TẠNG LUẬN
SỐ 1763 - ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH TẬP GIẢI
Sưu Tập trình bày: Pháp sư.Bảo Lượng-Đời Lương.
Phẩm 22: BỒ-TÁT ĐỨC VƯƠNG, (Phần 9)
Phẩm 24: BỒ-TÁT CA-DIẾP (Phần 1)
Phẩm 25: KIỀU-TRẦN-NHƯ (Phần Đầu)
Phẩm 25: KIỀU-TRẦN-NHƯ, (Phần cuối)
- Giải thích: Niệm pháp vô tướng.
- Niệm tăng là ruộng phước.
- Niệm giới là cầu rường.
- Niệm thí là nhân Bồ-đề.
- Niệm thiên là Đệ nhất nghĩa thiên.
- Nói về sự khác nhau giữa ba phẩm nhập thai.
- Giải thích ý nghĩa pháp Phật Ca-diếp bảy ngày diệt.
- Nói truyền bá kinh Niết-bàn, thì Phật pháp sẽ không diệt.
- Nói trong cõi đời vẩn đục này, các Thanh văn chấp lấy tướng, mất lý, thì pháp Phật chắc chắn sẽ hoại diệt.
- Nêu ra không được ăn mười thứ thịt và những việc bán dao, rượu, lạc sa...
"Thế nào là Đại Bồ-tát niệm pháp" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát niệm Pháp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng kinh Niết-bàn làm pháp, sáng tu, chiều được lợi. Chiều nay tu, sáng mai được lợi, nên nói "Không có thời gian mà có quả hiện tại. Đối tượng mà pháp nhãn thấy, đến vô vi, vô số, nói là mười một "Không", là pháp không có nhà cửa, cùng cực rốt ráo mầu nhiệm.
Giải thích "Không" để gọi là pháp có công năng đạt đến Niết-bàn. Chẳng phải sắc dứt sắc, nghĩa là nói chân, mà cũng là sắc, nghĩa là nói "Ứng".
Chẳng phải nhân là chẳng làm nhân. Là nhân: Trí là giải thoát làm "Liễu nhân".
"Thế nào là niệm Tăng? Chư Phật, Thánh Tăng" cho đến "Thường không thay đổi, đó gọi là Niệm Tăng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chư Phật, Thánh Tăng," cho đến "Tu hành pháp chánh trực", là giải thích như pháp trụ. Thầy của Phật là pháp, vì pháp là thường nên Như lai là thường. Tăng có ba nghĩa, ở đây giải thích nghĩa hòa hợp và nghĩa đệ tử tăng. "Không thể quán thấy" cho đến "Nghĩa không thể suy nghĩ bàn luận", là tăng thường. "Là ruộng phước tốt của tất cả chúng sinh", là giải thích nghĩa ruộng phước tăng."
"Thế nào là niệm giới? Bồ-tát suy nghĩ" cho đến "Đó gọi là Đại Bồ-tát niệm giới."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có giới không phá, cho đến "Chư Phật đều khen ngợi", nói là tịnh giới thể. "Là Đại Phương đẳng" cho đến "Cờ tốt đẹp báu mầu", là giới tốt đẹp, có công năng sanh ra muôn pháp, thí như đất là qua sông sinh tử, dụ cho thuyền. Trang nghiêm chúng sinh, dụ cho chuỗi anh lạc. Khả năng gìn giữ tăng chúng, dụ cho như dòng họ lớn. Dứt trừ phiền não, dụ cho nước tro (xà-phòng). Ngăn Che các ngọn gió lốc dữ dội, dụ cho nhà cửa. Cắt đứt các kiết phược, dụ cho dao, gươm. Chẳng có ưa thích nào không đầy đủ, dụ cho ngọc báu. Chỗ hướng đến tự tại, dụ cho chân đi trên con đường Niết-bàn, dụ cho mắt thấy. Có công năng sinh ra các điều lành, dụ cho cha mẹ. Ngăn che sức nóng bức của phiền não, dụ cho che mát. Trèo lên núi Niết-bàn, dụ cho thềm bực. Dẹp tan bọn giặc ma, dụ cho cờ phướn.
"Thế nào là niệm Thí? Đại Bồ-tát" cho đến "Nói rộng hạnh Bồ-tát như trong kinh Tạp Hoa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã khen ngợi từ đầu đến cuối", nói là thành tựu công đức bên ngoài. Từ "Thí cho chúng sinh thức ăn, cho nên thí mạng gọi là công đức bên trong."
"Thế nào là niệm Thiên? Có cõi trời bốn Thiên vương" cho đến "Là nơi Bồ-tát đã thấy, biết."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xua tan nỗi sợ hãi của ba đường. Tín, Giới, Thí, Văn Tuệ là nhân của cõi trời trong ba cõi. Nay ta có đủ cả. Không có khổ địa ngục v.v... Trời thế gian vô thường, hồi hướng công đức này để cầu Đệ nhất nghĩa thiên, lìa hẳn sinh tử, đâu có sợ sinh tử?"
"Này người thiện nam! Nếu đệ tử ta" cho đến "Rất kỳ lạ đặc biệt, không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói tu sửa kinh là đức, nay kết kinh không thể suy nghĩa bàn luận."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Từ phẩm Phạm Hạnh đến đây nói về bốn tâm vô lượng: Từ, bi, hỷ, xả, mà nói riêng về đức xả có tám đoạn, với câu văn sinh nhau, nghĩa chúng đã hoàn tất, nên nay khen ngợi kinh, có ba lượt:
1. Nói về công đức thọ trì, biện chép thì phần lớn không so sánh với kinh khác.
2. Nhờ người để khen ngợi kinh. Nói sở dĩ được tám việc không thể suy nghĩa bàn luận là nhờ năng lực của kinh.
3. Gởi gắm vào sự hưng thịnh, diệt vong để khen ngợi kinh. Nói kinh Niết-bàn này còn ở đời thì chánh pháp hưng thịnh. Nếu kinh này mai một, thì chánh pháp sẽ lu mờ. Đã thịnh, suy do kinh này thì phải biết vượt vượt hơn các kinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đây trở xuống, là văn thứ ba trong phẩm Phạm Hạnh: Khen ngợi lưu thông kinh, y theo phần khen ngợi kinh này có ba phần:
1. So sánh với các kinh trước Pháp Hoa. Nay, kinh Niết-bàn vì đã nói đầy đủ sáu hạnh, cho nên tốt đẹp. Tuy nhiên kinh xưa chỉ nói ba hạnh, cho nên không bằng.
2. Từ câu "Lại nói Bồ-tát không thể suy nghĩa bàn luận"...trở xuống, y theo công năng lợi ích cho người, để khen ngợi. Người này không từ người nghe pháp. Ở trong đời vẩn đục, chỉ thấy kinh này, tự mình dựa vào sáu hạnh mà tu thân, sẽ được lợi ích. Cũng do năng lực kinh rất lớn, nên được như vậy!"
3. Từ "Pháp Phật ở trên, cho đến lúc nào mới diệt" trở xuống, đều y theo sự thịnh, suy để khen ngợi. Vì sao? Vì từ kinh Pháp Hoa về trước, ứng với căn tánh của chúng sinh, tiến dần đến hạnh của họ, vì điều phục bốn điên đảo, căn cơ cũng thành tựu, bèn bỏ dở giáo này. Tuy nhiên, kinh Đại Niết-bàn là lời nói rốt ráo không dư thừa. Chư Phật trong ba đời đều giảng nói chung lý này, nên không có sự hưng thịnh, bỏ dở"
Pháp sư Trí Tú nói: "Đoạn thứ tư trong phẩm dưới đây là khen ngợi kinh. Hạnh không cô lập, lập thì phải nhờ ở kinh, nên đã giải thích về thể của hạnh xong. Kế là phần khen ngợi kinh, gồm có ba lượt:
1. Y theo sự thọ trì.
2. Y theo sự thành tựu không nghĩ bàn.
3. Y cứ pháp hưng thịnh diệt hoại. Đây là phần thứ nhất, nhờ ở chỗ thọ trì hơn kém, để phân biệt sự cao thấp của năng lực kinh."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!...cho đến Kinh Đại Bát-niết-bàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét thấy: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn nêu lên câu hỏi thì trước phải nhận hiểu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Từ đây trở xuống là lượt thứ hai, nương vào người để khen ngợi. Do năng lực kinh, nên được tám việc không nghĩ bàn."
"Bạch Đức Thế tôn! Vì sao lại nói Bồ-tát...cho đến là "Nhân của Vô thượng Bồ-đề."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ nhất là nói Bồtát được kinh này, không có thầy, tự giác ngộ, y theo lý sáu hạnh mà tu nhân để chứng được quả Phật."
"Này người thiện nam! Như Bồ-tát này lúc chưa thấy Vô thượng Bồ-đề" cho đến "Do đó, nên Bồ-tát không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghe kinh phát tâm, không có người dạy, chưa nhận thấy lợi ích của Bồ-đề, mà không tiếc thân mạng, đây là việc thứ nhất."
"Lại nữa, Bồ-tát" cho đến "Do đó, còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có hai ví dụ nói lên đâu có khổ nào, không nhàm chán là việc thứ hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau khi thấy kinh này, Bồtát tự sẽ tu hành, vì chúng sinh mà chịu khổ, cho đến ba đường cũng không nhàm chán."
"Này người thiện nam! Vô lượng chúng sinh phát tâm Bồ-đề" cho đến "Thế nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai vị Bồ-tát trên chưa bước lên Sơ Địa, mà tâm rất vững vàng, là nhờ năng lực kinh, nên được như vậy. Kết lại hai việc nói trên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ ba, nói chúng sinh phát tâm dù nhiều, nhưng thành tựu thì ít.
Người này nhờ thấy kinh nên được rốt ráo không lui sụt."
"Này người thiện nam! Nếu có người nói rằng: "Tôi có thể lội qua" cho đến "Thế nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì phát tâm làm thí dụ. Sức nhỏ mà việc hiện tại lớn, quả của tâm kia, là việc thứ ba."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ tư, người đời có khả năng lội qua biển sinh tử. Người này có thể lội qua, để chứng lấy quả Phật."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Do đó, nên gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù là thuyết điên đảo, nhưng không nhiễm sinh tử, là việc thứ tư."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ năm. Người này vì chúng sinh mà nói thường..., chẳng phải luống dối."
"Này người thiện nam! Người có ba hạng: Thượng, trung, hạ" cho đến "Do đó nên còn gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu thọ sinh điên đảo, hạ thì khởi sân, thượng thì sinh tham, mà với sáu niệm, Bồ-tát đồng là phàm phu thọ sinh, nhưng bất sinh tham, sân, là việc thứ năm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Việc thứ sáu. Người này nhờ năng lực kinh, nên có thể tu định, học tuệ, tự biết những việc nhập thai, ra thai."
"Này người thiện nam! Vô thượng Bồ-đề" cho đến "Do đó, lại gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quả Bồ-đề, tâm là nhân. Nhân, quả này đều không thể dùng việc so sánh để nói được. Kinh Niết-bàn nói: "Bồ-tát lại là người không cần thầy mà có khả năng thành Bồ-đề, có khả năng nói cho người nghe, là việc thứ sáu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Việc thứ bảy, chân như, quả Phật là, "Có" mà "Không" là Tướng nhưng con người không thể so sánh, giống nhau nhưng không thể chấp lấy. Ở trong nhân được kinh này, nên yên tâm tu hành, lại còn có thể làm cho người khác được yên tâm, đồng hướng về quả cùng cực."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Không thể suy nghĩa bàn luận, miệng cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lìa, tức mười giới thiện. Bồ-tát không có ngã, không có ngã sở, mà tu tịnh giới, khinh, trọng đều không trái phạm."
"Này người thiện nam! Từ thân xa lìa thân, từ miệng xa lìa miệng" cho đến "Do đó nên gọi là không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sẽ nói là Bồ-tát khéo hiểu về giả danh, trước nói về pháp thật không có dứt kiết. Từ thân thực hành xa lìa. Thân không có tạo tác. Nghiệp khác cũng giống như vậy. Tuệ là thật. Nói thật, có pháp thật, không có dứt kết, không thể làm cho Bồtát xa lìa dị, diệt của chúng sinh. Không bao giờ sinh niệm, cho đến chẳng luống dối, vì khéo hiểu giả pháp, nên nói không luống dối, là việc thứ tám."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ tám, nói Bồ-tát xa lìa mười điều ác, mà không ở tướng lìa. Không thấy một pháp là thân, là nghiệp, là lìa chủ, dùng lý không mà cầu, tức là không thấy ba nghiệp. Lấy duyên giả mà cầu, cũng là "Có". Thật có tuệ này, thì không thể làm cho Bồ-tát xa lìa, nghĩa là nói Bồ-tát không hiện có thật tuệ, tâm hư hội lý, nên biết được từ thân mà lìa thân, cho đến từ tuệ mà xa lìa, chứ chẳng phải thân, chẳng phải miệng. Ba nghiệp đã không, thì mười việc ác sẽ dứt ở đây.
Không có một pháp: Câu trên nói "Duyên" thành giả không, ở đây nói "Không" giả nối tiếp nhau.
Nói không có một pháp: Y theo đạo của thật pháp, thường chia ra tự diệt. Vì trước không đến sau, nên không có tuệ xa lìa. Theo giáo xưa nói: Sau đây là lượt thứ tám. Nói người này nhờ năng lực kinh, nên biết được giả danh, thật pháp. Biết nhân duyên là không thật, dứt được ba nghiệp, chẳng làm việc phi pháp cũng không nghĩ bàn. Vì dứt ba điều ác của thân, nên nói là "Từ thân lìa thân". Vì dứt bốn lỗi lầm của miệng, nên nói "Từ miệng lìa miệng". Vì chủ yếu là được tuệ, nên dứt bỏ ba độc, vì thế nói là "Từ tuệ mà xa lìa, chứ không phải từ thân, từ miệng. Thật có tuệ này, nhưng không thể lìa, là nói trong pháp thật, không có học dụng riêng, trước sinh sau diệt. Đầu tiên không lựa chọn và lúc tuệ sinh thì không có hoặc để dứt, khi hoặc còn lại không có tuệ, phải là nối nhau trong đạo, xưa "Có" mà nay "Không", mới được nói về dụng."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Phật pháp vô thượng sẽ trụ trong thời gian bao lâu?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì muốn nghe kinh nên trước hết phải hiểu. Sẽ trụ trong thời gian bao lâu, nghĩa là hỏi tất cả pháp Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là đoạn thứ ba, y theo thực trạng thịnh suy để khen ngợi, nên xét trước, nêu câu hỏi sau."
Pháp sư Trí Tú nói: "Y theo lời khen ngợi thứ ba này có bảy lượt, để nói về sự thịnh suy của chánh pháp."
"Này người thiện nam! Như kinh Đại Niết-bàn" cho đến "Phải biết rằng, lúc bấy giờ Phật pháp chưa diệt." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một câu kệ nói Phật là thường trụ, là năm hạnh của kinh này, văn khen ngợi đầy đủ, là gốc của các kinh. Người giữ được gốc thì cành nhánh chắc chắn sẽ sum sê tươi tốt, pháp Phật chưa diệt".
"Này người thiện nam! Nếu kinh Đại Niết-bàn" cho đến "Nên biết rằng Phật pháp sắp diệt, không còn bao lâu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù kinh được truyền bá khắp nơi, nhưng không thể kính tin thì kinh pháp sắp diệt không còn lâu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu truyền bá kinh này, thì đạo Phật sẽ không bỏ phế. Nếu bỏ mà theo điều ác, thì không bao lâu sẽ diệt!"
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ nhất nói vì kinh này hiện đang còn thì pháp Phật không diệt. Nên biết rằng, về lý gồm nhiếp các kinh điển!"
"Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Là tạng bí mật của các Như lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Lý và Danh, cú là kinh, có ba thứ:
1. Kinh Danh tự.
2. Kinh Chương cú.
3. Kinh giấy mực.
Người ở thời kỳ đó đều ghi nhận gượng gạo, không cần giấy mực, cho nên kinh giấy mực diệt.
Có kinh này thì không, nghĩa là nếu có kinh này, thì người nên cung kính, kinh pháp sẽ không diệt. Nếu không thì chẳng phải cùng có, không nên nói kinh điển này là tạng bí mật của Chư Phật.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y theo ngôn ngữ, vì đều là phụ nhau, nên nêu lên câu hỏi:
Dù cho hai lần triển khai, nhưng mục đích là muốn nghe lý bất diệt, chính là lý vì khen ngợi kinh. Nếu giáo pháp thường tồn tại, tất nhiên không nên nói diệt, bởi diệt tận thì không nên thường?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước là một phen xem xét, là kết thúc hai câu hỏi: "Nếu pháp của Phật Ca-diếp có kinh thường này thì không thể nói là "Bảy ngày đã diệt"? Nếu không có sự kiện đó thì không được nói rằng" cho đến "Đó là thời kỳ Phật pháp bất diệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kinh Niết-bàn đã khởi lên hai Pháp đều không diệt."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dùng chín lớp pháp đối lập nhau để nói về pháp thường không diệt, vô thường bất diệt."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ ba, sẽ đáp, nên trước nêu các pháp, nói lược về sự thịnh, suy là ở văn, không ở lý."
"Này người thiện nam! Vừa rồi ông đã hỏi Phật Cadiếp" cho đến "Vì đã không nói nên gọi là bí tạng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tất cả Chư Phật đều có hai cõi nước tịnh, uế. Phật ở cõi nước vẩn đục, Khai thị giáo ba thừa, trước cạn, sau sâu, vì dứt trừ dần các điều ác, nên gọi là Tạng."
Nói vào thời kỳ Phật Ca-diếp, há không có ư? Sở dĩ giáo pháp không truyền thừa là vì căn tánh con người vào thời kỳ ấy, rất dễ tỏ ngộ, vì phiền não ngày càng giảm ít, nên không cần ngôn giáo, tự họ có thể suy gẫm sâu sắc về chỉ thú u huyền. Do đó, không thể nói là do con người không truyền tải, nên làm cho lý thường cũng mất. Chúng sinh đời nay, vì nhiều phiền não nên phải giảng nói kinh này. Nếu có chúng sinh đối với chân ngã, chấp là không có ngã, thì ngoài người đó ra, còn có con người như thế, "Hoặc" của họ ngày càng chồng chất sâu dày, vì thế nên cần phải có giáo thường để dạy bảo tâm của chúng sinh!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đâu cần hỏi "Có" hay "Không" kinh này, chỉ cần mười một bộ không nói thì bị hoại diệt!"
"Như bảy thứ châu báu của con người không đem ra ngoài để dùng" cho đến "Thời Phật Ca-diếp có kinh này không?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì để tiêu diệt điều ác nặng nên kinh được nói ra. Nếu những việc xấu ác không dứt thì kinh gọi là ẩn. Vì kinh ẩn giấu, nên tất cả pháp đều hoại diệt!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: Giải thích lý do không nói, chẳng hạn như người ngoài nghe nói kho chứa bảy thứ châu báu, phải đủ hai nhân duyên (điều kiện) mới đem ra ngoài để dùng:
1. Vì lúa gạo đắt đỏ.
2. Bị giặc đến xâm chiếm, dường giao thông tắc nghẽn.
3. Gặp phải vua ác, buộc phải chuộc mạng.
4. Dự phòng của tài khi thời vụ thất thu, sẽ đem ra dùng.
Nói về ý Phật cũng giống như vậy. Như nói về bốn thời giáo. Về sau, chứng bệnh chấp đoạn, thường của chúng sinh phát ra, nói kinh Niết-bàn cho nghe, sau cho chúng sinh đều được vị pháp để tự no đủ, như vì lúa gạo khan hiếm, mắc mỏ, mà phải ăn. Đã sinh phiền não đối với sự nghiệp hành đạo, bèn vì họ nói giáo thường, như bọn cướp đến chỗ của cải lấy đem đi rồi đòi chuộc. Mạng trí tuệ của chúng sinh không nối tiếp, như gặp phải vua ác, buộc phải chuộc mạng.
Đã khởi lên nghiệp Kiết, vời lấy tám khổ sinh tử. Nay nói lý cùng cực, làm cho tâm giải của chúng sinh được phát, dứt trừ sinh tử. Chính vì những lý do đó, nên khi chúng sinh khởi lên các chứng bệnh, Đức Như lai vì muốn dứt trừ những việc ác đó, nên giảng nói lý này, để dẫn dắt chúng sinh.
Đã biểu dương sáng tỏ nghĩa bí tạng như thế, tức là Đức Phật đã quở trách câu hỏi trước kia của ngài Cadiếp. Nhưng về sau chính là đáp, nói về pháp của Đức Phật Ca-diếp ở vào thời kỳ đó, sau khi trụ bảy ngày mới diệt. Vì sao? Vì đây là chúng sinh ở tịnh độ, thần căn nhạy bén, trí tuệ thấm nhuần, nên chỉ trong bảy ngày thọ trì đều được. Qua thời gian này và mãi về sau, không còn cần đến âm thanh, chương cú, thành ra nói là diệt mất, thật ra về lý cũng thường hằng mà không hủy diệt. Nay, ở thế giới này, sự ngu si không có trí, nhơ nhuốc, vẩn đục thường ngự trị ở trong lòng người, vì không thể hiện ở thường, cho nên phải giảng nói rõ ràng, phân biệt lý vốn thường trụ, há chấp nhận diệt vong ư?"
"Này người thiện nam! Vào thời Phật Ca-diếp, chúng sinh" cho đến "Nên dù có kinh này, mà vẫn không cần giảng nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cõi nước thời kỳ đó rất trang nghiêm, thanh tịnh, không có căn tánh chậm lụt, nên không cần ba thứ kinh".
"Này người thiện nam! Đời nay, chúng sinh nhiều phiền não" cho đến "Vì sao thường không thay đổi?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về cõi nước này ô, uế, xấu ác, vì chúng sinh ưa quên, nên phải có ba thứ kinh."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đoạn thứ tư, chính là đáp câu hỏi. Nói về pháp Phật Ca-diếp, về lý thì thường bất diệt, vì căn cơ người học rất nhạy bén nên không cần nói năng. Do ngôn giáo không hưng thịnh, nên nói là diệt."
"Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh đối với chân ngã mà chấp là không có ngã" cho đến "Không thể nói là pháp của Như lai diệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở Trên nói có nhiều phiền não, ở đây nói tướng mạo phiền não."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đối với các câu chuộc mạng... trong dụ cho bảy châu báu ở trước. Nếu bệnh đoạn, thường của chúng sinh nổi dậy, thì nói sáu hạnh, sẽ có công năng yên định tâm. Về lý này thì tuệ mạng sẽ được thêm lớn, chính là dẫn chứng sáu việc như tài giỏi xuất chúng... làm thệ nguyện."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ năm, nói về các thời kỳ cần nói." "Này người thiện nam! Nếu Phật mới ra đời, đã chứng được Vô thượng Bồ-đề" cho đến "nên biết rằng chánh pháp này vẫn ở lâu trên đời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về lúc kinh này ẩn thì kinh khác cũng diệt. Người gây ra pháp ác, thì pháp ác khởi lẫn nhau, ác khởi lên thì kinh Niết-bàn ẩn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói rộng về tướng pháp Phật diệt, bất diệt gồm có mười hai câu, hợp thành sáu cặp phải làm cho đạo, tục cần lẫn nhau, mới mong mở mang chánh pháp, được mất, thành công, thất bại đều bày tỏ với nhau, cùng biện bạch về quan điểm hơn kém nhau."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ sáu, là nói rộng về tướng diệt, bất diệt.
"Này người thiện nam! Lúc pháp của ta tiêu mất" cho đến "đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng, chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Như trên đã nói pháp của Chư Phật có thịnh vượng, suy vi, ở đây nói điều ác thứ sáu trong pháp của Đức Thích-ca. Lạc-sa, là có ra từ trong hoa Ba-la-xa. Khi sâu tuôn ra lúc nhúc, có thể dùng để dứt trừ. Có mười hai muôn các Đại Bồ-tát đến đốt tất cả kinh điển, đủ chứng tỏ kinh Niết-bàn không tiêu mất.
Nói thẳng chỉ là văn tự, giấy mực tiêu tan mất mà thôi!" Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ bảy nói về hình tướng thịnh suy của pháp Phật Thích-ca."
- Việc vua A-xà-thế và sáu vị quan nói về tà kiến.
- Việc Kỳ-đà an ủi vua A-xà-thế.
"Bấy giờ, vua A-xà-thế trong thành Vương xá," cho đến "Vua cha vô tội mà bị nghịch hại một cách ngang trái."
Xét: Pháp Sư Tăng Lượng nói: "Xếp vào cuối phẩm là có bốn ý, chứng tỏ kinh có nhiều nghĩa:
1. Chứng minh lòng từ bình đẳng với oán thân.
2. Chứng minh lòng từ có lợi ích.
3. Nhổ gốc năm tội nghịch sâu nặng.
4. Nếu tin nhân quả thì sinh tâm rất hổ thẹn, phát lộ sám hối. Như vua A-xà-thế thì có thể nhổ gốc tội, nếu không thế thì không thể cứu giúp. Ở đây trước nói về duyên khởi gây ra tội. Trong đó có mười điều ác, không thấy vị lai. Người của đảng hung ác bên ngoài bèn sinh khởi tội nghịch sâu nặng. Ngài Đàm Tế nói có sáu ý
1. Nói lòng từ có lợi ích.
2. Nói oán thân bình đẳng.
3. Nói bên ngoài làm thanh tịnh chúng sinh.
4. Nói có công năng dứt trừ.
5. Nói về hối quá.
6. Nói nên gần gũi bạn lành.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây có hai ý:
1. Vẫn là khen ngợi kinh.
2. Chứng minh thành tựu Phạm hạnh có lợi ích." Kính Di chép rằng: Có năm ý:
1. Khen ngợi kinh.
2. Các nội quan khuyên đến chỗ Phật.
3. Trong không khuyến cáo tùy theo Kỳ-bà.
4. Lòng từ của Phật không nghiêng lệch.
5. Nói về trừ tội.
Lại có cách giải thích khác:
1. Các ngoài quan khuyên theo tà sư.
2. Chứng minh Phạm hạnh.
3. Chỉ bày tâm từ có năng lực sửa lỗi.
4. Chỉ bày có tri thức chân thật.
5. Nói trong phụ giáo ấy là Thanh văn.
Dưới đây có năm đoạn: Các ngoài quan khuyên.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là phần thứ tư trong đoạn lớn của phẩm Phạm Hạnh chứng minh lực dụng của kinh, có công năng dứt trừ tội nặng, gồm năm ý:
1. Trên đây tuy nói kinh có năng lực lớn, dứt trừ tội nặng, nhưng chưa thấy việc ấy. Nay nêu ra việc vua Axà-thế gần gũi người ấy, nhờ năng lực của kinh nên tội được trừ.
2. Nói bốn tâm vô lượng là lợi ích chân thật. Nếu không ngoài tướng ấy thì lấy gì chứng nghiệm, nay cố dạy tam-muội Nguyệt Thọ, trước chữa trị bệnh ghẻ trên thân vua, gần thì tiêu biểu cho sự chân thật của tâm Từ bi.
3. Sẽ nói trong sự giáo hóa một đời của Như lai, làm Thiện tri thức cho khắp trời, người đầy đủ nhân duyên nhập đạo. Hiển rõ sáu vị giáo chủ ngoại đạo là bạn ác, Kỳ-bà là thiện tri thức.
4. Chỉ dạy người cách sám hối. Nếu có tội mà thực hành như vua A-xà-thế thì sẽ được dứt trừ.
5. Xa chứng lòng Từ bi bình đẳng của ba thừa.
Thứ Đệ Giáo chép: "Thanh văn không có lòng Từ bi cứu giúp chúng sinh, mà vua Tần-bà-sa-la chính là người đã chứng quả Tu-đà-hoàn, có khả năng xả bỏ oán nặng. Trong "Không" có khuyến khích."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đoạn lớn thứ năm trong phẩm chứng minh tâm Từ bi có ý nghĩa lợi ích chân thật. Văn có bốn phần:
Nêu bên trong có nhân ác, bên ngoài tùy theo duyên ác mà làm ác.
a. Kỳ-bà là bạn lành, khuyên A-xà-thế đến chỗ Phật.
b. Vua cha khuyên.
c. Phật tự phát ra ánh sáng để dắt dẫn hóa độ."
"Vì sau khi hại cha thì tâm sinh hối hận," cho đến "Có người trị được thì không có việc ấy."
Nhận xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nói tin có sám hối." "Bấy giờ, có vị quan lớn tên là Nguyệt Xứng" cho đến "Dứt trừ tội của ta, ta sẽ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phong tục của nước ấy là dùng kệ để an ủi, cho nên mọi người đều nói kệ để hiểu được ý vua. Phú-lan-na là tên, họ là Ca-diếp, người ấy khởi kiến chấp đoạn diệt. Cho nên nói sinh pháp như thế."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đại tà kiến này chê bai không nhân quả."
"Lại có một vị quan tên là Tạng Đức" cho đến "Trừ diệt được tội của ta, ta sẽ quy y."
Nhận xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mạt-già-lê là chữ, Câu-xá-ly là chữ cái, người ấy sinh chấp đoạn thường. Nghĩa là bảy phần là thường, không thiện ác là đoạn. Cỏ y-sư-ca, da bên ngoài mềm mại, thân bên trong cứng chắc, dụ cho bảy pháp vô hại và người chết. Bảy phần mỗi phần đều chẳng phải người. Tánh khác không thể hợp thành một, cho nên vô hại. Nếu cách trị nước là giết hại thì trị người vô tội, nước có các thứ tội về hình phạt giết hại, từ vời lấy tội chết. Tội của người giết, pháp gọi là vô pháp. Đáp lời vua không có tội lỗi. Các vua trước tuy không có tội cuồng lạm, không có lỗi hình phạt giết hại nhưng có dư báo, có tội ở quá khứ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ hai là ngoại đạo tà kiến lập ra thường kiến."
"Lại có một vị quan tên là Thật Đắc" cho đến "Trừ được tội của ta thì ta sẽ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sa-xà-da là chữ, Tỳla-chi là chữ cái. Họ khởi chấp rằng: Tất cả khổ vui đều do nhân ở quá khứ, còn hiện tại thì vô nhân, vị lai không có quả, hiện tại giữ giới ngăn quả khổ không khởi, gọi là giải thoát."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba là tà kiến, chấp tất cả khổ vui đều gây ra ở quá khứ."
"Lại có một vị quan tên là Tất Tri Nghĩa" cho đến "Trừ diệt được tội của ta, ta sẽ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "A-kỳ-đa-sí-xá là chữ, khâm-bà-la là y, mặc y xấu khổ hạnh. Họ khởi kiến chấp rằng nhân khổ vui cũng ở quá khứ, nếu hiện tại chịu sự khổ thì tự được giải thoát, cho nên chịu khổ bằng nhiều cách như gieo mình xuống vực sâu, nhảy vào lửa, nướng thân trên năm nguồn nhiệt..."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Người này chấp đoạn kiến."
"Lại có một vị quan lớn tên là Cát Đức" cho đến "Diệt được tội của ta, thì ta sẽ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ca-la-cưu-đà là chữ, Ca-chiên-diên là họ. Người này cho rằng tất cả muôn vật do trời Tự tại làm ra, tâm không hổ thẹn, trời Tự tại vui mừng, không vào địa ngục."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm là kiến chấp về hai mươi lăm đế".
"Lại có một vị quan tên là Vô Sở Úy" cho đến "Trừ được tội của ta, thì ta sẽ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ni-kiền là chữ, Nhãđề là chữ cái, cho rằng nhân cũng ở quá khứ chịu sinh tử, trải qua tám muôn kiếp khổ hết, cũng không có thiện ác, hành đạo để dứt khổ. Cho nên nói không có A-la-hán tu đạo..."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ sáu là người này chấp có giải thoát tự nhiên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đầu đến đây là từ ngữ để phân biệt bạn ác: Dưới đây là từ Kỳ-bà trở đi nói về việc thiện tri thức. "
"Bấy giờ, có vị thầy thuốc tên là Kỳ-bà" cho đến "Đến chỗ vua bạch rằng: Đại vương ngủ được yên hay chăng?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xưa nay các quan lớn đều không thấy nhân quả, ý nói ở ngôi vua được tha hồ giết người, không nên buồn khổ, không nói với thầy. Nay Kỳ-bà thấy có nhân quả, đã có tội thì đáng lý phải buồn khổ, không được ngủ yên, cho nên hỏi".
"Vua dùng kệ đáp: Nếu có người dứt hẳn," cho đến "Người trộm cắp chưa được tài vật thì không được ngủ yên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bốn bài kệ đầu nói về Phật, năm bài kệ rưỡi nói về Bồ-Tát, hai bài kệ kế, một bài nói về Phật, một bài nói về Bồ-tát, ba bài kệ kế nói về có tội, không được ngủ yên. Ba bài kệ kế nói rộng về việc không ngủ yên."
Pháp sư Trí Tú nói: "Kệ do hạ phàm mà có bốn ý: Chín hàng rưỡi đầu nêu ra ngủ được. Thứ hai có hai hàng, nêu ra người được ngủ, thứ ba là sáu hàng, nêu ra pháp không được ngủ. Thứ tư là văn xuôi từ trong đó.
"Này Kỳ-bà! Nay ta bệnh nặng đối với vua Chánh pháp," cho đến "Nói rộng thuốc pháp, dứt khổ bệnh cho ta."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước tự nói bệnh bất trị không được lo lắng, sau biết bệnh khởi do tâm, cỏ đá không thể trị được, nếu chẳng phải Pháp Vương thì không thể trị được.
"Kỳ-bà đáp rằng: Lành thay! Vua tuy gây ra tội nhưng sinh tâm sám hối, hổ thẹn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chúc mừng vua bệnh được nhẹ, vua biết cha mẹ ân nặng nên có tâm hổ thẹn. Tâm sinh hối hận, phát lộ với người, sợ khổ địa ngục, tin có nhân quả, có được năm việc lành này thì bệnh vua dễ trị, chớ có sợ hãi. Sau đó mỗi việc đều dẫn lời Phật để làm chứng".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây có bảy phen nói pháp". Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây có tám phen nói pháp".
Pháp sư Trí Tú nói: "Dưới đây có sáu phen nói pháp". Đến chỗ đó lại nói.
"Tâu Đại vương! Chư Phật Thế tôn thường nói lời này" cho đến: "Lành thay! Đại vương có tâm hổ thẹn".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh sự hổ thẹn".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ nhất là nói có tâm hổ thẹn thì tội sẽ dứt".
"Đại vương hãy lắng nghe! Thần có nghe Phật nói" cho đến "Tội sẽ được trừ diệt, thanh tịnh như xưa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh hối lỗi."
"Thưa Đại vương! Có hai thứ giàu có: Một là voi ngựa" cho đến "Thường gây ra các tội ác, không bằng một điều lành."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Điều lành từ lý mà sinh, có sức căn mạnh, điều ác ngang trái, cho nên vô căn, vì vậy năng lực yếu. Ở trên nêu thẳng lời Phật, ở đây dùng lý giải thích".
"Thần nghe Phật nói tu một tâm lành" cho đến: "Làm thế nào để phá bỏ đại ác".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Những điều đã nói chứng minh năng lực của điều lành rất mạnh."
"Tâu Đại vương! Như lời Phật dạy che giấu là lậu" cho đến "Nói người có trí thì không có tội che giấu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là nói nhà vua tuy gây ra tội nặng, có khả năng làm hoại diệt sự phát lộ, tội có thể tiêu diệt."
"Lành thay! Đại vương biết kính tin nhân quả" cho đến "Vì sao nói là không thể cứu chữa?
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh phát lộ thì tội tiêu diệt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba là nói về tín tâm của vua không dứt nên có thể chữa trị."
Pháp sư Trí Tú nói: "Trên nay, thứ nhất đã chẳng phải Xiển-đề mà có tâm hổ thẹn thì sẽ dứt trừ."
"Như lời vua nói không thể trị," cho đến "Trong rừng Sa-la Song thọ, thành Câu-thi".
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ hai là nói có thầy cho nên tội sẽ trị được."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ tư là chỉ cho vua chỗ thầy thuốc."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ hai là nói hiện tại đã có Đại sư ở đây, vì sao nói không?"
"Rộng vì vô lượng a-tăng-kỳ" vua cho đến "Tất cả tội nặng sẽ được tiêu trừ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chỉ vua chỗ thầy thuốc, cho nên phải nói đủ. Sáu vị giáo chủ ngoại đạo đều nói thầy mình là bậc nhất thiết Trí, cho nên phải kể lại đầu đuôi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba làn nói các vị giáo chủ này nói thuốc pháp, cho nên tội có thể trị."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm nói Kỳ-bà là vua, nói thuốc pháp hai đế để trừ tội."
Pháp sư Trí Tú nói: "Câu thứ hai là nêu điều lành, nay nêu thuốc pháp."
- Kỳ-bà khuyên vua A-xà-thế đến chỗ Phật.
- Nói rộng về các việc duyên khởi.
- Việc Tần-bà-ta-la xuất hiện giữa hư không, để khuyên vua A-xà-thế.
- Giải thích ý nghĩa tam-muội Nguyệt Ái, ý nghĩa xây dựng một cung điện cho Xiển-đề.
"Nay, Đại vương nên nghe Thích Đề-hoàn Nhân" cho đến "Tất cả tội nặng, chắc chắn sẽ được tiêu trừ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xưa chưa nói việc trừng trị người tội có ứng nghiệm. Nay, nêu ra người bị trừng trị để chứng minh."
"Nhà vua nghe nói có con của Bà-la-môn" cho đến "Là Đấng Vô Thượng Y, chẳng phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ương-quật-ma-la, Hán dịch là Chỉ Man."
"Đại vương! Lại có Vương tử Tu-tỳ-la" cho đến "Là bậc Vô thượng y, chẳng phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xưa, có tính tham lam, keo kiệt. Ngày nay phải chịu đói khát, nghe nói lỗi lầm của mình, lòng cảm thấy tủi hổ, ăn năn, thấy nước được uống."
"Tâu Đại vương! Ở nước Xá-bà-đề, có bọn cướp gồm năm trăm tên" cho đến "Là đại lương y, không phải sáu vị giáo chủ ngoại đạo."
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ tư là nêu rộng các việc lợi ích, để nói nhờ có năng lực đạo, nên được lợi ích rộng lớn vô cùng."
"Thưa đại vương! Nếu đại vương tin lời thần" cho đến "Nếu không tín, nguyện, khéo suy nghĩ."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây, là đoạn sáu, dẫn đến việc hiện thật để chứng minh. Từ khi Đức Phật ra đời đến nay, kẻ phạm tội được thấy Phật, thì tội được dứt trừ, đâu phải chỉ có tội của vua không diệt ư?"
"Tâu đại vương! Chư Phật, Thế tôn, với tâm đại bi che khắp" cho đến "Cũng sẽ coi Phật như cha mẹ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "E rằng nhà Vua suy nghĩ không dám cầu Phật, nên kế là nói đại Bi, đối với kẻ oán, người thân đều bình đẳng, cho nên nêu rộng các việc."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ tư là dẫn chứng rộng để khuyên vua thực hành."
"Đại vương nên biết! Như lai chẳng những" cho đến "Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm là nói về lòng Từ bi của Phật che khắp, không hạn cuộc ở một người."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ bảy là nói Phật bình đẳng, không phân biệt người này người kia."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ năm là tâm Phật không thiên lệch, cho nên có công năng dứt trừ tội của vua."
"Đại vương! Nếu một tháng thường dùng áo cơm" cho đến đến chỗ "Như lai thành tâm nghe pháp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phạm tội đã nặng, chỉ nên nghe pháp, chứ không nên dùng của cải bố thí mà tiêu diệt được tội lỗi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ sáu là xét lường lưu lại, công đức nhiều ít."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ tám là nói về nhân công đức trí tuệ của Phật rất rộng lớn, có công năng tiêu diệt tội lỗi của con người."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ sáu là nói Phật có khả năng thêm ích lợi cho tâm người, cho nên thấy Phật thì chắc chắn được phước lợi."
"Bấy giờ, nhà vua đáp Kỳ-bà rằng" cho đến "Tự cảm thấy rất hèn mọn, không lòng dạ nào dám đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không vì nghĩ đi đến chỗ Phật, mà vì lo nghĩ tự mình thấy hèn hạ, nhơ nhớp, buộc ràng, chẳng phải là quyến thuộc nghe pháp, nên khi đến đó, e rằng sẽ không được Phật chấp nhận chữa trị cho."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ bảy là nhà vua thầm nghĩ ": Mình đang phạm phải tội nặng, nên không có ý muốn đi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù nghe kể sáu thứ tốt đẹp trên, nhưng nhà vua vẫn chưa dám đi."
"Bấy giờ, từ trên hư không vang ra tiếng nói" cho đến "Bệnh nhọt ghẻ lở, nóng bức, độc hại của Đại vương, chỉ càng ngày càng nặng thêm, chứ không bớt đâu!
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Để chứng minh cho lời Kỳ-bà nói rằng tội của vua đã nặng, chỉ có Đức Phật mới có khả năng dứt trừ. Vì thế nên nói là Phật sắp vào Niết-bàn, khuyên nhà vua hãy mau đến chỗ Phật."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba là phân biệt. Trước kia, ngoại đạo đã xúi giục tìm kiếm tà sư. Kế là lời khuyên của Kỳ-bà. Nay, vua cha tự khuyên, khiến nghe lời Kỳ-bà."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vua A-xà-thế trước kia đã có tội nghi ngờ rất nặng, cảm thấy hổ thẹn đến chỗ Phật. Vua cha e rằng nhà vua sẽ nghe theo lời tà sư, nên nay cố ý khuyên."
Pháp sư Trí Tú nói: "Dưới đây là lượt thứ ba, vua cha dùng năng lực thần thông khuyên vua hãy đến chỗ Phật."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn ở trong rừng Song thọ" cho đến "Vô lượng kiếp không nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là nói Đức Như lai thấy tâm của A-xà-thế có thể cứu vớt, nói vị mà cầu, chính là vì muốn từ Xà-thế để giải thích về lý Thường."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Vì sao chỉ vì vua A-xà-thế?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì người thời đó chẳng hiểu ý chỉ này, nên Bồ-tát Ca-diếp mới hỏi."
Phật nói: "Này người thiện nam! Trong đại chúng đây" cho đến "Thế nên tự ngã xuống đất."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bậc Thánh thị hiện nhập diệt, muốn đem lại lợi ích cho chúng sinh. Nếu sinh tâm quyết định diệt, sẽ gây ra khổ ngất xỉu, thì Phật sẽ vì họ mà không nhập Niết-bàn!"
"Này người thiện nam! Như ta đã nói" cho đến "Kinh Đại Niết-bàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là giải thích về mật ý của Phật. Bốn câu trước phát hiện ra việc đã làm. Hai câu sau, nói Niết-bàn bất diệt. Vì không nên do Phật nhập diệt mà ngất xỉu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích nỗi nghi ngờ ở đương thời không phải chỉ trực tiếp một người mà vì là tất cả những ai chưa hiểu rõ lý Thường."
Pháp sư Trí Tú nói: "Dưới đây có bảy phần, nói: Nói Đức Phật phát ra ánh sáng dẫn dắt nhà vua đến chỗ Phật. Đức Phật nói pháp cho nghe, dứt trừ tội của vua. Đến khi Kỳ-bà nói bảy việc, đây là việc thứ nhất, trước xướng lên mật ngữ."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn, Đấng Đạo sư Đại Bi" cho đến "Mục nhọt trên thân vua liền lành, cơn nóng bức đau nhức liền hết!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sở dĩ ánh sáng Từ soi đến từ xa, là vì nhà vua nghe cha mình dạy bảo: Quả báo khổ ở địa ngục, phải chịu không nghi ngờ gì, cho rằng tội mình không thể dứt trừ. Tự thấy mình hèn mọn, ác độc, nhơ bẩn, Đức Phật sẽ không ngó ngàng đến. Vì hai nỗi hoài nghi này, nên không dám đến chỗ Phật. Ánh sáng Từ soi đến từ xa, cả hai nỗi ngờ vực đều tan biến." Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây là đoạn năm, trước đã nói Đức Phật vì nhà vua trụ ở đời mà chữa trị tâm vua. Dù có nói lời đó, nhưng chưa thấy được sự thật, tam-muội Nguyệt Ái bắt đầu hiệu nghiệm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước trị bệnh thân vua, sau trị bệnh tâm cho vua."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ hai là Đức Phật phát ra ánh sáng diệt khổ."
"Vua biết mụt nhọt đã lành, thân thể mát mẻ" cho đến "Trước chữa trị thân vua, sau đó đến tâm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dẫn kinh Song Thọ, nói là có nghe người nói về kiếp lửa, chẳng thiêu đốt chúng sinh. Trước có ba mặt trăng chiếu một lượt, trừ bệnh cho chúng sinh, giúp cho được tu thiền, sinh lên cõi trên. Mặt trăng đã xuất hiện, chẳng có bệnh nào không lành". Thời kỳ đó chưa đến, mà vẫn có ánh sáng mầu nhiệm. Do đó, cảm thấy vui mừng nên hỏi?" Đức Phật đáp: "Nên cố ý ứng hiện ánh sáng, không có tướng quyết định, chẳng phải sắc, chẳng phải phi sắc, giải thích cả hai tướng chân định. Chẳng phải màu xanh, chẳng phải màu vàng, giải thích riêng về chân. Vì độ chúng sinh, nghĩa là giải thích riêng về ứng."
"Vua nói: "Kỳ-bà! Như lai Thế tôn" cho đến "Vì thế nên còn gọi là tam-muội Nguyệt Ái."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một đứa trong bảy đứa con bị bệnh, dụ cho phàm phu. Sáu đứa con dụ cho sáu trụ. Từ vốn "Duyên theo khổ", khổ nặng thì từ nặng. Sơ trụ đã lìa ba đường, lục trụ thì lìa hẳn trời, người. Đức Phật thì buông xả lòng từ."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ hai, chính là nêu việc phát ra ánh sáng, để dứt trừ các khổ của thân vua."
"Vua nói: "Kỳ-bà! Ta nghe Như lai" cho đến "Phải có tâm nào để đến yết kiến Như lai?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù nhờ ánh sáng xa, nhưng thân bệnh được tiêu trừ. Nghe kinh này nói, nên sợ không dám đến. Sẽ không té xỉu xuống đất, nghĩa là nếu trái với kinh mà gặp Phật, thì e rằng sẽ lại gây ra các khổ này! Ta thấy Như lai trước kia, dẫn lời kinh nói, đây là tình cảm để suy ra."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dù được ánh sáng chiếu, nhưng cũng do việc thiện, ác làm ngăn cách. Vả lại, vì sự hổ thẹn đã biểu hiện trên gương mặt, nên vua không muốn đi."
"Kỳ-bà đáp: Tâu đại vương! Ví như người đang khát nước" cho đến "Nay đại vương cũng nên mong cầu Đấng
Từ Bi cứu giúp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói pháp cho Xiểnđề, nghe: So sánh tội nặng, với tội nhẹ, để chứng minh chắc chắn được Phật cứu giúp. Gồm chẳng phải các kinh mà nhà vua đã dẫn. Nếu quả thật còn vì xiển-đề nói pháp, thì lẽ nào Đức Phật không cùng ngồi cùng đứng với người ác, hay sao?"
"Vua bảo: Kỳ-bà! Xưa ta có nghe" cho đến "Vì sao Đức Như lai nói pháp cho họ nghe?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lời của Như lai không giả dối vì sao vừa nói là Đức Phật nói pháp cho xiển-đề nghe? Tất nhiên là không đúng!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kỳ-bà bày tỏ ý Phật, cạnh đó là nói pháp cho nghe, còn nói pháp cho cả xiển-đề, huống chi nhà vua không phải Nhất-xiển-đề ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ ba, nhà vua dù được soi sáng, nhưng tâm vẫn chưa thông suốt, nên xin Kỳ-bà giải đáp thắc mắc cho."
"Kỳ-bà đáp rằng: "Tâu Đại vương! Ví như có người" cho đến "Nói với thầy thuốc: "Hãy mau lên xe."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là đoạn sáu, nói ví dụ để an ủi, khuyên nhà vua nên đến chỗ Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì nói pháp cho xiển-đề nghe, gồm có ba ý, như thầy thuốc chữa trị người bệnh:
1. Vì dứt các khổ hiện tại.
2. Loại bỏ các khổ ngang trái của quyến thuộc.
3. Chấm dứt sự chê bai của người ngoài. Hợp ví dụ như thế, rất dễ hiểu.
"Bấy giờ, vị thầy thuốc tự nghĩ" cho đến "Người bệnh như vậy, chắc chắn sẽ chết, không còn nghi ngờ gì."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ Như lai nói pháp cho xiển-đề nghe, như thầy thuốc chẩn đoán biết người bệnh sẽ phải chết, nên chẳng thể không nói: Một là vì người bệnh, hai là vì họ hàng thân thuộc. Chư Phật cũng vậy, chẳng thể không nói."
"Tâu Đại vương! Đức Thế tôn cũng như vậy, đối với hạng Nhất-xiển-đề cho đến giảng nói pháp cho Nhấtxiển-đề nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói pháp cho xiển-đề nghe, có hai điều lợi không luống dối: Trước bỏ phàm phu chê bai, sau nói lợi ích cho xiển-đề, chứng tỏ nói pháp chẳng phải không. Ví như người bệnh, là dụ cho gốc lành vị lai."
"Vua bảo Kỳ-bà: "Nếu Đức Như lai" cho đến "Người đắc đạo, không đọa địa ngục." Pháp sư Tăng Lượng nói: Mong ông hãy nắm giữ, sợ phạm tội thêm sanh, đọa vào địa ngục.
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ bảy, bắt đầu từ Kỳ-bà khuyên truyền lệnh xe giá để đưa nhà vua đi đến chỗ Phật."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư, căn cơ nghe pháp phát khởi."
-Đức Phật vì Vua A-xà-thế nói hai mươi pháp môn.-Nói về hạnh trẻ thơ.
"Bấy giờ, Phật bảo các đại chúng" cho đến "Giống như núi vàng ròng mầu nhiệm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vẫn có nghi ngờ rằng Phật không rũ lòng từ cứu giúp, tội sẽ không được diệt. Phải biết rằng, các pháp không có tướng nhất định, tội nhất định, lấy phiền não làm nhất định. Không có nhất định mà nhất định, nghĩa là không có tâm nghi nhất định. Tâm nghi nhất định hễ dứt thì bất sinh khởi."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn phát ra tám thứ tiếng" cho đến "Kính lễ xong, ngồi sang một bên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói Đại vương, nghĩa là không gọi thẳng tên, vì sợ lỗi vui mừng kia, mở mang dần tâm mình.
Vô thượng Đại sư: Biết chân Trí nhất thiết như từ... của Phật."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ năm, Phật bảo Đại vương hãy định tâm mình."
"Bấy giờ, Phật bảo vua A-xà-thế rằng" cho đến "Tâm thì buông lung, không có việc gì ác mà không gây ra."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhà vua không phát tâm Bồ-đề, tội không thể tiêu diệt. Phát tâm, là do thấy lỗi lầm của phàm phu, hai mươi việc này nói về lỗi lầm của phàm phu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ sáu, là Phật nói pháp cho vua nghe, gồm có mười một lượt. Đây là lượt thứ nhất, trước là dạy quán hai mươi việc. Y theo thân là tướng mạo của hai mươi việc đó cạn thấp, tương tự như hàng phục "Hoặc".
Vua "A-xà-thế bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như tôi đã hiểu nghĩa mà Phật nói" cho đến "Chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên dù đã nói năm pháp như giới v.v... là vô thường, che lấp tội chướng cũng vẫn chưa yên."
Phật bảo Đại vương! Tất cả các pháp" cho đến "Thế nên, phải biết rằng, tội giết hại không có tướng nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bỏ chấp chặt tội kia, tức là từ lý sẽ được hiểu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây, xả một phen đều nói pháp cho vua nghe, để mở rộng tâm vua."
"Này đại vương! Như lời ngài đã nói, vua cha không có tội" cho đến "Nếu chín thứ ấy là sai, thì lẽ ra không có tội?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thứ hai Phật vì vua nói sinh "Không", pháp không. Quán hai "Không" ấy sâu xa, tương tự như dứt trừ "Hoặc".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây, sẽ nói pháp riêng cho vua nghe. Trước mở ra năm môn, sau lại dùng năm bậc để giải thích môn này. Đây là môn thứ nhất, y theo nghĩa giả danh mà nói pháp, để dứt trừ tội của vua. Nghĩa là nếu hiểu rõ muôn pháp đều là hư giả, tức "Không", mà hữu vi là giả có, thì tội từ đâu sinh? Vì tâm như hư không thì không có tội thật."
"Này đại vương! Sắc có ba thứ: Quá khứ, vị lai" cho đến "Sao nhà vua lại nói là chắc chắn đọa địa ngục?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng năm môn để đả phá tướng tội nhất định, trở thành điều mà nhà vua hiểu.
Môn thứ nhất nói là giả danh, không có tướng nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ ba, y cứ ba đời để phân chia thì không có tội."
"Này đại vương! Tất cả chúng sinh đã gây ra nghiệp tội" cho đến vì "Sao chỉ riêng đại vương lại mắc tội ư?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ hai, là nói về:
1. Có tâm xúi dục giết người.
2. Tâm, miệng giết.
3. Đủ thân, miệng giết.
Nhà vua không đủ ba nghiệp, nên tôi nhẹ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư, nói đủ ba nghiệp thì tội nặng, chỉ có tâm, miệng mà không có thân nghiệp, thì tội nhẹ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ hai, là nói tội, phước không ở trong nhân duyên."
Này Đại vương! Trước kia, tiên vương Tần-bà-ta-la có tâm ác" cho đến "Vì sao nói rằng chắc chắn đọa vào địa ngục?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ ba, nói điều ác có hạ, trung, thượng. Phẩm hạ: Người kia oán ghét ta, ta lại dùng việc ác để trả. Phẩm Trung: Người kia không biết ân ta, ta dùng việc ác để hại họ. Phẩm thượng: Người có ân với ta, lại gieo điều ác cho người. Nhà vua là ác phẩm hạ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm, là nêu việc của Phú-la-sơn duyên khởi của nghiệp xưa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ ba nói Tiên vương do nghiệp đời trước chiêu cảm, chứ cũng phải mới gây ra tội kia."
"Này đại vương! Sự mê hoặc của chúng sinh, gồm có bốn thứ" cho đến "Nếu không phải do bổn tâm gây ra tội nghịch đó thì sao lại bảo là mắc tội?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ tư, nói về giết hại có ba: Tội nặng do tà kiến mà giết, tội vừa, là do giận dữ mà giết, tội nhẹ, vì lòng tham mà giết. Nhà vua thì do tâm điên loạn mà giết, nên chẳng nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ sáu, nêu tham lam, điên loạn để trách là do tâm của vua."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chúng sinh gây ra tội, đều do không tự tại. Nếu nhận thức được nguồn gốc của tội này thì sẽ không có tội."
"Này Đại vương! Ví như nhà ảo thuật, ở ngã tư đường" cho đến "Chư Phật, Thế tôn biết chúng chẳng phải thật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn "Không" thứ năm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ bảy có sáu ví dụ, chứng minh sinh "Không", pháp không thứ hai ở trên, nên tội không thật có."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ năm, có mười thí dụ, thể tánh của pháp là không vô tự tánh, nên sự giết hại không nhất định."
"Này Đại vương! Cách thức giết, nghiệp giết, người giết, kết quả giết" cho đến "Dù rằng do vua, nhưng thật ra vua không có tội."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói lại hai môn trước."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tám, chứng minh môn thứ tư ở trên: Nhà vua chỉ biết giết mà bản thân không tự giết, thì vô tội."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích tánh chất vô tội trong nhân duyên thứ hai ở trên."
"Này đại vương! Như trong cung vua, thường truyền lệnh cho người mổ dê làm thịt dê" cho đến "Đối với vua cha lại sinh tâm lo lắng khổ sợ?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích lại về hai môn trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích môn thứ ba ở trên: Trong nghiệp đời trước không có tội."
"Này đại vương! Người thế gian là tôi tớ của sự tham ái" cho đến "Vua không tự tại thì sẽ bị tội lỗi gì?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại giải thích môn thứ tư ở trước Pháp sư Tăng Tông nói: Thứ chín là thành tội thứ sáu ở trên do tham cuồng. Pháp sư Bảo Lượng nói: Giải thích môn thứ tư là tham cuồng.
"Này đại vương! Ví như Niết-bàn là pháp chẳng phải có, chẳng phải không," cho đến "Không có người thấy, thì không có quả báo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ mười là nêu Niết-bàn của thế đế, là có nói có tội."
"Người chấp thường thì chẳng phải có" cho đến "Chẳng phải có, chẳng phải không, mà cũng là có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rõ lại môn thứ năm ở trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích môn thứ năm ở trên: Thể của vạn hữu là "Không", không có tánh tội. Đối với người có hổ thẹn thì chẳng phải có. Vì sao? Vì đã sinh tâm hổ thẹn, vì thấu rõ thể của muôn pháp là luống dối, nên đối với người là vô tội. Nếu đối với người không có tâm hổ thẹn thì chẳng phải là vô. Người đang thọ quả báo thì gọi là hữu. Nghĩa là người vô trí, suốt ngày gây nhân được quả. Vì lẽ đó, nên chẳng phải vô.
Đối với người chấp "Không" thì chẳng phải có, nghĩa là đối với người này, tức là quả báo vô tánh. Người chấp hữu chẳng phải vô, nghĩa là đối với tướng quả báo, thì đều là quả báo.
Người có chấp hữu, nghĩa là người chấp thường là hữu. Người không chấp hữu, thì nếu không có chấp tướng thì không bao giờ có quả báo. Người chấp thường, thì đây là tâm hiểu thường, nên đối với người này là vô.
Người chấp vô thường, nếu quán sinh tử, làm cho Phật đều là vô thường, thì đều là quả báo sinh tử.
Người thường chấp thường thì đây là người chấp thường, chẳng phải "Không có" quả ác.
Do nghĩa chấp, kinh nói rằng: "Đối với người hiểu là "Chẳng phải có", còn đối với kẻ không hiểu, thì "Chẳng phải không".
"Này Đại vương! Nói về chúng sinh gọi là hơi thở ra vào" cho đến "Không đọa vào địa ngục, sao Đại vương lại bị đọa?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích lại môn thứ nhất ở trước."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là lượt thứ mười một, chính là nói về tông chỉ của pháp."
"Bấy giờ, Vua A-xà-thế đúng theo lời Phật dạy" cho đến "Các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã được hiểu, tức là đối với pháp mà Đức Phật đã chứng đắc, không hoại đức tin."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu hiểu giả danh là không thật có thì vô tội, mà không diệt mất."
"Bạch Đức Thế tôn! Con thấy trong thế gian, từ hột Y lan" cho đến chịu khổ não lớn không cho là khổ. Xét:
Pháp sư Tăng Lượng nói: Phế bỏ chẳng phải phần.
Bất giờ,vô lượng người dân nước Ma-già-tha cho đến "Là đệ tử của tất cả Chư Phật." tức là đệ tử của tất cả Chư Phật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã được thân trời, nghĩa là nói quả trong nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước nói là Xa-thế trụ, về nghĩa hiện ở đây."
"Nói xong, nhà vua liền đem các thứ" cho đến "Thấy rõ Phật tánh, giống như Bồ-tát Văn-thù v.v...."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chín hàng rưỡi kệ ở đầu là khen ngợi Phật. Sau hàng kế là tự phát tâm. Trong chín hàng rưởi trước, khen chung bốn nghiệp của miệng. Kế là, một hàng rưỡi, là khen riêng không có ác miệng.
Một hàng kế là, khen không nên nói thêu dệt. Hai hàng kế nói lợi ích chúng sinh của ngữ. Hai hàng kế là khen ngợi lòng từ bi của Phật.
"Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Vua A-xà-thế" cho đến "Phẩm Thiên Hạnh, như trong kinh Tạp Hoa có nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khen lại lời đã khen."
-------------------------------
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đủ ba hạnh trên, về đức, dụ như trẻ thơ, cũng là hóa trẻ thơ, phẩm này có ba đoạn:
1. Dụ cho Phật.
Từ câu "Không biết khổ, vui v.v..." trở xuống, là dụ cho Bồ-tát.
2. "Lại như trẻ em v.v..." trở xuống, là dụ cho chúng sinh, nói về lý do cần nói giáo của năm thừa.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phẩm này có năm đoạn:
1. Nói Phật tự làm trẻ thơ.
2. Nói Bồ-tát làm trẻ thơ.
3. Nói Đức Phật dùng phương tiện hóa độ chúng sinh.
4. Nói Phật thuyết quả Nhị thừa, để làm cùng cực chân thật.
5. Nói người chấp đoạn, nói thật có chúng sinh."
"Này người thiện nam! Thế nào là hạnh trẻ thơ" cho đến "Dứt được vô thường, đây gọi là hạnh trẻ thơ."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là dụ thứ nhất."
"Lại, trẻ thơ không nhận biết khổ vui" cho đến "Mà làm nên thừa Thanh văn, Bích-chi-phật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng phương tiện dắt dẫn, chẳng phải tức pháp thật, lấy nghiệp làm thí dụ. Sau đây là chánh thể của hạnh trẻ thơ. Như lai, Bồ-tát dụ cho trẻ thơ: Về nghĩa thì giống như trẻ thơ: Nói rộng thì trẻ thơ chẳng phải thể của hạnh. Vì sao? Vì trong giải thích nói: "Như lai có hạnh trẻ thơ, thì không có việc đó, đây là bằng chứng. Cũng có thể Phật, Bồ-tát là gốc của hạnh trẻ thơ, gọi là hạnh trẻ thơ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Là ví dụ thứ hai."
Lại, hạnh trẻ thơ, là như trẻ thơ kia" cho đến "Nhưng lá màu vàng này thật sự chẳng phải màu vàng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ thứ ba, vì nói niềm vui của tầng trời Ba mươi ba, do tránh được khổ ba đường.
"Bò bằng gỗ, ngực gỗ, trai gỗ, cô gái bằng gỗ" cho đến "Vì nghĩ là trai, gái nên gọi là trẻ thơ."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bò gỗ, là dụ thứ tư, vì nói quả ba thừa. Con trai gỗ, tức dụ thứ năm, vì người chấp đoạn, nói có chúng sinh."
"Đức Như lai cũng như vậy, nếu có chúng sinh" cho đến "Cũng đều đồng được năm hạnh ấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước lấy chung ba pháp làm thí dụ: Lá dương dụ cho bốn quả nhân thừa, thiên thừa. Bò, ngựa dụ cho nhất thừa, trời, người.... Trái gái dụ cho chúng sinh. Khóc than dụ cho gây ra nghiệp ác.
Tầng trời Ba mươi ba: Hợp riêng lá dương. Vì sao? Vì hễ chấp đắm hữu thì không nói Niết-bàn. "Khi chúng sinh nhàm chán" cho đến "Cái thật của Nhị thừa thì hợp với bò ngựa". Vì sao? Vì chán sinh tử không nói nhân trời, người. Có dứt, không dứt: Biết phiền não dứt, tập khí không dứt. Dưới đây cũng giống như vậy.
Chẳng phải trong vàng nghĩ là vàng, cho đến "mà nói là tịnh, hợp chung bốn quả trên làm tịnh. Đối với chẳng phải bò, mà nghĩ là bò ngựa, cho đến "Nói chẳng phải đạo là đạo" tổng hợp bốn thừa làm đạo. Nói giả gọi chúng sinh, hợp với trai, gái, chỉ rơi vào tà kiến, rơi vào đoạn diệt.
Thế nên, Như lai nói là có chúng sinh, nghĩa là nói giả gọi chúng sinh để dứt trừ chấp đoạn của ngoại đạo. Đối với chúng sinh, nghĩ là chúng sinh, nghĩa là nói người chấp ngã là cùng khắp. Đối với chúng sinh, đã phá kiến chấp của chúng sinh, nghĩa là nói giả gọi chúng sinh, cũng phá chấp thường, không chỉ ở đây.
Rộng nêu việc nghi có ba thừa, không có ba thừa...
Giải thích nghĩa nghe, không nghe, cho rằng âm thanh ba đời đều không thể nghe.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói năm môn, kế là nói về công đức đã thực hành được."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phẩm này nói rộng năm hạnh ở trước. Công đức là phần tốt đẹp trong các hạnh. Chưa đến quả Phật, đã có công đức rồi! công đức và Hạnh, chính là nghĩa nhân quả. Như pháp khổ tập, lấy nghĩa năng sinh, làm "Tập". Từ nghĩa sinh làm "Khổ". Nay, hạnh và công đức cũng giống như vậy. Trong mười công đức, lấy công đức đầu tiên và công đức thứ hai, đồng với hạnh Thánh rộng lớn. Công đức thứ ba, thứ tư đồng với phạm hạnh rộng lớn. Công đức thứ năm thứ sáu đồng với Thiên hạnh rộng lớn. Công đức thứ bảy, đến thứ mười, không có chỗ rộng lớn riêng, đều rộng khắp như ba hạnh trên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Năm hạnh mười công đức, nhờ trái phải mà có tên. Hạnh lấy từ nhân hướng về quả làm nghĩa, công đức dùng sự khen ngợi để đặt tên.
Lại, có cách giải thích khác: "Năm hạnh là nhân ngữ, công đức là quả ngữ. Vì sao? Vì tâm kim cương là cùng cực trong nhân, Niết-bàn là cùng cực trong quả. Từ một niệm trở lên, là chung cho tất cả hạnh, đều là nhân của Niết-bàn. Tuy nhiên từ tâm kim cương trở xuống, cũng có được nghĩa nhân quả, chỉ vì chưa đo lường được khoảng thời gian khởi sự thực hành điều lành đã bao lâu. Nếu gần đây, thì phải lấy một niệm trước làm nhân, mới có thể giúp cho sinh niệm sau. Niệm lành sau đã được sinh, thì phải do niệm lành trước làm nhân. Như vậy niệm trước sau nối tiếp nhau đến quả Phật, có nghĩa tức nhân tức quả. Nếu chỉ lấy niệm sau mà chờ niệm trước, hoặc giữ lấy niệm trước rồi mới đợi niệm sau là quả, thì đây là năm hạnh y cứ ở nhân, mười công đức y cứ ở quả. Nay mười công đức này lại mở rộng năm hạnh trước. Làm sao biết được? Vì hạnh Thánh lấy giới, định, tuệ làm thể. Nay công đức đầu tiên lại nói về ba tuệ, cuối cùng đều lấy lậu tận thông làm thể?
Công đức thứ hai là lấy năm thông làm thể. Tuệ là trí tuệ. Năm thông là quả của người tu định, nên lấy hai công đức này để giúp mở rộng hạnh Thánh.
Công đức thứ ba dùng từ bi làm thể. Công đức thứ tư lấy mười việc làm thể. Mười việc là hỷ, xả, nên dùng hai đức này mở rộng phạm hạnh.
Công đức thứ năm dùng năm việc làm thể. Công đức thứ sáu lấy tam-muội Kim cương làm thể. Hai công đức này trang nghiêm rộng khắp cho thiên hạnh. Thiên hạnh dùng tám thiền định làm thể, năm việc là:
1. Các căn đầy đủ, nên có khả năng tu định.
2. Bất sinh ở biện địa, vì không có nạn, nên có thể tu định.
3. Các vị trời che chở.
4. Thế gian kính mến. Vì đời trước đã gieo trồng cội đức, nên được các vị trời che chở, mọi người yêu mến, nhờ đó có thể tu định.
5. Được túc mạng trí, tức là quả của định.
Tu năm việc này thì được Thiên hạnh. Tam-muội Kim cương, là cùng cực trong các định. Cho nên biết được thiên hạnh rộng lớn. Hai công đức thứ bảy, thứ tám, bổ sung rộng khắp cho hạnh trẻ thơ. Công đức thứ bảy dùng bốn pháp làm thể, đó là: Gần gũi bạn lành, lắng nghe chánh pháp, buộc niệm tư duy và đúng như lời dạy tu hành. Bốn pháp này vốn là đối tượng thực hành của hạnh bắt đầu.
Về cách giáo dục trẻ thơ thứ tám, lấy pháp chín nhóm làm thể. Từ "Dứt năm ấm" cho đến tâm lành giải thoát, cũng là pháp thỉ giáo. Cho nên biết hai công đức này đều bổ túc rộng cho hạnh trẻ thơ. Công đức thứ mười mở rộng cho hạnh bệnh, mà tương truyền thì dùng ba hạng người bệnh ở trước và năm hạng người bệnh như Tu-đà-hoàn... làm hành tướng bệnh. Nay công đức thứ chín lại được giải thích về ba hạng người bệnh. Công đức thứ mười nói về ba mươi bảy phẩm. Ba mươi bảy phẩm này là phương pháp thực hành của năm hạng người bệnh kia. Cho nên hạnh bệnh là rộng lớn."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đại khái một phẩm, gồm có hai ý:
1. Nêu khen ngợi chung.
2. Tùy nói về thể, chia thành mười, vì là pháp môn của một đường."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương" cho đến "Không có tướng mạo, ở thế gian không có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát này ưa thích tu công đức, vâng lời Phật dạy làm lời đối đáp. Một hạnh được hai công đức, năm hạnh có mười công đức."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tâm người Nhị thừa yếu kém, đâu thể nghĩ lường? Chẳng phải nội, nghĩa là chẳng phải Nhị thừa. Chẳng phải ngoại là ngoại đạo chẳng thể thực hành. Chẳng phải khó là đối với Bồ-tát không khó. Không phải dễ, nghĩa là người Nhị thừa không thể thực hành.
Chẳng phải tướng, chẳng phải phi tướng: Theo cách hiểu quên tướng của Trung đạo, thì thầm hợp với lý, là pháp xuất thế."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay, muốn giải thích rộng mười công đức, nên trước một phen khen ngợi chung rằng: "không chung với Nhị thừa". Hạnh Nhị thừa vốn không gần với đạo, thì làm sao tâm được thực hành lý này? Cho nên phát tâm nói rằng: "Đều chung với Nhị thừa".
Không thể suy nghĩa bàn luận: Chân giải của Thập địa lìa tướng hữu, vô. Đâu có tâm hữu, vô để so lường? Nghe thì sợ hãi, lý sâu xa vắng lặng, chẳng lẽ là chấp tướng ư? Vì cái có thể hiểu, nên nói là sợ. Người ngu si thấp hèn không thể biết được, nên nói là quái lạ. Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài: Nếu thuộc về hữu, vô thì sẽ thuộc trong, ngoài. Đã dứt bặt cảnh có tâm, thì đâu được là trong là ngoài ư?
Chẳng phải khó, chẳng phải dễ: Nếu tu tâm mà đạt được, thì tất nhiên, sẽ lãnh hội chẳng khó. Đối với kẻ không hành đạo mà dứt hy vọng, nên nói chẳng dễ.
Chẳng phải tướng, nhưng chẳng phải không hiện tướng chẳng phải phi tướng, vì thể dứt bặt hình, danh, nên nói chẳng phải tướng mà trang nghiêm, nên cũng nói là chẳng phải phi tướng.
Chẳng phải thế pháp: Thần giải (sự hiểu biết như thần) lấy pháp tánh làm gốc, chẳng phải do nhân sinh ra, đầu phải thế pháp. Nếu y theo thể để nói về dụng, thì về nghĩa cũng do dụng.
Không có tướng mạo: Thể đã không hữu, không vô thì đâu có tướng mạo để biểu thị ư? Cái thế gian không có: Chân thể đã dứt "Trăm phi", "Trăm thị", thì đâu thuộc về thế gian? Đây là khen chung về thể của công đức."
"Đây là mười một công đức, công đức thứ nhất có năm" cho đến "việc thứ năm là biết được tạng bí mật của Như lai."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Danh dù có năm, nhưng lấy tánh mà ghi chép thì về lý, không ngoài ba sự: Sự thứ nhất là nói về Văn tuệ, sự thứ hai là Tư tuệ, một sự sau là Tu tuệ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Về nghĩa, suy ra năm sự, dù rằng không ngoài ba tuệ, nhưng không thể nhất định cho sự đầu tiên là văn tuệ, lấy sự thứ hai làm Tư tuệ, chỉ biết lấy chung ba tuệ làm thể mà thôi. Vì sao? Vì căn tánh chúng sinh có đến hằng muôn sự khác nhau, kiến giải có lợi, độn. Về thời gian phát kiến giải lại khác, đâu thể nhất định?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Sự thứ nhất, thứ hai, thứ năm trong năm sự, ba sự này tức là Văn, Tư, Tu tuệ. Thứ ba, thứ tư, hai sự này y theo tuệ, có thể có công dụng của đối tượng cắt đứt là thể. Văn dưới sẽ giải thích về Tu tuệ thứ năm rằng: "Dù biết chúng sinh thật sự không có "Ngã". Hai câu này nói về sự khéo soi chiếu đối với "Không", gồm thông suốt "Hữu". Trước là chúng sinh không, sau là pháp không. Kế là các câu dưới, nói khéo soi chiếu đối với "Hữu", gồm biết cả "Không". Nói chung y cứ giả gọi chúng sinh, để làm rõ nghĩa.
Thế nào là không nghe mà nghe được" cho đến "Đó gọi là không nghe mà được nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Công đức thứ nhất, thứ hai đối với hạnh Thánh. Thứ nhất là nói lậu tận thông. Năm việc này là dứt sự lậu. Từ Phật tánh đến Niết-bàn có năm sự:
1. Bốn quả đều nói về pháp thường. Xưa đã không nghe mà nay được nghe. Đó là nói về nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trước nêu số. Nay, nói pháp này là tuyệt diệu thường luân. Về sự, sẽ thấy trong phẩm Kim Cương Thân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là sự thứ nhất. Ngày xưa, vì căn cơ chưa thuần thục, nên chưa thể được nghe. Ngày nay cơ duyên đã phát, thì chiêu cảm thinh giáo. Đây là vì trước kia không có cảm, thành ra không nghe.
Nay, vì cảm mà nghe.
Dù rằng nhờ dựa vào giáo mà nghe, tức nghe không có đối tượng nghe, nên nói "Nghe cái không nghe". Về lý, dù như thế, nhưng từ không nghe được không nghe, từ nghe được không nghe.
Sự thứ hai, nói nghe pháp mà được hiểu. Sự thứ ba, nói về được hiểu. Về sau mới dứt trừ. Sự thứ tư, nói về bên trong hiểu tâm quyết định. Sự thứ năm, vượt ngoài cảnh đã hiểu biết kia. Từ kinh này mà biết lý, nhưng trong văn, giải thích về sự đầu tiên có hai lớp:
1. Từ "Cái gọi là nghĩa nhiệm mầu sâu xa trở xuống, chính thức nêu pháp thể không nghe, đó là thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Bát-niết-bàn. Vì tìm tòi chỉ thú của kinh này, nên được biết danh hiệu công đức. Y theo ngữ quả để nói về quả cao quý này. Trăm phi không thể cùng tận. Đây là điều mà trước kia không nghe, mà nay được nghe.
2. Từ "Lại có lúc không nghe, nghĩa là kinh sách của ngoại đạo" trở xuống, nêu ra không nghe. Nay, dùng chỗ y cứ của tà pháp để nói về các kinh như thế, đều không có nghĩa sâu kín như thế, cũng nhờ kinh này mà biết."
Người nghe lợi ích rồi, nếu có thể nghe, nhận" cho đến "Đó gọi là nghe rồi có thể làm việc lợi ích."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là sự lợi ích, giải thích về quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghe kinh, biết được ý chỉ, được hai vô ngại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, bỏ bốn việc, về nghĩa so sánh tướng, suy luận có thể biết."
"Dứt tâm nghi, nghi có hai thứ" cho đến "Đó gọi là dứt được tâm nghi "ngờ"."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Sinh nghi cũng không hẳn đều do kinh này, nếu nghi ngờ người Nhị thừa là hữu, là vô, thì các kinh Pháp Hoa... đã có khả năng nhổ bỏ nỗi nghi ngờ đó, đây là dẫn chứng cùng khắp."
"Tâm tuệ ngay thẳng không có tà vạy" cho đến "Đó gọi là sự nhận thấy ngay thẳng của Đại Bồ-tát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba, thứ tư, thứ năm giống nhau, là nói về quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thấy cong vạy có hai hạng: Một là ngoại đạo; hai là Thanh văn. Nay, đối với kinh này, vì được giáo hóa chỉ thú, nên nói là hiểu biết ngay thẳng."
"Biết được nghĩa sâu kín của Như lai" cho đến "Đó gọi là nghĩa bí mật sâu xa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân quả khó biết, là nghĩa rất sâu xa. Phật tánh là chỗ rất sâu của nhân, nghĩa là "Vô ngã" trở xuống, đều nói là Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là lớp thứ năm, giải thích tu tuệ. Cảnh không khác với trước, chỉ năng lực hiểu biết có chuyển biến sâu sắc."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý" cho đến "Hiểu được nghĩa nghe, không nghe do Phật nói, là không đúng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là không nghe mà nghe đã nói trên thì năm sự của Phật tánh đều là pháp thường. Nếu pháp thường mà nghe được thì chẳng phải Thường, nên phải thưa hỏi để phân biệt. Sau đây sẽ nêu sáu câu hỏi:
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi này sẽ được đặt ra ngay trong câu đầu tiên. Nếu câu đầu không có trở ngại, thì nghĩa là thông, thì các câu khác cũng đi suốt qua. Cho nên trước là thưa hỏi. Vả lại, vì muốn chứng tỏ các pháp không nhất định, làm rõ ý nghĩa "Không", cho nên giả lập thưa hỏi không nhất định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phẩm Đức Vương, nay đặt ra câu hỏi nhất định là hữu, nhất định là vô, ý ở thời gian và tâm tình. Sau đây, lại có năm câu hỏi, trở thành chấp đầu tiên này, hợp thành sáu câu hỏi:
"Phàm phu chấp đắm tự ngăn cấm mình ở trong lỗi cũ. Thật đáng lo ngại! Hễ nghe nói hữu thì thành chấp tánh, nghe nói vô, thì thành chấp đoạn."
Pháp sư Trí Tú nói: "Sau đây sẽ có ba lần bắt bẻ, hai lần thưa hỏi. Nay, trong lần hỏi thứ nhất có bảy câu: Thứ nhất tạo ra câu hỏi về nhất định. Thứ hai, thứ sáu, thứ bảy, đồng nêu lên câu hỏi về "Không nghe". Thứ ba, thứ tư, đồng đưa ra câu hỏi về "Nghe" và một câu hỏi thứ năm, để ngăn dứt câu hỏi.
"Không đúng, nghĩa là không đúng với chỉ thú nghe, không nghe."
"Vì sao? Nếu pháp hữu, thì lẽ ra nhất định có" cho đến "Tức lẽ ra nhất định là vô, đều lẽ ra "Sinh hữu", không nên diệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đại ý ở quan điểm trước kia. Nghĩa nghe và không nghe không lìa hai quan điểm này. Nếu nghe làm không nghe, thì pháp hữu lẽ ra diệt. Nếu không nghe làm nghe thì pháp vô sẽ sinh? Đây là câu hỏi thứ nhất."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước nói hai quan hệ, làm cho pháp tướng là nhất định: Nếu nhất định hữu thì được nghe từ Thinh giáo, còn nếu nhất định là vô thì dứt bặt tướng, không thể nào nghe, lẽ ra đều phải sinh. Nếu lý dứt bặt thinh giáo, không thể nghe tiếng.
Hữu không nên diệt, nghĩa là thinh giáo là pháp để nghe, không thể làm cho không nghe."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Pháp nhất định hữu thì thường có thể được nghe, cho nên nghe cái không nghe, nghĩa nấy không đúng."
"Như người nghe tiếng kia, đó là vì nghe" cho đến "Sao lại nói rằng: "Nghe cái không nghe?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là hợp câu hỏi về nghe, không nghe. Nói là nghe không nghe, giống như nghe thành không nghe. Về lý đã không đúng, tức là lẽ ra nghe tự là nghe, không nghe tự là không nghe."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhất định hữu, nhất định vô đã xong, kết thành câu hỏi."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu không thể nghe là vì không nghe" cho đến "Sao lại nói rằng nghe cái không nghe?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là lìa câu hỏi về nghe, không nghe. Nếu thật không bằng ở trước nói, thì tức là nghe lại nghe. Nói về nghe không thể nghe lại, cũng không thể nghe thì hẳn không thể nghe."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi lại: không có pháp thì lẽ ra không nghe được, như pháp đã nghe thì không thể nghe lại, huống chi xưa nay là vô pháp mà có thể nghe được."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây sẽ mượn liên tiếp bốn ví dụ để kết thành câu hỏi trước. Đây là ví dụ thứ nhất, nói âm thanh là pháp để nghe. Niết-bàn không phải âm thanh, thì sao lại nói rằng "nghe cái không nghe ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Đây là câu hỏi thứ hai, nghĩa là đã dứt thì không thể nghe."
"Ví như người, đi. Đến, thì sẽ không đi, còn đi thì không đến." Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Ví dụ này hợp với câu hỏi trước."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì ví dụ này và hữu, vô ở trước, đều nhất định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hễ đã đến thì không đi. Dụ cho nghe rồi thì không nghe, tức là ví dụ không đến, không nghe là không nghe."
"Cũng như đã sinh thì bất sinh, còn bất sinh thì" cho đến "Không nghe thì không nghe, cũng giống như vậy." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng ví dụ này để ở sau hỏi lại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sinh rồi thì bất sinh, dụ cho nghe rồi thì không nghe, được rồi thì không được, cũng giống như vậy."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu không nghe mà nghe, thì tất cả chúng sinh" cho đến "Dù thấy Phật tánh nhưng vẫn chưa được, rõ ràng."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nếu không nghe lại làm cái nghe, thì một phen giống như có thể được giáo nghĩa mà nghe lại làm cái nghe, là vấp váp lớn!
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ hai".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đều quyết định thưa hỏi. Lý "Không nghe" có thể gượng gạo mà được, nghĩa là Bồ-đề cũng có thể được một cách gượng gạo, vẫn lấy ý Phật. Nếu cũng có thể gắng gượng được Bồ tát Thập Trụ thấy Phật Tánh chưa rõ sao không gắng gượng cho sáng suốt rõ ràng ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Mượn Bồ-đề để quyết đoán: Nếu Bồ-đề không thể được một cách gắng gượng thì lý "Không nghe" đâu thể gắng gượng mà nghe?"
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu không nghe mà vẫn nghe, thì Đức Như lai thuở xưa" cho đến "Cớ sao trong kinh A-hàm Đức Như lai lại nói là "Không có thầy"?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ ba".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu pháp không nghe thì phải được nghe, Phật lẽ ra có thầy. Nếu nói rằng: "Không có thầy, thì sao lại nói là nghe cái không nghe?"
"Nếu không nghe mà không nghe, thì Đức Như lai được thành" cho đến "Không nghe kinh này lẽ ra cũng thấy được Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Lý "Không nghe" bèn không thể nghe, là vấp váp (trở ngại) lớn."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ tư."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trái với ý Phật. Nếu nói đổi lại là "Không nghe", thì "Không nghe" này được thành Phật, càng có lỗi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu quả thật tự nhiên đắc đạo, không nghe cái không nghe thì chúng sinh lẽ ra cũng như vậy, không cần nghe cái "Không nghe" này."
"Bạch Đức Thế tôn! Hễ là sắc thì có thể thấy" cho đến "Sao lại nói rằng có thể thấy, nghe?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là câu hỏi riêng về nghĩa "Nghe" ở trước."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ năm." Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là câu hỏi thứ năm và thứ sáu, về đại ý thì giống nhau mà câu hỏi thứ năm thì hẹp và xa hơn, còn câu hỏi thứ sáu lại càng sát hơn.
Nay, trong đây cũng vẫn thừa nhận hiện tại có nghe." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cả bốn câu hỏi trên đây đều hoàn toàn trái lý. Hai câu hỏi dưới có thể giúp sức sát sao cho kiến giải về Phật nói muôn pháp không nhất định. Đức Phật kế thừa chính đáng về chân lý này để đáp. Y câu hỏi cho rằng: "Pháp có thể thấy, vẫn có thấy, không thấy, huống chi Niết-bàn chẳng phải sắc, thanh, thì làm sao nghe được?"
"Bạch Đức Thế tôn! Quá khứ đã diệt thì không thể nghe" cho đến "Kinh Đại Niết-bàn này, là nghe cái không nghe?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ sáu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng nghe ý câu hỏi thứ năm, là không khác. Nếu muôn pháp có tánh chất nhất định, thì sẽ không có ba đời, vì không nhất định, nên trải qua thời gian ba đời: dĩ vãng, hiện tại, tương lai, mà đã qua thì âm thanh không thể nghe được, chưa đến cũng không nghe, còn hiện tại thì vừa sinh liền diệt, cũng không thể nghe. Vì thế nên nói rằng: "Các pháp lấy trần, không chỗ nào để so sánh với Niết-bàn được!"
"Bấy giờ, Đức Thế tôn khen Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Đúng như pháp mà Bồ-tát Thập Trụ đã thấy, biết."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Lành thay! Câu hỏi kia!"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi về giải "Không" kia: Thường và vô thường đều từ duyên mà "Có", mà pháp thường đã có ra từ "Duyên", thấy pháp vô thường cũng từ duyên sinh. "Duyên" là không, mà không thì chẳng thể thấy, chẳng thể nghe, chỉ có Thập địa mà thôi!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: ""Ấn khả" hai câu hỏi sau biết cho là: "Muôn pháp không có tánh, như ảo thuật, như ngọn lửa v.v...."
"Lúc đó, trong đại chúng, bỗng nhiên" cho đến "Ví như Tỳ-kheo nhập định Sư Tử Vương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chẳng phải ánh sáng màu xanh mà thấy là xanh... ", đều nói lên các pháp không nhất định. Cho nên hai vị Phật chứng minh cho nhau, là để nói rằng, pháp tướng không khác nhau. Đạo của Chư Phật đều đồng nhau. Pháp từ duyên thấy, thấy thì là thường. Mười hiệu không khác, pháp luân cũng đồng. Từ duyên mà sinh ra cõi nước vô thường, tịnh uế khác nhau, chúng sinh thiện ác cũng khác nhau."
"Bấy giờ, Đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng" cho đến "Đức Như lai im lặng không nói."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì Đức Phật biết tâm nghi ngờ của chúng đương thời chưa bỏ, nên Ngài không đáp. Tâm chấp của chúng sinh quá nặng. Vì thế nếu trực tiếp dùng lý để đáp, thì không cần sự dụng tâm của đại chúng, cho nên mượn tạm việc là nhằm vời lấy tình cảm của đại chúng."
"Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi Văn-thù-sư-lợi" cho đến "Lần lượt hỏi nhau nhưng không có ai giải đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Văn-thù lẽ ra đáp ngay mà không đáp, là vì chưa nghe Đức Phật dạy." Bấy giờ, "Đức Thế tôn hỏi Văn-thù-sư-lợi" cho đến "Chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đức Phật Mãn Nguyệt kia đã ứng hiện ánh sáng này, là từ nhân mà hiện, nhân tức là tuệ. Không có nhân duyên nghĩa là pháp thường không tự sinh mà từ nhân sự sinh, cũng có nhân duyên, thấy từ "Liễu nhân".
"Phật bảo: "Này Văn-thù-sư-lợi! Nay, ông chớ nhập" cho đến "Nên dùng Thế đế để giải đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sai khiến vì nói lý do ánh sáng này từ nơi nào soi đến?"
"Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn từ đây đi về phương Đông" cho đến "Nhiều giống chim đẹp bay đậu trên đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật dạy pháp từ duyên sinh là vô thường!"
"Lại có vô lượng cọp, sói, sư tử... " cho đến "Tâm đại Từ bi thương xót tất cả chúng sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói tâm thanh tịnh của tất cả chúng sinh.", tức chỉ cho chúng ta biết nhân tịnh độ."
"Đức Phật ở cõi đó hiệu là Mãn Nguyệt Quang Minh" cho đến "Các Đại Bồ-tát vừa hỏi Đức Như lai bình đẳng không có khác nhau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì từ "Duyên" pháp thường nên là một. Mười hiệu đã đồng, thì pháp thân không khác."
"Đức Phật Mãn Nguyệt Quang Minh bảo Bồ-tát Lưu Ly Quang" cho đến "Đây là nhân duyên, cũng chẳng phải nhân duyên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói đủ nhân duyên, tức là nói Thế đế có đến, đi."
- Bồ-tát Lưu Ly Quang và Phật nói về nghĩa sinh, bất sinh.
- Nói về nghĩa thường, Vô thường của Bốn tướng.
- Nêu ra nghĩa Vãng sinh về cõi Bất Động.
- Nói về Niết-bàn vốn có, nêu các ví dụ trong bóng tối và bảy thứ báu v.v...
- Chỉ rõ nghĩa của năm thứ nhân: Nhân sinh, Nhân hòa hợp, Nhân trụ, Nhân tăng trưởng và nhân xa.
- Nói về nghĩa sáu Độ có khi được gọi là Ba-la-mật, có khi không được.
"Bấy giờ, Bồ-tát Lưu Ly Quang" cho đến "Cung kính đi nhiễu bên phải ba vòng rồi ngồi qua một bên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước kia, đã nói cõi nước này uế, ác, vì là lời lẽ bình thường của người giới hạnh."
"Lúc đó, Đức Thế tôn hỏi Bồ-tát Lưu Ly Quang:
"Này người thiện nam! Ông có đến hay không có đến?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên đã nói chúng thanh tịnh ở cõi nước Bất động kia, có thích đến đây hay không, mà hỏi, để xóa bỏ chấp đắm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Không khác với Bồ-tát Tịnh Danh và Bồ-tát Văn-thù xưa kia, nhân đến, đi để nói về vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong đạo giả danh, có kia đây, đến, đi." "Bồ-tát Lưu Ly bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến
"Nếu là vô thường thì cũng không có đến."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Các pháp sinh diệt, không biết nhau. Hễ có đến thì sinh ở chỗ này, không đến thì diệt ở nơi khác. Lý sinh diệt đã ngăn cách, đều không có đến."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong đạo giả danh nối nhau có đến có đi, Phật pháp thì không."
"Nếu người thấy có tánh chúng sinh" cho đến "Thường, lạc, ngã, tịnh, thì không có đến, đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói các pháp không có đi, không có đến. Nay, lại nói rằng, thấy có đến, đi là điên đảo!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Gởi gắm chúng đương thời trong đây chớ chấp tướng, rồi tỏ ra kiêu căng, ngạo mạn thấy có đến đi để nghe pháp."
"Bạch Đức Thế tôn! Xin gác việc đó lại, nay tôi có thiển kiến muốn được phép hỏi, xin Đức Như lai chấp nhận cho."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Từ chỗ kia đến chỗ này, chính là muốn hỏi những gì mình không biết. Vì lược đáp đã xong, nên nói xin để việc đó lại."
Phật nói: "Này người thiện nam! Tùy ý ông hỏi" cho đến "Thế nên phải chuyên tâm, nghe nhận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có ba ý: Một là cho phép hỏi; hai là khen pháp khó gặp; ba là răn câu hỏi của người nghe pháp."
"Đại Bồ-tát Lưu Ly Quang" cho đến "Kinh Đại Niết-bàn, được nghe chỗ chưa nghe."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Dù không có y cứ hội họp, nhưng cũng đồng một con đường. Cho nên từ xa đến đây để thưa hỏi."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nhờ ý chỉ Phật cho phép, mới được thưa hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi này đồng với Phẩm Đức Vương. Chỉ nêu câu hỏi đầu, các câu hỏi khác, về sau, lại theo thể thức như vậy."
Bấy giờ, "Đức Như lai khen: "Lành thay!" cho đến "Đó gọi là được nghe pháp chưa được nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Lưu Ly Quang đã đến. Trong số các vị ấy, có vị đến không kịp. Vì thế, nên Phật răn, e rằng khi người đến tham dự, sẽ sinh tâm cao thấp, nên nhờ lời nói của Đại sĩ, thầm răn người khác."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Có thể hiểu như vậy, cũng tức là nghe mà không nghe."
"Này người thiện nam! Có khi không nghe mà nghe, có khi không nghe mà không nghe, có khi nghe mà nghe."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Phật nói là Bồ-tát kia nghe, tức chứng tỏ là nghe. Lại đặt ra bốn câu hỏi để nói hết sự tốt đẹp của chỉ thú kinh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp trước "Có" ứng định, có thưa hỏi nghĩa là pháp hữu vi, dù "Có" mà tu đạo, tức là đều tu cho nên "Có", đâu được bắt bẻ rằng: "Có" thì chắc chắn là "Có" ư? Đáp câu hỏi đầu xong, năm câu hỏi còn lại tự giải thích."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trong bốn câu này, hai câu là pháp kín đáo, không biểu lộ, hai câu sau là lý quyết định. Có kín đáo (hồn hậu) có quyết định, đâu thể hoàn toàn chấp nhất định ư?"
Có khi không nghe mà nghe: Nếu tiếng chưa sinh. "Có" thì gọi là không nghe. Khi các "Duyên" nhóm họp ở hiện tại, đó gọi là pháp trước kia chưa nghe. Về mặt lý cũng giống như vậy. Dù không thể nghe, nhưng chẳng phải không cần giải thích để thâm nhập lý, vậy thì đâu có nói nhất định ư?
Có khi không nghe mà không nghe: Đây là hoàn toàn trở về lý quyết định.
Có khi nghe mà không nghe: Lại là câu hồn hậu. Ý hỏi ở trước là muốn cho quyết định người nghe này chẳng thể không nghe, nên ở đây nói rằng: "Nghe mà không nghe, nghĩa là âm thanh đã nghe, lui về quá khứ, thì không thể nghe lại.
Có khi nghe mà nghe: Lại quyết định Thinh giáo là pháp để nghe. Nghĩa là âm thanh trước cũng sinh ở nhĩ thức, âm thanh sau cũng sinh ở tai nghe."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chính là đáp câu hỏi. Bốn câu này đều an trí lên trên Niết-bàn. Đầu tiên không nghe mà nghe: Không nghe nghĩa là Niết-bàn. Vì chưa có cơ cảm nên gọi là "Không nghe". Ngày nay, duyên phát ra thì nghe, nên nói: "Xưa không nghe, nay được nghe."
Có khi "Không nghe" mà "Không nghe": "Không nghe" này và "Không nghe" ở trước, lời thì đồng mà ý chỉ thì khác. Trước kia là nêu thể của Niết-bàn không thể nghe. Ở đây nêu chúng sinh vì không có cơ cảm, nên không nghe được lý này."
Lại có giải thích khác: Ở trước "Không nghe" là pháp thân diệt "Không nghe" sau là thân trượng sáu, nghĩa là pháp thân thường trú không hề có sinh, diệt. Nghe và không nghe, chỉ vì các chúng sinh mê lầm, nên thấy vậy thôi! Đây là dù nghe tức không nghe.
Có khi nghe mà không nghe: Vì chúng sinh có duyên cảm, nên một phen được nghe. Nếu lại không tiến đức, thì về sau, sẽ không còn nghe lại nữa, nên nói nghe mà không nghe.
Có khi nghe mà nghe: "Có nghe" ở đầu là vì có cảm, nên được nghe. Về sau, lại tiến đức, tức là có nghĩa được nghe lại."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đây là Phật khiển trách chung các câu hỏi. Thể dứt hết danh tướng, chẳng phải là pháp để nghe. Vì nhờ hội đủ duyên, nên mới được nghe danh hiệu kinh Đại Niết-bàn, nghĩa là người không nghe mà nghe.
Người không nghe, là không nghe lý Niết-bàn. Đối với người không có đức, là không có "Duyên" năng nghe.
Nghe mà không nghe: Tiếng là pháp nghe, hễ tiếng dứt thì không còn nghe lại.
Nghe mà nghe: Pháp để nghe có từ duyên, mà niệm trước, niệm sau đều có thể nghe."
"Này người thiện nam! Như bất sinh mà sinh" cho đến "Không đến mà không đến, đến mà không đến, đến mà đến".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nghĩa sinh dễ hiểu, nên nêu để ví dụ về nghe. Đến mà không đến cũng như vậy."
"Bạch Đức Thế tôn! Bất sinh mà sinh là thế nào? Này người thiện nam!" cho đến "Lúc mới ra thai, đó gọi là bất sinh mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hữu vi là Thế đế."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Năm ấm là nhân, người tu hành là quả, nhân quả thành tựu lẫn nhau, là an trụ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chưa ra thai là bất sinh. Ra thai là sinh, nên nói bất sinh mà sinh."
"Thế nào là bất sinh mà bất sinh? Này người thiện nam!" cho đến "Đó gọi là bất sinh mà bất sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trong hữu vi của pháp nội không có bất sinh, là nói Niết-bàn.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước, sau tìm tướng sinh hoàn toàn không thật có."
"Thế nào là sinh mà bất sinh?"
"Này người thiện nam! Theo Thế đế, khi chết thì gọi là sinh mà bất sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khi chết, nghĩa là niệm sau cùng.
Niệm sau là sinh, sinh là sinh quá khứ, đó là chẳng phải sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì xưa có, nay không, nên nói sinh nghĩa là bất sinh."
Thế nào là sinh mà sinh?
"Này người thiện nam!" cho đến "Vì mỗi niệm thường sinh, nên gọi là sinh mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niệm trước, niệm sau nối nhau không dứt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sinh sinh không dứt là tướng của phàm phu."
"Bồ-tát bốn trụ gọi là sinh mà bất sinh. Vì sao? Vì sinh tự tại, nên đó gọi là sinh mà bất sinh, là pháp bên trong."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba trụ kiến đế, kiết đã hết. Bốn trụ, cõi Dục tư duy, kiết dứt hết, sinh vào cõi Dục. Dù sinh mà bất sinh, vì sinh tự tại.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì sức nguyện nên sinh, chứ chẳng phải nhắm vào sinh mà sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bốn trụ kiến đế, dứt hết phiền não, nên sinh là hiện sinh, chứ chẳng phải nghiệp sinh thật sự."
"Thế nào là pháp bên ngoài là chưa sinh mà sinh, chưa sinh mà chưa sinh, sinh mà chưa sinh, sinh mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sở dĩ trước kia nói "Không", mà ở đây nói chưa", là vì pháp bên trong có Niết-bàn, được phép gọi là "Không", vì pháp bên ngoài không có Niết-bàn, nên nói là "Chưa"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Về nghĩa giống như ở trước, nhưng chưa sinh mà chưa sinh, nên nói: "Bất sinh mà sinh, sinh là dễ dàng."
"Này người thiện nam! Ví như hạt giống lúc chưa nẩy mầm" cho đến "đó gọi là pháp bên ngoài sinh mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã tăng trưởng thân sau cùng, đó gọi là mọc mầm, quá thì không phải mầm, vì mầm là chưa sinh. Như mầm lớn lên, nghĩa là mầm đang mọc ra, chưa lớn lên. Đó gọi là "Sinh" mà sinh."
"Đại Bồ-tát Lưu Ly Quang" cho đến "Là thường hay vô thường?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói Thế đế, sinh là sinh giả, nhưng người ngoài chấp bốn tướng, cho rằng sinh là pháp thật. Nay để phá chấp ngang trái của họ, bèn cho lập ra nghĩa sinh giả. Thế nên hỏi gồm có sáu câu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại lập ra sáu câu hỏi, cũng thành sáu câu hỏi trước. Trước kia Đức Như lai dùng bốn câu để giải thích. Câu đầu, hỏi về "Không nghe", mượn sinh để so sánh với "Nghe". Nay, dời "Nghe" qua câu hỏi "Sinh". Nếu đối với nghĩa "Sinh" có chấp đắm, thì nghĩa nghe cũng bị bít lấp. Nếu đối với nghĩa sinh được giải thích suốt qua thì chỉ thú nghe cũng được giải thích. Ở đây có ba câu đối nhau thành sáu. Trước đã hỏi về tướng "Sinh", chẳng thể sinh ra pháp. Đã bất sinh ra pháp thì tất nhiên pháp không thể sinh. Cũng là chấp nhất định, trở thành ý trước. Hai câu hỏi giữa là hỏi mình và người, hai câu hỏi sau là hỏi về hữu và vô. Xét ra câu hỏi này cứ nối tiếp trùng lặp nhau, vì trước đây Đức Phật đã giải thích về pháp "Chưa sinh" là vô vì thấy ở nhân duyên giả "Sinh". Phải biết rằng về lý, "Không nghe" vì giả nói nên nghe. Để nối tiếp với lời nói trước kia, nên Bồ-tát Lưu Ly Quang mới đặt ra câu hỏi.
Nay, trước là câu hỏi về thể của "Sinh": Nếu sinh là thường, thì trước mở ra hai câu hỏi: "Nghe" và "Không nghe". Nói về tướng "Sinh" nếu là thường hữu lậu, thì không nên có sinh. Vì sao? Vì "Sinh" đã là "Thường", thì thể của pháp vô thường, hóa ra hai lý đều trái với lẽ tự nhiên. Đã nói là trái với tự nhiên, thì thể nào là "Thường", mà sinh ra pháp "Vô thường"? đây là vì muốn làm cho hữu lậu không từ "tướng sinh".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây đã nói về bốn câu sinh mà sinh..., đối với người chấp tướng thì họ cho rằng, ngoài pháp hữu lậu, còn có một tướng sinh riêng, đó là pháp hữu lậu sẽ khởi trong "Sinh" ở vị lai.
Nay, Bồ-tát Lưu Ly Quang mới nêu lên câu hỏi, để cho đại chúng đều được hội thông ý chỉ của Phật: Nếu nói theo lý luận thì ngay khi pháp khởi, gọi là pháp "Sinh", lúc không có gọi là "Diệt". Không chỉ có tướng sinh là pháp sinh ở vị lai.
Ý hỏi của Bồ-tát đã như vậy thì sau đây sẽ y theo việc đến, nhằm tạo ra câu hỏi về ba quan điểm:
1. Câu hỏi mở ra hai quan điểm, tức thành sáu lớp. Y theo một quan điểm, trước quyết định, sau là kết hỏi. Quyết định quan điểm đầu là "Nếu pháp hữu lậu có sinh, thì là "Thường" nên có thể sinh, hay vì vô thường nên có thể sinh trở xuống, tức là kết hỏi rằng: "Nếu "Sinh" là pháp hữu lậu "Thường" thì sẽ không có sinh. Nếu có riêng một tướng sinh là thường mà sinh ra pháp, thì pháp sinh ra đó lẽ ra cũng từ tướng sinh đều là thường? Mà hiện nay, hiện thấy pháp hữu lậu, niệm niệm vô thường. Vì thế nên biết rằng pháp này không có tướng sinh của vô thường, tức là pháp hữu lậu không có tướng sinh. Cho nên nói pháp hữu lậu thì không có sinh."
Pháp sư Trí Tú nói: "Hai câu đầu đặt ra câu hỏi về thường, Vô thường, là vì muốn cho "Thường" thì vắng lặng không dao động, vì không có năng lực của công dụng, nên đâu thể sinh ra pháp ư? Vô thường thì thể không tự lập, năng lực bất cập, pháp cũng không thể sinh ra thứ khác.
Hai câu kế là, tạo nên câu hỏi về tự sinh, sinh ra cái khác. Đầu tiên nói về "Sinh" là lý của pháp không tự sinh. Nếu sinh ra pháp khác là sinh thì Niết-bàn vô lậu sẽ chẳng phải tướng "Sinh", tức là đối với sinh là cái khác, thì vì sao lại không thể sinh ra cái khác này ư? Tất nhiên là không thể, nên biết tướng sinh, sinh ra cái khác là "Sinh". Về nghĩa thì không đúng!
Kế là lại có hai câu y theo "Vốn hữu", "Vốn vô" để đặt ra câu hỏi: Nếu "Sinh" là pháp đã "Hữu", thì sẽ không cần sinh nữa. Nếu "Sinh" là pháp vô, thì lẽ ra có thể làm cho hư không trở thành hữu. Nếu sinh là pháp hữu lậu thường thì sẽ không có sinh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vì sinh khởi ngang trái cho nên có sinh, nếu sinh là thường, thì sẽ không được sinh ra hữu lậu. Hữu lậu không có sinh thì đâu có khởi?" Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu thứ nhất lấy "Xưa không nay có" làm "Sinh": Nếu hữu lậu chẳng sinh thì chẳng phải hữu lậu. Hữu lậu sinh khởi ngang trái, đó gọi là "Sinh". Vì vô lậu bất sinh khởi ngang trái, nên chẳng phải "Sinh".
Tánh vô thường lúc sinh liền diệt. Sinh ra liền diệt thì không thể sinh ra muôn vật, tức là hữu lậu vô "Sinh", vô sinh tức là "Thường" cũng chẳng phải hữu lậu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu pháp không do tướng sinh sinh ra, thì pháp hữu lậu sẽ không có tướng sinh. Nếu không có tướng sinh, thì chẳng phải hữu lậu."
"Nếu sinh là vô thường, thì hữu lậu là thường."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Dù được sinh là hữu lậu, mà vô thường vẫn còn, còn "Sinh" thì không ở hữu lậu, nên hữu lậu là thường."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu thứ hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu không bị lựa chọn bởi ba tướng thì pháp hữu lậu lẽ ra là thường."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu "Sinh" có khả năng tự sinh, thì "Sinh" sẽ không có tự tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nếu "Sinh" biến thành đối tượng sinh (sở sinh) thì sẽ không còn tự tánh!"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu thứ ba, "Sinh" không có tự tánh, nghĩa là nếu tự sinh thì một thể sẽ có hai: Một là chủ thể sinh, hai là thọ sinh, mà đã thọ thì không phải chủ thể sinh, chủ thể sinh thì không phải thọ, mất đi tánh chất của "Sinh" kia.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng nên hỏi về quyết định trước, nên hỏi rằng: "Vì là tự tánh của "Sinh" này có công năng sinh ra các pháp, hay vì nhân duyên có công năng sinh ư?" nay sẽ liên hệ đến quyết định này."
"Nếu "Sinh" có công năng sinh ra cái khác, thì vì sao bất sinh ra vô lậu?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là câu thứ tư: Vô lậu đối với hữu lậu là "Khác". Nếu có công năng sinh ra cái khác, thì lẽ ra cũng có khả năng sinh ra công năng của vô lậu?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thập địa vô lậu, chẳng phải không bắt đầu xuất phát từ duyên. Cho nên không nói theo vô lậu này, mà chính là do ở diệu thể của thần minh đó thôi! Diệu thể nấy dứt hẳn hữu, vô không từ nhân sinh, đâu chẳng phải là chân thiện ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu lúc chưa sinh mà đã có sinh, thì đâu cần nay mới gọi là "Sinh"?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Sáng sớm lẽ ra gọi là "Sinh", nay, sao lại là chiều ư?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu thứ năm: "Nếu lúc chưa sinh, đã có pháp thì pháp có này được gọi là sinh, sao nay mới gọi là sinh ư? Pháp sư Tăng Tông nói: Câu hỏi này khiến cho pháp không từ tướng sanh mà sanh.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng nên quyết định trước, đây là mối quan hệ lúc đầu, nghĩa là nếu trước đã được tên "Sinh" rồi, thì vì sao đến thời gian sau mới gọi là "Sinh" ư?"
"Nếu lúc chưa sinh mà không có "Sinh", thì vì sao chẳng nói hư không là "Sinh"?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Hư không cũng vốn là không."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu thứ sáu: "Chưa sinh là không có pháp, hư không cũng là "Vô". Nếu sinh vào chỗ "Vô", thì vì sao chẳng nói hư không là "Sinh"?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu pháp hữu vi vốn ở bên cạnh vô tướng và lực, thì khi hữu vi kia khởi thì lực này cũng khởi, hữu vi kia diệt, lực này cũng diệt theo, chính là đều cùng lúc đó mà thôi, đâu thể sinh ra pháp? Nếu đều không có tướng và lực mà được sinh ra pháp hữu vi, thì vì sao chẳng nói hư không là "Sinh"?"
"Phật nói: Lành thay lành thay! "Này người thiện nam! Bất sinh mà sinh, không thể nói được."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là Phật đáp câu hỏi thứ sáu."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ sáu ở trước: "Sinh" là giả gọi, không thể nói nhất định. Bất sinh là không có, mà sinh có thể sinh ra, "Không có" cũng không thể nói nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước đáp câu hỏi thứ sáu: "Bất sinh tức là hư không. Muốn làm cho hư bất sinh, nghĩa là không thể nói."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Về sau, nói về bảy thứ chương môn. Dưới đây tự giải thích theo thứ lớp: Sáu câu đầu tạo ra câu đáp không nhất định. Một câu sau, là nói về nhân duyên, nên được "Sinh".
"Bất sinh mà sinh chẳng thể nói": Câu thứ nhất nói không có tánh nhất định "Bất sinh", cũng không có tánh nhất định "Sinh", thì làm sao có thể nói nhất định được ư?"
"Sinh mà sinh cũng không thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đáp câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu thứ năm: sinh đã là có, có rồi lại sinh, cũng không thể nói nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Kế là đáp câu hỏi thứ năm: "Không thể nói pháp sinh rồi sinh, vì có lỗi sinh lại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng không có tánh nhất định sinh, cho nên không thể nói."
"Sinh mà bất sinh cũng không thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nói về câu hỏi thứ sáu." Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai câu trên nói về pháp sinh hữu, vô. Đây là nói tướng sanh có công năng sanh ra hữu vô. Bất sinh là vô, mà "Sinh" có thể sinh cái vô, nên không thể nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tình người xoay vần sinh nghi: Nếu không có đã sinh, nên sinh ở vị lai, thí tức là sinh ở chỗ không thể sinh ấy ư? Nay, nói cũng không thể nói như thế."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì cũng không có tánh nhất định sinh, nhất định bất sinh, nên không thể nói."
"Bất sinh mà bất sinh, cũng không thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nói về câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu "Bất sinh" là vô, thì cũng không thể nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trái ý của Phật. Người mê lầm lại cho rằng" nếu đáp như trên thì tức là người có sinh tự sinh, người không thể sinh, thì tự bất sinh". Nay nói: Cũng không thể nói như thế. Pháp sư Bảo Lượng nói: Cũng không nhất định là bất sinh, vì nhất định bất sanh nên nói "Do tu đạo mà được, nên không thể nhất định." "Sinh cũng không thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Lại có sinh, bất sinh, nay lìa bỏ chúng cũng không thể được."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lìa ngoài pháp, có tướng sinh riêng, cũng không thể nói nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Không còn khiển trách "Hoặc". Ở đây, khiển trách riêng thể của "Sinh" thôi. Mượn "Sinh" để dứt trừ "Chẳng sinh", đâu thể "Sinh" được ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bốn câu trước là dứt một chấp, không thể cho rằng có tánh nhất định. Nay, hai câu thứ năm, thứ sáu, dứt thẳng tướng "Sinh", không thể nói lài ngoài pháp có một tướng "Sinh" riêng.
"Bất sinh cũng chẳng thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trước đã lìa "Sinh", nay lìa "Bất sinh"."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu pháp không có tướng "Sinh" thì cũng không thể nói nhất định. Sáu câu này đáp chung hai câu sau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sinh" vốn đối lập với "Bất sinh". "Sinh" đã không thật có thì đâu có "Bất sinh" để được ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng không thể nhất định nói là ngoài pháp, vì nếu không có tướng "Sinh" riêng thì tức làm cho thể của pháp không còn được sinh."
"Vì có nhân duyên thì cũng có thể nói được."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Nhân duyên, nghĩa là với người khác. Nhân dù không tự sinh, mà có nghĩa sinh ra cái khác, đáp câu hỏi thứ tư, thứ ba. "Sinh" là sinh cái khác, chẳng sinh ra vô lậu. Sau, lại đáp riêng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Khiển trách khá khéo léo. Lúc chuyển nhập Đệ nhất nghĩa đế, vì tình mê muộn, nên nói là có nhân duyên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sáu câu trên nói không nhất định. Câu thứ bảy này nói vì duyên hợp nên "Sinh", không hợp thì sẽ "Bất sinh"."
"Thế nào là bất sinh mà sinh không thể nói" cho đến "Vì sao cho là sinh?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Giải thích đáp bảy câu của ba lời hỏi.
Đã nói là "Bất sinh" mà nói sinh, tức là "Bất sinh" là sinh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh" gọi là khởi. "Bất sinh" thì không khởi. Nếu gọi là "Sinh" thì tức là khởi.
"Không khởi là khởi thì đâu thể nói ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Giải thích lại lý do, thế nào là hoàn toàn đều vô mà bỗng nhiên được sinh? Nên biết có lý để sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bất sinh": Mà nay sinh làm sao nói "Sinh" nhất định là sinh, "Bất sinh" nhất định là "Bất sinh" ư?"
"Thế nào là sinh mà sinh, không thể nói? Vì sinh mà sinh nên "Sinh", vì sinh mà sinh nên "Bất sinh", cũng không thể nói."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nếu "Sinh" trước là sinh thì nay không nên lại sinh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì "Sinh" mà sinh, nên "Sinh", nghĩa là trước nhất định gọi là "Sinh" mà sinh, cho rằng vì "Sinh" mà sinh, nên "Sinh" mà sinh."
Vì "sinh" nên "Bất sinh": Vì "Sinh" nên trước sinh, vì "Bất sinh" nên sinh sau. Vì trước "Sinh" mà sinh, nên "Sinh sau" bất sinh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Người hỏi muốn làm cho pháp đã có ở vị lai và sinh ở thời gian hiện tại. Nay, nói vì sinh nên bất sinh, nghĩa là vị lai bất sinh.
Vì sinh mà sinh nên "Sinh", nghĩa là hiện tại có sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì "Sinh" mà sinh nên sinh", nghĩa là một câu này đã được lập phần vị từ trước. Phàm phu vì sinh sinh nối tiếp nhau, nên gọi là tác sinh. "Sinh" cũng không có tánh nhất định.
Dưới đây là nói: "Vì "Sinh" nên "Bất sinh", nghĩa là vì thân nên có tên, đâu có chỗ nào có tánh "Sinh" nhất định?"
Thế nào là sinh mà bất sinh, chẳng thể nói?" cho đến "Vì sinh không tự tại, nên không thể nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: ""Sinh" tức gọi là sinh: Trước đã nhất định gọi là "Sinh". Sinh sinh không tự tại: Tất nhiên "Sinh" là pháp có thể sinh. "Bất sinh" là pháp bất sinh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Cái vô của vị lai vì khác với sừng thỏ, nên nói rằng "Sinh" tức gọi là sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì nhân duyên hòa hợp, nên gọi là "Sinh", nhân duyên không nhóm họp thì gọi là "Bất sinh"."
Thế nào là bất sinh là bất sinh không thể nói?" cho đến "Vì sao?
Vì nhờ tu đạo mà được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì Niết-bàn bất sinh nên không thể nói, nghĩa là vì học được, nên gọi là sinh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Pháp bất sinh không gì hơn Niết-bàn, còn do tu đạo mà được, há cho rằng "Bất sinh" đều là bất sinh ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Muôn điều lành đầy đủ thì được Niết-bàn, đâu có nói nhất định?"
