TẠNG LUẬN
SỐ 1739 - TÂN HOA NGHIÊM KINH LUẬN
Cư Sĩ Lý Thông Huyền (Đời Đường).
Tất cả chúng sanh đều bắt nguồn từ trí rộng lớn, sự luân chuyển của mọi loài đều từ thể của pháp thân. Chỉ vì vọng tình sanh khởi nên trí tuệ bị ngăn cách, ảo tưởng biến dời nên bản thể sai biệt. Khi thông đạt nguồn gốc, thì vọng tình mất, biết tâm trí, hợp thể tánh. Kinh Đại-phương quảng-Phật Hoa-nghiêm này nói về nguồn gốc của chúng sanh, chỉ rõ căn cội của quả Phật. Nguồn gốc ấy không do công lực thành tựu, căn cội kia không do hạnh nguyện có được. Một khi không còn công lực thì nguồn gốc thành tựu dứt hết hạnh nguyện thì căn cội hiển hiện. Cội nguồn ấy không do công năng tạo nên. Những ai tùy thuận nhơn duyên, tự tại trước mọi hiện tượng là Tỳ-lô giá-na. Vì bản tánh ví như Ánh sáng, với bi trí lớn, tuỳ căn tánh ứng hiện, cứu độ chúng sanh. từ nguồn gốc như vậy thiết lập giáo pháp rộng rãi, thấm nhuần khắp muôn loài. Về địa vị có bốn cõi trời, tám tướng. Ơ đạo tràng thì hiện việc thành Phật. Pháp đường Phổ quang là nhà lớn của báo thân. Trưởng tử Phổ Hiền là thân chứa quả đức, Văn Thù là người dẫn khởi thân Phật. Dùng Tam muội Hải ấn bao dung khắp pháp giới để hàng phục chúng sanh, dùng Phổ nhãn hiển hiện vô số cõi nước. Y báo chánh báo tác động qua lại; thể dụng nhân quả đan xen lẫn nhau. Mượn lưới báo của Đế Thích để hiển hiện vô số cõi nước; dùng ngọc ma ni làm sạch cấu bụi làm lộ rõ mười thân. Vô số cõi nước mình người đều không cách biệt; mười đời xưa nay, trước sau không ngoài hiện tại; lớn thì ngang bằng hư không; nhỏ thì chẳng khác hạt bụi, đủ mười phương không thiếu một mảy may, bao hàm mười phương nhưng không ngăn ngại, luôn ở trong biển trí. Về quả đức chia làm năm vị, thường ở pháp đường chỉ dạy sự tu tiến của chín cõi trời, một phương là vậy, mười phương đều như thế. Vô số Thánh đệ tử ra vào đạo tràng, trí ngu không ngăn ngại, như gương sáng chiếu soi mọi hiện tượng, như ngàn ngọn đèn để trong một phòng. Kinh này gồm có 40 phẩm chỉ dạy pháp môn đạt quả đức, gồm trăm vạn ức lời hay, bao hàm hạnh nguyện lớn lao của các đức Phật; mười thân, mười hội hiển bày 100 pháp môn, mười cõi, mười phương chỉ dạy mười thông, mười biện tài. Phẩm Xuất Hiện nói về nhơn quả, đúc kết toàn bộ Kinh. Ở vườn Cấp Cô Độc đem lợi ích cho người, với Mục Liên, Xá Lợi Phất, chỉ dạy pháp bằng cách đối diện; trên đường đi chỉ dạy mười minh cho sáu ngàn Tỳ kheo. Ở phía đông thành Giác đạo lợi ích cho năm chúng, ở trước tháp Phật đạt mười trí. Việc chỉ dạy cho Thiện Tài là tiêu biểu cho việc chúng sanh sau này đều như vậy, thành tựu pháp năm vị, đầy đủ đức hạnh. Những pháp ấy gợi nhắc chúng sanh dễ dàng thông đạt hạnh nguyện mà không nghi ngờ. Do vậy, trước tiên gặp Văn Thù, thành tựu tín ở đỉnh núi Diệu Phong, trải qua năm chúng, thành tựu mười pháp, đến vườn Từ Thị là kết thúc quả một vị, đời thành Phật. Trở lại phần trên, Văn Thù Sư Lợi-thiện tri thức đầu tiên-tiêu biểu cho quả giống nhân, về sau nhập thân Phổ Hiền là thành tựu viên mãn thể-dụng. Kinh Đại-phương quảng-Phật HoaNghiêm, Đại là không nơi chốn, Phương hướng; phương là công dụng của lý trí; Quảng là bao hàm tất cả; Phật là thể dụng không tạo tác; Hoa như niềm vui của hạnh nguyện có khả năng hiển hiện của công dụng lý sự; Nghiêm là trang nghiêm của y báo, chánh báo. Kinh là xuyên suốt. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm, tất cả Bồ-tát thị hiện thọ sanh đều là thế chủ, cùng đến đạo tràng là Diệu Nghiêm; Phẩm là sự phân chia giáo pháp để giảng giải đều đặn trong mỗi lần thuyết. Kinh này gồm có 40 phẩm. Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm được giảng đầu tiên nên là phẩm thứ nhứt. Do vậy nói đầy đủ là phẩm thứ nhứt-Thế Chủ Diệu Nghiêm của Kinh Đại-Phương quảng-Phật Hoa-Nghiêm.
Giải thích Kinh này gồm mười môn:
I. Lập tông theo giáo.
II. Sự khác biệt của giáo pháp theo tông.
III. Sự khác biệt của giáo nghĩa.
IV. Sự giống-khác của việc thành Phật;
V. Sự sai khác về việc thấy Phật.
VI. Thời gian giảng pháp.
VII. Quyền thật của cõi Tịnh.
VIII. Cảnh giới giáo hóa.
IX. Sự nhanh chậm của nhân quả.
X. Tổng kết về toàn bộ giáo pháp.
I. Lập tông theo giáo: Thông thường đức Như-lai thành đạo, thể tánh hợp với chân như, dung nhiếp lý-sự, một-nhiều. Một khi trí cảnh trọn vẹn tịch tĩnh thì pháp nào không hợp? Chỉ vì căn tánh sai khác nên giáo pháp có sự phân chia, thời gian của nhân quả có nhanh chậm, sự ứng thân hóa độ của Phật cũng khác, cõi nước có sạch, nhơ, nhân quả, địa vị có thứ lớp. Kẻ sơ cơ chưa hiểu giáo pháp, chấp quyền là thật nên mê mờ không tiến tu. Do vậy nên không nêu lên ưu khuyết của các tông, làm sao kẻ ngu hiểu được? Ở đây, lược phân mười pháp để biện giải mong người học biết tông chỉ, bỏ quyền thành tựu thật, không vướng mắc nơi hạnh nguyện, sớm chứng Bồ đề. Mười pháp: 1) Giới Tiểu thừa, tông vọng kiến; 2) Giới Bồ-tát, tông vọng-chơn; 3) Bát-nhã: thuyết không hiển thật; 4) Kinh Giải-thâm-mật: tông có không đều không; 5) Kinh Lăng-già: tông năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã; 6) Kinh Duy-ma: Dung nhiếp nhị kiến tịnh nhiễm, hiển hiện sự cao sâu; 7) Kinh Pháp-hoa: hợp quyền thành thật; 8) Kinh Đại-tập: ủng hộ chánh pháp; 9) Kinh Niết-bàn: phật tánh; 10) Kinh Hoanghiêm: trí bi căn bản của hết thảy các đức Phật, nhân quả trọn vẹn, dung nhiếp một-nhiều, lý sự pháp giới tự tại, duyên sanh không ngăn ngại.
Sự phân tông trên đây là y theo sự phân tông của các bậc tiên đức. Nếu có sự khác biệt ít nhiều nào đó là do sự hiểu biết khác nhau. Song về ý nghĩa của tên gọi phần lớn là giống nhau, như sự thiết lập tông giáo của các bậc tôn đức Ấn-Hoa sẽ xin nói sau.
1) Giới pháp của Tiểu thừa: Tông vọng kiến: Đức Như Lai chỉ dạy cho hàng phàm phu về chỗ tạo nghiệp, những gì nên làm, những gì không nên làm, đây là thiện; đây là bất thiện, nhưng pháp ấy không thật. Đối với phàm phu sống trong hư vọng, đức Phật nói nhiều về pháp ác để hạn chế họ, để họ được sanh vào cõi trời cõi người. Vì thế phần tựa của giới chép: Nếu ai muốn sanh vào cõi trời cõi người, phải luôn giữ tịnh giới, đừng phạm phải. Chúng sanh tạo nghiệp hư dối không thật, chưa đạt pháp trí thân nên đây không phải là tông thật có. Hơn nữa vì vọng kiến nên chia tông. Việc thọ trì giáo giới của Tiểu thừa này khác với Hoa-nghiêm. Kinh dạy: thân là hạnh thanh tịnh, thân có 4 oai nghi, Phật, Pháp, Tăng, mười chúng, thất giá, Hòa thượng Yết-ma đàn đầu đều là hạnh thanh tịnh. Nếu vậy, suy xét kỹ người cầu hạnh thanh tịnh hiểu pháp là không thể nắm bắt được. Như phẩm Phạm hạnh dạy: Người sống hạnh thanh tịnh là giữ tính giới Phật, đạt pháp thân, kể cả người vừa phát tâm thành tựu chánh giác. Vì giữ tính giới Phật, ngang bằng thể của Phật, lý sự bình đẳng, dung hợp pháp giới chơn như. Đó là giữ giới. Người giữ giới không thấy gìn giữ giới, thấy người khác phá giới, không thấy phàm phu Thánh hiền, không thấy mình phát tâm Bồ đề, các đức Phật thành tựu chánh giác. Nếu thấy có tốt xấu, có pháp để đạt thì không phải là hạnh thanh tịnh. Tính giới chính là pháp thân, pháp thân là trí tuệ của Như Lai; trí tuệ của Như lai la sự hiểu biết đúng đắn, khác với sự giữ, bỏ của Tiểu thừa.
2) Như giới Bồ-tát trong kinh Phạm-võng là tông vọng-chơn. Đức Như Lai vì chúng sanh có tâm rộng lớn trong hàng phàm phu, vui tu hạnh từ bi, mong cầu quả Phật nện dạy Tỳ-lô giá-na là thân căn bản, trăm ngàn thân khác là hóa thân, để kẻ mê hiểu được, bỏ ngọn về gốc. Do vậy Kinh chép: Cứ mỗi thân trong trăm ngàn ức hóa thân độ thoát vô số chúng sanh đạt chánh giác. Lại dạy: Người thọ giới Phật là vào vị Phật, ngang bậc đại giác, là đệ tử Phật. đó là tịnh giới cũng là tông chơn như. Đây là chỉ dạy về tính giới pháp thân cho chúng sanh có tâm rộng lớn. Với kẻ kém cõi, Như Lai giáo pháp ứng hợp hai hạng. Như thế, việc mỗi thân trong trăm ngàn ức hóa thân độ thoát vô số chúng sanh đạt chánh giác là bỏ quyền thành thật. Đây là giáo thật có. Trong pháp này chỉ dạy cả quyền thật nên khác với Tiểu thừa ở phần một và khác với pháp thường ở phần sau, vì chỉ sanh vào cõi trời cõi người. Tuy là tông thật nhưng khác với giáo pháp mà đức Tỳ-lô giá-na thuyết trong Kinh Hoa Nghiêm. Kinh này vẫn tuỳ thuận hóa thân độ sanh đạt thân căn bản. Tông Viên giáo vừa thị hiện thân căn bản là sự lý nhân quả của báo thân, trí lớn pháp giới đều hiển hiện. Hơn nữa dung lượng của thế giới trong Kinh Hoanghiêm khác với dung lượng hoa sen trong kinh Phạmvõng (sự lớn nhỏ sẽ được nói ở phần sau).
3) Bát-nhã: Tông thuyết không hiển thật. Trước tiên, đức Như Lai giảng pháp nhị thừa cho phàm phu trời, người, với hạng chấp lý sự đều thật, không đoạn hoặc chướng, Như Lai nói pháp không để đoạn trừ chấp trước. Kinh Bát-nhã giảng 18 pháp, Tam-bảo thế gian, bốn đế, ba đời…tất cả đều không, ngay cái không ấy cũng không (rõ như trong Kinh). Nghĩa là vô minh, hoặc chướng… đều không. Vô minh không, hoặc chướng cũng không, tự tánh Niết-bàn tự nhiên hiển hiện. Đó là thật có, không phải tông không. Tuy thật có nhưng giáo pháp thuyết giảng phần nhiều có thành, hoại nên chưa viên mãn. Kinh Hoa-nghiêm đủ tướng tốt thật báo, vừa là hư, vừa là thật. Tuy trong Kinh này tự tướng của mười Bồ-tát trước sau xuyên suốt, không thiên về có không; lý sự đan cài, Phổ Hiền Văn Thù hòa nhập, mỗi phẩm trong bộ Kinh này ảnh hiện lẫn nhau. 40 phẩm tóm thâu trong một lời, mười vạn bài kệ như nhau, một cái thành, tất cả đều thành; một cái hoại tất cả đều hoại, bản tính thời gian như nhau, mọi thứ như nhau thì sự thuyết giảng cũng như nhau. Cho nên sự thành Phật hiện tại như sự thành Phật của các đức Phật trong ba đời. Vì không có sự phân biệt ba đời. Trong Kinh Bát-nhã nhân quả có trước sau, thành hoại khác nhau.
4) Kinh Giải-thâm-mật: Tông có không đều không. Những pháp có không mà đức Như Lai thuyết giảng đủ hai cách nhìn nhận: không phải có, không phải không. Đưa ra thức thứ chín: thức thuần tịnh, không tạp nhiễm, như dòng thác có vô số đợt sóng, nhưng những đợt sóng ấy đều cùng một thể nước. Các thức một, hai… tám đều có từ thức A-đà-na. Kinh Giải-thâm-mật dạy: Nếu trước gương sáng có một hình tượng thì chỉ có một ảnh hiển hiện. Nếu có hai hoặc nhiều hình tượng thì cũng có hai hoặc nhiều ảnh hiển hiện. Chẳng phải gương trở thành ảnh tượng, cũng không có sự thọ nhận hay đoạn diệt. Đó là nói các thức một, hai… tám đều từ thức thứ chín. Lại dạy: Bồ-tát tuy an trụ bằng pháp nhưng trí là chỗ nương tựa, là nơi kiến lập, ý Kinh này dạy chúng sanh ngay thức hiểu rõ thể của thức vốn không ngoài trí chơn như. Ví như dòng thác, sóng có từ nước, lại như gương nhờ sáng sạch, hoàn toàn không phân biệt nhận nhiều ảnh tượng không ngăn ngại, có nhưng luôn không. Như vậy thức tướng thấy được kia không ngoài trí thanh tịnh, bản thể không tạo tác. Ảnh tượng hiển hiện hoàn toàn không chấp mình-người, trong-ngoài, tuỳ trí có công dụng, không phân biệt. Vì phá trừ hai chấp có, không nên nói không phải có không phải không. Do vậy Kinh Giải-thâm-mật dạy: Thức A-đà-na thật sâu xa, tất cả chủng tử như dòng thác, ta không thuyết giảng cho phàm ngu, sợ chúng phân biệt chấp làm ngã. Câu đầu là chỉ dạy phàm phu căn cứ nơi thức thành tựu trí, khác với nhị thừa và Bồ-tát sơ học, phá tướng chấp không, và khác với chấp thật có của phàm phu. Do vậy không phải có, không phải không. Vì sao không phải không? Vì chỉ dùng trí tuỳ thuận nhơn duyên, biết căn tánh tạo lợi ích cho mọi loài. Vì sao không phải có? Vì lúc trí tuỳ duyên không có không có tánh tướng, nên không có sanh, trụ, dị, diệt. Kinh này tuy nói: từ tâm thức biết có không đều không, nhưng khác với Kinh Hoa-nghiêm, chỉ cần hiển hiện thể dụng của Phật, trí căn bản nơi nhứt chơn pháp giới thì hòa nhập cả pháp thân, báo thân, tánh tướng. Với người thông đạt chỉ ngay quả Phật, trí căn bản nhứt chơn pháp giới. Đó là pháp khai tị ngộ nhập, không nói thức phát sanh do vọng… Kinh Pháp-hoa dùng trí Phật khai ngộ chúng sanh khiến họ đạt được thanh tịnh nên xuất hiện ở đời, không có hai thừa, ba thừa. Với ba thừa, Như Lai không nói về tánh tướng Phật. do vậy Kinh Pháp-hoa dạy: chỉ ta và mười phương Phật mới biết nghĩa tánh tướng. Xá Lợi Phất, Bích-chi-phật, Bồ-tát bất thoái không thể biết được. Vì Kinh Pháp-hoa nhập ba thừa thành pháp giới chơn thật của Phật thừa. Ba xe ở ngoài cửa là quyền thừa, trâu trắng trên đường mới là thật đức. Vì thế có một phần ý nghĩa. Kinh này giống Kinh Hoa Nghiêm. Long nữ cỡi trâu trắng giống sự chứng đắc của Thiện Tài. về giáo môn. Kinh Hoa-nghiêm nói thể dụng pháp giới quả Phật là dạy cho hàng phàm phu liễu ngộ. Khác với quyền môn khác với một, hai... bảy, tám của Kinh-thâm-mật. Việc lập thức A-đà-na thứ chín trong Kinh-Thâm-Mật có dụng ý khác, là muốn hàng nhị thừanhững kẻ chán ghét sanh tử, tu pháp không-diệt vọng thức, đạt sự vắng lặng tịch diệt. Còn Bát-nhã-phần thuyết giảng thứ hai là chuyển tân nhị thừa và Bồ-tát sơ học, phần nhiều tu pháp không phá trừ chấp có, tu tập sáu pháp Ba-la-mật. Trong đó hàng nhị thừa ít chuyển tâm, Bồ-tát sơ học vui thích pháp không-là pháp đối trị ban đầu của ba thừa, giống với pháp đối trị của Tiểu thừa. Có diều là tâm từ bi của ba thừa lớn hơn nhung chưa đạt pháp thân, Phật tánh, trí căn bản, tu tập pháp không, sáu Ba-la-mật là hành tướng. Pháp đối trị đầu tiên giống với nhị thừa như quán vô thường, xương trắng, bụi trần… sau mới nhập pháp quán không. Hàng nhị thừa hướng đến tịch diệt, Bồ-tát thọ sanh trở lại, dùng pháp quán không, vô ngã… để chế phục ngã, pháp vốn chưa phải là trí căn bản, Phật tánh, pháp thân. Vì sự thấy biết chưa đúng nên vui thích pháp không. Do đó Kinh Giảithâm-mật theo phương tiện lập ra thức thứ chín; cho rằng tám thức đều có từ thức thứ chín là nhắc kẻ chấp thức thứ tám-chủng tử thức là Như Lai tạng. Vì sợ khổ nên nói chủng tử nghiệp vốn là chơn như. Song sợ họ khó tin nên lập ra thức thứ chín A-đà-na là tịnh thức. Nhờ đó chủng không đoạn đức tánh thức, tăng trưởng Bồ-đề. Vì vậy Kinh Duy-ma chép: Khi chưa đầy đủ pháp Phật thì cũng không đoạn diệt sự chứng đắc thọ dụng. Thọ dụng không diệt thì tưởng, thức cũng không diệt. Kinh Lănggià, với người đã thành thục giảng nghiệp chủng nơi thức thứ tám là Như Lai tạng. (Phần sau sẽ rõ). Kinh Duy-ma dạy: Nhiều thứ trần lao là hạt giống của Như Lai. Người tu đạo có nhiều hạng và nhiều cách tu, sự hiểu biết hạnh nguyện hoàn toàn sai khác, ngoài hàng nhị thừa ra, hàng Bồ-tát đã riêng có bốn bậc: 1) Bồ-tát tu không, vô ngã; 2) Bồ-tát dần thấy Phật tính; 3) Bồ-tát thấy ngay Phật tính; 4) Bồ-tát dùng trí tự tánh thanh tịnh của Như Lai, trí sai biệt của năm vị gia hạnh làm viên mãn hạnh Phổ Hiền, thành tựu tâm từ bi rộng lớn. Cuối cùng ngay giây phút hiện tại, đạt được trọn vẹn quả Phật (phần này lược nêu tên phần sau sẽ nói rõ). Như Kinh Hoa-nghiêm dạy: Bồ-tát trải qua vô số kiếp tu sáu ba-la-mật mà không sanh trong nhà Phật vẫn là Bồ-tát giả danh (phần sau sẽ rõ). Vì tuy thấy Phật tính nhưng chưa biết chướng, hoặc nên là Bồ-tát giả danh.
5) Kinh Lăng-già: Tông năm pháp, ba tự tánh, tám thức, ngã pháp đều không. Kinh này được thuyết trên núi Lăng-già, biển phía Nam. Đức Như Lai đến đây. Vua Dạ xoa La Bà Na và Bồ-tát Ma Đế ngồi trên cung biến hóa, đến thỉnh Như Lai thuyết pháp. Núi này cao vút, nhìn xuống biển lớn, không có cửa vào, người đạt thần thông mới lên được. Nghĩa là người đạt tâm không chấp trước, không chứng đắc mới lên được. Nhìn xuống biển lớn hiển hiện tâm rộng lớn vốn thanh tịnh, do gió cảnh giới làm nổi sóng thức. Ai liễu đạt cảnh vốn không, tâm sẽ tịch tịnh. tam cảnh tịch tịnh soi rõ tất cả. Như biển không gió, mặt trăng, mặt trời, mọi hiện tượng biểu hiện rõ ràng. Kinh này dạy thức chủng tử chính là Như Lai tạng cho hàng căn trí lớn, khác với hàng nhị thừa đoạn thức, chấp tịnh và khác với hàng tu tập pháp không của Bátnhã. Ở đây nói rõ thể của thức vốn chân thật. Hiểu rõ thể của thức sẽ thành tựu công dụng của trí. Như biển không gió, mọi cảnh tượng đều hiện rõ, Pháp tâm cũng vậy. Khi hiểu rõ chơn như, thức sẽ thành trí. Kinh này khác với Kinh Thâm-mật. Vì Kinh Thâm-mật lập ra thức thứ chín để chỉ dạy kẻ sơ cơ, tạm thời còn hoặc chướng nhưng nuôi lớn tâm bồ đề, không để chúng sống trong pháp không, cũng chẳng như hạt giống hư. Kinh Thâm-mật là pháp đầu của việc thâm nhập nơi hoặc chướng. Lănggia, Duy-ma chỉ thẳng thật thể của hoặc chướng. Lănggià xem thức thứ là Như Lai tạng. Kinh Tịnh-danh dạy quán thật tướng của thân mình và Phật. kinh Tịnh-danh giống Kinh Lăng-già, Kinh Thâm-mật khác với Phật bộ Kinh này. Kinh Hoa-nghiêm cũng không như thế, thân Phật, cảnh giới, pháp môn, hành tướng đều khác. Người giảng Lăng-già là hóa thân; cảnh giới là núi, nơi ô uế. Pháp môn được thuyết là cảnh giới thức chân thật; người hỏi là Bồ-tát Đại Huệ, hóa thân thuyết pháp là quyền giáo, người trí hãy xem xét chọn lọc. Kinh Hoa-nghiêm thân Phật là pháp thân, báo thân chơn thật cảnh giới là cõi Hoa Tạng; pháp môn là pháp giới quả Phật; người hỏi người đáp là Văn Thù, Phổ Hiền-diệu dụng của trí lý, sự, nhân quả hành tướng năm vị dung nhiếp lẫn nhau, năm thân, năm cõi đan cài nên không thể nói giống-khác. (Phần sau sẽ rõ).
6) Kinh Duy-ma: Tông mầu nhiệm. Kinh Duy-ma và Kinh Hoa-nghiêm khác nhau mười thứ, giống nhau một thứ. Mười thứ khác nhau:
1) Cõi nước trang nghiêm; 2) Tướng của báo thân hóa thân; 3) Thần thông biến hóa; 4) Pháp đối trị; 5) Người nghe pháp; 6) Cách lập pháp; 7) Sự tu hành của Bồ-tát Tịnh Danh; 8) Nơi thuyết pháp; 9) Đệ tử thường theo Phật; 10) Nơi di chúc một phương tiện nhập đạo giống nhau.
- Cõi nước trang nghiêm khác. Kinh Duy-ma, Như Lai dùng ngón chân ấn vào mặt đất lập tức ba ngàn cõi nước được trang trí bằng vô số báu vật. Như đức Phật Bảo Trang Nghiêm; cõi vô lượng công đức bảo trang nghiêm. Tất cả đều khen: thật hy hữu, lại thấy mình ngồi trên hoa sen báu. Nhưng không nói vô số cõi nước trang nghiêm… mọi ảnh tượng đều trong một hạt bụi như. Kinh Hoa-nghiêm mười Phật Tỳ-lô-Giá-Na, mười cảnh giới Liên Hoa Tạng. Trong mỗi cõi nước có vô số cõi nước với đủ vô số Phật, chúng sanh đan xen nhau nhưng không ngăn ngại. Báu vật trang trí như bóng, như Ánh sáng (rõ như trong Kinh), không phải chỉ nói ba ngàn cõi nước thanh tịnh.
- Tướng báo thân hóa thân khác: Người thuyết Kinh Duy-ma là hóa Phật với 32 tướng tốt. Người thuyết Kinh Hoa-nghiêm là thật báu Phật với 97 tướng tốt và vô số tướng đẹp.
Thần thông biến hóa khác: Thần thông của Bồ-tát được thuyết trong Kinh Duy-ma là đem núi Tu di cao lớn nhập vào hạt cải, đem nước nơi bốn biển chứa trong một lỗ chân lông. Trong nhà nhỏ để ba vạn hai ngàn tòa sư tử, mỗi tòa cao tám vạn bốn ngàn do tuần, 500 Thanhvăn, năm ngàn trời người Duy Ma Cật dùng tay phải đưa tất cả đến vườn Am-la, đem cõi Phật Diệu Hỷ ở phương đông đến cõi này cho mọi người xem rồi đưa về chỗ cũ. Thần biến ấy chỉ là sự hiển hiện cho Bồ-tát Thanh-văn, kẻ sơ học của ba thừa. Vì sao?. Vì quyền biến chỉ dạy Bồ-tát, Thanh-văn, những kẻ chưa thấy đạo chơn thật, chưa quên mình, người. Thần biến ấy lại tùy theo khả năng sai khác mà phân lượng. Hơn nữa, đức Phật dùng thần biến ấy chỉ để nhắc hàng yếu kém tiến tu, chẳng phải thật. Kinh Hoa-nghiêm, dùng pháp lực vốn có, chỉ một hạt bụi chứa được vô số cõi Phật. chúng sanh, nhưng cõi nước không nhỏ đi, hạt bụi chẳng lớn thêm. Tất cả hạt bụi trong cõi nước khắp mười phương đều như vậy. Như Kinh giảng: Bồ-tát từ thân chúng sanh nhỏ nhoi này thành tựu quả Phật, độ thoát quần mê, nhưng chúng sanh nhỏ nhoi ấy không hay biết. Nên biết rằng đức Phật dùng pháp quyền biến chỉ dạy hạng yếu kém. Nhũng kẻ thấy Phật khác mình. Phật hiện thần thông đến đi. Về thật pháp, tự tánh vốn tỏ ngộ, táng tướng thân tâm giống Phật, không có trong ngoài qua lại. Vì vậy, Phật Tỳ-lôgiá-na không rời chỗ ngồi nhưng hiện có trong tất cả đọa tràng. Đại chúng ở mười phương không rời chỗ ngồi nhưng tuỳ thuận biến hóa qua lại, kỳ thật không có đến đi. Đó là do sức thần biến. vì thế Kinh dạy: pháp vốn vậy. Tất cả câu: "Do thần lực Phật pháp vốn vậy trong Kinh đều có nghĩa là do sức thần của Phật. Phật là hơn hết. Pháp phật vốn vậy nghĩa là công đức không do biến hóa. Tất cả tánh tướng thân tâm đều vốn có, không do vọng tình sanh, mọi cảnh động đều như bóng, như Ánh sáng đan xen nhau, có khắp mười phương, hoàn toàn không qua lại, phân biệt. Nghĩa là trên mỗi lỗ chân lông của chúng sanh chứa đủ mười phương. Khác với quyền giáo phân biệt qua lại, đem đến đưa đi. Do vọng kiến trái với pháp thân, làm chướng ngại trí căn bản bồ đề chơn thật. Vì thế hiển hiện thần biến xong, Bồ-tát Tịnh Danh trình bày thật pháp, Kinh Duy-ma giảng: quán thật tướng của thân mình và Phật như nhau. Ta xét Như Lai không đến đi, chẳng dừng trụ (như phẩm Phật A Súc đã nói). Bởi thế hàng kém cõi ham thích sự kỳ lạ nên Bồtát tùy thuận hiển hiện chỉ dạy, để chúng vui tu, sau mới nói thật pháp. không nên chấp quyền là thật, mê mờ tí cảnh. Từ thức quyền biến thành tựu chơn như, dần nhập pháp giới. Pháp có tạo tác thì khó thành tựu tùy duyên, pháp không tạo tác thì dễ biện biệt. Tạo tác thì mệt nhọc uổng công, không tạo tác thì tuỳ duyên tự nhiên thành tựu. Công không dụng công mới là thật, công có dụng công là công biến đổi, dù tu nhiều kiếp, cuối cùng vẫn luống uổng. Chi bằng trong sát na không khởi vọng niệm sẽ vượt trên sự thấy biết của ba thừa.
Pháp đối trị khác: Kinh Duy-ma là pháp đối trị hàng nhị thừa, chuyển sang tâm bồ đề của Bồ-tát, nhập pháp Đại thừa, khiến cho Bồ-tát Đại thừa, những người vướng trong pháp tịnh, bi trí chưa trọn vẹn-tiến tu. Như các Bồ-tát ở cõi chúng Hương muốn trở về cõi nước mình, xin Phật chỉ dạy pháp nhỏ. Biết họ vướng nơi cõi tịnh, tâm bi trí kém, đức Phật giảng pháp, dạy họ học pháp giải thoát, có đoạn tận, không đoạn tận. Văn sao chép: Chẳng lìa từ tâm từ, bi, xả rộng lớn dốc phát tâm của nhứt thiết trí sâu xa, giáo hóa chúng sanh không mỏi mệt, luôn nghĩ nhớ tu tập bốn nhiếp pháp, xem thiền định như địa ngục, xem sanh tử như vườn cảnh, người đến cầu xin như thầy giỏi (rõ như trong Kinh). Kinh này đối trị hàng nhị thừa, ba thừa-trí, bi chưa trọn vẹn. Khuyên họ tiến tu bi trí, chưa chỉ ngay quả Phật, không nói bậc mới phát tâm của Thập hiền thành tựu chánh giác và những việc kỳ lạ khác, tất cả đều rõ ràng.
- Người nghe pháp khác: Kinh Duy-ma, người nghe pháp, ngoài các Bồ-tát Văn Thù, từ Thị, Thanh-văn. Xá Lợi Phất ra, tất cả đều là hạng học pháp quyền biến của ba thừa. Dù có các loại khác do Bồ-tát hóa hiện đến nghe pháp đều là tu tập thành tựu pháp quyền biến của ba thừa, chưa nói Phật thừa. Kinh Hoa-nghiêm, người nghe pháp đều là người tu Phật thừa, đủ trí Phật, công đức Phật, pháp thân, đủ hạnh Phổ Hiền nhưng tuỳ thuận hiện đạo tràng trong cõi nước khắp mười phương, thành tựu pháp Như Lai, không có hàng ba thừa, dù có, cũng như kẻ mù điếc không hay biết. Như người mù nhìn mặt trời, mặt trăng, người điếc nghe âm nhạc cõi trời, người nghèo với vật báu cõi trời, người phước lớn trong địa ngục, quỉ đói đến bờ sông hàng ba thừa, đạo lực chưa đủ và hàng chưa chuyển tâm không tin là thường ở trong pháp giới, cảnh giới Phật, thân đức như như Phật, nên tìm Phật ngoài thân. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Phật tử! Như có Bồ-tát trải qua vô số kiếp tu sáu Ba-la-mật và các pháp bồ đề, mà không nghe được pháp công đức sâu xa mầu nhiệm của Phật hoặc nếu có nghe nhưng không tin hiểu để tuỳ thuận ngộ nhập thì không thể gọi là Bồ-tát chơn thật, vì không sanh vào nhà Như Lai. Do vậy người nghe pháp hoàn toàn sai khác. Kinh Duy-ma, chúng nghe pháp thuộc thế giới Ta-bà chưa bỏ ngã nhơn, chúng nghe pháp của các Hương tích đủ cả cấu tịnh. tất cả đều vì sự hiểu biết chưa đúng đắn. Người ở cõi tịnh tuy gọi là Bồ-tát nhưng xét kỹ, chưa trọn vẹn đạo hạnh, chưa hiểu ý Phật. Tuy có người nuôi chí nguyện giác ngộ nhưng vướng nơi cõi tịnh, cách xa với tứ thân pháp thân. Vì vậy Kinh Pháp-hoa chép: Dù là vô số Bồ-tát bất thoái vẫn không thể biết được. Như Kinh Hoa-nghiêm, niềm vui của người tu tập là biết mình và Phật không khác, trí tuệ như Phật, đủ tánh tướng, một-nhiều như nhau. Ơ trong nước trí của biển pháp giới thị hiện làm cá rồng, sống trong nhà lớn Niết-bàn, hiển hiện âm dương hóa độ, đủ cả khách thể chủ thể, thầy trò nhân quả dung nhiếp như chúng hội này.
- Cách lập pháp khác: Kinh Duy-ma, Cư sĩ Tịnh Danh hiển hiện một số thần thông biến hóa chuyển tâm nhị thừa, ở trong sanh tử, hiện thân bệnh để họ không biết nhiễm tịnh không khác. Lại thị hiện Bồ-tát vì lòng đại bi nên thọ bệnh, thuyết pháp không hai, kiến lập trí đủ định, tuệ để chỉ rõ pháp không mong cầu được. Vì vậy có câu: Người cầu pháp phải thấy pháp không thể mong cầu. Nhưng khác với nhân quả hành tướng của mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, đẳng giác, năm vị sáu vị của Kinh Hoa-nghiêm.
- Bồ-tát Tịnh Danh thị hiện hạnh sai khác: Tịnh Danh tiêu biểu cho từ bi, thị hiện vào sanh tử thọ bệnh. Kinh Hoa-nghiêm đức Tỳ-lô-giá-na dùng tâm từ bi thị hiện vào cõi sanh tử, thành tựu chánh giác, nói rõ bậc đại trí vượt lên trên thế gian.
- Nơi thuyết pháp khác: Kinh Duy-ma được thuyết trong vườn Am-la thành Tỳ Gia Ly và Nhà của Tịnh Danh. Kinh Hoa-nghiêm được thuyết ở đạo tràng bồ đề nước Ma Kiệt Đà và ở khắp mọi nơi.
- Đệ tử thường theo Phật khác: Lúc thuyết Kinh Duy-ma, đệ tử thường theo Phật là 500 Thanh-văn. Lúc thuyết Kinh Hoa-nghiêm vô số Bồ-tát toàn là Bồ-tát nhứt thừa đủ thể dụng Văn Thù, Phổ Hiền.
- Người được di chúc khác: Phẩm Chúc-lụy của Kinh Duy-ma đức Phật bảo Bồ-tát Di Lặc: Di Lặc! Nay ta đem pháp vô thượng bồ đề đã tu tập từ vô số kiếp truyền lại cho ông. Vì thế, theo sự di chúc này, người được di chúc là Bồ-tát đã thành tựu, sanh vào nhà Phật. Phẩm Như Lai xuất hiện của Kinh Hoa-nghiêm, Như Lai di chúc Kinh này cho phàm phu những người sơ học, vừa thấy đạo, sanh trong nhà Phật. Vì sao? Vì Kinh này khó hội nhập đối với người có khả năng chứng ngộ mới có khả năng thuyết giảng. Điều đó thể hiện ba thừa là quyền pháp, nhờ Phật khuyên nhắc tu chứng pháp nhưng chưa thật chứng, nên pháp được thuyết giảng cũng không thật. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Chúng sanh không thể hiểu được Kinh quý báu này, chỉ người có căn lành, tu tập tướng tốt của Như Lai, sanh trong nhà Như Lai, là đệ tử chơn thật mới hiểu được. Phật tử! Nếu không có đệ tử chơn thật ấy, pháp môn này chẳng bao lâu sẽ bị mai một.
Hỏi: Nếu là đệ tử chơn thật của Phật thì nhiều vô kể ở khắp mọi nơi, cần gì lo nếu không có họ Kinh này sẽ bị mai một?
Đáp: Ý Kinh này là giao phó cho phàm phu, để họ giác ngộ, tu nhập pháp này, sanh trong nhà Như Lai, lưu truyền Phật pháp, hạt giống Phật không mất tức là muốn phàm phu nhập cảnh chơn thật. Các đức Phật vốn biết điều ấy, nếu di chúc cho đại Bồ-tát, hàng phàm phu sẽ không có cơ hội. Nếu phàm phu không tu học, hạt giống Phật không có trong cõi phàm nên Kinh này mai một. Do vậy, giao phó cho phàm phu mà không giao phó cho Bồ-tát. Những người đã thấy đạo.
- Phương tiện vào đạo giống nhau: Kinh Duy-ma chép: Người cầu pháp không thấy pháp có thể cầu được, quán thật tướng của mình và Phật. ta xét Như Lai không đến từ quá khứ, không đi về tương lai, hiện tại không dừng trụ. Đó là tóm lược sự giống nhau của pháp quán đầu tiên. Nhưng thứ tự hành tướng, pháp tắc vào đạo hoàn toàn khác nhau.
7) Kinh Pháp-hoa: Hợp quyền thành thật. Kinh này nhập ba thừa vào nhứt thừa cũng như đưa các dòng sông về biển. Các bậc tôn đức trước như pháp sư Tạng… nhập Pháp-hoa là cộng giáo, một thừa, ba thừa đều được nghe. Hoa-nghiêm là Biệt-một thừa, ba thừa không cùng nghe. Xét lý đó nên nhập hai môn này. Kinh Pháp-hoa nhập quyền vào thật. Kinh Hoa-nghiêm, người căn trí lanh lợi trực tiếp lãnh thọ tuy tên và pháp sự giống nhau nhưng về cách tu tập lại khác nhau. Ở đây, khó nêu hết sự rộng lớn ấy nên tạm đưa ra mười thứ khác nhau để nắm được phần cương yếu. Mười thứ ấy là: 1) Bậc giáo chủ; 2) Sự phóng Ánh sáng; 3) Cõi nước; 4) Người thỉnh pháp; 5) Sự thật hư của đạo trành; 6) Các đệ tử ở phần tựa; 7) Long nữ chuyển thân thành Phật; 8) Cõi nước Long nữ thành Phật an trụ; 9) Sáu ngàn đệ tử phát tâm; 10) Thọ ký cho hàng Thanh-văn.
- Bậc giáo chủ khác: Người thuyết Kinh Pháp-hoa là hóa thân Phật, kể việc tu chứng, thành tựu Kinh này của đức Phật quá khứ: Đa Bảo, các đức Phật ra đời đề giảng Kinh này. Kinh Hoa-nghiêm lại khác, bậc giáo chủ là đức Tỳ-lô-giá-na, là chơn thân lý trí của pháp thân, báo thân đủ vô số công đức tướng tốt, ba đời các đức Phật đều từ một sát na, một pháp giới với vô số tướng tốt mà không ngăn ngại nhau, xưa nay chỉ trong một khoảnh khắc vì không có ba đời. Đức Phật trước không phải là Phật quá khứ. Đức Phật hiện tại không phải vừa xuất hiện ở đời. Vì tánh tướng lý sự của trí căn bản không khác. Như vậy Kinh Hoa-nghiêm do đức Phật thật thuyết, bậc căn trí thông lợi lãnh thọ, không phải Phật biến hoa. Pháp-hoa lại có Phật diệt độ trong quá khứ. Đa Bảo, đức Phật hiện tại ra đời thuyết Kinh Pháp-hoa.
- Sự phóng Ánh sáng khác: Thuyết Kinh Pháp-hoa, tuy Ánh sáng được phóng từ lông trắng giữa chặn mày soi chiếu các cõi nước nhưng chỉ có một vạn tám ngàn cõi nước đều như sắc vàng. Đó vẫn còn giới hạn, không phải là vô biên, chỉ nói về quả, không nói về nhân. Kinh Hoa-nghiêm, mười lần phóng Ánh sáng nói đủ giáo hạnh nhân quả. (phần sau sẽ nói).
- Cõi nước khác: Thuyết Kinh Pháp-hoa ba lần biến cõi nước thành cõi thanh tịnh, đưa trời người qua cõi khác. Sau lại biến cõi uế được thành cõi thanh tịnh, an trí đệ tử từ nơi khác đến. Lúc nói Kinh Hoa-nghiêm, cõi Ta-bà là cõi Hoa Tạng, các cõi nước đan cài nhau. Kinh dạy mỗi cõi nước hiện có đủ cõi nước trong mười phương, mười phương cõi nước hiện trong một cõi nước, nhưng cõi nước không thêm bớt. Đó là do công đức lớn. Hơn nữa đức Phật thành đạo, ngay nơi thân chúng sanh nhỏ nhoi này hóa độ vô số chúng sanh nhỏ nhoi ấy không hay biết. Vì phàm-Thánh đồng một thể, không có tướng thay đổi, trong một hạt bụi nhỏ, mình người đồng một thể. Khác với Pháp-hoa phải đưa trời người đến cõi khác, hiển hiện cõi tịnh. Đó là pháp đối trị những kẻ vướng mắc, còn phân biệt mình-người.
- Người thỉnh pháp khác: Lúc thuyết Kinh Pháp-hoa, người thỉnh pháp là Xá Lợi Phất. Lúc thuyết Kinh Hoanghiêm Phật dạy Bồ-tát Văn Thù, Phổ Hiền, mỗi vị tự nói pháp môn. Đức Phật là quả pháp. Nêu quả làm nhân hành hạnh từ bi, thành tựu trí căn bản, tự nhiên thành tựu quả thể. nên đề cập đến tất cả. Vì hạnh từ bi có từ trí không tạo tác. Văn Thù, Phổ Hiền là nhân, thuyết quá Phật chỉ dạy chúng sanh, với vô số phẩm Kinh thế gian không tính biết được. Chỉ Phật là cứu cánh, không thuộc nhân quả của năm vị nên pháp của Phật do Phật thuyết. Phẩm Công đức tướng tốt là nhân quả thành tựu củ Như Lai, pháp môn sáng suốt, phước trí thường hằng mà Phật nói không thuộc nhân quả của năm vị nên cũng do Phật nói. Điều đó cho ta biết: quả Phật không có hai thứ ngu. Ngoài hai phẩm này ra, 3 sáu phẩm kia đều là pháp môn hành tướng của năm vị nên Phật không nói mà là Bồ-tát mười tín, mười trụ, mười hạnh… nói; đức Phật chỉ phóng Ánh sáng biểu hiện (tướng Ánh sáng tiêu biểu cho pháp sẽ nói ở phần sau). Lúc nói Kinh Hoa-nghiêm, không có Thanh văn hay Bồ-tát yếu kém thỉnh thuyết, mà toàn là Bồ-tát thuộc quả vị Phật cùng nhau hỏi đáp, an lập hành tướng nơi pháp môn quả Phật để giác ngộ bậc thượng căn. Dùng quả Phật làm nhân trực tiếp, nhân dùng từ quả, quả có từ nhân như gieo hạt giống. Hãy dùng sức định tuệ soi xét sẽ biết.
- Sự thật hư của đạo tràng: Kinh Pháp-hoa biến ba ngàn đại thiên cõi nước thành cõi thanh tịnh với vô số đệ tử biến hóa, các đức Phật đến dự cũng đều là biến hóa. Kinh Hoa-nghiêm lại khác, mười cõi mười lần thuyết pháp, đi khắp mười phương nhưng không rời chỗ cũ. Ngay mỗi lỗ chân lông của thân có đủ vô số cõi nước, Bồ-tát, Phật, chúng sanh mà không ngăn ngại nhau, như bóng. Người đến đó không mất pháp thân, nhưng đủ tướng tốt, pháp thân tướng tốt không hề sai khác, tướng ấy đều là chơn thật, không do biến hóa, khác với những Kinh khác đủ cả chơn, hóa.
- Đại chúng ở phần tựa khác: Kinh Pháp-hoa, trước nêu một vạn hai ngàn Thanh-văn, kế đến có Tỳ-kheo-ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề và sáu ngàn Tỳ-kheo-ni(bà là di mẫu của Phật). Tỳ-kheo-ni Da Thâu Đà La (phu nhân của Phật lúc còn là Thái tử. Lúc còn là Thái tử đức Phật có ba người vợ: 1) Cù Di; 2) Da Thâu; 3) Ma Nô Xá. Cù Di là thiện tri thức ở địa Pháp Vân trong mười địa của Thiện Tài, thể hiện việc vui tu pháp mười địa, thực hành từ bi lợi ích chúng sanh. Thân tâm vui với pháp là vợ), kế đó có tám vạn Bồ-tát, trời rồng quỉ thần. Kinh Hoanghiêm, trước nêu hàng Bồ-tát nhiều như số bụi trong cõi Phật (không kể người theo hầu), kế đó là thần Chấp Kim Cang, trời rồng, tám bộ gồm 55 chúng. Mỗi bộ đều có đám tùy tùng sai khác, có bộ số tuy tùng bằng số bụi của cõi Phật, có bộ số tuỳ tùng không thể đếm được. Ngay lần thuyết thứ nhứt, ở đạo tràng Bồ đề có 55 bộ chúng. Về mặt tổng quát, thân Phật rộng lớn không cùng với vô số thân hình, mỗi thân ngang bằng pháp giới, cảnh giới mình người đều là pháp giới. Nghĩa là thân mình đủ vọng tình thấy biết chủ thể, khách thể. Về phương diện tinh tế, bảy lần thuyết pháp trước hoàn toàn không có Thanh-văn, lần thuyết pháp thứ tám mới có chúng Tỳ-kheo, đến địa vị mới rõ hành tướng.
- Long nữ chuyển thân thành Phật: Kinh Pháp-hoa, Long nữ thoắt biến nữ thân, đủ hạnh Bồ-tát, đi về phía Nam thành Phật. Kinh Hoa-nghiêm khác, chỉ cần đoạn trừ vọng kiến, trí lớn hiển hiện thì thể vạn pháp là chơn thật, không có tướng biến đổi. Như Kinh Duy-ma, Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ: Vì sao không chuyển thân nữ? Thiên nữ Đáp: 12 năm qua ta không tìm thấy tướng nữ làm sao chuyển được? Lại như cô Am Đề Giá nói với Xá Lợi Phất: Từ thân nam có thân nữ, nên biết thể của vạn pháp chơn như, có gì chuyển được? Như phẩm Nhậppháp-giới của Kinh Hoa-nghiêm, thiện tri thức của Thiện Tài Đồng Tử có 53 vị, Văn Thù, Phổ Hiền, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, đồng tử, đồng nữ, cư sĩ, tiên nhơn, ngoại đạo, trưởng giả… mỗi vị đều có hạnh Bồ-tát và pháp Phật tuỳ khả năng của chúng sanh nên thấy sai khác, không thể nói là chuyển đổi. Nếu quán sát bằng mắt thường thì mọi cõi chơn như đều là cõi thế tục. Kinh Pháp-hoa đối trị ba thừa-những kẻ chưa đoạn trừ vọng kiến, để họ tạo lòng tin. Hơn nữa, việc biến nữ thân thành Phật là muốn cho họ ngạc nhiên, phát tâm Tự mình đầy đủ hướng đến chơn như, vì không thể phát tâm lành bằng pháp chơn thật. Đó là nhập quyền về thật. Lại phá trừ chấp trước "Trải qua ba-tăng-kỳ tu tập" để họ chứng đạt thành ba đời từ một sát na, không trước sau, xứng pháp bình đẳng, xé rách lưới vọng kiến của ba thừa, đốt chòi tranh của Bồ-tát, vào cửa pháp, về nhà thật của Phật, nên Long nữ thành Phật là tiêu biểu cho việc không phải từng tu tập nhiều đời, mà chỉ mới tám tuổi đã thành.
Lại tiêu biểu cho sự chứng đạt hiện tại, không phải là sự học từ xưa. Thời gian chuyển thân nữ nhanh như chớp, đầy đủ quả Phật, không thiếu một hạnh gì. Hàng ba thừa thấy có khoảng cách là không hiểu pháp chơn thật, sống trong ảo hóa, không biết mình vốn vậy, ở trong nhà thế tục, luôn chấp vào vọng kiến, làm sao thấy được việc gì bên ngoài? Nếu không bỏ vọng kiến sẽ luôn đi ngược, chỉ khi chuyển tâm, bỏ vọng kiến mới về chốn cũ. Cớ sao lúc này không đoạn trừ vọng nghiệp, phải lao nhọc nhiều đời mới biến đổi nhân khổ? Kinh Hoanghiêm nói về pháp giới Duyên khởi, phàm Thánh là chơn như, do vọng kiến nên có cách biệt. Còn vọng kiến là phàm phu, hết vọng là Phật. Khi hòa nhập tánh duyên sanh thì mọi việc tới lui, cúi ngước, kính lạy… đều là hạnh Bồ-tát, không có pháp nào có chuyển đổi, có sanh, trụ, dị, diệt nên khác với Long nữ chuyển thân thành Phật.
- Cõi nước Long nữ thành Phật an trụ khác: Nghĩa là cõi Vô cấu ở phương Nam không phải cõi Ta-bà này. Giải thích Tâm hợp với chơn như là Vô cấu là phương Nam. Vì nam bắc la phương chính. Phương nam là sáng, là hư, là ly. Quẻ ly ở giữa rỗng trong tám quẻ thì hướng của quả ly là chỉ cho hết thảy mọi tư tưởng tâm niệm. Vì hư giả không thật khuyến khích người khác nên mượn tám quẻ của thế gian để biểu hiện. Các phương khác tuy không có tên của tám quẻ, nhưng mỗi phương là một pháp, lý đã như vậy. Có lý phải có sự nên có cõi nước, nơi mọi loài nương ở. Nếu thấy có một cõi nước phương nam riêng biệt thì còn có phân biệt mình người, kia-đây. Đây vẫn là tuỳ thuận của ba thừa phân biệt để dắt dẫn họ phát lòng tin hiểu, chuyển tâm để thành tựu Phật thừa nên nói: khó đoạn trừ kiến chấp của ba thừa. Song vì vẫn còn một phần chuyển tâm, chưa đoạn trừ vọng kiến mình người, khác với Hoa-nghiêm, trong thể pháp giới đủ cả mình người, trong một hạt bụi đủ mọi hiện tượng như ảnh tượng hiện trong lưới Đế Thích.
- Sáu ngàn đệ tử phát tâm khác: Kinh Pháp-hoa chép: Lúc Long nữ thành Phật, Thanh-văn, Bồ-tát, đại chúng ở Ta-bà đều nhìn thấy nên vui vẻ kính lạy. Văn sau lại chép: Ở cõi Ta-bà có ba ngàn chúng sanh an trụ nơi địa Bất thoái ba ngà chúng sanh đạt tâm bồ đề, được thọ ký. Bồ-tát Trí Tích, Xá Lợi Phất… tất cả mọi người đều yên lặng tin hiểu. Bồ-tát Trí Tích và Xá Lợi Phất tuy được xem là bậc trí nhưng vẫn còn ở trong dòng mê mờ, vì đem lại lợi ích cho chúng sanh nên thuyết pháp để huân tập. Sáu ngàn người kính lạy phát tâm nhưng chưa đoạn vọng chấp kia đây. Tất cả đều tuỳ thuận ba thừa hạng phát tâm bồ đề hữu vi, chưa đạt bồ đề bản giác của pháp giới rộng lớn, mình người đồng một thể nên có sự kính lạy. Kinh Hoa-nghiêm khác, cùng lúc đạt pháp môn. Thấy khắp tạng thân Như Lai, cảnh định, đủ mọi cảnh tượng như lưới Đế Thích, vô Bồ-tát số cõi nước, trí lớn mầu nhiệm. Vì đạt một pháp là đạt tất cả pháp, đoạn một vọng kiến là đoạn tất cả vọng kiến, ngay tự thân đủ vô số cõi Phật trong mười phương, ngay thân Phật là cảnh tự nhiên, ẩn hiện không lường. Mọi hiện tượng trong cõi nước khắp mười phương đều như vậy. Ví như các dòng sông chảy về biển, tuy chưa ra đến biển vẫn cùng một tánh ướt. Nếu vào đến biển thì cùng một vị mặn. Tất cả chúng sanh đều như vậy, mê mờ tuy có khác nhưng vốn cùng một Phật tánh. Vì sao trong Pháp-hoa có chúng nơi cõi Ta-bà kính lạy? Việc này hoàn toàn khác với Kinh Hoa-nghiêm. Riêng phẩm Pháp-giới, sáu ngàn chúng chỉ trong tích tắc đủ mười mắt trí, 500 tiểu đồng trong một đời thành tựu mười thân, các đệ tử khác đều như vậy. Thiện Tài đi về phương nam cầu học bậc thiện tri thức thành tựu viên mãn quả Phật như Từ Thị. Lại nhập thân Phổ Hiền, đầy đủ pháp môn lý sự rõ ràng, pháp giới có trong một hạt bụi, làm sao có hướng về lễ lạy?
- Sự thọ ký cho hàng Thanh văn khác: Kinh Pháphoa. Long nữ tuy chứng pháp giới, thấu triệt quả Phật, nhưng ba thừa những người có tâm tin thuận, chưa diệt gió vọng, chưa được chứng nhập, mà phải trải qua nhiều kiếp mới chứng đạt, nên thọ ký lâu xa. Kinh Hoanghiêm, mê la phàm phu, ngộ là Phật. Dù còn tập khí nhưng nhờ sự hiểu biết của Phật điều phục. Nếu không đều phục bằng trí Phật thì không vào dòng Phật, phải trải qua nhiều kiếp mới chứng nhập. Hàng sơ cơ của ba thừa, lòng tin còn yếu, không cắt đứt mọi sự ràng buộc, luôn bị phiền khuyến khích người khác não giam cầm, tham đắm trong sanh tử, tuy cầu xuất thế nhưng căn tánh kém cõi luôn vướng mắc, thoái lui. Nên Như Lai thuyết giảng về sanh, già, bệnh, chết, vô thường, bất tịnh thay đổi từng sát na, vọng niệm liên tục sanh khởi, nhờ vậy họ quán sát, chán ghét sanh tử, thành tựu tâm chán ghét, tâm lại sống trong phân biệt sạch nhơ. Lúc giáo hóa, vì khả của họ như vậy, Như Lai tuy chuyên tu bi trí, thành tựu quả Phật nhưng lại để cõi tịnh ở nơi khác. Vì ba thừa chưa đoạn vọng kiến, thấy cõi Ta-bà là nhơ uế, đủ nhân quả, nên đoạn trừ tâm nghi, dần được thanh tịnh. Nhưng Như Lai thâu thần, cõi ấy lại nhơ uế. Giáo hóa ba thừa phải có văn tự rõ ràng, nghĩa là dùng trí quán vô thường, tập tánh khó chuyển. Long nữ tuy chứng ngay Phật thừa, chúng sanh tuy tin nhưng chưa chứng đạt. Vì thế, lúc thuyết Kinh Pháp-hoa, những người được thọ ký đều phải trải qua nhiều kiếp tu tập. Ở Pháp-hoa chỉ dạy dần dần, ở Hoa-nghiêm ngay lúc phát tâm là thành Phật. Do vậy hạnh nguyện căn tánh khác nhau, có hai pháp giống nhau: nhứt thừa Như Lai thừa, thẳng đếm đạo tràng. Như Lai thừa là nhứt thừa. Phẩm Hiền-thủ của Kinh Hoanghiêm chép: tất cả chúng sanh ít ai cầu Thanh-văn thừa, cầu Duyên-giác thừa càng ít hơn, cầu Đại thừa thật hy hữu. Người cầu Đại thừa còn dễ, người tin pháp này thật khó. Hơn nữa Kinh dạy: Với chúng sanh có tâm chán ghét, thuyết pháp Thanh-văn để trừ đau khổ, với chúng sanh nhanh nhẹn hơn, thuyết pháp Duyên-giác để đạt Bích-chi-phật, với chúng sanh tu tâm từ bi đem lợi ích cho chúng sanh, thuyết pháp Bồ-tát. Với chúng sanh thích việc lớn, hiện thân Phật thuyết pháp không cùng tận. Đó là bốn thừa của Kinh Hoa-nghiêm. Như ba xe trước của trong Kinh Pháp-hoa là quyền giáo, trâu trắng trên đường là Thật giáo. Chỉ một thừa huống có hai ba thừa. Ngoài quyền giáo nơi hai thừa ba thừa ra là Thật giáo. Bốn thừa hợp với hai giáo, nhưng việc giáo hóa khác nhau. Hơn nữa Kinh Pháp-hoa dạy: Chỉ một thừa là thật, ngoài ra là quyền. Từ một văn này chia ra ba thừa, sự hợp nhứt của pháp là thành bốn thừa. Chỉ một pháp thật là Phật thừa. Hai giáo là Bồ-tát Đại thừa và Duyêngiác Thanh-văn. Vì Thanh-văn Duyên-giác đều chán khổ. Song, như gương sáng soi thấy mọi ảnh tượng cùng lúc thấy hai Long nữ, lấy tánh ba đời. Hơn nữa, từ phàm phu đến Thánh vị không biến khác. Đây gần giống pháp môn nhập đạo hạnh giải của Thiện Tài. Thiện Tài còn một đời thành Phật nghĩa là ngay phút giây hiện tại, thấy tánh ba đời xưa nay là một, đủ cả việc Long nữ chuyển thân thành Phật, trọn vẹn hạnh Phật. Đó là pháp căn bản vì pháp vốn vậy. Trí phân biệt, kiếp số là vận tình thế gian. Thiện Tài chứng đạt pháp này nên nói một đời thành Phật. Đã không có thời gian ba đời, làm gì có sự thọ sanh? Đó là mười thứ khác nhau. Long nữ chuyển thân nhưng Thiện Tài không thay đổi, là khác nhau về chuyển hay không chuyển.
8) Kinh Đại Tập: Lấy sự gìn giữ Phật pháp làm tông chỉ. Vì Kinh này xây dựng làng báu ngay khoảng giữa cõi dục và cõi sắc, trời, người, ma, phạm, quỉ, thần, Bồtát ở nơi khác đều đến đây. Các loài quỉ thần có loài không đến, Tứ-thiên-vương phóng bánh xe sắt nóng, khuyến chúng đến chỗ Phật, Như Lai dạy chúng giữ gìn Phật pháp. Trong các loại ma, có một loài không nghe lời Phật, tự nói: Đợi khi chúng sanh thành Phật hết ta sẽ phát tâm bồ đề.
9) Kinh Niết-bàn: Tông Phật tính. Ở đây có mười thứ khác và một thứ giống Kinh Hoa-nghiêm. Mười thứ khác: 1) Nơi thuyết pháp; 2) Cảnh giới trang nghiêm; 3) Đệ tử nghe pháp; 4) Người thuyết người nghe; 5) Pháp được nghe; 6) Cõi nước; 7) Thân; 8) Hiện tướng thọ sanh diệt độ; 9) Giáo hạnh tướng; 10) Thiện tri thức. Một thứ giống như trên núi tuyết có cỏ phì nị, bò ăn cỏ này cho sữa thuần là đề hồ, không có các sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen.
- Nơi thuyết pháp: Kinh Niết-bàn được thuyết ở rừng Ta-la-song-thọ, bên bờ sông A-lợi-la-bạt-đề thuộc nước Câu-thi-na. Kinh Hoa-nghiêm được thuyết ở cây bồ đề trong đạo tràng bồ đề thuộc nước Ma-kiệt-đề.
