng gọi là chúng nhị thừa, thiên quán chân tục gọi là dục tưởng, cho đến còn lìa địa thượng pháp ái, diệt sắc trụ không gọi là Bất nam. Phương tiện quán trí đều hại Viên cực, tất cả cảnh tục gọi là cơ hiềm, xa lìa ma, ngoại gọi là không nuôi dưỡng. Mỗi mỗi đều lấy sở ly làm cảnh, đều dùng tam quán làm cận, đều lấy tam hoặc làm viễn.
Cận cận xứ: Đại luận hỏi: Bồ-tát vì sao tự tĩnh...? Luận đáp: Như bệnh đem thân... đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói. Ba ý...: Như trước nêu bày định tâm định xứ định môn, liệt kê xong tức nên rộng giải thích, rộng chọn lọc. Tâm: Nghĩa là tâm năng kỳ vọng. Xứ nghĩa là xứ trong năm duyên. Môn nghĩa là năm sự điều tâm chưa rỗi luận rộng. Cho nên hai mươi lăm phương tiện tùy cần thiết liệt kê hai. Như vậy ba pháp đều khiến thân cận. Đây căn cứ đối với viễn trước để thuyết cận, gần pháp cận này nên nói cận cận.
Phi viễn phi cận mà luận cận: Đầu khai ba chương làm cảnh trí giải thích. Lại, "Quán là Trung đạo...": toàn căn cứ quán giải thích. Văn đầu có ba: Nêu môn, liệt kê chương, và giải thích. Giải thích: Chữ "quán" đầu tiên nêu lên "trí", ở giũa ba chữ "Nhất thiết pháp" là nêu lên cảnh, chữ "Không" ở sau trong cụm từ "Quán nhất thiết pháp Không" của kinh văn thì luận không giải thích, chỉ là kết thành trí cảnh.
"Nếu riêng luận...": ý nêu rõ cảnh trí, trí tức trí tuệ năm Đức Phật ở đầu phẩm Phương Tiện, cảnh tức cảnh thật Thập Như ở đầu phẩm Phương Tiện. Chỉ chữ "Không" thì tùy vị phán xét, chỉ vì đây thuộc hạnh hoằng kinh, trí kia thuộc năm Đức Phật hiển. Lại, "riêng luận..." tức là nay chánh nêu quán, tại sao nêu tất cả pháp ư? Nêu sở hiển năng cho nên Không hiển nơi quán. Nhất thiết pháp gia chi Không quán. Tiếp, "biệt giải thích": ba chữ "Như thật tướng" là biệt giải thích cảnh. "Nhị biên tam đế": Nhị biên đối trung, trung ắt tam đế. Ba mà không ba gọi là "không một không khác". Tam đế như thật đối Thất biện khác, cho nên nói "thật". Thật tức vô tướng biến tướng tất cả cho nên nói "thật tướng". "Chẳng điên đảo": Là biệt giải thích "trí", đầy đủ như đầu phẩm Phương Tiện, nay không nói nhiều. Cảnh là các câu sở quán trong quán, chỉ năng quán, quán trong bộ còn ít, cho nên trong đây văn ấy ít rộng. "Không có tám đảo": Không có thường, vô thường... đều có bốn, tức tiêu biểu trung đạo. Nhưng các tên gọi "thường, v.v..." danh kiêm giới ngoại, do trong Biến dịch chẳng những riêng có đảo vô thường..., mà đối với song phi vẫn có nêu ra mượn thường... bốn đảo. Nếu không lập song phi nghĩa thì không như vậy, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy nói, dùng song thọ để tiêu biểu đó. Các pháp tức trung, cho nên không có hai món tử. Đảo tức sinh nhân, không có nhân ắt không quả, cho nên trong Đại luận dụ như rơi xuống núi cao tuy chưa đến đất tức gọi là đã chết.
"Bất thoái": Khế hợp lý tịch diệt nhập Tát-bà-nhã, do từ Viên cho nên nhân lập tên quả. "Bất chuyển": Ắt định không bị phàm phu Tiểu thừa chuyển, còn không bị tam Bồ-tát chuyển, huống chi phàm phu Tiểu thừa! Phải căn cứ Lục tức để luận "bất chuyển", dưới có thể biết. "Như hư không": Trước, lập Thí dụ, vì không bị nhị biên chuyển cho nên "quán" không thể đắc, chỉ có danh tự. Tiếp, "Trung đạo...": là hợp, chỉ có danh tự tức tánh không; danh tự cũng không, tức tướng không. Đây tức sở đắc nhị không quán thể. "Vô sở hữu...": xuất tướng nhị Không. Vô sở hữu tức "tánh không tướng". "Nhất thiết ngôn ngữ đạo đoạn": tức tuyệt dứt nói năng tư duy là "tướng không tướng". Trong tánh Không, nói: "không có tự..." là ứng căn cứ chân vọng xen nhau mà luận tự tha và công... Nay lý chân như chỉ là Vô nhân, mà nói "không có vô nhân": là không có "Vô nhân" theo kiểu của ngoại đạo kia. Đầy đủ nhị Không cho nên "bất sinh bất xuất". "Xuất" là thoái vậy. Nay là quán hạnh tam bất thoái. Nói "Hoặc trí... bất sinh": Đầy đủ nên nói "Hạnh vị nhân quả...", chỉ vì văn lược. Nay lược nêu: Hoặc trí và lý thể vốn bất sinh, Hoặc trí xứng lý nên đều bất sinh. Trong giải thích "Bất xuất", nói "Như Lai trị": Toàn thể tức thị, cho nên không thể xuất. "Bất khởi": Do nhập lý cho nên phương tiện lý giáo hết thảy đều tịch. "Vô danh": Lập lại giải thích "Vô sở hữu..." như ở trước. Thuyên cái không thể thuyên, thì về lý không phải danh. "Vô tướng": là tướng sở bất năng tướng. Lại, nói mười cảnh sở bất tướng. "Vô sở hữu": lần nữa lại tán thán quán thể. "Vô lượng": Không phải giới, ấm, nhập, các số pháp. "Vô biên": Không phải như thiên tiểu phân hạn pháp. "Vô ngại": Biến nhập các pháp. "Vô chướng": Không thể ngăn dừng. Tuy lại nhiều câu chỉ là năng quán, vô tướng vô tác cùng cảnh hợp. Đối mười tám câu lập mười tám quán, đối nhất thiết pháp gọi là nhất thiết không.
Tiếp ""Chỉ do...": là kết. Đầu tổng kết các câu không gì chẳng phải nhân duyên. "Trên thẳng nêu...": nêu kết gút ý. Trên phần nhiều nêu song phi, lại nói trung quán chiếu cảnh trung đạo, lẽ nào có trung quán không chiếu nhị biên? Nay đây lần nữa lại nêu chiếu nhị biên, dùng kết các văn để hiển thể trung quán bất tư nghì. Nói "lý tánh rốt ráo thanh tịnh": Lập lại cảnh trung đạo là cảnh song chiếu, cho nên nói như trên đã nói. Trong đây chia làm ba: Đầu căn cứ câu đầu để nêu song chiếu cảnh nhị biên. Thể trung đạo vô tác nhị biên từ duyên, dùng vô tác quán chiếu duyên giải hoặc. "Lại, từ nhân duyên...": lần nữa lại giải thích. Tức lấy câu đầu mà làm Không biên, chiếu duyên sinh, duyên sinh cho nên "Không", "Không" gọi là Niết-bàn, tức dùng câu tiếp mà làm hữu biên cho nên nói điên đảo; đảo cũng từ duyên. Lại, từ đảo biên cho nên gọi là điên đảo. Dùng trung đạo trước, quán không thiên mà chiếu. Nói "ý hiển", là thù thắng vì dùng nhân duyên một câu nghĩa khai hai cảnh. Nhưng văn đầu không giải thích điên đảo. Điên đảo tức là nói nguyên do nên không biệt thích. Nay từ: "Cho nên nói..." trở xuống, là không biệt thích, cho nên nói tức là diệu giáo, giáo ắt hợp cơ không cần phải nói điên đảo Nói thường lạc không có giải thích khác riêng cho nên tổng ở sau chỉ nhân duyên điên đảo tam đế, để nêu rõ quá pháp tức thường lạc tam quán.
Tiếp, "Lại chỉ...": lại hợp hai câu trước đồng làm cảnh tam đế. Phàm từ nhân duyên sinh pháp điên đảo đều là thể diệu cảnh. Do cảnh bản hữu nói các quán trên cũng do giải thích thứ hai nói dụng quán, cho nên có giải thích này kết thuyết kết quán. Lại trong kết ba phen giải thích: Do từ trước đến nay các cảnh: Đầu giải thích do điên đảo nên nói. Tiếp, giải thích do nhị biên nên nói. Giải thích thứ ba, do bất tư nghì cho nên nói. Tuy ba giải thích không đồng, cùng hiển giống nhau. Tuy hiển như nhau đều là thân sơ. Đầu nói từ cơ cho nên nói điên đảo. Từ cơ nói thông, tiếp nói tiệm (dần) thân; do nhị biên cho nên trung đạo vốn không nói. Thứ ba toàn căn cứ thể tam đế bất tư nghì nói, tuy có thân sơ mà quán pháp không sai biệt. Đồng quán tam đế cảnh nhất thật, cho nên một câu thường lạc không chỗ nào ly hợp, do đó trước sau cùng thành một ý.
Tiếp, "Lại quán...": là thông văn trên dưới hoàn toàn làm quán giải thích, trong đó lại có hai:
1) Tác quán thể, quán tướng để giải thích.
2) "Phàm có mười chín câu..." tác mười tám Không tổng biệt để giải thích.
Đầu nói quán tất cả pháp không như thật tướng. Nói "nêu quán thể": Thật tướng là sở quán, dùng sở hiển năng quán mới có thể. Tiếp "Bất điên đảo...": giải thích quán tướng. Nói "chín câu": Đối với mười tám đơn phức dưới không đồng cho nên chỉ chín. Phức cho nên chỉ chín:
1) Bất điên đảo...
2) Bất thoái...
3) Như hư không...
4) Nhất thiết ngôn ngữ...
5) Bất sinh...
6) Vô danh...
7) Vô lượng...
8) Chỉ do...
9) Thường ưa...
Lược nêu ba câu chỉ tướng câu phức khiến các câu khác căn cứ đây có thể biết. Trong đây chín câu xong "thường ưa quán". Dưới mười tám Không chỉ đến "Vô chướng".
Tiếp dẫn Thích luận giải thích "như hư không...". Lại giải thích câu bất sinh..., vì do như hư không nên ba đời không nhiếp. Đầu, "như hư không" là tổng nêu, "Vô nhập" là bất sinh, không từ nơi hiện tại để nhập vị lai; "Vô xuất" là bất xuất, không từ nơi hiện tại để xuất quá khứ, không "Vô trụ tướng" là bất khởi, tức hiện tại chẳng trụ. Dẫn ý Nhiếp Đại Thừa luận cùng Đại luận đồng. Lại dẫn Đại luận quyển bốn mươi ba, tức xét tới giải thích khác thôi. Tiếp, căn cứ tổng biệt nêu Mười tám Không: Ở thể tướng trước cũng có thể lấy làm tổng thể, biệt thể, tổng tướng, biệt tướng. Nay tổng biệt: Ở chín câu trước thì trừ hai câu sau, lấy bảy câu còn lại chia làm mười bảy, tiến thủ như câu thật tướng, hợp làm mười tám. dùng trong bảy câu trước, ba câu đầu, hai, hai làm câu, câu thứ tư đơn, câu thứ năm thứ sáu thì ba, ba làm câu, một câu thứ bảy thì bốn câu làm câu cho nên khiến câu pháp dư thiếu không đồng. Mười tám Không đây từ sở mà được tên. Năng không chỉ là Nhất đại không mà thôi! Đại vô đại tướng tức Viên không. Cho nên văn tiếp nói "Trung đạo chánh tuệ", tức là năng không, cho nên mỗi một câu đều có năng không và sở không. Năng không tức là như, không có gì không đoạn... Sở không tức là điên đảo cho đến ngại chướng... Như nói điên đảo, điên đảo là nội (bên trong), nội điên đảo Không cho nên nói "bất". Phần dưới căn cứ đây có thể biết. Trong Không không, thì trước lập năng sở, các câu còn lại thì sở không có. Bởi vì trong câu đây thì năng sở danh đồng, cho nên biệt hiển. Các văn khác thì tương biệt, cho nên không luận. Trong đó mặc dù sở không gọi là không, vọng trí năng không còn gọi là hữu, trong đây rất lược, tùy giải thích tướng trạng và ly hợp, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói: Nếu hiểu diệu cảnh và viên mười quán thì mới rõ được mười tám quán cảnh trong đây. Nếu không như vậy, thì văn Chỉ Quán kia bèn trở thành uổng thiết lập. Cho nên chỉ là quán pháp của người An Lạc Hạnh. Cho nên biết ban đầu hạnh cần phải thông đạt ý kia thì mới có thể hoằng kinh. Nếu đầy đủ không vừa ý mà làm lợi làm danh làm nhiều làm hơn, thì chịu đồng với đạo Nhị thừa hay không? Đại thừa tiến thoái xét tự tư duy. Do đó siêng năng đối với việc hoằng kinh, bởi vì mong cùng thấm nhuần lợi ích Đại mà thôi! Cho nên mỗi một cảnh kia đều kết thành đại xa, cho nên mỗi quán kia đều y thật tướng. Hơn bốn mươi năm giáo pháp bí yếu, giáo đã khó thấy thì hạnh lý sở thuyên do đâu mà hiểu? Nếu chẳng phải lực của Tứ y hoằng pháp, thì đời mạt pháp người học mê chấp, làm sao gặp được văn này? Nếu gặp mà không cầu, thì đâu khác gì người mù với mặt Trời, mặt Trăng, đâu khác gì như sấm sét với người điếc ư! Chỉ vì trong văn nay quán pháp chưa cùng khắp, thuộc tại bộ kia. Văn tuy không tùy phẩm mà Tướng lược khắp, nay điểm sơ điều này khiến duyên tâm hữu tại. Vì sao? Vì thật tướng là diệu cảnh, từ bi là phát tâm, Chỉ Quán là an tâm, hết thảy phá khắp, mười tám là đạo phẩm, cũng không phân biệt thông tắc, lìa mười tám não loạn trợ đạo, trong mộng thấy là tiêu biểu ba thứ sau. Thông gồm bốn hạnh mười quán lược khắp, thông luận lại dùng bốn hạnh trợ giúp mười. Hoặc là bốn hoặc là mười đều liên quan đến nhân quả, bốn tổng mười biệt. Hoặc tổng hoặc biệt đều thông ngang dọc. Bốn hạnh sự nghi chỉ tại ban đầu? Mười pháp dẫn lý đều có thể trọn đến sau cùng. Lẽ nào phải Niết-bàn hạnh chỉ riêng tại ban đầu? Lại mười tám danh đây tại Đại Phẩm, Đại luận theo đó mà giải thích. Kinh thông tam giáo, luận giải thích còn bao hàm, chỉ vì xem xét nhị thừa mà không vi tế biện Thông Biệt Bồ-tát. Vì vậy cho nên người đọc cần phải trực tâm, cho nên phải đối kinh mỗi mỗi làm viên giải thích.
Trong "Kệ....": Nghĩa khác cho nên "khai", ý đồng nên "hợp". Cho nên Hành Cận bên trên thì dùng rộng để hiển lược. "Trên thì Hành xứ và Cận xứ" đến "thứ lớp": Văn trên hành ba tuy có ba giải thích, mà nên chọn thứ ba chia làm ba đế, giải thích dùng ba lớp giải thích đều hiểu rõ khắp, không đồng ba ở trong cận, chỉ được gọi là các (đều) lại nói không thứ lớp: Chẳng những không thứ lớp cũng chính thông tổng, trong tụng phần nhiều nói văn cận xứ. Cho nên ứng nhập... đến tụng sự cận viễn: Căn cứ viễn luận cận, cũng nên nói tụng song song nêu hành cận. Cũng là tụng nhân không hành xứ, là thứ hai trong Hành xứ, trước làm nhị Không tiêu văn. Ở trong nhị không lìa mười não loạn, cũng đương sinh không nhu hoà thiện thuận. Nói tức bao gồm: Viễn trong cận, cận cũng đồng sinh không pháp không, lại nơi viễn cận tu không tu quán. Lại viễn cận bình đẳng ba cũng chỉ căn cứ ba của hành trước mà thôi! Căn cứ kệ nêu kết đều song song.
"Thường xa rời quốc vương..." tức là cho đến chức quan lớn căn cứ theo lệ trên có thể biết. Không phải thẳng vì hoằng kinh thì pháp người khác đều như đây. Làm như đây là hủy báng Tỳ-kheo: tức Thế tục nói đã là Tỳ-kheo làm việc đây, vì Phật cho ư! Phật pháp như vậy ư! Vi-đà: Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 10 nói. Sở dĩ không cho thân cận Vi-đà, là vì hoặc sợ người nghi giáo lý Tỳ-kheo dạy, họ nói Phật pháp như đây. Lại nữa, ngoại đạo thường suy nghĩ muốn vượt qua Phật, nếu thân cận đây, thì hoặc cho là Tỳ-kheo cần họ kia, Phật pháp không bằng Vi-đà. Cho nên răn dạy trong chúng chớ thân cận ngoại pháp, cho nên sáu đế hai mươi lăm đế... đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển mười nói. Cho tán vịnh căn cứ đây có thể biết. Đầu tiên vì Bạt-kỳ Tử nói A-tỳ-đàm, cho nên biết riêng có A-tỳ-đàm tạng là Phật tự nói. Người không thấy: thì tranh chấp nói hoặc cho là
Luận nghĩa bộ thuộc trong mười hai bộ, là không đúng. Nói "tương tục giải thoát kinh", là Phật tự nói cho nên gọi là Kinh. Sau khi Phật diệt độ, cái được A-nan kết tập gọi là Tu-đa-la. Ngũ bách tập, ban đầu gọi là "giải thoát", sau rộng tập pháp tướng bèn gọi là "luận".
Tướng dục: Trong tụng tuy không nói tướng dục, mà do văn trường hàng có nên nay lược giải thích. Câu-xá nói: sáu thọ dục: giao hợp, ôm nắm tay, cười, nhìn, dâm dục, nay y danh mục xưa. Tu-luân là Tu-la. Như Trung A-hàm nói: Có một dị học hỏi Bạt-câu-la rằng: "Ở trong chánh pháp đã tám mươi năm từng hành việc dục chưa? Bạt-câu nói: Chớ nói lời ấy, còn có việc khác sao không hỏi ư? Dị học lại hỏi: Ông trong tám mươi năm có từng khởi tưởng dục không?
Đáp: Không nên hỏi như vậy. Ta trong tám mươi năm chưa từng khởi dục tưởng, còn chưa từng khởi một niệm cống cao, chưa từng thọ y của cư sĩ, chưa từng cắt rọc y, chưa từng nhờ người may y, chưa từng dùng kim may vá, chưa từng thọ thỉnh, chưa từng theo đại gia khất thực, chưa từng dựa vách, chưa từng nhìn mặt người nữ, chưa từng vào phòng ni, chưa từng cùng ni hỏi han, cho đến trên đường cũng không cùng nói chuyện. Tám mươi năm ngồi tòa, cho nên biết dục tưởng về y thực... hết thảy đều không có, huống là nhiễm dục tưởng ư! Người hoằng pháp nên xem việc này làm gương. Người đời cười người khác là lạm dụng Đại thừa, lấy làm hợp tạp; nhưng ở Tiểu thừa xét kiểm cũng có thể tư duy tường tận, huống chi nay hoằng kinh thì dứt sự cơ hiềm là gốc vân vân.
"Tám tinh tấn...": Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển hai nói. "Lại nữa, không hành thượng trung...": Căn cứ phế quyền mà nói, cho nên ba giáo trước gọi là thượng trung hạ, hoặc chỉ tam thừa hoặc tam Bồ-tát. "Không cậy ở Viên...": Đức Phật mà còn dùng phương tiện khác và các pháp sâu xa khác để trợ giúp chánh đạo, thì kẻ hậu học thuận giáo pháp lẽ nào có thể cố trái? Huân tập thật còn vi tế mà khinh miệt thiên Tiểu thừa, cần phải thuận tôn chỉ Phật ngõ hầu bảo hộ vật cơ!.
Hỏi: Thiên viên và Quyền thật, có gì sai biệt?
Đáp: Thông thì không Biệt, Biệt luận Tiểu khác. Thiên Viên là căn cứ giáo, Quyền thật là căn cứ pháp, pháp tức sở thuyên trong giáo, thông cả lý trí hạnh v.v.... Hỏi: Đức Phật ở đời quán căn cơ chúng sinh sợ họ đọa khổ nên trước dùng Tiểu thừa dắt dẫn, tiếp dùng Thiên (thiên lệch) hướng dẫn, đời mạt pháp hoằng pháp lẽ nào phải như vậy ư?
Đáp: Nay nói trợ là nêu sánh ví mà thôi, sợ cậy Viên chê Thiên. Song người hoằng kinh tùy theo hành vị, nếu là người mới hành thì đầy đủ như văn nay, không dùng
Tiểu thừa đáp. Nếu người địa vị sâu bắt đầu chưa hoằng pháp thì phải dùng ba pháp sinh diệt v.v... thì mới năng hiển Viên đốn, đầy đủ như trong Chỉ Quán các văn đều nói trước tiệm sau đốn.
Trước mặt khen: Như đối trước hai người mà khen một người, người kia không được khen tức là chê, nhưng người ưa khen ắt sẽ khéo chê khiến cho người khác lo buồn điều này, cho nên đều phải dứt. Lại trước mặt khen như đối trước chê cho nên người trí hãy chấm dứt điều này.
Hỏi: Kinh tán thán tiểu thiện thì tại sao ngăn cấm khen trước mặt ư?
Đáp: Ưa khen trước mặt thì chưa hẳn khen tốt, khen thông hai nghĩa ẩn hiển, ngăn việc trước mặt dụ như đề phòng, cho nên người có hạnh an lạc tự hộ phòng việc đó. Cũng không được căn cứ nhà Trương nói sở trường nhà Triệu v.v... tức là: Dựa vào sở trường nhà Trương nói sở trường nhà Triệu. Khiến nhà Triệu cho rằng nói sở trường nhà Trương kia mà chê mình sở đoản, hoặc thấy Triệu hành nói sám nói nhà Trương siêng năng. Lẽ nào không khiến Triệu tưởng lầm khen nhà Trương kia mà chê mình ư! Giống như pháp mắng khéo vậy, do đó không nên làm. Hoặc hướng nhà Trương nói Triệu dở, lại khiến Trương cho rằng chê mình khen kia. Cho nên Đại luận nói: Tự khen, tự chê, khen người, chê người, bốn pháp như vậy bậc trí giả không làm. Vì sao vậy? Tự tán thán mình chính là người cống cao giả dối, chê mình đó là người yêu hoặc, khen người là người dua nịnh dối trá, chê người là người gièm pha nói xấu người. Người trí nên dùng tứ Tất-đàn để suy xét mà hộ tự tha (mình và người).
"Nếu tán thán nhị thừa...": Đối Đại tán thán Tiểu thì khiến mất Đại. Nếu chê Nhị thừa, thì khiến Nhị thừa đại tiểu đều mất, đây là căn cứ người mới hành Nhị thừa cũng là người huân tập Tiểu trợ giúp Đại, như Nhị thừa trong Niết-bàn. "Chẳng sinh tâm oán hiềm": chữ "oán" là khứ thanh, tổn mình thì "oán", trái tình thì "hiềm". Nếu đọc bình thanh, thì tổn thương mình chưa trọng tâm, tích chứa thù lớn. An lạc hạnh còn là bỏ cái vui thuận hợp với mình, huống chi tạo mối hận không oán. Kinh Đại Tập nói: Thời quá khứ có vua La-sát ở vào đời đức Phật Câu-lưu-tôn xuất gia trong Phật pháp, phát Bồ-đề tâm tụng trì kinh pháp Đại tiểu thừa mỗi thứ tám vạn bốn ngàn, do có ý hiềm khích Đầu-đà Tỳ-kheo nói không tụng kinh điển cũng như gốc cây còn lại sau khi đốn, do đó bị đọa địa ngục thọ đại khổ não. Từ địa ngục ra thì bị thọ thân La-sát, cuối hiền kiếp đến chỗ Phật mới thoát thân La-sát. Người thường còn vậy huống chi người tu hạnh an lạc, vì hoằng Đại thừa kinh điển tất nhiên hộ trì tiểu hạnh. Lại oán quái hiềm trách oán sâu hiềm cạn, cạn sâu đều xả mới thành chánh hạnh. Đây khẩu An lạc hạnh; trong đó cái gọi là tâm, là chế khẩu. "Quán các pháp không...": Tâm đã trụ nơi lý Tất cánh không, là nêu lại hành pháp trước, cho nên quyết không chấp Đại mà khinh Tiểu, chỉ tùy thuận pháp tướng, lại thuận vật tình. Còn không khiến thuận pháp mà trái vật tình, huống chi khiến trái pháp mà lại trái cơ ư! Cho nên từ "Nếu không thấy...": là chỉ đáp pháp Đại thừa, tùy nghĩa mà đáp có ba: là ba thứ ngữ, trí giả ngữ tức có thể đáp, vương giả ngữ, người giả ngữ tức không thể đáp. Không nên dùng Viên hạnh để quở trách Biệt, kinh tuy chỉ nói người học Phật đạo, do Tạng Thông Bồ-tát tuy cũng cầu Phật mà cùng Tiểu đồng, còn thuộc Tiểu nhiếp. Đã nói cầu đoản, do quyền có đoản cho nên như vậy.
"Tỳ-kheo..." là nói quở trách Thông: bốn chúng thông có tam thừa, cách đạo rất xa. "Lại nói Biệt": Do trong Thông giáo lại có biệt cơ. "Đắm chìm không..." là từ chối giải thích thông. Lẽ nào Dũng xuất Bồ-tát bổ xứ còn đều không biết nhất nhân làm sao khiến tu các hạnh đây được ư! Huống chi người chưa xuất dự định thuyết hạnh ư! Huống lại xuất rồi phó mạng hoằng trì, không thấy lại khiến có tu Hành xứ. Lại kinh cũng không nên hý luận các pháp, trong đây không cần dẫn Trung luận Quán Pháp phẩm, kiến luận, ái luận, kia chính là Thông thuộc lậu hoặc của tam giới. Cũng không cần dẫn Tịnh Danh kiến Khổ đoạn Tập, tức là hý luận. Đây chính biệt bài xích người Tiểu thừa quả. Lại không nên dẫn Đại luận hoặc nói phi hữu phi vô, là pháp hý luận và câu thứ tư gọi là hý luận hủy báng v.v... Nay ngăn cấm các hý luận làm chướng ngại An lạc hạnh mà thôi. Cho nên biết giải thích nghĩa cần phải vọng bản kinh, bỏ cạn theo sâu chưa gọi là đúng lý. Chỉ và Quán hai hạnh đều có bốn: Trong đây hai hàng đầu tụng Chỉ bốn, tiếp ba hàng tụng Quán bốn. Đầu, Chỉ bốn:
1) Một hàng đầu tụng hạnh thứ nhất lìa ganh, nịnh.
2) Một câu tụng hạnh thứ hai lìa khinh mạn.
3) Một câu tụng hạnh thứ tư lìa tranh cạnh.
4) Nửa hàng tụng hạnh thứ ba lìa não loạn. Tiếp, ba hàng tụng Quán bốn:
1) Một hàng đầu tụng ý thứ nhất đại bi.
2) Một hàng tụng ý thứ ba: đại sư.
3) Hai câu tụng ý thứ hai: từ phu.
4) Hai câu tụng ý thứ tư: đẳng thuyết.
Chỉ vì kia đều từng phát tâm: Do đều đã từng phát tâm thiên tiểu, Nhập thật không xa thông thành Đại cơ tức cảnh Từ. Cảnh Bi đây nhiếp hết thảy trong tam giới. Trong văn đã không nói xuất gia thì biết là người lưu chuyển trong tam giới. Kinh tuy chỉ nói chẳng phải Bồtát, mà dùng Đại lệ Tiểu, thì nghiệm biết cũng không phát Tiểu, căn cứ trước thì Đại tiểu đều là cảnh từ. Nên biết ban vui bạt khổ tùy nêu một bên, cho nên đều giải thích ngăn ngại, khiến thông Đại chỉ. Kinh nói "Không nghe không biết...": là căn cứ lý mà nói. Thiên cũng nên có "không hỏi không tin...". Viên cũng nên có "Không nghe không biết...".
Hỏi: Làm sao biết được ba trước là Quyền, ba sau là Thật?
Đáp: Chuẩn theo văn chánh phát thệ, chỉ nêu ba sau mà là kinh ấy.
"Kinh dùng thần thông...": Hai lực chỉ là phước trí hai nghiêm sâu quán nhà và áo Như Lai. "Cùng làm sức đại thiện tịch": Bất khởi tức là áo, hiện nghi tức là nhà.
Nói "Tám vạn...": Chỉ là Tiểu thừa tám vạn mà thôi! Như Câu-xá nói: Mâu-ni thuyết pháp uẩn số có tám mươi ngàn, chưa liên quan với Đại. "Thứ năm tùy công": Đầu từ Thất hiền cuối đến La-hán đều có phần định tuệ. "Thành tức Niết-bàn": Tức quả thứ tư. "Đắc hữu lậu": Là pháp Hiền vị. Tiếp, trong thí dụ Lục hợp thứ lớp hợp sáu: Đầu hợp đầu, "Mà các...": hợp thứ hai, "Như Lai...": hợp thứ ba, "Kia có...": hợp thứ tư, "Trong bốn...": hợp thứ năm, "Mà không...": hợp thứ sáu. Trong phần hợp cho hạt châu, kinh nói: "Thấy Hiền, Thánh...". Kinh Đại Tập nói: Biết Khổ thì hoại ấm ma, đoạn Tập thì lìa phiền não ma, chứng Diệt thì lìa tử ma, tu Đạo thì hoại thiên tử ma. Nay không nói thiên tử ma, là do Tiểu thừa phần nhiều đoạn ba thứ ma nhưng chưa hoại ma thiên tử, nhưng có nghĩa hoại. Kinh nói "Có Đại...": Như Lai thấy Tiểu thừa Hiền Thánh đây đã trừ nhân quả giới nội gọi là cùng ấm chiến (đấu) đến sau Bát-nhã gọi là công trạng lớn. Cho nên ba độc... lại tại trong Tiểu thừa. Thời sau đó trường thông nói hoan hỷ. Trong phiền não chướng đầu tiên lại có ba: Tức tham... ba độc. Tiếp mười sáu hàng nói tất cả, tức căn cứ dưới giải thích tất cả. Đầu thì từ Thập tín cuối thì đến Diệu giác. Cho nên biết ba hoặc chỉ tại Dục giới ba độc thô mà thôi! Do Thập tín trừ đủ hoặc tam giới, dưới còn có Kiến Tư... ba hoặc, cho nên nói tất cả. Do tất cả nói thông thâu ba hoặc đều chuyển.
An lạc đã là hạnh của Như Lai, vì người hoằng kinh dự biểu quả thành, cho nên biết lực hoằng kinh kia chẳng phải nhỏ.
Hỏi: Vì sao đến đây liền tán thán giáo ư?
Đáp: Đây tại cuối tích môn lưu thông. Trước đã nêu sau khi Phật diệt độ thì hoằng kinh công sâu. Cổ Phật chứng kinh Phật nay thành đạo. Hai vạn tám mươi vạn ức cõi này phương khác tuyên thông lợi ích không thể tính lường. Người thâu hoạch công vi diệu bởi do pháp thật, cho nên cuối phần lưu thông lập lại biện rõ sở thông. Sở thông là gì? Ba chu khai hiển cho nên nêu Luận vương uy phục binh chúng được công trạng. Công trạng có đại tiểu, cho nên ban cho không đồng. Sau bốn hạnh đây lại kết thành, hiển bốn hạnh công thành. Năng hành hạnh đây kiêm sức hoằng kinh, hóa công trở về mình, quả tướng hiển ở trước, cho nên khiến đại sĩ sát na mộng vượt qua ức đời, tiêu biểu một đời hoằng giáo công siêu vượt nhiều kiếp. Đầu tiên trong Thập tín đã nói từ bi, lại nói chánh kiến và Vô si. Từ bi là hoằng thệ tợ phát, Chánh kiến Vô si là giới nội chân thành, tức không có Kiến, Tu hai hoặc. Trong Trụ đã nói "thấy Phật", là tiêu biểu tự mình sẽ đắc tám tướng tức giai vị phần chân Vô sinh nhẫn. Trong kiến thân xứ tiêu biểu nhập thật, tán thán hoan hỷ để tiêu biểu nhập Hoan hỷ trụ. Trong phát tâm kiến cùng sơ địa đồng, cho nên cũng nói "hỷ". Đắc tam tổng trì đủ tam bất thoái, Đức Phật biết nguyên do được thọ ký. Phần dưới nói được thọ ký, có thể biết. Tu tập nói "Hành", trước không gì không hành, không biệt mà biệt đến đây rốt ráo được gọi là "Hành", "Chứng chư thực tướng...": Nói "chư" chính là tiêu biểu đoạn ba mươi phẩm. Nói "Vô cấu": Sơ trụ đã đắc, là thuận Đại kinh, lại từ Sơ địa. Nếu nói nhập Kim cang định, nghĩa đương Đẳng giác, hợp trong địa thứ mười. Trong đây nêu "Tín... năm căn" cho đến "Tám chánh", là giải thích Phật đạo. Đạo sở hành không vượt qua bảy khoa, tùy cần lược nêu bốn khoa sau Tín.
Trước dùng tứ Tất-đàn thông giải thích. Trong Thế giới Tất-đàn đầu tiên nêu nguyên do vâng mệnh đến. Tiếp "Như Lai..." chánh nêu vâng mệnh đến. "Sư nghiêm...": hai nghĩa nêu xen nhau. Đạo tại Sư cho nên "đạo tôn", Sư có đạo cho nên Sư nghiêm. Sư nghiêm nên không thể trái mệnh, đạo tôn nên có mệnh lệnh thì phải đến. Do Sư đầy đủ hai nghĩa nên hết lòng vâng theo. Tiếp, chánh nêu vâng mệnh đến. Cái gọi là "mệnh":
1) Do cuối phẩm Bảo Tháp nói Đức Phật muốn đem kinh Diệu Pháp Hoa đây giao phó cho người có mặt, mệnh lệnh này còn thông.
2) Do văn phẩm này nói Bồ-tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát tám sông Hằng xin đến cõi này hoằng kinh. Đức Phật bảo: Thôi! Ta ở thế giới Ta bà tự có chúng đại Bồ-tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng, tức mệnh lệnh biệt. Cho nên kinh gia trình bày điều này. Các Bồ-tát nghe Đức Thích-ca phát âm thanh thì từ hạ phương phát đến. "Bốn phương vội xuất hiện". Cung kính đến, tự tại bay đến đây cho nên gọi là thế giới... Ba thứ cộng thành sơ cảm ứng. "Ba đời....": là vị nhân: Có pháp, dụ, hợp. Đầu tiên, pháp: Tự bản thành đến nay ba đời lợi vật, cho nên ba đời đây đều thuộc quá khứ. Nay Phật tự đương hiện tại ích vật. Bồ-tát hoằng kinh lại tại đương lai. Tuệ lợi đã rộng chẳng phải tâm lường tới được.
Đưa ra thí dụ mặt trăng: "một mặt trăng" là bản, "vạn ảnh" là tích, chỉ khiến có nước là ứng có bóng Trăng, không hề mỏi mệt, lẽ nào có thể dùng ba đời mà tư duy! Nếu không bác bỏ bóng ảnh thì sao biết trời trăng, nêu rõ các Bồ-tát thật bản, khó lường ngầm hiển Như Lai tích không thể lường. "Mời quá khứ" Nếu không khai tích giáng sinh làm Phật rồi trở lại thì không ai có thể biết, nay muốn hiển bản trước xuất quyến thuộc bản đủ có hai đời thiện căn tăng trưởng. Cho nên gọi người xưa chỉ cho người hiện tại, khiến người hiện tại sinh hiện tại thiện, khiến người xưa hoằng kinh hiện tại, khiến người đương lai sinh thiện đương lai. "Hư không..." làm đối trị. Căn cứ sở biểu lý hư không sự, bản tích. Sự có bản tích, lý không sớm chiều, hoặc là mê lý mà mê mờ nơi bản tích, cho nên chấp cận tích để thất viễn bản, bản tích còn mê huống bất tư nghì nhất ư! Cho nên bản đệ tử ở hư không, hạ phương, Bản địa Sư trải qua ở hư không xưa, nay Sư đệ ở hư không nay, hư không xưa, hư không nay hư không hạ, hư không thượng tuy khác mà thể nhất, nhưng bản đệ tử vốn biết cận tích, đệ tử nay còn mê viễn bản vì phá chấp cận, nên mời xưa chỉ nay. Nay đệ tử nhân nghi dẫn đến thỉnh nghe thuyết mới phá, phá chấp cận ác cho nên nói đối trị. Tịch tràng... là đệ nhất nghĩa: Tịch tràng Xá-na chỉ ban đầu mới thành cho nên cha trẻ, tịch quang Bồ-tát hành lâu chấp nên con già ví như sức của thuốc: Cha vì sao trẻ con vì sao già, căn cứ dưới ý cha con thí cha đã trước uống thuốc chủng trí trẻ lại nên cha già mà như trẻ; con từ lâu bẩm thọ phương pháp thường trú bất tử nên con trẻ mà như già. Tuy đều có công ăn uống mà cha con đã định từ lâu. Đây tứ Tất-đàn tuy thông giải thích văn này mà ý gồm cả phẩm sau. Song đầu một Tất-đàn văn tại phẩm này, ý thứ hai gồm phẩm sau Tất-đàn ba, bốn xét dùng phẩm sau đều là trợ sau để thành hiển viễn. Thiện sinh, ác phá kiến bản. Cho nên biết Thế giới tức là do tam Tất-đàn, phẩm Dũng Xuất chuyên tại Thế giới.
"Văn nói...": là dẫn chứng tổng chứng tức Tất-đàn, tức nhân duyên tứ tất cho nên vân tập. Trong cụm từ "Đoạn Lưu thông vân vân" thì "vân vân" là: lẽ ra nên thuật đầy đủ các phẩm như dưới tùy luận. Lại hai mươi tám phẩm chi có mười một phẩm rưỡi, bản tích lưu thông mười sáu phẩm rưỡi vì lực kinh lớn nêu pháp nêu nhân, dẫn nay dẫn xưa, Đông phương Tây phương, hoặc hiển hoặc mật, tổng thân, biệt thân, hoặc nghịch, hoặc thuận, Phật xưa, Phật nay tự vi tế, tự rõ ràng, lợi ích hiện tại, lợi ích đương lai, lợi súc sinh lợi người, lợi nam, lợi nữ, lợi thân, lợi sơ, lợi sự lợi lý... kể mãi không dứt, lại nữa phẩm văn nói tứ tín bỏ, chọn không định, huống chi bản tích hai xứ lưu thông ý biệt. Cho nên nhà chú giải nói "vân vân". Bản tích lưu thông vĩnh viễn sai khác các bộ. Bồ-tát các phương nghe phước lớn lưu thông kinh, đã nghe tích môn nói, lưu thông xong, do mộ phước thù thắng mà muốn lưu thông. Đức Như Lai ngăn chỉ. Trên rộng mộ hoằng kinh nay các phương thỉnh hoằng, vì sao không cho, cho nên dùng ba nghĩa giải thích:
1) Do trách nhiệm khác biệt nên không có hai đời lợi thì không có thế giới ích.
2) Các phương khác đối với đây không có thần (thầy tôi) làm lợi ích tức không có vị nhân.
3) Hai nghĩa tích nghi không phá tức không có đối trị. Viễn bản không hiển tức không có Đệ nhất nghĩa.
Hỏi: Chư Phật Bồ-tát đã cùng thuần thục, chưa thuần thục, có gì ở đây, kia; phân thân tan bóng biến khắp mười phương mà nói trách nhiệm của mình phế bỏ kia ư?
Đáp: Chư Phật Bồ-tát thật ra không có kia đây, chỉ cơ có hiện không có pháp vô thủy như vậy nên dùng nghĩa thứ hai hiển bày nghĩa đầu, nói kết duyên việc nông cạn. Bắt đầu từ đây. Phật Bồ-tát kết duyên trở lại nơi đây Phật Bồ-tát thành thục ý thú bình đẳng nghĩa như trước nói:
Do hai nghĩa này cho nên cần mời hạ phương, cho nên một phen mời gọi hạ phương cũng thành ba nghĩa, vì vậy cho nên ngăn phương kia không có ba nghĩa, không có tứ Tất lợi ích, Gọi hạ phương có ba nghĩa tức đầy đủ bốn lợi ích: l) Con hoằng pháp cha có thế giới lợi ích.
2) Do duyên... hạ phương duyên sâu lợi nhiều có vị nhân lợi ích.
3) Lại đắc... hạ phương cận nghi phá trừ nên có đối trị lợi ích.
4) Viễn bản hiển nên có Đệ nhất nghĩa lợi ích. Đây là lợi ích triệu bản hoằng kinh. Tứ Tất-đàn trước chỉ tại thế giới vị nhân. Đoạn nghi tức là bản do trong đây chưa thuật. "Trú xứ...": là giải thích bản xứ. Trước nêu tên cõi; tiếp dùng bốn đức giải thích;
"Là vì...": kết danh. Vốn có bốn đức làm sở y, tu đắc bốn đức làm năng y, năng sở đều có thân năng y, y nơi năng sở cõi sớ y, hai nghĩa ngang bằng mới là tướng thân cõi Lô-giá-na. Nếu nói trần sát lớp lớp tướng nhập, lớp lớp tướng có lớp lớp sự... lớp lớp thuyết tức vì người chưa hiểu, mà dùng sự hiển lý. Nếu không hiểu một tôn chỉ đây thì làm sao hiểu được mười phương pháp giới chỉ có một Đức Phật cũng chấp nhận Phật khác! Nếu chấp nhận Phật khác thì Phật ấy cũng có thân cõi lớp lớp hỗ tương hiển hiện nhập, dung thông, nên biết chỉ là căn cứ một Đức Phật mà luận khắp. "Do không...": là giải thích ý trú. "Hạ phương...": giải thích phương dưới. Sâu tận đáy pháp tánh là nghĩa giải thích dưới (hạ), cực địa của huyền tông là nghĩa giải thích phương, huyền tông lý nên gọi là huyền tôn. Tông là tột cùng nguồn gốc nhận lấy quả đã mong; các Bồ-tát đây phân đến kỳ hạn. Lại nói cực địa lại địa (đất) nứt; đất lấp phủ những gì thuộc bản như tích giấu bản, nay khai tích hiển bản cho nên phân đất nứt biểu hiện. Nhưng các Bồ-tát trước đây cũng từng có tích, tuy chỉ hiển bản, đối lý chưa rõ ràng, chỉ đệ tử bị che phủ nghĩa sẽ che phủ Sư, đệ tử nếu hiểu, Sư cũng đều hiển, cho nên hiển đệ tử nghĩa là sẽ hiển Sư. Nói ở hạ phương không thuộc cõi này, không trung không thuộc cõi kia, tại hư không hạ phương cho nên không thuộc cõi đây, trú nơi không cho nên không thuộc cõi kia. Lấy cõi kia tiêu biểu không, lấy cõi này tiêu biểu có, lấy hư không tiêu biểu trung, xuất hiện cõi này không ở trên nên chẳng phải cõi trên (thượng), không ở dưới cõi này tức cõi đây ở dưới hư không cõi trên, cõi này tức là dưới nên nói dưới đây. Lại dùng thượng giới tiêu biểu không, cõi đây tiêu biểu có, hư không cũng tiêu biểu trung, cho nên thượng hạ hai không đều tiêu biểu lý trung. Lý tức Tịch Quang. "Nguyên do đến..." đến "đều như trên nói": "Từ" nghe mệnh lệnh...": bốn câu cho nên đến, là kết giải thích ý phẩm tứ tất, cũng là dừng phương khác triệu hạ phương ba nghĩa cho nên nói như trên.
"Nếu y pháp môn": Năm chữ nay ứng hợp chấp sáu vạn chẳng phải nhiều dưới chẳng phải đã trên vẫn thuộc nhân duyên, cũng không cần thay đổi. "Nhất tức nhất đạo...": Đã nói pháp môn cần phải thông nhân quả, sự thì từ nhiều đến ít, pháp môn từ ít đến nhiều nghĩa nên y lý khởi hạnh. Tăng đến lục độ đã kết làm sáu vạn thành viên quán hạnh, hạnh y diệu cảnh cho nên độ thành vạn độ thật không có vạn. Trong sáu độ đều có vạn chỉ là một vạn không khác biệt vạn, sáu hoàn toàn là vạn không khác biệt sáu, mỗi một độ hành đều là pháp giới, giới vô giới tướng chỉ một sát-na tức "nhất đạo". Một-sáu đã vậy, nhưng hai-ba-bốn-năm căn cứ đây có thể thấy. Vậy thì trong sáu đều là một nhiều đầy đủ tất cả. Phải biết nhất đạo đến ngũ căn đến, một nhãn một đế đều đủ một vạn, đều là tam quán quán pháp giới. "Đều nói thiện" không thông mê, nhiều không nhiều là không, một không là một giả, song phi song chiếu là trung. Nói v.v..." cần phải luận đủ diệu cảnh diệu quán đầy đủ như trên dưới không còn lại nói hạnh đức của Bồ-tát kia. Căn cứ đầu tiên "Ba nghiệp cúng dường" đến "thấy khắp" là đây chính cảm ứng đạo giao, năm mươi kiếp khiến như nửa ngày. Đây nêu việc dài ngắn bất khả tư nghì của Như Lai hiển bày nơi thần lực tự tại của Như Lai, tức là hiển không căn cơ tuy mượn tuy ẩn mà cũng không thể nơi dài thấy ngắn nơi hẹp thấy rộng, gương soi đâu tiếc tốt đẹp do hình cho tiên vậy!
Có người nói: Chỉ cầu nghe pháp mà quên cả thời gian dài hoặc nói dài ngắn đây, mất cả sự dài ngắn ở đây tồn tại, đây đều đắc cảm mà mất ứng, do đâu mà kiềm chế thần lực Như Lai ư! "Lễ bái nhiễu quanh...": lại giải thích cảm ứng. Đầu tiên giải thích ba nghiệp cúng dường làm cơ... "Năm mươi tiểu kiếp..." là giải thích tướng cảm ứng tức dài mà ngắn. "Bốn chúng...": là giải thích tức hẹp mà rộng. Trong dài ngắn lại có bốn:
1) Lược chỉ.
2) "Như Lai..." nêu rõ không dài mà dài.
3) "Giải..." căn cứ giải hoặc phân biệt tức là phó cơ. 4) "Đây là...": nêu ý hiện dài ngắn.
Văn thứ nhất: Tức một trong tám tự tại. Văn thứ hai: Mắt Phật xem dài ngắn không hai. Tứ nhãn nhìn đều có dài ngắn, cho nên phó cơ dài ngắn khiến thấy không phải một. Văn thứ ba: Giải Hoặc đều có cơ cho nên khiến Bồtát tức ngắn mà thấy dài, người chấp tức dài mà thấy ngắn. Như vạn tượng sum la phàm phu cho là khác, Nhị thừa gọi là như. Như Lai thấy chẳng như chẳng khác mà như mà khác. Đã nói khiến các đại chúng nghĩa là như nửa ngày tức thúc giục kia dài khiến kia thấy ngắn cho nên nói ẩn dài, rộng hẹp cũng vậy. Như hữu lậu pháp còn tối tăm, ở sáng mà không thấy loài dơi ban đêm mà có thể thấy cho nên biết sáng tối tại mắt chẳng phải tại cảnh. Huống chi cơ ứng tướng triệu lực xưa nay.
Hỏi: Đã nói "Hoặc", sao lại gọi diệu cơ?
Đáp: Bồ-tát đã phá vô minh, xưng là "Giải". Đại chúng vẫn ở Hiền vị gọi là "Hoặc", trong cơ biện rõ vị cho nên nói "Giải Hoặc".
