TẠNG LUẬN
SỐ 1753 - PHẬT THUYẾT KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT SỚ
Sa-môn Thiện Đạo, đời Đường tập ký.
Ý NGHĨA ĐỊNH THIỆN PHẦN CHÁNH TÔNG
Trước khuyên mọi người phát nguyện quy y Tam bảo.
Chúng đường thời Đạo tục
Đều phát tâm Vô thượng
Sinh tử khó nhàm chán
Pháp Phật khó ưa thích
Cùng phát chí Kim cương
Dứt bốn dòng ngang dọc
Nguyện vào cõi Di-đà
Quy y chắp tay lễ
Thế tôn, con nhất tâm
Quy mạng biển pháp tánh
Chân như tận mười phương
Chư Phật Báo, Hóa thảy
Mỗi mỗi thân Bồ-tát
Quyến thuộc đều Vô lượng
Trang nghiêm và biến hóa
Biển mười địa Ba hiền
Thời kiếp mãn chưa mãn kiếp
Trí hạnh viên, chưa viên
Cho dù tận, chưa tận.
Tập khí hết, chưa hết
Công dụng, vô công dụng
Chứng trí, chưa chứng trí
Diệu giác và Đẳng giác
Tâm Kim cương chánh thọ
Tương ưng nhất niệm rồi
Và quả đức Niết-bàn
Chúng con đều quy mạng
Đấng Tam Phật Bồ-đề
Sức thần thông vô ngại
Xin thầm nhiếp thọ cho
Chúng con đều quy mạng
Hiền thánh ba Thừa thảy
Tâm đại Bi học Phật
Không bao giờ lui sụt
Cúi mong che chở cho
Niệm niệm thấy Chư Phật
Chúng con thân ngu si
Trôi lăn trong nhiều kiếp
Nay gặp Phật Thích-ca
Dấu vết đời mạt pháp
Bổn thệ nguyện Di-đà
Và yếu môn Cực lạc
Hồi hướng định tán thảy
Mau chứng thân vô sinh
Con nương tạng Bồ-tát
Biển đốn giáo nhất thừa
Nói kệ quy Tam bảo
Tương ưng với tâm Phật
Hằng sa Phật mười phương
Sáu thông chiếu rọi con
Nay nương giáo hai Phật
Mở rộng cửa Tịnh độ
Nguyện đem công đức này
Bình đẳng thí tất cả
Đồng phát tâm Bồ-đề
Vãng sinh nước An lạc.
Trong bộ "Quán kinh" này, trước chia làm bảy phần sau đó là y theo văn kinh giải thích ý nghĩa.
1. Nêu tựa đề.
2. Giải thích danh nghĩa.
3. Giải thích giáo pháp Đại thừa, Tiểu thừa có tông chỉ khác nhau.
4. Sự khác nhau về người nói.
5. Phân tích về sự khác nhau giữa Thông giáo và Biệt giáo, giữa định thiện và tán thiện.
6. Hòa hợp tướng trái nhau giữa kinh và luận, đưa ra nhiều câu hỏi đáp để giải thích sự nghi ngờ.
7. Phân biệt phạm vi Vy-đề-hy được lợi ích sau khi được nghe chánh giáo của Phật. I. Trước Nêu tựa đề:
Thiết nghĩ chân như rộng lớn, người năm thừa không thể nào biết hết được biên giới, pháp tánh thì cao sâu, bậc Thập thánh cũng khó biết rõ ngọn nguồn.
Thể lượng của chân như, thì lượng của tánh không ra ngoài một con tằm, còn nói về pháp tánh thì vô biên, biên thể thì xưa nay bất động, vô trần pháp giới. Phàm hay Thánh đều có đủ, đều giống như nhau, cho nên bao trùm tất cả hàm thức, vô lượng công đức đều vắng lặng bất động, chỉ vì bụi nhơ che lấp quá sâu dày, nên thể tánh thanh tịnh không thể hiển bày được, giúp cho Đấng Từ Bi phải ẩn ở phương Tây vào trong nhà lửa, để tưới nước cam lồ làm mát dịu cho chúng sinh, phát ra ánh sáng rực rỡ để xua tan bóng đêm dài tăm tối, Ngài có ba đàn đầy đủ, bốn nhiếp thấu rõ, mở bày nhân khổ trong nhiều kiếp, giúp cho chúng sinh được ngộ nhập vào quả báo mãi mãi an vui về sau, Ngài không cho rằng chúng sinh mê muội ngăn cách với mình, tuy dục lạc khác nhau, chưa có căn cơ nhất thật, nhưng có dụng của năm thừa, nên Ngài rải mây khắp ba cõi, rưới nước mưa pháp Từ Bi thấm nhuần khắp cả trần gian, để mang lại lợi ích cho các chúng sinh chưa được nghe pháp, hạt giống Bồ-đề cũng nhờ đó mà duy trì, mầm chánh giáo cũng do đây mà thêm lớn, nương vào tâm để khởi thắng hạnh, pháp môn tu tập có tám muôn bốn ngàn, tùy căn cơ chúng sinh mà chia thành đốn hay tiệm, tu tập tất cả cũng chỉ vì mục đích là mong cầu giải thoát.
Nhưng vì chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng nên khó có người giác ngộ. Vì bà Vy-đề-hy cầu thỉnh nay con muốn được vãng sinh về thế giới An lạc, cúi mong Như lai dạy con tư duy, dạy con chánh thọ. Đức Thế tôn Thích-ca Mâu-ni là đấng giáo chủ cõi Ta-bà do lời cầu thỉnh đó, liền mở rộng pháp môn Tịnh độ, Đức Di-đà ở thế giới Cực lạc hiện bày nguyện rộng lớn. Yếu môn đó chính là hai môn định và tán của quán kinh này. Định tức là ngừng suy nghĩ để định tâm, tán tức là bỏ ác làm lành, hồi hướng hai hạnh này để cầu nguyện về vãng sinh. Nói thệ nguyện rộng lớn, như trong đại kinh chép: "Tất cả phàm phu thiện ác đều được vãng sinh, đều nương vào nghiệp lực đại nguyện của Đức Phật A-di-đà làm duyên tăng thượng". Vả lại, mật ý của Phật sâu rộng, giáo môn khó hiểu, các bậc Ba hiền, Mười thánh chưa thể thấu hiểu, huống chi kẻ Phàm phu chúng ta thì làm sao biết được chỉ thú. Do đó mà phải mong cầu Đức Phật Thích-ca ở thế giới này chỉ dạy và Đức Di-đà ở thế giới Cực lạc đón rước, Đức Di-đà là người kêu gọi, còn Đức Thích-ca là người động viên khuyến khích, thì làm sao không được vãng sinh? Chỉ cần chúng ta y theo pháp chuyên tâm tu tập thì chắc chắn sẽ có ngày được vãng sinh về cõi Cực lạc, khi xả thân uế trược này, chắc hẳn sẽ chứng ngay pháp tánh thường lạc của thế giới Cực lạc.
II. Giải thích tên gọi.
Trong kinh chép: "Kinh Phật thuyết vô Lượng Thọ quán" một quyển.
Phật chính là âm tiếng Ấn độ, Hán dịch là Giác, Giác là tự giác, giác tha và giác hạnh viên mãn, đó gọi là Phật. Nói tự giác để phân biệt khác với Phàm phu, đây là do các Thanh văn yếu kém hẹp hòi, chỉ có khả năng tự lợi, không có tâm Từ bi lợi tha.
Nói Giác tha là để phân biệt với người Nhị thừa, đó là do Bồ-tát có trí nên có khả năng tu tự lợi, vì có Bi nên có khả năng lợi tha, thường có khả năng vận dụng cả hai Bi và Trí, không chấp trước vào hữu vô.
Nói Giác hạnh viên mãn là để phân biệt với Bồ-tát, do đó Như lai trí hạnh đã viên mãn, thời và kiếp cũng đã viên mãn, đã vượt qua ba giai vị nên gọi là Phật.
Nói thuyết là dùng khẩu âm để bày tỏ, do đó mà gọi là thuyết, lại Đức Như lai do đối cơ mà giảng nói, cho nên có nhiều thứ khác nhau, tiệm đốn tùy nghi, ẩn hiển có khác, hoặc nói chung sáu căn, hoặc hiển bày tướng tốt, ứng niệm tùy duyên được lợi ích cho chứng ngộ.
Nói Vô Lượng Thọ là âm Hán; Nam-mô A-di-đà Phật chính là âm tiếng Phạm. Nam là Quy, Mô là Mạng, A là Vô, Di là Lượng, Đà là Thọ, Phật là Giác, tức là nói Quy Mạng Vô Lượng Thọ Giác, đây là đối chiếu giữa tiếng Phạm và tiếng Hán thì có nghĩa như thế. Ở đây nói Vô Lượng Thọ là pháp. Giác là người, người và pháp gọi chung, nên gọi là
A-di-đà Phật.
Lại nói người và pháp, là cảnh sở quán, có hai ý:
1. Y báo: Chia làm ba phần:
Nói về sự trang nghiêm dưới đất: Tức là tất cả các cột báu, ánh sáng chiếu sáng lẫn nhau v.v...
Nói về sự trang nghiêm trên đất: Tức tất cả đất báu, ao rừng, lầu báu, cung điện v.v...
a. Nói về sự trang nghiêm trên hư không: Tức là tất cả biến hóa như cung điện, lưới hoa, mây báu, các loại chim biến hóa, gió thổi, ánh sáng, lay động phát ra tiếng nhạc. Như trước đã có nói ba thứ khác nhau, tất cả đều là tướng tốt chân thật vô lậu ở cõi Tịnh độ của Đức Phật A-di-đà, đây là tổng kết sự trang nghiêm về y báo.
Lại nói y báo, từ quán mặt trời v.v... trở xuống, cho đến quán tòa hoa là nói chung về y báo, trong phần y báo này cũng có chung, có riêng.
Nói về riêng, chỉ có pháp quán tòa hoa, đó là biệt y, chỉ thuộc về Phật Di-đà, còn sáu pháp quán còn lại ở trên đều thuộc về thông y, tức là thuộc về các bậc Phàm thánh trong pháp giới, nhưng hễ được vãng sinh thì cùng thọ dụng, do đó mà gọi là chung.
Lại, trong sáu pháp quán này có chân, có giả. Nói giả y tức là tưởng, mặt trời tưởng, nước, tưởng băng... Đó là giả y, cũng tương tự như các cảnh tượng trong thế giới này.
Còn nói về chân y, tức là từ đất lưu ly trở xuống cho đến các quán lầu báu, đó gọi là chân y, do đó mà chân bảo vô lậu ở thế giới Cực lạc có thể thấy được cảnh tướng.
1. Chánh báo: có hai:
a. Nói về chủ trang nghiêm, tức là Phật A-di-đà.
b. Nói về Thánh chúng trang nghiêm, tức là Thánh chúng hiện tại và các chúng sinh trong mười phương được vãng sinh về thế giới Cực lạc, lại trong phần chánh báo này cũng có chung, có riêng.
Nói về riêng, tức là chỉ cho Đức Phật A-di-đà và trong phần riêng này cũng có chân, có giả. Nói về giả chánh báo, tức là chỉ cho quán tượng thứ tám, như ngài Quán Âm, Thế Chí... cũng vậy. Chúng sinh ở cõi Ta-bà vì nghiệp chướng quá sâu dày, tâm tánh bị nhiễm ô quá sâu nặng. Đức Phật sợ chúng sinh không dễ gì nhận chân được, thì không thể nào hiển bày trí tuệ, do đó Ngài phải giả lập chân tượng để an trụ tâm tưởng, đồng với Phật A-di-đà, vì chứng cảnh nên gọi là giả chánh báo.
Nói về chân chánh báo, là chỉ cho quán chân thân thứ chín, ở đây do sự giả lập ở trước, mà dần dần ngăn dứt loạn tưởng, mắt tâm được mở, từ đó mà thấy được y báo và chánh báo, thanh tịnh của cõi nước Cực lạc kia về phần thô và cũng dần dần trừ được các chướng hoặc mê muội, do trừ được chướng nên được thấy cảnh tướng chân thật của cõi Cực lạc.
Nói về chánh báo chung, tức là Quán Âm, Thế Chí v.v... trở xuống... Trên đây đã nói về chung riêng, chân giả, mục đích là để giải thích rõ về y báo và chánh báo.
Nói quán tức là chiếu soi, thường dùng cánh tay tín tâm thanh tịnh để gìn giữ ánh sáng trí tuệ, để chiếu soi y báo và chánh báo của Đức Phật A-di-đà.
Nói kinh: Kinh là đường dọc, kinh (sợi dọc) có công năng giữ gìn vĩ (sợi ngang) mà dệt thành tấm vải, có công dụng của xấp vải, kinh có công năng duy trì Phật pháp, lý sự tương ưng, định hay tán tùy căn cơ nhưng ý nghĩa của kinh vẫn không sai lệch, kinh là con đường để dẫn dắt người tu tập, nghĩa là người tu tập phải nhờ vào nhân duyên giáo hạnh, nương vào nguyện để vãng sinh, chứng được pháp lạc vô vi kia, khi đã được sinh về cõi Cực lạc thì không còn gì để lo sợ, lúc nào cũng khởi hạnh Bồ-đề, chứng được pháp thân thường trú, thí như hư không, có khả năng mang lại ích lợi, nên gọi là Kinh.
Nói một quyển, bộ "Quán Kinh" này tuy nói là do hai hội chánh thuyết, nhưng tổng cộng chỉ thành một, do đó mà nói "Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ Quán", một quyển.
III. Giải thích Đại giáo, Tiểu giáo có tông chỉ khác nhau.
Như Kinh Duy-ma lấy bất khả tư nghị giải thoát làm tông, kinh Đại Phẩm lấy không tuệ làm tông, các kinh đều như thế, chẳng phải một. Nay Quán kinh này, lấy tam-muội Quán Phật làm tông, cũng lấy tam-muội Niệm Phật làm tông, nhất tâm hướng nguyện vãng sinh Tịnh độ làm thể.
Nói về Đại giáo, Tiểu giáo.
Hỏi: Kinh này thuộc về tạng nào trong hai tạng? Thuộc giáo nào trong hai giáo?
Đáp: Quán kinh này thuộc về tạng Bồ-tát và cũng thuộc Đốn giáo.
IV. Giải thích về người nói khác nhau. Khởi thuyết các kinh không ngoài năm loại:
1. Đức Phật nói.
2. Đệ tử Phật nói.
3. Trời tiên nói.
4. Quỷ thần nói.
5. Người biến hóa nói. Kinh này do Đức Phật tự nói. Hỏi: Đức Phật nói ở đâu? và nói cho ai nghe?
Đáp: Đức Phật nói cho Vy-đề-hy và các người khác nghe tại cung vua.
V. Phân biệt hai môn định và tán, gồm có sáu phần:
1. Nói về người thưa hỏi tức là bà Vy-đề-hy.
2. Nói về người được thưa hỏi tức là Đức Thế tôn.
3. Nói về người nói, tức là Đức Như lai.
4. Nói về pháp được nói, tức là định thiện tán thiện và mười sáu pháp quán.
5. Nói về người thực hành, tức là Đức Như lai.
Nói về pháp được thực hành, tức là bà Vy-đề-hy v.v... Hỏi: Định thiện và Tán thiện do ai hỏi và ái nói?
Đáp: Môn Định thiện là do Vy-đề-hy thưa hỏi, còn môn tán thiện là do Đức Phật tự nói.
Hỏi: Chẳng hay định thiện và tán thiện xuất xứ từ văn kinh nào?
Mà nay giáo pháp đầy đủ không luống dối, căn cơ nào được thọ trì?
Đáp: Giải thích có hai nghĩa:
1. Hạng người chê bai chánh pháp và không có lòng tin, những người bị rơi vào tám nạn, hoặc phi nhân, các hạng người đó không thể thọ trì được. Cũng như gỗ mục, hoặc đá chai, không thể có ngày lớn lên, các loại chúng sinh ở trên cũng vậy, không thể tín nhận được chánh pháp. Ngoài các chúng sinh này, có những chúng sinh muốn được vãng sinh nhất tâm ưa thích tin tưởng, mong được vãng sinh, trên thì suốt cuộc đời, dưới thì thu nhiếp trong mười niệm, nương vào nguyện lực của Phật, thì bất cứ ai cũng được vãng sinh, đến đây đã giải thích về ý nghĩa các căn cơ nào được thọ trì chánh pháp.
2. Kế là dẫn chứng xuất xứ từ kinh nào, cũng có chung có riêng. Nói về chung có ba nghĩa khác nhau, đó là:
- Từ Vy-đề-hy bạch Phật: Cúi mong Phật nói rộng cho con nghe chỗ nào không có lo buồn khổ não là Vyđề-hy nêu tâm, tự vì mình mà thưa hỏi chung về những điều mong cầu.
- Từ cúi mong Phật dạy con quán nghiệp xứ thanh tịnh là Vy-đề-hy tự vì mình thưa hỏi Đức Thế tôn phải tu hành như thế nào.
- Từ Đức Thế tôn hiện rõ các cõi nước tức là Đức Thế tôn đáp lời thưa hỏi ở trước là nói rộng cho con nghe, có ba nghĩa khác nhau, đáp chung ở trước đã xong.
Nói riêng thì có hai nghĩa:
- Từ Vy-đề-hy bạch Phật: Nay con rất muốn được sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà tức là bà Vy-đề-hy tự vì mình chọn riêng cõi nước mình muốn.
- Từ cúi xin Đức Thế tôn dạy con tư duy, dạy con phương pháp chánh thọ là Vy-đề-hy tự vì mình thưa hỏi cách tu hành riêng, có hai nghĩa khác nhau, riêng ở trên đã xong.
Từ đây v.v... trở xuống trả lời tuần tự về ý nghĩa định thiện và tán thiện.
Hỏi: Thế nào là định thiện? Thế nào là tán thiện?
Đáp: Mười ba pháp quán từ quán mặt trời trở xuống thuộc về định thiện. Ba phước chín phẩm thuộc về tán thiện.
Hỏi: Trong định thiện có gì khác nhau? Và xuất xứ từ văn kinh nào?
Đáp: Xuất xứ từ câu kinh "Dạy con tư duy, dạy con chánh thọ". Về khác nhau thì có hai nghĩa:
- Tư duy.
- Chánh thọ.
Tư duy tức là quán phương tiện ở trước, tức là phải quán tưởng tướng chung và tướng riêng của y báo và chánh báo ở thế giới Cực lạc. Trong văn Quán đất có chép: Nếu tưởng như thế gọi là thấy cõi nước Cực lạc, về phần thô. Tức là hợp với câu "Dạy con tư duy" ở trên. Nói chánh thọ, tức là mọi tâm tưởng đều dừng nghĩ, duyên tự đều quên, tương ưng với tam-muội, đó gọi chính là thọ. Theo văn Quán đất chép: Thấy cõi nước kia phân minh rõ ràng, tức hợp với một câu "Dạy con chánh thọ" ở trên. Định tán có hai nghĩa khác nhau, đến đây đã trả lời chung các câu hỏi ở trên xong.
Xưa nay, các Luật sư giải thích cũng có chỗ khác nhau, các Ngài đều cho rằng, hợp ba thứ phước và chín phẩm thì gọi là Tán thiện, chánh thọ hợp với mười sáu pháp quán thì gọi là Định thiện, nếu cho như vậy thì cảm thấy bất ổn, vì sao? Vì như trong kinh Hoa Nghiêm chép: Tư duy chánh thọ là tên khác của tam-muội, đồng với văn Quán đất này, dùng văn này để chứng minh, há không phải chung cho tán thiện hay sao? Lại từ trên đến đây bà Vy-đề-hy thưa hỏi, chỉ nói dạy con quán nghiệp xứ thanh tịnh, dưới đây lại thưa hỏi Đức Thế tôn dạy cho con tư duy chánh thọ, tuy có hai lần thưa hỏi, nhưng mục đích chỉ thưa hỏi về Định thiện. Lại, văn tán thiện thì không thưa hỏi nhưng Đức Thế tôn tự khai mở để chỉ dạy, kế nữa trong văn nói về tán thiện dưới đây chép: Cũng giúp cho tất cả phàm phu đời vị lai v.v... trở xuống, tức là văn này.
VI. Hòa hợp các kinh luận trái nhau, nêu ra nhiều câu hỏi đáp, để giải thích, mục đích là để phá trừ các nghi ngờ của mọi người. Trong đó có sáu phần:
1. Trước là y cứ vào các pháp sư giải thích ý nghĩa chín phẩm.
2. Dùng đạo lý để phá trừ nghi ngờ.
3. Lại nêu chín phẩm để phản đối, phá trừ.
4. Nêu văn để chứng minh xác định là phàm phu, không phải bậc Thánh.
5. Hội thông ý biệt thời.
6. Hội thông nghĩa bất sinh của Nhị thừa.
Ban đầu nói các Đại sư giải thích, trước nêu ba phẩm bậc thượng.
Nói Thượng thượng, là chỉ cho các Bồ-tát từ Tứ địa đến Thất địa làm sao biết như vậy? Vì các vị đã đến địa vị đó đã đạt được Vô sinh nhẫn.
Bậc Thượng trung gồm các Bồ-tát từ Sơ địa đến Tứ địa làm sao biết được? Vì các vị đã đến địa vị đó trải qua một tiểu kiếp nữa sẽ được Vô sinh nhẫn.
Bậc Thượng hạ, là những vị Bồ-tát có chủng tánh trở lên đến Sơ địa làm sao biết được? Vì những vị đã đến địa vị đó phải trải qua ba tiểu kiếp nữa mới nhập vào Sơ địa. Cả ba hạng người này, đều thuộc về địa vị bậc Thánh của Đại thừa.
Kế là nói về ba phẩm thuộc bậc trung, các Đại sư cho rằng:
Bậc Trung thượng là các vị đã được ba quả, làm sao biết được? Vì những vị đến địa vị đó đã chứng quả A-lahán.
Bậc Trung trung, là nội phàm, làm sao biết được? Vì những vị đến địa vị đó đã chứng quả Tu-đà-hoàn.
Bậc Trung hạ, là những vị phàm phu chân thiện trong thế gian, chán khổ cầu sinh Tịnh độ, làm sao biết được? Vì những vị đó trải qua một tiểu kiếp nữa sẽ chứng quả A-la-hán.
Cả ba bậc này, đều thuộc về bậc Thánh Tiểu thừa.
Ba phẩm bậc hạ là chỉ cho phàm phu mới học Đại thừa, tùy theo tội lỗi nặng nhẹ mà chia thành ba phẩm, cùng chung một địa vị, cầu nguyện vãng sinh, nhưng chưa hẳn là được.
Thứ hai là dùng đạo lý để phá trừ sự nghi ngờ, ở trên nói các vị Bồ-tát từ Sơ địa đến Thất địa, như kinh Hoa Nghiêm nói, từ Sơ địa trở lên, Thất địa v.v... trở xuống thuộc về Pháp tánh sinh thân, biến dịch sinh thân, các vị này không còn bị khổ phần đoạn. Nói về công dụng thì đã trải qua song tu phước tuệ trải qua hai Đại a-tăng-kỳ kiếp, người pháp đều không, bất khả tư nghì, thần thông tự tại, bao trùm khắp nơi, thân ở báo độ, thường nghe báo thân Phật nói pháp, dùng tâm Từ bi để hóa độ chúng sinh trong mười phương, chỉ trong chốc lát đã đi cùng khắp thì còn lo buồn việc gì?
Nay nhờ bà Vy-đề-hy thưa hỏi Phật việc cầu sinh về thế giới Cực lạc, dùng văn trên để chứng minh lời các luận sư nói, há không phải là sai lầm ư?
Bậc Thượng hạ tức là ở trên nói từ chủng tánh đến Sơ địa, chưa hẳn đã như thế, như kinh nói, các vị Bồ-tát này gọi là không lui sụt, thân tuy ở trong sinh tử nhưng không bị sinh tử làm nhiễm ô, ví như vịt và ngỗng ở dưới nước nước không thể thấm vào thân. Như kinh Đại Phẩm chép: "Bồ-tát ở giai vị này nhờ được hai loại chân thiện tri thức che chở nên không bị lui sụt". Vì sao?
1. Nhờ Chư Phật trong mười phương.
2. Nhờ các đại Bồ-tát trong mười phương. Các Ngài thường dùng ba nghiệp che chở các pháp lành, làm cho không bi lui sụt, nên gọi là địa vị không lui sụt, các vị Bồ-tát này cũng có khả năng thực hành tám tướng thành đạo, giáo hóa chúng sinh, nếu nói về công hạnh, thì phải trải qua một đại a-tăng-kỳ kiếp chuyên tu phước đức trí tuệ, đã có được công đức cao quý như thế rồi thì còn lo buồn việc gì? Nhờ Vy-đề-hy thưa hỏi việc cầu sinh, dùng văn này để chứng minh, cho nên biết các Đại sự phân tích bị sai lầm, đây là trách bậc thượng đã xong, kế là trách ba bậc trung, các Đại sư cho rằng bậc trung thượng đạt được ba quả thì họ không bao giờ còn bị đọa trong ba đường ác, không sinh vào bốn đường, hiện tại tuy gây ra tội nghiệp, nhưng chắc chắn họ không nhận lấy quả báo ở đời vị lai. Như Phật dạy rằng: Người đã chứng được bốn quả này cùng ngồi tòa giải thoát với Như lai. Người đã có được công đức như thế thì còn lo buồn việc gì? Nay do Vy-đề-hy thưa hỏi Phật về con đường vãng sinh. Chư Phật vì lòng đại Từ bi đối với những người đang đau khổ đắm chìm trong biển sinh tử, mà khởi tâm thương xót, khuyến mọi người nên tu tập để vãng sinh về Tịnh độ, ví như có người đang chìm dưới nước, phải cấp tốc cứu vớt họ lên. Những người ở trên bờ thì cần gì phải cứu? Dùng văn này để chứng minh cho nên biết các Đại sư phân tích nghĩa cũng bị sai lầm như trước, v.v... trở xuống có thể biết.
Thứ ba là lại nêu chín phẩm để phản đối bác bỏ. Các Đại sư nói rằng bậc Thượng phẩm thượng sinh là các Bồ-tát từ địa thứ tư đến địa thứ bảy. Vì sao? Vì Quán kinh chép: "Có ba thứ chúng sinh sẽ được vãng sinh, ba thứ chúng sinh ấy là:
1. Người giữ giới tu từ.
2. Người không giữ giới, tu từ, chỉ đọc tụng kinh điển Đại thừa.
3. Người không giữ giới, không tụng kinh, chỉ Niệm Phật, Pháp, tăng".
Cả ba hạng người này, nếu siêng năng tinh tấn trong một ngày một đêm, đến bảy ngày bảy đêm Niệm Phật nối nhau không dứt, hồi hướng nghiệp lành mình đã làm để cầu vãng sinh, đến lúc sắp qua đời, sẽ được Phật Adi-đà và hóa Phật, Bồ-tát đại chúng phát ra ánh sáng duỗi tay dẫn dắt, chỉ trong thời gian búng ngón tay liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc? Dùng văn trên này để chứng minh sau khi Phật Niết-bàn thì các phàm phu thượng phẩm của Đại thừa cực thiện ngày càng ít, nhưng tạo nghiệp thì quá nhiều, làm sao mà xếp ngang bằng với các bậc Thánh? Nếu các Bồ-tát từ địa thứ tư đến địa thứ bảy trở lên nói về công dụng thì không thể sánh bằng, đâu thể nhờ vào việc lành từ một ngày đến bảy ngày mà được trao đài hoa, duỗi tay đón rước vãng sinh? Đây là phản đối bậc Thượng thượng.
Kế là đối với bậc Thượng trung, các Đại sư cho là Bồ-tát từ địa thứ nhất đến địa thứ tư trở lên. Vì sao? Vì Quán Kinh chép: Không cần thọ trì Đại thừa. Vì sao nói không cần? Vì có đọc tụng hay không đọc tụng, cũng không cần thiết, quan trọng nhất là người tu có hiểu được ý kinh hay không mà thôi, chứ không luận về sự đọc tụng nhiều hay ít.
Lại nói rằng: "Người nào tin sâu nhân quả, không chê bai Đại thừa, hồi hướng gốc lành đó nguyện cầu vãng sinh, đến lúc sắp qua đời sẽ được Đức Phật A-diđà và hóa Phật, Bồ-tát, đại chúng cùng đến đón rước, liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc". Dùng văn này để chứng minh cũng là sau khi Phật Niết-bàn, người phàm phu Đại thừa hạnh nghiệp yếu kém, nên giúp cho lúc sắp qua đời việc đón rước có khác, nhưng các Bồ-tát từ địa thứ nhất đến địa thứ tư trở lên, nói về công dụng như kinh Hoa Nghiêm thì đó là không thể bàn đến, há phải nhờ Vy-đề-hy thưa hỏi Đức Phật mới được vãng sinh? Do đó mà phản đối bậc Thượng trung.
Tiếp đến là đối với bậc Thượng hạ, các Đại sư nói đó là các vị Bồ-tát chủng tánh trở lên đến Sơ địa, vì sao Quán kinh nói cũng tin nhân quả, vì sao cũng tin? Vì hoặc tin hoặc không tin, nên gọi là cũng.
Lại nói không chê bai Đại thừa, chỉ phát đạo tâm vô thượng, chỉ một câu này dùng làm chánh nghiệp, không còn điều lành nào khác, nếu hồi hướng một hạnh này cầu nguyện vãng sinh, thì lúc sắp qua đời sẽ được Đức Phật A-di-đà và các hóa Phật, Bồ-tát đại chúng cùng đến đón rước, liền được vãng sinh. Dùng văn này để chứng minh, chỉ vì sau khi Phật Niết-bàn, tất cả các chúng sinh phát tâm Đại thừa, nhưng do hạnh nghiệp không được mạnh, nên lúc sắp qua đời việc Chư Phật và Bồ-tát đến tiếp dẫn có khác nhau. Nếu nói về thế lực của các vị Bồ-tát ở địa vị này thì tùy ý vãng sinh về các Tịnh độ trong mười phương, đâu cần phải nhờ sự thưa hỏi Phật của Vy-đềhy và Đức Phật khuyên vãng sinh về thế giới Cục lạc? Đây là phản đối bậc Thượng hạ. Tức ba phẩm này khi qua đời có sự khác nhau.
Thế nào là khác?
Bậc Thượng thượng lúc sắp qua đời, thì được Đức Phật A-di-đà và vô số hóa Phật cùng đến đón rước, bậc Thượng trung lúc sắp qua đời cũng được Đức Phật và một ngàn vị hóa Đức Phật cùng đến đón rước.
Bậc thượng hạ lúc sắp qua đời sẽ được Đức Phật Adi-đà và năm trăm hóa Phật cùng đến đón rước, do nghiệp lực có mạnh hay yếu, mà sự vãng sinh có khác nhau.
Dưới đây là đối với ba bậc Trung. Các Đại sư cho rằng bậc Trung thượng thuộc về ba quả của Tiểu thừa. Vì sao, trong Quán kinh chép: "Nếu chúng sinh nào thọ trì năm giới, tám giới, tu hành các giới, không gây ra năm tội nghịch, không gây ra các tội lỗi khác, thì đến lúc sắp qua đời sẽ được Đức Phật A-di-đà cùng các thánh chúng Tỳ-kheo phát ra ánh sáng nói pháp, hiện đến trước mặt, người ấy thấy rồi liền được vãng sinh?" Dùng văn này để chứng minh thì cũng sau khi Phật nhập Niết-bàn, vì sao người phàm phu giữ giới Tiểu thừa, lại là bậc Tiểu thánh?
Bậc Trung trung, theo các Đại sư nói là: Kẻ phàm phu kiến đạo trở xuống, vì sao Quán kinh chép: "Người chỉ trì giới một ngày một đêm rồi hồi hướng nguyện vãng sinh, đến lúc sắp qua đời, thấy Phật liền được vãng sinh?" Dùng văn này để chứng minh thì đâu được gọi là hàng Nội phàm? Nhưng vì sau khi Phật nhập Niết-bàn, không có thiện phàm phu, tuổi thọ ngắn ngủi, gặp được duyên nhỏ, được trao truyền tiểu giới, hồi hướng nguyện cầu vãng sinh, nhờ vào nguyên lực của Phật, sẽ được vãng sinh, nếu nói về bậc tiểu thánh qua đời cũng không ngại, nhưng ở đây Quán kinh Đức Phật nói cho phàm phu nghe, không liên quan gì đến các bậc Thánh.
Bậc Trung hạ, các Đại sư cho rằng: Hàng nội phàm của Tiểu thừa trở xuống, hàng phàm phu của thế tục chỉ tu phước thế gian để cầu ra khỏi, vì sao Quán kinh lại nói: "Nếu có chúng sinh nào hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, làm việc nhân từ thế gian, đến lúc sắp qua đời, gặp được các vị thiện tri thức nói cho nghe sự vui ở thế giới Cực lạc, bốn mươi tám lời nguyện... người này nghe xong, liền được vãng sinh về Cực lạc. Dùng văn này để chứng minh, chỉ sợ không gặp được người biết Phật pháp, tuy có thực hành hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, cũng không có tâm mong cầu ra khỏi, nếu lúc sắp qua đời gặp được thiện tri thức, khích lệ vãng sinh, người này nhờ sự khuyến khích ấy mà hồi tâm, thì liền được vãng sinh. Lại, người này khi còn sống tự nhiên làm việc hiếu, cũng không phải vì cầu ra khỏi mà thực hành hiếu đạo.
Dưới đây là đối với ba bậc hạ. Các Đại sư cho rằng các hạng người này thuộc về phàm phu mới học Đại thừa, tùy theo tội nặng nhẹ mà chia thành ba phẩm, những người chưa có đạo vị, khó phân biệt thứ bậc, mới nói không phải như thế. Vì sao? Vì Ba hạng người này là những người không có hai thứ gốc lành của thế tục và Phật pháp, họ chỉ biết làm ác. Làm sao biết? Vì như văn nói về bậc hạ thượng, có nói chỉ cần không gây ra năm tội nghịch và chê bai chánh pháp, còn các điều lỗi ác khác đều phạm đủ cả, mà không sinh hổ thẹn. Đến lúc sắp qua đời gặp được thiện tri thức, được thiện tri thức nói pháp Đại thừa cho nghe, dạy người đó xưng một tiếng Phật. Bấy giờ, Đức Phật A-di-đà liền sai hóa Phật, Bồ-tát đến đón rước người này, và được vãng sinh. Nhưng như người ác này gặp mọi việc đều như thế, nếu gặp được duyên lành, thì liền được vãng sinh, nếu không gặp được duyên lành, thì chắc chắn sẽ đi vào ba đường ác, không được ra khỏi.
Bậc Hạ trung, hạng người này trước đây tuy có thọ giới của Phật nhưng thọ rồi không tu trì, mà hủy phá, lại còn trộm cắp vật của thường trụ tăng, vật của hiện tiền tăng và nói pháp bất tịnh lại không bao giờ sinh tâm hổ thẹn, đến lúc sắp qua đời, thì lửa dữ địa ngục cùng đến một lúc, hiện ra trước mặt người ấy, khi vừa thấy lửa thì được gặp thiện tri thức, nói cho nghe công đức của cảnh giới Cực lạc, khuyên người đó vãng sinh. Người này nghe rồi liền được thấy Phật, vãng sinh theo Phật. Nếu như ban đầu không gặp được thiện tri thức thì lửa địa ngục sẽ đón rước, còn nếu gặp được thiện tri thức thì hóa Phật đến tiếp dẫn, đây là hoàn toàn nhờ vào nguyện lực của Đức Phật A-di-đà.
Bậc hạ hạ, các chúng sinh này gây ra nghiệp bất thiện, năm tội nghịch, mười điều ác, đủ các việc bất thiện, do gây ra các nghiệp ác như cho nên người này chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục, nhiều kiếp không cùng tận. Đến lúc sắp qua đời, nếu gặp được thiện tri thức, dạy xưng hiệu Phật A-di-đà, khuyên cầu vãng sinh, người này y vào lời dạy đó mà Niệm Phật, nhờ Niệm Phật mà được vãng sinh, nếu người này không gặp được thiện tri thức thì chắc chắn sẽ đắm chìm, nhờ lúc sắp qua đời gặp được thiện tri thức, nên được bảy báu đến rước.
Lại, xét Định thiện và ba bậc Thượng và Hạ của Quán kinh này thì tất cả đều cách Đức Phật Niết-bàn đã lâu, các phàm phu sống trong cõi đời có năm thứ vẩn đục thì chỉ nhờ gặp nhân duyên khác nhau mà giúp cho có chín phẩm khác nhau. Vì sao? Vì ba bậc Thượng thì sẽ gặp đại phàm phu. Ba bậc trung thì gặp tiểu phàm phu.
Ba bậc hạ sẽ gặp ác phàm phu, do nghiệp ác cho nên khi qua đời phải nhờ vào thiện tri thức, nương vào nguyện lực của Đức Phật A-di-đà, mới được vãng sinh. Đến lúc được sinh về cõi Cực lạc, khi hoa nở mới bắt đầu phát tâm, làm sao gọi là người mới học Đại thừa được? Nếu hiểu như thế thì đã hiểu lầm và có hại rất lớn. Nay mỗi điều đều nêu văn để làm chứng, đời nay do các phàm phu làm cả điều thiện, ác đều được sinh về chín phẩm, phát khởi lòng tin không nghi ngờ, nương vào nguyện lực của Phật, đều được vãng sinh.
Thứ tư là nêu để làm bằng chứng.
Hỏi: Các ý nghĩa phản đối trên đây làm sao biết được Đức Thế tôn nhất định cho là phàm phu, không phải bậc
Thánh, chẳng biết là xét theo nghĩa nhân tình làm chuẩn mực, hay có thánh giáo để làm chứng?
Đáp: Chúng sinh vì nghiệp và phiền não quá nặng, còn trí tuệ thì cạn cợt, hơn nữa thánh giáo thì quá sâu rộng, làm sao tự mình quyết đoán được? Do đó hôm nay phải dựa vào lời dạy của Đức Phật để làm chứng, có mười câu để làm chứng gồm:
1. Như trong Quán kinh có nói Phật bảo Vy-đề-hy: "Nay Như lai nói rộng cho phu nhân nghe về những lời thệ nguyện rộng lớn của Đức Phật A-di-đà và cũng để giúp cho các phàm phu ở đời vị lai muốn tu tịnh nghiệp nương vào đây để tu tập, sẽ được vãng sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A-di-đà. "
2. Nay Như lai vì tất cả các chúng sinh ở đời vị lai, bị các giặc phiền não làm tổn hại mà nói về nghiệp thanh tịnh.
3. Hôm nay Đức Như lai dạy cho Vy-đề-hy và tất cả các chúng sinh ở đời vị lai quán thế giới Cực lạc ở Tây phương.
4. Vy-đề-hy bạch Phật: "Nay con nhờ thần lực của Phật mà nhìn được thấy thế giới Cực lạc, nếu sau khi Phật diệt độ, các chúng sinh vẩn đục bất thiện, bị năm khổ ép ngặt, thì làm sao được thấy cõi nước của Đức Phật A-di-đà?"
5. Như trong pháp quán mặt trời, đầu tiên có nói Đức Phật bảo Vy-đề-hy: "Ngươi và chúng sinh chuyên niệm v.v... trở xuống cho đến tất cả chúng sinh tự mình không phải người mù bẩm sinh, nghĩa là người có mắt thì đều thấy được mặt trời.
6. Trong pháp quán đất có nói Đức Phật bảo A-nan: "Ông hãy gìn giữ lời Phật giảng nói pháp quán đất này cho tất cả chúng sinh muốn được thoát khổ ở đời vị lai nghe.
7. Trong pháp quán tòa hoa có nói bà Vy-đề-hy bạch Phật: "Nay con nhờ vào thần lực Phật mà thấy được Đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát, còn chúng sinh ở đời vị lai làm sao thấy được?"
8. Sau đó v.v... trở xuống là đáp lời Vy-đề-hy thưa hỏi. Phật bảo Vy-đề-hy: "Nay phu nhân và chúng sinh muốn thấy Đức Phật A-di-đà thì nên khởi tưởng niệm. " 9. Trong pháp quán tượng có chép: Đức Phật bảo Vy-đề-hy: "Chư Phật, Như lai nhập vào tâm tưởng của tất cả chúng sinh, cho nên khi tâm các vị tưởng Phật. "
10. Như trong chín phẩm, mỗi phẩm đều nói vì các chúng sinh.
Trên đây tuy có mười câu khác nhau để chứng minh Như lai nói mười sáu pháp quán này, nhưng vì chúng sinh thường bị đắm chìm trong sinh tử, không thể đắc quả vị Thánh, dùng văn này để làm chứng, chẳng lẽ là sai lầm hay sao!
Thứ năm là Hội thông về ý của biệt thời. Phần này cũng có hai:
1. Luận chép: "Nếu người niệm Đức Phật Đa Bảo thì người đó chắc chắn đắc được quả Bồ-đề Vô thượng, không bao giờ lui sụt". Ở đây nói Bồ-đề cũng là một danh từ chỉ cho quả Phật, cũng là đạo lý chánh báo, là pháp để thành Phật, nếu chúng sinh nào muốn tu muôn hạnh được viên mãn, phải thực hành pháp này mới thành tựu được, đâu phải chỉ tu hạnh Niệm Phật mà mong thành tựu được, không bao giờ có việc ấy.
Tuy nói chưa chứng trong muôn hạnh, đó là nói một hạnh. Vì sao ta biết được? Vì như kinh Hoa Nghiêm có nói Tỳ-kheo Công Đức nói với đồng tử Thiện tài rằng: "Ta ở trong biển tam-muội của Phật pháp, chỉ biết một hạnh duy nhất, đó là tam-muội Niệm Phật. Dùng văn này làm chứng, há không phải một hạnh trong muôn hạnh hay sao? Tuy là một hạnh nhưng đối với vấn đề sinh tử, cho đến thành Phật, cũng không bao giờ lui sụt, do đó mà gọi là bất đọa. "
Hỏi: Nếu thế thì kinh Pháp Hoa chép: "Một câu xưng Nam-mô Phật, đều đã thành Phật đạo", cũng đã thành Phật rồi, hai đoạn văn này có gì khác nhau không?
Đáp: Trong luận nói xưng danh hiệu Phật là chỉ muốn tự mình thành quả Phật, còn trong kinh nói xưng danh hiệu Phật là để phân biệt khác với chín mươi lăm thứ ngoại đạo, nhưng trong các phái ngoại đạo đều không có người nào xưng niệm danh hiệu Phật, nếu bảo họ xưng danh hiệu Phật một câu thì thuộc về người trong đạo Phật. Do đó mà kinh Pháp Hoa nói như vậy.
2. Trong luận có nói nếu người chỉ nhờ phát nguyện vãng sinh về cõi An lạc, lâu nay tuy họ là một nhà giải thích luận, nhưng không hiểu ý luận, do sai lầm mà dẫn đến xưng niệm danh hiệu Phật mười hơi mà được vãng sinh vào hạ phẩm hạ sinh, thì tương tự với ở đây, chưa được vãng sinh.
