TẠNG LUẬN
SỐ 1764 - ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH NGHĨA KÝ
Biên soạn: Sa-môn Thích Tuệ Viễn, chùa Tịnh Ảnh (Đời Tùy)
Thánh giáo có ngàn muôn sự khác nhau, chủ yếu chỉ có hai: Tạng Thanh văn và Tạng Bồ-tát. Giáo pháp Thanh văn, gọi là tạng Thanh văn. Giáo pháp Bồ-tát, gọi là tạng Bồ-tát. Giáo trong tạng Thanh văn có hai:
1. Thanh văn Thanh văn.
2. Thanh văn Duyên giác.
Thanh văn Thanh văn: Người này trước nay, cầu đạo Thanh văn, thường ưa quán sát pháp bốn Chân đế, thành tánh Thanh văn. Đến thân sau cùng, được gặp Phật, Phật nói cho nghe pháp bốn Chân đế mà được ngộ đạo, với bản tánh Thanh văn, nay còn là Thanh văn mà được ngộ đạo, nên gọi là Thanh văn của Thanh văn. Như trong kinh nói: "Đối với người cầu Thanh văn, nói cho nghe bốn đế. Nói theo kinh này thì Thanh văn, Duyên giác là người xưa nay cầu đạo Duyên giác, thường ưa quán sát pháp mười hai nhân duyên. Đến thân sau cùng sẽ được gặp Phật, Phật nói pháp mười hai nhân duyên, cho nghe mà được ngộ đạo. Bản tánh Duyên giác, đến thân sau cùng, Thanh văn ngộ đạo, nên gọi là Thanh văn của Duyên giác. Như trong kinh nói: "Vì người cầu Duyên giác nói pháp mười hai nhân duyên. Nói theo mười hai nhân duyên này, thì hai pháp dù khác, nhưng đều cầu pháp Tiểu thừa. Nhờ giáo xứ v.v... cho nên, giáo thuyết nói cho hai hạng người này là tạng Thanh văn.
Trong tạng Bồ-tát, người được giáo hóa cũng có hai hạng:
1. Dần dần (tiệm).
2. Tức khắc (đốn).
Nói hạng người dần nhập, là người đã có tu tập pháp Đại thừa ở quá khứ. Khoảng giữa học Tiểu thừa, về sau lại nhập lại Đại thừa. Từ tiểu nhập Đại, gọi là dần dần. Cho nên kinh nói: "Trừ người trước tu tập Tiểu thừa, nay ta cũng làm cho họ nhập vào pháp này, đó là dần nhập." Nói ngộ tức khắc (đốn): Có các chúng sinh từ lâu đã tu tập gốc lành tương ưng với Đại thừa. Nay vừa thấy Phật là có thể nhập Đại thừa. Đại không từ Tiểu, gọi là đốn, nên kinh nói: "Hoặc có chúng sinh, nhiều đời đến nay, được sự giáo hóa của ta, mới thấy thân ta, nghe lời ta nói, liền đều tin nhận, nhập tuệ Như lai, đó là đốn ngộ. Dần nhập Bồ-tát, đầu Tiểu mà cuối Đại. Người đốn ngộ một phen thâm nhập, đốn tiệm dù khác, nhưng đương thời chỗ thọ Đại là một nên điều nói cho của hai người này là tạng Bồ-tát. Thánh giáo tuy nhiều nhưng không ngoài hai người này, nên Bồ-tát Long Thọ nói: "Sau Phật diệt độ, Ca-diếp, A-nan kiết tập ba tạng ở thành Vương xá, là tạng Thanh văn. Bồ-tát Văn-thù, A-nan thì kiết tập kinh Đại thừa ở núi Thiết vi, là tạng Bồ-tát." Kinh Địa Trì cũng nói: "Phật vì Thanh văn, Bồ-tát thực hành đạo ra khỏi khổ, mà nói Tu-đa-la, kiết tập kinh, nghĩa là nhóm hợp thành hai tạng, để nói chỗ thực hành của Thanh văn, là tạng Thanh văn. Nói công hạnh của Bồtát là tạng Bồ-tát." Luận Địa Trì lại chép: "Trong mười hai bộ, chỉ có bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn." Kinh này cũng chép: "Chỉ có bộ Phương Quảng là Bồ-tát hành trì, mười một bộ còn lại là Nhị thừa hành trì. Điều mà Bồ-tát hành trì cũng là tạng Bồ-tát. Điều mà nhị thừa hành trì cũng là tạng Thanh văn. Nên biết rằng, bậc Thánh nói không ngoài hai người này, hai người này cũng gọi là Bán giáo, Mãn giáo của Đại thừa, Tiểu thừa, về danh dù có thay đổi, nhưng về nghĩa Đại thừa, Tiểu thừa thì không khác.
Nay, kinh này thuộc về tạng Bồ-tát trong hai tạng. Về tiệm giáo, vì chúng sinh nuôi lớn pháp môn, nên văn sau nói: "Trước, dạy "Bán tự", sau dạy "Mãn tự". Đã biết giới hạn của giáo, kế sẽ nói về danh của giáo. Nay, nói Đại Niết-bàn, là nêu tên bộ khác của kinh, danh hiệu kinh khác nhau, là có nhiều thứ. Hoặc có pháp thích hợp, hoặc y cứ ở người, đôi khi tùy việc, hoặc theo thí dụ để so sánh, hoặc y theo người, pháp, hoặc từ pháp dụ, hoặc tùy pháp sự. Việc so sánh đó chẳng phải một.
Nay, kinh này từ pháp đặt tên. Pháp, nghĩa là vì quả Đại Niết-bàn của Chư Phật, nên ở đầu nêu danh hiệu này không đủ. Nếu theo bản Phạn, thì gọi là Ma-ha Bát-Niết-bàn-na. Ma-ha, Hán dịch là đại, lời khen vượt hơn. Niết-bàn có ba: Sự chứng đắc của Thanh văn, Duyên giác và Phật. Phân biệt với hai pháp trước không thêm, cho nên nói là Đại. Thật thể dứt bặt đối đãi, tạm mượn đối đãi để làm rõ.
Về nghĩa Đại có sáu:
1. Vì thường, nên gọi là Đại. Cho nên văn sau ghi: "Đại, gọi là thường."
2. Vì vượt hơn nên gọi là Đại. Như người vượt hơn ở thế gian, gọi là đại nhân. Cho nên văn sau nói: "Nếu người này an trụ chánh pháp, thì gọi là người vượt hơn trong loài người. Vì vượt hơn, nên gọi là đại Niết-bàn như vậy."
3. Vì rộng, nên gọi Đại, vì thế văn sau nói: "Đại, là rộng bao la, thể cùng khắp pháp giới, gọi là tánh rộng lớn."
4. Vì nhiều nên gọi là Đại, nên văn sau nói: "Ví như kho lớn có nhiều châu báu, Niết-bàn cũng vậy, có nhiều thứ châu báu pháp mầu nhiệm, nên gọi là Đại."
5. Vì cao, nên gọi Đại, vì thế văn sau nói: "Ví như ngọn núi lớn, người không thể trèo lên, nên gọi là đại sơn. Niết-bàn cũng vậy. Phàm phu, Nhị thừa, cho đến Thập trụ vì không thể đạt đến, nên gọi là Đại."
6. Vì sâu nên gọi là Đại. Như biển sâu thẳm, gọi là biển cả, nên, văn sau nói: "Đại, gọi là không suy nghĩ bàn luận, sâu thẳm khó đo lường, gọi là không suy nghĩ bàn luận. Thể của đại khác nhau, sơ lược có ba thứ:
Thể đại: là Niết-bàn Tánh tịnh, thể cùng khắp chân tánh, nghĩa tràn đầy pháp giới.
Tướng đại: là Niết-bàn Phương tiện, vượt qua chẳng có gì không cùng tận, về đức đều đầy đủ.
Dụng đại: là Ứng hóa Niết-bàn: Công dụng mầu nhiệm rộng khắp. Vì khéo hóa độ vô tận, nên văn sau nói: "Đại Bát-niết-bàn, có công năng kiến lập nghĩa Đại, nghĩa giống như công dụng.
Vì có ba nghĩa này, nên gọi là Đại. Nói bát, Hán dịch là "Nhập".
Nghĩa nhập có ba:
1. Nói theo thật thì, dứt vọng về chân, từ nhân hướng về quả, gọi là "Nhập".
2. Y theo hóa thân để nói về nhập, thị hiện diệt có nhân, hiện quên mất thân trí, thú nhập vô vi.
3. Y cứ ứng chân tương đối để nói là nhập, dứt hóa về chân. Nay, ở đây đã giải thích đủ ba nghĩa gọi là Niết-bàn.
Có người giải thích: "Chẳng phải Phạm, chẳng phải Hán, mà trực tiếp là lời Phật nói. Nếu nói về lời Phật thì tất cả đều đúng, đâu phải chỉ có Niết-bàn, nên văn sau nói: "Các thứ dị luận văn chương, chú thuật đều là Phật nói. Dù do Phật nói, nhưng vẫn không lìa phương ngôn, nếu lìa phương ngôn thì Phật sẽ không nói, sao lại nói là chẳng phải Phạm, chẳng phải Hán?
Có người lại nói: "Niết-bàn là tiếng Thiên trúc, là gọi chung muôn đức, Hán không có danh từ để phiên dịch, nên giữ nguyên âm Phạm, gọi là Niết-bàn. Thể của Niết-bàn thật sự đầy đủ muôn đức. Danh từ Niết-bàn chẳng phải cùng tận muôn đức. Nếu danh từ Niết-bàn bao gồm muôn đức đi thì đó chính là thời gian giảng nói muôn đức, không nên tùy theo đức lại lập ra danh từ muốn nói muôn đức thì lại đặt ra tên khác, ý nói biết chẳng phải chung. Nếu nói Hán không có danh từ để dịch, thì nghĩa này không đúng. Chẳng hạn như trong đoạn văn sau đây nói: "Như lai tùy từng loại, bảo khắp chúng sinh". Hôm nay, Như lai sắp nhập Niết-bàn, tùy ngôn âm, dạy bảo khác nhau, thì sao không thể dịch? Nay, chính là lúc dịch lẫn nhau, gọi Niết-bàn là diệt. Tùy nghĩa bên cạnh mà dịch, dịch là nhiều thứ khác nhau hoặc dịch là bất sinh, hoặc dịch bất diệt, hoặc dịch là không thiêu, hoặc gọi là không dệt. Hoặc dịch là vắng lặng, hoặc dịch là vô vi, hoặc dịch là vô tướng.
Với nhiều cách dịch chẳng phải duy nhất như vậy, thì làm sao biết là diệt không phải chung? Nay, ở đây, lại dùng bốn nghĩa để xem xét:
1. Y theo giáo xưa để tìm: Thuở xưa, Đức Như lai trong Khế kinh khác, thường giảng rộng về chỗ sinh tử nhân quả đều không, dùng làm Niết-bàn. Ngày nay Danh từ Niết-bàn, không khác với xưa, đâu thể bỗng nhiên là chung?
2. Y theo sau cùng để xem xét: Hiện nay, Đức Như lai ngự trong rừng cây Ta-la, tuyên bố khắp rằng: "Nói đến Niết-bàn hiện nay, chúng sinh nghe rồi, đều cảm thấy buồn rầu bi lụy, bèn đến xin Phật trụ lại. Nếu cho rằng, Niết-bàn là gọi chung muôn đức thì đây là xướng rộng muôn đức, bảo cho người biết, chúng sinh lẽ ra vui mừng vì sao lại buồn bã, khóc than mà đến chỗ Phật xin Phật trụ lại? Do đây, xem xét chính xác, biết rõ chẳng phải chung.
3. Định chuẩn phương ngôn, người nước ngoài kia thấy người chết, đều nói là người ấy Niết-bàn. Người đời chết, đức nào có thể là chung?
4. Dùng văn để chứng minh, như trong văn sau, Đức Phật khen Thuần-đà có thể biết Như lai nói rằng, đồng với Niết-bàn phương tiện của chúng sinh. Chúng sinh thế gian không hề có Niết-bàn muôn đức kia, cho nên thị hiện đồng? Vì chính Như lai đều vắng lặng đồng với thế gian, gọi là thị hiện Niết-bàn. Lại, trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, sau khi nói kinh Pháp Hoa xong, đến gần sáng, mới nhập Niết-bàn. Bài tụng ở dưới chép: "Phật đêm nay diệt độ, như củi hết, lửa tắt", là nói biết Niết-bàn là diệt, chứ chẳng phải chung.