Bốn thứ đây vì bình đẳng là hiện đây phi trường, phi đoản, trường đoản (dài ngắn) và chẳng rộng chẳng hẹp, rộng hẹp, là nêu rõ thành Phật đã lâu hóa tích ắt nhiều, đã vì làm hạ phương chẳng bản chẳng tích viễn bản và chẳng ít, chẳng nhiều rộng tích mà làm gọi trước. Cho nên biết khai xong còn thông đạt chẳng viễn, chẳng cận,viễn bản, huống chi cận tích. Nếu chưa khai hiển, còn mê muội nơi cận tích huống chi viễn bản chẳng viễn chẳng cận. Do chưa biết từ lâu bản mà bị mê hoặc lý đây hẳn như vậy, cho đến khai hiển đều biết bản không dài ngắn viễn cận đây còn, cho nên nói bất tư nghì nhất. Cho nên trước mật hiện tiêu biểu bản tích phi bản phi tích. "Bốn chúng thấy khắp...": nêu trong rộng hẹp, cũng trước lược bày. Tiếp, "Xét nhục nhãn...": là giải thích: Nhục thiên hai nhãn với tự lực đó thấy không xa, nay bỗng thấy xa, biết chẳng phải sức mình, tức biết Như Lai hiện thần biến đây chắc sẽ nói pháp vi diệu.
Tiếp mưa dữ dội đầy hoa dụ cho thấy ứng, rồng phun nước đầy ao sâu dụ biết chân thật. "Thấy ứng...": là hợp thí, thấy các Bồ-tát ứng tướng đã nhiều ắt đều chứng đắc chân thật khắp pháp giới chỉ hướng người thấy ngắn mà thấy nơi rộng, rộng nếu là cơ ngắn đâu thể chuyên ứng ư! Đã thấy rộng tức hẹp lý cũng chính là thấy dài tức ngắn, mật tiêu biểu đương phá vô minh cho nên lại kiềm chế một phần kia. Trình bày hỏi trong kệ cũng tụng hai nghĩa trước:
Một hàng đầu tụng trước: Như Lai an lạc có hai: hai câu đầu chánh tụng an lạc. Hai câu tiếp tuy nói giáo hóa cũng thuộc an lạc đó thôi.
1) Một hàng tụng ý thứ hai dễ độ... Nói "vân vân": là khiến nêu ý trong hai câu tụng. Chỉ nêu bốn người nói muốn làm theo, so sánh theo, cũng đối với Như Hoa Nghiêm... dẫn đồng. Bốn mươi vị... nói v.v.... nêu kia đây Phật tuệ đã đồng nhân pháp tương vọng cũng bang đẳng. Chỉ vì tích kia bản đây, kia và đây riêng biệt, cho đến như mười nghĩa sau không đồng. Bản tích tuy khác mà kia đây đều có bốn, đều là dẫn đầu cho nên được theo lệ. Tuy có thêm cùng không thêm và tên không đồng vì biết không là pháp tuệ kia bình đẳng. Cần phải bôi lớp mỏng lướt qua cũng như đứa bé bị bệnh uống thuốc tạm thời đoạn dứt sữa quyền dùng độc bôi, thuốc đã khô rồi rửa sạch uống sữa, đầu sữa sau sữa thể sữa không khác; trung gian bị bệnh tiến hay không là do quyền lập, cũng như mụt nhọt khí nóng đang thạnh, cần phải dùng đá lạnh chườm qua khiến nóng thôi rồi, dứt lạnh, đầu thân sau thân thể kia không khác. Bị nóng thì tạm chườm, nóng thoái lại như ban đầu. Đây nhập kia nhập hai nơi không khác. Chỉ vì căn độn, thời nhập chưa đến. Như ung nhọt, như trẻ con cũng cần phải bôi, chườm lạnh, dùng lạc... ba thứ tạm thời điều thục cho nên nói bạc (mỏng). Nói "Mười ý": Tuy Phật tuệ không khác hóa duyên sinh thuần thục sáng tối vẫn sai biệt. Vì vậy cho nên lược cần thuật sự khác đồng đó, không thể sự khác khiến Phật tuệ sai khác, đâu phải Phật tuệ đồng khiến giáo duyên là một, hai Tô thời khác Phật tuệ ắt đồng huống lại cũng là một Đức Phật sở hóa, cần phải hiểu rõ khác vốn chẳng khác. Trong đó trước liệt nêu tiếp giải thích. Trong liệt nêu thứ ba nói xen nhau, căn cứ dưới giải thích trong đây nên là đề mục nói ngang dọc rộng lược, đến trong dưới giải thích hai nơi đều sai biệt. Tiếp trong giải thích đầu trước thấy nay thấy: Hoa Nghiêm nói mới bắt đầu thấy kinh văn tự nói mới thành chánh giác. Văn sau chỉ là rộng nêu tướng nhân quả, y chánh thông đồng. Do đó trong một kinh, mà ba nơi văn nêu rõ, tức đầu phẩm Thế Chủ, đầu phẩm Danh Hiệu, đầu phẩm Thập Định, đều nói ở Bồ-đề tràng mới thành chánh giác. Do thành bắt đầu cho nên kiến tức thành ban đầu, nay tức Pháp Hoa chính ở thành Vương-xá khai tri kiến Phật. Năng kiến sở kiến cảnh trí đâu có gì sai khác.
Tiếp, "Nhật chiếu...": khai hợp không khai hợp: Hoa nghiêm vọng tiểu lại gọi là không khai, còn chấp nơi tiệm cho nên gọi không hiệp, ở Hoa Nghiêm kia không nhập, vì nay nhập, lại khai nơi tiểu, Tam-muội điều phục nay kinh mới hợp. Nói năm vị gồm luận từ đầu đến cuối vậy. Huống chi kia không hợp nay cũng hợp đó. Cho nên, biết kinh kia khai cũng không khắp, hợp căn cơ chưa đủ, hợp cũng không khắp, còn tồn tại quyền tích. Nên biết kia khai cũng là đây khai, nhưng cũng đây hợp đâu khác kia hợp, việc một Đức Phật hóa đồng khác rõ ràng. Chỉ vì kia không có tiểu căn cơ ban đầu gọi là đốn, từ khai tiểu về sau gọi tiệm trở về đốn, khai hợp tuy khác mà hai đốn không sai biệt.
Tiếp, "dọc rộng ngang lược": Hoa Nghiêm lại căn cứ nhập pháp giới biên, và từ Sơ trụ cuối đến Thập địa gọi là dọc nhập trải qua bốn mươi hai vị nên gọi là rộng. Lại căn cứ ở không dùng sáu phương tiện biên nên gọi là ngang lược; phương tiện đối thật nên gọi là ngang. Nếu căn cứ rộng luận hạnh nguyện, thân Phật, cõi Phật, tướng hải, danh tự, thân cõi bốn câu chủ bạn mười phương cũng là ngang rộng. Nhưng tự tại đại trong dọc mà luận ngang cho nên nói ngang lược.
Đây thuật một phen hóa trải qua khắp năm vị, vị vị các giáo, giáo giáo tương vọng cho nên nói ngang rộng. Từ đầu đến cuối nơi nơi đắc nhập cho nên nói dọc rộng, hai môn Bản, Tích đều nhập thật lại gọi là dọc rộng. Lại cũng nên nói hoặc Bản hoặc Tích đều luận lâu xa, ba đời lợi vật vĩnh viễn không cùng tận gọi là dọc rộng, trong ba đời giáo hóa, tám giáo tướng nhập cho nên nói ngang rộng, huống lại phóng hào quang ngang trình bày các Bồ-tát hành ở cõi khác. Đáp hỏi dọc giải thích quá khứ hóa nghi. Ba chu ba tiết nói lãnh giải thuật ký lại được gọi là ngang rộng dọc rộng, đều là Như Lai khéo léo thuận vật thích hợp hội đương thời. Nên biết đây rộng đâu khác kia rộng huống kia dọc rộng nghĩa bao hàm ngang rộng cho nên hiển mật không đồng, thời thuyết chưa đến, phàm có thiết lập nói không đồng đó vậy.
Tiếp, "Bản một Tích nhiều...": Chỉ Hoa Nghiêm chỉ dùng một đài làm bổn trong tích, bản chẳng lâu xa cho nên khiến ngàn lá thành tích trong tích, chỉ vì đài vọng ngàn lá nên lấy đài làm bản. Dù khiến mười phương hỗ tương làm chủ bạn, thì mười cũng lại không xa lìa một mảy trần, một mảy trần ở nơi đài đây lá đây. Phải biết đó chỉ là y chánh trong Tích, nên Tích nhiều cùng chung với các kinh. Cho nên, Pháp Hoa tích đồng các kinh. Hoa Nghiêm chỉ cùng phần đồng trong tích nhưng đã rộng trình bày y chánh dung thông việc gì lại không nêu bản lâu dài ư! Nếu luận bản môn thì cùng các kinh sai khác, Hoa Nghiêm tức mang Pháp Hoa bản khác. Hoa Nghiêm tuy có nhân hạnh lâu xa cũng chỉ là nhân ngày nay một phen thôi! Còn chưa từng nói quả trung gian huống chi có trung gian thường luôn thành Phật. Phải biết đây khác thì khác với kia, cho nên nói riêng bản. Nếu nói không khác Già-da thì còn là Hoa Nghiêm đâu chẳng phải! Khai thì đều khai bất tư nghì nhất đây chính dùng Pháp Hoa viễn bản khác với Hoa Nghiêm cận Tích. Cho nên biết giáo môn không được không khác.
Tiếp "Được thêm...": Hoa Nghiêm phần nhiều là thêm Bồ-tát thuyết, cho đến Văn-thù Phổ Hiền và nhập pháp giới, còn là Bồ-tát tự nói, không thấy văn Phật ấn chứng Pháp Hoa từ trình bày Văn-thù giải thích nghi và trong lưu thông. Có các Bồ-tát phát thệ nguyện hoằng thông đều do đức Phật thuật là để đối đức Phật tiện làm ấn chứng cho nên bản tích chánh kinh đều do Phật tự thuyết. Tuy thêm đều thành Phật tuệ hóa nghi thiết lập thời xứ không đồng, ấn cùng không ấn kia lý nhất. Phải biết đồng khác để hiển hóa nguyên do hóa độ.
Tiếp, nói "Cõi bất biến...": Tịnh uế không đồng thường tự sai biệt. Nay nói biến: Uế là thí quyền biến tiêu biểu hiển thật, uế thuộc ngũ trước vốn tại tiểu cơ, cơ hợp quyền khai cõi biến làm tiêu biểu. Cho nên, hiển bản đã thuần các Bồ-tát, tịnh độ không hủy mà chúng thấy thiêu hủy. Lại kia thì chủng chủng thế giới không đồng, tịnh không ngại uế, đây thì cây báu hoa quả vui đạo, uế không ngại tịnh, huống chi Thường Tịch quang độ tốt xấu đều vong. Tịch quang sở đối đều có tịnh uế. Tuy biến mà bất biến Phật tuệ có gì sai khác. Đâu do đầu cuối biến bất biến sai khác khiến Phật tuệ sai khác. Nếu vậy, nói không tin không hủy chính cố chấp nơi văn kiến thiêu. Mà dùng Hoa Nghiêm hình bài xích Pháp Hoa. Như người hủy báng thân kia mà xưng tán tay chân, cho nên biết căn cứ tích nói biến bất biến, tịnh uế khó nghĩ bàn thể đồng danh khác.
Tiếp, "Đa xứ bất đa xứ...": Bảy xứ tám hội và hai xứ ba hội, tuy nhiều ít không đồng, chỗ nói có gì sai khác! Đâu có nhiều ít (đa thiểu) sai khác khiến Phật tuệ sai khác. Nếu do đồng một báo độ cũng chẳng phải đa xứ (nhiều nơi). Trong đây rộng đối bốn cõi xứ từ chối thành đa (nhiều), trở lại dùng kia nhiều đối tịch quang đây. Nhiều cũng tức là một kia đây thể một Phật tuệ không khác. Tiếp chê đoạt lấy: Cũng có thể lại nói kia như câm như điếc, cho nên có chê đoạt, đều được Phật thọ ký cho nên không có chê đoạt. Lại có Tiểu thừa cần phải cải đổi cho nên các kinh chê đoạt, kinh kia không có Tiểu thừa cho nên đương bộ không bài xích. Lại việt giáo quyền nói quyền đây dễ chuyển cho nên không cần bài xích, Tiểu thừa khó chuyển cho nên cần phải chê đoạt lấy chuyển. Tiếp thẳng hiển thật...: Tuy có việt giáo để dễ khai cho nên cần nói thẳng (tức). Phải quyết hiểu rõ: Tiểu khó khai cho nên phải nói khai. Tiếp căn lợi độn: Căn cứ thứ lớp điều thục gọi là độn căn, nay đều khai đâu được độn độn. Nếu căn cứ gồm biệt, kia vẫn một độn, đây chính độn lợi, cho nên căn cứ năm vị phán xét các lợi độn bởi do đây. Nhất vãng lại từ hội nơi độn cho nên nói độn, sở dĩ đến đây cơ đồng, cảm đồng cho nên Phật tuệ đồng. Căn cứ hóa nghi nói cho nên cần biện rõ sai khác. Nếu biết lý đồng tức hỏi: Tất cả các kinh cho đến cây cỏ theo lý đều bình đẳng, riêng gì Pháp Hoa ư?
Đáp: Giáo đồng khác đầy đủ như trong Huyền Văn. Tuy hết thảy lý đồng nói nơi giáo này mà nay đối tương khen là khen giáo năng thuyên cho nên không có trong các giáo. Xưa nói...: Trước nêu xưa giải thích, tiếp "Nay do...": mười văn đều như vậy, mới biết hai bộ đề liễu, mãn bình đẳng. "Vân vân" là cho đến nên dùng nhiều lớp đều quyết định mà phá Sư xưa. Cùng hỏi rộng lớn sai khác.
Trước hỏi vì sao? Hỏi nhà tùy hỷ người năng hỏi tức chỉ các Bồ-tát năng hỏi chư Phật, nghe rồi tin hành tức chỉ các người sở hóa của các Bồ-tát, nghe Bồ-tát nói rồi năng tín hành. Chúng con tùy hỷ: Tùy hỷ năng hỏi sinh khởi đại lợi ích. Tùy hỷ người sở hóa của Bồ-tát. Như Lai thuật lời tán thán chỉ nói các ông năng đối với Như Lai phát tâm tùy hỷ. Vì sao ông trên hỏi nói trái ư! Rộng là đại. Nhưng năng hỏi dưới đáp có thể thấy.
Đây cũng mật tiêu biểu thọ lượng: Nay tán thán Bồtát còn là cổ Phật, mật tiêu biểu Phật nay chẳng phải nay thành. Nếu chẳng phải nay thành ắt có viên bản, cầu được rõ ràng cho nên nói mật tiêu biểu, chính cần dựa theo nhau ý mật tiêu biểu. Cho nên chú thích "vân vân", tức đã như trước biện rõ. Dưới kết nói đây căn cứ tứ tất là cần phải chỉ bày đây... Tất-đàn bốn văn và ý. Đầu tiên là Thế giới. Tiếp ba Tất-đàn. Chữ "Lại" là ba Tất-đàn còn lại. Đây căn cứ Di-lặc không biết, biên không có tứ tất lợi ích. Do hỏi nên biết, biết tức bốn lợi ích.
Đầu văn: Bấy giờ ngài Di-lặc Bồ-tát và tám vạn đại sĩ: E rằng văn lầm. Căn cứ kinh văn nói tám ngàn hằng sa. Trong phẩm đầu, đầu căn cứ đến, tiếp căn cứ chỗ đi. "Nếu đến...": kết hai việc trên do đó nay thấy đều không biết, đây có hai nghĩa:
1) Căn cứ quyền giáo tuy ở trong mười phương ngang dọc đạo đi, giáo quyền thời gian cạn, không sánh bản nhân.
2) Căn cứ thật đạo, tuy ở bổ xứ cũng tại trong tích, đâu có thể nói biết. Nếu thật địa vị cao xa vì chúng phát tích nên cần phải phát khởi. Căn cứ mười phương cõi qua lại sai khác nên biết, không biết sai khác, do không biết nên không có Thế giới lợi ích, sau không biết trước là Vị nhân, người trước tiến có sở chứng thiện. Di-lặc không biết trong chúng kia thiện, tự thiện không sinh cho nên không có Vị nhân. Tuy trước tiến vị sâu đâu quá Bổ xứ. Tuy nói người học sau vô cấu vị thành, làm sao được dùng trước sau phán xét, cũng dùng hai nghĩa trước thông có thể thấy. Sở hóa sai khác cho nên thuộc Đối trị. Xét hóa vật: Vốn trị bệnh chúng sinh. Di-lặc không biết chân ứng, không có đạo kia lợi ích vật tức không biết bệnh không đối trị. Nhưng người trí biết trí, xà (rắn) tự biết xà, đâu phải người Bổ xứ không biết kia chân ứng, cũng đủ hai nghĩa, tuy đồng Bổ xứ mà xa gần không đồng, cho nên biết cận không sánh bằng viễn. Mật khai thọ lượng là Đệ nhất nghĩa tức lý tối cực của một bộ này đâu chẳng phải đệ nhất. Sinh nói: Do kia ngộ tánh chẳng phải Thập trụ sở kiến cho nên Di-lặc không biết một người nhưng địa vị Di-lặc tại Bổ xứ vì sao phán làm Thập trụ! Lại không biết sinh vì Di-lặc chứng Thập trụ nào?
Có người nói: Di-lặc sao không thẳng hỏi trường thọ như trong Niết-bàn hỏi trường thọ ư? Nay đáp: Đây đều không hiểu, nay cho rằng gần thành Già-da, không biết quá khứ trường thọ, do thấy từ đất vọt hiện không biết, nhân đó nghi do quyến thuộc. Đức Phật đáp nguyên do kia cần phải luận trường thọ cho nên quyến thuộc hiện đâu có phí công. Cho nên biết từ đất vọt hiện là sinh nghi cho nên hiện, Như Lai vì hiển trường thọ cho nên triệu gọi.
Cho nên, viễn cận hai nguyên do đều vì nói viễn Cadiếp Đồng tử đã ở trong đây nghe trường thọ xong. Nơi kia chỉ hỏi nhân trường thọ, cho nên kinh kia nói vì sao được trường thọ? Tức hỏi nhân. Đã nghe quá khứ vì hiển vị lai, cho nên hỏi trường nhân để sinh đức Phật đáp. Đây khó kia dễ lý số như vậy... khiến điểm xuất tứ Tấtđàn giải thích như trước. "Thỉnh đáp Sư chủ...": là giải thích nêu ý thỉnh. "Nán đợi Di-lặc...": đáp hỏi lợi ích không tại nơi ta, cho nên không vì đáp. Nán đợi Thíchca đáp. Di-lặc hỏi cho nên nói đợi Di-lặc đó thôi! Vì sao? Vì Di-lặc hỏi việc tích bất khinh, đức Thích Tôn một đời chưa từng hiển thuyết, nhân đây đáp hỏi rộng hiển bày trường thọ. Đây một đời huyền bí tại Phật tự khai tự ông đương nghe ta không ứng đáp.
"Sư Tử Phấn tấn...": Trong đây hai giải thích: Trước các giải thích dụng nghĩa không đồng bởi do đây vậy. Từ trước giải thích Di-lặc không biết cho đến trong đây nói mười phương tức phần nhiều chỉ tám phương tổng nói mười phương. Lại riêng nói "đến dây điểm bốn...": ý cần phải thuật bốn đức đối ba đời, bốn đức đây chẳng trước chẳng sau, tùy đức lưu loại có dụng ba đời, cho nên dùng bốn đức đối với ba đời. Không biệt mà biệt, tư duy có thể thấy. Hết thảy vạn đức đối dụng đều như vậy. Huống chi bốn đã chẳng phải bốn, ba cũng chẳng phải ba. Nếu muốn lược đối ba, bốn danh tướng, thì thần thông là Bồ-tát du hý, cho nên gọi "lạc". Lợi ích tận đời vị lai, cho nên gọi là "thường". Hai thứ còn lại dễ thấy. ba hàng tụng ba đời: Trước Sư tử... để nêu ba đời, trong văn cũng không có câu nói ba đời, chỉ vì xu thế nghĩa đồng ba đời thôi! Nay tụng cũng vậy. Thẳng nêu đức Phật nói chân thật... văn một hàng rưỡi tụng mà dụng thông. Nói "đã không hư dối" ắt biết ba đời lợi ích cũng chân thật. Song đáp song giải thích. Song đáp từ trước đến nay cho đến Sư chủ. Hạ phương giữa hư không là dẫn Đại luận nói "có để tán": để là hạ, tán là không. Đây chỉ tiêu danh.
Nếu xuất nêu thể trạng, tức căn cứ giáo giải thích. Đầu văn nói bốn sau nói căn cứ giáo, tức bốn giáo đầy đủ. Phi tưởng là dưới đáy hữu lậu, không là đáy chân đế, biên tế trí là đáy tục đế đều lấy sự cùng cực giải thích.
Vậy thì đầu một là Tạng, tiếp một là Thông, sau một là Biệt. Kinh này là Viên, lấy trung làm đáy. Trong bốn giải thích chỉ nói giải thích đáy không nói tán, (đáy) để tức tán cho nên không còn biệt giải thích... "Vân vân" là nên phân chọn trong chân. Giáo môn đều có hai cho nên đáy không đồng, nay là khai hiển viên đáy trung đạo. Từ không y chỉ... từ không y chỉ... dừng ở hư không hạ phương đều không y nơi trên dưới (thượng hạ) nhân thiên. Nơi nhân thiên là nhị biên: Căn cứ sở biểu giải thích nhân (người) phần nhiều đắm, chấp là tiêu biểu hữu biên, thiên (trời) trú nơi tịnh phước là tiêu biểu không biên, ở trong hư không đây là tiêu biểu trung đạo. Năm hàng rưỡi đầu tụng lại có hai: Bốn hàng đầu đáp sư đệ, tiếp một hàng rưỡi tụng đáp xứ sở (nơi chốn). Trong đó lại có hai: Nửa hàng đầu chánh đáp xứ, tiếp một hàng tán thán đức Bồ-tát, ba hàng dưới song song giải thích, trong đó lại có hai: Hai hàng rưỡi đầu tụng giải thích Sư đệ, tiếp nửa hàng tụng giải thích xứ sở. Kinh không nói xứ, chỉ nói lâu xa giáo hóa. Là vì trước trong chánh đáp đã nói xứ xong, nên chỉ dùng thời mà giải thích xứ. Quá khứ lâu xa ở nơi nào hóa, hóa khiến nhập thật tức giữa hư không. Nói "vân vân": nên hiểu rõ kinh văn hai hỏi ý song song giải thích, lược như trước biện rõ. "Bạch Phật...": là căn cứ văn dưới đây nên trước khai làm hai: Đầu xuất hiện ghi, tiếp theo đáp, chấp xa nghi gần.
Hỏi: Di-lặc đã không biết số kia, không biết một người, vì sao lại biết từ lâu gieo trồng căn lành ư?
Đáp: Chỉ do không hay, không biết và do đức Phật tán thán trú xứ đức nghiệp đã nhiều, lại sâu đâu phải gần thành Phật sở hóa ư? Trong kết thỉnh kinh chỉ nêu khó tin, tức dựa vào vật không tin không chịu mà như kích động Phật khiến ắt có sự trả lời. "Sắc tốt đẹp...": lấy sắc... làm dụ, tổng tại tuổi nhỏ vì nói vậy. "Chỉ trăm tuổi...": Trước lược hiệp thí, tiếp trình bày căn cứ các Sư phương Bắc dùng thí dụ giải thích thí dụ: Đầu giải thích thí dụ tiếp hiệp. Giải thích thích thí dụ nói con không uống thuốc, lại căn cứ không hiện thân liệt ứng mà nói không uống, nhưng dùng thắng ứng thân tiêu biểu bản cho nên nói trăm năm. Đã nói nếu Phật và Phật thì hiển Di-lặc không biết. Tiếp, "Như Lai...": nay hợp thí. Sư nay dùng ý này nên bài xích xưa, hợp văn vẫn lược. Nói Như Lai ngang uống thùy ứng thuốc: Là trí khế hợp lý sâu xa, do dọc uống nơi thuốc chân đế lợi ích chúng sinh khắp nơi, chính do ngang uống thùy ứng thuốc. Thuốc chân đế: Giả tức không quyền tức thật, âm thầm tự hành. Thùy ứng thuốc: Không tức giả, thật tức quyền, hóa tha sinh khởi. Như vậy sơ tâm do ngang dọc diệu dược (bất nhị) không hai, ba dược đây không trước không sau. Thuốc chân đế: Dùng trị bệnh. Thuốc thùy ứng: Dùng hoàn niên (trở lại tuổi trẻ). Thuốc bất nhị: Kéo dài thọ mạng, do hoàn niên cho nên tuy già mà trẻ, hiện thân bất nhị cho nên nói bản địa.
Chín thứ đệ định là khéo nhập: Từ thiền đến thiền vô gián nhập. Phấn Tấn là khéo xuất: Từ thiền đến thiền đều trải qua tán, tâm do tán gọi xuất. Siêu việt là khéo trụ. Tuy trải qua khởi tán mà trụ thiền rõ ràng. Tất pháp tánh làm khéo nhập: Tất là cùng, cùng cực pháp tánh. Thủ
Lăng-nghiêm năng hiện oai nghi. Vương Tam-muội:
Như vua an quốc, trong đây căn cứ giáo Tạng Thông đồng, sở chứng đồng. Căn cứ nhân làm khéo tu tập...: Từ cạn bước dần đến sâu cho nên nói "thứ đệ". Nói "vân vân" Khéo xuất khéo trụ đều ứng từ quả lập danh, nhân đều khéo tập như trước phân biệt.
Trong đây không luận bản tích. Đã là trong bản đệ tử chưa cần luận tích. Tín tức tăng đạo..., vị lai bẩm thọ quyền phần nhiều nghi nơi viễn bản, nên phải tùy căn cứ các phương tiện giáo nêu bất tín, để hiểu ý văn nay. Nay văn đều căn cứ từ lâu đã thành nêu tín mà luận tăng đạo, tăng đạo ắt tổn sinh, đầy đủ như phẩm sau.
Đầu văn sở dĩ không nêu tứ Tất-đàn là vì nhân duyên giải thích: Tức phẩm trước chưa được lợi ích của tứ Tấtđàn, nay đây đáp xong tức là bốn lợi ích. Trong đây chia làm hai:
1) Dẫn xưa thông giải thích.
2) Chánh giải thích phẩm. Văn đầu lại có bốn:
1) Nêu các sư giải thích khác nhau.
2) "Đời trước...": dụ các Sư để phá Quang Trạch.
3) "Duật bạng (cò ngao)...": nay bốn câu giải thích.
4)"Hỏi...": hỏi đáp tổng quát. Đầu tiên, Duệ sư trình bày ý, nêu phân thân để giải thích "Thọ lượng" mà dùng lý so sánh sự, đều nghĩa "không đủ" để giải thích ý "đủ". Nêu thọ mà chẳng thọ thì mới gọi là "thọ", thân mà chẳng phải thân mới có thể là thân, đều do đắc lý năng hiện thân thọ, cho nên nói "Vậy thì Thọ...". Vì thế, câu đầu thọ đắc lý nên mới chẳng trường mà trường. Tiếp câu thân đắc lý, chính khác mà không khác. Thọ đã do số mà chẳng phải số, thân cũng phân vô sở phân, do lý lánh phi lượng cho nên không thể dùng số cầu pháp; thân phi hình cho nên không được dùng thân để nhận lấy. Phân thân đã dùng Pháp thân làm thân, thọ lượng cũng dùng thường thọ làm thọ, cho nên liền dẫn Phổ Hiền Đa Bảo mà làm giống như hưng khởi. Phổ Hiền ở ngôi vị cùng cực của Bồ-tát, còn gọi là Hiền, có thể tiêu biểu Già-da thành cũng chẳng phải thành. Đa Bảo diệt độ rất lâu mà xuất để chứng kinh, dự biểu song lâm diệt cũng phi diệt. Nay cho rằng dùng "phi thọ" để giải thích "thọ", lý thật như vậy, chỉ tợ như không đáp câu hỏi. Di-lặc hỏi: Bồ-tát Dũng xuất (từ) do đâu phát tâm...? Ý nghi từ Giàda thành đạo đến nay chưa lâu, làm sao sở hóa thân tướng khó nghĩ bàn? Vốn đã không nghi trường thọ, thì đâu cần dùng "phi trường mà trường" để đáp. Chỉ vì trước dùng trường để đáp, là muốn hiển bày sở hóa nhiều. Do trường thọ kia chỉ có pháp, báo nên nay dùng ba thân giải thích. Ý Pháp Hoa luận cũng lại như vậy. Hà Tây cùng Duệ sư ý đồng nói kém. Ý nói ứng thân vốn là pháp thân, pháp thân chân hóa phân mà không phân cho nên nói không khác. Vô sinh vô diệt nên nói lý nhất, cho nên đem Đa Bảo diệt mà phi diệt dùng giải thích Thích-ca lượng tức vô lượng. Cho nên, nói cùng ngang bằng thái hư. Nếu vậy dẫn Đa Bảo hiện không nói là mật tiêu biểu, cần phải Đa Bảo hiện tức là Thích-ca trường thọ, đâu cần lại gọi là phẩm Thọ Lượng ư? Huống chi chỉ là pháp thân mà mất báo thân ứng thân. Nếu nói Thích-ca lượng tức vô lượng chỉ có thể hiển bày vị lai trường thọ thì cùng Đại kinh đồng làm sao biết được thọ lượng quá khứ ư? Cho nên, nay trước biết thọ vô lượng kiếp, song mới gọi là bất tư nghì nhất.
Ý của "Đạo Tràng Quán": dùng Pháp Hoa làm thừa ban đầu, dùng Niết-bàn làm thừa cuối cùng. Cuối đầu ngăn bộ cho là bản có thể, thì đồng là ngăn bộ sao không dùng Hoa Nghiêm làm thừa ban đầu! Nếu dùng hội quy làm thừa ban đầu thì giáo hạnh nhân lý hết thảy đều hội. Hội đã vô thủy cũng lại vô chung. Nếu tích môn làm thừa ban đầu lại không hoàn toàn như vậy. Nếu chỉ thừa ban đầu vì sao trong pháp thuyết nêu Phật trí bình đẳng... trong thí dụ thuyết nêu đến đạo tràng, trong nhân duyên thuyết nói đến Bảo sở! Sở dĩ đầu giải thích chỉ trong phần đầu ý của năm câu nói: Nay cùng xưa hoặc đã nhập Trụ, Hạnh, Hướng, Địa..., nhập lại tăng tiến, chỉ có một phần độn căn Thanh văn nơi đây cuối cùng chẳng khai vẫn nhập Sơ trú đâu gọi là thừa ban đầu! Nếu Sơ trụ gọi là ban đầu, thì nói thời như khảy móng tay như thế nào? Cho nên, không dựa vào đây có thể phê phán kinh bộ. Nếu Niết-bàn lắng thần làm thừa cuối cùng, thì khi nói Đại kinh thập tiên các ngoại đạo đều sơ phát tâm, lại vô lượng người thoái Bồ-đề tâm. Lại, Pháp Hoa bắt đầu ở căn cơ chúng sinh. Niết-bàn lắng thần căn cứ nơi giáo chủ. Do Pháp Hoa giáo chủ đã thành từ lâu, cho nên Niết-bàn lắng thần bất diệt. Lại, diệt bóng là dứt Tích, thì Pháp Hoa cũng như Tích. Lắng thần làm bản, không phải bản kinh này. Nên biết kinh này lấy cửu viễn thật thành làm Bản, trung gian ngày nay thị hiện thành làm Tích. Nếu y giải thích hai môn, thì đều thuộc thừa ban đầu. Nếu không giải thích bản thẳng ở trong tích nêu thủy chung đầy đủ như trong Huyền Văn trong Thừa diệu nói. Chú gia trước nêu không phải còn, mất vượt ngoài sửa yểu mạng làm phi thọ lượng dùng giải thích thọ lượng.
Tiếp nêu ý thọ lượng: Nhưng giải thích hai chữ vẫn tựa như điên đảo, số còn mất là "lượng", kỳ hạn tu sửa yểu mạng là "thọ". Một kỳ gọi là "thọ", số trong thọ gọi là "lượng". Tiếp, Pháp thân... là nêu ý: Lập lại nêu thể phi thọ, phi lượng trước, phi hình nên nêu phi thọ, phi năm nên nêu phi thọ! Đây trái với luận văn, khiến Đại sĩ... chánh nói rõ ý thọ lượng, ý muốn Bồ-tát tu theo cực chiếu khiến biết thể của Như Lai thọ lâu dài đó là nơi bậc trí Đại sĩ đạo chơi, dạo chơi đã sâu cho nên nói đi theo đến tột cùng. Đất đến chỗ phi thọ kia nên gọi là chiếu, "không dùng hai chữ suốt... đến trăm năm. "Kỳ di": Kỳ là thiết yếu, Di là nuôi dưỡng. Người trăm tuổi không biết y thực cần phải nhờ con hiếu giúp đỡ nuôi dưỡng. Nay đức Phật không như vậy cho nên nói không dùng. Ý của Sinh Công tuy cũng nêu không dài không ngắn (trường đoản) dài ngắn thường còn nên cùng ý với ba nhà trên ít sai biệt, nhưng thiếu chú gia nói ý thọ. Trong đó đầu nêu sắc Già-da, thân hình thọ không thật, dụng làm pháp thân tiêu biểu không thọ. "Thế thì...": là dùng hình để thí dụ thọ, "vạn hình" giống nhau, hiển thân phân mà không phân, "xưa nay làm một": nêu thọ lượng tức phi lượng. Nói "xưa cũng như nay", là nêu xưa nay không hai, đúng là bất tư nghì nhất. Nhưng căn cứ văn nay thì trước cần phải biện rõ dài, sau mới nêu một. Nói xưa cũng như nay là nêu bản Phật, xưa không khác Giàda nay. Nay cũng như xưa là nêu Già-da nay không khác bản Phật xưa.
"Không lúc nào không có...": là lập lại giải thích hình thọ, "không lúc nào không có" là giải thích thọ, "không nơi nào không tồn tại" là giải thích hình. Không lúc nào không có chẳng riêng chi ngày nay, không nơi nào không tồn tại đâu chuyên chỉ Già-da. "Nếu có lúc...": là nêu hình thọ tại vật ứng chẳng có không. Tiếp, "do đó...": là chỉ cận thành tức từ lâu đã thành cho nên nói Già-da. Tiếp, "Già-da...": Là chuyển giải thích, tuy chỉ thành kia là cận phi cận, "Già-da chẳng phải...": là nêu ngắn đã chẳng ngắn, dài cũng chẳng dài. Tiếp, "Dài ngắn...": là chân tục tương đối để giải thích dài ngắn, chân chính là dài ngắn đây cùng mất, tục thì dài ngắn thường còn. Ý Sinh công nói: Nơi một thân ba thân đầy đủ quả cận thành cùng quả viễn đồng, cho nên thọ tám mươi năm tức vô lượng thọ. Đạo lý tuy vậy đều phải phân biệt trước mói có thể dung thông. Nghiệm các Sư trước thiên được có chút ý đều dùng pháp thân làm tột cùng đều trái luận văn. Luận văn chỉ là chỉ thọ quá khứ báo làm dài, đâu được dùng pháp thân phi thọ để giải thích. Pháp thân phi thọ các giáo thường luận bàn chỉ lẽ chưa từng nói lâu thành viễn thọ, cho nên biết còn không bằng nơi chú gia nói nghĩa theo đến tột cùng và dùng Sinh công dài ngắn thường còn. Nhưng không nói thường còn trường thọ vì các kinh chưa nói đến. Nên biết hiểu rõ đương văn đều là một ý, giải thích hướng đến viễn, nêu ra tư ở một nhà, cho nên nói Phật tuệ kia đây đều đồng. Hoặc luận viễn thọ nhất hướng phải khác. "Đời trước...": là từ chối còn các giải thích, các giải thích, các giải thích đều không dùng thọ lượng làm vô thường. Quang Trạch chính dùng thọ lượng làm kéo dài tuổi thọ. Nếu căn cứ sư nay ba thân bốn câu vọng ý các sư đều không thể tồn tại.
"Lại nữa, hoặc...": dẫn cổ sư vấn nạn. Tiếp "Nay là...": thông nạn. Trước lược phá cổ Sư. Tiếp chánh giải thích. Đầu dẫn sự nói "Cò, hến tranh nhau...": Dẫn việc Xuân Thu đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói: Chỉ dùng sự bất đồng, kia chỉ nhờ nói hại nhau. Đây chánh dùng ý nương nhau che lấp. "Ta nhân nơi..." là chánh giải thích nay như cương thổ nhà Tần khiến thường vô thường gia như Yên Triệu. "Và kinh Kim Quang Minh": Kia quyển thứ nhất phẩm Thọ Lượng nói: Tương tín Bồ-tát tự tư duy nói: Do duyên gì mà đức Thích-ca thọ mạng ngắn ngủi mới tám mươi năm. Như đức Phật nói hai nhân trường thọ:
1) Bất sát.
2) Thí thực.
Phật trải qua vô lượng kiếp đầy đủ mười thiện, vì sao ngắn ngủi! Tư duy việc ấy. Nhà kia tự nhiên rộng lớn các việc trang nghiêm, nhân thấy Như Lai tướng tốt hy hữu mới cảm bốn đức Phật vì kia nói kệ. Kệ nói: "Cân núi, giọt nước rơi, đếm hạt bụi hư không, còn biết được số đó, nhưng thọ lượng của Như Lai, thì không ai có thể biết". Văn phẩm có đủ nghĩa đây, tức là sau phẩm này văn đầy đủ nghĩa ba thân. Trở lại xét ba nghĩa đây phân làm bốn câu, cho nên phải biết phẩm này ý của đề mục trong Tích chỉ bản. Bổn đủ ba thân cho nên không thiên chấp thường cùng vô thường. Nay chính là nên dùng trường thọ của bản địa, dùng khai Tích ngắn để hiển Bản dài, rồi mới thông đạt bản lý không còn dài ngắn. Cho nên mượn bốn câu nói về ba thân trong Tích mà đối Bản để giải thích. Phải biết Bản tích đều đủ bốn câu, bản bốn đều là bản, Tích bốn đều là tích.
Hỏi: "Nếu thọ lượng...": Kinh Niết-bàn cũng nói: Chỉ có Phật với Phật kia mói thọ lượng, vô lượng cho nên thường, nêu thường đã đồng kinh nên không sai biệt, Kinh bộ tuy khác hai thường tại sao sai khác ư?
Trong đáp chia làm hai:
1) Chất vấn ngược lại khiến đồng.
2) Phân biệt biện sai khác.
Chất vấn ngược lại: Nhất thừa đã đồng đều là thường đâu có lỗi. Đại kinh nói: Hết thảy chúng sinh đều là nhất thừa; bộ kia tuy khác lý thường đâu sai khác, nếu bộ khác thường khác, cũng nên bộ khác thừa biệt. "Vân vân" là: tuy như trước thuật cũng lại nên lập danh khác, nghĩa đồng mà làm nhiều. Phân biệt đáp: Đầu tiên, kinh Niếtbàn; tiếp, kinh Thắng Man. Đầu, kinh Niết-bàn: Nêu thường tuy đồng rộng lược có đôi chút biệt; cũng nên kết nói đâu phải rộng lược biệt khiến thường không đồng. Tiếp văn nói "vì nhất nêu nhất": Nhất ngoài tam tự làm nhất cơ, không phải hội tam về nhất nên chỉ nói nhất. Bộ thuộc Phương-đẳng đối bài xích thiên ba, chưa đến Pháp Hoa thì không nên nói hội tam...
"Vân vân" là: cũng nên lại nói Đới và Bất đới sai khác, nhất thừa đâu sai khác! Cũng nên căn cứ đủ năm thời, nêu hội không hội nhất thừa cộng, biệt.
Tiếp, Hỏi: "Cận thành là phương tiện...": Nay Sư giả thiết, trước dẫn kinh Hoa Nghiêm và Đại kinh để định: Tiếp, "Nếu vậy Pháp Hoa...": là dẫn Pháp Hoa. Nơi Hoa Nghiêm Đại Kinh làm ngăn ngại, Pháp Hoa nếu hưng khởi đều khai thành viễn thì trong Pháp Hoa không còn phương tiện, vì sao bản sau Bất khinh tiếp lấy cận. "Phải biết...": là kết nạn. "Nếu vậy hội tam...": dùng tích theo lệ bản, bản môn khai rồi lại cận, cũng nên tích môn hội rồi không hội. Nên biết trong đây văn lược; trước phải kết nói tích môn hội rồi không còn gì không hội; vì thế bản môn viễn rồi không còn gì không viễn. Dù trong Bất Khinh lại nêu cận tích, không thể trường thọ lại khiến ngắn ngủi. Tiếp "Nếu vậy...": là lập lại dùng tích theo theo lệ bản, do định đạo đồng cho nên hết thảy chư Phật thảy đều như vậy. "Nếu vậy...": là nạn vấn chư Phật thượng đồng đâu riêng gì đức Thích-ca trường thọ đáng tán thán! "Nếu riêng...": là kết vấn nạn. Nếu riêng Thíchca trường thọ thì có lỗi Phật đạo không đồng, cho nên nói các nghĩa trước hoại. Ý đáp: Xả khác theo đồng, hết thảy chư Phật thảy đều như đây, cho nên nói cũng vậy. Ý tại đồng hiển bày thật bản, không hẳn dài ngắn đều như nhau. "Lại các Bồ-tát...": là dẫn chứng, lại dẫn mong muốn dài đâu tức hoàn toàn... đây tức... là kết đồng. Cũng không thiên nói: Là nêu thường thọ, hiển thời xưa dài ngắn khác nhau không đồng, vọng vị lai thường nhất hướng bình đẳng. Cho nên chư Phật hiển bản đều có viễn cận. Nếu luận thể của thọ không được lại nói một cận một viễn, cho nên các Bồ-tát nghe trường thọ rồi cũng nguyện vị lai nói báo nhân thọ. Như nay đức Thích-ca chỉ khai tích rồi không còn có cận viễn. "Cho nên biết...": nêu bản tích thể dụng; thể dụng tức pháp ứng tương vọng. Nếu ứng tích tương vọng đều là cận viễn. Căn cứ cận tích ứng vọng bản sơ ứng thì có được cận viễn, cho nên đối duyên dài ngắn không phân biệt dài ngắn, do đó không nói báo thân trường thọ. Tức là muốn dùng pháp thân bỏ đi sự dài ngắn kia. Lại muốn hiển nơi chư Phật đạo đồng. Sự thật, khai ba đức Phật đạo có thể đồng, sự thành lâu cận không thể đồng. Do đó mới có thể phá các sư. Cho nên nói Sư không khả năng Sư.
Hỏi: Đã nói viễn thành chân thật cận thành phương tiện, cũng có thể nói cận thành chân thật viễn thành phương tiện không?
Đáp: Nếu trong Sơ trụ bản thấp tích cao hợp vật nói viễn tức là việc kia, cho nên các Bồ-tát phát nguyện lợi sinh, tùy tứ tất lợi ích cũng có thể nói trường (dài).
Hỏi: Nếu vậy sao biết Thích-ca không phải Sơ trụ ư? Đáp: Nay hiển thật đã không còn ẩn bản cho nên biết sai. Vậy thì Sơ trụ nói dài là quyền, khai quyền nói cận làm thật.
Đã có bản thấp tích cao cũng có bản cận tích viễn, dùng cao thấp đây khai trong các kinh dài ngắn đều thường. Đã hiểu rõ các Kinh dài ngắn đều thường tự hiểu kinh này bản viễn cửu. Chỉ nói thường còn chưa thể nương, nghiệm biết các Sư chấp vô thường không thể nương.
Hỏi: "Nghĩa suy tìm...": như trước đã nói, Pháp Hoa nêu thường đạo lý thật như vậy căn cứ văn không như kinh NiếtBàn thường hiển, cho nên kinh này nếu thường tợ như không có văn căn cứ? Đáp ý: Thuyên giáo, tông chỉ. "Tào khang" và "kiều (cầu)" đều năng thuyên giáo, năng thuyên tuy khác, mất ý chỉ như "khang (trấu)".
"Vấn kiều (Hỏi cây cầu)": đầy đủ như Chỉ Quán quyển mười. Đây lại là cách thông suốt để bài xích người chấp. "Lại, giáo bản...": biệt nêu hóa ý. Đáp: Trước tuy thông bài xích nay biệt nêu tứ tất, nên hợp dài hợp ngắn hợp vật không đồng tức nhân duyên. "Lại, văn...": dùng bộ vọng bộ căn cứ nhiều ít luận, chẳng phải hoàn toàn không có văn, tức căn cứ giáo. Nếu theo nhiều bỏ ít... bỗng như đều ít thì hai Kinh đều bỏ chẳng phải ma thì ai! Đầy đủ như trong Niết-bàn phẩm 7 trong phẩm Tà Chánh. Không biết pháp thân thường trú đều gọi là ma nói; Lại Kinh này nơi nơi nêu pháp thân: Lược như trước dẫn chỉ danh khác nghĩa đồng. Người tiện mê danh mà mất ý chỉ kia, nếu chỉ tùy danh còn là ma nói huống chi nhiều ít ư? Cũng như Huyền Văn đồng thể khác danh trong đó nói, tức là thật tướng Bảo chữ chẳng Như chẳng khác.
Bình đẳng đại tuệ... Hỏi: "Đã nêu pháp thân....": Nếu nêu pháp thân không có ba đức thì phải biết là chẳng phải thường trụ pháp thân ư?
Đáp: Văn có thể thấy, luận văn cũng nói thành tựu ba thân, ba thân tức là ba đức.
Tiếp, chánh giải thích tên phẩm, chia làm hai: Trước thông, sau biệt. Thông: trước giải thích Như Lai. Tiếp giải thích thọ lượng. Đầu tiên nói thông hiệu: Lại chỉ một tên Như Lai, còn lại chín đều là danh hiệu đầu hiển rõ nhất, đầy đủ như dưới giải thích. Đủ thông ba thân đều đủ mười hiệu, lược như trong Chỉ Quán quyển hai ghi. Tiếp giải thích Thọ lượng, là thuyên lượng, lượng thọ cho nên gọi là thuyên lượng. Cho nên giải thích chữ "lượng" thuyên lượng mười phương ba đời ba Đức Phật... cho nên nói vậy!
Tiếp "Nay chánh...": là kết trở về ý phẩm bèn chỉ bản Phật nay vì sao như vậy ư! Do Như Lai danh thông thọ lượng cũng như vậy không thể hạn cuộc, cho nên cần phải thông. Đề danh tuy thông ý thì hạn cuộc bản cho nên kết ý trở về.
Hỏi: Pháp, báo là bản ứng thân thuộc tích vì sao nói bản địa ba đức Phật?
Đáp: Nếu kia chưa khai pháp, báo chẳng phải tích, nếu hiển viễn rồi thì bản tích đều có ba.
"Tiếp, Như Lai...": là biệt giải thích. Cũng trước giải thích Như Lai, trước rộng gác qua bên, theo lược. Nói rộng: Như bốn thân, mười thân, ba mươi ba thân, vô lượng thân... theo nghĩa đã rộng, nay theo lược gọi là để tiêu, phẩm mục. Nói hai, ba: hai tức chân ứng, ba tức pháp bình đẳng. Không nói hóa: Hóa ứng nhất vãng thể kia đại đồng.
Hỏi: Hoa Nghiêm mười thân đây chỉ hai, ba thân số thân đã ít nghĩa nhiếp không cùng khắp, vậy thì kinh này nghĩa thân không đủ ư?
Đáp: Nghĩa có thông biệt, nghĩa thông có thể như vậy, biệt thì không như vậy. Kia thông nói thân cho nên nói mười thân Lô-xá-na, biệt giải thích Như Lai cho nên không ứng nói nghiệp báo Phật quốc độ Phật... Nếu muốn thông thâu mười thân trong Kinh kia nên khai làm bốn thì dùng hóa thân nhiếp thu nghiệp báo. Trí tức báo thân, hư không thuộc pháp, còn lại đều là hóa nhiếp. Cho nên, biết Kinh này cũng lập nhiều thân, tức Diệu Âm, Quán Âm ba mươi ba thân mười pháp giới thân hoặc mình, hoặc người tức là việc kia vậy. Huống chi nay giải thích Phẩm tên Như Lai cho nên chỉ có thể hai, ba.
Các giáo nhất định nên hiểu rõ danh tiện, nên lại giải thích bản tích mới tại phẩm này. Cho nên biết phẩm này tức là bản địa hai, ba Như Lai. Thứ nhất, hai Như Lai: Trước nhờ luận văn gọi là như thật. Tiếp giải thích tên đây để thành chân ứng lại có hai: Trước chân, sau ứng. Chân tức Pháp Báo hai thân hợp nêu, cho nên nêu cảnh trí hòa hợp để giải thích chân thân. "Thừa ấy...": là giải thích. Đã chỉ do như trí khế hợp cảnh cho nên thuộc chân thân. Trong luận chỉ một chữ "Như" giải thích trong cảnh trí đều song song nói, tức chỉ là năng như như nơi sở như, sở như như nơi năng như. Đây dùng ý kinh Kim Quang Minh. "Nếu đơn luận...": là nêu cảnh trí hòa hợp thành nhân chấp quả thiếu một không thể được. "Tiếp, Đạo giác...": là kết thành chân thân, nhân quả đầy đủ cho nên nói nghĩa thành. Do đó chân thân nói thành ứng thân nói sinh. "Do như thật...": là nêu ứng lại có hai: Trước lấy báo làm bản, trước giải thích chân thân. Ba chữ: Thừa thật đạo thuộc nhân, nay nhân thành quả toàn thuộc quả dụng, dùng bổn sở chứng khế hợp trí của cảnh. Thừa ở trên quả lợi vật quyền đạo, tức thật mà quyền cho nên nói thật đạo. Cho nên dùng phương tiện sinh nơi tam giới. "Tiếp, Lại sinh...": là chánh nêu ứng thân, nhờ dựa vào Thành luận tiểu danh để hiển nghĩa viên, khéo phân biệt danh nghĩa vế lý thì có thể trở về.