"Thế nào là "sinh" cũng không thể nói? Vì "Sinh" là vô." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Quả pháp tuy có mà sanh thì vô.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bốn câu trên là đáp câu hỏi, dứt chấp đã xong. Nay dứt thẳng thể của "Sinh"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Khiển trách riêng về tướng "Sinh". Thế nào là "Bất sinh" không thể nói? Vì có chứng đắc"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có được thì có làm, có làm tức là sinh"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu nhất định có "Bất sinh" để nói thì sẽ không bao giờ có sinh".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hữu vi thì sinh, làm sao nói nhất định được?
"Thế nào là vì có nhân duyên, nên cũng có thể nói được" cho đến "Do nghĩa này cũng có thể nói được ".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Làm tác nhân cho sinh, nghĩa là vô minh" cho đến "Hữu", mười pháp này làm nhân tạo tác cho sinh", nghĩa là sinh "Cái khác", không tự sinh.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trong đạo Thế đế, làm nhân tạo tác cho "Sinh"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu mười nhân trước dứt mất, kế sinh pháp khởi, thì gọi là "Tác sinh" nên được gọi là "Sinh".
"Này người thiện nam! Nay ông chớ nhập không định sâu xa, vì đại chúng căn tánh chậm lụt".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không định rất sâu, tìm tướng của pháp định, thì chẳng phải sâu".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì ngăn ý trước kia, nên nói "chớ nhập không định".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Các thuyết đã nói trên đây, đều được dùng hữu để bàn về lý, lại là lời nói thử, chớ cho rằng y theo định này mà nói".
"Này người thiện nam! Pháp hữu vi sinh cũng là thường. Do "Trụ" vô thường, nên "Sinh" cũng vô thường".
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đáp câu hỏi về thường, vô thường. Vì hữu vi nối nhau mà thường, nên nói "Sinh cũng thường".
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp hai câu đầu. Hữu vi, là tên gọi của hữu lậu. Nói về pháp hữu vi sinh diệt của hữu lậu kia, từ đó mà khởi sinh. Vì nối nhau nên "Trụ", vì thay đổi nên "Dị" vì giảm bớt nên hoại, diệt. Bốn tướng cùng lúc hiện tại, pháp khởi là hữu, nên thường do lúc khởi, có trụ, lấy sinh nối nhau diệt làm "Trụ" vô thường, nên "Sinh" là vô thường".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chẳng phải hoàn toàn là thường, cũng chẳng phải hoàn toàn là vô thường, vì thường, vô thường nên được pháp "Sinh". Vì sinh sinh nối nhau, nên gọi là thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngoài pháp không có tướng sinh riêng, chỉ thích hợp với phần vị của sinh không thay đổi, cũng được gọi là thường. Vì "Trụ" cách biệt với vị lai, nên gọi là vô thường. Bốn tướng thích hợp với nghĩa phần vị đều giống như vậy."
"Trụ" cũng là thường. Vì sinh sinh nên "Trụ" cũng vô thường.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trụ cũng là "Có", "Có" cũng là thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do pháp thay đổi, nên gọi là "Dị".
Vì pháp vô thường, nên Dị cũng phải như vậy."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Cũng nên giống với câu trước rằng: "Dị cũng là thường. Do hoại vô thường, nên Dị cũng vô thường. Đây là lẫn lộn với văn kia.
Nay, nêu pháp: Chỉ bày đối tượng sinh (sở sinh), chủ thể sinh (năng sinh) đồng là hữu vi. Lại, trước có nói: "Nếu sinh vô thường thì hữu lậu là thường." Vì y cứ tương quan trong lời nói, nên một câu này nói về pháp cũng là vô thường.
"Hoại cũng là thường. Do trước "Vô mà" nay hữu nên" cho đến "Vì có thể dứt, diệt nên gọi là vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chánh pháp sẽ diệt mất vào. Thể của đầu, cuối đã mãn, được tên gọi. Cái "Có" ở đây. Vì xưa vô, nay hữu nên là vô thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tánh chất của xưa vô, nay hữu, nghĩa ấy không thường. Thế nên hư hoại, hư hoại cũng vô thường!"
"Này người thiện nam! Pháp hữu lậu khi chưa sinh" cho đến "Lúc cha mẹ hòa hợp thì có "Sinh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc chưa sinh đã có tánh chất của "Sinh": Tạo ra điều xấu ác là ngang trái, tất nhiên sẽ phải vời lấy quả báo ngang trái. Khi chưa sinh đã có lý "Sinh". Tánh lành không ngang trái, không chiêu cảm quả báo ngang trái, đó là lý vô sinh vô lậu." Đây là đáp câu "Vô lậu bất sinh" nói ở trên."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trên nói: "Vì sao bất sinh diệt đế vô lậu?" Nay nói Diệt đế không thể vì tướng mà sinh, chính là do liễu nhân chiêu cảm!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích câu thứ ba trở xuống, là bốn câu hỏi."
"Bấy giờ, Bồ-tát Lưu Ly Quang" cho đến lại muốn thưa hỏi, cúi mong Phật cho phép."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhận hiểu và vì Bồtát Vô úy thưa hỏi."
"Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Vô úy" cho đến "Trí nhạy bén, danh lợi có thể hiểu."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hỏi có hai ý:
1. Do nghiệp nào mà được sinh về cõi nước thanh tịnh?"
2. Hỏi: "Các Bồ-tát ấy do nghiệp gì mà có oai đức lớn này?"
Bấy giờ, "Đức Thế tôn liền nói kệ rằng:" cho đến "Tạng bí mật của Phật, thì sinh về cõi Bất Động."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đức Thế tôn Mãn Nguyệt sở dĩ không đáp câu hỏi của Bồ-tát Vô úy là vì sự hiện diện của tám muôn bốn ngàn người ở đây, hễ nghe thì liền tỏ ngộ thì làm sao không đợi Phật giải thích mà tự hiểu được. Bồ-tát ở cõi nước Bất Động lấy hổ thẹn vì sự ngu mê, chậm lụt của đại chúng, nên quyết nguyện sinh về cõi nước thanh tịnh, đó là lý do khiến Bồ-tát Lưu Ly Quang thưa hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Gồm hai mươi mốt hàng kệ, nói tu mười điều lành, bỏ mười việc ác, nên được sinh về cõi nước thanh tịnh kia". Trước là đáp câu hỏi thứ nhất."
"Bấy giờ, Đại Bồ-tát Vô Úy" cho đến "Nghiệp duyên đã gây ra, sẽ được sinh về cõi nước kia."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhận hiểu."
"Bạch Đức Thế tôn! Bồ-tát Quang Minh Biến chiếu Cao Quý Đức Vương này" cho đến "Khẩn-na-la, Mahầu-la-già...."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chính mình chưa tỏ ngộ, do thứ lớp thỉnh pháp nên vì chúng thỉnh lần nữa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bồ-tát Vô úy lại dùng câu hỏi của Bồ-tát Đức Vương để xin Phật đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sở dĩ xin Phật giải đáp câu hỏi: "Đến mà không đến" trước kia của Bồ-tát Đức Vương, là để khiển trách câu hỏi sau của Bồ-tát Vô úy. Về nghĩa sẽ được biểu hiện như dưới đây."
Bấy giờ, Đức Thế tôn liền bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Vì sao không đến mà đến?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sẽ giải thích theo thứ lớp trong văn dưới đây:"
Này người thiện nam! Nói về không đến, nghĩa là Đại Niết-bàn này" cho đến "Vì nhân duyên phiền não, nên nói đến mà đến."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hạng căn tánh chậm lụt, mới chẳng phải một phen nghe qua, mà phải giải thích lặp đi lặp lại nhiều lần, họ mới hiểu."
Ở trên dùng "Đảo" "Không đảo" để dụ cho "Nghe" "Không nghe". Giờ đây trước, giải thích về dụ cho đó:"
"Này người thiện nam! Nghe chỗ không nghe, cũng giống như vậy" cho đến "Do nghĩa này, nên nói là không nghe mà nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã dùng giải thích ví dụ hợp lại bốn câu: Như nghe v.v.... Bốn câu này ở trong sáu câu hỏi. Đáp câu hỏi đầu, gồm đáp các câu hỏi thứ hai, thứ ba và thứ tư.
Không nghe mà nghe: Giải thích câu hỏi thứ hai, nhân kinh Niết-bàn nghe chỗ không nghe.
Giải thích câu hỏi thứ ba, thứ tư về danh, tự có thể nghe. Giải thích hai câu hỏi thứ năm, thứ sáu, vì chẳng phải hữu vi, cho đến "Vì không nói". Vì ba pháp này chẳng phải âm thanh, nên không thể nghe. Bát-nhã dứt bặt các tướng, nên không thể nói hữu, nói vô. Vì pháp thân không có hình tướng cố định, không thể dùng cái thấy của trời, người mà thấy được. Cho nên Niết-bàn không thể nói.
Vì được nghe Danh nên dù thân, trí không có tên gọi nhất định, bốn danh không thể nói khác. Các danh từ thường, lạc có thể nghe."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích nghĩa đã xong. Cho nên lại nêu câu: "Nghe mà có nghe..., là để kết luận, làm gốc cho thuyết sau." "Bồ-tát Quang Minh Biến
Chiếu Cao Quý Đức Vương bạch Phật" cho đến "Sao lại nói là thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ nhất: "Nếu dứt được phiền não, thì lẽ ra là vô thường?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nhờ âm thanh mới có câu hỏi này. Gồm có sáu câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất, nêu trước kia vô mà nay hữu để làm câu hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu trước "Không" mà nay "Có", thì làm sao gọi là thường được?"
Lại nữa, bạch Đức Thế tôn! Do trang nghiêm" cho đến "Vì thành tựu nhân duyên Niết-bàn, nên gọi là vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ hai: "Do trang nghiêm mà được, cũng là vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thế gian do trang nghiêm mà thành. Nếu bảo rằng Niết-bàn cũng nhờ dùng muôn hạnh để trang nghiêm, thì sao được gọi là thường? "
Lại nữa, bạch Đức Thế tôn! "Có" cái gọi là vô thường" cho đến "Do nghĩa này, nên gọi là vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ ba, "Nếu là cái có thể được thì tức là vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hễ "Có" pháp thì đều là vô thường. Trước kia, Phật nói: "Nếu bậc Thánh Ba thừa đều "Có" Niết-bàn." Thì do nghĩa này, nên lẽ ra là vô thường!"
Lại nữa, "Bạch Đức Thế tôn! Pháp có thể thấy" cho đến "Thì sẽ dứt được tất cả phiền não."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ tư: "Vì có thể thấy, cho nên là vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu thấy Niết-bàn mà dứt phiền não, thì không chấp nhận là Thường được."
Lại nữa, "Bạch Đức Thế tôn! Ví như biết hư không" cho đến "Nếu không như vậy, thì làm sao gọi là Thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ năm: "Vì không có chung, tức là vô thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã không bình đẳng, thì làm sao nói là Thường được?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu là thường thì đáng lẽ như hư không mới phải, đàng này vì còn có cái được, không được, thành ra không nên Thường."
"Ví như có người cung kính cúng dường" cho đến "Như cái "Không có" của danh kia, làm sao nói được?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Câu hỏi thứ sáu: "Vì có danh nên vô thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì không khỏi danh, nên biết là vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu có sự khác nhau giữa thường, lạc, ngã, tịnh, thì cũng không được gọi là thường."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Chẳng phải trước "Không " mà nay "Có", cho nên là Thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ nhất: "Niết-bàn chẳng phải vốn có: Niết-bàn lấy tánh diệt làm nhân. Thân, trí lấy diệt nối nhau làm nhân. Nhân chẳng phải vốn "Không", nên quả chẳng phải vốn có. "Có" làm nhân là "Vô thường", thì quả cũng vô thường. Nhân vô vi là thường, thì quả cũng thường. Pháp mà Chư Phật tôn làm thầy, vì pháp thường nên Chư Phật là thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trước có sáu câu hỏi, nay chỉ đáp bốn. Còn lại hai câu hỏi sau, vì thô cạn, nên Phật không đáp. Ở đây Phật giải đáp câu hỏi đầu: "Niết-bàn chẳng phải trước không, mà nay có."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải xưa "Không" mà nay "Có", nghĩa là vì sinh, tử nương vào Như lai tạng, nên nghĩa của một nhà nói rằng: "Thần minh là tánh của sự nghĩ biết, chỉ vì mê lầm đối với "Duyên", nên khởi lên sinh tử! Nếu lìa duyên, phát sinh kiến giải, thì bản chất giả dối sẽ bị tiêu diệt, lý chân thật thường tồn tại, sẽ có nhiều công dụng của muôn đức!"
"Này người thiện nam! Như cái giếng trong ngôi nhà u tối" cho đến "chẳng nên nói trước không mà nay có."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì bị vô minh che lấp, nên không thấy, chứ chẳng phải nói trước không mà nay "Có."
"Này người thiện nam! Ông vừa nói rằng, vì do trang nghiêm" cho đến "Do tự trang nghiêm, sau đó mới thấy." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai: "Không có nơi chốn phiền não là Niết-bàn chân thật, nơi chốn này vắng lặng, không thể trang nghiêm. Ông tự trang nghiêm để mong cầu thôi, chứ chẳng phải trang nghiêm Niết-bàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì dứt bỏ chướng ngại, nên chân được sáng tỏ. Chẳng phải khi mê hoặc dứt hết rồi mới có chân sinh ra."
"Này người thiện nam! Ví như dưới lòng đất có mạch nước với tám mùi vị" cho đến "Thì Niết-bàn sẽ được cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nước trong lòng đất, vì người không biết, nên cho là không có. Đào xuyên qua đất, thì sẽ thấy có nước, há cho rằng nước mới có ư? Chân thể Niết-bàn, do tu điều lành mà có, chứ chẳng phải do nhân tạo ra, há là vô thường ư?"
Ví như người mù không thấy mặt trời, mặt trăng" cho đến "Trước đã tự "Có", chẳng phải đến nay mới "Có"."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ tư."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về danh từ Niết-bàn, về lý có hai đường: Một là y theo công dụng để đặt tên; hai là y theo thể tướng để làm tự. Ở đây y theo thể để biện luận. Cứ theo chân để nói về dụng thì muôn đức Niết-bàn cũng thường."
"Này người thiện nam! Như người có tội bị trói, giam vào nhà tù" cho đến "Thấy lại vợ con quyến thuộc, Niết-bàn cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ năm. Dù dẫn ba thí dụ, ở đây một câu đáp này, cũng giải thích chung. Như người đới kia, nếu biết cung kính, cẩn trọng thì thường an ổn, còn hành động ngang trái thì chắc chắn sẽ rơi vào lưới, mà cha mẹ thì thường tự vốn có, chỉ vì chúng sinh sinh tử điên đảo, đâu phải Niết-bàn mới có ư?"
"Này người thiện nam! Ông nói vì nhân duyên" cho đến "Mới được gọi là nhân của Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã đáp riêng xong. Lại, giải thích về nhân Niết-bàn. Vì Niết-bàn là Liễu nhân, chẳng phải tác nhân, nên thuộc về thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại nêu câu hỏi thứ hai để giải thích lại. Ở trước nói: Chẳng phải do trang nghiêm mà thành". Nay nói: "Từ liễu nhân mà hiện, không từ nhân tố sinh mà sinh."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Đây là Niết-bàn, đây là Đại Niết-bàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tu kinh thấy "Không", hội thông hai Đế, được thành sáu Độ, đây là Đàn, đây là Ba-la-mật, nghĩa là thấy Đệ nhất nghĩa, tức là thấy Thế đế."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Đức Vương do giải thích này nên lại đặt ra hai câu hỏi:
1. Thế nào là thực hành sáu độ, gọi Ba-la-mật mà có người không được danh.
2. Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là Đại Niết-bàn?"
"Này người thiện nam! Thế nào là bố thí mà chẳng phải Ba-la-mật" cho đến "Như trong kinh Tạp Hoa, Phật có nói rộng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chính là đáp câu hỏi đầu tiên. Nói về hạnh, thể của hạnh, thì phải quên hoài bảo. Nếu thấy có công hạnh để thực hành, thì sẽ thành phân biệt. Là vì Bồ-tát chỉ dụng tâm mà được việc, nên không thấy có chủ thể thí và đối tượng thí. Không thấy có công hạnh để thực hành, nên bố thí rộng lớn. Tu nhân, chứng quả, không trái với Trung đạo. Nếu được như thế, thì gọi là Ba-la-mật. Sở dĩ như thế, là do Bồ-tát quên ba Đạt, các pháp luống dối. Không thấy có người cho, kẻ nhận. Nhất tướng vô tánh, nếu không có "Giải không" này, thì sẽ không được gọi là Ba-la-mật. Cho nên kinh nói: "Thấy có người xin, sau đó mới cho, thì sự bố thí này chẳng phải là Ba-la-mật."
- Nói về nghĩa bất định của bốn hạng người tội như Hộ Pháp...
- Nói về nghĩa Xiển-đề dứt mất gốc lành.
- Nói rộng Chư Phật chẳng phải trời, chẳng phải không phải trời v.v...
- Nói về nghĩa ba lậu.
- Nói nghĩa bảy lậu.
"Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát" cho đến "Đó gọi là không nghe mà nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên đã nói "Tác nhân" của hữu vi là vô thường, Niết-bàn từ liễu nhân" mà được nên là thường. Nếu vậy, thì mười hai bộ kinh đều là "Liễu nhân" của Niết-bàn, tức là kinh, với văn, nghĩa sâu sắc, kín đáo, người Nhị thừa chẳng nghe được."
Trong kinh Thanh văn, Duyên giác không nói Xiểnđề có Phật tánh. Cho nên nói lại việc này là vì muốn phát câu hỏi của Bồ-tát Đức Vương."
"Đại Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Đức Vương" cho đến "Vì sao gọi là Nhất-xiển-đề?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Đức Vương dùng hai câu hỏi: Đầu tiên, dùng câu hỏi về Phật tánh là một, thành nghĩa không nhất định của Niết-bàn thứ năm ở trước: "Nếu Phật tánh là thiện, thì lẽ ra phải ngăn ngừa địa ngục và Xiển-đề? Nếu tánh là thường, thì nên ngăn ngừa làm cho chẳng vô thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là sự phát sinh của câu hỏi do ở trước mà có. Trong sáu câu hỏi ở trước, câu đầu làm cho vốn "Không" mà nay "Có". Đức Như lai đã giải thích về nghĩa này, đồng thời nói chẳng phải mới có, là nói lý Phật tánh, nói lên muôn hóa ở ngoài sinh tử. Chỉ thú đó đã rõ ràng. Bồ-tát Đức Vương tiếp nối với lời nói "Vốn có", bèn cho Phật tánh và ấm là một. Ấm đã vô thường, thì sẽ làm cho Phật tánh cũng vô thường. Trong đây có tám câu, ba câu hỏi trước làm cho không được "Đã có". Nếu "Có" thì lẽ ra thấy được tác dụng. Nếu "không" thì lúc Kim cương lui mới "Có". Lại trở thành trước kia không mà nay "Có", tức là vô thường. Năm câu sau, là hỏi về vô thường. Xét về lý do câu hỏi không nhất định, trước kia, Phật đáp câu hỏi của Bồ-tát Cao Quý, nói về lý không nhất định. Nay, nêu câu hỏi: "Nếu lấy "không nhất định để làm cho "Không nghe" được nghe, thì lẽ ra sinh lại. Đầu tiên là hỏi: "Nếu có Phật tánh thì lẽ ra có tác dụng, tức lẽ ra phải ngăn chận địa ngục, đàng này hiện nay, người phạm bốn giới cấm, năm tội nghịch sẽ không tránh khỏi đường ác. Phải biết rằng trong thân chẳng phải "Vốn có". Nếu không phải "Vốn có", tức là vô thường.
Câu hỏi thứ hai: "Nếu quyển sau nói: Nếu trong "Thân có tánh, tánh này đã thường, thì lẽ ra có dụng là thường, lạc," vì sao lại nói là không có thường, lạc, ngã ư? Nếu ngã vô thường thì trong thân sẽ không thể có tánh."
Câu hỏi thứ ba: "Xiển-đề dứt điều lành, mà nói rằng đã có Phật tánh, tức lẽ ra đã bị xiển-đề dứt bỏ. Nếu ông nói "Dù có Phật tánh, nhưng không thể dứt", thì lại không được nói rằng chẳng có thường, lạc, ngã. Nếu nói rằng tức thời chưa có, thì chính là nghĩa "Vốn không có". Vả lại, nếu có tánh, thì sẽ không thể làm cho dứt được, tức là nghĩa xiển-đề, lẽ ra không thành tráo trở, nêu lên câu hỏi.
Phạm bốn tội nặng, gọi là không nhất định, nghĩa là trước kia, vì y theo bốn hạng người trong tà định, vì không nhất định nên thuộc về vô thường.
2. Y theo vào nhóm chánh định, thì người Nhị thừa không nhất định, nên thuộc về vô thường.
3. Y theo Như lai, nói về không nhất định.
4. Y theo Niết-bàn nói về không nhất định. nêu chung tất cả pháp thông suốt nhân quả đều không nhất định. Dưới cho đến xiển-đề, trên cho đến Chư Phật. Xiển-đề là cội nguồn của điều ác cùng tột, vì nó không nhất định là người sẽ được thành Phật. Đức Như lai là cùng cực của điều lành, cũng do nghĩa không nhất định, trở thành sinh tử. Dù có năm câu hỏi, nhưng đại ý là hỏi về quả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Đức Vương, quyển sau mới đáp. Vì sao? Vì ở trước đáp câu hỏi đầu, sau nói rằng: "Người phạm trọng cấm và Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh. Nay đối với kinh này mà được nghe", Bồ-tát Đức Vương nay nhân lời nói này lại nêu ra hai câu hỏi: Đức Phật đã chính thức khiển trách, nỗi hoài nghi này trước tiên, nên sau là giả đáp, nhắm vào tướng mạo Niết-bàn của Đại thừa, Tiểu thừa.
Trong hai câu hỏi sau, câu hỏi đầu có năm quan điểm: Nếu cho rằng người phạm tội nặng và Nhất-xiểnđề đều có Phật tánh, Phật tánh là thiện, vì sao đạo vào địa ngục. Quan điểm thứ hai nói: Nếu là bình đẳng thì tất nhiên có Phật tánh, không nên nói rằng chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh.
Quan điểm thứ ba nói: "Nếu dứt gốc lành thì gọi là Nhất-xiển-đề.
Phật tánh là điều lành, vì sao không dứt?
Quan điểm thứ tư nói: "Nếu quả Phật tánh dứt, thì sao lại nói là thường lạc, ngã, tịnh?"
Quan điểm thứ năm nói: "Nếu Phật tánh không dứt thì lẽ ra không được gọi là Nhất-xiển-đề.
Dù có năm quan điểm này nhưng đều xoay vần làm thành tựu lẫn nhau, đút kết chung một câu hỏi."
Pháp-Sư Trí-Tú nói: "Do Đức Phật đã đáp câu hỏi ở trước rằng: "Niết-bàn chẳng phải vốn không mà nay có, thể chẳng phải là pháp nghe". Lượt thứ ba này lại đặt ra câu hỏi về chấp Xiển-đề không có tánh, kể cả không nhất định, khiến cho thể Niết-Bàn trở thành vốn không mà nay có, tức là pháp nghe được vô thường. Ba câu đầu là câu hỏi dù khác nhau, nhưng về ý thì vì muốn làm cho Phật tánh chẳng phải "Vốn có", Niết-bàn lẽ ra "Vốn không" chẳng thể không phải là pháp nghe. Năm câu sau đặt ra câu hỏi không nhất định để trách cứ, làm cho các pháp đều không nhất định. Niết-bàn đã như vậy, thì lẽ ra lại là vô thường, trở thành pháp nghe."
"Bạch Đức Thế tôn! Phạm bốn tội nặng, gọi là Bất định" cho đến "Nhất-xiển-đề... sẽ được Niết-bàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai: "Xiển-đề lẽ ra không thành Phật. Vì sao? Vì bốn hạng người đều là tà định. Nếu tà định không nhất định thì chánh định lẽ ra cũng không nhất định. Nếu không nhất định thì Niết-bàn, chẳng phải thường. Nếu có thường, lạc thì xiển-đề lẽ ra không thành Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây sẽ đặt ra câu hỏi về Bất định. Ở trước đều nêu các việc bất định. Sau đó, kết các câu hỏi. Nếu xiển-đề là bất định thì sau cũng sẽ thành Phật. Muôn pháp đều như vậy. Niết-bàn đã là số của muôn pháp, lẽ ra cũng bất định, lại có thể tạo ra sinh tử."
Pháp sư Pháp Dao nói: "Nếu quả là bất định thì phải biết rằng sẽ không có thường, lạc."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Ta sẽ phân biệt, giảng nói cho ông nghe."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sẽ đáp câu hỏi, trước là khen ngợi Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu đã chứng được lý, gồm cả khuyên răn."
"Này người thiện nam! Nhất-xiển-đề cũng không quyết định" cho đến "Vì không quyết định cho nên có thể được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước đáp, sau hỏi." Pháp sư Tăng Tông nói: "Y theo phần đáp thì trước là đáp câu hỏi thứ tư, ở trước Bồ-tát đã dẫn chứng bốn thứ tà định để làm câu hỏi. Nay, lại nêu xiển-đề. Sau, lại trải qua bốn người xuất định. Kế là đáp câu hỏi thứ ba, thế của nghĩa là gồm đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai. Dưới đây, đáp về Nhị thừa xong, chưa đáp câu hỏi thứ năm. Trước đáp câu hỏi thứ sáu về Niết-bàn. Câu đầu, thật sự như lời ông nói, chính là do không nhất định, nên được thành Phật, chỉ vì pháp không thể có một loại, nên muốn cho Niết-bàn cũng không nhất định. Vì sao? Vì nói về pháp có đồng, khác. Nếu là hữu vi thì sẽ có ba thứ, do thể của chúng vô thường, nên là giả nối tiếp nhau, do chúng không có tự tánh, nên có nhân nhất thời trở thành giả. Vì đối đãi nhau mà được gọi tên, nên có giả đối đãi nhau. Nay, Niết-bàn chỉ đối đãi nhau trong danh từ mà thôi. Do nghĩa như thế, nên cũng là nghĩa gọi không nhất định, vì Niết-bàn kia là thường. Vì tránh khỏi tướng của hai giả, nên là thật sự không nhất định."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chưa phải đáp một cách thích đáng mà là lược nêu câu hỏi thứ hai để mở rộng tâm cho mọi người, làm sao cho thể của muôn pháp sẽ không có tướng cố định."
Pháp sư Trí Tú nói: "Sở dĩ Đức Phật giải đáp riêng, là vì câu hỏi thứ tư là muốn nói về xiển-đề thành Phật, biết được việc lành đã bị dứt chứ không phải dùng Phật tánh để thành lập nghĩa của ba câu hỏi trước. Câu hỏi thứ nhất này, trước nêu câu hỏi thứ tư, về việc thứ tư, vì muốn nói là xiển-đề sau này sẽ được thành Phật, nên biết được việc lành đã bị cắt đứt, trong nhân chứ chẳng phải Phật tánh, để thành lập nghĩa của ba câu hỏi trước."
"Như ông vừa nói Phật tánh không dứt" cho đến "Vì chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, nên không dứt được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba, xuất xứ từ lý thì gọi là trong, không từ lý, thì gọi là ngoài. Trong, ngoài đều là tánh thì không thể dứt."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây sẽ đáp câu hỏi thứ ba trong ba câu hỏi ở trước. Về ý của câu hỏi ở trước là muốn cho gốc lành của xiển-đề đã dứt, thì tánh cũng nên dứt. Nay, Đức Phật đáp rằng: "Việc lành có hai thứ: Ngoài và trong. Nghiệp của ý lành là bên trong, nghiệp của thân, miệng lành là bên ngoài. Vì Phật tánh chẳng phải trong ngoài, nên chẳng phải vô thường. Phật tánh của xiển-đề là sẽ có, không phải đã có, thì đâu thể khiển trách, ngăn ngừa địa ngục. Đã nói sẽ có thì đâu có nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh, với tư thế có thể gồm đáp câu hỏi thứ nhất, thứ hai.
Lại, có hai thứ, nói rộng về Phật tánh khác nhau. Ở đây nói vô lậu là nhân địa vô lậu, chẳng phải thường, nghĩa là Phật tánh khác với chỗ diệt của ba tâm và ba vô vi thường. Nếu dứt được rồi, thì gọi là xiển-đề, nói là việc lành mới khởi sự làm là có thể dứt. Về sau, vì lại được trở lại, nên do việc dứt điều lành mới bắt đầu tạo tác, thành ra gọi là xiển-đề. Lý Phật tánh là thường. Tánh tướng thường như vậy, đâu thể dứt ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói chính là: "Nêu câu hỏi thứ nhất, để đáp lời ta nói ở trên rằng, ví dụ nêu ra có Phật tánh, chỉ có tánh của chánh nhân, vốn không có duyên nhân, vì sao lại đặt ra câu hỏi này mà làm cho vì đã dứt sự sinh rồi lại được việc lành, nên có tên là xiển-đề.
Điều lành có hai thứ: Một là trong; hai là ngoài. Nếu ý địa đã sinh ra việc lành thì gọi trong, từ thân miệng mà sinh ra việc lành là ngoài. Tánh của chánh nhân chẳng thuộc về việc lành trong ngoài này, nên không dứt hữu lậu, vô lậu: Nếu với tướng hẹp hòi mà khởi lên việc lành thì gọi là hữu lậu. Nếu đối với "Duyên" gọi là cảnh "Giải" thì sẽ không cùng có với "Hoặc", gọi là vô lậu. Nói về tánh của chánh nhân cũng chẳng phải hai điều lành này, cho nên chẳng dứt.
Thường, Vô thường: Trước kia, điều lành trong diệt Đế gọi là Thường. Được khởi từ trong duyên gọi là Vô thường. Tánh của chánh nhân cũng chẳng phải là thiện thường, thiện vô thường, cho nên không dứt bỏ, mà chánh nhân Phật tánh nếu có thể dứt bỏ, thì lẽ ra phải đồng với điều lành đã nêu trên. Nhưng nay không phải như vậy, nên biết không dứt, mà chính là vì dứt các duyên mà sinh ra điều lành, nên được gọi là Nhất-xiểnđề."
"Lại, có hai thứ gốc lành: Thường và Vô thường" cho đến "Phật tánh chẳng phải thường, vô thường cho nên không dứt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chánh nhân là thường, duyên nhân là vô thường."
"Nếu là dứt bỏ gốc lành thì lẽ ra lại được" cho đến "Nếu dứt bỏ gốc lành rồi thì sẽ được gọi là Nhất-xiểnđề."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về năng lực của pháp "Khởi tác", khuynh loát nhau khởi tà kiến, dứt bỏ gốc lành, đọa địa ngục, khởi chánh kiến, thì sẽ dứt bỏ xiển-đề, ngăn dứt địa ngục. Phật tánh chẳng phải "Khởi tác", nên không thể ngăn dứt vô thường của địa ngục. Và xiển-đề là đáp chung ba câu hỏi trước."
"Người phạm bốn tội nặng, cũng không nhất định" cho đến "Thấy tất cả pháp, đều là tướng vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người phạm bốn tội nặng, còn gọi là đáp câu hỏi sau."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là đáp câu hỏi thứ hai, nói về xiển-đề, dù ngay khi dứt bỏ gốc lành, về sau, nếu lúc gốc lành phát ra, xiển-đề kia chắc chắn sẽ thành Phật; không dừng lại giữa chừng. Nếu là nhất định, thì làm sao thành Phật được? Niết-bàn mới là số của muôn pháp, vì thể, dụng của Niết-bàn là nhất định, nên không được đồng với sự giả dối không thật của sinh tử, mà là thể chân thật không nghiêng động, dấu vết không có tướng mạo nhất định. Trước nói mười ví dụ để nói muôn pháp là luống dối, sau nói rộng về hóa độ chúng sinh."
"Này người thiện nam! Cũng có tướng nhất định" cho đến "Được phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là Niết-bàn, vì đối lập với hai mươi lăm cõi, nên thuộc về nhất định."
"Này người thiện nam! Hôm nay, Như lai đang ở trong rừng Ta-la Song Thọ, thành Câu-thi-na" cho đến "Như lai Niết-bàn cũng không nhất định như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn có Đại, Tiểu cũng có nhiều nghĩa. Nay, chỉ cho bốn nghĩa: Thường, lạc, ngã, tịnh của Đại Niết-bàn là nhất định, nghĩa khác đều bất định. Như pháp hữu vi vô thường, khổ là nhất định, nghĩa khác không nhất định. Hai phần mở đầu không thể thiêu đốt, nghĩa là hai thân chân và ứng không thể diệt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đây trở xuống, cho đến câu "Chẳng phải thuyết, chẳng phải phi thuyết", phải biết rằng, thân Như lai chẳng phải Như lai, chẳng phải không phải Như lai. Cho nên, Như lai không nhất định."
"Này người thiện nam! Nên biết rằng Như lai cũng lại không nhất định" cho đến "Do nghĩa này nên Như lai không nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một câu phi Thiên ở trước, bốn loại trời, nói Như lai đều chẳng phải. Từ phi nhân trở xuống, trước nêu xong, sau là giải thích theo thứ lớp."
"Này người thiện nam! Vì sao Như lai không gọi là thế Thiên" cho đến "Thế nên Như lai cũng chẳng phải không nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói tướng chúng sinh; tự nói: "Ta là Sư tử trong loài người." Các tướng đều có tướng riêng khác: Như mắt không ngửi được mùi hương, tai không thấy sắc. Chư Phật không phải như vậy, chỉ có một tướng, nghĩa là có thể dùng pháp thân làm mắt, không thể dùng sáu căn để phân biệt. Phẩm Kim Cương Thân nói: "Trừ một pháp tướng, không thể dùng một tướng trời, người để gọi. Pháp giới của Như lai nghĩa là pháp tánh của Như lai. Từ lâu đã xa lìa các tướng, nghĩa là ở trên đã nói về ba mươi hai tướng, dưới đây sẽ nói Như lai từ lâu đã lìa bỏ việc này.
Khéo biết các tướng: Tùy chúng sinh thích ứng với các tướng mạo, Như lai đã biết rõ, vì họ mà ứng hiện. Vì tướng hư không, nghĩa là hư không chẳng có phân biệt. Như lai không phải như vậy."
"Như lai chẳng phải hữu lậu. Vì sao?" cho đến "Như lai đã dứt hẳn, cho nên chẳng phải hữu lậu."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là giải thích chẳng phải hữu lậu. Trước nói chung chẳng phải ba lậu. Từ sau ba lậu khởi bảy lậu; hai là hữu lậu, năm là nhân duyên trợ lậu. Nhân duyên đó có khi từ đạo đối trị mà đặt tên, có khi từ nhân mà đặt tên. Vì sắp nói khởi kiến, nên trước nói về tâm nghi ngờ. Đây là lý do của kiến."
Và một cách giải thích khác: Sinh sáu thứ kiến: Đây chính là Kiến lậu, không có tự thể riêng, tư duy về nghĩa lậu, tự có thể biết."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chư Phật có khả năng lưu lại tích thể cùng tận như vậy không có tất cả lậu, có tất cả công đức, nên có chỗ vận dụng là dứt bặt cảnh giới trời, người, phàm phu vì đủ các lậu, nên không có thần đức này.
Dưới đây, bỏ nhân tức là nói rộng về lỗi khởi lậu của phàm phu. Nếu xét về nguồn gốc của lậu kia, không ngoài tư duy kiến đế, mà hai lậu là gốc. Chính vì có hai lậu này, nên có thể sinh nhiều các lậu. Nay, một mặt nói về lậu, phần lớn có bảy thứ. Nếu lìa ba lậu thành bảy, thì cũng không bao giờ lìa tư duy kiến đế. Bảy lậu là:
1. Kiến đế lậu.
2. Tư duy lậu.
3. Căn lậu.
4. Lìa lậu.
5. Thân cận lậu.
6. Thọ lậu.
7. Niệm lậu.
Sau đây, sẽ bỏ thứ lớp, giải thích bảy môn này, nói lại lỗi lầm của lậu kia. Nếu người tu hành phải nương vào Đại Niết-bàn này để tạo ra quán giải, thì lậu kia diệt ngay, thường được vô vi."
Pháp sư Trí Tú nói: "Sau đây là bắt đầu nêu ba lậu trong bảy lậu, chính thức ra khỏi tư duy kiến đế, làm thể của chánh lậu, kế là ra khỏi kiến nghi, làm sáng tỏ riêng lậu kiến đế."
Lại nữa, "Tất cả phàm phu không thấy hữu lậu" cho đến "Thường tu hạnh Thánh thế cho nên vô lậu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây là giải thích bảy lậu. Hữu lậu thấy lậu là lậu chân thật, năm thứ còn lại là nói nhân lậu. Trong hữu lậu được chia thành hữu lậu và kiến lậu, vì tự nghi ngờ sinh nên trước nói, bởi phàm phu không thấy lỗi của hữu lậu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Hai lậu trước là chương môn. Nói ta chấp ngã: Thấy ngã giả mà chấp là ngã thật, cũng có thể Phật địa là ngã chân thật mà chấp thành cái ngã của lúa mì, dầu mè. Ngã chấp không có ngã: Đức Phật thật sự là ngã, chấp là vô ngã. Không có ngã, chấp là ngã: Đối với sinh tử, chấp ngã là thường, sinh ra sáu thứ kiến. Quyết định có ngã, khởi thân kiến. Vô ngã là chấp đoạn.
Không có ngã chấp là ngã: Như ngủ là vô ngã, thấy nơi tịnh sắc. Ngã chấp ngã, nghĩa là dùng sức định thấy vi lai nối nhau không dứt. Ngã chấp vô ngã, nếu nắm lấy bốn ấm làm "Ngã", thấy sắc chẳng phải "Ngã", hãy nêu một ngã, rồi tự giải thích là không tồn tại. Ngã làm cho nhận biết, ba câu này là một. Đây là dùng làm nhỏ khác, không ngoài thân kiến. Nếu không như vậy, thì quyết định ở trước là chương môn, "Ngã" ở phần sau làm biết, lại làm ba câu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là chính là phát ra thể lậu, nói bảy lậu này đều không lìa tư duy kiến đế. Nhưng vì chúng sinh si mê nặng nề, nên các thứ chấp giả dối đều không được pháp thật. Nhân là nghi, kiến sinh ra sáu thứ tâm, nghĩa là ở hai tâm bắt đầu: Quyết định có ngã và quyết định không có ngã là câu chung, e rằng chẳng phải là số sáu.
"Ngã chấp ngã, nghĩa là tâm thứ nhất chỉ có giả gọi là "Ngã", do phàm phu chấp có pháp của một ngã tánh.
"Ngã" chấp không có ngã: Tâm thứ hai Đức Phật thật sư là chân ngã, chấp ngang trái thành không có ngã.
Vô ngã chấp là "Ngã": Tâm thứ ba thật sự không có thần ngã, nhưng là giả gọi là chấp ngã: Nói là ngã của thật tánh. Ba tâm còn lại dưới đây, là tác giả, thọ giả và tri giả do phàm phu chấp giả dối, cho nên thành tà kiến. Đức Như lai đã dứt hẳn nguồn gốc hữu lậu này, cho nên chẳng phải lậu."
"Này người thiện nam! Phàm phu không thể khéo nhiếp năm căn" cho đến "Quán sát năm dục có nhiều lỗi xấu ác như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây là nói về căn lậu. Dựa vào sáu căn mà khởi, gọi là căn lậu, nếu thu nhiếp sáu căn, chế ngự không làm điều sai lầm, thì điều xấu ác sẽ chấm dứt. Nếu y theo pháp đối trị thì gọi là giới lậu."
Lại nữa, "Đại Bồ-tát quán sát các chúng sinh" cho đến "Đã dứt hẳn cội rễ, nên chẳng phải lậu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai mươi lăm dặm dụ cho hai cõi. Dùng tướng nhiếp làm thí dụ. Vua dụ cho
Phật. Một quan dụ cho Bồ-tát. Bát dầu dụ cho niệm, tuệ." Dứt mạng của ông, nghĩa là vì mất niệm, tuệ, nên tuệ mạng dứt. Một người rứt dao, dụ cho tinh tấn thấy tịnh, bất sinh sắc tướng" cho đến "Thức cũng như vậy", nói về chân tục. Quán chân thì vô sắc, quán tục thì thấy khổ, không tạo ra tướng sinh" cho đến "Không tạo ra tướng nhân. Sinh diệt là hành khổ, nhân là tập. Giải thích trong chân, còn không có khổ tập, huống chi là quán sắc tịnh. Tướng hòa hợp nghĩa là hòa hợp tục, khổ này là tập.
"Lại nữa, này người thiện nam! Lại có lìa lậu" cho đến "Tư duy về ý nghĩa của sự lìa đó, đó gọi là lìa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lìa là đi, qua tức trước kia đã nói là thể lìa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là nói về lậu ác. Nếu từ đạo đối trị thì gọi là lìa lậu. Như giáo xưa đã nói về bò dữ, ngực dữ, tri thức dữ.... Nếu người lớn gặp phải pháp ác, thì khuyên bảo hãy tránh xa. Y cứ kinh nay để luận, nhìn thẳng là sinh tử không có "Ngã", liền được xa lìa. Vì sao? Đã là thể của Chư Phật được pháp làm thầy, thì biết sinh tử là luống dối. Vì y theo Như lai tạng mà có, nên không cần phải tránh xa.
Từ câu "Thế nào là gần gũi lậu" trở xuống, là câu thứ năm: "Nếu gần gũi y phục, uống ăn, thì con người sẽ sinh lòng tham, nhiễm, dứt tuệ mạng. Nếu không mê đắm bốn việc này, thì tức là điều lành sẽ được tăng thêm suốt ngày đêm, việc xấu ác sẽ dứt dần. Nếu y cứ pháp đối trị thì gọi là lậu gần."
"Này người thiện nam! Vì sao ta đều không thấy" cho đến "Tâm không gây ra điều ác như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói người truyền bá kinh, ở đây nói kinh là lìa."
"Này người thiện nam! Ví như ở thế gian có người giỏi về chú thuật" cho đến "Có vô lượng công đức như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thầy dạy hiền lành, đệ tử cung kính. Do hai việc này, có công năng tiêu diệt điều xấu ác. "Chú thuật" trở xuống, là dụ cho công năng của kinh này."
- Nếu ra duyên khởi của pháp chung.
- Nói rộng về lìa lậu.
- Nói rộng về nghĩ đến lậu.
- Ví dụ về bốn con rắn độc.
- Ví dụ năm Chiên-đà-la.
- Ví dụ giả dạng người thân.
- Ví dụ làng xóm hoang vắng.
- Ví dụ sáu tên cướp hung ác.
- Ví dụ con sông.
- Ví dụ bè cỏ.
"Này người thiện nam! Nếu có người nào có thể viết, chép kinh này" cho đến "Kinh này khó gặp hơn hoa Ưuđàm."
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Trước kia nói Như lai chẳng phải trời, người, mà cũng là trời, người. Nay nêu ra việc đó để chứng minh không giả dối."
"Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở quá khứ, vô lương vô biên" cho đến "Chỉ nhớ chắc văn cú một bài kệ."
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Phát ra duyên khởi rộng khắp để chứng minh không giả dối, nói về cả bài kệ đã được nghe, để chiêm nghiệm về năng lực của kinh và mong cầu chỗ chí lý của pháp."
"Như lai chứng Niết-bàn, dứt hẳn sinh tử" cho đến "Đức bí mật, rất sâu xa của Như lai."
Nhận xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Khen ngợi rộng năng lực của kinh, để nói về duyên tốt lìa ác.
"Do nghĩa này, nên người nào có khả năng thọ trì" cho đến "Huống chi đối với Như lai. Cho nên chẳng phải hữu lậu."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kết thúc xa lìa hữu lậu, sinh tử tức luống dối, vì dựa vào Như lai tạng mà có, nên không cần tránh xa." "Thế nào là gần gũi hữu lậu? Tất cả phàm phu" cho đến "Cho nên
Như lai không gọi là hữu lậu."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu gần gũi với áo, cơm thì con người sẽ sinh ra tâm tham nhiễm, dứt tuệ mạng của con người. Ngược lại, nếu xa lìa việc tham nhiễm thì pháp lành sẽ được thêm lớn."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Tất cả phàm phu" cho đến "Như lai, Thế tôn chẳng phải hữu lậu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thọ lậu, nghĩa là do sau ba thọ sinh khởi, nếu y theo đạo đối trị, thì lẽ ra gọi là định lậu, sau khổ thọ ra sinh phiền não là "Sân giác", sau lạc thọ khởi là tham giác."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Nếu phàm phu gặp" cho đến "Lìa bỏ các điều ác, hướng về đường lành."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ bảy là niệm lậu.
Lúc khởi ba thọ, chưa phải phiền não, biết khổ vui rồi. Lại sinh ý niệm bất chánh, nghĩ đến khổ vui mới sinh phiền não, nên ý niệm là nhân của lậu. Bậc Thánh giác ngộ khổ vui rồi, bất sinh tà niệm, nên bất sinh ra lậu."
Vì thân tâm gây ra các thứ khổ, nghĩa là vì tướng mạo của thân, tâm là tà nên không có khổ, không còn nói về lỗi của thân, kiến."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là phần bảy, nói về niệm lậu. Do nhân duyên của ý nghĩ tà vạy, nên khởi lậu, gọi là niệm lậu. Nếu y theo đạo đối trị, thì gọi là Hạnh lậu. Cho nên nói thân tâm khổ não, khởi lên các thứ ác, là vì nói về danh từ khô não, vốn là quả báo, mà phàm phu vì ngu si, không rõ do nghiệp đời trước chiêu cảm nên thở than là phi phần nghĩa là khổ không thể chịu nổi. Bên trong đã nhỏ hẹp điên đảo, không dùng lý để tự xử, đối với khổ nhẹ, phát duyên càng nặng.
Nếu nhận thức thích đáng về tự tánh của nhân quả, thì đối với nhân đời trước đã gây ra, vẫn yên tâm như thế, đâu có chấp nhận sinh lậu. Chính là do chúng sinh không hiểu về hai con đường này. Lại đối với sinh tử, giả dối nghĩ là vui, mê đắm cho là thật, vì ý nghĩ bất chánh sinh ra ngang trái, nên khởi các thứ tội ác. Nếu là bậc Thánh tâm ở trong đạo, suốt ngày ở sống với khổ, mà vẫn không có cảm giác là khổ, sống trong cảnh vui sướng, nhưng không cho là vui. Thế nên bất sinh ra lậu. Nay, Bồ-tát đã giác ngộ, nên tu giả gọi là pháp không, dứt hết gốc khổ. Do đó, từ đây trở xuống, sẽ y theo tám việc, tạo ra năm lớp ví dụ để giải thích. Nếu yên tâm mà theo lời Thánh nói, thì các lậu sẽ dứt hẳn, Niết-bàn có thể mong. Nếu không như vậy, thì dòng sinh tử sẽ nối tiếp mãi.
Tám việc, nghĩa là từ "Quán bốn đại trở đi, cuối cùng là lên đến ngọn núi lớn".
Năm tầng bậc: Một là được giả danh không; hai là được thật pháp không; ba là nói về hai không, trở thành tám vô lậu chân thật sau, dứt kiến đế, phiền não sạch hết, được quả Tu-đà-hoàn; bốn là sau khi chứng đắc Sơ quả, lại tiến lên dứt tư duy ba cõi, dứt hết kết sử, cuối cùng là quả La-hán; năm là từ dứt hết "Hoặc" ngoài ba cõi, cho đến chứng được Đại Niết-bàn.
"Này người thiện nam! Ví như có vị vua đem bốn con rắn độc" cho đến tâm "Người ấy hoảng sợ bỏ trắp rắn, chạy trốn thục mạng".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thí dụ thứ nhất, giả gọi là đứng đầu vô minh phiền não, dụ cho nhà vua. Kinh gọi là bốn Đại, dụ cho bốn con rắn độc. Đựng thân hữu lậu, dụ cho một cái hộp. Sai người canh giữ, dụ cho chăm sóc, cho ăn. Vua ra lệnh, nếu để cho một con rắn giận dữ không vừa lòng, thì ta sẽ xử tử nhà ngươi, dụ cho giết cả đô thị. Thấy nỗi khổ già chết, dụ cho sợ hãi, biết không có thật ngã, dụ cho chạy trốn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vua dụ cho Phật. Bốn con rắn độc dụ cho bốn đại. Đựng trong một cái tráp, giống như nói bốn đại để hình thành một thân. Ra lệnh cho người nuôi nấng cho ăn uống, bảo phải quán thân này đã là khổ, không, vô thường. Nếu y cứ theo kiến giải trong cái có (hữu lậu), là vì muốn nương vào thân bốn đại này, để được tu hành đạo nghiệp, tiến đức, nên phải nuôi nấng. Rửa sạch thân mình: Tức dạy thực hành "Quán không", sao cho nhận thức được lỗi lầm của bốn đại, thì pháp lành sẽ nối nhau sanh khởi, dụ như chà xát, rửa sạch. Nếu chẳng quán bốn đại là luống dối, yêu đắm thân mình, thì sẽ dứt tuệ mạng, nghĩa giống như giết chết cả đô thị.
Người ấy nghe nhà Vua truyền lịnh khẩn cấp, nghĩa là Bồ-tát liền vâng lời Phật dạy, quán sát lỗi lầm của bốn đại, vội vất bỏ trắp rắn độc mà trốn chạy, chính là quán kỹ thân này, chỉ thấy bốn đại thường giả dối, hoàn toàn không có pháp nào là thật, nên được giả gọi là không. Muốn giải thích bốn đại, năm ấm, kể cả sáu nhập hình thành chúng sinh, đều được tạo ra, giả gọi là "Quán không", chỉ tùy ở quán đầu, nắm lấy pháp mà nhập "Không", đồng với phàm phu nội, mà văn vì không thể nói cùng một lúc, nên chia ra từng cấp để nói."
"Lúc đó, nhà vua lại sai năm người Chiên-đà-la" cho đến "Năm người sau nữa, đều vội bỏ đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dụ cho thứ hai, được năm ấm không, thật pháp không, thấy ấm là thật, có thể cướp mất phép tắc lành, dụ cho Chiên-đà-la. Trí để dứt "Hoặc", dụ cho dao, mà việc giết hại sẽ đến, dụ cho nhổ dao. Ra khỏi "Không", thấy "Hữu", dụ cho ngó ngoái lại. Đã thấy giả không, kiến giải chân thật thì dễ, dụ cho vội bỏ đi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dụ cho quán năm ấm, tạo nên "Quán không của pháp thật."
Bấy giờ "Năm người lập ra kế xấu" cho đến "Ông hãy trở lại, người ấy không tin"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ thứ ba, là phá tan hai ái đã xong, được hai pháp giả, thật, các kiết mỏng dần, chỉ có ái của pháp thật là khó bỏ, dụ cho phương tiện xấu ác nhập quán thấy không, dụ cho giấu dao. Xuất quán, khởi ái, dụ cho giả dạng người thân hiền lành. Muốn làm cho sinh khởi mê đắm, dụ cho trở lại. Quán "Không" cắt đứt ái, dụ cho không tin."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù được nhận hiểu hai thứ "Không" là giả và thật, nhưng vì xuất quán trong tâm, nên lại khởi ái trên năm ấm nêu lại nắm lấy năm ấm mà quán, chưa thể được ngay. Dụ như giấu con dao đang cầm trong tay, khởi ái từ tình, như giả dạng người thân."
"Người ấy, chạy đến một xóm nọ để trốn" cho đến "Tìm vật không được bèn ngồi xuống đất."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ thứ tư, đã thành tựu Sơ quả, duyên giả khởi ngạo mạn, không siêng năng tu đạo, biết trong nhập giả thật dụ cho nhóm không, đắm nhiễm giả danh không do lỗi lầm. Ẩn giấu không thấy chân ngã, dụ cho không có người. Không thấy ấm thật, dụ cho không có vật. Không còn tiến tu, dụ cho ngồi xuống đất."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã được sáu nhập "Không", nhập hạnh vô tướng, dứt hoặc thấy đế, chứng quả Tu-đà-hoàn, là một chỗ ngăn dứt."
"Nghe trên hư không vang lên tiếng nói: "Hay thay! Này người Thiện nam! Ông làm sao để tránh khỏi?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dụ cho thứ năm, dứt tư duy kiết của hai cõi, buông bỏ kiến giải trước làm nhân, cầu tiến lên quả vị trên, dụ cho nghe tiếng nói trên hư không. Nói về sự hiểu biết trước kia, dụ cho không có người dân ở. Đắm nhiễm giả danh, dụ cho đêm nay. Nhân có "Hoặc" trong, trần ngoài mà được nhập, dụ cho sáu tên cướp. Có thể sinh ra các kiết, dụ cho mạng không vẹn toàn. Dứt ngạo mạn, thành tựu quả, dụ cho bỏ đi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau khi đắc quả Tu-đàhoàn, xuất quán, trong tâm khởi "Hoặc" thọ sinh của môn tư duy. Đã nhờ trước kia thấy đế, kiến giải vô lậu. Thọ sinh trong môn tư duy "hoặc" là lỗi của năm dục, lại quán sáu trần là không, tiến đến dứt các kiết còn lại nên về nghĩa nói như nghe tiếng trong hư không."
"Bấy giờ, người ấy càng sợ hãi, lại bỏ đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại hiểu được sáu trần là không, vô lậu càng sâu, dứt "Hoặc" của môn tư duy, kiết của ba cõi đã hết, chứng quả La-hán."
"Dọc đường gặp một con sông, nước sông chảy siết" cho đến "Tâm ý thư thái yên ổn nỗi sợ hãi đều tiêu tan,." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ thứ sáu. Dứt tư duy và tập khí cõi Vô sắc. Phiền não kia khó dứt, dụ cho nước sông chảy gấp. Định nhiều, tuệ ít, dụ cho không thuyền bè. Cần phải dùng đạo, dụ cho lấy cỏ, gỗ. Các địa trên khổ nhẹ. Có vui của định sâu mà người tu hành ưa thích, dụ cho lại tư duy. Biết khổ này rồi, dụ cho tìm bè để qua sông. Đạo định khó sử dụng, phải nhờ các việc lành giúp đỡ, dụ cho thân, tay đều hoạt động."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dứt "Hoặc" vô minh trụ địa, được quả Phật, chính là suốt qua trong, ngoài ba cõi, đều là nghĩa sông, tức là lấy "Hoặc" vô minh trụ địa khó dứt làm sông. Liền lượm củi, gỗ làm bè, nghĩa là ở ngoài ba cõi, chưa có đạo đối trị, mà muốn tu hành muôn điều lành, để hướng về quả cùng cực. Từ "Ta lập ra trụ ở đây... trở xuống, nói bị rắn, cướp làm hại, nghĩa là nếu chỉ dứt hết kiết của ba cõi, mà cuối cùng vẫn chưa tránh khỏi bọn, cướp hung dữ. Đã gần gũi với mình, thì làm sao tránh khỏi, thà rằng sẽ gánh vác vô minh trụ địa, hoặc lôi kéo vào sinh tử, cuối cùng không bị bọn cướp, hung dữ kia giết hại. Liền tìm cỏ bè, là tư duy đã quyết định, tức là tu muôn hạnh, vận dụng Thật trí, phương tiện trí, để đạt đến bờ Niết-bàn, lên trên đỉnh núi cao. Từ "Quán thân như chiếc trắp đựng rắn độc trở xuống, lại hợp với thứ lớp, nhắm vào năm cấp tám việc."
"Đại Bồ-tát được nghe, thọ trì" cho đến "Xả bỏ, rong ruổi tu tám Thánh đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán bốn đại hợp với dụ thứ nhất. Bốn thứ độc, là "Kiến" dụ cho ngủ, "Giải" dụ cho thân. Hơi thở ra từ miệng, dụ cho thinh, hương. Vị từ miệng vào dụ cho nhai ăn."
"Năm người Chiên-đà-la, tức là năm ấm" cho đến "Bỏ đi thẳng trên đường, không dám ngoảnh lại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán năm ấm, hợp với dụ thứ hai."
"Ngụy trang người thân, gọi là tham ái" cho đến "Và một kẻ giả làm người thân, nên băng qua đường, không quay lại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán sát ái, tham, hợp với dụ thứ ba. Thấy nói không thấy, nghe nói không nghe, đến sau lại nói không thấy, nghĩa là nhập quán thì hiểu rõ, xuất quán thì sinh mê hoặc. Người Nhị thừa cũng giống như vậy. Vốn vì hướng về Sơ quả làm ví dụ, nhân hỏi về ái để dứt trừ."
"Làng xóm hoang vắng, tức sáu nhập bên trong" cho đến "Và sáu tên cướp hung dữ hoảng sợ, là chạy theo con đường chánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán sáu nhập, hợp với dụ thứ tư.
Phàm phu chẳng sinh ý nghĩ là không, nghĩa là xa lìa lý Thánh."
"Sáu tên cướp hung dữ, tức sáu trần bên ngoài" cho đến "Bỏ làng xóm hoang vắng, men theo đường mà đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tai họa từ bên ngoài đến. Công đức trong kiếp, dụ cho tên cướp, hợp với ví dụ thứ năm."
"Dọc đường gặp một con sông, tức là phiền não" cho đến "Và Nhất-xiển-đề, đều không nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Theo thứ lớp của thí dụ, nên quán dứt phiền não của tư duy cõi Vô sắc và tập khí là con sông, hợp với ví dụ thứ sáu."
- Giải thích ý nghĩa Đại Niết-bàn, Tiểu Niết-bàn, nêu ví dụ có núi, núi lớn.
- Giải thích nghĩa tập khí của Thanh văn.
- Giải thích ý nghĩa danh từ hữu nhân duyên và danh từ vô nhân duyên.
- Giải thích ý nghĩa năm thần thông. Nói về hai thứ thần thông:
1. Chung với ngoại đạo.
2. Chung với Nhị thừa.
Nói Niết-bàn chẳng phải âm của âm thanh.
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Thế nào là Niết-bàn? Thế nào là Đại Niết-bàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sở dĩ hỏi lại, là vì dù nói là dứt lậu, có thể được thường, lạc, ngã, tịnh, của Niết-bàn nhưng vì không nói về dụng của ngã, lạc, tự tại nên nghĩa Niết-bàn vẫn chưa khỏi chướng ngại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế sau đây sẽ đáp câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Đức Vương."
Trong "Nghe mà không nghe" nói trên, Phật đáp sáu câu hỏi xong, lại, lập ra hai câu hỏi nữa, Đức Phật đã đáp một câu hỏi xong. Nay lại nêu câu hỏi thứ hai, để xin Phật giải thích."
Bấy giờ, "Phật khen Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Đó gọi là Niết-bàn, chẳng phải Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn dù có nhiều nghĩa, nhưng đều là tên gọi sự không khổ, được dứt hết khổ, đều được tên gọi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay, mượn mười dụ để giải thích về sự khác nhau giữa Đại và Tiểu. Vì không có khổ vui nên gọi là Niết-bàn.
Nếu được một ít thức ăn để dứt đói khổ thì cũng gọi Niết-bàn, nhưng không được gọi là Đại Niết-bàn."
Mười ví dụ như vậy. Nghĩa của chúng chỉ là một: Biển nhỏ cũng gọi là biển, biển lớn cũng gọi biển. Trong đoạn văn đó tự giải thích rộng rằng: "Người Nhị thừa tu hành từ tám muôn kiếp cho đến một muôn kiếp, gọi là tiểu Niết-bàn."
Trên đây có ba chỗ giải thích đều nói rằng đến quả Phật. Nay ở đây gọi Tiểu Niết-bàn, nghĩa ấy thế nào? Nếu muốn đối với ta trước kia, không nói tu hành tám muôn kiếp xong, gọi là tiểu. Trước kia không nói tu hành tám muôn kiếp, tùy theo chỗ mà họ đã được, cho nghĩa này là tiểu và Tiểu thừa kia tu hành tám muôn kiếp xong, được thành Phập. Do đó gọi là Đại Niết-bàn, mà ý chí này ở trong một bộ, dù nói là khác, nhưng cũng đừng so lường như thế, phải tùy nghĩa mà đặt để."
"Này người thiện nam! Nếu là người phàm phu, kể cả các Thanh văn" cho đến "Mới được gọi là Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu nhân thế tục, các Thanh văn nhân Thánh đạo: Lại giải thích nghĩa "Phi", lại sinh phiền não là giải thích phàm phu. Có tập khí là giải thích Thanh văn."
"Này người thiện nam! Ví như có vùng nào có khả năng tiếp nhận các dòng chảy" cho đến "Vì đã được nên gọi là Đại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước nói nhân thật, sau nói pháp thật, hợp với ví dụ biển. Sông, thành... đều hợp. Trong mười thí dụ, chỉ không hợp địa và hai ví dụ Thiên, Trung Thiên (trời trong trời)."
"Thế nào gọi là Đại Niết-bàn" cho đến "Do nghĩa này, nên gọi là Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tám tự tại; mỗi tự tại đều có văn:
1. Không Tiểu mà Tiểu, không nhiều mà nhiều.
2. Cho tiểu là đại.
3. Cho nặng là nhẹ.
4. Dùng thể của ba việc, sắc tâm không dời đổi, thì chẳng chỗ nào không đến. Việc làm là một, mà người thấy khác nhau.
5. Một căn biết sáu trần.
6. Thấy pháp như hư "Không".
7. Được tất cả pháp.
8. Không thể thấy, giúp cho tất cả đều thấy."
"Này người thiện nam! Ví như kho báu" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức của phần đầu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vô vi gọi là Đại, vì giải thích thường trụ, nên gọi là Đại."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "Lúc xưa chưa được, ngày nay mới được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Các lậu đã hết, tức là có thần thông, đều là công đức của hạnh Thánh. Nay thấy, là nhãn thông, lại y cứ phân biệt trong sở đắc. Nay nghe là nhĩ thông. Nay đến, là như ý thông. Nay biết là Tha tâm, túc mạng thông."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Công đức thứ hai, dùng năm thông làm thể". Năm thông ở đây là các pháp cần có của một phương, công dụng cần yếu để hóa đạo của Bồ-tát:
1. Tu Thiên nhãn thông, phải thấy thân nghiệp của chúng sinh.
2. Tu Thiên nhĩ thông, phải nghe miệng nghiệp của chúng sinh.
3. Tu Tha tâm thông, biết tâm nghiệp của chúng sinh. Dù biết ba nghiệp, nhưng nếu không quán suốt quá khứ của ba nghiệp đã có bề dày, mỏng của thiện, ác để hóa độ, thì cũng sẽ thiếu sót về mặt hóa đạo. Thế nên kế là tu Túc mạng thông, mà bè phái ngu si thấp hèn, không dễ gì dùng lời lẽ sâu mầu, tất nhiên, cần phải vận dụng thân để đến chỗ ấy, rồi mới thọ lãnh sự giáo hóa. Do đó, nên thứ năm là tu thân thông. Nay, y theo văn để giải thích. Trước là nói về thân thông.
Xưa nói về Thân thông, chỉ y cứ trực tiếp sắc thân chuyển biến mà thôi. Nay, bàn về sắc, tâm tự tại, tu thời gian ngắn mà thông suốt, hợp với cơ nghi của chúng sinh và kinh cũng có nói như ý thông, cũng gọi là thân thông. Nếu lập Thần thông thì sẽ mất đi danh từ như ý. Nếu lập như ý, tức là bỏ thân thông. Nếu như giáo xưa nói về năm thông là quả của thiền định, thì phải nhân ở sau định mới phát được thần thông. Theo kinh Niết-bàn nay, nói về năm thông, đều là dụng khác của trí tuệ. Cho nên Đại Bồ-tát dựa vào giáo học của sáu hạnh, không chấp tướng hữu, vô, chỉ làm sao cảm với căn cơ chúng sinh mà ứng, như điều mà một nhà đã giải thích. Năm thông này phải là phương tiện hóa độ của Bồ-tát chẳng phải kỹ năng của Thanh văn, phàm phu, ngoại đạo. Vì sao biết được? Vì nếu thật là phàm phu, thì làm sao có được pháp này, mà đối với ngoại đạo nói là "Có", đều là "Ứng tích". Ngoại đạo dù nói được thiền định, nhưng không có tu tuệ của đạo, cho nên họ vẫn không có thần đức này. Các Thanh văn quán giải đã không thành, lại không thể ở ngay trong định mà biến hóa thần thông, cũng vì đã an định pháp không, được nền tảng, lại nữa, vì chưa thể quên sự nhớ nghĩ, nên các nhà chủ trương rằng: "Thần thông mà Bồtát chứng được không đồng với ngoại đạo, Thanh văn Nhị thừa."
Thông có hai thứ: "Một là trong, hai là ngoài" cho đến "Xưa không được mà nay được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Năm thông này khác với ngoại đạo. Một tâm là một, nghĩa là giải thích không chung với Nhị thừa và ngoại đạo, chỉ nêu Nhị thừa, còn ngoại đạo có thể biết."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù nói là người Nhị thừa nhưng một tâm là một, không được nhiều. Đây chính là nói lên ý Nhị thừa không được đạo. Thanh văn nhập định, phát ra thần thông, phải tác ý ở trước định. Nếu tác ý là một, thì đối với định chỉ có một biến hóa, nếu tác ý là năm việc mà có công năng phát ra năm biến thì dù ở trong định nhưng phát ra năm. Nếu là người với căn cơ nhạy bén cùng cực thì ở định cũng chấp nhận được hai biến hóa. Ở đây đều y theo dấu vết giáo pháp để tạo nên. Các Bồ-tát thì không như vậy, mà là phát ngay tu đức, lấy sự rộng khắp làm bản hoài, cùng khắp đến cơ cảnh của chúng sinh, tức hợp với bổn tâm, tùy sức mà ứng hiện, không cần tác ý. Nếu không có sáu hạnh giải thì không thể một tâm hiện ra năm thông thân."
"Lại, thế nào là giáo xưa không được" cho đến "Giáo xưa không được, mà nay lại được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Như ý gọi là tự tại. Đối với tự tại, chia ra thành biến hóa, vì đầu tiên đối với phàm phu, nên nói là "Không như vậy".
Lại nữa, "Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Mà các chúng sinh, mỗi người đều thấy khác nhau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Được khác với nhĩ căn, có ba việc khác nhau:
1. Địa dưới nghe địa trên.
2. Xa với cát sông Hằng.
3. Nhĩ thức không chấp tướng, là không nghe mà nghe. Đầu tiên không có tướng âm thanh là nhĩ thức của Bồ-tát, vì chân tục gồm thấy, nên không chấp tướng."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "Giáo xưa đã nói không được nghe, mà giáo nay lại được nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây, là nói về Thiên nhĩ thông, mà trong văn nêu ra tướng, đều là phương pháp sơ học. Xưa Tiểu thừa nói là Thiên nhĩ thông, nhĩ thức tiếp lấy tiếng, rồi sau mới sinh ra trí. Hai tâm lại dẫn dắt, nhờ vả nhau, nên hợp hai tâm làm thông. Thiên nhãn thông cũng giống như vậy. Nay, nhờ học được Thiên nhĩ, Thiên nhãn trong kinh này, cho đến được thông. Công dụng của sáu thức tức là trí tuệ, nên trong Thiên nhãn, tạo ra hai đế quán. Kinh này với lý giáo đã chân chánh, nói về hai lý hữu vi, vô vi sáng tỏ. Tâm hạnh là pháp đại, sinh kiến giải cũng đại. Nếu là những người mới bắt đầu thực hành thì vẫn chưa theo kịp đại này."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Sao lại nói rằng không nhất định, không có quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tức là quyết định tướng của quả, nghĩa là nếu tác nhân nhất định là thiện, tức là tướng của quả, thì từ nhân lành sinh, tức là quả."
"Bấy giờ, Đức Như lai khen: "Lành thay!" cho đến "Các pháp do Phật giảng nói, đều không nhất định tướng của quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý đáp là: "Nếu dao là nhân nhất định, mặt là quả nhất định, thì làm sao điên đảo ư?"
"Này người thiện nam! Nói về Niết-bàn, thật chẳng phải là quả của âm thanh" cho đến "Ta sẽ phân biệt nói cho ông nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói tất cả nhân quả đều không nhất định. Ở đây nói pháp thường Niết-bàn chẳng phải quả."
"Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam" cho đến "Nên được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một chữ, không làm ra tướng chữ, một câu, không làm ra tướng một câu, mà là nghe từ lý của kinh, có thể nói là thành quả của nhân nghe nếu không như vậy, thì chẳng phải nghe."
"Này người thiện nam! Như ông vừa nói: "Vì nghe tiếng xấu ác" cho đến "Xưa không nghe mà nay được nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn chẳng phải quả, có thể như trên đã nói. Ba ác là quả, tiếng là nhân nhất định, lại cần phải nói."
"Này người thiện nam! Thế nào là điều mà xưa không thấy" cho đến "xưa đã không thấy mà nay được thấy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu dựa vào bốn đại cõi Dục, y theo định cõi Dục để tu, sẽ được Thiên nhãn thông, đều là tướng xương. Nhãn thức của cõi trời có thể thấy tướng "Không" của các pháp bất tịnh. Trông thấy tướng mạo của nhân duyên, là "Không" có hai kiến."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, sẽ nói về Thiên nhãn thông. Ở đây nói Thiên nhãn thông chẳng những thấy sắc, mà còn thấy rõ tâm thiện, ác của chúng sinh, cho đến biết Đệ nhất nghĩa đế, cho nên tạo ra sự nhận biết về danh thuyết."
"Nếu thấy tất cả sắc tướng của chúng sinh cho đến "Cái xưa không biết mà nay được biết."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Biết căn đại, tiểu: Vì nhờ sắc nên biết căn. Hễ chạm đến áo là biết tâm, nghĩa là nhờ thân mà biết căn, đồng với nhờ sắc, mà biết được tâm, vì nghĩa của chúng thuộc về Thiên nhãn, nên sau đây là hai danh từ biết và thấy."
"Này người thiện nam! Thế nào là điều xưa không biết" cho đến "Điều xưa không biết mà nay được biết."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nói về Túc mạng thông." Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là điều xưa không biết" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ hai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mười sáu tâm của Tu-đà-hoàn: Ba đế từ diệt kiến. Kiến diệt xưa chưa thấu suốt, ba đế không rõ ràng. Đã kiến diệt thì khắp bốn đế, khởi niệm hiện ở trước, tâm họ rất xa, là mười sáu tâm của quả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây sẽ bỏ kế là nói về Tha tâm thông, biết được sơ tâm của Tu-đà-hoàn. Theo thứ lớp đến mười sáu tâm: hàng Thanh văn muốn biết sơ tâm, nắm lấy pháp chẳng thật có. Nếu là người lợi căn, thì phải đến tâm thứ bảy mới biết. Nếu là người căn tánh chậm lụt thì phải đến tâm thứ mười sáu mới biết. Bồ-tát thì không phải như vậy. Mười sáu tâm, mỗi tâm theo thứ lớp khác nhau mà đều biết."
- Nói về bốn tâm Vô lượng.
- Nói rộng về mười sự, dứt trừ hữu dư, dứt trừ nghiệp duyên.
- Nói về giới có năm thứ tâm: Hạ, Trung, Thượng, Thượng Thượng, Thượng Trung Thượng.
- Nói về một trăm phước đức, thành một tướng trong ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp.
- Nói kinh Niết-bàn có công năng giúp cho chúng sinh lìa hai mươi lăm hữu.
- Nói rộng về tam-muội Kim cương.
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ ba?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hạnh công đức thứ ba, thứ tư.... Xả từ được từ: Từ của thế gian, thì "Duyên" người thân, cho niềm vui. Nếu oán, thân bình đẳng, thì đây là "Vô duyên". Lòng từ giả là thế đế, lòng từ thật là Đệ nhất nghĩa đế. Cũng có thể "Duyên" "Hữu tướng" là thế đế, "Duyên" vô tướng là Đệ nhất nghĩa đế."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Công đức thứ ba, lấy từ bi làm thể. Bỏ lòng Từ Thế đế được lòng từ Đệ nhất nghĩa.
Muốn nói Bồ-tát được lòng Từ vô tướng chân thật, hiện tiền không từ "Duyên" mà được. Nếu phàm phu thực hành lòng từ thì phải thấy duyên mới sinh. Bồ-tát không phải như vậy. Tâm thường ấp ủ Từ bi, không đợi sau duyên mới phát, cho nên bỏ lòng từ giả dối của thế đế, để được lòng từ vô tướng chân thật bậc nhất.
Đã giải thích về thể của lòng Từ xong. Sau đây sẽ nêu ra ba việc, y theo lòng Từ sáng suốt không đến, để nói về lòng Từ:
1. Bỏ lòng Từ được tướng của Xiển-đề v.v....
2. Bỏ lòng Từ yếu hèn của huỳnh môn v.v....
3. Bỏ lý giải không đúng như lý của Nhị thừa.
Đã bỏ ba lòng Từ này thì được lòng từ chân thật vô tướng của Như lai."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồtát" cho đến "Mười là dứt trừ hai bên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có bốn đẳng, thành mười công đức, thuyết hành một vòng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Công đức thứ tư, dùng mười việc làm thể, mười việc là Hỷ, Xả. Tự thân quyết định là tướng hỷ, tướng khác phần nhiều là xả."
"Thế nào là cội lành sâu xa khó lay chuyển" cho đến "Tu gốc sâu Đại Niết-bàn, khó nhổ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không buông lung nghĩa là danh từ chung của muôn hạnh. Mười căn dưới đây là việc đó."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thể của không buông lung tức là tánh trí tuệ. Cái gọi là tín căn, là giải thích lý do khó nhổ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ nhất nói rằng gốc sâu khó nhổ, nghĩa là không buông lung, mất không buông lung, mới có tâm khác, không có hạnh khác, như người tinh tấn, chính là trái với tất cả điều xấu, ác, không can dự đến năm dục, chỉ tu thiện làm đức. Nếu lập được tâm này thì chẳng có công hạnh nào không thành. Chỉ có Phật là người không hề buông lung, nên lại nói, không buông lung là căn bản của đạo Vô thượng. Mọi việc lành đều từ đó sinh ra. Sau đây, sẽ lập ra mười hai thí dụ, để nói về hạnh tốt đẹp không buông lung."
"Thế nào là đối với thân mình, sinh ra ý tưởng quyết định" cho đến "ở trong thân mình, sinh ý tưởng quyết định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mười căn không nhổ, tự biết chắc chắn sẽ thành Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai, tự thân sinh ra quyết định, nghĩa là từ giáo xưa đến nay, người học chưa thể nhập lý Đại, thấy pháp chưa rõ ràng, không biết thân mình là nhân Phật. Nay, đối với giáo này, nhận thức được tánh nhân quả, biết thể diệu của thần minh. Sinh tử nương vào Như lai tạng, có chí quyết định tu, gieo nhân hái quả, tâm niệm không đổi dời, cũng không chứng phi thời, chỉ lấy công hạnh vị tha rộng, khắp làm đức. Đã quyết định mạnh mẽ như thế, thì quả mai sau mới chắc chắn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba, không quán ruộng phước: Nếu như giáo pháp thuở xưa, thì phải lựa chọn ruộng phước trước, rồi mới thực hành bố thí, đây vốn là lời hóa độ người ngu mê thấp hèn. Nay, với sáu hạnh, tâm Bồ-tát đã thể nhập lý, lại có niệm xứ khác với phàm phu, cho nên bất luận là ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước, chỉ lấy Xả làm đức, tất cả đều thí cho. Nếu có mảy may tồn tại thì trở thành phân biệt. Nếu không ấp ủ tâm này thì cuối cùng sẽ không hội nhập lý."
"Thế nào là Bồ-tát không quán ruộng phước" cho đến "Không quán ruộng phước và chẳng phải ruộng phước."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tâm đã quyết định hạnh quan trọng Bồ-đề, chỉ trước là độ người, bất luận là ruộng phước hay chẳng phải ruộng phước." Thế nào gọi là thanh tịnh cõi nước Phật cho đến đó gọi là Bồ tát tu làm thanh tịnh cõi Phật.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người thực hành lòng từ, nghĩa là lúc đầu không lợi ích chúng sinh. Trước nêu bố thí, nói lợi ích lúc gieo nhân, giờ đây tu tịnh độ là lợi ích lúc kết quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trong đây nêu riêng về thệ nguyện. Cũng như trong kinh Duy-ma, vì hóa độ chúng sinh nên Bồ-tát đã chọn lấy cõi Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ tư, tu làm thanh tịnh cõi Phật, là khuyên chúng sinh tu hành mười điều lành, dứt mười việc ác. Nếu mười điều lành đầy đủ, thì mọi việc xấu ác sẽ dứt hẳn, công đức tròn đủ, đến hậu tâm Kim cương không có cõi nước của cõi nước, đây là chân tịnh, hoặc chịu phục tùng từ đây về sau, đều là nói về tịnh trong thân.
Nay Bồ-tát phát nguyện tu hành pháp này, là vì dắt dẫn người ngu mê thấp hèn và bảo cho chúng sinh biết rõ cơ bản tiến dần đến chỗ toàn thiện."
"Thế nào là Đại Bồ-tát dứt trừ hữu dư" cho đến "Đại Bồ-tát dứt trừ hữu dư."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sở dĩ hai việc hợp giải thích là vì muốn nói chung có thừa. Vì sao? Vì Bồtát đã được lòng từ vô duyên, hiện tại không khởi ác, quá khứ có nghiệp dư thiện, ác, làm trói buộc người tu hành. Nghiệp căn nặng, được phân biệt thành hai việc có nhẹ không kể. Dù nhẹ là tai hại chung, muốn giải thích rõ. Ba việc đều gọi là nghiệp dư, đây gọi hữu dư: Là che lấp hai quả vô tri."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghiệp lành của bốn quả đâu thể diệt? Do năng thấm nhuần là diệt, nên đối tượng được thấm nhuần khô cằn, không thể chiêu cảm quả, nói là nghiệp tiêu diệt. Hữu dư, nghĩa là người Nhị thừa đều chứng được quả vô vi. Không có kiết, không có nghiệp mà chuyển hai quả, nghĩa là nói không có kiết, nghiệp của ba cõi, mà báo thân vẫn còn, chính là Niết-bàn Hữu dư, chủ yếu là bỏ báo thân để được vô dư. Nói hai, nghĩa là hai nhà đồng chuyển, cũng nói là vô dư. Về trước là hai, hoặc y theo số kinh, chuyển chậm lụt thành nhạy bén. Nay, nói Như lai khác với Bồ-tát này, do năng lực kinh nên năng diệt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm là dứt trừ hữu dư, thứ sáu là dứt trừ nghiệp duyên. Nay, là ba chương môn giải thích hai việc này:
1. Dư báo.
2. Dư hữu.
Dư báo: Đây là nói về báo của tánh tập khí, như trong quá khứ nặng về tham dục. Dù ra khỏi địa ngục, sinh trong loài người, cũng vẫn nặng về tham dục v.v....
Nghiệp dư: Tức là người chịu quả báo trong cõi trời, cõi người chưa hết. Hữu dư: Đây là nói về tập chướng ngoài ba cõi, như vô tri... của Tiểu thừa, chuyển chậm lụt thành nhạy bén."
"Thế nào là Bồ-tát tu thân thanh tịnh" cho đến "Đại Bồ-tát tu thân thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Năm thứ tâm, là năm phẩm tâm được năm phẩm, hoặc đến chánh kiến cũng vậy. Nói sơ phát tâm, nghĩa là đủ năm mươi tâm, gọi một tâm quyết định. Gọi đầy đủ, nghĩa là đủ năm mươi tâm định, gọi là đầy đủ một phước".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Năm phẩm tâm, tu mười điều lành thành mười. Nếu tâm này thành tựu, lại có năm mươi, là do một trăm phước. Gồm hành ba ngàn hai trăm là ba mươi hai tướng".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ bảy là tu thân thanh tịnh: Giới từ đầu đến cuối không sát sinh, có năm thứ tâm. Nói về muôn hạnh, không ngoài mười điều lành, mười điều lành đầy đủ, thì được thành Phật. Bồ-tát đầu tiên, lúc ở tánh địa, giữ một giới có năm phẩm tâm. Nếu giữ mười giới thì sẽ thành năm mươi tâm. Ba mươi tâm đầy đủ thì lên Sơ trụ. Lại, giữ mười giới sẽ thành năm mươi tâm. Có đủ một trăm tâm, gọi là trăm phước đức. Như vậy, mười địa vô lậu đầy đủ, thời gian sau sẽ thành Phật. Vì lại ứng với ba mươi, nên có ba mươi hai tướng.
Nay, nói trăm phước thành trăm tướng, là nói y cứ Thập địa, có muôn phước, nên nói là thành trăm tướng. Vì sao nói là thành ba mươi hai giải? Ý nói ba mươi hai là chỗ cần thiết của một phương. Nếu mỗi tướng đều lấy đủ hết muôn phước, lại tu tám mươi thứ tướng tốt, thì do tám mươi người thờ phụng tám mươi vị thần, nhưng phàm phu đã được tướng đến lâu.
Thần được thờ phụng muốn cho mỗi phàm phu đều khác nhau. Hiện nay, Như lai muốn hóa độ những người này, nên cùng lúc làm cho mỗi người trong số người này đều thấy vị thần mà họ thờ phụng, người này ở trong thân Phật. Đã thấy trong thân Phật có một vị thần mà nhà mình thờ, bèn kéo nhau đến quy y, thọ lãnh sự giáo hóa của Phật. Dưới đây từ mười hai ngày trở đi, đều là nêu tên vị thần mà nhà mình thờ phụng."
"Thế nào là Bồ-tát hiểu rõ các duyên" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết rõ các duyên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dứt phiền não, tu Bồ-đề, biết cắt đứt ràng buộc trong kiết duyên, để nói về các duyên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ tám biết rõ các duyên, nghĩa là chính thức biết rành các cảnh giới, đối với muôn pháp không chấp tướng. Đã thể nhập nhân duyên, cho là luống dối, tức hữu vi không có, đã biết hữu, vô có thể có vô cũng chẳng thể vô. Chánh thể tánh như thế, nên nói là biết rõ các duyên."
"Thế nào là Bồ-tát xa lìa các kẻ thù?" cho đến "đó gọi là Bồ-tát xa lìa các kẻ thù."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Liễu duyên thì phiền não hết, là do nói tướng chê bai phương đẳng, phiền não chẳng nhất định là kẻ thù, thuyết này nhất định là kẻ thù?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ chín là xa lìa kẻ thù, là tự mình không học trong kinh này, cuối cùng không thể dứt trừ được kẻ thù phiền não, nên Bồ-tát năm trụ đã dứt trừ hết các kiết cõi Sắc. "Hoặc" thô của địa dưới đã dứt, "hoặc" còn lại chưa đối trị, thì không gọi là kẻ thù, mà đều dùng làm đạo."
"Thế nào là Bồ-tát xa lìa hai bên?" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ tư".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân quả thành hai, nghĩa là phiền não hết, nhân quả diệt, được thường trụ." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dứt trừ hai bên, là nhân quả của hai mươi lăm hữu, vô minh, ái đều hết."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương" cho đến "Thế giới đều trang nghiêm rất thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cõi có hai thứ, báo hạnh của Phật có báo hạnh của chúng sinh và vương độ của Phật, bắt đầu là pháp thân không có tướng mạo nhất định, không có nơi chốn nhất định. Cõi nước của chúng sinh có sạch có nhơ. Khi mới thành đạo, Đức Phật phải ở tịnh độ của chúng sinh. Vì sao? Vì hạnh chúng sinh đã thành thục, nên chúng sinh thanh tịnh, không ngoài cõi xấu ác. Tự báo độ không có phương hướng, không cần nói tên. Cõi nước vô thắng là cõi nước chúng sinh.
Nói Tịnh độ, là nơi khi mới thành Phật. Nay, thế giới này thanh tịnh, nghĩa là khi Đức Di-lặc thành Phật, thế giới Ta Bà này sẽ biến thành thanh tịnh, nên chúng sinh thanh tịnh, cũng không ngoài tịnh độ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã nêu giải thích mười việc xong. Chúng đương thời có người không thấu suốt, cho rằng, Đức Thích-ca chỉ tu chín việc, không tu tịnh độ. Cho nên Bồ-tát Đức Vương đã vì họ bày tỏ nghi ngờ mà nêu lên câu hỏi. Sau đây là Phật đáp: "Chư Phật mười phương, chẳng có vị nào không tu mười việc, đáp rằng: Một nhân không tròn đầy, thì không được thành Phật, đâu thể mỗi mình ta được thiếu công hạnh này? Vì hạng người si mê ở đời mà nói cõi này có mặt trời, mặt trăng, còn ở phương khác thì không có. Người nghi ngờ như thế đâu khác gì với người si mê kia."
Lập ví dụ đã xong. Sau đây là hạng người ngu, thấp hèn, vì lòng tin chưa lập, nên Đức Phật xa chỉ cõi Phật vô thắng ở phương Tây, để bảo cho chúng sinh biết rằng: "Cõi nước của ta, nơi ta đang cư ngụ là hiện đến cõi này để hóa độ. Biết được rằng, tìm lời nói này là vô một Đức Phật xuất hiện ở đời, không có nhơ, không có sạch. Về việc ấy, như đã nói trong phẩm Công Đức ở đầu. Trong kinh này, đã nói tịnh độ của Mãn Nguyệt Như lai ở phương Đông. Đức Phật Mãn Nguyệt đang ngụ ở cõi nước kia, đâu có mang nỗi nghi rằng, cung vua của Đức Thích-ca là ô uế? Đáp: "Ngay ở cõi nước thuần tịnh kia, tâm không có chấp, cũng không chấp nhận Bồ-tát Đức Vương nêu lên câu hỏi này, vì đồng với câu hỏi nhất định "Có", nhất định "Không". Nêu biết được hai nước này đều nói về một bên, làm cho chúng sinh đều được tiến tu."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "đầy đủ năm công đức như vậy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Công đức thiên hạnh thứ năm, thứ sáu mà văn kinh không nêu ra. Theo kinh khác thì bốn thiền là thiên hạnh. Năm công đức này là gốc của tu thiền."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đều là duyên của người tu định, nếu các căn và người sinh ở biên địa, đâu thể tu thiền định được?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Công đức thứ năm, dùng năm việc làm thể. Công đức thứ nhất, thứ hai do lìa các nạn, nên có thể tu định. Công đức thứ ba, thứ tư do nhân duyên đã gieo trồng từ đời trước, nên được các vị trời che chở, mọi người yêu kính. Việc thứ năm tức là quả định, giải thích năm việc đã xong.
Nay, Bồ-tát Đức Vương chấp giáo xưa làm câu hỏi: Giáo xưa nói: "Do bố thí nên được năm việc này. Nay, vì sao nói nhờ kinh Đại Niết-bàn mà được năm việc?"
Phật đáp: Ngày xưa nhân bố thí mà được năm việc là không nhất định, không thường hằng, nay, nhờ kinh Niết-bàn, được năm việc này là nhất định, là thường hằng, cho đến được vô lậu, nên biết được giáo Pháp Hoa về trước không có người nhập đạo. Dù có người thật sự đắc đạo, cũng không nên nói chẳng phải vô lậu." Xét lời này của Phật, nên biết rằng không có người hiểu lý."
"Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ năm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Là nhất định, là thường hằng. Mỗi pháp đều đối lập với năm việc trước.
Bệnh khát ái đối với bốn việc dưới không nhất định, cũng có phần có quả, là có phần quả của ba cõi, vô thường đổi khác. tam-muội Kim cương, có năm việc trên thì được bốn thiền. tam-muội Kim cương vượt hơn trong định là nói đức của tam-muội đó."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đều nói về định, trước cạn, sau sâu, trong đây có ba đoạn:
1. Y theo hạnh Không mà thành tựu muôn hạnh.
2. Nói về các định vương này là quả của muôn hạnh.
3. Nói chẳng những rõ biết "Không", mà còn biết rõ muôn hữu.
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Công đức thứ sáu lấy tam-muội Kim cương làm thể. tam-muội Kim cương tức là Trí nhất thiết, lúc ấy sự ràng buộc của Tập đế dứt hết, với thể do khổ, vô thường này, quả khổ cũng chấm dứt. Quả Phật vô học nhậm vận mà đến, chính là thời điểm mà tâm Kim cương bắt đầu tròn đầy trong công dụng này, gọi là học Phật, không được gọi Vô học. Cho nên nói kim cương là cùng cực của các định.
Y theo tất cả đức này, lược chia thành tám đoạn:
1. Từ câu "Đều có công năng phá tan tất cả các pháp" trở xuống, là nói về lúc được định kim cương, đã biết rõ lý Thế đế một cách cùng tận.
2. "Từ trụ trong địa này" cho đến "Không thấy chúng sinh thật" trở xuống, là nói đều nhận thấy lý chân đế cùng khắp.
3. Từ câu "Tất cả tam-muội đều quy thuộc" trở xuống, là nói lúc được định này, tất cả tam-muội đều quy thuộc tam-muội Kim cương.
4. Từ câu "Ví như người tắm biển v.v... trở xuống, là nói khi được định này thì chẳng những quy thuộc thôi, mà còn sử dụng các định này làm thể, trong một tâm vận dụng được tất cả định.
5. Từ câu "Nếu có Bồ-tát trụ định Kim cương, thấy tất cả đều không có chướng ngại...trở xuống, là nói chứng đắc Thiên nhãn thông đầy đủ.
6. Từ "Như do Càn-đà... trở xuống là nói đã có lậu tận thông".
7. Từ "Nếu Bồ-tát trụ tam-muội Kim cương, trong một niệm có khả năng biến hóa thân như Phật... trở xuống là nói về công dụng của thân thông đầy đủ.
8. Từ câu "Ví như Kim cương, nếu vào lúc giữa trưa thì màu nó không nhất định... trở xuống, thường có ba ví dụ nhằm khen ngợi tam-muội Kim cương, có công năng biến hóa, ứng hiện các thứ, đều đem lại lợi ích cho chúng sinh. Cho nên khi chứng tâm Kim cương, thì các kiết buộc ràng dứt hết, lý chiếu soi cùng khắp, chính là dùng đoạn văn này làm "y cứ"."
"Đại Bồ-tát tu Đại Niết-bàn" cho đến "đầy đủ Bátnhã ba-la-mật."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lời khen thứ nhất, y theo "Hạnh không" mà thành tựu muôn hạnh."
"Này người thiện nam! Ví như vật gì bị Kim cương chạm phải đều vỡ tan" cho đến tu tập tất cả các tam muội khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Thứ hai là nói định này đứng đầu trong các định, là quả của muôn hạnh.
Này người thiện nam! Nếu có Bồ tát an trụ như thế cho đến mười phương cũng giống như thế. Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Thứ ba là nói chẳng phải chỉ rõ biết không mà còn thấy hữu.
Này người thiện nam! Như từ núi Càn-đà cho đến "Ban đầu vô tâm nói là ta sẽ diệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ tư là nói về công năng dứt trừ tất cả "Hoặc".
"Nếu có Bồ-tát an trụ tam-muội như vậy" cho đến "Đều tùy theo sự hiểu biết của mình mà được nghe tammuội Kim cương này."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm là nói có năng lực vận dụng biến hóa."
"Bồ-tát an trụ tam-muội như vậy" cho đến "Thấy tất cả pháp như xưa vô tướng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ sáu lại nêu cảnh "Không" nói là các đức sở dĩ được thành tựu, đều do khéo biết về "Không".
"Vì sao gọi là tam-muội Kim cương?" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ sáu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đủ năm việc nói trên, thì được bốn thiền, tam-muội Kim cương, cao quý trong tất cả định, là nói tính chất của tam-muội đó, có hai thứ:
1. Phá tan hữu.
2. Thành sáu Độ.
Không có vật nào không bị kim cương làm vỡ tan, dụ cho vật thể có tạo tác bị kim cương hủy hoại nói trên đều tập trung quy thuộc: Sắp được thành tựu muôn hạnh làm thí dụ. Trước nói sở quy của pháp, sáu pháp sau đây là ví dụ không có chướng ngại: Nói sáu thông là giải thích rộng về công năng của Kim cương. Trước là giải thích chung các thông, sau chỉ nói riêng ba thông."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ bảy là giải thích danh từ Kim cương."
- Nói rộng về nhân gần của Niết-bàn, gần gũi bạn lành.
- Chuyên tâm nghe pháp.
- Nêu việc Tôn giả Xá-lợi-phất bị bệnh, đến chỗ Phật nghe pháp, đúng như pháp tu hành.
- Nói rộng về Niết-bàn, Phật tánh có tám thứ, bảy thứ, sáu thứ....
- Giải thích nghĩa hư không, giải thích nghĩa Niết-bàn là chỗ phiền não được dứt bỏ.
- Dẫn việc xưa, Phật bọn ma rằng, còn ba tháng nữa, Ngài sẽ nhập Niết-bàn.
- Giải thích danh từ Niết-bàn.
"Lại nữa, này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồtát" cho đến "Bốn là tu hành đúng pháp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quyển bảy, quyển tám giải thích rộng công đức của hạnh trẻ thơ. Bốn đức này là hạnh mới thực hành. Đức của trẻ thơ làm nhân gần, là lấy việc trái với tà làm nhân gần."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Từ quyển bảy đến quyển mười đều giải thích rộng hạnh trước. Nay phẩm thứ bảy này cũng dùng ba tuệ làm thể. Phẩm công đức ban đầu, nói rằng do năng lực kinh. Phẩm này nói về ba tuệ do Thiện tri thức cho đây là khác nhau."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phẩm Công Đức thứ bảy lấy bốn pháp làm thể. Bốn pháp này là hạnh giáo hóa trẻ thơ, nghĩa là gần gũi bạn lành, chuyên tâm nghe pháp, buộc niệm tư duy và tu hành đúng pháp nên Mạng thiên tuyên bố rằng: "Chỉ có bốn pháp này là nhân gần của Niết-bàn." Nếu nói rằng như ngoại đạo khổ hạnh cho đây là đúng, thì không có việc đó. Nhưng trong phẩm này nói bốn pháp, phán quyết đại khái có ba lượt:
1. Có ba dụ cho y cứ chung một pháp để nói về bốn pháp. Trong văn ấy tự phôi hợp.
2. Từ "Bậc Thiện tri thức, nghĩa là Bồ-tát, Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật"... trở xuống, là lược nói riêng bốn pháp, nay trong phần lược này, dùng Nhị thừa làm bạn lành. Nhưng sự trong phần lược ở trước, vì không phân biệt, nên nói là chung. Bậc Thiện tri thức có khả năng dạy bảo đạo tốt đẹp cho con người, đồng với công hạnh mà mình đã làm. Người kia và ta đều đồng ý, đều cùng nhau được lìa khổ, đây là tướng của Thiện tri thức." "Này người thiện nam! Ví như có người thân bị các chứng bệnh" cho đến "mà thường xuyên giáo hóa, không có mệt mỏi nhàm chán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba ví dụ này nhập chung thành bốn pháp, gần với Niết-bàn làm thí dụ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y theo lời khen này có hai lượt: Trước khen chung, sau khen riêng. Khen chung có bốn lớp: Đây là lớp thứ nhất, nêu bốn ví dụ, trước nói về tính chất tốt của Thiện tri thức:
"Này người thiện nam! Thiện tri thức là Bồ-tát" cho đến "Người kính tin Phương đẳng trong hàng Thanh văn."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ hai là nêu người ấy. Ngoài người này ra, chẳng phải Thiện tri thức, sơ lược cũng hết."
"Vì sao gọi là Thiện tri thức?" cho đến "Do nghĩa này, nên gọi là Thiện tri thức."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói riêng về nghĩa bốn pháp. Lìa mười việc ác: Giải thích Thiện tri thức, người thường thực hành đúng như việc lành. Nếu ta bất sinh điều ác: Là nói đúng như Pháp, thực hành đúng pháp, lợi ích cho ta có hai: Nói đúng pháp, là lời nói có ích. Hạnh đúng pháp: Lợi ích của không nói. Vì có pháp lành, nên nói việc lợi ích càng sâu. Vì chúng sinh là thiện, chẳng phải bất thiện."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba là giải thích nghĩa Thiện tri thức.
Lược nêu tính chất tốt của Thiện tri thức."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói ví dụ để làm rõ pháp lành. Pháp lành ngày càng thêm nhiều: Là bốn phần giữa, nói là tướng của pháp lành, đây là thứ nhất."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ tư là khuyên người nương tựa Thiện tri thức. Dùng năm lớp để nói về sự hữu ích của nương tựa. Đây là khen chung thứ nhất."
"Nhân là gần gũi, lại được liễu đạt" cho đến "Nghĩa rất sâu, gọi là nghe pháp."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lợi ích thứ hai."
"Người nghe pháp, tức là nghe kinh điển Phương đẳng Đại thừa" cho đến "nhờ tu tập nên được Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là giải thích về chuyên tâm nghe pháp."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba ở trước nói chung là liễu đạt mười hai bộ kinh. Phẩm này nói riêng về nghĩa mười hai bộ kinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là nói lắng nghe chánh pháp." "Này người thiện nam! Ví như người bệnh dù nghe lời chỉ bảo của thầy thuốc" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát buộc niệm tư duy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba là buộc niệm tư duy." Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ tư là khen ngợi định."
"Thế nào gọi là tu hành đúng pháp" cho đến "Không bao giờ rốt ráo nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ tư là tu hành đúng pháp. Ở trên nói nhân của pháp, ở đây nói quả của pháp."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ba lời khen ở trước là nói về văn tuệ. Một lời khen thứ tư là nói về tư tuệ, lời khen thứ năm này để nói về tu tuệ."
"Này người thiện nam! Thiện tri thức chân thật bậc nhất" cho đến "Tức là được gần với Đại Bát-niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba là nói lại trước nói về Thiện tri thức bậc nhất trong bốn pháp."
"Thế nào là nhân duyên nghe pháp của Bồ-tát" cho đến "Tức được gần với Đại Bát-niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là giải thích rộng về chuyên tâm nghe pháp."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Các thứ công đức, tức là trong phẩm này nói gần gũi thiện tri thức, cho đến tu hành đúng như lời Phật dạy. Mười thứ an ủi, nghĩa là chia tám phần Thánh đạo thành Tận trí và Vô sinh trí."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là nói rộng bốn pháp, nói về Bồ-tát và Phật, vì phân biệt chúng sinh đến bao giờ mới cùng tận? Cho nên thuộc về Thiện tri thức bậc nhất.
Y cứ đoạn văn sau nói về bốn pháp. Môn chương đều khác nhau, nghĩa sự hãy suy tìm, không thể giải thích rộng.
Nói về bốn công đức của Tu-đà-hoàn: Nêu lên việc xưa nay, để chứng minh năng lực nghe pháp rộng lớn, tức là bốn pháp đã nói trên đây.
Mười dụ an ủi: Tám Thánh đạo là tám và chánh kiến, tâm giải thoát là mười. Chánh kiến là trí vô sinh. Tâm giải thoát là tận trí. Đây tức là pháp sở tri từ trước đến nay, chỉ vì nhân duyên khổ bệnh, không thể duyên lại, làm cho lại nói, khiến mình quên khổ mà duyên pháp."
"Thế nào là nhân duyên tư duy của Bồ-tát" cho đến "Đây là do tư duy mà được gần với Đại Bát Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba là giải thích rộng về buộc niệm tư duy."
"Thế nào là Bồ-tát tu hành đúng pháp" cho đến "Bảy là ngã, tám là tịnh, đó gọi là Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Tận là kết sứ, tập khí đều hết. Tánh thiện lý nhiệm mầu là thiện, trái với gốc là tánh. Thật: Thể là thường. Chân là vì thấy thường. Thường: không thấy thường thì không phải thường. Lạc: Vì thường; ngã: Vì thường nên tự tại. Tịnh: Vì sự nhơ bẩn đã hết."
"Lại có tám việc, tám việc ấy là cho đến "Bảy là vô ngã; tám là vô thường."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Kiết của phàm phu đã dứt, cũng gọi là Niết-bàn. Vì thế nên trái lại, vì chưa dứt hết kết, nên không gọi là tận. Đối với sự ràng buộc có giải thoát, cũng gọi giải thoát. Tánh thiện cũng là diệu thiện. Không thật, không chân vì không thấy thường. Vô thường cho đến Bất tịnh: Vì lại khởi kết, cho nên là vô.
"Lại có sáu tướng: Một là giải thoát" cho đến "Như lai, Pháp, Tăng, Thật tướng, hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại giải thích tu hành đúng pháp: Khéo biết các pháp chân, ngụy, có thể tạo tác thực hành. Hoặc chân, không chân đoạn văn sau sẽ nêu về chân giả).
Nói là không biết tướng của bảy pháp, nghĩa là dù tu nhưng chẳng phải chân, hoặc biết rành bảy pháp, nói là chân.
Niết-bàn, là quả địa Đại Niết-bàn, Phật tánh thông suốt nhân quả. Như lai là người của quả địa. Pháp là chia ra Phật, Tăng, ngoài ra gọi Pháp. Tăng: Cũng có cả nhân quả. Thật tướng: Gồm tất cả các pháp đều là thật. Hư không là bầu hư không. Nói biết bảy pháp này gọi là thể không thật. Tướng của bảy pháp, gọi là chân thật.
Có tám: Trước là giải thích về tám việc của quả Phật.
1. Tận: Là dứt hết tất cả "Hoặc". Trái lại, với ác đã dứt hết, gọi là tánh thiện. Pháp không thật, giả dối đã hết, nên chỉ còn chân thật. Dưới đây đối lập với bốn thứ chẳng phải thường, chung với bốn thứ trước thành tám.
"Lại có tám việc: Đây là nói về Niết-bàn của ngoại đạo."
1. Giải thoát: Chẳng phải không chế phục kiết. Ngay khi trái với ác là tánh thiện. Không thật, không chân. Chế phục rồi lại sinh, chưa phải là chiếu lý. Bốn thứ sau đây chẳng phải thường: Đã chưa lên quả cùng cực là pháp hữu vi. Lại, có sáu tướng; là về Nhị thừa:
1. Giải thoát: Tùy phần dùng vô lậu mà được vô vi.
2. Vì trái với ác nên là thiện.
3. Không thật.
4. Không chân: Lại phải dứt khổ hữu dư, chứng diệt của hữu dư. Lại có diệt cùng cực. Vì chưa được nên thành không chân thật.
5. Yên vui: Do họ thoát khỏi khổ nặng của ba cõi, nên có một ít phần vui, giữ được vô lậu. Đây là pháp tịnh. Vì thể là dòng chảy dời đổi, nên chẳng phải thường. vì chưa được tám tự tại, ngã cho nên vô "Ngã". Có và có thoát thoát. Nên biểu thị quả là chưa cùng cực. Nếu dựa vào đạo thế tục để giải thích ngoại đạo, cho nên chỉ thú không chân thật.
Thế nào là sáu tướng? Giải thích Nhị thừa. Sở dĩ không giải thích lại quả Phật có tám là vì đã giải thích hai thứ chưa cùng cực. Về hình tướng dễ biết. Không gọi là biết Phật tánh: Vì nghĩa Phật tánh có tên gọi khác, nên nói là không biết."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là thứ lớp giải thích tu hành đúng pháp. Nếu biết rõ bảy việc, là tu hành pháp chân như. Bảy việc đủ như kinh nêu:
1. Biết Niết-bàn có ba thứ: Trước biết Niết-bàn của quả Phật có tám việc.
2. Biết Niết-bàn do chế phục kiết của ngoại có tám việc.
3. Biết Thanh văn chỉ đoạn diệt "Không", tạo nên Niết-bàn có sáu việc.
Nếu biết như thế thì Niết-bàn có rốt ráo, có thể cho là người tu hành pháp chân như."
"Thế nào là Bồ-tát biết Phật tánh" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Phật tánh có sáu: Y theo phần giải thích tánh thì bốn Phật tánh trước là nhận biết riêng về quả, Phật tánh thứ năm là thấy giống như tánh "Duyên" nhân, trong đó chiếu sáng đạo, vì chẳng phải pháp ngụy, cho nên là chân. Một có thể chứng cho sáu tánh còn lại như trên, nghĩa là lại thêm trí quả để chứng được tánh này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là Phật tánh mà Cửu địa chứng được: Một là thường; nghĩa là điều lành của "Duyên" nhân:
Đã được thì không mất, vì quán sát pháp thường cho nên là Thường.
1. Vì "Tức" thể dứt trừ được "Hoặc", cho nên là tịnh.
2. Vì đối lại với hư, nên gọi là thật.
3. Vì hướng lên, nên gọi là thiện.
4. Tức là sẽ thấy được tánh quả.
5. Vì đối với ngụy nên gọi là chân.
Lại có bảy Phật tánh: Là Phật tánh của Thập địa thêm người có khả năng chứng, nghĩa là thấy một ít tánh quả. Sáu Phật tánh còn lại, như trên đã nói."
"Thế nào là Bồ-tát biết tướng Như lai" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết tướng Như lai."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Như lai y theo người để gọi. Giác là từ kiết sử, tùy miên mà thức tỉnh. Tướng thiện là Niết-bàn mà "Hoặc" đã hết, được vốn xứng tánh. Như lai, khéo thiện mà thôi.
Thường, lạc, ngã, tịnh: Ý nói giống như không đến mà thật ra thường đến, là tướng. Giải thoát: Con người giống như chưa giải thoát mà thật đã là tướng giải thoát.
Chân thật: Thấy thường mà thường, tức là người kia. Thị hiện đạo: Chỉ cho chúng sinh thấy con đường chân chánh. Có thể thấy, là vì thị hiện đồng với người nên thấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Như lai là tướng giác ngộ, nghĩa là pháp thân của quả cùng cực. Phật bảo chân thật, thể là thường, lạc, ngã, tịnh: Có đủ các đức.
Chỉ bày đạo thấy được: Kế là nói nói về Ứng với Phật Bảo, nếu chân thì nên biết chân này chính là điều lành, tu hành đúng pháp."
"Thế nào là Bồ-tát biết pháp tướng" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết pháp tướng."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không có phi pháp là Pháp, ở người thì rõ ràng mà giảng nói thông suốt cả chúng sinh, vì khiến người thực hành điều lành làm chính. Trước là nêu điều thiện, bất thiện. Chứng được lý là thiện, trái với lý là bất thiện, đều thích hợp với sự thật kia, chính là Pháp.
Thường, bất thường, cho đến tịnh bất tịnh: phải ở chỗ không có bốn điên đảo, là thể chính đáng của pháp. Hoặc biết, không biết: Vì pháp không có vô tri, nên lại dùng biết, không biết để làm pháp.
Hoặc hiểu, không hiểu: Mở mang truyền bá chánh pháp là ở lời nói. Được chỉ thú là hiểu, nên lại dùng "Hiểu", "Không hiểu" làm pháp.
Hoặc chân, bất chân: Vì trái với chân là phi pháp, nên mới dùng chân, bất chân làm pháp.
Hoặc tu, không tu: Vì hoằng pháp là mục đích ở việc tu học, nên mới dùng tu, không tu làm pháp.
Hoặc có thầy, không có thầy: Vì pháp tiêu biểu thành thầy, nên mới dùng thầy, không thầy làm pháp.
Hoặc thật, không thật: Đã chân là thật, thật đã rõ ràng, thì nhất định là phải quấy, nên lại dùng làm tánh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thiện, bất thiện: Được chia thành hai báu. Ngoài ra tất cả pháp đều là Pháp. Xét theo văn, dường như chung riêng, chưa chia ra pháp của hai danh từ. Và danh từ thí kia, về nghĩa đã phân tích, vì hai báu khác nhau. Pháp và thật tướng, có chia ra rộng, hẹp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người biết pháp là người biết cả hai.
Sáu hạnh song song với hai đế chân tục."
"Thế nào là Bồ-tát biết tướng Tăng" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết tướng Tăng."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Dù phần nhiều là vô tướng, đều có một người, mà pháp thì không thể khác. Nhưng về sau lại thành chúng không có khác, tức thường hòa thì hằng vui, chẳng bị người ngoài phá hoại, gọi đó là "Ngã". Không cho gây ra lậu, gọi là Tịnh."
Tướng của đệ tử: Chúng chẳng phải là sự tỏ ngộ một mình mà rõ ràng phải có thầy, tướng thấy được: Là các lý lẽ là ở người, nên có thể thấy. Thiện: Chớ có trái phạm, đó là thiện thường.
"Chân, bất chân, cho đến thật không thật: Bản tánh là chân, toàn thể không có ngụy, chưa thể cứu xét lý thì lấy gì làm thật?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói là thường, lạc, ngã, tịnh: Trước nêu tăng của quả địa, là tướng đệ tử, là tăng ở nhân địa. Có thể thấy tướng: Tu, hiểu tu Trung đạo là thấy Phật tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu cùng cực khác với thể, mà hòa là chân tăng. Nếu là Thánh chúng ba thừa của Học địa, là tướng đệ tử. Nếu biết hai hạng tăng này khác nhau, thì cũng là người tu hành đúng pháp."
"Thế nào là Bồ-tát biết thật tướng?" cho đến "Tướng mạo khác nhau của pháp hư không...."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Thường, vô thường cho đến tịnh, bất tịnh, nghĩa là vì thật tướng nói lý, nên khác với pháp. Con người tự mình trái với lý, có bốn điên đảo Trong bốn không có điên đảo, vì vốn là lý. Thiện, bất thiện: Vì trái lý nên bất thiện, ngược lại thì thành thiện.
"Hoặc "có", hoặc "Không ", hoặc "Thấy" hoặc "Không thấy", nghĩa là về lý thì ẩn giấu, dường như "Không có". Lại, nếu "Không", mà có thể thấy, hoặc Niết-bàn, là giải thoát và đoạn: Trái lý thì thành ràng buộc, được lý thì Niết-bàn là giải thoát và đoạn. Hoặc biết, không biết: trong lý chẳng có không biết. Hoặc chứng, không chứng: lý tiềm ẩn, dường như khó nói mà rõ ràng chứng biết. Hoặc tu, không tu: Tu thì được dụng, đây gọi là Thật tướng, chẳng phải Niết-bàn... Bảy nghĩa này về mặt lý thì đồng mà về nghĩa thú thì chẳng phải một. Chẳng phải một, vì đều khác trước sau, hội hợp lại là đủ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thường, vô thường: hợp với tướng là thật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng không khác với nghĩa trong thật đế trên."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Vì chúng sinh, nên nói là có thế đế."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Chẳng thấy hư không: Hư không tự biểu lộ, chẳng có hư không biết hư không: Vì chẳng thấy hư không. Nay dùng ví dụ lý kết câu để nói sau. Nếu không vật thể gọi là hư không, thì hư không như vậy mới gọi là thật. Có tướng hư không, tức là vật của ba cõi. Vì không có vật mới là chân thật. Vì là thật nên gọi là thường vô. Vì thường "Không có", vật về lý không dời đổi là thường vô, vì thường vô nên chẳng có lạc, ngã, tịnh. Nghĩa là đã chẳng có tướng không, cũng chẳng có thường, lạc, ngã, tịnh. Về nghĩa đã là vô thì không thể nói là có, đó là lý do "Có". Ví như thế gian không có vật, gọi là không, nghĩa là hình tướng không, mà chấp "Không có" vật là dụ chẳng có tướng không."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chỉ tuệ nhãn trông thấy, như vô mà thấy. Vì ánh sáng nên nói là không, nghĩa là do ánh sáng kia có tác dụng suốt qua ánh sáng thành không. Hư không là bầu hư không, là chữ vật vô. Ngoại đạo thường nói hư không có thể tạo tác. Nếu hiểu hư không, chẳng phải là pháp có thể tạo tác, cũng là tu hành đúng pháp. Chính vì vậy, nên sau đây, Đức Phật tạm mượn ví dụ để nói cũng như thế đế, thật ra không có tánh của hư không. Nói thẳng, tự vì chúng sinh nên nói có nhân duyên này. Tuy nhiên Thế đế từ xưa đến nay là không, chẳng hề tạm "Có". Nay hư không cũng như vậy. Nói thẳng là do vật thể không có chỗ, nên gọi là hư không, thì chỗ nào lại có hư không để được ư?"
"Này người thiện nam! Thể của Niết-bàn cũng giống như vậy" cho đến "Khi chứng Vô thượng Bồ-đề, thì gọi là vui Bồ-đề."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Thể của Niết-bàn: Niết-bàn tự biểu thị không có Niết-bàn, đồng với hư không, chỗ dứt phiền não, là lấy chỗ dứt gọi là diệt, chính là vì không có diệt, tức là thường. "Diệt" của "Vô Diệt" tức là thường, lạc, không hoàn toàn đồng với hư không. Cái vui vắng lặng: Đã nói là vui, vì e lạm quá, cho nên phải nói: Như lai có hai thứ vui, đó là vui vô tri. Thật tướng có ba niềm vui: Một là cảm nhận niềm vui, nghĩa là chấp ngang trái dù chẳng phải vô vi, nhưng cũng lập ra vui này; hai là Phật tánh có một niềm vui: Phật tánh của Bồtát không có niềm vui, vì sẽ có vui Bồ-đề."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thể của Niết-bàn trực tiếp dứt phiền não: Nói đúng ra là giải thoát các lụy phiền trói buộc. Do không có các phiền não nên cho là Niết-bàn tức là thường, lạc: Y theo trí mà nói là không, đâu chẳng phải thường, lạc ư? Dù chẳng cảm thọ niềm vui, khác với cái vui của ba thọ, mà vì vắng lặng không có khổ, nên gọi là vui. Như lai có hai thứ vui: Vì vui đó không suốt qua nhân địa, nên không có thọ vui. Vì thật tướng chung cả nhân quả, nên có cả ba niềm vui. Phật tánh có một thứ vui là Lý thiên chân vì chẳng phải nghĩa thần minh nên chẳng phải giác biết và thọ vui. Lúc chứng được Bồ-đề, gọi là vui Bồ-đề: Tức là vui vắng lặng. Lại vì xoay vần đặt tên, nên gọi là vui Bồ-đề."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là nói về thể của Niết-bàn. Cũng như hư không chẳng có chỗ ở. Diệu thể của quả Phật là chân như vô tướng, đâu có nơi chốn để tìm kiếm? Nhưng pháp tánh không có tánh tướng như hư không, chẳng khác, sở dĩ có khác là vì khác ở chỗ "Chí hư". Đã y theo thể, tướng để soạn luận, e rằng người còn nghi ngờ, nên về sau lại y theo công dụng để nói, cho nên nêu thường, lạc, ngã, để nêu tướng của chúng. Phật có hai niềm vui: Niềm vui vắng lặng được y cứ trên thể tướng để biểu lộ lời nói. Do đó, mà biết niềm vui là y theo dụng để giải thích.