Hỏi: Nếu nói Niết-bàn là Diệt, văn dưới nói rằng, lửa của các kiết đã tắt, gọi là diệt độ. Vì lìa giác quán, nên gọi là Niết-bàn, tức là Niết-bàn khác hẳn với nghĩa Diệt, sao lại gọi Niết-bàn là Diệt? Giải thích rằng: "Người nước ngoài cho rằng Diệt có nhiều danh từ, cái gọi là Niết-bàn Tỳ-ni và và Di-lưu-đà v.v... vì danh từ có nhiều, nên theo nghĩa khác của các danh từ đó, đều đặt ra danh từ khác nhau về bố thí, cho nên diệt giác quán, gọi là Niết-bàn. Lửa các kiết đã tắt, lại đặt ra tên gọi khác, Hán dịch là Diệt. Danh từ của địa phương này ít: Niết-bàn Tỳ-ni, Di-lưu-đà v.v..., đồng phiên dịch là Diệt. Cũng như người nước ngoài nói là Bồ-đề Mạt-già, Hán dịch là Đạo. Thế nào là Diệt? Diệt có bốn nghĩa:
1. Sự diệt: Diệt nhân sinh tử, hết quả sinh tử.
2. Đức diệt: Xả tu yên ổn vắng lặng, gọi là Diệt. Lại, chân đức của Phật lìa tướng, lìa tánh, cũng gọi là Diệt. Nói lìa tướng, như đề hồ thanh tịnh, dù thể là có, mà không có các tướng xanh, vàng, đỏ, trắng v.v... cũng như tâm thức của tất cả chúng sinh, dù tự thể là có, nhưng không có tướng trạng lớn nhỏ, dài, ngắn v.v... Niết-bàn cũng vậy. Thể dù là có mà không có một tướng, không có tướng gì v.v..., như văn sau nói rằng, không có các tướng về sắc, hương vị, xúc, không có các tướng sinh, trụ, diệt, nam, nữ v.v... cho đến không có tự tướng để chấp lấy.
Nói lìa tánh: Các đức đồng thể trong đại Niết-bàn đều do tướng chung nhóm hợp thành, không có một đức nào giữ riêng tự tánh. Như y theo các đức để nói rộng ý nghĩa Thường. Lìa các đức không có riêng một tánh thường nào để được. Vì các nghĩa đều như vậy, nên văn sau nói: "Lại, vì chẳng phải riêng khác, nên thành Niết-bàn"
3. Ứng diệt: Tùy hóa độ thế gian, thị hiện diệt có nhân, hiện mất thân trí.
4. Lý diệt: Như trong kinh nói: "Một khổ diệt đế, tất cả chúng sinh, rốt ráo vắng lặng, là tướng Niết-bàn như vậy v.v... Về lý, Diệt có hai thứ:
Tướng không: các pháp vọng tưởng là không, chẳng có tự thể.
a. Chân không: pháp thật nhiều như số cát sông Hằng trong Như lai tạng, lìa tướng tánh.
Nói lìa tướng: Như Bồ-tát Mã Minh nói: "Nghĩa là chẳng phải có tướng, chẳng phải không có tướng, chẳng phải "Không có tướng", chẳng phải "Chẳng phải không có tướng". Chẳng phải "Có", "Không" đều cùng có tướng. Chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng. Chẳng phải "Không phải tự tướng", chẳng phải "Không phải tha tướng". Chẳng phải tự tha, đều là tướng.
Tất cả tâm giả dối, phân biệt như vậy đều không tương ưng, chỉ chứng cảnh giới, nói là lìa tánh: Là pháp của Chư Phật đều đồng một thể tánh, nhóm hợp lẫn nhau mà thành, không lìa, không thoát, không dứt, không khác, vì đồng thể nên không có một pháp nào giữ riêng tự tánh. Về nghĩa diệt có nhiều, nhưng chủ yếu chỉ có bốn diệt này. Trong bốn diệt này, lý diệt là gốc. Do thấy tướng không, nên thành sự "Diệt" trước. Do thấy chân không, nên thành đức "Diệt" ở trước. Nương đức khởi dụng, liền có ứng "Diệt". Nếu do tướng phân biệt nói là ba diệt trước, cho là Niết-bàn, gồm thâu tướng để giải thích, thì cả bốn diệt đều là tướng.
Hỏi: Kinh này nói đủ các nghĩa, vì sao nói nghiêng về Đại Niết-bàn ư?
Đáp: Vì Niết-bàn là tông, nên nói nghiêng về. Cũng có thể vì các nghĩa không thể bày tỏ đủ, nên nêu Niết-bàn-na, gọi là nghỉ ngơi. Nay, lược qua không nêu, nghỉ ngơi có ba nghĩa:
1. Thôi dứt nhân quá hữu vi sinh tử, thú nhập vô vi, gọi là nghỉ ngơi.
Thôi dứt tu hành Khế hợp với thật, gọi là nghỉ, nên văn dưới nói: "Nếu dứt trừ được việc đã làm của ba mươi bảy phẩm, thì được gọi là Niết-bàn."
2. Thôi dứt hóa độ, trở về chân, gọi là "Nghỉ", đây là nêu điều được giải thích, kinh là cái có công năng giải thích. Âm chính của nước ngoài gọi Tu-đa-la, Hán dịch là chỉ khâu, do công năng xuyên suốt tất cả pháp tướng, như sợi chỉ xâu hoa. Cho nên, cứ theo dụ, nói là sợi ngang; Mà nói kinh là sợi ngang để xâu hoa, sợi dọc (kinh) có công năng giữ gìn sợi ngang. Công dụng tương tự, nên gọi là kinh. Nếu theo sự chỉ dạy của thế tục, thì kinh là thường, một trong các pháp của giáo, trải qua từ xưa đến nay, hằng có, gọi là thường.
Phẩm Tuổi thọ: Dựa vào nhiều phẩm kinh gọi là phẩm Tựa. Y theo kinh Tiểu Phẩm, gọi là phẩm Tuổi thọ. Các kinh lập ra phẩm đại khái có ba: Hoặc có từ ngữ rộng, hoặc lại y cứ mà lược, hoặc ngay nơi danh tương mà lấy. Ở đây nói tuổi thọ, là nói lược. Do kệ của Bồ-tát Ca-diếp ở dưới, sau khi thỉnh Phật, nói về lòng Từ bi của Ngài là do nhân duyên không sát sinh, nên được sống lâu. Y theo thuyết này để bày tỏ danh, gọi là phẩm Tuổi thọ. Kỳ hạn của mạng, gọi là thọ. Thần tuệ không dứt, gọi là mạng. Phẩm là phẩm riêng, cũng có thể phẩm là phẩm loại của tuổi thọ. Tùy phẩm tuổi thọ đã nói, vì mỗi loại đều đồng nhóm, nên nói là phẩm loại.
Kinh này gồm có mười ba chương riêng. Phẩm này là mở đầu, nên gọi là thứ nhất.
Văn trước sau của kinh này, chia ra làm năm phần:
1. Phần tựa
2. "Thuần-đà trở xuống", mở ra tông chỉ của kinh, nói về phần đức.
3. Ba lần bảo trở xuống, phần là nói về tu thành đức.
4. Nếu người nào biết được, thì đó gọi là Sa-môn, Bà-la-môn" trở xuống là phần phá tà, thông chánh.
5. Phần Xà-di cúng dường sau khi Như lai diệt độ.
Một phần sau đây, nước ngoài không đến, vì việc hóa độ hẳn là có lý do, nên trước là, nói bài tựa. Do tựa đã khởi, phải được giải thích rõ ràng, nên kế là phần thứ hai, mở ra tông chỉ, làm sáng tỏ đức. Tông là quả mầu tròn đầy cùng cực của Chư Phật, vì quả được thành là do nhân, nên kế đây, thứ ba là nói, về tu thành đức. Chân pháp đã mở ra, vì muốn được giải thích, truyền thừa, hóa độ không dứt, nên kế là phần thứ tư, phá tà, thông chánh, nên ở văn dưới, đối phá ngoại đạo, thông qua chánh nghĩa, đối phá các ma để suốt thuyết đúng. Vì hóa độ đã khắp, hiển bày nghiêng về vắng lặng, nên kế là phần thứ năm, Đức Như lai thị hiện nhập diệt. Người, trời, đại chúng, trà-tỳ cúng dường.
Hỏi: Mọi người thường dùng ba phần, để chia khoa kinh này. Nay, vì sao lại chia ra thành năm?
Đáp: Theo kinh Thắng Man v.v..., văn được chia thành ba phần, thật ra vì có đạo lý, nên trước mười lăm chương trong kinh ấy, có bài tựa riêng. Sau mười lăm chương lập riêng phần lưu thông. Văn phán quyết kinh này khác với mười lăm chương kia, vì phần năm chẳng phải phần lưu thông. Lại, các luận giả soạn luận, giải thích kinh, phần nhiều cũng không dùng văn chia ra ba phần. Phần đầu tiên trong năm phần một là phương tiện hóa độ làm lợi ích, ba phần giữa chính là đem lại lợi ích cho chúng sinh, một phần sau là hóa độ xong, chứng diệt.
Theo nghĩa trong bài tựa đầu, chủ yếu có hai phần:
1. Tựa phát khởi. 2. Tựa chứng tín.
Nói về hai bài tựa này, sơ lược có năm môn:
1. Giải thích danh nghĩa và chỉ rõ ý lập.
2. Nói về tên gọi khác nhau của hai bài tựa, và nói về được, mất.
3. Nói về sự thông suốt hạn cuộc của tên gọi hai bài tựa.
4. Quyết định bỏ văn trước của hai bài tựa.
5. Theo văn giải thích, y theo môn đầu, trước là giải thích danh nghĩa. Nói phát khởi, là Phật sắp nói kinh, trước dựa vào thời gian, nơi chốn, thần lực nhóm hợp chúng, phát khởi đề tài sẽ giảng nói, gọi là phát khởi, vì sự phát khởi này làm lý do cho sự giảng nói, nên gọi là lời tựa phát khởi.
Nói chứng tín: Khi xưa, Tôn giả A-nan đã vâng lãnh lời Phật nói, vì muốn đem những điều mình đã được nghe Phật nói để truyền trao lại cho thời đại mạt pháp, nên trước là đối với chúng sinh, nói pháp như vầy: "Tôi được nghe từ Phật, chứng thành đáng tin, gọi là Chứng tín. Dùng chứng tín này làm lý do cho việc truyền bá kinh, gọi là tựa chứng tín, danh nghĩa như vậy.
Kế là, nói về ý lập. Vì sao có hai? Do kinh có hai, nên kinh chính là một, không hề có hai. Thể kinh dù là một, nhưng y theo thời gian, y cứ con người, nên được chia thành hai:
1. Kinh do Như lai nói.
2. Kinh do Tôn giả A-nan truyền thừa. Kinh do Như lai nói, đem lại lợi ích cho người đương thời. Kinh do Tôn giả A-nan truyền thừa lời Mạt pháp đối với hai kinh này, nên lập ra hai bài tựa, đối với lời Phật đã nói lập ra bài tựa phát khởi, đối với sự truyền thừa của A-nan mà lập ra bài tựa chứng tín.
Trong môn thứ hai, trước nói về sự khác nhau của giữa tên hai bài tựa. Sau nói về được, mất. Danh có chia làm bốn:
1. Ngay nơi tướng là Danh, gọi là phát khởi, kể cả chứng tín.
2. Y theo người để đặt tên, gọi là tựa Như lai và tựa A-nan.
Tựa phát khởi: Điều mà Như lai làm, gọi là tựa Như lai. Tựa chứng tín: Điều mà A-nan đã làm, gọi là tựa Anan.
3. Y theo thời gian để đặt tên, gọi là tựa hiện tại và tựa vị lai. Tựa Như lai gọi là tựa hiện tại, tựa A-nan gọi là tựa vị lai.
4. Đối với kinh để đặt tên gọi, gọi tựa trước kinh và tựa sau kinh.
Tựa của Như lai, gọi là trước kinh, tựa của A-nan, gọi là sau kinh. Đây gọi là Phật nói cho đó là kinh. Y cứ theo kinh này, do trước sau khác nhau, nên tựa chứng tín của A-nan lại có một danh hiệu, gọi là tựa Di giáo. Phật sắp diệt độ, có để lại ngôn giáo, nên gọi là Di giáo. Danh hiệu khác nhau là như vậy.
