TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ KINH SỚ

SỐ 1754 - KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT NGHĨA SỚ

Thích Nguyên Chiếu soạn

MỤC LỤC

BÀI TỰA

SỐ 1754 - KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT NGHĨA SỚ

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN TRUNG

QUYỂN HẠ

 


BÀI TỰA

Cõi trược Kham nhẫn, các đường khác nhau ở chung, nước thanh tịnh An Dưỡng, bậc thượng thiện đều hội về. Cho nên biết thai ngục gai góc nên phấn chí để lìa bỏ hẳn, ao vàng cỏi báu hãy gởi thần thức mà thẳng về. Âm thanh hải triều riêng khen ngợi, khắp thấy langhàm. Hải chúng trên lầu cao nghe được đầy đủ thanh sử. Nhưng vì cơ nghi khác nhau, v.v... nên dắt dẫn có nhiều môn, hoặc thường khóa mật ngôn, hoặc chuyên trì gia hiệu, hoặc hệ niệm với thời gian nhất định, hoặc tự thanh khiết tu trai, đều đến kịp duyên đương thời. Vẫn còn đầy đủ các kinh điển, chỉ có chánh quán này đều thú hướng vô sanh tin tưởng là phương cách thần diệu để trừ nghi xả chướng và yếu thật để sống lâu không chết. Xét thấy thuở xưa trước được thọ trì, đọc tụng rất nhiều, mãi đến ngày nay thì thích nghe lợi ích cho chúng. Thẹn từ thuở còn trẻ đủ chuyên tụng tập văn này, chuyển thành không chỗ quay về trong ức kiếp, rất mừng là có chỗ nương trong nhiều đời. Cho nên tác phẩm của các Sư đều y cứ, người đời sau giở tìm không biết về đâu, do đó tham rõ danh lý, so sánh xưa nay, chọn lấy chỗ hay đẹp, lượt bớt chỗ rườm rà, chỉ thuật lại mà không sáng tác, đâu dám xem thường bậc tu trước. Gom chung chỗ y cứ, ngõ hầu để lại cho người hậu học. Lời văn đơn giản dễ hiểu, mục đích là sửa chữa. Trăng nhờ ngón tay chỉ mà thấy trăng, chớ nhọc chấp ngón tay, bờ duyên thuyền đưa đến bờ mà tự hãy quên thuyền. Mong mỏi người vị lai không phụ ơn kiền thỉnh của Vi-đề, kính xin di chúc dám quên lời trùng tuyên của Khánh Hỷ, kính mong trên đây xa giúp về phía Tây.

SỐ 1754 - KINH QUÁN VÔ LƯỢNG THỌ PHẬT NGHĨA SỚ

Thích Nguyên Chiếu Chùa Sùng Phước ở Tây Hồ Linh Chi.

QUYỂN THƯỢNG

Giải thích kinh này, trước nêu nghĩa môn giúp cho biết được ý chung, sau đó đi vào từng phần văn kinh để giải thích riêng. Trong phần thứ nhất chia làm bốn:

1. Sự hưng khởi giáo pháp.

2. Thuộc về giáo nào.

3. Xác định tông chỉ.

4. Phân biệt sự giống nhau, khác nhau.

I. Sự hưng khởi giáo pháp: gồm có hai:

- Nói về sự hưng khởi giáo pháp Đức Phật nói trong một đời.

- Nói riêng sự hưng khởi giáo pháp của kinh này.

1. Nói về sự hưng khởi giáo pháp mà Đức Phật nói trong một đời. Đức Đại giác Thế tôn từ dấu ấn để lại vì muốn khai thị tri kiến Phật cho chúng sinh để được ngộ nhập, do đây bậc lợi kiến (có cái nhìn sắc bén) thừa thời cơ mà có lợi ích lớn.

Kinh chép: Hễ làm việc gì thường vì một việc, đó là chỉ dùng tri kiến Phật để chỉ bày, tỏ ngộ cho chúng sinh. Đó là biết Đức Phật ra đời, thị hiện diệt độ, âm thanh giáo pháp Tiểu thừa và Đại thừa trong một đời Đức Phật tuy khác nhau nhưng đều giúp cho chúng sinh bình thường tự mình giác ngộ tâm mình, thể tánh bình đẳng với các hàm linh trong pháp giới, các Đức Như lai trong mười phương không có khác nhau. Đầy đủ vô lượng hà sa công đức thù thắng, trùm chứa gom nhiếp tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian, thanh tịnh vốn như vậy, rộng lớn không bờ mé. Vô số cõi nước nhiều như cát bụi trong pháp giới ở khắp mười phương, đất đai núi sông, y báo, chánh báo nhân quả đều là vật trong tự tâm của chúng ta. Giống như một hòn nước nổi trên biển lớn, cũng giống như đám mây nhỏ giữa bầu trời xanh bao la, như lời kinh sau: Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng mà sinh. Nên biết tâm ấy tức là Bồ-đề Niết-bàn, vốn là thể thanh tịnh, tức là cảnh giới Đại thừa nhất thật (chân như) mà chẳng phải pháp khác. Vì thế phải xem xét.

Kinh chép: Cảnh giới nhất thật ấy là tâm thể của chúng sinh từ trước đến nay không sinh không diệt, tự tánh thanh tịnh tròn đầy khắp mười phương, rốt ráo là một tướng. Nhưng chỉ vì chúng sinh vô minh si ám, xong ướp chứa nhóm các nhân duyên mà vọng hiện ra các cảnh giới, làm cho sinh niệm đắm nhiễm, chấp ngã và ngã sở, chìm đắm trong sinh tử không tự biết. Đức Phật Như lai trước giác ngộ tâm ấy, thương xót các chúng sinh chưa tỏ ngộ mới từ bi phương tiện giảng nói các kinh. Kinh Hoa Nghiêm đốn giáo chỉ bày ở vườn nai, dần dần dẫn dụ bằng nhiều môn phương tiện trở về nguồn không hai.

Kinh chép: Kẻ tiểu trí chỉ ham muốn tiểu pháp, không tự tin mình làm Phật. Lại chép: Tuy nói ra các thứ các loại đạo lý nhưng thật ra chỉ là Phật thừa. Hoặc ở cõi này phá hoặc để chứng chân thì vận dụng tự sức mình, vì thế nói các kinh Đại thừa và Tiểu thừa. Hoặc đi phương khác nghe pháp để ngộ đạo thì phải nương vào năng lực khác, vì thế nói vãng sinh Tịnh độ. Kia và đây tuy khác nhưng đều là phương tiện khiến tỏ ngộ tự tâm thông suốt các pháp. Sau đó phát tâm Đại thừa, tu đạo Bồ-đề, trên cầu dưới hóa, rốt ráo thành Phật. Vì sử dụng trí tuệ nên không trụ trong sinh tử, vì sử dụng từ bi nên không trụ trong Niết-bàn. Trải qua các cõi nước như số cát bụi, thị hiện ra đời, ca ngợi vắng lặng, giảng nói pháp độ sinh. chúng sinh vô tận nhưng hạnh nguyện và thân cõi cũng không cùng tận.

Kinh Hoa Nghiêm chép: Ta biết tất cả các Đức Phật trong mười phương rốt ráo không có Niết-bàn, ấy là chỉ vì muốn điều phục chúng sinh nên thị hiện.

Kinh Lăng-già cũng chép: Không có Phật Niết-bàn, cũng không có Niết-bàn Phật. Đó là Đức Phật ra đời vì một việc nhân duyên lớn, các Đức Phật trong mười phương cũng đều như vậy, thì sao lại chỉ có giáo pháp của Đức Phật Thích-ca hưng khởi ở cõi này mà thôi?

2. Nói riêng sự hưng khởi giáo pháp của kinh này. Vì căn cơ bà Vi-đề-hy hưng khởi nhân duyên Tịnh độ nên vua A-xà-thế làm việc nghịch hại, giam cầm cha mẹ, đau khổ sầu lo. Từ xa hướng về núi Kỳ-xà-quật thỉnh cầu Đức Phật cứu độ. Đức Phật đại bi thương xót liền đến trong cung sâu, trước nói về ba thứ tịnh phước để làm nhân duyên cứu giúp. Sau đó nói về mười sáu phép quán mầu nhiệm, chính là chỉ bày cách thức vãng sinh. Ở đây khái quát các văn trình bày sơ lược mười ý:

a. Vì thương xót chúng sinh chịu đựng các thứ khổ không thể nào thoát được. Vì thế kinh chép: Nếu sau khi Đức Phật nhập diệt, các chúng sinh vẩn đục, ác bất thiện, bị năm khổ ép ngặt v.v... Lại chép: vì tất cả đại chúng ở đời vị lai muốn thoát khổ ấy nên nói phương pháp quán đất.

b. Vì thương xót chúng sinh bị các nghiệp ràng buộc không thể nào giải thoát. Vì thế như ở dưới kinh chép: Trừ được các tội nặng trong vô lượng ức kiếp, tám mươi ức kiếp sinh tử v.v...

c. Vì thương chúng sinh phiền não chướng nặng nề, không thể dứt bỏ. Vì thế kinh chép: Hôm nay, đức Như lai vì tất cả chúng sinh đời vị lai bị các giặc phiền não bức hại ấy nên nói nghiệp thanh tịnh.

d. Vì thương chúng sinh phước đức cạn mỏng chịu sự nghèo khổ. Vì thế kinh chép: Chỉ quán tưởng hình tượng Phật còn được vô lượng phước, huống chi lại quán đầy đủ thân tướng. Lại chép: Bồ-tát cũng như thế chỉ nghe danh hiệu còn được vô lượng phước, huống chi quán kỹ sắc thân.

e. Vì thương chúng sinh theo tà bỏ chánh, cách xa Đức Phật. Vì thế kinh chép: Nếu người niệm Phật sẽ ngồi dưới đạo tràng, sinh vào nhà các Đức Phật v.v...

f. Vì giúp cho chúng sinh xa lìa các đắm nhiễm, an trụ cảnh giới thanh tịnh. Vì thế kinh chép: Nếu có người niệm Phật nên biết người ấy là hoa phân-đà-lợi trong loài người.

g. Vì giúp cho chúng sinh tâm dễ được định. Chẳng kinh chép: Nên chuyên tâm buộc niệm ở một chỗ để quán tưởng phương Tây. Vì nếu không nhất định một phương thì pháp tam-muội khó thành.

h. Vì giúp cho thấy thân, thành tựu tam-muội niệm Phật.

i. Vì khiến cho thấy thân, thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ (Hai văn này đều là văn kinh ở dưới).

j. Vì giúp cho chúng sinh mau chóng thành Phật. Nên nói như sau: Khi tâm tưởng Phật thì tâm ấy tức là ba mươi hai tướng v.v... như kinh Di-đà chép: Người sinh về cõi nước kia đều được không lui sụt trên đường tiến đến quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Ý Phật sâu xa, kẻ phàm tình không lường được. Lại dùng mười ý khái quát để chỉ bày con đường lớn. Đó là sự hưng khởi giáo pháp của một kinh, rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay.

II. Thuộc về giáo nào: có ba:

- Nói về hai cõi để lập giáo thuần tạp.

- Phân biệt Đại thừa và Tiểu thừa tiệm đốn.

- Phân biệt liễu nghĩa và bất liễu nghĩa.

1. Nói về hai cõi để lập giáo thuần tạp, có hai:

- Ta-bà nhập đạo giáo quán.

- Tịnh độ vãng sinh giáo quán. a. Ta-bà nhập đạo giáo quán:

Cõi Ta-bà có năm thứ vẩn đục, các hoặc nghiệp nặng nhẹ. Căn tánh khác nhau ở chỗ căn cơ đã pha tạp nhiều thứ, giáo cũng không thuần. Vì thế có các khoa khác nhau giữa Đại thừa và Tiểu thừa, sự thông suốt Thiên giáo và Viên giáo cũng khác nhau. Các vị Tông sư của kinh luận xưa nay phán giáo có sự khác nhau, phế lập lẫn nhau, nói rộng như các văn khác ở đây không thể nói đủ. b. Tịnh độ vãng sinh giáo quán:

Tịnh độ Cực lạc chỉ thuần nhất Đại thừa, chúng sinh là bạn lành thanh tịnh. Những người vãng sinh tuy chia thành chín phẩm nhưng ai cũng phát tâm đạo vô thượng. Khi sanh về cõi nước kia tinh tiến công phu đều được Diệu quả Bồ-đề không lui sụt. Vì thế Luận Vãng Sinh chép: Hạt giống Nhị thừa không được vãng sinh. Tuy có các hạng đệ tử Thanh văn nhưng trước đều phát tâm Đại thừa, tạm thời trải qua quyền thừa nhưng không an trụ Tiểu quả. Đó là biết hai cõi lập giáo thuần tạp khác nhau nên các kinh Tịnh độ không nhọc phân biệt.

2. Phân biệt Đại Tiểu tiệm đốn.

Trong Thiên Thai Sớ Phán Giáo Tướng chỉ chép: Đó là Đại thừa Phương đẳng, thuộc về hai tạng, nói về ý nghĩa của tạng Bồ-tát, tiệm đốn đều ngộ nhập, và đó tức là đốn giáo. Viễn sớ cũng chép: kinh này là pháp luân đốn giáo. Bà Vi-đề-hy v.v... đều là phàm phu liền chứng được Vô sinh pháp nhẫn, không từ Tiểu thừa để đi vào. Vì thế biết là đốn giáo và nhất định biết giáo quán của một đời Đức Phật A-di-đà đều là pháp Viên Đốn Phật thừa, không còn có đường khác. Pháp sư Từ Vân chép: Bộ kinh Tiểu thừa bao gồm đủ hết các sách nhưng không hề có một chữ nói về Tịnh độ, huống chi là khuyên vãng sinh.

Lại, trong Tiểu thừa không nói Đức Phật khác, cũng không có một chữ nói có Đức Phật A-di-đà. Đó là Tịnh độ Đức Phật A-di-đà vừa qua nhĩ căn liền thành hạt giống Phật Đại thừa. Không nghe, không tin chẳng phải là lỗi lầm lớn sao?

3. Phân biệt liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Pháp sư Từ Vân chép: Phật pháp gồm có hai:

- Pháp bất liễu nghĩa của Tiểu thừa.

- Pháp liễu nghĩa của Đại thừa.

Đại thừa lại có liễu nghĩa và bất liễu nghĩa. Ở đây nói về Tịnh độ chỉ là pháp liễu nghĩa trong liễu nghĩa của Đại thừa.

Kinh chép: Tìm cầu trong mười phương không còn có thừa khác mà chỉ có một Phật thừa như nay ta nói. Nói liễu nghĩa, là hiểu rõ Tịnh độ kia tức tự tâm của ta mà chẳng phải ở phương khác. Thông suốt được Đức Phật A-di-đà kia là tự tánh của ta chứ chẳng phải Phật khác. Như thế thì tinh thần trở về ức cõi nước thật có vãng sinh ư? Trong tự tâm mình gá vào chín phẩm hoa sen, thì sao lại trốn trong bờ mé sát-na? Vì thế kinh chép: Tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật, tức là mở bày chỉ ra tri kiến Phật cho chúng sinh. Đại thừa liễu nghĩa chẳng lẽ nằm ngoài điều này sao!

Chương Đại Thế Chí Viên Thông trong Kinh Lăngnghiêm chép: Nếu chúng sinh tâm niệm Phật nhớ Phật thì hiện tiền và trong đời vị lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật không xa (tức là nói thành Phật không lâu). Còn như kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Đức Như lai đích thân thọ ký vãng sinh (Phẩm Dược Vương chép: Người thọ trì kinh này thì được vãng sinh thế giới Cực lạc, v.v...).

Kinh Hoa Nghiêm đến chỗ bàn luận cùng cực nói ngài Phổ Hiền tự mình trình bày hồi hướng (mười đại nguyện của ngài Phổ Hiền tổng kết chép: Khi qua đời, trong một sát-na liền được vãng sinh về thế giới Cực lạc v.v...) Tức là biết thân và cõi nước tịnh hoặc uế đều do tự tâm chúng sinh. Chỉ do tâm thể rộng lớn như thái hư, vì thế khiến vãng sinh không chướng ngại. Chỉ do tâm tánh bao trùm khắp liền khiến lấy bỏ không trở ngại. Nay kẻ học mỏn mọn không hiểu rõ duy tâm mà chỉ cho rằng chút linh tánh này chính là Tịnh độ, tự mình nói tâm tịnh thì cõi nước Tịnh mà không cần cầu kẻ khác, Phật tức là tâm ta thì sao lại phải tìm ở bên ngoài, chỉ Đức Phật Adi-đà là vật bên ngoài, chê thế giới Cực lạc là cõi nước khác. Vì thế Pháp sư Từ Vân chép: Hoặc nói Tịnh độ ở tâm thì đâu cần phải tìm ở ngoài? Tâm tịnh thì cõi nước tịnh, còn cần phải cầu sinh Tịnh độ ở phương khác xa xôi hay sao! Giải thích rằng: Ý nghĩa của tâm cõi bất thiện cho rằng tâm ta hạn cuộc trong gang tấc cho nên thấy thế giới Tây phương xa ở ngoài cõi nước. Nếu hiểu khắp cả một niệm trong tâm thì một hạt cát bụi cũng khắp cả mười muôn ức cõi nước, cách gang tấc lại ở ngoài tâm hay sao? Người đời nếu nói lý không, thì đó là bài bác nhân quả. Nếu nói duy tâm thì đó là không tin có các pháp bên ngoài, đâu chỉ che bai pháp mà còn chê bai tự tâm, làm hại chìm đắm muôn kiếp? Rất đáng đau khổ thay! Dối thành phải trái, chướng ngại Tịnh độ của người, thật là bạn ác, (ở trên đều là văn kia). Các bậc Hiền đức ngày xưa hết lời, hết lòng thương xót chúng sinh, nếu chú ý nghiên cứu rõ ràng, sẽ do đây mà siêu ngộ.

III. Nói về Tông chỉ: có ba-Xác định tông chỉ của kinh.

- Nói về sự lý.

- Nói về phép quán khác nhau.

1. Xác định Tông chỉ của kinh.

Tông là nghĩa chính, nghĩa căn bản. Nghĩa chính của một bộ kinh cần phải phân biệt để chỉ bày. Đại sư Thiên Thai Trí Giả chép: Kinh này dùng quán tâm làm tông, đó là chỉ nói theo năng quán. Như thế, quán y báo và chánh báo của Phật chẳng phải quán tâm ư? Đại sư Tuệ Viễn, Đại sư Thiện Đạo đều chép: Tông thú mà các kinh nói đều khác nhau. Kinh này dùng tam-muội quán Phật làm Tông, đó là y cứ cả năng và sở để lập. Quán tuy có mười sáu môn y báo và chánh báo khác nhau nhưng chủ ý ở quán Phật, như kinh dưới đây chép: Ở trong phần quán thấy thân được tam-muội niệm Phật. Niệm tức là quán không chỉ nói chung cả các Đức Phật khác mà còn đầy khắp trong các kinh khác, nên biết phần phân biệt của đầu đề nay đã nói xong. Kinh quán Phật tam-muội chép: Đức Phật bảo Ngài A-nan: tam-muội Quán Phật là vị thuốc của tất cả chúng sinh phạm tội là sự che chở cho kẻ phá giới, là sự dẫn dắt cho người lạc đường, là mắt của người mù, là trí tuệ của kẻ ngu si, là ngọn đèn trong bóng tối, là vị tướng quân mạnh mẽ trong các giặc phiền não, là chỗ tự tại của các Đức Phật Thế tôn, là chỗ khởi thỉ của các đại tam-muội trong kinh Thủ lăng nghiêm.... Lại chép: Nếu quán được một lỗ chân lông của Đức Phật thì người ấy gọi là hành niệm Phật định, vì nhờ niệm Phật nên được các Đức Phật trong mười phương thường ở trước người ấy, vì người ấy nói chánh pháp, người ấy liền có thể phát sinh hạt giống các Đức Như lai trong ba đời, huống chi là niệm đầy đủ sắc thân Phật. Lại chép: Nếu bốn bộ đệ tử chê bai kinh Phương đẳng, gây ra năm tội nghịch, phạm bốn trọng cấm, trộm vật của Tăng-kỳ, làm dơ bẩn Tỳ-kheo-ni, phá tám giới quan trai, làm các việc ác, các thứ tà kiến. Nếu dốc lòng trong một ngày một đêm buộc niệm ở trước để quán một tướng hảo của Đức Phật thì các tội chướng xấu ác đều dứt trừ hết v.v... y theo đó mà biết công đức quán Phật khó có thể nghĩ bàn bởi sự gom nhiếp tâm luống dối để tương ưng với cảnh giới chân thật. Mượn phước đức và trí tuệ của Đức Phật kia để cứu giúp sự nghèo nàn của ta, nhờ lòng từ bi của Đức Phật kia để cứu vớt sự chìm đắm của ta. Đó là dứt bỏ những việc ác trước để làm cửa đầu tiên vào đạo. Vì thế kinh Lăng-nghiêm chép: Không nhờ phương tiện mà tự được tâm khai, như thân người dính mùi hương thì có hơi thơm. Đó gọi là hương quang trang nghiêm. Nêu sơ lược những điều quan trọng, còn bao nhiêu nói rộng ở sau.

2. Nói về sự và lý.

Lý là tên gượng gọi sự trống rỗng vắng lặng; sự là thi hành những đề mục chung của lý. Tuy có hai cách lập nhưng thể thật ra là như một, cũng giống như nước động thành sóng, mực viết thành chữ. Sóng tuy có muôn hình trạng nhưng đâu có gì khác với tính thấm ướt của nước? Chữ có ngàn sự khác nhau nhưng cùng với màu mực không hai. Nếu cho rằng tâm an trụ trong vắng lặng, năng và sở đều mất hết, thì thuộc về lý quán. Nếu tâm động để lo toan thủ xả rõ ràng như vậy, tức là Sự quán. Đó là lý và sự đang còn đối địch chưa phải là chỗ viên dung. Nay theo luận Thập Nghi của tông Thiên Thai chép: Người trí mạnh mẽ như vậy để cầu sinh Tịnh độ, hiểu rõ thể của sinh không thật có đó là chân thật vô sinh. Người ngu bị sinh trói buộc, nghe sinh thì hiểu sinh, nghe vô sinh thì hiểu vô sinh, mà không biết sinh tức là vô sinh, vô sinh tức là sinh. Không hiểu rõ lý ấy thì các tướng trái ngược đúng sai có rất nhiều sự sai lầm.

Đó là hiểu rõ sự tức là lý, lý chẳng phải ngoài sự, đó là chân thật vô sinh. Vì thế gọi là diệu quán. Lại theo hai thứ sám hối lý và sự của Đại sư Nam Sơn thì phải chia thành hai hạng căn cơ: Hạng lợi căn hiểu rõ lý thì tất cả đều chỉ do tâm, hạng độn căn chưa hiểu rõ thì chỉ y theo sự để tu hành. Quán lý của các kinh khác chỉ thích hợp cho những hạng thượng căn. Còn các phép quán của kinh này gom nhiếp khắp cả hạng lợi căn và độn căn. Người tu hành lợi căn thì tu lý quán. Còn người tu hành độn căn đều trở về sự để quán tưởng. Lợi căn và độn căn tuy khác nhau nhưng đều được vãng sinh. Chỉ khi sinh về cõi nước kia rồi thì giai vị có sâu cạn, sự tiến đạo có chậm hoặc nhanh. Tuy nhiên, sự phân biệt giải thích xưa nay có khác nhau.

Có chỗ nói mười sáu diệu cảnh không có cảnh nào không quán lý. Có chỗ nói y theo kinh từ đầu đến cuối đều là quán tưởng sự.

Có chỗ nói mười lăm phép quán trước sau đều là sự. Chỉ có phép quán Phật thứ chín là lý.

Ở đây nói phần thứ nhất để giải thích thì để lại phần giữa và phần dưới. Phần kế tiếp hiểu thì thường là những bậc thượng căn. Và sau cùng nói hai phần thì chẳng phải bàn luận chung.

Người hiểu rõ lý thì các pháp đều là lý, đâu thể có đây là phải mà kia là trái ư? Đã từng khảo xét văn kinh nhưng chỉ nêu ra cảnh sở quán mà không chia sự khác nhau giữa lý và sự thì lỗi với người năng quán. Căn cơ thì có lợi độn, thấy thì có sự thông suốt và bít lấp. Dùng sự phân lượng ấy thì đều có thể thú nhập được ư? Cao tăng Biện Tú Đời Đường, nói với mọi người rằng: Ngày xưa, nghe tu hành Tây phương là chấp tướng Đại thừa. Đó là tâm rối bù không ngay thẳng, chẳng phải thuyết đạt quán. Có điều nào hễ nói ra thì tức là tánh, khởi ý thì đều là như. Một sắc, một hương, chẳng gì không phải trung đạo, huống chi là chánh niệm của ta ư! Chỗ nói ấy kỹ càng tỷ mỹ, hiểu sâu tông chỉ của kinh nhưng đều chưa gom nhiếp khắp phần giữa và phần dưới của kinh này.

Hỏi: Lý quán của kinh này tu tập như thế nào? Đáp: Phương pháp tu tập gồm có hai:

Một là tâm năng quán, tức là dùng thức hiện tiền và tâm tưởng niệm làm thể. Ở dưới chép: Nên khởi tưởng niệm quán kỹ vào ban ngày là vậy.

Hai là cảnh sở quán, tức là dùng y báo và chánh báo trang nghiêm của Đức Phật A-di-đà làm thể, tức là ở dưới nêu ra mười sáu cảnh. Năng và sở thầm hợp nhau mới thành tựu được quán hạnh.

Hỏi: Khởi tâm để chọn lấy cảnh thì sao gọi là quán lý?

Đáp: Hiểu tâm và cảnh đều là nhân duyên sinh. Duyên sinh là thể của vô sinh mà chẳng phải sinh diệt, tức là lý vô sinh. Luận Thập Nghi chép: Bất sinh bất diệt là ở trong duyên sinh, các pháp hòa hợp mà không giữ tự tánh. Cầu ở thể của sinh thì hoàn toàn chẳng thật có. Sinh này khi sinh không có chỗ xưa nay, vì thế gọi là bất sinh, diệt này khi diệt không chỗ đến, vì thế gọi là bất diệt, mà chẳng phải nói ngoài nhân duyên sinh có bất sinh bất diệt riêng. Nay nói về quán lý, thứ nhất là theo văn luận: Dùng tâm duyên sinh để quán cảnh duyên sinh, tâm và cảnh tuy khác nhưng duyên sinh thì không khác. Năng quán là sở quán của tâm, tức là Phật. Tâm, pháp và pháp Phật đều không thể nghĩ bàn. Kinh Hoa Nghiêm chép: Ba thứ tâm, Phật và chúng sinh đều không khác nhau, tức là nghĩa ấy. Vì thế các hành giả trước là mở rộng trí tuệ để hiểu biết thông suốt không còn nghi ngờ.

Sau đó, sáng tối mỗi niệm trói buộc để quán tưởng cảnh giới tốt đẹp, y báo và chánh báo ở cõi kia mà mạnh mẽ cầu vãng sinh, tâm và cảnh không trở ngại, thể tự vô sinh mà chẳng phải sự tạo tác khiến cho như thế. Đó là biết chỗ sinh ra của tất cả các pháp xuất thế gian, nói nín đều là lý mầu nhiệm. Chẳng phải chỉ có phép quán này mà các phép quán Đại thừa lập ra trong một đời cũng đều như vậy. Kinh Pháp Hoa chép: Quán tất cả các pháp đều không, như thật tướng, không điên đảo v.v... Lại chép: Tất cả các pháp đều không thật có, không có thường trụ, cũng không sinh diệt.

Kinh Phổ Hiền Quán chép: Nên biết tất cả các pháp tức là Phật pháp.

Kinh Tịnh Danh chép: Tất cả các pháp chính là tướng Bồ-đề.

Kinh Hoa Nghiêm chép: Tất cả các pháp không sinh, tất cả các pháp không diệt. Lại chép: Hiểu biết tất cả pháp tự tánh không thật có, hiểu được pháp tánh như thế tức là thấy được báo thân Phật.

Kinh Kim Cương Bát-nhã chép: Tất cả các pháp hữu vi như mộng huyễn, bọt, bóng v.v... các lời văn như vậy trong khắp cả Đại Tạng không thể nêu hết. Nếu xa lìa các pháp để nói lý mầu nhiệm tức là rơi vào thiên kiến tà kiến, hoàn toàn cách xa đạo.

Kinh Tịnh Danh chép: Thí như việc xây dựng cung điện, nếu nương ở chỗ đất trống thì tùy ý vô ngại, còn nếu nương trên hư không thì không bao giờ thành tựu. Các Đức Phật nói pháp thường y theo hai đế, mượn tên bất hoại để nói thật tướng các pháp. Nếu Thánh giáo lượng là chánh lý thản nhiên thì muốn tiến tu cần phải nghiệm xét sâu xa.

3. Nói về phép quán khác nhau.

Các phép quán Đức Phật nói trong giáo pháp một đời lược chia làm năm ví dụ:

- Quán chung các pháp, như kinh quán tất cả các pháp đều không v.v...

- Quán riêng tự tâm, như chỉ quán, hoàn nguyên quán, pháp giới quán, tịnh tâm quán v.v...

- Hoặc chỉ quán sắc. Kinh chép: Quán thân thật tướng, quán Phật cũng vậy, và quán xương trắng, quán bất tịnh, v.v...

- Quán cả sắc và tâm.

Kinh chép: Soi thấy năm uẩn đều không, mười hai nhập, mười tám giới, sổ tức v.v...

- Quán thắng cảnh, các kinh Quán Phật và Bồ-tát v.v... Nay kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật này tức là phép quán thứ năm theo quán thắng cảnh.

Lại có năm thứ khác nhau:

- Quán biển tướng của Phật, tức là quán ba mươi hai tướng của các Đức Phật.

- Quán hành pháp của Bồ-tát Phổ Hiền, tức là quán thân tướng của Bồ-tát ngồi trên voi trắng sáu ngà.

- Quán Bồ-tát Dược Vương và Bồ-tát Dược Thượng, tức là quán hạnh nguyện và sắc tướng của hai vị Bồ-tát.

- Quán Bồ-tát Di-lặc, thượng sinh tức là quán cung trời Đâu-suất để cầu sinh nội viện.

- Tức là kinh này quán y báo và chánh báo của Đức Phật A-di-đà để sinh về Tịnh độ.

Ba phép quán trên là diệt nghiệp phá chướng. Còn hai phép quán dưới là vui mừng nguyện cầu vãng sinh.

Lại, trong hai phép quán dưới: Phép quán thứ tư là cõi trời của thế giới Ta-bà. Còn phép quán thứ năm tức là cõi thanh tịnh thế giới Cực lạc.

Ở cõi này vào đạo điều quan trọng là ở quán tâm, nghĩa là để vãng sinh Tịnh độ thì phải tưởng Phật. Ở đây nêu một thứ quán tâm ở cõi này để đối chiếu với kinh này, lược chia làm sáu phép quán khác nhau:

- Quán tâm là gom nhiếp tưởng trở về tâm. Còn kinh này thì đưa tâm đến cảnh giới khác. (Kinh chép: Nhất tâm buộc niệm để quán kỹ Đức Phật kia. Sớ của tông Thiên Thai chép: Phương pháp tưởng mặt trời lặn hình dạng như cái trống treo dùng làm mốc để tiễn đưa tưởng).

- Quán tâm không hạn chế trong bốn oai nghi. Còn kinh này thì phải ngồi ngay thẳng. (nói chung cả các oai nghi khác).

- Quán tâm thì không câu chấp chỗ nơi. Còn kinh này thì nhất định phải hướng về phương Tây.

- Quán tâm thì không phân biệt thời gian, còn kinh này thì phải trừ giờ ăn và đại tiểu tiện (kinh Quán Phật chép: Trừ lúc đại tiểu tiện. Phép quán đất chép: Chỉ trừ giờ ăn v.v...)

- Quán tâm thì dứt hoặc để chứng lý. Còn kinh này thì thành tựu tịnh nghiệp để chiêu cảm được vãng sinh.

- Quán tâm thì nghiệp ma phát hiện. Còn kinh này thì Thánh đức che chở.

Lược nói về sáu phép quán khác nhau thì biết quán môn của Tịnh độ là khác hẳn một trời một vực.

Hỏi: Mười sáu phép quán này có được gọi là quán tâm hay không?

Đáp: Nếu hiểu rõ cảnh do tâm thì thân và cõi Di-đà kia chẳng phải là tâm ư? Chỉ sợ cầu trở lại thân năm ấm này, nhận biết hạn hẹp điểm linh tánh này thì đều thuộc về các kinh khác, chẳng phải chánh quán này.

Hỏi: Có người nói pháp Phật rất cao, pháp chúng sinh rất rộng, chỉ có quán tâm là quan trọng. Còn kinh này thì quán Phật chẳng lẽ không trái nhau ư?

Đáp: Phép quán bao trùm các căn cơ và đều có chủ ý. Nếu ở cõi này vào đạo để dứt hoặc chứng chân thì quán tâm là hết sức quan trọng. Còn nếu tu nhân để cảm được quả báo vãng sinh Tịnh độ thì quán Phật là tốt nhất. Kia nói dứt hoặc chứng chân là chính thì chọn lấy quán tâm nên có lời nói ấy, chẳng phải nói pháp vãng sinh cõi Phật và pháp trên là hai pháp chẳng bao giờ quán thông. tam-muội Quán Phật bao trùm cả nghĩa vị lai mà chẳng phải đặt ra một cách vô ích.

Hỏi: Tâm và Phật không khác nhau là nghĩa rốt ráo thượng thừa.

Nay nói phép quán thì cần gì gắng gượng phân chia? Đáp: Lý tuy là viên dung nhưng tướng tu hành thì đương nhiên phân biệt để sự tu hành có chỗ nương tựa, vậy cảnh và trí phải tương ứng. Người xưa có nói quán Phật gồm có hai:

Một là, chỗ thấy Phật của tam-muội tự tâm.

Hai là, từ nhân phương Tây để cảm được quả Phật. Quán tâm của các kinh tức là quán chỗ thấy Phật của tự tâm. Mười sáu phép quán này là chánh quán Tây phương để cảm được quả Phật. Y theo hai phân chia này để không còn sự nghi ngờ viển vông. Vì thế Luận Thập Nghi của tông Thiên Thai chép: Hễ người cầu vãng sinh thì tâm mong mỏi khởi tưởng duyên theo tướng tốt sáng chói của Đức Phật A-di-đà. Lại quán bảy chất báu trang nghiêm của cõi nước kia đầy đủ như mười sáu phép quán trong kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v... kinh này quán Phật là bằng chứng rõ ràng.

Hỏi rằng kinh chép: Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh để-cầu ta thì người ấy tu hành tà đạo không thể thấy đức Như lai. Ở đây quán cảnh giới Phật thì chẳng phải dùng sắc để thấy, dùng âm thanh để cầu hay sao?

Đáp rằng: Ba mươi hai tướng cũng giống như mặt trăng sáng in bóng trên trăm sông. Bốn thứ biện tài, tám thứ âm thanh nếu thanh tịnh thì tiếng dội phát ra ở hang sâu. Nhưng có người mò nước vớt trăng, vào hang tìm tiếng mà chẳng hiểu tánh không. Vì cho nên không thấy Phật, bậc thông đạt thì không như vậy. Hiểu rõ sắc chẳng phải sắc thì ngại gì việc quán tưởng sự đứng đắn đối với hình dung của bậc Thánh? Hiểu rõ âm thanh chẳng phải âm thành thì đâu ngại gì nghe thiên về pháp mầu? Vì thế Kinh Hoa Nghiêm chép: Sắc tướng không phải Phật, âm thanh cũng giống như vậy. Cũng không lìa bỏ sắc và âm thanh để thấy năng lực thần thông của Phật. Quán sự bàn luận mầu nhiệm ấy thì đâu có gì nghi ngờ?

IV. Phân biệt sự giống nhau, khác nhau: có hai:

- Phân biệt thân và cõi nước chung riêng.

- Nói về sự phế lập xưa nay.

1. Phân biệt thân và cõi nước chung và riêng, có hai (phần): Thứ nhất: Nói về thân Phật.

Thứ hai: Nói về cõi nước Phật. a. Nói về thân Phật.

Thân Phật có nhiều thứ, tùy sự nêu ra trong các kinh luận tùy nghi không nhất định. Ở đây theo giới sớ của tông Thiên Thai thì nói có bốn thân:

1. Pháp thân.

2. Chân thân và ứng thân.

3. Pháp thân, báo thân và ứng thân.

4. Pháp thân, báo thân, ứng thân và hóa thân.

Trong giới sớ ấy chép: Tỳ-lô-giá-na chiếu khắp chánh pháp Lô-xá-na, là thân đức hạnh viên mãn là thân quả báo. Phật Thích-ca là thân Ứng tích cảm phó. Tùy duyên không nhất định là thân Biến hóa. Tất cả các Đức Phật đều có đủ bốn thân. Ở đây thân Đức Phật A-di-đà như kinh chép: Các Đức Phật Như lai là thân pháp giới, tức là pháp thân và báo thân. Cao sáu mươi muôn ức nado-tha tức là ứng thân của Tịnh độ. Hoặc hiện thân lớn đầy khắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu tám thước và trong ánh sáng tròn có các vị hóa Phật nhiều như số cát sông Hằng. Lại nói: Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa thân vô số cho đến chim hạc trắng, chim công, cưu, nhạn, uyên ương v.v.... đều là do Đức Phật A-di-đà tạo tác biến hóa và những thứ này đều là hóa thân. Tuy nhiên ứng thân và hóa thân ấy gộp lại thì thành ba thân và mở rộng ra thì thành bốn thân. Nên biết thân quả đức của Phật A-di-đà ở Tây phương tức là pháp thân, tức là báo thân, tức là ứng thân và hóa thân. Thân Phật là một thể, chẳng phải một, chẳng phải khác, tùy theo sự chiêu cảm mà đều được. Nếu theo dấu vết để lại thì từ một thân thành vô số thân. Còn như khi gom nhiếp về gốc thì vô số thân trở về một thân. Kinh Hoa Nghiêm chép: Thân của tất cả các Đức Phật là một pháp thân, chính là nghĩa ấy.

Sớ của ngài Tuệ Viễn chép: Tuy nhiên, tuổi thọ của Đức Phật có chân thân, có ứng thân. Chân thân thì không cùng tận, còn ứng thân thì có dài ngắn.

Kinh Quán Âm Thọ Ký chép: Tuổi thọ của Đức Phật A-di-đà tuy dài lâu vô hạn nhưng sẽ có lúc chấm dứt, sau khi Ngài nhập Niết-bàn, Bồ-tát Quán Thế Âm sẽ Bổ xứ hiệu là Phổ Quang Công Đức Sơn Vương. Theo đây thì nhất định biết đó là ứng thân. Luận Thập Nghi chép: Có đủ các hạng phàm phu tùy phần mà được thấy tướng thô của thân Đức Phật, gọi là ứng thân Phật. Còn các vị Bồtát thì thấy được tướng nhỏ nhiệm gọi là báo thân Phật. Vì cho nên biết báo thân và ứng thân là tùy theo căn cơ mà thân Phật được xác định như thế.

