TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ KINH SỚ

SỐ 1751 - KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT SỚ DIỆU TÔNG SAO

Sa-môn Tri Lễ Tứ Minh đời Tống giảng

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5

QUYỂN 6

 


QUYỂN 1

Kinh này được nghĩa sớ vì những người mong cầu quả Tịnh báo, nên giảng nói người nghe rất đông. Ngài Bảo Vân giảng nói đầu tiên truyền lại đến nay, từ đó lại có nhiều tác phẩm được nối tiếp sau này. Nhưng gốc là do ngài Trí Giả sớ ra văn nghĩa giúp người tu tâm Diệu quán mà chiêu cảm được bốn Tịnh độ. Bởi tình thương vật sâu đậm nên đã dùng trí xảo thích thời mà bày nhiều sự tướng chỉ pháp môn, cốt ở hạ phàm thấm nhuần duyên chủng. Nay nói rộng Viên thừa, cốt cho người ham học muốn được chỉ mà tu chứng. Nên đem hết tài hèn trí cạn mà sao ra mấy ngàn lời, trên thuận theo Diệu tông lược hiểu lời sớ, khéo léo thích thời không phải điều tôi có được. Nguyện cùng hữu tình tức tâm niệm Phật, do đó lời sao này được biên chép ra. Niên hiệu Thiên Hy năm thứ năm ngày Tân Dậu, tiết Trùng Dương kính ghi lời tựa.

Trong tựa đề sớ này, tám chữ Phật thuyết v.v... đã nêu đủ đề mục kinh, đều là sở thích chỉ một chữ sớ là năng thích. Nay với năm chương giải thích tám chữ, nghĩa rõ ràng đọc văn sẽ thấy. Nếu muốn biết qua xin nêu tóm tắt:

Kinh là tên chung, bảy chữ kia là tên riêng. Nay lại nói Phật thuyết là Thích-ca, là Hóa chủ bốn biện tài giảng nói. Quán là nêu chung năng quán mười sáu quán. Phật Vô Lượng Thọ là nêu sở quán nhiếp mười lăm cảnh. Lại bỏ năng thuyết mà nói lược sở thuyết. Năng quán đều là một tâm ba quán, Sở quán đều là ba đế một cảnh. Tỳ-lô-giá-na ở khắp tất cả mọi nơi, tất cả các pháp đều là Phật pháp. Gọi là Phật của tánh đức chúng sinh, không tự không tha, không nhân không quả tức là Thể viên thường đại giác. Cho nên luận Khởi Tín chép: "Nói về nghĩa giác, tức là tâm thể lìa niệm. Tướng lìa niệm là như hư không, không chỗ nào chẳng khắp". Pháp giới một tướng tức Pháp thân thường trụ còn của Như lai. Y theo Pháp thân này mà nói Bản giác. Cho nên biết Thể viên minh của quả Phật chính là tánh đức bổn cụ của phàm phu chúng ta. Cho nên cái gọi là hành pháp của tất cả giáo, đều thể hiển rõ các thể giác này. Cho nên bốn thứ tam-muội gọi chung là niệm Phật, chỉ có pháp quán là môn chẳng đồng. Như tam-muội Nhất hạnh là quán thẳng ba đạo hiển rõ bản tánh Phật. Còn Phương đẳng tam-muội là quán đảnh trì hiển, Pháp Hoa thì gồm tụng kinh, Quán Âm thì đếm cả hơi thở, biết rõ ý trải ba tánh. Các tam-muội này thông qua các việc thì khác mà niệm Phật thì giống nhau, đều là hiển rõ thể đại giác cả. Tuy đều niệm Phật mà là nẻo chung hiển rõ thể Chư Phật. Như quán môn này và tam-muội Bát chu nương vào cảnh y chánh của an dưỡng mà dùng quán mầu nhiệm.

Chuyên ở Di-đà mà hiển thể chân Phật. Tuy nhờ dịch cảnh mà phải biết y chánh cùng ở một tâm, tâm tánh cùng khắp thì không pháp nào chẳng tạo, không pháp nào chẳng đủ. Nếu mảy may pháp nào ở ngoài tâm mà sinh, thì chẳng gọi là quán Đại thừa. Người hành trì nên biết, nếu bình tâm tánh mà quán y chánh ấy thì y chánh có thể bày, nhờ y chánh mà quán tâm tánh thì tâm tánh dễ phát. Do đó nói tâm tánh đủ tất cả pháp, tạo ra tất cả pháp, thật ra không có năng cụ sở cụ, năng tạo sở tạo, mà tức tâm là pháp, tức pháp là tâm. Nhân duyên năng tạo và pháp sở tạo đều ngay đó toàn là tâm tánh. Cho nên nay quán hoặc y hoặc chánh, là lấy tâm pháp giới mà quán cảnh pháp giới mà sinh ra y chánh sắc tâm pháp giới. Đó gọi là chỉ y, chỉ chánh, chỉ sắc, chỉ tâm, chỉ quán, chỉ cảnh. Cho nên giải thích chữ quán thì dùng một tâm ba quán mà giải thích Vô Lượng Thọ. Dùng một thể ba thân mà thể tông lực dụng nghĩa đều từ viên phán giáo thuộc đốn. Năm lớp Huyền Nghĩa vốn là trong kinh nói về pháp quán. Đại sư Trí Giả dùng để giải thích tên kinh. Muốn giúp cho người tu dùng pháp quán này vào mười sáu môn mà làm tu chứng. Cho nên ở văn lời tựa dùng chủ mà bao chúng, lấy chánh gồm y. Quán Phật đã tức ba thân, quán khác há không phải ba Đế. Do đó bảo người tu rằng: Quán tuy thâm diệu mà cốt độ kẻ sơ tâm, nếu có thử tiến công thì lo gì chẳng thành tựu. Nếu chưa vào phẩm thì làm nhân cũng mạnh, sinh đến nước ấy rồi thì được dự đại hội, chỗ thấy y chánh mầu nhiệm khó nghĩ bàn, mau vào hàng Thánh, độ sinh cũng rộng khác hẳn người làm thiện và người theo hạnh Tiểu thừa được vãng sinh. Như người ở cõi này đời trước tu viên, ở các tòa giảng thấy tướng khác thường nghe pháp dễ ngộ, đây so sánh với đó là công bởi Diệu tông. Chỉ vì giới pháp chẳng tin, không nguyện vãng sinh cho nên ở cõi uế nghe pháp vào chân, nên sợ cõi Ta-bà không thường gặp Phật. Nếu gặp bạn lành sắc tâm không cao quý thì tâm ta khó phát, huống chi là trần cảnh thô mạnh thật là hiểm nguy. Cho nên ngoài thì thêm sự sám, trong thì siêng lý quán chánh trợ song hành và dùng nguyện khắc chế, thì cõi báu mau chứng vô sinh. Nay giải thích quán môn là ý ở đây. Sớ làm cho thông suốt, thông suốt quyết đoán nghĩa thú, không sợ trở ngại, khiến người tu được ý mà tu. Kế là nói về người và hiệu, có ghi chép đủ trong các Biệt truyện và các chương ký, nếu ai chưa thông suốt thì nên tìm đọc.

Hai là giải thích văn gồm giải thích tựa. Nói quán ý của kinh; nói quán hạnh; đối cấu mà lập tịnh; nói pháp; nói hai báo khổ, vui. Muốn luận về quán hạnh, trước nêu tướng hai báo khổ, vui. Văn có bốn câu, mỗi câu đều nói tịnh uế đối nhau. Câu đầu, lấy cõi nước đã thành khổ vui mà đối nhau. Nước tịnh An dưỡng chỉ thọ các điều vui nên gọi là Lạc bang. Cõi uế Kham nhẫn (Ta-bà) chịu nhiều các khổ nên gọi cõi khổ. Câu kế là đem năng thành vật thể sang hèn đối nhau. Đó toàn là bảy báu mà nói lược là vàng bạc, đây nhiều các uế mà nói lược là bùn cát. Câu sau đem mới sinh thọ chất cấu tịnh đối nhau. Cõi này thì sáu đường có đủ bốn loại. Nay sinh làm người đều ở trong thai tạng. Mẹ ăn lạnh nóng và khi đói no thì đứa con ở trong thai như bị khổ địa ngục ở chỗ lạnh nóng treo ngược, núi ép. Nên gọi là thai ngục. Còn cõi kia chín phẩm vào từ thai sen. Người hạ phẩm tuy phải trải nhiều kiếp. Như kinh Đại Bản chép: "Vì nghi tâm tu thiện nên sinh vào thai cung ấy vui bằng trời Đaolợi, huống là vào chín phẩm mà không sinh nghi ngờ chẳng lẽ có khổ hay sao?" Cho nên hoa sen thọ sinh tức vui, câu kế nữa đem chỗ sinh rồi dạo chơi tốt xấu đối nhau, cõi này thì gai gốc bụi rừng, cõi kia thì ao vàng cây ngọc. Nhưng bốn câu này tuy mỗi câu khổ vui đối nhau, nhưng thì đối uế để hiển bày tướng tịnh kia. Lại nên biết văn bốn câu hình như chỉ hiển thị hai cõi Đồng cư. Theo sau nói tông thì luận đủ tướng bốn độ tịnh uế, lấy sau mà nghiệm đây thì chẳng chỉ Đồng cư. Phải biết bốn câu mỗi câu đều có cả bốn thứ tịnh uế. Kiến tư nặng nhẹ thì chiêu cảm Đồng cư Lạc bang cõi khổ. Thể chiết khéo vụng thì cảm với phương tiện Lạc bang cõi khổ. Thứ lớp Đốn nhập thì cảm với Thật báo Lạc bang cõi khổ. Phần chứng rốt ráo thì cảm với Tịch Quang Lạc bang cõi khổ. Đem so với vàng báu và bùn cát, thai ngọc và ao hoa, rừng rậm và cây ngọc thì cũng như thế. Một nhà chế lập, ắt văn và tựa không trái nhau, chỉ lời tựa thì nêu chung, còn Tông Văn thì nói riêng cho nên dường như khác nhau.

Hỏi: Ba thứ Tịnh độ sau đều đã có tướng thì có thể nói về các việc vàng báu, còn tịnh của Tịch quang đã toàn không tướng thì làm sao có thể nói vàng báu ao hoa cho đến cây ngọc ư?

Đáp: Trong kinh luận nói Tịch quang không có tướng, tức là đã hết tướng nhiễm ngại, chẳng phải như hư không chẳng có một vật. Bởi ba hoặc rốt ráo thanh tịnh, thì bốn chánh sắc tâm cũng rốt ráo sáng tỏ. Cho nên Đại kinh nói: Nhân diệt là sắc mà được thường sắc. Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như thế. Kinh Nhân Vương gọi là Pháp tánh năm ấm, cũng là tướng thường thế gian của Pháp Hoa. Kinh Đại phẩm chép: Sắc hương đều là Trung đạo thì gọi là rốt ráo Lạc bang, rốt ráo vàng báu, rốt ráo ao hoa, rốt ráo cây ngọc. Lại ở đây bỏ uế rốt ráo, lấy tịnh cùng tột, cho nên cõi khổ v.v... xếp vào ba chướng. Lạc bang vàng báu xem là Tịch quang. Nếu ở tịnh uế bình đẳng mà nói thì đem bùn cát rốt ráo cõi khổ làm Tịch quang cả hai thuyết này chỉ thuận Tất đàn đều là viên cực.

Hỏi: Quả báo Vô thượng của Phật là sự tức lý nên có thể nói vàng v.v... Còn Tịch Quang rốt ráo là lý tức sự, làm sao có vàng v.v... Nếu nó đồng có thì lý sự lẫn lộn, làm sao phân nghĩa hai cõi?

Đáp: Vô thượng báo của Phật là rốt ráo thỉ giác, thượng phẩm Tịch quang là rốt ráo Bản giác. Thỉ Bản đã tột thì đâu phân hai thể. Nên biết hai cõi nếu phân ra sự lý, thật chẳng phải hữu vô, là chân thiện diệu hữu mà chẳng phải lý ư? Lý Bí tàng đâu đồng với Tiểu không. Cho nên lý sự này hai tên mà một thể vì phục bổn nên gọi Vô thượng báo là sự, vì phục bổn nên gọi Thường tịch quang là lý. Nên Diệu Lạc nói: Tu được bốn đức, bổn có bốn đức hai nghĩa ngang nhau, mới là tướng thân cõi Giá-na, huống chi là Tịnh Danh sớ đem hiển Tịch quang làm Y báo Phật. Cho nên chấp chặt Báo độ có vàng báu v.v... Chấp Tịch quang là không. Đây toàn là mê tên mà chẳng biết nghĩa.

Thật do trở đi, là nói hai nhân tâm hạnh. Thành là thật, do là tư. Báo tịnh uế thật từ tâm hạnh hai nhân gây cảm. Tâm tức là mê liễu hai tâm, hạnh tức là hai hạnh trái thuận, sáu đạo ba giáo là mê ba đức tánh thành ba hoặc nhiễm, cho nên nói cấu tâm. Thân miệng các nghiệp trái lý có tạo tác đều gọi là hành vi ác. Đây thì tâm hạnh cảm bốn cõi uế, là thô cạn chìm xuống. Chỉ có giáo viên đốn hiểu ba đức tánh lìa ba hoặc nhiễm mới gọi là tịnh tâm. Các nghiệp thân miệng, thuận lý không tạo tác thì gọi là thiện hạnh. Tâm hạnh này cảm bốn Tịnh độ là sâu mầu bày lên cao. Tâm tuy vốn một, nhưng vì mê liễu nên chia ra cấu tịnh hạnh nghiệp tuy đồng nhưng vì trái thuận nên phải mở thiện ác. Từ hai nhân này mà cảm báo tịnh uế. Nên biết người viên từ trên Tịch quang mà thực hành quán thể, nên nhân vị phàm thánh đều là rốt ráo. Chẳng đồng người biệt, yếu tâm chỉ bằng mười hai phẩm, cho nên phần chứng uế chánh ở Biệt giáo.

Hỏi: Chí lý mầu nhiệm chẳng cấu chẳng tịnh, không lấy không bỏ. Nay lập cấu tịnh khiến người lấy bỏ, đã trái ly mầu, thì không phải Thượng thừa. Sao được gọi là tu tâm Diệu quán hiển một thật tướng?

Đáp: Theo tên tìm nghĩa thì muôn không được, lấy nghĩa định tên thì môn không mất một. Vì trong lý ngoài lý, Tiểu thừa, Đại thừa, tiệm thứ viên đốn chỗ đặt tên ngôn, phần nhiều đều giống nhau, cần lấy tà chánh mà định trong ngoài. Kế dùng hư không mà phân biệt lớn nhỏ, lại dùng tiệm đốn mà xét Biệt viên thì khiến danh ngôn mảy may không xem lạm, mới có thể nương vào đó mà lập quán hạnh. Cho nên nay tôi bình nghĩa này mà dùng sáu câu để xếp vào đồng khác. Đó gọi là cùng phá, cùng tu, cùng tức đều có hai câu tức sáu câu vậy. Nay dùng sáu thứ này mà phán trái nhau. Trước dùng nghĩa riêng mà định đồng tên cái gọi là ngoài Đạo đoạn dứt không một chẳng cấu chẳng Tịnh kiến, lý Nhị thừa không chẳng cấu chẳng tịnh chứng Biệt giáo chỉ trung mà chẳng cấu chẳng tịnh môn. Viên giáo bí tàng chẳng cấu chẳng tịnh lý. Lại có bốn tịnh ngoại đạo ham chán là kiến chấp tịnh, Nhị thừa dứt hoặc là chứng diệt tịnh, Biệt giáo lìa nhiễm là môn niệm tịnh, Viên giáo tức nhiễm là lý đốn tịnh. Đã biết đây rồi mới có thể luận cùng tịnh mà chẳng cấu chẳng tịnh. Ở câu tương phá là Viên giáo đốn tịnh phá Biệt giáo Nhị thừa ngoại đạo chẳng cấu chẳng tịnh. Viên giáo chẳng cấu chẳng tịnh phá ba thứ tịnh. Câu tương tu là ba thứ tịnh, tu ở Viên giáo bí tạng chẳng cấu chẳng tịnh. Ba thứ chẳng cấu chẳng tịnh là tu Viên giáo tịnh của tức nhiễm. Câu tương tức là Viên giáo tịnh của tức nhiễm tức là bí tạng chẳng cấu chẳng tịnh. Bí tạng chẳng cấu chẳng tịnh tức là tịnh của tức nhiễm. Nay Diệu quán tức là ở tâm nhiễm mà quán bốn Tịnh độ. Đã chiếu Tịch quang há khác với bí tạng chẳng cấu chẳng tịnh ư? Nếu nói kinh này bỏ uế lấy tịnh khác với bí tạng lý đều chẳng phải, thì vì sao Vy-đề-hy nghe quán Tịnh độ mà phần chứng bí tạng. Nên biết nay tịnh là tịnh ở cấu tịnh, vì lý cấu tịnh bình đẳng mà làm Tịnh độ, tức là gọi Thiên và Viên là nói việc này. Chỉ vì duyên bỏ uế tâm mạnh, dùng lấy tịnh môn mà tịnh tất cả tướng. Cho nên nay nói tịnh và chẳng cấu chẳng tịnh hoàn toàn không trái nhau. Lại nên biết, nếu lấy bỏ tột cùng thì cùng chẳng lấy bỏ cũng chẳng khác dấu. Hai dụ, hình thẳng là dụ cho tịnh nhân, liều tánh tịnh tâm, thuần lý làm thiện, còn bóng thẳng là dụ cho quả, tức bốn Tịnh độ. Nguồn đục là dụ cho uế nhân, mê tánh cấu tâm, trái lý làm ác. Dòng đen là dụ cho quả, tức bốn cõi uế. Nếu lật trái dụ trên như hình cong thì bóng lõm, tự có thể dụ cho nghịch nhân quả. Nếu lật trái dụ dưới, nguồn sạch thì dòng trong, cũng tự có thể dụ cho thuận tu nhân quả. Nay nêu hai dụ, đều dụ một thứ mà nghĩa càng sáng. Cho nên biết trở đi, là ở Tịnh bày tu, trên đã đối uế để hiển bày tướng tịnh, cho nên nay ở tịnh mà nói pháp tu. Trước nói hai nhân, gọi chung là tịnh tâm và thiện hạnh. Đây là nói tướng tu, cho nên ước chỉ mười sáu Diệu quán, ba thứ tịnh nghiệp là ở mười sáu cảnh chẳng chiếu ba đế, đâu gọi là diệu quán. Tu ba thứ phước, là ba hoặc nhiễm chẳng gọi Tịnh nghiệp Diệu quán là chánh, tịnh nghiệp là trợ, chánh trợ cùng làm thì mới chiêu cảm được bốn thứ cõi nước Cực lạc, được thấy ba thân của A-di-đà Thế tôn văn từ cùng nói quán luận sinh độ, nghiệp luận thấy Phật, y chánh đã đủ, chánh trợ không cách.

Hai thứ cùng hóa trở đi, là nêu văn có hai, tức là nêu giáo hưng có hai, cũng có thể nói lý do hưng hóa đổi phàm phải nhân sự gần mà làm Hồng tiệm. Giáo nói về lý phải nhờ cơ duyên mới được hưng khởi. Sự gần là tiệm thông với các hóa. Nay hóa riêng do sự sát nghịch muốn cho chúng sinh chán đời ô trược nên dạy đương cơ là Vy-đề-hy. Hán dịch là suy nghĩ là khéo tu quán,

Đại thánh trở đi, là nói hiện độ. Phật là cực thánh nên gọi là Đại. Phật từ luôn thương kẻ dưới nên gọi là Thùy Mượn lời thỉnh của Vy-đề-hy mà khắp chứng lý gọi là thừa cơ giảng pháp. Hiện sáng tướng ngọc là kinh nói: "Khi ấy, Thế tôn phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày khắp chiếu Vô lượng thế giới mười phương, rồi trở về trụ trên đảnh Phật, hóa thành đài vàng như núi Tu-di". Kinh nói: "Cõi nước Mười phương diệu đều hiện trong đó. Hoặc có cõi nước bảy báu họp thành". Lại có cõi nước thuần là hoa sen cho đến nói khi ấy Vy-đề-hy bạch Phật rằng:

Các cõi nước tuy rất thanh tịnh nhưng nay con thích sinh về thế giới Cực lạc của Phật A-di-đà.

Nếu trở đi, là nêu tướng quán, có hai: Một là nêu chung. Nếu có kẻ tục đời mạt pháp v.v... là kinh nói Như lai nay dạy Vy-đề-hy và tất cả chúng sinh đời vị lai quán thế giới Tây phương Cực lạc nhờ sức Phật sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh ấy; hai là, mặt trời lặn trở đi, là nêu riêng mười sáu pháp quán, không ngoài ba loại tức là Y báo, Chánh báo và ba nhóm vãng sinh. Nay thuận ba thứ này mà nêu sơ lược Y báo. Trước quán mặt trời lặn như chiếc trống treo cho tâm trụ chắc, chuyên tưởng không dời. Đây có hai ý, một là khiến quán mặt trời tâm sẽ không lăng xăng; hai là khiến tâm tưởng chánh hướng về Tây phương cho nên nói dùng nêu phương pháp hướng tưởng. Kế quán nước trong, rồi tưởng nước thành bằng. Bởi cõi ấy dùng lưu ly làm đất. Đất này khó tưởng, lại khiến tưởng băng. Nếu tưởng băng thành thì đất báu có thể thấy. Cho nên nói thật biểu thị cho đất lưu ly. Kế nêu quán cây, mà kinh chỉ nói: Các cây báu, hoa lá bảy báu đều đầy đủ, mà không có việc gió ngâm nhạc trời v.v... Bèn lấy lời trong Tiểu bản mà thành văn quán cây này. Cho nên kinh nói gió nhẹ lay động các hàng cây báu và lưới báu phát ra tiếng hay ví như trăm ngàn thứ nhạc đồng thời trổi lên, cho nên nói cùng nhạc trời đồng trổi lên. Kế là nêu quán ao. Kinh chép: "Có tám ao nước từ châu vương như ý sinh ra, chia làm bốn nhánh. Vàng ròng làm ao, nước Ma-ni ấy tưới lên các hoa, tiếng rất hay, giảng nói khổ, không, vô thường, vô ngã các Ba-lamật". Cho nên nói đem khế kinh mà hợp tiếng.

Quán nhục kế v.v... trở đi, là nêu Chánh báo. Trước nói quán hai Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí, vì hai quán này đều nói nhục kế, nên kinh nói: "Nếu muốn quán Quán Thế Âm Bồ-tát thì trước phải quán nhục kế trên đảnh, kế quán mão trời, ngoài ra các tướng cũng theo thứ lớp mà quán Thế Chí". Kinh nói trên đảnh, nhục kế như hoa Bátđầu-ma, trên nhục kế có một bình báu đựng đầy ánh sáng khắp hiệu Phật. Ngoài ra các thân tướng khác đều như Quán Thế Âm không khác. Đây là Như lai dạy người cốt yếu quán hai Đại sĩ. Hai Bồ-tát này sẽ là Bổ xứ nay đứng hầu gần bên, nên nói là nhìn thị giả... Kế là nêu quán Di-đà kinh chép: "Quán Phật Vô Lượng Thọ, từ một tướng tốt mà vào, chỉ quán sợi lông trắng ở giữa hai đầu chân mày cho rõ ràng". Thấy sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày thì tám mươi bốn ngàn tướng tự nhiên hiện ra. Há không phải là dạy môn pháp quán. Cho nên nói nghĩ nhớ sợi lông trắng mà thấy Như lai. Lại nêu quán ba nhóm. Dưới sớ nói rằng quán ba phẩm vãng sinh có hai ý: Một là khiến bỏ nhóm trung hạ mà tu Thượng phẩm; hai là khiến biết vị cao thấp tức là ba phẩm của Đại bản Hai ý này: Một là khuyên tự gắng làm; hai là quán người khác. Cho nên nay nói lược, để khuyên mình cố gắng. Tức người tu quán công có cạn có sâu, nên tướng vãng sinh chia làm ba phẩm. Nên nói đến khi nhắm mắt là nói thượng phẩm thượng sinh và thượng phẩm trung sinh. Vì kinh nói thượng sinh ngồi đài Kim cương; trung sinh ngồi đài vàng tía cho nên Đại Thượng Trân. Kế văn thành v.v... trở đi (văn kế nêu bậc dưới) là nói Thượng phẩm Hạ sinh kinh nói liền thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng Văn thành ấn hoại là Đại kinh quyển 27 chép: Ví như ấn sáp in vào bùn, ấn hợp với bùn, ấn mất thì văn thành. Đây là dụ cho phàm phu ấm hiện tại diệt thì ấm Trung hữu sinh. Nay mượn văn này để dụ cho Bồ-tát vãng sinh ở cõi này ấm diệt, thì ở cõi kia ấm sinh, nên biết khi chết tự thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng, là lúc ở nước kia sinh ấm vậy. Thành luận nói cực thiện cực ác đều không trải qua Trung ấm, như con thoi đã lìa tay. Trên tuy ba phẩm chỉ là nhóm thượng. Kế nêu chung về ba nhóm vãng sinh đều thoát luân hồi. Nói tùy ba nhóm là chẳng phải nói tùy người khác, bởi tùy mình tu hạnh nghiệp của ba nhóm thì đều có thể vượt tắt ngang năm đường, mãi mãi được không lui sụt.

Kinh Đại Bản chép: Vãng sinh nước An Dưỡng, vượt ngang năm đường ác, năm khổ là ở cõi này, năm đạo đều chẳng khởi khổ Thiên đạo dẫu vui vẫn còn đọa vào đường ác. Có thể gọi trở đi, là kết khen quán hạnh. Vi hạnh là khen ba thứ nghiệp, tuy là thân miệng làm thiện nay thuận lý tu đều thành hạnh vô tác u vi vô tướng.

Diệu quán là khen mười sáu quán tuy nương cảnh Y chánh An Dưỡng mà đều xứng tánh bặt đối đãi chiếu xét, tức là Viên diệu quán chẳng thể nghĩ bàn. Quán hạnh này khiến cho người tu đạt đến bốn Tịnh độ. Nếu còn đủ bốn kiến tư mà được không lui sụt thì là Đạo chí cực, là thuật yếu diệu nhất. Kết khen như thế, là ý khiến người nghe còn tu, còn kẻ chẳng ra gì thì khinh thường sinh tử chẳng cầu không lui sụt đối với yếu thuật này mà chê bai làm chướng người thì thật đau xót thay!

Kinh này nêu tông thể của kinh Tâm quán là kinh lấy quán Phật làm đề mục. Sớ nay dùng tâm quán làm tông, hai thứ này không khác mới là quán này. Vì hiểu rõ hoàn toàn khác Tiểu thừa. Tiểu muội duy tâm, Phật là từ ngoài có. Cho nên tâm Phật thể nó chẳng giống nhau. Còn người tu Đại thừa biết một tâm mình vốn đủ tánh Chư Phật, mượn cảnh tu quán, tướng Phật liền bày. Nay quán Di-đà Y chánh làm duyên bồi đắp tâm tánh, mà tâm tánh có đủ y chánh Cực lạc, do huân tập mà phát sinh. Tâm đủ mà sinh há lìa tâm tánh. Toàn tâm là Phật, toàn Phật là tâm. Suốt ngày quán tâm, suốt ngày quán Phật. Cho nên kinh mục cùng sớ lập tông, lời tuy chẳng đồng mà nghĩa không khác. Lại hiểu nếu quán Phật thì phải chiếu xét tâm, nếu chuyên quán tâm thì chưa hẳn đã gá vào Phật. Như tam-muội nhất hạnh quán thẳng một niệm, chẳng nhờ Phật khác để làm chỗ duyên. Như Bát chu kia là pháp quán này, phát chuẩn liền quán Y chánh An dưỡng, mà quán Y chánh thì không lìa tâm tánh, cho nên nói tâm quán. Nên biết quán này chẳng chuyên quán tâm, trong ngoài mà phân thì đây là quán ngoài, vì mượn Y chánh mà quán. Cho nên tên kinh gọi là Quán Phật Nếu nói về khó dễ, nay phải từ dễ. Như Pháp Hoa Huyền nói: Phật pháp rất cao, chúng sinh rất rộng, sơ tâm là khó. ba thứ Tâm, Phật, chúng sinh không sai khác thì quán tâm là dễ. Nay pháp quán này không phải chỉ quán Phật, bèn y cứ vào tâm quán mà từ thấp lên cao, dù tu Phật quán vẫn không gọi là khó. Cho nên biết kinh này lấy tâm quán làm Tông, ý ở chỗ thấy Phật, cho nên được lời và nghĩa chẳng khác đường. Lại nên hiểu pháp giới viên dung là thể bất tư nghì, làm tâm một niệm của ta cũng giống nêu thể làm chúng sinh thành Phật, làm Y làm chánh, làm căn làm cảnh. Một tâm một trần cho đến một cực vi trần thì đều là toàn thể pháp giới. Cho nên nêu một tức là toàn phần viên dung pháp giới. Đã toàn là pháp giới thì có một vật nào mà chẳng đủ các pháp. Như trong nghĩa Lệ. Sư Tịch Giải nói là: viên giáo trong Bốn giáo chỉ luận tâm đủ tất cả pháp. Thân sắc Y báo thì chẳng luận đủ, chỉ một Đốn Đốn một mới nói ba chỗ đều đủ các pháp. Ngài Kinh Khê dạy rằng: Viên giáo trong bốn giáo đâu từng chẳng gọi là ba chỗ đủ pháp. Nay tông này, nếu nói tâm đủ mà sắc... chẳng đủ thì cùng nhầm với lập kiến Tiệm viên so với Đốn Đốn kia thì cách nhau như trời với đất còn kém hơn dự tông này. Vì tất cả pháp mỗi pháp đều đủ tất cả pháp, cho nên nay tôi lập chỉ sắc, chỉ hương các nghĩa, nếu như thế thì sao kinh luận thường dùng một tâm mà chung lập quán cảnh của các pháp? Vì nếu quán các cảnh như sinh Phật, sự đã cách khác, năng sở khó quên. Còn pháp quán tâm gần mà lại yếu, đã là năng đạo đủ nghĩa dễ bày. Lại tức năng quán mà làm là quán tâm thì dễ dứt niệm. Diệu Huyền chép: Ba thứ không sai khác, quán tâm thì dễ, nếu quán cảnh khác cũng phải y cứ tâm. Kinh này chính là y cứ tâm mà quán Phật. Thật tướng là thể, tâm quán là tông thì mới có thể hiển phát thể rộng sâu của Trung đạo thật tướng. Vì nếu ngoài tâm mà quán Phật thì dẫu hay suy lý chỉ thấy thiên chân. Tức như Thiên cát pháp quán thân Phật, chỉ chứng tiểu lý. Nay y cứ Duy tâm mà quán Y chánh Phật, thì ngay đó liền hiển phát thể trung thật. Trung thì song chiếu, ba đế đầy đủ. Cho nên nói kinh này lấy tâm quán làm Tông, thật tướng làm Thể, văn riêng ở đây mà nêu Tông thể, thành nói quán trước hiển nói đế sau.

Thành trước, là nói quán văn tuy đủ nghĩa ba quán bốn độ, nhưng lời lại lược chung sợ mất ý, nghĩa là chỉ ý nói quán hạnh Đồng cư Tịnh độ. Cho nên nói quán xong thì riêng chỉ tông Duy tâm Diệu quán để hiển thể Trung đạo thật tướng. Thật tướng đã là cõi Thường tịch quang, nếu bảo mười sáu thứ chỉ quán tướng Y chánh của Ứng Phật thì đâu thể hiển bày thật tướng Tịch quang này. Nếu ở mười sáu thứ mà dùng Viên ba quán còn có thể cảm được Tịch quang Cực lạc, chẳng lẻ không thể cảm được ba Cực lạc kia. Lấy đây mà thành trước, Lạc bang là vàng báu... Các văn nghĩa thì đều nói bốn thứ nhân quả Tịnh độ. Hiển sau, là người tu nếu được ý của Tông thể này, thì biết nói đề là Phật năng thuyết, còn quán cảnh sở thuyết. Đồ chúng, y báo là tên chung. Như thế các nghĩa đều viên diệu, chẳng tiểu chẳng thiên, mới là danh tự đầu đề của kinh này. Nói quán là nêu danh tự đầu đề của kinh này. Nói quán nói đề hai thứ chung nhau là chỉ Tông thể.

Nói tên kinh, có hai: Một là tên (đề) riêng, bảy chữ đều gồm Năng thuyết, Sở thuyết, Năng quán, Sở quán, Chánh văn thích danh đều hiển bày đủ nghĩa. Nay sớ chỉ nói dùng thắng nhiếp liệt, lấy riêng làm chung là ý đặt tên đề. Vì mười sáu cảnh thì cảnh Phật là quý hơn hết nên nói Phật là thắng cảnh sở quán. Bởi mười sáu quán chẳng ngoài Y chánh và chủ tớ. Nếu luận về Y chánh thì Phật là Chánh báo, nêu chánh gồm y thì nhiếp cả Sáu quán mặt trời, băng, đất, cây cỏ v.v.... Nếu phân đồ chủ thì Phật là hóa chữ, nói chư bao đồ thì gồm cả Quán Âm, Thế Chí ba nhóm, chín phẩm... các quán. Cho nên quán tuy mười sáu mà nói Phật khắp đủ. Nên vào chánh văn dùng viên ba quán mà giải thích năng quán, dùng Diệu ba thân mà giải thích Phật sở quán. Phật đã nhiếp chung mười lăm cảnh kia há mỗi pháp chẳng phải đều là viên diệu ba đế ba quán ư? Hai là, kinh trở đi, là Đề tên chung, kinh Nho giảng giải có hai Huấn này, phép tắc muôn đời nên gọi Huấn pháp, trăm vua không đổi nên Huấn thường. Kinh Phật cũng thế. Mười giới cùng các pháp, ba đời không đổi. Lại do nghĩa mà giải thích kinh, do kim miệng của Đại Thánh nói ra pháp của mình đã chứng, nên gọi là kinh. Pháp Hoa Huyền nghĩa chép: "Giải thích tên chung, sẽ chỉ bày cho người học, chẳng thể chẳng nghiên cứu. "

Nhập vào văn có hai:

1. Dùng nghĩa giải thích tên đề, có hai: Một là nêu chú v.v... là khiến y các bộ, là nói ở nghĩa mà giải thích thông năm chương diệu huyền rất ủy. Cho nên văn ấy nói ở chung mà bảy phen cùng giải: Một là nêu chương; hai là dẫn chứng; ba là sinh khởi; bốn là khai họp; năm là liệu luyện; sáu là quán tâm; bảy là Hội dị.

Nêu chương khiến dễ nhớ giữ, khởi niệm là tâm cho nên dẫn chứng theo lời Phật mà khởi tâm tin. Sinh khởi khiến chẳng lẫn lộn mà khởi tâm định. Khai Họp, Liệu Luyện, Hội Dị... Là khởi tâm tuệ. Quán tâm tức nghe tức làm là khởi tâm tinh tấn. Năm tâm lập thành năm căn, dẹp bỏ năm chướng thành năm lực. Cho đến vào ba giải thoát. Nói lược bảy lớp ý chung như thế. Nay sớ nói lược chỉ nêu năm tên gọi.

2. Tùy giải thích có năm, một là giải thích danh (tên). Có hai, một là nêu, hai tất cả trở đi là giải thích đối chung mà lược nêu tức là ở ba chỗ mà nói về chung riêng. Về ước Hóa thì nêu các Đề có đủ chung riêng. Các giải thích Đề kinh khác đều lấy chữ kinh làm giáo năng thuyên. Các chữ khác đều là nghĩa sở thuyên. Ở đây mà phân chia thì rất trái ý chỉ Phật. Lại người pháp-thí đều là danh tự há không phải Năng thuyên đâu được một bề thuộc nghĩa sở thuyên. Chữ kinh chẳng thể một bề thuộc giáo. Như Diệu kinh chép: "Pháp Hoa kinh tạng sâu chắc kín xa, không ai đến được". Lại nói được Phật che chở trồng các gốc đức, vào nhóm chánh định, phát tâm cứu tất cả chúng sinh, thành tựu bốn pháp sẽ được kinh ấy. Sớ giải thích bốn thứ này là khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật. Tri kiến chứng lý gọi là được kinh. Hai thứ này há chẳng phải dùng lý làm kinh. Kinh Kim Quang Minh chép: "Chư Phật Mười phương thường nghĩ nhớ kinh ấy há khiến Chư Phật chỉ niệm ở giáo". Biết các thầy dùng Năng thuyên và Sở thuyên để giải thích các Đề kinh, rất mất ý chỉ, nay tôi đều dùng chung, riêng mà giải thích Đề kinh mới không lỗi mất. Từ chung trở đi là nói chung riêng có ba thứ. Nay giải thích hai tên chung riêng các kinh thì đều là năng thuyên. Vì chung riêng đều tự đủ giáo-hạnh-lý, chớ nói hai tên chỉ ở giáo. Nên biết chung riêng tự có tên giáo, tên hạnh, tên lý. Như một Đề riêng Phật nói là giáo, quán tức là hạnh, Vô Lượng Thọ Phật là lý chẳng lẽ không phải giáo riêng, hạnh riêng, lý riêng. Đem ba riêng này mà đồi chữ Kinh tức là giáo chung, hạnh chung, lý chung. Nay ở trong đó có giáo chung và riêng tức là chánh gọi là hóa. Gọi chung là nói đốn nói tiệm, quyền làm, quyền mở, ngoài luật luận đều gọi là kinh, nên gọi là chung. Gọi riêng, là tướng riêng rất nhiều, nay từ ba thứ là người pháp, thí đơn ba phức ba, và một đầy đủ, mà thành bảy riêng. Đơn ba là đơn nhân như kinh A-di-đà, Đơn pháp như kinh Đại Bát-nhã, Đơn thí như kinh Phạm Võng-Phức ba là Nhân Pháp như kinh Văn-thù Vấn Bát-nhã, pháp thí như kinh Diệu

Pháp Liên Hoa, người thí như kinh Như lai Sư Tử Hống

-người pháp-thí đầy đủ như kinh Thắng mang Sư Tử Hống Nhất Thừa Đại Phương Tiện Phương Quảng. Đem bảy riêng này cùng chung mà nên Phật pháp một đời.

Nay kinh trở đi là chỉ riêng kinh này vốn luận một Hóa. Nói kinh này là nói bảy riêng. Ở đây thuộc Đơn nhân mà nói. Tuy thuộc Đơn nhân, nhưng Nhân tự phân năng thuyết là Thích-ca, sở thuyết là Di-đà, dùng hai nhân này mà làm riêng. Kinh đồng một hóa nên nói tên chung. Dựa vào chữ quán họp thành người pháp, năng theo sở, lấy nhân mà gồm, cho nên lược bỏ không nêu. Nhưng phân chung riêng chẳng cùng giải thích, cho nên chưa làm sáng tỏ.

Hạnh trở đi, là hạnh chung riêng. Các kinh có dụng một hạnh mà làm tên riêng để đối với tên chung. Kinh tức hạnh chung. Nếu luận về hạnh riêng số ấy vô lượng khó có thể nói hết. Nay vì tăng số để bày với người tu mà có thể hiểu được, một như Nhất hạnh; hai như hai trí; ba như ba quán; bốn như Tứ niệm xứ; năm như Ngũ căn; sáu như Lục diệu; bảy như Thất giác chi; tám như Bát chánh đạo; chín như Cửu thiền; mười như mười độ. Cho đến trăm ngàn muôn ức vô lượng hạnh, đây là hạnh riêng đều đến Niết-bàn, rốt ráo bốn đức, nói lược Thường Lạc. Y cứ Niết-bàn hạnh riêng tức chung, cho nên là hạnh của kinh. Trong Thích Thiêm lại y theo nhân quả mà xếp vào hạnh chung riêng. Nên biết ý ấy không phải gọi đến quả thì hạnh mới chung, y theo chỗ tu nhân gọi là hạnh riêng. Y cứ một quả thì riêng này liền chung. Đây chính là khi riêng mà luận chung, lúc chung mà nói riêng, há chỉ hạnh này, giáo lý cũng thế. Như lấy cơ mà ứng đối giáo chung riêng. Phật dùng một âm giảng nói pháp, chúng sinh tùy loại đều được hiểu. Đều hiểu thì có riêng, một âm thì ứng chung. Đều hiểu mà không lìa âm, một âm mà chẳng ngại đều hiểu. Như Kim Quang Minh Huyền đem văn tự năng thuyên làm giáo chung, vì năng thuyên làm giáo riêng. Do đó tức là bốn Tất đàn, mỗi Tất đàn đều dùng văn tự, mỗi văn tự chẳng lìa tất đàn. Như đem tên thật mà đối lý chung riêng, nhiều tên không lìa một thật, một thật chẳng ngại nhiều tên, nên ba thứ chung riêng đều đồng thời. Đây như trong nhạc có giọng đờn sáo, y cứ tiếng thì chung, y cứ khúc thì riêng, chung riêng hai dụng chẳng ngại nhau. Lý tuy trở đi, là lý chung riêng. Tên và thật đối nhau, tên tức là môn, bèn dùng bốn môn mà bày một lý, cũng là sự riêng mà đối lý chung. Bởi các kinh phần nhiều dùng một sự mà bày lý được lý tên riêng. Như Đề kinh này lấy tên Phật Vô Lượng Thọ làm lý riêng để đối với tên chung, kinh thì lý chung. Nếu ở một Hóa dùng lý chung riêng mà giải thích đề kinh, thì không gì bằng bốn môn dùng làm lý riêng. bốn môn là hữu môn, không môn, vừa hữu vừa không, chẳng phải hữu chẳng phải không); bốn môn tên chung cần chia bốn giáo, đó là ba Tạng giáo: Thông giáo, Biệt giáo, và Viên giáo; bốn giáo đều mở có đủ bốn môn, bốn lần bốn thành mười sáu môn. Nói ở lý riêng thành mười sáu lý. Lý còn chẳng phải một, làm sao được có mười sáu. Nhưng lý vô ngại, có công năng ứng đủ các môn. Cũng như hư không kia, thể nó thật không phải vuông tròn lớn nhỏ. Vì vô ngại nên hay tùy các vật vuông tròn mà thành vô lượng tướng. Từ vô lượng thuyết tức là lý riêng, thể là một không, tên là lý chung. Không chung chẳng riêng, không riêng chẳng chung, chung riêng họp nêu thành một đề mục.

Đây y cứ v.v... trở đi, là kết. Trong năm thời mỗi đề kinh đều đủ chung riêng. Nếu chẳng dùng giáo hạnh lý này mà phán thì nhọc sức phân chung riêng hoàn toàn không lý do. Nhưng vô lượng hạnh gặp một Thường Lạc, bốn giáo bốn môn đồng nói một lý. Nếu chuyên Phương Đẳng chưa kham liền dự lấy ý Pháp Hoa vượt tiết mà nói. Sau khi Phật diệt độ rồi mà giải thích các kinh chẳng y cứ Pháp Hoa nguyện cùng một Hóa.

Lại y cứ trở đi, là y cứ một Đề, một Hóa kinh mục hai tên chung riêng đủ ba thứ như giáo.... Quan hệ đã rộng tư tu hoặc khó, cho nên nay giải thích Đề kinh là nói giáo hạnh lý rõ ràng có thể thấy, ba thứ này đều riêng, vì đối với chữ kinh tức là ba chung. Cho nên nói mặc tình có ý chung riêng. Muốn cho người tu ở một đề này mà nói giải giáo, khởi hạnh năng quán thấy thật lý Phật. Lại ở v.v... trở đi, là y cứ một chữ, một đề tuy y cứ mà liên hệ cả ba tên. Nay nêu một chữ mà giải hạnh. Chứng ba chữ đều được đầy đủ. Ở đây lại có hai, một là nói chữ gồm giải thích. Trong Đề nói chữ rất có thể hiển bày cả giáo, hạnh, lý. Cho nên dẫn Thích luận nói sở hành như sở thuyết để chỉ trong thuyết có bao gồm hạnh lý. Như là chân như, như tên không khác, một chân giác tánh vật và ta không khác, ba đời bình đẳng, khế họp với lý như này mới được tâm miệng nói làm chẳng khác. Cho nên kinh Kim cương Bát-nhã nói: "Thế nào là giảng nói cho người nghe, như như bất động". Kinh Pháp Hoa chép: "Các pháp không làm tòa, chỗ này vì nói pháp, sự tướng giải như, hai vật giống nhau xem là chẳng khác, cho nên giải thích kinh như thế". Ba tạng là để truyền lời Phật nói giống như bình chế nước tên gọi Văn như, giảng giáo không như thế lấy chung hai Đế tương tức làm như. Riêng thì nghe trung đạo làm như. Viên dùng văn tự tánh lìa làm như ba giáo y cứ theo đây mới gọi Văn như. Luận ở lý quán tâm miệng lý một mới được nói hạnh như như không khác. Đây khiến người nói hạnh khế lý như.

Phật tức trở đi là các chữ cùng giải thích đầy đủ. Phật lại là nguồn gốc giác thể rốt ráo chẳng tịch chẳng chiếu nên thuộc Pháp thân. Chữ quán tức là trí tuệ thanh tịnh, tịch mà thường chiếu, cho nên thuộc Bát-nhã. Vô Lượng Thọ là tự tại thần thông, chiếu mà thường tịch, cho nên thuộc giải thoát. Nay đem các chữ phân đối ba đức rất có lý do rất sâu xa. Vì sao, vì ở một chữ mà nói giáo, hạnh, lý. Tuy y cứ nói chữ nhưng nghĩa đủ ở ba. Đã y cứ tu mà biện còn thông với giáo trước mà lại chưa nói mỗi chữ đủ ba. Nên nay dùng riêng ba đức Niết-bàn mà đối các chữ, bèn bày các chữ tánh đều có đủ ba. Không phải giáo trước người sở năng nghĩ nói. Vì ba Đức tánh vốn viên dung mỗi pháp đều đủ. Cho nên ngay Pháp thân chẳng phải Pháp thân, Pháp thân phải đủ Bát-nhã giải thoát. Ngay nói Bát-nhã không phải là Bát-nhã, Bát-nhã phải đủ giải thoát Pháp thân. Ngay giải thoát chẳng phải giải thoát, giải thoát phải đủ Pháp thân Bát-nhã. Ba đức tức là giáo, hạnh, lý. Bát-nhã là giáo, trí ở nói. Giải thoát là hạnh, dụng từ duyên. Pháp thân thuộc lý là sở hiển. Chữ Phật đã là lý Pháp thân tức là có hai đức và giáo hạnh. Chữ quán đã thuộc giáo Bát-nhã, cũng đủ hai đức và hạnh lý. Vô Lượng Thọ đã là hạnh giải thoát cũng đủ hai đức và lý giáo. Nếu chẳng thế thì đâu được tức một thấu ba, tức ba thấu một.

Hỏi: Vốn dùng một chữ mà đủ giáo, hạnh, lý, nay đâu được đem Vô Lượng Thọ ba chữ mới đủ ba thứ, thì chẳng gọi là y cứ một chữ.

Đáp: Lấy Đề các chữ đối ba đức mà giải thích, đây là Diệu đàm quý ở được ý. Muốn cho người tu biết tánh ba đức ở khắp tất cả chỗ, một chữ một câu, một kệ một phẩm một bộ một kinh, một thời một hóa. Cho đến tất cả y chánh sắc tâm, nhiều cũng ba đức, ít cũng ba đức. Một hạt bụi ba đức chẳng nhỏ, một biển cả ba đức chẳng lớn cho nên dẫn kinh Hoa Nghiêm chép: "Trong một mà hiểu vô lượng đều bằng nhau". Nếu được ý này. Nay Diệu quán này có phần tạo tu, ứng với sắc một tướng có thể chiếu ba thân. Y báo một trần tức là cõi Tịch quang, cho nên mười sáu quán đều chiếu ba đế. Nếu không tin thì phụ lòng Tổ ta lập pháp này.

Ở một v.v... trở đi, là y cứ một chữ để suy xét, có ba:

1. Chánh xét lường, trên cùng diệu chỉ, từ rộng đến hẹp. Nay xét công đức từ ít đến nhiều. Một chữ còn nói lý Đại Niết-bàn huống chi là tất cả kinh đâu chẳng tròn khắp.

2. Cho nên v.v... trở đi, là dẫn kinh để làm chứng như kinh Kim Quang Minh và các kinh Đại thừa, nói nhiều về việc này.

3. Nếu chẳng trở đi, là kết nay được. Chẳng nói một chữ tròn đủ ba đức, các kinh đã nói một câu một đề mà thọ trì thì công đức vô lượng, vô biên liền thành nói suông. Tự chẳng phải đạo tràng được vào tam-muội phát truyền tổng trì sao có thể khéo nói tự tại như thế.

Trước giải thích Phật, ở riêng mà nói rộng. Bỏ chung mà giải thích riêng. Văn nói: Giải thích chữ Phật, tức chánh y cứ danh hiệu Phật mà nêu sáu tức, trước là dịch tên. Tiếng Phạm là Phật-đà, Hán dịch là Giác. Tức nói giáo chủ có hiệu riêng là Thích-ca Mâu-ni. Hiệu chung có mười. Nay nêu hiệu thứ chín là Phật, đã là cực quả, thì rốt ráo giác. Luận Khởi Tín chép: "Giác tâm mới khởi. Tâm không có tướng đầu, xa lìa niệm vi tế, nên tâm tức thường trụ, gọi là cứu cánh giác". Giác này viên tịnh không có đối đãi, chúng sinh và Phật y chánh dung nhiếp nhau, mười phương ba đời thấu suốt không ngoài, năm trụ hai tử dứt sa-ch không sót. Vô lượng sâu xa dứt hẳn nghĩ bàn, cưỡng gọi là Diệu giác, nghĩa giác này có sáu tức. Tức là nghĩa. Nay Đức Thích-ca chính là rốt ráo, là Giác viên tịnh. Tất cả phàm thánh toàn thể đều là giác này. Tuy toàn thể là đó nhưng vì nhân quả mê ngộ nên tướng chẳng đồng. Nên dùng sáu thứ để phân biệt, đó là lý, danh tự, quán hạnh, tương tợ, phần chứng và cứu cánh. Nhưng nếu chẳng biết tánh nhiễm tánh ác. Chỗ có nhiễm ác thì chắc chắn phải đoạn phá, thì làm sao mà luận toàn thể là đó ư? Toàn thể là cho nên khỏi thoái khuất, sáu phân biệt nên khỏi thượng mạn sáu chẳng lìa tức, tức chẳng ngại sáu. Sáu tức nghĩa thành thì viên vị có thể nói.