Như một đồng tiền vàng mà được thành một ngàn đồng tiền vàng, thì nhiều ngày mới được không phải một ngày mà được, xưng niệm danh hiệu Phật mười hơi cũng giống như vậy, chỉ làm nhân xa cho việc vãng sinh, cho nên chưa được vãng sinh. Phật vì phàm phu vào đời sau muốn họ bỏ ác xưng niệm danh hiệu Phật, dối gạt dẫn dắt chúng sinh thì thật khó được vãng sinh.
Gọi là ý của biệt thời, vì sao kinh A-di-đà có nói Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: "Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào được nghe nói về Đức Phật A-di-đà thì nên chấp trì danh hiệu, từ một ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm nguyện vãng sinh, đến lúc sắp qua đời, thì sẽ được Đức Phật A-di-đà và các thánh chúng đến đón rước vãng sinh". Kế là trong mười phương, mỗi phương đều có các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng, mỗi vị đều xuất ra chiếc lưỡi rộng dài, trùm khắp cả Tam thiên Đại thiên thế giới mà nói lời thành thật rằng: "Chúng sinh các vị đều nên tin kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm này". Hộ niệm, tức là văn trên nói xưng danh hiệu Phật từ một ngày cho đến bảy ngày, nay đã có thánh giáo để làm minh chứng, vì chưa hiểu tất cả các hạnh cho nên không biết ý như thế nào, nếu nói về phàm phu thấp kém, thì chỉ dốc hết lòng tin mà thọ trì, vì những lời của Chư Phật nói ra đều chân thật, không luống dối. Thật là khổ! Khi phải nói ra những lời bất nhẫn như thế. Tuy nhiên cúi mong tất cả các vị tri thức muốn được vãng sinh, thì nên khéo léo tự mình suy lường. Thà bị tổn hại trong đời này chứ không bao giờ tin sai lời Phật dạy? Đừng cố chấp vào luận lý của các vị Bồ-tát cho là kim chỉ nam. Nếu cứ y chấp vào đó tức là tự mình lầm lại làm cho người khác lầm.
Hỏi: Vì sao khởi hạnh mà nói không được vãng sinh?
Đáp: Nếu người nào muốn vãng sinh thì hạnh nguyện phải đầy đủ mới được vãng sinh, nay trong phần luận này chỉ nói về sự phát nguyện, chứ không nói về hạnh.
Hỏi: Vì sao không nói?
Đáp: Dù chỉ một niệm cũng không hề để tâm, cho nên không nói. Hỏi: Ý nghĩa của hạnh và nguyện có gì khác nhau?
Đáp: Như trong kinh nói, chỉ có hạnh ấy, hạnh tức là riêng khác, cũng không có chỗ đến. Chỉ có nguyện, nguyện tức là rỗng không, cũng có chỗ đến, do đó hạnh và nguyện phải hợp nhau, đó là điều mà ta phải hiểu rõ, do đó trong luận này chỉ nói về sự phát nguyện, chứ không nói về hạnh, do đó mà chưa được vãng sinh, chỉ làm nhân xa cho việc vãng sinh, nghĩa ấy chân thật.
Hỏi: Vì sao nói ý nguyện không được vãng sinh?
Đáp: Khi nghe người khác nói ở phương Tây vui sướng không gì sánh bằng, thì liền khởi nguyện nói rằng nay tôi cũng muốn được vãng sinh nhưng khi vừa nói lời đó rồi thì ý nguyện đó không nối tiếp, cho nên gọi là Nguyện. Nay trong Quán kinh này nói xưng niệm danh hiệu Phật mười hơi thì đã có đầy đủ mười nguyện mười hạnh, vì sao đầy đủ? Vì xưng Nam-mô, tức là quy mạng, cũng có nghĩa là phát nguyện hồi hướng, xưng A-di-đà Phật, tức là hạnh, dựa vào hai ý nghĩa trên, mà khẳng định người đó sẽ được vãng sinh.
Lại, trong luận có nói người xưng danh hiệu Phật Đa
Bảo là vì cầu quả Phật, tức chính là báo, dưới đây chỉ nói về người phát nguyện cầu sinh Tịnh độ, tức là y báo, một chánh một y, thì có gì là giống nhau? Vì chánh báo thì khó mà thành tựu, mặc dầu siêng tu một hạnh cũng chưa thể đắc được, còn y báo thì dễ cầu, cho nên một nguyện tâm chưa nhập, nhưng thí như biên phương, ném hoa thì dễ mà làm chủ rất khó.
Hôm nay nếu có người phát nguyện muốn vãng sinh, đồng thời là tất cả chúng sinh đều ném hoa há chẳng phải dễ ư? Tức là phải dốc hết thân mạng, hạ thủ công phu Niệm Phật mười hơi, rồi nương vào nguyện lực của Phật thì chẳng ai không được vãng sinh, do đó mà nói là dễ. Nay cũng không thể dùng ngôn từ để định nghĩa những người có lòng tin nhưng còn nghi ngờ, do đó mà phải dẫn chứng bằng những lời thánh giáo, là muốn cho những người nghe bỏ được mê lầm.
Thứ sáu là Hội thông ý nghĩa là nhị hạt giống thừa không được vãng sinh.
Hỏi: Cõi nước của Đức Phật A-di-đà là do quả báo hay do hóa hiện ra?
Đáp: Đó là do quả báo chứ không phải Đức A-di-đà hóa hiện ra, làm sao biết được? Vì trong "Kinh Đại Thừa Đồng Tánh có nói ở phương Tây chắc hẳn là vui, là cõi nước y báo của Đức Phật A-di-đà. Lại, Kinh Vô Lượng Thọ có nói Tỳ-kheo Pháp Tạng vào thời Đức Phật Thế Tự Tại Vương thực hành đạo Bồ-tát, đã phát ra bốn mươi tám lời nguyện, mỗi nguyện đều chép: "Nếu khi tôi thành Phật, mà chúng sinh trong mười phương xưng niệm danh hiệu tôi, muốn sinh về cõi nước tôi, dù chỉ niệm được mười niệm, nếu không được vãng sinh thì tôi không thành Chánh giác". Nay đã thành Phật, tức là để đáp lại nhân đó. Lại, trong Quán kinh chép: "Người thuộc ba bậc thượng khi qua đời đều được Đức Phật Adi-đà và các hóa Phật đón rước, báo thân và hóa thân đều đến duỗi tay dắt dẫn, nên gọi là cùng đón rước. Dùng văn này làm bằng chứng cho nên biết là báo thân.
Nhưng ứng thân và báo thân là tên khác của nhãn mục, trước thì dịch báo thân là ứng thân, sau thì dịch ứng thân là báo thân. Phàm phu nói báo thân, tức là nhân và hạnh không luống dối, chắc chắn sẽ được quả báo, do quả báo ứng với nhân, nên gọi là báo thân. Lại, do trải qua ba đại a-tăng-kỳ kiếp siêng tu muôn hạnh, nên chắc chắn sẽ được Bồ-đề nay đã thành đạo, tức là ứng thân. Ở đây là Chư Phật quá khứ hiện tại lập ra ba thân, ngoài ba thân này không còn thân nào khác. Dù cho không thiếu tám tướng, danh hiệu nhiều như cát bụi, nếu nói về thân thì đều thuộc về hóa thân, nay Đức Phật A-di-đà hiện là báo thân.
Hỏi: Đã gọi báo thân, thì báo thân là thường trụ, không bao giờ có sinh diệt, vì sao trong kinh Quán Âm Thọ Ký chép: "Đức Phật A-di-đà cũng có lúc diệt độ, cũng có lúc nhập Niết-bàn?" Điều này giải thích ra sao?
Đáp: Nghĩa nhập hay không nhập, chỉ là cảnh giới của Chư Phật. Trí của ba thừa cạn cợt còn không thấy biết được thì làm sao các hạng phàm phu tiểu trí biết được? Tuy nhiên nếu người nào muốn biết, dám dẫn kinh Phật để chứng minh vì sao thì như "Phẩm Niết-bàn phi hóa trong Kinh Đại Phẩm" có nói Đức Phật bảo Tubồ-đề: "Ý ông nghĩ sao? Nếu có hóa nhân làm hóa nhân thì hóa nhân này có thật hay không?" Tu-bồ-đề đáp:
Bạch Đức Thế tôn không có! Đức Phật bảo Tu-bồđề:
Sắc tức là hóa, thọ, tưởng, hành, thức tức là hóa, cho đến trí Nhất thiết chủng cũng tức là hóa.
Tu-bồ-đề bạch Phật rằng:
Bạch Đức Thế tôn! Nếu pháp thế gian là hóa, pháp xuất thế gian cũng là hóa, do đó bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Bồ-đề phần, tám phần Thánh đạo, ba môn Giải thoát, mười Năng lực của Phật, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, mười tám pháp Bất cộng, các pháp quả và cả các bậc Hiền thánh, kể cả bậc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, Bíchchi-phật, Đại Bồ-tát, Chư Phật! Bạch Đức Thế tôn đó cũng là pháp hóa ư?
Phật bảo Tu-bồ-đề:
Tất cả pháp đều là hóa, trong pháp đó có pháp Thanh văn biến hóa, có pháp Bích-chi-phật biến hóa, có pháp Bồ-tát biến hóa, có pháp Chư Phật biến hóa, có pháp phiền não biến hóa, có pháp nghiệp nhân duyên biến hóa. Do nhân duyên đó, này Tu-bồ-đề! Tất cả các pháp đều là hóa.
Tu-bồ-đề bạch Phật:
Bạch Đức Thế tôn! Nếu dứt bỏ các phiền não, thì gọi là quả Tu-đà-hoàn, quả A-la-hán, đạo Bích-chi-phật, dứt trừ sự huân tập phiền não, đều là biến hóa phải không?
Phật dạy Tu-bồ-đề:
Nếu tướng pháp sinh diệt thì đều thuộc về biến hóa?
Tu-bồ-đề bạch Phật:
Bạch Đức Thế tôn! Vậy thì pháp nào mới không phải biến hóa? Phật dạy:
Pháp nào không sinh diệt thì pháp đó không phải biến hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật:
Pháp nào không sinh diệt là không phải biến hóa? Phật bảo:
Niết-bàn không có tướng dối gạt là pháp không phải biến hóa. Tu-bồ-đề bạch Phật:
Bạch Đức Thế tôn! Như Đức Phật thường nói các pháp là bình đẳng, không do Thanh văn làm ra, không phải do Bích-chi-phật làm ra, không phải do các vị Đại Bồ-tát làm ra, không phải do Chư Phật làm ra, dù có Phật hay không Phật, thì tánh các pháp cũng thường không, tánh không tức là Niết-bàn. Vì sao pháp Niết-bàn chẳng phải hóa?
Phật bảo Tu-bồ-đề:
Đúng vậy, đúng vậy! Các pháp bình đẳng, không phải do Thanh văn làm ra, cho đến tánh không tức là Niết-bàn. Nếu Bồ-tát mới phát tâm nghe nói tất cả pháp đều rốt ráo tánh không, cho đến Niết-bàn cũng đều như hóa thì tâm vị đó sẽ khiếp sợ, do đó vì Bồ-tát mới phát tâm mà phân biệt pháp sinh diệt là như hóa, pháp bất sinh bất diệt không phải như hóa ư? Nay dùng thánh giáo này mà nghiệm biết được Đức Di-đà chắc chắn là hóa thân, về sau dù có nhập Niết-bàn, thì nghĩa này cũng không ngại. Người có trí tuệ nên biết như vậy.
Hỏi: Đức Phật A-di-đà và cõi nước của Ngài đã gọi là báo, pháp báo đó thật cao sâu nhiệm mầu, các vị tiểu thánh khó bước lên được, thì kẻ phàm phu cấu chướng làm sao nhập vào được?
Đáp: Nếu nói về cấu chướng của chúng sinh thì khó được vãng sinh về đó, nhưng nhờ nương vào nguyện lực của Phật làm duyên mạnh, giúp cho chúng sinh trong năm thừa đều được nhập vào.
Hỏi: Nếu nói phàm phu và Tiểu thánh được vãng sinh, vì sao trong luận Tịnh độ của ngài Thiên Thân chép: "Người nữ và người các căn không đầy đủ, người Nhị thừa không được vãng sinh?" Nay trong cõi nước Cực lạc cũng có người Nhị thừa, luận dạy như thế, phải giải thích ra sao?
Đáp: Ông chỉ đọc văn này mà không hiểu được ý nghĩa, hoặc vì quá vụng về mê muội không thể nào khai ngộ, nay tôi dẫn lời dạy của Đức Phật để chứng minh, để dứt trừ thắc mắc cho mọi người. Vì sao? Vì trong Quán kinh chỉ cho người ở ba phẩm hạ, làm sao biết được? Vì như trong hạ phẩm thượng sinh chép: "Nếu có chúng sinh gây ra quá nhiều nghiệp ác, lại không biết hổ thẹn, những người ngu như vậy đến lúc sắp qua đời, nếu gặp được thiện tri thức, nói pháp Đại thừa cho họ nghe, dạy xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà. Lúc người đó đang Niệm Phật, thì hóa Phật, Bồ-tát hiện ra trước mặt, phát ra ánh sáng, lọng báu, đón rước về cõi ấy. Khi hoa nở, Bồ-tát Quán Âm sẽ nói pháp Đại thừa cho nghe, người đó nghe xong liền phát đạo tâm vô thượng. " Hỏi: Chủng và tâm có gì khác nhau?
Đáp: Nếu nói một cách dễ hiểu thì nghĩa không có gì khác nhau. Lúc hoa nở thì thân tâm người đó đã thanh tịnh, người đó đã đủ điều kiện để nghe pháp, không phân biệt Đại thừa hay Tiểu thừa, mà chỉ được nghe pháp thì liền khởi phát tín tâm, do đó mà Bồ-tát Quán Thế Âm không nói cho họ nghe pháp Tiểu thừa mà Ngài nói ngay pháp Đại thừa, hành giả nghe liền sinh tâm rất vui mừng, liền phát đạo tâm vô thượng, được gọi là hạt giống Đại thừa sinh, cũng gọi là tâm Đại thừa sinh. Lại, khi hoa nở, thì Bồ-tát Quán Âm liền nói pháp Tiểu thừa cho người đó nghe, khi nghe pháp Tiểu thừa liền phát sinh tín tâm, gọi là hạt giống Nhị thừa sinh, cũng gọi là tâm Nhị thừa sinh. Phẩm này đến đây đã nói xong và hai phẩm dưới cũng vậy.
Người thuộc ba phẩm này, đều phụ thuộc về sự phát tâm của họ, nếu được nghe pháp Đại thừa, thì sẽ phát sinh hạt giống Đại thừa, do không nghe pháp Tiểu thừa, nên hạt giống Nhị thừa không sinh khởi. Hễ gọi là hạt giống thì chỉ cho tâm, trên đây đã giải thích ý nghĩa hạt giống Nhị thừa không được vãng sinh rồi.
Nói về ý nghĩa người nữ và người có các căn không đầy đủ thì ở cõi Cực lạc không có hai loại này cho nên rất dễ hiểu. Lại, các chúng sinh trong mười phương tu tập giới hạnh của tiểu thừa mà muốn vãng sinh Cực lạc, hoàn toàn không có gì trở ngại, chắc chắn sẽ được vãng sinh, nhưng khi được vãng sinh về Cực lạc thì trước tiên họ chỉ chứng được Tiểu quả và khi chứng được Tiểu quả rồi họ mới chuyển dần sang Đại quả, hễ mỗi lần chuyển tâm đã hướng Đại rồi, thì sau này không còn sinh tâm Nhị thừa nữa, do đó mà gọi là không sinh khởi chủng tánh Nhị thừa.
Trên đây trước giải thích quả bất định sau cùng là giải thích Tiểu quả, nên biết.
Thứ bảy là giải thích việc Vy-đề-hy nghe chánh pháp của Phật được lợi ích.
Hỏi: Vy-đề-hy đã đắc nhẫn, nhưng không biết lúc nào đắc nhẫn?
Và xuất xứ từ văn nào?
Đáp: Vy-đề-hy đắc nhẫn, xuất xứ từ đầu pháp quán thứ bảy.
Kinh chép: Phật bảo Vy-đề-hy: "Đức Như lai sẽ phân biệt và giải thích về pháp dứt trừ khổ não cho phu nhân nghe". Lúc Đức Phật nói lời ấy xong, có Đức Phật Vô Lượng Thọ đang trụ giữa hư không và ngài Quán Âm, Thế Chí đứng hầu hai bên. Lúc đó, Vy-đề-hy trông thấy, liền cúi đầu đảnh lễ, vui mừng khen ngợi. Lúc đó liền đắc được vô sinh pháp nhẫn. Làm sao biết? Vì như trong phần phân tích về sự ích lợi dưới đây có nói khi được thấy Đức Phật và hai vị Bồ-tát, tâm liền sinh khởi vui mừng, khen ngợi chưa hề có, thì hoát nhiên đại ngộ, được Vô sinh pháp nhẫn chứ không phải lúc thấy được cõi nước Cực lạc trong ánh sáng mà được.
Hỏi: Trong văn trên có nói khi thấy được những việc rất vui thú của cõi nước Cực lạc thì tâm rất vui mừng, lúc đó liền được Vô sinh pháp nhẫn. Đây cũng là một nghĩa, giải thích thế nào?
Đáp: Về nghĩa ấy, thì bấy giờ Đức Thế tôn để đáp lại lời thưa hỏi riêng ở trước, đó cũng là vì sự lợi ích mà phương tiện để khích lệ. Làm sao biết được? Vì trong văn dưới đây có chép: Các Đức Phật Như lai dùng phương tiện lạ, giúp cho phu nhân được thấy, như tưởng mặt trời, tưởng nước, tưởng băng dưới đây cho đến mười ba pháp quán v.v... trở xuống, tất cả đều vì muốn giúp cho chúng sinh đối với pháp môn tu quán mỗi pháp đều thành tựu. Thấy được việc nhiệm mầu ấy mà sinh tâm vui mừng liền được vô sinh. Đây là do lòng thương xót của Đức Như lai đối với chúng sinh trong đời mạt pháp ở vị lai. Khuyến khích tu hành, muốn giúp cho người chứa nhóm tu học, được thánh lực thầm che chở, hiện tại được lợi ích.
Tuy nắm các căn cơ có mười ba kết, mỗi điều đều thuận lý, ứng với huyền môn, xong nghĩa chu toàn này, ba trình tiền chứng.
Trên đây có bảy đoạn khác nhau, đều là do văn trước lý nghĩa quá sâu xa. Phân biệt kinh luận trái ngược nhau, mỗi việc đều phải dẫn chứng kinh luận để làm rõ, mục đích là để dứt trừ sự nghi ngờ cho mọi người và cũng giúp cho người cầu học không bị trệ ngại, nên biết như vậy.
Từ đây trở xuống là văn phân biệt, được chia làm năm phần để nói về ý nghĩa.
1. Từ tôi nghe như vầy v.v... trở xuống cho đến bị năm thứ khổ ép ngặt làm sao thấy được thế giới Cực lạc là lời tựa.
2. Từ câu đầu của pháp quán mặt trời tức là Đức Phật bảo Vy-đề-hy: Phu nhân và chúng sinh v.v... trở xuống cho đến Hạ phẩm hạ sinh là phần Chánh tông.
3. Từ khi nói lời ấy v.v... trở xuống, cho đến các vị trời phát tâm là nói về được lợi ích.
4. Từ A-nan bạch Phật v.v... trở xuống cho đến Vyđề-hy... vui mừng là nói về phần lưu thông. Bốn nghĩa này Đức Phật nói ở cung vua.
5. Từ A-nan truyền nói lại cho đại chúng ở núi Kỳxà-quật nghe, cũng là một hội, hội này cũng chia ra thành ba phần:
- Từ lúc bấy giờ Đức Thế tôn bước lên hư không trở về núi Kỳ-xà-quật là phần Tựa.
Từ A-nan nói rộng cho đại chúng nghe việc như trên là phần Chánh tông.
- Từ tất cả đại chúng vui mừng vâng hành là phần Lưu thông. Đức Phật giáo hóa có lý do, cho nên trước có lời tựa, do tựa đã có, nên chỉ trình bày điều muốn nói. Vì vậy kế là phần Chánh tông, vì nói pháp đã đầy đủ, muốn những điều đã nói được truyền giữ cho đời mạt pháp, nên khen ngợi tốt đẹp và khuyến khích tu học nên cuối cùng là phần Lưu thông. Trên đây có năm nghĩa khác nhau, đến đây đã nói sơ về phần Tựa, phần Chánh tông và phần Lưu thông đã xong.
Lại trong phần tựa trên cũng chia thành hai phần:
1. Từ câu "Tôi nghe như vầy" là tựa chứng tín.
2. Từ "Một thuở nọ" v.v... trở xuống cho đến "Làm sao thấy được thế giới Cực lạc", là phần phát khởi.
Tôi nghe như vầy, trước là giải về phần chứng tín, phần này có hai nghĩa:
- Hai chữ như thị, là nêu chung đấng Giáo chủ, là người năng thuyết.
- Hai chữ tôi nghe, là chỉ cho ngài A-nan, tức là người được nghe.
Do đó mà gọi là tôi nghe như vầy, đó là giải thích bao gồm cả hai ý. Lại "Như thị" tức là chỉ cho hai môn định và tán. Thị là định từ, cơ hành tất có ích, đây là nói rõ về sự nói pháp của Đức Như lai, sự nói pháp của Đức Phật không bao giờ có sai lầm, do đó mà gọi là như thị. Lại, nói như tức là như ý của chúng sinh, tùy tâm ưa thích của chúng sinh mà Đức Phật hóa độ, căn cơ và giáo pháp phải tương ưng, lại gọi là thị, do đó mà gọi là Như thị.
Lại, nói như thị là muốn nói về sự nói pháp của Đức Như lai, Ngài nói tiệm thì đúng như tiệm, nói đốn thì đúng như đốn, nói tướng thì đúng như tướng, nói không thì đúng như không, nói người pháp thì đúng như người pháp, nói về thiên pháp thì đúng như thiên pháp, nói tiểu thì đúng như tiểu, nói đại thì đúng như đại, nói phàm thì đúng như phàm, nói thánh thì đúng như thánh, nói nhân thì đúng như nhân, nói quả thì đúng như quả, nói khổ thì đúng như khổ, nói vui thì đúng như vui, nói xa thì đúng như xa, nói gần thì đúng như gần, nói đồng thì đúng như đồng, nói khác thì đúng như khác, nói tịnh thì đúng như tịnh, nói uế thì đúng như uế, nói về sự nghìn sai muôn khác của các pháp, Đức Như lai quán thấy và biết được rõ ràng không sai sót, tùy tâm để khởi hạnh, mỗi việc làm đều mang lại lợi ích không giống nhau, giáo pháp nói về nghiệp quả rất rõ ràng không thể sai sót, do đó là gọi là Như thị.
Nói "Tôi nghe" là muốn nói ngài A-nan là thị giả của Đức Phật, thường theo sát sau Phật, Ngài là người học rộng bậc nhất, mỗi lần nghe Đức Phật nói pháp, thì có khả năng nghe và ghi nhớ không sai sót chút nào, đó là nói lên sự truyền trao giáo pháp không có sự sai sót, do đó gọi là "Tôi nghe".
Lại nói về chứng tín, muốn nói ngài A-nan bẩm thọ lời dạy của Đức Phật và truyền trao lại cho đời mạt pháp sau này, là đối với chúng sinh.
Pháp quán này tôi nghe Đức Phật nói, đây là chứng cứ đáng tin cậy đó gọi là tựa chứng tín, đây là phần giải thích của A-nan.
I. Phần tựa phát khởi:
Chia thành bảy đoạn:
- Từ một thuở nọ Đức Phật ngự tại v.v... trở xuống cho đến Pháp Vương tử là bậc Thượng thủ là bài tựa nói về trước khi giáo hóa.
- Từ đại thành Vương xá v.v... trở xuống cho đến vẻ mặt hòa vui là nói về tựa phát khởi, nhân duyên giam cha vào ngục.
- Từ bấy giờ, A-xà-thế v.v... trở xuống cho đến không cho ra ngoài là nói về nhân duyên giam mẹ vào ngục.
- Từ cúi mong nói rộng cho con nghe v.v... trở xuống cho đến dạy con chánh thọ là nói về nhân duyên ưa thích cõi tịnh.
- Từ bấy giờ Đức Thế tôn liền mỉm cười v.v... trở xuống đến chánh nhân của tịnh nghiệp là nói về tán thiện để làm sáng tỏ hạnh duyên.
- Từ Phật bảo A-nan v.v... lắng nghe v.v... trở xuống cho đến làm sao thấy được cõi nước Cực lạc là nói về định thiện hiển bày quán duyên.
- Trên đây có bảy đoạn khác nhau, nói rộng tựa phát khởi.
1. Một thuở nọ, Đức Phật ngự tại thành Vương xá, trong núi Kỳ-xà-quật cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Đại Tỳ-kheo, ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi là bậc Thượng thủ.
Đầu tiên là phần giải thích bài tựa hóa tiền. Trong bài tựa này, có chia làm bốn phần:
Trước tiên nói về "Một thuở nọ" là nói về lúc Đức Thế tôn bắt đầu hóa độ, lúc Đức Phật sắp nói pháp, điều trước tiên là phải nương vào thời và xứ, mục đích là để cho chúng sinh khai ngộ, cũng phải nhờ vào nhân duyên, Đức Phật giáo hóa, cũng phải đợi đến lúc thích hợp.
Lại nói một thuở nọ, hoặc chia một ngày một đêm thành mười hai thời, hoặc một năm có bốn thời... ở đây nói về chữ một thuở nọ tức là chỉ cho sự ứng cơ thuyết giáo của Đức Như lai.
Nói "Xứ" tức là chỉ cho nơi chốn nào đó, tùy theo sự thích hợp, Đức Như lai nói pháp có lúc ở trong núi rừng, có lúc ở cung vua, xóm làng, có lúc ở chỗ hoang vắng, chỗ đất trống v.v... hoặc chỗ có ít nhiều trời, người ở, có lúc ở chỗ Thanh văn, Bồ-tát, có lúc ở chỗ có tám bộ, trời, người, vua..., có lúc ở chỗ thuần là Phàm phu một, hai, nhiều người, có lúc ở chỗ thuần là Thánh một, hai, nhiều vị. Tùy thời tùy xứ, Đức Như lai quán biết không thêm không bớt, tùy duyên trao truyền chánh pháp, mỗi người đều mang lại cho họ lợi ích, cũng như tiếng vang của đại hồng chung tuy lớn, nhưng phải đợi có người đánh mới phát ra tiếng, cũng vậy, bậc đại Thánh tuy thương xót chúng sinh nhưng cũng đợi đến lúc có người thỉnh cầu mới nói, do đó mà gọi là một thuở nọ.
Lại, một thuở nọ, lúc mà vua A-xà-thế khởi nghịch, thì Đức Phật ở đâu? Vào lúc đó, Đức Như lai một mình cùng người Nhị thừa lập tức có mặt tại núi Kỳ-xà-quật, đây là để nghe về nguyên nhân vua A-xà-thế khởi phát sự nghịch ác, đây tức là thượng hình hạ ý do đó mà gọi là một thuở nọ.
2. Nói "Phật" là chỉ cho vị hóa chủ, để phân biệt với các Đức Phật khác, cũng còn có ý chỉ cho Đức Thích-ca.
3. Từ tại thành Vương xá v.v... trở xuống tức là phần nói về nơi chốn Đức Như lai đến hóa độ, đoạn này cũng có hai.
Đức Phật đến thành Vương xá và xóm làng mục đích là để giáo hóa người thế tục.
Đức Phật đến núi Kỳ-xà-quật v.v... là để giáo hóa người xuất gia.
Lại, người tại gia tham cầu năm dục, nối nhau không dứt, dầu họ có phát tâm bền chắc thanh tịnh, thì cũng như vẽ chữ trên mặt nước, nhưng Đức Phật cũng tùy duyên làm lợi ích cùng khắp, không bỏ tấm lòng đại Từ đại Bi, đạo và tục hình dáng khác nhau, không thể ở chung, ở đây gọi là cảnh giới trụ.
Lại, người xuất gia quên thân bỏ mạng, bỏ dục về chân, tâm như kim cương, đồng với viên cảnh, mong cầu quả Phật, làm lợi ích cho mình và người, nếu không dứt lìa duyên trần, thì công đức này không thể chứng được, đây gọi là y chỉ trụ.
4. Từ và chúng đại Tỳ-kheo v.v... trở xuống, cho đến là bậc Thượng thủ là nói về đồ chúng của Đức Phật, trong phần đồ chúng này chia làm hai phần:
a. Chúng Thanh văn.
b. Chúng Bồ-tát.
Trong phần chúng Thanh văn, được chia thành chín phần:
1. "Và" tức là Đức Phật cùng đại chúng nên gọi là và.
2. Tổng đại.
3. Tướng đại. 4. Chúng đại.
5. Kỳ niên đại.
6. Số đại.
7. Tôn túc đại.
8. Nội hữu thật đức đại.
9. Quả chứng đại.
Hỏi: Ở đầu tất cả các kinh đều có các bậc Thanh văn này để làm lệ chung, đó là lý do gì?
Đáp: Đây cũng có ý riêng, sao gọi là ý riêng? Các vị Thanh văn này phần nhiều đều là người ngoại đạo. Như trong kinh Hiền Ngu chép: Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp thống lãnh năm trăm đệ tử, tu theo tà pháp; Già-da Cadiếp thống lãnh hai trăm năm mươi đệ tử, tu theo tà pháp, Na-đề Ca-diếp cũng thống lãnh hai trăm năm mươi đệ tử, tu theo tà pháp, tổng cộng là một ngàn vị đều được Đức Phật giáo hóa, đều chứng quả A-la-hán. Đệ tử ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên có đến hai trăm năm mươi vị, cũng đều ở một chỗ và tu tập tà pháp, sau cũng được Đức Phật giáo hóa, đều chứng được đạo quả, cả bốn chúng này hợp lại một chỗ, do đó mà có đến một ngàn hai trăm năm mươi vị.
Hỏi: Trong chúng này cũng có người không phải ngoại đạo, sao lại nêu chung như vậy?
Đáp: Như trong kinh nói thì các ngoại đạo này, thường theo hầu Đức Thế tôn, không bao giờ xa lìa. Nhưng các nhà kiếp tập chỉ đơn giản chọn lấy các vị thuộc ngoại đạo, cho nên có tên khác, người ngoại đạo thì nhiều, không phải ngoại đạo thì ít.
Lại hỏi: Không biết các ngoại đạo này thường theo hầu Đức Phật, thì có ý gì?
Đáp: Giải thích cũng có hai nghĩa:
1. Y theo Đức Phật mà giải thích.
2. Y theo ngoại đạo mà giải thích.
Y theo Đức Phật mà giải thích là các ngoại đạo này bị ngọn gió tà quạt mát đã lâu (ý nói do sống theo tà đạo quá lâu đời) chẳng phải chỉ trong một đời, do đó hôm nay tuy đã nhập vào chánh đạo nhưng tập khí của họ vẫn còn, đây là điều mà Như lai đã biết trước, Đức Như lai không sai các vị này đi giáo hóa. Vì sợ họ làm tổn hại chánh tín của chúng sinh, nghiệp ác thêm lớn, giúp cho đời này và đời sau, không thể tu tập và chứng quả. Vì nhân duyên này nên Đức Thế tôn khiến họ luôn gần gũi Ngài, không cho pháp làm lợi ích bên ngoài, đây là y cứ vào Đức Phật để giải thích.
Kế là y theo ngoại đạo giải thích thì ý của ngài Cadiếp... tự cho rằng đã nhiều kiếp chìm đắm trong sinh tử lên xuống trong sáu đường, khổ không thể nói hết. Ngu si ác kiến, không gặp minh sư, mãi trôi lăn trong biển khổ, nhưng cũng nhờ duyên lành đời trước nên nay được gặp Đức Từ Tôn, pháp trạch vô tư, chúng con gội nhuần ân đức của Đức Thế tôn, dầu thân tâm con có tan nát, cũng thề được gần gũi và học hỏi, không do đâu tạm rời, đây là y theo ngoại đạo mà giải thích đã xong. Lại hỏi: Đối với các bậc Tôn túc này vì sao nói là mọi người đều biết?
Đáp: Đức cao gọi là Tôn, lâu năm gọi là Túc, tất cả các phàm thánh đều biết các vị ấy nội đức hơn người, biết các vị ấy hình tướng bên ngoài khác thường, nên gọi là mọi người đều biết.
Kế là giải thích chúng Bồ-tát, trong chúng Bồ-tát có chia thành bảy phần:
1. Nêu tướng.
2. Nêu số.
3. Nêu vị.
4. Nêu quả.
5. Nêu đức.
6. Nói riêng địa vị đức độ cao sâu của ngài Văn-thù.
7. Tổng kết.
Lại, các vị Bồ-tát này có vô lượng hạnh nguyện, an trụ vào tất cả pháp công đức, đi khắp mười phương, thực hành quyền phương tiện giúp cho chúng sinh nhập vào kho Phật pháp, rốt ráo đến bờ kia. Ở trong vô lượng thế giới giáo hóa, mà thành Đẳng chánh giác, ánh sáng chiếu soi đến khắp mười phương, khiến vô lượng cõi Phật rung chuyển sáu cách, tùy duyên khai thị, tức xoay bánh xe pháp, đánh trống pháp, hư kiếm pháp, nổi sấm pháp, tuôn mưa pháp, giảng pháp thí, thường dùng pháp âm để giác ngộ các thế gian, phá dẹp lưới tà, tiêu diệt các tà kiến, phá bỏ trần lao, lấp các hố dục, nói lên sự trong sáng rạng ngời của Phật pháp, tuyên truyền chánh pháp để giáo hóa.
Lại thương xót chúng sinh, không hề mệt mỏi, được pháp bình đẳng, đầy đủ vô lượng trăm ngàn tam-muội, chỉ trong một niệm, chẳng chỗ nào là không đến khắp, dắt dẫn chúng sinh, thương như con một, tất cả các gốc lành đều đến bờ kia, đều được vô lượng công đức của Chư Phật, trí tuệ khai sáng, không gìn sánh bằng. II. Phần nhân duyên giam nhà vua vào ngục Chia làm bảy phần:
1. Từ "Bấy giờ, đại thành Vương xá" v.v... trở xuống là nói chung về nơi phát khởi giáo hóa. Ở đây nói thuở xưa nhân dân làm nhà cửa ở trong thành này, nhưng vì bị lửa trời thiêu đốt, nếu là nhà cửa vua chúa thì chắc chắn không có lửa đến gần. Sau đó, một thời gian, người ta cùng nhau đến tâu với vua: "Các thần làm nhà rất nhiều nhưng bị lửa trời thiêu đốt, chỉ có cung điện nhà vua thì không có lửa đến gần, chẳng biết có lý do gì không?" Nhà vua đáp lời các quan: Từ nay về sau, lúc các khanh xây nhà chỉ nói rằng, nay ta vì nhà vua mà xây dựng nhà cửa. Các chúng thần đều vâng sắc vua, trở về xây dựng nhà cửa, không còn bị lửa trời đốt cháy, do đó mà tương truyền gọi là Vương xá. Còn nói Đại Thành tức là thành này rất lớn, dân cứ đông đúc, có đến chín ức người, do đó mà thành Vương xá rất rộng lớn.
Nói về nơi chốn khởi phát sự hóa độ của Đức Phật, có hai mục:
a. Vua A-xà-thế khởi duyên ác nên có việc giam cha mẹ vào ngục, vì bị giam cầm nhàm chán cõi Ta-bà này, muốn sinh về thế giới Vô ưu.
b. Tức Đức Như lai đáp lời thỉnh cầu, ánh sáng biến thành đài, ảnh hiện linh nghi. Phu nhân liền cầu vãng sinh về cõi An lạc, lại hết lòng then hỏi phương pháp tu hành, Đức Phật khai mở nhân tu ba thứ phước, chánh quán tức là định môn, lại nêu lợi ích của chín chương. Vì nhân duyên này, nên gọi là khởi hóa xứ.
2. Từ có mặt vị Thái tử trở xuống cho đến lời xúi giục của bạn xấu nói về vua A-xà-thế bị hoảng hốt, tin nhận sự sai lầm của người ác.
Nói Thái tử là nêu địa vị.
Nói A-xà-thế là nêu tên. Lại, A-xà-thế là tiếng Tây vực, Hán dịch là Vị Sinh Oán, cũng dịch là Chiết Chỉ.
Hỏi: Vì sao gọi là Vị sinh oán, Chiết chỉ?
Đáp: Đó đều là nói lên nhân duyên ngày xưa, cũng từ đó mà có tên gọi như thế.
Nói nhân duyên, tức là xưa kia nhà vua vốn không có con nối dõi tông đường, phải đi khắp nơi để cầu khẩn các vị thần linh, nhưng cũng không có, chợt gặp một vị thầy xem tướng nói với vua rằng:
Thần biết trong núi có một vị tiên, không bao lâu nữa sẽ chết, sau khi qua đời chắc chắn sẽ sinh làm con của nhà vua.
Vua nghe xong rất vui mừng hỏi: Người này lúc nào mới qua đời?
Vị thầy đáp rằng: Phải ba năm nữa mới qua đời.
Nhà vua chép: Nay tôi đã già yếu, đất nước lại không có người kế thừa, đợi đến ba năm, không biết có đợi được chăng?
Vua liền sai người vào núi, đến chỗ vị tiên nói rằng: Nay đại vương không có con, không người thừa kế, đi khắp nơi cầu nguyện thần linh rất khổ cực nhưng vẫn không được, may gặp được một vị thầy xem tướng, bói thấy rằng đại tiên không bao lâu nữa sẽ xả thân, mà sinh làm con của nhà vua, nay đến để xin đại tiên giũ lòng thương xót, sớm đến làm con của nhà vua. Mọi người nghe xong bèn vào núi đến chỗ vị tiên ở, nói lại lời thỉnh cầu của nhà vua với vị tiên đó. Vị tiên bảo sứ giả rằng: "Tôi còn ba năm nữa mới qua đời, nay nhà vua muốn như vậy, việc này không thể được". Sứ giả vâng lời vị tiên dạy, trở về báo lại với đức vua, nói rõ ý của vị tiên. Đức vua chép: Ta là người đứng đầu một đất nước, tất cả người vật đều thuộc về ta, nay cố dùng lễ thỉnh, mà không vâng theo ý ta. Đức vua lại bảo sứ giả:
Các khanh hãy đến thỉnh một lần nữa, nếu thỉnh không được thì phải giết chết ông ta ngay, ông ta chết rồi chẳng lẽ không làm con của ta hay sao?
Sứ giả vâng lệnh vua, đến chỗ vị tiên, thưa lại đầy đủ ý muốn của nhà vua. Vị tiên nghe sứ giả nói như vậy nhưng cũng không chấp nhận. Sứ giả lập tức vâng lệnh vua, muốn giết vị tiên.
Vị tiên nói rằng:
Các vị nên trở về tâu với nhà vua rằng, số mạng của ta nay chưa hết, mà nhà vua lại bảo các vị đến giết tôi, nếu sau này ta có làm con của nhà vua, thì ta sẽ sai người giết lại nhà vua. Vị tiên nói lời đó xong, liền chịu chết.
Sau khi chết vị tiên thác sinh làm Thái tử của đức vua, trải qua mấy ngày đêm, phu nhân của vua cảm thấy mình có thai. Vua nghe nói rất vui mừng, liền cho mời thầy bói đến, xem thử thai nhi là nam hay nữ? Thầy tướng xem xong, tâu với đức vua rằng: "Đó là một bé trai, nhưng đứa bé này sẽ mang lại sự tổn thất cho nhà vua. "
Vua hỏi rằng:
Toàn cả đất nước của ta đều trao truyền lại cho nó, dầu có tổn hại điều gì ta cũng không sợ. Nhưng sau khi nghe nói như thế vua cũng ôm lòng buồn lo.
Vua bảo phu nhân rằng:
Ta và phu nhân, bàn riêng với nhau, thầy tướng đoán đứa bé này sẽ mang lại sự tổn hại cho trẫm, phu nhân đợi ngày sinh nở bèn lên trên lầu cao, sinh Thái tử ngay trên thiên tỉnh, đừng để người nâng đỡ, bị rớt xuống đất, chẳng lẽ không chết hay sao? Ta không buồn lo, tiếng cũng không lộ ra. Phu nhân liền vâng theo kế của nhà vua, đến lúc sinh nở, đều làm theo như cách đã định. Khi sinh ra rơi xuống đất nhưng Thái tử vẫn không chết, chỉ bị gãy ngón tay út, do đó người ngoài đều gọi là Thái tử Chiết chỉ.
Nói Vị Sinh Oán là vì Đề-bà-đạt-đa khởi tâm ganh ghét, khởi dậy duyên ác của ngày xưa cho Thái tử biết, thế nào là ganh ghét mà khởi dậy duyên ác? Đề-bà có tánh xấu, là người hung ác, tuy xuất gia nhưng thường ganh ghét với Đức Phật về tiếng tăm lợi dưỡng. Nhưng vua Tần-bà-sa-la lại là đàn-việt của Phật. Vào một lúc nọ, ông mang nhiều vật cúng dường đến dâng lên Đức Như lai, như vàng bạc bảy báu, danh y, thượng phục. Cả một trăm loại thức ăn, trái cây v.v... Mỗi thứ đều năm trăm xe, hương hoa kỹ nhạc. Dân chúng cả trăm ngàn muôn người, khen ngợi vây quanh, chở đến Phật hội, cúng dường Phật và chúng Tăng.
Lúc đó, Đề-bà thấy vậy càng thêm ganh ghét, lập tức đến chỗ ngài Xá-lợi-phất để cầu học thần thông.
Tôn giả Xá-lợi-phất bảo rằng:
Ông nên học bốn Niệm xứ, không nên học thần thông.
Xin học không được như ý, liền đến chỗ Tôn giả khác để cầu học, cứ như thế đến chỗ năm trăm đệ tử của Đức Như lai để cầu học, nhưng cuối cùng không có ai chịu dạy, các Tôn giả đều bảo nên học pháp bốn Niệm xứ. Sau khi cầu học không được, lại đến học với ngài Anan, Đề-bà nói với Tôn giả A-nan rằng:
Ông là em của ta, ta muốn học thần thông, em hãy lần lượt dạy ta.
A-nan tuy đã được Sơ quả, nhưng chưa chứng được Tha tâm thông, do đó nên không biết anh mình lén học thần thông là muốn hại Phật.
A-nan liền bảo đến chỗ yên tĩnh, rồi lần lượt dạy cho ngồi kiết già ngay thẳng, trước tiên là dùng tâm nhấc thân lên dường như dao động, tưởng cất lên khỏi mặt đất một phân một tấc, tưởng một thước, một trượng, tưởng đến lúc nhà là không, vô ngại, tưởng thẳng qua đất, trong hư không, tưởng nhiếp tâm lại, v.v... trở xuống đến chỗ ngồi cũ. Kế là dùng thân cử tâm, lúc đầu cách mặt đất một phân, một tấc... cũng như pháp trước, dùng thân cử tâm, rồi dùng tâm cử thân, cứ như thế đến khi thân tâm cử lên hư không rồi, lại nhiếp thân v.v... trở xuống, đến chỗ ngồi cũ, kế là quán tưởng thân tâm hòa hợp cùng cử, lại cũng đồng như pháp trước, cử lên một phân, một tấc v.v... đến cuối thì trở lại đầu. Kế là quán tưởng thân tâm nhập vào trong tất cả các sắc cảnh chất ngại, rồi quán tưởng không chất ngại. Kế là quán tưởng tất cả núi sông đất đai, cảnh giới đều nhập vào trong tự thân, vô ngại như hư không, chẳng thấy có sắc tướng. Kế là quán tưởng tự thân của mình hoặc to lớn, trùm khắp cả hư không, ngồi nằm tự tại, hoặc ngồi hoặc nằm, đưa tay động đến cả mặt trời, mặt trăng, hoặc hiện thân nhỏ lại, nhập vào hạt bụi, quán tất cả đều làm được, không hề chướng ngại.