- Cõi nước trang nghiêm: Lúc thuyết Kinh Niết-bàn, Ta-la-song-thọ, nơi phước đức tốt lành, rộng 32 do tuần, vô số chúng sanh ở đó, vô số Bồ-tát trong mười phương đều đến. Kinh dạy: Lúc ấy nhờ thần lực của Phật, mặt đất của ba ngàn đại thiên cõi nước đều mềm mịn, không có cỏ, gai, cát, đá, gò đống, trang trí các thứ báu như cõi Cực-lạc của Phật Vô-lượng-thọ ở phương Tây. Ai nấy đều thấy vô số cõi nước trong mười phương rõ như soi gương. Văn sau lại dạy: Ta-la-song-thọ, bỗng nhiên biến thành màu trắng (rõ như trong kinh). Lúc nói Kinh Hoa-nghiêm, mười cõi nước Liên-hoa-tạng gồm 20 tầng, tầng dưới nhứt có số cõi nước bằng số bụi trong mười cõi Phật. Mỗi nước lại có vô số nước nhỏ nhiều như số bụi trong 20 cõi Phật. Các tầng trên nhiều hơn nữa. Trong mười cõi Liên-hoa-tạng mặt đất bằng kim cương, cây cối, lầu gác ao vườn đều được trang trí bằng báu vật. Kinh dạy: Ta nghe: Một thuở nọ lúc đức Phật thành chánh giác ở đạo tràng bồ đề thanh tịnh, thuộc nước Makiệt-đề, mặt đất bằng kim cương bền chắc, được trang trí bằng các báu tốt, hiển hiện đủ vô số hình sắc, kể cả cõi nước của vô số Phật thành đạo trong nhiều kiếp. Đó là ca ngợi sự trang nghiêm của cõi Phật (phẩm Hoa-tạng thế giới ở phần sau chính là sự trang nghiêm của thật báu thân Như Lai). Khác với kinh Niết-bàn, Phật dùng thần lực, vì chúng sanh hóa hiện cõi thanh tịnh. vì sao? Vì ba thừa căn tính khác nhau. Nếu không nhờ thần lực Phật thì không thể tự thấy được. kinh Hoa-nghiêm, hàng nhứt thừa căn tính thuần tịnh. Hàng Thanh-văn vì căn tính khác nhau nên dù ở trong đạo tràng vẫn không thấy được nên phải nhờ Phật lực. Pháp vốn như vậy. Thần lực Phật, hợp với chơn như là thần, không thật nhưng vì giúp cho hàng phàm phu thấy nên là thần. Nên biết rằng cõi Hoatạng vốn là thật báu, thần lực trong kinh Niết-bàn là quyền biến. Hơn nữa, kinh Niết-bàn nói cõi tịnh cách cõi này vô số, cõi nước bằng số cát trong 32 sông hằng về phía Tây, không phải ở cõi này, nên là ảo hóa, không phải thật.
- Đệ tử đến nghe khác: Thuyết kinh Niết-bàn, đệ tử đến nghe pháp đều thuộc trời, người, hàng ba thừa thương nhớ Như Lai khóc than thảm thiết, dâng củi quý hương thơm, than thở sầu đau quyến luyến Phật. Chỉ hàng Bồ-tát nhứt thừa mới có khả năng nghe pháp diệt độ của Phật, ngoài ra đều không thể nghe được, thuyết Kinh Hoa-nghiêm, đệ tử nghe pháp đều là hàng Bồ-tát nhứt thừa đạt quả vị Phật, đủ trí lớn, không có hạng khác, trời, người, quỉ, thần đều vào dòng trí Phật, đủ sự hiểu biết của Phật. Ngay lần thuyết pháp thứ nhứt, vô số Bồtát nhiều như số bụi trong mười cõi Phật đều từ biển căn lành của Phật, biển căn lành chính là pháp thân, trí lớn của Phật. Các đức Phật đều có từ trí căn bản, từ pháp thân. Nếu không, tất cả hạnh nguyện đều thuộc hữu vi. Đại chúng ấy từ lúc mới phát tâm nhập biển trí Phật đã đủ hành tướng sai biệt sâu cạn của mười tín, mười trụ, mười hồi hướng, mười địa đẳng giác. Đủ cả hạnh ba thừa trong Niết-bàn, trời người đều đến đạo tràng. Trong Hoa-nghiêm không có chúng ba thừa dù có vẫn không nghe được. Do vậy chúng Thanh-văn, Bồ-tát, trời, người trong Niết-bàn khác với trong Hoa-nghiêm, ở đây toàn là Bồ-tát nhứt thừa, vị mới phát tâm cũng đồng quả vị Phật, vào dòng trí Phật, có sụ hiểu biết như Phật, là đệ tử chơn thật của Phật.
- Người thỉnh pháp khác: kinh Niết-bàn người thỉnh pháp là các Bồ-tát, Ca Diếp, Văn Thù Sư Lợi, Sư Tử Hống, tôn giả Xá Lợi Phất, Ma vương ba tuần thỉnh Như Lai nhập Niết-bàn. Kinh Hoa-nghiêm, người thỉnh pháp là Phổ Hiền, Văn Thù, Giác Thủ, Pháp Huệ, Công Đức Lâm, Kim Cang Tràng, Kim Cang Tạng. Cứ thế có mười Bồ-tát tên Giác Thủ, mười Bồ-tát tên Pháp Huệ, mười Bồ-tát tên Công Đức Lâm, mười Bồ-tát tên Kim Cang Tràng, mười Bồ-tát tên Kim Cang Tạng… đều là Bồ-tát đạt quả vị Phật, đủ pháp môn hành tướng của quả Phật và năm vị. Trong các vị đều có quả vị Phật. Do vậy người hỏi đáp kinh Hoa-nghiêm đều là Bồ-tát ở cõi này trong mười phương, đủ thần thông pháp giới, trí tuệ chơn thật, ứng hiện khắp mười phương không đi mà đến, làm mọi việc hợp với tánh pháp, chẳng phải do việc đời trước. Nay trong một hạt bụi có vô số thân, trong một mảy trần hiện vô số ảnh tượng, pháp giới mười phương đều như vậy, mọi nơi đều tự nhiên, có nhưng không từ đâu đến, tự nhiên mất nhưng chẳng đi về đâu. Mọi nơi mọi lúc, đủ mọi ảng tượng, thân cảnh sông núi, hư không, có không tự tại, lớp lớp đan cài. Do vậy khác với kinh Niếtbàn, Ca Diếp, Xá Lợi Phất sanh trong nhà thế tục, thị hiện đồng với phàm phu chỉ dẫn hàng ba thừa, thấy Phật Niết-bàn lại buồn thương khóc than, kinh Hoa-nghiêm-Pháp được thuyết khác: kinh Niết-bàn đức Như Lai và hàng nhị thừa, Thanh-văn, Bồ-tát quyền học, thực hành các pháp quán, chưa trừ chướng hoặc chấp ngã, tham đắm các hạnh, chấp giữ hành tướng, nên không biết tự thể vốn có của pháp thân không tạo tác, không chứng đắc, không tu tập. Nhờ việc tu tập hiển hiện người tu và pháp chứng đắc Niết-bàn bồ đề: "Các hành vô thường là pháp sanh diệt, không còn sanh diệt, tịch diệt là vui". Pháp tu người chứng đều là đều là pháp sanh, Niết-bàn là pháp diệt. Nếu tâm còn thấy có người tu và pháp chứng thì không đoạn trừ sanh diệt. Vì không đoạn trừ sanh diệt nên không hiểu chơn lý. Khi đoạn trừ việc thấy người tu và pháp chứng mới hợp thấy chơn lý. Vì thế Như Lai ẩn thân không hiện, đoạn trừ tâm năng-sở, đó là đại Niết-bàn. Niết-bàn của nhị thừa còn năng-sở nên là hữu vi vô lậu. Niết-bàn của Như Lai không còn năngsở. Bởi vậy kinh Niết-bàn, Thuần Đà nói với Văn Thù Sư Lợi chớ cho rằng Như Lai như các hiện tượng khác. Hơn nữ Văn Thù Sư Lợi! Vì hàng biết mà nói, không biết mà nói nên nói Như Lai như các hiện khác. Nếu vậy Như Lai không phải là vua pháp, tự tại trong trời người. Thế nên kinh Niết-bàn dạy hàng ba thừa biết người tu và pháp chứng đều là vô thường, không có sanh, Niết-bàn chứng đắc cũng không, không hành, không tu là đại Niết-bàn. Đó là tịch diệt viên mãn. Do vậy kinh Niết-bàn muốn hàng ba thừa-những kẻ tham đắm các hành, đoạn trừ hành và sự tu tập. Với người thấy có chứng đắc dạy họ pháp quán không chứng không tu. Kinh Hoa-nghiêm tất cả đệ tử đến nghe pháp, trời người... đều đồng quả vị Phật, vừa phát tâm đạt lý sự tự tại, lý hạnh không ngại, lập tức chứng đắc lý Văn Thù hạnh-Phổ Hiền như dấu in trên đất, cùng lúc chứng nhập không có trước giữa sau. Tất cả đều có từ pháp căn bản, vì pháp vốn vậy. Nếu còn thấy có trước sau, nhân quả, đầu cuối thì là hàng phàm phu, là sanh diệt. Có thành hoại là tuỳ căn cơ phá bỏ sự ràng buộc, không chỉ cho pháp thành Phật. Giáo pháp của các kinh khác đều từ biển quả lý-trí của Hoa-nghiêm, mới là khế hợp. Từ nẻo giáo pháp chỉ rõ vật như ở trước gương dần dần sáng tỏ, hãy xem toàn bộ văn kinh, dùng trí quán sát tuỳ thuận chiếu soi, tự bừng ngộ, mặt trời trí tuệ ra khỏi đám mây mù, lên thẳng núi mầu, vào sâu biển trí, dùng nước định trù sạch kiến chấp Thánh phàm. Bitrí hai nẻo phải nhờ pháp thân mới hiển hiện. Kinh Hoanghiêm dược thuyết cho người liễu ngộ, như đem tòa báu cho kẻ phàm tình, khi tỉnh, giấc mộng ngàn năm tan biến. Kinh Niết-bàn giảng: trên núi tuyết cỏ Phì Nị, bò ăn cỏ ấy cho sữa thuần là đề hồ, không có sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, đen. Người có tâm trí lớn cũng thế, vừa thấy Phật tánh sẽ thành chánh giác, không cần phải đi từ thấp đến cao. Do vậy người nghe pháp khác nhau. Kinh Niếtbàn đưa ngọn về gốc, chưa nói về thể dụng vô ngại của trí bi.
- Cõi nước thanh tịnh, uế khác nhau: Kinh Niết-bàn nêu cõi báo thân của Phật ở phương tây, cách vô số cõi nước bằng số cát trong 32 sông Hằng. Đó là về hàng quyền học của ba thừa chưa đoạn trừ sự phân biệt về tịnh uế, thấy cõi Ta-bà này là cõi xấu ác, nên Như Lai tạm đưa cõi thật báo ở phương tây. Kinh Hoa-nghiêm cõi Tabà vốn tịnh, cõi nước trong mười phương cũng tịnh. Vì
Bồ-tát thật giáo đoạn trừ sự phân biệt về nhơ sạch, cảnh giới dưới mắt họ là thanh tịnh. Bồ-tát quyền giáo thấy cảnh giới không cấu nhiễm nên Phật chỉ cõi thật báo ở phương tây.
- Báo thân, hóa thân khác nhau: Kinh Niết-bàn dạy: Thân 32 tướng tốt là hóa thân Niết-bàn là tịch tịnh viên mãn, là chơn thật. Vì tất cả tướng tốt đều có từ thật tướng. Kinh Hoa-nghiêm nêu thân Tỳ-lô-giá-na là lý sự không ngại, pháp thân không mất nhưng tùy thuận hóa thân, thân ấy không thể hạn lượng, bao la rộng lớn ngay tướng là tánh, ngay báo là lý, như Ánh sáng như bóng tự tại không ngại. (Phần sau sẽ nói rõ về hóa thân và báo thân).
- Hiện tướng thọ, sanh, diệt độ khác: Kinh Niết-bàn nêu đức Như Lai vì trời người, Thanh-văn, Duyên-giác... hiện tám tướng thành đạo như: Từ Đâu suất giáng thần vào thai mà là thường, lạc, ngã, tịnh, không trước sau, không sanh, diệt nhưng vẫn ẩn thân không hiện, cõi báo thân ở phương tây cách vô số cõi nước bằng số cát trong 32 sông Hằng. Ngoài cõi ấy có cõi thật báo của đức Thích Ca. Cõi Ta-bà này là cõi uế trược. Đó là để chỉ dạy hàng quyền học. Kinh Niết-bàn khác, chỉ rõ pháp thân căn bản vượt ngoài sự hiểu biết của chúng sanh, không có trước sau ba đời, là báo thân chơn thật viên mãn, không sanh diệt, chẳng còn mất, tánh tướng không ngại, pháp môn tự tại, phân biệt chỉ dạy hành tướng cho hàng thượng căn, khác với hàng quyền học phải tuần tự thành tựu. Như lên núi cao chín nhận mà không lên đến đỉnh, người lên nhà mười tầng không mất vết chân. Người ta thường cho rằng: Quan nhứt phẩm mới là đại thần. Nay bỗng nhiên nghe xưa có sĩ phu thân vào ngay ngôi nhà thì ngạc nhiên. Song một khi thấy rõ, không còn phân biệt phương hướng, eo chằm sông biển tràn đầy, ngay một hạt bụi đủ tánh không, pháp giới nào khác biệt! Chúng sanh luôn bị trói buộc, căn tánh khác nhau nên có Quyền giáo, Thật giáo. Vì pháp môn có vô số nên phải biết pháp nào là quyền, pháp nào là thật, bỏ giả tu chơn, không nên vướng mắc mãi trong quyền giáo, chẳng biết pháp thật.
- Hành tướng giáo pháp khác: Phẩm Tánh Như Lai đối với Bồ-tát Thập địa của kinh Niết-bàn dạy: Bồ-tát mười địa còn chưa hiểu rõ Phật tánh, mười tín phàm phu, mười trụ... thấy được một phần Như Lai táng nên có việc tuần tự tu tập mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa đến vị. Đẳng giác mới hiểu hạnh quả, trọn vẹn vi Diệu giác là Như Lai nên có câu: Như núi tuyết có cỏ Phì Nị bò ăn cỏ thuần là đề hồ, không có sắc xanh, vàng, đỏ, trắng. Tuy có thuyết Đốn giáo nhưng phải biết rằng Kinh này còn có pháp môn của năm thừa, sáu thừa, bảy, tám, chín, mười thừa. Ngoài Thanh-văn và Duyên giác thừa Kinh này còn có ba bậc Bồ-tát, kể cả hai thừa trên là năm thừa, cộng thêm người, trời tu năm giới, mười thiện thành sáu, bảy, thừa và hàng ba thừa nghe pháp đạt pháp thành chín thừa. Hành động của ba bậc Bồ-tát ra sao?
1) Tu pháp vô ngã. 2) Từ mười trụ đến mười địa dần thấy Phật tánh; 3) Như cỏ Phì Nị trên núi Tuyết, bò cho sữa thuần là đề hồ mà không cần tu các giai đoạn sữa, váng sữa sanh tô, thục tô. Phẩm Như Lai tánh có dạy:
Đại Bồ-tát khi đã thấy tánh đều nói: Hy hữu thay! Đức Thế Tôn! Chúng con trôi lăn mãi trong dòng sanh tử, luôn bị vô ngã mê hoặc trong kinh Pháp-hoa, Hoanghiêm nói: Đó chính là có các vị Bồ-tát trải qua vô số kiếp tu tập sáu ba-la-mật, đạt sáu thần thông đọc tụng thông hiểu tám vạn bốn ngàn pháp vẫn còn không tin kinh sâu mầu ấy. Thần thông đạt được ấy không có từ nơi tánh mà là do tu pháp lành và quán vô ngã. Quả báo hơn chư thiên. Lại như người ở cõi Uất Đơn Việt phương bắc là do đời trước tu pháp quán vô ngã, sống lâu ngàn tuổi, y phục thức ăn tự nhiên có, hạt cơm nấu bằng ngọc châu, hương tỏa mọi nơi, không có pháp Phật, không đạt giải thoát. Đó là do hiểu biết sai lầm của quá khứ nên nhớ mãi không quên. Như thế kinh Niết-bàn có đủ trời người, ngoại đạo, ba thừa, tất cả đều trở về Phật tánh, Niết-bàn viên tịch, chơn lý không tánh, nhưng chưa đề cập đến thật báu tướng, không có mình người, gồm đủ lý sự, trí dụng không ngại, vẫn còn lập ra mình người, tịnh-uế nên cõi thật báo của đức Thích Ca ở phía tây cách vô số cõi nước bằng số cát trong 32 sông Hằng. vì căn tánh chưa trọn vẹn nên tuỳ theo khả năng lập giáo. Hàng ba thừa vướng nơi Phật tánh, viên tịch chơn như nên chưa chỉ rõ báo tướng đan xen; sợ kẻ vọng kiến, sanh mê hoặc chấp trước, trở ngại cho sự thấy biết pháp thân. Vì thế pháp của quả Phật sau mười địa trong kinh Niết-bàn chính là sự thấy biết của hàng sơ tâm mười trụ trong kinh Hoa-nghiêm, Bồ-tát Thập trụ phát tâm thứ nhứt thấy đạo là thấy không có mình người, không trước sau, xưa nay, thân tâm, tánh tướng vốn là Phật. Pháp đó là pháp giải thoát, đi xe Như Lai thẳng đến đạo tràng, Đồng tử Thiện Tài, một vạn rồng, sáu ngàn Tỳ-kheo, 500 Cư sĩ nam, 500 Cư sĩ nữ, 500 đồng tử, 500 đồng nữ đầu thông năm vị, đủ pháp lý trí nơi quả Phật, Trụ thứ nhứt là địa thứ mười, trụ thứ nhứt là quả Phật. Nếu trụ thứ nhứt không phải là quả Phật thì hàng quan lại ở thế gian, cửu phẩm đến nhứt phẩm chỉ được gọi là quan mà không được gọi là vua. Nên biết, về quyền giáo lập ra năm vị, tuần tự chứng nhập, trải qua ba tăng kỳ kiếp, nhưng chỉ được gọi là Bồ-tát mà không được gọi là Phật, không gọi là đi xe Như Lai đến thẳng đạo tràng, chỉ là tu quán vô ngã, lòng từ hơn nhị thừa nhưng chưa thấy Phật tánh nên là Bồ-tát. nếu thấy một phần Phật tánh cũng đạt Phật thừa như mỗi giọt nước trong sông suối đều như nước biển. Vì thế năm vị Bồ-tát mười trụ, mười địa đều có quả Phật. Tu tập các hạnh bằng Phật tánh vì Phật tánh ấy có đủ sự tu tập. Kinh Hoa-nghiêm nêu mười trí của Như Lai nên bất động trí... để hàng phàm phu tin tưởng tu tập. Như người tự nhiên được ngôi báu, làm vua biết mọi việc triều chính và các phẩm vật quan lại. Hành tướng pháp môn của Bồ-tát kinh Hoa-nghiêm cũng vậy. Ngay trụ phát tâm thứ nhứt đã thấy được pháp thân Phật tánh, trí không tạo tác, tu tập các hạnh nguyện của Phổ Hiền, tuỳ thuận nhơn duyên không vướng mắc, đều là không tạo tác. Kinh Niết-bàn dạy Phật tánh không do tạo tác, chỉ vì bụi phiền não che lấp. Ở đây trụ phát tâm thứ nhứt dùng định không tạo tác hợp với chơn như, khách trần phiền não hoàn toàn không thật mà là dụng của chơn thể. Tự tại không tham si là Phật, một niệm tương ưng là thành Phật một niệm, một ngày tương ưng là thành Phật một ngày, cần gì phải trải qua nhiều kiếp tuần tự tu tập? Quả vị đạt được do tu tập ba A-tăng-kỳ kiếp nhưng tâm còn thấy có kiếp số thì đến bao giờ hết chướng? Pháp của Phật vốn không có thời gian. Nếu tính thời gian thì không phải là Phật thừa.
-Thiện tri thức khác: Kinh Niết-bàn dạy, Đồng tử tuyết sơn gặp La sát phát tâm tu tập, chỉ nghe nữa câu kệ mà xem thường thân mạng, nghe: "Các hành vô thường, là pháp sanh diệt, đọa từ sanh diệt tịch tịnh là vui", Phật tánh-Niết-bàn không do tu hành nên các hành là hữu vi, vô thường, không do tu chứng vì nêu vậy là còn thấy người tu, pháp chứng. Vì thế không thể đạt tánh bằng các hạnh, không thể ngộ lý bằng tâm chứng. Tâm là tánh, hoàn toàn không có người tu pháp chứng. Do vậy Thuần Đà nói: Chớ cho rằng Như Lai là các hành. Như đồng tử Thiện Tài cầu học với 53 thiện tri thức, từ Văn Thù đến Phổ Hiền đều nói: Tôi đã phát tâm vô thượng bồ đề, sao còn dạy tôi học đạo Bồ-tát, hành hạnh Bồ-tát mà không nói các hành vô thường... Vì sao? Vì kinh Hoa-nghiêm nói về pháp giới duyên sanh, lý sự không hai, tất cả đều tịch tĩnh, chơn như. Cõi nước mười phương là tánh chơn như. Trí viên mãn là cõi nước, là biển tánh, là nhút thiết chơn pháp giới, chẳng do hữu tình vô tình-những kẻ theo nghiệp báo nói: Cảnh giới chơn như trong kinh Hoanghiêm là trí. Cõi nước của Bồ-tát mười trụ là tuệ. Cõi nước của Bồ-tát mười hạnh là trí, cõi nước của Bồ-tát mười hồi hướng, mười địa là diệu, không có vọng kiến sai biệt của hữu tình, vô tình. Vì kinh Hoa-nghiêm khác với ba thừa. Ba thừa có hữu tình và vô tình, sanh diệt nên đồng tử Tuyết sơn trong Niết-bàn nói các hành vô thường. Vì căn trí tánh hạnh của Bồ-tát thừa yếu kém, đức Phật khuyên họ dùng hạnh để điều phục pháp ác mới có thể nhập đạo. Họ lại cho rằng các hành là thật nên làm chướng ngại tánh không tạo tác, không hợp chơn lý. Vì thế nói các hành vô thường, người tu pháp chứng đều là pháp sanh diệt. Khác với Thiện Tài vừa phát tâm là không còn phân biệt chủ thể-đối tượng, hiểu rõ tánh ba đời vốn không, biết tâm mình la Phật, không thành chánh giác, không chứng bồ đề. Thân tâm tánh tướng không tu chứng, không thành hoại, từ xưa đến nay vốn vậy, tuỳ thuận nhơn duyên hành động, không chấp có không, làm mọi việc đều bằng trí nên không nói các hành vô thường.-Một điểm giống nhau như dụ cỏ Phì Nị trên núi Tuyết của kinh Niết-bàn: Lại như phẩm Ánh sáng chiếu thân Bồ-tát Cao Quý Đức Vương dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, Phật, Pháp, Tăng không sai khác, tánh tướng Tam bảo là thường, lạc, ngã, tịnh, tất cả các đức Phật không nhập Niết-bàn. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Như Lai không ra đời, cũng không nhập Niết-bàn, kinh Niếtbàn đức Phật chê trách kiến chấp của hàng nhị thừa, cho rằng Như Lai từ cõi Đâu Suất giáng thần vào thai... là tám tướng thành đạo. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Trí nhập ba đời nhưng không đến đi. Các đức Phật trong mười phương vì không chấp có ba đời xưa nay nên thành đạo bồ đề. Khoảnh khắc thấy đạo, kiến chấp xưa nay đoạn trừ, mới cũ đều không, lại không thể nói có vô số Phật trong trăm ngàn ức kiếp quá khứ hay vị lai mà là cùng lúc thành Phật. Vì các đức Phật không thấy có ba đời, vì không có thời hạn nên không có đến đi. Cho dù chúng sanh không thấy mình vốn là chánh giác thì bản giác ấy không mất. Ngược lại, dù chúng sanh thấy mình vốn là chánh giác thì bản giác ấy cũng không sanh, xưa nay vốn vậy, nào có người giác và pháp được giác? Nếu có giác cũng là bản giác, vì không có chủ thể-đối tượng. Như vậy cảnh giới bản giác của Phật, không có phàm Thánh, chẳng định loạn, không tu chứng, không trí ngu, sanh diệt. Quyền giáo ba thừa là dắt dẫn kẻ yếu kém đạt đến thật giáo Hoa-nghiêm, lãnh pháp quả Phật. Về lý, pháp thân Phật tánh của kinh Hoa-nghiêm và Niết-bàn tuy giống nhau nhưng về thân Phật, cõi thật báo, trí dụng hoàn toàn khác nhau. Pháp của kinh Pháp-hoa, Niết-bàn tuy là ứng hóa của Phật nhưng đều dạy nhị thừa trời người thành tựu pháp nhứt thừa. Vì thế kinh Pháp-hoa là phá trừ sự trói buộc của ba thừa, nên nói Long nữ nhờ bản giác chỉ trong tích tắc đạt bồ đề. Kinh Niết-bàn phá trừ kiến chấp "Xiển đề không có Phật tánh" nên nói đồ tể thành chánh giác. Lại nói bò ăn cỏ Phì Nị núi Tuyết là cho ra đề hồ mà không cần qua giai đoạn sữa, váng sữa... mới thành đề hồ. Ngay tức khắc là đề hồ mà không biến đối thể tánh như quả vị chứng đạt. Về mặt tổng quát, Niết-bàn, Pháp-hoa đều có mục đích làm cho ba thừa bỏ quyền tu thật, thành tựu pháp giới chơn như. Các pháp ấy đều là phương tiện chỉ dạy nhưng chỉ nói về một phần sự lý chứ chưa nói hết. Chỉ có pháp căn bản Tỳ-lô-giána của pháp giới Hoa-nghiêm mới đầy đủ tánh tướng. Các học thuyết quyền biến khác được qui về một mối.
Tuy sự tu tập của các học giả có nhanh chậm, sự chấp chặt nhiều kiếp về quyền giáo nên thấy có ngu muội, khổ đau, không phải do pháp Phật.
Hỏi: Như kinh Niết-bàn dạy: Trong đời hiện tại đồ tể thành Phật. Lại như Phật nói: Trong đời hiện tại có một ngàn đức Phật ra đời, con số đó đã nói rõ trong kinh. Nếu có một đồ tể thành Phật thì hơn một ngàn vị, vì sao? Đáp: Hàng ba thừa quyền giáo chưa đoạn trừ mọi sự ràng buộc nên không thành Phật. Nhưng về mặt thể tánh, ba đời các đức Phật đều cùng lúc thành chánh giác, không trước sau, không ngăn ngại. Vì thể tánh của pháp vốn không có thời gian. Phàm phu vì bị trói buộc nên thấy có thời gian. Từ lưới vọng kiến thấy Phật ra đời, kỳ thật các đức Phật ứng hợp chơn như không ra đời hay nhập Niết-bàn. Vì vậy kinh Hoa-nghiêm dạy: Các đức Phật không ra đời cũng không nhập Niết-bàn, đức Phật ứng hợp với chơn như, luôn tịch tĩnh, tuỳ thuận duyên sanh hiện thân độ sanh nhưng không đến đi, không tạo tác.
10) Kinh đại phương quảng Phật Hoa nghiêm: Tông Phật thừa căn bản, nhân quả viên mãn, pháp giới sự lý tự tại, duyên sanh không chướng ngại. Kinh này lấy Phật thừa làm tông, thuyết về tự thể trí bi, quả đức Tỳ Lô giá Na chỉ dạy chúng sanh những kẻ có căn trí lớn, nhờ nhân tin quả đức của Phật mà thành tựu các vị. khi đã tin tu tập lý trí, các hạnh, công dụng của đại bi quả đức là chứng đạt đầu tiên, vừa phát tâm là thành tựu chánh giác, tu tập cả lý hạnh, thể dụng tự tại không phải một. Nếu hạnh không đúng thì lý thêm lớn thiên kiến. Kinh này có mười pháp rộng lớn sâu xa khác với những kinh khác.
1) Phật thừa, tự thể căn bản, trí trí, đại bi pháp giới viên mãn không hạn lượng, chẳng phải pháp chỉ dạy cho ba thừa.
2) Thân Phật và báo thân và pháp thân với vô số tướng tốt, mỗi lỗ chân lông bao hàm cả pháp giới, tất cả cõi nước đan cài không cùng.
3) Kinh này nói về mười cõi thật báo của Phật trong đó có một cõi tên Liên Hoa Tạng. Cõi Hoa Tạng thấp nhứt có vô số bụi trong mười cõi Phật. Trong mỗi cõi nước đó lại có vô số cõi nước nhỏ bao quanh càng lên cao, số lượng cõi nước càng nhiều. Mỗi cõi Hoa Tạng rộng bằng hư không, đan xen nhau không cùng.
4) Kinh này nói cây bồ đề cao lớn lạ thường, thân cây bằng kim cương, nhánh cây bằng lưu ly, lá hoa bằng các báo xen tạp, trái bằng ma ni xen kẻ giữa các hoa như cây bồ đề hiện trong thân Bồ-tát Kim Cang Tạng. Chu vi thân bằng mười vạn tam thiên đại thiên cõi nước, cao trăm vạn trăm thiên đại thiên cõi nước. Cành nhánh tương xứng với thân cây.
5) Kinh này nói điện Phổ Quang được trang trí bằng vô số báu vật, lầu gác, thềm thang, cây cối đều rực sáng, ngang bằng pháp giới.
6) Trong kinh này, Văn Thù Sư Lợi có khắp mọi nơi, thể dụng của Phổ Hiền cũng cùng khắp pháp giới, lý sự không ngại, trong một hạt bụi gồm đủ vô số hạnh.
7) Kinh này nói chỉ trong tích tắc, Như Lai từ cõi trời Đâu suất xuống trần vào thai mẹ, thành Phật thuyết pháp, nhập Niết-bàn nhưng không bỏ báo thân. Vô số Bồ-tát khắp mười phương đề là thân sắc vàng, mắt xanh, sáng rực. Nơi nào cũng có Bồ-tát, đan xen nhau không ngăn ngại, tuỳ theo khả năng của chúng sanh mà hiện thân để dạy họ phát tâm bồ đề, không để mất thời cơ.
8) Kinh này dạy: Nếu chúng sanh những kẻ căn trí lớn-tin kinh sâu xa này, không đọc kinh khác, hiểu rõ thể dụng dùng phương tiện nhỏ, sớm đạt bồ đề, trụ phát tâm thứ nhứt là quả Phật. Phẩm Như Lai ra đời chép: Bồ-tát dù trải qua vô số kiếp tu tập sáu ba-la-mật và các pháp bồ đề mà chưa nghe pháp môn này, hoặc nghe mà không tin hiểu, không tùy thuận chứng nhập thì vẫn là Bồ-tát giả danh. Vì không sanh vào nhà Như Lai, đi khắp cõi nước Như Lai. Lại dạy: Phật tử! Đại Bồ-tát thành tựu công đức như vậy, chỉ dùng công sức nhỏ cũng đạt trí vô sư. Bồ-tát Phổ Hiền nói: Dù thấy Phật nghe pháp mà không tin nhưng đã tạo hạt giống trí tuệ giải thoát (như dụ làm cơm kim cang trong kinh). Kinh này là pháp môn oai đức rộng lớn khôn lường siêu việt cả ba thừa.
9) Phần đầu của pháp biểu hiện nói đồng tử Thiện Tài trải qua một đời không ngoài một niệm, đi khắp mười phương không ngoài một cõi, học hỏi 53 thiện tri thức đạt mười pháp môn. Thân tướng hạnh nguyện của mỗi pháp nơi Bồ-tát đều ngang bằng pháp giới, chỉ một đời tu tập mọi hạnh rộng lớn, thành tựu chánh giác, không trước sau đầu cuối, rộng lớn như pháp giới, rốt ráo như hư không.
10) Kinh này có mười cõi Phật, mười pháp không cùng tận, mười trí, mười địa, mười thân, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười biện tài, mười báu vật, mười thần núi, mười long vương, mười cõi nước, mười biển, mỗi thứ đều đủ pháp môn không cùng tận, mười cõi nước rộng lớn.
Kinh này có mười đức:
1) Như biển lớn, tất cả sông suối đều đổ về hòa nhập với biển. Cũng vậy, nếu chúng sanh tin hiểu, chứng nhập kinh này thì đồng biển trí, biển tánh và quả đức của Phật. 2) Như tất cả dòng sông đều có từ biển, ai uống cũng đều thấy một vị như biển, nhưng do nghiệp lực nên không thấy vị mặn. Cũng vậy, nếu chúng sanh-những kẻ căn trí lớn, nghe hiểu tin nhập kinh này sẽ đạt pháp thân Phật tánh, bi trí lớn của Như Lai. Hạng xiển đề không thể đạt được, nhưng trí tánh của Như Lai luôn là nhân thọ sanh.
3) Như biển lớn có bốn loại ngọc quý: a) tích tập; b) vô tận; 3) Viễn ly xí nhiên; d) cụ túc trang nghiêm. Phàm phu trời rồng không thể thấy được bốn loại báu này. Cũng thế tất cả các hàng nhị thừa, Bồ-tát quyền học tu sáu pháp Ba-la-mật, nhưng chưa chuyển tâm, không thể hiểu được kinh này. Chỉ những chúng sanh có căn trí lớn tu theo Phật thừa mới thấy nghe tin nhập kinh này, thấy mình cũ có ngọc trí lớn, sự hiểu biết như Phật. Phẩm Như Lai xuất hiện dạy: Vì sao chúng sanh không đủ trí tuệ của Như Lai lại không thấy biết? Ta dùng đạo chỉ dạy cho chúng sanh họ đoạn trừ vọng tưởng, chấp trước, thấy mình vốn có trí tuệ rộng lớn như Phật.
4) Như biển lớn, tất cả loài rồng cá... đều sống ở đó. Cũng vậy, tất cả chúng sanh trong khoảnh khắc có vô số các đức Phật từ tâm chúng sanh ra đời, thành Phật. Phẩm Như Lai xuất hiện dạy: Phật tử! Đại Bồ-tát biết tâm mình là Phật. Vì sao? Các đức Phật đều từ tâm ấy thành tựu chánh giác. Tâm Bồ-tát như vậy, tâm của tất cả chúng sanh cũng vậy.
5) Như biển lớn chứa nước mưa, vô số hạt mưa rơi vào biển lớn đều có cùng vị mặn không có trước sau. Cũng thế kinh này dạy: trụ phát tâm thứ nhứt là chánh đẳng giác, đều đạt nhứt thiết trí như Phật. Dùng phương tiện nhỏ sớm đạt bồ đề như Thiện Tài, Long nữ...
6) Như biển lớn là nơi ở của những loài lớn. Cũng thế. Kinh này là nơi an trụ của chúng sanh có căn trí lớn. Những con rồng ở ao chẳng thích ở biển lớn.
7) Như biển lớn không dung nạp thây chết. Cũng thế ai thấy nghe, tin hiểu, tu tập, ngộ nhập kinh này, vĩnh viển vứt bỏ xác chết. Xiển đề, phàm phu, quyền học, đồng pháp thân, trí lớn của Như Lai.
Như thủy triều lên xuống có chừng mực. Cũng thế, chúng sanh nào có khả năng tin nhận sẽ được nghe kinh này. Dù chỉ vui thích cũng được nghe, tuy có phân năm thừa pháp nhưng chỉ là một pháp vị. phẩm Như Lai xuất hiện chép: Phật tử! Tiếng nói của Như Lai cũng vậy, không chủ thể, không tạo tác, không phân biệt, không nói năng, không im lặng, tuỳ pháp lực của Như Lai mà có bốn loại tiếng: a) Các vị nên biết, các hành là khổ, như nỗi khổ của địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, kẻ không có phước đức, chấp ngã, sở hữu của ngã, làm việc ác, muốn sanh vào cõi trời người phải tu tập pháp lành, sanh vào chỗ trời người không ở nơi hiểm nạn, nghe vậy chúng sanh từ bỏ điên đảo, tu tập pháp lành, không ở nơi hiểm nạn, sanh vào chỗ trời người. Đây là nhơn thiên thừa. b) Các vị nên biết, lửa của các hành đang hừng hực thiêu đốt. Nghe vậy, chúng sanh không siêng năng tu tập đạt tùy thuận âm thinh nhẫn của bậc Thanh-văn, đây là Thanh-văn thừa. c) Các vị nên biết, Thanh-văn nhờ người khác giác ngộ cho mình trí tuệ yếu kém, còn có thừa cao hơn là Độc-giác. Người này tự giác ngộ, các vị hãy tu học, người thích tu tập, nghe pháp này, bỏ pháp Thanh-văn, tu hạnh Độc-giác. Đây là độc giác thừa. d) Các vị nên biết, ngoài nhị thừa còn có đạo thù thắng là Đại thừa, là hạnh của Bồ-tát tu sáu ba-la-mật, không đoạn hạnh Bồ-tát, không bỏ tâm bồ đề, sống trong sanh tử nhưng không chán ghét, vượt hơn nhị thừa. Đây là Đại thừa Bồ-tát, còn gọi là nhứt thừa, thắng thừa, tối thượng thừa, thượng thừa, vô thượng thừa, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh thừa. Ai tin hiểu là căn trí nhanh nhẹn, từng trồng căn lành, được Như Lai ủng hộ, vui thích cần tu đạt quả Phật. Nghe vậy, cần phát tâm bồ đề. Đây là Phật thừa. Phật tử! Tiếng nói của Như Lai không không phải là từ miệng nói ra, cũng không phải từ tâm im lặng, nhưng có khả năng tạo lợi ích cho vô số chúng Sanh. Phật tử! Đó là tướng thứ nhứt về âm thanh của Như Lai. Nên biết tiếng nói của Như Lai luôn tùy thuận sự nghe hiểu của năm thừa như thủy triều lên xuống chừng mực.
9) Như thể của biển không tạo tác nhưng có bốn loại châu báu. Bốn loại báu này tạo ra vô số báu khác. nếu không có bốn loại báu này thì không có các loại báu khác. cũng thế Như Lai có tánh thanh tịnh rộng lớn, tất cả chúng sanh cũng có tánh ấy. Tánh ấy không thể nói năng, nhưng vì tùy thuận duyên sanh. Như lại phát bốn trí, bốn tâm rộng lớn. Từ đó có vô số pháp môn quý báu, tạo mọi lợi ích an lạc cho chúng sanh. từ tánh rộng lớn ấy nếu không phát bốn trí, bốn tâm rộng lớn, dù có quả Thánh vẫn chỉ tùy thuận nhị thừa. tánh ấy tuy có bốn trí, bốn tâm rộng lớn, nhưng không có người tạo tác vì pháp không thể chứng đắc.
10) Như biển lớn, nhờ nước lặng trong mới soi thấy núi Tuyết Kim, Tu Di, Tứ thiên vương... tất cả đều hiển hiện rõ ràng trong đó. Cũng thế, kinh này có đủ tánh rộng lớn, pháp thân, công đức, mười thân, mười cõi Liên Hoa tạng, mười trí, mười vị, mười Ba-la-mật, mười định, mười nhẫn và nhân quả... Nói chung hình này từ tánh phát trí lớn, giới pháp là thể dụng, từ đó lập ra các địa pháp để hóa độ chúng sanh. Vì vậy ngay trụ phát tâm thứ nhứt đã thấy tánh, phát khởi pháp thân trí tuệ, thành bậc chánh giác. Từ tánh phát trí tuệ, thực hành hạnh nguyện hóa độ chúng sanh. Đó là giác hạnh viên mãn của Phật. Khác với quyền giáo, trước phải hành hạnh Bồ-tát, học pháp chứng chơn như hư giả. Vì quán chúng sanh chúng sanh gây chướng ngại cho chơn như, làm mọi việc đều là hữu vi. Tuy phát tâm bồ đề nhưng chưa đoạn sanh diệt, quán sát, điều phục vô minh, vọng chấp, hàng mười địa mới thấy tánh, trải qua ba kỳ kiếp mới thành Phật. 100 kiếp siêng tu tướng tốt. Nếu so với bản thừa của kinh Hoa-nghiêm thì sự hóa thân chỉ dạy ba thừa quyền học hoàn toàn không phải tin hiểu, cách Phật quá xa, chưa hiểu ý kinh Phật. Nếu người có căn trí lớn tin hiểu đúng kinh này là người đi xe Phật thẳng đến đạo tràng. Ngay lúc ngồi vào xe Phật đã là đạo tràng, không có đến đi. Kinh Pháp-hoa cũng là Phật thừa, nhưng là hóa Phật chỉ dạy ba thừa nhận biết pháp chơn thật. Vì thế có ba xe thượng trung hạ ở trước cửa nhà lửa: Dê, hưu, bò. Vì người thượng căn có một phần từ bi nên vượt hơn hai thừa. quán pháp giả, nhưng chưa có sự hiểu biết đúng nên là Bồ-tát giả danh. Ba hạng thượng trung hạ có đủ khổ đau của ba ác. Hạng trung hạ, Thanh-văn, Duyên giác vì sợ khổ ấy nên mong ra khỏi. Bồ-tát với căn tánh lớn chán ghét nhưng không rời khỏi. Vì lòng từ bi hơn hàng nhị thừa, có tâm tạo lợi ích cho chúng sanh. Ba hạng này hoàn toàn không thông đạt về thể tướng của ba cõi là một cảnh giới chân thật của Phật. Không biết thể tướng của ba cõi vốn là cảnh Phật (rõ như trong phẩm xuất hiện). Vì căn tánh của ba thừa yếu kém nên Phật dạy công đức báo tướng của Phật do tu tập, hạng quyền học dù trải qua ba tăng kỳ kiếp tu tập vẫn không thành Phật. Vì thế Bồ-tát ba xe trước cửa là quyền, xe bò trắng ở đất trống mới là thật. Tất cả đều là trí chơn như. Kinh Pháp-hoa dạy: Chỉ ta và các đức Phật mới hiểu rõ tánh tướng các pháp, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát bất thoái đều không thể biết. Đó là quyền pháp, chưa phải là tánh thường trụ của các pháp. Vì ba thừa ghét khổ và nguyên nhân gây khổ, thích tu pháp lạc, nên Phật không nói khổ và nguyên nhân gây khổ cũng từ trí chơn như, pháp lạc ấy không do tu tập. Vì nhằm giáo hóa chúng sanh nên
Phật thị hiện vào đời. Đoạn trừ vô minh là Phật. Một phút sống với chơn pháp là một ngày thành Phật cần gì phải trải qua ba tăng kỳ kiếp? Chỉ cần hiểu rõ ba cõi trống không, tùy thuận độ sanh là Phật. Cần gì chuyển thân mới thành Phật? Trời rồng biến hóa đâu phải là Phật. Ba thừa cũng đạt thần thông biến hóa, sao phải trải qua ba tăng kỳ kiếp, mười địa mới thấy tánh? Phần kệ chép: "Nếu từ sắc tướng, sức thần thông. Tìm gặp Như Lai là đấng điều ngự; thật kẻ ngu si không có mắt, không hiểu thật tánh của các pháp". Phật là người giác ngộ, hiểu rõ tánh nghiệp là chơn như không sanh diệt, không chứng đạt, chẳng ra khỏi hay chìm đắm, không thay đổi. Chỉ vì nghiệp lự của chúng sanh và để hành hạnh của Bồ-tát, Phật dùng thần thông biến hóa chỉ dạy. Kinh Tịnh Danh có câu: "Tuy thành chánh giác, thuyết giảng giáo pháp, Phật không quên đạo Bồ-tát". Vì thế Thiện Tài đạt pháp nghĩ nhớ chúng sanh của Phật trụ thứ nhứt. Với Tỳ-kheo Đức Vân núi Diệu Phong. Nghĩa là sau khi thấy rõ tánh chơn như, cầu đạo Bồ-tát, hành hạnh Bồ-tát. Nên hiểu rằng chơn tánh từ tâm, không do tu tập, xưa nay không thay đổi, những cuộc cạo tóc, nhuộm áo, khổ hạnh ép xác của đức Phật chỉ là sự biến hóa để độ ngoại đạo và những kẻ buông lung. Theo kinh Hoa-nghiêm, đức Phật vốn là chơn như, không cần hành những hạnh ấy. Người không có tâm cao ngạo mới làm như thế. Một sát na sống không tạo tác là trí Phật hiển hiện. Không chứng đắc là Phật. Vì sao sau khi thấy rõ chơn tánh, Thiện Tài mới học đạo Bồ-tát? Vì thấy rõ chơn tánh mới vào đời, ở trong sự trói buộc nhưng không bị buộc ràng mới có thể đưa chúng sanh ra khỏi sự trói buộc. Nếu mình bị trói mà muốn cởi trói cho người khác thì không thể được. Việc Thiện Tài đạt pháp, nghĩ nhớ về chúng sanh của Phật với Tỳ-kheo Đức Vân núi Diệu Phong chỉ là biểu trưng cho sự thông đạt tánh pháp vốn không hình tướng như lên đến đỉnh núi. Từ không hình tướng hiện sắc thân, tự tại trong tánh không, tùy căn độ sanh là Diệu. Đoạn trừ phiền não là Phong. Trí cao xa, vượt trên vọng tình, vững chải là núi. Nghĩ nhớ là không vọng niệm. Cảnh giới Phật là sự không phân biệt trong ngoài... Tùy thuận căn tánh của chúng sanh là trí, hiểu rõ quyền thật là tuệ; tùy căn đoạn hoặc là quang; tâm không nhơ uế là minh. Niết-bàn ắt thấy rõ cõi chúng sanh là phổ; không chứng đắc là Kiến, hiểu rõ thật lý là pháp môn. Vị này đủ bi trí, vào đời độ sanh bằng trí sai biệt. Có khi là Thiện Tài tu tập đạt pháp quả Phật ngay trụ thứ nhứt, có khi là đồng nam, đồng nữ hủy báng pháp Phật (sau khi đạt vị Đẳng Giác), nhưng tâm cảnh vốn từ thể tánh, rõ ràng như mọi hình tượng trước gương.
Hỏi: Ba trước cửa và xe bò trắng ở đất trống trong kinh Pháp-hoa khác nhau như thế nào?
Đáp: Ba xe trước cửa là đối trị khổ của ba cõi khiến chúng sanh ra khỏi nhà lửa, không giải pháp thành Phật. Đó là hạnh độ sanh của Bồ-tát quyền giáo, nhằm ra khỏi nhà lửa, không ra khỏi ba cõi, vượt lên tâm tự lợi của nhị thừa. đạt một phần tâm độ sanh là xe bò trước cửa, dạy hàng nhị thừa tu tập pháp Đại thừa, mười địa thấy tánh mới thành Phật, nhưng phải trải qua nhiều kiếp tu tập. Đó là Bồ-tát Đại thừa, không phải là Phật. Kinh Pháphoa dạy: "Chỉ có một thừa không có hai hay ba thừa" là đưa ba về một. Hàng Tiểu thừa được thọ ký thành Phật sau khi trải qua vô số kiếp tu tập là vì tuy tin quả Phật, nhưng khó chuyển tâm. Long nữ tích tắc thành Phật là vì hiểu rõ ngay khổ là chơn. Vì thế xe trước cửa là tùy thuận ba thừa. Xe bò trắng ở đất trống là biểu hiện cho pháp không nương tựa. Đất trống là cảnh giới Phật. Vì thế Phật là không nương tựa. xe bò trắng là pháp thân bi trí. Pháp thân không hình tướng là trắng; trí tùy căn độ sanh là xe bò (vì bò chuyên chở). Xe bò trước cửa biểu hiện cho Bồ-tát tu pháp không, đoạn khổ ba cõi, chỉ có một phần từ bi, đoạn một phần khổ của ba cõi, chưa tu tập đủ ba tăng kỳ kiếp, chưa thấy tánh Phật, chưa chứng trí căn bản, chỉ đạt chơn như giả, còn mượn pháp tu tập. Những người con ra ngoài chỉ đòi ba xe là biểu hiện cho ba thừa thoát khổ ba cõi không bị thiêu đốt, dù tin pháp nhứt thừa nhưng chưa đoạn tập nhiễm nơi ba thừa (tuy đạt địa thứ nhứt). Chỉ tin lời Phật dạy nhưng lòng tin chưa kiên cố, vẫn thích pháp ba thừa, không thích pháp nhứt thừa. Để tạo lòng tin vững chắc, đức Phật chỉ dạy pháp nhứt thừa (xe bò trắng) nên có câu: "Không mong cầu mà được". Ba xe trước cửa không có vật trang sức, không phải màu trắng vì là pháp hữu vi, đạt một phần pháp lạc, chưa đạt pháp lạc của trí không tạo tác. Đó là sự khác nhau của ba xe trước cửa và xe bò trắng ở đất trống (những ý khác phần sau sẽ rõ). Vì thế kinh Pháphoa đưa quyền về thật. Kinh Pháp-hoa tiêu biểu là Long nữ. Kinh Hoa-nghiêm tiêu biểu là Thiện Tài, hòa hợp cả hành tướng của Thiện Tài-Long nữ. Phần sau nói về ý Phật hóa độ ba thừa trở về pháp thật nên kinh Hoanghiêm được gọi là nhứt thiết trí căn bản Phật thừa.
II. Sự khác biệt của giáo pháp theo tông: Thông thường bậc đại giác xuất thế, tự tại hợp với chơn trí, pháp thân rộng lớn, tùy thuận chúng sanh, tự tại hiện thân thuyết giáo như tiếng vọng trong hang. Tiếng vọng ấy không có chủ ý, cũng chẳng có nơi dừng, chỉ tùy duyên vang khắp. Như Lai thuyết giáo cũng vậy, xứng cơ hợp pháp, nuôi lớn dần, đem lại mọi thành đậu cho chúng sanh. Lập giáo nhưng vẫn là vô thường. Vì đối bệnh cho thuốc, bệnh khỏi thì bỏ thuốc. Chỉ trong nháy mắt ban bố vô số pháp, hiện thân khắp pháp giới. Pháp đã khôn cùng thì giáo pháp theo tôn chỉ cũng khôn lường. Không trước sau nhưng hợp với mọi loài. Chúng sanh lại thấy có trước sau. Như pháp Tỳ-lô-giá-na khô có trước sau, hợp với tánh, theo phương hướng, không đoạn tuyệt. Tùy khả năng, chúng sanh thấy có vào thai, xuất gia, thuyết pháp, nhập Niết-bàn. Kỳ thật Như Lai vốn không như vậy. Kinh Pháp-hoa cũng nói việc này: Từ lúc ta thành Phật đến nay đã vô số kiếp. Vì một niệm của trí viên mãn rộng lớn và vô số kiếp. Trí viên mãn đó nào có trước sau? Kinh ấy dạy: nhập định sát na tế hiện việc ra đời, nhập Niết-bàn. Lại nói, thiên tử cõi Đâu suất ba lần thọ thân mười địa. Lần thứ hai sanh lên cõi trời như từ cõi ác tới, nhờ Ánh sáng chiếu đến thân sanh lên cõi trời Đâu suất, đạt tam muội ly cấu, thấy Như Lai, trụ địa kim cang bảo của đại Bồ-tát, trong khi ở Diêm phù đề mới vào thai mẹ, vả lại, kinh Pháp-hoa dạy: chúng sanh thấy kiếp số hết, lửa lớn thiêu đốt. Ta ở đây an ổn, làm gì có sự sai biệt trước sau của giáo pháp? Song tùy theo sự giống nhau nhưng lại khác nhau nên đưa ra mười cách lập giáo của các bậc tiên đức làm mẫu. Ngoài ra y theo đây có thể biết được: 1) Hậu ngụy, Bồ Đề Lưu Chi lập một giáo; 2) Đời Trần, Tam Tạng Chơn Đế lập hai giáo; 3) Hậu Ngụy, Luật Sư Quang Thống lập ba giáo; 4) Đời Tề Pháp sư Đại Diễn lập bốn giáo; 5) Pháp sư Hộ Thân lập năm giáo; 6) Đời Tần, các thiền sư Nam Nhạc Tuệ Tư, Trí Giả lập bốn giáo; 7) Pháp sư Nguyên Hiểu nước Tân La chú sớ kinh này lập bốn giáo; 8) Đời Đường pháp sư Cát Tạng lập ba giáo; 9) Đời Lương, pháp sư Vân Chùa Quang Trạch lập bốn giáo; 10) Đời Đường, pháp sư Ấn người Gian Nam lập hai giáo.
1) Đời Hậu Ngụy. Bồ Đề Lưu Chi lập một giáo Ngài cho rằng tất cả giáo pháp của Phật đều được Như Lai dùng một thứ âm thanh viên mãn thuyết giảng. Chỉ vì trình độ sai khác nên có sự khác biệt của giáo pháp. Việc này như một trận mưa. Kinh dạy: Đức Phật dùng một âm thanh diễn thuyết giáo pháp, tùy khả năng, chúng sanh ai nấy đều hiểu rõ.
2) Đời Trần Tam tạng Chơn Đế lập hai giáo: Đốn giáo, tiệm giáo. Bồ-tát tuần tự từ Như Lai nhỏ đến lớn ngộ nhập đủ tất cả ba thừa, là tiệm giáo như kinh Niếtbàn. Bồ-tát trực ngộ pháp, không cần đi từ thấp đến cao, chỉ có Bồ-tát thừa, là đốn giáo, như kinh Pháp-hoa. Pháp như đại viễn, cùng đưa ra quan điểm như đây.
3) Đời Hậu Ngụy, luật sư Quang Thống theo sự chỉ dạy của tam tạng Phật Đà lập ba giáo: Tiệm, đốn, viên. Ngài giải thích vì trình độ yếu kém chưa thuần thục nên trước nói về vô thường, sau mới nói thường, trước nói không, sau nói bất không, cứ tuần tự theo thứ lớp như vậy là tiệm giáo. Với hàng có căn trí lớn, từ một pháp diễn giảng tất cả pháp như thường, vô thường, không bất không, nói hết thảy nhưng không thứ lớp, là đốn giáo. Với người thông đạt, phần nào khế hợp với cảnh Phật nên nói về giải thoát không ngại, quả đức rốt ráo, viên mãn bí mật, tự tại, là viên giáo.
4) Đời Tề, pháp sư Đại Diễn lập bốn giáo. a) Nhân duyên giáo như Tát bà đa bộ của Tiểu thừa; b) Giả danh giáo như luận Thành Thật và Kinh bộ; c) bất chơn giáo như Bát-nhã thuyết giảng về lý không để biện minh tất cả đều không thật; d) Chơn tông giáo như Phật tánh, chơn như, pháp giới, được thuyết giảng nơi các kinh Niết-bàn, Hoa-nghiêm.
5) Pháp Sư Hộ Thân lập năm giáo: Từ trong bốn giáo trước Ngài chia chơn như, Phật tánh là chơn giáo, như kinh Niết-bàn. Năm pháp giới giáo như kinh Hoanghiêm nói về pháp giới tự tại không ngại.
Đời Trần, các thiền sư Nam Nhạc Tuệ Tư, Trí Giả lập bốn giáo: a) Tam tạng giáo cũng gọi là Tiểu thừa giáo. Như kinh Pháp-hoa dạy: "Cũng không gần gũi nơi kẻ tham vướng nơi ba tạng của Tiểu thừa". Trong Trí luận, Tiểu thừa là ba tạng, Đại thừa là Ma ha diễn tạng; b) Thông giáo cũng gọi là Tiệm giáo như trong kinh Đại thừa nói ba Thừa đủ ba hạng. Như kinh Đại-phẩm, địa Càn Huệ... chung cả ba thừa; c) Biệt giáo cũng gọi là Đốn giáo, chỉ nói về pháp môn đạo lý của kinh
Đại thừa, không có Tiểu thừa; d) Viên giáo cũng gọi là Bí mật giáo, nói về pháp giới tự tại gồm đủ tất cả, một là tất cả, tất cả là một, không hề ngăn ngại như kinh Hoanghiêm, Pháp-hoa.
7) Đời Đường, pháp sư Nguyên Hiểu nước Tân La chú sớ kinh này, lập bốn giáo: a) Tam thừa biệt giáo như bốn đế duyên sanh; 3) Tam thừa thông giáo như kinh Bát-nhã, Giải-thâm-mật; chúng sanh. Nhứt thừa phần giáo: Như kinh An-lạc, Phạm-võng; d) Nhứt thừa mãn giáo như pháp Phổ Hiền trong kinh Hoa-nghiêm. (Sự khác biệt bốn giáo này rõ như phần sớ)
8) Đời Đường, pháp sư Cát Tạng lập ba giáo là Tam pháp luân giảng đầu tiên; b) Chi mạt pháp luân như ba thừa... được nói sau đó; c) Nhiếp mạt như bổn pháp luân như kinh Pháp-hoa nói sau khi thành đạo 40 năm, chuyển ba về một.
9) Đời Lương, pháp sư Vân chùa Quang Trạch lập bốn giáo: Như kinh Pháp-hoa dạy: Ba xe trước cửa là ba thừa, xe bò để ở đường lớn là thừa thứ tư. Song dù là xe bò trắng vẫn như xe dê, hươu đều không thể nắm bắt được. Nếu không như thế, lúc trưởng giả bảo các con ở trong nhà cháy là ba loại xe để ở ngoài cửa, các người con ra khỏi nhà đã được xe, cớ sao lại xin? Nên biết đó là quyền biến như xe dê, xe hươu, là pháp phương tiện trong kinh Đại thừa.
Đời Đường, pháp sư Ấn người Giang Nam lập hai giáo: a) Kinh của đức Thích Ca giảng là khuất khúc giáo vì tùy thuận căn trí mà tuyết giảng; b) Kinh Hoanghiêm mười thân bình đẳng giáo của đức Tỳ-lô-giá-na. Pháp sư này lập hai giáo có bốn sự khác biệt: a) Người thuyết pháp kinh kia được thuyết trên tòa cỏ, dưới cây bồ đề ở cõi Ta bà. b) Kinh này được thuyết ở tòa Kim cang dưới cây báu nơi cõi Liên Hoa Tạng; c) Người nghe pháp: kinh kia được thuyết cho hàng Bồ-tát; d) Pháp được thuyết: kinh kia chỉ một nơi thuyết, kinh này mười phương đều thuyết.
Chỗ giải thích của mười vị kể trên hiện nay đều căn cứ theo sự tập hợp của pháp sư Cát Tạng đời Đường. Họ đều là bậc tài trí lúc bấy giờ, sự hiểu biết hơn người đều là vị tướng thông nhiếp các pháp huyền nhiệm, đốt đèn sáng để mở ra trí Phật, chúng ta không thể nói là sai hay đúng, chỉ biết tín ngưỡng. Các vị căn cứ hai đức từ, trí lập pháp, giảng pháp, đang đêm hiểu rõ kinh pháp ở Linh Sơn, mặt pháp càng sáng, hôm sau đạt quả vị, đạt các quả cao lớn như các cổ đức. Ngay lúc Phật thuyết pháp, nhập định, 500 La hán thông hiểu pháp, sau khi Phật xuất định, đều hỏi: ai hiểu ý Phật? Phật dạy: hoàn toàn không phải ý ta.