Kế là nói về được, mất. Trong bốn cặp này, danh nghĩa của chứng tín, phát khởi không có bốn khác nhau. Trong cặp thứ hai là tựa A-nan, danh hiệu cũng không có lỗi. Nói về tựa Như lai, nghĩa không đầy đủ, thế nào là không đầy đủ? Như nói: "Thắng Man, có Phật hóa chủ, vua và năm người ảnh hưởng của phu nhân Chiên đề Thắng Man, đều là phát khởi. Sự phát khởi của các kinh phần nhiều chẳng phải một mình Phật. Nếu phát khởi, gọi là tựa Như lai thì sẽ mất đi ý nghĩa phát khởi của người khác, vì tựa Như lai có lỗi cần bỏ. Bài tựa Anan, nghĩa là đối cũng không lập. Hiện tại trong cặp thứ ba không rỏ ràng, vị lai không tiện, nghĩa này thế nào? Nếu kinh Như lai nói ở hiện tại, với tựa đã lập gọi là hiện tại, thì lúc A-nan truyền thừa, cũng là tựa đã được lập ở hiện tại, sao chẳng phải hiện tại? Nếu đối với thời gian Như lai nói pháp ở hiện tại, thì tựa A-nan gọi là vị lai? Tức là đối với lúc mà A-nan truyền thừa, thì tựa Như lai lẽ ra gọi là quá khứ. Dù Phật là quá khứ, nhưng chính khi nhận lấy lời Phật nói là hiện tại. A-nan cũng vậy, đối với Phật dù là vị lai, nhưng khi nhận lấy truyền thừa cũng là hiện tại, cả hai đều là hiện tại, đâu thể nghiêng về gọi là vị lai? Vì vị lai có lỗi, cần phải bỏ. Đối với hiện tại, về sự cũng không lập. Trong cặp thứ tư trước kinh không có lỗi, sau kinh không tiện. Nếu nói là sau kinh thì làm sao gọi là Tựa? Nếu nói là tựa thì chẳng phải sau kinh, nên biết hai bài tựa y cứ đối với hai kinh đều là trước kinh, không thể phán nghiêng về một là sau kinh bởi sau kinh không tiện, nên phải bỏ. Cái đối trước kinh, về nghĩa không lập, vì các danh hiệu ở đây đều có lỗi, nên giải thích nay, chỉ có tên gọi là chứng tín, phát khởi.
Phần ba là nói về sự thông suốt cuộc hạn của danh hai bài tựa kia. Nói chung thì hai tựa đều gọi là chứng tín, cùng gọi là phát khởi. Vì ý lập tựa đều sinh kính tin, nên gọi chung là chứng tín, vì đồng là phát khởi, nên đều có tên là phát khởi. Nay, vì chia ra hai tựa, nên bài tựa Như lai được gọi riêng là phát khởi, tựa của A-nan được gọi riêng là chứng tín, đồng là tựa riêng, tùy tiện để tỏ bày. Về nghĩa tiện thế nào? A-nan là Tiểu thánh, sợ người khinh thường, chê bai, nên ý lập bài tựa với mục đích để phát sinh lòng tin, nên hiện nay, người giải thích đối với bổn ý của A-nan, gọi là tựa A-nan để làm chứng tín. Như lai là bậc Đại thánh, con người đều tôn trọng, tin tưởng, nên với ý lập tựa phần nhiều là phát khởi. Vì không chỉ được niềm tin, nên nay, người giải thích đối với bổn ý của A-nan, gọi là phát khởi.
Phần thứ tư, là quyết định phần trước của văn kia phải bỏ. Trước, nêu lên thuyết khác; kế là nói về được, mất. Sau là nói về nghĩa đúng.
Thuyết khác thế nào? Tương tuyền từ xưa đến nay, nói là câu trong chứng tín có năm phần:
1. Như vậy.
2. Tôi nghe.
3. Một thuở nọ.
4. Nơi chốn.
5. Cùng nghe.
Người giải thích sau này lại thêm một là Phật. Nói chung, thuyết khác nói có sáu. Thuyết khác như thế. Nói được mất, nghĩa là "Tôi nghe như vầy", phán quyến thành chứng tín. Lời nói này hợp lý, là được.
Một thuở nọ, Phật v.v..., là phán quyết nhất định ở sau kinh. Lời này trái lý, là mất. Nghĩa này ra sao?
Trước, dùng việc để hỏi, sau dùng văn để chứng minh. Nói là dùng việc để hỏi, nghĩa là "một thuở nọ, Phật v.v...". Nếu là sau kinh thì trước kinh không có Phật, ai nói kinh? Không có thời gian, không có nơi chốn, thì sẽ dựa vào đâu để nói? Trước kinh không có chúng, thì nói pháp trùm khắp cho ai? Dựa vào các đối tượng này, sinh khởi pháp đã nói, đâu thể hoàn toàn phán quyết là sau kinh? Có người lại chống chế: "Về sự dù là trước kinh, nhưng sau lại dẫn để chứng thành đáng tin, nên xếp vào sau kinh. Nếu vậy thì đâu riêng gì năm câu, sáu câu. Thuyết đúng về trước chỉ có sự, có bao nhiêu ngôn thuyết đều là dẫn đến sau. Như lưu huyết trong kinh này về trước, ngay khi đó chỉ có sự mà thôi. Ngôn thuyết trong đây đều do A-nan dẫn ra trong thời gian sau. Nhưng sáu thứ tướng v.v... trong văn dưới v.v... dù được dẫn đến sau, nhưng vẫn được xếp vào trước kinh.
"Một thuở nọ, Phật v.v..." vì sao không như vậy? Do đây mà suy nghiệm: "Một thuở nọ, Phật v.v..." nhất định xếp vào sau kinh, thật chẳng đúng lý, vì về sự thì xem xét như thế, nay dùng văn để chứng minh, như Địa luận kia có giải thích: "Thời gian, nơi chốn v.v... mà Đức Phật đã nói pháp cho cõi trời Tha hóa vào ngày thứ mười bốn, so sánh để chỉ rõ sự vượt hơn. Vì pháp này vượt hơn, nên ở vào thời gian đầu và nơi chốn vượt hơn để nói. Đức Phật sắp nói kinh, trước là dựa vào thời gian, nơi chốn, để nói lên pháp vượt hơn. Sau đó, khởi sự nói, đủ biết là khởi phát trước kinh về thời gian, nơi chốn. Lại, luận Pháp Hoa giải thích kinh Pháp Hoa, về nghĩa cũng giống như vậy. Vì sao lời nói kia lại xuất phát từ núi Kỳxà-quật ở thành Vương xá? Vì pháp này vượt hơn, nên mượn chỗ để nói lên pháp, rồi sau đó mới mở đầu nói, nói chẳng phải sau kinh, được mất như vậy."
Kế là nói về nghĩa đúng. Tôi nghe như vầy, hoàn toàn là chứng tín. "Một thuở nọ, Phật v.v..." trở xuống về nghĩa gồm cả hai, lấy nghĩa phát khởi đúng vào thời điểm đó, xếp vào phát khởi. A-nan dẫn đến chứng thành đáng tin, xếp vào chứng tín. Về nghĩa đã gồm cả hai, không thể lấy nghiêng một bên.
Trong môn thứ năm, trước nói về lời nói "tôi nghe như vầy". Giải thích là Ba môn:
1. Giải thích lý do có câu: "Tôi nghe như vầy".
2. Nói về ý lập.
3. Giải thích văn đó. "Tôi nghe như vầy". Vì sao có? Vì Phật dạy, vì sao Phật dạy? Vì A-nan thỉnh, vì sao thỉnh? Vì A-ni-lâu-đà dạy. Vì sao Ngài dạy? Vì thấy tâm A-nan lo buồn, vì sao Tỳ-kheo A-nan lo buồn? Vì thấy Như lai nhập Niết-bàn.
Đức Phật sắp diệt độ trong Song lâm, nằm nghiêng, đầu xoay về hướng Bắc. Bấy giờ, vì Đức Phật sắp nhập diệt, nên A-nan cảm thấy lòng mình buồn bã khôn nguôi, không thể tự kiềm chế. A-Ni-lâu-đà khai giác A-nan: "Ông là người truyền thừa chánh pháp, sao không xin Phật dạy cho việc ở đời vị lai, luống buồn bã nào có ích gì? A-nan đáp: "Hiện giờ, tâm tôi đang chìm trong biển lo buồn, còn biết gì đâu mà hỏi." A-ni-lâu-đà bèn hỏi Anan xin Đức Phật dạy cho bốn việc:
Hỏi: Sau khi Phật diệt độ, các Tỳ-kheo v.v... lấy gì làm thầy? Hỏi: Tỳ-kheo phải nương tựa vào đâu mà ở?
Hỏi: Tỳ-kheo tội ác, làm sao ở chung? Hỏi: Ở đầu tất cả kinh, phải đặt chữ gì?
Nghe xong, tâm A-nan hơi tỉnh ngộ, tiếp nhận lời dạy bảo thỉnh Phật. Phật đáp từng câu hỏi:
"Các Tỳ-kheo lấy gì làm thầy?" là phải nương tựa Ba-la-đề-mộc-xoa làm thầy. Nếu ta còn ở đời thì cũng không có gì khác. Mộc-xoa là giới, điều mà Tỳ-kheo phải học, nên nói là thầy.
"Tất cả Tỳ-kheo phải nương tựa vào đâu để ở?" Phải nương vào bốn Niệm xứ để ở. Bốn Niệm xứ gồm: "Cái gọi là Tỳ-kheo quán sát trong thân, quán sát quanh thân, tinh tấn, siêng năng nhất tâm, dứt trừ tham lo của thế gian. Quán ngoài thân trong ngoài thân như vậy, thân, thọ tâm, pháp cũng như vậy. Đây là trụ xứ mà Tỳ-kheo được nương tựa.
Thế, nên kinh chép: "Nếu trụ ở bốn niệm thì gọi là cảnh giới của mình, không bị ma ràng buộc. Nếu trụ năm dục, thì gọi là cảnh giới của người, sẽ bị ma buộc ràng." "Đối với Tỳ-kheo tội ác thì làm sao ở chung?" "Phải dùng phạm đàn để đối trị họ, hoặc điều phục họ, nói cho họ nghe kinh lìa "Có", "Không". Phạm đàn là im lặng, không nói chuyên với họ."
"Mở đầu tất cả kinh nên đặt chữ gì?" "Phải để "Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Phật đang ngự ở địa phương nào? Tòng lâm nào? Do bổn giáo của Phật, nên có lời này."
Nói ý lập: Vì khiến cho chúng sanh kính tin, làm sao sinh niềm tin? Nói "Như vầy: A-nan bày tỏ rằng, mình tự tin lời Phật nói. Đạo mà Phật nói, dùng làm "Như vầy", sao cho chúng sinh khác đồng với mình sinh ra niềm tin."
Nói "Tôi nghe": "A-nan tự là người không đủ, nếu nói pháp này là do tôi nói thì mọi người sẽ không tin, còn nói "Tôi nghe", thì mọi người sẽ sinh niềm tin. Sinh niềm tin như vậy. Tin có nghĩa gì mà được sinh ra ư? Tin, nghĩa là người đó nhập vào môn đầu của pháp, đứng đầu trong nhiếp pháp. Hễ vào pháp Phật, thì trước phải sinh niềm tin, nên trong kinh Hoa Nghiêm nói tín là tay. Như người có tay vào trong kho báu, tùy ý mà lấy. Nếu không có tay thì chẳng lấy được gì. Đức tin cũng vậy. Người vào pháp Phật, có tay tín tâm, thì sẽ tùy ý nhặt lấy của báu đạo pháp. Nếu không có lòng tin, thì sẽ chẳng lấy được gì.
Kế là giải thích văn đó: Trước nói về "Như vầy", trong đó, trước y theo người để quyết định. Sau đó, sẽ giải thích. Thế nào là quyết định? Trước nay, thường y theo A-nan để giải thích. A-nan đã truyền thừa "Như" lời Phật nói, nên gọi là "Như". Vì phân biệt tương tự, nên lại nói là "Thị". Tin xét lời này, y theo Phật để giải thích, chứ không phải y cứ ở A-nan. Vì sao được biết? Như luận Đại Trí Độ chép: "Như vầy", nghĩa là từ tin thuận. Người tin tưởng kia nói việc này như thế. Kẻ không tin, nói việc này không như thế. A-nan bày tỏ niềm tin của mình thuận theo lời Phật, gọi là Phật nói, cho là như thế. Lại Kinh Ôn Thất, đầu tiên chép: A-nan chép: "Ta từ Phật nghe như thế", nên biết A-nan gọi là Phật nói, cho là "Như vầy". Chỉ là phương ngôn khác nhau. Kinh Ôn
Thất kia thuận theo phương ngữ này, nên nói "Từ Phật nghe như thế". Kinh khác phần nhiều thuận theo ngữ của nước ngoài, trước nêu "Như vầy", sau là bày tỏ "Tôi nghe", nhất định là như vậy, giải thích ra sao?
Nói "Như thị", giải thích có hai nghĩa:
1. Giải thích theo pháp: A-nan nói Đức Như lai kia đã nói "Như" đối với các pháp, nên gọi là "Như" nói lý đúng như lý, nói sự đúng như sự, nói nhân đúng như nhân, nói "Quả" đúng như quả. Tất cả lời nói "Như pháp" như thế, vì hợp với lý, nên nói là "Như thị". Vì trái với pháp, gọi là "Phi", nên lời đúng pháp, được gọi là "Thị".
2. Giải thích theo người: A-nan nói: "Nay, thuyết mà Đức Thích-ca nói là đúng với thuyết mà tất cả các Đức Phật quá khứ đã nói, nên gọi là "Như". Như Chư Phật đã nói, vì hợp với lý, nên nói là "Như thị". Bởi trái với Phật đã nói là sai, đúng như Chư Phật đã nói thì được gọi là đúng.