Như mặt trăng ở dưới nước, tùy theo đồ đựng mà khác nhau, đồ đựng lớn thì mặt trăng lớn, còn đồ đựng nhỏ thì mặt trăng nhỏ. Lớn hay nhỏ là tùy đồ đựng còn mặt trăng thì không co lại hoặc dài ra. Nước trong thì bóng còn, nước đục thì bóng mất. Còn hay mất là ở nước mà ảnh thì không đến đi, đó là dùng để thí dụ về tuổi thọ thân của Đức Phật mà chẳng có gì không thông hiểu. Vì thế kinh Niết-bàn chép: Đức Phật bảo Trưởng giả Thuần-đà. Nay ông không nên suy xét chỉ có tuổi thọ dài hoặc tuổi thọ ngắn của các Đức Phật. Tất cả các pháp đều là tướng huyễn, Đức Như lai ở trong đó dùng năng lực phương tiện không hề đắm nhiễm... Lại, kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp thân của Đức Như lai ẩn chứa khắp trong thế gian. Tuy là ở thế gian nhưng đối với thế gian không bị đắm nhiễm. Thí như nước trong thì hình bóng không đến đi và pháp thân trùm khắp thế gian nên biết cũng giống như vậy. Lại chép: Thí như nhà ảo thuật hiện ra các việc thì những việc ấy không từ đâu đến và cũng không đi về đâu. Tính huyễn chẳng phải hữu lượng cũng chẳng phải vô lượng, mà trong đại chúng kia hiện ra lượng và vô lượng. Dùng sự định tâm yên lặng ấy để tu tập các gốc lành sinh ra tất cả các Đức Phật chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng. Hữu lượng và vô lượng tất cả đều là tướng luống dối. Hiểu biết thông suốt đến tất cả các cõi, không chấp chặt hữu lượng hoặc vô lượng thì chắc chắn biết thể lượng của thân Phật không thật có, mà còn là chỗ nghĩ bàn không với tới được, thì đâu còn chứa đựng sự dự tính ở trong đó ư? b. Nói về cõi nước Phật, lại có hai:-Chính là nói.

-Sự lựa chọn quá nhiều.

1. Chính là nói.

Cõi nước của các Đức Phật số ấy vô lượng như kinh Hoa Nghiêm chép: Không thể nói, không thể nói các cõi nước của các Đức Phật số thế giới nhiều như cát bụi. Lại như kinh Pháp Hoa chép: Thí như mài Tam thiên đại thiên thế giới thành mực rồi vượt qua một ngàn cõi nước ở phương Đông thì chấm một chấm, cứ lần lượt như thế cho đến khi nhỏ hết mực ở các cõi nước... Lại như kinh A-di-đà chép: Trong mười phương đều có các cõi nước của các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng. Như biết cõi nước của các Đức Phật làm sao có sự cùng tận? Tóm lại không ngoài hai thứ:

- Một là cõi pháp tánh: Kinh Viên giác chép: chúng sinh và cõi Phật đồng một pháp tánh. Kinh Phổ Hiền Quán chép: Thân Phật Tỳ-lô-giá-na trùm khắp tất cả, chỗ ở của Đức Phật ấy gọi là cõi Thường Tịch Quang. Pháp tánh thường trụ, nơi qua lại giáo hóa, chỗ ở của các Đức Phật Như lai gượng gọi là cõi nước mà thật chẳng phải cõi nước. Đó gọi là Tịnh độ do tâm, đều có đủ các đạo tràng, chẳng phải tịnh, chẳng phải uế mà không trở ngại tịnh uế, không đến không đi mà không trở ngại việc đến đi. Đại sư Từ Vân chép: Các cõi tịnh uế trong mười phương thu nhỏ lại, cùng trong một sát-na, qua lại trong ba cõi mà dấu chân chưa hề dời trong một niệm, chúng sinh mê nhưng không mất, tuy là dùng hằng ngày nhưng không biết, các Đức Phật chứng mà không đắc. Vì cho nên do quyền để khởi dụng, đó là chỗ chỉ dành cho hạng người chứng quả Diệu Giác. Kinh Nhân Vương Bát-nhã chép: Chỉ có mình Đức Phật là ở Tịnh độ, tức ở cõi nước này.

- Hai là cõi ứng hóa: Các cõi nước của các Đức Phật số như cát bụi, hoặc tịnh hoặc uế, đều là chỗ tùy duyên ứng hiện của các Đức Phật để che chở dắt dẫn chúng sinh. Ứng hiện để nhiếp hóa các vị Bồ-tát thì có cõi Thật báo. Kinh Nhân Vương chép: Ba Hiền, Mười Thánh đều an trụ trong quả báo. Ứng hiện để che chở giáo hóa các người Nhị thừa thì có cõi Phương tiện. Luận Đại Trí Độ chép: Ở ngoài ba cõi có Tịnh Độ. Các vị Thanh văn và Bích chi Phật sinh ra ở trong đó, thọ thân pháp tánh mà chẳng phải thân phần đoạn sinh. Ứng hiện để che chở giáo hóa các hạng phàm thánh thì có cõi Đồng cư. Cõi Đồng Cư có hai:

- Thứ nhất, Đồng Cư cõi uế.

- Thứ hai, Cõi tịnh Đồng Cư.

Đức Phật Thích-ca thị hiện ở cõi uế nhưng chẳng phải là không có Tịnh độ. Còn Đức Phật A-di-đà thị hiện ở cõi Tịnh nhưng chẳng phải là không có cõi uế. Tuy nhiên các Thánh ở cõi uế Đồng cư thì có Đại thừa, Tiểu thừa, ba thừa gồm chung cả sáu đường thiện ác. còn các Thánh ở cõi Tịnh Đồng cư thì thuần nhất Đại thừa và chỉ gồm có hai cõi quả báo trời, người, rõ ràng các cõi đều ứng theo cơ duyên, cõi pháp tánh là Sở y và cõi ứng hóa là năng y. Kinh Thủ lăng nghiêm chép: Hư không sinh trong Đại giác như một hòn bọt sinh ra trên mặt biển. Cõi nước hữu lậu số như cát bụi đều nương hư không sinh ra, đại giác tức là cõi pháp tánh, vi trần cõi nước tức cõi ứng hóa, ứng hóa nương hư không, hư không nương vào cõi pháp tánh. Suy xét gốc ngọn năng sở thì có thể thấy điều kinh này nói tức là chỗ chọn lấy cõi Tịnh đồng cư của Đức Phật A-di-đà.

Lại, các thế giới Tây phương có các cõi Tịnh nhiều như số cát sông Hằng, còn quả Phật thì có Đức Phật Adi-đà ở cõi Đồng cư. Ở đây phải xác định để chỉ ngày xưa Tỳ-kheo Pháp Tạng phát nguyện tu hành thành tựu quả Phật. A-di-đà ở cõi Tịnh Cực lạc và cõi nước hiện ra trong đài ánh sáng của Phật chính là ở cõi này.

2. Sự lựa chọn quá nhiều.

Những chỗ nói về Tịnh độ trong các kinh có các tướng danh tự quá nhiều, vì thế phải phân biệt để chỉ bày. Lại như nói tâm tịnh, cõi nước tịnh, tuy dẫn ra nhưng không biết xuất xứ của nó. Câu nói ấy vốn nêu ra từ kinh Duy-ma-cật. Kinh này nói các vị Bồ-tát chọn lấy pháp môn Tịnh độ, vì Tịnh độ của các Đức Phật cần phải có chúng sinh đồng nghiệp trong mười phương để cùng thành tựu.

Vì cho nên trải qua nhiều kiếp giáo hóa kẻ khác khiến tu hành các nghiệp lành và thực hành các tịnh nghiệp kia để thành tựu cõi nước ấy. Vì thế kinh ấy chép: Các vị Bồ-tát tùy chỗ giáo hóa chúng sinh để chọn lấy cõi nước Phật. Nên biết tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ-tát, và khi Bồ-tát thành Phật thì chúng sinh không còn dua nịnh tà vạy sinh về cõi nước ấy. Cho đến mười nghiệp lành là cõi Tịnh của Bồ-tát và khi Bồ-tát thành Phật thì chúng sinh tu hành mười nghiệp lành đến sinh về cõi nước ấy. Cho nên chép: Nếu Bồ-tát muốn được cõi Tịnh thì phải thanh tịnh tâm ấy.

Hễ tâm ấy thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh. Lời văn kia rất rộng không thể dẫn hết được. Kinh Kim Quang minh chép: Con nguyện đời sau được Tịnh độ công đức cao quý kỳ lạ ấy như Đức Phật Thế tôn.

Kinh Pháp Hoa chép: Dạy ngàn ức chúng khiến an trụ pháp Đại thừa để tự mình thanh tịnh cõi Phật.

Lại chép: Ít muốn và nhàm chán sinh tử là thật tự mình thanh tịnh cõi nước Phật. Kinh Tịnh Danh chép: Thường tu Tịnh độ, giáo hóa các chúng sinh thì những vị ấy đều là các Bồ-tát chọn lấy pháp môn Tịnh độ.

Lại, Phạm Vương Loa Kế nói với ngài Xá-lợi-phất trong kinh Tịnh Danh: Tôi thấy cõi nước Phật Thích-ca thanh tịnh như cung trời Tự Tại, Đức Phật ấn ngón chân xuống đất thì cả Thế giới Đại Thiên có trăm ngàn thứ trân báu trang nghiêm như cõi Tịnh của Đức Phật Bảo Trang Nghiêm. Cho đến chép: Cõi nước của Đức Phật thường thanh tịnh như thế. Lại, kinh Niết-bàn chép: Khi Đức Phật sắp nhập Niết-bàn thì rừng cây Ta-la liền biến thành cõi Tịnh, kinh chép: Lúc bấy giờ, thế giới Đại thiên nhờ thần lực Phật nên đất mềm mại, các thứ báu trang nghiêm giống như thế giới Cực lạc của Đức Phật Vô Lượng Thọ ở Tây phương.

Lại như cõi Tịnh Cực lạc hiện ra trong đài ánh sáng của kinh này và trong phần tổng kết lợi ích thì đại chúng thấy được cõi nước kia. Các cõi Tịnh đó đều là do thần lực của Đức Như lai hiện khởi, đó gọi là ở đầu một sợi lông hiện ra các cõi Bảo vương. Kinh Nhân vương Bátnhã chép: Chỉ có mình Đức Phật ở cõi Tịnh. Kinh Viên Giác chép: chúng sinh và cõi nước đồng một pháp tánh, địa ngục và các cõi trời đều là cõi Tịnh. Đó đều là pháp tánh lý độ, các gọi là cõi Thường Tịch Quang. Kinh Pháp Hoa chép: chúng sinh thấy kiếp tận khi bị lửa dữ thiêu đốt nhưng cõi Tịnh của ta không bị hủy hoại, đó tức là cõi nước quả báo của Đức Phật Thích-ca. Ở trên là phần dẫn chứng những chỗ nói về cõi Tịnh của các kinh mà đều chẳng phải là cõi Tịnh Cực lạc của kinh này. Trong các kinh luận những loại ấy rất nhiều và theo sự phân biệt ở trước thì không quá nhiều.

2. Nói về sự phế lập xưa nay, chia làm năm:-Thứ nhất: Nói về quán phước.

- Thứ hai: Nói về định thiện và tán thiện.

- Thứ ba: Chỉ bày địa vị.

- Thứ tư: Giải thích ma nói.-Thứ năm: Chỉ sự lạm truyền. a. Nói về quán phước.

Ở dưới, bà Vi-đề-hy thưa rằng: Cúi xin Đức Thế tôn chỉ dạy cho con phép tư duy, chỉ dạy cho con phép chánh thọ. Sớ xưa thì dùng ba thứ phước để trả lời tư duy và mười sáu phép quán để trả lời phép chánh thọ. Nhưng theo Huyền nghĩa của Đại sư Thiện Đạo chép: Các Đại sư đem phép tư duy hợp với ba thứ phước và phép chánh thọ hợp với mười sáu phép quán, nhưng ở đây nói không đúng. Theo kinh Hoa Nghiêm thì phép tư duy và phép chánh thọ chỉ là tên khác của pháp tam-muội. Bà Vi-đềhy thưa hỏi ở trước chỉ chép: Chỉ dạy cho con phép quán ở cõi nghiệp thanh tịnh tức là biết phép tư duy và phép chánh thọ, chỉ là sự thưa hỏi về phép quán. Vì quán phương tiện trước nên gọi là tư duy, và vì chánh quán thành tựu nên gọi là chánh thọ. Nhưng vì người tu quán phải tu phước nghiệp để giúp thành tựu quán trí nên trước tiên nói về ba thứ phước, và sau đó mới nêu ra quán hạnh. Ba thứ phước như của báu, còn quán trí như cột buồm của thuyền. Đó là sự và lý giúp nhau, phước và trí đều vận dụng cả hai, thì làm sao có tu quán mà ngồi sừng sững không kính thờ thầy tổ, cha mẹ, không thọ trì ba quy y, năm giới cấm, không đọc tụng kinh sách Đại thừa ư?

Vì thế cần phải có các nghiệp lành để giúp thành tựu Chánh quán. Như bánh xe đơn, cánh chiếc thì làm sao có chỗ đến ư? Còn phần văn giải thích ở sau lại là phần phân biệt xác thực.

b. Phân biệt định thiện và tán thiện.

Huyền nghĩa của Đại sư Thiện Đạo chép: Mười ba phép quán trước thuộc về định thiện, còn chín phẩm ba thứ phước ở sau là tán thiện. Nhưng ở đây nói không đúng, nếu theo chỗ phân biệt tức là ứng theo chỉ có mười ba phép quán thì sao gọi là mười sáu phép quán ư? Huống chi trong phần tổng kết thượng phẩm của chín phẩm ở dưới nói. Đó là phép quán tưởng vãng sinh bậc thượng, gọi là phép quán thứ mười bốn. Trung phẩm và hạ phẩm cũng như vậy thì sao ba phép quán ở sau chỉ gọi là tán thiện? Chỉ sử dụng lời cầu này thì không cần công kích cũng tự phá vỡ việc y theo pháp không y theo người mà kinh Niết-bàn hết sức khuyên răn. Vì thế đến chín phẩm ở sau càng phải phân biệt.

c. Nói về địa vị.

Theo Huyền Nghĩa chép: Từ xưa đến nay các Đại sư đều dùng Ba hiền và mười Thánh của Đại thừa đối lập với ba phẩm trên, Tiểu thừa, nhị phàm và bốn Quả thì đối lập với ba phẩm giữa, còn các phàm phu mới tu học Đại thừa tùy theo lỗi nặng nhẹ mà đối lập với ba phẩm dưới. Văn kia bề bộn không thể dẫn đầy đủ ra đây. Ở đây nói theo chín phẩm dưới sinh về cõi nước kia rồi mới luận về địa vị như của các Đại sư. Lại theo văn kinh thì cầu vãng sinh về cõi nước này đều là các hạng phàm phu. Và phải y theo huyền nghĩa mười đoạn văn kinh kia làm chứng cứ và có thể nghiệm xét xưa là trái.

Kinh chép: "Nay ta nói rộng các thí dụ cho ngươi nghe, cũng giúp cho tất cả các hạng phàm phu, ở đời vị lai muốn tu tịnh nghiệp đều được sinh về thế giới Cực lạc ở Tây phương" là chứng cứ thứ nhất.

Lại chép: Hôm nay, Đức Như lai vì tất cả chúng sinh ở đời vị lai bị các giặc phiền não bức hại để nói ra nghiệp thanh tịnh là chứng cứ thứ hai.

Lại chép: Hôm nay, Đức Như lai chỉ dạy cho bà Viđề-hy và tất cả chúng sinh ở đời vị lai quán tưởng thế giới Cực lạc ở Tây phương là chứng cứ thứ ba.

Lại chép: Bà Vi-đề-hy thưa hỏi Đức Phật rằng: Hôm nay con nhờ năng lực Phật nên được thấy cõi nước kia. Nếu sau khi Phật nhập diệt, những chúng sinh vẩn đục bất thiện bị năm thứ khổ ép ngặt thì làm thế nào để thấy được cõi nước của Đức Phật kia là chứng cứ thứ tư.

Lại chép: Ngươi và chúng sinh nên chuyên tâm v.v... cho đến tự mình chẳng phải sinh ra đã bị mù, những người có mắt sáng đều thấy mặt trời lặn, là chứng cứ thứ. Lại chép: Đức Phật bảo ngài A-nan: Ông nên ghi nhớ và vâng giữ lời Ta dạy, nói phép quán đất này cho tất cả đại chúng ở đời vị lai muốn thoát khổ là chứng cứ thứ sáu.

Lại chép: Bà Vi-đề-hy bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay con nhờ năng lực Phật nên được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát, còn các chúng sinh ở đời vị lai làm thế nào để quán thấy là chứng cứ thứ bảy.

Lại chép: Đức Phật bảo Bà Vi-đề-hy: Ngươi và chúng sinh muốn quán tưởng Đức Phật kia thì nên khởi tưởng niệm v.v... là chứng cứ thứ tám.

Lại chép: Các Đức Phật Như lai là thân pháp giới vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Vì cho nên khi tâm các ngươi tưởng Phật là chứng cứ thứ chín.

Lại như trong chín phẩm, mỗi phẩm đều chép: Nếu có chúng sinh... là chứng cứ thứ mười.

Mười đoạn văn trên để chứng minh Đức Như lai nói mười sáu phép quán cho các chúng sinh thường bị chìm đắm mà không nói đối với những bậc Hiền thánh của Đại thừa và Tiểu thừa. (Ở trên đều là văn trong Huyền Nghĩa). Mười văn ấy rõ ràng. Văn thứ nhất, thứ hai, thứ tư, thứ năm, các văn ấy rất cần thiết và quan trọng. Đó là biết kinh điển này chỉ bao gồm những hạng phàm phu còn bị sự trói buộc trong cõi đời vẩn đục và khi đến cõi kia mới luận về sự dứt hoặc chứng trí. d. Giải thích ma nói.

Có chỗ nói người tu tịnh nghiệp Tây phương, khi sắp qua đời chiêu cảm thấy các tướng đều là ma. Đó là chưa lật ra giáo điển, không muốn tu trì, thích dùng lời tà che lấp lòng tin chân chánh của người khác. Vì sự gây hại không ít nên phải phân biệt, lại, ma có bốn thứ:

Thứ nhất, Ma năm ấm.

Thứ hai, Ma phiền não.

Thứ ba, Ma chết.

Thứ tư, Ma trời.

Ba thứ ma ở trên là thân tâm của ngươi và chỉ có ma trời là ở các tầng trời cõi Dục. Đó là đại quyền đẩy lùi việc ác, khuyến tiến việc lành, có công phu tu hành lớn mới có thể chủ động. Còn những kẻ phàm phu tu đạo trong tâm bất chánh thì chắc chắn bị ma quấy nhiễu, nếu tâm chân thật thì ma không làm gì được. Như thế, biết ma là tự các ngươi chứ chẳng phải từ chỗ khác đến. Như những loại yêu quái lâu đời đến dua nịnh mê hoặc đối với mọi người, nhưng nếu tâm ngay thẳng, sắc chánh trực, thì chắc chắn chúng không thể đến gần. Và nếu buông thả tình cảm ngoảnh lại nhìn thì chắc chắn bị chúng mê hoặc. Ở đây dẫn chứng các thuyết để dứt hết sự nghi ngờ.

Có chỗ nói: Trong ánh sáng rực rỡ chắc chắn không có việc ma, như ban ngày kẻ gian, kẻ trộm khó hành sự. Có chỗ nói: Ở cõi nước này quán tâm, trái lại quán bổn ấm, nên thường phát sinh các việc ma, ở đây quán cảnh giới chân thật quả đức của Đức Phật A-di-đà, vì thế không có việc ma.

Có chỗ nói: Người niệm Phật đều được tất cả các Đức Phật che chở đã được tất cả các Đức Phật che chở thì sao có ma được?

Có chỗ nói: Người tu tịnh nghiệp thì phát sinh việc ma, ấy là Đức Phật nói chỉ để phá trừ như kinh Bát-nhã, kinh lăng-nghiêm... nếu Đức Phật không chỉ dạy thì chúng sinh sẽ bị mê lầm, đọa vào lưới ma. Nay các kinh Tịnh độ đều không nói ma, tức là biết pháp môn này rõ ràng không có ma.

Pháp sư Sơn Âm, Khánh Văn phân biệt lòng tin chân chánh đối với pháp môn rất rõ ràng và nay dùng để dẫn chứng đầy đủ.

Có người hỏi rằng: Có người nói khi qua đời thấy Đức Phật và các vị Bồ-tát phát ra ánh sáng, bưng đài, nhạc trời, mùi hương khác lạ đến đón rước vãng sinh đều là việc ma thì lời nói ấy như thế nào?

Đáp rằng: Có những người y theo kinh Thủ lăng nghiêm để tu tập pháp tam-muội thì có lúc bị ma năm ấm phá rối. Có những người y theo luận Ma-ha-diễn để tu tập phép tam-muội thì có lúc bị ma bên ngoài phá rối (chính là ma trời). Có những người y theo luận chỉ quán để tu tập phép tam-muội thì có lúc bị các loài yêu quái phá rối. Những hạng người này đều là những hạng người tu tập thiền định dựa vào tự lực và trước tiên có hạt giống ma thì chắc chắn bị kích động, cho nên mới hiện ra những việc ấy. Nếu có thể biết rõ là thức dùng phương pháp để đối trị thì liền dứt bỏ được, và nếu dùng Thánh để hiểu thì đều bị ma chướng (Ở trên nói những người này mới vào đạo thì sẽ phát sinh việc ma). Ở đây theo chỗ tu tập phép tam-muội niệm Phật là nương nhờ năng lực Phật, như gần vị đế vương thì không ai dám can phạm. Bởi Đức Phật A-di-đà có năng lực từ bi lớn, năng lực thệ nguyện lớn, năng lực trí tuệ lớn, năng lực tammuội lớn, năng lực oai thần lớn, năng lực diệt tà lớn, năng lực hàng ma lớn, năng lực thiên nhãn thấy xa, năng lực Thiên nhĩ nghe xa, năng lực tha tâm soi xét thông suốt, năng lực ánh sáng chiếu khắp để che chở chúng sinh. Có những năng lực công đức không thể suy nghĩ bàn luận như thế, thì sao lại không thể che chở những người niệm Phật đến khi qua đời khiến cho không có sự chướng ngại ư? Nếu không được sự che chở ấy thì năng lực từ bi ở đâu? Nếu không thể dứt trừ được ma chướng ấy thì năng lực trí tuệ, năng lực tam-muội, năng lực oai thần, năng lực diệt tà, năng lực trừ ma nằm ở đâu?

Nếu không thể soi xét kỹ để bị ma chướng ấy thì năng lực thiên nhãn thấy xa, năng lực thiên nhĩ nghe xa, năng lực tha tâm soi xét thấy suốt nằm ở đâu? Kinh chép: Tướng tốt sáng chói của Đức Phật A-di-đà chiếu khắp các chúng sinh niệm Phật trong các thế giới ở mười phương, che chở không xả bỏ. Nếu nói người niệm Phật khi qua đời bị các ma chướng ấy thì năng lực ánh sáng chiếu khắp, che chở chúng sinh nằm ở đâu? Huống chi người niệm Phật khi qua đời cảm được các tướng được nêu ra từ các kinh đều là những lời nói của Phật thì sao chê là ma chướng cho được? Đây là quyết định phá bỏ những sự nghi ngờ tà ma để sinh tâm chân chánh (Ở trên là theo văn kia).

Lại, kinh Lăng-nghiêm chép: Trong khi tâm thiền định thấy Đức Phật Tỳ-lô-giá-na ngồi trên đài Thiên quang, có mười Đức Phật vây quanh v.v... Đó gọi là tâm hồn bị sự tỏ ngộ linh hoạt làm tiêm nhiễm. Tâm trí sáng suốt nghiên cứu rõ ràng để chiếu soi các thế giới. Tạm thời được như thế chẳng phải chứng Thánh. Sớ chép: Nếu người tu phép tam-muội niệm Phật, cảnh ấy hiện tiền, hợp với Tu-đa-la gọi là Chánh tướng. Còn nếu tu các phép quán khác, dù cho thấy hình tượng Phật cũng không gọi là chánh vì tâm và cảnh không tương ứng, huống chi quán chân như không giữ các tướng nhưng có chỗ chấp chặt thì sao chẳng phải ma ư?

Trong đây phải phân biệt hết sức nhỏ nhiệm, lại dẫn chứng đầy đủ các chỗ nói ở trước để dứt bỏ hẳn những sự nghi ngờ che lấp. e. Chỉ ra sự lạm truyền.

Giáo pháp Tịnh độ bắt đầu từ xưa đến nay, từ khi có

Bạch liên xã ở núi Lư, đời Tiến. Từ đó về sau Đại sư

Thiện Đạo, Đại sư Hoài Cảm, Đại sư Tuệ Nhật, Đại sư Thiếu Khang, các bậc Hiền đức danh tiếng và đến ngày nay, các vị tông sư giảng nói về thiền ở các triều đại trước cũng truyền xướng rộng nhiều. Nhưng chỉ có Pháp sư Từ Vân người Thiên-trúc là tinh thông cùng cực giáo lý, chấn hưng phồn thịnh một thời, đã viết ra nghi thức sám Di-đà lớn nhỏ, kệ vãng sinh để truyền bá lòng tin chân chánh, thơ tam-muội niệm Phật và các bức tranh thấy được lưu hành ở đời. Từ đó về sau ít người có khả năng thừa kế, thời sự biến đổi, việc truyền thừa sai lầm bừa bãi và pháp môn ấy hầu như đi đến chỗ chấm dứt. Mặc dù đã từng nghe sự tu tập nói phỏng rất nhiều, nhưng nếu không phân biệt rõ ràng thì sợ làm mê hoặc những người tu học đời sau. Vì thế dẫn chứng sơ lược vài việc để bậc thức giả hiểu rõ. Các sách vở Nho giáo phương này cũng nói về Tây phương, như các sách ghi chép khác ở đời nhà Chu chép: Khi Đức Phật sinh, có khí lành nổi giữa hư không và viên Thái sử Tô Do tâu rằng: Có một vị Đại thánh sinh ở Tây phương và một ngàn năm sau âm thanh giáo pháp sẽ bao trùm đến đây. Sau khi Đức Phật nhập diệt có cầu vòng trắng mười hai đường thông suốt từ Nam tới Bắc và viên Thái sử Hổ-đa tâu rằng: Ở Tây phương có điềm của một vị Đại thánh nhập diệt. Lại, sách Liệt Tử chép: Ngày xưa đời nhà Thương, viên Thái tể hỏi Khổng Tử: Ai là bậc Thánh? Khổng Tử đáp rằng: Tây phương có bậc Thánh không trị mà chẳng loạn, không nói mà tự tin, không giáo hóa mà tự hành... Trong văn Khổng Tử chép: Phật pháp là tôn giáo ở phương Tây. Trung quốc câu nệ, cho đến đời sau các nhà Nho phần nhiều cho Phật giáo là Tây phương, đó là do nước Thiên-trúc nằm về phía Tây, chứ chẳng phải Tây phương mà kinh này nói.

Thử hỏi sơ lược, một mặt trời một mặt trăng, một núi Tu-di, một tứ thiên hạ gọi là một thế giới, một ngàn thế giới gọi là một Tiểu thiên thế giới, một ngàn tiểu thiên gọi là một trung thiên thế giới, một ngàn trung thiên thế giới gọi là một Đại thiên thế giới. Đó là phạm vi giáo hóa của Phật Thích-ca. Nay cõi Diêm-phù-đề này là một châu trong một thế giới. Thần châu của cõi này lại là một góc trong một châu. Năm nước Thiên-trúc đang ở giữa cõi Diêm-phù-đề, Thần châu ở phía Đông nam của cõi nước kia. Và từ cõi nước này trông về cõi nước kia nên gọi là Tây phương.

Còn nếu nói về cõi Tịnh của Đức Phật A-di-đà thì vượt ngoài một thế giới Đại thiên, lại vượt qua mười muôn ức cõi nước. Người trí chép: cõi Tịnh Tây phương vượt ra ba cõi, tức là biết cách xa nước Thiên-trúc của cõi Diêm-phù-đề này như trời vực thì làm sao có thể bừa bãi cho là đồng như nhau? Trộm nghĩ rằng những người xưa nay không tin Tịnh độ, sự chướng ngại ấy có hai:

1. Người khác gây chướng ngại.

Nói người khác gây chướng ngại. Nghĩa là những truyền thuyết kỳ lạ ở đời không phân biệt phải trái, vì thế đối với những lời dạy của Đức Phật trái lại không chịu tin nhận. Và sơ lược nêu lên vài ba điều, số còn lại chẳng thể nói hết. Như Tuệ Bố trong Tăng truyện chép: Cõi nước tuy thanh tịnh nhưng chẳng phải là chỗ mong muốn của ta. Dù cho mười kiếp ở trong hoa sen hưởng thụ những thú vui sướng thì không bằng ở chỗ cực khổ trong ba đường để cứu độ chúng sinh. Và ở đây nói Bồ-tát được nhẫn thì còn có thể chấp nhận lời nói ấy, nhưng nếu chưa được nhẫn tự mình không thể cứu độ được mình thì làm sao cứu độ được kẻ khác? Luận Trí Độ chép: Kẻ phàm phu còn bị trói buộc có tâm đại bi cứu độ chúng sinh thì không bao giờ có việc ấy. Như chỗ phá trừ trong điều nghi ngờ thứ nhất của Luận Thập Nghi có người chép: Nếu tâm thanh tịnh tức là tự tánh Tây phương thì cần gì phải cầu sinh về cõi Tịnh ở phương khác? Ở đây nói chẳng phải là không có lý ấy nhưng đó là cõi lý pháp tánh trong giáo môn chứ chẳng phải điều mà kinh này nói. Tuy nhiên, những hạng phàm phu còn bị trái buộc chưa lên được địa vị nhẫn thì dù có đốn ngộ tự tâm, thì ai có khả năng thường giữ được tâm thanh tịnh? Pháp tuy mầu nhiệm cao siêu nhưng không gom nhiếp các căn cơ, vì chỉ có những lời nói trống rỗng thì nhờ đâu để tạo phương tiện đi vào?

Lại chép: Tây phương cách đây mười muôn tám ngàn dặm, đó cũng là lầm cho rằng Tây trúc là Tây phương. Kinh chép: Từ đây về Tây phương qua mười muôn ức cõi nước Phật có một thế giới tên là Cực lạc, thì sao lại chỉ có mười muôn tám ngàn dặm ư? Sơ lược chỉ một đoạn, còn các đoạn khác không đáng để bàn luận.

Có người chép: Mười sáu phép quán ấy chỉ bao gồm những hạng người hạ căn.

Ở đây nói kinh này là pháp viên đốn thượng thừa thành Phật, tâm này là Phật, xuất xứ từ kinh này, bà Viđề-hy khi vừa nghe pháp liền dứt vô minh để được Vô sinh nhẫn, còn năm trăm thị nữ phát tâm Bồ-đề chẳng lẽ đều là những hạng người hạ căn ư? Lại chép: Những người niệm Phật khi qua đời cảm được các Đức Phật và các vị Bồ-tát đến đón rước, đều là nghiệp của tự tâm hiện ra chứ thật sự không có các Đức Phật ở các phương khác đến đón rước. Ở đây thấy rõ lời nói đó có nhiều sai lầm.-Thứ nhất là: Không tin lời Phật dạy. Vì chín phẩm trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói khi qua đời cảm được tướng (Phật và các Bồ-tát) đều là do Đức Phật nói.

- Thứ hai: Không tu hành theo năng lực Phật. Vì Chư Phật, Bồ-tát dùng thệ nguyện từ bi dứt khổ cho vui, không bỏ sót chúng sinh.

- Thứ ba: Không tin thể tánh Phật, vì Phật và chúng sinh thể tánh đều bình đẳng, có cảm có ứng. Nếu Đức Phật không ứng thì ba thân không đầy đủ là chẳng phải Phật. Nếu ba điều ấy không tin thì sẽ tin ai được?

Lại có người chép: Chớ học theo những người ngu để cầu sinh Tịnh độ. Ở đây cho rằng kinh Vô Lượng Thọ chép: Các Bồ-tát trong mười phương đều nguyện vãng sinh Tịnh độ. Huống chi hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền, viên thông của Bồ-tát Đại Thế Chí đều nguyện vãng sinh Tịnh độ. Các bậc thượng thiện Bổ xứ không lui sụt lại là những hạng người ngu ư? Lại, trong Tăng truyện có chép: Ngày xưa vào đời Tiến có các vị Cao tăng như Sinh Dung, Trì Viễn ở núi Thiên Thai, Nam Nhạc, và ở núi Lư có mười tám bậc Hiền đều tu pháp môn này thì cũng lại là những hạng người ngu ư? Nay ngươi vướng mắc chấp chặt vào ba cõi, đam mê tham luyến cõi đời năm thứ vẩn đục để đành cam chịu các thứ khổ mà không chịu suy nghĩ xa lìa thoát khỏi lại là kẻ trí, vì điên đảo gì lại giả cho mình có nhẫn lực vui trụ ba cõi độ sinh phát ra những lời nói như vậy để làm chướng ngại sự tu tập của kẻ khác?

Lại chép: Cầu sinh Tịnh độ, niệm Phật, tu quán đều là những việc chấp tướng chứ chẳng phải pháp siêu việt. Ở đây nói chấp chặt không chấp chặt, là ở cái thấy sáng hay tối trong tâm trí mỗi người, sao lại cứ hễ thấy tu trì thì theo lệ thường đều cho là chấp tướng, buông lung không kềm chế thì đều là người thông thái!?

Hơn nữa, Đức Phật nói không chấp tướng là không chấp chặt các tướng ta, người, chúng sinh, thọ giả... không an trụ chỗ tu hành pháp tướng, dứt bỏ được hai thứ chấp người và pháp tức là hiểu rõ người và pháp cả hai đều không, đâu từng cho rằng buộc niệm để tiến tu mà gọi là chấp tướng ư? Hơn nữa, người đời thường cạnh tranh ngã và nhân, khoe khoang quyền thế, đam mê thanh sắc, chạy theo danh lợi, vơ vét của cải, lưu luyến vợ con, các tướng như thế từ vô thỉ đến nay thường yêu thích ràng buộc, nên Đức Phật khuyên bảo xa lìa thì trái lại lại càng chấp chặt sâu hơn, còn phương pháp tammuội niệm Phật từ vô thỉ thì chưa hề tu tập qua. Đức Phật khuyên bảo tu tập thì trái lại nghi ngờ chấp tướng. Chúng sinh mê lầm điên đảo đều ở chỗ này. Nay nói nếu tu tập tam-muội niệm Phật thì chắc chắn chẳng phải là chấp tướng. Vì sao? Vì thân Phật là vô tướng thì có gì để có thể chấp chặt?

Luận Đại Trí Độ chép: Gieo trồng ruộng phước Phật đó là tuệ tâm chấp chặt vững chắc. Tùy theo dùng các loại hương hoa để cúng dường các Đức Phật không cùng tận, luận sư Long Thọ chẳng lẽ không hiểu Bát-nhã mà nói chấp chặt vững chắc, chẳng lẽ Ngài cũng chấp tướng hay sao?

Pháp không của Bát-nhã vốn dùng để người tu học sáu độ không trụ tướng, nếu không tu sáu độ thì Bát-nhã làm sao dùng được. Kẻ thật sự đắc đạo hiểu rõ tu mà không tu, niệm mà không niệm, đó chính là cả ngày tu mà không hề tu, cả ngày niệm mà không hề niệm.

Kinh Kim Cương Bát-nhã chép: Không có ta, người, chúng sinh, thọ giả mà tu tất cả pháp lành thì sẽ được quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vì thế biết kẻ sĩ hiểu rốt ráo đâu từng không tu điều lành ư!

Lại có người nói rằng: Khi qua đời nếu thấy các cảnh giới cờ phướn, hoa sen... hiện ra trước mắt đều không được đi. Ở đây nói cảnh hiện ra khi qua đời là do sự chánh niệm và nghiệp lành của tự thân chiêu cảm, cũng có khi do tà tâm gây ra điều ác chiêu cảm thì đâu thể đều bác bỏ cho là việc ma? Huống chi khi các tướng ác hiện ra là theo nghiệp dẫn dắt, thì đâu thể do ý người muốn đi hay không đi? Như người gây ra nghiệp ác thì phải đọa vào ba đường, khi qua đời các tướng ác hiện ra thì dựa vào lý do nào mà không đi? Vì thế biết truyền bá sai lầm không đáng tin.

Có người phát nguyện rằng: Nguyện từ đời này cho đến khi thành bậc Chánh giác, khi chưa đắc đạo thì thân không bị rủi ro bệnh tật, sống lâu không bị chết yểu, khi mạng sống đã hết thì không thấy các đường ác, được sinh làm thân người, thông minh ngay thẳng, không sinh vào nước ác, không gặp vua ác, cho đến ở chỗ sinh ra, được gặp Phật nghe pháp, đồng chân xuất gia làm tăng hòa hợp. Ở đây nói nếu sinh về Tịnh độ thì không có những tai hoạn rủi ro bệnh tật, chết yểu, nước ác, vua ác, tự nhiên thường gặp Tam bảo, xuất gia làm tăng, nhưng chỉ vì không biết Tịnh độ, nên có lời phát nguyện ấy. Cũng giống như Trần Trừ Lăng nguyện rằng: Nguyện liền sinh trở lại trong loài người, thác sinh ở chỗ không cao, không thấp... Vì người kia là hạng nhà Nho nên chẳng trách ở lời nói, nhưng phần nhiều các vị Tông sư giảng về Thiền lại có kiến chấp ấy và đều chép: Chỉ nguyện đời sau không mất thân người nam, xuất gia học đạo. Thường Thí nói rằng: Nay ngươi đã được thân người nam xuất gia, chỉ nên cầu sự ra khỏi sao lại cầu thân người nam, lại nguyện xuất gia, lơ láo không chịu thắng tiến ư?

2. Tự mình chướng ngại, lược nói sáu thứ:

- Một là chép: Khó sinh Tịnh độ, tôi không có sức mạnh nên chẳng chẳng dám quá trông mong, chỉ không mất thân người là đủ.

- Hai là chép: Ta hủy giới, phá trai, nghiệp ác sâu nặng thì Tịnh độ Tây phương đâu thể sinh được?

- Ba là chép: Đức Phật nói thế giới Cực lạc ở Tây phương là dùng quyền để dắt dẫn chúng sinh. Hơn nữa, nghĩ làm điều lành đều không có việc thực tế ấy, thấy tu điều lành lại bị sự chê cười.

- Bốn là chép: Thông minh lợi trí ngộ thẳng tâm mình, tùy theo những việc mình đã làm được chẳng có gì là không hợp đạo thì đâu cần đồng như kẻ sĩ bậc thấp tu hành niệm Phật ư?

- Năm là chép: Người ta sinh ra do huyết khí nhóm họp, giả gọi là thân và khi chết đi trăm xương tan rã, tất cả trở về hư không thì có cõi Tịnh nào để sinh về!

- Sáu là chép: Khi qua đời khởi tưởng cướp lấy thai ấm kia, trong sát-na đổi lấy báo thân mà không trải qua bào thai. Ở đây nói báo thân sắc tâm là do nghiệp đời trước tạo thành, thì đâu có việc thần thức của ta cướp lấy báo thân của kẻ khác? Thiết tưởng thần thức linh diệu trước đã gá vào thai kia thì khi báo thân sinh ra sẽ chẳng phải thân ấm của kẻ khác. Dù cho khởi tưởng có thể cướp lấy thì nhọc sức muốn vào bào thai là vì ý gì?

Đó là trái với chí nguyện của người xuất gia, trái với pháp môn giải thoát, huống chi lòng đại bi của Phật mở bày pháp môn Tịnh độ, hết lòng khuyên bảo rộng khắp trong các kinh Đại thừa, mắt thấy tai nghe lại sinh tâm nghi ngờ chê bai, tự mình cam chịu chìm đắm, chẳng muốn siêu thăng. Đức Như lai nói ra vì những người đáng thương xót ấy, bởi không biết pháp môn này đặc biệt khác thường, không phân biệt hiền, ngu xuất gia hoặc tại gia, bất luận tu hành lâu mau, không kể tạo tội nặng nhẹ mà chỉ cần có lòng tin quyết định, tức là gieo trồng nhân vãng sinh. Pháp sư Từ Vân chép: Chỉ có Tịnh nghiệp An Dưỡng là (pháp môn) nhanh thẳng nên tu tập. Nếu có bốn chúng muốn được phá trừ vô minh nhanh chóng, dứt trừ hẳn năm tội nghịch, mười điều ác nặng nhẹ... thì nên tu pháp môn này. Muốn được giới thể của Đại thừa và Tiểu thừa trở lại thanh tịnh, được phép tammuội niệm Phật, thành tựu các pháp Ba-la-mật của Bồtát thì nên tu học pháp môn này. Muốn khi qua đời xa lìa các sự sợ hãi, tự tâm bình an vui sướng, các bậc Thánh đều hiện tiền đưa tay dẫn dắt, bước đầu xa lìa trần lao, cho đến đạt được địa vị không lui sụt, không trải qua nhiều kiếp liền được Vô sinh thì nên tu pháp môn này... Pháp ngữ của bậc Hiền xưa có thể không theo, năm môn nói trên đã lược nêu cương yếu, số còn lại đều được nói ở văn giải thích.