Ngài A-nan lần lượt dạy như thế rồi, trong bảy ngày bảy đêm chuyên tâm chú ý luyện tập đắc được thần thông tất cả tự tại, đều được thành tựu.
Sau khi được thần thông rồi, Đề-bà liền đến trước cung điện Thái tử, giữa hư không hiện bày các thần thông, như trên thân phát ra lửa, dưới thân ra nước, hoặc một bên ra nước một bên ra lửa, hoặc hóa hiện thân thành to lớn, hoặc thâu nhỏ lại tự tại. Thái tử thấy vậy, bèn hỏi những người hầu cận đó là ai?
Những người hầu cận đáp: Đó là Tôn giả Đề-bà.
Thái tử nghe vậy, trong tâm rất vui mừng, liền đưa tay vẫy, gọi rằng:
Tôn giả! Sao không hạ xuống đây?
Đề-bà nghe Thái tử gọi, liền hóa thành một đứa bé, đi thẳng đến ngồi lên vế Thái tử, Thái tử liền ôm lấy, dùng miệng nút, lại nhổ nước bọt vào miệng, đứa trẻ bèn nuốt, trong khoảnh khắc thì trở lại thân cũ.
Thái tử thấy được nhiều cách thần biến của Đề-bà thì càng tăng thêm phần kính trọng. Biết Thái tử sinh tâm kính trọng, Đề-bà liền nói với Thái tử việc nhà vua cúng dường, gồm năm trăm cỗ xe chở đến chỗ Phật, để dâng cúng Đức Phật và Tăng chúng. Thái tử nghe xong, liền nói với Tôn giả:
Đệ tử cũng có khả năng sắm đủ năm trăm cỗ xe và các vật dụng để cúng dường Tôn giả và tăng chúng, chẳng lẽ không bằng nhà vua hay sao!
Đề-bà chép: Ý Thái tử như thế là rất tốt.
Từ đó về sau khi được cúng dường lớn, thì tâm Đềbà càng kiêu ngạo. Ví như dùng gậy mà đánh vào mũi con chó dữ, thì càng làm tăng thêm tâm ác cho con chó, ở đây cũng vậy. Nay Thái tử lại dùng cây gậy lợi dưỡng mà đánh vào tâm tham của Đề-bà, thì sẽ tăng thêm phần tâm ác ganh ghét. Do đó mà Đề-bà tìm cách phá Tăng, sửa lại giới pháp của Đức Phật, giáo giới bất đồng, đợi lúc nào Đức Phật nói pháp cho đại chúng Phàm thánh nghe, thì liền vào trong đại chúng, theo Đức Phật mà sách động đồ chúng, nói tất cả các pháp tạng đều đã phó chúc cho ta hết rồi, Đức Thế tôn tuổi đã già yếu, nên phải an nghỉ, để tĩnh dưỡng tuổi già. Tất cả đại chúng nghe Đề-bà nói như thế, đều ngạc nhiên liền đến hỏi thăm Đức Thế tôn, ai nấy đều sinh tâm khiếp sợ.
Lúc bấy giờ, Đức Thế tôn đối trước đại chúng nói với Đề-bà rằng:
Xá-lợi-phất, Mục-liên... là các vị đại pháp tướng, mà Như lai còn không phó chúc giáo pháp cho, huống chi ông là người ngu si chỉ có ăn và ngủ thôi ư! Lúc đó, Đềbà nghe Đức Phật đối trước đại chúng dùng lời hủy nhục mình, không khác gì mũi tên độc bắn vào tim, tâm liền sinh si cuồng, do nhân duyên đó, liền đến chỗ Thái tử bàn về ác kế.
Thái tử nhìn thấy Đề-bà liền cung kính thưa hỏi:
Sao hôm nay sắc mặt Tôn giả quá ốm o gầy mòn, khác với lúc trước như thế?
Đề-bà đáp: Hôm nay ta ốm o gầy mòn là vì Thái tử. Thái tử cung kính hỏi: Tôn giả nói vì tôi là thế nào? Đềbà đáp:
Thái tử biết không? Đức Thế tôn tuổi đã già không còn làm được việc gì nữa, nên phải loại bỏ đi, tôi sẽ tự làm Phật. Nhà Vua tuổi cũng đã già, cũng nên loại bỏ đi, Thái tử tự lên ngôi vị, khi đó Vua mới, mà Phật cũng mới, cai trị và giáo hóa, há không phải là vui sướng hay sao!
Thái tử nghe điều đó hết sức tức giận, chép: Tôn giả đừng nói như vậy.
Đề-bà chép:
Xin Thái tử chớ tức giận, nhà vua đối với Thái tử hoàn toàn không có ân đức gì, lúc sắp sinh Thái tử, nhà vua đưa phu nhân lên lầu cao một trăm trượng, muốn sinh Thái tử vào trong giếng trời, để rơi xuống đất sẽ chết, nhưng Thái tử đúng là người có phước lực, nên mạng căn không bị thương tổn, chỉ bị gãy ngón tay út. Nếu Thái tử không tin, tự xem lại ngón tay của mình thì sẽ đủ để chứng minh điều đó.
Thái tử nghe nói vậy, lại suy nghĩ và nói rằng: Có thật như thế không?
Đề-bà đáp:
Nếu điều này không thật, chẳng lẽ tôi cố đến để nói dối Thái tử hay sao?
Thái tử nghe nói liền tin theo kế độc của Đề-bà, cho nên nghe theo lời xúi giục của bạn xấu Đề-bà.
3. Từ bắt giam nhà vua v.v... trở xuống, cho đến không một ai được lui tới là nói nhà vua bị con nhốt trong ngục tối, tức là vua A-xà-thế bị ác kế của Đề-bà cắt đức ân tình của cha con Thái tử. Thái tử chẳng những đánh mất ân đức cao dày mà còn bị đồn đại là nghịch tử. Ngăn che thân vua gọi là thu, đã được mà không xả gọi là chấp, do đó mà gọi là thu chấp. Nói cha, là chỉ riêng cho người rất thân.
Vương, là nói lên địa vị. Tần-bà, là nói về tên.
Nói giam trong ngục tói có bảy lớp tường là việc làm đã nặng mà sự cũng chẳng phải nhẹ, nên không thể như ngục giam bình thường ở nhân gian, hoàn toàn không có người canh giữ, nhưng cũng mang danh là ở trong cung của nhà Vua, lại hoàn toàn cấm ngặt không cho một người nào ở ngoài vào thăm, chỉ có các quan quen thuộc vào để chăm sóc. Nếu không nghiêm khắc quản chế, thì e sợ có tình thông, cũng vì lý do đó mà không bao giờ được giao thiệp qua lại trong và ngoài, tức là nhà vua thường ngày phải bị nhốt trong bảy lớp tường kín.
4. Từ quốc đại phu nhân v.v... trở xuống, cho đến lén dâng lên vua là đoạn nói về phu nhân bí mật mang thức ăn cho nhà vua.
Nói Quốc đại phu nhân, ở đây nói là lớn nhất. Nói "Phu nhân" là nêu địa vị. Nói Vy-đề-hy, tức là tên, nói cung kính đại vương là nói khi phu nhân nhìn thấy thân vua bị giam cầm, cửa ngõ ra vào rất khó khăn, tin tức không thông, chỉ sợ đức vua sống không nổi. Phu nhân liền dùng nước thơm tắm gội, giúp cho thân thể sạch sẽ, rồi bôi bị mật lên thân thể. Sau đó dùng bột khô, phủ lên mật tô, rồi mặc áo sạch sẽ bên ngoài, trên áo quần đeo thêm chuỗi anh lạc, như pháp phục bình thường, khiến mọi người không có sự nghi ngờ, lại xỏ lỗ những hạt chuỗi anh lạc, một đầu đổ mật ong vào, một đầu đựng nước nho, đựng đầy rồi bít lỗ lại, tất cả các hạt chuỗi anh lạc đều làm như thế, chuẩn bị xong bèn đi bộ đi vào cung, đến gặp nhà vua.
Hỏi: Các quan vâng lệnh Thái tử không cho bất kỳ ai được gặp vua, chẳng hay phu nhân gia môn không cấm chế, cho tự do ra vào, như thế là có ý gì?
Đáp: Các quan là khác thân, lại là người ngoài, sợ có tình thông cho nên cấm chế càng nghiêm khắc hơn.
Lại, phu nhân là thân người nữ tâm không có mưu kế gì khác, vả lại phu nhân là người có túc duyên nghiệp trọng với vua, lâu nay khắng khít vợ chồng, tuy thân là hai mà tâm là một, do đó các người ngoài cũng không cần suy nghĩ, đó là lý do mà các quan cho phu nhân được vào gặp nhà vua.
5. Từ bấy giờ, nhà vua dùng bột mì v.v... trở xuống, cho đến truyền tám giới của ta, tức đoạn này nói đức vua đang bị giam cầm mà tâm lại muốn cầu pháp, đoạn này cũng nói về việc phu nhân đã gặp được nhà vua, phu nhân liền cạo bột mì và bơ trên thân, vo lại thành viên trao cho vua. Vua có được thức ăn liền ăn. Khi ăn xong, phu nhân đang ở trong cung cần có nước sạch để súc miệng, vua súc miệng sạch rồi, tâm tư không còn ghi nhớ điều gì, lúc đó khởi tâm cung kính chắp tay, hướng mặt về núi Kỳ-xà-quật cung kính Như lai, cầu xin che chở. Đây là nói về thân nghiệp cung kính, cũng chung cho cả ý nghiệp. Mà bạch như vầy v.v... trở xuống là nói về sự thỉnh cầu của khẩu nghiệp, cũng chung cho cả ý nghiệp. Nói Đại Mục-liên là bạn thân của con, cũng có hai ý, tức là khi Mục-liên còn ở thế tục là người thân thích của vua, nay đã xuất gia, tức là sứ môn, đi lại trong cung cấm, đều không chướng ngại. Nhưng khi ở nhà là thân, còn đã xuất gia thì chỉ là bạn, do đó mà gọi là bạn thân. Nói xin khởi tâm Từ bi trao cho con tám giới, tức đoạn này nói về tâm kính pháp của nhà vua, trọng người hơn mình, nếu không bị giam giữ thì việc thỉnh Phật và chúng Tăng chẳng ó gì là khó, nay đã bị giam cầm, nhưng không phải vì thế mà chịu khuất phục, đành phải thỉnh Mục-liên đến để xin thọ tám giới.
Hỏi: Nhà vua tuy ở cung sâu mà vẫn có lòng thành kính, muốn đảnh lễ Đức Thế tôn và muốn mời Tôn giả Mục-liên để thọ giới, là có ý gì?
Đáp: Người được tôn quý nhất trong các Phàm, Thánh, thì không ai hơn Phật, nay muốn hồi tâm phát nguyện thì điều trước nhất là phải đảnh lễ bậc Đại sư. Giới là duyên nhỏ, nhưng nhà vua cũng phải mời Mụcliên đến trao truyền. Ý chỉ của nhà vua muốn được đắc giới mới là điều đáng quý, khi đắc giới với Mục-liên rồi, là đã đầy đủ ý nghĩa, thì cần gì phải đảnh lễ Đức Thế tôn?
Hỏi: Giới pháp của Đức Như lai có đến vô lượng, nay nhà vua chỉ thọ tám giới, mà không thọ các thứ khác?
Đáp: Các giới khác vì quá rộng lớn, thời gian thọ thì quá dài, chỉ sợ khi thọ xong rồi trong cuộc sống lắm lúc bị lỡ bị phạm giới, thì cũng phải bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi.
Còn tám giới, như trong các kinh chép: "Người tại gia giữ giới người xuất gia, giữ giới này thì tâm phải thường hết sức coi trọng, là ý như thế nào? Vì thời gian quá gấp rút, chỉ hạn chế trong một ngày một đêm, thì hết hiệu lực, thì làm sao biết được giới này mà dụng tâm tu hành cẩn thận?"
Như trong văn giới có chép: "Này các Phật tử! Từ sáng hôm nay đến sáng hôm sau một ngày một đêm, phải sống như Chư Phật, là không sát sinh, có giữ được không?"
Các Phật tử đáp: Dạ giữ được.
Lại hỏi: Này các Phật tử! Từ sáng hôm nay đến sáng ngày mai một ngày một đêm, phải sống như Chư Phật là không được trộm cắp, không được hành dâm, không được nói dối, không được uống rượu, không được trang điểm son phấn lên thân thể, không được ca hát và cố ý đi xem nghe, không được nằm ngồi trên giường cao rộng lớn, buông lung thân tâm. Tám giới trên là giới chẳng phải trai, còn không được ăn quá ngọ, đây là trai mà chẳng phải giới.
Các giới này, đều phải thỉnh Chư Phật đến chứng minh. Vì sao? Vì chỉ có Phật và Phật mới là những người tu trì đầy đủ, còn các vị khác vẫn chưa hoàn toàn đầy đủ, vì tập khí xấu ác vẫn còn, vì cho nên không thỉnh các vị ấy chứng minh. Phải biết công dụng của giới này là như thế để khởi tâm lập hạnh, đây là điều rất cẩn thận và cần thiết. Lại giới này Đức Phật nói có tám thứ thắng pháp. Trong kinh nói nếu người nào trong một ngày một đêm thọ trì mà không phạm thì sẽ được công đức vượt hơn cả cảnh giới trời, người, Nhị thừa, vì có lợi ích như cho nên dạy cho nhà vua ngày nào cũng thọ trì.
6. Từ bấy giờ đại Mục-liên v.v... trở xuống, cho đến nói pháp cho vua nghe là đoạn nói về nguyên nhân nhà vua cầu thỉnh để mong được thánh pháp, đoạn này cũng nói về Mục-liên đã được Tha tâm trí mới biết được ý nguyện cầu thỉnh của nhà vua, liền phát khởi thần thông, chỉ trong thời gian búng ngón tay, đã đến ngay chỗ của nhà vua. Lại sợ người không biết tướng thần thông, do đó phải dẫn một đàn chim nhạn để ví dụ. Nhưng năng lực thần thông của Mục-liên, chỉ trong một niệm đã đi khắp trăm ngàn vòng cả bốn châu thiên hạ, thì làm sao sánh với loài chim ư? So sánh như thế, thì thật là nhiều, không thể nói hết được, như kinh Hiền Ngu có nói, nói cứ mỗi ngày trao cho vua tám giới như thế, phần này nói về mạng sống lâu dài của nhà vua, do đó mà phải nhiều lần mời Mục-liên đến để thọ giới.
Hỏi: Tám giới đã gọi là thù thắng rồi thì một lần thọ là đã đủ, cần gì phải ngày nào cũng thọ?
Đáp: Núi không sợ cao, biển không ngại sâu, dao không sợ bén, mặt trời không sợ sáng, người không nhàm chán điều lành, tội không sợ trừ, hiền không sợ đức, Phật không sợ Thánh. Nhưng ý của vua là nay đã bị tù cấm, lại không được tới lui, do đó trong mỗi niệm, chỉ sợ người ra lệnh giết chết, vì thế mà ngày đêm thường hướng tâm vào tám giới, mong muốn tu tập phước lành thêm nhiều, để làm tư lương cho đời kiếp sau.
Nói Đức Thế tôn cũng sai Phú-lâu-na đến nói pháp cho vua nghe, đoạn này là nói Đức Thế tôn tâm Từ bi sâu nặng thương xót thân vua, bỗng nhiên phải bị giam cầm, sợ vua sinh buồn rầu.
Ngài Phú-lâu-na là người có khả năng nói pháp bậc nhất trong các đệ tử của Đức Phật và ngài cũng có nhiều phương tiện khéo léo để khai phát tâm người, vì nhân duyên đó mà Đức Như lai sai Phú-lâu-na đến nói pháp cho vua nghe, để phá tan sự lo cho vua.
7. Từ trong thời gian như thế v.v... trở xuống, cho đến vẻ mặt vui tươi tức là nhân có được thức ăn và được nghe pháp, nên sống được nhiều ngày mà không chết, đoạn này cũng nói việc phu nhân đã nhiều ngày mang thức ăn đến cho vua không bị đói khát. Hai vị Thánh lại đến để trao truyền giới pháp cho tu tập, khai mở pháp lành cho vua. Thức ăn là để kéo dài mạng sống, giới pháp là để nuôi dưỡng tinh thần, nhờ đó mà hết khổ quên buồn. Vẻ mặt vua được vui tươi, thoải mái.
Trên đây có bảy câu khác nhau, nói rộng về nguyên nhân vì sao nhà vua bị giam cầm.
III. Phần nói về giết hại mẹ
1. Từ bấy giờ A-xà-thế v.v... trở xuống, cho đến vẫn còn sống ư? Là phần nói về Thái tử hỏi về tin tức của nhà vua. Đoạn này cũng nói vua A-xà-thế giam nhốt cha cũng quá nhiều ngày, không cho mọi người giao tiếp, cơm nước cũng không dâng hầu, đã trải qua đã hơn hai tuần lễ. Lẽ ra nhà vua đã chết. Nghĩ đoạn, Thái tử vội đến cửa cấm cung hỏi người giữ cửa, nhà vua hôm nay còn sống hay không?
Hỏi: Nếu người ăn một bữa cơm thì trong một tuần sẽ chết, nay nhà vua đã trải qua ba tuần lễ, nếu đúng theo kế hoạch thì mạng sống của nhà vua đã chấm dứt không còn nghi ngờ gì, vậy thì vì sao A-xà-thế không hỏi thẳng với người giữ cửa là nhà vua nay đã chết rồi phải không? Vì sao nay vẫn còn nghi ngờ mà hỏi là vua còn sống hay không? Hỏi như thế là ý gì?
Đáp: Đó là câu hỏi mật ý của vua A-xà-thế, chỉ vì người làm chủ muôn dân, mọi hành động không thể tùy tiện, bởi dầu sao nhà vua cũng là thiên tánh tình thâm, không thể hỏi đã chết chưa, hỏi như thế thì sợ đánh mất ý đồ, sẽ bị người chê cười tội lỗi, tuy ngoài miệng thì hỏi vậy, chứ thực ra trong tâm biết là đã chết rồi, mục đích là cũng để là ngăn ngừa những lời hiềm khích cho mình là nghịch tử vô đạo.
2. Từ bấy giờ, người giữ cửa tâu rằng v.v... trở xuống, cho đến không thể cấm ngăn là nói về người giữ cửa trả lời đầy đủ mọi việc, ở đây nói vua A-xà-thế trước hỏi vua còn sống hay không và nay là nói về người giữ cửa trả lời.
Tâu đại vương! Quốc đại phu nhân v.v... trở xuống là nói phu nhân bí mật mang thức ăn đến để dâng cho nhà vua, vua được thức ăn, thì mạng sống vẫn được kéo dài, tuy trải qua nhiều ngày, mà tuổi thọ nhà vua vẫn còn, đây là do ý của phu nhân, chứ không phải lời của người giữ cửa.
Hỏi: Phu nhân mang thức ăn cho vua bằng cách bôi lên thân thể, rồi mặc y phục bên ngoài, đi lại tự nhiên không ai thấy được, vậy thì vì sao người giữ cửa lại biết rõ việc phu nhân mang thức ăn đến dâng cho vua?
Đáp: Các việc dầu có bí mật đến đâu mà làm lâu ngày, thì việc đó tự nhiên cũng bại lộ. Nhà vua đã bị giam cầm trong cung, mà phu nhân ngày nào cũng ra vào. Nếu không bí mật mang thức ăn đến dâng, thì mạng sống của nhà vua không thể còn được. Nay nói bí mật, là do người giữ cửa nói lại ý của phu nhân. Phu nhân thì cho là mật, người ngoài không biết, nhưng không có việc gì người giữ cửa không biết. Nay việc đã đến cùng, không thể nào che giấu được, do đó mà mọi việc đều kể lại cho A-xà-thế biết.
Từ Sa-môn Mục-liên v.v... trở xuống là nói về hai vị Thánh tăng đi từ hư không mà xuống trong cung, chứ không phải đi bằng cửa ngõ thông thường, hằng ngày đến nói pháp cho nhà vua nghe. Đại vương nên biết, phu nhân mang thức ăn đến, trước không vâng lệnh của Đại vương, cho nên không dám ngăn cản, hai Tôn giả thì đi bằng đường hư không, do đó cũng không thể dùng cửa ngõ để ngăn cấm.
3. Từ bấy giờ A-xà-thế nghe nói thế v.v... trở xuống, cho đến muốn hại mẹ mình là nói về sự tức giận của vua A-xà-thế. Sau khi đã được người giữ cửa kể lại sự việc như vậy rồi, liền khởi tâm ác độc phu nhân, miệng nói những lời ác độc, lại khởi ba nghiệp trái nghịch, ba nghiệp độc ác, mắng cha mẹ là giặc, gọi là khẩu nghiệp nghịch, mắng Sa-môn gọi là khẩu nghiệp ác, cầm kiếm để giết mẹ, gọi là thân nghiệp nghịch, hành động của thân miệng là do tâm làm chủ. Đó gọi là ý nghiệp nghịch. Lại, tiền phương tiện là ác, chánh hạnh sau này là nghịch.
Nói mẹ ta là giặc v.v... trở xuống, tức là miệng nói ra lời ác. Vì sao lại mắng mẹ là giặc, vì làm bạn với giặc. Nhưng tâm tư của vua A-xà-thế là oán hận nhà vua, hận là vì sao cha không chết sớm, mẹ là người lén lút mang thức ăn đến cho nhà vua khiến ông chưa chết, do đó mà bị mắng rằng: "Mẹ của ta là giặc, là bạn của giặc". Chép: "Sa-môn là người ác v.v... trở xuống tức là nói vua Axà-thế tức giận mẹ vì đã mang thức ăn đến dâng cho vua, lại nghe có Sa-môn thường xuyên lui tới với nhà vua, do đó mà lại sinh tâm tức giận, do đó chép:
Có chú thuật gì mà làm cho ông vua độc ác nhiều ngày không chết?
Liền cầm kiếm bén v.v... trở xuống là nói về sự tức giận dữ dội của A-xà-thế đối nghịch với mẹ mình, có gì đau xót hơn ư! Tay Thái tử liền rút chuôi kiếm nhọn ra, thì mạng sống của mẹ chỉ còn trong khoảnh khắc. Lúc đó, thân mẫu chắp tay cúi đầu xin tha mạng, ôm vào cánh tay của đứa con. Bấy giờ, mồ hôi nóng của phu nhân đã toát ra toàn thân, tinh thần đã tuyệt vọng. Than ôi! Thật là đau thương! Trong cơn hốt hoảng gặp khổ nạn.
4. Từ bấy giờ có một vị đại thần tên là Nguyệt Quang v.v... trở xuống, cho đến lui lại bỏ đi, đây là đoạn nói về hai vị đại thần can ngăn mà Thái tử không nghe lời, đây là hai vị minh thần và cũng là hai phụ tướng của đất nước, là hai vị lập ra giềng mối phép nước cho quốc gia, là những người ngày đêm mong cầu thanh danh cho đất nước. Mọi người ai cũng biết, bỗng nhiên nhìn thấy vua A-xà-thế khởi tâm phản nghịch, cầm kiếm muốn giết mẹ, cả hai đều không nỡ nhìn cảnh nghịch tử như vậy, liền cùng với Kỳ-bà, Phạm Nhan can ngăn.
Nói bấy giờ là chỉ cho lúc vua A-xà-thế muốn giết mẹ; nói có một vị đại thần là vị quan lớn của triều đình; còn Nguyệt Quang là tên riêng của một người; nói "Thông minh trí tuệ" là nói người có đức; nói cùng với Kỳ-bà: Kỳ-bà cũng là con của vua, là con gái út, chợt thấy anh mình khởi tâm nghịch tử với mẹ, liền cùng Nguyệt Quang đến can ngăn.
Nói vì vua mà làm lễ tức là hễ muốn can ngăn các đại nhân thì phải bái lạy để biểu hiện sự cung kính. Nay hai vị đại thần cũng vậy, trước hết phải tỏ ra cung kính, họ nghĩ là sẽ làm động lòng Thái tử, chấp tay cung kính, mục đích cũng nói lên ý này.
Lại tâu:
Thưa Đại vương! tức đoạn này nói Nguyệt Quang muốn dùng lời lẽ để trình bày mong được vua A-xà-thế khai tâm mà nghe lời, cũng vì nhân duyên đó nên phải tâu trước.
Nói thần nghe Tỳ-đà luận kinh chép: "Ở đây là dẫn rộng sử ký xưa của các đế vương thời đại xưa nay". Người xưa chép: "Lời nói không liên đến sách vở thì người quân tử hổ thẹn nay vì can ngăn một sự việc không phải nhỏ, há có thể là dùng lời suông nói dối hay sao?"
Nói từ kiếp sơ đến nay tức là nói về thời gian. Nói có các vị vua, đoạn này nói chung về con người bạo nghịch không có lễ nghĩa.
Nói vì tham ngôi vua, ở đây nói chẳng phải ý tham đoạt ngôi vị của cha, nói giết hại cha mình là nói Thái tử khởi tâm ác đối với cha mình. Không thể giữ lâu được, cho nên phải giết cha.
Nói một muôn tám ngàn, tức nay là Thái tử giết cha đồng loại với những người ấy.
Nói chưa hề nghe có ai vô đạo hại mẹ, đoạn này nói từ xưa đến nay người hại cha để chiếm đoạt ngôi vị, thì trong sách sử có ghi chép nhiều, còn người vì tham quốc gia mà giết hại mẹ thì hoàn toàn không có ghi. Nếu nói từ kiếp sơ đến nay, những vị vua độc ác tham quốc thì có, nhưng chỉ giết cha mà thôi, chứ chưa ai giết mẹ, hôm nay có đại vương tham quốc mà giết cha, vì cha có địa vị, do đó mà sinh tham, điều này thì cũng có thể giống như các vị tham quốc xưa kia, nay người mẹ là người không có địa vị để mong cầu chiếm đoạt, mà lại ngang trái mang tâm nghịch hại, đây là người đời nay khác với đời xưa.
Nói nay vua vì tham quốc mà giết hại mẹ, làm ô uế dòng Sát-lợi. Sát-lợi, là giai cấp vương giả, một trong bốn giai cấp của nước Ấn-độ, là một giai cấp Vua chúa đã nhiều đời kế thừa ngôi vua, há đồng với phàm tình hay sao?
Nói Thần không nỡ nghe: Là nói các quan thấy vua làm điều ác, sợ hủy nhục tông môn, tiếng ác lưu truyền, nay tôi quá thất vọng, vì quá nhục nhã không thể nói hết. Nói là Chiên-đà-la, đây là giai cấp thấp kém nhất trong bốn giai cấp. Người Giai cấp này tính tình họ hung ác, không bao giờ nghĩ điều nhân nghĩa, tuy họ làm thân người nhưng hành vi đồng với loài cầm thú.
Vua là một tộc tánh thượng lưu, là đấng chúa tể cả muôn dân, nay vì làm những điều hung ác hại đến cả mẹ, thì có khác gì giai cấp thấp kém kia? Nói không nên ở đây có hai nghĩa:
a. Nay vua đã gây ra điều ác, không còn lễ nghĩa gia phong, kinh thành xã tắc há để cho bọn Chiên-đà-la làm chủ? Đây có ý nghĩa muốn đuổi vua ra khỏi cung.
b. Thái tử tuy là vua một nước, nhưng đã làm tổn thất thanh danh của tông thân, không bằng đuổi đi xứ khác, đi đến một chỗ nào mà không bao giờ nghe thấy, do đó gọi là không nên ở đây.
Nói bấy giờ hai vị đại thần nói lời ấy rồi v.v... trở xuống tức đoạn này nói về hai vị đại thần đích thân đến can ngăn, lời nói rất thô thiển, đã dẫn chứng các việc xưa nay với Thái tử, mong tâm Thái tử khai ngộ.
Nói dùng tay đè kiếm tức là các Đại thần tự đè thanh kiếm trong tay.
Hỏi: Can ngăn Thái tử mà dùng lời nói thô thiển, vậy không sợ phạm thượng hay sao? Như thế thì đã trái với nghĩa với vua tôi, sao không đích thân mang phu nhân đi chỗ khác, để Thái tử khỏi giết?
Đáp: Nói lời thô ác tuy là nghịch với Thái tử, nhưng cũng chỉ mong Thái tử chấm dứt ác hại, sợ Thái tử rút kiếm hại đến thân mình. Muốn nắm giữ kiếm của Thái tử cũng là để phòng thân, lùi lại bỏ đi.
5. Từ bấy giờ A-xà-thế kinh hãi v.v... trở xuống, cho đến các khanh không vì ta sao? Phần này nói Thái tử đã bắt đầu sợ hãi, A-xà-thế nghe hai vị thần can ngăn bằng những lời thô thiển, lại thấy đè kiếm mà bỏ đi, Thái tử sợ các đại thần chống lại, lúc ấy liền đến chỗ nhà vua, lại lập mưu kế khác. Đoạn này nói về sự bất an của Thái tử, do đó mà gọi là run sợ.
Các Đại thần đã bỏ ta, không biết vì ai? Tâm nghi ngờ không quyết định, nên miệng liền hỏi, cho nên nói Kỳ-bà người không vì ta sao?
Nói Kỳ-bà là em vua. Người xưa có chép: "Nhà có suy họa, chẳng phải người thân thì không ai cứu. Ngươi là em ta, há lại như Nguyệt Quang ư?"
6. Từ Kỳ-bà tâu rằng v.v... trở xuống, cho đến cẩn thận chớ hại mẹ tức là hai vị đại thần hết lời can ngăn, đoạn này là Kỳ-bà đúng như thật mà trả lời Đại vương:
Nếu Đại vương muốn chúng tôi giúp đỡ, thì Đại vương đừng hại mẹ, đây là những lời can ngăn thẳng.
7. Từ vua nghe nói vậy v.v... trở xuống, cho đến không hại mẹ nữa là vua A-xà-thế nghe lời can ngăn nên tha chết cho mẹ. Ở đây A-xà-thế được Kỳ-bà can ngăn, tâm ông rất hối hận, hổ thẹn việc làm trước đây của mình, liền hướng về hai vị đại thần để xin thứ lỗi. Do đó mà mẹ được thoát nạn chết, cây kiếm trong tay đã trở vào vỏ kiếm.
8. Từ bảo vị nội quan v.v... trở xuống, cho đến không cho ra ngoài là vua A-xà-thế vẫn còn tức giận mẹ. Ở đây nói A-xà-thế tuy đã nghe lời can ngăn của các đại thần mà tha cho mẹ, nhưng vẫn còn tức, không cho mẹ ra ngoài. Thái tử ra lệnh cho các nội quan, giam mẹ vào cung sâu, không cho ra ngoài và cũng không cho đến thăm nhà vua.
IV. Phần nói về chán ghét duyên khổ Phần này cũng có bốn đoạn.
1. Từ bấy giờ Vy-đề-hy v.v... trở xuống cho đến ốm o gầy mòn, đoạn này nói phu nhân bị con giam cầm trong ngục tối, phu nhân tuy được khỏi nạn chết, nhưng vẫn còn bị nhốt trong cung sâu, bị giữ trong lao ngục, chứ chưa được ra ngoài, chỉ có niệm niệm buồn lo, tự nhiên ốm o gầy mòn, bèn than rằng:
Thật là tai họa! Hôm nay lại gặp vua A-xà-thế gọi, oán kết trong dao bén, lại giam vào cung sâu.
Phu nhân đã được khỏi chết, được ở trong cung, lẽ ra phải giả bộ vui vẻ, vì sao lại lo buồn?
Ở đây cũng có ba nghĩa khác nhau:
Phu nhân đã bị nhốt, lại không có người mang thức ăn cho nhà vua, mà nhà vua nghe ta bị nạn lại thêm lo buồn. Nay đã không có thức ăn lại thêm lo buồn, e mạng sống của nhà vua không thể kéo dài.
Phu nhân đã bị giam cầm thì biết khi nào gặp được các đệ tử của Đức Như lai?
Phu nhân vâng lệnh vua, bị giam cầm trong cung sâu, lại có các nội quan canh giữ, nước uống cũng không cho đem vào, e rằng chỉ trong một đêm, do buồn mà chết. Do đây mà ép ngặt thân tâm đến chỗ tiều tụy.
2. Từ xa hướng về núi Kỳ-xà-quật v.v... trở xuống cho đến khoảng thời gian chưa ngẩng đầu lên là ý nói phu nhân tuy bị giam cầm trong ngục nhưng tâm tư vẫn hướng về Đức Phật. Tức là phu nhân nay thân đã bị giam cầm không thể đến chỗ Đức Thế tôn để đảnh lễ, mà chỉ dùng tâm tư hướng về núi Kỳ-xà-quật để đảnh lễ Thế tôn, xin Đức Phật Từ bi thấu hiểu nỗi lòng của đệ tử.
Nói Như lai lúc xưa v.v... trở xuống, đoạn này có hai nghĩa.
a. Nói về thời gian khi nhà vua chưa bị giam cầm, có lúc thì nhà vua cùng phu nhân và các quan cận thần, thân thuộc đều đến một bên Đức Như lai, hoặc Đức Như lai và các đệ tử đích thân thọ nhận sự cung thỉnh của nhà vua, nhưng nay phu nhân cũng như nhà vua đều bị giam cầm, nhân duyên đã dứt, tình cảm kia đây trái nhau.
b. Nói khi nhà vua bị giam cầm, đã mấy lần mong Đức Thế tôn sai ngài A-nan đến an ủi, thăm hỏi con. Sao gọi là an ủi, thăm hỏi? Vì thấy nhà vua bị tù cấm, Đức Phật sợ phu nhân lo buồn, vì thế mà Đức Phật bảo đến thăm hỏi.
Nói Đức Thế tôn uy đức trọng vọng không thể nào được thấy, đoạn này nói phu nhân bị giam rồi tự hạ mình, quy hướng về các đệ tử của Đức Phật, chán ghét thân nữ uế trược, phước đức lại kém cỏi, ân đức của Đức Phật thì quá cao sâu. Không thể xem thường, rất mong Đức Thế tôn bảo ngài Mục-liên và các đệ tử đến cho con được gặp.
Hỏi: Như lai tức là Hóa chủ, lẽ ra không đánh mất thời nghi, vì sao phu nhân phải hết lòng cầu thỉnh đến ba lần, Phật mới sai Mục-liên... là có ý nghĩa gì?
Đáp: Đức Phật là đấng tôn nghiêm, những việc nhỏ nhặt thì không dám thưa hỏi. Phu nhân chỉ muốn gặp ngài A-nan nên chuyển lời đến bạch lên Đức Thế tôn. Đức Phật biết được ý của phu nhân, liền sai Tôn giả Anan chuyển lời nói của Đức Phật, đến nói lại cho phu nhân nghe, vì lý do đó mà phu nhân muốn được gặp ngài A-nan.
Nói nói lời ấy xong là nói chung ý trước đã xong.
Nói buồn khóc rơi lệ tức là phu nhân tự biết mình có tội nặng nên xin Phật thương xót, hết lòng chí kính mà khóc, nước mắt dâng trào đầy mắt, nhưng bày tỏ sự khát khao ngưỡng vọng, chỉ từ xa làm lễ, cúi đầu trong khoảng giây lát chưa ngẩng dậy. c. Từ lúc bấy giờ, Đức Thế tôn v.v... trở xuống cho đến rải hoa trời cúng dường, đây là đoạn nói Đức Như lai đích thân đến chỗ phu nhân cầu thỉnh, đoạn này cũng có ý nói, Đức Thế tôn tuy ở Kỳ-xà-quật, nhưng cũng biết được tâm niệm của phu nhân.
Nói sai Đại Mục-liên... từ hư không mà đến là Đức Phật đáp ứng lời thỉnh cầu của phu nhân.
Nói Phật biến mất ở núi Kỳ-xà-quật là phu nhân bị giam cầm trong cung rất khó gặp Phật, nhưng Đức Phật cũng hiện thân đến được, không bị vua A-xà-thế nghe thấy mà sinh chuyện rắc rối, vì thế mà Đức Thế tôn phải ẩn mình tại Kỳ-xà-quật và hiện ra ngay trong cung cấm.
Nói bấy giờ Vy-đề-hy đảnh lễ rồi, ngẩng đầu là phu nhân tỏ vẻ cung kính Đức Phật.
Nói thấy Phật Thế tôn, tức là nói Đức Thế tôn đã xuất hiện trong cung sâu, lúc bấy giờ phu nhân vừa ngẩng đầu thì liền nhìn thấy Đức Thế tôn.
Nói Phật Thích-ca Mâu-ni, là nói một cách đơn giản như các Đức Phật khác, nhưng thông thường tên gọi các Đức Phật là thân và tướng không khác, nay chỉ xưng là Đức Phật Thích-ca thì cũng không nghi ngờ gì.
Nói thân màu vàng tím là chỉ cho một tướng tốt của Đức Phật. Nói ngồi trên hoa sen trăm báu là để phân biệt với các tòa khác. Nói Mục-liên hầu bên trái là nói không có ai khác, chỉ có hai Tôn giả.
Nói Thích, Phạm, Hộ Thế là nói về các chúng Thiên Vương, thấy
Đức Thế tôn hiện trong cung vua, sẽ nói pháp kỳ lạ, ít có. Chúng tôi là trời, người nhờ Vy-đề-hy mà được nghe pháp lợi ích xưa nay chưa hề được nghe. Mỗi vị đều nương bản niệm, trụ khắp trong hư không, nhờ có thiên nhĩ mà nghe được rất xa, do đó mà rải các thứ hoa trời như mưa để cúng dường.
Lại nói Thích: Tức là Thiên Đế.
Phạm: tức là các vua trời phạm thiên thuộc cõi Sắc. Hộ Thế: Tức là bốn vị Thiên vương.
Nói các vị trời tức là các vị trời ở cõi Dục và cõi Sắc. Đã thấy các Thiên vương đến hướng về một bên Đức Phật, các vị trời đó cũng theo vua đến, nghe pháp cúng dường.
3. Từ bấy giờ Vy-đề-hy thấy Đức Thế tôn v.v... trở xuống, cho đến làm quyến thuộc với Đề-bà-đạt-đa tức là phu nhân ngẩng đầu lên nhìn thấy Đức Phật, liền nói lời thương than, oán kiết tình sâu.
Nói tự bứt chuỗi anh lạc là thân phu nhân có trang sức chuỗi anh lạc là tâm ái chưa trừ bỏ, bỗng nhiên nhìn thấy Đức Như lai, thì hổ thẹn và tự bứt bỏ.
Hỏi: Vì sao phải dứt bỏ?
Đáp: Phu nhân là người cao quý trong những người cao quý, người đáng tôn trọng trong những người đáng tôn trọng, bốn oai nghi của phu nhân, nhiều người phải cung phụng, y phục phu nhân mặc đều do người hầu mặc cho. Nay hổ thẹn tình sâu, không thể nào đeo được nữa, nên tự tay giật vất đi, do đó mà gọi là tự bứt.
Nói toàn thân gieo xuống đất là nói phu nhân trong tâm đã ôm ấp đau thương, oán khổ khó chịu nổi, cho nên từ chỗ ngồi liền đứng, rồi lại gieo mình xuống đất, đây là nói lên oán hận đã quá chồng chất, không còn uy nghi lễ bái.
Nói than khóc hướng về Phật, tức là phu nhân lảo đảo trước Phật, buồn than khóc.
Nói bạch Phật v.v... trở xuống, đoạn này nói phu nhân lảo đảo khóc trước Phật, hồi lâu mới tỉnh, lúc đó mới sửa sang oai nghi thân thể, chắp tay bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Từ khi con sinh ra cho tới nay, chưa bao giờ con gây ra tội lỗi gì, con cũng không biết kiếp trước con có tạo tội ác gì không, mà kiếp này kết làm mẹ con với đứa con này, đó là nói phu nhân đã do nghiệp chướng quá sâu, mà không thấy được nguyên nhân của kiếp trước, nay bị con hại, lại cho là hoạn nạn đến, nguyện xin Đức Phật Từ bi chỉ rõ cho thấy được.
Nói Thế tôn vì sao v.v... trở xuống là nói phu nhân hướng về Đức Phật mà tỏ bày, con là phàm phu tội lỗi chưa hết, nay lại có thêm ác báo là việc phải cam tâm. Đức Thế tôn đã nhiều kiếp tu hành, đã dứt hết các thứ tập khí trí tuệ sáng suốt, quả chứng viên mãn gọi là Phật, chẳng hay vì sao lại làm quyến quyến thuộc với Đề-bà? Ý này cũng có hai:
Phu nhân có oán hận đối với con nên chợt khởi tâm nghịch ác đối với cha mẹ.
a. Lại oán hận Đề-bà xúi giục Thái tử A-xà-thế con mình gây ra ác kế. Nếu không có Đề-bà thì Thái tử hoàn toàn không có ý xấu này. Vì nhân duyên đó, mà phu nhân thưa hỏi Đức Phật.
Lại, phu nhân hỏi Đức Phật vì sao là quyến thuộc với Đề-bà. Đoạn này cũng có hai ý:
a. Quyến thuộc tại gia.
b. Quyến thuộc xuất gia.
Nói quyến thuộc tại gia, Đề-bà là em chú bác với Phật, gần có bốn người: Đức Phật là con cả vua Tịnh Phạn, Kim-tỳ là con cả vua Bạch Phạn, Đề-bà là con cả vua Hộc Phạn, Thích-ma-nam là con cả vua Cam Lộ Phạn. Đó gọi là ngoại quyến thuộc tại gia.
Còn nói về quyến thuộc xuất gia, đều làm đệ tử Phật, do đó mà gọi là nội quyến thuộc.
V. Gặp được duyên May mắn thanh tịnh: Phần này có tám đoạn.
1. Từ cúi mong Đức Thế tôn nói rộng cho con nghe v.v... trở xuống, cho đến đời vẩn đục là phu nhân thỉnh chung về sở cầu, nêu riêng cảnh giới đau khổ. Ở đây nói phu nhân tự thân bị khổ, giác biết cuộc đời là vô thường. Sáu đường đều như thế, không có chỗ an tâm, nay được nghe Phật nói Tịnh độ vô sinh, liền nguyện xả thân ô uế này, mà chứng được sự an vui vô vi của Tịnh độ.
2. Từ cõi vẩn đục này v.v... trở xuống, cho đến không thấy người ác là phu nhân muốn ra khỏi cảnh giới đáng nhàm chán này, đây là nói điều ác chung của cõi Diêm-phù-đề, không có một điều gì đáng tham cầu, chỉ vì ngu si tham đắm theo huyền hoặc, mà phải chịu chìm đắm trong biển khổ trần gian. Nói cõi vẩn đục này tức là nói đây là cảnh giới đau khổ.