Tiếp nêu trong ba đức Như Lai chỉ chia hai làm ba, trong đó lại có ba:
1) Nêu ba Như Lai nghĩa thông bản tích.
2) "Lại Pháp Hoa...": biệt hiển bản địa ba Như Lai.
3) "Luận nói...": là dẫn Kinh luận chứng. Văn đầu lại có ba:
1) Nêu chánh giải thích.
2) "Pháp thân...": là dịch danh.
3) "Như Lai ấy...": là dung thông. Đầu lại có hai:
1) Mượn Đại luận lập nghĩa.
2) "Như...": là giải thích. Luận văn một câu ba thân đầy đủ.
Đầu dùng một chữ "Như" gọi là pháp thân, chỉ cảnh sở như trở lại chỉ sở chứng làm lai, cho nên nói bất động mà đến. Đây tức Như phi nhân quả mà thông nhân quả. Chữ "Lai" tại quả, không thông nơi nhân.
"Tiếp, báo thân Như Lai" có ba:
1) Chánh giải thích.
2) "Từ lý...": kết đắc danh.
3) "Cho nên luận nói...": là kết chỉ luận văn.
Đầu văn: Chuyên căn cứ báo thân giải thích hai chữ kia, chỉ vì chữ "Như" đầu nghĩa khác với trước. Hai chữ "Như pháp" trước thuộc sở, nay một chữ "Như" thuộc năng. Pháp thông cảnh trí, trí là năng như, cảnh tức sở như. Trí trở lại thừa (nương) nơi cảnh sở như được thành nơi quả, cho nên nói thừa nơi đạo chân thật. "Tiếp, Trí xưng...": là giải thích nguyên áo chữ "Như" nay. Tuy tức trí Như nơi cảnh, nhưng Như từ cảnh lập danh cho nên nói từ lý gọi là "là như...". "Tiếp, dẫn luận": Như năng xứng nơi pháp tướng. Giải tức thuộc trí xứng cảnh mà giải, tức năng như. Do giải mãn cho nên gọi đó là "Lai". Căn cứ Pháp thân đây cũng nên dẫn luận văn nói như pháp tướng, chỉ là văn lược.
Tiếp, "Nêu ứng thân" lại có bốn:
1) Chánh giải thích.
2) Dẫn chứng.
3) Nêu ứng tướng.
4) Dẫn luận đồng.
Văn đầu trước nêu nguyên do ứng. Do trí xứng cảnh chỉ năng thuyết thân, thuyết tức ứng. Tự báo không thuyết cho nên nói do cảnh như như trí hiệp; chỉ nói do như không nói pháp như: Pháp đã thuộc nơi cảnh trí, dùng cảnh trí đây năng khởi ứng. Nên dùng giải thuộc trí biệt đối báo thân. Ứng chẳng vô trí lại để xứng cơ dùng dựa theo để nói. Cho nên tha thọ dụng cũng được gọi là Báo, cũng được gọi là Ứng, hoặc thắng hoặc liệt đều gọi là Ứng. Cho nên, biết Đại sư khéo dùng luận văn vi diệu đến nơi đây.
Tiếp, "Dịch danh" trong đó đầy đủ ba thân: Cận đại phiên dịch pháp báo không, phân ba, hai chẳng biện rõ. Tự xưa kinh luận chấp nhận có ba thân. Nếu nói Tỳ-lô cùng Xá-na không riêng biệt thì Pháp thân tức là Báo thân. Hoặc tức là: Hết thảy chúng sinh đều viên mãn, nếu pháp thân có thì nói chúng sinh cũng như vậy. Nếu quả mãn mới nói thì từ báo lập, hoặc nói không thì lìa ba thân đều như vậy, đâu riêng gì pháp, báo. Chúng sinh Phật không hai đầu chỉ ba thân, cho nên còn ba thân, pháp nhất định không nói, Báo thông hai nghĩ ứng hóa nhất định nói. Nếu kia tương tức đều nói, đều không nói, hoặc chỉ từ lý phi thuyết, phi bất thuyết, sự lý tương đối không nói tức nói, tức nói là không nói, tình thông diệu khế hợp tranh chấp đều lỗi. "Ốc tiêu": Là trong phẩm Danh Hiệu của kinh Hoa Nghiêm và trong Thập Trú Bà-sa liệt kể. Đại hải có đá tên gọi là tiêu, vạn dòng tưới đến thạch đều hút cạn, do đó nước đại hải không tăng trưởng chúng sinh lưu chuyển cũng như tiêu thạch, ngũ dục tưới thấm mà không nhàm đủ chỉ có Phật mới năng độ cho nên nói vậy.
Hai thân trước gọi là nhất thiết thường định, cho nên ứng thân danh mười phương đều có không thể nói cõi Phật vi trần danh hiệu, cho nên trong phẩm kia Tân kinh nói Thích-ca Như Lai cũng gọi là Tỳ-lô-giá-na. Cựu kinh nói cũng gọi là Xá-na, ý cựu Kinh nói tên khác của ứng thân, cho nên tổng hai kinh kia nêu ba tên đầy đủ thể kia vốn một. Chỉ có ý của Tân kinh dùng Tỳ-lô làm Xá-na, Cựu kinh thẳng nêu Tha thọ dụng báo, nghĩa lại đâu có lỗi.
Ba dung thông trong đó có bốn:
1) Lược chỉ ý.
2) Dẫn giáo.
3) Tu tánh.
4) Dẫn luận. Đầu như văn. Dẫn trong giáo có ba:
1) Dẫn kinh.
2) Tổng kết.
3) Vấn đáp giải thích ngăn ngại. Dẫn kinh có hai: Dẫn Đại kinh, ý nêu ba đức chỉ là ba thân. Ba thân đầy đủ như các văn giải thích. "Dẫn Phạm võng... ba kết Kinh": Do nghĩa đại ý chỉ dùng ba kinh đồng mà ý nghĩa toát yếu. Như trong kinh Hoa Nghiêm mười phương đài lá xen lẫn, làm chủ bạn, thì kinh Phạm Võng đây chỉ một đài lá, cho nên Thiên Thai Giới sớ phán nói: Đài và lá hoa bản tích sai khác. Sở dĩ đài hoa lá hoa bản tích nhất định, là vì bị duyên tuy biệt mà đạo lý thường đồng, sở kết đã đồng năng kết đâu sai khác. Kinh Tượng Pháp Quyết Nghi ý cũng đồng với sở kết. Kinh Phổ Hiền Quán nói căn cứ trên có thể biết, kết cùng giải thích ngăn ngại văn tướng có thể biết. "Nếu chỉ...": căn cứ tu tánh dọc ngang (tung hoành) không dọc không ngang để phân phán riêng biệt tức là căn cứ giáo, trong đó trước Biệt, tiếp Viên, sau dùng Tạng, Thông ví dụ. Nói "tu dọc tánh ngang": Chẳng phải viên diệu, tên tánh đức gọi là Thông Biệt giáo, Biệt giáo tuy có nói tánh đức, cả ba đều tại tánh mà không dung thông lẫn nhau cho nên thành biệt nghĩa. Nếu ba đều tại tu trước sau mà đắc đạo lý thành dọc đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba ghi. Cho nên biết kinh này không nói ngang dọc, hoặc tánh hoặc tu cả ba đều viên diện v.v...
"Lại Pháp Hoa...": là nêu Bản tích, trước chánh chỉ bày đồng, khác. Trước lúc ấy chẳng phải không nêu Viên ba Đức Phật, mà chỉ vì cùng Pháp Hoa tích môn nghĩa đồng, chẳng phải phẩm này nêu ba Như Lai, cho nên có vĩnh viễn sai khác.
Hỏi: Trong luận chỉ báo làm cữu viễn, nên chỉ Giàda pháp chẳng phải xưa nay vì sao ba Đức Phật đều chỉ nơi bản ư?
Đáp: Luận tuy xen lẫn chỉ về lý chắc chắn đều thông suốt, đâu phải xưa có Báo mà không có hai thân kia, đâu chỉ nay Ứng mà không có Pháp Báo, vì trung gian ngày nay đều đủ ba thân, chỉ tự thực thành đối với trung gian ngày nay, mà có sở hiện thân xứ; thông thuộc Ứng hóa cho nên lại đối để nói.
Lại nữa, Pháp thân tuy tức mà không tương đương xưa nay vì căn cứ tu, tương vọng trở lại phân cận viễn. Dưới giải thích thọ lượng có thể căn cứ đây mà biết. Cho nên ngày nay trung gian mỗi một tiết đầy đủ ba. "Tiếp, dẫn luận": như văn.
Tiếp, giải thích hai chữ Thọ Lượng, tức thọ lượng ba Như Lai trước nói, nên giải thích trong thọ lượng đều đầy đủ ba nghĩa. Trong đó 1) Lược giải thích thọ.
2) Rộng giải thích lượng, đây là lượng của thọ gia, cho nên rộng giải thích "lượng", tức là rộng giải thích "thọ".
Đầu, trong giải thích thọ, trước giải thích nghĩa chữ. Tiếp, "Chân như...": tức dùng nghĩa chữ mà thông ba thân. Tiếp, giải thích chữ "lượng", trong đó chia làm bảy:
1) Nêu nghĩa thông tùy ba Như Lai tự không có nhất định để thành ba câu dùng giải thích ba thân.
2) "Lại nữa...": lại chuyên dùng bốn câu hiểu rõ ba thân trước.
3) "Một thân tức là...": dung thông ba thân.
4) "Tùy duyên...": phó cơ bất định.
5) "Phẩm này...": căn cứ thân để phán định.
6) "Lại nữa...": phán định nơi bản tích.
7) Vấn đáp giải thích nghi.
I. Đầu tiên lập ba câu tức là thọ lượng hai, ba Như Lai nói, trước thì đã chỉ khai hợp sai khác, nay chỉ tùy theo ba làm thuận tiện, trong đó có ba phần:
1) Giải thích chữ.
2) Đối thân.
3) Lập câu.
II. "Tiếp, Pháp thân...": tức dùng ba câu giải thích ba thân: Pháp thân nói đầu tiên chia làm bốn: 1) Lược nêu.
2) "Có Phật...": là giải thích nêu lý do.
3) "Văn nói...": là dẫn chứng.
4) "Bởi là...": là kết ý về. Đầu, như văn. Tiếp, giải thích lý do trong đó lại có hai: Đầu chánh nêu nguyên do pháp thân, sau: "Không luận...": là phân biệt hai thân sai khác, lại có hai: Trước nói thân, sau nói thọ. Đầu phân biệt thân: Bất luận tương ưng phân chọn chẳng phải báo thân cùng không tương tục, mà chọn lựa chẳng phải ứng thân. Chữ "cùng" để dẫn câu dưới, hai chữ "bất luận" xuyên suốt hai câu dưới. Tiếp, chọn lựa trong thọ cũng không có lượng, chọn lựa chẳng phải ứng thọ và vô lượng, chọn lựa chẳng phải thọ của báo thân. Hai chữ "cũng không" xuyên suốt hai câu dưới, cho nên dùng chữ và để dẫn câu. Kinh Hoa Nghiêm nói: Pháp giới phi hữu lượng cũng phi vô lượng, Đức Mâu-ni đã siêu vượt hữu lượng và vô lượng. Kinh kia chỉ trong Tích, căn cứ thể dụng luận, thể ắt song phi tích năng song dụng. Đây chính là căn cứ dụng làm rõ thể, cho nên nói "siêu việt". Nếu thẳng dẫn đây để chứng cửu bản bởi chưa có thể. Do kia không nói đã thành thọ. "Văn nói...": là dẫn chứng: hai câu đều song phi báo ứng, thuyên lượng báo thân trong đó cũng có bốn:
1) Nêu lên.
2) "Dùng Như như..." là chánh giải thích.
3) "Văn nói...": dẫn chứng.
4) "Đây là...": kết.
Trong chánh giải thích có hai phần:
1) Chánh giải thích.
2) "Cảnh đã...": giải thích lý do vượt ngoài.
Trong phần chánh giải thích có hai: Trước chánh nêu, trí khế hợp cảnh cho nên có báo thân. "Cảnh phát..." mượn nghĩa giải thích danh, do ngầm (minh) cho nên phát, phát mớ gọi là báo vậy nên có được nghĩa thọ khó lường. Tiếp trong lý do có hai: Pháp, và thí dụ. Cảnh như hộp, trí như nắp, do tương xứng cho nên có công dụng hàm tàng, vật có trong kho mới có thể bên ngoài nhờ cậy.
Dẫn văn: Câu đầu chứng thể báo thân, câu tiếp chứng nhân báo thân, câu tiếp chứng dụng báo thân, câu tiếp chứng lực báo thân.
Tiếp thuyên lượng Ứng thân trong đó có bốn:
1) Lược nêu.
2) "Ứng thân...": là giải thích nguyên do.
3) "Văn nói...": là dẫn chứng.
4) "Đây là...": kết.
Tiếp, nguyên do trong đó có ba: 1) Nêu công năng.
2) "Duyên trường...": ứng dụng.
3) "Vân vân...": nêu ứng tức thể. Trong dẫn chứng hai câu đầu chứng tướng ứng thân. Hai câu tiếp chứng dụng ứng thân. "Lại nữa...": căn cứ bốn câu, có hai: Đầu tiên, chánh giải thích bốn câu. Tiếp, "Bốn câu...": bốn câu tổng quát. Trong phần chánh giải thích có hai: Trước, chánh giải thích. Tiếp, tổng phá xưa. Chánh giải thích: Y thân thứ lớp không y câu thứ lớp, cho nên đầu Pháp thân là câu thứ tư, Báo thân tức câu thứ hai, do trước Kim cang nên chưa gọi là báo, tức câu thứ nhất là hữu lượng mà chưa gọi là Phật. Vả lại, nói vô thường, kỳ thật lại phải phân biệt đồng khác, Kim cang đến phàm mỗi một tiết sai khác, ứng thân tức câu thứ ba. Nói "cách thông": Là muốn dùng bốn câu thâu tóm tất cả, cho nên dùng câu thứ nhất từ Kim cang đến. Thông đến phàm phu, cho nên nói chẳng phải đức Phật thâu nhiếp bao quát rộng rãi, huống chi phàm phu cũng được lấy làm bản ba thân, cho nên nhập câu đầu. Tiếp, "Phá xưa nói hai thứ hủy báng": Trong phẩm nêu rõ thường không dùng thường giải gọi là hủy báng làm nghĩa giảm, không có vô thường dùng vô thường giải thích, gọi là hủy báng làm tăng.
Tiếp bốn câu tổng quát có hai: Đầu tiên, kết trước, sinh sau. Tiếp, chánh giải thích. Trong đó văn tự phân làm hai: Đầu tiên nói biệt: Ba thân biệt giải thích, phân câu thuộc nhân, sở thuộc từng bậc nhất định. Giải thích trong báo thân trước định câu, tiếp giải thích nghi, trong đó trước nêu pháp báo nghĩa đồng câu thứ tư. Tiếp "Chỉ lấy...": nêu ý đối câu. "Phàm phu chung...": Nay văn giải thích Phật chỉ ngoài ba thân đều thuộc phàm thâu cho nên văn còn dùng trước Kim Cang, không thuộc ba thân đều nhập phàm theo lệ. Nói "Biệt giáo": Ba thân biệt riêng biệt đều đối câu cho nên gọi là "tướng Biệt giáo phân biệt". "Tiếp, theo cách thông...": là Thông giải thích, đều đầy đủ bốn câu: ba thân xen lẫn cho nên nói Viên giải thích, ba thân đều có bốn cho nên nói cách thông. Trong đó đầu tiên thông nêu lên. Tiếp mỗi mỗi thông giải thích. Đầu, Pháp thân trong bốn câu nói song phá bát đảo của phàm Thánh. Phàm bốn Thánh bốn, lý tùy vận dụng thường song phá, nhưng cũng cần phân biệt thể trạng của bát đảo, như trước trong Thập bát Không đã nói. Câu thứ ba nói vô thường: Là không có Thường kia. Câu thứ tư: chỉ tịch làm pháp thân, cũng mà cũng chiếu. Tiếp báo thân trong bốn câu đều phải căn cứ trí. Đầu song phi: Cảnh đã song phi trí ắt xứng cảnh. Trong câu thứ hai nói vượt quá nhị thừa, Tiểu trí chỉ có chấp vô thường.
Hỏi: Trong đây song chiếu và trước có gì sai biệt?
Đáp: Trước dùng tịch tức pháp thân, tịch mà thường chiếu. Trong đây căn cứ trí song chiếu cho nên được gọi là biệt.
Hỏi: Pháp thân là cảnh, cảnh làm sao năng chiếu?
Đáp: Tướng chiếu bốn câu nói đầy đủ trong Huyền Văn. Phi bát thân trong ứng thân bốn cho nên phi thường phi sinh tử cho nên phi vô thường. Cả hai tồn tại thì đủ hai ý trước. Phàm phu bốn câu, trong đó trước nêu nguyên do dụng câu. Nay nêu Như Lai sao được thông phàm. Vì cả thảy bốn câu đã một có một câu đối phàm. Nay đã thông giải thích đối với Phật chẳng phải là không có, huống chi tánh đức ba thân đầy đủ các câu. Nói "tánh đức không có danh tự": Chưa có tu nên nêu rõ không có quả Phật bốn câu, chỉ căn cứ lý ba tánh đức để lập bốn câu.
III.Dung thông... một thân tức ba, không đồng nơi khác giải thích ba thân cố định chấp, cho nên thân câu đều xen lẫn thông, danh thông nghĩa thông lý thông pháp thông, thông mà hằng biệt, mới giải thích được sự ngăn ngại.
IV. Tùy duyên có ba:
1) Nêu tướng.
2) Dẫn kinh.
3) "Sở dĩ...": giải thích nêu nguyên do, tức căn cứ giáo phê phán. Nói: "Nếu các Bồ-tát chưa đăng Địa, Trụ". Nói "đồng trước": Là đồng Nhị thừa. Nói "cho và đoạt" là vì Tha thọ dụng thân cũng gọi là Ứng thân. Địa thượng kiến là Tha thọ dụng. Chỉ dùng Báo Ứng hai danh mà luận nghĩa "cho và đoạt". "Đại kinh...": lại nêu ba thí dụ ở Đại kinh để chứng ba thân.
V. "Phẩm này...": là căn cứ thân dùng văn nghĩa phân phán phẩm khiến biết nghĩa lâu thành. Lại có ba:
1) Chánh nêu bản báo.
2) "Vì sao vậy?...": là giải thích lý do trên sâu xa pháp bản, dưới khế hợp căn cơ chúng sinh.
3) "Lấy đây...": là kết thành bản báo.
VI. "Lại nữa như vậy...": rộng căn cứ bản tích chỉ bày ý phẩm này, trong đó có bốn:
1) Chánh nêu bản địa ba thân làm bản, tức chánh chỉ bày.
2) "Các kinh...": cùng các bộ để biện luận sai khác.
3) "Phi bản...": nêu nguyên do Bản tích.
4) Bản tích tuy khác mà bất tư nghì nhất. Trong đó lại có năm:
1) Chánh nêu thể tánh bản tích, tánh tức thật tướng, thật tướng chẳng lâu (xa) tại sao luận bản kia? Thật tướng chẳng phải gần, tại sao luận tức kia? Thật bất tư nghì cho nên gọi là nhất.
2) Tiếp chánh bài bác Triệu sư, nói "tịch tràng": Nếu đem Cửu triệt của Triệu sư nói vẫn nương Đa Bảo tiêu biểu bản, mà Triệu công chỉ Thích-ca bản tích cần phải nói "tịch tràng".
3) "Lại nữa...": lại nêu trong cận có nhiều thứ bản tích, thông bài bác các sư.
4) "Nay nhiếp...": là Biệt chỉ cửu bản cận tích, nêu bất tư nghì.
5) "Như ấy...": là kết sai khác.
Một và hai như văn. Thứ ba, văn có ba: Nghĩa là nêu lên, giải thích và kết. Trong giải thích lại có hai:
1) Biệt căn cứ ba đế để luận bản tích.
2) "Ba thứ...": là tổng căn cứ ba đế, ba, một không khác để luận Bản tích. Lại căn cứ thứ tự và không thứ tự để luận tổng biệt. Hoặc biệt hoặc tổng đều bất tư nghì, chỉ căn cứ thiết lập tướng ưng dụng pháp không đồng, dẫn đến thành tổng biệt. Đều dựa vào bản thời tức tổng mà biệt, bèn có thể dụng ở đó tức biệt mà tổng. Biệt tổng không hai tùy thời nói sai khác, nhưng trong biệt xuất ra biệt tướng, từ chân khởi ứng, chỉ dùng thần thông, thông gọi là "ứng". Tục thì chỉ tục đế Tam-muội, lấy đó làm bản. Tùy phương tiện giáo được nói như đây. "Chưa biết...": tổng kết. Thứ tư, Biệt chỉ trong đó có ba:
1) Chánh chỉ bày chọn lược.
2) Chỉ bản tích tương hiển.
3) "Bản tích...": chỉ bày bất tư nghì. Trong phần đầu, chọn lược nói "ba phen bốn phen": Ba phen là ba đế, bốn phen thêm nhất tâm. Hoặc bản hoặc tích đều nhiếp chấp, nhiếp thuộc chấp trì, chữ chấp cũng là nghĩa chồng chất. Ba, bốn chồng chất đồng tại bản tích. Hoặc bản hoặc tích đều có như vậy ba-bốn bản tích. Tại Bản tại Tích tùy thời sai biệt, chọn trung gian bản tích làm tích, thì bản địa bản tích làm bản. Người khác không thấy Bản tích của kinh này, chỉ biết theo nghĩa thắng chuyên cầu pháp thân. Như đây pháp bản cùng các kinh cùng thắng, ngược lại thành nghĩa liệt. Nếu đắc cửu Bản thì cận Tích không mất. Nếu chỉ nói Pháp thân thì còn mất trung gian, huống chi viễn bản. "Từ cái...": nêu Bản tích tương hiển, từ nơi Bản của Bản tích bản địa, thùy ở trung gian ngày nay Tích của Bản tích. Như vậy Bản tích cửu cận tương hiển, mới biết Bản là bản của Tích gia, Tích là tích của
Bản gia. "Ba Bản tích bất tư nghì": Tức căn cứ lý. Thứ năm Kết sai khác: Như văn.
Trong Thất liệu giản, trước là ý hỏi: Thắng mới gọi là khác, các kinh nêu pháp tướng kinh đây còn thiếu ứng liệt các kinh, tại sao được trở lại năng vượt các thuyết khác? Tiếp, trong Đáp có hai văn. Đều nói chủng chủng, không ngoài nhân quả và dùng tự tha. Văn có thí hợp. Văn trước nói "nghiệp", tức hạnh năng hành, "bảo" tức pháp sở hành, "vị" tức quả sở giai. Trong phương tiện giáo hành nhân thâu hoạch quả cho nên nói "chủng chủng". Nếu không có thọ lượng pháp thân thường trụ, thì nhân quả không chỗ trở về, cho nên biết các kinh các hạnh không đồng, đều nhập về mạng thường trụ của kinh này; mạng thường trú đây một thể mà ba thân thâu tóm khắp tất cả, đây là căn cứ tự hành. "Tiếp, Đại kinh...": lại căn cứ tự tha, "Đầy đủ như pháp môn...": song hợp. "Cốt yếu trong biển...": kết nêu thắng ý chia làm ba: Nghĩa là pháp, thí, bài bác. Bài bác nói: Không khác là gì?! Pháp tánh pháp thân, "trí" tức Báo thân, "ứng" tức Ứng thân, cho nên "cốt yếu trong biển pháp tánh" lẽ nào quá đây? Cho nên ứng đều dùng ba thân hợp hầu (cổ họng)... bốn thứ. Nhưng trong các kinh lẽ nào không có ba thân, chỉ vì Kiêm Đới và chưa nêu rõ viễn đó thôi! Vì vậy cho nên kinh này vĩnh viễn khác với các giáo. Nếu không như vậy, thì xét kỹ các kinh, kinh nào nêu Phật cửu viễn là Bản đồng với kinh này? Vì sao dùng khổ để bài xích đức lâu thành? Vì giải thích nghi ư? Đây nếu giải thích nghi phương tiện thì cũng là giải thích hiện tướng nghi. Phương Tiện giải thích nghi thì phẩm Tựa là Chánh thuyết, mới có thể trong đây Dũng-Xuất là Chánh, huống chi các phẩm khác đều phán lấy làm Lưu thông. Nhưng trong luận tự liệt kê Mười thứ vô thượng:
1) Chủng tử vô thượng chỉ thí dụ mưa rơi.
2) Hành vô thượng chỉ việc của đức Đại Thông.
3) Tăng trưởng lực vô thượng chỉ thí dụ Hóa thành.
4) Khiến giải vô thượng chỉ thí dụ buộc châu.
5) Tịnh độ vô thượng chỉ Đa Bảo hiện.
6) Thuyết vô thượng chỉ thí dụ hạt châu trên búi tóc.
7) Hóa sinh vô thượng chỉ Dũng xuất Bồ-tát.
8) Thành đạo vô thượng chỉ thọ lượng tam Bồ-đề.
9) Niết-bàn vô thượng chỉ con của Thầy thuốc.
10) Thắng diệu lực vô thượng chỉ các phẩm dưới, là phần Tu-đa-la còn lại. Nên biết luận ý, chỉ từ phẩm Phân Biệt Công Đức trở đi, là phần Tu-đa-la còn lại, tức phần lưu thông còn lại của kinh. Vọng nay Sở phán chỉ khác nửa phẩm. Nếu dùng Công đức mà nói thì có thể đều thuộc lưu thông. Nay từ lãnh thọ ký mà phán thì thuộc Chánh thuyết vậy. Đều khác với các kinh, cho nên nói "vô thượng".
Nếu như vậy thì từ thí dụ mưa về trước lẽ nào chẳng phải Vô thượng ư?
Đáp: Thí dụ mưa đã thuật thí dụ và lãnh giải. Phẩm Phương Tiện đã phán là Thậm thâm. Thậm thâm chỉ là tên khác của Vô thượng, huống chi phẩm Phương Tiện đã là căn bản của Thí dụ. Nếu dùng Phương Tiện trở xuống tám phẩm làm Chánh, cũng được là Chánh trong Tích môn. Nếu dùng mười ba phẩm làm Chánh thì lại tạp lẫn Tích môn lưu thông. Cho nên biết chọn tích lưu thông làm chánh, bỏ bản chánh làm lưu thông, sự sâu xa không thể được, đầy đủ như biệt ký. Cho nên biết bản địa ba thân tức như yết hầu của thân các kinh, như cổ áo, như mắt với các căn. Từ cỏ xuất ra gió, tục thông cho nên biết nay nêu bản tích không đồng với các kinh các sư. Câu văn của phẩm này thì câu sớ hơi nhiều, trước sau khó thấy, cho nên trước biên chép ra. Chỉ dựa vào đây mà khai. Văn khai hiển có hai: 1) Khuyên bảo, tin, 2) Chánh đáp.
Lại có hai: Trường hàng và kệ tụng. Trường hàng có hai: Pháp, thí. Đầu, trong pháp thuyết có hai: l) Ba đời lợi ích vật.
2) Tổng kết ý không dối. Ba đời chia làm hai: l) Quá khứ chia làm hai: l) Từ "Như Lai bí mật...": nghĩa là nêu chấp cận. "Nhưng Thiện nam...": là phá cận hiện viễn. Văn đầu lại có ba:
1) Nêu pháp sở mê.
2) Nêu chúng năng mê.
3) Nêu mê bản. Tiếp, phá cận hiển viễn lại có hai: Trước, hiển viễn. Sau, lợi vật thích nghi. Hiển viễn lại có hai: Pháp thuyết, Thí thuyết.
Thí thuyết lại có ba:
1) Nêu thí dụ hỏi.
2) Đáp.
3) Hợp.
Tiếp, "Ích vật sở nghi" có ba:
1) Nơi ích vật.
2) Phất tích thượng nghi.
3) "Nếu có chúng sinh...": chánh nêu Ích vật sở nghi.
Trong đó có hai: l) Cảm ứng.
2) Thiết lập hóa. Trong đây lại có hai:
1) Nêu lợi ích của hình tiếng.
2) Được lợi ích hoan hỉ. Hình, tiếng lại có hai:
1) Hình.
2) Tiếng.
Lợi ích hình lại có hai: l) Phi sinh hiện sinh.
2) Phi diệt hiện diệt.
Lợi ích của tiếng, như văn. Được lợi ích hoan hỉ, như văn.
Tiếp "Các Thiện nam tử! Như Lai thấy...": hiện tại lợi vật lại có hai:
1) Cơ cảm.
2) Ứng hóa, trong đó lại có hai: a) Phi sinh hiện sinh.
b) Phi diệt hiện diệt. Đầu văn lại có hai: l) Hiện sinh.
2) Hiện sinh lợi ích. Hiện sinh lại có hai: l) Hiện sinh.
2) Phi sinh.
Trong hiện sinh thứ hai lợi ích có hai:
1) Hình tiếng.
Không dối, không dối có hai: a) Không dối. b) Giải thích không dối lại có hai: b.1) Chiếu lý không dối.
"Do các..." là nêu xứng cơ không dối gạt, trong đó lại có hai:
b.2.1 Cơ cảm.
b.2.2 Thiết lập hóa.
Tiếp, nêu Phi diệt hiện diệt, lại có hai: l) Phi diệt hiện diệt.
2) Hiện diệt lợi ích. Đầu, lại có hai: l) Bản thật bất diệt. Trong đó có hai: Đầu, nêu quả vị thường trú; sau, nêu nhân so sánh quả.
2) "Nhưng nay...": trong Tích xướng diệt. Hiện diệt lợi ích, lại có hai:
1) Bất diệt có tổn.
2) "Dùng phương tiện...": xướng diệt có lợi ích. Đầu, lại có hai:
1) Bất diệt có tổn.
2) Rộng giải thích. Có lợi ích có hai:
1) Tán thán Phật khó gặp.
2) Giải thích, như văn.
Tổng kết nghĩa không dối lại có ba:
1) Nêu chư Phật xuất thế ắt trước thiết lập ba.
2) Nêu đều là hóa vật.
3) Đều không phải hư vọng.
Tiếp, trong thí dụ có hai: Khai, hợp. Khai thí chia làm hai: l) Lương y thí dụ ba đời.
2) Trị con thí dụ nghĩa không dối. Văn đầu lại có ba:
1) Y Thầy thuốc đi xa là thí dụ quá khứ.
2) Trở lại rồi đi là thí dụ hiện tại.
3) Tìm đến là thí dụ vị lai.
Quá khứ lại có hai:
l) Phát cận hiển viễn.
2) Hóa lợi ích sở nghi.
Nay chỉ hóa lợi ích. Trên hóa lợi ích lại có ba:
l) Xứ sở.
2) Phất tích.
3) Chánh hóa.
Nay chỉ chánh hóa. Trên chánh hóa lại có hai: l) Cơ cảm. 2) Chánh ứng hóa.
Nay thí dụ đủ. Nay căn cứ văn đầu lại có hai: Như có lương y, siêu thí dụ ứng hóa. Từ "Người ấy nhiều con cái": Là truy thí dụ cơ cảm. Tiếp, chánh ứng hóa, văn đây có ba khuyên bảo. "Ba phen thỉnh" cho đến "trịnh trọng": Trong thỉnh đã nói: Ba phen bạch như vậy rồi lại nói: "Phải biết" đến bốn. Đức Phật đối sau ba phen thỉnh lại nói: Các ông lắng nghe tức lời răn thứ tư, và trước tích môn răn hứa đến ba phen thỉnh, tức năm phen răn bảy phen thỉnh. Trịnh trọng như trước giải thích.
"Xưa nói Thất phương tiện" cho đến "thành đế": Là nói "Thất phương tiện quyền", lại mượn quyền xưa, nếu đối quả môn thì quyền thật đều là ý tùy tha. Do trong Viên nhân cũng có Vô sinh nhẫn, tức dễ nghe viễn cho nên để qua bên mà không luận. Cho nên, đây tự tha tùy dụng sai biệt, đầy đủ như trong Huyền Văn. Trong Pháp thuyết vị lai nói ít, chỉ là bốn chữ "thường trụ bất diệt" làm văn vị lai. Thí thuyết trong kệ văn nhiều. Trường hàng trong thí thuyết từ: "Người cha nghe con" trở xuống, là văn kia còn ít. Kệ trong Pháp thuyết, từ: "Ta thấy các chúng sinh" trở xuống, văn có mười hàng rưỡi cho nên nói nhiều. "Một thân tức ba thân...": Trong văn hai giải thích đều có ý kia. Giải thích thứ nhất căn cứ ba thân, pháp thể pháp nhĩ tương tức. Giải thích thứ hai căn cứ xưa nay tương vọng, dùng pháp thể nay vọng xưa. Cũng có thể giải thích trước là thông các vị, giải thích sau là bài bác các kinh khác, chỉ tại kinh này nên vậy tức thần thông của bí mật gia. Cho nên lại căn cứ ba thân để giải thích, nên biết thần thông lực tùy nơi giáo chủ các giáo. Vì thế, rộng căn cứ các vị phân chọn xong. Lại căn cứ xưa nay phân biệt mới hiển thần thông của bản địa ba thân. Nếu giải thích tiểu thừa và dùng tiệm giáo thì không được dùng ba thân trong đây giải thích. Dẫn kinh Đại Phẩm: Kinh này nêu hết thảy thế gian đều cho là cận thành, chỉ liệt kê thiên, nhân, Tu-la không nói ba đường ác, nhưng chấp cận cũng phần nhiều tại ba thứ đây, cho nên dẫn làm theo lệ. Trước tuy có tên nhị thừa từ đầu để nói, nếu hợp khai rồi đều thành Bồ-tát, cho nên nay chỉ từ khai biên để nói. Ý kinh Đại Phẩm kia nói thù thắng vượt ra là chỉ thù thắng vượt ra Tiểu (thừa). Tiểu tại ba thứ đây không cần ba đường ác cho nên tạm dẫn đồng. Từ đây nói pháp thân địa đến nói lâu dài, pháp nhẫn Bồtát còn phải tự nghe. Nên biết thọ lượng chẳng nói không biết, nhưng người đắc Vô sinh cũng nghe ứng tức pháp thân, chỉ không nghe lâu thành mà thôi! Nói "tự ứng..." chỉ không đồng giới nội trải qua năm vị vượt qua Bản tích, bảy phen thỉnh năm phen khuyên răn mới được nghe, do thấy một phần pháp thân lý hợp được nghe lâu dài. Cho nên văn trước nói: Địa trú lên được nghe thường, chỉ là thường cùng thời khác có khác, cho nên lại luận.
"Phá cận hiển viễn" lược có mười ý như Huyền Nghĩa... Huyền Văn quyển chín nêu rõ trong dụng có mười môn không đồng, kia liệt kê đủ giải thích gồm Tích môn mười ý để biện đồng khác. Nay chỉ lược nêu hai môn phá phế. Chú gia nói: Thọ (lượng) vô thủy tối tăm mà chưa hiển sáng tỏ, đây không ứng như vậy. Vì sao? Trong đây chánh nêu nghĩa cửu viễn trường (lâu dài) để phá Già-da cận thành đoản (ngắn) hiển bày sáng tỏ đâu có tối tăm. Lại nói: Sao đức Phật không như vậy? Đây cũng không như vậy! Xa gần không đồng dài ngắn sai biệt. Nói thẳng xuống một hạt bụi, một cõi bị điểm, thì trong đây Kinh văn không nói điểm xuống chỉ gồm văn tích kia mà thành lời nói kia thôi! Tăng truyện nói: Căn cứ kinh cựu mà La-thập dịch không có bốn chữ "một trần một kiếp". Đời Tề có Cao Tăng Đàm Phó tụng kinh cảm mộng nói thiếu một câu, sau đắc quả. Như kinh Kim Quang Minh nói: "Có thể biết số giọt nước trong tất cả biển, mà không thể biết thọ lượng của Như Lai". Đây cũng nêu thọ lượng đời vị lai chẳng phải quá khứ. Nếu dẫn chứng đây thì sự đặc thù đều tương ưng.
Nơi "Ích vật": Ta-bà đây tức là cõi bản ứng thân nương ở, ngày nay tích ở không dời đổi nơi bản, chỉ xưa nay thời có khác. Thấy thiêu cháy: Nghĩa là cận, chiếu bản là thấu đạt viễn. Cho nên kinh nói: Cõi ta không hủy, thường tại Linh Sơn đâu lìa Già-da biệt cầu thường tịch, chẳng phải ngoài cõi Tịch Quang riêng có Ta-bà!
"Nơi trung gian đó...":
1) Chánh giải thích.
2) "Hoặc có...": là nêu xưa.
3) "Nay là..." phá xưa.
Trong chánh giải thích, đầu tổng lập năng phất. Tiếp, "nhân nghi...": chỉ sự sở phất. Trước nêu. Tiếp, "Xưa giáo...": là giải thích xuất sở nghi. Tiếp, "Nay phất...": là chánh chỉ tướng phất. Chính do kinh văn trước nêu sự xong, kết nói đều là phương tiện, tức gọi là "Phất". Xưa đối các giáo tuy thấy không đồng mà sinh nghi, chính không biết là quả hậu phương tiện; và như vậy chỉ bày ý sai biệt tức nói "gặp Đức Phật Nhiên Đăng" và "ở đời Phật Nhiên Đăng nhập Niết-bàn" vậy.
Tiếp, "Xưa giải thích": Lại có người nói: Nói Đức Nhiên Đăng: Nói tha là ngã hay là bình đẳng ý thú! Kinh văn chỉ nói ngã nói tha thân đâu cần sửa nói ngã là ngã. Nay giải thích ý nói: Là Thích-ca Bồ-tát nhập diệt, không được nói là Nhiên Đăng Niết-bàn cũng chẳng phải Thích-ca lúc ấy ở đời Phật Nhiên Đăng đã từng thành Phật mà nhập Niết-bàn. Không thể hai đức Phật cùng một lúc hưng khởi. Vì vậy cho nên chỉ dùng đắc thọ ký hoằng pháp thọ lượng tận cùng làm quả.
"Phật nhãn...": Đã đối Phật nhãn nêu nơi hai ứng, cho nên tha thọ dụng cũng ứng nhiếp. Nhân thiên và dùng pháp nhãn đều nói là hoa báo, chẳng phải không cận quả nhượng Phật báo. Cõi kia đã vậy thì thân sao lại không như vậy. "Tín... các căn": Đã được Như Lai Bản địa Phật nhãn quán sát tận một kia lâu (xa) dài chiếu nguồn căn kia cho nên năm căn đây cần phải căn cứ Bản địa trung gian duyên liễu. Lại kinh tiệm đốn đại tiểu và nhân thiên thừa, danh đồng thể biệt thông, được gọi là "tín... năm căn", do nhân thiên thừa thông gọi là "duyên nhân". Đây chính là vọng kia biến khắp khai thông thành Duyên, Liễu. Trong đó trước căn cứ tiệm đốn phán xét. Tiếp căn cứ Đại tiểu nhân duyên để phán xét. Tiểu tức tiệm sơ, trong tiệm lợi độn chỉ nói Tạng Thông. Tiệm thông đủ bốn do Biệt, Viên đồng nhập trong Hoa Nghiêm đốn giáo nhiếp thu. Vậy cho nên lại dùng tiệm trong giới nội xảo thuyết, đối với lợi độn thông tại Phương-đẳng Bát-nhã hai vị. Lại dùng Tiểu đối nhân thiên biện rõ lợi độn, lại dùng ưu liệt (tốt xấu) tương vọng. Chỉ nhân thiên thừa biến khắp tại trong tất cả giáo Đại tiểu, mười giới đến hai nhân: Nên nói trong pháp giới cũng có ác pháp. Mà nói không dụng: Do mười pháp giới là nói phát sinh cơ duyên thiện nên không lấy ác pháp, chỉ trong mười giới xoay vần tương vọng mà có năm thừa bảy thiện và Viên Thật các thứ, cho nên Thánh nhân lại lập phương tiện truyền truyền dẫn xuất. Bởi do có cơ nên thích nghi không đồng không thể đốn xuất.
Hỏi: Nếu vậy Phật quả đã cùng cực thì tại sao cũng được gọi là sinh căn cơ?
Đáp: Trong đây luận về cơ và biện rõ lợi độn. Pháp giới Phật chưa phải là Phật quả, Huyền Văn kia nói mười giới xen lẫn dùng luận cơ duyên thì quả Phật cơ thông nơi mười giới. Nếu trực tiếp thích hợp dùng Phật giới độ người, thì đó là Phật giới có cơ duyên Phật giới. Nếu chưa thích hợp Phật giới, thì dần dần nơi Bồ-tát giới mà thành thục, cho đến địa ngục tức đến địa ngục mới hồi tâm, đầy đủ như trong Thích Tiêm, cũng như Quan Âm Diệu Âm hiện thân không đồng.
"Tự nói danh tự...": Đã đối mười giới hoặc chỉ luận bốn thánh để biện hơn, kém và ứng thắng liệt. Nên biết trong đây lại đối với thắng liệt ứng của Phật giới sở dĩ luận. Sỡ dĩ thường luận: Sợ vẫn cho là pháp thân thuyết pháp cho nên vậy. Ngang luận tức mười phương, xưa nói mười phương. "Căn cứ xứ sở dọc" đến "Nhiên Đăng Phật": Dùng Thích-ca vọng xưa gặp Đức Nhiên Đăng, gọi là thời Nho Đồng, không phải chấp Nhiên Đăng khác để vọng ta. Nếu chấp Phật khác thì chẳng phải ta dọc. Nếu chỉ Nhiên Đăng Phật thân thì có thể dẫn loại mà thôi, cho nên nói "như nay...". Nói "Sinh Pháp": Như dưới giải thích thắng liệt đều có Sinh Pháp hai thân. Tiếp, căn cứ trong ngang nói "Cũng như kinh Hoa Nghiêm nói mười hiệu...": Phẩm Danh Hiệu nói: "Như Lai ở nơi tứ thiên hạ, hiện các thân, các danh, các thực, các hình, các tướng, các dài, ngắn, các thọ mạng, các xứ, các căn, các sinh, các nghiệp, khiến các chúng sinh đều biệt tri kiến. Lại trong mười phương đều có mười ngàn danh hiệu khiến các chúng sinh đều biệt tri kiến". Đã nói Như Lai ở trong tứ thiên hạ này..., cho nên không được đem Phật khác để vọng ta, trong dọc cũng vậy. "Lại, các kinh...": là nêu Phật có ba thân tự vọng lẫn nhau danh tự không đồng. "Đầu, thông nêu hoặc thuyết...": nêu ba thân tương vọng cũng được gọi là ngang. "Pháp thân Phật" cho đến "Bát-nhã Thủ Lăng Nghiêm": đối trong pháp thân lại có danh khác không đồng. Bát-nhã là Trí, Lăng-nghiêm là định, bất tư nghì định tuệ đều là tên khác của Pháp thân, đầy đủ như trong Chỉ Quán giải thích tên. Do Đại kinh nói Phật tánh có năm tên; chỉ nêu Pháp thân hai thứ khác vẫn lược. Do ngang vọng cho nên liền được dùng Phật vọng Phật, như trước dọc vọng chỉ được dùng Phật vọng thân Bồ-tát xưa vậy. Nay đã thành rồi, có thể đắc vọng ngang. "Hoặc nói thọ hai vạn" đến "có thể biết": đây nhờ Phật khác để hiển Thích-ca như chư Phật kia, cho nên đều nói "như". Ngang dọc, có thể biết: Thích-ca Di-lặc tức dọc, đối hiện mười phương tức ngang. Nếu tự thân nay vọng ngày xưa thọ tức dọc, vọng tự thân thọ tức ngang. Như Huyền Nghĩa v.v.... Trong Huyền Văn kia nói thọ mạng vi diệu, nêu rõ đầy đủ thọ mạng bốn đức Phật trong Tích và trong Bản, Đại tiểu không đồng. Ưu, liệt tương vọng và dùng kia đây mà luận ngang dọc. Nhưng không dùng ưu liệt để phê phán Bản tích, chỉ dùng cửu cận phê phán Bản tích thôi! Khiến biện rõ đồng khác cho nên chú nói "vân vân". Hoặc ba thân tương vọng: Đối trong một giáo tự dùng ba thân mà có ưu liệt, dùng làm Đại tiểu thì nghĩa thông Biệt Viên. Tiếp, hoặc ba thân đều biệt, đều là tiểu; đây chính Biệt Viên tương vọng, Viên đại biệt tiểu. Theo lệ ba điểm nói: Chỉ là đều biệt và phi. Dọc ngang tức thí dụ Biệt Viên, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển ba. Sư xưa dùng sáu giải thích đều làm dọc ngang, Sư nay ba giải thích không ngang không dọc. Nếu lại đối ngang dọc phán xét Đại tiểu: Thì Tiểu thừa ba đức làm tiểu, ba đức Biệt giáo làm đại. Cũng lại hiện nói đương nhập Niết-bàn, đây chỉ văn khai Tích xong. Nếu khai Tích xong được nói song lâm là thị hiện diệt độ làm lợi ích vật. Lấy nay căn cứ xưa cũng lại như vậy. "Sư tử Phấn Tấn...": Gọi Phấn Tấn và mười công đức thông nói "Bản tích" cho đến "Sơ trụ", nay phải phân biệt đây, là lâu thành hiện tác hiện tại. Có mười đức: Trước nói chín có thể thấy, Như thứ mười nói: Đầy đủ mười thiện trên, tức như tứ quán quán nơi mười thiện. Viên tức thượng thượng mười thiện. Mười thiện chỉ là ba nghiệp, cho nên nói "thân ba...". Cho nên bốn-ba nghiệp tiết tiết không đồng.
Cho nên thượng thượng đến quả gọi là công đức thứ mười của Sư Tử Phấn Tấn chỉ là ba nghiệp tùy theo trí tuệ hành và ba mật... Cho nên Phật quả địa cũng dùng Sư tử Tam-muội, phán tấn nơi trần cấu khác. Nếu luận chư Phật đời đời đều như vậy thì chín thứ còn lại chuẩn theo đây... dựa theo giải thích mười tướng biện minh trung gian ngày nay đời đời đều có hiện tại tích hóa do bản công đức.
"Như Lai thấy" cho đến "ưa Tiểu pháp": Dùng cửu cận tướng Thánh làm tiểu, đức Phật dùng bản địa Phật nhãn thấy, chưa thích hợp viễn nói, do ưa cận nói gọi là ưa tiểu. "Hoa Nghiêm" đến "người": Là trước dẫn kinh, đây là đầu phẩm Thập Địa Bồ-tát Kim Cang nói ngăn giải thoát nguyệt. "Xét kinh kia...": nay văn phán xét. Cho nên biết kinh kia do chưa đến hồi hướng vì không có hành lâu, đây chỉ là thứ lớp hành đó thôi! Nếu Phổ Hiền hạnh sơ phát tâm trụ rồi viên chứng xong, thì đâu thể đến địa tiền nói không lâu hành mà không vì nói.! Nếu nói nương thứ lớp mà luận không thứ lớp thì vì sao sơ trụ không thứ lớp mà cũng nói có thứ lớp ư? Cho nên nương nói thứ lớp cần có điển cứ, nên kia dùng nghĩa hành không lâu làm "ưa Tiểu". Nay văn chính dùng ưa cận thành làm ưa tiểu. Chỉ dẫn nhân giống như bản chẳng phải văn tức bản. Nếu nói đối Tiểu làm "ưa Tiểu" thì Địa tiền Trụ tiền và Tạng Thông Bồ-tát còn không hợp Tiểu, huống chi Thập địa của kinh kia, huống chi bản môn của kinh này. Sư nói: Dẫn Nam Nhạc nói đồng làm chứng. "Nay đương...": Đại sư đối dưới thông căn cứ giáo đạo, bắt đầu từ tệ dục cuối đến Biệt giáo thông gọi là "ưa Tiểu".