Theo Khai Nguyên Tạng Lục thì kinh này gồm có hai bản dịch nhưng bản trước đã mất, còn bản này do ngài Cương-lương-da-xá dịch. Tăng truyện chép: Cương-lương-da-xá, Hán dịch là Thời Xưng, người ở Tây Vực, tánh tình ngay thẳng, cứng rắn, ít ham muốn, khéo thông hiểu ba tạng. Vào niên hiệu Nguyên Gia, đời Tống, ban đầu đến ở Kinh ấp, Văn Đế khen ngợi sự khác thường nên sắc lệnh đến ở tinh xá Đạo Lâm ở núi Chung. Đại sư Tăng Hàm thỉnh Ngài dịch kinh này và Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng, Đại sư Tăng Hàm làm người ghi chép, sau đó Sư đến núi Mâu đất Thục, khi trở về mất ở Giang Lăng. Lại, sự giải thích của các đời trước gồm có: Pháp sư Tuệ Viễn, Đại sư Thiên Thai

Trí Giả Đời Tùy đều có chương sớ. Hòa thượng Thiện Đạo Đời Đường, cũng lập Huyền nghĩa, đều được truyền bá ở đời, nhưng do các tông phong còn phế lập hình thành lẫn nhau, cho nên những chỗ giải thích này chọn lựa những điều hay và do đó chắc chắn có sự sai lầm, nhưng chẳng phải không có giềng mối chính đáng.

Ngài Tam tạng Cương-lương-da-xá, người Tây Vực đời

Lưu Tống, dịch. Thích Nguyên Chiếu-Chùa Sùng Phước ở Linh Chi thuộc Tây Hồ soạn.

QUYỂN TRUNG

Giải thích riêng văn kinh, có hai phần:

1. Thứ nhất: Giải thích đề kinh.

2. Thứ hai: Giải thích văn kinh.

I. Giải thích đề kinh:

Theo văn kinh ở dưới, ngài A-nan thưa hỏi Đức Phật và lập thành hai tên gọi: Ban đầu chép: Kinh này tên là Quán Cực lạc Cõi nước Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đại Thế Chí Bồ-tát và thêm một chữ kinh, cộng chung là mười hai chữ, đó là đặt tên theo tâm và cảnh. Cũng gọi là Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật trên. Lại thêm một chữ kinh, cộng có chín chữ, đó là đặt tên theo chỗ phá nghiệp chướng chiêu cảm được quả báo.

Theo tên gọi thứ nhất thì chữ Quán là Trí năng quán, và mười tám chữ ở dưới là cảnh Sở quán, cõi nước Cực lạc tức là y báo gom nhiếp sáu phép quán ở trước, và từ Vô Lượng Thọ trở xuống tức là chánh báo gom nhiếp mười phép quán ở sau.

Quán Phật là gom nhiếp chung ba phép quán ở trước và hai vị Bồ-tát ở dưới là gom nhiếp chung cả bảy phép quán. Vì cho nên một tựa đề này có đầy đủ mười sáu phép quán.

Theo tên gọi thứ hai thì Tịnh trừ nghiệp chướng là gom nhiếp chung lực dụng của mười sáu quán hạnh trước, quán thành tựu thì phá trừ nghiệp chướng, tức là thấy nhân. Sinh ở trước Chư Phật tức là quả báo của đời sau. Không chỉ Đức Phật A-di-đà mà nói "Chư Phật" tức như kinh chép: Thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ tức là thấy được vô lượng các Đức Phật trong mười phương v.v... Ở đây các nhà phiên dịch chỉ dùng phần tên gọi thứ nhất nhưng vẫn theo sự tĩnh lược, chỉ căn cứ theo các Đức Phật để phù hợp sâu xa với ý chỉ kinh.

Sớ của Đại sư Thiên Thai Trí Giả chép: Nêu chánh báo để gom nhiếp y báo, nói Đức Hóa chủ để bao gồm đồ chúng. Quán tuy có mười sáu pháp nhưng nói Phật thì đủ khắp. Đó là nêu lên sơ lược những chỗ thiết yếu, gom nhiếp trước sau để giải thích. Sớ của ngài Tuệ Viễn chép: Vì kinh lấy quán Phật làm chính nên nêu riêng, đó là y theo các tông quán của kinh để giải thích. Nay thấy rõ ý nghĩa của hai giải thích ở sau thì rất dài vì chính là quán Phật, nhưng trước phải có cõi nước dùng làm lý do, dần dần sau đó nhân quán Phật và đồ chúng để nói rộng khắp. Thế nên trong văn quán Phật gọi riêng là Tammuội niệm Phật.

Trong đề, bảy chữ ở trước là đề riêng, riêng ở văn này, một chữ ở sau là đề chung, chung cho các kinh điển. Hai chữ ở trước là nêu Đức Giáo chủ năng thuyết và năm chữ ở sau là chỉ bày phương pháp tu hành sở thuyết.

1. Trong phần năng thuyết, Phật là một hiệu trong mười đức hiệu, thuyết là làm vui lòng chúng, Hóa chủ cõi này là Đức Phật Thích-ca, vì thế chỉ nêu đức hiệu chung. Còn cảnh sở quán ở dưới sợ lạm đến các Đức Thế tôn khác, vì thế chung và riêng đều nêu cả hai. Luận Trí Độ chép: Kinh do năm hạng người chép:

a. Phật

b. Thánh đệ tử

c. Các vị tiên

d. Các vị trời và quỉ thần

e. Người biến hóa.

Đó là muốn nói kinh này do chính Đức Phật tự nói, phân biệt chẳng phải người khác để chúng sinh tin nhận. Tuy nhiên giáo và luật trong một đời Đức Phật thì chỉ có Đức Phật nói đặc biệt cao siêu, rõ ràng, hoặc bí mật. Kinh được cả những hạng người khác nói nhưng phải được ấn chứng mới đáng tin. Theo trong kinh, pháp môn Tịnh độ chắc chắn là Đức Phật nói để nói lên chẳng phải là chỗ biết của các Tiểu thánh, hoặc các hạng phàm phu khác. Vì thế các kinh khác hoặc bao dung không chấp chặt, còn các kinh Tịnh độ đều phải nêu lên để phân biệt.

2. Trong phần pháp sở thuyết, một chữ ở trên là tâm năng quán và bốn chữ dưới là cảnh sở quán. Trong phần thứ nhất, các phép quán của Đại thừa và Tiểu thừa đều chỉ cho thức thứ sáu làm thể năng quán. Trong năm ấm thì thuộc về hành ấm thiện, thể của ba thứ tâm ở trước hành, chỉ là vô ký phải dùng hành tâm để thành tựu nghiệp mới cảm được quả báo, chiêu vời sự sinh khởi. Theo văn kinh ở dưới hoặc gọi là tưởng niệm, hoặc gọi là tư duy, cách gọi thì khác nhưng thể lại giống nhau, phải chăng đều chỉ ý tứ là năng quán.

Kế là, trong phần sở quán, tiếng Phạn là A-di-đà, Hán dịch là Vô Lượng Thọ, cũng dịch là Vô Lượng Quang, tức là trong bốn mươi tám lời nguyện có hai lời nguyện ánh sáng và tuổi thọ nếu có hạn lượng thì không thành Chánh Giác. Tuổi thọ biểu thị cho phước, là đức giải thoát, ánh sáng biểu thị cho trí, là đức Bát-nhã. Bátnhã và giải thoát cùng trang nghiêm pháp thân, tức là Đức Giáo chủ gom nhiếp chúng sinh về Cõi Tịnh đồng cư. Bồ-tát Quan Thế Âm bổ xứ thật có hạn lượng tuổi thọ nhưng theo phàm phu và Tiểu thừa thì chẳng thể tính toán, vì thế nói là vô lượng. Phật, nói đủ là Phật-đà, Hán dịch là Giác. Giác có hai nghĩa:

Thứ nhất là nghĩa giác sát, tứ trụ như giặc và chỉ có bậc Thánh mới giác biết, không thể làm hại.

a. Thứ hai là nghĩa giác ngộ, vô minh như giấc ngủ, trí tuệ của bậc Thánh một khi khởi lên thì như giấc ngủ được thức giấc đối với người nhị thừa kia, nên gọi là Đại giác. Và vượt qua địa vị Đẳng giác kia, vì thế gọi là Diệu giác. Lại theo một tướng, còn lại nói riêng về thân tướng quang minh đầy đủ như quán Phật. Kinh, tiếng Phạn là Tu-đa-la, Hán dịch là Tuyến, là lý xuyên suốt. Gom nhiếp và giữ gìn chúng sinh, có khả năng xuyên qua, có khả năng gom nhiếp như sợi chỉ, tức là năng thuyên, giáo thành, danh, cú, văn. Do giáo mà biết được lý, y theo lý để khởi sự tu hành, nhờ sự tu hành mà cảm được quả. Lý, hạnh và quả đều sinh ra từ giáo, vì thế biết thời tượng pháp, mạt pháp, chỉ giáo là có công năng làm nhân duyên đắc đạo, là nền tảng sinh ra đạo, nên người xưa quở trách để dứt trừ thái độ trì trệ. Kẻ mạt học ngông cuồng ngu si, sinh ra sự khinh miệt, cắt đứt hạt giống Phật, hủy hoại pháp thân Phật, mãi mãi rơi xuống hố tà ma, mãi gặp ách nạn. Dù rằng chấp ngón tay là mặt trăng, cho bè là bờ cũng là nhân duyên giải thoát xa, không mất phước báo trời, người, huống chi là sự siêu phàm bạt tụy là chỗ lợi ích không thể cùng tận. Sớ xưa lại chép: Dạy pháp, dạy thường, từ miệng vàng của bậc Thánh, thế nên gọi là kinh.

II. Giải thích văn kinh.

Văn kinh chia làm ba, tức là ba phần: Phần tựa, phần chánh tông và phần lưu thông.

Từ đầu đến cõi nghiệp thanh tịnh là phần tựa.

Từ "Bấy giờ, Đức Phật phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày cho đến vô lượng các vị trời phát đạo tâm vô thượng" là phần chánh tông.

Từ "Khi ấy, ngài A-nan bạch Phật nên đặt tên kinh này là gì... trở xuống cho đến cuối văn là phần lưu thông. Ba phần phán kinh hoặc đầy đủ, hoặc thiếu là tùy kinh mà khác nhau, không hẳn như nhau.

1. Thứ nhất là Phần tựa:

a. Từ đầu cho đến "Là bậc Thượng thủ" gọi là phần tựa chứng tín, vì sáu việc cùng làm chứng giúp cho không còn sự nghi ngờ.

b. Bấy giờ ở Đại thành Vương-xá trở xuống gọi là phần tựa phát khởi, vì pháp không phát khởi một mình mà phải mượn nhân duyên để phát. Và cũng gọi là hai phần tựa chung và riêng.

Phần tựa chứng tín chung cho các kinh điển. Còn phần tựa phát khởi thì riêng ở kinh này. Lại, phần tựa chứng tín thì văn chung mà nghĩa riêng, "Các pháp như vậy" pháp hạn cục chỉ kinh này. Còn phần tựa phát khởi thì văn riêng mà nghĩa chung, đầu các kinh đều có nhân duyên. Lại, phần tựa chứng tín kết tập mới đặt, gọi là phần tựa sau kinh.

Phần tựa gồm hai phần: a. Từ đầu cho đến "Là bậc Thượng thủ" gọi là phần tựa chứng tín, vì sáu việc cùng làm chứng giúp cho không còn sự nghi ngờ. Sáu việc đó là:

Thứ nhất, "Như vậy", tức là chỉ cho pháp mà phần chánh tông nói.

Thứ hai, "Tôi nghe", là ngài A-nan đích thân nghe từ Đức Phật, là nói về chẳng phải tự mình nói.

Thứ ba, "Một thời", là bắt đầu từ khi chúng nhóm họp đến cuối cùng xong cuộc kết tập là một thời kỳ để phân biệt chẳng phải thời gian khác.

Thứ tư, "Phật", là Đức Giáo chủ nói giáo, nói lên chẳng phải người khác.

Thứ năm, Từ thành Vương-xá trở xuống là chỗ nói kinh. Thứ sáu, Chúng Đại Tỳ-kheo... cùng nghe.

- Thứ nhất: Chỉ cho pháp sở thuyết của phần chánh tông. "Như thị": Xứng với lý gọi là như, xa lìa chỗ không phải gọi là thị, chắc chắn đáng tin, vì thế gọi riêng là Như thị.

- Thứ hai: "Tôi nghe", tức là ngài A-nan đích thân nghe từ Đức Phật, là nói về chẳng phải tự mình nói. "Tôi nghe": Các pháp vô ngã, vô ngã thì không nghe nhưng theo giả danh của thế tục nên nói là "tôi nghe".

- Thứ ba: "Một thời", tức là bắt đầu từ khi chúng nhóm họp đến cuối cùng xong cuộc kiết tập là một thời kỳ, để phân biệt chẳng phải thời gian khác. "Một thời": Các thời nói kinh của Đức Như lai nhiều vô lượng không thể chỉ cố định, nên nói là nhất thời. Lại, vì cõi nước phương Tây này năm, tháng, ngày, giờ khác nhau, nên khi truyền bá đến các phương khác thì mọi người khó hiểu. Lại, các kinh hoặc có một cuộc nói pháp chưa xong, sau đó kết tập mới soạn thành văn, trước sau bất nhất rất khó chỉ ra. Tức là như kinh này vua A-xà-thế gây ra tội nghịch, Đức Như lai nói kinh, ngài A-nan thuật lại thì đâu phải cùng thời, cho nên dùng "Một" để nói, tức là bao la sự cùng tận ấy.

- Thứ tư: "Phật", là Đức Giáo chủ nói giáo, nói lên chẳng phải người khác. "Đức Phật": Phật, Hán dịch là Giác, tự mình giác ngộ nên khác với phàm phu, giác ngộ cho người khác, khác với Nhị thừa, hạnh giác ngộ đầy đủ nên khác với các Bồ-tát, vì thế gọi là Đại giác. Tức là chỉ cho vị Đại sư Thích-ca mở bày pháp môn Tịnh độ.

- Thứ năm: từ thành Vương xá v.v... trở xuống là chỗ nói kinh, có hai:

Thứ nhất, Cảnh du hóa. Thứ hai, Chỗ y chỉ.

- Thứ nhất, Cảnh du hóa: Ở thành Vương-xá.

Tiếng Phạm là La-duyệt-kỳ-già-la, Hán dịch là Vương-xá. Theo sự giải thích của luận Trí Độ thì nói là vị trí khai sáng của vua ngày xưa, vì thế gọi theo gốc tức là chỗ ở của vua.

- Thứ hai: Chỗ y chỉ: Trong núi Kỳ-xà-quật.

Kỳ-xà-quật, Hán dịch là Linh Thứu, vì các vị thần linh nương theo đó để ở.

Lại, núi này hình dạng giống như con chim thứu, hoặc là chỗ nghỉ ngơi của các loài chim thứu nên lấy đó làm tên gọi.

- Thứ sáu: "Đại Tỳ-kheo", tức chúng cùng nghe, có hai chúng: Thứ nhất: Chúng Thanh văn.

Thứ hai: Chúng Bồ-tát.

- Thứ nhất: Chúng Thanh văn.

"Cùng với chúng Đại Tỳ-kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị."

Nếu nói theo chí nguyện thì chúng Bồ-tát là trước. Còn ở đây nói theo oai nghi, vì thế đặt chúng Thanh văn ở trước. Thanh văn lại có hai:

Đại Tỳ-kheo tức là các vị Đại đệ tử Thượng thủ như ngài Ca-diếp, ngài A-nan, ngài Mục-liên v.v...

Một chữ Đại, tức là khen ngợi đức hạnh, tiếng Phạm là Ma-ha, Hán dịch là Đại Đa Thắng, được trời, người tôn kính nên gọi là Đại, vì hiểu rõ khắp các kinh sách nên nói là Đa, vì vượt ra khỏi các đạo giáo khác nên gọi là Thắng. Gọi là Tỳ-kheo có ba nghĩa: Khất sĩ, Bố ma và Phá ác. Tên hiệu của quả là A-la-hán, cũng có ba nghĩa:

Ứng cúng, Sát tặc và vô sinh. Tiếng Phạn là Tăng-già, Hán dịch là Chúng, gồm bốn vị trở lên hòa hợp không tranh cãi. Yết-ma nói giới có công năng phân biệt được tất cả những việc sinh thiện diệt ác, nên gọi là chúng.

Một ngàn hai trăm năm mươi vị tức là các đệ tử quyến thuộc: Ba anh em ngài Ca-diếp, có một ngàn vị đệ tử. Ngài Mục-liên có hai trăm năm mươi vị. Những vị này trước kia đều là ngoại đạo thờ lửa. Chịu gian khổ đã lâu nhưng đều không có chỗ chứng đắc. Vừa gặp Đức Như lai liền chứng được quả Thánh, và vì sự cảm kích đến ơn sâu của Phật nên thường theo hầu.

-Thứ hai: Chúng Bồ-tát, có ba: Thứ nhất: Chỉ bày địa vị. Thứ hai: Nêu số lượng.

Thứ ba: Lược nêu các bậc Thượng thủ.

* Thứ nhất: Chỉ bày địa vị. "Bồ-tát": Tiếng Phạm là Ma-ha Bồ-đề-chất-đế-tát-đỏa. Hán dịch là Đại đạo tâm thành chúng sinh. Tuy tên gọi bao gồm hạnh Đại thừa và Tiểu thừa, sự tu hành thì có sâu có cạn, nhưng ở đây cùng nghe đều là các vị Bổ xứ.

* Thứ hai: Nêu số lượng. "Có ba mươi hai ngàn":

Nêu chúng quyến thuộc Thượng thủ.

* Thứ ba: Lược nêu các bậc Thượng thủ. "Ngài Vănthù-sư-lợi con của Đấng Pháp Vương là bậc Thượng thủ.": Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức, đó là theo chỗ dùng chánh pháp giáo hóa chúng sinh để nối thịnh hạt giống Phật gọi là Pháp Vương Tử. Sự sắp xếp chúng trong kinh Vô Lượng Thọ và kinh A-di-đà rất rộng. Còn kinh này thì rất đơn giản và khi phiên dịch đều có chí hướng khác nhau. Tính ra nên xếp trời, người thành chúng xen lẫn. Trong phần lưu thông ở dưới chép: Vô lượng các vị trời, rồng, dạ-xoa v.v... tức là biết trong phần tựa cũng có sự lược bớt.

"Bấy giờ, ở đại thành Vương xá v.v..." v.v... trở xuống gọi là phần tựa phát khởi, vì pháp không phát khởi một mình mà phải mượn nhân duyên để phát. b. Và cũng gọi là hai phần tựa chung và riêng.

Phần duyên khởi các kinh tùy theo việc mà khác nhau, kinh này thì dùng việc sát nghịch làm phần tựa phát khởi, sơ lược có hai ý:

- Vì muốn nói về chúng sinh ở cõi này rất đáng ghét. Con do cha mẹ sinh ra mà còn dám giết hại cha mẹ, huống chi đối với người khác, ý muốn cho các chúng sinh trong đời mạt pháp ưa thích Tịnh độ.

- Vì để nói lên cơ duyên của cõi này chẳng phải khi gặp cảnh cực khổ mà không nghĩ tới việc thoát ly là cầu vãng sinh. Vì cho nên trở xuống bà Vi-đề-hy chép: Nói rộng những cõi nào không có sự lo buồn sầu não cho con nghe để con được sinh về cõi đó, con không muốn ở cõi Diêm-phù-đề là cõi đời vẩn đục v.v... Trong đó, chia làm hai:

- Từ đầu đến vẻ mặt hòa nhã tươi vui, chính là nói nhà vua bị giam nhốt.

- Từ "Lúc đó, vua A-xà-thế hỏi người giữ cửa" v.v... trở xuống là phần thứ hai nói về muốn hại mẹ.

- Từ đầu đến vẻ mặt hòa nhã tươi vui, chính là nói về nhà vua bị giam nhốt. Có bốn phần:

- Vua Tần-bà-sa-la bị con giam trong ngục tối.

- Phu nhân Quốc Thái hòa mật và bột gạo rang thành tương dâng lên vua.

- Cầu thỉnh giới pháp để cứu giúp tâm thần.

- Nhờ nghe pháp và ăn uống mà lâu ngày vua không chết.

- Vua Tần-bà-sa-la bị con giam trong ngục tối.

Bấy giờ, ở Đại thành Vương-xá có một vị Thái tử tên là A-xà-thế nghe theo lời xúi giục của bạn ác Điềuđạt, bắt giam nhà vua là Tần-bà-sa-la giam trong bảy lớp ngục tối, rồi ra lệnh cấm các quan không cho ai được lui tới.

A-xà-thế, Hán dịch là Vị sinh oán. Kinh Niết-bàn chép: Vì khi chưa sinh, có các vị đến xem tướng đều chép:

Đứa con này sau khi sinh rồi chắc chắn sẽ hại cha. Lại chép: A-xà dịch là Bất sinh; thế dịch là oán. Vì không sinh tánh Phật nên sẽ sinh sự oán giận phiền não v.v... Điều-đạt nói đủ là Đề-bà-đạt-đa, Hán dịch là Thiên Nhiệt. Khi sinh ông, tâm của các vị trời đều nóng bức vì biết ông Điều-đạt ra đời chắc chắn sẽ phá hoại Tam bảo, là con vua Hộc Phạn, em họ của Phật và anh ruột ngài A-nan. Có ba mươi tướng, khi xuất gia tụng sáu muôn pháp tụ, mười hai bộ Vi-đà. Vì thấy Đức Như lai được vua và các quan quy ngưỡng, lợi dưỡng đầy đủ nên sinh tâm ganh ghét, liền đến thưa với Đức Phật xin muốn nhiếp chúng và bị Đức Phật quở mắng, bèn âm mưu hại Phật. Ngài A-nan không biết, dạy cho phép thần thông, vào núi tu tập, chứng được năm thứ thần thông, mới tự mình suy nghĩ "Ai làm kẻ đàn-việt". Thấy Thái tử A-xàthế có tướng Đại vương, bèn dùng các thứ biến hiện để mê hoặc khiến Thái tử tin nhận, rồi nói với Thái tử rằng: Tôi làm Phật mới, còn Ngài làm vua mới, sao không sướng thích ư? Vì cho nên Điều-đạt xô đá đè Phật. Thần Kim Cương Mật Tích dùng chày đập, đá vụn bay tán loạn làm bị thương ngón tay và chân của Đức Phật, làm thân Phật chảy máu. Rồi ông tự xưng là Phật, dùng năm pháp để giáo hóa mọi người, dùng phép thần thông thứ ba để nghe suốt v.v... năm trăm vị mới tu học chịu sự giáo hóa tà ma của Điều-đạt, khất thực riêng chúng, tự mình bố tát, đó là phá hoại Pháp luân tăng.

Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc gặp giữa đường quát mắng; ông liền dùng thoi đắm lòi mắt, tức là giết A-lahán, phạm ba tội nghịch đọa vào địa ngục. Cộng với vua A-xà-thế giết cha hại mẹ cả thảy năm tội nghịch đó đều là việc đại quyền giáo hóa, hoặc thuận hoặc nghịch chỉ là để lợi ích cho chúng sinh, để cắt đứt việc gây nghiệp tạo tội nghịch ở đời sau. Thế nên kinh chép: Việc thị hiện có ba độc, lại thị hiện các tướng tà kiến, các đệ tử của ta phương tiện như thế để cứu độ chúng sinh.

Lại, kinh Niết-bàn chép: Đề-bà-đạt-đa không hề gây tội nghịch đọa vào địa ngục v.v... thật chẳng phải cảnh giới Thanh văn, Duyên giác, mà là chỗ thấy biết của các Đức Phật. Tần-bà-sa-la, Hán dịch là Mô Thật, cũng dịch là Ảnh Kiên, đều vì hình thể dồi dào chắc thật nên đặt tên theo thân và cũng có chỗ dịch là dung mạo khôi ngô. Ngục tối dày đến bảy lớp cửa không còn nghĩ đến việc qua lại, lại thêm sự ràng buộc là muốn cho chết đói.

- Phu nhân Quốc Thái hòa mật và bột gạo rang thành tương dâng lên vua.

Phu nhân Quốc Thái tên là Vi-đề-hy, vì cung kính Đại vương nên bà tắm gội sạch sẽ, dùng sữa và mật hoa với bột bôi vào thân. Trong các chuỗi anh lạc đựng đầy nước nho rồi lén đem những thức ăn ấy dâng cho vua.

Vi-đề-hy, Hán dịch là Tư duy, trước được tên gọi ấy tức là biết trước ngày nay thưa hỏi phương pháp quán. Tắm gội thân thể cho sạch sẽ là để bôi mật và bột vào thân. Trong các hạt chuỗi anh lạc bộng ruột có thể đựng nước nho. Không cho người khác biết để vào trong cung sâu, vì thế nói là lén.

- Vua thưa hỏi giới pháp, lại có ba:

- Thứ nhất: Vua trình bày với ngài Mục-liên.

- Thứ hai: Ngài Mục-liên ứng theo căn cơ.-Thứ ba: Đức Phật sai ngài Phú-lâu-na nói pháp. a. Vua thỉnh ngài Mục-liên.

Bấy giờ, Đại vương ăn bột uống nước nho, xin nước súc miệng xong rồi, chắp tay cung kính hướng về núi Kỳ-xà-quật, từ xa đảnh lễ Đức Thế tôn rồi nói như vầy: Ngài Đại Mục-kiền-liên là bạn thân của tôi, xin khởi tâm từ bi truyền cho tôi tám điều trai giới.

Mục-kiền-liên, Hán dịch là Thái Thúc Thị, là vị tiên đời thượng cổ hái đậu để ăn. Nhân vì dòng dõi là môn sư của vua nên gọi là bạn thân.

b. Ngài Mục-liên ứng theo căn cơ.

Lúc đó, ngài Mục-kiền-liên liền bay nhanh như chim ưng, chim cắt đến chỗ nhà vua. Cứ mỗi ngày như thế truyền cho vua giới tám giới quan trai.

Khi ngài Mục-kiền-liên biết đã đúng căn cơ, đi đến như chim ưng, chim cắt bay để ví dụ thần túc nhanh chóng. Tiếng chim cắt như trong tự điểm nói là loài chim hung dữ nên gọi là mãnh điểu, tám giới quan trai chỉ hạn cục trong một ngày một đêm, vì thế phải thọ từng ngày, đó là theo cách tính nhiều tông, nếu theo Luận Thành Thật thì dài hoặc ngắn không câu nệ.

c. Đức Phật sai ngài Phú-lâu-na nói pháp.

Đức Thế tôn cũng sai Tôn giả Phú-lâu-na nói pháp cho vua nghe.

Phú-lâu-na, Hán dịch là Mãn Từ Tử, là đặt tên theo cha mẹ. Là người nói pháp giỏi nhất trong những người nói pháp, khéo léo mở bày nhất trong chúng nên đặc biệt d sai đi.

-Nhờ nghe pháp và ăn uống mà lâu ngày không chết. Thời gian như thế trải qua hai mươi mốt ngày, nhà vua nhờ ăn uống và được nghe pháp nên vẻ mặt hòa nhã tươi vui.

Ăn uống để giúp thân, nghe pháp để nuôi tâm, vốn có ý định muốn cho chết đói mà trái lại càng sung mãn hơn, do đó sinh tâm tức giận. Suy cứu lý do nếu theo kinh Niết-bàn thì ít có sự khác nhau với ở đây. Vì cho nên phải dẫn chứng rõ ràng mới biết trước sau.

Kinh chép: Ở thành La-duyệt có vua Tần-bà-sa-la, Thái tử của vua ấy tên là Thiện Kiến, vì nghiệp nhân duyên nên sinh tâm ác nghịch muốn hại nhà vua mà chưa có dịp. Bấy giờ, kẻ ác Đề-bà-đạt-đa cũng vì nghiệp nhân duyên trong quá khứ lại đối với ta sinh tâm bất thiện muốn hại ta. Vì cho nên liền tu học năm phép thần thông không lâu thì chứng được, liền kết làm bạn thân với Thái tử, hiện ra các việc thần thông. Thái tử thấy rồi sinh tâm kính tin, bày ra sự cúng dường trang nghiêm. Thái tử bảo rằng: "Nay ta muốn thấy hoa Mạn-đà-la."

Đề-bà-đạt-đa liền đến cõi trời Ba mươi ba để cầu nhưng vì phước ấy đã hết nên các vị trời đều không cho. Khi không được cho hoa liền muốn tự mình lấy thì mất hết thần thông, và lại thấy thân mình ở thành Vương-xá, bèn sinh tâm hổ thẹn không thể nào trở lại nhìn mặt Thái tử, Đề-bà-đạt-đa liền đến chỗ Phật xin thống lãnh Đại chúng và thưa rằng: Cúi xin Đức Như lai phó chúc đại chúng này cho tôi. Đức Phật chép: "Ngươi là người ngu, như Xá-lợi-phất thông minh đại trí ta còn không phó chúc đại chúng huống chi ông là người ngu, là hạng người ăn nước bọt ư? (Khi hiện thần thông làm đứa trẻ ăn nước bọt của vua A-xà-thế). Bấy giờ, Đề-bà-đạt-đa sinh tâm độc ác gấp bội bèn chép: "Này Cù-đàm! Ông tuy có thế lực để điều phục đại chúng nhưng không lâu cũng sẽ tàn diệt." Tức thời mặt đất phản đối, rung chuyển sáu cách. Đề-bà-đạt-đa liền ngã xuống đất, bên thân nổi lên gió lớn dữ dội thổi dậy bụi đất làm dơ bẩn.

Đề-bà-đạt-đa lại chép: "Nếu thân này của ta có vào A-tỳ thì ta cũng phải trả mối thù lớn này." Đề-bà-đạt-đa liền đứng dậy đi đến chỗ Thái tử. Thái tử liền hỏi có chuyện gì lo buồn mà vẻ mặt hốc hác như vậy? Đề-bàđạt-đa chép: "Nay tôi và ông rất thân thiết nhau, mọi người bên ngoài đều mắng chửi ông thì sao tôi không lo buồn?" Thái tử chép: "Vì sao mắng chửi tôi?"

Đề-bà-đạt-đa chép: "Mọi người trong nước đều mắng chửi ông là Vị Sinh Oán." Thái tử hỏi: "Vì sao?"

Đề-bà-đạt-đa chép: "Vì khi ông chưa sinh, thầy bói xem tướng đều chép: Đứa con này sau khi sinh rồi sẽ giết cha, và tất cả mọi người trong cung đều được lòng ông nên gọi là Thiện Kiến. Phu nhân Vi-đề-hy nghe những lời như cho nên khi sinh ông, liền ở trên lầu cao vất ông xuống mặt đất làm nát một ngón tay của ông. Lại, ông còn được gọi là Bà-la-lưu-chi. Tôi nghe những lời ấy rồi sinh tâm lo buồn mà lại không thể nói với ông. Đề-bà-đạt-đa dùng những việc ác như thế... để xúi giục giết vua. Nếu cha ông chết thì tôi cũng có thể giết Samôn Cù-đàm." Vì cho nên Thái tử bắt giam nhà vua rồi đóng cửa ngoài thành và cho bốn thứ binh coi giữ. Phu nhân Vi-đề-hy liền đến chỗ vua. Bấy giờ, những người coi giữ vua ngăn lại không cho phu nhân vào. Phu nhân quở mắng, người coi giữ liền bảo Thái tử: "Phu nhân của nhà vua muốn gặp chẳng hay có được phép hay không?" Thái tử nổi giận liền đến trước chỗ mẹ, kéo tóc mẹ rồi rút dao ra muốn giết mẹ.

Ông Kỳ-đà thưa rằng: "Từ khi lập nước tới nay những người gây ra tội tuy có nặng nhưng còn chẳng giết người nữ huống chi là mẹ sinh ra." Thái tử nghe rồi liền thả ra, nhưng cấm không được cung cấp những thứ quần áo, đồ nằm, ăn uống, thuốc men cho vua, bảy ngày sau thì vua qua đời. Dẫn chứng việc ấy để so sánh hoặc khác, hoặc giống với ở đây, phương tiện tùy theo căn cơ không đáng lấy làm lạ.

- "Lúc đó vua A-xà-thế hỏi người giữ cửa" v.v... trở xuống là nói việc muốn hại mẹ, thứ hai. Nói về, muốn hại mẹ gồm có bốn phần:

- Thứ nhất: Cho đến "Không cho ra ngoài "nữa là giam cầm phu nhân trong cung sâu.

- Thứ hai: "Lúc bấy giờ, bà Vi-đề-hy..." v.v... trở xuống, là bà Vi-đề-hy ngẩng đầu lên thành tâm thỉnh Phật.

- Thứ ba: Từ "Trong khi chưa ngẩng đầu lên" v.v... trở xuống là Đức Phật biết mà đi đến.

- Thứ tư: Từ "Lúc đó bà Vi-đề-hy..." v.v... trở xuống là thấy Đức Phật cầu pháp.

- Thứ nhất: cho đến "Không cho ra ngoài nữa" là giam cầm phu nhân trong cung sâu, có ba phần:

- Thứ nhất: Cầm gươm muốn hại mẹ.

- Thứ hai: Hai vị đại thần can ngăn Thái tử thôi không giết mẹ nữa.

- Thứ ba: Ra lệnh giam cầm trong cung sâu. a. Cầm gươm muốn hại mẹ, có bốn phần: Thứ nhất: Vua hỏi người giữ cửa.

Thứ hai: Người giữ cửa thành thật trả lời.

Thứ ba: Vua nghe rồi nổi giận mắng chửi.

Thứ tư: Cầm gươm muốn hại mẹ.

- Vua hỏi người giữ cửa để xét hỏi nhà vua còn sống không?

Lúc đó, A-xà-thế hỏi người giữ cửa rằng: "Nhà vua của ta nay còn sống hay không?

- Người giữ cửa thành thật trả lời.

Người giữ cửa tâu vua rằng: "Tâu Đại vương, phu nhân Quốc Thái thoa bột và mật vào thân, đựng nước trái nho trong chuỗi anh lạc rồi đem dâng cho nhà vua, lại có Sa-môn Mục-liên và Phú-lâu-na từ trên hư không đến nói pháp cho nhà vua nghe, chúng tôi không thể ngăn cấm được."

Vua ngăn cấm các quan nhưng không nói đến Hoàng hậu, còn các vị Sa-môn từ trên hư không mà vào thì cửa chẳng thể ngăn cấm được, cho nên đặt ra những lời quở trách này là để tránh khỏi lỗi.

- Vua nghe rồi nổi giận mắng chửi.

Lúc đó, A-xà-thế nghe những lời này, tức giận mẹ và nói: "Mẹ ta là giặc, làm bạn với giặc. Còn các ông Samôn kia là những hạng người ác dùng chú thuật huyễn hoặc khiến cho lão vua ác ấy nhiều ngày không chết."

Gọi cha là giặc, mẹ là bạn của giặc, còn các ông Samôn dùng chú thuật để huyễn hoặc là nói chẳng phải những bậc Hiền triết.

- Cầm gươm muốn hại.

Liền cầm gươm bén muốn giết chết mẹ mình.

Tức là dẫn chứng câu truyện trong kinh Niết-bàn như trên. b. Hai vị Đại thần can ngăn và thôi không giết mẹ nữa, có ba: Thứ nhất: Làm lễ để can ngăn.

Thứ hai: Nói những lời can ngăn. Thứ ba: Can ngăn rồi muốn bỏ đi.

- Làm lễ để can ngăn.

Lúc đó, có một vị Đại thần tên là Nguyệt Quang thông minh trí tuệ cùng với Kỳ-bà làm lễ vua.

Nguyệt Quang là tiếng Hán, Kỳ-bà là tiếng Phạm, Hán dịch là Cố Hoạt. Lúc còn sống một tay cầm túi thuốc, một tay cầm cây kim. Ngày xưa thề làm thầy thuốc chữa bệnh, nên khi còn sống theo đức để đặt tên, là con của nàng Am-la, cả hai vị Đại thần đều là bậc trí tuệ để nói lên đó là những vị Hiền thần.

- Nói những lời can ngăn.

Tâu vua rằng: "Tâu Đại vương, thần nghe trong Tỳđà-la luận kinh chép: Từ kiếp sơ cho đến nay có các vị vua ác vì tham địa vị, đất nước nên giết hại nhà vua có một muôn tám ngàn người nhưng chưa hề nghe có người nào vô nhân đạo giết mẹ. Nay vua làm việc ác nghịch như thế thật là làm dơ bẩn dòng giống Sát-đế-lợi, thần không nỡ nghe cái tên Chiên-đà-la ấy, chúng tôi không thể ở lại nơi này nữa."

Tỳ-đà kinh tức là kinh điển của thế tục, hoặc gọi là Vi-đà, tiếng Phạm là Thiểu dị, là những sách lịch sử, ghi chép những việc của nước ấy. Như tham ngôi vị mà giết cha, đó cũng còn có lý mà chẳng phải tội, hại mẹ chính thật là vô nhân đạo. Bốn đẳng cấp của nước Tây Trúc bao gồm tất cả nhân dân. Sát-đế-lợi và Bà-la-môn là hai đẳng cấp tôn quý. Đẳng cấp Tỳ-xá và Thủ-đà là hai đẳng cấp thấp hèn. Sát-đế-lợi là dòng họ của vua. Chiên-đàla, Hán dịch là Sát giả, tức là loại giết mổ.

Vua đã vô nhân đạo thì các vị hiền thần không giúp. Vì thế không nên ở lại.

- Can ngăn rồi bỏ đi.

Khi đó, hai vị đại thần nói những lời như thế xong, dùng tay đè chuôi gươm liền lui lại mà ra đi.

Đè chuôi gươm liền quay ra đi là ra oai để người phải sợ. c. Ra lệnh giam cầm trong cung sâu.

Bấy giờ, vua A-xà-thế nghe nói kinh hoàng sợ hãi, bảo ông Kỳ-bà rằng: "Các ông không vì ta sao?"

Kỳ-bà tâu vua rằng: "Đại vương cẩn thận chớ giết hại mẫu hoàng." Nhà vua nghe những lời như vậy tỏ vẻ ăn năn cầu xin sám hối, liền bỏ gươm xuống thôi không giết hại mẹ, rồi ra lệnh cho các nội quan bắt giam phu nhân trong cung sâu không cho ra ngoài.

Vua A-xà-thế kinh sợ vì các Hiền thần bỏ đi thì nước nhà, xã tắc sẽ nguy cơ, "không vì ta" ấy là lời cầu cứu để vẫn được giúp đỡ vậy. Ông Kỳ-bà can ngăn lại, vua mới ăn năn sám hối và nghe theo ra lệnh giam vào cung sâu. Đây là gốc phát khởi

- "Lúc bấy giờ bà Vi-đề-hy..." v.v... trở xuống là bà Vi-đề-hy ngẩng đầu lên chân thành thỉnh Phật, có ba phần:

- Thứ nhất: Gặp khổ mới nghĩ đến pháp.

- Thứ hai: Trình bày để thỉnh cầu.-Thứ ba: Buồn bã đảnh lễ để thỉnh cầu.

a. Gặp khổ mới nghĩ đến pháp từ xa kính lễ.

Lúc bấy giờ, bà Vy-đề bị giam trong ngục tối sầu lo gầy mòn, xa hướng về núi Kỳ-xà-quật đảnh lễ Đức Phật.

b. Trình bày để thỉnh cầu.