Lại nói khí thế gian cũng là chỗ y báo của chúng sinh, cũng gọi là chỗ quả báo của chúng sinh.
Nói địa ngục đẳng v.v... trở xuống là nói quả ác quan trọng nhất của ba phẩm.
Nói đầy khắp là chỗ nhóm họp của ba khổ, chẳng phải chỉ riêng cho cõi Diêm-phù-đề ở Ta-bà mà ở đâu cũng đều có, do đó mà gọi là đầy khắp.
Nói nhiều nhóm bất thiện là chỉ cho ba cõi sáu đường khác nhau, chủng loại nhiều như cát sông Hằng, tùy tâm mà khác nhau. Kinh chép: "Nghiệp có công năng trang nghiêm cho thức, đời nào, ở đâu, các đường tùy duyên mà chịu quả báo, dầu có đối diện cũng không biết nhau.
"
Nói con nguyện đời vị lai v.v... trở xuống là chân tâm của phu nhân đã thành thục, đã chán ghét sự khổ của Ta-bà, ưa thích vô vi, mãi mãi trở về với thường lạc, nhưng cảnh giới vô vi không dễ xem thường mà đến được, cũng như khổ não của Ta-bà nếu không có dụng công thì e khó mà rời khỏi, tự mình nếu không phát chí kim cương, để cắt đứt gốc sinh tử, nếu không gần gũi Đức Từ Tôn, thì làm sao vượt khỏi đau khổ kia?
Nhưng nguyện con đời vị lai không nghe nói tiếng ác và thấy người ác: tức là như không nghe đến vua Axà-thế, Điều-đạt, là kẻ giết cha, phá Tăng và có những lời hung ác... nguyện cũng không nghe không thấy. Nhưng vua A-xà-thế đã là con đẻ của mình lại khởi tâm giết hại đối với cha mẹ, huống chi không hại người khác? Do đó mà phu nhân không muốn làm thân thuộc, hoàn toàn muốn cắt dứt.
4. Từ nay hướng về Đức Thế tôn v.v... trở xuống cho đến sám hối chính là muốn nói với phu nhân rằng Tịnh độ, là cõi nhiệm mầu, nếu không có phước thiện thì không thể sinh về, phu nhân sợ mình còn nhiều tội lỗi, làm chướng ngại không được sinh về, cho nên cầu Phật thương xót, lại phải sám hối.
5. Từ cúi mong Phật nhật v.v... trở xuống, cho đến nghiệp xứ thanh tịnh là phu nhân đã thưa hỏi chung về cách tu hành, vãng sinh. Ở đây là nói phu nhân ở trên đã thưa hỏi chung về chỗ sinh, còn ở đây cũng hỏi chung về hạnh tu để được sinh.
Nói Phật nhật tức là nêu cả hai mục đích pháp và dụ, ví như mặt trời mọc, thì bóng tối tự tan biến, trí tuệ của Đức Phật sáng ngời, đêm tối vô minh sẽ rực sáng.
Nói dạy con quán thanh tịnh v.v... trở xuống là đã nhàm chán cõi uế, ưa thích cõi Tịnh, chỉ cần an tâm chú tưởng tu tập thì sẽ được vãng sinh về cõi thanh tịnh.
6. Từ lúc bấy giờ, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày v.v... trở xuống đến khiến Vy-đề-hy trông thấy. Đức Thế tôn hiện ra các Tịnh độ, để đáp lại lời thưa hỏi ở trước, Đức Thế tôn vì muốn cho phu nhân được nhìn thấy cảnh giới Tịnh độ, nên Đức Như lai phát ra ánh sáng giữa hai đầu chân mày, chiếu khắp các cõi nước trong mười phương, ánh sáng gom nhiếp cõi nước, rồi trở về trên đảnh, hóa thành đài vàng, như núi Tu-di, tự như lời nói, tợ như núi Tu-di, núi này chỉ hiện ra trên một đỉnh nhỏ, từ đó mà tất cả cõi nước của Chư Phật lại xuất hiện trong đó, các thứ khác nhau, trang nghiêm khác nhau, do thần lực của Đức Phật, mà rõ ràng phân minh, nhờ sự che chở của Phật mà Vy-đề-hy đều thấy được tất cả.
Hỏi: Vy-đề-hy thưa hỏi như trên là vì chúng ta mà nói rộng cảnh giới vô ưu, thế thì vì sao Đức Phật lâu nay không nói cho chúng ta nghe và sự hóa hiện ra đài vàng như thế là có ý gì?
Đáp: Chương này là mật ý của Như lai, nhưng Vyđề-hy phát lời thưa hỏi tức là mở rộng cửa Tịnh độ, nếu nói chung thì sợ rằng mọi người không thấy, vì tâm mọi người đang còn lậu hoặc, do đó mà phải hiện bày từng thứ ra trước mắt họ, tùy tâm chọn lựa.
7. Từ bấy giờ, Vy-đề-hy bạch Phật v.v... trở xuống cho đến đều có ánh sáng. Phu nhân thấy rõ các cảnh Phật đã hiện, cảm niệm ân đức của Phật, phu nhân nhìn thấy tất cả các cõi Chư Phật trong mười phương, đều là tinh hoa, muốn so sánh với sự trang nghiêm của thế giới Cực lạc, thì hoàn toàn không thể so sánh được, nên nói nay con muốn sinh về cõi nước Cực lạc.
Hỏi: Chư Phật trong mười phương, sự dứt trừ các hoặc không khác nhau, hạnh quả viên mãn, lẽ ra không hai, vì sao có các thứ Tịnh độ hơn kém như thế?
Đáp: Đức Phật là Đấng Pháp Vương, thần thông tự tại, hơn và kém, vọng hoặc hàng phàm phu không thể biết được, ẩn hiện tuỳ cơ, mục đích là để mang lại sự lợi ích giáo hóa, hoặc có thể ẩn các cõi nước khác là hơn để hiển bày cảnh của Tây phương là hơn.
8. Từ nay con muốn sinh về cõi Di-đà v.v... trở xuống là phu nhân chọn riêng sở cầu, đây cũng nói về bốn mươi tám lời nguyện của cõi nước Phật A-di-đà, mỗi nguyện đều phát sinh ra thắng nhân tăng thượng, nương vào nhân mà khởi ra hạnh tốt, rồi dựa vào hạnh mà cảm được quả tốt. Rồi nương vào quả mà cảm thành báo tốt. Nương vào báo mà cảm thành Cực lạc. Nương vào Cực lạc mà hiển bày tâm Từ bi để hóa độ. Y vào bi hóa mà mở ra cửa trí tuệ. Nhưng bi tâm là vô tận, trí cũng cao siêu, bi và trí song hành, tức mở rộng cửa cam lộ, nhờ đó mà thấm nhuần giáo pháp, nhiếp khắp chúng sinh. Các kinh điển khác, sự khuyến khích thì nhiều, tâm nguyện của các bậc Thánh đều chỉ ra và khen ngợi như thế, nhờ nhân duyên này mà Đức Như lai mật ý bảo phu nhân chọn riêng.
9. Từ cúi mong Đức Thế tôn v.v... trở xuống là phu nhân thưa hỏi về biệt hạnh, ở đây nói Vy-đề-hy chọn được chỗ sinh, lại còn tu biệt hạnh, tự mình cố gắng dốc lòng, mục đích cũng mong cầu lợi ích vãng sinh.
Nói dạy con tư duy tức là quyết định phương tiện trước. Tư tưởng thường tưởng nhớ về Y báo và Chánh báo của cõi Cực lạc và bốn thứ trang nghiêm.
Nói dạy con chánh thọ là nói nhờ tư tưởng trước mà dần dần nhỏ nhiệm, giác tưởng đều quên chỉ còn tâm định, hợp với cảnh trước. Đó gọi chính là thọ. Trên đây đã nói lược qua phương pháp tu tập, đến dưới đây sẽ chỉ ra quán môn, lại sẽ nói rộng, nên biết.
VI. Nói về hành duyên trong phần tán thiện.
Phần này cũng có năm đoạn:
1. Từ lúc bấy giờ, Đức Thế tôn liền mỉm cười v.v... trở xuống, cho đến thành A-Na-hàm là nói về ánh sáng làm lợi ích cho nhà vua, ở đây nói Đức Như lai biết phu nhân muốn vãng sinh về cõi Cực lạc, mà thưa hỏi hạnh tu hành để được sinh. Xứng với bản tâm Phật, lại nói lên ý nguyện của Đức Phật A-di-đà, vì hai lần thưa hỏi này mà Đức Phật mở rộng cánh cửa Tịnh độ, không chỉ riêng Vy-đề-hy được vãng sinh, mà người nào có sự hiểu biết nghe đến, đều được vãng sinh, do có lợi ích như cho nên Đức Như lai mỉm cười.
Nói có ánh sáng năm màu từ miệng Phật phát ra là ý nói tất cả Chư Phật tâm và miệng thường có pháp uy nghi như thế, hễ phát ra ánh sáng thì chắc chắn có lợi ích.
Nói mỗi tia sáng chiếu vào đảnh Tần-bà là ý nói ánh sáng phát ra từ miệng Phật không chiếu đến các phương khác, chỉ chiếu vào đảnh đầu vua, nhưng ánh sáng Phật từ thân mà phát ra chắc chắn đều có lợi ích. Ánh sáng phát ra từ dưới chân Phật thì chiếu soi làm lợi ích cho địa ngục, nếu ánh sáng từ đầu gối phát ra thì sẽ chiếu soi và làm lợi ích cho loài súc sinh, nếu ánh sáng từ âm tàng phát ra thì sẽ mang lại lợi ích cho quỷ thần, nếu ánh sáng phát ra từ rốn thì sẽ chiếu soi và mang lợi ích cho A-Tu-la. Ánh sáng từ tâm Phật phát ra thì sẽ mang lại lợi ích cho mọi người, nếu ánh sáng phát ra từ miệng Phật thì sẽ mang lại lợi ích cho người Nhị thừa, nếu ánh sáng phát ra từ giữa hai đầu chân mày của Phật thì sẽ mang lại lợi ích cho người Đại thừa.
Nay chỉ nói ánh sáng phát ra từ miệng vàng của Phật, chiếu thẳng vào đảnh đầu của vua, tức là Đức Phật trao cho vua quả vị Tiểu thừa, nếu ánh sáng phát ra từ giữa hai đầu chân mày của Phật thì sẽ thu vào đảnh đầu Phật, tức thọ ký cho các vị Bồ-tát, ý nghĩa này rộng lớn vô lượng, ở đây không thể nói hết.
Nói lúc bấy giờ, Đại vương tuy ở trong ngục v.v... trở xuống là nhà vua được ánh sáng chiếu vào đảnh đầu, tâm và mắt được khai mở, dầu cho chướng ngại đến mấy, cũng tự nhiên nhìn thấy. Nay nhờ ánh sáng mà được nhìn thấy Phật, chứ không phải do ý mà thấy, do đó mà vua hết lòng chí kính quy y, liền chứng được quả thứ ba.
2. Từ lúc bấy giờ, Đức Thế tôn trở xuồng, cho đến nói rộng các thí dụ là nói Đức Thế tôn đáp lời thưa hỏi chọn riêng hạnh sở cầu của phu nhân. Ở đây nói Đức Như lai biến mất trên núi Kỳ-xà-quật, rồi xuất hiện trong cung vua, đến đoạn văn này, Đức Thế tôn ngồi yên lặng Ngài chưa nói gì, nhưng trong khoảng thời gian đó thì phu nhân sám hối và thưa hỏi, Đức Phật phát ra ánh sáng hiện các cõi nước v.v... Lúc đó, ngài A-nan theo Phật vào cung, thấy được nhân duyên như thế, sau khi xong việc. A-nan trở về núi Kỳ-xà-quật trình bày lại cho đại chúng trên núi Kỳ-xà-quật nghe, do đó mới có văn này, chứ không phải do Phật nói, nên biết như vậy.
Nói lúc bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Vy-đề-hy v.v... trở xuống là Đức Phật hứa giảng pháp cho Vy-đề-hy nghe.
Nói Phật A-di-đà ở cách đây không xa, đây là nêu cảnh để trụ tâm, đoạn này cũng có ba ý:
a. Nói về khoảng cách không xa, từ Ta-bà đến Cực lạc cách nhau mười muôn ức cõi Phật, tức là cõi nước của Đức Phật A-di-đà.
b. Nói đạo lý tuy xa, nhưng khi đi một niệm liền đến.
c. Nói Vy-đề-hy và các chúng sinh ở đời vị lai, dốc lòng quán niệm tương ưng với cảnh định thì người tu tập tự nhiên thường thấy thế giới Cực lạc. Vì có ba ý nghĩa như thế cho nên nói là không xa.
Nói phu nhân nên buộc niệm v.v... trở xuống, tức là nói phàm phu nghiệp chướng sâu dày, tâm thường tán động, nếu không cắt đứt các duyên trần thì cảnh tịnh không bao giờ hiển hiện. Đây chính là giáo nên an tâm trụ hạnh. Nếu y theo pháp này thì gọi là tịnh nghiệp thành.
Nói nay ta vì phu nhân v.v... trở xuống, đoạn này nói cơ duyên chưa đầy đủ, không thể nói về định môn, Đức Phật lại quán xét căn cơ, mà khai mở hạnh tu ba thứ phước.
Từ cũng khiến đời vị lai v.v... trở xuống, cho đến cõi nước Cực lạc là nói về nêu các căn cơ khuyên tu được lợi ích, ở đây nói lợi ích thưa hỏi của phu nhân càng sâu và đời sau chúng sinh nào hồi tâm thì sẽ được vãng sinh Cực lạc.
3. Từ muốn sinh về nước kia v.v... trở xuống, cho đến gọi là tịnh nghiệp là phần khuyên tu ba thứ phước, cũng nói về căn cơ của tất cả chúng sinh, có hai thứ là:
a. Định.
b. Tán.
Nếu y theo Định mà thực hành, tức là thu nhiếp chúng sinh bất tận, do đó mà Đức Như lai phương tiện mở bày ba thứ phước, để đáp ứng cho căn cơ tán động.
Nói muốn sinh về cõi ấy tức là nêu chỗ vãng sinh về. Nói nên tu ba thứ phước là nêu chung hạnh môn. Ba thứ phước ấy là:
-Hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ.
Hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ là nói tất cả phàm phu đều phải nhờ vào các duyên mà sinh. Sao gọi là nhờ vào các duyên? Hoặc có loài hóa sinh, hoặc có loài thấp sinh, hoặc có loài noãn sinh, hoặc có loài thai sinh. Trong bốn loại sinh này mỗi loài cũng có bốn cách sinh, như trong kinh có nói rộng. Chỉ do làm nhân với nhau mà sinh, tức có cha mẹ, đã có cha mẹ, thì có đại ân. Nếu không có cha, tức nhân năng sinh bị thiếu, nếu không có mẹ, thì duyên sở sinh cũng bị trái, nếu cả hai người đều không, tức là không có chỗ để gá sinh, do đó mà phải có đầy đủ cả duyên cha và mẹ, mới có chỗ để thọ thân, đã muốn thọ thân, thì do nghiệp thức của mình làm nội nhân và tinh huyết cha mẹ làm duyên bên ngoài. Nhân duyên hoà hợp, do đó mới có thân này, vì nghĩa ấy nên cha mẹ là người ân nặng nhất với chúng ta.
Sau khi mẹ mang thai, trải qua mười tháng, sự đi đứng nằm ngồi rất là khổ nhọc, lại lo sợ khi sinh nở khó khăn dễ bị chết. Nếu sinh rồi thì ba năm đầu phải nằm trên giường dơ bẩn, từ giường mền đến y phục đều không được sạch sẽ, đến lúc khôn lớn trưởng thành. Vì yêu vợ nhớ con, mà đối với cha mẹ lại sinh oán ghét, không hiếu thuận với cha mẹ, con người như thế khác gì loài súc sinh. Lại cha và mẹ là ruộng phước lớn nhất của thế gian. Còn Đức Phật là ruộng phước lớn nhất của xuất thế gian.
Nhưng thời Đức Phật còn tại thế, gặp những năm đói thiếu, nhiều người bị chết đói, xương trắng khắp nơi. Các vị Tỳ-kheo đi khất thực cũng khó khăn. Bấy giờ, Đức Thế tôn đợi các Tỳ-kheo đi khất thực hết, Ngài một mình vào thành khất thực, từ sáng sớm đến trưa nhà nào phải cũng vào khất thực mà vẫn không có thức ăn, cuối cùng Đức Phật cũng phải trở về với bát không. Hôm sau Ngài lại cũng không được gì. Ngày sau đó Ngài lại đi, lại cũng không được gì. Bỗng có một vị Tỳ-kheo đang đi giữa đường gặp Đức Phật vẻ mặt khác thường, dường như đang đói, liền hỏi Đức Phật:
Bạch Đức Thế tôn! Nay Ngài đã thọ thực rồi phải không? Đức Phật bảo:
Này Tỳ-kheo! Như lai đã ba ngày nay khất thực không được gì, giờ đây ta không còn sức lực để nói chuyện với thầy nữa.
Tỳ-kheo nghe Phật nói, liền rơi lệ không thể ngăn được, liền nghĩ:
Đức Phật là ruộng phước vô thượng, là đấng che chở cho chúng sinh, nay ta sẽ bán ba mảnh y này, mua một bát cơm để dâng lên Đức Phật.
Ngay lúc đó, liền mua được một bát cơm, lập tức đến dâng lên Đức Phật.
Đức Phật biết mà vẫn cố hỏi:
Này Tỳ-kheo! Gặp lúc đói thiếu, mọi người đều bị đói mà chết, nay thầy làm sao có được một bát cơm rất ngon mà mang đến đây như thế?
Vị Tỳ-kheo bạch với Đức Phật hết sự thật. Đức Phật lại chép:
Này Tỳ-kheo! Ba y là cờ nêu của Chư Phật ba đời, nhân duyên của ba y này, rất tôn quý, đáng trân trọng và đầy đủ ân đức, nay thầy mang đổi chỉ được một bát cơm cho Ta, Như lai nhận lãnh tấm lòng tốt của thầy, nhưng Ta không tiêu được bát cơm này.
Tỳ-kheo lại bạch Phật rằng:
Đức Phật là ruộng phước của ba cõi, là bậc Thánh đáng tôn trọng, sao lại không nhận bát cơm của con dâng cúng, vậy ngoài Đức Phật ra thì ai có thể thọ nhận bát cơm này?
Đức Phật đáp: Này Tỳ-kheo! Cha mẹ thầy còn sống không? Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn, còn sống!
Thầy nên đem về cúng dường cho cha mẹ.
Vị Tỳ-kheo bạch: Bạch Đức Thế tôn! Ngài còn không dám nhận thì cha mẹ của con làm sao dám nhận?
Đức Phật chép: Nhận được Tỳ-kheo hỏi: Vì sao như thế?
Đức Phật đáp: Vì cha mẹ thầy là người đã sinh ra thầy, là người có ân nặng, do đó mà có khả năng nhận cơm được.
Đức Phật lại hỏi: Này Tỳ-kheo! Cha mẹ ngươi có lòng tin đối với Đức Phật không?
Tỳ-kheo bạch Phật: Bạch Đức Thế tôn! Không dễ tin Phật.
Phật dạy: "Nay có tín tâm, thấy thầy cho bát cơm thì sẽ sinh tâm rất vui mừng, do đó mà phát tín tâm, rồi thọ ba pháp quy y, tức là có khả năng tiêu được thức ăn này". Lúc bấy giờ, vị Tỳ-kheo vâng lời Phật dạy, cảm kích mà lui. Lấy ý nghĩa này, mà hiếu thảo, nuôi dưỡng cha mẹ. Lại, mẹ của Đức Phật là bà Ma-da, sinh ra Đức Phật, bảy ngày sau thì bà qua đời, rồi được thác sinh lên cung trời Đao-lợi. Sau Phật thành đạo, đến ngày mười lăm tháng 04 Ngài liền lên cung trời Đao-lợi để nói pháp cho mẹ nghe, là để đền đáp công ơn mang thai trong mười tháng. Đức Phật còn tự ghi nhận công ơn để hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, huống chi phàm phu như chúng ta mà lại không hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, do đó mà biết ân đức của cha mẹ rất sâu nặng.
Thờ phụng sư trưởng nghĩa là sư trưởng là người có ân đức dạy bảo lễ tiết cho mình. Học thức thành đức, nhân hạnh không thiếu, cho đến thành Phật, cũng đều do sự khéo léo của sư trưởng, đó cũng là ân đức lớn, phải nên kính trọng. Cha mẹ và sư trưởng, gọi là hạnh kính thượng.
Nói từ tâm không giết hại là vì tất cả chúng sinh đều lấy thân mạng làm gốc, nếu thấy duyên ác thì sinh tâm sợ hãi và lánh đi, hành động đó cũng chỉ vì để bảo vệ thân mạng.
Trong kinh có chép: "Tất cả chúng sinh, chẳng có loài nào không yêu quý mạng sống của mình, chớ giết, chớ đánh đập, tự suy mình sẽ biết, lấy đó để làm chứng. "
Nói tu mười điều lành là trong phần nói về mười điều ác thì nghiệp sát sinh là tội ác nặng nhất, do đó sát sinh được đặt ở đầu. Trong mười điều lành, nuôi dưỡng mạng sống là điều lành bậc nhất. Cho nên lấy đó để so sánh nhau. Dưới đây nói về chín điều ác và chín điều lành, sẽ nói rộng thêm, nay chỉ nói về điều lành thế gian, cũng gọi là hạnh từ hạ.
- Nói thọ trì ba pháp quy y tức ở đây nói điều lành thế gian là nhỏ, chiêu cảm quả báo không đầy đủ, giới đức vòi vọi thì chiêu cảm được quả Bồ-đề, nhưng chúng sinh quy y kính tin Tam bảo thì phải từ cạn đến sâu, trước tiên là thọ trì ba quy y, sau đó là thọ trì các giới.
Nói đầy đủ các giới: giới có nhiều loại, hoặc ba quy y năm giới, hoặc năm giới, tám giới, mười điều lành, hai trăm năm mươi giới, năm trăm giới, giới Sa-di, hoặc ba nhóm giới của Bồ-tát, mười vô tận giới... Đó gọi là đầy đủ giới.
Lại, trong mỗi giới phẩm, cũng có thiểu phần giới, đa phần giới và toàn phần giới.
Nói không phạm uy nghi tức là thân, miệng và ý nghiệp đi, đứng, ngồi, nằm đều phải vâng hành theo uy nghi của tất cả các giới đã quy định, dầu nặng nhẹ, lớn nhỏ, đều phải gìn giữ, nếu phạm thì phải sám hối lỗi lầm, cho nên nói là không phạm uy nghi, đây gọi là giới thiện.
- Nói phát tâm Bồ-đề: tức là tâm chúng sinh phải ưa thích hướng về Đại thừa, không thể phát tâm nhỏ bé cạn cợt, nếu tự mình không phát khởi tâm rộng lớn thì làm sao tương xứng với quả vị Bồ-đề? Phải nguyện thân mình đồng như hư không, tâm bằng như pháp giới, cùng tận tánh chúng sinh, ta dùng thân nghiệp cung kính cúng dường lễ bái, qua lại đón rước, cứu độ tất cả, lại tự mình dùng khẩu nghiệp để khen ngợi nói pháp, đều được ta hóa độ, dưới lới nói của mình phải giúp cho tất cả chúng sinh đều được đắc đạo.
Lại, ta dùng ý nghiệp nhập định quán sát, phân thân trong pháp giới, tùy căn cơ chúng sinh mà tiếp độ, chẳng có chúng sinh nào mà ta không độ. Nay ta phát nguyện này, vận hết sức để làm cho tăng trưởng, đến lúc rộng lớn như hư không, chẳng chỗ nào không trùm khắp, đi lại vô tận, cùng tận mé vị lai, mà thân không mệt mỏi, tâm cảm thấy chưa đủ.
Lại nói Bồ-đề là tên của quả Phật.
Lại nói tâm chính là tâm năng cầu của chúng sinh, do đó mà nói là phát tâm Bồ-đề.
4. Nói tin sâu nhân quả, có hai nghĩa:
Nói về nhân quả khổ, vui của thế gian, nếu gây nhân khổ thì sẽ chuốc lấy quả khổ, nếu gieo nhân lành thì sẽ được quả báo vui. Cũng như dùng dấu ấn in vào, ấn giở lên thì thành chữ, không nên nghi ngờ. Nói đọc tụng Đại thừa tức là nói về kinh giáo, giống như chiếu gương, thường đọc tụng, thường tìm kiếm, để khai phát trí tuệ. Nếu mặt trí tuệ mở thì sẽ chán ghét các sự đau khổ của thế gian, mà ưa thích sự an vui của Niết-bàn v.v...
Nói khuyến tấn hành giả là nói pháp khổ như chất độc, pháp ác như dao, trôi lăn trong ba cõi, làm tổn hại chúng sinh. Nay điều lành như tấm gương sáng, pháp như cam lộ, gương sẽ soi đường chánh đạo để trở về chân như, cam lộ tức là rải xuống mưa pháp không bao giờ khô cạn, nếu muốn cho chúng sinh được thấm nhuần, thì phải có các pháp hội, vì nhân duyên đó mà phải khuyến khích thêm.
Nói ba việc này v.v... trở xuống là tổng kết thành các công hạnh ở trên.
5. Từ Phật bảo Vy-đề-hy v.v... trở xuống, cho đến chánh nhân là nói về việc dẫn các bậc Thánh để khuyến khích phàm phu, nếu quyết định dốc lòng thì chắc chắn được vãng sinh, không nghi ngờ gì.
VII. Phần nói về quán duyên của định thiện.
Có bảy đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống đến thanh tịnh nghiệp là Đức Phật đã nghe và hứa nói, ở đây nói Vyđề-hy trước xin nguyện vãng sinh Cực lạc. Lại thưa hỏi cách tu hành để được vãng sinh. Đức Như lai đã hứa khả, ở đây y theo văn này chính là muốn khai mở phương tiện chánh thọ, đây là nhân duyên rất quan trọng, lợi ích rất sâu, nhiều kiếp khó được nghe, nay Đức Như lai mới nói, vì nghĩa ấy cho nên Đức Như lai phải sai hai vị Tôn giả.
Nói Đức Phật bảo A-nan là nói nay Như lai muốn mở cánh cửa Tịnh độ. Ông hãy khéo giữ gìn truyền bá, chớ để dứt mất.
Nói bảo Vy-đề-hy nghĩa là phu nhân là người thưa hỏi chánh pháp, nay Như lai sắp nói, phu nhân hãy lắng nghe, suy xét mà lãnh thọ, chớ để lầm mất.
Nói vì tất cả chúng sinh đời vị lai là Đức Như lai đích thân đến giáo hóa, là vì các chúng sinh đang bị chìm đắm, nay đã bình đẳng ban bố pháp lành, mong được thấm nhuần khắp cả.
Nói bị giặc phiền não hại là Phàm phu nghiệp chướng nặng nề, vọng tâm, yêu đắm quá mê muội sâu dày, không khác gì một hố lửa ba ác, nó ngầm nằm dưới chân người, tùy duyên khởi hành, nghĩ là tư lương tiến đạo, sáu giặc nghe biết, tranh nhau xâm đoạt. Nay đã đánh mất pháp tài này, làm sao không buồn khổ ư?
Nói thuyết nghiệp thanh tịnh là Đức Như lai thấy tội lỗi của chúng sinh nên giảng nói cho nghe phương pháp sám hối, vì muốn cho chúng sinh liên tục dứt trừ, để được hoàn toàn thanh tịnh.
Lại nói thanh tịnh là y theo quán môn dưới đây mà chuyên tâm Niệm Phật, chú ý tưởng niệm về Tây phương, mỗi niệm đều dứt trừ tội lỗi, do đó mà được thanh tịnh.
2. Từ lành thay v.v... trở xuống là phu nhân thưa hỏi thánh ý.
Từ A-nan! Ông nên thọ trì v.v... trở xuống, cho đến giảng nói lời Phật là Đức Thế tôn khuyên A-nan gìn giữ và giảng nói lại, đây là pháp sâu xa quan trọng, khéo mà truyền bá. Đức Như lai trước muốn bảo chung, giúp cho đại chúng an tâm nghe nhận. Văn này là bảo riêng A-nan, thọ trì chớ để quên mất, rồi vì mọi người thuyết giáo rộng để lưu hành.
Nói lời Phật tức là Đức Như lai do đã nhiều kiếp tu hành giúp cho khẩu nghiệp không còn lỗi lầm, hễ có nói ra lời gì thì tất cả người nghe tự nhiên phát sinh tín tâm.
3. Từ hôm nay Như lai v.v... trở xuống, cho đến đắc Vô Sinh Nhẫn là phần khuyên tu để được lợi ích, ở đây nói Đức Như lai muốn vì phu nhân và các chúng sinh đời vị lai mà hiện bày phương tiện tu quán, chú tâm quán tưởng cảnh Tây phương, chán bỏ cõi Ta-bà này mà mong cầu cảnh giới Cực lạc.
Nói nhờ năng lực Phật v.v... trở xuống là nói về chúng sinh nghiệp chướng, trước mắt mà như mù, chỉ tay trong lòng bàn tay mà cho là xa xôi, cảnh giới Cực lạc cách thành La-phiệt khoảng một ngàn dặm, huống chi ngoài Phàm phu ra, cảnh giới Chư Phật ở trong tâm, nếu tự lực không nương nhờ vào đạo lực của bậc Thánh che chở, thì làm sao thấy được cảnh giới Tịnh độ?
Nói như cầu chiếc gương sáng, tự thấy mặt mình v.v... trở xuống, đoạn này nói về phu nhân và tất cả các chúng sinh, nhập tâm tu quán, ngưng thần không rời bỏ, tâm và cảnh tương ưng, thảy đều hiển hiện, đương lúc cảnh hiện thì như muôn vật chiếu vào gương không khác.
Nói tâm vui mừng cho nên đắc nhẫn, đoạn này nói cõi nước của Đức Phật A-di-đà sáng suốt thanh tịnh bỗng nhiên hiện ra trước mắt, có điều gì thích thú hơn! Do đó mà sinh tâm vui mừng, liền được Vô sinh pháp nhẫn, cũng gọi là hỷ nhẫn, cũng gọi là Ngộ nhẫn, cũng gọi là Tín nhẫn. Ở đây là nói cao siêu, chưa nêu được sự thật. Đức Phật muốn cho tâm mong cầu của phu nhân và mọi người được lợi ích này, mạnh mẽ chuyên tâm tinh tấn, lúc tâm tưởng thấy thì mới ngộ được pháp nhẫn, phần nhiều đều chứng nhẫn trong Thập Tín, chứ không phải thượng nhẫn của Giải hạnh.
5. Từ Phật bảo Vy-đề-hy v.v... trở xuống, cho đến khiến phu nhân được thấy là nói phu nhân là phàm chứ không phải Thánh, do chẳng phải Thánh nên mong được Thánh lực che chở, cõi Cực lạc tuy rất xa nhưng vẫn thấy được. Đức Như lai sợ chúng sinh nghi ngờ nên nói phu nhân là Thánh chứ không phải phàm phu, do khởi tâm nghi ngờ rồi tự sinh tâm yếu hèn. Nhưng Vy-đề-hy thật là Bồ-tát, nhưng giả hiện là phàm phu, chúng ta là người tội không thể sánh kịp với các vị ấy, Đức Phật vì muốn dứt sự nghi ngờ này nên nói phu nhân là phàm phu.
Nói tâm tưởng yếu kém vì là phàm phu nên không có chí lớn.
Nói chưa được thiên nhãn, đoạn này nói sự thấy biết qua mắt thịt của phu nhân lúc bấy giờ dầu xa hay gần cũng còn không thể nhìn thấy, huống chi cảnh giới Tịnh độ xa xôi, làm sao nhìn thấy được?
Nói Chư Phật, Như lai có phương tiện lạ v.v... trở xuống, đoạn này nói nếu nương vào cõi nước trang nghiêm mà tâm thấy được thì không phải là khả năng của phu nhân, thảy đều quy công lao về Đức Phật.
6. Từ bấy giờ, Vy-đề-hy bạch Phật v.v... trở xuống, cho đến thấy cõi nước kia, tức là phu nhân lại thêm một lần mang ân đức của Phật, muốn khởi tâm hỏi thêm ở sau, đoạn này nói phu nhân đã lãnh hiểu được ý Phật, như sự thấy được đài ánh sáng, tức là tự mình cũng có thể nhìn thấy, là cũng nhờ Đức Thế tôn khai thị, đây mới biết là nhờ ân đức mở bày phương tiện của Phật. Nếu hôm nay Đức Phật còn tại thế mà chúng sinh nào mong muốn hướng niệm, thì có thể thấy được Tây phương, do Đức Phật đã nhập Niết-bàn, mà chúng ta không có được sự che chở của Ngài thì làm sao thấy được?
7. Từ nếu sau khi Phật diệt độ v.v... trở xuống, cho đến thế giới Cực lạc là phu nhân có tâm đại Bi muốn mình và chúng sinh đồng được vãng sinh, thoát hẳn cảnh giới Ta-bà, sống mãi ở Cực lạc, ở đây nói Đức Như lai vận tâm cứu độ, cả chúng sinh ở đời vị lai, nhưng vì phải trải qua nhiều đời, khiến lòng tin của chúng sinh trở thành cạn cợt, cũng vì lý do đó mà Như lai cũng phải diệt độ không thể sống mãi trên trần gian này, giấu đi tuổi thọ lâu dài để giống với loài người, nhiếp phục kiêu mạn để thị hiện vô thường, vì để hóa độ những người ngang bướng đồng trở về với ma diệt, cho nên nói nếu sau khi Phật diệt độ.
Nói các chúng sinh là nói Như lai không còn hóa độ nữa, chúng sinh không có chỗ để nương tựa, trôi lăn trong ba cõi, qua lại trong sáu đường.
Nói vẩn đục bất thiện là nói về thế giới có năm thứ vẩn đục:
1. Kiếp trược.
2. Chúng sinh trược.
3. Kiến trược.
4. Phiền não trược.
5. Mạng trược.
Nói kiếp trược tức là kiếp thật ra không phải trược, nhưng vì gặp lúc kiếp giảm nên các điều ác gia tăng.
Nói chúng sinh trược là khi kiếp mới thành thì chúng sinh thuần là thiện, đến lúc mạt kiếp, thì mười điều ác của chúng sinh càng mạnh mẽ.
Nói kiến trược tức là tự thân có nhiều tội ác, đều biến thành thiện, người khác cũng vậy, thấy là không đúng.
Nói phiền não trược tức là chúng sinh trong thời mạt pháp ngày nay, tánh ác khó thân thiện, hễ tiếp xúc với sáu căn, thì tham, sân liền khởi.
Nói mạng trược là do kiến trược và phiền não trược ở trước thường làm việc giết hại, không có tâm từ ái nuôi dưỡng, đã gây nhân khổ giết hại mạng sống của kẻ khác thì muốn được quả sống lâu cũng không thể được. Nhưng trược, vốn thể chẳng phải thiện, đây cũng chỉ nói sơ lược về năm trược như thế mà thôi.
Nói bị năm khổ ép ngặt năm khổ này rút ra từ tám khổ, đó là khổ sinh, khổ già, khổ bịnh, khổ chết và khổ thương mà chia lìa, đó là năm thứ khổ.
Lại có ba thứ khổ nữa, tức cộng chung là tám khổ.
1. Khổ năm ấm lẫy lừng.
2. Khổ mong cầu mà không được.
Khổ oán ghét mà phải gặp mặt nhau. Tổng cộng là tám khổ.
Nay nói năm trược, năm khổ, tám khổ các chúng sinh trong sáu đường đều phải chịu các khổ này, chẳng có chúng sinh nào không bị các khổ não này, nó thường ép ngặt chúng sinh, nếu chúng sinh nào không còn các khổ này thì chúng sinh đó không còn là phàm phu.
Nói làm sao thấy được v.v... trở xuống, đoạn này nói phu nhân đã nêu ra các khổ, các chúng sinh ở đây vì đã gây ra tội nghiệp rất sâu nặng nên không được thấy Phật, không được che chở thì làm sao thấy được cảnh giới Cực lạc?
Trước nói về tựa chứng tín, kế là nói về bài tựa hóa tiền, sau là nói tựa phát khởi.
Từ đây v.v... trở xuống là nói về phần Chánh tông, gồm có mười sáu mục, lại từng pháp đều có văn lược giảng, không cần phải chép trước.
Phần Chánh tông này, khác với các Đại sư khác, ở đây chỉ đi thẳng vào pháp định. Từ câu đầu tiên của pháp quán mặt trời v.v... trở xuống đến câu hạ phẩm hạ sinh là phần Chánh tông.
Từ quán mặt trời trở lên, có nhiều nghĩa khác nhau, xét thế văn đó, thì nên biết đó là phần tựa của kinh. I. Y cứ vào pháp quán mặt trời đầu tiên:
Trước là nêu, kế là giải thích và sau đó là kết thúc, tất cả có năm phần.
1. Từ Phật bảo Vy-đề-hy v.v... trở xuống, cho đến tưởng cõi Tây Phương là phần khuyên bảo chung, ở đây nói Vy-đề-hy mong cầu được sinh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà và thưa hỏi Đức Phật phương pháp tu tập. Bây giờ, Như lai hứa nói nhưng vì cơ duyên chưa đầy đủ, hiển hạnh cũng chưa hoàn toàn, do đó mà Đức Phật chỉ khai bày phương pháp tu nhân ba thứ phước, để những người chưa nghe có được lợi ích. Lại, Đức Như lai lại khuyến khích lưu thông, vì pháp này khó được nghe, khiến khai ngộ rộng khắp.
Nói Phật bảo Vy-đề-hy và chúng sinh, đoạn này Đức Phật khuyến khích, nếu các chúng sinh muốn ra khỏi trần lao, cầu được sinh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà, thì phải cố gắng.
Nói nên phải chuyên tâm v.v... trở xuống là chúng sinh tâm thường bị tán động, tâm thức ví như vượn chuyền cành, tâm thì trùm khắp cả sáu trần, chưa bao giờ dừng nghỉ, vì các cảnh duyên chẳng phải một nên mắt vừa thấy liền khởi tham lam và loạn tưởng, làm sao an tâm trong tam-muội được? Tức tự mình phải buông bỏ các duyên, nương vào cảnh tịnh, rồi nối tiếp chú tâm, thẳng đến Tây phương, phân biệt với chín vực khác, chỉ còn lại một thân, một tâm, một hồi hướng, một xứ, một cảnh, một sự nối tiếp, một chỗ quay về, một chánh niệm, đó gọi là tưởng thành tựu, được chánh thọ, đời này đời sau tùy tâm giải thoát.
2. Từ làm sao quán tưởng v.v... trở xuống, cho đến đều thấy mặt trời lặn: nói lại về sở quán, ở đây nói các chúng sinh, từ lâu nay bị chìm đắm trong sinh tử, chưa có lúc nào được an ổn, Đức Thế tôn đã giới thiệu cảnh giới Tây phương, nhưng không biết tác ý như thế nào, do đó khiến Như lai phải hỏi lại để dứt trừ sự nghi chấp, để chỉ bày phương tiện tu tập chánh niệm.
Nói hễ thực hành quán tưởng là nói lại ý trên, để nói lên phương tiện nhập quán ở đoạn sau. Nói tất cả chúng sinh là nêu chung các loài được vãng sinh.
Nói tự chẳng phải mù bẩm sinh v.v... trở xuống là nói phân biệt các căn cơ có lãnh thọ được hay không. Nói mù bẩm sinh là sinh ra từ bào thai mẹ, thì mắt đã không thể nhìn thấy mọi vật, do đó mà gọi là mù bẩm sinh, những người này thì không thể dạy cho họ pháp quán mặt trời, vì họ không biết được hình dáng và ánh sáng của mặt trời. Ngoài những người mù bẩm sinh thì những người mù do gặp hoạn nạn thì nên dạy họ pháp quán mặt trời thì họ sẽ quán được thành tựu. Do mắt họ khi chưa bị bịnh, họ có biết được hình dáng và ánh sáng của mặt trời. Nay tuy mắt bị mù nhưng khéo léo khiến họ quán tưởng hình dạng mặt trời, nếu chánh niệm và giữ bền, không quản ngại thời gian, thì cũng được thành tựu.
Hỏi: Ở trên Vy-đề-hy nguyện muốn thấy được thế giới Cực lạc và khi Đức Như lai hứa khả tức là Đức Như lai dạy trước phải chú tâm quán mặt trời, là có ý gì?
Đáp: Đoạn này cũng có ba ý:
a. Đức Như lai muốn cho chúng sinh biết cảnh trụ tâm, chỉ ra phương hướng, không lấy hai thời Đông Hạ, chỉ lấy hai mùa Xuân Thu, vì đó là hai mùa mà mặt trời mọc từ hướng Đông và lặn đúng vào hướng Tây, cõi nước của Đức Phật A-di-đà cũng đúng về hướng mặt trời lặn, cứ ngay hướng Tây đó vượt qua mười muôn ức cõi Phật thì đó là thế giới Cực lạc.
b. Đức Phật muốn cho chúng sinh biết được nghiệp chướng của mình có nặng, có nhẹ, làm sao biết được? Vì Đức Như lai dạy cách trụ tâm quán mặt trời, lúc đầu muốn trụ tâm, thì dạy ngồi kiết già ngay thẳng, chân phải xếp lên chân trái và phải bằng phẳng cả hai chân, bàn chân trái phải đặt lên vế phải, phải đồng đều cả hai chân, tay trái để chồng lên bàn tay phải, ngồi phải ngay thẳng, miệng ngậm, không được quá chặt, lưỡi để trên răng của hàm trên. Vì để như thế giúp cho cổ họng và mũi hít thở được thông. Lại quán thân bốn đại trong ngoài đều không, hoàn toàn chẳng có một vật gì vì thân là địa đại, như da thịt gân cốt... tâm phải quán tưởng, hướng về Tây phương, tận mé Tây phương, cho đến không thấy tướng một hạt bụi. Lại quán thủy đại trong thân, đó là các thứ như: máu huyết, mồ hôi, nước miếng nước dãi, tâm quán tưởng về phương Bắc, tận bờ mé của phương Bắc, cho đến không thấy tướng một hạt bụi. Lại quán tưởng hỏa đại của thân, tận bờ mé phương Nam, cho đến không thấy tướng một hạt bụi, lại quán tưởng không đại của thân, cái không đó và hư không trong mười phương hợp thành một mối, cho đến khi không thấy tướng bất không của một hạt bụi, lại quán tưởng năm đại của thân đều là không, chỉ còn lại thức đại vắng lặng thường trụ, giống như một cái gương tròn, thấu suốt trong ngoài, sáng suốt thanh tịnh. Lúc quán tưởng như vậy, thì sẽ dứt trừ được tâm loạn tưởng, tâm tư dần dần sẽ được an định, sau đó dần dần sẽ chuyển tâm quán kỹ mặt trời.