Hỏi: Nói Phàm thánh toàn thể tức Phật, là tức tự mình sẽ thành Phật hay tức Phật Thích-ca đã thành.

Đáp: Tức đương quả của mình hay Thích-ca đã thành thì thể của hai Phật này rốt ráo chẳng khác. Cho nên các quả Phật là sinh tánh Phật, mê thì đều mê, thấy thì đều thấy, cho nên Phật mình hay khác, đối với sắc tâm này đều có thể nói ở nghĩa sáu tức. Lại nên biết, nghĩa của sáu tức chẳng chuyên ở Phật. Tất cả giả thật ba thừa trời, người, thấp nhất cho đến sắc tâm loài sâu bọ địa ngục thì đều phải sáu tức mà nói trước sau. Đó gọi là lý sâu bọ, danh tự cho đến cứu cánh sâu bọ. Nay giải thích giáo chủ, nên ở Phật mà nói. Vì luận mười giới đều là lý tánh thì không gì chẳng phải pháp giới, mỗi pháp không đổi, cho nên danh tự khứ chẳng chỉ hiển Phật mà cả chín cõi cùng bày. Còn như quả thành mười thứ đều rốt ráo. Cho nên sâu bọ v.v... đều nói sáu tức.

Niết-bàn trở đi là ở giác nói rộng, có sáu. Một là lý tức. Sáu thức tức tên đều là sự lý thể không hai nghĩa mà sự có nghịch thuận, Năm thứ như danh tự..., là sự thuận tu, chỉ một lý tánh, thuần là sự nghịch tu. Sự nghịch thuận này cùng lý vốn giác, thể đều chẳng hai. Tên thuận nghịch do đâu mà lập; vì biết chẳng hai nên sự đều họp lý, gọi là thuận; vì không biết nên sự đều trái lý, nên gọi là nghịch. Năm thứ như Danh tự..., hoặc cạn hoặc sâu đều biết đều thuận. Nếu trước lý tức chỉ mê chỉ nghịch, mà sự mê nghịch cùng lý giác ấy chưa hề tạm trái, nên gọi tức Phật. Vì sao như thế, vì chúng sinh tánh có nhiễm ác, chẳng thể thay đổi. Tánh ấy tròn sáng, gọi là Phật. Tánh nhiễm tánh ác toàn thể khởi làm, tu nhiễm tu ác, lại không tự thể riêng. Toàn tu là tánh nên được mê sự, không phải lý Phật, vì toàn cho nên gọi lý tức Phật. Tức dùng lý này khởi hoặc tạo nghiệp, luân hồi sinh tử mà chẳng biết toàn sự là lý. Nhiều kiếp dụng lý nhiều kiếp chẳng biết. Chẳng cho chẳng biết thì không phải lý Phật. Vì cho nên gọi lý tức Phật. Vì toàn chẳng biết nên không phải năm tức sau. Nhưng lý tức Phật mà rất đổi khác. Vì nó toàn thiếu giải hạnh chứng tức, chỉ có lý tánh tự tức này. Lại lý tức Phật, không phải ngoài sự chỉ lý thành Phật, bởi nói ba chướng, lý toàn là Phật. Lại còn nên biết, chẳng gọi chướng tức Phật, mà gọi là lý tức Phật, là muốn bày năm thứ sau có tu đức. Một vị này chỉ là lý tánh. Lại chướng tức Phật thì tên nó cũng thông. Vì năm thứ sau người đều hiểu rõ ba chướng tức là Phật. Giải thích làm ba, một là dẫn các kinh mà nêu tức. Trước dẫn Đại kinh phẩm Ca-diếp chép: "Chúng sinh tức là Phật". Vì sao? vì nếu lìa chúng sinh thì không được Tam-bồđề. Phẩm Như lai tánh, Ta tức là Như lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh tức là nghĩa ngã. Nghĩa Ngã như thế từ xưa đến nay thường bị vô lượng phiền não che lấp tâm tánh của chúng sinh không thể thấy được. Như cô gái nghèo, trong nhà có nhiều kho vàng ròng, người nhà lớn nhỏ đều không biết. Lúc đó có người lạ khéo biết phương tiện, cho đến ở nhà ấy mà đào kho vàng lên. Lại nói thí như nhà vua có đại lực sĩ giữa mày có hạt châu Kim cương, đấu nhau với các lực sĩ khác, mà lực sĩ ấy lấy đầu ra cũng, hạt châu trân trán lọt vào trong da mà không tự biết chỗ có hạt châu là mụt ghẻ, liền nhờ thầy thuốc chữa trị. Đến khi thầy thuốc lấy gương soi mặt thì châu kia sáng ngời hiện rõ trong gương. Như lai tạng trải mười dụ, kinh ấy có mười đoạn văn, một là pháp chín dụ, một là sở dụ, chín là năng dụ, vì sở từ năng, nên nói mười dụ. Một pháp là kinh nói Phật bảo Tuệ Bồ-tát Kim cương rằng: "Ta dùng Phật nhãn quán tất cả chúng sinh, trong tham, sân, si các phiền não có trí Như lai, mắt Như lai, thần Như lai ngồi kiết già sừng sững bất động. Này Thiện nam tử, tất cả chúng sinh tuy ở trong các đường trong thân phiền não mà có trong Như lai tạng, thường không nhiễm ô, đức tướng đầy đủ như ta không khác. Do đó văn sau liền nêu chín việc để dụ cho pháp ấy, đều có văn xuôi, Trùng tụng. Một là dụ thân Phật hoa héo; hai là dụ về núi ông toàn mật; ba là dụ về trấu cám lúa gạo; bốn là dụ về phân dãi vàng ròng; năm là dụ nhà nghèo có kho báu; sáu là dụ trong quả Am-la có hột; bảy là dụ áo rách tượng vàng; tám là dụ gái nghèo có thai quý tử; chín là dụ đốt khuôn đúc tượng, dụ về ác rách có vàng? Kinh kệ nói ví như cầm tượng vàng đến nước khác mà giấu trong áo xấu rách bỏ ở chỗ vắng. Người có thiên nhãn thấy được bèn bảo với mọi người mà chùi bỏ vật dơ bên ngoài thì được tượng vàng ròng, mọi người đều vui mừng. Thiên nhãn của ta cũng thế xem thấy các loại chúng sinh kia bị nghiệp ác phiền não trói buộc, sinh tử dẫy đầy các khổ. Lại thấy chúng sinh ấy trong vô minh bụi nhơ mà tánh

Như lai bất động không hề bị hủy hoại. Dụ khuôn đất. Kinh kệ nói: "Ví như đúc tượng vô lượng vàng ròng. Người ngu thấy bên ngoài chỉ là khuôn đất cháy đen. Thợ đúc đợi đã nguội mở khuôn thì tượng vàng hiện ra các chất dơ đều sạch, tượng sáng đẹp rực rỡ. Ta dùng Phật nhãn thấy các loài chúng sinh cũng thế. Bị bùn lầy phiền não bao chặt nhưng đều có tánh Như lai. "

Nhà tối trở đi, là kinh Niết-bàn có chép: "Như trong nhà tối là trong giếng có các báu. Người cũng biết nhưng tối tăm không thấy. Có người khéo dùng phương tiện đốt đèn sáng soi vào mà thấy được. Người này không hề sinh niệm là nước và báu xưa không nay có". Niết-bàn cũng thế, xưa vốn tự có, chẳng phải nay mới có. Niết-bàn đại trí dùng phương tiện thắp đèn trí tuệ khiến các Bồ-tát thấy được Niết-bàn. Văn này chỉ dẫn tăm tối và giếng có đủ báu để chứng lý tức, không lấy văn người cũng biết... các dụ đều thế. Nên biết cáo dụ lý gồm Viên biệt. Nếu nói ba chương nhất định che Phật tánh, phá chướng mới hiển bày. Đây cũng còn thuộc về Biệt. Nếu toàn tánh thành chướng, chướng tức Phật tánh, đem các đức chướng bất tư nghì mà tiêu thì các dụ đều viên mới là văn này dụ lý tức. Cho nên dụ Như lai tạng chỉ quán hiển biệt, còn văn này hiển viên. Kế kinh ngài Tịnh Danh nói đều như, lời còn mười thông, nay phải hiểu là viên. Kế kinh Bảo khiếp quyển hạ nói Thắng Chí Bồ-tát hướng về Phật nói kệ rằng:

Giới mình và pháp giới Giới chúng sinh cùng đồng Giới mình tức tâm pháp Pháp giới tức Phật pháp.

Vì Phật dùng pháp giới làm thể, nên đối với giới chúng sinh liền thành ba pháp. Tâm sinh ở nhân, Phật pháp ở quả, ba thứ không sai khác nên nói một giới không giới khác.

Đây là v.v... trở đi, là ở Bản giác mà nói Phật. Trước dẫn các kinh tuy nói tức Phật, nhưng cũng chưa đích thị là tước giác liễu, lại chỉ ba chướng thể toàn là lý. Nay nêu lý này ở đó mà chiếu rõ, gọi là Bản giác nghĩa Phật liền thành. Ở đây tự phân hai:

1. Chánh nêu nói đây là cho Đại kinh ở trên nói: "Chúng sinh tức Phật". Các dụ nói vật báu, Tịnh Danh nói đều Như, Bảo khiếp nói pháp giới đây đều là Bản Tánh Viên trí, không phải là ba Bát-nhã dung tức mầu nhiệm trí chẳng gọi là viên. Biết tất cả pháp mỗi pháp đều nhận tất cả pháp. Toàn pháp là trí, toàn trí là pháp, đối đãi này dứt thì gọi là các pháp Viên giác. Các pháp bèn là sinh Phật y chánh. Ba đời mười phương, các thời xứ này đã toàn là trí, sao lại có một xứ một vật một trần thể chẳng sáng suốt. Nhưng sáng suốt không phải tâm ý thức bằng được. Cho nên luận Khởi Tín nói về nghĩa Bản giác rằng tâm thể lìa niệm không đâu chẳng khắp đều như cõi hư không. Bản tánh sáng suốt đã lìa niệm sao dùng tình thức mà cầu tìm. Đó gọi là bất tư nghì trí chiếu Bồ-đề. Chớ nhận lậu tâm sáu đường trí chứng Ba thừa làm tướng. Bản giác sáng suốt, Giác của Diệu giác mới là lý Phật, toàn tu ở tánh là chỗ nói này.

2. Tuy năm v.v... trở đi là ngăn tình. Tình chấp là nói có các thứ nghiệp phược hoặc vô minh trói buộc sao lại nói chúng sinh tức là Phật? Cho nên ngăn mà bảo rằng: Tuy nghiệp đến vô gián mà đều đương thể là ba giải thoát. Tuy kiến tư trái ngược mà lý Bản giác từ trước chẳng còn. Hoặc nghiệp toàn là tánh đức chỉ với Phật tánh, há có thể lại làm hoại lý Phật, dao chẳng tự làm thương tổn mình.

Ba lý này v.v... trở đi, là đối bốn sự nói về lý thế gian thường trụ, tức là mười pháp giới bao trùm khắp thế gian, mỗi việc đều trụ ở pháp vị chân như. Pháp vị là thường, thể tướng cũng thường. Nhưng đời có hết mà nói thường, là vì tất cả pháp tức chân thật tánh, mà tánh thì không thay đổi, nên nói là thường. Nếu nói vì thay đổi mà không được nói thường thì đây cũng gọi là tình kiến. Vì sinh pháp tức tánh cho nên thường pháp trụ diệt tức tánh cho nên thường, tức tánh của thường chẳng phải thường không thường, chẳng thể nghĩ bàn. Nói thiên mà ý viên, cho nên có thể nói một sinh một diệt đều là trung đạo. Chỉ sinh chỉ trụ chỉ dị chỉ diệt. Pháp Hoa Tích Môn hiển bày trụ há trái mà không như không phải diệu. Bản tích khác mà một bất tư nghì lý này bí diệu chỉ Phật mới thấy, cho nên nói là rõ ràng. Nay trí ta thành Bí Diệu quán, tuy là nhục nhãn mà gọi là Phật nhãn có thể thấy được Bí tạng nên nói là rõ ràng. Cho nên Diệu Lạc khen rằng: Hiển bày sáng tỏ gọi là Chân Bí, Lý chân Bí tức là tướng đời thường. Vì tướng đời thường nên chúng sinh tức Phật. Vì lý diệu này nên có Phật giáo hóa thì chẳng ích một mảy may, mà không có Phật cũng chẳng hao tổn một mảy may. Được năm tức đâu lấy gì làm cao, lý tức mất đi chưa hẳn đã thấp. Đối với bốn sự này mà bày lý Phật.

Như trở đi, là danh tự tức, ở đây đến rốt ráo đều là tu đức. Nên nói về Tổn Ích và cao thấp. Nói danh tự tức Phật là Thỉ tu đức. Nghe lý tánh trước là tên năng thuyên. Nhưng có thâu giản. Thâu thì tai nghe pháp âm, bất luận là mùi vị cho nên khác với toàn không nghe, đều ở vị này. Giản thì chưa được trọn nghe khác với nội phàm, còn thuộc lý tức. Với bảy phương tiện chưa hiểu được diệu danh thì đâu biết tức Phật. Ở đây có hai:

1. Đem dụ chỉ danh tự, có hai: Một là, mất chẳng nghe. Lý tuy là Phật nhưng toàn thể ở mê, Phật ra đời chẳng nghe, tên kinh chẳng biết ở đây bèn chỉ lý là mất; hai là, nếu Phật trở đi, là nghe gọi là được. Sáu tức mà nói về Phật. Cho nên danh tự này chỉ y cứ Tam bảo và mười hiệu. Đêm dài vô minh Phật ra đời khiến sáng, mọc lên mặt trời bản trí mà biết ánh sáng Tam bảo chiếu soi thế gian. Sóng Sinh tử to, không Phật cũng có thể ở đây mở cửa cam lộ, khiến cho biết mười hiệu là vị thường trụ. Ánh sáng này, mùi vị này chính từ tâm tánh chúng sinh phát ra, rồi lại khiến chúng sinh hiểu ánh sáng mùi vị này tức là bản tánh Phật do nói v.v.... là dụ cô gái nghèo nhà có báu. Trước đã chẳng biết nhà có kho báu, chỉ chịu nghèo khổ. Nhờ chỉ cho mà biết. Báu tuy chưa đào lên nhưng đã vui mừng trước. Các pháp dụ này đều chỉ nghĩa có biết. Năng tri sở tri tức là Danh tự Phật.

2. Cho nên trở đi, là dẫn người nói tức Phật. Tiếng Phạm là Tu-đạt-đa, Hán dịch là Thiện Thí, cũng dịch là Cấp Cô Độc. Kinh Niết-bàn quyển 27 chép: "Nước Xávệ có trưởng giả Tu-đạt-đa cưới vợ cho con, đến thành Vương xá, nghỉ đêm tại nhà San-đàn-na, thấy vị Trưởng giả ấy nửa đêm thức dậy sửa soạn sắp đặt nhà cửa, bèn hỏi sẽ mới vua Ma-già-đà chăng? Thì đáp là thỉnh Phật. Tu-đạt mới nghe thì toàn thân nổi ốc, lại hỏi nay Phật ở đâu thì đáp ở Tinh xá Ca-lan-đà. Tu-đạt nghĩ muốn thấy. Lúc đó bỗng thấy ánh sáng như ban ngày, bèn tìm đường mà ra, cửa thành tự mở, gặp Phật nghe pháp mà chứng quả Tu-đà-hoàn". Sớ nói cửa lớn tức là cửa thành. Nay nói toàn thân nổi ốc tức là kinh sợ. Nghe danh sinh giác tức là bản tánh Phật. Nếu luận Đại kinh kể việc xưa là mới chứng Sơ quả, nghiệm ra khi nghe danh Phật thì chưa hiểu biết giác tức là Bản tánh và ở khoa trước Tam Bảo, mười hiệu cũng thuộc Tiểu. Nay vượt tiết lấy ý mà nói thì năm thời chỉ bày thân tướng danh hiệu nói pháp độ người, cho đến người nghe một niệm hiểu qua, mỗi việc đều là toàn tánh khởi tu, ngay đây đều là bản tánh Phật pháp. Như trước một hóa tăng số chành vi ác đều hội viên thường, bốn giáo bốn môn chỉ nói một lý không từ vượt tiết đâu tiêu được văn ấy. Huống chi văn nói Niết-bàn khai hội. Nên y cứ sợ sệt mà chỉ danh tự Phật.

QUYỂN 2

Quán hạnh tức. Pháp quán này khác với thường ngồi thẳng quán tâm tánh, cho nên nhờ Phật khác mà làm chỗ duyên. Nhưng là Đại thừa biết tâm thành Phật, Phật tức là tâm, quán ấy chưa thành bị trần quấy động. Trước tự viên nghe quán diệu cảnh Phật, đến biết thứ vị siêng năng thực hành năm hối. Nếu chưa phát phẩm thì những người tu này đều thuộc danh tự, vị ấy rất dài lâu. Nay nói đối trần tức thành quán Phật, trong ấy niệm niệm tâm thường hay biết gọi là quán hạnh Phật.

Về y cứ một Phật, tức nêu trước tập tức tâm quán tướng. Đây là danh tự vị tiến lên, chẳng riêng hiểu tên mà còn hay tu quán chỉ chưa vào phẩm, không phải vị quán hạnh. Quán tướng Phật, như trong kinh này tám muôn tướng tốt, không phải tưởng kém yếu mà duyên đến được. Cho nên kẻ sơ tâm trước phải quán mặt trời lặn, dần dần quán đất cây, cho đến tòa, tượng. Quán đã sâu chắc rồi mới quán thắng thân (thân cao quý). Nay theo Bát Chu thì kẻ sơ tâm trước quán tướng ngàn xe, thứ lớp tưởng ngược lên đến nhục kế, ba mươi hai thứ là tướng hạ phẩm. Lại từ chân mà khởi, có thể làm buộc hệ tâm đầu tiên mà không cần phải dùng mặt trời lặn làm duyên. Hoặc tướng hoặc vẻ đẹp đều y theo thân chỉ có sắc vàng. Cho nên nói như tượng đúc vàng ròng. Sắc tướng này tuy từ tâm tưởng như ở trước mắt cho nên cùng mắt làm đối. Nói diệu sắc tức là sắc chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Do người tu đã thấu hiểu, nên biết sắc chỉ tâm, biết tâm chỉ sắc, năm căn đối nhau, huống là duy tâm sắc tưởng ở ngoài tâm. Sắc này chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải không sắc, mà hay song chiếu sắc không phải sắc. Đã lìa hình tưởng nên gọi là Diệu sắc. Không phải do ba quán chẳng thấy Diệu sắc, không phải do Diệu sắc chẳng thành ba quán. Cảnh quán giúp nhau, trần niệm không ngăn cách, mới có thể được vào vị quán hạnh; từ "Mở mắt trở đi" là nói quán thành xứng tánh cùng khắp, diệu tâm làm tướng, diệu tướng phát tâm, tâm tâm chẳng nghĩ, thành quán vào phẩm trần duyên chẳng động, Phật thường hiện tiền. Nhắm mắt thấy rõ ràng, mờ mắt chẳng mất. Ngoài sáng thấy Phật trong tối cũng không mất. Tánh không ngăn cách, Phật đâu tạm thiếu. Mỗi tướng hải trang nghiêm Pháp thân. Tướng là tướng lớn, hảo là tướng nhỏ, quán lớn phát nhỏ gọi là lưu xuất (phát ra). Kiếp nước tuy lớn chỉ đến Nhị thiền. Tướng Phật khắp cùng gọi là pháp giới. Lại dùng phần dụ mà hiển cùng khắp quán hạnh mắt Phật gọi là Chu mâu (mắt khắp). Mắt này mà quán chỗ nào cũng thấy Phật.

Hỏi: Kim Quang Minh Huyền Nghĩa nói quán ở ba Đạo hiển bày ánh sáng vàng. Tợ vị còn nói nhắm mắt thì thấy mở mắt thì mất. Nay quán ba thân, vị ở quán hạnh làm sao nhắm mở đều được thấy?

Đáp: Đó là nói lý tánh đức ánh sáng vàng. Lý này lý ở Sơ trụ hiển nhiên mà thấy, cho nên ở tợ vị cũng nói về được mất. Nay đeo sự định, nhờ ứng sắc ấy quán ở ba thân, vì ứng tướng ấy phàm tâm có thể thấy. Cho nên lý ba thân tuy chưa hiển bày mà chẳng ngại ứng sắc trước hợp với định, cho nên khiến nhắm mở mắt đều thấy thân Phật. Như dùng ba quán mà quán mặt trời lặn kia, tuy quán chưa thành mà nhắm mở mắt đều thấy mặt trời. Cho nên tuy sự lý một niệm đồng tu, mà lý khó sự dễ. Sự dễ cho nên trước hiện, lý khó nên phát sau. Vì thế tam-muội Ban Chu dùng ba mươi hai tướng làm sự cảnh, tức lấy không giả trung làm lý quán. Cảnh quán tuy đồng thời mà tu cảnh sẽ trước thành. Nhờ cảnh tiến quán, nhờ quán hiển cảnh. Lại tiến lại hiển mà từ phàm nhập vào thánh. Cho nên biết không trụ đối. Tợ như mở nhắm được mắt. Đây ứng với sắc mà được thành quán hạnh vì nhắm mở đều thấy. Chẳng biết sự lý khó dễ cạn sâu tướng này trái văn đâu thể giải thích.

Từ "Niệm" v.v... trở đi, là các Phật bằng nhau tức là y cứ một Phật bằng Chư Phật. Vì thành quán nên không thể chẳng phan duyên, nên lấy một Phật Di-đà làm cảnh. Tuy quán một Phật, nhưng nào khác mười phương, tuy chiếu hiện nay đâu khác quá vị, bày tất cả chẳng lìa Adi-đà. Bởi Di-đà là một của vô lượng, cho nên một có thể bằng vô lượng; từ "Một thân" trở đi, là nói Chư Phật đồng ba pháp nghĩa là Phật đồng với tất cả Phật kia, vì Phật Phật đồng được ba pháp. Thân là Pháp thân, trí tuệ là Bát-nhã, mười Lực, bốn vô sở úy là giải thoát, cùng là ba thân ba Niết-bàn bằng nhau. Thân trí nói một, là hiển ở Chư Phật pháp báo chẳng khác, ứng dụng cũng đồng, cho nên lực vô úy kết là cũng thế, đồng một thân trí. Bồtát trong nhân phần phá vô minh đồng Diệu giác chỗ chứng ba pháp. Vô minh phá hết thì đồng đẳng với ba pháp của Chư Phật; ba pháp Chư Phật đã chẳng hai, cho nên Di-đà ba pháp chẳng ít, tất cả Chư Phật ba pháp chẳng nhiều, cho nên nói là đồng đẳng; từ "Niệm sắc" trở đi, là niệm ba thân để kết bày. Sắc là ứng thân có cả hơn kém và Tha thọ dụng. Pháp môn là Báo thân, vì các pháp môn nhóm họp làm thân, tức nhập vào tám mươi bốn ngàn Đà-la-ni làm tóc, Đệ nhất nghĩa đế làm búi tóc, chủng trí làm đầu, Từ bi làm mắt, vô lậu làm mũi, bốn biện tài làm miệng, mười pháp Bất cộng làm răng, ba trí là tay, Như lai tạng làm bụng, ba thứ tam-muội làm lưng, định tuệ làm chân. Các pháp môn này từ sở chứng gọi là Pháp thân. Nay từ năng chứng gọi là Báo thân Tự thọ dụng. Thật tướng là Pháp thân, đều đủ tất cả pháp môn và các sắc tướng ở năng chứng và thùy ứng. Nay là sở chứng và vì năng thùy chỉ gọi thật tướng. Trước trong văn luận pháp quán chỉ nói tướng tốt cùng khắp, văn này y cứ ba pháp luân bằng nhau. Đến nay kết bày nói là niệm ba thân. Nên biết pháp môn và thật tướng chẳng lìa sắc thân, nêu một tức ba, toàn ba là một. Pháp nhĩ tức nhau không dọc không ngang. Cho nên kinh này thứ chín quán Phật kinh nêu tướng, sớ nói chân pháp. Không biết viên quán tên này chẳng mất. Nếu quán sắc thân chẳng dính một thứ sau, liền cùng tiểu ngoại làm sao dự Diệu Tông. Đâu biết văn này là kết trước. Quán sắc tướng cùng khắp đã đủ ba thân.

Thường vận trở đi, là nói tức Phật. Người ở vị Quán hạnh, tất cả thời xứ, niệm Phật ba quán thường được hiện tiền, nên nói không lúc nào chẳng niệm. Nói niệm niệm đều giác là nêu nghĩa tức Phật tuy là thỉ giác tức đồng Bản giác. Không phải toàn Bản giác quán chẳng gọi Trung, cũng được nghĩa Thỉ bản họp nhất. Tuy không phải rốt ráo và chân tợ hợp mà cũng được là quán hạnh hợp. Nếu luận chứ tức rộng hợp nhã huấn. Ngài Kinh Khê nói: Y Huấn thành hai vật hợp nhau. Ở lý cũng sơ, nay dùng thể cầu thể ấy chẳng một mới gọi là tức. Nhưng Thỉ giác ấy hợp với Bản giác. Tuy gọi là hợp không phải hai vật hợp lại mà chính là Kinh Khê nó thể chẳng hai nghĩa. Vì Thỉ bản giác thể là một. Cho nên biết sáu tức được gọi sáu hợp. Lý tức bèn đem giác của nghịch tu hợp với Bản giác. Năm thứ đều thuận giác hợp với Bản giác. Sáu hợp chẳng hai. Ngài Kinh Khê có lúc cũng dùng tên hợp mà nói thể chẳng hai, cho nên bất nhị môn lại nói do duyên liễu cùng tánh hợp một, mới có thể xứng tánh lập bày ra muôn mối. Duyên liễu là thỉ, tánh hà chẳng phải bản. Tánh tu thể một, lại gọi là hợp.

Về tương tợ tức, nay đã giải thích Phật giống Bản giác. Vì vị này là công của thỉ giác còn phục vô minh, hoàn toàn chưa phá hết, không phải là chân Bản giác. Chỉ được gọi là tương tợ tức Phật. Nếu vị bốn phần phá vô minh, cho nên được phần, phần là chân bản giác gọi là phần chân Phật, quả vị tốt nhất. Vô minh đã hết, bản giác toàn bàu, cho nên được gọi rốt ráo là Phật, tức rốt ráo bản giác, cũng là rốt ráo thỉ giác, cũng là rốt ráo thỉ bản hợp một, cũng là rốt ráo thỉ bản đều quên. Lệ theo trước năm tức đều có năm nghĩa.

Hỏi: Năm thứ như Danh tự v.v... lấy thỉ đối bản, luận hợp và quên bốn nghĩa vừa đủ, chỉ lý tức đầu đã toàn ở mê, há có thỉ giác và hai nghĩa.

Đáp: Lý tuy toàn mê mà đủ ba nhân và năm Phật tánh. Duyên liễu hai tánh chẳng lẽ vốn có tu nhân thỉ giác, quả kịp quả quả hai thứ Phật tánh há không phải trong lý rốt ráo Thỉ giác. Lý nếu chẳng đủ các thỉ giác này thì Năm thứ danh tự... cần phải riêng tu. Vì sao lại được nói là toàn tu tại tánh, chỉ có tức danh mà không có tức nghĩa chẳng phải là sơn giáo. Uổng lập viên vị. Nay sẽ ở bốn nghĩa trong vị tương tợ, văn nêu giải thích, trước hết nói về ba thân tức Phật. Vì quán hạnh trước thường dùng ba quán niệm ba thân Phật quán giác tuy thành nhưng tợ giác chưa phát, lại gia công mãi không thôi thì Bản giác nay ba thân tương tợ mà phát, cùng Thỉ giác ba quán tương tợ tương ưng. Ưng là nghĩa hợp, hợp mà chẳng quên không phải là Diệu quán.

Hỏi: Đối với một bản giác y cứ yếu nghĩa nào mà hiển bày ba thân giúp cho người thấy được?

Đáp: Bản giác các pháp tức Không, Giả, Trung. Biết các pháp giả tức thân tướng tốt; biết các pháp không tức thân pháp môn; biết các pháp trung tức thân thật tướng. Như thế mà luận thì nghĩa ấy rõ ràng như thế. Lại ở một giác y cứ Tịch chiếu thì chiếu mà thường tịch là tự tại thần thông tức là thân tướng tốt. Tịch mà thường chiếu là trí tuệ thanh tịnh tức là thân pháp môn. Chẳng phải tịch chẳng phải chiếu mà tịch mà chiếu, tức là thân thật tướng. Hai và ba này đều không phải dọc ngang thật chẳng thể nghĩ bàn. Chính là Tịch giác chiếu giác, song gió (cùng ngăn) chiếu giác mà toàn bản thành thỉ, tức là nghĩa tương ưng và đều mất (quên). Ba thân vị này là nghĩa tức Phật hiển bày. Cho nên trong văn không riêng nói giác bày ở tức Phật.

Từ "Tương tợ" v.v... trở đi, là y cứ bốn dụ mà nói tương tợ. Người tu bản giác tịch chiếu và cùng tương tợ mà phát thành ba thứ giác của vị tương tợ. Giác này dường như chân, như tham và dưa mà so với vàng và bầu hai vật này dụ cho thỉ giống bản, như sắp đến lửa thì biết có hơi nóng, muốn ra biển trước thấy mặt nước băng. Hai việc này dụ cho tương tợ gần với phần chân. Hai thứ trước là y cứ pháp mà luận giống hai thứ sau là y cứ vị mà luận về tợ.

Tánh nước trở đi, là khuyên chứng, tức y cứ sự mà khuyên. Bản giác mát mẻ như nước lạnh. Tợ giác là uống thì biết tiêu hết sự nóng nảy. Người danh tự nước nóng khát, phải tu công ba quán đào đất vô minh mới được nước chân tợ mát mẻ uổng nghe quán này mà chẳng thực hành công phu quán. Lại không có dụng cụ lấy nước, chịu khát mà chết ở chỗ nóng bức.

Lược nêu v.v... trở đi, là dẫn văn làm chứng. Tương tợ tương ưng với tướng công đức, như phương pháp nói sáu căn thanh tịnh. Văn tuy hơi rộng nhưng tướng ấy rõ ràng, người ta dễ biết nên được gọi là yếu. Sáu căn đồng có năm thứ tợ phát, đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn, Phật nhãn; Nhục nhĩ, Thiên nhĩ, Tuệ pháp, Phật nhĩ... Cho đến ý căn cũng có năm tướng, năm sáu này tức ba tương ưng. Nhục thiên pháp sáu thứ tức là thân tướng tốt tương ưng lẫn nhau. Tuệ sáu Phật sáu tức là pháp môn thật tướng tương tợ tương ưng, vì năm nhãn... là chẳng thứ lớp tương tợ phát có thể lấy đối với viên ba thân. Người tu có thể ở ba quán mà quán Phật, sáu căn ba đức chẳng lâu cũng tương ưng.

Năm phần chứng tức, tức tâm quán Phật, nhờ cảnh hiển bày tánh. Tuy được tương tợ nhưng còn thuộc duyên tu. Nay thì thân chứng thuộc ở chân tu mà phần phá vô minh. Luận Khởi tín nói là Tùy phần giác, là Tịch chiếu song dung, Bản giác chân Phật hiển bày từng phần. Từ sở hiển mà nói thì gọi là phần chân. Từ năng hiển mà nói thì gọi là phần chứng. Bốn vị đều được tên này. Tự nói sơ trụ trong một đời giáo viên vị mà hiển, thì chỉ có luận khởi tín và kinh Hoa Nghiêm, kinh nói ba thân, sơ trụ sớm được. Luận nói tám tướng sơ trụ năng thùy. Nếu vị này chẳng luận phá hoặc vô minh thì làm sao được như thế mà trên minh dưới ứng. Cho nên biết mười hướng mới phục vô minh. Sơ trụ chỉ có thể dứt kiến hoặc. Các kinh luận này là nói giáo tiện thứ, không thể cùng với hiện nay khởi tín đốn tu đốn chứng Bồ-tát đồng một thứ. Cho nên nay lập trong giáo đạo mà luận thứ lớp và chẳng thứ lớp phân ở Biệt viên. Nay ở kinh ấy mà nói phần chứng Phật. Văn này là y cứ phát tâm mà nói tức Phật, y cứ ba pháp mà nói phát ở tên sơ trụ nêu tức Phật tướng, vị gọi là phát tâm, tức là phát tâm bản giác. Thường tịch thường chiếu, tịch chiếu song dung là bản viên giác tức một mà ba, chẳng phát mà phát cho nên thành ba phát. Đều nói tất cả là pháp giới không ngoài nhiếp pháp chẳng sót. Chư Phật chúng sinh sắc tâm y chánh một giác thể, toàn thể là duyên, toàn thể là liễu, toàn thể là chánh. Vì duyên nhân mà phát nêu liễu chánh cũng phát vì liễu nhân mà phát nên duyên chánh cũng phát. Chánh nhân đều phát nên duyên liễu cũng phát. Bởi ba pháp viên dung phát thì đều phát. Duyên phát gọi là công đức vì có công năng giúp thành. Liễu phát gọi là trí tuệ vì có khả năng quán chiếu. Chánh phát gọi là cảnh giới, vì là chân tánh, là chỗ hiển bày.

Hỏi: Ba đức đã là một tánh bản giác do chứng mà hiển phát. Nay nói một là cảnh giới sở hiển, hai là gọi năng hiển công đức trí tuệ. Nếu là năng hiển thì hai thứ là tu, đâu được gọi là chứng ba đức Bản giác?

Đáp: Lý ấy như thế mới bất tư nghị. Vì sao, vì ba thứ tuy là tánh cụ, duyên liễu là tu, hai tuy là tu như không phải nay mới có. Nếu hai thứ không phải tu, thì ba pháp sẽ ngang, nếu hai thứ không phải tánh, thì ba pháp sẽ dọc. Cho nên Thích Thiêm nói ba điểm chẳng dọc ngang. Tuy một điểm ở trên chẳng đồng điểm dọc của nước. Ba đức cũng thế, tuy Pháp thân vốn có, nhưng chẳng đồng với Biệt giáo bị hoặc ngăn che. Tuy hai điểm ở dưới mà chẳng đồng với lửa cháy ngang. Tuy hai đức tu thành như chẳng đồng với người Biệt Lý Thể đầy đủ mà chẳng thâu nhau vội nêu ý ấy. Pháp Biệt giáo thân bị hoặc che lấp, là do chẳng biết tánh Bản giác, nhiễm đủ đức ác, cho nên nhiễm ác chẳng phải hai đức. Cho nên hoặc chung hoặc riêng, nghiệp thức, sự thức phiền não hết nghiệp, ba thừa sáu đường, Biến dịch phần đoạn tất cả thứ này đều là hai pháp tất cả trong mê, không phải hai Phật tánh, bèn nhất định thành hoặc năng phú. Cho nên chỉ có Pháp thân Bản giác tùy theo duyên nhiễm mà làm pháp tất cả trong mê trên, vì thế gọi là hoặc sở phú. Nên biết sự che lấp không đồng với bùn đất che lấp trên đá chai. Chỉ là che lấp lý trung của Phật tánh như người thuần thiện, tất cả việc ác vốn không tự làm, mà bị người ác bức ép khiến gây ra các điều ác. Cho nên nói người thiện bị ác che lấp. Nên lại phải dùng giác tánh tùy nhiễm mà duyên riêng với chân đế và tục đế. Thứ lớp tu riêng Không Giả duyên liễu hoặc Trung Biên Duyên Liễu các thứ hai nhân hoặc trước duyên sau liễu, hoặc trước liễu sau duyên thứ lớp lật phá tất cả pháp mê, hiển bày tánh Pháp thân Bản giác. Cho nên lý che thành nghĩa dọc. Người viên giáo không như thế, vì biết bản giác có tánh nhiễm ác, thể nhiễm ác tu tức hai Phật tánh, cho nên hoặc chung riêng, thức sự nghiệp... Tất cả mê pháp, liền là Duyên Liễu Phật tánh, đâu có Phật tánh lại che lấp Phật tánh. Như quân tử bất khí thiện ác đều làm, hoặc đồng người ác làm các việc ác, thì liền bày kỹ năng đâu có che lấp gì.

Cho nên tức hai mê xem là Liễu Duyên hiển phát ở chánh. Duyên ở hai đức, thể mê mà được, nghĩa như sở phát. Nguyên là tu đức lại sẽ năng hiển. Tuy tánh phần tu nhưng đều là vốn đủ nên nghĩa dọc không thành. Nói người biệt, lý đầy đủ mà chẳng gồm thâu, cũng là chẳng biết tánh Bản giác nhiễm đủ đức ác, chẳng hay toàn tánh khởi nhiễm ác mà tu. Bèn thành lý thể ngang đủ ba pháp. Nói chẳng gồm thâu, là dùng ba pháp ấy chắc chắn đều ở tánh, đều là sở phát. Cũng như ba người đều gọi là vua thì làm sao có thể nhiếp nhau. Cho nên chẳng biết ba pháp trong tánh hai thứ là tu, hai bèn thành ngang. Người viên giáo chẳng thể. Vốn biết bản giác tánh có nhiễm ác, cho nên khiến tất cả nhiễm ác trong mê đương xứ tức là Duyên Liễu Phật tánh. Lấy hai tu này mà hiển bày một tánh, như một chúa hai tôi, chúa nhiếp tôi mà tôi thuộc về chúa. Ba đức gồm thâu cũng giống như thế. Nay ở vị sơ trụ sở mà phát ba pháp đều là tánh cụ (tánh vốn sẵn có) phát trì đều phát. Cho nên nói chẳng trước chẳng sau. Vì ba pháp này hai là năng hiển, một là sở hiển, tánh tu rõ ràng. Cho nên nói cũng chẳng một lúc. Vì chẳng một lúc nên chẳng phải ngang, vì chẳng trước sau nên chẳng phải dọc, chẳng ngang chẳng dọc mà bất tư nghì nên gọi là sơ trụ phát tâm. Từ ba trí v.v... trở đi, là y cứ ba thân mà nói Phật, trước dùng hai tu chánh trợ mà đối tánh nói tướng viên phát. Nay y cứ báo trí chứng pháp mà khởi ứng. Báo ứng hai tu đối pháp một tánh mà luận Phật phần chứng. Từ trí chứng pháp, từ pháp khởi ứng, thì chẳng phải một lúc mà ba thân sớm được, cho nên chẳng phải trước sau. Chẳng dọc chẳng ngang lại thấy ở đây. Từ thỉ viên tu một tâm ba quán, nay viên ba trí trong một tâm mà được, tức dùng trí này mà chứng được Pháp thân. Trí tánh tức sắc. Ba tức một thể dụng gọi là Diệu sắc thân. Thân này trống vắng, như gương vô tình, hình đối ảnh sinh, núi lông chẳng gián cách nên gọi ứng tất cả. Ba thân ba đức thể lìa dọc ngang. Nay mới phát sáng gọi là mở kho Bí mật, vào lý Bát-nhã gọi là trụ. Trụ và vô trụ này trụ vào kho Bí mật.

"Vì khắp" trở đi, là y cứ Bi vật mà nói Phật dụng, tức nêu bày ba luân, sắc tượng tức thân luân, một âm tức miệng luân, đều vui tức ý luân. Thân gọi là thần thông luân, miệng gọi là Chánh giáo luân, ý gọi là ký tâm luân, là trí Diệu quan sát. Luân nghĩa là chuyển, cũng là có khả năng nghiền nát. Tâm mình chứng pháp chuyển vào tâm khác, hay nghiền nát tất cả nghiệp hoặc đó. Ba nghiệp này có tướng mười giới đều là sơ trụ phần được Phật dụng; lại "Ưng" v.v... trở đi, là nêu riêng mười giới, trên nói năng dụng ba nghiệp các thứ chẳng ngoài mười giới, nay phân biệt, trước nói Phật ba thứ huống ngoài chín giới. Phật ứng với ba cõi lại nói Đồng cư. Hóa có thỉ chung cần bày tám tướng. Đại cơ chỗ thấy tám tướng khó lường, nếu ứng Tiểu thừa thì tám tướng đều kém. Đại bày hiện ẩn như sóng của nước, toàn thân pháp giới tám thứ đều thắng diệu. Tiểu thừa sinh diệt thể là vô thường. Như lửa đốt củi đều trở về tro dứt. Cho nên hai thứ tám tướng chẳng phân mà phân, hơn kém rõ ràng. Những thứ này đều là quả nhân pháp tắc gọi là oai nghi Phật. Sơ trụ hay làm nên gọi là đủ. Oai nghi thuộc về thân, âm thinh thuộc về miệng, phương tiện là ý, ứng với Cõi Phật mà được độ, tức là hiện tướng ba luân này. Tướng Phật rất cao còn hay bày tích, vì Phật huống chín hiện không khó. Đã hiện chín giới thì đều đủ ba nghiệp nhưng không phải chỉ hiện ở mười cõi mà thôi, mà ở mỗi thân lại hiện mười cõi, lớp lớp vô tận, vì được hiện khắp các thân tam-muội. Sơ trụ trở đi là so sánh hậu vị (vị sau). Sơ trụ mới phá một phẩm vô minh, phần chứng ba thân thùy hình. Mười giới tướng ấy còn như thế huống chi là hai, ba trụ, huống là trụ thứ mười (Thập trụ). Hạnh hướng ở Đăng địa, chí ở Đẳng giác, phá hoặc càng sâu, đức dụng càng rộng, đâu dùng tâm miệng mà nghĩ bàn được? Bởi vị Thỉ giác Bản giác đều quên mất nên có thể dụng cao rộng như thế.

Cứu cánh tức nghĩa là tất cả các pháp đều là Phật vì mê nên không biết. Cho nên viên thật giáo chẳng thuận mê tình, nêu thẳng tất cả đều là Phật pháp, là tướng thường thế gian chúng sinh là Phật. Chẳng thọ giáo, là chỉ có lý ấy hoàn toàn chẳng biết thế. Nếu nghe giáo này thì gọi là biết thế. Nếu vào năm phẩm là ở quán biết thế, vào Thập Tín là tượng tơ biết thế. Nay lên cực quả là rốt ráo chứng biết tất cả các pháp đều là Phật pháp. Nếu dựa vào vị mà nói thẳng. Đẳng giác rồi gọi là Mãn Túc phương tiện địa, Bồ-tát là cứu cánh địa, thỉ giác đạo cùng bản giác lý tột, bản thỉ đã mất thì không lấy gì để gọi tên nên gượng gọi là Diệu giác. Đại phẩm Bát-nhã có bốn mươi hai chữ, chữ chữ thường có đủ công đức các chữ. Ngài Nam Nhạc dùng để đối bốn hai vị trong giáo viên đốn. Sơ trụ là chữ (trước ở chữ A) A trong bốn chữ đối đến Đẳng giác, cuối cùng là chữ Trà, là vị Diệu giác. Tuy mỗi vị đều hay khắp đủ công đức các vị, nhưng là phần đủ (phần cụ). Nay ở vị tột này là cứu cánh cụ (rốt ráo đầy đủ không biết nẻo dùng nghĩa hay chữ. Chữ là tên các vị các pháp...), công đức các vị. Cho nên dẫu kinh pháp nói chỉ có Phật Thích-ca ta cùng tất cả Phật mới dễ hiểu hết quyền của các pháp, thật của thật tướng, thấu suốt tận đáy vô minh đến bờ mé các pháp gọi là trí biên tế, là bất tư nghì quyền trí. Nay đã rốt ráo nên gọi là mãn. Đối với các thứ pháp chứng Bản viên giác, là bất tư nghì thật trí... Giác này tròn đầy nhất gọi là Viên đốn. Lại dùng hiệu thứ bảy là Vô thượng sĩ để hiển trí đoạn tột độ có hoặc có thể đoạn gọi là Hữu thượng sĩ, là vị Đẳng giác. Không có hoặc để dứt gọi là Vô thượng sĩ tức là Diệu giác. Đoạn đức rốt ráo gọi là Đại Niết-bàn. Lại có hơn thì gọi là Hữu thượng sĩ, cũng là Đẳng giác. Lại không hơn thì gọi là Vô Thượng Sĩ tức là Diệu giác. Trí đức rốt ráo gọi là Đại Bồ-đề. Nếu y theo dụ mà khen ngợi, dùng dụ mặt trăng đáng yêu trong Đại kinh kia, mặt trăng ngày rằm để đối với bốn mươi hai quả vị viên nhân đều là trí quang thêm sáng, hoặc tối giảm hết. Từ mồng một đến mồng ba là đối với trụ-hạnh-hướng ba vị. Từ mồng bốn đến ngày mười ba là đối với vị thập địa, ngày mười bốn là đối với vị Đẳng giác, ngày rằm là đối với vị Diệu giác. Đây là họp ba vị trước mà mở mười địa sau. Như trời ba mươi ba đồng uống cam lồ, đối bốn mươi hai vị đều chứng thường lý. Mở ba vị trước đối với ba trời hợp mười địa sau đối với một trời, Đẳng giác đối với một trời, vị Diệu giác rốt đối với trời Đế-thích. Như bốn mươi hai chữ, chữ mỗi cùng đủ bốn một chữ kia đối với viên chứng bốn hai vị, mỗi vị đều gồm thâu, thì trước sau đều mở. Nếu khai thị ngộ nhập tri kiến Phật đối với viên chân, do bốn hai vị thì trước sau đều họp. Nay ngày rằm trăng sáng tròn đầy tức là Trí đức viên, tối tắm đều hết tức là Đoạn đức tột. Cho nên Đại sư nói: tăng giảm này mỗi ngày đều có. Trí đoạn này mỗi vị đều có. Cho nên lại chẳng dùng ánh sáng xế tà sau ngày rằm, lại dùng các sao mà đối các người nhân. Trăng là dụ cho quả Phật.

Nói cao quý nhất đều là khen Phật rốt ráo (cứu cánh Phật).

Lại từ Phật có v.v... trở đi, là lệ các hiệu mà nói khó nói. Quả viên cực tất cả danh tự (tên) thì mỗi danh tự chẳng dối rốt ráo thành tựu. Bởi những cái nó dời đều chân cực, đem so với chân nhân thì còn đối lập, vọng vẫn chưa hết. Cho nên bảy lần phương tiện tất cả phàm phu đều là hư danh không một thật nghĩa. Cho nên Đại kinh nói: "Thế đế chỉ có danh mà không có thật nghĩa". Đệ Nhất Nghĩa Đế có danh mà có thật nghĩa. Phật là rốt ráo đệ nhất nghĩa. Lại nên biết chẳng phải có một pháp riêng gọi là rốt ráo Đệ Nhất Nghĩa Đế. Tỳ-lô-giá-na có mặt khắp tất cả mọi nơi. Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Thế thì thế gian và xuất thế gian, hai tử, năm trụ cho đến Tỳ-lệ-đa, các loài máy động, năm vô gián... Hoặc nhân hoặc quả đều là viên cực Đệ Nhất Nghĩa Đế. Cho nên các danh này đều thật chẳng dối, đều là tên khác của cứu cánh Phật. Cho nên gọi là Phật có Vô lượng đức, nên có Vô lượng tên hiệu. Nay chỉ nêu một tên, cho nên các kinh Đại thừa nói hiệu Phật hoặc tăng hoặc giảm đều là bốn tất đàn đến cơ vật. Nay trong mười danh hiệu chung nêu chữ Phật thứ chín. Kinh Tịnh Danh chép: Chánh Biến Tri Như lai và Phật, ba cú nghĩa này, chúng sinh cả đại thiên đều như A-nan học rộng bậc nhất sống hết cũng chẳng nói hết được. Tùy chỗ ưa thích nêu ra ba tên, lấy ít so nhiều, công đức vô tận.

Giải thích chữ nói, có hai: Một là giải thích Duyệt là vui thích, Hoài là lòng ôm ấp. Nếu ở kinh này tức là Như lai tu lâu chứng lâu tam-muội niệm Phật chứa ở trong lòng, nay đem ra nói bày nên vui sướng chỗ ôm ấp xưa; hai, Tức trở đi, là nêu tướng nay nói chánh ở niệm Phật.