Nói "Tôi nghe": A-nan đối với chúng sinh ở vị lai kia nói đã ăn, nên nói là "Tôi nghe", nghe thật là đúng.
Sao lại xưng là "Ngã"? Vì sự khác nhau giữa các căn đều là dụng của "Ngã" đầy đủ. Vì y theo chủ để gọi, nên nói là "Tôi nghe".
Hỏi: Trong pháp không có nhân, sao lại y theo chủ để nói "Tôi nghe"?
Đáp: Trong pháp dù chẳng có chủ thể cố định, nhưng chẳng phải không có giả danh. Vì chấp vào chúng sinh, nên được gọi là "Ngã". Ví như bốn thứ binh nhóm hợp để thành quân, dù không có chủ nhất định, nhưng cũng được gọi là quân "Ta" dũng cảm, mạnh mẽ, quân "Ta" đã chiến thắng quân địch kia. Ở đây cũng giống như vậy.
Hỏi: A-nan là bậc Thánh đã đắc lý, vì sao đồng với phàm phu nói là "Ngã"?
Đáp: Dù Tôn giả A-nan nói "Ngã", nhưng khác với phàm phu.
Khác là sao? Nói "Ngã" có ba:
1. Thấy tâm nói "Ngã": nghĩa là "Ngã kiến" của các phàm phu chưa mất, đối với tâm này nói là có "Ngã".
2. Tâm ngã mạn: nói "Ngã" là những người có tu học, "Ngã kiến" dù mất, nhưng "Ngã mạn" vẫn còn trong tâm ngã mạn này, giảng nói có "Ngã".
3. "Ngã" truyền bá ở đời: nghĩa là người Vô học, kiến mạn đã dứt trừ, theo sự truyền bá của thế gian, xưng nói có "Ngã". Tôn giả A-nan vào thời gian kiết tập pháp, thân đã chứng Vô học, kiến mạn đã dứt bỏ, theo sự truyền bá của thế gian, xưng nói có "Ngã", cho nên khác nhau.
Hỏi: Vô "Ngã" là hơn, có "Ngã" không bằng, sao không theo hơn mà theo kém để nói "Ngã"?
Đáp: Giáo hóa chúng sinh chấp "Ngã", thì pháp cần phải "Như thị". Nếu không có "Ngã" thì do đâu để được nêu riêng kia đây, để giúp người nhận biết. Cho nên, đến Phật giáo hóa chúng sinh chấp ngã, đều tự nói "Ngã".
"Một thuở nọ" trở xuống, về nghĩa dù gồm cả hai, nhưng đối với bài tựa hoàn toàn chứng tín ở trước, nay y cứ phát khởi riêng để giải thích, qua đó đầu tiên y theo Phật để nói về nơi chốn.
"Với đại" trở xuống, y theo Phật để nói về chúng, thời gian thì gồm chung. Trong phần trước có ba:
1. Nói về thời gian giáo hóa.
2. Nói về chủ giáo hóa.
3. Nói về nơi chốn giáo hóa.
Nói "Một thuở nọ", là vì thời gian hóa độ. Trong nói về thời gian này, trước nêu thuyết khác, kế là nói về lỗi sai. Sau, chỉ bày về nghĩa đúng. Nói thuyết khác là: Theo tương truyền xưa nay nói rằng thời gian Phật nói pháp, khi A-nan nghe, thì không có trước, sau. Phân biệt bỏ đi lối tương truyền sai lầm thành "Tôi nghe" nói trên, cho nên nói một thuở nọ. Thuyết khác nhau như thế, nói lỗi thế nào? Trước dùng sự trình bày, sau, dùng văn chứng minh.
Nói "dùng việc để thưa hỏi": A-nan sinh vào đêm Phật đắc đạo. Phật thành đạo rồi sáu, bảy ngày sau thì Ngài liền nói kinh. Nếu theo Đại thừa thì quá mười bốn ngày sau, Đức Phật mới nói kinh. Lúc bấy giờ, A-nan vẫn còn ở trong thai mẹ, không thể tham dự đại hội.
Hai mươi năm sau, A-nan mới xuất gia, ba mươi năm sau, mới làm thị giả. Từ thời gian này về trước, các kinh do Phật nói, phần nhiều A-nan không đích thân nghe, dù không đích thân nghe, nhưng hầu hết các kinh đã được kiết tập đều nói rằng "Một thuở nọ". Phán quyết biết "Một thuở nọ" chẳng phải là phân biệt lời lẽ truyền tụng nhau. Lại, trong Tiểu thừa, không được nói rằng Anan là quyền, thì làm sao được nói là nghe ở một thuở nọ? Do đó mà suy ra, biết chắc chắn lời nói của con người không đáng nương tựa. Làm sao biết được A-nan đã giáng sinh vào đêm Phật đắc đạo? Để chứng minh cho nghĩa này thì phải biết về nhân duyên đặt tên A-nan.
A-nan-đà là danh tiếng nước ngoài, Hán dịch là Hoan hỷ, Hỷ có ba nhân duyên:
1. Nhân duyên quá khứ: Đức Thích-ca, lúc còn làm Bồ-tát ở quá khứ, thấy Phật Thích-ca đời quá khứ, cha tên Tịnh Phạn, mẹ tên Ma-da, đệ tử thị giả tên là A-nan. Cõi nước, quyến thuộc so với ngày nay không khác. Do đó, liền phát nguyện: "Nguyện tôi đời đương lai sẽ được thành Phật đạo, như nay không khác." Do bổn nguyện này, mà nay đắc quả, nay thị giả cũng tên A-nan.
2. Nhân duyên hiện tại: A-nan rất khôi ngô, ai nhìn thấy cũng đều vui mừng, nên tên là Hoan hỷ.
3. Cha mẹ đặt tên: Vì sao cha mẹ, đặt tên là Hoan hỷ, vì A-nan sinh vào lúc vui mừng. Lúc vui mừng là sao? Là lúc Phật đắc đạo. Năm mười chín tuổi Đức Như lai, vượt thành xuất gia, xuất gia rồi, tu định suốt năm năm, tự nhịn đói ròng rã sáu năm. Nhà vua biết Vương tử thân thể rất yếu ớt, thường sợ không an toàn.
Về sau, Bồ-tát thấy rằng nhịn đói chẳng phải đạo, nên mở đầu nhận ăn cháo sữa, vì muốn chứng được quả Chánh giác. Bọn ma nghĩ rằng: "Nếu Phật thành đạo, thì làm cho cảnh giới của chúng ta sẽ trống rỗng, đạo quả chưa thành, sẽ làm băng hoại ý chí của mình, bèn lôi kéo mười tám muôn ức quan thuộc, đem các khổ cụ đến dọa cho Bồ-tát sợ hãi." Bấy giờ, Bồ-tát nhập định "Thắng ý từ" làm cho quyến thuộc ma phải điên đảo, tan tác. Ma đã bị Bồ-tát hàng phục, nên chúng nghĩ rằng: "Oai lực của Bồ-tát rất rộng lớn, chúng ta chẳng thể thắng được, phải khuấy nhiễu vua cha của Bồ-tát. "Đoạn chúng kéo nhau vào cung vua Tịnh Phạn, nói thế này: "Nhà vua nên biết, Thái tử Tất-đạt đã chết hồi tối hôm qua!" Nhà vua nghe nói, từ trên long sàng liền ngã nhào xuống đất, cũng như con cá. Nhà vua có cảm giác như đang bị cát nóng đốt cháy, bởi từ lâu rồi, vua nghĩ Thái tử đừng xuất gia, sẽ làm Luân vương, đâu mong gì xuất gia, chẳng được chi cả!
Trong khoảnh khắc, thần cây Bồ-đề lại nghe tin Phật vừa thành đạo, bèn rải hoa trời trên cung vua Tịnh Phạn và nói rằng: "Thái tử của đất trời vừa thành đạo đêm qua! Vào lúc sao mai vừa mọc, sau khi hàng phục ma, đã thành Phật đạo. Chính cho nên dùng hoa trời để chúc mừng! Vua nghe xong, sinh nghi, vì trước đó, đã có vị trời nói "Con ta đã chết đạo" nay lại có vị trời nói con ta thành đạo, làm sao ta tin được?"
Thần cây Bồ-đề nói: "Lời tôi đáng tin. Vì trước đây là ma, nên đã đem tin buồn đến cho ngài!"
Vua bèn nghĩ rằng: "Con ta ở tại gia sẽ làm Luân vương. Nay, xuất gia làm Pháp luân vương. Kia đây không mất. Trước đây, nghe tin con ta đã chết, nay bỗng nhiên sống nghe tin còn, là một sự vui mừng lớn. Lại, được nghe tin đã thành đạo, là hai lượt vui mừng lớn.
Không bao lâu, em vua Tịnh Phạn là Hộc Phạn nửa đêm sinh ra A-nan. Sang giờ dần, bồng con đến chỗ vua nói: "Đêm qua, em vừa mới sinh một con trai!" Nhà vua đáp: "Con ta thành đạo, hoàng đệ lại sinh con trai. Thật là nhiều nỗi vui mừng dồn dập, nên đặt tên là Hoan hỷ, do đây suy ra. A-nan chắc chắn là sinh vào đêm Phật đắc đạo.
Vì sao nói là nghe cùng lúc? Về sự, thì nghiệm như thế. Kế là dùng văn để chứng minh. Như kinh Xoay bánh xe pháp chép: "Khi A-nan kiết tập pháp, trước lên tòa cao nói bài kệ rằng: "Lúc Phật nói pháp lần đầu tiên, bấy giờ, ta không thấy, lần lượt nghe như thế. Phật đến Ba-la-nại, vì chúng năm Tỳ-kheo, xoay bánh xe pháp bốn đế. Nhưng mở đầu kinh ấy cũng nói: "Một thuở nọ". Người kia nói: "Truyền rằng". Lại nói: "Một thuở nọ", là nói biết một thời gian, không phải phân biệt tương truyền sai lầm, để nói về lỗi như vậy."
Kế là nói về nghĩa đúng: Số là Như lai vì thời gian hóa độ, nói là "Thời". Về thời gian hóa độ rất nhiều, vì phân biệt với thời gian khác, nên nói là "Một". Việc này làm sao biết được? Như trong Đại bổn của Địa Kinh kia nói: "Bấy giờ, Đức Phật ngự trên cõi trời và truyền riêng, đổi chữ "Nhĩ" thành chữ "Nhất". Nói "Lúc bấy giờ", không thể thành trên. Đổi chữ "Nhĩ" thành chữ "Nhất", đâu không thuộc dưới. Trong các kinh Phần lớn có cách so sánh này. Như trong văn dưới nói: "Một thuở nọ, ta ngự trong rừng Thi Thủ, một thuở nọ, ta ngự ở nước Cathi. Một thuở nọ, ta ngự ở thành Vương xá, một thuở nọ, ta đang ngự bên bờ sông Hằng, như thế chẳng phải "một".
Nói Phật, là là nêu vị đứng đầu giáo hóa, Hán dịch là Giác. Giác có hai nghĩa:
1. Giác sát, gọi là giác, như người giác giặc.
2. Giác ngộ, gọi là giác, như người ngủ thức dậy.
Nói giác sát là đối với chướng phiền não. Phiền não làm hại. Sự v.v... như giặc, chỉ bậc Thánh đã giác biết, không bị chúng làm hại, nên gọi là "Giác".
Nói giác ngộ: Đối với vô minh che lấp trí kia, giấc ngủ hôn mê, về sự, đồng như ngủ say. Hễ Tuệ Thánh khởi thì đại ngộ sáng rỡ, như ngủ say được thức dậy, nên gọi là Giác.
Vô minh có hai:
1. Tánh kiết là Vô minh của làm mê muội, che lấp thật tánh, vì đối trị, dứt trừ vô minh kia, nên giác sát cùng cực Như lai tạng tánh chân thật của mình, nên gọi là Giác. Không biết đối với hai việc, không hiểu rõ thế đế, vì đối trị, dứt trừ chúng, nên giác biết tất cả pháp của ba nhóm: thiện, ác, vô ký, nên gọi là Giác. Cho nên kinh Địa trì chép: "Nhóm lợi ích về nghĩa, nhóm lợi ích đối với phi nghĩa. Phi nghĩa chẳng phải là nhóm lợi ích phi nghĩa. Vì bình đẳng mở mang giác ngộ, nên gọi là Phật. Nhóm nghĩa là thiện, nhóm phi nghĩa là bất thiện. Phi nghĩa, chẳng phi nghĩa là vô ký kia. Vì đối với các nghĩa này đều biết rõ, nên gọi là Giác. Đã có khả năng tự giác ngộ, lại có khả năng giác ngộ người. Công hạnh giác ngộ đã được cùng cực tròn đầy nên gọi là Phật. Tự giác, phân biệt với phàm. Giác tha, phân biệt khác với Thanh văn, Duyên giác. Công hạnh giác ngộ được tròn đầy cùng cực, rõ ràng khác với Bồ-tát. Cho nên, một mình nghiêng về này gọi là Phật. Ở nước Câu-thi v.v... là nơi chốn hóa độ. Xứ có, chia ra bốn thứ:
1. Nước.
2. Đất.