Thật tướng có ba niềm vui: thọ vui, thật là thật trong hư. Hai thứ vui còn lại không khác với vui nói trên. Quả này làm sáng tỏ vui chân thật. Phật tánh chỉ có một thứ vui, vì sẽ thấy."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý
Đức Vương" cho đến "Thế nào là nói lời giả dối này?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có ba câu hỏi:
1. Chứng thân trí diệt là Niết-bàn, chẳng phải dứt thẳng phiền não?
2. Chứng tập diệt là Niết-bàn, chẳng phải dứt thẳng phiền nãodiệt.
3. Chứng ba việc thân diệt, tức là Niết-bàn. Tự kỳ hạn ba tháng, nghĩa là do thời gian, việc quan trọng, nên chứng thân trí diệt là Niết-bàn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Có câu hỏi này, là do trước đây đã giải thích về Niết-bàn, nói thẳng là chỗ đoạn, nối tiếp lời nói đó để làm lời thưa hỏi. Ở đây có bốn câu hỏi về chỗ đoạn, không phải là Niết-bàn. Ý thưa hỏi là dẫn chứng giáo xưa, muốn cho Niết-bàn đồng với không vô. Lời hỏi đầu tiên rằng: "Ma đến hỏi Phật vì sao chưa nhập Niết-bàn, Phật tự đáp: "Chưa có đệ tử học rộng", phải biết rằng do chỗ thân trí hết, chứ chẳng phải dứt thẳng hết phiền não?
Thứ hai là nêu do Bồ-tát quyết đoán, nên biết không cần chỗ đoạn, là đúng.
Thứ ba là ma lại hỏi, Phật đáp rằng: "Đến ba tháng sau, Phật sẽ nhập Niết-bàn" lời nói "sẽ nhập" này phát ra từ chính miệng Phật, há là chỗ dứt thẳng?
Ý câu hỏi thứ tư, lấy mới thành Phật, bèn là Niết-bàn, câu hỏi thứ ba trước trở ở thành câu hỏi đầu. Nay câu hỏi thứ tư lại thành câu hỏi thứ hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây vì ở trên đã nói rằng Niết-bàn trực tiếp là chỗ mà Chư Phật dứt phiền não. Chúng sinh bèn sinh nghi rằng "Cũng là Niết-bàn Hữu dư của ngày xưa. Nay, Bồ-tát Đức Vương nêu câu hỏi này để khiển trách. Y theo ba thứ: Việc dạy bảo trẻ thơ để nói về tính chất hư thật của Niết-bàn. Thứ nhất là chấp vô dư, lẽ ra phải là hữu dư, lẽ ra là quấy. Vì sao? Vì xưa, Như lai ở bên sông Ni-liên-thiền, bảo Ma vương rằng: "Hôm nay ta chưa nhập Niết-bàn."
Câu hỏi thứ hai: Từ câu "Nếu dứt phiền não thì chẳng phải Niết-bàn, trở xuống, cho đến hết: "Nay thân này của ta tức là Niết-bàn rồi, chẳng phải chỉ vô dư mới đúng" hữu dư lẽ ra cũng lại như thế. Vì sao? Vì thuở xưa, Phật bảo Bà-la-môn Sinh Danh rằng: "Nay, thân này của Ta tức là Niết-bàn."
"Thân Như lai chưa diệt mà nói "Tức là", không phải dùng hữu dư làm Niết-bàn ư?"
Câu hỏi thứ ba rằng: "Lý luận không thích hợp, cả hai không như vậy, lẽ ra một thị một "Phi". Nếu cả hai đều "Phi" thì Đức Phật đâu phát ra lời nói luống dối này. Nhưng trong đây lời hỏi dù nhiều, nhưng ý thưa hỏi chính đáng không ngoài ba pháp này. Từ "Ở nước Tỳxá-ly trở xuống, đều để chứng minh câu hỏi thứ nhất. Vô dư lẽ ra nghĩa là Niết-bàn. Như lai đã tự kỳ hạn ba tháng, không phải dùng ngay tử diệt để làm Niết-bàn ư?"
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Hễ đã phát ngôn, đều là lời chân thành, chắc chắn, không giả dối."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp chung bốn câu hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba, nói tự chẳng phải cơ cảm. Đức Phật thì không nói, vì muốn cho chúng sinh được thích nghi, nên có thuyết này."
"Này người thiện nam! Như lời ông nói: "Khi xưa, ma Ba-tuần" cho đến "Bèn cho là Như lai nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Im lặng không nói năng chi cả tức là Niết-bàn, đáp câu hỏi đầu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là đáp câu hỏi thứ nhất, nói Ma vương không biết chân thể Niết-bàn, cho rằng Đức Phật im lặng không nói pháp nữa đó, là Niết-bàn."
"Này người thiện nam! Như lai không nói Phật, Pháp, chúng Tăng" cho đến "Hai pháp thanh tịnh, không có khác nhau."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Y theo phần lược đáp, trước là mở ra ba câu, giải thích lý do ý nói tướng che khuất để nói Đức Phật mới xuất hiện ở thế gian, chúng sinh trí thấp cạn, chưa kham pháp sâu, không được nói Tam bảo đồng thể, chính là được nói đoạn diệt vô dư, tạo nên thường trụ thanh tịnh không có khác nhau."
"Này người thiện nam! Đức Phật cũng không nói Phật và Phật tánh" cho đến "Thường hằng không thay đổi, không có khác nhau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích thứ hai, cũng không nói Phật tánh và Niết-bàn là một thể, chỉ nói vô dư "Không" Niết-bàn, tạo ra thường hằng không thay đổi."
"Này người thiện nam! Phật cũng không nói thật tướng của Niết-bàn" cho đến "Thường không thay đổi, không có khác nhau."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích thứ ba, là nói vào thời bấy giờ cũng không được nói thật tướng Niết-bàn là một thể, chỉ được nói vô dư "không", tạo ra thường có thật, không thay đổi, không có khác nhau."
"Này người thiện nam! Lúc bấy giờ, các đệ tử Thanh văn của ta" cho đến "Phật hẹn ba tháng sau sẽ nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sở dĩ chỉ được nói vô dư "Không" tạo ra có thật là vì có đệ tử buông lung."
"Này người thiện nam! Do Tỳ-kheo xấu ác như vậy" cho đến "Nhưng thật ra Ta không rốt ráo nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba: Nghĩa Tam bảo khác nhau, nhưng nghĩa thường trụ, thanh tịnh thì không khác, nên nói một, không phải ba."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quở trách rộng về lỗi của đệ tử Thanh văn, khen hiểu được sáu hạnh. Nếu hội được cái học nghiêng lệch, người đã hội được Thánh, thì trong đây không nên nói "Người Thanh văn là quyến thuộc của ma, chẳng phải là đệ tử của Ta".
"Này người thiện nam! Như người mù bẩm sinh không thấy mặt trời, mặt trăng" cho đến "Ba tháng sau, Ta sẽ nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì Thanh văn nêu thí dụ".
"Này người thiện nam! Như lai xa thấy Bồ-tát Cadiếp" cho đến "Ba tháng sau, Ta sẽ nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói thẳng là Như lai hiện ra hạnh trẻ thơ để dìu dắt, hóa độ kẻ ngu mê thấp hèn, nên phải nói thế."
"Này người thiện nam! Vì sao, trước kia Ta" cho đến "Ma vương Ba-tuần, không nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ tư, nêu lên chỉ thú xưa, để thành câu hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu câu hỏi thứ nhất để đáp: "Trước kia, Ta đã nói chưa có đệ tử học rộng, là muốn vì năm Tỳ-kheo..., nên nói chưa nhập Niết-bàn, chứ chẳng phải chính là Niết-bàn chân thật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là ý đáp câu hỏi trước rằng: "Bấy giờ, Ta vì một người gieo trồng gốc lành phải thành thục, cho nên không nhập Niết-bàn."
"Này người thiện nam! Niết-bàn Hữu danh" chẳng phải Đại Niết-bàn" cho đến "cũng được gọi là Đại Bátniết-bàn".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai, nói vì thấy Phật tánh, nên được gọi là thường, lạc. Nếu không thấy Phật tánh thì tập khí sẽ chưa hết, không được "Ngã" thường, chỉ khi khổ phần đoạn hết mới được gọi là lạc, tịnh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ hai, nói Bồ-tát mới dứt khổ phần ít, nên chưa thể gọi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là đáp câu hỏi về hữu dư thứ hai.
Giáo xưa chỉ cho phiền não không có nơi chốn, vì là hữu dư, không chỉ cho thân trí cùng tận. Ngày nay, y theo thân, tâm để lập, tùy theo người tu hành mà dứt nhân, diệt quả, nên gọi là Niết-bàn" "Hữu danh".
"Này người thiện nam! Bát-niết, ý nói là không bát, ý nói dệt" cho đến "Nghĩa vô chướng ngại, gọi là Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Giải thích rộng về nghĩa không dệt..., vì thành lập nghĩa Niết-bàn chân thật."
"Này người thiện nam! Có đệ tử của phái Ưu-lâu-ca,
Ca-tỳ-la" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ bảy." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nêu việc để chứng minh rồi. Giải thích lại danh nghĩa Niết-bàn "có" ở diệt. Dứt phiền não không gọi là Niết-bàn: Dứt phiền não là trí, phiền não bất sinh là diệt."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã nói Bồ-tát chưa cùng cực, chỉ có Phật là cùng cực, tức câu hỏi thứ tư, là giải thích tự nhiên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là một ít phần không khổ trong nhân, chẳng phải tất cả khổ đều hết, cho nên không gọi là Đại Niết-bàn. Diệu thể của quả Phật, sinh tử đã dứt hết. Thể không có tai họa trói buộc, không còn sinh phiền não, đủ tất cả đức, mới gọi là Đại Niết-bàn. Không phải ngay phiền não này không có nơi chốn. Thế nên dùng năm pháp đồng thể để chứng minh rằng Niết-bàn nay khác với Niết-bàn xưa. Vì sao? Vì có năm tính chất:
1. Nói Phật không còn khởi phiền não!
2. Nói thể cùng cực như lý.
3. Nói xem xét cảnh đã chu đáo.
4. Nói ứng hiện khắp, không có ngăn ngại.
5. Nói thể là thật tướng.
Đủ năm tính chất tốt này thì diệu hữu, thường còn, đâu không phải là Niết-bàn nay khác với Niết-bàn xưa ư?"
- Giải thích rộng về tâm tính vốn tịnh, chẳng đi chung với tham.
- Bốn câu giải thích nghĩa tham có khi tâm, cùng tham câu sinh, không cùng tham câu diệt.
"Này người thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát" cho đến "Tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gồm có chín pháp Thanh văn cầu Phật theo thứ lớp: Bốn pháp đầu, trong nhân quả của phần đoạn, ba pháp, tu hành Đại thừa, hai pháp sau là việc thành Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Về chín việc, đoạn văn sau sẽ tự giải thích theo thứ lớp. Năm ấm là quả, năm kiến là nhân. Vì nhân dứt, nên nói là ấm dứt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về tên gọi công đức là danh xưng khen ngợi, mà công đức thứ tám đã dùng chín nhóm pháp làm thể, chỗ thực hành của người mới học, nhờ vào con đường quan trọng của Niết-bàn. Chín nhóm Đại luận không ngoài hai ý: Đầu tiên có hai nhóm nói về sự xa lìa của Niết-bàn. sau pháp bảy nhóm là bàn về đối tượng chứng đắc, là sự xa lìa nghĩa là trừ năm ấm và năm kiến. Nếu thuật lại chỗ chứng đắc của Niết-bàn, thì có bảy nhóm. Trong bảy nhóm lại không ngoài tự tu hành, giáo hóa người, nên gìn giữ một việc. Và với bốn đẳng, vì lợi ích chung cho chúng sinh. Nhưng hai việc này, chủ yếu là ở bên cứu giúp rộng rãi, tốt đẹp nương vào sự nghiệp mở mang mà tạo nên địa vị. Năm nhóm sáu niệm khác..., đều y theo đức mình mà có tên gọi."
"Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát dứt trừ năm việc" cho đến "Do nghĩa này nên dùng phương tiện để dứt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiểu thừa chán khổ, dứt bỏ năm ấm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã nương vào sáu hạnh, về lý do quên đi hoài bão, cũng không có thiện, nhưng vì không thọ lãnh nên đã trải qua nhiều kiếp làm tâm sư, chủ yếu là dựa vào lý giáo này mà được ra khỏi. Cho nên người mới học trước phải quán năm ấm làm gốc. Đã thấu rõ thân là giả dối thì phải tu thiện mà dứt, nên hôm nay, trước quán năm ấm làm đầu.
Thọ có một trăm lẻ tám: Đây là số của một phương thọ là ba thọ. Ba thọ có hai thứ: Tịnh thọ và bất tịnh thọ. Y theo "Tác vị" trong sáu căn đủ sáu, thì sáu nhân sáu bằng ba mươi sáu. Y theo phần dĩ vãng trong ba đời thì thành một trăm lẻ tám thọ."
"Thế nào là Bồ-tát lìa bỏ năm việc" cho đến "Thế nên Bồ-tát thường ngăn giữ không gần gũi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn diệt năm ấm, thì trước phải dứt trừ năm kiến."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ hai, nhóm là tánh chất tìm kiếm, phần vị nặng của chấp tà. Vì năm kiến này có thể sinh rộng thành sáu mươi hai kiến. Bồtát biết rõ năm kiến này là gốc của sinh tử, cho nên ngăn ngừa không cho khởi."
"Thế nào là Bồ-tát thành tựu sáu việc" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát thành tựu sáu việc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đạo thấy do đạo, thứ lớp nói về đạo. Nghe nói tu định trong tử thi, thường sợ hãi, giúp họ tu sáu niệm, để dứt nỗi sợ hãi đó."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ba niệm trước là niệm bên ngoài, kế giới, thí là công hạnh bên trong. Niệm thiên sau là quả vị lai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ ba, từ khi Phật ra đời đã có sáu niệm này rồi (Phẩm Phạm Hạnh đã giải thích rộng)."
Thế nào là Bồ-tát tu tập năm việc" cho đến "Do đó, Bồ-tát siêng năng tu tập."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do niệm thành định. Đầu tiên là bốn thiền, một thiền sau là tuệ. Đủ bốn pháp này lìa khổ phần đoạn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đầu tiên biết định, nghĩa là thiền định. "Dùng âm thinh kích động, khởi tâm hay biết" kế là nói về các thiền.
Tịch định: Định Nhị thiền vững chắc, không bị giác quán làm rối loạn. Các thức diệt là "Tịch định". Thân tâm vui sướng. Cái vui của ba thiền đã mãn. Không có vui: Bốn thiền trở lên, cho đến Phi tưởng không có tướng của bốn thọ. Nhờ bốn định này mà phát định Thủ lăng nghiêm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ tư có năm việc."
1. Biết định, định Sơ thiền vẫn chưa khỏi giác quán, nên thọ biết tên.
2. Tịch định: Nhị thiền, giác quán đã diệt, tâm lự chuyển sang tĩnh. Vì duyên bên ngoài khó xao động, nên gọi là tịch định.
3. Định của thọ vui sướng: Nhị thiền cũng bị dòng chảy trôi nổi của hỷ. Chưa bằng sự vui mừng phấn khởi của ba thiền đã dứt, vì thân tâm thư thái, nên cảm nhận danh từ vui sướng.
4. Định không có niềm vui: Bốn thiền diệt hết vui, không còn có niệm phân biệt, vì lấy Xả thọ làm thể, nên gọi là định không có vui. Nếu được bốn định này, quên tướng ở trong duyên, thì gọi là hai đế chân, tục. Trí tuệ giải cùng cực, gọi là Định Thủ lăng nghiêm."
"Thế nào là Bồ-tát gìn giữ một việc" cho đến "Thế nên Bồ-tát gìn giữ một pháp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bắt đầu phát tâm cầu
Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ năm, là tâm Bồđề. Bồ-đề gọi là đạo. Người tu hành này mới tập tâm: Một là xa cầu mong quả Phật; hai là vì cứu vớt chúng sinh kia. Nếu gìn giữ được thì tâm này sẽ khắc sâu Bồđề."
"Thế nào là Bồ-tát gần gũi bốn việc" cho đến "Thế nên Bồ-tát buộc tâm gần gũi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nuôi lớn Bồ-đề, do bốn Vô lượng"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ sáu. Ở trước dù đã giải thích về phát tâm, nhưng nếu không tạo nên công hạnh thì kết quả sẽ không do đâu có được. Nay nói về hóa độ người ngoài, vì khởi lên ba tâm bốn đẳng, nguyện cho người ấy và ta đều yên ổn, nếu tu tập lòng từ này, thì sẽ bước lên sơ địa. Dù có bốn tâm khác nhau, nhưng chung là một tâm Từ. Chỉ từ người bắt đầu học, y theo giai cấp mà nói."
"Thế nào là Bồ-tát tin thuận Nhất thật" cho đến "Thế nên Bồ-tát tin, thuận không trái."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bốn đẳng thành tựu, được nhập Đại thừa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhóm thứ bảy, thật nghĩa là hiểu vô tướng của Đại thừa. Bồ-tát đã biết chấp tướng là lỗi, bỏ tướng là đạo lý, nên quy về Nhất thật, không còn có đường nào khác."
"Thế nào là Bồ-tát tâm khéo giải thoát" cho đến "Xưa không đến mà nay được đến."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nhập Đại thừa, nên sau đó, mới có đủ hai việc."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hai nhóm thứ tám, thứ chín còn lại, chỉ về nghĩa được chia làm hai tâm, cho nên không tự tại. Do yêu đắm làm trở ngại. Nếu quán sát cảnh, với ý nghĩ sáng suốt, thì sẽ không có chướng ngại, nên hôm nay, phiền não đã hết, không có "Hoặc" nào để câu thúc, tác dụng của bóng tối đều được dứt trừ, gọi là tâm giải thoát. Nếu có lúc mê thì đối với cảnh, sẽ không sáng suốt. Nay, không có sự ngăn ngại nào để che lấp trí được, nên gọi là tuệ giải thoát. Tuy nhiên người mới học, phải từ cạn đến sâu, nên trước y theo ấm làm đầu để thành trí tuệ là cuối."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao quý Đức Vương" cho đến "Tâm giải thoát, nghĩa này không đúng."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ tám ở trước: "Tâm không nên giải thoát?" xét ra, đầu tiên, Bồtát Đức Vương lấy pháp thật làm câu hỏi. Lập nhiều ví dụ, nói tâm không có ràng buộc, giải thoát. Đại ý câu hỏi thứ hai: Tham cũng là "Có", bởi tâm vốn có tánh tham, thì không thể được giải thoát. Câu hỏi thứ ba nói là chấp tướng, rồi sau mới sinh, là dùng chứng tham này chẳng những ở trong tâm, mà ngay ở cảnh cũng có tham. Vì trong tâm đã có tham, nên cảnh cũng có tham, vì thể tánh như thế, đâu thể thay đổi ư?"
Câu hỏi thứ tư, nói là không nhất định: Nếu đối với một duyên nhất định khởi tham thì nhất định dùng quán bất tịnh để dứt bỏ. Nay, đối với một cảnh, đôi khi khởi lòng tham, hoặc sinh sân si. Tâm cũng không nhất định, hoặc khởi tham, đôi lúc nổi sân, si. Đây là tâm và cảnh, cả hai đều không nhất định. Đã là không nhất định thì không thể dứt. Đã không thể dứt thì sẽ không có giải thoát".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đối với những người chưa thấu đạt, hễ gặp việc là thành chấp, bèn cho rằng," tâm vốn không trói buộc, không nên gọi là giải thoát". Cho nên, nay Bồ-tát Đức Vương mới nêu ra lối chấp tánh nhất định của bốn nhà, để xin Phật giải thích, nhằm chứng minh tà là sai, mà nói lên chánh là đúng".
Nhà thứ nhất chấp: "Sáu thức đầu tiên tạo ra duyên, thích hợp với phần vị của tâm. Nhưng tác dụng của tham, sân chủ yếu là ở hành ấm. Lúc tâm thức trước kia đã chưa có tham, thì làm sao nói là "Trói buộc trở xuống? Bèn dẫn tám việc sau để chứng thành nghĩa tâm không trói buộc?"
Nhà thứ hai chấp rằng: "Tham cũng là hữu, nói về tham, sân cho đến giải thoát, đều có cùng một lúc. Về sự, như bó trúc, chỉ vì công dụng có trước sau, nên không đặt ra hai ví dụ sau để chứng minh."
Nhà thứ ba chấp: "Từ "Ví dụ như cọ lửa trở xuống, là nói trong các duyên, mỗi duyên đều có một ít tham, chẳng hạn như năm duyên sinh tác dụng của nhãn thức. Trong mỗi duyên đều có tánh thức, phải nhóm họp sinh chung tham".
Nhà thứ tư chấp: "Tâm cũng không nhất định tham làm tự tánh cho giải thoát, đều không từ nhân duyên".
"Vì sao tâm, vốn không trói buộc?" cho đến "Làm sao trói buộc được tâm? "
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói về công hạnh của hai giải thoát, được nghĩa" Không" của Trung đạo. Sắp nói Trung đạo, trước là nói không nhóm họp ở giữa, có ba: Trước, nói trong nhân không có quả, nghĩa là tâm vốn không bị trói buộc, như nhãn thức tiếp nhận sắc, chưa có phiền não, nên không bị phiền não trói buộc".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tham và tâm tịnh, một khởi, một diệt, không hề gặp nhau, cái gọi là "Các pháp không đối đãi nhau" cho đến một niệm không dừng" "Như người vắt sừng vốn không có sữa cho đến" làm sao kiết tham mà trói buộc được tâm"?
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc tâm không tham, thì chẳng phải là nhân của tham. Nhân còn bất sinh, thì nhân nào mà trói buộc tâm?"
"Bạch Đức Thế tôn! Ví như ép cát thì không thể được dầu cho đến làm vì sao nói tâm được giải thoát. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tâm và tham là cấu, tịnh uế không đi chung, làm sao có thể tâm ô nhiễm, giả thiết tâm về sau khởi, tâm trước đã thuộc quá khứ. Một hữu, một vô, thì đâu thể ô nhiễm tâm?"
"Bạch Đức Thế tôn! Tham cũng là có, nếu tham không có" cho đến "Nếu tâm có tham thì làm sao thấy tướng mạo?"
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ hai, ví như có người nhìn thấy bức họa cô gái: Đây là giải thích về ngăn ngừa, chế phục. Người khác nói chung, gặp phải duyên nổi lòng tham, tham này do cảnh, đâu phải ở tâm? Nếu nói là chung, thì ở đây sao lại dùng dụ cho ngăn ngừa? Như sau khi nhìn thấy bức họa cô gái rồi mới nổi lòng tham, thì bức họa này đâu là tham ư? Phải biết là do tâm."
"Nhưng về sau mới sinh, không thấy tướng mạo" cho đến "Chư Phật, Bồ-tát mà bất sinh tâm ư?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai nói: Vốn có tham, vì tham là tánh (bản chất) cũng không có giải thoát? Ở đây nói không riêng gì tâm có, mà trong duyên cũng có."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đoạn thứ ba. Nếu trong cảnh có tham mà tâm lại có tánh tham nữa, cả hai chỗ giúp nhau, thì tánh tham nọ càng nặng, nên đọa vào đường ác."
"Bạch Đức Thế tôn! Tâm cũng không nhất định, nếu tâm nhất định" cho đến "Tu Đại Niết-bàn tâm được giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba là môn bất định, nói tâm nhất định thì sẽ không tham, không nhất định thì không có tâm, đều không có giải thoát. Dưới đây so sánh giống như."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ tư."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Vì tất cả pháp đều không có tự tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba câu hỏi trên, tìm tướng nhất định của pháp. Tìm cầu nhất định đều không có điều lành, điều đó dễ hiểu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ nhất: "Cũng không bị ràng buộc bởi tham. Pháp thật thì không có sự trói buộc cũng chẳng phải không trói buộc, đạo giả danh có ràng buộc. Giải thoát mà chẳng giải thoát cũng giống như vậy, chẳng phải có, chẳng phải không. Thật pháp đương phần tự diệt nên lúc chẳng có dời đổi thì không diệt, vì tướng của pháp thật nối nhau, mà nói chẳng phải không có, pháp chung nhất. Chẳng phải quá khứ, là không phải có ràng buộc riêng, giải thoát ở quá khứ, cho đến thấy chế phục, vị lai cũng vậy. Nói là giả danh nối nhau. Trải qua dời đổi ba đời, được nói là trước kia ràng buộc, nay giải thoát. Chính vì như chỉ thú của giả, thật, thì câu hỏi ban đầu đã được giải thích."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sẽ nói là chẳng phải đối tượng chấp kia, nên trước giải thích sơ lược ý nghĩa thích đáng, sau phá bỏ tâm chấp kia, cũng không bị kiết tham trói buộc. Nghĩa là vì tâm thức chưa khởi tham, nên nói là không trói buộc, cũng chẳng phải không trói buộc: Lời này có hai thứ:
1. Nói về trói buộc trong duyên thật.
2. Nói về trói buộc trong giả danh nối nhau.
Như trước khởi niệm tham, tự chưa có cách đối trị để đổi mới, được nói tâm thường bị ràng buộc. Đây là sự trói buộc của duyên thật. Nếu sau tác dụng của ngữ đạo nối nhau, sẽ trói buộc trước là hành động, rồi tâm mới khởi tham, phải là tâm sau khởi tham, nhiễm trói buộc ở trước, cũng chẳng phải không trói buộc.
Chẳng phải giải thoát, nghĩa là khi tâm đạo khởi, vì không có "Hoặc" để dứt, nên chẳng phải giải thoát. Trước kia si mê mà nay hiểu rõ cũng chẳng phải không giải thoát. Nếu nhân duyên chưa hội ngộ, nên nói chẳng phải có. Duyên hội hợp thì khởi, nên nói "Chẳng phải không".
Chẳng phải ba đời: Nói trong ba đời, đương thể liền diệt. Quá khứ đã không có, vị lai thì chưa khởi, hiện tại không dừng, làm sao có tham. Vì sao? Vì pháp vô tự tánh."
"Này người thiện nam! Có các nhà ngoại đạo nói thế này" cho đến "Sắc có nghĩa mê đắm, tâm có tánh tham." Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế chẳng phải là tà chấp của ngoại đạo. Trước nhà thứ ba là bắt đầu, đến nhà thứ nhất. Sau đó chẳng phải nhà thứ tư. Chẳng phải nhà thứ ba nói: "Ngoại đạo không hiểu biết nói rằng: "Trong các duyên, mỗi duyên đều có tánh tham, ở đây đều là tà chấp."
Họ lại cho rằng: "Tâm phàm phu có tánh tham" cho đến "Các thuyết trên đây đều không đúng nghĩa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trở thành kiến chấp nghiêng lệch kia, chẳng phải là lỗi của thuyết đã nói là hữu trước đây. Đều không có quả, là thành lỗi của thuyết nói vô.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghĩa đúng đã nói rằng, các pháp không nhất định: Duyên hội tụ thì "Có", duyên ly tán thì "Không". Vì không nhất định, nên hai câu hỏi của Bồ-tát tự mất."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là, chẳng phải nhà chấp thứ hai." "Có các phàm phu lại cho rằng" cho đến "Vì nhân thô vô thường, nên quả cũng vô thường."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải là nhà chấp thứ nhất, nghĩa là rộng tế là thường, vì thô nên vô thường, như thức tâm không có tham, nhà chấp thứ tư mới có tham."
"Này người thiện nam! Có các phàm phu lại cho rằng" cho đến "Luân hồi trong sáu đường, chịu đủ các sinh tử."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải nhà chấp thứ tư vì pháp hữu vi sinh, diệt đều từ duyên khởi, nên chẳng phải tự nhiên."
"Ví như con chó bị xiềng, suốt ngày đi quanh cột" cho đến "Từ cõi Phi tưởng lui sụt, trở lại ba đường ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tế là thường, thô là vô thường. Vi trần hợp thì thành duyên, tan thì trở về gốc. Trần thường là "Duyên" vô thường thì trần không có duyên. Không thể biết nhân duyên của tâm, nghĩa là chấp đắm nhân quả hữu, vô thì sẽ không biết được nhân duyên của tâm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dùng sáu ví dụ để quở chung các chấp của ngoại đạo."
"Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát không hề nói nhất định rằng" cho đến "chẳng phải có quả, chẳng phải không có quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói hữu, vô là nghiêng lệch. Vì muốn nói bốn chấp đều không hội nhập Trung đạo, đáp câu hỏi không nhất định thứ ba."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ tư là hữu, vô không thể nói nhất định, hữu là vì các duyên nên sinh. Một cảnh khởi ba, cho đến vô lượng, cũng đâu có gì nghi ngờ, chỉ làm cho thức "Duyên" với "Giải", "Hoặc" mà thôi!."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây bỏ cách hiểu về nghĩa chánh, vì sắp nói Trung đạo, nên trước nêu ra pháp tà. Nếu phải quyết định tạo ra bốn trường hợp này: Chấp trong nhân có quả, trong nhân không có quả, vừa có vừa không, chẳng phải có, chẳng phải không, đều không khỏi sinh tử, thuộc về ma nói. Nếu từ chấp nhận xứng đáng, thích hợp với đường lối trung dung, không trái với chánh lý, tâm không chấp thì đó gọi là Trung đạo. Chư Phật,
Bồ-tát dù nói các pháp chẳng phải có, chẳng phải không, nhưng cũng không quyết định có. Nếu "Có" này được quyết định nói là "Có", thì "Không có" cũng "Không", "Không" có thể "Không", thì thế nào là quyết định? Như năm duyên sinh ra nhãn thức, nếu thiếu một duyên, thì thức bất sinh. Nhưng thức này cũng không nhất định, lệ thuộc vào một duyên nào, lại không phải trung gian đủ duyên là sinh, chẳng phải có chẳng phải không, do từ nhân duyên khởi, nên gọi là "Có". Vì thể của chúng chẳng có tự tánh, nên gọi là "Không". Nếu tạo ra thuyết như thế, thì thể muôn pháp là không luống dối, lìa "Có" lìa "Không", đó gọi là nghĩa chính."
"Nếu nói trong nhân, trước nhất định có quả" cho đến "Không biết tướng tâm, kể cả tướng mạo của tham." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích lý do không nói là vì thấy lỗi của người nói."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã nói sơ lược về pháp nhân duyên chẳng nhất định "Có", nhất định "Không". Sau đây sẽ phát ra thể "Hoặc" để đối trị. Từ duyên khởi cho là chẳng phải vô. Vì tham không có tự tánh, cho nên "Chẳng phải có". Giải thoát và tham đều không có tự tánh."
"Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát chỉ rõ Trung đạo" cho đến "Chẳng phải có, chẳng phải không", mà không quyết định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì chẳng phải không, chẳng nghiêng lệch nên gọi là Trung. Dù rằng trung, gọi là đồng, nhưng vì khác với nghĩa trung, nên nói là không nhất định."
"Vì sao? Vì nhân mắt, nhân sắc, nhân ánh sáng, nhân tâm, nhân niệm thức nên được sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thức đối với bốn nhân, chẳng phải là không."
"Thức này quyết định không ở trong mắt, trong ánh sáng, trong tâm, trong niệm, cũng không phải ở giữa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thức tánh là một, vì tìm kiếm năm chỗ không thật, nên chẳng phải có."
"Chẳng phải có, chẳng phải không, vì từ duyên sinh" cho đến "Nói rằng: "Các pháp chẳng phải có, chẳng phải không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gọi tên, giải thích nghĩa. Tâm ở trong nhân, chẳng phải có, chẳng phải không, là Trung đạo của thế tục, tức là nói tâm tánh từ nhân sinh nên "Có", vì chúng không có tự tánh nên "Không", là Trung đạo chân tục. Nếu nói theo gốc "Không" thì cái "Có" này cũng "Không", cái "Không " này cũng "Không", là Trung đạo chân đế."
"Này người thiện nam! Chư Phật, Bồ-tát cuối cùng không có thuyết nhất định" cho đến "Vốn không có tánh tham, nên nói "Chẳng phải có".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói Trung đạo mới được chính nói về tâm tánh không nhất định."
"Này người thiện nam! Vì từ nhân duyên nên tâm sinh ra tham" cho đến "Hai là theo Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tâm đã không nhất định, thì sự ràng buộc, giải thích đều từ duyên sinh". Này người thiện nam! Vì có nhân duyên nên tâm sanh chung với tham, cho đến "Bất sinh chung với tham, không diệt chung với tham."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mở ra thành bốn trường hợp, nói về lý Đại thừa, suốt qua tất cả tâm:
1. Trường hợp thứ nhất: "Tâm sinh chung với tham, diệt chung với tham: Đây là nói không được chấp hạn cuộc. Nếu nói theo văn, thì giống như người tu hành khởi tham. Trải qua ba tướng dứt, lúc tướng sinh kia có trụ, diệt. Đã không có nghĩa "E" thì sẽ không đúng, nên có một nhà giải thích rằng:
"Nhỏ lại lấy lớn: Nếu người tu hành sinh ra một ý nghĩ tham thì về sau, đừng nói về tánh tham đó diệt, được nói là thường si mê. Vì sao?
Vì đã sử dụng pháp tánh làm thần giải, đứng đầu sinh tử. Tục đế sử dụng một bên, tự sẽ có ba tướng. Y theo chân đế, đã lấy nghĩa si mê thường ở đây. Đã trái với dụng chân, nếu không có "Giải" để xóa bỏ thì đâu thể được không có. Nên đoạn văn sau đây nói: "Phiền não cũng thường, vì phiền não đoạn thường nên gọi là vô thường. Sở dĩ bốn thời kinh giáo chưa phát ra diệu thể của thần minh, chỉ y theo sinh tử để giải thích, chỉ nói khởi một niệm "Hoặc" (mê lầm), thí cả ba tướng đều tan diệt ngay, nên kế là thành tựu, cũng không nói bị lệ thuộc, mà chủ trương rằng: "Thành tựu này, chính là ý ở bên chân. Giáo hiện nay mới được biểu hiện ý này, nên nói rằng: "Phiền não thường". Được biết sau khi khởi tham, từ trước đến nay đã được đạo đối trị, lúc tướng sinh ở đời vị lai cũng si, khi trụ diệt cũng si, nên nói
"Sinh chung với tham, sinh chung với tham nhưng diệt."
2. Trường hợp thứ hai có sinh chung với tham, không diệt chung với tham: Nếu khởi "Hoặc" về sau, khi chưa được đạo đối trị, thường xuyên sinh chung với tham. Nay nói từ quán bốn niệm xứ trở đi, đến được vô lậu, không bao giờ đi chung với tham nữa., thành ra "Giải" sau hiện ở trước, vì không còn si mê ở trước, nên không diệt chung với tham, cũng không nói là pháp sinh, diệt của ba tướng."
3. Trường hợp thứ ba: Có khi bất sinh chung với tham, diệt chung với tham, nghĩa là nếu Bồ-tát đã có kiến giải chân thật thì sẽ không tham nữa, mà vẫn thị hiện có tham để dẫn dắt chúng sinh, hoặc vì giúp cho đạo tâm được sớm hoàn thành, thì đây gọi là bất sinh chung với tham, diệt chung với tham.
4. Trường hợp thứ tư: "Bất sinh chung với tham, không diệt chung với tham", nghĩa là Chư Phật, Bồ-tát ở địa vị bất động, từ bậc La-hán, Bích-chi, đều được chánh quán hiện ở trước, đều không còn đi chung với tham!"
"Thế nào là tâm sinh chung với tham, diệt chung với tham" cho đến "Tâm sinh chung với tham nhưng không diệt chung với tham?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh chung, diệt chung là từ chết, sinh chung không diệt chung là từ hai pháp sinh tử và Niết-bàn."
"Thế nào là bất sinh chung với tham, nhưng diệt chung với tham?" cho đến "Tâm tánh vốn tịnh, tánh vốn bất tịnh?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hai trường hợp chỉ có Niết-bàn, trừ địa Bất động: Địa vị Bất Động đầu tiên có sinh chung với tham, mà không diệt chung với tham cho nên dứt trừ."
"Này người thiện nam! Tâm này không hòa hợp với kiết tham, cũng không hòa hợp với sân, si."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đây, nói "Sinh chung", có người cho rằng: Tâm tham hòa hợp cùng lúc" nay nói là không đúng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quyết định phần vị của tâm: Nếu tâm ở chỗ này mà tham lại ở chỗ khác, thì sẽ làm cho cả hai hợp chung. Về lý đã không đúng thì làm sao hòa hợp được? Cũng chẳng phải không hòa hợp, gặp cảnh liền khởi, nhưng không có pháp hòa hợp riêng để được. Nếu tâm tịnh vận hành duyên thì gọi là thiện, ngược lại, tâm bất tịnh vận hành cảnh, thì gọi là ác. Cho nên Chư Phật, Bồ-tát đã đập tan hết tham dục, vì không còn bị "Hoặc" che lấp nữa, nên tâm được giải thoát, phàm phu còn đầy dẫy kiết tham dục, nên thường bị phiền não ràng buộc và thường xuyên bị giam hãm mình ở trong đó!"
"Này người thiện nam! Thí như mặt trời, mặt trăng dù bị khói bụi, mây mù" cho đến "Vì từ nhân duyên nên tâm được giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Con người cho rằng: "Vì không phải cùng lúc, nên tham không thể che lấp tâm. Đức Phật dùng khói, mây làm thí dụ, dù ở xa mà vẫn che chướng được."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Các ví dụ dưới đây nói ngoại đạo, phàm phu và ma vương, đều ưa thích năm dục sinh tử, không lúc nào ra khỏi. Sau đây, tự có hợp dụ."
Này người thiện nam! Thí như chỗ cao chót vót của núi Tuyết" cho đến "Con người lập thế bắt khỉ vượn cõng họ về nhà."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Núi Tuyết: Với ràng buộc giải thoát làm thí dụ. Người, khỉ đều không thể trèo lên, dụ cho giải thoát. Con người không thể đi, dụ cho lúc đầu bị ràng buộc, về sau được giải thoát. cả hai người và khỉ đều có thể đi, dụ cho "Câu sinh", "Câu diệt" ở trong sinh tử."
Này người thiện nam! "Ví như vị vua ở trong nước mình" cho đến "Lệ thuộc vào ma thì tâm không thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ chung không từ lý là ràng buộc, từ lý là giải thoát, đại khái nói về sự ràng buộc, giải thoát."
Lại nữa! "Này người thiện nam! Nếu thấy các pháp" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ tám."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng tỏ sự mê lầm của việc thấy pháp là không từ lý. Nói kiến có ba: Đầu tiên là kiến đoạn, thường rộng. Giữa chỉ nói "Có", về sau nói ngã kiến là gốc."
- Nói về Tín.
- Nói về tâm ngay thẳng.
- Nói về giới.
- Nói về bạn lành.
- Nói về học rộng.
- Nói về nghĩa Xiển-đề có Phật tánh.
- Giải thích danh từ Xiển-đề.
- Giải thích: Bồ-tát Cửu địa thấy pháp có tánh, cho nên không thấy Phật tánh.
- Nói Phật pháp có hai thuyết: Một là có tánh; hai là vô tánh. Vì chúng sinh nên nói là pháp tánh. Vì các Hiền, Thánh nên nói là không có pháp tánh.
- Nói Bồ-tát không có chấp, tức tất cả pháp.
- Nói về Đại Niết-bàn là "Không".
- Nêu ra việc Tôn giả A-nan chẳng thấy "Không".
- Nói tướng của Tín, Bất tín.
Lại nữa, "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát" cho đến "Bốn là gần gũi bạn lành, năm là học rộng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ chín là công đức của hạnh bệnh. Thuyết hạnh bệnh đứng đầu năm hạnh.
Vì Tín là hạnh đứng đầu, nên nói trước. Ngay thẳng: Tin điều ác thì không làm, tin điều thiện thì siêng thực hành, nên kế là nói tâm ngay thẳng. Việc xấu ác của thân, miệng vì cần có giới nên kế là nói giới. Thực hành điều lành vì cần có thầy nên kế là nói bạn lành. Vì gần gũi bạn lành để được nghe pháp nên kế là nói về học rộng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã nói rộng chung ba hạnh trước, tùy nói về giới định có chỗ giống nhau, tức nói rộng lẫn lộn về nghĩa trên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lấy pháp này làm thể, từ lòng tin là bước đầu, cho đến học rộng."
"Thế nào là Đại Bồ-tát tin" cho đến "Tu Đại Niết-bàn, thành tựu việc ban đầu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tin Tam bảo, biết chỗ quy y. Nhưng quy y, thì phải thực hành, lấy thí làm công hạnh đầu, kế là nói bố thí. Hạnh tức là thừa, thừa có giả thật, nên kế là nói hai đế. Do nhất thừa là thứ nhất, Nhị thừa là thế đế. Sau đây, giải thích rằng: "Mau được giải thoát: Người Tiểu thừa là chậm, nay nói là mau. Đối với Tiểu thừa là nhanh, nếu không nói tiểu thì mãi mãi ở trong sinh tử, vì nói là lìa, nên gọi là nhanh. Tánh của bậc Thánh là đức tin không hư hoại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tín có ba phẩm. Từ ngoại đạo, phàm phu, đến người trong văn tuệ, đều gọi chung là Tín, Tín có muôn cấp bậc, vì chủ yếu là ở phần vị không nhất định, nên gom thành phẩm hạ. Nếu tín đứng đầu năm căn đã lập, đến pháp Thế bậc nhất, thì gọi là Tín phẩm trung. Từ được "Giải" vô sinh chân thật trở đi, cho đến Cửu địa gọi chung là Tín phẩm thượng. Nhưng trong phẩm này nói rằng Tín ở phẩm trung. Vì sao? Vì nhờ tín này mà lập, nhờ tín này mà nhập "Không", lên đạo kiến đế. Từ đây về trước, tín của phẩm hạ chẳng phải không nhờ từ xa, chỉ vì chưa phải là phần vị vững chắc, vì chưa nhất định, nên không ghi chép. Nếu vì đường xa mà nối nhau, thì về mặt lý, nên quên lời nói, nhưng vào biển Phật pháp, phải lấy đức tin làm đầu. Tâm này cũng lập của báu trong Phật pháp, tự nhiên kế là sinh, cho nên hôm nay, trước là nêu quy y Tam bảo là bước đầu, nói lên niềm tin, bắt đầu được thiết lập. Dù rằng tin có Tam bảo, nhưng nếu không tin thực hành nhân sáu Độ thì công hạnh sáu Độ cũng không thành. Cho nên văn kinh nêu rộng việc kính tin. Nhưng trong đây nêu cảnh của tín ngoài hai thứ: Bậc nhất nghĩa đế, trước là tin hai đế: Tin sinh tử là luống dối mà có, tức thể của nó không có tánh. Đây là theo Đại phẩm về sau, triển khai "Không" có hai môn. Về sau lại hợp với Tín. Bậc nhất nghĩa đế, nghĩa là vì tin vào bậc nhất chân như, diệu thể thần minh, nên biết được chân mà giáo nay nói chẳng phải tánh "Không" của giáo ngày xưa. Hễ lập được tín này, thì nhận thức được sinh tử luống dối. Dựa vào Như Lai tạng, có tu đạo dứt si mê, trừ nhân, diệt quả, phát ra rõ ràng Niết-bàn của pháp tánh."
"Thế nào là? Đại Bồ-tát có Trực tâm" cho đến "Nếu sinh phiền não thì sẽ đọa vào đường ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước y theo phương tiện hóa độ chúng sinh để nói về trực tâm. Sau y theo sự để nói rằng chỉ làm cho lý quan hệ, bất luận tà chánh đều gọi là "Trực"."
"Bồ-tát như thế, nếu thấy chúng sinh" cho đến "Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không bao giờ nói: Nói điều ác thêm hai tội, khen việc lành, sẽ thêm lớn hai phước. Thế nào là việc lành? Cái gọi là Phật tánh, nghĩa là một ít trong việc lành, chỉ là xiển-đề."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nghĩa là tánh của chánh nhân, chỉ cho tánh này là chân thiện, chẳng phải cái sinh trong duyên, nghĩa là nếu nêu công dụng để nói, thì tánh này có công năng được quả lành, cũng gọi là Thiện. Vì chúng sinh mà nói rằng: "Trong thân có Phật tánh, làm cho tâm vui mừng, phát tâm hành đạo."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu" cho đến "Phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý hỏi rằng: "Nếu xiển-đề nghe khen Phật tánh mà phát tâm nhanh chóng thì nghĩa bất trị ở trên đã nói là sai? Vì nêu điểm bắt đầu của năm hạnh trên, đoạn văn đã nói xiển-đề là người không thể chữa trị, đây là câu hỏi thứ nhất."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ nhất có ba hạng người bệnh: là hỏi về trực tâm, nói là không nên khen Phật tánh, vì phát tâm Bồ-đề. Vì sao? Vì ở trên nói ba hạng người bệnh có thể tự nhiên lành bệnh, không cần khen Phật tánh, cũng thừa biết người bệnh kia sẽ phải chết, nên dù có khen, cũng có ích lợi gì? Dù dẫn chứng ba người bệnh, nhưng ngụ ý muốn dùng hai người để hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Đức Vương vẫn đặt ra năm câu hỏi. Cho nên chương kiến lập nói rằng: "Đầu tiên phát ra năm việc đều được thành tựu, vì nếu năm việc này thành, thì sẽ trừ được bệnh, còn nếu không thành, thì không thể trị bệnh. Nay lại nói ba hạng người bệnh, nên biết hạnh bệnh là rộng lớn: Câu hỏi thứ nhất rằng: "Như Lai ở trên đã nói ba hạng người bệnh, người thư ba nghe pháp, không nghe pháp, tự nhiên được thành Phật. Nay, sao lại nói khen ngợi Phật tánh, làm cho chúng sinh mới phát tâm ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu gặp bạn lành, Chư Phật" cho đến "Chứng được Vô thượng Chánh đẳng giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ hai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ hai: "Không thể phát tâm, cũng lại không đúng. Nếu nói có tánh thì tất nhiên sẽ thành Phật?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai: "Người thứ nhất, nếu nghe pháp hoặc không nghe pháp đều không thể phát tâm thì cũng không đúng, vì người này có Phật tánh. Phật tánh là thiện, tự họ có thể hướng về Phật. Vì sao Phật nói đều không thể phát tâm ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Như Phật vừa nói, thế nào gọi là" cho đến "Sao Phật lại nói là dứt các gốc lành?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ ba."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ ba nói: "Không thể chữa trị. Nếu gặp hay không gặp bạn lành, đều không thể chữa trị, vì làm ác không ai hơn xiển-đề?". Người này đã có Phật tánh, Phật tánh này không thể dứt. Phải biết rằng lời nói dứt điều lành chưa phải là lý thật. Như thuở xưa, Đức Phật nói mười hai bộ kinh khéo có hai thứ, đây là lời nói của con nhà thứ ba: "Đã không dứt Phật tánh, tức là tánh ở trong thân. Đã ở trong thân thì lẽ ra phải ngăn dứt được địa ngục? Đây là y theo tác dụng của Kiến để thưa hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba: Lẽ ra "Không được gọi là xiển-đề?" y theo câu hỏi này, mở ra thành hai trường hợp: Nếu xiển-đề có Phật tánh, Phật tánh là thiện, vì sao lại nói là dứt các gốc lành, gọi Nhấtxiển-đề ư?" trường hợp sau nói: "Như Phật xưa nói mười hai bộ kinh, nói điều thiện có hai thứ: Một là thường; hai là vô thường. Đại ý câu hỏi: Dùng tánh thiện của chánh nhân làm thường, "Duyên" nhân thiện làm vô thường. Nếu trong duyên này sinh ra điều thiện, thì sẽ luống dối không có sức mạnh không thể ngăn dứt được địa ngục? Tánh của chánh nhân là thường, lực dụng lẽ ra mạnh mẽ, vì sao không ngăn dứt Nhất-xiển-đề không vào địa ngục ư?"
"Như thuở xưa, Phật nói mười hai bộ kinh" cho đến
"Vì sao Đức Phật lại nói là Nhất-xiển-đề?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ tư."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu nhờ Phật tánh mà phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác" cho đến "Tam-bồđề thì không có việc ấy!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ năm, nói: Nhờ Phật tánh mà tự nhiên thành Phật, thì không cần nói rộng mười hai bộ kinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ tư nói: Nếu nhờ Phật tánh, mà phát tâm vô thượng đạo?" Dưới đây là nói về sức mạnh của Phật tánh, lẽ ra tự nhiên thành Phật, đâu cần phải nói rộng mười hai bộ kinh? Khen ngợi người tu hành, sau đây sẽ dẫn hai ví dụ để giúp thành câu hỏi, dụ cho năng lực của chánh nhân, lẽ ra tự đến địa vị Phật."
Bạch Đức Thế tôn! Chư Phật, Như Lai nói tánh nhân quả" cho đến "Nghĩa như thế làm sao tương ưng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ sáu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm vì chấp trong nhân đã có Phật tánh, nên được thành Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ năm: "Nói tánh nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không, cũng lại không đúng. Nếu trong nhân không có quả thì làm sao sinh ra cây Bồ-đề Phật được? Chính vì có quả nên sẽ sinh."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn khen rằng: "Lành thay!" cho đến "Có thể xô ngã ngọn cờ mà vua Ba-tuần đã dựng lên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sẽ đáp câu hỏi, cho nên Đức Phật khen trước."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trong phần đáp, trước đáp câu hỏi thứ hai, kế là, đáp câu hỏi thứ ba, rồi đáp câu hỏi của con nhà thứ ba. Nhân đáp câu hỏi của người con, thế nghĩa giống như đáp câu hỏi thứ nhất, thứ tư, rồi đáp riêng câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Muốn đáp câu hỏi thì Đức Phật khen ngợi trước. Nói Bồ-tát đã nêu câu hỏi đúng lúc, hai thầy trò khen ngợi lẫn nhau."
"Này người thiện nam! Như trên ta đã nói ba hạng người bệnh" cho đến "Nếu không gặp thầy thuốc, thì bệnh không lành."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích người Nhị thừa. Vì sao? Vì người này có chín nhân duyên không thể bỏ, nếu không có chín việc này thì bỏ. Chín việc đó là:
1. Biết ăn không được mà lại ăn.
Người Nhị thừa tự biết đã đắc quả, không như đối với người khác mà gượng chấp là đúng.
2. Ăn nhiều: Người Nhị thừa tâm cầu quả tha thiết nên không thể xa cầu quả Phật.
3. Thức ăn cách đêm chưa tiêu hóa mà lại ăn: Bốn đảo trong hữu lậu, chỉ hàng phục mà chưa đứt, nay lại khởi bốn đảo đối với Phật.
4. Đại tiện, tiểu tiện không đúng giờ giấc: Tâm chấp tướng bền chắc, dứt kiết không đúng lý.
5. Lúc bệnh, không nghe theo lời chỉ dẫn của thầy thuốc, không thực hành đúng theo lời giáo hóa của Bồtát Đại thừa.
6. Không vâng theo lời dạy bảo của người săn sóc bệnh, không nghe lời thiện tri thức.
7. Gượng gạo chịu đựng, không thổ lộ ra: Chấp chặt quả Nhị thừa là đúng, không bỏ Tiểu để theo Đại.
8. Đi đêm là: Nặng về Tâm vô minh.
9. Lỗi của phòng, thất: Muốn mau diệt được thân này, để tìm niềm vui vô dư.
Chính là có chín bệnh. Nếu nghe pháp liền hồi tâm, nếu không hồi tâm thì khó có thể khai mở, hóa độ.
"Này người thiện nam! Như ta đã nói trên, nếu gặp hay không gặp cho đến" nếu không gặp thì sẽ không thể phát"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi đầu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước nêu ba hạng người bệnh, chưa phải là lời đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước là giải thích về người thứ ba quyết định bỏ. Người này đã gieo trồng nhân từ lâu, tự do hướng về Phật, không cần nghe pháp."
"Như trên ta đã nói, nếu gặp bạn lành, Chư Phật, Bồtát" cho đến "Vì sao? Vì mạng đã cùng tận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ hai rằng: "Đã gặp và không gặp, đều không thể phát, người này sẽ được Bồ-đề?" Nay đáp khi xiển-đề dứt mất gốc lành và về sau khi sinh điều lành thì không còn là xiển-đề. Người này gặp và không gặp, đều không lìa tâm xiển-đề. Cho nên nói không thể chữa trị, không nói là dứt đương tánh" Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là đáp câu hỏi thứ hai: "Nếu Xiển-đề có Phật tánh, quyết định không bỏ, thì điều này cũng không đúng?" Phật đáp ý rằng: "Ta nói không thể bỏ, là nói khi còn tâm xiển-đề, chứ không phải nói sau khi xả bỏ tâm xiển-đề, cũng không thể bỏ, vì khi họ chưa bỏ giai vị xiển-đề, thì cho dù có Phật tánh, vẫn chẳng phải thiện. Nếu khi đã bỏ tâm này, thì không còn là Nhất xiển-đề, sao lại không thể bỏ ư?"
"Này người thiện nam! Nhất-xiển là tín, đề là bất cụ" cho đến "pháp lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là đáp câu hỏi thứ ba, hỏi rằng: "Không dứt Phật tánh, sao lại nói là dứt gốc lành?" Nay đáp: "Nhất-xiển là tín, đề là bất cụ (không có). Vì không có lòng tín, nên gọi Nhất-xiển-đề, há gọi Phật tánh không thầy là xiển-đề ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là đáp câu hỏi thứ ba, hỏi rằng: "Xiển-đề có Phật tánh, sao gọi là dứt gốc lành?" nay, Phật đáp: "Vì không có lòng tin, nên gọi là Nhất-xiển-đề."
Nói không tin Phật tánh thì việc thiện cũng không từ đâu sinh, năm ấm của chúng sinh, là phát tín tâm. Chánh nhân Phật tánh đã không phải là điều lành, lại không từ năm ấm sinh, thì làm sao dứt được. Nếu chánh nhân Phật tánh từ năm ấm sinh, thì năm ấm của chúng sinh phát Phật tánh, kinh cũng không nên nói là không tin Phật tánh, chúng sinh chẳng có đủ. Do nghĩa này suy ra, phải biết rằng, năm ấm của chúng sinh dựa vào tánh của chánh nhân mà có, chứ chẳng phải tánh của chánh nhân. Dựa vào năm ấm mà có, nhưng trong đây tìm tòi, xem xét, với kinh Thắng Man nói về một thứ nghĩa sinh tử, dựa vào Như Lai tạng mà có, chứ chẳng phải Như Lai tạng. Vì dựa vào sinh tử nên biết được nghĩa văn vi chứng lý rõ ràng. Sau đây, sẽ bỏ các cú nghĩa, so sánh cũng như vậy. Nhưng Phật tánh chẳng phải là điều lành do duyên sinh ra. Lại, chẳng phải bất thiện. Vì sao? Vì tánh của chánh nhân đã không từ phương tiện mà được thì làm sao dứt bỏ được? Nhưng có thể được quả lành, lại chẳng phải bất thiện. Xiển-đề từ đoạn duyên sinh ra, nên được gọi là Nhất-xiển-đề".
"Này người thiện nam! Như ông vừa nói" cho đến "Chính vì đọa vào ba đường nên gọi là Nhất-xiển-đề"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là đáp câu hỏi năm"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ ba. Vì sẽ có nên nói "Có". Đã chẳng phải có, thì làm sao trách cứ, ngăn chặn việc đọa vào địa ngục ư? Ví như nhà vua nghe tiếng đàn, điều này trở thành đáp câu hỏi ở trước rằng: Muốn nghe tiếng đàn đó, phải có phương tiện, không thể được dễ dàng Phật tánh cũng như thế, phải nhờ phương pháp. Do đó, vẫn đáp câu hỏi thứ nhất, thứ tư. Câu hỏi thứ tư rằng: "Nếu có Phật tánh, thì về lý, rõ ràng tự thành, đâu cần phải nói mười hai bộ kinh?" Nay, Đức Phật đáp: "Dù có tánh nhưng cần phải nói, cũng như âm thanh của cây đàn". Câu hỏi thứ nhất rằng:
"Nếu mắc bệnh không lành thì không cần chữa trị?"
"Nay, Phật đáp: "Dù bệnh không thể lành, nhưng không dứt mất Phật tánh, nếu nghe nói mười hai bộ kinh, thì sẽ được lợi ích của duyên bên ngoài".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đưa đến trường hợp sau của câu hỏi thứ ba, vẫn đáp câu hỏi thứ tư."
"Nhất-xiển-đề thật ra không có tánh quả. Nếu làm cho họ có điều lành duyên nhân ngăn ngừa được tội lỗi thì không bị đọa vào địa ngục. Tức là không có điều lành của duyên nhân, thì làm sao ngăn ngừa ư?
Lên tức là dẫn dắt, để nói phàm phu ngu si, không có trí tuệ, nghe Phật nói thân chúng sinh có Phật tánh, bèn cho rằng, thân năm ấm này đã có "Trí Nhất thiết chủng", mười Lực, vô úy, rồi không cần tu hành, nằm đất mà tự thành Phật, trách Phật hiện có việc bất ổn này là không có tâm dụng đạo. Nhưng thân chúng sinh tức thời là có chánh nhân, mà cần phải chứa đức tu đạo, tiêu diệt sự che lấp của vô minh, bóng tối đều tan biến hết, Phật tánh mới hiển bày, đó là lúc "Duyên" đầy đủ, bấy giờ mới có công dụng. Việc đó, cũng giống như tiếng đàn, phải có điều kiện đầy đủ thì tiếng đàn mới phát ra. Nay Nhất-xiển-đề chính vì đã dứt lòng tin, nên phải đọa vào ba đường ác".
"Này người thiện nam! Như lời ông nói: "Nếu trong sữa không có tánh lạc" cho đến "không rao nói điểm thiếu sót của người khác, thì đó gọi là tâm ngay thẳng Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là đáp câu hỏi thứ sáu ".
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là đáp câu hỏi thứ năm, nay nói: "không được một bề "Đã có", vì "Sẽ có" cho nên nói là "Có". Như nước pha với sữa rồi nằm chờ đến một tháng, cũng không thành lạc. Nếu dùng một giọt sữa, rồi tìm nhựa cây nhiễu vào, liền thành lạc, vì duyên của sữa kia đầy đủ. Nếu trong sữa trước đã có lạc, thì đâu cần nhờ vào duyên ư?
Hỏi về sự tạo tác, chủ thể tạo tác: Vì có đủ năm việc của ngay thẳng này, nên có thể làm những việc khó nhẫn này, cho đến không tiếc thân mạng, vì đã biết sâu về tướng "Không".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ năm: "Chấp trong nhân có quả?" Nay nói muôn pháp từ duyên, không có tự tánh. Nếu "Duyên" họp thì "Có", chưa hợp thì "Không", đâu thể cho rằng trong nhân đã có quả? Vì nếu đã có quả thì đâu cần các duyên? Do không có tánh nên được thành Phật."
Đáp câu hỏi đã xong, lại nêu câu kiết trước: "Do nghĩa này, nên Bồ tát thường khen việc lành của người, nên gọi là tâm ngay thẳng. Về câu kiết, đến thiên sau sẽ y cứ tâm Bồ-tát, dựa vào sự việc để nói về tâm ngay thẳng."
"Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát ngay thẳng" cho đến "Đó gọi là tâm ngay thẳng của Bồ-tát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trước giải thích chưa đầy đủ, nên mới có câu hỏi. Đã đáp xong, lại còn phải tu tông chỉ trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi rồi, nêu việc trước để kết thúc ý chỉ."
"Thế nào là Bồ-tát tu trì giới cấm" cho đến "Tu Đại Niết-bàn là giới thứ ba."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thi ba-la-mật": Bốn điều ác không gì hơn trên, gọi là có khả năng vượt qua biển khổ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giới từ đức tin chánh trực. Tâm đã chánh mà phát ra giới thì không chấp giới tướng là Ba-la-mật."
"Thế nào là Bồ-tát gần gũi bạn lành" cho đến "Đầy đủ Thiện tri thức chân thật thứ tư."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đối với người giặt y phục, vì biết nhơ, sạch nên dạy họ quán Bất tịnh. Đối với người thợ kim hoàn, biết hơi gió, lửa nên dạy họ quán sổ tức."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chân thiện hữu, chỉ cho Chư Phật. Nay, thiên này nêu Bồ-tát vì có đủ ba tâm trên, có thể gần gũi bạn lành, lại có khả năng làm bạn lành cho người. Vì chưa đầy đủ nên mới dẫn việc để làm chứng."
"Thế nào là Bồ-tát có học vấn rộng?" cho đến "Thành tựu đầy đủ học rộng thứ năm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Học rộng, vốn để dứt khổ, không cần văn rộng, sự nhiều, chỉ cần lý sâu, dứt mê hoặc mà thôi!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm là đầy đủ học rộng. Nếu y theo lời nói thì chỉ là văn tuệ, không cầu Tư, Tu. Nhưng ý giải thích trong đây, e rằng bao gồm cả ba tuệ. Nay, nói về học rộng có sáu cấp, từ cạn đến sâu, đều gồm thâu trong đó.
1. Y theo mười hai bộ của Tiểu thừa để nói về học rộng.
2. Đặt nặng ở mười một bộ, chỉ lấy kinh Phương quảng, cũng gọi là đầy đủ học rộng.
3. Trừ kinh Pháp Hoa về trước, mười hai bộ chỉ cần thọ trì. Nay, kinh Niết-bàn là học rộng.
4. Y cứ một bài kệ bốn câu, như đã nói trong Tuyết Sơn Bồ-tát.
Y cứ trực tiếp hai chữ "Thường trụ". Thứ sáu là nói riêng về diệu thể của pháp tánh, như như thường, không nói pháp, dứt tướng ngôn ngữ, cho là học rộng. Nếu hiểu được như thế, thầm hợp với chí lý, mới thật là học rộng bậc nhất."
"Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào" cho đến "Nhẫn được việc khó nhẫn, thí cho điều khó cho, cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khó thí mà thí được: Nghĩa làm là chung, nghĩa thí cho là riêng. Vì sao? Vì việc bên ngoài xảy ra, ngang trái, mà vẫn có thể yên ổn là nhẫn. Xả do khởi bên trong, mà có thể yên định là thí cho."
"Này người thiện nam! Ví như cha mẹ chỉ có một đứa con trai" cho đến "Vì sao? Vì đã khéo tu "Tam-muội Không"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu ra hai việc: Một là Từ bi; hai là "Giải không". Do hai việc này, không thấy sự khó khăn của người kia, nên mới làm được những việc khó làm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là từ "việc khó làm mà làm được trở xuống, mở ra thành ba việc. Khen ngợi người thành tựu năm pháp trên, chính là do đã hiểu pháp trên, tức là tỏ ngộ muôn pháp luống dối, mới có hành vi thí cho, bất luận mình hay người, không còn phân biệt. Nếu có cái tồn tại thì trái với lý. Vì sao? Vì chính là góp sức của "Không trí", nên mới được như vậy. Suốt ngày vì chúng sinh mà không làm gì cả."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý
Đức Vương" cho đến "Dù rằng tu "Không", nhưng chẳng thể làm cho "Không"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì muốn nói tu "Không" được lợi ích, nên mượn việc khó khăn để làm rõ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tất cả các pháp tánh tự "Không": Tiếp nối lời nói trước là câu hỏi. Trước nói: "Do khéo biết "Không", nên nhẫn được những việc khó nhẫn". Nay hỏi: "Nhận biết được ý chỉ của "Không", nên đặt ra hai câu hỏi: "Nếu tự tánh là "Không", thì cho dù co tu cũng đâu có lợi ích gì?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chúng đương thời đối với lý "Không" này, tâm thường sanh sợ hãi, chưa thể quên ngay. Vì cho nên Bồ-tát Đức Vương vẫn đặt ra hai câu hỏi, nhằm xoá bỏ tâm chấp của chúng sinh. Ở trên, Đức Phật nói tu "Tam-muội Không", chẳng còn giận, mừng nữa. Nay, vì sắp mở ra hai trường hợp, nên trước quyết định nói: "Tất cả các pháp đương thể tánh tự "Không", thì cần gì phải tu "Không" ư? Vẫn kiết câu hỏi ban đầu rằng: "Nếu tánh tự "Không" thì cần gì phải tu "Không" ư? Câu hỏi thứ hai: "Nếu tánh tự không là không thì làm sao tu "Không", làm sao cho pháp kia không ư?"
"Này người thiện nam! Tất cả các pháp, tánh của chúng vốn tự không" cho đến "Không được hiện tiền thấy Chư Phật, Bồ-tát, người đó là quyến thuộc của ma." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chẳng phải đất, nước, lửa, gió, đây là căn một mà đại bốn. Bậc nhất nghĩa không, chẳng lìa bốn, mà nói là tục đế "Không". Vì tục đế "Không", nên một bằng với bốn, chấp là "Không". Chẳng phải màu xanh, chẳng phải màu vàng, là phá sắc thật cũng như vậy. Chẳng phải có, chẳng phải không, đủ ba Trung đạo "Không". Do tương tự nối nhau, dường như là thường, phàm phu không hiểu, nói "có", nói "Thường"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Y theo lời Phật đáp dưới đây, trước, khiển trách câu hỏi thứ hai rằng: "Tất cả các pháp tánh vốn tự "Không", nếu vạn hữu có thể được bất không, thì có cái cuối cùng là "Không" thể "Có", há có thể được cái "Có" ư?" Đã không thể được, nên biết xưa nay chẳng khác "Không", chỉ đối với người bệnh là "Có", còn đối với người tỉnh ngộ thì thường "Không". Cho nên một nhà đã dẫn như hoa đốm trong hư không, đối với người mắt không bị nhặm thì không hề thấy có hoa đốm. Dù đối với người bệnh là có, nhưng đối với người không bệnh thì "Không", mà người không bệnh cũng chẳng phải không biết. Vì người bệnh thấy luống dối, nên mặt trời của bậc Thánh so với hai trí không thiếu, đó là lý do trong phẩm Phạm Hạnh chép: "Tất cả Thế đế đối với Như Lai đều là Bậc nhất nghĩa đế."
Từ "Tánh sắc chẳng thật có" trở xuống, là y cứ vào pháp để nói: Trước là phá danh sắc giả, chẳng phải bốn đại, nghĩa là nói đất, nước, lửa, gió xưa nay tánh chúng là "Không", chẳng có tự thể. Đây là nói chân đế không lìa đất, nước, lửa, gió. Không lìa bốn đại mà có công dụng. Đây là nhân duyên hư cấu. Chỉ có công dụng của sắc, là nói về tục đế."
"Chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng: Kế là phá sắc của pháp thật, nói các màu xanh, vàng... xưa nay không có. Đây là chân đế. Không lìa màu xanh, vàng... cũng là nhân duyên hư cấu mà vọng có, chỉ có tác dụng của danh. Đây là nói về tục đế. "Có" rốt ráo là chẳng thật có, cũng chẳng có cái "Có" để "Có". "Không có" cái cuối cùng chẳng phải "Không", cũng "Không có" cái vô để vô. Pháp tướng như thế há chẳng phải "Không" ư? Vì Bồ-tát có đủ năm việc trên, nên thấy muôn pháp là "Không", cho nên chẳng có giận mừng."
"Này người thiện nam! Tất cả các pháp tánh vốn tự
Không" cho đến "Thấy tất cả pháp tánh đều vắng lặng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nêu trước hỏi, sau đáp. Pháp dù tự nó là "Không", nhưng nếu chẳng tu "Không" thì sẽ chẳng biết được hữu vi là "Không" thật có, chủ yếu phải là tự thể "Có", mới lãnh hội được "Không".
"Do đó trở xuống, là mượn ví dụ để giải thích, như tất cả pháp vì tánh vô thường nên diệt, chủ thể diệt là chẳng riêng một chủ thể diệt của pháp diệt, tức khi thể của pháp khởi thì gọi là sinh, khi thể của pháp diệt thì gọi là diệt. Nói về muôn pháp cũng thế. Thể của ngay thẳng, tánh nó là "Không", cho nên tu "Không" thấy "Không", cũng chẳng có một pháp "Không", cho đến "Không" cái "Không" này. Dù dẫn ví dụ để chứng minh rằng thể tướng là "Không", nhưng vì tâm người vẫn hoài nghi đối với ví dụ trên. Nay y cứ theo ẩn dụ trước để nói."
"Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Không" là không có pháp, thì cái được thấy là gì?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không" lại tiếp nối tiếng làm câu hỏi. Vật khác vốn không có tánh mặn, mà khiến tạo ra chất mặn, nghĩa là chẳng phải "Không" tức là điên đảo. Nếu chỉ có "Không", lại chẳng có cái nhìn thấy, thì sẽ thành câu hỏi trước."
"Này người thiện nam! Tam-muội Không này, thấy pháp bất không "Không"" cho đến "Đêm là tướng đêm, thì vì sao điên đảo?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì pháp vô thường, nên diệt có chủ thể diệt, nghĩa là như gỗ vô thường, lửa có thể đốt củi. Sinh là cái năng sinh: Mầm có tướng sinh, nước, lúa là năng sinh.
"Này người thiện nam! Thấy được bất "Không", là đáp câu hỏi đầu của Bồ-tát Đức Vương: "Không nói là tánh chẳng thể không. Y cứ vào công dụng giả của thế đế, đối với cái mà tâm chúng sinh thấy là bất không. Nay nếu giả mà biết, tức là chiếu "Không", cho nên chẳng phải điên đảo, Như tham v.v... y theo thế đế là có, bị quả báo xấu, cho đến tánh sắc cũng như thế. Nếu phàm phu nhất định chấp là thật thì có thể khiến cho điên đảo nói Bồ-tát không tạo ra lối hiểu biết này, nên chẳng phải điên đảo. Lấy đêm làm ngày tức là điên đảo. Ở đây nói như giả mà biết, như "Không" mà biết, há là điên đảo ư?"
"Này người thiện nam! Tất cả Bồ-tát trụ ở bậc Cửu địa" cho đến "Do không thấy nên tức thấy Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thấy pháp có tánh, nghĩa là thấy "Không", thì thấy "Thường", Cửu địa chẳng thấy "Thường", vì chẳng thấy "không". Cho nên Thập địa chỉ thấy một ít."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Văn kinh chính tự như thế, nên biết Cửu địa trở xuống, chỉ thấy vô ngã không, chẳng phải là lý chân vô tướng. Sở quán đã là sự, vì đều là chân ngã "Không", nên nói là thấy pháp có tướng, chẳng phải chấp tánh thấy "Có", chính vì tu vô ngã nhiều, nên chưa thể thấy Phật tánh."
"Chư Phật, Bồ-tát có hai thuyết" cho đến "Do nghĩa này nên tu "Không" thấy "Không"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù Tiệm Giáo nói là "Có" (hữu) nhưng cuối cùng là "Không", nên tu "Tammuội Không", giúp cho được thấy "Không".
Không có tánh của pháp: Cũng tu "Không", vì nghĩa này, nên tu "Không" thấy "Không"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Có tánh của pháp, nói là có công dụng của thế đế. Không có tánh của pháp, nghĩa là nói xưa nay là không, chính là vì chẳng thấy "Không", nên bảo phải tu "Không" để được "Không", là do tu "Tam-muội Không". Cũng nhờ tu "Không", nên thấy các pháp là "Không".
"Này người thiện nam! Ông nói thấy không, không là vô pháp" cho đến "Thấy tánh tất cả các pháp là "Không".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh của pháp là không có, Bồ-tát thì không hề chấp trước, hợp với lý của pháp, giả gọi là thấy, thật ra chẳng phải thấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là đáp trường hợp sau, Đức Phật nói: "Thật như ông hỏi, nếu còn có chấp, thì chẳng phải thấy, vì chỗ thấy của Bồ-tát là thấy Phật tánh."
"Này người thiện nam! Bồ-tát chẳng những nhờ thấy
Tam-muội" cho đến "Thấy tất cả pháp đều là "Không"." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chẳng những Tammuội thấy "Không", mà ngay cả sáu Độ cũng "Không".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trải khắp sáu độ muôn hạnh, nói không có tánh tướng."
"Cho nên, lúc ở thành Ca-tỳ-la" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ chín."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu việc để chứng minh giải thích." "Này người thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu Đại Niết-bàn cho đến nhập Đại Niết bàn thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do tự Niết-bàn, lại có thể giáo hóa người sao cho được Niết-bàn làm thể. Ở đây trước nói tự chứng đắc."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Công đức thứ mười là dùng ba mươi bảy phẩm làm thể. Ba mươi bảy phẩm này tức có giới, định, tuệ, đã nói rộng ở trước, tùy trong ba hạnh, có nói về lĩnh vực giới, định, tuệ, đều đã giải thích rộng. Các chúng sinh nào không sinh lòng tin đối với kinh này? Nói là người nào đối với kinh này sinh tâm kính tin, tức là thực hành ba mươi bảy phẩm, cuối cùng được thành Phật. nếu ai không sinh tâm kính tin, thì sẽ đắm chìm mãi mãi trong biển sinh tử.
Đã nói về mười công đức xong. Thầm khuyên răn chúng sinh ở đời vị lai được vô nhiễm, sinh tâm kính tin."
"Phân biệt giải thích cho các chúng sinh hiểu" cho đến "Nếu người nào không tin, sẽ phải luân hồi mãi trong sinh tử!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khuyên bảo người giúp cho có được sự kính tin đối với kinh Đại Niết-bàn này."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Không sinh tâm cung kính đối với kinh này?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên vừa nói người có lòng tin thì được, kẻ nào không tin sẽ không được. Nay, hỏi về tướng mạo của tin không tin."
"Này người thiện nam! Sau khi Ta nhập Niết-bàn, có Thanh văn" cho đến "Đó gọi là vị đổi Cam lộ lấy thuốc độc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về kẻ phá giới, không tin." "Các Tỳ-kheo tội ác như thế" cho đến
"Không thể tin thuận kinh
Niết-bàn này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người phá kiến thì không tin." "Này người thiện nam! Vào thời bấy giờ, nếu có chúng sinh nào" cho đến "Thì sẽ thấy Phật tánh, nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại kiết niềm tin, không trị mà bệnh tự lành."
"Bấy giờ, Bồ-tát Quang Minh Biến Chiếu Cao Quý Đức Vương" cho đến "Thành tựu đầy đủ công đức thứ mười."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đó là "Nhận hiểu."
- Nêu mười một việc để giải thích nghĩa Sư tử hống.
- Sáu câu hỏi Sư tử hống, hỏi về Phật tánh.
- Đáp câu hỏi thứ nhất.
- Đáp câu hỏi thứ hai.
- Đáp câu hỏi thứ ba.
- Đáp câu hỏi thứ tư.
- Nói lên chúng sinh không thấy Phật tánh, vì bị vô minh che lấp, lại chưa thể vượt qua con sông mười hai duyên, giống như thỏ, ngựa.
- Nói về nghĩa nhân quả sâu nặng của mười hai nhân duyên.
- Nói về Mười hai nhân duyên rất sâu xa, không đoạn, không thường, người Nhị thừa chẳng thấy được.
- Nói trí thấy được mười hai nhân duyên có bốn thứ.
- Nói mười hai nhân duyên tức là Trung đạo Phật tánh.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đức Phật đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn. Đối với tất cả các pháp đều có tánh yên vui, cúi mong Đấng Đại Tiên phân biệt giảng nói cho chúng con nghe. Về nghĩa của Trường Thọ, Kim Cương, Nhân quả, Năm hạnh và Mười Công Đức đã nói trên, có nhiều đường, nhưng nói chung không ngoài Niết-bàn, nhân quả và Phật tánh.
Nay, nói về tánh, dù danh từ là đồng, nhưng về tướng nhân quả thì khác, nhận thức thì không trái nhau, là như Sư Tử Hống hỏi. Không biết thì trái, là sau Bồ-tát Cadiếp hỏi.
Đức Phật nói pháp đã lâu, tâm người đã uể oải, nên Đức Thế tôn bảo đại chúng hãy hỏi, mà Sư Tử Hống khéo hỏi về Phật tánh, là lấy người hỏi đặt tên phẩm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trên đây, thứ nhất nói về lý, giáo của kinh, là chánh kinh của kinh. Giáo, lý đã tròn đầy, có công năng diệt ác, sinh thiện. Công dụng của năng lực càng rộng bao la thì càng vượt hơn các kinh điển khác, nên thứ hai là khen rộng. Đã làm lợi ích tốt đẹp như vậy, đâu thể không nương vào kinh này để tu hành, nên thứ ba là nói rộng về năm hạnh mười công đức. Nói về sự do hạnh sinh ra để soi rọi cảnh. Sự tốt đẹp trong cảnh, chỉ là Phật tánh.
Từ đây trở xuống, là đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn: "Đối với tất cả các pháp đều có tánh yên vui?"
Nói về ảnh hưởng lẫn nhau của bậc Thánh, biết lúc đáp là ở đây, nhân căn cơ, mà đặt câu hỏi, phát ngôn. Dù đối với Sư Tử Hống, mà ý chỉ của kinh đã được Phật chỉ ra, thật là Phật đáp câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sư tử Hống, Ca-diếp, đồng đáp câu hỏi thứ ba mươi bốn. Trên đã nói về thể của hạnh. Nay, kế là nói về thể đã phát ra duyên của hạnh. Nếu không biết đúng về tánh nhân, quả thì sẽ không thành Trung đạo, nên kế là y theo "Duyên" để nói về hạnh.
Nay, nói rộng về thể tánh của nhân quả, làm sao cho chúng sinh nhận thức mà thực hành để sớm ra khỏi sinh tử."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ ba là đoạn lớn của kinh, nói lại nghĩa Phật tánh. Đại khái có chia ra tám đoạn:
1. Đặt ra sáu câu hỏi và đáp, để giải thích Phật tánh.
2. Nói về Trung đạo.
3. Nói về ràng buộc, giải thoát.
4. Nói về tu đạo.
5. Nói về chuyển chướng.
6. Khuyên.
7. Nói về không lui sụt.
8. Khen rộng. Minh Tuấn xét:
Năm hạnh, mười công đức là nói rộng về hạnh. Từ đây trở xuống, hai phẩm nói rộng về cảnh, đại khái chia ra tám đoạn, không khác với giải thích này."
"Bấy giờ, Phật bảo tất cả đại chúng" cho đến "Nếu có người nào đến hỏi Ta không thể đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói nhân, quả đều gọi là Phật tánh. Nếu không nói là biết khác thì nhân quả đều mờ mịt, mờ mịt thì sinh nghi ngờ, nghi ngờ thì hữu, vô chưa phân cho nên Phật bảo phải giải quyết tâm nghi ngờ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì sắp nói về cảnh của Phật tánh, nhân quả, nên trước nêu rộng về điều nghi, khuyến khích thưa hỏi."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phát ngộ khác nhau, cơ duyên chẳng phải một. Nay, phải bảo khắp, nói là đạo của mọi người, nêu lâu các pháp môn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đại khái phán quyết về lời Sư Tử Hống nói chỉ có mười đoạn:
1. Sư tử Hống có sáu câu hỏi, Đức Phật có sáu câu đáp. Trước lần lượt nói rõ, quyết định về thể tánh của nhân quả. Vì nếu tu đạo, mà tâm không có chỗ y cứ thì hạnh cũng khó tiến bộ, nên trước phải nói về thể tánh của nhân quả, sao cho kim chỉ nam.
2. Khuyến tin: Nếu đối với tánh nhân quả, đối với kẻ có lòng tin chưa quyết định, thì khuyên họ nên nương theo mười hai bộ kinh, y cứ vào ứng thân Phật, quán nhân quả, quán hai nghiệp thân, miệng của Như Lai, do đó mà hiện. Nếu vì chúng sinh, không vì bản thân mình mà Bồ-tát xuất hiện ở đời, thì sẽ biết được trong thiên hạ đã có quả cực kỳ tốt đẹp, đó là lý tất nhiên, giúp cho chúng sinh được tướng và tu nhân để thú hướng.
3. Nói về ràng buộc, giải thoát: Nếu lòng tin không lập đối với tánh chất nhân quả này thì gọi là sự ràng buộc. Ngược lại, nếu yên định đối với lý Đại thừa, sinh lòng tin quyết định, thì gọi là giải thoát.
4. Nói về tu đạo: Nếu muốn từ ràng buộc được giải thoát, thì phải nhờ tu đạo, nên kế sau ràng buộc, giải thoát, là nói có đạo để tu."
5. Nói về chuyển chướng: Chỉ vì chúng sinh nghe lời nhiệm mầu này, khó được dụng tâm. Nếu không dùng việc gần để khuyến dụ, thì sẽ không được tiếp nhận nhập lý, nên nói rằng: "Phải tu giới thân, tuệ tâm mới chuyển được nghiệp nặng, cảm thọ nghiệp nhẹ ở cõi trời, cõi người. Nếu không như vậy, thì nghiệp nhẹ sẽ lại thọ.
6. Cho nên là nói về khuyến tu. Muốn được lìa bỏ nhanh chóng chướng nặng, thì phải tu đạo. nếu không thực hành như thế, thì sẽ khó được lìa chướng.
7. Nêu ra người có khả năng tu đạo. Chúng sinh đã nghe nói có người tu đạo, nhưng vì chưa biết được phương pháp tu ra sao, nên nay sẽ nói về tướng của phương pháp tu đạo đó.
8. Khen công đức của người tu đạo: Tâm chí của phàm phu cạn hẹp, cho rằng: "Mỗi ngày chỉ ăn một hạt mè, một hạt gạo, khổ sở gian nan mà chịu đựng được. Cho nên kế sẽ nói về công đức của người này, nói về hành pháp được vị, không biết mệt nhọc, ở ngay trong cảnh khổ mà vẫn dìu dắt, hóa độ chúng sinh, như vui ba thiền.
9. Khen ngợi kinh: Tự mình không học theo kinh này thì công hạnh sẽ không nhờ đâu mà được thành tựu, có công đức không thể suy nghĩa bàn luận.
10. Khen ngợi câu kinh của Phật: Đức Phật ở ngôi vị chủ hóa độ, có khả năng giúp cho chúng sinh, nhờ pháp được vui, với ân đức của Phật như vậy đâu thể không khen ngợi."
"Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồ-tát" cho đến "Đức Như Lai Đại từ bi đã cho phép."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù Phật không bảo Đại chúng nêu câu hỏi nhưng kế đã đến lúc ban xuống ý chỉ từ bi, Bồ-tát liền nghe và vâng lệnh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đại chúng đương thời được tỏ ngộ, phải do Bồ-tát Sư tử Hống, cho nên ứng cơ mà xuất hiện."
"Phật bảo các đại chúng rằng" cho đến cho nên nay ở trước ta muốn sống lên tiếng rống sư tử. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nếu "Không nói về công đức của người hỏi, thì người nghe sẽ không đến, nên phải khen ngợi trọng hậu. Muốn sư tử Hống: Sư tử là danh hiệu không sợ, chỉ Phật mới có đủ, Bồ-tát Thập địa có đủ ba hạnh, có thể học Phật Hống, đức không cạn cợt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sở dĩ ở trước Phật khen khuyên đại chúng hãy cung kính, cúng dường là vì muốn cho chúng sinh tiếp nhận tỏ ngộ, phát tâm hết lòng kính trọng."
"Này người thiện nam! Như sư tử đầu đàn, tự biết năng lực của thân mình" cho đến "Có thể rống như sư tử, thật là sư tử đầu đàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu nghĩa rống của Phật. Đầu tiên trí lực của thân là quả, ba hạnh là gốc của thân trí lực. Phật có đủ các đức này, nên có khả năng rống. Bốn chân sư tử là giới, ba hạnh ví dụ cho hang núi. Vẫy đuôi phát ra tiếng rống là phát ra sự nghiệp đại bi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thân là pháp thân. Lực là mười lực. Răng, nanh là công dụng của trí Nhất thiết chủng. Bốn chân là bốn như y túc. An trú trong hang núi là Bốn thiền sâu lắng. Vẫy đuôi phát ra tiếng là Đại từ bi."
"Sáng sớm, sư tử vừa bước ra khỏi hang, liền vươn vai, nhìn khắp bốn phía, phát ra tiếng rống pháp sư Tăng Lượng nói: Bốn đức này là tướng nói lên lợi ích sắp rống."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đây trở xuống chính là nói về sự nghiệp ứng hiện ba cõi, hóa độ chúng sinh của Như Lai. Sáng sớm:
Là căn cơ chúng sinh mới phát ngộ. Phó cảm chúng sinh kia, là ra khỏi hang bốn thiền. Thường vươn vai là phát ra ánh sáng, làm rung chuyển mặt đất. Ngáp là nói pháp, nhìn khắp bốn phía: Là dụ cho bốn trí vô ngại."
"Làm mười một việc, mười một việc ấy là" cho đến "Các voi đầu đàn sợ chạy té phân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói vì việc lợi ích."
Này các người thiện nam! "Như loài chồn hoang kia" cho đến "Không bao giờ thể rống lên tiếng rống như sư tử được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu Thanh văn không có tiếng rống của sư tử."
"Này người thiện nam! Như Lai Đẳng Chánh Giác, trí tuệ là nanh vuốt" cho đến "An trụ trong hang thanh tịnh bốn thiền."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với việc trong hang ở trước."
"Vì các chúng sinh mà rống như sư tử, phá dẹp quân ma."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ nhất, hiện làm sư tử."
"Chỉ rõ cho đại chúng biết về mười Lực":
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ hai, là thử năng lực của thân mình."
"Mở rộng những việc mà Phật đã làm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ ba, vì chúng sinh mà làm cho trụ xứ thanh tịnh."
"Vì các tà kiến mà làm chỗ quy y."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ tư, vì bảo cho các sư tử con biết chỗ ở của mình."
"Vỗ về chúng sợ hãi sinh tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ năm, vì làm cho đàn sư tử con không có tâm hoảng sợ."
"Giác ngộ chúng sinh ngủ say trong vô minh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ sáu, vì làm cho người ngủ được thức giấc."
"Vì làm cho người gây ra điều ác, sinh tâm ăn năn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ bảy, vì muốn cho các thú buông lung không còn buông lung."
"Mở ra, tà kiến cho tất cả chúng sinh thấy, làm cho họ biết sáu vị giáo chủ ngoại đạo không phải là tiếng rống sư tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ tám, vì làm cho các thú khác đến nương tựa."
"Vì phát tâm kiêu hãnh, ngạo mạn của Phú-lan-na...
"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ chín, vì điều phục voi đầu đàn."
"Vì làm cho người Nhị thừa sinh tâm ăn năn" cho đến "các Bồ-tát, v.v... sinh tâm đại lực."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ mười."
"Vì làm cho chúng sinh của bốn bộ chánh kiến" cho đến "Bồ-tát bốn bộ chúng không cảm thấy sợ hãi đối với đồ chúng tà kiến."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ thứ mười một." "Nên từ hang của Thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh" cho đến
"Như Lai thường trụ, không có thay đổi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với bốn ví dụ sau. Nói pháp đã rống, nói nanh vuốt, hợp với nghĩa."
"Này người thiện nam! Các Thanh văn, Duyên giác dù là theo" cho đến "mà cũng không thể làm tiếng rống Sư tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với ví dụ chồn hoang."
Nếu "Bồ-tát Thập trụ! tu hành được ba hạnh này, phải biết rằng các Bồ-tát đó có khả năng rống tiếng rống của sư tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với con của sư tử, ba tuổi, chắc chắn có thể rống."
"Này các người thiện nam! Bồ-tát Sư tử Hống này" cho đến "Cúng dường, cung kính, tôn trọng, khen ngợi." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu thí dụ, tổng kiết, khuyên cung kính."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Sư tử Hống" cho đến "Nếu ông muốn hỏi, nay hãy tùy ý."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khen ngợi đã xong, khuyên hỏi lại."
Đại Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức
Thế tôn! Thế nào là Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: Đây là "Hỏi về thể của Phật tánh." Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ nhất là hỏi về thể của Phật tánh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Gồm có sáu câu hỏi, ba câu hỏi trước là hỏi về tánh nhân quả, ba câu hỏi sau là hỏi về nghĩa kiến để chứng minh hữu. Đây là hỏi về tánh quả, quả là tông chỉ cùng cực. Cho nên phải nói là hỏi trước, lời đáp sau đây là để biết rõ về thần tuệ. Thể tướng không thay đổi là tánh, lý thiên chân vốn có ở bên ngoài của muôn hóa. Hạnh đầy soi khắp, mới hội nhập lý này, không lìa thần tuệ mà nói là tánh?" Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là hỏi về tánh nhân, là nghĩa không thay đổi, có thể được quả, mà trong nhân dùng lý gì mà khen ngợi ư?"
"Vì sao gọi là thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Từ "vì sao cho nên đến đây là câu hỏi thứ hai, đã hỏi về Phật tánh, lấy hạt giống nảy mầm làm nghĩa. Vì nếu sinh diệt, nên hỏi rằng, vì sao lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba, lý do được gọi bốn nghĩa như Thường...?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Hỏi về nhân quả chung."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hỏi riêng về tánh quả, vì sao lại gọi riêng là thường, lạc, ngã, tịnh?"
"Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tánh" cho đến "Tất cả chúng sinh, đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nếu Phật tánh không thể dứt được, thì tức là đã có tác dụng của năng lực mà gần gũi ở thể của con người, đáng lý thấy được, vì sao không thấy ư?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ tư: "Nếu trong thân chắc chắn có Phật tánh, thì vì sao không tự thấy?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu việc thấy để nói về nghĩa hữu, vô."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là hỏi về pháp chướng ngại. Nếu quyết định "có" Phật tánh thì vì sao không thấy?"
"Bồ-tát Thập Trụ trụ trong pháp nào mà không thấy rõ ràng? Đức Phật trụ trong pháp nào mà thấy rõ?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không nghi ngờ Bồ-tát không hiểu rõ, mà là ngờ vực thấy được Phật tánh. Phật tánh tuyệt diệu, phải đầy đủ các điều lành mới thấy. Bồtát trụ trong pháp nào mà thấy được Phật tánh ư?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây có hai câu hỏi, đồng làm sáng tỏ về nghĩa thấy, mà câu hỏi này lại y cứ vào hạnh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi này hỏi về dứt trừ pháp chướng."
"Bồ-tát Thập trụ dùng mắt nào mà thấy rõ Phật tánh?
Đức Phật dùng mắt nào mà thấy rõ?"
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đã nói là được thấy thì dùng mắt nào để thấy? Là do Phật đáp."
Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Câu hỏi thứ sáu"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trước, y cứ vào hạnh để nói về thấy, ở đây lại y cứ vào mắt, chính là vì sự khác nhau của nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hỏi vì sao không hiểu rõ. Thập địa dùng mắt nào mà không thấy rõ? Dùng mắt nào trong năm mắt của Phật mà được thấy rõ?"
"Phật bảo: "Này người thiện nam! Lành thay! lành thay!" cho đến "Chư Phật, Thế tôn dùng mắt nào để thấy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa phước đức, trí tuệ có ngắn, dài. Vì sao? Vì nói về kẻ gây ra tội, thì từ tình là dễ, còn tu phước là trái với tâm là khó. Khó thì tự mình cố gắng mới thành, còn dễ thì không thực hành mà tự khởi, vì khổ dứt thì vui sinh, nghĩa là phước do được không mất là đức, qua đó người hiểu rõ chân, được gọi tên riêng là tuệ, là do địa Vô học đều được đủ cả hai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước, sau đều khen, vì lòng người khi phát."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói đủ về sự trang nghiêm này, chính là nhận thức được lý nhân quả này."
"Bồ-tát Sư tử Hống thưa: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Thế nào gọi là phước đức trang nghiêm?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sẽ nói về tướng của phước đức ấy, nên nêu câu hỏi để phát khởi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thỉnh Phật giải thích ý chỉ, để nêu câu hỏi sau."
"Này người thiện nam! Tuệ trang nghiêm" cho đến "Cho đến Bát-nhã, chẳng phải Bát-nhã ba-la-mật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gọi địa là hạnh, đều dùng lý giải để gọi, đều là tuệ, phàm phu chấp tướng phước, không thể vượt qua sinh tử, chẳng phải phước, cho đến chẳng phải Bát-nhã."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây, có ba lớp giải thích: Đây là lớp thứ nhất, vì Thập trụ trở xuống là phước, Thập trụ trở lên là trí tuệ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ nhất, từ Sơ địa đến Thập địa, lấy quên tướng trong "Duyên", chánh quán vô lậu "Không" giải làm tuệ trang nghiêm. Lấy trí quán của Thập địa làm phước đức trang nghiêm, chính là song yếu, là từ nghĩa mà phán quyết."
"Lại nữa, này người thiện nam! Tuệ trang nghiêm là" cho đến
"Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát Cửu trụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hàng Thanh văn đến Cửu địa có chướng nặng" cho đến "Chưa dứt hết, ít thấy Phật tánh, nên không được gọi là tuệ. Trên là nói phàm phu, ở đây nói bậc Thánh."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Phước đức trang nghiêm" cho đến "Không có quả báo vô vi, vô ngại, thường trụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Học pháp là phước đức, Vô học là trí tuệ."
"Này người thiện nam! Nay, ông đã có đủ hai pháp trang nghiêm này" cho đến "Phật cũng có đủ hai thứ trang nghiêm này, nên có khả năng giải đáp những nghĩa ấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kiết hai pháp trang nghiêm, bắt đầu hỏi đáp."
"Đại Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng:" cho đến "Một thứ, hai thứ là tướng phàm phu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói duyên "Có" gọi là phước đức, là pháp của phàm phu. Nếu thế thì không có hai trong các pháp, đủ cả hai, không nên hỏi, huống chi là đáp được ư?"
Phật bảo: "Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát" cho đến "Thì có thể hiểu biết một thứ, hai thứ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có thể biết một thứ, hai thứ: Một là Niết-bàn, hai là sinh tử, đều y theo hai thứ khác nhau trong cái "Có", mới thấy rằng, chẳng nên nói "Có" đều là điên đảo."
"Nếu nói các pháp không có một, hai" cho đến tất cả các pháp không có một, không có hai.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nói hữu vô đều là thế đế khác nhau.
Này người thiện nam! Nếu nói một hai cho đến. "Người có đủ hai thứ trang nghiêm thì mới có khả năng hỏi, có khả năng đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu chẳng thấy thường, chẳng thấy vô thường."
"Này người Thiện nam! Ông hỏi: "Thế nào là Phật tánh?" cho đến "Ta sẽ phân biệt, giải thích cho ông hiểu." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sẽ đáp câu hỏi, trước hết là Đức Phật nêu câu hỏi, nhằm khuyên răn hãy khéo lắng nghe."
"Này người thiện nam! Phật tánh gọi là Bậc nhất nghĩa không."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đây là đáp câu hỏi về thể của Phật tánh. Phải trước, thấy bất không, sau đó thấy "Không", thì mới là Bậc nhất nghĩa "Không", bậc nhất nghĩa vì đã có bất không, chỉ có Phật mới thấy, cho nên chỉ có Phật là Phật tánh. Bồ-tát Thập trụ cũng được gọi là thấy, dưới đến người học Đại thừa cũng được gọi. Sở dĩ nêu "Bậc nhất nghĩa" "Không" là Phật tánh vì so sánh nghĩa thì đồng, mà bao gồm học dưới, nhằm tiến đến môn đồ sau này, không câu nệ nghĩa thường, mà đều là thường, tất nhiên, đáp được những câu hỏi về không sợ." Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cảnh của trí Phật là tánh nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phật đáp câu hỏi đầu. Trước là hỏi về quả. Nay đáp: "Do biết rõ là Phật, không thay đổi, gọi "Tánh", là Bậc nhất nghĩa Không. Nêu cảnh để nói về dụng của Quả trí. Cảnh dưới chỉ là thường do vô thường. Vì Thường là pháp cùng cực trong Lý, nên gọi là Bậc nhất nghĩa "Không", nghĩa là Kim cương, vì thể này là khổ, tập, vì không tránh khỏi trạng thái hư hoại, nên có thể không."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ nhất có hai ý, đáp ở đây cũng có hai phần. Vả lại, trước nêu ra tánh của quả, quả Phật "Như như", dùng pháp tánh làm thể, không có tất cả tướng, vì vượt ngoài "Trăm phi" nên gọi là "Bậc nhất nghĩa không".
"Bậc nhất nghĩa "Không" gọi là trí tuệ."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không thấy cả hai thì không gọi là trí tuệ."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trí chiếu cảnh của Phật là tánh của quả. Sở dĩ nêu cả Cảnh, Trí là vì Trí lấy chiếu cảnh làm năng. Nếu cảnh không sâu, thì sẽ không do đâu để làm sáng tỏ công năng của trí. Nếu trí soi không sáng suốt thì sẽ không do đâu để nói lên chỗ sâu sắc của cảnh. Do đó, phải do cảnh và trí phát khởi lẫn nhau, thì công dụng của trí mới tỏ bày.
Nghĩa bậc nhất là Niết-bàn. Niết-bàn chân, tục đều là thật, gọi chung là Bậc nhất nghĩa. "Không" là sinh tử. Sinh tử là tục, đều luống dối, gọi chung là "Không"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước đã nêu Cảnh, nay nói khéo biết Bậc nhất và "Không" thì gọi là trí tuệ năng chiếu của quả Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã hiểu rõ tánh của quả, giờ đây trước là nêu thể để lấy trí. Nếu không y theo dụng để giải thích thể, thì không lấy gì để nói lên sự khác nhau của tánh nhân quả, nên nói về các đức của quả Phật, chỉ lấy Bậc nhất nghĩa "Không" làm thể."
"Nói không là chẳng thấp không và bất không."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Lấy riêng câu trước thì chẳng phải nghĩa bậc nhất."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích cảnh không, sinh tử lấy si mê làm gốc, vì không thấy biết!"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phân biệt với người Nhị thừa. Người Nhị thừa vào lúc vô sinh bình đẳng, cũng được gọi là bậc nhất, là lạm dụng lẫn nhau, cho nên phải lựa chọn, nghĩa là người Nhị thừa đều chẳng thấy "Không" và bất "Không"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thể của quả Phật tròn đầy, kiến giải Trung đạo rốt ráo, bấy giờ không còn thấy "Không" và bất không là khác nhau. Nhưng nhất tướng là vô tướng, không và bất không chẳng thể khác nhau. Cho nên nói chỉ có người trí mới thấy không và bất không. Giải thích sáu hạnh đều như thế."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nói thấy cả hai."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích nghĩa bậc nhất của Cảnh.
Niết-bàn lấy trí làm chính. Vì dứt trừ điên đảo, cho nên bất không." Pháp sư Tăng Tông nói: "Nhận thức cả hai lý, gọi là Phật, Bồ-tát."
"Không, là tất cả sinh tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Giải thích lại về "Không".
Sinh tử thật ra là vô tánh. Tục thì vô thường, nên gọi là không."
"Bất không" là Đại Niết-bàn" cho đến "Ngã" là Đại Niết-bàn." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích lại
Bậc nhất nghĩa." Niết-bàn thật cũng vô tánh, vì tục thì thường trụ, nên gọi là bất không."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giáo xưa nói Thế đế là "Có", do nghĩa đế Bậc nhất là vô. Nay nói sinh tử là hư giả, không vô tự thể, nên gọi là "Không". Niết-bàn là chân thật "Diệu hữu", nên gọi "Bất không" vì thế một nhà giải thích: Hai thời sinh tử là "Không có", Niết-bàn cũng có hai thời bất vô. Vì sao? Vì ngày câu kiết nhân, ngay thể là luống dối và đến quán giải, soi rọi không có một thứ nào là thật, nên tìm kiếm cả hai thời suy tìm đều không có tự tánh, đều là điên đảo giả có. Hiện nay, thần giải của chúng sinh do thời đã có, do tu đạo mà dứt trừ, tục hết thì chân hiện, cả hai thời đều bất không, nên gọi Niết-bàn là Bất không, sinh tử là không."
"Thấy tất cả không, bất không là bất không" cho đến "Không thấy ngã, không gọi Trung đạo."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Thấy không nghiêng lệch, là thể của Phật tánh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích trí Phật, trước nói về cái thấy nghiêng lệch, nghĩa là chẳng phải Phật dùng đúng, sai, để nói lên cái đúng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói về mặt lý thì đâu có người nào không biết? Nói theo giáo thì chỉ một bề hiểu về "không", vì hiểu nghiêng lệch, nên không gọi là Trung đạo."
"Trung đạo gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu cái thấy không nghiêng lệch, để nói lên sự chiếu soi cùng khắp, nên gọi là Phật."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chỉ cho tánh của quả địa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật tánh của quả Phật, mới là hiểu lý Trung đạo."
"Do nghĩa này, nên Phật tánh thường hằng, không thay đổi."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không nghiêng lệch thì đều là chân."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kiết trí cho nên là Phật. Chiếu khắp thì "Hoặc" hết, hoặc đã hết, thì không có thay đổi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tức là thể tánh của quả. Trước đã nói "thấy tất cả là không, chẳng thấy bất không, chẳng gọi Trung đạo." Sau đây là nêu Nhị thừa không thấy để đối lại."
"Vì bị vô minh che khuất, nên làm cho các chúng sinh không thể thấy được."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Chẳng thể do không thấy là vô thường."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba. Cảnh giới là thường có, vì vô minh che lấp nên không thấy."
"Thanh văn, Duyên giác thấy tất cả là không" cho đến "Vì không có Trung đạo, nên chẳng thấy Phật tánh." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Rõ ràng là người không thấy, vì không thấy Cảnh, nên trí cũng đều mất."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quán đạo của ba thừa nghiêng lệch không thấy Bậc nhất nghĩa "Không", nên không thực hành Trung đạo. Hạnh Trung đạo đã không thành, thì làm sao thấy được Phật tánh ư?"
"Này người thiện nam! Người thấy Trung đạo" cho đến "Hai là hạnh Định lạc, ba là hạnh Khổ lạc."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Ba hạng đều được cho là đã thấy Trung đạo. Người có chân kiến, tự phân biệt rõ ràng."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về tánh của chánh nhân, duyên nhân. Phàm phu, Nhị thừa, ngay nơi tình là thấy, chẳng phải thấy. Nói nhân có chánh, tà, cũng có xa, gần, do ba loại khác nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây là đáp câu hỏi thứ hai. Trong phần đáp, thông thường có ba thứ: Một là nói về chánh nhân; hai là nói về "Duyên" nhân; ba là nói về nhân của cảnh giới.
Câu hỏi ở trước rằng: "Sinh tử vô thường, vì sao cũng gọi là tánh?"
Nay trước gồm ba hạng người ở nhân địa. Thần minh ở đây cùng tận. Do họ có nghĩa chánh nhân, cho nên có lý thành Phật, chẳng phải gỗ, đá! Trong nhân nói quả, cũng gọi là tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lớp thứ hai, là lại nêu ra thể của tánh hai nhân: Duyên nhân và Chánh nhân. Nay, Đức Phật nêu ra ba thứ Trung đạo:
1. Hạnh Định lạc.
2. Hạnh Định khổ.
3. Hạnh Khổ lạc. Rằng: "Ba người này đều gọi là thấy Trung đạo, nên Bồ-tát, người ở hạnh Định lạc, hiểu gọi là hai đế chân tục, cuối cùng dứt khổ, được vui, cứu giúp sáu đường, hạnh nhân duyên thành tựu, được chánh vị, mà phàm phu sống trong khổ, tâm không có nhàm chán, làm sao thấy Trung đạo ư? cho nên một nhà giải thích rằng: "Nói về Trung đạo có hai đường: Tự có Trung đạo trong hai đế và tự có Trung đạo trong lý. Hiểu biết Trung đạo trong hai đế tức là tánh duyên nhân. Trung đạo trong lý, tức là tất cả chúng sinh đều muốn tránh khổ tìm vui, là hiểu Phật tánh của chánh nhân. Nghĩa Trung đạo vốn là tâm xứng lý, nhưng người có thần thức, chẳng có sát-na nào mà trong tâm không có kiến giải này. Khổ trong thiên hạ thật ra có thể tránh, vui thật ra có thể mong cầu. Đã có sự dụng tâm, chẳng lẽ không phải Trung đạo ư? Nếu khổ không thể tránh, mà gắng gượng nhàm chán thì vui không thể được, mà muốn gắng gượng mong cầu thì điều này trái với lý Đại thừa, sao lại không phải là kiến giải, chỉ vì kiến giải này là dụng trong cảnh, chứ không phải cái biết để tạo ra duyên, cũng chẳng phải nhân của thiện, ác mà sinh ra, hoặc nhân của thiện mà sinh? Chỉ lẽ ra "Có" trong cõi trời, người, ba đường lẽ ra "Không có", nếu nhân của điều ác mà sinh thì lẽ ra ba đường có riêng, trời, người lẽ ra "Không có", mà nay, bất luận sáu đường trời, người, vì không có một sát-na thì sẽ không có được kiến giải này, nên biết kiến giải này chính là dụng khác của diệu bổn, không có tâm thay đổi. Cho nên kinh Thắng Man chép: "Xuất hiện Như Lai tạng với tự tánh thanh tịnh tâm, thầm lãnh hội ý chỉ này". Nhưng, mỗi kinh đều y theo sự sâu kín, về lý tự sáng tỏ."
Hạnh Khổ lạc, là các Thanh văn, Duyên giác, người Nhị thừa đều chẳng phải không nhàm chán, vì ý cầu xuất thế, nên gọi là vui. Chấp chặt ở tâm, không khỏi sinh tử, nên gọi là khổ, chỉ hiểu Trung đạo trong hai đế không thành, tất cả đều là điều thiện, nên thuộc về "Duyên" nhân, vì tánh của chánh nhân tự phải có như vậy. Ở đây nêu ra ba thứ Trung đạo dùng làm thể của hai nhân. Hai nhân lại đồng dùng chân như làm thể. Nay, chỉ được nói theo dụng."
"Hạnh Định lạc: Cái gọi là Đại Bồ-tát" cho đến "Địa ngục A-tỳ, như cái vui ở ba thiền."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thấy Niết-bàn là thường, lạc, biết sinh tử là huyễn hóa, luống dối, vì hóa độ yên ổn, nên cho là khổ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bồ-tát Từ Sơ địa cho đến Thập địa, cứu khổ cho chúng sinh, tâm các Ngài thường vui như vui Cam lộ ở ba thiền."
"Định khổ hạnh, là nói các phàm phu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không biết vui chân thật, không giác ngộ "Hoặc", khổ, thường thực hành điên đảo, nhận lầm là đạo."
"Hạnh Khổ lạc, là nói các Thanh văn, Duyên giác" cho đến "Thực hành khổ vui mà cứ tưởng là Trung đạo." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người Nhị thừa so sánh với phàm phu là vui, Bồ-tát mới là khổ. Đối với hai khoảng này, vì về tình cho là đủ, nên nói nghĩ là Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Từ khổ pháp nhẫn cho đến "Duyên" nhất giác, vì người Nhị thừa không thể ở yên trong sinh tử để hóa độ chúng sinh, nên nói là khổ, vì Nhị thừa đã hiểu được tánh khổ là không, nên vượt hơn phàm phu. Cũng là hóa độ chúng sinh, nên nói là hạnh khổ lạc."
"Do nghĩa này, nên dù có Phật tánh mà không thể thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kiết Nhị thừa, phàm phu, dù có Phật tánh nhưng không thấy."
Này người thiện nam! "Như ông hỏi do nghĩa gì?" cho đến "Phật tánh chính là Vô thượng Bồ-đề của tất cả Chư Phật, là hạt giống Trung đạo."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Tất cả Chư Phật đều từ Phật sinh ra, vì Đức Phật trước là hạt giống của Đức Phật sau."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói hai tánh nhân quả. Nay, sẽ giải thích lý do được chung hai tánh, là đáp câu hỏi thứ hai." Tánh có hai nghĩa: Một là chủng loại sinh nhau; hai là giữ phần vị không thay đổi. Nay, nói hạt giống, nghĩa là nói chung về tánh của nhân, cũng chung là hạt giống."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu câu hỏi rồi đáp. Trước đã nói ba thứ tâm có công năng sinh ra công phu của Bồđề, nên gọi là tánh, vì chẳng phải quả nên gọi là tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai, có hai lớp: Đầu tiên là đáp thẳng lý do của tánh nhân, quả. Kế lại nói về ba người trên. Giải thích lý do có ba ý khác nhau, đây là lớp thứ nhất: Trước nói về quả. Kiến giải về Trung đạo Phật tánh, về mặt lý rất chu toàn, là hạt giống Trung đạo. Kế là, đáp về duyên nhân của chánh nhân, nghĩa hạt giống sẽ được quả. Trước đã nói lý do của tánh nhân quả. Nay, nói về lý do của "duyên" nhân và chánh nhân."
"Lại nữa, này người thiện nam! Đạo có ba bậc là Hạ, Thượng, Trung."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trước đã nói ba thứ Trung đạo, chỉ lấy thấy cả hai làm thể của Phật tánh, mà vì chính giữa, tất nhiên có thể đi suốt qua nên nói là đạo. Nay, nói về ba đạo, dùng công năng thông suốt của đạo để nói về chân đạo là có."
Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Giải thích chung hai nhân, hai quả. Bậc hạ là chánh nhân, bậc thượng là "Duyên" nhân, bậc trung là Bồ-tát của thân sau và quả Phật."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trên đã nói về chánh nhân đã xong. Nay gồm việc lành của nhân địa, là nói về "Duyên" nhân. Phàm phu là phẩm hạ. Nhị thừa là phẩm thượng. Bồ-tát là phẩm trung."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là lớp thứ hai, kế là mở ra hai thứ nhân quả, nhằm nói về người đã thấy Trung đạo nói trên. Nếu chấp Phạm thiên là thường, cho nên những hướng về chắc chắn là hành nhân khổ. Nếu chấp Tam bảo là vô thường thì đây là người tu hành hướng về khổ, vui.
"Phẩm Trung, là người tu hành hướng về niềm vui từ định." "Phẩm hạ là Phạm thiên vô thường, thấy lầm là thường."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trái với đạo, chẳng phải thật, gọi là phàm phu. Vì phàm phu nên thuộc về phẩm hạ."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng nghĩa chìm đắm ven dòng chảy làm phẩm hạ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã nói chấp lầm, thì đâu được nói là thiện? Nay lấy làm "Duyên" nhân, nghĩa là vì họ chế phục kiết, tu sáu hạnh, nhiếp tâm trong đạo thiền. Đây chẳng phải đạo cao siêu, phải có nghĩa thiện. Vì thế chẳng thể không lấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phàm phu hoàn toàn ở trong cảnh khổ, chỉ có chánh nhân."
"Phẩm thượng là sinh tử vô thường" cho đến "Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trái với chân, nếu là thật thì sự sinh tử quả là không có gì trên, vì nghĩa của nó được gọi là bậc thượng."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người Nhị thừa vì không nhận thấy quả vị Phật là thường, nên đối với sinh tử vô thường không thể bị lầm. Hiểu rõ sai là đúng nghĩa là chấp sinh tử là thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là giải thích về người Nhị thừa. Nhận lầm là thường. Họ đã hết chánh sử, chỉ còn tập khí. Nói theo giáo thì Nhị thừa vẫn còn thói quen của tám điên đảo, như trong ba tu đã nói. Nay không lấy nghĩa tập khí làm "Duyên" nhân, mà chính là lấy thiện vô lậu làm "Duyên" nhân. Phẩm thượng, là hai địa vị Phàm, Thánh. Phàm là phẩm hạ, thì Thánh này phải nói là phẩm thượng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hạnh Nhị thừa không được Trung đạo, nhưng chẳng phải không có tánh "Duyên" nhân. Nếu họ thay đổi chấp nhân thì sẽ được quả bậc thượng."
"Bậc trung được gọi là Bậc nhất nghĩa "Không", bậc này cho vô thường là vô thường, thường cho là thường." Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Người không có được nghĩa "Không" Bậc nhất nên chẳng gọi là phẩm hạ."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thấy được lỗi lầm của ba cõi, thấy Niết-bàn là thường, vì không đến, nên ngược dòng là phẩm thượng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bồ-tát biết nghĩa "Không" Bậc nhất cho nên nói là phẩm trung, vì lìa bậc hạ của phàm phu, nên không phải là bậc thượng của Nhị thừa." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích về người tu hành vui từ định nói trên. Bồ-tát đã nhận hiểu một cách xứng đáng, cuối cùng dùng nghĩa "Không" Bậc nhất này làm thể."
"Nghĩa "Không" Bậc nhất chẳng gọi là bậc hạ. Vì sao? Vì đây là pháp mà tất cả phàm phu đều không được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu vì xuôi theo dòng chảy, là bậc hạ cho nên không được. Đối với phàm, không gọi là bậc thượng, chứng tỏ chẳng phải bậc hạ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về Nhị thừa không thể lãnh hội được Bậc nhất nghĩa "Không" này, nên chẳng gọi là Trung đạo. Nếu phát kiến giải chân thật thì mới được Bồ-đề Vô thượng. Phàm phu vì không thể được, nên không gọi là bậc hạ."
"Không gọi là bậc thượng. Vì sao? Vì chính đây là thượng."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đạo trên không phải trên, từ ý là trên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì ngược dòng lên tận nguồn, nên gọi là bậc thượng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã vượt khỏi hai lớp, chẳng khác với Phật, cũng có nghĩa là được bậc thượng, vì hiểu Trung đạo, nên gọi là bậc trung."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ Sơ địa trở lên, có kiến giải đương phần, không khác với giải của Phật, chỉ khác ở chỗ chưa đầy đủ. Người Nhị thừa chưa có kiến giải này, đâu được đồng gọi là bậc thượng?
"Đạo mà Chư Phật, Bồ-tát tu hành, không trên, không dưới, nên gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bậc nhất nghĩa "Không" chỉ có Đức Phật mới thấy. Nay, gồm lấy bậc Bồ-tát, vì thân sau cùng của Bồ-tát ít thấy Phật tánh, đến Cửu địa mới gọi là người thấy Trung đạo."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Bờ mé sinh tử" cho đến "Khổ sinh, già, bệnh, chết, đó gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Ngay sinh tử là Trung đạo: là nói về bản hữu (sẵn có)."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là nhân của cảnh giới, chỉ nói sinh tử, không nói Niết-bàn là khác. Vô minh là gốc khổ hiện tại. Ái là gốc khổ vị lai. Nói về khổ hai đời, lấy "Hoặc" làm gốc, đủ tất cả "Không", đó gọi là Trung đạo, ba thứ là Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây sẽ giải thích về tánh cảnh giới. Ý theo đây, có tám lượt nói về nghĩa. Sau đây là lượt thứ nhất, tức là đáp câu hỏi thứ ba."
Lược nêu nhân của hai đời, mà trong đời quá khứ chỉ lấy vô minh, trong đời hiện tại chỉ lấy hữu, ái. Vô minh là bờ mé của hiện tại, hữu ái là bờ mé của vị lai. Nhân quả này tức là Trung đạo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba, trước giải thích chúng sinh, cho nên không thể thấy ý Trung đạo, chính vì vô minh, hữu, ái, nên sống chết không dứt, đó là gọi Trung đạo; gọi là mười hai nhân duyên."
"Trung đạo này có công năng phá tan sinh tử, nên gọi là Trung."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đạo nghiêng lệch thì không thể phá bệnh. Đạo không nghiêng lệch, thì phá được bệnh. Vì phá bệnh nên gọi là trung."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Cảnh này sinh trí, vì trí có công năng đã phá, nên gọi là phá."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu quán được mười hai nhân duyên sinh, hiểu biết hợp lý, thì sẽ phá được sinh tử."