Văn sau nêu rõ nay chẳng nói trước. Vì chung đường nói tướng. Văn có hai: Một là tướng pháp nói ra có mười hai bộ kinh đều nói tướng nói, nghĩa hoặc nói bằng văn xuôi, hoặc nói bằng văn vần, hoặc nói việc chưa từng có hoặc không hỏi mà tự nói, có tám muôn pháp thì nêu bày đủ các pháp môn họp lại khoảng bốn ngàn chỉ nêu số lớn. Nhưng nêu biết có hơn tám muôn, mà ước tứ đế nêu ra tám muôn. Nếu nói tám muôn pháp tạng tức là Khổ đế, tám muôn trần lao tức là Tập đế, tám muôn đối trị môn, tám muôn tam-muội môn, tám muôn Đà-la-ni đều là Đạo đế, tám muôn Ba la mật tức là Diệt đế. Nay tuy nêu một nghĩa lại gồm ba. Lấy tên Pháp tạng là nghĩa chứa nhóm xếp vào Khổ đế. Lại do nghĩa chứa nhóm gồm được ba đế. Bởi bốn tên nói chẳng lìa ấm. Như luận Câu-xá chép: Như lai nói pháp uẩn, số có tám ngàn, thể ấy lời hoặc tên, là thuộc về sắc hành uẩn. Cho nên mười hai, tám muôn đều chung nêu tiểu, hoặc nói Tiểu thừa chỉ có chín bộ. Đại thừa thì mười hai bộ. Hoặc nói tiểu có mười hai, đại chỉ có chín. Hoặc nói đại tiểu có mười hai. Sáu độ, bốn đẳng tuy ở Đại thừa nhưng cũng chung ba tạng sư độ Bồ-tát. Nhưng tên ấy số bốn giáo cũng đồng. Nên ở sở thuyền và chân trung hai lý mà định quyền thật. Lại luận về bốn thứ năng thú (có thể đến) quán lạnh dùng để phân biệt Thiên viên. Khiến bến thật hóa thành, vòng thẳng chẳng lạm quá; lại trở đi, là nói năng thuyết khéo léo, đối với một pháp một môn mà nói bốn Tất-đàn. Trên đã nêu tám muôn các pháp đã chung bốn giáo, tức là sinh diệt tám muôn, vô sinh tám muôn, vô lượng tám muôn, vô tác tám muôn. Như sinh diệt tám muôn thì thú nêu một pháp, cần mở bốn môn. Bốn môn giả nhân đồng đều không thể được. Nếu thật pháp ấy bốn nghĩa chẳng đồng y cứ hữu môn mà nói, niệm niệm vô thường, như đèn cháy sáng. Y cứ không môn mà nói ba giả phù như cung như mây sương. "Cùng cũng", (vừa hữu vừa không chẳng hữu chẳng không) môn thuyết, hai tướng thong dong. "Cùng chẳng phải" (vừa hữu vừa không chẳng hữu chẳng không) môn thuyết, hai tướng đều bỏ. Một môn trong bốn, vì cơ sinh thục, bốn tất đều bị. Vì kẻ chưa gieo trồng làm thế giới mà nói, khiến họ ưa thích, khen dùng làm theo. Vì kẻ đã trồng dùng trung hai tất, gốc lành chưa phát, làm vì người nói, khiến khởi nghiệp xưa tín-giới-tấn-niệm. Kẻ ác chưa phá thì nói Đối trị khiến cho ba cõi mau chóng tiêu tan. Vì kẻ đã thục, nói Đệ Nhất Nghĩa, khiến được khế chân. Đổi phàm thành Thánh, Phật trí soi cơ, nói thì Trung. Biết kẻ chẳng vào lý, khiến được ba ích. Biết kẻ chẳng phá ác khiến hai ích. Không thiện nào để phát, làm thế giới mà nói (thì nói thế giới) chỉ sinh vui mừng. Nếu toàn không lợi ích thì Phật chẳng nói.

Nếu v.v... trở đi, là nêu các pháp các môn bày bốn tất. Trên nói môn bị cơ bốn tất, ba môn kia bao trùm căn cơ cũng thế. Một trong tám muôn, bốn môn bốn tất, bị cơ đã thế, ngoài ra các pháp, bốn môn bốn tất, bao trùm căn cơ cũng thế. Một giáo tám muôn môn đều đã thế, ba giáo cũng thế. Tám muôn pháp tạng lệ với trần lao và Đối tự môn, tam-muội tổng trì, Ba la mật... Mỗi tám muôn, từng pháp bốn giáo, giáo giáo bốn môn, môn môn bốn tất, thì mười hai bộ ấy sáu độ, bốn đẳng, y theo đây dễ hiểu. Do đó nói lược, tướng Phật nghiệp.

Kế là giải thích chữ Quán, tức là điều được nói. Ở trên có mười hai bộ tám muôn các pháp há không phải là điều được nói. Nhưng là phiếm nêu mà hiển bày người nói. Vô Lượng Thọ và chữ Quán này đích thị là nghĩa được nói của kinh này giải thích quán, trước là giải thích lại nêu cả hai. Nêu chữ quán dùng quan (xem) để giải thích. Dùng pháp quán mà quán cảnh đẹp. Nếu không có pháp quán thì lấy gì quán. Nắm sở thuyên mà lập đề mục này (lấy điều được nói mà đặt tên kinh). Kinh nói mười sáu chỉ năng quán (người năng quán). Nay giải thích tên đề chỉ nói về ba quán. Văn kinh là riêng, đề là tên chung. Chung chung ở riêng, riêng riêng ở chung. Nếu cũng lập đề thì gồm văn chẳng hết thì chẳng thể lập thiên chương. Nay lập ba quán mà giải thích chữ quán, chính là mười sáu quán thể của văn kinh. Nếu cả mười sáu đều nêu tướng ba quán thì văn rất nhiều, cho nên giải thích đề chung mà chỉ rõ khiến người tu do pháp quán này mà vào mười sáu môn, thì mỗi cảnh đều ba, từng tâm tuyệt diệu, bốn y bị vật, lời dón gọn mà ý khắp. Nhưng nêu thứ lớp đến một tâm hai, ba quán. Đây là dùng thứ lớp mà nói lên không thứ lớp, chẳng chịu quán riêng thì không lấy gì để thấy viên. Như trong chỉ quán đều dùng có nghĩ bàn mà hiển bày chỗ không thể nghĩ bàn.

Từ giả v.v... trở đi, là dựa vào giáo mà hai giải thích thứ lớp ba quán, tức nêu tên chỉ kinh chỗ nêu các tên trong giải thích mà tự thấy.

Nay giải thích trở đi, là giải thích tướng mà kết quả.

Y pháp nêu trước mà giải thích tướng ba quán. Thứ nhất quán Không mà có hai tên. Giả là đẳng là kiến tư lấy cảnh, không mà gọi có, hư giả phàm tục. Biết như gọi là đế. Lý hai không là xem xét pháp thật. Biết thật gọi là đế. Không rốt thật hư không biết chân thật. Nên phải chiếu giả mới được vào không. Cho nên gọi là từ giả vào không; lại giả là đẳng, là khi mê thế tục gọi hư là thật, cả hai đều chẳng phải đế (chắc thật). Nếu ngộ (biết) tục là hư thì biết chân là thật thì cả hai đều đế. Cho nên lại được gọi là hai đế quán. Quán đẳng này là tu quán gọi là nhân, chứng trí gọi là quả. Thích luận nói ba trí vì dễ hiểu mà phân thuộc ba người, cho nên dùng Thanh văn để đối Nhất thiết trí. Tức không quán quả sẽ ở vị Thập trụ của Biệt giáo. Thứ hai là giả quán cũng có hai tên. Trước bác trụ không là rơi vào Nhị thừa, nếu tu giả quán thì có thể thành Phật pháp, hay lợi ích chúng sinh. Quán không muốn làm phương tiện trong cõi người, cho nên ở không trí chứng mà chẳng trụ. Ba cõi đắm hoặc cần phải thênh thang cho thành không. Các pháp nhân duyên cần tột đến gốc ngọn, kiến tư trùng số như cát như bụi. Dùng tâm đại Bi mà quán khắp học khắp gọi là biết bệnh. Các pháp các môn phá tánh phá tướng mỗi mỗi đối trị đều biết rõ đó gọi là biết thuốc. Tùy hoặc cạn sâu biết căn cơ chúng sinh thuần thục, thần thông hai động, trí biện tuyên dương, bốn Tất-đàn đều hợp, đều giúp cho được lợi ích. Trao thuốc như thế mới chịu uống lành bệnh. Đều do chứng không, hay nhập vào giả này cho nên quán này gọi là từ không vào giả, mà nói đẳng, tức là trước trừ kiến ái, phá giả dụng không. Nay khiến trừ trần sa phá không dụng giả. Ở không ở giả đều một phá dụng. Trước sau đối nhau đến nay đều đẳng, cho nên lại gọi là bình đẳng quán. Quán này v.v... nếu y Thích luận lấy Bồ-tát đem người Bồ-tát mà đối đạo chủng trí thì giả quán quả vị ở mười hạnh.

Từ Không trở đi, là Trung quán thứ ba. Trước cùng nêu tức một là quán không sinh tử, là người Biệt sơ tâm tin nay hay biết vốn là thường trụ trung đạo Phật tánh. Từ giáo đạo nên gọi là chỉ trung, chỉ thiện. Chỉ tịnh không có nhiễm ác. Tuy không nhiễm ác mà tánh ấy linh tri, cưỡng giác bỗng sinh cảnh giới này hiện. Phân biệt cảnh tướng, chấp trước ngã nhân mà biết chẳng mê muội. Tà tư tà kiến, hiện tiền nhiễm ác, đã không phải tánh cụ, đều là tùy duyên biến tạo mà có. Vì là biến tạo nên không phải tánh bản nhiên. Cho nên kiến tư chẳng tức Trung đạo. Vì định cần phá, tức nghĩa chẳng thành. Cho nên chẳng được nói chỉ ái, chỉ kiến, chỉ sắc, chỉ hương nếu muốn tu trung mà năng sở chẳng dứt. Cho nên tu không làm chánh tu, Trung quán làm phụ. Vì sao? Vì tâm đã trước hữu, nên biệt không duyên phá ái kiến này. Không của sở quán là pháp Nhị thừa, đã không phải tánh cụ, bèn là Biệt tu. Không chẳng phải rốt ráo cho nên không quán chỉ không sinh tử. hai là quán không Niếtbàn, là có sinh tử tuy đã phá trừ. Tâm lại dính mắc không, cần biệt duyên với giả (duyên riêng với giả). Phá dính mắt không này là giả đã kiến lập là pháp Bồ-tát không phải tánh cụ nên cũng là Biệt tu. Hay thênh thang không mắt dính gọi là không Niết-bàn. Đẳng này là mê đắm không sinh tử, kiến tư hoặc quên. Kế không Niếtbàn trần sa hoặc hết-hai hoặc đã hết, tâm không dính thiên (lệch) cho nên được làm phương tiện song giá. Trước quán đẳng, là lại nhân thứ lớp dung ở hai quán, quán hai đế ấy, cho nên được làm phương tiện song chiếu. Phương tiện lập xong, viên quán có thể tu. Ở trong mười hướng lấy sở hiển Trung đạo Phật tánh mà làm năng quán quán Trung đạo. Đế quán. Đế quán chẳng hai, hoặc trí như một, ba quán viên dung là hạnh vô tác. Nên được tự nhiên vào Tát-bát-nhã. Quả của quán này gọi là Nhất thiết chủng trí, vị ở Sơ địa.

Một tâm ba quán, đây bèn xứng tánh mà quán, dứt đối đãi mà chiểu, bởi tất cả pháp tánh là pháp thân Bátnhã giải thoát. Như ba điểm chữ y. Ba không phải đứng một mình, mỗi điểm đều tròn đủ. Nếu một tức là ba, bèn dùng ba đức mà làm ba đế. Bát-nhã là chân, giải thoát là tục, pháp thân là trung. Đức đã chẳng ngang chẳng dọc, đế bèn dứt suy nghĩ dứt bàn luận. Đây là sở đế của Phật. Nay dùng đế này mà làm Sở quán. Đế đã tức một mà ba, quán há trước sau mà chiếu. Cho nên y Diệu đế để lập quán môn, tức ở một tâm mà tu ba quán. Quán này pháp quán, năng sở đều dứt, huống Phật Vô Lượng Thọ vốn tu quán này mà thành tựu ba thân. Pháp báo đều mất, chân ứng dung tức. Nếu chẳng phải diệu quán làm sao hiển được Diệu thân. Hóa chủ như thế, đồ chúng cũng thế. Chánh báo đã diệu, y báo há thô. Cho nên mười sáu cảnh đều phải Diệu quán. Theo Trí luận mà giải thích, trước hết giải thích tướng, tức là y theo pháp mà giải thích. Ba trí tức trước đã thứ lớp mà nói Nhất thiết trí,

Đạo chủng trí, Nhất thiết chủng trí. Nay giải thích riêng nên phần làm ba người ở tịnh viên mà luận. Ba trí thật ở trong một tâm mà được. Ba trí là quả, ba quán là nhân. Quả ở một tâm, nhân há trước sau nhân quả chẳng hai mới gọi là viên tu. Cho nên sau khi nêu Trí liền nói ba quán. Chỉ một quán mà ba quán là nêu một quán thì đủ cả ba quán. Nêu một không quán thì giả trung cũng không; ba quán đều có thể quét sạch các dính mắc nên nêu một giả quán thì trung cũng không giả. Cả ba quán đều có nghĩa lập pháp, nên nêu một Trung quán thì không giả cũng trung. Cả ba quán ngay đây đều dắt đối đãi. Nếu biết ba quán chỉ ở một tâm thì mỗi quán mặc tình (tự nhiên) đủ ba. Quán ở một đế mà cả ba đế, đế quán khác tên nhưng thể chẳng khác. Toàn đế phát quán, quán lại chiếu đế, đã không có tự thể riêng thì dùng nghĩa gì mà lập đế lập quán. Nếu muốn phân biệt có ba nhân mà nói thì tánh ba là đế, tu ba là quán, tánh liễu là chân, tánh duyên là tục chính là Trung đế, không phải liễu nhân không phải Đại chân đế. Tục trung cũng thế. Ba đế này thể tánh không khác với ba quán, ngoan không là chân khác thể với quán. Tục trung cũng thế. Ba quán giúp nhau, bởi tánh ba thứ vốn dung nhau, toàn tánh thành tu là nghĩa này.

Từ "Loại như" trở đi, là dẫn loại mà giải thích. Dùng pháp hữu vi mà loại tánh vô vi. Tâm một sát na mới sinh liền mất, hai khoảng danh trụ đều ba tướng mà ở một tâm. Ba tánh vô thường còn ở niệm gấp. Ba quán xứng tánh vô tác, vô sinh, đủ ở một tâm nghĩa ấy nào hẹp.

Từ "Quán này" v.v... trở đi, là kết quả. Không nói trí quả, pháp quán không về. Cho nên nêu quán thành, hoặc diệt thì lý hiển, rỗng rang diệu chứng ba thứ trí tuệ thật ở một tâm. Thành đủ luận ba trí. Hoặc từ hơn mà nói thì chỉ gọi là Nhất thiết chủng trí. Vắng lặng... là luận tự giải thích. Nhất thiết chủng trí là cùng dứt hai bên và tướng vô minh, cùng chiếu ba đế các thứ hạnh loại, mới từ sơ tâm viên tu ba quán. Diệu quán trung đạo niệm niệm đều quên, mà tức hai bên niệm niệm đều chiếu một tâm ba pháp quán ấy như thế. Nay người phần chân, bổn trí hiển phát toàn do trước làm công phu mất chiếu. Hai là dẫn Trung luận làm chứng. Luận chép: Pháp nhân duyên sinh ra, ta nói tức là không, cũng gọi là giả danh, cũng gọi nghĩa trung đạo. Luận nói chung ba thứ. Nay pháp quán sở đối há có chẳng từ nhân duyên sinh? Nay tu viên quán, thì trước phải hiểu nhân duyên năng sinh và pháp sở sinh đều là bất tư nghì, mới ở cảnh này mà quán chẳng phải trung. Lại cần phải hiểu Diệu đế, Diệu quán đều là năng quán, nhân duyên sinh ra Các cảnh ấm v.v..., quán một Đế thì đều đủ. Chớ theo văn lược, cần tìm hiểu nghĩa của quán. Lại chẳng thể nói trước hiểu sở quán bất tư nghì, liền chẳng nói ấm và vô minh. Vì sao? Vì vốn nói nhân duyên và pháp sở sinh là bất tư nghì nếu không phải vô minh, sao gọi là nhân duyên, nếu chẳng phải ấm v.v... thì sau gọi là sở sinh (được sinh ra). Có người thấy giải thích tâm pháp diệu thì nói tâm pháp là ở nhân, y cứ mê mà nói. Phật pháp là ở quả, y cứ ngộ mà nói. Bèn vấn nạn rằng tâm pháp gọi Diệu sao được là mê. Bởi người này chẳng biết lý do, giải mê là diệu, mới gọi là người viên. Như luận Khổ Tập gọi là vô tác và mười hai nhân duyên gọi là bất tư nghì, há chẳng được nói là vô minh bất tư nghì? Người tuy giải diệu, pháp thể là mê mà chẳng biết lý tức một mực ở mê, Diệu giác một mực thuộc giải. Bốn vị trung gian (ở khoảng giữa) mê giải đều cùng. Danh tự tức người (người danh tự) nếu chẳng quán mê chỗ nào dụng quán. Ở vị Đẳng giác nếu chẳng phá ma sao lập Diệu giác. Lấy trí thượng thượng mà dứt hoặc hạ hạ, hoặc không phải là mê ư? Người nhiều họp loại ấy thật nhiều (rườm). Thích luận ba trí đã giải thích như trước.

Đây quán trở đi, là y cứ diệu mà kết bày, một câu đầu là khen chung mầu nhiệm, hai câu kế là y cứ ba-một mà khen mầu nhiệm. Một chẳng nhất định là một, một tức là ba, ba chẳng nhất định ba, ba tức là một. Thích luận vì chẳng quyết định giải chẳng thể nghĩ bàn. Ba câu sau là đối mười sáu mà khen diệu. Trên nói một-ba dung tức là chung một diệu quán, tức một quán này mà vào khắp các môn, giáo lý một quán là tất cả quán. Tuy vào các môn nhưng chỉ một Diệu quán nên gọi tất cả quán là một quán. Nếu quán nhất định là một thì không vào nhiều môn, nếu quán nhất định là nhiều thì không thể là một, thật ra chẳng thể lấy một mà nghĩ bàn. Cho nên nói chẳng phải một chẳng phải tất cả, hai câu cuối là kết bày. Tuy không phải một nhiều mà có công năng nhiếp tất cả. Nên cả mười sáu đều là Diệu quán.

Giải thích về Vô Lượng Thọ, chính là nêu cảnh sở quán của ba quán. Trước nói ba quán, lại dùng ba đức và ba nhân mà làm Đế cảnh. Bởi nêu sở quán dung tức dùng để hiển bày năng quán tuyệt diệu. Nên biết ba đức trong tánh thể là ba thân Chư Phật tức là ba đức ba thân làm một tâm ba quán của ta. Nếu chẳng có tự thể thì ngoài quán có Phật, cảnh chẳng tức tâm sao gọi là quán viên tông dứt đối đãi. Cũng là ba thân Di-đà dùng làm Pháp thân, ba quán của ta xem là Bát-nhã. Quán thành thấy Phật tức là giải thoát. Nêu một đủ ba, như chữ y mới, quán Phật đã thế, thì quán các y chánh lý chẳng khác đường. Ý này chẳng rõ thì chẳng phải quán Phật này. Giải thích này có thể nêu tên từ tiếng Phạm, Vô Lượng Thọ là tiếng Hán, Thiên trúc tiếng phạm gọi là A-di-đà. Từ Phật vốn trở đi, là từ chân ra tục, có hai: Một là y cứ vốn không ba mà nêu Vô Lượng Thọ, chính là vô lượng là lượng, thì ở trong Đề đã nói thọ lượng thọ lượng y vào thân bèn thành ba nghĩa mà nói về có không. Nói Phật là cứu cánh giác. Lý trí đã tột, thỉ bản hai quên, không tướng không tên chẳng thể nói bày, sao được lập thân và thọ lượng; hai, là thuận theo trở đi, là tùy thế gian đều lập là nêu ba thân đều ba. Dựa vào cứu cánh giác Đệ Nhất Nghĩa thì chẳng thể nói thân và thọ lượng.

Vì độ sinh nên thuận theo thế gian mà đặt tên lập tướng. Cho nên nói ba thân và ba thọ lượng. Ấy thì chân Phật không ba mà tùy thế gian nên có. Nhưng phải hiểu ý có không. Nói Phật vốn không thân không thọ lượng là chỉ không có tướng ba thứ tùy tình mà đều lá thân tánh cụ mầu nhiệm. Cho nên chân Phật rốt ráo tất cả tịnh uế pháp môn, nếu một bề không thì đâu khác Tiểu thừa, nói là chân lý. Cho nên chân không thì tục có, chân có thì tục không đều là tất đàn, không thể chấp thiên lệch. Nay ý văn, bởi lập ba thân mà giải thích Vô Lượng Thọ, sợ chấp nhất định là có cho nên trước Phật vốn không ba, tùy thế mà nói có. Được ý này rồi thì phân biệt ba thân ba lượng đều không trệ ngại.

Pháp thân trở đi, là giải thích ba thân ba nghĩa, có hai: Một là y cứ nghĩa mà phân biệt; hai là theo lý dung tức. Vì có văn sau nói hết lý dung tức nên nay lại y cứ tu hai tánh một, một đường phân biệt. Một lại có ba: một là Pháp thân, giải thích về pháp là sư quỷ, là bỏ chung thu riêng, chung thì chúng sinh và Phật đều có quỉ pháp tánh. Nhưng chín giới tuy quỷ mà trái, như người theo thầy mà không thuận giáo của thầy. Chỉ có Chư Phật sơ tâm quỹ pháp mà tu, nay mới rốt ráo ngầm họp pháp tánh. Cho nên Đại kinh nói Chư Phật làm thầy gọi là Pháp. Vì pháp là thường nên Chư Phật cũng thường. Vì thuận theo pháp tánh, nên gọi pháp là sự. Thật ra không phải khác với năng thể cho nên tức sở sư pháp mà làm thân. Tuy gọi là thân nhưng đã ra ngoài năm ấm, cho nên không phải sắc chất, cũng không phải tâm trí. Sắc là ấm đầu, tâm trí là bốn ấm kia. Đã không phải ấm, cũng không phải giới, nhập, cho nên không phải ba khoa nhậm trì nhiếp thuộc. Đây thì đã chọn bỏ phần đoạn, biến dịch, vì thuộc về sinh tử ấm nên cũng có thể là sắc chất giản ứng, tâm trí giản báo ba khoa giản nhân. Đã không phải đây thì lấy trạng danh nào mà làm vật cơ, nên gượng chỉ pháp tánh gọi là Pháp thân. Từ Pháp tánh trở đi, thọ là thọ của liên trì, thân nương theo mạng căn. Nay pháp tánh thọ. Không phải thức, tức noãn báo được mạng căn, (Thức, hơi thở ấm của báo mà được mạng căn), cũng không phải ba thọ của ba sự liên trì vì vật hiển đức, bèn chỉ pháp tánh không phải tám tướng thay đổi, không phải chín đời đổi thay, cưỡng gọi là thọ. Từ Thọ này trở đi lượng là phần lượng của thọ, hợp luận dài ngắn và lâu gấp. Nay thọ của pháp tánh thật không có tướng phần lượng này. Đây thì phân biệt chung, nếu phân biệt riêng thì dài là báo Phật, ngắn là chúng sinh, năng kéo dài, năng rút ngắn là ứng thân, không phải các lượng này là vì thành quán, nên cưỡng chỉ pháp thọ đồng với lượng của hư không. Đây từ tức trở đi, là nêu chung pháp tánh ba nghĩa không phải là thân ấm nhóm họp, không phải là thọ báo được, không phải là lượng dài ngắn chẳng thể nghĩ bàn, gượng pháp tánh mà nói thân, nói thọ nói lượng.

Báo thân là xứng pháp có báo có dẫn kinh. Báo tức là đáp lại tu hành là nhân, cảm được Diệu báo mà đáp lại nhân ấy. Pháp Hoa nói là chứng trí đức. Kinh nói ánh sáng trí tuệ chiếu vô lượng tu nghiệp lâu mà được kinh Đại Bát-nhã nói là chứng đoạn đức. Hai quả đức này đáp lại với nhân tu, nên gọi là báo.

Lại, "Như như" trở đi, là giải thích tướng khi cảm báo thì tướng ấy giống cái gì, cho nên lấy một pháp hai dụ mà hiển bày. Như tên gọi chẳng khác mà quán có khác nhau chẳng gọi là như Cảnh. Ngoài trí có cảnh không gọi là Như trí. Đều là hai như là cảnh như như trí, trí như như cảnh. Cảnh trí này nên được ưng minh. Trí tuệ tên chung nên dùng quả giác Bồ-đề mà phân biệt, tức là trí Vô thượng Bồ-đề tương ưng tương minh với cảnh pháp tánh, trước nêu gồm cái mà dụ tương ưng, tuy bờ mé tương đương nhưng trọn còn hai tướng, cho nên lại nêu dụ sữa hòa với nước, khiến biết thỉ bản đồng là tánh giác nhưng thể của nó không còn chính đồng với nước và sữa hòa nhau, thì hiển bày ngoài cảnh không có trí, ngoài trí không có cảnh. Như nước và sữa có thể thấy rõ. Từ "Pháp thân" v.v... trở đi, là ở báo mà lập ba thứ, tức là thân, thọ, lượng. Trong ba mỗi pháp đều nói Pháp thân. Vì Báo trí minh nhau, lìa pháp không có báo. Một, Thân mà nói chẳng phải thân, là chẳng phải thật có thân giới hạn phạm vi. Lại chẳng phải thân thì chẳng phải có, chẳng phải chẳng thân thì chẳng phải không. Pháp thân trung đạo là thể của bản giác. Thỉ giác minh đây, năng minh cũng quên. Vì thành quán nên cưỡng gọi là Báo trí; hai, là Pháp thọ v.v... trở đi, là nói thọ, nói chẳng phải thọ là chẳng ứng đồng với thọ của liên trì. Chẳng phải thọ là chẳng phải một, Báo trí chẳng phải liên trì thọ. Cùng không phải hai bên. Pháp thể trong minh là ý gượng gọi cùng với thân trước; ba, Pháp lượng trở đi, là nói lượng, chẳng phải ứng có lượng, chẳng phải báo không lượng và chẳng phải hai bên, nghĩa đồng với thân thọ.

Về Ứng thân, tức nói ứng vật là thân, như hang dội tiếng vang, lớn nhỏ tùy tiếng, như gương hiện hình, đẹp xấu tùy chất, ứng cảm với muôn vật mà hiện thân hơn kém.

Từ "Ứng đồng" trở đi, là thọ. Thân đã đồng vật, thọ há sai cơ-ba, là ứng đồng trở đi, là lượng tùy nghi dài ngắn, bày lượng và không lượng.

Trí cùng v.v... trở đi, là nói nương hai có ứng, tức là pháp. Trí tức Báo thân, thể tức Pháp thân, hai thứ này thầm họp nhau, ứng dụng vô phương. Như nước trở đi, là dụ. Vàng ròng là chất cao cấp cần phải hòa với nước bạc mà thoa vào vật, thiếu một duyên này thì vàng không dùng thoa được; công đức trở đi là họp. Công đức của Báo trí khế hội với Pháp thân, tùy chỗ có cơ ứng ra không đâu chẳng đến. Hay làm trở đi, là ứng khắp ba cõi, là cùng với Báo ứng. Có lượng trở đi, là riêng nêu ứng thân, tức nghĩa đầu là trên đã nói báo, chỉ luận minh pháp, tức tự thọ dụng. Nay nói thùy ứng thì đối với sinh thân mà ứng vô thường, bày một Tích dụng. Thân tức sinh thân có tướng giới hạn, nên gọi là thân. Không phải thân là báo không có tướng giới hạn, nên nói là không phải thân. Tiểu Bát-nhã nói Phật nói không phải thân, gọi là Đại thân. Đại thân là thân tha thọ dụng. Không có giới hạn thì thọ ấy là thường cho nên là không (vô) lượng. Có thân giới hạn thì thọ ấy không (vô) thường, nếu là có lượng. Hai ứng dụng này y hai lý trong chân mà trụ, cơ y sự nghiệp hai thức mà thấy. Trụ lý rộng như Kim Quang sớ nói: Hai thức rõ ở Khởi Tín luận, ý luận cần ở sự thức mà thấy thì lấy sắc giới hạn, cho nên gọi là ứng Phật. Nghiệp thức mà thấy thì lìa sắc giới hạn, cho nên gọi là Báo thân. Nghĩa này đến các giải thích sau về quán Phật thì xem sao mà biện, người tu nên biết. Thường thân vô lượng ứng chung ba cõi, còn vô thường có lượng chỉ ứng với Đồng cư. Vì sao? Vì Phật Báo Cơ phần chứng luận thân thân tha thọ dụng. Người cõi phương tiện chỉ bẩm Biệt viên, chỗ thấy tướng Phật tuy có chút ít hơn kém nhưng không phải sinh thân, mà đều là Báo Phật. Nếu ở cõi Đồng cư, đủ bốn giáo cơ. Người bẩm Biệt thì hay ở tại Báo Phật. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Pháp đến hết đời vị lai và các kinh Đại thừa tức ở ứng tướng thì thấy là thân pháp tánh tôn đặc". Cho nên biết thường thân thì ứng khắp cả ba cõi, còn thân vô thường thì chỉ ứng ở cõi công đức, đậu cơ Tạng thông mà sinh thiện phàm phu. Nghĩa kế có là nói hai nghĩa có lượng. Trên đã nói ngoài Tự thọ dụng thì thùy thân ba cõi đều gọi là ứng. Tha thọ dụng ấy tuy ở đối cơ gọi là ứng mà là Thật nhân cảm được. Lại gọi là báo không phải dụng đậu cơ khác nhau. Nếu luận tùy duyên theo vật khác nhau về dai ngắn của Thân thọ lượng thì cần ở Đồng Cư vô thường dụng mà nói. Cho nên nay nêu riêng tướng ứng Thân. Chỉ ở có lượng mà mở ra hai lượng, y vào sự thức tự không kiến, cho nên chỉ thuộc vô thường. Nếu nghiệp thức thì chẳng không kiến, tức vô thường này toàn thể là thường, thì hai dụng thường và vô thường tức nhau, hai chim cùng bay. Nếu hai độ trên cơ thì phải chuyển cũng là vô thường vì không phải tám tướng, nên nói là thường. Nói bảy trăm... là tam-muội Thủ Lăng Nghiêm kinh chép: "Kiên Thủ Bồ-tát hỏi Phật thọ bao lâu. Phật khiến đến Phương Đông qua ba mươi hai ngàn cõi Phật, ở nước Trang Nghiêm hỏi Phật Chiếu Minh Trang Nghiêm tự Tại Vương. "

Phật ấy đáp rằng: "Như tuổi thọ của đức Thích-ca, ta cũng như thế, ông muốn biết, ta thọ bảy trăm a-tăng-kỳ kiếp". Kiên Thủ trở về bạch Phật. A-nan nói Phật ấy chính là tên khác của Phật Thích-ca, tuy căn cơ thù Thắng thấy dài mà bảy trăm cũng đếm được, cũng là lượng của hữu lượng Như A-di-đà trời, người đều không tính đếm được cho nên là không lượng của hữu lượng, Ứng Phật trở đi, là Kết thúc ứng Phật đều thế. Phật Phật đã đều ba thân viên chứng ứng thân giúp vật, vật thọ dài ngắn há chẳng thuận theo đều bày hai lượng. Cho nên Di-đà hiện dài cũng có thể hiện ngắn. Thích-ca hiện ngắn cũng có thể hiện dài. Cho nên Đại luận quyển ba mươi sáu chép: Phải biết Phật Thích-ca lại có cõi nước thanh tịnh như nước Phật A-di-đà. Phật A-di-đà cũng có nước không thanh tịnh như cõi nước của Thích-ca Văn. Lại quyển 38 chép: vì ở cõi Diêm-phù ác này nên Thích-ca tuổi thọ phải ngắn, còn các cõi tốt khác tuổi thọ Phật phải dài. Cho nên Niết-bàn quyển hai mươi hai nói: "Ở Tây phương cách đây ba mươi hai hà sa có cõi nước Vô Thắng, có các trang nghiêm như thế giới An Lạc. Ta ở cõi đó ra đời, đây đều là tùy căn cơ chúng sanh. "

Căn cứ vào ký dung tức trên biện ba thân. Pháp là vốn có, Báo là y cứ tu thành, Ứng là nói hiện đến. Cách nói ấy có vẻ hơi mơ hồ. Phải biết Báo ứng hai thứ tu, tánh đức vốn đủ. Tuy là tánh đức nhưng tu tướng rõ ràng. Toàn tánh khởi tu, toàn tu ở tánh, nghĩ nói chẳng cùng. Chẳng thể đẳng là như trên dọc luận hiển chẳng phải đều một. Nếu nói tánh đủ ba thân thì Thọ lượng là hiển chẳng phải khác. Nếu giải thích đều khác, tức là trái với cái gọi là pháp thể viên thường. Tức một mà ba cho nên chẳng phải ngang, tức ba mà một cho nên chẳng phải dọc. Chẳng phải dọc chẳng phải ngang, chẳng thể nghĩ bàn.

Như đây mà giải rõ tức là Văn năng thuyên mầu nhiệm.

QUYỂN 3

Văn trước giải thích năng thuyết, sở thuyết; năng quán, sở quán đều gọi là năng thuyên. Nay nói tên thể của Sở thuyên là muốn cho người học nhờ Nôm mà được Cá, từng tên mà hiển thể, hiển thể biết là không có thể khác. Nay chính là Diệu Ý Biện Thể. Lại nên biết, giải thích tên là chung cho ba pháp. Ba chương là riêng ba pháp. Thể nên giải thích chung, riêng hai lần thì nghĩa đều đủ ba thứ Giáo Hạnh Lý. Phật năng thuyết đã đủ ba Thân, quán cảnh sở thuyết cũng đều đủ cả ba cho nên nói giải thích tên chung ở ba pháp, thể chương riêng ở Pháp thân, Tông dụng riêng ở hai thứ kia. Giáo tướng một chương phân biệt chung và riêng. Nay nói về thể tuy ở một pháp, mà một tâm đều đủ ba nghĩa ba thứ, nên nói Thể lễ, Thể để, Thể đạt. Tuy luận về ba nghĩa nhưng chỉ là Pháp thân trong ba, chưa nói hai thứ kia đều ba. Cho nên Niết-bàn Huyền chép: Nêu chung Bí tạng nên có tên của nó. Pháp thân nhiếp tất cả pháp chẳng dọc chẳng ngang, vì là thể của nó. Bát-nhã nhiếp tất cả pháp như mặt có ba mắt là Tông của nó. Giải thoát nhiếp tất cả pháp như ba điểm chữ Y, là dụng của nó. Như đây mà giảng, tức là giáo của nó. Chẳng phải thể của kinh nghĩa thành mà các nghĩa khác cũng hiển. Nay nêu ý ấy không giả đều trung, cho nên ba thứ thuộc thể. Giả Trung đều không nên ba thứ thuộc về tông. Trung không đều giả nên ba thứ thuộc về dụng. Dụng là giải thoát riêng dụ ba điểm. Điểm là văn tự nên Tông phải Bát-nhã dụ riêng ba mắt, mắt có khả năng chiếu sáng, cho nên Pháp thân ba thứ riêng mất dọc ngang vì bày lìa niệm. Cho nên giải thích tên chung ở chín pháp, nói thể riêng ở ba thứ trong Pháp thân. Nhưng chín chẳng nhiều mà ba chẳng ít, mới là nghĩa Viên giáo chung riêng. Ở đây có ba:

1. Điệp khởi lược bày. Tên bên là khách, thể chánh là chủ (tên là khách, thể là chủ). Tên là giả gọi, thể là thật chất, tất cả dưới tên đều có chất.

2. Thích luận v.v... trở đi, là chánh giải thích chủ theo hai văn định thể, các pháp ngay đó chẳng sinh chẳng diệt, chẳng phải có chẳng phải không, không năng không sở, lìa tướng nối năng lìa tướng danh dự, lìa tướng tâm duyên, lìa các tướng này gọi là thật tướng là tướng vô tướng. Người nào không đủ, pháp nào chẳng thế. Nếu luận chứng biết thì chỉ có Chư Phật. Cho nên kinh Pháp Hoa chép: "Chỉ Phật và Phật mới có thể rốt ráo hết thật tướng các pháp". Kẻ sơ tâm thì dùng Phật trí mà chiếu cảnh, cho nên tin hiểu được thật tướng các pháp, cũng hiểu được thật tánh, thật thể các pháp và thật lực, thật tác, thật nhân, thật duyên, thật quả thật báo, thật bổn mạt cứu cánh... Mười pháp đó thật, tức là Phật chỉ thật, thật y, thật chánh. Một sắc một hương đều là Trung đạo. Tất cả các pháp đều là Phật pháp. Tất cả đều là thật, ngoài thật ra không còn có thứ nào khác, đâu được nói các thứ khác đều là việc ma. Nên biết lời nói này là dùng lý bỏ tình. Nếu lìa tâm duyên năng sở các tướng mà gọi là thật tướng thì tướng như thế là có tướng, tức là việc Ma. Cho nên Biệt giáo trở xuống đến sáu Đạo Pháp, đều có tâm năng sở duyên các tướng, ma có thể nói pháp đều gọi là Ma sự. Cho nên biết tất cả đều là ma, tất cả đều là Phật, dùng tình mà phân biệt thì tất cả đều tà. Lìa tình mà phân biệt thì tất cả đều chánh. Nay bỏ tình lấy chánh mà làm thể của kinh. Nên biết thật tướng toàn thể chiếu sáng gọi là chân tâm cũng gọi là Bản giác. Vì giác thể khắp nơi nên các pháp đều là thật. Nếu chỉ cái cốt yếu thì chẳng lìa niệm hiện tiền phân biệt. Niệm tức là Bản giác, Giác tức là thể kinh, không có thể kinh khác để nói. Giác này là tâm quán Y chánh, năng sở đều dứt đối đãi. Tông của Diệu quán từ đây mà lập. Nếu không phải thể làm sao cần được thể mới lập Tông kinh. Ấn thật tướng là ấn tức phù ấn vừa là tín, vừa là nghĩa ấn định. Bèn lấy Sở thuyên tức là điều nói ra để định lớn nhỏ cho đến tà chánh. Lý phù hợp với ý chỉ Phật mới có thể tin theo. Tiểu thừa có ba ấn, vô thường, vô ngã, hai ấn này là ấn ở sinh tử, một ấn Trạch diệt là ấn ở Niết-bàn. Tiểu thừa Niết-bàn khác với sinh tử, cho nên đều ấn tức là điều nói ra phù hợp với đây thì có thể tin nhận là kinh Tiểu thừa, không phải là tà ma ngoại đạo nói ra. Đại thừa một ấn tức là thật tướng, hai thứ sinh tử, ba Đức Niết-bàn, thế nó là một, rốt ráo chân thật. Nghĩa phù hợp với ở đây nên có thể tin nhận là kinh Đại thừa, không phải Tiểu thừa cũng không phải ngoại đạo. Nay dựa vào kinh này viên thật là đại. Nếu theo luận kia ba Tạng đối diễn hai giáo thông, biệt cũng gọi là một Ấn. Nay chẳng lấy hai, chỉ tướng viên thật gọi là một ấn. Thì người năng thuyết về Y chánh sở quán, bốn thứ tịnh uế, năm tội nghịch... Tánh nó chẳng hai. Dùng một ấn này làm chánh thể của kinh. Vô lượng v.v.. trở đi, là bốn chương Sở quy. Vô lượng công đức là dụng quy của Kinh. Lực dụng của kinh cũng gọi là công đức. Lực có công năng diệt ác, Dụng có đức sinh thiện, diệt tất cả ác, sinh tất cả thiện. Cho nên công đức có vô lượng tên, như công đức này cùng trang nghiêm thực thể cũng như vua chúa trị loạn nuôi dạy dân. Vì các công đức trang nghiêm của Thánh cung, các thứ hạnh tức là tông của kinh. Từ lý mà khởi hạnh toàn lý thành tu, như nước thành sóng, sóng lại trở về nước. Tông sẽ gặp thể, nên nói quy thú. Chung thì muôn hạnh, riêng thì mười sáu quán, nên gọi chành vi ác. Nơi năng vấn đáp tức là tên kinh, tên năng thuyên là ở nói năng nói nghĩa sâu kín. Lại phải hỏi đáp các thứ giải thích để đặt tên kinh mà bày thật nghĩa.

Hỏi: Đề mục là tên đâu có hỏi đáp?

Đáp: Tên là thể năng thuyên, một bộ ngôn cú đều là tên năng thuyên. Như kinh Pháp Hoa nói: Bổn tích mười diệu lấy làm tên, chỉ Đề là chung, cho nên ở Đề mà giải thích tên, bốn nghĩa trước đều khắp trước sau. Cho nên một tên kinh mà hỏi đáp giải thích. Từ sau hướng trước, bày pháp năng quy, chẳng riêng nói giáo mà gồm ở trong tên. Tự gọi tên, dạy người làm giáo, mình người tuy khác nhưng đều là năng thuyên. Cho nên biết bốn chương đồng về một thể. Từ thí trở đi, là y cứ hai dụ hiển tôn quý. Thể ở bốn chương, giống như sao Bắc đẩu các sao đều chầu. Lại giống như biển Đông muôn sông cùng chung về vì bốn chương ấy chẳng tạm lìa thể. Tất cả các pháp không lý nào chẳng thành. Thể kinh đã thế đâu được chẳng biện, cho nên dùng ấn mà kết.

3. Sách nhà v.v... trở đi, là đủ nói thể đức. Thể đối với giải thích Tên chỉ ở một đức, gọi là pháp thân. Bởi trong giải thích tên nêu chung ba pháp. Độn căn tuy hiểu mà kẻ độn chưa sáng. Vì sao? Vì là Văn nêu chung mang cả tông dụng thể lẫn trong ấy, tình tưởng chẳng quên, bản tánh khó bày, cho nên ở chung sau mà nêu riêng Linh nguyên, khác hẳn với bốn ma, các pháp đều thật. Ở Viên y ấy ở trên một điểm mà dứt nghĩ dứt bàn, chẳng phải dụng chẳng phải Tông, mà tánh nói dung, một chẳng nhất định một, như một điểm chữ y điểm chẳng ở riêng. Cho nên ở Pháp thân mà chẳng phải Pháp thân. Pháp thân hội đủ Bát-nhã giải thoát cho nên hiển thể riêng mà nói ba nghĩa. Tuy bày ba đức mà ý ở Pháp thân. Vì không giả đều trung. Cho nên nói ba, gọi là thể đức, trong ba trước y cứ nghĩa lễ mà nói Pháp thân. Sách đã lấy thể mà giải thích Lễ. Cho nên nay dùng lễ mà giải thích Thể. Lễ riêng có tôn ty ý kính vua cha. Trước nói việc ma đã bỏ thiên tà. Nay ở bề tôi chỉ bỏ Tông dụng. Cho nên Thể của vua cha tức là Pháp thân. Thể chẳng tu chứng, lý dứt nói nghĩ. Muốn nêu tâm gọi là quý cực. Đây là Bản giác, chẳng tịch cũng chẳng chiếu cũng gọi là Pháp tánh, chẳng sâu chẳng rộng. Đệ Nhất Nghĩa Đế gọi là Đức Bản Tánh Pháp Thân. Tìm năng thuyên để biết thể này. Thể hiển nên làm khiến người tu quán lấy thể đức này. Thể Y chánh kia mỗi pháp đều quy cực mà thành Diệu tông.

Lại nữa v.v... trở đi, là y cứ nghĩa đáy mà nói đức Bát-nhã. Vì không tức trung, cho nên đức Bát-nhã là lấy chỗ các pháp cũng gọi là Bản nguyên, nguồn phủ thật tế. Nếu được thể trung thì không gì bằng. Luận Trí Độ chép: Tức Thật tướng Bát-nhã. Phật vì quán chiếu Bát-nhã ở trong các pháp mà chứng trí thể này cho nên nói là cùng chung. Nhưng Pháp tánh sâu xa không bờ không chỗ. Nói cùng chỗ, bởi Phật lấy trí không đáy xứng tánh mà chứng. Nghĩa nói cùng chỗ, thì người bảy phương tiện vì trí có chỗ cho nên chẳng đến được chỗ nguồn các pháp. Như người Viên giáo theo danh tự tức, vì tâm tín hiểu cùng Trí độ, năm phẩm quán hạnh cùng chỗ. Thập tín, Tương tợ cũng vậy. Bốn mươi mốt vị phần chứng cùng chỗ. Chỉ có Phật và Phật rốt ráo. Dùng nghĩa này mà nói thể của kinh. Pháp tánh sâu xa Đệ Nhất Nghĩa không gọi là đức Bát-nhã. Tìm tên để biết thể, thể hiển nên làm, khiến người tu quán lấy đức thể này mà cùng Y chánh kia mỗi pháp đều đạt đến chỗ chứng của Diệu tông.

Lại nữa v.v... trở đi, là nghĩa đạt nói đến đức giải thoát, vì giả tức trung nên đức giải thoát là thể tất cả pháp tự tại, lại đủ tất cả danh nghĩa chân thật. Nếu biết thể này thì đối tất cả các pháp thông suốt tự tại lại đối với tất cả dị danh thế gian và xuất thế gian trong một mà hiểu nhiều, trong nhiều mà hiểu một. Luận nói Bát-nhã cũng là thật tướng Bát-nhã, Bát-nhã và giải thoát khác tên mà một nghĩa cho nên nêu chung. Trước nói nghĩa này để quán chiếu Bát-nhã, cùng thật tướng này nay nói nghĩa đạt. Dùng văn tự Bát-nhã mà nói các tên thật tướng Bátnhã. Người bảy phương tiện vì mê thể này nên đối với các tên khác thì bít lấp chướng ngại. Người thực hành Viên giáo thì Danh tự thể đạt, Quán hạnh thể đạt, Tương tợ thể đạt, Phần chân thể đạt. Luận nay nói Phật rốt ráo thể đạt. Đạt nghĩa mà nói thể thì bày ra nghĩa pháp tánh Vô Lượng Như lai tạng, gọi là đức chân thánh giải thoát, khiến người tu quán do thể đức này mà đạt được Y chánh kia mỗi pháp không bị chôn vùi mà thành Diệu tông.

Lại, Tông là Tông yếu. Cốt yếu của kinh này ở tại tu tâm Diệu quán mà cảm được Tịnh độ. Tâm quán tức là một tâm ba quán. Trong giải thích danh thì tướng nó đã rõ. Tướng cảm độ văn này luận nói đủ. Nay Diệu tông của kinh là ở nhân quả này. Lại chia làm hai: Một là nêu; hai là có người trở đi, là tùy giải thích. Lược nêu tông thể, vì tướng tông thể một và khác. Người thường lầm lạc cho nên cần phải nêu lược. Văn nêu phân biệt tông thể là nhắc lại lược bác. Tông là nhân quả, đây thuộc sự, thể là một tánh đây là thuộc lý. Tuy chẳng bỏ nhau nhưng nghĩa phải phân chấp nhất định là một thì nghĩa thật trái. Cho nên nói chẳng dùng. Vì sao trở đi là y cứ vào nghĩa mà rộng phá, tức là y cứ nghĩa mà phá. Tông là Tông thú, thú quả thú lý. Thú quả là nhân, còn Thú lý cần phải tu quán. Quán có sáng tối, lý có chứng không, đều thành nhân quả. Cho nên nói tông đã là hai thì thể vốn là lý. Quán tuy thú lý, mà lý không phải sáng tối. Nhân quả y lý mà lý chẳng phải nhân quả. Như sóng nương nước, sóng có ngàn sai khác mà nước chỉ là một. Cho nên nói thể tức chẳng hai. Chẳng nói các Pháp đồng một lý tánh thì chẳng gọi là kinh Thể Đại thừa. Cho nên nói là hai tức chẳng phải thể. Chẳng luận về tu chứng hai pháp nhân quả thì chẳng phải Tông thú của Phật đã chứng. Như cột kèo trở đi là Lập dụ mà phá, nhà trống và cột kèo tuy không lìa nhau, nếu gọi là một thì không hư thật. Tông thể trở đi, là nêu lỗi mà kết. Sự là phân biệt tông thể khác nhau. Nhắc lại để phá. Tuy phá là một chẳng chấp khác, nếu thật có khác thì hai vật cô điệu. Tông khác với thể thì chẳng phải toàn tánh mà khởi hành tu, nếu quán hạnh có làm cũng thuộc tám đảo. Đã chẳng phù hợp với lý thì tin chẳng phải Viên tông. Cho nên nói tà đảo không ấn. Còn thể chẳng khác tông thì tý chẳng phải sự. Sự ở ngoài lý thì thể ấy chẳng khắp. Thể pháp tánh đã khác nhân quả, thì tất cả Pháp đều thành có riêng. Nêu tông thể trở đi, là nêu lỗi mà kết. Nay nói trở đi, là nêu. Nay y cứ vào kinh Phổ Hiền quán mà nghiệm Tông thể bất định. Cho nên kinh ấy nói: "Nhân Đại thừa là thật tướng các pháp". Thật tướng nhân quả chẳng khác mà khác, chẳng phải đảo mà có ấn, đây là Diệu tông. Nhân quả thật tướng chẳng phải một mà một, chẳng phải sự ngoài lý. Đây là Diệu thể, chẳng lẽ đồng khác lập nhất định một nhất định khác. Người khác chẳng nghe đây ở nói riêng làm sao. Giảng Văn sớ này hợp biết Tông thể. Chỉ tưởng sự cảnh mà ba quán chẳng làm chính là đồng với nhà kia tà đảo không ấn. Thật đáng thương thay!

Từ thể mà nói tông là y kinh mà chỉ thẳng vào pháp Đại thừa, tâm đủ dễ biết, sắc đủ khó hiểu. Cho nên chỉ quán nói nhân chung dễ biết, quả cách khó biết. Cho nên quán tự quán tha đều tu tâm quán. Nay quán Tịnh độ phải cầu ở tâm. Vì tâm năng đủ, vì tâm năng tạo, nên tâm cấu độ, tâm Tịnh độ tịnh. Đây cũng nêu chung chưa là đích luận, mà đích là ở một tâm đến tu ba quán. Quán này quán Y chánh an dưỡng rốt ráo thanh tịnh gọi là tâm quán tịnh. Quán này khiến cho bốn cõi Phật tịnh như thế mới là tông của kinh này.