Nói: đã không hiểu ý Phật thì không có lỗi. Phật dạy: tuy không phải ý ta nhưng đều chính lý, có thể nhận là Thánh giáo, có phước không tội, huống gì giáo pháp các vị ấy lập ra đều có căn cứ? Song nay pháp sư Cát Tạng, đời Đường, phụng thừa pháp sư Nghiễm, lập giáo có lý đạo sâu xa, xin trình bày tông chỉ của Ngài: a) Tiểu thừa giáo; b) Đại thừa thủy giáo; c) Chung giáo; d) Đốn giáo; đ) Viên giáo. (Tiểu thừa giáo đã biết rồi); b) Thủy giáo: Trong kinh Thâm-mật lập thời giáo thứ ba đều cho rằng hàng nhị thừa không thành Phật. Ở đây gom thành nhứt giáo, nhưng chưa nói chưa hết lý của pháp Đại thừa nên lập Đại thừa Thủy giáo; c) Chung giáo: Hàng nhị thừa, xiển đề đều sẽ thành Phật mới nói hết ý nghĩa của Đại thừa nên lập chung giáo. Song thủy giáo và chung giáo đều căn cứ vào quả vị của các bậc tu hành theo thứ lớp nên đều là Tiệm giáo; d) Đốn giáo: Chỉ cần không sanh vọng niệm là thành Phật, khỏi phải tuần tự tu tập. Như kinh Tư-ích dạy: Người đạt tánh đúng của pháp, không cần từ địa này đến địa khác. kinh Lăng-già nêu: Địa thứ nhứt chính là địa thứ tám, không có gì là sở hữu, làm sao có thứ lớp? Lại nữa, mười địa trong phẩm Thập địa như bóng chim trong hư không, sao có sự khác biệt. Như các kinh nêu giảng về các pháp không tạo tác sao có sự khác biệt? đ) Viên giáo: Đạt một vị là đạt tất cả vị, tất cả vị là một vị, hàng mười tín cũng đủ pháp của sáu vị, thành bậc chánh giác, nương pháp Phổ Hiền, pháp giới ảnh hiện đầy đủ như mọi hiện tượng trong lưới Đế Thích như kinh Hoa-nghiêm đã thuyết giảng. Lại có đó là tiên giáo, ngoài Giới Hiền Như Lai (Người Ấn), căn cứ theo pháp của Di Lặc, Vô Trước, Hộ Pháp, Nan Đà và kinh Thâmmật, luận Du già... lập ra ba giáo. đầu tiên đức Phật ở vườn Nai thuyết pháp Tiểu thừa, tuy có nói ngã không nhưng chưa nói về pháp không, không phải là nghĩa trọn vẹn, như bốn bộ A-hàm. Lần thứ hai, tuy tùy tánh biến kế sở chấp của tự tánh thuyết các pháp không nhưng chưa nói về đạo lý Duy thức theo tánh y tha khởi và viên thành thật, nên cũng không phải là nghĩa tuyệt đối, như các bộ Bát-nhã... Lần thứ ba mới nói về chánh lý Đại thừa, đủ cả hai đế, ba tánh, ba vô tánh của Duy thức. đây mới là nghĩa tuyệt đối như kinh Giải Thâm-mật. Có ba nghĩa để giải thích về ba giáo trên: a) Nhiếp cơ; b) Thuyết giáo; c) Hiển lý. Như lần đầu tiên chỉ để nhiếp phục hàng Thanh văn, hiển bày pháp Tiểu thừa, nêu giảng về ngã không; Lần thứ hai nhiếp phục hàng Bồ-tát giảng nói pháp Đại thừa trình bày ngã pháp đều không; Lần thứ ba tóm thâu nhiếp phục tất cả, thuyết giảng các thừa, trình bày cả có không. Hai lần thuyết tùy căn cơ thuyết đều thiếu sót không phải là nghĩa tuyệt đối. Lần sau nhiếp phục mọi căn cơ, trình bày đủ các pháp, trọn vẹn chơn lý, là nghĩa tuyệt đối. Pháp sư Trí Quang căn cư theo Văn Thù, Long Thọ, Đề Bà, Thanh
Biện và các kinh Bát-nhã, luận Trung Quán... lập ba giáo như: Lúc đầu Phật ở vườn Nai thuyết pháp Tiểu thừa cho hàng căn trí kém cỏi, nói tâm cảng đều có. Lần thứ hai Phật nói pháp tướng Đại thừa cho hạng căn trí vừa, nói cảnh không tâm có tức đạo lý Duy thức. Vì căn trí còn kém chưa thâm nhập pháp không bình đẳng. Lần thứ ba Phật nói pháp vô tướng Đại thừa cho hàng căn trí lớn, nói tâm cảnh đều không, bình đẳng một vị, là nghĩa tuyệt đối. Ba giáo này cũng có ba ý: a) Đối với việc nhiếp phục: Lần thứ nhứt nhiếp phục hàng nhị thừa; lần thứ hai nhiếp phục cả Đại thừa, Tiểu thừa, vì tông này còn một số hàng nhị thừa không hướng tu quả Phật; lần thứ ba nhiếp phục hàng Bồ-tát thuộc đốn giáo, Tiệm giáo. Vì ở đây kể cả hàng nhị thừa, đều hướng tu quả Phật, không tu pháp khác; b) Về giáo pháp, lần thứ nhứt nói pháp Tiểu thừa; lần thứ hai thuyết cả ba thừa; lần thứ ba thuyết thừa; c) về hiển bày lý: lần thứ nhứt phá tự tánh ngoại đạo nói pháp duyên sanh thật có; lần thứ hai tuần tự phá chấp pháp duyên sanh thật có của hàng nhị thừa nên nói duyên sanh la giả có, vì hàng nhị thừa sợ chơn không nên nói giả có để chỉ dạy họ; lần thứ ba nói về Đại thừa cứu cánh, nói pháp duyên sanh tức là tánh không bình đẳng một vị, hai đế không ngại. Vì thế, về pháp tướng: Đại thừa, có đối tượng được chứng đắc, thuộc về giáo thứ hai, chẳng phải là nghĩa tuyệt đối. Thứ tự về ba giáo như pháp sư Trí Quang nêu ra giống với giáo pháp tướng của Ấn Độ, đều giảng nói về Thánh giáo. Đó là một cách nhìn nhận. Chúng ta chỉ cung kính chứ không đánh giá. Với sự tham học Thánh giáo Thông Huyền. Tôi xin mạo muội trình bày kiến giải của mình, đại khái lập ra mười giáo, tóm thâu toàn bộ giáo pháp mà đức Phật thuyết giảng suốt thời gian từ thành đạo đến Niết-bàn. Mười giáo đó là: 1) Tiểu thừa giáo: tất cả thật có; 2) Bát-nhã giáo nói không có chấp có; 3) Kinh Giải Thâm-mật nói cả không, có để kết luận không, có đều không; 4) Kinh
Lăng-già nói giả chính là chơn;
5) Kinh Duy-ma nói ngay tục là chơn; 6) Kinh Pháphoa nhập quyền vào thật để phát khởi lòng tin; 7) Kinh Niết-bàn dạy ba thừa bỏ quyền tu thật; 8) Kinh Hoanghiêm; Mười đời trong một phút không có trước sau đầu cuối; 9) Giáo pháp cộng bất cộng; 10) Giáo pháp bất cộng, cộng.
1) Thời thứ nhất thuyết về giáo pháp Tiểu thừa: tất cả thật có. Vì phàm phu chấp mọi hiện tượng đầu thật có, chạy theo cảnh sắc, làm việc bất thiện. Vì thế sanh trong cõi khổ nên dùng pháp để buộc tâm, dùng giới để ngăn ngừa việc ác. Với hàng Tiểu thừa, thuyết giảng tổng quát về tánh giới vô biểu nhưng vì khả năng sai khác nên công dụng không đều. Như nghĩa nhị thừa và Bồ-tát. Kinh dạy: Người tho giới Phật, là vào vị Phật, đó là bàn về phương diện giới tánh. Lại dạy: Cứ thế có vô số trăm ngàn chúng sanh đến với ta, ta dùng hóa thân để chỉ dạy, sau mới đưa chúng về thật báo pháp thân, đối với hàng trí lớn, thì nói sự lý pháp thân cùng một nguồn gốc.
2) Thời thứ hai thuyết giảng kinh Bát-nhã nói không, phá trừ chấp có. Đã nói pháp Tiểu thừa thật có để tạo mẫu mực nhằm kiềm chế thân, ngữ, ý được trụ nơi pháp hiện, nên dạy pháp quán ngã không, sau lại dạy pháp Không để phá trừ chấp trước dần đạt Pháp thân.
3) Thời thứ ba thuyết giảng kinh Thâm-mật nói cả có không, nghĩa là dung hòa hai giáo có, không ở trước để kẻ thiên kiến không vướng mắc có, không nên nói chẳng có cũng chẳng không. Để chuyển tâm hàng nhị thừa-những kẻ diệt vọng thức, chứng tịch diệt, an trụ nơi tịch diệt, không hay biết, nên nói thức thứ chín là A Đà Na là thức thuần tịnh. các thức 5, 6, 7, 8 đều có từ thức A Đầu Na. Vì hàng phàm phu ngu si chấp nó là ngã, như dòng thác không ngoài thể là nước, tất cả các đợt sóng đều có từ nước. Nhờ đó dần chuyển tâm nhị thừa thông đạt thức, thành tựu trí. Vì sao lập thức thứ chín là tịnh thức? Vì hàng nhị thừa luôn sợ các thức 1, 2... 8 là thức tạo nghiệp sanh tử triền miên, không tin vào phương tiện nên lập một thức thuần tịnh ngoài sanh tử để dần chỉ dẫn họ, dù còn hoặc chướng, nhưng tâm bi trí thêm lớn. Kinh Thâm-mật dạy: Bồ-tát dùng trí an trụ pháp để những kẻ thấy không dần thông đạt thúc, thành tựu trí.
4) Thời thứ tư nêu giảng kinh Lăng-già: ngay giả là chơn. Kinh này dạy thức nghiệp chủng thứ tám là Như Lai tạng, cho hàng Đại thừa. lại dạy: Hiểu tướng là thức, không chấp tướng là trí. Biển tạng thức thường trụ, gió cảnh giới lay động. Vô minh nghiệp chướng chính là trí. Tánh của vô minh và vô minh là một. Luận Khởi Tín cũng nói như vậy. Ở đây tuy nói chủng trí vô minh nhưng vẫn mong ra khỏi tục, chưa hiển hiện trí, còn bị trói buộc. 5) Thời thứ năm thuyết kinh Duy-ma chỉ rõ ngay tục là chơn. Kinh này không thuyết cho hàng nhị thừa và Bồ-tát thừa mà thuyết cho người biết pháp, nên nói mười đệ tử lớn của Phật đã phải im lặng ở Tỳ Đa Ly, Bồ-tát Di Lặc, đồng tử Quang Nghiêm đã dứt hết những lời hay nơi đêm ban về giáo pháp. Kinh này phá trừ chấp trước chưa đoạn trừ sự phân biệt nhiễm tịnh, còn có tâm mong cầu ra khỏi thế tục của Bồ-tát, Thanh văn trong bốn giáo trước, nên mượn Tịnh Danh là một cư sĩ-nói rõ ngay tục là chơn; như phá trừ về tịnh nhiễm, nên nói vô minh hữu ái là hạt giống Như Lai để đoạn trừ chấp tịnh của ba thừa. Ra khỏi thế tục hay vào cõi ràng buộc đều bình đẳng không ngăn ngại. Đó là thật đức và tông thực có. Hiện cõi tịnh thật báo như cõi nước hiện ra do Phật dùng chân ấn vào đất. Vì ba thừa căn trí còn yếu kém nên phải nhờ thần thông Phật, lòng tin cạn cợt nên nói không hiển hiện, chẳng phải tự chứng đạt. Kinh Duy-ma nói ngay tục là chơn, mượn Văn Thù là pháp thân; Duy ma thông tuệ là hạnh vào đời. Nghĩa là pháp thân là thể, hạnh là dụng nên có hỏi đáp về thể dụng. Vì ba thừa thích học lý không như như, bỏ giả tu chơn, trải qua nhiều kiếp tu tập mới thành quả Phật nên cùng lúc dạy nêu ra tánh tướng sự lý nhân quả-pháp giới.
6) Thời thứ sáu thuyết giảng kinh Pháp-hoa nhập quyền vào thật. Vì A-la-hán chấp không, an trụ nơi tịch tĩnh; Duyên giác thấy tánh của 12 duyên là không, tự tánh của sáu căn, thức danh sắc là không sanh. Hai hạng này đều diệt tâm thức, diệt nghiệp ba cõi, trí bi không sanh, lại nói pháp không, dùng không phá hoặc chướng, thích sống nơi cõi tịnh. kể cả Bồ-tát còn hoặc chướng cũng không hiểu rõ vô minh nghiệp chướng của chúng sanh đều có từ trí thanh tịnh của Như Lai, không ở giữa hay một bên. Họ đều hiểu sai về cõi tịnh uế, thấy Phật ở cõi này cõi kia, đủ tâm thương ghét và chứng hoặc, không hợp chơn như. Vì nhằm chỉ dẫn họ trở về bản trí nên nói kinh Pháp-hoa để họ Bồ-tát biết rằng tánh của vô minh sanh tử vốn là tánh của trí, không nhiễm ô, chỉ vì mê ngộ khác nhau chứ không có hai tánh. Vì thế mượn hình ảnh hoa sen để chỉ dạy họ trở về bản trí. Kinh Pháphoa dạy: Tướng thế gian là thường trụ.
7) Thời thứ bảy thuyết kinh Niết-bàn, chỉ dạy ba thừa bỏ quyền tu thật. Vì giáo pháp của ba thừa nơi các kinh khác đều dạy: chúng sanh vì nghiệp chướng không có niềm tin nên không thành Phật. Để chúng sanh phát khởi lòng tin tu tập. Kinh này nêu rõ: Tất cà chúng sanh đều có Phật tánh, đều như Phật, chỉ vì vô minh che lấp nên không thấy được. Trước là ba quyền, sau mới là thật. Việc tu tập chơn như giả có trong ba thừa và sự trọn vẹn hạnh nghiệp qua ba tăng kỳ kiếp của không giáo là pháp thức giáo ban đầu. Trong đó việc hỏi đáp giữa Phật và Bồ-tát Ca Diếp cũng chỉ là dung hòa chơn lý giữa những pháp thuyết lúc mới thành chánh giác và pháp, pháp giới thuyết cho Đại Bồ-tát. Kinh Niết-bàn nói ba thừa bỏ quyền tu thật, đoạn tướng thấy tánh. Kinh Pháp-hoa cũng nói bỏ quyền tu thật, tánh tướng, sự lý, duyên sanh pháp giới, nhưng vì là tướng biến hóa, còn có trước sau nên có kinh Niết-bàn. Trí-cảnh ở đây không có trước sau, xưa nay.
8) Thời thứ tám thuyết kinh Hoa-nghiêm. Ba đời, mười đời đều có trong một sát na. Như Kinh dạy: Hòa nhập tám tướng: giáng trần, thọ sanh, thành đạo, Niếtbàn vào một sát na không có trước sau, vì bản trí tánh lý vốn không có dự phân chia thời gian. Chẳng phải quyền có từ thật nên là nhập, chẳng phải từ tánh pháp có nhập định xuất định. Tất cả là mượn pháp giáo hóa, phương tiện thuyết pháp, không nên thuyết pháp, không nên chấp pháp và sự biến hóa ấy. Nếu thế, làm cho chúng sanh không có nơi về, nên người có trí không căn cứ vào đó để nói Thế-tôn, như một người nhập định sát na. Các đức Phật luôn sống trong biển trí, pháp thân đủ các tam muội như chúng sanh. Để chúng sanh không thấy tướng xuất nhập nên hiện tướng nhập định xuất định của Như
Lai là thế. Kinh này dạy không có trước sau, là tánh tướng, viên mãn cùng khắp, là quả đức thật báo của Phật, không thể tìm thấy có đầu mối trước sau, dài ngắn, bao quát mọi giáo pháp, mọi hạnh nguyện, tất cả cõi nước, sự hiểu biết, hạnh nguyện của thế gian vốn cùng một thời gian, cùng một khoảnh khắc nên nói ba đời đều có trong một sát na, như các dòng sông đều chảy về biển. Những sự phân biệt ngoài pháp này đều là quyền pháp, chẳng phải là pháp cứu cánh. Như pháp này, đức Phật không ra đời, cũng không Niết-bàn, vì là pháp căn bản, không phải pháp của chúng sanh, là pháp căn bản nên không có ra vào, tùy thuận quyền pháp có phân biệt ra đời và nhập Niết-bàn. Ngay trụ phát tâm thứ nhứt dùng sức Tam muội thông cả ba cõi, biết ba đời có trong một sát na, các pháp chỉ có một vị là vị giải thoát, Niết-bàn thường tịch không có trước sau, trong nhân có quả, các tánh là một tánh, các trí là một trí, các tướng là một tướng, các hạnh là một hạnh, ba đời trong một niệm, một niệm đủ ba đời, kể cả mười đời cũng vậy. Các pháp ấy tự tại không bị ngăn ngại. Pháp này không có trước sau nên là pháp luân thường chuyển. Vì thế pháp ấy được lập từ trí căn bản, đủ căn trí lớn. Từ trí căn bản nên là một, không có trước sau, chẳng phải là sự thấy bết sai lầm. Một là tất cả, vì pháp giới là một, khác với hàng quyền học chưa đoạn vọng kiến. Tất cả là một vì thể của pháp giới không bị ngăn ngại như ngọc tròn không cạnh gốc, gương sáng chiếu soi tất cả, hư không chẳng trở ngại, tiếng vang không nắm bắt được, bóng không ngại vật, như người ảo hóa. Pháp môn ấy bao quát tất cả không ngăn ngại, không thành hoại, không ra vào, pháp luân thường chuyển, người hiểu được pháp này, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí đều hiển hiện. Vì pháp không sanh diệt nên hiển hiện trí tự nhiên, chẳng do sự tính toán so đo của vọng tình, tất cả pháp quyền biến đều thuộc pháp này. Tất cả đều thuyết giảng cùng lúc. Vì các quyền pháp không ngoài pháp giới, không có ba đời. Chỉ vì sự thấy biết sai khác nên có khác biệt. Giáo nhứt thừa này được thuyết lúc Phật thành đạo, nếu căn cứ vọng tình thì pháp này được thuyết đầu tiên. Nếu dựa trên thể tánh thì không có trước sau.
9) Thứ chín cộng bất cộng giáo thuyết các kinh Đại thừa, trời người ba thừa đều được nghe và được lợi ích riêng. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Từ mỗi lỗ chân lông, từ một hạt bụi nhỏ Như Lai thuyết pháp, chúng sanh hiểu khác nhau. Hơn nữa ngay nơi thân chúng sanh nhỏ nhoi này, Bồ-tát thành chánh giác, thuyết pháp độ vô số chúng sanh, nhưng chúng sanh ấy không hay biết. Nghĩa là cùng chúng sanh Đại thừa, Tiểu thừa sống trong biển Phật, thân tâm vốn không sai khác, nhưng lại có sự khác biết về thấy Phật, không thấy Phật, nghe pháp, không nghe pháp, trí hiểu biết, giải thoát lớn nhỏ, khổ vui... nên là cộng bất cộng. Kinh lại dạy: nhập định sát na thị hiện việc từ cõi trời Đâu suất xuống trần, vào thai, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết-bàn đó là chúng sanh từ chỗ, không có thời gian phân biệt, thời gian trước sau. Từ một âm thanh thuyết pháp, chúng sanh phân thành trời người, Tiểu thừa, Đại thừa, Phật thừa. Lại thấy thọ mạng của phật nhiều ít, kỳ tánh Như Lai không tạo tác, không sanh diệt pháp giới không tạo tác, trí thanh tịnh không nhơ, giữa chúng sanh và Phật giống nhau nên tùy thuận sự nghe hiểu của chúng sanh, không trái nghịch. Vì trí pháp tánh không tạo tác, vốn tự tại. Như vậy là cùng Phật, pháp, trí, thời, thân, tâm, thừa, chỉ có sự hiểu biết khác nhau. Cộng bất cộng giáo này giống như 500 Thanh văn tuy ở trong hội nhưng như kẻ đui điếc của kinh Hoanghiêm.
10) Bất cộng, cộng giáo: Như kinh Hoa-nghiêm nói các Bồ-tát từ các cõi nước khác nhau đến đây, từ một tiếng pháp, cùng nghe pháp, nhưng đạt được lợi ích khác nhau. Hơn nữa trong đạo tràng ấy trời người, quỉ thần... khác nhau nhưng đều nghe pháp quả đức của Tỳ-lô-giána, giống khác tự tại. (Ba thừa cũng có bất cộng, cộng giáo dựa theo đây sẽ rõ).
Như vậy mười giáo trên đều do Như Lai từ một pháp giới, một thời gian, một tiếng nói hiển hiện ra như tiếng vang, nhưng vì căn trí nhanh chậm của chúng sanh thấy chúng sanh có sai khác. Vì thế ở đây mượn số tròn đưa ra mười giáo để nói rõ sự khác nhau giữa tu tập và hiểu biết. Mười giới trên được Phật thuyết từ trí không phân biệt ba đời nhưng vì trình độ khác nhau nên có đại, Tiểu thừa...
III. Sự khác biệt của nghĩa: Ba cõi rộng lớn hợp với chơn như tịch diệt, thân tâm tánh tướng đều là không. Song từ tánh phát khởi từ bi, hợp pháp, đồng thể; từ trí không tạo tác tùy thuận giáo hóa chúng sanh. Cùng một trận mưa từ bi, nhưng chúng sanh lãnh thọ sai khác nên nói giáo pháp giống nhưng nghĩa khác. Như mười địa của Tiệm giáo và mười địa của Viên giáo. Hoặc giáo pháp khác nhưng nghĩa giống như nói vô số pháp môn đều là bốn đế. Hoặc nói lý sự khác nhau, thể dụng dung hợp. Hoặc nói tiệm, đốn, viên, sở pháp vốn không tạo tác, nhưng tùy căn cơ lập tông. Căn trí lớn, pháp cốt yếu, khí lớn đạo viên, hợp với mọi vật, nhưng có lớn nhỏ là do sự thấy biết. Hoặc cùng một pháp, nhưng sự hiểu biết khác nhau. Hoặc pháp khác nhưng cùng một hiểu biết, tùy khả năng lãnh thọ thuyết giảng. Hoặc có kẻ thích xe cửa mà bỏ xe ở đường lớn. Vì thế có mười pháp khác nhau để dạy kẻ sơ cơ không vướng mắc nơi quyền pháp, bị trở ngại chỗ thật pháp. Mười pháp ấy là:
1) Người thuyết pháp; 2) Tướng Ánh sáng tiêu biểu cho pháp; 3) Người hỏi đáp; 4) Nhân quả; 5) Hành tướng tu tập; 6) Pháp Thiện Tài chứng đạt; 7) Bồ-tát nghe pháp quả vị; 8) Sự lý các pháp; 9) Chứng đắc khác của ba thừa;10) Di chúc pháp.
1) Người thuyết pháp. Kinh này, đức Tỳ Lô Giá Na thuyết. Tỳ Trung Hoa dịch là chủng chủng, Lô Giá Na là Ánh sáng chiếu khắp. Lại nữa, Tỳ là cùng khắp, vì vô số Ánh sáng trí lớn chiếu soi tất cả chúng sanh. đây là đặt tên theo pháp thân bi trí khác với quyền giáo, đặt tên theo họ. Mâu Ni Trung Hoa dịch là Tịch-mặc, nghĩa là thể của pháp không nói năng. Không nói về bi trí, chỉ có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, không đủ vô số tướng tốt. Đó là việc cạo râu tóc, chẳng phải việc Phật trang sức vòng hoa. Việc đó giống với ba thừa xuất tục. Kinh này chỉ ngay tục là chơn không có xuất nhập. Như Phật Tỳ-lôgiá-na có 97 tướng tốt, 32 thứ báu làm thành vô số đồ trang sức, tay mang vòng hoa, cổ mang anh lạc... (rõ như trong kinh).
2) Tướng Ánh sáng tiêu biểu cho pháp. Trừ Ánh sáng được phóng từ 97 tướng tốt trang nghiêm mười thân tướng rộng lớn của Như Lai và Ánh sáng của trời Dạ Ma, Ánh sáng tiêu biểu cho pháp có mười. Mỗi Ánh sáng tiêu biểu cho nhân quả theo thứ tự từ mười tín, mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa. Trong đó hành tướng không tạm loạn. Khác với Ánh sáng của đức Phật biến hóa phóng ra ở các kinh khác, hoặc chỉ phóng một Ánh sáng, hoặc toàn thân cùng phóng Ánh sáng không thứ tự, hoặc phóng Ánh sáng quả không nhân, hoặc phóng Ánh sáng nhân, không quả. Như kinh Pháp-hoa từ giữa chặng lông mày, phóng ánh sáng quả tướng, không phóng Ánh sáng nhân từ tướng bánh xe dưới bàn chân. Như kinh Đại phẩm Phật phóng Ánh sáng từ tướng bánh xe dưới bàn chân và vô số Ánh sáng từ toàn thân cùng lúc phóng ra đủ cả nhân ba thừa. Ánh sáng được phóng từ dưới lên trên không có tuần tự, phải trải qua nhiều kiếp từ phàm đến Thánh, tu tập đầy đủ hạnh nguyện mới thành quả đức. Khác với kinh này, Ánh sáng phóng từ quả thành nhân, từ nhân thành quả, nhân quả cùng một thể, không gây trở ngại cho sự tiến tu.
- Từ răng phóng ra mười loại Ánh sáng trang nghiêm cho tất cả đạo tràng trong pháp giới, là lúc mới thành chánh giác, bảo cho chúng sanh sanh khắp mười phương cùng tập hợp (rõ như trong kinh).
- Từ giữa chặng chân mày phóng Ánh sáng về quả, nhập vào tướng bánh xe dưới chân. Nhờ quả tạo nhân phát lòng tin.
- Ánh sáng ấy chiếu đến thân Phật Bất Động Trí, đó là quả Phật, là nguồn gốc, thể của kim cang. Văn Thù là mẹ của tâm đầu tiên và trí quả, pháp thân căn bản. Vì Ánh sáng từ giữa chặng mày nhập vào tướng bánh xe dưới chân là biểu hiện từ quả có nhân. Từ dưới tướng bánh xe chiếu lên thân Phật Bất Động Trí là từ nhân thành quả. Vì quả là pháp thành tựu từ lòng tin ban đầu nên có mười Bồ-tát Trí Thủ... thành tựu tín vị (hành tướng của vị này sẽ được nói ở sau).
- Như Lai lên núi Tu Di, phóng Ánh sáng từ đầu ngón chân nói phẩm mười trụ. Đó là nguồn gốc phát tâm, thấy đạo, dùng sức định an trụ nơi pháp, từ tín vị nhập quả Phật. Núi Tu Di là nhân định phát tuệ. Vì phải từ định nhập vị mười trụ mới phát tuệ chơn thật nên mười Bồ-tát, mười trụ, đều có tên bắt đầu là Tuệ.
- Như Lai lên cõi trời Dạ Ma phóng Ánh sáng từ gót chân nói mười hạnh (vì cõi này cách xa mặt đất) tiêu biểu từ trống không phát khởi hạnh nguyện, nghĩa là trước phải đạt trí tuệ căn bản và pháp thân mới thực hành các hạnh.
- Như Lai lên cõi trời Đâu Suất, phóng Ánh sáng từ đầu nói mười hồi hướng, biểu hiện vị này ở trong cõi dục, nhưng lý sự không ngăn ngại. Ngay trụ phát tâm thứ nhứt đã đạt lý sự không ngăn ngại, chẳng phải chỉ có cõi này mới là hồi hướng. Song vì phải theo thứ tự nên lập ra như vậy. Về thật thể, mỗi vị đều đủ các vị. Đầu gối là thể hiện sự co duỗi đi lại dễ dàng, vị hồi hướng tự tại trong chơn tục, sanh tử, Niết-bàn, vì thành tựu trí bi.
Ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại phóng Ánh sáng quả đức từ giữa chặng lông mày nói mười địa. Vì Bồ-tát mười thành tựu trọn vẹn nhân quả như cõi Tha Hóa không phải tự hóa, nghĩa là Bồ-tát mười địa vì chúng sanh mà biến hóa chứ không có nghiệp đó. Dù ở cõi dục nhưng không nhiễm như bốn thiền là pháp ra ba cõi, nhưng khác với Tiểu thừa tu tập đạt Niết-bàn, vượt khỏi hoặc hướng ba cõi, khác với Bồ-tát quyền giáo từ bốn thiền thành tựu mười địa. Hơn nữa từ cõi Đâu suất, bỏ cõi Hóa Lạc, thẳng đến cõi Tha Hóa tiêu biểu cho pháp mười địa cùng khắp pháp giới, không thứ lớp, đủ cả bốn thiền không đi mà đến, không động nhưng thấy. Các cõi trời trên dưới đều ở trong đó. Cõi nước khắp mười phương ở trong một lỗ chân lông vì tiêu biểu cho pháp nên có thứ lớp. Kỳ thật không có trên dưới, đây kia, qua lại. Địa thứ 11 Phổ Hiền Phật hoa Tam muội được thuyết ở cõi trời thiền thứ ba (chưa nói đủ).
- Ở điện Phổ Quang Minh thuyết phẩm Như Lai xuất thế, từ giữa chặng lông mày, phóng Ánh sáng chiếu đến đỉnh đầu Phổ Hiền. Nghĩa là thành tựu mười địa, ba thiền, đẳng giác ở cõi Tha Hóa, thuyết pháp xong trình bày hành tướng bản giác, trọn vẹn nhân quả, lập giáo mới xuất hiện. Chưa nói pháp sao gọi là xuất hiện? Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm chép: lúc thành chánh giác, xuất hiện, dẫn dắt người có lòng tin tu tập năm vị, thành tựu năm vị quả Phật tự nhiên hiện. Phẩm Xuất Hiện ở sau là nói tự mình tu chứng quả Phật, hợp pháp xuất hiện, lại từ thể pháp giới của Phật trước sau lập ra thứ tự của các địa, xuất hiện trước sau nhưng kỳ thật là cùng một lúc, không có trước sau. Ánh sáng chiếu đến đỉnh đầu Văn Thù là Ánh sáng quả chiếu soi của pháp. Vì Văn Thù là trí căn bản của pháp, là pháp thân của Phật. Vì muốn Bồtát Văn Thù, Phổ Hiền cùng hỏi đáp để kết thúc thể dụng nhân quả từ đầu đến cuối. Bồ-tát Văn Thù biết nhưng vẫn hỏi: Ai là trưởng tử của Phật, tôi phải hỏi ai? Lúc đó từ kim khẩu Phật phóng Ánh sáng chiếu đến kim khẩu Phổ Hiền.
- Từ kim khẩu Như Lai chiếu đến kim khẩu Phổ Hiền. Đó là Ánh sáng giáo pháp, muốn Bồ-tát Phổ Hiền dùng trí sai biệt thuyết pháp môn quả Phật nhờ đó Văn Thù mới biết đối tượng để hỏi. Thông thường, các bậc Thánh vốn hiểu nhau, ở đây mượn pháp Phật làm qui tắc chung cho tương lai. Đó là chín lần phóng Ánh sáng hình thành một bộ kinh này, qui kết nhân quả thể dụng của năm vị, ba vị này từ đầu đến cuối không tách rời, tiêu biểu cho Như Lai là quả của Văn Thù, Phổ Hiền.
- Ở vườn Cấp Cô Độc phóng Ánh sáng từ giữa chặng lông mày nghĩa là thành tựu nhân quả của các vị rồi, dùng pháp đó đem cho ích cho chúng sanh. Phẩm Nhậppháp-giới dạy: Làm cho trời, người, sáu ngàn Tỳ kheo, 500 cư sĩ nam, 500 cư sĩ nữ, 500 đồng nam, 500 đồng nữ tu tập pháp này thành tựu quả Phật (ngoài ra sẽ nói ở phần sau). Ý nghĩa của mười lần phóng Ánh sáng trên có thứ tự như vậy. Ánh sáng tiêu biểu cho quả đức đầy đủ, cùng khắp pháp giới, khác với hóa Phật phóng Ánh sáng thuyết kinh, hoặc phóng một lần, hoặc toàn thân này phóng, chưa có kinh nào đầy đủ như đây. Nói mười nhưng đủ vô số công đức, vì số mười là số tròn.
3) Người hỏi đáp. Đại ý về thể dụng kinh này có ba:
Văn Thù, Phật, Phổ Hiền. Phật tiêu biểu cho quả đức không nói năng tu tập chứng đắc, khi đầy đủ nhân quả tự có. Văn Thù là nhân có thể nói được. Vì giảng pháp thân quả đức là để khuyến khích tu tập. Phổ Hiền là hạnh tu tập được, thực hành hạnh rộng lớn khắp pháp giới. Với ba đức này đem lại lợi ích cho chúng sanh. Văn Thù là pháp, thân trí căn bản. Phổ Hiền là hạnh của trí sai biệt. Các đức Phật đều nương hai pháp trên mà thành tựu đạo quả bồ đề. Vì thế có thể nói Phổ Hiền là trưởng tử lập hạnh độ sanh. Văn Thù là út, là điều kiện đầu tiên để phát tâm, thành tựu pháp thân, trí Phật Lô Giá Na và sanh vào nhà Phật. Trí tuệ Phật dắt dẫn chúng. Quẻ chủ phương đông bắc là quẻ cấn. Cấn là trai út, là núi, là đá, ở vào giữa giờ sửu, dần là lúc gần sáng, đêm tối đã qua nhưng mặt trời chưa mọc. Như Lai dẫn mười trụ phát tâm thấy đạo nên nói Văn Thù ở núi Thanh Lương phía đông bắc lại cõi Diêm Phù. Đó là mượn pháp thế gian để chỉ dạy chúng sanh. Kinh nói: Nơi nào cũng có Văn Thù, tức là pháp thân cùng khắp. Qua vô số cõi nước bằng số bụi của mười cõi Phật về phía đông có cõi nước tên Kim Sắc, có Văn Thù Sư Lợi. Mười phương cõi nước đều có Văn Thù Sư Lợi từ cõi Kim Sắc đến. Kim thuộc sắc trắng, tướng vàng, tiêu biểu cho trí tánh và pháp thân Phật, tể trắng là thuần tịnh, thân tâm trong sạch, khác với màu trắng thế gian. Phật tánh, pháp thân không thân, không tâm, tự tại, không tạo tác, tùy duyên nhưng luôn thuần tịnh, mọi vật đều không tâm, chỉ là trí không nương tựa nên là bạch tịnh. Nếu Bồ-tát đạt trí thân như vậy thì mọi sắc đều là vàng, là màu phước đức vui vẻ, không tham sân, đủ đức vui hòa bi trí lợi sanh. Kinh dạy: Bồ-tát hợp chơn như đều có thân kim sắc, nên nói Văn Thù từ cõi sắc đến, tiêu biểu cho pháp mọi nơi đều chơn như, là pháp giới chơn như Phổ Hiền, là con lớn ở phương đông, thuộc vị mão, quẻ chấn. Chấn là con trai lớn, là đầu, là rồng xanh, là vui vẻ, trẻ khỏe, là tạo lập. Pháp Phật ở thế gian là bắt nguồn từ phương đông như mặt trời mọc chiếu soi mọi vật, là tùy thuận nhơn duyên vận dụng hóa độ. Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh nên là trai lớn. Quan Âm tiêu biểu cho bi nên ở phương Tây núi Kim Cang thuyết kinh Từ bi. Tây thuộc vị dậu, quẻ Đoái. Đoái là vàng, là cọp trắng, là hiểm ác, là mùa thu. Vì lòng từ để thể hiện ở nơi hiểm ác. Ba pháp Văn Thù, Phổ Hiền, Quan Âm là pháp các đức Phật đều tu, là thiện tri thức thứ bảy trong mười hồi hướng củ Thiện Tài (ngoài ra sẽ nói ở sau). Pháp Phật vốn không thể nói năng, chỉ mượn pháp thế gian để hiển hiện. Nói năng là pháp thế gian, nếu không nói năng thì làm sao dạy kẻ sơ cơ? Vì thế có người hỏi đáp: Phật, Văn Thù, Phổ Hiền để tạo thành phép tắc lợi sanh. phật là quả, Văn Thù Văn Thù Sư Lợi là pháp thân, nhân quả, trí căn bản. Phổ Hiền là trí sai biệt, hành thân nhân quả. Vì thế có thuyết nói Văn Thù, Phổ Hiền là mẹ của chư Phật. hoặc cho rằng Văn Thù, Phổ Hiền là trai lớn, trai út. Ba vị này hợp thành thể dụng của pháp giới. Văn Thù là pháp thân, trí căn bản thấy đạo. Phổ Hiền là hạnh nguyện tu hành sau khi thấy đạo. Phật là thể không tạo tác của hai việc. Vì thế mượn pháp thân của Văn Thù bao quát thâu tóm trí căn bản pháp thân của toàn bộ kinh, gồm đủ việc thấy đạo của chúng sanh. Phổ Hiền là trí sai biệt đủ muôn hạnh và hạnh nghiệp của chúng sanh. đầy đủ pháp hạnh là Phật. trong pháp mà đức hóa Phật thuyết giảng không có việc này. Kinh Niết-bàn Phật ẩn thân không hiện. Việc Đồng tử Tuyết Sơn đại pháp: "Các hành vô thường là pháp sanh diệt" chỉ tiêu biểu cho pháp thân Niết-bàn không có hạnh nguyện. Kinh Đại phẩm Bồ-tát Tát Bà Ba luôn cầu pháp Bát-nhã Ba-la-mật đủ sáu Ba-la-mật, nhưng không có phương tiện, nguyện lực, trí Ba-la-mật. Chỉ dắt dẫn trời, người hàng Tiểu thừa, chưa thể nhận lãnh nỗi các phương tiện, lực nguyện, trí Ba-la-mật. Trong sáu Bồ-tát la mật không có phương tiện Ba-lamật. Vì phương tiện Ba-la-mật là nẻo hành hóa phi đạo, hàng Tiểu thừa chưa thể nghe được. Vì Tiểu thừa còn sợ, ái. Hơn nữa kinh ấy phần nhiều là Thanh-văn hỏi Phật chẳng phải Bồ-tát, dù có Bồ-tát nhưng không phải là Văn Thù, Phổ Hiền. Dù có Văn Thù nhưng không có Phổ Hiền vì chưa đủ hạnh nguyện. Dù có Phổ Hiền nhưng không có Văn Thù vì không thấy bản trí, pháp thân. Dù có Văn Thù-Phổ Hiền nhưng không đối đáp nhau, vì lý sự chưa dung hòa. Cũng không nói tất cả mọi nơi đều có Văn Thù, là vô số hạnh nguyện của Phổ Hiền. Phật hóa thân là người chủ thuyết, chỉ nói nhân hành quả, trải qua ba kỳ kiếp dắt dẫn hàng Tiểu thừa không có ngay nhân là quả, lý sự viên dung, trụ phát tâm thứ nhứt là Phật, không trước sau, chứng ngay pháp giới, chơn tục đều là chơn như, nên khác với kinh này. Tất cả các kinh khác đều là phương tiện đưa đến kinh này, nhập cảnh giới Tỳlô-giá-na. Dùng pháp quán không của ba thừa chế ngự vô minh hiện tại không sanh khởi nhưng chưa thành tựu trí căn bản và trí sai biệt, thích sanh về cõi tịnh, chán ghét cõi Ta Bà. Dù có các trụ vẫn còn hoặc nghiệp. Kinh này Đồng tử Thiện Tài từ mười trụ thực hành năm vị, đầy đủ hành tướng pháp môn, vì trong mười trụ có đủ pháp mười địa, vì pháp này đầy đủ đức dụng nên không giống các hành khác như Đồng tử Tuyết Sơn gặp một thiện tri thức đạt một pháp môn. Tát Bà Đa luận cũng vậy. Kinh Pháp-hoa Long nữ thành Phật nhưng phải ở phương nam, chẳng phải là pháp giới tự tha viên dung. Người hỏi đáp cũng khác. người thuyết là hóa Phật, bến cõi uế thành cõi tịnh, không phải cõi thật, đưa trời người đến cõi khác vì chưa đoạn trừ sự phân biệt kia đây. Sự khá nhau về kinh Hoa-nghiêm và những kinh khác rất nhiều nhưng không thể nói hết được, chỉ tạm nêu như trên.
-Sự khác biệt về nhân quả: Về quả Phật có ba thuyết khác nhau:
1) Không nói năng hành động, chỉ có pháp thân không tạo tác; 2) Tuần tự tu hành nhiều kiếp mới thành tựu quả vị; 3) Ngay trụ phát tâm thứ nhứt đã đầy đủ thể dụng nơi quả Phật.
- Không nói năng hành động chỉ hiển hiện pháp thân không tạo tác: Chính là các kinh vô hành, Niết-bàn Phật ẩn thân không hiện, không làm gì. Như La sát nói với Đồng tử Tuyết Sơn: Các hành vô thường là pháp sanh diệt, đoạn trừ sanh diệt, tịch diệt an vui. Đó là quả không tạo tác, không hành động.
- Tuần tự tu hành nhiều kiếp mới thành quả vị: Như trong Quyền giáo, dạy cách tu tập, trải qua ba tăng kỳ kiếp thành tựu quả Phật. Vì không hiểu 12 duyên sanh, vô minh... vốn là pháp thân trí tuệ nên chán ghét sanh tử, tu tập pháp "Không", chế ngự phiền não, riêng hưởng tịch diệt.
- Ngay trụ phát tâm thứ nhứt đã đầy đủ thể dụng nơi quả Phật: chính là kinh Hoa-nghiêm. Sau khi thành tựu mười tín, dùng định hiểu rõ 12 duyên sanh, thành tựu lý trí bi, đầy đủ pháp môn rộng lớn, thể dụng Văn Thù, Phổ Hiền. Nhân quả giáo hạnh quả Phật do đức hóa Phật thuyết giảng phải tu hành ba tăng kỳ kiếp mới thành tựu, 100 kiếp tu tướng tốt như: đốt đèn được trí sáng, không giết hại được sống lâu, bố thí được giàu có, nhẫn nhục được xinh đẹp... mỗi nhân quả đều tương xứng, phải dùng các pháp đối trị phiền não mới thấy tánh thành Phật. Kinh Hoa-nghiêm không như vậy trong tích tắc chứng được pháp giới, thân tâm tánh tướng vốn là tánh thể, tự tại vận dụng hợp với chơn như và trí không tạo tác là Phật. tất cả các đức Phật đều như thế, không nhanh chậm, trước sau, pháp vốn vậy. Từ chơn như pháp giới tùy duyên dụng công, ngay nhân là quả. Khi hiển trí pháp giới rộng lớn thì không còn chướng hoặc, không đối trị tu tập đoạn trừ, không biến hóa. Vì tánh tướng của biến hóa và không biến hóa là một. Tất cả đều là pháp, là giải thoát. Chỉ vì chúng sanh tự ràng buộc mình với nhiều pháp nên chìm đắm trong biển khổ, các đức Phật phải nhọc công thuyết giảng. Vì chúng sanh chấp pháp Phật nên pháp Phật chia nhiều loại: Tiệm, đốn... để tùy thuận chúng sanh. Kinh Hoa-nghiêm là Viên giáo. người căn trí lớn mới có khả năng lãnh thọ. Nếu không hiểu được hãy vui tu, cuối cùng vẫn về đến đích. Các kinh khác chủ trương nhân trước quả sau. Kinh này nhân quả cùng lúc. Vì trong biển trí pháp tánh không có nhân quả nên nhân quả cùng, không chướng ngại. Nếu có nhân quả để đạt thì có trước sau. Những gì có thể đạt được đều là vô thường, không phải cứu cánh. Nếu có nhân quả trước sau thì nhân không thành, quả cũng chẳng hoại, là pháp duyên sanh không liên tục, là đoạn diệt, không có mình, người. Ví như không đếm đồng thứ nhứt thì không thể đếm đồng thứ hai. Không có đồng thứ hai đồng thứ nhứt cũng không có. Vì thời gian không liên tục, nhân không thành, quả không hoại, kiếp số không liên tục, không có nhân quả nhiều kiếp. Nếu phải đếm đồng thứ nhứt mới đếm đồng thứ hai thì nhân quả liên tục không gián đoạn, nhân quả thành. Nếu như khi đếm hai đồng cùng lúc thì cái nào là một cái nào là hai? Như đưa hai ngón tay cái nào là nhân, cái nào là quả? Song, do ý phân biệt ngón trước là nhân, ngón sau là quả. Nếu có trước sau phải có khoảng giữa. Nếu có khoảng giữa thì không thành nhân quả. Nếu cùng lúc đưa hai ngón tay, ngón nào nhân, ngón nào quả?. Nhân quả cùng lúc của Hoa Nghiêm khác với nhân quả trước sau hay đồng thời mà người đời nhận định. Vì sao? Như phần trước nói về người hỏi đáp khác với Tiệm giáo Lăng-già. Theo Hoa-nghiêm Văn Thù, Phổ Hiền, Phật, thể, dụng, chủ thể-khách thể không ngăn ngại. Theo Lăng-già đức hóa Phật và Bồ-tát Đại Huệ hỏi đáp để phá trừ chấp tướng, chỉ hiển hiện lý không ràng buộc nhưng không nói về pháp giới Duyên khởi. Vì là duyên sanh, pháp giới không thành, không thể phá hoại, pháp vốn vậy. Kinh Lăng-già chép: Trước chỉ những pháp tương tợ, sau mới nêu pháp chơn thật. Hiểu tướng là thức, không thấy tướng để hiểu là trí. Đó là nói về thành hoại, ý nghĩa của kinh Hoa-nghiêm là chơn như, không có pháp giả, cũng không có gì giống chơn giống giả, nên kinh dạy: Chúng sanh là Phật. Như trong kinh Văn Thù dùng lý để dung hợp hạnh, Phổ Hiền dùng hạnh để hiển lý. Hai vị là thể dụng dung nhiếp tạo thành pháp giới chơn như, trước sau là một, 40 phẩm dung nhiếp tất cả, một pháp đủ các pháp. Kinh dạy: Một pháp đủ các pháp, các pháp trong một pháp. Vì việc này Tiệm giáo có một phần giống, nhưng nhiều là khác. Mười
Bồ-tát Giác thủ... mỗi vị thuyết một pháp, thành pháp mười tín. Mười tín là một tín, thể dụng dung nhiếp không phân biệt. Vì mười tín là một tín, một tín là mười tín nên người học Phật không thể hiểu riêng từng pháp. Mười Bồ-tát có tên Huệ, Lâm, Tràng, Tạng... thuyết mười định, mười thông, mười nhẫn. Cứ thế tất cả cùng thành tựu lẫn nhau như lưới Đế Thích ảnh hiện vô số hình tượng, một là tất cả, tất cả là một. Thể dụng nhân quả của Phật, Bồ-tát dung nhiếp tạo thành nhau không riêng lẻ. Kinh chép: Bồ-tát Pháp Huệ vừa nhập định, khắp mười phương các đức Phật Pháp Huệ đều đến; Bồtát Công Đức lâm vừa nhập định, khắp mười phương các đức Phật Công Đức Lâm đều đến; Bồ-tát Kim Cang Tràng, Kim Cang Tạng... cứ thế mỗi vị, mỗi vị nhân quả thể dụng Bồ-tát Phật dung nhiếp nhau. Các đức Phật đến là quả, Bồ-tát nhập định là nhân, nhân quả là một. Từ pháp thân trí thể lập ra mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười trụ, đẳng giác... để chỉ dạy chúng sanh, kỳ thật các vị ấy là Phật, Phật là các vị ấy. Những người căn trí lớn tin hiểu kinh này, hành theo pháp này, ngay trụ phát tâm thứ nhứt đạt quả Phật, hành các hạnh Bồ-tát. Đó là điều kiện đầu tiên để chứng đạt, biết được thể tánh pháp trí, dù sống với chúng sanh, nhiều kiếp tu tập vẫn thấy rõ thời gian không phân biệt. Ngay lúc mới phát tâm là thành chánh giác như các đức Phật ba đời, không trước sau, pháp vốn vậy. Trong Quyền giáo phải trải qua ba tăng kỳ kiếp mới thành tựu quả Phật. Trong kinh có câu: Sự chứng quả khác với ba thừa, vì ngồi xe Như Lai, xe nhứt thừa, thẳng đến đạo tràng, không có bốn quả Sa môn mà Nhị thừa chứng đạt, không có nhân trước quả sau của Quyền giáo.
- Hành động của vị khác: Người phát tâm Đại thừa, theo căn trí có sáu hạng, ba bậc, năm bậc, mười địa. Sáu hạng: 1) Niệm Phật nguyện sanh về cõi tịnh; 2) Quán pháp sanh về cõi tịnh; 3) Quán không, vô ngã; 4) Quán có không; 5) Dần thấy Phật tánh tiến tu; 6) Thấy rõ Phật tánh viên dung. Người tu pháp Đại thừa không ngoài các hạng trên: 1) Tu giả nói pháp chơn giả; 2) Tu từng phần chơn như, chứng từng phần chơn như; 3) Tu toàn phần chơn như, đạt cảnh giới chơn như viên mãn. Về Phật thừa không có pháp giả, chỉ có chơn như. Ba bậc đó bao quát tất cả người hướng đến Bồ-đề, hành hạnh Bồ-tát, thành tựu quả Phật (ở đây chỉ nêu khái quát cụ thể đã được bàn rõ trong thật pháp, quyền pháp). tất cả đều dạy người tu bỏ chướng hoặc, tiến đến đạo quả, không phải để huỷ báng nhau. Đưa ra những sự sai khác ấy là để mọi người không hối hận, nghi ngờ, biết quyền thật tiến tu, không vướng mắc công năng thành tựu quả Phật. Sáu hạng:
1) Niệm Phật, tu giới, phát nguyện sanh về cõi Phật. Đó là cõi tịnh biến hóa không thật. Vì không thấy tánh, không hiểu vô minh là trí căn bản của các đức Như Lai.
Đó là hữu vi (như kinh A Di Đà).
2) Pháp quán sanh về cõi tịnh: Là cõi tịnh biến hóa do sự tưởng tượng, là hữu vi, không thấy Phật tánh và trí căn bản (như kinh Vô-lượng-thọ).
3) Quán không vô ngã: Kinh Bát-nhã phá trừ chấp ngã, không của nhị thừa tu pháp không, pháp có không đều không. Tuy hành Ba-la-mật, tu các pháp Bồ đề, đạt sáu thần thông, hành hạnh Bồ-tát, phước đức hơn trời, người nhưng không sanh trong nhà Phật, không thấy Phật tánh, phân biệt pháp không, không biết vô minh là trí Như Lai. Kinh Hoa-nghiêm chê trách hạng người này: Người tu tám vạn, bốn ngàn pháp môn, thông hiểu 12 bộ kinh, diễn giảng cho mọi người, người nghe đạt sáu thần thông chưa phải là khó. Người nghe học kinh này mới là khó. Kinh Pháp-hoa là pháp thành tựu Phật thừa, không phải Bồ-tát thừa. Kinh Niết-bàn, Như Lai dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường, lạc, ngã, tịnh. Có Bồ-tát hối hận rằng: Trải qua vô số kiếp ta trôi trong dòng sanh tử chỉ vì chướng hoặc của vô ngã làm mê loạn. Nhờ vậy, Bồ-tát chuyển tâm thấy tánh, biết ngã là trí. Trong Bát-nhã, những phần có Văn Thù hỏi đáp đều nói về một phần đạo lý Phật tánh pháp thân, nên Văn Thù là trí Bát-nhã. Nhưng phần hỏi đáp với Thanh-văn chủ yếu là nói pháp không để phá trừ chấp ngã không có của nhị thừa. Những phần hỏi đáp với Phổ Hiền chủ yếu là nói về hạnh nguyện. Thông thường Như Lai thuyết pháp đều căn cứ vào khả năng của chúng sanh, chỉ cần thấy sự hỏi đáp là biết nội dung.
4) Quán cả có, không, tức là thức thứ chín-Thuần tịnh thức-thời gian thứ ba của kinh Thâm-mật. Thức ấy là chỗ nương tựa của nghiệp, đủ cả ba tính, ba vô tính: Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thật. Các pháp này cùng tạo thành hư hoại, bản tánh là Niết-bàn, phần tụng trong kinh Thâm-mật: "Tất cả các pháp đều không tánh, không sanh không diệt, vốn tịch tịnh, tự tánh các pháp là Niết-bàn", những người có trí nên biết rõ. Kinh này phá trừ chấp không trong Bát-nhã. Vì không chấp nhận pháp duyên sanh, thấy không trái với đạo lý nên lập pháp duyên sanh. tự thể của các pháp là Niết-bàn, không cần huỷ bỏ, người nói có, người nói không, bài xích lẫn nhau, không hợp với có, không hợp với không. Tên mười địa của kinh này tuy giống kinh Hoa-nghiêm nhưng ý nghĩa khác. kinh này lại không có mười tín, mười trụ... Ba hiền trước, chỉ có hành tướng đoạn hoặc mười địa và địa 11 là Phật địa. Địa 11 lại có 11 thứ thô nặng; 22 ngu si. Sở dĩ kinh này không có mười tín, mười trụ... Ba hiền là vì những vị trước mười địa không thấy đạo. Hơn nữa, trong thời giáo thứ ba, chỉ hợp có không chưa dung nhiếp thể dụng của Văn Thù, Phổ Hiền. Vì thế kinh Hoa-nghiêm nói về mười tín, mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, các đức Phật trong mười phương đều chứng biết, các cõi Phật đều thuyết giảng kinh này, 13 tướng gia hộ đầu nói về chơn thật. Trong ba thừa giáo, chỉ có 11 địa, chưa độ hết chúng sanh. Đó là pháp giả, trí giả, chơn như ảo trong ba bậc, mười địa. Vì sao? Vì địa 11 ở đây là Phật, vị Phật còn chướng hoặc. Nghĩa là các địa trước địa 11 chưa có bản trí chơn lý. Nếu đủ trí chơn như. Vì sao 11 địa còn có 11 thô? Nếu còn thô thì trong các địa không có trí Phật, không đủ nhân quả. Kinh này tạm thời hợp có không để người tu không vướng mắc, nhưng chưa nói về lý sự, thể dụng viên mãn của Văn Thù, Phổ Hiền. Kinh Nhânvương có câu: Từ vị phàm phu tuần tự tu tập, trải qua nhiều kiếp tu chơn như huyễn, thành năm bậc, mười địa. Có kinh nói: các địa trước hàng phục chướng hoặc, đến địa thứ 11 thấy đạo; hoặc nói: Chưa đoạn trừ hết hoặc nghiệp, Phật phải trải qua ba tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Các giáo pháp đó đều để đối trị chúng sanh nên tạm đưa ra không phải thật, giáo pháp mà đức hóa Phật thuyết đều để chỉ dạy hạng trung, hạ căn, không phải thật. Hàng nhị thừa chuyển tâm nhưng lại thích quả Phật trong Quyền giáo. Bồ-tát thì thích đạt quả Phật nên trải qua ba tăng kỳ kiếp tu tập chỉ mong đạt quả Phật trong ba ngàn đại thiên cảnh giới, không thích quả báo rộng lớn của thân Như Lai Tỳ-lô-giá-na. Kinh Hoa-nghiêm khác, quả Phật mà mười tín mong đạt đó đầy đủ trí ngu, tức là cảnh giới của mười thân Tỳ-lô-giá-na. Cảnh giới trong Quyền giáo là cảnh giới có giới hạn, vì căn tánh hẹp hòi. Kinh Lăng-già lại nói thứ tự đoạn hoặc của mười địa: địa thứ nhứt đoạn trừ hoặc chướng, phiền não tạo nghiệp trong cõi ác; địa thứ hai đoạn trừ phiền não thô tế; địa thứ ba đoạn trừ dục vọng; địa thứ tư đoạn trừ tâm tham đắm trong pháp định; địa thứ năm đoạn trừ tâm phân biệt sanh tử Niết-bàn; địa thứ sáu đoạn trừ chướng hoặc thô nặng; địa thứ bảy đoạn trừ chướng vi tế; địa thứ tám đoạn tâm phân biệt chưa tự tại trước có không; địa thứ chín đoạn trừ tâm chấp nơi biện tài phương tiện; địa thứ mười đoan trừ chướng không chứng pháp thân viên mãn. Thiện nam tử! Pháp chỉ-quán này đoạn trừ hoặc nghiệp vi tế và sở tri chướng. Kinh Hoa-nghiêm, trụ phát tâm thứ nhứt là chứng đạt quả Phật, hiểu rõ các vị mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, đẳng giác... ví như con dấu và thời gian đóng dấu đủ hình tướng không trước sau. Nghĩa là ngay lúc phát tâm đã thấy rõ vô minh ba cõi vốn là trí Phật, dùng từ bi, pháp thân, trí thân Phật in vào thế gian tạo thành công dụng lớn không trước sau, pháp vốn vậy. trong Quyền giáo, dùng phương tiện dắt dẫn ba hạng trở về Phật thừa.