"Đức mỏng cấu nặng": Người kia chưa có hai nhân Thật giáo. "Nói...": văn dưới nói "Các con nhỏ dại": Chỉ văn dưới Thầy thuốc và con dụ, còn chưa kham nghe viên huống chi khai viễn ư! Kiến Tư chưa trừ: Lại hiểu rõ nói "thơ dại" trong Thí dụ, chắc chắn chưa biết viễn.
Tiếp, "Hỏi: Nếu bốn vị trước chỉ ưa cận thành làm "ưa Tiểu", thì Hoa Nghiêm đốn bộ Viên trong các vị và dùng nhân môn vì sao cũng gọi là "ưa Tiểu pháp ư"?
Đáp: Trong bốn nghĩa ba tại nhân thứ tư tại quả môn, cho nên tên gọi "ưa Tiểu" còn thông tệ dục, huống gì Tiểu ư! Cho nên nay quả môn biệt ở ưa cận, cho nên hai người trước trong ba người trước tự thoái Đại về sau chấp ái, trược kiến, người này còn không ưa nơi Tiểu thừa, huống chi Viên thừa ư!.
Tiếp, Một là chấp ba phương tiện giáo còn không kham nghe Viên, huống chi lại nghe chỗ viễn đối biệt. Cho nên, đối quả môn dùng nghĩa "ưa cận" làm "ưa Tiểu". Nên biết quả môn Viên nhân Hiền vị còn có ưa cận thành. Tức là hoặc sau quả môn tất cả khai rồi, thì sơ tâm cũng nghe huống chi Hiền vị ư! Đời mạt pháp người chưa từng phát tâm cũng nghe, huống chi là người phát tâm ư!
Hỏi: Đời mạt pháp đều nghe Phật xuất thế đâu lựa chọn ư?
Đáp: Đức Phật xuất thế đương cơ cho nên chọn đời mạt pháp kết duyên nên khai. Nếu được ý đây phàm các pháp tướng sở đối không đồng, đâu cần hỏi nói Viên không nên ưa Tiểu. "Trước nêu lợi độn" đến "hai ứng": Trước nêu hai cơ thông tiệm đốn giáo, tổng phán xét lợi độn cho nên nay tổng dùng hai ứng nói. "Liệt ứng" đến "pháp thân sinh": Tướng của hai ứng, Kinh văn đều có nói Sinh Pháp hai thân sinh tướng. Nên biệt hai xứ tương vọng không thể dùng thừa chiên đàn lầu các! Lạm đồng quán suốt kỹ càng, không thể dùng chủng trí viên minh, đồng chánh tập đều tận. Lại dùng mười hương bảy bước không đồng mà tiêu biểu thắng, liệt. Cho nên biết hai xứ đều không có nghĩa lâu thành. "Chỉ do" đến "nói như vậy": Chưa khai chỉ nói sinh, khai rồi mới nói chẳng sinh. Nay thuật tích thùy phương tiện đối nay nói khai rồi cho nên tổng nói đó thôi! "Các kinh khác" đến "phi sinh": Một phen xưa lại từ Tiểu thừa để nói, như Phật hỏi Quân Đề: Hòa thượng ông giới thân có diệt không? Cho đến tri kiến thân diệt không? Đều đáp nói: Không
Phật ấn hứa, Đã chấp nhận bất diệt cho nên nói "không phá". Nếu trong Đại thừa thì cũng chẳng phải không phá. Lại tuy dùng Đại phá Tiểu chỉ Đại tiểu tương đoạt, Đại tiểu vẫn còn. Trọn không dùng viễn mà đoạt ở cận, cho nên nói còn không đồng. Cho nên kinh này vọng thể tịch tràng Giá-na đã là tích thành cho nên nói chánh phá. Chưa thể tùy luận bốn giáo. Lại căn cứ hai xứ thành tướng, tức hiểu Tạng Thông hai thân là liệt ứng, Biệt Viên hai thân là thắng ứng. Trong văn tuy nói hai ứng đều có Sinh Pháp hai thân, nhưng ngũ phần pháp thân trên liệt ứng thân nghĩa đồng Sinh thân, trên thắng ứng tuy nói Sinh thân mà nghĩa đồng với Pháp thân. "Nói gặp đức Nhiên Đăng" đến "nói tha thân": là dùng thân NhiênĐăng Phật làm tha thân. Nếu căn cứ ý đây nói tha thân thì lẽ ra còn hai giải thích, chỉ bày tức hẳn tại nơi ta, nói thì gồm nơi tự tha. Như nay nói Di-đà cũng thành việc ta và việc Di-đà duyên tương quan. Như một chúng hội hoặc nhóm tập mười phương hoặc tập một phương, hoặc trú mười phương hoặc trú một phương, thị hiện y báo không phải thẳng ở cõi hiện tại, cõi trần đều có đủ như trong Hoa Nghiêm.
Từ "Chương quá khứ trên" đến "lợi ích Thế giới": Một phen xưa lại dùng đắc hoan hỷ biên gọi là Thế giới, đâu phải đời quá khứ không có ba đời khác ư! Cho nên nói "tợ như". "Nay nêu rõ đều không dối gạt": Nay hiện tại văn đều nêu đủ tứ tất đều đến bản môn. Cho nên biết quá khứ lại phải đầy đủ ba. Đại luận tứ Tất-đàn đều thật: Luận kia thông dùng Đệ nhất nghĩa làm Diễn môn pháp tướng, dùng tam Tất làm Tam tạng, đều có thật kia. "Đốc thúc luận...": ý đại luận kia ắt hẳn phân biệt hư thật, một ở Diễn môn nên thật, ba ở Tam tạng nên hư. Nói "trong duyên": Như trước tùy duyên bất định, cơ tại Tiểu, Tiểu tức gọi là thật. Như người Tam tạng đối với tứ Tất đây thì ba thật một hư, Thông Biệt hai người thì ba hư một thật, Viên thừa thì hết thảy đều thật, phàm phu thì hết thảy đều hư. "Nếu dùng...": mượn thật hư đây để phán xét hai môn. Dùng hai môn đây đối hai loại chúng sinh tiệm đốn chưa từng dùng đương cơ làm hư, đương cơ làm thật. Lại để qua tứ Tất mà dùng nhân quả tương đối để biện hư thật: Trong đó trước dùng mười bảy phương tiện đối hai môn phán xét.
Tiếp dùng người thật đối hai môn phán xét, nếu phương tiện giáo thì hai thứ đều hư, nhân môn khai xong vọng nơi quả môn thì một thật một hư, Bản môn hiển xong thì hai thứ đều thật, cho nên biết Tích thật nơi Bản còn hư. "Căn cứ viên đốn...": hoặc người Bản Viên vọng nơi hai môn, Tích chỉ một hư, tuy nói lại không có biệt đắc mà đều tăng đạo lợi ích. Nếu nơi giáo xưa từng mật hiển viễn đối hai môn đây cũng gọi là hai thật. Thì căn cứ trước cũng nên nói lại không biệt đắc đều hai môn lợi ích tăng đạo. Nếu năm mươi người đứng dậy bỏ đi thì đối với hai môn đây còn gọi là đều hư. Lại giáo trước mật khai không đến đây cũng gọi là đều thật. Đối Dũngxuất chúng chẳng hư chẳng thật, cũng gọi là thật, vì tự muốn đắc. Đối tướng diệt, thì đây hư kia thật; đối người có thoái thể hiện hư đương thật, ảnh hưởng phát khởi cũng phi thật, phi hư, hữu hư, hữu thật; đối người mê giáo thì hết thảy đều hư.
Hỏi ý: Xưa là xưa giáo xưa, nay là hai môn, xưa nay bản tích đều gọi nhập thật, dùng xưa vọng nay làm hai hư, thì lẽ ra đương ngày nay hai môn thật tướng hơn thật xưa tất ư? Thật vốn không hai xưa nay đâu khác ư?
Đáp ý: Lại dùng Tích đáp, Bản căn cứ đây có thể biết. Giáo môn trước sau nhập thật không khác. Đầu chỉ Hoa Nghiêm, tiếp chỉ hai vị hoại bỏ thảo am nhập, tức chỉ Pháp Hoa, khi nhập ở người, chẳng có lý riêng.
Tiếp, "theo lệ": Dùng Tiểu theo Đại, đây chính dùng ngang theo dọc. Nếu lại dùng dọc theo dọc thì nên nói "Lộc-uyển nhập Tiểu" và "trong hai vị nhập Tiểu" không khác. Đây thì nhập Đại nhập Tiểu không nơi nào không có. Năm vị theo thứ lớp tương sinh, độn tiểu từ hiển lộ để nói. Trong đó có sáu câu: Nêu rõ ngày nay Ứng thân, tức là đã từ lâu thành Pháp thân. Bất tư nghì nhất cho nên nói chiếu lý bình đẳng, nên Bản tích nhờ sự để nói. "Như thật tri kiến...": Luận nói: Như Lai tri kiến tướng tam giới: Nghĩa là chúng sinh giới tức Niết-bàn giới, không lìa chúng sinh giới mà có Như Lai tạng. "Không có sinh tử...": Luận nói: Thường hằng thanh tịnh là nghĩa bất biến. "Cũng không tại thế...": Luận nói: Như Lai tạng thể chân như cùng chúng sinh giới bất tức bất ly. "Bốn nghĩa phi thực v.v...": Luận nói: Lìa bốn thứ tướng, vì bốn thứ tướng là vô thường. Phải biết ý luận các câu đều Viên, vậy nên các câu đều nói "cùng chúng sinh giới bất tức bất ly", cho nên nay đều làm Viên thường trung đạo Phật tánh giải thích. Không làm giải thích như đây, còn không thể thấy thực trong giáo xưa huống chi khai hiển thật, huống chi cữu viễn thật! Cho nên đây phải chỉ Bản trí chiếu cảnh, không thấy đây chỉ luống làm rõ Bản môn!
Nói "Sáu câu":
l) "Như Lai...".
2) "Cũng không... tại thế..."
3) Phi thật phi hư.
4) Phi như phi dị.
5) "Không như tam giới..."
6) 6) "Như đây...".
Trong đó câu đầu nêu ý: Như Lai thấy rõ lẽ ra nói pháp giới vì sao chỉ nói tướng tam giới....?! Vì khiến chúng sinh biết nơi thùy tích đều là pháp giới. Pháp thân thường trú cho nên nói "như thật". Cảm pháp thân cơ, kích động pháp thân nên khởi hai ứng, cho nên gọi là "cảm", không thể riêng dùng pháp thân làm ứng. "Như thật...": là chánh giải thích, trong giải thích đâu câu thứ nhất, nếu căn cứ trong câu dưới nói không có hai thứ tử, thì nên nói không có hai thứ nhân tướng tam giới. "Thẳng nói tam giới": Năng tri kiến gọi là trí, sở tri kiến như như tức cảnh trung đạo, cảnh trung đạo không ngoài tam giới. Trong sở tri kiến đã thông phàm Thánh, nay do Như Lai tri kiến đều thật, ngoài ra sở tri kiến vọng Phật là hư mà còn có nhân. Phật như thật kiến cho nên nói không có nhân. Lìa tam giới rồi không có biệt lý, cho nên "không có sinh tử..." tức không có hai thứ tử quả. "Khởi tập...": là kết, nhân quả của hai loại tử trên cho nên có ngũ trụ tập gọi là thoái, có hai tử quả gọi là xuất. Mà nói vô thường quả hiện: hai loại tử vọng trong đó cả hai đều vô thường, biệt chỉ hai cõi lấy làm hai loại tử.
Thông luận Kim Cang về trước còn gọi là vô thường. Cũng không tại thế và diệt độ: Cũng là song phi nhị biên nhân quả, hai câu này và hai song phi nên nói bốn câu. Cho nên trước từ như thật tri diệt độ căn cứ như lý sở ly. Tiếp hai câu cùng hiển thể trung đạo, hai câu sau căn cứ năng kiến nói. "Nếu song phi...": bốn câu đây đều thành song phi, đây nói song phi, nếu kia kết tức thành câu biên. Kia nói tuy hiển mà sợ cùng quyền giáo song phi lạm xen nhau, cho nên lần nữa lại giải thích song phi kết câu. Nếu thuộc một bên thì đều ở truyền giáo. "Theo lệ như...": nêu tướng kết câu, dùng các câu còn lại kết nay song phi, khiến thành câu thiên lệch chẳng phải viên thật, cho nên nêu rõ các câu thứ lớp kết.
Kết câu đầu nói: "Phi sinh phi tử...": Dùng sinh làm sinh tử biên, dùng tử làm Niết-bàn biên, sinh ấy tử ấy chính là song chiếu. Nếu kết là sinh thành sinh tử biên, phi sinh phi tử chính là song phi. Nếu kết làm tử chỉ thành Niết-bàn, thoái xuất cũng vậy. Hai câu dưới căn cứ đây. Nếu vậy kết rồi trở lại song phi mới hiển trung đạo cho nên nói "nay đều là phi". Nay trong kinh thẳng nêu song phi hiển trung, không thiên kết câu nên chỉ có viên cực. "Như đây lưu": Đây theo lệ còn nhiều tức là cho đến văn dưới. Như đơn phức đầy đủ nơi nơi tuy có nói song phi mà vì câu kết đều có sở thuộc, cho nên hết thảy kiến chỉ kết thành. Nhị thừa các câu chỉ kết thành không, đây có đây không chỉ thành biệt tục, phi có không này chỉ thành trong biệt, nay nêu viên lý cho nên phải vi tế biện rõ. Kinh nói "Như Lai như thật tri kiến", hoặc dùng nhị thừa... giải thích thì có tội hủy báng Phật, nhưng đây kết câu chỉ tại một nhà, phê phán các kinh luận hết thảy câu pháp để biện minh văn nghĩa tông thú không đồng. Trong Sớ Tịnh Danh nói nhân chương Thích-ca Chiên Đàn, chiên đàn chỉ nói các nghĩa khổ, không, vô ngã v.v... tức nghĩa ở Tam tạng, Tịnh Danh kết thành nghĩa Thông trách nói: Không vô sở khởi là nghĩa khổ...: Phải biết Không vô sở khởi là không có khổ không có lạc, chỉ kết nghĩa trở về nơi khổ. Đã nói không có khởi lại nói là khổ cho nên chỉ thành Thông. Nếu nói Không vô sở khởi, song phi không hữu thì kết thành nghĩa lạc tức thành ý Biệt. Biệt dùng xuất giả làm lạc. Nếu lại song phi biệt giáo khổ lạc mới thành thật trung đạo. Rộng nêu như vậy, huống lại đơn phức đầy đủ cũng biến khắp các giáo. Như bốn giáo bốn môn, môn môn bốn môn, môn môn bốn Tất-đàn, trong mỗi Tất-đàn lại có bốn Tất-đàn, tức thành môn đều có đầy đủ. Cho nên, Biệt đầy đủ lại cần phải phi. Viên môn khởi kiến còn đọa vào câu nghĩa hữu, sao được lại thành phức mà đầy đủ... ư? Cho nên biết hoặc kiến, phi kiến hoặc môn hoặc cả thảy đều phải dùng pháp mới năng định câu, trong không dùng câu năng định pháp thể. Vì thế giải thích nghĩa không quán sát dưới câu đó... pháp thể qui về đâu, làm sao năng biện câu pháp cạn sâu, làm sao năng hiểu được kinh này song phi! Nếu dùng pháp định tùy nêu một câu tức thành thật lý. "Không bằng...": giải thích câu thứ năm nói "Không như tam giới": Như là đồng, không đồng các người thấy nơi tam giới thuật Phật thấy. Phật ắt quyền thật hai trí đầy đủ, ắt không đồng hai thứ nhân sở kiến nhị biên nhân quả của Tam giới. "Không như hai thứ... tướng": Chỉ là hai thứ tử và dùng Ngũ trụ. Nên biết tam giới danh thông, thông nội ngoại giới. Nếu ngoại giới lập danh tam giới, thì dùng ngoại chuẩn theo nội, lý trung đạo chưa cùng thông gọi là Kiến hoặc, thông tam giới. Năm trần tốt đẹp trong cõi biến dịch gọi là Dục giới tư, bất tư nghì pháp trần, gọi là Thượng giới tư. Trong Tịnh Danh sớ dựa theo có nêu tướng kia.
Tiếp, "Chỉ Phật một người...": là giải thích câu thứ sáu, Như đây trở xuống văn dưới. Đã tổng nói như đây, xét trước đã chiếu thông thành nhất kiến cho nên đều lập lại năm câu nói thật trước cùng nêu tướng quyền thật nhị trí. Cho nên Thật trí chỉ chiếu Thật cảnh, nay thêm Quyền trí tùy vật thấy quyền. Nói rõ "phi kiến mà kiến...": Tức hai trí bất nhị, cho nên nói như chúng sinh kiến chỉ bày thân hai loại tử tùy ý người... Tiếp, văn trình bày tức câu đầu "Như thật tri kiến tướng tam giới" bên trên: Tuy như thật thấy cũng đối nơi chúng sinh thấy mà thấy, đầy đủ ngũ nhãn. "Như thật tri kiến...": là trình bày câu "không có sinh tử" bên trên. Tiếp, "cũng không...": là trình bày câu "cũng không tại thế" bên trên. Tiếp, "Không thật...": là trình bày câu "phi thật" bên trên. Tiếp, "Không có ba đời...": là trình bày câu "phi như" bên trên. Tiếp, "Đồng với...": là trình bày câu "không như tam giới" bên trên. Đều dùng Như Lai nêu kiến (minh kiến) lấy làm Quyền trí, nhất nhất giải thích. "Như Lai...": trình bày "không như tam giới" bên trên, trở xuống văn. Như Lai tuy tức tự như thật kiến, vật cơ không đồng chỗ thấy đều sai biệt, cho nên đức Phật cũng do tùy loại mà thấy thùy ứng.
"Vì các...": nêu rõ trong cơ cảm. Đầu nêu rõ cơ tướng tức cơ Tứ Tất-đàn. "Muốn khiến...": nêu ứng tướng để hợp bốn cơ, trong mỗi mỗi Tất-đàn năng sở đều đầy đủ, tự làm tứ biệt. Đã nói "chủng chủng", cho nên đối tiệm đốn để giải thích. Do đó trong Huyền Văn giải thích mười môn trong mỗi một môn đầy đủ các giáo. Đây y Viên giáo để hiểu kinh mà thôi! Tánh tức Vị nhân: Đầu, chánh giải thích. Tiếp, giải thích nghi. Đầu, trong chánh giải thích phàm nói Vị nhân, các tạo tác ắt làm theo sinh thiện đời trước gieo trồng, thiện đời trước không đổi nay mới có thể sinh, cho nên tánh thuộc sinh thiện. Tiếp, "Huân tập dục...": giải thích nghi: Trước, lập nghi, giải thích nói...: Trong giải thích trước chánh giải thích. Tiếp, "Nêu ví như ba tánh dục...": kết đồng. "Như nhân...": nêu ước lệ: Như Đại kinh nói: Thiện nam tử hết thảy thân chúng sinh cùng phiền não đều không có trước sau, tuy không trước sau chủ yếu nhân phiền não mà được có thân, trọn không nhân thân mà có phiền não, tánh dục cũng như vậy. Tuy không có trước sau ắt nhân tập dục mới thành tánh. Kết đồng: Nay tuy tánh trước dục sau, cuối cùng cần phải có nghĩa dục ở trước, cho nên nói tập dục thành tánh. Thế giới gọi là dục đây căn cứ Thiền kinh, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển một nói. Thiền kinh từ nhân cho nên nói "lạc dục", Đại luận từ quả cho nên nói "thế giới".
Tiếp, trong giải thích "Hành thiện", sinh ác dục đều được gọi là "hành", cho nên đối trong hành để phân hai Tất-đàn, rộng như Huyền Văn. Tổng quát hành khởi thiện đời trước, tri phá ác hiện tại... Tiếp, trong giải thích "Ức tưởng", lại chia làm bốn:
1) Nguyên do được gọi, nêu Đệ nhất nghĩa mà thông ban đầu, lại dùng tương tợ giải khởi đối trị với thô hoặc chưa nhập chân đạo, tuệ gọi là tưởng.
2) "Chúng sinh tiệm đốn...": nêu thứ lớp tứ Tất-đàn, do ba Tất cho nên có Đệ nhất nghĩa đến; đối nội ngoại phàm vị cũng được gọi là Đệ nhất nghĩa, chỉ tên tưởng tuệ phải ở nhân vị. Như trước năm phẩm tu hành năm hối. Tiếp, nhập tùy hỷ còn được gọi là Đệ nhất nghĩa, huống nhập vị nội phàm ư! Lại, Tùy hỷ trước thâu hoạch được chút định tâm cũng được gọi là nhập Đệ nhất nghĩa, huống chi nhập sơ phẩm.
3) "Tùy theo...": nêu duyên nhập chân.
4) "Cho đến...": nêu ức tưởng thông về sau đến Kim Cang tâm.
Hỏi: Nên nói Sơ trụ vì sao nói Địa?
Đáp: Từ tiệm đốn đến vả lại nương ở vị Địa.
"Muốn khiến" đến "bấy nhiêu nhân duyên thí dụ": Đây dùng trong chương năm đức Phật nói thiết lập quyền đều nói chủng chủng nhân duyên... đem trình bày văn này bản tích đều có hóa độ tiệm đốn. "Như vì biếng nhác...": Nếu tiểu đối đại. Như Câu-xá luận giải thích trong Nhẫn vị. Đầu từ Hạ nhẫn quán, cho đến Thượng nhẫn còn lưu một hành tướng, nhập Thế Đệ nhất, chỉ lưu hai nghĩa hành không đồng, lợi (căn) gọi "kiến hành", độn gọi "ái hành". Người lợi lại có hai: Chấp ngã nhiều: Lưu hành vô ngã. Chấp ngã sở nhiều: lưu hành vô thường. Giãi đãi nhiều: lưu khổ hạnh. Nay văn lại nêu hai người lưu Không hành Người độn có hai: Chấp ngã mạn độn. Lại các luận sư chấp các kiến giải không đồng, không thể thuật đủ. Trong Thông giáo nói cũng như vậy là: Quán môn tuy khéo đế quán mà thứ lớp không khác Tam tạng, nhưng căn cứ bốn môn, bốn Tất, hai Không, ba Giả cùng Tạng không đồng. Vả lại, căn cứ đại đồng cũng gọi là chủng chủng. Biệt Viên trong độn tuy ba mươi hai và nhập bất nhị chủng chủng hành loại mà cũng đâu ngoài đều có bốn môn ư! "Không có hư ra" đến "hư xưa vì thật", chữ vi là khứ thanh (vị) bẩm thọ quyền ra khỏi giới gọi là vì hư ra, tam thừa đều xuất tam giới, nhân thiên đều xuất tam đồ, đều gọi "vì hư". Như Lai vốn vì nhất Thật mà thiết lập Quyền, không có chút sai biệt mà đều nhập thật. Nương bốn chữ đây là "thường trụ bất diệt". Kia đã bất diệt thì lợi ích đến vị lai. "Người xưa...": trước nêu xưa chấp nói: Trước vượt qua hằng sa...: Sư xưa thấy trong kinh có nói sở thành thọ mạng nghĩa là quả thọ, bèn chỉ văn trước nói vượt quá nơi trần giới, vì trước quá hằng sa, dùng phi hằng sa có thể năng dụ bèn dùng thế giới lấy làm dụ, đối nay chưa tận vì sau gấp bội số trên. Lại nữa, người xưa thấy nói lại gấp bội liền cho là có hạn, huống lại không biết là thật, nhân thọ mà nói thần thông. Trong kinh nói "phục (lại)", người khác nói "hậu (sau)" tức chương sớ nói. Từ nay về sau lại gấp bội số trên, như vậy đều là thần thông diên thọ, ý nói nay tuy chưa tận ắt có khi tận. Kinh nêu nhân so sánh quả, nêu rõ bản hạnh Bồ-tát đạo, cảm được nhân thọ tự còn chưa tận huống chi quả thọ ư! Người xưa không hiểu phán định thuộc vô thường, cho nên biết vì nhân thọ bất tận, sánh ví như quả thọ bất tận, tức nêu nhân quả đều thường. Xưa giải thích ngược lại khiến nhân quả vô thường thế nào lại bỏ quả so sánh! Kia thấy năng so sánh nói có sở thành. Tiện làm quả so sánh. Nhưng trong kinh văn trước đã nêu quả sao nói lập lại. Nói "dù khiến": Chỉ Sơ trụ vị đã phần đắc thường thọ, đâu có sơ trụ chân biến dịch thọ, ấy là đồng phân đoạn có vô thường ư! Nếu nói "tận": Đâu phải tận ư! Sao gọi là phân thường, phân chỉ đối với Phật và địa sau. Căn cứ hành chứng văn tự nên biết. "Thí như..." nêu thái tử hưởng lộc lấy làm dụ, cũng là thí dụ nghĩa phân. Đối với của cải, người nói bất tận đó thôi! Chữ "Lệ", nghĩa là huyễn lệ, xoay đổi. Chữ "Huyễn" là dáng dấp không thuận. Nghĩa là bỏ thường mà nhận lấy vô thường.
Trong Tích xướng diệt thông căn cứ ba thân, lại chia làm hai:
1) Tổng lập.
2) "Như Tịnh Danh...": là giải thích.Trong giải thích:
1) Nêu ba thân phi diệt xướng diệt.
2) Nêu ba thân thường trú bất diệt.
3) Nêu ba thân bất sinh bất bất diệt. Do bất diệt nên xướng diệt, phi diệt, do bất sinh bất diệt nên gọi là "phi diệt". Tóm lại mà nói: Để hiển nghĩa bất diệt. Đầu văn tự có ba:
I. Đầu tiên nêu Pháp thân, chia làm sáu:
1) Đầu mượn văn Tịnh Danh để lập nghĩa.
Hỏi: Trong đây Pháp thân tại sao dẫn nghĩa Thông giáo trong Tịnh Danh, Ca-chiên-diên?
Đáp: Chương Chiên-diên kia tổng có năm câu: bốn câu đầu danh Tạng nghĩa Thông, một câu sau danh thông bốn giáo, nghĩa hạn cuộc nơi Diễn môn, vãn nói kết trở về là thông Viên Biệt, cho nên bốn câu trước hiện kết thành Thông, không liên quan đến Viên Biệt. Một câu kia tuy kết thành Thông vẫn là thông Viên Biệt. Nay từ nghĩa thông cho nên được thành Viên. Nếu hiểu ý này thì có thể hiểu rõ các câu, cho nên lược dẫn.
2) Bản pháp không sinh nên không thể diệt là nghĩa tịch diệt. Nói "xướng diệt": Đây là xướng tịch diệt là diệt của diệt sinh, không phải diệt của tức sinh, diệt của tức sinh là Bất diệt. Nên biết diệt đây gọi là bất diệt, pháp thân thường trụ không có diệt bất biệt. Nay nói tịch diệt nghĩa đương xướng diệt. "Vì sao?...": là giải thích ý xướng diệt. Vì sao? Vì người không hiểu: Mà nói tịch diệt, nếu hiểu tịch diệt trở lại chỉ sinh. Nếu hoàn toàn chỉ sinh, thì người giải đãi không có lợi ích cho nên cần phải xướng diệt.
3) "Nếu nói...": do trong kinh Anh Lạc nói tịch chiếu lập lại giải thích, nhưng trong kinh kia dùng chiếu tịch làm Đẳng giác, dùng tịch chiếu làm Diệu giác. Kia căn cứ Biệt giáo giáo đạo để nói, phân hai câu để đối hai vị. Nay mượn tên quả tột cùng của Biệt giáo để thông từ đầu đến sau mà giải thích nghĩa không diệt mà diệt của Viên giáo.
4) "Xét pháp thân...": giải thích nghĩa xướng diệt, do xướng diệt cho nên trí sinh, hoặc diệt. Đây căn cứ sự lý tương đối mà luận. "Nếu mê tâm...": Quan sát qua lời nói đó tợ như đồng báo thân mà ý kia thì biệt. Trong đây chánh nêu hoặc sở diệt làm thể pháp thân, thể có sinh diệt bởi do nơi trí, cho nên mượn năng hiển để làm rõ sở hiển.
5) Diệt hoặc. Tiếp phán xét Viên Biệt. Biệt giáo còn thuộc diệt vô thường, do trong Thập trụ đồng với Tiểu thừa, diệt tam giới hoặc mới sinh giải xuất giả tục trí, nhập trung cũng như vậy. Nay căn cứ Viên giáo cho nên xướng tịch diệt. Các nghĩa này tuy Biệt Viên không đồng mà đều gọi là "sinh diệt", tuy đều sinh diệt, đều căn cứ lý tánh.
6) "Nếu không...": Nêu rõ duyên xướng diệt, ý nói: Từ mê, từ giải cho nên nói "mê giải", chắc chắn luận chỉ dùng giải làm xướng duyên, Biệt Viên đều là từ mê sinh giải.
II. Tiếp căn cứ Báo thân, cũng có sáu:
1) Nêu.
2) "Sao có...": chánh giải thích Hoặc, Trí vốn không sinh diệt, bởi vì thể Báo thân không có sinh diệt.
3) "Đây tổng...": kết thể của Báo thân. Minh tức trí, ám tức vô minh, thể tánh là hoàn toàn nên không có trừ bỏ nhau. Đã không có trừ bỏ nhau tức bất diệt.
4) "Chúng sinh..." nêu nguyên do xướng diệt.
5) "Có phiền não..." nêu tướng xướng diệt, sở dĩ lại xen lẫn được gọi là diệt vì từ sự cho nên diệt.
6) "Đâu chẳng phải..." là kết xướng diệt.
III. Ứng thân: 1) Cũng đầu nêu. 2) "Ứng là...": nêu bất diệt. 3) "Chỉ là...": nêu xướng diệt. Tiếp "lại pháp thân...": nêu trong ba thân bất diệt: Đầu, trong Pháp thân bất diệt nói "đương thể": Không vọng các thân khác, vì hai thân còn lại cần phải vọng Pháp thân. Nếu đem thể vọng dụng, thì dụng đoạt lấy thành diệt. Tiếp, căn cứ Báo thân bất diệt, chia làm hai: Đầu, nêu trước nói bất diệt tức là báo xứng nơi pháp, pháp đã bất diệt báo cũng bất diệt. Tiếp, "Dùng lý...": căn cứ sự lý tương đối để giải thích. Trước, căn cứ lý không diệt. Tiếp, "Đến có...": căn cứ sự có diệt. Từ căn cứ lý biên tức là bất diệt. Đầu, trong căn cứ lý nói là đến cho nên... trong đó hoặc trí bốn câu xét trách, trở lại căn cứ thể kiểm xét Hoặc còn bất diệt, trí thể không phá. Đây dụng Đại kinh Sư tử hống nạn.
Hỏi rằng: Nếu Tỳ-bà-xa-na phá phiền não thì vì sao lại tu Xa-ma-tha ư? Đức Phật chất vấn lại rằng: Nếu nói trí tuệ năng phá phiền não tức vì đến cho nên phá, vì không đến năng phá. Nếu đến cho nên phá thì phàm phu năng phá, nếu không đến pháp thì sơ niệm nên phá, nếu sơ niệm không phá, thì hậu niệm cũng không phá. Nếu đến không đến phá, thì nghĩa ấy không như vậy. Suy tìm như vậy ai có trí tuệ năng phá phiền não?
Nói chung và riêng: Phật dạy: Như một người mù không thể thấy sắc, mặc dù làm bạn với các người mù cũng không thể thấy. Tuệ định cộng biệt, căn cứ đây nói có thể biệt. Đây tức trí báo thân không thể diệt hoặc. Tiếp "Căn cứ người có trí tuệ...": Lại căn cứ sự mà định phán xét, trí năng diệt hoặc trí không gọi là diệt.
Căn cứ ứng thân nêu nghĩa bất diệt: Cũng vọng pháp báo, báo căn cứ nơi pháp, cho nên pháp thân trước chỉ nói đương thể. Nay đây ứng thân lời vật không đoạn cũng là bất diệt cho nên nói thường nhiên ứng nêu bất tuyệt, ba thân tương xứng vậy. Pháp, báo khắp nên ứng thể cũng khắp, cơ tự tại không ứng pháp thường như vậy. Nếu không như vậy thì tuy giải thích Viên thường mà trở lại đồng nghĩa sinh diệt. Nói "chúng sinh bất tận tức không diệt độ": Khi diệt độ chúng sinh chưa tận nghĩa kia như thế nào ư? Nên hỏi ngược lại nói: Nghiệm chúng sinh chưa tận thì không diệt độ, cho nên xướng diệt độ. Vì không thể sinh ý tưởng khó gặp gỡ: Chẳng vì (chúng) sinh tận cho nên biết ứng thân thường tại bất diệt, đâu riêng pháp ư! Nêu không hiểu thì pháp báo cũng diệt, đâu riêng gì ứng ư?
Nêu ba thân bất sinh bất diệt: Pháp thân: Đồng trước không sinh diệt; Báo thân: Trí tự liễu trí không có năng diệt, trí thuộc nơi năng đã không sinh diệt đâu năng khiến hoặc (lầm) hoặc sinh hoặc diệt được ư! Ứng thân: Tương tục cho nên bất sinh, tương tục cho nên bất diệt. Ba thân chỉ nói "bất sinh diệt", là chữ "Bất" xuyên suốt chữ diệt dưới, tức "bất sinh bất diệt", lại nói tiện cho nên chỉ nói "bất sinh diệt" thôi!... Giải thích ý: Nêu ba thân bất sinh diệt để dung thông lẫn nhau. Đây nhân một câu văn: ứng thân phi diệt xướng diệt, rộng khai ba thân hữu diệt bất diệt bất sinh bất diệt. Nếu không vậy, sinh diệt thì nhất định, thì sao gọi là ba thân bất tức bất ly? Nếu hiểu được ý này thì khắp một đời giáo, chỉ nghe một câu nói xướng diệt liền biết tất cả nghe diệt bất diệt. Đầy đủ thân nhiều ít diệt, bất diệt sai khác, mới thông đạt bản địa vốn không sinh diệt, mới thấu đạt trung gian ngày nay hóa đạo hữu diệt bất diệt, dùng Bản địa hóa trung gian ngày nay tất cả tích giáo, không ngoài ba thân bốn câu.
Giải thích nghĩa bất diệt có tổn hại trong đó có hai: Đầu, giải thích nguyên do xướng. Tiếp dùng tứ Tất-đàn để giải thích tổn, lợi. Trong đây lại nương Ứng Phật để giải thích. "Do đây chúng sinh" đến "hai thiện tổn mà không sinh": Do không xướng diệt bọn chúng giãi đãi, hai thiện chân, Trung đều không sinh trưởng, Kiến Tư đã sinh còn tự không đoạn, Biệt hoặc chưa sinh đâu thể khiến đoạn hoặc, không đoạn. Cho nên chỉ có năng tổn hai thiện chân, Trung đã sinh chưa sinh đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bảy tổng quát. Tiếp, "Nếu y" đến "đệ nhất nghĩa": Dùng tứ Tất-đàn nhấn mạnh giải thích nghĩa xướng diệt, vì vậy xướng diệt có lợi ích của bốn Tất-đàn. Do xướng diệt nên thiện sinh ác diệt, cho nên phân tứ Tất-đàn để đối thiện ác. "Đệ nhất nghĩa diệt chưa sinh...": Đệ nhất nghĩa đều năng Kiến trung đạo, năng phá vô minh, nên vô minh gọi là ác chưa sinh. Đối trị diệt ác đã sinh: Phàm đối trị nói đều trị hiện ác. "Thế giới sinh thiện chưa sinh": Ưa muốn tại ban đầu kỳ vọng tâm xa xôi, như nghe pháp sinh vui thì chút thiện sẽ sinh. Lại thế giới là ấm nhập, ấm nhập nếu chuyển thì pháp thân hiển, cho nên pháp thân gọi là Thiện chưa sinh. Lại khi ưa muốn thiện căn chưa sinh, cũng do ưa muốn sinh gọi là sinh chưa sinh. "Vị nhân sinh thiện đã sinh": chân đế đối với trung đạo gọi là thiện đã sinh. Ví như khiến chưa sinh đối với trung đạo chính là viễn mà từ cận gọi là đã. Lại, Thế giới diệt ác đã sinh: Từ cận lại giải thích, chỉ từ hiện chấp đây thì có thể biết. Đối trị diệt ác chưa sinh, thì trị đạo tăng trưởng. "Như thiền ngũ ấm...": giải thích nghĩa thế giới trước, như tu thiền thời, gọi là diệt ác dục. Cho nên, sắc ấm khởi năng diệt dục ấm, dùng giới vọng giới gọi là thế giới. Cho nên Dục giới ấm gọi là ác đã sinh, căn cứ đây cõi Vô sắc trừ sắc, Không trừ tam giới Trung đạo diệt biến dịch. Nơi đương vị ấm đều gọi là đã sinh. Tu trên diệt dưới gọi là diệt đã sinh, đối trị trị chưa sinh, văn không giải thích lại. Chỉ trị danh tuy đồng mà thông đến Đẳng giác. Trong Đại kinh, Ưu-bà-tắc giới chúng nói: Thường vô thường, lạc vô lạc..., thường lạc quan sát như các môn đối trị ấy đã là tịnh vô cấu xưng là Vua sở dụng trị cho nên không gần. Đã căn cứ ba thân luận diệt bất diệt cho nên tứ Tất-đàn cảm ứng cũng cần hiểu sâu, nhiều phen giải thích là bởi do đây vậy.
Tiếp, trong rộng giải thích có hai:
1) Nguyên do hiện diệt.
2) "Thấy nghe...": thông căn cứ ba thân để nêu tổn lợi ích.
Văn đầu nói cần xướng diệt: Có tổn không có ích do thường tại. Trước, tuy nêu nguyên do xướng vẫn chưa biết vì sao. Tiếp, thông căn cứ trong ba thân: Đầu nêu riêng tổn ích tức căn cứ ba Đức Phật mỗi một chánh tông. Đầu tiên, vẫn tổng nêu. Tiếp, "Liền cho rằng...": đầu căn cứ pháp thân: Pháp thân vốn không có tên tịch diệt. Vì hàng thượng mạn chấp như không khác cần phải xướng tịch diệt, đầy đủ như trước giải thích v.v... "Lại nghe...": tức căn cứ báo thân. Trước tự cho như đây tự cho là trí. Cho rằng đều là Đại thừa thượng mạn. Nhưng hai thượng mạn đều có sâu cạn, cho là "Như", bèn trở thành người đại vô tàm, cho là trí thì còn biết cần trí chiếu hoặc, do không hiểu rõ cho nên không giải danh "Tức". Phàm nói "tức" là để hiển "ly", như băng không lìa nước, lý phải hòa với băng, nghĩa đồng với ly mới chính là hiển tức. Lại nói ly là vì thành tựu tức, nếu không ly thì chúng sinh tức là Phật đâu cần tu đạo! Vì không biết ly thẳng nói tức cho nên cần phải xướng diệt. Một phẩm Đẳng giác còn thuộc trí năng đoạn duy nhất của Phật, đâu thể Bác địa cho là tức thị ư! Ứng thân như văn trước sau.
Tiếp, "Nếu xướng nói...": biệt căn cứ báo thân nêu nguyên do lợi ích lại có hai: Trước, xướng. Tiếp, lợi ích. Văn đầu, trước dựa vào pháp thân để biện rõ phải cần trí. Tiếp, "Kinh nói...": nêu giáo lập ngăn ngại. Tiếp, dẫn thí dụ giải thích sự ngăn ngại. Nhưng khi sáng không có tối, nghiệm biết khi tối không có sáng, cho nên dùng trí tuệ đoạn phiền não tối. "Ông nay...": dùng lý trách. "Phải biết...": là kết ý. Ứng thân có thể thấy cho nên lược. "Chúng sinh..." tổng ba thân Phật đều sinh cung kính: Vì trí báo thân ở trung đạo có trí tuệ. Trên thì sâu xa, dưới thì khế hợp. Nếu được thấy một thân ắt đầy đủ ba. Cho nên, sinh cung kính. Y có mười thứ: Thông thâu tà chánh suốt đến thiên viên kia. Ba thứ trước cũng xưng là y. Khi đức Phật chưa xuất thế hết thảy ngoại đạo đều tự cho là xuất gia, đều tự lãnh chúng. Cho nên Đại kinh nói: Cõi nước vua cảnh thanh tịnh yên lặng thật là nơi nương của người xuất gia. Trong thứ ba nói: Lành bệnh rồi sinh là tuy đoạn sự hoặc mà trở lại đọa vào trong ba đường, đầy đủ như các Kiến bản kiếp v.v... đều chấp tứ thiền v.v... vì đoạn hoặc không đồng. A-hàm nói: Lương y có bốn: l) Khéo biết bệnh tướng.
2) Biết nguyên nhân khởi bệnh. 3) Khéo biết phương pháp trị.
4) Rốt ráo không còn phát sinh.
Nhưng y đây biết bệnh không ngoài nội giới, biết nhân khởi bệnh không ngoài Y Chánh, phương pháp trị không vượt qua sinh diệt vô thường, không còn phát khởi, chỉ là trụ nơi hai thứ Niết-bàn. Vọng đây chỉ thành y thứ tư, năm. Nếu dùng bốn danh nghĩa thông các giáo thì mỗi một giáo tùy nghĩa đều riêng biệt, cho đến Viên giáo đối lý không ngăn ngại. Thẳng dẫn chứng đây sâu trái ý chỉ kinh, còn không thể đồng thông giáo Nhị thừa, sao có thể thí dụ Bản môn thường sinh diệt. Nếu giải thích Đại kinh hiểu tám thuật chỉ đối ngoại, tiểu đối đây vẫn là ít y thứ sáu không năng trị ắt sẽ chết, tức sở chứng đồng. Y thứ bảy Biệt giáo chỉ địa tiền thôi! Ba y sau đầu tiên nói không thể khiến bình phục, là chỉ tự nhập chưa sâu, chưa thể khiến người khác khiến bản pháp thân. Vô minh vốn có nghĩa như tổn, khiến trở lại được thế mới gọi là phục. Thứ chín, tuy mới được nói hậu tâm, do y thứ tám chỉ tại Thập tín, nên thứ chín về lý phải Sơ Trụ trở lên đến Kim Cang tâm. Thứ mười cứu cánh gọi là quá bản, đối trước gọi là phục cho nên đây nói "quá", do y thứ chín bắt đầu từ Sơ trụ cuối đến Đẳng giác đã gọi là "phục". Vì sao? Vì pháp thân vốn có nay khiến chứng bản cho nên gọi là phục. Nếu vậy Diệu giác lại hoàn tất thì sao gọi là quá? Do đối tánh đắc vô công dụng, cho nên tu gọi là quá. Nếu vậy Sơ trụ trở lên thì cũng gọi là "phần quá", đâu riêng Diệu giác? Nói tàn hoặc còn hiện hữu gọi là phục, vả lại nhường cực địa cứu cánh gọi là quá.
Lại nữa trong bảy khách y: Người đầu và thứ hai vụng về độ bắt đầu đoạn sửa, cho nên không có xảo thuật. Người thứ ba, tư có thuật, dụng mà bất biến. Thứ ba không nói người Nhị thừa vì sở trị đồng. Thứ năm, sáu tuy khắp mà lợi ích không nhiều. Bảy người sau: Đối cực phân lược tiểu. "Có thuật...": đối nhân hiển bày quả, cho nên dùng ba đạt năm nhãn làm tám. Sáu người trước đều không được, do nhượng Phật cho nên nói không. Hai khách y năm và sáu cũng là phần đắc. Nếu lìa tám đảo làm tám thuật thì bốn người trước có phần. Do hai khách y đầu cũng đắc vô thường v.v..., cho nên nói như dùng thuốc cay đắng.... Cho nên, trong Đại kinh tổng làm sáu vị: Khổ là vị rượu (tạc) chát, vô thường vị mặn, vô ngã vị đắng, lạc là vị ngọt, ngã là vị cay, thường làm vị nhạt. Trong thế gian kia có ba vị: Vô thường, khổ, vô ngã.
Phiền não là củi, trí tuệ là lửa do đó nhân duyên ấy thành Niết-bàn thực, khiến các đệ tử đều say ngọt, chỉ Vô thường, Khổ, Vô ngã, ba vị ở Tiểu cho nên nói thế gian. Nay văn nói "tân", e rằng lầm chữ, nên nói đắng chát mặn. "Có thuật xa đến": tức trong bảy khách chỉ thứ bảy, do trong kinh này chỉ dùng Như Lai đối ngoại đạo kia làm tân cựu, cho nên biết tân y (thầy thuốc) ba đạt năm nhân đầy đủ, năng dụng vô thường... tám thứ. Do đó, "trước khiến đoạn sữa" dùng vô thường... "sau lại uống sữa" mới dùng thường.... Nay theo sau, nói "chỉ nói uống sữa". Nếu chọn lấy nhân (người) cũng có thể thông nói. Khách y thứ năm, sáu.
Lại thông luận: Thông, Biệt Bồ-tát chuyển giáo Thanh văn đều năng nói thường. Nhưng tám thuật: Trong Kinh nêu thí dụ có tám lại trị tám thứ bệnh. Nay đây vả lại nêu tám số mà thôi! ba đạt: ba minh ở vị tột cùng cho nên được gọi là đạt. Lược như Chỉ Quán chép. Từ: "Mười hai" đến "phương dược": Văn như "phương", lý như "dược". Dược thông Hành, Lý chỉ lại nói lý. Dưới giải thích sắc hương làm Tam Tam-muội và dùng Tam đức. Tam Tam-muội hành lý tam đức. Vô lượng nghĩa nói: Y vương, Đại y vương: Y thứ tám-chín thông được gọi là Vương, chỉ y thứ mười riêng gọi là Đại vương. "Nhiều các" đến "con Bồ-tát phàm có ba": Lại để qua Nhị thừa, trước riêng chỉ Bồ-tát thông dùng người chưa Phát tâm làm đệ nhất nhị thừa, vẫn thu nhiếp trong nhị thừa thứ hai theo lệ, vì nhận lấy Nhị thừa thoái đại cho nên vậy. Trong Bồ-tát lại chia làm ba: Tu tánh ba nhân có ly hợp. Một là căn cứ tất cả chúng sinh tức trong Đại kinh nói chưa phát tâm gọi là Bồ-tát. Tuy trong thập tâm biệt đối ba nhân, đây tức tánh ba hợp thành chánh nhân.
Hỏi: Vì sao không chỉ thiện ác tâm sở cùng làm Chánh nhân ư?
Đáp: Thiện thuộc phát tâm, ác lại thuộc riêng biệt; thông thì nhiếp biệt, biệt không nhiếp thông, Cho nên, biết tâm thông cùng vương đồng thời mà khởi ắt đủ ba nhân; chỉ gọi là Chánh. Chưa có thiện căn thế gian xuất thế gian.
Căn cứ dưới duyên nhân nói vi tế tu hành, nên biết tùy nghe một câu một khoảnh khắc thiện đều là duyên nhân thâu tóm. Căn cứ dẫn chứng nói chúng sinh trong đó đều là con ta, thì thiện căn nhân thiên vẫn thuộc chánh nhân. Dẫn chứng duyên nhân nói ba mươi người con, thì Nhị thừa thiện căn cũng tại duyên nhân thu nhiếp. Nếu căn cứ ngay nay hợp khai nhân thiên cũng tại duyên số.
Căn cứ đại cách Tiểu, nhị thừa không phải duyên, nay căn cứ thoái đại, nhượng được thọ ký, nhập vị Sơ trụ gọi là "Liễu", quán hành tương tợ đều thâu nhập duyên... vì nhượng trước sau dùng Chánh theo bên. Cho nên, vị phát tâm trở về sau đến hết Trụ tiền đều gọi là "Duyên". Lại đem Chánh nhân chỉ tại thập thông lẫn nhập làm trăm. Kết duyên tức là hội phát tâm, thì đã có Liễu nhân chỉ dùng Thập tín tương nhập làm số trăm, thông đều được thành thiện căn của trụ tiền, cho nên Thập tín tâm kia, kia tương nhập mới được thành trăm, do tam thừa thiện căn đều thành tương tợ, vẫn thâu năm phẩm đều nhập trong đó, sau được nhiếp thọ hiển thành phần chân. Cho nên, khiến duyên, chánh ngày nay nghe kinh tức dùng Thập tín trăm nhập vào Sơ trụ làm phần chân trăm.