Từ bốn thứ trở đi, là y cứ cõi mà nói rộng là nêu bốn độ. Đều có trở đi là Tịnh uế, tùy văn mà giải thích nghĩa, Giáo quán đều chìm, dùng nghĩa giải văn, giải hạnh có thể phát. Trước giải thích chữ quán trong văn, nói bày một tâm ba quán. Lại văn nêu ba quán làm Tông. Đến kết Tông nói rằng: Tu tâm Diệu quán chiêu cảm được Tịnh độ, khiến tiêu văn này, bốn Tịnh độ uế cần y theo đây mà quán làm nhân bốn tịnh. Nếu theo các văn, đều ở các độ mà luận về Độ nhân, làm sao có thể thông suốt văn trước sau, chẳng lẽ khiến người nghe chứng Vô sinh nhẫn. Trước năm trược nhẹ là Đồng cư tịnh, thì tịnh này rất thông, phải biết ý riêng. Như Giới thiện là phàm vị của bốn giáo, đều có thể khiến năm trược nhẹ mỏng Đồng cư tịnh, mà Viên quán trược nhẹ cảm đồng cư tịnh, Y chánh rất tịnh. Như kinh này nói quán đất trở đi thì mỗi tướng trạng so với các kinh khác về tu các hạnh thiện cảm cõi An dưỡng tướng ấy rất khác. Nói thể chiết khéo vụng tướng Hữu dư tịnh uế. Chúng nhân ở độ này tịnh tướng cũng rộng, chiết quán nên cảm uế có thể ở ba tạng. Thể quán cảm tịnh, chẳng chuyên người thông, giảng môn ba giáo, đối ba tạng mà chiết đều nói theo thể pháp. Thông chỉ không thể, biệt thì thể thế lớp, viên thì thể thế lớp, ba người sinh về đó đều cảm tướng tịnh, mà người viên thì tịnh nhất. Như Quán Âm Sớ chép: "Biệt hướng viên tu Viên giáo thất tín trở đi thì thấy Y chánh ấy cũng ở Thật báo. Trụ hạnh và thông thấy tướng đều kém. Nay Diệu thể kinh này cần khác ba người, cho Đồng cư, Hữu dư chỗ nói tướng của tịnh thì văn chung mà ý riêng. Cần lấy văn đôn quán trước sau, lấy lời Diệu tông mà giải chung văn này khiến cho quy thú. Nói thứ lớp đốn nhập Thật báo tịnh uế, là nếu luận về thật chứng thì cõi này chỉ có Viên thành ở, người Biệt sơ Địa chứng cùng viên đồng gọi là Thật cảm báo có gì cao thấp. Nay đối giáo đạo mười Địa chẳng dung, đến cảm độ cũng khác với người viên, cho nên y cứ Đốn tiệm mà có chia ra tịnh uế. Nếu ở người Biệt đồng viên chứng thật mà luận về Tịch quang, thì chỉ y cứ chân nhân đối với Viên cực quả mà phân tịnh uế. Nay luận Giáo đạo mà nói cực quả, chỉ dứt vô minh mười hai phẩm thì Tịch quang cũng còn uế. Viên biết cần đoạn bốn mươi hai phẩm mới gọi tịnh tròn đầy. Nhưng phải biết rõ người viên hay dùng lý Thường tịch quang Thượng phẩm mà thực hành quán thể. Nay nói tròn đầy là có ý thành người tu tâm diệu quán.

Ta-bà v.v... trở đi, là giải thích tướng, chỉ giải thích tên cõi mà chỉ bày sơ lược tịnh uế. Nếu đích luận nhân năng cảm bốn độ thì chỉ có một viên quán như vừa nói. Văn giải thích Đồng cư. Đồng cư là y cứ người, Tịnh uế là y cứ cõi, nghĩa là người phàm người Thánh đồng ở cõi uế. Tịnh độ cũng có Phàm Thánh đồng ở, hai chỗ Phàm Thánh, Phàm tức là thật còn Thánh thì không cả quyền thật mới là chứng thật, ở từ nơi khác đến là quyền. Kế ở Nê-hoàn, Nê-hoàn là Niết-bàn là tiếng Phạm mới cũ mà thôi. Sinh An dưỡng là phiền não được điều phục mà gần với Niết-bàn nên gọi là kế. Đều là nhóm Chánh định, là xếp vào ba nhóm. Nếu như bạc địa phàm phu ở cõi này thì thuộc nhóm Tà định. Phát tâm tu hành mà chưa không lui sụt là thuộc nhóm Bất định. Còn được không lui sụt thì thuộc nhóm Chánh định. Nếu sinh An dưỡng mà không luận cao thấp, thì người năm tội nghịch khi qua đời mười niệm được vãng sinh, thì cũng được không lui sụt. Cho nên nói đều thuộc nhóm Chánh định. Khởi Tín Luận nói sơ tâm sinh lên đó thì trụ ở Chánh định. Kinh Tiểu Di-đà nói: Sinh lên đó rồi đều được A-bệ-bạt-trí.

Trong Đồng cư tịnh thì Cực lạc phải ở cõi Thượng phẩm. Nếu theo mười sáu pháp quán môn mà tu viên diệu thì dẫu còn thông hoặc mà sinh về nước ấy thì thường thấy Thắng tướng, như ở cõi này thấy ở các hội Đại thừa Hoa Nghiêm.

Giải thích về Hữu dư là y cứ Tu đoạn mà giải thích tên. Chín thứ người tu cùng sinh nước ấy. Tạng hai, Thông ba, Biệt trụ, Hạnh hai. Đã tu không giả đều là đạo phương diện. Biệt hướng viên tín, chỗ tu tuy thật nhưng còn ở Trợ đạo. Xếp thuộc về phương tiện, không sinh phần đoạn. Bởi trừ bốn trụ thì y cứ đây mà tu đoạn được gọi là phương tiện. Đoạn thông trừ biệt nên gọi là Hữu dư. Từ Thích Luận trở đi, là y theo vào kinh luận mà giải thích tướng. Tiểu thừa tuy nói đồng vào pháp tánh mà chấp thể pháp tánh giống như hư không. Tử quả nếu quên thì hẳn nhiên chẳng có thân cõi. Đại thừa Pháp tánh thể đủ sắc tâm. Tử quả nếu quên thì thân cõi rộng lớn.

Thích Luận dùng Đại thừa đối phá Tiểu thừa nói ngoài cõi không cõi. Nói riêng ra ngoài cõi nếu có Tịnh độ thì pháp tánh Tiểu thừa không có sắc tâm. Cho nên nói riêng chịu thân Pháp tánh. Lại dẫn Pháp Hoa gặp các Phật khác, tức có Cõi Phật khác. Đây là ước sau khi Phật diệt độ mà không gặp bốn y, không sinh tin thật, Tự bảo là diệt mất hẳn, mà sinh Hữu dư, được Phật khai quyền, liền được quyết liễu.

Ở trong đó trở đi, là nói lợi độn tịnh uế. Lợi độn cõi ấy chỉ nói theo Đại thừa. Nếu ở cõi này đã tu Trung quán khi sinh về cõi ấy là lợi căn thì Phật liền nói pháp cho nghe không theo thứ lớp. Nếu ở cõi này mà chưa tu Trung quán thì khi sinh nước ấy là kẻ độn căn thì Phật sẽ nói Pháp thứ lớp. Lợi căn ở trên nên nói là chỉ trên. Vậy chỉ dưới thì so sánh theo đây mà biết. Chỗ thấy của lợi căn đồng với thật báo nên gọi là tịnh. Chỗ thấy của Độn căn tướng kém hơn trên nên gọi là uế. Nay lấy lợi độn mà nghiệm thể ở trước thì chỉ viên mới gọi là thể. Còn Biệt hướng quán trung thì vừa đồng Viên thể.

Giải thích về Thật báo tức là y cứ nhân quả mà giải thích tên. Làm đạo chân thật, là người viên từ người sơ biệt thập hướng thì hay ở các pháp mà xứng thật quán trung. Lý trung nay đã mở hiền cảm được Diệu báo mà sắc tâm chẳng hai, thuần là Pháp thân Bồ-tát ở đấy. Còn phân biệt với viên tợ, huống chi là bảy phương tiện. Bỏ phân biệt nói rộng phải khéo phân biệt; Nhân vương v.v... trở đi, là y theo Kinh Luận mà giải thích tướng. Nhân vương mượn biệt mà gọi Viên vị, ba hiền mười thánh là mượn biệt mà gọi. Trụ ở quả báo, tức gọi Viên vị. Vì Tam hiền đã cùng Thập thánh đồng trụ ở quả báo, nghiệm là Thật báo, chẳng chứng Trung đạo, sao trụ Thật báo, cho nên biết gọi biệt mà nghĩa lại thuộc về viên. Nay lấy quả Báo là chứng cõi Thật báo.

Hỏi: Trước nói Thật báo chẳng có Nhị thừa, nay sao bỗng nói Ca-diếp đứng dậy múa?

Đáp: Nên biết bốn độ có ngang có dọc. Vẫn biết ngang dọc chỉ ở một cõi Đồng cư, chỉ ở thú ấy tức là Thật báo. Nếu phá vô minh mà chuyển thân vào thì đây là Pháp thân đồng thể dụng với Phật, gọi là báo Thật diệu, thì sáu căn người thanh tịnh cũng chẳng thể dự vào huống chi là Nhị thừa. Đây là Thật báo theo chỗ (dọc) luận. Nếu chưa phá vô minh tức là thân thấy, đây chính là Chư Phật và các Đại Bồ-tát có thể nhìn thấy mà che chở cho khiến thấy Thật báo độ. Bởi có cơ duyên tuy chưa phá hoặc nhưng đã tu Trung quán. Như các Tọa Tịch tạp loại trong hội Hoa Nghiêm cảm thấy Thân độ khó nghĩ bàn. Nay dẫn Luận văn bèn trong Phương đẳng làm chỗ y cứ. Cho nên bày cõi Thật báo có năm tuần thăng diệu, mà khiến ngài Ca-diếp bỗng quên Thiểu dục mà đứng dậy nhảy múa, là muốn khiến Thanh văn Đại pháp rất diệu mà sinh tâm mến mộ bỏ đi Tiểu đạo. Đây điều là một chỗ ngang mà luận tướng Thật báo độ. Cho nên tám bộ Đại thừa, Cơ thạc thì đều thấy. Nay lấy dụ kém mà làm sáng Thắng độ. Như quỷ thú sống ở cảnh giới người, có người chết rồi đọa vào thú ấy thì cùng với loại ấy mà không phải cùng chung với người khác. Có thân thì từ người có thể thấy thú ấy, mà không ngại người khác thấy tướng mình. Đọa là dụ cho thụ nhập Thật báo độ, Thấy là dụ cho ngang luận Thật báo độ. Thật báo đã thế thì phương tiện, Tịch quang ngang luận cùng một chỗ cũng giống như thế. Ở cõi Đồng cư thì luận ngang dọc ba cõi, ở nơi Phương tiện thì luận ngang thụ hai độ, ở nơi Thật báo thì luận về một cõi ngang dọc. Đến nơi Tịch quang thì không ngang không dọc, ngay chỗ ấy cũng không.

Hỏi: Luận chép: "Ca-diếp đối trước năm dục thắng diệu của Bồ-tát rất yêu thích chẳng thể không nhảy múa. Đến thời Pháp Hoa thì Ca-diếp kể xưa nghe Pháp Du hí thần thông của Bồ-tát mà không sinh tâm niệm ưa thích. Cả hai việc đều là Pháp của Bồ-tát vì sao lại ưa ghét trái nhau như thế?"

Đáp: Nên biết hai tâm ấy đều là hoặc riêng. Yêu thích ở diệu dục tức là Đồng thể tư, còn ghét ở cõi sinh tức là giới ngoại trần sa. Như kẻ chẳng ra gì thì chỉ thích giàu sang mà biếng học. Theo Tịnh Danh bác bỏ Thân Tử rằng nếu Kiết tập chưa hết thì hoa dính thân. Vì sợ sinh tử nên năm dục được dịp. Đã sợ sinh tử bèn chỉ trích trần sa là vì kiến tập. Lại dẫn kinh Hoa Nghiêm nói vô lượng mây hương đều là nói cảnh đồng cư trước đây ngang bày tướng Thật báo, trong đấy trở đi, là nói Tiệm đốn tịnh uế.

Giải thích về Tịch quang là khắc thể mà đặt tên ba thứ trước ở sự, cho nên theo chỗ người ở mà tu dứt nhân quả mà đặt tên cõi. Cõi này thuộc Lý nên từ bản thể của ba đức mà đặt tên.

Hỏi: Phần chứng Tịch quang, ba chứng chưa hết sao được một bề ở lý mà đặt tên?

Đáp: Chướng chưa hết biên, tự thuộc Thật báo. Nay ở chỗ nhân quả phần vong thì gọi là trung hạ cõi Thường tịch quang. Từ Chư Phật trở đi, là ước năng cư mà bày tướng. Kinh Kim Quang Minh nói: Như lai dạo chơi ở vô lượng sâu xa Pháp tánh. Chỗ đi của Chư Phật hơn chỗ đi thanh tịnh của Bồ-tát. Vô lượng tức là tịch, sâu xa tức là quang, Pháp tánh tức là thường. Lại Phổ Hiền Quán chép: "Thích-ca Mâu-ni hiệu là Tỳ-lô-giá-na, chỗ ở của Phật này gọi là Thường tịch quang. Thường Ba-la-mật sở nhiếp mà thành, Ngã Ba-la-mật an lập, Lạc Ba-la-mật lìa tướng thân tâm, Tịnh Ba-la-mật diệt mất tướng có. Cho nên biết độ này từ chỗ lập bốn đức rốt ráo. Dùng bốn bỉ ngạn mà hiển rõ ba đức. Thường ngã tức là Pháp thân, lạc tức là giải thoát, tịnh tức là Bát-nhã. Ba đức cùng đầy đủ mỗi pháp đều luận ba. Cho nên Pháp thân... đều đủ bốn đức. Tuy nói ba, bốn nhưng thật chẳng phải mười hai. Người học biết rõ như thế mới gọi là chẳng dọc chẳng ngang bí mật Tạng. Ba phần đắc trở đi, là nói phần mãn tịnh uế. Phần đắc gọi uế là nói theo chứng, tên thường Tịch quang thì từ cực lý mà lập ra. Cho nên trở đi, là y theo nghĩa mà kết bày, giải thích chữ quán của đề kinh, viên nói ba quán. Đến nay nói Tông, trước nói vì tâm quán tịnh nên Cõi Phật tịnh làm Tông chí của khế kinh nói bốn cõi tịnh uế. Nay bèn kết rằng: Cho nên lấy tu tâm Diệu quán mà cảm Tịnh độ là Tông của kinh. Nếu không dùng ba quán viên diệu mà chiêu cảm bốn Tịnh độ thì nêu văn kết toàn là vô dụng. Giải thích ba quán của đề là cho người nào, là dùng chỗ nào. Nếu bảo muốn cảm hai thứ Tịnh độ Thật báo và Tịch quang thì cần phải viên ba quán. Nếu Hữu dư tịnh chỉ tu thể không hoặc Đồng cư tịnh chỉ dùng sự mà làm chẳng cần ba quán. Nghĩa này chẳng đúng. Thể pháp thiên không các thứ sự làm, tuy cả hai thứ nhân Tịnh độ nhưng chẳng phải là nêu Tông chí của kinh này. Bởi kinh này vốn là Vy-đề-hy chán Đồng cư uế mà cầu Đồng cư tịnh, cho nên nói Diệu quán mà quán Y chánh kia. Sao vội nói cảm đồng cư tịnh không cần ba quán. Nếu Ba quán thành thì thô cấu trước rụng, không phải Hữu dư tịnh thì sinh chỗ nào, lẽ nào Hữu dư tịnh không phải Diệu quán ư? Nên biết chính vì sinh Đồng cư tịnh nên nói ba quán. Bởi do quán Diệu có công năng phá ba hoặc mà không riêng cảm Tịnh độ Đồng cư. Tùy theo hoặc đoạn can sâu mà tự nhiên cảm được Hữu dư ba cõi kia. Như bệnh cần thuốc vốn để thân an mà cầu được thuốc tiên thì khi uống vào không chỉ thân an mà còn được nhẹ nhàng thư thái. Thân an là dụ cho sinh Đồng cư độ, còn nhẹ nhàng bay được là dụ cảm được ba cõi trên. Chỉ là một thứ thuốc mà hiệu lực rất cao quý. Như một Diệu quán mà thanh tịnh ở bốn độ. Luận Khởi Tín chép: "Kẻ sơ tâm tu hành Đại thừa Chánh tín, sợ ở cõi này không thường gặp Phật tín tâm sẽ lui thất, bèn dạy cầu sinh thế giới Cực lạc khiến thấy được Pháp thân chân như của Phật ấy, rốt ráo được sinh mà trụ vào Chánh định". Nếu không phải viên ba quán, làm sao thấy được Pháp thân. Đâu thể nói nhân Cực lạc chỉ có sự thiện.

Luận về dụng. Tông là pháp tự lợi tu cho mình, dụng là pháp thí cho người. Tự lợi đến lý nên nói Diệu quán, hóa tha nhiếp cơ mà họp chung các thiện. Người khác đã Diệu quán, cũng phải dạy tu, tự làm giúp đạo há lại bỏ các thiện, cho nên Tông dụng pháp thì phải bằng nhau, chỉ có tự hành tự lợi lợi tha là khác mà thôi. Văn có nêu tên lượt bày, có cố gắng mới có hữu dụng nên nói Lực dụng. Lực dụng là sinh Thiện diệt ác. Người tu phải biết ba thứ Thể, Thông, Dụng, nói riêng ba Pháp thân là chỗ hiểu ra tánh. Tông là Bát-nhã là chỗ hiển ra trí.

Dụng là giải thoát, là chỗ khởi ra lực hai thứ tuy tu thành mà nên biết là vốn đủ, còn một thứ tuy là tánh song toàn khởi thành tu. Cho nên chẳng phải dọc ngang mà không thể nghĩ bàn; hai đức ở tánh chỉ cho hoặc nghiệp, tức là tu đủ hai tánh thiện ác. Nay thể trái với tu đã toàn tánh đủ, ngay đấy mà dung diệu là đức hóa tha. Cho nên lấy hai thứ này làm Tông dụng cho kinh; dụng khắp tất cả, chẳng phải không có Dụng ác. Vì thuận tánh mà dùng, rất có công năng diệt ác. Diệt ác trở đi, là y cứ nghĩa mà giải thích rộng. Y cứ thiện ác nói đủ, đã bày lực dụng ắt thành công đức. Cho nên một dụng mà có bốn tên, riêng luận diệt ác nên bày công lực. Riêng luận sinh thiện mà có đức dụng. Đây là một lượt. Nếu hai lượt mà nói thì lực dụng công đức đều có thể diệt ác, lực dụng công đức đều có thể sinh thiện. Nên biết diệt ác rốt đến A-tỳ, sinh thiện lý phải đến Diệu giác, mới là lực dụng công đức của Viên kinh.

Ba khổ trở đi, là ở diệt ác mà giải thích riêng, tức là không ác nào chẳng dứt. Nói diệt ác là phải diệt nhân ác thì mới trừ được quả ác. Nếu quả báo tu nhân hai thứ mà người tu không trừ ba độc là gốc các khổ thì dẫu có lìa khỏi khổ, cũng không thể dứt hẳn. Nay nói người tu quán Tịnh độ, thì khiến các nhân quả ác điều diệt. Hoặc dẫu chưa dứt, sinh lên cõi ấy chẳng khởi sẽ dứt chẳng lâu. Cho nên dứt hẳn nhân ác quả ác. Tóm lại lực dụng của kinh này diệt nhân năm trụ trừ hai quả tử. Cho nên trở đi, là từ nặng mà nêu riêng. Ác nặng không gì hơn ngũ nghịch. Ngũ nghịch là nghiệp từ thượng phẩm phiền não mà khởi, với lấy khổ vô gián. Năng lực lớn của kinh này có thể diệt ba chướng cực nặng này liền sinh Tịnh độ. Nếu ba chướng này phải không phải là tánh của ba đức thì làm sao có thể chuyển vô gián thành Cực lạc. Từ rất độn căn lại luận mười biện mà sinh phẩm thấp nhất. Nếu từ lợi căn thì đều sinh vào tám phẩm trên. Vì thể của ngũ nghịch là Tịch quang cho nên có thể ở đây mà tịnh cả bốn cõi Phật.

Năm lời nói về Giáo tướng. Giáo là lời của bậc Thánh dạy người dưới. Tướng là tướng trạng. Xem mà phân biệt bốn nghĩa trên đều là ngôn giáo, gọi là nói Danh giáo, là giáo nói về thể, về tông, về dụng. Dùng tướng phân biệt thì khiến người đọc hiểu rõ, nên y cứ năm thời, hai Tạng tiệm đốn mà bày tướng. Văn nói Giáo được nói là y cứ năm Thời mà phán. Nói về Giáo bộ, về Đại Tiểu thừa thì kinh này thuộc Đại thừa. Trong kinh cũng có nói vua Tần-bà chứng Tiểu quả nhưng không phải giáo này trùm cơ. Nay chánh vì Vy-đề-hy mà giảng nói quán Tịnh độ, còn không phải chung riêng huống chi là Tiểu thừa. Trong năm thời thì kinh này thuộc thời thứ ba Phương đẳng. Từ Phó cơ trở đi, là nói rộng lược. Lại nói về tướng văn mà chưa luận về định tán. Y theo hai tạng mà phán, y cứ Nhân phán Pháp, đây thuộc Bồ-tát.

Các kinh A-hàm v.v... tuy nói ba thừa nhưng theo nhiều theo chánh thì thuộc tạng Thanh văn. Các bộ Đại thừa tuy có Nhị thừa nhưng không phải Chánh ý của bộ. Cho nên xếp vào Tạng Bồ-tát. Ba là y cứ tiệm đốn mà xếp. Nếu y theo Hóa nghi mà luận tiệm đốn thì kinh Hoa Nghiêm thuộc đốn, ba thời đều tiệm. Kinh này ở thời Phương đẳng không phải hóa nghi đốn. Nay kinh này là đốn, là chính vì hóa pháp lấy viên làm đốn. Cho nên ở Vi-đề từ thân được nhẫn nên phán giáo là đốn. Lại đối với Vô sinh nhẫn là biệt ở Sơ địa, Viên ở Sơ trụ. Phàm phu biệt giáo trải vô số kiếp mới đến vị này. Chỉ có Viên giáo thì liền có thể sinh về. Nếu đem kết ích mà phán giáo Thiên Viên thì rất sáng tỏ. Vì thế văn nay ở đương cơ chứng vị của mà định thì là Đốn không phải tiệm. Từ Đề trở đi là nói phân biệt người nói kinh, hoặc bốn người nói mà Như lai ấn chứng thì cũng được gọi là kinh. Kinh này trước sau đều từ miệng nói ra nên gọi Phật nói.

Trong lợi tựa, văn có hai Chứng tín và Phát khởi. Chánh thuyết cũng có hai là Tịnh nghiệp và Diệu quán. Phần Lưu thông cũng có hai là cung vua và núi Thứu.

Văn chia v.v... trở đi, là tùy kinh mà nói nghĩa. Trước lấy nghĩa trong kinh mà giải thích đề, chung ý chung tuy nêu nhưng văn riêng khó bày, cho nên phải dùng câu cú mà định văn kinh, khiến nghĩa sáng tỏ, chung riêng tuy khác nghĩa chẳng hai đường mới biết huyền nghĩa giải thích đề kinh này, lại biết câu cú chẳng nêu nghĩa khác, tức là chung riêng khoa phán. Chung khoa ra ba phần, phán Riêng có sáu chương.

Sơ chứng trở đi, là tùy khoa mà giải thích. Về phần tựa, thì có tựa Chứng tín, tức là Tựa chung. Đại Luận chép: "Khi Phật sắp nhập Niết-bàn thì A-nan hỏi Phật tất cả ở đầu kinh nên để lời gì? Phật bảo A-nan nên để "Như thế tôi nghe, một thuở nọ Đức Phật ngự tại đâu, cùng đại chúng nào. Không phải chỉ riêng pháp Ta như thế, mà kinh của Chư Phật ba đời xưa cũng như thế. Cho nên biết sáu nghĩa tức là Tựa chung, vì các kinh đều giống nhau". Cũng gọi là tựa trước của kinh, dặn dò khiến an tâm. Cũng gọi là tựa sau kinh, do người kiết tập đặt để. Nay nói Chứng tín là khiến người nghe không nghi. Cho nên Luận thứ tư hỏi rằng: "Sao không nói thẳng Bát-nhã mà nói trụ ở thành Vương xá?

Đáp rằng: Nói Thời, Phương, người khiến người tin. Nói sáu cú là chỉ dùng thuyên nghĩa rốt ráo làm cú. Như Phật chỉ một chữ cũng gọi là cú. Có nghĩa là chỉ nêu sáu cú. Như thế là nêu Tin. Thích Luận quyển hai hỏi: "Vì sao các kinh Chư Phật trước đều để như thế?"

Đáp: Biển lớn Phật pháp chỉ có lòng Tin thì vào được, Trí mới độ được. Nghĩa của như thế tức là Tin. Như người có tin mới vào Phật pháp, không tin thì không vào. Người không tin thì nói việc ấy không đúng. Tin thì nói việc ấy như thế. Tôi nghe là khác ngoại đạo, đích thân nhận được ở Phật nên nói tôi nghe. Không đồng với ngoại đạo là không được bạch Phật. Một thuở nọ (một thời), để dứt tranh cãi là nói lúc căn cơ chín muồi nhận được đạo nên không tranh cãi. Thích Luận chép: "Không phải chẳng có một thuở nọ. Phật tự nói một người ra đời thì nhiều người được vui. Đó là ai, là Phật Thế tôn. "

Như thế tôi nghe, một thuở nọ Phật ngự tại thành Vương xá trong núi Kỳ-xà-quật, cùng chúng đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị. Có ba muôn hai ngàn Bồ-tát. Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi là Thượng thủ.

Như thế v.v... trở đi, là giải thích nghĩa theo văn, tức là nêu Tin. Tin gọi là vui nhận lý đáng lời nói thiện nên mới nhận mới vui. Lý đáng không đổi khác nên gọi là như. Lời nói thiện thì không quấy nên gọi là thị phải, bốn giáo nói lý đều gọi như thế mà có cạn sâu. Nếu ở ba tạng chỉ đối thế tục mà luận không đổi khác và không sai quấy. Chung tuy tức lý nhưng chỉ ở hai đế. Biệt giáo biết trung trước phải phá hai thứ. Chỉ Viên sơ tâm thì hiểu các pháp mỗi pháp đều trung thật, ngay đó đều Như. Xứng đây mà nói, không quấy nói là Thị (thế, phải). Cho nên viên nhìn ba giáo đều chẳng như thị (như thế). Chỗ tin của kinh này tuy chưa chia mở mà căn cơ bao trùm không theo thiên tiểu. Cho nên chỉ ở Viên mà nói Như thị (như thế) là quyết định đáng tin. Câu này như thế, năm câu sau ý đều ở Viên. Cho nên tựa chung, văn chung, nghĩa cũng chung mà ý riêng. Giải thích văn chung nên nói như thế.

Tôi nghe v.v... trở đi, nói khác ngoại đạo tức là chánh giải thích, là nói có mặt tôi ở bên Phật. Tuy giải thích tôi nghe nhưng ý nói nhiều người nghe văn kế Tôi (ngã). Từ Ngã trở đi là phân biệt, là lập lời hỏi. Chữ Tôi (ngã) có nghĩa là tự tại và chủ tể. Kẻ phàm phu Tiểu thừa ở trong người Pháp mà chấp trước Ngã. Nay truyền Viên quán, họp thuận hai không sao được nói Ngã (tôi). Lại tùy tục trở đi, là đáp lời vấn nạn, là thông thẳng rốt ráo hư không, tuy Ngã chẳng được mà không này tức là tục, các Ngã rõ ràng. Nay lại y cứ ba mà phân biệt tướng Ngã. Ngang chấp chủ tể gọi là Kiến ngã, Câu sinh chủ tể gọi là Mạn ngã, tùy đời truyền khắp gọi là Danh tự ngã. Tôn giả A-nan khi kết tập còn phá. Ngã Đồng thể Kiến mạo, chẳng lẽ có hai thứ Ngã giới nội ư? Vì truyền hóa nên thuận Diệu tục mà đặt tên tự Ngã. Như người v.v... trở đi, là nêu thí dụ. Biết lý vô ngã như dùng tiền vàng. Tùy tục lập Ngã như đổ tiền đồng và rau cỏ.

Nói dứt tranh cãi là nêu luận giải thích, tức giải thích một, trước y theo Chân mà phá, kế tùy tục mà lập. Xem văn thấy rõ. Thích Luận rộng phá một. Luận nói: Nếu một là một với vật, một khác với vật, thì cả hai đều có lỗi.

Hỏi: Một có lỗi gì?

Đáp: Nếu một bình là nghĩa một thì ở đâu có một nơi ấy đều là bình thì không y vào các vật.

Hỏi: Lỗi trong một đã thế thì lỗi trong hai là sao?

Đáp: Nếu một khác với bình thì bình chẳng phải một. Nếu bình khác với một thì một chẳng phải bình. Nếu bình hợp với một thì bình gọi là một. Nay một hợp với bình, sao không gọi một là bình. Cho nên không được nói bình khác một. Văn ấy rất rộng, bởi bình rõ rằng có thể thấy nên dùng bình mà dụ cho thời. Một là số thời là thể. Nếu ở số Thể mà chấp nhất định là một khác thì các hoặc lăng xăng. Lìa được chấp thì đối với Pháp sẽ giải thoát. Nay mượn một văn số thể này mà nêu việc lìa chấp trước quán, khiến đối các Pháp đều bỏ chấp nhất định liền biết sáu sự và các văn, đều phải lìa kiến một. Về giải thích Thời. Cõi này nói thiệu, chỉ nói thẳng là thời. Thiên trúc có hai âm nếu gọi Ca-la là Thời thật (thời ngắn), nếu gọi Tam-ma-da tức là thời giả (thời dài). Cũng như cõi này tâm có hai thứ là nói trí thì là tâm hiểu, nói thức thì là tâm mê, cho nên phải y trí mà không y thức. Người ngoài chấp thời xem là thật, nên đối với họ mà gọi Tamma-da, là nói thời giả. Còn nếu đệ tử Phật y thời mà ăn để hộ minh tướng thì nói Ca-la, nói thời là thật, nói CA-la thời ngắn, Tam-ma-da thời dài là nếu y cứ vào luận văn thì thời ngắn thời dài đều gọi là Tam-ma-da cả. Nghĩa là phương, thời, lìa, hợp, một, khác, dài, ngắn, các danh tự đều xuất phát từ tâm chấp trước của người làm, cho nên dài ngắn đều giả mà không thật. Nay dùng dài ngắn để phân đối hai tên, là sợ Đại sư y vào kiến lập môn khéo hiểu ý luận. Y theo thời Phật chế ra thì thời sinh tử ngắn, còn thời của ngoại đạo chấp thì thời sinh tử dài. Đã về với Luận văn thì có ý này. Nay chẳng trở đi, là nói ý nay. Nói bất luận là nay không phải giới nội hộ minh tướng cho nên bất luận thời thật. Lại không phải phá ngoại đạo chấp thời làm thật cho nên bất luận thời giả. Dài ngắn như trước, chỉ là chúng sinh căn cơ thuần thục nên Đức Phật đã ứng nói kinh, cơ ứng họp một thời, cũng là Đế trí hợp với một thời, cho nên nói là một thời. Văn chỉ từ ứng cho nên nói kinh, chẳng lẽ không cơ cảm mà Phật không nói Pháp. Vì thế Phật nói xong thì Vy-đề-hy ngộ hết. Nhưng văn nghĩa một thời vốn chung sâu cạn, nay ý Biệt ở Viên mà cơ cảm Phật, cho nên khiến phàm phu đốn nhập nhanh chóng nhập vào Pháp nhẫn.

Từ Phật trở đi, lắm Hóa chủ tức một là y cứ tên khác mà giải thích. Đại Luận quyển bốn, dùng bốn nghĩa để giải thích Bà-già-bà: Một là năng phá phiền não; hai là có công đức; ba là khéo phân biệt, có công năng phân biệt tướng chung tướng riêng của các Pháp; bốn là tiếng tăm tốt, không ai được tiếng tốt như Phật. Nay văn lược bỏ hai nghĩa. Mới dịch là Bà-già-phạm, đủ cả sáu nghĩa: Một là tự tại; hai là lừng lẫy; ba là đoan nghiêm; bốn là danh xưng; năm là tốt lành; sáu là Tôn quý. Vì phần nhiều đều ngầm hiểu mà không dịch. Xưa gọi là Bà-già-bà là sai. Từ Phật là trở đi, là y cứ ba giác mà giải thích. Phật trở đi là nêu chung. Đã hay v.v... trở đi, là nêu riêng ba giác. Đối mê mà nói tự, đối tự mà nói tha, đối nhân mà nói mãn. Một Bình Đẳng giác đối ba thứ chẳng đồng mà nói là ba giác. Nhất thiết trở đi, là y cứ với Siêu nhân mà giải thích vì Nhất thiết trí khác với tà si của ngoại đạo, vô Duyên từ khác với Tiểu thừa tự độ. Ba trí bình đẳng nên khác với Bồ-tát thiên lệch. Rốt ráo giác nên khác với các Nhân vị, hay khác mà chẳng khác. Đối với chỗ khác mà bốn thứ phân biệt. Nhưng giải thích nghĩa Phật thì sáu thứ đều nói. Văn ấy rõ ràng nên nay chỉ nói lược.

Tự tại v.v... trở đi, là luận chỗ ở là hội ở chỗ đồng ở, tại tạm trụ lâu, trải qua một lúc nên không hết lý, còn tại lâu trụ tạm thì có ngại gì. Huống là núi Linh thứu, Ứng thân Như lai thường ở đấy há được nói là tạm; trụ trở đi, là ước luận mà giải thích trụ. Kinh này nói tại, kinh Đại phẩm nói trụ, ý nghĩa chẳng khác cho nên dẫn đó mà luận trụ giải thích tại. Chia làm hai: Một là nêu bày. Bốn oai nghi là đi đứng ngồi nằm đây là thân nghi đều trụ ở Linh Thứu mà hay giữ Pháp, thì có bốn sai khác tức là Thiên Phạm Thánh Phật; hai, Thiên trụ trở đi là giải thích, văn bốn trụ này đều dùng nghĩa trụ của luận mà giải thích. Nên biết trong bốn thứ đều có nhân quả mà cốt yếu là ở nhân. Cái gọi Như lai là để nhiếp hóa mọi loài nên hiện bày thí giới và tâm mười thiện. Đây tức là Phật muốn các tầng trời cõi Dục trụ pháp ở thành Vương xá. Vì vật mà bày ra bốn tâm Vô lượng, bày ra ba thứ tam-muội, tức là Phạm pháp, Thánh pháp trụ ở thành Vương xá... Đây đều là Như lai tùy theo ý người khác mà trụ. Nếu tùy theo ý mình thì dùng Lăng Nghiêm đến Bất cộng mà trụ ở thành Vương xá. Cho nên Phổ Hiền Quán chép: "Thích-ca Mâu-ni gọi là Tỳ-lô-giá-na, chỗ trụ của Phật này gọi là Thường tịch quang Thích-ca Giána đã là khác tên mà thành Vương xá và Tịch quang rốt ráo chẳng hay, nên nói chỗ trụ của Phật này là Thường tịch quang. Nay chỗ trụ là cảnh giới nào. Lại nên biết rõ. Nếu lấy Người pháp mà phân năng sở, thì Thí giới cho đến Thủ Lăng Nghiêm... Đều là pháp sở trụ, Phật là năng trụ. Nếu dùng thành Vương xá làm chỗ sở trụ thì Nhân và Pháp trên đều gọi là năng trụ. Lại y theo văn kinh chỉ nói Phật trụ. Luận chỉ theo Thủ Lăng Nghiêm giải thích mà nói ba thứ trước. Ngài Kinh Khê có hai giải thích: Một là từ chung đến riêng từ rộng đến hẹp; hai là dùng hơn nhiếp kém. Phật trụ ở thành Vương xá thì nhiếp Dục sắc cho đến ba thừa. Phật trụ đã thăng thì không Pháp nào chẳng trụ, chẳng phải chẳng trụ ác mà vì dẫn dắt chúng sanh, nên lại theo thiện mà nói. Mà ở trong thiện thì có thiện thế gian, lược chỉ Định tán, gồm thâu tất cả thiện, nên nói là Đại phạm. Ở trong xuất thế thì lược chỉ Tiểu Đại mà nhiếp tất cả Pháp, cho nên nói Thánh Phật. Người khác chẳng rõ tâm pháp năng trụ chỉ nói thân trụ ở thành Vương xá thì tức là đè nén Cực thánh đồng trụ với Phàm phu. Huống chi Phàm thánh đều có pháp năng trụ. Lại như Tỳ-kheo tu Giới, Định, Tuệ, cho đến Thiên phạm và Thánh dục ở trong nhà lửa. Nếu người phá giới thì là Địa ngục trụ ở nhà cửa. Với người năng tu một Tâm ba quán thì chỗ trụ tức là Không, Giả, Trung, há chẳng phải Lăng Nghiêm là pháp năng trụ. Sơ tâm còn thế vì sao quả Phật chỉ luận về thân trụ. Vương xá v.v... trở đi, là giải thích chỗ, tức là giải thích thành và núi, Thành là dịch tiếng Phạm, cũng gọi Ma-kiệt-đề. Hán dịch là Bất hại, là nói Pháp ở nước ấy không có giết người. Nếu có người phạm tội chết thì đưa vào rừng lạnh. Thích Luận v.v... trở đi, là giải thích về y cứ các vua trị hóa mà giải thích. Lại trước trở đi là y cứ dời chỗ tránh cháy nhà mà giải thích. Xưa v.v... trở đi, là y cứ sợ tội được chỗ mà giải thích. Kỳ-xà trở đi, là giải thích núi có nghĩa là dịch tên; các Thánh trở đi, là giải thích, tức một là ước Thánh Linh, nương tựa mà giải thích. Lại gọi v.v... trở đi là y cứ hình núi giống chim Thứu mà giải thích. Núi trở đi, là y cứ chim Thứu đậu mà giải thích. Nhưng pháp trở đi, là nêu chung pháp ứng, chẳng nói báo vì báo có công năng minh pháp, lại hay thùy ứng. Đã nói pháp ứng thì báo ở trong ấy, ba thân dung diệu. Nói lại tam phân, thể thường tức nhau.

Cùng đại chúng v.v... trở đi, là nêu chúng đồng nghe nghĩa là nêu khoa nói thức. Từ Thanh văn v.v... trở đi, là y Thức mà giải thích, tức là chúng Thanh văn, có hai: Một là phân khoa nêu lược; hai là cùng trở đi là giải thích theo văn nghĩa là nêu vị để giải thích dữ, dữ là cùng. Dùng bảy thứ mà giải thích một, bảy thứ thành một mới là nghĩa cùng. Nếu xếp theo thời thì thuộc về bơ sống. Lại nói theo gốc thì bảy thứ ở ba Tạng. Tức là đồng thời cảm Phật, đồng chỗ vườn nai, đồng giới biệt giải thoát, đồng nhất Thiết trí tâm, đồng chánh kiến vô lậu, đồng ba mươi bảy đạo, đồng thoát hữu dư, xưa đồng bảy thứ thì nay đồng ngày cùng nghe. Nhưng quán môn này Phật dẫn A-nan và Mục-liên vào hậu cung của Vy-đề-hy mà giảng nói, đại chúng vẫn chưa nghe. Đến khi trở về Linh sơn thì A-nan thuật lại đầy đủ mới là đồng nghe. Nghĩa đại trở đi là giải thích đại. Hán dịch Đại thì tiếng Phạm gọi là Ma-ha, hợp thành ba nghĩa là Đại, Đa, Thắng, cho nên phải y cứ ba nghĩa gốc mà giải thích. Đại nhân nhiều người nương về vì có đức lượng lớn. Kiều-trần-như là thầy của Phạm vương, Ca-diếp là thầy của Đế thích thông suốt kinh sách trong ngoài, hiểu biết nhiều, hơn cả tri kiến của chín mươi lăm nhóm ngoại đạo, đều không nghi ngờ về giải thoát, là bậc cao tột của Tiểu thừa. Tuy nêu một Đại nhưng nghĩa đủ ba. Giải thích Tỳ-kheo. Nhân ba quả ba, mỗi pháp đều đối nhau. Từ Thích Luận trở đi, là tùy cốt yếu mà giải thích ba thứ. Nếu nhân ba Thành thì quả ba tự khắc. Lại muốn đi là bắt chước tu nhân cho nên giải thích nhân ba. Trong ba đó có nghĩa là Khất sĩ. Nay nêu lời Thân Tử đáp Tịnh Mục nói nghĩa Khất sĩ. Phải lìa các thực về thượng hạ phương duy mà thường xin ăn thanh tịnh để nuôi sống thì gọi là Khất sĩ.

Đến quả thì thành đức Ứng Cúng; hai là Bố ma (làm ma sợ), ma chủ về sinh tử, kẻ xuất gia lìa nhiễm về với Vô Sinh. Cho nên Ma vương nghe thì kinh sợ. Nhiều người nhiễm dục phá giới thì ma rất vui mừng. Siêng tu ba học quả chứng vô sinh; ba là Phá ác, là hai sử Kiến tư cùng với chín mươi tám gọi là ác, là tặc. Tu Quán suy cùng gọi là Phá ác. Chứng trí dứt hết gọi là Sát tặc. Tượng v.v... trở đi, là giải thích chúng nghĩa là giải thích tên chung; một có trở đi, là giải thích tướng riêng. Nay đây trở đi, là nói lấy bỏ. Yết-ma chung phàm nên lấy người biết hổ thẹn. Nay hai Tăng này thì Tăng biết hổ thẹn là chân thật. Luận nói trong đó hai thứ Tăng có thể cùng một tăm lẻ một Yết-ma. Đồng nghe Chứng Tín còn bỏ bậc Hữu học, nên ba thứ trước là mất phần hai, một ngàn hai trăm năm mươi v.v... trở đi, là nêu số, tức là nêu người họp số là hợp một ngàn. Xá-lợi trở đi là hợp hai trăm năm mươi. Ca-diếp trở đi, là tùy theo đó. Chúng Bồ-tát khoa ra bốn văn. Thiên trúc trở đi, là giải thích hai nghĩa, giải thích vị. Văn Thù trở đi, là giải thích tên. Tựa Phát khởi, tức là đối luận chẳng đồng, là nêu chỗ sai khác. Phát ra ánh sáng thì như kinh Pháp Hoa, phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày chiếu ánh sáng phương Đông một muôn tám ngàn cõi. Động đất thì như Đại phẩm, Thế tôn dùng sức thần thông cả cõi nước Đại thiên rung chuyển sáu cách. Mỉm cười như kinh Báo Ấn, khi ấy Như lai rạng rỡ mỉm cười. Nhập Thiền như kinh Kim Quang Minh. Lúc đó Như lai dạo chơi ở Vô Lượng Pháp Tánh Sâu xa, tự gọi vị hiệu như trong kinh Phạm

Võng, nói nay ta là Lô-xá-na mới ngồi đài sen. Khuyên người khiến hỏi như trong kinh Niết-bàn, bảo khắp chúng sinh rằng Đại Giác Thế tôn sắp nhập Niết-bàn, nếu có chỗ nghi nào, nay đều nên hỏi là lần hỏi sau cùng. Nhưng các kinh phát khởi việc hoặc nay lại đều nêu một mối để nói tướng phát khởi. Kinh nay trở đi, là chánh hiển kinh này, là giải thích nghi, trong đó trở đi là khoa chung, chung lược giải thích. Hỏi trở đi là giải thích, hỏi đáp giải thích nghi.

Hỏi: Tần-bà Vi-đề đều thỉnh đệ tử. Đến Tần-bà vì sao chỉ sai Mục-liên và Lâu-na, còn đến Vi-đề, vì sao đích thân Như lai lại đến.

Đáp: Tần-bà là quốc phụ chỉ nguyện nghe giới pháp, nên sai người đến trao cho. Còn Vi-đề là quốc mẫu, cơ căn ở Diệu quán nên Phật phải đích thân đến. Cha và mẹ đều từ Xà vương mà được. Tần-bà trở đi, là dự phiên danh tự.

Đoạn đầu v.v... trở đi là theo khoa mà giải kinh. Trước chính là nói giết cha, gồm có phân khoa. Khi ấy trong thành lớn Vương xá có thái tử tên A-xà-thế, nghe theo lời xúi dạy của bạn xấu là Điều-đạt mà bắt vua cha Tần-bà-ta-la nhốt vào ngục tối có bảy lớp thành bao quanh cấm các quan không ai được đến gần.

Khi ấy v.v... trở đi, là tùy giải thích, tức là bị con giam nhốt, đó là tùy giải thích văn kinh, là việc học các thầy, nghĩa là giải thích thời, xứ nêu người kinh nói khi ấy tức là lúc Phật ở núi Kỳ-xà-quật không cách xa thành Vương xá. Trước dịch A-xà-thế là Vị Sinh Oán nay mới dịch nghĩa là ngày ở trong thai đã có tướng oán hại, Thầy bói đã dự đoán trước vì thế lấy đó mà đặt tên. Theo lời xúi trở đi, là theo bạn xấu gây ra tội nghịch, gồm giải thích tên và giòng họ bạn xấu. Vi-lợi trở đi, là giải thích mưu thuật của bạn xấu. A-nan là em ruột biết Thông pháp, tự chưa được thông, không biết tâm kẻ ấy trao cho. Tâm nghĩ trở đi, là dạy người đồng mưu, làm voi ngựa báu, dùng việc Luân vương mà gạt Xà-thế bày ôm ấp là muốn thương yêu mình. Nói với thái tử trở đi, là nói bạn xấu xúi bảo, chánh bảo gây ra tội nghịch là ta giết Mâuni để thành Phật mới, còn ông thì giết Tần-bà để làm vua mới. Vua mới và Phật mới cùng dạy thế gian không sướng hay sao? Thuận theo v.v.. trở đi, là nói thái tử tạo nghịch. Xà-thế nghe lời bèn sát nghịch. Điều-đạt trở đi, là nói bạn xấu gây ra tội nghịch. Điều Đạt tạo ba nghịch thành tựu, lại xúi A-xà-thế giết cha thành tựu và ra tay hại mẹ. Tự làm và dạy người tạo năm tội nghịch, nên đang sống mà bị đọa vào địa ngục. Tần-bà trở đi, là cha con có nhân ở đời trước vị nhân bị giết sinh niệm ác mà đời sau làm con, ở trong thai đã có oán giết cha. Như thế trở đi, là kết chung về quyền hóa. Điều Đạt, Xà-thế, Tầnbà, Vi-đề đều là đại quyền hiện nghịch hiện thuận mà lợi ích chúng sinh. Quốc Thái phu nhân tên Vy-đề-hy, cung kính đức vua, bèn tắm gội sạch sẽ lấy tô mật hòa trộn bột mì (rang chín) mà thoa lên thân, trong các chuỗi ngọc (anh lạc) thì chứa đầy nước nho rồi lén dâng lên vua. Bấy giờ Đại vương ăn mật uống nước trái cây, rồi xin nước súc miệng.

Phu nhân dâng thức ăn. Súc miệng xong rồi, chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ-xà-quật từ xa đảnh lễ Thế tôn mà bạch rằng:

Đại Mục-kiền-liên là bạn thân của tôi nguyện khởi tâm từ bi trao tôi tám giới.

Khi đó Mục-kiền-liên, như chim Ưng bay trên không nhanh chóng đến chỗ vua, hàng ngày như thế trao cho vua tám giới. Thế tôn cũng sai Tôn giả Phú-lâu-na nói Pháp cho vua nghe.

Bậc Thánh nói Pháp cho nghe trước là giải thích Mục-liên trao giới, sau là giải thích đến nhanh. Vì đời trước thờ Bích-chi-phật mà nay được thần thông đến nhanh chỗ vua. Trao tám giới v.v... trở đi, là giải thích giới tướng, một là khai áo thơm và giường cao rộng thành tám giới. Trai (ăn giữa ngày) là ngoài tám giới kế họp áo thơm và giường cao thành bảy giới, còn không ăn quá ngọ là giới thứ tám, thì trai là ở trong tám giới. Pháp không thêm bớt, số có khai họp đều gọi là tám giới trai. Phú-lâu-na trở đi, là giải thích Lâu-na nói pháp. Trong thời gian như thế trải qua hai mươi mốt ngày, vua ăn mật mì lại được nghe pháp mà nhan sắc vui đẹp. Tầnbà v.v... trở đi, là được Pháp thực kéo dài tuổi thọ.

Kế hại mẹ trở đi là nói muốn hại mẹ bao gồm phân khoa. Bấy giờ, A-xà-thế hỏi quan giữ cửa rằng nay vua cha còn sống chăng. Lúc đó quan giữ cửa tâu rằng:

Thưa Đại vương, phu nhân Quốc Thái thân thoa mật mì, chuỗi anh lạc chứa đầy nước trái cây ép đem dâng lên vua. Sa-môn Mục-liên và Phú-lâu-na từ trên hư không xuống nói pháp cho vua nghe, không thể ngăn cấm được. Khi vua A-xà-thế nghe lời ấy rồi thì rất giận mẹ bảo rằng:

Mẹ ta là giặc làm bạn với giặc. Sa-môn là người xấu huyễn hoặc chú thuật khiến vua ác này nhiều ngày không chết. Liền cầm dao bén muốn giết mẹ. Xà Thế v.v... trở đi, là tùy giải thích, là bị con giam nhốt và vua hỏi còn sống chăng. Người giữ cửa trở đi, là đem sự thật mà đáp, vua nghe rồi nổi giận. Phải giết v.v... trở đi, là giải thích đề phòng vấn nạn.

Lúc đó có một đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh trí tuệ cùng với Kỳ-bà đến đảnh lễ vua tâu rằng:

Thưa Đại vương! Thần nghe kinh luận Tỳ-đà nói: "Từ kiếp xưa đến nay có các vua ác tham ngôi vị mà giết hại cha có đến một muôn tám ngàn người mà chưa hề có một ai vô đạo giết mẹ. Nay vua làm việc sát nghịch này làm nhơ giồng Sát-lợi, thần không chịu được là kẻ Chiên-đà-la. Chúng thần không thể ở đây nữa. Lúc đó có hai Đại Thần nói lời ấy xong liền lấy tay hống kiếm lui ra mà đi. Bấy giờ vua A-xà-thế rất đổi kinh hoàng bảo Kỳ-bà rằng:

Các người không vì ta nữa ư?