5) Dần thấy Phật tánh tiến tu: Kinh Niết-bàn dạy: Bồ-tát mười trụ thấy một phần Phật tánh, Bồ-tát mười địa chưa thấy rõ Phật tánh. Luận Khởi Tín: Bồ-tát mười trụ thấy một phần pháp thân. Sự biến hóa tám tướng thành đạo là nguyện lực. Đó là nguyện lực thì chẳng phải thật báo, chỉ là dần thấy Phật tánh, thuộc Quyền giáo không phải Thật giáo. Nếu thế, từ lúc phát tâm đến khi thành Phật không biết bao lâu. Vì sao?. Kinh Niết-Bàn dạy: Đồ tể thành Phật trong hiện tại. Xen đề vừa phát tâm đã đạt công đức siêu vượt kiếp số. Vì sao người đủ lòng tin thấy một phần phật tánh phải trải qua nhiều kiếp số? Các bậc tiên đức giải thích: Đồ tể thành Phật là biến hóa, la tuỳ tâm chúng sanh-những kẻ chưa hiểu ý Phật, dần dần đưa quyền về thật, nào có kiếp số trái với nguồn chơn? Long nữ, Thiện Tài chỉ trong tích tắc thành Phật là thật. Hàng ba thừa thấy biết hẹp hòi, chỉ nghĩ đến việc sống lâu. Trí tánh vốn trống không, không thương ghét, sao cứ mãi tự buộc mình? Trên đây tạm nêu ba bậc, mười địa. Trong kinh trước cỏn phân sáu bậc, mười địa, tức là trong Quyền giáo có ba bậc, mười địa. Kinh Nhânvương. Giải-Thâm-mật, Đại phẩm phần nhiều là giả, lập chơn như tạo thành hành tướng mười địa. Đây là ba bậc trong Quyền giáo. Bậc thứ tư như kinh Niết-bàn, Bồ-tát mười địa thấy một phần Phật tánh, Bồ-tát mười địa chưa thấy rõ Phật tánh. Nghĩa là vị này xem Phật tánh là pháp tu tập hướng đến, tu một phần, chứng một phần. Bậc thứ năm như kinh Niết-bàn bò ăn cỏ Phì Nị trên núi Tuyết, nên sữa thu được toàn là đề hồ. Nghĩa là vừa phát tâm đã thành quả Phật. bậc thứ sáu: Mười địa tu pháp nhứt thừa. Mười địa trong kinh Hoa-nghiêm là pháp giới rộng lớn không cùng tận, kinh Niết-bàn, kinh Pháp-hoa: Đồ tể, Long nữ chỉ trong tích tắc thành Phật là đưa quyền về thật, song mười địa của ba thừa chỉ thích cảnh giới của quả báo Phật rộng lớn bằng ba ngàn đại thiên cảnh giới. Đây là hóa thân thứ ba. Trong Thật giáo chẳng phải hóa thân Phật. Ba hóa thân: 1) Hóa thân: Hóa vô số thân hình; 2) Hóa một cõi nước và 28 cõi trời; 3) Hóa thành ba ngàn đại thiên cảnh giới. Thân thật báo là mười thân Tỳ-lô-giá-na, cảnh giới dung nhiếp đan xen nhau, rộng bằng pháp giới, nhỏ bằng hạt bụi, một hạt bụi là một pháp giới. Ba thừa là Quyền giáo, cảnh Phật là cảnh giả. Vì thế ba thừa trong kinh Đại-phẩm đều hành mười địa. mười địa trong kinh Giải-thâm-mật do ba Bồ-tát Quảng Ý, Quyền huệ, Thanh Tịnh Huệ cùng thuyết, không nói với Thanh-văn. Vì kinh này chuyển tâm chấp không của Bát-nhã. Hai kinh ấy chỉ nói tên mười địa, không nói đến tín, vị tư lương. Kinh Nhân-vương nêu đầy đủ pháp môn hành tướng của năm vị. như thế, ba hiền mười địa trong Quyền giáo phần nhiều là giả, phải tuần tự hiểu đạt mới thấy Phật tánh, mới có thể ngồi xe Như Lai thẳng đến đạo tràng, vị thứ trong Quyền giáo chẳng phải thật. Về Như Lai thừa, kinh Niết-bàn chép: Mười trụ thấy một phần Phật tánh, mười địa chưa thấy rõ Phật tánh. Luận Khởi-tín có câu: Bồ-tát mười trụ thấy một phần Phật tánh, vì thệ nguyện hiện tám tướng thành đạo. Hai kinh này giống nhau, tuy chưa viên mãn nhưng đều thấy một phần Phật tánh. Ví như hoàng tử vì có khả năng cai trị đất nước nên vua cha phong làm thái tử. Vì thấy một phần Phật tánh nên là đệ tử chơn thật của Phật, sanh trong nhà Phật. những kinh khác giả nói về chơn như trí tuệ, đến địa vị thứ nhứt được sanh vào nhà Phật, vì sức thấy Phật tánh siêu vượt. Thấy một phần đã vậy, huống gì thông đạt tất cả? Mười địa của Viên giáo khác, thể của một niệm là Phật vì thấy rõ thể của vô minh là trí. Kinh dạy: một pháp thành, tất cả đều thành, một pháp hoại tất cả đều hoại. Vì hóa độ hạng trung hạ căn nên hành tướng của bốn bậc, mười địa khác nhau tí chút. Pháp này và ba bậc mười địa trong Quyền giáo giả lập chơn như là trí quán, từ pháp thân Phật tánh lập ra hai giáo tiệm, đốn. Trong Quyền giáo, địa thứ nhứt đoạn trừ chướng hoặc phiền não tạo nghiệp cõi ác; địa thứ bảy đoạn trừ chướng hoặc vi tế vẫn là chướng ngại trí không hình tướng, chưa hoàn toàn tự tại, ngay địa thứ tám cũng chưa tự tại giữa hữu vô. Như vậy chúng sanh ác địa đều không tự tại, còn chướng hoặc. Đây là căn cứ pháp đoạn hoặc của kinh Giải Thâm-mật. mười địa trong ba thừa đều phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp đoạn trừ hoặc chướng, 100 kiếp tu tập tướng tốt. Thứ tự các địa trong Phật tánh của kinh Niếtbàn cũng vậy. Kinh Bổn-nghiệp Anh-lạc có dạy: Bồ-tát mười trụ và quyến thuộc trang sức anh lạc bằng đồng, đi xe bằng đồng, sanh trong một cõi Phật, lãnh thọ pháp Phật, giáo hóa hai cõi nước; Bồ-tát mười hạnh và 500 quyến thuộc trang sức anh lạc bằng bạc, sanh trong ba cõi Phật, lãnh thọ pháp Phật, hóa độ ba cõi nước; Bồ-tát mười hồi hướng cùng một ngàn quyến thuộc trang sức bằng kim cương, đi xe vàng, sanh trong các cõi Phật khắp mười phương hóa độ chúng sanh trong bốn cõi nước; Bồ-tát địa thứ nhứt trang sức trăm loại anh lạc, địa thứ hai trang sức ngàn loại anh lạc; địa thứ ba trang sức vạn loại anh lạc; địa thứ tư trang sức số anh lạc... Bồ-tát địa thứ mười số anh lạc nhiều hơn, Bồ-tát địa 11 đạt pháp Phật. Bồ-tát ba hiền... có 15 xe... Bồ-tát ba hiền chế phục phiền não hoặc nghiệp sanh trong ba cõi, và tâm thấy đạo thô; Bồ-tát Hỷ nhẫn hàng phục nghiệp sang trong ba cõi, Bồ-tát Ly cấu nhẫn hàng phục nghiệp sanh trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, cõi người; Bồ-tát Minh nhẫn hàng phục nghiệp sanh trong các cõi trời; Bồ-tát Diệm nhẫn hàng phục nghiệp sanh trong các cõi; Bồ-tát Thắng nhẫn hàng phục tâm nghi; Bồ-tát Hiện nhẫn hàng phục pháp duyên sanh; Bồ-tát Sanh nhẫn hàng phục quả; Bồtát Bất động nhẫn hàng phục nhân sắc; Bồ-tát Quang nhẫn hàng phục nhân tâm; Bồ-tát tịch diệt nhẫn hàng phục chủng tử tâm sắc; Bồ-tát Vô cấu nhẫn đoạn trừ quả. Phật tử! Vì thế ba hiền được gọi là người hàng phục và đoạn trừ, các địa cũng hàng phục, đoạn trừ tất cả phiền não, biết và đoạn trừ vô minh trong pháp giới. Trên đây nói về 11 nhẫn. Vì ba hiền đoạn trừ phiền não thô trong ba cõi nên là Bồ-tát, tức là mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng. Kinh Anh lạc dạy: Phật tử! Bồ-tát địa thứ nhứt chỉ đạt pháp thân không hình tướng, chỉ trong giây phút đã thành tựu công đức trong trăm vạn tăng kỳ kiếp, quán chiếu hai đế, mọi tâm cảnh đều tịch diệt. Trong thật pháp, không thể dùng tâm thức của phàm phu để đo lường hai thân. Giải thích hai thân:
1) Pháp tánh; 2) Báo hóa. Thật pháp là trí pháp tánh. Bồ-tát địa thứ nhứt đã tự tại đạt quả Phật không cần tu tập, huống gì Bồ-tát các địa khác. kinh dạy: Bồ-tát ba hiền nhập vị Thánh nhơn, nhưng trong pháp tánh tất cả đều tịch diệt, tự tại đạt quả vị Diệu giác. Phật tử! Kể cả tên ba hiền mười địa cũng là vô tướng. Chỉ vì hóa độ chúng sanh nên các đức Phật quá khứ lập ra mười địa. sau khi nói kinh Hoa-nghiêm, Phật nói pháp hóa độ ba thừa. kinh khác chép: Sau khi thành Phật dưới cây bồ đề Phật lược nói kinh Hoa-nghiêm. kinh Anh-lạc có câu: Ta từng ở điện Phổ Quang nói pháp tịnh độ, lên cõi Đao Lợi nói mười trụ. Theo kinh này sau khi nói mười địa. Phật lên thiền thứ ba nói địa 11. Phật tử! Ta từng ở cõi thiền thứ ba tập hợp năm chúng nói pháp Bồ-tát một đời thành Phật, nhập định Phật Hoa nói trăm ngàn bài kệ. Ở đây ta chỉ nói một bài kệ, các ngươi hãy thọ trì. Hành tướng đoạn trừ hoặc chướng của 11 địa theo kinh Anh-lạc: ba hiền đoạn trừ vô minh ba cõi nhưng là đoạn trừ nghiệp thô. Vì ngay hiện tại, quán tất cả như con mình. Giải thích Bồ-tát ba hiền lúc thọ trì pháp tánh trí tuệ, sanh vào nhà Phật, tâm bi lớn, xem chúng sanh ba cõi như con mình, nên nguyện cứu độ vì lòng bi sanh trong ba cõi. Kinh nêu rõ: vì nghiệp chịu rõ nên là tức dụng. Nghĩa là không tạo nghiệp trong ba cõi nữa. Kinh dạy: không đoạn thọ dụng nghĩa là hết nghiệp ba cõi nhưng vì lòng bi thọ thân trong ba cõi. Kinh dạy có 11 người hàng phục nghiệp quả ba cõi trong pháp giới, 11 người là mười địa và đẳng giác. Kinh nói từ địa thứ nhứt đến địa thứ bảy đoạn trừ nghiệp ba cõi, địa thứ tám khế hợp pháp. vì bảy địa trước đoạn nghiệp, địa thứ tám dung hợp pháp nên sanh vào cung vua, xuất gia, đạt đạo, thuyết pháp, nhập diệt, cảnh giới hóa Phật... chỉ còn chủng tử vô minh, vì Bồ-tát địa thứ tám đạt trí vô công dụng, tuy độ chúng sanh nhưng không thấy chúng sanh. Bảy địa trước phần nhiều tu tâm bi, địa thứ tám chuyên tu trí vô công dụng, tuy không thọ sanh nhưng tuỳ duyên độ sanh. Song vị này vẫn còn chủng tử ái pháp, đến địa vị Phật mới đoạn hết, vì nguyện xưa nên biến hóa thọ sanh. Do vậy, ngày xưa ta ở cõi trời nói nghĩa sanh, không sanh, sanh bằng nghiệp, sanh bằng biến hóa. Phật tử! Trong vị Thánh có hai nghiệp: 1) Huệ nghiệp vì không vọng tưởng nên phát sanh trí tuệ, biết rõ vì tâm duyên nên pháp sanh; 2) Công đức nghiệp: từ thật trí có pháp hữu vi vô lậu, tu tập công đức trong trăm vạn tăng kỳ kiếp. Từ vị Thánh thứ nhứt trở về sau là thị hiện thọ sanh. vì là biến hóa nên không tạo nghiệp khác. vì thệ nguyện nên biến hóa thọ sanh trong trăm ngàn kiếp. Đó là căn cứ theo kinh Bổn-nghiệp anh-lạc, cũng là Đốn giáo, Tiệm giáo trong Viên giáo. Là Đốn giáo như kinh dạy: Bồ-tát ba hiền nhập Thánh vị, vào dòng pháp, tự tại đạt Phật vị, không tạo tác; là Tiệm giáo phải tuần tự tu tập đoạn trừ hoặc chướng. Ba hiền có mười trụ trong kinh Anh-lạc là vào dòng Phật, khác với địa thứ nhứt thấy đạo đoạn hoặc trong Quyền giáo. Phẩm mười địa kinh Hoa-nghiêm có câu: Hàng phàm phu đã tu hành mười địa, không đợi tới Thánh vị mới học. Về vị thoái chuyển, kinh Anh-lạc nói: Phật tử! Về việc tiến thoái, vô số chúng sanh từ mười trở về trước, phát tâm bồ đề học pháp Phật, người tu hành bằng tín tâm là thoái chuyển. Phật tử! Người ấy trải qua một kiếp, hai kiếp tu pháp mười tín, nhập mười trụ, từ trụ thứ nhứt đến trụ thứ sáu, tu Bát-nhã Ba-la-mật, trụ thứ bảy tự tại không thoái chuyển là người tu pháp Bát-nhã Ba-la-mật quán pháp không, không ta người, không chủ thể hoàn toàn không sanh, luôn sống trong định. Phật tử! Nếu vị ấy không gặp thiện tri thức thì khoảng một hoặc hai kiếp thì thoái tâm bồ đề. như trong lần thuyết pháp thứ nhứt, tám vạn chúng thoái tâm. Thiện Tử Tịnh Mục, vương tử pháp thân Xá Lợi Phất... sắp an nhập trụ thứ bảy nhưng vì gặp duyên xấu nên sanh vào cõi phàm phu xấu, không phải là người tu pháp ngoại đạo, trải qua một kiếp, mười kiếp sống trong tà kiến tạo năm tội nghịch và vô số tội ác.
Hỏi: Kinh Niết-bàn dạy: Chỉ nghe hai tiếng thường trụ đã không đọa địa ngục trong bảy kiếp. Kinh Hoanghiêm nói: Người nghe tên Như Lai và pháp Như Lai mà không hiểu cũng đã tạo hạt giống giải thoát thành Phật. Vì sao ở đây trụ thứ sáu hàng mười tín phàm phu còn thoái chuyển?
Đáp: Mười tín chưa hiểu rõ, chưa đạt tự cho là đạt, kiêu ngạo, không gần bạn lành, không kính bậc hiền đức nên ở mãi trong cõi người, cõi trời tạo nghiệp ác địa ngục. Nếu hàng mười tín không kiêu ngạo, luôn gần gũi bạn lành thì không thoái chuyển. Trong Quyền giáo trụ thứ sáu vẫn còn tâm thoái chuyển. Trong Thật giáo chê trách người chấp pháp. Xá Lợi Phất chỉ là người hiện làm Thanh văn, không phải thật, mọi hạnh của Ngài đều để dạy chúng sanh tiến tu. Trong Quyền giáo vì sao trụ thứ sáu tâm còn thối chuyển? Vì trong Quyền giáo ba hiền chưa thấy đạo, việc tu tập đều là hữu vi, hàng phục vô minh nhưng chưa mạnh mẽ nên thoái chuyển. Nếu mạnh mẽ sẽ không thoái chuyển. Như nọc độc của rắn bị sức chú thuật ngăn chận không gây tác hại. Người sống trong pháp Phật, phát lòng tin, khiêm nhường không cao ngạo, kín tin bậc hiền đức, thương yêu kẻ ác, học hỏi người hơn mình, thực hành pháp thù thắng, bỏ hư dối thì lo gì thoái chuyển? Năm bậc mười địa hay ba bậc mười địa đã rõ như kinh Đại-phẩm và Niết-bàn, nhưng chỉ trình bày tên mười địa, thứ tám là Bát nhơn, thứ chín là Kiền huệ. Tên của các địa ít khác nhau. tên mười địa trong kinh Giải Thâm-mật tuy giống kinh Hoanghiêm, nhưng từ địa thứ nhứt đến địa 11 vẫn còn 11 thô, 22 ngu si. Hai kinh trên chỉ có mười địa, không có bốn vị tư lương. Kinh Nhân-vương có mười tín, mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, bốn vị tư lương. mười tín là nội phàm. Trong Thật giáo trụ thứ nhứt đã đạt thể tánh như Phật. Mười tín mà không tin mình và Phật như nhau thì chưa tin hiểu. Vì thế phẩm Như Lai xuất hiện nêu rõ: Bồ-tát phải biết từ tâm mình có các đức Phật thành chánh giác, thuyết pháp. Vì sao? Vì tâm Phật và tâm mình giống nhau. Tín hiểu như thế mới là tin. Mười trụ lại không đạt tâm này sao? Nếu không hiểu tâm này thì không gọi là mười trụ. Vì thế trụ là an trụ pháp mà Phật an trụ, nên trụ phát tâm thứ nhứt đã thành chánh giác. Hơn nữa trong Quyền giáo, lúc nói mười địa không có các đức Phật cùng bên ở mười phương đến chứng minh nhân quả đồng thời. Do vậy pháp và vị đều chỉ độ hàng chúng sanh căn trí kém, các bậc căn trí lớn không nên vướng kẹt, hãy tiến tu. Lúc nói mười địa... năm vị của kinh Hoa-nghiêm, Bồ-tát Pháp Huệ nhập định nói pháp mười trụ, vô số Pháp Huệ khắp mười phương xuất hiện đưa tay xoa đầu Bồ-tát Pháp Huệ và khen ngợi, gia hộ Bồ-tát bằng ba pháp, lúc nói mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa cũng có hiện tượng trên. Đó là nhân quả giống nhau. Luận mười địa của Bồ-tát Thiên Thân giải thích mười địa, là phẩm mười địa trong Hoa nghiêm. Về phần giải nghĩa thông cả ba thừa, một thừa nhưng phần nhiều là giải thích nghĩa ba thừa, ít giải nghĩa nhứt thừa, vì đạo lý nhứt thừa khó dùng ngôn ngữ diễn đạt, dù giải thích vẫn khó trừ nghi. Nếu tin lời Phật thì không trừ nghi, chẳng suy xét, không chán khổ, không sống trong tịch diệt, biết thường lạc ngã tịnh. vì thế trong năm bậc, mười địa, ba bậc là quyền, hai bậc là thật. Kinh Anh-lạc chép: Ngày xưa vì hóa độ chúng sanh, Phật nói mười địa. Tên của mười địa trong Quyền giáo tuy giống nhưng cách chỉ dẫn chúng sanh tu tập hoàn toàn khác. Vì lúc nói không có các đức Phật cùng tên đến chứng minh nhân quả giống nhau.
6) Chứng đạt Phật tánh, lý trí trọn vẹn muôn hạnh. Phẩm Như Lai hiện tướng (trong lần thuyết thứ nhứt), trong kinh Hoa-nghiêm nêu rõ. Từ giữa hàm răng, giữa chặng mày, Phật phóng Ánh sáng đạo quả dạy Phổ Hiền nhập định thuyết giảng ác chúng sanh phẩm sự thành tựu của thế giới, cõi Hoa Tạng Tỳ-lô-giá-na, thuyết giảng quả của chư Phật để cho chúng sanh tu. Sau đó Phật dạy Bồ-tát Văn Thù thuyết các phẩm danh hiệu của Như Lai, bốn Thánh đế. tiếp theo từ tướng bánh xe dưới chân Phật phóng Ánh sáng chiếu soi, khắp chốn, vô số Bồ-tát từ mọi nơi đều tập hợp về, thuyết các phẩm: Ánh sáng giác ngộ, Bồ-tát hỏi đáp, Tịnh Hạnh, Hiền Thủ và pháp mười tín. Ánh sáng từ tướng bánh xe dưới bàn chân là thấp thứ nhứt, biểu hiện lòng tin là điều kiện đầu tiên để thành tựu mười tín. Mười tín là hạnh thấp nhứt. Đó là Ánh sáng được nhập từ Ánh sáng giữa chặng mày của Như Lai. phẩm Như Lai hiện tướng, Như Lai phóng Ánh sáng từ giữa chặng mày, sau đó nhập Ánh sáng vào tướng bánh xe dưới bàn chân là nêu quả Phật, để thành tựu mười tín. Người tu học nhờ lòng tin chứng nhập mười tín. Do vậy, mười Bồ-tát tên Thủ từ mười cõi, mười đức Như Lai đến chứng minh. Mười tín là nấc thang đầu vào đạo nên các Bồ-tát đều có tên Thủ. Mười cõi nước là vì Bồ-tát mười tín chưa đạt chơn thật, vẫn còn là phàm phu, tin cõi Phật là cõi có hình sắc. Bồ-tát mười trụ thông hiểu lý sự nên cõi nước là Hoa, nghĩa là từ phàm phu thông đạt lý sự. Bồ-tát mười hạnh thông đạt trí tuệ viên mãn nên cõi nước là tuệ, Bồ-tát mười hồi hướng, mười địa với diệu dụng tự tại nên cõi nước được hình thành từ pháp là vì an trụ nơi pháp, không phải cõi nước được hình thành bằng đất, nước, gió, lửa. Người đạt Thánh trí đã đoạn trừ hoặc chướng, vì thế Bồ-tát mười tín đề có từ mười trí Phật: Bất động, vô ngại, giải thoát... Trí là quả đức, quả đức là nhân để Bồ-tát mười tín phát lòng tin. Mười tín dùng quả làm nhân nếu không thì không có lòng tin, không có căn cứ. Vì sao Văn Thù là thiện tri thức đầu? Vì Văn Thù là người khơi sáng đầu tiên. Các đức Phật mười phương đều nhờ Văn Thù phát khởi lòng tin ban đầu, đó là trí căn bản, là pháp thân. Văn Thù là lòng tin để đạt quả Phật. Phổ Hiền là trí sai biệt, là hạnh nguyện sau khi đạt quả. Vì thế trước tiên Thiện Tài gặp Văn Thù phát lòng tin, sau cùng gặp Từ Thị để thành tựu quả Phật. việc thấy mình nhập thân Phổ Hiền là hạnh nguyện sau cùng khi đạt quả Phật. Văn Thù là trai út, Phổ Hiền là trai lớn, hợp đủ hai vị là Phật. Văn Thù là trí tuệ vi diệu, là pháp thân, Phổ Hiền là hạnh nguyện, là oai đức, thể dụng tự tại là Phật. Văn Thù là trai út vì lòng tin là điều kiện đầu tiên, để chứng pháp thân, trí tuệ căn bản. Nhờ đó sanh vào nhà Phật. Phổ Hiền là trai lớn vì từ trí tuệ căn bản phát khởi trí sai biệt, tự tại sử dụng pháp Ba-lamật của Phật, luôn dùng hạnh nguyện xây nhà Phật, hàng pháp Phật. Trong các kinh, thường nêu Văn Thù là người hỏi đáp để biểu hiện Phật tánh pháp thân; nêu Phổ Hiền là người hỏi đáp để nói lên hạnh nguyện. Văn Thù cỡi Sư tử là hùng mạnh đoạn hoặc, chứng trí ban đầu. Phổ Hiền cỡi voi trắng biểu hiện oai đức là hạnh nguyện an lạc. Văn Thù thường ở chỗ Phật Bất Động Trí, cõi kim sắc phía đông, hành kim thuộc màu trắng, trừ bụi nhơ.
Kim sắc là pháp thân. Bất Động Trí là công dụng tự tại của trí căn bản. Phổ Hiền thường ở chỗ Phật Bảo Oai Đức Thượng Vương phía đông, hạnh nguyện là châu báu thành tựu oai đức. Người đầy đủ hạnh nguyện là nhờ sự tự tại của pháp thân. Oai đức tự tại là vương (vua). Những người không đủ hạnh nguyện đều lo sợ, dù ở địa vị tối cao vẫn khô là vương. Phổ Hiền, Văn Thù đều ở phía đông vì thể dụng sự lý pháp thân trí thân vốn là một. Văn Thù ở núi Thanh Lương phía đông bắc tượng trưng là quẻ cấn, chủ ở phía đông bắc. Cấn là trai út, là trẻ thơ. Vì Văn Thù là người đầu tiên chỉ dạy khơi sáng trí căn bản và Phật tánh cho pháp phu. Phổ Hiền ở phía đông. Đông thuộc vị mão là quẻ chấn, chấn là trai lớn. Lại như mặt trời mọc ở phía đông, chiếu sáng khắp nơi, muôn vật sinh sôi nảy nở. Đó là lý trí dung nhiếp thành một. Vì trí căn bản và trí sai biệt là thể dụng hợp nhứt. Do vậy Tý là quả Phật, sửu là mười tín, dần là mười trụ, mão là mười hạnh, thìn là mười hồi hướng, tỵ là mười địa, ngọ là đẳng giác, mùi là vào đời độ sanh, thân dậu tuất hợi là chúng sanh được độ. Từ đó có pháp tắc. Trong kinh Dịch: khảm là vua, ly là hàng quan lại, chấn là thượng tướng, dậu là tướng võ, đông là rồng xanh, tây là cọp trắng, trước lá chu trước, sau là huyền vũ, rồng xanh là điềm lành, hổ trắng là hung hại, chu trước là sáng, huyền vũ là tối. Do vậy Như Lai tuần tự phóng Ánh sáng. Phổ Hiền là hạnh nguyện. Quan Âm là từ bi, thống trị nơi hung hiểm là tướng võ. Văn Thù là người thầy chỉ dạy ban đầu, phát khởi lòng tin. Các vị hỗ trợ nhau giữ gìn pháp Phật, dạy chúng sanh an trụ nơi pháp tánh trung đạo. Tạo lợi ích cho chúng sanh bằng trí bi, vì thế thân các vị đều sắc vàng, mắt tóc xanh. Thể màu trắng những hình tướng màu vàng là hợp với chơn như và căn trí của chúng sanh, là hình sắc có từ không hình sắc. Về thể dụng mỗi Bồ-tát đều đầy đủ trí bi rộng lớn, nhưng về pháp tắc, thường nêu Văn Thù là người thầy chỉ dạy đầu tiên. Ở đây nêu đông tây bao gồm cả nam bắc. Về tổng thể một phương là đủ cả mười phương. Kinh dạy: Nơi nào cũng là Bồ-tát Phổ Hiền, là cõi kim sắc, là Văn Thu, là Phật Bất Động Trí. Thân Phật có trong pháp giới, hiển hiện trong chúng sanh, Phật ở cây bồ đề là ở khắp mọi nơi. Mỗi lỗ chân lông Phật có vô sô Bồ-tát thuyết giảng hạnh Phổ Hiền, một phương đủ cả mười phương, một hạt bụi chứa vô số cõi nước. Ở đây để thích hợp với việc giáo hóa nên phân chia phương hướng. Mười tín được hình thành từ đâu? Theo phẩm Ánh-sáng giác ngộ của mười tín: Các nơi đều là Văn Thù thuyết giảng pháp Phật, khen ngợi mười đức của Phật, thành tựu vị tín, lại làm cho người phát lòng tin ngày càng bền chắc. Bồ-tát Văn Thù hỏi Bồ-tát Hiền Thủ về mười vấn đề như: nghiệp không biết tâm, tâm không biết nghiệp... để người phát lòng tin tự quán chiếu, tin tưởng vững hơn. Kinh dạy: các pháp không tạo tác, chẳng có thể tánh. Vì không hiểu biết nên đưa ra những ví dụ về pháp được hình thành từ đất nước gió lửa. Hãy phân biệt quán sát thân này, cái gì là ngã. Nhờ hiểu vậy, thấy không có gì là ngã. Phẩm Hiền Thủ có câu: Phàm phu nhờ phát lòng tin nên thành tựu được quả Phật. Do vậy phàm phu tin trí mình và Phật giống nhau. Vì tất cả là một pháp thân, một trí căn bản. Chỉ vì vô minh mê hoặc nên khác. Vô minh vốn là tâm Phật. Ví như từ một rễ cây sanh ra các nhánh lá. Song vì điều kiện khác nhau nên sự hình thành hư hoại của các cành cây khác nhau. Phàm phu tin mình có khả năng thành tựu mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, Như Lai. Vì sao? Vì biết từ xưa đến nay, ta có khả năng làm việc vô ích trôi trong vòng sanh tử, cớ sao hôm nay ta không làm được những việc lợi ích, cứu độ chúng sanh của Bồ-tát? Tin các đức Phật đều có từ định, ta cũng như vậy. Vì sao? Vì định đức Phật có từ tự tánh Như Lai, ta cũng có tự tánh Như Lai thanh tịnh như Phật. Các đức Phật có thần thông ta cũng có. Vì sao? Vì thần thông của Phật có từ trí chơn thật, chỉ cần ta đoạn trừ vô minh phiền não chướng thì sẽ thành tựu chơn trí ấy, biến hóa tự tại. Ta sẽ đạt trí tuệ như Phật. Vì sao? Vì lòng từ bi của Phật có từ hạnh nguyện, ta cũng sẽ phát nguyện như các đức Phật. Vì sao? Vì các đức Phật từ tự tánh tự tại thuyết pháp, dùng trí thân pháp thân đi vào cõi chúng sanh, không nhiễm sắc trần, tự tại. Ta cũng từ tự tại tánh phát trí Như Lai. Tất cả các hạnh như Phật từ lúc phát tâm trải qua vô số kiếp ta tu tập không ngoài một sát na. Vì sao? Vì không có ba đời, cứ thế ngay vị phàm phu đã tin hiểu thấu suốt quả Phật. Với mười pháp trên sẽ thành tựu tín vị, an trụ vững chắc, vĩnh viễn không thoái chuyển. Hơn nữa Bồtát Văn Thù, Bồ-tát Giác Thủ... Mười tín đều từ mười cõi kim sắc đến, tức là đến từ pháp bạch định, từ gốc tín. Cõi kim sắc tiêu biểu cho lòng tin có từ hạnh nguyện, vì hoa sen tượng trưng cho hạnh nguyện. Cõi Chiêm Bặc Hoa tiêu biểu cho lòng có từ sự hoà hợp lý sự bi trí. Trong năm màu, màu vàng là hơn hết, là màu hợp chơn như, màu của hoàng cung, màu trung đạo. Vì hoa Chiêm Bặc là hoa màu vàng. Bồ-tát này đến từ cõi trí bi hoà hợp chơn như. Cõi Ưu Bát La Hoa (hoa này màu đỏ, màu tía) tiêu biểu cho lòng tin từ hạnh hoà hợp tất cả hạnh. Cõi Bảo sắc tiêu biểu cho lòng tin có từ trí quý báu. Cõi Kim Cang Sắc tiêu biểu cho lòng tin có từ quả, đoạn trừ phiền não. Cõi Pha Lê tiêu biểu cho lòng tin có từ sự thanh tịnh. Cõi Bình đẳng tiêu biểu cho lòng tin có từ pháp giới bình đẳng. mười cõi trên đều là pháp Bồ-tát mười tín tin tưởng đều có từ pháp tự tin. Ở sau, mười đức Phật như Bất Động Trí, Vô Ngại Trí, Giải Thoát Trí đều là Phật trong quả Phật. Nghĩa là tin trí mình có từ trí Phật. Nếu không từ quả Phật thì không thành tín vị. Đức Phật lên núi Tu Di, phóng trăm ngàn Ánh sáng từ đầu ngón chân, nói mười trụ. Mười tín được nói ở điện Phổ Quang, Phật phóng Ánh sáng từ tướng bánh xe dưới chân. Nghĩa là mười tín có từ phàm phu. Ánh sáng phóng từ bàn chân tiêu biểu cho tín là vị thấp nhứt trong các vị... Mười trụ được nói trên đỉnh Tu Di. Vì mười trụ tiêu biểu cho từ sơ tâm chứng pháp vị, từ mặt đất lên đến cao tột, qua đỉnh Sơn Vương đến vị Pháp Vương. Nơi vị ấy dừng là núi, vì chứng nhập chơn như nếu không dừng thì không hội nhập. Ánh sáng phóng từ đầu ngón chân là quả cấn, cấn là ngón tay, ngón chân. Nếu bước vào đạt quả Thánh mà không biết nơi dừng là không biết hướng đi. Nghĩa là khi đạt được mười tín, bước lên đường Thánh, đến trụ thứ nhứt, dùng tâm định quán sát tất cả cõi phàm Thánh, tánh tướng không ngại, đủ diệu dụng. Như kinh Bổnnghiệp Anh-lạc nói: Tu pháp ba hiền vào dòng Thánh, mọi tâm cảnh đều tịch diệt, tự nhiên an nhập vị Diệu giác. Ý trong kinh Hoa-nghiêm khác, diệt trừ vọng thức, không phân biệt thời gian, đoạn hết vọng tình, chỉ có cảnh chơn trí, một sát na thông đạt năm vị. Vì hàng quả Phật làm nhân nên dù sống với chúng sanh nhiều kiếp vẫn không thấy sự thay đổi, không thấy mình sẽ thành Phật, hiện thành Phật. Pháp mười trụ đã vậy, chúng sanh nào không thành Phật? Chúng sanh nào thành chánh giác? Kinh Hoa-nghiêm là pháp giới căn bản, là nhà lớn của các đức Phật, là nơi trở về của tất cả người tu Phật. Hóa thân quyền pháp không thuộc kinh này. Ai an nhập được, ngay lúc nhập là khế hợp chơn như. Trụ phát tâm thấy đạo thứ nhứt an trụ từ nơi kiến Phật, ngộ nhập tri kiến Phật, thân tâm tánh tướng như, thông đạt hành tướng năm vị như gương sáng soi rõ mọi hình tượng. Pháp của kinh này là vậy. Những ai muốn thuyết giảng tin hiểu như thế vì pháp giới trọn vẹn không trước sau, một sát na đủ tối, sáng, năm, tháng, một hạt bụi bao gồm cõi Phật, cõi chúng sanh, một pháp thành tất cả đều thành, một pháp hoại tất cả đều hoại. Mười trụ có mười vị Bồ-tát cùng tên Huệ, cõi nước tên Hoa, đức Phật mà các vị ấy phụng sự có tên Nguyệt.
Giải thích: Vị này đạt chơn như, phân biệt đúng sai là tuệ; lý sự cùng hành như hoa nở nên cõi nước tên Hoa; đạt pháp, phiền não hết, an lạc như mặt trăng nên Phật có tên Nguyệt. Những pháp ấy đều là pháp mà mười trụ chứng đạt, không hư dối. Kinh có câu: Lúc ấy nương oai thần của Phật, Bồ-tát Pháp Huệ nhập định vô lượng phương tiện. Nhờ sức định của vô số đức Phật Pháp Huệ từ các nơi xuất hiện trước Bồ-tát, ủng hộ Bồ-tát bằng ba pháp: 1) Lời nói: Khen hay; 2) Hành động: đưa tay xoa đầu; trao mười trí vô ngại; Ánh sáng cõi nước chiếu soi thân Bồ-tát.
Các đức Phật nơi mười phương cùng hiệu Pháp Huệ vì mười trụ chứng Thánh vị, vào dòng pháp, có trí tuệ như Phật. Đó là tiêu biểu cho sự giống nhau của các pháp, nhân quả pháp mười trụ như nhau. Phật là quả, Bồtát là nhân, nhân quả cùng một thể. Hành tướng của mười trụ gồm sáu phẩm được nói trên đỉnh Tu Di: 1) Lên núi Tu di; 2) Nói kệ khen ngợi; 3) mười trụ; 4) Phạm hạnh; 5) Công đức phát tâm; 6) Thành. Người tu ngộ nhập thông hiểu mầm Phật, sanh vào nhà Phật là đệ tử chơn thật của Phật. Trong Quyền Giáo, địa thứ nhứt mới sanh vào nhà Phật, hoặc Bồ-tát ba hiền, nhờ sức thệ nguyện mới thành Phật. Kinh Hoa-nghiêm chỉ nói về thật tướng, không nói rõ về thệ nguyện. Vì nó là pháp giới cùng một thời gian, không phân biệt trước sau, phàm Thánh một tánh, không có sự ràng buộc vọng tình. Hãy xem xét bằng pháp không vọng niệm, không tạo tác sẽ biết được. Nếu xét bằng vọng tình thì không thể hiểu. Dù tin vẫn chỉ là tin lời Phật nhưng không tự thấy. Người tự thấy là không còn vọng tưởng, tâm hợp chơn lý, trí cảnh hoà nhập mới biết được sự dung nhiếp của muôn cảnh tánh tướng. Nếu không tâm luôn phân biệt phải trái kia đây. Tịnh uế. Người khế hợp chơn tánh, vọng tưởng đoạn tuyệt, tự đạt pháp giới huyền nhiệm, hoà hợp một nhiều, thuần tạp, chung riêng, hiểu rõ căn tánh chúng sanh để luôn đem lại lợi ích, là thiện hữu tri thức của những ai gần gũi kính thuận. Lên cõi Dạ Ma nói mười hạnh. Như Lai phóng vô số Ánh sáng từ hai chân. Nghĩa là tập hạnh từ sự trống không mới thông đạt lý sự. Mười trụ đạt pháp thân, trí căn bản; mười hạnh, pháp thân trí căn bản tự tại không ngại, thực hành các hạnh cũng không ngại. Nếu không đạt pháp thân trí căn bản thì mọi việc làm đều thuộc nhân quả trời người, đều là phước sanh diệt hữu lậu. Dùng pháp thân trí tuệ đoạn trừ hoặc chướng, hành mọi hạnh đem lại lợi ích cho chúng sanh, pháp thân trí thân tự tại, không tạo tác nhưng đủ công dụng, tuy có kinh nói địa thứ bảy tu bi, địa thứ tám tu trí nhưng kinh Hoa-nghiêm dạy trụ thứ nhứt đã đủ cả hành tướng của các vị, đồng quả Phật, vì là thể dụng của pháp giới. Trong một vị đủ cả mười pháp ba-la-mật. Hãy xét hiểu bằng sự mầu nhiệm của pháp. Đó mới là tạng thân Như Lai, pháp môn rộng lớn của Phổ Hiền. Như người mù không thấy mặt trời, mắt trăng chiếu sáng, không phải lỗi của mặt trăng. Hãy tự trách và tu tập, dùng định, tuệ để quán sát. Tạng thân Như Lai là pháp thân, đủ phước trí rộng lớn. Nếu không thấy pháp thân thì không thể hiểu được trí bi, mãi ở trong sanh diệt. Thế giới Hải tuyền là nơi đủ bi, trí, Thánh, tục, thân, nghiệp. Hãy dùng tâm bi cứu độ vô số chúng sanh. Tuyền là sâu xa mênh mông, như Bồ-tát trong quả Phật vừa an nhập pháp giới cứu độ vô số chúng sanh không có tâm xuất thế, ở mãi trong sanh tử nhưng không thấy có ra khỏi hay chìm đắm. Hạnh của mười hạnh như Phổ Hiền, mười trụ như Văn Thù, đủ pháp thân trí tuệ không hình tướng. Hai vị cùng một thể nên vừa là chủ thể vừa là khách thể, trí không tạo tác là quả Phật. ba vị này cùng một thể. việc lập ra năm vị là để dạy kẻ mê, phàm phu đủ tín tâm, mười trụ đủ ba thân. Văn Thù là pháp thân Phật, Phổ Hiền là hành thân Phật, trí không tạo tác là báo thân Phật. Song thông thường xem trí tuệ không hình tướng, pháp thân Văn Thù là điều kiện dắt dẫn đầu tiên. Về phương diện ngôn ngữ có ba thân trước sau nhưng về chứng đắc thì cùng một thời gian. Pháp vốn vậy, không thể thiếu một trong ba vị ấy. Nếu bỏ Văn Thù giữ Phổ Hiền thì mọi đều thuộc hữu vi. Nếu bỏ Phổ Hiền giữ Văn Thù thì định chứng được là định nhị thừa. Nếu bỏ Phật giữ Văn Thù, Phổ Hiền thì khô có người giác ngộ. Vì vậy không thể thiếu một trong ba, nếu thiếu một thì không có ba. Trong Quyền giáo, không có sự dung hợp thống nhứt của ba vị này. Pháp đó chưa phải là chơn thật, đều là hóa thân. Quyền pháp là tuỳ thuận chỉ dạy hàng căn trí nhỏ hẹp, khi chúng thành thục mới chỉ thật pháp. Niết-bàn, Pháphoa đều là dưa Tiệm giáo về Thật giáo. Kinh Hoanghiêm, trụ thứ nhứt đã đủ hành tướng mười hạnh, mười hồi hướng, mười địa, đẳng giác, trong một vị đủ 50 pháp. Vì sự dung hợp nên mỗi vị đủ 2500 pháp chung riêng và vô số thứ bậc hành tướng tiến tu, không bỏ giai đoạn nhưng lại cùng một thời gian. Mười phương đều có Bồtát mười hạnh và vô số Bồ-tát bạn đến chỗ Phật. Mười Bồ-tát đầu tiên có tên Lâm, cõi nước tên Huệ, các đức Phật mà vị ấy phụng sự có tên Nhãn. Lâm tiêu biểu cho năm đức: 1) Kiến lập; 2) Cây cành đều có khả năng sanh diệt; 3) Hoa lá trái đều có ích; 4) Che nắng nóng; 5) Chỗ ở của chim thú, quỉ thần.
- Kiến lập: Như rừng lớn, bên trong có rồng thần ở, bên ngoài không bị gió bẻ gãy, nếu không thờ không thể thành rừng. Bồ-tát này bên trong có rừng trí lớn, luôn giữ mình bằng sức từ bi, hiểu rõ cảnh vốn tịch tĩnh, bên ngoài không bị gió sắc trần lay chuyển, dùng trí tuệ để hàng phục ngoại đạo tà luận, thực hành mười hạnh, cùng sống với chúng sanh, luôn đem lại lợi ích cho chúng sanh.
- Cây cành đều có khả năng sanh diệt: Không thể tìm thấy tánh sanh diệt trên cây, đó là duyên sanh. Đã là duyên sanh thì không có gì bị sanh, không sanh nhưng lại sanh, sanh nhưng không sanh. Bồ-tát này hành mọi hạnh bằng trí và pháp thân nên không thể tìm thấy người hành và pháp hành nơi thân cảnh mà chỉ hành theo pháp vốn vậy.
- Hoa lá trái đều có ích: Như hoa làm đẹp lòng người, lá cây che nắng, trái dùng đỡ đói khát. Bồ-tát hành muôn hạnh, trời người đều thích, thực hành hạnh từ bi rộng lớn để người gần gũi không quên trí lớn, độ hết chúng sanh trong pháp giới mới trọn vẹn chí nguyện.
- Che nắng nóng như rừng che mát tất cả nhưng không có tâm phân biệt. Bồ-tát luôn là chỗ tựa cho mọi người, tuỳ khả năng ai nấy đều được những lợi ích nhưng không phân biệt lợi, không lợi.
- Là chỗ ở của chim thú, quỉ thần. Rừng là nơi người ta lấy gỗ, chim thú muôn loài đều ở trong rừng. Bồ-tát trồng rừng hạnh nguyện, mọi người đều nhờ ơn, rồng thần cung kính, chim thú gần gũi, không kinh sợ. Rừng còn có nghĩa là nhiều, Bồ-tát thực hành nhiều hạnh, công đức cũng nhiều. Công đức hạnh nguyện của trí bi pháp thân nhiều nên các Bồ-tát đều có tên là Lâm. Vì sao cõi nước có tên Huệ? Chỗ ở của con người là cõi nước. Bồtát an trụ trong giải thoát định tuệ, mình người bình đẳng, đoạn trừ khổ đau. Cõi nước được hình thành bằng đất nước gió lửa của chúng sanh là do nghiệp, không phải thật. Pháp thân trí tuệ giải thoát là cõi nước thường hằng, không do nghiệp. Hơn nữa Bồ-tát dùng trí tuệ thực hành mười hạnh đem lại lợi ích cho chúng sanh. hạnh là cùng sống với chúng sanh. Tuệ là khả năng thuyết giảng đạo lợi ích cho hàng trời người. Vì sao các đức Phật mà vị ấy phụng sự đều có tên là Nhãn? Kinh Hoa-nghiêm dùng sự biểu hiện pháp. vì tên của Phật giống pháp mình chứng đạt. Người đạt pháp là Phật. Bồ-tát này làm mọi việc để đem lại lợi ích cho chúng sanh, hiểu rõ từng căn trí để thuyết giảng không trái thời là Nhãn. Kinh chép: Lúc ấy Bồ-tát Công Đức Lâm nương thần lực của Phật, nhập định suy xét kỷ. Từ đó vô số cõi nước, vô số Phật Công Đức Lâm hiện ra trước Bồ-tát, ủng hộ bằng ba pháp.
Hỏi: Bồ-tát trong quả Phật pháp thân trí bi luôn hiển hiện, đủ định tuệ, cần gì nhập định, được Phật gia hộ? Các vị Bồ-tát lập giáo độ sanh nên phải đưa ra pháp tắc, nhờ thần lực Phật là đức cao cả. Tuy thể chúng sanh của pháp giới bình đẳng, song vì sự hóa độ nên có thầy trò, có việc nhập định quan sát, xuất định thuyết pháp. tam muội là bình đẳng chỉ dạy. Chỉ dạy chúng sanh hiểu đúng là suy xét kỹ. Trong mười trụ cách ngàn cõi Phật, mười hạnh lại cách vạn cõi Phật. Vì địa vị càng cao, giáo hóa có pháp tắc, hành tướng phải hợp pháp. về chơn tánh, các đức Phật ở mười phương đều cùng tên Công Đức Lâm. Vì nhân quả giống nhau, pháp trí là một (ba pháp gia hộ như trước). Lời nói tiêu biểu cho pháp không sai biệt. tay xoa đầu tiêu biểu cho phân, trí thân, bi trí giải thoát... giống nhau. Hơn nữa xoa đầu là hình thức an ủi. Trao mười trí, vì trí Bồ-tát như Phật, tôn trọng đức khiêm nhường, từ hoà không cao ngạo. Kinh dạy: pháp vốn như vậy. vì phát sinh từ căn lành nên đều là pháp tắc. Có bốn phẩm tạo thành pháp tắc mười hạnh: 1) Lên cõi Dạ Ma; 2) Nói kệ khen ngợi; 3) Mười hạnh; 4) Bốn phẩm. Người hành mười hạnh đầu nương bốn phần này, vì nó gồm đủ cả lý sự. Vì sau khi nói mười hồi hướng, Như Lai lên cõi Đâu Suất, phóng Ánh sáng từ hai đầu gối. Các Bồ-tát lớn đều có tên Tràng. Cõi nước tên Diệu? Vì cõi Đâu Suất ở giữa cõi dục như Đế Thích cai quảng bốn Thiên Vương. Ngay cả núi Diệu Cao cũng thuộc cõi trời thứ nhứt, thứ hai là cõi Dạ Ma, bốn Thiên Vương, Đế Thích, Diệu Cao đều liền nhau. từ cõi Dạ Ma trở lên là cõi trống không. Vì cõi Đâu Suất nằm giữa. Trên nó là cõi Tha Hóa, Hóa Lạc; vì cõi này ở giữa cõi Dục nên dung hoà lý sự, hợp với trung đạo, chuyển lý hành sự, chuyển sự hợp lý, lý sự không ngại, đủ diệu dụng trí bi. Ngôi trụ thứ nhứt lý sự không ngại, hợp với trung đạo. Chẳng phải vị này mới là hồi hướng, vì hóa độ chúng sanh nên có tên Pháp. Từ trụ phát tâm thứ nhứt đến năm vị đều đủ lý sự hồi hướng. Ở đây, vị này chuyển tâm đến mười tru, mười hạnh không ngại. Vì hồi hướng không phải vị thứ ba, các vị đều là hồi hướng. Đây chỉ là mượn sự để tiêu biểu cho pháp. Như Lai ở cõi Đâu Suất, phóng Ánh sáng từ hai đầu gối nói mười hồi hướng. Đầu gối là nơi co duỗi, xoay chuyển thoải mái nhanh nhẹn. Ánh sáng phóng từ đầu gối tiêu biểu cho lý sự, sanh tử, Niết-bàn không ngăn ngại. Vì thế cảnh giới, tên, Ánh sáng của toàn bộ kinh này đều biểu hiện cho sự chứng đắc pháp môn. Bồ-tát lớn tên Tràng tiêu biểu cho bi trí tự tại, đoạn trừ hoặc nghiệp phân biệt mình người, đạt công đức ngay trong cõi sanh tử. Tràng là công đức không lay chuyển, đoạn nghiệp, phá trừ, kiên cố. Trí thù thắng an lập pháp, xây dựng tâm kiên cố, xô núi ngã mạn, đi trên đường báu, ngồi đài sen, ngộ pháp. Vì dùng trí bi không tạo tác, không khuynh động, phá trừ hoặc chướng sanh tử, kinh Hoa-nghiêm mười trụ... Mười địa đều đủ quả Phật. Hơn nữa Bồ-tát này tự tạo phước thù thắng, ở trong sang tử, độ thoát tất cả chúng sanh, nhưng không kinh sợ, biết rõ vô minh là trí. Ai còn tâm thương ghét là không làm được. Lúc hành thí Ba-la-mật, nếu có người xin tài vật và mọi sở hữu của mình như thân mạng... đều vui vẻ ban cho không tiếc rẻ. Bố thí có hai: Tài, pháp. Pháp thí là dạy nghĩa biết không ngã sở, tất cả là không. Tái thí là cho của cái vật chất không hối tiếc. Vì sao cõi nước có tên Diệu? Về công dụng, trí tuệ của Bồ-tát này tự tại không vướng ngại có không và các sự suy luận khác. vì sao các đức Phật mà vị ấy phụng sự có tên Tràng? Vì Bồ-tát này thành tựu diệu dụng, cùng một thể tánh lý sự nhân quả như Phật. Lại giống với các đức Phật trong mười trụ, mười hạnh. Bấy giờ Bồ-tát Kim Canh Tràng nương oai thần của Phật nhập định trí quang, ở các cõi nước, vô số Phật Kim Cang Tràng đến trước Bồ-tát gia hộ Bồ-tát bằng ba pháp như trên. Nương thần lực Phật là suy tôn đức, sự kính trọng của thầy trò. Nhập định trí quang (định Đẳng dẫn) dùng vô số trí mầu hóa độ chúng sanh. Thể của áng sáng này là trí căn bản; trí sai biệt là Ánh sáng pháp, tuỳ thận căn cơ hóa độ tạo lợi ích, dùng trí phá trừ ngu tối. Quang tức là giáo, vì giáo pháp có khả năng phá trừ mê hoặc, thông hiểu khai trí cho chúng sanh, vén màn đêm cho chúng sanh, không mê mờ, mở tai mắt cho kẻ đui điếc, xô ngã núi tà kiến cao ngạo, Ánh sáng pháp không thể nghĩ bàn. Trong mười hạnh Bồ-tát Công Đức Lâm nhập định Thiện tư duy trong mười hồi hướng, Bồ-tát Kim Cang Tràng nhập định trí quang, để nói rõ thứ tự tăng tiến của năm vị nên vị trước mới bắt đầu suy xét kỹ, vị này diệu dụng tự tại, phóng Ánh sáng chiếu soi khắp nơi. Vị trước có vô Phật bằng số bụi trong mười vạn cõi Phật. thứ tự tăng tiến của năm vị đều đoạn trừ vọng kiến nên dùng định tuệ nhập lý sự mầu nhiệm. Hãy suy xét kỹ hiểu được, không nên tuỳ tiện so sánh rồi tăng lòng cao ngạo. (ba pháp ủng hộ như trước). Mười ba pháp ủng hộ là để kẻ hậu học đoạn trừ nghi ngờ, thành tựu lòng tin nhưng về thật thể thì tất cả đều là Phật. từ pháp căn bản tuỳ thuận hạnh môn của các vị mà đặt tên, hiện thân chỉ dạy chúng sanh để chúng học hỏi, ngộ nhập. Đức Phật đã thiết lập giáo pháp, người tu học chắn sẽ đạt được nên cùng tên. Vị này có ba phẩm: 1) Lên cõi Đâu Suất; 2) Nói kệ khen ngợi; 3) Mười hồi hướng. Ba phẩm này là pháp tắc để người tu học ngộ nhập. Lúc nói mười địa vì sao không theo thứ tự từ cõi Đâu Suất lên cõi Hóa Lạc mà lại vượt đến cõi Tha Hóa? Vì pháp mười địa rộng lớn bao hàm tất cả không theo thứ tự. Hơn nữa diệu dụng của mười địa tự tại nơi thuyết giảng cũng không theo thứ tự. Như cõi trời này là Tự Tại, mười địa xứng hợp lý thể tự tại không tâm phân biệt, không do tâm hóa hiện, vì chúng sanh phát triển từ bi, tức là vì người khác mà biến hóa nên mười địa được nói ở cõi Tha Hóa. Vì công đức thù thắng hơn những vị trước nên vượt thứ tự, tự tại hóa độ chúng sanh. Vị đẳng giác được nói ở cõi thiền thứ ba, tập hợp tám chúng, nhập định Phật Hoa thuyết trăm vạn ức bài kệ. Văn của lần thuyết này nhiều gấp vô số lần vị trước nên không truyền ở thế gian. Phật hoa là hạnh Phật, nhập định Phật hoa là hạng rộng lớn của Phổ Hiền. Vì sao trong mười tín, mười trụ, mười hồi hướng, mười hạnh chỉ nêu mười Bồ-tát lớn, mười địa này lại nêu 37 Bồ-tát đều cùng tên Tạng. Một Bồ-tát tên Giải Thoát Nghiệp. Toàn bộ kinh này, các vị Bồ-tát đều như Phật nên các đức Phật và Bồ-tát cùng tên tiêu biểu cho nhân quả của các vị đều như Phật, rõ ràng như mọi vật trước gương. Song trong năm vị, sáu vị đều có sự khác biệt, nhưng lại dung nhiếp nhau, vừa giống khác, vừa thuần tạp, thành hoại. Hãy xét biết bằng sáu tướng chung riêng, giống khác, thành hoại. Trong mỗi tướng đủ cả sáu tướng không thể thiếu một. (Mười nghĩa vi diệu cũng thế vì phần riêng không nói) tác động lẫn nhau. về sự riêng biệt phải có hành tướng thứ tự của mười địa. Mười địa là giáo pháp trọn vẹn của trung đạo. Vì thế vị trước phóng Ánh sáng từ đầu gối, vị này từ giữa chặng mày, phóng Ánh sáng lực diệm minh và vô số Ánh sáng khác. Ánh sáng giữa chặng mày tiêu biểu trọn vẹn cho quả trung đạo. Ngay lần thuyết phẩm thứ nhứt là Như Lai hiện tướng, Như Lai đã phóng Ánh sáng giữa chặng mày, nhập xuống tướng bánh xe dưới bàn chân, tượng trưng cho việc dùng quả tạo nhân nên Bồ-tát Phổ Hiền thị hiện quả Phật để chúng phát lòng tin. Sau đó thuyết hạnh mười tín, Phẩm Ánh sáng giác ngộ. Lại dùng Ánh sáng từ tướng bánh xe chiếu soi Phật Bất Động Trí cõi kim sắc thành tựu tín vị lai lên núi Tu Di nói phẩm mười trụ. Trong phẩm nói kệ khen ngợi, Như Lai phóng Ánh sáng từ các đầu ngón chân, lúc nói phẩm mười hạnh, Như Lai phóng Ánh sáng từ hai bàn chân nói phẩm mười hồi hướng, Như Lai phóng Ánh sáng từ đầu gối nói phẩm mười địa, như phóng Ánh sáng trung đạo từ giữa chặng mày như lần thứ nhứt, bao quát từ đầu đến cuối. Hành tướng mười địa trong ba thừa khác đây, Bồ-tát mười địa chưa thấy rõ đạo. Lần thứ nhứt từ giữa chặng mày Phật phóng Ánh sáng: trí sáng soi khắp mười phương để Bồtát nhập quả Phật. Sau lại phóng Ánh sáng quả để Bồ-tát nhập quả. Vì thích tu nhân quả giống nhau. Lúc ấy vì muốn các Bồ-tát nhập sức thần thông rộng lớn của Như Lai, từ giữa chặng mày Như Lai phóng Ánh sáng trí sáng soi khắp mười phương, Ánh sáng ấy như Ánh sáng vật báu chiếu khắp pháp giới, hư không, trí bi trong mỗi địa của mười địa, để thấy rằng mười địa này chính là Như
Lai trong lần thứ nhứt. pháp môn Bồ-tát thành tựu cuối cùng nhưng lại như lần đầu nên Ánh sáng phóng từ giữa chặng mày. Ánh sáng của lần thứ nhứt như sắc vật báu. Ánh sáng lúc nói mười địa là lự diệm minh. Ánh sáng tuy có trước sau nhưng đều nói về nhân quả giống nhau, như ánh đèn và ánh nắng. Ánh sáng trước là Ánh sáng trí chiếu khắp mười phương, khai ngộ trí Bồ-tát để đạt mười địa. Ánh sáng lần này tượng trưng cho việc Bồ-tát tự thành tựu các quả vị trước, rồi chứng mười địa trước là có người nhắc, sau là tự lực. Vì là tự lực nên đến nơi phát tâm đầu, hợp với tâm Phật, trước sau như nhau. Vì vậy pháp cuối cùng trong mười địa bao gồm trước sau. Ánh sáng trước dưa quả khuyên tu là lực. Vì Bồ-tát tu tập các pháp bằng sức siêng năng, không thoái chuyển, đạt tạng pháp Như Lai, nên Bồ-tát có tên là Tạng. Tạng là chứa công đức, thể của pháp vô lậu thanh tịnh bao quát khắp pháp giới đủ mọi công đức trí bi, thực hành các hạnh, mưa pháp tạo lợi ích cho chúng sanh. Địa vị này có 37 Bồ-tát cùng tên Tạng, vì trọn vẹn quả mười địa, phân biệt biết rõ chánh đạo trợ đạo nên an lập, 37 Bồ-tát thành 37 phẩm trợ đạo, không phải là quả thật. Các hạnh của Bồ-tát mười trụ... đều là trợ đạo hạnh không trụ, không hành, tuỳ thuận chơn như là chánh quả. Nếu Bồtát trụ thứ nhứt thực hành muôn hạnh bằng trí căn bản không tạo tác, không hình tướng thì nhân quả giữa Phật và Bồ-tát giống nhau. Ngoài quả không tạo tác, không tu tập của Phật, mọi hạnh của Bồ-tát đều là trợ đạo, vì động tịnh không ngăn ngại, chánh trợ là một nhưng vẫn phải phân biệt. Về thể tánh viên dung chánh trợ là một, vừa giống, vừa khác. Hãy xét hiểu bằng sự mầu nhiệm của các pháp, không nghi ngờ khi nghe các pháp mà mình chưa từng nghe, vì cảnh giống khác khó phân biệt. Phật và phàm phu đều có cái sai khác, luôn tồn tại hai quan niệm khác nhau, nếu hoàn toàn giống nhau thì trở ngại cho việc tịch tịnh viên dung, đạo lý sự lý không ngăn ngại. Tồn tại hai khái niệm là pháp phàm phu, hợp chung một thể là pháp nhị thừa. Song vì lý sự tự tại nên không thể có diệt mất hay tồn tại. Thể của pháp tự tại là quả đức của trí không tạo tác là một. Nhưng vì sự phải phân chia pháp tắc, về thể dụng không thể nói là giống hay khác. Hãy lấy giống nhau xét sự khác nhau và ngược lại, không thể thiếu được trong hai phương diện trên. Nếu không hiểu trên hai phương diện giống khác thì không tự tại. Như 37 Bồ-tát đều cùng tên Tạng. Ngoài ra có một vị tên Giải Thoát Nguyệt. Vì sao cùng có tên Tạng? Vì 37 vị là chủ thể của pháp chánh trợ trong pháp mười địa. Giải Thoát Nguyệt là khách thể. Vì chỉ có chủ thể khách thể hỏi đáp mười địa để chúng sanh hiện tại và sau này nghe chánh pháp không nghi ngờ. Nên hiểu biết kinh như vậy. Giải Thoát là người hỏi, Kim Cang Tạng là người đáp. Lúc ấy Bồ-tát Kim Cang Tạng nương oai thần của Phật nhập định Bồ-tát đại huệ quang minh. Mười hồi hướng Bồ-tát Kim Cang Tràng nhập định, Bồtát Trí Quang vì trí tuệ của mười địa thù thắng hơn và nhờ sự hỗ trợ của diệu dụng. Đó là nói sự tăng tiến của các vị. Song các vị khác không phải thiếu công dụng của tuệ. Lúc đó vô số Phật Kim Cang Tạng từ các cõi nước xuất hiện gia hộ Bồ-tát bằng ba pháp: 1) Khen ngợi; 2)
Thân Phật; 3) Tài biện giải; 4) Trí phân biệt thanh tịnh; 5) Sức nhớ lâu; 6) Trí tuệ thấu triệt; 7) Trí khai ngộ chúng sanh; 8) sự tự tại thành đạo; 9) Không lo sợ; 10) trí quán sát chúng sanh phân biệt pháp môn; 11) Thân ngữ ý trang nghiêm như Phật; 12) Các đức Phật mười phương đưa tay xoa đỉnh đầu; 13) Ánh sáng cõi nước chiếu nơi thân Bồ-tát. Mười ba pháp này mục đích làm cho chúng sanh đời sau đoạn trừ nghi hoặc, thành tựu pháp, phát lòng tin. Như kinh dạy: Phật dùng lời khen là để thuyết giảng chúng sanh không nghi, đưa tay xoa đầu là để an ủi và trao trí tuệ. Vì sao Phật và Bồ-tát cùng tên? Vì nhân quả chứng đắc của Phật và Bồ-tát như nhau để chúng sanh hiện tại và vị lai thấy biết không nghi. Cảnh giới Phổ Hiền của vị đẳng giác (theo kinh Bổn nghiệp Anh-lạc) được thuyết ở cõi thiền thứ ba chưa đầy đủ, không khế hợp. Sau khi Phật nói xong kinh Hoa-nghiêm mới nói kinh Bổn-nghiệp để hóa độ ba thừa. Về sau ở bồ đề đạo tràng Phật nói đầy đủ kinh ấy. (Thứ tự của năm vị chỉ sơ lược qua). Trong phẩm Pháp-giới đồng tử Thiện Tài cầu học với thiện tri thức đủ cả hành tướng pháp tắc giữa chủ thể, khách thể để đem lại lợi ích cho chúng sanh (sau sẽ nói). Sự khác biệt giữa các môn trong các địa phải xem văn giải thích mới hiểu. Hành tướng giáo pháp của mười địa trong ba thừa hoàn toàn khác biệt (hãy xem toàn văn kinh sẽ thấy) kinh Hoa-nghiêm, tên của năm vị, sáu vị đều từ sự chứng quả của các Bồ-tát. Mười tín có Văn Thù, Giác Thủ... Mười vị. mười trụ có Pháp Huệ... Mười vị; mười hạnh có Công Đức Lâm; mười vị; (như trước). Tên cõi nước đi từ trí căn bản tạo lợi ích cho chúng sanh. Tên các đức Phật từ sự quan sát căn trí đoạn trừ hoặc chướng. Mỗi vị đều có các đức Phật khắp mười phương cùng tên với các Bồ-tát hiện ra, ủng hộ Bồ-tát bằng ba pháp tiêu biểu cho nhân quả giống nhau. Cùng tên là sự thâu nhiếp chung riêng thời gian, kiếp số, một, nhiều. Tất cả các pháp đều do cảnh tượng ảnh hiện trong lưới Đế Thích không gì ngăn ngại.