Mà nói như vầy: "Đức Như lai Thế tôn ở những lúc trước kia thường sai ngài A-nan đến an ủi và thăm hỏi con. Nay con đang có việc sầu lo, Đức Thế tôn oai nghi trang nghiêm không biết làm sao mà thấy được. Xin Đức Thế tôn sai ngài Mục-liên và Tôn giả A-nan cho con được trông thấy."

Ngài A-nan là thị giả Phật thường đến an ủi và thăm hỏi. Truyền pháp lợi người chắc chắn là phải nhờ lực của vua, tuy là bậc Thượng thánh như Đức Phật nhưng cần phải uyển chuyển thuận theo thường tình để làm khuôn phép cho đời sau.

Bà Vi-đề-hy vì sự kính trọng Đức Phật nên không dám thỉnh ngay mà chỉ xin gặp được hai thầy vì muốn nghe pháp yếu.

A-nan, Hán dịch là Khánh Hỷ, cũng dịch là Vô Nhiễm, hoặc dịch là Hân Lạc. c. Buồn bã đảnh lễ thỉnh cầu.

Bà nói như vậy rồi, than khóc nước mắt rơi như mưa và từ xa hướng về Đức Phật mà đảnh lễ.

- Từ "Khi chưa ngẩng đầu lên..." v.v... trở xuống là Phật biết và đi đến, có hai:

- Thứ nhất: Chiêu cảm Đức Phật giũ lòng ứng hiện.

- Thứ hai: Lễ rồi đứng dậy thấy Phật. a. Chiêu cảm Phật rủ lòng ứng hiện.

Trong khi chưa ngẩng đầu lên. Bấy giờ, Đức Thế tôn ở núi Kỳ-xà-quật biết được trong tâm niệm của bà Viđề-hy, nên liền bảo ngài Đại Mục-kiền-liên và ngài Anan từ trên hư không mà đến, còn Đức Phật từ núi Kỳxà-quật ẩn mất rồi hiện thân ra ở cung vua.

Biết được tâm niệm của bà Vi-đề-hy tức là tha tâm trí, nương hư không để ẩn mất rồi hiện ra tức là như ý thông. b. Lễ rồi đứng dậy thấy Phật.

Lúc đó, bà Vi-đề-hy đảnh lễ Đức Phật rồi ngẩng đầu lên, thì thấy Đức Thế tôn Thích-ca Mâu-ni thân màu vàng đỏ thắm, ngồi trên đài hoa sen đủ trăm thứ báu. Ngài Mục-kiền-liên đứng hầu bên trái. A-nan đứng đầu bên phải. Các vị Phạm vương, Đế-thích, các trời Hộ thế ở trong hư không, tung rải các thứ hoa trời như mưa để cúng dường Phật.

Thấy Phật có bốn sự tốt đẹp.

Thứ nhất: Sắc thân. Thứ hai: Tòa sen.

Thứ ba: Theo hầu hai bên.

Thứ tư: Các vị trời cúng dường.

Thích-ca, Hán dịch là Năng nhân, tức là Ứng thân, Mâu-ni, Hán dịch là Tịch mặc, tức là Pháp thân. Ở trên thầm ứng với ở dưới, ứng thân và báo thân đều ở trong đó. Thích là Đế-thích, nói đủ là Thích-đề Hoàn-nhân, Hán dịch là Năng Thiên, tức vị trời đứng đầu tầng trời Ba mươi ba. Phạm là vua cõi Sắc, tức là Đại Phạm Thiên Vương, Hộ thế tức là bốn vị Đại thiên vương v.v...

Sớ xưa hỏi rằng: Vua Tần-bà-sa-la và bà Vi-đề-hy đều thỉnh các đệ tử, vì sao trước sai các đệ tử và sau đó Đức Phật mới tự đi là có ý gì?

Giải thích: có hai nghĩa:

Thứ nhất: Vua A-xà-thế giết cha. Nếu Đức Phật đích thân đi thì khởi sự ganh ghét, vì để bảo vệ tâm vua Axà-thế.

Thứ hai: Muốn Phật pháp được hưng thịnh thì phải nhờ cậy vua, nếu vua Tần-bà-sa-la chắc chắn chết thì vua A-xà-thế lên ngôi. Nếu Đức Phật tự đi thì sẽ chướng ngại và Ngài không đi là để hộ pháp. Còn bà Vi-đề-hy không có những việc ấy nên ngài tự đi không trở ngại.

- Thấy Đức Phật cầu pháp, có hai:

- Thứ nhất: Cung kính làm lễ.

- Thứ hai: Thỉnh pháp. a. Cung kính làm lễ.

Lúc đó, bà Vi-đề-hy thấy Đức Phật Thế tôn, liền tự mình dứt bỏ hết chuỗi anh lạc, gieo mình xuống sát đất, khóc lóc hướng về Đức Phật.

Bị giam cầm lâu ngày không mong gì gặp được Đức Phật, nhưng bây giờ trong lòng vừa buồn vừa vui, không rảnh rỗi chậm trễ, liền bứt đứt dây chuỗi ở cổ dâng lên Đức Phật, rồi gieo mình xuống sát đất để tỏ lòng thành kính ấy. b. Thỉnh pháp, có hai:

Thứ nhất: Thưa hỏi chung về cõi vãng sinh. Thứ hai:

Chính là thưa hỏi nhân vãng sinh.

- Thưa hỏi chung về cõi vãng sinh, có hai:

Thứ nhất: Thưa hỏi rộng về nhân đã gây ra từ trước. Thứ hai: Chính là thưa hỏi về cõi vãng sinh.

- Thưa hỏi rộng về nhân đã gây ra từ trước.

Bạch rằng: Bạch Đức Thế tôn, đời trước con có tội gì mà nay sinh ra đứa con ác này? Còn Đức Thế tôn vì sao lại làm quyến thuộc với ông Đề-bà-đạt-đa như thế?

Tình yêu thương mẹ con không ngoài thiên tánh, tình anh em của Phật cùng như thiên luân. Trái lại sinh việc nghịch hại chắc chắn phải có nhân từ trước. Vốn tự trách mình gồm cả việc thưa hỏi Đức Như lai, nhưng chỉ than thở nghiệp ác đã qua để trình bày thưa hỏi lý do.

Các kinh luật phần nhiều nói Đức Phật và ông Đềbà-đạt-đa từ nhân đến quả thường não hại nhau, ấy là ảnh hưởng của đại quyền, chứ chẳng phải sự thật. Tức như kinh Pháp Hoa chép: Nhờ Thiện tri thức Đề-bà-đạtđa nên giúp ta đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật... cho đến vô lượng kiếp sau sẽ được thành Phật, hiệu là Thiên Vương Như lai v.v...

- Chính là thưa hỏi cõi vãng sinh: Thứ nhất: Nêu chỗ ưa thích và chán ghét. Thứ hai: Nói đáng chán ghét.

Thứ ba: Lập thệ xa lìa.

Ba tiết này tức là chỉ bày phương pháp tu hành thiết yếu cho các chúng sinh trong đời mạt pháp. Nếu không như vậy thì sẽ phí công tu hành tịnh nghiệp và chắc chắn không được vãng sinh, có ba phần.

- Nêu chỗ ưa thích và chán ghét.

Cúi xin Đức Thế tôn nói rộng cho con nghe những cõi nào không có sự lo buồn sầu não để con được sinh về cõi đó. Con không muốn ở cõi Diêm-phù-đề là cõi đời đầy năm thứ vẩn đục.

Những cõi nào không có sự lo buồn sầu não là chỗ thưa hỏi của bà Vi-đề-hy y theo chỗ trả lời của Đức Phật ở dưới tức là chỉ cho Tịnh độ. Còn trần gian năm thứ vẩn đục và cõi trời đều có sự lo buồn, sầu não. Chỉ có y báo và chánh báo ở cõi Tịnh độ của Phật đều tốt đẹp, đều thọ hưởng các điều vui thì đâu có sự lo buồn.

Diêm-phù-đề hoặc gọi là Diệm-phù-thiệm bộ, Hán dịch là Thắng Kim, tức là gọi theo tên cây. Vì một nửa thân cây ngâm dưới biển, đáy nước có ánh sáng vàng chiếu bóng cây nên dùng để gọi. Đề hoặc gọi là Đàn, Hán dịch là Châu, tức là chỉ riêng châu phía Nam. Đó là các chứng cứ khiến chỉ chung thế giới Ta-bà, lại theo các luận gần đây để cho dễ hiểu vậy. Hoặc có lẻ, trong bốn châu, cõi Diêm-phù là cõi vẩn đục nhất nên đặc biệt nêu ra.

- Nói đáng chán ghét.

Ở cõi đời vẩn đục này dẫy đầy địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh cùng chứa nhóm nhiều điều bất thiện.

Vẩn đục là năm thứ vẩn đục, tức là kiến trược, phiền não trược v.v..., vì năm thứ đều bất tịnh nên gọi chung là vẩn đục và cũng gọi là năm thứ cặn đục. Ác là mười nghiệp ác, tức là sát sinh, trộm cắp... Năm thứ vẩn đục thì bao gồm đủ cả y báo và chánh báo. Còn mười nghiệp ác thì chỉ riêng về hành nghiệp. Nếu theo trược và ác thì thật đủ sáu đường nhưng đặc biệt chỉ nêu khổ quả trong ba đường để nói về đáng chán ghét; khắp ở thế giới Đại thiên vì thế nói là đầy dẫy. Cùng chứa nhóm nhiều điều bất thiện tức là các đường ác ở trên cùng chứa nhóm ở cõi này, hoặc có thể chỉ riêng trong loài người ít có điều lương thiện như chỗ nguyện ở dưới không thấy người ác nữa, oán thân, nghịch thuận chẳng có gì là không phải bất thiện. Vua A-xà-thế và Điều-đạt đâu có chứa nhóm những điều thiện. Ở trên là tùy theo văn để giải thích và kế là bàn luận theo nghĩa: Cõi đời vẩn đục này tức là chỉ chỗ nhóm hợp thân tộc, dân cư trong các quận ấp của thế gian này. Trong tâm hành muôn ngàn khác nhau, dẫy đầy ba thứ tâm ác, đều chứa nhóm những điều bất thiện. Lại, cõi đời vẩn đục ác độc tức là chỉ cho tâm thức hiện tiền của chúng ta và chúng sinh. Từ vô thỉ đến nay ba nghiệp tạo tác vô số hạt giống nghiệp, sử dụng (ba nghiệp) hằng ngày sinh khởi những hành động (sẽ chiêu cảm) ba đường ác nhiều không thể cùng tận. Cho nên nói là dẫy đầy những điều bất thiện.

- Lập thề xa lìa.

Con nguyện đời sau không còn nghe tiếng dữ, không còn thấy người ác.

Năm thứ vẩn đục, ba cõi, năm tội nghịch, mười nghiệp ác đều là những tiếng dữ. Trong đó chúng sinh gây ra đủ các nghiệp như thế gọi là người ác. "Thế giới Cực lạc còn không có danh từ đường ác", tức là không có tiếng dữ. "Các bậc Thượng thiện đều nhóm họp ở một chỗ", tức không có người ác.

- Chính là thưa hỏi nhân vãng sinh.

Nay con hướng về Đức Thế tôn, năm vóc lạy sát đất tha thiết cầu xin sám hối. Cúi xin Đức Phật dùng ánh sáng mặt trời trí tuệ chỉ dạy cho con phép quán về cõi nghiệp thanh tịnh.

Đầu và bốn chi gọi là năm vóc. Năm chỗ đều tròn cũng gọi là năm luân, là sự kính trọng lạy sát đất.

Vì có tội đời trước nên chịu cảnh khổ này và vì cõi này nay nhàm chán muốn xa lìa nên phải cầu xin sám hối.

Tiếng Phạm là sám-ma, Hán dịch là hối vãng, ở đây nói sám hối tức là ghép chung Hoa và Phạm, nói sám tức là chấm dứt lỗi sau và hối là hổ thẹn lỗi trước. Đức Như lai nói pháp để phá trừ nghi ngờ chướng ngại như mặt trời chiếu soi thế gian, vì thế nói là Đức Phật dùng ánh sáng mặt trời trí tuệ. Y báo và chánh báo của thế giới Cực lạc chính là Tịnh nghiệp chủ và bạn hợp thành, vì thế gọi là cõi nghiệp thanh tịnh. Và y theo đây thì bà Viđề-hy chính là thỉnh cầu phép quán, vì thế nói là chỉ dạy cho con phép quán.

2. Chánh tông, có ba:

"Cho đến A-na-hàm..." Đức Phật phát ra ánh sáng hiện ra các cõi nước để xét định sự thích nghi của căn cơ.

Từ "Bấy giờ, Đức Thế tôn" v.v... trở xuống là phần hai, chính là nói về phép quán chánh nhân tịnh nghiệp.

Từ "Khi Đức Phật nói lời ấy rồi" v.v... trở xuống là phần ba, chỉ bày sự lợi ích, tổng kết và khuyên tu tập. a. Đức Phật phát ra ánh sáng, hiện ra các cõi nước để xét định sự thích nghi của căn cơ:

- Thứ nhất: Đức Phật phát ra ánh sáng, hiện khắp các cõi nước.

- Thứ hai: Bà Vi-đề-hy thưa với Đức Phật để chọn lựa một cõi nước nhất định.

- Thứ ba: Vua Tần-bà-sa-la được ánh sáng che chở mà chứng được đạo quả.

Đức Phật sợ chúng sinh trong đời Mạt pháp cho rằng Tịnh độ trong mười phương tùy nguyện có thể vãng sinh đâu nhất định chỉ riêng một cõi của Đức Phật A-di-đà? Đặc biệt hiện ra cõi nước trang nghiêm đẹp đẽ đó là sự giải quyết ý nghi ngờ về sau. Nay phần nhiều thấy như thế chính là hiểu rõ ý chỉ của Phật, có ba phần:

- Đức Như lai phát ra ánh sáng, hiện khắp các cõi nước.

Bấy giờ, Đức Thế tôn phát ra ánh sáng từ giữa hai đầu chân mày, ánh sáng ấy màu vàng chiếu khắp vô lượng thế giới trong mười phương rồi trở vào trên đảnh Phật, hóa thành đài vàng lớn như núi Tu-di. Những cõi nước trong sạch nhiệm mầu của các Đức Phật trong mười phương đều hiện ra trong đó. Hoặc có cõi nước do bảy thứ báu hợp thành, lại có cõi nước thuần là hoa sen, lại có cõi nước rực rỡ như cung trời Đại Tự Tại, lại có cõi nước trong suốt như gương pha lê, các cõi nước trong mười phương đều hiện ra ở trong đó. Như thế, có vô lượng cõi nước của các Đức Phật trang nghiêm rực rỡ, khiến cho bà Vi-đề-hy đều thấy hết.

Giữa hai đầu chân mày của Đức Như lai có sợi lông trắng dài một trượng năm tấc, chu vi năm tấc, ngoài có tám cạnh, bên trong rỗng như ống tre, trắng ngần như ngọc kha, như tuyết, mềm mại xoay về bên phải. Đó là nói lên từ lý Trung đạo nói ra các pháp. Đầu tán ra sau tụ lại, cũng nói lên gom nhiếp nhiều trở về một, tức là nói về kinh này là pháp viên thuần rốt ráo nhất Phật thừa. Thế nên hiện ra các tướng ấy khác với lúc thường. Đài ánh sáng cao vót dụ như núi Tu-di, hiện ra vô lượng các cõi nước không thể nêu đủ mà lược chỉ bày bốn thứ Tịnh độ để nói lên việc có thể quán xét.

Do bảy thứ báu hợp thành tức là nói sự tôn quý của cõi nước ấy. Thuần là hoa sen tức là nói sự trong sạch tinh khiết của cõi nước ấy. Như cung trời Đại Tự Tại tức là nói sự sung sướng của cõi nước ấy. Trong suốt như gương pha lê tức là nói lên tướng sáng sủa của cõi nước ấy.

Nếu nói về sự trang nghiêm nhất của các cõi nước, thì theo sự phân biệt, mỗi văn kinh đều nêu một tướng; muốn nói về thế giới Cực lạc đầy đủ gồm các sự tốt đẹp, giúp cho bà Vi-đề-hy được thấy, tức là ý phát ra ánh sáng, hiện ra các cõi nước để chỉ bày.

- Chọn lựa một cõi nước nhất định, có ba:

- Thứ nhất: Nói chung các cõi nước chẳng phải chỗ mong cầu.

- Thứ hai: Chỉ riêng thế giới Cực lạc chính là phù hợp với cơ duyên.

- Thứ ba: Cầu thỉnh phép tu quán vãng sinh.

- Nói chung các cõi nước chẳng phải là chỗ mong cầu.

Bấy giờ, bà Vi-đề-hy bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Các cõi Phật như thế tuy trang nghiêm thanh tịnh, đều có ánh sáng chiếu suốt.

- Chỉ có thế giới Cực lạc chính là phù hợp với cơ duyên.

Nhưng nay con muốn sinh về thế giới Cực lạc chỗ Đức Phật A-di-đà.

Vì tâm phàm phu ở cõi này phần nhiều rong ruổi tán loạn. Nếu không chỉ đích xác một phương để chuyên tâm quán tưởng một Đức Phật thì sự tu hành phép quán khó thành tựu, sự vãng sinh có nhiều chướng ngại. Huống chi ánh sáng thường chiếu, thệ nguyện sâu rộng của Đức Phật A-di-đà. Vì thế, về một cõi nước thì các cõi nước đều thông, tưởng một Đức Phật thì các Đức Phật đều thấy. Chỗ trả lời rộng khắp của Đức Phật trong Luận Thập Nghi lý ấy hiểu rõ như thế, ý nghĩa chuyên tu của Đại sư Thiện Đạo cũng giống như ở đây.

- Cầu thỉnh phép tu quán vãng sinh.

Cúi xin Đức Thế tôn chỉ dạy cho con phép tư duy, chỉ dạy cho con phép chánh thọ.

Ban đầu tu phương tiện dùng ý để quán duyên gọi là tư duy và khi quán tưởng đã thành tựu tùy theo sự vận dụng để khéo khế hợp gọi là chánh thọ. Như phép quán đất chép: người tưởng được như thế, gọi là một cách thô sơ thấy đất ở nước Cực lạc, tức là phép tư duy. Nếu chứng được phép tam-muội thì thấy đất của cõi nước kia rõ ràng không thể nói hết, tức là phép chánh thọ. Huyền nghĩa của Đại sư Thiện Đạo theo kinh Hoa Nghiêm thì phép tư duy và phép chánh thọ đều là phép tam-muội và phép quán đất phần chứng minh của các luận phần nhiều giống nhau.

Lại, kinh Quán Phật tam-muội chép: Đức Phật bảo ngài A-nan: "Sau khi Đức Phật diệt độ, các đệ tử nghe pháp ấy, tư duy pháp ấy, quán tưởng pháp ấy, người này thường ở trong mộng thấy Phật.

Lại chép: Nghe lời nói ấy, tư duy pháp ấy, có chánh niệm, có chánh thọ...". Từ đó thấy phép tư duy và phép chánh thọ đều thuộc về phép quán sâu hoặc cạn khác nhau.

Lại, ở trước chép: Chỉ dạy cho con phép quán ở cõi nghiệp thanh tịnh, tức là biết bà Vi-đề-hy chỉ thưa hỏi phép quán.

-Vua Tần-bà-sa-la được ánh sáng che chở mà chứng được đạo quả.

Khi ấy, Đức Thế tôn liền mỉm cười, có tia sáng năm màu từ trong miệng Phật phát ra. Mỗi tia sáng chiếu đến đảnh đầu vua Tần-bà-sa-la. Lúc đó, nhà vua tuy đã bị giam cầm trong ngục tối, nhưng mắt nhãn không chướng ngại, từ xa nhìn thấy Đức Thế tôn, liền cúi đầu đảnh lễ, đạo căn tự nhiên tăng tiến, chứng được quả A-na-hàm.

Mới đầu, Đức Như lai hiện ra các cõi nước ý là ở đây, căn cơ thầm cảm ứng, thông suốt. Thế nên Đức Phật mỉm cười.

Kinh Quán Phật Tướng Hải chép: Theo Phép thường của các Đức Phật là khi cười chắc chắn có tia sáng năm màu từ trong miệng phát ra. Ánh sáng chiếu đến đảnh đầu vua, nhờ lực Phật che chở nên khiến tăng tiến đạo quả. Nương ánh sáng thấy Phật, ngộ sâu lý vô thường, phát trí dứt hoặc, liền chứng được quả thứ ba.

A-na-hàm, Hán dịch là Bất Hoàn, vì các kiết hoặc sắp hết nên không còn trở lại cõi dưới. Y theo đây, vua Tần-bà-sa-la thấy Phật mà chứng được quả, ứng với phu nhân cùng nghe pháp quán. Và trong phần tổng kết lợi ích ở sau chỉ nói bà Vi-đề-hy và năm trăm thị nữ, đó là biết vua Tần-bà-sa-la chứng được quả liền trở về cõi diệt độ. b. Chính là nói phép quán là chánh nhân tịnh nghiệp, có hai:

- Thứ nhất: Đức Như lai chấp nhận.

- Thứ hai: chính là chỉ bày điều đã nói.

- Thứ nhất: Đức Như lai chấp nhận.

Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo bà Vi-đề-hy rằng: Nay bà có biết không, Đức Phật A-di-đà cách đây không xa, bà nên buộc niệm quán sát kỹ cõi nước kia thì tịnh nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta nói rộng các ví dụ cho bà nghe, cũng giúp cho tất cả phàm phu đời vị lai, những người muốn tu tịnh nghiệp được sinh về cõi nước Cực lạc ở phương Tây.

Trước là xét hỏi có biết không là muốn nói Tịnh độ chẳng phải Đức Phật tự nói thì người khác không biết. Kinh A-di-đà chép: Từ đây về phương Tây qua mười muôn ức cõi nước Phật. Nhưng nói không xa thì ở đây có ba sự giải thích:

- Thứ nhất: Vì dùng Phật nhãn để xem, nên như kinh Lăng-nghiêm chép: Dùng thiên nhãn để nhìn thế giới Đại thiên thì như thấy quả trong lòng bàn tay, huống chi là dùng Phật nhãn ư? Thí như trên cao nhìn xuống mắt thấy muôn dặm, thường nói là lên núi cao nhìn thấy thiên hạ nhỏ.

- Thứ hai: Vì tâm niệm nhanh chóng nên tâm thần không trở ngại, thì phương xa cõi khác khởi niệm là đến ngay, thường nói là tâm niệm nhanh hơn gió.

- Thứ ba: Nhờ năng lực Phật gom nhiếp nên tuy chưa được thông suốt nhưng nhờ thần lực Phật, như Luận Thập Nghi chép: Như người yếu kém theo vua Chuyển luân một ngày đêm đi khắp bốn thiên hạ. Cái gọi là ruồi xanh bám đuôi ngựa.

Tịnh nghiệp thành tựu đó là tổng mục của Y báo và chánh báo của cõi nước kia. Chúng sinh chưa biết, dùng vật để so sánh, cho nên gọi là các thí dụ, như ở dưới chép: Như ngàn ức mặt trời, ánh sáng ấy như hoa v.v...

Hoặc tất cả mọi việc có thể dùng lời nói để chỉ bày thì gọi chung là thí dụ, cũng khiến cho những người ở đời vị lai, chính là nói bổn ý chẳng phải chỉ có đương cơ (căn cơ hiện tại). Cái gọi là cái nỏ có ngàn lưỡi móc thì đâu vì một con chuột nhắt mà bắn ư?

- Thứ hai: Chính là chỉ bày những điều đã nói, có hai:

- Thứ nhất: Trước là chỉ bày phước nghiệp.

- Thứ hai: Nói về chánh quán.

- Trước tiên chỉ bày phước nghiệp.

Sở dĩ trước nói về ba thứ phước, là vì người tu hành phép quán phải phù hợp với sự nghiệp tu hành, chẳng nhờ tu hành phép quán thì không do đâu để dẫn đưa những thứ phước ấy và chẳng phải phước ấy thì không nhờ đâu để thành tựu phép quán ấy. Có quán mà không có phước thì thiếu sự trang nghiêm, có phước mà không có quán thì dắt đi ở những đường khác. Thiếu sự trang nghiêm thì sự giúp đỡ của quả báo không tốt đẹp, dẫn đi đường khác thì sự vãng sinh chẳng biết y cứ vào đâu. Hai pháp nương nhờ nhau cùng có lợi. Nhờ ở lời nói mà người học khắc phục ý chí để nghiên cứu tìm cầu thì không bị mê hoặc ở hai đường mà tự mình mê muội cất bước để đi. Nay giải thích ba thứ phước, có ba:

Thứ nhất: Nêu chung. Thứ hai: Giải thích riêng.

Thứ ba: Tổng kết chỉ bảo.

- Thứ nhất: Nêu chung.

Người muốn vãng sinh về cõi nước kia thì phải tu ba thứ phước. "Muốn vãng sinh" là nói chí nguyện của người ấy, "phải tu" là chỉ dạy phải làm.

- Thứ hai: Giải thích riêng.

Một là hiếu thảo nuôi nấng cha mẹ, kính thờ thầy tổ, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành.

Đã là chánh nhân của các Đức Phật trong ba đời thì mới biết rõ đại hạnh của các vị Bồ-tát.

Tịnh nghiệp thứ nhất là chung với nghiệp phàm phu. Tịnh nghiệp thứ hai là chung với nghiệp Nhị thừa.

Tịnh nghiệp thứ ba chỉ cho Đại thừa không chung với Nhị thừa và phàm phu.

Bốn câu trong đó, hai câu trên là tu hành báo ân: Ân sinh thành nuôi nấng của cha mẹ và ân chỉ dạy của thầy tổ.

Hai câu dưới là dứt bỏ hành vi ác, không giết hại là giới đầu của mười điều lành, vì thế được nêu riêng. Thân dứt trừ ba thứ tà, miệng xa lìa bốn lỗi và ý dứt ba thứ ác. Hai là thọ trì ba quy y, giữ gìn đầy đủ các giới, không phạm oai nghi.

Ba câu trong đó, một câu trên tức là bỏ tà ma, để thọ trì ba quy y.

Phàm phu từ vô thỉ bị ma trói buộc. Vì thế tác pháp trở về nương tựa, mong cầu sự cứu giúp, che chở.

Nếu chỉ thọ trì ba quy y thì có điều lành mà không có giới và nếu thọ các giới sẽ gồm có ba quy y. Còn hai câu dưới tức là thọ trì giới pháp. Tại gia thì có năm giới, tám giới. Còn xuất gia có mười giới và giới cụ túc. Vì thế nói là các giới. Thọ trì không thiếu, vì thế nói là đầy đủ, oai nghi cũng là giới, vì khinh chúng nhỏ nhặt khó giữ gìn do đó mà có nhiều người trái phạm nên nêu riêng để phân biệt.

Ba là phát tâm Bồ-đề, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh sách Đại thừa, khuyến tiến người tu hành.

Bốn câu trong đó:

Thứ nhất: Là phát tâm Đại thừa. Bồ-đề, Hán dịch là Đạo, tức là Đạo vô thượng.

Thứ hai: Tức là khởi tâm Đại thừa. Thiện ác nhân quả đều ở tự tâm của ta, biết rõ, sợ hãi và cẩn trọng, thế nên nói là tin sâu.

Thứ ba: Tức là sinh sự hiểu biết Đại thừa. Giải thích giáo pháp tức là từ bổn trí, nhân đọc tụng mà phát sinh.

Thứ tư: Tức là tu hạnh Đại thừa, khuyến tiến dẫn dụ người tu hành không để lui sụt, đọa lạc.

Ba câu trên là tự mình tu hành và một câu sau là giáo hóa người.

- Thứ ba: Tổng kết chỉ bảo.

Ba việc như trên gọi là Tịnh nghiệp. Đức Phật lại bảo bà Vi-đề-hy rằng: Nay bà có biết không, ba thứ tịnh nghiệp này chính là chánh nhân tịnh nghiệp của các Đức Phật trong ba đời quá khứ, vị lai và hiện tại.

Quả đức ba đời nhờ đó mà thành tựu, nên nói là chánh nhân.

- Nói về chánh quán, có bốn:

Thứ nhất: Dạy bảo lắng nghe và chỉ bày để nói. Thứ hai: Khen ngợi điều thưa hỏi.

Thứ ba: Khuyên nhủ và dặn bảo. Thứ tư: Chỉ bày pháp.

- Thứ nhất: Dạy bảo lắng nghe và chỉ bày để nói.

Đức Phật lại bảo ngài A-nan và bà Vi-đề-hy rằng: Các vị hãy lắng nghe, lắng nghe cho kỹ và khéo ghi nhớ việc đó. Hôm nay, Như lai sẽ nói ra nghiệp thanh tịnh cho tất cả chúng sinh ở đời vị lai bị các giặc phiền não bức hại được nghe.

Nghe cho kỹ và khéo ghi nhớ, tức là hai thứ tuệ: văn và tư. Vì tất cả chúng sinh ở đời vị lai, chính là đời Tượng pháp và Mạt pháp. Các giặc phiền não bức hại, tức là phàm phu còn bị sự trói buộc.

Thanh tịnh nghiệp tức là mười sáu phép quán.

- Thứ hai: Khen ngợi điều thưa hỏi.

Lành thay! Vi-đề-hy, bà thưa hỏi việc đó thật hợp ý ta.

Có thể làm vui lòng Thánh, cho nên nói là bà thưa hỏi việc đó thật hợp ý ta.

- Thứ ba: Khuyên nhủ và dặn bảo, có ba: Thứ nhất: Nói đó là điều chỉ dạy của Đức Phật. Thứ hai: Y theo giáo tu hành thành tựu.

Thứ ba: Nhờ tu hành mà được chứng quả.

+ Thứ nhất: Nói đó là điều chỉ dạy của Đức Phật.

Này A-nan! Ông nên thọ trì, vì nhiều chúng sinh mà giảng nói rộng những lời Phật dạy. Nay Như lai chỉ dạy cho bà Vi-đề-hy và tất cả chúng sinh ở đời vị lai phép quán thế giới Cực lạc ở phương Tây.

Ngài A-nan là người học rộng, Đức Phật khuyên Ngài thọ trì để giảng nói rộng rãi. Do ở trong cung sâu chúng cùng nghe còn ít nên sau khi trở về núi Kỳ-xàquật, ý là khiến thuật lại, thế nên Đức Phật phải dặn bảo trước. Nay Như lai v.v... đều là những lời phó chúc cho ngài A-nan.

+ Thứ hai: Y theo giáo tu hành thành tựu.

Nhờ năng lực Phật nên thấy được cõi nước kia thanh tịnh như người cầm gương tự thấy mặt và hình dáng mình.

Giáo là do Phật nói ra, tức là năng lực Phật, đó là phương tiện khác của Đức Như lai.

+ Thứ ba: Nhờ tu hành mà được chứng quả.

Vì thấy được những việc vui rất mầu nhiệm ở cõi nước kia nên sinh tâm vui mừng, liền khi đó chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

Địa vị Vô sinh pháp nhẫn chính là địa vị Sơ Trụ. Nếu y theo pháp quán thì do năng lực công đức mà gượng thấy có sinh để chứng. Còn theo phép quán Phật ở dưới, tức là chỉ ra tướng chứng được sinh về cõi nước kia. Ở dưới chép: Khi xả báo thân đời khác sinh về ở trước các Đức Phật, chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

- Thứ tư: Chỉ bày pháp, có ba:

Thứ nhất: Nói lý do bà Vi-đề-hy thấy được cõi nước. Thứ hai: Vì chúng sinh đời vị lai mà thưa hỏi phương tiện ấy. Thứ ba: Đức Như lai trả lời điều thưa hỏi ấy.

- Thứ nhất: Nói lý do bà Vi-đề-hy thấy được cõi nước.

Đức Phật bảo bà Vi-đề-hy: người là phàm phu, tâm tưởng yếu kém, chưa được thiên nhãn nên không thể quán thấy xa. Các Đức Phật Như lai có phương tiện khác giúp cho bà thấy được cõi nước kia.

Vì dùng đại quyền để dẫn thật nên thị hiện giống như phàm phu. Thiên nhãn là một thứ thần thông trong sáu thứ thần thông, sự che lấp trong ngoài chẳng có gì là không thấy suốt. Các vị tiên, các bậc Thánh của Tiểu thừa tuy được thiên nhãn nhưng các cõi nước thanh tịnh ở phương xa cũng không thể quán thấy. Phương tiện khác là nếu đối với đương cơ, tức là ở trước đài ánh sáng hiện ra các cõi nước khiến cho bà Vi-đề-hy được thấy. Còn nếu căn cứ theo sự bàn luận để lập giáo pháp thì tức là mười sáu phép quán ở dưới chỉ bao gồm các chúng sinh ở đời vị lai và muốn nói về quyền trí đồng như nhau, thế nên nói là các Đức Phật.

- Thứ hai: Vì những chúng sinh ở đời vị lai mà hỏi phương pháp ấy, có ba:

Thứ nhất: Nói mình được thấy.

Thứ hai: Thương kẻ khác không thấy. Thứ ba: Chính là trình bày thưa hỏi.

+ Nói mình được thấy.

Lúc ấy, bà Vi-đề-hy bạch Phật rằng:

Bạch Đức Thế tôn! Như hôm nay con nhờ năng lực Phật nên được thấy cõi nước kia.

+ Thương kẻ khác không thấy.

Nếu sau khi Đức Phật nhập diệt, các chúng sinh ở cõi đời có năm thứ vẩn đục bất thiện bị năm thứ khổ ép ngặt.

Đó tức là vì lòng đại bi quyền xảo lợi ích chúng sanh mới thấy địa vị của bà Vi-đề-hy chẳng phải phàm phu, Tiểu thừa. Nghĩa của vẩn đục bất thiện giống như chỗ giải thích ở trước. Năm thứ khổ ấy như Sớ chép: Vì năm đường đều chẳng vui nên một đường A-tu-la mở thì thành sáu nhưng chỉ hợp lại có năm đường. Hoặc chọn chung năm điều ác, năm điều đau khổ, năm sự thiêu đốt, cho là năm thứ khổ. Tức là điều mà năm giới cấm ngăn thì năm thứ lỗi gọi là năm điều ác. Phạm năm việc này, gặp nạn phạm pháp gọi là năm điều đau khổ. Sau đó, đọa vào ba đường, gọi là năm sự thiêu đốt.

+ Chính là trình bày, thưa hỏi.

Làm thế nào để thấy được Đức Phật A-di-đà ở thế giới Cực lạc? Chúng sinh ở đời vị lai:

Thứ nhất: Sinh ra đời không gặp Phật. Thứ hai: Sự vẩn đục ác độc càng dữ dội.

Thứ ba: Bị các thứ khổ ép ngặt, càng sâu. Nghiệp chướng như vậy nghi rằng không có lý gì để thấy được cõi nước, vì thế có phương tiện gì để khiến được thấy?

-Thứ ba: Đức Như lai trả lời điều thưa hỏi ấy, lại có hai: Thứ nhất: Nêu bày chỗ buộc niệm.

Thứ hai: Xếp riêng mười sáu phép quán.

+ Nêu bày chỗ buộc niệm.

Phật bảo bà Vi-đề-hy: Bà và chúng sinh nên chuyên tâm buộc niệm ở một chỗ để quán tưởng cảnh giới Tây phương.

Vì pháp môn quán Tịnh độ thiết yếu là ở sự chuyên nhất nên phải chỉ định một phương dùng làm chỗ cho tâm nương vào. Vì thế Đức Phật phát ra ánh sáng, hiện ra các cõi nước là quyết ý ở đây. Vì thế trong Luận Thập Nghi gọi là tam-muội Nhất tướng, kinh Văn Thù Bátnhã cũng gọi là tam-muội Nhất hạnh, mà so với các phép quán thì có ba sự khác nhau.

* Các phép quán khác thì không nhất định phương hướng góc cạnh. Còn ở đây thì phải nhất định là hướng Tây.

* Các phép quán khác thì thu thần để trở về niệm. Còn ở đây thì đưa phép tưởng về phương kia.

* Các phép quán khác thì trải qua khắp tự mình và kẻ khác. Còn ở đây thì nhất định duyên vào cảnh thánh, chọn lựa nghĩa môn đầy đủ, tâm và cảnh rõ ràng. Nếu trái với đây mà tu pháp khác thì gọi là tà quán.

+ Xếp riêng mười sáu phép quán.

Từ xưa Chương và Sớ phần nhiều nói dông dài, cho đến văn quán, các ví dụ phần nhiều sơ lược. Văn quán nói ở đây chính là yếu nghĩa của tâm, sự giải thích khoa tiết phải nhỏ nhiệm tinh tế. Và người nghe để tu tập cần thiết nên lưu tâm. Nay trước phân biệt chung rồi mới giải thích riêng. Mười sáu phép quán thường chia làm hai:

+ Thứ nhất: Một phép quán mặt trời lặn của cõi này trước tiên là chỉ định về phương hướng.

+ Thứ hai: Mười lăm thứ chánh quán về y báo và chánh báo của cõi nước kia ở sau.

Phép quán thứ nhất là gồm chung mười lăm phép quán ở dưới. Và ở dưới đều riêng khác, đều không gom nhiếp nhau. Mười lăm phép quán này lại chia làm hai:

Năm phép quán trước, đầu tiên là quán về y báo trang nghiêm ở cõi nước kia.

Mười phép quán sau là quán chánh báo tốt đẹp ở cõi nước kia. Năm phép quán trước lại chia làm hai:

- Hai phép quán trước là quán cảnh giới sở y của cõi nước kia. Tức là quán nước thành băng, thấy băng thành đất.

- Ba phép quán sau là quán các tướng trang nghiêm của cõi nước kia, tức là cõi nước trang nghiêm không ngoài ba thứ:

* Cây, tức là quán rừng cây bóng rợp ở cõi nước kia.

* Ao, tức là quán suối nước chảy ở cõi nước kia.

* Lầu, tức là quán đài các.

Phép quán đất gom nhiếp chung ba phép quán còn lại. Vì thế cây v.v...là riêng và đều nương trên đất. Vì thế mười phép quán sau lại chia làm bốn.

Ba phép quán trước là quán Phật, phép quán thứ bảy là quán chỗ ngồi của Đức Phật, phép quán thứ tám là quán hình tượng Phật để thay cho Phật thật.

Phép quán thứ chín (trong kinh ghi thứ tám) chính là quán tướng Phật.

Phép quán thứ mười và mười một là quán Phật và thị giả, chia ra phải trái khác nhau.

Phép quán thứ mười hai và mười ba là quán chung ba vị Thánh, xen lẫn cùng khắp khác nhau.

Phép quán thứ mười bốn, mười lăm và mười sáu là quán Phật và đồ chúng, ba bậc khác nhau trở xuống.

Như ở đây, sự phân biệt những điểm thiết yếu đại khái đối với một bộ kinh rất rõ ràng như chỉ tay trong lòng bàn tay. Và theo từng phép quán riêng lại chia như sau:

1. Quán mặt trời lặn, có ba:-Thứ nhất: Cảnh sở quán.

- Thứ hai: Tưởng năng quán.

- Thứ ba: Tổng kết chỉ bày. a. Thứ nhất: Cảnh sở quán.

Quán tưởng thế nào? Hễ khi thực hành phép quán tưởng thì nếu tất cả chúng sinh tự mình chẳng phải mù bẩm sinh thì những người có mắt sáng đều thấy mặt trời lặn.

Phương hướng góc cạnh mênh mang không có vật để biểu thị rõ ràng. Trong đó mặt trời lặn, những người có mắt đều thấy rõ ràng, dễ quán, có thể dùng làm chuẩn mực.

Sớ chép: Phương pháp quán tưởng mặt trời lặn hình dạng như chiếc trống treo, dùng để nêu tư tưởng, tức là ý này. Nói "tác tưởng", tưởng chính là quán. Ở trong thai đã bị mất đôi mắt, gọi là mù bẩm sinh. b. Thứ hai: Tưởng năng quán, có bốn: Thứ nhất: Chỉ bày oai nghi tu quán. Thứ hai: Chỉ bày quán tướng.

Thứ ba: Nói về tướng thành tựu. Thứ tư: Khuyên thường quán.

- Thứ nhất: Chỉ bày oai nghi tu quán.