Nếu người thuộc hạng lợi căn thì cứ mỗi lần ngồi thì sẽ thấy tướng sáng hiện ra trước mắt. Đương lúc tướng sáng xuất hiện, tướng đó hoặc như đồng tiền lớn, hoặc như cái gương soi mặt lớn, ở trên tướng sáng này sẽ tự thấy được tướng nghiệp chướng nặng nhẹ của mình:
Nếu là hắc chướng thì giống như áng mây đen che mặt trời.
Nếu là hoàng chướng thì sẽ giống như áng mây vàng che mặt trời.
Nếu là bạch chướng thì sẽ giống như áng mây trắng che mặt trời.
Mặt trời này giống như bị mây che thì không thể chiếu sáng, nghiệp chướng chúng sinh cũng giống như thế, ngăn che cảnh của tâm thanh tịnh thì tâm không thể chiếu sáng. Nếu hành giả thấy được tướng này, thì phải nghiêm sức đạo tràng, tôn trí tượng Phật, tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới sạch, lại đốt hương thơm để bạch lên Chư Phật, tất cả Hiền thánh, hướng về hình tượng Phật, sám hối các tội lỗi đã gây ra từ vô thỉ đến nay, do thân, miệng và ý nghiệp đã gây ra tạo mười điều ác, năm tội nghịch, bốn tội trọng, hoặc chê bai chánh pháp, hoặc gây ra tội xiển-đề... hết lòng khẩn thiết mong cầu sám hối, phải sinh tâm hết sức hổ thẹn thâu suốt tận tim gan, khắc tâm tự trách mình.
Sám hối xong, lại ngồi như trước, an tâm quán cảnh, nếu khi cảnh hiện thì ba chướng trước dứt sạch, tịnh cảnh sở quán thanh tịnh sáng suốt, đó gọi là đốn diệt nghiệp chướng, nếu một lần sám hối mà dứt trừ hết nghiệp chướng thì gọi là hạng lợi căn, còn một lần sám chỉ trừ được hắc chướng, hoặc một lần sám thì trừ được Hoàng và Bạch chướng, hoặc một lần sám chỉ trừ được bạch chướng, thì gọi là tiệm trừ, không phải đốn diệt.
Đã tự biết nghiệp tướng như thế, thì tâm phải siêng năng sám hối. Ngày đêm phải ba lần hoặc sáu thời... chỉ nhớ được tức là sám hối, nếu được như thế thì đó là những bậc thượng căn thượng hạnh.
Thí như lửa đốt thân, vừa biết đốt thân thì phải phủi ngay, đâu có đợi lúc, đợi chỗ, đợi duyên, đợi người mới phủi? c. Muốn cho chúng sinh biết được Y báo và Chánh báo của Đức Phật A-di-đà, các thứ trang nghiêm, ánh sáng chiếu soi... trong ngoài, rạng ngời hơn cả mặt trời trăm ngàn muôn lần. Nếu hành giả không biết được tướng ánh sáng của thế giới Cực lạc, thì quán tướng ánh sáng mặt trời này, hoặc đi, đứng, ngồi, nằm lễ bái, nhớ niệm, quán tưởng, thường phải hiểu như thế, trong một thời gian không lâu thì tâm sẽ định, thấy được các sự trang nghiêm vui sướng của thế giới Tịnh độ. Vì ý nghĩa như thế mà Đức Thế tôn trước là dạy quán tưởng mặt trời.
3. Từ nên khởi tưởng niệm v.v... trở xuống, cho đến hình dạng như cái trống treo, đây là dạy quán sát, ở đây nói về oai nghi của thân, mặt hướng về phương Tây, giữ cảnh trụ tâm, giữ chặt không dời đổi thì sẽ được cảm ứng.
4. Từ đã thấy mặt trời rồi v.v... trở xuống, cho đến rõ ràng là nói về tướng quán thành. Ở đây nói nêu tâm thấy mặt trời, dứt bỏ các tưởng duyên, niệm niệm không dời đổi, thì tướng thanh tịnh sẽ tự hiện rõ ràng. Lại hành giả, khi bắt đầu được định mà thấy được mặt trời này, thì sẽ được lạc định của tam-muội, thân tâm trong ngoài đều được thấm nhuần, lúc đang nhìn thấy, thì nên khéo mà nhiếp tâm trong định, tâm không được buông lung tham cầu. Nếu khởi tâm tham thì nước tâm liền động, vì tâm khởi động mà tịnh cảnh liền bị mất, hoặc mờ tối, hoặc đen, hoặc xanh vàng, đỏ, trắng... không được an định. Khi thấy các việc này thì phải tự nghĩ rằng: "Các cảnh tướng này diêu động bất an, tất cả đều do tâm tham của ta động niệm, làm cho cảnh tịnh bị diệt mất, tức là tự mình phải an tâm chánh niệm, trở lại khởi từ gốc, tướng động liền dứt, tâm định lại hiện". Đã biết lỗi lầm như thế, thì không được khởi tâm tham tăng thượng. Các quán dưới đây, tà, chánh, được mất, tất cả cũng đồng như trên. Quán mặt trời thấy mặt trời, tâm cảnh tương ưng, gọi chính là quán, nếu quán mặt trời mà không nhìn thấy mặt trời, mà thấy toàn cảnh tạp... tâm cảnh không tương ưng, đó gọi là Tà, đây là nhà tối Ta-bà, gặp việc gì cũng không thể so sánh, chỉ có mặt trời chiếu sáng, gá tư tưởng xa nêu ở Cực lạc.
5. Từ đó v.v... trở xuống là phần tổng kết. II. Phần nói về quán nước:
Trước cũng nêu, kế là phân biệt, sau cùng là phần tổng kết, cũng có sáu đoạn:
1. Từ kế là tưởng nước v.v... trở xuống cho đến trong ngoài soi suốt lẫn nhau là nêu chung về thể của đất.
Hỏi: Trên dạy về quán mặt trời, là để biết được nghiệp tướng... cho nên khiến quán mặt trời, ở đây trong pháp quán này lại dạy về quán nước, vì sao phải quán nước?
Đáp: Mặt trời thường chiếu, là biểu tượng cho cảnh giới Cực lạc, là cảnh giới sáng mãi, lại sợ mặt đất ở cõi ấy không được bằng phẳng, giống như sự cao thấp của cõi uế này, nhưng vì cõi Ta-bà như một ngôi nhà tối, chỉ có mặt trời mới chiếu sáng và Ta-bà cũng quá nhiều hầm hố, khắp nơi đều có sự chênh lệch, muốn tìm chỗ bằng phẳng thì chỉ có mặt nước, mới có thể gọi là tướng bằng phẳng, huống chi đất ở Cực lạc là bằng lưu ly.
Lại hỏi: Nước ở thế giới này, vừa ướt lại vừa mềm, nước ở Cực lạc có giống như nước ở cõi này chăng?
Đáp: Mặt nước bằng phẳng ở thế giới này, so với mặt nước ở thế giới Cực lạc bằng phẳng không có cao thấp.
Lại khi nước đóng thành băng, thì cũng như đất bằng lưu ly của cõi Cực lạc, trong ngoài đều thấy thấu suốt, đó là nói lên sự tu tập chân chánh nhiều kiếp của Đức Phật A-di-đà, chánh và tập đều mất, do đó mà chiếu suốt cả địa luân.
Lại hỏi: Đức Thế tôn đã dạy tưởng nước để trụ tâm, chuyển nước thành băng, rồi chuyển băng thành đất lưu ly, vậy thì phải thực hành phương pháp như thế nào để giúp cho cảnh đó hiện khởi?
Đáp: Nếu trụ vào oai nghi của thân thì cũng giống như pháp quán mặt trời ở trước. Lại muốn quán nước để làm cho tâm được định, lại nên đối với cảnh tương tự mà quán, tức là dễ được định, các hành giả tu tập, nên ở chỗ yên tĩnh, đặt một bát nước đầy trên mặt đất ngay trước gường ngồi, mình ngồi ngay thẳng trên gường, đặt một vật màu trắng lớn như hạt đậu vào giữa hai đầu chân mày, cúi đầu xuống thì mặt chạm vào bát nước, nhất tâm nhìn vào điểm trắng đó, không có duyên khác, khi mình quán mặt mình trong đó, nếu không thấy bóng của mặt, thì cứ tiếp tục quán, dần dần mặt mình sẽ hiện. Lúc đầu tướng của mặt không trụ, lúc dài lúc ngắn, lúc rộng lúc hẹp, khi thấy, khi không thấy lúc tướng đó hiện, thì nên khéo léo cẩn thận dụng tâm, không bao lâu nước lăn tăn, dường như động mà không động, tướng mặt dần dần được hiện rõ, tuy thấy trên mặt của mình có: Mắt, tai, mũi, miệng... lúc đó cũng chưa nên đắc ý và cũng không nên ngại, chỉ để cho thoải mái thân tâm, biết có nhưng đừng chấp, chỉ quán rõ ràng điểm trắng, giữ gìn chánh niệm, chớ để thất ý theo duyên khác. Lúc thấy được cảnh này, tâm dần dần được an trụ, như tánh lóng lặng của nước. Lại các hành giả muốn biết sóng nước trong tâm tư không trụ thì chỉ quán tướng động hay không động của nước này. Liền biết tâm mình cảnh hiện hay không hiện, sáng hay tối. Lại đợi đến lúc nước yên lặng, dùng tay ném một hạt gạo, vào trong bát nước, nếu có sóng thì biết nước động, nước sẽ rung động trong bát, rồi nhìn thẳng vào bát nước, nếu thấy trắng thì động, lại ném hạt đậu vào, thì sóng nước lại lớn hơn, điểm trắng ở trên mặt hoặc thấy hoặc không thấy, cho đến ném quả táo vào bát nước, khiến sóng càng rung chuyển mạnh, điểm trắng ở trên mặt và đầu mặt của tự thân, hoàn toàn biến mất không hiển hiện, giống như nước động.
Nói bát là dụ cho thân khí, nói nước là dụ cho nước của tự tâm, nói sóng lăn tăn là dụ cho phiền não loạn tưởng. Nói dần dần những gợn sóng dứt là xả bỏ các duyên, mà trụ tâm vào một cảnh. Nói nước yên cảnh hiện, tức là tâm năng duyên không bị loạn động và cảnh sở duyên cũng không động, trong ngoài vắng lặng không còn lo sợ, tướng sở cầu hiển hiện.
Lại tưởng tế và tưởng thô, nước tâm liền động, nước tâm đã động, thì cảnh tĩnh liền mất, lại từ trần tế cho đến trần thô đều ném vào nước yên tĩnh, thì sóng của nước lập tức sẽ động. Lại, các hành giả chỉ nhìn tướng của nước này có động hay không động, thì sẽ biết được tự tâm có chú hay không chú. Cảnh hiện có mất hay không, tà hay chánh... cũng đồng với pháp quán mặt trời ở trước. Ngài Thiên Thân có khen rằng: "Quán tướng thế giới kia, hơn quán ba cõi, rốt ráo như hư không, mé rộng lớn vô biên, đây là nói chung về phần lượng của đất ở thế giới Cực lạc. "
2. Từ ở dưới có Kim cương bảy báu v.v... trở xuống cho đến không thể thấy hết là phần nói về sự trang nghiêm ở dưới đất, đoạn này cũng có bảy phần:
Nói thể tướng của kho báu đều là Kim cương vô lậu.
Nói tướng nâng mặt đất hiện lên ánh sáng trang nghiêm.
Nói tướng vuông vức chứ không phải tướng tròn.
Nói thế giới Cực lạc do một trăm chất báu hợp thành, số lượng nhiều như cát bụi.
Nói vật báu xuất ra nhiều ánh sáng mà ánh sáng đó chiếu soi không có bờ mé.
Nói ánh sáng có rất nhiều màu sắc khác nhau, màu sắc đó chiếu vào các phương khác, tùy căn cơ mà biến hiện, lúc nào cũng mang lại lợi ích.
Nói các trạng thái của ánh sáng, ánh sáng hơn cả ánh sáng mặt trời, khi chúng sinh nào mới được vãng sinh về Cực lạc thì khó thể thấy hết ánh sáng đó.
Có bài tán rằng:
Dưới đất trang nghiêm cột bảy báu
Vô lượng, vô biên vô số ức
Tám phương tám mặt bằng trăm báu
Thấy Vô sinh kia tự nhiên ngộ
Nước báu Vô sinh mãi là thường
Mỗi dòng báu vô số tia sáng
Hành giả để tâm thường trông thấy
Thần thức hớn hở nhập Tây phương.
Lại có bài tán rằng:
Tây phương vui vắng lặng, vô vi
Rốt ráo tiêu dao, lìa hữu vô
Đại Bi huân tâm, dạo pháp giới
Phân thân lợi vật đẳng không khác.
Hoặc hiện thần thông mà nói pháp,
Hoặc hiện tướng tốt nhập vô dư,
Biến hiện trang nghiêm tùy theo ý
Chúng sinh trông thấy tội đều trừ.
Lại có bài tán rằng:
Về đi thôi, cõi ma không thể dừng
Nhiều kiếp nay trôi lăn
Sáu đường đều trải qua
Đến chỗ vui vô dư
Chỉ nghe tiếng sầu than
Sau khi bỏ thân này
Nhập thành Niết-bàn kia.
3. Từ trên đất lưu ly v.v... trở xuống, cho đến giới hạn rõ ràng là nói về sự trang nghiêm trên mặt đất, là rất tốt đẹp. Ở đây nói về nương giữ viên tịnh, rừng ao bảy báu... thuộc về năng y, đất báu lưu ly thuộc về sở y, đất là năng trì, ao báu, lâu đài và cây cối là sở trì, tất cả có được như vậy là nhờ vào nhân hạnh của Phật A-di-đà. Do sự tu tập đó mà cảm ứng được quả báo tròn đầy sáng suốt, ý nghĩa của sáng suốt thanh tịnh là lấy vô lậu làm thể.
Có bài tán rằng:
Đất báu trang nghiêm không gì bằng
Nơi nơi sáng sủa chiếu mười phương
Gác báu đài hoa đều đầy khắp
Nhiều màu lung linh khó thể lường
Mây báu lọng báu che hư không
Thánh chúng thần thông qua lại nhau
Cờ báu phướn lọng bay theo gió
Nhạc báu ánh sáng ứng niệm về
Mang hoặc nghi sinh hoa không nở
Chắp tay lung linh dụ trong thai
Nội thọ pháp lạc không chút khổ
Chướng hết, khoảnh khắc hoa tự nở
Tai mắt sáng suốt thân vàng ròng
Bồ-tát từ từ trao y báu
Sáng chiếu thân được thành ba nhẫn
Liền muốn thấy Phật duỗi đài vàng
Bạn pháp đón rước nhập đại hội
Ngước nhìn tôn nhan khen lành thay!
Nói dây bằng vàng v.v... trở xuống là nói về đường đi bằng vàng, hình dạng giống như một sợi dây bằng vàng. Nếu đất bằng nhiều thứ quý báu, thì con đường bằng lưu ly, nếu đất bằng lưu ly, thì con đường bằng ngọc trắng, nếu đất bằng vàng tím, bạc trắng thì đường bằng trăm báu, nếu đất bằng loại chất báu không thể sánh bằng thì đường bằng chất báu cũng không thể sánh bằng, nếu đất bằng ngàn muôn chất báu thì đường bằng hai, ba thứ chất báu, cứ như thế đan xen lẫn lộn với nhau, hợp nhau mà thành, chiếu soi lẫn nhau, hiển phát lẫn nhau, mỗi tia sáng, mỗi màu sắc đều không đồng nhau, mà không bị lẫn lộn, hành giả cũng chớ nói chỉ có con đường bằng vàng, chứ không có chất báu nào khác làm đường.
4. Từ trong mỗi chất báu có năm trăm tia sáng màu sắc v.v... trở xuống cho đến nhạc khí để làm trang nghiêm là nói về sự trang nghiêm trên hư không, đoạn này cũng có sáu:
a. Chất báu phát ra nhiều tia sáng.
b. Nói các ví dụ hiển bày tướng.
c. Nói ánh sáng biến thành đài.
d. Nói ánh sáng biến thành lầu gác.
e. Nói ánh sáng biến thành tràng hoa.
f. Nói ánh sáng biến thành âm nhạc vui vẻ.
Lại nói trên đất Cực lạc có nhiều chất báu, đan xen lẫn nhau, mỗi chất báu đều phát ra năm trăm tia sáng đủ màu sắc, mỗi tia sáng đều phóng lên hư không tạo thành một đài sáng, trong mỗi đài đó đều hiện ra ngàn muôn lầu báu. Mỗi lầu báu đều được trang nghiêm bằng một, hai, ba, bốn chất báu cho đến không thể nói hết chất báu. Nói như hoa lại như trăng sao là Phật vì lòng Từ bi sợ người không biết, do đó mà Ngài phải dùng ví dụ để làm rõ thêm.
Nói hai bên đài đều có trăm ức tràng hoa là nói đất báu có vô lượng ánh sáng, mỗi tia sáng đều biến thành đài ánh sáng đầy khắp trên hư không, các hành giả đi đứng nằm ngồi thường quán tưởng như thế.
5. Từ tám thứ gió mát v.v... trở xuống, cho đến âm thanh vô ngã là nói ánh sáng biến thành các thứ âm nhạc, dần dần chuyển thành tướng nói pháp, ở đây được chia làm ba ý:
a. Nói về tám thứ gió từ ánh sáng mà khởi.
Cứ mỗi lần gió ánh sáng nổi lên, thì trống nhạc tự phát ra tiếng.
Ánh sáng giảng nói về bốn Đảo, bốn Chân, các pháp nhiều như số cát sông Hằng.
Có bài tán rằng:
Nước An lạc thanh tịnh
Thường xoay vô cấu luân
Nhất niệm và nhất thời
Lợi ích các chúng sinh
Khen công đức của Phật.
Không có tâm phân biệt
Giúp cho mau đầy đủ
Biển báu lớn công đức.
6. Từ đó là v.v... trở xuống, là phần tổng kết. III. Phần nói về địa tưởng quán:
Cũng trước là nêu, kế là giải thích, sau là tổng kết, phần này cũng có sáu đoạn.
Khi tưởng này thành: Chính là nói kết trước sinh sau.
1. Từ nhất quán v.v... trở xuống cho đến không thể nói hết là nói về tướng pháp quán thành tựu, đoạn này cũng có sáu ý:
Nói tâm chỉ chú vào một cảnh, không được quán chung nhiều thứ.
Nói đã chuyên tâm vào một cảnh, thì cảnh liền hiện tiền, khi cảnh đã hiện tiền, thì sẽ được rõ ràng.
a. Nói khi cảnh đã hiện trong tâm thì dầu có nhắm mắt hay mở mắt cảnh đó cũng phải nắm giữ, đừng để mất.
Nói bốn oai nghi của thân ngày đêm thường nhớ nghĩ, chỉ trừ khi ngủ, nhớ giữ không bỏ.
b. Tâm định không dứt, thì thấy tướng Tịnh độ, đây gọi là cái thấy Tịnh độ trong tâm tưởng, vì vẫn còn giác tưởng.
c. Nói về tâm tưởng dần dần tiêu bớt, giác niệm được đốn trừ, chánh thọ tương ưng, chứng đắc tam-muội, thấy rõ được sự mầu nhiệm của thế giới Cực lạc. Cực lạc thì rộng lớn vô bờ mé và cột báu không phải chỉ có một. Các thứ châu báu màu sắc chuyển biến càng nhiều, là để khuyên chúng sinh chuyên tâm, thường như đối với mặt trời.
3. Từ đây v.v... trở xuống là phần tổng kết.
4. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến nói pháp quán đất này là phần khuyến phát lưu thông, tùy duyên nói rộng ra cũng có bốn ý:
a. Nói về lời dặn bảo.
Khuyến khích giữ gìn lời Phật dạy, rộng vì đại chúng đời vị lai nói về sự lợi ích của quán đất ở trên.
b. Phân biệt căn cơ có khả năng thọ nhận, khả năng kính tin, là muốn cho chúng sinh xả bỏ thân sinh tử ở cõi Ta-bà này. Đối với tám khổ, năm khổ, ba đường ác... hễ nghe thì liền tin và thực hành, không tiếc thân mạng, phải nhanh chóng giảng nói cho chúng sinh nghe, chỉ cần có một người xả bỏ được khổ, vượt ra khỏi sinh tử, thì đó cũng gọi là đã báo ân đức của Phật. Vì sao? Vì Chư Phật ra đời phải dùng nhiều phương tiện để giáo hóa chúng sinh, không chỉ muốn khiến chúng sinh bỏ ác tu tập phước đức, để thọ quả báo vui thú trời, người, có khác gì ánh điện chớp, chỉ chốc lát sẽ mất ngay, rồi cũng trở vào ba đường ác vẫn chịu khổ mãi mãi.
Vì lý do đó mà Đức Phật chỉ khuyên chúng sinh cầu sinh về Tịnh độ, hướng đến quả vị Bồ-đề Vô thượng. Nên hôm nay có nhân duyên được Phật khuyến khích, những người phát nguyện muốn sinh về Tịnh độ, tức là đã đáp ứng được ý nguyện bản hoài của Chư Phật.
Nếu có người không ưa thích tín hạnh, như trong kinh Thanh Tịnh Giác chép: "Nếu có người nghe nói về pháp môn Tịnh độ, nghe mà như không nghe, thấy mà như không thấy, thì nên biết những người này mới ở trong ba đường ác ra, do tội chướng chưa hết, cho nên họ không có lòng tin đối với pháp môn Tịnh độ. Đức Phật chép: "Ta nói người này chưa thể giải thoát. "
Kinh này lại chép: "Nếu có người nghe nói pháp môn Tịnh độ, khi vừa nghe thì buồn vui lẫn lộn, khắp mình nổi ốc, nên biết những người này ở đời quá khứ họ đã từng tu tập pháp môn này, nay được nghe lại, thì liền sinh tâm vui mừng, chánh niệm tu hành, chắc chắn được vãng sinh. "
c. Đức Phật dạy quán về đất báu để trụ tâm.
5. Từ nếu quán đất này v.v... trở xuống, cho đến tâm được vô ngại, đoạn này nói về lợi ích của pháp tu quán, đoạn này cũng có bốn:
Đức Phật chỉ ra pháp, chỉ quán đất báu, không nói về cảnh khác.
Nói nhờ tu quán đất báu vô lậu mà trừ được tội lỗi hữu lậu trong nhiều kiếp.
Nói khi xả thân này sẽ vãng sinh về Tịnh độ.
Nói về tu nhân chánh niệm, không được nghi ngờ, tuy được vãng sinh nhưng phải ở trong hoa, tuy hoa chưa nở. Hoặc sinh vào biên giới, hoặc đọa vào thai cung, hoặc nhờ các vị Bồ-tát đại Bi nhập vào tam-muội khai hoa, nghi chướng được dứt trừ, cung hoa liền nở thân tướng được hiển bày, lúc đó sẽ được các bạn bè dắt đến hải hội của Đức Phật, bấy giờ chú tâm nhìn thấy đất báu, sẽ dứt trừ được tội chướng từ lâu đời, nghiệp của hạnh nguyện đã được viên thành. Đến khi qua đời không được nghi ngờ chẳng vãng sinh. Nay đã quán lợi ích cao quý này, lại khuyến khích phân biệt biết rõ tà và chánh.
6. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống là nói về phân biệt quán chánh tà. Nghĩa tà chánh đã nói trong phần quán mặt trời ở trước.
IV. Đây là phần quán cây báu.
Cũng trước là nêu, kế là nói, sau là kết. Phần này có mười đoạn.
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến kế là quán cây báu, đây là phần chính nói về sự dạy bảo, nêu chung về tên quán, để kết thúc phần trước mà bày đoạn sau.
2. Từ quán cây báu: là nhắc lại tên pháp quán. Nói quán từng cây một v.v... trở xuống là quán tướng sau khi sinh, đây là phần nghi tắc chánh giáo, là nói về cõi nước của Đức Phật A-di-đà rộng lớn vô biên, không có bờ mé, cây báu rừng báu, vì sao lấy bảy hàng làm số lượng? Ở đây nói bảy lớp, hoặc có một cây, gốc bằng vàng ròng, thân bằng vàng tím, cành bằng bạc trắng, nhánh bằng mã não, lá bằng san hô, hoa bằng ngọc trắng, quả bằng trân châu. Bảy lớp như vậy, làm gốc làm thân lẫn nhau, cho đến hoa quả... bảy lần bảy là bốn mươi chín lớp, hoặc có cây bằng một chất báu, hoặc có cây bằng một hoặc hai, ba, bốn cho đến trăm ngàn muôn ức không thể kể hết chất báu. Nghĩa này trong Kinh Di-đà đã có nói rộng, nên gọi là bảy lớp.
Nói "Hàng" thì ở cõi Cực lạc, cây rừng tuy nhiều, nhưng mọc theo từng hàng thẳng tắp, không mọc lộn xộn.
Nói tưởng, chưa rảnh để chân quán, tự tại tùy tâm, phải mượn giả tưởng để trú tâm, mới được lợi ích.
3. Từ mãi mãi v.v... trở xuống, cho đến do-tuần là nói về thể lượng của cây, ở đây nói về các loại cây báu đều có ra từ tâm vô lậu của Đức Phật Di-đà, do tâm Phật vô lậu, nên các cây báu cũng vô lậu.
Có bài tán rằng:
Chánh đạo đại Từ bi Ra đời gốc lành sinh Ánh sáng tịnh đầy đủ
Như gương, mặt trời, trăng.
Nói lượng, là mỗi thân cây cao đến ba mươi hai muôn dặm, cũng không có già, chết cũng không phải từ nhỏ mọc lớn lên, hoàn toàn không có cây nhỏ, muốn lớn thì đồng thời tự lớn, số lượng đều bằng như nhau, nhưng vì sao được như vậy? Vì thế giới Cực lạc là cảnh giới vô lậu vô sinh, thì làm gì mà có sự sinh tử hay từ nhỏ dần dần lớn lên?
4. Từ các cây báu ấy v.v... trở xuống, cho đến để làm trang sức là nói các tướng khác nhau về tạp thọ, tạp nghiêm, tạp sức, đoạn này cũng có bốn:
a. Nói về rừng cây, hoa lá đan xen khác nhau.
b. Nói về mỗi thứ rễ thân, cành nhánh, hoa quả v.v... đều đầy đủ các chất báu.
c. Nói mỗi hoa, mỗi lá xen kẽ qua lại khác nhau, trong màu sắc lưu ly lưu phát ra ánh sáng sắc vàng, cứ thế xen lẫn với nhau.
Lại như dùng tất cả các chất báu mà tô điểm cây cối. Lại có bài tán rằng:
Đủ các tánh châu báu
Đầy đủ diệu trang nghiêm Sáng vô cấu rực rỡ Trong sáng chiếu thế gian.
Lại có bài tán rằng:
Cõi tịnh Di-đà, cây báu nhiều Bốn mặt rũ cành
Y trời treo bay,
Mây báu thành lọng Chim hóa hót vang Xoay vần trên không Tấu pháp âm vào hội
Thánh chúng phương khác Nghe tiếng mà mở tâm.
Bậc Năng nhân cõi ấy, Thấy thân mà được ngộ.
5. Từ mành lưới châu báu nhiệm mầu v.v... trở xuống đến bậc thượng trong các sắc là phần nói về trên các thân cây đều hiện bày tướng trang nghiêm, đoạn này cũng có bảy ý:
Nói về mành lưới bằng ngọc giăng mắc trên hư không, phủ lên các thân cây.
a. Mành lưới có nhiều lớp.
b. Có ít nhiều cung điện.
c. Trong mỗi cung điện đều có rất nhiều đồng tử.
d. Các đồng tử đều có đeo châu ngọc, anh lạc.
Các thứ anh lạc phát ra ánh sáng chiếu khắp xa gần.
e. Ánh sáng đó còn hơn diệu sắc.
6. Từ các rừng cây này v.v... trở xuống, cho đến có quả bảy báu là nói các cây cối tuy nhiều mà không lộn xộn, lúc hoa báu nở, không phải từ trong cây xuất ra mà là do nhân duyên sâu xa của ngài Pháp Tạng, giúp cho tự nhiên mà có.
7. Từ mỗi lá cây v.v... trở xuống, cho đến mềm mại giữa các lá là nói về sắc tướng khác nhau giữa hoa và lá, đoạn này cũng có năm ý:
a. Nói cỡ lá đều bằng nhau không khác.
Nói lá cây phát ra bao nhiêu ánh sáng. c Sợ các chúng sinh nghi ngờ không hiểu nên Đức Phật phải mượn ví dụ để làm rõ. Như chuỗi anh lạc cõi trời v.v...
Nói lá có các hoa đẹp màu sắc như vàng cõi trời, hình dạng giống như vàng lửa.
d. Nói về hiển bày chiếu sáng lẫn nhau, mềm mại giữa các lá.
8. Từ sinh ra các quả v.v... trở xuống, cho đến cũng hiện trong đó là nói tướng của quả cây có đức dụng chẳng thể nghĩ bàn, đoạn này cũng có năm ý:
a. Nói khi quả sinh thì tự nhiên hiện lên.
b. Dùng ví dụ để nói lên hình tướng của quả.
c. Quả có thần quang, hóa hiện phướn lọng.
d. Nói các lọng báu tròn sáng, trong lọng báu hiện ra ba ngàn thế giới, Y báo và Chánh báo đều trang nghiêm, các thứ tướng hiện.
e. Các Tịnh độ ở mười phương đều xuất hiện trong lọng báu, trời, người ở cõi nước kia đều nhìn thấy. Lại, lượng của cây này càng cao thì mỗi bề càng rộng, hoa và quả rất nhiều, thần biến cũng vô số. Mỗi thân cây đã bao phủ khắp cả Cực lạc và trên các cây có rất nhiều quả, tất cả các cây đều có trái giống nhau. Nên biết, tất cả các hành giả trong lúc đi đứng ngồi nằm, đều khởi tâm tưởng niệm như thế.
9. Từ thấy cây này rồi v.v... trở xuống, cho đến rõ ràng là giải thích về tướng thành tựu của quán. Đoạn này cũng có ba ý: a. Nói sự thành tựu sau khi quán. b Nói về thứ lớp quán tưởng, không được lẫn lộn. c. Mỗi pháp phải khởi tâm trụ vào cảnh, trước là quán gốc cây, kế là quán cành nhánh của cây cho đến hoa lá và kế là quán tưởng mành lưới và cung điện tiếp là quán các thứ anh lạc và các đồng tử, kế là quán tưởng về số lá, hoa, quả, ánh sáng, rồi quán tưởng phướn lọng, hiện nhiều các Phật sự, cứ như thế mỗi thứ lần lượt quán tưởng, đều phải cho rõ ràng.
10. Từ đó là v.v... trở xuống là phần tổng kết, đây là các cây báu thường phát ra ánh sáng, cùng các mành lưới bao phủ trên cung điện giữa hư không. Hoa có rất nhiều màu sắc, quả thì hiện bày cõi nước. V. Nói về quán ao báu.
Cũng trước nêu, kế phân biệt và sau cùng là tổng kết. Phần này cũng có bảy đoạn:
1. Từ kế là nêu tưởng nước v.v... trở xuống, là nêu chung tên pháp quán, tức là nêu phần trước để sinh khởi phần sau. Đoạn này nói cây báu tuy tinh tường nhưng nếu không có ao nước, thì cũng chưa gọi là tốt: một là thế giới bất không; hai là y báo trang nghiêm, vì hai ý nghĩa này, do đó mà phải quán ao nước này.
2. Từ cõi nước Cực lạc là đoạn nói về số ao và nói về xuất xứ. Đoạn này cũng có năm ý:
a. Nêu lên cõi nước để sanh về.
b. Trong ao có tám tên gọi khác nhau.
Trên mỗi bờ ao đều có bảy chất báu hợp thành, do ánh sáng báu chiếu soi, nước tám công đức đều đồng một màu sắc của nhiều chất báu, do đó mà gọi là nước báu. d Nói về thể tánh, các loại báu đều mềm dịu. e. Nói về nước của tám ao, đều theo ý muốn của mình mà chảy ra, tức gọi là nước như ý. Nước này có tám công đức:
- Thanh tịnh thấm nhuần thuộc về sắc nhập.
- Không hôi, thuộc về hương nhập.
- Nhẹ.
- Mát lạnh.
- Mềm mại, thuộc về xúc nhập.
- Ngon, thuộc về vị nhập.
- Khi uống xong thân tâm sảng khoái.
- Khi uống vào thân không bị các thứ bịnh, thuộc về pháp nhập.
Ý nghĩa của tám công đức này là trong Di-đà nghĩa có nói rộng.
Lại có bài tán rằng:
Cực lạc trang nghiêm nước An Dưỡng Ao báu tám đức chảy đầy khắp.
Bốn bờ chiếu sáng bảy chất báu. Màu nước rạng ngời soi ánh sáng. Thể tánh mềm mại không cứng ngắt. Bồ-tát từ hành rãi hương báu.
Hương báu mây báu thành lọng báu. Lọng báu hư không phải cột báu.
Cột báu trang nghiêm cung điện báu. Điện báu linh báu lưới châu buông. Lưới báu nhạc báu ngàn lớp chuyển. Tuỳ cơ khen ngợi cung lầu báu Mỗi mỗi cung lầu có Phật hội.
Hằng sa Thánh chúng ngồi tư lương. Mong ai có duyên thường nhớ nghĩ Qua đời đồng sinh pháp đường kia.
3. Từ chia thành mười bốn nhánh v.v... trở xuống, cho đến cát dưới đáy là nước chia thành nhiều dòng, nhưng không bao giờ lẫn lộn, đoạn này cũng có ba nghĩa:
a. Nói có bao nhiêu ao.
b. Bờ ao đều bằng vàng ròng.
Cát dưới đáy ao đều bằng các thứ báu. Nói Kim cương, tức là thể vô lậu.
4. Từ trong mỗi ao nước v.v... trở xuống, cho đến theo cây mà lên xuống là nói về công dụng của nước là không thể tính kể, đoạn này cũng có năm ý:
Nói riêng về tên ao. Để nói lên tướng trang nghiêm của Cực lạc.
a. Nói về các loại hoa quý trong ao.
b. Nói về kích cỡ hoa.
Các thứ nước ngọc ma-ni quý báu luồn chảy giữa các cánh hoa.
c. Nước báu đó từ ao chảy ra, chảy đến các cây báu, lên xuống không bị chướng ngại, do đó mà gọi là nước như ý.
5. Từ âm thanh ấy hay ho v.v... trở xuống, cho đến Chư Phật tướng tốt là nói nước ao có công đức không thể nghĩ bàn, đoạn này cũng có hai ý:
a. Nước báu chảy xen giữa các cánh hoa quý, những gợn sóng khi xúc chạm vào hoa, liền phát ra âm thanh êm tai. Âm thanh đó đều giảng nói pháp mầu.
Nước đó chảy lên bờ, tìm đến các nhành lá, hoa quả của cây, hoặc chảy lên, hoặc chảy xuống, giữa chừng xúc chạm nhau, đều phát ra âm thanh hay, trong âm thanh đó đều giảng nói pháp mầu, hoặc nói về sự khổ của chúng sinh, để giật tỉnh và phát khởi lòng Từ bi của Bồ-tát, khuyến khích dẫn dắt người, hoặc nói về các pháp trời, người. Hoặc nói pháp Nhị thừa, hoặc nói các pháp bậc Địa tiền và Địa thượng, hoặc nói pháp ba thân của Phật địa.
6. Từ hạt châu như ý v.v... trở xuống, cho đến Niệm Phật, Pháp, Tăng: là đoạn nói ma-ni có rất nhiều thần đức, đoạn này cũng có bốn ý:
a. Trong châu vương cũng phát ra ánh sáng vàng.
Trong ánh sáng đó cũng biến hóa ra trăm ngàn loài chim quý.
Âm thanh của các loài chim này phát ra, nhạc trời cũng không thể sánh bằng.
b. Các loài chim quý thường hót ra âm thanh. Các âm thanh đó đều khen ngợi Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Nhưng Đức Phật là đấng Đạo sư vô thượng của chúng sinh, là đấng trừ tà hướng chánh, pháp là thuốc hay vô thượng của chúng sinh, pháp có công năng dứt trừ các bịnh độc phiền não, làm cho thân tâm được thanh tịnh, Tăng là ruộng phước vô thượng của chúng sinh, chỉ khiến chú tâm vào bốn việc không hề mệt nhọc.
c. Là y quả của năm thừa chỉ cần khởi niệm thì tự nhiên ứng hiện đến trong châu báu có khả năng sinh ra loại nước có tám vị, sau đó phát ra các thứ ánh sáng vàng, chẳng những xua tan sự tối tăm mà còn dẫn dắt người làm các Phật sự.
7. Từ đó là v.v... trở xuống là phần tổng kết. VI. Phần nói về quán lầu báu.
Cũng trước là nêu, kế là phân biệt, cuối cùng là tổng kết. Phần này cũng có mười một đoạn.
1. Từ cõi nước bằng các thứ báu là nêu chung tên pháp quán, lập lại phần trước để khởi phần sau, đoạn này nói ở Tịnh độ tuy có thứ nước quý tưới tẩm, nhưng nếu không có lâu báu cung điện thì cũng chưa phải khéo léo, vì có lầu báu cung điện nên y báo mới hoàn toàn đầy đủ trang nghiêm.
2. Nói trên mỗi cõi là nói về chỗ trụ của các lầu báu. Địa giới cùng khắp cõi nước Cực lạc, lầu báu cũng nhiều vô kể.
3. Nói có năm trăm ức, đây là nói về số lượng, trên một cõi đã như thế thì đồng khắp cõi nước cũng đều như thế, nên phải biết.
4. Từ trong lầu gác ấy v.v... trở xuống, cho đến trổi kỹ nhạc trời là nói về sự trang nghiêm trong các lầu các cung điện.
5. Từ lại có nhạc khí v.v... trở xuống, cho đến không đánh tự kêu là nói về cảnh trang nghiêm ở bên ngoài lầu gác, tiếng nhạc hay, bay trên hư không, âm thanh phát ra nhiều bài nói pháp, ngày đêm sáu thời, như lọng báu trời, tự nhiên thành tựu các việc như thế.
6. Từ trong các âm thanh này v.v... trở xuống, cho đến niệm Tỳ-kheo Tăng, đoạn này nói nhạc tuy vô thức, nhưng cũng có khả năng nói pháp.
Từ tưởng này thành rồi v.v... trở xuống, cho đến ao báu, đây là nói về hiện tượng thành tựu của sự tu quán, ở đây cũng nói về sự chuyên tâm trụ vào cảnh, mong thấy được lầu báu, chuyên tâm chú ý không dời đổi, trên hư không tự nhiên hiện bày trang nghiêm.
7. Từ đó là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
8. Từ nếu thấy việc này là nhắc lại tưởng quán ở trước, sinh ra lợi ích ở sau.
9. Từ trừ vô lượng v.v... trở xuống, cho đến sinh về nước kia rồi là đoạn nói về y theo pháp quán sát, để dứt trừ nghiệp chướng trong nhiều đời, thân khí được thanh tịnh, để thích ứng với bổn tâm của Phật, sau khi xả bỏ thân ô uế này sẽ được vãng sinh về thế giới Cực lạc, không có gì nghi ngờ.
10. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến tà quán: Là phân biệt tướng quán tà, chánh.
VII. Nói về quán tòa hoa.
Cũng trước nêu, kế là phân biệt, sau là tổng kết, phần này cũng có chín đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến dứt trừ khổ não: Đức Phật nghe thỉnh và ngài hứa khả, đoạn này cũng có ba ý:
a. Sai bảo hai vị.
Đức Phật khuyên mọi người lắng nghe cho kỹ, rồi chánh niệm tu hành.
b. Đức Phật nói về pháp quán tòa hoa cho mọi người nghe. Mục đích là để giúp mọi người trụ tâm duyên niệm, thì tội lỗi sẽ được dứt trừ.
2. Từ các vị nhớ giữ v.v... trở xuống, cho đến giải thích là phần lưu thông khuyến phát. Đoạn này nói về sự quan trọng của pháp quán, cứu giúp chúng sinh đang chìm đắm trong sinh tử, đang vọng ái mê tâm, đang trôi lăn trong sáu đường, các vị giữ gìn pháp quán này, bất cứ ở đâu cũng khuyên tu, đều được nghe biết, đồng được giải thoát.
3. Từ lúc nói lời ấy v.v... trở xuống cho đến không thể so sánh, đoạn này nói Đức Thích-ca là vị giáo chủ cõi Ta-bà này, vì thương chúng sinh mà ngài trú tưởng Cực lạc Tây phương, để gặp Đức Từ Tôn Di-đà mong ngài biết sự tình của chúng sinh ở Ta-bà là như thế, tuy nhiên thân Ngài vẫn ở tại cõi Ta-bà, đây là hai Đức Thế tôn cảm ứng, khác nhau, ẩn hiện khác nhau, đó là do loại khí phác muôn ngàn khác nhau, cho nên làm khuôn mẫu lẫn nhau.
Nói lời ấy là ý của đoạn này cũng có bảy phần. a. Khuyến khích hai vị.
Đức Di-đà vừa thỉnh liền hiện, để chứng minh cho chúng sinh được vãng sinh.
Đức Di-đà đang đứng trên hư không chỉ cần hướng tâm chánh niệm, nguyên sinh về cõi nước của Ngài thì liền được sinh về.
Hỏi: Đức của Phật tôn quý cao siêu, không thể xem thường, đã không bỏ bổn nguyện do tâm đại bi mà ứng hiện đến, vì sao không ngồi thẳng mà phó cơ?
Đáp: Ở đây Đức Như lai có mật ý riêng, Ngài đã nhìn thấy sự đau khổ của cảnh giới Ta-bà, chúng sinh đang sống trong nhiều việc bất thiện, tám thứ khổ đang thiêu đốt, việc làm trái ngược dối gạt người thân, xem thường sáu giặc, rong ruổi theo hầm lửa ba ác, cứ muốn đi vào, nếu không nhanh chân đến cứu thì bị ràng buộc trong biển nghiệp, làm sao thoát ra được? Vì ý nghĩa đó nên Ngài dang tay cứu độ, không ngồi thẳng để phó cơ.
Ngài Quán Âm và Thế Chí là hai vị thị giả, nói lên không có chúng nào khác.
Thân tâm Ba vị đều thanh tịnh, ánh sáng chiếu soi nhiệm mầu.
Thân Phật ánh sáng chiếu rọi khắp cả mười phương, phàm phu cấu chướng làm sao nhìn thấy hết được?
Thân Phật là vô lậu, ánh sáng cũng như thế vàng của cõi trời hữu lậu làm sao so sánh được?
4. Từ bấy giờ, Vy-đề-hy thấy vô lượng v.v... trở xuống cho đến làm lễ, đoạn này nói Vy-đề-hy đúng là người phụ nữ phàm phu cấu uế, không thể nói hết, nhưng vì nhờ vào sự che chở của Thánh lực, lúc Đức Di-đà xuất hiện, vẫn được nhìn thấy và đảnh lễ. Đây là lần đầu tiên thấy được cảnh Tịnh độ, vui vẻ không thể nào kể xiết, nay được nhìn thấy Đức Di-đà, thân tâm liền được khai ngộ Vô sinh nhẫn.