Trong ba thừa giáo, ba hiền, mười địa đều không có sự khác biệt này nên hành tướng hoàn toàn sai khác. Người tu chơn chánh phải biết quyền pháp và thật pháp, không nên chấp chặt công đức quyền giáo hiểu sai thật pháp, thật uổng công.
Thiện Tài chứng pháp khác: Phẩm Ánh-sáng giác ngộ được thuyết ở lần thứ hai có câu: Như Lai phóng Ánh sáng từ tướng bánh xe dưới bàn chân chiếu soi vô s ố cõi nước các Bồ-tát Văn Thù, Giác Thủ, Mạc Thủ... mười vị Bồ-tát lớn và vô số Bồ-tát khắp mười cõi Liên Hoa, đều đến, mỗi vị nói một pháp, thành pháp mười tín, như Thiện Tài gặp Văn Thù ở phía đông thành giác, Văn Thù thuyết giảng vô số pháp môn để Thiện Tài phát lòng tin, lần thuyết pháp thứ ba ở đỉnh Tu Di, Bồ-tát Pháp Huệ... mười vị mỗi vị nói một pháp thành pháp mười địa. Như Thiện Tài đi về phía nam đến núi Diệu Phong gặp Tỳ kheo Đức Vân... mười thiện tri thức. Lần thuyết pháp thứ bốn ở cung Dạ Ma Bồ-tát Công Đức Lâm... mười vị, mỗi vị nói một pháp, thành pháp mười hạnh... như Thiện Tài đi về phía nam đến nước Tam Nhãn gặp Tỳ kheo Thiện Trụ... mười thiện tri thức. Lần thuyết pháp thứ năm ở cõi Đâu Suất, Bồ-tát Kim Cang Tràng... mười vị, mỗi vị nói một pháp, thành pháp mười hồi hướng. Như Thiện Tài đi về phía nam đến nước Quảng Đại gặp trưởng giả Thanh Liên Hoa... Mười thiện tri thức. Lần thuyết pháp thứ sáu ở cõi Tha Hóa tự tại, Bồ-tát Kim Cang Tạng... Mười vị, nói pháp mười địa. Như Thiện Tài đến thành Ca Tỳ La thuộc nước cõi Diêm Phù gặp Dạ thần Bà San Bà Điểm Để... mười thiện tri thức. Lần thuyết pháp thứ bảy ở cõi thiền thứ ba, giảng pháp Bồtát một đời thành Phật, nhập định Phật Hoa, cảnh giới Phổ Hiền của vị đẳng giác cho tám chúng. Như Thiện Tài gặp phu nhân Ma Gia... Mười thiện tri thức (như kinh Anh-lạc nói thứ tự kinh Hoa-nghiêm, cảnh giới Phổ Hiền địa 11, Thiện Tài học hỏi tu hành làm pháp tắc cho đời sau). Lần thuyết pháp thứ tám ở Bồ Đề đạo tràng, lúc Phật vừa thành chánh giác nói pháp quả Phật. Như Thiện Tài đến lầu Di Lặc, vườn Tỳ-lô-giá-na, nước Hải Ngạn. Di Lặc là thiện tri thức ở vị viên mãn quả Phật của Thiện Tài, như phẩm 37 Như Lai xuất hiện, được nói ở Bồ Đề đạo tràng lúc Phật vừa thành chánh giác và phẩm Phổ Hiền, lìa thế gian mà Bồ-tát Phổ Hiền nói: Thiện Tài tu học tất cả hành hạnh Phổ Hiền, thành tựu chánh giác, vào đời, dùng hạnh Phổ Hiền đem lại lợi ích cho chúng sanh, dạy chúng sanh ra khỏi thế gian. Sau khi học với Bồ-tát Di Lặc, Thiện Tài tự thấy mình nhập thân Phổ Hiền, nghĩa là tự nhập thân Phổ Hiền, thành tự chánh giác, vào đời đem lại lợi ích cho chúng sanh thoát khỏi thế gian. Tự thấy mình nhập thân Phổ Hiền là trọn vẹn hạnh nguyện Phổ Hiền, cùng một pháp thể. Như phẩm Xuất-hiện, Như Lai phóng Ánh sáng giữa chặng mày, chiếu đến đỉnh đầu Văn Thù, phóng Ánh sáng từ kim khẩu đến kim khẩu Phổ Hiền, để hai vị hỏi đáp nhau, chứng minh sự đan cài của lý sự. Vì từ hai pháp lý sự và thể dụng của hai vị này thành tựu quả Phật, vào đời độ sanh lúc Thiện Tài đến gặp Di Lặc, Di Lặc dạy Thiện Tài nghĩ đến Văn Thù thiện tri thức ban đầu. Thiện Tài định tâm nghe tên Bồ-tát Phổ Hiền, nhập vô số tam muội, thấy mình nhập thân Phổ Hiền, ngay lần Di Lặc thấy rõ việc trong ba đời. Đó là Thiện Tài đã thành tựu viên mãn công quả. Bồ-tát Di Lặc dạy vậy là để làm phép tắc cho đời sau tin hiểu chứng nhập không nghi ngờ. Trong kinh chỉ có pháp nhưng không có người cầu pháp nên Thiện Tài cầu học từng thiện tri thức, thực hành từng phẩm môn. Như pháp tắc ở kinh trước, nếu không có người thực hành, e chúng không chấp mê nơi hạnh nguyện nên Thiện Tài phải thực hành từng môn để kẻ hậu học không vướng mắc. Di Lặc cho Thiện Tài thấy Văn Thù là dùng trí căn bản pháp thân làm nhân. Bồ-tát Di Lặc là nhân để Thiện Tài hành pháp bằng trí căn bản pháp thân, dùng hạnh nguyện Phổ Hiền của các thiện tri thức khác tạo thành quả Phật. Sau khi gặp Di Lặc nhập pháp giới rộng lớn, Thiện Tài thấy mình nhập thân Phổ Hiền, nghĩa là tuy thành chánh giác nhưng luôn dùng hạnh Phổ Hiền để đem lại lợi ích cho chúng sanh. Đó cũng như nói Văn Thù, Phổ Hiền, Phật là một, nhân quả đan xen nhau. Đạo quả của ba vị này là thành lớn của các đức Phật xưa, là móc pháp ban đầu. Người thông hiểu thì thấu đạt tất cả, kẻ mê mờ tự nhìn trong sanh tử. Vì pháp Phật xưa nay vốn vậy, không phải là pháp sanh diệt, là pháp không tạo tác. Người tu hay không tu đều có tạo tác, người thích pháp tịch tịnh hay người buông thả phóng túng đều sai. Vì sự trói buộc vọng tình nên trái với Phật. Vì vậy người học đạo hãy dùng pháp quán chiếu đừng vướng mắc nơi nào.
7) Chúng Bồ-tát khác: Về thứ tự các vị của Bồ-tát, trong Quyền giáo chỉ nói nhân quả chơn như giả, ba hiền chưa chứng đạt chơn như, đến mười địa, mỗi địa chứng một phần chơn như. Sau khi chứng đạt toàn phần chơn như, mười địa mới thấy Phật tánh. Tuy chứng chơn như nhưng lại có mười chướng. Đã có chứng thì chơn như ấy là giả, vì ba hiền Thanh-văn đều được nghe. Kinh Hoanghiêm khác, trong sáu vị mỗi vị đủ mười bậc, Bồ-tát cùng tên và vô số Bồ-tát bạn đến chỗ Phật. Như mười tín Bồ-tát đầu là Giác Thủ, tiếp theo là Mục Thủ... mười vị, người dẫn dắt phát khởi lòng tin là Văn Thù từ cõi kim sắc nơi Phật Bất Động Trí. Kinh Hoa-nghiêm mượn sự biểu thị pháp, mỗi việc đều tiêu biểu cho một pháp. Cõi kim sắc là Bồ-tát bạch pháp. kim thuộc màu trắng, là bản thể của pháp thân, Phật Bất Động trí là trí không tạo tác trong pháp thân, là trí căn bản. Văn Thù là nhân tu chứng, Phật Bất Động Trí là quả chứng đắc. Ở đây nhân quả cùng một thể, là điều kiện đầu hình thành vị tín. Đó là muốn người tin biết quả tu nhân, tu quả tạo nhân, ngay trụ thứ nhứt đã thành chánh giác. Vì nhân của nó được hình thành từ quả trí căn bản nên phần sau của kinh có câu: Chỉ dùng ít phương tiện chứng đạt bồ đề. Khác với Quyền giáo, bồ đề là pháp hữu vi có đủ người tu quả chứng, chỉ cần khoảnh khắc không phân biệt người tu quả chứng là thành chánh giác, khác với đoạn trừ tâm phân biệt của Tiểu thừa, vì người tu quả chứng không thay đổi. Đây mới là tuỳ thuận tánh pháp, bình thản trước động tịch. vì trí căn bản không phải động không phải tịnh. Vì vọng kiến nên thấy động, kẻ ngu không hiểu bỏ động tìm tịch, thật là khổ lớn. Kinh Duy-ma nói: Năm ấm trống không là khổ, Tiểu thừa còn tâm chán thích là sanh khổ. Vì thế Bồ-tát Văn Thù... nói quả đức để chỉ dạy chúng sanh. Kinh pháp-hoa chép: Dùng trí tuệ Phật khai ngộ chúng sanh, để chúng được thanh tịnh. Chính vì vậy, các đức Phật mà Bồ-tát Giác Thủ... phụng sự đều có tên Trí, Vô Ngại Trí, Giải Thoát Trí. Mười đức phật ấy đều từ trí căn bản, nơi đến chính là trí của chính mình, người đến là nhân, nhân có từ trí căn bản. Ví như từ thể vàng làm ra đồ trang sức; từ thể Phật có Bồ-tát, Phật là mình quay về với trí Phật nơi mình là sự chứng đạt đầu tiên. Tất cả chúng sanh đều như vậy. Từ cõi Phật đến là vừa phát tâm đã đạt trí căn bản, từ thể dụng Phật thành sự giác ngộ ban đầu. Sự chứng đạt ban đầu là nhân, mười Bồ-tát Giác Thủ... là quả, mười trụ, mười Bồ-tát tên Huệ như Pháp Huệ, Nhứt Thiết Huệ, Thắng Huệ cùng vô số Bồ-tát đều từ mười cõi Phật: Thù Đặc Nguyệt, Vô Tận Nguyệt, Bất Động Nguyệt... các đức Phật là quả, các Bồtát là nhân, nhân có từ quả. Mười đức Phật có tên Nguyệt là mười trụ dùng Ánh sáng quả đức đoạn trừ vô minh, đạt thanh tịnh. Ngay trụ thứ nhứt đã đạt thể thanh tịnh. Kinh dạy Bồ-tát Pháp Huệ nhập định vô lượng phương tiện. Nhờ sức định vô số đức Phật Pháp Huệ từ mười phương đến chỗ Bồ-tát để an ủi ngợi khen. Vô số Phật vì mỗi đức Phật hiện khắp mười phương. Quyền giáo khác có cõi nước này, cõi nước. Điều đó có nghĩa là trụ phát tâm thứ nhứt thành tựu thể nhân quả không sai khác. Pháp Huệ là hiểu nhân quả cùng một thể tánh. Bồ-tát và Phật cùng tên vì tất cả người đạt đạo đều như vậy. mười tín Phật Bất Động Trí là trí căn bản, mười trụ, Phật... Nguyệt là quả tuỳ vị tiến tu đạt lợi ích. Nhân quả cũng phải là nhân quả, nhân quả là pháp không nương tựa, không phải việc không tin nhân quả của ngoại đạo, không phải nhân quả ràng buộc của trời người, không phải nhân quả Phật mà trời người quan niệm. Sự chứng đạt của trụ phát tâm thứ nhứt không phải là nhân quả. Vì thế ngay lúc phát tâm là Phật. Như bài kệ mà Bồ-tát Vô Thượng Huệ của vị này nói: "Phàm phu không hiểu biết, Phật dạy trụ chánh pháp, các pháp không nơi trụ, ai thấy hiểu thân mình, là thân không phải thân, không hiển hiện nhưng có, không thân cũng không thấy, là thân Phật vô thượng".
Hỏi: Vì sao trong mười tín các chúng sanh Bồ-tát không nhập định lại thuyết pháp, không có các đức Phật cùng tên Giác Thủ đến khen ngợi mà riêng mười trụ có? Vì vị tín chỉ dạy quả pháp nên đưa ra cả nhân lẫn quả để phát lòng tin, chưa thật chứng nên không nhập định. Mười trụ đã thật chứng nên nhập định làm mẫu cho đời sau. Các đức Phật đến là để chứng minh nhân quả giống nhau, mười tín chỉ thành tựu lòng tin chưa chứng đạt. Cứ thế một ngàn đến một vạn đức Phật là biểu hiện hành tướng tiến tu. Mười hạnh Bồ-tát Công Đức Lâm nhập định vô số Phật Công Đức Lâm từ khắp mọi nơi hiện ra trước Bồ-tát an ủi khen ngợi là tiêu biểu cho nhân quả giống nhau, Bồ-tát là nhân Phật là quả, thể của hai pháp là một. mười cõi nước của Bồ-tát ấy cùng tên Huệ: Thân Huệ, Tràng Huệ, Bảo Huệ... mười đức Phật mà các Bồtát phụng sự đều cùng tên Như Lai hãn: Thường Trụ Nhãn, Thắng Nhãn, Vô Trụ Nhãn.
Hỏi: Vì sao chỉ nêu vô số Phật cùng tên Pháp Huệ, vô số cõi nước cùng tên Hoa, các đức Phật cùng Nguyệt, mười hạnh chỉ nói có nước tên Huệ, đức Phật tên Như Lai hãn?. Vì mười trụ là phàm phu đạt quả đức nên cõi nước tên Hoa, được khai ngộ từ trí Phật nơi mình, đạt trí tuệ Phật, vừa sanh vào nhà Phật nên có tên Nguyệt, là đạt pháp thanh tịnh như mặt trăng. Mười hạnh, trước sau đều là Phật, đầu cuối đều là chơn như, tên cõi nước tên Phật đều có từ pháp, sự chứng đạt của vị trước như mặt trăng thanh tịnh, vị này đã thuần thục. Nhãn là mắt pháp. Vì vị này dùng mắt pháp viên mãn quan sát căn cơ của chúng sanh thành tựu các công đức, số lượng ngày một nhiều hơn, tiêu biểu cho pháp giới viên mãn không thêm bớt, nhưng Phật, Bồ-tát vì giáo hóa chúng sanh nên có sự tăng trưởng. Đó là phương tiện bí mật của Như Lai. Như kinh Phật danh dạy: Ai lạy Phật Vô Lượng Thinh, Nhựt Nguyệt Quang Minh... ba lạy thì diệt trừ vô số tội. Đó là Như Lai dùng phương tiện dắt dẫn phàm phu phát trí học, không có sự giống nhau về thể tánh, công đức lại sai khác. Ở đây trong quả Phật, các Bồ-tát an lập cảnh giới dần rộng lớn nên có số lượng tăng lên, kỳ thật các số đều cùng một thể tánh, mỗi một số là đủ cả trước sau đầu cuối. Đó là phương tiện bí mật của các đức Phật. Ví như mười đồng tiền nếu bỏ một thì không thành mười, có một đồng kia mới đủ mười. Các số như tiếng vang, có số đầu là có số cuối. Vì ba Như Lai tánh khác nhau, cùng một thời gian.
Bồ-tát địa thứ nhứt có 100 pháp môn, trăm cõi Phật biến hóa. Bồ-tát địa thư hai có ngàn pháp môn, ngàn cõi Phật biến hóa (nhưng khác với sự phân chia số lượng của Quyền giáo) các pháp đan cài nhau. Ví như người dùng tay vẽ trong hư không trăm ngàn ức vô số rồi xoá bỏ, hư không cũng chẳng thêm bớt. Vì suy xét vọng tình nên thấy có tăng giảm. Pháp môn nhiều ít của các Bồ-tát đều vì độ chúng sanh tiến tu, nếu bình đẳng thì phàm phu không tiến tu. Hãy tu đến chỗ không còn tu tập nữa thì sẽ thấy vạn pháp không thể tu tập. Trong Thật giáo, Bồtát đạt một pháp là đạt tất cả pháp vì thể tánh của cá pháp không có trước sau. Ví như để các đức Phật trước trăm ngàn gương sáng thì trong mỗi gương đều hiện ngần ấy hình tượng. Trong quả Phật các Bồ-tát đều có từ trí căn bản, pháp thân thể tánh, cảnh giới, pháp môn của Bồ-tát trụ thứ nhứt cũng có từ trí căn bản. Vì thể dụng dung nhiếp nhau, không có sự sai khác. Đã cùng một thể tánh thì thời gian giống nhau, khác với Quyền giáo, vì vọng tình chưa đoạn nên từ địa thứ chín trở về trước chưa thấy Phật tánh, các vị phân chia rõ ràng. Vì chưa thấy Phật tánh nên giả lập chơn như. Kinh dạy: Sự khác biệt của mười địa như bóng chim trong hư không, pháp môn của các địa tạm lập nhiều ít là tuỳ thuận thế gian. Người ngộ đạo, chơn tục đều là chơn; một pháp là chơn, tất cả pháp là chơn, hoàn toàn không có pháp giả. Chúng ta không thể so sánh sự nhiều ít hay thứ tự trong Thật giáo. trời, rồng, quỉ thần, Bồ-tát trong kinh này đều là Bồ-tát trong quả Phật hoàn toàn, không có phàm phu. Người vừa an nhập là đồng với bậc Thánh. Nghĩa là trong cảnh giới Tỳ-lô-giá-na, tất cả chúng sanh đều từ cõi Phật hóa lập chủ thể, khách thể. Như vậy, quả vị pháp môn đều để chỉ khai ngộ chúng sanh. Phẩm Pháp-giới có câu: Sau khi thành tựu quả đức Văn Thù ra khỏi vườn Kỳ Thọ đến phía đông thành giác độ thoát chúng sanh, Xá Lợi Phất! Trên đường đi ta hóa độ sáu ngàn Tỳ-kheo đạt mười mắt, mười tai. Đến nơi ta chỉ độ Thiện Tài cầu học các thiện tri thức đạt quả Phật, 500 nam cư sĩ, 500 nữ cư sĩ, 500 đồng nam, 500 đồng nữ đều như Thiện Tài. Nếu không có căn duyên thì không thể nghe được. Như các La-hán ở vườn Kỳ Thọ, tuy cũng ở trong pháp hội nhưng không thấy nghe Như Lai thuyết kinh Hoa-nghiêm. Những vị nghe pháp với Ngài Văn Thù đều đạt quả. kinh dạy: Những chúng sanh không có duyên nghe kinh này. Người phát lòng tin sâu xa đã vượt ba thừa giáo, huống gì người chứng đạt. Phẩm Hiền-thủ chép: Tất cả chúng sanh ít ai cầu học Thanh-văn, người cầu pháp Duyêngiác càng ít, người cầu pháp Đại thừa rất khó. Người cầu pháp Đại thừa còn dễ có, người tin pháp này thật khó có. vì thế chúng ta nên hiểu rằng trong hội chúng ấy không có phàm phu mà toàn là Bồ-tát ở địa vị Phật, từ đó hình thành kinh Hoa-nghiêm. Sự giáo hóa ở thành Giác của Văn Thù tiêu biểu cho việc dùng pháp lợi sanh ở cõi Diêm Phù. Năm chúng Thiện Tài... đều là người thật chứng, đều là Bồ-tát trong quả Phật, chỉ bậc thượng căn, hoàn toàn không có trời người, Tiểu thừa Bồ-tát trong Quyền giáo. Trong Quyền giáo từ địa thứ chín trở về trước không thể hiểu kinh này, huống gì phàm phu? Vì sao? Vì chỉ thực hàng sáu Ba-la-mật. Tuy có các Bồ-tát thực hành mười Ba-la-mật, nhưng phải trải qua ba tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Ở kinh này một niệm dung nhiếp muôn kiếp, chúng sanh không thể so sánh được. Sau khi ra khỏi vườn Kỳ Thọ, Văn Thù đi về phía đông, trên đường đi ngài độ sáu ngàn Tỳ-kheo phát tâm bồ đề, biểu hiện có nhiều Thanh-văn thuộc hàng thượng căn kham lãnh pháp cao thượng, sáu Như Lai gàn Tỳ-kheo ấy đều là người mới xuất gia, với Ngài Xá Lợi Phất nhưng không thích quả nhỏ, vì căn trí lanh lợi nên phát tâm bồ đề, đến vị này là đạt quả cao thượng mà hạng người dù đủ bốn quả Sa-môn vẫn khó đạt. Xá Lợi Phất chỉ có tên Thanh-văn, kỳ thật không phải là Thanh-văn, vì đã đạt quả Phật vào sanh tử để độ sanh, vì thế đại chúng trong kinh này khác với Quyền giáo. Trong Quyền giáo cho dù đại chúng đều là Bồ-tát không có Thanh-văn vẫn khác với kinh này. Vì có kinh quan niệm ngay nhân là Phật, nhưng không thực hành năm vị hoặc hành tướng thể dụng năm vị khác nhau. Xét ra không có kinh nào giống kinh này. Pháp đã khác thì sự chứng đạt hoàn toàn khác. hơn nữa, đại chúng nghe pháp của kinh này có mười sự giống nhau: 1) Sắc thân; 2) Pháp thân trí căn bản; 3) Bi trí; 4) Tài thuyết pháp; 5) Nơi đến; 6) Pháp tu tập; 7) Nhân quả như Phật; 8) Đức Phật mà họ phụng sự; 9) Cõi nước báu thân viên mãn; 10) Hoài nghi được lợi ích.
1) Sắc thân giống nhau, như trong năm vị, từ mười phương, mỗi phương có vô số Bồ-tát bằng số bụi trong cõi Phật đều có thân sắc vàng, tóc xanh, sắc thân của Bồtát mỗi vị giống nhau, trời, rồng tám bộ đều có sắc thân theo từng loại. Vì chứng đạt cùng một pháp nên quả báo giống nhau. trong lần thuyết pháp thứ nhứt có 55 chủng loại dung nhiếp nhau, một hạnh là nhiều hạnh, nhiều hạnh là một hạnh, một thân là nhiều thân, nhiều thân là một thân, mười nơi, mười lần thuyết pháp trước sau đều như vậy.
2) Pháp thân trí căn bản giống nhau: Đại chúng ở mười nơi, trong mười lần thuyết pháp đều có pháp thân trí tuệ căn bản như Như Lai. Dù là phàm phu mới vào hội nghe pháp thấy Phật chứng nhập, tích tắc đã như Phật không khác. 500 La-hán tuy ở trong pháp hội nhưng không thấy nghe hay biết pháp. Khác với Quyền giáo, tát cả Bồ-tát Nhị thừa, trời người tám bộ đều thấy Phật nghe pháp đạt lợi ích.
3) Bi trí giống nhau: Pháp thân trí căn bản, trí sai biệt lòng từ bi, hiểu biết tu tập giống nhau, là một pháp Văn Thù, Phổ Hiền, Phật. Tam bảo trong kinh Hoanghiêm: Phật là Phật bảo, Văn Thù là pháp bảo, Phổ Hiền là Tăng bảo, là pháp của các đức Phật từ xưa đến nay. Nếu dung hợp thì tất cả đều giống nhau, vì pháp vốn vậy, không do tạo tác, không có thành hoại.
4) Tài thuyết pháp giống nhau. Như kinh dạy vô số Bồ-tát từ khắp các cõi nước trong mười phương tập hợp đến, cùng nói kệ, âm nghĩa câu cú hoàn toàn giống nhau. Vì cùng trí tuệ hành pháp nên thuyết pháp giống nhau. Các kinh khác hành giải khác nhau.
5) Nơi đến giống nhau. Các Bồ-tát của năm vị này đều từ các cõi nước mười phương đến vì đều cùng ở trong một pháp giới, không phân biệt kia đây, mình người. Tất cả đều không ngoài một hạt bụi, cũng chẳng có sự hoà nhập, trong Quyền giáo các Bồ-tát trải qua ba tăng kỳ kiếp, chưa đoạn trừ vọng kiến đến cõi Ta Bà rồi trở về nước mình, không có cảnh giới viên mãn nằm trong một hạt bụi, sự thần biến đều bị hạn chế, không phải là pháp thật.
6) Pháp tu giống nhau. Pháp của mười tín, mười trụ... năm vị, sáu vị tu hành, chúng sanh ở cõi nước trong mười phương đều tu hành, các đức Phật từ xưa đến nay đều tu hành pháp này. Đó là nhân quả trong một niệm, pháp không có đến đi sau trước. Trong Quyền giáo nhân trước quả sau, Bồ-tát địa thứ mười mới thấy Phật tánh, các Bồ-tát trước đều là phàm phu. Nếu có người đạt được mười địa mà thành Phật, là do sức thệ nguyện chẳng phải thật, hoặc vì việc hóa độ phàm phu tiến tu của Bồ-tát mười địa, không có thật pháp, thật Phật. Kinh Hoanghiêm trực tiếp nói trí căn bản Phật thừa, không nói về ba thừa nhiều kiếp như Quyền giáo, chỉ rõ chúng sanh vốn cùng thể tánh không tạo tác, cùng pháp giới chơn như, cùng trí tuệ như Phật.
7) Nhân quả như Phật. Đã nói pháp thân, trí thân Văn Thù, quả Phật, hạnh Phổ Hiền là một pháp thì chúng sanh cũng phải như vậy, ngay lúc phát tâm là thành chánh giác, trong một tích tắc hiên tại thông đạt pháp này, không có việc đạt pháp ngoài phút giây hiện tại từ trong pháp Phật người nào thấy có đức Phật thành đạo, có thời gian nhanh chậm thì chưa đủ lòng tin, không thể nói về sự tu đạo thấy đạo, mãi mãi ở trong dòng sanh tử. Đó là sự thấy biết của vọng tình, không phải là pháp Phật. Vì thế đại chúng trong kinh này đều có cùng quả Phật, những ai thấy nghe ngộ nhập đều như Phật vì là pháp trí căn bản.
Đức Phật Niết-bàn là họ phụng sự giống nhau: như ảnh tượng ảnh hiện trong lưới Đế Thích. Chúng sanh ác Bồ-tát trong mười lần thuyết pháp, đi khắp cõi Phật nơi mười phương phụng sự các đức Phật có sự kính trọng giữa thầy trò. Song quả Phật như nhau nhưng không mất sự kính trọng ấy. Trong Quyền giáo phân biệt đức Phật ở cõi mình và đức Phật ở cõi khác. Có việc từ cõi Phật mình đi đến cõi Phật khác rồi trở về. Kinh này không cần đi đến, không dùng thần thông nhưng hiện có khắp nơi phụng sự các đức Phật.
8) Cõi nước báu thân viên mãn như nhau: Từ pháp thân Thiện Tài phát lòng tin tu tập, pháp tồn tại khắp nơi, thân cũng tồn tại khắp nơi. Vì trí không tạo tác hoàn toàn không có lớn nhỏ, nó có từ pháp thân trí thân, thân hình cõi nước đều như nhau.
9) Hoài nghi đạt lợi ích như nhau: Trong lần thuyết pháp thứ nhứt 55 chúng đều nghi ngờ, thỉnh Phật giải nghi, Như Lai phóng Ánh sáng thị hiện quả đức nên tất cả cùng đạt lợi ích. Mọi người đều đạt một pháp, mọi người đạt pháp của mọi người (chín lần thuyết pháp sau đều như vậy). Các kinh khác không có mười sự giống nhau trên. Trí pháp, thời gian, không gian, Phật, đại chúng ở đây đan cài lẫn nhau tạo thành một pháp. Như trong kinh nói: Đại chúng từ đầu đến cuối, đều đạt năm vị, sáu vị, quả Phật, không có ai đạt quả ba Thừa. Vì ở đây trụ phát tâm thứ nhứt đã đủ thể dụng như Phật, đều từ trí căn bản, trong thể tánh của pháp, tự tại tạo lợi ích cho chúng sanh. Hành tướng của đại cúng trong mười lần thuyết pháp, mười nơi đều căn cứ vào giải thích mới hiểu được.
8) Lý sự pháp môn tu tập khác: Trong Quyền giáo, đức hóa Phật thuyết giảng có tình thức thì có Phật tánh, không tình thức không có Phật tánh, tấc cả cây không thể thành đạo, thuyết pháp. Kinh Hoa-nghiêm là thật giáo, vượt trên sự phân biệt đó. Nghĩa là không tuỳ căn cơ thuyết giáo như Quyền giáo. Như cõi nước mà Bồ-tát Công Đức Lâm... mười Bồ-tát của mười trụ có tên là Huệ. Tất cả cõi nước không ngoài thể tánh trí tuệ. Vì sao? Vì không có hữu tình vô tình, không có hai cách nhìn nhận, là cảnh giới chơn như không người thành Phật. hữu tình, vô tình chỉ là cách nói theo nghiệp. Việc thành Phật không liên quan đến nghiệp thì không có hữu tình, vô tình. Sao có thể ra khỏi thế gian thành Phật không thành Phật? Kia là hữu tình, đây là vô tình. Tất cả đều do nghiệp, không phải sự giải thoát của Phật làm sao có thể căn cứ trên nghiệp thức để nói về hữu tình, vô tình, thành không thành? Kinh dạy: Các pháp không hình tướng, không sanh diệt, không nhơ sạch, pháp trụ pháp vị, tướng thế gian thường còn, đạo lý đó là hữu tình vô tình sao? Ý nghĩa lớn của kinh Hoa-nghiêm là không có phàm Thánh, tình, vô tình. Chỉ có pháp tánh chơn như, là cảnh giới của trí Phật, hoàn toàn không có gì khác, chớ căn cứ trên sự hiểu biết của tình thức để đánh giá mọi pháp. Những ai còn vọng thức thì thấy hữu tình thành Phật, vô tình không thành Phật. Đây là sự chấp chặt nơi thân nghiệp, hiểu như thế thì không hoàn toàn không thành Phật. Về lý tánh bao quát tất cả nhưng khác với sự thành Phật của hữu tình. Vì không thấy sự trống không của các pháp, không căn cứ nơi trí tuệ chơn thật, chưa hiểu tướng thế gian xưa nay thường trụ, chỉ vì còn hình thức nên thấy có tướng sanh diệt. Nếu không căn cứ trên tình thức thì thấy lý tánh này cùng khắp, là Phật, ngoài lý tánh không có thành Phật, ngay lý tánh là Phật. Vì thế về lý tánh, tướng hữu tình chẳng khác nhau, cớ sao phân biệt tình, vô tình và vô tình không thành Phật? Nếu có người thành chánh giác thì không có hai kiến chấp trên. Vì thế kinh Pháp-hoa nhập quyền về thật. Kinh dạy: Chỉ ta và các đức Phật mới có thể hiểu được tất cả các tánh tướng. Thanh-văn, Bích Chi Phật, Bồ-tát bất thoái. Ba thừa của Quyền giáo hoàn toàn không hiểu được. Kinh Hoa-nghiêm nói: Không hữu tình vô tình, chỉ là cảnh giới của trí, cây, cỏ, núi sông đều là Như Lai, là Bồ-tát có khả năng thuyết giảng, tự tại không ngại, giống khác đều là thể Phật. Từ một thế giới đức Phật có thể biến hóa ra vô số cảnh giới sai khác, từ mỗi hạt bụi của cõi nước có vô số Phật, cõi nước mỗi lỗ chân lông trên thân Phật có vô số Phật, cõi nước vừa giống, vừa khác, cõi nước tịnh uế không hề chướng ngại, không phân biệt tình, phi tình. Vì thế giáo pháp thuyết giảng sai khác, trong Quyền giáo, trước hết phải tu tập các hạnh, sau mười địa mới đạt quả Phật. Ở đây trước hết là đạt trí căn bản quả Phật, rồi dùng trí sai biệt hỗ trợ nhau, cùng lúc dung nhiếp hình tướng nhân quả trước giữa sau, một pháp thành tất cả đều thành, một pháp hoại tất cả đều hoại. Những kinh khác phải tu từng địa một. Ở đây tánh, thời gian, hành tướng, trí tuệ giống nhau. Hãy dùng trí trong định quan xét, chớ so sánh bằng tình thức.
9) Đạt quả khác ba thừa. Kinh dạy với hàng Thanhvăn, Phật nói pháp Tứ Đế sanh, già, bệnh, chết, với hàng Duyên giác Phật nói 12 nhân duyên; với hàng Bồ-tát Phật nói sáu Ba-la-mật. Kinh Hoa-nghiêm cũng có giảng pháp Tứ-đế nhưng khác với pháp Tứ-đế của Thanh-văn, vì bốn đế vốn là trí căn bản, ba thừa giáo còn tâm thích chán. Lúc Bồ-tát năm địa quán pháp mười đế, các đức Phật mười phương đều nói pháp bốn đế nhưng vì tuỳ thuận thế gian nên tiếng nói có khác. vì thế tất cả pháp dạy người của Khổng giáo, Lão giáo đều là pháp bốn đế. Chỉ vì khả năng khác nhau nên học pháp khác nhau. Khi là 12 bộ kinh, khi là thần chú nhưng đều thuộc pháp bốn đế. Hàng Thanh-văn tùy khả năng đoạn trừ một phần khổ (như đoạn khổ của Tiều thừa). Đó là căn cứ trên pháp tu quả chứng của bốn thừa. Thanh-văn quán hai đế khổ tập nên chán ghét, quán vô thường, bất tịnh, xương trắng, biết thân trống không, bỏ cả trí thân, không phát khởi bi trí, là diệt nơi tịch diệt là Niết-bàn. Sau khi ra khỏi định thấy không có ba độc của thế gian là nhờ tu tập đạo đế, đó là dùng pháp quán để chiết phục như diệt rắn độc. Lại do quán thân trống không, tâm tánh đoạn diệt, không ngã. Quán pháp không ngã nên không thấy có ba độc, hông khởi bi trí dù nhập định, xuất định đều quán như vậy, an nhập nơi sự trống không, đoạn dứt tâm bi, là diệt, hàng phục khổ não là diệt, pháp dùng đạt diệt là đạo. Kinh Lăng-già dạy: Ví như say bao giờ rượu tan mới tỉnh. Sự giác ngộ kia cũng thế, đạt thân vô thượng, là không nương trí Phật, chỉ tu định trống không, từ định biết được tội lỗi, chuyển tâm hướng về chánh pháp, thành tựu thân Phật. Kinh dạy: Ai thấy vĩnh viễn đoạn diệt là vướng mắc diệt pháp. Hãy nhanh chóng tu tập, không nên chấp đoạn. Niết-bàn nhờ tu đạt không phải là diệt. Kinh Hoa-nghiêm hoàn toàn khác. Hàng Duyên giác biết 12 nhân duyên vốn không thật, thể tánh trống không, thân tâm đều không chủ thể. thân tâm không có chủ thể nên luôn là vô ngã. Vì thấy vô ngã nên đoạn vô minh, vô minh diệt, 12 duyên diệt, hàng độc giác tự tại không ngại. Khác với Thanh-văn nên không an trụ nơi tịch diệt. Khác với Bồ-tát nên không có trí bi. Vì không an trụ nơi tịch diệt nên hơn Thanh-văn, chỉ phụng trì các môn khác Thanh-văn. Vì vậy, nghe Phật nói kinh Đại thừa Thanh-văn cũng có khả năng truyền pháp nhưng không chứng đạt. Như Tịnh Danh trách không nên dùng tâm sanh diệt thực hành và thuyết thật pháp Bồ-tát Quyền giáo chỉ chuyển tâm nhị thừa và Bồ-tát Tiểu thừa chứ chưa đủ bi trí. Như kinh Đại phẩm chỉ nói sáu Ba-la-mật dắt dẫn hàng yếu kém tu tập thành tựu trí tuệ, nhưng lại chuyên tu pháp định, vướng mắt không hay. Vì căn trí yếu kém sợ sanh tử nên chỉ nói sáu Ba-la-mật trước, không nói bốn Ba-la-mật sau, dùng phương tiện Ba-la-mật để thành tựu từ bi, ở trong sanh tử độ sanh. như kinh Nhân-vương dạy: Phàm phu, ngoại đạo tu sáu Ba-la-mật thành sáu vua, bốn Ba-la-mật nhẫn... thành bốn luân vương; mười địa, mười Thánh tu mười Ba-lamật thành mười trời. Trong các kinh khác dạy: chuyển pháp nhị thừa và hàng thượng căn thành tựu bi trí, tuy tu mười Ba-la-mật nhưng vẫn tu quán pháp chơn như giả, quán các pháp từ xưa đến nay an trụ không dời đổi, phá trừ chấp có không, thành tựu pháp không sanh diệt nhưng vẫn còn vọng tình. Từ địa thứ chín trở về trước chưa thất Phật tánh, vì tu trí giả nên còn chướng ngại. Kinh này chỉ rõ trí căn bản cho hàng thượng căn, ngay trụ phát tâm thứ nhứt là đồng quả. Như Thiện Tài lên núi Diệu Phong đạt trí nhớ rõ của các đức Phật. Vì từ trí căn bản nên không có sự tu tập, không chướng ngại, tuỳ thuận với bi trí, không tạo tác, như thành tựu, tuỳ thuận nhơn duyên, sáu cõi đều là pháp giới, hiểu thể tánh pháp duyên sanh, chơn thật nên không tu tập, tất cả sự suy xét đều do trí, chỉ vì tuỳ thuận chúng sanh nên hiện thân thuyết pháp như vang và tiếng, ở trong sanh tử nhưng không rời pháp thân, tuy trải qua nhiều kiếp nhưng thể tánh không thay đổi, vào trong sang tử nhưng không bị chìm đắm, tuỳ duyên sử dụng bi trí, pháp vốn vậy, không buồn lo, không tu chứng. Long nữ, Thiện Tài tiêu biểu cho pháp ấy. Ba thừa chấp tay kính lễ là sự biến hóa, không phải thật tu, tuỳ căn tánh chúng sanh nên nói kiếp số. Vì chúng sanh không tin trí, không phân biệt này nên kinh nói: Thật khó có người tin pháp này. Dù trải qua nhiều kiếp tu tập, thấy có chứng đắc có mong cầu, có nhanh chậm, đúng sai, thành hoại, hy sinh thân mạng cũng không thể thành Phật. Hàng sơ tâm tu tập nhập cảnh giới Phật như thế không phí sức và uổng công sao? Do vậy Thanh-văn, Duyên giác, Bồ-tát của ba thừa chưa thật hiểu bốn đế, 12 duyên sanh, pháp thân trí thân. Đó là sự tu tập Tỳ-lô-giá-na hướng đến thật pháp của Hoanghiêm, đạt pháp căn bản tự tại tu tập, không thấy người tu các địa nhưng thành tựu nhứt thiết chủng trí. Khác với các kinh giáo khác, ở đây, mãn mười tín, ngay trụ thứ nhứt tự hiểu rõ pháp giới, trí căn bản, phàm Thánh là một là chơn như, không thấy có hữu tình, vô tình, hữu tánh vô tánh, tuỳ thuận pháp không hề chướng ngại. Kinh dạy: Như Lai thành đẳng chánh giác, vào đời từ trí mình. Phật thấy tất cả chúng sanh đều thành chánh giác, không thiện ác, tánh tướng giống nhau, tuy độ chúng sanh nhưng không có người để độ. Đó là trồng căn lành tướng tốt Như Lai. Pháp thấy được lưu truyền ở thế gian, nhưng vì căn táng ba thừa nên có sâu cạn khác nhau. Trời người, nhị thừa, Đại thừa, đều không nghe kinh Hoanghiêm, chỉ có Bồ-tát thượng căn đạt quả Phật mới nghe được. Vì thế trong bốn thừa đủ cả sự chứng đắc. Vì pháp tu khác nên sự chứng đắc khác, cùng một pháp nhưng sự hiểu biết có sâu cạn. Phẩm mười địa của kinh Hoanghiêm dạy: Bồ-tát địa thứ năm tu mười cách quán Tứ đế, Bồ-tát địa thứ sáu tu mười cách quán 12 duyên sanh. Vì thế khác với bốn đế, 12 duyên của ba thừa.
10) Di chúc pháp khác. Phẩm Như Lai xuất hiện chép: Phật tử! Như Lai không nói pháp này cho chúng sanh khác, chỉ nói cho Bồ-tát Đại thừa, Bồ-tát tu pháp mầu, chúng sanh khác không hiểu được kinh này, chỉ Đại Bồ-tát mới hiểu. Phật tử! như Chuyển luân Thánh vương có bảy thứ báu, chúng sanh khác không có. Chỉ có thái tử của hoàng hậu mới đủ tướng luân vương. Nếu không có thái tử này, sau khi chuyển luân vương qua đời, trong bảy ngày bảy báu sẽ biến mất. Cũng thế chúng sanh khác không hiểu kinh này. Chỉ có đệ tử như thật của Như Lai, sanh trong nhà Như Lai, trồng căn lành Như Lai mới hiểu được. Phật tử! Nếu không có pháp tử chơn chánh ấy thì không bao lâu kinh này bị mai một. Vì sao? Vì hàng nhị thừa không nghe kinh này, huống gì thọ trì đọc tụng, phân biệt, giảng thuyết. Chỉ có đại Bồtát mới làm được việc ấy. Vì thế nghe kinh này Bồ-tát phải vui mừng, cung kính, lãnh thọ. Vì sao? Vì Đại Bồtát tin thích pháp này sẽ đạt vô thượng bồ đề.
Giải thích: Sanh vào nhà Như Lai hiểu rõ mình và Phật đều đủ pháp thân trí căn bản, tánh tướng bình đẳng, thuần nhứt, đoạn trừ phân biệt mình người. Chỉ có trí Phật soi sáng mười phương, không tánh không nương tựa, không sanh tử. Đó là sức bi trí bình đẳng không tạo tác, tuỳ căn trí truyền bá chánh pháp hóa độ chúng sanh, khiến tất cả chúng sanh với nghiệp lực sai khác nhưng đều hưởng pháp lạc. Trồng căn lành Như Lai là đạt pháp thân Phật, đồng pháp Phật đủ trí như Phật, tin tu lý sự giống nhau, tánh tướng bình đẳng. Việc này Bồ-tát Thanh-văn ba thừa trong Quyền giáo không có. Hơn nữa Quyền giáo phần nhiều là di chúc pháp cho Thánh đệ tử và phàm phu chưa sanh trong nhà Phật. Kinh này chỉ di chúc cho hàng thượng căn sanh trong nhà Phật. Nếu không như thế chẳng bao lâu kinh này bị mai một. Vì sao? Vì kinh này khó tin. Dù có Thánh đệ tử thuyết giảng nhưng phàm phu không tin không chứng nên kinh này sẽ đoạn diệt. Dù không di chúc cho hàng thượng căn sanh trong nhà Phật, thì số Bồ-tát ở khắp nơi hãy còn nhiều vô kể. Vì sao kinh này lại bị mai một? Người tu học nên hiểu ý Như Lai muốn hàng phàm phu sanh trong nhà Phật tin tu, không kể những Bồ-tát đã đạt Phật vị. Vì sao trong ba thừa giáo phần nhiều là di chúc pháp cho Thánh đệ tử và phàm phu chưa sanh trong nhà Phật? Vì pháp ba thừa không ngoài tình thức, chưa phải là chơn pháp, dễ tin hiểu, phàm Thánh đều khen ngợi truyền bá thì căn lành không đoạn. Kinh Hoa-nghiêm mãn mười đức là thành Phật. Vì thế giáo pháp ba thừa chỉ chúng sanh còn vọng thức, tuần tự tu tập ba tăng kỳ kiếp mới thành Phật. Kinh Hoa-nghiêm là pháp có từ trí căn bản, trí sai biệt của Phật, vượt trên vọng thức, khó tin hiểu, phải đạt mười trụ sanh trong nhà Phật, là đệ tử chơn thật của Phật mới hiểu, chỉ có bậc Thánh thuyết giảng, không có người tu chứng thì không gọi là tin hiểu, chỉ có phàm phu thuyết không có người tu chứng cũng không gọi là tin hiểu. Vì chưa hiểu pháp chưa đoạn trừ vọng thúc, chưa ra khỏi sự che lấp, chưa hiểu rõ ý Phật, vì thế phải đạt trí Phật mới hiểu pháp Phật.
Sự thành Phật khác. Trí thân rộng lớn. Thân xác này được hình thành từ những phần khác nhau, các pháp không hình tướng nên giống trí thân, vì trái chơn pháp nên có khác, kỳ thật giống nhau. Vì bỏ trí nên tướng khác biệt, sự biến hóa cũng khác, hoặc là thân được che đậy bằng lá cây, hoặc là thân trời sắc cứu cánh, ở trong hoa sen đẹp, tướng cây bồ đề báu ở cõi tịnh đạt chơn như, hoặc từ lâu đã tu tập, hoặc vừa chứng đạt, thấy báo thân viên mãn với vô số tướng tốt, hoặc thân biến hóa đủ 32 tướng... cứ thế có vô số thân hình, đủ các loại không thể nói hết, chỉ tạm căn cứ trời người bốn thừa của Quyền giáo, Thật giáo lập mười pháp thành đạo, mong kẻ sơ học phát lòng tin hiểu, trừ nghi ngờ, biết thật pháp, bỏ Quyền pháp, đoạn vọng tình, cầu quả đức thù thắng. Mười pháp: 1) Pháp; 2) Thân tướng thành Phật; 2) Thời gian; 3) Cây bồ đề; 4) Toà ngồi; 5) Đại chúng; 6) Hiện tướng; 7) Thuyết pháp; 8) Nơi thuyết pháp; 9) Sự trang nghiêm của đạo tràng; 10) Pháp lãnh thọ.
1) Thân thành Phật. Đây là thân Phật Tỳ-lô-giá-na với 97 tướng tốt và vô số vẻ đẹp, khôn kinh Duy-ma phải thân chỉ có 32 tướng tốt.
2) Thời gian thành Phật, trong Quyền giáo sau khi Phật ra đời, vượt thành xuất gia, an tọa dưới cây bồ đề, thành đẳng chánh giác. đó là thời gian thành Phật. đức Tỳ-lô-giá-na không như thế. Đức Như Lai biến hóa hình tướng là để độ chúng sanh, ba thừa thấy việc xuất gia thành Phật như thế. Trong pháp giới chơn thật của kinh Hoa-nghiêm không như vậy. Kinh Pháp-hoa có câu: "Từ lúc ta thành Phật đến nay trải qua vô số kiếp". Đó là chuyển ba thừa về Thật giáo. Đức Tỳ-lô-giá-na từ pháp giới căn bản thành tựu chánh giác, pháp giới ấy không trước sau, không ra khỏi hay chìm đắm, không thành hoại, không có thời gian. Kinh Hoa-nghiêm dạy: Như Lai không ra đời cũng không Niết-bàn. Đó là Thật pháp.
Hơn nữa đương vị thái tử, vốn không phải xuất gia, hoàn toàn không có tám tướng thành đạo. Ai biết được Như Lai không ra đời, không nhập diệt, không thành hoại là biết Như Lai luôn ở đời thuyết pháp. Đó là đức Tỳ-lôgiá-na vào đời, từ cõi trời Đâu Suất xuống trần, vào thai mẹ, xuất gia... thuyết pháp, Niết-bàn không ngoài giây phút hiện tại, nào có việc vào thù... Niết-bàn?
3) Cây bồ đề khác. Cây bồ đề mà hàng ba thừa thấy đức Phật thành đạo là cây thường, chiều cao chu vi hợp với thước đo của thế gian, cây bồ đề mà Như Lai thành đạo trong nhứt thừa là cây báu cao quý sáu tầng trời. Như cây bồ đề hiện trong thân Bồ-tát Kim Cang Tạng cao bằng trăm vạn tam thiên đạo thiên cảnh giới, chu vi cây bằng mười vạn tam thiên đại thiên cảnh giới bao quát khắp nơi.
4) Toà ngồi khác. Trong ba thừa lúc Phật thành đạo ngồi tào cỏ, trong nhứt thừa Phật thành đạo ngồi toà sư tử hoa sen được trang trí bằng vô số báu vật.
5) Đại chúng khác. Đại chúng cả đức Tỳ Lô Giá Na đều là những người như Văn Thù Phổ Hiền, những người vừa phát tâm sầu quả Phật, không phải là người cầu Thanh-văn, Duyên-giác, Bồ-tát chán khổ, thích sanh về cõi tịnh. Trong ba thừa dù có Thanh-văn nhưng chưa chuyển tâm nên như đui điếc không hay biết pháp hết mực thâm diệu này, cũng chẳng phải người trải qua ba tăng kỳ kiếp tu tập, mà là người trí tuệ viên mãn, không có thời gian trước sau, nhanh chậm.
6) Hiện tướng khác. Trong Quyền giáo đủ tám tướng thành đạo. Trong Thật giáo gay trụ phát tâm thứ nhứt, đã đủ pháp thân trí căn bản, thành chánh giác, không trước sau, thời gian không biến đổi nhưng vẫn tuỳ thuận thời gian, thấy năm uẩn rỗng lặng là Phật, luôn hợp với chơn như nên thường thuyết pháp. Quyền giáo đủ năm tướng, có lúc ngồi toà báu nơi cõi trời Ma Hê Thủ La, có lúc xem ba ngàn đại thiên cảnh giới là cõi nước báo thân. sự phân biệt ấy đều là hóa độ chúng sanh, khiến tâm chúng sanh dần rộng lớn chưa phải là thật tướng. Kinh Hoanghiêm này tạm nêu vô số cõi Liên Hoa bằng số bụi của mười cõi Phật đan xen lẫn nhau. Đó là sự dung nhiếp của các cõi nước, mỗi cõi Phật bao hàm khắp mười phương. Cõi nước thân hình tương hợp nhau không ngăn ngại, khô có tướng kia đây, qua lại. Trong ba thừa vì căn trí nhỏ hẹp an lập cõi nước, thân hình có giới hạn. Tướng rộng lớn của Tỳ-lô-giá-na có khắp mười phương. Ngay mỗi lỗ chân lông có đủ vô số cõi nước. Trong ba thừa, tướng Ánh sáng không có công năng chiếc soi như Ánh sáng mặt trăng mặt trời, ngọc lưu ly không có công dụng làm nước trong như ngọc ma ni. Đó không phải do đức Phật mà là do căn trí yếu kém.
7) Thuyết pháp khác. Đức hóa Phật thuyết ba thừa pháp, đức Tỳ-lô-giá-na thuyết nhứt thừa pháp, nhứt thừa là Phật thừa. Kinh Pháp-hoa có câu: Chỉ một thừa không có hai thừa hay ba thừa, vì tạm lập ra để dắt dẫn chúng sanh dần tu pháp Như Lai thẳng đến đạo tràng. Kinh Pháp-hoa là nhập ba thừa vào Thật giáo (như đã nói ở phần phân tông). Từ tánh căn căn bản, tuỳ thuận căn trí ba thừa lập giáo pháp ba thừa. Việc Long nữ tích tắc thành Phật là biến hóa, ngược với giáo pháp và không thuận tâm Phật. Chỉ vì nhằm dẫn dạy chúng sanh vốn không phân chia thời gian, đạt đến thấy biết không có thời gian mới là thật pháp. Ngược lại là biến hóa. Thật đáng thương thay! Sao không uống nước cam lồ mà cực khổ uống độ dược, bỏ ngọc báu đổi lấy bùn đất, xem Phật pháp là hư dối, xem sự đối là chơn thật? Xin các bậc thông đạt đời sau, đừng nối gót chư hiền ngày xưa mà dạy tất cả, tuỳ thuận căn cơ phân quyền pháp, thật pháp. hãy suy xét kỹ, hiểu rõ ý Phật, thuận pháp lưu truyền không câu chấp nơi căn tánh, hóa độ bằng quyền thật. Hãy đưa hạng yếu kém trở về tâm ban đầu của Phật. Nếu biến thật pháp thành hư dối thì đức hy không vui, tuỳ tông chỉ truyền pháp đạt lợi ích cho trời người để chúng thông rõ không bị chìm đắm. Vì thế đức Tỳ-lôgiá-na nói thật pháp, đức hóa Phật nói ba thừa pháp. Trong pháp của đức Phật biến hóa thuyết có kinh Pháphoa, Niết-bàn là đưa quyền về thật nên có Long nữ chỉ tích tắc thành Phật. Bò ăn cỏ Phì Nị trên núi Tuyết nên sữa cho ra thuần là đề hồ. Đó chỉ nêu ra một phần chưa chỉ dạy đầy đủ. Chỉ kinh Hoa-nghiêm mới trình bày đầy đủ báo tướng nhân quả.
8) Nơi thuyết pháp khác: Trong Quyền giáo, nơi đức Phật thuyết pháp có khi là vườn nai, có khi là vườn Cấp Cô Độc. Nghĩa là có nơi chốn và đi lại. Kinh Hoanghiêm mười nơi mười lần, khắp tất cả mọi nơi, từng hạt bụi thân Phật cõi nước, nơi nơi, xú xứ đều thuyết pháp, không đến đi qua lại. Phật chỉ ngồi ở cây bồ đề nhưng hiện có khắp nơi (trong kinh đã nói rõ).
9) Sự trang nghiêm của đại hội khác: Lúc nói kinh này, đại chúng toàn là những bậc chứng Thánh từ khắp mọi nơi, mọi lúc, hoàn toàn không có hàng ba thừa chưa chuyển tâm. Dù ở trong đạo tràng nhưng hàng ba thừa vẫn không nghe hiểu. Hơn nữa trong mười lần thuyết pháp, đại chúng từ khắp mười phương đến, mỗi phương có vô số đại chúng bằng số bụi trong mười cõi Phật, trụ vào địa nào cũng thế, số chúng dần dần tăng lên vô kể. Đại chúng lại một lần thuyết pháp lại hiện ở khắp nơi ngay thân chúng sanh nhỏ có chúng sanh thành Phật, vô số đại chúng thuyết pháp nhưng chúng sanh ấy không hề hay biết. Như vậy tư tánh Phật, Bồ-tát mà có vô số chúng sanh. Đại chúng của đức hóa Phật từ một nơi hạn chế đến. Đó là do căn trí nhỏ, chẳng phải do Phật.
10) Pháp lãnh thọ khác. Trong Quyền giáo có chúng sanh tu pháp Tiểu thừa, tuần tự quán vô thường, khổ, không, quán bốn đế chán khổ, sanh, già, chết. Hai đế khổ tập là thế tục đế. hai đế đạo diệt là chơn đế. Quán khổ tập là khổ nên chán ghét khổ hướng đến tịch diệt. Từ quán vô thường bất tịnh, xương trắng, tất cả pháp trống không, nếu không có tập nhân thì thức diệt, trí không còn, chứng pháp trống không. Nếu khi đoạn trừ tất cả khổ mới nói pháp Đại thừa, chuyển tâm tu pháp không hành sáu Ba-la-mật, khởi bi tri. Hoặc có Bồ-tát tu pháp Đại thừa, nhưng sự điều phục cũng như Tiểu thừa, có từ bi, thích hành sáu Ba-la-mật, không vướng chứng không, giữ hoặc nghiệp để đem lợi ích cho chúng sanh, thành tựu pháp quán không. Hoặc có Bồ-tát tu Đại thừa, chuyên tu chơn như giả, điều phục căn tánh, trải qua ba tăng kỳ kiếp đạt đến địa thứ mười thấy tánh mới thành Phật. Có kinh dạy: Ba bậc hiền dùng sức quán chiếu điều phục vô minh, đến mười địa thấy đạo. Có kinh dạy: Bồtát ba hiền thấy một phần pháp thân. Tất cả đều thuộc Quyền giáo ba thừa. Kinh Hoa-nghiêm không như thế, trực tiếp truyền pháp thân trí căn bản cho hàng thượng căn. Trí Phật có từ vô minh, dùng thiền định để hiển hiện trí ấy. Chỉ ngay quả Phật cho trụ thứ nhứt, cùng lúc truyền trao pháp giới, lý sự hạnh quả Phổ Hiền Văn Thù, không có sự nhanh chậm vui khổ của vọng tình, nhưng vẫn đủ thời gian kiếp số đêm ngày ba đời. Song kiếp số ấy vốn không thay đổi, đủ cả thường, vô thường, không thành hoại, pháp vốn vậy. Hiểu rõ khổ đế vốn là Thánh đế, không có khổ đau cũng chẳng có Niết-bàn. Kinh dạy: Người tin hiểu chứng nhập như vậy là dùng ít phương tiện sớm thành chánh giác, thọ thân bằng trí pháp huyễn ảo, sống với chúng sanh, dùng pháp vô ngại hiểu rõ căn tánh của chúng sanh, dùng phép tắc làm tiêu chỉ tu học, dùng pháp thế gian dạy chúng sanh, dùng pháp không nương tựa dạy chúng sanh không chấp trước, dùng pháp vô niệm nghĩ nhớ nhưng không chấp thủ, dùng Ánh sáng trí soi rọi khắp nơi, thiết lập giáo pháp độ thoát chúng sanh, dùng vô số hình tướng nhưng không hoại sắc thân, dùng lời chơn thật nói thật pháp, dùng pháp huyễn ảo an trụ nơi thế gian độ thoát chúng sanh. Mười pháp này là pháp an lập chúng sanh của thiện tri thức ở vị Đẳng giác của Thiện Tài. Từ đó chỉ dạy chúng sanh tu tập ngộ nhập, thực hành mười pháp này đem lại lợi ích cho chúng sanh, ở trong đời độ thoát chúng sanh, không như ba thừa chán khổ và nhân khổ, thích tịch diệt và pháp đưa đến tịch diệt, khác với Bồ-tát còn hoặc nghiệp thích tu pháp không, ra khỏi thế gian mong về cõi tịnh.