3. Sông.
4. Rừng.
Trong chỗ đến hóa độ, gọi là ở. Nước Câu-thi, là từ ngôi thành mà đặt tên. Hán dịch là Nhuyến thảo (cỏ mềm). Trong kinh A-hàm gọi là Mâu Thành. Địa lực sĩ: y cứ có người để phân biệt chỗ ở. Vì cõi nước rộng thênh thang, nên lại chỉ riêng. Các con của lực sĩ đều sinh ở nơi này, nên, gọi là đất sinh ra lực sĩ. Bên sông A-lợi-la Bạ-đề: cứ theo sông để phân biệt nơi. Vì đất sinh cũng rộng, nên lại nói về đất, dịch là sông cát vàng.
Cây Ta-la: Y cứ theo rừng để phân biệt chỗ. Vì sông cũng rộng, nên lại chỉ quanh co. dịch là rừng kiên cố. Vì mùa đông, mùa hạ không thay đổi, nên gọi là rừng kiên cố. Vì sao cây ở nước này có hai chỗ? (Văn sau có giải thích). Về hai chỗ đất, và sông cũng sẽ có hai lý do (trong văn không giải thích).
Không thể nói ngay rằng, có người ở đây, mượn việc để nói lên pháp. Nói thành Câu-thi là thành của các vị tiên. Các vị tiên mạng sống lâu dài, biểu thị cho Phật sống lâu. Đất sinh ra lực sĩ, nói lên đại lực của Phật, không bị bốn ma hàng phục.
Sông cát vàng: nói lên sông Niết-bàn có cát Phật tánh. Rừng kiên cố, nói lên chân thân của Như lai bền chắc, không thể phá hoại. Lẽ như thế không phải do kinh nói, chưa thể quyết định.
Từ dưới đây, là phần hai, theo Phật để nói về chúng. Chia ra ba môn:
1. Y theo Phật để phân biệt.
2. Y theo chúng để phân biệt.
3. Y theo Phật, chúng tương đối để phân biệt.
Vì biết tướng hóa độ cho nên phải y theo Phật để phân biệt. Vì biết sự khác nhau giữa cũ và mới giữa người được giáo hóa, cho nên phải y theo chúng để phân biệt. Vì nhận thức được văn kia, nên phải tham luận ở Phật và chúng.
Nói y theo Phật: Phật hiện ra sáu tướng:
1. Phát ra âm thanh.
2. Phát ra ánh sáng.
3. Mặt đất rung chuyển.
4. Rừng thay đổi.
5. Tịnh độ.
6. Thâu ánh sáng trở vào miệng.
Trong sáu tướng này, trước nói về nghĩa đúng. Sau, nói chẳng phải thuyết khác.
Nghĩa đúng thế nào? Nói chung, tức sáu tướng này ở đây đều biểu thị cho diệt, làm tướng cho diệt, phần riêng trong đó, ba tướng trước là nhóm hợp chúng, ba tướng sau là khởi sự nói. Y theo hai môn trong ba tướng trước để phân biệt:
Biểu thị cho diệt để phân biệt, một là tướng âm thanh, làm cho biết thời gian nhập diệt và biết người nhập diệt.
Hình ảnh ánh sáng, làm cho biết chỗ nhập diệt.
Mặt đất rung chuyển, nói lên quyết định nhập diệt, thị hiện nhập diệt không xuyên suốt. Tướng thứ hai là nhóm hợp chúng để phân biệt:
Tướng âm thanh, tuyên bố nhập diệt, cho mọi người biết, làm cho chúng sinh vì luyến tiếc bậc Thánh nên đến.
Hình ảnh ánh sáng, làm cho biết chỗ nhập diệt, đều dứt trừ chướng ngại phiền não. Ở trước, nghe bậc Thánh nhập diệt, có tâm muốn đến, nhưng bị buồn rầu buộc ràng, vì không thể tự vận dụng thần thông, nên Phật phát ra ánh sáng xua tan phiền não trở ngại chúng sinh kia, nên văn sau nói: "Chúng sinh trong đó gặp ánh sáng này, tội nhơ phiền não, tất cả đều tiêu trừ."
Mặt đất rung chuyển: Thúc giục sao cho nhóm hợp nhanh chóng, nên dưới đây, đại chúng xem tướng, thúc giục nhóm hợp. Trong ba tướng sau cũng chia ra hai môn:
1. Rừng thay đổi: Thay đổi nơi chốn thường, chứng tỏ bậc Thánh sẽ phải ra đi.
2. Tịnh độ: Thị hiện chỗ trở về, nói lên bậc Thánh phải đến.
3. Thu nhiếp ánh sáng, thị hiện hóa thân đã khắp, chứng tỏ nhập diệt không xuyên suốt.
Đôn đốc, khích lệ tâm đại chúng, khởi sự nói, phân biệt:
1. Rừng thay đổi: chúng cõi này nhóm hợp, thấy bậc Thánh vẫn còn, hy vọng Phật sẽ không nhập diệt. Xuyên suốt tâm cầu pháp. Đức Phật vì đôn đốc, khích lệ, thay đổi rừng, thị hiện nhập diệt, để làm lớn thêm tâm cầu pháp.
2. Tịnh độ: chúng của cõi khác nhóm hợp, thấy Phật vẫn còn, mong Phật không nhập diệt, tâm cầu pháp xuyên suốt. Phật vì đôn đốc, khích lệ, thay đổi cõi nước, thị hiện nhập diệt, để tăng thêm tâm cầu pháp. Ở trước dù biết nhập diệt, nói là không diệt ngay. Tình lưu luyến vẫn xuyên suốt vì thọ lãnh giáo pháp không tha thiết, nên lại đôn đốc khích lệ, thu nhiếp ánh sáng trở vào miệng, chứng tỏ sự nghiệp hóa độ đã khắp, thị hiện nhập diệt ở hiện nay, làm cho chúng sinh càng thêm khát khao kính mến, nghe pháp liền thọ lãnh. Nghĩa đúng như thế.
Kế là, giải thích không phải thuyết khác, trong đó có ba:
1. Đả phá nhiều tướng: có người ở đây lập ra bảy tướng, sáu thứ như trước, thêm một Hiện đường, chung với trước thành bảy. Nếu Hiện đường ở trên rừng thì đường là tướng riêng. Dưới đường có ao, ao lẽ ra cũng khác. Trong ao có hoa, hoa lẽ ra cũng khác. Ao, hoa, nghiêm đường không thể chia riêng. Đường là rừng trang nghiêm, đâu được làm riêng, nên trong văn dưới, sau khi hiện đường, mới nói "Bấy giờ, rừng cây Ta-la, các thứ trang nghiêm, rất đáng yêu thích. Như vườn Hoan hỷ ở Uất-đơn-việt, nói biết không khác.
2. Đả phá một ít tướng: Có người ở đây chỉ lập bốn tướng: Mặt đất rung chuyển, tịnh độ vì chẳng phải tướng Niết-bàn, nên chỉ có bốn.
Hỏi: Vì sao mặt đất rung chuyển chẳng phải tướng Niết-bàn? Đáp: Vì đại chúng khóc lóc ai bi, nên làm cho mặt đất rung chuyển, vì chẳng phải do Phật hiện ra, nên chẳng phải tướng diệt.
Hỏi: Vì sao Tịnh độ chẳng phải tướng Niết-bàn?
Đáp: Vì Tịnh độ là do tâm đại chúng thanh tịnh, chẳng phải cảnh giới do Phật hiện ra. Lại, vì thanh tịnh rất tốt đẹp, nên chẳng phải tướng diệt. Nếu nói mặt đất rung chuyển là do đại chúng buồn khóc chẳng phải biểu thị tướng diệt. Vì sao đại chúng thấy mặt đất rung chuyển, thôi thương xót, thúc giục nhau đến chỗ Phật. Thấy tướng mặt đất rung chuyển thôi thúc, sao chẳng phải tướng? Nếu hiện tượng mặt đất rung chuyển chẳng phải là tướng, thì đại chúng đã dựa vào tướng chung nào để thôi dứt thảm thương? Nếu nói Tịnh độ là do tâm đại chúng thanh tịnh, chứ chẳng phải do Phật hóa hiện, hoàn toàn chẳng phải tướng nhập diệt, thì vì sao dưới đây lại nói nhờ thần lực Phật, nên mặt đất đều mềm mại, không nói do tâm. Nếu cõi nước trang nghiêm thanh tịnh, thì chẳng phải tướng diệt, trang nghiêm rừng cây đâu được làm tướng? Tịnh độ kia được làm tướng, thì rừng cây này cũng vậy.
3. Đả phá biểu thị khác lạ: có người nói: Tướng âm thanh thứ nhất là nói về lúc nhập diệt, không nói về nghĩa khác. Thời gian nêu trong âm thanh, tức gọi là nói lên thời gian trong âm thanh nói Phật sắp nhập Niết-bàn, sao lại không biểu thị?
Có người lại nói rằng: "Ánh sáng nói lên chỗ nhập diệt, không nói lên nghĩa khác. Nếu vậy, trong văn lẽ ra phải nói rằng "Chúng sinh gặp ánh sáng mà biết chỗ, tội nhơ phiền não đều được tiêu trừ?"
Có người lại nói: "Vì sao thay đổi rừng nói lên sự diệt độ? Vì rừng trắng là tướng chết, nên nói lên sự diệt độ. Đây là trắng tươi, chứ chẳng phải trắng đẹp, nên văn dưới nói: "Rừng kia biến thành trắng, cũng như chim hạc trắng, rất đang yêu thích. Rừng trắng đáng yêu, sao là tướng chết?"
Có người lại nói: "Tịnh độ, vì muốn nói về pháp thanh tịnh, không nói lên sự diệt." Cách phá này đồng với các phá trước: Rừng trang nghiêm nói lên diệt, Tịnh độ cũng giống như rừng kia, sao lại không biểu thị? Trên đây là phần thứ nhất, y theo Phật để phân biệt.
Phần hai, là y cứ riêng vào tín đồ để phân biệt, khai hợp không nhất định, hoặc chia thành hai, chỉ có mới và cũ. Ly, hợp được chia thành ba:
1. Nêu chúng cũ.
2. Nêu chúng mới.
3. "Bấy giờ, điềm lành Ta-la v.v..." trở xuống là tổng kết chung mới, và cũ. Văn chia làm năm:
1. Nói về chúng cũ.
2. "Âm thanh, ánh sáng v.v..." trở xuống, là nói về chúng mới kia, ngắm tướng, thêm tướng thương xót, giục giã đến chỗ Phật.
3. "Bấy giờ có vô lượng đại đệ tử v.v..." trở xuống là nói về chúng cũ ở trước xem tướng càng thương xót thêm.
4. "Lại có tám mươi trăm ngàn v.v..." trở xuống là nói về chúng mới nhóm hợp.
5. "Điềm lành v.v..." trở xuống, là tổng kết chúng nhóm hợp. Nếu tùy chúng, phân biệt có bốn mươi tám vị Tỳ-kheo cũ, mới, gồm ni là ba. Mở đầu từ một Hằng, cho đến mười Hằng, chung với trước thành mười ba. "Hai mươi hằng v.v..." trở xuống, cho đến rừng trắng, có hai mươi bốn, chung với ở trước hợp thành ba mươi bảy chúng.
"Rừng trắng v.v... về sau", là chúng phạm mới nhóm hợp, đều có Bồ-tát mười phương mới đến, chung với trước hợp thành bốn mươi tám. Nếu chia ra các tầng trời cõi Dục, các tầng trời cõi Sắc, cõi Vô sắc, thì đều chia ra bốn phương, vô lượng, vô số, Vô Biên Thân. Chúng tức không có hạn lượng. Theo lời truyền xưa, thì có năm mươi bốn chúng, hoàn toàn không đúng.
Môn thứ hai này y theo chúng để phân biệt.
Môn thứ ba, trong phần Phật, chúng hợp nói văn có mười hai:
1. Nói về chúng cũ.
2. Âm thanh, ánh sáng, nhóm hợp chúng mới.
3. Nói về chúng mới ngắm tướng, thương xót thêm.
4. Như lai làm rung chuyển mặt đất thúc giục nhóm hợp.
5. Nói các chúng thấy tướng rung chuyển, thúc giục nhóm hợp đến chỗ Phật.
6. Nói Như lai biến đổi rừng Ta-la, nhằm đôn đốc, khích lệ chúng.
7. Lại nói các chúng ngắm xem tướng, thêm buồn thương, cùng nhóm hợp, dâng cúng.
8. Tổng kết chúng nhóm hợp.
9. Biến đổi cõi nước thành thanh tịnh.
10. Vì cõi nước thanh tịnh nên đại chúng được thấy khắp mười phương.
11. Như lai gồm thâu ánh sáng.
12. Vì gồm thâu ánh sáng nên đại chúng buồn rầu, khóc than thảm thiết.
Dưới đây, là dựa vào mười hai đoạn văn này, theo thứ lớp giải thích:
Y theo đoạn đầu nói "Bấy giờ", là thời gian nhóm hợp đại chúng, nói là vào thời gian Đức Phật đang hiện diện ở nước Câu-thi.