"Do nghĩa này, nên pháp của Trung đạo gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trí Trung đạo là Phật. Đạo là nhân của trí, nên nói nhân là tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã chiếu soi đúng như lý nhân duyên, phát sinh kiến giải Trung đạo, thì được gọi là Phật tánh của "Duyên" nhân."
"Cho nên Phật tánh là thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vốn có hạt giống sẵn có sinh, không gọi là khởi diệt, là do thường, lạc vô vi." Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trung đạo là thường, nên Phật tánh thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói Lý tánh là thường, chúng sinh bị "Hoặc" che lấp, nên chẳng được dụng thường. Dù chưa được dụng thường, nhưng chủ yếu là ở nhân thường. Kế là câu này, có thể dùng nghĩa để đáp câu hỏi thứ ba."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trí chiếu soi đã tận cùng cội nguồn, khổ sinh tử đã hết, nên nói là Thường."
"Do các chúng sinh, không thể thấy Phật tánh" cho đến "Không có thường, không có lạc, không có ngã, không có tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì không thấy ba thứ Trung đạo, nên là vô thường."
"Này người thiện nam! Ví như người nghèo, trong nhà có kho báu" cho đến "Người này liền được thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có" mà không thấy làm thí dụ." "Cũng vậy, vì chúng sinh không thấy Phật tánh" cho đến "nhờ thấy Phật tánh, nên chúng sinh liền được thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hợp với thí dụ. Nghĩa đồng với ví dụ nghiệp lành."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích ý chỉ cũng không khác với ý chỉ trong phẩm Phật tánh ở trên. Đây là đáp câu hỏi thứ ba đã xong."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Chúng sinh khởi kiến" cho đến "Trí quán như thế, được gọi là Phật tánh." Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Mười hai nhân duyên là Trung đạo.
Nói chúng sinh là sẵn có. Nếu thường thì lẽ ra không có khổ, nếu dứt thì không có lý thành Phật. Người quán Trung đạo như thế, thì sẽ thấy được Phật tánh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên nói cảnh giới. Ở đây nói người trí duyên nhân. Trí có công năng dứt "Bỏ" hoặc đoạn, thường, không có lỗi nhận lầm đoạn, thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ hai, nói mất kiến giải, thì đoạn, thường, được kiến giải thì không đoạn, không thường, cho nên dùng "Hoặc" để nói về thể của quán."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở trên đã đáp ba câu hỏi xong. Đoạn văn này còn có ý gì nên nêu ra giải thích của một nhà: "Gồm có hai nghĩa: Một là nói chung về chúng sinh vì không biết được bệnh nhân duyên; hai là vì nhất định tánh nhân quả có sự tồn tại. Ý ấy thế nào? Chúng sinh đã tức thân có Phật tánh, cho nên không được sử dụng, là vì không thể nhập vô vi hữu vi nên khởi lên bệnh thường..., vì hiểu lầm trong tâm, nên không thể được thường, lạc, ngã, tịnh này. Trên đây, đã nói về tánh nhân quả này, là vì không lìa mười hai nhân duyên làm cho hưu tình biết được lý, không thể tìm kiếm pháp nào ngoài nhân quả này. Chính vì có hai ý trên đây, nên kế là sẽ nói về lý này. Ý chỉ của Đại thừa là như vậy." Lại, y theo văn này, lược chia ra có chín ý:
Trước là nói về quán mười hai nhân duyên được kiết quả hay không. Nếu trước an định lý pháp tánh vô vi, lìa đoạn, thường, thì hợp với cảnh, mà biết được Phật tánh thành "Duyên" nhân. Nếu phải duyên cảnh mà không thích hợp với cảnh, không yên định vô vi, chấp đoạn, thường thì sẽ trái với hạnh Trung đạo.
1. Chính là triển khai nhân năng, quả nặng, định ra tánh nhân quả, nói nhân quả này đều không lìa mười hai nhân duyên.
2. Chính là nói thoát ra thể tướng của tánh nhân quả.
3. Phán quyết phần vị của tánh nhân quả.
4. Khen lý tánh nhân quả rất sâu của mười hai nhân duyên.
5. Nói dù chúng sinh chung với mười hai nhân duyên này, nhưng không hay không biết, chỉ có Bồ-tát Thập trụ và Phật mới có khả năng soi sáng cùng tận lý sâu mầu này, nên mới thấy rõ về nhân duyên từ trước đến sau.
6. Nói người tu hành với trí quán sâu sắc cùng cực, cắt đứt nhân duyên nối nhau của sinh tử, dứt hết quán luống dối, tức là quán suốt pháp tánh, tức dùng pháp sâu này làm thể, thì được thành linh giác.
7. Nói về trí quán nhân duyên có tầng bậc, sinh kiến giải có cạn, sâu.
8. Gồm thâu câu kiết.
Nay, từ câu "Chúng sinh khởi kiến v.v...trở xuống, là mở đầu cho ý thứ nhất. Phàm phu chính là khởi chấp đoạn thường, trái với đạo sinh diệt. Không biết pháp tướng, vì tâm vận hành ngoài lý, nên không gọi là Trung đạo. Không có thường, không có đoạn, mới gọi là Trung đạo, nghĩa là nếu nói theo bên sinh tử, nói theo đạo lý sinh, diệt của thức thì e rằng ý này không đúng! Vì sao? Vì cái "Có" luống dối của thế đế, tức thể như huyễn, cuối cùng trở về diệt vô, đâu có bất đoạn, bất thường, chỉ có diệu thể của thần minh? Pháp tánh vô vi, mới được gọi bất đoạn, bất thường, tâm "Duyên" được lý này, không chấp tướng hữu, vô mới được gọi là Trung đạo. Đã xứng với lý giải này, tức là biết nhân duyên luống dối, trí quán chiếu sinh ra, gọi là Phật tánh "Duyên" nhân. Nếu hiểu được như thế, thì gọi là được pháp."
"Người Nhị thừa dù quán nhân duyên nhưng vẫn không được gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Diệt sinh tử gọi là Niết-bàn. Nếu nói rằng không thấy, thì đâu thể được vô? Vì có nghĩa "Được", nên lấy "Không được" làm tên, huống chi là người không quán ư?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về không quán của Nhị thừa chưa dứt trừ đoạn thường thì không được gọi là thắng nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ ba, do người Nhị thừa được lý không sâu, cho nên không thể thấy được." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tánh nhân quả là thường, vì bị vô minh che lấp cho nên không thấy.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hiểu Trung đạo trong hai đế đã không thành, thì làm sao không thấy Phật tánh ư?"
"Phật tánh dù là thường, nhưng vì chúng sinh bị vô minh che lấp, cho nên không thấy."
"Lại, chưa thể lội qua sông mười hai nhân duyên, giống như thỏ ngựa. Vì sao? Vì không thấy Phật tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Như thỏ, ngựa là phép quán của Nhị thừa. Thỏ, ngựa lội qua sông, chân không được tới, huống chi chúng sinh bị vô minh che lấp, nên không thấy lý."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói quán cạn thấp. Vì không thấy nhân duyên bắt đầu, nên không dứt chấp thường. Vì không thấy nhân duyên cuối cùng, nên không dứt đoạn kiến."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai là nói ba thừa đồng quán vô sinh, chỉ thấy lý khác nhau, có khác ở chỗ sâu, cạn. Mượn thỏ, ngựa lội qua sông làm thí dụ."
"Này người thiện nam! Trí tuệ quán mười hai nhân duyên này" cho đến "Mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Tánh của mười hai nhân duyên sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trí tuệ này ở trên hai lý hữu vi, vô vi, sinh ra tánh của "Duyên" nhân, dùng trí quán nhân duyên, gọi là tánh của duyên nhân, mà hiểu thể là tránh khổ, tìm vui, gọi là tánh của chánh nhân, hai thứ đều làm rõ cả hai."
"Này người thiện nam! Vì như rau Hồ Cô, gọi là bệnh nóng" cho đến "Mười hai nhân duyên cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Ở trước nói về trí quán mười hai nhân duyên, lúc bao gồm nhân, gọi là Phật tánh, nên lấy rau Hồ cô làm thí dụ. Thật sự thấy nhân duyên, sau đó quả mới thành, chẳng phải ví dụ kia."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói nhân là hạt giống, đây là chủng tánh sinh nhau. Nay nói hạt giống là tánh, là trong nhân nói quả, cho nên là khác."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì hai nhân trên làm thí dụ. Dù rằng chẳng phải Phật, nhưng vì có khả năng được quả Phật, nên gọi là Phật tánh."
"Này người thiện nam! Phật tánh có nhân, có nhân nhân, có quả, có quả quả."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Hướng về Phật tánh gọi là trung, có nhân, có quả nên nay nói nhân quả có lệ thuộc.
Ngài Tăng Lượng nói: "Ở trên nói việc nhân quả đã xong, đều là hội nhập tông chỉ trên, chia "Không" thành hai nhân, chia quả thứ nhất thành hai quả, để nói nhân quả nối nhau, không lìa nhân duyên, đều không có tự tánh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư là có nhân", nghĩa là mười hai nhân duyên làm tác nhân cho trí. "Nhân nhân": Tức là trí tuệ, trí này là tác nhân của Bồđề. Bồ-đề là tác nhân của Niết-bàn. Đây là nhân của nhà nhân, nên nói là nhân nhân."
Có quả, có quả quả: Bồ-đề là quả, mà Niết-bàn lại là quả của nhà Bồ-đề."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ hai, chính là quyết định tánh nhân quả. Nói về tánh nhân quả này, tức dùng mười hai nhân duyên làm thể. Có nhân, là chánh nhân. Nói về lý, nên lấy chánh nhân làm nhân nhân, vì "Chánh" là nhân của nhân duyên. Nay, chỉ vì tánh của chánh nhân, nên Phật không thay đổi, ngay phần vị nhân mà nói là nhân. Nhân nhân: Duyên tánh nhân vì có dời đổi không cố định, nên gọi là nhân nặng. Quả, là Bồ-đề. Chủng trí là quả của muôn hạnh, nên được gọi là quả. Niết-bàn đối với sinh tử được tên gọi. Đây là lập quả ở trên quả, nên nói là quả của quả."
"Có nhân, tức mười hai nhân duyên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì mười hai nhân duyên có công năng sinh ra trí quán, nên gọi là nhân." "Nhân của nhân" tức là trí tuệ.
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trí hiểu biết mười hai nhân duyên là Phật tánh của nhân. Nay, chia làm hai, vì lý do giải thích được, từ lý nên thành quả Phật, lý là nhân Phật. Giải" đã được lý, "Giải" là nhân của lý, đây gọi là nhân của nhân."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trí quán là nhân của Niết-bàn,, vì trí Bồ-đề là trí quán của Niết-bàn. Vì là Bồ-đề, cho nên không làm nhân nhân cho Bồ-đề, nghĩa là vì muốn trải khắp bốn pháp."
"Có quả" tức là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-đề là quả của trí quán. "Quả của quả" tức là Vô thượng Đại Bát-niết-bàn."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Thành Phật, được Đại Niết-bàn là Phật tánh. Nay, cũng chia làm hai: Thành Phật từ lý, cuối cùng là quả. Đã thành được Đại Niết-bàn, về nghĩa ở sau, đây là quả của quả."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn là quả của Bồ-đề. Đối với trí quán mà nói, là nghĩa "Quả quả".
"Này người thiện nam! Ví như vô minh là nhân" cho đến "Thức vừa là quả, vừa là quả quả. Phật tánh cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nhân quả đồng làm thí dụ. Tạo ra nhân quả khác nhau. Hai phần trước là bốn, đây mới là ba, đây là khác nhau."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu mười hai nhân duyên, sinh nhau là giống nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vô minh là tác nhân của hành, nên gọi là nhân. Hành này lại làm tác nhân cho thức. Nếu giống với câu trước, lại lấy hành làm "nhân nhân": Một là vì từ nhân trước mà sinh; hai là vì làm tác nhân cho thức, nên là nhân nhân, mà câu văn nói vô minh là Nhân nhân", lẽ ra cũng dùng mười hai nhân duyên làm "Nhân nhân". Như không giống, vì tiêu tức."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Làm nhân quả, lập thí dụ. Y theo ba pháp trên so với nhau, đều có nghĩa "Nhân nhân", "Quả quả"."
"Này người thiện nam! Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên" cho đến "Không đến, không đi, chẳng phải nhân, chẳng phải quả."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vì duyên sinh chẳng thật, nên không xuất, vì duyên chia lìa phải diệt, nên không thường. Vì trước sau, chẳng phải một, vì không lìa, nên chẳng phải hai. Nghĩa đến đi giống như sinh diệt. Vì chẳng phải tác nhân nên chẳng phải nhân. Vì chẳng phải nhân, nên chẳng phải quả."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không xuất, không diệt, là vì từ duyên nên không, Niết-bàn là không có xuất hiện. Vì không có sinh tử nên bất diệt. Dưới đây, cũng giống như vậy:
"Chẳng phải nhân, chẳng phải quả: Không có trước là nhân, không có sau là quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ năm nêu lý để thành dụng của trí quán Trung đạo. Không xuất, là không nêu ra đến hiện tại. Không diệt: không hoàn toàn đoạn diệt, vì có nghĩa nối nhau sinh ở sau. Không thường tức là không xuất, không đoạn tức là không diệt. "Chẳng phải một": Vì nhân quả khác nhau. "Chẳng phải khác": Vì đầu cuối nối nhau thành "Một". Không đến không đi, nghĩa là không từ vị lai đến hiện tại, cũng không có một vật thể nào đi vào quá khứ. Chẳng phải nhân, chẳng phải quả là chẳng phải khác với nhà nhân chẳng phải nhân khác với nhà quả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ ba ở trên nói về tánh của nhân, quả không lìa mười hai nhân duyên. Nay, kế là, phát ra thể tướng của nhân quả đó, nói mười hai nhân duyên, chính là dùng chân như, pháp tánh vô tướng, vô vi làm thể. Nếu giáo xưa một bề nói "Không", thì e rằng Thánh chỉ sẽ không tồn tại. Nếu một bề là "không" thì đâu cần phải khen ngợi. Vì nhân duyên rất sâu, nên biết rằng đã làm rạng rỡ cho giáo nay."
"Này người thiện nam! Là nhân chẳng phải quả, như Phật tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Phật tánh là nghĩa hạt giống sinh, nên là nhân chẳng phải quả."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh của chánh nhân chính là bốn pháp."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây là môn nhân quả thứ sáu, là tánh cảnh giới mười hai nhân duyên."
"Là quả, chẳng phải nhân, như Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vì Niết-bàn là nghĩa rốt ráo, nên chỉ là quả chứ chẳng phải nhân."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không còn quả nữa." Pháp sư Tăng Tông nói: "Quả báo cùng cực."
"Vừa là nhân vừa là quả, như pháp do mười hai nhân duyên sinh ra."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Trái với lý tạo ra có, đều là nhân duyên sinh, đều là nhân, đều là quả."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Là trí quán. Đối với chánh nhân là quả, đối với Bồ-đề là nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dùng trí quán chiếu, có cả nhân, quả." "Chẳng phải nhân, chẳng phải quả, gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không từ nhân mà có lại không còn tạo ra."
"Vì chẳng phải nhân, quả, nên thường hằng không thay đổi."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vì tạo ra cái "Có" nên sinh diệt. Vì vốn tự nhiên, nên không sinh diệt."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh của quả Bồ-đề chẳng phải do nhân làm ra, cho nên gọi là Bậc nhất nghĩa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói là Tam-Bồ-đề. Vì chẳng phải nhân, nên chẳng phải nhân. Vì không bị sinh ra, nên không phải là quả. Do không phải là nhân của sinh mà được, cho nên thường hằng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là ý thứ tư, nói về phán quyết phần vị của tánh nhân quả. Là nhân, nghĩa là chánh nhân, chánh nhân chỉ được ở phần vị nhân, không được gọi là quả. Là quả chẳng phải nhân, nghĩa là Niết-bàn, chẳng được gọi là quả. Không được gọi là nhân."
"Vừa là nhân vừa là quả: Tánh của duyên nhân có nghĩa tức nhân, tức quả."
Chẳng phải nhân, chẳng phải quả: Lại khiển trách ở trước nói rằng: "Niết-bàn gọi là quả, muôn hạnh là nhân, tâm chúng sinh chấp cho là sinh nhân, sinh quả". Nay khiển trách rằng: Thể của Niết-bàn "Trăm phi", không thật có, chẳng sinh nhân của sinh nhân. Lại, chẳng phải là quả của sinh nhân. Không có danh, không có tướng, đâu phải là nhân là quả ư?
"Do nghĩa này nên trong kinh Như Lai nói" cho đến "Mà các Thanh văn, Duyên giác không thể sánh bằng."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Về nghĩa nhân quả có đủ ở trong mười hai nhân duyên. Bồ-tát Thập trụ vẫn còn các chứng bệnh, huống chi người Nhị thừa ư?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì giải thích nghĩa của hai môn "Không" "Hữu" ở trên, đều chẳng phải việc mà người Nhị thừa suy lường được! Nêu việc mà giáo xưa đã nói, để chứng minh cho lý nhân duyên rất sâu:
1. Khen ngợi lý rất sâu.
2. Chúng sinh không biết.
3. Chỉ có Phật mới hiểu rõ. Dưới đây, sẽ giải thích riêng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ bảy, người Nhị thừa chẳng thể thấy biết, nên nói là không biết, không thấy."
"Vì sao lại rất sâu, rất sâu?" cho đến "không có lo biết, hòa hợp mà có."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ nhất, là chứng minh rất sâu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Giải thích nghĩa rất sâu: Vì nối nhau nên không dứt, vì diệt nên không thường, cho nên có thể giải thích về quả. Dù mỗi niệm diệt, nghĩa là vì chủng loại giống nhau, tức là có một tác dụng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ năm là khen ngợi lý sâu của mười hai nhân duyên. Vốn khen lý sâu sắc này chính là ý ở chân thể thần minh. Không nói về sinh tử, sinh tử là sự cấu kiết không thật, đâu có gì là rất sâu? Sở dĩ chỉ khen mười hai nhân duyên, không khen năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới... là vì đẳng nhân này đã thành giả gọi là pháp môn, chẳng phải đầu cuối nối nhau. Vì mười hai nhân duyên là pháp môn đầu cuối, cho nên y cứ vào pháp môn này để khen.
Không biết, không thấy: Lý đã sâu xa, đâu dễ gì thấy biết! Chỉ có Đức Phật muôn hạnh tròn đầy, được tri kiến đầy đủ, còn Bồ-tát Thập trụ chỉ thấy lờ mờ. Chẳng thể tư duy: Lý pháp tánh sâu kín, chỉ cho cảnh giới của Phật, không phải cảnh mà Nhị thừa hạ địa suy nghĩ được! Do nghĩa này, nên nói là rất sâu.
Sau đây, chính là giải thích về thể của nhân duyên.
Cho nên ý rất sâu là vì để nói về hành nghiệp của chúng sinh là không thường, không đoạn, mà quả báo lại không quên. Nếu chúng sinh tạo nghiệp, trực tiếp dùng thần minh luống dối làm thể, thì phải là ba tướng vô thường. Nếu chính ba tướng đã tạo ra nghiệp lành, nghiệp dữ thì làm sao được tồn tại để rồi khởi nghiệp về sau, trải qua hằng trăm, ngàn muôn kiếp, do tự chịu quả báo, nên biết được có pháp tánh đứng đầu thần "Giải" thường kế thừa chân thật bất diệt. Thể nó không có thịnh, suy, thì dụng đâu thể diệt? Nếu được kiến giải về sau, thì tác dụng si mê mới "Không". khi chưa có kiến giải thì thường si mê, cho nên là nghiệp, nghiệp tức là si che lấp trí, gọi là phiền não. Vời sinh cảm quả, do đó thành nghiệp, tức một thể mà nghĩa phân chia. Dù niệm niệm diệt, nhưng không mất đi. Nghĩa là đã chân, tục cùng chung là thần minh. Bên tục mới có thể là ba tướng diệt, y cứ bên chân lấy dĩ vãng, vì nghĩa si mê thường còn, cho nên không mất. Dù không có tác giả tuy không có tác giả như thần nhã, mà đều tạo nghiệp. Dù không có thọ giả, là dù không có như thần ngã thọ giả của mười sáu tri kiến, mà có nhân thì sẽ được quả. Không có lo biết do hòa hợp mà có thì cũng không có người biết hòa hợp, là thần ngã mà ngoại đạo đã chấp, nhưng vì có nhân nên dẫn đến quả. Về lý thường cảm vời nhau. Như các ngoại đạo kia không có pháp tánh này làm thể thì sau khởi nghiệp, họ sẽ gởi nghiệp vào chỗ nào? Kinh xưa nói rằng: "Nếu có lời nói thành tựu thì chắc chắn thành tựu?"
"Tất cả chúng sinh dù cùng với mười hai" cho đến "Vì không thấy, biết nên không có đầu cuối."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Không từ tạo ra mà có, thì đâu có bắt đầu? Đã không thấy biết thì đâu có sau cùng"
"Bồ-tát Thập trụ chỉ thấy sau cùng, không thấy bắt đầu của mười hai nhân duyên."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Bồ-tát Thập trụ thấy lờ mờ chung cuộc của mười hai nhân duyên? Bắt đầu không có bờ mé, nghiên cứu lý mới thấy."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh không thấy." Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì đến lúc Kim cương dứt, thì sau cùng của mười hai nhân duyên kia mới dễ hiểu rõ. Tìm kiếm nguồn gốc của mười hai nhân duyên thì không thể nào biết được."
"Chư Phật, Thế tôn thấy đầu, thấy cuối. Do nghĩa này, nên Chư Phật được thấy Phật tánh rõ ràng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Điểm bắt đầu không có cội nguồn mà soi chiếu, chính vì bắt đầu ở chỗ không có bắt đầu, như Tịnh Danh nói: "Từ si có ái, đâu biết được bắt đầu? Kinh Thắng Man cũng nói: "Vô minh, vô thỉ".
"Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh không thể thấy mười hai nhân duyên cho nên trôi lăn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu sự tai hại không thấy mười hai nhân duyên để kiết luận."
"Này người thiện nam! Như con tằm kéo kén tự sống, tự chết" cho đến "trôi lăn sinh tử, giống như đánh trái cầu lông."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì người không thấy nên phải thí dụ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ sáu dù cho chúng sinh cùng chung với lý này, nhưng vì không hay biết, nên tạo nhân chịu khổ, không cùng tột, không thôi dứt, chỉ có Chư Phật, Bồ-tát đã giác biết lý này, tu nhân cảm quả, nghiên cứu cùng tận về nhân duyên này, nên biết đầu, biết cuối. Nay, nói Bồ-tát Thập Trụ biết cuối, mà không biết đầu, e rằng đây chẳng phải thật luận. Vì sao? Vì đạo Phật đã đầu cuối đều không thấy, đâu cho Thập trụ chỉ biết cuối, không biết đầu, lẽ ra cũng lờ mờ như đều, mà nay, chỉ nói biết cuối, không chưa biết đầu, đây chính là vì thử nghiệm người không hành đạo, nói rằng, Bồ-tát Thập trụ đã tu hành đại nghiệp trong suốt ba Atăng-kỳ, vẫn còn biết đầu, huống chi người không tu hành mà biết được? Nếu thực hành theo sự, thì có cuối để y cứ, còn đầu đã, nhỏ nhiệm khó xét tìm, nên chỉ biết cuối. Nói về lý, tức là đầu cuối đều lờ mờ. Phải biết rằng, chỉ có Đức Phật hiểu rõ cùng cực, xem xét mười hai nhân duyên này, được thấy Phật tánh."
"Này người thiện nam! Cho nên trong các kinh Như
Lai đã nói" cho đến "Mười hai duyên, tức là thấy pháp." Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Pháp là danh của lý thật, thấy mười hai duyên mở đầu là thấy thường, vô thường, là thấy pháp."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu kinh xưa để chứng minh lợi ích của người nhận thấy mười hai nhân duyên, vì diệt khổ là Phật, cho nên nói rằng, chính là thấy Phật." "Thấy pháp, tức là thấy Phật."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Pháp thể là Phật, Pháp tức Phật". "Phật là Phật tánh. Vì sao? Vì tất cả Chư Phật đều lấy Phật tánh này làm tánh."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Nói về pháp thể, nghĩa là thầm hợp tự nhiên tất cả Chư Phật, đều như vậy, cho nên pháp là Phật tánh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nay, nêu thuyết nhằm lãnh hội ý chỉ xưa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ bảy nói về hiểu thấu cùng tận cội nguồn. Nếu sinh tử hết ngay thì gọi là thấy chân pháp. Vì thấy chân pháp này, nên gọi là thấy Phật. Đại giác hiện ở trước, không còn bóng tối che khuất nữa, tức dùng chân như, pháp tánh này làm thể, thành trí nhất thiết chủng. Nếu thần minh không dùng pháp tánh này làm cội nguồn, thì kinh đâu được nói là thấy mười hai duyên, tức gọi là thấy pháp. Nếu thấy pháp sinh tử, quả Phật thường trụ, thì đâu được nói rằng: "Dùng pháp tánh này làm thể" Nếu sinh tử là không thì như giáo thuở xưa, lẽ ra đồng với nguội thân bặt trí. Lại, không thể gọi là thường. Pháp thường lại là nghĩa Vô thỉ sinh, nên biết "Thần giải" dùng pháp thường này làm gốc, trực tiếp dứt trừ luống dối, hiển bày ra ý chỉ chân thường này. Việc đó như nói ví dụ ngoại đạo Phú-lan-na dưới đây".
"Này người thiện nam! Trí quán mười hai duyên" cho đến đắc "Đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu không thấy mười hai duyên, nên làm cho mình phải chịu đau khổ, mà thấy có cạn, sâu, khổ diệt khác nhau. Không thấy Phật tánh: Trung đạo là Phật tánh. Người Nhị thừa thấy nghiêng lệch, không thấy Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là lượt thứ tám, nói bốn hạng người quán cạn sâu, chỉ có quán thượng thượng mới cùng tận, nên biết là sâu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý thứ tám, kế là nói về tướng giai cấp nhất định của trí quán mười hai duyên. Trước nói về lý sâu của mười hai nhân duyên, không biết, không thấy, chỉ có Phật mới thấy biết tận cùng và xem xét đầu cuối của mười hai nhân duyên kia. Vì thế, nay kế là nói về Phật hàng phục ma vương trở lại, cũng được quán lý này, chỉ quán mà chưa đạt được, nên phát kiến giải có sâu, cạn, về tầng bậc có bốn lớp khác nhau:
1. Trí bậc hạ, được đạo Thanh văn.
2. Trí bậc trung, được đạo Duyên giác.
3. Trí bậc thượng, được địa vị Thập trụ. Nhưng trí bậc Thượng thượng, vì thấy nhân duyên cùng cực, nên thành đạo Vô thượng. Ở đây nói được đạo Thanh văn, e rằng chẳng phải là người thực hành. Nếu mượn lời nói để dẫn dắt người ngu, nên không có nghi ngờ."
"Do nghĩa này, nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tánh" cho đến "Phật gọi là Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa "Không Bậc nhất" gọi là Trung đạo, trở lại kiết tông chỉ trên. Phật tánh, Niết-bàn này nói chung là Niết-bàn sinh tử. Trí cảnh không nghiêng lệch, đều gọi là Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghĩa là tánh của cảnh giới, nghĩa không bậc nhất là trí chiếu cảnh, gọi là Trung đạo, nghĩa là trí chiếu không nghiêng lệch. Trung đạo gọi là Phật tánh, nghĩa là thắng giải tròn đầy, trở thành quả cùng cực, "Tức Niết-bàn" là quả của quả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là ý thứ chín, Gom chung, kiết hội nhập, nói về bốn thứ Phật tánh đều không lìa mười hai nhân duyên. Đã nói cùng tận lý này được thành Phật. Nhân quả, Phật tánh, đâu được lìa mười hai duyên, gọi là Phật tánh. Phật tánh tức nghĩa "Không" Bậc nhất chính là kiết xa về quả Phật trên, kiến giải về trung đạo Phật tánh đã mãn, muôn đức đều đủ, chỉ dùng Bậc nhất nghĩa "Không" này làm thể. Nếu muốn lấy chung kiết bốn thứ Phật tánh thì đều dùng nghĩa "Không" Bậc nhất này làm thể. Nhưng ý kiết luận này, e rằng nói theo tánh quả."
"Bấy giờ, Bồ-tát Sư tử Hống" cho đến "Thì tất cả chúng sinh cần gì tu đạo?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý nói: "Nếu nhân cũng là Phật tánh, quả cũng là Phật tánh, thì danh nghĩa không khác nhau, cần gì tu hành đạo nghiệp để mong cầu thành Phật ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Cho nên Bồ-tát Sư Tử Hống nêu lên câu hỏi này là do trên đây, Đức Phật đã nói: "Thấy pháp tức là Phật, Phật tức Phật tánh". Tình người mới sinh nghi ngờ về lời nói đó của Phật, rằng "Nếu Phật và Phật tánh không khác, thì tức là có tánh, tức có Phật, thì cần gì phải tu đạo?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là giải thích nghi ngờ nói trên, mà sinh ra câu hỏi. Nỗi nghi ngờ này dựa vào đâu mà khởi? Do Phật đáp ba câu hỏi trên, về sau, nhất định tánh của nhân quả, chúng sinh bèn sinh nghi: "Nếu nhân quả, Phật tánh đều không lìa mười hai nhân duyên, thì tức là tánh nhân và tánh quả, cuối cùng tự chúng không khác nhau. Nếu không khác nhau, thì cần gì phải tu đạo? Đã sinh nghi có hai, nên Phật đáp dưới đây cũng là hai pháp không khác nhau, cho là một câu hỏi: "Cần gì phải tu đạo?" Vì là câu hỏi thứ hai nên Đức Phật đáp dưới đây, sẽ mở ra thành ba câu đáp. Hai câu hỏi tức là hai đoạn. Đáp câu hỏi thứ hai, là Phật khuyên bảo chúng sinh hãy quên nghi ngờ. Nay, nói nghĩa này không đúng, vì trước kia, Đức Phật đã khiển rách rồi."
"Phật bảo: "Này người thiện nam! Lời ông vừa nói" cho đến "Nhưng chúng sinh đều chưa đầy đủ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về mảy may tri kiến đều là lý Phật chưa đủ, gọi là tánh nhân, đầy đủ thì gọi là tánh quả. "Tánh danh" dù đồng, nhưng có đủ, không đủ khác nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y cứ trong phần đáp có năm. Văn giải thích dù là đương tánh, nhưng vẫn phải tu đạo."
"Này người thiện nam! Ví như có người với lòng dạ ác độc hại mẹ mình" cho đến "Ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích nói là "Có", vì vị lai chắc chắn được nên gọi là có chẳng phải nay "Có".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lớp thứ nhất, vì nhờ nghiệp hiện nay có, sẽ chiêu cảm quả đương lai. Phật tánh cũng giống như vậy, sao lại không cần tu đạo ư?"
"Do ý nghĩ này, nên ta đối với kinh này" cho đến "Sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu kệ xưa để làm chứng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lớp thứ hai là nêu kệ để so sánh nhân quả không đồng đều: Hễ còn phiền não thì sẽ không có Niết-bàn, đâu được không cần tu đạo ư?"
"Này người thiện nam! Như có người trong nhà hắn có sữa, có lạc" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hễ người có tâm, nghĩa là trước kia nói chắc chắn được. Nay nói hễ người nào có tâm cầu vui, cầu thì đều được, chỉ chậm hay mau là điều đáng nói thôi!"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lớp thứ ba, sữa sẽ sinh ra lạc, cho nên phải có rượu nồng, nhiệt độ ấm..., mới có lạc. Do đó nên phải tu đạo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước Phật đáp câu hỏi đầu, nhằm nói rằng, Phật và Phật tánh dù không khác nhau, nhưng chủ yếu là chưa đầy đủ, phải đến khi thành Phật, mới không khác nhau, còn hiện giờ, chưa được thành Phật, thì làm sao không khác được? Cho nên, dưới đây liền mượn ví dụ để nói về nghĩa sẽ có ở vị lai. Trong thời gian hiện tại không có quả đương lai, nên nói "Có", chẳng phải là cái "Có" của "Đã có". Chúng sinh cũng vậy, đều có tâm: Văn dưới nói: "Chánh nhân, nghĩa là chúng sinh, mà trong đây nói là tâm. Nếu dụng tâm với mục đích tránh khổ, tìm vui thì hiểu là Chánh nhân. Nếu vì hội thông đoạn văn này thì đều tự có đối đãi. Ở đây nói rằng tâm là đối nói theo chủng trí của quả địa, nói là chúng sinh ở đây nghĩa là khi đối với Phật, người tu hành mà nói. Nếu nói về địa vị chính đáng của tâm kia thì do lấy "Dụng giải" tránh khổ, tìm vui làm địa vị."
"Này người thiện nam! Rốt ráo có hai thứ" cho đến "Vì bị các kiết sử che lấp, nên chúng sinh không thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đây nói chắc chắn sẽ được Bồ-đề, rốt ráo được Bồ-đề. Nay nói là chẳng những được quả mà còn được nhân. Trang nghiêm là nhân, mà cũng là thế gian. Nhất thừa: Trí Phật là sự rốt ráo của thừa, gọi tên là thừa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lớp thứ tư, mượn nhân để so sánh với quả. Trang nghiêm rốt ráo vẫn còn ở trong nhân. Chúng sinh đã thành tựu lý nhân, đâu so sánh với tánh quả. Ở ngoài sinh tử, sẽ không cần tu đạo ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai, nói phải tu đạo, trang nghiêm rốt ráo, nghĩa là tâm kim cương. Rốt ráo rốt ráo: là quả Vô học. Thế gian rốt ráo: Lại là lúc tâm kim cương, thể do chưa khỏi khổ, vô thường nên nói là thế gian.
Xuất thế rốt ráo: Lại là quả Vô học, thể vì đã lìa khỏi ba tướng, nên nói là xuất thế.
Trang nghiêm rốt ráo: Y cứ muôn hạnh để nói.
Rốt ráo rốt ráo: Nói chúng sinh được nhất thừa quả Phật, chỉ chúng sinh có nhất thừa quả Phật này, vì bị vô minh che lấp, nên không thể thấy được chân lý. Nếu khẩn cấp như thế, thì nên tu đạo, đâu được hỏi rằng: "Không cần tu hành đạo nghiệp ư?"
"Này người thiện nam! Phật tánh" cho đến "Thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Về nghĩa Phật tánh hiện, không gì có trước Phật tánh này, nên dùng để làm tên."
"Này người thiện nam! Tam-muội Thủ lăng nghiêm" cho đến "Định Thủ lăng nghiêm, gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh quả gọi là quả tùy, vì có công năng nên đặt tên chẳng phải một. Nói theo văn, năm tên gọi này đều là Vô học."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói Thủ lăng nghiêm là mẹ của Chư Phật ba đời, chủ thể sinh ra trí Nhất thiết chủng. Nói chúng sinh cũng có, chỉ vì không tu tập, nên không được thành Vô thượng Bồ-đề. Thủ lăng nghiêm có năm tên gọi, nghĩa là theo nghĩa thành năm giai vị:
1. Dùng sự bền chắc làm tên.
2. Dùng trí tuệ để gọi.
3. Dùng năng lực bẻ dẹp để được tên gọi.
4. Dùng điều phục chúng sinh để so sánh.
5. Lấy giác sát làm ý chỉ.
Chính là một tâm Kim Cương, vì theo nghĩa khác nhau, nên có nhiều tên gọi.
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta ngự bên sông Ni-liên-thiền" cho đến "Vì chúng sinh nên nói là "Ngã".
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Danh từ Ngã vốn phát ra từ thường còn không dứt. Phật tánh không dứt, tức là vì lấy nghĩa đó để đặt tên, chứ chẳng phải thật."
"Này người thiện nam! Vì có nhân duyên, nên" cho đến "Mà nói là vô ngã, vì được tự tại."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Vì thường cho nên tự tại, là nghĩa "Ngã". Cảm ứng không có đầu mối, tự tại này sinh ra từ "Ngã" đó. Vì vốn chẳng phải "Ngã", nên còn gọi là "Vô ngã"."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước nói nhân chẳng phải tánh, mà nói là tánh. Nay nói chẳng phải "Ngã" mà nói là "Ngã". Lạc, tịnh cũng giống như vậy. Phật tánh thật sự chẳng phải "Ngã". Nghĩa là nhân không tự tại, nên chẳng phải là "Ngã". Có nhân duyên, cho đến chẳng luống dối. Hoặc bị dứt bỏ trước kia, sau, bỏ điên đảo chấp thường, đều không phải luống dối. Vì thế giới, vì dứt trừ cái "Ngã" gạo, mè của người đời."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm là chứng minh nghĩa sẽ có, bấy giờ, Phạm chí nghe nói nghĩa "Sẽ có", đều phát đạo tâm, há không được tu đạo ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Một hôm, ta ngự bên sông Ni-liên-thiền..." trở xuống là văn thứ ba, Phật khuyên chúng đương thời, hãy quên chấp pháp. Lời Phật nói không có phương hướng, nên không thể nghe một bên rồi chấp đắm. Như thuở xưa, Đức Phật vì Phạm chí nói chánh nhân Phật tánh là "Ngã", thật ra Phật tánh chẳng phải "Ngã". Chính là dùng phương tiện khéo léo ứng với căn cơ chúng sinh, làm cho chúng sinh tỏ ngộ được đạo, đâu thể nghe nói tánh của chánh nhân này là "Ngã" mà sinh ra chấp ư?"
Nếu vậy, "Ngã" mà ta nói, vì chúng sinh sẽ thành
Phật, nên nói "Có" mà không chứng đắc, bèn chấp rằng: "Chúng sinh có Phật tánh, chẳng cần tu đạo."
- Đáp câu hỏi thứ năm, nói về Bồ-tát Thập Trụ thấy không rõ ràng, Chư Phật thấy rõ ràng.
- Nói rộng về tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân.
- Nói về mười hai hạnh Đầu-đà.
- Giải thích câu hỏi của Bồ-tát Sư tử Hống, về nghĩa giới không có nhân, Niết-bàn không có quả.
- Giải thích rộng ý nghĩa nhân nặng, quả nặng.-Nói về nghĩa Niết-bàn chẳng phải nhân mà là quả-Nói về nghĩa Phật tánh không phải quả.
- Nói về nghĩa Sinh nhân, Liễu nhân.
"Bấy giờ, Đại Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật" rằng: cho đến "Tất cả chúng sinh không thể thấy được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đại ý hỏi: "Phật tánh mạnh mẽ, ví như lực sĩ Kim cương. Tự thân đã có, vì sao không thấy? Để chứng minh là không."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu câu hỏi thứ tư, để thỉnh Phật đáp cho."
"Phật dạy: Này người thiện nam! Ví như sắc pháp" cho đến "Vì năng lực Tam-muội, nên được sáng suốt rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm phu không có mắt, đối với mắt không phân biệt rõ ràng. Bậc Thánh có đạo, mầu nhiệm xa có thể thấy. Đức Phật dùng hai người thấy để chứng minh có Phật tánh. Y cứ vào lời đáp này có tám lượt, đây là lượt thứ nhất nói Phật tánh là có, vì bị phiền não che lấp, nên tuệ nhãn không mở, không thể thấy được!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, sẽ thứ lớp đáp câu hỏi thứ tư.
Trong y cứ đáp câu hỏi này có ba lần nói về nghĩa:
1. Nói trực tiếp về pháp thể, vì chướng che lấp nên không thấy.
2. Mượn mười hai nhân duyên để chứng minh rằng, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh.
3. Giáo hóa chúng sinh lìa chấp.
Nay, từ "Ví như sắc pháp trở xuống là đoạn thứ nhất, nói Phật tánh dù có nhưng bị phiền não ngăn che, nên không thấy được. Nếu phá được ba thứ "Hoặc" kiến đế tư duy vô minh trụ địa, phiền não đều hết thì sẽ thấy Phật tánh."
"Này người thiện nam! Nếu có người thấy tất cả pháp" cho đến định Thủ lăng nghiêm, gọi là rốt ráo."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đoạn thứ hai nói: Nếu như Trung đạo mà thấy, thì thấy Phật tánh. Nếu trái với Trung đạo thì không thấy, nhưng chẳng phải "Không có", đây là lý."
"Này người thiện nam! Ví như trăng mùng một, dù không thể thấy" cho đến "Cũng không được nói không có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đoạn thứ ba nói về lý Phật tánh rất sâu xa, chẳng phải là pháp mà người bình thường hiểu được, như trăng mùng một kia chẳng thể nói là không có trăng."
"Này người thiện nam! Phật tánh là mười Lực" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh tử vô thường, gọi là tất cả. Vì Tam bảo là thường, nên không gọi là "Tất cả".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đoạn thứ tư, ở trên dù nói "Sẽ có", nhưng vẫn chưa biết cái gì là Thể? Nay sẽ nói ra thể đó, chính là ngoài sinh tử. Về lý thì sâu xa, nếu muốn thấy, mà chính mình chẳng phá tan ba chướng "Hoặc" nặng nề, thì sẽ không do đâu mà thấy được Phật tánh. Ba "Hoặc" là kiến đế tư duy vô minh trụ địa."
"Này người thiện nam! Mười hai nhân duyên, tất cả chúng sinh" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vừa nội: Nghĩa là chánh kiến; vừa ngoại nghĩa là tà kiến. Đồng có, nghĩa là "Có" ở vị lai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Mười hai nhân duyên có chung, là đoạn văn thứ năm, mượn việc gần để so với cái xa. Nói đủ mười hai, nghĩa là đầu cuối làm lời nói. Nếu đã chết trong thai, thì sẽ không có mười hai, mà nói là đủ, là vì thành tựu. Vừa nội: Nghĩa là hiện tại có. Ngoại: nghĩa là vị lai chưa có tác dụng, nghĩa gọi là ngoài. Vào thai: Năm phần, bốn căn chưa đầy đủ, ý nói nhập thai, có năm ấm, vì lúc bốn căn chưa đầy đủ, lúc này chỉ có "Danh, sắc". Tập nhiễm một "Ái" gọi là "Thọ": Phải biết rằng "Ái" tức phần "Thọ" các kinh thường cho là vô ký vì năng lực cảm quả yếu. Trong, ngoài tham cầu. Vì lấy: Nghĩa là tham đắm bên trong thân và bên ngoài thân. Do tham này sinh ra bốn thủ, nên gọi là lấy. Lấy, nghĩa là lấy ở quả sau. Vì việc trong, ngoài khởi lên miệng nghiệp là "Hữu", nghĩa là nhân trước kia tham cầu, khởi ái tăng thượng, vận chuyển dụng động tác ở thân tâm, nói là "Nghiệp". Thức hiện tại được gọi "Sinh" ở vị lai, nghĩa là khác đời mà thôi. Ngoài ra đều gọi là già chết."
Chúng sinh cõi Sắc không có ba thọ: Không có khổ thọ, nên nói là không. Ba xúc: Khổ va chạm, ba thứ ái: như lạnh được lửa, bệnh ưa thuốc thang, đều là nhân duyên khổ. Ái là nói cõi trên không có. Ái như thế, chỉ có Xả, ưa sinh ái của cõi trên. Không có già, bệnh: Là có niệm niệm già, đâu có tóc bạc, mặt nhăn, cũng không có bốn đại hư hoại, chết, vì phàm phu kia là đạo hàng phục kiết sử. Về sau, lại lui sụt. Lúc sinh cõi Dục sẽ có đủ mười hai, Phật tánh cũng giống như vậy."
"Này người thiện nam! Ở núi Tuyết có thứ cỏ tên là Nhẫn nhục" cho đến "Không thể nói rằng chẳng có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Núi Tuyết dụ cho Phật, cỏ dụ cho kinh Niết-bàn. Ở trên nói chướng điên đảo, nên không thấy Phật tánh. Nay, nói cho nên bị chướng che lấp là vì không đọc kinh Niết-bàn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ sáu, ở trên dù đã nói mười lực, vô úy, nhưng quả cách con người rất xa." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ hai, chúng sinh dù đương thời có đủ và không đủ nhưng phải là đầu cuối trải qua lìa. Trong ba đời được nói là đều thành tựu có mười hai, nói Phật tánh cũng giống như vậy, sẽ có trong đương lai."
"Này người thiện nam! Phật tánh cũng là sắc" phi sắc cho đến "Chẳng phải cảnh giới mà Thanh văn, Duyên giác biết được."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ bảy, nói về Thập trụ sở dĩ không thấy Phật tánh là vì lẽ đó, vì thành lập nghĩa này, nên giả lập tướng trạng, cũng không dễ gì biết được? Cũng là sắc: Hiện thân trong sáu đường. "Chẳng phải sắc": Lý dứt bặt hình sắc. Chẳng phải sắc, "Chẳng phải phi sắc": Nghĩa là bỏ cả hai. Cũng một, là về lý thì không hai. "Chẳng phải một" nghĩa là nói ba thừa. Trong văn tự, có giải thích đủ."
"Này người thiện nam! Phật tánh chẳng phải ấm, giới, nhập" cho đến "Vô biên công đức đều được thành tựu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kinh Niết-bàn nói: "Phật tánh như vậy, không đọc tụng thì không thấy."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tám, lại mượn ví dụ để làm rõ lý chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Vì phiền não che lấp, nên chẳng phải trong. Vì "Hoặc" hết mới thấy, nên chẳng phải ngoài."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ ba là khiển trách chấp. Hễ người muốn học thì đừng bao giờ theo tiếng mà mê đắm. Nếu nghe nói sắc là Phật tánh thì không được nói chỉ có sắc là đúng mà tâm là sai. Lại, nghe nói bốn ấm là Phật tánh, cũng không được nói chỉ có tâm đúng mà sắc là sai. Chỉ có bậc Thánh nói pháp, tùy thời điểm theo nhu cầu cần thiết của chúng sinh, đâu thể chấp nhất định ư?"
"Bấy giờ, Đại Bồ-tát Sư tử Hống" cho đến "Thành tựu từng ấy pháp để được thấy rõ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Nêu câu hỏi thứ năm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi thứ năm. Bồtát Ca-diếp lại nêu câu hỏi ở trước để xin Phật giải đáp." "Này người thiện nam! Bồ-tát thành tựu đầy đủ mười pháp" cho đến "Dùng Đại Niết-bàn để giáo hóa chúng sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Nay, nói thành tựu mười pháp, thảy đều là hạnh, chỉ vì chưa đầy đủ, nên không thấy mà thôi. Có năm lớp giải thích, đây là lớp thứ nhất, nói mười pháp cạn sâu là khác."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là, nêu câu hỏi thứ năm, để xin Phật giải đáp. Phật dạy: "Bồ-tát chính là thực hành mười pháp này, vì chưa đầy đủ, nên thấy không rõ ràng. Phật được mười pháp này, vì đã đầy đủ, nên thấy Phật tánh rõ ràng. Đã hỏi pháp trừ chướng, nên sau đây Phật sẽ có năm lượt giải thích rộng về mười pháp này, lại không có nghĩa nào khác."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Dù thấy Phật tánh, nhưng không rõ ràng." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mười pháp; tám pháp trước cũng là tám điều giác ngộ của bậc đại nhân.
Hai pháp sau: Một là khen ngợi giải thoát; hai là dùng Niết-bàn để giáo hóa là khác mà thành mười, có năm lượt, đây là lượt thứ nhất."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Người xuất gia" cho đến "Dù thấy Phật tánh nhưng không rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ hai, nói về niềm vui của người xuất gia, bởi người xuất gia ở trong rừng núi, lìa tục, việc xao lãng đều xa lìa, chỉ có chánh thể, những thứ khác đều không phải. Niềm vui vắng lặng: được thiền định, niềm vui vắng lặng hẳn, là được vô lậu. Niềm vui rốt ráo: Là được hai Niết-bàn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ hai, y cứ riêng vào môn quán để nói về mười pháp."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Dù thấy Phật tánh nhưng không rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ ba, tùy theo thiên hạnh, đây gọi là chánh định, do đây mới biết bốn thiền là thiên hạnh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ ba, y cứ vào Tỳ-kheo tu hành kinh này để nói về mười pháp."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Nói về ít muốn" cho đến "Dù thấy Phật tánh nhưng chưa rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ tư, là dùng mười hai Đầu-đà làm hạnh ít muốn, chuyển biến trừ diệt."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư là lìa thôn xóm, để nói về mười pháp."
"Này người thiện nam! Vì nặng về dục nên" cho đến "Dù thấy Phật tánh, nhưng chưa rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là lượt thứ năm. Năm thứ: Là giải thoát năm dục lạc."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ năm, y cứ vào hiện tướng để nói về mười pháp."
"Này người thiện nam! Như ông vừa nói, Bồ-tát Thập trụ" cho đến "Thấy Phật tánh được rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Nêu câu hỏi thứ sáu. Nay nói: "Nhờ Phật nhãn nên thấy rõ ràng. Bồtát vì dùng tuệ nhãn, nên chưa thấy rõ ràng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Như ông vừa nói: "Bồ-tát Thập trụ dùng mắt nào để thấy mà chưa rõ ràng. Dưới đây sẽ đáp theo thứ lớp câu hỏi thứ sáu. Phật nói Bồ-tát chỉ có bốn thứ nhãn. Vì dùng tuệ nhãn để thấy, nên chưa rõ ràng.
Đức Phật có đủ năm nhãn, soi rõ cùng tận cội nguồn, nên thấy Phật tánh rõ ràng. Dưới đây sẽ giải thích lại có số. Bồ-tát Thập trụ vì Bồ-đề mà làm các công hạnh, nên thấy Phật tánh chưa rõ ràng. Bồ-tát Thập trụ chỉ tự biết được thành Phật, không biết người khác có Phật tánh, cũng là lời không liễu nghĩa. Phiền não vốn che lấp trí tuệ. Bồ-tát Thập trụ dứt hoặc sắp hết, đâu chấp nhận chỉ tự biết được thành Phật mà không biết người khác có Phật tánh. "Hoặc" của người khác cũng không thể che lấp trí của ta, điều đó không hợp lý. Nay, cho nên có lời nói này là vì giải thích về sự khó dễ, nói do người thành Phật được gọi là dễ biết, người chưa thành đạo, sự tích sâu kín khó biết, cho nên có thuyết này."
"Này người thiện nam! Vì tuệ nhãn thấy, nên chưa được sáng rõ" cho đến "Tâm không sinh niềm tin, thì không gọi là, thấy nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gọi là câu hỏi thứ sáu: "Đức Phật dùng mắt nào để thấy? Đầu tiên, được gọi là tuệ đầy đủ, Phật là Bồ-đề. Người tu hành hướng về trước gọi là hành. Người trụ trong Thập trụ: Đáng lẽ đi mà không đi, gọi là đứng. Đứng mà không đứng, là không đáng đi mà đứng chẳng phải đứng. Lại nói: "Không đi, không đứng." Vì Thập trụ ở cảnh sinh diệt, nên có đi, đứng. Đức Phật không sinh, không diệt, nên không đi, không đứng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y theo phần đáp có bốn lượt:
1. Nói Phật và Bồ-tát thấy Phật tánh có rõ và không rõ.
2. Nói cho đến Thập địa còn chưa thấy rõ ràng, huống chi là người khác?
Chí cực dù là diệu tuyệt, chẳng phải thường tình mà quan sát, nếu y theo dấu vết để tìm gốc thì sẽ biết được.
3. Tu giới, định làm nhân, tức là lý ấy.
4. Kiết lý thấy nghe, để hiểu rõ tông chỉ trước, đây là lượt thứ nhất.
"Này người thiện nam! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào" cho đến "Phải quán thế nào để biết được?"
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có sáu thứ hỏi đáp, đây là môn quán thứ hai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây là lượt thứ hai." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là lượt thứ hai của đoạn lớn Sư Tử Hống. Sáu câu hỏi, sáu lời đáp ở trên, đã quyết định tánh nhân quả, giúp cho chúng sinh nhận thức được nhân quả, tu đức, tập nghiệp. Nếu thích ứng với lý sâu kín này, mà vẫn chưa lãnh ngộ, lòng tin chưa lập, thì hãy khuyên bảo họ y cứ vào ứng thân Phật, nương theo nhân quả của mười hai bộ kinh giáo, y theo sự để sinh niềm tin. Gồm mở ra năm môn, dưới đây là quả của quán thứ nhất."
"Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh thật sự không thể biết" cho đến "Một là mắt thấy, hai là nghe thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước quán tánh quả, là quán thô."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đức Phật dù khuyên quán, nhưng vì tâm chúng sinh không hiểu, nên Bồ-tát Sư tử Hống mới hỏi, để nói lên tất cả chúng sinh thật không thể suy lường mà biết được tướng tâm của Như Lai, phải làm thế nào để biết được? Phật đáp: "Phải dựa vào hai pháp:
1. Mắt thấy thân nghiệp Như Lai.
2. Nghe giáo pháp mà Phật đã nói.
Chỉ y theo hai việc này, sẽ biết được tướng tâm của Như Lai. Nếu thấy thân nghiệp của Như Lai có ba mươi hai tướng, vận động ở đời, làm vì chúng sinh hay làm vì lợi dưỡng? Nếu thấy nói pháp hoàn toàn chúng sanh, không tự vì mình, biết được người này đáng tôn trọng, thì chắc chắn chẳng phải là quả báo do sinh tử gây ra. Nếu không có diệu cực này đến ứng, thì làm sao chúng sinh được thân này ở đời để cứu khổ, tất nhiên là đáng tin. Quả đã như vậy, thì phải có nhân nhiệm mầu. Đó là lý do Đức Phật khuyên con người nương vào mười hai bộ kinh, y cứ vào ứng thân Phật, quán dụng tâm của Như Lai, sẽ được tin biết về tánh của nhân quả, chỉ vì văn có mười phần, về ý nghĩa của việc rất rõ ràng."
"Nếu thấy Như Lai có thân nghiệp" cho đến "Vì ai mà thọ thân?
Đó gọi là mắt thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thế nào là thọ thân? Có hai thứ: Tự tại và không tự tại, biết Như Lai tự tại, vì sao lại thọ thân? Biết Như Lai vì chúng sinh cho nên thọ, vì ai mà thọ thân? Vì trong đó có bình đẳng, không bình đẳng, nói Như Lai bình đẳng với chúng sinh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Làm thế nào mà thọ thân này? Là biết được đạo cảm ứng, mà không biết được lý do vì sao như vậy? Nghĩa là do tâm đại bi, cho nên thọ thân."
"Nếu quán Như Lai nói pháp như thế nào?" cho đến "Nên phải dựa vào hai nhân duyên này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không phá phiền não, nghĩa là chân đế, chẳng phải không phá, nghĩa là thế đế. Trong chân tục, chẳng phải phá, chẳng phải không phá là chân đế, cũng là tục đế. Vì sao? Vì chẳng phải đều phá được. Năm người có thể phá nên chẳng phải không phá. Sau đây, đều nói là chân, tục, Trung đạo, không tự nói là thầy, cũng có thể là Trung đạo tục đế.
Hai thứ đầu làm sao biết? Nghĩa là môn quán thứ hai, quán "Duyên" nhân. Nhân thành tựu, gọi là mắt thấy. Cũng là nhân nghe thấy không thành tựu, nên dù biết được Phật, nhưng không gọi là mắt thấy, cũng chẳng phải nghe thấy.
Hai thứ: Ngoài tế trong thô và trong tế ngoài thô, thiện ác khó biết."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Chỉ dựa vào hai nhân duyên này, thì không thể biết được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ ba là nhân duyên. Nhân thành tựu gọi là mắt thấy, cũng là nghe thấy. Nhân không thành tựu, nghĩa là dù biết Phật không gọi là mắt thấy, cũng chẳng phải nghe thấy. Hai thứ: Ngoài tế trong thô và trong tế ngoài thô, thiện ác khó biết."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn văn thứ hai y theo công việc mà đệ tử Phật đã thực hành mà quán sát nhân: Đức Phật chỉ cho quả cùng cực, không có nhân để quán sát. Nếu không nêu việc làm của đệ tử thì sẽ không thể lấy gì để xét. Nếu quả Phật không chân thì đâu được tin ở lời Phật nói, nghĩa là vì đều được kiến giải chân thật, nên biết được lý ấy tất nhiên đáng tin.
Nay, Bồ-tát Sư Tử Hống, trước là nêu quả Am-la ở trên dụ cho bốn hạng người để xem xét: Nếu người trong, ngoài đều thành thục, trong ngoài đều sinh, thì điều này cũng dễ phân biệt. Còn ngoài chín, trong sống, ngoài sống, trong chín, thành thục, hai hạng người này làm sao biết được? "Phật nói: "Vấn đề này thật khó biết." Dù nói là khó biết, nhưng nếu dùng bốn pháp để xét, thì sẽ biết được chân thật. Nếu nói về bốn pháp này, thì chính là trí tuệ cộng trụ (ở chung), chia cộng trụ thành hai. Vì trí tuệ là hai, nên thành bốn câu. Nếu dùng bốn pháp này, thì sẽ biết được trì giới, phá giới."
Phật bảo: "Này người thiện nam! Tốt đẹp thay!" cho đến "Mới biết là trì giới, phá giới."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Bốn người thường gần còn không biết được, huống chi Như Lai, mà suy lường được hay sao?
"Này người thiện nam! Giới có hai thứ, người trì giới cũng có hai" cho đến "Vì lợi dưỡng hay trì rốt ráo?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do nhân duyên, nên thọ trì giới cấm: hoặc vì độ mình, hoặc vì trời, người. Nếu không vì rốt ráo thì chẳng phải trì giới rốt ráo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là lượt thứ ba, phải tu giới rốt ráo, mới thấy được."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là dùng rốt ráo, không rốt ráo này để chứng minh rằng giới thành tựu hay không thành tựu. Nếu là người trì giới rốt ráo, thì gọi là mắt thấy nghe thấy, nếu không rốt ráo trì giới trì cũng không gọi là mắt thấy, nghe thấy. Tự tín đứng đầu năm căn, lập do người trên, đều thuộc về số rốt ráo trì giới. Nếu từ một giới về sau, cuối cùng, vào nội phàm phu, nối nhau không xả bỏ, cho đến thành Phật, cũng gọi là giới rốt ráo."
"Này người thiện nam! Giới của Như Lai không có nhân duyên" cho đến "Trì giới rốt ráo, trì giới rốt ráo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh không phải ác, tự nhiên được giới, là giới rốt ráo. Người không sinh sân, si, cũng là tánh không phải ác."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta cùng Xá-lợiphất" cho đến "Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xuất xứ chứng minh trong nhân không có điều ác, quả có năng lực này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chứng minh Như Lai trì giới tốt đẹp hơn hết."
"Có hai hạng: Một là vì lợi dưỡng" cho đến "Kể cả người trì giới của Như Lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích lại, người vì chánh pháp là rốt ráo."
"Có hai hạng: Tánh tự năng trì" cho đến "Và Như Lai cũng gọi là nghe thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tức là không có giới nhân duyên.
Tu tập nhiều đời, tâm ác dứt hẳn, điều lành thành tánh (bản chất).
Lại "Có hai hạng: Một là giới Thanh văn" cho đến "Có thể thấy Phật tánh, Như Lai, Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thanh văn nhàm chán sinh tử, thực hành trái với Niết-bàn, chẳng thấy được pháp."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Vì sao? Vì pháp tánh như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích nghĩa rốt ráo. Cũng nói từ giới sinh pháp, cuối cùng, đến Niết-bàn, đều là nghĩa nhân duyên. Nói là tìm nhân, có mười một lớp tướng để giải thích."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Làm sao được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói trì giới" cho đến tướng nhân, quả của Niết-bàn là nương sinh nhân, liễu nhân, nhưng vẫn chưa nói Niết-bàn từ nhân nào mà có, nên mới thưa hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ý câu hỏi là muốn vì giới tắc vô nhân cho nên thường, vì Niết-bàn có nhân nên vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giới trước đây đã vô nhân, lẽ ra là thường, Niết-bàn lấy giải thoát làm nhân, tức lẽ ra vô thường?"
"Phật nói: Lành thay! Này người thiện nam!" cho đến "Hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ giải thích cho ông hiểu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắp đáp câu hỏi, trước, Đức Phật nêu việc trong dĩ vãng, để chứng minh được lý mà diệt mất."
"Giới cũng có nhân, nhân nghe chánh pháp" cho đến "Một là nghe pháp; hai là suy nghĩ nghĩa.
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giới là hữu vi, từ nghe pháp mà sinh, là "sinh nhân"."
"Này người thiện nam! Lòng tin" cho đến "Vừa là nhân, vừa là nhân nhân, vừa là quả vừa là quả quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cũng là nhân: Nghe pháp là nhân của lòng tin. Nhân nhân: Lòng tin lại là nhân của nghe pháp. Nay, làm nhân cho nhân, gọi là nhân nhân.
Cũng là quả: Lòng tin là quả của nghe pháp, cũng là quả quả: Nghe pháp là quả của lòng tin, cùng quả được sinh lẫn nhau, vì đều là nhân, là quả, nên gọi là hữu vi."
Này người thiện nam! "Ví như Ni-kiền Tử dựng ba cây tréo để chiếc bình tròn lên, làm nhân quả lẫn nhau, không lìa nhau được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lòng tin và nghe pháp làm nhân quả lẫn nhau, không được lìa nhau. Chỉ y cứ vào hai thứ nhân quả này để làm nhân nhân, quả quả."
"Này người thiện nam! Như vô minh "Duyên" hành" cho đến "Vừa là nhân, vừa là nhân nhân, vừa là quả vừa là quả quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mượn vô minh, hành này để nói lên nghĩa làm nhân quả lẫn nhau: Vô minh là nhân, hành làm quả. Từ sau "hành" "Hữu" lại khởi phiền não nhẹ, gọi là vô minh, tức là nói nhẹ nặng, trước sau sinh khởi lẫn nhau, làm nhân quả lẫn nhau, được nghĩa nhân nặng, quả nặng."
"Này người thiện nam! Pháp sinh có công năng sinh ra pháp" cho đến "sinh sinh không tự sinh, lại nhờ sinh nên sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mượn nghĩa của các nhà Tỳ-đàm, nhờ nói về ý nghĩa sâu xa của nhân nặng, quả nặng. Tiểu sinh chỉ sinh một pháp, đại sinh mới sinh ra tám pháp. Đây là đại sinh của tiểu sinh, làm nhân quả lẫn nhau, cũng có nghĩa nhân nặng, quả nặng, không thể tự sinh, nghĩa là đại sinh có ba thể, không thể tự sinh.
Do sinh sinh ra sinh: Do tiểu sinh cho đến sinh ra thể nhân quả kia. Sinh sinh không tự sinh: sinh ra sinh của đại sinh không tự sinh, cũng nhờ đại sinh nên sinh."
"Cho nên hai sinh vừa là nhân vừa là nhân nhân" cho đến "Lòng tin nghe pháp cũng giống như vậy."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu một việc có hai nghĩa, cho là giải thích giống nhau."
"Này người thiện nam! Là quả chẳng phải nhân" cho đến "Gọi là quả phiền não: gọi là quả quả.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Ở trên nói giới, v.v... là nhân là quả, thể chúng là hữu vi. Giờ đây nói Niết-bàn là quả, không phải nhân, chẳng phải hữu vi, nên không từ nhân mà có. Vì quả trên, nghĩa là người mong cầu không có khổ, do không có khổ là trên. Vì quả Sa-môn: Dứt sinh tử, lỗi lầm trong lỗi lầm: đều nói là pháp khổ. Phiền não là lỗi lầm. Lại, vì sinh ra khổ, cho nên là lỗi lầm trong lỗi lầm."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Trước kia đã đáp hai pháp: Giới, tín, làm nhân quả lẫn nhau, cho nên là vô thường. Nay, nói Niết-bàn là quả của "liễu nhân", cho nên thường. Là quả trên, là giải thích lý do vượt hơn này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã phán quyết giới cũng có nhân, nên biết giới chẳng phải thường, không nhất định tức là phần vị. Niết-bàn chỉ được gọi là quả, vì không còn làm nhân cho người khác nữa, nên là quả, chẳng phải nhân."
"Này người thiện nam! Niết-bàn không có nhân mà thể của nó là quả" cho đến "Vì không có nhân, nên gọi là Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp hữu vi vì là nhân, là quả, nên khổ. Niết-bàn vì là quả, không có nhân, nên chẳng phải khổ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Không có sinh nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thể là quả, là quả của liễu nhân."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Như lời Phật đã nói" cho đến "Có lúc không có nhân nên gọi là Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý câu hỏi: Vì không dùng bất thiện làm nhân, nên nói "Không có", chứ chẳng phải tất cả là "Không". Cho nên ý cứ hữu, vô trong sáu thứ vô.
"Phật nói: "Này người thiện nam! Nay ông đã nói" cho đến "Vì lẽ gì gọi là nhân? Vì là liễu nhân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một việc có hai nghĩa đã nêu kia đều là tướng chung hữu vi, hình đối lập với chân ngã Niết-bàn, không thể so sánh với vô ngã. Do nghĩa này nên, là nhân: Tức hai nhân trên, là quả, tức là hai quả trên. Niết-bàn là quả chứ chẳng phải nhân. Phật tánh là nhân, chẳng phải quả. Nếu Niết-bàn chỉ là quả mà chẳng phải khổ, thì Phật tánh cũng chỉ là nhân chẳng lẽ là khổ. Chẳng phải quả Sa-môn, nghĩa là chẳng phải hai quả kia, chẳng phải không là quả khác, là khổ. Là liễu nhân: Chẳng phải hai nhân kia, nói liễu nhân là liễu nhân, chứ chẳng phải sinh nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nên biết thể của Niết-bàn rốt ráo vô nhân, như vô ngã, vô ngã sở. Dù dẫn câu đầu để đáp, câu sau, liền quở trách. Nói Niết-bàn không đồng với pháp thế tục, cho nên thường.
Nhân này chẳng phải quả: Lại y cứ vào Phật tánh của chánh nhân. Chánh nhân chỉ trụ ở nhân vị, không được gọi là quả. Vì chẳng phải nhân sanh, nên chánh nhân là Phật tánh. Đã không phải được sinh ra bởi nhân thiện, ác, chỉ một công dụng không dời đổi, cho đến thành Phật không đổi dời. Vì đến địa vị Phật không lay động, nên chẳng phải pháp do nhân sinh. Thể đã chẳng phải do nhân sinh ra, cũng chẳng phải là quả của nhà dứt tâm.
Vì liễu nhân: không phải chỉ duyên nhân là liễu nhân, mà chánh nhân cũng là liễu nhân. Vì sao? Vì nếu chúng sinh không có tâm chán khổ, tìm vui thì một niệm lành cũng không thể thực hành. Do có kiến giải này, nên được quả thành thục. Do đó, chánh nhân cũng xa tạo nên liễu nhân thành Phật."
"Này người thiện nam! Nhân có hai thứ" cho đến "Đất, nước, phân... đó gọi là liễu nhân."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Đều là pháp tạo tác, cũng so sánh với nhau mà nói thôi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói chung tất cả nghĩa "Duyên" nhân và chánh nhân, chỉ làm cho sức quả mạnh mẽ, tức là sinh nhân, còn yếu thì thuộc về liễu nhân."
"Lại có sinh nhân, chính là sáu Ba-la-mật Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Đạo Sinh nói: "Sau đây là nói đều chẳng phải pháp tạo tác, nhưng về nghĩa sinh, liễu thì rõ ràng ở đây, do sáu độ mà thành Bồ-đề, nên nói là sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sáu độ vì lấy sức mạnh của nghĩa Bồ-đề, nên gọi là nhân sinh."
"Lại có liễu nhân, gọi là Phật tánh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Liễu nhân này có ba thứ đối nhau. Nói chung chỉ là liễu nhân, vì phân tích nghĩa quả mạnh mẽ làm nhân cho sinh. Sinh có thể làm cho vô thành "Có". Liễu, nghĩa là cái "Đã có". Cứ nói theo văn, nhỏ không có gì nhỏ hơn, suy ra nghĩa thì lớp thứ ba lẽ ra ở lớp thứ hai. Lớp thứ nhất lấy trụ ở sáu độ trước, đối lại với Phật tánh. Phật tánh dù là chánh nhân, nhưng nếu nói về thế lực của quả thì chẳng phải các độ như đàn độ v.v..., tất nhiên sẽ không có đắc quả. Đối với liễu là mạnh, nghĩa nói là sinh."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật tánh chánh nhân vì lấy công sức của quả không bằng, cho nên chỉ được làm liễu nhân."
"Lại có liễu nhân, chính là sáu Ba-la-mật Phật tánh." Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Liễu nhân này được lấy từ Cửu địa trở xuống, về nghĩa quả thì yếu là liễu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sáu độ trong nhân cách quả Phật xa, nên chỉ được làm liễu nhân cho Vô thượng Bồ-đề."
"Lại, có sinh nhân nói là Thủ lăng nghiêm Tam-muội Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Nói là Thập trụ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Do sức mạnh của tâm Kim cương, sinh ra quả Phật rất nhanh chóng, nên nói là sinh nhân."
"Lại có liễu nhân, là nói tám Chánh đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Tám chánh là hạnh nghiêng lệch, do nghĩa yếu kém, nên làm liễu nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hạnh Nhị thừa xa, chỉ được làm liễu nhân."
"Lại có sinh nhân, cái gọi là lòng tin sáu pháp Ba-lamật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xưa không nay có là sinh, vốn có nay thấy là liễu. Như vô thường chấp thường là sinh, vô thường thấy vô thường là liễu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sinh nhân này được lấy từ đăng trụ đến ba trụ. Vì mạnh hơn so với nghĩa của tám chánh, nên gọi là sinh. Sở dĩ được biết ba trụ là vì trụ tín nhẫn địa, nay nói là tín tâm sáu độ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì hạnh Đại thừa gần, nên gọi là sinh." "Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như lời
Phật đã nói" cho đến "Làm sao thấy được Phật tánh cũng giống như vậy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn quán thứ ba, quán chung nhân quả, nói về thấy, nghe cũng khác, vì liễu là thấy, không liễu là nghe."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba là hợp quán nhân quả. Bồ-tát Sư tử Hống nêu "Trăm phi" để nói làm sao để thấy được Như Lai?"
"Phật nói: "Này người Thiện nam! Thân Phật có hai thứ" cho đến "Nên gọi chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phương tiện thị hiện, đó gọi là Kiến: Do thị hiện nên sắc, thanh đều gọi là thấy. Thân giải thoát cũng gọi là nghe thấy, ngoài ra đều như vậy."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư, nhận lãnh lý của tông chỉ trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đức Phật lại y cứ vào hai việc nghe, thấy để khuyến tin. Một là thường, là pháp thân. Vô thường là ứng thân. Người thấy được là Phật và Bồ-tát Thập trụ. Người không thấy được Phật tánh, đó là tất cả chúng sinh. Thập trụ và Phật có thể được gọi là mắt thấy. Cửu trụ trở xuống, hoàn toàn tin có Phật tánh, nên thuộc về thấy, nghe. Phật thấy Phật tánh rõ ràng, nên nói là như sắc. Thập trụ trở xuống, vì thấy Phật tánh chưa rõ ràng, nên nói là chẳng phải sắc."
- Nói về nghĩa nhân quả chẳng phải có, chẳng phải không.
- Nói rộng về nghĩa chánh nhân, duyên nhân.
- Nói rộng về nghĩa Liễu nhân, Duyên nhân.
- Bồ-tát Sư tử Hống lại bảy lần nêu câu hỏi để trách cứ cho rằng không có Phật tánh.
- Thứ nhất cho là người không có tánh, người có thể làm trời, trời có thể làm người, nên biết là vô tánh.
- Thứ hai, nói về xiển đề dứt gốc lành, nên biết không có Phật tánh.
- Thứ ba, vì có người mới phát tâm, nên biết không có Phật tánh.
- Thứ tư, vì lui sụt, nên biết không có Phật tánh.
- Thứ năm, chứng minh muôn điều lành là tánh, lìa điều lành thì vô tánh.
- Thứ sáu, vì nhân có mạnh yếu, cho nên biết không có tánh.
- Thứ bảy, Vì tâm Bồ-đề xưa không mà nay có, nên biết không có Phật tánh.
Sau đây là đáp rộng bảy câu hỏi, nói rộng về tướng lui sụt và không lui sụt.
- Nói về tu Ba mươi hai tướng v.v....
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Nói là Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn quán Thứ tư, quán "Ở trong nhân chẳng phải có", "Chẳng phải không", ý câu hỏi rằng: "Nếu như trong sữa có lạc, hạt châu trên trán người lực sĩ, chính là đã có trong nhân, làm sao chẳng phải có, chẳng phải không ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Phần hai của đoạn lớn. Ở trên đáp sáu câu hỏi, nói về lý của Phật tánh, nghĩa ấy không nghiêng lệch.
Nay, Bồ-tát Sư tử Hống muốn thành lập ý chỉ của Trung đạo ở trước, giả đặt ra câu hỏi là "Nhất định có, nhất định không". Như Lai giải thích: "Không thể hoàn toàn nhất định "Có", cũng không thể hoàn toàn "Nhất định không", nên là nghĩa Trung đạo."
Năm chấp đầu là chấp hữu, bảy câu chấp sau là chấp vô. Phật tánh không ở trong: Tức thời chưa có. Chẳng phải ngoài: Không lìa nhân mà có quả. Trong sữa có lạc, lực sĩ, kim cương suy luận, tìm tòi lý thuyết, khắc ghi việc chung cuộc để nghiệm biết việc mới bắt đầu, đều là những việc "Đã có"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ tư là quán trong nhân không có quả. Nay trước mở ra môn chương, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, với trong nhân không có quả, tạo ra môn chương. Nhưng chẳng phải mất, hoại, chính là xa lập tánh, tạo ra môn chương trong nhân thứ năm dưới đây:
Trong là Chánh nhân. Ngoài là "Duyên" nhân, nói có thần thức: Đều có sự hiểu biết về tránh khổ, tìm vui. Tác dụng đầu cuối không thay đổi, nên nói là trong. Khéo "Duyên" nhân, nương tựa duyên ngoài mà sinh. vì có lúc "Có", có lúc "Không", nên gọi là ngoài. Nói trong hai nhân này đều không có quả, nên nói là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Trong nhân dù không có quả, nhưng chẳng phải không có "Duyên" nhân và chánh nhân. Hai nhân này ở vị lai, chắc chắn sẽ được thành quả Phật.
Đã nói trong nhân này không có quả, nên Bồ-tát Sư Tử Hống dùng lối chấp sai lầm của người bên ngoài cho rằng: "Trong nhân đã có quả, như cho trong sữa có lạc nếu trong sữa quả thật có lạc thì, phải biết trong thân chúng sinh đã có Phật, Nay sao lại nói rằng Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?
Ngoại đạo chấp sinh nhân, sinh quả, nên trong nhân có quả. Còn ở bên trong, nghĩa sở dĩ không mất, là vì không nói trong sữa đã có lạc. Chỉ có nhân, nên nói là "Có". Nói về Phật tánh của chúng sinh cũng vậy. Chẳng phải ngay trong thân đã "Có", vì trí Nhất thiết chủng cũng có nhân, nên nói là có Phật tánh của chúng sinh. Nếu không có chất thiên nhiên này làm chủ cho thần giải thì cuối cùng sẽ không có tu nhân, dứt mê muội, cầu hiểu biết. Chính vì đạo của thần minh khác với gỗ, đá. Vì được trang sức bằng ngọc đá, nên tập cởi áo cổ không thật, dứt hết phiền não sinh tử buộc ràng, có muôn công phu hiện ở trước, gieo trồng thành Trí nhất thiết, đâu nên nói chúng sinh có pháp tánh này làm thể, khiến cho có quả ngay, như ngoại đạo chấp sinh nhân, sinh quả? Vì đại ý kia là như vậy, nên sau đây nói rằng: "Hễ tạo ra năm chấp, tìm xét kỹ thì chẳng những năm chấp, mà chủ yếu là y cứ việc khác, tức trở thành năm phần, phần thứ nhất này là chấp trực tiếp trong nhân có quả. Vì sao? Vì pháp sinh của chúng sinh đều có thời gian, chỉ nói thời gian có khác, vì chẳng phải trong nhân đều "Không", nên biết trong sữa có lạc."
"Phật bảo: "Này người thiện nam! Ta cũng không nói" cho đến "Vì lạc sinh ra từ sữa, nên nói có lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở đây ý đáp về nghĩa: "Chẳng phải không có từ đâu "Sinh", nên nói là "Có"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Không nói trong sữa "Đã có" lạc, vì quả từ sinh, nên nói là "Có".
"Bạch Đức Thế tôn! Tất cả pháp sinh đều có thời gian."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu vì từ sinh mà có, thì bơ cũng từ sữa sinh, sao không kế sữa là có bơ ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ý câu hỏi là: "Sữa, lạc lúc đầu chưa có chung nhưng lúc sản xuất thì có trước, sau."
"Này người thiện nam! Lúc có sữa thì không có lạc, cũng không có bơ sống" cho đến "Cho nên ta nói trong sữa không có lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh trong sữa có lạc, cũng có năm vị: Một là dùng sự để chứng minh; hai là dùng hiểu biết để chứng minh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây, sẽ y cứ vào lý để giải thích." "Như trong sữa đồng thời có chất lạc, vì sao không được" cho đến
"Cho đến đề hồ cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu ngay khi có sữa mà có cả lạc thì lẽ ra phải có hai công năng, tức là có hai tên gọi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Một phen đả phá lối chấp của ngoại đạo kia: Nếu trong sữa có lạc thì người đời không nên chỉ gọi là sữa, mà lẽ ra trước đó đã có hai tên gọi."
"Này người thiện nam! Vì có hai thứ" cho đến "Nên nói trong sữa có tánh lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân dù không có quả, mà năng lực thì có gần, xa. Xa thì gọi là "Duyên" nhân, còn gần thì gọi chánh nhân, đây là đáp thứ lớp của "sinh hữu"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói lạc ở trong sữa, vì là chánh nhân, nên nói là "Có", chứ chẳng phải "Đã có"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phá chấp đã xong. Trở lại gốc của chính nghĩa: "Sữa là chánh nhân, hơi ấm là duyên nhân mà có ra lạc."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Nếu trong sữa không có lạc" cho đến "Vì sao lạc không có ra từ sừng bò?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu "Không có" mà sinh được, thì sừng bò không có lạc, sao chỉ từ sữa sinh lạc mà không từ sừng bò sinh lạc?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đồng là không có lạc thì sừng bò lẽ ra cũng có, mà sừng bò không sinh, chỉ ở sữa mới sinh, nên nói là biết được trước đó đã có."
"Này người thiện nam! Sừng bò cũng sinh ra lạc" cho đến "Vì lẽ đó, nên ta nói có chánh nhân và duyên nhân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Rõ ràng nghĩa "Duyên nhân" cũng sinh ra lạc, chứng tỏ rằng "Không có" mà sinh được."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì người muốn tìm lạc, thì phải dùng sữa, nên biết được sữa là chánh nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Mặc dù giải thích để làm sáng tỏ, nhưng về lý, thì chẳng phải chính đáp."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu trong sữa" cho đến "Vì sao không sinh, cả hai đều vô."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì muốn chứng minh nghĩa có "duyên nhân", nên Bồ-tát lại hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đổi lại thí dụ, về nghĩa đồng với cách giải thích ở trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cả hai tánh đều là vô, mà vì một sinh, một không sinh, cho nên biết trước đó chắc chắn "Có", rõ ràng."
"Này người thiện nam! Sữa cũng có thể sinh ra cây Am-ma-la" cho đến "Trong sữa không sinh ra cây Amma-la."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng nước tưới thì cây Am-ma-la mọc, nếu dùng sữa tưới thì nó lớn rất nhanh chóng, chứng tỏ do năng lực của "Duyên nhân" là "Không" mà có thể sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dùng hai việc để phá chấp của ngoại đạo kia. Trong lượt trước, mặc dù nói sữa cũng có thể sinh ra cây, lượt sau nêu tánh chất của bốn đại, vàng ngọc là có gốc, không thể đồng với biện luận lạc và cây, vì tự chúng đều có chánh nhân."
"Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói có hai thứ nhân" cho đến "Duyên nhân" đó là sáu pháp Ba-la-mật." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Loài hàm thức chán khổ, tìm vui là tánh thường. Dù trời, người khác nhau, nhưng tánh này không khác.
"Hoặc" lẫn lộn, gọi là chánh nhân, dứt trừ "Hoặc", gọi là "Duyên" nhân. "Không có" "Hoặc" để dứt bỏ, được gọi là Phật."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nay tôi chắc chắn định biết rằng" cho đến "Do đây nên biết trong sữa có tánh lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại dùng sự hiểu biết của người làm chứng, để giải thích rộng việc kia."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là chấp thứ hai. Người tìm lạc, lấy sữa, không lấy nước, vì họ biết trong sữa, chắc chắn trước đó đã có lạc."
"Này người thiện nam! Như điều ông hỏi nghĩa ấy không đúng" cho đến "Mà thấy lớn là nghĩa không đúng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do biết lấy con dao, đều là câu hỏi chung. Dù cây dao để soi mặt, nhưng dao vốn không có mặt, đâu do dùng sữa để làm lạc, mà nói là sữa đã có lạc ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong đây có bốn lớp câu hỏi:
1. Nhãn quang đến chỗ cảnh mới thấy, thì lửa lẽ ra đốt mắt.
2. Nếu đến cảnh mà thấy, thì không nên sinh nghi.
3. Nhãn quang là sắc, nước cũng là sắc, cả hai đều là chất ngại, chỉ thấy được nước, làm sao thấy được cá, đá trong nước?
4. Ngăn ngừa chướng nạn. Nếu nói không đến, mà thấy thì vì sao không thấy vật thể ở bên ngoài vách ư?"
"Này người thiện nam! Như ông đã nói trong sữa có lạc" cho đến "Lúc chưa ăn, lẽ ra thức ăn này là mạng sống?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu việc rộng để chứng minh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nêu việc gần để so với lý xa, nhằm trong sữa, trước không có lạc."
"Này người thiện nam! Tất cả các pháp" cho đến "Ba đời có pháp, thì không có việc đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu bài kệ để kết thúc giải thích."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại nêu nghĩa chánh để nói về chánh lý."
"Này người thiện nam! Tất cả các pháp do nhân duyên nên sinh" cho đến "Lẽ ra có thân Phật như ta ngày nay."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu "Đã có" Phật tánh, thì lẽ ra đã có dụng của tướng tốt đẹp của quả Phật như ta ngày nay."
"Phật tánh của chúng sinh không hư, không hoại" cho đến "Thấy được phần ít, như hạt ngọc Kim cương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói Phật tánh là thường. Chúng sinh dùng Phật tánh này, như hư không trong nhân, mà được lớn lên, là dụng của hư không, hư không chẳng phải ba đời, do chúng sinh có cõi hư không, nên có dụng của hư không. Phật tánh cũng chẳng phải ba đời, mà là chúng sinh có, do "Giải" và "Hoặc" chướng ngại nhau. Vì chướng ngại nhau, nên "Hoặc" diệt, "Hoặc" diệt chính là dụng, nên nói là "Chưa có"."
"Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh là cảnh giới của Chư Phật" cho đến "Giải thoát, sinh tử được Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh chúng sinh có Phật tánh mà không thể biết."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Vì hư không chẳng có tánh, nên chẳng có "Duyên" nhân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên, là phá chánh nhân, dưới đây là phá "Duyên nhân". Vì sắp phá, nên trước lập chánh nhân cần có nghĩa "Duyên nhân". Vì hư không "Chẳng có" quả, cho nên không cần."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ ba, chứng minh "Có". Vì nhất định "Có", nên phải có "Duyên nhân" để làm "Liễu nhân"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì có chánh nhân, nên phải có "Duyên nhân". Vì hư không "Chẳng có" nên không có hai nhân này, do đó nên biết là "Có".
"Phật nói: Này người thiện nam! Nếu trong sữa chắc chắn có tánh lạc, thì cần gì "Duyên nhân"?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu đã có thì đâu cần Duyên nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu đã có thì đâu cần Liễn nhân ư?" Pháp sư Bảo Lượng nói: "Hễ đáp rằng: "Nếu cần "Duyên nhân" mà được, thì đâu phải "Đã có"?"
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Chắc chắn biết trong sữa trước đó có tánh lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu vật trong bóng tối dù là vốn có, nhưng không hiểu rõ, không thấy, để chứng minh dụng của "Liễu nhân", chẳng được nói là "Đã có" mà không cần hiểu rõ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nêu việc hiện tại để bào chữa cho nghĩa."
"Này người thiện nam! Nếu cho rằng trong sữa chắc chắn có tánh lạc" cho đến "Nếu là "Liễu nhân" thì đâu cần phải dùng liễu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vị ngọt phần nhiều là sữa, vị chua phần nhiều là lạc. Nếu lúc trong sữa có lạc, thì vị chua đã đủ, vị chua sẽ tự liễu, đâu cần hơi ấm liễu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước vì không có liễu nhân, nên là sữa chứ chẳng phải lạc. Nếu cho rằng trước đó đã có lạc tức là "Liễu nhân", thì cần gì liễu nữa? Dưới đây sẽ hỏi rộng về nghĩa ấy."
"Này người thiện nam! Nếu "Liễu nhân" này, tánh nó là liễu" cho đến "Nếu không tự liễu thì đâu thể liễu cái khác?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu có chất chua thì không thể tự liễu, đâu thể làm liễu cho cái khác mà nói là liễu.
Pháp sư Tăng Tông nói: Nếu liễu nhân không thể tự liễu lại cần phải thì đâu thể liễu cái khác"
"Nếu nói "Liễu nhân" có hai thứ tánh" cho đến "Sao liễu nhân lại có hai tánh riêng?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Năng lực của hữu vi khác nhau, phần gìn giữ là tánh. Lửa là một pháp đâu được có hai? Lại nói rằng: "Nếu lửa tự liễu, thì "Liễu" khác với "Bị liễu". Liễu tức là nhân, bị Liễu là quả, một pháp mà được có hai hay sao?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vẫn là phá chấp của ngoại đạo. Tánh là pháp nhất định, luôn giữ một vị, chẳng được có hai công dụng. Nghĩa là ông nói "Liễu nhân" là sẽ tự liễu, lại còn có thể liễu cái khác nữa, thì chẳng phải tự tánh. Vì sao? Vì ông chấp "Liễu nhân" chỉ là một pháp, thì làm sao có hai dụng ư? Nếu "Liễu nhân" có hai, thì sữa lẽ ra cũng có hai, nghĩa là sữa lẽ ra cũng tự "Liễu", lại là liễu lạc. Nếu vậy, thì cần gì có duyên ngoài mới hiện ư?"
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như người đời nói" cho đến "Liễu nhân cũng giống như vậy, tự liễu, liễu tha."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Số là một trong muôn pháp, tự đếm, đếm cái khác. "Liễu nhân" cũng giống như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thích hợp với phần của ta, lại còn thỏa mãn cho một số người, nên biết được có hai công dụng. Nêu việc này để bào chữa cho nghĩa."
"Phật nói: Này người thiện nam! Nếu "Liễu nhân" như vậy" cho đến "Không thể tự liễu, cũng không liễu cái khác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cần phải có trí tánh; thường biết mình, người. Sắc chẳng tự đếm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý đáp của Phật: "Đếm là vì lo nghĩ, có thể đếm sắc của ta, sắc của người. Sở dĩ nói ông đã chấp "Liễu nhân", là vì vốn là sắc pháp, thì làm sao có hai tác dụng ư?
"Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh" cho đến "Là liễu nhân, thì đã đồng hư hoại như chất lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã đồng hư hoại như chất lạc: nghĩa là tự liễu đã phá ở trên."
"Nếu nói trong nhân chắc chắn có quả" cho đến "Theo thầy thọ xong, giới, định, tuệ sẽ được thêm lớn dần."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu quả của định, tuệ chắc chắn có tánh, thì sẽ không được lớn lên. Nhưng vì theo thầy thọ học, được tăng ích dần, nên biết vốn không có tánh."
"Nếu nói rằng Sư trưởng dạy dỗ là "Liễu nhân"" cho đến "Giới định, trí tuệ làm cho được lớn lên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc mới bạch, giới tự chưa có. Sau, Yết-ma xong, giới mới thành tựu, đây tức lẽ ra liễu, chưa có là có, chẳng phải liễu đã có, làm cho lớn lên."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Sao lại gọi là có sữa, có lạc được?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu trong sữa không có lạc", lại không có "Liễu nhân" thì làm sao có sữa, mà đáp rằng có lạc ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dùng tên gọi để chứng tỏ là có lạc".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là chấp thứ tư: hiện thấy người bán sữa để mua lạc, nên biết sữa chính là lạc".
"Này người thiện nam! Đáp câu hỏi của thế gian có ba cách" cho đến "Có tánh, vì sẽ thấy".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tông chỉ của chánh nghĩa. Chung quy do chắc chắn "Sẽ có" nên nói là "Có". Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dùng cách chuyển để giải thích câu hỏi. Vì nói trong nhân có quả, nên nói là "Có", chứ chẳng phải "Đã có" mà nói "Có".
Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật nói" cho đến "Nói rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói hai nhân không có quả, dường như trái với thế tục. Nay, muốn hội thông, như người đời nói "Có" là "Sẽ có", chính là nhân câu hỏi để nêu lên".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quá khứ chưa diệt, vị lai chưa đến, sao lại nói là "Có" được?"
"Này người thiện nam! Quá khứ gọi là có" cho đến "Đều có Phật tánh, thật ra không luống dối"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có bốn thí dụ: Ví dụ trước là nói về cái "Có" của quá khứ, ba ví dụ sau, là chỉ rõ cái "Có" ở vị lai".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù là đã có "Sẽ có" nhưng nay là "Không", cũng chẳng nhất định là "Không", chẳng hạn như cây gai là hiện tại, dầu là vị lai, thời gian nhân quả khác nhau, đâu được trong nhân có quả ư? Đây là do cách lập nghĩa của một nhà, thường dựa vào kinh để tìm lý. Thỉnh thoảng thấy người ta phần nhiều hay nói trong nhân có quả, kinh có văn thành thật, hầu như không cần giải thích. Trong phẩm Phật tánh ở trước đã nói: "Trong thân độc, có thuốc hay, đó là Phật Tánh chẳng phải pháp tạo tác. Ở đây cũng không nói Đức Phật chẳng phải là pháp tạo tác. Nếu nói Đức Phật cũng là pháp tạo tác, thì trong thân chúng sinh đã có quả rồi".
"Bồ-tát Sư tử Hống nói: "Tất cả chúng sinh" cho đến "Phải biết rằng, chúng sinh đều có Phật tánh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên, đã phá riêng hai nhân nói "Có" là vị lai. Nay, Bồ-tát sư tử Hống lại dùng việc để chứng minh rằng, trong nhân đã có trước, là muốn nói rộng lỗi của "Có".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là chấp thứ nhất, dùng chánh nhân để chứng minh có "Tánh"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ năm, nói là trong chánh nhân lẽ ra vì đã có nhiều Đức Phật, nên làm cho chúng sinh được đạo Vô thượng. Nếu trong chánh nhân đều không có thì sao không gọi là tạo ra "Duyên nhân" ư?"
Phật nói: "Này người thiện nam! Nếu nói rằng trong hạt" cho đến "Nay đã có, thì có lỗi gì?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu nói rằng, vì chướng sâu kín nên không thấy, ý nói là bị chướng nhỏ nhiệm che khuất, chứ không phải chướng trong tám việc. Thường lẽ ra không thấy: Nếu bị chướng nhỏ nhiệm che lấp chướng thường là vi tế, thường lẽ ra không thấy. Vốn không có tướng thô: Nếu tánh tế thì thô vốn là "Không". Thường thô như thế, vốn không thấy tánh, nghĩa là vì thô nên nhìn thấy. Thô là thấy nhân, thấy vốn không có tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu nói trong chánh nhân "Đã có" thì vì sao không thấy? Vả lại, nếu nói theo cây thì sẽ không đồng với tám duyên của thế gian, mà người không thấy, phải biết rằng trong nhân chẳng nên có quả trước."
"Bồ-tát Sư tử Hống nói: "Như Phật vừa nói" cho đến "Vì tạo ra liễu nhân, nên làm cho nhỏ được to."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chống chế nghĩa rằng: "Liễu nhân là liễu nhỏ làm cho to, vì to, nên nhìn thấy được, chứ chẳng phải thường không thể nhìn thấy."
"Phật nói: Này người thiện nam! Nếu vốn có" cho đến "Đường phèn chữa bệnh nóng, đường đen trị bệnh lạnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cả hai thứ đều "Không". Trên nói có thứ to, to thì cần liễu. Nếu vốn không có to thì liễu là liễu cái gì? Nếu nói liễu không có làm cho "Có", thì lẽ ra cũng có thể sinh ra cây Khư-đàla. Nếu vốn có đốt, đốt thì không được sinh. Không cùng lúc, nghĩa là trách cả ba tướng không dùng việc cùng lúc. Đường đen chữa bệnh lạnh: Ý nói pháp từ duyên khác, không có tánh nhất định."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng:" cho đến "Nên được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại dùng bảy câu hỏi để nói Phật không có tánh, trở thành làm sáng tỏ Phật tánh chẳng phải "Không", lập ra nghĩa không hoại mất nói trên. Đầu tiên lấy trời, người để chứng minh Phật tánh không có thành."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ năm quán sát lập tánh trong nhân. Câu hỏi dù có bảy, nhưng phần lớn đều chấp "Duyên", hỏi làm cho không có chánh nhân. Đây là câu hỏi thứ nhất: "Nếu trong nhân vốn "Không có", thì sẽ chẳng có Chánh nhân, chỉ có Duyên nhân, cho nên được thành Phật?"
"Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh" cho đến "Nếu chẳng phải thường thì không được gọi là Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Như câu hỏi thứ hai: "Nếu tánh do duyên mà thành tâm Bồ-đề, thì tánh xiểnđề này không nên đoạn dứt, đã đoạn dứt thì chẳng phải tánh"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu Phật gọi tâm Bồ-đề là Phật tánh hiện thầy xiển-đề dứt mất gốc lành, cho nên xiển-đề không có Phật tánh. Vậy sao Đức Phật lại nói rằng: "Chúng sinh đều có Phật tánh ư?"
"Nếu các chúng sinh đều có Phật tánh thì vì lẽ gì gọi là phát tâm ban đầu ư?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "nêu câu hỏi thứ ba: "Tánh thường lẽ ra không có ban đầu?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã có người mới phát, tức là khi chưa phát tâm, họ không có Phật tánh. Nếu vậy, thì chính là lấy phát tâm lành làm Phật tánh, thế sao lại nói là chúng sinh đều có ư?"
"Sao lại nói Tỳ-bạt-trí này" cho đến "Phải biết rằng, người này không có Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Câu hỏi thứ tư: "Tánh thường không nên lui sụt?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu có lui sụt, không lui sụt, thì chính người lui sụt không có Phật tánh, đâu là đều có ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát nhất tâm hướng về" cho đến "Thì cần gì pháp này để làm nhân duyên?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Câu hỏi thứ năm: "Chứng muôn điều lành là tánh, lìa việc lành thì không có tánh?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lược nêu duyên nhân", cho rằng có khả năng thành Phật, vì chỉ duyên nhân này, nên biết không có Phật tánh chánh nhân, mà chỉ là "Duyên nhân".
"Bạch Đức Thế tôn! Như sữa không cần "Duyên", chắc chắn sẽ thành lạc" cho đến "Nên biết rằng chúng sinh đều không có Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ sáu: "Năm vị sinh nhau, nhân có mạnh yếu, vì sữa mạnh nên không cần duyên bên ngoài."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nêu kinh để làm chứng. Giáo xưa nói "Tăng của ba thừa là thường", nếu vậy, thì lẽ ra địa vị tăng thường trụ làm sao thành Phật?"
"Như trước kia Đức Phật nói Tăng bảo là thường" cho đến "Tất cả chúng sinh lẽ ra không có Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ bảy: "Nếu tâm Bồ-đề trước không mà nay có, thì quả cũng nên như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu trước kia chúng sinh không có ba Bồ-đề, đến nay mới có thì đây là xưa không mà nay có. Cho nên biết trước là không đồng với câu hỏi trên, chỉ trước, sau là khác."
"Phật nói: Lành thay! Này người thiện nam!" cho đến "Tất cả chúng sinh thật có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật đáp câu hỏi thứ nhất: "Sơ quả từ lý thành, thì hoặc được, hoặc mất, chẳng phải tánh, là vì quả của trời, người đều có "Hoặc", chẳng phải từ tánh mà có. Quả Phật không có "Hoặc", vì từ tánh mà có, là đáp câu hỏi thứ nhất."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trời, người không nhất định, có thể là chẳng có tánh. Phật tánh khác với trường hợp này. Như nghiệp của trời, người, phải đến địa vị
Phật, nghiệp mới dừng, khoảng giữa không có dừng, thì làm sao chẳng có chánh nhân ư?"
"Ông nói: "Nếu chúng sinh có Phật tánh" cho đến "Vì tâm là vô thường, Phật tánh là thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba: "Chánh nhân chẳng có ban đầu. Vì không có ban đầu nên thường phát tâm là "Duyên nhân", chứ không phải chánh nhân."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Gồm đáp câu hỏi thứ bảy." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phát tâm chẳng phải Phật tánh của chánh nhân. Phật tánh là thường, tâm là vô thường. Cho nên tâm lành đôi khi có, đôi khi không, tánh dụng chỉ của chánh nhân là thường, không thay đổi."
"Ông nói vì sao có người thối tâm" cho đến "Vì được chậm nên gọi tâm là lui sụt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ tư." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về tâm lành không lui sụt. Tâm lành không sinh thì lụi sụt, sinh thì không lui sụt. Vì nếu tâm lành bị lui sụt thì làm sao tiến đến thành Phật được, chỉ vì được chậm nên gọi là lụi sụt."
"Tâm Bồ-đề này thật ra không phải Phật tánh" cho đến "Tâm Bồ-đề thật chẳng phải Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ năm." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp trở lại câu hỏi thứ hai: Nói tâm Bồ-đề thật chẳng phải chánh nhân. Ta nói "Đều có", nghĩa là Phật tánh của chánh nhân. Vì trong đoạn duyên mà sinh ra việc lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề."
"Này người thiện nam! Ông nói: "Nếu chúng sinh có Phật tánh" cho đến "Được thấy Phật tánh, sau đó thành Phật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ sáu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ năm, nói dù có chánh nhân, nhưng phải có duyên giúp đỡ, như vàng đá có vàng, phải nhờ các duyên mới được."
"Ông nói: Chúng sinh đều có Phật tánh" cho đến "Vô thượng Bồ-đề, như đá có ra vàng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước không có câu hỏi này, e sẽ bị lung lạc."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghĩa của câu hỏi này này sinh, nhân đáp câu hỏi trước, vẫn khiển trách "Hoặc" kia."
"Này người thiện nam! Ông nói Tăng Bảo thường trụ" cho đến "Do đó, nên Ta nói Tăng có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ bảy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ sáu: Nói giáo xưa đã nói Tăng là thường: Vì Phật trước, Phật sau, Tăng bảo thường tự nối tiếp, đâu cho rằng bất động thường ư? Mười hai nhân duyên thường, nghĩa là có Phật hay là không có Phật, tánh của chánh nhân vẫn không thay đổi, nên nói là thường. Về nghĩa của câu hỏi thứ bảy đồng với câu hỏi thứ ba, nên không có đáp riêng."
"Này người thiện nam! Ông nói: Nếu chúng sinh có Phật tánh" cho đến "Ta sẽ phân biệt giải thích cho ông hiểu."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ tư, sau đây sẽ giải thích rộng về sự lui sụt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đức Phật đáp câu hỏi đã xong. Sau đây chia làm ba lượt, nói về nghĩa đầu, cuối không lui sụt."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Tâm không lui sụt, không gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán đủ duyên không lui sụt, không đủ thì lui sụt."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói vì được chậm, nên nói là lui sụt, chẳng phải mất hẳn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về lý do không lui sụt."
"Này người thiện nam! Ông không thể dùng tâm lui sụt" cho đến "Và Nhất-xiển-đề đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì lui sụt không tiến bộ là thí dụ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì không thể nói lui sụt, nên không có
Phật tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ hai, người lui sụt, không lui sụt, vị lai đều được thành Phật."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là Bồ-tát có lui sụt, không lui sụt?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì có hạnh nguyện, ở trên chỉ có nguyện rộng, chưa nói rộng về hạnh cho nên nêu câu hỏi."
"Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát tu tập Như Lai" cho đến "Bốn pháp như thế đều là thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bốn pháp như thế đều là thường, nghĩa là tánh nghiệp của chúng sinh có ba nhân một quả. Vì thường, nên không thể suy nghĩa bàn luận là bảy."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Được như thế, gọi là không lui sụt. Không như vậy tức là lui sụt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nêu nghiệp của ba mươi hai tướng để khuyên lập hạnh. Vì nghĩa này, nên nói rộng về sự lui sụt, không lui sụt."
"Do thường này nên không thể suy nghĩa bàn luận" cho đến "Vì không thấy nên không được Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quả nghiệp tức chúng sinh, tức tánh của chánh nhân, gọi là thường, nghĩa là vì phiền não, nên gọi là thường. Phiền não đoạn thường, nghĩa là ở trên nói nhân quả đều thường, nhưng chưa phân tích thường có nhân dài, ngắn. Do kiết hoặc nên là thường. Khi kiết hoặc hết thì nhân diệt. Quả do không có hoặc nên là thường. Vì thường, nên không thay đổi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Một thuyết đã khen ngợi xong, nói tất cả chúng sinh và Phật tánh, nghiệp quả, cảnh giới của Chư Phật, đều không thể suy nghĩa bàn luận. Bốn pháp như quả Phật... dù là thường, nhưng vì chúng sinh khởi phiền não, bị nghiệp chướng che lấp, nên thường si mê, không có hiểu biết, cho đến điên đảo, làm sao chẳng phải thường?"
Như trên nói về tính chất thường của phiền não, nghĩa là chính nói ra đoạn văn này. Đầu cuối bị dứt trừ, nên nói là phiền não đoạn, thường gọi là vô thường."
- Nói về nghĩa ràng buộc, giải thoát.
- Nói năm ấm trước sau nối nhau. Dùng dấu ấn bằng sáp ong để ví dụ.
- Danh sắc ràng buộc chúng sinh, chúng sinh buộc ràng danh sắc.
- Nói phiền não và tập khí làm nhân quả lẫn nhau.
Nói rộng về tám thí dụ: Dụ nghịch, dụ hiện tại v.v....
- Giải thích rộng ý nghĩa đèn dụ cho đạo Thánh.
- Giải thích Tu-đà-hoàn dù sinh ở cõi nước vẩn đục vẫn tự giữ giới, dẫn Sư Tử ở Hương Sơn làm thí dụ.
- Nói rộng về tướng của giới, định, tuệ không thật có.
- Giải thích mười sáu luật nghi ác.
- Giải thích nghĩa sinh và nghĩa Niết-bàn đều bất sinh bất diệt.
- Giải thích nghĩa Phật tánh chẳng phải một, chẳng phải hai.
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói" cho đến "Do hai nhân này, lẽ ra không có ràng buộc, giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ ba, nói về ràng buộc, giải thoát. Nếu phẩm trên đã nói quán nhân quả, thì phải từ ràng buộc được giải thoát."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây, lại có bốn đoạn, xét về nghĩa đều đến từ Trung đạo. Trung đạo ở trước là nói về nghĩa. Đầu tiên dùng năm câu chấp "Có", sau là bảy câu chấp "Không". Đức Phật giải thích rằng: "Chẳng thể hoàn toàn nhất định là "Có", chẳng thể hoàn toàn nhất định là "Không"."
Nay đây dường như muốn thành chấp ở trước, dùng ràng buộc, giải thoát để tu đạo, hai câu hỏi trở thành có chấp ở trước. Đổi chướng, khuyên tu để trở nên vô chấp ở trước. Sở dĩ biết được ràng buộc, giải thoát trở thành có chấp là vì, nếu trong nhân có Phật tánh thì vì bị "Hoặc" ràng buộc, nên gọi là "Phược". Vì từ nhân đến quả được cởi trói, nên gọi là "Mở". Nếu khi ở nhân không có tánh, về sau mới có "Nhân", vì trước đã "Không" cho nên chẳng có sự ràng buộc. Khi quả tự khởi, sinh ở ngoài trói buộc, lại không có sự cởi mở.
Do hai nhân này, "Chánh nhân" tức thần minh. "Duyên nhân" tức muôn điều lành. Đây tự là hữu vi, tồn tại ở ràng buộc, cho đến Kim cương cũng chưa thoát khỏi "Hoặc", tức là Kim cương bị phiền não trói buộc, sinh ra ở trước, tâm Phật không có lụy phiền, khởi lên ở sau, đâu có từ ràng buộc đến giải thoát ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đại văn thứ ba, nói về tướng ràng buộc, giải thoát. Nếu trước kia quán nhân, quán quả, lòng tin được lập, tiếp nối với tu đạo ở đây thì gọi là giải thoát. Nếu đối với sáu hạnh nhân quả này, lòng tin không vững thì gọi là ràng buộc. Nay sẽ nói về lý này, nên trước là nêu lên câu hỏi: "Nếu như Phật đã nói, thì lẽ ra không có ràng buộc, giải thoát. Vì sao? Vì trước ta đã nói là trong chánh nhân có Phật, nên phải "Duyên" liễu mà có ra. Phật nói trong chánh nhân đều không có quả. Vậy thì lúc có ràng buộc, có thể đều không có ràng buộc. Và ngay khi giải thoát kia cũng không hề có ràng buộc làm sao nói từ ràng buộc được giải thoát ư?" Dưới đây, sẽ dẫn chứng việc, như năm ấm đổi dời, niệm niệm sinh diệt, pháp tướng như thế, thì ai ràng buộc, ai giải thoát? Y theo văn này, gồm có năm đoạn:
1. Nói người tu hành, các ấm truyền nhau trong ba đời.
2. Phát khởi thể tướng của ràng buộc.
3. Nói về phương pháp của thể giải thoát.
4. Nói về ràng buộc, giải thoát không lìa nhau.
5. Nói về sự ràng buộc giữa hạt và quả khác nhau."
Pháp sư Trí Tú nói: "Ở trên nói về Trung đạo, dù rằng về lý thì tướng mạo rõ ràng, nhưng người học căn cơ, khác nhau nếu hiểu rõ thì thành giải thoát, người mê muội thì thành ràng buộc. Vì muốn người học sao cho thuận theo ràng buộc mà vẫn đến với giải thoát, nên đoạn thứ ba dưới đây. Kế là nói về nghĩa ràng buộc, giải thoát. Gồm có năm lượt:
1. Y cứ không khác với giả.
2. Nói về nghiệp hết, quả dứt, lý không thể dời đổi.
Cuối cùng, đèn sinh, bóng tối diệt. Nói sau khi quả đã dứt, quả sau sẽ nối tiếp.
3. Ví dụ dấu ấn bằng sáp, nói về lý do ấm nối nhau, vì lý nhân quả, có tương quan nhau.
4. Nói về quả báo của trung ấm theo nhau."
"Năm ấm này niệm niệm sinh diệt. Nó đã sinh, diệt thì ai ràng buộc, ai giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu Phật tánh trong nhân đã bị kiết ràng buộc, kiết diệt thì giải thoát, danh nghĩa có thể tìm. Nay thân năm ấm sinh diệt, trước nhơ sau sạch, một diệt, một sinh, đầu tiên không kịp nhau, thì ai ràng buộc, ai giải thoát?"
"Bạch Đức Thế tôn! Vì thân năm ấm này sinh ra thân năm ấm sau" cho đến "Chúng sinh cũng giống như vậy, làm sao có ràng buộc, giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì người ngoài, làm cho họ được thông suốt. Nếu không đến thì sẽ không có người ràng buộc, lẽ ra cũng không có sinh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tâm chúng sinh phần nhiều nghi ngờ lý này, nên Bồ-tát mới nêu câu hỏi. Nếu là nghĩa Trung đạo tròn đầy thì sinh kiến giải cũng tròn đầy. Vì nối tiếp với tánh thấy này, nếu mảy may trái lý, thì mãi mãi sẽ lạc đường chánh đại. Năm ấm này, là dẫn ấm nghĩa thể của ấm không kịp nhau, để thành lối chấp của ngoại đạo. Nói là ấm này tự diệt không đến ấm kia, hai ấm đều ràng buộc, còn không đến với nhau, huống chi là Phật tánh? Mà từ ràng buộc được giải thoát, nếu có ràng buộc, giải thoát, thì phải biết trong nhân đã có tánh?"
"Này người thiện nam! Lắng nghe! Hãy lắng nghe!" cho đến "Như đốt đèn thì bóng tối biến mất, đèn tắt thì bóng tối hiện ra."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý đáp là sự nối nhau giả gọi chúng sinh có kiết, vì trung ấm nối tiếp với tử ấm, vì sinh ấm nối tiếp với trung ấm. Các khổ gọi là ràng buộc, chẳng phải trong nhân có quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y cứ vào hai ấm để giải thích nghĩa truyền trao cho nhau. Câu hỏi của Bồ-tát, vì muốn cho "Đã có tánh ở trong thân, từ "Hoặc" được giải thoát". Nay nói không cần "Đã có một tánh". Nhân quả vốn tự cảm vời nhau, hễ có nhân thì có nhân, có quả thì có quả, chẳng thể cả hai đều không. Ở nhân là ràng buộc, từ nhân đến quả là giải thoát. Nếu nói về pháp thật, thì trước không đến sau, nối theo nối tiếp nhau thì trước ràng buộc nay giải thoát."
"Này người thiện nam! Như dấu ấn bằng sáp in lên đất sét" cho đến "Như khuôn bằng đất sét, đập vỡ khuôn thì hoa văn hiện ra."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dấu ấn dụ cho ấm trước, nét chữ dụ cho ấm sau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại nêu hai ấm làm thí dụ. Dùng lửa hơ cho sáp chảy ra, nét chữ trên đất sét tự hiện. Đến lúc đó mới thấy, không được nói là nét chữ sáp biến thành nét chữ đất sét, vì nét chữ không phải từ đất sét lìa sáp tự nhiên mà hiện ra. Không phải chỗ khác đến, để so sánh với nghĩa hiện ấm, trung ấm. Do lửa hành nghiệp, nên làm cho hiện ấm diệt, ấm của trung ấm sinh, cũng không được nói rằng, trung ấm lìa hiện ấm mà sinh, cũng không được nói sinh ở chỗ khác, mà là bày tỏ hiện ấm làm nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sáp dụ cho người tu hành khi chết. Dấu ấn dụ cho năm ấm lúc chết. Đất sét dụ cho trung ấm của người tu hành. Dấu in trên đất sét, dụ cho năm ấm của trung ấm. Không thay đổi ở đất sét, nghĩa là ấm khi chết với người tu hành cũng không thay đổi thành người trong trung ấm. Nét chữ không phải sinh ra từ đất sét, nghĩa là năm ấm của trung ấm không trực tiếp sinh từ người. Không từ chỗ khác đến, nghĩa là không từ chỗ khác mà được năm ấm của trung ấm vì ấm từ nhân duyên mà sanh văn, do ấm khi chết mà được ấm của trung ấm. Ấm hiện tại diệt, ấm của trung ấm sinh, hợp với dụ trước, nghĩa là dấu in rã, nét chữ hình thành câu, là ấm hiện tại. Cuối cùng trở về không, biến thành năm ấm của trung ấm: Hợp với dấu ấn bằng sáp trước không thay đổi câu văn trên đất sét.
Năm ấm của trung ấm cũng chẳng phải tự sinh: Hợp với dụ trước, nét chữ chẳng phải là câu từ đất sét hiện ra, không từ nơi khác đến: Hợp với dụ trước, là không từ nơi khác đến. "Nhân hiện ấm v.v... "Trở xuống, là hợp với dụ trước, do nhân duyên dấu ấn mà nổi lên thành nét chữ.
"Danh từ dù không khác nhau, mà thời gian đều khác" cho đến "Như dấu ấn bằng sáp in trên đất sét, dấu ấn tan rã, các chữ hình thành".
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Chẳng phải nhục nhãn thấy, sắc kia mầu nhiệm, Thiên nhãn mới thấy. Ba cách ăn: Tư thực là nghiệp quá khứ. Trong đây va chạm với lạnh, ấm hình thành thân. Bốn tâm của ý địa và năm thức. Các tâm nối nhau, không có đoạn thực. Trung ấm có hai thứ thiện và ác: Trước nói lấy ấm trước làm sáp, trung ấm làm đất sét. Nay, lại nói từ Trung ấm, hướng về chỗ thọ sinh".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Báo Trung ấm mầu nhiệm, chỉ có nhãn thức cõi trời mới nhìn thấy, cũng không có đoạn thực, mà tự giúp thân, nên tùy theo nghiệp dụng của Trung ấm thiện, ác, kia mà chiêu cảm dụng tâm có thô, tế. Về sau, khi cha mẹ giao hội, đều tùy nghiệp mà tìm chỗ sinh, để hình thành thân mình. Khởi ba phiền não giao hội ràng buộc chấp đắm. Ấm của trung ấm hư hoại, hậu ấm nối tiếp khởi, như dấu ấn hư rã, đường nét hình thành"
"Lúc sinh, các căn có đủ, không đủ cho đến" do nghĩa này, nên gọi là năm ấm sinh"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Danh từ dù không khác nhau, nhưng về thời gian thì đều khác. Thời gian dù là một nhưng một sinh, một diệt, công dụng khác nhau".
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là phát ra thể ràng buộc. Tùy nghiệp trở thành sớm, muộn, sinh ra nhân duyên ba độc, kiết nghiệp khởi rối loạn, ràng buộc trong sinh tử".
"Nếu người này được gần gũi Phật cho đến" Do nghĩa này, nên gọi là năm ấm diệt"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dứt nghiệp phiền não, không cảm thọ sinh tử, gọi là giải thoát".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba là phát ra thể giải thoát. Sự ràng buộc trôi lăn, tự không phải quán sâu cảnh giới, thì sẽ không do đâu dứt trừ khổ sinh tử".
"Bồ-tát sư Tử Hống bạch Phật rằng: Trong hư không chẳng có gai đâm, sao nói là khổ? Năm ấm không có trói buộc, sao nói là ràng buộc".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói ấm không dứt, gọi là ràng buộc, mà không nói là chủ trói buộc, nên nêu câu hỏi".
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đoạn thứ tư, chính là nói về ràng buộc, giải thoát không lìa chúng sinh. Lìa ngoài ràng buộc, giải thoát, không có chúng sinh riêng, nhưng nhân thành giả danh, lìa nhân không có quả. Nếu do "Hoặc" thành con người thì gọi người là ràng buộc.
Do giải thoát mà thành người thì con người là giải thoát. Vì sẽ nói về lý này, nên hỏi rằng: "Hư không vốn chẳng có gai để nhổ, thì ấm cũng không có trói buộc, để mở."