"Từ miệng Phật sinh": Ngày nay nghe giáo đắc Phật pháp phần nhập Sơ trụ. "Đây cũng có ba nhân" đến "liễu nhân Phật tử", là đối với Duyên, Chánh thì trước nên chỉ nói Liễu. Lại nói "cũng": hai loại trước đều có ba cho nên nay cũng ba. Từ gượng thọ danh đều lược ba từ một. Sở dĩ lược: là vì Chúng sinh từ vô thủy đều đầy đủ ba, do tại mê cho nên theo lý lập danh cho nên trong lý ba đều là mê nhiếp, theo Duyên theo Liễu căn cứ theo lệ có thể biết. "Trở lại đem...": Nhiếp trước nhập sau, đã nhiếp Thông nhập Tín, cho nên nhiếp Tín nhập Trụ, đổi tương tợ thành chân cho nên cũng chỉ một trăm, chuyển băng làm nước nghĩa kia có thể biết, tu tánh ba nhân thì Huyền Văn, Chỉ quán đều có ý đây. Chỉ trong văn đây văn tướng hiển rõ vì muốn hướng về xưa, sức nghe kinh rất lớn nên lược ba tánh đều làm chánh nhân. Duyên liễu đều hợp, đều gọi là Nhất, cho nên biết các văn căn cứ tu để nói. Duyên liễu đều có ba. Hoặc chỉ luận lý tánh đầu cuối đầy đủ ba, như nói ba đạo ba đức ba Phật tánh... đầy đủ như Tu tánh Bất nhị môn nói. Chín môn cọng thành mới rõ ý chỉ đây. Nếu hiểu được ý này Viên, Giáo, Hạnh, Lý xương mắt tự thành, da thịt lông tóc xuất tại các điển (Kinh). Cho nên biết kinh đây là ghi chép giáo lý đại cương không thể dùng cương mục giải thích. Nếu hiểu được ý này thì ý chỉ giáo lý một nhà, lý đại có thể thông. Muốn tập quán môn tu hành hữu địa, nghe nói các việc quái lạ, tình nghĩ thản nhiên xem các quyền kinh, chú tâm không lầm, dung thông danh tướng thông suốt không nghi pháp số tăng giảm ly hiệp có thể thấy, cùng đoạt lấy giải thích khác khiến trở về đường lớn, do trước ba giáo không có việc đây.
"Uyển chuyển vu địa" (lăn lộn trên đất): Đối với pháp xuất thế cho nên lại nói "địa". Ví như bên trên nói lợi ích của hình, trong văn thiếu lược, lẽ ra nói trên có hai:
1) Phi sinh hiện sinh.
2) Phi diệt hiện diệt.
Trong sinh có hai: Nói "thọ nhận tà sư...": Chỉ phi xuất thế đều gọi là "tà", tự mình trong tích gặp nhau rồi sau liền tin tà ngoại, do tin tà dày mỏng không đồng, đến nổi có mất, cùng không mất. Đều nói mất tam thừa, là do trong Tích gặp nhau thi hóa không đồng, đầy đủ như trong Tích cả hai Đại Tiểu bắt đầu thành thục đều một. "Không mất bản tâm": Xướng sinh mà thành thục. "Mất bản tâm": Xướng diệt cao đợi kỳ sau. Cho nên, xướng sinh diệt chẳng thật sinh diệt. "Thiên mạnh..." giải thích lại xướng sinh, duyên của xướng diệt. Nói "mạnh yếu": Ở vị lai đoạn gián đoạn cách chủng đời trước xa, hiện tại khó phát gọi là ác mạnh, thiện mạnh căn cứ đây. "Xa thấy": Đã chướng ngăn Ngũ phần cho nên cùng Ngũ phần Phật thành xa. Thí dụ lợi ích của hình bên trên nói: Hai đế, lẽ ra nói nói ba đế, hai thông ba biệt, lại bỏ biệt theo thông tức hai đế trong đốn. Thí dụ khuyên răn nói: Như trong ba chu dự định dùng Đại thích nghi. Dược thảo danh thông nghĩa hảo (tốt) không hạn cuộc, cho nên khiến tiệm đốn đều gọi là "kinh phương", đều là hảo.
Từ "Phật xuất Tu-đa-la": Căn cứ năm vị tương sinh nói từ mươi hai bộ, xuất Tu-đa-la cho đến Niết-bàn, theo nhân theo thời tương sinh để nói. Nên biết năm vị đều từ Phật xuất, nay để qua đốn theo tiệm đó thôi. "Sắc hương...": Tiệm đốn thông đều đầy đủ giới định tuệ, giới thô, định tế, hương không thể thấy, hương có thể xa biết, vị đến gần mới biết được. Như tuệ đến lý mới gọi là đắc. Giới định tuệ đây tức tám chánh đạo: Ngữ, nghiệp mạng là giới, chánh định là định, còn lại là tuệ. Nay văn từ biệt vả lại thuộc vô tác, văn tuy lại biệt nghĩa kia thì thông. Đã là sắc hương dược thảo, dược thảo đã thông sắc hương thì đâu hạn cuộc. Nay nói "Kiến Phật tánh và đối ba đức" là từ đâu mà nói? Đầu hợp đốn cho nên ý tại Nhất thật. Chỉ tên ba đức còn thông ngoại chấp huống chi thiên tiểu ư! Đầy đủ như Chỉ Quán Đại tiểu sáu nghĩa và dùng Viên ba.
"Nói tam thừa không...": Tiếp nêu tâm pháp thuốc, uống trong Tiệm tuy đầy đủ giới... và dùng ba đức, ắt nhờ Không... mới năng hành. Cho nên nhất nhất Tammuội đầy đủ giới định tuệ. Giới v.v... trong đốn đối với căn cơ, trong tiệm như dược (thuốc) chưa giả nên không chịu uống, tuy giả mà chưa phân liều như chấp Không tướng, tuy liều lượng mà chưa hợp là còn chấp tạo tác. Cho nên ba thứ đầy đủ uống mới trị nhanh. Không, Giả, Trung, ba thứ căn cứ đây có thể biết. Tuy hợp tiệm đốn vốn tại Thật thừa, đầy đủ như trong Chỉ Quán giải thích đạo phẩm, trong Tam-muội Không của Viên sau đầy đủ tất cả pháp tức là việc kia vậy. Cho nên nêu cộng biệt hai tướng để nhiếp đốn tiệm. Thứ đệ nhất tâm căn cứ theo lệ có thể biết. "Dự định thích nghi...": Kinh nói sẽ thiết lập phương tiện, sẽ tức là dự định. Lưu kinh giáo, như phó pháp tạng, hoặc lấy trong Niết-bàn...: Kinh khác nói: Hoặc lấy tiếng lớn hoặc dụng thần thông... như sau khi đức Phật Niết-bàn, Kim quang Phật tự dạo ra vào bốn cửa thành... khiến tất cả mọi người đều biết Phật đã diệt độ, xá lợi, Kinh quyển ý cũng như vậy. Tuy các giải thích không đồng nhưng đều là một lý, cuối cùng không bằng dùng Tứ y làm sứ giả. "Như Cúc-đa": Cúc-đa là Tứ y, sau khi Phật diệt độ đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển 5 nói. "Như Di Giáo...": Sau khi Phật diệt độ đắc độ không đồng, chánh ở đương lai trở lại thấy Đức Thích-ca. "Cũng có...": Chẳng riêng đức Thích-ca. Cũng có những người chẳng riêng Đức Thích-ca cho nên dẫn kinh Phổ Hiền Quán. "Kiến Đa Bảo....": Nhân sám hối thấy cùng gặp có gì sai khác.
"Cha nghe các con đều được lành bệnh": Nói được lành không phải là hoàn toàn đoạn hoặc, chỉ có tam thừa cơ duyên và khả năng hội nhập thì không luận đoạn cùng không đoạn đều gọi là được lành. "Thường ở núi Linh Sơn" là báo độ, nếu căn cứ các nước khác chỉ cõi hữu dư thì báo độ phải chỉ tha thọ dụng. Căn cứ nói "thường ở" tức thuộc (cõi) tự thọ dụng độ. Nếu căn cứ tụng văn nói "bảo trang nghiêm" thì chẳng phải tự cõi mình tức cõi Tha ở thời bản. Như trong Hoa Nghiêm phần nhiều nêu Tha thọ dụng, Tức nghĩa các nước ở bên trên là chỉ văn trên nói ta ở các nước khác. Đây lại chỉ ở ngoài báo độ, thông thì cũng biến mười phương hoặc tịnh hoặc uế. "Có tu các công đức...": tức chỉ Duyên Liễu đầy đủ-Kinh nói "đều thấy thân ta" là cõi thật báo. Kinh nói: "Hoặc khi vì chúng đây...": Cũng là Sơ địa Sơ trụ. Kinh nói: "Lâu mới thấy Phật": Tức chỉ ngũ trước nặng. Kinh nói: "Trí lực ta như vậy": Là tổng kết đại thế lực.----------------------
Phẩm này có đầy đủ thọ ký, lãnh giải và lưu thông. Phân biệt thuộc thọ ký, từ đầu để nói cho nên gọi Phân biệt. Hai đời: Địa dũng quá khứ, Linh sơn hiện tại. Nói "công đức": Nêu ra để phân phán. "Văn đây"...: Nếu căn cứ công đức nghe Kinh chỉ thuộc phần còn sót lại, nay căn cứ nói sẽ đắc tức lại đồng thọ ký. Luận về pháp lực có năm, trong năm dẫn ba văn trước chứng ý phẩm này còn lại hai bên đến sau. "Pháp": Do pháp mà thành nên gọi là pháp lực. "Chứng": Sáu trăm tám mươi vạn ức cho đến Nhất sinh. "Tín": Tám thế giới. "Cúng dường": Nói là khi Bồ-tát đắc đại pháp lợi ở trong hư không trời mưa hoa... cho đến đọc tụng trì... đều là "hành". Lại do chân nhân pháp thành gọi là pháp lực.
Giải thích "tăng đạo tổn sinh", ý Quang Trạch dùng từ sơ đến trung thiên nêu hành tiến làm công đức môn. Tám đời đến một đời căn cứ tổn sinh làm trí tuệ môn, tám giới (cõi) làm ngoại phàm chưa có tiến tổn. "Xét thọ ký...": Quang Trạch giải thích xuất hướng lai ba ý, trong đó trước tổng dùng thông biệt phân phán, thông tại nhân quả tổng gọi là thọ ký cho nên thông chọn ba văn, nhân phát tâm khắc được quả. "Cho nên phát tâm...": thông đều chắc chắn quả. Tiếp dưới tám giới giải thích thứ lớp xuất ý. Sở dĩ hồi Kinh văn là từ cạn đến sâu cho nên như vậy, tức Ngoại phàm nhập Nội phàm làm phát tâm môn. Tiếp từ Nội phàm nhập Sơ địa cho đến Lục địa làm tăng đạo môn. Từ tiểu thiên trở đi làm tổn sinh môn. Trong tổn sinh môn chính từ Thất địa trở lên Thập địa, mỗi một vị đều đoạn thượng, hạ hai phẩm, một phẩm Đẳng giác hiệp làm chín phẩm, tức dùng tám đời đối tám phẩm trước.
Tiếp Pháp Hoa luận: Luận nói: Trong phẩm Di-lặc có bốn thứ môn: l) Chứng.
2) Tín.
3) Cúng dường đều tại phẩm này.
4) Nghe pháp, chỉ tại phẩm Tùy Hỷ.
Văn đầu đầy đủ như văn nay. Tiếp Tín: "Tám thế giới...", nay cho là luận trước sâu, sau cạn... nay bình luận dùng Vô sinh nhẫn làm Sơ địa. Tám đời đến một đời làm Địa tiền cho nên nói trước sâu, sau cạn. Ngài Quang Trạch dùng sơ địa làm Vô sinh nhẫn, chỉ dùng tám đời cho đến một đời làm Kim Cang tâm, vì khác cho nên thành trước cạn sau sâu, hai nhà trái nhau từ xưa không phân phán. "Xét vô sinh...": Sư nay muốn giải thích trước trải quả bốn giáo định nơi vị thứ kia, mới biết hai giải thích đều không xứng hợp với Kinh. Cho nên kết nói: Đều là văn Thánh giáo nêu rõ văn không thể lầm lẫn. Quang Trạch chưa tương đương Tín không còn nghi, luận chủ Thiên Thân đâu luống uổng công như vậy, chỉ sợ người dịch quanh co hợp tình riêng, như Nhiếp luận, Thức phân thành tám, chín và Bà-sa mười sáu chữ, đều tiến thoái tại người đâu liên quan Thánh chỉ huống chi Quang Trạch giải thích thẳng nói địa không phân biệt giáo tướng. Mặc dù phân hoặc phẩm mà nghĩa không chỗ trở về. "Lại Tịnh Danh..." đến "ý thông": không thể định dùng, cần phải phế bỏ thông theo biệt; không thể dùng Vô đẳng đẳng có nghĩa Vô sinh nhẫn mà giải thích Vô sinh này. Vì Vô sinh này quyết định ở Sơ trụ, không thể kiến Kim Cang đảnh có tên Phục nhẫn, phân biệt làm tám giới, do Phục vị định tại Trụ tiền. Cho nên, gọi là thông không thể biệt đối. "Nay đối Vô sinh" trở đi: nói rõ Tăng tổn môn không thể phân cách. Nên biết tăng đạo không phải không có tổn sinh, tổn sinh nhất định có tăng đạo, đâu có thể phân nói Lục địa trước sau hai văn cố định ư! Lại không thể dùng Vô sinh ở sơ địa trở đi, huống đem tám đời... đoạt lấy Địa tiền trước, cho nên hai nhà đều mất đại chỉ của kinh. Từ "Tức Quang Trạch" trở đi: đem ý Sư nay sử dụng phê phán Quang Trạch, vì thuộc ba nghĩa: Địa tiền ba, Sơ địa thành Biệt, sơ địa đến Lục địa thành Thông, Thất địa trở lên thành Biệt tiếp Thông, Thông không đoạn vô minh, cho nên không phải thông. Biệt giáo Sơ địa tức đoạn vô minh, cho nên không phải Biệt. Cho nên đến Thất địa vô minh thì chấp nhận thuộc Biệt tiếp, vẫn phải chánh nói chín phẩm Biệt hoặc, nên bị tiếp, là thượng căn Thất địa, tức phá một phẩm hai phẩm huống lại không có văn phẩm phân thượng hạ, nghĩa liên quan ba văn cho nên nói du dưỡng (tràn lan). Đầu nói Quang Trạch do phát tâm làm nội phàm ba mươi tâm, đã như trước liệt. Trước nói trụ ba mươi tâm, nay làm, làm chỉ là tạo tác nói, chỉ là nội phàm làm Sơ địa. Hai ý còn lại có thể biết.
Luận văn đã dùng địa tiền địa thượng tương đối thì nhất hướng chuyên phán xét nghĩa Biệt, nay phân làm ba: Chỉ hợp có hai thêm Kinh gia trình bày. Lời Phật viên diệu: Chỉ bản tích hai môn cho nên đắc đạo thật. "Cho nên văn trên...": là giải thích Bản tích hai môn. Cho nên Nhân Vương thập thiện Bồ-tát là đây nêu Thập tín, tín tín đều thông đầy đủ thập thiện, chẳng phải chuyên lấy Nhân Thiên không sát đạo..., dùng đối với Thập tín. Đã nói từ lâu Viên ở tam giới khổ luân, là trải qua vị Tín. Có người nói từ lâu Viên ở tam giới khổ hải, không thể đem phân phán vị Trụ Hành, Hướng. Nên biết phải là Thập tín, đoạn hoặc tự chẳng phải nhà nay chuẩn theo văn Pháp Hoa; phán vì Pháp Sư Công đức sáu căn lẫn dùng, vì vị thập tín mà làm nội phàm, đối trước Thập tín dùng cuối phẩm Phân Biệt Công Đức nói sau khi Như Lai diệt độ trở xuống văn lập năm phẩm vị làm ngoại phạm, đâu thể phán Thập tín đoạn tam giới khổ! Ý kinh Nhân Vương do đâu có thể hiểu rõ. Nếu không như vậy thì làm sao có thể phân biệt Hoa Nghiêm sơ trụ làm Thánh vị ư! Nếu phán theo văn Hoa Nghiêm nói Thập phạm hạnh, dùng công Thập tín tâm ngang bằng vị tột cùng lại thành thái quá. Sơ trụ thuộc Thánh Thập tín làm sao chẳng phải nội phàm ư? Đây cùng Địa tiền phục hoặc Sơ địa Kiến đạo vĩnh viễn không liên quan nhau. Vì vậy nay dùng ý Viên để hiểu rõ văn, đều dẫn Kinh mà làm chứng cứ. Cho nên Lục tức phán vị, lý không thể mất. Thập hạnh bất tư nghì giả. Lại đối văn trì nhạo thuyết và xoay vần đối vị giải thích, khiến cùng vị tương ưng. "Nếu luận...": là đối phá Quang Trạch và dùng luận văn, cặp đầu tiên nêu hai môn. "Không như...": phá, chỉ phá tổn sinh môn. Cũng lại nên phá hai nhà tăng đạo, vì sao? Vì luận dùng địa tiền làm tổn sinh thì không tăng đạo. Quang Trạch dùng Thất địa trở lên làm tổn sinh đâu được không tăng đạo ư? Huống chi Quang Trạch chỉ nói tám phẩm tổn sinh. Nói nhân mà mất quả, luận gia chỉ tại phân đoạn thì đều mất ngoại giới Biến dịch nhân quả. Từ "Chỉ căn cứ...": tức là ý nay, chỉ căn cứ Trí, Đoạn tương đối để nêu tăng tổn. "Căn cứ pháp thân...": giải thích hướng tăng tổn. "Nguyệt dụ": căn cứ đây biết. Cho nên người khác không hiểu thấy nói có giảm sinh phê phán làm tổn sinh; thấy có nói văn trì v.v... bèn phê phán, thuộc tăng đạo. Cho nên, nay chỉ từ "phá vô minh" trở đi, trong mỗi một vị đều một tăng tổn cho nên nói không đồng. Nói "Tám phen": Lại nương từ tám đời để phá xưa chấp, đầy đủ nên từ vô sinh trở đi. Nói thế và niệm... để vượt qua nhiều vị và dùng tám vị không thể liền nói bốn mươi hai niệm..., cho nên nương vị sau luận đàm. Kinh văn tuy lược mà căn cứ vị ắt có tám, trong văn một phen bỏ qua, tuy từ địa phân phán, nhưng siêu vượt qua người tăng tổn không định. Cho nên nói "Tám đời...", đầy đủ như trong văn thuộc đối. Đây tức chánh phá nhân sinh, quả sinh, văn đây nơi nơi không trái luận văn chỉ lưu phần còn lại Tu-đa-la nửa phẩm nhập Chánh, và đây thọ ký hoàn toàn không dùng. Cho nên biết phàm có chọn bỏ đều không uổng công. Nhưng các luận văn nói Vô sinh nhẫn phần nhiều nói ở Sơ địa, chỉ Hoa Nghiêm khởi Tín rõ ràng nêu văn tám tướng Thập trụ. Nói "số gấp bội": Chẳng phải cho là một bội, một phen bỏ qua nói vậy. "Nhặt nhạnh" là chỉ văn Niết-bàn, Niết-bàn tự chỉ tám ngàn Thanh văn ở trong Pháp Hoa đắc thọ ký biệt, như thu thâu đông tàng lại không còn tạo tác, cho nên biết thâu hoạch lớn phải tại Pháp Hoa. Như trong Đại kinh chúng đắc đạo, như cuối phẩm Phạm Hạnh nói: Nước Ma-già có vô lượng người phát Bồ đề tâm, đến cuối phẩm Trần-như có mười ngàn Bồ-tát đắc Nhất Sinh thật tướng, năm vạn Bồ-tát đắc Nhị sinh pháp giới, hai vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Tất cánh trí, ba vạn năm ngàn Bồ-tát ngộ đệ Nhất nghĩa, bốn vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Hư không Tam-muội, năm vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Bất thoái nhẫn, cũng gọi là Pháp nhẫn, sáu vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Đà-la-ni, bảy vạn năm ngàn Bồ-tát đắc Sư tử hống Tam-muội, tám vạn năm ngàn Bồ-tát đắc bình đẳng Tam-muội, Bồ-đề tâm và Nhị thừa tâm, mỗi vị đều nói vô lượng hằng sa lời tán tụng. Hai vạn ức người hiện chuyển thân nữ.
Tám tiết trước văn bắt đầu từ "Nhất sinh" cuối đến "bình đẳng" đều chẳng phải địa tiền, tuy sâu tuy nhiều nhưng nếu so sánh kinh này thì tứ thiên hạ vi trần và Đại thiên vi trần che phủ cũng không đủ nói. Nay kinh Chánh tông ba chu và do bản môn được lợi ích đều không đồng với các kinh huống chi trong phần lưu thông từ phẩm Dược Vương trở xuống sáu phẩm, trong mỗi một phẩm đều có kết người đắc đạo, đều quá tám vạn. Trong phẩm Khuyến Phát đều có số người như vi trần khắp đại thiên giới đủ Phổ Hiền đạo cho nên biết nhặt nhạnh phần còn lại của kinh này. Tuy nhiên, trước lúc ấy văn quyền của các vị là phương tiện của kinh này, sau lúc ấy Niết-bàn thu nhặt cơ của kinh này, cho đến phò luật nêu nhất thừa thường trú, đắc một chút ý chỉ kinh này hành một câu pháp, đều là pháp giới. Mười phương Phật pháp khởi bình đẳng kiến mà thường phân biệt chư Phật hóa nghi mới xứng ý chỉ nhất thừa của kinh này. Nên tư duy chúng con nương ở nơi nào mới xứng tướng hoằng tuyên kinh này.
"Trên Tích môn Bồ-tát"...: Căn cứ trên khai chương trong đó chánh đương đoạn lãnh giải, trước phân biệt môn tức là đoạn thứ hai thọ ký. Sở dĩ Tích môn tuy thọ ký nhị thừa, mà ý chỉ Phật chưa cùng khắp, thâu nhiếp cơ chưa tận cho nên các Bồ-tát chưa trình bày lãnh giải, nay dùng cúng dường mà tiêu biểu lãnh giải. Cho nên, trong Tích môn chư thiên lãnh giải cũng trình bày cúng dường. Các hàng Thanh-văn từ lâu tu tự hành chỉ thẳng lãnh giải mà không cúng dường, nghe bản môn rồi cùng các Bồ-tát đồng trình bày cúng dường tiêu biểu lãnh giải.
Vì nghe bản sau tu hạnh nguyện yếu đều thành Bồ-tát đồng hiến cúng dường tùy vị hạnh mà lấy sự cúng dường làm tiêu biểu; cho nên nói "thứ tự và từng phen...": biệt lập phẩm mục. Vì vậy cho nên trong văn dùng trình bày cúng dường tiêu biểu giải thích. Nam sư từ đây làm lưu thông, ý dùng bốn tín đệ tử Tín giải công đức cũng thuộc lưu thông, không cần đến năm phẩm sau diệt độ. "Vănthù...": Như sau tích môn Văn-thù vào biển giáo thông kinh, đâu hẳn sau khi Phật diệt độ ư! Cho nên tiến thoái hai cách đều có thể theo dùng. Căn cứ ý văn đây, sau ba chu Văn-thù mới bắt đầu vào biển giáo hóa nghĩa cũng chưa thất (lỗi), chỉ sự Bồ-tát tích không thể nghĩ bàn, chớ có dùng phàm tình mà bàn luận so sánh. Đã như trước nói, huống chi căn cứ Tích môn không lãnh giải, thọ ký sau còn thuộc chánh, cho nên Nam phương phẩm quả đầu. Lại dùng năm phẩm đối nơi tương tợ nói một phen xưa. Phân quả viễn quả vẫn phải chỉ sau như trên nói chỉ văn thọ ký.
"Thế nào là tứ tín?" Hỏi gồm hai ý:
1) Vì sao chỉ lập số bốn?
2) Vì sao bốn đều gọi là tín?
Lược giải thích! Bốn người thông gọi là tín thì hai nghĩa đều thành, nhiếp năm thành bốn không cần đến năm. Lại danh từ đầu đắc cho nên đều gọi là tín. Lược giải ba người: Bỏ Thông theo Biệt thì thọ Biệt danh, rộng và quán thành ắt có lược cho nên lược thông ba người chỉ trừ sơ tín, đầu không có giải. Rộng nói hai người trừ lược giải là rộng hạn cuộc thứ ba không thông hai trước; quán thành một người lại trừ rộng giải không thông ba người còn lại, trừ tín một việc còn lại không thông bốn, chỉ tín giải bốn gọi là Tứ tín. Nếu nhất niệm tín giải chưa có ba thứ dưới thì chính là hạn cục nhất của sơ tín, lược đủ sơ tín rộng đủ sơ nhị quán ắt đủ ba, cho nên ở sau dần rộng. Chỉ càng về sau càng hơn ở trước cho nên trở thành ở sau hạn cục.
"Nhất niệm tín giải": Tức là đứng đầu trong bản môn lập hạnh cho nên văn hơi nương theo. Trong đó có mười phần khiến văn có thể thấy:
1) Tổng nêu đại cương kia.
2) "Nghĩa là tùy...": nêu lực tín giải.
3) "Lại tin...": nêu tướng trạng tín giải.
4) "Cũng là...": dùng sự giải thích thành.
5) "Vô sở hữu...": dùng ý tam đế kết.
6) "Như môn...": nêu thí dụ.
7) Nêu lục căn hợp thí.
8) "Không nghi...": giải thích danh.
9) "Nếu ngồi...": gia hạnh.
10) "Như vậy...": phân biệt vị.
Muốn khiến ý chỉ văn dễ thấy, vả lại chia làm mười. Tóm lại mà nói chỉ là tín thành. Đầu tổng nêu có thể thấy. Tiếp văn: Nghe nơi trường viễn khai thông không ngại, tin tất cả pháp đều là Phật pháp. Lại tin Như Lai hóa công lâu dài, người này năng biết bản tích diệu lý là Phật bản chứng. Nếu chỉ là chỉ tin viễn thọ trong sự thì đâu có thể khiến các Bồ-tát đây... tăng đạo tổn sinh đến nói địa vị cùng cực, cho nên tín giải bản địa khó nghĩ bàn cảnh trí, tín tâm sơ chuyển tự tại vô ngại mới gọi là lực, còn năng tăng tiến cho đến một đời, huống tín lực ư! "Quải" là ngại cũng là tướng trạng ngăn ngại vậy. Tự hiểu tâm mình ứng với tướng đây mới gọi là "tín thành". Giải thích "thành": Nghĩa là năng đạt chín giới phi đạo thuần dụng diệu đạo Phật pháp giới. "Kết": Năng tín sở tín sở tín hoặc Bản hoặc Tích đều là tam đế. Ví dụ tấm màn, tiếng từ giữa xé lụa. Hợp thí: Nhân nơi nghe thọ mạng thông đạt tất cả, phàm có chỗ đối đều là Phật pháp. Giải thích "danh": có thể biết, gia hạnh khiến tín tăng tấn. Trước là tín hành đây là pháp hành, hai hành tuy khác mà sở tín không hai. "Phán vị": Hiển bày quán cảnh càng sâu, thật vị càng chắc.
Đáp ý: Năm đắc Bát-nhã gọi là Ba-la-mật, vì sao trừ Bát-nhã vẫn được gọi là Ba-la-mật? Đây dịch Độ ngạn, nếu đắc Bát-nhã mới gọi là "độ".
Trong Hỏi, trước đáp, tiếp kết bày. Trước đáp ý: Như người Biệt giáo đều từ nơi năm, mà tận các biên kia cũng được gọi là "độ", cho nên lại dùng thứ tự năm so sánh lượng bản, nhưng Bát-nhã danh thông. Trong đây thì hạn cuộc, cho nên dùng Bản môn chánh tuệ so với năm thứ tự quyền đây. Cho nên nay Bát-nhã tức là tướng hiểu tin sâu chắc làm năng giảo lượng (so sánh).
Hỏi: Trong thứ tư tự có Bát-nhã lại đồng so sánh làm sao trừ?
Đáp: Dọc Trung, Không, Giả Bát-nhã có thể làm đối tượng so sánh, trung chứng không khác danh đồng thể đồng cho nên có liên quan. Nói "giới thí biên", biên là tiêu biểu biên hạn, kỳ vọng tâm xuất giả gọi là tận biên, cho nên Thập hướng hậu tâm gọi là Giả biên trừ bỏ.
Vị hạnh Bất thoái: Văn phán định bốn tín đắc mười tín cho nên Sơ tín đến thất tín làm Vị Bất thoái, Bát tín trở đi là Hạnh Bất thoái. Thất tâm tất thoái tức là Thất trụ Biệt giáo, kiến tư đều trừ gọi là Vị Bất thoái, cho nên nêu Tín vị vọng Trụ làm dưới. Nay nói Sơ Trụ hoặc sợ lầm chữ nên nói Sơ tín. Cho nên, văn nói viên đốn tín giải tự trong mà huân... Hoặc sợ dư chữ, có bản không có chữ Trụ đây chỉ nói Sơ tâm; hoặc dùng năm phẩm ở trước thập tín nên Viên Sơ tín tức Bất thoái. Có người nói: Nghe thọ mạng lâu dài tức là Bát-nhã, không thể dùng Bát-nhã trở lại so sánh Bát-nhã. Nay hỏi trong lục độ đâu được có Bát-nhã trường thọ, vì vậy cho nên biết đối trong Tín tâm, tin nơi bản địa viên môn diệu trí. Còn không cùng tích môn Viên quán lục căn vị đồng, thì đâu cùng Biệt giáo ngũ độ đồng ư! Huống tại Tạng Thông lục độ hành ư! Còn không cùng độ thứ sáu của Tam giáo đồng, huống cùng trước ba độ trước năm độ trước đồng! "Đại Phẩm nói có Bồ-tát...": Ý nêu Biệt giáo Bồ-tát thoái chỉ có ma, Bất thoái không có ma, Viên giáo sơ tâm ma không được thuận tiện phá huống là vị Bất thoái! Hoặc Sơ trụ bỏ từng phần phá tám ma cho nên được gọi là không có. Do năng tức ma làm pháp giới. Xướng tên Lăng-nghiêm, ma còn bị trói buộc huống chi người tu quán, huống chi người tự chứng ma có thể làm cho thoái lui ư? Biết người bắt đầu năm phẩm của Viên thì ma đã tránh xa. Kinh nói: "Nguyện cho con ở đời vị lai...": Đã nói khởi thệ, chỉ là nghe thọ nguyện sẽ đồng.
Hỏi: Cận thành thì không có nghĩa lâu dài có thể nói, sao được đều nói cũng lại như vậy ư?
Đáp: Nói như vậy: Nghĩa là nói thường thọ, nếu được thường thọ tận đời vị lai ắt sẽ quá đây, đâu chỉ như vậy. Nay từ thật đến cho nên lại nêu như vậy chấp nhận. Đầy đủ tại Huyền Văn quá giảm không đồng.
Kinh nói "thâm tâm..": Đây đối bản địa viên môn vẫn đủ năm pháp mới gọi là đoạn nghi:
1) Nghe xa sinh tín.
2) Thâm tâm (tin sâu).
3) Trực tâm (tâm ngay thẳng).
4) Tâm nghe nhiều.
5) Vì người nói.
Có người đối việc đây rộng dẫn các văn để giải thích "đa văn (nghe nhiều)"; ở đây, nghĩa đó không cần thiết Vì sao? Trước vì đã nghe viễn bản, tiếp nhập thâm tâm và dùng trực tâm. "Sinh nơi đa văn" mới là nghĩa "đa văn" trong đây. "Thâm" là cùng lý Bất nhị, "trực" là từ đầu đến cuối một đường lối, lấy đây mà quán mỗi một câu nghĩa đều là "đa văn".
Quán thành trong đó nói tưởng, thành tương khởi, lý đầy đủ tướng đây y lý khởi tưởng, cho nên tưởng đây thành thuận tiện thấy tướng đây. Từ đầu tu tập quán chỉ đắc tưởng danh, quán hành cạn nên vẫn thuận tướng, cho nên lại thuận lý, nên lý tướng mới hiện, các giáo tu quán, quán trái với lý. Dù có khí phần mà không thuận lý Trung đạo, phương tiện quán thành còn gọi là "tưởng", huống chưa thành ư! Lại thấy tướng đây tuy chưa chân thật chứng, vì quán lực cho nên tạm thấy hai cõi. Nếu tam hoặc phân diệt thì mới vĩnh viễn cùng tương ứng, bèn không gọi là tưởng. Căn cứ trước trong giải thích tứ Tất-đàn, Đẳng giác, Đệ nhất nghĩa còn thông gọi là tưởng. Cõi Hữu dư Đại tiểu cùng chung: Tạng thông nhị thừa đoạn thông hoặc: Nhưng bản làm danh căn cứ kia mà thấy. Thuần các Bồ-tát làm báo độ: Cũng tha thọ dụng, chỉ nương tưởng đây dần dần sâu, dần dần thành, nhập vị Sơ trú tùy vận dụng khắp thấy, ứng dụng vô phương.
Hỏi: Xứng lý khởi tưởng đâu cần tưởng cõi chỉ quán nhất niệm diệu lý liền đủ ư?
Đáp: Hai giáo sơ tâm đều diệt ấm nhập, huống lại cõi ư? Biệt giáo sơ tâm cũng lại phá ấm hậu tâm năng thấy lưới cõi trời.
Chỉ có Viên tức quán nhất niệm, tam thiên tam đế đầy đủ, vậy thì nhất tâm nhất thiết tâm, nhất thân nhất thiết thân, nhất cõi nhất thiết cõi, nhất niệm đều quán hoặc "thân, tâm, cõi", hoặc "Không, Giả, Trung", lại không trước sau, cho nên khi quán thành nhất tâm thấy nhất thiết tâm, nhất thân thấy nhất thiết thân, nhất cõi thấy nhất thiết cõi, mười phương chư Phật hiện trong thân, cho nên trong tự tâm thường tịch quang, thấy khắp mười phương hết thảy thân cõi. Nếu chỉ quán các cõi Giá-na, thì ắt mê tự cảnh. Nếu hiểu tâm cảnh thì tự tức là tha, tha tức tự. Không hiểu cảnh đây tự còn thành tha, huống chi quán tha ư! Quán cõi đã vậy, thân Phật tâm như vậy, nên nghe trường thọ cần phải hiểu rõ tông chỉ. Cho nên biết danh tướng, danh đồng thể khác, nên bản môn nghe thọ lợi ích gấp bội các Kinh, bởi do sự nghe khác thường.
Tiếp giải thích diệt hậu năm phẩm, đầu tiên nói sau phẩm Tùy Hỷ so sánh phẩm đầu, đây là thấy sâu, tác Pháp Sư xưa nghe danh tại ba không tại năm, Sư tùy lợi tha cho nên trừ hai phẩm. Căn cứ phẩm Pháp Sư đọc tụng cũng được thông gọi là Pháp Sư, chỉ văn ý trong đây giúp lý cho nên như vậy. "Chỉ Kinh văn" đến "không cần phải an sinh thân Xá-lợi": Đại giáo sở thuyên là pháp thân thật tướng. Trong trú xứ ở kinh có Pháp thân xá lợi. Lại là xây tháp, kinh văn năng thuyên như tháp năng thạnh.
"Hỏi: Nếu vậy...": Nếu không cần sự tháp và sắc thân cốt, cũng lẽ ra không cần trì sự giới, cho đến không cần cúng dường sự tăng ư?
Đáp: ý có:
1) Trái hỏi đáp tức chỉ phẩm đầu chưa thể nhập sự, cho nên lại y lý lấy làm Xá lợi lấy Kinh làm tháp.
2) Thuận hỏi đáp tức năng trì được hai thiên đầu. Nếu vậy thì đây cũng chỉ thành trái vấn đáp.
Vì sao? Vì trì hai thiên đầu chỉ thành hai phẩm đầu, vì thế không nên dùng năng trì ba phẩm của thiên dưới làm nạn vấn. Các người tu Viên hạnh thỉnh xem văn đây. Nếu người ở hai phẩm đầu hai sơ tâm niệm niệm thường tại bốn thứ Tam-muội thì chấp nhận các pháp ở ba phẩm dưới ít trái đến ba phẩm dưới chỉ tác hai trì chúng biệt hai hành chút hào ly không phạm, đầy đủ như trong Chỉ Quán. Trì giới thanh tịnh, còn phải sự lý song mỹ mới kham hướng đạo, huống chi người nhập đạo khiến sự thiếu ư! Nếu chưa chuyên bốn thứ Tam-muội, năm thiên bảy tụ Bồ-tát trọng khinh không thể vi phạm, mới xứng một kỳ giáo môn đại chỉ. Vì sao vậy? Vì xuất gia Bồ-tát kiên trì đầy đủ Tỳ-ni thiên tụ, tất cả Đại thừa giáo ý đều như vậy. Chỉ thiên tụ hộ trì ở Phạm Võng tám vạn luật nghi, chưa vì trì tướng, chỉ cõi đây khí yếu lại dùng Tiểu kiểm trợ thành Đại nghi vẫn hiểu khai, giá khinh trọng duyên thể chế, duyên thể chế chuyên tiệm đốn xả nghĩa có không. Tọa (ngồi) tiếp phân lưu sám pháp cách trời vực. Lại có bảy chúng đồng, không đồng. Đại tiểu cộng biệt, mới đối tự hành lượng phẩm vị mình, chọn bỏ thích hợp thời; hoặc mộ Đại tiết mà mê muội tồn vong, có căn cứ Tiểu văn mà mê nơi quán đạo. Nếu hiểu được ý này trước dùng lý giáo định, tiếp dùng vị hạnh xét nghiệm. Nếu không như vậy thì chim chuột người, đâu có luận phẩm vị ư! Kính thỉnh thọ nhận lời di giáo của Phật phần ít chịu cung kính tuân theo. Kinh A-Đề-Mục-Đa-Già nói: Có người nói: Đây gọi là hoa Long điềm, cỏ kia hình như cây gai lớn, hoa đỏ lá xanh, trái có thể làm dầu cũng có thể làm hương. Đã đến nơi đạo tràng tức đã đối hành cận đều thông cạn sâu cho nên cũng có thể làm quán hành, hành cận. Phẩm thứ năm ngang tín thứ tư, do hai phẩm đầu tương đương Sơ tín giải, phẩm thứ ba tương đương Tín thứ hai, cho nên hai nơi phân phán ba tuệ. Đem hai tín và ba phẩm này cùng ở vị Văn tuệ.
Hỏi: Vì sao hiện tại chỉ có bốn tín, sau khi diệt độ lập năm phẩm ư?
Đáp: Nghĩa kia đã ngang bằng bốn, năm không sai biệt, chỉ là sau khi đức Phật diệt độ thì thêm vị đọc tụng làm phẩm thứ hai thôi!
Trong giải thích đề phẩm có bốn lớp kết danh, cũng có ý tứ Tất-đàn nhưng không có thứ lớp Lý can phải rõ giải thích khiến nghĩa tương đương, nhưng các phẩm dưới đều là lưu thông bản tích hai môn. Sở dĩ trong đây tuy trong đối trị nhưng song song tiêu hai ý, nghĩa cũng thông nơi ba Tất còn lại, vì văn phẩm Tùy Hỷ đã so sánh đầu năm phẩm diệt hậu, nghĩa đương nhiên ở đầu tứ tín, hiện tại đều do nghe trường thọ tăng lợi ích phẩm vị, cho nên cần song song thuật xưa nay hai môn. Dưới Phẩm Pháp Sư Công Đức chánh đương hiện tại vị tứ tín và sau vị tùy hỷ, do đó không còn giữ lại hai lợi ích. Do trong phân biệt và trong tùy hỷ đã giải thích đủ xong. Lại là xưng dương công dụng năm hạng Pháp Sư, năng nhập sáu căn đồng nơi vị hiện tại tứ tín. Phẩm Bất Khinh trở xuống đã tổng nói Pháp Hoa đâu riêng gì tích! Nếu vậy các văn trước cũng nói Pháp Hoa cũng nên đầy đủ hai ư! Đáp: Sau chưa nói. Đầu tiên trong nghĩa thế giới văn trước lược giải thích danh. Tiếp rộng giải thích. Sau là tổng kết. Vì đầu xuyên suốt ở sau nên trước giải thích danh. Đầu văn trước Tùy sau Hỷ. Trong phần đầu giải thích Tùy, sự lý chỉ là tên khác của Quyền thật, hiểu Quyền thật đây tức chẳng phải Quyền thật, không hai không khác tức tùy thuận sự lý khai quyền hiển thật.
Tiếp rộng giải thích, giải thích trong Hỷ nói mình và người, tức trở lại là lực của sự lý trong tích, lý có sự, cho nên năng mừng cho người, sự có lý nên năng mừng cho mình. Lại không hai mà hai, cho nên mừng mình và người, hai mà không hai cho nên hiểu rõ không phải mình và người.
"Tiếp nghe sâu..": lần nữa giải thích, cũng trước giải thích tùy đủ công đức quyền thật. Tiếp, "Mừng cho mình có trí tuệ...": lại giải thích hỷ đầy đủ công đức bi trí. Tuy nói "mừng cho mình" nhưng chính là để lợi (tha) người. Tuy nói "mừng cho người" mà chính là để hiển mình. Cho nên, nói có trí và có từ bi. Do tự nghe kinh lại năng dạy cho người khác, cho nên bi trí đầy đủ thì mới gọi là "hỷ", huống chi mới nghe kinh hạnh nguyện đồng thời; cho nên một câu một kệ tự tha đều lợi ích. Nay đây sơ tâm chuyên lập tự hành, cũng dùng nguyện lực mà làm kia vui. "Quyền thật...": kết hai ý trước cùng lập tên phẩm. Quyền thật kết "Tùy", trí đoạn kết "Hỷ". Từ bi tức hóa tha, hóa tha thuộc giải thoát, giải thoát tức đoạn. Vả lại, dùng tự tha sự lý khánh hỷ cho nên thuộc nghĩa Thế giới. "Lại, thuận lý...": trong Đối trị căn cứ Bản môn, cũng trước giải thích, tiếp kết phẩm. Trong giải thích, trước Tùy tiếp Hỷ. Trong Tùy thì trước chánh giải thích. Tiếp, "Tức rộng...": kết thành tướng quán, dung thông sự lý, sau là kết thành. Văn đầu trước lý, tiếp sự. Lý: Nếu tin trường viễn, tin ắt y lý, lý không khác Diệu lý trong Tích, chỉ vì, chỉ tại cửu bản, công trở về thật chứng. Lý sâu thời xa cho nên nói "thâm viễn (sâu xa)". Nói "tín thuận": Đối lý nghe nghĩa lâu xa đâu dám trộm nghi, cho nên không một chút nghi đối với lý lâu. Tiếp "thuận sự": Chỉ là Như Lai tự từ bản thành tựu tướng lợi vật, trong Tích chỉ có ngang luận hóa nghi, trong Bản cần thêm cửu viễn tướng dọc, cho nên dùng hóa lâu làm dọc, hóa rộng làm ngang. Trung gian tiết tiết biến khắp mười phương bao gồm tuyên bày chỉ là ngang dọc biến khắp đó thôi?
"Quán tướng": Phi lý không do đâu năng hóa, phi hóa không do đâu năng hiển lý, tức thiết lập Tích cận sự thấy viễn Bản lý, cũng là Bản tích tuy khác mà bất tư nghì nhất, tuy một mà Bản tích rõ ràng cho nên nói không hai mà hai.
Hỏi: Biệt cùng hai đồng khác như thế nào?
Đáp: có hai:
1) Thông căn cứ Bản tích,
2) Biệt đối nhiều cảnh, do trong Bản tích đều có tướng không đồng.
"Tiếp, Tuy hai...": từ chối nghĩa che phủ thâu nhập.
Hoặc Bản hoặc Tích đều dùng tam thiên mới hiển diệu sự xứng lý. "Như đây...": kết. Chỉ là thâu lược từ trước đến nay sự lý không hai mà hai..., đồng gọi là "nhất Tùy". "Như Lai...": giải thích Hỷ: Trước dựa vào thời căn cứ nhân để bác bỏ Tích quyền, cho nên hơn bốn mươi năm và Thất phương tiện, chẳng đến Kinh này không hội nhập phương tiện không do đâu hiển bản. Đối với kia không nghe nên mừng cho ta được nghe. "Tiếp, Mừng ta...": Chánh giải thích hỷ. "Do tâm phàm phu...": nêu tâm tướng hỷ; Do nghe cho nên biết, nhân biết sinh kiến, chỉ có Phật biết Phật thọ mạng lâu dài, chỉ có Phật thấy Phật từ lâu đã chứng thật lý, nghe Phật nghe hiển cùng Phật không khác. Nhập quán hạnh vị. "Như đây...": kết tướng quán, cũng là ý ngang dọc không hai. Pháp giới cứu cánh nghĩa thông ngang dọc, lẽ ra nói sâu rộng chỉ là nói lược. "Rộng không bờ bến...": Thông tán thán ngang dọc không thể cùng Vô đẳng kia đồng cho nên lập lại nói Vô đẳng đẳng, cũng nên kết tên gọi là "Hỷ". Văn không có, là lược. "Đức Phật nay..." kết thành tên phẩm, trừ lý sự nghi cho nên gọi là Đối trị.
"Người thứ năm mươi..." giải thích trong Vị nhân có bốn: Đầu lập lại nêu nhân tướng tức là nêu vị.
1) "Đầu chỉ có...": nêu Tùy.
2) "Chỉ có...": nêu Hỷ.
3) "Chưa có...": song nêu Tùy Hỷ trình bày ý so sánh.
"Sao nghe...": kết khuyên. Trong so sánh lại có ba: l) Nêu hành yếu mỏng. Trong tùy chỉ có lý, chưa có quyền dụng, trong hỷ chỉ có mình, chưa có năng lợi người.
2) "Tiếp, thâu hoạch...": song nêu tùy hỷ công lớn.
3) "Như Lai...": chánh dẫn kinh so sánh. Tức nêu ở văn dưới: Bốn trăm vạn ức cho nên nói xảo dụ, dụ người thứ năm mươi. Vì vậy cho nên so sánh nói huống gì người đầu tiên nhất. Đây là phẩm đầu nên nói huống gì phẩm thứ năm ư! Đây là bắt đầu viên vị. Nên nói huống gì hậu tâm? Hậu tâm chỉ địa vị tột cùng.
Trong kết khuyên có hai: l) Dẫn ý kinh để khuyên.
2) "Như Lai...": kết ý kinh khuyên để lập tên phẩm, khiến tiến lý nhập vị, năng sinh lý thiện tức Vị nhân. Cảnh là lớn, cũng là mộ. Từ trên đến dưới trong Đệ nhất nghĩa đến nay tức chỉ Pháp Sư đến phẩm Trì và tứ Tín, năm phẩm trong phẩm Phân Biệt Công Đức. "Thời chúng...": sợ người hiểu lầm, không sánh lường sơ tâm công đức lớn, mà suy tìm công vị trên khinh miệt sơ tâm đây, cho nên nay chỉ bày kia hành cạn công sâu để hiển lực Kinh. "Bỗng nghe...": nêu Hảo Kiên Ca Lăn để dụ sơ tâm. Thánh nói tự thân tán thán khiến suy tìm công nghi trừ cho nên nêu "cởi bỏ" vậy để làm theo đệ nhất nghĩa. Hảo Kiên Ca Lăn đầy đủ trong Chỉ Quán quyển một và bảy nói. "Hy hữu...": kết thành lập phẩm. "Ngoại đạo...": căn cứ giáo lần lượt so sánh. Trước bài bác ngoại đạo, thiên Tiểu thừa... Tiểu thừa tuy ở vị tột cùng cũng chưa bằng tùy hỷ Viên vị sơ sơ, người biệt giáo biết trung đạo mà nói môn vụng về: Do ở Địa tiền nghe chỉ tên Trung, chưa tức quán. Đức Phật nay nêu chữ A... là chánh nêu Viên vị, đầu cuối không hai cho nên các giáo đều không.
Hỏi: Đầu tiên chữ A tại Sơ trụ lấy gì chứng minh là sơ phẩm?
Đáp: Danh biệt nghĩa thông, nếu dùng đây đối bốn mươi hai vị thì không thể thông sơ, nếu đối Lục tức Lý tức còn vậy huống gì sơ phẩm ư! Nay từ Viên hành để nêu bất nhị cho nên thông dụng chữ A.
Trong hỏi đáp trước hỏi có thể thấy. Trong đáp nói pháp này là lần lượt nghe pháp. Người kia: Đại Phẩm nói: Nếu người hàng Thanh văn năng phát tâm thì ta cũng tùy hỷ; cũng lại nên hỏi: Kia kèm theo, đây riêng biệt vì sao được đồng ư?