Kỳ-bà tâu: Cẩn thận chớ giết mẹ. Vua nghe lời ấy rồi rất ăn năn cầu cứu, liền quăng kiếm mà bỏ việc giết mẹ.

Kiếp xưa v.v... trở đi, là hai đại thần can ngăn tức là giải thích lời khuyên. Lấy tay v.v... trở đi là giải thích tướng khuyên. Kinh hoàng trở đi là nói nghe theo lời khuyên, bèn ra lệnh quan nội giám giam mẹ vào cung sâu không cho ra ngoài rồi ra lệnh giam nhốt. Vy-đề-hy trở đi, là do bị giam nhốt mà thỉnh Phật, bao gồm phân khoa. Lúc đó Vy-đề-hy bị giam rồi, sầu lo tiều tụy. Bỗng hướng về núi Kỳ-xà-quật mà đảnh lễ Phật và bạch rằng:

Bạch Như lai Thế tôn, thuở xưa thường sai A-nan đến thăm hỏi an ủi con. Con này sầu lo, Thế tôn oai trọng con không sao thấy được. Cúi xin Phật sai Mục-liên và Tôn giả A-nan đến cho con được gặp. Nói xong thì buồn thương khóc lóc ở xa hướng về Phật mà đảnh lễ. Vy-đề-hy trở đi, là tùy giải thích, bao gồm thỉnh người, một vị là môn sư, một vị là hầu Phật. Trước nay thường khuyên răn dạy bảo cho nên chỉ thỉnh hai vị. Đã ở trong cung sâu nên thỉnh hai người mà không dám thỉnh riêng một người. Muốn truyền ý mình thỉnh Phật giảng nói nhân sinh Tịnh độ là ý thỉnh người.

QUYỂN 4

Từ khóc lóc v.v... trở đi là thỉnh thức, khoa nói là thỉnh Pháp, tức là Pháp thức. Thế tôn trở đi, là nhân thỉnh liền đến. Về phân khoa thì Thắng man là phu nhân Thắng man, tức con gái của vua Ba-tư-nặc ở nước Xá-vệ cũng là con của phu nhân Mạt-lợi, là phi của vua nước Du-xà. Sau cha mẹ viết thư bảo rằng:

Phật từ nước ta mà ra thần thông tự tại khắp lợi ích chúng sinh. Thắng man cầm thư nói kệ với sứ giả khen rằng:

Như lai diệu sắc thân, thế gian không ai sánh...

Nay Vy-đề-hy buồn rầu thỉnh thì Phật liền đến. Việc này giống nhau nên nói chẳng khác.

Trong khoảng chưa ngước đầu lên. Lúc đó Thế tôn ở núi Kỳ-xà-quật biết ý nghĩ của Vy-đề-hy, liền sai Đại Mục-kiền-liên và A-nan từ trên hư không mà đến. Đức Phật ở núi Kỳ-xà-quật ẩn mất mà hiện ra ở cung vua. Lúc đó Vy-đề-hy lễ xong ngước đầu lên thì thấy Thế tôn Thích-ca Mâu-ni Phật thân sắc vàng ròng ngồi trên hoa sen trăm báu. Mục-liên đứng hầu bên trái, A-nan đứng hầu bên phải. Các trời Thích Phạm hộ thế ở trên hư không rải hoa trời như mưa khắp để cúng dường Đức

Phật.

Biết Vi-đề v.v... trở đi, là tùy giải thích. Tâm Như lai vắng lặng mà thường chiếu. Vô số hà sa thế giới chúng sinh, có bao nhiêu tâm thì đều biết đều thấy không đồng với bậc Tiên thánh phải tác ý mới biết. Tha tâm và thân như ý thông đều là Vô ký thông. Từ hỏi trước v.v... trở đi, là giải mở trói ngại, tức là ra khỏi trói ngại, vấn nạn này lại đặt ra. Hỏi chẳng khác trước, đáp là chẳng đồng trước, hoặc là diệt cái xấu nay ghét Phật, hoặc là sinh cái tốt hành pháp sau này. Vì sao? Vì nếu Phật vào chỗ ở của Tần-bà thì khiến vua A-xà-thế cho Phật là bạn của cha muốn mưu đồ lấy lại nước mà oán thù thêm nặng, sau này Pháp chẳng được lưu hành, cho nên chẳng tự đến. Còn mẹ thì không có việc này cho nên Phật tự đến. Lúc đó Vi-đề v.v... trở đi, là sắc thân. Ngồi hoa sen v.v... trở đi là tòa ngồi. Mục-liên trở đi là quyến thuộc. Khắp mưa trở đi là rải hoa như mưa.

Buồn thương thỉnh pháp là phân khoa nay hướng về Thế tôn v.v... trở đi là nói thỉnh nhân vãng sinh, tức trong hai ý thì ý thứ hai là thỉnh bày nhân sinh Tịnh độ. Kinh chép: "Cúi mong Phật nhật (mặt trời Phật) dạy con quán chỗ thanh tịnh". Trước nói cúng dường thưa hỏi nhân vãng sinh, tức là ý thứ nhất. Hỏi thuở xưa con gây ra tội gì mà đời này bị con là A-xà-thế ác nghịch. Nên biết hai thứ này lời đồng mà ý khác.

Khi Vy-đề-hy thấy Đức Phật Thế tôn liền bứt bỏ chuỗi anh lạc, gieo mình xuống đất, gào khóc hướng về Đức Phật bạch rằng:

Bạch Đức Thế tôn, con đời trước có tội gì mà sinh ra đứa con ác này. Thế tôn có nhân duyên gì mà làm quyến thuộc với Đề-bà-đạt-đa. Cúi mong Thế tôn vì con nói rộng chỗ không có lo buồn con sẽ sinh về. Con không ham cõi Diêm-phù vẩn đục này nữa. Chỗ vẩn đục này địa ngục, ma quỷ, súc sinh dẫy đầy, có nhiều bất thiện. Nguyện con đời sau không nghe tiếng ác, không thấy người ác. Nay con hướng về Thế tôn vóc thể sát đất cầu xin sám hối. Cúi mong Đức Phật dạy con quán chỗ nghiệp thanh tịnh.

Từ con có v.v... trở đi, là cúng dường thưa hỏi nhân vãng sinh. Kinh nói tự bứt bỏ chuỗi anh lạc gieo mình xuống đất, gào khóc hướng về Đức Phật, tức là ba nghiệp cúng dường. Dứt bỏ chuỗi anh lạc gieo mình xuống đất là thân, gào khóc là miệng, đem hai thứ để hiển bày ý nhân của Xà-thế đã nói lược như trước. Sớ này chi nêu duyên của Điều-đạt. Vẩn đục v.v... trở đi là chánh hỏi chỗ sinh. Nay hướng v.v... trở đi là thưa thỉnh nhân vãng sinh.

Về Chánh thuyết được phân là phiếm khoa huyền giải có hai: Một là khoa làm ba đoạn; hai, Như lai v.v... trở đi, là giải văn một.

Từ trước phóng trở đi, là trùng khoa giải thích rộng có phân khoa chung riêng. Đáp chỗ sinh trước là trước Vy-đề-hy thỉnh rằng:

"Cúi mong vì con nói rộng chỗ không có buồn não". Nay Phật phát ra ánh sáng chiếu soi Tịnh độ ấy khiến thấy là đáp lại lời thỉnh trước.

Đáp: Tịnh nghiệp là trước thỉnh rằng: "Cúi xin dạy con quán chỗ nghiệp thanh tịnh". Nay bày ba thứ tịnh nghiệp, mười sáu Diệu quán tức là dạy bà quán chỗ tịnh nghiệp, gần thì đáp... là vì Vy-đề-hy đáp chỗ sinh, nhờ ánh sáng mà thấy cõi, bèn lại thỉnh rằng:

Dạy con suy nghĩ; dạy con Chánh thọ. Đây là ở Chánh tông nên nói đáp gần, nếu đáp chỗ thỉnh trong lời tựa thì gọi là đáp xa.

Bấy giờ Đức Thế tôn phát ra ánh sánh giữa hai đầu chân mày. Ánh sáng ấy sắc vàng chiếu khắp vô lượng thế giới ở mười phương. Rồi trở về đỉnh Đức Phật hóa thành đài vàng cao như núi Tu-di. Các Tịnh diệu cõi nước của Chư Phật mười phương đều hiện rõ trong đó. Hoặc có cõi nước bảy báu họp thành, lại có cõi nước thuần là hoa sen, lại có cõi nước như cung trời Tự tại, lại có cõi nước như gương pha lê. Cõi nước Mười phương đều hiện rõ trong đó. Có vô lượng các cõi nước Chư Phật như thế, sáng rỡ dễ nhìn, khiến Vy-đề-hy đều thấy rõ. Khi ấy Vy-đề-hy bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế tôn các Cõi Phật này tuy rất thanh tịnh, đều có ánh sáng. Nhưng nay con thích sinh về thế giới Cực lạc của Phật A-di-đà. Cúi mong Đức Thế tôn dạy con suy nghĩ, dạy con Chánh thọ.

Từ mỉm cười trở đi, là đáp tịnh nghiệp trước có chia khoa chung riêng. Trước nói nghiệp và phàm phu v.v... là nói ba thứ phước này là viên trợ đạo, hợp với chánh quán đều là hạnh của Như lai. Cho nên nói là Chánh nhân tịnh nghiệp của Chư Phật ba đời. Nhưng vì ba thứ có chung có cục bộ. Trước là hiếu dưỡng... là chung cả Đại Tiểu và bạc địa phàm phu. Cho nên nói nghiệp đầu chung cho phàm phu. Kế là quy giới v.v... chỉ chung cả Đại Tiểu mà không có phàm phu. Vì thế nói kế là chung Nhị thừa. Nếu tâm Bồ-đề v.v... chuyên ở Đại thừa mà chẳng chung cho phàm phu, cho nên nói là pháp Bất cộng.

Khi ấy đức Thế tôn liền mỉm cười, có tia sáng năm màu từ miệng Phật phát ra. Mỗi tia sáng chiếu vào đỉnh đầu vua Tần-bà-ta-la. Lúc đó tuy vua đang bị giam nhốt nhưng tâm nhãn không bị chướng ngại, xa thấy Thế tôn mà cúi đầu kính lễ tự nhiên tăng tiến thành quả A-na-hàm.

Vì sao trở đi là giải thích theo khoa, nghĩa là tịnh nghiệp là đáp suy nghĩ, tức là chánh nói tịnh nghiệp, là ánh sáng chiếu Tần-bà được đạo, giải thích mỉm cười, có hai: Một là hỏi; hai là đáp. Giải có trở đi là đáp phát ra ánh sáng, pháp quán được quả là Vô sinh pháp nhãn, là viên ba quán mà tập quả. Mỉm cười v.v... trở đi, là đáp mỉm cười. Báo của nghiệp ác hại mạng cột thân, mà vì được quả và duyên tịnh nghiệp. Tâm Như lai hiểu rõ nhân quả thiện ác giao nhau ngàn thứ sai khác. Muốn nói lên nội tâm nên mỉm cười. A-na-hàm trở đi là giải thích A-na-hàm.

Bấy giờ Đức Thế tôn bảo Vy-đề-hy rằng:

Nay Ngươi biết chăng, Phật A-di-đà cách đây không xa. Ngươi nên hệ niệm đế quán nước ấy thì tịnh nghiệp sẽ thành. Nay Ta vì ngươi nói rộng các thí dụ, cũng khiến đời vị lai tất cả phàm phu, ai muốn tu tịnh nghiệp, đều được sinh về cõi nước Cực lạc ở Tây phương.

Cách đây trở đi, là nêu quả mà khuyên tu nhân. Hỏi:

Đại bản, Tiểu bản đều nói: "Cực Lạc cách đây mười muôn ức cõi. Cõi tức là cả một Đại Thiên cho nên nói hà sa, sao nói chẳng xa. Giải rằng trở đi, là đáp do nhờ sức Phật nên khiến người tu quán muốn thấy liền thấy. Cho nên nói văn này, ngươi nên buộc niệm quán kỹ nước ấy. Cho nên biết sức Phật che chở người muốn thấy, khiến quán thành thấy. Văn sau nói: Tất cả chúng sinh quán thế giới Cực lạc ở Tây phương, vì nhờ sức Phật nên sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh ấy. Cho nên Bát chu thấy Phật mà luận ba sức: Một là oai sức Phật; hai là sức tammuội; ba là sức vốn công đức của người tu. Trong ánh sáng hiện ra cõi nước, tức là mắt thấy. Hai việc thấy đều do cảm ứng. Tuy xa mà gần. Nhưng nếu tâm tánh không đủ trần sát, thì Phật không có lý ứng hiện mà chúng sinh cũng không có công phu để cảm thấy. Cho nên kinh này nói tâm ấy là Phật. Quán mê ý này thì không phải Diệu tông.

Muốn sinh về nước ấy, phải tu ba thứ phước: Một là hiếu dưỡng cha mẹ, kính thờ sư trưởng, từ tâm không giết hại, tu mười nghiệp thiện; hai là Thọ trì Ba quy y, đầy đủ các giới chẳng phạm oai nghi; ba là phát tâm Bồđề, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn người tu. Ba việc như thế gọi là tịnh nghiệp. Phật bảo Vy-đề-hy rằng:

Nay Ngươi nên biết, ba nghiệp này chính là chánh nhân tịnh nghiệp của Chư Phật ba đời quá khứ vị lai hiện tại.

Thứ nhất v.v... trở đi chính là bày nhân vãng sinh gồm nghiệp chung của phàm phu. Kinh này chánh bị cho Cơ Đốn Tu. Tuy tu hạnh Phật, nhưng cha mẹ sư trưởng há chẳng hiếu dưỡng kính thờ. Luân vương mười giới há chẳng chỉ hạnh. Chỉ hay tu tâm mỗi việc điều xứng tánh, có ngại gì tu thiện từ hiếu chung cho cả phàm phu. Nghiệp chung cho Nhị thừa, là hạnh Viên đốn há trái với Tiểu thừa xuất gia. Ba quy y, các giới, vai nghi các việc chỉ là tâm thọ trì họp với một thể, y vào rốt ráo mà pháp ra làm chung cho cả Nhị thừa. Trở đi là nghiệp bất cộng của Đại thừa, y vào cảnh vô tác mà khởi thệ vô duyên, gọi là phát tâm Bồ-đề, thật tướng không hay mà hay, lập nhân quả khác hai mà chẳng hai, thỉ chung một lý. Tin nhân quả này mới gọi là tin sâu. Đọc tụng Đại thừa, tu ba trí giải, vân hạnh viên thừa, đem giải hạnh giáo này mà làm thì gọi là khuyến tấn. Ba thứ nghiệp này, được nghiệp trước thì trước, không được nghiệp sau thì sau. Được sau thì sẽ được trước. Cho nên người sau có thể tu được hai nghiệp trước, mà hai nghiệp trước chẳng thể tu được Đại thừa, cho nên hai thứ kia không bằng, là nói Đại thừa. Phật bảo trở đi, là kết khen. Đã là nghiệp Phật thì nghiệm là viên tu, cho nên trong đại kinh nói lại có một hạnh gọi là hạnh Như lai. Tuy nói một hạnh mà đủ cả năm hạnh. Nay cũng thế, tuy là nghiệp Phật mà đủ cả ba thứ.

Phật bảo A-nan và Vy-đề-hy rằng: "Hãy lắng nghe lắng nghe và khéo nghĩ nhớ. Nay Như lai vì tất cả chúng sinh đời vị lai bị giặc phiền não hại mà nói nghiệp thanh tịnh. Lành thay Vy-đề-hy, vui thay hỏi việc này.

Lắng nghe trở đi là khen câu hỏi. Lắng nghe là các kinh khuyên nghe đều dùng lời này, đều khiến người sinh ba tuệ. Mà cần xét giáo nói tuệ Thiên viên, năng thích, sở thích, năng tư, sở tư, năng niệm, sở niệm nếu giải thích theo sinh diệt thì tức là ba tạng ba tuệ của, nếu theo vô sinh mà giải thích thì là ba tuệ của thông giáo. Vô lượng vô tác biệt viên có thể biết. Nay khiến Vy-đềhy sinh viên ba tuệ. Nếu chẳng phải thế thì làm sao có thể trong hội này mà chứng Pháp nhẫn.

Này A-nan ông nên thọ trì rộng vì số chúng đông đảo mà giảng nói lời Phật. Nay Như lai dạy Vy-đề-hy và tất cả chúng sinh đời vị lai quán thế giới Cực lạc ở Tây phương, nhờ sức Phật sẽ được thấy cõi nước thanh tịnh ấy. Như cầm gương sáng tự thấy mặt mày hình ảnh. Thấy sự cực kỳ diệu lạc ở cõi nước ấy mà tâm vui mừng, tức thời liền được Vô sinh pháp nhẫn.

Liền được trở đi, là lược dặn dò A-nan. Kinh nói như cầm gương sáng, là pháp quán như gương, tu như cầm. Quán thành thì cõi nước hiện, như thấy mặt mày hình ảnh. Thế thì biết bên ngoài có ba thứ tịnh nghiệp, bên trong có mười sáu diệu quán, bèn được thấy. Đây tuy lược nêu tịnh nghiệp nhưng ý nói Diệu quán. Sơ trụ Sơ địa, là Viên trụ biệt địa đều phá vô minh, là vị Vô sinh nhẫn. Vị Huyền Một Thật nói: "Nếu vào Sơ Trụ, chánh phá vô minh là nói vị Vô sinh nhẫn của viên giáo". Nay ý ở Viên, dẫn kinh Nhân Vương nói năm thứ Nhẫn vị, là dùng để hiển Vô sinh ở ba nhãn trên. Nếu y vào Biệt giáo thì Thập tín phục nhẫn, Thập trụ tín nhẫn, Thập hạnh thuận nhẫn, Thập địa vô sinh nhẫn, Diệu giác vắng lặng nhẫn. Nếu y cứ theo viên vị thì năm phẩm phục nhẫn sáu căn thanh tịnh, Tín thuận hai nhẫn. Sơ trụ đến Đẳng giác gọi là Vô sinh nhẫn. Diệu giác gọi là Vắng lặng nhẫn. Nhưng Biệt sơ địa tức là Viên sơ trụ. Cho nên dẫn kinh Nhân vương để chứng cho vị này. Người tu nên biết Như lai sắp nói mười sáu pháp quán, dự bày chỗ nói là quán viên Diệu. Cho nên nói tất cả chúng sinh quán Cực lạc. Quán thành thì liền được Vô sinh pháp nhẫn. Cho nên Vy-đề-hy nghe nói mười sáu, theo lời mà quán thành. Nói xong liền chứng diệu vị này, kinh bày quán này là lấy môn đường tắt Sơ trụ, cho nên không thể nói tướng sự.

Trước nói v.v... trở đi là nói mười sáu diệu quán để đáp Chánh thọ. Về phân khoa thì Phật bảo Vy-đề-hy rằng: "Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn, không thể quán xa. Chư Phật Như lai có phương tiện lạ giúp người thấy được. "

Ngươi là trở đi là tùy giải thích, tức là nói lý do Viđề thấy cõi nước. Kinh nói chưa được Thiên nhãn.

Hỏi: A-na-luật có Thiên nhãn tối thắng mà chỉ thấy một Đại thiên, há có được Thiên nhãn vượt mười muôn ức cõi mà thấy An Dưỡng ư?

Đáp: Đây là nói thiên nhãn của Bồ tát chưa được phần chân chẳng phải Nhị thừa. Cho nên Đại kinh quyển 22 chép: Bồ-tát có được Thiên nhãn thanh tịnh khác với chỗ được của Thanh văn Duyên giác. Vì chỗ khác này mà cùng lúc thấy khắp thế giới mười phương hiện tại của Chư Phật. Đại Luận cũng đồng với thuyết này. Vi-đề Thật Đại Bồ-tát đây là nói Vi-đề vốn trụ ở Pháp thân, vì muốn phát khởi pháp quán Tịnh độ nên hiện giống đồng phàm phu. Hội này liền được vô sinh nhẫn tức giả phương tướng? Hội này nghe quán sắp chứng Pháp nhẫn, không phải văn trước nói Vô sinh nhẫn là Vy-đềhy chứng. Văn trước là nói chung chúng sinh vị lai tu mười sáu pháp quán, có thể chứng vô sinh. Người thấy thị hiện giống kẻ phàm phu, liền bảo văn trước là Vy-đềhy chứng. Nên biết liền được không phải là mình được. Đã nói thật là Đại Bồ-tát tức là đã chứng vô sinh từ lâu. Như lai y cứ theo tích nói là phàm phu tâm tưởng yếu kém. Phàm phu tưởng kém mà tu được nhẫn là nói Diệu quán này có thể đổi hạ phàm sớm thành Viên thánh, phương tiện lạ, là mười sáu pháp quán, phương tiện kỳ lạ nhất. Cho nên Luận Khởi Tín chép: Tu-đa-la nói có thắng phương tiện (phương tiện cao quý) là hệ niệm Cực lạc khiến sinh nước ấy. Không phải quán thẳng gọi là phương tiện, ấy là y Chánh có hai phương tiện có công năng giúp cho phàm phu thấy cõi này: Một là tu quán Chánh Thọ, phương tiện khiến tâm Nhãn thấy; hai là Phật dùng thần lực thị hiện phương tiện khiến mắt được thấy. Lý do thấy có hai thứ, cho nên nói không phải quán thẳng gọi là phương tiện. Oai lực của Phật khiến thấy cũng là phương tiện. Vy-đề-hy liền thấy được hai thứ: Một là sắp có theo văn thực hành quán mà thấy, hai là mong nhờ sức Phật thị hiện cho thấy, nên nói Vi-đề lý do thấy được cõi nước.

Khi ấy Vy-đề-hy bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế tôn! Như nay con nhờ sức Phật mà thấy được cõi nước ấy. Nếu khi Phật diệt độ rồi, các chúng sinh trước bất thiện, năm khổ ép ngặt làm sao thấy được thế giới Cực lạc của Phật A-di-đà?

Vi-đề trở đi là vì vị lai mà thỉnh pháp thấy được cõi nước. Vy-đề-hy trước hiểu thị hiện phương tiện mà thỉnh cầu lý do. Khế Kinh nói: Như nay con vì nhờ sức Phật mà thấy nước ấy. Nhưng lại chánh thỉnh pháp quán phương tiện là vì chúng sinh mà thỉnh duyên. Cho nên kinh nói: "Nếu Phật diệt độ rồi, các chúng sinh bị vẩn đục bất thiện, năm khổ ép ngặt làm sao thấy được thế giới Cực lạc". Năm khổ thì Sớ có hai nghĩa giải thích: Một là dùng năm đường không vui mà giải thích; hai là dùng năm tội chiêu báo mà giải thích. Giải thích một là Địa ngục bị khổ thiêu đốt, ngạ quỷ bị khổ đói khát, súc sinh bị khổ giết hại. Cõi người có tám khổ, cõi trời có năm khổ suy. Giải thích hai là ý Phật bao gồm nói năm ác với hai báo. Tên Đại bản Sát Tỳ Vô Lượng Thọ kinh, nay nói là Đại kinh. Văn sớ trước nêu tên ba, năm. Kế năm ác trở đi là nêu năm, ba. Từ sát sinh đến uống rượu là năm nhân ác. Như Đại kinh trở đi là giải thích năm thống tức là Hoa báo. Năm thiêu trở đi là giải thích, năm thiêu tức là quả báo. Nhưng hai báo này đều không có năm tướng, mỗi thứ gọi là năm đều từ năm nhân ác mà lập. Cho nên sau năm văn kia đều kết rằng ấy là một Đại ác, một thống, một thiêu. Vì thế gọi chung là năm Đại ác, năm thống, năm thiêu. Cho nên biết hai cái năm đều từ nhân mà lập.

Về phần nêu quán phân khoa, tức là nêu quán. Nghĩa lệ rằng: Phàm ba quán nghĩa chỉ là ba thứ: Một là theo hạnh, chỉ ở muôn cảnh mà quán một tâm. Muôn cảnh tuy khác nhưng diệu quán lý..., như quán ấm..., tức là ý ấy; hai là y cứ pháp tướng, như văn y cứ bốn đế năm hạnh vào tâm một niệm xem là Viên quán; ba là Thác sự, như Vương xá Kỳ-xà, tên từ sự mà lập, mượn sự để thực hành quán từ đó mà dẫn dắt chấp tình.

Hỏi: Mười sáu pháp quán đối với ba thứ thì thuộc nghĩa nào?

Đáp: Đã không nắm được pháp tướng nhân tâm thành quán, tin không phải là giao phó pháp cho. Lại chẳng mượn sự kia mà lập cảnh lập quán, nghiệm chẳng phải là gá sự mà nói. Như lai nói thẳng môn tu chứng của mười sáu quán hạnh chính là từ hạnh.

Hỏi: Nghĩa lệ ở ba thứ đều là lý quán. Nay mười sáu quán này trải sự y chánh, đâu dự vào ba thứ được?

Đáp: Gá sự, trao pháp hai thứ ba quán đều có sự có lý. Lại bỏ mà chưa luận. Từ hạnh ba quán vì nghĩa nào mà chẳng được thuộc sự. Đã nói từ hạnh thì từ bốn thứ hạnh, thường ngồi là thứ dẫu quán thẳng và lý, ba thứ kia là tam-muội đâu chẳng gồm sự. Như ba quán Bát Chu là trải qua sự niệm Phật, ba quán Phương đẳng là trải qua sự trì chú, Pháp Hoa ba quán là trải qua tụng kinh, Quán Âm ba quán là trải qua Sổ tức, Giác ý ba quán là trải qua ba tánh. Đây đều là trải qua sự. Nếu không phải từ hạnh thì thuộc về cái gì. Tam-muội Bát Chu trước quán tướng bánh xe ngàn căm dưới chân, kế quán duyên ngược đến tướng nhụ kế. Khi quán tướng ấy tức dùng ba quán đó là từ hạnh, nay sao riêng không phải. Huống chi nghĩa lệ nói rằng chỉ ở muôn cảnh mà quán một tâm. Há nay y chánh chẳng chỉ một tâm. Văn kinh nêu đủ mười sáu cảnh tướng. Đại sư chỉ ở đầu đề mà bày viên ba quán, khiến dùng quán này quán mười sáu cảnh tuy khác mà diệu quán lý như nhau. Lại ba quán này đều trải qua các sự. Nếu Ba quán không phải từ hạnh bằng nhau thì sao nói ba quán nghĩa chỉ ba thứ.

Hỏi: Kinh này chỉ ở tượng quán mà nói tâm ấy thành Phật, tâm ấy là Phật. Các văn đều không nói về quán lý, thì biết ngoài Đức Phật ra đều là sự quán. Dẫu đem nghĩa này mà so với mười lăm pháp quán, thì đây là dùng ý để quán lý, cứ theo kinh hiện văn thì đây chỉ là sự quán.

Đáp: Nếu tự y theo kinh mà tu quán nhập chứng, đâu cần nương bốn thứ mà chỉ nói ý kinh, chế lập pháp quán. Đại sư hiểu sâu được ý chỉ của Đức Phật nên ở đầu đề, dùng ba quán diệu mà giải thích quán năng quán, dùng diệu ba thân mà giải thích Phật sở quán, mà nói là quán tuy mười sáu nhưng nói Phật đều khắp. Nay y theo Đại sư dùng ba diệu quán mà quán mười sáu cảnh, há là người tu dụng quán ý. Nên biết bốn thứ tam-muội đều là ở sự mà quán ba đế lý. Chỉ có Bát Chu v.v... Y Định Tan Thiện Sự, giác ý túng nhậm các việc thiện ác. Cho nên riêng được tiếng là trải sự. Nếu thường ngồi..., ngay ở sự ba đạo mà quán ba Đế, chẳng gồm tu thiện và túng ác sự cho nên chịu tiếng là lý. Pháp quán của kinh này đâu thể khác với bốn thứ tam-muội ư? Cho nên biết mười sáu tức là từ hạnh trải sự quán lý. Nên biết mười sáu pháp này đều dùng ba quán làm Pháp tưởng tướng. Ba quán yếu ớt, lại quán mặt trời lặn và nước trong. Ba quán dần được, bèn quán đất, cây, tòa, tượng, thân Phật. Sau bỏ các cảnh mà tu ba quán. Ở mười trở đi là phân khoa, chia mười sáu thành ba loại. Sáu thứ thuộc y báo, là mặt trời nêu cách đưa tưởng. Băng giá là biểu thị cho đất lưu ly.

Tuy vật ở cõi này mà ý nói ở cõi kia. Cho nên sáu quán đều là y báo ở đó... bảy quán kế thuộc Chánh báo. Tòa là nơi ba Thánh ngồi, tượng là giống hình ba bậc Thánh. Cho nên bảy quán đều gọi là Chánh báo. Ba nhóm người từ cõi này với cõi ấy tu nhân thác chất, sự tướng chẳng đồng. Cho nên xếp ba thứ này vào một loại.

Thứ nhất trở đi là tùy khoa mà giải thích, tức là sáu quán quán y báo, trước là quán mặt trời, ở đây có lập ý phân khoa. Trước nói quán mặt trời có ý khiến cột vào tâm. Phàm tâm tối tăm tán loạn đâu thể thấy rõ cảnh mầu Tịnh độ, cho nên khiến chuyên tưởng hình mặt trời lặn. Một sự chuyên tâm tưởng mãi không thôi, thí tâm ấy sẽ định. Nếu Tâm đã tinh tế thì các thứ pháp quán đều có thể tạo tu. Pháp cột chặt tâm mà cần mặt trời lặn là muốn khiến cho định tưởng hướng về Tây phương tức là hướng về chỗ ở của Phật A-di-đà.

Phật bảo Vy-đề-hy rằng:

Ngươi và chúng sinh phải nên chuyên tâm buộc niệm vào một chỗ tưởng về Tây phương. Phải tưởng như thế nào? Hễ quán tưởng, vì tất cả chúng sinh nếu ai không bị mù bẩm sinh thì đều thấy mặt trời lặn. Phải khởi tưởng niệm ngồi ngay quay về hướng Tây, quán chắc vào chỗ mặt trời sắp lặn khiến tâm trụ chắc chuyên tưởng không dời đổi. Thấy mặt trời sắp lặn hình như chiếc trống treo. Đã thấy mặt trời rồi nhắm mắt mở mắt đều thấy rõ ràng. Đó là tưởng mặt trời gọi là pháp quán thứ nhất.

Tùy theo đó mà giải thích, tức là Phật bảo v.v... trở đi, là khuyên chung tu quán. Kinh nói Vy-đề-hy ngươi và chúng sinh, tức Vy-đề-hy là cơ hiện tại, tất cả chúng sinh là cơ vị lai. Cho nên biết tu quán chẳng chỉ chuyên cơ Phật, huống chi Vy-đề-hy là người phát khởi, chính vì người nay mà thỉnh cầu pháp Chánh thọ, cho nên Phật ta khuyên chúng sinh tu pháp tu như thế nào, là chuyên cột vào một chỗ tức là Tây phương. Thế nào trở đi, là chánh nói quán mặt trời, nêu cảnh được quán. Ý kinh nói là xưa đã từng thấy hoặc hiện đang thấy tướng mặt trời sắp lặn để làm cảnh sở quán. Vì quán này khắp tất cả, chỉ trừ người mới sinh ra hai mắt đã mù. Đã không biết mặt trời là gì cho nên không thể tưởng được. Nếu đã từng có mắt mà nay bị mù thì cũng có thể tu được, huống là hiện đang sáng mắt thấy mặt trời rõ ràng, nên tu rất dễ. Tức lấy mặt trời sắp lặn làm cảnh mà tưởng khiến khởi mặt trời ở trong quán. Phải khởi trở đi, là chánh dạy quán sát. Trong giải thích đề ở chữ quán đã nói là ba diệu quán của đề kinh ấy là chung, văn kinh là riêng, há chẳng lấy chung mà xuyên suốt các riêng. Nay tưởng mặt trời lặn mà có thể tưởng quán, tùy giải thích mà tiến lên. Ba tạng sự định, năng tưởng Sở tưởng đều là sinh diệt. Thông giáo sự định thì năng tưởng sở tưởng đều huyễn hóa. Còn biệt biết năng tưởng vốn là Phật tánh, thì ở quán mà thứ lớp năng sở tưởng lên. Người viên diệu giải thì biết tâm năng tưởng vốn đầy đủ tất cả pháp Y chánh. Nay lấy tâm đủ mặt trời mà duyên với mặt trời tức tâm, khiến mặt trời bản tánh hiển hiện ra trước. Đây chính là dùng tâm pháp giới duyên với cảnh pháp giới mà khởi mặt trời pháp giới. Đã đều là pháp giới há chẳng tức là không giả trung. Người viên sáu căn thường xúc đối còn phải niệm niệm tức Không, Giả, Trung. Huống chi nay tu quán mà lại bỏ ba thứ này. Đây cũng nên chung. Nếu nói riêng ba quán thành công mặt trời thì vì căn cảnh vắng lặng nên tâm mặt trời vô ngại. Vì duyên khởi giả lập cho nên tưởng nhiều thì mặt trời xanh. Vì tâm mặt trời ấy đều là pháp giới cho ngay đấy mà hiển hiện. Ba quán này đồng ở một tâm chẳng phải một chẳng phải ba mà ba mà một chẳng thể nghĩ bàn. Vì người viên phàm tu công hạnh thảy đều như thế. Nếu không phải vậy thì chẳng phải là người viên tu sự quán. Người Thông thì lấy tâm như huyễn mà tu các sự định để nghiệm người viên dùng tâm tức trung mà thành sự quán ấy. Đã dùng diệu tâm mà quán mặt trời lặn, tâm này bền chặt hay ở bản tánh mà hiển hiện tướng mặt trời chẳng chỉ nhắm mắt mà thấy, mở mắt cũng thấy rất rõ ràng. Nếu thế thì quán mặt trời đã thành sớ. Dạy khiến v.v... trở đi là trừ nghi. Đại Bản quyển hạ chép: "Nếu có chúng sinh dùng tâm nghi ngờ tu các công đức nguyện sinh nước ấy, mà không hiểu trí Phật tu tập thiện bổn nguyện sinh về nước ấy, thì các chúng sinh này sinh lên cung điện ấy sống năm trăm tuổi thường không thấy Phật cũng chẳng nghe Pháp và không thấy Tăng. Ở cõi nước ấy mà chịu thai sinh, người này đời trước không có trí tuệ do nghi ngờ gây nên như thế. Cho đến sinh từ cung điện ấy không có một niệm ác sự, nhưng trong năm trăm năm không thấy Tam bảo". Cho nên thực hành quán này khiến trừ nghi ngờ. Kinh nói không hiểu trí Phật thì sinh nghi ngờ. Sớ nói thực hành quán tưởng này khiến trừ nghi ngờ, tức là nói quán này hiểu được trí Phật. Nếu không dùng một tâm ba quán mà quán mặt trời lặn thì là mê trí Phật, sao gọi quán này dứt trừ nghi ngờ. Quán mặt trời đã thế các quán khác cũng lệ theo đó. Cho nên Đại sư nương theo trí Phật mà lập pháp quán này. Nhưng mười sáu quán thuộc Đốn giáo cho nên đầu đuôi trước sau đều dùng trí Phật. Hễ Nếu làm các thiện nhỏ thì sắp qua đời mà hồi hướng trí Phật để cầu diệt tội chướng. Đây cũng gọi là hiểu rõ trí Phật mà không sinh nghi ngờ. Đã có thừa chủng thì sinh nước ấy mau được thấy Phật nghe pháp dự vào hải chung mà không sinh chốn biên địa và bị thai cung. Chướng trở đi, là diệt chướng tức là tội nặng ngũ nghịch. Kinh ấy nói tán thiện sức yếu nên nghịch báng (năm tội nghịch và chê bai chánh pháp) chẳng sinh. Nên kinh ấy nói: "Nếu có chúng sinh nghe danh hiệu Phật ấy mà tin tưởng vui mừng cho đến một niệm dốc lòng hồi hướng nguyện sinh nước ấy thì liền được vãng sinh trụ vào Không lui sụt chuyển, chỉ trừ năm tội nghịch chê bai chánh Pháp". Nếu y theo kinh này mà tu chánh quán ở địa vị thấp nhất đến tưởng mặt trời thì cũng trừ được tội nặng ngũ nghịch. Thế thì biết tội nghịch được sinh là nhờ tu quán. Nhóm thấy tự luận, là quán hạ phẩm hạ sinh rằng: Trừ được tám mươi ức kiếp tội nặng sinh tử. Nay nói sáu mươi, e chữ sáu mươi là lầm.

Hỏi: Đã dùng pháp giới để làm tâm cảnh mà hiển hiện mặt trời pháp giới, khiến nhắm mắt mở mắt đều thường thấy mặt trời, tức là quán hạnh thấy lý pháp giới, trong ba phẩm sao xếp vào vị danh tự, thuộc phẩm hạ hạ. Đáp: Lý quán sự định tướng là tu, tâm tuy chẳng hai mà sự tạp phàm tình cho nên chưa phục được hoặc mà sự định sẽ thành. Còn lý quán thì phải quên tình, phục hoặc mới phát, cho nên hoặc mới phục riêng thì gọi là vị quán hạnh mà thấy lý pháp giới. Phục sâu mới gọi là Tương tợ vị kiến. Phần đoạn mới được thấy chân pháp giới. Nay người tu quán mặt trời, quán băng và quán lưu ly. Tuy dùng pháp giới tâm cảnh mà quán, nhưng hoặc hoàn toàn chưa hàng phục, phàm tình còn cạn, mới chỉ được thấy danh tự mặt trời pháp giới mà không phải vị quán hạnh. Nói thế là y cứ kẻ độn căn quán mặt trời mà được lợi ích định tâm vắng tưởng, cho nên ở vị danh tự. Nếu kẻ lợi căn, mặt trời pháp giới hiển hiện thì liền có thể viên phục ngay, và mặc nhiên trừ hai thứ thô hoặc, chẳng lẽ không phải quán mặt trời trải khắp chín phẩm hay sao?

Hỏi: Nay dùng lý mà giải tưởng mặt trời hiện tiền, dẫu chưa đoạn hoặc mà sự định đã thành. Theo kinh nói thì người hạ hạ phẩm bị khổ ép ngặt không nghĩ đến niệm Phật, chỉ mười niệm sớm xưng niệm danh hiệu Phật ấy, tâm tuy tiếp nối mà không thể cùng loại với thấy mặt trời định tâm, do đâu mà đồng ở phẩm vị thứ chín?

Đáp: Người ấy do gây ra tội nghịch và làm các tưởng, khi sắp qua đời bị khổ ép ngặt, nhưng gặp được bạn lành nói Diệu pháp cho nghe, tuy chẳng thể niệm ba thân Phật ấy, nhưng vì sợ địa ngục nên tha thiết xưng danh hiệu đủ mười niệm. Đã dứt ác sau liền nương niệm này gá vào sen ấy thì gọi là phẩm hạ hạ. Nay luận người từ đầu ưa thích siêng năm thực hành tam-muội, gần giữ các Thiện tri thức. Nghe pháp hiểu tâm vốn đủ các pháp

Y Chánh Tịnh độ, nên tâm tu đủ mười sáu pháp quán cho nên trước quán mặt trời khiến tâm trụ chặt so với các quán sau đây là phẩm đầu (ngọn). Người ấy tuy không liền thành sự định, mà có thể mười niệm xưng danh hiệu không tán loạn thì cũng thuộc về Định. Lại gần sức quyết đoán mạnh mẽ khi qua đời, cho nên được dự vào phẩm thứ chín. Cho nên hành tướng tuy nhỏ nhặt không đồng mà phẩm vị thì không khác nhau. Đó là trở đi là kết.

Quán nước về phân khoa, thì kế quán tưởng nước thấy nước lắng trong cũng khiến cho thấy rõ ràng không chút tán loạn. Đã thấy nước rồi, phải khởi tưởng băng, thấy băng trong suốt rồi tưởng như lưu ly. Tưởng này thành rồi thì thấy đất lưu ly trong ngoài trong suốt. Dưới có tràng vàng Kim cương bảy báu. Trên đất lưu ly dựng cờ cao ấy tám phương, có tám cạnh đầy đủ. Mỗi mặt do trăm báu tạo thành. Mỗi châu báu có ngàn tia sáng, tám muôn bốn ngàn màu sắc, sáng lòa đất lưu ly như ngàn ức mặt trời chẳng thể thấy hết. Trên đất lưu ly dùng sợi vàng ròng phân chia nhiều vùng, dùng bảy báu phân chia ranh giới rõ ràng. Mỗi báu có ánh sáng năm trăm mầu. Ánh sáng ấy như hoa, lại giống như trăng sao treo giữa hư không, thành lầu đài ánh sáng, ngàn muôn lầu các trăm báu hợp thành. Ở hai bên đài đều có trăm ức tràng hoa, vô lượng nhạc khí để trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng thổi lên vỗ vào các nhạc khí giảng nói các tiếng khổ, không, vô thường, vô ngã. Đó là tưởng nước.

Tùy giải thích, tức là nêu cảnh được quán, đã từng thấy nước trong ao hồ mà làm cảnh sở duyên. Thấy nước v.v... trở đi, chính là nói khởi quán. Đã theo Viên tông thì biết tâm năng tưởng đủ bảy đại tánh cho nên tâm có nước dụ là nước tức tâm. Quán ở bản tánh khiến nước hiển hiện ra và các tướng đều ở tâm tánh quán mà khiến hiện rõ. Văn kinh nêu tưởng nước. Diệu tâm đã vận thì tánh nước liền sinh, chuyên tưởng lắng trong khiến tâm không phân tán. Đã thấy v.v... trở đi, là biến nước thành băng. Pháp tánh cụ chuyển biến tự do cho nên có thể tưởng nước thành băng cứng chắc. Thấy băng v.v... trở đi, là biến băng thành lưu ly dễ hiểu bốn, tưởng này trở đi, là quán lưu ly thành đất. Tâm chứa đủ Pháp có bến bờ gì. Vì không duyên Diệu quán nên ẩn mà không phát hiện. Nay theo lời Phật thuận tánh mà tưởng. Đất báu sáng suốt các tướng kỳ lạ tùy tâm hiện ra ở sáu đoạn này, tùy thành đất ngọc trong suốt. Dưới có v.v... trở đi là cờ báu sáng suốt. Lưu ly v.v... trở đi, là các trang nghiêm trên đất. Mỗi pháp v.v... trở đi, là ánh sáng báu và lầu các. Ở đài trở đi, là tràng hoa và nhạc khí. Tám thứ trở đi, là gió nhạc giảng nói pháp, sớ nói thật không có thời gian, là kinh Đại Bản chép: "Cõi ấy không có bốn mùa chẳng lạnh chẳng nóng và không có mặt trời mặt trăng mà thường sáng suốt. Mượn ở cõi này có bốn phương bốn duy mà có tám thứ gió (tức gió tám hướng thổi về) cho nên cũng thuận theo đây mà có tám gió. Nhưng tám gió ấy chẳng đồng với ở cõi này khiến vật có lớn lên và suy tàn. Chỉ là nhạc tự kêu mà giảng nói Diệu Pháp mà thôi". Ấy là v.v... trở đi là kết.

Quán đất về phân khoa, tức là khi quán này thành thì mỗi pháp quán khiến cho thật rõ ràng nhắm mắt mở mắt khiến không tan mất. Chỉ trừ khi ngủ, thường nhớ việc này. Như thế mà tưởng thì gọi là thô thấy đất cõi Cực lạc. Nếu được tam-muội thì thấy đất cõi ấy rất rõ ràng không thể nói hết, đó là tưởng đất. Phật bảo A-nan: "Ông giữ lời Phật nói vì tất cả đại chúng đời vị lai muốn thoát khổ mà nói pháp quán đất này. Nếu quán đất thì trừ được tám mươi ức kiếp tội sinh tử. Khi bỏ thân này (vào đời khác) thì sẽ sinh tịnh quốc, mà tâm được vô ngại. Thực hành quán này gọi là Chánh quán. Nếu thực hành quán khác gọi là tà quán.

Tùy giải thích, về tiệm tưởng tức chuyển tưởng băng dùng để biểu thị cho lưu ly. Tuy là quán đất các thứ trang nghiêm nhưng chưa gọi là chỗ ở của Thắng ứng thân Phật ấy, vì ba quán còn yếu cũng gồm giả tưởng cho nên ở đất ấy gọi là thấy thô. Nếu được v.v... trở đi là Thật quán. Diệu công ở tam-muội có thành mà thấy được đất thắng thân ấy nương tựa, các tướng trang nghiêm đâu thể bày đầy đủ, hiểu rõ Đồng cư đủ tắt ba cõi tướng ấy không nhỏ như các kinh nói. Hễ làm thiện nhỏ mà hồi hướng cầu sinh dẫu nương theo Đại thừa, nhưng chỉ là tán thiện, cho nên cảm được tịnh tướng An Dưỡng cũng kém. Nếu nay Đốn giáo mà tâm quán Diệu tống thấy được Tịnh tướng thì rất khác hẳn các bộ khác. Như tu Diệu quán ở Đồng cư uế còn thấy được tướng tôn đặc và Thật báo há là một thứ với cõi Tịnh Đồng cư thân. Cho nên nay tưởng đất, diệu tam-muội mà thành thì thấy sự trang nghiêm chẳng thể nói hết. Phật bảo v.v... trở đi, là nói lợi ích. Sớ nói trước nước là tưởng, bởi nhờ nước phương này để thành băng là biểu thị cho đất thật ở cõi ấy nhưng là giả tưởng nên gọi là thô thấy. Nay thành tam-muội thật thấy đất ấy gọi là Thật quán. Nói giả tưởng không thể diệt tội. Đây là Đại sư thuận kinh mà sách tấn, khiến người tu mau chóng thành tam-muội. Mà chẳng phải giả tưởng thì hoàn toàn không diệt tội. Làm sao biết như thế? Quán mặt Trời còn là trong số diệt tội của hạ phẩm hạ sinh, há đã thô thấy đất mà hoàn toàn không trừ được tội. Thực hành tưởng này trở đi là nói chánh tà. Quán họp với kinh thì nói là thấy tánh, gọi là chánh quán. Thấy tướng trái kinh là phát ra việc ma, nên gọi là tà quán. Sau đó đều thế.

Quán cây có phân khoa. Tùy giải thích là kết trước sinh sau và chính là nói quán hạnh.

Hỏi: Quán mặt trời, quán nước đều trước có lập cảnh. Còn quán đất, quán cây không nói là sao?

Đáp: Nói riêng thì nước và mặt trời đã từng thấy tướng nên chỉ mà làm cảnh. Còn cây và đất trở đi chưa hề thấy thì lấy gì làm cảnh. Nếu luận chung thì đều được có cảnh. Vì sao, vì các quán đều để dạy tướng bày ra mà nhớ giữ ở tâm để làm cảnh được duyên. Nhưng hiểu rõ năng quán vốn đủ các pháp này, mượn cảnh mà tưởng thành khiến tánh đủ pháp phát sáng tâm mắt. Cho nên tâm quán và tướng phát ra mỗi pháp đều ba. Cho nên biết luận chung đều được có cảnh. Văn này có năm:

1. Quán cây báu v.v... trở đi là nói thể của cây. Trang nghiêm sau và sinh pháp đều là năng y. Nay mỗi mỗi cây cao tám ngàn do-tuần tức là thể sở y.

2. Mỗi mỗi trở đi, là tướng trang nghiêm. Lưu ly nói đủ là Phệ-lưu-ly-da, Hán dịch là chẳng xa. Tức là ở Tây vực có núi cách thành Ba-la-nại không xa. Báu này sinh ra ở đó cho nên lấy đó làm tên. Pha lê, chánh gọi là Tốtba-chí-ca, hình dạng nó hơi giống thỉ tinh ở cõi này. Nhưng có màu trắng đỏ.

3. Chư Thiên trở đi là nói sinh pháp. Sinh tức là chúng sinh là chư Thiên đồng tử. Vì sinh đối với các sự trang nghiêm (vì sinh dùng để trang nghiêm) nên gọi là pháp. Thích-ca Tỳ-lăng-già, Hán dịch gọi là Năng thắng. Ma-ni chính gọi là Mạt-ni, Hán dịch là Ly cấu. Là nói báu này sáng sạch không bị các bụi dơ bám bẩn. Lại dịch là Tăng trưởng, nghĩa là chỗ báu này ắt tăng thêm oai đức xưa dịch là Như ý. Đây đều là dịch nghĩa. Bậc thương trong sắc nghĩa là ánh sáng của Ma-ni lẫn lộn trong các báu thì sắc nó đẹp đẽ khác lạ hơn hết không gì sánh bằng. Vàng Diêm-phù-đàn, Diêm-phù nói đủ là Nhiễm-bộ-nại-đà, đây là tên sông ở Tây vực, gần cây Diêm-phù-nại-đà. Vàng đó xuất phát từ sông này. Đây là do cây mà đặt tên, vàng do sông mà được tên. Như Bình Đế Thích, nói đủ là Thích-ca Nhân-đà-la, Hán dịch là Năng chủ, là có khả năng làm chúa trời. Nói bình, thì Thích Luận quyển mười lăm chép: "Có người thường cúng dường trời, người này rất nghèo, một lòng cúng dường suốt mười hai năm cầu được giàu sang". Trời thương người này bèn hiện thân mà hỏi rằng Ngươi muốn cầu điều gì?

Đáp: Tôi cầu giàu sang muốn gì được nấy. Trời bèn cho một chiếc bình gọi là đức bình bảo rằng cần vật gì thì trong bình hiện ra. Người này được bình rồi thì muốn gì đều thoả nguyện. Diệu hoa mọc ra các quả, là như bình trời kia sinh ra các vật cho nên lấy làm dụ.

4. Có v.v... trở đi là hiện ra các cõi nước Phật, không phải hiện riêng một đại thiên mà cả các cõi Phật mười phương đều hiện trong đó. Nếu phát sanh Quán cây thì chuyển sang quán Cõi Phật cũng không khó.