- Thấy Phật sai khác. thân Phật với tánh tướng không sai khác, nhưng vì khả năng của chúng sanh khác nhau nên thấy khác. Vì vọng tình nên thấy chúng sanh khác Phật khi hiểu rõ, thể tánh tất cả đều là một. Có hình mới có bóng, có vọng tình nên thấy Phật khác với chúng sanh. Nếu thế trái với chơn như, đoạn trừ vọng tình, trí thân tương hợp. Trí không tạo tác đủ cả động tịnh. Đó là Phật Tỳ-lô-giá-na (Tỳ-lô-giá-na là Ánh sáng chiếu khắp). Từ bi trí nơi pháp thân thị hiện thân tướng thuyết pháp, tuỳ thuận chúng sanh, vì vọng tình khác nhau nên hình tướng khác nhau. Nhưng tất cả đều từ một trí thân Tỳ-lô-giá-na. Hãy trở về chơn như, bỏ những pháp giả, không nên đình trệ nơi pháp giả quên mất chơn như. Tạm đưa ra mười sự thấy khác nhau mong người tu hành tin hiểu trở về nguồn chơn. 1) Cõi người thấy Phật có 32 tướng tốt; 2) Cõi người thấy Phật có 80 tướng tốt; 3) Loài rồng thấy Phật như sự thấy biết của con người, cũng có lúc thấy Phật như rồng chúa; 4) Người tu tiên thấy Phật là tiên; 5) Ngoại đạo thấy Phật như mình; 6) Tám bộ thần thấy Phật là vua của mình; 7) Tiểu thừa thấy Phật là Thanh-văn cao thượng; 8) Duyên giác thấy Phật là Duyên giác; 9) Bồ-tát Quyền giáo thấy Phật là đấng kinh Duy-ma giáo chủ đủ phước trí của ba ngàn đại thiên cảnh giới; 10) Bồ-tát nhứt thừa thấy Phật là pháp chủ của cõi Hoa Tạng. Vô số cõi nước ấy bao hàm tất cả đủ phước trí... sự thấy biết sai khác ấy là do thời gian phát tâm và sự tin hiểu sai khác. Vì thế người tu học nên phát tâm rộng lớn, tin pháp Đại thừa, phát nguyện, hành hạnh lớn, nhập trí lớn đem lại lợi ích cho vô số chúng sanh tích tắc đạt chánh giác đủ phước trí. Nếu không như thế thì hoàn toàn không đạt bồ đề, uổng nhọc công sức, chi bằng trực tiếp tu nhập nhứt thiết chủng trí.
- Thời gian thuyết pháp khác. Người đạt chánh giác, tâm đạo tịch tịnh, trí tuệ thông cả ba đời, đủ trước sau hiểu rõ mọi pháp, cứu độ hữu tình, vô tình, dung nhiếp đến đi, xưa nay, đủ thần thông, hợp chơn như, đoạn vọng kiến thành tựu trí, diệt vọng tưởng, tu tâm bi cứu độ tất cả, chúng sanh tuỳ khả năng mình đạt được lợi ích. Như một trận mưa muôn loài đều thấm nhuần, như tiếng vang trong hư không, tất cả đều nghe thấy. Dùng trí độ sanh, không dùng tâm vọng tưởng, hiện tại còn không có, huống gì quá khứ vị lai. Xin tạm căn cứ quyền pháp, thật pháp lập ra mười khoảng thời gian khác nhau: 1) Kinh lực sĩ: Sau khi thành đạo bảy ngày Phật đến vườn nai thuyết pháp; 2) Kinh Đại-phẩm: Đầu tiên Phật thuyết pháp bốn đế ở vườn nai, vô số Phật đến vườn nai thuyết pháp; 4) Luật tứ phần và luận Tát-bà-đa: Sau 42 ngày thành đạo, đức Phật mới thuyết pháp; 5) Kinh kinh Hưng-khởi-hành và kinh Xuất-diệu: Sau 49 ngày thành đạo, đức Phật mới thuyết pháp; 6) Luật ngũ phần: Sau 56 ngày thành đạo, đức Phật mới thuyết pháp; 7) Luận Đại-trí-độ: Sau 350 ngày thành đạo, đức Phật mới thuyết pháp; 8) Kinh Thập-nhị-du-hành: Một năm đầu đức Phật không thuyết pháp; 9) Theo pháp sư Tạng đời Đường: Sau ngày thành đạo đức Phật nó kinh Hoanghiêm;
10) (Theo Tông-huyền) căn cứ pháp giới kinh Hoanghiêm hoàn toàn không như chín cách nhìn nhận trên. Theo kinh Hoa-nghiêm đủ tất cả lý sự thể dụng bi trí, hoàn toàn không thể so sánh hạng lượng bằng vọng tình, không có xưa nay. Lúc nào Phật cũng thuyết pháp không có trước sau, pháp vốn vậy. sự nhìn nhận trên đây là sự phân biệt theo căn tánh. Như Lai hoàn toàn không có sự sai khác ấy. Trí thể của Như Lai không có phân định thời gian. Vì dạy chúng sanh tin hiểu, nên phân chia pháp giới không có thời gian. Đó là thời gian Như Lai thuyết pháp, đoạn trừ vọng tình, tuỳ thuận trí tuệ tạo lại lợi ích cho chúng sanh. Nếu căn cứ theo sự nhìn nhận của vọng tình là lúc đó thành Phật, lúc đó thuyết pháp thì không phải là sự nhìn nhận của Phật. kinh Hoa-nghiêm không có trước sau, không lập thời gian bằng tình thức. Thời gian của kinh này là vô tận. Lúc nào Phật cũng thuyết pháp. Kinh Pháp-hoa chép: Từ ta thành Phật đến nay trải qua vô số kiếp không thể hạn lượng thời gian, lúc nào là lúc thuyết pháp? Tất cả đều là công dụng của một trí, một tiếng nói, một thời gian.
-Cõi tịnh quyền thật: Biển trí mênh mông, nguồn chơn không cùng, pháp giới Tỳ-lô-giá-na dung nhiếp tất cả, tịnh uế đều không ở ngoài. Chỉ do nghiệp riêng thấy cảnh sai khác nên trái với pháp Phật. Vì căn trí sai khác nên quyền lập cõi tịnh ở nơi khác. Cõi Ta Bà ô uế, hoặc nói cõi này là huyễn giả, cõi khác mới là thật báo. Văn Thù từ cõi kim sắc phương đông đến. Quan Âm từ cõi Cực Lạc phương tây đến. Đó là quyền lập để kẻ tin tu có nơi nương tựa. ở đây tạm dưa ra mười nơi làm kim chỉ nam cho người tu học: 1) Cõi tịnh trong kinh A-di-đà; 2) Cõi tịnh trong kinh Vô-lượng-thọ-quán; 3) Cõi tịnh trong kinh Duy-ma; 4) Cõi tịnh trong kinh Phạm-võng; 5) Cõi tịnh của trời Ma-hê-thủ-la; 6) Cõi tịnh trong kinh Niết-bàn; 7) Cõi tịnh trong kinh Pháp-hoa; 8) Cõi tịnh trong hội Linh sơn; 9) Cõi tịnh nơi tâm; 10) Cõi tịnh Tỳlô-giá-na.
1) Cõi tịnh trong kinh A-di-đà: Cõi tịnh mà vì phàm phu còn chấp tướng chưa tin thật lý pháp không, chuyên tâm niệm Phật được sanh về.
2) Cõi tịnh trong Vô-lượng-thọ-quán: Cõi tịnh mà một số chúng sanh chưa tin thật lý, thích sắc tướng đẹp, chuyển tâm nghĩ hình sắt Phật được sanh về.
3) Cõi tịnh trong kinh Duy-ma: Cõi tịnh mà Phật dùng ngón chân và thần lực ấn vào mặt đất, chưa có sự rộng hẹp của cõi thật báo, là thật nhưng chưa rộng.
4) Cõi tịnh trong kinh Phạm-võng: Cõi tịnh mà có một hoa sen lớn và vô số hoa sen khác, trên mỗi hoa sen có trăm ức đức hóa Phật giáo hóa trăm ức cõi chúng sanh. Đó chỉ là sự thấy biết còn hạn hẹp của Bồ-tát ba thừa, chưa trọn vẹn.
5) Cõi tịnh của trời Ma-hê-thủ-la: Là cõi thật báo ma Như Lai ngồi toà sen báu thành chánh giác. Cõi Diêmphù-đề mà Như Lai ngồi dưới cây bồ đề thành Phật là ảo hóa. Đó là thuyết giảng cho Bồ-tát ba thừa những kẻ đoạn tâm phân biệt. Họ cho rằng cõi Diêm-phù-đề là sáu cõi trời thuộc Dục giới là hữu lậu. Cõi Ma-hê-thủ-la là vô lậu.
Cõi tịnh trong kinh Niết-bàn: Cõi tịnh ở phương tây cách cõi Ta-bà vô số cõi nước bằng số cá trong 32 sông Hằng. Đó là thuyết giảng cho ba thừa Quyền giáo, những kẻ còn một phần tâm phân biệt tịnh nhiễm. Họ cho rằng ba ngàn đại thiên cảnh giới là cõi uế nên đưa ra cõi thật báo Như Lai ở phương tây.
6) Cõi tịnh trong kinh Pháp-hoa: Cõi tịnh thuyết giảng cho Bồ-tát ba thừa chưa đoạn trừ tâm phân biệt tịnh nhiễm, đưa trời người đến ở cõi khác.
7) Cõi tịnh trong lần thuyết pháp ở Linh sơn: Cõi tịnh thuyết cho Bồ-tát ba thừa chưa đoạn trừ tâm phân biệt tịnh nhiễm, dạy họ hiểu ngay cõi uế là cõi tịnh. Chúng sanh chỉ tin nhưng chưa thấy được.
8) Cõi tịnh ngay tâm: Cõi tịnh mà người biết tâm mình vốn không phân biệt, chỉ có trí chơn thật, hợp chơn tuỳ tánh, không tham sân si tịnh uế, tuỳ thuận bi trí tạo lợi ích cho chúng sanh. Vì tự tâm thanh tịnh nên giáo hóa chúng sanh cũng được thanh tịnh. vì thế kinh Duyma chép: Tâm tịnh là cõi Phật. Muốn về cõi tịnh hãy khiến tâm thanh tịnh.
9) Cõi tịnh Tỳ-lô-giá-na: Chính là vô số cõi Liênhoa đủ cả tịnh uế nhưng không tịnh uế, không trên dưới, kia đây, mình người, mỗi cõi Phật dung nhiếp khắp pháp giới, không ngăn cách. Tạm nêu ra mười cõi tịnh, kỳ thật vô số cõi Phật không ngoài một hạt bụi, không lớn nhỏ, không hạn lượng, cảnh giới là pháp, không lệ thuộc giới hạn, rộng lớn đủ tất cả. Đó là cõi Phật không phải cõi quyền biến.
-Cảnh giới hóa độ: Cảnh giới của Phật khôn lường. Vì tuỳ thuộc cơ của chúng sanh nên có sai khác, không phải do Như Lai phân chia hạn lượng. Căn tánh nhỏ thì cảnh giới hẹp. Căn tánh rộng thì cảnh giới rộng. Nếu trí hợp với chơn như thì cảnh giới Phật cùng khắp. Có người thấy cõi Diêm-phù-đề là cảnh giới hóa độ, cũng có người thấy bốn châu là cảnh giới hóa độ; có người thây thân Phật to lớn như đại thiên thế giới. Cũng có người thấy báo thân Phật bằng mười biển lớn, vì sự thấy biết sai khác như thế nên pháp Phật cũng có ngàn vạn môn. Song vì muốn cho kẻ sơ học có nơi nương tựa nên tạm đưa ra năm môn để biết quyết thật, bỏ ngọn lấy gốc, sớm đạt bồ đề không chướng ngại. 1) Cảnh giới Phật; 2) Cõi trời thấy; 3) La-hán trong nhị thừa thấy; 4) Bồ-tát trong Quyền giáo thấy; 5) Bồ-tát trong Thật giáo thấy.
1) Cảnh giới Phật mà cõi người thấy là cõi Diêm Phù Đề.
2) Cảnh giới Phật mà cõi trời thấy, tùy cản Phật giới mà mình, chư thiên thấy cảnh giới Phật khác nhau. Như Đế Thích, Phạm Vương các thiên vương thuộc vị Bồ-tát. Từ cõi đó họ thấy cảnh Phật lớn nhỏ; không thấy biết theo vị phàm phu trời người. Đế Thích là Bồ-tát địa thứ hai, Phạm Thiên là Bồ-tát địa thứ mười, nhưng vị này có lúc dùng thần thông hóa độ chúng sanh làm cho trời người, phàm phu, nhị thừa, Bồ-tát nhỏ đều được thấy thật báo của Phật, như cõi tịnh mà Phật dùng ngón chân ấn vào mắt đất trong kinh Duy-ma. Có lúc họ nhờ thần lực Phật làm cho trời người thấy nhau, như cõi Bảo Phường nằm giữa cõi Dục và cõi Sắc trong kinh Đại-tập, trời người đều ở trong ấy.
3) Cảnh giới Phật mà hàng La-hán trong Nhị thừa thấy là ba ngàn đại thiên cảnh giới hóa độ của Phật. Các đại La-hán dùng sức thiên nhãn thấy được, như tôn giả A Na Luật nói ta dùng thiên nhãn thấy ba ngàn đại thiên mà Phật hóa độ rõ như nhìn trái Am La trong lòng bàn tay, các bậc La-hán kém hơn chưa hẳn như thế, có vị thấy Phật hóa độ một cõi Diêm Phù Đề, đó là người dùng sức nhẫn nhục đoạn trừ kiết sử, chưa có diệu lực của định. Tuy gọi là đoạn trừ kiết sử nhưng chưa có thần thong biến hóa; có vị thấy Phật hóa độ bốn châu, ba cõi (đã nói rõ trong cá bộ Tiểu thừa).
4) Cảnh giới hóa độ của Phật mà Quyền giáo thấy. Địa thứ nhứt thấy trăm Phật, địa thứ hai thấy ngàn Phật; địa thứ ba thấy vạn Phật... cứ thế tăng dần như trong ba thừa, Đại thừa giáo.
Cảnh giới hóa độ của Phật mà Bồ-tát Thất giáo thấy, Bồ-tát địa thứ nhứt thấy trăm Phật Như Lai hưng không phải là một trăm mà là vô số lần một trăm; Bồ-tát địa thứ hai thấy ngàn Phật... nhưng đều là vô số lần ngàn vạn. Song sự thật thì Bồ-tát các địa đều thấy có cảnh giới Phật như nhau, như ảnh tượng trong lưới Đế Thích. Bồ-tát ba hiền cũng thế không phải là vô số cõi Hoa Tạng bằng số bụi trong mười cõi Phật là cảnh giới hóa độ của Phật, mà là pháp giới hư không bình đẳng. Ngay trụ pháp tâm thứ nhứt không thấy có lớn nhỏ. Tất cả đều thấy cảnh giới hóa độ của Phật như pháp giới không lớn nhỏ, nhưng tuỳ theo hạnh nguyện mà phân thứ lớp. Như trên nói, Bồ-tát địa thứ nhứt thấy trăm Phật là số tròn chứ không phải 100 như ba thừa, số trăm ở đây là số không cùng. Trong ba thừa giáo đức hóa Phật hóa độ một cõi nước, đức báo Phật hóa độ trăm ngàn ức cõi nước. Đó là cảnh giới thật báo của đức Thích Ca (như kinh Phạmvõng). Theo kinh Hoa-nghiêm, cảnh giới hóa độ chúng sanh của đức Tỳ-lô-giá-na, hẹp thì bằng một cõi Liên Hoa tạng, rộng thì không ranh giới, như hư không, như pháp giới. Chỉ vì hóa độ chúng sanh nên đưa ra hình tướng để chúng mở rộng tâm ý. Nhưng cõi Liên Hoa tạng ấy cũng có mười sự khôn lường. Vì văn tự giới hạn nên lập ra 11 thế giới chủng, trên dưới có 20 tầng cõi Liên Hoa tạng trong 121 thế giới chủng. Phía dưới nhứt, số cõi nước bằng số bụi trong một cõi Phật, kế đến số cõi nước bằng số bụi trong hai cõi Phật... cứ thế tăng dần, tầng trên cùng có số cõi nước bằng số bụi trong 20 cõi Phật. Mỗi cõi nước lớn có vô số cõi nước nhỏ vây quanh. Bên ngoài 20 tầng cõi nước của 11 thế giới chủng kia, có một tầng cõi nước trong 100 thế giới gần núi Kim Cang. Ở đó có vô số cõi nước như đã nói ở trước. Các cõi nước xung quang núi Kim Cang như ảnh tượng trong núi Đế Thích. Như Lai hóa độ khắp cõi nước ấy, đủ cả tịnh uế thuần tạp. Cõi nước trong ba thừa bằng một tam thiên đại thiên hay bằng số cát trong sông Hằng là một thế giới tánh, vô số thế giới tánh là một thế giới hải, vô số thế giới hải là một thế giới chủng. Theo kinh này tổng cộng số số cõi nước bằng số bụi hai mươi cõi Phật mới thành một thế giới chủng, chẳng phải là một số cát trong sông Hằng. Trong ba thừa thường mượn số cát trong sông Hằng làm hạng lượng. Ở đây thường mượn số bụi trong một cõi Phật, hai cõi Phật tượng trưng cho sự hạn lượng. Điều đó chỉ vì giáo hóa chúng sanh biết cảnh giới hóa độ của Phật để phát tâm bồ đề. Cảnh giới hóa độ của Phật như hư không, như pháp giới, không phải là ba ngàn đại thiên cõi nước.
- Nhân quả nhanh chậm: Pháp giới viên tịch không đầu cuối, y l1 trí rỗng lặng chẳng nhân quả. Vì chúng sanh còn phân biệt thời lượng nên tạm đặt tên, khi vọng tình đều đoạn thì không còn tên để đặt, tên vốn không tự có, do sự phân biệt, vọng tình phân biệt không còn thì tên chơn như. Ở đây mượn tên thật quả của pháp không quả; mượn ngôn ngữ thật của không ngôn ngữ để nói chơn thật của không nhân, mong kẻ sơ học không nên vướng chấp, bỏ ngôn ngữ. Chấp tên thì thấy có tên, bỏ ngôn ngữ thì thấy có ngôn ngữ. Pháp có từ chúng sanh, không chúng sanh thì không có pháp, có pháp là do không hiểu biết. Sự nhanh chậm của nhân quả ở đây giống như dấu chim ở trong hư không con của Thạch Nữ. Vì chúng sanh có kẻ ngu người trí nên phân chia nhanh chậm. Ví như mặt trăng, mặt trời không tự phân chia thời gian, giáo pháp cũng không có mà là tuỳ căn cơ. Xin tạm tuỳ căn tánh lập ra mười sự nhanh chậm của nhân quả, để kẻ hậu học không nghi. 1) Trong Tiểu thừa, người đạt quả A-la-hán khi được nghe Phật nói câu: "Lành thay! Ông đến đây"; 2) Hạng người một đời đạt quả A-la-hán; 3) Hạng người ba đời đạt quả A-la-hán; 4) Hạng người 60 kiếp đạt quả A-la-hán; 5) Hạng người bốn đời đạt quả Duyên giác; 6) Hạng người 100 kiếp đạt quả Duyên giác; 7) Bồ-tát trải qua ba tăng kỳ kiếp đạt quả Phật trong Quyền giáo; Long nự tích tắc thành Phật trong kinh Pháp-hoa, đưa ba về một, phá trừ chấp ba tăng kỳ kiếp mới thành Phật của ba thừa. kinh Hoa-nghiêm thiên tử Đâu Suất ba đời đạt địa thứ mười; 10) Đồng tử Thiện Tài một đời thành Phật. Trên đây là ba thừa và một thừa giáo, tuỳ căn tánh nên nói pháp khác nhau, nhưng về Thánh giáo tất cả đều giống nhau. (Ở đây vĩ văn nhiều nên không nói). Tạm nên mười ý lớn về sự đạt quả nhanh chậm mong kẻ tu hành biết quyền tu thật, bỏ giả nhập chơn, sớm thành tựu đạo giác. Như việc Long nữ thành Phật phá trừ sự phân định kiếp số của ba thừa, lập nên sát na trong Thật giáo. Kinh Niết-bàn, đồ tể được thọ ký thành Phật trong hiện tại là phá trừ chấp. "Xiển đề không có Phật tánh" vượt trên ba tăng kỳ kiếp. Thiên tử Đâu Suất tượng trưng cho sự thù thắng của nhứt thừa giáo. Người nghe phát lòng tin nhưng không tu tập nên nói chúng sanh ở địa ngục cũng có Phật tánh, nhờ Ánh sáng chiếu đến thân sanh lên cõi Đâu Suất, đạt được thứ mười. Nêu việc này để chúng sanh tin Phật thừa. Vì đó là điều khó tin, người tin được là đã gieo hạt giống, khi huân tập tin hiểu sẽ thành Phật. Vì chúng sanh thích vui nên gặp khổ là do tu tập, đạt trụ thứ nhứt đồng dùng mười địa không thoái chuyển. Thiện Tài một đời thành Phật. Bồ-tát trụ thứ nhứt đoạn trừ vọng tưởng, không phân biệt ba đời là một đời, không phải một đời theo sự phân chia của vọng tình. Như thế không sanh là thành Phật, bản sanh là một đời, như Long nữ tích tắc thành Phật.
- Hợp nhập pháp trước sau: Mặt trời trí tuệ của Thế Tôn như pháp giới, soi chiếu khắp nơi, đồng phàm Thánh, lý sự dung nhiếp, thể dụng đan cài, 40 phẩm thâu tóm tất cả, trăm vạn bài kệ bao quát trước sau, mười nơi, mười lần dung hợp như lưới Đế Thích, mười cõi, mười thân như hình tượng trước gương, nếu một là bao hàm tất cả. Giây phút thành đạo ở cội bồ đề cũng là lúc ở chín cõi trời; lần thuyết ở điện Phổ Quang cũng là lần thuyết ở mười cõi, xưa nay không khác, cũ mới là một. Từ một vị phân ra năm vị, một hạnh đủ muôn hạnh. Từ thể pháp giới nêu pháp độ sanh, từ tánh quả như như lập giáo lợi vật. Văn Thù là pháp thể, Phổ Hiền là hạnh nguyện, hai vị bi trí hợp dung thấm nhuần tất cả. Trong phần Phápgiới Thiện Tài tu tập theo thiện tri thức, toàn bộ kinh này mỗi hành tướng hạnh nguyện là pháp độ sanh của Bồtát. Cứ thế tuần tự phát tâm cầu tiến. Đó là mong kẻ sơ học hiểu rõ không uổng công lao, một sát na tương ưng với đạo là vượt kiếp số. Xin nêu mười pháp chuẩn để biết sự sai khác. 1) Đức Tỳ-lô-giá-na thành tựu chánh giác; 2) Nêu quả khuyên tu; 3) Thành tựu tín tâm; 4) Chứng nhập chơn thật; 5) Tu tập hạnh nguyện; 6) Lý sự dung nhiếp; 7) Tu tập Thánh quả; 8) Tuỳ duyên không ngại; 9) Nhân quả trọn vẹn; 10) Phàm phu chứng thật. 1) Đức Tỳ-lô-giá-na thành tựu chánh giác: Chính là phẩm Thế-chủ-diệu-nghiêm. Thành tựu chánh giác là tích tắc đạt pháp ba đời, không nhanh chậm, tuy trong một sát na, nhưng vẫn đủ sự hiểu biết về năm đời sai khác của chúng sanh. Như kinh chép: Hiểu ba đời nhưng không đến đi (đủ mười trí như trong kinh) 40 phẩm đều như vậy ngay lúc thành chánh giác, ngay trong một sát na, dòng định pháp giới hải trí thấu rõ tất cả. Mọi việc thành Phật, Niết-bàn... đều có trong một sát na ấy. Vì thế Phật quá khứ, vị lai đều như nhau, tuỳ thuận chúng sanh thuyết pháp sai khác. Xưa nay dung hợp là thỉ, khế hợp là thành; pháp vốn không do tâm tạo là chánh; trí hiểu thật lý là giác. Vào thời Tấn kinh này dịch thành ba, bốn phẩm. Thời Đường dịch thành 39 phẩm. Xét trong kinh Bổn-nghiệp-anh-lạc có đoạn: Phật tử! trước tiên ta ở cõi thiền thứ sáu thuyết pháp mười địa, hóa độ trời người. Giờ đây vì nhằm hóa độ chúng sanh, các ngươi nên phụng hành. Phật tử! địa 11 là nhập pháp giới. Phật tử! lúc đầu ta ở cõi thiền thứ ba, tập hợp tám chúng thuyết pháp, Bồ-tát một đời thành Phật nhập định Phật hoa, nói trăm vạn bài kệ. Nay xin nêu ý nghĩa một bài kệ để dạy chúng sanh thọ trì. Phẩm này sau phẩm mười địa, thuộc vị Đẳng giác-địa 11. Phẩm này còn có tên là Phật Hoa. Đó là đặt tên theo pháp. Văn sau có câu: Phật tử! lúc ta thuyết pháp dưới cội bồ đề có tám vạn Bồ-tát vô cấu đạt quả Phật. Nay ta chỉ lược nói hạnh quả các ông nên lãnh thọ. (Theo kinh Anh Lạc Bổn hiệp) sau khi nói xong kinh Hoa Nghiêm, hóa độ ba thừa chúng sanh, đến cội bồ đề nói lại Pháp môn năm vị của kinh Hoa Nghiêm được giảng ngay lúc thành chánh giáo. Vì kinh Hoa Nghiêm thiếu phẩm địa 11, do so sánh với kinh Anh Lạc nên biết được thứ tự. Sau này những ai nghe thấy không nên nghi ngờ, chỉ cần đối chiếu với kinh ấy sẽ biết. Hợp cả phẩm Phật Hoa-địa 11 được thuyết ở cõi thiền thứ ba thành 40 phẩm mười nơi mười lần. Song tất cả đều được nói ngay lúc thành chánh giáo vì đều cùng sát na không trước sau. Pháp vốn vậy. Dùng thân trí chơn thật nói pháp chơn thật, không có các việc như lần thứ ba, hai lần ở điện Phổ Quang. Nếu có sự trùng lặp thì không có lần thứ ba. Pháp môn rộng lớn bao quát ba đời, không trước sau đến đi qua lại. Như Lai dùng trí văn bản tùy thuận chúng sanh hiện thân chỉ dạy. Việc đến điện Phổ Quang ba lần không phải vậy mà chỉ là một sát na. Kinh dạy: Từ một ngôn ngữ Như Lai diễn nói vô số Kinh điển, tuy pháp môn tiêu biểu cho hiện tượng, Bồ-tát khác nhau nhưng không phải có kẻ đến trước người đến sau. Trong pháp giới không có sự phân biệt vọng tình trước sau, nếu có là trái với thật pháp. Trong một sát na hiện đủ việc ba đời là vì chúng sanh, thật pháp không có ba đời. Thật pháp không phải là quyền pháp. Xe trước đã mất xe sau phải đổi hướng đi, không nên cứ theo các bậc tiên đức. Xét ý kinh hoàn tòa không có sự trùng lặp. Vì mượn văn tự trình bày nên pháp dường như trùng lặp, lại không xét ý kinh. Tất cả đều trong một sát na không trước sau. Như các phẩm mười định, lìa thế gian đều có chép: lúc ấy Thế Tôn ở điện Phổ Quang thuộc đạo tràng Bồ đề nước Ma Kiệt Đề thành tựu chánh giác nhập định sát na. Chỉ pháp vị của Bồ-tát khác nhau, kỳ thật Như Lai không đến đi.
Vì điện Phổ Quang là tứ thể pháp giới, trong một sát na đủ cả lý sự, không ngoài định không tạo tác. mười định là thể của pháp giới, hạnh Phổ Hiền là công dụng của pháp giới. Đó là phẩm lìa thế gian. Hai phẩm này không ngoài bảo thành trí đức điện Phổ Quang.
Giáo pháp ba thời là giáo pháp một thời, một nơi, một pháp giới, không có sự đến đi qua lại như sự hiểu biết thường tình. Chín lần thuyết pháp kia cũng thế, trong một sát na không chướng ngại. Từ một pháp giới tùy thuận hành tướng phương tiện tiến tu, mượn nơi chốn tiêu biểu cho pháp nên phân mười nơi mười lần:
1. Đạo tràng Bồ đề
2) Điện Phổ Quang
3) Núi Tu Di
4) Cõi Dạ Ma
5) Cõi Đâu Suất
6) Cõi Tha Hóa
7) Cõi thiền thứ ba
8) Vườn Cấp cô độc
9) Tháp lớn ở phía đông thành Giác.
10) Khắp mọi nơi trong pháp giới hư không.
Trong điện Phổ Quang đủ pháp môn năm vị, sáu vị, diệu lý mười định, hạnh Phổ Hiền, thể dụng, nhân quả viên mãn, pháp giới chơn như, cõi nước mười phương. Tất cả đều cùng một thật pháp, không có trước sau qua lại, không nên để vọng tình che lấp chơn giáo. Hơn nữa toàn bộ kinh này đều mượn số mười làm số tròn không nên nói bảy nơi, chín lần.
Hỏi: Vì sao lần thứ bảy lên cõi thiền thứ ba tập hợp tám chúng nói địa 11 mà không lên cõi thiển thứ bốn?
Đáp: Vì theo thứ tự cõi thiền thứ bốn là quả Phật. Đạo tràng bồ đề mà Phật thành chánh giác đã bao hàm cõi thiền thứ bốn và cõi nước trong mười phương. Tất cả đều trong điện Phổ Quang, không trước sau qua lại trên dưới. Cõi thiền thứ bốn của quả Phật không có nương tựa, không tiến tu nên không có sự đi đến, không vọng tình, hợp chơn như, như pháp giới. Cõi thiền thứ bốn, cội Bồ đề đều là tịch tịnh, điện Phổ Quang là cội gốc. Nhân quả trong ba đời đều có trong sát na thành Phật. Thời gian trước sau đó không ngoài trí căn bản, thể Bồ đề tóm thâu tất cả. Trong phần này có sáu nơi, hai nơi chỉ quả khuyên tu, bốn nơi nói về pháp tu. Lần thuyết pháp thứ nhứt, Bồ-tát Phổ Hiền nhập định Như Lai tạng thân, dùng pháp môn rộng lớn chỉ rõ nhân quả báo ứng của mười cõi liên Hoa tạng. Bồ-tát Phổ Hiền là hạnh, Như Lai tạng thân là thể vì thể dụng dung nhiếp. Sự trang sức nơi tòa đức Tỳ-lô-giá-na cũng biểu hiện cho thể dụng nhân quả viên dung. Phật Giá Na là thể; trí căn bản, pháp không là thể của tòa, muôn hạnh Phổ Hiền là công dụng trang nghiêm. Trong đó có vô số Bồ-tát bằng số bụi trong mười cõi Phật rãi hoa báu cúng dường. Quả Như Lai là toà pháp không, hạnh Phổ Hiền là sự trang nghiêm, nhân quả lý sự dung nhiếp nhau. Pháp được nói ở bốn nơi kia cũng dung nhiếp nhân quả. Ba thời giáo được giảng ở điện Phổ Quang lúc thành chánh giác là đưa ngọn về gốc, cùng một pháp giới. Đó là lần thuyết thứ nhứt. Lần thứ hai nói phẩm Như Lai xuất hiện (phẩm 37) Như Lai phóng Ánh sáng giữa chặng mày chiếu đến đầu Văn Thù, phóng Ánh sáng từ kim khẩu chiếu đến Kim Khẩu Phổ Hiền để hai vị cùng nhau hỏi đáp quả Phật. Văn Thù là pháp thể, là trí căn bản. Phổ Hiền là hạnh, dung nhiếp thể dụng, đủ hai pháp đó là Phật. Đức Phật trong lần thuyết thứ nhứt là đức Phật tự thành; đức phật trong quả 37 là Bồ-tát đạt quả. Nhờ đức Phật ban đầu, phát lòng tin, tiến tu, dùng sức mình thành Phật. Quả Phật này chính là đức Phật phát lòng tin trước kia. Trong vườn Kỳ Thọ, Như Lai dùng định sư tử tần thân nêu nhân quả năm vị, đem lại lợi ích cho trời người. Trong lầu Di Lặc, đồng tử Thiện tài dung hợp nhân quả Văn Thù, Phổ Hiền, Di Lặc, trong một sát na đủ cả ba thể dụng. Hợp cả Bồ-tát Phổ Hiền, Tỳ-lô-giá-na ở trước, phẩm Như Lai xuất hiện, điện Phổ Quang, Vườn Cấp cô độc, Lầu Di Lặc là sáu lần nhưng thể dụng nhân quả không hai. Vì thế tên Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng của lầu Di Lặc và định Như Lai tạng của Phổ Hiền trong lần thứ nhứt gần giống nhau. (Từ ý văn, cảnh huống sẽ biết được). Tất cả pháp Như Lai đều được nói trong một thời gian. Tám tướng thành đạo cũng thế. Kinh nêu: Tứ thông ba đời không đến đi. Kinh này có 40 phẩm nói mười lần ở mười nơi, trong chín lần có 342 hội chúng (kể cả tám chúng trong cõi thiền thứ ba) Hội chúng ấy đều mượn số bụi trong cõi Phật để làm hạn lượng nhưng tất cả không ngoài sát na thành Phật rộng như biển lớn, cùng khắp mười phương không chướng ngại. Kể cả cõi nước, mọi việc trong lần thứ mười thì lớp lớp đan cài không cùng tận. Bồ-tát Phật luôn như vậy, ba đời xưa nay đều từ một sát na, đủ quá khứ vị lai vô số kiếp. Sự thành Phật, không thành Phật, giác ngộ, không giác ngộ đều là vậy.
2) Nêu quả khuyên tu: Là các phẩm: Như Lai hiện tướng, Định Phổ Hiền, sự thành tựu của thế giới; cõi Hoa Tạng, Tỳ-lô-giá-na. Phẩm hiện tướng, Như Lai phóng Ánh sáng giữa răng, bảo đại chúng mười phương tập hợp, Bồ-tát Phổ Hiền là đệ tử lớn. Thọ trì pháp Phật, nhập định Phật nên quả phật để mọi người tin thích tu tập. Từ thân đến tòa ngồi của Như Lai đều biểu hiện cho nhân quả thể dụng để đại chúng cùng biết. Thân Phật là trí thân pháp giới, mọi sự trang nghiêm là quả báo của công dụng Phổ Hiền tòa ngồi là pháp không, vì ba pháp này gồm đủ bi trí, không trước sau chỉ dạy chúng sanh là Phật. Từ giữa chặng mày Như Lai phóng Ánh sáng chiếu khắp mười phương (Ánh sáng đó như màu sắc các báu vật và ánh sánh của đèn. Sau khi chiếu soi các cõi nước, Ánh sáng xoay quanh Phật, nhập vào chân Phật. Từ Ánh sáng đó có vô số Bồ-tát bằng số bụi trong mười cõi Phật ngồi trên tòa sen, đến trước Phật, khen ngợi cảnh giới mầu nhiệm của Phật. Đó là biểu hiện cho nhân quả giống nhau. Ánh sáng vào chân là dùng quả làm nhân. Mười tín có từ trướng bánh xe dưới chân; mười trụ có từ Ánh sáng nơi đầu ngón chân; mười hạnh có từ Ánh sáng nơi gót chân; mười hồi hướng có từ Ánh sáng nơi đầu gối, mười địa có từ Ánh sáng nơi giữa chặng mày (cuối giống đầu). Ánh sáng mười địa là nhân, nhân có từ quả. Năm phẩm trên đều nêu quả Phật để đại chúng tin tu.
3) Thành tựu tín tâm: Là các phẩm: Danh hiệu Như Lai, Tứ Đế, Quang minh giác, Bồ-tát hỏi đáp, Tịnh hạnh, Hiền thủ-lần thuyết thứ hai. Sáu phẩm này là pháp mười tín. Phẩm danh hiệu Như Lai: Tin danh hiệu Như Lai tùy chúng sanh nói phương tiện nên có khác. Phẩm Tứ Đế: tin các pháp đều có từ bốn đế; phẩm Quang minh giác: tin biết Ánh sáng quả đức vào chân Phật, từ chân Phật phóng Ánh sáng quả đức. lập thành tín vị. Phẩm Bồ-tát hỏi đáp: tin pháp Bồ-tát hỏi đáp; phẩm Tịnh Hạnh: tin hạnh thanh tịnh của Bồ-tát có từ nguyện lực. Phẩm Hiền Thủ: tin sự thành Phật bắt nguồn từ lòng tin. Sáu phẩm này được thuyết ở điện Phổ Quang vì đó là nơi đủ thể dụng trí Phật. mười tín thuyết ở đây tiêu biểu cho việc nhờ quả thành tựu được lòng tin. Từ đây đến mười địa, địa 11 phẩm Phật Hoa mới nói về thứ tự tu tập năm vị. Một là tất cả, nhân quả không có khoảng cách. Mười Phật bất động trí... là pháp tin, nhờ đó hội nhập thể dụng bất động trí nơi mình.
4) Chứng đạt chơn như: Như Lai lên núi Tu Di, phóng Ánh sáng từ đầu ngón chân nói sáu phẩm: Lên núi Tu Di; nói kệ khen ngợi; mười trụ; Phạm hạnh; Công đức phát tâm; Minh pháp. Hai phẩm trước là Đế Thích khen ngợi về công đức và cõi nước thù thắng của Phật; Bốn phẩm sau là chứng đạt pháp, ở nơi Phật sanh vào nhà Phật, đủ trí Phật, hành giải như Phật, vừa phát tâm là thành chánh giác. Lần này Ánh sáng phóng từ đầu ngón chân biểu hiện cho pháp chứng đạt ban đầu là nguồn gốc tiến tu. Lên núi Tu Di: Mười tín đạt mười trụ, trí huệ soi chiếu không ngăn ngại như lên nơi cao nhứt của núi. Núi là từ định phát huệ, tùy duyên hóa độ không cần dụng công, trước sau như Phật, không phải đến địa thứ tám mới không dụng công. Kinh Anh Lạc chép: Bồtát ba hiền vào dòng nước Pháp tự tại đại quả Phật, tánh của dòng nước trước sau không đổi, nhân quả là một tánh, không trước giữa sau, cũng không có khoảng cách vì đều là thật pháp, nhân quả viên mãn, một giây ứng hợp là thành Phật, (không nói về tướng tốt thần thông, vì điều đó có khi Phật thành cánh giác). Khi đạt chánh giác luôn sống với đạo giác, thần thông tướng tốt không mong nhưng tự có. Dù đến lúc trọn vẹn phước trí ba đời vẫn không đổi khác.
5) Phát tâm tu tập: là bốn phẩm: Lên cõi Dạ ma, nói kệ khen ngợi; mười hạnh; mười vô tận tạng (Phật lên cõi Dạ ma phóng Ánh sáng từ gót chân nói bốn phẩm trên). Hai phẩm trước: chư thiên nghinh đón Phật và khen ngợi công đức cảnh giới Phật. Hai phẩm sau: trí thân đủ hạnh Phổ Hiền, bi trí, y báo, chánh báo. Phật phóng Ánh sáng từ hai chân lên cõi Dạ ma là biểu hiện cho việc sau khi đạt trí thân trên đỉnh Tu Di, lên cõi Dạ ma đạt đầy đủ hạnh Phổ Hiền (mượn nơi chốn tiêu biểu cho pháp để dễ hiểu). Cõi Dạ ma ở giữa hư không cách mặt đất là mười hạnh có từ pháp thân.
6) Lý sự dung nhiếp: Như Lai lên cõi Đâu Xuất, phóng Ánh sáng từ hai đầu gối nói mười hồi hướng có ba phẩm: lên cõi Đâu Xuất, nói kệ khen ngợi, mười hồi hướng. Hai phẩm trước là chư thiên nghinh đón Phật và khen ngợi công đức Phật. Phẩm sau là pháp mười hồi hướng. Hồi hướng là đưa sự về lý, đưa mười hạnh về mười trụ, lý sự không ngại. Mười trụ là trí căn bản, là pháp thân văn thù, mười hạnh là hạnh Phổ Hiền. Thể dụng nơi hai vị dung nhiếp nhau là hồi hướng. Ánh sáng phóng từ đầu gối là sự dung hợp tự tại của lý sự, như đầu gối co duỗi tự tại. Vì sao mười hồi hướng được nói ở cõi Đâu Xuất? Vì cõi trời này ở giữa cõi dục, là vị thứ ba (giữa năm vị), lần thuyết thứ năm, nơi thứ năm (giữa mười). Dưới cõi này có hai: cõi Đế Thích, Dạ ma; trên cõi này có hai: Tha Hóa, cõi thiền thứ ba. Hòa hợp lý sự không ngại, trí căn bản, trí sai biệt, bi trí đều là trung đạo.
7) Tu tập thành quả: Như Lai lên cõi Tha Hóa, phóng Ánh sáng giữa chặng mày nói mười địa có một phẩm. Không có hai phẩm lên cõi Tha Hóa và nói Kệ Khen ngợi. Vì mười địa đã trọn vẹn công đức, an trụ nơi pháp thật, không tăng tiến. Dù là cõi thiền thứ ba hay cõi trong mười phương đều vậy. Mười địa trọn vẹn trí đức, không tiến tu, luôn ở chỗ Phật, không phải mới đến nên không Khen ngợi. mười địa có từ sự tu tập trong mười trụ, mười hạnh, mười hồi hướng, không an trụ nơi nào, tự tại thành tựu, đủ các pháp. Vì sao mười địa được nói ở cõi Tha Hóa? Vì cõi trời này vui với sự biến hóa của người khác, Bồ-tát địa này vui với hạnh độ sanh, tùy thuận chúng sanh làm mọi việc. Theo pháp sư Tạng lúc nói phẩm này có ba sự gia hộ và năm lần thỉnh cầu. Xét ý kinh, phật gia hộ bằng ba pháp, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt và các Bồ-tát khác bốn lần thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng. Mười ba pháp gia hộ: Mười hai pháp gia hộ của các đức Phật trong mười phương và Phật Tỳ-lô-giá-na phóng Ánh sáng chiếu thân Bồ-tát Kim Cang Tạng, nói kệ khuyên Bồ-tát thuyết giảng. Mười hai pháp gia hộ của các đức Phật trong mười phương: các đức Phật hiện ra trước Bồtát; trao mười trí; đưa tay xoa đầu (khen ngợi là ngữ nghiệp; trao mười trí là ý nghiệp, xoa đầu là thân nghiệp). Đức Tỳ-lô-giá-na phóng Ánh sáng nói Kệ là pháp lực. Bốn lần thỉnh cầu: Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt nêu sự nghi ngờ của đại chúng; thỉnh Bồ-tát Kim Cang Tạng thuyết pháp; thỉnh một lần nữa: các Bồ-tát cùng thỉnh. Không biết ba sự gia hộ và năm lần thỉnh cầu căn cứ từ đâu. Nếu cho rằng sự gia hộ bằng thân ngữ ý là ba thì trao mười trí, phóng Ánh sáng là dư, nếu tính cả sự Khen ngợi của các đức Phật trong mười phương là năm lần thỉnh cầu thì Phật và vị tối tôn không thề có sự thỉnh cầu. Vì thế có 13 sự gia hộ và bốn lần thỉnh cầu. Trao mười trí tuy trí thể không khác nhưng vì không chấp pháp tướng, thành tựu trí sai biệt, công dụng có khác, không phải chỉ giống nhau. Từ sự giống nhau có ba pháp gia hộ và bốn lần thỉnh cầu khác nhau.
8) Tùy duyên không ngại: Lên cõi thiền thứ ba, tập hợp tám chúng, Như Lai nói pháp Bồ-tát một đời thành Phật, nhập định Phật Hoa nói hạnh Phổ Hiền trong địa đẳng giác 11. Vào đời, đi khắp các giới, đủ muôn hạnh, như hư không, không ngăn ngại là vị Phổ Hiền trong vị Đẳng giác. Định Phật Hoa, Hoa là hạnh, có thể đạt quả như hoa kết trái. Đó là hạnh Phật. Phật là hiểu biết, là công dụng của vị Đẳng Giác. Sau khi trọn hạnh mười địa, tu hạnh Đẳng Giác. Định là pháp tịch tĩnh, là thể của pháp giới. Đoạn trừ phân biệt định loạn là tịch tĩnh. Từ định này hành hạnh Phổ Hiền. Trong tất cả các định, định này là bản thể. Ở cõi thiền thứ ba nói pháp Bồ-tát một đời thành Phật, nhập định Phật Hoa với trăm vạn bài kệ cho tám chúng nơi cõi dục, cõi sắc. Vì Bồ-tát nhập định này tự tại lợi sanh nên là tùy duyên không ngại. Vị này đủ muôn hạnh cùng khắp pháp pháp giới. Vì sao vị Đẳng giác được nói ở cõi này? Vì cõi này không còn sự lo khổ của vọng tình, chỉ có pháp lạc. Bồ-tát này không vọng tình, vui với pháp, dùng trí bi đem lại lợi ích cho sanh (hành tướng của vị này được nói trong kinh Anh Lạc, kinh Hoa Nghiêm không đủ).
9) Trọn vẹn nhân quả: 12 phẩm: mười định; mười thông; mười nhẫn; A-la-hán Tăng Kỳ; Trụ xứ của Bồtát; pháp mầu của Phật; tuổi thọ; mười thân phật; công đức tướng tốt của Phật; hạnh Phổ Hiền, Như Lai xuất hiện; lìa thế gian. 12 phẩm này nêu bày trọn vẹn nhân quả nơi mười địa, quả Phật, hạnh Phổ Hiền. Hai phẩm mười định, lìa thế gian được nói ở lần một, hai. (Phật ở điện Phổ Quang sau khi thành chánh giác nơi cội bồ đề nước Ma Kiệt Đề nhập định sát na) không phải là đến hai lần. Vì mười định và lìa thế gian bao quát cả thể dụng nên được nói ở điện Phổ Quang. Tên của các Bồ-tát ở hai lần đó tuy khác nhưng không có đến đi. Các Bồ-tát trong mười trụ... Đẳng giác đều là một. Hai phẩm đó đầy đủ thể dụng nhân quả. Mười định là thể Văn Thù, lìa thế gian là hạnh Phổ Hiền. Phẩm Như Lai xuất hiện, phóng Ánh sáng chiếu đến hai vị là sự dung hợp của nhân quả, lý sự, là quả Phật. Quả Phật là sự dung hợp của trí căn bản và trí sai biệt. (Hãy dùng sức định huệ suy xét sẽ thấy). Mười hai phẩm này, sáu vị đều có từ điện Phổ Quang. Ví như đặt trăm ngàn chiếc gương trong hư không, trên mặt đất để một tượng Phật và Bồ-tát thì mỗi gương đều hiển hiện hình tượng ấy, không đến đi sai khác. Cũng thế, Như Lai thành tựu chánh giác hiện khắp mười phương không đến đi. Vì thế pháp Phật dung hợp nhau. Không nên căn cứ theo sự hiểu biết thường tình mà cho rằng có đến đi qua lại. Kính này, trước sau là một, ngay phẩm Như Lai xuất hiện đã đủ sáu vị, phẩm nào cũng vậy đủ cả phần di chúc lưu truyền. Các phẩm trước phẩm xuất hiện, lìa thế gian là hạnh độ sanh sau khi thành Phật. Nghĩa là sau khi thành Phật dùng trí hành bi, đoạn trừ tập khí. Tuy hành hạnh Phổ Hiền nhưng không nhiễm thế gian là lìa thế gian. Tự tu thành Phật là khuyên người tu học quả Phật. Hành hạnh Phổ Hiền là sau khi thành Phật đem lại lợi ích cho chúng sanh. Có như vậy Tam Bảo không đoạn tuyệt, mười thông, mười nhẫn cũng như mười định, đủ thể dạng của năm vị. Thông là thông đạt tất cả; nhẫn là pháp nhẫn, A-tăng-kỳ là số lượng; tuổi thọ là mạng sống Phật tùy chúng sanh; Trụ xứ Bồ-tát là hạnh lợi sanh của Bồ-tát; pháp mầu của Phật là pháp giáo hóa của Phật không thuộc sự hiểu biết của nhị thừa, Ba thừa; mười thân Phật là mười thân Tỳlô-giá-na trong mười cõi nước với 97 tướng tốt và vô số cõi Hoa Tạng; công đức tướng tốt của Phật là Ánh sáng lợi sanh, hạnh Phổ Hiền là hạnh tu tập đạt quả; Như Lai xuất thiện là nhân quả viên mãn của năm; lìa thế gian là sau khi thành Phật tạo lợi ích cho chúng sanh. 39 phẩm kinh trên trọn vẹn nhân quả nơi sáu vị, làm lợi ích cho trời người. Phẩm nhập pháp giới: Như Lai nhập định sư tử tần thân nói nhân quả nơi năm vị và quả Phật, đem lại lợi ích cho hàng trời người.
10) Phàm phu chứng thật pháp: Lần thứ tám ở Kì Viên, Như Lai nhập định sư tử tần thân, hiện khắp các cõi để chúng sanh tin thích nghe thật tướng Phật. 500 thanh văn như Mục Liên, Xá Lợi đều không nghe. Vì là nhị thừa có người tin, có người không tin. Lần thứ bảy có 50 chúng: Mười Bồ-tát có tên Thủ như Giáo Thủ; mười Bồ-tát có tên Lâm như Công Đức Lâm, mười Bồtát có tên Tràng như Kim Cang Tràng; 37 Bồ-tát có tên Tạng như Kim Cang Tạng, và vô số Bồ-tát. Tùy địa vị số Bồ-tát tăng lên, để phàm phu, trời người đạt pháp. Sáu ngàn Tỳ kheo là phàm phu học đạo với Bồ-tát Văn Thù đạt mười mắt, mười tai. Tuy là chúng được độ trên đường Văn Thù đến phía đông thành Giác nhưng họ vẫn ở trong hội Phật. Một vạn rồng, 500 ưu bà tắc, 500 ưu bà di, 500 đồng nam, 500 đồng nữ được độ ở phía đông thành Giác đều biểu hiện cho việc phàm phu chứng quả Phật. (Ở tháp Phật phía đông thành Giác, Bồ-tát Văn Thù thuyết pháp, vô số rồng được sanh vào cõi người, một vạn rồng phát tâm bồ đề) năm chúng đều đạt quả Phật nhưng chỉ nêu Thiện Tài và số 500. 500 là năm vị, sáu ngàn là sáu vị, một vạn rồng là muôn hạnh, không có việc gì không tượng trưng cho pháp. Thuyết giảng ở tháp Phật quá khứ là biểu hiện cho sự giống nhau của pháp Phật xưa nay. Hội chúng ở đó giống hội chúng trong đạo tràng Phật. Thiện Tài đi về phía nam cầu học thiện tri thức là sự tiến tu và hành tướng độ sanh của Bồ-tát. Lần thứ mười ở khắp các cõi nước trong mười phương. Như sư tử con, lúc mới sinh ra, tuy chưa có thế lực tự tại như sư tử chúa, nhưng hình tướng nó giống, khiến tất cả loài thú đều sợ. Cũng vậy, người tin hiểu quả Phật và người phát tâm chứng nhập, thân tâm tánh tướng như Phật, đều có từ trí chơn thật, không do tu tập, tự thể là Phật, vì thế tuy tu tập muôn hạnh nhưng không có trước sau đều đạt quả đức chân thật, tuy khả năng chưa bằng Phật nhưng đã gieo hạt giống Phật. Tín là điều thiện đầu, định huệ là điều kiện chứng nhập. Trụ phát tâm thứ nhứt nhập trí huệ Phật, sanh trong nhà Phật, là đệ tử chơn thật của Phật, cùng trí Phật, đủ căn lành Như Lai, vượt trên ba thừa đạt sự thấy biết và thần thông của Bồ-tát chín địa, trí của trời người, ngoại đạo, ba thừa không sánh bằng. Vì thế các vị hãy lãnh thọ phụng hành.
Cúi lạy chư Phật khắp mười phương
Đức Tỳ Lô Giá-Báo thân Phật
Bồ-tát tu tập trong sáu vị
Văn Thù, Phổ Hiền và đại chúng
Các đấng thanh tịnh thuyết Phật pháp
Công đức Viên mãn, chí vững bền
Con nay giải thích nghĩa kinh mầu
Hầu đem lợi ích cho chúng sanh
Thông hiểu pháp Phật không chướng ngại
Những ai nghe thấy đều lợi lạc
Xin đấng từ bi rủ lòng thương
Đạt sự thanh tịnh như Lô Giá.
Thông thường, xiển dương kinh pháp có bốn ý: 1) Ý kinh; 2) Tông chỉ của kinh; 3) Thể của giáo; 4) Số lần thuyết giảng.
-Ý kinh: Tạm phân mười đoạn: 1) Thành tựu chánh giác; 2) Nêu quả khuyên tu; 3) Nêu quả để thành tựu lòng tin; 4) Chứng nhập chơn như; 5) Phát nguyện tu tập; 6) Trí bi dung hợp; 7) Tích tu thành đức; 8) Lợi sanh không ngại; 9) Tùy vị Bồ-tát độ sanh; 10) Phàm phu chứng nhơn. Thành tựu chánh giác: Phẩm thế chủ Diệu Nghiêm; Nêu quả khuyên tu: Năm phẩm: Hiện tướng...
Tỳ-lô-giá-na và quả Phật trong phẩm thế chủ Diêu Nghiêm; Nêu quả thành tựu lòng tin: sáu phẩm: Danh hiệu Như Lai... Hiền Thủ và phẩm thế chủ Diêu Nghiêm. Mười đức Phật có tên Trí là quả tự tâm (tức Bất Động Trí là đầu). Trí vững chải trước mọi sự sai khác; Chứng nhập chơn như: sáu phẩm: Lên núi tu di... mười trụ là thể sanh trong nhà Phật; Phát nguyện tu tập: bốn phẩm: Lên cõi Dạ ma... mười hạnh là thể hành hạnh Phật; Bi trí dung hợp: ba phẩm: Lên cõi đâu suất... mười hồi hướng là thể dung nhiếp chơn tục, thành tựu từ bi; Tích tập công đức: Phẩm mười địa (được nói ở cõi Tha Hóa) siêng tu thành tựu đầy đủ ba pháp trước; Lợi sanh không ngại: 11 phẩm: mười địa... hạnh Phổ Hiền. mười địa tu tập thành tựu công đức, địa 11 viên mãn hạnh độ sanh. Đây mới là trọn vẹn pháp Phật, tánh không tạo tác ấy không hề thay đổi, là tánh trí rộng lớn. Ngay trụ thấy đạo thứ nhứt đã không phân biệt thời gian, ba đời công tánh, chỉ một sát na. Việc này không thể biết bằng thức, phải dùng trí để hiểu; Tùy vị Bồ-tát độ sanh: các Bồ-tát (trong 37 phẩm) và Phật ra đời đều từ cảnh giới trí tánh, phương tiện hiện thân; tạm nêu mười tín... Đẳng Giác để phàm phu tin học không sai; Phàm phu chứng thật: từ pháp giới lập ra sáu vị, mười tín... tu tập phương tiện, mười địa không rời thể dụng, không bỏ phương tiện. Trí cao cả, hạnh rộng lớn, tùy căn tánh, trọn vẹn hạnh nguyện là tiến tu. Tùy khả năng an lập các vị, tùy vị biết hạnh, hiểu nhân quả, để chúng sanh biết rõ tướng chung riêng, thành tựu công đức, không chấp pháp ban đầu, cũng không bỏ pháp ấy. Vì thế, Thiện Tài, ưu bà tắc, ưu bà di, đồng nam, đồng nữ tiêu biểu cho năm vị: mười trụ... địa 11. Mỗi vị có mười thông = 500. Sáu ngàn Tỳ kheo là sáu vị một vạn rồng là muôn hạnh. Tất cả đều là phàm phu, đều tin quả Phật rộng lớn, đạt mười trụ... mười địa. Chỉ một phẩm pháp giới bao quát cả mười phẩm; pháp giới là pháp ba đời. Phẩm pháp giới là quả của Phật, chúng sanh. Vì thế kinh này có năm sự rộng lớn: 1) Nhân quả thành tựu chánh giác (năm phẩm Thế chủ diệu nghiêm...); 2) Nhân quả mười tín và sự tiến tu (sáu phẩm danh hiệu Như Lai...) 3) Thể định: mười định, mười thông, mười nhẫn) 4) Hạnh nguyện (hạnh Phổ Hiền, lìa thế gian)
5) Trí pháp giới (phẩm pháp giới) vì năm nghĩa này nên năm phẩm kinh đều bắt đầu bằng câu: "Lúc ấy Thế Tôn ở nước Ma Kiệt Đề". Vì năm pháp được nói trong một thời gian, một địa phẩm, một thể dụng, là pháp của các đức Phật, một nhân quả, không trước sau, không ngoài giây phút nhập định. Tám tướng thành đạo cũng thế. Riêng phẩm pháp giới khác biệt vì nêu năm sự rộng lớn, trí căn bản viên mãn của pháp giới, và là tông chỉ của bộ kinh này. Từ lúc phát lòng tin đến sự tiến tu, nhân quả trước sau đều không ngoài thể định. Vì không phân biệt thời gian, phàm Thánh như nhau, xưa nay vốn vậy. Vì vọng tình ràng buộc nên phân biệt thời gian, có sanh già bệnh chết, nhanh chậm trong pháp giới căn bản. Vì không hiểu lý tánh không trái với thật pháp "không phân biệt thời gian". Tùy vọng tình thấy có nhanh chậm nên không gieo hạt giống tin trong pháp Phật. Vị này dù tu hành vượt ba cõi vẫn không có hạt giống thành Phật. Đó chính là Thanh Văn, Duyên giác, Bồ-tát sáu thông trong quyền giáo. Bồ-tát không thoái chuyển trong Pháp Hoa cũng không hiểu được. Vì đó là Bồ-tát không thoái chuyển ra khỏi thế gian. Không phải Bồ-tát không thoái chuyên trong sanh tử. Và chỉ dùng pháp quán không chiết phục phiền não hiện hành, đạt vị thấy đạo-địa thứ nhứt, chưa đạt không thoái chuyển trong trí căn bản và trong vô minh căn bản. Việc thấy đạo của ba thừa chỉ là ba bậc ý sanh thân, không phải là thông thái chuyển trong trí căn bản trụ phát tâm thứ nhứt đồng Phật. Ba bậc ý sanh thân: Bồ-tát địa 1, 2, 3 là Tam-ma-bạt đề lạc ý sanh thân, Bồ-tát địa 4, 5, 6 là Giác pháp tự tánh ý sanh thân; Bồ-tát địa 7, 8, 9, 10 là chủng loại câu sanh vô hành ý sanh thân. Ba bậc này đều ở ngoài trí lớn. Ba xe ngoài cửa là phương tiện cứu những đứa con thoát khỏi hỏa hoạn. Kinh dạy: Thanh Văn tuy ở trong đạo tràng nhưng như người điếc, Bồ-tát sáu thông dù nghe vẫn không tin. Dù đã phát lòng tin từ lâu nhưng chỉ là lòng tin của vọng tình, không biết trí mình, không có niềm tin hợp chơn như. Nếu không chuyển tâm thì vĩnh viễn không thành Phật, dù có giáo hóa chúng sanh thì cũng chỉ gieo hạt giống trời người, ba thừa, chỉ ở cõi tịnh một phương, không có công dụng rộng lớn của trí lớn, không tùy cõi nước nơi mười phương thị hiện thân hình, không tùy căn tánh chỉ dạy chúng sanh ba thừa, chỉ thấy ba ngàn đại thiên thế giới; thế giới hải, thế giới tánh, thế giới chủng của kinh này sâu xa rộng lớn. Ba thừa dù thấy Phật ở 32 tướng tốt 80 vẻ đẹp hay tám vạn bốn ngàn vẻ đẹp vẫn không thấy Phật với số tướng tốt bằng số bụi trong mười cõi Phật. Ba thừa chỉ thấy hạnh độ sanh trong ba ngàn đại thiên cõi nước của Phật, không thấy hạnh rộng lớn cùng khắp của Phật. Những việc làm của ba thừa còn hạn chế, không biết hạnh rộng lớn không ngăn ngại của Phổ Hiền.
2) Tông chỉ của Kinh: có sáu: 1) Tông chỉ Kinh; 2) Thuộc tạng nào; 3) Phần tựa; 4) Phần chính; 5) Phó chúc cho ai; 6) Lưu truyền ở đâu.