5. Từ bạch Phật rằng v.v... trở xuống cho đến và hai vị Bồ-tát là nói phu nhân đã mang ân Phật, Ngài đã vì chúng sinh mà giải bày mối nghi ngờ, do đó mà phát sinh câu hỏi, ở đây là nói ý phu nhân, nay Đức Phật hiện tại, mong Đức Thế tôn che chở, để được thấy Phật A-di-đà, vậy sau khi Phật diệt độ, chúng sinh làm sao thấy được Phật Di-đà?
Từ chúng sinh vị lai v.v... trở xuống, cho đến và hai vị Bồ-tát là nói phu nhân vì chúng sinh mà thưa hỏi, giúp cho mọi người đều được thấy Đức Phật A-di-đà.
6. Từ Phật bảo Vy-đề-hy v.v... trở xuống, cho đến nên khởi tưởng niệm, đây là lời tổng kết Đức Phật hứa nói.
Hỏi: Phu nhân do thưa hỏi vì chúng sinh, cho đến Đức Như lai hứa khả là chỉ cho Vy-đề-hy, không chỉ chung cho chúng sinh phải không?
Đáp: Đức Phật đích thân đến giáo hóa nói pháp vì để hợp với căn cơ chúng sinh. Nếu Vy-đề-hy không thưa hỏi, thì Ngài cũng tự nói đâu luận gì chỉ riêng mà không bình đẳng, nhưng vì văn lược cho nên không nói.
7. Từ trên ao bảy báu v.v... trở xuống, cho đến tưởng hoa, ở đây ý nói Đức Phật dạy phương tiện về tu quán.
Hỏi: Chúng sinh đui mù tối tăm, chạy theo vọng tưởng, càng thêm mệt nhọc, cảnh trước mắt không thấy, lại như đi trong đêm tối, cảnh Tịnh độ thì quá xa, thì làm sao đạt đến được?
Đáp: Vì chúng sinh đang bị chướng hoặc, động niệm luống tự, mệt nhưng nhờ vào năng lực của bậc Thánh che chở từ xa nên khiến chúng sinh khi tu quán sẽ được nhìn thấy, vì sao lại bảo tác pháp trụ tâm để cho được thấy? Vì các hành giả muốn tác pháp ấy, thì trước phải sám hối, trước tượng Phật dốc lòng sám hối, phát lộ những tội lỗi mà mình đã gây ra, phải hết lòng hổ thẹn, khẩn cầu rơi lệ. Sám hối xong, thì tâm nghĩ miệng nói kính thỉnh Đức Thích-ca và vô lượng Chư Phật trong các thế giới ở mười phương, niệm danh hiệu Đức Phật A-diđà và lập thệ nguyện rằng: "Hôm nay, đệ tử tên... pháp danh... do mê muội mà gây ra nhiều tội lỗi, nghiệp chướng quá sâu dày, nguyện Phật Từ bi nhiếp thọ che chở, chỉ giáo khai ngộ, cảnh giới mà con đang quán tưởng nguyện được thành tựu, nay đốn xả thân mạng, kính mong Đức Di-đà, dầu có thấy được hay không thấy, đều được ân lực của Ngài dắt dẫn". Nói những lời ấy xong, lại dốc lòng sám hối, xong thì đi đến chỗ yên tĩnh, hướng mặt về Tây phương, ngồi kiết già ngay thẳng và thực hành pháp trước.
Khi đã trụ tâm rồi, từ từ chuyển tâm quán tưởng niệm đất báu ở Cực lạc và các tạp sắc rõ ràng, khi mới quán tưởng không được quán tưởng nhiều cảnh, nếu quán tưởng nhiều cảnh thì sẽ không được định, chỉ quán trong một thước vuông, hoặc quán một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm, sáu, bảy ngày, hoặc một tháng, một năm, hai, ba năm... không kể ngày đêm, đi đứng nằm ngồi, thân miệng ý nghiệp phải luôn sống trong định, buông bỏ mọi việc, phải giống như người ngu si câm điếc thất ý, thì định này mới dễ dàng chứng được. Nếu không thực hành như vậy, thì ba nghiệp sẽ tùy duyên mà chuyển, định tưởng bay nhảy theo sóng, dầu có sống đến ngàn năm, mắt pháp cũng không bao giờ khai mở.
Nếu lúc tâm được định thì trước có tướng sáng xuất hiện, hoặc trước nhìn thấy được ao báu, các thứ rõ ràng bất tư nghị của Cực lạc... thấy cũng có hai loại:
Do tưởng mà thấy là vì vẫn còn tri giác nên tuy thấy được cảnh Tịnh độ, nhưng chưa được rõ ràng.
Hoặc nội ngoại giác diệt, tức nhập vào tam-muội Chánh thọ, cảnh Tịnh độ trông thấy này chẳng phải tưởng thấy mà so sánh được.
9. Từ khiến hoa sen ấy v.v... trở xuống đến tám muôn bốn ngàn tia sáng: nói hoa báu có nhiều thứ trang nghiêm, đoạn này cũng có ba:
a. Mỗi hoa lá đều đầy đủ các màu sắc quý báu.
b. Mỗi lá đều có nhiều đường gân báu.
c. Mỗi đường gân có nhiều tia sáng màu sắc.
Đây là để cho hành giả trụ tâm, quán tưởng từng thứ một, tức là giúp cho tâm và mắt đều được nhìn thấy. Khi thấy hoa và lá rồi, thì kế là quán tưởng các thứ báu xen kẽ giữa các lá và kế là quán tưởng chất báu phát ra nhiều ánh sáng. Ánh sáng đó tạo thành lọng báu, kế là quán tưởng đài hoa, trên đài có rất nhiều và lưới châu ngọc... kế là quán tưởng trên đài đó có bốn cây cột báu, kế là quán tưởng trên cột có man báu, kế là quán tưởng trên màn đó có các thứ ngọc châu, ánh sáng nhiều màu trùm khắp hư không, mỗi chất báu đều hiện ra nhiều hình ảnh lạ, như thế lần lượt, mỗi thứ trụ tâm bất xả. Không bao lâu, thì tâm sẽ được định, khi tâm đã định thì các thứ trang nghiêm ở Cực lạc đều hiển hiện, nên biết như thế.
10. Từ rõ ràng v.v... trở xuống là nói về tướng thành tựu của sự tu quán.
11. Từ cánh hoa nhỏ v.v... trở xuống, cho đến trùm khắp trên mặt đất là nói mỗi lá đều có các thứ trang nghiêm, đoạn này cũng có sáu ý.
a. Các lá đều có lớn nhỏ.
b. Có bao nhiêu Hoa lá.
c. Các châu ngọc xen kẽ giữa bao nhiều lá.
d. Ngọc minh châu có một ngàn tia sáng.
Mỗi tia sáng của ngọc châu đều biến thành lọng báu.
Trên lọng báu chiếu đến hư không, dưới thì chiếu phủ cả đất báu.
12. Từ Thích-ca tỳ-lăng-già v.v... trở xuống cho đến để trang sức là nói về tướng trang nghiêm tên đài.
13. Từ trên đài ấy v.v... trở xuống, cho đến châu báu nhiệm mầu để trang sức là nói về tướng trang nghiêm trên cột, đoạn này cũng có bốn ý:
a. Trên đài tự nhiên có bốn cây cột.
b. Thể lượng lớn nhỏ của cột.
c. Trên cột tự có màn báu, hình tướng như cung trời.
Trên cột từ có nhiều châu báu, ánh sáng chiếu soi để trang sức.
14. Từ mỗi hạt châu báu v.v... trở xuống, cho đến thực hành Phật sự là nói ánh sáng của ngọc châu có tướng đức dụng không thể nghĩ bàn, cũng có năm ý:
a. Mỗi hạt ngọc đều có nhiều tia sáng.
b. Mỗi tia sáng đều có nhiều màu sắc khác nhau.
Mỗi màu sắc của ánh sáng lại trùm khắp trên cõi nước.
Ánh sáng chiếu đến đâu đều thành nhiều thứ trang nghiêm khác nhau.
Hoặc làm thành đài vàng, mành châu, mây hoa, nhạc báu, trùm khắp cả mười phương.
Từ đó là v.v... trở xuống là tổng kết các tên gọi của tu quán.
15. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống cho đến nguyện lực của Tỳ-kheo thành tựu là nói về lý do đắc tòa hoa được thành.
16. Từ nếu muốn niệm Đức Phật ấy v.v... trở xuống, cho đến tự thấy mặt mình là nói lại về nghi thức tu quán, thứ lớp trụ tâm như trước, không được lẫn lộn.
17. Từ tưởng này thành tựu v.v... trở xuống, cho đến sinh về thế giới Cực lạc là kết thúc về tướng thành tựu của tu quán, có hai lợi ích:
a. Lợi ích của sự dứt trừ tội lỗi.
b. Lợi ích được vãng sinh.
19. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến gọi là tà quán tức là phân biệt tướng quán tà chánh, đây là hoa nương đất báu, châu ngọc xen lẫn giữa kẽ lá, trên đài có bốn cột, ánh sáng hiện các Phật sự.
VIII. Nói về quán tượng.
Cũng trước nêu, kế là giải thích và sau là tổng kết. Phần này cũng có mười ba đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến kế nêu tưởng Phật là kết thúc phần trước, phát sinh phần sau. Nói vì sao, là một câu hỏi, vì sao phải tưởng Phật?
2. Từ Chư Phật Như lai v.v... trở xuống, cho đến trong tâm tưởng là nói về lòng Từ bi của Chư Phật, ứng tâm liền hiện. Vì có lợi ích cao quý này nên Đức Phật khuyên mọi người quán tưởng.
Hỏi: Vy-đề-hy thưa hỏi, chỉ nguyện sinh về cõi Diđà, chẳng hay nay nêu chung Chư Phật, là có ý gì?
Đáp: Vì muốn nói lên Chư Phật đồng chứng cả ba thân, quả bi trí viên mãn, bình đẳng không hai. Ngồi kết già ngay thẳng, ảnh hiện vô phương, ý gặp người có duyên, thường đến khắp giới. Nói pháp giới có ba nghĩa:
a. Vì tâm trùm khắp nên giải pháp giới.
b. Vì thân trùm khắp nên giải pháp giới.
c. Vì vô chướng ngại nên giải pháp giới.
Vì tâm điên đảo, nên thân cũng điên đảo theo, thân phụ thuộc vào tâm, do đó mà gọi là thân pháp giới.
Nói pháp giới là cảnh sở hóa, tức là thế giới chúng sinh.
Nói nhập vào tâm tưởng của chúng sinh là do chúng sinh khởi niệm, nguyện được thấy Chư Phật thì Đức Phật sẽ dùng trí vô ngại để biết. Tức là năng nhập vào tâm tưởng của chúng sinh kia mà hiện. Nhưng nếu các hành giả trong lúc tưởng niệm, hoặc trong lúc nằm mộng, hay trong định mà thấy Phật, thì thành tựu nghĩa này.
3. Từ cho nên các vị v.v... trở xuống, cho đến từ tâm tưởng sinh là kết thúc khuyến khích lợi ích, ở đây nói nếu tâm tưởng Phật, chỉ cần hiểu về Phật, từ đầu đến chân, tâm tưởng niệm không tạm lìa, mỗi chỗ đều phải quán sát không ngừng nghỉ, hoặc tưởng đảnh tướng, hoặc tưởng sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, cho đến quán tưởng tướng bánh xe ngàn căm dưới lòng bàn chân Phật. Lúc thực hành quán tưởng thì phải ngồi thẳng trước tượng Phật, tướng tốt của tượng phải đầy đủ, các tướng tốt sẽ ứng hiện rõ ràng, do tâm mình duyên tướng theo từng tướng tốt của Phật, nên mỗi tướng đều ứng hiện, nếu tâm mình không duyên vào đó, thì không thể thấy được các tướng, nếu tự tâm quán tưởng thì sẽ ứng hiện ngay trong tự tâm, do đó mà nói tâm tức là ba mươi hai tướng.
Nói tám mươi vẻ đẹp tức là khi tướng tốt của Phật đã hiện thì các vẻ đẹp sẽ ứng hiện theo.
Đoạn này là Đức Như lai dạy các tưởng phải quán cho thật đầy đủ.
Nói tâm này làm Phật tức là phải nương vào tín tâm của mình để quán tưởng Phật.
Nói tâm này là Phật tâm có khả năng tưởng Phật, nương theo tưởng mà thân Phật hiện ra, tức là tâm Phật. Lìa tâm này ra thì không có Phật nào khác.
Nói Chư Phật chánh biến tri là nói Chư Phật là những vị đã đắc trí tuệ vô chướng ngại một cách rốt ráo, dầu tác ý hay không tác ý, tâm cũng thường biết khắp pháp giới. Nếu ai tưởng được thì từ tâm tưởng của người ấy Phật sẽ ứng hiện dường như sinh ra.
Hoặc có hành giả, dùng nghĩa của môn này, thực hành quán thân theo Duy thức, hoặc quán Phật tánh thanh tịnh của tự tánh, nếu tác ý như vậy là rất sai lầm, không hề có chút tương tự.
Nói tưởng tượng giả lập ba mươi hai tướng thì lập thân chân như pháp giới làm sao có tướng để duyên, làm sao có thân để nắm lấy? Vì pháp thân vô sắc mắt không thấy được, không thể lấy gì để so sánh, cho nên dùng hư không để ví dụ cho bản thể của pháp thân.
Lại, các quán môn này chỉ có chỉ phương lập tướng, trụ tâm chấp cảnh, mà không hề biết về vô tướng lìa niệm. Đức Phật biết trước các phàm phu tội trược trong đời mạt pháp, dầu cho có lập tướng để trú tâm cũng còn không thể được, huống chi lìa tướng mà cầu sự, giống như người không có tài năng gì mà muốn xây một ngôi nhà giữa hư không.
4. Từ vì cho nên phải v.v... trở xuống, cho đến Tamphật-đà, nói về lợi ích như trước, chuyên tâm chú ý thì sẽ thành tựu, xoay vần chỉ bảo nhau, khuyên quán Phật A-di-đà.
5. Từ tưởng Đức Phật kia v.v... là lặp lại ở trước để mở ra ở sau. Nói trước nên tưởng tượng là định ra cảnh sở quán.
6. Từ nhắm mắt mở mắt v.v... trở xuống, cho đến như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay là nói về tướng thành tựu của tu quán, đoạn này cũng có bốn:
Nói về bốn oai nghi của thân, nhắm mắt hay mở mắt đều thấy một pho tượng vàng, giống như Phật đang ở trước mắt, thường quán tưởng như thế.
Khi đã có thể quán tưởng tượng Đức Phật được rồi, tượng Phật đương nhiên là phải ở trên một cái tòa, tức trước là quán tưởng tòa hoa sen, rồi quán tưởng tượng Phật đang ngồi trên tòa đó.
Khi quán tưởng thấy được tượng Phật ngồi trên toà xong, thì tâm và mắt liền khai mở.
Khi tâm mắt đã khai mở thì sẽ thấy tượng vàng và những sự trang nghiêm ở thế giới Cực lạc, từ mặt đất cho đến hư không, đều rõ ràng vô ngại.
Lại, pháp quán tưởng trụ tâm cũng giống như trước nói, bắt đầu quán từ trên đảnh đầu, rồi lần lượt quán đến toàn thân Phật, như, khuôn mặt, lông mày, mắt mũi, miệng, lỗ tai, cổ họng, vai, bụng, ngón tay.
Lại dùng tâm quán tưởng từ dưới lên như ngực, bụng, rốn, âm bộ, đầu gối, hai chân, mười ngón tay có bánh xe ngàn căm... Mỗi tướng đều quán tưởng, từ trên xuống dưới, gọi là quán thuận, quán từ dưới lên gọi là quán nghịch, thuận nghịch trụ tâm như thế, không bao lâu sẽ được thành tựu.
Lại, thân của Đức Phật và tòa hoa, đất báu v.v... phải quán chung cả trên lẫn dưới, nhưng trong mười ba pháp quán thì các pháp quán đất báu, hoa báu, tượng vàng v.v... là quan trọng nhất. Nếu muốn truyền dạy lại cho người thì nên dạy về các pháp quán đó, chỉ cần thành tựu được một trong các pháp quán này thì các pháp quán khác tự nhiên sẽ thành tựu.
7. Từ thấy đây v.v... trở xuống là phần tổng kết nói về sự thành tựu của sự tu quán thân tượng, sau đó mới quán tiếp hai vị Bồ-tát.
8. Từ lại nên quán một hoa sen lớn v.v... trở xuống, cho đến ngồi trên tòa hoa bằng đá là nói về sự thành tựu quán ba thân ở trên, sau đó mới quán nhiều thân.
Muốn quán hai vị Bồ-tát này, thì cách quán cũng giống như quán Đức Phật ở trên.
9. Từ khi tưởng này thành v.v... trở xuống, cho đến đầy khắp nước ấy, là nói về sự thành tựu việc quán nhiều thân ở trên, sau đây sẽ nói về pháp tướng.
Nay nói về đi, đứng, ngồi, nằm của các hành giả, thường phải duyên theo tất cả các cây báu của thế giới Cực lạc hoặc lễ niệm, hoặc quán tưởng, thường phải biết như thế.
10. Từ khi tưởng này thành v.v... trở xuống, cho đến nhớ giữ không bỏ là nhờ định mà thấy được sự trang nghiêm của thế giới Cực lạc. Lại được nghe tất cả các việc trang nghiêm, nói về các pháp mầu, đã được nghe và nhìn thấy như thế thì thường phải nắm giữ không được để mất, đó gọi là thủ định tâm.
11. Từ giúp cho hợp với Tu-đa-la v.v... trở xuống, cho đến thấy thế giới Cực lạc là nói về tướng quán tà chánh.
12. Từ đó là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
13. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến đắc tam-muội Niệm Phật là nói về sự khắc niệm tu quán, hiện đời được lợi ích, đây là chúng sinh nghiệp chướng sâu nặng, muốn quán về chân thân Phật thật là khó khăn, do đó Phật rủ lòng thương xót, bảo phải trụ vào tâm hình tượng.
IX. Nói về quán chân thân.
Cũng trước nêu, kế giải thích và sau là tổng kết. Ở đây cũng có mười hai đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến thân tướng sáng chói là dạy bảo kết thành quán tượng ở trước, sinh ra quán chân thân ở sau.
2. Từ A-nan nên biết v.v... trở xuống, cho đến sắc vàng là nói về sự hiển bày chân thân của Phật, chân thân của Phật vượt hơn cả màu sắc của vàng cõi trời.
3. Từ thân Phật cao sáu mươi v.v... trở xuống cho đến do-tuần là nói về thân lượng lớn nhỏ.
4. Từ giữa hai đầu chân mày v.v... trở xuống cho đến Bồ-tát là thị giả là nói quán chung về thân tướng, đoạn này có sáu ý:
- Nói về kích cỡ sợi lông trắng.
- Nói kích cỡ của mặt Phật.
- Nói ánh ánh sáng lớn nhỏ trong lỗ chân lông.
- Nói kích cỡ của vầng ánh sáng tròn.
- Số lượng hóa Phật.
- Số lượng thị giả.
5. Từ Phật Vô Lượng Thọ v.v... trở xuống, cho đến che chở không bỏ là phần nói về quán riêng thân tướng Phật, ánh sáng làm lợi ích cho người có duyên, đoạn này có năm ý:
a. Có bao nhiêu tướng tốt.
b. Có bao nhiêu vẻ đẹp.
c. Có bao nhiêu ánh sáng.
d. Ánh sáng chiếu xa gần.
Ánh sáng chiếu đến những chỗ nào và mang lại lợi ích cho những ai?
Hỏi: Tu hành đầy đủ các hạnh nguyện, hồi hướng sẽ được vãng sinh. Thế thì vì sao Đức Phật dùng ánh sáng chiếu khắp chúng sinh nhưng chỉ nhiếp người Niệm Phật? Như thế là có ý gì?
Đáp: Ở đây cũng có ba ý nghĩa:
Về thân duyên tức là chúng sinh khởi hạnh, miệng thường niệm danh hiệu Phật, thì Đức Phật sẽ nghe, thân thường lễ kính Đức Phật, thì Đức Phật sẽ thấy, tâm thường Niệm Phật, thì Đức Phật sẽ biết, chúng sinh nhớ nghĩ đến Phật, thì Phật cũng nhớ nghĩ đến chúng sinh. Ba nghiệp của Phật và chúng sinh không bao giờ rời nhau, đó gọi là "Thân duyên".
Về cận duyên, chúng sinh nguyện muốn thấy Phật, Phật sẽ ứng niệm thị hiện ngay trước mặt, đó gọi là cận duyên.
Nói về duyên tăng thượng, chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật, thì sẽ dứt trừ tội lỗi trong nhiều kiếp, đến lúc qua đời thì sẽ được Đức Phật và các Thánh chúng đến đón rước, các tà nghiệp trói buột không thể làm chướng ngại, đó gọi là duyên Tăng thượng. Các hạnh khác, tuy cũng gọi là thiện, nhưng nếu so sánh với công hạnh Niệm Phật, thì hoàn toàn không thể so sánh được. Do đó mà trong bất cứ kinh nào đều cũng khen ngợi về công năng Niệm Phật, như bốn mươi tám lời nguyện trong kinh Vô Lượng Thọ, chỉ nói về chuyên tâm niệm danh hiệu Đức Phật A-di-đà sẽ được vãng sinh. Lại cũng như trong "Kinh Di-đà" nói chỉ chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà từ một ngày cho đến bảy ngày thì sẽ được vãng sinh và vô lượng Chư Phật trong mười phương đã chứng minh lời nói đó không luống dối.
Lại, trong văn định tán của kinh này, chỉ khuyên chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà thì sẽ được vãng sinh, do đó kinh nói về phương pháp Niệm Phật chẳng phải chỉ có một kinh, tất cả đều nói về phương pháp tam-muội Niệm Phật.
6. Từ tướng tốt sáng rỡ ấy v.v... trở xuống là phần tổng kết ít để bày nhiều, người nào muốn quán thường khó có thể hoàn tất.
7. Từ chỉ nên nhớ tưởng v.v... trở xuống là nói về cảnh trang nghiêm nhiệm mầu, tuyệt đẹp hơn cảnh của phàm phu chúng ta, tuy hiện tại chưa chứng được nhưng cũng có thể dùng tâm tưởng để nhớ nghĩ, khiến tâm mắt thấy được.
8. Từ thấy việc này rồi v.v... trở xuống, cho đến nhiếp các chúng sinh: là nói về công phu tu tập không mất, do đó mà được thành tựu lợi ích, đoạn này cũng có năm ý:
Nhờ tu quán mà được nhìn thấy Chư Phật trong mười phương. Nhờ thấy được Chư Phật nên phát tâm Niệm Phật tam-muội.
Chỉ quán một Đức Phật, tức là đã quán tất cả các thân của Chư Phật.
Nhờ thấy được thân Phật nên thấy được tâm Phật.
Tâm của Phật lấy từ bi làm thể, Phật dùng tâm đại từ bình đẳng để nhiếp hóa tất cả chúng sinh.
9. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến được Vô Sinh Nhẫn tức là nói khi xả bỏ thân này thì sẽ được vãng sinh về thế giới Cực lạc.
10. Từ cho nên người trí v.v... trở xuống cho đến hiện tiền thọ ký là tổng kết khuyên tu và lợi ích của phương pháp tu quán, đoạn này có năm ý:
Nói về người có khả năng tu quán.
Nói về việc chuyên tâm quán Đức Phật Vô Lượng Thọ.
Có rất nhiều tướng tốt và không thể quán chung xen lẫn, chỉ quán một tướng sợi lông trắng, thì chỉ thấy được sợi lông trắng, tất cả các tướng khác sẽ tự nhiên hiện ra.
Đã thấy được Đức Phật A-di-đà thì sẽ thấy được Chư Phật trong mười phương.
Đã thấy được Chư Phật, thì ở trong định sẽ được thọ ký.
11. Từ đó là quán khắp v.v... trở xuống là phần tổng kết.
12. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, là nói về tướng tà chánh của quán, hình tướng thật sự thì quá xa, sợi lông trắng như năm ngọn núi, muốn cho toàn bộ các chúng sinh đều quy mạng, thì phải chú tâm tưởng niệm không được sót, nương vào bản nguyện rộng lớn của Phật mà được vãng sinh Tịnh độ.
X. Nói về pháp quán Bồ-tát Quán Thế Âm.
Cũng trước nêu, kế giải thích, sau là tổng kết. Phần này có mười lăm đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến Bồtát là nói về kết thúc thành tựu quán chân thân ở trên, sau đây là quán Bồ-tát.
2. Từ thân Bồ-tát này cao v.v... trở xuống, cho đến đều hiện trong đó là phần giải thích về thân tướng, cũng có sáu ý:
a. Nói về thân lớn nhỏ.
b. Nói về thân sắc của Bồ-tát không bằng Phật.
Nhục kế của Bồ-tát không giống so với nhục kế của Phật.
c. Nói về kích thước của vầng ánh sáng tròn.
d. Nói về số lượng thị giả của các hóa Phật.
Nói về ánh sáng của thân chiếu khắp chúng sinh không ở trong năm đường.
3. Từ Tỳ-lăng-già trên đỉnh v.v... trở xuống, cho đến hai mươi lăm do-tuần là nói về hóa thân khác nhau của Đức Phật trong thiên quan.
4. Từ Quán Âm v.v... trở xuống là nói về sự khác nhau của sắc diện và thân sắc.
5. Từ giữa hai đầu chân mày v.v... trở xuống, cho đến màu hoa sen là nói về sự chuyển biến của ánh sáng, ánh sáng chiếu khắp cả mười phương, các hóa thị giả cũng rất nhiều, lại so sánh với màu sen hồng, đoạn này cũng có năm ý:
a. Sợi lông trắng bảy báu.
b. Ánh sáng của sợi lông trắng nhiều ít.
c. Trong ánh sáng có bao nhiêu hóa Phật.
d. Có bao nhiêu thị giả.
e. Các hóa thị giả biến hiện khắp mười phương.
6. Từ có tám mươi ức tia sáng v.v... trở xuống, cho đến trang nghiêm sự là nói về thân mặc y phục bằng ánh sáng như ngọc chứ chẳng phải bằng các báu.
7. Từ tay làm thành năm trăm ức v.v... trở xuống, cho đến tiếp dẫn chúng sinh là đoạn nói về bàn tay cũng có tác dụng của Từ bi, đoạn này cũng có sáu ý:
a. Bàn tay tạo thành màu sắc của các thứ hoa sen.
b. Mỗi đầu ngón tay có tám muôn đường chỉ tay.
c. Mỗi đường chỉ tay có hơn tám muôn màu sắc.
d. Mỗi màu sắc đều có hơn tám muôn tia sáng
e. Thể của ánh sáng mát dịu và chiếu khắp tất cả.
Dùng tay có ánh sáng báu này để tiếp dẫn chúng sinh có nhân duyên.
8. Từ lúc giở chân lên v.v... trở xuống, cho đến chỗ nào cũng đầy khắp là chân cũng có tướng đức dụng.
9. Từ các tướng khác của thân v.v... trở xuống là nói ngón tay của Bồ-tát đồng với Phật.
10. Từ chỉ có trên đảnh v.v... trở xuống, cho đến không bằng Đức Thế tôn ý nói giữa thầy và trò đều có địa vị khác nhau và quả nguyện chưa viên mãn, giúp cho hai tướng còn thiếu, cũng nói lên địa vị vẫn còn chưa đủ.
11. Từ đó là v.v... trở xuống, là phần tổng kết.
12. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống, cho đến nên thực hành quán này là lập lại văn trên để kết thúc và sau là nói về sự lợi ích.
13. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến huống chi là quán kỹ khuyên tu quán sẽ được lợi ích.
14. Từ nếu có người muốn quán Quan âm v.v... trở xuống, cho đến như nhìn trong lòng bàn tay lại nói về nghi thức thực hành quán, khuyên chúng sinh chú tâm, khiến đều được thấm nhuần hai thứ lợi ích.
15. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống là giải thích về tướng quán tà, chánh. Đây là nguyện sâu xa của ngài Quán Âm, ngài ứng hiện khắp cả mười phương, tay báu sáng soi tùy cơ tiếp dẫn.
XI. Phần này nói về phương pháp quán ngài Thế Chí.
Cũng trước nêu, kế giải thích, sau là tổng kết. Phần này cũng có mười ba đoạn:
1. Từ kế là quán Đại Thế Chí v.v... trở xuống nói chung tên gọi của pháp quán.
2. Từ thân lượng của Bồ-tát này v.v... trở xuống phân biệt về tướng quán, có năm ý:
a. Thân tướng cũng đồng như ngài Quán Âm.
b. Sắc thân cũng đồng như ngài Quán Âm.
c. Tướng mặt cũng đồng như ngài Quán Âm.
d. Tướng tốt của thân cũng đồng như ngài Quán Âm.
Sợi lông trắng phát ra ánh sáng mát dịu giống như ngài Quán Âm.
3. Từ vầng ánh sáng tròn chiếu xa mỗi phía một trăm hai mươi lăm do-tuần v.v... trở xuống là nói về vầng ánh sáng tròn không giống với ngài Quán Âm, đoạn này cũng có bốn ý:
a. Nói về độ lớn của vầng ánh sáng.
b. Ánh sáng chiếu xa gần.
c. Có bao nhiêu hóa Phật.
d. Có bao nhiêu hóa thị giả.
4. Từ ánh sáng toàn thân v.v... trở xuống, cho đến danh hiệu Đại Thế Chí là ánh sáng của thân chiếu rất đầy đủ và rất xa, mang lại nhiều ích lợi cho các chúng sinh có nhân duyên, kể cả chúng sinh các phương khác, đoạn này cũng có tám ý:
Nói về ánh sáng của thân đều khác, không giống nhau.
a. Nói ánh sáng chiếu xa gần.
b. Nói ánh sáng khi chiếu đến chỗ nào đều có màu vàng tím.
c. Nói về những người có nhân duyên với ngài Thế Chí từ nhiều kiếp thì sẽ thấy và được ánh sáng đó chiếu vào.
d. Chỉ thấy ánh sáng ở một lỗ chân lông thì có thể thấy được ánh sáng tịnh diệu trên thân của nhiều Đức Phật, ở đây lấy lợi ích nhỏ để nói lên lợi ích lớn, mục đích là muốn cho người tu tập khởi tâm mong cầu khát ngưỡng, khiến phải nhập quán để chứng ngộ.
e. Dựa vào ánh sáng để đặt tên gọi.
f. Nói về thể dụng của ánh sáng. Ánh sáng lấy vô lậu làm thể, cho nên gọi là ánh sáng trí tuệ. Lại ánh sáng đó có công năng trừ diệt và ngăn chặn cái khổ trong ba đường ác ở khắp mười phương, do đó mà gọi là vô thượng lực, tức là dụng.
Nói về danh hiệu Đại Thế Chí, đây là y vào đức để đặt tên.
5. Từ Thiên quan của Bồ-tát này v.v... trở xuống, cho đến đều hiện trong đó là nói về tướng thiên quan trang nghiêm của ngài Thế Chí, không giống với ngài Quán Âm, đoạn này cũng có bốn ý:
a. Nói có bao nhiêu hoa báu trên thiên quan.
b. Nói có bao nhiêu đài báu trên mỗi đóa hoa.
Nói mỗi đài báu có ánh sáng ánh hiện đến các Tịnh độ của Chư Phật ở khắp mười phương.
Các cõi nước ở các phương khác hiện ra, kia đây đều không có thêm hay bớt.
6. Từ nhục kế trên đảnh v.v... trở xuống, cho đến hiện khắp các Phật sự là nói về tướng bình báu trên nhục kế.
7. Từ các tướng khác trên thân v.v... trở xuống là ngón tay giống như ngài Quan Âm.
8. Từ khi Bồ-tát này đi v.v... trở xuống, cho đến như thế giới Cực lạc ý nói về hạnh nguyện của ngài Thế Chí không giống như hạnh nguyện của Quán Âm, đoạn này cũng có bốn ý:
a. Nói về hạnh không giống nhau.
b. Nói về tướng rung chuyển xa gần.
c. Nói chỗ rung chuyển hoa hiện ra rất nhiều.
d. Hoa hiện ra vừa cao vừa hiển rõ. Có rất nhiều ánh hiện để trang sức, giống như sự trang nghiêm thế giới Cực lạc.
9. Từ khi Bồ-tát này ngồi v.v... trở xuống, cho đến độ chúng sinh khổ: nói về tòa báu không giống với tòa báu của ngài Quan Âm, đoạn này cũng có bảy ý.
a. Nói về tướng ngồi của ngài Thế Chí.
b. Trước là sự rung chuyển ở cõi nước mình.
c. Kế là tướng động các cõi xa gần ở phương khác.
d. Nói về sự diêu động, trên dưới, cõi Phật nhiều ít.
Nói về Đức Di-đà, Quán Âm v.v... phân thân và tướng mây lành nhóm họp.
Các Ngài ngự trên hư không đầy khắp, đều ngồi trên tòa báu.
Các Ngài phân thân nói pháp, mỗi pháp đều ứng hợp với chúng sinh.
Hỏi: Trong kinh Di-đà nói các chúng sinh ở thế giới
Cực lạc không có các sự khổ đau, chỉ thọ hưởng những điều vui sướng, do đó mà gọi là Cực lạc. Thế thì vì sao kinh này lại nói đều phân thân nói pháp, để độ chúng sinh khổ. Là có ý gì?
Đáp: Ở đây nói khổ và vui, cũng có hai thứ: a. Khổ và vui trong ba cõi. b. Khổ và vui ở cõi Tịnh độ.
Nói khổ vui ba cõi, khổ tức là khổ ba đường, hoặc tám khổ v.v... Lại tức là năm dục của trời, người. Cái vui của buông lung và trói buộc... tuy nói là vui, nhưng thật ra là khổ lớn, rốt cuộc hoàn toàn không có một niệm vui chân thật nào hết.
Nói khổ vui của Tịnh độ, khổ là ở vào Địa tiền, mong cầu được Địa thượng là khổ, hoặc Địa thượng mong cầu Địa tiền là vui, Hạ trí chứng mong cầu Thượng trí chứng là khổ. Thượng trí chứng mong cầu Hạ trí chứng là vui, đây chỉ nêu một ví dụ trên là đủ biết.
Nay nói độ chúng sinh khổ là chỉ vì từ địa thấp mong tiến lên địa vị cao là khổ. Chuyển từ hạ chứng để được thượng chứng, để xứng với sở cầu thì gọi là vui, do đó mà gọi là độ khổ. Nếu không như thế thì tất cả các bậc Thánh ở Tịnh độ, đều lấy vô lậu làm thể, tâm đại bi làm dụng, rốt ráo thường trụ, các ngài đã lìa sinh tử phần đoạn, như thế thì làm gì còn gọi là khổ ư?
10. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến pháp quán thứ mười một là giải thích về sự tà chánh của pháp quán tổng kết giới hạn.
11. Từ quán Bồ-tát này v.v... trở xuống là phần nói về lợi ích của tu quán, sẽ dứt trừ được tội lỗi trong nhiều kiếp.
12. Từ thực hành quán này v.v... trở xuống, cho đến cõi nước tịnh diệu là tổng kết văn trên, lại sinh lợi ích về sau.
13. Từ quán này thành v.v... trở xuống là lại nói về hai thân, giải thích sự thành tựu của tu quán. Ngài Thế Chí uy đức rất cao, ở các cõi nước khác mà Ngài có khả năng phân thân, nhóm họp nói pháp lợi sinh, khiến chúng sinh dứt hẳn sự sinh ra bằng bào thai, thường đi khắp pháp giới.
XII. Nói về tu quán rộng khắp.
Cũng trước là nêu, kế là giải thích, sau cùng là tổng kết. Phần này có sáu đoạn:
1. Từ khi thấy việc ấy v.v... trở xuống là nhắc lại phần trước, phát sinh phần sau.
2. Từ nên khởi tự tâm v.v... trở xuống, cho đến đều giảng nói pháp mầu là nói về ngưng tâm nhập quán, tức là phải quán tưởng tự vãng sinh. Đoạn này có chín ý:
a. Tưởng tự sinh.
b. Tưởng hướng về Tây phương.
c. Tưởng tòa hoa.
d. Tưởng hoa đang còn búp.
f. Tưởng hoa nở.
g. Tưởng ánh sáng báu chiếu đến thân mình.
h. Đã được ánh sáng chiếu, tưởng mở mắt ra.
Khi mắt đã mở thì quán tưởng thấy Chư Phật và các vị Bồ-tát.
i. Quán tưởng được nghe pháp.
3. Từ hợp với mười hai bộ kinh v.v... trở xuống, cho đến không mất là nói dù định hay tán cũng không bỏ sót, giữ tâm thường nhớ nghĩ: một là quán tâm sáng suốt thanh tịnh; hai là quán các điều ác không phát sinh. Là do trong tâm tương ưng với pháp vui và ngoài thì không bị chướng ngại của ba thứ tà.
4. Từ thấy việc này v.v... trở xuống là nói về ích lợi của sự thành tựu tu quán.
5. Từ đây là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
6. Từ Vô Lượng Thọ v.v... trở xuống, cho đến thường đến chỗ hành giả này, lại nói về người năng quán, tức là mong được đức Di-đà và Thánh chúng dùng ba Thân để che chở, nay chúng sinh chú tâm tưởng niệm, nguyện được thấy cảnh Y báo và Chánh báo trang nghiêm của cõi Cực lạc ở Tây phương, rõ ràng thường như mắt thấy. Trên đây có sáu câu khác nhau giải thích rộng về quán khắp đã xong.
XIII. Nói về tạp tưởng quán.
Cũng trước là nêu, kế giải thích, sau là tổng kết, phần này cũng có mười một đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là nói về dạy bảo, kết thúc khuyên răn, phát sinh ở sau.
2. Từ trước nêu quán thân Phật cao trượng sáu trở xuống là nói Quán tượng để biểu thị cho sự chân thật. Tưởng nước là để biểu thị cho mặt đất, như thế là Như lai dạy cho các chúng sinh có được cảnh để dễ chuyên tâm nhập quán, hoặc trên hoa trong ao nước, hoặc ở trong cung báu, gác báu, hoặc ở dưới cây báu, rừng báu, hoặc ở trong các đài báu, điện báu, hoặc ở trong mây báu, long báu giữa hư không, các chỗ như vậy mỗi chỗ đều trụ tâm quán tưởng, đều tưởng hóa Phật, mục đích là để giúp cho căn cơ tương xứng với hoàn cảnh, để sự tu tập dễ thành tựu.
3. Từ như trước đã nói v.v... trở xuống, cho đến tâm lực chẳng thể biết được ý nói về cảnh thì quá rộng lớn mà tâm thì nhỏ hẹp, do đó mà rất khó thành tựu, nên giúp cho Đức Phật thương xót, Ngài chỉ khuyến khích chúng ta quán từng phần nhỏ mà thôi.
4. Từ nhưng Đức Như lai kia v.v... trở xuống, cho đến đều được thành tựu là nói về tâm tư của phàm phu quá nhỏ hẹp, mà Thánh lượng thì quá mênh mông, sự chú tâm quán tưởng của phàm phu không biết dựa vào đâu, sợ khó thành tựu, nay chẳng những việc nhỏ khó thành, huống chi việc lớn, phải nương nhờ hạnh nguyện sâu rộng của Đức Phật Di-đà, để giúp cho muôn người tu tập quán tưởng đều được thành tựu.
5. Từ chỉ tưởng tượng Phật v.v... trở xuống, cho đến đầy đủ thân tướng là so sánh sự hiển bày cao quý, quán tưởng tượng Phật còn được phước đức vô lượng, huống chi quán ngay vào chân thân Phật, sẽ được công đức nhiều hơn thế.
6. Từ A-di-đà v.v... trở xuống, cho đến trượng sáu tám thước là nói về năng quán và tượng Phật sở quán. Tuy thân tượng có lớn nhỏ nhưng cũng đều là chân, đoạn này cũng có ba ý:
Thân thông của Phật A-di-đà là vô ngại, tùy ý biến hiện: Cũng có hai thứ:
Như ý của chúng sinh, nghĩa là tùy theo tâm niệm chúng sinh mà tùy duyên cứu độ.
Như ý của Phật Di-đà là năm thứ mắt viên chiếu, sáu thông tự tại, thường quán các căn cơ có thể độ. Trong một niệm không có trước sau. Thân tâm đều là một, ba luân khai ngộ đều mang lại lợi ích khác nhau.
Hoặc hiện thân lớn, hoặc hiện thân nhỏ.
Nói về thân lượng tuy có lớn nhỏ, nhưng đều là sắc vàng ròng, đây là để phân định tà chánh.
7. Từ thân hình hiện ra v.v... trở xuống là nói thân tuy có lớn nhỏ khác nhau, nhưng ánh sáng thì không khác với chân.
8. Từ Bồ-tát Quán Thế Âm v.v... trở xuống là nói đồng với pháp quán trước. Đức Phật lớn thì thị giả cũng lớn. Đức Phật nhỏ thì thị giả cũng nhỏ.
9. Từ chúng sinh chỉ quán tướng đầu v.v... trở xuống là phần khuyên quán hai thứ khác nhau. Hai thứ khác nhau là trên đầu ngài Quán Âm có một đức hóa Phật đang đứng, trên đầu của ngài Thế Chí có một bình báu.
10. Từ hai vị Bồ-tát v.v... trở xuống: là nói về Đức Di-đà, Quán Âm và Thế Chí... kiếp trước đã cùng nhau thệ nguyện rất sâu nặng thề cùng bỏ ác, tu tập đạt đến quả vị Bồ-đề. Ảnh hưởng theo nhau, đi khắp nơi giáo hóa làm lợi ích.
11. Từ đây là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
Trên từ quán mặt trời v.v... trở xuống cho đến Quán tạp tưởng, là nói về việc Đức Thế tôn đáp câu hỏi thứ tư do Vy-đề-hy thưa hỏi ở trước rằng: "Dạy con tư duy, dạy con chánh thọ. "
Khen ngợi chung rằng:
Trước dạy quán nhật xua tối tăm
Tưởng nước thành, băng tịnh nội tâm
Cột vàng dưới đất soi chiếu nhau
Trang nghiêm trên đất muôn ức lớp.
Mây báu, lọng báu khắp hư không.
Âm nhạc trời, người cùng hòa quyện
Cây báu rũ ngọc, trái xen trong
Ao chảy nước đức rót vào hoa
Lầu báu gác báu đều nối tiếp
Ánh sáng soi nhau không chỗ tối
Ba hoa riêng hồi vượt các tòa
Bốn cột mành lưới châu giăng khắp
Bẩm thức tâm mê vẫn chưa sáng
Trú tâm quán tượng tĩnh tọa kia
Nhất niệm tâm khai thấy chân Phật
Thân quang tướng tốt chuyển càng nhiều
Quán Âm cứu khổ duyên pháp giới
Thường vào trong khắp cõi Ta-bà
Thế Chí uy quang làm rung chuyển
Tùy duyên chiếu nhiếp hội Di-đà.
Trở về đi! Cực lạc an thân thật là tinh.
Chánh niệm Tây quy tưởng trong hoa.
Thấy Phật trang nghiêm, tiếng nói pháp.
Lại có chúng sinh tâm mê hoặc.
Duyên chân thượng cảnh sợ khó thành.