Ngươi nên khởi tưởng nhớ, ngồi ngay thẳng hướng về về phía Tây.

Khởi tưởng nhớ tức là bắt đầu quán. Ngồi ngay thẳng là oai nghi của thân. Ngồi kết già hoặc bán già, thân ngay thẳng, hai tay chồng lên nhau như cách thức ngồi thiền. Cho nên trong Tăng truyện, các bậc cao tăng đời Tống ngày xưa ngồi không quay lưng về phía Tây là theo ý này.

- Thứ hai: Chỉ bày quán tướng.

Quán sát kỹ chỗ mặt trời sắp lặn giúp cho tâm an trụ vững chắc, chuyên tâm quán tưởng không dời đổi.

Tâm và cảnh tương ứng, bất động, là thể của định.

- Thứ ba: Nói về tướng thành tựu.

Thấy mặt trời sắp lặn hình dạng như chiếc trống treo. Mặt trời gần xuống mặt đất, mây tan, ánh sáng gom nhiếp lại trong suốt hình như mặt trống treo giữa hư không.

- Thứ tư là: Khuyên thường quán.

Đã thấy mặt trời lặn rồi, khi nhắm mắt mở mắt đều thấy được rõ ràng.

Khi tướng tưởng đã thành thì bắt đầu từng niệm nối nhau rõ ràng vận dụng không để mất. c. Thứ ba: Tổng kết để chỉ bày.

-Đó gọi là phép quán tưởng mặt trời, gọi là phép thứ nhất. Tổng kết để chỉ bày nêu biết.

Y theo mười lăm phép quán sau, thì phép quán tướng nước thứ hai trong năm phép quán về y báo ở trước muốn thành tựu thì nên quán nước đóng thành băng ở cõi này. Còn phép tưởng nước thứ năm chính là quán ao nước cõi kia, tên giống mà thể khác, người học nên biết.

-Quán nước đóng băng:

Thứ nhất: Cảnh sở quán. Thứ hai: Tổng kết chỉ bày.

Phép quán tưởng nước đóng thành băng chính là quán đất.

Đất báu lưu ly là điều không có ở thế gian, nhưng mặt nước kết thành băng đó là việc mọi người đều biết. Do đây để thấy kia, dùng tướng gần giống để so sánh với đất thật. Vì thế, trước nên quán nước đóng thành băng, rồi sau mới thành tựu đất báu.

Sớ chép: Nước lớn kết thành băng thật sự biểu hiện cho đất lưu ly.

Có hai phần:

- Thứ nhất: Cảnh sở quán, có hai: Thứ nhất: Quán nước.

Thứ hai: Quán đất.

- Quán nước, có ba:

Thứ nhất: Quán tưởng ngay nước.

Thứ hai: Biến nước thành băng.

Thứ ba: Biến băng thành lưu ly.

- Thứ nhất: Quán tưởng ngay nước.

Kế lại quán tưởng nước, thấy nước đứng lặng trong suốt, cũng phải quán thấy rõ ràng, ý không tán loạn.

Thấy rõ nước đứng lặng trong suốt bất động. Vì thế gọi là ý không tán loạn.

- Thứ hai: Biến nước đóng thành băng.

Khi đã thấy nước rồi thì nên khởi tưởng nước đóng thành băng.

- Thứ ba: Biến băng thành lưu ly.

Thấy băng chiếu trong suốt, khởi tưởng đó là lưu ly. Đến đây đã xong phần quán nước và phép quán tưởng từ đây trở xuống là thuộc về phép quán đất ở sau.

- Quán đất, có ba:

Thứ nhất: Thể đất sáng suốt.

Thứ hai: Dưới đất có cột chống đỡ.

Thứ ba: Các cảnh trang nghiêm trên đất.

- Thứ nhất: Thể đất sáng suốt.

Tưởng như thế thành rồi, kế là quán thấy đất lưu ly trong ngoài chiếu suốt.

- Thứ hai: Dưới đất có cột chống đỡ, có hai: Thứ nhất: Chỉ bày thể của cột.

Thứ hai: Ánh sáng của những hạt châu chiếu sáng lên.

* Thứ nhất: Chỉ bày thể của cột.

Ở dưới có cột bằng vàng, kim cương, bảy báu chống đỡ đất lưu ly. Cột ấy có đủ tám mặt, tám cạnh, mỗi mặt do trăm thứ báu hợp thành.

Tám mặt và tám cạnh, hình dáng giống như ngôi tháp.

* Thứ hai: Ánh sáng của các hạt châu chiếu sáng lên. Mỗi một hạt châu có ngàn tia sáng, mỗi tia sáng có tám mươi bốn ngàn màu, chiếu sáng đất lưu ly như ngàn ức mặt trời không thể thấy hết.

-Thứ ba: Các cảnh trang nghiêm trên đất, có bốn: Thứ nhất: Các bậc thềm hoa trên mặt đất.

Thứ hai: Màu sắc ánh sáng của các thứ báu.

Thứ ba: Các ánh sáng báu này hợp lại thành đài và lầu gác. Thứ tư: Cờ hoa và nhạc khí.

* Thứ nhất: Các bậc thềm hoa trên mặt đất.

Trên đất lưu ly có dây vàng ròng xen lẫn nhau, dùng bảy thứ báu làm giới hạn, phân chia đều đặn rõ ràng.

Dây vàng và bảy thứ báu đắp đổi xen nhau như những viên gạch hoa của thế gian.

* Thứ hai: Màu sắc ánh sáng của các thứ báu.

Trong mỗi thứ báu có năm trăm tia sáng màu sắc. Các ánh sáng ấy như hoa, lại giống như trăng sao, treo lơ lững giữa hư không.

Các màu sắc ánh sáng của các thứ báu, từ đất chiếu lên hư không, vì thế giống như hoa. Lại từ trên chiếu xuống dưới, vì thế giống như trăng sao.

* Thứ ba: Các ánh sáng báu này hợp lại thành đài và lầu gác. Thành đài và lầu gác sáng rỡ do trăm ngàn muôn thứ báu hợp thành.

* Thứ tư: Cờ hoa và nhạc khí.

Ở hai bên đài đều có trăm ức cờ hoa, vô lượng nhạc khí để trang nghiêm. Tám thứ gió mát từ ánh sáng thổi ra, khua động các nhạc khí ấy, giảng nói các âm thanh Khổ, Không, Vô thường, Vô ngã.

Cờ hoa và nhạc khí bốn mặt đều vây quanh. Gió thổi thành âm thanh nói pháp để răn bảo mọi người: Gió sinh ra từ tám phương, vì thế gọi là tám thứ gió mát. Ở cõi nước kia không có thời tiết, lại vì đối với phương này, nên nói là tám.

Các pháp Khổ, Không v.v... tức là bốn pháp niệm xứ: Quán thân bất tịnh.

Quán thọ là khổ. Quán tâm vô thường. Quán pháp vô ngã.

Dùng bốn pháp này để đối trị phá bỏ bốn thứ điên đảo. Chữ "Không" trong văn lại đối với quán thân mà biết là điên đảo chấp trước chẳng phải Không thì là gì?

- Thứ hai: Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng nước đóng thành băng, gọi là phép quán thứ hai. Đây là lời kết nên biết.

- Quán đất.

Cảnh sở quán đầy đủ như văn ở trước. Vì thế phép quán đất thứ ba chỉ y theo trước để tổng kết khuyên tu mà thôi.

Văn có bốn tiết:

Thứ nhất: Phép tư duy. Thứ hai: Phép chánh thọ. Thứ ba: Nói về lợi ích.

Thứ tư: Nói về tà, chánh.

- Phép tư duy:

Khi phép quán tưởng này đã thành thì mỗi chi tiết phải quán tưởng cho rõ ràng, nhắm mắt mở mắt không để cho tán mất, chỉ trừ giờ ăn, còn thường phải nhớ nghĩ việc ấy. Người quán tưởng được như thế gọi là được thấy thô đất ở cõi nước Cực lạc.

Mỗi chi tiết phải quán tưởng là chỉ các tướng chung và riêng ở trước. Trừ giờ ăn là thời gian khai cho tạm thời.

Có sách khác đổi thành giờ ngủ nhưng tìm các sách cũ thì đều nói giờ ăn. Hơn nữa, khi người ta ngủ, đều thả người theo hơi thở của chính mình, thì còn cần trừ ư? Có chỗ nói Đại thừa và Tiểu thừa đều có quán khi ăn, vì thế trừ giờ ngủ. Đó là hạn cục ở đạo chúng chứ chẳng phải lẽ chung. Ở đây nói các phép quán khác không phân biệt thời và xứ nhưng phép quán cảnh Thánh ấy lẽ ra nên cung kính, mà đối với khi ăn khởi phép tưởng thì đó là trái với sự tôn kính. Cho nên phép quán hình tượng Phật trong kinh Quán Phật tam-muội chép: Khi tưởng niệm đã thành rồi, thì chỉ trừ giờ ăn, trừ giờ đại tiểu tiện, còn trong tất cả thời gian đều thường quán thấy hình tượng Phật. Đó là những chứng cứ rõ ràng không cần phải thay đổi. Và những kẻ sơ tâm phải tưởng dần dần vì tướng định chưa thành tựu. Vì thế nói là lược thấy, tức là nói người ấy chưa quán thấy rõ ràng.

- Phép chánh thọ.

Nếu chứng được phép tam-muội thấy đất của cõi nước kia rõ ràng không thể nói hết. Đó là phép quán tưởng tốt, gọi là phép quán thứ ba. Tam-muội, chính âm là Tam-ma-địa, Hán dịch là Chánh định, hoặc dịch là Đẳng trì. Khi phép tưởng đã thành tựu thì việc thấy đất không cần dùng ý mà tự nhiên khế hợp thấy cảnh rõ ràng, như người học bắn, ban đầu bỡ ngỡ về sau thuần thục, hễ bắn ra là trúng, nói nghĩ không thể cùng, mà chỉ có chứng được mới biết. Vì thế gọi là "không thể nói hết".

- Nói về lợi ích, có hai:

Thứ nhất: Dặn bảo lại để chỉ giáo. Thứ hai: Chính nói về lợi ích.

* Thứ nhất: Là dặn bảo lại để chuyển giáo.

Phật bảo A-nan: Ông nên ghi nhớ vâng giữ lời dạy của ta, nói phép quán đất này cho tất cả đại chúng, những người muốn thoát khổ ở đời vị lai nghe.

Bảo ngài A-nan ấy là vì hai phép quán trước chỉ là dùng những vật ở cõi này để làm đầu mối sinh khởi đối với phép quán. Và đến phép quán đất báu thì tâm thông suốt được cõi kia, chắc chắn có thể thoát khổ, phá trừ nghi chướng, nên Đức Phật dặn bảo lại để chỉ giáo là ý này.

* Thứ hai: Chính là nói về lợi ích, có hai: Thứ nhất:

Phá chướng.

Thứ hai: Dứt nghi.

- Thứ nhất: Phá chướng.

Nếu người nào tu phép quán tưởng đất ấy thì trừ được các tội nặng sinh tử trong tám mươi ức kiếp.

Tám mươi ức kiếp có chỗ nói là vô lượng kiếp, có chỗ nói là năm muôn, có chỗ nói là năm mươi ức kiếp, tùy theo sự thích nghi không nhất định, chẳng phải chỗ so lường được.

- Thứ hai: Là dứt nghi.

Khi xả báo thân để qua đời khác sẽ được sinh về cõi nước thanh tịnh, tâm được vô ngại.

Nếu phép quán này thành tựu thì việc vãng sinh chắc chắn như Cao tăng Đại Hạnh đời Đường ở núi Thái, kết am tu hành tịnh nghiệp, chưa đầy hai mươi mốt ngày đã thấy đất lưu ly, mắt tâm sáng suốt, sau khi mắc bệnh, đất ấy lại hiện ra, bèn chép:

Ta không quán tưởng mà đất báu lại hiện ra, thì đâu phải vô duyên đối với cõi An Dưỡng và ngay ngày hôm đó Sư qua đời tại chỗ ở.

- Nói về tà, chánh, có hai:

Thứ nhất: Nói về chánh. Thứ hai: Nói về tà.

- Thứ nhất: Nói về chánh.

Người tu phép quán như vậy gọi là chánh quán.

Nói "Tu phép quán như vậy" là chỉ cho tướng quán ở trước, vì tâm và cảnh tương xứng, giáo và hạnh không trái nhau.

- Thứ hai: Nói về tà.

Nếu tu phép quán khác, gọi là tà quán.

Trái với cảnh tượng ở trước gọi là quán khác, không chân chánh gọi là tà. Tuy là lời Phật dạy nhưng các phép quán của Đại thừa và Tiểu thừa chẳng phải phép quán vãng sinh Tịnh độ thì đều là thiên, là tà, chẳng phải như tà của tà kiến ngoại đạo và số còn lại đều lệ theo đây.

- Quán cây, có ba:

Thứ nhất: Tổng kết văn trước để phát sinh văn sau. Thứ hai: Nói về hạnh tu quán.

Thứ ba: Tổng kết chỉ bày.

- Tổng kết văn trước phát sinh văn sau.

Phật bảo A-nan và bà Vi đề hi: Phép quán tưởng đất đã thành rồi, kế là quán cây báu.

Chữ "Bảo", là nêu hoặc không nêu là chỗ biến đổi của người dịch.

- Trong phần chính nói cách tu hành phép quán, có hai: Thứ nhất: Nêu sở quán.

Thứ hai: Chỉ bày năng quán.

Thứ nhất: nêu sở quán, có hai: Thứ nhất: Chỉ bày về lượng.

Thứ hai: Nói về cảnh tượng trang nghiêm.

- Thứ nhất: Chỉ bày về lượng, có ba: Dạy quán khắp.

Chỉ bày số hàng cây. Nói về chiều cao.

+ Dạy quán khắp.

"Những người quán tưởng cây báu, quán từng cây một. Vì tướng cây có nhiều loại nên nói là "mỗi cây".

+ Chỉ bày số hàng cây.

"Phải quán bảy lớp hàng cây."

Bảy lớp hàng cây xoay vòng khắp ở cõi nước kia, hoặc nói là chỗ nào cũng có bảy lớp hàng cây.

+ Nói về chiều cao.

"Mỗi cây cao đến tám ngàn do-tuần."

Do-tuần còn gọi là do-diên, cũng gọi là du-thiện-na, là khoảng cách dừng nghỉ giữa các trạm ở Tây Trúc, các kinh luật nói xa hoặc gần không nhất định nhưng các nhà (u7) phần nhiều chọn lấy bốn mươi dặm làm chuẩn.

-Thứ hai: Nói về cảnh tượng trang nghiêm có hai: Thứ nhất: Ánh sáng trang nghiêm.

Thứ hai: Hoa quả trang nghiêm.

+ Ánh sáng trang nghiêm, lại có ba: Thứ nhất: Chỉ bày hoa lá đầy đủ. Thứ hai: Nói về màu ánh sáng. Thứ ba: Nói về lưới châu.

+ Hoa lá đầy đủ.

Những cây báu ấy, hoa lá bảy báu chẳng có cây nào không đầy đủ. Hoa lá đầy đủ là vì không có sự tàn rụng.

+ Nói về màu ánh sáng.

Mỗi hoa lá có các màu báu khác nhau. Trong mầu lưu ly chiếu ra ánh sáng màu vàng, trong màu pha lê chiếu ra ánh sáng màu hồng, trong màu mã não chiếu ra ánh sáng xa cừ, trong màu xa cừ chiếu ra ánh sáng lạc châu báu, các thứ san hô, hổ phách, tất cả các thứ báu tô điểm rực rỡ.

Các mầu báu xen lẫn với ánh sáng năm màu, màu xanh lưu ly chiếu ra ánh sáng vàng, trong màu xanh pha lê chiếu ra ánh sáng màu hồng, trong màu đỏ mã não chiếu ra ánh sáng trắng (xa cừ), trong màu trắng xa cừ chiếu ra ánh sáng lục. Còn theo kinh Vô Lượng Thọ thì có hổ phách, các cây bảy báu đầy khắp thế giới. Các cây vàng, bạc, lưu ly, pha lê, san hô, mã não, xà cừ v.v... hoặc có hai thứ báu, ba thứ báu, cho đến bảy thứ báu xen nhau chung hợp thành. Và như kinh nói rộng, tức là các thứ báu để tô điểm rực rỡ.

+ Lưới châu báu, có bốn: Thứ nhất: Chỉ bày số lớp.

Thứ hai: Các cung điện giữa lưới. Thứ ba: Các đồng tử trong cung điện.

Thứ tư: Ánh sáng của các chuỗi hạt châu.

- Thứ nhất: Chỉ bày số lớp.

Có các lưới châu báu mầu nhiệm che phủ trên cây, trên mỗi cây có bảy lớp lưới.

Mỗi cây có bảy tầng, mỗi tầng có một lớp, hình dáng như ngôi tháp.

- Thứ hai: Các cung điện giữa lưới.

Giữa mỗi lớp lưới có năm trăm ức cung điện hoa đẹp trang nghiêm như cung Phạm vương.

Các cung điện giữa lưới trang nghiêm đẹp đẽ như chỗ ở của trời Phạm Vương cõi Sắc.

- Thứ ba: Các Đồng tử trong cung điện.

Các Đồng tử ở các cảnh trời tự nhiên đều ở trong đó, mỗi vị Đồng tử có năm trăm ức hạt Thích-ca Tỳ-lănggià ma-ni dùng làm chuỗi anh lạc.

Từ: "Mỗi một" v.v... trở xuống là sự tô điểm trang nghiêm của các vị Đồng tử trong các cảnh trời. Thích-ca Tỳ-lăng-già ma-ni, Hán dịch là Năng Thánh, Ma-ni dịch là Ly cấu, cũng dịch là Như ý.

- Thứ tư: Ánh sáng của những chuỗi hạt châu.

Ánh sáng của những hạt Ma-ni ấy chiếu xa đến trăm do-tuần, giống như ánh sáng của trăm ức mặt trời, mặt trăng hòa hợp không thể nào nói cho hết, giữa các thứ báu đan xen lẫn nhau, màu sắc đẹp nhất trong các màu.

"Giữa các thứ báu" là không chỉ có một hạt châu. Màu sắc đẹp nhất trong các màu là khác với bình thường.

+ Hoa quả trang nghiêm, lại có hai:

Nêu chung. Chỉ bày riêng.

- Nêu chung.

Những hàng cây báu ấy hàng hàng ngang nhau, lá lá thứ lớp nhau.

Giữa các lá sinh ra các hoa đẹp, trên hoa tự nhiên có trái bằng bảy chất báu.

Hàng hàng ngang nhau giống như xứng đôi nhau.

Lá lá thứ lớp nhau như vảy nối nhau. Hoa quả như ở dưới giải thích.

- Chỉ bày riêng, có ba:

Thứ nhất: Nói về lá cây. Thứ hai: Nói về hoa cây. Thứ ba: Nói về quả cây.

+ Thứ nhất: Nói về lá cây.

"Mỗi lá cây dài, rộng, ngay thẳng đến hai mươi lăm do-tuần."

Ba câu chỉ bày lượng, hai mươi lăm do-tuần tính ra là một ngàn dặm.

"Lá cây có ngàn màu, có trăm đường gân, giống như chuỗi anh lạc của các vị trời."

Ba câu nói về màu, có trăm đường gân, tức là trên lá có những đường gân. Giống như chuỗi anh lạc của các vị trời là hình dáng những đường vân.

+ Thứ hai: Nói về hoa cây.

"Có các hoa đẹp màu vàng Diêm-phù-đàn như những vòng lửa xoay tròn, mềm mại giữa lá.

Diêm-phù-đàn đã giải thích ở trên. Ở ven bờ các châu đều có cây, đáy biển chiếu ra màu ánh sáng vàng không thể so sánh ví dụ. Nếu đặt ở trong bóng tối, thì bóng tối ấy liền tan biến, màu hoa cũng giống như thế.

Hoa ấy xoay vòng giống như xe gió ở thế gian.

+ Thứ ba: Nói về quả cây, lại có hai:

Thứ nhất: thể tướng.

Thứ hai: Ánh sáng biến thành cờ phướn và lọng báu.-Thứ nhất: Thể tướng.

Vọt sinh ra các trái, hình dáng như cái bình của trời Đế-thích.

Bình của trời Đế-thích, là ở trước cung điện của trời Đế-thích có cái bình chẳng lường được sự rộng lớn của nó. Dùng lá để đo quả thì biết được sự rộng lớn của nó.

- Thứ hai: Ánh sáng biến thành cờ lọng.

Có ánh sáng rực rỡ hóa thành cờ phướn và vô lượng lọng báu. Trong những lọng báu ấy chiếu sáng hiện ra tất cả Phật sự trong Tam thiên đại thiên thế giới, các cõi nước của các Đức Phật trong mười phương cũng đều hiện trong đó.

Chiếu sáng hiện ra, có hai:

- Tất cả các Phật sự trong Tam thiên Đại thiên thế giới là một.

- Các cõi nước của các Đức Phật trong mười phương là hai.

Chỉ bày vãng sinh, tuyên bố nhập Niết-bàn, nói pháp, độ sinh, đều gọi là Phật sự.

- Thứ hai: Chỉ bày năng quán.

Khi đã quán thấy những hàng cây đó rồi, cũng nên theo thứ lớp mỗi cây để quán, quán thấy thân cây, cành, lá, hoa, quả đều rõ ràng.

Vì sợ tham quán rối loạn nên khiến quán theo thứ lớp. Năm thứ thân... tức là theo thứ lớp, thân nghĩa là rễ và gốc thì chắc chắn gồm cả cành.

- Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng cây, gọi là phép quán thứ tư.

Văn tổng kết dễ hiểu.

- Quán ao, có bốn:

Thứ nhất: Chỉ bày thể tướng.

Thứ hai: Nói về hoa sen trong ao. Thứ ba: Nói về ánh sáng của ao. Thứ tư: Tổng kết chỉ bày.

- Thứ nhất: Chỉ bày thể tướng, có bốn: Nêu số lượng.

Nói về màu nước. Nói về rãnh nước. Nói về đáy ao.-Nêu số lượng.

Kế nên quán tưởng nước, người muốn quán tưởng nước, thì ở cõi nước Cực lạc có tám ao nước.

Mỗi nước có tám ao, đường rãnh thông nhau.

- Nói về màu nước.

Mỗi ao nước đều do bảy chất báu hợp thành, Các chất báu này tánh chất mềm mại, từ như ý châu vua các châu ngọc sinh ra.

Hai câu trên là nói về về sắc tướng. Ao, bậc cấp, bờ của ao đều do các chất báu hợp thành. Màu của các nguồn nước trong ao cũng vậy. Nên nói đều do bảy chất báu hợp thành. Hai câu dưới là chỉ bày nơi sinh ra. Mỗi giữa ao đều có ngọc như ý vua các châu ngọc. Các nguồn từ ngọc như ý vua các châu ngọc chảy trong ao, lúc nào cũng đầy tràn.

- Nói về rãnh nước.

Chia thành mười bốn nhánh, mỗi nhánh có màu đẹp bảy báu, rãnh bằng vàng ròng.

Mười bốn nhánh tức là mười bốn đường rãnh.

- Nói về đáy ao.

Dưới ao đều có cát bằng ngọc kim cương nhiều màu. Ngọc kim cương nhiều màu, có năm màu và cứng.

- Thứ hai: Hoa sen trong ao, có ba: Thứ nhất: Chỉ bày số lượng. Thứ hai: Nói về sự rộng lớn.

Thứ ba: Nói về nước chảy vào giữa hoa.

- Chỉ bày số lượng.

Trong mỗi ao nước đều có sáu mươi ức hoa sen bảy báu.

Trong mỗi ao nước tức là trong tám ao nước ở trên, mỗi ao đều có sáu mươi ức. Trong kinh A-di-đà nói có bốn màu và bốn ánh sáng. Còn ở đây nói là bảy báu, vì thế biết là khác nhau nhiều.

- Nói về sự rộng lớn.

Mỗi hoa sen hình tròn bằng phẳng đường kính rộng đến mười hai do-tuần.

Mười hai do-tuần tính ra thành bốn trăm tám mươi dặm. Kinh A-di-đà chỉ nói lớn như bánh xe là nêu hoa ấy rất nhỏ.

- Nói về nước chảy vào giữa hoa.

Nước Ma-ni ấy chảy lên xuống theo cọng sen, rồi rót vào giữa cánh hoa, tiếng nước chảy rất mầu nhiệm, giảng nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã và các pháp Ba-la-mật, lại có tiếng khen ngợi tướng tốt của các Đức Phật.

Từ như ý châu sinh ra, vì thế nói là nước Ma-ni, ghép chung Hoa và Phạn. Chảy lên xuống theo cọng sen giống như tuần hoàn. Cọng sen tức là thân cây. Nói nước tuần hoàn theo hoa và thân cây là chảy lên để rót vào giữa hoa, lần lượt phát ra âm thanh, rồi theo thân cây chảy xuống ngay, giảng nói các pháp có ba:

- Bốn pháp niệm xứ.

- Pháp sáu độ.

- Khen ngợi tướng tốt của Phật.

- Thứ ba: Ánh sáng của ao, có hai:

Thứ nhất: Từ châu phát ra ánh sáng.

Thứ hai: Ánh sáng biến thành các loài chim kỳ diệu.-Thứ nhất: Từ châu phát ra ánh sáng.

Từ ngọc như ý vua các châu ngọc phát ra ánh sáng màu vàng sáng rỡ mầu nhiệm.

- Thứ hai: Ánh sáng biến thành các loài chim kỳ diệu.

Ánh sáng ấy biến thành các loài chim có màu trăm báu, tiếng chim kêu thanh tao êm tai thường khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Tức là các loài chim hạc trắng, chim công trong kinh A-di-đà. Còn kinh này như lời văn ở dưới là các loài chim như Phù, Nhạn,

Uyên ương... Tức là biết các loài chim báu chẳng phải chỉ có một loài và ở đây chỉ nêu sắc lông dùng để gom nhiếp chung. Khen ngợi Tam bảo vì để cho hướng về.

- Thứ tư: Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng nước có tám thứ công đức, gọi là phép quán thứ năm.

Tám thứ công tức là:

Một là: Nhẹ nhàng.

Hai là: Trong sạch.

Ba là: Mát lạnh.

Bốn là: Mềm mại. Năm là: Đẹp đẽ.

Sáu là: Không hôi.

Bảy là: Khi uống điều hòa dễ chịu.

Tám là: Uống rồi không bị bệnh hoạn.

Không ngoài bốn trần: Sắc, hương, vị, xúc mà thôi.

Tam tạng Cương-lương-da-xá, đời Lưu Tống-người

Tây Vực dịch. Thích Nguyên Chiếu, chùa Sùng Phước ở Linh Chi thuộc Tây Hồ soạn.

QUYỂN HẠ

Quán chung, có bốn:

1. Thứ nhất: chính là nói.

2. Thứ hai: Tổng kết chỉ bày.

3. Thứ ba: Nói về lợi ích.

4. Thứ tư: Nói về tà chánh. I. Thứ nhất: Chính, có hai:

Thứ nhất: Quán riêng lầu báu. Thứ hai: Quán chung bốn thứ.

1. Quán riêng lầu báu, có bốn: Thứ nhất: Nêu số lượng.

Thứ hai: Các vị trời trổi nhạc.

Thứ ba: Nhạc trời treo giữa hư không. Thứ tư: Tiếng nhạc nói pháp.

a. Thứ nhất: Nêu số lượng.

Ở cõi nước đủ các thứ báu, trên mỗi cõi có năm trăm ức lầu gác báu.

"Ở cõi nước có đủ các thứ báu" là nói chung cõi nước kia, "mỗi cõi" là theo kinh A-di-đà tức là ở trên bờ ao.

Kinh chép: Ở trên bốn ven bờ thềm đường đều có các lầu gác v.v...

b. Thứ hai: Các vị trời trổi nhạc.

Trong những lầu gác ấy có vô lượng các vị trời thường trổi lên các thứ nhạc trời.

Kỹ là người đánh nhạc.

c. Thứ ba: Nhạc trời treo giữa hư không.

Lại có các thứ nhạc khí treo lơ lửng giữa hư không như cờ báu cõi trời không ai đánh mà tự nhiên phát ra tiếng.

Như cờ báu là nói chất lượng các nhạc khí. d. Thứ tư: Tiếng nhạc nói pháp.

Trong các tiếng ấy đều giảng nói pháp môn niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ-kheo Tăng.

Tức là khen ngợi Tam bảo.

2. Thứ hai: Quán chung bốn thứ.

Quán tưởng như thế đã thành rồi, gọi là lược thấy những cây báu, đất báu, ao báu của thế giới Cực lạc.

Tiếp theo phép quán lầu báu ở trước và nhắc lại ba phép quán ở trước tức là quán chung; hoặc riêng, hay chung đều khế hợp với cơ duyên. Đó là quán về y báo, sự gom nhiếp chẳng chỗ nào không cùng tận. Nói lược thấy tức là phép tư duy.

Văn ở dưới: Nếu người quán thấy được như thế, tức là phép chánh thọ.

II. Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng chung, gọi là phép quán thứ sáu.

III. Nói lợi ích.

Nếu người quán thấy được như thế thì sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô lượng ức kiếp. Sau khi qua đời chắc chắn được sinh về cõi nước Cực lạc.

Tức là phá trừ nghi chướng.

IV. Làm sáng tỏ tà chánh.

Người quán tưởng như thế gọi là chánh quán, nếu quán tưởng khác gọi là tà quán.

Đều như giải thích ở trước.

Tiếp theo là trong phần chánh báo của mười phép quán ở sau, có bốn:

- Thứ nhất: Đức Như lai khuyên nhủ dặn bảo.

- Thứ hai: Ba vị Thánh hiện thân.

- Thứ ba: Phu nhân vì chúng sinh ở đời vị lai thưa hỏi lại.

- Đức Như lai nói rộng.

1. Đức Như lai khuyên nhủ, dặn bảo, có ba: Thứ nhất: Khuyên nghe.

Thứ hai: Hứa nói. Thứ ba: Dặn bảo lại. a. Khuyên nghe.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: các ngươi hãy lắng nghe cho kỹ và khéo suy nghĩ.

Vì như quán y báo ở trên mục đích là quán chánh báo nên Đức Phật khuyên nhủ, dặn bảo lại.

b. Hứa nói.

Ta sẽ phân biệt giải thích cách dứt trừ khổ não cho các vị nghe.

Các khổ ở cõi Ta-bà nếu chẳng phải tam-muội quán Phật thì không thể nào thoát khổ được, vì thế gọi là pháp thoát khổ. Ba cõi là khổ khí, sáu đường là khổ báo.

c. Dặn bảo lại.

Các vị nên ghi nhớ và giữ gìn, phân biệt giải thích rõ cho đại chúng nghe.

2. Ba vị Thánh hiện thân.

Khi Đức Phật nói lời ấy xong, thì Đức Phật Vô Lượng Thọ đã hiện thân đứng giữa hư không, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí là hai vị Đại sĩ đứng hầu hai bên, có ánh sáng rực rỡ không thể nào thấy hết. Dù cho trăm ngàn sắc vàng Diêm-phù-đàn cũng không thể so sánh ví dụ được.

Văn trước nói đài ánh sáng hiện ra các cõi nước khiến cho bà Vi-đề-hy thấy được dùng làm đầu mối phát lời thưa hỏi về y báo, cho nên.

Nói: Nhờ năng lực Phật nên thấy được cõi nước kia... Còn nay ba vị Thánh cùng đến làm lý do phát về lời thưa hỏi chánh báo. Vì thế chép: Nhờ năng lực Phật nên được thấy Đức v.v...

Đức Phật đứng giữa hư không và hai vị Thánh đứng hầu hai bên. Hình tượng ba vị Thánh đứng đó là nói chứng cứ. Màu vàng "Diêm-phù-đàn còn không thể so sánh ví dụ được" thì biết ánh sáng ấy không thể thấy hết.

3. Phu nhân vì chúng sinh ở đời vị lai thưa hỏi lại, có hai:

- Thấy Đức Phật làm lễ.

- Bạch Phật để thưa hỏi lại.

a. Thấy Đức Phật làm lễ.

Lúc ấy, bà Vi-đề-hy được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ rồi, liền quỳ sát xuống đảnh lễ.

b. Bạch Phật để thưa hỏi lại.

Và bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay con nhờ năng lực Phật mà được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát. Còn các chúng sinh ở đời vị lai phải làm thế nào để quán thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Bồ-tát?

Tức là bạch với Đức Phật Thích-ca. Bồ-tát có tâm không chỉ vì mình. "Tuy nhiên cho con được thấy" nhưng ý là vì chúng sinh ở đời vị lai.

4. Đức Như lai nói rộng. Theo mười phép quán ở dưới phần lớn chia làm bốn như đã nói ở trên, ở đây giải thích theo thứ lớp.

- Quán tòa sen có hai:

- Chính là nói về tu hành phép quán.

- Khuyên chung quán kỹ.

Người quán tòa sen muốn thấy Tôn cảnh thì trước phải quán chỗ ngồi, như đối trước vua, mắt nhìn thềm bệ, có hai: a. Chính là nói về tướng tu hành phép quán, có ba: Chỉ bày chung chỗ y theo.

Nêu riêng các cảnh tượng trang nghiêm. Tổng kết để chỉ bày.

- Chỉ bày chung chỗ y theo.

Đức Phật bảo bà Vi-đề-hy: Người muốn quán tưởng

Đức Phật kia thì phải khởi tưởng niệm ở trên đất bảy báu, tưởng thành hoa sen.

Hoa nương trên đất đó là nói về chỗ ngồi của đài chứ chẳng phải hoa sen trong ao.

- Nêu riêng các cảnh tượng trang nghiêm, có hai:

Thứ nhất: Cánh hoa.

Thứ hai: Đài hoa.

+ Thứ nhất: Cánh hoa, có sáu: Thứ nhất: Màu sắc.

Thứ hai: Đường gân. Thứ ba: Ánh sáng.

Thứ tư: Chỉ bày mức độ. Thứ năm: Nói về số lượng.

Thứ sáu: Nói về ánh sáng của những hạt châu.

- Thứ nhất: Màu sắc.

Khiến cho ở trên mỗi cánh hoa sen ấy làm thành trăm màu báu.

- Thứ hai: Đường gân.

Có tám mươi bốn ngàn đường gân giống như bức tranh cõi trời.

Đường vân khéo léo nên giống như bức tranh cõi trời.

- Thứ ba: Ánh sáng.

Mỗi đường gân lại có tám mươi bốn ngàn tia sáng chiếu suốt rõ ràng đều thấy được.

- Thứ tư: Chỉ bày mức độ.

Những cánh sen nhỏ rộng mỗi bề hai trăm năm mươi do-tuần. Hai trăm năm mươi do-tuần tính có một muôn dặm.

- Thứ năm: Nói về số lượng.

Mỗi hoa sen như thế có tám mươi bốn ngàn cánh.

- Thứ sáu: Nói về ánh sáng hiện ra.

Giữa mỗi cánh đều có trăm ức hạt ngọc châu Ma-ni vua các châu ngọc tô điểm chói sáng. Mỗi hạt châu Mani phát ra ngàn tia sáng, tia sáng ấy như chiếc lọng, do bảy chất báu hợp thành che khắp trên mặt đất.

Tia sáng hình dạng như lọng chiếu xuống che khắp trên đất.

+ Thứ hai: Đài hoa, có ba:

Thứ nhất: Nói về thể của đài.

Thứ hai: Các sự tô điểm xinh đẹp ở ngoài đài. Thứ ba: Cột báu trên đài.

- Thứ nhất: Nói về thể của đài.

Lại dùng ngọc báu Thích-ca Tỳ-lăng-già làm đài sen. Tức là tâm sen. Thích-ca Tỳ-lăng-già tức là hạt ngọc như ý, sinh ra vô tận đều như ý muốn của mọi người. Vì thế nói là năng sinh.

- Thứ hai: Các sự tô điểm xinh đẹp ở ngoài đài.

Đài hoa sen ấy được tô điểm bằng tám muôn ngọc báu kim cương chân-thúc-ca, ngọc báu Phạm ma-ni, lưới châu báu nhiệm mầu.

Văn nêu bốn thứ ngọc báu: Chân-thúc-ca, dịch là báu màu đỏ, tiếng Phạm thì dịch là Tịnh.

- Thứ ba: Cột báu trên đài, có ba: Thứ nhất: Nói về thể của cột. Thứ hai: Nói về màn báu.

Thứ ba: Ánh sáng của những hạt châu.

- Thứ nhất: Nói về thể của cột.

Ở trên đài ấy tự nhiên có bốn cột báu, mỗi cột báu cao lớn như muôn ngàn trăm ức núi Tu-di.

Tức là trên mặt đài, bốn hướng đều có cột đứng chống đỡ màn lưới ở trên để che đảnh Phật.

- Thứ hai: Nói về màn báu.

Trên cột báu có màn báu như cung trời Dạ-ma.

Dạ-ma là cõi trời không cư thứ ba thuộc cõi Dục. Vì ánh sáng của cung trời kia rất rực rỡ trang nghiêm nên thường dùng để so sánh.

- Thứ ba: Ánh sáng của những hạt châu, có bốn:

Thứ nhất: Nếu số lượng.

Thứ hai: Ánh sáng của những hạt châu. Thứ ba: Màu sắc ánh sáng.

Thứ tư: Sự biến hiện của màu sắc ấy.

- Thứ nhất: Nêu số lượng.

Lại có năm trăm ức hạt châu báu mầu nhiệm để tô điểm chói sáng.

- Ánh sáng của những hạt châu.

Mỗi hạt châu báu có tám mươi bốn ngàn tia sáng.

- Màu sắc ánh sáng.

Mỗi tia sáng có tám mươi bốn ngàn thứ mầu vàng khác lạ.

- Sự biến hiện của màu sắc ấy.

Mỗi màu vàng chiếu khắp cõi báu ấy, biến hóa khắp nơi, đều hiện ra các hình ảnh khác nhau, hoặc làm đài kim cương, hoặc làm lưới châu báu, hoặc biến thành mây nhiều hoa lẫn lộn, ở mười phương tùy ý biến hiện để làm các Phật sự.

Sắc ấy biến hiện thành ba: Đài kim cương, lưới châu báu và mây hoa. Lại có các hình ảnh khác, vì thế nói là tùy ý v.v...

- Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng tòa hoa sen, gọi là phép quán thứ bảy. Đó là tổng kết rất dễ hiểu. b. Thứ hai: Khuyên chung quán kỹ, có năm: Thứ nhất: Tìm nguyên nhân trước kia. Thứ hai: Nói về lý do dần dần thứ lớp.

Thứ ba: là Dạy quán thuần nhất, lìa bỏ phép quán tưởng lộn xộn. Thứ tư: Là nêu lợi ích.

Thứ năm: Nói về tà chánh.

- Tìm nguyên nhân trước kia.

Phật bảo A-nan: Hoa sen mầu nhiệm ấy là do năng lực thệ nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng xưa kia mà thành.

Đức Phật A-di-đà xưa kia làm vua gặp Đức Phật Thế Tự Tại Vương liền bỏ nước xuất gia, pháp danh là Pháp Tạng, phát bốn mươi tám lời nguyện. Vì thế các cảnh giới y báo của cõi nước kia như tuổi thọ, ánh sáng... đủ các thứ trang nghiêm, tất cả quả tướng này đều là sự thành tựu từ năng lực thệ nguyện, thì đâu chỉ có tòa hoa sen! Dựa vào điểm này để chỉ bày cho biết Tịnh độ tức là nguyện thể (thể tướng của lời nguyện) của Phật. Nguyện do tâm phát, tức là tâm thể của Phật. Vì thế biết không thể suy nghĩ bàn luận về lý của nguyện lực.

- Nói về lý do dần dần thứ lớp.

Nếu người muốn quán tưởng Đức Phật kia thì trước phải quán tưởng tòa hoa sen này.

Trước không quán tòa sen thì quán Phật sẽ không thành tựu.

- Dạy quán thuần nhất, lìa bỏ phép quán tưởng lộn xộn.