- Tông chỉ của Kinh này: Là trí lớn Tỳ-lô-giá-na đủ thể dụng chơn thật, tánh tướng quả đức không ngăn ngại. Phật thừa là tông. Kinh Pháp Hoa có câu: "Ngồi xe báu thẳng đến đạo tràng". Kinh này có câu: "Ai mong đạt quả Phật, nói pháp thù thắng, tối thượng, vô thượng, không thể nghĩ bàn là làm cho chúng sanh phát tâm lập chí lớn, đạt trí Phật." Trí Phật như trí mình. Tông chỉ của Kinh này sâu xa khó tin. Công đức của người tin Kinh này hơn công đức người phụng sự vô số Phật bằng số bụi trong mười cõi Phật. Công đức đạt trong một kiếp không bằng công đức tin trí Phật của kinh này. Phần tụng phẩm Hiền Thủ dạy: "Có người tay nâng mười cõi Phật ở trong hư không trọn một kiếp, việc làm người ấy chưa phải là khó. Tin hiểu pháp này mói là khó; suốt trong một kiếp đi khắp nơi, đem lại an lạc cho chúng sanh trong mười phương, phước đức người này chưa thù thắng, tin hiểu kinh này mới là tối thắng; công đức phụng Phật trong một kiếp, chẳng bằng công đức đọc kinh này." Lại có câu: "Chúng sanh trong khắp các cõi nước, ít ai cầu học pháp Thanh Văn, người cầu Độc giác lại ít hơn, người học Đại thừa thật khó có. Vì tông chỉ của kinh này sâu xa khó tin. Người ta tu pháp không, dứt trừ vọng niệm, người tu thiền định vẫn còn phân biệt tịnh uế. Thanh Văn, Độc giác Bồ-tát sáu thông chưa chuyển tâm nên không hiểu được. Phần sau kinh có câu: Bồ-tát dù trải qua vô số kiếp hành sáu ba-la-mật, đạt sáu thông vẫn là Bồ-tát giả danh nên nghe kinh này không tin không chứng nhập. Kinh Pháp Hoa đưa ba về một, đổi ba xe ngoài cửa thành xe lớn, phá trừ chấp pháp, đạt trí không nương tựa tự tại của Như Lai. Kinh Hoa Nghiêm được nói lúc thành chánh giác và nói cho hành thượng văn, kinh Pháp Hoa được nói sau năm thành đạo và nói để chuyển tâm ba thừa. Phật thừa, ba thừa đều được nói trong một thời gian. Vì văn tánh sai khác nên tuy cùng một pháp môn, chúng sanh hiểu khác nhau. Từ đó có nghĩa chung riêng. Về thật thể thì không có thời gian, không trước sau. Kinh Pháp Hoa dạy: trong cõi Phật mười phương chỉ có một thừa pháp, không có hai, ba, trừ phi đức Phật, theo phương diện thuyết giảng, mượn danh tụ chỉ dạy chúng sanh. Chỉ một việc thật, dư nhị không phải chơn. (Dư nhị là ba thừa, là quyền pháp) Vì thế dùng một thật pháp đối trị các quyền pháp. Kinh Pháp Hoa, trách Thanh Văn Duyên giác Bồ-tát bất thoái chưa tin pháp nhứt thừa. Bồ-tát quyền pháp tuy có tâm cầu bồ đề nhưng còn sợ sanh tử, đạt bất thoái lìa nhiễm, chưa đạt bất thoái ứng hợp tánh chơn như bình đẳng. Bồtát tu quán không, thích pháp không, Bồ-tát quán chơn như giả thoát khỏi sự ràng buộc, còn tâm yêu ghét, thích sanh về cõi tịnh. Các Bồ-tát ấy đạt bất thoái ra khỏi sanh tử trói buộc, chưa đạt pháp giới chơn như không thích chán. Về Phật thừa, người thích hay chán sanh tử đều là thoái chuyển. Người tu pháp không và chơn như giả, hành sáu Ba-la-mật, đạt sáu thông, đạt bất thoái ra khỏi sanh tử, chưa đạt bất thoái trong sanh tử. (Niết-bàn sanh tử cùng một thể). Kinh Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều dạy: Người thọ trì 8400 tạng pháp-12 bộ kinh, diễn thuyết cho chúng sanh nghe pháp đều đạt sáu thông vẫn chưa phải là khó. Người nghe thọ kinh này mới là khó. Sự tin hiểu của ba thừa là tùy sự vui thích của vọng tình. Vì sao? Vì họ cho rằng phải trải qua ba A-tăng-kỳ kiếp mới đạt quả phật, cõi tịnh của phật ở phương khác, cõi Ta bà là cõi uế. Họ ghét cõi uế, thích cõi tịnh, mong sanh về cõi tịnh. Bồ-tát ở đời là giữ hoặc độ sanh, vì độ sanh không phải là sức tự tại của trí căn bản và pháp rộng lớn. Bồ-tát ấy hành pháp theo vọng tình nên là pháp dễ tin. Kinh này khác, người đạt quả Phật không qua một sát na, chỉ có mê ngộ cách biệt. Dù vô số kiếp vẫn là một sát na. Phàm phu vừa thấy đạo là thấy nhân quả cùng thời, không thấy chưa hay đã thành Phật, không thấy đoạn trừ phiền não chứng bồ đề. Tất cả không ngoài một sát na. Sự tu tập năm vị, thành tựu nhứt thiết chủng trí, sáu tướng chung riêng giống khác thành hoại là một. Mười tín có cõi kim sắc, Phật Bất Động Trí, Bồ-tát đều là Văn Thù (Trung Hoa dịch là Diệu Đức) Kim Sắc là trong sạch không nhơ, là lý pháp thân; Phật Bất Động Trí là trí trong lý, phàm Thánh đều có. Nơi nào cũng là Văn Thù, Phật Bất Động Trí, cõi kim sắc. Người tin hiểu tâm mình không nương tựa, là trí huệ diệu vi, là giải thoát, là Văn
Thù. Từ đó tự tại phân biệt diệu lý tánh không. Không gì lay chuyển là Phật Bất Động Trí; lý trí không hai, diệu dụng tự tại là Diệu Đức. Tất cả các đức Phật đều có từ tín vị nên nói Văn Thù là mẹ của các đức Phật trong mười phương. Văn Thù là Bồ-tát của đồng tử. Thành tựu lòng tin là dùng sức trí tuệ ấn định. Sát na Khế hợp chơn như là trụ thứ nhứt thành tựu chánh giác. Hạnh nguyện cùng khắp là Phổ Hiền; trí không nương tựa là Văn Thù. Trí phân biệt căn tánh là Phật Bất Động. Đủ ba pháp đó là chánh giác. Hơn nữa, khả năng tin là lòng tin, hợp chơn như là trụ tâm, vì an trụ nơi Phật an trụ đủ trí huệ vi diệu, giải thoát, đoạn tướng, không vong niệm. Nếu thấy Phật ngoài tâm thì không phải là tin; là tà kiến. Tất cả các đức Phật đều như tâm mình, chúng sanh cùng một tánh không nương tựa, thể không sai khác, một trí huệ, tâm Phật và chúng sanh là một. Hãy tin hiểu như vậy, đừng tự lừa dối mình. Tông chỉ của kinh này là chúng sanh tâm lớn. Những pháp diệu dụng nhứt thừa đều là pháp để chúng sanh tâm lớn nhập trí Phật, đạt quả Phật, khế hợp chơn như là hiển hiện cho lý trí, là Phật. Trong đạo lý pháp giới không có trước giữa sau. ba thừa vì hiểu biết thô cạn nên thấy trải qua ba tăng kỳ kiếp mới thành Phật, cõi tịnh của đức Thích Ca ở phương khác, Ta bà là cõi uế. Trong Pháp Hoa vì chuyên tâm yếu kém nơi ba thừa nên nói long nữ chỉ tích tắc thành Phật. Đó là biểu hiện cho lòng tin rộng lớn, không thuộc quyền pháp, là thật pháp. Người ta nói thật pháp không nên vướng chấp. Long nữ tám tuổi thành Phật là sự tu tập thành tựu trong hiện tại, không phải tu học trong quá khứ. Vì pháp không ngăn ngại thể tánh của pháp giới không thuộc ba đời, sát na hợp chơn như, vọng tình ba đời đoạn hết, trí không ra khỏi. Không chìm đắm là Phật. Kinh dạy: Vì độ hàng chúng sanh yếu kém nên hiện tám tướng thành đạo. Chúng sanh Ta bà thấy long nữ đi về phương nam, thành Phật ở nước Vô Cấu. Nam là sáng là đúng, là thuộc quẻ ly. Ly là sáng, là mặt trời, là hư không, không nhơ uế (vô cấu). Đại chúng thấy từ xa là vì ba thừa quyền giáo tin nhưng chưa chứng pháp giới chơn như dung nhiếp mình người, tự chứng đạt là thấy từ xa. Thiện tài một đời thành Phật, một đời: Sau khi phàm phu tin hiểu, đạt trụ phát tâm thứ nhứt là không sanh. Vì sanh từ trí không do nghiệp (sau sẽ nói, ở đây chỉ lược nói tông chỉ kinh, mong những bậc thông đạt suy xét kỹ).
- Kinh này thuộc tạng nào? Kinh này thuộc tạng Tỳlô-giá-na. Vì soi chiếu dung nhiếp tất cả các pháp. Ba thừa quyền giáo không thể tin hiểu pháp chơn như của báo thân Phật, chỉ biết pháp ba thừa. Dù là Bồ-tát cũng chỉ biết ba ngàn đại thiên thế giới là cõi báo thân Phật, trăm ngàn ức thân Đức Thích Ca là hóa thân. Kinh này là quả Phật, trí căn bản, không thuộc quyền giáo ba thừa và hóa Phật. Trong phẩm pháp giới, lầu Bồ-tát ở là lầu Tỳ-lô-giá-na trang nghiêm tạng. Vào đó Thiện Tài chỉ thấy thật pháp, báo thân với vô số phước tướng là hành pháp của Đức Tỳ Lô, nhân quả có từ pháp giới, tướng tốt của báo thân cũng vậy. Tạng: Dung nhiếp, dung nhiếp vô số nhân quả giáo pháp. Kinh điển ba thừa phần nhiều dùng số cát sông Hằng để nêu rõ hạn lượng của pháp môn rộng lớn. Kinh này phần nhiều mượn số bụi trong một cõi Phật, hai cõi Phật, vô số cõi Phật để làm hạn lượng. Pháp tướng trong ba thừa là l, 2, 3...10, kinh này mỗi pháp đều có mười, là sự viên mãn của pháp môn quả Phật. Tên, số đã khác thì tạng pháp cũng khác. Kinh này thương nêu quả Phật là mục tiêu của sự tu tập. Từ trí căn bản tu trí sai biệt. Nếu khác thì không thành Phật. Ba thừa chỉ trừ một phần khổ sanh tử, không phải nương trí căn bản tu Phật thừa.
- Nêu rõ về phần tựa: Phần tựa có hai: 1) Bao quát toàn bộ kinh,
2) Mỗi phần đều có phần tựa. Bao quát toàn bộ kinh là phẩm Thế chủ Diệu nghiêm. Mỗi phẩm đều có phần tựa và trong các phẩm đề có câu: lúc bấy giờ... Toàn bộ kinh này có năm phần tựa: Phật ở đạo tràng Bồ đề. Vì sao? Từ quyển một: "Tôi nghe như vầy, bấy giờ Đức Phật ở nước Ma Kiệt Đề" (thành tựu chánh giác ở nơi tịch tĩnh). Lần thứ hai có câu: Lúc bấy giờ Phật ở đạo tràng Bồ đề nước Ma Kiệt Đề, thành tựu chánh giác (không rời chỗ ngồi nhưng lại đế Điện Phổ Quang) quả ấy có từ hạnh nơi lý trí. Nghĩa là phải chứng đạt nơi tịch tịnh rồi mới đen các nơi khác (như quan điểm thế gian). Những việc lên cõi trời cũng thế. Lên cõi trời là sự tu tiến. Không rời chỗ ngồi vì trong pháp giới không có đến đi, trong ngoài, trí thể cùng khắp. Phẩm mười định có câu: "Lúc bấy giờ Phật ở đạo tràng Bồ đề nước Ma Kiệt Đề thành tựu chánh giác, đến điện Phổ Quang nhập định sát na". Thể của định là pháp thân, pháp giới không có ba đời, tám tương thành đạo đều từ một sát na. Định này dung nhiếp tất cả, không xưa nay, ba đời. Nghĩa là các đức Phật quá khứ vị lai đều thành chánh giác trong một sát na, sự sống chết của chúng sanh cũng thế. Chỉ vì chúng sanh mê mờ nên phân biệt năm tháng nhanh chậm. Đức Phật dạy: Sống chết đều cùng một sát na. Kinh dạy: Trong một sát na quán sát vô số kiếp không đến đi, cũng chẳng dừng trụ. Cứ thế biết rõ mọi việc trong ba đời, vượt lên mọi phương tiện, thành tựu mười lực. Chỉ một phẩm bao quát tất cả, không trước sau đầu cuối. Nghĩa là phàm phu phát tâm thấy đạo, tiến tu các vị: Mười trụ... Đẳng giác, thành Phật, thuyết pháp, Niếtbàn đều không ngoài một sát na. Dùng pháp giới khai ngộ chúng sanh. Vì thật pháp là vậy, nên mượn đinh biểu hiện. Chỉ một phẩm đã đủ tất cả thể dụng đầu cuối của pháp nhất thừa, nên nó là điều kiện đầu tiên đẻ thành Phật. Phẩm lìa thế gian kế đo cũng vậy. Từ đầu đến câu ở điện Phổ Quang là Bồ-tát Phổ hiền nhập định Phật hoa. Phật hoa là hạnh Phật. Định: Thể dụng không ngăn ngại. Nơi chốn giống phần tựa phẩm trước, vì tu tập hạnh Phật, thể dụng viên mãn, không trước sau ba đời. Phẩm này nêu việc hành hạnh Phổ Hiền bằng trí lớn, làm đủ mọi việc trong ba đời nhưng không rời một sát na, không thêm bớt đến đi. Phẩm Nhập Pháp Giới có câu: "Bấy giờ Thế tôn ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Thệ đa, nước Thất La Phiệt". Đây là phần chính pháp Như Lai thông suốt trước sau, trời người mười phương đều có chung một thể pháp giới, không hư dối. Vì mê mờ không hiểu, nên phẩm này nói trời người mười phương là thể dụng tự tại của pháp giới, để chúng sanh thông đạt chứng nhập. Vì vậy phẩm này do Như Lai dùng sức thần thông thuyết giảng chứ không mượn ngôn ngữ thông thường. Vì thế gian là chân như, là thần thông, không có sự ra khỏi hay chìm đắm. Pháp giới bao quát tất cả nên không cần ở đạo tràng Bồ đề như trước. (Bồ đề là pháp giới). Lần trước cũng thuộc pháp giới nên có phần tựa như thế. Thể dụng của mười lần thuyết giảng đều gói gọn trong phẩm này, cùng một thể tánh thời gian trí huệ. Năm phần tựa này đều nêu pháp giới không trước sau. Bốn phẩm: Thế Chủ Diệu Nghiêm, Danh hiệu Như Lai, Mười định, Lìa Thế Gian có chung một phần tựa. Thành tự chánh giác, ở điện Phổ Quang. Phẩm Nhập Pháp giới lải là ở vườn Cấp Cô Độc. Năm phẩm này có năm sự rộng lớn bao quát tất cả, thành trí lớn pháp giới, vì thế bốn phẩm tên gần giống nhau, chỉ phẩm Pháp giới là khác. Năm sự rộng lớn: 1) Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm: Nói việc thành Phật (không rời chỗ ngồi nhưng thân hiện ở khắp nơi).
2) Phẩm Danh Hiệu Như Lai: Ở điện Phổ Quang nói báo thân, cõi nước, danh hiệu, pháp môn, tạo lợi ích cho chúng sanh. Lần này giảng sáu phẩm thành mười tín. Đây là lòng tin rộng lớn. 3) Phẩm Mười định: Như Lai nhập định sát na. Vì định này tóm thâu các định khác và số kiếp tất cả đều một sát na, không xưa nay. Tám tướng thành đạo cũng thế. Đây là thể dụng rộng lớn, tịch dụng tự tại. 4) Phẩm Lìa Thế Gian: Dùng trí tịch tịnh rộng lớn làm thể của hạnh Phổ Hiền. Đây là hạnh giác ngộ rộng lớn. Phật Hoa là hạnh giác ngộ. Định là thể bản giác; 5) Phẩm nhập pháp giới: pháp giới trí căn bản, quả Phật. Năm sự rộng lớn này đều cùng một thể pháp giới, là pháp rộng lơn bao quát tất cả. Chúng sanh không hiểu nên làm sai lệch ý kinh. Năm phần tựa này bao quát tất cả. Kinh này vốn không có thứ tự, đầu cuối giữa bên dài ngắn. Như ấn vua đóng vào văn bản không trước sau. Ấn pháp cũng cùng lúc ấn định các vị. Về sự tu tập nơi năm vị khác nhau nhưng thể tánh không sai khác. Vì đủ sáu tướng và mười sự mầu nhiệm. Sáu tướng này tạo thành ba cặp: chung riêng, giống khác, thành hoại. Chúng không tách rời nhau, không thể bỏ hay giữ một hay hai cặp nào. Những sự thường đoạn, sanh diệt, giữa bên đều là sự phân biệt của vọng tình, không hiểu pháp duyên sanh. Phải dùng sức của trí huệ chơn chánh mới hiểu được diều này. Người suy xét biết được, phát lòng tin là Bồ-tát địa thứ nhứt, quán thế gian do duyên khởi, tuy giống nhau nhưng không tự có, tuy khác nhưng đều là tự tánh không, không phải là cùng không, hai cặp kia cũng vậy. Tất cả đều thuộc sự phân biệt có không, không có không, đủ, không đủ, thường, vô thường của vọng tình. Các pháp do duyên sanh, như tiếng vang trong hư không vốn không, vì tương ứng với vật tạo thành âm thanh. Như người xem bói không suy xét, không tạo tác, không phải quỉ thần nhưng tùy nhiên biết mọi việc, rồi nói cho người đến xem việc tốt xấu xưa nay. Tất cả đều tùy duyên không do suy xét, một nhiều dung hợp, giống khác thành hoại không trước sau. Đạo lý pháp giới cũng thế. Tất cả đều tùy tánh hành từ, tùy nguyện không tạo tác, tùy duyên hợp trí không tạo tác, không cũ mới, tám tướng thành đạo đều không có đến đi qua lại, đều cùng sức tự tại của trí không sanh diệt. Nhị thừa tự chúng tịch tịnh nhưng đoạn vọng niệm mà không trí huệ. Nguyện độ sanh mà không vọng tưởng về nguyện, độ sanh bằng đức từ bi nhưng không tham ái vào sanh tử mà không đắm nhiễm, sống trong Niết-bàn nhưng luôn đem lại lợi ích cho chúng sanh. Đó là trí không tạo tác, không nương tựa của Như Lai, không thể phân biệt quá khứ, vị lai, hiện tại.
- Phần chính có ba: Tùy vị, tùy phẩm, đại thể. Tùy vị: Mười tín... Đẳng giác đều có phần chính. Mười tín là Phật Bất Động Trí; Mười trụ là trí huệ diệu vi nơi quả đức Như Lai; Mười hạnh là hạnh Phổ Hiền dung hợp trí căn bản; Mười hồi hướng: Phát nguyện lớn thành tựu bi trí bằng trí viên dung chơn tục, bi trí quân bình không thiên tịnh loạn; Mười địa: Tu tập bi trí độ sanh; Địa mười một: Lợi sanh bằng hạnh Phổ Hiền và trí căn bản. Tùy phẩm: Toàn bộ kinh này có bốn mươi phẩm, mỗi phẩm đều có phần chính (thông qua tên phẩm ta có thể biết được). Đại thể: Phần chính là trí rộng lớn, quả Phật nhứt thừa, đủ thể dụng tịnh tịnh, thường nêu quả Phật để phổ độ chúng sanh, tiến tu, dần thành tựu. Trong bốn mươi phẩm, phẩm pháp giới là phần chính, các phẩm khác là phần phụ. Các đức Phật trong mười phương từ phiền não nơi tâm thành tựu nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí, thể dụng pháp giới. Vì thế ba thừa không hiểu được phiền não căn bản này. Nhị thừa chỉ điều phục, không cho phiền não sanh khởi, Bồ Tát quán pháp không, chế phục phiền não hiện hành (rõ như trong kinh Thắng Man). Dùng pháp giới khai ngộ chúng sanh: Trí căn bản của Như Lai là tâm phân biệt của chúng sanh, dung hợp thành một là sự tự tại của pháp giới. Vì thế nơi trụ phát tâm thứ nhất là thành chính giác, mười hạnh... Đẳng giác là thành tựu bi trí. Song vẫn không ngoài trí ban đầu. Thể dụng của trí pháp giới không nương tựa, đối trị hoặc chướng bằng trí, hoặc chướng càng ít thì trí tuệ càng sáng. Chỉ cần dùng sức của định huệ quán sát sẽ thấy thân tâm không nương tựa, không nguồn gốc, tham sân si sẽ đoạn trừ, trí Phật hiển sáng vui với pháp, không vui với thế gian. Đó là sự dần tiến không đầu cuối của pháp giới.
- Kinh này phó chúc cho ai? Cho hàng phàm phu có tâm rộng lớn. Kinh dạy: Chúng sanh khác không hiểu kinh này, chúng sanh khác là ba thừa, ngoại đạo-những kẻ thích sự vui sướng nơi cõi trời người và ra khỏi đời. Vì sao? Kể cả Bồ Tát đạt sáu thông của ba thừa còn chưa nghe tin kinh này huống gì nhị thừa, ngoại đạo, trời người? Chỉ có hàng đệ tử chơn chánh của Phật, sanh trong nhà Phật mới hiểu. Tức là phàm phu có tâm lớn tin hiểu chứng nhập, sanh trong nhà Phật, không phải Bồ Tát sanh trong nhà Phật. Các Bồ-tát lớn thường thuyết pháp cho chúng sanh, nhưng không có phàm phu tâm lớn tin hiểu chùng nhập thì không là phó chúc, truyền bá. Vì không ai tin nhập. Nếu không có phàm phu tâm lớn thì kinh này bị đoạn diệt. Nếu không có họ, hãy còn có vô số Bồ-tát đã sanh trong nhà Phật, sao Như Lai lại lo kinh này đoạn diệt? Như Lai không nghĩ về Bồ-tát đã sanh trong nhà Phật mà là nghĩ về phàm phu có tâm rộng lớn-những kẻ chưa đạt vị Thánh.
Kinh này lưu truyền ở đâu? (Sự lưu truyền được ghi trong phần cuối của kinh như mặt đất rung chuyển, mưa hoa, rúng dường...) Phẩm Như Lai xuất hiện được đặt cuối kinh vì nó là phẩm ba mươi bảy, đúc kết nhân quả nơi năm vị của Bồ-tát. Phẩm Hiện tướng (quyển 6) Như Lai phóng Ánh sáng từ răng dạy Bồ-tát Phổ Hiền nói nhân quả của Phật, chúng sanh và cõi Phật. Phóng Ánh sáng từ giữa chặng này dạy Bồ-tát Văn Thù, Hiền Thủ nói pháp mười tín. Kế đến nói pháp mười trụ... Đẳng giác. Từ phẩm hiện tướng đến phẩm xuất hiện có ba mươi sáu phẩm. Vị Đẳng giác được thuyết ở cõi thiền thứ ba (một phẩm nhưng chưa đủ). Kể cả phẩm này thành ba mươi bảy phẩm. Bốn mươi phẩm kinh, đến phẩm Như Lai xuất hiện mới đạt trọn vẹn năm quả nhân vị. Vì thế Phật phóng Ánh sáng giữa chặng này chiếu đến đỉnh đầu Văn Thù, Ánh sáng từ kim khẩu chiếu đến kim khẩu Phổ Hiền để hai vị hỏi đáp về thể dụng nhân quả năm vị. Văn Thủ là thể của pháp giới, Phổ Hiền là dụng của pháp giới. Văn Thù là nhân Phổ Hiền là quả. Kinh hoa nghiêm thường nêu hai vị này, biểu hiện cho nhân quả thể dụng. Các đức Phật từ xưa đến nay đều thế. Đó là lợi ích của việc tiến tu nhân quả. Như Lai phóng Ánh sáng giữa chặng này và kim khẩu chiếu đến hai vị là biểu hiện cho nhân quả năm vị trọn vẹn. Ánh sáng từ kim khẩu là phó chúc lưu truyền để giáo pháp được tồn tại. Ánh sáng giữa chặng này là quả. Phóng Ánh sáng quả phó chúc Văn Thù để Văn Thù hỏi quả pháp Phổ Hiền trả lời, Phật xuất hiện là lưu truyền. Phẩm này đủ cả phó chúc lưu truyền, như thái tử của chuyển luân đủ tướng vua có khả năng nối ngôi. Phẩm lìa thế gian: Sau khi thành thạo Phật hành hạnh Phổ Hiền đem lại lợi ích cho chúng sanh. Bồ-tát mười địa hành hạnh Phổ Hiền tự lợi, lợi người. Bồ-tát mười một hành hạnh Phổ Hiền, lợi người. Phẩm pháp giới bao quát toàn bộ kinh, được nói ở Kỳ Viên. Vì thế gian chúng sanh là pháp giới; tánh chúng sanh là pháp không thể nghĩ bàn, sự phân biệt của chúng sanh là trí Như Lai. Nghĩa là ở ngay nơi thế gian nơi pháp không thể nghĩ bàn.
3) Nêu rõ về giáo thể: Theo sự giảng thuyết về giáo thể của pháp sư Thiệp: Tất cả Thánh giáo, bốn pháp là thể, câu cú là tánh. Thông thường, có bốn điều kiện để nghe hiểu, thọ trì, truyền bá giáo pháp; nhưng kỳ thật có sáu điều kiện để pháp tồn tại: 1) thao pháp(12 phần giáo) 2) theo nghĩa (tùy hành tướng các vị); 3) theo các việc nơi mình, người, ba đời; 4) Theo nơi chốn (ở nơi nào); 5) Theo số (1, 10, 100, 1000, số bụi), 6) Theo Bổ-đặcgià-la (Phật chứng minh. Bổ-đặc-già-la Trung hoa dịch là sắc thủ thú). Theo Thông Huyền (tác giả) căn cứ nơi kinh Hoa Nghiêm tạm lập mười giáo thể. (Nếu rộng thì khôn lường):
1) Chúng sanh (Phật dùng một tiếng pháp, thuyết giảng trong một thời gian) 2) Quả báo trang nghiêm của cảnh giới Thánh phàm (thấy cảnh phát tâm không cần nói, ghét ác, tu thiện, mọi việc đều là việc Phật); 3) Tự tánh các pháp thanh tịnh (dùng sức quan sát khế hợp, không cần nói) 4) Đi đứng nằm ngồi (người thấy kính trọng phát tâm, không cần nói); 5) Sự ra đời, Niết-bàn của Phật, Bồ Tát (chúng sanh thấy vậy kính trọng phát tâm); 6) Đạo lực thông của Phật, Bồ Tát (hiện thần biến, người thấy phát tâm, không cần nói); 7) Vô thường, khổ, không (quán sát phát tâm, không cần nói); 8) Không nói năng (Sự trả lời bằng im lặng của cư sĩ Tịnh Danh); 9) Danh cứ văn thân (mượn ngôn ngữ biểu hiện); 10) Pháp giới (các pháp chơn như, thanh tịnh). Nói tóm lại, tất cả phiền não, chúng sanh, trời người, Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật, giải thoát, Niết-bàn... đều là giáo thể. Quán sát bằng mắt, nghe bằng tai, suy sét, huân tu, đoạn ác, nói, không nói... đều là giáo thể. Nếu không có phiền não thì không có giáo thể
4) Số lần thuyết pháp: Có ba ý. 1) Số chung; 2) Ý nghĩa số lần; 3) Nguyên nhân Phật ra đời. Số chung là mười lần.
-Ý nghĩa của số lần: Lần thứ nhứt ở đạo tràng bồ đề thị hiện thành tựu chánh giác, giáo hóa chúng sanh. Lần thứ hai ở điện Phổ quang nói về y báo chánh báo (ở đây chỉ nói thành chánh giác), không nói ở đạo tràng Bồ đề, vì sự đạt đạo không ngoài thể đó. Đây là lời ở, như người đời quan niệm, thành đạo ở cõi tịch mới thị hiện thuyết pháp, không đến đi qua lại); Lần thứ ba ở cung Đế Thích trên núi Tu Di (trước ở điện Phổ Quang nói pháp mười tín, phát lòng tin ở cõi người, ở cung Đế Thích là biểu hiện cho sự tăng tiến, mười trụ được nói ở đây, mười trụ hợp một phần chơn như pháp không, đạt công dụng tự tại như trời. Như lên núi cao thấy mình hư không. Đây là mượn nơi chốn để tiêu biểu cho sự thù thắng, không phải là lên cõi trời. Vì công dụng trí tuệ không hình tướng, tự tại như trời. Núi cao vững biểu hiện cho sự không thoái chuyển của mười trụ, trí không hình tướng vượt khỏi thế gian, phá trừ hoặc chướng) Lần thứ bốn ở cõi Dạ Ma (cõi Dạ ma ở giữa hư không, cách mặt đất, mười hạnh hành pháp không tham ái. Mười hạnh được nói ở cõi này là như vậy, không phải lên cõi trời thật. Hạnh nguyện trống không, không nương tựa). Lần thứ năm ở cõi Đâu Suất (vị này dung nhiếp lý sự, đủ bi trí, không thiên lệch, không tham đắm dục lạc thế gian, cũng chẳng thích tịch tĩnh Niết-bàn, không vướng chấp hay tách rời bi nguyện, ở trong đời nhưng không đắm nhiễm như hoa sen. Cõi này ở giữa cõi Dục, phía dưới là Đao Lợi, Dạ ma, phía trên là Tha Hóa, Hóa lạc. Mười hồi hướng được nói ở đây vì bi trí quân bình, không yêu thương như thế gian, không ra khỏi đời như ba thừa, không thích cõi tịnh như nhị thừa, không giữ lãi hoặc độ sanh như Bồ-tát sáu thông. Vì việc đó không hợp với thật pháp. Không phải lên cõi trời này, mà là đưa chơn vào tục, bi trí đồng hành). Lần thứ sáu ở cõi Tha Hóa nói mười địa (cõi trời này vui khi thấy sự biến hóa của kẻ khác, mười địa trọn vẹn bi trí, vui với việc độ sanh. Vì sao mười địa được nói ở cõi Tha Hóa mà không nói ở cõi Hóa Lạc? Vì mười hồi hướng dung hợp bi trí. Vị này nguyện lực thù thắng, không cần theo thứ tự như các vị trước. Như thế gian có mười đồng, lợi mười đồng thành 20 đồng. Sau dùng 20 đồng thành lợi 40 đồng, vượt hai lần lợi. Mười địa ở trong thế gian nhưng không đắm nhiễm, vượt trên thế gian nhưng không ra khỏi, không bị dục vọng trói buộc. Vì trời này cùng sống với ma, phạm để giáo hóa ma ba tuần, sống với ma, giáo hóa quyến thuộc ma. Tự tại hóa giáo nên ở cõi này. Đạo lực công hạnh của Bồ-tát này hợp nhất, nhưng vì chưa đoạn hết vô minh nên chưa trọn vẹn. Địa 11vẫn còn hai ngu. Hai phẩm A-tăng-kỳ, tướng tốt Như Lai có câu: "Đại 11 chưa trọn vẹn hạnh Phổ Hiền (phẩm này Như Lai nói). Vì phải trọn vẹn nhân quả mới đủ công đức tướng tốt. Pháp của các vị trước do Bồ-tát đương vị nói. Phật này dùng lực nói phẩm nhập pháp giới vì trong pháp giới, các pháp đều là thần, chơn, không thể nghĩ bàn, phàm Thánh là một. Quả Phật mới đoạn hết hai ngu. mười địa tùy khả năng lãnh thọ nên đến cõi này. Sự tiến tu của các vị tuy khác, nhưng trong pháp giới tất cả đều từ một sát na. Đạt một là đạt tất cả, pháp giới không có sự trước sau nhanh chậm của vọng tình. Hãy dùng sức định huệ quán chiếu để biết). Lần thứ bảy ở cõi thiền thứ ba nói trăm vạn ức bài kệ (sau khi giáo hóa ba thừa Như Lai đến cội Bồ Đề nói lại việc thuyết kinh Hoa Nghiêm kể cả lần này thành mười lần, mười nơi, 40 phẩm. Vì kinh này mượn số mười biểu hiện cho sự viên mãn. Trong ba cõi thiền: cõi thứ nhứt trừ ái, thứ hai diệt khổ, thứ ba không lo khổ, vui với pháp. Vì còn vui nên còn sắc. Sắc vui với thiền định, khác với sắc của cõi dục. Còn vui thích thiền định, theo dõi hơi thở, đạt thanh tịnh, thân như tuyết, y phục rực sáng, đi lại trong hư không, chân không bước. Cõi thứ nhứt thân cao 2, 5 dặm; cõi thứ hai thân cao năm dặm, cõi thứ ba thân cao mười dặm. Y phục hơn đó. Địa 11 được nói ở cõi trời này vì vĩ này thuận pháp thân hành muôn hạnh, giáo hóa chúng sanh, vui với pháp. Cõi thiền thứ bốn là quả Phật, hợp chơn như, không hơi thở, tùy lý hiển hiện, đoạn hết chủng tử mê mờ, tùy thuận chúng sanh, thông đạt mọi việc thế, xuất thế. Đó là Ánh sáng cùng khắp. Trí viên mãn vốn không qua lại lên xuống, dùng trí căn bản tùy chúng sanh hiện thân. Vị này hơn mười địa vượt hai cõi thiền, vì trí của vị này thù thắng gấp bội. Lên cõi trời là biểu hiện cho sự thăng tiến tự tại, không phải lên đó thật, hiện có khắp nơi). Lần thứ tám ở điện Phổ Quang nói mười định nhập sát na. (Trong ba thừa, 80 lần sanh diệt là một sát na, 80 sát na là một niệm. Trong một thừa sát na là một số nhỏ nhất, không sanh diệt. Vì sự ra đời của Như Lai trước sau là một. Phẩm lìa thế gian, tám tướng thành đạo cùng một sát na không có sanh diệt. Đó là ý nghĩa của toàn bộ kinh này. Theo các bậc tiên đức, lần này là lần thứ hai đến điện Phổ Quang không thể có sự trùng lặp 2, 3. Nếu có là trái chơn như không đến đi. Kinh này, tâm bi không tạo tác là mẹ, nhứt thiết chủng trí là Phật pháp không tánh không nương tựa là thời gian, chúng sanh là gương sáng, từ tâm chúng sanh Phật đạt đạo, dạy chúng sanh hướng thiện đạt bồ đề. Phật không đến đi trùng lặp. Điện Phổ Quang là thể của nhứt thiết chủng trí, là y báo. Định sát na là pháp tánh của nhứt thiết trí, là tổng thể của các pháp, vì không muốn kẻ học Phật phân biệt đến đi mình người. Ý kinh không có sự phân biệt, như ấn vua). Lần thứ chín ở điện Phổ Quang (sau khi phát lòng tin, tu tập mười trụ... Đẳng giác, mười định, mười thông, mười nhẫn, quả Phật đều là hạnh Phổ Hiền, là 36 kinh trước phẩm Như Lai xuất hiện; và là phẩm Phổ Hiền. Sau khi đạt quả Phật trọn vẹn hạnh độ sanh của Phổ Hiền nên sau phẩm xuất hiện là phẩm lìa thế gian. Từ lúc phát tâm ở điện Phổ Quang trong lần thứ hai đến lúc thành tựu trọn vẹn nhân quả năm vị đều là hạnh Phổ Hiền của quả Phật. Mười định được nói ở đây. Vì pháp thân thể định là một. Tất cả đều có từ điện Phổ Quang, không đến đi. Thiện Tài sau khi gặp Văn Thù ở phía đông thành Giác phát lòng tin, cầu học 50 thiện tri thức, đến đồng Nữ Hữu Đức, đồng tử Đức Sanh vẫn chưa trọn vẹn hạnh Phổ Hiền, tự lợi lơi tha của quả Phật. Đến vị Diệu Giác 12, gặp từ thị mới trọn vẹn quả Phật. Ở đây Thiện Tài lại gặp Văn Thù và quả trước sau là một. Nghe tin Phổ Hiền thấy mình như Phổ Hiền là hạnh Phổ Hiền sau khi đạt đạo. Kinh có câu: "Nhập vô số định là hiểu rõ hai ngu của quả Phật. Hai ngu: 1) Cho rằng A-tăng-kỳ là số lớn; 2) Cho rằng công đức tướng tốt của Phật nhiều. Chỉ Phật hiểu rõ hai ngu. Bồ-tát tự lợi tu lập năm vị chưa đoạn hết hai ngu. Vì thế hai phẩm này do Phật nói. Như Lai dùng sức thần thuyết phẩm pháp giới vì pháp giới là quả rốt ráo của Phật, là sự khai ngộ chúng sanh, 37 phẩm kia do Bồ-tát đương vị nói. Kinh Thắng Man có câu: "Đến quả Phật mới đoạn trừ vô minh. Quả vị mà trải qua ba tăng kỳ kiếp tu tập của ba thừa, người chấp tịnh uế, Bồ-tát về cõi mình đều là vọng tình. Nhân quả của pháp giới không thay đổi, dung nhiếp chung riêng một nhiều, nhưng phương tiện hoàn toàn khác nhau. Phẩm lìa thế gian được nói ở điện Phổ Quang vì hàng mười tín và quả Phật là một. Việc biểu hiện trong lầu Từ Thị, các đức Phật ba đời, Bồ-tát, chúng sanh đều từ một sát na, không trước sau xưa nay.
Lần thứ mười nói phẩm pháp giới bao quát tất cả số lần cõi nước trong mười phương, chúng sanh, Phật cùng một thể tánh. Tùy nơi tâm chúng sanh nên có sai khác. Điều đó được gói trọn trong sáu tướng và mười sự mầu nhiệm. Hãy quán xét bằng tâm vô tư để thấy. Cũng có thể xem Phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm là lần, (Hội) ba lần ở Điện Phổ Quang là một lần, năm lần lên núi Tu Di, cõi Dạ ma, cõi Đâu Xuất, cõi Tha Hóa, cõi Thiền thứ ba. Phẩm pháp giới được thuyết ở Kỳ Viên là lần Hội tám, Thiện Tài ở tháp Phật quá khứ là lần thứ chín, pháp giới hư không là lần thứ mười. Đó là giải thích về năm vị. Người xưa nói chín lần vì không biết địa 11 được nói ở cõi Thiền thứ ba. Kinh này mượn số mười làm chuẩn, không thể là chín lần. Lần ở phía đông thành Giác muốn thể hiện những lần trước chỉ nói pháp năm vị, nhưng chưa nói về người ta, lần này nói về người ta và phương pháp tiện độ sanh của Bồ-tát.
-Nguyên nhân Phật ra đời: Như Lai ra đời nói pháp về các vị (quả vi) là đúng. Nếu nói Như Lai thành tựu chánh giác ba thời giáo chánh tượng mạt là sai là chưa thấy sự ra đời của Phật, hiểu biết kém cõi. Người cầu học chánh giác không nên như vậy. Hỏi: Nên thấy sự ra đời của Phật như thế nào? Đáp: Nên thấy thân mình không thân tâm, không ra khỏi chìm đắm, không trong ngoài động tịch, không suy xét tìm cầu, thế gian xuất thế gian đều không dừng trụ, không sở hữu tâm pháp, tâm pháp không chỗ tựa, bản tánh không đầu cuối. Dùng trí không nương tựa nói pháp như vậy, dạy chúng sanh ngộ nhập.
Như Phẩm Quang Minh Giác, Bồ-tát Văn Thù nói kệ:
"Vượt trên thế xuất thế,
Biết rõ tất cả pháp,
Thành trí sáng chiếu soi.
Từ nhứt thiết chủng trí,
Phát khởi tâm hồi hướng,
Thấy tâm không nơi sanh,
Sẽ thành bậc đại sĩ,
Chúng sanh không nơi sanh,
Cũng chẳng có hoạt diệt,
Người đạt trí như vậy,
Sẽ thành đạo vô thượng,
Trong một thấy vô số,
Trong vô số thấy một,
Biết các pháp đan xen,
Sẽ đạt pháp không sợ.
Phần trước Phật nói ra đời, phần sau nêu trí trong chánh giác. Nếu biết sự ra đời của Phật như vậy, không nên để chúng sanh thấy sự ra đời, Niết-bàn trước sau, thấy rõ mình chúng sanh cùng một thể tánh không sanh diệt. (Thuyết kinh này có 228 chúng khác nhau, mỗi loài biểu hiện một pháp. Phẩm đầu có 45 hội chúng (sau sẽ nói rõ, vì văn nhiều nói trước khó hiểu, đến đó sẽ chỉ rõ, phải tận mắt nhìn thấy, đạo pháp mới tồn tại). Lần thứ nhất thành tựu chánh giác có sáu phẩm: Thế chủ Diệu Nghiêm, Như Lai hiện tướng, Định Phổ Hiền, Sự thành tựu của thế giới, Cõi Hoa Tạng, Tỳ-lô-giá-na, gồm sáu ý: Từ câu "Tôi nghe như vầy" trở về sau đủ ba đoạn. Các lần khác cũng vậy. Từ tôi nghe... thành chánh giác là phần tựa. Từ mặt đất Kim Cang trở về sau là phần chính, rải hoa cúng dường là phần lưu thông. Trong phần chính nói nhân quả thành Phật có 50 chúng Bồ-tát, trời, thần... là đại chúng mà Phật độ thoát, các Bồ-tát biết rõ nhân quả, thị hiện đạt đạo chứng chơn, hiểu biết như Phật. Đó là phép tắc cho kẻ hậu học. Phàm phu chứng nhập pháp là có sự hiểu biết như Phật, vừa phát tâm là thành chánh giác. Phần phó chúc, lưu truyền là phẩm Như Lai xuất hiện. Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm: Phật thành chánh giác, các đức Phật đến chúc mừng, còn gọi là tự lợi, Như Lai hành pháp năm vị. Phẩm Như Lai xuất hiện: Phật thành tựu chánh giác, phóng Ánh sáng từ Kim Khẩu bảo đại chúng tập hợp, phóng Ánh sáng giã chặng này chỉ dạy pháp. Phẩm Định Phổ Hiền: Phật dạy Bồ-tát Phổ Hiền nhập định Như Lai tạng thân, xét kỹ pháp, ra khỏi định nói quả Phật, nghiệp lực chúng sanh thành y báo chánh báo. Phẩm sự thành tựu của thế giới: Do nghiệp lực chúng sanh. Cõi Hoa Tạng là quả báo từ trí Phật. Tỳlô-giá-na: Mượn việc xưa chứng minh việc nay để chúng sanh tin xưa nay dung hợp. Cũng có cách giải thích khác, phân sáu phẩm thành hai môn: 1) Thế chủ Diệu Nghiêm: Phật thành chánh giác lược nói y báo chánh báo; 2) Năm phẩm: Nêu quả khuyên tu. Riêng phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm chia thành mười môn: 1) Y báo chánh báo của đức Tỳ-lô-giá-na; 2) Mười chúng Phổ Hiền thường ở bên cạnh Phật; 3) Tám bộ trời thần đến đạo tràng; 4) Đại chúng tập hợp; 5) Mười thiên vương đạt pháp khen hạnh mười địa; 6) Tám bộ thiên vương như Nhựt Nguyệt... Đạt pháp khen hạnh mười hồi hướng; 7) Mười thần như Chủ giá... đạt pháp khen mười hạnh; 8) mười Bồ-tát như Hải Nguyệt quang đại minh và chín loài thần đạt pháp khen mười trụ; 9) Đại chúng trong hội nói hạnh Phổ Hiền và quả báo của Phật; 10) Vô số cõi nước chấn động thể hiện Phật ra đời, oai đức cảm hóa mọi loài. Các Bồ Tát, trời thần của mười môn này đều đạt pháp năm vị. Chúng sanh được giáo hóa chứng nhập vị là khế hợp một phần chơn như, được gọi là thần, có khả năng chỉ dạy chúng sanh, không phải là thần của quỉ trời. Nhờ nhập trí Như Lai pháp lực tự tại nên mười địa như trời.
-----------------------------
Đoạn thứ nhất trong sáu đoạn nói Phật thành chánh giác, đoạn này có hai phần: 1) Giải thích tên kinh; 2) Giải thích nghĩa kinh. Giải thích tên: Vì sao có tên là thế chủ Diệu Nghiêm phẩm thứ nhất của kinh đại Phương Quảng phật Hoa Nghiêm? Đại: Không phương hướng; Phương: phép tắc; Quảng: Lý trí tột cùng; Phật: thể trí không nương tựa, tự tại. Hoa: vô số hạnh, nở hoa kết trái nơi mình, người. Nghiêm: trang sức. Dùng hạnh mười tín đạt quả trí vi diệu mười trụ, phát mười hạnh không tạo tác, luôn trang sức bằng pháp, đem lại lợi ích cho mình người. Hạnh là trang sức. Thế chủ Diệu Nghiêm: trời thần, tám bộ đều là người đứng đầu trong thế gian, mỗi vị lại có vô số tùy tùng bằng số bụi trong cõi Phật. Còn gọi là vô số chúng đế đạo tràng Phật, Bồ-tát cũng là người trong thế gian, có khả năng chỉ dạy chúng sanh. (Riêng phẩm này cũng có biểu hiện cho toàn bộ kinh Hoa Nghiêm). Nếu nêu hết, có 228 hội chúng; nhiều bằng vô số bụi một trong cõi Phật, mười cõi Phật, vô số cõi Phật trang nghiêm đạo tràng. Thế chủ Diệu Nghiêm là sự trang nghiêm của y báo chánh báo Phật. Còn gọi là Như Lai, Người chỉ dạy chúng sanh. Phẩm: Khác biệt, nêu nhân quả sai khác của sáu vị để kẻ hậu học biết rõ trừ mê. Thứ nhứt: Không phải là thứ nhứt của số thứ tự, vì pháp giới không trước sau, chỉ một sát na, cùng lúc biểu hiện.
Thứ nhứt là thứ nhứt của pháp duyên sanh một nhiều, là cùng lúc đầy đủ tương xứng, một nhiều dung hợp, không phải thứ nhứt của vọng tình phân biệt.
-Theo Văn giải thích nghĩa: Từ câu: "Tôi nghe... đến vô số công đức" có 71 hàng, phân bốn phần: 1) Tôi nghe... chánh giác, tám câu, đoạn nghi thành tín, ba câu đầu là người nghe kiết tập, năm câu sau là người nghe thành đạo; 2) Mặt đất... tiếng vang khắp nơi có 26, 5 hàng khen ngợi y báo chánh báo của Phật, là phần trang nghiêm đạo tràng, thần lực của Bồ Tát, cõi nước như lưới Đế Thích; 3) Thế Tôn an tọa... hiện mọi sự trang nghiêm có 13 hàng, khen ngợi y báo chánh báo và sự thành đạo của Phật, sự độ sanh tự tại không ngại của Phật; 4) Từ vô số Bồ-tát, Vô số công đức "Có 30 hàng: đại chúng vây quanh. Phần đoạn nghi thành tín chia ba ý:
1) Người truyền giáo;
2) Thời gian thuyết kinh;
3) Giải thích nghĩa kinh
1) Người truyền giáo: Quyển hai của Luận Đại Trí Độ (ba thừa) có câu: "Lúc sắp Niết-bàn, Phật bảo A Nan: Ông nên lưu truyền 12 bộ kinh; bảo Ưu Ba Ly: Ông nên thọ trì giới luật; bảo A Na Luật: Ông đã đạt thiên nhãn nên độ chúng sanh; bảo đại chúng: Dù ta trụ thêm một kiếp hay diệt trước một kiếp vẫn phải đoạn diệt. Nói xong, Phật nằm giữa hai cây Sa La, đầu hướng về phương bắc sắp nhập Niết-bàn. A Nan và quyến thuộc vì chưa đoạn ái nên sầu khổ. A Nê Lô Đậu nói với A Nan: "Ông là người giữ gìn tạng pháp của Như Lai, không nên sầu khổ như phàm phu, các pháp hữu vi đều là vô thường, sao ông lại sầu khổ? Thế Tôn giao phó tạng pháp cho ông, ông đau buồn là trái với pháp. Đêm nay Phật diệt độ, ông nên hỏi những việc cần yếu sau này. A Nê Lô Đậu bảo A Nan hỏi bốn việc: 1) Như Lai ở đời thuyết pháp, mọi người tin thọ, Như Lai diệt độ, đầu mỗi kinh để câu gì? 2) Như Lai ở đời các Tỳ kheo tôn ngài là thầy, Như Lai diệt độ, ai là thầy? 3) Như Lai ở đời các Tỳ kheo nương tựa Phật, Như Lai diệt độ nương tựa ai? 4) Như Lai ở đời điều phụ kẻ ác, Như Lai diệt độ, làm sao sống chung? A Nan hỏi xong, Phật đáp: 1) Đầu mỗi kinh nên để sáu chữ: Tôi nghe như vầy một thời...; 2) Các Tỳ kheo xem giới luật là thầy; 3) An trụ nơi y niệm xứ; 4) Dùng phạm đàn (tiếng Hoa) để điều phục hàng Tỳ kheo xấu ác. (Trung hoa dịch là mặc tẫn: khai trừ bằng cách im lặng, không tiếp xúc tra hỏi) Khi đã thuần tâm, thuyết kinh Ca chiên diên (Trung hoa dịch là lìa có không, phá tâm ngã mạn). Như kinh Đại Bi có câu: A Nan hỏi Phật: Làm sao kiết tập tạng pháp? Phật đáp: Sau khi ta diệt độ, các Tỳ kheo hỏi rằng: Thế Tôn thuyết kinh A Đà Na U ở đâu? Ông nên đáp: Tôi nghe như vầy, bấy giờ Thế Tôn ở hội Bồ Đề thuộc nước Ma Già Đà thành chánh giác thuyết pháp"... ở Sa La song thọ như thế có hơn 20 nơi chốn thuyết giảng kinh. Vì vậy sáu chữ này là do Phật dạy để đoạn trừ tâm nghi của kẻ hậu học, không phải do người khác hay A Nan nói. Kinh Niếtbàn: Tôi nghe... chánh giác có sáu câu; tôi nghe: Câu một; như vầy: Câu hai; bấy giờ: Câu ba; Phật ở: Câu bốn; đạo tràng...Câu năm; thành chánh giác: Câu sáu. Như là như lời Phật dạy. Như thị là câu nói tắc. Chính Phật nói không phải A Nan tự nói cũng chẳng phải Ma phạm nói. Ngã Văn: Là A Nan theo Phật được nghe, không phải là sự truyền tụng dần dần được nghe cũng chẳng phải là chỗ tạo tác của hàng phi nhân, lại cũng chẳng phải như ngoại đạo, các thứ sách vở để bói toán phong thủy tạp nhạp. Đây là một phần đoạn nghi thành tín. Theo Tam Tạng pháp sư chơn Đế: Trong luật vi tế, lúc Tôn giả A Nan lên tòa thuyết pháp, thân gồm đủ tướng tốt như Phật. Thấy vậy đại chúng sinh ba nghi: Phật tái xuất hiện thuyết pháp; đức Phật ở nơi khác đến thuyết; A Nan chuyển thân thành Phật. Vì nhằm trừ ba mối nghi ấy nên lập ra sáu chữ này. Tôn giả A Nan khẳng định: Pháp này tôi nghe Phật nói, không phải ba việc trên. Vì oai lực của pháp nên thân tôi như Phật, nên sau khi xuống tòa A Nan trở lại như trước. Hỏi: trong ba thừa, Tôn giả A Nan chào đời lúc Phật thành đạo, 20 tuổi xuất gia. Những kinh Phật nói sau khi A Nan xuất gia thì chính A Nan nghe. Những kinh Phật nói trước khi A Nan xuất gia thì A Nan nghe người khác truyền lại. Kinh chuyển pháp luân, A Nan nói kệ: "Lúc đầu Phật thuyết pháp, tôi không thấy không nghe tôi nghe người khác nói, Phật đến Ba-La-nại, nơi pháp bốn Thánh đế, cho năm vị Tỳ kheo "luận Tát Bà Da chép: Lúc làm thị giả, A Nan thưa Phật: Xin Thế Tôn nói cho con nghe những pháp trong 20 năm trước đây; Thế Tôn không nên cho con y phục và thức ăn dư của Ngài. Kinh Niết-bàn trước đây chép: A Nan là bậc thông đại, dù có mặt hay không đều tự nhiên thông hiểu thường vô thường. A Nan đạt định giác ý, dù ở xa hay gần đều nghe pháp Phật. (Trong ba thừa giáo) Kinh Hoa Nghiêm thì khác: Đã là việc giáo hóa của đấng Điều ngự, trời trong trời không phải là việc nhỏ, người nghe người nói phải tương đương, như âm dương cùng ảnh hưởng, ba đời, chín đời, vô số kiếp đều từ một sát na. Nếu với sự thấy biết nhanh chậm của ba thừa thì không thấy việc truyền giáo. Người nghe người nói phải tương xứng như việc hỏi đáp của Văn Thù, Phổ Hiền. Không thể lấy năm tháng thông thường để phân biệt trước sau. Phật ra đời thuyết pháp là dùng ấn trí huệ in vào tâm chúng sanh, trong một âm thanh ấy không có trước sau, chỉ tùy sở thích của chúng sanh nghe pháp khác nhau. Việc A Nan truyền giáo là hạnh Phổ Hiền tùy căn tánh cao thấp, hiện thân ra vào tự tại, không nên đem ví dụ nơi ba thừa ấn định. Đó là việc tùy thuận hóa độ của Thánh hiền, không phải là thật. Như kinh A Xà Thế sám hối, có ba vị tên A Nan: 1) A Nan Đà (Khánh Hỷ): thọ trì tạng pháp Thanh Văn; 2) A Nan Đà Bạt Đà La (Khánh Hỷ Hiền): thọ trì tạng pháp trung thừa, tùy khả năng phân biệt Đại thừa Tiểu thừa. 3) A Nan Đà Bà Già La (Khánh Hỷ Hải): thọ tứ tạng pháp Đại thừa Tiểu thừa, đều là A Nan truyền giáo ba thừa, không phải thật giáo trong kinh Hoa Nghiêm, A Nan lúc lên tòa thân như Phật, diễn thuyết bốn giáo, tùy chúng sanh kiết tập pháp. Thể dụng A Nan. Phật là một. Cách giải thích này hợp lí. Kinh có câu: Những kinh A Nan chưa nghe, Bồ-tát Hoằng Quảng lưu truyền. Ba thừa không biết việc này. Như vậy câu "Tôi nghe như vầy" là chỉ Bồ-tát Hoằng Quảng, Luận Trí Độ chép: "Tôi nghe như vầy" là Văn Thù nói. Vì theo luận này trong 400 năm sau khi Phật diệt độ, Văn Thù luôn ở thế gian. Văn Thù-A Nan ở nơi thanh tịnh kiết tập tạng Đại thừa. Đây lá phương tiện giải thích của các bậc Thánh. Về tổng thể tất cả đều là Phật, Văn Thù, Phổ Hiền, ba vị A Nan. Do Phật tùy căn cơ thuyết giảng.
2) Thời gian thuyết giáo: Lược lập mười thuyết: 1) Kinh Lực Sĩ: Sau khi thành đạo, suy xét bảy ngày, Phật đến vườn Nai thuyết pháp; 2) Kinh Đại Phẩm: Sau khi thành đạo Phật đến vườn Nai thuyết pháp bốn đề vô số chúng sanh phát tâm Thanh Văn, Độc Giác, Bồ-tát; 3) Kinh Pháp Hoa: Sau 21 ngày thành đạo Phật đến vườn nai thuyết pháp; 4) Tứ Phần Giới và Luận Tát Bà Da: Sau 42 ngày thành đạo Phật mới thuyết pháp; 5) Kinh Hưng khởi hành và kinh xuất diệu: Sau 49 ngày thành đạo...; 6) Ngũ Phần Luật: Sau 56 ngày thành đạo...; 7) Luận Đại Trí Độ: Sau 350 ngày...; 8) Kinh thập nhị được hành: Sau một năm...; 9) Theo pháp sư Tạng đời Đường: Sau 14 ngày thành đạo Phật nói kinh Hoa Nghiêm. (Đó là do sự thấy biết khác nhau); 10) (Theo tác giả Thông Huyền). Kinh Hoa Nghiêm khác, từ pháp chơn như, Phật ra đời độ sanh, dạy chúng sanh trở về chơn như. Nếu phân biệt bằng vọng tình thì ở mãi trong mê mờ, trái với pháp chơn thật. (Trong kinh đã rõ, sao lại theo quyền bỏ thật, nghiệp chướng đến bao giờ đoạn hết?). Phẩm mười định: Cùng lúc Như Lai hiện tám tướng thành đạo; một sát na là mượn ngôn ngữ để diễn tả. Vì không phân biệt được thời gian nên lúc nào Phật cũng thuyết pháp; tịnh dụng không ngăn ngại, tùy chúng sanh thị hiện. Kinh Pháp Hoa có câu: Ta đã thành Phật từ vô số kiếp. Vì không có thời gian để đo lường nên nói vô số. Đó là thời gian Phật thuyết pháp, không như sự hiểu biết xa gần của vọng tình. Vì Phật pháp được thuyết bằng thời gian thật (thời gian thật là pháp giới không phân biệt) một sát na hiện tám tướng thành đạo trong mười định là biểu hiện cho sự không thay đổi, pháp giới không biến khác. Thời gian thuyết pháp ở đây không đo được bằng sự phân biệt ba đời xưa nay, không phải là quyền pháp.