Dù cho Như lai khai tiệm quán.
Ao hoa trượng sáu bằng thân vàng.
Biến hiện linh nghi tuy lớn nhỏ,
Ứng vật thời nghi độ hữu tình.
Khuyên khắp đồng sinh tri thức thảy.
Chuyên tâm Niệm Phật hướng về Tây.
Lại y cứ vào phần thưa hỏi trước, bắt đầu từ quán một thời v.v... trở xuống đến quán tòa hoa là nói chung về y báo.
Từ tượng quán v.v... trở xuống cho đến tạp tưởng quán là phần chung nói về chánh báo.
Trên đây có sự khác nhau giữa Chánh báo và Y báo. Nói rộng về nghĩa môn Định Thiện đã xong.
Nghĩa Tán Thiện trong phần chánh tông.
Từ đây v.v... trở xuống, kế là giải thích về ý nghĩa môn tán thiện của ba bậc, y cứ vào nghĩa này, cũng có hai ý:
1. Dùng ba thứ phước làm chánh nhân.
2. Dùng chín phẩm làm chánh hạnh. Ở đây nói về ba thứ phước.
Phước thứ nhất: tức là gốc lành của thế tục, xưa nay chưa nghe giáo Phật pháp chỉ tự hành hiếu dưỡng, nhân, nghĩa, lễ, trí và tín, nên gọi là điều thiện thế tục.
Phước thứ hai: Ở đây gọi là Giới thiện. Y theo giới này, thì có các giới Trời, Người, Thanh văn, Bồ-tát... trong các giới đó hoặc thọ toàn phần hoặc không toàn phần, hoặc tu trì toàn bộ, hoặc tu trì một phần nào đó. Nếu hồi hướng công đức đó thì cũng sẽ được vãng sinh. Phước thứ ba: Gọi là hành thiện, đó là phát tâm Đại thừa. Người phàm phu cũng có thể tự tu hành, lại còn khuyến khích người khác bỏ ác giữ tâm, để hồi hướng vãng sinh Tịnh độ.
Lại y theo ba thứ phước này, hoặc có người chỉ thực hành phước thế gian, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh, hoặc có người chỉ tu hành giới phước, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh; hoặc có người chỉ tu hành hạnh phước, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh; hoặc có người tu hành hai thứ phước trên, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh; hoặc có người thực hành hai thứ phước dưới, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh; hoặc có người thực hành cả ba thứ phước trên, nếu hồi hướng công đức cũng được vãng sinh; hoặc có người không thực hành một thứ phước nào, thì người đó gọi là người mười ác tà kiến xiển-đề.
XIV. Y cứ vào văn quán hạnh trước của bậc thượng mà giải thích chung.
Có mười một đoạn:
1. Nói chung về dạy bảo.
2. Nói về quyết định vị trí.
3. Nêu chung các loài hữu duyên.
4. Phân định ba tâm để làm chánh nhân.
5. Phân biệt các căn cơ có khả năng hay không có khả năng.
6. Nói về thọ pháp khác nhau.
7. Nói về khi tu tập thời gian có dài ngắn khác nhau.
8. Nói về sự hồi hướng hạnh đã tu.
9. Khi qua đời các Thánh chúng đến đón rước, vãng sinh có nhanh chậm khác nhau.
10. Khi được vãng sinh rồi thì hoa nở nhanh, chậm khác nhau.
11. Sau khi hoa nở, được lợi ích cũng khác nhau.
Trên đây là mười một ý nghĩa, nếu đối chiếu với văn trong phần nói về chín phẩm thì trong mỗi phẩm đều có mười một điều này, tức là sẽ có đến một trăm ý nghĩa. Lại, mười một ý nghĩa trên đối với các vị thuộc bậc thượng thì văn trước giải thích cũng được, hoặc y cứ vào văn trước nói về bậc trung, hạ mà giải thích chung cũng được. Lại, nếu dùng văn để so sánh, thì sẽ có sự đầy đủ hoặc không đầy đủ, hoặc có ẩn có hiện, nếu y theo đạo lý, thì tất cả đều hòa hợp. Vì nhân duyên đó mà phải mở rộng hiển xuất giúp cho các hành giả dễ hiểu dễ biết. Trên đây có mười một môn khác nhau, phân biệt rộng ý nghĩa ba phẩm của bậc trên đã xong.
Dưới đây, trước y cứ vào thượng phẩm thượng sinh. Cũng trước là nêu, kế là giải thích, sau cùng là tổng kết. Có tất cả mười hai đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là nêu hai ý:
a. Nói về dạy bảo.
Xác định giai vị. Đây là hàng phàm phu tu tập thượng thiện của Đại thừa.
2. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến liền được vãng sinh là nêu chung các loài được sinh.
Đoạn này cũng có bốn ý:
- Nói về người có lòng tin.
- Nói về cầu nguyện vãng sinh.
- Nói về phát tâm nhiều ít.
- Nói về sự lợi ích được vãng sinh.
3. Từ ba thứ ấy là gì v.v... trở xuống, cho đến sẽ sinh về nước kia là xác định ba tâm để làm chánh nhân, đoạn này cũng có hai:
Đức Thế tôn tùy căn cơ để hiển bày lợi ích, đây là mật ý rất khó hiểu, nếu không nhờ vào Đức Phật tự hỏi và tự Ngài chỉ bày thì không thể nào hiểu được.
Đức Như lai tự giải đáp về ba tâm ở trên.
4. Trong kinh chép: "Một là tâm chí thành". Chí là chân, thành là thật. Đức Phật muốn nói về công hạnh tu tập ba nghiệp thân, miệng, ý của tất cả chúng sinh, tức là phải tu hành với tâm chí thành, hết sức chân thật, không được bên ngoài thì giả hiện hình tướng tinh tấn hiền thiện, mà bên trong lại có tâm luống dối đầy tham sân, tà ngụy, gian trá xảo quyệt, ác tánh hung dữ như rắn độc, tuy khởi ba nghiệp, cũng gọi là Thiện tạp độc, cũng gọi là hạnh luống dối, không thể gọi là nghiệp chân thật. Nếu an tâm khởi hạnh như thế thì dù có dốc hết thân tâm cực khổ để tu hành, ngày đêm mười hai thời lúc nào cũng dốc lòng cố gắng, như lửa đang cháy đầu, thì đó cũng gọi là Thiện tạp độc. Dầu hồi hướng muốn hạnh tạp độc để cầu vãng sinh về Cực lạc cũng không thể nào được vãng sinh.
Vì sao? Vì lúc Đức Phật A-di-đà thực hành hạnh Bồtát, chỉ trong một niệm, một sát-na, sự tu tập của ba nghiệp, đều thực hành với tâm chân thật, do đó hễ muốn khởi hạnh tu hành để mong cầu vãng sinh Cực lạc thì phải khởi tâm chân thật.
Lại, chân thật có hai loại:
1. Chân thật tự lợi.
2. Chân thật lợi tha.
Tự lợi chân thật cũng có hai loại:
a. Trong tâm chân thật, thường xả bỏ các điều ác của mình và người, xả bỏ luôn cả cõi nước uế trược, trong lúc đi đứng ngồi nằm tưởng đồng với Bồ-tát Thích-ca là xả bỏ các điều ác, ta cũng như thế.
b. Trong tâm chân thật, mình và người siêng tu các điều lành của phàm thánh. Tâm và miệng phải chân thật khen ngợi Đức Phật A-di-đà và Y báo, Chánh báo của Ngài. Lại, tâm và miệng phải chân thật, chán ghét ba cõi sáu đường, các khổ đau xấu ác, Y báo, Chánh báo của tự và tha và cũng khen ngợi tất cả chúng sinh ba nghiệp thực hành hạnh lành.
Đối với người không có nghiệp thiện, thì kính họ mà xa lánh họ và cũng không vui theo. Lại, thân và tâm phải chân thật, chắp tay lễ kính, cúng dường bốn thứ cần dùng lên Đức Phật A-di-đà và Y báo Chánh báo của Ngài.
Lại, trong tâm chân thật, thân nghiệp coi nhẹ sự sinh tử trong ba cõi, để xả bỏ Y báo và Chánh báo của tự và tha. Lại, trong tâm chân thật thì ý nghiệp tư tưởng phải quán sát, nhớ nghĩ Đức Phật A-di-đà và Y báo, Chánh báo của Ngài dường như hiện đang ở trước mắt. Lại, trong tâm chân thật ý nghiệp xem thường chán bỏ ba cõi sinh tử, Y báo, Chánh báo của mình và người, ba nghiệp bất thiện, đều xả bỏ trong tâm chân thật. Lại, nếu muốn khởi ba nghiệp lành thì trong tâm phải phát khởi một cách chân chánh, bất kể trong ngoài, sáng tối đều phải chân thật, đó gọi là tâm chí thành.
Nói thâm tâm, tức là tâm tin sâu sắc, cũng có hai thứ thâm tâm.
a. Quyết định tin sâu tự thân của mình hiện là phàm phu tội ác sinh tử đã nhiều kiếp đến nay đắm chìm trong sinh tử, chưa có nhân duyên ra khỏi.
b. Quyết định tin sâu bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật A-di-đà nhiếp thọ chúng sinh, không nghi ngờ, không lo lắng, nhờ vào nguyện lực của Ngài thì chắc chắn sẽ được vãng sinh.
Lại, phải quyết định tin sâu. Quán kinh này là do Đức Phật Thích-ca nói. Ba thứ phước, chín phẩm, định thiện và tán thiện là để chứng minh khen ngợi Y báo và Chánh báo của Đức Phật A-di-đà, khiến mọi người ưa thích.
Lại, quyết tâm tin sâu Chư Phật nhiều như cát sông Hằng trong mười phương nói trong kinh Di-đà, đã chứng minh và khuyến khích tất cả phàm phu chắc chắn được vãng sinh.
Lại, tín sâu, kính mong tất cả hành giả nhất tâm chỉ tin tưởng lời Phật, không tiếc thân mạng, quyết định y theo đó tu hành, những gì mà Đức Phật dạy xả bỏ thì xả bỏ, những gì Đức Phật dạy tu hành thì tu hành. Đức Phật dạy nơi vãng sinh về thì vãng sinh về đó gọi là thuận theo lời Phật dạy. Thuận theo ý Phật, đó là thuận theo nguyện Phật, đó gọi là đệ tử Phật chân chánh. Lại, tất cả hành giả nếu y theo kinh này tin sâu thực hành, tức là một chúng sinh không còn sai lầm. Vì sao? Vì Đức Phật là Đấng đầy đủ tấm lòng đại Bi và là một đấng nói lời chân thật.
Ngoài Đức Phật ra, thì các vị khác do trí và hạnh chưa được viên mãn, còn ở học địa, quả nguyện chưa viên thành, các vị Phàm, Thánh này dầu có suy đoán về ý nghĩa lời Phật dạy cũng chưa thể nào hiểu biết thấu suốt, dù có bàn luận, cũng phải thỉnh cầu Đức Phật vì mình mà chứng tri quyết định. Nếu đúng với ý Phật, thì Phật ấn khả và nói rằng, đúng vậy, đúng vậy. Nếu không đúng ý Phật dạy, thì Đức Phật sẽ nói ý của các vị nói là không đúng. Đức Phật không ấn chứng, đồng với những lời nói vô ký không có lợi ích. Nếu Đức Phật ấn khả, thì phải vâng theo chánh giáo của Phật.
Nếu Phật dạy lời gì, thì đó chính là giáo, chánh nghĩa, chánh hạnh, chánh giải, chánh nghiệp, chánh trí, dầu nhiều hay ít, chúng sinh không cần phải hỏi các vị Bồ-tát, Trời, Người... để quyết định là đúng hay sai. Nếu Đức Phật đã nói điều gì, thì đó là liễu giáo. Các vị Bồtát có nói pháp gì đi nữa cũng hoàn toàn chẳng phải là liễu giáo, nên phải biết như vậy, do đó hôm nay kính khuyên tất cả các vị nào có được nhân duyên vãng sinh thì chỉ tin chắc vào lời Phật dạy, để chuyên chú vâng theo thực hành, không thể tin theo các Bồ-tát... vì đó là lời dạy bất tương ưng cho là nghi ngờ sẽ dễ bị mê hoặc, rồi đánh mất lợi ích lớn của sự vãng sinh.
Lại, người có thâm tâm tin sâu, thì phải quyết định kiến lập tự tâm, thuận theo giáo pháp tu hành, để dứt bỏ hẳn sự nghi lầm sai trái, đừng vì tất cả các biệt giáo, biệt hạnh, hay các học thuyết khác, hoặc các dị kiến, dị chấp làm cho mình động tâm mà lui sụt.
Hỏi: Phàm phu trí tuệ cạn cợt, hoặc chướng sâu dày, nếu gặp người có giải hạnh khác mình, dẫn chứng nhiều kinh luận để bắt bẻ, chứng minh rằng: "Tất cả phàm phu tội chướng không được vãng sinh, vậy phải làm sao để đối trị với lời bắt bẻ đó, để thành tựu được tín tâm, quyết định thẳng tiến, không sinh tâm lui sụt. "
Đáp: Nếu có người dẫn chứng nhiều kinh luận nói các phàm phu tội lỗi không được vãng sinh, thì hành giả liền đáp rằng: "Này nhân giả! Tuy ngài đã dẫn chứng nhiều kinh luận để chứng minh rằng, không được vãng sinh, nhưng ý tôi thì chắc chắn không ngài đả phá". Vì sao? Vì chẳng phải tôi không tin các kinh luận, tất cả kinh luận tôi đều kính tin, nhưng khi Đức Phật nói kinh thì có xứ khác, thời khác, đối cơ khác và lợi ích cũng khác.
Lại, khi Đức Phật nói kinh đó, tức là không phải lúc mà Đức Phật nói kinh Di-đà hoặc Quán kinh. Phật nói giáo trùm khắp các căn cơ, thời gian cũng khác nhau. Đức Phật liền nói chung về giải hạnh của trời, người, Bồ-tát. Ở đây Ngài nói "Quán kinh", định thiện và tán thiện, Ngài vì Vy-đề-hy và tất cả các phàm phu sống trong cõi đời năm thứ vẩn đục, năm thứ khổ sau khi Phật diệt độ mà làm chứng và nói sẽ được vãng sinh. Vì nhân duyên đó, mà hôm nay tôi nhất tâm y vào lời dạy của Phật, quyết định vâng làm. Dù có cả trăm ngàn muôn muôn ức luận chứng minh phàm phu không được vãng sinh, thì cũng chỉ làm tăng thêm tín tâm vững chắc của tôi mà thôi.
Lại, hành giả cũng nói với người đó rằng:
Ông hãy lắng nghe! Nay tôi vì ông lại nói về sự quyết định kính tin của tôi, dầu có các vị Bồ-tát Địa Tiền, Lahán hay Bích-chi-phật, hoặc một hoặc nhiều vị, thậm chí khắp cả các thế giới trong mười phương, đều dẫn kinh luận để chứng minh phàm phu không được vãng sinh, tôi cũng không khởi một niệm tâm si, mà chỉ làm lớn mạnh thêm tín tâm thanh tịnh của tôi mà thôi. Vì sao? Vì Đức Phật nói ra lời nào thì đó chính là những lời quyết định liễu nghĩa, bất cứ ai cũng không phá hoại được.
Lại, hành giả cũng nên lắng nghe! Dầu có các bậc Sơ địa trở lên, hoặc Thập địa v.v... trở xuống, hoặc một hoặc nhiều vị, cho đến khắp cả mười phương, khác miệng đồng lời đều nói rằng: "Đức Phật Thích-ca chỉ khen ngợi Đức Di-đà và chê bai ba cõi, sáu đường, mục đích là để khuyến khích chúng sinh nên chuyên tâm Niệm Phật và tu các điều lành khác, sau khi qua đời chắc chắn vãng sinh về thế giới Cực lạc, thì đó là lời nói luống dối, không đáng tin". Tôi dù có nghe nói những lời như thế, cũng không sinh một niệm tâm si, mà chỉ làm lớn mạnh thêm quyết định tín tâm của tôi, vì sao? Vì đó là lời nói liễu nghĩa chân thật quyết định của Đức Phật. Vì Ngài đã thật hiểu, thật kiến, thật chứng, không phải từ trong tâm si hoặc mà nói ra. Lại không bị dị kiến, dị giải của tất cả các Bồ-tát phá hoại, nếu thật là Bồ-tát, thì không trái lời Phật dạy.
Lại đối với việc này hành giả nên biết, dù cho có hóa Phật báo Phật, một vị hay nhiều vị, cho đến cùng khắp mười phương, mỗi vị đều phát ra ánh sáng từ miệng bao trùm cả mười phương, mỗi vị đều nói lời thuyết giáo của Đức Thích-ca là chỉ khen ngợi, khuyến khích tất cả các phàm phu chuyên tâm Niệm Phật và tu các điều lành khác, hồi hướng nguyện cầu được vãng sinh về Tịnh độ kia, đó là luống dối, chắc chắn không có việc đó. Tôi tuy có nghe Chư Phật này nói như vậy thì cũng hoàn toàn không khởi một niệm tâm si lui sụt, sợ không được vãng sinh về Cực lạc, vì sao? Vì một Đức Phật là tất cả Đức Phật. Các Ngài đều có tri kiến, hạnh giải, chứng ngộ, quả vị và tâm đại Bi như nhau, không có chút gì khác nhau, do đó mà điều gì một Đức Phật đã chế ra, thì tất cả các Đức Phật khác đều chế ra. Cũng ví như Đức Phật trước chế không được gây ra các tội lỗi như sát sinh, mười điều ác... nếu người nào không phạm thì gọi là mười thiện, mười hạnh, nghĩa là người đó đã thuận theo sáu độ, dầu sau này có Đức Phật ra đời, cũng không thể sửa đổi mười điều lành này, mà bảo thực hành mười điều ác? Dùng đạo lý này để suy nghiệm, thì biết được ngôn hạnh của Chư Phật không bao giờ trái ngược nhau, dù cho hôm nay Đức Thích-ca khuyến khích tất cả các phàm phu, suốt đời chuyên tâm Niệm Phật và chuyên tu hành, sau khi qua đời, chắc chắn sẽ được vãng sinh về Cực lạc thì Chư Phật mười phương cũng đồng khen ngợi, đồng khuyến khích, đồng chứng minh. Vì sao? Vì các Ngài là đồng thể đại Bi.
Một Đức Phật giáo hóa, tức là tất cả Đức Phật giáo hóa, tất cả các Đức Phật giáo hóa tức là một Đức Phật giáo hóa. Tức trong kinh Di-đà nói Phật Thích-ca khen ngợi các thứ trang nghiêm ở thế giới Cực lạc. Lại khuyên tất cả các phàm phu từ một ngày cho đến bảy ngày chuyên tâm niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thì chắc chắn sẽ được vãng sinh. Văn dưới đây cũng nói rằng: "Trong mười phương có đến vô lượng Chư Phật đều khen ngợi đức Thích-ca ở trong cõi đời có năm thứ vẩn đục, trong thế giới xấu ác, chúng sinh ác, kiến ác, phiền não ác, tà ác, không có lòng tin, lại có thể khen ngợi danh hiệu Phật A-di-đà, khuyến khích chúng sinh xưng niệm sẽ được vãng sinh, do đó mà các Ngài đều đứng ra chứng minh cho điều đó.
Lại, Chư Phật trong mười phương sợ rằng chúng sinh không tin lời Phật Thích-ca nói, nên các Ngài cùng nhau đồng tâm, đồng lúc, hiện ra tướng lưỡi rộng dài trùm khắp cả Tam thiên Đại thiên thế giới. Nói những lời chân thật rằng: "Chúng sinh các vị nên tin tưởng những lời mà Đức Thích-ca đã nói, đã khen ngợi, đã chứng minh, tất cả các phàm phu bất luận là có tội phước nhiều ít, bất kể thời gian xa gần, nhiều nhất là một trăm năm, ít nhất là một ngày cho đến bảy ngày, nếu nhất tâm xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà, thì chắc chắn sẽ được vãng sinh, không có gì nghi ngờ. Do đó chỉ một Đức Phật nói thì tất cả Chư Phật đều chứng minh thành tựu việc ấy. Đây gọi là y cứ vào người mà lập tín.
Kế là y cứ vào hạnh mà lập tín. Nhưng hạnh có hai thứ:
1. Chánh hạnh.
2. Tạp hạnh.
Chánh hạnh là chuyên y theo kinh Vãng Sinh để thực hành các hạnh, đó gọi chính là hạnh. Vì sao? Vì người nhất tâm chuyên tụng đọc "Quán kinh", "Kinh Di-đà", "Kinh Vô Lượng Thọ"... phải nhất tâm chuyên chú suy xét, quán sát, nhớ nghĩ Y báo, Chánh báo trang nghiêm của cõi Cực lạc. Nếu muốn lễ bái, thì phải nhất tâm lễ bái Đức Phật A-di-đà, nếu xưng niệm thì phải nhất tâm xưng niệm Đức Phật A-di-đà, nếu khen ngợi cúng dường thì nhất tâm khen ngợi cúng dường Đức Phật A-di-đà, đó gọi chính là hạnh.
Lại, trong phần chánh hạnh này cũng có hai thứ:
a. Nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà, đi đứng ngòi nằm bất luận lâu mau, thời gian, trong mỗi niệm không bao giờ quên bỏ, đó gọi là nghiệp chánh định. Vì thuận theo nguyện của Phật A-di-đà. Nếu y theo lễ tụng... thì gọi là trợ nghiệp, ngoài hai hạnh chánh nghiệp và trợ nghiệp, tự mình thực hành các điều lành khác thì gọi là tạp hạnh, nếu tu cả chánh chạnh và trợ hạnh trên, thì tâm phải thường gần gũi nhớ nghĩ không xen hở, đó gọi là vô gián. Nếu thực hành tạp hạnh ở sau thì tâm thường bị xen hở, tuy hồi hướng cũng được vãng sinh, nhưng đó gọi là hạnh sơ tạp, do đó mà gọi là thâm tâm.
b. Tâm hồi hướng phát nguyện tức là tâm hồi hướng phát nguyện là từ trước đến nay thân miệng ý nghiệp đã tu theo thế gian và xuất thế gian, đã vui theo tất cả các Phàm thánh khác, gốc lành thế gian và xuất thế gian mà thân miệng ý nghiệp đã tu và gốc lành mà mình và người khác đã tu đều dùng tâm chân thật tin sâu mà hồi hướng, nguyện vãng sinh về Tịnh độ, đó gọi là tâm hồi hướng phát nguyện. Lại, hồi hướng phát nguyện, nguyện vãng sinh thì phải dùng tâm quyết định chân thật hồi hướng nguyện được vãng sinh. Tâm tin sâu này, phải giống như kim cương, không bị tất cả dị kiến, dị học, biệt giải, biệt hành nhân nào làm loạn động, phá hoại, chỉ quyết định nhất tâm, nhắm thẳng mà tu tiến, không được nghe người khác nói, vì nghe họ nói thì sẽ bị lui sụt, sinh tâm yếu hèn, rồi sự tu học sẽ bị lạc lối, đánh mất lợi ích lớn của sự vãng sinh.
Hỏi: Nếu có người giải hạnh khác nhau, có người tà hạnh v.v... đến mê hoặc loạn tưởng, hoặc nói các thứ nghi nạn, nói phàm phu không được vãng sinh, hoặc nói chúng sinh các vị từ nhiều kiếp đến nay và ba nghiệp thân miệng ý trong đời này đối với tất cả Phàm thánh đã gây ra các tội lỗi như năm tội nghịch, bốn tội trọng, chê bai giáo pháp, tội xiển-đề phá giới, pháp kiến... chưa thể trừ hết, do các tội đã gây ra đó nó đã ràng buộc cho các vị phải trôi lăn trong ba cõi sáu đường, làm sao chỉ một đời tu tập phước đức Niệm Phật mà được nhập vào cõi nước vô sinh vô lậu, mãi mãi chứng được địa vị không lui sụt ư thì làm sao?
Đáp: Giáo hạnh của Chư Phật nhiều hơn cát bụi, tùy theo cơ duyên của chúng sinh, tùy tình chẳng phải một. Ví như đôi mắt của người thế gian có thể thấy, có thể tin. Ví như ánh sáng có công năng xua tan tối tăm, không gian có khả năng chứa đựng cả muôn vật, đất có khả năng chuyên chở nuôi dưỡng, nước sinh ra ướt, lửa có công năng thiêu hoại. Các việc như thế, tất cả đều gọi là pháp đối đãi, tức con mắt có thể thấy được, ngàn muôn sai khác huống chi pháp của Phật có năng lực không thể sánh bằng. Há không có các thứ lợi ích hay sao?
Hễ chúng ta ra khỏi bất cứ một cửa nào, thì đã ra khỏi cửa phiền não, hễ chúng ta vào bất cứ cửa nào, thì đã vào cửa trí tuệ giải thoát. Vì đây là tùy duyên khởi hạnh, mỗi người phải tự cầu giải thoát. Thế sao ông lại dùng yếu hạnh không có nhân duyên làm chướng hoặc cho tôi? Những điều tôi yêu thích tức là hạnh hữu duyên của tôi, không phải sự mong cầu của ông. Sở cầu của ông tức là hạnh hữu duyên của ông, cũng không phải là điều mà tôi mong cầu, do đó tùy theo sở thích của mỗi người mà tu hạnh ấy để mau được giải thoát. Hành giả nên biết, nếu muốn học hiểu, từ phàm đến Thánh, cho đến quả Phật, tất cả vô ngại, đều được học. Nếu người muốn học hạnh, thì phải nhờ vào pháp hữu duyên, dụng công thì ít mà được lợi ích thì nhiều. Lại thưa với các vị tu cầu vãng sinh, nay lại vì hành giả mà nói một ví dụ, để gìn giữ tín tâm, ngăn ngừa các nạn ngoại tà dị kiến, ví dụ đó là gì? Thí như có một người muốn đi về hướng Tây một ngàn dặm, bỗng giữa đường gặp hai dòng sông, một là sông lửa ở hướng Nam, hai là sông nước ở hướng Bắc. Hai sông rộng khoảng một trăm bước, nhưng sâu vô đáy, chiều dài thì vô tận. Giữa hai dòng lửa và nước này lại có một con đường trắng, rộng khoảng bốn, năm tấc, con đường này dẫn từ bờ Đông đến bờ Tây, cũng dài khoảng một trăm bước, sóng của nước lan qua làm ướt con đường, lửa cũng lan đến thiêu đốt con đường, nước lửa giao nhau không lúc nào ngừng nghỉ. Người này đã đến được chỗ trống rộng rãi, không có người hay vật gì. Lúc đó có nhiều giặc cướp và thú dữ thấy người đó đơn độc, nên sinh tâm muốn giết hại. Người này sợ chết, chạy thẳng về hướng Tây bỗng thấy con sông lớn, liền nghĩ rằng: "Con sông nay từ Nam chí Bắc không thấy bờ mé, giữa sông có một con đường trắng, rất nhỏ hẹp, hai bờ cách nhau tuy gần nhưng làm sao đi được?" Hôm nay chắc chắn là chết thôi. Định trở về, thì bọn giặc và thú dữ lần lượt đến ép ngặt. Lúc muốn chạy trốn về phương Nam hoặc phương Bắc thì toàn là thú dữ và độc trùng tranh nhau chạy đến chỗ mình, lại muốn hướng về phương Tây tìm đường đi, thì lại sợ rơi vào hai con sông nước và lửa, đến lúc đó nỗi sợ sệt không thể tả xiết, liền tự nghĩ: "Nay ta trở lại cũng chết, ở đây cũng chết, đi cũng chết, không thể nào thoát chết được, ta nên đi theo đường này đi về trước, đã có con đường này, thì sẽ vượt qua được". Lúc nghĩ như thế, ở bên bờ phía Đông chợt nghe lời khuyên rằng: "Nhân giả! Nên quyết định tìm và đi theo con đường này, thì sẽ thoát được cái chết, nếu ở lại thì sẽ chết". Lại, bên bờ phía Tây cũng có người nói rằng: "Ngươi nên nhất tâm chánh niệm mà đến đây, ta sẽ che chở cho người, không sợ rơi vào nạn nước lửa. "
Người này nghe được lời kêu gọi đó, thì liền tự trấn tỉnh thân tâm, quyết tâm tìm đường mà thẳng tiến, không sinh tâm khiếp sợ lui sụt, hoặc đi một phần, hai phần đường, thì bên bờ phía Đông các bọn giặc lại réo gọi: "Nhân giả hãy trở lại đây! Con đường đó nguy hiểm không thể đi qua được, nếu đi qua thì sẽ bị chết ngay. Chúng tôi là những người không có tâm ác đối với nhân giả". Người đó tuy nghe lời nói ấy nhưng không hề ngoảnh lại, mà chỉ nhất tâm tiến thẳng, nhớ đường mà đi. Chỉ chốc lát sau đã đến bờ Tây, đã thoát hẳn tai nạn, được gặp các bạn lành, vui vẻ vô cùng.
"Bờ Đông" là dụ cho nhà lửa Ta-bà. "Bờ Tây" dụ cho thế giới Cực lạc. Nói "Bọn cướp, thú dữ giả hiện làm người thân là chỉ cho sáu căn, sáu thức, sáu trần, năm ấm, bốn đại của chúng sinh. Nói không người không hồi trạch là dụ cho thường theo bọn ác, không gặp được thiện tri thức chân chánh. Nói hai sông nước lửa là dụ cho tham ái của chúng sinh như nước. Còn sân hận, ganh ghét của chúng sinh như lửa, còn tâm lành của chúng sinh thì dụ như con đường trắng ở giữa hai dòng sông.
Lại, sóng nước thường làm ướt con đường, tức là dụ cho tâm ái thường khởi làm nhiễm ô tâm lành; lửa thường thiêu đốt con đường là dụ cho tâm sân hận, ganh ghét, có công năng thiêu đốt các pháp tài công đức. Nói người tu hành đang trên đường đi về hướng Tây là dụ cho các hành nghiệp hướng thẳng về Tây phương. Nói bên bờ Đông nghe tiếng người khuyên, hãy tìm đường và thẳng về hướng Tây là dụ cho Đức Thích-ca đã diệt độ rồi, người đời sau không thể thấy Ngài nữa, nhưng giáo pháp của Ngài đang còn có thể tìm được, giáo pháp đó là dụ cho lời kêu gọi tìm đường. Nói hoặc đi một phần, hai phần, các bọn giặc réo gọi là dụ cho biệt giải, biệt hạnh, người ác kiến v.v... nói dối về kiến giải, làm mê hoặc rối loạn lẫn nhau và tự mình gây ra tội ác và bị lui sụt.
Nói bên bờ Tây có người đang kêu gọi là dụ cho ý nguyện của Đức Phật A-di-đà. Nói chốc lát đã đến bờ Tây, gặp các bạn lành vui vẻ, tức là dụ cho chúng sinh lâu nay đã bị đắm chìm trong sinh tử, đã nhiều kiếp luân hồi, đã mê lầm điên đảo, tự mình ràng buộc, không nhờ đâu để được giải thoát, nay được Đức Thích-ca chỉ dạy hướng về Tây phương, lại phải nhờ vào tâm đại Từ bi của ngài Di-đà kêu gọi. Hôm nay đã tin tưởng và thuận theo ý nguyện của hai Đức Phật, không ngoảnh lại hai dòng sông nước và lửa đó, niệm niệm không dời đổi, nhờ vào nguyện lực của Đức Phật A-di-đà, sau khi qua đời, được vãng sinh về Cực lạc, được thấy Đức Phật, vui thích nào bằng.
Lại, tất cả các hành giả, đi đứng ngồi nằm, hạnh tu của ba nghiệp, bất kể ngày đêm, thời gian, thường hiểu như thế, thường tưởng niệm như thế, đó gọi là tâm hồi hướng phát nguyện.
Lại nói hồi hướng, tức là sau khi được vãng sinh, lại khởi tâm đại Bi, trở lại cõi sinh tử để giáo hóa chúng sinh, cũng gọi là hồi hướng. Ba tâm đã đầy đủ, chẳng có hạnh nào không thành tựu. Nguyện và hạnh đã thành tựu, nếu người đó không được vãng sinh, thì không bao giờ có việc đó. Lại, ba tâm này cũng nhiếp chung ý nghĩa định, thiện, nên biết như thế.
5. Từ lại có ba thứ chúng sinh v.v... trở xuống, là phân biệt căn cơ nào có khả năng vâng giữ giáo pháp, y theo giáo pháp tu hành.
6. Từ ba tâm ấy là gì v.v... trở xuống, cho đến sáu niệm là phần nói về người thọ pháp khác nhau: đoạn này cũng có ba ý:
a. Từ tâm không sát sinh, nhưng nghiệp sát có nhiều thứ, hoặc có khi khẩu sát, hoặc có khi thân sát, hoặc có khi tâm sát. Nói khẩu sát là xử phân cho phép, gọi là khẩu sát. Nói thân sát là do động tay, động thân chỉ trao, gọi là thân sát. Nói tâm sát là do sự suy nghĩ tìm cách, tính toán... đó gọi là tâm sát. Nếu nói về nghiệp sát thì tất cả bốn loài chúng sinh đều có thể gây ra tội ác, làm chướng ngại vãng sinh Tịnh độ. Nhưng đối với tất cả các sinh mạng nếu mình khởi tâm từ, tức là đã bố thí cho tất cả chúng sinh mạng sống an vui, cũng là giới thắng diệu tối thượng. Đây tức là hợp với câu thứ ba nói từ tâm bất sát của thứ phước đầu tiên. Tức là có chỉ thiện và hạnh thiện, tự mình không sát sinh, thì gọi là chỉ thiện, còn dạy người khác không sát sinh thì gọi là hành thiện, tự và tha mới dứt thì gọi là chỉ thiện. Nếu mình đã hoàn toàn dứt trừ hẳn thì gọi là hành thiện. Tuy có chỉ thiện, hành thiện, mà tổng kết thành hạnh từ hạ.
Nói đủ các giới hạnh là nếu y theo căn khí của hai thừa trời, người thì chỉ gọi là tiểu giới. Nếu y theo người có đại tâm đại hạnh, thì gọi là giới Bồ-tát. Còn giới này nếu y cứ theo địa vị thì phải từ ba vị của bậc thượng trở lên, tức gọi là giới Bồ-tát. Nhưng vì dựa vào địa vị của con người mà phân định, cho nên tự nhiên chuyển thành, tức là hợp với gốc lành giới phần thuộc loại phước thứ ba ở trên.
b. Nói về người đọc tụng Đại thừa, ở đây nói tánh huân tập của chúng sinh khác nhau, sự chấp pháp của mỗi chúng sinh cũng có khác, người thứ nhất ở trước chỉ có khả năng tu từ và giữ giới, kế là hạng người thứ hai chỉ có khả năng đọc tụng kinh điển Đại thừa, nhưng giới thì có thể giữ giới của năm thừa, căn cơ của ba Phật. Còn Pháp là đã huân tập thành tựu trí tuệ của Ba hiền mười địa, đầy đủ muôn hạnh, nếu dùng đức dụng để so sánh thì mỗi bậc đều có một khả năng. Câu thứ ba nói về người đọc tụng Đại thừa tức là hợp với phước thứ ba ở trên.
c. Nói về người tu hành sáu niệm, đó là Niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Xả và niệm Thiên, ở đây cũng hợp chung với ý nghĩa Đại thừa của loại phước thứ ba. Nói Niệm Phật tức là chuyên Niệm Phật A-di-đà. Công đức của khẩu nghiệp, công đức của thân nghiệp, công đức của ý nghiệp, tất cả Chư Phật cũng giống như thế.
Lại, nhất tâm chuyên niệm pháp sở chứng của Chư Phật và các Bồ-tát tăng quyến thuộc. Lại niệm giới của Chư Phật và niệm về Chư Phật quá khứ, Bồ-tát hiện tại... làm được những việc khó làm, xả được những điều khó xả, nội xả, ngoại xả, trong ngoài đều xả, các vị Bồ-tát này, chỉ muốn niệm pháp, không tiếc thân mạng, các hành giả đã niệm biết việc này, tức là phải thường khát ngưỡng học hỏi các bậc tiên Hiền hậu Thánh về ý nghĩa xả bỏ thân mạng. Lại, niệm Thiên tức là các vị Bồ-tát Thập địa thân sau rốt. Các vị này các hạnh khó hành đã qua, đã vượt qua ba a-tăng-kỳ kiếp, đã thành tựu hạnh tu muôn đức trang nghiêm, đã chứng đắc địa vị Quán đảnh, các hành giả đã niệm biết như vậy rồi, tức là tự nhớ nghĩ, tự thân từ vô thỉ đến nay, đồng phát nguyện đồng thời với người khác, dứt ác thực hành đạo Bồ-tát, đối với người đều không tiếc thân mạng, hành đạo tiến vị, nhân đã viên mãn, quả đã chín muồi và đã chứng được thánh vị, giống như hạt bụi nhỏ trên trái đất. Nhưng phàm phu chúng ta, cho đến hôm nay, đã luống lưu lạc, phiền não nghiệp chướng ngày càng thêm nhiều. Còn phước tuệ thì lại nhỏ nhoi, như chiếc gương sáng bị nhiều lớp che mờ, bỗng nhiên suy nghĩ việc này, thì không kềm được lòng kinh sợ đau thương mà than thở!
7. Từ hồi hướng phát nguyện v.v... trở xuống là mỗi người hồi tưởng công hạnh đã tu ở trên để hướng về cảnh giới sở cầu.
8. Từ có công đức này v.v... trở xuống là phần nói về thời gian tu hành nhanh hay chậm, trên thì phải hết một đời, dưới thì chỉ một ngày, một thời, hay chỉ trong một niệm... hoặc từ một niệm, mười niệm, đến một thời, một ngày, một đời. Đại ý là sau khi phát tâm rồi, thề trọn đời này không bao giờ lui sụt, chỉ lấy Tịnh độ làm kỳ hạn.
Lại nói rằng có công đức này, tức là nói hoặc có người có đủ cả hai điều trên, hoặc có người tu đầy đủ cả hai điều dưới, hoặc có người tu đầy đủ cả ba loại, hoặc có người ba thứ không có phần nào hết, tuy gọi là người nhưng chẳng khác gì loài súc sinh, hoặc không phải người, lại không cần đủ cả ba hay không đủ cả ba, nếu hồi hướng cũng được vãng sinh, nên biết như vậy.
9. Từ khi sinh về cõi ấy v.v... trở xuống, cho đến vãng sinh về cõi ấy là nói khi sắp qua đời, các vị thánh đến đón rước khác nhau, lúc đi cũng có nhanh có chậm, đoạn này cũng có mười một ý:
a. Quyết định cõi nước sẽ sinh về.
Nhắc lại các hạnh, chỉ ra sự tinh tấn quyết định cũng so sánh công đức mạnh hoặc yếu.
b. Nói về Đức Hóa Chủ Di-đà, đích thân Ngài đến tiếp dẫn.
Nói từ ngài Quán Âm v.v... trở xuống, còn có vô số đại chúng đều theo Đức Di-đà đến để tiếp dẫn v.v...
c. Nói tùy chúng ở trong cung báu.
Nói ngài Quán Âm, Thế Chí cùng cầm đài vàng đến trước hành giả.
d. Phật Di-đà phát ra ánh sáng chiếu vào thân hành giả.
Phật phát ra ánh sáng chiếu đến thì liền cùng các hóa Phật đồng thời duỗi tay.
Đã tiếp dẫn lên đài thì ngài Quán Âm và đại chúng đồng thanh khen ngợi, khuyến tấn tâm hành giả.
e. Hành giả tự thấy mình ngồi trên đài đi theo sau Phật.
f. Nói khi vãng sinh có nhanh, chậm.
10. Từ sinh về cõi nước ấy v.v... trở xuống, là nói khi đài vàng đã đến nước ấy rồi thì không còn bị chướng ngại bởi hoa không nở.
11. Từ thấy sắc thân Phật v.v... trở xuống cho đến Đà-la-ni môn là nói đài vàng đến nước ấy rồi thì được lợi ích cũng có khác nhau, có ba ý:
a. Trước tiên được nghe pháp mầu, liền ngộ Vô sinh.
Trong khoảnh khắc đã trải qua các việc, lần lượt thọ ký.
Dầu ở bổn quốc hay phương xa nào cũng được hai thứ lợi ích: vàn và trì.
12. Từ ấy gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết. Kế là nói về ý nghĩa Thượng phẩm trung sinh.
Trước là nêu, kế giải thích, cuối cùng là tổng kết.
Phần này có tám đoạn:
1. Từ người Thượng phẩm trung sinh v.v... trở xuống là nêu chung về tên giai vị, tức là phàm phu thiện của Đại thừa.
2. Từ không cần thọ trì v.v... trở xuống, cho đến sinh về nước kia là nói về môn thứ sáu, thứ bảy, thứ tám hồi hướng nguyện được vãng sinh Tây phương, có bốn ý:
Nói về thọ pháp bất định, hoặc được đọc tụng, không được đọc tụng.
a. Người khéo hiểu nghĩa Không của Đại thừa, hoặc đã nghe tất cả các pháp đều không sinh tử. Vô vi cũng không, phàm thánh, sáng tối cũng không. Sáu đường thế gian, xuất thế gian, Ba hiền, mười thánh v.v... nếu nhìn về thể tánh thì rốt ráo không hai, tuy nghe nói như thế, nhưng tâm thản nhiên, không sinh nghi ngờ chấp mắc.
b. Tin sâu hai thứ nhân quả khổ vui của thế gian, xuất thế gian. Đối với nhân quả này và các đạo lý cũng không sinh tâm nghi ngờ chê bai. Nếu sinh tâm nghi ngờ, phi báng thì phước hạnh sẽ không thành, quả báo thế gian còn không được, huống chi được sinh về Tịnh độ. Ở đây hợp với câu thứ hai, thứ ba của loại phước thứ ba.
c. Nhớ về nghiệp trước, nêu ra chỗ trở về.
3. Từ thực hành hạnh này v.v... trở xuống, cho đến đón rước hành giả: là nói Đức Di-đà và các Thánh chúng, tay cầm đài đến tiếp dẫn, có năm ý:
Nói tuổi thọ của hành giả kéo dài không lâu.
Nói về Đức Di-đà và các Thánh chúng đích thân đến. c Thị giả cầm đài đến trước hành giả.
Phật và các thánh chúng đồng thanh khen ngợi, nói lại sự nghiệp mà hành giả đã tu tập.
Phật sợ hành giả nghi ngờ, cho nên nói ta đến đón rước ông.
4. Từ cùng một ngàn vị hóa Phật v.v... trở xuống, cho đến trong ao bảy báu là nói các Thánh chúng trong môn thứ chín duỗi tay, khi vãng sinh mau chậm, có năm ý:
Nói Đức Di-đà và một ngàn vị hóa Phật đồng thời duỗi tay tiếp dẫn.
Khi hành giả được duỗi tay tiếp dẫn thì tự thấy thân mình ngồi trên đài sen vàng tím.
Khi đã tự thấy mình ngồi trên đài, liền chắp tay đảnh lễ, khen ngợi Đức Di-đà và các Thánh chúng.
a. Lúc vãng sinh có nhanh chậm.
b. Khi đến cõi Cực lạc sẽ trụ trong ao báu.