Trong khi quán tưởng thì không được quán tưởng lộn xộn, đều nên theo mỗi pháp quán như mỗi hạt châu, mỗi tia sáng, mỗi đài kim cương, mỗi cột báu đều phải quán tưởng cho rõ ràng như ở trong gương tự thấy mặt mũi hình dạng mình.

Mỗi pháp quán xuyên suốt năm thứ ở dưới, hoa lá và cột báu đều có ánh sáng của những hạt châu. Còn đài Kim cương thì không nói ánh sáng là do văn lược bớt chút ít. Như ở trong gương tự thấy mặt mình là ví dụ các tướng ấy không khác nhau.

- Nêu lợi ích.

Nếu thành tựu phép tưởng này thì sẽ dứt trừ được các tội sinh tử trong năm muôn kiếp, chắc chắn sẽ được sinh về thế giới Cực lạc.

Diệt tội trừ nghi đó là phương tiện đầu tiên của quán Phật nên sự diệt tội còn ít, kế là quán hình tượng Phật thì diệt tội mới nhiều và đến sau quán Phật chứng được Vô sinh pháp nhẫn, liền dứt bỏ được vô minh.

- Nói về tà, chánh.

Sự giải thích giống như ở trước.

- Quán hình tượng Phật, có hai:

- Thứ nhất: Tổng kết văn trước nêu văn sau.

- Thứ hai: Chính chỉ bày phép quán. a. Tổng kết văn trước nêu văn sau.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Khi tưởng thấy tòa hoa sen rồi, kế là quán tưởng hình tượng Phật.

Chúng sinh từ vô thỉ chưa biết được Phật thật mà phần nhiều chỉ thấy hình tượng. Cho nên trước quán khiến dùng hình tượng để thay cho Phật thật thì việc quán Phật dễ được thành tựu. b. Chính là nêu pháp quán, có ba:

Thứ nhất: Chỉ bày chung ý nghĩa quán tưởng Phật. Thứ hai: Chính là nói về phép quán tưởng Phật.

Thứ ba: Tổng kết chỉ bày.

-Chỉ bày chung ý nghĩa quán tưởng Phật, có bốn:

Thứ nhất: Nói thân Phật trùm khắp và có khả năng ứng với tâm mọi người.

Thứ hai: Nói hành giả khi tưởng thành tựu, tức là đầy đủ thể tướng Phật.

Thứ ba: Nêu quả đức của các Đức Phật kia, khiến tin tưởng, nhân nương tựa tâm đó để tổng kết khuyên tu nhân phải nương theo quả đức.

Thứ tư: Đoạn kinh này. Đức Phật Như lai của ta muốn nói về quán Phật. Vì thế khi mở đầu quán hình tượng Phật thì trước phải nói về công đức quán Phật, tức là Đức Phật chỉ bày cho chúng sinh con đường thiết yếu thành Phật. Diệu chỉ của bộ kinh chỉ ở chỗ ấy, người hậu học nên nghiên cứu kỹ. Chỗ ấy mà không hiểu thì không biết những chỗ khác nói sao?

-Thứ nhất: Nói về thân Phật trùm khắp, có hai: Thứ nhất: Hỏi.

Thứ hai: Nêu.

* Thứ nhất: Hỏi. Vì sao? Quán Phật thì lợi ích ấy ở đâu?

* Thứ hai: Nêu. Vì các Đức Phật Như lai là thân pháp giới vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sinh.

Ở đây chính là nói do pháp thân của Phật Di-đà đồng một thể với các Đức Phật nên nói là các Đức Phật.

Kinh Hoa Nghiêm chép: Thân của tất cả các Đức Phật tức là một pháp thân này, một tâm, một trí tuệ, lực vô úy cũng như vậy. Đó là nói pháp thân có từ quả chứng của các Đức Phật chẳng chỗ nào không trùm khắp, không hai, không khác với pháp thân nhân địa của chúng sinh.

Thế nên khi chúng sinh quán tưởng thân Phật, thì tùy đó mà cảm ứng.

Sớ chép: vì tâm chúng sinh thanh tịnh, pháp thân tự tại, vì có khả năng vào tâm tưởng của chúng sinh, như mặt trăng lên cao thì bóng hiện dưới trăm sông, thế nên tâm tưởng Phật tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẽ đẹp. Như phẩm Thể Chí Viên Thông chép: "Các Đức Như lai trong mười phương thương nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con." Đó là nói các Đức Phật thường nghĩ nhớ đến chúng sinh; "nếu con bỏ trốn đi không trở lại, thì tuy mẹ nhớ nhưng chẳng biết làm sao?" Đó là nói chúng sinh không nghĩ nhớ thì có ứng mà không có cảm. "Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, nghĩ đến Phật thì Phật hiện tiền và vị lai chắc chắn sẽ gặp Phật, cách Phật không xa." Đó là nói chúng sinh nhớ nghĩ đến Phật đường cảm ứng giao nhau. Đó là chứng thật đồng một thể đại Từ bi và lực thiện căn của Đức Thế tôn Di-đà tùy duyên cảm đến, ứng theo vật mà hiện hình không thể nghĩ bàn. Nếu hiểu được lý ấy thì các Đức Phật vào trong tâm tưởng đâu còn nghi ngờ gì?

- Thứ hai: Là nói về hành giả khi quán tưởng thành tựu tức là đầy đủ thể tánh Phật. "Do đó khi tâm các ngươi quán tưởng Phật thì tâm đó tức là ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật".

Trong đó câu thứ nhất và câu thứ hai là chỉ bày tâm và cảnh tương ứng, câu thứ ba kế là nói về nhân thành tựu quả tướng. Còn hai câu dưới là giải thích để thành tựu ý nghĩa ở trên. Tâm ấy tức là chỉ tâm hành giả quán Phật, nhờ quán tướng Phật nên tướng hiện ở trong tâm và tâm ấy đầy đủ các tướng tốt của Phật. Đó là y theo thân nhỏ một trượng sáu, công phu của người ấy nếu được như thế, hoặc quán tám mươi bốn ngàn tướng tốt thì tâm đầy đủ cũng giống như vậy, công đức dạy quán Phật chính là như thế.

Chúng sinh nương theo giáo pháp, tu nhân để cảm được quả khởi đầu từ tâm ấy, cho nên nói tâm ấy làm Phật. Sợ cho rằng tu thành Phật từ ngoài mà được, nhưng thật sự chỉ do tâm ấy đương thể là Phật, vì để xây dựng sự tu hành thì được quả trọn vẹn, cho nên nói tâm ấy là Phật. Nếu không như vậy, khi sinh về cõi nước kia rồi đầy đủ ba mươi hai tướng tốt của bậc đại nhân từ đâu mà có được, nên biết ngày nay tâm tưởng Phật thì quả đức tướng tốt đều đầy đủ, gá chất vào thai sen, tức là tâm ấy. Đó là chứng Bồ-đề không từ chỗ khác mà được.

- Thứ ba: Là nêu quả đức của Đức Phật kia để khiến tin nương tựa ở tâm.

Biển chánh biến tri của các Đức Phật từ tâm tưởng mà sinh.

Chánh biến tri là một trong mười hiệu của Phật. Pháp xuất thế gian chẳng chỗ nào không rốt ráo cùng tận, sâu rộng không bờ mé, vì thế thí dụ như biển. Đức của Phật vô biên nhưng chỉ lược nêu "biến tri" để gom nhiếp những đức khác. Quả nhiên muôn đức đều từ tâm tưởng mà sinh. Và ý là khuyến khích các phàm phu ở dưới siêng năng tu tập, thì công đức có được không luống dối.-Thứ tư: Tổng kết và khuyên tu nhân phải nương theo quả đức. Vì thế các ngươi phải một lòng buộc niệm, quán kỹ Đức Phật Đa-đà-a-già-độ A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà kia.

Vì công đức quán Phật cao sâu nên khuyên buộc niệm để quán tưởng và trước là nêu chung các Đức Phật, còn ở đây chỉ riêng Đức Phật A-di-đà để tổng kết trở về kinh này là ý chính. Vì thế nói quán kỹ Đức Phật kia. "Đa-đà-a-già-độ", Hán dịch là Như lai, "A-la-ha", Hán dịch là Ứng Cúng. "Tam-miệu Tam-phật-đà", Hán dịch là Chánh biến tri.

Tức là lược nêu ba đức hiệu trong mười hiệu. Và sự giải thích rõ ràng như các chỗ khác.

- Chính là nói về phép tưởng Phật, có ba: Thứ nhất: Nói riêng về ba hình tượng. Thứ hai: Nói chung ba hình tượng. Thứ ba: Nói về lợi ích.

- Thứ nhất: Nói riêng về ba hình tượng, gồm hai: Thứ nhất: Hình tượng Đức Phật A-di-đà.

Thứ hai: Hình tượng hai vị Bồ-tát.

+ Thứ nhất: Hình tượng Đức Phật A-di-đà, có ba:

Thứ nhất: Quán thấy sắc tướng của hình tượng.

Thứ hai: Quán thấy các hình ảnh trang nghiêm của cõi nước. Thứ ba: Khuyên khiến quán kỹ.

* Thứ nhất: Quán thấy sắc tướng của hình tượng.

Người quán tưởng Đức Phật kia, trước phải quán tưởng hình tượng sao cho khi nhắm mắt mở mắt đều thấy một tượng báu như mầu vàng Diêm-phù-đàn ngồi trên tòa hoa sen.

Vì hình tượng thay cho Phật thật từ dễ đến khó nên hoặc là tượng vẽ, hoặc là tượng chạm trổ, tùy theo người thấy quen thuộc thì dùng làm cảnh. Ngồi trên tòa hoa sen kia tức là tòa hoa sen nói ở trước.

* Thứ hai: Quán thấy các hình ảnh trang nghiêm của cõi nước.

Khi quán thấy tượng Phật ngồi rồi, mắt tâm được mở mang rõ ràng sáng suốt, thấy cõi nước Cực lạc trang nghiêm bảy báu như: Đất báu, ao báu, hàng cây báu, những màn báu của các cảnh trời che phủ trên chúng, các lưới báu giăng đầy giữa hư không.

Tức là y báo ở trước.

* Khuyên khiến quán kỹ.

Thấy những việc như thế, phải cho thật rõ ràng như nhìn thấy trong lòng bàn tay.

Nhìn thấy trong lòng bàn tay là nói các hình ảnh ấy rõ ràng.

+ Thứ hai: Hình tượng của hai vị Bồ-tát, lại gồm có hai: Thứ nhất: Quán tòa hoa sen.

Thứ hai: Quán hình tượng.

* Thứ nhất: Quán tòa hoa sen.

Quán thấy những việc như thế rồi, lại phải quán tưởng ra một tòa sen lớn ở bên trái Phật, giống như tòa sen trước, bằng nhau không khác, lại tưởng ra một tòa sen lớn nữa ở bên phải Phật.

Như tòa sen trước tức là chỗ ngồi của Phật và y theo thân của Bồ-tát tính ra cần phải giảm bớt.

* Thứ hai: Quán hình tượng.

Tưởng một Bồ-tát Quán Thế Âm ngồi trên tòa sen bên trái, cũng màu vàng giống như tòa sen trước không khác, lại tưởng một Bồ-tát Đại Thế Chí ngồi trên tòa sen bên phải.

Cũng có màu vàng, tức là thân Bồ-tát giống như màu thân Phật ở trước.

- Thứ hai: Nói chung ba hình tượng, có hai: Thứ nhất: Mắt thấy cảnh đẹp.

Thứ hai: Tai nghe nói pháp.

- Thứ nhất: mắt thấy cảnh đẹp có hai:

* Ba tượng phát ra ánh sáng.

Khi tưởng như thế đã thành rồi, lại tưởng tượng Phật và Bồ-tát đều phát ra ánh sáng, ánh sáng ấy màu vàng chiếu các cây báu.

Tức là biết hình tượng đều phát ra ánh sáng, màu ánh sáng chiếu đến các cây.

* Thấy khắp ba hình tượng.

Dưới mỗi gốc cây cũng có ba tòa sen, trên các tòa sen đều có một tượng Phật và hai tượng Bồ-tát đầy khắp cõi nước kia.

Tức là thấy khắp ba hình tượng chẳng chỗ nào không có.

-Thứ hai: Tai nghe nói pháp, có hai: Thứ nhất: Các âm thanh nói pháp. Thứ hai: Nhớ giữ không quên.

* Thứ nhất: Các âm thanh nói pháp.

Khi tưởng như thế thành rồi, hành giả nên tưởng nghe tiếng nước chảy, ánh sáng và các cây báu, những loài chim như: Phù, Nhạn, Uyên ương đều nói pháp mầu, cho đến khi xuất định, nhập định thường nghe pháp mầu. Nước, ánh sáng, cây, những loài chim, gió khua nhạc khí đều như sự chỉ bày ở trước. Các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, các pháp Ba-la-mật ở trước, vì thế nói là pháp mầu.

* Thứ hai: Nhớ giữ không quên.

Hành giả đã nghe nên sau khi xuất định nhớ giữ không xả bỏ, phải hợp với Tu-đa-la. (Khế kinh) nếu không hợp thì đó là vọng tưởng, còn nếu hợp thì gọi là tưởng thấy thế giới Cực lạc về phần thô.

Nghĩa là pháp được nghe không trái với giáo điển, vì thế nói là hợp. Tu-đa-la, Hán dịch là Khế kinh. Trái với giáo tức là vọng, hợp với pháp vẫn còn là phần thô. Đối với pháp tam-muội ở dưới để phân biệt thô và diệu.-Thứ ba: Nói về lợi ích.

Người tu phép quán như vậy, thì dứt trừ được các tội trong sinh tử trong vô lượng ức kiếp, ở hiện đời chứng được phép tam-muội niệm Phật.

Văn có hai:

- Thứ nhất: Trừ được tội chướng.

- Thứ hai: Gần phép tam-muội.

Tức là nếu phép quán Phật ở dưới và phép quán hình tượng thành tựu thì chắc chắn thấy chân thân (thân thật). Vì thế nói là hiện đời liền chứng được.

- Thứ ba: Tổng kết chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng tượng Phật và Bồ-tát, gọi là phép quán thứ tám.

Theo văn kinh ở trên nói về ba hình tượng, có chỗ cho là không quán tưởng hình tượng hai vị Bồ-tát, không biết là ý gì?

- Quán Phật, có hai:

Thứ nhất: Nối theo văn trước bắt đầu văn sau. Thứ hai: Nói về cảnh sở quán.

a. Thứ nhất: Nối theo văn trước bắt đầu văn sau.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Khi phép tưởng này thành rồi, kế lại nên quán thân tướng sáng chói của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Phép quán này và phép quán hình tượng Phật đều có văn thứ lớp nối theo ở trước để bắt đầu ở sau, và ý để chứng minh sự tu hành không phải dễ dàng thông suốt. Theo thứ bậc xưa thì gọi là quán pháp thân chân thật. Còn ở đây theo phần tổng kết ở dưới chép: Đó là phép quán khắp tất cả tướng sắc thân, gọi là phép quán thứ chín thì chắc chắn là phải chỉ cho sắc tướng quả Phật Adi-đà kia, tức là pháp thân.

Còn hai vị Bồ-tát ở dưới so sánh rất giống.

b. Nói về cảnh sở quán, có năm: Thứ nhất: Chứng minh. Thứ hai: Tổng kết lợi ích. Thứ ba: Khuyên tu.

Thứ tư: Tổng kết phép quán. Thứ năm: Phân biệt.

- Chính là nói, có ba:

Thứ nhất: Chỉ bày thân tướng.

Thứ hai: Nói về sự lược bớt.

Thứ ba: Chỉ bày chỗ chứng.

- Thứ nhất: Chỉ bày thân tướng, có bảy: Thứ nhất: Nói về màu sắc thân. Thứ hai: Chỉ bày mức độ của thân. Thứ ba: Mức độ của sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày. Thứ tư: Màu sắc và mức độ của mắt.

Thứ năm: Mức độ của lỗ chân lông. Thứ sáu: Nói về ánh sáng sau cổ.

Thứ bảy: Tướng tốt.

* Thứ nhất: Nói về màu sắc của thân.

Này A-nan! Ông nên biết thân Phật Vô Lượng Thọ rực rỡ như màu vàng Diêm-phù-đàn của trăm ngàn muôn ức cung trời Dạ-ma.

Trăm ngàn muôn ức cung trời Dạ-ma là ví dụ thân Phật cao lớn.

Màu vàng Diêm-phù-đàn là nói về tự thể.

* Thứ hai: Chỉ bày mức độ của thân.

"Thân Phật cao sáu mươi muôn ức na-do-tha Hằng hà sa do-tuần."

Thân Phật cao lớn vô lượng nhưng tùy theo sự thấy của từng căn cơ mà có khác nhau. Chỗ nêu trong văn là mượn số lượng để nói vượt ngoài số lượng và muốn nói thân Phật không thể xác định. Vì cho nên văn ở dưới nói như chỗ nói ở trước. Thân Đức Phật Vô Lượng Thọ cao lớn vô biên, tâm lực của phàm phu chẳng thể quán khắp được.

"Lại chép: Hoặc hiện thân lớn khắp hư không", đó là nêu lên điều này làm chứng cho câu trước để biết được thân Đức Phật Vô Lượng Thọ là vô hạn lượng. Dùng bầu lọ và chén để lường nước biển, dùng trượng và thước để đo hư không đâu thể được. Đó là các ví dụ để thấy.

* Thứ ba: Mức độ của sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày.

Sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày mềm mại xoay về bên phải như năm ngọn núi Tu-di.

Mềm mại xoay về bên phải là hình dáng như viên ngọc. Một núi Tu-di cao ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, chu vi cũng như, năm núi Tu-di cộng thành một ngàn sáu trăm tám mươi muôn dặm.

Sớ dẫn luận Bảo Tánh: Sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày của Đức Phật, chu vi là ba trăm sáu mươi muôn dặm nghi là tính lầm với một núi Tu-di.

* Thứ tư: Màu sắc và mức độ của đôi mắt.

"Mắt Phật như nước bốn biển lớn, trắng xanh phân ra rõ ràng" Một biển lớn rộng tám mươi bốn ngàn dotuần, bốn biển lớn cộng thành ba mươi hai muôn sáu ngàn do-tuần.

* Thứ năm: Ánh sáng của lỗ chân lông.

Các lỗ chân lông trên thân chiếu ra ánh sáng như núi Tu-di.

Ánh sáng là ánh sáng của thân. Ánh sáng của mỗi lỗ chân lông như núi Tu-di. Chiếu tức là chiếu ra.

* Thứ sáu: Ánh sáng ở sau cổ.

Vầng ánh sáng tròn của Đức Phật kia rộng lớn như trăm ức Tam thiên Đại thiên thế giới. Ở trong vầng ánh sáng tròn có trăm muôn ức na-do-tha hằng hà sa hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật cũng có rất nhiều vô số hóa Bồ-tát để làm thị giả.

Trăm ức Tam thiên Đại thiên thế giới là nói mức độ của vầng ánh sáng tròn ấy. Hóa Phật và Bồ-tát tức là sự ứng hiện.

* Thứ bảy: Tướng tốt.

Đức Phật Vô Lượng Thọ có tám mươi bốn ngàn tướng, trong mỗi tướng đều có tám mươi bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình (đi theo). Trong mỗi vẽ đẹp lại có tám mươi bốn ngàn tia sáng, mỗi tia sáng chiếu khắp các chúng sinh niệm Phật ở các cõi nước trong mười phương, che chở không bỏ.

Thân một trượng sáu thì có đủ ba mươi hai tướng và tám mươi vẻ đẹp. Ở đây thân tướng, vẻ đẹp, ánh sáng của Di-đà tổng cộng có ba lần số tám mươi bốn ngàn thì số ấy là vô lượng không thể tính. Và phần chỉ bày ánh sáng chiếu khắp, che chở chúng sinh ở câu dưới tức là tâm thể Từ bi của Đức Phật A-di-đà.

Hỏi: Những người không niệm Phật, ánh sáng của Phật có che chở hay không?

Đáp: Niệm và không niệm, ánh sáng đều gom nhiếp, nhưng người niệm Phật và ánh sáng tương ứng, nhiếp lấy vãng sinh thì chắc chắn không lui sụt.

Luận Đại Trí Độ chép: Thí như trứng cá, nếu cá me không nhớ thì trứng sẽ bị hư thối.

Kinh Lăng nghiêm chép: Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con, chỉ có con đối với mẹ có nhớ hay không nhớ mà thôi. Lại như người mù ở dưới vầng mặt trời, thì mặt trời chẳng ai là không chiếu nhưng người mù không thấy, người không niệm Phật cũng giống như vậy.

- Thứ hai: Nói về lược bớt.

Các tướng tốt, vẻ đẹp, ánh sáng và hóa Phật ấy không thể nói hết.

Hành giả chỉ nên tưởng nhớ khiến cho mắt nhãn được thấy.

Tướng, vẻ đẹp và ánh sáng ấy gồm hai ánh sáng thân và sau cổ ở trên. Hóa Phật là các Đức Phật hiện ra ở trong vầng ánh sáng tròn, nói không thể cùng tận mà chỉ nhớ nghĩ mới thấy. Mắt nhãn tức là ý nghĩ.

- Thứ ba: Chỉ bày chỗ chứng, có hai: Thứ nhất: Quán một Đức Phật. Thứ hai: Quán thân Phật.

* Thứ nhất: Quán một Đức Phật.

Người thấy được những việc như thế, tức là thấy được tất cả các Đức Phật trong mười phương. Vì thấy được tất cả các Đức Phật nên gọi là tam-muội niệm Phật. Thấy nhiều Đức Phật là thể đồng là pháp thân tammuội niệm Phật từ đó mà có tên gọi.

* Thứ hai: Quán thân Phật.

Người tu phép quán như vậy, gọi là quán tất cả thân Phật và vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật.

Tâm Phật là tâm đại Từ bi, dùng tâm từ vô duyên che chở tất cả chúng sinh.

Thấy tâm Phật: thân là tướng của tâm. Vì cho nên Phật không có tất cả tâm mà chỉ có tâm đại Từ bi.

Từ là cho vui; bi là cứu khổ. chúng sinh không cùng tận, tâm đại bi của Phật cũng không có cùng tận.

Luận Đại Trí Độ chép: Từ bi có ba thứ:

- Thứ nhất: chúng sinh duyên từ, là không có tâm phan duyên với tất cả chúng sinh, đối với chúng sinh tự nhiên hiện ra những sự lợi ích.

- Thứ hai: Pháp duyên từ, là vô tâm quán pháp, đối với tất cả các pháp tự nhiên đối trị.

- Thứ ba: Vô duyên từ, là vô tâm quán lý, ở trong nghĩa bậc nhất bình đẳng tự nhiên an trụ.

Thứ sau cũng là y theo lý thể, còn hai thứ trước là theo sự dụng. Ở đây nêu vô duyên từ nghĩa của nó gom nhiếp tất cả ba thứ. Nghĩa là tâm của các Đức Phật không trụ có hoặc không, không y theo ba đời mà dùng trí tuệ rộng lớn bình đẳng thường soi chiếu pháp giới. Vì sự gom nhiếp chúng sinh, chẳng chúng sinh nào không gom nhiếp, và vì không do duyên khởi nên nói là vô duyên, tức là che chở các chúng sinh niệm Phật không bỏ ở trước.

- Tổng kết lợi ích.

Người tu phép quán như thế, khi bỏ báo thân, qua đời khác sẽ sinh ở trước các Đức Phật, được Vô sinh pháp nhẫn.

Khi bỏ báo thân qua đời khác sinh về cõi nước kia rồi, liền chứng được Vô sinh pháp nhẫn. Vì thế mà biết nếu phép quán này thành tựu thì rõ ràng sẽ được thượng phẩm thượng sinh.

- Khuyên tu, có hai:

Thứ nhất: Khuyên quán. Thứ hai: Dạy chỗ đi vào.

- Thứ nhất: Khuyên quán.

Vì cho nên người trí phải buộc tâm quán kỹ Đức Phật Vô Lượng Thọ.

"Người trí" tức là người tự tu quán, "y theo phép quán ở trước", tức là quán kỹ. Do tu phép quán ấy khi sinh về cõi nước kia liền được Vô sinh pháp nhẫn là, có công đức sâu xa và ích lợi rộng lớn nên khuyên cần phải buộc niệm. Vì cho nên trong kinh Bát Chu tam-muội có chúng sinh hỏi Đức Phật: Nhờ nhân duyên gì mà được sinh về cõi nước ấy?

Đức Di-đà đáp rằng: "Nhờ tu phép tam-muội niệm Phật mà được sinh về cõi nước kia".

- Thứ hai: Dạy chỗ đi vào, có hai: Thứ nhất: Quán một tướng. Thứ hai: Quán một Đức Phật.

* Thứ nhất: Quán một tướng.

Người muốn quán Đức Phật Vô Lượng Thọ thì phải từ một tướng tốt mà đi vào. Chỉ quán sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày cho thật rõ ràng. Khi thấy được sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày, thì tám mươi bốn ngàn tướng tốt tự nhiên sẽ hiện ra.

Nhiều tướng tự đầy đủ ấy là vì một tướng sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày thâu tóm toàn bộ các tướng. Vì thế nếu theo văn kinh, tức là quán lượng mức của năm núi Tu-di. Vì thế nói là tám mươi bốn ngàn tướng và vẻ đẹp tự nhiên sẽ hiện ra, tức là biết chẳng phải sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày của thân trượng sáu.

* Thứ hai: Quán một Đức Phật.

Người thấy được Đức Phật Vô Lượng Thọ, thì thấy được vô lượng các Đức Phật trong mười phương. Vì thấy được vô lượng Đức Phật nên được các Đức Phật hiện tiền thọ ký.

Nhiều Đức Phật thọ ký là đều được sự ấn chứng hứa khả thọ ký thành Phật.

- Tổng kết phép quán.

Đó là phép quán khắp tất cả các tướng sắc thân, gọi là phép quán thứ chín.

Nói tất cả, hoặc chỉ chung chỗ thấy các Đức Phật, hoặc riêng các tướng của Đức Phật A-di-đà. Cả hai giải thích đều chung.

- Phân biệt.

Người tu phép quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu quán khác gọi là tà quán.

Văn rất dễ hiểu.

- Quán thân Bồ-tát Quán Thế Âm, có hai:

- Thứ nhất: Tổng kết văn trước nêu văn sau.

- Thứ hai: Chính là chỉ bày phép quán. a. Tổng kết văn trước để nêu văn sau.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Khi thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ rõ ràng rồi, kế lại nên quán tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm. b. Chỉ bày phép quán, có bốn: Thứ nhất: Chỉ bày cảnh.

Thứ hai: Tổng kết phép quán. Thứ ba: Khuyên tu.

Thứ tư: Nói về tà, chánh.

-Chỉ bày cảnh, có chín.

Thứ nhất: Quán thân. Thứ hai: Quán ánh sáng. Thứ ba: Quán mão.

Thứ tư: Quán mặt.

Thứ năm: Quán cánh tay. Thứ sáu: Quán bàn tay.

Thứ bảy: Quán chân.

Thứ tám: Chỉ ra sự giống nhau. Thứ chín: Phân biệt.

+ Thứ nhất: Quán thân, có ba: Thứ nhất: Mức độ của thân. Thứ hai: Màu sắc thân.

Thứ ba: Nhục kế trên đảnh.

* Thứ nhất: Mức độ của thân. Vị Bồ-tát này thân cao tám mươi muôn ức na-do-tha do-tuần.

* Thứ hai: Màu sắc thân: "Thân có màu vàng tím"

* Thứ ba: Nhục kế trên đảnh: "Đảnh có nhục kế"

+ Thứ hai: Quán ánh sáng, có hai: Thứ nhất: Ánh sáng của đầu.

Thứ hai: Ánh sáng của thân.

* Thứ nhất: Ánh sáng của đầu, có hai:

Mức độ ánh sáng.

Sự biến hóa trong ánh sáng.

- Mức độ ánh sáng. Đầu có vầng ánh sáng tròn, rộng mỗi phía trăm ngàn do-tuần.

- Sự biến hóa trong ánh sáng. Trong vầng ánh sáng tròn ấy có năm trăm vị hóa Phật như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Mỗi vị hóa Phật đều có năm trăm vị hóa Bồ-tát và vô lượng các vị trời để làm thị giả.

Như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni là thân trượng sáu.

* Thứ hai: Ánh sáng của thân.

Trong ánh sáng của thân, tất cả các sắc tướng của chúng sinh trong năm đường đều hiện ra ở trong đó.

Chúng sinh trong năm đường là vì gộp cả A-tu-la. Bồ-tát thị hiện thân tướng trong năm đường để cứu độ chúng sinh nên ở trong ánh sáng hiện ra các sắc tướng ấy.

+ Thứ ba: Quán mão, có hai: Thứ nhất: Quán thể.

Thứ hai: Trong mão có hóa Phật.

* Thứ nhất: Quán thể.

Trên đảnh có báu Tỳ-lăng-già ma-ni để làm thiên quan. Tỳ-lăng-già tức là ngọc Ma-ni.

* Thứ hai: Trong mão có hóa Phật.

Trong Thiên quan có hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do-tuần.

Trong mão có hóa Phật là để nói lên mang quả mà tu hành nhân.

+ Thứ tư: Quán mặt.

Mặt Bồ-tát Quán Thế Âm có màu vàng Diêm-phùđàn, sợi lông trắng giữa hai đầu chân mày có đủ màu sắc bảy báu, chiếu ra tám mươi bốn ngàn tia sáng. Mỗi tia sáng có vô lượng vô số trăm ngàn vị hóa Phật. Mỗi vị hóa Phật lại có vô số vị hóa Bồ-tát làm thị giả, biến hiện tự tại đầy khắp thế giới.

+ Thứ năm: Là Quán cánh tay.

"Cánh tay có màu sen hồng, có tám mươi ức ánh sáng đẹp mầu để làm anh lạc (chuỗi ngọc), trong anh lạc hiện khắp tất cả các sự trang nghiêm."

+ Thứ sáu: Quán bàn tay.

Bàn tay Bồ-tát hiện ra năm trăm ức hoa sen xen lẫn nhiều màu sắc, ở đầu mười ngón tay, mỗi đầu ngón đều có tám mươi bốn ngàn lằn chỉ giống như đường vân của ấn. Mỗi lằn chỉ đều có tám mươi bốn ngàn màu, mỗi mầu lại có tám mươi bốn ngàn tia sáng, tia sáng ấy mềm mại chiếu khắp tất cả. Bồ-tát thường dùng tay báu này để dắt dẫn tất cả chúng sinh.

+ Thứ bảy: Quán chân, có hai:

Thứ nhất: Các tướng khi giở chân đi. Thứ hai: Các tướng khi để chân xuống.

* Thứ nhất: Các tướng khi giở chân đi.

Khi Bồ-tát dỡ chân đi, dưới lòng bàn chân có hình bánh xe ngàn căm, tự nhiên hóa thành năm trăm ức đài ánh sáng.

Bánh xe có ngàn căm, gọi là Thiên bức luân (bánh xe có ngàn căm).

* Thứ hai: Các tướng khi để chân xuống.

Lúc để chân xuống tự nhiên có hoa kim cương Mani tung rải tản mát khắp các nơi, chẳng có chỗ nào không đầy đủ.

Tức là hoa sen đỡ chân bằng hai chất báu kim cang và ma-ni.

+ Thứ tám: Chỉ ra sự giống nhau.

Còn bao nhiêu thân tướng và các vẻ đẹp khác đều đầy đủ như Đức Phật không khác.

+ Thứ chín: Phân biệt.

Chỉ có tướng nhục kế trên đảnh và tướng đảnh vô kiến là không bằng Đức Thế tôn.

- Tổng kết phép quán.

Đó là phép quán tưởng tướng sắc thân chân thật của Bồ-tát Quán Thế Âm, gọi là phép quán thứ mười.

Sắc thân chân thật tức là ứng thân.

- Khuyên tu quán, có bốn:

Thứ nhất: Chỉ khuyên quán ở trước. Thứ hai: Nói về công năng lực dụng. Thứ ba: Nêu nghe để so sánh.

Thứ tư: Dạy quán thứ lớp.

+ Thứ nhất: Chỉ khuyên quán ở trước.

Đức Phật bảo ngài A-nan: Nếu có người muốn quán tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm, thì phải quán tưởng như thế. Phải quán tưởng như thế tức là quán các tướng trên không được quán thứ khác.

+ Thứ hai: Nói về công năng lực dụng.

Người quán tưởng như thế không gặp các điều tai họa, trừ sạch nghiệp chướng và các tội lỗi sinh tử trong vô số kiếp.

Không còn gặp các điều tai họa tức dứt trừ được các tai nạn trong hiện tại. Dứt trừ được các tội trong vô số kiếp tức là phá trừ được các nghiệp đã qua.

+ Thứ ba: Nêu nghe để so sánh.

Chỉ nghe danh hiệu vị Bồ-tát ấy còn được vô lượng phước, huống chi là quán kỹ sắc thân.

Nghe danh hiệu được phước như phẩm Phổ Môn có nói rộng.

+ Thứ tư: Dạy quán theo thứ lớp.

Nếu có người muốn quán tưởng Bồ-tát Quán Thế Âm, thì trước nên quán tưởng nhục kế ở trên đảnh, kế đến quán Thiên quan, còn bao nhiêu tướng khác cũng lần lượt quán cho rõ ràng như thấy chỉ tay trong lòng bàn tay.

Tức là theo thứ lớp từ trên đến dưới.

- Thứ tư: Nói về tà, chánh.

Người quán tưởng như thế gọi là chánh quán, nếu quán khác, gọi là tà quán.

Giải thích giống như trước.

- Quán thân tướng Bồ-tát Đại Thế Chí, có bốn: Thứ nhất là: Quán tướng tu hành.

Thứ hai: Tổng kết chỉ bày sắc thân. Thứ ba: Nói về lợi ích.

Thứ tư: Tổng kết cả hai. a. Thứ nhất: Quán tướng tu hành, có ba: Thân tướng.

Tướng đi. Tướng ngồi.

- Thân tướng, có năm:

Thứ nhất: Mức độ của thân. Thứ hai: Quán tướng ánh sáng. Thứ ba: Quán thiên quan.

Thứ tư: Quán nhục kế.

Thứ năm: Chỉ ra các tướng còn lại.

- Thứ nhất: Mức độ của thân.

Kế đến quán Bồ-tát Đại Thế Chí. Độ lớn của thân vị Bồ-tát này cũng giống như Bồ-tát Quán Thế Âm.

Giống như Bồ-tát Quán Thế Âm là cũng cao tám mươi muôn ức na-do-tha do-tuần.

- Thứ hai: Quán tướng ánh sáng gồm có hai.

Thứ nhất: Ánh sáng đầu. Thứ hai: Ánh sáng thân.

+ Thứ nhất: Ánh sáng đầu.

Vầng ánh sáng tròn chiếu xa mỗi phía một trăm hai mươi lăm do-tuần, chiếu xa hai trăm năm mươi do-tuần. Một trăm hai mươi lăm do-tuần tính ra bằng năm ngàn dặm, đó là thể của ánh sáng chiếu xa thì sẽ gấp nhiều lần.

+ Thứ hai: Ánh sáng của thân, có ba:

Thứ nhất: Chỉ bày mức độ và màu sắc của thân. Thứ hai: Các chúng sinh có duyên đều được thấy. Thứ ba: Do ánh sáng mà có tên gọi.

* Thứ nhất: Chỉ bày mức độ và màu sắc của thân.

Tướng ánh sáng toàn thân của Bồ-tát chiếu khắp các cõi nước trong mười phương thành màu vàng tím.

* Thứ hai: Các chúng sinh có duyên đều được thấy. Các chúng sinh có duyên đều được thấy.

Những người tu phép quán này là những người có duyên.

* Thứ ba: Nhờ ánh sáng mà có tên gọi, có hai: Thứ nhất: Y theo ánh sáng để đặt tên gọi. Thứ hai: Y theo oai thế mà đặt tên gọi.

- Thứ nhất: Y theo ánh sáng để đặt tên gọi.

(Chúng sinh nào) Chỉ thấy ánh sáng trong một lỗ chân lông của vị Bồ-tát này, thì thấy được ánh sáng trong sạch nhiệm mầu của vô lượng các Đức Phật trong mười phương. Vì cho nên danh hiệu vị Bồ-tát này là Vô Biên Quang.

Do thấy ánh sáng trong một lỗ chân lông của Bồ-tát, nên thấy được ánh sáng của các Đức Phật trong mười phương, là y cứ theo ánh sáng để đặt tên gọi.

- Thứ hai: Y vào oai thế mà đặt tên gọi.

Bồ-tát dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp tất cả chúng sinh, khiến cho xa lìa ba đường, được năng lực vô thượng. Vì cho nên danh hiệu của vị Bồ-tát này là Đại Thế Chí.

Dùng ánh sáng trí tuệ soi khắp chúng sinh để cứu khổ cho vui là y theo oai thế mà đặt tên gọi. Năng lực vô thượng tức là mười lực.

- Thứ ba: Quán Thiên quan, có ba: Thứ nhất: Hoa.

Thứ hai: Đài.

Thứ ba: Trong đài hiện ra các cõi nước.

+ Thứ nhất: Hoa. Thiên quan của vị Bồ-tát này có năm trăm thứ hoa báu.

+ Thứ hai: Đài. Mỗi hoa báu có năm trăm đài báu.

+ Thứ ba: Trong đài hiện ra các cõi nước. Trong mỗi đài báu tướng cõi nước rộng dài trong sạch nhiệm mầu của các Đức Phật trong mười phương đều hiện ra trong đó.

- Thứ tư: Quán nhục kế, có hai: Thứ nhất: Sắc tướng.

Thứ hai: Sự biến hiện của ánh sáng trong bình.

+ Thứ nhất: Sắc tướng.

Nhục kế trên đảnh của Bồ-tát hình dáng như hoa Bát-đầu-ma.

Bát-đầu-ma, Hán dịch là Xích liên hoa (hoa sen đỏ). + Thứ hai: Sự biến hiện của ánh sáng trong bình.

Trên nhục kế có một bình báu đựng đầy các thứ ánh sáng, hiện khắp các Phật sự.

- Thứ năm: Chỉ ra các tướng còn lại.

Còn các thân tướng khác cũng giống như Bồ-tát Quán Thế Âm đều không có gì khác.

Đó là mặt, cánh tay v.v...

- Tướng đi, có hai:

Thứ nhất: Rung chuyển mười phương.

Thứ hai: Chỗ rung chuyển có các hình ảnh trang nghiêm.

- Rung chuyển mười phương. Khi vị Bồ-tát này đi thì các thế giới ở mười phương tất cả đều rung chuyển.

- Chỗ rung chuyển có các hình ảnh trang nghiêm. Ngay chỗ đất rung chuyển có năm trăm ức hoa báu, mỗi hoa báu cao đẹp rực rỡ trang nghiêm như thế giới Cực lạc.

Các chỗ rung chuyển ở các phương khác có các thứ hoa báu cao đẹp rực rỡ cũng giống như thế giới Cực lạc không khác.

- Tướng ngồi, có hai:

Thứ nhất: Cõi nước lay động. Thứ hai: Phân thân nói pháp.

- Thứ nhất: Cõi nước lay động.

Khi vị Bồ-tát này ngồi thì cả cõi nước bảy báu cùng lúc rung chuyển. Tức là cõi Cực lạc vậy.

- Thứ hai: Phân thân nói pháp.

Từ cõi Phật Kim Quang ở bên dưới, cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở phương trên. Ở khoảng giữa ấy có vô lượng nhiều như cát bụi các phân thân của Đức Phật Vô Lượng Thọ, phân thân Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí, đều nhóm họp ở cõi nước Cực lạc, đầy khắp trong hư không, ngồi trên tòa sen giảng nói pháp mầu, cứu độ chúng sinh khỏi khổ.

Nêu đầy đủ các cõi Phật ở giữa bao trùm che chở trên dưới, các hóa thân của ba vị Thánh đến nhóm họp đầy giữa hư không để nói pháp hóa đạo. b. Thứ hai: Tổng kết để chỉ bày sắc thân.