5. Quán thấy v.v... trở đi là kết quán. Tuy do lọng báu sáng mà thấy các cõi mười phương nhưng từ cây mà khởi lên, nên phải kết ngọn mà trở về gốc. Vì thế ấy là v.v... trở đi là kết luận.

Quán ao, gồm sớ khoa, kế phải tưởng nước. Muốn tưởng nước thì cõi nước Cực Lạc có ao nước tám công đức. Mỗi ao nước do bảy báu tạo thành. Ao ấy mềm mại từ châu Như Ý vương sinh ra chia làm mười bốn nhánh, mỗi mỗi nhánh có diệu sắc bảy báu. Vàng ròng làm ao, dưới ao đều dùng Kim cương gồm nhiều màu sắc khác nhau làm đáy ao. Trong nước có sáu mươi ức hoa sen bảy báu. Mỗi hoa sen đều rộng mười hai do-tuần. Nước Ma-ni chảy tưới lên các hoa và cọng cây mà lên xuống, âm thanh rất hay, giảng nói khổ không, vô thường, vô ngã các Ba-la-mật. Lại khen ngợi tướng tốt của Chư Phật. Như ý Châu Vương phát ra ánh sáng màu vàng ròng mầu nhiệm. Ánh sáng ấy hóa ra chim trăm sắc báu, hót tiếng rất êm tai thường khen niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Ấy lá tưởng nước.

Giải thích kinh có nói về thể của ao. Thể nghĩa đồng với cây, mỗi điều v.v... trở đi là nói tướng của ao. Chi là nhánh, mạch. Ao vàng đáy cát, hoa sen đều là tướng kỳ diệu của tám ao. Ma-ni trở đi là nói tùy tâm, nói về nước báu làm vui thích lòng người, tự nhiên trên cây sau mới chảy xuống. Cho nên kinh Thượng Sinh chép: "Cung trời Đâu-suất có nước chảy quanh các cột kèo, thì giống như đây". Tiếng rất trở đi là nói lợi ích. Tức tiếng nước nói pháp làm tăng tuệ cho người quán. Khổ, không... là nói Tiểu, các tướng đẹp là nói Đại lại khen niệm Phật, Pháp, Tăng thì khiến người quán sâu Tam bảo này cũng khen biệt thể đồng thể khác nhau. Kinh Niết-bàn nói Bồtát Lưu ly quang muốn đến cõi này thì trước phát ra ánh sáng, không phải xanh hiện thành xanh. Văn Thù nói ánh sáng này tức là trí tuệ. Đại sư dẫn đây mà lập sắc có phân biệt. Hoặc tâm hoặc sắc chỉ là một sắc. Nay tiếng nước nói pháp, ánh sáng hóa thành chim há chẳng bày sắc có phân biệt. Sắc năng tạo tâm sắc đủ ở tâm chỉ là một sắc ư? Phải biết muôn pháp chỉ là tâm còn gồm quyền giáo, các sư khác đều nói tất cả chỉ là sắc. Chỉ ở Viên tông riêng theo Tổ ta, để biến nghĩa gồm riêng, đủ duy thuộc viên. Năm ấy là trở đi, là kết quán sớ giải thích tám Đức mà đối năm nhập. Và tiếng nói pháp tức là Thanh nhập, tuy thành sáu nhập nhưng đều là cảnh mầu. Cho nên khiến người tu mau chứng vô sinh.

Về quán chung gồm có Sớ khoa. Về văn kinh thì nói quán chung, là quán Lầu báu, tức từ các báu trở đi chính là nói quán lầu. Lầu ấy trở đi là nói hai nơi có tiếng nhạc, tức là trong lầu thì chư thiên trổi nhạc trên hư không thì tiếng nhạc tự kêu. Tiếng nhạc này đều nói Tam bảo, quán môn mầu nhiệm. Tưởng này v.v... trở đi, là kết thành quán chung. Trước là hệ niệm, phải nhờ mặt trời lặn và băng ở cõi này làm phương tiện, kế quán đất, cây, ao, lầu ở nước ấy. Nên biết bốn thứ này được thứ sau thì sẽ được thứ trước. Cho nên quán lầu thành thì bốn việc đều hiện.

Cho nên đến đây được gọi là quán chung. Tuy nói thấy chung, nhưng nếu so với quán sau thì đây cũng là quá y cứ lược cho nên nói là thấy thô. Từ ấy v.v... trở đi, là kết. Nếu thấy v.v... trở đi, là nói lợi ích, trừ được nghiệp ác cực nặng trong vô lượng ức kiếp. Trong tòa hoa có nói trừ tội năm muôn ức kiếp. Ở quán đất trước thì trừ được tám mươi ức kiếp. Nhưng số diệt tội nhiều ít đều do Phật trí lượng ra mà nói không phải chỗ kẻ sơ tâm lường nghĩ được, chỉ có thể tin theo mà thôi. Thực hành quán ấy v.v... trở đi là nói quán Tà chánh.

Quán kế là quán Chánh báo gồm có phân khoa và tùy giải thích, tức là khuyên nghe hứa nói. Nói lời ấy trở đi là Phật hiện thân tướng. Khi ấy Vi-đề v.v... trở đi là vì vị lai mà thỉnh. Thứ tư v.v... trở đi là đáp lời thỉnh nói rộng, nghĩa là đáp lời thỉnh nêu ra năm thứ. Phật bảo Anan và Vy-đề-hy rằng:

Hãy lắng nghe lắng nghe và khéo nghĩ nhớ. Ta sẽ vì các ngươi mà phân biệt giải thích pháp trừ khổ. Các ngươi nên nhớ kỹ rộng vì đại chúng mà phân biệt giải thích.

Khi nói lời ấy thì Phật Vô Lượng Thọ trụ trên hư không, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là hai vị Đại Sĩ đứng hầu hai bên Đức Phật ấy, ánh sáng rực rỡ bao trùm khắp tất cả. Có trăm ngàn sắc vàng Diêm-phù-đàn cũng không sánh bằng. Lúc đó Vy-đề-hy thấy Phật Vô Lượng Thọ liền đảnh lễ Phật bạch rằng:

Bạch Thế tôn, nay con nhờ sức Phật mà thấy Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ-tát chúng sinh đời vị lai làm sao quán Phật Vô Lượng Thọ và hai Bồ-tát?

Vy-đề-hy do thấy ba vị Thánh nên vì chúng sinh đời vị lai mà thỉnh quán ba vị Thánh. Như lai đáp lời thỉnh chỉ rõ năm môn, là sao? Đã muốn quán Phật, thì ngồi trên tòa cho nên trước phải quán tòa. Lại tuy quán chân Phật nhưng trước phải quán tượng để khiến tâm lanh lợi cho nên đáp thứ ba mà bày ra năm quán này. Nhưng riêng nêu Phật là lấy chủ bao gồm đồ đệ.

Từ quán hoa v.v... trở đi, là chung ở chỗ quán mà giải thích. Nói đủ về Chánh báo, phải nương vào khoa trước mà chiếu bảy cảnh này. Văn gồm có quán tòa hoa thì có sớ khoa và văn kinh tức gồm thành tòa pháp dụng và nói về tướng. Về khoa thì Phật bảo v.v... trở đi, là nói pháp dụng, tức là dụng của pháp quán, vì đầy đủ lý do mới có dụng sự, tâm năng tưởng thì pháp nào chẳng đủ, y Thánh nói cảnh ở tánh mà quán. Tòa Hoa trang nghiêm không hiện mà hiện. Khiến nó v.v... trở đi, là luận tướng, tức pháp dụng mà thành các tướng của tòa hoa. Văn này cũng có số lượng sắc hoa; mỗi hoa v.v... trở đi là sáng châu giữa hoa; Thích-ca trở đi là đài hoa lưới báu. Chânthúc-ca, Hán dịch là màu đỏ, Tây vực có Chân-thúc-ca, hoa nó màu đỏ, lớn như bàn tay. Sắc hoa này giống hoa ấy nên lấy đó đặt tên; ở đó trở đi là nói cờ báu trang nghiêm. Núi Tu-di, Hán dịch là Diệu Cao, cũng gọi là An Minh. Trời Dạ-ma gọi đủ là Tu-dạ-ma, Hán dịch là Thiện Thời. Vì trời ấy sáng mãi không có ngày đêm khác nhau, nên gọi là Thiện Thời. Nên biết ai có khả năng quán ba quán càng sâu thì thắng tướng phát ra lớn dần. Như cây báu trước chỉ cao trên Cờ báu tám ngàn dotuần. Còn nay tòa hoa và đài cao to như muôn ức núi Tudi, nghiệm ra thì thể của tòa rất là cao lớn. Cho nên biết diệu cảnh tùy quán mà sang hơn. Mỗi mỗi sắc vàng trở đi la nói có công năng tùy cơ lợi vật. Tòa Quán nếu thành, thì phật sự mười phương tùy quán đều thấy. Ấy là trở đi là kết quán. Phật bảo trở đi là nói do nguyện lực mà thành. Phật ấy trong nhân làm Bồ-tát Tỳ-kheo tên là Pháp tạng, ở chỗ Phật Thế Tự Tại Vương, phát bốn mươi tám nguyện dùng Tịnh độ này mà nhiếp các chúng sinh. Nay nguyện lực thành nên khiến hoa tạng chỗ y như thế. Nếu muốn v.v... trở đi, là nói lợi ích ở vị lai.

Quán tượng Phật Bồ-tát, gồm có phân khoa. Pháp giới v.v... trở đi là tùy giải thích, tức là nói pháp thân Chư Phật từ tâm tưởng sinh. Muốn tưởng thân Phật thì phải biết quán thể. Thể là Bản giác khởi thành năng quán. Y theo thể mà lập Tông là nói ở đây. Phải biết bản giác chính là thân pháp giới của Chư Phật. Vì các Như lai không khác chỗ chứng mà toàn chứng bản tánh của chúng sinh. Nếu thỉ giác có công phu thì, bản giác liền hiển. Cho nên nói pháp thân từ tâm tưởng sinh. Lại, Diđà cùng tất cả Phật là một thân một trí, ứng dụng cũng thế. Thân Di-đà hiển thì tức là thân Chư Phật, tướng chủ Phật sáng thì tức là thể Di-đà. Cho nên nói chung sinh thân Chư Phật xem là quán sát quán thể Di-đà. Sớ y cứ có ba nghĩa để giải thích văn kinh này. Giải thích tám câu đầu, thì y cứ cảm ứng giao nhau mà giải thích, tức là nói Phật vào tâm chúng sinh. Thân pháp tánh của báo Phật, đầy đủ Thỉ giác thì gọi là báo Phật, rốt hiển bản giác thì gọi là thân pháp tánh. Thỉ bản đều minh mà hay khởi ứng dụng, nhưng cần phải năng cảm thì mới hiển hiện ra. Nay nói ba quán tịnh tâm niệm Phật mới gọi là năng cảm. Cho nên nói tâm chúng sinh tịnh thì pháp thân tự tại, hai đạo này giao nhau ấy là nghĩa nhập. Lại lấy mặt trời sáng lòa trên cao mà dụ cho thỉ hợp bản. Bóng hiện trăm sông là dụ ứng nhập tịnh tưởng. Tức là trở đi là tướng tùy vật hiện. Ba mươi... là điệp Kinh. Cho nên các ngươi trở đi là văn. Nói Phật trở đi là giải thích nghĩa. Do pháp báo minh nhau, nên ứng dụng tự tại, có tịnh tâm cảm thì đều thị hiện. Trước nói Phật Bồ-tát, tức là văn chỉ Chư Phật là thân pháp giới mà nói Bồ-tát là vì thân Pháp giới chung với phần chứng, cho nên gồm có Bồtát. Ý nói trước tuy hiển thị pháp thân vào tâm nhưng chưa nói tướng tùy quán mà hiện thân. Nay nói quán tướng tốt Phật, Phật dùng tướng tốt tùy tâm quan mà hiện ra. Cho nên nói đây nói năng tùy. Lại pháp v.v... trở đi, là y cứ giải nhập tương ưng mà giải thích. Trước nói đường cảm ứng giao nhau, sợ nói thể Phật khác thể chúng sinh nên cảm mời mới nhập. Nay bỏ cái thấy này nên nói thân Phật không chỗ nào chẳng khắp. Đã không ngoài pháp giới há lại hơi khác với chúng sinh. Nếu thế thì thể Phật vốn khắp hoàn toàn là sắc tâm y chánh của chúng sinh. Vì sao kinh lại nói vào tâm chúng sinh? Song tuy toàn là mà chúng sinh mê trái, cho nên thể Phật thành nghĩa xuất ly. Nay được quán giải khế họp thể Phật, Cho nên Phật thể nhập vào tâm quán giải, nên được gọi là giải nhập tương ưng. Đây là thỉ giác hiểu rõ bản giác, cho nên bản giác nhập vào thỉ giác.

Hỏi: Giải nhập tương ưng giải thích mới trúng đích, nghĩa này liền đủ, sao trước phải y cứ, cảm ứng mà giải thích?

Đáp: Nay tâm quán không phải ở ấm mà quán bản tánh Phật, bèn nương Phật khác mà hiển bản tánh. Cho nên trước nói ứng Phật nhập vào tâm tưởng của ta. Kế là nói thân Phật hoàn toàn là bản giác, cho nên ứng Phật hiển hiện. Biết bản tánh sáng mượn nghĩa ngoài mà thành, chỉ tâm quán mà lập. Hai giải thích nhờ nhau là quán môn này. Cho nên thiếu giải Thích-cảm ứng thì không được. Tâm ấy v.v... trở đi, hai câu trong giải thích có nói "Làm" và "Là" khác nhau, tức là y cứ hay cảm hay thành mà giải thích "Làm". Làm có hai nghĩa: Một là Tịnh tâm hay cảm được ứng Phật phương khác, cho nên gọi tâm ấy thành Phật. Nói Phật vốn không, là Pháp thân mất bặt không có sắc lần lượt thấy nhau. Tâm tịnh nên có, là chúng sinh Tâm tịnh y vào nghiệp thức huân pháp thân Phật, cho nên thấy tướng Thắng ứng diệu Sắc; hai là tam-muội hay thành quả Phật của mình nên nói cũng nhân v.v... Lại nói tâm ấy thành Phật là trước thành Phật khác kế thành Phật mình. Hai, là Tâm ấy là trở đi, là y cứ tức ứng tức quả mà giải thích "Là". Là cũng có nghĩa là tâm tức ứng Phật nên gọi tâm ấy là Phật. Vừa nghe... Phật thể không tướng, tâm cảm nên có, thế thì tâm Phật và có không đều một bề khác nhau. Vì mất kiến này nên nói tâm là ứng Phật mà ngoài tâm không Phật. Tâm tức quả Phật nên gọi tâm ấy là Phật tức cũng là một câu không có nhân Phật. Tâm đã là quả Phật cho nên không thể thành nhân tam-muội. Trong tâm chúng sinh đã có Như lai ngồi kiết già, đâu phải đợi vị lai mới thành quả Phật. Một là ứng Phật, hai là quả Phật đây chính là văn tiêu thích Kinh sớ. Nếu luận nghĩa làm và là thì tức là ba quán bất tư nghĩ. Vì sao, vì nói tâm thành Phật mà hiển chẳng do tánh đức tự nhiên mà có Phật, vì nói tâm là Phật mà hiển bày chẳng do tu đức mà nhân duyên thành Phật. Nên biết ngoại đạo các cú, ba giáo bốn môn đều là chỗ có thể nghĩ bàn, chẳng ngoài nhân duyên và tự nhiên. Cho nên kinh Phật Đảnh chép: Bảy Đại đều là Như lai tạng theo nghiệp mà phát hiện, mỗi phần kết luận rằng: Thế gian không biết hoặc là nhân duyên và tánh tự nhiên đều là thức tâm phân biệt tính toán, chỉ có lời nói mà không có thật nghĩa. Họ nói thế gian gồm có chín cõi, nay ở một niệm diệu quán "Làm, là" hay mất tánh qua, tức "Là" mà "Làm", cho nên tòa tánh thành tu thì mất tất cả tánh tự nhiên. Tức "Làm" mà "Là", cho nên toàn tu tức tánh thì mất tất cả tánh nhân duyên. Nếu thế sao nghĩ chẳng dứt, sao bàn chẳng quên. Đã lấy làm là dứt hết nghĩ bàn, lại lấy làm là mà hiển bày ba quán. Vì hoặc phá hoặc lập đều gọi là "Làm" không giả hai quán. Còn không phá không lập thì gọi rằng "Là" là Trung đạo quán. Toàn là mà làm thì ba đế đều phá, ba đế đều lập. Một không thì tất cả không, một giả thì tất cả giả. Còn toàn làm mà là, thì ba đế đều chẳng phá chẳng lập, gọi là một trung thì tất cả trung. Không giả của tức trung gọi làm thì năng phá ba hoặc năng lập ba Pháp, cho nên cảm được ba thân Viên ứng của Phật khác mà hay thành ba thân được quả của tâm ta. Trung của tức không giả gọi là thì hoàn toàn hoặc tức trí, toàn chướng tức đức cho nên tâm là ứng Phật, tâm là quả Phật. Cho nên biết làm là một tâm tu, chính là ba quán bất tư nghĩ, là tổng thể của mười sáu quán, là Diệu tông của một kinh. Văn trong đây nghĩa khắp trước sau, cho nên người tu phải dùng ý này mà tu nhân Tịnh độ, chẳng thể không biết cho nên nay lược giải thích. Thỉ học trở đi làm là cùng giải thích là y cứ thỉ chung. Nếu luận sáu tức thì đều làm đều là. Nay nói về tu chứng thì làm là cần phân biệt. Thỉ thời gồm ba vị danh tự, quán hạnh và tương tợ, tu mà chưa chứng nên gọi làm. Chung thì phần chứng, rốt ráo, nhận rõ chân giác, nên được gọi là. Ý còn giản đón cho nên có giải thích này. Như đương v.v... trở đi, là y cứ đương hiện mà giải thích. Lấy hiện giải thích là, lấy đương giải thích làm, là khiến tức tâm mà thấy thể Phật pháp, lấy hiện nhân này mà chứng đương quả. Cho nên lấy tâm Phật đồng thể mà gọi tâm là Phật, quán sinh quả kia gọi tâm thành Phật. Ý ở tức tâm niệm Phật và khiến mộ quả mà tu nhân cho nên có giải thích này. Chánh biến trở đi, hai câu sau là ba trí dung diệu gọi là Chánh biến tri. Vô lương sâu xa nên dụ là như biển. Đây chính là tròn đầy Viên Minh Đại giác, không hai không khác với tâm thể ta. Nay y vào đốn giáo, tức ba hoặc nhiễm mà tu tâm viên tịnh, hay sinh Chánh Biến Tri của Chư Phật, đây y cứ Phật khác mà giải thích tâm sinh, hoặc y vào tâm này mà năng thành đương quả, đây là y cứ Phật mình mà giải thích tâm sinh.

Cho nên phải nhất tâm buộc niệm quán chắc Phật ấy, Đa-đà A-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu-tam Phật-đà. Tưởng Phật ấy, trước phải tưởng tượng, nhắm mắt mở mắt thấy một tượng báu như sắc vàng Diêm-phù-đàn ngồi trên hoa ấy. Thấy tượng ngồi rồi mắt tâm được mở sáng, phân minh rõ ràng, thấy nước Cực lạc bảy báu trang nghiêm. Đất báu ao báu cây báu bày hàng, các màn báu che đậy bên trên, các lưới báu giăng khắp hư không. Thấy các sự ấy khiến rất rõ ràng như xem chỉ tay trong bàn tay. Thấy sự này rồi lại phải tưởng một hoa sen lớn ở bên trái Phật. Hoa sen như trước không phát sai khác. Sau lại tưởng một hoa sen lớn khác ở bên hữu Phật. Tưởng tượng một Bồ-tát Quan Thế Âm ngồi ở tòa hoa bên trái cũng có sắc vàng như trước không khác, rồi tưởng một tượng Bồ-tát Đại Thế Chí ngồi ở tòa hoa bên phải. Khi tưởng này thành, tượng Phật và Bồ-tát đều phát ra ánh sáng. Ánh sáng này sắc vàng ròng chiếu các cây báu. Dưới mỗi cây cũng có ba hoa sen, trên các hoa sen này đều có tượng một Phật và hai Bồ-tát, đầy khắp nước ấy. Khi tưởng này thành thì người tu phải nghe tiếng nước chảy và ánh sáng và các cây báu, các chim Cưu nhạn uyên ương, đều nói pháp mầu. Xuất định nhập định luôn nghe tiếng Diệu pháp. Người tu nghe rồi khi xuất định thì nhớ mãi không quên khiến họp với Tu-đa-la. Nếu không hợp thì gọi là vọng tưởng. Nếu cùng họp thì gọi là tưởng Thô thấy thế giới Cực lạc. Ấy là tưởng tượng. Thực hành quán này thì trừ được tội sinh tử trong vô lượng kiếp. Ở hiện thân được tam-muội niệm Phật.

Đa-đà A-già-độ, hoặc là nói mười hiệu vô lượng danh hiệu. Trong đây lược nêu ba hiệu là Như lai, Ứng Cúng và Chánh Biến Tri. Thiên trúc gọi ba tiếng giống nhau: A-la-ha, dịch là Ứng Cúng, A-la-hán dịch là Vô sinh, A-lô-hán dịch là Sát-tặc, hợp với Tu-đa-la, là khi quán hạnh thì khiến tương ưng với giáo Pháp, cho nên nói hợp. Lại giải thích hợp với giáo mười hai bộ kinh, nhập định là Tu-đa-la khi xuất định thì tâm hợp với định, cho nên nói hợp với Tu-đa-la.

Đa-đà trở đi, là quán riêng Di-đà và bày pháp quán, tức là khiến quán riêng. Kinh nói cho nên cần phải, là trên đã nói bày tâm cảm Chư Phật, vì tâm tức Chư Phật. Vì nghĩa ấy nên biết tức tâm mà quán Di-đà. Tâm còn có khả năng làm Chư Phật há chẳng tức Di-đà. Nên biết Diđà cùng tất cả Phật chẳng nhiều chẳng ít. Chư Phật tức là nhiều của một, Di-đà tức là một của nhiều. Tâm hệ niệm quán chắc Phật ấy, tức là một tâm ba quán. Chỉ nói quán chắc, sao nói ba quán, lấy cảnh sở quán nêu ra ba hiệu mà nói năng quán biết là ba quán. Vì sao? Đa-đà A-già-độ, Hán dịch là Như lai. A-la-ha, Hán dịch là Ứng Cúng. Tam-miệu-tam Phật-đà, Hán dịch là Chánh Biến Tri. Hiệu này tức mời ba đức. Nay ở sở quán nghĩa đúng ba đế. Chánh Biến Tri tức là Bát-nhã, là Chân đế. Ứng Cúng tức là Giải thoát, là Tục đế. Như lai tức Pháp thân, là Trung đế. Lấy ba đức làm ba đế, một viên dung chẳng phải một chẳng phải khác. Đế này cùng quán kia tên khác mà thể đồng dứt hết nghĩ bàn. Đây bèn lại thấy quán thể Di-đà, đem quán này mà quán tượng quán chân. Sớ giải thích ba hiệu.

Hỏi: Trong văn quán tượng nêu tâm thành Phật, nêu tâm là Phật, lại dùng ba hiệu để hiển bày ba đế. Diệu quán đã lập có thể dùng pháp này mà quán các cảnh. Từ mặt Trời lặn quán đến tòa hoa, Phật đã chưa nêu thức ba quán, sao người tu được dự dùng quán này?

Đáp: Phật đối với đương cơ bày quán trước sau hoàn toàn do Thánh ý, phàm phu không biết được. Sau khi Phật diệt độ rồi người nào muốn tu quán hạnh, pháp sở dùng phải dựa vào bốn Y. Đại sư giải thích đề. Trong quán của năng quán đã luận về ba quán. Đề mục là chung, văn kinh là riêng, há chẳng lấy chung mà xuyên suốt riêng, huống chi nói quán Phật thì mười sáu thứ đã bao gồm đủ. Nay y vào Thiên thai tu tập giáo quán chẳng dựa vào trí giả thì nhờ ai khác. Như Bát Chu ba quán Diệu môn, Phổ Hiền lục căn hối pháp, đều là ở trong định mà thấy bậc Thánh giảng nói. Đại sư dạy người dự tập tinh thục nơi vào đạo tràng. Sao chẳng nghi, sao riêng trách đây. Lại cùng Tông này hoặc văn, hoặc tư không lìa ba quán, phải trong động tịnh mà dùng Không, Giả, Trung lập mà tất cả hạnh. Nếu đúng thế sao nay chẳng dùng tâm Không, Giả, Trung mà tưởng các tướng mặt trời, băng, đất, cây v.v...? Như tâm tưởng mặt trời, do sức nào mà mặt trời hiện tiền. Kinh Bát Chu chép: "Ta nhớ niệm liền thấy. Tâm thành Phật, tâm tự thấy tâm. Tâm là tâm chẳng biết. Tâm có tưởng thì si, tâm không tưởng thì nê hoàn. Kinh ấy nói kẻ sơ tâm lấy tưởng Phật làm cảnh, cho nên nói tâm thành Phật v.v... Nay kẻ Sơ tâm trước đã quán mặt trời há chẳng nói được là tâm làm mặt trời. Tâm tự thấy tâm... ư?" Chỉ quán lấy văn kinh này mà nêu Trung quán. Nếu lập Trung quán thì ba quán tự thành. Như quán mặt trời này với y Sớ này mà tu quán mặt trời, huống là tất cả pháp đều là Phật pháp, sao được y báo không phải Phật pháp? Tưởng ấy trở đi là nêu pháp quán. Tý Khoa phân kinh tức là quán tượng Phật, chính là nói quán tượng, đã là đủ tượng ba hiệu thì lý hợp với tượng chiếu Không, Giả, Trung. Như ở cõi này có tượng bằng gỗ đất còn phải đạt thể tánh hư không, ba thân rõ ràng, bốn đức không giảm. Tượng báu trong quán há chẳng phải thế. Nếu tượng quán mà không đạt ba đế, thì kế quán chân Phật quyết thấy ba Thân. Thấy tượng v.v... trở đi là do tượng mà thấy cõi nước. Quán tượng đó thành thì tâm nhãn mở sáng, rộng thấy y báo đất cây các tướng. Nên biết cây này hơn cây trước vô số bội phần. Vì sa? vì nay tượng báu sẽ xứng với tòa hoa, mà tòa tượng cao to thì cây cũng phải nhiều lớn. Đều do Diệu quán chuyển sâu, cho nên khiến chỗ quán càng hơn. Thấy đây trở đi, là quán hai Bồ-tát. Thánh đã bày hóa thì động tịnh sẽ đủ. Một chúa hai tôi chẳng đồng chẳng khác, biểu thị cho ba pháp, chân thân đã thế thì tượng cũng giống như thế. Quán hai Phật đủ thì khiến diệu quán thành ba. Tưởng này v.v... trở đi, là Tượng phát ra ánh sáng, có hai: Một là nói ánh sáng chiếu các cây; hai, mỗi mỗi v.v... trở đi là nói dưới cây đều có ba tượng. Tưởng này trở đi là người tu v.v... nghe Pháp, có hai: Một là nói nhân định mà nghe; hai, người tu trở đi là nói hợp với kinh. Văn này sớ có hai giải thích: Một là định sử hợp với Giáo; hai, phải tán hợp với định. Nghĩa đầu là nói khi xuất định thì nhớ mãi pháp được nghe trong định và pháp này phải khế hợp với kinh, cho nên nói tương ứng với giáo pháp. Ý thứ hai là nói tâm tuy xuất định mà đối với năm trần kia phải dứt yêu ghét, tịnh hết thân miệng, nếu ba nghiệp được như thế thì tuy chẳng trụ định mà cũng nghe tiếng Pháp. Cho nên nói xuất định nhập định đều nghe Diệu pháp. Nói hợp với mười hai bộ kinh giáo, là dùng mười hai bộ gọi chung Tu-đa-la, đồng tên là kinh. Ba tạng chia ra thì kinh là Định học, Luật là Giới học, Luận là Tuệ học. Cho nên gọi kinh là định hợp với Tu-đa-la là hợp với định. Nếu chẳng họp với Kinh thì gọi là vọng tưởng. Hoặc định chẳng hợp kinh, hoặc tán chẳng hợp định đều là phát ở việc ma, toàn không phải tượng quán Thiền định, cho nên gọi là vọng tưởng. Nếu đã họp thì gọi là thô tưởng thấy cõi Cực lạc nghĩa là dùng kinh mà nghiệm định không sai, xuất định cùng trụ định giống nhau thì được gọi là tưởng thô thấy cõi ấy.

Hỏi: Thấy Sự diệu này sao gọi là tưởng thô?

Đáp: Lấy tượng so chân thì phải phân biệt thô diệu. Tưởng này chính là quán Phật phương tiện, há có thể nói đồng quán chân Phật ư? Thực hành quán trở đi, là nói tu quán lợi ích. Nếu Tưởng tượng thành thì chân quán có thể được, cho nên ở hiện thân mà được tam-muội niệm Phật.

QUYỂN 5

Về quán thân Phật, gồm có phân khoa. Chân pháp thân, trước quán tượng báu thì giống thân Phật, nay đối giống ấy nên gọi là chân. Nhưng, sắc tướng này là Thật báo thân ứng với chủ Đồng cư, cũng gọi là Tôn đặc, cũng gọi là Thắng ứng. Gọi riêng là pháp thân là vì muốn thành cho người tu về Viên diệu quán. Vì Báo ứng thuộc tu, còn pháp thân thuộc tánh. Nếu Tiệm giáo mà nói thì riêng. Khởi hai tu Báo ứng, trang nghiêm pháp thân một tánh. Nếu Đốn giáo mà nói thì hai tu Báo ứng hoàn toàn là Tánh cụ. Pháp thân một tánh nêu thể khởi tu cho nên được toàn tánh thành tu, mà toàn tu ở tánh. Ba thân dung diệu chỉ một tức ba.

Hỏi: Đã nói chỉ một tức ba nhưng gọi là ứng tự nhiếp hai thân, vì sao sớ lại gọi là pháp thân?

Đáp: Nếu nói Báo ứng thì sợ lạm chỉ tu về Biệt giáo. Nay lấy Báo ứng gọi là pháp thân, tức là hiển bày ba thân đều chẳng phải tu mà được. Cho nên nay tôi sinh thân, ứng thân, báo thân, pháp thân đối với Tạng, Thông, Biệt, Viên thì người tu phải biết Viên tông đại thể, không phải chỉ Báo ứng mà gọi là pháp thân, cũng chính là nghiệp cảm gọi là lý độc, ba quán mười thừa danh tánh đức hạnh, có đức tánh Từ bi, cứu khổ ban vui. Nay Thắng ứng gọi là pháp thân là hiển bày Diệu tông, ý chỉ ấy không cạn. Cần phải bỏ trệ tưởng thì mới thấy chỉ quy.

Tùy giải thích, là nói kết luận trên, chánh nói quán thân Phật, đã chỉ Báo ứng gọi là pháp thân tức là nói lên Di-đà có ba thân đầy đủ. Đã là Diệu cảnh nhưng là pháp thân. Người tu tâm quán tức Không, Giả, Trung. Không, Giả thì hai tu, mà Trung quán là một tánh, tu tánh minh diệu, ba quán viên dung. Đã là năng quán nhưng chỉ là Bát-nhã. Cảnh quán khế nhau nên thấy thân Tôn đặc, tuy đủ ba thân nhưng gọi là giải thoát. Ở đây dùng ba chiếu ba cho nên phát hiện ra ba. Hợp ba với ba nhưng chỉ là một, ba chẳng nhất định là ba mà đồng ở một niệm. Một niệm vô niệm thì ba ba rõ ràng. Như thế mới gọi là tu tâm Diệu quán. Quán này khiến cho bốn độ đều tịnh. Nếu chẳng như thế thì chẳng phải là Đốn giáo nói Diệu quán. Nên dùng quán này mà quán thân Di-đà. Tý Khoa chia kinh làm ba, trước đây nêu chung lược bày. Chánh quán thân tướng Phật là từ ngài A-nan v.v... trở đi là quán sắc thân. Từ thân Phật v.v... trở đi là quán thân lượng. Sớ giải thích phân lược nêu văn kinh, mắt như v.v... trở đi là so sánh phân lượng là so mắt với thân, kế nữa định kinh mà bác lời dịch, lại quán thân quang. Nhưng quán sắc, lượng và tướng tốt, ánh sáng thì phải dùng tâm ấy thành Phật, tâm ấy là Phật ở trước mà thực hành pháp quán. Vì tâm thành Phật cho nên năng quán và sở quán, phá lập rõ ràng. Phá thì ba hoặc ba trí đều thênh thang, lập thì ba đế ba quán đều thành. Không phải phá lập này thì không phải nghĩa tịnh tâm thành Phật. Vì tâm là Phật cho nên năng sở đêu quên, chẳng phá chẳng lập. Làm và là một niệm, ngăn chiếu đồng thời. Đây là tức quán mà không quán, dùng hạnh vô tác mà tu định niệm Phật. Pháp này chính là yếu thuật để quán Phật. Nay nếu chẳng dùng thì tuyên bày làm gì? Thuật này không làm thì thắng tướng không phát. Quán ánh sáng tức từ thân các trở đi là ánh sáng lỗ chân lông. Phật ấy trở đi là quán viên quang. Trong viên quang trở đi là nói hóa Phật trong viên quang. Mỗi mỗi trở đi là hóa Phật và thị giả. Quán tướng tốt là từ Vô lượng trở đi là chánh bày thân tướng tốt, tướng chung tướng riêng, vẻ đẹp chung vẻ đẹp riêng, ánh sáng chung ánh sáng riêng. Ba thứ này chung riêng đều gọi là tám mươi bốn ngàn tức là bày đức sáng nên thành số này. Phật ở địa vị phàm phu có tám mươi bốn ngàn trần lao, ở trần lao đều thấy thật tướng. Lý trí đã hợp cho nên có khả năng thị hiện tướng tốt ánh sáng. Cho nên mỗi tiết đều nói tám mươi bốn ngàn. Người tu đời nay quán biết tâm tức là, hay ở trần lao đều là tướng Phật. Mỗi tướng trở đi là ánh sáng nhiếp chúng sinh. Chúng sinh và Phật đồng thể. Tuy rộng độ chúng sinh nhiều nhưng nhiếp đủ không mất. Chỗ quán tâm Phật lại giải thích ý nhiếp của văn này. Nói đến quán thành thi thấy được là từ ánh sáng ấy v.v... trở đi, là thấy một Phật, thấy đây trở đi là thấy Chư Phật. Trong quán thấy Phật, Phật thể viên dung, một tức tất cả đồng là thân Tôn đặc, cho nên quán một Phật mà thấy được Chư Phật thực hành quán này gọi là quán tất cả thân Phật. Vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật. Tâm Phật là đại Từ bi, dùng lòng từ Vô duyên mà nhiếp các chúng sinh.

Chánh quán tâm Phật. Sớ nói mắt thấy v.v... trở đi là nhờ tâm mà thấy tâm sớ giải thích về Như lai do tâm đại Bi mà khởi Thắng ứng thân, cho nên khiến người tu quán thân thì thấy tâm. Do thấy thân v.v... trở đi là hai, ước người tu quán tưởng sáng, nên thấy được tâm Phật. Sở dĩ sáng là do quán thân Phật. Cho nên hai ý đều do sắc mà thấy tâm, vì tâm vô hình nên do sắc hiểu thị. Vì người viên chỗ quán sắc tâm chẳng hai. Đã thấy sắc mầu nhiệm há lại cách ngăn tâm đại Bi. Cho nên kinh Thắng man nói: Như lai sắc vô tận, trí tuệ cũng như thế. Đã ba thứ từ thể là ba đế, nay ba quán sáng nên ba từ hiển. Vì dùng quả pháp mà quán hạnh nên ở mỗi vị đều thấy sắc tâm của Phật. Tâm Phật v.v... trở đi, là chánh bày tâm thể. Nếu không có vô duyên thì đại Bi không lớn, dùng vô duyên v.v... trở đi là dẫn văn mà giải thích rộng, tức là nhắc lại Kinh dẫn luận để làm sáng ý văn.

Hỏi: Văn kinh chỉ nói dùng lòng từ vô duyên mà nhiếp các chúng sinh. Vì sao sớ lại gồm nói chúng sinh duyên và pháp duyên đều nói là vô tâm.

Đáp: Khởi ba từ là do ba quán trí chiếu ba đế. Chiếu chân liền khởi Từ của pháp duyên, chiếu tục liền khởi Từ của chúng sinh duyên, chiếu trung liền khởi Từ của vô duyên. Đế Từ này cạn thì chẳng có sâu, sâu thì sẽ có cạn, cho nên chiếu chân tục, chưa ắt chiếu trung. Nếu chiếu được trung thì sẽ đủ cả chân tục. Cho nên thứ lớp sinh pháp chẳng tức vô duyên. Nay vô duyên Từ hợp đủ sinh pháp, cũng chính là sâu cho nên nay sinh pháp đều nói vô tâm. Cho nên kinh Niết-bàn chép: Từ nếu có không, chẳng phải có chẳng phải không, Từ như thế thì các Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể nghĩ bàn dẫn đến được. Phải biết ba Từ này thể nó vốn là một, chẳng phải ba chẳng phải một mà ba mà một. Như thế mới gọi là tâm Từ của Phật. Đây tự chia làm ba:

1. Chúng Sinh duyên từ, ba thứ không sai khác, nay đều hiện tiền. Tâm và chúng sinh năng sở đã mất, không có tâm tưởng mình duyên với chúng sinh khác, mà tất cả chúng sinh đồng thể với ta. Mười giới nhân quả chẳng lìa một tâm, mà một tâm này là thể của Từ. Cho nên mười giới khổ tập bốn thứ đạo diệt hay ở một thời mặc tình ban cứu. Cho nên nói không có tâm phan duyên tự nhiên hiện lợi ích. Như văn phẩm Phạm hạnh trong kinh Niết-bàn quyển hạ nói. Nhưng trong kinh ấy Như lai nói tám việc: Một là hàng phục voi say; hai là hàng phục lực sĩ; ba là hóa độ Lư chí; bốn là độ người nữ; năm là thoa vết thương; sáu là vuốt ve Điều-đạt; bảy là cứu đám giặc; tám là trị bệnh cho cô gái họ Thích, mỗi pháp đều kết rằng Căn Lực Từ Thiện mà thấy việc như thế. Nay văn nói ta thật chẳng đến tức là dẫn văn thứ năm thoa vết thương.

Văn hiện một chỗ, ý các duyên. Nói cắt vết thương thì kinh nói ở thành Ba-la-nại có Ưu-bà-di tên là Ma-ha Tư-na-đạt-ma chín mươi mùa hạ cúi thỉnh chúng Tăng cúng thí thuốc men. Có một Tỳ-kheo thân bị bệnh, thuốc uống phải có thịt, nếu không uống thì chẳng sống được. Cô gái này tự lấy dao cắt thịt ở đùi mình nấu canh trị bệnh cho Tỳ-kheo. Uống xong thì bệnh lành. Cô gái bị vết thương đau đớn phát tiếng niệm Phật. Ta ở tại Xá-vệ nghe rõ tiếng ấy. Do đó cô gái khởi tâm Từ kia liền thấy ta đem thuốc đến thoa vào vết thương, thì liền lại như xưa. Này người thiện nam! Lúc ấy ta thật không đến thành Ba-la-nại đem thuốc thoa vết thương cô ấy. Phải biết ấy đều là căn lực từ thiện mà khiến người nữ ấy thấy như thế. Nay nói ta thật không đến chính là dẫn duyên này, không nói người nữ mà nói chúng sinh, là gồm thâu chúng sinh mười giới. Không nên vì văn mà hại ý. Tức là tục đế Từ. Kinh Niết-bàn nói Từ duyên đến tất cả chúng sinh như duyên với cha mẹ vợ con thân thuộc. Vì nghĩa đó nên gọi là chúng sinh duyên. Vì duyên với mười giới đồng ở một tâm, cho nên không phải thứ lớp sinh duyên Từ.

2. Pháp duyên từ, mười giới duyên khởi là ba đế pháp chẳng lìa một tâm, chỉ Phật là rốt ráo. Cảnh tướng đã vắng thì năng quán cũng quên cho nên được gọi là Vô tâm pháp quán. Mà rốt ráo không trí chiếu ba đế này, chẳng thọ một trần. Trí này tự nhiên chiếu phá ba đế hoặc trước của chúng sinh. Hoặc vì chúng sinh mà nói không tuệ này, đều khiển được lìa khổ có tướng, mà chứng vui chân thật. Đây tức là chân đế Từ bi bất tử nghĩ, gọi là Pháp duyên. Cho nên kinh Niết-bàn chép: "Chẳng thấy cha mẹ vợ con thân thuộc, thấy tất cả Pháp đều từ duyên sinh. Đó gọi là Pháp duyên. Nói chẳng thấy là cần phải quên mười giới là duyên Phật pháp. "

3. Vô duyên Từ, vì Phật tánh trung thành rốt ráo trí thì có Lý khác nào làm chỗ tâm duyên, cho nên nói vô tâm quán lý thì cảnh trí đã mất, không có lại quên, vô trụ vô y, dứt hết nghĩa bàn. Đây gọi là an trụ trong Đệ nhất nghĩa tâm đã vô duyên từ, bèn biến khắp vào tánh chúng sinh gọi là nội huân. Hoặc vì hiện thân nói nghĩa Đệ nhất gọi là ngoại huân, dùng đây mà nhiếp sinh gọi là lòng từ vô duyên. Niệm Phật trở đi, tức nhắc lại kinh trước để đối với từ đầu, tức là văn trước chánh nói quán thân Phật và ánh sáng nhiếp chúng sinh. Tuy có thể không khác với vô duyên Từ, nhưng nếu y cứ nghĩa mà nói thì môn lại chẳng đồng. Cho nên Từ này nhiếp thủ chúng sinh niệm Phật không bỏ, mà giúp lìa khổ hoàn toàn, mãi được an vui. Đây là từ cảm ứng sinh Phật có tương quan, thuận ở tục đế gọi là sinh duyên Từ. Nên nêu các mẹ nghĩ nhớ con không mất mà dụ cho tướng Từ này. Nay nói v.v... trở đi, là chính dùng vô duyên mà hội giải thích ý kinh. Đã cùng sinh duyên mà môn có khác, thì phải biện tướng Từ chẳng đồng hai thứ trước. Cho nên sinh pháp từ y cứ thứ lớp mà luận, thì hai thứ Nhị thừa và Bồtát nghiêng lệch có tu chứng phần. Còn vô duyên này chỉ có cực. Nay cực nói theo cho nên nói Chư Phật gia bị. Chẳng trụ hữu vô chính là biện tướng bất đồng với sinh pháp. Sinh duyên diệu hữu, Pháp duyên thì diệu không, nay là Diệu trung, nên nói Vô duyên. Trung nên vô duyên. Không y ba đời thì Từ bi này không phải bốn tướng. Biết duyên chẳng thật, là hiểu rõ sự khổ vui tức là tánh đức. Vì chúng sinh v.v... là từ này gia bị thì khiến chúng sinh phát trí tức cảnh mới gọi là được thật tướng trí tuệ. Được trí này mới lìa hoàn toàn khổ mà được vui mãi. Cho nên cùng môn từ trước khác ích. Nếu đối Pháp duyên thì cũng dùng thật tuệ, cho nên tất cả không, tự thể nên ba Từ lợi ích chúng sanh chẳng khác. Sớ chẳng nói là vì lược qua.

Thực hành quán này bỏ thân đời khác sinh trước Chư Phật được Vô sinh nhẫn. Cho nên người trí phải nên cột tâm quán chắc Phật Vô Lượng Thọ. Quán Phật Vô Lượng Thọ, thì từ một tướng tốt mà vào. Chỉ quán sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày cho thật rõ ràng. Thấy lông trắng giữa hai đầu chân mày có tám mươi bốn ngàn tướng tốt tự nhiên đương hiện. Thấy Phật Vô Lượng Thọ tức thấy vô lượng Chư Phật mười phương. Được thấy vô lượng Chư Phật, nên Chư Phật hiện tiền thọ ký. Ấy là quán khắp tất cả tướng sắc thân, gọi là quán thứ chín. Thực hành quán này gọi là Chánh quán, nếu thực hành quán khác gọi là Tà quán. Nêu lợi mà khuyên tu. Tý Khoa chia phần chính nêu ích mà khuyên, được sinh Cực lạc thì thấy tất cả Chư Phật mười phương, cho nên nói sinh trước Chư Phật. Pháp tâm quán thành thì đã vào tương tợ.

Cho nên đến đó liền chứng vô sinh, là Biệt Viên Địa Trụ.

Sớ giải thích từ bỏ thân v.v... trở đi là nhắc lại giải thích, như người trở đi là dụ người tập nghề khéo như tu quán, từ nhỏ đến lớn là dụ quán có vị trứ? Việc làm bèn giỏi là dụ sinh nước ấy thì đích thân thấy được chân pháp. Nhưng lại xếp dụ vào tâm ấy thành Phật. Người nên lấy nghĩa là Phật và thành Phật mà một niệm viên chiếu thì mới hợp với kinh nay do quán thấy Phật. Vì tùy v.v... trở đi là kết bày. Cho nên trở đi là dẫn kinh, kế nữa là ước bày pháp quán. Tướng có tám muôn đều tưởng khó thành. Cho nên v.v... chỉ khiến quán sợi lông trắng ở giữa mày như năm núi Tu-di. Quán này nếu thành thì tám muôn tướng đều hiện. Đây là yếu môn vậy. Sớ giải thích, từ một v.v... trở đi là Điệp kinh, về chánh bày, như quán trở đi là dẫn văn khác mà bày hai thứ lượng lông trắng. Đây là nói hai tướng hơn kém của Thích-ca để so với Di-đà. Kinh nói tướng kém, luận nói tướng hơn... tức là sớ trước nói dài một trượng năm thước. Sợi Lông trắng có tám cạnh chu vi năm tấc. Cho nên văn trở đi, là dựa kinh này mà nói phàm tâm khó kịp. Tức là thứ bảy Tạp quán. Chính có thể trở đi là chánh bày sơ tâm từ chỗ dễ hiện mà quán. Đây là Đại sư riêng nêu sơ tâm yếu thuật nhập môn quán tướng Phật phải từ các phương tiện như mặt trời lặn, nước, băng rồi kế vào đến đất, cây, tòa, tượng khiến quán tâm lanh lợi. Quán đã thâm sâu thì người tu từ đây mới có thể lấy kích cỡ sợi lông trắng mà quán khiến tám muôn tướng tự nhiên mà hiện. Cho nên biết khiến quán yếu phải ở sợi lông trắng, chính là vì các quán trước chưa tu và hoặc tuy tu quán nhưng không thành. Cho nên ở thân Phật mà riêng chỉ cho kẻ sơ tâm tướng để quán tam-muội môn. Người tu nên biết cảnh đã mượn thì có hơn có kém. Nếu luôn quán chiếu thì cần phải sớm chiếu tức Không, Giả, Trung, vì tướng hơn kém đều do tâm làm, đều do tâm là. Khắc bày quán thành gọi đó mà quán nếu được v.v... trở đi là chánh bày. Nhân dùng làm là quán kém nên quán lông trắng, quán dẫn dẫn càng sâu mà được thành chân tợ tam-muội niệm Phật, bèn gọi đó là tướng hơn mà quán trí độ trở đi là dẫn chứng, dẫn Phật Thích-ca thắng thân nói Pháp để tăng thêm vị chân tợ tam-muội niệm Phật, cùng loại với tám muôn tướng tốt của A-di-đà, người chân tợ mới có thể quán thấy. Kiến vô trở đi, là ở quán mà kết? Lại làm đây v.v... trở đi là nói quán Tà chánh.

Nhưng quán Phật đây nghĩa đủ ở trong giải thích đề kinh. Văn sớ quán tóm lược mà người học lại nhiều nghi. Nếu chẳng giải thích thì chẳng biết nẻo tu. Cho nên lại đặt câu hỏi mà đáp để làm sáng tỏ cảnh quán.

Hỏi: Kinh này quán Phật chỉ luận tám muôn bốn ngàn tướng tốt, như Kinh Hoa Nghiêm nói số tướng tốt có mười hoa tạng thế giới vi trần. Chỗ nói của hai kinh hơn kém cách nhau với trời với vực. Kinh ấy là nói tướng Tôn đặc còn kinh này thì nói thân sinh An Dưỡng, ấy là tướng phàm phu Tiểu thừa thường thấy. Vì sao trong sao lại nói là tướng Tôn đặc?

Đáp: Có nhà nói tướng trượng sáu là Tôn đặc, bất định y cứ tướng nhiều ít mà phân. Nay ở chân trung cảm ứng mà luận, như Thông giáo nói nghĩa hợp thân. Người thấy không thì chỉ thấy trượng sáu, người thấy chẳng không thì thấy tướng Tôn đặc sinh thân vốn bị cơ Tạng thông, còn thân Tôn đặc thì ứng với chúng Biệt viên. Nay kinh nói tướng chỉ ở Viên đốn. Giải thích quán năng quán là Diệu ba quán, giải Thích cảnh sở quán là Diệu ba thân. Sớ giải văn nay nói pháp quán thân Phật, y cứ vị là ở Thất tín của Viên giáo, chính nhờ pháp tánh vô biên sắc tượng tôn đặc mà quán tâm khiến tăng trưởng tam-muội niệm Phật, thì căn cứ vào nghĩa nào mà nói là sinh thân, dùng quán Viên đốn mà hiển thân Tạng thông thì chưa thể được.

Hỏi: Lấy tòa hoa vương đủ tướng tàng trần mà làm ba mươi hai tướng Tôn đặc, còn thân Tỳ-kheo già mà làm sinh thân, thì văn ấy đã rõ ràng, sao chẳng dùng tướng tốt mà chia?