5. Từ đài vàng tím này v.v... trở xuống là nói trong môn thứ mười, khi hành giả sinh về cõi ấy hoa sen nở ra. Thời gian khác nhau, do hạnh mạnh thì bậc thượng thượng liền được đài Kim cương. Nếu hạnh yếu thì bậc thượng trung liền được đài vàng tím, sinh trong ao báu, qua một đêm thì hoa nở.
Từ Phật và Bồ-tát đồng thời phát ra ánh sáng v.v... trở xuống, cho đến được không lui sụt là nói trong môn thứ mười một, sau khi hoa nở thì hành giả được ích lợi khác nhau, có năm ý: a. Ánh sáng Phật chiếu vào thân hành giả. b Khi hành giả được ánh sáng chiếu vào thân thì mắt liền mở sáng.
c. Nói về sự tu tập của hành giả, khi đã đến thế giới Cực lạc rồi thì các âm thanh hiển bày, lại được nghe pháp.
d. Hành giả được khai nhãn và nghe pháp, liền bước xuống đài vàng, tự thân đến bên Phật, ca tụng khen ngợi công đức.
e. Trải qua bảy ngày, liền được Vô sinh. Nói bảy ngày là bảy ngày ở thế gian này, không phải chỉ cho bảy ngày ở thế giới Cực lạc. Bảy ngày ở thế gian này thì ở thế giới Cực lạc chỉ bằng một niệm, một chốc lát, nên biết như vậy.
7. Từ ngay lúc đó có khả năng bay đi đến khắp mười phương v.v... trở xuống, cho đến hiện tiền thọ ký là nói về được lợi ích ở thế giới Cực lạc, có năm ý:
a. Thân mình có thể bay đi khắp mười phương.
b. Mỗi ngày đi cúng dường Chư Phật.
c. Tu nhiều tam-muội.
d. Trải qua một thời gian sẽ đắc nhẫn.
e. Hiện ra bên mỗi Đức Phật đều được thọ ký.
8. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết. Kế đến nói về Thượng phẩm hạ sinh.
Cũng trước là nêu, kế là giải thích và sau cùng là tổng kết. Có tám đoạn:
1. Từ bậc Thượng phẩm hạ sinh v.v... trở xuống là nêu chung tên giai vị, tức là kẻ phàm phu hạ thiện của Đại thừa.
2 Từ cũng tin nhân quả v.v... trở xuống, cho đến đạo tâm vô thượng là nói về sự thọ pháp khác nhau của hành giả trong môn thứ sáu. Có ba ý:
a. Nói về tin nhân quả là bất định, hoặc tin hoặc không tin, nên gọi là cũng, hoặc cũng tin sâu giống như trước. Lại, tuy tin nhưng chưa sâu sắc, tâm lành đã nhiều lần lui sụt, pháp ác thường dấy khởi, đó là lý do tin nhân quả, khổ vui chưa sâu. Nếu tin sâu sinh tử là khổ, thì tội nghiệp sẽ không bao giờ còn phạm.
Nếu tin sâu cái vui vô vi của Tịnh độ, hễ phát tâm lành thì không bao giờ lui sụt.
b. Có lòng tin nhưng bị đứt quãng, đối với tất cả các pháp Đại thừa, không được nghi ngờ và chê bai, nếu hành giả còn khởi tâm nghi ngờ, chê bai, thì dầu có nhiễu quanh ngàn thân Đức Phật, cũng không thể nào cứu nổi.
c. Các pháp lành trên đây dường như cũng không có công đức gì. Chỉ phát một niệm chán ghét khổ đau, ưa thích sinh về cảnh giới của Chư Phật, nhanh chóng thực hành đầy đủ hạnh nguyện đại bi của Bồ-tát, rồi trở lại trong sinh tử, độ khắp chúng sinh đó gọi là phát tâm Bồ-đề. Nghĩa này trong phần nói về phước thứ ba đã nói.
3. Từ đem công đức này v.v... trở xuống là nói về hồi hướng chánh hạnh ở trước trong cửa thứ tám về chỗ cầu sinh.
Từ lúc hành giả sắp qua đời v.v... trở xuống, cho đến trong ao bảy báu là nói về môn thứ chín, khi hành giả qua đời Thánh chúng đều đến tiếp dẫn, sự vãng sinh cũng có nhanh chậm, có chín ý: a. Nói về mạng sống không được lâu dài. b Nói Đức Di-đà và các thánh chúng cầm hoa vàng đến tiếp dẫn.
c. Nói hóa Phật đồng thời duỗi tay tiếp dẫn.
d. Thánh chúng đồng thanh khen ngợi.
e. Hành giả các tội tiêu diệt, nên nói là thanh tịnh. Kể lại hạnh tu hành trước đây của mình, nên gọi là phát đạo tâm vô thượng.
f. Nói hành giả tuy đã thấy được linh nghi, nhưng tâm còn nghi ngờ sợ không được vãng sinh, nên Thánh chúng đồng thanh bảo rằng: "Ta đến đón rước hành giả.
"
Hành giả nghe Thánh chúng bảo như vậy, liền thấy thân mình ngồi trên hoa sen vàng, hoa liền khép lại.
Hành giả theo sau Phật, chỉ trong một niệm liền được vãng sinh.
g. Về đến cõi Cực lạc thì sẽ ở trong ao báu.
5. Từ một ngày một đêm v.v... trở xuống là nói về cửa thứ mười, khi được sinh về Cực lạc thì thời gian hoa nở có khác nhau.
6. Từ trong bảy ngày v.v... trở xuống, cho đến đều giảng nói pháp mầu là nói về cửa thứ mười một, sau khi hoa nở, hành giả được lợi ích cũng khác nhau.
7. Từ đến khắp mười phương v.v... trở xuống, cho đến trụ địa Hoan hỷ là nói lợi ích của các phương khác, cũng gọi là hậu ích.
8. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết. Có bài khen ngợi rằng:
Bậc Thượng bối thượng hành thượng căn Cầu sinh
Tịnh độ dứt tham sân
Theo hạnh khác nhau chia ba phẩm Năm môn nối nhau giúp ba nhân Một ngày đến bảy chuyên tinh tấn Khi chết ngồi đài ra sáu trần
Vui thay khó gặp nay được gặp Mãi chứng thân pháp tánh vô vi.
Trên đây có ba giai vị khác nhau, giải thích chung nghĩa của môn bậc thượng đã xong.
XV. Y cứ vào thiện quán hạnh của bậc Trung, văn trước phân biệt chung.
Có mười một môn:
1. Nói chung về dặn bảo.
2. Xác định về giai vị.
3. Nêu chung các loài có duyên.
4. Xác định ba tâm để làm chánh nhân.
5. Nói về các căn cơ có khả năng kham nổi hay không.
6. Nói về việc thọ pháp khác nhau.
7. Nói về thời gian tu tập có dài ngắn khác nhau.
8. Hồi hướng hạnh đã tu, nguyện vãng sinh về cõi Phật A-di-đà.
9. Nói về lúc qua đời, các bậc Thánh đến đón rước cũng khác nhau, lúc vãng sinh cũng có nhanh chậm.
10. Hành giả được vãng sinh về thế giới Cực lạc, rồi hoa nở cũng có nhanh chậm khác nhau. Ở trên có mười một môn khác nhau, phân biệt rộng ba phẩm của bậc trung đã xong.
Nói sau khi hoa nở, được lợi ích có khác. Kế là nói về địa vị Trung phẩm thượng sinh.
Cũng trước nêu, kế giải thích và sau là tổng kết, có tám đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là nói chung về dạy bảo.
2. Từ Trung phẩm thượng sinh là xác định về giai vị, tức là kẻ phàm phu thượng thiện thuộc căn tánh Tiểu thừa.
3. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến không có các lỗi lầm là nói về môn thứ năm, thứ sáu nghĩa là các chúng sinh ở đó thọ pháp khác nhau, có bốn ý:
a. Nói về các căn cơ có kham nổi hay không.
b. Nói về thọ trì trai giới Tiểu thừa.
Nói về công năng của giới Tiểu thừa rất nhỏ, không thể tiêu trừ được năm tội nghịch.
c. Nói tuy giữ giới Tiểu thừa, không được phá phạm, nếu có các lỗi khác, mà thường sửa đổi thì cũng được thanh tịnh. Ở đây cũng hợp với điều phước thiện của giới thứ hai ở trên, nhưng lúc tu giới, hoặc tu suốt đời, hoặc một năm, một tháng, một ngày, một đêm, một thời... thì thời gian đó cũng bất định, đại ý đều lấy suốt đời làm kỳ hạn, không được hủy phạm.
4. Từ hồi hướng gốc lành này v.v... trở xuống là nói trong môn thứ tám, hồi hướng hạnh đã tu của mình về chỗ cầu vãng sinh.
5. Từ khi sắp qua đời v.v... trở xuống, cho đến thế giới Cực lạc là nói trong môn thứ chín, tức là lúc qua đời, các thánh chúng đến đón rước khác nhau, sự vãng sinh cũng có nhanh chậm, có sáu ý:
a. Nói về mạng sống không được lâu dài.
b. Đức Di-đà và chúng Tỳ-kheo đến tiếp dẫn chứ không có Bồ-tát, do đó các căn tánh Tiểu thừa lại bao gồm chúng tiểu căn.
c. Phật phát ra ánh sáng vàng chiếu vào thân hành giả.
d. Đức Phật nói pháp cho nghe, lại khen ngợi sự xuất gia được xa lìa các sự khổ đau của thế tục và các nhân duyên thế tục, gia nghiệp, vua quan, đánh giặc, canh phòng nơi xa... nay ngươi đã xuất gia, bốn chúng kính trọng, muôn việc không lo lắng, sống đời tự tại, đi hay ở đều không chướng ngại, nhờ đó mà được tu tập đạo nghiệp, cho nên được khen ngợi là đã xa lìa các sự đau khổ.
e. Nói hành giả khi được nghe thấy rồi, thì vui mừng khôn xiết tự thấy thân mình ngồi trên đài hoa, cúi đầu đảnh lễ Đức Phật.
Hành giả cúi đầu đảnh lễ ở cõi Ta-bà, khi ngẩng đầu lên thì đã ở cõi Cực lạc.
6. Từ hoa sen liền nở là nói về môn thứ mười, khi hành giả đã sinh về Cực lạc thì hoa nở có mau chậm khác nhau.
7. Từ ngay khi hoa nở v.v... trở xuống, cho đến tám giải thoát là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở, rồi hành giả được lợi ích cũng khác nhau, có ba ý:
Nói hoa báu liền nở, đó là do giới hạnh của hành giả tinh tấn mạnh mẽ.
a. Nói về pháp âm đồng khen ngợi tính chất của bốn đế.
Hành giả vãng sinh về Cực lạc được nghe nói pháp bốn đế, tức sẽ chứng được quả vị A-la-hán.
Nói La-hán, Hán dịch là vô sinh, cũng dịch là vô trước, vì nhân đã mất cho nên Vô sinh và quả đã tan cho nên Vô trước.
Nói ba minh tức là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và Lậu tận minh.
Nói tám giải thoát gồm: Một là nội hữu sắc ngoại, quán sắc giải thoát; hai là nội vô sắc, ngoại quán sắc giải thoát; ba là bất tịnh tướng giải thoát; Bốn không và Diệt tận, cộng chung là tám giải thoát.
8. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
Kế là nói về giai vị Trung phẩm trung sinh: Trước là nêu, kế là giải thích, cuối cùng là tổng kết, có bảy đoạn:
1. Từ Trung phẩm trung sinh là nêu chung về tên của hạnh, để xác định giai vị, tức là hàng kẻ phu hạ thiện của Tiểu thừa.
2. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến uy nghi không thiếu là nói về môn thứ năm, sáu, bảy giải thích căn cơ, thời phần, thọ pháp... khác nhau, có ba ý:
a. Nói về thọ trì giới bát quan trai.
b. Nói về thọ trì giới Sa-di.
c. Nói về thọ trì giới Cụ túc.
Ba phẩm giới này đều đồng một ngày một đêm, thanh tịnh không phạm, dù cho tội nhẹ, nếu có phạm cũng xem như phạm tội nặng, oai nghi của ba nghiệp không để sai phạm, đây là hợp với phước thứ hai ở trên.
3. Từ đem công đức v.v... trở xuống là hồi hướng hạnh mình đã tu tập về nơi cầu sinh.
4. Từ giới hương huân tu v.v... trở xuống, cho đến trong ao bảy báu là nói về môn thứ chín. Khi hành giả qua đời, có các vị Thánh đến đón rước, sự vãng sinh có nhanh chậm, gồm tám phần:
a. Nói về tuổi thọ không lâu dài.
b. Đức Di-đà và các Tỳ-kheo đến tiếp dẫn.
c. Phật phát ra ánh sáng, chiếu vào thân hành giả.
d. Nói các Tỳ-kheo bưng đài hoa đến trước mặt.
Hành giả tự thấy nghe trên hư không có những âm thanh khen ngợi.
Phật khen rằng: "Ngươi tin sâu lời Phật, thuận theo không nghi ngờ, cho nên Như lai đến đón rước ngươi. "
Đã được Phật khen ngợi, liền tự thấy mình ngồi trên tòa hoa, ngồi xong hoa tự khép lại.
Khi hoa khép lại rồi, liền sinh về ao báu ở Tây phương.
5. Từ trải qua bảy ngày v.v... trở xuống là nói môn thứ mười, khi hành giả đã sinh về Tây phương thì thời gian hoa nở khác nhau.
6. Từ hoa đã nở v.v... trở xuống, cho đến thành Lahán là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở, rồi được lợi ích khác nhau, có bốn ý:
a. Hoa nở liền được thấy Phật.
b. Thấy Phật liền chắp tay khen ngợi Phật.
c. Nghe pháp và chứng được Sơ quả.
d. Trải qua nửa kiếp mới thành A-la-hán. 7. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
Kế là giải thích về địa vị Trung phẩm hạ sinh, cũng trước là nêu, kế là giải thích, cuối cùng là tổng kết.
Có bảy đoạn:
1. Từ Trung phẩm hạ sinh v.v... trở xuống là nêu chung tên của hạnh, xác định giai vị, tức là kẻ phàm phu phước đức bậc Thượng của thiện thế gian.
2. Từ nếu có người thiện nam v.v... trở xuống, cho đến thực hành hạnh nhân từ thế gian là nói về môn thứ năm, thứ sáu, giải thích căn cơ trao pháp khác nhau, có bốn ý là:
a. Nói về căn cơ.
b. Nói về hiếu thảo nuôi dưỡng cha mẹ, hòa thuận với bà con quyến thuộc, hợp với câu thứ nhất, thứ hai trong phước đầu tiên ở trên.
c. Nói người này có tinh, tình mềm mỏng hiền thiện, không phân biệt mình người, nếu thấy chúng sinh bị đau khổ thì khởi tâm Từ bi kính trọng.
d. Người ở phẩm này là hạng người chưa bao giờ thấy nghe được Phật pháp và cũng không hiểu về sự mong cầu, nhưng tự thực hành hiếu thảo dưỡng nuôi, nên biết như thế.
3. Từ khi người này sắp qua đời v.v... trở xuống, cho đến bốn mươi tám nguyện nói về môn thứ tám, thời gian nhân duyên gặp được Phật pháp khi hành giả sắp qua đời.
4. Từ nghe việc này rồi v.v... trở xuống, cho đến thế giới Cực lạc là nói về môn thứ chín, những người được vãng sinh cũng có nhanh chậm.
5. Từ khi đã vãng sinh bảy ngày là nói về môn thứ mười, khi hành giả sinh về đó thì hoa có nở, không nở khác nhau.
6. Từ gặp Bồ-tát Quán Thế Âm v.v... trở xuống, cho đến thành La-hán là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở rồi được lợi ích khác nhau, có ba ý:
a. Trải qua một thời gian thì sẽ được gặp Bồ-tát Quán Âm và Đại Thế Chí.
Khi đã gặp được hai vị thánh này thì sẽ được nghe pháp mầu.
b. Sau khi trải qua một tiểu kiếp, mới được ngộ quả A-la-hán.
7. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết. Có bài tán rằng:
Người trung bối, trung hạnh, trung căn Một ngày trai giới ngồi sen vàng
Hiếu thảo cha mẹ dạy hồi hướng Nói nhân vui sướng ở Tây phương Phật và Thanh văn chúng đến rước Đến thẳng bên tòa hoa Di-đà
Hoa trăm báu trải qua bảy ngày Ba phẩm hoa sen chứng Tiểu chân.
Trên đây có ba giai vị khác nhau, giải thích chung nghĩa của môn bậc trung đã xong.
XVI. Y cứ vào bậc hạ quán hai hạnh thiện ác, văn trước có giải thích.
Gồm mười một môn:
1. Nói chung về răn dạy.
2. Xác định giai vị.
3. Nêu chung các loài chúng sinh hữu duyên được vãng sinh.
4. Xác định ba tâm để làm chánh nhân.
5. Phân biệt các căn cơ có khả năng kham nổi hay không.
6. Nói về sự chịu khổ hay được vui khác nhau.
7. Nói thời gian tu hành có dài ngắn khác nhau.
8. Hồi hướng công đức tu hành về chỗ cầu sinh.
9. Nói lúc qua đời, các vị Thánh đến đón rước có sự khác nhau, lúc vãng sinh cũng có mau chậm.
10. Khi vãng sinh rồi thì hoa nở nhanh chậm khác nhau.
11. Khi hoa nở, hành giả được lợi ích khác nhau.
Kế là nói về giai vị Hạ phẩm thượng sinh: Trước là nêu, kế là giải thích, cuối cùng là tổng kết, có chín phần:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là nói về những lời khuyên bảo.
2. Từ Hạ phẩm thượng sinh là xác định giai vị, tức là kẻ phàm phu gây ra tội nhẹ về mười điều ác.
3. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến không có tâm hổ thẹn là nói về môn thứ năm, nói về các căn cơ, trong một đời gây ra các tội ác cả nhẹ lẫn nặng, có năm ý:
a. Nêu chung các căn cơ gây ra tội ác.
b. Gây ra các điều ác.
Tuy đã gây nhiều tội lỗi, nhưng đối với pháp Đại thừa không sinh tâm chê bai, chê bai.
c. Nhắc lại người gây ra tội ác chẳng phải người có trí.
Những người ngu si đó tuy gây ra nhiều tội ác, mà không bao giờ sinh tâm hổ thẹn.
4. Từ khi sắp qua đời v.v... trở xuống, cho đến tội sinh tử là nói người gây ra tội ác đến khi sắp qua đời lại gặp thiện tri thức và được nghe nói pháp, có sáu ý:
a. Nói về mạng sống không lâu dài.
Chợt gặp được thiện tri thức dạy phương pháp vãng sinh.
Các thiện tri thức vì mình mà khen ngợi các kinh điển.
Người đó nhờ năng lực nghe kinh mà tiêu trừ được tội lỗi trong một ngàn kiếp.
b. Thiện tri thức dạy xưng niệm danh hiệu Phật Adi-đà.
Nhờ xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà mà trừ được tội lỗi trong năm trăm muôn kiếp.
Hỏi: Vì sao nghe mười hai bộ kinh mà chỉ trừ được tội trong một ngàn kiếp, trong khi xưng niệm một câu danh hiệu Phật A-di-đà, mà trừ được tội lỗi trong năm trăm muôn kiếp ý ấy thế nào?
Đáp: Người gây ra tội ác là nghiệp chướng nặng, vì thế mà đến lúc chết các khổ cùng nhau đến bức ngặt, thiện tri thức tuy nói nhiều kinh, nhưng tâm người lúc sắp chết đó lãnh thọ không được bao nhiêu, tâm lại phân tán, do tâm phân tán đó mà tội lỗi được tiêu trừ rất ít. Danh hiệu Phật chỉ có một nhưng thu nhiếp tán tâm khiến tâm an trụ, lại dạy khiến chánh niệm xưng danh, do tâm định nên có công năng tiêu trừ tội lỗi trong nhiều kiếp.
5. Từ bấy giờ Đức Phật kia v.v... trở xuống, cho đến sinh trong ao báu là nói về môn thứ chín, lúc qua đời có các hóa chúng đến đón rước, sự vãng sinh có nhanh chậm, gồm sáu ý:
Khi hành giả đang xưng danh thì Phật A-di-đà liền sai các hóa chúng ứng theo âm thanh Niệm Phật mà đến hiện ra trước mặt.
Hóa chúng, đã hiện thân liền cùng nhau khen ngợi hành giả.
Hành giả được nghe hóa chúng khen ngợi và nói cho nghe công đức xưng danh hiệu Phật, ta đến đón rước ngươi, bất luận việc nghe kinh, nhưng hợp với ý nguyện của Phật, chỉ khuyên chánh niệm xưng danh, thì nghĩa vãng sinh mau chóng, không đồng với nghĩa tạp tán. Như kinh này và trong các bộ chỗ nào cũng khen ngợi rộng, khắp khuyến khích xưng danh, sẽ được lợi ích, phải nên biết.
Hành giả được hóa chúng dạy bảo, rồi liền thấy ánh sáng chiếu khắp cả căn phòng.
Khi Hành giả được ánh sáng chiếu, soi rồi thì báo thân liền kết thúc. f Lúc đó hành giả sẽ nương theo sau Phật, rồi sinh trong ao báu.
6. Từ trải qua bốn mươi chín ngày v.v... trở xuống là nói về môn thứ mười, khi hành giả đã sinh về Cực lạc thì hoa kia nở nhanh chậm khác nhau.
7. Từ ngay khi hoa nở v.v... trở xuống, cho đến được nhập Sơ địa là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở rồi, thì hành giả được lợi ích khác nhau, có năm ý:
a. Ngài Quán Âm... trước là phát ra ánh sáng.
Ngài Quán Âm đích thân đến bên cạnh hoa báu hành giả.
Nói cho nghe giáo pháp mà hành giả đã được nghe từ đời trước.
b. Hành giả nghe xong, nhận hiểu mà phát tâm.
Trải qua nhiều kiếp mới chứng được địa vị Bách pháp.
8. Từ ấy gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
9. Từ được nghe danh hiệu Phật v.v... trở xuống là nêu lại lợi ích của hành giả, chẳng những chỉ Niệm Phật được vãng sinh, mà niệm Pháp niệm Tăng cũng được vãng sinh.
Kế là nói về giai vị Hạ phẩm trung sinh: Trước là nêu, kế là giải thích, sau là tổng kết, có bảy đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là nói chung về sự khuyên bảo.
2. Từ Hạ phẩm trung sinh là xác định giai vị, tức là nói về kẻ phàm phu phá giới gây tội.
3. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến đáng đọa vào địa ngục là nói về môn thứ năm, thứ sáu, giải thích các căn cơ tạo nghiệp, gồm có bảy phần:
a. Nêu chung các căn cơ gây ra nghiệp ác.
b. Nói về phạm nhiều các giới.
c. Nói về trộm cắp vật của tăng.
d. Nói về tà mạng nói pháp.
e. Nói chung về những người không có tâm hổ thẹn.
f. Lại gây ra các tội khác, trong tâm đã nghĩ ác, thì thân và miệng bên ngoài cũng hành ác nói ác, tự mình đã không hành thiện, mà thấy người khác hành thiện lại sinh tâm ganh ghét, do đó mà gọi là các tâm ác tự trang nghiêm.
Nói nếu xét về tội trạng, thì chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục.
4. Từ khi sắp qua đời v.v... trở xuống, cho đến liền được vãng sinh là nói về môn thứ chín, khi qua đời gặp thiện ác đến đón rước, tức có chín ý:
a. Người tội mạng sống không còn lâu.
b. Lửa địa ngục hiện ra.
Khi lửa địa ngục hiện, thì gặp thiện tri thức. thiện tri thức nói cho nghe công đức của Phật A-di-đà.
Người tội nghe danh hiệu Phật A-di-đà, thì sẽ dứt trừ được tội lỗi trong nhiều kiếp.
c. Tội lỗi đã tiêu trừ thì lửa biến thành gió mát.
Hoa trời theo gió tự nhiên bay xuống la liệt trước mắt.
Hóa chúng đến đón rước. i Lúc vãng sinh có nhanh chậm khác nhau.
5. Từ trong ao bảy báu v.v... trở xuống, cho đến sáu kiếp là nói về môn thứ mười, hành giả sinh về Cực lạc, thời gian hoa nở khác nhau.
6. Từ hoa sen nở ra v.v... trở xuống, cho đến phát đạo tâm vô thượng là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở, rồi hành giả được lợi ích khác nhau, có ba ý:
a. Khi hoa nở rồi thì Bồ-tát Quán Âm... đều dùng Phạm âm an ủi.
b. Giảng nói cho nghe các kinh nhiệm mầu sâu xa.
c. Hành giả hiểu rõ và phát tâm.
7. Từ đó gọi là v.v... trở xuống là phần tổng kết.
Kế là nói về giai vị Hạ phẩm hạ sinh: Trước là nêu, kế là giải thích, cuối cùng là tổng kết, có bảy đoạn:
1. Từ Phật bảo A-nan là nói chung về dạy bảo.
2. Từ Hạ phẩm hạ sinh là xác định giai vị, tức là kẻ phàm phu gây ra các trọng tội như năm tội nghịch...
3. Từ nếu có chúng sinh v.v... trở xuống, cho đến chịu khổ vô cùng là nói về môn thứ năm, thứ sáu, phân biệt các căn cơ gây ra tội ác, có nhẹ hoặc nặng khác nhau, có bảy ý:
a. Căn cơ gây ra tội ác.
b. Nêu chung các danh từ bất thiện.
c. Phân biệt tội nặng nhẹ.
Tổng kết các điều ác, chẳng phải nghiệp của người có trí tuệ.
d. Gây ra nghiệp ác quá nhiều, tội chẳng phải nhẹ.
e. Nếu không phải nghiệp thì chẳng chịu quả báo, không phải nhân thì chẳng chịu kết quả, nhân và nghiệp đã không phải là vui, thì quả báo làm sao không khổ được ư?
Nhân gây ra nghiệp ác đã đầy đủ, thì kiếp này trả quả báo cũng chưa cùng.
Hỏi: Như trong bốn mươi tám lời nguyện chỉ trừ năm tội nghịch, chê bai chánh pháp là không được vãng sinh, vì sao nay trong Quán kinh trong phần Hạ phẩm hạ sinh nói người chê bai giáo pháp và người gây ra năm tội nghịch đều được nhiếp hóa, đó là ý thế nào?
Đáp: Nghĩa này giải thích theo chỉ môn. Như trong bốn mươi tám lời nguyện trừ những người chê bai chánh pháp và gây ra năm tội nghịch, bởi hai nghiệp này là tội chướng cực nặng, nếu chúng sinh nào đã gây ra, thì sẽ đọa ngay vào địa ngục A-tỳ, trải qua nhiều kiếp, cũng không thế nào thoát khỏi, nhưng Đức Như lai sợ mọi người gây ra hai nghiệp này nên phương tiện nói không được vãng sinh, nhưng chẳng phải không nhiếp thọ. Lại trong giai vị Hạ phẩm hạ sinh, nói phạm năm tội nghịch được vãng sinh, trừ người chê bai chánh pháp. Đã gây năm tội nghịch thì không thể bỏ khiến lưu chuyển, lại phát tâm đại Bi, nhiếp thủ vãng sinh. Nhưng tội chê bai chánh pháp chưa gây ra, chỉ nói mà chưa hành động, nếu khởi hành động chê bai thì sẽ không được vãng sinh, đây là giải thích theo người chưa tạo nghiệp. Nếu đã gây rồi mà lại được vãng sinh thì tuy được vãng sinh, nhưng hoa sẽ khép mãi, trải qua nhiều kiếp, các người tội lúc đó ở trong hoa cũng có ba thứ chướng: a. Không được thấy Phật và các Thánh chúng. b Không được nghe chánh pháp. c. Không được thờ phụng cúng dường.
Ngoài ba điều này ra, thì không có các điều khổ khác.
Kinh chép: "Khi ở trong hoa sen vui thú như Tỳ-kheo đang nhập Tam thiền, nên biết tuy ở trong hoa nhiều kiếp không nở, nhưng cũng còn hơn ở trong địa ngục A-tỳ nhiều đời nhiều kiếp chịu các sự đau khổ. "
4. Từ người ngu như thế v.v... trở xuống, cho đến tội sinh tử là người nghe pháp Niệm Phật được lợi ích, có mười phần:
a. Nhắc lại người gây ra nghiệp ác.
b. Nói về mạng sống không được lâu dài.
c. Khi sắp qua đời được gặp thiện tri thức.
d. Thiện tri thức an ủi, khuyên dạy Niệm Phật.
Khi người tội chết các khổ đến ép ngặt, không thể nào niệm danh hiệu Phật được.
Bạn lành biết khổ thất niệm, chuyển sang dạy miệng xưng danh hiệu Di-đà.
Niệm số câu nhiều ít, các câu đều không đứt quãng.
e. Niệm Phật trừ diệt tội lỗi trong nhiều kiếp.
Lúc qua đời chánh niệm sẽ có hoa sen vàng đến rước.
Lúc vãng sinh có sự nhanh chậm, thẳng đến cõi nước Cực lạc.
5. Từ ở trong hoa sen đủ mười hai kiếp v.v... trở xuống là nói về môn thứ mười, khi đến Cực lạc thì hoa nở có nhanh chậm khác nhau.
6. Từ Quán Âm, Thế Chí v.v... trở xuống, cho đến phát tâm Bồ-đề là nói về môn thứ mười một, khi hoa nở rồi được lợi ích cũng có khác nhau, có ba ý:
Hai vị Đại thánh nói giáo pháp sâu xa nhiệm mầu cho mình nghe.
a. Người ấy rất vui mừng vì tội đã được dứt trừ.
b. Sau đó người ấy phát tâm rộng lớn.
7. Từ đó gọi là phần tổng kết. Có bài tán rằng:
Hàng hạ bối, hạ hành, hạ căn
Tham sân mười ác năm nghịch thảy Bốn trọng, trộm của Tăng, chê Pháp Không hề hổ thẹn hối lỗi trước
Khi chết tướng khổ như mây nhóm Lửa dữ địa ngục hiện trước mặt Bỗng gặp thiện tri thức dạy bảo
Khuyên mau chuyên xưng danh Phật kia Hóa Phật, Bồ-tát liền hiện đến
Một niệm chuyên tâm vào sen báu Ba hoa chướng nặng nhiều kiếp nở Bấy giờ mới phát nhân Bồ-đề.
Trên đây có ba giai vị khác nhau, giải thích chung nghĩa của bậc hạ. Trước nói mười ba pháp quán để làm định thiện, tức là Vy-đề-hy thưa hỏi và Đức Như lai trả lời; sau đó nói về ba thứ phước và chín phẩm gọi là tán thiện, do Đức Phật tự nói. Tuy có hai môn định và tán khác nhau nhưng đều giải thích chung phần Chánh tông.
XVII. Trong phần được lợi ích.
Trước là nêu, kế giải thích, có bảy phần.
1. Nói lời ấy là nhắc chung lại văn trên, sinh ra tướng được lợi ích ở sau.
Từ Vy-đề-hy v.v... trở xuống là nói về người có khả năng nghe pháp.
2. Từ bấy giờ liền thấy cõi Cực lạc v.v... trở xuống là nói về phu nhân... ở trong đài ánh sáng thấy được thế giới Cực lạc.
3. Từ thấy được thân Phật và hai vị Bồ-tát v.v... trở xuống là nói về phu nhân ở pháp quán thứ bảy, ban đầu khi thấy Phật Vô Lượng Thọ thì đã được Vô sinh.
4. Từ các thị nữ v.v... trở xuống là mọi người nhìn thấy cảnh tướng đẹp đẽ, đều phát tâm vô thượng cầu vãng sinh Tịnh độ.
5. Từ Thế tôn đều thọ ký v.v... trở xuống là các thị nữ được Đức Thế tôn thọ ký, đều được vãng sinh về Tịnh độ, tức hiện tiền đã được tam-muội.
6. Từ Vô lượng các vị trời v.v... trở xuống là trong phần chán ghét nhân duyên khổ đau ở trước, trời Đếthích, Phạm vương, các vị trời hộ trì thế gian... theo Đức Phật vào trong cung vua ở trên hư không nghe pháp, hoặc thấy được ánh sáng của Đức Thích-ca đang chuyển biến, hoặc thấy linh nghi sắc vàng của ngài Di-đà, hoặc nghe những điều kỳ lạ vãng sinh của chín phẩm, hoặc nghe định thiện lẫn tán thiện đều được nhiếp thọ, hoặc nghe người thực hành thiện ác đều được sinh về, hoặc nghe Tịnh độ Tây phương là ở trước mắt chứ không phải ở đâu xa, hoặc nghe một đời chuyên tinh quyết chí, xa lìa hẳn sinh tử. Các vị trời đó đã được nghe Đức Như lai nói rộng về những điều lợi ích chưa hề có. Mỗi vị đều phát tâm vô thượng. Vì Đức Phật là bậc Thánh cao nhất trong các bậc Thánh. Nói ra lời gì đều thành kinh điển, phàm phu hay bất kỳ loài nào nếu mong cầu học tập thì chắc chắn sẽ được lợi ích.
XVIII. Phần lưu thông. Trong phần này có hai:
1. Nói lưu thông trong cung vua.
2. Nói lưu thông ở núi Kỳ-xà-quật.
Trước nói về lưu thông trong cung vua, có bảy đoạn: a. Từ bấy giờ A-nan v.v... trở xuống là nói về nguyên do thưa hỏi.
b. Từ Phật bảo A-nan v.v... trở xuống là Đức Như lai nêu cả Y báo và Chánh báo để lập tên kinh, lại y vào kinh để khởi hạnh, mây ba chướng tự quyện bay đi, đáp câu hỏi đầu tiên vì sao kinh này có tên như thế?
Từ ông nên thọ trì v.v... trở xuống là Đức Phật đáp câu hỏi ở trước và sau là thọ trì như thế nào?
c. Từ thực hành tam-muội này v.v... trở xuống, cho đến huống chi nhớ nghĩ là so sánh nói lên sự cao quý, khuyến khích mọi người vâng hành, có bốn ý:
Nêu chung về định thiện, để lập tên gọi tam-muội.
Y theo pháp quán mà tu hành, sẽ thấy được lợi ích của ba thân. Nêu lại các căn cơ có khả năng thực hành giáo pháp.
So sánh nói lên sự cao quý, chỉ cần nghe được danh hiệu ba thân, thì sẽ dứt trừ được tội chướng trong nhiều kiếp, huống chi chánh niệm quy y, mà không chứng ngộ ư?
4. Từ nếu người Niệm Phật v.v... trở xuống cho đến sinh vào nhà Chư Phật là nói về công năng siêu tuyệt của tam-muội Niệm Phật, tâm thiện chẳng thể sánh được, có năm ý:
a. Nói về chuyên niệm danh hiệu Phật A-di-đà.
b. Khen ngợi người năng Niệm Phật.
c. Người nào Niệm Phật nối nhau, thì người đó thật ít có, cũng không biết lấy gì để so sánh ví dụ, do đó mà phải dùng hoa Phân-đà-lợi để làm ví dụ. Nói phân-đàlợi, là một loại hoa quý nhất trong loài người, cũng gọi là loài hoa ít có, cũng gọi là loại hoa thượng thượng trong loài người, cũng gọi là hoa nhiệm mầu trong loài người. Tương truyền hoa này gọi là Thái hoa, cho nên người Niệm Phật, tức là người tốt trong loài người, là người cao quý trong loài người, là bậc Thượng thượng trong loài người, là người ít có trong loài người, là người trên hết trong loài người.
Người chuyên niệm danh hiệu Phật Di-đà, sẽ được Bồ-tát Quán Âm, Thế Chí thường theo ủng hộ, cũng như bạn thân tri thức.
d. Đời này đã được lợi ích như thế, sau khi qua đời sẽ được gá sinh vào nhà của Chư Phật, tức là sẽ vãng sinh về Tịnh độ. Khi đã được vãng sinh Tịnh độ thì lúc nào cũng nghe pháp, lúc nào cũng cúng dường, nhân viên quả mãn, ngồi đạo tràng đâu có xa?
e. Từ Phật bảo A-nan ông hãy thọ trì lời này v.v... trở xuống: Đức Thích-ca phó chúc danh hiệu Đức Phật A-di-đà, lưu thông đến nhiều đời sau. Từ trên đến đây nói về ích lợi của Định thiện và Tán thiện, đối với bản nguyện của Phật, thường hướng về chúng sinh, khuyến khích chúng sinh xưng niệm danh hiệu Phật A-di-đà.
f. Từ khi Phật nói kinh này v.v... trở xuống là nói về năng thỉnh, năng truyền... nghe những điều chưa nghe, thấy những điều chưa thấy, nay như uống được nước cam lồ, tâm vui sướng vô cùng.
Sau đây y cứ vào hội Kỳ-xà-quật có ba ý:
1. Từ bấy giờ Đức Thế tôn v.v... trở xuống là phần tựa, nói về Kỳ-xà-quật.
2. Từ bấy giờ A-nan v.v... trở xuống là phần chánh tông, nói về Kỳ-xà-quật.
3. Từ vô lượng các vị trời v.v... trở xuống là phần lưu thông ở Kỳ-xà-quật.
1. Giải thích chung về văn nghĩa của Quán kinh: có năm ý Ban đầu, từ tôi nghe như vầy v.v... trở xuống, cho đến làm sao thấy được thế giới Cực lạc là phần tựa.
2. Từ quán mặt trời v.v... trở xuống, cho đến Hạ phẩm hạ sinh là phần Chánh tông.
3. Từ lời nói ấy v.v... trở xuống, cho đến các vị trời phát tâm là nói về được lợi ích.
4. Từ bấy giờ A-nan v.v... trở xuống, cho đến Vyđề-hy... vui mừng là nói về lưu thông trong cung vua.
5. Từ bấy giờ Đức Thế tôn v.v... trở xuống, cho đến làm lễ rồi lui ra là phần nói chung ở núi Kỳ-xà-quật.
Trộm nghĩ Chân tông khó gặp, Tịnh độ khó thấy, muốn cho năm đường đều được vãng sinh, cho nên khuyên chúng sinh đời sau phải nghe, vẫn biết thần lực của Như lai chuyển trùm khắp cả mười phương. Ẩn hiện tùy căn cơ vào hóa độ tận cung sâu của vua. Lúc đó, Thánh chúng ở tại Kỳ-xà-quật, các người tiểu trí lại nghi ngờ. Sau đó, Đức Phật trở về, lúc đó ngài A-nan nói lại cho đại chúng rằng nghe sự giáo hóa của Phật trong cung vua, về định môn tán môn. Các chúng khác nhân đó đều được nghe, chẳng ai không kính trong vâng hành.
Kính bạch tất cả các bậc tri thức hữu duyên, tôi cũng là một kẻ phàm phu sinh tử, trí tuệ cạn cợt, nhưng lời dạy của Đức Phật thì quá sâu xa tôi không dám giải thích theo ý mình, nên phải nêu tâm kết nguyện, thỉnh cầu linh nghiệm mới có thể tạo tâm. Nam-mô quy mạng tận hư không biến pháp giới nhất thiết Tam bảo, Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, Đức Phật A-di-đà, ngài Quán Âm, Thế Chí, toàn thể đại hải chúng Bồ-tát và tất cả các tướng trang nghiêm, nay tôi... muốn nói về yếu nghĩa của "Quán kinh", cũng vâng theo quy định xưa nay, nay muốn xưng niệm Chư Phật ba đời, Đức Phật Thích-ca, Đức Phật A-di-đà, cùng các thánh hiền mở lòng đại Từ bi, nguyện trong lúc nằm mộng được thấy, các hình tướng của tất cả cảnh giới như sở nguyện ở trên.
Đối trước tượng Phật phát nguyện như thế xong, trong ngày đó tụng kinh Di-đà ba biến, niệm danh hiệu Phật A-di-đà ba muôn câu, dốc lòng phát nguyện, thì ngay trong đêm đó tôi thấy cảnh giới Tây phương hiện lên trong hư không, các tướng cảnh giới như trên đều hiển hiện. Núi báu nhiều màu, trăm lớp, ngàn lớp, các thứ ánh sáng chiếu xuống mặt đất, đất như màu vàng ròng, trong đó có Chư Phật và các vị Bồ-tát, hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc nói, hoặc yên lặng, hoặc cử động thân thể, hoặc đứng bất động, thấy tướng đó, rồi bèn chắp tay đứng nhìn, hồi lâu tỉnh dậy. Tỉnh dậy rồi tôi vui mừng khôn xiết. Từ đó về sau, mỗi đêm nằm mộng đều thấy một vị Tăng đến để chỉ bày các nghĩa lý sâu xa của văn kinh, khi đã hiểu rồi thì không còn thấy nữa.
Về sau, lại dốc lòng đặt ra kỳ hạn bảy ngày, mỗi ngày tụng kinh Di-đà mười biến, niệm danh hiệu Phật A-di-đà ba muôn câu, đầu hôm gần sáng đều quán tưởng các tướng trang nghiêm của cảnh giới Cực lạc, thành tâm quy mạng đều như pháp trên. Ngay đêm đó liền thấy ba bánh xe vững chắc, di chuyển bên đường, chợt thấy một người cỡi con lạc đà đi đến trước mặt tôi khuyên rằng: "Sư đang cố gắng chắc chắn vãng sinh, chớ sinh tâm lui sụt, ở thế giới Ta-bà này là vẩn đục, lại còn nhiều điều khổ ép ngặt, không nên tham cầu. "
Đáp: Rất mừng Hiền giả đã có tâm tốt chỉ vẽ và dạy bảo. Sau khi tôi bỏ thân mạng này, không dám sinh tâm lười biếng... Đến đêm thứ hai, lại thấy Phật A-di-đà thân màu vàng ròng đang ngồi trên tòa hoa sen dưới cây bảy báu, có mười vị tăng vây quanh và mỗi vị cũng ngồi dưới cây báu, trên cây đại thọ của Đức Phật lại có y trời che quanh, ngài ngồi hướng mặt về phía Tây, chắp tay tọa quán.
Vào đêm thứ ba, thấy hai cái cột lớn, rất cao, trên cột có treo năm màu, đường đi ngang dọc, người nhìn không bị chướng ngại. Khi nhìn thấy tướng trang nghiêm như thế xong, thì liền dừng nghỉ, không đến bảy ngày.
Tất cả các tướng linh nghiệm trên đây, bản tâm là vì chúng sinh chứ không phải vị thân mình. Đã thấy được tướng đó cũng không dám che giấu, cẩn thận giữ gìn nghĩa sau, giúp cho người đời sau được nghe, nguyện cho họ đều phát sinh lòng tin, ai có trí thức thấy được điều đó thì phát nguyện vãng sinh Tây phương, nguyện hồi hướng công đức này cho chúng sinh, nguyện chúng sinh phát tâm Bồ-đề, từ tâm đối với nhau, nhìn nhau bằng mắt Phật, làm quyến thuộc với Bồ-đề làm thiện tri thức chân thật, cùng quy về Tịnh độ, đều thành Phật đạo, nghĩa này đã thỉnh Chư Phật chứng định xong. Một câu, một chữ, không thể thêm bớt.
Những lời này đúng như kinh pháp, nên biết như thế.