Tu phép quán như thế gọi là chánh quán, nếu quán khác gọi là tà quán. Quán thấy Bồ-tát Đại Thế Chí, đó là quán tướng sắc thân của Bồ-tát Đại Thế Chí, gọi là phép quán thứ mười một.

Giải thích giống như ở trước. c. Thứ ba: Nói về lợi ích.

Nếu quán vị Bồ-tát này sẽ trừ được các tội sinh tử trong vô số a-tăng-kỳ kiếp.

Tức là phá chướng. d. Thứ tư: Tổng kết cả hai:

Tu phép quán như thế không còn sinh vào bào thai, thường đến các cõi nước trong sạch nhiệm mầu của các Đức Phật.

Phép quán này thành rồi, gọi là quán đầy đủ Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí. Tức là tổng kết hai phép quán Bồ-tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí ở trước. Không còn sinh vào bào thai v.v...là thoát được cõi khổ Ta-bà, sinh về Tịnh độ của Phật, gá chất vào thai sen báu và dứt hẳn bào thai.

Từ đầu đến chân gom nhiếp các thân tướng, vì thế nói là đầy đủ.

Bản văn có đủ hai danh hiệu, vì thế biết là tổng kết cả hai.

Hai phép quán thứ mười hai và mười ba: Ở trước quán về y báo là phép quán chung thứ sáu. Còn ở đây quán thấy khắp và quán xen lẫn cũng tức là quán chung ba vị Thánh.

Quán thấy khắp thì trước là quán tự thân, sau đó mới quán về y báo và chánh báo. Còn quán xen lẫn thì chỉ có quán về chánh báo lớn nhỏ khác nhau, trước là riêng và sau là chung, gom nhiếp đủ hết các căn cơ, xem kỹ trong văn sẽ thấy.

-Quán khắp, có ba:

Thứ nhất: Chỉ bày quán tướng. Thứ hai: Tổng kết danh nghĩa. Thứ ba: Nói về sự cảm ứng. a. Thứ nhất: Chỉ bày quán tướng, có hai: Thứ nhất: Quán tưởng tự thân.

Thứ hai: Nói về thấy khắp.

-Quán tưởng tự thân, có hai: Thứ nhất: Y theo trước. Thứ hai: Bắt đầu sau.

+ Thứ nhất: Theo trước. "Khi thấy những việc này." + Thứ hai: Bắt đầu sau, có bốn:

Thứ nhất: Khởi tâm thấy vãng sinh về cõi nước kia. Thứ hai: Ngồi kết già trong hoa sen.

Thứ ba: Tưởng hoa nở ra rồi khép lại. Thứ tư: Hoa nở thì ánh sáng chiếu soi.

* Thứ nhất: Khởi tâm thấy vãng sinh về cõi nước kia. (Hành giả) nên khởi tâm thấy mình vãng sinh về thế giới Cực lạc ở phương Tây.

* Thứ hai: Ngồi kết già trong hoa sen. "Ngồi kết già trong hoa sen."

* Thứ ba: Tưởng hoa nở ra rồi khép lại. Tưởng hoa sen khép lại, rồi tưởng hoa sen nở ra.

* Thứ tư: Hoa nở thì ánh sáng chiếu soi. Khi hoa sen nở ra, quán tưởng có năm trăm tia sáng chiếu đến thân mình. Lại tưởng mình mở mắt ra.

-Nói về thấy khắp, có hai:

Thứ nhất: Thánh chúng đầy giữa hư không. Thứ hai: Y báo và chánh báo nói pháp.

+ Thứ nhất: Thánh chúng đầy giữa hư không. Thấy Phật và Bồ-tát đầy giữa hư không.

Phật và hai Bồ-tát tức là ba vị Thánh.

+ Thứ hai: Y báo và chánh báo nói pháp.

Nước, chim, rừng cây và các Đức Phật phát ra âm thanh đều giảng nói pháp mầu đều hợp với mười hai bộ kinh. Nếu khi xuất định, phải ghi nhớ giữ gìn đừng để quên mất.

Nước, chim, rừng cây là y báo nói pháp, và các Đức Phật là chánh báo nói pháp. Nhưng phải hợp với giáo điển để chứng nghiệm là chân hoặc vọng.

b. Thứ hai: Tổng kết danh nghĩa.

Thấy những việc như thế rồi, gọi là thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ và thế giới Cực lạc. Đó là phép quán tưởng khắp, gọi là phép quán thứ mười hai.

Vì tổng kết cả hai y báo và chánh báo nên được gọi là khắp.

c. Thứ ba: Nói về sự cảm ứng.

Đức Phật Vô Lượng Thọ hóa thân vô số cùng với Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí thường đến chỗ người tu hành này.

Ba vị Thánh thường đến an ủi và ấn chứng hứa khả.-Quán xen lẫn, có ba:

Thứ nhất: Chọn lựa căn cơ. Thứ hai: Chỉ bày phép quán.

Thứ ba: Tổng kết chỉ bày a. Chọn lựa căn cơ.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Nếu ngươi muốn dốc lòng sinh về Tây phương.

Nếu ngươi muốn thì chọn lựa, không muốn thì không tham dự vào phép quán này. b. Chỉ bày phép quán, có hai: Thứ nhất: Quán Phật.

Thứ hai: Quán hai vị Bồ-tát.

-Thứ nhất: Quán Phật, có năm:

Thứ nhất: Trước quán thân nhỏ. Thứ hai: Sau quán thân lớn.

Thứ ba: Nêu hình tượng Phật để so sánh với chân Phật. Thứ tư: Độ lớn nhỏ của thân không nhất định.

Thứ năm: Chỉ ra các tướng còn lại.

+ Thứ nhất: Trước quán thân nhỏ.

Trước nên quán tượng Phật cao trượng sáu trên ao nước.

Vì thuận theo căn cơ của cõi này nên quán thân cao trượng sáu mà không nói đứng hoặc ngồi, nhưng đúng lẽ là hình tượng đứng.

+ Thứ hai: Sau đó hiện thân lớn.

Như trước đã nói, thân Đức Phật Vô Lượng Thọ cao lớn vô biên, tâm lực phàm phu chẳng thể quán khắp được. Nhưng nhờ nguyện lực của Đức Như lai kia nên người có tâm ghi nhớ giữ gìn chắc chắn được thành tựu. "Như trước đã nói" là chỉ quán Phật ở trước. Tâm phàm phu yếu kém tuy không thể quán nhưng nhờ nguyện lực của Phật nên người có tâm quán tưởng chắc chắn được thành tựu.

+ Thứ ba: Nêu hình tượng Phật để so sánh với Phật thật.

Nếu chỉ tưởng hình tượng Phật còn được vô lượng phước, huống chi quán đầy đủ thân tướng Phật.

Tưởng hình tượng Phật còn được phước thì có thể biết quán Phật thật sẽ như thế nào.

+ Thứ tư: độ lớn nhỏ của thân Phật không nhất định. Đức Phật A-di-đà có năng lực thần thông như ý, biến hiện tự tại khắp trong các cõi nước ở mười phương, hoặc hiên thân lớn đầy khắp hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao trượng sáu, tám thước.

Phật không có lớn nhỏ nhưng tùy theo căn cơ mà thấy có khác nhau.

+ Thứ năm: Chỉ ra các tướng còn lại.

Các thân hóa hiện đều có màu vàng ròng. Còn vầng ánh sáng tròn, hóa Phật và hoa sen báu đã nói như trên.

Màu sắc vàng, vầng ánh sáng tròn như phép quán Phật ở trước. Hoa sen báu tức là phép quán tòa hoa sen.

-Thứ hai: Quán hai vị Bồ-tát, có hai:

Thứ nhất: Chỉ bày sự giống nhau, khác nhau và dạy rõ để biết. Thứ hai: Nói về sự theo hầu để nói rõ tỏ phải quán.

+ Thứ nhất: Chỉ bày sự giống nhau, khác nhau và dạy rõ để biết. Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế

Chí ở khắp tất cả mọi nơi, thân tướng giống như chúng sinh. Hành giả chỉ cần quán tướng đầu thì biết đó là Bồ-tát Quán Thế Âm hay Bồ-tát Đại Thế Chí.

Thân giống như chúng sinh, tức là hình tướng hoàn toàn trái ngược hai bậc hạ phẩm và trung phẩm trong đồ chúng kia, các vị Đại Bồ-tát thì có hình tướng vượt hơn.

Kinh chép: Các chúng sinh sinh về đó đều là các bậc A-bệ-bạt-trí. Trong đó có nhiều Bồ-tát Đẳng giác, số ấy rất nhiều... Chỉ cần quán tướng đầu thì phân biệt được hai vị Thánh: Mão của Bồ-tát Quán Thế Âm thì có Đức Phật đứng, còn nhục kế của Bồ-tát Đại Thế Chí thì có bình báu.

+ Thứ hai: Nói về sự theo hầu để nói lên phải quán.

Hai vị Bồ-tát này thường giúp Đức Phật A-di-đà giáo hóa khắp tất cả chúng sinh.

Giúp Đức Phật hành hóa tức là chúng ảnh hưởng. Vì thường theo hầu nên phải quán. c. Tổng kết để chỉ bày.

Đó là phép quán tưởng xen lẫn, gọi là phép quán thứ mười ba. Ba vị Thánh có lớn nhỏ khác nhau nên nói là tưởng xen lẫn.

Từ phép quán thứ mười bốn trở xuống có ba thứ quán về đồ chúng kia. ba bậc chín phẩm đều là cảnh sở quán và nhân nói về tướng vãng sinh là vì có nhiều người nghi ngờ.

Ở đây nói điều trình bày trong văn đều là những người đã được sinh về cõi nước kia, lấy tướng tu nhân cảm quả để làm ba cảnh quán gần.

Lại chép: Vì khiến biết được giai vị có thượng, trung, hạ, tức là ba phẩm của kinh Vô Lượng Thọ, ở đây nói ba phẩm của kinh Vô Lượng Thọ đều nêu lên việc phát tâm Bồ-đề và có thể đối lập với ba phẩm ở trên của kinh này. Còn hai phẩm giữa và dưới thì chẳng phải đối lập. Huống chi lại so sánh nhân và sự tu hành so với kinh này hoàn toàn khác nhau, tìm kinh để so sánh thì mới biết không đúng. Ở đây nói ba phẩm ở trên tức là chúng Bồ-tát kia, ba phẩm ở giữa tức là chúng Thanh văn kia ba phẩm dưới tức là chúng nhân dân nước kia. Chín phẩm của ba bậc đều gom nhiếp hết chúng phàm thánh của cõi kia. Lại, ba bậc đều chia thành cao thấp và sẽ nói đầy đủ ở sau. Bậc thượng của phép quán thứ mười bốn có năm:

- Thứ nhất: Phát tâm Bồ-đề Đại thừa.

- Thứ hai: Hiểu Bậc nhất nghĩa là hiểu Đại thừa.

- Tu đủ các hạnh là hạnh Đại thừa.

- Thứ tư: Tin sâu lý nhân quả là tin Đại thừa.

- Thứ năm: Hồi hướng vãng sinh là nguyện Đại thừa. Năm pháp ấy, trong ba phẩm trên ẩn hiện đắp đổi thấy đầy đủ năm pháp ở thượng phẩm thượng sinh nên kinh nói về ba hạnh ba tâm. Ở thượng phẩm trung sinh có bốn pháp, chỉ thiếu hạnh Đại thừa nên kinh nói khéo hiểu nghĩa thú. Ở thượng phẩm hạ sinh có ba pháp, chỉ thiếu hạnh hiểu nghĩa bậc nhất nên kinh nói chỉ phát đạo tâm vô thượng. Nếu không hiểu nghĩa bậc nhất thì không phải thượng phẩm. Và nếu không có pháp thu bốn và năm thì không được vãng sinh. Vì cho nên ba phẩm ở trên tức là gom nhiếp các vị Đại Bồ-tát Sơ tâm Đẳng giác và không lui sụt.

- Thứ mười bốn: Bậc thượng, có ba:

Thứ nhất: Thượng phẩm thượng sinh. Thứ hai:

Thượng phẩm trung sinh.

Thứ ba: Thượng phẩm hạ sinh. a. Thứ nhất: Thượng phẩm thượng sinh, có ba: Thứ nhất: Nêu lên.

Thứ hai: Giải thích. Thứ ba: Tổng kết.

- Thứ nhất: Nêu lên.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: "Bậc Thượng phẩm thượng sinh:..."

- Thứ hai: Giải thích, có bốn: Thứ nhất: Tu nhân.

Thứ hai: Cảm được duyên tốt.

Thứ ba: Thấy mình được vãng sinh. Thứ tư: Lợi ích sau khi vãng sinh.

+ Thứ nhất: Tu nhân, có hai.

Thứ nhất: Phát ba thứ tâm. Thứ hai: Tu ba thứ hạnh. * Thứ nhất: Phát ba thứ tâm.

Nếu có chúng sinh nào muốn sinh về cõi nước kia thì nên phát ba thứ tâm chắc chắn sẽ được vãng sinh, ba thứ tâm ấy là?

Một là tâm chí thành, hai là tâm sâu xa, ba là tâm hồi hướng phát nguyện. Người có đủ ba thứ tâm ấy chắc chắn sẽ được sinh về cõi nước kia. Phát ba thứ tâm là tâm Bồ-đề, cũng gọi là tâm cầu đạo Vô thượng.

Thứ nhất: Tâm chí thành là tâm cầu Bồ-đề Phật, quyết định vững chắc cho đến khi thành Phật không dời đổi.

Thứ hai: Tâm sâu xa là đối với pháp Đại thừa lắng nghe, suy nghĩ, tu tập cho đến khi thành Phật không thôi. Luận giải thích nói hai độ của trí như biển lớn, chỉ có Đức Phật là cùng tột. Vì thế nói là sâu xa.

Thứ ba: Tâm hồi hướng phát nguyện là công đức có được do tu tập bố thí khắp cho chúng sinh, cho đến khi thành Phật không cùng tận.

Nếu đối với ba nhóm giới:

- Thứ nhất: Tức là giới nhiếp luật nghi, vì không có điều ác nào không dứt nên chắc chắn sẽ chí thành.

- Thứ hai: Tức là giới nhiếp thiện pháp, vì không có điều lành nào không tu nên chắc chắn dần dần sẽ sâu xa.-Thứ ba: Tức là giới nhiếp chúng sinh, vì không có chúng sinh nào không độ nên chắc chắn sẽ hồi hướng bố thí.

Nếu đối với ba Phật:

- Thứ nhất: Đó là đoạn đức-pháp thân Phật.

-Thứ hai: Tức là trí đức, báo thân Phật.

- Thứ ba: Tức là ân đức, ứng thân Phật.

Quả có ba Phật thì nhân phải có ba thứ tâm chẳng thể thiếu một.

Còn lại như các chỗ khác có giải thích rộng.

* Thứ hai: Tu ba thứ hạnh, có hai: Thứ nhất: Nêu tướng tu hành.

Thứ hai: Chỉ bày thời gian hạn định.

-Thứ nhất: Nêu tướng tu hành.

Lại có ba hạng chúng sinh sẽ được vãng sinh về thế giới Cực lạc, ba hạng chúng sinh ấy là gì?

Một là người có tâm Từ bi, không giết hại, có đủ các giới hạnh. Hai là người đọc tụng kinh điển Phương Đẳng Đại Thừa.

Ba là người tu hành sáu niệm, hồi hướng phát nguyện, nguyện sinh về cõi nước kia.

Phát ba thứ tâm ở trên thì phải tu hành ba thứ hạnh. Tuy nhiên, có trực tiếp tu ba thứ hạnh thì ý nghĩa ba thứ tâm mới đầy đủ, vì thế nói là lại có ba hạng chúng sinh v.v...

Thứ nhất: Không giết hại là giới đầu tiên trong các giới, vì thế nêu riêng. Có đủ các giới hạnh đó là trong thượng phẩm phải thu nạp giới Bồ-tát Đại thừa. Theo kinh Thiện Giới thì trước tiên thọ năm giới, mười giới, giới cụ túc và sau đó thọ giới Bồ-tát. Vì thế nói là các giới. Đó tức là đối với tâm chí thành ở trên.

Thứ hai là: đọc tụng kinh điển. Không phải chỉ có đọc tụng mà còn phải học để hiểu mới phát sinh trí tuệ. Đó là đối với tâm sâu xa.

Thứ ba: Hồi hướng phát nguyện, thì so với trên mà biết, nhưng vẫn thêm pháp sáu niệm, tức là niệm Tam bảo, niệm thí, niệm giới và niệm thiên, gọi là sáu niệm Đại thừa.

-Thứ hai: Nêu thời gian hạn định.

Nếu có đủ các công đức như thế thì từ một ngày cho đến bảy ngày sẽ được vãng sinh.

Ít là một ngày, nhiều nhất là bảy ngày. Nêu ít so sánh nhiều là muốn nói về công đức cao quý. Đó là biết Đại hạnh của Bồ-tát một niệm mà có thể tu hành thì vẫn là hạt giống Phật, huống chi từ một ngày cho đến bảy ngày làm sao không được vãng sinh ư?

+ Thứ hai: Cảm được duyên tốt, có ba:

Thứ nhất: Các bậc Thánh đến đón rước.

Thứ hai: Đức Phật A-di-đà phát ra ánh sáng chiếu soi. Thứ ba: Các vị Thánh đồng tiếng khen ngợi.

* Thứ nhất: Các Thánh đến đón rước.

Khi vãng sinh về cõi nước kia, do người ấy tinh tiến mạnh mẽ nên Đức A-di-đà Như lai và Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số hóa Phật, trăm ngàn Tỳ-kheo cùng đại chúng Thanh văn, vô lượng các vị trời và cung điện bảy báu đều hiện đến. Khi ấy, Bồ-tát Quán Thế Âm bưng đài kim cương cùng Bồ-tát Đại Thế Chí đến trước hành giả.

Tinh tiến mạnh mẽ tức là năng cảm. Tinh tiến là không lười nhác; mạnh mẽ là không lui sụt. Từ Đức Adi-đà Như lai trở xuống là nói về các bậc Thánh ứng hiện, Đức Phật cùng với đại chúng nhóm họp ở trước người ấy. Cung điện bảy báu tức là chỗ ở của Phật. Đài kim cương tức đài hoa sen. Ở dưới nói đài vàng tím giống như hoa báu lớn. Chỉ có kim cương này khác ở dưới.

Hai vị cùng bưng để trao cho ngồi.

* Đức Phật A-di-đà phát ra ánh sáng chiếu đến cùng với đại chúng dắt dẫn.

Đức Phật A-di-đà phát ra ánh sáng rực rỡ chiếu đến thân hành giả, rồi cùng các vị Bồ-tát đưa tay đón rước. * Các vị thánh đồng tiếng khen ngợi, khuyến tiến.

Bồ-tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng với vô số Bồ-tát đồng khen ngợi, khuyến tiến tâm người ấy.

+ Thứ ba: Thấy mình được vãng sinh.

Hành giả thấy cảnh ấy rồi vui mừng hớn hở, tự thấy mình ngồi trên đài kim cương, theo sau Đức Phật, trong thời gian búng ngón tay đã sinh về cõi nước Cực lạc.

Khi đã vãng sinh thì cảm được cảnh Thánh, vì thế phải vui mừng.

Thân ở lại, thần thức ra đi, giống như xác ve sầu.

Qua mười muôn ức cõi nước trong sát-na liền đến cõi kia. Nhờ oai thần Phật mà nghiệp lực của chúng sinh đổi thân đổi báo như trở bàn tay.

+ Thứ tư: Các lợi ích khi vãng sinh rồi, có năm: Thấy Phật và Bồ-tát.

Nghe pháp được ngộ. Đến khắp mười phương.

Được thọ ký rồi trở về nước mình. Chứng được pháp môn Tổng trì.

- Thấy Phật và Bồ-tát.

Khi đã sinh về cõi nước kia, được thấy sắc thân Phật đầy đủ các tướng, thấy sắc tướng các vị Bồ-tát cũng đầy đủ.

"Sinh về cõi nước kia liền thấy" khác ở dưới.

- Thứ hai: Nghe pháp được ngộ.

Các thứ ánh sáng và rừng báu đều giảng nói pháp mầu, hành giả nghe rồi liền ngộ Vô sinh pháp nhẫn.

Nói pháp mầu là pháp Đại thừa. Được Vô sinh pháp nhẫn tức là dứt hoặc chứng lý.

- Thứ ba: Đến khắp mười phương.

Trải qua trong giây phút đã được kính thờ các Đức Phật khắp các cõi nước trong mười phương.

Kính thờ các Đức Phật là phương tiện học tập.

- Thứ tư: Được thọ ký rồi trở về nước mình.

Ở trước các Đức Phật theo thứ lớp thọ ký rồi trở về nước mình. Tức như phép quán Phật chép: Các Đức Phật hiện tiền thọ ký.

- Thứ năm: Chứng được pháp môn Tổng trì.

Chứng được vô lượng trăm ngàn pháp môn Đà-lani. Đà-la-ni, Hán dịch là Tổng trì.

Thứ nhất: Có khả năng giữ gìn các điều lành.

Thứ hai: Có khả năng ngăn dứt các điều ác, tức là đối với vô lượng pháp môn chẳng pháp môn nào không thông đạt.

- Thứ ba: Tổng kết.

Đó gọi là bậc Thượng phẩm thượng sinh. b. Thứ hai: Thượng phẩm trung sinh, có ba: Thứ nhất: Nêu lên.

Thứ hai: Giải thích. Thứ ba: Tổng kết.

- Thứ nhất: Nêu lên.

"Thượng phẩm trung sinh đó là:"

- Thứ hai: Giải thích, có bốn: Thứ nhất: Tu nhân.

Thứ hai: Cảm được các duyên. Thứ ba: Được vãng sinh.

Thứ tư: Các lợi ích khi vãng sinh rồi.

- Thứ nhất: Tu nhân, có hai: Thứ nhất: Hành nghiệp.

Thứ hai: Phát nguyện.

+ Thứ nhất: Hành nghiệp.

Người không thọ trì, đọc tụng kinh điển Phương đẳng, nhưng hiểu được nghĩa thú, đối với nghĩa bậc nhất không kinh sợ loạn động, tin sâu lý nhân quả, không chê bai Đại thừa.

Hai câu trên là chỉ bày sự thiếu tu hành.

Từ "Nhưng hiểu được..." v.v... trở xuống là nói có sự hiểu biết. Nghĩa bậc nhất là hiểu rõ các pháp rốt ráo vắng lặng, do nhân duyên khởi không có tự tánh và vì vượt qua các pháp nên nói là bậc nhất. Tâm không kinh sợ loạn động là không còn sự hồ nghi. Tin sâu lý nhân quả là các pháp tuy là không nhưng nhân quả thiện ác không sai mảy may.

Tin hiểu như thế mới khế hợp với Đại thừa thì đâu có sự chê bai.

+ Thứ hai: Phát nguyện.

(Nếu hành giả) hồi hướng các công đức, phát nguyện cầu sinh về cõi nước Cực lạc.

Hướng các công đức này tới các tướng trang nghiêm cõi kia, cho nên nói là hồi hướng. Nếu không nguyện cầu thì dù có tin hiểu nhưng cũng không ra khỏi luân hồi.

-Thứ hai: Cảm được các duyên, có ba:

Thứ nhất: Các bậc Thánh đến đón rước. Thứ hai:

Khen ngợi và an ủi.

Thứ ba: Đưa tay dẫn dắt.

+ Thứ nhất: Các bậc Thánh đến đón rước.

Thì người tu hành các pháp như trên đến khi sắp qua đời, Đức Phật A-di-đà và Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, vô lượng đại chúng quyến thuộc vây quanh bưng đài vàng tím đến trước hành giả.

Đài vàng tím cũng tức là hoa sen.

+ Thứ hai: Khen ngợi và an ủi.

Khen ngợi rằng: Này Pháp tử! Người tu hành Đại thừa, hiểu nghĩa bậc nhất.

Vì từ pháp hóa sinh ra nên gọi là Pháp tử.

+ Thứ ba: Đưa tay dắt dẫn.

Nên nay ta đến đón rước ngươi, cùng một ngàn hóa Phật đồng thời đưa tay dắt dẫn.

- Thứ ba: Được vãng sinh.

(Bấy giờ) hành giả tự thấy mình ngồi trên đài vàng tím chắp tay khen ngợi các Đức Phật, rồi trong khoảng một niệm, liền sinh về trong ao bảy báu ở cõi nước kia.

Búng ngón tay và một niệm được văn kinh nêu thay lẫn nhau.

- Thứ tư: Các lợi ích khi vãng sinh rồi, có chín: Thứ nhất: Trải qua một đêm thì hoa nở. Thứ hai: Thân biến thành màu vàng.

Thứ ba: Hoa báu hứng đón dưới chân.

Thứ tư: Các bậc Thánh phát ra ánh sáng chiếu đến. Thứ năm: Khai ngộ pháp sâu.

Thứ sáu: Bước xuống đài lễ Phật và khen ngợi. Thứ bảy: Được Bồ-đề không còn lui sụt.

Thứ tám: Đến khắp mười phương. Thứ chín: Được nhẫn và được thọ ký.

+ Thứ nhất: Qua một đêm thì hoa nở. Đài vàng tím ấy như hoa báu lớn, qua một đêm thì liền nở.

+ Thứ hai: Thân biến thành màu vàng. Thân hành giả biến thành màu vàng sáng chói.

Theo kinh Vô Lượng Thọ, thân chúng sinh ở cõi nước kia đều có màu vàng và ở đây đặc biệt nêu lên là khác lạ.

+ Thứ ba: Hoa báu hứng đón dưới chân. Dưới chân cũng có hoa sen bảy báu.

+ Thứ tư: Các bậc Thánh phát ra ánh sáng chiếu đến. Được Phật và Bồ-tát đồng thời phát ra ánh sáng chiếu soi thân hành giả.

+ Thứ năm: Khai ngộ pháp sâu. Mắt liền mở sáng. Do sự tu tập trong đời trước nên nghe khắp các âm thanh đều nói thuần là pháp nghĩa đế bậc nhất rất sâu xa.

+ Thứ sáu: Bước xuống đài lễ Phật và khen ngợi. Nghe xong liền bước xuống đài vàng lễ Phật và chắp tay khen ngợi Đức Thế tôn.

+ Thứ bảy: Được Bồ-đề không lui sụt. Trải qua bảy ngày, đúng thời liền không còn lui sụt (trên đường tiến đến) quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

Tức là bảy ngày sau mới được không còn lui sụt.

+ Thứ tám: Đến khắp mười phương. Lúc đó liền bay đi kính thờ các Đức Phật ở khắp mười phương.

Vì có được sáu thứ thần thông nên có khả năng bay đi.

+ Thứ chín: Được nhẫn và được thọ ký. Ở chỗ các Đức Phật, tu hành các pháp tam-muội. Như thế trải qua một tiểu kiếp mới chứng được Vô sinh pháp nhẫn, được các Đức Phật hiện tiền thọ ký.

Một tiểu kiếp là nói theo một lần tăng một lần giảm ở cõi nước này.

-Thứ ba: Là tổng kết.

Đó gọi là bậc Thượng phẩm trung sinh. c. Thứ ba: Thượng phẩm hạ sinh, có ba: Thứ nhất: Nêu lên.

Thứ hai: Giải thích. Thứ ba: Tổng kết.

- Thứ nhất: Nêu lên. Thượng phẩm hạ sinh là.

- Thứ hai: Giải thích, có bốn. Thứ nhất: Tu nhân.

Thứ hai: Cảm được các duyên.

Thứ ba: Được vãng sinh.

Thứ tư: Những lợi ích khi vãng sinh rồi.

- Thứ nhất: Tu nhân, có hai:

Thứ nhất: Có lòng tin và phát tâm. Thứ hai: Hồi hướng và phát nguyện.

+ Thứ nhất: Có lòng tin và phát tâm.

Người này tuy cũng tin nhân quả, không chê bai Đại thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo Vô thượng.

Tức là nói không hiểu sự tu hành.

+ Thứ hai: Hồi hướng và phát nguyện.

Rồi hồi hướng công đức ấy phát nguyện cầu sinh về cõi Cực lạc. Nghĩa giống như đã giải thích ở trước.

- Thứ hai: Cảm được các duyên.

Khi Hành giả sắp qua đời được Đức Phật A-di-đà, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí cùng các Bồtát cầm hoa sen vàng, hóa thành năm trăm vị Phật đến đón rước người ấy. Năm trăm vị hóa Phật đồng thời duỗi tay và khen ngợi rằng:

Này Pháp tử! Nay ngươi thanh tịnh, phát đạo tâm vô thượng, nên ta đến đón rước ngươi.

Hoa sen vàng cũng tức là đài tòa. Khen ngợi rằng thanh tịnh vì đã phát tâm Đại thừa, thì chắc chắn xa lìa các điều ác.

- Thứ ba: Được vãng sinh.

Khi thấy những việc như thế hành giả, đã tự thấy mình ngồi trên hoa sen vàng, ngồi xong hoa sen khép lại, theo sau Đức Thế tôn, liền được sinh về trong ao bảy báu.

Không nói thời hạn là một niệm giống như ở trước.

- Thứ tư: Những lợi ích khi vãng sinh, có năm: Thứ nhất: Hoa nở.

Thứ hai: Thấy Phật. Thứ ba: Nghe pháp. Thứ tư: Đi dạo.

Thứ năm: Vào địa vị.

+ Thứ nhất: Hoa nở. Qua một ngày một đêm hoa sen mới nở.

+ Thứ hai: Là Thấy Phật. Bảy ngày sau mới được thấy Phật. Tuy được thấy Phật nhưng đối với các tướng và vẻ đẹp tâm vẫn chưa thấy được rõ ràng.

+ Thứ ba: Nghe pháp. Qua hai mươi mốt ngày sau mới thấy nghe rõ ràng các âm thanh đều giảng nói pháp mầu.

+ Thứ tư: Đi dạo. Đến khắp mười phương cúng dường các Đức Phật và ở trước các Đức Phật nghe pháp sâu xa.

+ Thứ năm: Nhập vào giai vị. Như thế, trải qua ba tiểu kiếp, được trăm pháp minh môn, an trụ địa Sơ hoan hỷ.

Trăm pháp minh môn, Kinh Hoa Nghiêm chép:

Bồ-tát Sơ địa ở trong khoảng sát-na được trăm pháp tam-muội, thấy trăm Đức Phật, dùng năng lực thần thông có thể đi qua trăm cõi nước Phật, có khả năng làm rung chuyển trăm thế giới Phật, ánh sáng chiếu khắp trăm thế giới Phật, có khả năng thành tựu hằng trăm chúng sinh, có khả năng biết trăm kiếp quá khứ và vị lai, có khả năng nhập vào trăm pháp môn, có thể hiện thành trăm thân, lại thành một thân, dùng trăm Bồ-tát làm quyến thuộc trang nghiêm.

Như kinh Nhân Vương chép: Có ngàn pháp minh môn, muôn pháp minh môn v.v... địa Hoan hỷ tức là địa thứ nhất, vì mới bước lên quả Thánh quá vui mừng.

- Thứ ba: Tổng kết.

Đó gọi là bậc Thượng phẩm hạ sinh. Đó gọi là pháp tưởng vãng sinh bậc thượng, gọi là phép quán thứ mười bốn.

Tướng tu hành của ba phẩm như đã nói ở trên, ở đây lại phân biệt sâu và cạn có nhiều chỗ khác nhau.

- Thứ nhất: Sự dắt dẫn khi sắp qua đời khác nhau: Ở thượng phẩm thượng sinh thì Phật và Bồ-tát dắt dẫn, thượng phẩm trung sinh thì cùng một ngàn vị hóa Phật dắt dẫn, và thượng phẩm hạ sinh thì năm trăm vị hóa Phật dắt dẫn.

- Thứ hai: Chỗ ngồi tòa hoa khác nhau: Ở thượng phẩm thượng sinh thì đài kim cương, thượng phẩm trung sinh thì đài vàng tím, và thượng phẩm hạ sinh thì hoa sen vàng.

- Thứ ba: Thấy Phật nghe pháp khác nhau: Ở thượng phẩm thượng sinh thì khi vãng sinh về liền thấy Phật và nghe pháp, thượng phẩm trung sinh thì trải qua một đêm, và thượng phẩm hạ sinh thì từ bảy ngày cho đến hai mươi mốt ngày.

- Thứ tư: Hoa nở khác nhau: Ở thượng phẩm thượng sinh thì hoa liền nở, thượng phẩm trung sinh thì sau một đêm, thượng phẩm hạ sinh thì sau một ngày một đêm.

- Thứ năm: Sự chứng nhập khác nhau: Ở thượng phẩm thượng sinh thì khi vãng sinh về cõi nước kia liền chứng, nhập thượng phẩm trung sinh thì một tiểu kiếp và thượng phẩm hạ sinh thì ba tiểu kiếp. Tìm văn thì sẽ thấy.

Ba phẩm bậc trung, đó là gom nhiếp bốn quả chúng Thanh văn.

Kinh chép: Đức Phật kia có vô lượng vô biên đệ tử Thanh văn đều là những bậc A-la-hán.

Hỏi: Ở cõi nước kia thuần là bạn lành thanh tịnh Đại thừa thì sao lại có Tiểu thừa Thanh văn?

Đáp: Thanh văn ở cõi này có hai loại:

1. Định tánh.

Gọi là hạng người chìm đắm chấp không, chấp mắc ở vắng lặng để chọn lấy cõi diệt độ. Luận Vãng Sinh chép: người nhị thừa không được vãng sinh là loại ấy.

2. Bất định tánh.

Chính là hạng người giữa đường hồi tâm, đã trải qua sự mở rộng hiểu biết lẽ thường (trong thường, lạc, ngã, tịnh), được thọ ký. Tuy là Thanh văn nhưng không trụ ở Tiểu quả. Như hạng chân A-la-hán trong kinh Pháp Hoa, hạng Bồ-tát xuất gia trong kinh Niết-bàn, hạng Thanh văn của Tịnh độ, tức là thuộc về loại ấy. Hạng người này đã nghe giáo pháp Đại thừa và phát tâm Bồ-đề. Nhưng trước chỉ tu học Tiểu thừa, nghe nói pháp khổ, không, vô thường, vô ngã rồi phát khởi tu tập theo đó, nên trước chứng được Tiểu quả, rồi cuối cùng trở về với Đại thừa. Hạng người trung phẩm thượng sinh của ba phẩm này, thường giữ gìn bốn thứ giới: Năm giới, tám giới, mười giới và giới Cụ túc.

Trung phẩm trung sinh cũng giữ bốn thứ giới nhưng chỉ một ngày một đêm. Còn ở trung phẩm hạ sinh chỉ tu hành hiếu dưỡng và nhân từ. Hai phẩm trên chuyên giữ gìn giới Phật và có sự hồi hướng, phát nguyện. Còn một phẩm dưới thì chỉ y theo những lời dạy của thế gian. Vì cho nên khi sắp qua đời chỉ gặp được thiện tri thức, và vì sự tu hành của ba bậc khác nhau nên chia thành cao thấp.

-Ba phẩm bậc trung.

Trung phẩm thượng sinh. Trung phẩm trung sinh. Trung phẩm hạ sinh. a. Trung phẩm thượng sinh, có ba: Nêu lên. Giải thích. Tổng kết.

- Nêu lên. Đức Phật bảo ngài A-nan và bà Vi-đề-hy: Trung phẩm thượng sinh là:

- Giải thích, có bốn:

Thứ nhất: Tu nhân.

Thứ hai: Cảm được các duyên. Thứ ba: Được vãng sinh.

Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh.

- Thứ nhất: Tu nhân gồm có hai.

Thứ nhất: Nói về hành nghiệp. Thứ hai: Nói về phát nguyện.

+ Thứ nhất: Nói về hành nghiệp.

Nếu chúng sinh thọ giữ năm giới, giữ gìn tám điều trai giới, tu hành các giới, không gây ra năm tội nghịch, không có các điều lỗi lầm.

Năm giới, tám giới là giới của hai chúng tại gia. Các giới là bao gồm các giới của năm chúng xuất gia, năm giới gồm:

- Thứ nhất: Không sát sinh.-Thứ hai: Không trộm cắp.

- Thứ ba: Không tà dâm.-Thứ tư: Không nói dối.

- Thứ năm: Không uống rượu.

Tám giới thì thêm ba giới là:

- Thứ sáu: Không đeo hoa trên tóc, chuỗi anh lạc, xoa dầu thơm vào mình.

- Thứ bảy: Không ngồi giường cao rộng và ca múa xướng hát.

- Thứ tám: Không ăn quá giờ ngọ, dâm dục dứt trừ, tà trở thành chánh, gọi là thêm hạnh thanh tịnh. Và vì trai tịnh tâm ấy nên gọi là tám quan trai đóng kín các căn cũng gọi là tám quan trai, nói rộng như trong luật. Tuy nhiên, bốn thứ giới này hoặc xuất gia hoặc tại gia đều giữ gìn. Nếu xuất gia thì gồm giới Cụ túc. Đã giữ gìn giới thanh tịnh thì chắc chắn sẽ xa lìa những lỗi lầm, vì năm tội nghịch lớn lao nên đặc biệt nêu lên.

+ Thứ hai: Nói về phát nguyện.

Rồi hồi hướng các gốc lành ấy phát nguyện cầu sinh về thế giới Cực lạc.

Gốc lành là nhân, sinh về cõi nước kia là quả.

- Thứ hai: Cảm được các duyên, có ba: Thứ nhất: Các vị Thánh hiện tiền.

Thứ hai: Ánh sáng chiếu soi vào thân. Thứ ba là: Nói pháp để mở bày sự tỏ ngộ.

+ Thứ nhất: Các vị Thánh hiện tiền.

(Chúng sinh đó) khi sắp qua đời được Đức Phật Adi-đà và các Tỳ-kheo quyến thuộc vây quanh.

+ Thứ hai: Ánh sáng chiếu soi vào thân. Phát ra ánh sáng màu vàng đến chỗ người ấy.

+ Thứ ba là: Nói pháp để mở bày sự tỏ ngộ. Giảng nói các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã và khen ngợi hạnh xuất gia được xa lìa các khổ.

Khen ngợi hạnh xuất gia tức là nói phẩm vãng sinh này phần nhiều gom nhiếp người xuất gia. Xa lìa các khổ nghĩa là, gần thì lìa trần duyên, xa thì làm trong sạch các hoặc phiền não.

- Thứ ba là: Được vãng sinh.

Hành giả thấy cảnh ấy rồi, tâm rất vui mừng, tự thấy thân mình ngồi trên đài sen, quỳ thẳng chắp tay đảnh lễ Phật, trong khoảng chưa ngẩng đầu lên, đã được sinh về thế giới Cực lạc.

Ngồi đài sen, lễ Phật thì thần thức đã giải thoát. (hoặc thần thức liền giải thoát.

- Thứ tư: Các lợi ích khi vãng sinh rồi, có ba: Thứ nhất: Hoa nở.

Thứ hai: Nghe pháp. Thứ ba: Được đạo.

+ Thứ nhất: Hoa nở.

Hoa sen liền nở, ngang khi hoa nở.

Đáng lẽ thấy Phật nhưng văn lược không rõ.

+ Thứ hai: Nghe pháp.

Hành giả nghe các âm thanh khen ngợi pháp bốn đế. Khen ngợi pháp bốn đế là thuận theo pháp tu tập của người ấy. Thế nên hai đế khổ và tập là chỗ dứt bỏ nhân quả thế gian, còn hai đế diệt và đạo là chỗ chứng đắc nhân quả xuất thế gian. Và vì bốn pháp đều thật nên đều gọi là Đế.

+ Thứ ba: Được đạo.

Lúc đó liền chứng quả A-la-hán, có đủ ba minh sáu thông và tám giải thoát.

"A", Hán dịch là vô; "La-hán" dịch là sinh. Các kiết hoặc đã hết, không còn thọ thân sau, vì thế nói là vô sinh, cũng nói là Ứng cúng, Sát tặc, như các chỗ khác có phân biệt rõ.

Ba minh: Quá khứ túc mạng minh, hiện tại Lậu tận minh và vị lai Thiên nhãn minh. Cả ba đều thấu suốt nên được gọi là minh.