Đáp: Không từ chỗ kèm theo, không chung không riêng, sợ lẫn lộn danh đồng, vì biện minh biệt cho nên đến. Huống chi kia là nói dẫn tiến, đây phân biệt thật công sơ tâm, cho nên người kia không có lý phát tâm, đây tùy theo lý đã thành, vì vậy nên danh đồng kia sự vĩnh viễn khác. Phẩm trước dùng so sánh bốn người: Cuối phẩm Phân Biệt Công Đức đối với bốn người sau. Kinh văn mỗi một tiết tự so sánh xong, chỉ có phẩm đầu văn chưa có so sánh nên sinh phẩm này. Cho nên cuối phẩm trước sớ nói: Nay liệt đủ năm phẩm so sánh bốn phẩm, sau phẩm Tùy Hỷ so sánh sơ phẩm. "Thừa cơ": Do đức Phật biết cơ ẩn chưa nói, cho nên khiến Di-lặc nương căn cơ bấu víu ở Phật, văn rộng so sánh ở đầu mới biết sau bốn công lớn sau, thời chúng lợi ích rộng cho nên nói thừa cơ. "Nam phương": Giang nam. Nói "Có hơn, kém và bằng": Ý cho là sau sau dần dần hơn làm thắng, càng về sau tương tợ làm bằng, sau dần dần yếu làm; bèn dùng tiệm yếu so sánh nêu bằng và hơn. Trong người kém nhất là người thứ năm mươi công đức còn nhiều, huống bằng huống hơn cho đến thứ năm mươi ư! Văn tuy chưa phá lý không hoàn toàn như vậy, chỉ dựa vào dần dần yếu dùng sau so sánh đầu, sao dùng bằng, hơn! Bằng nhau đầu cuối tương tợ, thắng lại sau hơn trước, đều chẳng hạn cuộc so sánh. Nay chánh giải thích: Nhân người xưa không phải giải thích năm mươi vị, tổn thương văn, mất lý. Cho nên, nay trợ giúp tạm mượn giáo môn để lập số người. Chỉ căn cứ sáu chúng không liệt kê Thức-xoa, cũng một phen đối số lại tạm trừ bỏ, đâu có Thức-xoa không nghe kinh ư? Ý cũng không hẳn từ nơi hữu môn, dùng Đại Tỳ-kheo mà làm người trong sơ hội, trong đây tuy lại liên quan đến người và môn đều hành đến bốn mươi tám, mà ý nêu rõ mỗi một giáo và mỗi một người tùy theo một môn một hạnh đều có thể từ nơi pháp hội người nghe.
Sở dĩ hai giải thích:
1) Căn cứ ba giáo nghĩa đương giáo xưa có năm mươi người đến nay nghe Viên.
2) Đến nay lại thành năm mươi, tức là nghe kinh đều hợp khai hiển, toàn thành bốn người.
Cho nên viên nêu số không thể dùng biện rõ. Lại nương số pháp dùng một lần bảy mà chỉ, như bảy đời..., trong bảy từ đại cho nên thành bốn mươi chín đều là Sư đệ... xoay vần giáo. Nói một người sau cùng không có giáo tha tức, lại căn cứ một kỳ so sánh mà nói. Nói "Đại bảy...": Phương này số pháp của hoàng đế lập có hai thứ không đồng. Dưới số mười vạn làm ức, trên số ức ức làm ức, số bảy cũng như vậy, cho nên dùng bảy lần bảy mà làm Đại thất (Đại bảy), đối tiểu bèn thành bốn mươi chín, và người sau cùng thành năm mươi. Đây cũng một phen hợp số kia. Chánh nghĩa như trước phá các Sư xưa. "Nay nói không như vậy" trở xuống dưới là văn ấy. Kinh tứ sinh: Có người đối với đây rộng căn cứ Câu-xá, Bà-sa và các Kinh luận nêu chương nghĩa tứ sinh, đối văn nay chẳng cần thiết. Chỉ có thể lược biết sáu đường chúng sinh, lược như quyển thứ nhất và Chỉ Quán quyển một ghi. "Tứ sinh": Thai-noãn-thấp-hóa-lại hiển biết trong luận lại lập tứ sinh (bốn loài): l) Xúc sinh: Nhân vì giao hội.
2) Khứu sinh: (ngửi): Con đực có dục tâm ngửi mùi con cái là căn môn, tức liền có thai.
3) Sa sinh: Như chim cái do dục tâm bụi cát nhân tức có thai.
4) Thanh sinh: Như con cái khổng tước dùng dục tâm cho nên nghe chim đực gọi tức liền có thai. Bốn thứ đây chỉ nhiếp thai noãn hai sinh, thấp hóa chỉ nhiếp hương xứ không cần tướng đây. Ban vui thế gian, cứu dứt quả khổ. Lại cho bốn việc và dùng bảy báu cho nên nói thế gian, khiến quả thân an cho nên nói "cứu quả". Khiến đắc La-hán nên nói "cứu sinh tử khổ". Đây là phước Phạm, người này dạy người khác khiến đắc Thánh quả mới gọi là Thánh. Tự chưa đắc Thánh gọi là phước Phạm nếu đắc Thánh quả mới gọi là thánh. Nay rộng nêu, đây dụng Đại luận văn nói: Sự to lớn trong phước, chẳng gì vượt lên trước Phạm. Cho nên, luận giải thích trong tướng trăm phước trang nghiêm, dùng phước Phạm làm một phước. Có sự so sánh đây, nay kinh khiến đắc Tứ quả cũng là phước Phạm vậy. Trong đó lại so sánh nêu phước nghe kinh, khiến đem các phước Thánh ban đầu dùng so sánh lợi ích nghe kinh sau cùng, cho nên nghe kinh vi diệu tùy hỷ, sơ tâm còn vượt qua các Thánh sau huống gì sơ Thánh ư! Cho nên biết người đời mắt thấy ngọc như ý mà tranh cầu thủy tinh, đã gặp ánh sáng mặt trời mà mưu cầu đèn đuốc!
Tát-đỏa Đại-tát đóa: Do tam Bồ-đề lần lượt tương vọng, một phen lại dùng Đại tiểu nói cho nên phương tiện cực vị Bồ-tát còn không bằng người thứ năm mươi huống gì chỉ dạy người đắc nhị thừa ư! Nói phước Thánh: Đối với trên thuộc phước nên nói vậy. Nhưng trong Hoa Nghiêm dùng Sơ trụ so sánh việc kia vẫn dễ, nay vị Sơ tùy hỷ so sánh phước Thánh, tự chẳng phải Đại thánh nghiêm chỉ đâu thể tin việc kỳ lạ đây! Cho nên, biết chỉ từ sự mà phán nói hành phẩm này là phụ, hành bất khinh là chánh, cho nên một bộ đây không được dùng ý phụ nói đều là một lỗi thông suốt của Pháp Hoa. Trong đây công đức đối năm mươi người, Chương An chỉ thẳng nêu số mà thôi! Không chỉ Kinh văn nay lược đối, mỗi cặp công đức kết làm một câu:
Một chỗ và lợi căn
Trí tuệ không câm điếc,
Miệng thơm lưỡi không bệnh
Miệng không bệnh không dơ
Không đen cũng không vàng
Không thưa không thiếu rụng
Không so le không gãy
Môi chẳng trề chẳng nứt
Chẳng thô rít chẳng co
Chẳng ghẻ chẳng sứt hư
Chẳng thiếu và chẳng hoại
Chẳng yêu cũng chẳng dày
Chẳng to và chẳng xám
Chẳng đen, không đáng ghét
Chẳng xẹp chẳng cong gãy
Chẳng đen chẳng hẹp nhỏ
Chẳng dài chẳng hóm gãy
Chẳng cong mà vui vẽ
Môi răng lưỡi đều đẹp
Răng trắng phau và sạch
Mũi cao lớn thẳng thắng
Mặt tròn đầy, mày cao
Mi dài và trán rộng
Tướng người đủ cân đối
Thấy Phật và nghe pháp.
Trước là tương tợ công đức... chỉ trong phẩm Phân Biệt Công Đức nói diệt hậu năm phẩm. Đại sư có khi y Phổ Hiền Quán phán xét năm phẩm vị ở trong sáu căn cho nên nói tương tợ. Nếu chỉ bốn tín chánh là tương tợ, trong đây so sánh phẩm đầu lại là thứ năm mươi tám. Sơ pháp hội nghe chấp nhận là sơ phẩm thứ năm mươi tám ắt ở người đầu của Tùy hỷ vị, nhưng phẩm đề tùy hỷ không hạn cuộc ban đầu mà thông gồm năm mươi người. "Tu hành...": rộng nên nêu hành tướng. Năm mươi đức đây hoặc một người đầy đủ hoặc một người đều một, tùy công lực người kia không thể chắc đủ. Trong tụng, tụng trong tùy hỷ trước có năm, không tụng hỏi đáp, căn cứ đây có thể biết, đối tụng phần nghe kinh trong đó ít không thứ lớp đối đây có thể biết.
-----------------------------
Trước giải thích tên phẩm. Tiếp giải thích công đức tăng giảm tức công đức Pháp Sư. Đầu tiên giải thích đề phẩm trong đó cũng căn cứ tứ Tất-đàn, cho nên dưới kết nói: Đủ bốn ý đây. Văn
1) Thế giới.
2) "Hạnh giả...": Vị nhân.
3) "Hiểu biết...": Đối trị.
4) "Tương tự giải...": Đệ nhất nghĩa.
Nghĩa Thế giới trước chỉ phẩm trước, cùng đây giải thích danh cho nên nói hai chữ Pháp Sư toàn chỉ phẩm trước, cũng dùng năm hạng làm Pháp Sư cho nên nói như trên.
Hỏi: Phẩm đây đã nói là quả Tùy Hỷ tên gọi Pháp Sư, tên gọi Pháp Sư vì sao chỉ trước?
Đáp: Đệ tử thông đầu đến cuối Pháp sư chỉ có hai, ba nghĩa cũng gồm hai sau, hoặc hoàn toàn chưa nhập phẩm. Vì sao? Vì nếu dùng năm phẩm nhập trong sáu căn, năm Sư chỉ làm nhân của sáu căn. Ví như dùng năm phẩm tại ngoài sáu căn, thì năm Sư không nói tu nơi quán hạnh, chỉ dùng tụng nói gọi là thông. Lại thông phẩm thứ hai, ba, lại nói bao gồm nơi bốn, năm, cho nên lại một phen tợ thông. Nếu lại căn cứ vị lược chọn, thì hoàn toàn chưa nhập phàm vị, dùng tên phẩm Pháp Sư kia giải thích rộng, nên cần phải chỉ kia để hiểu rõ danh này. Pháp Sư xưng đã thông không ngăn cách bốn tín năm phẩm nên chỉ văn kia dùng trình bày tên phẩm. "Công đức...": biện minh sự sai khác. Đầu chỉ người đầu sơ phẩm, chỉ người thứ năm mươi nay cho là năm phẩm chỉ sáu căn đây, đồng gọi là công đức cao thấp hoàn toàn khác. Vì là công đức của Pháp Sư nên nói Pháp Sư CÔNG ĐỨC. "Trong ngoài trang nghiêm...": Hai lớp giải thích:
1) Chánh căn cứ sáu căn.
2) "Lại từ...": lại tiến nương vị chân thật tức khi tương tợ đây đến Sơ trụ sắc thân hiện khắp, cho đến cực vị một tiết đều dùng công ban đầu làm bản. Năm tướng cũng như vậy: Khi nhập chân vị sáu căn đều có trong ngoài hai nghiêm, thấy nghe mười giới mà làm ngoại hóa, còn lại ba thứ căn cứ biết sắc... cũng như vậy. Lại nếu dùng tương tợ khắp hiện sắc thân làm lời nói, thì có thể thông ở tương tự vị.
"Tiếp, Đọc tụng...": theo lệ các sư: Năm Pháp Sư đây đều sinh tương tợ giải; đây lại phải để qua chân vị khắp hiện sắc thân, thoái lui lấy tương tợ vỉ làm công đức đây. Năm phẩm của năm Sư chân, tương tự vị không đồng, cho nên gọi là Thế giới.
Hỏi: Viết chép làm sao tịnh sáu căn?
Đáp: Đồng giúp chánh giải. Bốn phẩm hơn vậy là nêu rõ phát bất định, đầu từ tùy hỷ cuối đến chánh hạnh đều phát sáu căn đâu hẳn quá năm mới nhập tương tợ. Nói hơn vậy là lấy đầu vọng sau còn đắc nhập, bốn sau thêm hơn trước. "Tương tợ đã như vậy...": Do trong phần chân căn tịnh gấp bội trước dùng chân vọng tợ cho nên nói gấp bội.
Tiếp Vị nhân: Nên siêng năng tư duy tu bốn thứ Tam-muội khiến mau nhập hậu tín, tín tín tương vọng cho nên gọi là bội. Tiếp trong đối trị sâu biết Viên, nghe như trước so sánh gọi là thế lực lớn, mới năng trừ bỏ nghi chấp quyền tích. Đệ nhất nghĩa: Trung đạo nói là đầu tiên của tương tự giải tựa dựa theo Phổ Hiền Quán, tùy hỷ rồi sẽ đứng đầu tương tự giải, người thứ năm mươi lại là đầu tùy hỷ cho nên nói sơ sơ. Quá nhị thừa cực cực, là La-hán đã tột cùng, không tột cùng lại tột cùng. Dù là không nghi cũng không thể bằng người sơ tùy hỷ. Gấp bội trăm ngàn vạn như trước so sánh. "Chỉ ban đầu...": Dùng Tùy hỷ đầu hiển Diệu giác cuối; Phàm phu phát tâm còn dùng Diệu giác rốt ráo không hai, huống nay năm phẩm sau đối với sáu căn ư! "Công đức sáu căn...": Chính giải thích công đức sáu căn tăng giảm, trước lược nêu hai nhà. Tiếp tổng kết bài bác.
Trước nêu Quang Trạch văn không biệt phá, sở lập chưa đúng. Vì sao? Vì năm hạng Pháp Sư đều đắc sáu căn, vì sao năm Sư cùng làm sáu ngàn ư! Cho nên một Sư bốn trăm, nếu có ba phẩm tuy thành một ngàn hai trăm, đâu thành một Sư sáu ngàn công đức huống ba phẩm nhân ư! Cho nên dưới kết phá căn không y văn. Huống chi nói mười thiện là tán thiện. Cõi đây ba căn mạnh yếu. Dẫn văn Đại luận toàn không tương ưng đây. Văn đây nhãn, tỷ, thân tám trăm; nhĩ, thiệt, ý một ngàn hai trăm. Trong luận thì nhãn nhĩ ý ba dụng mạnh cho nên không tương đương. Lại có Sư dùng số Quang Trạch làm ba phẩm, nay kinh chỉ có tám trăm, và ngàn hai làm sao lại lập một ngàn? Nếu phân sáu căn làm ba thì hai, hai phần đối hoàn toàn không có lý đây. "Các Sư...": tổng bài bác chưa hội nhập kinh này sáu căn tăng giảm và công đức... Không hiệp các giáo là ngoài Pháp Hoa như dưới liệt nêu, ba kinh một luận vì sao? Vì sáu căn sở đối ba ngàn trần, ngoài trần đây thấy nghe bốn Thánh, cho nên biết kinh lực trợ nội quán giải, phát tương tợ phần chân, huân khắp các căn, cho nên có thấy nghe các dụng như đây. Lại có người dẫn Câu-xá... để biện rõ nội giới sáu trần, dụng giải thực thông đây sáu trần chỉ được chút nghĩa chẳng phải chánh ý văn cho nên không dụng. Vả lại sáu căn trong đó căn nhĩ tỷ ba, không nhờ đến tức trở lại nương không đến có thể thấy đối nhãn, có thể nghe đối nhĩ, có khí đối tỷ, thiệt thân hai căn cần phải đến rồi, dựa vào đến biến hiện cho nên thiệt thì dùng biến thuyết làm công, thân thì dùng hiện tượng làm dụng, mà đều dùng mười giới làm lượng, không liên quan đến Tiểu thừa căn trần đối cảnh, cho nên không cần nói sắc hai mươi hai thanh tám... Nếu không như vậy thì tam thiên vốn chẳng là nơi nhục nhãn nhục nhĩ của phàm phu thấy nghe, thì vì sao lại nói thấy nghe tam thiên? Nếu lại nhân thiên... nhân sở hoặc sáu trần, càng chẳng phải ý nay.
"Đại Phẩm...": chánh dẫn ba kinh một luận phá hai Sư trước. Tiếp, "Nay kinh...": chánh giải thích. Đầu dẫn kinh luận lại có hai:
1) Chánh dẫn.
2) Lược kết kinh này đầy đủ để bài bác.
Trong chánh dẫn đầu dẫn Đại Phẩm nêu sáu căn Bátnhã đâu chẳng phải trong phẩm Phân Biệt Công Đức so sánh chánh tuệ. "Trần tịnh tuệ" đến "cho nên không sai khác": Đây chưa nói số lại nói đẳng định. "Nếu sáu căn...": Pháp Sư kế tiếp. Trước phá. Tiếp "Nếu một...": trưng dẫn ngược lại v.v... nên dẫn lại nhiều và dẫn trong chánh Pháp Hoa cũng trước dẫn căn..., "Không luận...": cũng đồng trước phá. "Tiếp, dẫn ý luận văn cũng nêu rõ...": Kinh lực không nên khiến căn thắng liệt. "Tuy chưa...": Tuy chưa nhập địa công như nhập địa. Tiếp dẫn Đại kinh nêu xen lẫn tướng dụng. Đã đồng đã lẫn lý đâu ứng thiên lệch!
Tiếp chánh giải thích chia làm bốn:
1) Nêu trong một kinh đầy đủ bốn văn trước.
2) Chánh giải thích.
3) "Nếu luận...": biện tăng giảm.
4) "Tương tợ...": phân phán vị. Tiếp lại có hai: Đầu căn cứ phương pháp hoằng kinh nêu rõ... có một ngàn.
Tiếp, căn cứ lý cảnh... một ngàn hai trăm. Đầu muốn chánh giải thích, lại bài xích Quang Trạch. Nay y phẩm An Lạc Hạnh để nêu rõ ba nghiệp, chánh đương Pháp Sư y nơi phương pháp hoằng kinh cho nên khiến thâu hoạch được sáu căn thanh tịnh, không đồng Quang Trạch thẳng nói mười thiện và dùng năm hạng Pháp Sư cùng làm hiệp số. Nay nêu số đầy đủ xong, mới nói năm hạng Pháp Sư đều đủ sáu ngàn cho nên nay trước căn cứ An Lạc Hạnh ba nghiệp mười thiện. Tiếp nêu một giới mười Như đối hóa tha biên và ba: áo, v.v... đã có sáu mươi mới thành viên hạnh. Trong đây ba nghiệp tức là lục căn, cho nên không đối lại lục căn, ba nghiệp công thành tức sáu căn thanh tịnh. "Năm hạng...": nêu mỗi một Sư đều tịnh sáu căn. Tiếp "Lại nữa, nhất tâm...": là căn cứ lý cảnh để đối trong hành cũng là tương tợ vị công dụng xen lẫn, cho nên nói một căn thông đủ sáu trần. Nếu từ nhân giải thích chỉ là quán hạnh lý đầy đủ sáu trần. "Nếu luận...": nêu rõ tướng tăng giảm, trước nêu tăng giảm. Thanh tịnh trình bày Bát-nhã trước, trong trang nghiêm có dư thiếu trang nghiêm...: Trình bày chánh kinh trước, thiếu trình bày luận chỉ là sức phàm bằng. Thánh nêu rõ nhục nhãn. "Nếu nói một ngàn hai trăm...": là tiếp luận nghĩa dư thiếu. Nếu nói thanh tịnh lại nêu Bát nhã trước. Lục căn lẫn dụng nêu Đại Kinh trước, cũng có thể bất khả tư nghì, nêu trước dẫn luận. "Nếu thiên...": là kết bài xích. "Tương tợ...": phê phán trong vị.
Nói "tứ luân": Trong Kinh Anh Lạc nêu đủ sáu luận nay lại dụng bốn. Nếu y năm mươi hai vị chỉ kinh Anh Lạc mới đầy đủ nghiêm chỉnh, cho nên nay nhờ đó, để thành nghĩa Viên, chỉ có đoạn không đoạn sai khác. Thiết luân vẫn ở vị trước trong bốn luân tức Thập tín. Tâm thứ ba: E rằng lầm, lẽ ra nói thứ hai, tín thông tiến biệt cho nên mượn nêu. Hoặc thủy mạt (đầu cuối) nêu rõ vị, lược như Bồ-tát giới sớ và Huyền Văn diệu Chỉ Quán thứ vị, đầy đủ vị tu quán nhập hành tướng vị. Nay văn chỉ nêu Pháp Sư công đức cho nên để qua không nói. "Đây...": Kinh văn nói sáu căn sáu chương, căn cứ kinh Hoa Nghiêm, sáu căn đều có mười nghĩa cũng cùng trong văn đây đồng, chỉ chân tợ biệt đó thôi! Vậy thì năm mươi đều thông chân tợ. Lại năm cùng mười chỉ ly hợp sai khác, nhưng Tiểu thừa không dùng tỷ thiệt làm thông, ở tách làm chưa gọi là liễu thuyết. Các kinh Đại thừa cũng có lục thông. Không nói lục căn, chỉ là bên Tiểu mà lại bài xích Tiểu. Nay kinh Hoa Nghiêm mới thành liễu nghĩa huống lại cùng Tiểu tu phát không đồng sở y đều sai biệt, còn không đồng biệt, huống lại các thứ khác ư! Trong nhãn căn đầu tiên chưa luận tu phát thiên nhãn chân thật, mà trực tiếp dùng nhục nhãn có thể thấy Đại thiên, cho nên nói cha mẹ sinh. Nếu luận công dụng kia đã quá thiên nhãn hữu lậu thiên. Nhãn cõi dưới không thấy cõi trên, Phạm vương thấy tuy khắp Đại thiên mà đến bên bèn bị phong luân ngăn cách, sáu căn tịnh thì không như vậy. Cho nên nay nói "tương tợ Phật nhãn" cho đến "tương tợ ngũ nhãn"; cũng nên nói thấy nơi Nhị thừa và Phật, Bồ-tát... Do căn cứ nhĩ tỷ ắt hợp có. Thấy trong ngoài Đại thiên làm thiên nhãn; lại căn cứ thấy nơi thô tế sắc biên, thấy nghiệp nhân duyên làm pháp nhãn, do sức thiên nhãn không thấy. Thấy nghiệp thấy tịnh: Nghiệp có sai biệt tịnh không sai biệt, song song thấy hai cảnh tức tiêu biểu trí trung đạo. Lại năng viên phục cho nên là Phật nhãn.
Đại kinh nói: Đây là Biệt dẫn nhục nhãn năng có dụng Phật nhãn, để chứng minh do cha mẹ sinh... Phật nhãn cho nên... là lập lại nêu trước phá bốn văn Quang Trạch, và nay lập đều lược văn nói nghĩa dư thiếu v.v... hiển thành chánh giải thích. Nhãn căn thanh tịnh là trình bày Bát-nhã trước, đầy đủ năm là trình bày luận văn trước, trang nghiêm là trình bày thánh kinh trước... Cũng nên nói xen lẫn đầy đủ năm căn để nêu Niết-bàn, văn không có là lược. Dưới nêu năm căn nhất nhất đều vậy. Chỉ đây đủ xong từ dưới trở đi đều lược, chỉ chú thích v.v... hoặc nêu một, hai Kinh mà thôi! Đến dưới lại dẫn không khiến thất ý. Lại dưới năm căn mỗi mỗi có hai giải thích: Một là căn cứ năng thấy nghe, hai là căn cứ đối tượng thấy, nghe, cho nên lập lại nói. Nhĩ căn có thể thấy vì ở Tỷ căn rất được dựa theo tất cả, cho nên nói tỷ căn lại biện minh công dụng xen lẫn, căn cứ theo lệ các căn cũng lại như vậy, chỉ là văn lược. Nếu trong thiệt căn căn cứ ý đáp vấn thì cũng cần phải biết trước vị pháp giới mới khiến vị ấy biến làm ngon thơm, huống chi lục căn đều tịnh đâu có thể thiệt căn yếu kém ư! Trong thân căn nói: Không lầm giả, không chấp không, đều chiếu gọi là trung. Trong ý căn nói: "Tháng, bốn tháng...": là tiêu biểu giải thích để thông năm thứ trước đều bất nhị. Nếu còn sự giải thích chỉ căn thứ sáu, do đó sáu căn sở đối không cần tùy luận. Nhưng phẩm Tùy Hỷ so sánh phẩm đầu, Phân biệt công đức thẳng nêu bốn tín và dùng năm phẩm. Nay Pháp Sư công đức chỉ nêu tương tợ Lục căn công đức. Phẩm Bất Khinh nêu người hoằng kinh hiện sinh hậu báo lục căn thanh tịnh. Phẩm Thần Lực chúc lụy quả nhân tự nêu lực dụng hoằng kinh để khuyên lưu thông. Phẩm Dược Vương, Diệu Âm, Quan Âm nêu người phần chân công năng hoằng kinh, cho nên biết chỉ y kinh này phân phán vị tự hiển, ngoài ra y luận phân phán cũng tự nó là một cách, dưới có thể thấy. Cho nên phẩm Tùy Hỷ sắp xuống không nhọc dựa theo giải thích vật tượng tướng mạo mà chỉ lược nêu văn tướng để hiển truyền hoằng thì công Lưu thông nghĩa kia tự rõ.-----------------------
Phẩm này đã chánh dẫn xưa, nên biết Bất Khinh đã có năm phẩm có thể dùng chứng nhân, sau thâu hoạch lục căn có thể dùng chứng quả cho nên nói dẫn chứng. Gia Tường đầy đủ đối các phẩm văn trên Kinh này lấy làm bảy phần riêng biệt:
1) Lấy hai phẩm trên đối nay làm ba phẩm Công Đức: Tùy hỷ, hạ, Pháp Sư trung, nay làm thượng.
2) Đối hai phẩm trên làm công đức ba đời. Tùy hỷ hiện tại, Pháp Sư đương lai, phẩm này quá khứ.
3) Đối Pháp Sư công đức nêu quả, phẩm này biện rõ nhân.
4) Nêu chúng sinh chỉ có Nhất thừa.
5) Trên nêu Phật thọ ký nay nêu Bồ-tát.
6) Trên nêu khuyên phước nay nêu diệt tội.
7) Dẫn sự để chứng sáu căn. Nói ba phẩm: Tùy hỷ chấp nhận là hạ Pháp Sư và đây đều tịnh sáu căn, đâu thể phân trung thượng! Huống đây còn có đời trước hủy báng địa ngục. Nói "ba đời": Tùy hỷ chính chỉ sau khi Phật diệt độ, Pháp Sư hiện nhờ năm thứ công thành, Bất Khinh tuy xưa mà nêu đời hiện và sau. Nói nhân quả: Đều tịnh sáu căn đâu phân hai thứ riêng biệt. Nói Nhất thừa: Thông nơi một bộ đâu chỉ riêng đây ư! Chỉ đối Phân biệt công đức phân Phật, Bồ-tát thọ ký, đây thì có thể như vậy. Nói "tội phước": Nay hủy báng mắc tội, tin được phước. Văn trên sinh hủy báng lẽ nào không tội ư! Trong Tùy hỷ cùng Đà-la-ni Bồ-tát cùng sinh một chỗ, lợi căn trí tuệ đâu chỉ phước ư! Nói "diệt tội": Sinh hủy báng đọa địa ngục đây chính là sinh tội, khi lâm chung căn tịnh đâu chỉ diệt tội. Trong Pháp Sư báo ấm hiện chuyển thì tội nào không diệt. Nói dẫn sự để chứng sáu căn thanh tịnh; sao không nói một câu hoằng tuyên ắt tịnh sáu căn; vì chương sở dẫn không tư duy bản văn, các thứ khác theo như lệ đây không thể dẫn đủ, nên lược luật để sinh phát kiến giải. Cho nên, nay lại dùng sáu nghĩa nói: Nghĩa đầu tiên cũng vọng ở phẩm trước của kinh này, năm nghĩa còn lại đều dùng Pháp Hoa vọng trước:
1) Trên toàn hoằng kinh văn, nay lược ý hoằng kinh cho nên không đọc tụng chỉ chuyên thông kinh.
2) Kinh sách Tiểu thừa sinh tin còn chưa làm hai nhân. Nay Kinh hoặc hủy cảm sáu căn thanh tịnh.
3) Các kinh chỉ nêu thuận hóa hoằng giáo, phẩm này lễ tục, nghịch hóa, thông lý.
4) Các kinh tiêu biểu Quyền thật còn ngăn cách, phẩm này tiêu biểu nghe đều là Tứ nhất.
5) Các kinh tiêu biểu còn không khắp huống chi, phẩm này tiêu biểu gồm Bản tích hai tướng.
6) Các kinh nói thượng mạn vĩnh viễn đọa khổ, phẩm này tức năng tín phục tùy tùng. Gia Tường đưa ra bảy nghĩa đều là một kiến giải chưa có xa đến; được ý trong đây thì các lệ có thể theo.
Hỏi: Vì Bất Khinh mà lầm có thọ ký, tức thấy người phải nói đều sẽ làm Phật? Vì lại đời mạt pháp người hoằng mê muội ở bến bờ.
Pháp Hoa luận nói: Bồ-tát này biết chúng sinh có Phật tánh không dám khinh. Hai luận đều là Thiên Thân mà lập tánh không đồng đâu cùng trái nhau! Chỉ trình bày kinh văn khiến đều được ý chỉ giáo. Nếu khiến một người chấp luận thì khiến các thuyết đều đồng, không thể giải Thích hết Đại thừa dùng nghĩa đối pháp tiểu thừa. Cho nên, biết luận kia tự trình bày Phương-đẳng. Sở dĩ Ca-diếp tự xót xa chủng tử Phật bị hư hoại, đến hội Pháp Hoa chủng tử ấy trở lại sinh, Thiên Thân liền dùng luận kia trình bày. Nếu bỏ văn Như Lai hiển thật mà chấp giáo Bồ-tát hoằng quyền thì lỗi thiên chấp chẳng gì lớn bằng, lỗi lầm trình bày sai có thể biết. Nay văn phẩm, đầu tiên nêu đầy đủ Tứ nhất dùng giải thích xuyên suốt bốn, trong đó trước liệt nêu tiếp giải thích. Trong giải thích nói Pháp Hoa luận... tức luận thừa nhận nói Bồ-tát đây biết tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, cho nên phàm thấy người đều đến lễ, trong bốn chúng đây há không có người diệt chủng mà vọng nói. Nếu kia có, luận văn không nói thì lỗi tại Thiên Thân. Nếu Duy Thức nói chánh lỗi (quá) tại Bất Khinh và tại nơi Phật mà không trước trách lỗi Bất Khinh, còn từ chối bởi do người hoằng kinh đâu có lỗi lầm nói, lầm thọ ký khiến đời hiện sinh và sau thanh tịnh 6 căn ư! Chánh nhân thông tuyên bình đẳng... tánh đức thông nơi mê ngộ nhân quả. Cho nên duyên liễu nói chủng tử vốn có. Trở lại căn cứ tánh đức để nêu hai nhân, để đối tân huân thạnh tu đắc. Ba thứ đây làm nhân chuyển nhân thành quả, trong quả Bồ đề và dùng Niết-bàn gọi là quả tánh quả và tánh của quả tánh. Nếu đối tánh biện minh tu chỉ là tu đắc duyên liễu đến quả gọi là Bồ đề Niết-bàn. Liễu chỉ là trí, trí gọi là Bồ đề, duyên chỉ là đoạn, đoạn gọi là Niết-bàn. Cũng có thể dùng tánh ba nhân khi đến quả, liễu gọi là ba thứ Bồ đề, duyên gọi là ba thứ Niết-bàn. Nếu nói chúng sinh đầy đủ có nhân quả tánh, thì năm Phật tánh đều tại chúng sinh, biến nhất thiết xứ chỉ khi trụ nhân, quả tánh gọi là nhân, tại thời quả thúc đẩy nhân gọi là quả. Danh tuy xen lẫn được mà pháp kia thường như.
Đầu tiên, giải thích nghĩa Nhân duyên...: Bắt đầu từ "Bên trong mang sự giải Bất Khinh v.v...": năm văn. Sau là Viên giải, căn cứ giáo. Từ "Thấy thật Tam-muội...": là đối thiên thành bốn, đối vị thì năm, do trong các giáo chắn không nói chúng sinh tức Phật. Trước đã nói nhân duyên nên đủ tứ Tất-đàn, đối trong năm văn đầu và hai là thế giới, ba Tất-đàn sau, là ba văn còn lại đầy đủ như trong tựa cũng dùng Tứ Nhất mà đối tứ tất vân vân là ba giáo đối biện nay chỉ tại Viên. Ta xưa tùy hỷ thâu hoạch hiện sinh và sau, lập lại nêu lai ý, cho nên văn sau nói. Khi sắp lâm chung nghe đầy đủ lời của đức Phật Oai Âm Vương thuyết kinh Pháp Hoa đắc lục căn thanh tịnh lại tăng thọ mạng tức hiện báo. Sau khi mạng chung lại gặp hai ngàn ức Phật đồng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh tức sanh báo. Do nhân duyên đó lại gặp được hai ngàn ức Phật đồng hiệu Vân Tự Tại Đăng Vương lại gặp ngàn vạn ức Phật tức hậu báo. Đối hiện báo thâu hoạch sáu căn thanh tịnh cho nên công hoằng kinh kia không nông cạn. Nói ba thứ lợi ích này ý tại lưu thông. Thời xưa Bất Khinh tam báo rõ ràng như vậy, ngày nay đâu được không lưu thông ư?
Có người nói: Muốn hiển hạnh an lạc uy thế không gì sánh bằng, ta làm Bất Khinh hành an lạc hạnh; nay cho rằng an lạc hạnh là bắt đầu hoằng kinh cho nên cùng Bất Khinh uy nghi đó có mười sai biệt. Vì sao? Vì an lạc hạnh an xứ, pháp, tòa tùy ai hỏi thì đáp, Bất Khinh thì xa thấy bốn chúng cho nên đến lễ bái. Kia thì có nạn vấn mới đáp, đây thì lại bị chúng dùng ngói đá chọi ném còn gắng nói.... Kia thì thường ưa ngồi thiền tại nơi yên vắng, đây thì không chuyên đọc tụng vào chúng trình bày thông suốt; Kia thì ưa sâu pháp không vì nói nhiều, đây thì bị chúng cho là hư vọng nên hủy báng vẫn gắng khen ngợi. Kia thì ban đầu hỏi vì sao đọc tụng kinh này, đây chỉ nói một câu lưu thông làm Phật. Kia thấu tu lý quán, quán mười tám Không, đây chỉ ôm ấp giải một câu làm Phật; kia hóa Phật đích thân thuyết giảng thân hư không, đây chính hư không thuyên giảng nơi hóa sự; kia thì trong mộng viễn tiêu biểu đương thâu hoạch đại quả, đây chính miệng tuyên bày giáo nhân (người) sẽ đắc Phật. Kia thì căn cứ mở hạt châu trong búi tóc dụ khai nhị thừa quyền, đây thì căn cứ kết duyên tiêu biểu nhất thừa thật. Kia thì do thuận hóa nên còn nơi phép tắc, đây dùng nghịch hóa cho nên quên ở tích thường. Kia thì nêu thắng hạnh hành pháp để chọn lấy người, đây thì thiên dẫn người xưa để thông thắng pháp.
Sự bản bản sự: Thông nêu xa xưa đức Phật Oai Âm Vương là bản sự Bất Khinh gọi là sự bản. Trong đó biệt dùng thời đức Phật Oai Âm Vương tối sơ làm sự Bất Khinh cho nên nói bản sự. "Đắc hoằng tông của chánh thuyết...": Trước nêu hai câu. "Danh thường...": giải thích hai câu này:
1) Giải thích câu đầu.
2) "Bất Khinh kính sâu...": giải thích câu tiếp.
Hoằng rộng lớn, tông cao quí tôn trọng. Bản tích hai văn Tứ nhất tánh, chánh nói Đại tông không quá thật tướng. Thật tướng chỉ là Phật pháp thường trú đây chỉ tông tột cùng của tông chẳng phải tông thể tông. Một đời tuy nói hoặc gồm, hoặc đối, hoặc thuần tiểu giáo, hoặc tạp trợ môn, hoặc ức chế hoặc che đậy, văn rộng sự rộng, giáo giáo không đồng, vị vị ý biệt. Mà Bất Khinh chỉ tuyên dương. Hai mươi bốn chữ "có" nêu lên có giải thích thuật đủ nhân quả. Nhân đã ba tánh, quả tức ba đức, huống dùng Tứ nhất kiêm lợi ích tự tha, thẳng chỉ hai nhân để làm pháp Bất Khinh tuyên bày. Cho nên, nói "hoằng tông", tông hiển thật không ngoài Tứ nhất. Tứ nhất mỗi chỉ là ba, cho nên nay trở lại y Tứ nhất để hiểu văn. Trong đó
1) Giải thích Tứ nhất hoằng tông.
2) Dẫn văn phân phán vị.
3) "Tùy hỷ...": nêu ý tùy hỷ.
4) "Kinh người...": kết ý tùy hỷ.
Phần một Giải thích Tứ nhất hoàng tông, có hai: l) Nêu Tích môn hiển thật.
2) Nêu Bản môn khai cận.
Đầu nêu Pháp Sư tùy hỷ, chỉ bày sau khi Phật diệt độ nghe nói lợi ích của người hoằng kinh. Đây dẫn quá khứ nói người hoằng kinh người nghe đều thâu hoạch công lớn; hoặc hoằng hoặc nghe đều đề cập đến bản tích đâu riêng gì thẳng nói làm Phật mà thôi! Cho nên đều phải căn cứ hai môn giải thích mới xứng hợp với Bất Khinh tuyên bày, mới hợp với đức Oai Âm Vương diễn thuyết, có thể cùng năm phẩm lý hợp, sau đắc lục căn mà có chỗ trở về. Nói sự nghe đầy đủ là hoàn toàn tiêu biểu Bản tích, huống chi hiệu Pháp Hoa không chuyên ở một môn. Trước tiêu biểu trong Tích nói tên Thường Bất Khinh là một người... nên tùy theo văn tướng dùng hiểu nghĩa Tứ nhất khiến hiệp ý chỉ văn đây. Tuy người thượng mạn vì đó lập danh, mà đã là Bồ-tát thì hạnh nguyện sở cảm cho nên khiến để ghi khắc thầm hội nhập việc kia. "Cho đến xa thấy...": là tiêu biểu bản Tứ nhất, chỉ là dùng viễn mà tiêu biểu nơi viễn. Cho đến Bất Khinh tự có Tứ nhất bản địa. Cho nên, khiến cho người chưa kham hiển bản, chính dùng viễn trú tiêu biểu. Trong Tích hiển Thật còn dùng Tích bốn mà gượng độc, huống lại Bản thật có thể tức liền thọ ư! Tích hiển mà Bản mật, cho nên biết Tứ nhất là tông chỉ hoằng kinh.
Phần hai Dẫn văn phân phán vị, nói: "Không chuyên...": là hiển bày không đọc tụng kinh cho nên dùng Bất khinh làm chuyên. Mà nói chỉ lễ lạy là dùng pháp nhập vị không chỉ như năm hạng Pháp Sư. Hoặc tự hoặc tha, hoặc tín hoặc pháp, hoặc xa xôi hoặc hiển rõ, hoặc rộng hoặc lược, cho nên chỉ tuyên một câu công chẳng lớn ư! Cho nên nay văn phán thuộc vị Tùy hỷ, làm nhân thân cận sáu căn. Có người nói: Không chuyên là tạp. Nay cho rằng: chỉ hiển không tạp, không chuyên đối chuyên.
Có người hỏi: Vì sao lễ tục? Nay vì đáp: Bồ-tát hóa duyên phương pháp rất nhiều, chỉ làm việc lợi ích cho nên thiết lập nghi thức đây.
Thấy chúng sinh lý cùng quả lý... cho nên lễ chúng sinh lễ Phật nguồn gốc ấy không sai khác, đây là tự hành. Muốn cho chúng sinh sinh mộ quả nguyện. Quả nguyện là gì? Chúng con chỉ lý người kia cao thượng cho nên lễ bái, huống chi chứng quả lý mà không tôn kính ư! Lại nói các ông đều hành Bồ-tát đạo sẽ được làm Phật, đâu chẳng kích thích chúng khiến tu Viên nhân. Đây căn cứ hiện tại thuận người theo, cũng là tín hạnh cũng là pháp hành. Xét lợi ích có thầm có hiển, hiển cận, thầm viễn, viễn như thắng ý hiện tuy không thọ, tiếng nạp ở trong lòng. Do tội hủy báng đọa vào đường ác, nghe sức thuận tùng lại gặp Bất Khinh, cho đến ngày nay lại khiến hội nhập. Do nghĩa đó cho nên người thượng mạn còn thành tự nhân viễn, nghe tin sao không có lợi ích hiện tại! Cho nên người hủy báng thành nhân "trống độc". Rộng lược căn cứ đây có thể biết. Tự hành trang nghiêm công hóa trở về mình, tự tha huân sáng cho nên thanh tịnh sáu căn. Có người trong đây dẫn Đại kinh nói "lễ người tri pháp", và trong Tịnh Danh nói "Tỳ-kheo lễ thế tục". Nghĩa đây không như vậy. Niết-bàn thường là khuôn phép hiển chí kỉnh Pháp, từ kia thỉnh lợi ích cho nên vong tình lễ cưới. Tịnh Danh nghe pháp rồi thâu hoạch ân năng, cho nên vong ân là phạm, giả thiết kính không còn khuôn pháp thường. Hoặc chánh nghĩa Đại thừa vượt ngoài phép tắc thường tục cũng không khiến đạo mà lễ nơi tục. Bất Khinh lập hạnh đều khác các nghĩa này, không vì tuyên thông Đại tiểu, không phải giáo. Có người nói: Bồ-tát không làm lễ như thế tức là có phạm.
Nay cho rằng có phạm cần phải căn cứ khoa điều (điều kiện). Phạm võng không có văn nói, nay quá ít nên không chế. Lại nói Bồ-tát đối tánh tội ắt thâu hoạch, đối giá tội có siêu việt. Nay cho rằng đối với giá tội ắt siêu việt gọi là trì phải không?
Vượt không gọi là trì phá chẳng phải Bồ-tát. Quên phạm cứu giúp vật quí tại vật yên ổn, nếu vật yên ổn thì đâu cần phân biệt giá tánh! Nay lễ lạy bốn chúng cứu giúp chúng nào có tội? Cho nên Đại tiểu nhị thừa đều ngăn lễ bái thế tục, lễ còn không thọ nghĩa cứu giúp không thành. Phần ba, "Tùy hỷ...": căn cứ nhân pháp nêu ý tùy hỷ: Ắt đủ ba nhân, an lạc là tổng, ba nhân là biệt cho nên nói đều là Nhất thật tướng. Lại nói đều có ba nhân. "Đọc tụng...": Biệt giải thích ba nhân. "Bất Khinh kính quí...": giải thích câu lợi ích vi diệu của lưu thông. Trong đó đầu chính căn cứ ba, bốn để chỉ bày lưu thông. "Như đây...": là kết thành: Đầu văn: Nếu được phép tắc ba pháp hoằng kinh thì tự tha đều cứu gi-úp. Phải biết ba pháp tuy thuận phẩm trước kỳ thật tức là ba nhân của phẩm này. Cho nên, cũng lại đối bốn An lạc hạnh, đây căn cứ trước có thể biết. Không thọ Tứ nhất: Lẽ ra dẫn sự chửi mắng... nương theo giải thích rõ không thọ tướng Tứ nhất, bản địa cũng như vậy. Văn chỉ lược đối kinh mà thôi. "Bất Khinh cùng đại mà gượng...": vì xướng khiến người nghe, nên giải thích độc mạnh để làm tướng đương lai nghe pháp, đầy đủ như kinh văn nói "đời sau được lợi ích".
"Ý nghiệp thanh tịnh...:": Nên giải thích tướng ba nghiệp đối tướng ba lực, lại cần phải đối áo, tòa, nhà... thần thông là nhà, thuyết biện là tòa, thiện tịch là áo. Rộng đối tất cả căn cứ đây có thể thấy. Những người chê bai liền sinh tùy thuận còn đọa khổ, vậy thì đánh trống hai thứ tin và chê làm hai nhân đời này và sau.
Hỏi: Nếu nhân hủy báng đọa khổ, Bồ-tát cớ gì vì làm nhân khổ?
Đáp: Do kia không có nhân thiện nên không hủy báng cũng bị đọa. Nhân hủy báng đọa ác ắt do được lợi ích như người ngược đầu xuống đất trở lại từ đất đứng dậy, cho nên dùng chánh hủy báng để tiếp nơi tà đọa.
Việc sẽ siêng năng huân tập năm thứ hạnh: Năm hạnh của Pháp sư. Kệ văn chỉ nói mười lăm hàng rưỡi đầu tụng quả báo, bốn hàng sau tụng khuyên trì. Căn cứ tụng văn đây nên nói không tụng song chỉ, chỉ tụng song khai song khuyến hai văn. Trong tập đầu song khai, văn trường hàng có hai: Sự bản, bản sử. Nay một hàng rưỡi tổng tụng sự bản, thiếu kiếp quốc... Tiếp tụng bản sự, trường hàng có ba: Nay một hàng rưỡi đầu tụng song song nêu lên hai người. Tiếp, hai hàng rưỡi tụng nghĩa được, mất: Một hàng rưỡi tụng nghĩa được, nửa hàng tụng nghĩa mất, nửa hàng lập lại nghĩa được. Tiếp, "Tội kia...": mười hàng tụng nêu quả báo tin và chê và kết xưa nay. "Cho đến định nghĩa là...": Đây chính không chuyên phán xét tà, ngoại đạo. Phật quyền thật giáo chấp đều gọi là trước (chấp). "Da trâu...": như Chỉ Quán quyển 5 nói. Do tâm chấp trước ở giáo Không, chấp trước như "da trâu"... hướng phía mặt trời thêm cứng chắc. Vong thất chánh pháp cũng như tổn hại thể, nên người nhận thọ phương tiện giáo ở vị ngoại phàm đều chưa tránh khỏi hủy báng, cho nên có không thọ lời nói Viên thật của Bất Khinh.
-------------------------
Giải Thích Phẩm danh (tên phẩm): "Như Lai" ở phẩm Thọ lượng bên trên đã giải thích. "Thần lực": "Thần" tại bên trong tức thể tông, "lực" gọi là tài sử dụng tức là "dụng". Phật thuyết bản tích, khẩu luân lực dụng đã xong ở trước. Nay lại thân luân hiện thắng dụng đây khiến chúng lưu thông giáo Bản tích, nên nói: thể sâu lực lớn. "Chữ đây..." biệt nêu Lai ý (nguyên do). Từ đây sắp xuống tổng gọi Lai ý. Đầu tiên đối trong chúng nói tất chỉ chỉ phương khác, xưa trụ chỉ bản hóa lẽ ra chẳng phải bốn chúng tám bộ. Cho nên nói "tất cả" tức văn từ: "Và các" trở xuống. Mười thần lực: Năm văn đầu chánh nêu rõ hiện tại lưu thông bản tích, năm sau tổng nêu vị lai không thôi! Lại, trong năm văn trước:
1) Đầu tiên, khiến chúng tổng tin Bản tích, bốn văn tiếp tức là hiện tại Tứ nhất.
2) Tiêu biểu hai môn lý nhất cảnh trí cho nên gọi là trí cảnh.
3) Tiêu biểu hai môn giáo thích nghi tức là Giáo nhất.
4) Tiêu biểu hai môn nhập thật tức là Nhân nhất.
5) Tiêu biểu hai môn phá hoặc tức là Hạnh nhất.
6) Trong môn đã chỉ năm ngàn người bị dời đổi, ba loại người thất tâm: ba loại người như đây theo lệ tức là sau khi Phật diệt độ được lợi ích.
"Nói cơ": Cơ nghĩa đương tổng, tổng nơi vị lai Tứ nhất, tức là được lợi ích nơi Tứ nhất. Dưới trở đi nói bốn tướng sai biệt tiêu biểu vị lai Tứ nhất. Văn tự kết danh chỉ mỗi thuật điều cốt yếu khiến thành một. Do đó bốn chỉ nói một không nói Bản tích, tại vị lai còn chưa nhập thật sao luận bản kia! Nếu thấy thật cũng thấy bản kia, cho nên tổng kết nói tiêu biểu hiện tại tương lai. Trong năm văn đầu mỗi mỗi đều có Bản tích lưu thông ba tướng. Đầu văn trước nêu. "Nay kinh...": là trình bày trước tích nói khai hiển. "Nội bí...": là trình bày trước khi Tích hiển Bản. "Nêu ba đời...": nêu dụng trung gian. "Người phước đức...": ý nói thần lực đầu tiên. Văn thứ hai: Trước nêu nay thần dụng tiêu biểu. "Từ bạch hào trên...": Nêu nơi tích môn thần dụng tiêu biểu đồng. Cảnh trí hợp cho nên ban đầu thấy Lý nhất. "Nay Bản môn...": nêu ý đã tiêu biểu trước. Do thấy lý xa cho nên khiến tăng đạo tổn sinh đến gần nơi cùng tột. "Phân thân...": Tướng đây đã đồng đều nơi cõi kia, lợi ích cũng vậy.