Phật bảo: "Này người thiện nam! Vì xiềng xích phiền não cho đến". Vì không có phiền não, nên gọi là giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đời đời không dứt, do phiền não trói buộc. Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngoài pháp năm ấm, không còn có con người riêng, gộp năm ấm lại tạo ra con người. Nếu năm ấm có bị ràng buộc thì gọi là người bị ràng buộc. Nếu năm ấm đã cởi mở thì gọi là người được giải thoát. Như cây cột chống đỡ nóc nhà, ngoài nóc nhà không có cột riêng."
"Này người thiện nam! Như ba thứ nắm tay, chắp tay, thắt gút cho đến "Vì không có phiền não, nên gọi là giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Co ngón tay lại thành nắm, duỗi ra thì nắm tay mất. Co, duỗi, thành, mất không khác với ngón tay, phiền não cũng giống như vậy."
"Này người thiện nam! Như nói danh sắc ràng buộc chúng sinh" cho đến "Cũng gọi chúng sinh ràng buộc danh sắc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ấm dài, kiết ngắn, có sự ràng buộc lẫn nhau mà chúng sinh danh sắc thì không có dài, không có ngắn, lại dùng làm thí dụ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhân thành giả danh, không còn có pháp nào khác khởi lên, ý chỉ ấy mới hiển bày."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như mắt không tự nó nhìn thấy" cho đến "Thế nên ta nói chúng sinh giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc hai tay chấp lại, thì không có pháp khác nào đến mà chắp lại. Một chắp tay là quả, hai tay là nhân, mà lìa tay không có chắp. Chúng sinh danh sắc cũng giống như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu danh, sắc khác với chúng sinh thì được nói là ràng buộc. Nay, danh sắc và sự ràng buộc là một thể, như mắt không tự thấy, sao nói là danh sắc ràng buộc danh sắc?" Phật đáp: "Dùng hai tay chắp chung, không còn có pháp chắp riêng, vì chính tay là chắp, tức gọi danh, sắc là ràng buộc." tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Nếu có danh sắc" cho đến "Khi chưa lìa danh, sắc, lẽ ra cũng ràng buộc?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Danh sắc và chúng sinh, cả hai đều không có dài, ngắn, là đầu mối nêu lên câu hỏi này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn thứ năm, nói về sự ràng buộc giữa hạt và quả khác nhau."
"Này người thiện nam! Giải thoát có hai thứ" cho đến "Nếu dầu đã cạn hết thì lửa phải tắt, không có nghi ngờ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Danh sắc có ba thứ: Là nhân là quả, chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Phiền não và tập khí làm nhân quả lẫn nhau. Vì phiền não ấm là quả, Phật tánh chúng sinh cũng là danh sắc, chẳng phải nhân quả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "La-hán đã dứt hết "Hạt phược", dù có danh sắc nhưng chẳng phải là hạt nhân của sinh tử, chỉ vì số quả báo đã hết, chứ chẳng phải được dứt trừ do đạo đối trị."
"Này người thiện nam! Dầu dụ cho phiền não" cho đến "Nếu dứt hết phiền não thì sẽ nhập Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có "Hoặc" thì sẽ thọ sinh từ nơi này đến nơi khác, nên gọi là chúng sinh. "Hoặc" hết, thì không sinh, không gọi là chúng sinh, mà gọi là nhập Niết-bàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đèn dụ cho "Quả phược", dầu dụ cho "Tử phược" (Sự ràng buộc bởi hạt giống). tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Dầu và đèn" cho đến "Sao Như Lai lại dụ như đèn?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước kia dùng ánh sáng dụ cho chúng sinh. Về sau dùng chúng sinh dụ cho đèn, tức lấy ánh sáng làm đèn, dầu là nhân của sự cháy. Nay, phiền não là chúng sinh trở thành nhân, cuối cùng thì lấy gì làm dụ?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Sư Tử Hống lại chấp dầu và đèn sáng, hai vật đều khác nhau. Nếu nói chúng sinh tức ràng buộc, chấp đắm thì điều này chẳng phải là thí dụ."
"Phật nói: Này người thiện nam! Có tám thứ thí dụ" cho đến "Bảy là tiên hậu dụ, tám là biến dụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn nói thí dụ, có nhiều thứ. Ở đây ví dụ phần ít, sau đây sẽ nói rộng về các ví dụ trái và không trái."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dẫn tám dụ để nói về pháp. Ví dụ không hoàn toàn lấy các pháp đã dụ ở trước, vì là phần ít."
"Thế nào là thuận dụ? Như trong kinh nói" cho đến "Lại không có chiếc xe khác. Chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý nêu tám thí dụ, là ý ở phần ít." "Này người thiện nam! Nếu muốn hợp pháp với ví dụ chiếc đèn kia" cho đến "Không bị các cõi làm ô nhiễm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngọn lửa dụ cho
Kim cương, tập khí hết thì diệt." tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Năm ấm của chúng sinh" cho đến "Ai là người có thọ lãnh giáo pháp để tu tập đạo hạnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn tu đạo thứ tư, từ ràng buộc được giải thoát, công sức do nghĩa của đường các hạnh. Nói tu đạo là lấy sự chứa nhóm, tập tành làm nghĩa. Chủ hữu vi là không, cũng không có trụ trói buộc, thì có gì để tu đạo?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phần thứ tư của đoạn lớn, nói về tu đạo, trở thành câu hỏi chấp "Có" ở trước: "Nếu trong nhân có tánh thì sẽ bị
"Hoặc" ràng buộc. Từ nhân đến quả, dứt trừ "Hoặc", nói là giải thoát. Đã có công dứt "Hoặc", tức là nghĩa tu đạo được lập. Nếu trong nhân không có tánh thì chỉ là sinh, diệt, niệm niệm vô thường, đương thể tự diệt, đâu có tu đạo để đến Niết-bàn ư?
Y theo tu đạo, chia làm tám đoạn:
1. Nói tu đạo nối nhau có lợi ích.
2. Nói về phương pháp tu.
3. Nói về đạo bình đẳng.
4. Nhờ nơi chốn, cho nên nói về đạo.
5. Y theo con người để nói về đạo.
6. Khiển trách chấp đắm, y cứ vào cảnh giới vô tướng.
7. Lại, nêu không có mười tướng, khuyên tu nhân vô tướng.
8. Nêu lại quả cùng cực, khiến tu nhân của mười tướng.
Tâm không dứt: Dù nói là niệm niệm diệt (tắt mất), nhưng chủ yếu là ràng buộc, giải thoát nối nhau không dứt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về phần tu đạo, chia thành mười đoạn:
1. Nói về thần thức của chúng sinh dù mỗi niệm tắt mất, nhưng vẫn được có nghĩa tu đạo.
2. Nói tu đạo được pháp, không được pháp. Nếu quên đi sự ôm ấp được lý thì ra khỏi sinh tử.
3. Nói về tánh đạo bình đẳng...
4. Nói về xử đạo.
5. Nói về thời đạo.
6. Nói về nhân đạo.
7. Nói về trừ chấp, làm sáng tỏ đạo.
8. Nêu ra người năng tu đạo.
9. Nói về định tuệ giúp nhau.
10. Nói rộng về câu kiết nhân quả."
"Phật nói: Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh" cho đến "Siêng năng tinh tấn tâm, tín tâm. Định tâm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba tuệ là đạo, bắt đầu từ văn tuệ, niệm là văn tuệ. Tuệ là Tư tuệ, phát tâm là tu tuệ, là sáu thứ lớp."
"Các pháp như vậy, dù niệm niệm sinh diệt" cho đến "Vì nối nhau không dứt, nên gọi là tu đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói có tu tập đạo, nghĩa là lấy sự nối nhau làm tập."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Các pháp như thế" cho đến "Cũng dường như nối nhau, thì tu tập thế nào?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu lên hai trường hợp để hỏi.
Trường hợp thứ nhất, thích hợp với sáu tâm trên, nói đều niệm niệm sinh diệt, không thể dứt trừ.
Trường hợp thứ hai: "Nếu tương tự thì thấp kém, cũng không có sức tu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi có hai ý: Một là nếu niệm niệm diệt thì thể tự không vững chắc, tức không có lớn thêm; hai là nếu từ bậc hạ sinh bậc trung, từ bậc trung sinh lên bậc thượng thì chẳng phải tương tự nối tiếp nhau?"
"Phật nói: "Này người thiện nam! Như ngọn đèn dù niệm niệm diệt" cho đến "Cũng có thể làm tăng trưởng cỏ cây, rừng cây."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp trường hợp của câu hỏi đầu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước, khiển trách ý đầu tiên, nói về Nhất thần giải, dù niệm niệm diệt, nhưng phải thầm giúp nhau, nên được có công dụng."
"Này người thiện nam! Ông nói niệm niệm diệt" cho đến "Thì sẽ phá tan tất cả phiền não."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi về trường hợp thứ hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là khiển trách ý thứ hai, ý nói tâm là tánh hiểu biết. Dù thay đổi bất thường, nhưng phải nối nhau không dứt, về lý thường gọi là tăng tiến."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói cho đến làm sao không gây ra nghiệp ác cho được. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nêu xưa Phật nói: Ví dụ tu đạo tương tự, không tương tự để chứng minh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì muốn hỏi lại, trước là nhận lời Phật xưa đã nói. Phật nói: "Vì tâm không dứt, nên được niệm niệm thêm lớn". Nếu như vậy thì người Tu-đà-hoàn lẽ ra cũng vô lậu. Vô lậu nối tiếp nhau, làm sao bỏ vô lậu mà sinh về cõi nước vẩn đục ư? Nhưng người Tu-đà-hoàn đã được kiến đế vô lậu, không có ba nghiệp lậu, chính là địa vị của Bồ-tát tam trụ, lẽ nào lại cảm thọ báo biên địa ư? Cho nên nghĩa lý mà một nhà xem xét không nên như vậy. Như trong phàm phu ít có năng lực phước đức, còn không sinh ở biên địa, huống chi hàng Tu-đà-hoàn mà chịu quả báo này ư? Nay, nói sinh vào cõi nước vẩn đục, là bỏ kiến đế năm ấm thanh tịnh vô lậu, khởi môn tư duy phiền não, nên nói là sinh vào cõi nước vẩn đục."
"Phật nói: "Này người thiện nam! Người Tu-đàhoàn" cho đến "Do năng lực đạo nên không gây ra nghiệp ác".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì kiết sử kiến chấp không khởi, nên không mất tên gọi Tu-đà-hoàn."
"Này người thiện nam! Ví như ở Hương sơn, có Sư tử đầu đàn" cho đến "Vì năng lực đạo nên không gây ra các điều ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hương sơn dụ cho năm ấm khi được Sơ quả. Sư tử đầu đàn dụ cho vô lậu của Sơ quả, chim thú dụ cho "Hoặc" kiến đế. Núi, dụ cho ấm của cõi nước vẩn đục."
"Này người thiện nam! Ví như có người uống chất Cam lộ" cho đến "năm ấm của Tu-đà-hoàn cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu rộng các chứng minh không mất."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Thế nào là tu định? Thế nào là tu tuệ?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây là nói về nghĩa tu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn hai là nói về tu đạo được pháp, không được pháp, chỉ vì không gồm chúng sinh, nên nói là không được pháp. Dưới đây có ba lần nói về nghĩa."
Phật nói: "Này người thiện nam! Nếu có người" cho đến "Tu giới định tuệ đó gọi là Thanh văn. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Lớp thứ nhất là chỉ thẳng cả hai nói về đối nhau, là nói về đắc pháp.
Này người thiện nam! Thế nào lại gọi là tu tập giới, đó gọi là tu tập trí tuệ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ hai, y cứ vào năng phá điều đại ác, để nói về được pháp."
"Này người thiện nam! Tu tập giới cho thân được vắng lặng" cho đến "Vì để được pháp thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích rộng tu tướng mạo tu giới, định, tuệ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ ba, nói yếu tâm đại quả gọi là được pháp."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như lời Phật nói" cho đến "Cho nên Niết-bàn không có nhân, không có quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý câu hỏi là: Tiếp theo giới, định, ở trên thứ lớp sinh nhau mà được gọi là thường, vì nghĩa ấy chưa rõ ràng, nên mới hỏi: "Nếu do trí mà được diệt, diệt là xưa không, nay có, có tức là sinh, sinh tức là diệt, trực tiếp vì không sinh, lại diệt, gọi là thường, nghĩa là sinh cũng như vậy, ngay khi sinh liền diệt, không còn sinh còn diệt, lẽ ra cũng là thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: ""Sinh" này dù là đương thể, nhưng vì không nói về "Trụ", "Diệt", nên được gọi là thường, phải có đầu cuối, không thường hằng nên chẳng phải Niết-bàn."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Phật tánh của chúng sinh là đều" cho đến "Cũng không nên nói rằng, Phật tánh như hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân có ba thứ: Chánh nhân, Duyên nhân thì riêng, cảnh giới nhân thì chung. Vì sao?"
Vì ba đạt trí: Một pháp không biết, thì chẳng phải là nhân duyên ba đời của Phật. Mỗi pháp đều có, tức là vô thường, nghĩa là Đức Phật ở chỗ kia đã biết, Đức Phật ở nới này không biết. Vì "Không biết" nên "Hoặc" chưa hết, Phật lẽ ra vô thường?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn thứ ba, nói về tánh đạo bình đẳng.
Sẽ nói rộng về lý này, nên trước nêu câu hỏi."
"Phật nói: "Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh" cho đến "Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp chung ba nhân, nói đều có chung bình đẳng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngày còn ở quả có sáu đường khác nhau.
Sau khi thành Phật, như vậy không có khác."
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Như Phật đã nói" cho đến "Nhưng Phật tánh này vẫn thường trụ, duy nhất không thay đổi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Rộng nêu các ví dụ để giải thích về đồng tu mà không trở ngại."
- Nêu rộng duyên khởi thành Câu-thi.
- Nêu rộng duyên khởi Niết-bàn thành Câu-thi.
- Nêu rộng duyên khởi Tu-đạt, nêu rộng duyên khởi theo ngoạiđạo.
"Bồ-tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Mười sáu nước lớn" cho đến "Nhập Niết-bàn tại thành Câu-thi-na."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chúng sinh có chỗ đợi lậu hết, dưới đây là lấy biện xứ làm Đạo, cho nên thưa hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phần bốn của tu đạo là chỗ gởi của văn nhân, cho nên nói về đạo. Đại ý có năm nhân duyên, thứ nhất là lợi ích rộng lớn cho người, thứ hai là muốn báo địa vãng ân, thứ ba là muốn trở lại chánh thọ trong đây, thứ tư là bản nguyện của quả ấy, thứ năm là theo ngoại đạo."
"Này người thiện nam! Ông không nên nói thành Câu-thi-na" cho đến "Thành nhỏ biên địa tệ ác nguy hiểm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước đáp không nên cho rằng đây là nguy hiểm."
"Này người thiện nam! Ta nhớ thuở xưa cách nay nhiều kiếp như số cát sông Hằng" cho đến "Quyến thuộc của Ta chịu ân mà báo đáp được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói đây là chỗ mới phát tâm, cho nên ở đây."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai là báo ân đất."
"Lại nữa, này người thiện nam! Thuở xưa chúng sinh" cho đến "Tam-muội chánh thọ trong rừng cây Sa-la."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói đây là chỗ thuở xưa xuất gia tu đạo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba là muốn lại ở trong đây được Tam-muội chánh thọ."
"Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở xưa cách nay vô lượng kiếp" cho đến "Trình bày giảng nói kinh Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói đây là chỗ phát nguyện." Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Bản nguyện của quả thứ tư." "Này người thiện nam! Khi Ta mới xuất gia chưa được đạo A-nậu" cho đến "Khi ấy ta im lặng nhận lời kia thỉnh." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì vua Bình-sa trước có thỉnh, cho nên đến đây."
"Này người thiện nam! Khi ta mới được đạo A-nậuđa-la" cho đến "Ta liền đến chỗ ấy nhận sự cúng dường của vua."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây đều là theo ngoại đạo, thứ lớp đến đây. Ngoại đạo bấy giờ đều được
58 hóa độ, cho nên đến đây."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm là theo ngoại đạo, gồm trước nhận lời thỉnh này."
"Sáu vị giáo chủ ngoại đạo nhóm họp ở đây" cho đến "Bấy giờ ta nhận lời liền ở trong đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do đó nêu ra việc ở tinh xá Kỳ-hoàn do Tu-đạt khởi lên."
"Bấy giờ, sáu vị giáo chủ ngoại đạo sinh tâm ganh ghét, bèn cùng nhau đến chỗ vua Ba-tư-nặc kia."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây nói rộng về danh từ ngoại đạo."
"Mà nói như vầy: Đại vương nên biết!" cho đến "Đệ tử của sáu vị giáo chủ ngoại đạo vui mừng ra về."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vua biết có lợi ích, cho nên hứa khả."
"Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc liền ra lệnh trang nghiêm xe giá" cho đến "Tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Tuy ngoại đạo đưa đến đã được lợi ích rất nhiều. Bấy giờ sáu vị giáo chủ ngoại đạo đều bảo nhau rằng cho đến tâm Vô Lượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hễ các vị ấy đến chỗ nào đều lược đã cùng khắp."
- Nêu rộng việc bàn luận về ý nghĩa ngã, vô ngã với sáu vị giáo chủ ngoại đạo.
- Giải thích rộng về duyên khởi ở Ta-la Song thọ.
- Giải thích rộng duyên khởi của ngày rằm tháng hai.
- Giải thích rộng về nghĩa không trụ mà trụ của tất cả pháp tánh.
- Giải thích rộng về nghĩa Niết-bàn Vô tướng.
- Giải thích rộng tướng Xa-ma-tha v.v... của Xả, Định, Tuệ.
"Bấy giờ, sáu vị giáo chủ ngoại đạo đi khắp sáu thành" cho đến "Chỉ giảng nói về thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Sư Tử Hống có khả năng làm cho người đang ngủ say được giác ngộ. Trung đạo mà Phật nói có công năng thức tỉnh giấc ngủ của chấp nghiêng lệch."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngoại đạo đã nghiên cứu về lĩnh vực này, nên họ muốn tìm về nghĩa."
"Lúc đó, sáu vị giáo chủ ngoại đạo nói rằng" cho đến "Tiếng vang dụ cho mắt, thấy dụ cho ngã."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Căn cơ khác nhau, đều là chấp đắm, mà Kiều-trần-như nghe vô thường để thọ đạo, sáu vị giáo chủ ngoại đạo do ưa đắm ngã, nên trái với chân, nghe nói "Ngã", vì cùng ưa thích, nên họ nói là mình đã hiểu nhiều, mà ở đây nói chẳng phải sắc là ngã, họ cho là khác với sự hiểu biết của Đức Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong đây, nói qua, nói lại, không khác gì Tiên ni dưới đây, nhưng tự còn có đồ chúng, chưa được vừa ý, cho đến bè đảng đều hết mười sư, mới chịu hàng phục, trở về với chánh đạo."
"Phật bảo sáu vị giáo chủ ngoại đạo: "Nếu nói người thấy" cho đến "Thấy, nghe sáu trần, nên biết là vô "Ngã"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây có ba câu hỏi về "Ngã" đã chấp. Đây là câu hỏi thứ nhất cho rằng: "Căn chẳng phải "Ngã", lẽ ra như sự khác nhau giữa người và hướng, vì trong một hướng có đủ thấy, nghe?"
"Dẫn ví dụ phương hướng, dù trải qua trăm năm" cho đến nhiều năm căn cơ thuần thục lẽ ra cũng không khác. Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là câu hỏi thứ ba. "Hướng giải thích không có tác dụng, thấy biết chẳng phải hướng.
Nay, nói nhãn căn thuần thục thì mờ tối, nên biết nhãn căn thấy sắc chẳng phải "Ngã".
"Con người và hướng vì khác nhau, nên thấy trong, ngoài" cho đến "Nếu không thấy thì làm sao có ngã?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba: "Nếu không cùng thấy trong, ngoài thì đâu phải là "Ngã" ư" "Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói: "Này Cù-đàm! Nếu không có "Ngã"" cho đến "Nếu có "Ngã" thì chính là thường, lạc, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói thấy thuộc về các "Duyên", không có cái thấy riêng."
"Sáu vị giáo chủ ngoại đạo lại nói: "Này Cù-đàm! Nếu sắc không phải là "Ngã"" cho đến "Ngã" ở khắp tất cả mọi nơi như hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tuy nhiên sắc... do nhân duyên, nên có bốn lỗi. Sở dĩ ta nói tướng "ngã" đồng với hư không là vì không do nhân duyên mà hình thành khắp tất cả mọi nơi, thưa hỏi để chia ra phần số. Vắng lặng, thường trụ không thể sinh, diệt mà năng biết, năng thấy, thường ngự trị các hữu tình."
Phật nói: "Nếu cùng khắp đều có "Ngã", thì lẽ ra không nên nói rằng" cho đến "Nếu gọi là vô thường thì sao lại nói là khắp được?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có hai trường hợp. Đây là câu hỏi thứ nhất: "Ông và ta là người thấy lẽ ra cũng khắp, nay nếu vật thể ở khắp nơi, thì thấy lẽ ra cùng khắp, mà đã khắp thì sẽ không có vật thể, mà vật thì không khắp."
"Nếu khắp các chỗ đều có "Ngã", thì trong năm đường" cho đến "Sao lại nói rằng, chuyển sang thọ thân trời, người?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai: "Nếu khắp năm đường đều có ngã, thì sẽ hợp cùng lúc, mà đã cùng lúc thì không được bỏ thân người để thọ thân trời?"
"Các ông nói "Ngã" là khắp, thì "Ngã" ấy là "Một", sao lại có kẻ cao thượng, người thấp hèn khác nhau?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ tư: "Nếu mỗi Ngã" đều có chủ tự tại, thì đâu có sự khác nhau giữa kẻ ngu, người trí? Việc tạo nghiệp lẽ ra cũng đồng nhau?"
"Này! Cù-đàm! "Ngã" của chúng sinh không có bờ mé" cho đến "Nghiệp quả của chúng sinh chẳng thể không khác nhau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa chống chế của ngoại đạo chỉ chống chế cái gần của nhiều ngã, là "Ngã" khắp thường, pháp không khắp, thường, phi pháp thì không khắp. "Ngã" thường dù khắp, nhưng pháp hạnh là trí, hạnh phi pháp thì ngu, chẳng thể không khác nhau."
"Phật bảo Pháp và Phi pháp của sáu vị giáo chủ ngoại đạo:" cho đến "Nếu không như vậy, thì sao các ông lại nói rằng, "Ngã" là cùng khắp?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu "Ngã" cùng khắp, thì lẽ ra mỗi "Ngã" đều có hai, nghĩa là lẽ ra nghiệp, căn bình đẳng. Nếu không như vậy, thì sao lại nói là "Ngã" cùng khắp?"
"Này Cù-đàm! Như trong một nhà thắp trăm ngàn ngọn đèn" cho đến "Thực hành điều lành, làm việc ác đều không lẫn lộn nhau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý nghĩa chống chế: Như ngọn đèn lớn, nhỏ đều rải rác khắp trong một căn nhà", nhưng vì không nhận dùng đèn nhỏ, nên không khắp."
"Nếu các ông nói "Ngã" như ngọn đèn" cho đến "Ngã" của chúng sinh thì không phải như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phá lối chấp này có ba trường hợp. Đây là trường hợp thứ nhất: "Vì từ "Duyên" sinh nên "Duyên" lớn, đèn lớn, có thể khác nhau. "Ngã" không từ "Duyên", thì không nên khác nhau."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngọn đèn và ánh sáng đều từ "Duyên" mà có. "Ngã" đã không như vậy, thì làm sao dụ cho ánh sáng của ngọn đèn. Cần phải có gốc, có ngọn: Chủ yếu ở ngọn lửa là gốc, ánh sáng ở trên dụ cho ngọn. "Ngã" không phát ra từ thân, mà trụ ở chỗ khác, cho nên vô ngã."
"Ánh sáng tỏa ra từ ngọn đèn, dừng lại ở chỗ khác" cho đến "Từ thân phát ra, dừng lại ở chỗ khác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai: "Ngọn đèn khác với ánh sáng, "Ngã" chẳng khác với pháp, phi pháp. Nếu khác thì ngã không khắp."
"Ánh sáng của ngọn đèn kia ở chung chỗ với bóng tối. Cho đến "Nên biết rằng, ánh sáng ban đầu ở chung với bóng tối."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba: "Vì ngọn đèn ban đầu nhỏ, nên không thể xua tan được bóng tối lớn, ở chung với chỗ bóng tối, thì chỗ bóng tối không có ánh sáng, tức là ánh sáng không khắp."
"Này Cù-đàm! Nếu không có "Ngã" thì ai tạo ra điều lành, việc ác" cho đến "Sư Tử Hống gọi là Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không tạo tác thì không có thiện ác. Điều ác là tác nghiệp, tất nhiên phải có tác giả. "Ngã" là tác giả, mà tác giả là hữu vi vô thường!"
"Này người thiện nam! Cặp cây bên hướng Đông là phá vô thường" cho đến "Đại tịch định, gọi là Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tám cây, nghĩ định tám pháp.
Tám pháp được biểu dương sáng tỏ, vẫn là chỗ ánh sáng."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Như Lai" cho đến "Cho nên Như Lai nhập Niết-bàn vào tháng hai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có khi đợi thời mới lậu tận: Kế thời tiết tức là đạo. Nói Như Lai chân thật, nghĩa là phá thuyết lúc khởi lên bốn đảo.
Sáu thời: Tức là ba thời, mỗi thời đều chia làm hai." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn văn thứ năm của tu đạo. Thời là Đạo. Đã là chúng sinh vào bến đạo, do khiển trách tình chấp ngang trái của chúng sinh kia, khiến cho giác biết không thật để được yên ổn."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Như Lai lúc mới sinh" cho đến "mà người mẹ thật ra không chết."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì từ lúc mới sinh cho đến mới đắc đạo, đều là phương tiện, chẳng phải viên mãn cùng cực, nên chưa mãn mà hiển bày. Nay, đã nói lý tròn đầy, mượn ví dụ như trăng tròn."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Các Tỳ-kheo nào có công năng trang nghiêm rừng Ta-la Song Thọ này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp do người mở mang rộng lớn, nên nói về người hoằng pháp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Căn tánh của chúng sinh khác nhau. Nếu phải lấy một ngàn người làm duyên, thiếu một người thì sẽ không ngộ, mà phải đủ số. Nay, lược vài người, nếu nêu rộng ra, thì việc ấy cũng khó có thể làm rõ ngay."
"Phật bảo: Này người thiện nam! Tất cả các pháp" cho đến "Phương Nam, Tây, Bắc, bốn duy, trên, dưới."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ nhất, giải thích nghi ngờ rằng: "Như Lai nhập Niết-bàn tức là không được tự tại. Nay, khiển trách lối chấp này: "Phật đã cắt đứt mọi ràng buộc của tất cả sắc, trói buộc của phiền não đã hết sạch mà thể nhận vô tướng. Nếu chẳng đạt được "Không" thì có thể đi, ở."
"Này người thiện nam! Nếu có thuyết nói rằng thân, miệng, ý ác" cho đến "Trụ trong thành Câu-thi-na, cũng không có việc đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì hữu vi nối nhau, nên trụ không bao giờ có thật trụ. Như Lai đã dứt hẳn hữu vi, không nên thỉnh trụ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai là khiển trách chấp. Trước đây đã nói về tướng đạo, nhưng lý "Không" khó yên, vì đối với người ngu thấp hèn chưa tỏ ngộ, nên dẫn ví dụ để nói. Về lý nói là tất nhiên, công phu thực hành điều lành, không thể làm cho họ mắc quả ác mà cũng không thể khiến cho họ làm việc ác mà được quả lành. Hai nhân đã không thể sai khiến, lại nói về đạo, là vô tướng vô vi, cuối cùng trụ ở chỗ nào ư?"
"Này người thiện nam! Nay, Như Lai ở thành Câuthi-na này" cho đến "Do các nhân duyên trên đây, nên Như Lai vào hang thiền định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói Niết-bàn vô sinh, không có các cõi. Như Lai liền Niết-bàn, mà nói giáng sinh trong cung vua, nhập diệt ở Song thọ, nghĩa là lấy xuất động là sinh, nhập diệt là diệt, dấu vết ứng vật, thì làm sao nhập hang thiền định?
Sẽ chỉ bày ý chỉ thị hiện nhập diệt để đem lại lợi ích cho người đương thời, nên Bồ-tát mới nêu lên câu hỏi này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Khuyên đi đến chỗ Phật mà nhập định, vì hóa độ chúng sinh được Niết-bàn vô tướng."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Định vô tướng" cho đến "Do nghĩa này nên Niết-bàn gọi là thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi lại nghĩa Niết-bàn vô tướng. Nói trong Niết-bàn không có mười tướng khổ. Muốn cho người tu hành hướng về tu nhân là niềm vui, biết tướng chấp đắm là lôi lầm, vô tướng là chứng đắc.
Nói về đạo có rộng có lược. Đầu tiên, từ Diệt định, cho đến cuối cùng là môn Phương Quảng. Nay nói về môn lược có hai, chỉ nói về trước, sau của định này." "Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Các Tỳ-kheo nào" cho đến "Tu tập tướng xả, đó gọi là ba tướng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói về lợi ích vô tướng của Niết-bàn. Vì lợi do nhân mà được, cho nên hỏi. Thường hay tu tập đến cuối cùng, gọi là ba tướng. Một là tu thời, một là nên tu thời, nhất định có thể dứt bỏ tán loạn, tuệ trừ điên đảo, bỏ điều phục nhanh chậm.
Môn lược nêu chỗ cốt yếu. Ba tướng này là yếu hạnh của Niết-bàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Văn thứ tám của tu đạo. Phát ra người năng tu đạo. Nói Bồ-tát chẳng có lúc nào không tu ba pháp: Định, tuệ, xả, nên nói là thường thường."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Sao gọi là" cho đến "Hai tướng tuệ, xả cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu tâm ở duyên, không tán loạn là định, niệm niệm theo duyên đều không tản mát. Tâm ở một cảnh, không bao giờ gọi là Tammuội, nếu tâm nối nhau một cảnh gọi là định. Như tâm kia chẳng phải định, chẳng phải trí nhất thiết, "Duyên bốn thì chẳng phải định. Cho nên phá lẫn nhau là vì tu định, tuệ là trí nhất thiết. Trí nhất thiết nghĩa là không pháp nào chẳng biết, gọi là trí nhất thiết. Xét định gọi là trí, một thể phải đủ hai, không đủ thì chẳng phải trí nhất thiết.
Không phải Trí nhất thiết, làm sao gọi là định? Nghĩa là nếu không "Duyên" khác, không biết tất cả, chẳng phải mất thẳng tất cả cũng lại mất đi cái biết thấp, lấy hạnh làm khác. Định, tuệ cũng giống như vậy, nghĩa là cũng dùng phi định để phá tuệ, chứ chẳng phải tuệ phá định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã nói ba tên gọi này, vì chúng đương thời có nghi, nên Bồ-tát Sư Tử Hống đặt ra ba câu hỏi trong một pháp, nêu định để phân biệt, tuệ xả cũng như vậy. Đây là thứ nhất rằng: "Chúng sinh tự có Tam-muội thì cần gì phải tu? Câu hỏi thứ hai: "Định vốn nhiếp tâm một cảnh, Phật đã "Duyên" khắp muôn cảnh, tức lẽ ra chẳng phải định? Câu hỏi thứ ba: "Nếu dùng một hạnh mà được Tam-muội thì tức là chỉ có độ thiền định trong sáu độ, năm độ còn lại lẽ ra không phải? Nếu định không phát sinh ra trí thì cũng chẳng phải định?"
"Phật nói:" Này người thiện nam! Như ông vừa nói" cho đến "Duyên" các cảnh khác như vậy, cũng là một cảnh."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước, khiển trách câu hỏi thứ hai: "Chỉ làm cho được định trong một cảnh, thì tất cả cảnh đều tĩnh chiếu, nên nói "Duyên" các cảnh khác như vậy cũng là một cảnh."
"Hạnh cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ ba: "Nói về hạnh sáu độ, đều là tĩnh, đều là tác dụng của kiến giải trong "Duyên", đâu chẳng phải là trí ư?
"Ông lại nói, chúng sinh trước đã có Tam-muội" cho đến "Sao lại nói rằng không cần tu tập?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý đáp: Dù chia ra phân biệt bốn đế, nhưng đều được "Duyên" lại, vừa là định, vừa là trí. Tam-muội thiện, nghĩa là vì Niết-bàn tu Tam-muội thiện, chẳng phải tâm trụ trong cảnh, tức là nhân Niết-bàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ nhất. Ở đây nói Tam-muội, gọi là Tam-muội thiện. Tâm hạnh của tất cả chúng sinh dù có thiện ác, nhưng ở đây không cho tâm này là định."
"Do trụ trong Tam-muội thiện như vậy" cho đến "Thấy Phật tánh gọi là tướng xả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây là nói rộng tướng thiện và bất thiện."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, đại khái có ba lớp, nói về ba pháp này."
1. Trực tiếp nói chung tướng định, tuệ, xả.
2. Từ Xa-ma-tha, gọi là chủ thể diệt, để bỏ cách giải thích riêng về ba pháp này.
3. Từ Xa-ma-tha có hai thứ: Thế gian và xuất thế gian, trở xuống giải thích nghiêng về hai pháp định, tuệ. Bồ-tát Thập trụ, năng lực trí tuệ nhiều, mà năng lực Tammuội ít. Nếu nhiếp tâm ở cảnh, "Không" rong ruổi "Theo duyên" bên ngoài, gọi đó là định. Bồ-tát Thập trụ chưa ở địa vị cùng cực, sẽ không khỏi mong ngóng tâm trên, nên về nghĩa, nói là trí nhiều, định ít, đó chẳng phải là lời nói liễu nghĩa."
"Xa-ma-tha, gọi là năng diệt" cho đến "Cũng gọi không hành, đó gọi là xả."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích thứ hai là Xa-ma-tha. Hán dịch là Định. Trong đây, dùng năm nghĩa để giải thích về Định. Tỳ-bà-xá-na, Hán dịch là trí tuệ, trong văn này giải thích có sáu nghĩa.
Ưu-tất-xoa, Hán dịch là Xả. Y cứ vào "Giải không" để gọi, trong văn có bốn nghĩa để giải thích về xả".
"Này người thiện nam! Xa-ma-tha có hai thứ" cho đến "Này người Thiện nam! Đây gọi là tướng Tammuội."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên là nói chung. Ở đây có công năng của ba tướng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba, là giải thích riêng về tướng trạng sâu, cạn của định tuệ. Vì Xả không có tự "thể" riêng, nên không chia môn. Trong đây tự có hai ý:
1. Chính là nói về sự sâu, cạn của định, tuệ.
2. Nói việc làm của người tu định, tuệ. Về sự sâu, cạn trong định, thế gian nói là định hữu tướng, xuất thế gian gọi là định vô tướng. Ở đây trước là nói về tướng trạng sâu, cạn của định."
"Này người thiện nam! Tuệ có hai thứ" cho đến "Lại có bốn thứ, cái gọi là bốn chân đế."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây sẽ nói riêng về hai thể định, và tuệ. Xả không có tự thể riêng, cho nên không nói."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích về sự sâu, cạn của tuệ." "Này người thiện nam! Vì ba nên tu Xa-matha" cho đến "Vì phá bỏ tất cả phiền não."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói ba tướng có nhiều công năng. Nay nói điều quan trọng trong công năng cho nên tu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Lớp thứ hai, kế là nói về tu định, tuệ có chỗ làm. Trước, có ba trường hợp nói về định. Sau, có ba trường hợp nói về tuệ. Kiết hợp hai môn định, tuệ thành sáu trường hợp giải thích nghĩa.
- Vẫn nói về Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na.
- Nói về ý nghĩa dứt phiền não, hiển bày hai thứ diệt: là Tánh diệt và rốt ráo diệt.
- Phối hợp ba thứ "Tam-muội Không" với tướng định, tuệ, xả.
- Nói về thành tựu mười pháp, thấy Niết-bàn vô tướng.
- Nói bố thí cho súc sinh, được quả báo gấp trăm lần, bố thí cho xiển-đề sẽ được quả báo gấp ngàn lần.
- Nói rộng về quả báo của nghiệp nhẹ nặng, nghiệp định, bất định và thời gian nhất định, không nhất định....
- Nói rộng về Bồ-tát không có nghiệp của ba đường, thấy việc thọ báo.
- Nêu ra duyên khởi Điều-đạt và Phật làm người dẫn đầu đoàn lái buôn.
- Nêu ra duyên khởi vua Ca-la-phú hình phạt Bà-lamôn.
- Giải thích: Do năng lực tu đạo nên chuyển nghiệp nặng thành nghiệp nhẹ.
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói trong kinh" cho đến "Vì sao lại tu Xa-ma-tha?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cuối phẩm trên nói tuệ có công năng phá tan kiết. Nay, nói chẳng những trực tiếp công năng của tuệ mà cần phải có ba pháp kiết hợp công dụng, nên trước là nói về định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ chín là tu đạo, nói về định, tuệ giúp nhau. Trên đã nêu người năng tu đạo. Nay kế nói về định, tuệ kiết hợp công dụng, nên trước là nêu câu hỏi: "Nếu trí tuệ có công năng đối trị "Hoặc" thì cần gì phải tu định? Vì phàm phu cho rằng, trí tuệ có công năng dứt trừ "Hoặc", cho rằng phiền não như hình tượng việc, là cái mà trí tuệ có thể dứt bỏ.
Nay, Đức Phật y cứ vào năm môn để giải thích rằng, chẳng có nghĩa dứt, vì nếu không tu định thì sẽ không đạt được kiến giải. Năm môn đó là:
1. Y cứ vào pháp thật.
2. Y cứ vào môn "Không".
3. Y cứ vào đến, không đến.
4. Nói về bạn, chẳng phải bạn.
5. Suy tìm tánh diệt.
Xét trong năm môn này đều không có nghĩa phá."
"Phật bảo: Này người thiện nam! Ông nói Tỳ-bà-xána" cho đến "Nói rằng có khả năng xua phá bóng tối, thì không có việc đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Với khả năng biết các pháp tự sinh, tự diệt, tuệ không thể phá, nếu chẳng phải do tâm định thấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ nhất nói: "Lúc trí tuệ phát sinh, ba tướng đã dời đổi, đương thể tự diệt, trong đạo thật pháp đâu có chủ thể phá, đối tượng phá?" "Này người thiện nam! Ai có trí tuệ? Ai có phiền não?" cho đến "Nếu phiền não kia đã không có thì sẽ không có sở phá!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ hai là nói về phá và không phá. Vì vô chủ cho nên là không."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ hai nói, về thể tánh đều không, nên chẳng có năng phá."
"Này người thiện nam! Nếu nói trí tuệ có công năng phá tan phiền não" cho đến "Mà có thể phá thì nghĩa ấy không đúng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ ba, nói về hữu vô. Trí khởi thì "Có", nên gọi là "Đến", không khởi thì vô, cho nên "Không đến". Ý niệm ban đầu nên phá: Một niệm phá tan tất cả kiết, tức là "Không đến", như sáng và bóng tối trái nhau. Ánh sáng chiếu soi thì bóng tối xua tan, nên "Không đến" tức đồng với phàm phu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ ba nói về thế lực của lời nói. Tương như khi trí đến thì phá tan phiền não, lúc trí không đến thì không phá, nghĩa ấy không đúng. Nói là năng phá, nghĩa là ngay khi trí "Đến", thì tâm người tu hành phá được, hay khi trí "Chưa đến" mà phá được ư? Nếu khi trí chưa đến mà phá thì ngay niệm đầu lẽ ra phải phá. Nhưng nay người tu hành có vô lượng ý niệm. Nếu niệm ban đầu không phá thì sẽ không cần niệm sau. Nếu niệm đầu vừa đến liền phá tức là "Không đến". Trí tuệ niệm niệm sinh diệt. Niệm đầu không kịp nhau thì đâu có nghĩa đến, không đến. Nếu nói vì "Đến" kiết hợp với "Không đến" nên phá được, thì cũng không có nghĩa đó."
"Lại nữa Tỳ-bà-xá-na phá phiền não" cho đến "Tỳbà-xá-na cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ tư nói về môn bạn, chẳng phải bạn".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ tư, nói về một đạo trong tám Chánh đạo, nên có chủ năng phá, vì chung nên có thể phá. Nếu một đạo mà phá được thì không cần tu đủ tám. Nếu một đạo không thể thì tám đạo cũng không thể, chính là nêu người mù làm ví dụ để dễ hiểu."
"Này người thiện nam! Như mặt đất có tánh cứng, hỏa đại, có tánh nóng" cho đến "Quyết định không thể dứt trừ các phiền não".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Môn thứ năm nói về Diệt, không Diệt. Tánh diệt của phiền não, trí không thể diệt. Nếu tánh không diệt thì trí cũng không thể diệt. Trước dùng năm đại làm thí dụ, lấy chất cứng khác làm thí dụ, lẽ ra cũng như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Môn thứ năm là chia trong đây thành ba ý, nói cũng không có nghĩa "Dứt". Đầu tiên dùng bốn đại để so sánh. Mỗi đại đều thích hợp với tánh chất riêng của chúng, thì cái gì làm cho chúng như vậy ư? Kế là ý nói: "Nếu nói như tánh muối là mặn, và làm cho vật khác mặn. Trí tuệ mạnh mẽ làm cho phiền não tiêu diệt", cũng không đúng, ý sau nói: "Phiền não và trí tuệ đều cùng niệm niệm diệt, mà nói là trí tuệ có công năng dứt, cũng không đúng."
"Này người thiện nam! Như tánh muối là mặn, làm cho vật khác mặn" cho đến "Tánh trí tuệ không phá tan phiền não."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về tánh của kiết chẳng phải diệt, nên trí không thể diệt. Nếu lấy ví dụ muối có thể làm cho lạt, thì trí có công năng diệt được kiết, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì tánh mặn, lạt chẳng đi chung: Lúc vị mặn có thì vị lạt đã thành quá khứ. Quá khứ tự diệt, chứ chẳng phải vị mặn diệt. Nếu pháp hữu, vô diệt thì làm sao trí tuệ mạnh mẽ làm cho pháp đó diệt được, nghĩa là nếu pháp quá khứ diệt, chẳng phải tự nó diệt, thì làm trí tuệ mạnh mà có thể làm cho nó diệt được ư? Thế sao lại nói rằng có công năng diệt "Hoặc"? pháp khác là sự sinh của ngoại đạo, ý suốt qua câu hỏi về sức mạnh nói trên. Có nghĩa là trí lực sáng suốt, mạnh mẽ, còn "Hoặc" thì tánh chất yếu ớt, làm diệt "Hoặc" cũng không đúng. Vì sao? Vì tất cả Pháp vừa sinh thì diệt ngay, sinh tử mạnh yếu đâu thể diệt cái khác?"
"Này người thiện nam! Tất cả các pháp có hai thứ diệt" cho đến "Sinh khác, diệt khác, không có người tạo tác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vật có sức mạnh làm cho cái khác diệt. Về lý thì không đúng, dẫn chứng để phá: Niệm niệm như nước chảy, vừa diệt liền sinh, tức tánh diệt nói trên. Như lửa đốt củi, không còn trở lại củi nữa, rốt ráo mất hẳn, lẽ ra có đốm lửa tàn còn sót lại, nghĩa là sắc chẳng phải lự giải, không đợi phương tiện, nhậm vận ứng khởi là có. Duyên lửa vì đoạt ngang, nên có đốm lửa tàn còn lại, có thể nói là miễn cưỡng tắt. Tâm chờ đợi phương tiện, vị lai chưa có, thì không phải là gượng tắt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Năm môn trên nói về pháp, nói không có đối tượng dứt. Nay, từ tánh diệt, rốt ráo diệt trở xuống, chắc chắn đối với pháp tướng, phiền não vừa khởi liền dứt. Vì không cần đạo đối trị, nên nói là tánh diệt. Rốt ráo diệt, nghĩa là hiểu được lời nói. Khi khởi lên một niệm si mê, thì không nhận thức đối với muôn cảnh. Nếu tu đạo được hiểu biết thì đối với muôn cảnh đều được sáng suốt, tác dụng mê mờ không bao giờ khởi, gọi là rốt ráo diệt. Khi đạo sinh, cũng không có phiền não để dứt.
Nếu hiểu được không dứt mà dứt, thì gọi là nghĩa đúng. Khi xưa không có kiến giải, nên thường si mê. Nếu một sát-na ánh sáng bừng lên, đối với cảnh đều thấu suốt. Niệm thứ hai trở đi, nói rằng mới được gọi là dứt, một niệm trước không có hình tướng nên không được gọi tên, nếu đến niệm thứ hai trở đi, nói rằng: Trước si mê nay hiểu biết, vốn không dứt mà nay dứt."
"Này người thiện nam! Nếu không tu tập chánh định" cho đến "Được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do tâm không dạy bảo tuệ, được dụng của định thấy "Không", sẽ được lợi ích lớn, là lợi ích dứt trừ phiền não."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Khuyên người tu hành nếu không tu định thì sẽ không được chánh trí, chánh kiến, cũng không thể nhận được nghĩa phá và không phá của năm môn trên."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ" cho đến "Định, Tuệ của Bồ-tát cũng giống như vậy."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba là xả công dụng, xả không có pháp riêng làm thể. Chấp gấp rút thì đoạn, sớm trì hoãn thì mất, cấp bách thì dứt. Chuyên "không" thì chấp dứt, ví dụ cho định nhiều. Bỏ "Không" chấp "Hữu", dụ cho tuệ ít. Đối với "Không", bất không, đối với hữu, bất "Hữu", công dụng đồng xả của định, tuệ."
"Này người thiện nam! Như người thợ dùng kềm, khuôn để gắp và đựng vàng" cho đến "Tu hai pháp này sẽ được lợi ích lớn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kềm, khuôn dụ cho định, khuấy trộn dụ cho tuệ."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Đó gọi là niềm vui của Đại bát Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói dứt kiết, ở dưới nói tất cả công đức đều do ba pháp mà thành."
"Này người thiện nam! Tướng định gọi là "Tammuội Không" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát thực hành đạo Bồ-đề."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quán sinh tử có tướng, quán Niết-bàn vô tướng."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là Bồ-tát biết thời, phi thời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắp giải thích nghĩa thời, phi thời ở trên nên hỏi."
"Này người thiện nam! Đại Bồ-tát" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết thời, phi thời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không nên tu trí, vì trí tăng thì lắm ngạo mạn."
"Nếu có Bồ-tát siêng tu tinh tấn" cho đến "Đó gọi là Bồ-tát biết thời, phi thời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không nên tu định, nghĩa là người này căn tánh chậm lụt, thế phiền não hưng thịnh, tự nghi ngờ việc mình phạm giới, đều do mê đắm định. Cho nên tu không tuệ.
"Này người thiện nam! Nếu có Bồ-tát nào tu tập hai pháp định, tuệ" cho đến "Do nhân duyên này, nên được Niết-bàn vô tướng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai pháp dù bình đẳng, nhưng phiền não dễ sanh khởi, nên lại phải tu cả hai, có khả năng chế ngự phiền não, sau đó mới tu xả."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Vì không có mười tướng" cho đến "Tức thấy được Phật tánh một cách rõ ràng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắp vì người mới tu hành, lại hỏi mười danh từ hữu dư của Niết-bàn, nhằm chỉ rõ lợi ích của vô tướng, giúp cho người mới tu hành có được niềm tin."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là đoạn văn thứ mười nói về tu đạo. Dùng câu kiết nói rộng về nhân quả: "Nếu có đủ mười pháp này thì sẽ thấy Phật tánh, được Niết-bàn vô tướng."
Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát" cho đến "đó gọi là Bồ-tát có đầy đủ tín tâm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có đầy đủ tín tâm: Vì tín là hạnh bắt đầu, đứng đầu trong mười pháp."
"Hai là đầy đủ giới, thế nào gọi là" cho đến "thì sẽ thấy rõ Niết-bàn vô tướng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích đủ mười hạnh. Cắt đứt được là sinh tử, không thể cắt đứt là Niết-bàn. Từ duyên sinh hữu vi. Từ duyên thấy là vô vi. Quả cũng như vậy."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như trước kia, Đức Phật đã bảo" cho đến "Tam-bồđề, nghĩa ấy thế nào?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ năm là môn Chuyển chướng. Tu đạo là chuyển nghiệp, kế là nói về đạo. Thuần-đà thọ báo, chưa hết kỳ hạn, làm sao được thành tam-bồ-đề ư"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trên chuyển kiến giải tu đạo, trở thành câu hỏi "Đã có" trong nhân. Nay, chuyển biến chướng, khuyến tu, thành bảy chấp tánh không ở trước. Sở dĩ như vậy là vì nói rằng: "Dưới đến súc sinh, trên tận cùng Chư Phật, đều là ruộng phước. Nếu bố thí, thì sẽ được phước báo vô tận", há chẳng do vô tánh trong nhân, sẽ mãi mãi ở trong ba cõi ư? Y theo chuyển chướng có năm đoạn:
1. Nói về thể chuyển chướng của nghiệp thiện, ác.
2. Nói về Bồ-tát dùng nguyện lực đọa vào địa ngục, chẳng phải đọa thật, mà là phân biệt ngoài địa ngục này.
Trở lại thể của chánh nghiệp. Trên nói là nghiệp có công năng chuyển biến tình người, nghĩa là nghiệp báo lẫn lộn, cho nên phải nói. Dù có chuyển đổi, nhưng về nghĩa nghiệp báo đâu thể thiếu được ư?
3. Nói ở trên dù nói chuyển, nay nêu ra người tu hành kia.
4. Nói về người tu hành nhờ thực hành điều gì mà chuyển được nghiệp? Là nêu ra hạnh chuyển nghiệp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì nói về nghiệp không nhất định, nên trước dẫn lời dạy xưa nói về định nghiệp để đặt ra câu hỏi: "Chẳng những nghiệp ác ngăn che đạo, mà nghiệp lành cũng có công năng ngăn che như giáo xưa nói: "Nếu tâm nặng tạo nghiệp, thì phải cảm thọ quả báo." Nếu vậy, nay, Thuần-đà tâm trân trọng cúng dường Phật, sẽ cảm thọ quả báo cõi trời, cõi người vô tận, sao sẽ nhập cõi Thánh ư?" Bạch Phật Thế tôn! Như trong kinh Phật có nói nếu bố thí cho súc sanh cho đến Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là nói về quả báo tốt đẹp của thắng địa, không thể dứt sạch nghiệp chướng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thí cho súc sinh, nghĩa là nêu giáo nghiêng lệch để thưa hỏi. Thí cho xiển-đề, là y cứ vào người. Dưới cùng là súc sinh, trên cùng là Chư Phật, thiện ác đồng như vậy. Quả báo của bố thí kia vô tận, đều không nói về nghĩa chuyển, là vì dẫn ra đây để làm câu hỏi. Theo như giáo xưa, Đức Thế tôn nhận cúng phẩm của Thuần-đà, thì sẽ được quả báo vô lượng, đâu có khi nào thấy Phật tánh thành Phật ư?"
"Trong kinh, Đức Thế tôn còn nói: "Nếu người nào có tâm trân trọng" cho đến "Làm sao được thấy Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ hai, do tâm trân trọng, nên ứng với quả vô tận!"
"Trong kinh, Đức Thế tôn lại nói: "Thí cho ba hạng người" cho đến "Hai là cha mẹ, ba là Như Lai."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba nêu ba hạng: Người bệnh, khởi tâm trân trọng từ bi, vì mang ân sâu nặng nuôi nấng của cha mẹ, Như Lai là ân hơn hết trong bốn ân. Thí cho ba hạng người này, phước ấy bằng nhau, dẫn việc này để làm chứng."
"Trong kinh, Đức Thế tôn lại nói: "Phật bảo A-nan" cho đến "Nghiệp cõi Sắc, Vô sắc cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ tư là nêu lời dạy xưa của Phật thành thuyết. Nếu chúng sinh kia không có ba nghiệp, thì sẽ thành Bồ-đề, cho nên chúng sinh chưa từng không có nghiệp này, cho nên sẽ chiêu cảm quả báo vô cùng, biết đến bao giờ sẽ được thành Bồ-đề ư?" "Bạch Đức Thế tôn! Như bài kệ trong kinh Pháp Cú: "Chẳng phải hư không, trong biển cả" cho đến "không thể nào thoát khỏi nghiệp báo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm là nêu phải thọ quả báo, không thể tránh khỏi."
"Lại, A-ni-lâu-đà nói: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Thành tựu đầy đủ Đàn ba-la-mật."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ sáu là nêu ví dụ bố thí một bữa ăn còn cảm được quả báo trong tám muôn kiếp, là so sánh báo cạn với báo sâu."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu quả báo lành không thể cùng tận" cho đến "Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là nói về tâm thù thắng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ bảy là dùng nghiệp lành để so sánh với nghiệp không lành, cho đến xiển-đề chịu quả báo vô cùng, cho nên không có Phật tánh."
"Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người thiện nam!" cho đến "Trong mười Lực của Phật, thì nghiệp lực là sâu nhất."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghiệp đã diệt từ lâu, quả sinh ở đời sau. Lý này khó thấy, vì vui mừng nên sinh ngờ vực, chê bai, nói là tâm sâu xa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì sắp đáp câu hỏi, nên trước Phật có lời khen."
"Này người thiện nam! Có các chúng sinh" cho đến "Vì hóa độ họ, nên ta nói như thế"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mở ra xưa nhất định nói về môn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Theo thuyết xưa nói là báo nặng, không thể đổi dời. Vì e người không tin, nên mới nói nhất định. Nếu xét cho cùng về lý thì không phải như vậy. Nói về nghiệp thì chẳng phải không được quả, chỉ còn có "duyên" khác, thoát khỏi quả ở trước, nên nói là chuyển được."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vốn vì người không có trí, ngu si thấp hèn nên nói. Chúng sinh qua đó, không tin được quả, nên nói lời nhất định này."
"Này người thiện nam! Tất cả nghiệp gây ra có nhẹ, có nặng" cho đến "Một là quyết định; hai là không quyết định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mở ra môn không nhất định nay, đây là tất cả đều không nhất định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là một lượt, trước mở ra ba môn:
1. Nói về không nhất định.
2. Nêu ra ngu trí.
3. Nêu ra pháp đã thực hành của hai người."
"Này người thiện nam! Có người nói: "Nghiệp ác không có quả" cho đến "tất cả nghiệp tạo ra, chẳng có nghiệp nào không được quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích xưa nhất định nói về môn."
"Này người thiện nam! Hoặc có nghiệp nặng có thể làm cho nhẹ" cho đến "dù không nhất định được quả, cũng chẳng phải không được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Theo nghiệp đã tạo ra có nhẹ, có nặng. Đây là lượt thứ nhất, nói nghiệp đều không nhất định."
"Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh gồm có hai hạng" cho đến "Nghiệp nhẹ ở đời hiện tại, trở thành cam chịu quả báo nặng ở địa ngục."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích môn không nhất định. Chỉ có người ngu, trí, là giải thích rõ vì sao không nhất định, là do ở con người. Với tội ác nặng mà chịu báo nhẹ, chẳng phải đều không thọ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là giải thích thỏa đáng về nghĩa chuyển rằng người ngu tạo nghiệp, đáng lẽ phải khổ nhẹ, đàng này vì không biết hổ thẹn, để tu pháp lành, nên tội chướng ngày đêm càng thêm lớn, quả báo nhẹ trở thành cam chịu quả báo nặng của địa ngục. Nếu là người trí, thì xưa kia có gây ra điều ác do thế lực của nghiệp này, đã cảm ba đường, cũng cảm khổ nhẹ, vì họ có duyên tâm tuệ tu thân giới, bèn làm cho quả báo khổ nặng, không còn cảm thọ nữa, chỉ chịu các khổ như nhức đầu.... Về nghĩa tuyên bố là chuyển."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là thứ hai, đưa ra hai hạng ngu, trí."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Nếu như vậy" cho đến "Phạm hạnh thanh tịnh và quả giải thoát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đại ý câu hỏi: "Nếu cảm thọ quả báo nhất định, có thể tu phạm hạnh, nếu cầu giải thoát không nhất định, thì cần gì cầu xuất ly ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghiệp đã không nhất định gặp, thì sẽ chuyển ác sinh thiện."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây thứ ba, nêu ra pháp mà hai người ngu, trí đã thực hành. Vì định nói về nghĩa, nên Bồ-tát Sư Tử Hống trước nêu câu hỏi này: "Nếu quyết không nhất định, thì tự bỏ được nghiệp, đâu cần phải tu đạo ư?"
"Phật bảo: Này người thiện nam! Nếu tất cả nghiệp" cho đến "Thì tu phạm hạnh và quả giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đại ý đáp: "Nếu là quyết định thì làm sao được giải thoát? Vì "Duyên" không nhất định, cho nên phải tu phạm hạnh, để cầu giải thoát."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chính vì pháp tướng không nhất định, nên sẽ được nghĩa tu có chuyển. Nếu làm cho nhất định không thể chuyển, thì người ác lẽ ra thường làm ác, thậm chí ít khi tạo nghiệp, lẽ ra ít khi cảm thọ quả báo."
"Này người thiện nam! Nếu lìa bỏ tất cả nghiệp ác" cho đến "Làm sao có tu đạo Niết-bàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại nêu các nghiệp, nghĩa là nếu nhất định thì sẽ có lỗi như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chính vì không nhất định, nên phải tu đạo. Nếu là quyết định thì tu đạo có ích lợi gì?"
"Này người thiện nam! Nghiệp có hai thứ: Nhất định và không Nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây là nói về ba môn trước. Môn sau, lại nêu lần nữa hai hạng ngu, trí.
Câu tổng kiết, đều hợp với trước, sau, gồm có bảy môn."
"Định nghiệp có hai: Một là báo định; hai là thời định" cho đến "Cái gọi là Hiện thọ, Sinh thọ, Hậu thọ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích nghiệp nhất định, không nhất định ở trên. Kinh Ưu-bà-tắc Giới chép: "Nghiệp có bốn thứ:
1. Báo định, thời định.
2. Báo định, thời bất định.
3. Thời định, báo bất định.
4. Thời bất định, báo bất định.
Nay, nói hai thứ: Vì hai báo đầu nhất định hợp thành một".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trước đã nói có chuyển. Nay, nêu rộng Báo định, Thế định, để làm rõ nghĩa chuyển được. Nói là Báo, vì về lý không ngoài Thế định, Báo định. Nếu Thế, Báo đều nhất định thì nhà này là nặng. Nếu Báo nhất định, Thế không nhất định thì đây là nhà thứ hai. Nếu Thế định, Báo bất định thì đây là nhà thứ ba. Nếu Báo, Thế đều không nhất định thì đây là nhà thứ tư."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phần cuối cùng sau đây là ba nghiệp báo đều làm chứng cho tánh nghiệp bất định của môn thứ nhất ở đầu."
Ý nghiệp có hai thứ: Nhất định và không Nhất định. Nay mở ra bốn trường hợp để nói về Thể của nghiệp:
1. Thời gian nhất định báo không nhất định: Lúc người này tạo nghiệp, bất luận nhẹ, nặng, chỉ là gây tạo trong tâm trạng mạnh mẽ, nhạy bén. Sau khi tạo nghiệp, lại trải qua vận dụng tâm thệ nguyện để theo đuổi nghiệp này, gọi là nghiệp nhất định. Nếu thời gian này khác nhau thì sẽ không bao giờ còn thọ báo nữa.
2. Báo Nhất định, thời gian không Nhất định: Người này khi tạo nghiệp, tâm rất tha thiết, trân trọng, chưa phải quyết đoán. Lại, vì không có tâm thệ nguyện, nên hoặc hiện thọ, sinh thọ, hậu thọ (Thọ báo trong hiện đời, đời kế, đời sau), đều không Nhất định. Nghĩa là lúc tạo nghiệp không chú trọng lại không dứt khoát.
Cả hai đều Nhất định: Trái với các trường hợp nói trên."
"Này người thiện nam! Nếu tâm nhất định gây ra những nghiệp thiện, ác..." cho đến "Cúng dường Tam bảo, thì đó gọi là nghiệp Nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích về Định nghiệp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong bốn trường hợp này, trường hợp một, hai, bốn đối với người ngu đều nhất định. Nếu là người trí, thì cả bốn trường hợp đều không nhất định. Người ngu vì không có thân giới, tâm tuệ, cho nên đều thành báo nhất định."
"Này người thiện nam! Người trí với gốc lành sâu chắc, khó nghiêng động" cho đến "Tất cả nghiệp đều không gọi là Nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích nghiệp không Nhất định."
"Đại Bồ-tát không có nghiệp địa ngục" cho đến "Chẳng cảm thọ nghiệp ác ở hiện đời, đời kế, đời sau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã dứt nghiệp nhất định, nghiệp không nhất định. Với nghiệp không nhất định, chứng minh thọ báo do nguyện lực. Tất cả nghiệp không nhất định, làm cho địa ngục thành không, là nói ích lợi của sinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người trí vì có bốn tính chất này nên đều không không nhất định; do đó nên Bồtát thường ở địa ngục để khai ngộ chúng sinh. Nếu nghiệp Bồ-tát nhất định, thì đâu thể giúp cho chúng sinh lìa khổ, sanh lên cõi trời, cõi người để tu tiến công đức.
"Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này" cho đến "Chẳng phải thọ báo hiện đời, đời kế là, đời sau là nghiệp ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước đã nói không có nghiệp địa ngục. Ở đây nói không có nghiệp đang cảm thọ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói các Bồ-tát hóa sinh trong địa ngục đó chứng minh rằng, nghiệp không nhất định."
"Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này" cho đến "Không phải quả báo đang thọ đời kế tiếp, đời sau là nghiệp ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nói không có nghiệp ngạ quỷ cũng đang cảm thọ."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Trong kiếp Hiền này, ta từng sanh vào nhà giết mổ" cho đến "Chẳng phải trong hiện đời, đời kế tiếp, đời sau đều thọ nghiệp ác ấy." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nói không có báo chướng về tám nạn..."
"Này người thiện nam! Ta nhớ lại thuở xưa ở quá khứ" cho đến Đó gọi là Đại Bồ-tát nói quả báo hiện đời." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại nêu rộng việc duyên khởi, thuở xưa về Đề-bà-đạt-đa.
Này người thiện nam tử! Ta nhớ lại thuở xưa cho đến đó gọi là Đại Bồ tát nói về quả báo hiện đời. Pháp sư Tăng Lượng nói: Lại nêu rộng về duyên khởi để chứng minh lại lâu nay không có."
"Này người thiện nam! Sinh báo, Hậu báo của nghiệp lành" cho đến "Tất cả các nghiệp đều có hiện báo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trước đã nói về hiện báo. Nay, nêu sinh báo cũng giống như vậy, đều là nguyện lực từ thiện, cũng đang cảm thọ."
"Nghiệp ác bất thiện có hiện báo" cho đến "Đó gọi là hiện báo, thọ báo của nghiệp ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trước nói dùng nghiệp lành để nguyện thọ, nay là nói dùng nghiệp ác để nguyện thọ."
"Sinh báo: Như Nhất-xiển-đề đã phạm bốn trọng cấm và năm tội nghịch."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba hạng người này vì đều có tội nặng, nên sinh báo. Chỉ người nào khởi được nghiệp này, vì thân người nhỏ, chịu khổ ít, nên không được hiện thọ.
Quả báo sau: Như người giữ giới, phát thệ nguyện sâu" cho đến "Vua Chuyển Luân giáo hóa chúng sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Báo của thân tịnh giới được thân tịnh giới và vua chuyển luân. Vì chẳng phải một thân mà nhóm hợp được, nên sẽ thọ báo sau."
"Này người thiện nam! Nếu nghiệp nhất định có quả báo ở hiện đời" cho đến "Người không chứa nhóm điều lành, thì nghiệp nhẹ mà thọ báo nặng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghiệp hiện báo nhẹ, không thể được báo sau. Vì nghiệp báo đời sau nặng, nên đời hiện tại là chánh báo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Gồm có mười hai thí dụ: Nói rộng về môn thứ hai ở trên, nêu ra việc của hai hạng người ngu, trí. Bởi muốn làm sáng tỏ hiểu biết của người trí, thì việc che lấp của người ngu có thể không răn dạy được ư?"
- Nói rộng nghĩa chuyển chướng.
- Giải thích rộng nghĩa tu thân, nêu bốn con rắn đựng trong một cái trắp làm ví dụ.
- Giải thích rộng ý nghĩa tu giới, giải thích rộng ý nghĩa tu tâm, giải thích rộng ý nghĩa tu tuệ, nói lại ý nghĩa tu thân giới, tâm, tuệ.
- Nói lại ý nghĩa chuyển nặng thành nhẹ, chuyển nhẹ thành nặng.
- Bồ-tát Sư Tử Hống nêu lại sáu việc làm câu hỏi, cho rằng không cần tu đạo.
- Đức Phật nêu bảy người ở sông Hằng để làm thí dụ, nói về cần phải tu đạo. Đáp rông các câu hỏi ở trước.-Nói về Phật tánh là thường, nên không ở trong nhân, như mười hai nhân duyên không có chỗ ở nhất định.
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Chuyển báo nặng của địa ngục thành thọ báo nhẹ ở hiện đời?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phẩm trên đã nói hai ví dụ ngu, trí, chưa nói về hành vi của hai người. Nay nói về thân giới, tâm tuệ là việc làm của người trí, để chứng minh rằng, đạo có năng lực chuyển chướng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây, là nói rộng tướng của hai nghiệp thiện ác, nghĩa là có người dùng nghiệp như thế này thì chuyển, dùng nghiệp như thế này thì không chuyển."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là phần ba, nói rộng về pháp mà hai người trên đã thực hành. Sẽ nói về pháp sở hành, nên một mặt trước nêu hai người. Y theo trong đây để nói về phạm hạnh thanh tịnh, gồm có ba thứ. Nếu y theo kinh giáo ngày nay, thì tu thân giới, tâm tuệ, tất cả nghiệp đều không nhất định. Tu thân: Tạo ra quán bốn niệm xứ.
Tu giới là thanh tịnh thân, miệng, ý, được giới chánh ngữ, chánh nghiệp. Tu thân: Được giải thích nhất định. Tu tuệ là Nhập kiến giải vô lậu, nếu tu bốn pháp này, thì sẽ chuyển nghiệp nặng thành thọ báo nhẹ. Nói về nghĩa này thật khó hiểu. Vì nếu tu tướng lành thì ngăn tướng nặng, thành tướng nhẹ. Về lý cũng có thể đúng, nhưng nay, tu bốn pháp này chính là vô lậu. Sức vô lậu ban đầu tự nó có khả năng đối trị nghiệp nặng, còn nghiệp nhẹ khác thì chẳng phải năng lực của chính mình. Thọ báo từ cõi trời, cõi người, đâu có chuyển. Về lý, thật không có nhẹ, nay sở dĩ có lời nói này là vì đối với người ngu. Người ngu nghe nói lời này, bèn muốn siêng tu. Nếu tu bốn pháp này được thành tựu, thì nghiệp nặng sẽ dứt trừ trước, nghiệp khác vẫn còn phải chịu trong cõi trời, cõi người. vốn trước đây là quyến thuộc của nhà nặng, hễ tạo nghiệp nặng này thì phải có phương tiện, chứ chẳng phải bỗng nhiên nặng ngay. Nếu làm cho không hướng về bốn pháp, thì chớ nói nhẹ, nặng, đều phải chịu quả báo địa ngục.
Nay, đã tu bốn lực, nghiệp nhẹ khác không thể riêng chịu quả báo nặng. Vì thọ nghiệp nhẹ ở cõi trời, cõi người, nên nói rằng chuyển nặng thành nhẹ. Về nghĩa chuyển nhẹ thành nặng cũng giống như vậy. Nghiệp nhẹ lẽ ra được sinh cõi trời, cõi người. Đã không có năng lực của tâm giới, tức thọ nghiệp này trong ba đường, cũng không phải nghiệp nhẹ thọ ở chỗ nặng."
"Phật nói: Tất cả chúng sinh gồm có hai hạng" cho đến "Thân giới, tâm tuệ, đó gọi là ngu si."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dưới đây có "Lại nữa" để nói về bốn pháp này, mượn một câu sâu, cạn, rộng lược làm lời. Ở đây còn phán quyết chung hai con đường ngu trí, để nói về tu và không tu."
"Sao gọi là không tu thân" cho đến "Không tu hạnh Thánh, gọi là không tu tuệ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ nhất năm căn là thân nghiệp, cũng là phiền não, vì dẫn đầu cho nên nói."
"Lại nữa", người không tu thân thì không thể đầy đủ" cho đến "Người không tu tuệ, vì không tu phạm hạnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ hai là giới để ngăn ngừa thân, giới không đầy đủ, nghĩa là không tu thân."
"Lại nữa", người không tu thân thì không thể quán thân" cho đến "Không khéo giữ gìn tâm, gọi là không tu tuệ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ ba y cứ vào môn quán để làm nghĩa.
"Lại nữa", người không tu thân thì không thể quán sâu" cho đến "Không thể đầy đủ Bát-nhã ba-la-mật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ tư, y cứ môn vô thường làm nghĩa."
"Lại nữa", người không tu thân thì tham đắm thân mình" cho đến "Không thể phân biệt được pháp thiện ác..."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ năm, nói lại không quán là quả ở trên."
"Lại nữa", người không tu thân không dứt ngã kiến" cho đến "Người không tu tuệ, không dứt tâm si mê."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ sáu, vì không dứt thân kiến, nên không gọi là tu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây, y cứ vào nghĩa quan hệ nhau để nói về bốn pháp. Nếu ai thực hành được bốn pháp này thì sẽ được điều mà họ mong cầu, sẽ thành người trí."
"Lại nữa", người không tu thân, thì không thể quán thân" cho đến "Ân cung cấp áo cơm ngày xưa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ bảy, không thể quán năm lỗi của thân. Ở đây có năm lớp nói về năm môn, đây là nói chung về lỗi của năm môn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đây trở xuống, cuối cùng là chim cánh vàng, thứ hai là nói riêng về bốn pháp."
"Này người thiện nam! Ví như có vị vua nuôi bốn con rắn độc" cho đến "Một trong bốn con rắn này tức giận, thì sẽ hại chết người."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dụ cho môn khổ."
"Này người thiện nam! Như người bị bệnh đã lâu, phải nên hết lòng" cho đến "Thân tất cả chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dụ cho môn vô thường."
"Này người thiện nam! Cũng như trong thân cây chuối, không có ruột chắc, thân tất cả chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dụ cho về môn "Không" vô tánh.
"Này người thiện nam! Như rắn, chuột, chó sói, mỗi con đều rắp tâm hãm hại lẫn nhau" cho đến "Bốn đại của chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ về môn "Không tự tại". "Này người thiện nam! Ví như con ngỗng đầu đàn không ưa thích chỗ gò mả" cho đến "không quán sát như vậy, thì không gọi là tu thân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gồm bảy ví dụ, nói về môn Bất tịnh. Bảy thứ là:
1. Chủng tử (hạt giống) bất tịnh.
2. Trụ xứ bất tịnh.
3. Xuất môn bất tịnh.
4. Thể tánh bất tịnh.
5. Chín lỗ bất tịnh.
6. Các vi trùng bất tịnh.
7. Làm nhiễm ô vật dụng, y phục sạch.
"Người không tu giới. Này người thiện nam! Nếu không thể quán sát" cho đến "Người quán sát như vậy, gọi là không tu giới."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kẻ ác không thấy lỗi của họ. Người thiện thường biết tội mình, khéo xét lỗi mình, giới, tuệ nên biết năng lực của nó."
"Người không tu tâm, chẳng thể quán tâm" cho đến "Người không thể quán như thế gọi là không tu tâm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tâm chấp tướng đứng đầu các lỗi lầm."
"Người không tu tuệ, không quán trí tuệ" cho đến "Người không quán như thế, thì không gọi là tu tuệ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chân tuệ, mẹ của
Chư Phật, Bồ-tát, có công năng tu tập, gọi là hạt giống."
"Này người thiện nam! Trong Bậc nhất nghĩa" cho đến "Nếu có người thấy như vậy, thì gọi là không tu tuệ." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lớp thứ bảy, lớp này rất sâu, thân là giả. Giới, tâm, tuệ cũng giống như vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là nói về tu. Ý chứng đắc của bốn pháp này cho rằng nếu tu luống dối, thì bốn pháp này sẽ mau thành, nếu cái "Có" ấy tồn tại, thì dù thực hành vô ích. Bậc nhất nghĩa ở đây chẳng phải là Bậc nhất nghĩa "Không", chỉ vì nói tâm chấp thật có của phàm phu, y cứ vào tâm này làm bậc nhất. Nếu thấy thân là thật, không từ nhân duyên sinh ra như thế thì tu thân chẳng được nói là tu. Các pháp khác cũng giống như thế."
"Này người thiện nam! Nếu có người không tu giới thân, tuệ, tâm" cho đến "Giống như địa ngục có việc gì khổ?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cho là không tu bốn pháp, thì chắc chắn mắc tội tướng, nói là ta có, dù nghe người trí nói, cũng không sinh sợ hãi."
"Ví như con lằn xanh ăn mật bị dính" cho đến "Tội nghiệp của người này cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhằm nói lại người ngu vì che giấu tội lỗi mình, không ăn năn sám hối, nên biến tội nhỏ thành tội lớn, chỉ nêu ba thứ để làm thí dụ."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Vì sao người này làm cho báo nhẹ ở hiện tại trở thành cảm thọ quả báo địa ngục?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói không tu bốn việc, mà chưa nói về lý do không tu. Vì muốn nói cụ thể các việc ác ở dưới, nên nêu câu hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đã nói rộng lược về sáu môn, bốn pháp này xong. Nay, sau đây là đoạn bảy lại nêu hai người để làm câu kiết: Giải thích rộng về tội ác của người ngu, nói lược về việc lành của người trí."
"Phật nói: Này người thiện nam! Tất cả chúng sinh" cho đến "Báo nhẹ hiện đời, sẽ phải thọ báo nặng ở địa ngục."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu năm việc của hai lớp, để giải thích lý do không tu bốn việc nên chuyển nhẹ thành nặng."
Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Người nào có khả năng chuyển báo địa ngục trở thành thọ báo nhẹ ở hiện đời?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì hiểu trống không, nên sở dĩ tội không dứt, là vì tâm người đó không mê đắm."
"Người này làm cho nghiệp ác rất nặng" cho đến "Làm cho báo nặng của địa ngục trở thành thọ báo nhẹ ở hiện đời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tội ác sinh ra ngang trái, không có cội rễ, hiểu rõ về không, vì từ lý nên có năng lực lớn. Cho nên vàng ròng dù ít, nhưng vẫn hơn đống hoa."
"Này người thiện nam! Do các nghĩa này, nên chẳng phải tất cả nghiệp" cho đến "Cũng chẳng phải tất cả chúng sinh đều chịu báo nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tổng kiết ý chí ở trên."
Bồ tát Sư tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Đều không được Đại Bát Niết-bàn này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đoạn sáu là khuyên tu. Vì đạo có công năng chuyển chướng, cho nên khuyên tu. Có hai câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất: "Nếu nói nghiệp là chướng không nhất định, mà tánh là nhất định. Nhân thì nhất định tốt đẹp hơn không nhất định. Vì sao không dùng tánh để chứng đắc?
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vẫn trở thành bảy lối chấp vô tánh ở trước, cho rằng: "Nếu có tánh thì tự nhiên thành Phật, cần gì phải khuyên tu? Chính là vì khuyên tu mới được, nên biết rằng, khi được thành Phật mới có tánh. Gồm có bốn đoạn:
1. Năm câu hỏi, làm cho trong nhân vô tánh, nếu chắc chắn có thì tự nhiên thành Phật. Đức Phật dùng bảy hạng người để đáp chung.
2. Nói pháp mà Như Lai thấy biết là chân thật, rõ ràng sáng suốt, khác với phàm phu. Phàm phu như người mù rờ voi, Như Lai thì vì đã hội nhập Trung đạo, nên không cần khuyên. Nêu thể của Phật tánh, để nghiệm xét không lầm.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu muốn gần lìa chướng nặng, xa chứng thì không quả Phật thì gì hơn tu đạo, cho nên mới khuyên tu".
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu tất cả chúng sinh đều có
Phật tánh" cho đến "Cần gì phải tu tập tám Thánh đạo?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi thứ hai. Tánh là nhân của định, sức nhân thì mạnh, vì mạnh, nên không cần tu đạo để giúp đỡ nhau".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây, là bỏ năm lớp của phàm phu. Trên đây là lớp thứ nhất, câu hỏi của Bồtát Sư Tử Hống: "Nếu chúng sinh có Phật tánh chánh nhân, thì sao không tự nhiên chứng đắc Niết-bàn? Rồi mới tu nhân duyên luống dối ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Như trong kinh này nói: "Người bị bệnh" cho đến "Vì sao? Vì là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây có sáu việc chứng tỏ không có tu đạo, để thành câu hỏi thứ hai. Việc thứ nhất này là nêu lên kinh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lớp thứ hai cho rằng nếu chúng sinh đã có chánh nhân, do năng lực của chánh nhân, đáng lý tự nhiên thành Phật, cần gì phải tu đạo?" sau đây sẽ nêu lên năm việc để chứng minh thành câu hỏi này, nói về không cần sức đạo."
"Bạch đức Thế tôn! Ví như mặt trời, mặt trăng, không gì có thể ngăn che" cho đến "Vì không do năng lực tu tập Thánh đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trong đây nêu ba việc: Một là nói mặt trời, mặt trăng tự nhiên, đến núi Átđà; hai là nói sông chắc chắn chảy ra biển; ba là nói xiểnđề chắc chắn đọa địa ngục, đều không cần nhân duyên." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong đây nêu ba việc để làm chứng." "Bạch Đức Thế tôn! Nếu Nhất-xiển-đề phạm bốn trọng cấm" cho đến "chẳng phải do tu tập mà được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ năm nói được Bồ-đề không do tu đạo, chính là quan hệ Phật tánh để chứng minh rằng nghiệp chướng không nhất định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ tư."
"Bạch Đức Thế tôn! Ví như đá nam châm, dù đặt cách xa sắt" cho đến "Nên không cần siêng năng tu tập Thánh đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là việc "Sự thứ sáu, lại không có pháp riêng lẻ, vì trực tiếp do tánh, cả hai đều hút sắt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ năm."
"Phật nói: "Lành thay! Lành thay, này người Thiện nam!" cho đến "Thoát khỏi bọn giặc cướp, lòng rất vui sướng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi đầu. Bảy người đều đủ tay chân dụ cho Phật tánh. Người có tập lội thì lội qua sông được. Kẻ không tập lội, thì không lội qua được, dụ cho tu đạo. Chúng sinh cũng giống như vậy, đều có Phật tánh, nhưng nếu không tu Thánh đạo thì sẽ không được Niết-bàn. Là do lỗi của phiền não.
Chúng sinh do ba việc nên bị đọa vào sinh tử:
1. Vì tắm gội, ví như dứt phiền não.
2. Vì sợ bọn cướp, dụ cho sợ khổ sinh tử.
3. Vì hái hoa, dụ cho tu công đức.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới là xiển-đề, trên đến Chư Phật thành bảy người. Nếu là người vì tắm gội: Là nói bậc Thánh vô lậu, dứt hẳn phiền não, như tắm gội, rửa sạch chất nhơ bẩn, hoặc vì sợ hãi: Người Nhị thừa Thanh văn sợ hãi bốn ma, hoặc là Phàm phu hái hoa tham năm dục thế gian, để thỏa thích tâm mình. Ba hạng người này vì đều có việc làm, nên đều lội xuống sông, vận dụng cả thân tay của mình, nói hoặc phàm, hoặc Thánh, vì tâm mong mỏi khác nhau, nên trong dòng sông sinh tử. Mỗi người đều tu điều lành của mình, tùy dùng năng lực của mình, nên có bảy hạng người khác nhau."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay, dùng bảy người ở sông Hằng để đáp câu hỏi thứ nhất: "Như bên sông Hằng, bảy người đều có đủ tay, chân, nếu không tập lội thì không thể lội qua sông được. Chúng sinh dù có Phật tánh, nhưng phải tập lâu "Duyên" nhân lành, mới mong được thành Phật. Vì sao lại hỏi rằng: "Tự nhiên hành đạo mà được thành Phật ư?"
Trong đây, mượn sông Hằng để làm thí dụ, nghĩa là dùng sinh tử làm sông, nói dù chúng sinh còn ở trong sông sinh tử, nhưng vì chưa nhận thức sinh tử và đạt đến quán sát, tin hiểu lời nói của bậc Thánh, mới nhận ra lỗi lầm của sinh tử kia, nên nói là xuống sông. Ý xuống sông, gồm có ba nghĩa:
1. Dụ cho dứt trừ phiền não.
2. Sợ tám khổ sinh tử.
3. Như tu muôn điều lành, bảy người ở sông Hằng này dù đều đã từng là Nhất-xiển-đề, nhưng phải thực hành khác với đương thời. Người thứ ba, vì tin thường, nên sợ công hạnh được thành là nhờ vào sự hiểu biết này, vẫn được thoát khỏi sinh tử."
"Này người thiện nam! Sông lớn sinh tử cũng giống như vậy" cho đến "Như người thứ nhất bên sông Hằng." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người thứ nhất đó là Xiển-đề." "Này người thiện nam! Bọn Nhất-xiển-đề có sáu nhân duyên" cho đến "Cho nên thường đọa trong ba đường ác."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đầu tiên, dụ cho ngoại đạo, phàm phu, cho đến xiển-đề, vì xiển đề không có trí tuệ, không có tâm chánh kiến, vì không tập bởi tu đạo."
"Người thứ hai có ý muốn lội qua" cho đến "Như người thứ hai bên sông Hằng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người thứ hai, tạm nổi lên nhưng lại chìm. Người không tập bơi, vốn không tu giới, định, tuệ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dù rằng tập quán sát bốn ý chỉ, nhưng vì trí lực chưa sâu, nên người đó vẫn còn lui sụt. Nói "Chìm rồi lại nổi lên", nghĩa là vì tập quán thấy nghĩa lý là nổi lên, chưa thể gọi tên. Nói nổi lên rồi lại chìm xuống, vì sức lớn nên nổi, là đã quán vô thường, khổ..., đối với ngoại đạo, phàm phu là sức lớn. Người không tập bơi, như sức quán cạn cợt."
"Người thứ ba, có ý muốn lội qua" cho đến "Như người thứ ba bên sông Hằng."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví dụ được pháp Noãn trở lên."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Năm căn đã lập, cho đến mười lăm tâm kiến đế trở xuống, đều không thối vị."
"Người thứ tư có y muốn lội qua" cho đến "Như người thứ tư bên sông Hằng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví như bốn quả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Quán bốn phương, nghĩa là người bốn quả, quán đế bình đẳng. Trụ: Vì tập lội nên không chìm. Vì Tiểu thừa không hy vọng tiến lên nữa, nên như trụ. Vì không biết chỗ xuất ly, là người giáo hóa chúng sinh trong sinh tử, hoặc khéo vận dụng phương tiện cho nên biết xuất ly. Người Nhị thừa vì không biết tuệ của đấng Đại sĩ, nên nói "Không biết xuất ly."
"Người thứ năm, có ý muốn lội qua" cho đến "Như người thứ năm bên sông Hằng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví như Duyên giác không tự ngộ, có một ít vượt hơn Thanh văn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Như Duyên giác. Nói quán phương đã qua, nghĩa là so sánh với Thanh văn, căn, lực là hơn. Dù không hướng về Phật, nhưng vì dứt tập khí mà trừ "Hoặc" ngoài ba cõi, nên về nghĩa nói là cách."
"Người thứ sáu có ý muốn lội qua" cho đến "Như người thứ sáu bên sông Hằng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví như Bồ-tát."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sơ Địa trở lên, cho đến Thập địa, chỗ cạn: "Hoặc" mà Sơ địa dứt không bằng Nhị thừa chứa nhóm nhân đã lâu, năng lực lành được huân tu, so lường sinh tử trong một niệm. "Hoặc" của họ dù còn, nhưng dứt thì không khó, tức là sinh tử có bờ mé, nên nói là chỗ cạn."
"Người thứ bảy có ý muốn lội qua" cho đến "Ngọn núi cao lớn, dụ cho Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ví như Đức Phật." Pháp sư Tăng Tông nói: "Núi lớn, là Niết-bàn."
"Này người thiện nam! Các người như vậy, ở bên sông Hằng này" cho đến "Tất cả chúng sinh không được Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Người có đủ tay, chân mà không tập bơi dù có Phật tánh, nhưng không tu tu tập đạo, thì do đâu mà được thành Phật ư? Ví dụ này đã giải thích, thì năm câu hỏi tự tiêu."
"Này người thiện nam! Ví như người thầy thuốc" cho đến "Liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tay, chân là nhân của tập bơi. Vì không tu tập giới, định, tuệ, nên không thể lội qua sông được."
"Này người thiện nam! Ông nói chúng sinh đều có Phật tánh" cho đến "Vì không tu Thánh đạo, nên không được thấy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ hai. Trước nêu, sau cùng là chứng minh, dụ cho Bồ-đề. Rưới, dây kéo nước, múc nước, lấy, dụ cho tám Thánh đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu việc thứ năm để đáp riêng, nói có nhân quả vì như đá nam châm, đâu thể không cần tu đạo ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ hai. Đá nam châm hút được sắt. Nếu "Duyên" không đủ thì không thể. Chúng sinh cũng vậy. Dù có Phật tánh, nhưng nếu không tu đạo thì không được. Có người đi ở chỗ hoang vắng, dụ cho cho phàm phu đi trong sinh tử. Khát nước là nghĩ chán khổ, gặp được giếng là kinh giáo Niết-bàn. Rất sâu: Lý tánh của nhân quả khó biết. Dù không thấy nước, nhưng phải biết rằng chắc chắn có. Tanh nhân quả dù khó biết, nhưng ở lai sẽ có. Tìm kiếm, rưới, dùng dây kéo, dụ cho tu đạo. Giếng dù có nước, nhưng không có rưới, thì không được. Phật tánh của chúng sinh, làm sao không tu đạo mà thấy được ư?"
"Này người thiện nam! Như ông vừa nói: "Ở thế gian có người bệnh" cho đến "Ta nói nghĩa như vậy cho các Bồ-tát nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp chứng minh ban đầu.
Phiền não, phần đoạn đã hết, nhậm vận tự thành Phật."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nêu việc thứ ba. Sở dĩ nói đều khác nhau, là vì Bồ-tát Lục trụ, chẳng lẽ thường truyền bá mà không cần tu ư?"
"Này người thiện nam! Ví như hư không, đối với chúng sinh" cho đến "Vì chắc chắn được, nên ta nói tất cả đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây nêu ba việc, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài làm thí dụ. Hư không chẳng phải trong, ngoài, mà chúng sinh hiện đang thọ dụng. Phật tánh chẳng phải trong ngoài, nên chúng sinh chắc chắn có dùng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì y cứ ở nhân mà cầu, nên nói "Chẳng phải có". Vì không lìa nhân mà có quả, nên nói "Chẳng phải không". Chẳng phải không có nhân xuất ly: Phải nhờ liễu nhân mới thấy. Không phải ở đây tạo ra, ở đây thọ, là không phải ngay thân này tu nhân, ngay thân này thọ quả. Chẳng phải người này tạo nghiệp nhân, người kia chịu quả báo, là nắm lấy một người từ đầu đến cuối, dù hành vi khác nhau, nhưng chẳng phải thân này tu tập "Duyên" nhân. Vị lai mới thấy. Về nghĩa thích hợp, chẳng phải người này tạo nhân, người kia chịu quả. Người kia tạo nghiệp, người kia chịu quả báo: Chẳng phải người khác tu điều lành, người khác thấy tánh. Chẳng phải không có tạo tác, không có thọ, là phải tu nhân, lý đó không thể khác, đâu có việc đầu cuối không có tạo tác mà không thọ quả ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là thứ ba, trải qua tánh của chánh nhân. Hư không chẳng phải ở trong năm ấm, cũng chẳng phải ngoài năm ấm. Vì sẽ được thành Phật, nên nói chúng sinh đều có."
"Này người thiện nam! Ví như chúng sinh gây ra các nghiệp" cho đến "Lúc thời gian hòa hợp mới được quả báo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì lấy tánh nhân được quả làm thí dụ. Nghiệp chẳng phải trong, ngoài: Như bố thí chẳng phải riêng mình ta, nên chẳng phải trong. Vì được chẳng phải người thọ, nên chẳng phải ngoài. Vì trung gian của hai vị trí trong, ngoài này không thật có, chứ chẳng phải xưa không nay có, chẳng đến từ bên ngoài, chẳng phải không có nhân xuất phát.
Vì diệt nên chẳng phải một, chẳng phải tạo nghiệp ở đây, vì nối nhau nên không khác. Chẳng phải tạo nghiệp ở nơi này, thọ báo ở nơi khác. Do nhân mà có quả, chứ chẳng phải không có tạo nghiệp, không có thọ báo, vì khi thời gian hòa hợp, thì sẽ thọ quả báo."
"Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy" cho đến "Bấy giờ được thấy Phật tánh, không gọi là tạo tác." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì từ liễu nhân thấy, nên chẳng phải xưa không mà nay có. Trong là duyên nhân, ngoài là chánh nhân. Nhân khắp không có trong ngoài, vì trong nhân không thật có, nên "chẳng phải có". Vì từ hai nhân thấy, nên "chẳng phải không có". Cũng chẳng phải nhân khắp, nên chẳng phải ở đây, kia. Chẳng phải không có nhân duyên, vì do tu đạo mới thấy được Phật tánh, nên chẳng phải từ nơi khác đến, nghĩa là chẳng phải không có nhân. Khoảng giữa của lời đáp chung, là ba chứng minh."
"Này người thiện nam! Ông nói: "Như đá nam châm" cho đến "Có Phật hay không, pháp giới vẫn thường trụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hoặc" là nhân để tạo ra quả. Nay nói vì có nhân, nên quả mới xuất hiện, nhân không tạo ra pháp khác, vì củi không tạo ra lửa, nên không có tác giả, vì củi không có thì lửa sẽ tắt, nên không có hư hoại."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Đáp lại câu hỏi thứ năm, vẫn giải thích vì hợp với pháp khác, nên pháp khác sinh, đâu phải dùng Phật tánh để hút Bồ-đề?
"Này người thiện nam! Nếu nói Phật tánh ở trong chúng sinh" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không dùng một pháp làm thể, không trụ pháp giới, gồm mười tám giới, nhập ấm cũng như vậy. Mười hai nhân duyên cùng khắp ba đời, không có trụ xứ gọi là thường. Quả nhập hư không cũng vậy, dụ cho Phật tánh chẳng phải một pháp, hễ tròn đầy thì được, còn chấp nghiêng lệch thì mất. Bốn đại cũng không có nghiệp, nghĩa là năng lực của bốn đại dù đều bình đẳng, nhưng cuối cùng mỗi đại đều không giống nhau, năng lực bốn đại đều bình đẳng, sắc cứng, mềm khác nhau, là do nhân khác, nên quả không có tác giả.
- Nêu ví dụ người mù nói về con voi.
- Nói về ý nghĩa Phật tánh chẳng phải "Tức" sáu pháp, chẳng phải lìa sáu pháp.
- Nói về mười hai nhân duyên như Tín v.v... của Phật tánh.
- Nói về tướng không lui sụt của Bồ-tát, ngày ăn một hạt mè, một hạt đậu...
- Nêu việc Bồ tát phát nguyện bố thí thân cho chúng sanh.
- Nêu lên việc Bồ-tát vì chúng sinh chịu khổ không lui sụt.
- Nêu ra ví dụ về tám thứ không nghĩ bàn của biển.
"Này người thiện nam! Ví như có vị vua bảo một vị quan" cho đến "Do đó nên nói sắc là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đều dùng tay sờ, dụ cho nghe thấy. Đều không mô tả về hình thể con voi, thấy nghiêng lệch chẳng phải là voi. Cũng chẳng phải không nói, nghĩa là đều hiểu được từng bộ phận voi, nên chẳng phải không nói. Sắc là Phật tánh: Tánh của chánh nhân khác, thành quả cũng khác. Vì chấp nghiêng lệch
62 là lỗi. Như mầu vàng ròng là một, Bàn-đà là "Khác"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ hai, nói Như Lai nói tánh khác nhau. Phàm phu đã chân mà không lầm lẫn, nên phải tu. Vị vua dụ cho Phật, đại thần dụ cho kinh giáo thường trụ. Voi, dụ cho lý trong giáo. Người mù tùy vị trí sờ mó mà nói là voi. Chúng sinh không có tuệ nên chấp ấm nói là "Ngã".
Nói lìa ấm có "Ngã": Đây là chấp thái quá, sau đây sẽ là "Phi". Chẳng phải "Tức" sáu pháp, nghĩa là vì năm ấm hình thành, giả gọi là người. Phật tánh ở quả, chẳng lẻ ngay sáu pháp chẳng phải nhân, vì không do cảm quả, nên nói là không lìa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người mù sờ voi, nếu từng bộ phận riêng, thì sẽ không được hình dáng con voi, ngoại đạo, phàm phu chấp lấy năm ấm và lìa ấm, mỗi thứ chấp đều chẳng phải Phật tánh. Nhưng trước sau không lìa sáu pháp này. Có các ngoại đạo dù nói có "Ngã", mà thật là vô "Ngã", nghĩa là năm ấm giả hợp, gọi là chúng sinh, không có có "Ngã" ngoài năm ấm riêng lẻ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nêu sắc, ở đây nêu tâm trải khắp, gọi là bốn ấm."
"Có thuyết nói thọ là Phật tánh" cho đến "Cho đến chẳng phải ngã, chẳng phải lìa ngã".
"Này người thiện nam! Các ngoại đạo dù nói có "Ngã" cho đến "Bậc nhất nghĩa "Không", nên gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cứ theo tình mê hoặc là lìa nên là "Tức" ấm, "Ngã" nối nhau không dứt!
Về sau, lại sửa đổi cho rằng, "Lìa" ấm có "Ngã" riêng."
"Này người thiện nam! Đại Từ, đại Bi gọi là Phật tánh" cho đến "Phật tánh chính là Như Lai".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nói duyên tánh nhân, chúng sinh chắc chắn sẽ được Phật tánh, nên gọi là "Có". Nối nhau không khác tức Như Lai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba là phát ra thể của Phật tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ tư là trải "duyên" nhân, công hạnh của bốn vô lượng, tức là "Duyên" nhân lành, Bồ-tát thường thực hành như bóng với hình. Phật tánh gọi là Như Lai, nghĩa là thực hành bốn vô lượng, gần thì được Nhất tử địa của Sơ trụ, xa thì tròn đầy được địa vị Phật, nên gọi là Như Lai."
"Phật tánh, gọi là Đại tín tâm" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu sáu pháp môn giúp làm sáng tỏ ý chỉ của Phật tánh."
"Này người thiện nam! Các pháp đã nói ở trên" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tổng kết tông chỉ trên."
"Này người thiện nam! Nếu ta nói sắc là Phật tánh" cho đến "Cho đến nói thức cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu nói sắc là Phật tánh, còn các pháp khác không phải thì chúng sinh tà kiến nghe nói, sẽ khởi lên điên đảo."
"Này người thiện nam! Nếu chúng sinh hiểu rõ Phật
62 tánh" cho đến "Cùng khen ngợi, lễ bái, thăm hỏi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã khuyên tu danh hiệu kinh này nên nói là phước của người tu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư chính là khuyên tu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ năm là kiết khuyên, nói về ý cần phải tu đạo."
"Này người thiện nam! Nếu có người nào trải qua vô lượng, đời trong quá khứ" cho đến "Rồi mới được nghe tên kinh này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khen nhân của người tu."
Này người Thiện nam! Phật tánh không thể suy nghĩa bàn luận" cho đến "Kinh Đại Niết-bàn cũng không thể suy nghĩa bàn luận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khen ngợi Tam bảo, Phật tánh, kinh pháp không thể suy nghĩa bàn luận, để làm sáng tỏ ý chỉ khuyến tu không luống dối."
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Sư Tử Hống lãnh hội, đồng thời nêu lên lợi ích mà chúng đương thời có được, Đức Phật liền cho phép."
Bồ tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Nếu Đức Thế tôn nói là Như Lai" cho đến "Thì làm sao riêng mình ta lại thọ hóa sinh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ mười là khen Phật. Do kinh điển mà Phật nói rất hợp với chân lý, nên khen ngợi. Chỉ vì nói là do đức từ sinh, nên hỏi trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong bốn sinh, hóa sinh là hơn cả mà Đức Phật đã vì chúng sinh, nên phải thọ thai sinh. Cho nên ân đức của Phật rất sâu nặng, vì thế mà khen."
"Bấy giờ, Bồ-tát Sư Tử Hống liền quỳ, thẳng chắp tay nói kệ khen ngợi Phật:
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Như Lai là vị đứng đầu trong các vua giáo hóa khắp cả chúng sinh, cho nên sau cùng, nêu lên lời khen ngợi.":
"Như Lai nhóm vô lượng công đức" cho đến Có khả năng "Rống như vô lượng Sư tử rống."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cõi nước Bất động kia dùng bài kệ để khen vịnh, vì chí đạo đức hưng thạnh."
- Giải thích rộng nghĩa Tỳ-kheo Thiện Tinh cắt đứt gốc lành.
- Nêu việc Thiện Tinh phá hoại kiết cõi Dục, được Bốn thiền khi chưa cắt đứt gốc lành.
- Nêu ra việc Thiện Tinh nói về Duyên khởi của Nicàn Khổ Đức.
- Giải thích về nghĩa dứt mất gốc lành.
- Giải thích ý nghĩa dứt mất gốc lành mà Phật tánh không dứt.
- Giải thích Phật tánh như hư không, chẳng thuộc ba đời.
- Giải thích nghĩa nghiệp thân, miệng của Xiển-đề đều không phải là thiện.
- Giải thích ý nghĩa vì sao cho Thiện Tinh xuất gia.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về hạnh đồng có trái, không trái, phẩm Sư Tử Hống ở trước đã nói về không sai trái, phẩm này sẽ nói về trái. Vì sao? Vì phẩm trước đã nói: "Dù có Phật tánh, nhưng phải tu điều lành để được thành Phật". Phẩm này nói: "Dù có Phật tánh, nhưng dứt mất việc lành là lấp bít Phật tánh. Do đó nên biết cả hai phẩm đều nói về tánh, mà khác nhau ở chỗ có trái và không sai trái."
Pháp sư Pháp Dao nói: "Phẩm trước đã nói rộng về Phật tánh chẳng phải một: hoặc nhân hoặc quả, chẳng phải nhân, chẳng phải quả. Hoặc là nhân, hoặc là duyên, hoặc thiện, không phải thiện. Hoặc nói tâm là đúng, hoặc nói tâm là sai, hoặc nói lìa ấm, hoặc không như vậy. Các thuyết dù chẳng phải một đường, nhưng Phật tánh là "Một", tức là không thể chấp nghiêng lệch một pháp nào là đúng, còn các pháp khác là sai.
Nay, Bồ-tát Ca-diếp dẫn thuyết không nhất định của Bốn mươi chín năm, để chứng minh rằng, chấp nghiêng lệch đều trái với ý Phật, nghĩa là chấp dĩ vãng đã sai lầm, thì chấp nay há là đúng ư? Nếu người nào chấp nghiêng lệch thuyết đã nói trên, đều không đúng ý Phật. Văn kinh có nói: "Dưới đến phiền não, các kiết, chúng sinh, năm ấm, pháp lành, đều là Phật tánh. Lại nói tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, vừa trong, vừa ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, vừa có, vừa không. Lại, y theo xiển-đề, hoặc người có gốc lành, bốn trường hợp lẫn nhau đều nói về Phật tánh. Lại, dẫn bảy người ở sông Hằng không lìa nước Phật tánh. Lại nói: "Bảy người như vậy, hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc đạo phương tiện, hoặc đạo giải thoát, hoặc nhân, hoặc quả đều là Phật tánh". Văn kinh như thế đâu thể dùng một pháp để chấp nghiêng lệch ư? Nếu không xét kiết từ đầu đến cuối mà nói về Phật tánh thì đều nêu một bên cho là quyết định, chỉ lấy quả làm Phật tánh, thì e rằng sẽ mất đi sự nhận biết về ý chỉ của Phật tánh kia!
Phẩm trước đã nói trong sông sinh tử có bảy người, nói rằng chẳng những nhờ năng lực của Phật tánh, nên tự được Bồ-đề, không tu đạo ư? Nay, nói trong sông Niết-bàn có bảy hạng người, người xiển-đề nghe kinh Niết-bàn, sau đó, lại chê bai, không tin mà dứt mất gốc lành. Nhưng ánh sáng của âm thanh Niết-bàn âm thầm đem lại lợi ích xa, cho là xuống sông Niết-bàn, huống chi sáu người còn lại ư? Nay, nói bảy người dù khác nhau, nhưng đều không lìa nước Phật tánh. Dù rằng cả hai phẩm đồng nói về Phật tánh, nhưng về trường hợp biện luận thì khác nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi thứ ba mươi bốn ở trên nói về tánh yên vui, mà phẩm Sư Tử Hống ở trước đã phát ra luận này, lại nêu rõ ý chỉ, cũng có người chưa hiểu rõ. Nay, trở thành câu hỏi gốc, ở trước nói về xiểnđề, dù dứt mất gốc lành, nhưng vẫn còn có Phật tánh. Nay, nhân việc Tỳ-kheo Thiện Tinh, mà giải thích rộng về việc dứt mất gốc lành của xiển-đề. Và lý do của việc sinh trở lại, để nói về chỗ dứt là khởi làm điều lành, tức là nghĩa chánh nhân tồn tại.
Giải thích lý do sinh trở lại, là do lý "duyên" nhân đầy đủ. Cũng vì nhân quả đối nhau thì Trung đạo rõ ràng. Hai vị Thánh thành tựu lẫn nhau, cùng làm sáng tỏ tông chỉ mầu nhiệm, chỉ nói về lý cùng khắp, không cần văn rộng.
Đại khái chia ra sáu phẩm:
1. Nói về dứt mất gốc lành.
2. Nói sinh trở lại.
3. Nói về Trung đạo.
4. Giải rõ tu đạo.
5. Khuyên.
6. Khen Phật.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Sư Tử Hống và Cadiếp chỉ nói về Phật tánh, ý chỉ lớn là khác nhau: Sư Tử Hống thì y theo thứ lớp, nói theo lý. Bồ-tát Ca-diếp lại nói theo điên đảo. Thuyết mà Bồ-tát Sư Tử Hống đã nói, là nói trực tiếp từ nhân đến quả. Dựa vào lý tín tâm, không nói trước dứt mất gốc lành, sau là nghĩa sinh lại. Thuyết mà Bồ-tát Ca-diếp nói, cũng nói là tu theo thứ lớp nhân. Nhưng vì công hạnh đó chưa lập, lại dứt lòng tin, thành Nhất-xiển-đề. Về sau với ý nhàm chán sinh lại, có thể sinh ra việc lành, lại tiến đến thành Phật, chính vì khác nhau ở điểm này, tức là Bồ-tát Sư Tử Hống dù nói dứt mất điều lành, nhưng vẫn chưa nói về sinh lại. Nay điều mà Bồ-tát Ca-diếp sắp nói, là nói sau khi dứt điều lành, là nghĩa sinh lại. Đại khái chia thành chín môn:
1. Nói về sự dứt mất gốc lành.
2. Giải thích lý do dứt điều lành, vì căn tánh chúng sinh không nhất định.
3. Nói về tranh luận, do căn tánh khác nhau, nên chiêu cảm giáo điều khác nhau, gây nên chấp lẫn nhau, trái với Trung đạo.
4. Nói rộng về chấp đắm, khởi tà kiến, vì căn tánh không nhất định, không thể nhập lời Phật dạy, mỗi chúng sinh đều theo đối tượng mình chấp, rồi chê bai, làm mất ý chỉ.
5. Sau khi nói, đều từ tự cứu vớt, được sinh lại gốc lành.
6. Nói đều được quả thường.
7. Giải thích về cái chết của chúng sanh, vì lấy ba lậu làm nhân, nên chiêu cảm quả báo vô thường. Quả Phật do dùng chân giải làm tư chất, dứt bỏ hết lậu mà thể thường.
8. Khen kinh.
9. Khen Phật.
Đạo Tuệ Tư ký chép: "Bồ-tát Sư Tử Hống hỏi Phật về việc ở Song thọ. Bồ-tát Ca-diếp thì hỏi Phật từ khi Phật đắc đạo đến nay, phân biệt thời gian bắt đầu và sau cùng, đó là khác nhau. Lại, phẩm này y theo con người để nói về tánh. Phẩm trước y cứ vào pháp để nói về tánh."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đại khái chia phẩm này thành sáu đoạn:
1. Nói về dứt gốc lành mà Phật tánh không dứt.
2. Nói sinh lại gốc lành.
3. Nói Trung đạo chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không.
4. Nói về không tranh luận.
5. Nói về phạm hạnh.
6. Khen Phật.
"Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "là bậc Đại y sư, làm Đại Dược Vương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây, thứ nhất là nói về người dứt mất gốc lành, tướng trạng dứt mất gốc lành.
Muốn đặt ra câu hỏi, trước nêu lên giải thích của Bồtát Sư Tử Hống: "Tỳ-kheo Thiện Tinh là người không thể sửa trị."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Y theo phần nói về dứt mất gốc lành, tự có sáu lượt:
1. Nói về lòng từ của Như Lai chẳng phải không bình đẳng. Chỉ vì Thiện Tinh không thọ chứ chẳng phải lỗi của Như Lai.
2. Nêu rộng việc lỗi lầm.
3. Nói về dứt mất gốc lành của ba đời.
4. Nói Như Lai biết đủ căn lực, biết chuyển bậc hạ thành bậc trung....
5. Nói rộng về tranh luận. Giải thích do chúng sinh không đạt được ý chỉ của giáo, gây ra tội sâu nặng.
6. Nói sở dĩ dứt gốc lành, vì khởi rộng tà kiến."
Pháp sư Trí Tú nói: "Trong đoạn thứ nhất có sáu phần:
1. Nói về dứt mất gốc lành.
2. Nói căn không nhất định.
3. Nói về tranh luận.
4. Nói về chấp đắm.
5. Nói về tà kiến.
"Tỳ-kheo Thiện Tinh là con trai của Phật khi còn là Bồ-tát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây, sẽ nêu ba việc để chứng minh rằng, Tỳ-kheo Thiện Tinh chẳng phải là người không thể sửa trị được, làm cho trước nói có kiết sâu nặng, nên nói rằng "Sao Đức Phật không cứu?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là câu hỏi thứ nhất, sao Đức Phật không nói pháp cho Thiện Tinh trước?"
"Sau khi xuất gia, thọ trì, đọc tụng, phân biệt giải thích mười hai bộ kinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Kế là nói về Thiện Tinh có lòng tin, chẳng phải không có.
Dứt kiết cõi Dục, được bốn thiền.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là nói chẳng phải Thiện Tinh không có các gốc lành như niệm...."
"Sao Như Lai nói Thiện Tinh" cho đến "Người không thể sửa trị phải ở kiếp trụ của địa ngục."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là câu hỏi về lược kiết"
"Vì sao Như Lai không giảng nói chánh pháp cho Thiện Tinh, rồi sau nói cho Bồ-tát?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chữa bệnh ngay lúc chứng bệnh mới bắt đầu nhuốm thì trị được, không trị trước thì phải vào lúc hữu lậu, chẳng phải là lòng Từ bình đẳng"
"Nếu Như Lai Thế tôn không thể cứu" cho đến "Có lòng Từ thương xót lớn, có phương tiện lớn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu đáng chữa trị mà không chữa trị, là không có lòng từ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai là trách cứ không có từ bi. Thứ ba là dụ cho không có phương tiện."
Phật bảo "Này người thiện nam! Ví như cha mẹ" cho đến "Phải dạy bảo trước cho đứa con nào biết về sự nghiệp thế gian?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước là đáp lại sự yêu thương bình đẳng của người cha. Dù rằng người cha dạy bảo, có đứa trước đứa sau, nhưng vẫn không trái với nghĩa yêu thương bình đẳng, để dụ cho lòng từ bi bình đẳng của Đức Phật không có thiên vị riêng tư."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, trước là đáp câu hỏi thứ hai: "Từ lâu ta đã biết Thiện Tịnh kia sẽ dứt mất gốc lành, nên trong ngần ấy năm tháng, ta đã bao phen dìu dắt, nói pháp cho họ để làm việc lợi ích cho đời sau." "Bồ-tát Sư Tử Hống bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Nhưng vì xót thương nên cũng thứ lớp dạy bảo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Con người dùng sự biết thấy làm vui, lòng yêu thương của người cha dù bình đẳng, nhưng đối với đứa con nào có khả năng thành đạt nhanh chóng ở đời, thì nên dạy dỗ cho đứa đó trước."
"Này người thiện nam! Như Lai cũng giống như vậy" cho đến "Nhưng cũng được sinh ra các hạt giống lành cho đời sau."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý hợp thí dụ, ý ở chỗ không nghiêng lệch, thì sẽ có nhiều lợi ích. Đối với người hóa độ rộng lớn bằng một ngọn đèn, thì phải được giáo hóa trước."
"Này người thiện nam! Như ba thứ ruộng" cho đến "Hạng thứ ba, dụ cho Nhất-xiển-đề."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa như giải thích ở trên."
"Này người thiện nam! Như Đại Sư tử lúc giết voi lớn" cho đến "Khi giảng nói pháp cho các Bồ-tát nghe, cũng dụng công như lúc nói pháp cho Nhất-xiển-đề."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau cùng dùng một năng lực phương tiện như trên nói: "Dù rằng cha mẹ dạy dỗ các con có đứa trước đứa sau, nhưng cách vận dụng lòng yêu thương thật sự bình đẳng. Nay, sẽ nói về phương tiện ba thời gian, thường dùng hết sức mình."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ ba, nói Đức Phật chẳng phải không có Đại phương tiện, chỉ vì đối với Thiện Tinh, phương tiện mà không hiện rõ mà thôi! Như Sư tử kia, trong hai lần đi săn, dù sức lực ngang nhau, nhưng thỏ thì không sánh bằng sư tử."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta ngự trong thành Vương Xá" cho đến "Nhưng Thiện Tinh không hề có tâm tin nhận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gồm nêu ba việc, đây là duyên khởi thứ nhất. Bạc-câu-la là tên một ác quỷ. Nói về giáo hóa rộng khắp, lấy đức tin làm gốc, mà xiểnđề thì cắt đứt niềm tin, là giải thích lý do không nhận lãnh giáo hóa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là đoạn hai, nói rộng về lỗi dứt điều lành."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây chính là nói về trạng thái cắt đứt gốc lành của Thiện Tinh, gồm chứng minh về lời đáp câu hỏi thứ hai, thứ ba ở trước. Đức Phật dù có phương tiện đại Từ, nhưng vì Thiện Tinh có ý hỏi ra về tịnh tín, nên không có lợi ích."
"Này người thiện nam! Một dạo nọ, Ta ở nước Cathi-la" cho đến "Nhưng Thiện Tinh không hề có tâm tin nhận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là duyên khởi thứ hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã dùng "Bất tín" làm tâm, đồng thời cũng ngăn cản người khác vì niềm tin, nên đã đem vi trùng chết của tâm đặt để trên dấu vết của Phật, làm cho tai, mắt luống sinh ý tưởng khác lạ."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, Ta và Thiện Tinh" cho đến "Nhưng Thiện Tinh không hề có lòng tín nhận."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Duyên khởi thứ ba, dù rằng đều nêu không tin, nhưng đối với việc này, biện luận nghiêng lệch, lời nói trái ngược, mất hẳn tôn thánh, càng thấy tâm ấy! Cho nên có hai câu hỏi về "Khổ Đắc", là muốn biết chính việc đó có thích hợp với lời Phật dạy về khổ đắc hay không, đã xét nghiệm bản thân mình trái với với lời nói, do Thiện Tinh mà khuyên răn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sự giáo hóa của bậc Thánh không có phương hướng nhất định, cho nên ứng với chúng sinh chẳng phải một. Khổ đắc kia đã có tâm ganh ghét với A-la-hán, thì làm sao cứu được?" "Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh dù rằng đọc tụng" cho đến "Nhưng ta thật sự cho rằng không có nhân quả."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đây là nói không có tuệ, nếu điều lành do kiến giải sinh thì không thể dứt, nếu không từ hiểu biết sinh thì hễ gặp phải tà liền dứt.
Trước kia dù đã đọc tụng, nhưng nếu không do hiểu biết sinh, thì cũng không thể cứu chữa", là đáp câu hỏi thứ hai. Khéo biết về pháp tướng, "Biết" có hai thứ: Hiện biết và biết nhau, nói Phật chẳng hiện, chẳng phải biết tất cả."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dù thọ trì mười hai bộ kinh, nhưng không hiểu rõ ý chỉ kinh, cho nên lui sụt, chê bai, thậm chí dứt mất gốc lành, huống chi không thọ trì, thì làm sao cứu chữa được?"
"Này người thiện nam! Nếu ông không tin" cho đến "Hiện thân sẽ đọa vào địa ngục A-tỳ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lời nói luống dối không có công hiệu, không bằng thật nghiệm. Đọa vào địa ngục: Điều lành không chứa nhóm, sẽ không lấy gì để diệt thân. Tội đã chín muồi, quả báo đến, cho nên đọa."
"Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh dù đã vào Phật pháp" cho đến "Nhưng bị bạn ác, La-sát, Đại quỷ giết hại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật nói nhân quả ba thừa, mà Thiện Tinh không hề được một điều gì, vì không có lòng tin, nên không được gì cả. Vì buông lung, vì ác tri thức. Buông lung là tai hại bên trong, bạn ác là duyên bên ngoài. Đủ hai việc ác này, cuối cùng dứt mất gốc lành, dù có vào biển cả, cũng không đạt được gì, người không tin trí tuệ tuy vào biển pháp cũng không được gì. Tự giết mình chết, dụ cho buông lung. Ác quỷ giết hại, dụ cho bạn ác."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thọ ký Thiện Tinh kia chắc chắn sẽ đọa vào địa ngục. Một phen dường như bất từ mà là đại từ. Vì sao? Vì nếu không thọ ký thì sẽ "Làm cho lòng tin tà của con người lớn thêm."
"Này người thiện nam! Cho nên Như Lai thương xót" cho đến "Vì tà ác, nên không bỏ ác kiến."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ ba. Dù thương xót, Đức Phật nói pháp cho Thiện Tinh nghe, nhưng vì ông buông lung quá đỗi, nên không thể thay đổi được gì."