Sáu thông gồm: 1. Thiên nhãn; 2. Thiên nhĩ; 3. Tha tâm; 4. Túc mạng; 5. Như ý; 6. Lậu tận. Vì cả các môn không còn bị trệ ngại, nên gọi chung là Thông.

Tám giải thoát cũng gọi là tám buông bỏ.

1. Thứ nhất: Nội hữu sắc tướng ngoại quán sắc (không còn nhớ thân, xương, người bên trong để quán sắc bất tịnh bên ngoài. Đó là địa vị ở sơ thiền).

2. Thứ hai: Nội vô sắc tướng ngoại quán sắc (Xương, người bên trong hoại diệt, quán các sắc bất tịnh bên ngoài được vào Nhị thiền).

3. Thứ ba là: duyên tịnh buông bỏ thân tác chứng trừ bất tịnh ra tâm định thanh khiết, gọi là duyên theo tịnh vì không còn chấp chặt, nên tâm hưởng thụ cảnh vui Tam thiền, gọi là Thân chứng).

4. Thứ tư: hư không xứ buông bỏ (Diệt sắc của tứ thiền, tâm duyên theo vô biên không xứ để vào định. Vì biết được vô thường, khổ, không nên tâm nhàm chán buông bỏ).

5. Thứ năm: thức xứ buông bỏ (Bỏ không, duyên theo thức xứ để vào định. Vì biết được vô thường, nên sinh tâm nhàm chán buông bỏ).

6. Thứ sáu: vô sở hữu xứ buông bỏ (Bỏ thức, duyên theo vô sở hữu xứ để nhập định, vì biết được vô thường nên sinh tâm nhàm chán buông bỏ).

7. Thứ bảy: phi hữu tưởng phi vô tưởng buông bỏ (Bỏ Vô sở hữu xứ, duyên theo Phi phi tưởng để nhập định. Vì biết được vô thường nên tâm nhàm chán buông bỏ).

8. Thứ tám: Diệt thọ tưởng buông bỏ (Bỏ diệt thọ, bỏ các tâm và tâm sở để vào định dừng nghỉ, gọi là buông bỏ). Còn lại như Pháp Giới Thứ Đệ.

-Thứ ba: Tổng kết.

Đó gọi là bậc Trung phẩm thượng sinh. b. Thứ hai: Trung phẩm trung sinh gồm có ba: Nêu lên.

Giải thích. Tổng kết.

- Nêu lên.

Trung phẩm trung sinh là:

- Giải thích, có bốn: Tu nhân.

Cảm được các duyên. Được vãng sinh.

Các lợi ích khi vãng sinh.

- Tu nhân, có hai:

Thứ nhất: Hành nghiệp. Thứ hai: Phát nguyện.

+ Thứ nhất là: Hành nghiệp.

Nếu có chúng sinh nào trong một ngày đêm giữ gìn tám điều trai giới, hoặc trong một ngày một đêm thọ trì giới Sa-di, hoặc trong một ngày đêm giữ gìn giới Cụ túc, các oai nghi đều đầy đủ.

Văn lược bỏ năm giới, ở trước lược bỏ mười giới và giới cụ túc, nhưng trước sau đắp đổi thì có đủ bốn thứ giới.

Giới Sa-di là mười giới. Trong tám giới ở trước, chia giới thứ bảy thành hai rồi thêm giới không cầm giữ các thứ vàng, bạc và tiền thành mười giới. Giới cụ túc tức là giới phải thọ của Đại Tăng và Đại Ni. Và vì bảy chi đầy đủ phát khắp đủ cả các cảnh của chúng sinh nên nói là cụ túc.

+ Thứ hai là: Phát nguyện.

Rồi hồi hướng các công đức huân tu giới hương đó phát nguyện cầu sinh về cõi nước Cực lạc.

Giữ giới và nghiệp thanh tịnh để cầu quả báo thanh tịnh, vì giữ giới để thành tựu đức, gọi là nghe xa, nên thí dụ như hương.

-Thứ hai: Cảm được các duyên, có hai: Thấy Phật và các vị Thánh.

Nghe giữa hư không khen ngợi.

+ Thứ nhất: Thấy Phật và các vị Thánh.

Người tu hành như thế khi sắp qua đời, được thấy Đức Phật A-di-đà cùng các quyến thuộc phát ra ánh sáng vàng cầm hoa sen bảy báu, đến trước hành giả.

Phát ra ánh sáng chiếu vào thân, cầm hoa sen để đón rước.

+ Thứ hai: Nghe giữa hư không khen ngợi.

Bấy giờ hành giả tự mình nghe giữa hư không có tiếng khen ngợi rằng: Này thiện nam! Người lành như ngươi đã biết thuận theo lời dạy của các Đức Phật trong ba đời (mà tu tập) nên nay ta đến rước ngươi.

Các Đức Phật trong ba đời đều khuyên giữ giới, bỏ điều ác, tu điều lành nên nay giữ giới tức là "thuận theo".-Thứ ba là: Được vãng sinh.

Khi hành giả tự thấy mình ngồi trên hoa sen, hoa sen khép lại, liền sinh về thế giới Cực lạc ở phương Tây.

Hoa sen khép lại liền được vãng sinh cũng tức là trong khoảng một niệm.

-Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh, có ba: Thứ nhất: Thấy Phật.

Thứ hai: Nghe pháp. Thứ ba: Chứng quả.

+ Thứ nhất: Thấy Phật.

Ở trong ao báu, qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi hoa nở thì rồi, (hành giả) mở mắt chắp tay khen ngợi Đức Thế tôn.

Văn nói khen ngợi, nhưng lẽ ra nên nói thấy trước.

+ Thứ hai: Nghe pháp. Nghe pháp, vui mừng.

Nghe pháp cũng tức là pháp bốn đế: Khổ, không, vô thường v.v...

Ở hạ phẩm cũng giống như vậy.

+ Thứ ba là: Chứng quả.

Liền chứng quả Tu-đà-hoàn và sau nửa kiếp mới chứng quả A-la-hán.

Tu-đà-hoàn, Hán dịch là Nghịch lưu, nghĩa là ngược dòng sinh tử, tức là Sơ quả.

-Thứ ba: Tổng kết.

Đó gọi là bậc Trung phẩm trung sinh. c. Trung phẩm hạ sinh, có ba: Thứ nhất:: Nêu lên.

Thứ hai: Giải thích. Thứ ba: Tổng kết.

- Nêu lên.

Trung phẩm hạ sinh là:

- Giải thích, có bốn:

Thứ nhất: Tu nhân.

Thứ hai: Gặp được các duyên. Thứ ba: Được vãng sinh.

Thứ tư: Các lợi ích khi vãng sinh rồi.

- Thứ nhất: Tu nhân.

"Nếu có thiện nam, thiện nữ nuôi nấng cha mẹ, nhân từ ở đời, làm việc nặng nhọc hầu hạ, vâng thuận lời dạy, noi theo chí hướng nên gọi là hiếu thảo nuôi nấng cha mẹ". Nho giáo dùng làm cội nguồn của trăm hạnh. "Yêu thương cả loài vật, bố thí rộng khắp, cứu giúp mọi người vì thế nói là nhân từ ở đời" mà tông chỉ của Nho giáo dùng làm đức hạnh của người quân tử. Và do khi còn sống chứa góp những điều lành nên khi sắp qua đời gặp được các duyên tốt.

- Thứ hai: Gặp được các duyên.

Khi sắp qua đời người ấy, gặp được thiện tri thức nói rộng những sự vui ở cõi nước Đức Phật A-di-đà cho người ấy nghe, cũng nói bốn mươi tám lời nguyện của Tỳ-kheo Pháp Tạng.

Vì khéo giáo hóa mọi người cho nên là tri thức của mọi người, biết đạo đức của người ấy, biết dung mạo của người ấy. Như phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn sự trong kinh Pháp Hoa chép: Thiện tri thức ấy là nhân duyên lớn, tức là chỉ vợ con là Thiện tri thức, vì thế biết sự khai đạo không hạn cục ở xuất gia hoặc tại gia, những việc vui của cõi nước như y báo ở trên và những điều nói trong kinh Vô Lượng Thọ, kinh A-di-đà nói. Tỳ-kheo Pháp Tạng là danh hiệu của Đức Phật A-di-đà, ngày xưa làm vua gặp thời Phật Thế Tự Tại Vương, bỏ nước đi xuất gia, liền ở trước Đức Phật phát bốn mươi tám lời nguyện, đầy đủ như trong kinh Vô Lượng Thọ có nói.

- Thứ ba: Được vãng sinh.

Người ấy nghe những việc như thế rồi, trong chốc lát liền qua đời, thí như khoảng thời gian co duỗi cánh tay của vị tráng sĩ, liền sinh về thế giới Cực lạc Tây phương.

Ở đây, khi sắp qua đời đáng lẽ nên có những việc cầm hoa sen, dắt dẫn v.v... nhưng văn đã lược bớt không nói. Khoảng thời gian co duỗi cánh tay của vị tráng sĩ cũng tức là thời gian ngắn và đó là cách nói biến đổi trước sau.

- Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh, có ba: Hoa nở.

Nghe pháp. Được đạo.

+ Thứ nhất: Hoa nở. Bảy ngày sau, hành giả được gặp Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí.

Văn kinh chỉ nói bảy ngày sau mà không nói hoa nở.

+ Thứ hai: Nghe pháp. Nghe pháp vui mừng. Hai vị Thánh nói pháp nên chưa kịp thấy Phật.

+ Thứ ba là: Được đạo. Được quả Tu-đà-hoàn, qua một tiểu kiếp mới chứng quả A-la-hán.

- Tổng kết.

Đó gọi là bậc Trung phẩm hạ sinh, đó gọi là phép quán tưởng vãng sinh bậc trung, gọi là phép quán thứ mười lăm.

Hai phẩm trước thì khi sắp qua đời thấy Phật, được thấy ánh sáng và nghe pháp. Còn phẩm ở dưới khi vãng sinh rồi đều không thấy Phật và nghe pháp như hai phẩm trước, mà ở hạ phẩm chỉ được thấy Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí.

Hai phẩm trên đều nói ngồi đài hoa sen để đi, khi về đến cõi nước kia thì hoa nở. Còn phẩm dưới không nói, nghĩa là đáng lẽ phải có nhưng văn lược bớt.

Ở trung phẩm thượng sinh thì đúng thời liền chứng được quả thứ tư. Còn ở trung phẩm trung sinh thì nửa kiếp và ở trung phẩm hạ sinh thì một tiểu kiếp. Tìm văn để đối chiếu sẽ biết.

-Ba phẩm của bậc hạ đều không có tu nhân, đều là lúc còn sống làm ác và khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức, theo Luận Thập Nghi chép: Nếu không có những việc lành ở đời trước thì nay cũng không gặp được Thiện tri thức, thế nên ba phẩm này chẳng phải không có nhân từ xa. Ở hạ phẩm thượng sinh thì chỉ nói chung như vậy, nghĩa là làm lỗi mà không biết hổ thẹn. Còn hạ phẩm trung sinh nói phần nhiều là năm chúng xuất gia, mong cầu, tham lam danh lợi, hủy phá giới luật. Ở hạ phẩm hạ sinh tức là gây ra các tội nặng như mười điều ác, năm tội nghịch. Vì tội có nặng, nhẹ nên chia làm ba bậc.

Bậc Hạ, có ba:

Thứ nhất: Hạ phẩm thượng sinh. Thứ hai: Hạ phẩm trung sinh.

Thứ ba: Hạ phẩm hạ sinh. a. Thứ nhất: Hạ phẩm thượng sinh, có ba: Thứ nhất:

Nêu lên.

Thứ hai: Giải thích. Thứ ba: Tổng kết.

- Nêu lên.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Hạ phẩm thượng sinh là:

- Giải thích, có bốn:

Thứ nhất: Sinh ra đến nay làm ác.

Thứ hai: Khi sắp qua đời gặp được các duyên. Thứ ba: Thấy tướng được vãng sinh.

Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh.

- Thứ nhất: Từ khi sinh ra đến nay làm ác.

Hoặc có chúng sinh gây ra các ác nghiệp, tuy không chê bai kinh điển Phương Đẳng. Người ngu như thế, gây ra nhiều việc ác, không có tâm hổ thẹn.

Gây ra các nghiệp ác là nói chẳng nặng lắm, không chê bai kinh điển là còn có lòng tin chân thành.

- Thứ hai: Khi sắp qua đời gặp được duyên tốt có hai: Thiện tri thức mở bày, dắt dẫn.

Hóa Phật đến khen ngợi.

+ Thứ nhất: Thiện tri thức mở bày, dắt dẫn, có hai: Nghe pháp để trừ nghiệp.

Xưng danh hiệu để diệt tội.

* Thứ nhất: Nghe pháp để trừ nghiệp.

Khi sắp qua đời gặp được Thiện tri thức, nói tựa đề của mười hai bộ kinh Đại thừa cho người ấy nghe. Nhờ nghe tên các kinh như cho nên liền dứt trừ được các nghiệp ác rất nặng trong ngàn kiếp.

* Thứ hai: Xưng danh hiệu để diệt tội.

Người trí kia lại dạy chắp tay xưng niệm Nam mô A-di-đà Phật, nhờ người ấy xưng danh hiệu Phật nên tiêu trừ được các tội sinh tử trong năm mươi ức kiếp.

Đề kinh và danh hiệu Phật có công đức năng lực khó suy nghĩ bàn luận. Còn số kiếp diệt tội trong văn đã nêu. + Thứ hai: Hóa Phật đến khen ngợi, có hai: Thứ nhất: Hóa chúng đến đón rước. Thứ hai: Khen ngợi và dắt dẫn. * Thứ nhất: Hóa chúng đến đón rước.

Bấy giờ, Đức Phật Vô Lượng Thọ liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế Âm và hóa Đại Thế Chí đến trước hành giả.

* Thứ hai: Khen ngợi và dắt dẫn.

Khen rằng: Này người thiện nam! Nhờ người xưng niệm danh hiệu Phật nên các tội được tiêu diệt, nay ta đến rước ngươi.

- Thứ ba: Thấy tướng được vãng sinh.

Người ấy nghe nói như vậy rồi, liền thấy ánh sáng của hóa Phật chiếu khắp nhà mình, thấy rồi sinh tâm vui mừng, liền qua đời ngồi trên hoa sen, theo sau hóa Phật, sinh về trong ao báu.

- Thứ tư: Những lợi ích khi vãng sinh, có ba: Thứ nhất: Hoa nở.

Thứ hai: Bồ-tát Quán Thế Âm nói pháp. Thứ ba:

Nghe pháp và chứng nhập.

+ Thứ nhất: Hoa nở.

Qua bốn mươi chín ngày sau hoa sen mới nở.

+ Thứ hai: Bồ-tát Quán Thế Âm nói pháp.

Đang lúc hoa nở Bồ-tát Đại bi Quán Thế Âm và Bồtát Đại Thế Chí phát ra ánh sáng rực rỡ ở trước người ấy, giảng nói nghĩa lý mười hai bộ kinh cho người ấy nghe.

Mười hai bộ kinh là kinh pháp do tất cả các Đức Phật nói, thâu tóm Đại thừa và Tiểu thừa gồm có mười hai loại, cũng gọi là mười hai phần giáo:

1. Khế kinh.

2. Trùng tụng.

3. Thọ ký.

4. Phúng tụng.

5. Vô vấn tự thuyết.

6. Nhân duyên.

7. Thí dụ.

8. Bổn sinh.

9. Bổn sự.

10. Phương quảng.

11. Vị tằng hữu.

12. Luận nghị. Bộ tức là loại.

+ Thứ ba: Nghe pháp và chứng nhập.

Người ấy nghe rồi tin hiểu, phát đạo tâm vô thượng, trải quả mười tiểu kiếp, có đủ trăm pháp minh môn, được vào sơ địa.

Đó là ba phẩm dưới khi sinh về cõi nước kia nghe pháp và đều phát tâm Đại thừa. Còn ở trước ba phẩm giữa chỉ nói Tiểu quả là vì người ấy phát tâm Đại thừa trước nên không nói. Trăm pháp minh môn như đã giải thích ở trước.

-Tổng kết.

Đó gọi là bậc Hạ phẩm thượng sinh. b. Hạ phẩm trung sinh, có ba: Nêu lên.

Giải thích. Tổng kết.

- Nêu lên.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy: Hạ phẩm trung sinh, là:

- Giải thích, có bốn:

Thứ nhất: Gây ra nhân ác.

Thứ hai: Gặp thiện tri thức.

Thứ ba: Được vãng sinh.

Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh.

- Thứ nhất: Gây ra nhân ác, có ba:

Thứ nhất: Nêu riêng bốn lỗi. Thứ hai: Tổng kết bốn lỗi.

Thứ ba: Chỉ bày quả báo vị lai.

+ Thứ nhất: Nêu riêng bốn lỗi, có bốn: Thứ nhất: Lỗi hủy giới.

Thứ hai: Lỗi trộm cắp. Thứ ba: Lỗi nói pháp.

Thứ tư: Lỗi không hổ thẹn.

* Thứ nhất: Lỗi hủy giới.

Nếu có chúng sinh nào hủy phạm năm giới, tám giới và giới cụ túc. Văn lược bớt giới Sa-di.

* Thứ hai: Lỗi trộm cắp.

Người ngu như thế, trộm vật của tăng-kỳ, trộm vật của hiện tiền tăng.

Vì vật của tăng rất quan trọng nên đặc biệt nêu lên. Tăng-kỳ, Hán dịch là đại chúng, tức là vật của Thường trụ, có hai:

- Thường trụ thường trụ, tức là gạo, lúa của nhà chùa...

- Thập phương thường trụ, tức là thức ăn, thức uống để cúng dường tăng v.v...

Vật của hiện tiền tăng cũng gồm có hai:

- Hiện tiền hiện tiền, nghĩa là y theo số lượng, tức là phần.

- Thập phương hiện tiền, nghĩa là làm việc bố thí khắp.

Bốn thứ vật của Tăng hễ trộm đều kết phạm tội. Kinh chép: Năm tội nghịch, bốn giới trọng ta cũng có thể cứu, nhưng người trộm vật của Tăng là việc ta không thể cứu, vì thế hết sức răn bảo.

* Thứ ba: Lỗi nói pháp. Bất tịnh nói pháp.

Nói bất tịnh là mượn Phật pháp để mong cầu lợi dưỡng.

* Thứ tư: Lỗi không hổ thẹn. Không có tâm hổ thẹn.

Công khai gây ra mà trong tâm không có sự hổ thẹn.

+ Thứ hai: Tổng kết bốn lỗi.

Dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm.

Vì dấu ác dẫy đầy nên nói là trang nghiêm.

+ Thứ ba: Nêu quả báo vị lai.

Người gây tội như thế, do các nghiệp ác nên phải đọa vào địa ngục.

Phải đọa vào địa ngục là nói đáng lẽ.

-Thứ hai: Gặp Thiện tri thức, có ba: Nghiệp tướng hiện tiền; Thiện tri thức mở bày dẫn dắt; Nghe pháp mà diệt được tội.

+ Nghiệp tướng hiện tiền:

Khi sắp qua đời, các hình ảnh lửa dữ của địa ngục đồng thời đều hiện ra.

Các hình ảnh lửa dữ của địa ngục tức là vạc nước nóng, lò than, nước đồng sôi, hòn sắt v.v... Đại sư Thiên Thai chép: Tướng xe lửa hiện ra tức là hỏa luân. Tướng quả trong nhân là nghiệp từ trong tâm.

+ Thiện tri thức mở bày dẫn dắt:

Nhưng may gặp được bậc thiện tri thức, dùng tâm đại từ, đại bi, liền vì người ấy mà khen ngợi, giảng nói về oai đức mười lực của Đức Phật A-di-đà, nói rộng thần lực và ánh sáng của Đức Phật A-di-đà, cũng khen ngợi các pháp như giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến.

Nói về công đức của Phật, có ba:

- Mười lực.

- Ánh sáng.

- Năm phần pháp thân.

Mười lực là:

1. Thị xứ phi xứ lực (Đức Phật biết nói pháp nhân duyên quả báo, từ nhân ấy mà không sinh quả ấy, Đức Phật đều biết khắp).

2. Nghiệp trí lực (Đức Phật biết nguyên nhân quả báo các nghiệp trong ba đời của tất cả chúng sinh).

3. Định lực (Đức Phật biết được pháp tam-muội của tất cả các Đức Phật).

4. Căn lực (Đức Phật biết các căn bậc thượng, bậc hạ của các chúng sinh khác).

5. Dục lực (Đức Phật biết các thứ ưa muốn của chúng sinh).

6. Tánh lực (Đức Phật biết các thứ tánh của thế gian).

7. Chí xứ đạo lực (Đức Phật biết tất cả tướng ở chỗ đạo đi đến).

8. Túc mạng lực (Đức Phật các thứ túc mạng từ một đời, hai đời cho đến trăm ngàn đời kiếp).

9. Thiên nhãn: (Thiên nhãn của Phật thấy hết các tướng nghiệp báo sinh tử của chúng sinh).

10. Lậu tận lực (Vì các hữu lậu của Phật đã hết nên tâm vô lậu giải thoát).

Trong năm phần pháp thân: Ba phần trên dễ hiểu là tu nhân mà cảm được quả, gọi là giải thoát. Còn phần thứ năm, an trụ trong hai thứ sinh tử, rốt ráo dứt hẳn sinh tử. Và sau quả khởi dụng gọi là giải thoát tri kiến.

+ Nghe pháp mà diệt tội.

Người ấy nghe được các pháp như thế, nên trừ diệt được các tội sinh tử trong tám mươi kiếp. Lửa dữ địa ngục hóa thành gió mát, thổi các hoa trời. Trên hoa đều có hóa Phật và Bồ-tát cùng đến đón rước người ấy.

Cảm được các vị Thánh đến đón rước là nhờ nghe được oai đức mười lực của Phật. Một niệm tin nhận chuyển ác thành thiện, lửa dữ hóa thành gió mát là tùy theo tâm mà các tướng ấy được biến đổi nhanh như vậy.-Thứ ba: Được vãng sinh.

Trong khoảng một niệm liền được sinh vào trong hoa sen của ao bảy báu.

-Thứ tư: Các lợi ích khi được vãng sinh rồi, có ba: Thứ nhất: Hoa nở.

Thứ hai: Hai vị Thánh nói pháp. Thứ ba: Nghe pháp được lợi ích.

+ Thứ nhất: Hoa nở qua sáu kiếp sau hoa sen mới nở.

+ Thứ hai: Hai vị Thánh nói pháp.

Bồ-tát Quán Thế Âm và Bồ-tát Đại Thế Chí dùng tiếng Phạm an ủi và giảng nói kinh điển rất cao sâu của Đại thừa cho người ấy nghe.

+ Thứ ba: Nghe pháp được lợi ích.

Người ấy nghe pháp rồi liền phát tâm đạo Vô thượng.

-Thứ ba: Tổng kết.

Đó gọi là bậc Hạ phẩm trung sinh. c. Hạ phẩm hạ sinh, có ba: Nêu lên.

Giải thích. Tổng kết.

- Nêu lên.

Phật bảo A-nan và bà Vi-đề-hy. Hạ phẩm hạ sinh đó là:

Trong phần nêu lên ở bậc thượng và bậc trung chỉ có ở thượng phẩm là nêu lên Đức Phật bảo v.v... Còn riêng ba phẩm dưới mỗi phẩm đều nêu riêng, đó là vì những người làm ác mà được vãng sinh, trái với lẽ thường, sợ nhiều người dễ nghi ngờ khó tin nên Đức Phật thường nêu lên và ý là khiến nghe nhận.

- Giải thích, có bốn: Gây ra nhân ác.

Gặp được các duyên. Được vãng sinh.

Các lợi ích sau khi vãng sinh.

- Thứ nhất: Gây ra nhân ác, có hai: Thứ nhất: Nói nghiệp hiện tại. Thứ hai: Chỉ bày quả báo vị lai.

+ Thứ nhất: Nói nghiệp hiện tại.

Nếu có chúng sinh nào gây ra các nghiệp bất thiện, năm tội nghịch, mười điều ác, làm đủ các việc chẳng lành.

Năm tội nghịch là: Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng và làm thân Phật ra máu, phụ trái ân đức vì thế gọi là năm tội nghịch. Quả báo đời sau liền vào địa ngục Vô gián, gọi là năm nghiệp vô gián.

Mười điều ác tức là thân có ba, miệng có bốn và ý có ba. Tất cả nghiệp ác đều gom nhiếp trong mười nghiệp ác. Đã làm những nghiệp ác nặng nhất thì còn những việc ác khác không có việc gì là không làm vì thế nói là làm đủ các việc chẳng lành.

Hỏi: Kinh Vô Lượng Thọ chép: dù chỉ mười niệm mà không sinh về nước ta thì ta không thành Chánh giác, chỉ trừ năm tội nghịch và chê bai chánh pháp. Còn kinh này cho rằng người gây ra năm tội nghịch cũng được vãng sinh. Ở đây giải thích nếu y theo nguyện lực của Đức Phật A-di-đà thì đâu chỉ che chở những người gây năm tội nghịch!

Phương tiện mà nói theo căn cơ nên lẽ ra thì trái, nhưng ý thú thì hợp kinh ấy nói về sự nhiệm mầu đặc biệt của cõi nước Cực lạc, để khuyến tiến đối với những người lành. Đó là nói công đức tịnh nghiệp cao sâu, không trừ bỏ những người cực ác và chỉ khiến thọ trì danh hiệu, hồi hướng phát nguyện thì chẳng có ai không được diệt tội để vãng sinh.

Vì thế kinh Quán Phật tam-muội chép: "Bốn bộ đệ tử chê bai kinh Phương Đẳng, gây ra năm tội nghịch, phạm bốn trọng cấm... Những hạng người như thế nếu dốc lòng trong một ngày một đêm buộc niệm để quán một tướng tốt và vẻ đẹp của Phật thì các tội chướng ác tất cả đều được tiêu diệt." Đó là dẫn chứng kia để chứng minh ở đây tội được tiêu diệt sao còn nghi ngờ?

+ Thứ hai: Nói về quả báo vị lai.

Người ngu như thế, vì các nghiệp ác nên phải đọa vào đường ác, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng.

Bất cứ phạm một tội nghịch nào đều ở trong địa ngục Vô Gián một kiếp, huống chi phạm nhiều, vì thế phải trải qua nhiều kiếp.

-Thứ hai: Gặp được các duyên, có hai:

Thứ nhất: Thiện tri thức mở bày dẫn dắt. Thứ hai: Cảnh đẹp hiện tiền.

+ Thứ nhất: Thiện tri thức mở bày dẫn dắt, có bốn: Nói pháp mầu.

Vì bệnh khổ nên không thể. Dạy tu mười niệm.

Số lượng tội diệt.

* Thứ nhất: Nói pháp mầu.

Người ngu như thế, đến khi sắp qua đời nhờ gặp được thiện tri thức, dùng nhiều cách an ủi, giảng nói những pháp mầu nhiệm cho nghe, dạy cho người ấy niệm Phật.

Nói pháp mầu là khen ngợi Tịnh độ, dạy người ấy niệm Phật là quán tưởng Phật.

* Thứ hai: Vì bệnh khổ nên không thể.

Vì bị các thứ khổ ép ngặt nên không rảnh để niệm Phật. Rảnh là không bận việc gì.

* Thứ ba: Dạy tu mười niệm.

Bạn lành lại bảo: Nếu người không niệm được Đức Phật kia thì nên xưng: "Vô Lượng Thọ Phật". Dốc lòng như thế, khiến cho âm thanh chẳng dứt, đầy đủ mười niệm xưng "Nam Mô A-di-đà Phật".

Tâm quán là niệm, khẩn tụng là xưng. Mười niệm là mười câu.

* Thứ tư: Số lượng tội diệt nhờ xưng danh hiệu Phật nên trong mỗi niệm dứt trừ được các tội sinh tử trong tám mươi ức kiếp.

Mỗi niệm tức là nói số câu Phật.

+ Thứ hai: Cảnh đẹp hiện tiền.

Đến khi sắp qua đời, người ấy thấy hoa sen vàng giống như vầng mặt trời hiện ra trước người ấy.

Hoa sen như vầng mặt trời là thí dụ mức độ sáng chiếu của hoa sen.

Nếu theo luận Câu-xá thì đường kính của mặt trời là năm mươi mốt do-tuần, nhưng ở đây chỉ y cứ từ đất ngửa mặt để nhìn, nên sự lớn nhỏ chưa chắc đã giống như trong luận.

- Thứ ba: Được vãng sinh.

Trong khoảng một niệm liền được sinh về thế giới Cực lạc.

- Thứ tư: Các lợi ích sau khi vãng sinh, có ba: Hoa nở.

Hai vị Thánh nói pháp. Nghe pháp được lợi ích.

+ Thứ nhất: Hoa nở.

Ở trong hoa sen như thế, đủ mười hai đại kiếp hoa sen mới nở.

+ Thứ hai: Hai vị Thánh nói pháp.

Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi nói rộng về thật tướng các pháp và pháp dứt trừ tội chướng cho người ấy nghe.

Tội từ duyên sinh không có tự tánh. Và vì các pháp đều như vậy nên gọi là thật tướng. Phổ Hiền Hành pháp chép: Tất cả biển nghiệp chướng đều từ vọng tưởng sinh ra. Nếu người muốn sám hối thì ngồi ngay ngắn để niệm thật tướng.

+ Thứ ba: Nghe pháp được lợi ích.

Người ấy nghe rồi, liền sinh tâm vui mừng phát tâm Bồ-đề Vô thượng.

- Tổng kết.

Đó gọi là bậc Hạ phẩm hạ sinh. Đó gọi là phép quán tưởng vãng sinh bậc hạ, gọi là phép quán thứ mười sáu.

- Nói về lợi ích, có hai:

Mọi người thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của cõi nước kia.

Tùy theo căn cơ mà được lợi ích.

- Thứ nhất: Mọi người thấy y báo và chánh báo trang nghiêm của cõi nước kia.

Khi Đức Thế tôn nói lời ấy rồi, bà Vi-đề-hy và năm trăm thị nữ nhờ nghe những lời Phật dạy, nên liền thấy được tướng rộng lớn của thế giới Cực lạc, được thấy thân của Đức Phật A-di-đà và hai vị Bồ-tát.

Ở trước thì chỉ có bà Vi-đề-hy thấy. Còn ở đây thì mọi người đều thấy.

- Thứ hai: Tùy theo căn cơ mà được lợi ích, có ba: Phu nhân chứng nhập.

Năm trăm thị nữ phát tâm và được thọ ký. Các vị trời phát tâm.

+ Thứ nhất: Phu nhân chứng nhập.

Sinh tâm vui mừng, khen ngợi là việc chưa hề có.

Phu nhân hoát nhiên đại ngộ, liền chứng Vô sinh pháp nhẫn. Hoát nhiên đại ngộ là phá được vô minh. Liền chứng Vô sinh pháp nhẫn là chứng pháp tánh.

+ Thứ hai: Năm trăm thị nữ phát tâm và được thọ ký. Năm trăm thị nữ đều phát tâm A-nậu-đà-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nguyện sinh về cõi nước kia. Đức Thế tôn thọ ký cho tất cả đều được vãng sinh và khi vãng sinh về cõi nước Cực lạc rồi đều chứng được tam-muội hiện tiền của các Đức Phật.

Hỏi: Luận Vãng Sinh nói người nữ và hạng người căn thiếu đều không được vãng sinh thì ở đây sao lại nói trái lại?

Đáp: Chẳng phải nói là người nữ và hạng người căn thiếu của cõi nước này không được vãng sinh mà nói chung những người được sinh về cõi nước kia không còn thọ quả báo làm người nữ và căn thiếu. Vì Đức Phật Adi-đà phát nguyện: Nếu có người nữ chưa được sinh về cõi nước ta, lại thọ thân tướng người nữ thì ta không thành Chánh giác.

Lại chép: Trời, người trong nước không có đủ ba mươi hai tướng đại nhân thì ta không thành Chánh giác. Đó là biết cõi nước kia không có người nữ và hạng người căn thiếu. Còn lại bao nhiêu có nói trong Luận Thập Nghi.

+ Thứ ba: Các vị trời phát tâm.

Vô lượng các vị trời đều phát tâm đạo Vô thượng.

Đức Phật ở tại cung sâu nói các phép quán này, ngài A-nan và ngài Mục-kiền-liên đứng hầu hai bên. Chỉ có phu nhân, các thị nữ và các vị trời làm thính chúng, còn những người khác không được nghe thì sau khi trở về núi Kỳ-xà-quật, ngài A-nan thuật lại cho đại chúng Bồ-tát cùng nghe.

-Thứ ba: Phần lưu thông, có hai:

Đến "Đều phát tâm rất vui mừng". Tức là ở tại cung sâu liền từ chỗ ngồi dặn dò để truyền bá.

Từ "Bấy giờ, Đức Thế tôn" v.v... trở xuống là lúc trở về núi Kỳ-xà-quật chuyển nói để truyền bá. Từ đó chúng hai chỗ nghe rồi tin nhận, xoay vần truyền trao ghi chép truyền bá không cùng cực. a. Thứ nhất: Ở tại cung sâu dặn dò, có bốn: Đặt tên gọi và dạy thọ trì.

Khuyên tu sẽ được lợi ích. Dặn dò ghi nhớ và hành trì.

Mọi người nghe rồi sinh tâm rất vui mừng.

- Thứ nhất: Đặt tên gọi và dạy thọ trì, có hai:

Thứ nhất: Hỏi cả hai tên gọi và phương pháp thọ trì. Thứ hai: Trả lời riêng.

+ Thứ nhất: Hỏi cả hai tên gọi và phương pháp thọ trì.

Khi ấy, ngài A-nan liền đứng dậy khỏi chỗ ngồi đến trước thưa hỏi Phật rằng: Kinh này tên gọi là gì? Và những điều cần yếu của phép quán này phải thọ trì thế nào?

- Hỏi tên gọi của kinh.

- Hỏi phương pháp thọ trì.

Vì cho nên nói là hỏi cả hai.

+ Thứ hai: Trả lời riêng, có hai: Chỉ bày tên gọi.

Dạy thọ trì.

* Thứ nhất: Chỉ bày tên gọi, có hai: Gọi theo năng quán và sở quán. Gọi theo công dụng.

- Thứ nhất: Gọi theo năng quán và sở quán.

Đức Phật bảo A-nan:

Kinh này tên là: Quán Cực Lạc Cõi nước, Vô Lượng Thọ Phật Quán Thế Âm Bồ-tát Đại Thế Chí Bồ-tát.

Bao gồm chung y báo và chánh báo, chỉ thiếu đồ chúng và đầu đề để tránh sự phiền phức nên chỉ trích năm chữ bao gồm gom nhiếp cũng đầy đủ.

- Thứ hai: là gọi theo công dụng.

Cũng có tên là: Tịnh Trừ Nghiệp Chướng Sinh Chư Phật Tiền.

Diệt tội để được vãng sinh đó là lực dụng của kinh.

* Thứ hai: Dạy thọ trì.

Ông nên thọ trì như thế chớ để quên mất.

Luận Đại Trí Độ chép: Vì năng lực của lòng tin nên gọi là thọ, vì năng lực của niệm nên gọi là trì, đã thọ lại còn trì thì sẽ không quên mất.

-Thứ hai: Khuyên tu sẽ được lợi ích, có năm: Sự tốt đẹp về thấy cảnh.

Sự tốt đẹp về diệt tội. Sự tốt đẹp về tự thân. Sự tốt đẹp về bạn lành. Sự tốt đẹp về quả báo.

+ Thứ nhất: Sự tốt đẹp về thấy cảnh:

Người tu hành pháp tam-muội đó thì hiện đời được thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ và hai vị Đại sĩ.

Phẩm Thế Chí Viên Thông chép: Nếu tâm chúng sinh nhớ đến Phật, nghĩ đến Phật, thì hiện đời và đời sau chắc chắn sẽ thấy Phật.

+ Thứ hai: Sự tốt đẹp về diệt tội.

Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào chỉ nghe danh hiệu Phật và hai vị Bồ-tát thì sẽ trừ được các tội sinh tử trong vô lượng kiếp, huống chi là nhớ nghĩ.

Nêu việc nghe, huống chi là niệm thì sự tốt đẹp ấy quý giá biết dường nào.

+ Thứ ba: Sự tốt đẹp về tự thân.

Nếu có người niệm Phật, nên biết người ấy là hoa Phân-đà-lợi trong loài người.

Phân-đà-lợi, Hán dịch là Bạch liên hoa (hoa sen trắng).

* Thứ nhất: Tốt đẹp và ít có ở thế gian.

Thứ hai: Vì tánh chất trong sạch không bị mùi bùn nên dùng để so sánh.

+ Thứ tư: Sự tốt đẹp về bạn lành.

Bồ-tát Quán Thế Âm Bồ-tát Đại Thế Chí sẽ là bạn tốt của người ấy.

Các vị Bổ xứ là bạn lành không nên tự khinh mình.

+ Thứ năm: Quả báo tốt đẹp.

Người ấy sẽ ngồi dưới đạo tràng, sinh vào nhà của các Đức Phật. Ngồi đạo tràng là nói thành Phật, và vì đó là chỗ đắc đạo nên gọi là đạo tràng. Tất cả các Đức Phật đều ở dưới gốc cây Bồ-đề, ngồi kết già dứt hoặc, phá ma để thành đạo, vì pháp thân là một thể mà các Đức Phật cùng chứng nên đó là nhà của các Đức Phật. Chương Thế Chí chép: Cách Phật không xa, kinh A-di-đà chép: Đều không còn lui sụt (trên đường tiến đến) quả vị Anậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề đều đồng một ý ở đây.

* Thứ ba: Dặn dò ghi nhớ và hành trì.

Phật bảo A-nan. Ông khéo nhớ giữ lời này, thọ trì lời này tức là thọ trì danh hiệu của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Nghĩa là đối với những lời Đức Phật dạy khiến thọ trì danh hiệu, công đức lớn lao của việc trì kinh cũng như vậy.

* Thứ tư: Mọi người nghe rồi sinh tâm vui mừng.

Khi Đức Phật nói lời ấy rồi. Tôn giả Mục-kiền-liên, tôn giả A-nan và bà Vi-đề-hy v.v... nghe lời Phật dạy tất cả đều vô cùng vui mừng.

Vui mừng là vì:

Thứ nhất: Việc chưa hề nghe mà nay được nghe. Thứ hai: Sẽ được vãng sinh về cõi nước thanh tịnh.

Thứ ba: Vì sẽ xoay vần mở bày dẫn dắt làm lợi ích cho chúng sinh không cùng tận, vì đầy đủ các nghĩa ấy nên lòng dạ rất vui mừng. b. Thứ hai: Chuyển nói để truyền bá, có ba: Thứ nhất: Đức Phật trở về chỗ cũ. Thứ hai: Ngài A-nan chuyển nói.

Thứ ba: Mọi người nghe rồi lễ bái và lui.

- Thứ nhất: Đức Phật trở về chỗ cũ.

Bấy giờ, Đức Thế tôn bước lên hư không, trở về núi Kỳ-xà-quật. Y theo Đức Phật nói kinh ở cung vua thời gian dài lâu, hoặc là đại chúng không tan mà đợi Đức Phật trở về, hoặc lại nhóm họp đều không thể lường được.

- Thứ hai: Ngài A-nan chuyển nói.

Lúc về đến nơi, Ngài A-nan nói rộng những việc như trên cho đại chúng nghe.

Nhiều lần Đức Phật dặn bảo ghi nhớ và hành trí ý nghĩa là như thế.

- Thứ ba: Đại chúng làm lễ và lui về.

Vô lượng các vị Trời, Rồng, Dạ-xoa nghe lời Đức Phật nói đều rất vui mừng, đảnh lễ Đức Phật rồi lui.

Y theo chỗ xếp chúng ở trước, thì văn đã lược bớt trời rồng. Ngài A-nan đích thân nghe rồi thay thế truyền lại những lời Phật dạy vì thế nói là nghe Đức Phật nói.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Kinh Sớ][Mục lục tổng quát]