Nói Thế Tôn là người nhóm hợp chúng. Phật có đủ các đức, vì được thế gian cung kính tôn trọng, nên hiệu là Thế Tôn.
"Với đại.. trở xuống", là chúng được nhóm hợp. Vì thân gồm cả chúng kia, nên gọi là "Với".
Đại Tỳ-kheo: Tiêu biểu cho phân biệt chúng kia. Đại: tiếng Phạm gọi là Ma-ha, Hán dịch có ba:
1. Gọi là Nhiều: như người đời gọi là đại chúng.
2. Gọi Hơn: Là vượt hơn chúng khác.
3. Gọi Đại: Là rộng bao la, đủ đức cao. Tỳ-kheo là tiếng Phạm, Hán dịch có năm:
a. Bố ma: Lúc mới xuất gia, chiến đấu với ma, làm cho chúng khiếp sợ. Vì tánh của ma là dơ bẩn, xấu xa tệ hại, vốn sợ người khác hơn mình, nên sinh ra khiếp sợ.
Khất sĩ: Đã xuất gia rồi, không có gì đáng cất chứa, cầu xin tự nuôi sống.
b. Tịnh mạng: Do cầu xin chính đáng, xa lìa tà mạng.
c. Phá ác: Giữ giới, lìa lỗi lầm.
Trì giới tịnh: Do xa lìa ấu ác, nên giữ giới thanh tịnh.
Một nghĩa đầu trong năm, là y cứ mở đầu bày tỏ tên gọi. Hai nghĩa giữa, là y cứ kế đó. Hai nghĩa sau, là y cứ sau cùng.
Tám mươi ức trăm ngàn: Là nêu số chúng. Vây quanh, trước sau, chứng tỏ số chúng đó đang hiện diện ở trước, sau Phật, vây quanh Như lai.
Từ sau đây, là phần hai, âm thanh, ánh sáng nhóm hợp chúng mới, trước âm thanh, sau anh sáng. Âm thanh là ngữ, nói lên việc nhóm hợp rõ ràng, nên trước phát ra. Ngày rằm tháng hai là: Thời gian phát ra âm thanh.
Sắp nhập diệt, nói là sắp. Sáng sớm phát ra tiếng, đêm hôm sau sẽ nhập diệt; vì cách lúc nhập diệt không còn xa, nên nói là "Sắp". Đây là nói hóa thân nhập diệt, cho là Niết-bàn. Lại, thôi hóa độ, trở về chân, cũng gọi là Niết-bàn.
Hỏi: Vì sao thời gian này là Niết-bàn? Sau đây, Kinh tự giải thích:
Theo kinh A-hàm, Như lai nhập Niết-bàn vào ngày mồng tám tháng tám. Văn sau của kinh này cũng có việc này, nên văn sau sẽ nói: "Tu-bạt-đà-la cuối cùng an cư xong, sẽ đến chỗ ta. Cho nên, xưa kia, ta đã bảo ma BA-tuần: "Ba tháng nữa, ta sẽ Niết-bàn". Nay, nói ngày rằm tháng hai, chính là vì chỗ thấy, nghe khác nhau, cho nên như vậy. Nhờ thần lực Phật, nói về người phát ra tiếng, cũng được gọi là lý do phát ra âm thanh. Đây là do năng lực thần thông như ý của Như lai, chẳng phải thông khác. Hỏi: Thông có mấy thứ mà nói là chẳng phải thông khác? Đáp: Thông có bốn thứ:
1. Huyễn thông: chuyển biến sự việc bên ngoài.
2. Như ý thông: vận dụng biến hóa thân mình, nhiều âm thanh thông báo cùng khắp.
3. Pháp trí thông: thấu suốt các pháp.
4. Thánh tự tại thông: Có thể ngay trong khổ, mà nghĩ là vui, đối với việc vui, thì nghĩ là khổ, đối với pháp khổ vui, này mà nghĩ không khổ, vui, không tùy duyên biến hóa, gọi là Thánh tự tại. Nay, phát ra âm thanh lớn, chính là thông như ý thứ hai kia.
"Phát ra nhiều âm thanh v.v..." trở xuống chính là nói phát ra tiếng. Phát ra âm thanh lớn là chung. Âm là tiếng nói, là tiếng Phạm Hán, với thể là âm thanh. Sau đây sẽ giải thích riêng:
Đại có ba nghĩa:
1. Vì rộng, xa nên là đại.
2. Vì tuyên bố cùng khắp nên là đại.
3. Vì nói việc rộng lớn, nên gọi là Đại.
Âm thanh của Phật cùng khắp, vang dội đến Hữu Đảnh, đầu tiên là đại. Kế là khắp các phương khác. Trên, cùng cực Hữu đảnh. Tưởng thương xót là cùng cực ba hữu kia, nên nói là Hữu đảnh.
Trên nói về chỗ đến. Những điều khác lược qua không nói. Phải biết rằng mười phương hễ đến chỗ nào, đều từ A-tỳ. Trên, đến Hữu đảnh, chẳng phải riêng cõi này, mà tùy loại thông báo cùng khắp, là đại thứ hai.
Tiếng Phạm trong tiếng Phạm, tiếng Hán trong tiếng Hán, gọi là âm tùy loại. Đây là một âm, làm cho người hiểu khác, chứ chẳng phải tạo ra nhiều âm. Vì có duyên đều ngộ, nên nói là tuyên bố cùng khắp.
"Ngày nay trở xuống, v.v..." đại là thứ ba, trong đó có hai:
1. Tuyên bố nay bậc Thánh nhập diệt, vì làm cho chúng sinh luyến tiếc bậc Thánh, cho nên đến.
2. Nêu lên hoài nghi, khuyên hỏi. Muốn cho chúng sinh vì lợi ích nên nhóm hợp. Lại tuyên bố "Bậc Thánh nhập diệt", vì muốn cho chúng sinh dâng cúng, thỉnh Phật trụ lại đời để thu nhiếp công đức.
Nêu lên hoài nghi, khuyên hỏi, là vì muốn cho chúng sinh cùng nhóm hợp, hỏi pháp để phát sinh trí tuệ. Ở trước, tuyên bố trong diệt. Nói ngày: Là tuyên bố thời gian nhập diệt.
Nói Như lai là lời tuyên bố người nhập diệt, sắp nhập Niết-bàn, thông báo việc Phật nhập diệt. Trong cõi người, Như lai, Ứng Chánh Biến Tri, là đức tự lợi. Nhân đạo như thật đến, thành Chánh giác, nên gọi là Như lai. Ứng: Là hiệu Ứng cúng của Phật. Các lỗi đã dứt hẳn, tương ưng với chứng diệt, nên gọi là Ứng.
Lại, Ứng cúng dường cũng gọi là Ứng. Chánh biến tri: Về lý, vì không có nghiêng về, nên gọi là Chánh. Soi rọi cùng tận về lý, gọi là Biến tri là Đức mình vô lượng, lại nêu ba danh hiệu này, thương xót trở xuống, là đức lợi tha. Thương xót đầu tiên v.v... để nói về sự lợi tha. Đại giác Thế Tôn, nêu hiệu lợi tha. Trong sự lợi tha, xót là từ lâu thương là bi mẫn. Hai đức này thuộc nội tâm. Che chở: Chở che, làm cho pháp lành thêm nhiều. Hộ, là ngăn dứt, giữ gìn, sao cho chúng sinh lìa bỏ điều ác. Hai công dụng này là tướng ngoài. Nhìn chúng sinh Bình đẳng, là nói về sự thương xót ở trước. Xem chúng sinh đều bình đẳng là là nói, như La-hầu-la, so sánh để làm rõ, vì làm quy pháp v.v... nói rõ sự che chở, giữ gìn ở trước. Đặt ra thuyết quy pháp, thí dụ nhà để so sánh với hiệu Phật đại giác trong danh hiệu lợi tha. Đại giác là danh hiệu của Phật. Nói Thế Tôn: Là hiệu Thế Tôn. Đức hóa độ vô lượng, lược nêu ở đây.
Sắp nhập Niết-bàn là tuyên bố việc nhập diệt. Gần nhập diệt, nên nói là sắp. Sau đây, trong lời khuyên hỏi, tất cả chúng sinh, có nghi ngờ đều hỏi, để nói lên mình không nghiêng về. Vì muốn sao cho đồng hỏi, vì nêu một người ngang hàng với người khác, nên gọi là tất cả. Vì các pháp sanh thành, nên gọi là chúng sinh. Lại, đa số tử sinh, cũng gọi là chúng sinh. Vì có nghi ngờ cần giải quyết, nên đều phải thưa hỏi. Vì câu hỏi sau cùng, để chứng tỏ mình chắc chắn nhập diệt nên muốn cho thưa hỏi.
Hỏi: Vì sao trong đây không có thương xót, than thở?
Đáp: Vì vừa nghe tuyên bố nhập diệt, hẳn là chưa kịp xét định trang thái thương xót áo não ít ỏi, là vì không nói. Lại, nếu có thương xót, vì tướng thương xót đồng với ở sau, nên không nói riêng. Trong vầng ánh sáng, đầu tiên, là nói các chúng sinh nhờ tắm mình trong ánh sáng đều được lợi. "Lúc bấy giờ" ở lúc đầu, là lúc Phật phát ra ánh sáng.
Nói Thế tôn: Là người phát ra ánh sáng. Vào lúc sáng sớm, lại là lúc bình minh. Vì thì gian ban ngày rộng, dài, nên lại cong ngón tay, từ gương mặt Như lai, là nói về chỗ phát ra ánh sáng. Miệng là khuôn mặt, vì sao phát ra ánh sáng từ đây? Vì mỗi tướng của Phật đều bao gồm nhiều diệu dụng, đâu thể trách đủ. Lại nữa, khuôn mặt của Như lai phát ra ánh sáng, thường là để thọ ký.
Sau đây, là nói chúng sinh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật, chính vì Phật khắp trao thọ ký cho chúng sinh, nên từ đây phát ra ánh sáng. Sau đây, nói về phát ra ánh sáng.
Phát ra các thứ ánh sáng, đều để nói lên tạp sắc của ánh sáng Phật, chỉ rõ chung về tướng ánh sáng kia, với màu sắc xanh, vàng, đỏ v.v... Phân biệt để chỉ rõ, có riêng sáu sắc. "Ánh sáng soi khắp v.v... trở xuống, nói về ranh giới của ánh sáng, gần thì soi rọi cõi Tam thiên, xa đến tam thiên thế giới ở mười phương. Đếm Tiểu đến một ngàn, lại hợp thành một, gọi là cõi Trung thiên. Đếm Trung đến một ngàn, hợp lại thành một, gọi là Đại thiên. Cõi Tam thiên này gọi là thế giới sát. Vì đồng thời thành, hoại, nên hợp thành một. Nay ánh sáng chiếu khắp, có người nói rằng, ánh sáng này khác với ánh sáng ở dưới, làm sao biết khác? Vì sáu sắc này và năm sắc kia, nên biết khác nhau. Sáu sắc này chiếu khắp mười phương, năm sắc sau chỉ che mát đại hội, nên biết là chấp khác nhau này, lẽ ra không khác. Vì sao được biết? Văn sau sẽ nói: "Ánh sáng được phát đi, ánh sáng lại trở vào trong miệng. Từ phía dưới, lại vì không có chỗ phát ra ánh sáng, nên biết là một. Nếu vậy, thì vì sao sáu sắc này, năm sắc dưới là một nghĩa?"
Giải thích: "Pha lê, mã não vì thành một sắc lẫn lộn, nên dưới nói là năm sắc. Theo tương truyền của người nước ngoài, thì trong ánh sáng đã phát, ra gồm có năm lưu:
1. Vì để suốt qua chánh pháp, nên ở dưới nói năm.
Hoặc có thể như thế thì vì sao trong đây lại nói là chiếu khắp mười phương? Dưới nói là che pháp hội, vì tùy chúng sinh được chiếu, cho nên như vậy. Chúng sinh đã được ánh sáng soi rọi trong đây chưa nhóm hợp cho nên tùy theo được soi chiếu, nói là đến mười phương. Vì chúng ở dưới đều nhóm hợp, nên tùy chúng được chiếu nói là che chở đại hội. Nếu thuộc về chúng dưới, thì chỉ che một hội, vì sao dưới đây lại nói: "Tất nhiên, ở mười phương việc phải làm đã làm xong."
Sắp: là tướng Niết-bàn sau cùng. Đã nói việc phải làm trong mười phương đã làm xong, ánh sáng đồng với ánh sáng này. Sau đây, là nói trong phần nói về chúng sinh được thấm nhuần lợi ích của ánh sáng, trong số đó có sáu cõi. Nêu lên số chúng sinh được lợi ích kia, nghĩa là chúng sinh sáu cõi trong ánh sáng trước được soi chiếu, đều được lợi ích.