Văn thứ ba: Trước nêu danh, biện ý, thuật tướng. "Hơn bốn mươi...": chánh thuật tiêu biểu tích. "Muốn dùng...": nêu bản ý. Nói đủ hai: Sự tức bản tích, trao cho mọi người khiến thông nơi đời vị lai. Văn thứ tư: Đầu nêu danh biện ý. "Tùy hỷ...": tiêu biểu Tích lợi ích. "Tùy hỷ Viên đạo...": tiêu biểu Bản lợi ích. "Tùy hỷ các Bồ tát...": tiêu biểu Lưu thông lợi ích. "Đây một...": công năng lưu thông. Văn thứ năm: Tuy không phân Bản tích mà một văn gồm nhiều... năm có thể biết. Kết yếu có bốn câu: Bản tích hai môn đều có công dụng, thể hai môn hai xứ không khác. Danh đứng đầu ba thứ này mà tổng nơi ba, cốt yếu một bộ đâu quá nơi đây, cho nên tổng nắm cả để thành Lưu thông. "Bát tự tại": Như Chỉ Quán nói. "Trong kinh chủ yếu nói...": Là trình bày ý này. "Đạo tràng", giải thích ở trên. Sự thậm thâm; sự tức nhân quả, nay đạo tràng là quả, quả ắt có nhân. Dùng Bồ-đề giải thích tạng: Bồ-đề là trí năng khế hợp ắt có cảnh sở chiếu, cảnh tức bí tạng, dùng năng hiển sở: Dùng chuyển pháp luân giải thích nhất thiết pháp, có pháp sở chuyển, pháp ắt có danh; dùng Niết-bàn giải thích lực dụng, lý mãn giải thích quyền nghi, xướng diệt giải thích cận nghi. Tông tuy cận viễn mà đồng gọi là nhân quả, không còn phán xét riêng.
A-hàm nhờ Tiểu mà chứng Đại, kia thì từ sự, nay thì nhờ chứng lý, khai Tiểu tức Đại cho nên có thể làm chứng. Trong tụng văn, đầu tụng mười thần lực chỉ có năm, thiếu năm sau. Năm trước hiện thấy theo cần phải giữ, năm thần lực của trước sau hiện tại vị lai khác. Nêu hiện tại vị lai phỏng theo, vì vậy nên lược. "Chúc lụy...": hai hàng tổng tụng bốn pháp, chỉ nói chúc lụy đến biên tế đủ bốn nghĩa, bốn nghĩa đều là vô biên tế. "Năng trì...": biệt tụng. Một hàng rưỡi đầu tụng tất cả pháp, không ngoài năng hóa năng chứng sở hóa không có nhị thừa, không kiêm Đới, pháp kia bí mật vi diệu. "Khiến ta...": kệ tụng thần lực. Đã nói hoan hỷ tức là dụng tùy thích. Tiếp một hàng kệ tụng bí yếu, danh đồng dễ thấy. "Đối các pháp...": tụng việc sâu xa, giáo hóa các Bồ-tát rốt ráo trụ Nhất thừa, thừa là quả của nhân. Một hàng rưỡi sau tụng tổng kết, tổng kết bốn pháp. Nói "hoặc năng trì", là trì bốn pháp vậy.
Giải thích phẩm này, trước là biện rõ tha nhân để phán định phẩm trước sau. Tiếp là nay chánh văn giải thích. Văn đầu: Ngài Từ Ân ở An Quốc (tự) đều khiến đổi phẩm này ở sau Khuyến Phát. Hoặc ở trong đây có tám tướng trái, mười điều không thể, tôi tuy kiến giải sơ sài mà ít nhiều cũng có thọ lãnh, thường nghe lời Từ huấn dạy rũ lòng chỉ bày những ý chỉ "bào chữa" mà sâu xa có nơi nương Tựa. Gần đây thấy Tú Công nói Pháp Hoa viên cảnh, rộng lập các khó khăn không vượt qua qui cũ trước. Nay thu góp các điều nghe trước gồm giúp sau hiểu, tổng biệt bào chữa đó cũng có tám điều không thể.
1) Tổng bào chữa: Xuất hiện tháp về sau phàm thuật Đa Bảo đều nói rong tháp không nói thấy Phật. Nếu dời đổi ở sau không có xuất hiện xứ tháp; là một điều không thể.
2) Phân thân về sau phân tán phàm có thuật, chỉ luận Phật tháp không liên quan đến phân thân. Nếu đời đổi sau thì Phật không có phân tán xứ là điều thứ hai không thể.
3) Trong văn Chúc Lụy thì Phật tán cõi uế, sắp xuống kinh văn nói không liên quan đến tịnh, nêu đời đổi sau không còn uế xứ (nơi uế) là điều thứ ba không thể.
4) Hội bản nơi địa nhân tháp bay lên hư không Phật tán xuất tháp văn sau địa. Nếu đời đổi sau không trở lại ở nơi địa (đất) là điều thứ tư không thể.
5) Sau phẩm Chúc Lụy kinh đã chưa hết chỉ thuật là "chúng hoan hỷ", không nói "mà đi". Nếu dời đổi sau thì cần phải nói thêm "mà đi", là điều thứ năm không thể.
6) Sau phẩm Khuyến Phát không còn văn khác kinh đã cuối cùng thì nói mà đi. Nếu dời đổi sau thì cần phải bỏ chữ "mà đi ", là điều thứ sáu không thể.
7) Bản tích hai môn Phật sự đã xong cần có phó chúc là có Chúc Lụy. Nếu dời đổi sau thì pháp không chỗ trở về, là điều thứ bảy không thể.
8) Chúc Lụy về sau nêu thừa thăng nhân, hoằng kinh bản sự, sự cần chúc lụy. Chúc lụy về sau thừa nương theo người, hoằng kinh bản sự, sự cần chúc lụy. Nếu dời đổi sau thì thầy trò lẫn lộn, là điều thứ tám không thể.
Tiếp, Bào chữa riêng: Thuật đủ vốn phá mỗi mỗi bào chữa:
1) Nói các bản trái nhau: Căn cứ Chánh Pháp Hoa và đời Tùy ngài Quật-đa Tam tạng thêm trong phẩm Pháp Hoa, phẩm này đều ở cuối kinh. Bào chữa nói: Chánh diệu hai bản người dịch đã khác, nên chỗ thấy đều sai biệt. Nếu khiến đồng hết, điều này không thể. Nói "thêm phẩm": Căn cứ trong Nam Sơn Điển Lục nói: Ngài Quật-đa đem dời phẩm Chúc Lụy để sau cuối kinh,
Quật-đa đã sửa đổi lại, Pháp Hộ chưa thể làm bằng cứ.
Chánh bản đã ở trước kia phẩm thêm không gọi là sửa đổi. Nam Sơn đã bài xích phẩm thêm nghĩa đương hai bản đều sai. Vì sao? Vì ngài La-thập tuy sinh ở Qui-tư nhưng ngao du khắp Ngũ Thiên trúc lẽ nào riêng không thấy phạm bản Pháp Hoa ư? Ở lâu tại Trường An, lẽ nào không từng thấy Pháp Hộ dịch ư! Mà lại dịch không dụng, phải biết Pháp Hộ chẳng kham chỉ nam, nếu kham rõ chỉ nam sao văn nghĩa không bao hàm y chánh bản ư! Nếu chê văn nghĩa người sau dịch nông cạn, thì đời Tùy dịch càng nông cạn hơn trước. Nay y ngài La-thập dịch lý có thể căn cứ đây làm bằng cứ. Cho nên Duệ Công nói Phạm âm sai lầm, chính vì Thiên Trúc, Tần nói sai lầm chính vì chữ nghĩa, không thể người dịch tức liền mà viết ra. Đâu phải Thập Công cùng bốn đệ tử đốn như vậy mà không liền hiểu. Dời một phẩm an trí trong Kinh. Nếu không lường được ý chỉ trở về thì chỉ nên tôn kính mà thôi! Đâu được dùng kiến giải phàm làm thước đo lường đại hải hư không ư?
2) Nói kinh và luận trái nhau. Pháp Hoa luận nói: Lực tu hạnh có năm: Thứ năm trong sức hộ pháp nói như phẩm Phổ Hiền Khuyến Phát và phẩm sau. Phẩm sau tức chỉ phẩm Chúc Lụy. Bào chữa rằng: Luận cũng có người dịch, trong khoảnh khắc đâu có nghi! Huống chi luận tuy từ Tây thiên đến mà thời dịch đã sau Chánh Pháp Hoa, chỉ là người dịch thuận với Chánh Pháp Hoa, chánh Kinh vào thời Tây Tấn dịch, luận vào thời Ngụy dịch. Đời Tùy ngài Cấp-đa thấy Chánh Pháp Hoa phẩm Dược Thảo Dụ sau có trường hàng và kệ tụng và phẩm Chúc Lụy ở sau, liền dùng Chánh kinh thêm vào trong phẩm, và dời Phẩm Chúc Lụy ở sau phẩm Khuyến Phát, ngoài ra không nói gì. Khiến người đời sau nói thêm phẩm Pháp Hoa. Cho nên biết người dịch không ngại tùy theo thấy, Diệu và Chánh, hai bản đồng một Phạm văn. Bỗng có thể tin Lathập mà thôi ở Pháp Hộ, đâu được giải thích Diệu bản chuyên dùng luận làm bằng cứ. Tú công nói: "Nói phẩm sau là kinh Phổ Hiền Quán, do đồng Phổ Hiền phát khởi khiến y kinh tu quán". Lại nói "phẩm sau": Kia đã không xuất danh mục thì tợ như Kinh độ bất tận. Nếu không như vậy thì sao không nói và phẩm Chúc Lụy mà chỉ nói "sau" ư? Đây cũng là một ý kiến. Nhưng căn cứ Thiên Thai phân phán làm kết kinh, thì không nói ở sau phẩm Khuyến Phát.
3) Nói các giáo trái nhau: Tất cả các kinh đều ở cuối kinh vì sao kinh này riêng tại nơi đây! Bào chữa rằng: Theo lệ đồng các kinh, trái với ngăn ngại, lại rất được, tức như Đại Phẩm ở giữa có phẩm Lụy Giáo, cuối kinh lại có phẩm Chúc Lụy, không thể tất cả đều an hai nơi, như kinh Đại Bảo Tích nói bốn mươi chín hội, mỗi hội đều có văn phó chúc, đâu khiến tất cả các kinh đều như vậy. Như kinh Kim Cang hỏi danh hỏi trì, chính ở kinh không thể hết thảy khiến ở giữa. Pháp Hoa khai Quyền hiển Bản, thọ ký hàng Thanh-văn, thì đâu khiến hết thảy đều hiển Thật. Không thể ước lệ giống nhau, số kia chẳng phải một.
4) Nói hai sự trái ngược: Phân thân nếu trở lại cõi này lại là uế, căn cứ Diệu âm được răn khuyên cho nên biết cõi uế. Trong phẩm Chúc Lụy cũng khiến Đa Bảo trở về, Quan Âm không nên cho báu vật chia hai, phân hai tức Đa Bảo chưa trở lại. Bỏ đi đã đồng không nên trái ngược. Bào chữa rằng: Chỉ do chưa trở lại cho nên báu phân hai. Vì vậy chỉ nói một phần phụng cúng tháp Phật Đa Bảo mà không nói phụng cúng Phật Đa Bảo, cho nên biết sự hoàn tất là đi. Có duyên thì trụ, đối lý đâu có tổn thương. Nếu Đa Bảo tại phân thân không hợp tán, thì kinh văn chỉ nói tháp có thể như cũ. "Như cũ" chỉ là y ban đầu đóng trở lại, khiến sơ thân tán, tức nói đều trở về bản quốc. Cho nên biết tuy tức khiến tháp kia trở lại nghe kinh còn lại mà tháp đóng như cũ, như khi tháp chưa mở. Chỉ nói Đa Bảo ở trong tháp báu phát ra âm thanh. Lại nói bốn chúng nghe trong tháp phát ra âm thanh. Đại Nhạo Thuyết nói: Ở trong tháp kia phát ra âm thanh ấy. Lại đức Phật bảo "Đại Nhạo Thuyết! Ở trong bảo tháp có đức Như Lai...", cho nên tháp chưa mở. Đại chúng chỉ nói Đa Bảo Như Lai ở trong Bảo tháp.
Tiếp tháp mở rồi, Đại chúng đều nói thấy hai đức Như Lai ở trong bảo tháp. Nếu tháp đóng sau như cuối Dược Vương nói: Đa Bảo Như Lai ở trong Bảo tháp. Diệu Âm đến đây chỉ dâng lên Thích-ca chuỗi Anh Lạc để trình bày hỏi han. Tiếp mới hỏi rằng: Đây đức Đa Bảo đã diệt độ từ lâu ở trong tháp báu có đến nghe pháp không? Vẫn đối đức Thích-ca trình bày đức Phật kia hỏi rằng: Có an ổn kham nhẫn trụ lâu chăng? Phải biết tháp đóng còn trụ mà chưa đi. Lại nói xin đức Thế Tôn hiện bày cho con được thấy. Đâu thể có hai Đức Phật cùng ngồi tòa, bèn nói xin thấy. Lại đức Phật Đa Bảo ở trong tháp báu bảo Diệu Âm rằng: Chỉ nói ông vì cúng dường đức Thích-ca... không nói phân thân, đâu có phân thân tận thấy mà không cúng dường! Lại nữa Diệu Âm muốn trở lại chỉ nói cúng dường đức Thích-ca và tháp Đa Bảo thôi! Không nói thấy Phật ở nơi kia thấy đức Tịnh Hoa Tú Vương, chỉ nói cúng dường đức Thích-ca và tháp Đa Bảo, cũng không nói thấy Đa Bảo Như Lai và dùng phân thân. Lại khi Văn-thù đến liền nói: "Đầu mặt kính lễ hai đức Thế Tôn", sau Chúc Lụy hoàn toàn không có văn đây, cho nên tháp đã đóng phân thân đã giải tán. Nếu phân thân nơi Quán Âm cho báu vật về lý nên cúng dường không nên chỉ hai.
5) Nói hai mạng không bằng: Vì sao phân thân, Đa Bảo cả hai đều xướng giải tán, bỏ đi giữ lại không đồng. Nếp nói chỉ khiến tháp đóng nói như cũ, vì sao Chánh bản nói "trở lại bản quốc"? Bào chữa rằng: Hai mạng dù đồng, sở duyên đều sai biệt, Bảo tháp vì nghe kinh cho nên đến, phân thân vì mở tháp cho nên vân tập. Tháp đã đóng thì phân thân phải giải tán, kinh còn chưa hoàn tất cho nên tháp chưa trở lại. Phân thân đã giải tán, cõi hợp lại thường. Cho nên văn trước nói: Vì chư Phật sẽ đến ngồi; đều tịnh tám phương. Huống chi Chánh Pháp Hoa nói: Có thể trở lại bản độ. Tự ngài Pháp Hộ dịch không đúng, tại sao phê phán bản của Ngài La-thập khiến theo Chánh kinh! Nếu Chánh kinh làm chánh thì không nên dịch trùng, chỉ nói như cũ. Nếu muốn y Chánh kinh thì sao không chánh bản, khắp xem chánh bản nơi nơi trái nhau và do vọng lầm trước sau chẳng phải một? Cho nên cần dùng Chánh kinh làm chuẩn.
Lại hỏi: Đức Thích-ca xuất tháp tháp vì sao phải đóng, tháp phân thân đâu hẳn phải giải tán?
Đáp: Đa Bảo bản nguyện chỉ nói dùng tháp nghe Kinh, nếu dùng thân ta chỉ bốn chúng, thì khiến phân thân vân tập. Phải biết phân thân mở tháp cho nên vân tập. Đức Thích-ca cũng vì mở tháp mà trú tại hư không, trú hư không cho nên mở tháp, tháp mở cho nên khiến ngồi. Chúc lụy cho nên xuất tháp, xuất tháp cho nên tháp đóng, tháp đóng cho nên phân thân việc xong, việc xong cho nên phải giải tán. Cho nên tháp mở đóng phân thân tụ, tán đều có nhân duyên, đâu cần nạn vấn nói hai mạng không bằng.
6) Tháp không trở lại: Phân thân chư Phật khiến đi đều trở về. Đa Bảo Phật tháp đến cuối Kinh lại không có xứ trở lại. Nếu phẩm ở sau tức xướng xong, là khi trở lại! Bào chữa rằng: Kinh xong tự trở lại đâu cần cầu xứ. Đến sau khuyến phát tất cả Đại chúng làm lễ mà đi. Làm lễ tuy không thông đối Bảo tháp mà đi khắp bao quát tất cả. Bản nguyện Đa Bảo nghe Kinh cho nên đến, Kinh nếu sau cùng sao lo không đi! Chỉ lo tháp không có nói về đi, không lo cõi không nói uế, nếu cõi sau lại uế, sao được cũng không có nhân thiên đến!
7) Nói tịnh uế không đồng: Diệu Âm khuyên răn lại chẳng phải tịnh độ, cho nên biết phân thân lâu đã trở lại quốc độ. Ngày phân thân vân tập đâu khiến thị giả đều ở Linh Sơn, tin các núi đều không mà còn có Linh-thứu. Văn-thù từ trong biển xuất hiện cũng nói Linh Sơn bỗng có hoa hiện. Cho nên Diệu Âm đến trở lại dựa xưa răn dạy. Bào chữa rằng: Kinh văn rõ ràng mà người đọc không hiểu. Kinh nói: "Dời các thiên nhân đến nơi cõi khác, chỉ lưu chúng hội đây". Cho nên biết cõi tịnh làm an chư Phật, chúng cũ ở Linh sơn không đời đổi có thể rõ ràng. Căn cứ Văn-thù khi đến liền nói chỉ Linh Thứu trú giữa hư không. Khi Diệu Âm đến không nói trú ở giữa hư không cho nên biết tịnh thì ở giữa hư không lại uế thì ở đất. Nay phân thân đã giải tán cho nên hết thảy đều uế, mà mất đi rồi nhận lấy lý uế trở lại. Khổ chấp Linh Sơn riêng uế, Diệu Âm khuyên răn nói đầy đủ cõi, không riêng nói núi, cho nên nói chớ khinh quốc độ kia... Vì thế, Văn-thù, Diệu Âm khi hai người đến lý kia không đồng. Muốn khiến thành một, lý ấy khó đồng.
8) Nói chúng vui trái tình: Phẩm Chúc Lụy nói khiến phân thân trở lại mà tháp không bỏ đi. Nếu chẳng phải cuối Kinh nói chúc lụy thì A-tu-la vui mừng quá sớm, vì đã chẳng nghe pháp hoan hỷ, chính là thấy Phật khách đi sinh vui an ủi rất đáng lạ. Bào chữa rằng: Đến đây vui mừng mà ganh là rất sớm, vậy cuối ba chu đều có hoan hỷ, lại sớm đối với đây sao không lạ ư! Nói thọ lượng xong trong phân biệt công đức nói: Nghe đức Phật thọ vô lượng hết thảy đều hoan ỷ. Nay bản tích đều xong lại nghe tùy hỷ việc ít công nhiều, lại nghe Pháp Sư nghe, trì hiểu sâu, lại nghe Bất Khinh năng hóa sở hóa hiện tại đời sau đều lợi ích, rõ ràng pháp hoàng kinh không có nghi thức thường cố định.
Lại thấy đức Thích Tôn hiện mười thần lực, trao cho bốn điều kết yếu, ba xoa đầu phó chúc, ba trở lại lãnh thọ việc lớn công xong, đâu được không vui mà nói rất sớm ư! Phải biết người này sau cùng đến cuối kinh cũng chưa hoan hỷ đâu có thể hoằng kinh khiến người khác vui được ư! Nói vui vì Phật khách đi đổi ở văn sau lại phải thêm tháp đi, mà sinh hoan hỷ lại càng kỳ lạ! Nghiệm đây biết tất cả đều dùng phàm tình so sánh Thánh, uổng công tích góp viết ra nói lên một điều khỏa lấp tất cả! Lại nói chỉ là trước thi thần lực cho nên thấy tịnh độ. Cõi này vốn uế sợ Diệu Âm thấy tướng cõi uế mà sinh chê dèm cho nên đức Phật răn dạy. Chẳng phải Diệu Âm đến phân thân mình trở lại mà cõi chỉ uế, như tuy tịnh độ còn thấy Linh Sơn, biến đổi không chỉ tịnh mà gồm thấy cả uế, như trên nhìn thấy dưới. Bào chữa rằng: Linh Sơn là Phật tự lưu cho nên khiến Đại chúng đều thấy. Như Lai tự nói tịnh độ, lại làm giải thích quanh co nói không chỉ tịnh, Phật nói đều khiến thanh tịnh, mới nói bản uế vẫn còn. Nếu nói trên năng thấy dưới, đối tịnh thấy uế, sao không phải Diệu Âm đối uế thấy tịnh. Lại năng thấy. Tâm kia tịnh cho nên cõi Phật chưa tịnh. Nếu còn thấy nơi uế thì biết tâm Diệu Âm bất tịnh mà Phật còn răn dạy. Diệu Âm thấy uế còn sinh chê dèm đâu được gọi là vì trên năng thấy dưới ư! Dưới sinh hạ tưởng chẳng phải thượng nhân, còn sinh chê dèm thì đâu phải thượng nhân ư!
Tiếp Thiệp Pháp Sư lại thêm hai nạn vấn tổng thành mười nạn cho nên nói mười điều không thể. Trước phá tổng trình bày. Tiếp dịch hai nạn. Trước phá: Trước kia trình bày nói: Thập công đặt phẩm Chúc Lụy sau phẩm Thần Lực, từ đó đến nay đều cùng tín thọ. Và nói biên chép thay đổi trong đó khéo đắc ý Kinh. Nếu ở sau thì liệt kê ra các chướng ngại, lược như trước đã thuật. Mà nói dùng nghĩa phán xét văn chính nên an trí đây. Chỉ vào đời Đường ngài Từ Ân pháp sư không chịu theo nghĩa đây. Pháp Sư lại nói: Diệu Âm được răn dạy nếu là uế thì Văn-thù từ biển đến đâu có Linh Sơn! Chỉ là nói chỉ lưu hội đây không nói chỉ lưu Linh Sơn. Phải biết trong ngoài đều tịnh, chỉ là vẫn theo cũ mà nói. Lại nói "phân thân tức là Thích-ca". Nếu Đa Bảo toàn thân cũng cùng một phần. Thì đức Thích-ca Phật thân chỉ cùng một phần. Nếu thọ nhiều phần ấy là Thích-ca thọ lợi dưỡng nhiều, tu lục hòa kỉnh đâu nên như vậy ư! Cho nên chỉ cùng một phần. Lại nói: Nếu chúc lụy tại đây Như Lai đứng dậy, không nói ngồi lại, phân thân Phật đi, không nên đứng trao tặng, Quan Âm thọ thí không nên đứng thọ! Lại nói: Đại chúng đều vui chỉ chút phụng hành không nên an đây. Lại nói thần lực đi uế chưa chắc hoàn toàn trừ. Nếu cần hoàn toàn trừ thì đều ở nơi nào! Sao ở cõi tịnh mà chấp nhận uế này sinh? Bào chữa rằng: Chánh bản Pháp Hoa từ Tây Tấn đến đời Đường đều không hành dụng. Kinh Diệu Pháp đây về sau vào đời Tần dịch song truyền bá khắp thiên hạ, huống chi lưu hành ắt nhờ sức gia bị, được gia bị, đã toại ý sao có thể luận bàn nữa ư! Huống lại thọ trì ứng nghiệm vô lượng. Phổ Hiền còn trao dùng câu phù hợp mà không trách đời đổi phẩm, huống lại sau thời ấy danh Tăng thạc học kế thừa như rừng, cùng đồng ý để phẩm Chúc Lụy trong đây đâu đợi đến đời Đường mà thấy trái xưa. Nhưng kinh này dùng Thường trú Phật tánh như yết hầu, dùng Nhất thừa diệu hạnh như mắt thấy, lấy tái sinh bại chủng làm tâm phủ, lấy hiển bản viễn thọ làm mạng kia mà từ chối để duy thức diệt chủng giết chết tâm kia. Dùng Bà-sa
Bồ-tát che đậy mắt kia, dùng thọ lượng giải thích nghi đoạn mạng kia, dùng thường trú bất biến cắt đứt yết hầu, dùng ba cõi tám ngục làm đại khoa, hình giống như đây làm tiểu, dùng Nhất thừa bốn đức để làm nghĩa Tiểu, không thể hội qui. Căn cứ đây để luận, theo lệ có thể biết.
Nói vẫn như xưa thuyết: Diệu Âm chưa từng đối với đều này sinh mạn. Hoặc cõi còn tịnh, đầy ở trong đó chư Phật Thích-ca và tháp, chúng lại ở trên không. Thần lực hiện mười phương thông đạt đâu cần vẫn như xưa, uổng phí răn dạy Diệu Âm! Đức Phật kia hiện thấy cao thấp không đồng, mà che khả năng Phật trí nói cõi còn tịnh, mà nói đức Thích-ca không thọ lợi ích nhiều, thuận lục hòa kỉnh thì chính là khiến Thánh bắt chước phàm. Nếu nói phân thân tức là Thích-ca, Thích-ca mở tháp tức cũng phân thân, đâu cần lại vân tập. Nếu căn cứ ứng tích đều biệt vì là phân thân sợ Thích-ca thiên nhiều mà không thọ, vì là Quán âm sợ chư Phật thọ nhiều mà không cho. Nếu Quán âm không cho chính là tiêu biểu Quan Âm thí thiên vị, đâu liên quan đến lục hòa thiểu dục. Nếu phân thân không thọ nên trước thí mà sau nhượng, vì sao chỉ phân làm hai phần ư! Cho nên biết khiến phân hai phần là tiêu biểu hiện tại tương lai. Nghĩa kia đã viên, phân thân đã đi, lý kia khéo thành đâu cần nạn vấn đây. Nếu nói không nên đứng đưa phân thân và lập thọ thí dù phẩm đời ở sau tránh khỏi lỗi đây, thọ Quan Âm thí đâu có thể còn ngồi, xoa đầu giao tế vẫn đứng xướng giải tán, sau Kinh chánh đương nêu lỗi đứng đưa, uổng phí đùa giỡn và giễu cợt tôn nghi. Đối điều này, Diệu kinh chưa thành tán thán rộng rãi, hoặc lại thuận phàm tình Thích-ca cùng phân thân ngang vai, ngồi đưa liền thành sơ sót. Cho nên, đứng đưa khách chánh đương nghĩa kia, huống đứng đưa đứng thọ, chỗ giáo nào ngăn cấm! Nói đưa, thọ không thành. Lại nói đã có chúng hỷ chỉ thiếu phụng hạnh không hợp an đây, chỉ duyên thiếu phụng hạnh cho nên không nên ở sau. Lại nói tịnh độ nơi nào dung nạp uế đây sinh, sao không hỏi kiếp thiêu trụi cỏ không đồng cháy hết tro? Lỗ chân lông, vào biển thân không tùy theo sóng, phàm các giải thích đây đều tùy tâm mình, không thuận kinh văn theo lệ kia hoặc đúng.
Tiếp biệt phá thứ chín, thứ mười. Thứ chín, Đức Phật không đến tòa nạn vấn rằng: Mở tháp mong nhờ Thíchca vào ngồi, đóng tháp trở lại ra cũng nên trở lại tòa đâu được đứng nói các Kinh ư! Như trong Kinh Niết-bàn, Như Lai thị hiện nằm trở lại từ nằm ngồi dậy. Như lúc trà-tỳ từ Kim quan dậy bay lên Phạm cung, từ Phạm cung xuống rồi trở về bản tòa, đây lẽ ra cũng như vậy, sao việc không như vậy ư? Ngược lại phải nói: Nếu xoa đảnh rồi theo lý phải trở lại tòa, hoặc nói không có văn khiến đức Phật thường đứng, thì như Văn-thù trả lời câu hỏi xong, không có văn nói vào biển, vì sao đến đây bỗng nói từ biển đến! Lại nói từ trong biển thường nói Pháp Hoa, nói thường nói tức thường ở biển. Nếu vốn ở biển tựa không nên liệt kê, đâu được vì Di-lặc giải thích nghi. Lại nói Kinh xong đức Phật chỉ khiến chúng đều giải tán vốn không có văn nói ngồi lại, đức Phật nên đứng đưa Thiên long Bát bộ đâu chỉ riêng đưa Đa Bảo phân thân, đứng đưa phân thân uy nghi kia ít thuận, đứng đưa Bát bộ tôn ty trái lại gấp bội, Lại vì sao không trách nói các phân thân Phật chỉ sai thị giả rải hoa cúng đem lời hỏi thăm, và nói đức Phật kia cùng muốn mở bảo tháp đây. Tức nói bấy giờ đức Thích-ca thấy phân thân vân tập cùng muốn mở tháp, không thấy thị giả đến hội nói muốn, muốn nên không thành. Pháp sư cùng kia tuy ít thân, dựa vào lý, không dựa thân mà xưa có thể nương. Lại sao không trách giáo môn đều nói Đạt-đa đời đời tạo ác, nay bỗng nói làm Thầy của Phật, lại nói cùng sư biệt ký điên đảo không thể nói đủ. Sao không trách Long nữ thành Phật rất nhanh, sao không trách Thanh văn thành Phật quá chậm?
Thứ mười, chúng không có lệnh ngồi. Nạn rằng: Phật ở cao xa chúng nhân thỉnh đến, nay đã trở về đất cũng nên sai bảo trở lại ngồi, sao để đứng lâu không ban cho chỗ ngồi yên! Cho nên, biết phẩm Chúc Lụy định ở sau Kinh. Ngược lại nói: Phàm nhờ sức người ắt cần phải thỉnh thêm, nếu tùy tự lực không cầu người khác cứu giúp, ở giữa không chẳng phải sức mình sánh kịp cho nên thỉnh Phật thần thông trở lại cũ (bản). Tùy theo khả năng tự lực nên không đợi Phật bảo, huống chi bản duyên Phật vào tháp cho nên thỉnh tại trên không. Nay Phật từ tòa đứng dậy đâu thể an ngồi ư! Cho nên nói tăng thêm sự cung kính khom mình cúi đầu. Đức Phật khi đã trở lại tòa thuyết pháp, chúng theo lý nên trở lại tòa. Không có văn mà luận nghĩa căn cứ đây nên biết. Lại nữa, nếu chúng không đứng, không ngồi lẽ ra vẫn ở hư không, vì sao trong phẩm Phổ Môn, Vô tận ý nói từ tòa đứng dậy! Đầu phẩm Đà-la-ni nói Dược Vương từ tòa mà đứng dậy. Cho nên biết không thể thấy lược các văn từ chối đến tòa, dời đổi phẩm đến sau. Lại tiêu đề phẩm có nói Chúc lụy khiến hướng sau trong phẩm có nghĩa chúc lụy cũng nên đều đời đổi. Nhưng phẩm Chúc Lụy tuy tiêu đề nói Chúc Lụy mà trong phẩm chỉ thông nói ta ở trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp tu tập pháp A-nậu Tam-bồ-đề khó được, phó chúc cho các ông nên tiêu đề phẩm Thần lực tuy gọi Thần lực, mà trong phẩm nói vì Chúc lụy kinh này, bèn dùng bốn pháp của Như Lai Chúc lụy cho Thượng hạnh... Cho nên, lẽ ra trước dời Chúc lụy tiếp dời Thần lực biên soạn ở sau Chúc lụy. Lại đầu phẩm Chúc Lụy nói: Hiện đại thần lực, trong phẩm Thần Lực có nói Chúc lụy, vì vậy hai phẩm đều dời xuống sau. Nếu đều đổi ở sau thì không thể hai phẩm trùng lập diễn ra, không thể hai phẩm có trước sau. Nếu có trước sau thì lại mất phẩm cuối cùng. Nếu nói kinh văn thứ tư, thì Bất Khinh trở về sau tức hợp khuyến trì, việc gì dùng Thần lực mà xen lẫn giữa ư! Bảo tháp chiêu mộ tìm người tuyên bày, người hoằng chỉ nên tiếp dùng phẩm Trì tiếp tục, sau chấp nhận dùng phẩm Điều-đạt xen lẫn. Nếu phẩm kia tiếp không y La-thập thì về lý phải tất cả đều y chánh kinh. Nay kinh nói Thanh-văn có một vạn hai ngàn, Chánh kinh chỉ nói một ngàn hai trăm, tán thán đức Thanh văn bèn có mười một câu, tán thán đức Bồ-tát thì có hai mươi tám câu, cùng Diệu Kinh và, luận lại không tương quan, sao không đỗ lỗi luận trái với Chánh Pháp Hoa? Mà hiềm khích Diệu kinh trái luận.
Lại nữa trong chánh kinh nêu danh nói: Quan Thế Âm, đồng tiếng Quang Âm liền ghi chép, đời sau sao không y chữ "quang" đây giải thích nghĩa, Bảo Chưởng Bồ-tát chia ra làm hai, lại thêm Bảo ấn thủ. "Chưởng" đã là tay, lại thêm đầu thủ chia làm hai người. Tự Tại thiên tử dùng Đại phạm đội đầu. Cũng nói ba vạn thiên tử đều có tức là trở lại chữ Đại Phạm ở Phạm văn nghĩa bất tận và trong biệt Tựa không nói thuyết kinh Đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa. Mà thẳng nói thuyết kinh này rồi thăng tòa Tam-muội, lại thiếu vô lượng nghĩa xứ Tam-muội, không biết trước lúc ấy vì thuyết kinh gì, vì nhập định nào sao không trách Diệu kinh tăng thêm Vô Lượng Nghĩa ư? Lại phóng quang chỉ nói trên đến Tam Thập Tam thiên, Ngài Pháp Hộ việc gì kiềm chế hào quang Phật? Diệu kinh nói tám trăm đệ tử. Chánh kinh nói trong mười tám người. Thông thường nói như cát sông Hằng, tất cả đều nói như cát ở sông, phẩm Tựa đã vậy, trong Chánh tông lầm không thể kể, sao không dựa vào đó mà riêng dẫn Chúc lụy. Vì vậy cho nên Chánh kinh đều chưa thể nương. Dù Thập Công đời đổi tương ưng thấy Phạm văn ý chỉ sâu xa, nếu vậy thì nghĩa rộng, sao không an ở sau phẩm khác mà quyết chắc biên chép trong đây, khiến không có các ngăn ngại như trên nói, lại dời đổi viết chép sau sinh các ngăn ngại ư? Cho nên khiến nơi lưu hành các Thánh gia bị.
Tiếp trong chánh giải thích phẩm cũng đầy đủ tứ Tất-đàn: Đầu tiên trong nghĩa Thế giới, căn cứ được tên gọi để giải thích phẩm, được tên sự biệt tức nghĩa Thế giới. Chữ "liên lụy" làm nghĩa liên đới. Chữ nên làm riêng người sau thêm chữ khẩu ý nói miệng phó chúc tức theo nghĩa lập. Trong cụm "Phiền (nhờ) ông" thì "ông" là các đệ tử. Nghĩa là liên lụy các đệ tử ở đời sau. Như là lụy mang. Tả truyện nói tướng thời động không liên lụy người sau, đây là Như Lai thích ứng thời mà hóa chỉ bày có lời khiêm nhường, lại khiến đối nơi ba đời truyền pháp không tuyệt, ba đời không đồng cũng là nghĩa thế giới. Tiếp vị nhân. Đây là đời sau tuyên bố sinh thiện. Tiếp đối trị: Khiến người đời sau thọ khiến không lầm, trị lỗi ác kia cho nên gọi là đối trị. Đệ nhất nghĩa: Khiến người đời sau phụng ý chỉ nhập trú, nhập trú liền chứng chân. Đầu hai chữ đều tại năng phó, tiếp hai chữ đều tại sở phó. 3) Chúc ở năng phó lụy tại sở phó. Tiếp trong chánh phó chúc giải thích ba nghĩa xoa đầu. Trước căn cứ sở biểu giải thích, sở phó không xem thường phải dùng cạn tiêu biểu sâu, cho nên dùng thân khẩu tâm ba thứ trao cho mới thể hiện sự ân cần. Tiếp căn cứ tứ Tấtđàn: Tức đủ lý sự. Kinh nói "hiện đại thần lực": Như Lai trước hiện mười thứ đã tiêu biểu đương hiện lợi ích Tứ nhất xong. Mà nay lại nói hiện thần lực tức là chánh tiêu biểu thân khẩu tâm ba thứ trao cho. Từ tòa đứng dậy dùng một tay Như Lai đồng thời xoa khắp cho nên gọi là đại.
Có người dẫn trong Đại kinh nói: Bên trong có đệ tử giải nghĩa thậm thâm, không vì lợi dưỡng không sinh tranh giành, ngoài có đàn-việt thanh tịnh nên Phật pháp trụ lâu. Nếu không như vậy thì pháp không trụ lâu. Đây là kinh kia răn dạy tối hậu khuyên đạo tục hoằng thông cũng là gom góp di chúc của Phật. Không đồng kinh này chính là một kỳ vọng tuyên bày thích ứng. Phương khác muốn tán hiện mười thần lực chúc lụy mười phương, đức Phật tự thân xoa đầu Bồ-tát ba phen thọ là tiêu biểu pháp ân cần. "Trí Tuệ Phật...": Lấy giác chiếu biên thuộc nhất thiết trí thấy tất cánh không. Trí Tuệ Như Lai là Đạo chủng trí, tức lấy từ nhân đến quả được gọi là "Đạo chủng". Đạo chủng theo Quyền, đầy đủ như trong quyển một nói, đều có thể khế hợp tu hành gọi là "Quyền". "Ở nhà Như Lai... như vậy": Nói rõ ba trí, tức áo tòa nhà ba thứ đều đầy đủ ba trí chỉ là ba một tương tức, ba một lẫn dung thông, cho nên trong một có đủ ba, lấy ba việc đây hoằng kinh lợi ích chúng sinh. Khiến cho họ đều đắc dụng quả địa ba trí. Cho nên biết nhà nếu không có hai thứ kia thì hoằng thệ không phổ khắp, Áo nếu không có hai thứ kia thì pháp thân không viên mãn, Tòa nếu không có hai thứ kia thì hoặc phá không cùng khắp.
"Như vậy thí chủ...": là kết ý năng thí: Nên nói như thí chủ ấy ba pháp không thiếu tự, tha, bất không, là thí chủ cho nên có đại từ bi. Tự đã vào nhà khiến mọi người vào nhà không xẻn tiếc Tự đã mặc áo khiến mọi người mặc áo không sợ hãi. Tự đã ngồi tòa, khiến người khác ngồi tòa cũng có thể nói không xẻn tiếc. Cho nên thí ba pháp đây không còn sợ hãi, nên nói ba pháp đây hoặc thí hoặc thuyết đều đầy đủ từ bi, tức nhập thất ba pháp. "Các ông...": Các ông đang học giáo của Như Lai nên dùng ba pháp này mà lưu thông, dùng ba pháp ba trí này nên thí cho tất cả. Cho nên kinh nói các ông tức là đại thí chủ của chúng sinh, đây nêu rõ công dụng kinh đã ắt đủ ba, ba, huống lại là pháp sở hoằng ba pháp ba trí. Mới gọi là khiến người khác đắc nơi sở hoằng. Thế Tôn dạy: Phụng hành đầy đủ. Người khác đối với điều này biện rõ phàm phu xẻn tiếc. Dẫn Thành luận nói: "Xẻn tiếc" (xan) có năm thứ: Chỗ ở, cứu người, cho vật, khen tụng, diễn pháp. Tiếc rẻ diễn pháp có bảy báo:
1) Đời đời thường mù.
2) Đời đời ngu si.
3) Sinh trong nhà oán thù.
4) Thọ thai hoặc chết.
5) Bị chư Phật oán.
6) Người thiện xa lìa.
7) Không ác nào không tạo. Nếu hiểu văn đây đều không tương quan. Nghĩa phẩm này. Lại nói "Như Lai hoặc dùng Tiểu thừa giáo hóa, thì ta thời đọa xan tham", khuyên người hoằng pháp xả xan tham phàm phu. Đây hiểu có thể như vậy. Nếu đem đây để chứng minh khiến Phật đồng phàm phu, thì nghĩa sâu xa không thể!
--------------------------
Giải thích phẩm dẫn Quán kinh giải thích danh tức nghĩa Thế giới. Từ văn đây trở xuống là đầy đủ dùng kinh này mà thành tứ Tất. "Nếu suy tìm...": nêu đắc danh trước sau chẳng phải ý tứ tất. "Tận cùng thần lực kia": Dùng thần thông lực Tam-muội cúng dường. "Tận hình mạng kia": Dùng báo pháp kia tức thiêu cánh tay "Ngõ hầu khiến đệ tử...": Người trên thực hạnh khiến dưới bắt chước theo, đây thì tự tha hai nghĩa đầy đủ. "Chư Phật...": Khiến thuật có không. Bất Khinh cho đến Phẩm Phương Tiện đến đâu riêng Phật ư! Hạ phẩm cũng có Phật: Vân Lôi Âm Vương Phật, Bảo Oai đức Thượng vương Phật v.v... huống chi Đức Thích-ca hóa chủ đầu đến cuối (thủy mạt) thường tại, huống lại ứng dùng Phật thân độ..., nhưng cần phải nói "thượng phẩm có Bồ-tát, thì Phật sự làm chánh, hạ phẩm có Phật thì Bồ-tát sự làm chánh". Nếu luận chung thì theo Phật. Hóa chủ thuyết tất cả đều dùng Phật sự làm chánh. Dược Vương đến lưu thông nghĩa tiện: Phật chúc lụy rồi, đại sự công xong, tùy vật thiên ưa nên thừa thừa không đồng. Chân như thật tướng là thể sở thừa, nhất thừa nhân quả là sự sở thừa, khổ hạnh... là duyên thừa thừa. Tùy một vật cơ nghi hợp, khiến người hoằng tùy duyên chẳng bằng nhau. Cho nên thể sở đều là diệu pháp. Do dựa vào nhất Thật lập nhân quả, thừa nơi sở thừa để lợi ích vật cho nên nói "thừa thừa".
Hỏi làm ba: Đầu một lợi tha. Tiếp một tự hành. Du hóa cũng là khổ hạnh, khổ hạnh cũng có lợi tha. Trở xuống văn dưới: Như Diệu Âm... đều không ngoài tự tha, tự hành đều không ngoài trí đoạn phước đức, lợi tha đều không ngoài Tam-muội thần thông. Thông hỏi Du hóa là: Du hóa ắt đầy đủ mười pháp giới thân, đều như Diệu Âm Quan Âm, chỉ biệt nêu khổ hạnh để thích hợp, cho nên thỉnh đáp ý nói khổ hạnh.
Có Phật Thanh-văn: Văn lược đầy đủ như kinh nêu. Có Bồ-tát và thọ lượng Bồ-tát..."Tức thời nhập Tammuội": Khắp hiện Tam-muội, về lý thì không có xuất nhập, tiêu biểu dụng lực Tam-muội cho nên nói "nhập". "Dùng thần thông nguyện lực": Nêu rõ không dùng lửa thế gian, trở lại y sở đắc Tam-muội khởi nguyện lợi tha, dùng trí quán lửa đốt cháy cảnh khó lường, cho nên khiến hào quang khởi đây chiếu sáng kia. Đức Phật cũng vì hợp chúng sinh cho nên khen ngợi. "Chân pháp cúng dường": Trước tổng nêu năng quán sở quán, tiếp và quán tướng, nên nói chánh hiển chân pháp; do đó thiêu đốt thân gọi là chân pháp do nội quán. Sở quán là gì? Tức sinh thân đây. Do hoặc nhân cho nên hoặc quả hoặc này, nói đều dùng là hiển nhân quả đều thấm nhuần. "Lại, quán hoặc thân hoặc lửa...": Trong đó trước nêu Pháp không. Tiếp, "Ai thiêu..." biện minh Sinh không. "Pháp không": Đã tức là thật tướng, thật tướng không có năng sở thiêu, thân, và lửa năng sở đâu được có thiêu có năng sở ư! Tiếp, "Sinh không": Chẳng những thân... đều là thật tướng, mà tất cả chủ tể của thân v.v... đều không, cho nên gọi là "Ai". "Thiêu": Lửa năng thiêu. "Đốt": Thân bị đốt. Thân lửa đều là sự năng cúng, Phật pháp là ruộng sở cúng, chủ tể tức là người quán năng quán, thân lửa năng sở là cảnh quán vậy. Cảnh trí không hai năng sở đây vong, dùng bất nhị quán quán cảnh bất nhị, thành bất nhị hành hội bất nhị không. Khi tác quán như vậy khổ làm pháp giới. Người nghe thấy lợi ích cho nên nói thừa thừa. Nếu không vậy thì thành khổ hạnh vô ích.
Đức Phật có lời khuyên răn thật đáng trước tư duy, do đó nương Tựa nơi hiểm yếu không chiêu ngoại hạnh luận, phó hỏa không bị trong chúng cơ hiềm bởi do trong có lý quán ngoài hiểu tâm mong cầu. Cho nên Thắng Nhiệt dứt nghi cho Thiện Tài, Ni-càn-sinh giải nghiêm xí, đốc luận đạo hạnh kia mới có khắc ghi, tâm chánh hạnh chánh trí tà sự tà, hành không thể phế, trí không thể vong, kẻ hậu học không mất pháp lợi.
Có người hỏi: Luật chế thiêu thân được cỏ thơm, thiêu tay được điềm lành, trong đây tán thán thiêu việc kia như thế nào? Nay vì đáp: Đại tiểu khai chế giáo pháp không đồng, tiểu chế kết lỗi đại chế khiến thiêu. Cho nên trong Phạm Võng nói nếu không thiêu chẳng phải là xuất gia Bồ-tát; đâu riêng khiến tục mà không chế đạo. Cho nên biết thuận tiểu hành dễ không thiêu đâu khó, từ đại thành thật khó thiêu, mới không dễ. Thế gian dùng không trì làm đại thì đại tiểu đều nghiêng đổ. Tin cơ duyên cõi này đều mê đại tiểu, không biết trước tiểu sau đại y theo thứ lớp hạ nào! Trước đại sau tiểu tâm nào mà thọ! Trước tiểu sau đại khai tiểu thừa ngăn, không trước đại sau tiểu ngăn Bồ-tát khai không? Trong một giới hai chúng như thế nào? Trong một thân hai thể đồng khác. Đại thừa đối Tiểu, lấy lợi ích từ đâu! Tiểu trách Đại chiêu tổn hại sao sánh được! Cần cần (siêng năng) nêu biệt dụng làm chủng, đến sau, thừa sở thừa đều là diệu pháp, do y nhất thật lập nhân quả, thừa sở thừa kia để lợi vật. Chỉ tự đo lường đức mình, trải cảnh quán tâm cùng tâm tương ưng sẽ thuận khai chế. Nay Dược Vương đã chứng từ lâu đều vượt ngoài phương khai chế, trọng pháp quên lòng khởi nguyện thần thông, làm gương cho phàm phu kẻ dưới tư duy có thể biết. Kinh dùng Chiên đàn mà làm cây để đốt ư?
Đáp: Cõi này Đại ái Đạo nhập Niết-bàn sau còn dùng chiên đàn quả thiêu, huống chi Tịnh độ kia đâu đủ là khó! Nhưng tịnh uế đều trình bày chẳng phải thế hữu (thế gian có). Đều là sức lực của bậc thánh cho nên kinh nói: "bảy vạn hai ngàn năm...".
Hỏi: Thiêu thân chỉ trải qua một ngàn hai trăm năm, thiêu tay vì sao thời gian dài hơn?
Đáp: Trước là tự hành thân tận nhập diệt, nay vì hoằng pháp khiến vật hội tam. Cho nên nói khiến vô số... Đã nói vô số Thanh văn phát Bồ-đề tâm cho nên biết hỷ kiến đối sau khi Phật diệt độ không khiến các chúng đây trú nơi tiểu quả, cõi này cũng như vậy.
Kinh nói "thân kim sắc": Trước đã đắc phổ hiện tức tám tướng sắc thân, cho nên biết trong đây phải ở cực quả. "Năng sinh...": Như cha mẹ ắt dùng bốn thứ hộ hộ cho con, nay phát tâm do pháp làm sinh, đầu cuối tùy thuận làm dưỡng, khiến mãn cực quả làm thành, năng ứng pháp quả làm vinh. Tuy bốn thứ không đồng mà đều dùng pháp làm bản, lại bốn pháp đây tức tứ Tất-đàn. Thứ lớp đối cũng nên có thể biết, đây tức trước sau đều đối tứ Tất. Nhưng tức ba giáo trước đều được bốn lợi ích, nay đối Viên nói theo lệ trên có thể biết.
Hỏi: Đầu khai chương nói tán thán người năng trì vì sao hướng đến nói không bằng một câu kệ! Lại nói "pháp là thầy của Phật..." ư!
Đáp: Trước tán thán người có pháp, nay tán thán pháp tại người. Nói "đầu tán thán thể, tiếp tán thán dụng": chẳng phải thể của tông thể, chẳng phải dụng của tông dụng, thông chỉ một bộ làm thể, ba thứ thể tông dụng trong bộ cùng có như các dụng cứu khổ ban vui v.v...