"Này người thiện nam! Trước nay, ta thấy Thiện Tinh này" cho đến "Thiện Tinh là hạng Nhất-xiển-đề thấp hèn, dứt hẳn gốc lành sẽ đọa vào địa ngục một kiếp trụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ tư. Nếu nội tâm có chút điều lành, có thể dùng phương tiện truyền trao bên ngoài, thì người này có thể cứu độ. Ngược lại, nếu nội tâm không có chút việc lành nào, thì dù có dùng phương tiện bên ngoài đi nữa, cũng không biết làm sao!"
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ nhất. Nếu Thiện Tinh có mảy may việc lành, thì Đức Phật đâu có huyền ký sẽ phải đọa một kiếp trụ trong địa ngục, là người không thể cứu chữa ư? Bởi Thiện Tinh là Nhất-xiển-đề!"
"Này người thiện nam! Vì như người té xuống hầm phân" cho đến "Do đó nên không tránh được tội đọa địa ngục."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đưa tay mò dụ cho Đại phương tiện. Đầu tóc, dụ cho chút việc lành nhỏ nhoi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù có điều lành ở vị lai, nhưng việc xấu ác ở hiện tại quá nặng, vì không có gì để giúp phát triển, nên cả hai đời đều phục, đoạn."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Như Lai huyền ký Thiện Tinh kia sẽ phải đọa địa ngục A-tỳ?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thiện Tinh thấy Phật, nổi tâm tức giận, liền đọa vào địa ngục. Phật đứng lại dường như bất từ. Vì muốn xin Phật giải thích, nên mới nêu lên câu hỏi này."
"Này người thiện nam! Tỳ-kheo Thiện Tinh có nhiều quyến thuộc" cho đến "Thậm chí không có mảy may gốc lành".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý đáp: "Nếu không đi qua, thì không ghi chép, nghĩa là bên ngoài thì làm cho người tăng thêm nhiều điều ác, bên trong thì từ lâu đã cam chịu tội nặng, do đó trước kia đã thọ ký chắc chắn đọa vào địa ngục. Và hiện nay, với dĩ vãng kia, kiết quả là đọa vào ngục Vô gián, chẳng lẽ không có lòng từ hay sao? Chính là lý do hủy diệt nhân ác kia, chân thật không hai, nghĩa là vì con người nghe lời Phật nói, không tin lời của Thiện Tinh, tức là không làm thêm nhiều điều ác bên ngoài, làm cho Thiện Tinh chịu tội ít."
"Này người thiện nam! Từ lâu ta đã biết Tỳ-kheo Thiện Tinh này" cho đến "Đó gọi là giải Lực thứ năm của Như Lai".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì không ngoài, nên không sinh ra người tội. Lực giải thứ năm là lực tánh trong mười lực".
"Bạch Đức Thế tôn! Vì sao Nhất-xiển-đề không có pháp lành?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói hiện tại không có tánh tuệ, gọi là dứt gốc lành, chưa nói về năm căn và điều lành ở vị lai, nên mới hỏi".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là đoạn thứ ba, nói về dứt điều lành của hai đời".
Pháp sư Trí Tú nói: "Sau đây là đoạn hai, nói về nghĩa dứt gốc lành. Có sáu lượt nói về nghĩa gốc lành. Đây là lượt thứ nhất, tìm tướng trạng dứt gốc lành".
"Này người thiện nam! Hạng Nhất-xiển-đề vì dứt mất gốc lành cho đến" giết Nhất-xiển-đề không phạm tội sát".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sát sinh là giết hại cho nên tội.
Xiển-đề không có điều lành, chỉ có tội ác tâm, không phạm tội sát". "Bạch Đức Thế tôn! Vì Nhất-xiển-đề không hề có pháp lành, nên gọi là Nhất-xiển-đề phải chăng?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn thưa hỏi về điều lành vị lai, nên trước nói về quyết định này, rằng gốc lành của xiển-đề, không bao giờ khởi?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ hai nêu sau cuối để khẳng định Phật".
"Phật nói: Đúng vậy!" Đúng vậy.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa sau rốt, là có gần xa. Một đời, cho đến một kiếp, vì muốn mở ra đầu mối của luận kia, nên mới đáp "Như vậy".
"Bạch Đức Thế tôn! Tất cả chúng sinh có ba thứ pháp lành" cho đến "Dứt các pháp lành, gọi là Nhấtxiển-đề ư?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu ba đời là nghĩa, lấy ứng sinh ở vị lai, tức nay chưa sinh, cho nên không thể dứt, là ý chỉ sau cùng, chưa thể nào thấy được".
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ ba, trách cứ pháp vị lai chưa khởi, chưa khởi, tức là không thể dứt. Không nên dứt điều lành, nên thành xiển-đề".
"Này người thiện nam! Dứt có hai thứ" cho đến "Nên ta nói rằng, Nhất-xiển-đề dứt hết gốc lành".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Diệt mà không nối tiếp, gọi là dứt, tánh dứt, chướng dứt, nghĩa là tâm có ba thứ: Là Thiện, bất thiện, vô ký. Nếu người thường, thì lúc khởi tâm bất thiện, vô ký, dù không có tâm lành, nhưng vì trực tiếp tâm này không duyên đều, nên tâm lành không nối nhau, đó nói là tánh dứt. Vì hiện tại không có tà kiến, nên không gọi là chướng dứt. Xiển-đề hiện đang có chướng tà kiến nặng làm cho vị lai không sinh vào hiện tại, đó gọi là có đủ hai dứt".
Pháp sư Pháp Dao nói: "Thêm câu hỏi hữu, vô ở trước, vì hiện tại không có, nên được nói là dứt mất gốc lành, vì vị lai có, nên được nói là: "Đều có Phật tánh"
"Này người thiện nam! Ví như người bị té trong hầm phẩn" cho đến "Cho nên gọi là không thể cứu giúp".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý ví dụ là vì chỉ rõ là "Chướng dứt". Việc lành ở vị lai dù có sức khởi, nhưng vì giao tiếp bị tà kiến trong hiện tại làm che lấp, nên không thể khởi được, thành ra không thể cứu khổ.
"Do nhân duyên Phật tánh nên có thể cứu vớt" cho đến "Hạng Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là tánh của chánh nhân. Dứt gốc lành của duyên nhân, chẳng phải dứt chánh nhân. Do năng lực chánh nhân, nên việc lành từ lâu sinh trở lại, chẳng phải ba đời, nghĩa là giải thích nghĩa không dứt. Chánh nhân là nối nhau thường, vì thường nên không có đến, đi. Như hột giống bị hư, nghĩa là dùng bất thiện, vô ký làm chánh nhân. Năng lực của hai pháp yếu kém, trong đời hiện tại, sẽ không sinh điều lành, lấy hạt giống hư làm thí dụ."
"Bạch Đức Thế tôn! Hạng Nhất-xiển-đề không dứt Phật tánh" cho đến "Sao lại nói rằng dứt tất cả pháp lành?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân lời nói không dứt ở chánh nhân trên để đặt câu hỏi. Do năng lực của chánh nhân chắc chắn cảm đến quả Phật. Quả thiện, nhân thiện, cả hai đều không dứt, nên biết chẳng phải xiển-đề."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ tư, là tiếp theo ý chỉ của tánh không dứt ở trên, vẫn dùng làm câu hỏi: Phật tánh là thiện Xiển-đề không thể dứt, làm sao thành xiểnđề.
Này người thiện nam! Nếu trong các chúng sanh hiện ở đời cho đến thì không được gọi là Nhất-xiển-đề.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Phật tánh là thiện. Nếu người nào hiện có Phật tánh thì chẳng phải xiển-đề.
Nói về chánh nhân là nghĩa tánh của hạt giống, không dùng làm tánh của "Nhân duyên"."
"Như tánh "ngã" của chúng sinh ở thế gian" cho đến "Vì sẽ thấy, nên nói chúng sinh đều có Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lấy ngã thế gian làm ví dụ để chứng minh nghĩa hiện tại "không có". Vì sẽ thấy, là ở trên nói "Chúng sinh hiện tại không có tên là thường, vì đều có khổ. Vì "Sẽ thấy" là có, chứ chẳng phải hiện có."
"Do nghĩa này nên Bồ-tát Thập trụ trang nghiêm đầy đủ mới được thấy đôi chút."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói rằng sẽ thấy là có, ở đây nói là lúc đang thấy. Vì thấy đôi chút gọi là nhân. Thấy hoàn toàn gọi là quả. Nhân gọi là được, quả là bị được. Nay lấy được làm Phật tánh, là nói quả trong nhân."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Phật tánh là thường" cho đến "Thì lòng thương này há không phải là điều lành ư?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói Phật tánh là thường, không có ba đời. Lại nói: "Phật tánh sẽ thấy ở vị lai. Thời gian trước, sau này xâm lấn nhau, tức là nghĩa thường, vì chưa được rõ ràng, nên dùng hư không để gạn lọc."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ năm có hai câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất "trách cứ tánh chẳng phải ba đời, chẳng lẽ lại nói rằng vị lai"? Câu hỏi thứ hai: "Trách cứ rằng, đã có lòng từ yêu thương, đâu cho rằng chẳng phải điều lành ư?
"Phật nói: "Lành thay! Lành thay, này người Thiện nam!" cho đến "Chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thuật thành nghĩa trên không có ba đời."
"Tất cả chúng sinh có ba thứ thân" cho đến "Vì thân đời vi lai thanh tịnh, nên gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật tánh đã nói, là nói quả trong nhân, chẳng phải lỗi ăn nhập nhau của hai lời nói trước, sau."
"Bạch Đức Thế tôn! Như nghĩa mà Phật đã nói như vậy" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi rằng: "Nếu Phật tánh là thường, mà đã là thường thì vô sinh, vô diệt, chẳng phải tướng hữu vi, vì sao nói chúng sinh đều có Phật tánh?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ sáu có hai câu hỏi liên quan:
1. Nếu chẳng phải ba đời, thì chúng sinh hiện tại không nên "Có" Phật tánh?
2. Nếu chúng sinh "Có" Phật tánh, thì lẽ ra Phật tánh đồng thể với chúng sinh?"
"Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh dù ở hiện tại không có, nhưng chẳng thể nói là "Không"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù không có tướng hiện tại, mà cuối cùng sẽ được công dụng. Vì sau cùng sẽ được công dụng, nên đối với chúng sinh là "Có"."
"Như tánh hư không dù không có ở hiện tại, nhưng chẳng được nói là vô."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hư không chẳng có hiện tướng, nhưng được nói chúng sinh có dụng hiện tại. Phật tánh cũng như vậy, dù chẳng phải hiện có, nhưng chúng sinh ở hiện tại cũng được có công dụng."
"Tất cả chúng sinh dù đều là vô thường, nhưng Phật tánh này là thường trụ không thay đổi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn giải thích rộng, vì để khẳng định tánh của dụ nên nêu lại hai môn."
"Cho nên trong kinh này ta nói" cho đến "Giống như hư không, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nói không có trong, không có ngoài nên nói là thường."
"Như hư không kia có trong, có ngoài" cho đến "Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu có trong, ngoài thì chẳng phải duy nhất. Nếu có số phần thì chẳng phải thường. Trong thì không có ngoài, ngoài thì không có chính giữa. Chính giữa thì không có trong, đâu nói là khắp ư?"
"Như ông nói rằng, hạng Nhất-xiển-đề" cho đến "Nghiệp của Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tâm đứng đầu thiện, ác mà bị tà kiến làm hư hoại, nên dù có ý niệm thương xót, cũng không bao giờ thành thiện. Nghĩa trong ví dụ hiện tại."
"Này người thiện nam! Như Lai biết đầy đủ các căn, lực" cho đến "Nói rằng tất cả pháp đều không có tướng nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau đây, là phần hai, nói căn tánh không thể nhất định có thể tiến, có thể lùi. Nói lùi là để răn họ, nói tiến là nhằm khuyến khích họ, nói là phần khuyên răn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Dưới đây là phần thứ tư, nói Như Lai vì biết căn, lực, nên chuyển bậc hạ thành bậc trung. Do căn không nhất định, nên có thể tiến, có thể lùi, Như Lai không bao giờ buông bỏ."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Vì sao lại cho Thiện Tinh xuất gia?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói biết căn, chưa nói biết lợi ích của căn, mà cho Thiện Tinh xuất gia, không được lợi ích Phật pháp. Dùng dấu vết để quán sát, vì giống như không biết lợi ích của người, nên nêu lên các câu hỏi."
"Phật nói: Này người thiện nam! Thuở ta mới xuất gia" cho đến "Ta là Như Lai có đủ mười Lực."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là biết lợi ích của căn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật biết Thiện Tinh sẽ dứt gốc lành, nên mới cho xuất gia, để sinh ra chút pháp lành, mở mang tư chất cho đời sau. Vả lại, nếu không xuất gia, thì Thiện Tinh sẽ gây ra thêm nhiều điều ngang ngược độc ác khác nữa. Vì lý do đó, nên Đức Phật mới dẫn dắt ông vào đạo. Như kinh gia đã nêu rõ dấu vết của Điềuđạt, cuối cùng vẫn chưa phát được quyền của Thiện Tinh. Do đây mà nói rằng, văn kinh không nên ngăn dứt việc này. Suy lý tìm nghĩa, lẽ ra chẳng phải sự thật, bởi chưa cùng tận."
"Này người thiện nam! Phật quán sát chúng sinh có đầy đủ pháp lành" cho đến "Có thể dứt gốc lành, đầy đủ căn bất thiện."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là nhân lui sụt.
Nhân lui sụt có bốn:
1. Không quán sát bạn lành.
2. Dù gần, nhưng không nghe chánh pháp.
3. Dù nghe pháp, nhưng không suy nghĩ ý nghĩa.
4. Dù suy nghĩ ý nghĩa, nhưng không tu hành đúng như lời Phật dạy nói."
"Này người thiện nam! Như Lai còn biết người này, trong hiện đời" cho đến "Bấy giờ, có thể sẽ sinh gốc lành trở lại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là nhân tiến. Nhân tiến cũng có bốn: Lược nêu hai nhân: Gần bạn lành và nghe chánh pháp."
"Này người thiện nam! Ví như có con suối cách xóm làng không xa" cho đến "gọi là đầy đủ năng lực biết các căn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói lùi là tạm như vậy, mà sinh ra điều lành, là nhất định. Suối, dụ cho quả Phật. Xóm làng dụ cho ba cõi. Nước, dụ cho thường, lạc. Khát, dụ cho tám khổ. Người trí, dụ cho Đức Phật. Không có con đường nào khác, dụ cho tám khổ đáng nhàm chán. Thường, lạc thật đáng ưa thích, tám con đường nhất định."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn nhặt một chút đất" cho đến "Không so sánh với đất ở mười phương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về người lui sụt, dù rằng không lâu mà người lui sụt thì rất nhiều. Tiến bộ dù chắc chắn, nhưng người tiến lại ít!"
"Này người thiện nam! Có người bỏ thân, lại được thân người" cho đến "Có thể nhập Niết-bàn, như đất trong móng tay."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiến, nghĩa là từ sáng đi vào sáng."
"Bỏ thân người rồi, được thân ba đường" cho đến "Như số đất ở các thế giới trong mười phương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên là nói chung tất cả chúng sinh. Đây là nêu riêng người xuất gia và người kính tin kinh Niết-bàn, là khác nhau."
"Này người thiện nam! Như Lai đã biết tường tận căn tánh của chúng sinh như vậy" cho đến "Cho nên gọi là Phật có năng lực tri căn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kết thúc ý chỉ trên."
- Nói rộng về tranh luận, gồm hai mươi phần.
- Thứ nhất, giải thích về một Danh, Pháp, nói Vô lượng Danh. Một nghĩa nói Vô lượng Danh. Vô lượng nghĩa nói Vô lượng danh, cho đến nói Thế đế v.v... trong Bậc nhất nghĩa.
- Không vì năm hạng người nói năm thứ pháp, nghĩa là không vì người bỏn sẻn mà khen ngợi bố thí v.v....
- Giải thích rộng duyên khởi nói với ma vương rằng ba tháng nữa sẽ nhập Niết-bàn.
- Thứ hai là giải thích tranh luận ngã, vô ngã.
- Thứ ba là giải thích có trung ấm, không có trung ấm.
- Thứ tư là giải thích tranh luận về có lui sụt, không lui sụt.
- Thứ năm là giải thích Như Lai là hữu vi hoặc vô vi.
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Cũng biết các căn tánh chúng sinh ở vị lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ ba là phần tranh luận phẩm trên nói, đủ bốn đức thì tiến, không đủ là lùi, mà bạn lành chỉ là Phật. Chánh pháp chỉ do Phật nói. Nếu người đời sau đối với lời Phật nói, xảy ra tranh luận, tức là vì không khéo suy nghĩ, nên không đúng như pháp tu hành. Bốn đức sở dĩ không đủ là đều do Đức Phật nói không nhất định. Giống như Như Lai nói không thích hợp với căn cơ chúng sinh, nên nêu câu hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ năm, là nói rộng về tranh luận. Có ba lượt:
1. Phát ra cuộc tranh luận để đổ lỗi cho Phật.
2. Như Lai giải thích rộng, để khiển trách chấp đắm.
3. Giải thích tranh luận.
Sau đây, thứ nhất là nêu hai mươi mốt cuộc tranh luận. Nhằm đổ lỗi cho Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì muốn giải thích về cuộc tranh luận, nên lại nêu lên câu hỏi: "Đức Phật đã biết rõ căn tánh lợi độn khác nhau của chúng sinh trong ba đời, sao lại nói là không nhất định để cho chúng sinh phải tranh cãi ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Trong phần nói về tranh luận, chỉ có hai lượt hỏi đáp: Trước, Bồ-tát Ca-diếp dùng tranh luận để đặt ra câu hỏi, sau là Phật giải thích."
"Chúng sinh như vậy, sau khi Phật nhập diệt" cho đến "Vì sao ngày nay không nói quyết định?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Gồm nêu hai mươi cặp. Bốn mươi nhà tranh luận, xin Phật giải thích."
Đạo Tuệ ghi: Ca-diếp nêu câu hỏi. Gồm có bốn mươi tranh luận, từng cặp đối nhau, hợp thành hai mươi. Y cứ vào môn chương mới có bốn mươi hai. Hợp với hai câu thứ mười chín trong môn chương nói rằng: "Có người nói Phật tánh, "Tức" chúng sinh "Có", "Lìa" chúng sinh có. Có chỗ nói xiển-đề phạm bốn tội trọng, năm tội nghịch, đều có Phật tánh, hoặc nói không có. Hợp với hai câu này, cho nên thành bốn mươi."
"Phật bảo Ca-diếp: Này người thiện nam! Nghĩa như vậy" cho đến "Chính là đối tượng mà trí tuệ biết được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa mà Đức Phật nói, có "Quyền" có "Thật". Thức tánh là chấp đắm, không thấu rõ hai nghĩa này, nên mới chấp nghiêng lệch, rồi xảy ra tranh luận. Trí có công năng liễu đạt, không chấp, không tranh cãi."
"Nếu là người có trí, đối với người này" cho đến "Cũng lại cho rằng, Ta đặt ra thuyết không nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người trí thấy pháp, pháp và lý không hai, nghĩa là Đức Phật nói "Thật", không nói "Quyền". Với kẻ không có trí, vì không thấy pháp, nên Phật nói đạo Quyền, nghĩa là đạo có nói "Quyền", nói "Thật", không nhất định, nghĩa là ta đặt ra thuyết không Nhất định, tự không thấy pháp: nghĩa là Phật nói có hai, cho nên khởi tranh luận."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ hai, giải thích chấp đắm lời nói mê "Hoặc". Tùy phương, giải thích giáo hóa, đâu phải đối tượng sáu thức của phàm phu biết được, vì không hiểu được ý này nên sinh ra sự tranh luận này. Đối với người trí thì lý quy về một đầu mối và phương tiện giáo hóa chúng sinh của người trí kia. Nói vì dấu vết xưa không mâu trái nhau, nên nói là không hai. Đối với người ngu không hiểu biết mới chấp nghiêng lệch, cho là hai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Muốn giải thích câu hỏi, lại một phen giải thích chung: "Với nghĩa như vậy, chẳng phải điều mà sáu thức biết, người trí đã thấu suốt. Căn tánh chúng sinh không bình đẳng, phải có thuốc pháp khác nhau, đâu được nói nhất định, cho nên Nhất gia thường khuyên người tu hành nếu hiểu được các cuộc tranh luận này thì gọi là thông đạt Phật pháp.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói việc không nhất định, chứng tỏ chúng sinh khác nhau. Như làm vật dụng bằng da, ở xứ lạnh thì mở rộng, còn ở các nước ôn đới thì phải hạn chế. Thời gian: Như ban đầu nói không có ngã, về sau nói "Ngã". Lời nói khác: Đức Phật nói ít thấy Phật tánh là vì Bồ-tát của thân sau, chứ chẳng phải vì mình, vì người, nghĩa là nói quán bất tịnh là đạo, vì người nặng về ái mà nói, chứ không vì người nặng về giận, vì người căn cơ nhạy bén mà nói lược pháp yếu, vì người căn cơ chậm lụt mà nói rộng pháp yếu". "Đối với" một danh, một pháp nói vô lượng danh" cho đến "Đối với vô lượng nghĩa, nói vô lượng danh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp là thể của sự, danh là nhân của nghĩa, nghĩa là thật của danh, tên nói rằng trong, ngoài đều có chung riêng".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Như Lai nói pháp không nhất định, đâu thể nối kế là đây mà sinh ra chấp đắm ư? Y cứ vào một danh, một nghĩa, thêu dệt lẫn nhau thành lời nói. Tìm kiếm giải thích dưới đây, đều có ý chỉ".
"Thế nào là một danh nói vô lượng danh?" cho đến "Đó gọi là một danh tạo thành vô lượng danh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bát-niết, Hán dịch là Vô, cũng dịch là bất. Bàn: Hán dịch là Sinh, cũng dịch là Xuất. Âm nhà Hồ chứa đụng nhiều ý nghĩa, đều là nêu ra danh từ sinh tử, cũng là nghĩa (ra khỏi) sinh tử, là một danh, một nghĩa".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Một danh, nghĩa là lấy danh không có quả kia, mà các thứ đều khác nhau".
Đạo Tuệ ghi rằng: Niết-bàn là một danh, thể Niết-bàn là pháp của danh. Lại, y theo thể của Niết-bàn, tạo ra các tên gọi, các pháp, nói vô lượng danh".
Pháp sư Trí Tú nói: "Nắm một danh để được pháp. Tùy ở danh, pháp này có vô lượng tướng nghĩa, nói vô lượng danh, chứ chẳng nói là một danh tạo ra vô lượng danh".
"Thế nào là một nghĩa nói vô lượng danh?" cho đến "Đó gọi là một nghĩa nói vô lượng danh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không có sinh, xuất, dù xuất sinh không có, nhưng danh nghĩa đều khác nhau, tức vô lương có vô lượng danh. Giống như Đế thích, là người đứng đầu tầng trời thứ hai, nói là một nghĩa, đồng với nghĩa Niết-bàn, lấy việc khác làm chứng".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Một nghĩa nói vô lượng danh: Đây là danh của nghĩa, vì còn danh của nghĩa kia." Đạo Tuệ ghi: "Một nghĩa của Đế Thích. Đối với một nghĩa lại đặt ra các tên gọi, nên nói "Đối với một nghĩa nói vô lượng danh". Vì sao đối với vô lượng nghĩa nói vô lượng danh cho đến trong vô lượng nghĩa nói vô lượng danh.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Còn nghĩa khác kia". "Lại có một nghĩa mà nói vô lượng danh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ấm lấy chứa nhóm làm nghĩa, dù có nhiều tên gọi nhưng về nghĩa chứa nhóm là một".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Cũng gọi là đạo: Đây là nói theo "Duyên", vì ấm kia có công năng sinh ra đạo".
"Này người thiện nam! Thế tôn vì chúng sinh" cho đến "Nên gọi là Như Lai biết các căn lực".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bậc nhất nghĩa: Hàng Tiểu thừa lấy khổ, tập làm bậc nhất, chẳng phải "Không" có bậc nhất, nghĩa là thân giải thoát. Cái gọi là nhân quả, chia ba đời thành mười hai, nói nhân quả này là lược. Nghĩa khổ phẩm hạ là tướng chung, tướng riêng là rộng, đều ứng với việc căn cơ không nhất định".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bậc nhất nghĩa nói là thế đế: Thật ra Pháp thân này mà nói là thân trượng sáu, nghĩa là có sinh, già, bệnh, chết. Thế đế mà nói là Bậc nhất nghĩa, nghĩa là Kiều-trần-như, thật sự là Thế đế. Vì giải "Không", nên từ "Giải" được gọi là A-nhã Kiềutrần-như".
Pháp sư Đạo Tuệ nói: "Trên đây đã nói: Một danh, mà nói vô lượng danh, cho đến Thế đế mà nói là Bậc nhất nghĩa, đều nói không thể chấp nhất định".
"Này người thiện nam! Đối với các nghĩa như vậy, nếu ta nói" cho đến "Thành tựu đầy đủ, biết các căn lực". Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đối với một danh nói vô lượng danh, nghĩa rộng lược bình đẳng, ứng cơ mà nói pháp. Về lĩnh vực phước mà còn chưa hiểu rõ, huống chi là người khác ư?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì Như Lai tùy người, tùy thời gian, căn cơ khác nhau, nên nói pháp cũng khác, nghĩa là biết rõ năng lực của căn cơ".
"Cho nên, trong các kinh khác, ta đã nói" cho đến "Chẳng phải cảnh giới mà các Thanh văn, Duyên giác biết được".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh tâm không tin, nghĩa là dùng cách khen, tin chính là đối trị, phải trị ngược lại mới được nói".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tự có người lẽ ra còn đối trị trái lại làm thuốc, nghĩa là chính mình không khéo biết căn lực, thì đâu thể được như vậy?"
"Này người thiện nam! Như ông nói: "Sau khi Phật nhập Niết-bàn" cho đến "Như Lai được gọi là Vô Thượng Lực Sĩ".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi trước chung, sau riêng. Trong chung có hai lượt: Trước rộng sau lược, đây là phần lược: Ở trên nói: "Chúng sinh có ngu, trí. Căn cơ con người không phải một, danh, nghĩa của pháp không nhất định, nói là không được nhất định. Ở đây nói rằng: "Thế tục điên đảo, không hiểu được ý chỉ của thuyết, tự sinh ra tranh luận, chẳng phải lỗi của Phật, chẳng phải chỉ một tánh mà nói mười hai bộ kinh, vì tánh hạnh của chúng sinh chẳng phải một. Kinh có mười hai, dẫn Chư Phật để chứng minh".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là đoạn ba, giải thích rộng về tranh luận. Đoạn thứ năm giải thích về lực, là lực tánh trong mười Lực".
"Này người thiện nam! Nếu nói Như Lai rốt ráo nhập Niết-bàn" cho đến "Vì không hiểu ý của Như Lai, nên mới nói như vậy".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Dưới đây là đáp riêng. "Pháp thân có chân, có ứng. Chân thân là thường, ứng thân là vô thường. Hoặc thấy ứng thân diệt, rồi cho rằng chân thân cũng diệt, nghe nói chân thân là thường, rồi nói là ứng thân cũng thường. Đó là lý do xảy ra tranh luận. Pháp sư Bảo Lượng nói: Hai thuyết này của Phật đều có hữu vi, nhưng người chấp trái với trung, cho nên thành tranh luận. Ở đây giải thích về cuộc tranh luận thứ nhất".
"Này người thiện nam! Trong dãy Hương Sơn này có các vị Tiên" cho đến "Liền được chứng quả A-lahán".
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Sau đây sẽ nêu năm việc, đây là việc thứ hai, duyên khởi ngộ đạo."
"Này người thiện nam! Trong thành Câu-thi-na có các lực sĩ" cho đến "Tất cả đều phát tâm Bồ-đề".
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Đây là việc thứ hai, duyên khởi phát tâm Bồ-đề"
"Này người thiện nam! Ở thành Câu-thi-na có một người thợ khéo" cho đến "Ông nên đến cho Thuần-đà hay".
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Việc thứ ba, duyên khởi thành tựu Đàn Ba-la-mật".
"Này người thiện nam! Trong thành Vương xá có vị tiên có năm thần thông" cho đến "Ông ấy nghe xong sẽ được lậu tận".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ tư, duyên khởi của nhổ rể tà kiến".
"Này người thiện nam! Ở thành La-duyệt-kỳ, thái tử Thiện Kiến, muốn hại vua cha là Tần-bà-ta-la" cho đến "Như Lai nhất định nói Niết-bàn rốt ráo".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Việc thứ năm, nói về duyên khởi diệt tội".
"Này người thiện nam! Bồ-tát có hai hạng: Một là Thật nghĩa" cho đến "Không bao giờ rốt ráo nhập Niết-bàn".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người mới học, chưa có tri kiến, là Bồ-tát giả danh, không thấu suốt đạo quyền, cho rằng thân trượng sáu là chân. Nếu nghe nói vô thường, thì sanh tâm lui sụt, vì cho là thân trượng sáu không thay đổi".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bồ-tát giả danh, nghĩa là hàng phàm phu giả được tên gọi này, nên sinh ra chấp đắm, chứ chẳng phải bậc Thánh, vì là Bồ-tát giả danh, nên nói rằng Như Lai thường trụ không thay đổi. Có các phàm phu không hiểu cho rằng không bao giờ thay đổi, nhập Niết-bàn, làm tổn thương cho ứng thân diệt, cho nên trở thành vấn đề tranh luận".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cho nên Phật tuyên bố nhập Niết-bàn là vì muốn cho người nêu nghe pháp sâu xa được đến, nên có thuyết này. Không rốt ráo, là vì khuyên tấn người học, nhập vào năm căn mà tín đứng đầu, cho nên tuyên bố là thường.
Nếu muốn kiết lỗi lầm của hai nhà thì đối với người nghe nói nhập Niết-bàn, sự đồng với "Nguội thân". Đối với người nghe không rốt ráo, cho rằng Đức Phật thường như thờ tượng. Tuy nhiên, với nghĩa Trung đạo, tìm cầu, tuyên bố rằng nhập, là "Quyền" chứ không "Thật". Nói nhập nghĩa là vắng lặng vô tướng."
Pháp sư Trí Tú nói: "Nói người nghe đạo "Quyền" sẽ được lợi ích".
"Này người thiện nam! Có các chúng sinh sinh ra chấp đoạn" cho đến "Quả báo thiện, ác, thật có người thọ lãnh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: ""Ngã" có chân, có tục. Vì tục nên nói "Có", vì "Chân" nên nói không. Nói tục là "Đoạn", nói chân là "thường", mà hoặc có người, vì nghe nói tục "Có", nên cho rằng, chân cũng có. Vì nghe nói chân không có, nên cho rằng tục cũng không có, vì thế xảy ra tranh luận".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ hai: "Như Lai vì dứt trừ chấp đoạn, nên nói nghiệp thiện, ác thật có người thọ báo. Vì trải qua quả của sinh thọ, ý nối nhau. Một là người tu hành, hai là thần minh, nối nhau, nói về dụng, giả gọi là ngã, không đạt được ý chỉ này, chấp lầm rằng có thần ngã thật không diệt, thọ sinh khắp nơi.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì phá chấp đoạn của ngoại đạo kia, nên nói có nối nhau. Giả gọi là tác dụng của ngã, mà chấp lầm ngã là luống dối, tức là nói có thần. Nếu nghe giáo pháp đả phá không có thần ngã, bèn cho rằng tám tự tại cũng không có. Do hai chấp đều khác, cho nên thành tranh luận. Nếu nói theo Trung đạo, thì vua Thiện Kiến chính là thân ta, vì người chấp đoạn cho nên nói.
Nói vô ngã, vì chấp thần ngã cho nên nói. Chứ chẳng phải không có ngã của tám tự tại. Cho nên được nói có và không.
"Làm sao biết là có? Này người thiện nam! Đời quá khứ" cho đến "Nhất định nói có ngã và ngã sở.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngã là hiệu chung của hữu tình; chúng sinh, thọ giả là tên khác của dụng thường, tên gọi có mười sáu, mà nghĩa nói là ba đời, gọi chung là quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì giả gọi là một, nên chính là thân ta, có người cho rằng, Phật nói một ngã riêng. Từ xưa đến nay, vì đầu cuối không thay đổi, nên xảy ra tranh luận".
"Lại, một thuở nọ, ta đã nói với chúng sinh rằng ngã chính là tánh".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì chứa nhóm tu tập mà thành, nên gọi là tánh".
"Nghĩa là nhân duyên trong ngoài, mười hai nhân duyên" cho đến "Nói rằng: Như Lai nhất định nói có ngã".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu tập thành sự".
"Này người thiện nam! Lại vào một dịp khác, có một Tỳ-kheo" cho đến "Nói rằng: "Này Tỳ-kheo! Năm ấm không có ngã, ngã sở"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chính vì Tỳ-kheo chấp ngã nhất định để đặt câu hỏi, nên Đức Phật đáp: "Ngã không có nhất định. Ba câu hỏi của Tỳ-kheo đều là chấp đắm:
1. Hỏi về tên gọi.
2. Hỏi về sự thật.
3. Hỏi về duyên.
Đây là do Như Lai ngăn dứt Tỳ-kheo chấp thật, nên nói rằng, không có ngã, ngã sở.
"Mắt, tức là trước kia không mà nay có" cho đến "Không có xả ấm và người thọ ấm".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chấp ngã, nghĩa là nói hữu tình là ngã. Nay ngay nơi hữu tình để nói về ngã."
"Như ông đã hỏi: "Thế nào là ngã, ngã tức kỳ hạn".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân và quả nhóm họp. Gọi là kỳ hạn. Vì sao? Vì làm điều lành thì phước ứng, hành động xấu ác, thì tai họa ứng, khẳng định không có sai chạy. Đây là nói về quả nghiệp không dứt, là đáp câu hỏi về tên gọi".
"Ai là ngã, tức là nghiệp"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chiêu cảm quả không khác nhau, là sức nghiệp, là đáp câu hỏi về thật". "Vì sao có ngã? Tức là ái."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Do nghiệp lực mà thọ quả báo. Vì "Duyên" thọ nên thọ, là đáp câu hỏi về duyên"
"Này Tỳ-kheo, như hai bàn tay vỗ vào nhau" cho đến "Vì ba nhân duyên, nên gọi là ngã".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chỗ nào cũng thọ sinh, gọi là chúng sinh. "Duyên" do ái, nghiệp, ba việc không dứt, gọi là "Ngã". Đó là chúng chấp đoạn, nói là nghĩa lý do của "Ngã".
"Này Tỳ-kheo! Đối với tất cả chúng sinh, sắc không phải ngã" cho đến "Nói rằng: "Như Lai nhất định nói vô ngã"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói nghĩa của ngã, là do nhân duyên mà thành, chính là đả phá ngã nhất định, không lìa một quả. Câu trên là phá một, câu dưới là phá khác. Nêu điều mà ngoại đạo thấy, nhằm đả phá chấp một, khác. Trước giải thích không phải khác, sau giải thích không phải một."
"Này người thiện nam! Trong kinh ta lại nói rằng" cho đến "Tuyên bố rằng: "Đức Phật nói nhất định không có trung, ấm".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật nói nghiệp yếu kém, thì quả báo sẽ ứng chậm, nghĩa là có trung ấm, nghiệp nhân mạnh, thì quả báo sẽ ứng nhanh nghĩa là không có trung ấm, mà người mê hoặc nghe nói "Có", bèn cho rằng tất cả đều có, nghe nói không, rồi cho rằng, tất cả đều không, nên xảy ra tranh luận."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ ba: "Đức Phật nói: "Trung ấm là Sinh ấm, là ở phương tiện. Nếu nói dưới đến A-tỳ, trên cùng cực Tứ không, đây là hoàn toàn không có Trung ấm. Khoảng giữa hoặc có, hoặc không, đây là nghĩa đúng".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói hữu, nói vô chưa hẳn là khu vực, chỉ vì nghiệp có nhất định, không nhất định. Nhất định thì có, chẳng nhất định thì không. Nếu nói theo Trung đạo thì vừa có vừa không".
"Này người thiện nam! Trong kinh, ta lại nói có lui sụt" cho đến "Vì sinh phiền não nên lui sụt".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phiền não có hai thứ: Một là thọ sinh, hai là che lấp thiền định. Vì thọ sinh nặng, nên tu vô lậu để dứt phiền não. Dứt thì không khởi, vì che lấp định nhẹ, nên không tu vô lậu, hễ gặp duyên là khởi lại, đây là do lui sụt định, khởi chướng, nhất định là phiền não. Không lui sụt vô lậu, không khởi phiền não thọ sinh. Dù không khởi phiền não, nhưng vì lui sụt thiền định, nên vô lậu không hiện ở trước. Ví như trong nhà có con rắn độc, nhờ có đèn soi sáng mới thấy được rắn. Dù cho đèn tắt, không nhìn thấy, nhưng không bao giờ vào nhà được. Các pháp tánh "Không", nhờ định mà được thấy. Dù lui sụt định không thấy, nhưng không khởi phiền não. Hoặc nghe nói lui sụt định, bèn cho rằng vô lậu cũng lui sụt. Nghe nói vô lậu không lui sụt, rồi nói là định cũng không lui sụt".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ tư: "Nếu bốn ý chỉ trở xuống chưa được chánh tín, đôi khi còn có lui sụt. Vào Pháp Noãn rồi, hoàn toàn không lui sụt, cho đến La-hán. Nếu là vô lậu, thì không lui sụt. Nếu là hữu lậu, thì có khi có lui sụt: căn cơ chậm lụt thì lui sụt, căn cơ nhạy bén thì không. Tánh vô lậu, chiếu lý mà sinh, một khi đã chứng đắc thì không mất, chỉ lui sụt định hữu lậu, nên vô lậu sẽ không hiện ở trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Căn cơ A-la-hán có lợi, có độn (nhạy bén, chậm lụt). Lục Trụ trở lên, đều chế phục, dứt phiền não che lấp định. Phiền não thọ sinh không còn khởi lại, cũng như đốt cháy củi thành tro, không thành gỗ trở lại, nhưng chướng định, không hiểu biết. Đã chế phục, dứt trừ nếu là người căn cơ nhạy bén, thì phát ra quán vô lậu. Nếu muốn nhập trở lại, thì sẽ được nhập. Đối với người căn tánh chậm lụt, sau khi xuất quán, muốn nhập trở lại thì rất khó, lại cần phải tác ý, mới được nhập, nên gọi là thối. Hoặc giả La-hán lui sụt, khởi tư duy cõi Dục, thành Tu-đà-hoàn".
"Nói không lui sụt, nghĩa là thiền định cũng không lui sụt, cho nên xảy ra tranh luận."
"Lại có Tỳ-kheo tên là Cù-đàm" cho đến "Tuyên bố rằng Như Lai nhất định nói không lui sụt".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cù-đề là người Nahàm; sáu lần lui sụt định, không được hết lậu. Tranh luận thứ bảy, vì sợ sở tu sẽ mất đi nên tự sát trong khi chưa chết, các lậu đã được dứt hết. Ma vương cho rằng, người này đã chết, bèn vây quanh thi thể người ấy, để tìm kiếm thần thức của ông, tìm không được bèn bạch Phật rằng: "Đệ tử của ông chưa hết lậu mà đã chết?" Phật đáp: "Người này đã nhổ hẳn gốc rể của thọ rồi, nhập Niết-bàn. Sáu loại La-hán, dẫn phần lui sụt để chứng minh".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lập ra nghĩa lui sụt vô lậu: Dẫn nghĩa này làm y cứ, nói là tất cả hữu lậu, vô lậu của quả La-hán đều lui sụt".
"Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói: "Thân Như Lai" cho đến "Nhất định nói thân Phật là pháp vô vi".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích đồng là Niết-bàn, vì niệm niệm sinh diệt bất sanh bất diệt là khác. Phi học: Vì Kim cương gọi là học. Chủng trí mới khởi, gọi là Vô học. Pháp thân bất sinh, bất diệt, không có hai tướng". Đức Phật ra đời hay không ra đời, cũng thường trụ không lay động, nghĩa là vì ứng là xuất, không ứng thì không xuất, nhưng ứng với thường không sinh diệt. Không hiểu ý của ta cho rằng, nhất định là hữu vi, nhất định là vô vi. Vô vi thì thường, hữu vi thì vô thường".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận lần thứ năm: "Nghe nói diệt, cho rằng không có pháp thân. Nghe nói pháp thân bất diệt, cho rằng ứng tích cũng là thường, nhằm vào ngã, vô ngã, nói theo cách thân thì ở đây y cứ ở hiện tại làm nghĩa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nghe nói ứng thân vô thường, cho là không có Pháp thân. Nếu nghe nói thường trụ, lại đồng với chấp của ngoại đạo. Vì cả hai thuyết đều trái với tự nhiên, nên xảy ra tranh luận".
- Thứ sáu là giải thích mười hai nhân duyên, hoặc Hữu vi, hoặc Vô vi.
- Thứ bảy là giải thích: hoặc nói là tâm thường, hoặc nói là vô thường.
- Thứ tám là giải thích năm dục lạc, hoặc chướng ngại đạo, hoặc không chướng ngại đạo.
- Thứ chín là giải thích Noãn, Đảnh, Nhẫn, Pháp Thế bậc nhất, hoặc ở cõi Dục, hoặc ở ba cõi.
- Thứ mười là giải thích hoặc cho là bố thí, chỉ thuộc về ý nghiệp, hoặc là năm ấm.
- Thứ mười một là giải thích hoặc có ba vô vi hoặc không có ba vô vi.
- Thứ mười hai là giải thích hoặc có tạo sắc, hoặc không có tạo sắc.
- Thứ mười ba là giải thích: Có sắc vô tác, không có sắc vô tác.
- Thứ mười bốn là giải thích hoặc có tâm sở, hoặc không có tâm sở.
- Thứ mười lăm là giải thích hai mươi lăm Hữu, hoặc năm, sáu, bảy, tám Hữu.
- Thứ mười sáu là giải thích nghĩa "Nhất phần Ưubà-tắc".
- Thứ mười bảy là giải thích nghĩa phạm trọng mất giới, hoặc không mất.
- Thứ mười tám là giải thích hoặc nói là người của bốn quả thành Phật, hoặc nói không thành.
- Thứ mười chín là giải thích: Phật tánh ngay nơi chúng sinh mà có, hay lìa chúng sinh mà có.
- Thứ hai mươi là giải thích: Có Phật mười phương, hay không có Phật mười phương.
"Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: "Thế nào gọi là" cho đến "Mười hai nhân duyên chắc chắn là hữu vi".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hữu vi là vô thường, vô vi là thường. Hai thứ: Một là đoạn diệt vô thường, chẳng phải số chúng sinh; hai là không đoạn diệt vô thường, là mười hai nhân duyên. Thường cũng có hai: Sinh diệt thường là mười hai duyên; bất sinh diệt thường, là Niết-bàn. Đó là mười hai nhân duyên cũng là thường, vô thường, mà người nghe nhân duyên sinh, diệt, bèn cho là đồng với cỏ cây. Nghe nói không sinh diệt bèn cho rằng một tướng với Niết-bàn, nên xảy ra tranh luận". Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ sáu: "Nếu nói về nghĩa đúng thì mười hai nhân quả sinh nhau, đến khi thành Phật mới dứt hết. Nay chấp hữu vi, cho nên thành sai lầm, nghĩa là từ sinh đến già, chết dứt hẳn không còn nối tiếp. Nói vô vi, là đều không có dứt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Mười hai nhân duyên thật là hữu vi. Nói hữu vi, sở dĩ thành tranh luận, là vì mười nhân duyên kia không tạo ra nhân quả, hữu vi nối tiếp nhau, nghĩa là các pháp hữu vi đương thể đều đoạn diệt, vì không còn tướng nhân quả nữa".
"Lại một thuở nọ, ta bảo các Tỳ-kheo đến "Có Phật không có Phật, tánh tướng thường trụ".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nối nhau không khác, nên gọi là thường."
"Này người thiện nam! Có mười hai duyên không từ duyên sinh" cho đến "Nói mười hai duyên nhất định là vô vi".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù dẫn bốn câu, chỉ lấy câu đầu, giải thích về lý do "Hoặc" sinh, không từ duyên sinh, là chưa hợp với duyên. Từ duyên sinh chẳng phải là không hợp với duyên. Từ duyên sinh chẳng phải là mười hai duyên, nghĩa vì không đủ mười hai, nên nói không phải".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu thứ hai nói rằng, có mười hai duyên, không từ "Duyên" sinh, mười hai chi ở đời vị lai, là vì vị lai chưa khởi, nên nói rằng không từ duyên sinh, có người nói là "Thường", nên không từ duyên sinh. Thuyết này vốn nói theo giáo xưa, nhưng người chấp đều chỉ nói nghiêng về hữu vi, không có hai nhà nối nhau nữa, vì đều sai trái nên xảy ra tranh luận".
"Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: "Tất cả chúng sinh" cho đến "cho rằng Như Lai nói tâm nhất định là thường".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắc có tướng khác, nên nói là hư hoại, mà vì tâm không có tướng "Khác", nên nói là thường. Có người nghe nói sắc hư hoại, mà tâm là thường, bèn cho rằng tâm không sinh diệt, từ dưới lên trên."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ bảy: "Nếu nói theo nghĩa đúng, thì pháp thật là trước diệt mà sau sinh. Giả gọi thì đầu cuối là một. Có người nghe nói tâm, thì hạnh trên không "Giải" nối nhau, nói có tâm này, thường mà bất diệt, hướng lên mà thọ sinh."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta có nói với vua Tần-bà-ta-la rằng" cho đến "Nói rằng: Đức Như Lai nói tâm chắc chắn là đoạn." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghe nói năm ấm đều hư hoại, bèn cho rằng, tâm cũng như sắc có lớn nhỏ, dài ngắn v.v... khác nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghe nói vô thường cho rằng, bỏ thân năm ấm này, tâm cũng đoạn diệt, không còn nối tiếp nữa".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói thường, thì hoàn toàn không diệt.
Nói đoạn thì không có nối nhau, cho nên xảy ra tranh luận".
"Này người thiện nam! Trong kinh ta có nói: "Các đệ tử ta" cho đến "Nói: thọ hưởng năm dục, chắc chắn chướng ngăn chánh đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo vì lấy việc đoạn làm đạo, nên đã nằm trên than lửa, ăn hèm v.v... Pháp Phật thì không như thế, mà có người nghe nói không chướng ngại năm dục cho rằng tâm dục hiện tiền, cũng không chướng ngại đạo. Nghe nói tâm dục là chướng ngại, bèn cho rằng. Các thứ hương, hoa... cũng có thể chướng đạo, cho nên xảy ra tranh luận".
"Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói xa lìa phiền não" cho đến "Nói pháp Thế bậc nhất thuộc cõi Vô sắc".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là quả La-hán. Cõi Dục không có ở La-hán. Ba cõi chắc chắn đều có thể tu pháp Thế bậc nhất, nhập đạo kiến đế, chỉ trừ một địa Phi tưởng. Ba địa dưới đều muốn được Phật tùy sự nói khác, mà có nhiều người đều sẽ được nghe, vì chấp nghiêng lệch, nên sinh ra tranh luận. Lúc tu pháp Thế bậc nhất, có thể chế phục kiết kiến, gọi là xa lìa, chưa thấy bốn đế, vì chưa rốt ráo dứt, nên chưa được giải thoát. Ở Sơ thiền, cho đến đệ Bốn thiền, nghĩa là cõi Dục, định ít, tuệ nhiều. Cõi Vô sắc, định nhiều, tuệ ít. Cõi Sắc định tuệ bằng nhau, vì dể dùng, nên nói chỗ dễ kia. Có người bèn cho rằng trên, dưới đều không thể. Được quả A-na-hàm: Kinh này không có thuyết siêu việt. Được quả thứ ba, là ba "Không" kiết phẩm hạ đã được chế phục, dứt trừ. Lúc thấy chân đế, quán vô lậu nhạy bén, nên dù trải qua Sơ quả, nhưng không bao giờ trụ, nay nói trụ xứ đó".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ chín. Nếu nói về nghĩa đúng, thì tâm cõi Dục và tâm bốn thiền, đều có công năng tạo ra pháp Thế bậc nhất để quán. Ba "Không" cũng có thể được hữu, nhưng tâm của địa này khó vận dụng, là vì con người không theo cái khó, phần nhiều thích cái dễ. Mỗi địa đều là hàng phục kiết sử. Lúc bấy giờ, chưa được vô lậu chân. Nếu là người căn cơ nhạy bén thì thân ở cõi Dục, đều có thể thỏa mãn tâm của địa trên, có thể hàng phục kiết sử của địa trên. Người căn cơ chậm lụt, chưa hẳn được như vậy, phải theo thứ lớp sinh. Vì người căn cơ nhạy bén, nên nói pháp Thế bậc nhất. Ở cõi Dục không hiểu được ý Phật, bèn cho rằng hoàn toàn là cõi Dục, không được dùng tâm của thiền địa. Nếu nghe nói Bốn thiền tạo ra bốn pháp quán là từ tâm của địa căn bản, thì cho là hoàn toàn không dùng cõi Dục. Vì trái với Trung đạo, cho nên tranh luận". Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói theo lý thì tâm ba cõi đã dứt hết, tạo nên pháp Thế bậc nhất. Tự có người chưa được tám thiền, chỉ được định Điện quang của cõi Dục, vẫn sử dụng định này, giả gọi là pháp không quán, nên Đức Phật nói người này dùng tâm cõi Dục tạo nên. Tự có người được tám Thiền định, giả gọi là pháp không quán. Lại tự có người trước hàng phục kiết sử cho đến "Ba không", đối với địa kia gặp Thánh, dùng định "Ba không" tạo ra pháp đệ nhất, có người không hiểu, cũng nghe nói tâm cõi Dục tạo ra, bèn nói rằng, hai cõi trên không được. Nghe nói hai cõi trên được tạo ra, lại nói rằng, cõi Dục không được, do đó mà xảy ra tranh luận".
Pháp sư Trí Tú nói: "Hai cõi đều được tạo nên pháp Thế bậc nhất".
Minh Tuấn nói: Các cách giải thích Trên đây, đều dựa vào nghĩa của luận Thành Thật. Nếu theo nghĩa số thì chỉ hai cõi được tạo ra pháp Thế bậc nhất thôi, còn trí không định kia hoàn toàn không được. Vì sao? Vì từ nhẫn Phẩm Thượng trở lên còn không được duyên, huống chi là pháp đệ nhất giống với vô lậu mà được tạo ra ư? Về nghĩa ăn lẫn nhau, rõ ràng là triết lý sáng suốt!" "Này người thiện nam! Trong kinh, ta có nói trong bốn thứ thí" cho đến "nói rằng: "Như Lai nói thí cho chỉ có ý."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghiệp thân, miệng, ý đều là thể của thí. Có tịnh, bất tịnh. Tịnh thì phước dày, bất tịnh thì phước mỏng. Tịnh là do có tâm tịnh. Đầu tiên có ba: Một là đủ hai tịnh, hai nghiệp còn lại đều có lòng tin lẫn nhau. Dù có hơn kém, nhưng đều được gọi là tịnh, mà đôi khi có người nghe nói bố thí tịnh là do đức tin, đức tin là ý nghiệp, bèn cho rằng, bố thí đầy đủ ở ý, nên mới xảy ra tranh luận.
"Này người thiện nam! Một hôm, ta lại nói thế này" cho đến "Nói rằng: Phật dạy thí cho tức năm ấm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đức Phật nói quả trong nhân, nghĩa là năm sự thí. Có người nghe nói cái ăn này tức là nghiệp thí, vật dụng bên ngoài có thể thí cho, đều là bố thí vì Pháp thuộc về năm ấm đã dứt hết rồi, cho nên nói thì tức năm ấm".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười, y theo nghĩa đúng, thì tâm đứng đầu bố thí.... Sắc để giúp cho tâm được hoàn thành hạnh thí. Thân, miệng giúp cho ý, chỉ vì thân, miệng không phải là pháp của tình cảm linh thiêng, nên nghe nói hai thứ thân, miệng là tịnh, bèn cho rằng, chỉ một ý, nghiệp, không liên quan đến thân, miệng. Nghe nói thí cho là năm việc, bèn cho rằng chỉ có "Sắc" chứ chẳng phải "Tâm", nên lại xảy ra tranh luận".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu có người hành đạo đã lâu, tâm xả đã thành tựu bất cứ lúc nào, vì thường thực hành, nên Phật đã vì người này giảng nói về hạnh bố thí, tức là ý, không đợi thân, miệng mới thành. Tự lại có người vì gốc lành yếu kém, nên cần thân, miệng giúp đỡ hoàn thành, mới có thể tuệ thí. Nếu không tác động đến thân, miệng, thì trực tiếp khởi tâm niệm không thành nghiệp thí. Đức Phật đã vì hạng người này nói bố thí cụ thể là năm ấm. Có người nhận lầm ý Phật, nếu nghe thí cho chỉ có ý, thì hoàn toàn không liên quan đến thân, miệng. Vì cả hai chấp đều nghiêng lệch, nên trở thành tranh luận".
"Này người thiện nam! Một thuở nọ, ta nói: "Niết-bàn" cho đến nói rằng: "Phật nói không có ba pháp vô vi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật nói hai đế: Thế đế có nhân, nhân có hai thứ: Một là có dụng của pháp; hai là không có dụng của pháp. Ba pháp vô vi có dụng của pháp nghĩa là năm ấm. Có người nghe nói Niết-bàn dứt được sinh tử, bèn nói là có pháp vô vi, thuộc về pháp nhập. Nghe nói không có pháp kia rồi cho rằng không có Niết-bàn để cắt đứt sinh tử, mà xảy ra tranh luận. Đèn tắt thì ánh sáng mất ngay, không có pháp diệt sinh ra. Niết-bàn cũng như vậy. Trực tiếp phiền não diệt mất, không còn có pháp nào sinh ra, vì phiền não đã diệt, thì sinh tử không nối tiếp, là tác dụng của pháp vô, gọi là hư không, vì tướng chung này là "Không", nên gọi là thường, thế gian nói không có ngựa,... là tướng khác của không, là "Không" của tướng riêng, cũng dùng pháp vô làm không, mượn làm thí dụ. Vì tướng khác nhau, nên chẳng phải thường, chẳng phải khắp.
Chẳng phải trí "Duyên" diệt: Trí duyên diệt vô lậu xuất thế gian, chẳng phải là trí "Duyên" diệt, vô lậu thế. Dù vậy, thế và xuất thế khác nhau, nhưng về nghĩa diệt là "Thường", đồng với hư không, gọi là ba vô vi. Ngoại đạo không được vô lậu dứt kiết. Vì kiết diệt rồi sinh lại, nên không được gọi là "Thường"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ mười một. Nói theo nghĩa đúng, thì chẳng phải không có ba vô vi, ba pháp riêng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Có người cho rằng, chẳng có vật thể trong hư không, chẳng thể phân biệt, chỉ là một "Không", chẳng có ba vô vi. Ý Phật trong đây cũng được nói là "Có", cũng được nói là vô. Vì "Vô" chẳng có pháp riêng, nên nói là vô. Vì theo đuổi nghĩa để tìm kiếm dĩ vãng, nên nói là hữu.
"Này người thiện nam! Một hôm, ta vì Mục-kiềnliên" cho đến nói rằng: "Như Lai nói có Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gọi là Niết-bàn, nghĩa là chương, cú. Nơi bậc Thánh đã đặt chân đến, nói là dấu vết. Không bao giờ lui sụt, nghĩa là rốt ráo. Không có tám khổ: Nghĩa là không sợ hãi. Người chữa bệnh sinh tử, là Đấng Đại Sư. Quả Nhẫn trí không gây trở ngại Tam-muội, đều tùy nghĩa khác để gọi. Tướng đồng với pháp, gọi là đại pháp giới. Dứt bặt già, bệnh, chết, gọi là vị Cam lộ. Không thể lấy được, gọi là khó thấy."
"Lại, một thuở nọ, ta bảo Mục-kiền-liên" cho đến "Như Lai quyết định nói có hư không vô vi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu có tánh thì tánh không thể hư hoại. Vì hư không kia vô tánh, gọi là không bền chắc, gọi là hư không, nghĩa là vô tánh, vô pháp. Không có pháp, có công dụng, tánh đồng với hư không, tức lấy đó làm tên. Thức ăn lọt xuống rồi trở về, là nói thức ăn với tất cả âm thanh, cả hai đều liên quan nhau: Nếu thức ăn không được lọt xuống, thì âm thanh sẽ không phát, vì không có "Một". Thức ăn có lọt xuống thì âm thanh mới phát, là tác dụng của hư không. Có người nghe nói hư không có tác dụng, rồi cho rằng có pháp hư không, pháp nhập thuộc về sắc nhập".
"Lại một hôm, ta vì Mục-kiền-liên nói" cho đến "Quyết định nói có chẳng phải là trí "Duyên" diệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Từ trí "Duyên" mà "Diệt", nghĩa là không từ trí vô lậu xuất thế. Từ Noãn, Đảnh trở lên, cho đến Pháp Thế bậc nhất, là vô lậu thế gian, dứt hẳn quả báo ba đường ác".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu vì trí "Duyên" đối tượng diệt, cũng gọi là trí "Duyên" vô vi, "Không" đã chẳng có vật nào dung chứa, lại khác với hư không, cũng gọi là hư không vô vi. Trong "Không" chẳng có cái gì để đếm nữa, tức gọi là phi số "Duyên" vô vi. Người không hiểu ý Phật, nghe nói "Vô" thì không được tùy nghĩa có ba. Nghe nói hữu, bèn nói có ba nghĩa, mỗi nghĩa đều có tự thể riêng. Vì chấp lấy hình tượng của việc, nên thành tranh luận."
"Này người thiện nam! Lại một thuở nọ, ta nói với Tỳ-kheo Bạt-ba" cho đến "Quyết định nói rằng sắc là bốn đại".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bốn đại gọi là sắc, là sắc, pháp có năm, bốn đại là giả nói bốn, tức nói kiến chấp đều hết. Âm thanh do bốn đại phát ra, nêu gốc là gồm cả ngọn. Quyết định nói rằng sắc là bốn đại, là sắc xứ, bốn đại thường chung, trong nước có lửa, trong nóng có lạnh. Âm thanh trong hư không cũng có bốn đại, mất đi ý chỉ".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười hai: Nếu nói về nghĩa đúng, thì dùng sắc, hương, vị hình thành bốn Đại. Bốn đại lại hình thành năm căn như nhãn căn v.v.... Dù nói mười bốn thứ sắc, nhưng nếu thuộc về tánh thì không ngoài bốn đại. Nếu bốn đại làm nhân, năm căn làm quả, không lìa quả có nhân thì được nói là do nhân mà thành. Nghe nói bốn đại gọi là sắc, vì không hiểu sắc thuộc về tánh, rồi cho rằng, chỉ có bồn đại, không có sắc khác. Nghe nói nhân Bốn Đại tạo ra, có thể nói là tạo ra căn do đại mà hình thành, lìa nhân không có quả, cho đến bỗng nhiên sạch hết. Nếu nói theo phẩm bốn đại thì đều không chia ra bốn đại, không nói lời này. Nghĩa bốn đại quá khứ tạo ra sắc ba đời, nói là nghiệp thân miệng trong hiện tại, do sắc mà có. Do mười bốn năng lực lớn, mạnh trong quá khứ, nên là năng tạo. Hiện tại tạo ra hai đời. Vị lai chỉ tạo ra một đời. Vì không hiểu được ý Phật nói, lại sinh ra tranh luận".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Có người cho rằng: Năng lực của bốn đại mạnh, có thể tạo ra sắc v.v..., mà năng lực của sắc v.v... yếu kém, nên không thể tạo ra bốn đại, rồi thường tạo ra chấp này. Lại một thuở nọ, Phật vì các Tỳ-kheo nói năm ấm đều không. Vì sao? Vì là sắc, sắc tức bốn đại, các Tỳ-kheo bèn nói rằng bốn đại không thể tạo ra sắc. Lại, một hôm Phật nói bốn đại tạo sắc, cái gọi là vuông, tròn.... Đây là nhân của tướng, nhân của đối đãi. Có người nghe thuyết này, bèn nói là bốn đại chắc chắn có thể tạo ra sắc. Nếu nói về Trung đạo hoặc nói theo nghĩa đúng thì lẽ ra cũng là tạo, không tạo. Vì sao? Vì do bốn đại mà có hình dáng vuông, tròn.... Vì các sắc giả khởi, nên cũng nói là tạo.
Trước cũng bốn đại, sau cũng bốn đại, tức là không có tạo. Năm trần cũng vậy. Do tế thành thô, nên cũng được nói là sắc của sắc tạo. Vì trước đã là sắc, sau cũng là sắc, nên nói là bất tạo. Mọi người không hiểu ý Phật, nghe nói tạo, bèn làm cho tất cả đều tạo. Nghe nói không tạo, bèn cho là tất cả không tạo, cả hai tạo thì mất Trung đạo, nên thành ra tranh luận".
"Này người thiện nam! Ta lại nói: "Ví như do gương soi" cho đến "Đó gọi là tạo sắc, cũng giống như tiếng vang, ảnh tượng".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bốn đại giả danh mà có công dụng, gió lay động, nước thấm ướt, lửa cháy nóng. Sắc được sinh trưởng, như nhờ gương soi, mà hình ảnh hiện ra".
"Các đệ tử ta nghe lời này rồi" cho đến "Nói có bốn đại là hữu tạo sắc".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói bốn đại năng tạo, chẳng phải sở tạo. Sắc là sở tạo, chẳng phải năng tạo.
"Hoặc có bốn đại không có tạo sắc".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói bốn đại là giả, được pháp thật tạo ra các pháp thật như sắc... chẳng phải tạo. Phật nói sắc tạo, tạo ra bốn đại, cũng tạo ra sắc. Ví như bó trúc, chúng nương vào nhau mới đứng vững được. Hai nhà chấp nghiêng lệch nói trên đều hiểu được ý Phật."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ Vương Tử Bồđề" cho đến "Không gọi mất giới, vẫn gọi là giữ giới".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vô tác là giới thể. Đây là nói mười giới thiện, bảy chi của thân, miệng. Từ sắc tác sinh ra sắc vô tác. Vô tác là sắc, ba sắc khác không từ tác sinh, không gọi là sắc".
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười ba. Nếu nói về nghĩa đúng thì "Vô tác" chẳng phải tâm. Dù chẳng phải sắc tâm, nhưng chẳng được không có. Đây là tánh của pháp thiện trái với ác, vì nói nhân trong quả, nên nói "Vô tác" là sắc. Từ sắc phát ra được, là lấy nhân làm tên. Có người nghe lời này của Phật, vì không hiểu nên cho rằng "Vô tác" là sắc".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì Vương tử Bồ-đề nói "Vô tác" là sắc: Nếu nói thẳng tâm là giới thì vương tử bèn cho rằng, khi khởi tâm ác, thì giới đã thọ đều mất, sẽ không có giới để giữ. Cho nên đối với bốn chi thân, miệng, nói là được giới vô tác. Hiểu lầm ý Phật: bèn nói trực tiếp lấy "Vô tác" cho là giới, không còn liên quan với tâm nữa! Lại, nói "Giới tức là ngăn dứt pháp ác. Nếu tâm không gây ra điều ác, tức là giới". Nghe lời nói này, bèn cho rằng, không có giới vô tác, cho nên thành ra tranh luận".
"Vì sao gọi là sắc "Vô tác" chẳng phải là nhân của sắc khác, không tạo ra nhân quả của sắc khác?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chẳng phải là nhân của sắc khác: Pháp tác của thân, miệng là tánh sắc, gồm có ba thứ: Thiện, ác, vô ký. Giới dùng pháp lành để tạo thành nhân, tạo ra pháp thiện khác với bất thiện, vô ký, gọi là nhân của sắc khác. Không tạo ra nhân quả của sắc khác: "Vô tác" là quả của nhân sắc khác. Nói không sắc khác làm nhân tố, chẳng có quả nào đồng với quả này, nghĩa là "Vô tác" là quả của nhân sắc khác".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chẳng phải nhân của sắc khác", nghĩa là sắc khác tức là thể của vô tác. Nếu sắc khác không phát ra vô tác, thì chẳng phải là nhân của vô tác, như thân, miệng vô ký và sắc của núi, sông, cũng vậy. Đã nói chẳng phải nhân của sắc khác, thì sắc khác cũng chẳng phải quả của sắc khác. Nếu sắc thiện của thân, miệng có thể phát ra vô tác, là nhân của sắc khác này, sắc khác cũng là quả của nhân sắc khác kia. Vì từ sắc thiện phát ra mà được, nên nói là "Vô tác".
Vì không hiểu, nên nói ngay nơi "Vô tác" là sắc".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải nhân của sắc khác, là sắc khác nói là tâm. Nói không phải trực tiếp dùng tâm làm ra nhân, chẳng phải khác là quả của nhân, chẳng phải khác là quả của nhân, nghĩa là giới này cũng không phải là quả của tâm riêng, mà chủ yếu là dùng sắc, tâm hợp dụng mới được gọi là giới thiện."
Đạo Tuệ ghi: "Đây là nói muốn phát ra "Vô tác", thì trước, thân phải ngồi thẳng, chắp tay, tạo nên sắc khác, thường, thì mới phát ra được quả của "Vô tác" này."
Pháp sư Trí Tú nói: "Tâm chẳng phải thân, miệng, nghĩa là sắc khác. Thân, miệng "Vô tác", vì không từ "Vô tác" mà sinh, nên nói rằng, "Chẳng phải sắc khác làm nhân". Không tạo ra nhân quả của sắc khác, nghĩa là không vì tâm tạo ra quả, nên nói "Chẳng mà làm quả của nhân sắc khác."
Pháp sư Tuệ Lãng có cách giải thích riêng: "Vô tác" là sắc khác, nghĩa là nếu chẳng phải nhân của sắc khác, thì sẽ không tạo ra quả của sắc khác."
"Này người thiện nam! Các đệ tử ta khi nghe thuyết này không hiểu ý ta, bèn cho rằng, "Phật nói có sắc vô tác".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý Phật dạy: "Vô tác" chẳng phải sắc, vì do sắc sinh ra, từ nhân gọi là sắc. Vì không hiểu ý Phật, nên cho rằng "Vô tác" là tánh của sắc."
"Này người thiện nam! Trong các kinh khác, ta có nói rằng" cho đến "Quyết định nói không có "Sắc Vô tác".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thề không làm điều ác, sinh ra giới "Vô tác", có công năng ngăn dứt pháp ác. Không gây ra điều ác, gọi là giữ giới, nghĩa là lúc không gây ra việc ác, "Vô tác" sinh một mình. Tánh giới sáng sạch gọi là giữ giới, nếu khởi tâm làm ác thì giới và ác đi chung, giới không sáng sạch, vì trái với lời thề xưa, nên không gọi giữ giới. Vì không hiểu ý Phật, nên khi nghe nói không tạo tác, liền cho rằng, không còn có pháp tác sinh, không có vô tác.
"Này người thiện nam! Trong kinh ta đã nói thế này" cho đến "Tất cả phàm phu cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kinh nói: "Khổ, vui lấy tâm làm chính. Tâm có "Giải" "Hoặc", hoặc gọi là vô minh, "Giải" gọi là chánh kiến. Chánh kiến là nhân vui. Vô minh là gốc khổ. Hai thứ khổ vui này là công năng khác của tâm, được lập thành số pháp. Năm ấm là khổ, từ vô minh sinh, gọi là tai hại lỗi lầm của si."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười bốn. Hoặc nói là có tâm sở, hoặc nói không có tâm sở. Nếu nói về nghĩa đúng thì tâm và tâm sở vừa có, vừa không. Nói có tâm sở, là theo thứ lớp trước sau mà sinh. Nói không có tâm sở, là không phải có cùng lúc đều có".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lúc Phật nói, bất luận là phàm,
Thánh, vì năm ấm đều do vô minh, mà có cho đến mười hai chi cũng vậy. Có người không hiểu, bèn nói chỉ là một vô minh, trung gian không có nhân quả sinh nhau nữa, chỉ là một vật thể thường như vậy, chỉ tạo ra danh khác, thuyết khác, là có mười hai chi, bèn nói rằng: "Không có tâm sở".
Pháp sư Trí Tú nói: "Nhân Đức Phật nói mười hai duyên, hai đoạn nhân quả, hai nhà sinh ra chấp. Đầu tiên nói về nhân quả quá khứ, vì có ba việc nên thường".
1. Từ chi vô minh, phát ra chi ái thủ.
2. Chuyển chi hành, tạo ra hữu danh để nói.
3. Nói theo quả tức là nhân danh.
Kế là nói về năm quả, có năm phần khác nhau:
1. Đổi thức thành thọ.
2. Tức trên quả, nói nhân danh.
3. Sau danh sắc, nêu rộng các chi.
4. Nói lược hai chi "Xúc", "Thọ".
5. Nói theo chi "Thọ", tức là tên quả.
Có người chấp nhân không có tâm sở. Kế là nói ba nhân, hai quả.
Nói ba nhân, hai việc làm thay đổi thường:
1. Trước chi "Thọ", phát ra nhãn thức v.v....
2. Chuyển danh từ tác nghiệp, nói là đối với hai quả, hai việc làm thay đổi thường.
1. Thay đổi chi sinh thành thức.
2. Chia rộng già, chết thành nhiều danh từ các chi, do nói tưởng v.v... chẳng phải tức là xúc. Có người do chấp này mà có tâm sở đều sinh ở hàng đầu."
Đạo Tuệ ghi: "Nói về sự khác nhau trước sau của tâm, gọi là số, nếu chấp trước sau thì vẫn là nhất tâm, đều không có tâm sở, tâm này cũng mất. Nếu nói trong một thời gian có riêng tâm sở đều sinh, thì tâm sở này cũng bị mất."
"Từ vô minh sinh ra ái, nên biết rằng ái này" cho đến Là hữu tức là vô minh, ái, thủ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở đây nói là phiền não hiện sinh, nói số không có pháp riêng, sinh khởi từ trong duyên, hoặc khinh trọng thành bốn. Vì sao? Vì tâm không hiểu rõ duyên, chứ chẳng phải tốt đẹp chấp tốt đẹp, gọi là vô minh, nghĩa là chấp tốt đẹp sinh ra nhiễm, gọi là ái. Tánh ái là tham cầu, đó gọi là thủ. Khởi nghiệp thân, miệng, gọi là hữu. Cho nên nói tức là, vì vốn gọi không thiếu, chỉ từ sửa đổi lại gọi là thể, lại gồm lập thành số riêng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu nói về nhân quả theo thứ lớp sinh nhau: Nhân trước, quả sau, thì sẽ không nhất thời. Vì là tự có, chưa hẳn là thứ lớp. Như vô minh làm nhân cho hành, có từ phiền não thô, lại khởi ở tế, cho đến ái, thọ đều được. "Hữu" lại tạo ra nghĩa "Khởi". Đây là "Duyên" thứ lớp sinh nhau. Vô minh tức ái, ái tức, nghĩa là đầu cuối là một thần minh. Dù rằng nhân quả khác nhau, nhưng không được lìa, nên nói là "Tức"."
"Từ hữu sinh ra thọ, nên biết rằng, thọ này" cho đến "Cho nên thọ tức mười hai chi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thọ là chi "Thức" ban đầu. Thức có công năng thọ sinh, nên gọi là "Thọ"." Đạo Tuệ ghi: Nên biết rằng "Thọ này tức là "Hành", "Hữu". Đây là chi thức ở vị lai, từ chi thức của nghiệp đời nay, vì từ nghiệp đời nay mà được, nên tức là "Hành", "Hữu". Nghiệp này vừa gọi là "Hành", vừa gọi là "Hữu". Từ nhân duyên của thọ mà sinh ra "Danh sắc", vô minh, ái, thủ, hữu, hành. Các chi này đều là việc trong một đời ở vị lai. Việc này là danh sắc trở xuống, lẽ ra có sáu nhập, xúc, thọ v.v.... Nói lược thì không có ba chi này: Thọ, Xúc, Thức, sáu Nhập... Cho nên "Thọ", tức mười hai chi: đây lại là việc của thân sau. Vì vô minh, ái, thủ, hữu, hành trong đời sống ở vị lai, nên lại sinh ra ra sáu nhập như v.v... thọ, xúc, thức, của thân sau. Sáu nhập.... Ở đây lược không nêu tên các chi ở dưới, nên nói là Đẳng. Thọ: Nên là chi thức của sơ sinh. Xúc, thức: Là tức chi danh, sắc. Bốn ấm, gọi là danh. Thể của bốn ấm chính là tâm và tâm sở. Nên nay nói xúc thức: Đây là nêu tâm và số, đó là bốn ấm."
Đạo Tuệ thuật lại lời của Pháp sư Đàm Tiên rằng: "Danh từ các chi trong đây thường ẩn giấu mà không nêu ra. Nay, thì nêu đủ."
Bàn riêng: "Nói về danh số pháp tâm, tâm sở rất nhiều. Nếu lập thành mười hai nhân duyên, là lập chung cho cả ba đời: Phân tích về tâm sở của ba đời, thì từ vô minh sinh ra ái" cho đến "Tức là vô minh, ái, thủ", đây là nói về tâm sở quá khứ, gồm có bốn pháp. Nếu y cứ mười hai nhân duyên làm nghĩa, thì ba nghĩa trước đều là chi vô minh, ái thủ là phần vô minh, được xếp chung vào một chi. Nên biết "Tức là" là nói về quả không lìa nhân mà có, nên "Tức" nhân. Phàm phu không hiểu cho rằng, "Tức" một thể, không có tâm sở thứ lớp sinh nhau, đây là lỗi lầm.
Từ "Hữu" sinh ra "Thọ" cho đến "Lại thủ, hữu, hành", đây là nói về tâm sở hiện tại. Thọ: Là thức thọ sinh ban đầu, nên lấy thọ đặt tên. Hành, hữu: Tùy nghĩa, còn được gọi tên khác.
Y theo mười hai nhân duyên làm nghĩa, lược, không có ba chi: Sáu nhập, xúc, thọ, vô minh và ái, hai thứ này đều là chi. Thủ, tức chi thủ. Hữu, hành tức chi Hữu Thọ, Xúc, Thức, Sáu Nhập v.v.. lược qua, không nêu xúc thọ. Nếu y theo mười hai nhân duyên làm nghĩa thì "Thọ" tức là chi "Sinh", mười một chi còn lại, đều là chi. Cho nên "Thọ" là pháp giúp sức mười hai chi. "Thọ" là thức thọ sinh trong hiện tại. "Thức" đứng đầu trong sự thọ sinh. Y theo chủ đó, thì ba đời có mười hai."
"Này người thiện nam! Các đệ tử ta nghe nói như thế xong" cho đến Như lai "Nói, không có tâm sở.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nghe nói như thế rồi liền cho rằng không có tâm sở, chỉ là một tâm, sử dụng trước sau, không thừa nhận có các tâm sở tưởng, thọ.
Này người thiện nam! Trong kinh ta nói như vậy cho đến tuyên bố Như lai nói có tâm sở.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dục vọng xấu ác là "Duyên" thứ nhất của thức. Sở dĩ nói là "Duyên", nghĩa là vì nói thức trong "Duyên" rất mê muội, sẽ sinh ra ái, thủ. Do "Xúc" mà sinh: "Thức" ở trong "Duyên", đó gọi là "Xúc". Về sau, chỉ gọi là thức, thể một mà nghĩa khác. Nhưng chẳng phải xúc: Đầu tiên, "Xúc" lấy "Duyên" thì mê muội, các tâm sở nối nhau sinh thì sáng suốt. Tánh chất sáng tối khác nhau, nói là không phải. Nói có tâm sở, nghĩa là nghe nói chẳng phải xúc, cho rằng tánh của tâm sở là "Khác", đều khởi chung với "Xúc". Vì "Duyên" không đồng, khác với thể của tâm, nên đánh mất ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghe nói bốn pháp sinh ra nhãn thức, cho đến thọ, thủ sinh nhau không hiểu trước sau, cho rằng cùng lúc đều có, cho đến hai mươi mốt tâm bất thiện đều không hề tranh luận."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đầu tiên tạo ra duyên thức, do nhãn thức, mà về sau khởi tưởng, thọ, ái, thủ, hữu.... Nhưng chẳng phải thức ban đầu. Nhiều người cho rằng, có riêng một tâm lại ưa "Xúc", có thể hòa hợp sinh ra các tâm sở. Lại "Chẳng phải tâm", nên nói có tâm sở. Ý Phật: vừa được nói "Có" vừa được nói "Không". Vì trước cũng là tâm, nên không có tâm sở riêng. Vì nhân "Cảnh" lấy "Duyên", thành ra các tâm có chung một cảnh "Duyên". Số của nhà tâm cũng được có tâm sở, có người không hiểu, nghe nói "Có", làm cho tâm phân biệt tự có tâm sở riêng. Nghe nói "Không có", bèn cho rằng "Tức là" một tâm, trung gian không có sinh diệt. Cho nên trở thành tranh luận.
Đạo Tuệ ghi: ""Thủ" gọi là nghiệp: Nặng, gọi là nghiệp, "Xúc" duyên tưởng, thọ là sinh ra "Lạc thọ". Từ sau "Lạc thọ", sinh ra ái, sau ái, sinh ra nhiều tâm sở thiện. Do xúc mà sinh, nghĩa là nhân sau sáu thức sinh, nhưng chẳng phải xúc: Từ sau thức, theo thứ lớp, sinh ra "Tưởng" "Thọ"..., gọi là tâm sở. Phàm phu không hiểu, cho rằng có pháp tâm sở riêng, đó là lỗi!"
"Này người thiện nam! Đôi khi ta nói chỉ có một "Hữu" cho đến "Nói có năm hữu, hoặc nói có sáu hữu".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có chúng sinh có năm ấm, gọi là chúng sinh ấm, là hữu vi. Hai là nhân quả. Ba là ba cõi. Bốn là bốn sinh. Năm là năm đường. Sáu hữu là sáu nẻo. Bảy hữu là bảy thức xứ. Tám là tám thần sinh. Có chỗ nói là tám thiền. Tám thiền này không gồm nhiếp "Hữu", đều dường như không phải. Chín: Nơi cư trú của chín loài chúng sinh.
Không hiểu được ý Phật, không giải thích theo rộng lược, mà chỉ trực tiếp dùng năm, sáu để định".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ mười lăm. Phật nói từ một hữu đến hai mươi lăm hữu đều tùy theo địa phương mà giải thích, hóa độ."
"Này người thiện nam! Một thuở nọ" ta trụ ở cho đến
"Nói rằng "Như Lai nói phải thọ đủ pháp Bát quan trai mới được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không thọ đủ mà được là không thọ năm giới trong lúc, bởi tâm của người thọ yếu kém, vì không thể thệ nguyện dứt năm điều ác, nên không thể sinh ra giới. Trong trường hợp cùng lúc thọ năm, là tâm mạnh mẽ có năng lực sinh ra, nhưng lại không có khả năng giữ đủ, bèn phải bỏ hết bốn, giữ lại một, đó gọi là một phần.
Không trái với ý Phật, nghĩa là thọ riêng một giới thì không đắc giới, phải thọ đủ mới được, vì một ngày, một đêm là đủ. Vì sao? Vì giới tại gia có hai thứ: Một là suốt đời; hai là không suốt đời. Không suốt đời, là lấy tâm làm kỳ hạn, hoặc một ngày, hoặc mười lăm ngày. Hoặc một ngày, một đêm. Hoặc chỉ một tháng, hoặc chỉ một đêm đều được thành trai. Kinh có chứng minh: Cachiên-diên cho đến một thời niệm, vì một thời niệm qua nhanh, nên tâm yếu không thể phát giới, đáp rằng "Không thành". Có người nghe giới xong, lấy thời gian một ngày, một đêm làm kỳ hạn nhất định, nhiều ít đều không thành trai, vì mất đi ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười sáu: "Nếu nói về nghĩa đúng thì tùy theo thọ trì năm giới nhiều hay ít, tùy được phước ấy. Nếu thọ tám giới, thì hoặc một ngày cho đến một giờ, phải tu đủ mới được. Tám giới này khác năm giới. Có người nghe nói năm giới được thọ từng phần, rồi cho rằng, tám giới cũng được thọ từng phần. Nghe nói tám giới phải thọ đủ mới được, bèn cho rằng, năm giới cũng phải thọ đủ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Ưu-bà-tắc Nhất phần: Một thuở nọ, Đức Phật nói: "Thọ ba quy y rồi, thọ một trong năm giới, gọi là một phần. Chúng sinh không hiểu ý Phật, bèn cho là Phật nói "Chỉ thọ một giới trong năm giới, thì có đủ năm, lại trở thành tranh luận. Lại vì một người nói giới, hoặc trong một ngày, một đêm là thiện, không gọi là được trai. Theo lời dạy xưa, thì một ngày, một đêm, chỉ một giờ, một niệm, không gọi là trai. Người này thiện tức là đắc giới. Có người không hiểu, cho rằng không được trai, cũng không được giới. Vì thế, nên có tranh luận."
Đạo Tuệ ghi: Ưu-bà-Nhất phần tắc: Trước, thọ năm giới rồi. Sau bỏ bốn, giữ một, là một phần. Nếu bảo phát một giới, thì người này không thể phát được "Vô tác". Nếu nói Ưu-bà-tắc phát gia, không thọ đủ mà vẫn được, thì điều nấy sẽ mất đi ý chỉ. Nói về tám giới trai, thọ vào ban đêm ngày hôm qua, cho đến thọ hai ngày, một ngày đều được. Nếu riêng một ngày, một đêm, một niệm, một giờ thì thọ giới này đều gọi là được thiện, chứ chẳng phải được trai giới của tám trai."
Lời ký: "Nói về trai, nghĩa là quá giữa ngày không ăn. Một ngày, một đêm thanh trai, nói là trai. Tám giới: Vì trang nghiêm trai này, cho tám giới là trai. Chỉ một niệm, một giờ thọ tám giới chẳng phải không được. Chỉ vì trai không thành tựu, nên nói là được thiện, không gọi là được trai, phàm phu không hiểu, bèn cho rằng, phải thọ đủ trong một ngày, một đêm, mới được tám pháp giới trai, đó là lầm."
"Này người thiện nam! Trong Khế kinh ta có nói thế này" cho đến "Phạm trọng cấm, đã mất giới Tỳ-kheo." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gọi là giết giặc, là giết giặc phiền não. Do giới tịnh, sinh ra tuệ tịnh, gọi là giới mà bậc Thánh đã thọ. Phạm trọng giới rồi là phá Thánh giới, không được gọi Tỳ-kheo. Mất Tỳ-kheo: Nghe nói mất giới mà bậc Thánh đã thọ, bèn cho rằng, tất cả đều mất, đó là mất ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười bảy: Nếu nói về nghĩa đúng, nghĩa là phạm bốn giới trọng là giới phá không sinh, giới không phá đều còn."
Pháp sư Đạo Tuệ nói: "Tùy theo sai lầm đã phạm."
Pháp sư Bảo Lượng ghi rằng: "Không thể sinh ra vô lậu, chứ chẳng phải vì đều mất giới, vẫn có phá giới, mà nói là phạm trọng đều mất, chẳng phải giới Tỳ-kheo, là mất ý chỉ."
"Này người thiện nam! Trong kinh, ta đã vì Thuầnđà mà nói" cho đến "Phạm bốn giới trọng rồi, không mất giới cấm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thọ đạo, là tám Thánh đạo. Ba pháp này đều là tịnh giới. Được đủ vô lậu, gọi là "Đến". Vô lậu thế gian, gọi là "Thọ", chưa đến gọi là thị hiện, tức là nhiễm ô đạo, thanh tịnh, có thể đến Niết-bàn, gọi là Đạo. Ô là bất tịnh, chẳng phải đạo. Không mất giới cấm là tịnh giới thường còn. Sinh chung với nghiệp ác, gọi là ô, như viên ngọc bị ném xuống bùn, gọi là ô ngọc, mất đi ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nghe nói bất sinh, bèn cho rằng tất cả đều mất, nghe nói nhiễm ô đạo, liền nói, phạm trọng, không mất giới cấm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay, nói rằng ô đạo, là do phạm giới, hạnh ô nhiễm, không được đạo Thánh, là hạng không thấu suốt. Cũng nghe nói mất, chỉ nói là phạm hay không phạm đều mất. Nếu nghe nói ô, thì bất luận là phạm hay không phạm, đều ô, không mất, vì cho nên thành ra tranh luận."
Rốt ráo đến đạo, là giới vô lậu. Thị đạo: Giới trong năm căn của đạo tín; thọ đạo là giới của ngoại đạo phàm phu."
Đạo Tuệ ghi: Nghĩa đúng: là Người phạm trọng cấm, chỉ có ô giới, tịnh giới thì mất. Có người cho rằng, vì tịnh giới mất, nên ô giới cũng mất, nói là không mất ô giới, nghĩa là nói tịnh giới cũng không mất, đều mất đi ý chỉ.
Đạo rốt ráo, nghĩa là được quả La-hán trong một thân. Thị đạo là Tu-đà-hoàn hướng. Thọ đạo là Sơ quả cho đến quả thứ ba. Ô đạo là người phá giới. Lại nói: "La-hán, đạo cuối cùng. Thị đạo là ba quả, cũng gọi là hạnh vô tướng. Thọ đạo: Từ khi chứng quả về sau". Lại nói: Năm điều thiện đến nay và ngoại đạo phàm phu giữ giới."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đến đạo nghĩa là người được vô lậu chân thật. Thị đạo: Là người tín căn đã lập, Thọ đạo: Mới có khả năng thừa thọ, tín căn chưa lập ba hạng người này đều lấy giới thiện làm thể. Ô đạo: Là Phạm trọng cấm, vì tội đã trái phạm làm nhiễm ô tịnh giới khác."
"Này người thiện nam! Trong khế kinh ta bảo các
Tỳ-kheo" cho đến "A-la-hán không được Phật đạo." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiến đến địa vị Phật không còn con đường nào khác, gọi là "Một", đều được Phật đạo, là vì đủ tám muôn hạnh có thể đến địa vị Phật, nên gọi là đạo. Nghe nói nhất thừa có một duyên, rồi cho rằng, Thanh văn đã đủ, tức là mất đi ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ mười tám: "Nghe nói nhất thừa một đạo, rồi cho rằng chỉ có một đạo thì làm hại phương tiện. Nghe nói Tu-đàhoàn phân dòng cho đến La-hán, rồi nói chỉ một bề không bao giờ thành Phật, đều mất ý Phật, trở thành tranh luận."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Các người xướng rằng: "Bốn quả đều được Phật đạo. Về lý thật ra "Được" thành Phật, cho nên nói tranh luận là vì nghe người kia nói được, cho là liền được, không nói vị lai. Nói "Không được", bèn cho rằng đầu cuối đoạn diệt, một bề không được, do đó trở thành tranh luận".
"Này người thiện nam! Trong kinh Niết-bàn này, ta nói: Phật tánh" cho đến "Phật tánh của chúng sinh, lìa chúng sinh mà có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật tánh của Địa thứ chín có nhân, có quả. Nhân "Tức" chúng sinh chứ chẳng phải "Lìa", quả chẳng phải chúng sinh, vì thuộc về nhân, nên cũng không nói lìa, mà hoặc vì chúng sinh vô thường, bèn nói lìa chúng sinh, đây là mất ý chỉ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tranh luận thứ mười chín. Nếu nói về nghĩa đúng thì Phật tánh đối với Trung đạo mà nói nhân khác với quả, không được nói "Tức". Không lìa nhân mà được quả, không được nói "Khác".
Nghe nói đồng với hư không, bèn cho rằng hoàn toàn lìa chúng sinh mà có riêng tánh này, đều không liên quan nhau. Nghe nói kho báu, bèn nói là đã có ở trong nhân, đều không hợp lý, trở thành tranh luận."
"Này người thiện nam! Ta lại nói rằng: "Phật tánh của chúng sinh" cho đến "Phật tánh của chúng sinh lìa chúng sinh mà có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chánh nhân và quả, hai tánh là thường. Đức Phật lấy hư không làm dụ. Về nghĩa lìa và không lìa, nghĩa đồng với giải thích trên,"
"Này người thiện nam! Ta lại nói Phật tánh của chúng sinh" cho đến "Phật tánh của chúng sinh lìa chúng sinh mà có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Như người mù nói về con voi, người mù nói về sữa.... Tổng kiết các việc trên, nói không thấy, nghĩa là nói không được thật, cho nên tranh luận."
"Này người thiện nam! Trong kinh chỗ nào cũng nói" cho đến "Trong các kinh Đại thừa, nói có Phật mười phương".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu có hai Phật và chúng sinh, thì sẽ không sinh ý tưởng khó gặp, mà có người nghe thuyết này bèn, nói là các cõi ở mười phương đều không có, cho nên khởi tranh luận."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Tranh luận thứ hai mươi. Nếu nói về nghĩa đúng, y cứ vào ứng dụng thì một hóa thân trong đây chỉ có một vị Phật. Người không hiểu ý này, nói là không có các Đức Phật khác trong mười phương. Nghe nói có Phật mười phương, bèn cho là còn có Phật mười phương, không có pháp thân riêng, tức làm tổn thương bản tích. Hai luận tranh cãi nhau, đều mất lý."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chúng sinh nghe có Phật mười phương bèn nghĩ rằng: "Nếu người "Thiện nam nghe Pháp Phật nhớ nghĩ, thì tôi sẽ hướng vào đó học Phật. Vì muốn nắm lấy tâm, vật, nên nói rằng không có hai vị Phật trong một thế giới. Nếu nghe nói có Phật, bèn nói là Phật và Phật không liên quan nhau. Nếu nghe nói "Không có" Phật, thì cho rằng, chỉ có một vị, cho nên tranh luận."
"Này người thiện nam! Tranh luận như vậy, là cảnh giới của Phật, các Thanh văn, Duyên giác không thể biết được."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chúng sinh có ba chúng. Căn cơ người Nhị thừa ở chánh định. Đối với việc tranh luận, dù không tự thấy, nhưng có thể từ đây, sinh tin, dứt nghi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đã nêu tranh luận xong rồi. Nay kiết lại. Nói lý như thế, không thể với nhận thức cạn cợt mà biết được. Phật là đấng Trí nhất thiết, tùy theo từng căn cơ mà thực hành giáo hóa, đều nhằm đem lại lợi ích cho chúng sinh, chỉ có người trí mới biết."
"Nếu người nào đối với việc này sinh tâm nghi" cho đến "Sinh tâm quyết định, thì gọi là chấp đắm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Năm căn như tín căn v.v... có thể dứt phiền não. Chúng sinh có hai hạng: Nặng về ái, nặng về kiến, mà người nặng về ái, thì sinh nghi ngờ đối với hai thuyết. Nếu theo bạn lành, thì sẽ hãy sinh niềm tin để dứt nghi ngờ."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Không thể buông bỏ, đó gọi là chấp đắm." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Nặng về kiến thì chấp, chấp thì đắm.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là phần thứ tư trong đoạn lớn, nói vì chấp đắm, nên khởi tà kiến, là tướng trạng dứt gốc lành. Phàm phu chấp luống dối đều là vô minh, vì không hợp lý, nên sáu mươi hai kiến, được gọi chung là nghi. Nhưng khi tà chánh thì tự có tâm quyết định hay không quyết định. Nhưng nói theo chánh lý, thì việc này đều do tâm không hiểu rõ, nên qua văn cú sau đây, Phật sẽ giải thích rộng về nguyên nhân sinh ra lỗi của xiển-đề, vì si mê, tìm tòi không có nhân quả, sẽ thấy dễ dàng."
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Sự chấp đắm như vậy" cho đến "Không thể xé rách các lưới nghi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lòng tin của người chấp không từ "giải" sinh, dù tin, tức không tin. Vì sao? Vì tâm vô ngã, sẽ không tin ngã của Thế đế, nên tin tức là không tin, nghĩa là chẳng phải thiện. Không thể xé rách các lưới nghi, nghĩa là vì tín tịnh dứt nghi, mà niềm tin lại không từ lý, nên không thành đức tin thanh tịnh, thì không thể dứt nghi ngờ."
"Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Người như vậy" cho đến "Người này cũng nên gọi là đắm, là nghi."
"Này người thiện nam! Hai thuyết này được gọi là quyết định, không được gọi là nghi" cho đến "Vì sao người này lại sinh tâm nghi?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghi sinh ra từ hai pháp: Thấy nghe, hiểu biết. Nay, vì thấy giống với nghe, nghi, do Phật nói có hai thuyết, còn Tu-đà-hoàn thì nói không có hai thuyết."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói" cho đến "Vì cho nên ta nói rằng, vì họ không hiểu rõ việc, nên mới nghi ngờ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích rộng duyên nghi, đều do trước trải qua thấy nghe, sau mới nghi ngờ."
- Giải thích rộng việc Nhất-xiển-đề chấp không có nhân quả.
- Nói về nghĩa Xiển-đề sinh gốc lành.
- Nói về nghĩa Xiển-đề dứt gốc lành ba đời.
- Nói về nghĩa người dứt gốc lành có Phật tánh.
- Giải thích rộng về năm thứ, sáu thứ, bảy thứ nghĩa Phật tánh của Cửu trụ, Bát trụ v.v....
- Nói rộng về cách giải thích Phật tánh khác nhau, đều mất Trung đạo.
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến
"Người Thiện nam dứt mất gốc lành".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn thưa hỏi về người dứt điều lành, trước hỏi nghi ngờ: Chấp đắm là gì?
Bồ tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Hạng người nào dứt mất gốc lành? Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Hỏi hai căn tánh lợi độn vì sao dứt mất gốc lành.
"Thiện nam! Nếu có người thông minh trí tuệ, căn tánh nhạy bén thì sẽ khéo phân biệt."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Lượt thứ sáu, nói rộng về khởi tà kiến, nên dứt gốc lành."
"Xa lìa bạn lành, không nghe chánh pháp, không khéo tư duy, không trụ đúng pháp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dứt điều lành và Chánh định, đều do căn cơ nhạy bén. Vì sao? Vì nếu gần gũi bạn lành bên ngoài thì chánh, nếu xa lìa bạn lành bên ngoài thì đoạn. Đây là nói mở đầu của dứt điều lành. Thứ tư là nói về phần tà kiến."
Đạo Tuệ ghi: Tà kiến phá rằng: "Không bố thí có sáu việc." "Người thông minh này lại nghĩ rằng không có cha, không có mẹ" cho đến "Phải biết rằng, người này sẽ dứt gốc lành."
Xét: Đạo Tuệ ghi: "Không có cha, mẹ có sáu việc."
"Lại nghĩ rằng, tất cả thế gian" cho đến vì thề nêu biết không có quả thiện ác.
Xét: Pháp sư Đạo tuệ ghi rằng: cho là không thiện ác có ba việc. Lại nghĩ rằng tất cả thế gian cho đến. "Khi thực hành quán này, sẽ dứt gốc lành."
Xét: Đạo Tuệ ghi: "Nêu sáu việc, phá Thánh đạo, Niết-bàn, không có bậc Thánh."
"Này người thiện nam! Nếu có chúng sinh nào chấp sâu không nhân, không quả như vậy" cho đến "Và ba đường ác, người nào phá tăng cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kết thúc về người dứt gốc lành, phải là trí nhạy bén, không hiểu được đúng. Từ si khởi kiến, suy tìm, chấp sai lầm."
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Lúc nào sẽ sinh gốc lành trở lại?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh phần thiện thứ năm, từ bít lấp, mong được đi suốt qua, người chấp nghiêng lệch, không thể phân biệt có thể dứt gốc lành, người không chấp thì sẽ thứ lớp lại sinh gốc lành. Sau đây, nói Phật tánh không nhất định. Về sự, phải phân biệt, tức là nghĩa sinh ra gốc lành."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phần thứ hai trong đoạn lớn, nói về sinh gốc lành trở lại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Phần thứ năm trong đoạn lớn, nói về sinh gốc lành trở lại. Dù rằng chúng sinh dứt gốc lành, nhưng vẫn được phát tâm chán khổ trong khi đang chịu khổ, nên sinh gốc lành trở lại, nối nhau không dứt cho đến khi thành Phật. Nhưng y theo đoạn văn này, lời văn rất rộng lớn bao la, lược chia thành năm phần:
1. Trước, nói về lại sinh gốc lành, quyết định tánh nhân quả.
2. Nói về hạnh Trung đạo.
3. Dẫn ba lời của Phật, làm cho vật thể hư hoại, nói lời Phật rộng lớn, không thể chấp nhất định.
4. Nói Phật tánh là có hay không.
5. Nói về được, mất để kết thúc ở trên.
"Phật nói: "Này người thiện nam! Người này có hai thời gian sinh gốc lành trở lại, là khi mới vào địa ngục và lúc ra khỏi địa ngục."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc mới chịu khổ, thì tâm cảm thấy ăn năn, tức là khéo sinh gốc lành trở lại. Nếu chịu khổ éo ngặt tột độ, tâm bấn loạn mê muội, không biết hối hận, đến khi được ra khỏi địa ngục, mới biết ăn năn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đó là hạng người căn cơ nhạy bén."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu là hạng người căn cơ nhạy bén, như năm trăm Bà-la-môn..., thì vừa vào địa ngục là sinh ra gốc lành ngay, vì những người này thông minh, cũng vì từ trước đến nay chưa trải qua khổ cùng cực. Nay, quả báo đọa địa ngục, biết ngay là khổ sâu nặng, liền sẽ suy nghĩ, tìm kiếm, tỏ ngộ những gì mình đã làm đều phi lý, liền sửa đổi tâm. Nếu căn tánh nhỏ mọn, lại không như lúc đến, khi ra khỏi địa ngục quả báo thừa đời sau, mới có thể sửa đổi, trong đó có hằng muôn nẻo đường không thể nhất định được."
Đạo Tuệ ghi: Mới vào địa ngục chịu khổ mới như vậy, thần minh chưa tối tăm, vẫn còn nhận thức đúng. Về sau, khi ra khỏi địa ngục, các khổ phải chịu được giảm nhẹ, người ấy sẽ lần lượt sinh tâm, đó là lý do có hai thời gian sẽ được sinh gốc lành trở lại."
"Này người thiện nam! Gốc lành có ba thứ" cho đến "Vì dứt gốc lành ba đời, nên gọi là đoạn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì quá khứ đã diệt vô, nên không thể dứt. Vì vị lai chưa đến, nên không cần nói. Cắt đứt nhân hai đời, gọi là đoạn, nghĩa là vì một ý nghĩ thiện ở hiện tại làm nhân có thể sinh ra pháp lành đời sau. Hiện nay vì tà kiến đã che lấp tâm lành này, làm cho không sinh được, nên gọi là cắt đứt nhân ba đời." Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói dứt pháp lành ba đời, cho nên không gọi là dứt quả quá khứ, nghĩa là nếu nhân quá khứ cảm quả, đã nhất định thì quả báo sẽ sinh ở đời sau. Quả báo này sẽ phải chịu ở mai sau, nên không dứt, là nhân của quả báo này, nhân cũng là nhất định, cũng không thể dứt. Trong đoạn văn vì lược, nên chỉ nói không dứt quả. Nhân quá khứ cảm quả hiện tại, đương lai, thể của nhân đã diệt, làm sao dứt được ư? Dứt nhân ba đời gọi là dứt gốc lành, nghĩa là nếu ở hiện tại có gốc lành, tức là pháp lành hiện tại. Pháp lành này lẽ ra ở quá khứ, tức gốc lành quá khứ. Việc lành trong hiện tại sẽ nối tiếp đến đương lai, tức gọi gốc lành của vị lai. Nay, vì thân này đã thành Nhất-xiển-đề. Vì nghiệp ác đã biểu hiện ở trước, nên gốc lành hiện tại đáng lẽ sinh mà không được sinh, tức cắt đứt gốc lành hiện tại. Nếu gốc lành này sinh, thì chấm dứt quá khứ, vì không sinh, nên chẳng có cái gì để dứt, tức là dứt gốc lành ở quá khứ. Gốc lành này là chủng loại đương lai, lẽ ra sẽ nối tiếp mà không được nối tiếp, tức là sẽ cắt đứt gốc lành ở vị lai.
Nói theo nghĩa thì đoạn văn này là lược. Vì sao? Vì nhân lành hiện tại có công năng cảm quả vị lai. Nay dứt nhân lành hiện tại không khởi, tức là dứt nhân. Đã nói rằng dứt nhân, thì quả sẽ không từ đâu sinh, há không phải là đoạn quả ư? Cũng nên nói rằng, dứt quả vì giản lược, nên chỉ nêu nhân."+++ hai đời. Trong đây nói rằng, dứt nhân ba đời, nghĩa là nếu việc lành khởi ra trong hiện tại, thì việc lành này sẽ dứt ở quá khứ, vì là nhân của quá khứ. Việc lành hiện tại phát ra, bởi năng lực tác dụng của việc lành đã khởi, giúp đỡ lẫn tiếp nhau. Việc lành vị lai sinh khởi, cũng do hiện tại làm nhân. Vì nhân nên làm cho chủng loại nối nhau. Nay, nhân hiện tại đã dứt, tức là nhân lành trong ba đời không khởi, cho nên nói là dứt nhân ba đời."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Phật tánh này có ở vị lai hay ở khắp ba đời?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gồm có bốn câu hỏi, đây là câu hỏi thứ nhất: "Có pháp không thích ứng ba đời. Nay nhất định thuộc về đời nào?"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Gồm có hai câu hỏi: Câu hỏi đầu là "Phật tánh có thuộc về ba đời hay không?" câu hỏi kế là "Xiển-đề ở hiện tại có Phật tánh hay không?" nếu có thì không nên nói dứt gốc lành. Nếu không thì chẳng nên nói là đều có".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Gồm có ba câu hỏi".
1. Nêu tánh quả để hỏi. Hỏi về người dứt gốc lành có Phật tánh: Phật tánh này ở quá khứ hay ở vị lai? Ở hiện tại, hay ở khắp cả ba đời? Nếu Phật tánh ở khắp ba đời thì làm sao nói là thường?".
2. Câu hỏi thứ hai: Nếu người dứt gốc lành có Phật tánh là thiện, thì đâu được nói là dứt? Nếu không có Phật tánh, thì làm sao Phật nói là dứt ư?"
3. Ngăn ngừa ý Phật: "Nếu cho rằng vừa có vừa dứt, thì lại càng không được nói Phật tánh là thường?"
Đạo Tuệ ghi: Câu hỏi có ba lớp: Hai lớp như trên, lớp thứ ba nói rằng: "Nếu chẳng phải hoàn toàn có, hoàn toàn không, thì lẽ ra nửa có nửa không, nên nói rằng "Vừa có vừa dứt"?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Vì muốn nêu lên câu hỏi, nên trước, Bồ-tát Ca-diếp quyết định về Phật tánh ở trong ba đời hay ở đời nào? Sau đây sẽ chia thành ba lượt để hỏi:"
"Nếu Phật tánh ở quá khứ thì vì sao gọi là thường" cho đến "Ba thật, bốn thiện, năm tịnh, sáu trông thấy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ hai, xưa không mà nay có, là hiện tại. Đã có, lại không, là quá khứ. Sắp có, chưa khởi, gọi là vị lai. Pháp ở ba đời là vô thường. Phật nói tánh là thường. Kế là dùng nghĩa thường để quyết định, chắc chắn sẽ được, là chứng tỏ vị lai. Chắc chắn có thể trông thấy là chứng tỏ hiện tại. Phật tánh có sáu: Dẫn thuyết của Phật nói: Một là chứng minh tánh thường; hai là chứng minh có thể thấy."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ nhất y cứ vào ba đời, để làm câu hỏi nhất định. Ban đầu là thường, chẳng thuộc về ba đời. Sau, y cứ vào hai đời để trách cứ rằng, khiến thuộc về đời, không thể là thường."
"Nếu là người dứt gốc lành, mà có Phật tánh" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba."
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ hai là nêu Phật tánh, một câu thiện này là câu hỏi liên quan cả hai: Nếu Xiển-đề có tánh thì không nên nói là dứt điều lành. Nếu việc lành đã dứt, thì tánh lẽ ra không có."
"Nếu nói Phật tánh vừa có vừa dứt thì sao Đức Như Lai lại nói là thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi thứ tư. Ý của bốn câu hỏi đều trách Đức Phật nói không nhất định Pháp sư Trí Tú nói: Thứ ba là dẫn thường giáo mà Phật nói là câu hỏi ngăn dứt. Nếu Phật tánh là thường thì đó là pháp nhất định, nếu không nhất định, thì không được nói là thường."
"Phật nói: "Này người thiện nam! Như Lai, Thế tôn" cho đến "Ba là đáp câu hỏi, bốn là trí đáp (đáp bằng cách gác qua không trả lời)".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Là "Ý Phật, tranh cãi, là do chấp nghiêng lệch nên mất Trung đạo. Pháp hiện nay về lý thì khác nhau, nên đáp có bốn cách không thể hoàn toàn có thuyết nhất định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nay trước là dẫn bốn cách đáp với mục đích là đáp theo thứ lớp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chưa chính đáp câu hỏi. Vả lại, nêu Đức Phật có bốn thứ ngữ pháp. Sau đây sẽ giải thích theo thứ lớp, dùng lối đáp theo thứ lớp."
Pháp sư Trí Tú nói: "Bốn cách đáp câu hỏi, riêng là pháp môn của một khoa. Nay dùng phân biệt đáp và trí đáp. Vì để giải thích câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, cho nên trước nêu chung bốn chương môn. Dưới đây là giải thích riêng."
Này người thiện nam! Thế nào là đáp nhất định?" cho đến "Có trụ như pháp, đó gọi là đáp nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì về lý không hai, nên không cần phân biệt, nói là đáp nhất định."
"Thế nào là phân biệt đáp? Như ta đã nói" cho đến "Gọi là đạo Đế, đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thuyết có hai thứ: Pháp thuyết và nghĩa thuyết. Pháp thuyết là chung mà lược, nghĩa thuyết là riêng mà rộng, nên gọi là phân biệt đáp."
"Thế nào là đáp theo câu hỏi? Như ta đã nói" cho đến "Vì tham, sân, si mà nói tất cả đốt cháy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có nghĩa tự phân biệt, không cần hỏi đáp, nghĩa là tự có pháp chung, nghĩa riêng, phải hỏi rồi đáp sau: Nêu ý chỉ thành thật của Như Lai, để giải thích."
"Này người thiện nam! Như Lai có mười Lực, bốn Vô sở úy" cho đến "sáu là thấy phần ít, đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước đáp câu hỏi thứ hai: "Phật tánh có thường, vô thường, về sự thì phải phân biệt, không thể dùng chấp thường để hỏi". Bảy việc, là đủ tám tự tại, bốn lạc, bốn tịnh. Vô lậu thấy pháp tánh, đều gọi là chân thật, pháp môn Vô học đều được thấy ít."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Muốn nêu lên câu hỏi thứ hai của Bồ-tát Ca-diếp, nên trước Phật nêu các tính chất của quả địa và pháp Bồ-tát của thân sau, phát ra phân biệt đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Mười Lực... cho đến bảy việc của Phật tánh, đều là Phật tánh chất của quả địa. Phật tánh của Bồ-tát thuộc thân sau có sáu. Trong Phật tánh của Thập trụ, phần nhiều nói về tánh "duyên" nhân:
1. Thường: Vì Thập địa thấy phần ít chân ngã là thường, nên nói cũng thường. Kiến giải vô lậu hễ đã được thì không mất, cũng nói là thường.
2. Tịnh: Dứt bỏ sự nhơ bẩn của phiền não.
3. Chân: không lẫn lộn luống dối.
4. Thật: Thể dụng chẳng luống dối.
5. Thiện: Tâm thanh tịnh thuần túy.
6. Thấy phần ít: Tánh quả rõ ràng như thế."
Đạo Tuệ ghi: Đáp câu hỏi đầu: "Nói Phật tánh này chẳng ở ba đời, mà là thường. Các pháp khác thì thuộc ba đời."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đáp câu hỏi đầu: "Nói về Phật tánh dù danh nghĩa là một, nhưng ở quả chứng đắc là bảy, ở nhân là sáu, tức là không nhất định, đâu thể vì nghe nói dứt nhân ba đời, bèn chấp Phật tánh thuộc về ba đời, rồi cho là Vô thường, nêu lên câu hỏi nhất định?"
"Như trước đây ông hỏi: "Người dứt mất gốc lành" cho đến "Được gọi là có, đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xứng với câu hỏi thứ ba của Bồ-tát Ca-diếp, Đức Phật đáp hai câu hỏi về hữu, vô."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nay, nói người dứt gốc lành đều có các Tam-muội như trên và tánh Bồ-tát. Ý đáp: Ông hỏi: "Nếu có, thì không gọi là dứt gốc lành". Ta nói: "Sẽ có gốc lành", đâu được nói rằng, tất cả đều có Phật tánh?" ta nói "Vô", là ở hiện tại, không thể được, vị lai sẽ có, đâu được dứt gốc lành? Hai chướng này ở vị lai, vì hiện tại có phiền não chướng, vị lai sẽ không mau được thành Phật, nên nói là "Vô", chứ chẳng phải "Vô" mãi mãi, gọi là phân biệt đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại đáp câu hỏi thứ hai rằng: "Người dứt gốc lành cũng có Phật tánh của bảy thứ quả đầu, cũng có tánh của sáu thứ nhân duyên của thập trụ, là hai thứ Phật tánh. Vì che lấp vị lai, nên gọi là vô. Vì nhất định sẽ được, nên nói là có, chỉ vì hiện tại đang bị hoặc ngăn che, nên hai thứ Phật tánh không hiển hiện. Chữ "Bèn" là "Vô", đâu được nói rằng, người dứt gốc lành không có Phật tánh ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Nói về hai thứ Phật tánh: Vì ở hiện tại không có, nên so sánh không ở đoạn. Vì đoạn riêng pháp lành khác, nên nghĩa Xiển-đề được thành. Vì sẽ "Có", nên nói "đều có".
"Phật tánh của Như Lai chẳng ở quá khứ, chẳng ở hiện tại" cho đến "Vì chưa thấy đủ, nên gọi là vị lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Gồm đáp câu hỏi đầu. Hỏi rằng: "Tánh có ba đời. Nay nói chẳng phải ba đời, không thể nói là có, tức thuộc về ba đời. Vì thấy được phần ít, nên gọi là hiện tại. Vì thấy phần ít nên gọi thân sau. Quá khứ chỉ có hai đời. Vì chưa thấy đủ nên gọi là vị lai, nghĩa là chưa thấy đủ, tức thấy phần ít. Thân Hữu học gọi là có quá khứ, vị lai, chứ chẳng phải Vô học."
Pháp sư Pháp Dao nói: "Đáp câu hỏi trước là quá khứ, hay vị lai, hay hiện tại, hay khắp ba đời? Phải lần lượt đáp. Quả Phật chẳng phải ở ba đời, mà là "Duyên" tánh ba đời. "Duyên" thể của nhân vừa là nhân, vừa là quả, nên nói là Phật tánh. Vì nhân là ba đời, nên quả cũng là ba đời. Phật tánh của chánh quả chẳng phải ba đời, nên nói quả chẳng phải ba đời. Bồ-tát thân sau, nhân "Duyên" quán trí, tức là hạt giống Phật. Một niệm ban đầu này là hiện tại, chưa đầy đủ là vị lai, quá khứ không có. Trí quán của Thập trụ do nhân mà sinh. Vì Phật tánh của quán trí, nên cũng được gọi là Phật tánh. Phật tánh này vừa là pháp có nhân, vừa là pháp có quả, đều là ba đời. Vì chưa có Phật tánh của chánh quả, nên không được nói rằng, chẳng phải ba đời."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đáp câu hỏi đầu, hỏi rằng: "Nếu ba đời, thì tức là vô thường?" Nay đáp: "Tánh có nhân quả. Nếu tánh là quả thường, thì chẳng phải ba đời. Nếu là tánh nhân như Bồ-tát thân sau. Vì thấy ở phần ít, nên cũng được nói là hiện tại. Vì chưa hoàn toàn sáng rõ, nên cũng được nói là vị lai. Nói là nhân hiện tại, vị lai kia, nên nói là "Như vậy". Thật ra chẳng phải ba đời, nếu khi đắc quả thì sẽ không được như vậy. Chính vì lúc ở nhân, chắc chắn sẽ thấy, nên về nghĩa, nói là sẽ thấy Phật tánh kia. Vì hiện tại thấy phần ít, tức là về nghĩa, nói là thấy, tức chẳng phải ba đời, đâu phải vô thường. Và đến năm thứ, nói về Xiển-đề, vì sẽ phải có, nên cũng được nói có. Mở đầu là phân biệt đáp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ nhất, nói Phật tánh chẳng phải ở trong ba đời, lại không thuộc về ba đời. Phật tánh của thân sau ở ba đời: Đây là nói về "Duyên" tánh nhân, vì hiện tại thấy phần ít, nên được gọi là hiện tại. Vị lai mới được đầy đủ, cũng gọi là vị lai."
Đạo Tuệ ghi: Đây là giải thích câu hỏi thứ nhất, gồm giải thích câu hỏi thứ hai. Lại nói: "Đây chính là đáp câu hỏi thứ nhất". Lại nói: "Đây là kiết hợp giải thích hai câu hỏi."
Pháp sư Trí Tú nói: "Vì sau đây, lẽ ra là đáp câu hỏi thứ hai, gồm giải thích về chỗ ở của tánh nhất định ban đầu, thuộc về ba đời: Tánh nhất định ban đầu kia ở nhân, không thuộc ở quả."
"Đức Như Lai khi chưa chứng được Vô thượng Bồđề" cho đến "Quả cũng như vậy, đó gọi là phân biệt đáp." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Từ Học đến Vô học, nối nhau có hai thuyết, quả của Phật tánh cũng như vậy, nghĩa cũng thuộc ba đời." Pháp sư Tăng Lượng nói:
"Nếu khi chưa được đạo quả Vô thượng, nếu là Phật tánh duyên nhân, thì đều thuộc về ba đời. "Quả" thì không phải như vậy, là tánh của quả Phật. Có ba đời là Thập trụ trở xuống, tánh "Duyên" nhân có khi chẳng phải Phật tánh của quả Phật, nhân Phật tánh của Bồ-tát thân sau cũng thuộc về ba đời. "Quả" cũng như vậy": đây là tánh duyên nhân quả Thập trụ trở xuống, ý niệm trước là nhân, ý niệm sau là quả, cũng thuộc ba đời".
"Phật tánh của Bồ-tát Cửu trụ có sáu thứ" cho đến "Quả cũng như vậy. Đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đã dứt kiết tập, hoặc thô đã diệt, nói thường không đồng nên sau là thường.
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đã hoàn toàn ở trong quán, không còn xuất nhập, nên gọi là thường. Bồ tát "Bát trụ trở xuống đến Lục trụ, cho đến vì chưa dứt tập khí kiến chấp, nên nói là vô thường. Vì không có phiền não của ba cõi, nên nói là Thiện."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cửu trụ, Thập trụ đều được gọi là thường. Nhưng Bát trụ trở xuống vì không được gọi là Thường, nên biết được sơ tâm của Bát địa lẽ ra cũng có quán xuất nhập. Trung nhẫn trở lên tuy không có, nhưng không được gọi là thường."