3) Giải thích nghĩa kinh: Theo Luận Trí Độ, tám câu trong phần đoạn nghi thành tín. Như là thuận, thị lá ấn định, ấn định tùy thuận thọ trì, chính mình nghe. Theo Tam Tạng Trường Nhĩ, giải thích theo nghĩa tam bảo: Tôi nghe pháp Phật nói. Theo Pháp sư Tạng, giải thích bằng pháp: Như những gì tôi nghe Phật nói là pháp Phật, hợp với giáo lý. Theo Thông Huyền, Như! Các pháp như như; Thị là Phật. Ngã chơn thật nghe kinh chơn thật. Vì thầy trò cùng một thể, lý trí nhân quả của người vừa phát tâm và Phật giống nhau. Tất cả pháp đều như, trí nghe hiểu cũng như. Tâm cảnh hợp nhứt mới nghe được kinh Phật. Ngược lại thì không nghe được. Tôi nghe tức là tôi thật, thấy thật Phật, nghe thật pháp. Người nghe người nói đều thật, độ chúng sanh thật, nhập thật tánh. Thánh giáo Bồ-tát Hoằng Quảng Văn Thù, Phật, Phổ Hiền truyền giảng là thật giáo, không phải pháp ba thừa. A Nan cũng là người vào dòng Phật, đủ ngã thường lạc tịnh và trí thật. Tôi nghe kinh của Phật. Trong Niết-bàn, người có bốn điều kiện: 1) Tai không hư; 2) Vừa tầm nghe; 3) Không chướng ngại 4) Muốn nghe. (Đó là việc nghe của phàm phu). Trong ba thừa có mười điều kiện: 1) Thức căn bản; 2) Nhĩ thức; 3) Thức mạt na; 4) Thức thứ sáu; 5) Nhĩ thức không gián đoạn; 6) Nhĩ căn không hư; 7) Muốn nghe; 8) Hoàn cảnh; 9) Không chướng ngại; 10) Vừa tầm nghe. Việc nghe của ba thừa phàm phu còn hạn che. Ở đây Bồ-tát nghe bằng trí lớn, không phân biệt người nghe pháp nghe. Chỉ 1 cảnh trí viên tịch, một sát na nghe đủ việc ba đời và vô số kiếp. Vô số kiếp của ba thừa là một sát na trong pháp giới. Vì thế không trước sau. Theo Lương Nhiếp Luận, nhứt thời có ba nghĩa: 1) Bình đẳng, không điên đảo chìm nổi; 2) Hòa hợp cả ba khía cạnh: Làm cho nghe, khả năng nghe, chính thức được nghe; 3) Thuyết pháp: Thời gian giảng thuyết. Theo các bậc tiên đức, nhứt thời là thời gian thuyết một bộ kinh như Pháp Hoa, Bát-nhã... Kinh Hoa Nghiêm khác, nhứt thời là một sát na gồm đủ cả tám tướng thành đạo, từ một âm thanh cùng lúc vang khắp mười phương. Phật là giác (có Thể giác, Bản Giác). Giác không trước sau, đoạn chướng hoặc ba đời là Phật. Với Quyền giáo, tám tướng thành đạo có trước sau. Theo Luận Đại Trí Độ, Phật có bốn nghĩa: 1) Hữu đức (Bà Già Là Đức, Bà Là Hữu); 2) Thiện xảo phân biệt; 3) Hữu thinh;
4) Phá trừ tham sân si. (Phân tích như trước). Luận Thập Địa, Phật có sáu nghĩa: Tự tại, dũng mãnh, đoan nghiêm, danh xưng, các tường, tôn quý. Gọi chung là Bạc Già. Tại là ở; có hai (lý, sự): Sự: Ở nước Ma Kiệt Đề; Lý: Ở mọi nơi. Vì pháp giới không lớn nhỏ, lưu đày. Ma Kiệt Đề (Trung Hoa dịch là Bất Hại), Ma là không, Kiệt Đề là hại; Ma là Bất, Kiệt Đề là Chí. Vì nước này binh tướng dũng mãnh mưu lược, nước khác không xâm lấn được. Ma là cùng khắp, Kiệt Đề là trí huệ; nước này có nhiều người tài giỏi. Ma là đại, Kiệt Đề là thể, trong năm nước của Ấn Độ, nước này lớn nhứt, cai trị các nước khác. Vua nước này không hành luật sát, ai phạm tội đưa vào rừng lạnh. (Đó là lòng bi của Phật) Mượn nơi chốn biểu hiện đức tánh. A Lan Nhã (Trung Hoa dịch là tịch tịnh) có hai (lý, sự): Sự: Xóm Âu Lâu Tần Loa, bên bờ sông Ni Liên nước Ma Già Đà, cách chỗ dân ở năm dặm có một nơi tên Ngưu Hống (Phật thành đạo ở đây). Nơi này có 11 vạn đạo tràng, lá nơi Phật thị hiện thành chánh giác. Đó là trọn vẹn hạnh trung đạo. Đây là trung tâm của cõi Diêm Phù Đề. Lý: Thể tánh thanh tịnh của các pháp. Tuy động nhưng luôn tịnh. Đạo tràng Bồ Đề có hai (lý, sự): Sự: Như bên bờ sông Ni Liên. Lý: Cùng khắp pháp giới. Pháp giới trung đạo không ranh giới, lúc nào cũng thành Phật. Đạo tràng thế gian trừ ô uế, đạo tràng chánh giác điều phục hoặc chướng. Đây là y chủ thích (một cách giải thích trong lục ly hiệp thích). Vì là nơi Phật thành đạo nên là đạo tràng Bồ Đề. Đoạn trừ vọng tình xưa nay là thỉ, tâm không nương tựa là chánh, lý trí tương xứng là giác, đạt pháp như vậy là thành, tự giác ngộ, giác ngộ cho người khác là giác. Trang nghiêm đạo tràng: từ "Mặt đất... vang khắp mọi nơi có 26, 5 hàng. Là y báo chánh báo trang nghiêm của Phật. Như Lai hành bốn nhân đạt bốn quả từ một tánh hành sáu Ba-la-mật, đạt mười sự trang nghiêm. Từ nhân pháp thân đạt quả đất bằng kim cang. Mặt đất có mười sự trang nghiêm. mười Ba-la-mật là y báo; đất kim cang là chánh báo. 1) Thể của đạo tràng là trí tánh rộng lớn (một hạnh đủ mười hạnh). Tông chỉ kinh này: Một hạnh là tất cả hạnh, đủ người hành và pháp hạnh nên xuất hiện bánh xe báu; 2) Hoa báu. Tánh giới thanh tịnh như hoa thơm diệu xinh đẹp ai cũng thích xem, phát sanh nhân quả lành cho chúng sanh; 3) Ngọc ma ni: (ly cấu). Hạnh nhẫn cao thượng đoạn trừ như uế; 4) Các sắc tướng khác, hạnh tinh tấn Ba-la-mật bao hàm các hạnh, cảm quả cho mình người; 5) Tràng phan ma ni: Thể định thanh tịnh không lay động, có khả năng làm thanh tịnh cho tất cả; 6) Ánh sáng vang tiếng pháp: Từ định phát huệ, thuyết pháp đủ trí Ba-la-mật; 7) Lưới báu: Phương tiện Ba-la-mật, thành tựu độ sanh, thuyết pháp. Trụ thứ bảy... địa thứ bảy thành tựu bi, thuyết pháp độ sanh, đưa chúng sanh đến bờ an lạc; 8) Hoa thơm an lạc rũ khắp hư không, dùng trí nguyện Ba-la-mật vào đời độ sanh. Trong mười địa, bảy địa trước hành bảy độ như luyện vàng làm đồ trang sức; 9) Ngọc ma ni tự tại biến hiện trong hư không, trụ thứ chín... địa thứ chín hành lực Ba-la-mật, là pháp sư, tự tại thuyết pháp; 10) Rải hoa báu, trụ thứ mười... địa thứ mười dùng trí lớn độ sanh. Ngọc ma ni cũng là hoa báu của địa Pháp Vân, vì trụ trụ... địa địa như nhau. Muôn hạnh là nhân, Như Lai hành hạnh Phổ Hiền nên có quả cây báu trang nghiêm khắp mười phương. Kinh dạy. Các hiện tượng trang nghiêm trong đạo tràng là thể rộng lớn của hạnh giác. Đây là nêu chung về các sự trang nghiêm trên cây. Sau nêu riêng cây Bồ đề. Đất kim cang là chánh báo, sự trang nghiêm trên cây là y báo. Như Lai hành hạnh đạt quả. Thân cây bằng kim cang, là chánh báo, nhánh lá hoa trái là y báo. Cây hạnh, hoa pháp, trái trí, lá bi, nhánh Ba-la-mật, thân cây là pháp thân. Từ mười hạnh đạt mười quả: 1) Thân cây bằng kim cang, tánh pháp là thể của thí Ba-la-mật, mọi hạnh đều có từ tánh pháp. Cây cao lớn như cây trong mười địa. Chu vi bằng mười vạn tam thiên đại thiên cảnh giới, cao trăm vạn tam thiên đại thiên cảnh giới. Hạnh quả mười địa còn như vậy, huống gì hạnh quả của Như Lai?; 2) Cán cây bằng lưu ly (nơi mọc cành nhánh là cán; từ đó trở xuống phía dưới, không mọc cành nhánh là thân) do hành giới Ba-la-mật (thân mọc thẳng là cán, cành nhánh chung quanh là chi, cành mọc từ chi là điều). Từ thế giới tùy thuận chúng sanh hành muôn hạnh không nhiễm; 3) cành nhánh bằng các báu: Tùy thuận chúng sanh hành các hạnh tịnh nhiễm thành tựu nhẫn, tự lợi, lợi người; 4) Lá báu che rợp: hạnh tinh tấn Ba-la-mật lợi mình, lợi người, hành pháp lợi sanh không nhiều ít, hợp trung đạo; 5) Hoa báu đủ màu, Như Lai dùng vô số định, tùy thuận chúng sanh hiện thân lợi ích, hoa định kết trái huệ; 6) Trái bằng ma ni: Hoa định kết trái huệ, tịnh dụng tự tại. Sáng rực là đuốc tuệ soi chiếu mình người; 7) Cây phát sáng, dùng phương tiện Ba-la-mật, sống trong sanh tử phá trừ đen tối; 8) Từ Ánh sáng có ngọc ma ni, nguyện Ba-la-mật tự tại không ngại; 9) Trong ngọc có vô số Bồ-tát, lực Ba-la-mật tự tại lợi sanh bằng trí không dụng công. Bồ-tát địa thứ chín là pháp sư, y báo chánh báo tương xứng. Bồ-tát xuất hiện từ cây là nhân quả đan cài. Bồ-tát xuất hiện từ ngọc là trí không dụng công của địa thứ tám. Địa thứ chín thuyết pháp lợi sanh, Bồ-tát hành hạnh đạt quả; 10) Cây vang tiếng pháp, trí Ba-la-mật của mười trụ... mười địa, mưa pháp lợi sanh. Nhân quả của bi, Như Lai dùng bi làm nhân, nơi Như Lai ở là quả, đủ năm đức: 1) Đức nuôi dưỡng; 2) Lợi sanh bằng trí; 3) Dùng trí quán chiếu tạo lợi ích cho mình người; 4) Từ trí lớn căn tánh chúng sanh, thuyết pháp đem lại lợi ích; 5) Nguyện lớn tạo lợi ích cho chúng sanh. Từ đó có cung điện lầu gác khắp mười phương. Mười Ba-la-mật đều có từ tâm bi, thành mười quả. Từ pháp thân bi trí đạt quả khác biệt như từ mặt đất có vô số hiện tượng khác nhau. (Hoặc như nước). Về lý do mười Ba-la-mật cùng một tánh, tùy pháp thân hạnh nguyện bi trí mà có quả sai khác. Mười
Ba-la-mật này không thể thiếu một, địa thứ tám vẫn chưa trọn vẹn công đức. Nếu bỏ một thì không có nhiều. Người học đạo giác nên tu tập tất cả. Nếu chuyên tu lý thì chấp tịnh, chuyên tu trí thì thiếu bi, chuyên tu bi thì tập nhiễm nhiều, chuyên tu nguyện thì sanh vọng tình hữu vi. Những hạnh này, Bồ-tát không bỏ cũng không chấp. Vì tánh pháp bình đẳng, hãy dùng định huệ quán sát, không nên suy xét bằng vọng tình mà thêm bi ái. mười hạnh đạt mười quả: 1) Dùng tâm bi không chấp, pháp tánh bình đẳng hành thí Ba-la-mật có vô số ngọc quý. (Các hạnh đủ tịnh nhiễm) 2) Dùng tự thể thanh tịnh của pháp tính hành giới Ba-la-mật, tùy thuận độ sanh, có hoa báu; 3) Dùng nhẫn Ba-la-mật vào đời độ sanh, không giao động trước sự khen chê, có tràng phan (Tràng: Không khuynh động, vượt trên sự khen chê); 4) Dùng tinh tấn Ba-la-mật hành bi, có vô số Bồ-tát; 5) Dùng thiền Ba-la-mật hành bi, có Bồ-tát phóng Ánh sáng (định phát sanh huệ); 6) Dùng huệ Ba-la-mật hành bi, có lưới báu (trí có khả năng phân biệt các pháp); 7) Dùng phương tiện Ba-la-mật hàng bi, sống trong pháp tịnh nhiễm, đạt thần thông tự tại biểu hiện mọi cảnh. Như Lai dùng trí không nương tựa thành tựu từ bi đạt thần thông như địa thứ bảy. Ví như hai cõi nước nhiễm, tịnh. Khó biết được những người việc trong ấy. Bồ-tát địa thứ bảy dùng phương tiện hành bi, với hai pháp nhiễm tịnh khó đoạn khó thành, dùng tâm bi hóa độ chúng sanh; 8) Dùng nguyện Ba-la-mật hành bi, hiện khắp mọi nơi. Với nguyện lớn, Như Lai tùy thuận chúng sanh hiện thân, đó là trí viên tịnh; 9) Dùng lực hành bi, là pháp sư, được Phật gia hộ; 10) Dùng trí Ba-la-mật hành bi, được thần lực hiện có khắp nơi. Đó là trí dung nhiếp. mười hạnh đan cài, một là tất cả, quả có từ nhân. (Hãy dùng trí suy xét kỹ nhân quả xưa nay luôn tương xứng). Nhân quả bi trí của Như Lai, đủ muôn hạnh, vào đời thành phật là nhân, tào sư tử là quả. Tòa sư tử có ba phần: 1) Giải thích tên tòa; 2) Chiều cao rộng của tòa; 3) Sự trang nghiêm trên tòa. Tên tòa: (y chủ thích), ở trong chúng Như Lai không lo sợ. Không phải có tòa sư tử thật, nếu có cũng chỉ là biểu hiện y giáo. Chiều cao rộng: Trong kinh chỉ nói tòa cao lớn, không nói số lượng. Ở đây mượn ví dụ để so sánh. Trong mười trụ, tòa Phật ở cung Đế Thích có mười tầng cấp; trong mười hạnh, tòa Phật ở cung Dạ Ma có trăm vạn tầng cấp; trong mười hồi hướng, tòa Phật ở cõi Đâu Suất, có trăm vạn ức tầng cấp. Cao rộng tương xứng với địa vị. Theo thứ tự đó, ta biết, trong mười địa tòa ở cõi Tha Hóa sẽ có ức vạn ức tầng cấp. Vì cõi đó ở trên cõi Hóa Lạc. Tòa ở cõi thiền thứ ba thì gấp bội bội lần. Chiều cao của tòa khác nhau là do sự thấy biết khác nhau. Kỳ thật, tòa Phật không có hạn lượng. Vì tâm Như Lai không hạn lượng nên quả báo cũng khôn lường. Dù vô số Bồ-tát cùng suy lường vẫn không được. Vì vượt trên số lượng của vọng tình nên dù ở trong lỗ chân lông thân không nhỏ đi, dù ở trong pháp giới thân không lớn lên. Thân đã tùy địa vị thì tòa ngồi cũng vậy. Về thể tánh, thể của tòa là pháp giới. Nhân đã vậy thì quả cũng thế, không thể suy lường. Như phẩm pháp giới, tòa ngồi bằng pháp giới. Sự trang nghiêm trên tòa (đều căn cứ y báo chánh báo của Như Lai) có mười:
1) Đài bằng ma ni, Như Lai hành thí Ba-la-mật, thể trí thanh tịnh vượt khỏi thế gian; 2) Lưới hoa sen hành giới Ba-la-mật, tánh giới chơn tịnh, ở trong đời nhưng không nhiễm như hoa sen trong bùn. Lưới là hạnh độ sanh; 3) Bánh xe bằng ngọc báu thanh tịnh, hành nhẫn Ba-la-mật, Sanh trong cung vua thành tựu chánh giác, giả hiện Điều Đạt, Ma Ba Tuần não hại nhưng không giận, trọn vẹn hạnh nhẫn; Anh lạc đủ màu, hành tinh tấn Ba-la-mật, vì hạnh này trang sức thêm trí lớn, trí hạnh trang sức cho nhau. 5) Lầu gác thềm thang đều trang nghiêm bằng báu vật, hành thiền Ba-la-mật, vì định không động tịnh, đủ hạnh trí. (Theo sách thế gian: Nhà lớn là tạ, phía trên bằng, dùng làm nơi xem cảnh, bốn mặt có mái, thềm hiên, ở giữa trống, bên trên có cây). 6) Xung quanh có cây báo, hành trí Ba-la-mật, tùy căn tánh độ sanh, tu tập đủ trí bi nguyện... mười môn; 7) Ngọc sáng: Hành phương tiện Ba-la-mật, tùy căn tánh lợi sanh, rực sáng là biết tánh chúng sanh, sống trong chúng sanh; 8) Các đức Phật trong mười phương hiện ngọc báu, búi tóc Bồ-tát hiện ngọc sáng. Địa thứ tám trọn vẹn công dụng của trí Như Lai, đủ bi trí, các đức Phật xoa đầu, hiện thân Phật, Bồ-tát khắp mười phương. Ngọc của các đức Phật là tự tại như Phật, ngọc Bồ-tát là trọn vẹn hạnh Bồ Tát. (mọi quả báo đều căn cứ sáu tướng và mười sự mầu nhiệm trong một sát na đủ tất cả, không thể suy xét bằng vọng tình phải dùng trí định để hiểu); 9) Phật gia hộ, hành lực Ba-la-mật, là pháp sư, thuyết pháp Phật, đủ oai lực Phật; 10) Tòa phát tiếng pháp vang khắp mọi nơi làm vui chúng sanh. Đó là quả báo của địa Pháp Vân thứ mười. Như Lai thành đạo tự tại độ sanh; từ bấy giờ... biểu hiện có 13 câu, Như Lai thành Phật, ba nghiệp thanh tịnh, tự tại độ sanh. Thể của tòa Như Lai là pháp giới. Quả trang nghiêm có từ hạnh trí Phật như rồng bay, mây kéo, cọp gầm, gió nổi. Mọi quả báo không do người khác tạo nên. Việc thành chánh quả không phải việc ngồi trên tòa cỏ dưới cội Bồ Đề, chán bỏ cõi tục, vượt khỏi sự trói buộc của ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác trong quyền giáo. Dạy chúng sanh yếu kém tu học ba thừa trừ tám khổ không phải là chánh giác cứu cánh. Chánh giác này là tối chánh giác, không thích chán, không ra khỏi, chìm đắm, không nhiễm tịnh. Vì trí lớn tập hợp pháp giới, tự tại độ sanh báo thân cảnh giới không hạn lượng, Phật chúng sanh, mình, người là một, không phải là quả báo trong ba ngàn đại thiên cảnh giới, không có cõi tịnh ở phương khác. Thận Phật có 97 tướng tốt và vô số vẻ đẹp. Chẳng phải như ba thừa, chán ghét cõi tục, xuất gia, khuyên Bồ-tát sanh về cõi tịnh ở phương khác. Tỳ-lôgiá-na Trung Hoa dịch là Ánh sáng chiếu khắp. Vì trí lớn tùy căn chúng sanh, phá trừ hoặc chướng, trí nhập ba đời bình đẳng, có khả năng tùy thuận thế gian, thể của thế tục là chơn như (hãy xét bằng sáu tướng). Tất cả đều không do sự suy xét của vọng tình. Giống khác có không thường đoạn... đều là thể dụng của y báo chánh báo của Phật. Hãy dùng trí tuệ không phân biệt suy xét. 13 hàng ấy đều nói về ba nghiệp, thể dụng y báo chánh báo tự tại của Phật. Từ câu vô số Bồ-tát... vô số công đức: có 30 hàng, là đại chúng vây quanh. Trong phần này có 47 hội chứng. Trong 47 hội chứng ấy (từ chúng lưu quang trong cội bồ đề đến chúng Phổ Hiền) chia thành ba nhóm.
1) Chúng lưu quang trong hội bồ đề là chúng mà Phật độ thoát từ sự tu tập năm vị, lập hạnh lợi sanh, thành tựu quả báo, hiểu rõ nhân.
2) Chúng ở trong cung điện là chúng hình thành từ hạnh bi viện mãn đem lại lợi ích cho chúng sanh của Phật.
3) Vô số chúng bằng số bụi trong mười cõi Phật như mười Bồ-tát có tên Phổ... Vì tất cả các Đức Phật từ xưa đến nay đều hành hạnh Phổ Hiền. Ba chúng trên là đạo Phổ Hiền. Hạnh tự lợi lợi tha của năm vị bằng bi trí, mười Ba-la-mật, bốn nhiếp pháp, bốn vô lượng tâm là Phổ. Tất cả các Bồ-tát là pháp đế phàm phu tu tập như đường quốc lộ. Pháp vốn vậy, hành hay không hành không phải do sự khác biệt của đạo. Từ mười chúng Phổ Hiền đến chúng thứ bốn, từ vua cõi trời 33 đến vua cõi Đại tự tại đều tùy địa vị phân thành năm:
Từ "bấy giờ Thế Tôn... mười chúng Phổ Hiền: nêu quả để tạo nhân phát lòng tin. Vì sao? Như Lai là chánh giác, chúng Phổ Hiền là hạnh Phật, cõi Hoa Tạng thanh tịnh của Như Lai là y báo. Chúng sanh tùy theo khả năng của mình quán sát ba loại nhân quả và hạnh Phổ Hiền phát lòng tin. Nếu không, chúng sẽ không biết tin pháp gì. Vì thế, Như Lai nêu ba loại nhân quả này để chúng sanh phát lòng tin. 12 phẩm từ lần thứ nhứt ở điện Phổ Quang đến Phẩm Hiền Thủ đều là nêu quả khuyên tu.
Từ Bồ-tát Hải Nguyệt Quang Đại Minh và chín chúng như thần chấp kim cang... nêu nhân quả mười trụ vì sao? Bồ-tát Hải Nguyệt cũng là chúng Phổ Hiền nhưng tên khác. Vì dùng hạnh Phổ Hiền trong quả Phật vào đời độ sanh, tùy hạnh nguyện, tên gọi khác nhau. Nếu đã dùng hạnh Phổ Hiền trong quả Phật-hạnh mà tất cả các đức Phật đều hành-để vào đời độ sanh thì thể hiện đạt pháp vốn có không ngoài hạnh vốn có. Bồ-tát Hải Nguyệt Quang... là hạnh mười trụ. Phàm phu tu học mười tín, tin quả Phật không ngoài tâm mình, bản tánh mình thanh tịnh như tánh Phật. Trí hiểu biết tánh thanh tịnh là trí không nương dừng. Trí căn bản của Phật vốn có từ thiền Ba-lamật, tự nhiên tương xứng với tánh pháp giới, hành mọi hạnh đều là hạnh Phổ Hiền, động tịnh là một, pháp thuyết giảng chính là pháp của các đức Phật, dù đến khi thành chánh giác, trí ấy vẫn không thay đổi. Tất cả là một, đủ trí hiểu biết như Phật, đủ hạnh Phổ Hiền. Mười chúng Phổ Hiền, Bồ-tát Hải Nguyệt Quang... là mười trụ. Vì mười trụ không ngoài trí pháp. Văn sau có câu: "Vừa phát tâm là thành chánh giác". Phần Bồ-tát Hải Nguyệt Quang... đạt quả khen đức có câu: Bồ-tát Hải Nguyệt Quang đạt Ba-la-mật của các địa Bồ-tát, giáo hóa chúng sanh và làm trang nghiêm cõi Phật. Nghĩa là dùng hạnh Phổ Hiền độ sanh, đạt trí hạnh của Phật và năm vị. Dùng hạnh Phổ Hiền vào đời độ sanh là Hải Nguyệt Quang. Cộng chín chúng ở sau thành pháp mười trụ. Chín chúng: thần thuốc... là quả hạnh mười trụ. Và mười trụ hợp chơn như, che chở cho chúng sanh bằng trí là thần. (Không phải quỉ thần của thế gian). Các vị trời ở sau biểu hiện cho sự tiến tu năm vị, dần đạt tự tại. Các Bồ-tát mười trụ đều tùy địa vị mình giáo hóa chúng sanh, nhân quả tự tại. Thông đạt lý tánh, không dối trá, không tạo tác, không suy xét nhưng hiểu thấu mọi lẽ là thần. Các vị này đều là chúng mà Như Lai dùng năm vị độ thoát, là tấm gương để kẻ hậu học noi theo, biết rõ nhân quả. Từ thần lúa đến thần ngày... mười chúng là nhân quả lợi sanh của mười hạnh. Từ vua A-tu-la đến thiên tử Nhựt... mười chúng là nhân quả lợi sanh của mười hồi hướng. Từ trời 33 đến trời Đại Tự Tại... Mười chúng là nhân quả lợi sanh của mười địa. Đây là mượn vị để biểu hiện pháp nhằm đem lại lợi tích cho chúng sanh, khiến chúng an nhập tu tập chứng đạt. Từ chúng trong hội Phật đến chúng xuất hiện trong Ánh sáng giữa chặng mày có bốn: chúng trong hội Phật biểu hiện nhân quả của Phật và chúng sanh giống nhau. Chúng Bồ-tát đến từ mười phương; chúng xuất hiện từ Ánh sáng ở lỗ chân lông của các Bồ-tát. (Tánh pháp giới dung hợp tất cả, tâm bi rộng lớn, pháp thể vốn vậy, y báo chánh báo đan cài không ngăn ngại); chúng xuất hiện từ lông trắng giữa chặng mày (nêu quả tạo nhân phát lòng tin). Đó là chúng mười tín, mười hạnh... địa 11. Sau khi thành chánh giác, Phật nêu nhân quả ấy để kẻ hậu học noi theo. Những chúng này, chúng lưu quang ở cội Bồ đề, chúng ở lầu giác cung điện, cộng thành 11 chúng, tùy địa vị, mà sự phối hợp có khác nhau. 47 chúng là: Một chúng Phổ Hiền... mười vị trong năm vị, mười trụ... mười địa mỗi vị đều có mười, cộng thành 40 chúng, chúng lưu quang, chúng trong lầu gác, chúng trong đạo tràng, chúng xuất hiện từ Ánh sáng giữa chặng mày, chúng đến từ mười phương, chúng xuất hiện từ Ánh sáng ở lỗ chân lông. Nếu nêu riêng mười chúng Phổ Hiền sẽ thành 56 chúng, thuộc phần: Đại chúng vây quanh. Ba mươi hàng kinh đầu của phần này phân thành ba đoạn:
1) (7, 5 hàng) chúng Bồ-tát và những vị cùng tên Phổ.
2) (7, 5 hàng, Bồ-tát Hải Nguyệt... vô số Bồ-tát) tên các Bồ-tát và tổng kết số Bồ-tát.
3) (15 hàng Bồ-tát... vô số công đức) Nhân tu tập và công đức của đại chúng.
Đoạn một lại chia thành ba:
1) Giải thích tên Bồ-tát.
2) Giải thích sự giống nhau về tên của Bồ-tát.
3) Nguyên nhân.
Giải thích tên Bồ-tát (giải thích tên Phổ Hiền, những tên khác chuẩn theo đây): Hạnh lý giống nhau, đem lại lợi ích cho tất cả chúng sanh là Phổ; biết căn tánh độ sanh là Hiền. Bồ là giác; tát là chúng sanh. Có khả năng giác ngộ chúng sanh là Bồ-tát. (Nói đủ là ma-ha-bồ-đềtát-đỏa: giác ngộ chúng sanh) thường ở trong biển sanh tử, giác ngộ vô số chúng sanh. Chín Bồ-tát sau đều có tên Phổ. Vì mỗi Bồ-tát đều có mười đức hạnh viên mãn. Danh hiệu của Bồ-tát tùy theo hạnh nguyện lớn lao, thể Ba-la-mật. Giải thích sự giống nhau về tên của Bồ-tát: mười vị có tên Phổ vì mỗi vị đủ mười hạnh rộng lớn. Những vị sau tên khác, biểu hiện từ hạnh rộng lớn thực hành vô số hạnh khác biệt. Rộng lớn vì tất cả các đức Phật đều hành, ví như đi trên quốc lộ. một sát na tu tập pháp lành là thấy một phần bản tánh, trí huệ biểu hiện là trí căn bản của Phật, là hạnh Phổ Hiền. Người có một phần tâm lành trong hạnh Phổ Hiền là đã vào dòng pháp. Văn sau chép: Nghe tên Phật, pháp Phật tuy không tin nhưng chắc chắn sẽ đạt trí kim cang huống gì tin tưởng tu tập. Nguyên nhân: y báo chánh báo của Phật là do tu hạnh Phổ Hiền. Chúng sanh thấy vậy phát lòng tin. Như Lai là quả trí căn bản của các đức Phật khắp mười phương. Bồ-tát Phổ Hiền... mười vị là trí sai biệt của các đấng chánh giác. Nêu hai quả này để chúng sanh tin thích tu tập và chứng nhập. Ba lần thuyết pháp:
1) Thị hiện tám tướng thành đạo;
2) Khuyên tu, quán sát quả báo, biết nghiệp nhân, khuyên trời người tu học;
3) Chứng nhập pháp ba thừa, một thừa.
Ở đây nêu quả trí căn bản của Phật và hạnh rộng lớn của Phổ Hiền, khuyên chúng sanh thành thục phát lòng tin tụ tập. Đây là vị Đẳng giác địa 11 hành hạnh Phổ Hiền. Các đức Phật sau khi thành chánh giác cũng hành hạnh ấy. Người vừa phát tâm bồ đề cũng thế. Luận này mượn hạnh Phổ Hiền làm pháp tu tập. Nếu không, chúng sanh không biết tin tu pháp gì. Vì thế hạnh Phổ Hiền sau khi thành Phật là hạnh lợi sanh hạnh Phổ Hiền từ lúc phát tâm trở về sau là hạnh tự lợi. Vì lợi sanh nên nêu quả Phật để chúng phát lòng tin tu tập chứng nhập. Đại ý của kinh là thế. Các chúng Bồ-tát Hải Nguyệt, trời, thần... là quả tiến tu của chúng trọn vẹn mười tín nhập mười trụ... mười địa. Tùy mỗi vị nêu nhân quả khác nhau để chúng sanh tin tu. Nếu không, chúng sẽ vướng mắc trong một pháp, không phát triển trí huệ. Đoạn này nêu sự thành đạo của Phật, quả Phật, sự tu tập chúng nhập pháp năm vị. Khi đã chứng nhập, chúng sanh là Phật, trí huệ như Phật. Nếu tin Phật như thế, Bồ-tát vừa phát tâm không như vậy thì chưa tin mình là Phật. Người thấy cảnh giới trí là pháp thân Phật chính là người có khả năng hành hạnh Phổ hiền. Cõi kim sắc... trong phẩm Quang minh giác của lần thuyết giảng thứ hai là pháp tánh trong sạch không ô nhiễm nơi tâm. Phật Bất Động Trí là tự tâm. Về thật tánh, trí phân biệt không vững chắc. Bồ-tát Văn Thù là trí huệ vi diệu có khả năng phân biệt các pháp tâm không tánh. Bồ-tát Giác Thủ là điều kiện đầu tiên của lòng tin chân thật, Bồ-tát Mục Thủ là tự tâm. (Tin tâm cảnh là Phật, mình là Phật, Phật từ tâm. Nếu thấy Phật ngoài tâm, không phải là tín vị). Giải thích tên khác nhau của các Bồ-tát (7, 5 hàng) có bốn ý:
1) Ý nghĩa của sự khác nhau.
2) Tên của Bồ-tát.
3) Tổng số.
4) Khen đức.
Những vị này vào đời độ sanh bằng hạnh Phổ Hiền, tùy hạnh nguyện sai khác, danh hiệu khác nhau. Phổ là đầy đủ, cùng khắp. Vào đời độ sanh, dạy chúng sanh đạt pháp. Vì thế mười trụ đều tu tập pháp của các đức Phật.
Ví như đường lớn, người xưa người nay đều đi. Từ pháp Phật, vào đời độ sanh nên hạnh Phổ Hiền sau quả Phật cũng là pháp mười trụ. Vì sự giác ngộ sau trước giống nhau. Quả Phật, hạnh Phổ Hiền là pháp mà các đức Phật xưa nay đều tu, là pháp tin. Những Bồ-tát vào đời độ sanh biểu hiện đạo mà chúng sanh được giáo hóa chứng nhập giống pháp của các đức Phật. Những kẻ hậu học nên dùng sức định huệ chính mình để xem xét, không nên tin tưởng bằng vọng tình. Biết khả năng lãnh thọ của mình không phải do căn lành từ trước. Dù là ba thừa, Bồ-tát sáu thông vẫn còn hoài nghi. Pháp phàm phu là tánh nhứt thừa, tuy ở trong sanh tử nhưng tin hiểu được. Vì ba thừa yếu kém nên Phật tạm nói: Cõi ta Bà là cõi đủ năm sự nhơ uế, cõi tịnh ở nơi khác. Hoặc nói: cõi này nhơ uế, trên cõi tứ thiền có cõi tịnh, phải tu ba tăng kỳ kiếp mới đạt quả Phật. Phật không nói tịnh uế dung hợp, phàm Thánh là một, không ngăn ngại. Ba thừa chấp quyền pháp là thật pháp, không tin pháp nhứt thừa. Vì dùng pháp giả, sự quán xét hư ảo, phá trừ vô minh thô, hành một phần Ba-la-mật, đạt ba bậc ý sanh thân, thấy có cõi Phật của mình, của người, có tịnh uế, thích cõi xưa, ghét cõi đây, tu tập hạnh thanh tịnh, quán không, chơn như giả, đạt một phần thần thông, quả báo hơn trời, tâm yêu ghét cũng hơn, không sanh vào cõi ác nhơ uế. Vì nguyện lực, đến các cõi Phật, ba thừa giáo là thế, người chưa chuyển tâm, luôn như vậy. Người học quyền pháp, căn tánh yếu kém, không nghe pháp này, dù nghe vẫn không tin. Kinh Duy Ma và Pháp Hoa đều nêu ra một phần chơn như để phá trừ tâm yếu kém kia nhưng vẫn chưa nêu đủ. Vì thế người học Phật không nên riêng tu một pháp. Các kinh đều có ý nghĩa sâu xa. Có người học đạo cả một đời nhưng trí huệ không phát triển, chê thật pháp. Tên của Bồ-tát này đều gọi theo pháp mười trụ và pháp Ba-la-mật. Mỗi vị đủ mười, tùy hạnh nguyện đặt tên. Mười Ba-la-mật của mười Bồ-tát này cũng là hạnh của Bồ-tát năm vị. Trong năm vị, mỗi vị đủ mười, cộng thành 100 pháp. Nghĩa là mỗi Ba-la-mật đủ mười pháp. Mười Ba-la-mật thành 100 pháp. Trong mười trụ, mỗi trụ đủ mười pháp, cộng thành 100 pháp. năm vị thành 500 pháp. Tùy hạnh vị đạt quả báo khác nhau nhưng đều là mười Bồ-tát này. Đại Bồ-tát Hải Nguyệt Quang Đại Minh: hạnh nguyện rộng lớn độ thoát vô số chúng sanh là hải. Chúng sanh đều thấy bản tánh, đạt thanh tịnh là Nguyệt Quang. Sau khi đạt thanh tịnh, trí thông tất cả là đại minh. Giác ngộ chúng sanh trong tất cả các cõi nước là Đại Bồ-tát. (Nghĩa Bồ-tát như trước). Nghĩa là sau khi thấy đạo, không ra khỏi sanh tử, giác ngộ vô số chúng sanh. Vả lại sự sanh tử của chúng sanh cũng chính là sự giác ngộ của Bồ-tát. Vì trong pháp giới chơn như này không có gì khác. Vị này chuyên tu thí Ba-la-mật, chín pháp kia là thứ yếu. Từ pháp giới, hành hạnh bố thí đem lại lợi ích cho chúng sanh, đoạn phiền não nóng bức, đạt thanh tịnh. Danh hiệu của Bồ-tát này là hạnh nguyện mười pháp Ba-la-mật của mười trụ. Giống như danh hiệu Nguyệt của các đức Phật mà Bồ-tát mười trụ phụng sự. Bố tát Vân Âm Hải Quang Vô Cấu Tạng trong giới Ba-la-mật. Từ giới tánh phát tâm từ, thuyết pháp. Tánh giới không nhiễm ô như biển không chứa xác chết. Thể của giới là pháp giới không tánh, các pháp đều thanh tịnh, rộng lớn như biển. Trong thể giới tánh tâm cảnh đều là chơn như, dùng trí thanh tịnh soi xét thế gian là quang. Pháp tánh không nhiễm ô là vô cấu. Pháp giới dung nhiếp mọi hiện tượng, các pháp vốn thanh tịnh, là chơn như là tạng. Bồ-tát Công Đức Bảo Kế Trí sanh trong nhẫn Ba-la-mật, trang sức thân bằng pháp nhẫn. Bảo Kế là vật trang sức trên đầu. Vì nhẫn là điều kiện đầu tiên để Bồ-tát phát tâm. Vì nhẫn nại phát sanh trí huệ là trí sanh. Nhẫn là vòng hoa. Bồ-tát Công Đức Tự Tại Vương Đại Quang trong tinh tấn Ba-la-mật. Siêng năng làm mọi việc tạo lợi ích cho chúng sanh, tự tại như vua (vương). Soi chiếu khắp nơi là Đại Quang. Thường ở trong biển sanh tử, dùng trí độ sanh, chúng sanh tỏ ngộ. Bồ-tát Thiện Dũng Mãnh Liên Hoa Kế trong thiền Ba-la-mật. Pháp giới là thể của thiền, từ phàm phu phát lòng tin tu tập chứng nhập. Sát ma đoạn trừ vọng tưởng hợp chơn trí là Dũng Mãnh. Trí thông hiểu thế gian, ở trong đời nhưng không đắm nhiễm là liên hoa, trang sức hoa sen là kế. Vì thể của thiền không nhiễm tịnh. Bồ-tát Phổ Trí Vân Nhựt Tràng trong Bát-nhã Ba-la-mật. Trí huệ của Bồ-tát này rộng lớn, thường thuyết pháp cho chúng sanh (như mây tuôn mưa). Ánh sáng trí huệ phá tan bóng tối là Nhựt, phá tà hiển chánh là tràng. Bồ-tát Đại Tinh Tấn Kim Cang Tề trong phương tiện Ba-la-mật. Tất cả vị thứ bảy trong năm vị đều tu tâm bi. Lý chơn như dung nhiếp nhiễm tịnh là phương tiện. Như ví dụ trong Bồ-tát địa thứ bảy: Một nước tịnh, một nước uế, khó hiểu được việc thiện ác của hai cõi này, hoặc như trụ thứ bảy: đồng tử Thiện Tài gặp nữ cư sĩ Hưu Xả, nữ cư sĩ bảo Thiện Tài: ta có tám vạn bốn ngàn quyến thuộc. Tám vạn bốn ngàn quyến thuộc là thực hành tám vạn bốn ngàn pháp. Xem sự sống chết là vườn cảnh. Đây là Ba-la-mật thứ bảy trong mười Ba-la-mật của trụ phát tâm thứ nhứt, không phải là Ba-la-mật thứ bảy của trụ thứ bảy. Tâm bi kiên cố, vào đời độ sanh không mỏi mệt là tinh tấn, phá trừ cấu uế cứng chắc của chúng sanh là kim cang. Ở trong sự trói buộc của chúng sanh nhưng vẫn luôn sống với trung đạo là tề. Tề là sống với bi trí. Như Ánh sáng Thọ sanh phóng từ rốn Phật là biểu hiện cho trí bi ấy.
(Trụ thứ nhất là vậy trụ Trị Địa, trụ Tu Hành cũng thế). Bồ-tát Hương Diệm Quang tràng trong nguyện Ba-lamật. Nguyện rộng lớn là Hương. Trí tùy căn tánh phá trừ hoặc chướng của chúng sanh là Quang. Vào trong tà đạo, đoạn diệt vô minh là Tràng. Vị thứ tám của mỗi vị thường hiện thân ngoại đạo, sống với ngoại đạo phá trừ tà pháp như thiện tri thức Tỳ Mục Đa La trong trụ thứ tám của Thiện Tài. Vị trí thanh tịnh phá trừ tà pháp. Bồtát Đại Minh Đức Thâm Mỹ Âm trong lực Ba-la-mật. Với lực Ba-la-mật, vị này luôn thuyết giảng giáo pháp. Bồ-tát Đại Phước Quang trí sanh trong trí Ba-la-mật, biểu hiện trí căn bản. Mười Bồ-tát này biểu trưng việc đoạn chướng thành tựu pháp thân bi trí bằng mười Ba-la-mật của trụ phát tâm thứ nhứt. Cứ tu tập một pháp là khế hợp một pháp. Sự tu tập khác nhau về mười Ba-lamật là dùng pháp đoạn trừ tập nhiễm. Pháp này là pháp vốn có, thời gian tu tập là một. Vì thời gian không bản tánh, không có sự đến đi của ba đời. Ngay mỗi pháp đủ thể dụng mười pháp nhưng sự tu tập thành thục chưa thành thục của mỗi vị khác nhau, sự thể nhập bi trí khác nhau và cũng từ đó, địa vị khác nhau, không phải pháp khác nhau. (Hãy suy xét bằng sáu tướng). Tổng số: trong kinh chép: vô số Bồ-tát nhiều như số bụi trong mười cõi Phật. Khen đức: (15 hàng rõ như trong kinh). Đại chúng ấy là những người đủ hạnh Phổ Hiền, vào đời thuyết pháp, thành tựu pháp mười trụ... mười địa... tuần tự chỉ dạy chúng sanh để chúng ngộ nhập, luôn là nơi nương tựa của chúng sanh. Về lợi ích, các Bồ-tát này luôn dùng đủ mọi phương tiện dạy chúng sanh chứng nhập pháp. Khi đã chứng nhập, trí hiểu biết như Phật, chỉ dạy chúng sanh. Mê là phàm, ngộ là Phật. Sự hiểu biết xưa nay vốn sẵn. Đại chúng ấy là chúng tỏ ngộ. Trời thần cũng vậy, luôn ủng hộ pháp Phật, làm cho giáo pháp tồn tại, mãi ở thế gian để chúng sanh được lợi ích.
Một đoạn: (13, 5 hàng) vô số thần chấp kim cang bằng số bụi trong một cõi Phật được phân thành bốn:
1) Mượn vị biểu pháp.
2) Giải thích danh hiệu hạnh nguyện.
3) Tổng số.
4) Khen đức.
Thần là người thấy đạo, tánh như Phật, trí hợp chân lý, tùy thuận hạnh Phổ Hiền vào đời ủng hộ chánh pháp. Trụ thứ hai chủ yếu tu giới Ba-la-mật (giới là ngăn ngừa giữ gìn). Thể của giới là pháp thân. Hợp chân như không hư hoại là kim cang. Thần chúng này biểu hiện cho sự giữ gìn tịnh giới của Bồ-tát nên tên là Chấp Kim Cang (chấp: giữ gìn không phạm). Trí hợp chơn như là thần.
Danh hiệu là hạnh nguyên. mười vị thần này từ thể giới tu tập mười Ba-la-mật, mỗi vị tu một hạnh.
Diệu Sắc Na La Diên: chuyên tu thí Ba-la-mật. Vì từ giới tánh tu tập thí Ba-la-mật nên có sắc đẹp. Quán pháp rỗng lặng, đoạn trừ hoặc chướng là Na La Diên. (Không hoại diệt). Nhờ giữ gìn giới tánh nên pháp thân không hoại.
Nhựt Luân Tốc Tật Tràng: chuyên tu giới Ba-la-mật. Giới thể sang suốt tròn đủ là Nhựt Luân. Hiểu thấu hòa hợp chơn như là Tốc Tật Đoạn trừ hoặc chướng giả mình người là Tràng. Tâm chuyên nhứt là chấp, tánh vững chắc là kim cang, tự tại dung hợp chơn như là thần. Trí là thần.
Tu Di Hoa Quang: chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Đức nhẫn thù thắng là Tu Di, trang sức bằng hạnh nhẫn, chúng sanh thích nhìn ngắm là Hoa. Gần gũi chúng sanh đoạn trừ tâm cao ngạo là Quang, luôn hành nhẫn là chấp, thể nhẫn là pháp tánh, là kim cang. Không suy xét nhưng thông đạt tất cả là thần.
Thanh Tịnh Vân Âm: chuyên tu tinh tấn Ba-la-mật. Sống trong thế tục nhưng luôn hợp chơn như là thanh tịnh. Siêng năng giảng pháp lợi sanh là Vân Âm. Nghe pháp đoạn hoặc là kim cang.
Chư Căn Mỹ Diệu: chuyên tu thiền Ba-la-mật. An trụ thiền định không loạn tưởng, sáu giác quan đều thể hiện công dụng của trí là Chư Căn Mỹ Diệu. Động nhưng luôn tịnh là chấp, không gì đánh bại là kim cang. Trí không loạn tưởng, phá trừ hoặc chướng mình người là kim cang. Làm mọi việc bằng trí tịch tịnh không khuynh động là thần.
Khả Ái Lạc Quang Minh: chuyên tu huệ phá trừ hôn ám.
Đại Thọ Lôi Âm: chuyên tu tâm bi. Thọ là che rợp, dùng phương tiện Ba-la-mật che chở chúng sanh.
Sư Tử Quang Vương Minh: chuyên tu nguyện Ba-la-mật, phát trí không dụng công, tự tại như sư tử chúa, đánh bại luận thuyết ngoại đạo.
Mặt Diệm Thắng Mục: chuyên tu lực Ba-la-mật. Oai lực tự tại sống trong thế gian, có khi sống với ngoại đạo để đoạn trừ sự trói buộc của chúng. Vị này là pháp sư. Trong năm vị này 600 pháp Ba-la-mật, người tu Ba-lamật thứ chín đều là pháp sư. Trụ thứ chín là trụ pháp vương tử. Như thiện tri thức ở trụ thứ chín của Thiện Tài là ba la môn Thắng Nhiệt. Sống với ngoại đạo, dùng năm lửa đốt thân, lên núi dao, vào rừng lửa là Mặt Diệm Thắng Mục. Sống với chúng sanh, thuyết pháp phá trừ ngu lối là Mặt Diệm. Trí biết căn tánh chúng sanh là Thắng Mục.
Liên Hoa Quang Ma Ni Kế: chuyên tu trí Ba-la-mật như đồng nữ Từ Hành-thiện tri thức ở trụ Quán đỉnh thứ mười của Thiện Tài. Không sống trong chơn như, vào đời độ sanh, không đắm nhiễm là Liên Hoa. Trí biết căn tánh của chúng sanh là Quang. Đạt vị tối cao là Ma Ni Kế. Đó là mười chấp kim cang tùy thuận hành mười Ba-la-mật ở trụ thứ hai. Phần tổng số và khen đức rõ như trong kinh. Trụ tu hành (6, 5 hàng) được phân thành bốn ý:
1) Nêu số.
2) Mượn vị biểu pháp.
3) Giải thích danh hiệu theo hạnh nguyện.
4) Khen đức.
Nêu số như hàng đầu trong kinh. Mượn vị biểu pháp, mười vị thần thân chúng từ thể nhẫn Ba-la-mật, tu tập mười Ba-la-mật. Thành tựu hạnh nhẫn, vào đời độ sanh là thần. Khen đức là thành tựu nguyện lớn, phụng sự tất cả các đức Phật, nhẫn nại độ sanh khiến chúng sanh thành Phật. Vì thể tánh của chúng sanh và Phật là một.
Hỏi: đã là Phật cần gì sự cung phụng bằng vật chất, luôn nuôi dưỡng chúng sanh để chúng sanh thành Phật? Vì tất cả đều là hạnh nhẫn. Giải thích danh hiệu theo hạnh nguyện, từ tánh nhẫn mười vị này tu mười Ba-lamật. Vì một là tất cả.
Hoa Kế Trang Nghiêm chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Vì hạnh nhẫn là hoa báu trang sức trên đầu. Thân chúng là thực hành pháp thí, bố thí thân thể tài vật, tạo lợi ích cho chúng sanh. Trí tùy thuận hạnh nhẫn là thần.
Quang Chiếu Thập Phương chuyên tu giới Ba-lamật. Trọn vẹn giới nhẫn, chúng sanh vui thích là Quang Chiếu Thập Phương.
Hải Âm Điều Phục chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Không buồn vui trước những lời khen chê là điều phục. Dùng ngôn ngữ giáo hóa chúng sanh đúng thời cơ là Hải Âm.
Tịnh Hoa Nghiêm Kế chuyên tu tinh tấn Ba-la-mật. Hạnh nhẫn tăng tiến là tịnh, uy nghi đĩnh đạt là Hoa. Từ hạnh nghiệp được quả báo là Nghiêm Kế. Tinh tấn là điều kiện hàng đầu trong việc tăng trưởng đạo hạnh như vòng hoa trang sức trên đầu.
Vô Lượng Oai Nghi chuyên tu thiền Ba-la-mật. Tùy căn tánh của chúng sanh thuyết giảng giáo pháp là vô lượng. Tới lui làm nghỉ đều đoan trang là oai nghiêm. Đi đứng nằm ngồi đều sống trong thiền định.
Tối Thượng Quang Nghiêm chuyên tu trí huệ soi xét mình người, trang nghiêm thân bằng định huệ sáng tỏ.
Tịnh Quang Hương Vân tu tâm bi, dùng mọi phương tiện độ sanh không chấp tịnh nhiễm là Tịnh Quang, thương yêu che chở chúng sanh, thuyết giảng giáo pháp làm vui lòng chúng sanh là Hương Vân. Thuyết pháp lợi sanh là năm phần hương.
Thủ Hộ Nhiếp Trì từ trí huệ tùy thuận hạnh nguyên độ thoát chúng sanh. Vị thứ tám trong năm vị thành tựu trí không dụng công được Phật xoa đầu cũng là nghĩa này.
Phổ Hiền Nhiếp Thủ vị pháp vương chuyên tu Ba-la-mật, thuyết giảng giáo pháp, sống với 95 tà giáo, làm mọi việc như chúng sanh là Phổ Hiền Nhiếp Thủ. (Là Bà-la-môn Thắng Nhiệt).
Bất Động Quang Minh chuyên tu trí Ba-la-mật là vị quán đỉnh. Phần nêu số và khen đức rõ như trong kinh. Thể của mười Ba-la-mật này là nhẫn, vì bất động trước khen chê tốt xấu.
Đoạn thứ tư (6, 5 hàng) được phân thành bốn ý như trên. Nêu số như hàng đầu trong kinh. Mượn vị biểu pháp, mười vị thần túc hạnh này là trụ sanh quý thứ tư, từ thể tinh tấn mười vị thần tu tập mười Ba-la-mật. Như phần khen đức: trải qua vô số kiếp gần gũi Như Lai là tinh tấn. Vị này dùng pháp tánh chơn như làm thể của hạnh nguyện, trang nghiêm thân bằng hạnh nguyện. Túc hạnh là tinh tấn, trọn vẹn các hạnh. Thần là trí tùy thuận hạnh nguyện. Giải thích danh hiệu theo hạnh nguyện:
Bảo Ấn Thủ chuyên tu trí Ba-la-mật. Dùng trí thông hiểu pháp siêng năng độ sanh. Thủ là dắt dẫn.
Liên Hoa Quang chuyên tu giới Ba-la-mật. Ở trong sanh tử nhưng không đắm nhiễm như hoa sen. Người thấy phát tâm tu là quang. Túc hạnh là siêng năng tu tập.
Thanh Tịnh Hoa Kế chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Nhẫn nại không đắm nhiễm là thanh tịnh, từ hạnh nhẫn đạt quả báo tốt là Hoa Kế.
Nhiếp Chư Thiện Kiến chuyên tu tinh tấn Ba-la-mật. Siêng năng nhiếp phục tà kiến, hành pháp lành.
Diệu Bảo Tinh Tràng chuyên tu thiền Ba-la-mật. An trụ nơi lý mầu là diệu, Bảo là đạo, tùy hạnh nguyện đoạn trừ hoặc chướng là tinh tràng. Hạnh nguyện là tinh. Từ thể định soi xét hiểu rõ căn tánh chúng sanh phá trừ vô minh là tinh. Từ định phát huệ, trí huệ thông hiểu pháp là tinh, Tràng là định.
Nhạo Thổ Diệu Âm chuyên tu huệ Ba-la-mật. Vui vẻ giảng pháp cho mọi người.
Chiên Dàn Thọ Quang chuyên tu phương tiện Ba-lamật là thương yêu che chở. Quang là soi sáng chúng sanh.
Liên Hoa Quang Minh chuyên tu nguyện Ba-la-mật, từ trí huệ tùy thuận hạnh nguyện độ thoát chúng sanh, không đắm nhiễm.
Vi Diệu Quang Minh vị pháp vương chuyên tu lực Ba-la-mật, dùng pháp mầu giáo hóa chúng sanh.
Tích Tập Diệu Hoa chuyên tu trí Ba-la-mật, dùng trí huệ tổng hợp các pháp, giáo hóa chúng sanh như kết hoa. Hãy suy xét kỹ để biết sự khác biệt của mười Ba-la-mật trên đây, không nên nhìn một cách chung chung. Phần khen đức rõ như trong kinh.
Đoạn thứ năm (6, 5 hàng) phân thành bốn ý như trên. Số lượng như hàng đầu của kinh. Mượn vị biểu hiện pháp. Trụ cụ túc phương tiện từ thể thiền Ba-la-mật, mười vị đạo tràng thần tu tập mười Ba-la-mật. (Đạo tràng thần là phá trừ màn đen). Thiền có khả năng phá trừ sự che lấp. Thiền định làm thanh tịnh sự đắm nhiễm của hai thức sáu, bảy, biểu hiện trí huệ, thông hiểu thật thể lý trí. Thiền là thể của đạo tràng; trí huệ là công dụng của con người. Từ hạnh Phổ Hiền, chuyên chở chúng sanh đến pháp giới. Điện Phổ Quang Minh là thủ đô. Vì nhứt thiết chủng trí là kho chứa lớn, mỗi vị thần tu tập một Ba-la-mật để đem lại lợi ích cho chúng sanh.
Giải thích danh hiệu theo hạnh nguyện: Tịnh Trang Nghiêm Tràng chuyên tu thí Ba-la-mật. Thể định là cõi tịnh của thí. Từ thể định tu tập các hạnh là tràng. Tràng là thể định không khuynh động. Tu pháp tánh không tánh không nương tựa là đạo. Đối trị sự che lấp ỷ lại bằng thiền không tánh là tràng. Thần là trí lớn không tánh không nương tựa. Dù không suy xét, không tạo tác, không mượn hình chất nhưng nhận biết tất cả mọi hiện tượng.
Tu Di Bảo Quang chuyên tu giới Ba-la-mật. Tu Di là cao lớn, Bảo Quang là không nhỏ. Soi xét thế gian bằng Ánh sáng tịnh giới, khiến chúng sanh phát tâm tu tập. Giới là thiền, vượt trên vọng tình là tu di. Định tâm trừ vọng tưởng là vô cấu, từ định phát huệ là Bảo Quang.
Lôi Âm Tràng Tướng chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Tiếng khen chê như sấm, nhẫn nại không khuynh động là tràng tướng.
Vũ Hoa Diệu Nhãn chuyên tu tinh tấn Ba-la-mật. Pháp thân là thể của định, từ định làm mọi việc là Vũ Hoa, từ định phát huệ là Diệu Nhãn. Dùng mắt huệ hành mọi hạnh độ sanh không mỏi mệt là tinh tấn.
Hoa Anh Quang Kế chuyên tu thiền Ba-la-mật. Từ pháp giới tịch tịnh không lay động mượn việc tu thiền để độ chúng sanh loạn tưởng là anh. Từ định phát huệ là Quang; từ hạnh đạt quả tốt đẹp là Kế. Mười Ba-la-mật đều là pháp tối thượng. Vì sao? Vì mỗi pháp Ba-la-mật đều có khả năng thành tựu quả Phật, như trụ phát tâm thứ nhứt là Phật, không trước giữa sau. Song quả Phật có vô số sự thù thắng.
Vũ Bảo Trang Nghiêm chuyên tu trí huệ Ba-la-mật vì với trí huệ vị này thuyết giảng giáo pháp.
Dũng Mãnh Hương Nhãn tu phương tiện Ba-la-mật, với tâm bi vào đời độ sanh là Dũng Mãnh, quán sát thế gian bằng mắt từ bi là Hương Nhãn, độ sanh bằng năm phần hương, đoạn khổ đem vui là hương nhãn.
Kim Cang Thái Vân chuyên tu nguyện Ba-la-mật, với hạnh nguyện che chở chúng sanh. Dùng trí không dụng công phá trừ ngoại đạo là Kim Cang Thái Vân (sống với ngoại đạo để chỉ dạy pháp thật).
Liên Hoa Quang Minh chuyên tu lực Ba-la-mật là vị pháp vương một vào đời nhưng không đắm nhiễm là hoa sen. Thuyết giảng giáo pháp là quang minh.
Diệu Quang Chiếu Diệu chuyên tu trí Ba-la-mật. Trí biết rõ căn tánh là diệu quang, tùy căn cơ đoạn trừ hoặc chướng là chiếu diệu phần khen đức rõ như trong kinh.
Trụ chánh tâm thứ sáu: Từ thể Bát-nhã Ba-la-mật, mười vị thần chủ thành tu tập mười Ba-la-mật. (6, 5 hàng, được phân thành bốn ý như trên). Số lượng như hàng đầu trong kinh, mượn vị biểu hiện pháp. Những vị thần này biểu hiện cho sự thành tựu pháp quán không của trụ chánh tâm. Như Tỳ kheo Hải Tràng-thiện tri thức trụ thứ sáu của Thiện Tài-thiền hành nhập định, không theo dõi hơi thở. Từ chân xuất hiện trưởng giả cư sĩ, Bà-la-môn, trên đỉnh đầu xuất hiện Phật, hóa hiện đủ loại thân hình độ thoát chúng sanh. Phần này trong kinh có câu: Bồ-tát nghe mười pháp định tâm không khuynh động, giữ vững ý chí. Giải thích danh hiệu theo hạnh nguyện: Bảo Phong Quang Diệu chu tu thí Ba-la-mật. Bố thí bằng trí vi diệu không tánh là Bảo Phong Quang Diệu. Như lên đến đỉnh núi chỉ thấy hư không, trí huệ quán pháp trống không, không hình tướng. Bố thí bằng trí vi diệu không hình tướng là chiếu diệu. Trí quán không tự tại không ngại là chủ, thản nhiên trước có không, không vướng sanh tử. Nếu biết là thành, bố thí bằng trí không vọng loại là thành.
Diệu Nghiêm Cung Điện. Thể của giới là lợi sanh bằng trí huệ. Trí vi diệu là Cung, độ sanh là Điện, hạnh nguyện là Nghiêm. Trí hiểu biết thật pháp là Diệu Nghiêm. Từ bi là cung điện. Tâm không loạn tưởng là chủ thành. Trí vi diệu không hình tướng, tự tại hợp thật lý là thần, lợi sanh bằng trí là chủ. Che chở chúng sanh là thần.
Thanh Tịnh Hỷ Bảo chuyên tu nhẫn Ba-la-mật. Thành tựu trí quán pháp không bằng hạnh nhẫn là thanh tịnh hỷ. Nhẫn là Hỷ, vui với pháp là Bảo, nhẫn nại là bảo.
Bảy vị sau chuẩn theo đây, văn nhiều không thể giải thích rõ, tạm nêu vài vị. Các vị thần ấy đều là nữ thần, biểu hiện hạnh từ bi. Nhưng về thật thể thì không có nam nữ, tùy việc thị hiện chỉ dạy.
Trụ Bắt Thoái thứ bảy, từ thể phương tiện Ba-la-mật, mười vị thần chủ địa tu tập mười Ba-la-mật. Danh hiệu của các vị đều tùy theo hạnh nguyện. Từ pháp thân thực hành mọi hạnh là địa. Đủ lý bi trí không lay chuyển, tâm bi như mặt đất nuôi lớn muôn loài.
Trụ Đồng Chơn thứ tám, từ thể nguyện Ba-la-mật, mười vị thần chủ sơn tu tập mười Ba-la-mật. Sơn: không lay động, cao lớn. Thần: trí hợp chơn như. Trí không dụng công của trụ, hạnh, hồi hướng, địa thứ tám vững chải như núi. Trí vượt trên thế gian, cao lớn như núi.
Trụ Pháp Vương thứ chín, từ thể lực Ba-la-mật, mười vị thần chủ lâm tu tập mười Ba-la-mật, pháp sư này thuyết pháp độ sanh như rừng che muôn loài.
Trụ quán đỉnh thứ mười, từ thể trí Ba-la-mật, mười vị thần thuốc tu tập mười Ba-la-mật. Trí hiểu biết căn tánh chúng sanh, trao thuốc pháp. Tất cả pháp dụ trong kinh này đều là pháp lợi sanh, không có pháp nào vô ích. Mỗi chữ mỗi việc đều là pháp dạy chúng sanh tin tu chứng nhập, là phương tiện vào nhà Phật. Đây là mẫu đạt pháp độ sanh của quả Phật, năm vị. Người chứng nhập kết hợp thật trí là thần, che chở đem lại lợi ích cho chúng sanh cũng là thần. Tu hành tự tại như trời. Vì nhằm đem lợi ích cho chư thiên nên thị hiện quả báo cõi trời, có lúc lại hiện thân A-tu-la, quỉ thần để độ thoát chúng sanh.