Đáp: Y cứ tướng mà giải thích thân Phật của bốn giáo, thì đây chính là nói theo tăng thắng, chưa phải là gốc phân tướng quyền thật mà khởi. Gốc ấy chính là hai lý hư không hai quán, sự nghiệp hai thức, ở đây mà chia thì sinh thân và Tôn đặc rõ như chỉ tay trong lòng bàn tay. Cho nên Kim Quang sớ chép thân Phật trượng sáu trụ ở chân đế, Tôn đặc trượng sáu họp với thân Phật cả hai cùng trụ ở chân trung, Tôn đặc thân Phật cả hai cùng trụ ở tục trung, pháp thân Phật thì trụ ở trung đạo. Đây là y lý hai nên có hai Phật. Chúng sinh hai thức mà có hai quán nhân nên chiêu cảm hai Phật. Nói hai thức, là luận Khởi Tín chép: Phật dụng có hai thứ: Một là y theo phân biệt sự thức. Tâm phàm phu Nhị thừa thấy thì gọi là Ứng thân, vì chẳng biết là chuyển thức hiện ra cho nên thấy từ ngoài đến, dùng sắc mà chia thì chẳng thể biết hết; hai là y vào nghiệp thức nghĩa là các Bồ-tát từ sơ phát ý cho đến Bồ-tát ở địa rốt ráo tâm ấy mà thấy thì gọi là Báo thân. Thân có vô lượng sắc, sắc có vô lượng tướng, tướng có vô lượng vẻ đẹp. Quả được trụ quả cũng giống vô lượng. Các thứ trang nghiêm tùy chỗ hiện bày tức cũng vô biên chẳng thể cùng tận. Lìa tướng giới hạn mà tùy chỗ ứng thường hay trụ trì chẳng hủy chẳng mất. Công đức như thế đều do chành vi ác vô lậu Ba-la-mật huân tập và các huân bất tư nghĩ mà thành tựu. Đầy đủ vô lượng tướng vui, nên nói là báo. Đây chính là Phật dụng y hai thức mà bày. Ứng là sinh thân, báo là Tôn đặc. Ý luân cốt ở thấy sắc từ ngoài đến dùng sắc mà giới hạn cùng biết chuyển thức hiện lìa tướng giới hạn mà chia ra hai thân. Nhưng cần phải hiểu rõ quyền lý chỉ không, chẳng đủ tâm sắc cho nên khiến thân Phật tề nghiệp tề duyên. Đã sinh thì mất hẳn nên gọi là sinh thân. Lại gọi ứng gọi hóa thể là vô thường. Thật lý chẳng không tánh đủ năm ấm tùy cơ mà sinh diệt, tánh ấm thường như thế. Gọi pháp, gọi báo cũng gọi là Tôn đặc, thể là thường trụ. Nên biết y sự thức thì chỉ thấy Ứng thân, không thể thấy Báo thân, vì thô cạn chẳng sâu. Nếu y theo nghiệp thức thì chẳng chỉ thấy báo mà cũng thấy cả Ứng. Vì biết toàn thể khởi hai dụng, cho nên tùy hiện lớn nhỏ các thứ vô biên, không phải Tôn đặc đều đáp thật nhân đều có thể gọi là Báo. Cho nên Diệu Kinh Văn Cú nói: "Đồng cư phương tiện tự thể ba cõi đều là chỗ quả báo Diệu sắc Diệu tâm". Cho nên biết Bồ-tát nghiệp thức thấy Phật thì tất cả giới hạn đều không giới hạn, há sánh với Phật của Tạng thông ư? Mới biết Sư Trí Giả và Sư Mã Minh tinh thiết chân phân sinh thân Tôn đặc nghĩa ấy đã mất hết.

Hỏi: Y cứ tướng nhiều ít mà chia ra hai thân, nghĩa ấy đã rõ, sao cần lý quán và thức phân?

Đáp: Hoa tạng trần tướng và tám muôn tướng tuy là Tôn đặc, ba mươi hai trướng chẳng hạn cục ở sinh thân, vì sao? Vì người viên biết toàn pháp giới làm ba mươi hai cho đến tám muôn Hoa Tạng trần tướng tốt. Cho nên tướng ba phẩm đều có thể gọi là biển, mỗi tướng đều đã vô biên đáy cho nên đều có thể gọi là Tôn đặc. Cho nên chỉ quán và phụ hành dùng ba mươi hai tướng của Pháp Hoa mà quán tám muôn tướng của Vô Lượng Thọ. Hoa Nghiêm mười Hoa Tạng tướng đồng là Biệt viên đạo phẩm của tu phát hiện tướng pháp thân, đối bác bỏ tướng của Tạng thông không phải đặc biệt. Vì nghiệm ba kinh chỗ luận về tướng tốt nhiều như số giọt nước biển thì đều là Tôn đặc. Nhưng có thông, cục ba mươi hai tướng thì chung. Đại thừa thì thấy vô biên, còn Tiểu thừa thì thấy có giới hạn. Như Tạng Trần tám muôn thì chỉ là Đại mà không phải Tiểu. Nếu vậy thì chẳng ở lý quán đẳng phân thì nghĩa này toàn mất. Cho nên Kim Quang Minh Long Tôn khen Phật. Văn kinh chỉ nêu ba mươi hai tướng và Viên quang chỉ chiếu một tầm. Sớ bèn phán rằng chính là khen Tôn đặc. Cho nên chẳng nhất định lấy tướng số nhiều mới là Tôn đặc, chỉ cần ở chẳng không diệu quán mà thấy thôi.

Hỏi: Người ta thấy ở Liệt ứng nói Viên Phật tướng chỉ có thể tức là pháp thân và tự thọ dung mà không tức là Tôn đặc. Vì thân Tôn đặc hiện khởi mới có, chẳng hiện thì không, há thấy chẳng không mà chẳng đợi Phật hiện, liền tự có thể thấy tướng Tôn đặc ư?

Đáp: Đã đem Tôn đặc mà đối với sinh thân, phân thân chẳng phải thân thường vô thường đẳng. Nay nói Liệt ứng chỉ tức là pháp thân và tự thọ dụng mà chẳng tức là Tôn đặc, thì thành thọ lượng là thuộc Tôn đặc, thân tướng tự thuộc thân sinh. Như thế mà phân bày thì tiến thối đều lỗi. Nên biết người tu không có một thấy chẳng phải là oai lực của Đức Như lai. Như lai soi căn cơ trước nay chưa sai sót. Có người cần hiện thì liền hiện. Như kinh Phạm Võng, kinh Hoa Nghiêm và kinh này là tướng nhiều thân lớn. Chẳng cần hiện thì dùng sức mà gia bị, khiến ở thân kém chẳng lấy giới hạn. Thấy ba mươi hai tướng tức vô biên vì biết trượng sáu là pháp giới. Ứng thì không thấy được đảnh, mắt chẳng rốt một tiếng. Thôn tiếng trượng sáu đã nhân hai Thánh cùng chẳng đến hờ. Sau người viên há chẳng tức kém mà thấy vô biên. Không hẳn mỗi mỗi đợi hiện mới thấy. Nếu chẳng thế thì dùng viên mà giải vi, dùng nghiệp mà biết vi. Nếu chỉ tức pháp thân và tự thọ dụng mà chẳng tức Tôn đặc, thì ở đây nói toàn trái với nghĩa Đốn túc. Vì sao, Như Thích Tiêm giải thích sắc vô biên cho nên Bát-nhã vô biên nói rằng:

Năm ấm là lý nên tức ấm là thật tướng Bát-nhã, cho nên đều là vô biên. Vì lý mà khiến pháp vô biên thân tự thọ dụng đã chứng lý cực há chẳng tức kém mà vô biên ư? Người tu nên biết nay Diệu quán lá pháp quán thân Phật mà thấy tám muôn tướng. Chẳng đồng với Kim Quang chỉ ở thân liệt mà thấy không có giới hạn. Nay là Phật ấy toàn thân pháp giới. Ứng viên tợ quán hiện thân đặc biệt không phải thân thường tướng thường ở cõi ấy. Nếu thân thường ấy tức là ba mươi hai trong Bát chu. Nay chính là đặc hiện tám mươi bốn ngàn tướng tốt ánh sáng. Văn kinh tự nói thân lượng vô biên, tâm sắc phàm phu không thể hiểu nổi. Cùng loại với Tịnh danh như núi Tu-di hiện ra biển lớn, nơi để các báu của tòa Sư tử. Ở kinh Dược Sư thì nguy nga đường bệ như vầng trăng trước các sao. Sắc tượng trong Đại Luận là thân vô biên Tôn đặc. Các kinh luận này nói về Tôn đặc cùng chỗ hiện nay không chút sai khác sắc tượng vô biên ấy đã gọi là Tôn đặc, thì đây gọi là thân lương vô biên, sao gọi là sinh thân?

Hỏi: Cái gọi là Long Tôn khen tướng Tôn đặc không phải hiện khởi, là nghĩa chẳng phải thế. Vì sớ kia giải thích thân Tôn đặc đã nói nguy nga đường bệ. Nếu không hiện, sao gọi là đường bệ?

Đáp: Hoa Tạng trần tướng, kinh Hoa Nghiêm có nêu chín mươi bảy tên, cùng lời khen của Long Tôn chẳng có tương ưng, lại không có thuyết thân tướng cao lớn vì nghiệm ra không phải là tướng đặc hiện. Chỉ do trong lời của Long Tôn là diệu chỉ liệt bao gồm thắng rất khó nghĩ bàn. Đại sư thấy chỗ đắc ý này nên sớ là nguy nga đường bệ. Chỗ đắc ý tức là khen chung rằng, Phật thanh tịnh mầu nhiệm vắng lặng. Thanh tịnh chính là bốn đức trung tịnh, sẽ chẳng liên quan với thường lạc ngã. Vắng lặng chẳng lẽ không phải là nghĩa Niết-bàn. Đã gọi là mầu nhiệm, tức là Đại diệt độ bí mật tạng. Lấy chung mà gồm riêng cho nên ba mươi hai tướng khắp nghiêm ba thân sinh thân thì do trăm phước tạo thành nhìn mãi chẳng chán. Thân Tôn đặc thì sắc không giới hạn, liệt tức đường bệ. Thân pháp tánh thì sắc tánh tức trí, pháp môn làm tướng. Sớ nói ba thứ này chẳng ngang chẳng dọc, nếu ngang dọc một khác thì chẳng thanh tịnh, không phải mầu nhiệm vắng lặng. Há chẳng phải người viên hiểu rõ ba thân là Bí mật tạng. Bí tạng chính là tổng thể pháp giới, một nhiếp tất cả, Sự sự thân nhau, ứng dụng vô biên chẳng lìa chút mảy may. Tướng tốt chí liệt lượng bằng hư không. Cho nên trong kinh Pháp, Long nữ khen pháp thân Phật mầu nhiệm thanh tịnh đủ ba mươi hai tướng hiển là liệt ứng, vì pháp thân đầy đủ nên tướng Tôn đặc. Cho nên ngài Kinh Khê xếp đồng với Hoa Nghiêm, mỗi tướng tốt cùng bằng hư không. Lại văn cú nói: Mỗi mỗi tướng đều là pháp giới hải. Lại Diệu Huyền nói: Thân trong áo dơ thật là trưởng giả. Thích Tiêm chép: Tức là trưởng giả Anh Lạc. Trưởng giả Anh Lạc há chẳng Tôn đặc, đâu đợi hiện ra? Lại Diệu Lạc nói: Nếu ba tướng ẩn trước từ thắng mà nói thì chẳng gọi là Thái Hư mà gọi là viên Phật. Kinh Pháp Hoa trước đã ba Phật lìa sáng là cách thiên tiểu. Lại đến kinh này thì từ liệt biện thắng tức ba mà một. Nếu vậy thì Pháp Hoa tức là pháp thân mà không đủ Tôn đặc. Chính lấy Thái hư mà làm viên Phật. Lại chẳng đủ Tôn đặc làm sao được gọi là Từ kém mà nói hơn tức ba mà một.

Hỏi: Pháp Hoa văn cú nói Địa sư nói Đa Bảo là pháp thân. Nêu lời Nam Nhạc phá rằng pháp thân ắt chẳng đến chẳng đi, báo thân thì nguy nga đường bệ, ứng thân thì hiện khắp tất cả. Nên tức đây mà nói là ba Phật, là chưa hết thể của nó, chỉ là biểu hiện mà thôi. Đa Bảo là biểu thị cho Phật pháp thân, Thích Tôn là biểu thị cho Phật báo thân. Phân thân là biểu thị cho Ứng Phật. Ký giải thích: Không đến là chẳng hợp Đông Lai (đến Đông Độ), không đi là chẳng hiện ra, nguy nga vòi vọi chẳng phải ở trong tháp. Ứng thân chẳng ứng chỉ đây còn chẳng phải ứng thân há đủ ba thân. Đã nói nguy nga không ở trong tháp, là tin biết báo Phật phải hiện ra thân lớn. Nếu yếu kém mà gọi là báo thì trong tháp có ngại gì, sao được phá nó?

Đáp: Lời phá này Địa sư chẳng biết biểu thị. Đem thẳng Xá-lợi mà làm pháp thân, cho nên ký phá rằng còn chẳng phải Ứng thân há đủ ba thân, cũng không phải kẻ này nói hết lý. Như kinh Khê cứ luận phải biết tượng tánh khắp hư không, ba thân rõ ràng, bốn đức không giảm. Tượng bùn gỗ còn đủ ba thân há Xá-lợi toàn thân đều chẳng đủ ư? Tuy dẫn văn cặn kẽ muốn cho không phải báo. Nhưng chẳng thể nào khiến căn cơ Pháp Hoa chẳng phải nghiệp thức mà thấy Phật.

Hỏi: Thỉnh Quán Âm sớ chép: "Vô Lượng có nghĩa là nếu sinh thân vô lượng là vô lượng của có lượng, pháp thân vô lượng là vô lượng của vô lượng". Đại Luận nói thân pháp tánh sắc tượng vô biên còn thân Tôn đặc cũng như hư không. Đã nói thân pháp tánh, đây không diệt mới gọi là Tôn đặc. Nay quán thứ chín là quán thân Phật, quán thứ mười quán thân Quán Thế Âm. Quán Âm đã là Bồ-tát Bổ xứ, là nghiệm Phật có diệt, há chẳng phải là sinh thân là vô lượng của hữu lượng, sao lấy thân này làm thân Tôn đặc?

Đáp: Bổ xứ của Tạng Thông thì nói Phật có lượng, còn Bổ xứ của Biệt viên thì nói Phật vô lượng. Vì mười phương ba đời tất cả Như lai lại không thấy kia đâu trái nhau. Cho nên đồng một pháp thân một trí tuệ. Bồ-tát quên cơ, Như lai ứng dứt nên gọi là bổ vào chỗ Phật. Thật ra khác với tạng thông Phật trước chắc chắn diệt, Phật sau chắc chắn sinh mà làm Bổ xứ. Cho nên kinh Kim Quang Minh nói bốn Phật vào thất. Sớ bèn giải thích rằng nếu thấy bốn Phật đồng thân Tôn đặc thì một thân một trí tuệ tức là thường thân, vì đệ tử chúng là một. Nếu thấy bốn Phật, thân Phật chẳng đồng, tức là Ứng Hóa vì đệ tử chúng nhiều cho nên biết chỉ ở đồng và chẳng đồng, thường và chẳng thường mà chia ra hai thân. Tạng Thông ba thừa nên đệ tử nhiều, Biệt viên thuần Bồ-tát nên đệ tử một, há luận tướng tốt nhiều ít bằng nhau ư? Đã đồng một thân, lại gọi thường thân há dọc phân đương hiện mà ngang luận kia đây. Cho nên biết Quán Âm Bổ xứ vào chỗ pháp thân càng bày Tôn đặc vô lượng của vô lượng. Lại thân Phật của Hoa Nghiêm rõ ràng tám tướng đã là Tôn đặc. Ở đây luận Bổ xứ cùng đó nào khác mà nói là sinh thân. Cho nên biết Phật nay toàn là thân pháp giới. Cho nên diệt tức chẳng phải diệt. Quán Âm Bổ xứ sinh tức chẳng phải sinh, chẳng sinh chẳng diệt là nghĩa của thường thân mà tướng Tôn đặc hiển bày.

Hỏi: Nay chỗ quán Phật cao sáu mươi ức na-do-tha do-tuần, tuy nói là cao lớn nhưng chỉ là thân thường thấy ở Tịnh độ, sao biết như thế?

Như trong kinh Pháp Hoa nói nước Tịnh Quang Trang Nghiêm có Bồ-tát Diệu Âm muốn đến Ta-bà. Phật ấy khuyên rằng:

Thân ông cao bốn vạn hai ngàn do-tuần, thân Ta cao sáu trăm tám mươi vạn do-tuần, ông ở nước ấy đối với Phật Bồ-tát chớ nên xem thường. Cho nên biết Tịnh độ thân thường cao lớn, sao lấy thân thường mà làm Tôn đặc?

Đáp: Ở trong Đồng cư thì cõi Tịnh Quang Trang Nghiêm chỉ là nói đốn, như cõi chúng Hương trong kinh Tịnh Danh, vì ở đấy chỉ thuần là Bồ-tát, do đó chỉ thấy hiện thân cao lớn. Phật biết Diệu Âm là chúng sở tương chẳng biết Ta-bà là diệu bày quyền, đối Phật liền vội khởi cơ nhất định Tiểu, cho nên mượn cách Diệu Âm chưa thấu suốt, mà ý khiến được hiển Thắng tức liệt là quyền rất bí diệu. Đã khuyên chớ nên xem thường tức là khiến khởi tâm xem là Tôn đặc. Nếu bảo không phải thế thì sao được hiện khắp tam-muội. Như cõi An dưỡng tiệm đốn đều nói, Thanh văn Bồ-tát cùng là Tăng, cho nên khiến Phật bày hai tướng sinh thân và pháp thân. Ba mươi hai tướng chung ở sinh pháp, Đại Tiểu cùng thấy. Nếu tám muôn tướng cục ở pháp thân thì Đại thừa Hiền thánh mới được thấy. Cho nên các kinh phần nhiều nói đến sinh thân của A-di-đà là thường tướng. Nay lược nêu ra, kinh Tiểu Di-đà nói: "Cõi ấy hoa sen lớn như bánh xe". Kinh Đại Di-đà chép: "Ao tắm của A-di-đà rộng bốn vạn tám ngàn dặm". Lấy y mà nghiệm chánh thì thân chưa lớn lắm. Kinh Bát Chu nói Phật A-di-đà ba mươi hai tướng. Trong kinh này nói là nhỏ là theo thói quen. Sinh nước ấy liền được thấy Phật nghe pháp, liền chứng tiểu quả. Lại có thân trượng sáu, tám thước, đây há đều chẳng phải thường thân thường tướng ư? Như nay chỗ quán tám muôn tướng tốt thì Viên biệt chân tợ mới được thấy, cho nên thượng phẩm hạ sinh, sớ phán đã lên vị Tập chủng tánh. Sinh lên ấy bảy ngày thấy các tướng Tâm Phật chẳng rõ ràng, phải hai mươi mốt ngày sau mới thấy rõ và nghe tiếng chúng đều nói Diệu pháp. Chỉ thượng phẩm thượng sinh ở vị Đạo chủng tánh, sinh nước ấy liền thấy các tướng đầy đủ, ánh sáng rừng báu đều nói Diệu pháp, liền ngộ vô sinh. Hiền Bồ-tát vì y nghiệp thức nên biết tâm hiện Phật, chính ở Tôn đặc mà luận sáng tối. Nếu quen thói nhỏ và các phàm phu mà y nghiệp thức thì chẳng ở Tôn đặc mà luận sáng tối. Bởi các thứ này tuy nhờ lúc sắp qua đời hồi hướng mà được sinh, Phật thuận theo bổn tập cho nên lại dùng Tiểu thừa khiến chứng quả. Đã nói pháp vô thường khổ không thì phải dùng tướng tốt sinh thân mà ứng hiện, thân ao tắm ba mươi hai tướng chánh đối với cơ này. Cho nên kinh Bát Chu nói ở trong Chúng Bồ-tát nói kinh. Lại nói ở trong Tăng Tỳ-kheo mà nói kinh. Tin ba mươi hai tướng chung cho cả người Đại Tiểu thừa thường thấy. Cho nên kinh ấy pháp quán, đầu tiên chẳng mượn mặt trời và băng, mà liền quán tướng Phật. Bởi đây là cảnh của phàm tâm có thể tưởng ra được. Nếu tám muôn tướng thì Như lai ấy hiện thân đặc biệt, càng tăng thêm vị sâu tam-muội niệm Phật, sức của tâm phàm phu chẳng nghĩ đến được. Cho nên kinh này trước khiến quán mặt trời. Sớ giải thích là đều ở hạ phẩm hạ sinh, vì mượn tưởng băng mà tưởng đất. Thuộc ba phẩm sau phải là người danh tự. Kế được tam-muội mới thấy đất thật ở đấy. Hợp vào quán hạnh hai phẩm đầu. Kế quán cây báu và ao lầu, cho đến quán chung thành thì là phẩm ba, phẩm bốn. Quán báu tòa xong sẽ là phẩm năm. Từ tòa lên đến tràng cao như trăm ngàn muôn ức núi Tu-di. So biết thể của tòa lượng ấy khó nghĩ không phải là phẩm thứ năm ba quán công thành, vì thiền của phàm tiểu khó thể thấy kịp quán này tuy thành, nhưng kinh văn chưa cho quán thân Phật. Bèn khiến trước tưởng một tượng báu lớn xứng tòa mà ngồi và hai Bồ-tát đều tưởng ngồi tòa. Huống lại dùng làm là không hai Diệu quán mà quán, khiến tâm lanh lợi rồi mới khiến quán Phật. Người học nên biết mặt trời quán đến nay chỗ tu ba quán cùng ở sự thiền. Vì đều tu tưởng thành thì tướng hiện khởi. Sự Thiền đã tốt thì tư hoặc ba cõi đã đều bị hàng phục. Diệu quán quán tượng thì kiến hoặc liền phá mà lên vị Thất tín. Được vị này rồi mới quán chân pháp thân của Phật. Tám muôn tướng hiển mới gọi là tam-muội niệm Phật, liền cảm được Chư Phật hiện tiền thọ ký, sinh lên đó liền chứng vô sinh pháp nhẫn. Văn kinh như đây mà nói tướng viên thám quán hiển ra, bảo là đặc biệt. Thật không phải sinh thân là tướng thường thấy của phàm phu Tiểu thừa.

Hỏi: Trong tựa giải thích đề có nói Phật Vô Lượng Thọ là thắng cảnh được quán há chẳng phải nhờ y chánh sắc tâm mà tu ba quán mà hiển lý ba đế. Nay tám muôn tướng đã là chánh báo tức là sinh thân. Mượn đây tu quán, quán thành thì lý hiển. Bền thấy tướng tạng hải trần số mới gọi là Tôn đặc, chẳng lẽ sinh thân phần đoạn lại là Tôn đặc ư?

Đáp: Trước là chánh giải thích đề, lấy ba thân diệu mà giải cảnh được quán. Nay đến văn kinh lấy tám muôn tướng làm cảnh được quán, tin tám muôn tướng cùng với ba thân diệu chẳng hai chẳng khác. Hai chỗ đều dùng cảnh bất tư nghĩ mà làm sở quán. Cho nên tám muôn tướng quán mà khiến hiển. Hiển gọi quán thành không khác sở hiển. Lại người tu niệm Phật, ai chẳng mượn chánh báo Phật mà tu quán, chỉ cảnh tùy giải mà gọi sinh gọi pháp. Kẻ tiểu cơ chẳng hiểu thân Phật được quán là pháp giới dụng, bảo là chính tập sinh cho nên gọi là sinh thân kẻ đại cơ hiểu được Phật được quán là pháp giới dụng, nên đã có bổn, sinh liền đồng pháp. Cho nên được gọi là pháp thân. Cho nên thấy tướng Phật hoặc nhiều hoặc ít đều gọi là pháp thân. Nay kinh nói bày thân pháp giới Phật vào trong tâm tưởng. Cho nên sớ nêu rằng:

Pháp quán thân Phật đây tức ba mà một pháp thân. Huống chi nay chẳng phải sơ tâm quán cảnh, mà chính là cảnh sở quán của viên thất tín. Huống ở tòa tượng viên quán đã thành, liền nhờ Tạng thông sinh thân mà tu quán. Lại quán sinh thân hiển Tạng trần tướng, đây chính là người thông bị tiếp Biệt viên, hoàn toàn không phải Đốn giáo thỉ chung viên quán. Chỉ như ba mươi hai tướng của Bát chu tức biết tâm hiện cho nên các tướng đều ở trong đó. Y cứ vào thắng cảnh sở quán mà nói sinh thân rất chẳng thể được. Người học nên biết tám muôn tướng hiển thì tức ba đế hiển do lấy tướng pháp thân sở cụ này cùng vốn không tương ưng với ba hoặc. Cho nên mỗi tướng đều tương tức Chân tục trung, tức một mà ba, tức ba mà một chẳng thể nghĩ bàn gọi là Diệu sắc chân thiện. Nay tam-muội hiển tướng vốn diệu, cho nên quán Quán Âm nói đó là sắc thân chân thật.

Hỏi: Thân Tôn đặc đã là Báo tha thọ dụng thì phải vào Biệt viên địa trụ mới thấy. Nay tám muôn mà vị tương tợ thấy được thì nghiệm là chẳng phải Tôn đặc, phải là sinh thân.

Đáp: Y cứ vào nghĩa nào Biệt viên tợ vị chỉ thấy sinh thân. Nên biết thì thân Tôn đặc, Địa trụ trở lên đến phần chứng mới luận thấy. Trước Địa trụ là tương tợ cũng luận thấy, đây mới chính là Như lai dùng thân Phật Báo mà ứng hiện hai cõi.

QUYỂN 6

Cho nên Kinh Khê nói: Hơn gồm kém chỉ ở vườn Nai. Nếu Tợ vị hoàn toàn không thấy thì Pháp Hoa bốn tín sao thấy ở cõi Thật báo, Hữu dư sao thấy tròn đầy tướng hải. Thông giáo xét vị tiếp người là thấy tướng nào. Nếu chẳng phải Tôn đặc thì hợp thân chẳng thành. Nay kinh nói Phật Vô Lượng Thọ thân lượng vô biên, cùng Đại Luận nói sắc tượng vô biên có gì khác. Đó nói vô biên đã gọi Tôn đặc, sao chỉ ở đây không phải. Huống chi là sở chuyên dẫn văn này luận ấy để chứng nghĩa thân lượng vô biên, nghiệm thân Phật nay đích thị là Tôn đặc chẳng nên nghi ngờ.

Hỏi: Nếu là Tôn đặc thì phải là thân thường, vì sao trong Pháp Hoa Sớ nói kinh quán Vô Lượng Thọ chép: "Thật có lượng mà nói vô lượng. "

Đáp: Đây là nói Chánh sao lầm dẫn sớ ấy. Sớ ấy đều nói thật có lượng mà nói vô lượng như A-di-đà và Kim Quang sớ và sớ này đồng nhau. Vì lấy hai kinh Di-đà Đại Tiểu chẳng chuyên có Tôn đặc mà bị đốn cơ. Cho nên Phật ấy hiện ra ba mươi hai tướng chung bị các cơ. Đại cơ tùy thấy Tôn đặc thường thân. Nhưng với thói quen của người Tiểu và các phàm phu, tuy nhân hồi hướng được sinh cõi ấy nhưng chưa phải là Tôn đặc nói lý thường trụ cho nên dùng thân Ứng Hóa nói pháp vô thường để thành Tiểu quả. Cho nên tuổi thọ của Phật tuy chẳng thể đếm nhưng cuối cùng cũng quy về có lượng. Ta-bà Sinh lên đó phần nhiều là cơ này, vì người vị Biệt viên tợ khó kịp. Ba sớ ước đây cho nên nói Di-đà ở trong hữu lượng. Nếu kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là thuần bị người viên, mà nói thân Phật toàn do pháp giới khởi. Ứng đã có bổn thì sinh thân tức đồng pháp thân mà xếp loại. Thích Luận nói pháp tánh Tôn đặc chính là vô lượng của vô lượng. Cho nên Thích Tiêm chép: Giáo phân ra hai thân vì cơ liệt nên tạm hiện sinh thân. Nay cơ chẳng liệt đâu đối với sinh thân. "

Hỏi: Trong Đại bản chép: "Người sinh về nước ta thân đều có ba mươi hai tướng. Nhân dân nước ấy đã có đủ tướng này, thì thân Phật lý hợp càng vượt hơn người, cho nên biết thường thân có tám muôn tướng. Kinh Bát Chu nói ba mươi hai tướng bởi mượn Thích-ca thực hành quán cảnh của kẻ sơ tâm mà thôi.

Đáp: Kinh Bát Chu nói dụng của Bồ-tát là niệm Phật cho nên sẽ được sinh về nước Phật A-di-đà. Đương niệm như thế thì thân Phật có ba mươi hai tướng đầy đủ, ánh sáng suốt chiếu đẹp đẽ khó gì sánh bằng, ở trong chúng Tỳ-kheo mà nói kinh. Kinh chỉ Di-đà có ba mươi hai tướng, có văn nào nói mượn Thích-ca làm cảnh, huống chỉ quán không văn, phụ hành chẳng nói, huống được tự nói thành ở mình thấy. Lại nhân dân cõi ấy có ba mươi hai tướng, cho nên tướng thường của Phật cũng phải tám muôn, nghĩa ấy chẳng đúng. Vì cõi Đồng cư Phật ứng hiện giống người thường, chỉ do người Tịnh độ đều có ba mươi hai tướng, cho nên thân thường của Phật cũng phải hiện tướng này. Chỉ ở trong đồng các tướng đều cao quý. Còn ở cõi uế thân Phật tuy khác kẻ phàm phu xấu xí nhưng cũng đồng người cõi ấy. Cho nên ứng ở phương này phải có tướng pháp. Cho nên ba mươi hai tướng đồng với tướng của Luân vương, cũng ở trong đồng mà chia ra sáng tối. Ba mươi hai tướng đã đồng với người ấy thì nghiệm ra là thân thường tướng thường ở cõi ấy. Cho nên biết tám muôn là riêng vì Đại cơ mà hiện tướng Tôn đặc thì có gì nghi.

Hỏi: Một bậc Tôn đặc, vì sao lại chia ra ba phẩm?

Đáp: Vì Tất đàn nhân duyên. Bởi một loại cơ phải dùng tướng tạng trần hay Tôn đặc mà được bốn lợi ích. Cho nên Phật xứng cơ mà ra. Nhưng phải hiểu rõ tướng hải này thì Biệt giáo lại dùng Biệt tu duyên liễu mà thành tựu tướng này, tức tu thành tướng Tôn đặc, nên gọi là Báo thân. Còn Viên giáo hiểu rõ hai tu tức tánh, tu đức không công, Tôn đặc là của tánh cụ, nên gọi là pháp thân đã nói trong phần Khai Chương quán này. Nên biết Hoa Nghiêm nói Hoa Tạng Trần số tướng tuy nhiều nhưng đây là gồm riêng cho nên cũng đới tu mà thành. Đây là luận về tám muôn đã chỉ có Viên đốn đều là tánh cụ. Cho nên quán ba thánh, sớ đều nói là pháp quán thân. Người tu phải nên lấy giáo mà định lý, ở lý mà nói quán ở quán mà hiển tướng. Không được chỉ lấy số nhiều mà bác số ít, khiến hơn thành kém. Thật ở tinh học, sau đó mới siêng tu, muốn bỏ cũng được. Nên ở đây luận rõ.

Quán Quán Âm, có sớ khoa lược giải thích. Theo quả làm nhân, kinh Quán Âm tam-muội chép: "Quán Âm xưa đã thành Phật hiệu là Chánh Pháp Minh, nay làm Bồ-tát tu hạnh Tịnh độ. Đây chính là theo quả đức xưa mà làm nhân hạnh nay. Trên đảnh có hóa Phật biểu thị có mang quả. "

Y khoa mà nêu kinh, tức là kết trên, về chánh quán thân Bồ-tát, có chánh quán thân tướng. Tý khoa gồm mười một

1. Kế lại trở đi là Thân lượng. Phải nói mười tám muôn ức, nay nói tám mươi là dịch hơn thân Phật hai mươi muôn ức cho nên biết là lầm. Hỏi: Như Thích-ca trượng sáu, thân người tám thước, nay thân

Phật sáu mươi muôn ức, Bồ-tát mười tám muôn ức, thân Bồ-tát sao quá nhỏ thấp?

Đáp: Tịnh độ thắng ứng chẳng thể lấy liệt ứng của cõi uế mà so.

Cũng như Diệu Âm thân lượng chỉ bốn vạn hai ngàn do-tuần.

2. Thân Phật sáu trăm tám mươi vạn do-tuần, thì lượng của thân Phật cách Bồ-tát rất nhiều. Thân sắc vàng v.v... trở đi, là thân sắc.

3. Đảnh có v.v... trở đi là nhục kế.

4. Cổ có trở đi là Viên quang.

5. Cử thân v.v... trở đi là Thân quang.

6. Đảnh có v.v... trở đi là mão trời.

7. Quan Thế v.v... trở đi, là sắc mặt.

8. Giữa hai đầu chân mày v.v... trở đi là hào tướng

(sợi lông trắng).

9. Cánh tay v.v... trở đi, là tướng cánh tay.

10. Tay trở v.v... đi là tướng tay.

11. Dở chân v.v... trở đi là tướng dưới chân.

Còn lại v.v... trở đi là đồng khác với Phật. Nhục kế là tướng, vô kiến đảnh tướng là vẻ đẹp. Tướng tốt này biểu thị cho cực quả. Nay làm người nhân nên chẳng bằng Phật. ba là nêu lợi khuyên tu. Tý Khoa có hai, đầu tiên Phật bảo là nêu quán lợi mà khuyên, tức là y cứ tu quán mà nói diệt tội. Như đây trở đi, là y cứ xưng tên huống được phước. Nếu có trở đi, là chỉ quán thứ lớp. Thân tướng đã nhiều trước quán tướng nào. Cho nên nay nêu rằng trước quán nhục kế, kế quán mão trời, vì hai thứ này biểu thị riêng cho đức tướng Quán Âm. Ví sao? vì nhục kế là giáng Phật biển hiện cho làm nhân, còn mão có hóa Phật biểu thị xưa đã thành quả. Tướng riêng đã hiển thì các tướng chung dễ sáng tỏ. Người tu quán về nhục kế, mão, lông trắng, mặt sắc thân, ánh sáng... Mỗi tướng đều phải dùng tâm là tâm làm làm năng quán. Nói tượng trước dùng vào chỗ này. Đã nói thành Phật là Phật há chẳng thể thực hành quán Âm là Quán Âm ư? Làm nhục kế làm mão là nhục kế đều có thể làm lệ chẳng riêng dùng Phật mà lệ quán Bồ-tát, cũng phải lệ với khắp tạp ba nhóm. Há chỉ lấy trước mà lệ sau, cũng nên lấy sau mà lệ trước. Vì người tu nay phải xem kinh trước sau mới tu quán. Đại sư đắc ý chính ở giải thích đề mà nêu chung ba quán. Nếu cũng không ở mười sáu chỗ dùng thì khiến Đại sư nói suông. Cũng thấy người tu tu dối. Phải vâng lời Phật chớ trái pháp Tổ. Chuyên dùng Diệu quán mà hiển Thăng tướng. Dùng diệu quán này làm gốc thấy Phật bỏ đi các nhân khác. Khi đến cõi ấy thì mau chứng pháp nhẫn. Làm v.v... trở đi là kết quán tà chánh.

Quán Thế Chí, gồm phân khoa nêu ý là phân khoa. Lược không v.v... trở đi là y cứ đương môn mà nói quán chân ấy là quán chân thân Phật, bèn lập quán rằng chánh quán thân Phật là đồng. Trong Quán Âm nói Chánh nói quán thân Bồ-tát, nay quán Thế Chí chỉ nói nhân thần lực ánh sáng mà chế hai thứ tên và nói: Nói đồng với Quán Âm khác, sao chẳng lệ trên đều lập pháp quán. Cho nên Sớ nêu ý rằng: Lược mà không có pháp quán sẽ chẳng giống trên, vì Đại Thế Chí và Quan Thế Âm thân lượng lớn nhỏ đều giống nhau, đây khiến người tu sau khi phân biệt rõ thì dùng Quán Âm mà Quán Thế Chí đâu cần phải lập riêng. Sở dĩ v.v... trở đi, là gốm Quán Âm mà nói không có tưởng tượng, quán thành sau khi thấy chân pháp thân Phật thì quán hai thị giả, đâu cần phải tu phương tiện tưởng tượng làm gì?

Y khoa nêu kinh, gồm nhân ánh sáng thần lực mà chế hai tên. Về Tý Khoa là khắp bày các ánh sáng. Chỉ thấy v.v... trở đi, là chánh lập hai tên. Ánh sáng chiếu mười phương, cho nên đặt tên Vô Biên Quang khiến người trong ba cõi được mười Lực của Phật cho nên đặt tên Đại Thế Chí. Người tu nên biết tức toàn thân quang gọi là ánh sáng trí tuệ. Vì là rất gần sắc tâm chẳng hai. Nếu chẳng thế thì làm sao được sắc tướng gọi là pháp thân. Nói không khác với Quán Âm. Bồ-tát này trở đi, là nêu đi ngồi. Quán Âm đi ngồi há chẳng động đất và nhóm họp Phật ư? Chỉ nói trong quán Thế Chí mà thôi.

Nếu chẳng như thế làm sao được nói trừ bình báu trên đảnh thì các thứ khác đều giống Quán Âm chẳng khác. Thực hành đây v.v... trở đi, là kết thành quán tướng. Kinh nói sắc tướng, sớ gọi pháp thân. Nếu chẳng phải toàn sắc là tâm, sắc do tâm tạo, làm sao khiến sắc tướng gọi là pháp thân. Đây chính là pháp thân của ba đế một cảnh mà phát ra ba quán Bát-nhã một tâm của ta. Tướng minh thấy tướng thì ba thoát viên bày cho nên thân Phật pháp giới vào trong tâm tưởng. Sớ nói tam-muội niệm Phật giải nhập tương ưng. Chẳng phải tương ưng này thì chẳng phát thắng tướng. Trừ sáu số trở đi là nói diệt tội để khuyên tu gọi là quán đầy đủ Quan Thế Âm, Đại Thế Chí là vì hai Bồ-tát này trên đảnh có hai thứ hóa Phật và bình báu khác nhau còn các tướng khác đều giống nhau. Kế nữa là quán khắp vãng sinh, có đối tạp mà luận khác, hoặc ở khắp mà phân khoa.

Văn kinh có quán thân mình vãng sinh. Các quán trên trước là y kế là chánh, trước là chủ kế là đồ đệ tuy đều quán thành nhưng chưa phải chung khắp. Lại chưa tưởng thân mình sinh về đó đích thân thấy cho nên nay tưởng thân mình sinh lên đó, cùng lúc thấy khắp. Không riêng gì cảnh giới được quán sớm đủ mà chính tâm tưởng vãng sinh cũng thành tựu. Có thể xếp văn trước quán Y báo, trước là đất cây ao v.v... Các quán riêng rẽ. Đến quán lầu các thành thì bốn việc bèn thấy chung gọi là quán chung. Nhưng chỉ gồm chung y báo bốn việc. Nay tưởng sinh về đó mà thấy khắp nghe khắp các tướng Y chánh nên gọi là quán khắp.

Hỏi: Thượng phẩm thượng sinh thì ngồi đài Kim cương, thượng phẩm trung sinh thì ngồi đài vàng tím, thượng phẩm hạ sinh thì ngồi hoa sen vàng ròng. Nay ba bậc Thánh quán thành mới tu khắp quán thì họp với thượng phẩm thượng sinh, sao nói đồng với thượng phẩm hạ sinh?

Đáp: Người tu mười sáu quán đối với chín phẩm vị nghĩa có khác nhau. Nay lại một lược đem quán ba Thánh và khắp quán thành mà gá vào thượng trung phẩm tạp với ba nhóm bốn quán thành mới là thượng thượng cho nên thượng trung phẩm lúc chết tuy thấy ngồi đài vàng tím. Đài này đến cõi ấy thành hoa báu lớn, qua một đêm thì nở. Văn này cũng nói: "Sinh về cõi Cực lạc ngồi trong hoa sen mà tưởng khép vào mở ra. Khi hoa sen mở thì thấy Phật đầy hư không và giảng nói pháp mầu". Chánh là hợp với tướng thượng phẩm trung sinh. Nếu thượng phẩm hạ sinh thì hoa nở bảy ngày mới được thấy Phật, nhưng đối các tướng tâm không rõ ràng. Cho nên biết văn này thượng trung phẩm sinh ngang nhau. Nếu lấy phẩm mà đổi với vị Biệt viên thì đến quán ba phẩm mới được luận rõ. Vô lượng trở đi, là nói ba Thánh hiện đến. Trước tưởng chết rồi sinh cõi ấy thấy Phật Bồ-tát, nay tưởng lúc chưa chết thì ba Thánh thường đến tâm tưởng người ấy. Bởi đương niệm tức là cõi đến. Cho nên hay dự tưởng sẽ sinh về đó. Lại do chúng sinh và Phật thể chẳng khác nhau, cho nên khiến ba Thánh chẳng đến mà đến. Đây chính là ba quán một tâm làm là cùng vận, đến đỗi khiến tâm Phật đến đó lại đây, cho nên biết quán thể chẳng thể suy nghĩ bàn luận.

Tạp nói quán Phật và Bồ-tát. Nay bình luận quán này lược có hai ý: Một là trước quán Thắng Tướng Phật và Bồ-tát chẳng thành nên nay khiến bỏ đại mà quán trượng sáu; hai là trước quán Thắng tướng đã thành, nay khiến lại quán hóa dụng hơn kém khắp mười phương cõi, khiến phẩm vị thêm cao. Nếu bảo không phải thế, trước quán đã thành thì tu các quán nào có ích gì. Sớ theo ý trước cho nên muốn xóa bỏ nghi mà lại giải thích. Vì quán thành thì tự biết ý kinh. Cho nên Đại sư từ ý đầu mà bày. Giải thích này có phân khoa. Phật bảo A-nan và Vy-đềhy rằng:

Nếu muốn dốc lòng sinh Tây phương, trước phải quán tượng trượng sáu. Ở trên nước ao như trên đã nói là Phật Vô Lượng Thọ thân lượng vô biên, không thể tâm sức phàm phu hiểu nổi. Nhưng Như lai ấy có sức nguyện xưa, người có tưởng nhớ thì ắt được thành tựu. Chỉ tưởng tượng Phật còn được vô lượng phước huống là quán đầy đủ thân tướng Phật. Phật A-di-đà thần thông như ý, ở mười phương cõi nước khắp hiện tự tại, hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ trượng sáu tám thước. Thân hiện ra điều là sắc chân kim (vàng ròng). Trước viên hóa Phật và hoa sen báu như đã nói trên. Quan Thế Âm và Đại Thế Chí Bồ-tát ở tất cả mọi nơi thân đều giống như chúng sinh. Chỉ quán tướng đầu thì biết là Quan Thế Âm hay Đại Thế Chí. Hai Bồtát này giúp Phật A-di-đà khắp hóa độ tất cả. Ấy là quán tạp tưởng.

Tùy giải thích, có Phật bảo v.v... trở đi là nói quán tượng cao trượng sáu. Kinh nói nếu muốn... là người tu, ở trước các quán Y chánh tuy tu mà không vào, ý cầu sinh càng tha thiết gọi là dốc lòng. Cho nên khiến người này bỏ hơn mà quán kém. Chưa quán hai thị giả, trước tưởng Di-đà cho nên nói trước phải quán tượng trượng sáu. Ngươi tu mới gá vào ao sen báu cõi ấy, cho nên khiến quán tượng trên ao nước. Phải biết thắng thân đã tâm làm tâm là, chẳng lẽ nay trượng sáu không phải làm hay là sao. Người viên làm là đều hiểu rõ chỉ tâm. Toàn cụ mà biến, toàn biến là cụ, cụ biến chẳng hai. Cho nên quán tướng Phật hơn kém đều thế. Nói đến Di-đà biến hiện thì Tý Khoa có nêu Hóa chủ thu vật Như trước trở đi là khuyên thường tu quán. Di-đà v.v... trở đi, là quét bỏ các nghi. Sớ có nêu chỗ quán v.v... trở đi, là nêu Tướng hỏi nghi. Trước nghe trở đi, là nêu nghi nói phá. Thắng thân pháp quán tu tuy chẳng thành nhưng lại được biết rộng lớn vô lượng. Nay nghe quán nhỏ rất trái với lời nói trước, làm sao khỏi khinh nghi, vì quét bỏ ý nghi này, nên nói Di-đà thần thông như ý có khả năng hiện lớn nhỏ đều toàn là pháp giới.

Chỉ vì kính trọng mà quán khiến thành tựu chớ nghi thân chết rồi chẳng sinh Tây phương. Nói Bổ xứ cùng thân chúng sinh, tức là quán Thế Chí v.v... trở đi, là nói Liệt ứng đồng với chúng sinh. Phật ứng đã tùy theo muôn vật thì Bổ xứ cũng đồng với chúng sinh. Chỉ quán trở đi, phỏng theo thắng thân mà luận pháp quán. Trước nói phép quán Thắng thân của Quán Âm thì trước phải tưởng mão và nhục kế, thì khiến các tướng thứ lớp đều sáng. Trong quán Thế Chí nhục kế có bình báu, ngoài ra thân tướng chẳng khác Quán Âm. Vì hai thứ thân tướng khác nhau của hai vị Đại sĩ, này khiến người tu quán chỉ quán tướng riêng. Tướng riêng đã sáng thì tướng chung sẽ sáng. Sớ giải thích tướng đầu, tuy chung hai thuyết nhưng thủ của đầu và thủ của tay chân đều là tướng riêng, đều có thể dùng riêng mà hiển chung. Nên biết quán Phật thân trượng sáu, trước phải quán sợi lông trắng thì mới bày các tướng, đủ như sớ trước đã y cứ Đức Thích-ca mà nói.

Kế là nói về ba nhóm vãng sinh. Nghĩa là lý do lập quán, đây có hai nghĩa, một là tạp quán mà quán liệt ứng, vị ở trung hạ nay biết ba phẩm mà tiến tu thắng quán để lên thượng phẩm; hai là trước quán thắng ứng và tu tạp tưởng, hiểu rõ tùy hóa cơ là ở bát, tín cửu tín. Nay khiến người này dùng ba quán diệu mà phân biệt chín phẩm. Tức ba nhóm của Đại bản sự lý hiểu rõ mà lên Thập tín, đã nói ba quán sau, là quán người vãng sinh, nghĩa là pháp quán tu trước của người tu, là quán tướng chín phẩm vãng sinh. Không phải phàm tiểu cầu sinh, là khen ba nhóm của văn kinh, chuyển đổi hạnh nghiệp. Dẫu nghĩa chung này cũng là bàng kiêm, không phải ý quán hạnh.

Thích Tằng kinh luận có đề cập đến Tằng luận. Tức luận Vô Lượng Thọ kinh. Nay nói luận Vãng Sinh là đó, do ngài Thiên Thân soạn có mười bảy thành tựu. Đến Đại nghĩa môn thành tựu thứ mười sáu trong ấy có kệ rằng:

Đại thừa Gốc lành nam đều không tên ganh ghét. Người nữ và căn thiếu giống Nhị thừa chẳng sinh. Trường hàng giải thích rằng: Vì thế Tịnh độ quả báo lìa hai lỗi ganh ghét, một là thể, hai là danh. Thể có ba thứ:

Một là người Nhị thừa; hai là người nữ; ba là người các căn không đầy đủ. Không có ba lỗi này nên gọi là lìa ganh ghét, cũng gọi ba thứ là không phải chỉ không ba thể. Cho đến chẳng nghe cả danh từ "Nhị thừa", người nữ và các căn không đầy đủ. Cho nên mười bảy thành tựu này đều gọi là quả báo cõi ấy, cho nên không có Nhị thừa... là đều y cứ với cõi ấy. Không phải Nhị thừa ở cõi này không được sinh, e rằng người lầm không hiểu cho nên hội lại mà giải thích nghĩa Hội Nhị thừa, hội chẳng sinh. Lại y cứ vào luận ấy câu nói giống Nhị thừa không sinh và ở kinh này Tiểu giới được sinh. Vì giới Cụ túc và giới Sa-di đều là giống Tiểu thừa. Hai thuyết trái nhau nên đem ra cật vấn. Nay vì trụ Tiểu hồi tâm lấy hội mà giải thích. Trụ chắc vào Tiểu đạo chí ở vô dư không cầu sinh Tịnh độ nên nói chánh chỗ. Nếu hội Tiểu hướng Đại, chuyển nghiệp Tiểu thừa làm nhân Tịnh độ cho nên nói là do lý do cốt yếu. Kinh ở hiện nay về Đại mà nói nên bảo được sinh. Còn Luận ở Bản thỉ trụ Tiểu mà nói nên bảo không được sinh. Nhưng luận nói cõi ấy không có người Nhị thừa là vì thân này nhân đã chuyển đổi. Vì sao trở đi là giải thích chứng quả. Nói cuối cùng hồi Tiểu hướng Đại nên mới sinh về nước ấy. Vì sao trong nhóm người tu ba phẩm sinh về nước ấy lại chứng Tiểu quả. Nay ý giải thích như sau: Hồi tâm cho nên được sinh, quen thói cho nên chứng Tiểu. Biết Đại mà chứng Tiểu, không chấp Thiên chân mà là rốt ráo, chẳng bao lâu sẽ chứng Đại.

Hỏi: Luận v.v... trở đi là hội người nữ. Lại nêu văn luận nói người nữ, căn thiếu chẳng sinh. Và văn ở kinh này nói Vy-đề-hy, thị nữ được sinh mà đem cật vấn. Nay y cứ kia đây hai nói mà giải thích. Luận là ở chuyển báo cho nên cõi ấy không có người nữ và căn không đủ, hoặc danh hoặc thể. Còn kinh là ở người tu tịnh nghiệp cõi này cho nên kinh Đại Di-đà nói các loài bò bay máy cựa đều được sinh. Cho nên biết kinh luận không chút trái nhau.