Trời, người, Tu-la và ba đường ác vì là nhân đã hướng về, nên gọi là sáu đường. Đạo vì riêng khác nhau, nên cũng gọi là đạo. Kinh có chỗ nói là năm. Vì ly, hợp nên như vậy. Tu-la trong sáu cõi thuộc về cõi nào? Các kinh, luận khác nhau, theo luận Tỳ-đàm, thì Tu-la thuộc về đường quỷ. Theo kinh Pháp Niệm, thì xếp vào quỷ súc, như vua A-tu-la La-hầu kia, là con của sư tử, gọi là súc sinh. Theo kinh Già-đà thì thuộc về ba cõi: trời, quỷ, súc. Mẹ của Tỳ-ma do thiên nữ sinh ra, gọi là trời. Cho nên, kinh nói: "Ông vốn là trời. Lại nữa, trong kinh gọi là Liệt thiên. Nay, phần lợi này chỉ vì sáu cõi. Gặp ánh sáng này, nghĩa là phân biệt với không duyên, phiền não tội nhơ, tất cả tiêu trừ. Chính là nói về lợi ích, tội gọi là tội báo, tức là báo chướng, vết nhơ là nghiệp chướng, phiền não là phiền não chướng. Nhờ gặp ánh sáng Phật, nên ba chướng đều tiêu trừ. Cũng có thể tội nhơ là nghiệp ác kia, nghiệp và phiền não, gặp ánh sáng Phật đều tiêu diệt.
Sau đây là phần ba, nói về chúng mới kia, xem tướng thêm thương xót. Các chúng sinh này là nêu người thương xót, thấy nghe xong, là lý do sinh thương xót. Thấy ánh sáng, nghe tiếng, gọi là thấy nghe rồi. Sau đây, sẽ chỉ rõ về tướng thương xót:
Tâm rất lo buồn, ý nghiệp bực bội, cất tiếng khóc kể v.v..., là khẩu nghiệp thở than thảm hại, đưa tay vỗ đầu là thân. Nghiệp xót xa bực dọc. Thân bực dọc khác nhau: hoặc có người xót thương tha thiết, không thể tự giải bày, đưa tay vỗ đầu, nện bụng kêu to. Hoặc có kẻ tự đè nén nội tâm, khó chịu, thân thể cào cấu, khóc lóc rên la." Hỏi: Vì sao bóp trán, vỗ bụng?
Đáp: Có người giải thích rằng: "Bóp trán, chứng tỏ mình đã mất đi người đứng đầu dẫn đường. Vỗ bụng, để bày tỏ lòng dạ mình không yên, chưa hẳn như thế. Vì sự thương xót, oán ghét của người đời. Thái độ thương, ghét của người đời, được chia ra nhiều thứ: Hoặc có người vỗ đầu, hoặc vỗ bụng, hoặc có kẻ vỗ tay, đôi khi vả vào má, hoặc chân dậm đất, mỗi cử chỉ đều có biểu lộ riêng. Từ thứ tư sau đây, mặt đất rung chuyển, thúc giục nhóm hợp.
Nói "Lúc bấy giờ" là lúc mặt đất rung chuyển. Sau đây, chính là nói về rung chuyển: Đại địa, núi, biển thảy đều rung chuyển. Vì đủ rõ đại khác với tiểu, nên văn sau nói: "Chỉ có mặt đất rung chuyển, gọi là địa động. Núi, sông, biển, nước, tất cả đều rung chuyển, gọi là đại địa động. Trong đây lược bớt không có nói về lý do mặt đất rung chuyển. Nếu cụ thể, thì nên nói: "Do thần lực Phật, nên mặt đất rung chuyển."
Từ dưới đây là thứ năm, nói về các đại chúng nhìn thấy sự rung chuyển, thúc giục nhau cùng nhóm hợp ở chỗ Phật, trong đó có ba:
1. Nói đại chúng thấy tướng rung chuyển, thôi thúc.
2. "Thời gian có vô lượng vị đại đệ tử v.v... trở xuống là nói về chúng cũ của Phật, xem tướng, thêm thảm thương!
3. "Lại có tám mươi trăm, ngàn v.v..." trở xuống là nói về chúng mới nhóm hợp.
Trong phần đầu có ba: ứng với ba tướng trên:
1. Ứng với tướng rung chuyển của mặt đất, thúc giục đến chỗ Phật.
2. "Chấp lẫn nhau" trở xuống, v.v... là ứng với tướng ánh sáng ở trước, mà bị tổn thương than thở.
3. "Lại nói rằng: "Thế gian trống không v.v... trở xuống là ứng với tướng âm thanh ở trước, lại bị tổn thương than thở.
Trong phần đầu có hai:
1. Tướng chung ngừng dứt. Vả lại, mỗi người đều nên ức chế, chớ nên quá sầu khổ! Nếu không đến chỗ Phật thì luống thảm thương vô ích, hãy cố đè nén, mong giữ bậc Thánh ở lại, vì chưa dám chuyên quyết, nên nói hãy đè nén, đừng nên quá sầu khổ.
2. Phải nhanh chóng đi đến trở xuống v.v... là tướng chung, đổ xô thúc giục.
3. Tướng thường hiện. Vì thời gian bậc Thánh nhập diệt không xa, nên phải nhanh chóng đến. "Đầu mặt lễ v.v..." là nói thúc giục mà làm, vì thỉnh Phật trụ lại. Thân lễ kính mà thỉnh, đầu mặt là chỗ tôn quý của mình, chân Phật là chỗ thấp so với đầu, mặt kia. Đem cái chí tôn của mình để lễ tiếp với chân thấp của Phật, chứng tỏ cử chỉ cung kính hết lòng tha thiết.
Khuyên v.v... trở xuống là miệng thỉnh, thỉnh Phật trụ lại đời một kiếp và dưới một kiếp. Có người giải thích: "Thỉnh Phật trụ lại đời một kiếp, là để hiển bày "Mãn tự". Thỉnh ở lại dưới một kiếp, vì nói lên "Bán tự". Về việc này cần gì phải như vậy. Vì, nếu đại chúng đã biết chữ Mãn thì thính là đã hiểu Đức Phật là thường, đâu nhọc sức thỉnh ở lại. Bởi chính đại chúng đã tự có lời hứa phần nhiều hy vọng một kiếp. Nếu không toại nguyện, thì hy vọng sẽ được dưới một kiếp. Sau đây, là ứng với tướng ánh sáng, trong đó có ba:
1. Tướng ban đầu là chắp tay, tướng chung là khai thị, an ủi, đồng mất đi chỗ tôn quý, cho nên chắp tay.
2. "Lại nói rằng v.v... trở xuống là phát ngôn, than thở. Thế gian hư không, mất đi chỗ tôn quý. Vì trong thời kỳ không có Phật, nên nói là đời trống không. "Chúng sinh phước đức v.v..." trở xuống là hại mình mất lợi. Do Phật đã diệt độ sẽ không có người nào giáo hóa điều lành, nên phước đức của chúng sinh sẽ hết. Không có người nào bảo cho biết việc ác, làm cho cắt đứt nghiệp bất thiện cũ, thêm lớn pháp xuất thế. Mười điều ác là các nghiệp bất thiện kia. Bản tánh điều ác hình thành, lại thêm hiện khởi, nên nói là thêm lớn, lưu hành thế gian, gọi là xuất thế, chẳng phải sự thêm lớn này vượt hơn pháp xuất thế.
Vì sao trong đây than thở? Vì ở trước nhờ ánh sáng Phật mà tội nhơ được trừ. Nếu một khi bậc Thánh ra đi, thì tội nghiệp của chúng ta, ai có khả năng tiêu diệt, nên vì thế mà than thở.
3. "Nhân... trở xuống, tướng chung là đổ xô, thúc giục. Nhanh chóng đến, hãy mau đến chỗ Phật, chính là tướng mạn đi, mạn đi thúc giục không lâu, cần phải mau chóng. "Sở dĩ v.v... trở xuống là ứng hợp với tướng âm thanh, mà than thở. Lại, nói rằng: "Đời trống không, đời trống không, mất đi sự tôn quý! Vì sao nói lại? Có người nói: "Trống không" ở trước hại mất Như lai, "trống không" ở sau là mất pháp, chỗ thích ứng không đúng. Trực tiếp là đại chúng đã oán than rất sâu, nên nói lặp lại trống không! Như người thế gian được việc vừa ý, vui sướng thay! Vui sướng thay, gặp phải việc trái ý, tổn hại! Tổn hại, cần gì lặp lại, liền biểu lộ sự khác lạ.
"Chúng tôi v.v... trở xuống là hại mình mất lợi, từ nay, chúng ta sẽ không còn ai cứu giúp. Đối với sự thương xót chở che, giữ gìn trong âm thanh trên, mà vì than thở. "Một mai xa v.v... trở xuống là nêu nỗi nghi ngờ đối với âm thanh trên, để khuyên khích nên hỏi, mà vì thở than.
Trong phần trước, đầu tiên nói: "Từ nay, chúng ta" là nói về thời kỳ không có ai cứu giúp. Trước nay có thầy, vì mất đi bóng mát về sau, nên nói "Từ nay".
Không ai cứu giúp là không lìa chỗ ác, điều ác ở hiện tại không có ai cứu giúp. Việc ác ở đương lai, không ai cứu giúp. Không có tôn chỉ để kính ngưỡng. Không nhóm hợp ở trụ xứ thiện.
Nói người nghèo cùng: chứng tỏ tổn hại vì không có tông chỉ, nghĩa là không có, của cải Phật pháp.
Nói bày ra đơn lẻ: chứng tỏ lỗi lầm không có cách cứu chữa. Không có người cứu giúp, cho nên bày ra ngoài đơn lẻ.
Trong phần sau, đầu tiên nói: "Một mai xa" là y cứ mở đầu vì nói. Dù cho có người nghi ngờ Đức Phật đã dứt nghi. Về sau, vì nỗi ngờ vực không nhất định, nên nói "dù có".
Lại hỏi: "Ai đã dứt nghi?". Trong ba đoạn này:
1. Ứng với mặt đất rung chuyển, tướng chung sẽ được ức chế chấm dứt. Hai tướng sau, giản lược ẩn, hiển không có văn.
2. Trong đoạn hai, tướng chung được mở bày an ủi. Hai tướng còn lại, lược qua không nói, cũng là ẩn, hiển. Trong hai đoạn đầu, tướng chung là theo đuổi, thúc giục. Một tướng sau, là lược qua không nói, cũng là ẩn, hiển. Trong hai đoạn sau, phát ngôn, than thở. Đoạn đầu, lược qua không nói, cũng là đạo lý ẩn, hiển bình đẳng.
Sau đây, phần hai là nói về chúng cũ, ngắm tướng càng thêm thương xót. Làm sao biết được những người này là chúng cũ ở trước? Vì văn không nói, nên biết là chúng cũ v.v... là phân biệt chúng chưa nhóm hợp, vì không phân biệt chúng này, nên biết là chúng cũ, cho nên chúng cũ này, trong kinh loại sáu quyển hoàn toàn không có văn này. Hỏi rằng: Khi Đức Phật Kiều Phạm diệt độ ở cõi trời Đao-lợi, văn không có nói, ở dưới cũng không phân biệt, chẳng phải chúng cũ, ở đây giải thích, sao lại không đúng. Lời giải thích khác nhau, theo luận Đại Trí Độ thì sau khi Phật diệt độ, lúc kiết tập pháp chỉ nói Kiều Phạm ở cõi trời không đến, sai người đến, gọi cũng không đến. Vì không nói "Lại có", nên biết khác nhau. Lúc đó, có vô lượng các vị đại đệ tử của Phật, nêu riêng người đó vì học sau Phật, nên gọi là "Đệ", từ Phật hóa sinh, nên lại nói "Tử". Ca-chiên-diên v.v... nêu tên họ.
"Gặp ánh sáng Phật v.v... trở xuống, nhìn thấy tướng, thêm thương xót. Trước phân biệt, sau kết.
Trong phần riêng, gặp ánh sáng, thân của chúng kia đấm vỗ v.v..., là thân nghiệp không yên ổn, tâm vẩn đục, ý phiền não, thốt ra tiếng kêu lớn, miệng nói lời than thở! "Như thế v.v... trở xuống là kết".
Hỏi: La-hán đã lìa hoại khổ, vì sao lại còn buồn phiền?