"Phật tánh của Bồ-tát Ngũ trụ trở xuống đến Sơ Trụ, có năm việc" cho đến "Bốn là có thể thấy; năm là thiện bất thiện."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thiện, Bất Thiện: So với phiền não của ba cõi nên nói là bất thiện."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thiện là "Duyên" nhân, bất thiện là nhân của cảnh giới. Bậc Lục trụ dù có "Hoặc" sâu kín của cõi Vô sắc, là tác dụng của khổ nhẹ, nhưng vì rất ép ngặt tâm, nên không gọi là cảnh giới."
"Này người thiện nam! Năm thứ Phật tánh này" cho đến "Nên được nói là có, đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên tương xứng với câu hỏi thứ ba, đáp cả câu hỏi thứ nhất, phân biệt rộng đã xong. Nay kiết lại câu hỏi thứ ba:
Bảy thứ, sáu thứ là "Duyên" nhân, xiển-đề hiện tại không có Phật tánh. Năm việc có bất thiện, dù là phiền não, nhưng chẳng dứt phiền não thiện, nên đối với xiểnđề cũng có Phật tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây đã nói về Phật tánh, người dứt gốc lành, vì có Phật tánh, nên nói là "Có"."
"Hoặc có thuyết nói: Người dứt gốc lành chắc chắn có Phật tánh, chắc chắn không có Phật tánh, ở đây gọi là trí đáp (đáp bằng cách gác qua một bên)."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ tư, nói "Có" là "Có" ở vị lai, "Không có" là "Không có" ở hiện tại. Đáp thì dùng quyết định mà Phật tánh thì không nhất định. Nếu tạo ra thuyết nhất định mà người nghi không quyết định, thì không nên trí đáp. Nếu là thuyết không nhất định, mà nghi về quyết định, thì không cần đáp lại.
Đó gọi là trí đáp."
Pháp sư Pháp Dao nói: Đây là "Đáp câu hỏi: "Vừa có, vừa dứt?" ở trước vì dứt gốc lành, thành ra không được nói nhất định "Có". Có thể nói vừa có, vừa không, đây là nói về muôn điều lành là tánh "duyên" nhân.
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ ba. Ý đáp rằng: "Không thể nhất định nói có, không thể nhất định nói dứt. Nếu nói nhất định "Có", nhất định "Không ", thì đó gọi là trí đáp."
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Con nghe nói rằng, không đáp" cho đến "Vì sao nguyên nhân đáp mà gọi là Trí đáp?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Như kinh khác chép: Không đáp gọi là trí đáp nên mới nêu câu hỏi."
Này người thiện nam! Ta cũng không nói "Gác qua không đáp", mới nói là trí đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói ít. Đáng lẽ nên nói rằng: Chẳng những nói gác qua không đáp, mới gọi là trí đáp, về nghĩa của lời đáp này sẽ được giải thích ở dưới.
Nầy người thiện nam! Đáp một cách yên lặng như vậy còn có hai cách" cho đến "Do nghĩa này nên được gọi là trí đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:
1. Không đáp, gọi "Trí".
2. Đáp mà gác lại, không đáp mà gác lại, nghĩa là đình chỉ các câu hỏi vô nghĩa. Đáp mà gác lại.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tự có không đáp cũng gọi là trí đáp, tự có đáp mà quở trách cho dừng, không giải thích cho họ rõ, cũng gọi trí đáp. Nay Phật dùng cách giải thích sau, nên nói rằng ngăn dứt, chớ chấp đắm."
Pháp sư Đạo Tuệ ghi rằng: "Ta cũng không nói gác qua mà không đáp; không đáp mới gọi là trí đáp". Lại nói: "Cũng không nói không đáp là trí đáp. Lại nói cũng không nói gác qua mà không đáp, đó là gác qua là đáp: Một là vì ngăn dứt nên ngăn dứt chấp của ngoại đạo kia; hai là đừng chấp đắm, không cho ngoại đạo kia nhất định chấp đắm. Hai cách đáp gác lại đều có chung hai nghĩa này. Lại nói: "Ngăn dứt: Là nói trí đáp; đừng chấp đắm: Là im lặng trí đáp."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên chưa nói về thể của nhân, nay lại hỏi."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại hỏi phát ra tướng, của thể, giúp cho người hiểu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở trên, đã giải thích quả Phật chẳng phải ba đời, nghĩa ấy mới rõ ràng, chỉ vì danh từ lẫn lộn với sinh tử, nên Bồ-tát Ca-diếp mới nêu lên câu hỏi, để làm sáng tỏ ý chỉ này."
Pháp sư Trí Tú nói: "Ở trên dù đã nói về tánh, từ nghĩa gồm thâu nhưng không gồm thâu nhân quả ba đời, nhưng không ngoài thể của ba đời. Nay, nêu câu hỏi để làm rõ."
Phật nói: "Này người thiện nam! Năm ấm có hai thứ" cho đến "Cũng không phải quá khứ, hiện tại, vị lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khắp" này là ở trong nhân, bắt đầu là nhân, Kim cương là quả, vẫn là hữu vi, không khỏi ba đời. Nói "Cũng chẳng phải", nghĩa là quả Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quả và nhân đều thuộc ba đời. Năm ấm của ý nghĩ trước là nhân, năm ấm của ý nghĩ sau là quả, nên nhân, quả đều có ba đời chẳng phải ba đời, nghĩa là chỉ có tánh của quả Phật là riêng thoát." Pháp sư Trí Tú nói: Đây "Chính là đáp câu hỏi nếu là địa vị biến dịch, thì kèm theo ứng thân, nên đủ năm."
"Này người thiện nam! Tất cả các kiết sử phiền não vô minh" cho đến "Phật tánh của Như Lai giống như đề hồ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh của chánh nhân. Ở trên đã nói Phật tánh của Phật và Thập địa khác nhau, chưa nói về Phật tánh của phàm phu. Nay từ phàm phu đến địa vị Phật, lại dùng thuyết ví dụ để giải thích về tính chất tinh tế, thô cạn của Phật tánh kia. Được năm ấm thiện là hữu lậu thiện của tánh duyên nhân. Tu-đàhoàn trở lên, là nói về vô lậu có tinh tế, thô cạn, là từ chánh nhân sinh ra."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở đây nói về tánh của chánh nhân. Nói thần minh này có công năng sinh ra năm ấm thiện, cho đến Bồ-đề, vì chúng sinh như huyết tạp nhạp, vì có phiền não ở thể. Như chúng sinh đều do tinh huyết mà thành. Nói dù có Phật tánh, nhưng phải thực hành muôn điều lành, mới được thành Phật. Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm đồng dứt tư duy cõi Dục chưa hết, vì có một ít pháp lành, Phật tánh như sữa. Na-hàm dứt hết "Hoặc" cõi Dục, ví như lạc. La-hán dứt hết "Hoặc" ba cõi, ví như bơ sống, Duyên giác đến Bồ-tát Thập địa dứt hết "Hoặc" ngoài ba cõi, như bơ chín, Phật như đề hồ.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phân biệt hai câu hỏi đã xong. Lại gồm thâu tất cả muôn pháp, tử vô minh..., chẳng có pháp nào không phải Phật tánh, hoặc chánh nhân, hoặc duyên nhân của cảnh giới, đều tùy nghĩa đã nhận lấy. Vì đều có công năng giúp cho quả, cho nên là Phật tánh.
Nói chung đã xong, vì muốn cho ý chỉ của Phật tánh không bỏ sót nên vẫn nói bao gồm cả phàm phu, giúp cho mọi việc đều được tường tận. Vì lẽ đó, nên nói về Phật tánh của chúng sinh, như sữa pha lẫn với máu, nghĩa thiện, ác chưa phân, nên nói lẫn lộn. Cho đến các cấp Phật tánh của chúng sinh đều khác nhau, như văn đã nói."
Pháp sư Trí Tú nói: "Ở trên chỉ nói về Bồ-tát, không nói phàm phu và các Tiểu thánh, lại tuy nói về Phật tánh có thể được, vì y theo trong nhân, mọi người nói là khác nhau, nhưng chưa giải thích lý do, nên trong đây đều giải thích rõ ràng, nói các pháp trong nhân đều có nghĩa để được, đây là điểm khác nhau."
"Này người thiện nam! Phiền não hiện tại" cho đến "Người dứt gốc lành có Phật tánh hay không?"
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Người dứt gốc lành có Phật tánh hay không?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rộng về trí đáp ở trên. Vị lai chưa khởi, Xiển-đề không nên nói là có Phật tánh."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Câu hỏi vẫn chấp hữu vi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói về nghĩa, ý chỉ sinh trở lại của kiết cõi Dục, chướng thô, nên Bồ-tát Ca-diếp lại nêu lên câu hỏi này."
Pháp sư Trí Tú nói: "Bồ-tát Ca-diếp vì cũng chưa thông suốt, cho nên có câu hỏi."
"Phật nói: "Này người thiện nam! Như các chúng sinh" cho đến "Nhờ nhân duyên năng lực Phật tánh, nên gốc lành sẽ được sinh trở lại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phàm "Có", nghĩa là có ba đời. Chúng sinh là giả gọi của sự nối nhau, gom ba đời thành một "Hữu", đều thuộc ba đời. Không bao giờ sinh ra quả, nghĩa là nói chưa đến nỗi vô dụng. Có ba công dụng khác nhau, hiện đang có thì năng đoạn chưa có sẽ sinh, nên nói "Nhất định là không ".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Có nghiệp quá khứ, đã có quả ở hiện tại. Nghiệp vị lai vì chưa khởi, nên không thể có quả. Phật tánh mới chẳng ở ba đời, mà vì hiện đang có phiền não nên nghiệp lành sẽ không có. Vì không thấy Phật tánh, nên về nghĩa nói là dứt. Do nhân duyên Phật tánh ở vị lai, nên được sinh gốc lành trở lại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay Phật lại dùng ví dụ để nói, như chúng sinh vì có nghiệp quá khứ, nên vời lấy quả hiện tại. Dù có vị lai, nhưng vì nghiệp chưa có, nên không thể sinh quả. Dù quả chưa sinh nhưng vì nhân duyên phiền não hiện tại, nên sẽ dứt gốc lành. Do năng lực nhân duyên của nghiệp lành ở vị lai, nên sẽ sinh trở lại."
Pháp sư Trí Tú nói: "Đức Phật y cứ vào nghiệp để nói về nghĩa: Hễ có nghiệp thì được quả, có chúng sinh thì sẽ được quả vị Phật, nên nói có Phật tánh".
Bồ tát ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Vị lai làm sao có thể sinh gốc lành?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên đã nói chưa sinh thì sẽ không có quả. Nay hỏi về nghĩa "Sinh" đó."
Đạo Tuệ ghi: "Ý hỏi: "Vì vị lai không có pháp lành, thì làm sao sinh ra pháp lành?"
"Này người thiện nam! Giống như ngọn đèn và mặt trời" cho đến "Cũng giống như vậy, đó gọi là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp khởi gọi sinh. Tánh mặt trời là sáng. Dù rằng chưa mọc nhưng bản chất nó không tối tăm, gọi là xua tan bóng tối. Tánh thiện, ác, tự trái nhau. Hễ thiện sinh thì ác diệt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người này nhờ pháp lành ở quá khứ làm nhân, Thiện tri thức ở hiện tại làm duyên có công năng dứt ác sinh thiện."
Pháp sư Trí Tú nói: "Mặt trời dù chưa xuất hiện, nhưng tánh có công năng xua tan bóng tối. Phật tánh ở vị lai, có công năng sinh ra gốc lành. Người kia như ví dụ này, là ví dụ phần ít, là tin tức tốt, hãy nên nhận lấy." Bồ tát ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Phật tánh của chúng sinh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rộng về phân biệt để giải đáp ở trên, do chấp nghiêng lệch sinh ra tranh luận. Cuối cùng dứt gốc lành, phân biệt Trung đạo, bỏ chấp nghiêng lệch. Ở đây, đều đáp lại nghĩa của thuyết không nhất định."
Pháp sư Pháp Dao nói: "Sắc ấm là ngoài, bốn ấm là trong, tánh của "Duyên" nhân. Phật tánh chánh nhân chẳng phải sắc, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Từ trước đến nay, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải có, chẳng phải không, là nghĩa Trung đạo. Cho nên nêu câu hỏi này."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là phần ba của đoạn lớn. Nếu nói được ý chỉ, thì không cần nói lại, cũng như vì người chưa hiểu, nên phải như vậy. Y theo "Sinh lại" của lời giải thích trên, để nói Phật tánh thuộc về ba đời, thành Phật ở tương lai, vì phải tu điều lành, mới được thành Phật. Từ quán Trung đạo dưới đây, là vì kế là nói về Trung đạo này, gồm có bảy đoạn:
1. Hợp dụng nói Trung đạo.
2. Chẳng phải có, chẳng phải không, để giải thích thành trong, ngoài, để nói về Trung đạo.
3. Mượn sữa, lạc để quở trách chấp, để nói về Trung đạo.
4. Nói Như Lai có tùy tự ý ngữ, nói đối tượng hiểu biết của Như Lai, khác với phàm phu, chính là dùng bất thiện, để giải thích nhân quả của các pháp, tùy chúng sinh mà nói, đâu nên theo lời nói mà sinh chấp đắm ư?
5. Nói mượn bảy thứ ngữ để quở trách chấp đắm: Có nhân ngữ, quả ngữ. Tự nói có quả trong nhân, tự nói có nhân trong quả, sao lại sinh chấp các ngữ này?
6. Trở lại nhân quả nhất định, nói lúc có quả không có nhân, khi có nhân thì đâu thể đã có quả?
7. Mượn bảy hạng người làm ví dụ để giải thích, sao lại cho rằng, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, nghĩa là hỏi câu đáp trước của Phật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là đoạn lớn thứ hai, nói về quả Phật của Trung đạo. Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Phẩm Sư tử Hống ở trên đã nói quả chẳng phải "Đã" "Có" trong chánh nhân, cũng chẳng phải "Duyên" "Đã có" trong nhân. Nhưng vì không lìa năm ấm mà có, nên nói chẳng phải trong, chẳng phải ngoài". Nay, trong đây nói tất cả pháp thiện, ác đều là Phật tánh. Vì e rằng, tâm người mê hoặc, nên Bồ-tát Cadiếp nhận lầm, tức nắm lấy ngữ trên để hỏi: "Nếu tất cả pháp đều là Phật tánh, thì ở đây chẳng có một pháp nào không phải, vì sao ở trên lại nói "Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Ở trên đã nói "Tánh dương lai là cái "Có" của chúng sinh". Lại nói: "Tức là năm ấm, e rằng tâm chúng sinh chấp nghiêng lệch, sử dụng trái lý". Đây là đoạn lớn thứ ba, vì dứt trừ chấp mê hoặc, nên nói về Trung đạo, để làm sáng tỏ tánh của quả đương lai, chẳng phải có, không, lìa trong ngoài. Có ba phần:
1. Từ đây đến cuối ba thứ, chính là làm sáng tỏ tánh
Trung đạo: Chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, lìa hữu, vô.
2. Ở cuối ví dụ sông Hằng, sau cùng "Tùy ý ngữ". Nêu như ý ngữ để được tùy duyên, nói thành nhiều thứ, huống chi nói Phật tánh mà không thể chấp nhất định ư?
3. Phân biệt sự khác nhau giữa hư không và Phật tánh.
"Phật nói: Này người thiện nam! Vì sao" cho đến "Phật tánh của chúng sinh là trung đạo ư"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Rằng, trước đây ông đã hiểu, hiểu rồi thì không nên hỏi nữa, mà nay lại hỏi, tức là mất đi kiến giải!"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chỉ ra phẩm Sư tử Hống ở trước đã xong, nói rộng về Trung đạo, nay không nên hỏi lại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý Phật trong đây rằng: "Lời ta nói, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, là tánh của quả chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, đó là Trung đạo, sao tự nhiên ông quên mất ý đó mà nêu câu hỏi này?"
Pháp sư Tuệ Lãng nói lại lời Pháp sư Đàm Ái rằng: "Ở trên Phật đã nói năm ấm bất thiện, năm ấm thiện đều là Phật tánh, nên Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi: "Nếu cho năm ấm là Phật tánh, thì sao Phật lại nói chẳng phải trong, chẳng phải ngoài ư?
"Vì muốn giải thích rộng hai thứ Trung đạo trong ngoài, hữu, vô."
Đạo Tuệ ghi: Bậc Thánh nói lý Trung đạo không nhất định. Đã không thể chấp cố định, sao chúng sinh lại tạo nên chấp nhất định ư? Vì muốn chúng sinh sớm từ bỏ mọi chấp đắm, hầu được hội nhập Trung đạo, nên mới nêu lên câu hỏi này!"
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Thật ra con không quên" cho đến "Vì không thể hiểu được, nên mới nêu câu hỏi này".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bồ-tát Ca-diếp tiếp nối ý chỉ của Phật, vẫn quét sạch dấu vết".
"Này người thiện nam! Chúng sinh không hiểu, tức là Trung đạo.
Đôi khi có người hiểu, đôi khi có người không hiểu." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói tất cả pháp đều là Trung đạo, không nên chấp nghiêng lệch."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chúng sinh không hiểu, tức là Trung đạo. Nghĩa là không hiểu tức mê lầm (hoặc). Lúc mê lầm thì không hiểu biết, đây là "Chẳng phải trong". Khi hiểu hết rồi thì không còn mê lầm, đây là "Chẳng phải ngoài", nên nói tức là Trung đạo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cho rằng chúng sinh không hiểu, vì không có tự tánh, kế là ở dưới đây nói: "Đôi khi hiểu, đôi khi không hiểu. Hiểu và không hiểu cả hai đều từ duyên. Chúng sinh cũng từ duyên, tướng và vô tánh đều là Trung đạo, chỉ giúp sao cho không chấp, dễ hiểu, không hiểu kia đều là không thật. Nếu không như vậy, thì tức là chấp nghiêng lệch."
Đạo Tuệ ghi: chúa văn Trung đạo thành tám đoạn:
1. Nói trong, ngoài Trung đạo.
2. Nói về "Có".
3. Bỏ chấp.
4. Chỉ rõ ba thứ ngữ, cũng là bỏ chấp.
5. Nói về bảy thứ ngữ.
6. Phân biệt nhân quả nhất định.
7. Dùng bảy hạng người để ví dụ chung về nhân quả.
8. Nghiêng về quả làm ví dụ.
Đoạn thứ nhất này nói về trong, ngoài, trung đạo."
Pháp sư Trí Tú nói: "Bồ-tát Ca-diếp đã bày tỏ ý chấp của chúng sinh, ý vì chúng sinh, dưới đây, Đức Phật sẽ chỉ bày rộng, rõ ràng về Trung đạo."
"Này người thiện nam! Ta vì chúng sinh mà mở bày hiểu biết, nên nói rằng: Phật tánh chẳng phải trong, chẳng phải ngoài."
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Hai thứ dưới đây nói về Trung đạo. Sau đây là thứ nhất, trước nói Trung đạo chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, để phá chấp của người. Sau là thứ hai, mượn sáu thứ nhân duyên: Hư không, sừng thỏ..., nói về Trung đạo: "Chẳng phải hữu, chẳng phải vô".
"Vì sao phàm phu chúng sinh, hoặc nói Phật tánh" cho đến "Lìa ấm mà có Phật tánh, giống như hư không." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu lên chấp khác, sơ lược có hai thứ:
1. Quả trong đồ đựng: Dù đồ đựng không có quả, mà tánh ở trong ấm, lìa ấm thì vô.
2. Như hư không: Phật tánh là thường, năm ấm vô thường, như tánh hư không chẳng thuộc về năm ấm."
"Cho nên Như Lai nói nghĩa Trung đạo" cho đến "Nên gọi là Trung đạo, đây là phân biệt đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thường là tánh của quả, vô thường là tánh của nhân, cả hai đều là tánh không nghiêng lệch, gọi là Trung."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Điều mà phàm phu chấp, về lý thì không đúng với lý Phật tánh, lý chẳng phải trong ngoài. Trước nêu sáu nhập, để làm rõ nghĩa. Nếu chỉ nói trong, cả hai đều không thích hợp thì nay, nói rằng Phật tánh phải trong, ngoài hợp dùng, tức có chánh nhân, tức có nhân cảnh giới, không lìa nhân này mà thành, nên y cứ vào công đức hợp dụng để làm Trung đạo."
Y cứ vào phần nói về hợp dụng có năm lượt, đây là lượt thứ nhất. "Lại nữa, này người thiện nam! Thế nào gọi là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài" cho đến "Đó gọi là phân biệt đáp." Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ hai, y cứ vào duyên, nhân để nói về hợp dụng.
Lại nữa, "Này người thiện nam! Có người nói rằng Phật tánh" cho đến "Cũng gọi trong, ngoài, đó gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ ba y cứ chân ứng trong quả, để nói về hợp dụng."
"Lại nữa, này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói" cho đến "Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ tư, y cứ vào văn tuệ, tư tuệ để nói về hợp dụng."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Lại có thuyết nói" cho đến "Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lượt thứ năm, lược nêu hạnh để nói về hợp dụng, với đại ý vì chỉ rõ nhân quả chẳng phải trong, chẳng phải ngoài. Chi lưu có năm lượt này, để nói về hợp dụng."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói" cho đến "Vừa trong, vừa ngoài, đó gọi là Trung đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Ngọc báu vì thường hiện là trong, kho vàng vì không hiện là ngoài."
"Này người thiện nam! Phật tánh của chúng sinh chẳng phải có, chẳng phải vô" cho đến "Phật tánh chúng sinh chẳng phải có, chẳng phải vô."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Về Trung đạo hữu, vô nối nhau. Hư không đối với người chẳng thể thấy có thường, chẳng thể thấy nhất định có. Phật tánh cũng chẳng thể thấy có, chẳng phải thường, chẳng thể thấy không nhất định có. Hữu chẳng đồng với không, là hữu Trung đạo. Sừng thỏ đối với người là vô, nhất định vô. Phật tánh đối với người là vô nhất định vô, là vô Trung đạo."
Chẳng phải hữu, chẳng phải vô, là chẳng phải cái "Có" của hư không, chẳng phải vô của sừng thỏ. Cũng có là sẽ có, cũng vô là hiện vô."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là phần hai, dùng chẳng phải có, chẳng phải không để giải thích trong, ngoài ý nói sở dĩ như thế là vì chẳng phải có nên chẳng phải trong. Chính vì chẳng phải vô, nên chẳng phải ngoài. Phật tánh dù có, nhưng chẳng phải như hư không, là nói vì thể của hư không là vô, nên thấy ở người có dụng. Phật tánh dù thấy vô mà sẽ phải có, chẳng đồng với không, vì vô nên khác với sừng thỏ: Nói sừng thỏ là mãi mãi không có. Tánh này chẳng phải mãi mãi không có, cho nên không đồng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngoại đạo chấp hư không là pháp có tánh nhất định. Nhưng Phật tánh dù có, mà là cái có của "Sẽ có", khác với "Cái có" mà ngoại đạo chấp. Lại, khác với cái "Không" của sừng thỏ. Sừng thỏ tất nhiên không sinh, Phật tánh có khả năng sinh, đâu được đồng với cái mãi mãi "Không có" này."
Đạo Tuệ ghi: Nói về hư không ở hiện tại dù có, nhưng hư không chẳng bao giờ thể nhìn thấy, mà "Cái có" của Phật tánh có thể dùng mắt tâm, để nhìn thấy rõ ràng. Trong tức là "Có", ngoài tức là vô, vì chẳng trong, nên chẳng phải có, vì chẳng phải ngoài, nên chẳng phải không, cho nên là Trung đạo hữu, vô."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lượt thứ hai, mượn sáu nhân duyên để giải thích Trung đạo chẳng phải có, chẳng phải không. Đây là nhân duyên thứ nhất."
"Này người thiện nam! Nếu có người hỏi: "Trong hạt giống này" cho đến "Phật tánh của chúng sinh cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng ví dụ để chỉ bày ý chỉ của Phật tánh. Thời gian có khác nhưng thể của Phật tánh vẫn là một. Hoa quả là phần của cây mà cây là phần của hữu". Về phần của cây thì khác nhau về thời gian, còn phần của có thì thể là một. Thể một thì "Có", thời gian khác nhau thì "Không"."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói về các pháp chẳng phải trước "Có", "Không", huống chi Phật tánh chánh nhân chẳng phải "Có", "Không"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ngoại đạo chấp rằng: "Năng lực bốn đại bên ngoài mạnh, có thể nuôi lớn bốn đại bên trong, mà năng lực bốn đại bên trong yếu, không thể nuôi lớn bốn đại bên ngoài. Nay Phật nói "Không" như vậy là "Không" năng lực bốn đại bên ngoài, có thể chỉ nuôi lớn bốn đại bên trong. Vì sao? Vì như hột lúa là bên trong, đất, nước... là bên ngoài. Nếu nói vì sức mạnh có thể nuôi lớn, thì vì sao nước, đất và hạt lúa không đều mọc ngay mà phải đợi thời gian sau mới mọc? Thật ra không phải như vậy, phải biết rằng, trước có hột lúa làm chánh nhân, sau có nước, đất... làm "Duyên nhân", nên theo thứ lớp được sinh, đâu tiếp nhận trực tiếp năng lực bốn đại bên ngoài, có thể nuôi lớn cho bốn đại bên trong được ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: Đây là "Nhân duyên thứ hai, nhờ giải thích hạt giống để nói về lý. Vì sao? Vì lấy ý trái nghịch ở dưới để chế phục câu hỏi, nói dù là quả, nhưng không "Tức" hột mà có quả, tất nhiên quan hệ với hột. Dù thời gian trước, sau mà đầu cuối được thành, không khác với một giả, nên được nói là hột có từ quả."
"Nếu nói rằng trong chúng sinh có Phật tánh" cho đến "Chắc chắn đáp rằng: "Vừa sinh, vừa bất sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã giải thích Trung đạo xong, nay nêu Phật tánh để nói trái với Trung đạo: Có tịnh, bất tịnh, nghĩa là giải thích Học và Vô học nối nhau là một. Bất tịnh gọi là Học, gọi là chúng sinh. Tịnh gọi là Vô học, gọi là Phật, đâu chấp nhận trong học, có Vô học riêng ư? Nên nhất định nói rằng, vừa sinh, vừa không sinh, ý chỉ của Trung đạo đã rõ ràng, kiết khuyên làm cho chúng sinh biết được yếu chỉ của lời đáp nhất định."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lại giải thích một câu hỏi. "Duyên" nghe thuyết trên đã nói và chế phục câu hỏi, bèn sinh chấp rằng: "Có riêng pháp quả đã ở trong nhân. Nay, nói chúng sinh tức là, không khác với giả để nói chúng sinh sẽ được thành Phật, nên nói "Tức là", dùng nghĩa mà suy ra, không được có pháp quả riêng đã ở trong nhân."
- Nói rộng về nhân quả của Trung đạo sinh nhau, nêu sữa lạc làm ví dụ.
- Nói rộng về bảy thứ ngữ: Nhân ngữ, quả ngữ v.v...-Nêu ví dụ bảy loại chúng sinh ở sông Hằng.
- Giải thích về thường xuyên mai một bậc nhất, cái gọi là Nhất-xiển-đề.
- Giải thích thứ hai, xuất hiện rồi biến mất, nói là lòng Tín không đầy đủ v.v...
- Giải thích thứ ba, xuất định rồi thì trụ, nghĩa là nghe pháp suy nghĩ, như pháp mà trụ...
- Giải thích thứ tư, xuất định để quán khắp bốn phương. Giải thích rộng mười sáu hạnh của Noãn, Đảnh, Nhẫn.
- Giải thích phiền não mà Tu-đà-hoàn đã dứt, giống như bốn mươi dặm đường sông, số nước còn tồn tại như một giọt trên đầu sợi lông, cho đến ví dụ vật ngậm, giữ chặt v.v...
- Giải thích thứ năm, quán khắp công hạnh mình, tức Tư-đà-hàm. "Bạch Đức Thế tôn! Như người đời nói:
"Trong sữa có lạc", nghĩa này thế nào?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu riêng chấp nghiêng lệch, là năm dục mà người đời nói, che lấp lỗi lầm của họ."
Pháp sư Trí Tú nói: "Sau đây là nhân duyên thứ ba, nêu thuyết mà người đời nói: "Trong nhân có quả, nên có công năng sinh ra quả". Thưa hỏi Phật để xin Phật giải thích."
Đạo Tuệ ghi: Như trong phẩm Sư tử Hống ở trước cũng nêu lên câu hỏi "Đã có" ở trước. Trong phẩm này dẫn ra vì muốn Phật nói rộng về lý "Chẳng phải có", "Chẳng phải không".
"Này người thiện nam! Có thuyết nói: "Trong sữa có lạc" cho đến "Nếu nói trong sữa không có lạc, thì đó là luống dối." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có lỗi chấp sớm".
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thứ ba, mượn ví dụ để quở trách chấp: "Nếu nói "Đã có" tức là chấp đắm, tức là thường kiến. Nếu nói: "Không có", thì lại là nói dối."
Pháp sư Trí Tú nói: "Phật dùng hai lần "Lại nữa" để lý giải về câu nói này. Một lần "lại nữa" đầu, trước phá luống dối, một lần "Lại nữa" sau lập ra câu hỏi, chất vấn ngược lại: "Nếu sữa, lạc là một, thì sao chất lạc không có ra trước."
"Lìa hai việc này, lẽ ra nhất định nói" cho đến "Sữa sinh ra bệnh lạnh, lạc sinh ra bệnh nóng."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lúc nhân thì không có quả, nên nói cũng không có. Vì chắc chắn sẽ sinh ra quả, nên nói "Cũng có". Vị sắc khác, nghĩa là sữa trắng mà ngọt, lạc vàng mà chua."
"Này người thiện nam! Nếu nói trong sữa có tánh lạc" cho đến "Trước không có nay có là pháp vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhà chấp thường, nói trong nhân có quả, lỗi ấy khác nhau: Một là cho rằng trong sữa có lạc, vì nhỏ nhiệm nên không thể thấy. Như trong chậu đựng có quả mà quả khác với chậu đựng; hai là cho rằng sữa tức là lạc, lạc tức là sữa, chỉ gọi tùy thời gian đổi thay, vì thể thường duy nhất, nên nói: Về danh từ có trước sau, thật ra không có khác nhau."
Đạo Tuệ ghi: Nếu cả năm vị có cùng lúc thì cái gì tạo ra thứ lớp?
Sữa có trước, kế là lạc, cho đến đề hồ ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Chưa thấy nghe có lạc ở trước sữa, thì phải là đồng thời, nghĩa là sữa có vì sao không ở sau, lạc không ở trước? Nên biết khi có sữa, thì không có lạc."
"Này người thiện nam! Hoặc có thuyết nói sữa có tánh lạc" cho đến "Vì tâm không bằng nhau, nên gọi là luống dối."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nước sinh từ nước, nghĩa là nếu ông vì thấy từ sữa sinh ra lạc, không từ nước sinh, chứng tỏ sữa có tánh lạc", đây chẳng phải bằng chứng. Vì sao? Vì sữa là nhân gần, lạc là nhân xa, không thấy gần, không thấy xa, thật ra cả hai đều là nhân, mà nói một có, một không, thì tâm này không bình đẳng."
Pháp sư Trí Tú nói: "Dưới đây là nhân duyên thứ tư, lấy ý chấp của người khác kia. Người kia nói: "Sở dĩ biết sữa đã có tánh lạc, là vì có khả năng sinh ra lạc, như nước vì không có lạc, nên không sinh ra lạc được." Trong đây có bốn lần "Lại nữa" để phá:
1. Trách làm cho trong cỏ cũng có sữa, nêu lên câu hỏi tất nhiên không bình đẳng.
2. Trách làm cho trong lạc có lỗi sinh ra sữa.
3. Dẫn kinh làm chứng.
4. Nêu bốn nhân hòa hợp, nên sinh nhãn thức, chính là nói nhân có lý sinh ra quả, đây là câu hỏi thứ nhất."
"Này người thiện nam! Nếu nói trong sữa chắc chắn có lạc" cho đến "Chẳng có tánh lạc, chẳng phải không có tánh lạc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu hai tính chất sữa, lạc là một, thì lẽ ra nên làm nhân quả lẫn nhau?" Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là đồng thời trách. Nếu khiến cho trong nhân có quả: Là trong quả lẽ ra cũng có nhân.
Pháp sư Trí Tú nói: Đây là "Câu hỏi thứ hai, đã nói một lúc có thì đồng có."
"Này người thiện nam! Cho nên Như Lai ở trong kinh này" cho đến "Lẽ ra nói là Phật tánh của chúng sinh cũng không."
Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ ba là dẫn kinh làm chứng, để làm sáng tỏ Trung đạo."
"Này người thiện nam! Do bốn việc hòa hợp sinh ra nhãn thức" cho đến "Tánh lạc trong sữa cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba trong bốn việc hòa hợp này là sắc tánh duy thức, còn một việc chẳng phải là tánh chất sắc. Đã khác với tánh chất nhân quả, nên lấy đây để chứng minh là không có."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại nêu ví dụ để hiển bày nói trong nhân "Không có". Như bốn việc hòa hợp, nên sinh thức. Y cứ vào ánh sáng của hư không để tìm thức, làm sao được ư?"
Pháp sư Trí Tú nói: "Thứ tư, chính là nói nhân có lý sinh ra quả."
Hoặc có thuyết nói: "Nước không có tánh lạc" cho đến "Từ bốn việc này sẽ sinh ra nhĩ thức."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân có xa gần, gần gọi là chánh nhân, xa gọi là duyên nhân. Duyên nhân thì đồng, chánh nhân thì khác, nên nói nhân khác quả khác."
Pháp sư Trí Tú nói: Đây là "Nhân duyên thứ năm. Nêu trong pháp nhân khác không có quả, để chứng minh trong sữa có tánh lạc. Dùng ba lần "Lại nữa" để phá. Đầu tiên nêu nhân khác, quả khác, để nói do chánh nhân, nên lạc từ sữa mà có, không từ nước sinh. Lại nêu sinh thức và cách lấy bơ, để hình thành lạc từ sữa mà có, không thể dựa vào nước.
Thứ hai, dẫn kinh làm chứng. Thứ ba, là nêu tánh của lạc là chua, chỉ rõ trong nhân vốn không có tánh của quả lạc."
"Này người thiện nam! Lìa phương tiện trong sữa được lạc" cho đến "Lẽ ra cũng lìa phương tiện như vậy mà được."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Lìa, nghĩa là nhiều phương tiện. Như nhỏ một giọt nước cất vừa tìm được trong cây vào sữa, liền trở thành lạc, mà bơ sống cũng giống như vậy. Phải cần có năm duyên, nên biết rằng, pháp sinh khác nhau. Lẽ ra cũng lìa phương tiện, nghĩa là lẽ ra cũng lìa nhiều phương tiện."
Pháp sư Trí Tú nói: "Vẫn là một việc trong lần "Lại nữa" thứ nhất, giúp cho thành câu hỏi."
"Này người thiện nam! Vì cho nên ta nói trong kinh này" cho đến "Nên pháp có, nhân diệt nên pháp không." Xét: Pháp sư Trí Tú nói: "Lại nữa lần thứ hai, dẫn kinh làm chứng."
"Này người thiện nam! Như tánh muối là mặn, làm cho vật chẳng phải mặn" cho đến "Do các duyên khác mà thành mặn."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: Lại "Chứng minh là không có tánh."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lại nữa" lần thứ ba, trực tiếp nói lên không có quả trong nhân."
"Nếu nói, tất cả vật không mặn" cho đến "Vật không mặn cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì ý sinh bên ngoài, đáp câu hỏi ở trên, nghĩa là vật không mặn, dù rằng vì tánh chất mặn quá ít, nên không biết. Tìm chất mặn bên ngoài để phát ra."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đều có tánh chất mặn của muối. Nếu nói rằng vật không mặn, vì có tánh mặn, nên phải làm cho chất mặn được phát ra. Nay thấy vật không mặn để vào vật thể mặn, vị nó đúng ra là được, mà trong muối cũng có quá ít tánh chất không mặn? Nếu vậy, mặn và không mặn đều có hai tánh. Vì sao lúc không hợp, không thể dùng riêng? Nên biết rằng các pháp không có quả trước."
Pháp sư Trí Tú nói: "Nhân duyên thứ sáu, dùng ba lần "Lại nữa" để phá:
1. Quở trách đều có hai tánh.
2. Do cố chấp của ngoại đạo rằng, trong nhân chẳng phải không có thể của quả, nhưng phải nhờ bốn đại bên ngoài mới được lớn lên, nên vẫn hỏi vặn lại để quở trách. Nếu "Có" trước thì không nên theo thứ lớp.
3. Lại, nêu quả Thi-lợi-sa, để chứng minh rằng, trong nhân trước không có quả, đây là thứ nhất.
"Nếu nói rằng năng lực của bốn đại chủng bên ngoài thêm lớn" cho đến "Bốn đại cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu năm vị theo thứ lớp đã có, thì không nên giả nói tất cả pháp đều nhờ bên ngoài."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lại nữa" lần thứ hai, quở trách trái lại, không nên theo thứ lớp."
Nếu nói từ bốn đại bên ngoài làm bốn đại bên trong thêm lớn" cho đến "Không do bốn đại bên ngoài mà được thêm lớn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Năng lực của bốn đại đồng đều, tự chúng đã có năng lực lớn lên. Trong không làm cho bên ngoài lớn lên, ngoài không làm cho bên trong lớn lên."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đều là nghĩa ấy, nếu nói pháp ngoài có trong thì nay không thấy bên trong làm cho bên ngoài thêm lớn."
Pháp sư Trí Tú nói: "Lại nữa" lần thứ ba, Lại nêu quả Thi-lợi-sa để chứng minh ý chỉ trong nhân trước đó không có quả."
"Này người thiện nam! Như mười hai bộ kinh mà ta đã nói" cho đến "Các kinh như vậy, đều gọi là tùy tự ý nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp tướng mà kinh giáo nói vốn tuyên dương ý Phật, ở trên đã dùng để nói về pháp không nhất định, ở đây nói ý Phật không nhất định."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đây là đoạn thứ tư, nói Như Lai khéo biết pháp tướng, có thể tùy tự ý ngữ của mình, như vì cõi Dục, nói cha mẹ sinh ra thân, không nói là do vô minh, đâu thể tiếp nối lời nói này của Phật mà chấp đắm?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn thứ ba là quở trách chấp đắm, nói về lời Phật rộng khắp, không nên chấp nghiêng lệch, khuyên người học chớ ôm ấp cái không thật."
Nói tùy tự ý ngữ, Phật, là người biết pháp, thích hợp với pháp tướng mà nói."
Pháp sư Trí Tú nói: "Dưới đây là đoạn hai, lại mượn một như ý ngữ tùy duyên, được vì nhiều thứ mà nói, huống chi làm sáng tỏ Trung đạo Phật tánh, đâu thể chấp nghiêng lệch được ư? Có bốn lượt:
1. Chính là mượn lời nói không nhất định để nói về tánh không nhất định.
2. Nói về Phật tánh, cũng được tạo ra hữu, vô.
3. Nêu sông Hằng làm thí dụ.
4. Phân biệt được, mất.
Đạo Tuệ ghi: Trên đã nói Trung đạo trong, ngoài, lý Trung đạo hữu, vô không thể chấp nhất định đã xong, nay lại nói về thuyết Phật nói không nhất định, hoặc theo ý mình, hoặc theo ý người, làm sao chấp nhất định được ư?"
"Thế nào gọi là tùy ý người mà nói" cho đến "Lành thay! Trưởng giả! Đây gọi là tùy ý người mà nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý Phật không ác, gọi là tùy ý người khác."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đối với thế gian mà nói, Đức Phật cũng tùy từng thuyết mà đặt tên, gọi là "Tùy tự tha".
"Nếu chẳng phải lý này, mà nói cho người, thì đó gọi là "Tùy tha"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nên giải thích về căn cơ của người chẳng phải thuyết rốt ráo, gọi là tùy lời nói của người."
"Thế nào gọi là tùy mình, người mà nói?" cho đến "Nói không có việc đó. Đó gọi là tùy tự tha mà nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tùy thuyết mà người trí ba đời nói không trái nhau."
"Này người thiện nam! Như ta đã nói Bồ-tát Thập Trụ" cho đến "Đó gọi là tùy ý mình, người mà nói."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân gần thì dễ thấy, còn nhân xa thì khó biết, vì tự thấy, không thấy chúng sinh, nên gọi là ít thấy."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thập địa đối với Phật, không gọi là thấy.
Vì tùy ý, nên nói là ít thấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong phẩm Sư tử Hống đã có hai, ba chỗ giải thích, so sánh nghĩa này."
"Này người thiện nam! Đôi khi Như Lai vì một pháp" cho đến "Nhưng vẫn không lìa ấm, giới, nhập."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một pháp thì một nhân, vô lượng pháp có vô lượng nhân. Nói là được căn bản của pháp đó, tức là một gồm thâu vô lượng. Do Thiện tri thức là nói về lòng tin là đã gồm thâu hết. Bồđề có hai nhân: Một là nghe người nói pháp, tức là Thiện tri thức; hai là nội tự tư duy, tức lấy lòng tin làm gốc. Không lìa ấm, giới, nhập. Nghĩa là ba pháp này gồm thâu hết các pháp ở đây."
"Này người thiện nam! Như Lai nói pháp vì chúng sinh" cho đến "Đó gọi là Như ý ngữ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Như ý ngữ, là khổ không như ý, vui như ý. Chúng sinh chán khổ, muốn cầu như ý. Đức Phật ứng theo căn cơ nói là bảy, mục đích làm sao cho các chúng sinh đều được an vui. Bảy thứ ngữ đều như ý, mà ngữ thứ bảy được tên riêng của mình. Nếu thích ứng với căn cơ nói bảy thì thuyết không được nhất định. Không nên nói là ngữ, nghĩa là pháp không có lý này, không nên nói mà nói, chỉ vì muốn cho chúng sinh bỏ việc ác, làm điều lành."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đoạn năm, là quở trách chấp đắm. Nghĩa là có lúc nói quả trong nhân, đôi khi lại nói nhân trong quả, đâu thể theo lời nói này mà sinh chấp ư?"
"Nhân quả ngữ, nghĩa là từ nghiệp quá khứ sinh, cũng có khả năng tạo ra quả vị lai."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trong văn, tự giải thích, đều là lời khuyên răn người học."
"Này người thiện nam! Như Lai lại có tùy tự ý ngữ" cho đến "Mười hai nhân duyên, đó gọi là không".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại nói rộng về sự khác nhau của nghĩa hữu, vô của Trung đạo do tự ý phân biệt ở trên. Vì sao? Vì ở trên nói "Có" là "Sẽ có", "Không có" là hiện "Không có". Nay nói "Có", "Không" đều là hiện tại, nên phải phân biệt lại."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Đoạn sáu, nhân quả nhất định, nói về nghĩa "Không" và "Có" của Phật tánh: "Có" là pháp "Diệu hữu" của mười Lực, bốn Vô sở úy, là tính của quả quả. Đã được quả thì không có các nghiệp bất thiện, vô ký v.v.... ở quá khứ. Phải biết rằng, khi có quả thì không có nhân, lúc có nhân, há có quả ư? Đây là nói nhân quả nhất định, không được lẫn lộn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đoạn thứ tư, nói về nghĩa "Có" "Không" của Phật tánh. Gồm có ba lượt:
Y cứ vào hai môn để nói về "Có", "Không".
Y cứ vào bốn môn, để nói về "Có", "Không".
Y cứ vào bảy môn, để nói về "Có", "Không".
"Này người thiện nam! Như "Có" "Hay không có" thiện, bất thiện cho đến "Huống chi Bậc nhất nghĩa đến xuất thế!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rộng về nghĩa "Có". "Không" nói trên, cho rằng thiện là "Có", bất thiện là "Không", chẳng phải nhân duyên là "Có", nhân duyên là "Không", cho đến thuyết Nhất-xiển-đề cũng giống như vậy, mỗi việc đều trái với ở trên, là giải thích nghĩa tự ý ngữ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ở trước là nêu môn chương, muốn so sánh với lời của câu dưới, đâu chỉ nhân quả không xen lẫn, mà còn y cứ vào pháp thiện, bất thiện trong nhân, cũng không được lẫn lộn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trên đây, thứ nhất, y cứ vào hai môn để nói về "Có", "không". Nói về thời gian quả, có các Tam-muội mười lực v.v... vì thời chỉ có thiện, bất thiện, vô ký, v.v... không có mười lực, v.v...
"Này người thiện nam! Hoặc Nhất-xiển-đề có Phật tánh" cho đến "Sao chúng sinh lại nhận hiểu có một bề?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xiển-đề "Có", người tốt lành thì không, nghĩa là tà kiến dứt pháp lành là nhân, là che lấp thì xiển-đề "Có", còn người có gốc lành thì "Không có". Xiển-đề "Không có", mà người gốc lành thì "Có", nghĩa là pháp lành duyên theo năng lực của nhân, có công năng dứt trừ chướng, thì người gốc lành thì "Có", xiển-đề thì "Không". Vô ký thì chẳng phải chướng, chẳng phải trừ. Cho nên cả hai người đều có. Về tánh của quả Vô học thì hai người đều "Không"." Pháp sư Tăng Tông nói: "Xiển-đề có, nghĩa là lại, nói về Phật tánh, không được có ý lẫn lộn. Xiển-đề dứt hết tất cả việc lành, chỉ có đại ác. Bởi khi xiển-đề có hành động gian ác kia không có điều lành thì lúc ở nhân đâu được quả đã có ư? Điều ác này chính là thần minh khác hẳn với cây đất, sẽ có nghĩa thành Phật, cũng được gọi là tánh của chánh nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ hai, y cứ vào bốn môn để nói về "Có", "Không". Mười điều ác là Phật tánh của cảnh giới Xiển-đề. Thời gian sau, người xiển-đề này sẽ nhàm chán việc ác mà khởi điều lành của duyên sinh. Vì nói quả trong nhân, nên nói rằng xiển-đề "Có" Phật tánh. Người thiện "Có", nghĩa là "duyên" tánh của nhân. Cả hai người đều có Phật tánh, nghĩa là tánh của cá nhân. Hai người đều không là tánh của quả."
"Này người thiện nam! Như trong sông Hằng" cho đến "Dưới nước trên đất liền đều đi, tức là linh quy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sông, dụ cho kinh Niết-bàn. Bảy hạng chúng sinh, nghĩa là kinh nói bảy thứ Phật tánh, với nghĩa "Có" và "Không" khác nhau:
1. Một là Hiện "Có", sáu là hiện "Không".
Ba đời "Có": Một là hiện tại mà sáu là quá khứ. Vị lai cũng gọi là Trung đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là "Đoạn bảy, nói về nhân quả không lẫn lộn. Trong sông có bảy hạng chúng sinh, trong kinh Niết-bàn có bảy hạng phàm, Thánh. Sở dĩ biết được không lẫn lộn là vì nói rằng, cho đến linh quy mới được gọi là đã đến bờ bên kia. Như vậy, sáu hạng trước cũng còn ở trong sông, ở sông thì không gọi đã đến bờ bên kia, trong nhân há có quả ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Lượt thứ ba, là y cứ vào bảy người để nói "có", "không", thường hay chìm mất, gọi là xiển-đề. Tạm nổi rồi lại chìm, nghĩa là phàm phu còn ràng buộc, tạm thời sinh ra đời thiện, lại trở vào sinh tử. Ra khỏi rồi dừng lại, nghĩa là lập năm căn như tín căn v.v.... Quán khắp bốn phương, nói là quả Tu-đàhoàn. Quán hạnh của mình, nghĩa là Tư-đà-hàm. Đi rồi lại đứng, nghĩa là Na-hàm. Dưới nước, trên đất liền đều đi, nghĩa là chứng đắc La-hán.
Trở lên cho đến Đại Niết-bàn, đều là người thứ bảy.
"Này người thiện nam! Trong sông Đại Niết-bàn mầu nhiệm như vậy" cho đến "là sách của ngoại đạo, chẳng phải kinh Phật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phát ra tà niệm, tà ngữ ở trước, tội chê bai Niết-bàn càng nặng dần, là nhân dứt bỏ pháp lành.
"Bấy giờ, người này xa lìa bạn lành" cho đến "nên gọi là thường chìm lặn, như cá lớn dưới sông Hằng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rộng, nhằm chỉ rõ lỗi của người chê bai pháp."
"Này người thiện nam! Dù ta nói Nhất-xiển-đề... " cho đến "Tu các việc lành như bố thí, giữ giới, đó gọi là thường chìm."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên nói ba đạo, ở đây nói năm đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chưa bước lên pháp Noãn trở xuống, đều có nghĩa lui sụt, là người thứ hai."
"Như Thiện Tinh đã tu được bốn thiền, lại khởi bất thiện, đọa vào ba đường ác."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì nghe kinh sinh niềm tin, nên gọi là xuất, mà vì năm việc không đầy đủ, nên ở trong đó khởi lên ba độc, lại rơi vào số của hai người, nếu tự biết năm việc không đủ, thì phải nhờ bạn lành, tu hành tinh tấn, tín căn được lập, thuộc về trụ vị thứ ba."
Pháp sư Trí Tú nói: "Năm đức không trọn vẹn, cuối cùng dứt Phật tánh."
"Này người thiện nam! Có bốn việc lành mà gặt phải quả ác" cho đến "Như hai người nói trên, cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thí, giới là pháp ra khỏi sinh tử, gọi là xuất. Kinh dụ cho cơm. Vì: Hữu" nên chìm trong biển sinh tử gọi là "Một". Kinh dụ cho chất độc, là cơm lẫn lộn chất độc. Lại, sinh niềm tin là nổi lên. Cuối cùng dứt gốc lành là chìm xuống. Cho nên về sau, nêu ra Thiện Tinh người thứ hai. Người thứ nhất phiền não sâu dày, sẽ rơi vào khổ nguy kịch, nên nói thân nặng, chỗ sâu! Người thứ hai dù rằng đã khởi sự chê bai mà ở tương lai, thì dùng pháp lành để tự giúp, nên nói là thân nặng, chỗ cạn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, theo thứ lớp giải thích về năm việc trên mà ý không đầy đủ."
"Này người thiện nam! Hoặc lại có người ưa đắm ba cõi" cho đến "Cho nên gọi là niềm tin không đầy đủ." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai thứ Niết-bàn:
1. Năm phần pháp thân, vì ra khỏi sinh tử, nên gọi là Niết-bàn.
2. Nghĩa là kiết hết, vô vi. Vì Xiển-đề không có, nên nói rằng không phải tất cả đều có. Không tin có được nhân đạo, nghĩa là Thánh tư nhiên chẳng phải bất học, chẳng có nhân quả, là không có quả lành."
"Người này thành tựu đức tin không đầy đủ" cho đến "Cho nên gọi là giới không đầy đủ."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Giới từ Giới, nghĩa là đạo cộng giới. Không có vô tác, nghĩa là giới vô lậu, dứt tạo tác, gọi là vô tác."
"Người này không có hai việc tín, giới" cho đến "Cho nên gọi là nghe không đầy đủ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân nêu việc học rộng, nói rõ các nghĩa khác."
"Người này không có ba việc như vậy" cho đến "Cho nên gọi là bố thí không đầy đủ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thí cho của cải, sự việc nông cạn, vẫn chẳng thể làm được, huống chi là bố thí pháp ư?"
"Người này không có bốn việc như trên" cho đến "Cho nên gọi là trí không đầy đủ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn là hiệu chung của "Có", "Không", Như Lai là thân trí có danh. Giải thoát là diệt kiết chẳng có hữu "Chẳng có một"."
"Người này không có năm việc như vậy" cho đến "Vì thấy ánh sáng nên nổi lên, vì thân nặng nên chìm xuống."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thêm lớn việc lành là người thứ ba, thêm lớn điều ác là người thứ hai. Tự cho là vượt hơn trong những người cùng thực hành, đồng với điều mình đã thấy, là vượt vượt hơn trong loài người."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích năm việc đã xong. Trước đã nói lỗi của người thứ hai. Sau trình bày tính chất tốt của người thứ ba. Một là thêm lớn pháp lành, nghĩa là giải thích người thứ ba. Một là thêm lớn pháp ác, là giải thích người thứ hai. Người thứ hai vì không thể gần gũi bạn lành, nên lại làm ác vào sinh tử, thành tạm nổi lên rồi chìm trở lại. Nếu người này tự biết thấy sâu sắc thực hành không đầy đủ, thì cầu tinh tấn để trở thành người trụ thứ ba."
"Người thứ hai, tự biết thấy sâu sắc" cho đến "Không bao giờ còn chìm nữa, đó gọi là trụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đó là người thứ ba." Pháp sư Tăng Tông nói: "Cầu mong được gần gũi bạn lành, được làm pháp Noãn, thành người thứ ba, không bao giờ còn lui sụt."
"Trong Phật pháp của ta, ai là người nổi lên rồi không còn chìm trở lại nữa?" cho đến "Những người như thế cũng giống như vậy?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tôn giả Xá-lợiphất... đều chứng được địa vị pháp Noãn, chính là nhóm định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Xá-lợi-phất đã từng trải qua người thứ ba đến, từ gốc mà được tên, để chứng minh nghĩa không lui sụt."
"Cho nên, trong kinh ta có nói kệ rằng" cho đến "Chứng được giải thoát, trụ yên ổn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dẫn kệ để khuyên răn, khen ngợi những người có khả năng trụ."
"Này người thiện nam! Biết không đầy đủ gồm có năm việc" cho đến "Quán như vậy rồi, thứ lớp sẽ được pháp Noãn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ lớp chứng được pháp Noãn, nghĩa là dứt ngoại đạo, phàm phu, nhập nhóm chánh định, ở lại địa vị Sơ trụ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Tham dục, thường quán bất tịnh: Là nói về quán hạnh của người thứ ba, tiến dần vào pháp Noãn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại nêu năm pháp, lại có chỗ thực hành, đó là người thứ hai. Nếu gặp bạn tốt, tùy bệnh cho thuốc thì sẽ thành người thứ ba. Nếu không như vậy, thì sẽ lại thành người thứ hai. Người có nhạy bén, chậm lụt. Người căn cơ nhạy bén, quán "Không" giả danh, thì vẫn chấp pháp không, chủ yếu là thấu suốt lý hai chái nhà xong, vừa mới xuất quán, kế là pháp Noãn, kiết thành người trụ.
Người căn cơ chậm lụt, không thể được như người căn cơ nhạy bén này. "Không" giả danh tức là xuất (nổi lên), tín, căn cũng lập, thành người trụ thứ ba. Cho nên kiết luận có hai thời gian chẳng phải là pháp Noãn, chỉ trở thành người trụ, mà là gốc lành ban đầu đã không thành, pháp Noãn là đầu tiên của "Pháp không". Bắt đầu của gốc lành thứ hai, là vì cách lửa vô lậu không còn xa, nên so sánh với Noãn."
Pháp sư Trí Tú nói: "Theo thứ lớp lại quán mười hai nhân duyên, nghĩa là bốn Đế vào đạo Tiểu thừa, chính là phân dòng của ba thừa nhập tướng trung đạo này. Lại, quán mười hai nhân duyên, nghĩa là riêng một phương này tùy duyên vào đạo."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Nói rằng, pháp Noãn nhân bạn lành mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về pháp Noãn chỉ có tuệ, chẳng có năm ấm, vì sắc quyết định."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Bồ-tát Ca-diếp đâu chịu không hiểu danh từ Noãn, vì đồng với vật."
Phật nói: "Này người thiện nam! Như pháp Noãn mà ông hỏi" cho đến "Tất cả chúng sinh đều có pháp Noãn." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp Noãn như thế, tất cả đều có.
Nay, nói Noãn không phải như vậy."
"Này người thiện nam! Pháp Noãn như vậy là pháp Noãn của cõi Sắc" cho đến "Tất cả chúng sinh không hẳn đều có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Noãn chung cho cả ba cõi, có bảy mươi ba người, chỉ nói cõi Sắc, cho rằng chẳng phải tất cả đều có. Sáu hạnh, là vô thường, khổ, nhân, tập, sinh và duyên."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Không nói cõi Dục hoàn toàn không được quán Noãn, chỉ vì ít nên nói là không, nhằm ngăn dứt tất cả câu hỏi về có, nên mới có lời đáp này."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phải chứng đắc định của địa trên, chẳng phải cõi Dục không thể, riêng cõi Sắc có khả năng. Sau đây, tự nêu ra bảy mươi ba người chung cho ba cõi, đều có khả năng tạo nên quán Noãn.
Lại, một giải thích khác: "Vì quả lệ thuộc đương lai, vì cõi Dục trực tiếp tu, gồm nhiếp thân, miệng được quả vui sướng cõi trời, cõi người, gọi là báo thân hành. Tâm cõi Sắc vắng lặng, không rong ruổi lông bông theo duyên bên ngoài, gọi là báo của tâm hành, nên biết là pháp của quả trên. Nói cõi Dục có định: Là phương tiện của thiền định căn bản, chỉ dìu dắt người có căn cơ nhạy bén, tức khả năng sử dụng định này để gồm thâu vào vô lậu. Cõi Sắc dù có thiền định có khả năng tạo ra pháp Noãn, nhưng phải là đệ tử nội đạo chứ chẳng phải ngoại đạo. Nếu đủ mười sáu hạnh, thì mới thành tựu pháp Noãn. Ngoại đạo chỉ có thể tạo ra hai trong mười sáu hạnh và bốn môn đầu thuộc khổ phẩm hạ, thì làm sao thành quán pháp Noãn?"
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Tự tánh là Noãn, chứ chẳng phải pháp nào khác, nên gọi là Noãn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tánh tuệ tự hiểu rõ, chứ chẳng phải hiểu rõ người khác."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại tạo ra hai câu hỏi để khẳng định giai vị của Noãn kia:
1. "Vì sao được gọi là Noãn?"
2. "Vì tự tánh là Noãn hay Noãn khác?"
Nay, Phật chỉ đáp câu hỏi sau, nhằm nói tự tánh là Noãn."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Trước đây, Như Lai đã nói" cho đến "Vì thực hành mười sáu hạnh, tức là trí."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân đối với lòng tin, tin là nhân của Noãn, nói không có nhân, không có quả. Tức là trí tuệ: Đả phá ngã kiến, tất nhiên do trí tuệ, chứ chẳng phải do mười sáu hạnh như tín... Pháp không ngoài hữu vi, vô vi. Hữu vi có bốn hạnh, vô vi có bốn hạnh. "Có", "Không", phải có nhân. Nhân nhóm họp ở đạo hữu vi hữu lậu và hữu vi vô lậu. Hai pháp này mỗi pháp đều có bốn hạnh, thành mười sáu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Ca-diếp nêu Mã Sư Mãn Túc không có lòng tin. Phải biết rằng, đức tin là pháp Noãn. Phật nói chính là nhân của Noãn, chẳng phải chính là Noãn."
"Này người thiện nam! Như lời ông hỏi: Vì sao" cho đến "Khói, chính là kiết sử tu đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tướng lửa của tám đạo, nghĩa là vô lậu, có công năng đốt cháy phiền não, gọi là lửa. Vì pháp Noãn làm nhân, nên gọi là tướng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật đáp câu hỏi thứ hai, nói về tướng của tám Chánh đạo, nên gọi là Noãn. Như cọ lửa trước có hơi ấm."
"Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Sao làm tướng của đạo vô lậu được?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quả báo được năm ấm cõi Sắc, nghĩa là trên nói pháp cõi Sắc, tức nói về quả báo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Pháp Noãn đã là hữu vi, hữu lậu, do có khả năng tạo ra nhân, quả báo được cõi Sắc, sao làm tướng của đạo vô lậu được?"
"Phật nói: Này người Thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy!" cho đến "Mà có thể làm tướng cho chánh đạo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì nhàm chán nên quán hạnh, nghĩa là chính vì hai công dụng này trong nhất tâm, nên biết được nghĩa lành giúp phát ra, vì dùng tướng nên chiêu cảm thọ sinh, cho đến một mảy may pháp lành đều không chiêu cảm sinh tử."
"Có bảy mươi ba hạng người được pháp Noãn" cho đến "Tạo ra năm tội nghịch, phạm bốn tội trọng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói pháp Noãn, ở đây nói người thực hành. Nếu chưa dẹp được phiền não cõi Dục, mà phiền não của ba cõi còn, thì gọi là phàm phu còn trói buộc. Nói là một hạng người, nếu dứt một phẩm phiền não, thì gọi là không đủ. Đến Cửu phẩm là chín, chung với trói buộc đủ của cõi Dục trước là mười. Ở trên, trừ bảy địa của bi, mỗi địa đều có chín vị, không còn dứt gốc lành nữa."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đại ý cho rằng: "Bảy mươi ba người này đều thực hành quán Noãn. Cõi Dục có mười Sơ thiền, đến Bất dụng xứ, gồm có bảy địa, bảy lần chín là sáu mươi ba, chung cõi Dục mười, thành bảy mươi ba. Chính phẩm kiết của cõi Dục. Nếu là phàm phu còn bị trói buộc, thì chẳng phải không hàng phục thô, chẳng phải hàng phục theo thứ lớp của vài kinh gia, trước phải được tâm Sơ thiền mới hàng phục được kiết cõi Dục, phải được tâm của địa trên, khuất phục kiết địa dưới. Theo ngài Luận chủ thì không được như vậy. Như làm cho người của pháp Noãn được tâm Sơ thiền, hàng phục kiết cõi Dục. Nếu là người căn cơ nhạy bén thì không cần phải là tâm của địa trên, chính là dùng tâm của địa mình. Tự từ bốn ý, chỉ nhập dần pháp Noãn, nhập kiến Đế, thành quả Thánh. Nếu người căn cơ chậm lụt thì phải tu định vượt hơn của địa trên để giúp sức, mới chế phục được kiết của địa dưới."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật mới ra đời, trước phải độ tất cả ngoại đạo. Nhưng phương pháp hàng phục kiết, mà ngoại đạo đã áp dụng, cũng không biết được sự khác nhau của tư duy kiến đế, chỉ biết nhàm chán địa dưới, mong được địa trên, tạo ra phương pháp hàng phục của chín phẩm. Vì sao? Vì gốc kiết của kiến đế, là dùng ngã kiến và đoạn thường làm gốc. Ngoại đạo không hàng phục được kiết này, nhưng so với tư duy thì đồng, sao lại không hàng phục? Vì chỉ tự hàng phục kiết của kiến Đế không thành tựu, nên nay Đức Phật chỉ y cứ hàng phục chín phẩm tư duy hoặc của ba cõi, tạo nên bảy mươi ba vị không y cứ ở kiến Đế. Nhưng bắt đầu hàng phục lấy định, về sự mới chuẩn y nhau, sau khi thành tựu phải quán Noãn, đều là do dụng của trí tuệ. Mười vị cõi Dục, đã từng hàng phục tư duy, hoặc vì chín phẩm tạo nên chín vị. Một người đầu tiên kia đều chưa trải qua hàng phục kiết. Vì sao? Vì người này trước đây dù không khởi tâm hàng phục "Hoặc", cũng gặp được Hiền, Thánh, tức là từ giáo hạnh, thực hành, tạo ra quán khổ, vô thường, được giả gọi là "Pháp không", trở thành quán pháp Noãn. Cho nên vì một người là nếu người đó đã từng tác động tâm, dùng chín phẩm hàng phục "Hoặc", thì về sau nhập đạo, không khác phương pháp của một vị đầu tiên. Như vậy từ cuối quả cõi Dục cho đến một địa của Vô sở hữu xứ có chín, y cứ cõi Dục, người chưa từng hàng phục kiết là một, đây là bảy địa có chín, tức bảy lần chín là sáu mươi ba. Y cứ mười người cõi Dục, hợp thành bảy mươi ba người. Vì sao cõi Dục có vị mà cõi trên chỉ có chín. Nhưng sinh về cõi trên chẳng có việc không hàng phục "Hoặc" của địa dưới mà được sinh lên cõi trên. Người sinh lên cõi trên đã không có, như người cõi Dục chẳng hề hàng phục "Hoặc", nên chỉ có chín vị."
Pháp sư Trí Tú nói: "Không đối với người hàng phục Tưởng phi phi tưởng, dựa vào kinh Tiểu thừa để nói phàm phu kính ngưỡng không có chỗ nương, vì không thể hàng phục phiền não."
"Những người này gồm có hai hạng:
1. Gặp bạn lành" cho đến "Gặp gặp bạn lành thì quán khắp bốn phương."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích công năng của pháp Noãn, tạm nổi lên rồi chìm lại, nghĩa là nếu gặp phải bạn xấu thì trụ vào phàm phu nội. Chìm ở trời, người, không mau chóng thành tựu quả vị."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Hiểu từ phần này, lấy người thứ tư, người thứ ba, tất nhiên không lui sụt mà nói là hai hạng người, đó là nói chưa được Noãn. Lúc ở bốn niệm xứ, gặp bạn lành thì tiến tu nhập đạo. Nếu gặp phải bạn xấu ác thì Noãn còn không được, huống chi là quả Thánh?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Không khác với giải thích trước, hễ gặp được bạn lành thì thành người trụ, còn gặp bạn xấu ác, thì chìm trở lại."
"Quán khắp bốn phương, chính là Pháp đảnh" cho đến "Bốn phương chính là bốn Đế."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người thứ tư thì từ đảnh trở lên, trụ hạnh nhanh chậm, không bị bạn ác ràng buộc. Từ bốn Niệm xứ đến pháp Thế bậc nhất có năm phẩm gốc lành: Hạ, Trung, Thượng; thượng trung, thượng thượng. Bốn niệm là hạ, pháp Noãn là Trung. Pháp đảnh là thượng. Pháp Nhẫn là thượng trung, pháp Thế đệ nhất là thượng thượng. Niệm các pháp trước kia không nhất định, không xếp vào năm phẩm, ở trên hai phẩm gọi là đảnh. Bốn phương dụ cho bốn Đế. Quán hạnh càng xa, nói là khắp, giải thích về nghĩa đảnh. Tánh là năm ấm: Đủ các nghiệp của thân, kiến... gọi là phàm phu. Nặng thì gọi ngoài, nhẹ gọi là trong. Pháp Noãn là bắt đầu dứt nặng. Vì tâm tuệ yếu kém nên chưa có khả năng làm cho các tâm sở của thân, miệng đều trái với ác nặng. Tâm đảnh đã mạnh, làm cho các nghiệp của thân, miệng không khởi lên điều ác nặng nề. Vì nghiệp lành của thân, miệng đều là pháp đảnh, nên nói tánh là năm ấm. Cũng "Duyên" bốn Đế, nghĩa là nói trí tuệ là hành chủ, hành hành. Kế là chứng đắc Pháp nhẫn: Thấy lại kế là lập nhẫn. Trí, tâm chưa cùng khắp, gọi là nhẫn. Kế là được pháp Thế bậc nhất: Kinh nói có phàm phu trong, ngoài. Nếu chưa dứt trong thì gọi là thế. Dứt hết trong, ngoài gọi là Đệ nhất. Năm vị này được Vô lậu thế gian, vừa Thánh vừa Phàm.
Khổ Pháp Nhẫn: Vô lậu xuất thế, dứt phàm phu nội, chỉ nói là trí nhẫn, vì thấy diệt là đạo kiến đế, không thấy diệt thì sẽ không thấy khổ...
Nói sắc v.v... là có tánh. Có tánh thì thường, thường tức là lạc, lạc tức là không khổ. Thấy sắc vô tánh, vì nhân duyên giả hợp, khởi chỉ có khổ khởi, diệt chỉ có khổ diệt, bắt đầu thấy khổ nhẫn. Thấy khổ vô sinh, đó là thấy khổ. Đầu tiên gọi là khổ nhẫn, nói thấy diệt kia chỉ nói tên là khổ. Pháp còn lại dễ hiểu.
Nói về dứt kiết có ba cách:
1. Từ lý, không từ nhàm chán.
2. Từ nhàm chán, không từ lý, gọi là ngoại đạo.
3. Từ nhàm chán, từ lý, gọi là Thanh văn.
Bồ-tát từ lý, gọi là Vô sinh pháp nhẫn. Thanh văn nhàm chán chung đối với khổ mà thành tên, giải thích về sự khác nhau của đạo Đại thừa, Tiểu thừa. Tánh nhẫn là tuệ, duyên "Không" là tuệ, duyên "Hữu" là tưởng. Duyên một Đế cuối cùng, thấy dứt phiền não, một Đế nói là diệt. Thấy dứt, nghĩa là bốn Đế đã dứt, một trí dứt bốn, nên nói "Cho đến". Như kinh Thắng Man chép: "Dùng một trí dứt bốn Trụ phiền não, cũng được công đức của bốn đoạn trí". Lại nói: "Không có trí thượng thượng của thế gian, vì bốn trí cho đến dần trí thượng thượng, vô lậu xuất thế."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Người của pháp Đảnh dù "Duyên" với bốn Đế, nhưng tâm tu tập "Không" ít, ý thấy "Hữu" thì nhiều. Ấm là nói có, cũng gọi là chứa nhóm. Nói về quán tâm này vì còn hữu tình nhiều. Nên nói là tánh.
Cho đến Pháp nhẫn vượt hơn Tiểu, cũng tánh là năm Ấm.
Pháp thế Bậc nhất gọi là tánh. Năm căn này: Được lý chuyển biến sâu, dời đổi ấm, tạo ra tên căn. Nói là pháp đệ nhất, tâm có khả năng vì vô lậu tạo ra căn, khổ nhẫn "Duyên" theo một Đế. Nếu nói về pháp Noãn ở trước, thì pháp đệ nhất lúc bấy giờ có thể tập "Duyên" theo một Đế. Đã có tâm thì nhiều, không có tâm thì ít, chìm mất không có tên. Từ đảnh trở lên, thấy dứt phiền não, đến quả Tu-đà-hoàn là người thứ tư."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chính vì người trụ thứ ba này gặp bạn lành, được lập năm căn tín đứng đầu, giúp cho hiểu biết này thêm lớn, nhập đạo kiến Đế, dứt hết "Hoặc" của tướng biểu thị, thành bậc Tu-đà-hoàn. "Duyên" theo một Đế, nghĩa là được bốn Đế bình đẳng, chánh quán hiện ở trước, không còn khác với bốn, chỉ có "không tuệ" theo nhau. Nếu khi ở năm phương tiện mà vẫn còn có tưởng, thọ... khác nhau, thì sẽ "Duyên" với sự khác nhau của bốn Đế. Nay sơ tâm của khổ nhẫn, vì hội nhập vô tướng, nên được duyên với danh từ diệt Đế".
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Hai là chẳng phải nhân thấy là nhân, ba là lưới nghi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một Đế: dứt kiết cùng lúc với kiến Đế, có thể làm chứng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Muốn nghe hội nhập hai kinh, trong đây có bốn câu hỏi. Sau đây sẽ đáp theo thứ lớp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ nhất này, xin hội nhập giáo."
"Bạch Đức Thế tôn! Vì sao gọi Tu-đà-hoàn là người quán khắp bốn phương?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là câu hỏi thứ hai, hỏi vì sao gọi là quán khắp bốn phương?
"Lại, vì sao gọi là Tu-đà-hoàn?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ ba nói về ý nghĩa vì sao gọi là Tu-đà-hoàn."
"Lại, vì sao gọi là Tu-đà-hoàn? Vì sao dùng cá thác dụ cho bậc Tu-đà-hoàn?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi thứ tư: Vì sao dụ cho cá?" "Phật dạy: Này người thiện nam! Người Tuđà-hoàn" cho đến "Cho nên Như Lai phương tiện nói ba."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thường sinh khởi là thân kiến, nghi. Khó nhận thức là khó có thể dứt. Nhân phiền não là thân kiến. Đối trị kẻ thù là giới, định, tuệ. Phương tiện nói có ba: Giải thích lý do chỉ nói nặng."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Thân kiến là gốc các "Hoặc", che lấp phẩm tuệ. Giới thủ trái với chánh đạo, che lấp phẩm giới. Nghi thì che khắp, gặp việc không thành. Ba thứ này sở dĩ nặng là vì phân biệt thì thành vô lượng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Do ba thứ nặng, nghĩa là vì dứt trừ, nên nước của bốn mươi dặm cũng tự khô cạn!"
"Như điều mà ông hỏi, vì sao" cho đến "Phá tan kẻ thù lớn, đó là bốn thứ điên đảo."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp câu hỏi thứ hai. Nội ngoại: Kiết ái là nội, sân, mạn là ngoại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người Tu-đà-hoàn quán sát bốn Đế, được bốn thứ công đức: Hai thứ y cứ vào sở chứng đắc, hai thứ y cứ vào chỗ dứt trừ."
"Như điều ông hỏi: Vì sao" cho đến "Vì ngược dòng, nên gọi là Tu-đà-hoàn."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải đối xứng với danh, chỉ giảng dạy, giải thích trong nghĩa, nghĩa là dứt hết kiết của một nhà kiến đế, vì không còn ở trong dòng sinh tử nữa, nên được tên gọi hiệu này." "Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu theo nghĩa này" cho đến "Không được gọi là Tu-đà-hoàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu theo nghĩa này, thì Tư-đà-hàm trở lên, đều là ngược dòng, tên gọi lẽ ra không khác?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ba quả đều có hai nghĩa nói trên, vì sao vẫn là Sơ quả?"
"Này người thiện nam! Từ bậc Tu-đà-hoàn" cho đến "Quả Tu-đà-hoàn cho đến quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước, dứt được gọi là cựu, sau, lại dứt nữa gọi là khách. Người này cũng gọi là người Tu-đà-hoàn, là người của quả thứ hai. Sơ quả không có hai tên. Giải thoát, là thân giải thoát."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phàm phu gọi là cựu, Tuđà-hoàn được gọi là khách", lại nói: "Làm khách trong Thánh, cựu Tu-đà-hoàn gọi là Cựu, ba quả gọi là khách, nên do ở trước mà được gọi là Tu-đà-hoàn.
Dòng có hai thứ: Niết-bàn hàng phục kiết, đạo dứt hẳn. Cũng gọi là Bồ-tát: Trước kia, sở dĩ Phật gọi Tuđà-hoàn là vì trên đồng với dưới. Nay, vì dưới đồng với trên. Một là căn cơ nhạy bén, hai là căn cơ chậm lụt, giải nghĩa rõ ràng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tất cả chúng sinh với tên gọi có mới, cũ, chỉ vì người chưa được bậc Thánh, lúc có phàm phu, gọi là chứng đắc. Về sau, lại đặt ra tên khác chữ mới, xoay vần lẫn nhau cho đến thành Phật."
"Này người thiện nam! Như điều ông nói: "Vì sao?" cho đến "Cho nên giữ vững, tâm mình không động."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Dùng cá thác để thí dụ, gồm bốn việc trở xuống, từ chỗ hợp thí dụ cho sơ quả có bốn đức." Pháp Sư Bảo Lượng nói" cá Thác có bốn việc.
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" Cho đến "Vì sao không gọi là Tu-đà-hoàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên nói rằng trước đã được. Nay, hỏi: "Vì là trước kia đã được đạo, hay là trước đã được quả để quyết định."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Câu hỏi có hai quan hệ:
1. Hỏi về khổ nhẫn.
2. Hỏi về người siêu việt."
"Này người thiện nam! Vì Sơ quả nên gọi là Tu-đàhoàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Quyết định nói là Sơ, nghĩa là ở quả, không ở đạo."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Một lời đáp, tức là cả hai câu hỏi đều bít lấp. Vì sao? Vì khổ nhẫn ở trước đã được mà chẳng phải quả, cho nên nói là hướng siêu việt quả Na-hàm, mà không phải sơ, cho nên không gọi là Tu-đàhoàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đáp câu hỏi ở trước."
"Như lời ông hỏi: "Người ngoại đạo" cho đến "Đầy đủ tám trí và mười sáu hạnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Na-hàm chẳng phải mới được. Bấy giờ, tám trí đủ mười sáu hạnh: Nói về siêu việt, là đầu tiên có được."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu dựa vào một số kinh, thì Tu-đà-hoàn chứng sáu trí là quả, chưa được cùng tận Vô sinh, chưa được tâm thiền căn bản, không được tha tâm trí..., chẳng phải là tâm chứng quả, tức là không có tám trí, cũng nói là phần ít cùng tận vô sinh.
Ở đây có cách giải thích khác: "Kiến trí, tỉ trí, quán sát thấy ở bốn Đế thành bốn. Bốn Đế của quá khứ, vị lai là tỷ, tức là hợp với Đế, chia ra đời thành tám trí, mười sáu hạnh. Nếu hợp với thế gian, phân tích Đế, nói là người này được đủ, thì đây là cố chứng Tu-đà-hoàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói không có pháp siêu việt này. Nhà kia sở dĩ tạo ra nghĩa này, là vì dùng đẳng trí để dứt kiết, nên lúc còn là phàm phu, do dứt tư duy phiền não, về sau dứt kiến Đế, kiết hết, thẳng vượt lên chứng quả Na-hàm. Nay, nói về "Đẳng trí" vốn là hàng phục kiết, chứ chẳng phải đạo dứt hẳn kiết. Và thấy lý, sinh ra kiến giải, phải trước dứt kiến Đế, kế là dứt tư duy. Người này trực tiếp trải qua tâm quả, mà không vượt ra ngoài quán, chẳng phải là siêu. Lúc bấy giờ, đủ tám trí, Na-hàm không còn quán bốn Đế tám trí tỷ hiện làm nhân, chỉ dùng một trí diệt Đế làm nhân được quả, đâu được gọi quả thứ ba là Tu-đà-hoàn?"
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Người được A-na-hàm" cho đến "Vì sao không được gọi là Tu-đà-hoàn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắp được quả thứ ba cũng được pháp này, lại được đồng thời."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói vị Na-hàm này cũng được tám trí, đồng thực hành mười sáu quán hạnh."
"Này người thiện nam! Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ" cho đến "Do nhân duyên này, nên dụ như cá thác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chung, nghĩa là phàm phu trong, ngoài, đều bỏ phàm được Thánh, nên gọi là sơ quả A-na-hàm. Vì thẳng tắt hai quả, chẳng phải mới xả cho nên là chung. Pháp Noãn trở xuống là phàm phu ngoại, cũng được thực hành mười sáu hạnh, trong, ngoài chung. Văn không chung ẩn, pháp Noãn trở lên và bốn quả đều không chung. Vì sao? Vì về sau, gồm thâu dùng làm quả biết chung, chẳng phải chỉ có hữu lậu. Pháp Noãn của quả Hướng trở lên, đều gọi là Hướng, là vô lậu thế gian, gọi chung là vô lậu. Tám trí cũng giống như vậy.
Nói siêu, nghĩa là thành quả của đạo tỷ trí. Bỏ bảy, không bỏ tám, ở đây nói bỏ bảy không bỏ tám, chẳng phải chỉ mười sáu thế tục không dứt kiết, mà rõ ràng là không có siêu việt. Đức Phật có siêu ngữ. "Vì sao?" Cadiếp hỏi: Hàng phục được kiết của "Ba không", nghĩa là người căn cơ nhạy bén do nhàm chán đối với địa dưới, đi tắt hai quả đầu không trụ, đến quả thứ ba mới trụ. Đức Phật vì trụ xứ nói siêu việt "Hoặc", nghĩa là không mất ý chỉ khi trải qua Sơ quả. Bồ-tát Ca-diếp hỏi, chính là vì: Duyên" một Đế là diệt Đế. Sinh tử vô cùng, bị bốn đảo làm mê hoặc. Pháp Noãn trở xuống, cần phải "Duyên" riêng bốn Đế, giúp cho thành sơ quả. Đảo nặng đã diệt, không cần bốn."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Phân giải đều có chỗ. Tuđà-hoàn thực hành trong đạo kiến Đế. A-na-hàm tư duy hạnh trong đạo. Mười sáu hạnh hữu lậu có hai thứ: Gồm năm phương tiện đều gọi là hữu lậu. Nếu bốn ý chỉ thì chung cho ngoại đạo, phàm phu. Vì sao? Vì nói bốn ý chỉ, con người vẫn có thể có lui sụt. Trở lại phàm phu ngoại đạo. Về mặt lý chưa được chia cách với ngoại đạo, cho nên nói là chung. Nếu vào pháp Noãn, pháp căn lập chuyển, được "Pháp không" chiếu lý, không bao giờ còn lui sụt, vì chia dứt phàm phu, nên nói là không chung. Mười sáu hạnh vô lậu có hai thứ mới nhập kiến đế, chưa được quả Tu-đà-hoàn. Bấy giờ, nếu là tâm thứ mười sáu chứng quả, thì gọi là đắc quả. Tàm trí cũng có hai thứ. Nếu là tâm thứ mười lăm trở lên, thì lúc bấy giờ kiến trí, tỷ trí đều được gọi là hướng. Nếu là tâm thứ mười sáu chứng quả rồi, thì lúc giờ thực hành kiến trí, tỷ trí, quán bốn Đế, gọi là quán đắc quả. Tu-đà-hoàn xả chung, được không chung, nghĩa là không nói xả trong bốn ý chỉ trước. Trước đã xả lâu rồi, nay nói xả, là trở lại mười lăm tâm trong kiến đế, đều là mười sáu hạnh chung trong hướng. Nay, bỏ vô lậu chung, được quả không chung. Nếu khi chứng quả, mới không tạo ra mười sáu hạnh, chỉ làm cho tâm ở quả không còn chung với hướng, cho đến xả tám trí của Hướng, được tám trí của quả. Na-hàm thì không phải như vậy, nghĩa là nói Tu-đà-hoàn phân giải kiến đế, hạnh trong Hướng mới thành Tu-đà-hoàn. Nahàm đã trải qua hai quả, phân giải tư duy, quả khác,
Hướng khác, đâu được giống nhau? Tu-đà-hoàn "Duyên" với bốn Đế, Na-hàm "Duyên" một Đế, là trở lại y cứ vào giải thoát mà có tên gọi. Giống như pháp Thế bậc nhất cũng đều duyên bình đẳng. Bấy giờ, thấy hữu tình nhiều, ý nhận thức "Không" thì ít. Nếu nhập hạnh vô tướng thì tâm "Không" sẽ vượt hơn. Do đó, nên từ Pháp đệ nhất của Địa bất Như, y cứ vào "Hữu" để có được tên. Hạnh vô tướng vẫn chưa thể đều là luống dối có tâm, chỉ có hư không "Duyên" theo ánh sáng là vượt hơn. Y cứ không có được tên, nay Tu-đà-hoàn cũng "Duyên" một Đế bình đẳng, chính vì không bằng Nahàm, lại nói là "Duyên" bốn Đế, thật ra không "Duyên" bốn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là ý đáp. Theo thứ lớp trước, sau, nói về từng bậc của hạnh. Sau đó, sẽ giải thích lý do ý không được. Hữu lậu có hai thứ: Bốn niệm, mười sáu hạnh ở trước. Hai thứ này có ở cả ngoại đạo, và phàm phu. Từ bốn niệm trở lên mười sáu, thời gian này không còn chung nữa. Vô lậu có hai thứ: Quả và Hướng, là khổ Pháp nhẫn trở lên, đến mười lăm là quả, là khi được Tuđà-hoàn, mới không có sự khác nhau giữa mười sáu, vì chỉ chứng minh công hạnh đã làm trước đây, nên nói là đủ mười sáu. Tám trí cũng có hai, nghĩa như trên. Nhưng trong hạnh vô tướng cũng không có tám, chỉ gọi là nhân, thời gian, danh. Bỏ mười sáu chung là bốn Niệm trước, được không chung là Phàm phu nội, bỏ tám trí của quả Hướng: Khổ, nhẫn trở lên mười lăm tâm. Được tám trí đắc quả: Thời gian về quả, rõ ràng. Na-hàm không phải như vậy: Giải thích đúng về nhân của hai người khác nhau. Được quả Tu-đà-hoàn, về sau chỉ quán một Diệt Đế, không còn dùng mười sáu hạnh, tám trí để làm nhân nữa, làm sao gọi Na-hàm là Sơ quả ư?"
"Quán khắp hạnh mình, là bậc Tư-đà-hàm" cho đến "Quán khắp các phương rồi, vì ăn nên đi."
Xét: Pháp sư Tăng Tông nói: "Người thứ năm, vì tiến tu tư duy, nên gọi là đi (hành)."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã trải qua Sơ quả, quán sát bốn Đế. Nay lại là Hạnh, Hướng quan hệ tư duy, dứt tham ô, sân, thô, tư duy sáu Phẩm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ năm là người Tư-đàhàm, vì dứt ba độc, tiến tu vào đạo, về nghĩa như cá thác vì miếng ăn nên lội đi."
- Giải thích hạnh thứ sáu xong lại nói rộng về A-nahàm.
- Giải thích hạnh thứ bảy, đến bờ bên kia, nói rộng về La-hán, cho đến Chư Phật.
- Nói về hai người chê bai Phật, Pháp, Tăng:
1. Vì không tin nên chê bai.
2. Vì hiểu lầm nên chê bai.
- Giải thích bảy thứ quả: Quả Phương tiện, quả Báo ân v.v....
Giải thích Phật tánh "Chẳng phải" hữu như hư không, chẳng phải vô như sừng thỏ,...
- Giải thích rộng ý nghĩa Phật tánh như hư không.
- Giải thích rộng nghĩa Đức Phật không tranh luận với đời. Thế gian nói "Có", Phật cũng nói "Có".
- Giải thích rộng nghĩa ba lậu.
- Giải thích rộng mười hai nhân duyên, nói về Xúc tăng trưởng sinh ra ba thứ Thọ.
"Đi rồi, lại đứng, dụ cho A-na-hàm được cái ăn rồi trụ" cho đến "Bát-niết-bàn của cõi Vô sắc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba phẩm kiết dưới của cõi Dục dứt hết, gọi là hạnh đã trụ. Hai cõi trên gọi là trụ. Hai là người tham chấp cõi Sắc, Vô Sắc, chẳng phải hiện diệt, đều là người thượng hạnh, ở chung giai vị trụ địa. Vị này lẽ ra phải có tên là "Hạnh", vì văn thiếu sót. Nếu không như vậy, thì về sau, thực hành Bát-Niết-bàn xong, sẽ không gì để giải thích.
Năm hạng: Đi có chậm, nhanh nên chia thành năm hạng. Bảy hạng: Chia năm thành sáu, không đủ thành tám, vì có đồng tên trong bảy.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Đã dứt hết tư duy cõi Dục, sinh lên Địa trên, thọ quả báo tốt đẹp, vì tham đắm vị thiền, cho nên trụ. A-na-hàm gồm có hai hạng: Vả, mở ra hai thứ. Văn sau đây sẽ nói rõ, thấy ở chứng đắc Nahàm, do căn cơ nhạy bén, nên tiến tu, liền được quả Lahán. Hai, Đã được khỏi khổ, tham đắm báo vui, trụ thiền, thọ sinh. Na-hàm có năm hạng, sau đây sẽ giải thích rộng về Na-hàm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tùy căn cơ thích hợp mà nói pháp, nên môn giáo khác nhau, hoặc hai, năm, sáu, bảy môn đều sẽ được chiêu cảm cùng lúc. Nay, trước mở ra hai môn:
1. Người hiện Bát-niết-bàn.
2. Từ Trung ấm trở lên, đều gọi chung là thượng lưu. Trung ấm này cũng gồm thâu hết địa vị Na-hàm. Năm môn kế: Từ Trung ấm trở lên, được chánh thức sinh lên Sơ thiền, chia làm bốn người. Đã thọ chính sanh Sơ thiền xong. Về sau thay đổi quả báo. Nhị thiền cũng sẽ thành người thượng lưu. Dù nói có năm tên gọi, nhưng cũng gồm thâu hết. Kế là sáu môn: Năm môn như trên. Vì người đầu tiên trong hai môn trước thành sáu. Bảy môn: Cũng như trên, lấy người ưa định, sinh lên cõi Sắc, dù có bốn môn khác nhau này, nhưng sẽ có một môn gồm thâu hết, cũng không dư sót."
"Hạng thực hành Bát-niết-bàn có hai hạng" cho đến
1. "Có định tinh tấn.
2. Không có."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu đoạn văn trước không sơ suất thì đoạn văn này sẽ không có gì để giải thích. Bốn người trước rất nhanh, hai người sau rất chậm. Từ người thứ hai đến người thứ tư, sẽ đặt tên riêng, tức thuyết xưa nói người thượng lưu. Nay nói là khác với thượng lưu:
1. Tinh tấn xong.
2. Không có tinh tấn.
Giải thích chung bảy người sở dĩ nhanh chậm khác nhau, vào ra tùy ý, gọi là tự tại, không có là hai người trước."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là giải thích bốn chương môn ở trên. Ở trước, trong phần giải thích hai môn đầu, thứ hai là người tu hành ở trên nếu thọ hai thân là người căn cơ nhạy bén. Nếu từ hai thiền trở đi, sinh đến bốn Thiền, là người căn cơ chậm lụt, lại có hai hạng:
1. Tinh tấn, không có định tự tại. Người này không nhạy bén đối với định đạo. Dù tinh tấn, nhưng lại nhập định, chấp lấy vô lậu, không được ngay, không có định tự tại.
Biếng nhác có định tự tại: người này đối với định đạo được bén nhạy, muốn nhập liền được mà không cần tinh tấn. Lại có hai thứ: Một là có cả hai; hai là không có cả hai, cũng là nhạy bén, chậm lụt.
"Này người thiện nam! Chúng sinh trong cõi Dục, cõi Sắc có hai thứ nghiệp" cho đến "Vì cho nên gọi là Trung Bát-niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghiệp thọ sinh, nghĩa là hành phiền não. Tác nghiệp là thân, miệng hợp thành nghiệp thọ sinh. Vì bốn thứ tâm cuối cùng, nên gọi là Trung. Tự tâm này là Trung. Hữu Học, Vô học: là tâm vô lậu. Phi học, phi Vô học: Thiện hữu lậu và vô ký xả thọ, không dùng vô lậu."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói thọ thân: là Nguyện sinh thân Na-hàm này với căn cơ nhạy bén, đã từ lâu, nhàm chán sinh vào cõi Dục và thời gian thân trung ấm cõi Dục vẫn diệt trong đây, không nguyện thọ sinh ở địa cõi Sắc. Tác nghiệp: Là Tu các công đức lành của bốn vô lượng. Có bốn thứ tâm: Ý nói trung ấm, lúc người Na-hàm Niết-bàn, hai trong bốn tâm này là tâm Niết-bàn.
1. Phi Học, Phi Vô học: Lúc thành quả, ở tâm vô sinh. Tâm vô sinh này không còn là Na-hàm mà nói Nahàm. Ở trung ấm có tâm này: Vẫn là danh hiệu Na-hàm, nếu mới vào trung ấm là Na-hàm và khi Na-hàm sắp nhập Niết-bàn, đã được La-hán, tâm vô sinh này không phải hai trí tận vô sinh. Do đó, nên không được gọi là Vô học.
2. Tâm học: Là nói khi chưa được La-hán, vì cầu tiến nên được tâm học.
3. Tâm Vô học: La-hán chứng hai trí vô sinh, được gọi là tâm Vô học.
4. Tâm phi Học, phi Vô học: Trở thành tâm vô ký của quả báo La-hán. Dùng hai thứ phi học, phi Vô học để nhập Niết-bàn. Hai tâm trung gian thì "Phi".
Phi học, phi Vô học ở trước: Tâm quán "Không" này không phải là thành quả của dứt kiết, chỉ đi trong quán "Không", vì muốn nhập Niết-bàn, nên lấy phi học, phi Vô học ở sau. Nếu dựa vào cách giải thích về La-hán trong bốn phần Tỳ-đàm thì sẽ tùy ý (nhậm vận) được nhập Niết-bàn. Cho nên lúc trung ấm nhập chỉ dùng hai tâm, còn hai tâm trung gian thì không sử dụng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thọ thân Niết-bàn: Kế là giải thích về người thứ hai. Người này thọ chánh sinh của Sơ thiền, dứt hết kiết của ba cõi, liền thành La-hán, được gọi là thọ thân Niết-bàn."
"Này người thiện nam! Hành Bát-niết-bàn là thường tu hành đạo nghiệp" cho đến "Đó gọi là Vô hành Bátniết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tu hành xong, không có tu hành, là sự khác nhau giữa căn cơ nhạy bén, chậm lụt trong thọ thân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Về hành Bát-niết-bàn, kế là giải thích về người thứ ba, chỉ vì thọ chánh sinh của Sơ thiền. Căn cơ có sự đặc biệt giữa ba phẩm nhạy bén, chậm lụt. Người này rất chậm lụt, cùng cực hành đạo trong sinh, sau đó mới đắc quả, gọi là hành Bát-Niết-bàn."
Đạo Tuệ ghi: Hoặc lại hai thân: Lại nêu ra ngoài khác nhau trong hành Niết-bàn thứ ba, như luận gia chỉ nói rằng, có ba người trong Sơ thiền. Ở đây nói hoặc hai thân, bốn thân, chứ không phải hành trên, tức là không chỉ Sơ thiền."
"Hạng thượng lưu Bát-niết-bàn, nếu có người được" cho đến "Đến đệ bốn thiền cũng vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hàng phục kiết, sinh đệ bốn thiền, vì dòng phiền não lui sụt, dòng chung thì tiến lên, trên, dưới đều trở về dòng, gọi là thượng lưu, khác với thuyết thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói thời gian sau khi được bốn thiền, khởi tâm ái Sơ thiền, lùi lại sinh Sơ thiền. Nếu theo số luận thì không có sinh lui sụt, cũng có thể nói thân này chỉ ở Sơ thiền, sau khi được tâm bốn thiền, lúc bấy giờ lại khởi tâm ái Sơ thiền, nên nói lui sụt, thật ra không phải là sinh ra lui sụt. Từ dòng đạo này, tức là trở lại dứt kiết, đến bốn thiền."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích người thứ năm. Từ giải thích chánh sinh của Sơ thiền, thọ báo của nhị thiền trở lên, được gọi là chung là người thượng lưu, nếu có người được thiền thứ bốn xong, lùi lại sinh Sơ thiền, chỉ lời nói này thì không phải nói về người Na-hàm dứt kiết của địa dưới. "Hoặc" ở ba thiền đã hết, đâu còn lui sụt. Đây là người của dòng phiền não, phần vị của phàm phu.
Đã giải thích người Na-hàm, vì sao lại dẫn phàm phu này? Vì quở trách nỗi hoài nghi của chúng sinh. Nếu từ địa dưới hướng lên địa trên, cũng gọi là thượng lưu. Từ thượng lưu, nhưng là sự "Pháp nhĩ". So sánh với thượng lưu, nếu vì giống như gió từ hướng đông thổi đến, thì gọi là gió đông. Nước từ phía Tây chảy đến, thì gọi là dòng Đông, đó là nói theo gió. Từ chỗ đã đến để đặt tên, nước là lời nói. Y cứ chỗ hướng đến thì việc của hai người này đồng nhau. Ở đây, e rằng người tìm kiếm là sai trái, lầm lẫn, nên dẫn phàm phu, nhằm phân biệt chánh, dùng dòng đạo gọi là người Na-hàm. Không lấy dòng phiền não, nghĩa là vì người thượng lưu.
"Trong bốn thiền này lại có hai loại" cho đến "Hạng ưa nghị luận thì ở năm tầng trời tịnh cư." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói:
1. "Người nhập cõi Vô sắc, chính là thượng lưu, vì chia thành cõi vô Sắc, nên là sự khác nhau trong dòng.
2. Người thích trí tuệ, giải thích lý do chia ra định tuệ bằng nhau của bốn thiền. Định của cõi Vô sắc, thì tuệ nhiều, tu ít, đồng thích tuệ, không ưa thích định. Một trong, hai ngoài. Trong là thân mình, ngoài là thân người. Định, tuệ của Trung ấm dù yếu ớt, nhưng đạo của trung ấm rất mạnh mẽ, phiền não thô động, thấy tai hại lỗi lầm, riêng được Niết-bàn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là, giải thích về người thứ bảy trong môn thứ tư, chỉ tự người hiện diệt thứ nhất trong hai môn đầu, không giải thích. Kế là, người thứ sáu trong sáu môn cũng không giải thích. Vì sao? Vì nói thần căn của người này rất nhạy bén, có khả năng biện minh tức khắc bốn quả trong một thân. Ý chỉ đó không có cong vạy, ý đổi thay mà không tỏ bày. Nếu ý chỉ ấy không như vậy, thì cũng chớ so lường lý do của ý chỉ đó. Nói về sở thích của chúng sinh khác nhau: Nếu là người ưa thích biện luận thì sinh lên Năm tịnh cư. Nếu là người ưa vắng lặng, thì sẽ sinh lên cõi Vô sắc."
"Lại có hai hạng: Một là tu huân tập thiền" cho đến
"Thì sẽ quở trách định cõi Vô sắc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai người như vậy:
- Huân tu thiền.
- Không tu.
1. Tu: nghiệp trở lại trong Bốn thiền, chỗ thọ sinh khác nhau.
2. Không tu: thì không có nghiệp như số này. Kinh gia tạo ra pháp huân tu thiền rằng: Từ tâm vô lậu xuất, huân tu thiện hữu lại làm cho lý lẽ sáng suốt. Nếu như vậy tức là bậc Thánh lại khởi nghiệp. Kinh nói: "Đâu nói bậc Thánh hoàn toàn không tạo nghiệp mới? Phải biết rằng, những gì nay giải thích, chính là nghiệp trong bốn thiền xưa, nói thẳng là bậc Thánh đã vận dụng năng lực vô lậu tự tại, có thể thay đổi nghiệp xưa, việc sinh về chỗ riêng thì sẽ không có nhân riêng. Hỏi: Vì sao? Vì Phàm, Thánh trong Bốn thiền đều cùng chỗ, thường huyên náo, lẫn lộn, vì không thể sinh trí tuệ sâu xa, nên quay lại nghiệp này, sinh về xứ khác. Nếu sinh về xứ đó, thì sẽ cách xa quả báo của phàm phu, tức là tĩnh lự soi rọi ở tâm, mặt trời trí tuệ xán lạn. Cho nên kinh gọi người thích luận bàn, thì sinh lên năm tầng trời tịnh cư.
Đã giải thích về sáu người rồi, chúng sinh lại hướng về giải thích bậc trung Bát-niết-bàn, sinh ra hai điều nghi."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Trong cõi Dục có trung Bát-niết-bàn, cõi Sắc không có."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Ca-diếp vì chúng sinh nên hỏi. Câu hỏi thứ nhất: Nói về "Trung Niết-bàn. Lại nếu thần căn đã nhạy bén, sao hiện tại không nhập Niết-bàn?" câu hỏi thứ hai: "Sao cõi Dục có Trung Niết-bàn, mà cõi Sắc không có?"
"Này người thiện nam! Người mang thân bốn đại trong hiện tại rất yếu kém" cho đến "Cho nên không được Niết-bàn hiện tại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đức Phật không đáp theo thứ lớp. Trước đáp câu hỏi rằng: "Thần tình của người này dù nhạy bén, nhưng ở hiện tại, vì "Duyên" vào đạo không đủ, nên phải làm thân trung ấm, không được nhập diệt ngay trong hiện tại."
"Này người thiện nam! Như điều ông hỏi: "Vì sao" cho đến "Tham lam keo kiệt, giận dữ, nên gọi là Trụ."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế là đáp câu hỏi sau: Thọ sinh cõi Dục là địa khổ, cũng phải nương vào duyên ngoài giúp đỡ, thì báo thân mới được lập. Nhưng chính vì dùng báo thân này, nên đã bị duyên phiền não ép ngặt, cho nên đến sau này quán sát cõi Dục là lý do phát ngộ, cho nên ở cõi Dục có trung ấm. Cõi trên là địa thiền, không đợi duyên giúp sức bên ngoài. Lại vì không có khổ lớn, nên không có trung Niết-bàn."
"Này người thiện nam! Người đến bờ kia, dụ cho A-la-hán" cho đến "Cho nên dụ như rùa thần, vì ở dưới nước, hay trên đất liền đều qua lại một cách thong dong."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giải thích người thứ bảy, từ La-hán trở lên đến Chư Phật, vì gọi chung là một người, nên mượn dụ rùa thần có thể lội dưới nước, đi trên đất liền. Chỉ vì giỏi việc lội dưới nước, đi trên đất liền, như văn đã kiết hợp. Trong sông thế gian, dù có bảy thứ khác nhau, nhưng đều không lìa nước. Trong Niết-bàn cũng giống như vậy, chính là có sự khác nhau giữa bảy người, cũng đều không lìa nước Phật tánh, chỉ vì nghĩa Phật tánh tùy từng việc mà gồm thâu: hoặc "Duyên" nhân, hoặc cảnh giới, rất nhiều như vậy, hoặc nhân, hoặc quả đều là Phật tánh."
"Này người thiện nam! Như bảy hạng chúng sinh trong sông Hằng" cho đến "Đó gọi là tùy tự ý ngữ của Như Lai."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích đều là phương tiện của Phật."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Nếu có nhân" cho đến "Thế nào là Sa-môn? Thế nào là quả Sa-môn?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói quả là thường, thành nghĩa bên kia bờ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Lại hỏi: "Niết-bàn không có thể của nhân, lẽ ra không phải là quả mới phải?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại nêu lên hai câu hỏi:
1. Nếu Niết-bàn không có nhân, thì làm sao gọi là quả?
2. Niết-bàn cũng gọi là Sa-môn, thế nào là Sa-môn? Thế nào là quả Sa-môn?
"Này người thiện nam! Tất cả thế gian có bảy thứ quả" cho đến "Tức là pháp lành đã tu trong vô lượng đời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu bảy thứ quả này với ý muốn chứng lấy quả xa lìa sau cùng."
"Này người thiện nam! Như pháp thế gian, hoặc nói sinh nhân" cho đến "Chỉ có liễu nhân, không có sinh nhân."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh nhân của pháp hữu vi có hai thứ:
1. Do nghiệp sinh, gọi là sinh nhân.
2. Vì gần là sinh nhân. Liễu nhân cũng có hai thứ:
1. Vì quả bất sinh, nên gọi là liễu.
2. Vì xa là liễu, pháp hữu vi khởi, nhân có chỗ sinh, nên gọi là sinh nhân, mà sinh nhân có gần, có xa. Xa thì gọi là "Liễu", xuất thế cũng giống như vậy, nghĩa là xuất thế thì vô vi. Vô vi thì không có khởi nhân, không có sinh, gọi là liễu nhân. Có gần, xa: Gần thì gọi là sinh nhân, sinh nhân là phiền não bất sinh, tức Niết-bàn. Thân, miệng, ý thanh tịnh, đều dứt hết phiền não. Ba thoát là gần, gọi là sinh nhân, cũng là Niết-bàn mà tạo ra liễu nhân, ba mươi bảy phẩm cũng có gần xa. Xa gọi là liễu nhân, thấy rõ ràng đối với Niết-bàn, nói là không có sinh nhân, đáp câu hỏi trên, thấy Niết-bàn là quả, vì không có sinh nhân, nên gọi là "Thường"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nói Niết-bàn là quả của liễu nhân, chứ không phải là chỗ sinh của sinh nhân. Ba môn giải thoát..., tạo ra bất có sinh đối với phiền não. Vì mạnh mẽ, cho nên lập ra sinh, sinh không phải nhân." "Này người thiện nam! Như ông hỏi: "Thế nào là Samôn" cho đến "Đó gọi là Sa-môn, quả Sa-môn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước nói là thể của đạo quả, dưới tự giải thích danh nghĩa. Vì muốn đáp câu hỏi thứ hai, nên nói Sa-môn-na, tức tám Chánh đạo."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Vì sao" cho đến "Cho nên được gọi là Sa-môn-na."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hữu vi yếu kém, gọi là thiếu thốn. Sự khác nhau của sáu đường, gọi là đạo. Tám đạo từ đối tượng đoạn mà được gọi tên."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở đây nói đạo dứt thiếu thốn chỉ là sinh tử. Đạo dứt thiếu thốn có thể không dứt tất cả quả báo phiền não, có tám Chánh đạo, tức hạnh tràn đầy, nghiệp phiền lụy tiêu tan hết, gọi là quả Samôn."
"Này người thiện nam! Bậc A-la-hán tu đạo này" cho đến "Gọi là A-la-hán được đến bờ bên kia."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích về pháp của bờ bên kia. Năm phần trên là chung. Ở đây nói rộng về hai giải thoát tri kiến, thân qua đến bờ bên kia."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nêu bốn trí để kiết luận.
Nói đủ bảy đức tròn đầy này, tức gọi là đến bờ bên kia."
"Như A-la-hán, Bích-chi-Phật" cho đến "Vì được quả nên gọi là đầy đủ".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Được đạo vô thượng, mới gọi là đầy đủ, chỉ có mình Phật. Gọi chung Bồ-tát, là vì đạo đồng, mới đối với người Nhị thừa cũng là bờ bên kia."
"Này người thiện nam! Bảy hạng chúng sinh này không tu thân" cho đến "Vượt qua sông sinh tử, đến bờ bên kia."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trên đã nói rộng về nghĩa đầy đủ.
Ở đây lại nêu bày tóm tắt."
"Hoặc có thuyết nói: "Người nhất-xiển-đề" cho đến "Nếu nói không được thì đó là luống dối."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói rằng hiện tại được không được, vị lai được, không được, sớm gọi là đắm, chứng tánh là luống dối."
"Này người thiện nam! Trong bảy hạng người này, hoặc có một người đủ bảy, hoặc có bảy người, mỗi người đều có một."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một người đủ bảy, nghĩa là nói một người của ba đời, mỗi người đều có một, nghĩa là y cứ ở hiện tại." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Giả gọi một người, đương lai sẽ đầy đủ."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nói theo đầu cuối thì Đức Phật cũng từng làm xiển-đề, cho nên một người đủ bảy. Nói theo đương vị thì mỗi người đều có một."
"Này người thiện nam! Nếu có người tướng tâm miệng khác nhau," cho đến "Nên biết, người này chê bai Phật, Pháp, Tăng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói tưởng "Có", "Không" của bảy tánh, chắc chắn sẽ thấy khác, nói khác, tức là chê bai Phật. Tâm thấy tướng khác, miệng khác với bảy tướng mà nói cũng giống như vậy. Sau đây, tự có giải thích:
Tám phần Thánh đạo, cuối cùng chẳng phải là phàm phu được, nghĩa là được thì hiện tại không được, vị lai không được. Vị lai không được thì nói lời chê bai."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu nói thể của tám Chánh đạo kia, lúc được quả thì tự là quả, lúc bất thiện tự là bất thiện, ý nói nhân quả không lìa. Nếu có xiển-đề đã được Bồ-đề, hoặc đều không được, đều gọi là chê bai Phật, Pháp, Tăng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dưới đây là trở lại đoạn văn thứ năm trong phần phát sinh pháp lành, nêu câu kiết được, mất. Trước nói rộng về lỗi lầm. Câu một, hai sau đây được nói song song, vì dù nêu việc mất, thầm dứt mất đoạn văn kia, nhưng không thể ngay văn mà dùng." "Hoặc có thuyết nói: "Phật tánh của chúng sinh" cho đến
"Vì tùy ý ngữ, nên gọi là Tam-miệu Tam-phật-đà."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không" đối với chúng sinh là "hữu", thường không thể thấy, Phật tánh cũng có. Tu đạo thí thấy, chứ chẳng phải "Không có" như sừng thỏ. Sừng thỏ hiện "Không có", không thể dùng phương tiện mà được Phật tánh cũng không thể dùng phương tiện mà được. Vì hư không là thường, nghĩa là thường không thể nhìn thấy. Vì sừng thỏ "Không có" nghĩa là "Không" thể sinh được."
Vừa có vừa không có: "Có" là "Sẽ có", "Không có" là hiện tại không có. Vì "Có" nên đả phá sừng thỏ. "Sẽ có" là có thể có, khác với sừng thỏ. Vì "Không có", nên đả phá hư không, nghĩa là hiện tại dù không thấy, nhưng cuối cùng, sẽ thấy, chẳng đồng với "Không".
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như Phật đã nói" cho đến "Thế nào gọi là như hư không?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phần sáu của đoạn lớn, nói về môn "Thường". Sở sĩ nói về "Thường", là vì phân biệt được Phật tánh, trở lại sinh gốc lành, khéo được quả thường. Nói về "Thường" chỉ có hai thứ:
1. Vô thường, là hư không.
2. Hữu thường, là Phật tánh.
Vô thường, không thể tu được. Hữu thường, tu đạo thì thấy. Vì muốn cho người nhận thức được quả thường, tu nhân thường, không cho Phạm Thiên... là thường. Trải qua từ đầu cho đến hiện nay, Đức Phật đã dùng "Không" dụ cho tánh. Trên đã nói rằng hữu, chẳng như hư không. Nay, hỏi về ý của nói ví dụ xưa kia."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ý hỏi: "Nếu Phật tánh chẳng thuộc về ba đời mà gọi là "Có", thì hư không cũng chẳng thuộc ba đời, lẽ ra cũng là có? Đây đều là hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vật tình đối với lý tánh của nhân quả đã quyết định, tức là muốn tu thân, nếu không nhận thức quả, thì sẽ không do đâu để tiến tu, nên nêu thể của Phật tánh chẳng thuộc về ba đời, cho nên người có nhận thức thì sẽ đồng được ở vị lai. Phẩm Sư Tử Hống ở trước dù đã nói về thể của quả là "Thường", nhưng rốt cuộc vẫn chưa giải thích đúng về sự khác nhau giữa "có", "Không" của thể quả này. Nay, phân biệt hư không dù "Thường", mà tánh nó là "Không". Niết-bàn diệu hữu, với tánh vắng lặng, đều chẳng phải ba đời, mà có hữu, vô khác nhau."
"Này người thiện nam! Tánh của hư không chẳng phải quá khứ" cho đến "Ta nói Phật tánh cũng như hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không" có bốn nghĩa, dùng để dụ cho tánh:
1. Không có ba đời.
2. Chẳng phải vật.
3. Không có trong, ngoài.
4. Không có ngăn ngại.
Pháp sư Tăng Tông nói: "Vì ý Phật chẳng phải ba pháp này, nên nói là "Có". Phiền não đối với Niết-bàn, Xiển-đề đối với Như Lai. Vô tình đối với Phật tánh. Vì ba cặp này, nên có hư không chẳng có đối, đâu được là "Có"."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nay, y cứ vào một đoạn thuyết này có bốn lượt gọi "Này người thiện nam! Về nghĩa:
1. Nói về thể của quả Phật là "Thường", khác hẳn với "Thường" của hư không. Dù hai thường đồng nhau, nhưng ý chỉ của "Thường" là khác nhau.
2. Chúng sinh lại sinh ra ngờ vực: Nếu hai "Thường" đều chẳng thuộc về ba đời thì sao không gọi là "Có", mà một "Có" một "Không"."
Phật giải thích rằng: thường ấy là đồng, phải có một đối trị, có thể gọi là hữu, mà hư không là vật, chẳng phải không thể đối trị, cho nên là vô.
3. Quở trách ngoại đạo chấp ngang trái hư không là nghĩa "Có".
4. Dẫn chứng nói về người trí của ba đời, đều nói như vậy. Nay ở môn đầu, tóm lược phát ra vài việc để nói về tướng khác nhau của hai "Thường" kia. Nhưng trong văn, Phật đã nói lên ý chỉ "Thường" kia, lý tự rõ ràng."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Lìa các vật vô tình này, gọi là Phật tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo nói "Không" là pháp "Hữu", cho nên phải nói rõ. Hiệu chung của thân tâm Như Lai, tánh là tên khác của ngộ, giải. Niết-bàn là tên chung của diệt khổ. Ba nghĩa khác nhau mà thường nhất, gọi riêng là "Chẳng phải Niết-bàn", gọi là Niết-bàn. Thế Đế là pháp có, có, không, đúng, sai đều là tương đối. Hư không, thế đế nói là "Không". Tất cả pháp phiền não hữu vi: Phiền não là nhân, hữu vi là quả. Nhân, quả là khổ, diệt là vui. Nhất-xiển-đề đến Bích-chiphật: sáu độ là như đạo. Nương như đạo mà đến, nên gọi là Như Lai. Những nhân quả này không nương như đạo, Bồ-tát thì nương như đạo, mà vì chưa đến nên bỏ. Vật vô tình: Vô tình không có tánh ngộ thoát, là chẳng phải tánh."
"Này người thiện nam! Tất cả thế gian chẳng có pháp nào không phải hư không" cho đến "Lìa bốn ấm rồi, thì không có hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thế gian trụ trong hư không, vì không có chỗ chẳng phải hư không đối với "Không", cho nên chẳng có đối. Chẳng có gì không phải bốn đại đối với bốn đại: tánh "Sắc" chẳng phải "Không".
Trụ ở trong "Không" đều là không đối với không, nghĩa là tâm dựa vào đại khởi, cũng đều là đại đối với đại, đâu được gọi bốn đại là có ư? Đức Phật không đáp, vì bốn đại kia chẳng quyết định. Dùng trí đáp để đáp. Vì sao? Vì đối tượng mà sáu thức nương tựa đều khác. Năm thức dựa vào đại, ý thức không nương tựa. Vì vô "Sắc" chẳng trụ "Không", nên chẳng quyết định.
Niết-bàn là cuối cùng, yên ổn đến bờ kia: Đó đều là xưa không được mà nay được, "Không" vô nghĩa này. Lìa thuyết như vậy, cuối cùng thuộc về ba đời.... Lìa ba pháp, Như Lai, Phật tánh v.v... Ba pháp là hữu vi, nếu hư không là đồng, thì đồng ở ngoài ba pháp. Thuyết của người đời nói, cuối cùng chẳng thể không thuộc về ba đời, nghĩa là Đức Phật nói hai nhóm pháp Sắc và Vô sắc cho đến có thể thấy, không thể thấy. Sắc là bốn đại, chẳng phải sắc là tâm sở,"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Chẳng có gì không phải là đối của bốn đại. Vì câu hỏi này thô, nên Phật trí đáp. Như người đời nói Không chẳng phải sắc là tâm sở, sau đây sẽ nói rộng về hiểu tà, đều chẳng được tướng "Không".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bắt đầu câu hỏi thứ hai, chính là giải thích ý khác nhau, nêu lên hư không để quyết định Niết-bàn. Nay, cả hai câu hỏi đều "Có". Nay, Phật đáp rằng: "Dù đồng là "Thường", nhưng phải là quả Phật có đối trị mà chẳng phải "Không có". Nói ba pháp: Như Lai, Phật tánh, Niết-bàn, vì đồng có đối tượng trị, nên thuộc về "Có". Vì thế dưới đây sẽ bỏ hai cách giải thích về ba nghĩa này, vì chẳng phải Niết-bàn: là pháp sinh tử, chính là đối tượng trị sinh tử này, vì quả luống dối đã diệt hết, nên gọi là Niết-bàn. Là chẳng phải Như Lai: Phái Nhị thừa, xiển-đề có tâm chấp tướng nặng, nên không thể hiểu đúng như lý. Như Lai có khả năng dứt sự hiểu biết không đúng như lý này, vì được hiểu biết đúng lý nên gọi là Như Lai.