"Thập bảo sơn": Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói. "Dẫn Kinh Hoa Nghiêm". Hoặc một hoặc hai:
Câu-xá nói: Trước là bảy kim (vàng) tạo thành Tô-mêlô bốn báu, vàng hoặc gồm các thứ cho nên nói một, hai. "Các kinh nói Quyền trí...": Quyền không tức Thật đến nổi khiến giáo pháp đều chẳng tự tại, các cơ không dung thông cho nên giáo chủ khác biệt vậy. "Các kinh nêu thật trí...": Đều là thưa ngoài quyền cho nên phá nghi không khắp, còn không sánh bằng ý kinh này thiết lập Quyền. Đã phá các nghi cho nên "tức Thật mà Quyền", huống chi kinh này vốn vì hiển Thật, có nghi đều đoạn, cho nên nói "tức Quyền mà Thật". Vì thế nói Quyền Thật chẳng riêng kinh này, nói tương tức xuất từ nơi đây, không thâu Tiểu cho nên sai khác. "Văn nói Học, Vô học...": Chỉ tam giáo Bồ-tát. Vì phát Bồ-đề tâm: Kinh này là cha pháp kia nên sinh trưởng pháp kia. Xưa cho rằng chẳng phải con đến đây mới biết. Các kinh khác chủ yếu nhân nơi công dụng: Chỉ chấp phát tâm rốt ráo không biệt không đồng tam giáo chủ yếu nhân công dụng, như biệt giáo địa tiền làm phương tiện.
"Như gió...": Sơ trụ đã nhập vị vô công dụng nên đủ chọn xe thể và đầy đủ độ v.v... Giải thích sở dĩ như gió (phong), đến nhập sơ trú vô công dụng đạo. Kinh nói "Năm trăm năm": Trong kinh Đại Tập nói có năm lần năm trăm, đầy đủ ở văn trước. Kinh nói "Nếu có người nữ...": Trong đây chỉ nói được nghe kinh này như lời dạy mà tu hành tức nhân tịnh độ không cần lại Chỉ Quán Kinh...
Hỏi: Làm sao tu hành?
Đáp: Đã nói như lời dạy mà tu hành, tức y kinh lập hạnh, đầy đủ như trong phẩm Phân Biệt Công Đức.
Thẳng quán cõi đây, bốn cõi đầy đủ cho nên thân Phật đây tức là tam thân, đại chúng đây tức là hết thảy chúng. Do lậu hoặc chưa đoạn cho nên An lạc hạnh là khí phần hạnh của đồng cư tịnh độ, cho nên không lìa đồng cư uế mà thấy đồng cư tịnh.
Hỏi: Đồng cư nhiều loại đâu hẳn là cực lạc ư?
Đáp: Vì giáo thuyết nhiều do vì vật cơ, đó là nhiếp sinh khiến chuyên chú, do duyên đời trước dày, căn cứ nhiều phần, hạ phần Đâu suất theo lệ kia không đồng chỉ tại cơ cảm.
-------------------------
Phẩm đây đầu tiên nêu đủ ba giải thích:
1) Văn nhân duyên.
2) "Xưa đắc...": căn cứ giáo.
3) "Phẩm này...": Bản tích.
Chỉ không có giải thích theo Quán tâm. Nhân duyên rất lược. Lại nghĩa lập: Âm nhạc là Thế giới, tự tùy là Vị nhân, dâng bát là Đối trị, đạo khí là Đệ nhất nghĩa. Quan Âm có hỏi nguyên do được tên, trong đây không có, đây từ tự hạnh, dưới từ lợi tha. Lại trong Thường Bất Khinh cũng có bản sự, tức danh dùng hiển bản sự, đầu từ trong giải cuối đến lợi tha, đồng ở trong một danh. Tuy tự tha không đồng mà chủng theo danh hiệu Quan Âm bên dưới... có tên gọi là Phổ Môn thì đây cũng nên như vậy, đồng đắc Phổ hiện sắc thân Tam-muội. "Nếu vậy phẩm Dược Vương bên dưới...": năm phẩm hết thảy đều như vậy. Dược Vương lại ban đầu hiến chú, Tịnh Đức lại chỉ thân Diệu Âm, vì vậy cho nên năm phẩm pháp môn nhất định không có hơn kém, chỉ tùy cơ tiện thừa thừa không đồng. Huống chi phẩm Phổ Môn ở giữa lý thông trên dưới dùng nhân đối pháp lý cũng cảm đều, riêng hiểu danh kia nghĩa cũng không lẫn lộn, không thể từ danh khác mà che đậy pháp môn kia. "Đương ở nơi thấp kém...": để khuyên thành cơ duyên, là nêu rõ ý Phổ Hiện. Nếu không dùng quỷ súc làm quỷ súc chỉ tâm địa mình thấp kém thì tự che lấp dòng diệu pháp. "Tướng đại nhân...": chia làm bốn:
1) Giải lược giải thích, là biện tướng bất tư nghì nên gọi là "đại".
2) "Khắp thể...": nương tướng sở hiện lần lượt so sánh.
3) "Tướng đây...": Đại tiểu đối đều.
4) "Vấn đáp...": giải thích nghi.
Một và hai có thể thấy. Thứ ba trong đối đều có hai: Mượn Tiểu tiêu biểu Đại, cho nên dùng tướng ứng tích, nhân phóng hào quang thuận nghĩa Sư trưởng, nhân quả chiêu nhau, chiêu ắt đến.
Nói "bản đệ tử": Chiếu không phải không có nhân duyên vì vốn từng liên quan, gọi xưa làm bản chưa hẳn là bản từ lâu. "Bạch hào...": tiếp nêu nhân đại thừa thực tướng trung đạo sở cảm, chiếu khiến hoằng kinh khai hiển, đây chính là nhân thù thắng quả thù thắng khiến hoằng giáo thù thắng, cho nên phóng quang. Trong giải thích nghi có hai lần vấn đáp: Vấn đáp thứ nhất: Nghi năng phóng quang.
Vấn đáp thứ hai nghi chúng sở chiếu. Đầu tiên nghi: Xét theo biển tướng bất tư nghì thông lập dùng hỏi dựa vào sự so sánh. Trong phần đáp nói "Các kinh khác nêu...": Chiêu cảm chỗ khác thuộc sự thích nghi, vả lại từ tha nói, cho nên phủ thêm phương tiện giáo nói có hơn, kém. Lại căn cứ ứng thân hiện tướng thích nghi phủ các kinh khác khiến hoằng thật giáo, cho nên lại từ tướng đại. Đại lại từ nhân mà được biểu hiện, cho nên nói phóng quang khiến hoằng pháp này, huống chi hiển bản đã còn không có cận tích thì đâu còn Tiểu ư? Vì sao gọi phương Đông nói phương Tây: Ý hỏi: Mười phương Bồtát lẽ nào đều vô duyên ư! Vì sao phóng quang chỉ triệu Đông phương Diệu Âm xong. Tiếp nói Tây phương Quan Thế Âm: Trong đáp nói theo biểu hiện, trong đó có bốn:
1) Biện minh năng biểu.
2) "Chưa phát tâm...": chánh nêu sở biểu.
3) "Một Bồ tát...": nêu ước lệ.
4) "Thánh không...": kết dụng ý tiêu biểu.
Phần một có ba:
1) Nêu hào quang là năng biểu.
2) Nêu ý hào quang sở chiếu.
3) "Đông là....": nêu ý năng tiêu biểu.
"Hai, Chưa phát tâm...": nêu trong sở biểu: Chỉ nêu đầu cuối tùy ý vận dụng nhiếp chiếu. Thứ ba: Nêu theo lệ: Diệu ý đã vậy, các nơi khác đến đều như vậy, chỉ dùng chiếu phương Đông tiêu biểu bắt đầu làm nghĩa tiện; nếu triệu phương Nam đến Bắc tứ duy căn cứ đây sẽ biết. Thánh chỉ không phiền văn nói nhiều, lý hợp mười phương đều đến, như Hoa Nghiêm, Đại Tập, các bộ Bát-nhã, hào quang và nơi hiệu triệu còn thông cả mười phương, cho nên đây chỉ dùng một phương làm tiêu biểu. Căn cứ dưới nói Quan Âm đầu giải thích "Nhĩ thời", cũng dùng Diệu Âm đối biện. Trong đây đã dự định dùng nói phương Tây đối hỏi, cho nên có thể dự dùng phương Tây đối nêu rõ. Nói "Muốn nói việc Bồ-tát ở phương Tây, thì trước hết là triệu Bồ-tát ở phương Đông...": trình bày do phước đã gặp được nhiều đức Phật cũng là do tuệ, chỉ là văn lược. Chánh trình bày trong phước tuệ kinh nói thảy đều là nói "thậm thâm", cho nên là Viên tuệ, Tam-muội thuộc định đối tuệ gọi là phước, còn khác Tam giáo lẽ nào đồng thế gian có?
Lại nữa mười sáu thứ Tam-muội đều là tên khác của Pháp Hoa Tam-muội, tùy nghĩa mà nói. Nay xứng tướng Pháp Hoa Tam-muội, "Phật răn dạy" đến "mà theo khuôn phép đây": nghiêm kính mời tiên đến. Diệu Âm địa vị cao đâu có thể gắng đợi ư! Đến đâu thấy uế đâu sinh tưởng thấp kém, chỉ Phật mượn việc răn dạy Diệu Âm mà làm quy cũ. Cho quyến thuộc của Bồ-tát mang theo. "Quy cũ" là qui mô, khuôn phép. "Xét Phật... chư Phật đạo đồng...": Trước, chánh trình bày đồng; tiếp, kết đồng. Đầu, văn tự có ba:
1) Nói căn cứ tòa làm răn dạy: Dựa vào không quên tướng, thân là hữu tướng lý là diệu không. Nhất trần thân đều cùng lý đồng huống chi chất thân một trượng sáu mà sinh tưởng là thấp kém ư?
2) "Phàm sư...": Phật và đệ tử thân đều thấp kém: Đều ẩn tịch nhẫn mà chịu nhận sự vụng về. Phàm y báo, nên trụ vô duyên an nơi cõi uế. "Đây Phật...": kết đồng: Hết thảy ứng thân hóa nghi thị hiện nơi tích thuyết pháp đều đủ ba thứ này răn dạy chúng mà làm phép tắc hoằng kinh. Cho nên Đức Phật đây hoằng kinh cũng dạy ba ý dùng theo lệ nơi kia. Hoa nghi không ngoài Phật thân hóa cảnh quốc độ. Thọ ý chỉ đối ba lực: Bồ-tát không thể không suy tìm công hóa chủ, Như Lai trước răn dạy khuyên khiến Bồ-tát tự vận dụng, Bồ-tát suy tìm qua kia thật khó, huống chi qua lại thì cần phải lợi tha. Cho nên biết qua lại đều nhờ sức của Như Lai. Nhưng lại Như Lai gia bị nơi đáng gia bị, Bồ-tát có phần chỉ vì chưa đến tột cùng cho nên dùng tột cùng ba thêm nơi phân làm ba, khiến dùng áo, tòa, nhà làm tông yếu hoằng kinh. Cho nên biết đều là lực Như Lai khởi thần thông, các thứ trang nghiêm mới năng lợi vật. Vậy thì Như Lai dùng trung đạo, không nên năng dùng tâm từ bi gia hộ cho các Bồ-tát đầy đủ trang nghiêm cho ăn tùy cơ lợi ích.
3) Nói "trang nghiêm": Vạn hạnh trong nhân, hội đây, cõi kia. Nếu địa vị Văn-thù thấp, thì lời nói của Diệu Âm khi gặp đức Phật kia nói: "đến thấy Văn-thù", lẽ nào có thể xa đến cầu thấy vị kém hơn ư? Văn-thù địa vị cao thì thấy hoa lẽ ra phải biết, tại sao còn hỏi Phật do nhân duyên gì...? Trong đáp có hai nghĩa: Văn-thù địa vị cao hoặc đồng là Bổ xứ, trong một vị phân đầu giữa cuối, hoặc đồng là cổ Phật thì không cao thấp, đồng vị ở đầu chưa dứt không biết. Thiêm là nhục vậy. Đâu phải một việc không biết mà thành khuất nhục ư! Lại đại chúng không dám hỏi Văn-thù tuy cao vì muốn phát khởi nên thị hiện làm không biết. "Thượng phẩm nói sơ đắc...": Trên phẩm Dược Vương nói: Quá khứ tên là Nhất Thiết Chúng Sinh Hỷ Kiến Bồ-tát ở trong Phật pháp của Đức Phật Nguyệt Tịnh Minh đắc Hiện nhất thiết sắc thân Tam-muội, sau lại sinh ở nước kia ở nhà vua Tịnh Đức bỗng nhiên hóa sinh. Bạch vua cha rằng: Con trước đã đắc Giải nhất thiết ngữ ngôn Đà-la-ni. Đã nói chuyển thân đắc nhất thiết ngữ ngôn Đà-la-ni tức giống như chuyển thân mới được. Nếu nói: Còn trước đã được tức giống như chỉ sắc thân Tam-muội sở đắc trước, Tammuội này cũng gọi là ngữ ngôn Đà-la-ni, cho nên nói còn là sắc pháp. Nói còn là tiêu biểu cùng trước đồng, cho nên ngữ ngôn đây cùng sắc thân chỉ là khác thân khẩu, đâu có thể hiện thân không thể thuyết pháp được ư! Chỉ từ sự biệt, lý kia ắt đồng, cho nên làm tên khác hiểu văn rất tiện. Đây thì Viên môn Tam-muội Đà-la-ni ắt là thể đồng danh khác. Tam-muội từ Định, Đà-la-ni từ Tuệ, tức Định Tuệ bất tư nghì cho nên được xen lẫn dụng. Căn cứ trong giải thích dưới tam luân đầy đủ. "Lại thiệt (lưỡi)...": phán định Tam-muội và Đà-la-ni chỉ là chân vị lục căn mà thôi!
-------------------------
Đầu văn không nói nhân duyên... đây thông biệt giải, đầy đủ ba cách giải thích, chỉ thiếu Quán tâm. Trong mười cặp Trí đoạn... nói, chỉ thứ lớp nêu giải thích không rảnh liệt kê trước. Nhân pháp đều nói có nhiều loại. Đều chú thích "vân vân" là đều chỉ bày nhất thật và Thất phương tiện và dùng nhân pháp trước sau vấn đáp. Trước vấn, như văn. Sau vấn đáp. Vì sao mà vì chúng sinh thuyết pháp...? Phước năng chuyển thọ La-hán còn quay về lấy phước làm thọ huống chi Phổ môn thị hiện dùng bất khả tư nghì phước chuyển thành chủng trí, tức phước trí bất nhị gọi là chuyển. Mới theo lệ chín cặp; như mưa tuôn châu báu, sở chuyển nếu thành phước bất tư nghì thì không đồng địa vị dưới. "Châu như y": Châu có đủ nhiều đức, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển năm nói.
Nghĩa "Đào giếng..." là: Như kinh Hoa Nghiêm nói: Như có thế giới khi mới thành chúng sinh cần phải cung cấp nuôi dưỡng đầy đủ, Bồ-tát lúc bấy giờ làm thợ giỏi, trọn không tạo tác dụng cụ sát sinh. Sơ lược như trong Thích Tiêm. Đầu giải thích "Nhĩ thời", chú giải bốn nghĩa đó là Tất-đàn. Nếu hiểu ý văn thì hiểu tứ Tất-đàn.
Nói "Bồ-tát phương Đông...": Vì sao trước nói "triệu" nay nói "thuyết"?
Đáp: Văn trước đầu nói triệu, cần phải nói triệu, nay là nói xong nên nói thuyết. Cho nên cuối phẩm nói: "Khi thuyết phẩm này". Hai nơi đều có thời bắt đầu nghe danh tức Thế giới, đều có tùy ứng gọi là thuyết tức Vị nhân. Đều có đáp vấn đắc Tam-muội tức trừ nghi, đều có nghe phẩm được lợi ích không đồng tức đắc đạo. Kinh nói "trịch áo bày vai hữu": Cõi này tạ lỗi mà bày vai thịt cõi kia cung kính mà trịch áo, bởi hai cõi phong tục không đồng.
Trước giải thích tên "Vô Tận Ý", trong đó đầu tiên giải thích "Vô tận": Trước dẫn ba kinh, tiếp tổng kết thành tam quán. Đầu dẫn Đại Phẩm không, Đại Tập giả, Tịnh Danh trung đạo. Đại Phẩm nêu Không tức Vô tận. Đại Tập nói Tám mươi Vô tận môn, đã nhiều môn không đồng tức là giả. Tịnh Danh luận nghĩa Vô tận: Không có tận và bất tận, song phi cho nên Trung. Tiếp giải thích ý trung: Trước, nêu tam quán. Tiếp, kết. Đầu tiên trong Không quán, tuy đều dẫn cảnh trí mà chánh ở hòa hợp đều không có tự tánh, trí tùy cảnh không, ý vô tận gia gọi là ý không. Tiếp, "Lại, ý...": là căn cứ giả: Thế xuất thế là cảnh, trí tùy nơi cảnh, cảnh nhiều trí nhiều. Tiếp, căn cứ tâm trung, do năng quán tâm tánh trung nên sở quán cũng trung. Đây căn cứ trí chiếu cảnh mà nói. "Đây căn cứ...": là kết, hai nơi kết văn đều gọi là "quán trí", đều căn cứ năng lập vấn đáp, đều nói tuệ trang nghiêm là hỏi đáp đã là hai trang nghiêm xong, nay giải thích ý kia. Nói vấn đáp gọi là trang nghiêm, trung tuệ trang nghiêm của hai thứ Định Tuệ trang nghiêm huống chi tên hai Bồ-tát và tên Phật (danh) đều từ tuệ lập. Nhiều khổ khổ một người... bốn câu, trong mỗi một câu có khổ đều cứu giúp đều có thể trì danh. Do có năm đơn mười cặp phổ khắp cho nên niệm niệm đều lợi ích. Viên Bồtát đều như vậy chỉ tùy duyên thôi!
Kinh nói "Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời...": Có người dùng ba chữ "Quán Thế Âm" soạn để đầu câu dưới, Hưng Hoàng soạn để cuối câu trên, ở đầu câu dưới lại đủ ba chữ này, cả hai đều không đúng. Dựa vào đầu câu dưới, cũng không cần đủ.
Có người hỏi: Vì sao đồng niệm mà có người thoát có người không thoát ư?
Đáp: Đồng niệm là hiển cơ được thoát có xa xôi, có hiển rõ do quá khứ hiện tại duyên sai biệt, thọ lợi ích lại có đẳng cấp. Nếu cơ kia cảm dày thì định nghiệp cũng có thể chuyển, nếu quá khứ hiện tại duyên cạn thì yếu khổ cũng không nhỏ. Cũng có người nói: "Tam tai" có đại tiểu, đại là hỏa, thủy, phong, tiểu tức mạng, thân, tài. Đại thứ lớp có hai:
1) Khi từ tiểu đến đại nghĩa có thể như vậy. Lại từ nhanh đến chậm đây chưa hẳn như vậy.
2) Hỏa không hết đều nhanh, gió không thể đều chậm. Tiểu cũng có hai: 1) Từ nặng đến nhẹ.
2) Từ khó đến dễ. Đây hoặc ứng như vậy, sự lại đầy đủ như Tạ phu v.v... Quan âm ứng nghiệm ký. Nói "trong biệt đáp có ba nghiệp cơ": bảy nạn là khẩu cơ để xưng danh, ba độc là ý cơ khiến thường niệm, hai thứ cầu là thân cơ thường lễ bái. "Hỏa nạn": Có người dẫn kinh Nhân Vương nói bảy hỏa không đồng: l) Quỉ hỏa.
2) Long hỏa.
3) Tích lịch hỏa. 4) Sơn thần hỏa.
5) Nhân hỏa.
6) Thọ hỏa.
7) Tặc hỏa. Nhân hỏa: Do khi ác nghiệp phát thân tự bốc lửa. Thọ hỏa: Như hạn hán lâu ngày thì cây tự phát lửa. Cho đến giải thích nước thì không có bảy tướng, huống lại bảy tướng không có sở biểu đối cho nên không dụng. Nay văn đều có ba: Hỏa danh tuy đồng mà cạn sâu có khác. Nếu không như vậy thì làm sao hiển Quan Âm lực đại và công sâu của người niệm.
"Nhập Đại thừa...": dẫn Luận so sánh lượng. "Sáu mươi hai ức" là có thuyết nói: Bồ-tát không có khác lạ, muốn khiến thiên trọng Quan Âm. Có chỗ nói: Phật pháp hai môn, nghĩa là đẳng, bất đẳng, như lễ chư Phật dạy nói công sai khác. Bình đẳng: Được phước không khác lạ. Nay hỏi: Nếu bình đẳng thì Phật đã không thiên vị không có không bình đẳng, vì sao đây không bình đẳng? Do Phật không thể có đẳng cấp, cho nên "đẳng, không đẳng" chỉ là đới duyên, tuy đới duyên cũng chưa bày làm vấn nạn, cho nên cần nương Thiên viên đây để giải thích. Chẳng những Bồ-tát các giáo chẳng phải một mà chính một giáo cũng thiết lập Tích không đồng. Đây là căn tứ cảnh mà phê phán. Nếu tâm cảnh tương đối bốn câu phân biệt, nay đây chính là biên của câu cả hai đều có. Trì sáu mươi hai ức thì tâm cảnh đều kém, thọ trì Quan Âm thì tâm cảnh đều hơn, đây tức định giáo đương giáo mà quán. Nếu câu cả hai xen nhau, tức đều là cảnh tùy tâm chuyển.
Hỏi: Vì sao trong Pháp Hoa luận lấy sự trì Sáu mươi hai ức hằng sa danh Phật làm so sánh?
Đáp: Có người nói: Luận lầm. Nay nói không như vậy. Nay trước nêu luận văn, tiếp lược nêu giải thích. Luận nói: Thọ trì danh hiệu Quan Âm và Sáu mươi hai ức hằng hà sa danh hiệu chư Phật, phước bằng nhau: Có hai nghĩa:
1) Tín lực.
2) Tất cánh tri. Tín lực lại có hai:
a) Cầu ta như Quan Âm là rốt ráo tin.
b) Sinh tâm cung kính như công đức kia ta cũng đắc. Tất cánh tri: Quyết định tri pháp giới. Pháp giới gọi là pháp tánh. Sơ địa Bồ-tát năng chứng nhập hết thảy thân chư Phật bình đẳng. Thân bình đẳng: Nghĩa là chân như pháp thân. Vì vậy cho nên thọ trì Quan Thế Âm cùng Sáu mươi hai ức hằng sa chư Phật, công đức không sai biệt. Nay cho rằng dùng đây nghiệm biết, cần y Viên giải thích. Vì sao.
Vì trong hai nghĩa Tín lực căn cứ sự, tất cánh căn cứ lý, lý sự trợ giúp nhau mới thành sở niệm. Như trong Tín lực hai thứ đã nói cầu thân ta như Quan Âm tức chỉ hóa thân. Lại công đức Quan Âm cực ta cũng đắc, chính chỉ báo thân. Nguyện đều báo ứng mới thành niệm; chỉ niệm quả đức đâu cần biết lý. Cho nên tiếp nghĩa nói "tri pháp giới...". Tiếp dẫn chứng vị tức Sơ địa. Lại dẫn phần chứng khiến người biết, cho nên biết nếu niệm Quan Âm ba thân phải từ chối lấy niệm Phật làm so sánh. Nếu dùng niệm pháp thân mà luận thì dù dẫn mười phương chư Phật thì công kia cũng đồng, đâu chỉ sáu mươi hai ư! Sở dĩ luận văn mặc dù giống như nêu kinh mà chính là tăng câu giải thích nghĩa, cũng như phương tiện sơ thêm khó giải khó biết, muốn nói Đại mới tăng ba câu mà vì trình bày giải thích.
"Ba mươi ba thân mười chín phen thuyết pháp...": Nên đủ chỉ ly hợp vì kết nói thiếu nên chỉ có mười chín. Như tám bộ bốn chúng chỉ kết một phen nói. Kết biệt khai tổng: Trước ba mươi ba thân là biệt, cho nên kết nói: "thành tựu công đức như vậy". Tức dùng câu này lại làm khai đầu câu tổng bên dưới, cho nên dưới tổng nói "các loại hình v.v...".
Hỏi: Kinh này hội tam vì sao nói nên dùng tam thừa... ư?
Đáp: Hình thì khác, pháp thì một, cho nên phẩm Diệu Âm nói: Các thứ biến hóa nói là kinh điển, người không thấy cho rằng nói tam thừa, đó là lầm lẫn.
Hỏi: Vì sao trong Diệu Âm tứ thừa ở sau, Quan Âm tam thừa ở đầu, lại không có Bồ-tát ư?
Đáp: Tóm lại mà nói chẳng phải không có Bồ tát, cần phải biệt hiện chỉ là văn lược. Lại ba mươi ba thân tùy cảm một tiền ứng cũng đâu có trước sau, chỉ hai văn lẫn hiển, "Biệt văn rộng ý hẹp...": Tách làm nhiều câu cho nên gọi là văn rộng, ý chỉ hiện văn nên nói ý hẹp. Tổng đáp văn hẹp chỉ có mười hai chữ. Nói ý rộng: Đã nói chủng chủng chỗ nào lại không bao quát. Nghe phẩm Công Đức nói Trì địa, tức là kinh Bảo Vân nói: Bồ-tát có mười pháp gọi là Trì Địa Tam-muội như thế gian địa:
1) Quảng đại.
2) Chúng sinh y.
3) Không tốt xấu.
4) Thọ mưa lớn.
5) Sinh cây cỏ.
6) Chủng tử sở y. 7) Sinh các báu.
8) Sinh các dược.
9) Gió bất động.
10) Sư tử hống cũng không kinh sợ.
Bồ-tát cũng như vậy, trải qua mỗi mỗi đều hợp. Nay nói dùng tám giáo phân phán mới ứng kinh này. Nghe phẩm Công Đức...: Nên đối các kinh và dùng bộ này biện minh kia được lợi ích cộng biệt không đồng.
Do phán giáo tướng kiêm Đới... sai biệt. Giáo nếu chỉ Tiểu hiển lộ cuối cùng không kết được lợi ích Đại, mật được lợi ích đại, giáo không thể truyền, giáo tuy không truyền cần phải biện rõ ý chỉ kia. Nếu như dòng Phương-đẳng, Bát-nhã do bộ chung cho nên lợi ích nghe cũng chung thì đủ hiển mật và dùng bất định. Xen nhau biết gọi là "bất định", xen nhau mà không biết nhau gọi là "bí mật"; vậy thì trong bộ hoặc phẩm giống như Đại, lợi ích có Đại Tiểu, hoặc phẩm giống như Tiểu lợi ích cũng có Đại tiểu, hoặc gồm Đại tiểu lợi ích cũng có Đại tiểu. Đều do hướng đến ba nghĩa mà biểu, không thể chỉ đủ phẩm tướng các kinh nên cần tư duy. Nay kinh chỉ Đại, trong Đại chỉ Viên, không mật thiên tiểu, cho nên lợi ích nghe phẩm trước sau không thiên vị. Tuy ở trong viên cũng có phát tâm bất thoái và vô sinh... không cùng thiên tiểu chung. Căn cứ bộ phán xét lợi ích bởi do nơi đây. Cho nên, Phẩm Trang Nghiêm Vương tuy nói "Pháp nhãn", danh đồng mà thể khác, nhất định chẳng phải sơ quả, cần phải phê phán làm Lục căn thanh tịnh Pháp nhãn vị, tức Thất tín trở lên. Nếu nghe Pháp Hoa khiến đắc sơ quả thì một bộ Pháp Hoa văn nghĩa đều bỏ, "Đầu, một là ngang giải thích...": Kết trước ba lớp giải thích Vô đẳng đẳng để thành đại xa. Phật giới nhất niệm đối với lý gọi là "ngang", Phật tâm đối với lý hai nghĩa quân bình cho nên gọi là "ngang".
Tiếp, căn cứ sơ tâm duyên Tất cánh lý, đầu sau vọng nhau làm dọc. Ý thứ ba: Tâm cùng lý ngầm phù hợp một thể đều không thể nói, tại sao luận ngang dọc? Đầu tiên giải thích chỉ Phật tâm tức không. Tiếp, giải thích "nhất thiết Giả". Nêu hai trước đều không thể đắc Trung. Văn sau kệ tụng Thập Công không dịch. Cận đại (đời gần đây) đều nói trong bản Phạm văn có, đây cũng chưa so với ý sâu của Thập Công. Trong Tục Tăng Truyện nói kệ là Xà-na-quật-đa dịch, nay theo bản xưa cho nên không giải thích, lại chấp bản nhân, đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển tám nói.
-------------------------
"Tổng trì...": hai phen nói bốn thứ kia đều là tứ Tấtđàn.
1) Căn cứ dịch danh.
2) "Các Sư...": căn cứ giải thích nghĩa.
3) "Đời ác...": tổng nắm hai lớp, để nêu ý đương lai.
Đầu lại có hai:
a) Chánh căn cứ tứ Tất.
b) Đối các kinh khai giá để nêu tứ tất.
Đầu văn: Thiện ác sai biệt tức Thế giới. Tiếp, "Một phen..." đủ hai Tất, chú giải hai, ba ý kia: Năng trì thiện biên tức Vị nhân, năng ngăn ác biên tức Đối trị. Trung thiện tức Đệ nhất nghĩa, cho nên chỉ hai chữ "giá, trì" mà đầy đủ tứ Tất. Sinh công nói: "Gần tri thức thọ trì tâm mỏng yếu, cho nên buộc phải dùng chú thuật". "Chú giải...": Ngầm hiển sự giúp đỡ nên nói Đà-la-ni. Xem thấy Ngài Sinh Công... giải thích bỏ xa nghĩa của chú. Chú vốn vì người hoằng kinh hộ nạn, đâu chỉ buộc ở chú thuật hoàn toàn lạm xen nghĩa giả tục. Như Dược Vương dâng cúng sáu mươi hai ức pháp chư Phật thuyết, Dũng Thuyết hiến cúng hằng sa pháp chư Phật thuyết, huống chi còn hộ quốc, Tứ vương, La-sát, bảy nữ nhân đều là hộ pháp thỉnh Phật chấp thuận, sao gọi là chú thuật u mê ư? Nhưng "chú" là nghĩa vốn không hợp dịch. Như phẩm Khuyến Phát nói: Bồ-tát được nghe, phải biết sức thần thông của ngài Phổ Hiền đâu đồng với chú thuật ư! Nếu hoàn toàn không thể dịch, thì Trúc Pháp Hộ vì sao dịch? Nếu kia không hiểu không dịch ý, thì dời đổi phẩm có gì nghi ngờ?
"Đại minh... ba": Thông luận chỉ là Bát-nhã, Bát-nhã tổng nhiếp nên gọi là chú, tổng dụng tổng trì tổng phá tổng an đều được gọi là "chú". Chú đối với ba giáo tư duy có thể thấy; như thông biệt này lại gọi là Thông, nay Biệt ở kinh này hộ pháp. Các kinh khác tùy sự cầu đảo trừ tai ương, tăng ích lợi, nhiếp triệu không đồng; văn kia cũng đều riêng có pháp quán, do đó tân dịch đều gọi là "chân ngôn" và dùng chữ "minh" tức là: Người xưa thấy bí mật không dịch, ví như cõi này các pháp cấm chú v.v... tiện dùng tên "chú" theo lối xưa dịch. Nay nói "đều là bí mật chân ngôn chủng tử khó nghĩ bàn của Như Lai". Chú giải "vân vân": Khiến nói ý kia, như trước lược biết.
Từ "Các sư...": nói nghĩa của chú. Văn đầu: Vì tên vua khác lạ nên dứt ác sinh thiện. Văn thứ hai: Liền dùng tương ưng cho là Sinh thiện. Tuy có nói trị tội, chính khiến thuận giáo. Văn thứ ba là mật trị tức Đối trị. Văn thứ tư có ba:
1) Nêu ý chú.
2) Dẫn sự giải thích thành.
3) "Chú cũng như vậy...": nêu lập lại kết trước, đầy đủ bốn pháp thành Đệ nhất nghĩa. Do mật đầy đủ bốn làm Xứng lý. Đầu tiên bệnh lành là Thế giới, tội trừ là Đối trị, sinh thiện là Vị nhân, đạo hợp là Đệ nhất nghĩa. "Ba đời ác...": ý đương lai có thể biết. Cho nên biết đây giải thích và Sinh Công giải thích hoàn toàn khác. Chú gia nói, nghĩa giúp đỡ tức chưa tổn đại nghi thức, quyết không bằng nghĩa hộ trì.
------------------------
"Nhân duyên rút ra từ các kinh" đây chưa kiểm chứng. Văn đây cũng có tứ Tất-đàn. Đầu tiên là nghĩa Thế giới. "Lại, Trang Nghiêm...": là Vị nhân. "Vua đây...": là trị các căn ác tức Đối trị. "Sinh tuy...": tức Đệ nhất nghĩa. Đầu: Quỹ âm, "quỹ" là mặt trời mặt trăng vận hạnh. "Khắc" là lậu khắc là tiếng nôn ọe. Là tướng trạng không tiến được. Ý nói một hạt cơm không tiến đường dài bị ngăn ngại nơi vạn dặm. Mười ngày là tuần chỉ chín bữa ăn, lại cản trở chí cao. Bạch hào chiếu phương Đông chiếu Diệu Âm.
1) Muốn chỉ bày sự ích lợi hoằng kinh để đệ tử gắng sức thọ pháp.
2) Chỉ bày kết hội nhập chẳng sai.
Cho nên kinh nói Tịnh Đức phu nhân, nay Phật trước phóng quang chiếu tướng Bồ-tát trang nghiêm là Diệu Âm. Thần chú hộ kinh lại từ sau nói, căn cứ trước cũng nên nói khổ hạnh. Thần chú hộ pháp hoằng kinh hiện thân thuyết pháp cả hai theo qui tắc Thầy trò, do đó nhờ chiếu đến phương Đông biết có công huân qua lại.
Muốn đến, nên trước nói "muốn thấy Dược
Vương...": Hoa Đức lại được Diệu Âm dẫn dắt và vì cõi này làm chúng phát khởi. Dược Vương chính làm chủ tổng trì chung thành tựu giáo hóa của hai con, gồm làm kết hợp xưa nay khiến thời hội đều biết. Hiểu rõ nhân xưa không tin lầm hóa tích công sâu, biết quyền mưu không thể so sánh, ngưỡng vọng chủng xa khó mất. Nói duyên trước Tứ Thánh là duyên trước không đồng đắc Thánh trở về trước vì tiện phân năng sở mới chính cải tà. Lại lợi vật nhiều nguyên do, tà chánh khác lối đi, sở hóa đã thuần thục, năng hóa bỏ tà. Nay từ thị hiện tích và tùy sau nói cho nên khi thiết lập giáo hóa, một phàm ba Thánh. Nếu căn cứ lời Phật dạy thì vì muốn dẫn dắt Diệu Trang Nghiêm Vương và tất cả chúng sinh cho nên nói kinh Pháp Hoa này. Tám vạn bốn ngàn người trong cung đều kham trọ trì. Hai người con vua cùng bốn vạn hai ngàn người đều đến chỗ Phật, tức vua và năng hóa hết thảy đều quyền từ Bản mà nói cả bốn vị đều là đại Thánh, như Thắng Man thọ hóa có xứng qui tâm, nguyên vì người trong nước trước mê sau ngộ, phép tắc hóa đạo lý số như vậy. Nay từ Tích nói thọ hóa đắc ký; bốn Thánh danh sinh, sinh tuy chưa thâu hoạch, tuy thiếu sinh mà biết hóa thời chẳng còn lâu đến. Vì vậy cho nên dự biết rõ điềm lành nhập đạo ví như Không sinh... vì Không cho nên đức hiệu vô tránh dự báo trước. Các kinh khác chỉ đây là mười Ba-la-mật, chưa từng có kinh thâu sáu độ bốn hoằng, chỉ vì làm mười độ đó thôi. Cũng không là mục đích chính đối. "Trong Đạo phẩm tiết tiết có Tam-muội", tức là: Trong bảy khoa chỉ Niệm xứ thuộc Tuệ, Chánh cần thuộc Tiến, còn lại năm khoa trong đều có định danh. Lại riêng nêu danh là nên biết tùy dụng lập danh, lý kia không khác. "Trước thưa mẹ rằng": Cha tà mẹ chánh, cho nên trước thưa mẹ, cùng thiết lập phương pháp hóa độ. Nếu căn cứ Bản kia thì mẹ con vốn biết. Nay căn cứ hóa nghi, cơ thuần thục ứng phát, như có va chạm nhau vật khí mới thành, vì vậy cho nên nói "bạch (thưa)". Nếu dựa vào tình thế gian thì lòng từ của mẹ, nên trước thưa mẹ, vốn từ lợi tha lại ở trước vua cha đã tin trong cung lại thuần thục; vua cha một người đâu đủ để hóa chỉ duyên nội cung chưa thuần thục do đó vua cũng đợi thời. Năng hóa hai lớp từ xa soi xét căn cơ lý, suy tìm công hóa chủ kết hợp xưa nay. Kinh nói ví như rùa chột mắt, căn cứ sự chỉ là dụ như khó gặp thôi! Nếu nói theo nghĩa sở thừa thì phàm mắt rùa cá cả hai đều hướng nhìn. Đã nói chột mắt thì thấy chẳng chánh, tại biển sinh tử mà lại tà kiến, đâu có thể gặp Phật pháp, ví như lỗ hổng Thật đế trong bộng cây nổi. "Thiện tri thức": Đầy đủ như trong Chỉ Quán quyển bốn nói kinh Hoa Nghiêm cũng nói: Như cha mẹ đạo sư thầy thuốc. Nghe phẩm lợi ích nói "pháp nhãn tịnh": Có người nói: Sơ quả, đâu phải vua phu nhân và cùng tám vạn, đều trì kinh này đều sẽ thành Phật, mà người nghe phẩm đắc tiểu quả ư! Danh đồng nghĩa khác phải khéo châm chước, như trước đã nói. Chú thích cũng nói: Sở kiến thanh tịnh, không nói địa vị Tiểu thừa sơ quả đó vậy.
-----------------------
Tam Tất-đàn: Đầu tiên nói nghĩa Thế giới. "Bi Hoa...": là Vị nhân. "Ta hành...": là Đối trị. Hoặc từ hơn các người khác đặt tên chính là "Hiền", đối tất cả gọi là "Phổ Hiền". Nói "Tức tam tất...": giải thích: Đã do dịch danh phát nguyện nghĩa sẽ làm tam Tất cho nên nói lại là và vì lại là hạnh nguyện, cũng nhận lấy tam Tất đều là hạnh nguyện, tức là dùng tam Tất để phán xét hạnh nguyện, chưa lập Đệ nhất nghĩa. Do giải thích "Hiền" nên nhượng Thánh mới gọi là Đệ nhất nghĩa. Cho nên Bi Hoa nói nguyện gồm cả hạnh. Ta hành mà gồm cả nguyện. "Do trước đến nay...": là tiếp căn giáo, chia làm bốn:
1) Người xưa giải thích phán xét thuộc Tam tạng. Do trước đến nay theo, nghĩa là từ trước đến nay đều giải thích như đây. Do Phổ Hiền danh thông nghĩa biệt, cũng nên nói thông nơi thông biệt, văn không có là lược. Cho nên biết Tam giáo giải thích Phổ Hiền đều lầm.
2) Tiếp, "Nay nêu...": tức theo Viên giải thích.
3) "Nếu Thập tín...": lại đối vị trước so sánh phá Thông Biệt.
4) "Nay luận...": lập lại giải thích.
Hỏi: kinh Hoa Nghiêm nói: Phổ Hiền Bồ-tát dựa vào Như Như, không dựa vào cõi Phật. Nay vì sao nói từ phương Đông đến?
Đáp: Đây căn cứ ứng tích mà theo, kia nêu sở chứng tự thể. Đã nói Đẳng giác còn có một phần báo độ thân tồn tại, Kinh từ cực lý Sơ trụ tức chứng một phần Như như Chánh là đương Viên giáo, do đó phục thông, đoạn thiên phục đoạn đến tột cùng mới gọi là Phổ Hiền. Phục là thông tại sơ, cho nên gọi là "mới phục". Hiền ấy không phải đều khắp nên không phải tột đỉnh, không phải khắp. "Cho nên lân cận sơ..." căn cứ vị Sơ trụ, bắt đầu Thập trụ cho nên không phải tột đỉnh cuối cùng. Thập địa chỉ đoạn tận bốn mươi phẩm, không phải đoạn phục đến tột cùng, biết chẳng phải nghĩa Phổ Hiền. Bốn căn cứ vị chánh là phán xét.
Tiếp, dẫn Thích luận để chứng minh nghĩa Viên cực; luận dẫn văn Đại kinh, đầy đủ tứ Tất-đàn. "Vân vân" là: Không dự định liệt kê; tức bốn văn kia. "Tùy đi...": đi động chỉ là tiêu biểu đi lại. "Tùy": Chẳng phải trước có tích chứa mà sau mưa, chẳng phải trước cất giữ mà sau tâu trình cho nên dùng long vũ (rồng phun nước) dụ. Đây là tâm lực pháp lực, chúng sinh lực, ứng hóa lực dẫn đến bất tư nghì lực. Lược dùng hai lực: Oai đức thần thông trước đã nêu đủ tự tại... bốn thứ để tiêu biểu bốn đức, nay lược không có tự tại và dùng nghĩa danh tiếng vang khắp; chỉ hai mà gồm hai. Kinh văn đã nói "cùng vô số...": đều hiện hai lực. Phải biết sở tùy đều là Pháp thân, chủ bạn đều đủ bốn đức cho nên nói là "đều". Văn đây vì rằng tại cuối Lưu thông cho nến nói "nguyện nghe", tức cả thỉnh Chánh tông và Lưu thông. Riêng nêu bốn câu, trong văn có hai giải thích: Chánh tông, Lưu thông.
Đầu, lại có hai: Tức Bản tích. Tích lại có hai: l) Căn cứ khai Quyền hiển Thật.
2) Căn cứ Khai Thị Ngộ Nhập.
Câu đầu tiên, văn nói "pháp thân". Câu hai, ba nói "Bát-nhã". Câu thứ tư nói "giải thoát". Hai đức trang nghiêm Pháp thân, vì vậy cho nên ba câu sau căn cứ câu đầu. Trong câu đầu, từ chữ "Viễn ác" trở xuống tám chữ tứ Tất-đàn. Tiếp, "Căn cứ khai...": trong kinh điển bốn câu trở về hỗ tương là, do từ khai... thứ lớp. "Chỉ có ba, chỉ có bốn": Bốn chỉ là bốn An lạc hạnh, ba chỉ là ba đức và tòa, áo, nhà ba thứ. Văn trước giải thích áo... ba thứ, đều thông hai câu đều có năng sở, nay từ một bên thì dùng Không tòa làm Bát-nhã, sở phú làm Pháp thân, năng phú làm Giải thoát. Trong đây chánh định hợp ở pháp thân đức, trước đối trong khai hiển tức hợp chánh định, nhập trong Bát-nhã, dùng một câu đây mà hai câu được danh. "Có người lạm dụng giải thích": Giả như, có người không chịu giải thích đây là vì không chịu tự hành hóa tha, vì không chịu khai thị ngộ nhập, vì không chịu nhà, áo, tòa ba thứ, vì không chịu (hứa) phương pháp hoằng kinh. Nếu nói không phải, tức không chấp nhận chỉ vì không có văn. Nếu cho rằng kinh không có tức là không chịu, bèn cần nói lại. Nếu không như vậy thì làm sao nắm rõ Chánh tông kinh này, đến đây là lập lại thuyết đó chăng?
Đầu kinh tồn tại bốn câu Khai v.v... mà làm bốn giải thích, nay đến cuối kinh này lại chỉ bày Khai... tức trở lại giải thích, cho nên biết đầu cuối đều là thể tông dụng của kinh này. Vậy thì Tựa Chánh và Lưu thông đều là diệu pháp. Trong giáo nội pháp nói ba phen tức đọc, tụng, tư duy hai mươi mốt ngày. Có người đến đây cũng dẫn văn nói hành có năm pháp: l) Ba lần bảy ngày thấy (ba tuần).
2) Bảy lần bảy ngày thấy.
3) Một đời thấy.
4) Hai đời thấy.
5) Ba đời thấy.
Lại nói: Ứng có sáu pháp:
1) Nghiêm đạo tràng.
2) Tịnh thân.
3) Sáu thời.
4) Khải thỉnh.
5) Đọc tụng.
6) Tư duy thậm thâm pháp Không. Tác quán như vậy thời năng diệt trăm ngàn vạn ức A-tăng-kỳ trọng tội. Nếu vậy thì vì sao giải thích một kinh, đều không khởi tâm địa gieo vào tưởng, đến đây mới dẫn Kinh Phổ Hiền Quán. Huống chi nay tự nói đọc tụng viết chép. Muốn tu tập kinh Pháp Hoa này ở trong ba tuần nhất tâm tinh tấn thì ta sẽ cởi voi đến trước mặt người ấy. Cho nên biết nếu tu hành hoặc giải thuyết xin nương Sư này mới có đến. Do đó chẳng có Huyền Văn thì không thể dẫn dắt, chẳng phải Chỉ Quán thì không thể thông đạt, chẳng phải sớ đây không dùng trì, chẳng phải một không dùng tiến. Nếu không vậy thì dụng giáo ấy làm gì, dụng giảng làm gì? Cho nên ở Đông Kinh chùa An Quốc, Ni Tuệ Nhẫn an trí ở Đạo tràng Pháp Hoa, nay thiên hạ bắt chước nhưng mê bản kia, không biết Ni đây dựa vào bằng chứng hiện hữu nào mà tự thân cảm Phổ Hiền. Nhưng tuy có an trí nơi đạo tràng nhưng phần nhiều làm thầy cho tâm mình, huống chi nay người giảng mà muốn xem nhẹ! Lược giáo đây, bởi do không biết ý chỉ của giáo. Chợt cùng Giang Hoài hơn bốn mươi vị Tăng đến lễ Đài sơn, nhân thấy Bất Không Tam tạng môn nhân Hàm quang bèn phụng sắc chỉ ở núi tu tạo, nói cùng Bất Không Tam tạng đích thân du hành tới Thiên Trúc.
Ở kia có Tăng hỏi: Đại Đường có Thiên Thai giáo tích rất có khả năng phân biệt tà chánh hiểu rõ thiên viên, có khả năng dịch đem đến cõi này chăng? Đâu chẳng phải Trung Quốc mất pháp này mà tìm cầu bốn phương! Chẳng qua phương đây ít có người hiểu biết như người nước Lỗ thôi! Cho nên người có đức dày hướng đạo thì chẳng nên không ngưỡng mộ, kính nguyện học giả hành giả tùy sức xưng tán. Nên biết tự hành và lợi tha đều khác kinh sách khác, hoặc nói hoặc nghe cảnh trí tồn tại chăng, hoặc ngầm hoặc hiển chủng (thuần) thục có thể hy vọng, đều do người hoằng kinh, có phương pháp. Nếu trực tiếp giảng thuyết như vậy thì người hoằng kinh đâu cần khuyên răn áo, tòa, nhà ba thứ. Như Lai di giáo sao có thể coi thường như vậy ư?
Tôi xét mình tài hèn sức mọn, Kiến giải suy tìm tự cảm hổ thẹn rất nhiều vội vàng vận dụng các duyên, gắng dùng sớ giải, mặc dù có lập, phá cũng chỉ vì làm cây Viên thừa, khiến cùng người đồng chí hướng khai Phật tri kiến, quyết không thiên vị, bè phái mà chỉ muốn thuận tâm nguyện cứu giúp. Mong các vị minh giám, thấu cho lòng thành ngu muội của con:
Một câu nhiễm tâm thần
Đều giúp đến bờ kia
Tư duy hằng tu tập
Thường dùng làm thuyền bè.
Tùy hỷ thấy và nghe
Thường làm chủ với bạn
Hoặc lấy hay là bỏ
Nghe qua thấy thành duyên.
Hoặc thuận cùng với nghịch
Trọn nhân đây được thoát
Nguyện ngày tôi giải thoát
Y báo và chánh báo
Thường tuyên Kinh mầu này,
Một cõi đến một trần
Đều là vì lợi vật.
Cúi mong nhờ chư Phật
Thầm hộ trì cho con
Tất cả hàng Bồ-tát
Mật giúp sức uy linh
Nơi nơi chưa nói pháp
Đều vì chúng khuyến thỉnh.
Phàm nơi có nói pháp
Thân thừa sự cúng dường
Một câu cùng một kệ
Tăng tiến đạo Bồ-đề
Một sắc và một hương
Trọn không hề thoái chuyển.