Hỏi: Đại trở đi là hội kinh, có đối kinh. Tội Nghịch được sinh tức là văn hạ phẩm hạ sinh. Giải thích có trở đi, là lập nghĩa hai giải thích, hối cãi có nặng nhẹ, trên tức là lợi căn, dưới tức độn căn. Luận Câu-xá chép: Ngu trí chỗ phạm nặng nhẹ không giống nhau. Người ngu làm tội nhỏ cũng đọa vào ác đạo, người trí làm tội lớn cũng thoát khổ. Như viên sắt nhỏ cũng chìm mà bát sắt lớn cũng nổi. Kinh Niết-bàn chép: "Người trí có hai: Một là chẳng gây ra các điều ác, hai là gây ra rồi thì sám hối. Kẻ ngu cũng có hai: một là gây ra tội, hai là che giấu tội". Như Vua A-xà-thế giết cha hại mẹ, đến hội Niếtbàn thì thân ghẻ lở nóng bức mà rất xấu hổ, sám hối tự trách. Kỳ-bà khuyên đến chỗ Phật, Phật nói Pháp cho nghe mà được Tín vô căn. Văn chép ở phẩm Phạm hạnh trong kinh Niết-bàn. Kinh này nói tội nghịch được sinh Tịnh độ, tức đồng vua A-xà-thế là kẻ Thượng căn lợi trí tâm biết hết lòng sám hối. Kinh ấy nói không sinh là nói kẻ hạ căn ngu si đến lúc qua đời không thể hết lòng sám hối. Hai thứ trở đi là y cứ hạnh có Định tán. Kinh Đại Bản ở đây là chỉ cho Tán thiện trên sức yếu. Còn kinh này mới quán, tức là tam-muội quán Phật.

Hỏi: Nếu Định lực được sinh thì ở phẩm Hạ hạ nói người này bị khổ ép ngặt không rãnh mà niệm Phật. Được bạn lành chỉ bảo nếu không thể niệm thì phải xưng niệm Phật Vô Lượng Thọ. Như thế mà dốc lòng khiến tiếng chẳng dứt, đầy đủ mười niệm. Đây lý ắt không khác Đại bản tán tâm mười niệm?

Đáp: Ở đây tuy làm ác mà đã hiểu tu quán, cho nên lúc qua đời gặp bạn lành khuyên xưng niệm mười niệm. Định tâm sẽ thành, cũng là pháp hạnh của người thừa gấp mà giới chậm. Tu quán cho nên thừa gấp, tạo ác nên giới chậm. Do thừa gấp mà được gặp bạn lành, dẫu hiện đời không tu tam-muội cũng là hạt giống xưa nay chín, cho nên được vãng sinh, do đó mà hoa nở thấy hai vị Đại sĩ nói pháp thật tướng. Tự không phải Định thiện mà chín thế ư? Cho nên Luận Thập Nghi chép: "Khi qua đời gặp Thiện tri thức mười niệm thành tựu đều là nghiệp thiện xưa mạnh mẽ mới gặp được thiện tri thức". Phải biết có lời giải thích này mới họp với nghĩa Định thiện trong đây. Nếu người vốn chẳng tu tam-muội thì thuộc nghĩa sám hối trước có nhẹ.

Y phẩm mà định vị, tức là nêu chung chín phẩm, ở đây trở đi là nêu trong ba đủ có chín. Văn kinh nêu ba nhóm mỗi nhóm đều có ba, hai là phán chín phẩm thuộc ba, Thượng phẩm trở đi, là y cứ vị mà xếp vào. Tuy chia ra chín phẩm nhưng nghĩa nhất định chẳng ngoài ba vị, tức nội phàm, ngoại phàm và dong dài. Nhưng gọi Tập chủng, Giải hạnh và Thập tín chính là phàm vị Địa tiền của Biệt giáo. Xem là vị vãng sinh của kinh nay, thì lược có ba ý: Một là Biệt vị thứ lớp đối phẩm mà hiển hiện; hai là Biệt đủ bốn quán thâu cơ nói rộng; ba là chín phẩm phần nhiều phán người sở quán. Nếu dùng chín phẩm mà xếp năng quán ở vị Viên quán, thì dùng ba hiền mà đối với Thập Tín này, Thập Tín kia đối với năm phẩm này. Dòng dài thì đối với người danh tự. Vì vị Danh tự thì chung cho cả người tu và chưa tu. Nên biết sớ dùng ba vị này mà phán người chín phẩm. Ý nó rất sâu sắc, không thể thô tâm. Nay nên nói lược: Bởi hồi hướng tất cả thiện nếu thì đều là nhân Tịnh độ. Nhưng tất cả ác nếu sám nguyện thì cũng là nhân Tịnh độ. Cho nên các thứ thiện tu cạn hay sâu thì đều là chín phẩm. Mỗi điều ác mà y theo công lực sám hối thì cũng đều là chín phẩm. Cho nên thiện phẩm thượng thượng chung với phẩm hạ hạ, còn ác phẩm hạ hạ thì chung với phẩm thượng thượng. Ba tâm sáu niệm hoặc nghe hoặc tu chưa thể phục hoặc thì thuộc ba phẩm hạ. Nếu đây đã phục hoặc thì vào ba phẩm trung. Nếu hay phá được hai hoặc thì mới dự vào ba phẩm Thượng.

Nếu năm tội nghịch thì khi qua đời mười niệm làm Tiêu công thì thuộc Hạ hạ phẩm, như Xà vương hết lòng sám hối mà được Tín vô căn, tức thuộc ba phẩm nhóm thượng, há không phải năm tội nghịch tùy công sám hối mà tự chia chín phẩm. Bảy phẩm ở giữa thì hoặc thiện hoặc ác, hoặc tu hoặc sám tùy công cạn sâu, mỗi phẩm đều nói ở chín phẩm. Nếu theo văn kinh thì ba phẩm hạ chỉ là ác. Trung hạ là đời thiện, trung trung, trung thượng tức là hạnh Tiểu thừa, ba phẩm Thượng thì chỉ có Đại. Sớ thì thuần dùng ba vị Đại thừa mà xếp vào chín phẩm, vì ba phẩm Trung là hồi hướng Đại thừa, ba phẩm Hạ là người Y theo đại mà diệt tội, cho nên hạnh chín phẩm mỗi phẩm thành đại. Tùy hạnh một phẩm cho đến ba Hiền đều là Thượng phẩm. Nếu đến Thập Tín thì đều là ba phẩm Trung. Còn hoàn toàn chưa điều phục hoặc thì tức là ba phẩm Hạ. Nên biết kinh vì thâu hết căn cơ, nên chia Đại Tiểu thiện ác thành chín phẩm. Bởi ước với tăng thắng cao thấp cùng hiểu. Đại sư đắc ý bèn ước ba vị mà xếp vào chín phẩm thì cơ nào chẳng nhiếp, hạnh nào chẳng sâu. Bởi hiểu rõ quán hạnh Đại Tiểu và nghiệp thiện ác hoàn toàn tu tức tánh, mỗi phẩm đều đủ ở bốn thứ Tịnh độ. Chỉ hay hồi hướng tùy công năng mà hiển bốn thứ lạc bang. Nói như thế, phần lớn là y theo một hạnh, tùy công cạn sâu mà trải chín phẩm. Cũng tự có người tiết tiết cải hạnh mà được chín phẩm. Nếu lấy ba vị mà định cao thấp, đổi và chẳng đổi họp đều chẳng lạm.

Hỏi: Nay mười sáu quán đã là viên tu vì mỗi pháp quán đều có cả chín phẩm. Phải không?

Đáp: Tuy đều viên quán mà cảnh được gá phải vui. Có đổi hay chẳng đổi phải có hai đường.

Nếu ở hiện văn phần nhiều từ đổi quán mà trải chín phẩm vì kẻ sơ tâm tuy hiểu căn trần đều là pháp giới mà tâm tưởng gầy yếu, thắng cảnh khó quán. Cho nên Như lai lập ra phương tiện lạ trước quán mặt trời rụng ở hướng Tây mà định tâm (định tâm về Tây). Sớ nói từ năm tội nghịch nhóm Hạ tự luận, cho nên biết diệu quán tưởng mặt trời lặn thành phải là phẩm Hạ hạ. Kế là ở ba quán mà tưởng nước kết băng thì phải ở Hạ trung. Chuyển tưởng về lưu ly thô thấy đất ấy thì có thể thuộc

Hạ thượng. Nếu được tam-muội thấy đất báu, cây báu ao báu cõi ấy. Tuy năm phẩm đầu mà năm trụ viên phục, gọi là được tam-muội, thì phẩm thuộc Trung hạ. Thấy chung cả Y báo năm phẩm trung tâm họp với Trung trung. Quán tòa hoa thành thì năm phẩm Hậu tâm tức là phẩm Trung thượng. Ba phẩm này tuy thành tam-muội mau hàng phục năm trụ, kiến hoặc chưa dứt, sự thức cũng còn chưa thể tức quán mà thắng diệu thân tướng cho nên tu ba quán mà quán tượng báu. Tượng tưởng hiện tiền thì kiến tư đều dứt. Sở dĩ dứt hết là vì sức định sâu nên hàng phục được tư, kiến dứt liền lên Viên thất tín, đây là thuộc phẩm. Sự thức đã hết, toàn nương vào nghiệp thức, thì có thể quan chân pháp thân của Thượng hạ ba Thánh. Khi quán khắp thành thì ở bát, cửu tín tức là phẩm Thượng trung. Cho nên tướng khó nghĩ bàn của ánh sáng pháp giới và Phật sự mười phương đều suốt thất. Sau tu tạp quán và quán ba nhóm thành thì thuộc thập tín, tức là Thượng thượng phẩm. Nội ngoại trần sa (các phiền não, các hoặc) tự nhiên dứt hết, cho nên tùy cơ mà ứng tướng và chành vi ác nghiệp sai khác quán sát rõ ràng, tuyên bày vô cùng tận. Đây y cứ tu vì từ vi đến tế, sau khi ba Thánh quán thành, tu tạp tưởng và quán ba nhóm cho nên đáng ở vị này. Nếu quán thắng tướng chẳng thành tựu thì mới đầu phải y vào tạp quán mà quán thân trượng sáu. Người này hoặc ở phẩm Hạ ba hoặc ở nhóm trung. Nay quán chín phẩm, ắt có thể tiến công từ liệt quán thắng, mong dự vào bậc trên. Cho nên sớ chép: "Khiến biết ba nhóm vãng sinh mà bỏ Trung hạ để tu tập phẩm Thượng". Đây từ các tiết đổi quán mà thứ lớp vào phẩm mà nói như thế. Có người nhân đổi quán mà vượt phẩm vị thì không thể nói nhất định. Trên đều từ người thứ lớp đổi cảnh tu quán mà nói, còn ngươi không đổi cảnh thì trong mười sáu cảnh, thích cảnh nào thì liền dùng Diệu quán mà tu mãi không bỏ. Bàn từ Danh tự tu thành quán hạnh, vào vị tương tợ mà trải chín phẩm. Nhưng trong mười sáu thứ thì cảnh Phật là thích hợp nhất; phải từ kém quán hơn mà thành chín phẩm. Cho nên sớ khiến quán sợi lông trắng của Đức Thích-ca. Lấy làm tiệm môn cho người sơ tâm. Tạp quán khiến quán tượng trượng sáu. Kinh tuy chẳng nói từ một tướng vào, nhưng y cứ vào lý thì phải như thế. Như Kinh Bát Chu thì tướng bánh xe ngàn ở dưới bàn chân, thứ lớp quán lên đến nhục kế trên đảnh. Cho nên biết lời giải thích này là trụ tiền ba vị, ở cảnh ở hạnh đổi cũng chẳng đổi sánh nhau tự thành. Không phải riêng kinh này chín phẩm như thế. Năm phẩm kinh Pháp Hoa nghĩa cũng thế, hiểu một thì ngàn theo. Vì sao trở đi là dùng kinh mà nghiệm, vì vị Vô sinh nhẫn là ở Biệt viên sơ địa, sơ trụ, không phải là Biệt thập hướng, Viên thập tín, sao được thấy Phật mà lên vị này. Thượng thượng đã thế thì các phẩm khác so mà biết. Lại lấy gây ra tội mà nghiệm ba phẩm hạ, vì Biệt viên giáo nội ngoại phàm vị chẳng gây ra các điều ác, đã ước tội mà nói, thì biết là chưa vào bậc ngoại phàm, mà xếp đây vào tợ. Kinh chẳng nói cho nên lấy được ngộ và gây ra tội so sánh mà nghiệm ra. Đây là Đại sư đối với tôn kinh mà khiêm nhường, người gần phán giải thì phần nhiều người không vâng theo. Nói riêng ba Thượng, là phẩm Hạ thượng, là y cứ ba vị mà định, Thượng thì lấy ba phẩm mà phán chín phẩm, còn Hạ là nhóm dong dài. Nay thì nói riêng ba phẩm nhóm Thượng cho nên ước chủng tánh để phân ba vị. Kinh An Lạc nói có sáu chủng tánh:

1. Tánh Thập trụ tập chủng.

2. Tánh Thập hạnh tánh chủng.

3. Tánh Thập hướng đạo chủng.

4. Tánh Thập địa thánh chủng.

5. Tánh Đẳng giác.

6. Tánh Diệu giác.

Hỏi: Nay đây phẩm Thượng là từ giả lập, họp với cõi uế mà lợi ích hữu tình, vì sao lại cầu sinh Tịnh độ ư?

Đáp: Đại luận quyển 43 chính có nói việc này. Cho nên ở đó có hỏi rằng:

Bồ-tát pháp ứng độ chúng sinh. Vì sao chỉ đến cõi nước thanh Tịnh của Phật Vô Lượng Thọ?

Đáp: Bồ-tát có hai thứ: Một là có tâm từ bi thường vì chúng sinh; hai là nhiều tập công đức Chư Phật. Người ưa tập công đức thì đến Nhất thừa thanh tịnh ở cõi nước Vô Lượng Thọ. Người ưa nhiều vì chúng sinh, thì ở chỗ không có Phật Pháp Tăng mà cất tiếng khen ngợi Tam bảo. Cho nên biết đồng là dứt hoặc Bồ-tát mà chỗ ưa thích không đồng, nên có hai thứ khác nhau. Lại Luận quyển bốn mươi lăm chép: Bồ-tát có người trước thành tựu công đức rồi sau mới độ chúng sinh, hoặc có người trước thành tựu chúng sinh rồi sau mới thành tựu công đức cho mình v.v... Cho nên nay biết Bồ-tát thập hồi hướng cầu sinh Tịnh độ, chính là trước tự thành tựu công đức cho người. Cho nên luận Thập Nghi nói chưa Vô sinh nhẫn trở lại phải thường không lìa Phật, nên cần phải cầu sinh. Hai mươi mốt được v.v... trở xuống là y theo hai nghĩa cầu. Thượng thượng sinh rồi thì tiến ngộ Vô sinh pháp nhẫn. Thượng trung phải trải qua bảy ngày mà được không lui sụt. Thượng hạ phải ba tiểu kiếp trụ ở địa Hoan hỷ mới được Vô sinh nhẫn, chứng niệm không lui sụt, tức địa Hoan hỷ.

Tùy văn giải thích tức ba quán sau của mười sáu quán. Sớ trước nêu rằng ba quán sau đây quán người vãng sinh. Nếu chỉ đọc văn không gọi là quán, thì phải đọc kinh nói tướng nhập vào một tâm niệm, dùng quán không giả Trung mầu nhiệm chiếu ở tâm tánh vốn đủ nhân duyên quả báo Tịnh độ. Chúng sinh và Phật đều thế, ba thứ không khác nhau. Tịnh độ Chư Phật nhân quả đã mãn thì hay ứng chúng sinh. Chúng sinh do đủ nhân quả Tịnh độ mà năng chiêu cảm Chư Phật. Cảm ứng duyên khởi chẳng phải một chẳng khác, mỗi pháp dung diệu, từng tướng rõ ràng. Tùy Phật tùy công mà chiêu cảm Phật chiêu cảm Độ, quán mãi không thôi thì khó nghĩ Tục đế Tịnh độ nhân duyên tự nhiên sáng rõ. Vị sáng rõ đại khái nêu tượng tợ minh thì sẽ là ba phẩm Thượng. Nếu quán hạnh rõ thì là ba phẩm Trung, còn Danh tự quán giải thì thuộc ba phẩm Hạ. Luận về đoạn phục v.v... tuy có cao thấp mà đều hiểu biết tất cả thiện ác hồi hướng sám hối đều chung cả chín phẩm. Hoặc chung hoặc chẳng chung, hoặc vượt hoặc chẳng vượt, hoặc đổi hoặc chẳng đổi, hoặc tiến hoặc không. Trạng loại muôn thứ khác nhau khó nói đủ. Nếu không như thế đâu được gọi là quán ba nhóm người vãng sinh. Thứ mười bốn là quán Thượng phẩm sinh, là Thượng phẩm thượng sinh.

Tùy giải thích, là nói Nhân sinh. Kinh có hai đoạn, đoạn một nói phát ba thứ tâm thì liền vãng sinh. Biết ba tâm này là một người phát tâm. Đoạn hai nói rằng: "Lại có ba thứ chúng sinh sẽ được vãng sinh". Theo đây thì ba người này đều tu thành ba thứ hạnh. Nhưng tu là ở người, hoặc riêng một hạnh hoặc gồm chành vi ác khác, hoặc tu đầy đủ. Chỉ có thể vi đến Biệt giáo đạo chủng viên Thập tín liền được gọi là Thượng phẩm thượng sinh. Nói ba tâm chí thành v.v..., thì đây cùng với ba tâm của luận Khởi Tín lá chánh niệm chân Như, hai là thâm tâm là ưa nhóm họp chành vi ác thiện, ba là tâm đại Bi, là muốn cứu khổ tất cả chúng sinh. Nay trước là tâm chí thành, Sớ dùng chuyên thật mà giải thích, không phải niệm chân như đâu gọi là chân thật. Giải về sâu tâm, sớ tuy ba nghĩa mà chẳng bỏ nhau, là cầu quả cao sâu, phải khế lý sâu, muốn khế thâm lý thì phải rất ưa gốc lành. Đây là lập hạnh y lý cấu quả. Kinh chứng thành ba thứ nghĩa sâu, chẳng ngoài ý luận ấy nhóm họp tất cả chành vi ác thiện. Kinh nói hồi hướng phát nguyện tâm, sớ tuy chẳng giải, nhưng nghĩa như nghĩa đại Bi cứu khổ của luận ấy. Vì thiện tâm chân như thật niệm đến quả, hai tâu công đức khéo léo hồi hướng, nguyện sinh Tịnh độ mau chứng pháp nhẫn, rộng cứu tất cả khổ não chúng sinh. Vậy ba tâm này thuận với ba pháp. Một là niệm chân như bình đẳng một tánh; hai là hai thứ tức là tự hành hóa tha, nghĩa hai thứ tu, đã là tu hai tánh một bèn ở viên dung ba pháp mà phát tâm. Nay ba tâm này trong một niệm mà tu. Kiến tư trần sa tự nhiên bỏ trước mà vào Thập tín nên ở phẩm này. Nếu ba tâm này chỉ hay viên phục tức là ba phẩm Trung, nếu hoàn toàn chưa điều phục tức là ba phẩm Hạ. Văn ở trong đây nghĩa gồm tám Hạ. Kinh nói tâm từ không giết hại đủ các giới hạnh, vì vô duyên từ chẳng hại mạng sống muôn loài. Biết tánh lìa quấy tâm đủ các giới, đọc tụng phương đẳng là tùy văn thành quán, tu hành sáu niệm là Niết-bàn. Sớ chép: "Ba thứ trước niệm Phật khác, ba thứ sau niệm Phật mình. Giới thí là nhân của mình, sinh thiện là quả của mình. Giới là chỉ thiện, thí là hành thiện. Trời có quả gần quả xa. Xa tức là Đệ nhất nghĩa thiên. An tâm trở đi là giải thích nghĩa niệm". Nghĩa là niệm Tam bảo đồng thể. Một tâm giới thí là lý Đệ nhất nghĩa không bị hai bên làm lay động, nên gọi chung là niệm. Kinh nói hồi hướng phát nguyện v.v... là luận chung chẳng giết hại... Đều phải khéo léo hồi hướng nguyên sinh Tịnh độ, chứng vô sinh rồi sau rộng độ hàm thức. Kinh nói đủ các công đức, hoặc toàn hoặc một phần đều được nói đủ, một ngày cho đến bảy ngày liền được vãng sinh. Trên mỗi hạnh phải tu thành tựu đến Đạo chủng vị mãi mãi làm thiện lớn. Ít nhất bảy ngày hoặc chỉ một ngày đều được dự vào Thượng phẩm thượng sinh. Đây đều là y cứ ở đoạn phục và hoàn toàn chưa phục, phân ở tám phẩm Hạ. Nếu chẳng như thế thì làm sao giúp người tu sáu niệm, ba hoặc còn hừng hẫy mà lên được Cực phẩm ư? Nên biết chín phẩm khó đem pháp mà định chỉ có thể tùy công. Đây bỏ khoa tiết, kinh sớ rõ ràng, mà sao chẳng nêu.

Thượng phẩm trung sinh, nói nhân sinh rằng không cần thọ trì kinh điển phương đẳng khéo giải nghĩa thú là người chẳng ưa đọc tụng thì ở trong kinh lấy một câu kệ hiểu rõ chỉ thú, dứt hết nói năng suy nghĩ lý rộng sâu mà tâm không kinh động. Lại tâm ấy an trụ ở Trung đạo, chẳng bị hai bên làm kinh động. Hiểu rõ nhân quả đều là thật tướng gọi là tin sâu. Tuy chẳng tu tập khắp hoặc nghe Đại giáo phó cơ thuyết lạ. Biết rõ lý một chẳng hề nghi ngờ chê bai. Một thứ nhân này cũng chung cả chín phẩm. Nhưng nay quán này vị đến bát tín cửu tín của Viên giáo, cho nên ở phẩm này. Nếu ở Đệ nhất nghĩa hiểu mà toàn chưa hàng phục hoặc thì chỉ ở ba phẩm Hạ như Bồ-tát Thường Bất Khinh chẳng chuyên đọc tụng chỉ đem một câu mà lễ bái trao người, biết rõ nghĩa nhiều năm không biếng lười. Do thứ nhất tùy hỷ phẩm Hạnh mà bắt đầu, từ Danh tự mà trải năm phẩm, đến sáu căn thanh tịnh. Cho nên biết đọc tụng... Bốn phẩm Hạnh đều có thể từ Danh tự mà tu đến sáu căn tịnh. Nếu chứng phần chân thì không Thiên tu. Trong sau sinh lợi ích sớ gọi là thâm diệu tinh tấn, vì nghe các tiếng nói Đệ nhất nghĩa hay thành thú lý bất tư nghì quán. Đã sớm mất hết tình trần nghi nhỏ. Cho nên tiến nhanh như gió. So với các sự hạnh khác thì tạp mà trệ, cho nên tịnh tấn này rất là đệ nhất nghĩa. Sớ nhắc A-nậu không lui sụt. Giải thích là đạo chủng Bồ-đề. Vì A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam Bồđề dịch là Giác ngộ cao tột.

Đây là quả Bản tánh sở cầu của tâm người tu. Không lui sụt chuyển có ba vị, nếu phá kiến tư thì là vị Không lui sụt, thì không bao giờ mất vị siêu phàm, là tập chủng tánh vậy. Phục đoạn trần sa gọi là hạnh Không lui sụt, thì không bao giờ mất hạnh Bồ-tát, tức là Tánh chủng tánh và Đạo chủng tánh. Nếu phá vô minh thì gọi là niệm Không lui sụt, thì không bao giờ mất Trung đạo chánh niệm, là Thánh chủng tánh vậy. Thượng trung sinh thì cõi này đã được Vô sinh thánh chủng không lui sụt. Nay trong bảy ngày mà được Bồ-đề không lui sụt chuyển, tức là ở Đạo chủng Bồ-đề không lui sụt. Gọi chung là địa, vì chỗ phàm Thánh nương đều gọi là địa. bốn thứ thọ ký một lược hiện tiền Tịnh danh đại sớ nêu ra bốn thọ ký, đó là vị Phát tâm ký, Mật ký, Hiện tiền ký, Vô sinh ký. Nói một lượt hiện tiền, nghĩa là hiện tiền ký chứng cả phàm Thánh. Nay ở vị Vô sinh, Phật chỉ một lần gọi chung là hiện tiền.

Thượng phẩm hạ sinh, cũng tin nhân quả không chê bai Đại thừa. Đồng phẩm Thượng trung nên gọi là cũng. Kia vì hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế mà làm hạnh riêng. Đây vì chỉ phát đạo tâm vô thượng mà làm hạnh riêng. Cuối cùng lý nhiếp sinh nên tâm khác nhau. Từ phàm vào Thánh trải vị không khác. Nghĩa là y theo vô tác bốn đế Diệu cảnh mà phát bốn thệ nguyện gọi là chân chánh phát tâm Bồ-đề. Kẻ chưa được độ khổ thì thề khiến được độ. Ám nhập đều như cũ. Người chưa giải tập thì thề khiến được giải. Vì trần lao vốn tịnh. Kẻ chưa an đạo thì thề khiến được an, dứt hoặc mà thành trí. Kẻ chưa chứng diệt thì thề khiến được chứng, tức sinh mà thành diệt. Phát đạo tâm này cũng chung cả chín phẩm. Trong Danh tự thì tự phát có Tịnh tán, tức là ba phẩm Hạ. Quán hạnh năm vị tức là ba phẩm Trung. Tương tợ đã phân ba thứ chủng tánh tức là ba phẩm Thượng. Nay tập chủng đã phát nên ở phẩm này. Tâm này thâm vận đã được phần chân há chẳng thể đến phẩm Thượng thượng ư? Y theo vị mà phán thì không pháp vào chẳng chín muồi. Trong sau sinh có lợi ích, kinh chép:

Tuy thấy thân Phật các tướng tốt mà tâm không rõ ràng, hai mươi mốt ngày sau mới thấy rõ, là vì người phẩm này ngang với vị tập chủng, kiến tư tuy đó mà trần sa chưa trừ, cho nên với các tướng tâm không rõ ràng. Qua hai mươi mốt ngày thì tiến vào tánh chủng, mà đoạn phá trần sa. Cho nên ở tám muôn tướng mỗi tướng rõ ràng. Từ đây ba kiếp đạo khắp mười phương cúng dường Phật nghe pháp tiến vào đạo chủng mà lên Sơ địa. Ở địa này liền được Trăm pháp minh môn. Nói trăm pháp, là như Trăm pháp luận nói các danh số. Nay ở pháp này đều chứng ba Đế. Bèn dùng trăm pháp mà làm môn Minh đạt ba đế. Ba Đế nếu sáng thì hiểu rõ tất cả. Cho nên luận nói là nghĩa tăng trưởng trí tuệ, suy nghĩ các thứ pháp môn: Hiểu rõ nghĩa này nên tâm rất vui mừng, nên gọi là địa Hoan hỷ.

Trong nói nhân sinh của Thượng phẩm trung sinh chỉ nói các giới. Ở đây bèn lược nêu thứ nhất của ba học (Giới, Định, Tuệ). Nếu cứ vào sinh lên đó nghe khen bốn Đế liền thành La-hán có ba minh tám giải. Dùng quả nghiệm nhân thì là chẳng chuyên giữ giới, hợp với tu Tiểu thừa lý quán sự thiên, chỉ chưa chứng quả, cũng ở Hiền vị. Khi sắp chết thì nghe khen Phương đẳng mà hồi tâm hướng đại nguyện sinh Tịnh độ. Nhưng tâm hồi hướng cần phải rất khác. Giáo Thất tín trở lên, là Viên giáo quán hạnh hai phẩm tứ ngũ mới là người Trung phẩm thượng sinh. Nếu tiểu hạnh cho đến nhẫn vị và Thế đệ nhất. Nhưng xét vị hồi tức chỉ ở phẩm này. Nếu ở Noãn đảnh và Ngoại phàm thì cần hồi mạnh mẽ sẽ vượt vào phẩm này. Đại y cứ Tiểu thừa và thế gian thiện thì từ hồi hướng tâm sâu cạn cao thấp phán ở chín phẩm. Sau sinh lợi ích, sớ có chánh giải thích văn kinh. Bốn Đế là đã cùng Nhị thừa làm, do tập xưa mà nghe sinh diệt, vô sinh hai thứ tư Đế. Sinh diệt là khổ thì ba tướng đổi dời, tập thì bốn tâm lưu động, đạo thì đối trị dễ đoạt, diệt thì diệt lại có không. Vô sinh có bốn: Khổ không có tướng ép ngặt, Tập không có tướng hòa hợp, Đạo thì chẳng hai tướng, Diệt thì tướng vô sinh. Kế ba Minh là quá khứ Túc mạng minh, vị lai Thiên nhãn minh, và hiện tại Lậu tận minh, ba thứ này gọi Minh lại được gọi Thông. Ba thứ kia chỉ được tên Thông. Luận Bà-sa chép: "Thân thông chỉ là công khéo léo, thiên nhĩ chỉ là nghe tiếng mà thôi cho nên không phải là minh. Túc mạng thì biết khổ quá khứ mà rất chán lìa. Thiên nhãn thì biết khổ vị lai mà rất chán lìa. Lậu tận là chánh quán dứt hoặc". Cho nên ba thứ này gọi là minh. Đại Luận hỏi thông và minh có gì khác nhau.

Đáp: Biết thẳng quá khứ gọi là Thông, biết rõ các nhân duyên hạnh nghiệp quá khứ thì gọi là minh. Kế giải thích tám giải thoát:

1. Trong có v.v... thì nội sắc tức là xưởng cốt thân mình, vì tu tám sắc lưu quang mà giữ còn xương người, kiết sử ở Dục giới khó dứt cho nên lấy tâm bất tịnh mà quán ngoại sắc, vị ở sơ thiền hay thoát tự địa và xuống Dục giới.

2. Ở vị Nhị thiền. Nhị thiền ở trong tịnh (nội tịnh) cho nên hoại diệt xương người. Dục hoặc khó dứt cho nên cũng quán tướng ngoài bất tịnh.

3. Trừ tướng ngoài bất tịnh, chỉ ở trong định mà luyện tám vị ở ba Thiền.

4. Nếu Không xứ diệt tứ Thiền căn bản và Các sắc như ba bối xả v.v..., thì một tâm duyên với vô biên hư không mà nhập vào, tức quán định này y vào ấm nhập cho nên có vô thường khổ không giả dối chẳng thật, tâm sinh chán lìa mà chẳng đắm trước.

5. Nếu xả Thức xứ, không duyên thức nhập định, tức quán định này giả dối chẳng thật mà chẳng đắm trước.

6. Vô Sở Hữu Xứ, nếu bỏ thức duyên Vô sở hữu mà nhập vào cho đến không đắm trước.

7. Phi phi tưởng xứ, nếu bỏ Vô sở hữu xứ mà duyên Phi phi tưởng nhập vào cho đến không đắm trước.

8. Diệt tận... là trái diệt thọ tường các pháp tâm sở. Đệ tử của Phật lo sợ tâm tán loạn muốn nhập vào mà nghỉ ngơi, dùng pháp Niết-bàn mà an trú thân. Cho nên nói thân chứng mà tưởng thọ, diệt ba thứ trước thì vị ở Sắc giới hay lìa năm dục của tự địa.

Bốn thứ giữa là vị ở cõi Vô sắc đều lần lượt lìa địa dưới. Nhưng ba thứ trước cũng lìa dưới. Bốn thứ giữa cũng lìa tự địa và hiện nói. Một thứ sau cùng nên biết cũng gọi là dưới do Bối xả mà gọi là quả Giải thoát. Giải thích hội trở đi, là giải thích các nghi ngại, có hội Tiểu thừa chẳng sinh nghi sớ cùng Thích Luận lấy ý Pháp Hoa mà hội ở kinh này và luận Vãng sinh mà luận là chẳng sinh. Cứ theo quyết định tánh mà vào Vô dư. Kinh này nói sinh là thoái Bồ-đề về Tiểu thừa, thì sớ trước hội rằng chính ở tiểu hạnh mà chẳng sinh, phải do lúc chết mà phát tâm Đại thừa, nên sinh. Nếu không có giống xưa, há lúc chết mà hồi tâm hướng Đại ư? Cho nên biết không trái với nghĩa trước. Vẫn giải thích mà phục nghi. Đã nhân hồi tâm hướng Đại mà được sinh. Vì sao đến đó liền chứng Tiểu quả cho nên giải thích rằng: Đạo Vô Lậu chín muồi vì thoái Đại đã lâu, quen Tiểu công sâu, cho nên Phật ấy xứng quen mà nói Tiểu và khiến chứng quả. Hoặc kế trở đi là lại dẫn kinh luận nói Tiểu. Nay kinh và Thích luận nói về cõi ấy chứng Tiểu quả, là ý muốn chỉ tiếp người Tiểu thừa cầu sinh. Nếu họ sinh rồi thì đều kính mến Đại thừa sẽ chẳng chứng Tiểu. Nhưng tuy nêu ra ý này mà nghĩa trước là chánh. Trung phẩm v.v... trở đi trong giải thích không kịp ngại hạ. Vì phẩm Hạ hạ sinh lên đó nghe pháp đúng lúc liền phát tâm Bồ-đề. Trung thượng sinh lên đó vì sao chỉ chứng quả Vô học? Vì Đại Tiểu mà hỏi phẩm thứ tư chẳng bằng chín phẩm. Giải rằng trở đi, lấy Đăng địa tốc chứng mà đáp. Trung thượng thuận thói quen, tuy chứng Tiểu quả mà không vượt hơn mười kiếp sẽ vào Sơ địa chín phẩm ác nặng phải mười hai đại kiếp mới được ra khỏi thai. Tuy phát đại tâm nhưng phải trải qua nhiều kiếp mới lên pháp nhẫn. Vì lấy tốc chứng so kia là hơn ba, Đại bản trở đi, là cả Trung phẩm không nói xuất gia mà hỏi. Đó nói Trung phẩm rằng tuy chẳng thể làm Sa-môn, nên bảo là chẳng nói xuất gia thời dài thỉ cuối, nghĩa là trọn đời xuất gia thời ngắn, nghĩa là một ngày một đêm. Cho nên biết cứ vào Thời ngắn thì Đại bản y cứ nghĩa cũng có. Nếu luận Thời dài thì kinh này y cứ nói cũng không, đây chính là hai kinh việc đồng nhau.

Trong tu nhân Trung phẩm trung sinh, sớ nói mười giới, giải thích kinh nói giữ giới Sa-di. Kim ngân sinh tượng Nam sơn nói là tiếng Hồ và tiếng Hán cùng gọi. Hồ gọi là Sinh tượng, Hán dịch là vàng bạc. Thiện Kiến chép: Sinh sắc và Tợ sắc, tợ tức là tượng. Đây gọi vàng khi sinh ra là sắc vàng, còn bạc thì thể nhuộm giống vàng (tợ), cho nên gọi là Sinh tượng (sinh là vàng, tượng là bạc). Nếu thế thì Sinh tượng là tiếng xứ này sao nói là tiếng Hồ.

Đáp: Nghĩa là ở phía Bắc của năm Thiên trúc tiếng nói (Hồ) có lẫn lộn tiếng Hán, nên gọi là Sinh tượng. Người Hồ dịch lại và đưa vào Hán nên còn tiếng Hồ.

Trong tu nhân Trung phẩm hạ sinh, kinh nói hiếu dưỡng cha mẹ, làm nhân từ ở đời. Đây Thiện phàm phu không thể hàng phục hoặc, đâu dự vào nhóm trung. Sớ trước xếp vào vị, người nhóm trung là vị Thập tín của Biệt giáo tức là Viên ngũ phẩm. Đây là do lúc chết có bạnh lành nói rộng Phật A-di-đà thuận theo bản tánh lấy nước Cực lạc. Và nói Pháp tạng xứng lý phát nguyện. Người tu nghe rồi giải ngộ Đại thừa, phát tâm hồi hướng cầu sinh Tịnh độ. Kinh tuy chẳng nói phát tâm hồi hướng nhưng đã nghe nói rộng há chẳng hồi tâm. Đây là đặc biệt lược bỏ bớt. Khi sắp mất mà phát tâm thì tâm rất mạnh mẽ lanh lợi, nên có thể vào Biệt viên ngoại phàm sơ vị, Thông hoặc sớm phục. Cho nên khiến thiện thế gian ở phẩm vị này. Đại sư chỉ ở Đại thừa ba vị mà đối chín phẩm lại rất sâu. Lợi ích sau sinh là qua một tiểu kiếp thì thành A-la-hán.

Hỏi: Đến nước ấy lên Tiểu quả đều thuận theo thói quen xưa. Nay người tu này vốn quen thiện thế gian là nhân trời, người mà không phải hạnh Thanh văn, thì đến đó sau được thành A-la-hán phải không?

Đáp: Hiếu dưỡng nhân từ là nền tảng của Đại Tiểu giáo nào chẳng nói. Mà A-hàm đây luận riêng về thiện này. Dùng quả nghiệm nhân là y vào ba tạng làm hiếu thuận v.v... Tuy là thiện thế gian, nhưng tâm ở vô thường. Đã từ lâu nêu tâm đạo Vô lậu thục cho nên chứng Tiểu quả.

Người ba phẩm Hạ gây ra tội nặng nhẹ gặp duyên được diệt làm nhân vãng sinh. Nên biết ý kinh vì muốn dễ hiểu nên dùng ba nghiệp ác mất mà làm nhân cho ba phẩm Hạ, hồi hướng phàm tiểu làm nhân cho ba phẩm Trung, đem các thiện Đại thừa làm nhân cho ba phẩm Thượng. Đây chính là Thượng hạ hiển sáng nhau để làm cảnh cho pháp quán. Nếu gọi thật quán y nghĩa mà nói, Đại Tiểu thiện ác theo tâm hồi hướng mà tùy sức diệt tội cạn sâu thềm bậc đều luận chín phẩm. Nay ba người này nghe pháp khen Phật tuy nghiệp chướng diệt mà hoàn toàn chưa điều phục hoặc, vị ở Danh tự nên thuộc ba phẩm Hạ. Nếu diệt tội mà tâm lanh lợi thì vào Biệt viên ngoại phàm tức là ba phẩm Trung. Nếu đến được nội phàm thì là ba phẩm Thượng. Xà vương sám hối tội nghịch mà được Tín vô căn là loại này.

Hạ phẩm thượng sinh tức kinh nói tuy chẳng bài bác chê bai kinh điển Phương đẳng. Phẩm này chẳng chê chứng tỏ tội cũng còn nhẹ. Đến Hạ hạ phẩm thì nói năm nghịch mười ác đủ các bất thiện, thì chê bai các kinh tất cả nghiệp ác đều làm, nên nói là đủ. Giáo viên đốn nói tội không nặng nhẹ hối thì đều diệt. Như Tiên Dự giết các Bà-la-môn thì địa ngục ba niệm biết tâm chê bai Phương đẳng lập tức hối cải mà sinh về nước Phật.

Hạ phẩm trung sinh tức kinh nói trộm vật Tăng-kỳ, trộm vật của Tăng hiện tiền, mà chẳng nêu ra bốn thứ thường trụ: Một là thường trụ thường trụ, là các thứ bếp kho chùa nhà cây trái vườn rừng tôi tớ súc vật... Vì thể chung cả mười phương không thể phân dụng; hai là mười phương thường trụ như thức ăn nuôi tăng thường dùng. Thể chung mười phương chỉ hạn cục ở một nơi; ba là hiện tiền hiện tiền nghĩa là vật của Tăng có; bốn là mười phương hiện tiền như vật nhẹ của năm chúng vừa mất nếu chưa Yết-ma thì bị tội với Tăng mười phương. Nếu đã Yết-ma thì bị tội với Tăng hiện tiền thì thuộc vào thứ ba hiện tiền hiện tiền. Trộm hai thứ trước thì gọi là trộm vật Tăng-kỳ. Trộm hai thứ sau gọi là vật của hiện tiền tăng. Bất tịnh nói pháp, là chỉ cầu danh lợi không phải vì lợi ích cho người. Không biết xấu hổ, là chỗ vắng làm ác không thẹn với trời, giữa mọi người làm ác không thẹn với người.

Hạ phẩm hạ sinh, trong sớ giải thích tu nhân có xưng vô lượng trở đi là nói niệm Phật diệt tội và dẫn Đại Luận hỏi đáp, tức hỏi rằng trở đi là ước ít thời gian mà trách. Tâm ấy v.v... trở đi là y cứ tâm mạnh mà đáp. Tâm mạnh mẽ này từ hai duyên mà phát: một là gặp bạn lành, hai là bị khổ ép bức, tâm sợ ác đạo tại nghe tên Phật. Cho nên rất kiên cường chí thành xưng niệm. Đã có cảnh thắng tâm mạnh cho nên dù thời gian ít công nhiều vượt hơn nguyện lực dong dài trăm năm. Nếu hai duyên tâm mạnh này không phát ra thì người này sẽ bị đọa địa ngục.

Về lợi ích, có hai: Một là sớ khoa; hai là giải thích kinh, tức là phu nhân ngộ đạo. Kinh nói rỗng sáng đại ngộ được Vô Sinh Nhẫn, vì tâm phàm phu nghe mười sáu quán, tức nghe tức tu sớm vào Viên trụ. Bởi biết rõ Ý chánh ứng sắc, tức Báo tức pháp, chẳng dọc chẳng ngang. Toàn tâm thành Phật toàn tâm là Phật. Năng sở đều quên, nghĩ suy dứt hết. Ba đức Bí tạng đương niệm sớm mở. Cho nên gọi là rỗng sáng đại ngộ, ngộ thông quán hạnh ở vị tương tợ. Cho nên nói riêng được Vô sinh nhẫn, hiển rõ đại ngộ này là ở phần chân. Như mười sáu quán không phải Diệu tông há khiến đương cơ sớm vào Viên vị. Văn kinh kết lợi ích, hiển rõ quán môn này không thiên không tiệm, tin chẳng thể dùng sự tướng tiêu văn. Nói về thị nữ phát tâm. Văn kinh chỉ nói phát tâm vào quả vị Giác ngộ cao tột là ở vị nào. Kinh nói phu nhân sau khi được Vô sinh nhẫn riêng nói phát tâm, nghiệm ra không phải là thật phát. Tịnh Danh sớ chép: Bồ-tát Nhu Thuận Nhẫn mới có nghĩa phát, cho nên phần nhiều y cứ tương tợ mà nói vị phát tâm. Danh tự quán hạnh cũng có nghĩa phát, cách xa vô sinh nên không được luận.

Về phần Lưu thông. Kim Quang Minh Sớ chép: Lưu là rót xuống, thông là không ứ tắt, là muốn cho nước pháp từ đây chảy mãi, thuyên để thánh giáo không mai một ở đời sau. Cho nên sau đây nêu tên nêu ích khuyên người tu tập. Nếu thế sao khiến nước Pháp chảy (rót) mãi chẳng ứ tắt. Sớ có hai: Một là chung riêng chia khoa; hai là Tùy Khoa giải thích. Kinh này có hai chỗ lưu thông Quán đạo. Một là ở cung vua, Phật tự dặn khuyên; hai là trở về Linh thứu, A-nan thuật lại đầy đủ. Văn đầu có nêu tên Giáo Trì, tức là A-nan hỏi tên kinh. Sớ bảo nghĩa nói rất nhiều là văn kinh nêu riêng ba thứ Tịnh nghiệp, mười sáu Diệu quán, chẳng biết lấy gì mà làm Tổng mục. Pháp này trở đi là hỏi pháp thọ trì. Như lai đáp là Phật đáp câu hỏi trước. Một chữ quán là tâm quán Diệu tông vậy. Ba Thánh Cực Lạc là thật tướng viên thể. Đây là từ tông thể mà đặt tên này. Tịnh trừ nghiệp chướng, nặng nhất là năm tội nghịch. Sinh trước Phật là bao gồm chín phẩm. Tên này là từ dụng gồm có ba nghĩa, tức là giải thích tên. Bốn thứ này đã Viên tức tướng giáo này, cho nên nêu ra hai tên, năm chương ý đã đủ. Tin nay giải thích đề kinh rất ngầm phù hợp với ý chỉ Phật. quên mất, tức là niệm tâm ấy. Niệm tâm làm cho thành dục v.v... bốn pháp. Bởi dục tấn thì làm xảo tuệ một tâm, nếu quên mất thì đều không thành tựu. Phật khiến chẳng quên thì đủ năm pháp, công thọ trì ở đây mà hết sức. Nêu lợi ích khuyên tu, có nói sinh thiện diệt ác. Kế nói trở đi là nói thẳng thiện sinh thấy Phật hay thấy chân pháp thân của A-diđà và hai Bồ-tát thì sinh thiện tột bậc. Lấy sâu so cạn thì thiện nào chẳng sinh. Người Thiện nam v.v... trở đi huống là hiển việc diệt tội sinh tử. Nghe tên là văn tuệ, nhớ nghĩ là tu tuệ. Nêu nghe là kém huống tu là cao quý hơn. Người tu nên biết, trước là không quên mất, cũng là ức niệm, song thuộc v.v... phương tiện. Nay ức niệm này lại thuộc chánh tu, tên đồng mà nghĩa khác nên khó phân biệt. Nói thân cao quý bạn tốt, niệm Phật v.v... trở đi là dụ hoa sen trắng nói thân cao quý. Phân-đà-lợi, dịch là hoa sen trắng. Kinh Niết-bàn chép: "Hoa trong nước, Phân-đà-lợi là bậc nhất, là nói việc tu Viên quán vượt hơn tất cả người tu Đạo khác, tức là bảy phương tiện". Quán Âm trở đi là nêu Bổ xứ nói bạn lành, hai bậc Thánh này vốn tu Viên định niệm Phật, nay là Bổ xứ, hành giả nay tu cũng là định này, ngôi vị tuy cao thấp nhưng pháp tu thì đồng cho nên có thể làm bạn. Cũng như người đời đạo thuật giao nhau đâu phân sang hèn. Đương tọa v.v... trở đi, là nói được quả khởi hạnh, sự tướng giải thích, dưới gốc Bồ-đề ngồi đài Kim cương, chỗ thành Phật này gọi là đạo tràng sự vốn biểu thị cho lý. Nay quán bản tánh giác thể Di-đà, Thể này tức là được ngồi đạo tràng, được sinh nhà Phật. Lý một nghĩa khác nên gọi tràng gọi nhà. Lý này là tràng, ngồi sẽ được quả. Lý này là nhà, sinh sẽ khởi hạnh. Quả tức là phần quả, hạnh tức là chân tu. Quán này vốn ước hẹn với quả phần chứng vô công dụng hạnh, muốn dùng hạnh bệnh và hạnh Anh nhi mà độ chúng sinh, nên tu quán niệm Phật mà cầu sinh Tịnh độ. Sinh đó mau được nên nói đương tọa (chỗ ngồi này). Kết danh trở đi, là kết tên dặn dò. Kinh nói trì kỷ (trì tốt), hảo tức là diệu, vì chẳng ngang dọc và dứt tâm nghĩ lường giữ mới có thể thọ trì chương cú kinh này. Văn riêng đã diệu cho nên có thể giữ tên chung của kinh. Trên dùng ba, một dung diệu mà giải thích, là ý ở đây. Đây là mượn A-nan mà dặn dò người đời nay. Vui mừng trở đi là chúng nghe vui mừng. Nói ba nghĩa: Một là gặp người; hai là nghe Pháp; ba là được quả. Văn nói nêu ra đại Luận nghĩa quy về kinh này. Người đã là Phật thì Phật ắt đầy đủ bốn vô ngại trí, tức là pháp nghĩa từ và nhạo thuyết nói quán Phật pháp lìa các lầm lẫn nên gọi là thanh tịnh. Nay gặp người này sao chẳng vui mừng. Pháp là pháp quán, mười sáu môn biết rõ chỗ sâu mầu, có thể khiến phàm tâm vào sâu tam-muội lìa các hư thiết, nên gọi thanh tịnh. Nghe Pháp như thế há chẳng vui mừng. Nếu thật tu quán thì sẽ được quả. Vy-đề-hy... nghe pháp liền tu mà chứng quả Phần chân. Thị nữ và chư Thiên được quả Tương tợ. Mục-liên, A-nan cùng Phật hóa độ các căn cơ. Hoặc hay tăng thêm đạo không lường sâu cạn, đều vì lìa hoặc mà gọi là thanh tịnh được quả như thế há chẳng mừng vui. Ba tướng do đây mà được quả do pháp, pháp do người nói. Chúng kia vui mừng đủ ba nghĩa này. Ngày nay tôi tuy chẳng thấy được Kim dung mà được Diệu trí gia bị lại được nghe pháp quán mầu nhiệm này, nhưng chưa được quả, cho nên thiếu cái vui mừng thứ ba.

Núi Kỳ-xà-quật là phần Lưu thông, có hai: Một là núi Kỳ-xà-quật trở đi là Phật bước lên hư không trở về. Trước đến theo lời thỉnh thì ở núi Kỳ-xà-quật ẩn mất mà hiện ra ở cung vua. Nay bước lên hư không trở về núi Kỳ-xà-quật. Hai lần đều dùng thần thông. Trước ẩn sau hiện, là trước muốn thí hóa, nhưng hóa pháp chưa thành nên chỉ ngầm đến. Nay tuyên nói Diệu quán, đương cơ đã được lợi ích muốn cho mọi người cùng vâng theo pháp này cho nên biến hiện rõ ràng mà trở về; hai, A-nan trở đi là A-nan thuật lại. Nhân ở cung vua ngộ ở núi

Kỳ-xà-quật và chưa biết nên phải thuật lại cho khắp nơi khiến tin nhận. Điều A-nan thuật lại chính là lời Phật nói. Cho nên văn nói nghe lời Phật dạy đều rất vui mừng, lý hợp cùng với ba nghĩa trước cho nên vui mừng.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Kinh Sớ][Mục lục tổng quát]