Vì chẳng phải Phật tánh: Vì là chúng sinh cho nên không thấy Phật tánh do có nghiệp báo phiền não, nên phải dựa vào quả mà giúp thân. Đức Phật đã dứt hết nghiệp báo, không có gì cần thiết, tức là soi sáng cùng tận lý Phật tánh, là nói nghĩa bóng tối che chướng, nghiêng về đối trị hết nghiệp báo này ở hiện tại, nên gọi là Phật tánh. Tất cả thế gian chẳng có gì chẳng phải hư không đối với hư không. Thế gian chẳng có một vật nào chẳng phải hư không. Lại vì, bị hư không đối trị, nên đâu được hỏi rằng: "Hư không là ý hiểu biết bất chính. Tuy nhiên đối với tình chấp chúng sinh chưa bỏ, nên Bồ-tát Ca-diếp từ đây về sau sẽ lập ra một điều. Nếu hư không có bị đối trị thì chẳng thể là "Có". Nay, lúc bốn đại khởi, cũng chẳng bị đối trị, vì sao gọi riêng bốn đại là "Có"? Hư không là vô, lời lẽ quyết định đã như vậy. Nay, Đức Phật vì sẽ giải thích, nên đều nói rằng: "Hư không cũng đồng với Niết-bàn là "Có", nghĩa ấy không đúng! Vì sao? Vì nói Niết-bàn là "Có", có thể thấy, có thể chứng đắc, có thể tạo ra các thứ sắc thích ứng, có muôn công dụng của tám ngã, rõ ràng có thể được, là hiện có. Hư không chẳng có dụng này, làm sao là "Có"? Hư không đã chẳng phải như Niết-bàn này. Sau đó, Đức Phật đáp câu hỏi: Từ "Nếu lìa pháp như vậy, lại có pháp" trở xuống, đã đối với quyết định ở trước: Nếu làm cho lìa pháp như vậy, có riêng một pháp mà là "Có" thì cái "Có" này sẽ thuộc về ba đời. Nếu hư không đều là "Có" thì lẽ ra thuộc về ba đời, là pháp vô thường? Đáp về lý đã bày tỏ. Đức Phật lại dẫn việc, lại hỏi Bồ-tát Ca-diếp rằng: "Như người đời nói hư không gọi là chẳng có sắc, chẳng có đối". Nếu hư không chẳng phải sắc mà là "Có", thì lẽ ra tức pháp tâm sở? Nếu là tâm sở thì chẳng thể không thuộc về ba đời, tức đồng với bốn ấm!?"
"Này người thiện nam! Các ngoại đạo nói" cho đến "Nếu thuộc về ba đời thì sao lại nói là thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo gọi hư không là sắc, có đối để thấy. Phật nói chẳng phải sắc, chẳng có đối, chẳng thể trông thấy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đoạn văn thứ ba, là phá chấp của ngoại đạo. Về nghĩa đúng nói hư không là "Không có", mà nhà ngoại đạo lại chấp là "Có", cho nên phải phá: "Nếu ông nói hư không là ánh sáng, rồi chấp cho là chỗ trụ, thì tức là sắc pháp. Nếu là sắc pháp, thì tức là có nơi chốn khác nhau, thuộc về ba đời, là pháp vô thường!?" Nói về hư không chẳng lìa ba pháp Phật lại tạo ra tướng để phá muôn pháp "Có" "Không", đều chẳng lìa ba pháp này. Ông chấp hư không ở trong pháp nào? "Không" lấy trực tiếp chỗ không có vật thể để gọi là không Thật, là như sắc pháp cột, gỗ.... "Không thật" là mé hữu, vô. Nếu nói hư không ở trong pháp không, thì lẽ ra là vô thường? Vì sao? Vì hư không này chẳng khắp chỗ thật và "Không thật" tức là số phần. Nếu là số phần, thì không khỏi vô thường, thật khác với "Không thật". Hai pháp lại dẫm đạp nhau. Ý phá như trước, đều có lỗi không khắp."
Nầy người thiện nam! Nếu lại có thuyết nói về hư không" cho đến "Nếu hư không như vậy thì lẽ ra là vô thường."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì chỗ thật là không thì chẳng khắp, lẽ ra là vô thường. Hai chỗ là không nghĩa là chỗ thật thì chẳng không, chỗ không thì chẳng thật."
"Này người thiện nam! Người thế gian nói trong tất cả pháp" cho đến "Hư không chẳng có ngăn ngại, đều hợp với "Có"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đều có nơi chốn, gọi là tất cả có.
Chỗ bị chấp có hai thì đều là vô thường, nghĩa là theo vật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã phá ba câu này xong. Về sau, lại kiết rằng: "Hư không là vô. Lại như người đời nói "Tất cả nơi nào không có ngăn ngại đều gọi là hư không". Đức Phật lại lập ra câu hỏi: "Nếu chỗ không có trở ngại, gọi là hư không, thì hư không này được xem là tất cả đều đầy đủ, có khắp nơi là "Có" chỗ, "Không có" chỗ, thì sẽ là phần "Có. Nếu "Có" đầy đủ ở nơi này thì nơi khác sẽ "Không", vì tất cả chỗ không thể khắp được, hư không của ông đã là "Có", thì làm sao khắp được? Nếu không khắp thì có thể đếm pháp kia, đây là vô thường!" Lại nếu có người nói: "Hư không chẳng có trở ngại, đều kiết hợp với "Có", cũng không có việc ấy."
Lại có thuyết nói: "Hư không ở trong vật, như trái cây trong chậu".
Cho nên biết chẳng có hư không."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chim thì lay động, cây thì vắng lặng, gọi là khác nhau. Hai con dê húc nhau cả hai đều cùng cử động, gọi là chung. Hai ngón tay chập lại một chỗ. Trước ngón tay có hư không, trước hư không đã có ngón tay. Có hai hư không, hai "Có" chập lại một chỗ. Nếu có nghiệp không, kiết hợp với vật, "Không" thì vô thường, là vật thì trụ, hư không thì động, mà đã là động thì vô thường. Vật thể thì không khắp. Vì vật thể không khắp, cho nên động. Vì không khắp, nên vô thường. Sau đây sẽ nói về lỗi chẳng hư không khắp.
Nếu hư không là thường thì vật lẽ ra cũng là thường: Nếu vật thể lay động không có hư không, thì hư không sẽ không khắp. Không khắp mà thường, thì vật lẽ ra cũng là thường? Nếu hư không và vật là đồng, vừa thường vừa vô thường, thì không có việc đó! Nếu nói hư không là thường, thì ở trước chánh pháp một vật thể khởi, sau kiết hợp lại. Trước đó là khắp, sau kiết hợp là không khắp. Khắp là thường, không khắp là vô thường, thì không có việc đó! Trước không có kiết hợp, cuối cùng là pháp vô thường, nghĩa là nếu đã hợp chung, hợp chung thì hợp có trước, sau. Hợp sau vốn "Không" hợp trước cũng giống như vậy, đều là vô thường. Trước khi không có chậu đựng, cuối cùng thế nào? Nói khắp, thì chậu đựng thì trước không nay có khi chưa có chậu đựng, lẽ ra có chỗ ở. Chỗ ở khác, hư không khác, không nên nói là thường, nói là khắp."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Nếu hư không lìa hư không mà có trụ thì câu hỏi trên sẽ hợp với hư không, câu hỏi ở đây sẽ lìa hư không. Nếu hư không hợp với "Có" thì tức là "Không" đồng với "Hữu", tức là lìa không mà trụ. Có vật lẽ ra cũng lìa không mà trụ, đều là câu hỏi; nghĩa là có vật thể kiết hợp thì lẽ ra lìa "Hữu" chỉ là "Không".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại nói: "Hư không ở tại vật, như trái cây trong chậu. Vì cả hai đều không đúng, nên trước giả tạo ra ba pháp, sau đả phá lối chấp đều kiết hợp của ngoại đạo kia. Sau sẽ phá riêng chấp hư không ở trong chậu:
"Nếu kiết hợp với "Hữu" thì có ba pháp kiết hợp:
1. Nghiệp khác kiết hợp, như chim bay tụ lại đậu trên cây. Cây vốn không xao động, vì chim bay đến đậu trên cây, nên nói là nghiệp khác.
2. Nghiệp kiết hợp chung, như hai con dê cụng nhau, nghĩa là hai động vật đều cử động, nên nói là hai nghiệp.
3. Đã kiết hợp chung, như hai ngón tay chập lại một chỗ. Lúc trước, cả hai hợp với hai, nay vì đến kiết hợp chung, nên nói là đã kiết hợp hợp chung. Trước đã tạo ra ba câu này xong. Sau đây, theo thứ lớp, sẽ hỏi để phá: Nếu nói là nghiệp khác kiết hợp chung, khác thì có hai:
1. Xao động: là chim.
2. Không xao động: là cây.
Nếu vậy, thì muôn hữu vốn không xao động như cây. Hư không của ông như chim xao động bay đến, vật kiết hợp chung là vô thường! Nếu nói vật thể kiết hợp với hư không, vật thể lại không khắp. Nếu thích hợp với không khắp, là pháp phân số."
"Này người thiện nam! Nếu có thuyết nói "Chỗ ngón tay ở" cho đến "Vì hư không là "Chẳng có", nên chẳng thuộc ba đời."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phật nói có nương tựa hư không mà trụ, nhưng người mê lầm lại nói có pháp hư không, là có chỗ nương tựa, tức nhân duyên đối với tướng nhân quả đồng nhau. Vì nhân vô thường nên quả cũng vô thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đã phá các chấp của ngoại đạo xong. Sau, lại kiết luận rằng: "Vì hư không chẳng phải vật, nên gọi là thường, chẳng phải pháp "Có". Phật tánh thường nhưng vì "Có", nên chẳng thuộc ba đời."
"Này người thiện nam! Ta hoàn toàn không tranh cãi với thế gian" cho đến "Người trí nói "Không", ta cũng nói "Không".
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phần bảy, là nói về môn nhân. Sở dĩ phải nói về nhân, là vì ở trên đã nói rằng, chỉ ba pháp là thường, pháp khác đều vô thường, khác với thế gian, mà khác thì sẽ xảy ra tranh cãi. Nay nói vì nhân khác, nên quả khác, là từ lý mà nói khác, đồng với thế trí nói, nên không tranh cãi với thế gian,"
Pháp sư Tăng Tông nói: "Sau đây là đoạn thứ tư, nói về tu đạo." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật dạy: "Người trí ở thế gian tức là
Bồ-tát. Sau đây, sẽ bỏ đoạn văn thứ bảy trong đoạn lớn, giải thích về hai nhân khác nhau. Vì sẽ nói lý này, nên trước nối tiếp tông chỉ trên, đặt ra câu hỏi: "Người trí của thế gian nói năm ấm là vô thường. Đức Phật lại nói riêng "Ngã" là thường. Thuyết nói đã không theo nhau, sẽ thành sự tranh cãi của thế gian? Vì sao Đức Phật lại nói xa lìa điên đảo, không tranh cãi với thế gian ư?"
Nay Đức Phật đáp: "Phàm phu vì lấy ba lậu làm nhân, nên phải chịu khổ, vô thường. Phật dùng kiến giải chân vô sinh làm "Duyên" để dứt bỏ nhân hữu lậu, vì chẳng còn vô thường, nên "Tức" thể là thường. Nhân lậu, vô lậu kia đều khác nhau, đâu đồng với thế gian? Như thế tức là thảo luận một cách hợp lý, thì làm gì có sai trái mà phải tranh cãi?
Nay, y theo văn này, rộng, lược có ba lượt, giải thích sinh tử vì dùng ba lậu làm nhân, nên thuộc về vô thường. Đức Phật vì không sử dụng ba lậu này làm nhân, nên thuộc về thường:
1. Nói đúng là phàm phu không biết ba lậu là lỗi lầm.
2. Nói về nguồn gốc khởi lậu của phàm phu.
3. Nói về lậu cảm quả chỉ là khổ, không có vui. Nhưng ba lượt này, bậc Thánh đã biết được lỗi lầm, quán suốt cội nguồn của lậu kia, vì quán sát, lậu đó, nên sinh ra kiến giải, nên sẽ dứt trừ hết ba lậu, thành tựu tám Chánh đạo."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Đại Bồ-tát" cho đến "Như hoa Ưu-đàm-bát-la."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu nói theo lý thì sẽ không tranh cãi. Vì thấy lý, phải do hạnh, cho nên hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phật nêu mười pháp."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Người trí nói "Không", ta cũng nói "Không"." Pháp sư Tăng Lượng nói: Xin quyết định nghĩa hữu vô.
Bồ tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Cho nên nói là thường, hằng không thay đổi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sẽ nói về chấp nhân quả khác nhau, làm câu hỏi: Nếu sự đồng mà nói khác thì lẽ ra đã ô nhiễm. "Đã lìa ba thứ" trở xuống, nếu nói theo lý thì chẳng tranh cãi, nói và thấy khác nhau, làm sao không tranh cãi được. Sắc của phàm phu trở xuống là nói nhân quả khác nhau. Nói không đến nơi thì không khỏi ô nhiễm, tranh cãi."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!
Thế nào là sắc?" cho đến "Biết bệnh rồi mới cho thuốc." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi từ đáp mà lìa, thấy lỗi thì lìa, không thấy thì theo. Hỏi lược mà đáp rộng."
"Này người thiện nam! Như có người dắt người mù vào trong rừng gai" cho đến "Dù có cảm thọ quả báo, nhưng quả báo cũng nhẹ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói lìa ác có dần dầu. Sau khi biết tội lỗi của mình rồi, từ quả báo của trời, người nói lỗi lầm, sẽ được lợi của hai đời. Quả báo nhẹ, là khổ do si mê sinh khởi, vì hễ nhận thấy lỗi lầm của mình thì si mê sẽ vơi nhẹ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Như có người mù vào trong rừng gai. Người mù dụ cho phàm phu, rừng gai dụ cho ba lậu. Lại ba lậu này dẫn dắt chúng sinh chịu quả báo khổ. Bỏ rừng gai để quay trở về như quả khởi thì nhân dứt. Dù cho được thoát khỏi rừng gai, nhưng thân bị trầy xước, dù cho thời gian sau, chán khổ tu đạo, nhưng cũng phải chịu tám khổ."
"Này người thiện nam! Có bốn hạng người: Một là lúc tạo nghiệp cho đến quả báo của ngạ quỷ, súc sinh, trời, người."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc tạo nghiệp thì nặng, đến khi chịu quả báo lại nhẹ. Vì khi tạo nghiệp không thấy lỗi lầm của mình. Đến khi chịu quả báo mới thấy bốn thứ như vậy."
"Cho nên trong Khế kinh ta nói" cho đến "Không bị pháp thế gian làm nhiễm ô."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Xa lìa phiền não, hạnh quán có năm:
1. Quán thể.
2. Quán nhân.
3. Quán quả.
4. Quán nhẹ nặng.
5. Khuyên tu đạo.
Đây là thường, phần tự hiện trong ba đoạn văn dưới:
"Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến
"Tức là nhân của tham, nhân của sân, nhân của si."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói về quán tâm hạnh rộng khắp ở trên, duyên theo pháp không được, đều là vô minh, "Duyên" tội lỗi nặng kia, được chia làm "Dục hữu". Thân mạng ở cõi Dục, nhờ vào duyên ngoài. Duyên ngoài tồn tại, tình dục nặng, gọi là dục lậu. Si ở cõi trên nhẹ, gọi thẳng là hữu. Giác quán ác bên trong, cuối cùng sinh ra dục lậu, "Duyên" là tưởng ngoài. Cho nên tất cả gọi là dục lậu, lậu là các phiền não như tham, v.v... duyên trong ngoài sinh, giác quán là tưởng "duyên" chẳng phải dục. Năng sinh ra dục là dục, từ dục sinh ra là dục lậu. "Ngã" và "Ngã sở", không thể phân biệt ấm giới, đều là vô minh. Phải biết vô minh kia là chung. Nhân tham, nhân si là ba phiền não. "Duyên" với tội nặng kia: Vô minh có cả nhẹ nặng, được làm nhân cho si."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ hai, trước giải thích, giải thích về danh nghĩa của ba lậu, sau giải thích tướng của lậu, nhân khởi lên nguồn gốc của lậu. Những gì phàm phu đã làm, tâm không thể quên, chỉ vì tự mình bị lỗi lầm, nên thành nhân của lậu. Bậc Thánh dùng đạo tự xử, vì tâm không tồn đọng điều gì, nên thành duyên của đạo. Đôi khi nói quả trong nhân, nghĩa là nói về kiến giải vô lậu, vốn chẳng phải quả báo. Vì từ chỗ xuất phát đặt tên, nên nói vô lậu là quả. Bồ-tát Ca-diếp trước đây hỏi về quả vô lậu, lại nói: "Người trí dứt các quả báo, nay các bậc Thánh làm sao có được? Đức Phật đáp: "Thật ra không có quả báo vô lậu. Cho nên biết được vô lậu, là do pháp sinh tử tan nát, diệt mất, chẳng phải lại có tập đế, mà người hiểu biết gọi là vô lậu, chỉ vì không lệ thuộc ba cõi. Do cảm quả biến dịch, e rằng chẳng phải ý Thánh, nhưng hiện tại là liễu nghĩa của Đại thừa. Đức Phật tự quyết đoán rằng: "Sự thật không có quả báo vô lậu", đâu lại cảm quả sinh tử, trở thành tập Đế ư? Kinh Thắng Man gọi nghiệp vô lậu là "Nhân", vô minh trụ địa là "Duyên", nghĩa là tự có ý riêng không quan hệ dùng vô lậu làm tập Đế. Năm ấm là quả của nghiệp phiền não, gởi gắm quả báo vô thường, khổ của người khác.
Ở trên, nương vào bậc Thiện tri thức, về mặt lý, vì phát được kiến giải vô lậu này trong duyên, nên nói là quả, nói về lý thì thật ra chẳng phải quả. Hoặc từ thân, tâm cho đến bên Phạm thiên, cũng là nói quả trong nhân. Tâm là nhân nhất định, nhân nhất định này có thể được thân Phạm thiên."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Bốn đại là nhân xa, phiền não cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Làm nhân quả lẫn nhau; chẳng phải nữ lấy nữ, gọi là vô minh. Phân biệt tốt xấu gọi là bất thiện. Lấy tốt xấu rồi, lại thêm tướng nữ. Chín phẩm như vậy, làm nhân quả lẫn nhau. Con là nhân gần, cuối cùng, phiền não cũng giống như vậy. Dù lẫn sinh nhau mà vóc dáng người nữ là nhân xa, tướng mạo đẹp, xấu là nhân gần."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Từ vô minh sinh ra ấm, nhập, giới..."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Là vô minh nội, đến nhân bên trong, bên ngoài, là phiền não. Nhân trong ngoài năng sinh ra vô minh, gọi là vô minh, như nói sắc... gọi là dục."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Người trí phải quán sát nguyên nhân sinh ra phiền não."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ hai, nói rộng về việc tạo ra hành nghiệp gì? Cuối cùng nhận phòng nhà như thế nào? Lúc bấy giờ, bạn xấu ác ở chung là xứ. Sự và hành động là đồng, ngoài là khác.
Tâm thọ sâu đậm cúng dường phòng, nhà. Chuyển hạ làm trung, nghĩa làm thêm lớn cho việc ở trên là khác."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Có thể làm lớn mạnh các thứ phiền não." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn nói về phiền não, cũng dùng phiền não quá khứ làm nhân. Như trong một chậu đựng: Từ vô thỉ đến nay, khởi vô lượng phiền não, trong chủng tử (hạt giống) dù hàng phục tạm thời, nhưng hễ gặp ái thì sinh."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Người trí quán sát thế nào" cho đến "Phiền não như vậy sẽ chịu các quả ác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lượt thứ ba nói rộng về ba thứ: Khổ khổ, hoại khổ, hành khổ. Vô thường cũng vậy."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Có quả vô lậu" cho đến "Có công năng diệt trừ tất cả quả báo phiền não."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Các ấm của bậc Thánh là quả phiền não. Nếu dứt quả thì rẽ ra không có bậc Thánh. Nói quả trong nhân, là hễ nói dứt nhân báo thì gọi là đoạn quả. Đây gọi là trong nhân nói quả. Vô lậu chẳng phải là nhân của báo, không ở trong đoạn. "Ngã" từ thân tâm: Định là tâm, Phạm thiên là quả báo của định, định sẽ được thân, gọi là định là thân. Không có quả báo vô lậu: Không có quả báo khổ vui, lại không sinh ra lậu: Không sinh ra lậu, chính là Niết-bàn, không có pháp nào để dứt."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Đó gọi là trong thân có thuốc hay."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bỏ qua phần thứ tư, nói rộng về phần tu đạo thứ năm. Có "Hoặc" gọi là chúng sinh, không có "Hoặc" thì chẳng phải chúng sinh, là nhân quả phiền não. Từ "Hoặc" sinh ra "Hoặc", không có đạo nào để tu, nói về tám đạo, cũng dùng phiền não làm nhân phát ra một nhân, hai quả. Cuối cùng vì quả ác, nên hột ác. Nhân đã qua thì quả hiện, sẽ làm hột cho vị lai. Đều ác cả ba đời. Trước dụ cho núi Tuyết, là nói trong thân có vua thuốc hay. Xét về việc thì khác với dụ ở trước, lẽ ra không có người có khả năng tu phạm hạnh thanh tịnh như vậy: Tám đạo Niết-bàn có thể tiến đến Niết-bàn, gọi là phạm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là lượt thứ ba, nói về ba lậu. Nay, Bồ-tát Ca-diếp phát câu hỏi đầu tiên: "Nếu dùng nhân quả phiền não đều cùng khắp là pháp ác thì sao lại nói rằng, trong thân chúng sinh có vua thuốc hay? Chỉ vì pháp ví dụ khác nhau. Ở trên nói "Vua thuốc hay, dụ cho pháp nhân Phật tánh". Nay, trong đây nói rằng: "Vua thuốc hay, nghĩa là kiến giải vô lậu. Nay Đức Phật đáp: "Như thế gian nói: "Từ hột được trái. Trái này lại làm nhân cho hột. Có người không thể: Như hột lúa từ hạt lúa quá khứ sinh ra, gọi đó là quả. Nhưng hột lúa này lại có công năng sinh ra lúa vị lai, lại thành nghĩa nhân. Vật thể nhánh, lá... dù từ nhân sinh, nhưng lại có khả năng làm nhân sau. Nói về phiền não cũng vậy. Từ nhân của "Hoặc" quá khứ được năm ấm hiện nay. Trong quả hiện nay lại khởi ra nhân vị lai. Quả báo nối nhau. Ở đây có nghĩa "Tức" nhân, "Tức" quả, đã mượn ví dụ như trên. Sau đây là phát ra sự:
1. Có quả phiền não là nhân phiền não: Là nghĩa "Nhân "Tức quả tức hạt."
2. Quả chẳng phải nhân, nghĩa là vô lậu giải. Đã gởi gắm trong quả báo này, tu được kiến giải này, không còn sinh sau, chỉ cho quả chẳng phải báo, nên gọi là phạm hạnh thanh tịnh."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa "Có" chưa rõ ràng, nên hỏi lại: "Quả phiền não chẳng phải nhân phiền não: phiền não khởi có nhân duyên. Dùng phiền não quá khứ làm nhân, tướng hiện tại làm duyên. Nhân duyên đều đến. Nếu dùng vô tướng làm duyên, thì nhân đến, duyên không đến, đến này là quả chứ chẳng phải nhân, gọi là phạm hạnh."
- Nói về ba thứ nghiệp: Thân, miệng, ý.
- Nói về bốn thứ báo: là báo hắc, báo bạch, báo tạp, báo không hắc không bạch.
- Nói rộng về nghiệp phiền não, lại là nghĩa sinh nhau.
- Nói về pháp thế bậc nhất có nghĩa lậu, vô lậu.
- Nói rộng ba mươi bảy phẩm tạo ra chín thứ danh, nói là chủ thắng đạo....
- Nói rộng mười tưởng, nói rộng bảy tưởng.
"Này người thiện nam! Chúng sinh quán sát thọ ấm, biết nó là nhân gần của tất cả lậu" cho đến "Vì dứt hòa hợp, nên không sinh ra thọ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích ái là nhân, lấy "Ngã" làm niềm vui, thì sẽ sinh ra yêu đắm. Mười hai nhân duyên đã gây ra thiện, ác: Lấy sinh tử làm vui. Vì không thể xa lìa, nên gọi là thời gian thọ. Do nhân duyên nào sinh ra? Kế là quán nhân của thọ. Nhân lại có nhân, từ sâu kín đến hiển rõ, nói có thể dứt. Không do trời Tự Tại sinh. Nhân cần phải đúng, đều từ duyên hợp mà sinh, nghĩa là "Duyên" hòa hợp thì chẳng phải mình, chẳng phải người, sinh không có chủ nhất định. Tức là ái, nghĩa là lạc thọ sinh ra ái, ái sinh ra lạc thọ, làm nhân quả lẫn nhau. Là trong hòa hợp, nghĩa là vì từ hòa hợp, nên chẳng phải "có". Vì hòa hợp sinh ra nên chẳng phải "Không". Dứt hòa hợp thì bất sinh.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, là quán sáu pháp, đó là thọ, tưởng, xúc, dục, nghiệp, khổ. Chỉ có pháp xúc chẳng có quán riêng, mà gá vào các môn. Cho nên trước quán thọ, vì tất cả "Hoặc" khởi, đều do thọ, nên quán sát lỗi của thọ trước. Theo quán thọ, quán nhân của thọ trước. Kế là quán quả báo của thọ nặng nhẹ, ba chỗ diệt của thọ. Lậu trong ngoài trên cảnh ngoài tâm sinh, lậu hết do ba thọ khởi. Thọ như vậy vì sao lại sinh? Kế là quán nhân của thọ. Nhân duyên như thế từ đâu sinh? Vì theo thứ lớp các nhân quán, chẳng bao giờ không có nhân mà sinh.
Không từ tưởng sinh: Riêng ngoại đạo này chấp tưởng ấm của trời Vô tưởng, tưởng phi tưởng. Nếu có nhân này sinh ra thì phải dứt nhân của thọ này trước. Nhân duyên tức là thọ, nghĩa là tâm diệt từ quá khứ, cảm thọ tác nhân sinh ra. Chẳng có thọ: Trong nhân duyên không có tánh thọ, chẳng phải vô thọ: Không lìa nhân duyên mà có."
"Này người thiện nam! Người trí quán sát nhân rồi" cho đến "Đó gọi là Phạm hạnh thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu không quán quả khổ, thì sẽ không nhàm chán thọ. Vì dứt nhân của thọ, nên kế là quán quả. Nhân duyên của thọ được giải thoát, là ưa thích "Sinh" thì trói buộc, ưa thích diệt thì giải thoát. Dứt "Ngã", "Ngã sở", nghĩa là biết chẳng có chủ tể. Có một ít xứ diệt, nghĩa là ba tuệ dứt kiết, dùng văn tư để dứt kiết thô, gọi là rốt ráo nhỏ. Tu tuệ dứt kiết sâu, gọi là giải thoát rốt ráo. Nhận biết từ tám chánh, thì liền tu tập: Tám đạo vô lậu là tu tuệ."
Thêm lớn thân, tâm: Tám đạo hướng về diệt mà thêm lớn trái với đạo, làm sao thêm lớn được?
Nhân duyên của "Xúc", là văn tư quán nhân xa, tu tuệ quán nhân gần ở dưới là quán quả. Chẳng nói vô minh: là thiện hữu lậu và vô ký, tạp thực và ái, có công năng làm cho sinh tử không dứt."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Quán nhân đã xong, kế là quán quả: Mắc phải quả báo khổ của ba đường ác. Quả của ba đường ác này đều là báo của nhà bốn tâm, nhưng phải là không lìa thọ. Những gì là thọ? Các thọ có công năng tạo ra nhân ái. Những ái nào là? Chủ thể tạo ra nhân của thọ? Ở đây nói về nghĩa sinh lẫn nhau, ái cũng là chủ thể tạo ra nhân của thọ, thọ cũng có thể tạo ra nhân của ái.
Quán sát nhân quả nặng nhẹ đã xong. Kế là lượt thứ ba, quán chỗ thọ diệt. Nếu được năm căn mà tín, đứng đầu, hai "Không" thành tựu thì gọi là tạo ra một ít diệt, đến chánh quán vô lậu, gọi là diệt lớn. Đạo này quán thọ có ba tướng, là tướng trạng của ba thọ. Tuy nhiên ba thọ này có thể làm nhiều thêm phiền não của thân, tâm trong hành ấm. Do nhân duyên nào có thể tăng nhiều thêm? Vì từ nhân duyên ba Xúc nên sinh:
1. Xúc vô minh, là xúc phiền não.
2. Xúc minh: Có công năng sinh ra tám Chánh đạo vô lậu.
3. Xúc chẳng phải minh, vô minh: Là Tâm lành của thế tục.
Thọ như vậy, vừa gọi là nhân, vừa gọi là quả: Từ xúc sinh gọi là quả. Vì năng sinh ra thọ, nên cũng gọi là nhân. Quán thọ tạo ra ba môn đã xong. Nay, kế là lại quán sát quả báo của ái: Do ái mà sinh, cho nên phải quán. Người trí quán ái lại có hai thứ ăn lẫn lộn. Ái là bốn cách ăn, vô thực ái: Là dứt bốn cách ăn chứng được vô lậu.
Nếu muốn dứt ái, thì trước phải dứt nhân của thọ, nhân gần là thọ, nhân xa là xúc, nhân quả dứt hết, thì mới được tám Chánh đạo, tức gọi là phạm hạnh thanh tịnh.
Lại nữa, "Này người thiện nam! Người trí phải quán" cho đến "Vì tưởng, thọ diệt nên gọi là giải thoát."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai việc do nhân duyên nào sinh ra? Ái thọ là gốc của sinh tử, lại là quán nhân gần. Biết do tưởng sinh: Tưởng chấp giả danh mà điên đảo có nhẹ nặng, nặng là nhân ái, nhẹ là nhân của thọ. Thấy sắc không sinh tham, nghĩa là giải thích nhân của thọ, yêu đắm sinh ra sự tham ưa, là giả nhãn thức thấy sắc, chưa được giả tưởng, lấy giả tưởng thọ được tốt, xấu. Nhẹ là nhân của thọ và khi quán thọ cũng không sinh lòng tham: Giải thích nhân của ái. Thọ từ điên đảo sinh tưởng điên đảo. Lấy thường, lạc rồi, cho đến tham ái, nặng là nhân của ái.
Tưởng có ba thứ: ít có hai thứ:
1. "Duyên" nhỏ.
2. Thời gian trụ duyên ít, cho đến vô lượng cũng như vậy. Chưa định: tâm phân tán, duyên không nhất định, cũng khi dừng lại ít. Định cõi Dục thô cũng như vậy. Vô sắc của cõi Vô sắc không bị duyên ngoài làm nghiêng động, ở lại trong định lâu làm sao nói ư?
Tưởng, thọ diệt gọi là giải thoát: Giải thích lý do tại sao Đức Phật nói tưởng, thọ là nhân hữu lậu?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người trí phải quán hai việc thọ và ái từ đâu sinh? Biết từ tưởng sinh: Từ đây trở xuống sẽ nói về hai môn theo thứ lớp. Quán tưởng tức là pháp tướng giả, nên gọi là tưởng. Hễ điên đảo "Duyên" luống dối đều không được pháp thật. Ba thứ tưởng này: Nếu "Duyên" nhỏ của tưởng tượng thì gọi là tưởng nhỏ. "Duyên" lớn của tưởng tượng, gọi là tưởng lớn. "Duyên" vô lượng của tưởng tượng, gọi là tưởng lớn. "Duyên" vô lượng của tưởng tượng gọi vô tưởng vô lượng.
Lại, có tưởng nhỏ, là người chưa nhập định, định điện quang của cõi Dục. Lại, có tưởng lớn, là người đã nhập định, địa định của tám thiền. Lại có vô lượng tưởng: Mười "Tất cả nhập". Nếu vì ba tưởng diệt thì thọ diệt. Tưởng, thọ đã diệt, thì gọi là giải thoát."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Diệt tất cả pháp" cho đến "Người nghe cũng giải thích cho chúng sinh hiểu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Giải thích về pháp: Pháp riêng, chúng sinh chung. Nhân của tướng chung, riêng, nói một thì biết hai, nhân của tướng tâm sở. Thọ tưởng ở chỗ yêu cầu. Thọ, tưởng có thể dứt bỏ, nên biết pháp khác cũng dứt được, nên nói là cũng vậy."
Nên gần gũi: Chỉ nói pháp lẫn lộn, người nhận hiểu cũng lẫn lộn."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Do lời nói này, Bồ-tát Cadiếp liền hỏi:
"Nếu vì nói tưởng, thọ diệt có được gọi là giải thoát hay không? "Phật đáp: "Đôi khi Như Lai nhân chúng sinh nói pháp, người nghe mà hiểu, như trước kia, Đức Phật đã nói với Đại Ca-diếp: "Lúc chúng sinh diệt, pháp lành cũng diệt theo, chỉ vì pháp do con người truyền bá sâu rộng. Nếu người không còn thực hành chánh pháp nữa, thì pháp sẽ không truyền bá. Vì lấy chúng sinh để nói về pháp. Nhân pháp nói cho chúng nghe mà cũng nhận hiểu. Nói cho chúng sinh: Như Phật nói cho Tôn giả A-nan nghe:
Nếu có pháp nào sinh ra phiền não, thì không nên gần gũi, tức là ác tri thức. Nếu pháp nào có công năng sinh ra điều lành, thì nên gần gũi, là Thiện tri thức.
Đã nói pháp đáng gần gũi. Vì pháp không đáng gần gũi, nên chúng sinh liền được nhân pháp, nhận hiểu chúng sinh nào thiện, chúng sinh nào bất thiện, tức là người tốt, đáng gần gũi, người không tốt, không đáng gần gũi."
"Này người thiện nam! Dù Như Lai nói hai "Diệt" tưởng, và thọ" cho đến "Dù có cỏ độc, cũng có thuốc hay!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu không có tưởng thì Thế đế giải thích pháp gọi là tưởng. Điều mà người đời truyền chung gọi là lưu bố. Thế đế có hai:
1. Lý.
2. Đảo.
"Duyên" giả danh rộng là lý, chấp có "Một", "Khác" là đảo. Đảo thì sinh ra chấp đắm."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dù nói hai "Diệt" tưởng và thọ, nhưng chính là để nói chung tất cả pháp diệt. Vì tưởng do xúc sinh ra, nên kế là quán xúc có hai thứ: Nhân vô minh mà thức khởi lên hai phiền não là tưởng và thọ. Do biết thức mà dứt phiền não được giải thoát. Vì xúc vốn gởi gắm ở các môn, nên không quán riêng."
Lại nữa, "Này người thiện nam! Người trí quán sát năm dục" cho đến "Dù có cỏ độc, nhưng cũng có thuốc hay."
Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tức là sắc, thinh, nghĩa là trước, phải quán nhân của dục. Nhân có trong, ngoài. Sắc... là bên ngoài, tưởng điên đảo là bên trong. Bèn sinh ra thọ: Tức là dục. Dục không có pháp riêng. Tưởng điên đảo phần nhiều là dục lạc, gọi là thọ. Sau mười điều ác thì tưởng khởi, gọi là tưởng của mười điều ác. Do cha, mẹ ác: Giết hại là quả báo của hành nghiệp (hành báo), địa ngục là sinh báo."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Kế lượt thứ ba là quán dục. Dục tức năm trần, nói năm trần chẳng phải dục, mà có công năng sinh ra dục. Vì trong nhân nói quả, nên gọi là dục. Sở dĩ quán sát dục là vì nhân năm trần mà sinh thức đắm thức. Vì chấp đắm thức, nên sinh ra tưởng. nhân tưởng, nên sinh thọ. Vì thọ nên sinh ái, dục trong hành ấm. Nhưng từ năm trần đến thọ, đều là nhân của dục. Chỉ vì lỗi lầm của thức ít, nên không thực hành môn quán riêng."
"Này người thiện nam! Người trí quán dục như vậy" cho đến "Gây ra ba nghiệp: Thân, miệng, ý."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế sẽ quán nghiệp: Tám khổ lấy sinh làm gốc. Phiền não và nghiệp kiết hợp hiện hành, sau đó mới thọ sinh. Kế là quán nghiệp, thọ, tưởng, xúc, dục tức phiền não: Tánh "Hoặc" đều là phiền não, do đầu, cuối có nhẹ, nặng khác nhau, được gọi riêng là xúc, vì không có môn riêng, vì đều là nhân của tưởng, thọ:
1. Nghiệp tác sinh.
2. Nghiệp tác thọ: Giúp nghiệp thọ sinh, gọi là sinh, chủ thể được sinh báo gọi là thọ.
"Này người thiện nam! Hai nghiệp thân, miệng": Tạo tác là nghĩa "Nghiệp, ý, tánh tạo tác. Không tạo tác từ sinh thân, miệng có cả hai. Do nhân nên được gọi là nghiệp: Thân, miệng không phải là tánh tạo tác, nhân ý thức mà được gọi tên. Chánh nghiệp là ý thức, nghiệp kỳ hạn là thân, miệng: Tánh thiện, ác này gọi là chánh: Ứng với thiện, ác của người khác, gọi là kỳ hạn. Vì phát trước, nên gọi là ý. Cuối cùng được gọi là chánh: Đây là giải thích đúng: Phát trước là chủ, từ người khác là ứng. Tức vô minh, xúc: Nghiệp chủ thể chung cho bốn. Dục, nói là nhân khổ, chỉ nói vô minh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người trí quán dục rồi, phải quán nghiệp: Môn thứ tư nói về thọ, tưởng, xúc, dục, tức là phiền não. Phiền não này gây ra nghiệp: Tức chi "Hành" trong mười hai nhân duyên. Không tạo ra thọ, nghiệp: Không tạo ra nghiệp báo của kiết sử nhuận sinh. Vì sao? Vì lúc đầu gây ra nghiệp, phải là chưa thay đổi quả báo, tức là chưa dùng "Hoặc" nhuận sinh. Phiền não như vậy hiện hành chung có hai thứ: Sinh nghiệp và thọ nghiệp, nghĩa là muốn nói về phiền não thì đầu cuối không lìa nhau, lại được tác nhân, tác nghiệp lẫn nhau, cũng được tạo ra nghiệp thọ sinh.
Trở lại đến "thủ" sau, quán nghiệp đã xong, tức kế là, quán nhân, nhân chính là vô minh, xúc. Nhân si vô minh này, thức chấp lấy trong "Duyên", cho đến sinh ra nghiệp trong hành ấm. Quán thân cũng xong, tức kế là quán sát quả báo mà nghiệp đã được:
Phẩm Thiện thượng thượng, được sinh làm người cõi Diêm-phù-đề, đây là giải thích sự vượt hơn đối với đạo lý thọ sinh, khác với thuyết của giáo pháp xưa. Dù rằng hai giáo khác nhau, nhưng mỗi giáo đều tự có ý. Về nghĩa của ba thiên hạ còn lại, so sánh rất dễ biết, cũng đều khác với ý chỉ thọ sinh ở trước, là bình đẳng không giải thích riêng nữa."
"Này người thiện nam! Người trí quán nghiệp nhân như thế rồi" cho đến "Quả báo, gọi là nghiệp vô lậu."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lúc tác nghiệp là nhơ bẩn" là giải thích tên nghiệp, vì nhân bất thiện, nên phải chịu quả báo khổ!"
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Dù cho có cỏ độc, cũng có thuốc hay." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa này có hai:
1. Vừa là quả, vừa là báo.
2. Chỉ là quả, chẳng phải báo: Quả là nhân của báo, danh từ này là chung. Vì là nhân của báo, danh từ này là riêng. Hữu lậu có hai, vô lậu chỉ có một."
"Này người thiện nam! Vì không có quả báo, nghĩa là nghiệp từ quả báo đặt tên. Vì khổ, lạc, thọ là chánh báo. Tánh chất của khổ là đen, tánh lạc là trắng. Lấy vui chữa trị khổ, gọi là đối trị diệt khổ, vui, được vắng lặng. Có chỗ thọ báo nhất định: Đen ở ba đường, trắng ở trời, người. Uất-đơn-việt, đối với vui ở đời thì nó là trên, đối với vui của đạo thì nó là dưới."
"Này người thiện nam! Người trí quán nghiệp, quán phiền não xong" cho đến "Nhân khổ "Duyên" sinh khổ." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai sở này được, quán hai pháp khổ, kiết hợp hiện hành. Niết-bàn được gọi là quả, hai quả tức khổ. Lìa tất cả sự thọ sinh: vì "Sinh" là gốc khổ, nên trước nói về "Sinh"."
Lại, quán nhân duyên phiền não, kế là quán nghiệp của bốn đạo và phiền não là nhân, đạo lý khổ là quả, tên danh từ chung nhân quả gọi là "hữu đạo". Bốn đạo sinh nhau, chớ biết về thứ lớp đó."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Người trí quán nghiệp xong, kế là quán nghiệp phiền não mà được quả: Môn thứ năm là quán khổ, nói về nghiệp phiền não và khổ, lại sinh lẫn nhau. Nhân duyên của sáu đường, đều không có niềm vui nhỏ nhặt, nên bậc Thánh sẽ giúp chúng sinh dứt khổ mà tu đạo."
"Này người thiện nam! Người trí quán sát các khổ của ba cõi như vậy" cho đến "Phải biết rằng, người này có khả năng dứt hết các khổ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không gây ra nghiệp mới, làm hư hoại nghiệp cũ: Mười hai nhân duyên gồm có ba khổ, thấy ba khổ phá hoại tất cả nghiệp.
Quán tất cả địa ngục, nghĩa là quán khổ khổ. Lại, quán khổ ở cõi trời, cõi người, là quán riêng hoại khổ. Quán sâu sắc các khổ của ba cõi, nghĩa là quán riêng về hành khổ. "Nếu người trí quán tám thứ khổ" là tổng kiết."
"Này người thiện nam! Người trí quán sâu tám khổ này xong" cho đến "Dù có cỏ độc, cũng có thuốc hay."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cầu thân, cầu của: Thân là mạng trong, của cải là mạng ngoài. Tác nghiệp làm việc thiện, ác; Thêm lớn: Là thêm lớn việc thiện, ác. Tác nghiệp: Là nghiệp tạo tác. Tạo quả: Là tạo ra nghiệp thân, miệng, tức là "Thủ". Ái, thủ là danh từ nhẹ, nặng. Nhẹ làm nhân nặng, "Thủ" là quả. Kinh nói: Thói quen gần gũi năm dục, gọi đó là ái: ái, thủ có thêm. Kế là nhân diệt, dùng làm tánh của nhân có thêm, bớt nói ái kia có thể dứt."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Đó đều là thế nào là tất cả pháp?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đức tốt đẹp thứ tám của kinh thanh tịnh là Niết-bàn. Nhân tức là hạnh. Ba pháp Niết-bàn đều là nhân. Nói tất cả pháp như vậy mà nghĩa không quyết định. Nói là vì ý chỉ chưa rõ ràng, nên quyết định nghĩa, gốc của các pháp thiện, bất thiện. Do gốc gồm thâu ngọn, nên cũng đồng với tất cả thiện. Tri thức, gồm thâu tất cả phạm hạnh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Văn thứ tám trong đoạn lớn. Kế đây sẽ nói về phần khen ngợi kinh: Nếu học theo kinh mà, thì sẽ được ra khỏi sinh tử, thành phạm hạnh thanh tịnh."
Giáo xưa đã nói, về lý chưa đúng. Với sinh tử, vì chưa hiểu rõ về tướng trạng của nó, nên không thành chân phạm hạnh. Nay, y cứ theo đây để khen ngợi.
Gồm có ba lượt:
1. Y cứ chung cảnh trí để khen.
2. Y cứ riêng thể trí vô lậu của ba mươi bảy phẩm, để khen.
3. Trải qua mười tưởng, lấy tư chất xa phát ra nghĩa để khen.
Nay, Bồ-tát Ca-diếp đã hỏi, nên Phật đáp rằng: "Là tất cả" Đây là nói chung cảnh trí, cảnh làm phát sinh sự hiểu biết, trí sinh có lý do. Vì vậy, nên gộp chung thành phạm hạnh thanh tịnh. Dù có phán quyết này, nhưng ý chỉ đó chưa sáng tỏ, nên Bồ-tát Ca-diếp lại nêu các pháp để hỏi: "Tất cả pháp không nhất định. Nay, Như Lai nhất định dùng pháp nào để làm "Tất cả"?". Đức Phật đáp: "Kinh Đại Niết-bàn chính là kho báu của tất cả pháp, nên biết kinh này về lý, là nói đủ sáu hạnh, có công năng sinh ra tuệ, tín cho con người, nhanh chóng ra khỏi sinh tử. Vì thế đừng chớ nên nói về pháp kia, pháp này đều do Niết-bàn sinh ra, cũng tức nhờ cảnh trí này mà được Đại Niết-bàn. Cho nên đều được tạo thành Phạm hạnh thanh tịnh, nên sau đây, thường tạo ra ba mươi việc khác, nhằm khen ngợi oai lực công dụng của kinh này."
"Phật nói: Lành thay! Lành thay! Này người Thiện nam!" cho đến "Cha, mẹ của Chư Phật trong hiện tại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tất cả pháp đó là kinh pháp, khả năng cứu giúp cho những kẻ nghèo, thiếu đó là vật báu, chẳng vật báu nào không có, gọi là kho tàng. Kinh này nói quả của Phật tánh, có công năng ra khỏi sinh tử, nên gọi là báu. Nói quả, thì chẳng có pháp nào bất thường. Nói nhân thì chẳng có pháp nào không phải tánh, gọi là kho tàng. "Từ biển cả trở xuống dụ cho kho tàng, "gió mạnh trở xuống, dụ cho vật báu."
"Này người thiện nam! Cho nên kinh này gồm thâu tất cả pháp" cho đến "Tức là ba mươi bảy pháp trợ đạo." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trước nói về chánh nhân, lại nói về duyên nhân gần."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở trên đã y cứ chung cảnh trí. Nay, chính là dùng thể của chân vô lậu, để nói về kiến giải của chân vô tướng, vì không có chung với "Hoặc". Nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh. Trong năm phương tiện, dù là sự hiểu biết tương tự, nhưng phải là thể chưa khởi "Hoặc". Do điên đảo này, nên không phải phạm hạnh thanh tịnh."
"Này người thiện nam! Nếu lìa ba mươi bảy phẩm như vậy" cho đến "Cho nên không được gọi là phạm hạnh thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không nói hữu lậu là phạm hạnh, nghĩa là hai thứ đạo phẩm là nói vô lậu nối nhau, cho đến Niết-bàn gọi là hạnh."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Cho nên được gọi là phạm hạnh thanh tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu năm thức không có phiền não, không phải điên đảo để quyết định. Chẳng phải nam, mà nghĩ là nam: Năm thức tiếp nhận nam, nữ chưa rõ, chưa thành phiền não, chẳng phải làm cho không nhận lấy, tướng chấp "Thủ" là điên đảo, năng sinh ra tham, sân."
"Này người thiện nam! Nếu Bồ-tát đối với ba mươi bảy phẩm trợ đạo" cho đến "Rốt ráo gọi là Đại Bát-Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bảy câu đầu trong chín câu này là nhân, hai câu sau là quả. Nếu nhận biết công dụng khác nhau của nhân quả, thì sẽ biết được phạm hạnh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chuyển danh hiệu ba mươi bảy thành chín vị để nói. Vì sao? Vì phàm phu không hiểu biết, nghĩa là nói vị định không được đặt ra thuyết nhiều, ít. Nay, nói về pháp tướng không nhất định, nên chuyển thành chín vị, chỉ chia ra định tuệ, căn dặn về giới, công năng giúp đỡ sinh ra định, tuệ, chứ chẳng phải thể của chánh đạo. Cho nên, không nhận lấy chia ra chín, gọi là bốn ý:
1. Có bốn vị, y theo phẩm thượng, trung, hạ, để đặt tên.
2. Có ba vị, y theo công dụng đặt tên.
3. Một vị y cứ phần thích hợp đã trừ làm nhân.
4. Một vị sau cùng tiêu biểu cho quả mà được tên gọi.
Bốn vị đầu, y cứ tăng tiến dần, mà được tên. Đầu tiên niệm vô lậu thứ nhất, có thể làm vốn liếng cho sự hiểu biết về sau, nên gọi phẩm vô lậu đầu tiên là căn bản. Niệm vô lậu thứ hai làm nhân: Vì khả năng sinh ra công sức sau chuyển biến mạnh mẽ, nên gọi là nhân. Niệm vô lậu thứ ba gọi là thọ: Như sau tâm của ba thọ, tức sinh phiền não. Nay nghĩa trong đây cũng đồng. Đã giải tuệ hơi sâu, vì chuyển biến công năng gồm thâu sinh ra vô lậu ở sau, nên gọi là thọ. Niệm thứ tư gọi là tăng: Mỗi niệm vô lậu này thêm sáng suốt, cho nên được thêm tên gọi. Sau đó, từ sơ trụ trở lên, theo thứ lớp sinh nhau. Cuối cùng đến trong mỗi địa của tâm Kim Cương, đều có bốn pháp này, nên biết được bốn niệm này y cứ vào sự tăng tiến, mà được gọi tên.
Kế là có ba pháp y cứ vào công dụng mà được tên gọi, nói trong mỗi phẩm đều có ba pháp này. Vì sao mà biết? Đứng đầu gọi là niệm, giữ lấy cảnh. Dẫn dắt, gọi là định: Do niệm mà giữ cảnh, tĩnh lự trong duyên mà được định, vượt hơn gọi là tuệ: Dù định có công năng giữ lấy cảnh, khiến tâm không phân tán. Nếu không có tuệ vượt hơn, hoặc không được quở trách, thì vì sức "Năng trừ" này vượt hơn, nên gọi là "Thắng". Nếu vậy thì từ sơ trụ trở lên, Kim cương trở xuống, đương địa trong mỗi niệm đều có ba nghĩa này, nhưng không có tâm riêng.
Thật trí, đây là pháp thứ tám, lẽ ra cũng là tác dụng chung, nhưng là pháp nhỏ, khác. Vì sao? Vì nói thật, gọi là giải thoát, từ kiến giải của Sơ Trụ trở lên, trong đương địa nói là không. Hoặc chẳng giải thích về năng trị. Nay, sẽ nói về chỗ dứt trừ. Y cứ vào công đức vô vi mà người tu hành đã có được. Y cứ vào bên không có ràng buộc để tạo ra ngôn ngữ.
Thứ chín là biết rốt ráo: Nói theo lãnh vực cùng cực. Y cứ vào thể của quả Niết-bàn làm ý chỉ."
Này người thiện nam! "Ưa muốn điều lành, chính là căn bản của việc phát đạo tâm ban đầu" cho đến "Ta nói rốt ráo tức Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sơ phát đạo tâm: Là Muốn cứu giúp chúng sinh, để phát tâm Bồ-đề. Muốn có ba thứ thiện để làm gốc cho đạo.
Có chỗ nói là Tuệ, Tín: Dục là căn bản của phát tâm. Xúc là bắt đầu của nhập hạnh, gọi là nhân duyên. Căn có nhạy bén đối với nhân duyên của tín ban đầu. Cho nên gọi là các phiền não ác đều do đức tin cầu pháp, cuối cùng dứt phiền não, đều là năng lực của niềm tin, tiến đến thành tựu quả Phật, là Tín giải thoát.
Thời gian thọ, tạo ra việc thiện, ác: Cảm thọ khổ vui, bạn lành giảng đạo. Ưa tu thì tiến đến nhiếp lấy phẩm đạo, còn ai không ưa thì lui sụt, nên nói thời gian thọ.
Sinh các phiền não: Giải thích về phiền não: Tìm niềm ưa thích thì sinh, ưa thì chủ thể dứt. Nhân tư duy tốt đẹp: Dù ưa tu đạo, nhưng phải nhận thức sự đối trị của đạo, nên khéo tư duy. Nhận thấy cần tu thì tu, phẩm đạo sẽ ngày càng tăng cao.
Cần phải chuyên niệm: Nên tu, siêng năng tu. Niệm không niệm duyên, trở thành đứng đầu các định, có thể khéo phân biệt, nên nói trí là hơn hết. Tâm định thấy các pháp, gọi là phân biệt. Nghiên cứu tỉ mỉ gọi là trí. Đầu tiên là dẫn dắt. Càng sáng suốt là vượt hơn.
Thời gian chứng giải thoát: Chứng có, không giải thoát là Niết-bàn hữu dư ra khỏi sinh tử là thật, rốt ráo là Niết-bàn Vô dư."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở trước, là Đức Phật đã qua một lần nêu tên. Nay, dưới đây sẽ bỏ thứ lớp, lại lập ra năm lớp để giải thích. Đây là lớp giải thích thứ nhất: "Căn bản là dục, dục nghĩa là tâm ưa muốn. Do danh để nói về xúc. Xúc, là tiếp xúc đối với lý ở trước, nên gọi là nói về xúc. Nhiếp lấy gọi là thọ: Nhiếp thọ các hạnh, nên gọi là thọ. Thêm, gọi là khéo tư duy: Tâm vượt hơn lý. Vì giữ gìn cảnh không dời đổi, nên gọi là chủ, gọi là niệm. Dẫn dắt gọi là định: nhiếp tâm vào một "Duyên". Vượt hơn, gọi là trí tuệ, nghĩa là phá tan phiền não.
Thật, gọi là giải thoát: Tức là thể của trí không bị phiền não ràng buộc.
Rốt ráo gọi là Niết-bàn: Y cứ vào công dụng đều tròn đầy. Từ ưa muốn điều lành, là mới phát tâm: Sau đây là lớp giải thích thứ hai: "Từ một niệm vô lậu đầu tiên, cuối cùng đi đến thành Phật, được gọi là khéo ưa muốn. Do sự khéo ưa muốn này sẽ được thành Phật, nên gọi là căn bản. Như Lai trước đã nói không buông lung là gốc, nay mới nói dục: Nói dục là gốc, vì không buông lung giúp đỡ thành, nên gọi là "Duyên" nhân. Nếu lúc chúng sinh không hề biết gì, nhờ nương tựa Phật mới được hiểu biết. Cho nên gọi Phật là căn bản. Nay, chúng sinh biết vào thời gian tự mình chứng được, là phải do tâm ưa muốn.
Nói về xúc: Hoặc gọi là Tuệ, hoặc gọi là Tín, về nghĩa không có gì tồn tại. Vì từ niềm tin mà được kiến giải, nên giải trừ "Hoặc", nói là giải thích Xúc.
Thọ, gọi là nhiếp thủ: Chủ thể gồm thâu sinh ra muôn điều lành, mọi điều xấu ác tiêu tan hẳn. Như sau thọ khởi nghiệp, đạo sinh sẽ dứt trừ. Nhờ khéo tư duy được lý càng sâu sắc, vì có công năng phá tan phiền não, nên gọi là Tăng". Nhưng quán kiến giải đối trị kiết "Hoặc", thì phải nhờ chuyên niệm, nên gọi là niệm là chủ. Lúc được định, vì có khả năng thấy rõ muôn pháp, nên gọi là dẫn dắt. Vì trí tuệ là hơn hết trong các hiểu biết, nên được gọi là Thắng. Dù được thần thông yên vui bốn thiền, nhưng không được gọi là thật. Nếu khi nào dứt bỏ hết phiền não, chứng được giải thoát, thì mới là chân thật, nên gọi là biết thật. Nếu chỉ dứt trừ một ít khổ, thì không được gọi là rốt ráo, mà phải là được Đại Niết-bàn, không có tất cả khổ, rốt ráo vô vi, mới được gọi là rốt ráo!"
Lại nữa, "Này người thiện nam! Tâm nhớ nghĩ yêu mến điều lành" cho đến "Đạt được quả báo, gọi là thêm lớn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhàm chán khổ, muốn dứt trừ gọi là thiện. Cho nên, gọi xúc, là diệt khổ, phương pháp cần là ở bạn lành. Kinh nói: "Đạo là một lòng lắng nghe, lãnh thọ. Tho lãnh là khéo tư duy. Thọ là tư duy nghĩa, phẩm đạo thêm lớn. Bạch bốn lần Yết-ma, dùng giới làm người xuất gia. Bạch bốn lần được giới căn bản; hai thứ giới: là xúc, và nhân: Giới là căn bản của đạo gọi là "Nhiếp", tức là mới phát tâm xong, chính là tương tự với không đoạn, ví như bốn phẩm gốc lành: Hạ, Trung, Thượng. Phẩm hạ, gọi là căn. Phẩm trung gọi là nhân. Phẩm Trung tương tự với phẩm Hạ.
Tăng: Cuối cùng có sinh tương tự phẩm thượng. Phẩm trung của "Diệt" gọi là tương tự. Khả năng sinh phẩm thượng thượng, gọi là sinh tương tự, vì phẩm thượng giống như phẩm thượng thượng.
Khởi phẩm hạ trung làm căn thêm lớn, tức là việc làm cuối cùng. Tăng thì có thể dùng. Ví như nấu gạo thành thức ăn. Nấu thành, gọi là nhân, khi thành cơm là tác dụng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây là ba thứ còn lại, xem văn, dể thấy. Nhưng phàm phu chấp đắm cho rằng, chỉ chân vô lậu là được đặt ra chín danh từ, nên hiện nay, chỗ nào cũng đều lập ra chín vị này, cao thấp không nhất định. Cho đến tên gọi mười hai nhân duyên cũng được tạo ra chín vị này.
Với chín vị vừa kể, giải thích đã xong.
Vì con người chưa hiểu, nên Bồ-tát Ca-diếp lại hỏi: "Trước đã biết ba pháp như căn..., khác nhau là sao?" Đức Phật lại kể tiếp, giải thích lần nữa: "Ba pháp này chính là phẩm thượng, trung, hạ, theo thứ lớp sinh nhau. Vì công dụng của nhân, quả khác nhau, nên được gọi bằng ba danh từ này."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn!" cho đến "Cho đến được gọi là nghĩa Ưu-bà-di."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chín phẩm trên đã nói về công dụng khác nhau theo thứ lớp của phẩm đạo, chưa nói về nghĩa hạnh. Nói mười tướng là pháp thực hành."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lượt thứ ba, là trải qua mười tưởng để khen. Nếu nương vào kinh này để tu mười tưởng, thì bất luận phàm, Thánh, theo thông lệ đều khen chung. Vì ý sao? Vì theo giáo xưa nói về lý không hoàn toàn, nên tu mười tưởng không thành. Nay, y theo lời Phật dạy: "Phàm, Thánh tu hành, đều không trái lý", cho nên khen chung mười tưởng, nghĩa là chán lìa tưởng ăn, tưởng thế gian không đáng ưa, ba tưởng này là quán mở đầu. Kế là, có bốn tưởng: Vô thường, khổ, vô ngã, mang nhiều tội lỗi. Bốn tưởng này quan hệ với bốn lý, được lý sâu xa. Sau ba tưởng còn lại: Tưởng lìa, tưởng diệt, tưởng không có ái, là nhập Thánh quán.
Y theo văn, trước là quán tưởng vô thường. Đầu tiên quán thô, sau quán tế. Từ câu "Xa lìa thường, khinh mạn..." trở xuống, là lượt thứ hai, kế là tu tưởng khổ. Từ "Không phải ngã, ngã sở..." trở xuống, là lượt thứ ba, kế là quán vô ngã tưởng. Từ "Người trí quán vô ngã xong..." trở xuống, là lượt thứ tư, kế là quán chán lìa tưởng ăn. Từ "Đầy đủ bốn tưởng như vậy..." trở xuống, là lượt thứ năm, kế là tu tưởng thế gian không đáng ưa..." trở xuống, là lượt thứ sáu, kế là tu tưởng chết."
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn!
Thế nào gọi là" cho đến "Đó gọi là tưởng vô thường thô." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Một là trong; hai là ngoài: Hữu tình là trong, vô tình là ngoài. Kế là quán về nghe: Nghe lời Hiền thánh nói. Không có xa luân hứa: Đất phì nhiêu, quả chắc thật, trồng tỉa trong nhà, đều dồi dào đầy đủ."
"Đã quán sắc thô, kế là quán tế" cho đến "Nên bao nhiêu sự nhận lãnh của thân đều là khổ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Mười thời gian, xuất thai gọi là hiện tại, chưa sinh gọi là vị lai, không bao giờ lớn dần, không niệm niệm diệt. Trong, ngoài đều có hai: Trong thì đói khát, ngoài thì lạnh nóng, là quán hoại khổ.
Đồ đựng vô thường, tức là hành, là quán hành khổ." "Này người thiện nam! Người trí lại quán sinh tức là khổ" cho đến "Hoặc là một hay nhiều, cả hai đều không có ngã."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có khác với hòa hợp: Nói pháp khác nhau, hòa hợp khác nhau. Hòa hợp thì không có tánh, không có "Ngã". Không có một pháp nào có khả năng làm tác giả. Đây là phá tác giả. Vì hòa hợp nên diệt: Nhân diệt, quả diệt, hòa hợp diệt."
"Người trí đã quán vô ngã như vậy rồi" cho đến "Đó gọi là đã thành tựu ý nghĩ nhàm lìa cái ăn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù đã được quán vô ngã..., nhưng nay hễ đói thì cần cái ăn, lạnh rét thì muốn được mặc, nên dể sinh phiền não. Vì ăn sinh lòng tham, nên trước phải quán tưởng cái ăn. Như con bò bị lột da, vật va chạm vào thì khổ. Như đống lửa là tư duy, nguyện cho thân sau, thân sau như lửa. Ba trăm ngọn giáo: Thức vốn ưa duyên, mà duyên đều là khổ.
"Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Người trí quán tưởng thức ăn" cho đến "Không luống ăn của tín thí."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Làm cho tương tự với: Quán tưởng gạo, như con sâu, bún miến như bột xương."
"Này người thiện nam! Người trí có đủ bốn tưởng như vậy" cho đến "Đó gọi là người trí khéo tu tưởng chết."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiếp theo tu tưởng chết: Vô thường, sinh diệt, diệt rồi, không nối tiếp, gọi là chết."
"Người trí có đu sáu pháp quán tưởng như trên" cho đến "Thì xứng đáng gọi là tướng Sa-môn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại từ câu: "Nếu có đủ sáu tưởng như trên, tức nhân của bảy tưởng" trở xuống, là theo thứ lớp bảy pháp tu tưởng nhiều tội lỗi (không giải thích nhiều tội lỗi), trực tiếp đặt ra bảy câu để giải thích:
1. Tưởng thường tu: Thường tu sáu tưởng nói trên.
2. Tưởng ưa tu: Ưa thích tu sáu tưởng nói trên.
3. Tưởng không giận: Lúc tu sáu tưởng, tâm không hề tức giận.
4. Tưởng không ganh ghét. Khi tu sáu tưởng này, tâm không ganh ghét.
5. Thiện nguyện: tu sáu tưởng trên thường chẳng phải thệ nguyện.
6. Tưởng không ngạo mạn: Tu sáu tưởng này, không có tâm ngạo mạn.
7. Tưởng Tam-muội: Nếu tu sáu tưởng trên, thì thường cầu Tam-muội.
Có thể quở trách ba cõi, nghĩa là giải thích tưởng xa lìa thứ tám. Dứt trừ ba cõi, là giải thích về tưởng diệt thứ chín. Không sinh ái chấp đắm: Giải thích tưởng không có ái thứ mười.
"Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp liền đối trước Phật" cho đến "Giải thoát tức là Đại Niết-bàn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Lượt thứ chín trong đoạn lớn, là khen ngợi Phật."
- Phẩm Kiều-trần-như thứ hai mươi lăm:
- Giải thích: Diệt sắc vô thường, được sắc thường.
- Đả phá ngoại đạo, nói về Xà-đề-thủ-na thứ nhất.
- Bà-tư-đà thứ hai, Tiên-ni thứ ba.
- Ca-diếp thứ tư, Phú-na-thứ năm.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ tư là phần truyền bá. Trần-như là người đứng đầu trong các đệ tử, được giác ngộ trước. Nay, đã được hiểu biết tròn đầy, gửi gắm để truyền bá.
Pháp sư Pháp Dao nói: "Phật nói kinh sắp xong, số người ngoại đạo giác ngộ, hiểu biết rất đông. Vì các vị sau cùng được tỏ ngộ, nên căn dặn người giác ngộ đầu tiên. Lại, một phàm phu chẳng phải không có ban đầu, ít khẳng định có sau cùng. Có đầu, có cuối, điều đó chỉ có bậc Thánh? Trần-như trước nghe Phật nói năm ấm vô thường. Nay sau rốt nghe thường mà ngộ. Pháp sư Tăng Tông nói: Đây là đạo trong nhân quả Phật tánh, đầy đủ ở trước, cho nên sai Trần-như lại quyết định nhân quả, nói năm ấm sanh tử là vô thường, quả Phật là thường."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ở trên đã nói ba lớp xong. Nay lớp thứ tư này, kế là nói về dặn dò, truyền bá. Xét về việc dặn dò ở đây không giống với kinh khác, nên Phật đã nghĩ đến hỏi A-nan, đều nói lại đức của mình, mà vì thể là truyền bá, nên dạy các Thiên. Trước hết là đối với Trần Như, nói về năm chúng, vì muốn dùng oai nghi pháp tắc của tín đồ, công dụng của pháp, giới luật gửi gắm căn dặn sẽ được hiện hữu tồn tại. Lại dùng văn từ, chương cú, tất cả kinh tạng, được phó thác cho Anan. Đức Phật đã trao lý sâu kín cho A-nan để truyền thừa sâu rộng."
Pháp sư Trí Tú nói: "Trong phần nói rộng về nghĩa, đây là phần thứ hai. Lại, do nói pháp trao truyền, nên gọi là thuyết phú chúc. Xét văn sau đây sẽ trải qua đời đương lai không dứt hết. Vì sao biết được? Vì lấy văn làm chứng. Vốn vì dặn dò, nên Đức Phật sai tìm A-nan. Tôn giả A-nan đến, Đức Phật bèn bảo độ Tu-bạt. Về lời gửi gắm của Phật đã được ghi rõ, dùng lý để suy nói về nghĩa tồn tại dễ biết. Dặn dò gồm hai việc:
1. Người.
2. Pháp.
Người, là mười vị ngoại đạo đã được Phật hóa độ. Vì Trần-như tuổi tác cao, công đức đáng tôn trọng, có khả năng làm khuôn phép, cho nên Phật gửi gắm. Tôn giả A-nan do hoằng hóa rộng, có duyên đối với công việc truyền thừa, hóa độ, nên nói là hạt giống, vì vậy Phật phú chúc cho A-nan.
Trong một phẩm có bốn ý:
1. Nói pháp thường, vô thường.
2. Nói ngoại đạo không có pháp Sa-môn.
3. Nêu ngoại đạo đến với Phật pháp.
4. Chính là đả phá ngoại đạo.
Đạo Tuệ ký: "Trần-như đã sinh ở cõi trên. Lại trước đã quen thân với ngoại đạo này, từ khi xuất gia về sau, đã khuất phục được ngoại đạo, nên Phật gửi gắm."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo Kiều-trần-như" cho đến "Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sắc là ràng buộc, nghĩa là nói lỗi của hữu vi."
Pháp sư Trí Tú nói: "Ý thứ nhất: Nói sơ lược về nhân quả, thường, vô thường."
"Này Kiều-trần-như! Nếu có người nào biết được như vậy" cho đến "Làm tiếng rống của Sư tử ở trong đại chúng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hai danh hiệu Samôn và Bà-la-môn đều là tên gọi có nghĩa vắng lặng. Chân lý của pháp là thường định. Không biết thì rối loạn, biết thì thường, vắng lặng biết được thường, vô thường, thì có đủ hai pháp. Nếu lìa Phật pháp thì không có người riêng và đều là vô."
Pháp sư Trí Tú nói: Đây là "Ý thứ hai."
"Bấy giờ, rất nhiều ngoại đạo" cho đến "Nếu chúng tôi hơn Cù-đàm, thì Cù-đàm phải thờ phụng chúng tôi." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Không có pháp tĩnh, không hề có nhân tĩnh. Nghiệp của thân, miệng đều là giả gọi, chính là nhân mà nhóm họp bàn bạc và luận đạo."
"Bấy giờ, có số đông ngoại đạo" cho đến "Phật bảo:
Này đại vương! Hãy thôi! Ta tự biết khi nào là đúng lúc." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Theo cách thức của người nước ngoài, muốn tổ chức cuộc biện luận quy mô, trước phải xin phép vị quốc chủ."
Pháp sư Trí Tú nói: "Ý thứ ba, là nêu các ngoại đạo đến."
"Bấy giờ, trong chúng ngoại đạo có Bà-la-môn" cho đến "Đã được Niết-bàn lẽ ra cũng vô thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo nói pháp
Niết-bàn khác, nghĩa là không từ nhân sinh, cho nên hỏi Phật: "Nếu từ nhân sinh, thì lẽ ra phải thường."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Ý hỏi, vì dùng nhân vô thường, nên quả không được riêng thường?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Mười vị tà sư này đã, hóa độ người có duyên, nói lên dấu vết hàng phục, để chỉ bày nguồn gốc lý Đại thừa. Thông thường, nghị luận với ngoại đạo, phương pháp nói qua, nói lại, không được hoài nghi, trước phải từ khước mọi việc, để cho tâm mình được thoải mái, rồi sau mới nói về lý. Ngoại đạo này chấp hai mươi lăm đế. Nói tánh thường, là tánh mà thể tánh đã chấp. Sau đây chính là đả phá ngoại đạo:"
"Cù-đàm lại nói: Vì từ nghiệp nhân nên sinh lên cõi trời" cho đến "Được giải thoát sao lại nói Niết-bàn là thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dùng hai đạo để so sánh, là câu hỏi thứ hai."
"Cù-đàm cũng nói: "Sắc từ duyên sinh" cho đến "Là thường, là duy nhất, là khắp tất cả mọi nơi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn là ấm, là pháp vô thường. Lìa ấm, là xét ra không từ nhân sinh, không có nhân nào sinh ra Niết-bàn, là câu hỏi thứ ba."
"Cù-đàm cũng nói: "Từ nhân duyên sinh" cho đến "Sao lại nói Niết-bàn tức là thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi chung bốn nghĩa, là câu hỏi thứ tư."
"Nếu Cù-đàm nói: "Vừa là thường, vừa là vô thường" cho đến "Phật tức là thân ta, nghĩa này thế nào?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hỏi về danh hiệu Phật, cho rằng nói "Duyên" từ pháp sinh ra có thường, vô thường, là hai lời nói, chẳng phải Phật tự nói. Nghĩa Phật này thế nào? Là câu hỏi thứ năm."
"Phật nói: Này Bà-la-môn! Như thuyết mà ông nói" cho đến "Tánh đó có thể làm nhân cho tất cả pháp trong và ngoài chăng? Đúng vậy, thưa Cù-đàm!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là Thế tánh, cũng gọi Minh sơ. Trong là chúng sinh, ngoài là phi chúng sinh. Nhân thường mà quả vô thường."
"Phật nói: Này Bà-la-môn! Tánh ấy làm nhân như thế nào? Thưa Cù-đàm! Từ tánh sinh ra Đại, từ Đại sinh ra Mạn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Từ tánh sinh ra đại, từ đại sinh ra mạn: Năm đại mạn là thức. Trước đã nói hai pháp, chưa phải là số của Đế, nói hai mươi bốn pháp, là sắc phi sắc. Đại luận nói: "Sắc, mạn thuộc về phi sắc, sinh ra lẫn nhau, đều là vô thường. Tánh thì không phải như vậy."
Bách Luận nói: Từ Minh sơ sinh ra giác, nói là nghĩa của mười một căn. Kế là, tánh của chúng nói theo thô này thì về nghĩa không do thứ lớp, nhưng về nghĩa "Đại" thì đồng. Giác đó, mạn này, dùng lời lẽ lẫn nhau."
Pháp sư Tăng Tông nói: "Minh" ngoài tám muôn kiếp, mờ tối không thấy gì. "Minh" này không thay đổi, nên nói là tánh. Mạn, tức là tâm ta, chỉ vì chấp "Ngã", nên khởi mạn với người đối diện."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ tánh sinh đại, là giác, vì giác muôn pháp, nên nói là Đại. Từ đại sinh ra mạn: Tức là từ Giác sinh ra tâm"
"Từ mạn sinh mười sáu pháp. Đó là: Năm đại: đất, nước" cho đến "Nhưng quả là thường thì có lỗi gì?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước cho rằng: Đại sinh mạn, mạn và đại này có nghĩa sinh lẫn nhau. Kế là hợp với sắc, hương, là nói theo thô. Từ năm pháp sinh, nghĩa là nói theo thứ lớp. Sắc sinh hỏa, thinh sinh "Không", hương sinh địa, vị sinh thủy, xúc sinh phong". Có chỗ nói: "một trần sinh ra một". Có chỗ nói: "Năm trần sinh chung, một trần riêng nhiều. Năm tri căn: Lửa sinh ra mắt, "Không" sinh ra tai. Đất sinh ra mũi, nước sinh ra lưỡi, gió sinh ra thân, thân sinh ra giác, xúc, ở đây nói là xúc."
Có chỗ nói: "Một đại sinh, hoặc nói năm đại cùng sinh. Một đại riêng nhiều. Kế là năm nghiệp và ý, năm đại chung. Năm đại cùng sinh là nhiều ít, cũng nói là ý căn. Sắc pháp này có hai mươi mốt pháp, căn bản có ba, ba là sự khác nhau của mạn, đều từ tánh sinh, là nói nhỏ, ẩn, nên nói là hai mươi bốn pháp. Có nhiều lỗi nào? Quả của ông không có lỗi, quả của tôi có lỗi gì?" Đó là đáp câu hỏi đầu."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sinh ra mười sáu pháp, nghĩa là từ tâm của ta sinh ra năm vi trần. Từ vi trần sinh ra năm đại. Từ năm đại sinh ra mười một tác căn. Hai mươi lăm Đế này đều do Thế tánh sinh ra."
"Này Bà-la-môn! Trong pháp của các ông có hai nhân chăng?" cho đến "Như đèn soi đồ vật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tạo ra quả là sinh, không tạo ra là liễu."
"Phật dạy: Hai nhân này, tánh nhân là một" cho đến
"Có đồng với liễu hay không?"
Không, thưa Cù-đàm!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh gần, liễu xa, tướng của nhân chắc chắn, hễ gần thì không thể xa, mà xa thì không thể gần. Tướng nhân này không có tự thể, nghĩa là vì là xa, nên không sinh quả. Dù không thể sinh quả, nhưng vì nghĩa nhân xa, thì dùng liễu hay chăng?" Không, thưa Cù-đàm. Tướng nhân quả đồng và không đồng. Sinh nhân thì đồng, liễu nhân thì không đồng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu nói theo đây thì không liên quan đến lý luận, mà ngay đó tướng này bị bẻ gãy ngay!"
"Phật nói: "Pháp của ta dù từ vô thường" cho đến "Cho đến ý căn cùng pháp trần sinh ra thức cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp từ nhân sinh có thường, vô thường, cái gọi là hai, hai nói không hai.
Thường cũng có thật, vì thật nên không hai." Đã từng từ giáo xưa trước kia" trở xuống, nói là Chư Phật không có nói, nhưng liễu là một lời, là nói hữu vô là không."
Ở trên, nói "Có", là đồng nói "Có". "Nói vô" đồng nói là "Vô". Tục đế giải thích tướng của hai lời nói. Chân đế thì ba tướng có một lời nói, vì liễu nói thăng tục, tục không có tướng nhất định.
"Thế nào là lời nói, liễu một lời nói?" Đây là giải thích về tục có cái "Giả có" tục, chẳng có cái giả "Không" là hai, chân thì chẳng phải có, chẳng phải không có, là một."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chư Phật ba đời cũng nói: "Sinh nhân mà được là vô thường, liễu nhân mà được là thường."
"Cù-đàm đã khéo phân biệt được" cho đến "Phật nói: "Lành thay!
Các vị đã hiểu rồi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa của lời nói như vậy: Nghĩa của nhân hai, quả một. Nay tôi chưa hiểu: là Hiểu, chưa hiểu, đã thí dụ, nói về bốn chân đế xong.
Vừa hai, vừa một là nói về nhân quả của các pháp. Nhân quả thì không có tánh cố định. Chấp tướng thì có hai. Ba tướng là một".
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tâm đã khuất phục, trở lại thỉnh Phật nói pháp. Đức Phật nói thẳng bốn Đế vừa là hai vừa là một xong, liền hiểu rằng: "Phàm phu chẳng thấy có nguyên tắc của khổ kia đây, nên nói là hai. Bậc Thánh quán khổ là không, chẳng có kia đây khác nhau, biết một, chẳng phải một, tâm hội nhập bình đẳng."
"Bà-la-môn bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế tôn! Nay tôi nghe pháp" cho đến "Ngay tại chỗ ngồi liền chứng quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đã nói rằng, về mặt lý, không có tỏ ngộ nghiêng lệch. Nay, đã thường, vô thường, đều hiểu cả hai, nên thành. Vậy tại sao Bồ-tát cũng nói là được đạo quả La-hán? Vả lại, chỗ ngồi không hề chẳng có Tiểu thừa, tiểu đức, tiểu trí. Thánh giáo có đầu cuối, mục đích là đón nhận người ngu si, thấp hèn, nên giả thị hiện đạo Tiểu thừa, sao cho tâm chúng sinh sớm được mở mang, cho nên mười tà sư đều tỏ ngộ, gần giác ngộ."
"Lại, có Phạm chí Bà-tư-tra" cho đến "Không có phiền não là Niết-bàn ư?"
Này Phạm chí! Đúng vậy!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Niết-bàn gọi là diệt. Diệt có hai thứ: Tánh diệt và tương tục diệt. Tánh là diệt vô, nên nói là: "Đúng vậy."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng không có chỗ chấp, dựa vào trực tiếp thường, vô thường để hỏi Phật."
"Thưa Cù-đàm! Ở thế gian có bốn thứ" cho đến "Vì sao nói có thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cái "Vô" của dứt trừ phiền não đồng với cái "Vô" của "Đã diệt". Đã diệt chẳng phải thường, thì đâu được gọi riêng là thường?"
"Phật nói: Này người thiện nam! Niết-bàn như vậy" cho đến "Cho nên gọi là tướng khác "Không vô" lẫn nhau."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chẳng phải cái "Vô" của ba thứ, cho đến có phần đồng vô lẫn nhau". Niết-bàn là có, chẳng lẽ là vô thường ư?"
"Thưa Cù-đàm! Nếu cho Niết-bàn khác với "Vô"" cho đến "Sao Cù-đàm lại nói Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ý hỏi rằng: "Nếu vì "Không có" phiền não là vô, mà Niết-bàn thì chẳng phải vô. Thân bò, ngựa khác nhau. Không có bò, cũng không có ba, vô đều là vô thường."
"Như lời ông vừa nói" cho đến "Do đây nên được gọi là thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bò, ngựa là vô lẫn nhau, cho nên vô tánh vô thường, không đối trị với vô thường, thì không được gọi là thường. Niết-bàn trị bệnh là thí dụ."
"Bạch Đức Thế tôn! Đức Như Lai đã vì tôi" cho đến "Lại sẽ hơn Sa-môn Cù-đàm kia."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thế nào là vô thường? Nghĩa là chưa biết được pháp vô thường, thì không nói về đối trị, cho nên xin Phật giải thích."
Bấy giờ, trong chúng lại có Phạm chí Tiên-ni" cho đến "Cũng hỏi Phật mấy lần như vậy, Đức Phật đều im lặng.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Câu hỏi giả danh không chấp nhất định, Đức Phật thường đáp bằng cách im lặng."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì muốn cho Tiên-ni lập nghĩa trước, nên Đức Phật im lặng."
"Tiên-ni thưa: Thưa Cù-đàm! Nếu tất cả chúng sinh" cho đến "Vì sao Cù-đàm im lặng không trả lời?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lập nghĩa là có nhất định, không nên đáp là một khắp là tác giả. Dùng ba nghĩa để chứng minh "Có". Tác giả là bổn ý lập nghĩa. Một và khắp để chứng cho thường. Vì sao? Vì không "Khắp" thì có phần, chẳng phải "Một" thì phải có số. Vật thể có phần số, là vô thường!"
"Phật nói: Này Tiên-ni ông nói "Ngã" đó" cho đến "Tất cả người trí cũng nói như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đồng với trí thì nói là "Có", nói "Không có" thì chẳng phải người trí."
"Phật nói: Này người thiện nam! Nếu "Ngã" cùng khắp tất cả chỗ" cho đến "Lại tu các pháp lành để được làm trời?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân quả sinh tử, tâm tạo tác, tâm cảm thọ, chúng sinh đều có nghiệp của năm đường. Nhất tâm không đều khởi, không thọ cùng một thời gian. Ông cho rằng: "Ngã" tạo tác, "Ngã" cảm thọ, "Ngã" ở khắp năm đường, lẽ ra phải thọ báo cùng lúc?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu năm đường có quả báo thì sao lại tu điều lành để diệt ác ư?"
"Tiên-ni nói: Thưa Cù-đàm! "Ngã" trong pháp của tôi" cho đến "Tu các pháp lành, sinh lên cõi trời.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sau nói: "Khi chưa được đạo, là tạo ra được đạo, tức vì thường thân có hai, nên nói "Ngã" có hai, "Ngã" chẳng hai."
"Phật nói: Này người thiện nam! Như lời ông nói" cho đến "Nếu "Tác thân" đã "Không", thì sao lại nói là khắp?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Khắp" là khắp ba đời. Nếu trước là vô thường, thì "Tác nhân" sẽ có thân, lúc "Ngã" đã diệt thì thân "Không có". Thưa Cù-đàm! Ngã do tội lập ra cũng ở trong tác cho đến cho nên ngã của tôi vừa khắp vừa thường
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói là ở "Tác nhân" thì không mất tính chất khắp, ở diệt thì không mất thường. Lấy nhà dụ cho thân, dùng chủ nhà dụ cho cho "Ngã". Nhà bị đốt cháy, chủ chạy ra khỏi, chủ thường, nhà thường, đâu có lỗi gì?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lấy sự quê mùa của đời để làm chứng: Người đời cũng nói: "Đốt nhà, chứ không nói đốt chủ."
"Phật nói: Này người thiện nam! Như ngã mà ông nói" cho đến "Thì trái với pháp thế gian, xuất thế gian."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thế gian nói hư không là khắp, thường, sắc, phi sắc là vô thường, đều là "Không". Nếu "Ngã" này là hư không, thì lẽ ra phải khắp, thường, vô thường, sắc, phi sắc, sao lại lấy người, nhà không khắp để làm ví dụ ư?"
"Tiên-ni nói: Tôi cũng không nói tất cả chúng sinh" cho đến "Mà tôi nói mỗi người đều có một ngã riêng." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo chấp ngã có hai thứ: Một là chung; hai là khắp. Mà Tiên-ni không chấp chung, mà nói là khắp, vì từ đầu đến cuối không thay đổi, mà là một."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Ý nghĩa chống chế, mỗi người đều có một "Ngã" riêng không tổn thương đến "Khắp"."
"Phật nói: Này người thiện nam! Nếu ông nói một người" cho đến "Nếu ngã không khắp thì là vô thường." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu mỗi người đều có chủ tự tại, thì việc không thấy, nghe lẽ ra phải đồng. Nếu cho là khắp đi, thì cỏ, cây lẽ ra cũng thấy, nghe?"
"Tiên-ni nói: "Thưa Cù-đàm! Ngã của tất cả chúng sinh" cho đến "Lúc Phật được nghe, thì trời lẽ ra cũng được nghe."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa chống chế: "Ngã" gặp pháp thì thiện, gặp phi pháp thì ác, không được bình đẳng."
"Phật nói: "Này người thiện nam! Nếu pháp và phi pháp" cho đến "Vì sao? Vì nghiệp bình đẳng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Muốn nêu lên câu hỏi, là trước phải khẳng định pháp đó là nghiệp hay phi nghiệp?"
Đáp: "Là do nghiệp làm ra. Nói: "Nếu là nghiệp tạo tác, tức là "Pháp" đồng, sao lại nói là "Khác"?"
Tiên-ni nói: "Thưa Cù-đàm! Ví như trong một ngôi nhà có" cho đến "Ánh sáng của ngọn đèn kia thì không khác, dụ cho "Ngã" của chúng sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghĩa chống chế: "Một trăm ngọn đèn đồng đặt trong nhà, ánh sáng chiếu khắp, mà ngọn đèn thì không khắp. Không thể lấy ánh sáng khắp để quở trách ngọn đèn lẽ ra cũng phải khắp? Một trăm người, một trăm "Ngã" dù khắp, nhưng pháp, phi pháp thì không khắp."
"Phật nói: Này người thiện nam! Ông nói ánh sáng đèn" cho đến "Đâu được dùng ngọn đèn, ánh sáng để làm ví dụ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngọn đèn là ánh sáng, lìa ngọn đèn sẽ không có ánh sáng. Pháp và phi pháp mà ông đã nói, thì không phải như vậy, sao lại dùng "Một" để dụ cho "Khác" ư?"
"Này người thiện nam! Nếu ý ông cho rằng, ngọn đèn và ánh sáng" cho đến "Ba việc pháp, phi pháp và "Ngã" là "Một"."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở trên đã cho rằng ánh sáng khác với ngọn đèn. Nay, nói ánh sáng chẳng khác ngọn đèn. Đối với ông chẳng phải thí dụ, đối với tôi là thí dụ. Vì sao? Vì ngọn đèn là giả danh, dùng sắc, xúc làm thể. Sắc tức là ánh sáng, ánh sáng chẳng khác ngọn đèn. "Ngã" là giả danh, dùng hai pháp làm thể, "Ngã" chẳng khác hai pháp."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Dùng "Ngay nơi" việc để hỏi. Nếu nói ngọn đèn và ánh sáng không liên quan nhau thì hiện nhìn thấy hễ ngọn đèn to thì ánh sáng sẽ lan rộng, lìa ngọn đèn sẽ không có ánh sáng."
"Tiên-ni nói: Thưa Cù-đàm! Ngài dẫn ví dụ đèn" cho đến "Đối với ta thì tốt, mà không tốt đối với ông."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngoại đạo cho rằng: "Pháp có tánh cố định, hễ tốt thì nhất định tốt, không tốt thì tất cả không tốt. Đức Phật phá rằng: "Ta không chấp nhất định, ta bảo ông hãy bỏ chấp!"
"Tiên-ni nói: Thưa Cù-đàm! Vừa rồi Ngài trách tôi" cho đến "Do đó suy ra, thì thật không bình đẳng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu hỏi lại: Nếu Phật cho chấp là sai, còn chẳng trả lời là phải, tức là không bình đẳng."
"Phật nói: Này người thiện nam! Như sự bất bình đẳng của ta" cho đến "Vì đồng được bình đẳng với các bậc Thánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sinh tử do chấp đắm mà bị ràng buộc. Cho nên ta không trả lời là đúng. Ông đã cho không chấp là sai nay tôi phá cái sai của ông, tức hai thứ này đều tốt, đâu không bình đẳng ư?
"Tiên-ni nói: Thưa Cù-đàm! "Ngã" thường là bình đẳng" cho đến "Sao Ngài lại nói ngã là bất bình đẳng?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Cho rằng chấp khắp của mình là bình đẳng."
"Này người thiện nam! Ông cũng nói rằng: "Sẽ chịu quả địa ngục" cho đến "Vì sao mà nói là do "Ngã" tạo ra?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngã" lấy tự tại làm nghĩa, sao lại gây ra điều ác mà không làm việc lành?"
"Này người thiện nam! Nỗi khổ vui của chúng sinh, thật sự là từ nhân duyên" cho đến "Cho đến thân căn (xúc) cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tạo tác là "Ngã" mà là tác giả, ngã tức vô thường."
"Nếu ý ông cho rằng, "Ngã" dù có thể thấy" cho đến
"Ông lập ra "Ngã" có thể thấy cũng giống như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lửa do hoa Tu-mạnna đốt, chứ chẳng phải hoa đốt, thức nhờ mắt mà thấy, chứ chẳng phải mắt thấy."
"Tiên-ni nói: "Thưa Cù-đàm! Như người cầm liềm" cho đến "Tất cả phiền não lẽ ra cũng như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Liềm, và người khác nhau, có thể có tác động, lìa mắt sẽ không có "Ngã", là việc hiện thật có thể nghiệm biết."
"Tiên-ni nói: "Thưa Cù-đàm! "Ngã" có hai thứ" cho đến "Đã hoại diệt rồi, không bao giờ sinh lại."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại lập ra "Ngã" khổ vui làm ngã. Nếu không biết thời, thì gây ra phiền não chịu khổ, biết thời thì tu đạo dứt kiết."
"Phật nói: Này người thiện nam! Ông nói là có biết ấy" cho đến "Tất cả súc sinh vì sao không được?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ngã" là xưa nay thanh tịnh, không bị các khổ buộc ràng. Không nên vì vui mà làm các việc lành, mà cầu giải thoát. Nếu cho rằng, không từ nhân duyên thì súc sinh lẽ ra cũng được mới phải?"
"Tiên-ni nói: "Thưa Cù-đàm! Nếu là vô ngã" cho đến "Và có ngã sở, ngã tác, ngã thọ."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiên-ni dùng ba việc để chứng minh cho "Ngã". Về nghĩa có thể lập cùng cực ở đây."
"Tiên-ni nói: Như Cù-đàm đã nói vô ngã, ngã sở, vì sao Ngài lại nói có thường, lạc, ngã, tịnh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Và thưa hỏi về những gì còn nghi ngờ."
"Phật nói: Này người thiện nam! Ta cũng không nói" cho đến "Nay ta giảng nói thường, lạc, ngã, tịnh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tâm Tiên-ni ưa bốn pháp, lấy "Ngã" làm thường, lạc. Nếu "Ngã" nói theo điên đảo thì trong ngoài đều không, nên hỏi rằng: "Cùđàm! Vì sao lại nói thường? Nay đáp: "Diệt nội, ngoại nhập, gọi là tịnh, chứ chẳng phải cầu vô thường. Ông cho nhập trong, ngoài là thường, cho nên là điên đảo."
"Tiên-ni nói: Bạch Đức Thế tôn! Xin Đức Đại Từ" cho đến "Dứt bỏ tất cả phiền não, trước phải dứt bỏ ngã mạn."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tiên-ni ngã mạn rất nặng, trước Đức Phật bảo không gây tội nặng, thì tội nhẹ sẽ tự diệt."
"Tiên-ni bạch Phật rằng: Đúng vậy! Đúng vậy!" cho đến "Phạm hạnh thanh tịnh chứng quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Dù lìa các kiến, nhưng đối với các ấm, tâm ái vẫn chưa hết, còn khởi tưởng chúng sinh. Nay, quán các ấm vô tự tánh, không có tha tánh, vì tâm pháp diệt, nên tưởng chúng sinh diệt."
"Trong chúng ngoại đạo, lại có phạm chí" cho đến "Vì sao Cù-đàm im lặng không trả lời?"
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Bồ-tát Ca-diếp chấp thân khác mạng, mạng khác thân. Thân dù vô thường, nhưng mạng là thường, nên khoảng giữa không dứt."
"Này người thiện nam! Ta đã nói thân mạng đều từ nhân duyên" cho đến "Một bề nói là thân khác, mạng khác."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tất cả đều từ duyên sinh, đều là pháp vô thường. Cho nên nói "Tức là", vì không lìa thân mà có mạng, không lìa mạng mà có thân. Thân khác, mạng khác, nghĩa là thân thì đương pháp thể, còn mạng thì bàn đến đầu cuối, như thế."
"Phạm chí thưa: "Bạch Đức Thế tôn! Xin thương xót cho tôi xuất gia" cho đến "Năm ngày sau, Phạm chí này chứng quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghe pháp bỏ mê, ngộ đạo là chứng."
Trong chúng ngoại đạo, lại có Phạm chí tên Phú-na" cho đến "Chẳng phải đi mà đi, chẳng phải không đi mà đi."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phú-na chấp sáu mươi hai kiến. Y cứ theo năm ấm, chấp một ấm làm bốn câu, bốn lần năm thành hai mươi. Như đi, không như đi, cũng như thế, lẽ ra ba pháp thành sáu mươi, đây là chấp luống dối, đều lấy đoạn, thường làm gốc, cho nên thành sáu mươi hai kiến."
Phật nói: "Này Phú-na! Ta không nói thế gian là hư, thật" cho đến "Không được nói có Đông, Tây, Nam, Bắc."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu hư hoại đối với muôn pháp, thì sẽ nhận thức sáng suốt bốn đế, xa lìa sinh tử ràng buộc."
"Phú-na thưa: "Xin nói một thí dụ, cúi mong Đức Thế tôn chấp nhận" cho đến "Lậu hết, chứng được quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tức là Khai Thị Ngộ Nhập. Thôn lớn dụ cho bốn đế, rừng Ta-la, dụ cho hai mươi lăm hữu sinh tử. Nói về sinh tử là pháp ngoài lý, huống chi là ngoài, trong đó có một cây, dụ cho Đức Phật thuở xưa khi còn là phàm phu. Tiên lâm mà sinh, dụ cho chúng sinh hai mươi lăm cõi xưa kia. Về sau, tu pháp vô lậu của Thập địa. Đủ một trăm năm, là hạnh Thập địa. Bấy giờ chủ khu rừng dùng nước tưới cây. Chư Phật quá khứ, vì duyên ngoài của mình, tiến sanh điều lành của mình, hoặc thọ ký riêng. Cây kia khô héo cằn cỗi, rũ xuống, dụ cho Phật đã dứt hết chướng phiền não, chỉ có sự trinh nguyên chân thật là tồn tại: Sinh tử luống dối, năm ấm đã hết, chỉ còn lại diệu bổn thần minh, pháp tánh vô vi, pháp chân thật tồn tại. Ngoại đạo còn lập ra ví dụ để lãnh ngộ như vậy, huống chi người học mà không kính tin ư?"
- Phạm chí tên là Tịnh thứ sáu.
- Phạm chí Độc Tử thứ bảy.
- Phạm chí Nạp y thứ tám.
- Bà-la-môn Hoằng Quảng thứ chín.
- Việc A-nan bị Ma vương khuấy rối.
- Nói duyên khởi lúc A-nan mới làm thị giả.
- Phật nói pháp cho Tu-bạt-đà-la nghe.
Lại có Phạm chí tên là Thanh Tịnh" cho đến "Chẳng phải đi, chẳng phải không đi."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nghe thường, vô thường đều là điên đảo, nhưng vì không biết lý do của điên đảo nên hỏi.
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Luận nghị không còn chấp trước, nắm thẳng lấy sáu mươi hai kiến để hỏi, Phật liền nói cho Phạm chí nghe về phương pháp lìa sáu mươi hai kiến, nhờ đó mà tỏ ngộ đạo La-hán."
"Phạm chí bạch Phật rằng: Bạch Cù-đàm! Chúng sinh biết pháp nào" cho đến "Người này biết thường và vô thường?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Biết pháp nào?
Nghĩa là đã biết bệnh khởi, kế là, hỏi về cách diệt bệnh."
"Phạm chí thưa: Bạch Đức Thế tôn! Tôi đã hiểu biết" cho đến "Các lậu đã dứt hẳn, chứng quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân ở trước gọi là cũ, quả ở sau gọi là mới."
Phạm chí Độc Tử lại nói thế này" cho đến "Nếu ông ấy có hỏi ta sẽ tùy ý đáp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Độc Tử hỏi Phật điều mà mình thấy biết, vì muốn xét xem điều mình thấy đó là đồng, hay khác với Đức Phật. Chỗ thấy của ngoại đạo khác nhau, có người nói không có quả báo thiện ác, có người nói có thiện ác mà không có đạo có người nói có đạo không tu đắc. Hoặc nói nam được, nữ không được. Hoặc nói xuất gia được, tại gia không được. Hoặc nói lìa dục được, ở dục không được, hai câu hỏi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cũng không có chấp nhất định. Sở dĩ Đức Phật im lặng là vì Ngài muốn chỉ bày dấu ấn của mình, chẳng phải trí đáp."
"Phật nói: Này Độc Tử! Lành thay! Lành thay!" cho đến "Bình đẳng mưa xuống hàng Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ba thứ thiện, bất thiện và tu mười điều thiện, bất thiện, cuối cùng dứt tất cả chướng, thành tựu Thánh đạo."
"Bạch Đức Thế tôn! Nếu các ngoại đạo muốn đến Phật pháp để xin xuất gia" cho đến "Các Tỳ-kheo vâng lời Phật, trở về sửa soạn đại lễ cúng dường thi hài Độc Tử."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thử thách họ trong bốn tháng: Ngoại đạo vốn có dị kiến, nhờ pháp thâu phục đều thử thách suốt bốn tháng. Nếu không như vậy thì không cần thử thách."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Như kinh Ưu-bà-tắc giới chép: "Thử thách trong sáu tháng, vì tùy căn cơ, nên có pháp này, mà Độc Tử xuất gia sau mười lăm ngày mới chứng được Sơ quả, đạo cảm ứng, việc đó khác nhau, biểu hiện rõ rệt ở đây."
"Phạm chí Nạp Y lại nói lời này" cho đến "Thân thiện, bất thiện, nghĩa ấy không đúng!"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói không có nhân quả, cho nên làm người Xiển-đề là vì họ cho rằng, thiện ác đều có tánh, không từ nhân duyên, vì đều là thiện ác." Pháp sư Bảo Lượng nói: "Vì tìm khởi thỉ của chúng sinh không có nguồn gốc, nên nói là thiện ác đều tự nhiên."
"Vì sao? Vì như Cù-đàm nói: Vì phiền não, nên" cho đến "Đều có tự tánh, không từ nhân duyên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ nhất, là trước sau đều không thể cùng lúc, vì thân so với tất cả pháp đều vô nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Trước là nêu lên câu hỏi ba quan hệ: Thứ nhất phiền não là nhất định, nêu thời gian trước, sau của thân."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Cứng là tánh của địa đại" cho đến "Vì tự tánh có, nên chẳng phải do nhân duyên sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ hai là dùng "Không" để so sánh với năm đại, dùng năm đại để đối chiếu với tất cả."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Sau đây, sẽ nêu bảy việc nhằm chứng minh nghĩa. Đây là việc thứ nhất, chứng minh rằng mỗi việc đều có tự tánh của chúng."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Pháp thế gian" cho đến "Sao lại nói rằng từ nhân duyên sinh?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Sự thứ nhất, như khúc gỗ không do xấu, tốt mà tánh của nó có tác dụng cong quẹo, suôn ngay. Tánh của năm đường có thiện, ác đều tùy theo chỗ sinh mà được tên gọi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Việc thứ hai, chứng minh rằng. Vì có công dụng nhất định, nên không có nhân duyên."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Tất cả chúng sinh" cho đến "Đối với tất cả pháp đều có tự tánh của chúng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Thứ tư là dùng loại để tìm vật, mỗi vật đều có tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thứ ba là chứng minh."
"Thưa Cù-đàm! Như Ngài đã nói" cho đến "Sinh ra tất cả pháp, làm tự tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ năm, do năm trần chẳng phải là nhân của tham, thức ăn và sự giận dữ tự sinh ra."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ tư."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Tôi nhận thấy người đời" cho đến "Nếu có nhân, thì không nên đồng nhất mà được hai quả khổ, vui."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ năm."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Các trẻ thơ ở thế gian" cho đến "Tất cả pháp đều có tự tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ bảy, cho rằng: "Sự lo lắng, nỗi vui mừng đều vô nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ sáu."
Lại nữa, "Thưa Cù-đàm! Pháp thế gian có hai" cho đến "Vì có tự tánh, nên không từ nhân duyên."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Việc thứ tám: "Cho nên chấp bên ngoài, hư không có công dụng, có tên gọi, sừng thỏ không có công dụng, không có tên gọi."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đây là việc thứ bảy, bảy việc đều chứng minh cho tự nhiên."
"Phật nói: Này người thiện nam! Như lời ông nói" cho đến "Đồng với năm đại thì không có việc đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Trước, phá thứ hai, nói về các đại đều vô thường, cho nên vô tánh."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu cho rằng muôn pháp đều từ năm đại thì muôn pháp vô thường năm đại cũng phải vô thường."
"Này người thiện nam! Ông nói vì chỗ dùng nhất định" cho đến "Chẳng nên nói tất cả Pháp đều có tự tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: Đây là "Đáp việc thứ ba: "Nếu danh nghĩa có nhân thì sự thật cũng có nhân."
Pháp sư Bảo Lượng nói: Đây là "Đáp việc thứ hai: "Nói về trúc, gỗ lúc mới mọc, vốn không có tánh chất của mũi tên và cây lao, mà là từ nhân duyên người vót mới thành mũi tên, cây lao, đâu không phải nhân duyên hay sao?"
"Này người thiện nam! Ông nói như con rùa sinh nở trên đất liền" cho đến "không có tự tánh, không có một tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh thứ ba: "Đều do hành nghiệp, đâu thể không có duyên?" này người thiện nam! Ông nói thân là ở trước cho đến vì sao hỏi như thế.
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ nhất: "Tánh của ông cũng không có trước, sau, mà "Ngã" đã từ nhân duyên cũng không có trước, sau, sao ông lại hỏi?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phá ba chứng minh xong. Đáp các chấp của ngoại đạo ở trên. Vả lại, một lần bác bỏ chung, đủ chứng tỏ không nên nêu lên câu hỏi."
"Này người thiện nam! Thân và phiền não của tất cả chúng sinh" cho đến "Đều từ nhân duyên, không có tự tánh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ông có cùng lúc mà không có nhân quả. Ta "Duyên" có cùng lúc mà có nhân quả, như ngọn đèn và ánh sáng..." trở xuống. Nếu không thấy nhân của thân, rồi nói là không có nhân, thì ông cũng không thấy nhân của chiếc bình, lẽ ra chẳng nên nói đất sét là nhân của bình."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chính là đáp: "Thân và phiền não có cùng lúc. Lời nói này dường như không quan hệ gì với khởi thỉ của chúng sinh, đúng ra phải nắm lấy lời nói về thời ngữ của chi thức trong mười hai nhân duyên. Nói về sự thọ sinh là thể, phải có đủ khởi nghiệp nhuận để nhuận sinh. Vì nếu chỉ có nghiệp nhuận mà không thấm nhuần sinh ra ái thì sẽ không bị quả báo của kiết sử, nên sự khởi động của trí thức dụ cho nghiệp thấm nhuần, nhưng nếu không khởi lại nhuận sinh, thì quả báo sẽ không nối nhau. Bấy giờ, thân và phiền não sẽ được nói là có cùng lúc. Dù rằng cùng lúc, nhưng phải do phiền não mới có thân. Nếu nói vì thân không ở trước, nên biết không có nhân thì hiện nay đang thấy bình... lẽ ra là không có nhân duyên."
Này người thiện nam! Nếu nói tất cả pháp" cho đến "Cũng phải tinh tấn, siêng năng giữ giới như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Pháp của ông có công năng sinh, gọi là đại. Nếu không có nhân duyên thì chẳng nên nói là đại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nhân duyên trước của thân cũng đồng với ở đây."
"Này người thiện nam! Ông nói năm đại có tính cứng chắc cố định" cho đến "Nên không được nói là vì tự tánh nên cứng chắc."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Các đại này có mùi hương, vì mùi hương thuộc về địa đại."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại, phá chứng minh đầu, ngoại đạo kia cho bơ, bạch lạp, hồ giao là đất, mà có lúc lại đồng với nước, đâu có tự tánh?"
"Này người thiện nam! Bạch lạp, nhôm, chì, đồng, sắt, vàng, bạc" cho đến "Sao lại nói nhất định gọi là tánh của lửa."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Ở đây nói về sắc, sắc thuộc về lửa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lửa không nhất định, vì khi dòng chảy là tánh nước, lúc lay động là tánh của gió, khi thời gian nóng bức là tánh lửa, lúc gặp vật thể cứng chắc là tánh đất, cũng chẳng phải tự tánh."
"Này người thiện nam! Tánh nước, gọi là dòng chảy, nếu khi nước đông cứng" cho đến "Từ nhân duyên thấy là có nhân duyên, chứ chẳng phải không có nhân duyên." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì cứng chắc là tánh giữ gìn, nên gọi là nước. Nhưng tánh chất của dòng chảy dao động là đồng nhau. Nếu dao động, mà chẳng mất đi tánh của dòng chảy thì không gọi là gió ư? Nếu lay động không gọi là gió trở xuống. Nếu ẩm ướt nhiều thì thuộc về nước, khi nước đóng thành băng cứng, phần nhiều nên thuộc về đất, há là từ duyên mà có tên gọi ư?"
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu khi đông đặc, vẫn thuộc về nước, sóng vốn do gió mà lay động, nên gọi sóng là gió. Nếu không gọi sóng là gió, thì cũng chẳng phải đông cứng là nước."
"Này người thiện nam! Ông nói chẳng phải do năm trần mà có tham" cho đến "Không do năm trần sinh tham và giải thoát là không có việc đó."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ năm: Chẳng phải nhân, là không phải chánh nhân. Tham có hai nhân: Giác quán là nhân trong, sáu trần là nhân ngoài, nhân trong sinh ngoài."
"Này người thiện nam! Ông nói người các căn đầy đủ" cho đến "Không có tự tánh, mà đều từ nhân duyên." Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ sáu: "Có người ưa bố thí mà nghèo, kẻ bỏn sẻn tham lam mà giàu có, lẽ ra đồng câu hỏi với các căn, nên trước đáp nghiệp quả đời sau. Chính là đáp: Căn đầy đủ là rất giàu, vì lúc tu không bao gồm nên cảm thọ báo có khác."
"Này người thiện nam! Ông vừa nói trẻ nhỏ ở thế gian" cho đến "Thân này do nhân duyên phiền não và nghiệp."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đáp câu hỏi thứ bảy: "Nếu cười là tự tánh thì lẽ ra lúc nào cũng cười, như lửa không nguội nên thường nóng. Không đáp câu hỏi thứ tám: Vì hư không, sừng thỏ, đều được trí đáp."
"Phạm chí bạch Phật rằng: Bạch Đức Thế tôn! Như thân này" cho đến "Dứt trừ phiền não trong ba cõi, được quả A-la-hán?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Lại thỉnh Phật nói cho nghe nhân của thân, nghe liền tỏ ngộ."
"Lại có Bà-la-môn tên là Hoằng Quảng" cho đến "Có thể phát tâm rộng lớn vô thượng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Hoằng Quảng không rõ dấu vết, dẫn các việc không biết, nên truyền bá rộng kinh này. Bấy giờ, Phật sẽ chỉ bày rõ về dấu vết, thị hiên chúng được nghe không xa."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Lại không có sở chấp. Hoằng Quảng nghĩ rằng định thử Phật, Đức Phật biết ngay ý nghĩ của ông ấy. Vì thấy Đức Phật đã thấy rõ tâm niệm của mình, nên rất bái phục! Kiều-trần-như trước hỏi về việc mình đã làm, Đức Phật liền nói về dấu vết của ông:"
Phật nói: "Thôi đi Kiều-trần-như!" cho đến "Chẳng nên khen ông ấy là hiện nay có thể phát đại tâm như vậy."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhập là nhập vào
Niết-bàn, xuất là ra khỏi sinh tử."
"Bấy giờ, Đức Thế tôn biết rồi, liền hỏi Kiều-trầnnhư: "Tỳ-kheo A-nan hiện đang ở đâu?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Truyền bá kinh có hai người. Từ trên Hoằng Quảng đã duy trì, Tu Bạt trở xuống, nên gửi gắm cho A-nan. Đoạn văn sau tương tự như vậy, cũng có thể Phật gửi gắm cho Hoằng Quảng, mà văn thì giao phó cho A-nan."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Từ đây trở đi, chính là nói về ý truyền bá:
Hỏi: "A-nan hiện đang ở đâu? Có ba lý do:
1. Muốn nói lên A-nan có tám đức không nghĩ bàn.
2. Vì truyền bá kinh.
3. Vì vời Tu-bạt đến.
"Kiều-trần-như thưa: "Bạch Đức Thế tôn! Tỳ-kheo A-nan" cho đến "Không đến trong đại chúng này."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Bọn ma vương vì muốn làm cho pháp Phật rồi đây sẽ không có ai để Phật phó chúc, sẽ diệt mất, không còn truyền bá nữa, nên đã khuấy rối A-nan."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Cho nên Đức Phật biểu dương đức của A-nan, là vì dù Tôn giả A-nan hiện vắng mặt trong đại chúng, nhưng vẫn thừa khả năng ghi nhớ những lời di chúc sau cùng của Phật."
"Bấy giờ, đại Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi" cho đến "Lại hỏi Kiều-trần-như: "A-nan hiện ở đâu?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Vì muốn chỉ bày rõ đức tốt của A-nan, nên Đức Phật mới hỏi."
Khi ấy, "Đức Thế tôn bảo Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi" cho đến "Nếu Đức Thế tôn bằng lòng ba điều tâm nguyện này, thì tôi xin vâng lệnh chư Tăng mà làm thị giả cho Ngài."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nói A-nan có hai việc: Một là được người thân thuộc kính tin; hai là nhớ lời Phật không có sót mất."
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "A-nan đã hầu hạ ta" cho đến "Tám là có đủ trí tuệ do nghe pháp mà sinh."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nêu A-nan có ba ý:
1. Nêu mọi việc làm đều có tám đức không thể suy nghĩa bàn luận, tất nhiên có khả năng truyền bá rộng.
2. Dẫn chứng nói về bảy đệ tử của Phật có tám đức, đều cùng nhau truyền bá.
3. Chính là giải thích câu hỏi của Bồ-tát Văn-thù-sưlợi: "Này Văn-thù-sư-lợi! Thị giả của Phật Tỳ-bà-thi" cho đến "Nên ta gọi Tỳ-kheo A-nan là Đa Văn Tạng."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Phần hai dẫn chứng bảy vị Phật để so sánh."
"Này người thiện nam! Như ông đã nói: "Trong đại chúng này" cho đến "A-nan đã nghe, tự có thể giảng nói thông suốt."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Phần thứ ba, chính là đáp câuhỏi."
"Này Văn-thù-sư-lợi! Tỳ-kheo A-nan" cho đến "Dốc lòng kính lễ, rồi đứng qua một bên."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Thời gian sắp đến, Đức Phật sai Văn-thù đem chú đến giải ma, dẫn A-nan trở về."
"Phật bảo A-nan: "Bên ngoài rừng Ta-la này" cho đến "A-nan cùng Tu-bạt-đà về đến chỗ Phật."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Tập khí chưa hết: Mới hàng phục kiết cõi Dục, chưa hàng phục được tập khí."
"Bấy giờ, Tu-bạt-đà-la thăm hỏi Đức Phật xong" cho đến "Liền chứng được Niết-bàn, nghĩa này thế nào?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Người ngã mạn vì không muốn tự chịu khuất phục, nên giả gọi là ngoài. Nói về được mất là do họ, không phải do ta."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Tu Bạt chấp: "Khổ, vui trong hiện tại đều là quá khứ. Vì không có nhân hiện tại, nên gieo mình từ đỉnh núi cao xuống vực thẳm, nhảy vào lửa, để dứt hết khổ."
Phật nói: "Này người thiện nam! Có Sa-môn" cho đến "Cho nên ta quở trách nghiệp quá khứ của ông."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "E rằng người truyền đạt sẽ nhận lầm đối tượng nhất định."
"Nếu họ nói rằng: "Thưa Cù-đàm! Chúng tôi thật sự không nhận biết" cho đến "Chỉ do nghiệp quá khứ, chứ chẳng phải nghiệp hiện tại?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nhân duyên của khổ phẩm Hạ, có bị khổ của thượng trung hay không? Hỏi có được công dụng xoay vần hay không? Nếu nói được thì đó là không nhất định, sao lại nhất định nói là dứt nghiệp quá khứ?"
"Lại nên hỏi: Các khổ trong hiện tại này" cho đến "Thời gian quá khứ đã hết, làm sao có khổ?"
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Nếu quá khứ có khổ thì lẽ ra đều diệt hết chung với nghiệp, không còn cảm thọ lại mới phải chứ."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Nếu khổ hạnh hiện tại dứt được nghiệp quá khứ, thì nghiệp của khổ hạnh này được dùng để dứt nghiệp nào?"
"Này các ông! Khổ hạnh như vậy có công năng làm cho nghiệp vui" cho đến "Việc này không đúng, vì sao?" Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Kế là hỏi xoay vần không có khổ vui. Nghiệp vô lậu của Bốn thiền trở lên, không có quả báo, vì sao họ lại cảm chịu khổ hạnh này? Đã không thể hư hoại, lại không thể thay đổi, thì sao lại phải chịu?"
Ví như người vì vua giết giặc cho đến do nghiệp nhân quá khứ mà chịu khổ, vui."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Chứng minh có hiện báo, không hẳn đều do nghiệp quá khứ."
"Này các ông! Nếu do cắt đứt năng lực nhân duyên của nghiệp" cho đến "Tâm dụ cho rừng, thân dụ cho cây."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Đền trả không thể xong, ngăn thì không phải chịu. Nếu vì chịu khổ mà phải bị đền trả, thì súc sinh lẽ ra phải đắc đạo? Trước phải điều phục tâm mình: Thân dụ cho cây, rừng nhiều mà cây ít. Bốn ấm dụ cho rừng, sắc ấm ví như cây, sợ rằng từ tâm sinh, không từ sắc."
"Tu-bạt-đà thưa: "Bạch Đức Thế tôn! Tôi đã điều phục tâm mình trước rồi!" cho đến "mà phải thọ thân trong đường ác, huống chi những kẻ khác."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Đức Phật quở trách Tu-bạt-đà xong, Tu-bạt-đà dứt bỏ được tưởng thô, sao không dứt trừ tưởng vi tế ư?"
"Bạch Đức Thế tôn! Thế nào là dứt được tất cả các "Hữu"" cho đến "Vì bậc thượng trí quán thật tướng, nên được Vô thượng Bồ-đề."
Xét: Pháp sư Tăng Lượng nói: "Có "Giả không", "Thật không", ngoại đạo hàng phục kiết, chỉ "Duyên" hữu, chẳng "Duyên không", "Duyên" "Không" là tưởng thật."
Pháp sư Bảo Lượng nói: "Chỉ có hai Đế, quên tướng là thật tưởng. "Thật" là dùng trí dứt phiền não, tạo ra tưởng danh để nói. Đây là ý chỉ của hai Đế."
"Lúc Phật nói Pháp này, có mười ngàn Bồ-tát" cho đến "Tu-bạt-đà-la được quả A-la-hán."
Xét: Pháp sư Bảo Lượng nói: "Được một đời thật tưởng, chính là sau một đời được thành Phật. Nếu là quả báo của vô minh trụ địa thì không thể với một đời, hai đời đã qua mà xét cho cùng tận được, là nói theo ứng. Nếu tìm ở kinh khác để so sánh, thì tức là chưa cùng tận. Cõi nước này không có duyên, vì đều không đến."