Đáp: La-hán đối với sự lo buồn về pháp thế gian, đã dứt. Đối với cảnh giới Phật, vì không thể tự quyết, nên sinh buồn phiền. Cũng như Ca-diếp, A-nan v.v..., đối với năm dục thế gian, không thể nghiêng động. Đại thọ, Khẩn-na, trống, lưu ly, đàn cầm, Đại Ca-diếp bất giác đứng dậy múa. Tỳ-kheo A-nan bất giác ca, ngâm. Đại thọ, Khẩn Na là Bồ-tát, năm dục của bậc thượng nhân, người Tiểu thừa không kham, cũng tương tự như La-hán này, cũng có thể biểu hiện nỗi lo buồn, sinh ý luyến tiếc. Sau đây là phần ba, chúng mới nhóm hợp. Vì sao phải nhóm hợp?
Vì có tám lý do:
1. Vì thỉnh Phật trụ lại đời, nên văn trên đã nói: "Hãy mau đến chỗ Phật, để khuyến thỉnh Như lai chớ nhập Niết-bàn."
2. Vì dâng cúng, nên các chúng dưới nói về cúng dường Phật.
3. Vì Xà-duy, nên văn dưới nói: "Vì muốn Xà-tỳ thân Như lai."
4. Vì giải quyết nghi ngờ, nên văn dưới nói: "Đều hãy lễ kính, xin Phật giải quyết những điều chúng còn nghi ngờ.
5. Vì chỉ rõ pháp, nên văn dưới nói: "Vì chỉ bày rõ phương tiện mật giáo của Như lai."
6. Vì chúng sinh, nên văn sau nói: "Vì lợi ích chúng sinh."
7. Vì nói câu hỏi, như văn dưới nói: "Mười vị tiên nhóm hợp."
8. Vì ngắm xem, như trong luật nói: "Sau khi Phật diệt độ, Đại Ca-diếp nhìn thấy một Ni-càn, tay cầm hoa trời đang tìm đường đi, hỏi: Từ đâu đến?
Ni-càn đáp: Từ thành Câu-thi đến. Có gặp Đức Thế Tôn không?
Tôi có gặp.
Đức Thế Tôn có được bình yên không?
Thế Tôn nhập diệt rồi, đã được bảy ngày! Tôi từ đại hội ở thành đó, cầm hoa này đến đây.
Các vị như vậy, đã trực tiếp vì ngắm xem, với ý đến như thế. Nay, ở đây đã nêu đủ sáu ý trước, cho nên đến nhóm hợp. Đầu tiên trong văn, trước là tùy số nhiều ít, tăng dần, để nêu: "Hai mươi hằng sa hương tượng lớn v.v..." trở xuống, là nêu lẫn lộn các chúng. Trong tăng dần ở trước, đầu tiên là nêu chúng đạo.
"Bốn hằng v.v..." trở xuống, là nói về chúng thường lưu. Các tôn đức của đạo, vì số ít nên nêu trước. Hàng thường lưu thấp hèn, vì nhiều, nên nêu sau. Trong chúng đạo pháp, trước nêu chúng xuất gia, sau nêu giới tại gia. Vì người xuất gia với thân hình tôn quý, nhưng số ít, nên nêu trước. Thân hình tại gia thấp kém, nhưng số nhiều nên nêu sau. Trong chúng xuất gia, nêu Thanh văn trước, nêu Bồ-tát sau. Các kinh phần nhiều như vậy. Vì sao? Vì giải thích chung có bốn:
1. Phân biệt xa, gần: Các Thanh văn thường theo Như lai, do đó nói ở sau Phật, theo hầu gần nên nêu trước. Đã nêu chúng Tỳ-kheo như trên là đúng. Bồ-tát vì không như vậy, nên giải thích ở sau.
Vì sao các Thanh văn thường hầu gần Như lai? Giải thích: Có hai nghĩa:
1. Các Thanh văn trí tự yếu kém, chưa thông hiểu đạo pháp, dù đã được quả Thánh, nhưng về oai nghi trong đời sống hằng ngày cũng thường phải nhờ Phật dạy bảo, cho nên Như lai cho đến khi Phật diệt độ vẫn thường chế giới.
2. Chúng Thanh văn hiện nhờ Phật độ, bỏ phàm thành Thánh, mang ơn sâu nặng, dù đã dứt hết lậu, nhưng vì thường xuyên theo cúng dường Phật, nên gần gũi Như lai.
Bồ-tát vì có hai lý do nên không hầu gần Phật:
1. Trí giải cao siêu, hiểu sâu đạo pháp, không cần Phật dạy bảo.
2. Vì tùy cảm, hóa hiện, nên không hầu gần Phật. Đây là phân biệt xa, gần thứ nhất. Hai hình tướng phân biệt: các Thanh văn gìn giữ oai nghi, hình tướng trang nghiêm, vì được thế gian tôn kính chung, nên xếp ở trước, Bồ tát tùy theo căn cơ hóa độ, thân không có tiêu chuẩn, nhất định hình tướng oai nghi không tề chỉnh, nên xếp ở sau.
3. Y theo đức để phân biệt, cũng được gọi là y theo giáo để phân biệt. Như thuyết của Bồ-tát Long Thọ nói: "Giáo có hai thứ:
a. Bí mật giáo.
b. Hiển thị giáo.
Trong bí mật giáo, Bồ-tát với đức tôn quý, đáng lý phải được xếp ở trước như kinh Hoa Nghiêm nói.
Trong Hiển thị giáo, La-hán, Bích-chi đã dứt hết lậu, đồng với Phật, mọi người cung kính tôn trọng, nên phải được xếp ở trước. Bồ-tát tùy hóa độ hiện ra trong các lậu. Nếu nghe Bồ-tát ở trên La-hán, thì mọi người đều kinh ngạc, nên xếp ở sau, như kinh Đại Phẩm v.v... có nói.
Nay, theo sự hiển bày, xếp Thanh văn ở trước.
4. Y theo số để phân biệt: Vì chúng Thanh văn ít, nên xếp ở trước, vì chúng Bồ-tát nhiều, nên xếp ở sau. Dù có bốn lý do, nhưng ở đây giải thích theo ba nghĩa sau.
Trong chúng Thanh văn, xếp Tỳ-kheo ở trước, xếp chúng ni ở sau. Vì số Tỳ-kheo tôn quý ít, nên xếp ở trước, thân chúng ni thấp hèn, vì số nhiều nên xếp ở sau. Văn trong chúng Tỳ-kheo có chia làm ba:
1. Nêu chúng, khen đức.
2. Ngắm tướng thêm thương xót.
3. Nhóm hợp chỗ Phật.
Y theo đoạn đầu, thì trước nêu chúng kia, nêu số nói về chúng. Văn rõ ràng dễ hiểu. Sau đây là khen ngợi đức của chúng: Trước là khen chung, kế là khen riêng. Sau kết "Đều là A-la-hán" là khen chung.
La-hán, là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô sinh, theo nghĩa, dịch là Bàng, cũng dịch là Vô trước. Báo vô sinh mất, nhân vô trước hết, tâm được chia ra như ở dưới, trong phần chia ra ấy trước là khen ngợi đức đầy đủ, thêm chiên-đàn trở xuống là khen ngợi chúng thuần thục, trong phần khen đức đầy đủ có y theo ở dưới mà khen ngợi ni, đầu tiên thiếu một, các lậu đã hết, chung cho đối tượng ít đó, văn có chia ra tám câu. Câu dù có tám, nhưng thể chỉ có bốn, đó là bốn trí. Bốn câu trước chính là khen, bốn câu sau là chỉ rõ lại.
Một ít lậu tận, nói về sự sinh tử của ta đã hết, theo Tỳ-bà-sa, sự sinh hết tức là trí dứt tập, nên dứt hết các lậu, gọi là sự sanh tử của ta đã hết, tâm được tự tại.
Nói phạm hạnh đã lập, theo Tỳ-bà-sa, là trí tu đạo, đạo hạnh tròn đầy, tiền nhiệm từ ý, gọi là tâm tự tại. Việc phải làm đã làm xong, tức là trí tạo tác đã hoàn thành. Theo Tỳ-bà-sa, là trí chứng diệt, công phu chứng diệt đã thành, gọi là "Việc phải làm đã làm xong".
Lìa phiền não là La-hán không thọ "Hữu" ở sau. Theo Tỳ-bà-sa, là trí dứt khổ. Nay, nói lìa phiền não, là nêu nhân để làm rõ quả, do lìa phiền não, nên không thọ thân sau. Bốn nghĩa này, như ở sau có giải thích rộng.
Điều phục các căn, là chứng tỏ các lậu ban đầu đã hết. Từ nhãn đến ý sinh ra thức, gọi là căn. Vì khéo điều phục các căn, nên không sinh ra lậu, như rồng có oai lực, chỉ rõ tự tại ở trước. Thành tựu tuệ, chỉ rõ việc làm ở trước đã xong. Đây là thành tựu "Không tuệ" của chúng sinh. Được lợi ích cho mình, là nói là phiền não ở trước, vì phiền não làm tổn hại mình, nên xa lìa phiền não, gọi là lợi mình. Kịp là đến, cũng nói là "Cập".
Sau đây là khen chúng thuần thục: Có hạnh, vì cùng chung, nên như Chiên-đàn vây quanh rừng đàn. Dứt đủ nhóm đồng, như sư tử vây quanh Sư tử đầu đàn, đức hạnh huân tu khắp. Đức hạnh ấy giống như Chiên-đàn. Đức dẹp bỏ xấu ác, tướng trạng đồng với sư tử.
Trên đây là khen ngợi riêng. "Thành tựu v.v..." trở xuống là kết. "Thành vô lượng v.v..." là kết khen đức trước. "Tất cả đều ngang bằng", là kết khen người trước. Từ Phật hóa sinh là gọi đệ tử chân thật của Phật.
Trong phần ngắm xem tướng Phần hai, thêm thương xót: đầu tiên là nói nhìn thấy ánh sáng Phật. Kế là thúc giục, đôn đốc nhau. Sau, thêm than thở. Tình luyến tiếc sâu nặng, vì máu sôi sắp chảy ra, nên máu trong thân thể lộ ra, như hoa Ba-la. Kinh loại sáu quyển chép: "Như mặt trời mới xuất hiện, soi chiếu lá cây xanh, gân đỏ đều hiện rõ."
Dưới đây là phần thứ ba, nhóm hợp ở chỗ Phật, trong đó trước nói về nhóm hợp để làm gì. Câu: "Vì lợi ích chúng sinh" chia ra làm năm: Một câu: "Vì lợi ích yên vui cho chúng sinh" là chung, ba câu giữa là riêng. Thành tựu "Không hạnh" bậc nhất của Đại thừa, pháp Đại thừa hóa độ. Vì Đại thừa lìa tướng nên gọi là "Không hạnh" phát rõ phương tiện Mật giáo của Như lai. Sự hóa độ của Tiểu thừa không có bố thí của quyền Tiểu, nên gọi là phương tiện. Quyền nói che lấp thật, gọi là Mật giáo. Vì không dứt bặt các thứ nói pháp, pháp hóa độ thế gian, khác với hạnh thế gian, gọi là các thứ. Cũng có thể ba pháp này đồng thành Đại thừa. Thành tựu "Không hạnh" bậc nhất của Đại thừa, làm cho Đại thừa kia chứng nhập. "Phát rõ ràng v.v... trở xuống, giúp cho chứng nhập, hiển phát trở xuống giúp cho nhập A-hàm, hiển phát Mật giáo, làm cho biết "Quyền" xưa, lìa bỏ không theo, không dứt nói pháp, giúp cho tu "Thật" nay. Nghĩa này thế nào? Do các Tỳ-kheo nhóm hợp đến chỗ Phật. Đức Phật dạy tu học "Không hạnh" của Đại thừa, người khác vì nghe đồng nhập, nên làm cho người khác thành. Do các Tỳ-kheo kia đến chỗ Phật. Đức Phật phá bỏ Tiểu, để tỏ bày giáo xưa là "Quyền", giải thích giáo xưa, để che giấu "Thật", gọi làm rạng rỡ phương tiện Mật giáo của Như lai.
Do các Tỳ-kheo kia đến chỗ Phật, Đức Phật dạy tu tập các hạnh Đại thừa, gọi là không dứt các thứ nói pháp. Câu "Vì chúng sinh điều phục" là tổng kết.
Năm câu trên đây nói về nhóm họp để làm gì?
"Mau đến chỗ Phật", chính là nói về nhóm hợp. "Cúi đầu lễ Phật v.v..." đến rồi kính lễ, xếp vào ni chúng, trước "Thật", sau "Quyền". Ba phần trong "Thật", đồng với Tỳ-kheo.
Y theo đoạn đầu, trước là nêu chúng nêu danh, nêu số, nói về chúng rất dễ hiểu. Sau, khen ngợi đức của đại chúng: "Tất cả cũng là đại A-la-hán", là lời khen chung. "Các lậu v.v... trở xuống, là khen riêng. Trong phần riêng, y theo văn trên thì ít không đủ. Trong số Tỳ-kheo ở trước, trước khen ngợi công đức đầy đủ, sau khen chúng thuần thục. Nay, ở đây lược qua, không có văn ca chúng. Theo phần khen ngợi đức, trước khen Tỳ-kheo, một ít sau cuối, là được lợi mình, chung cho đối tượng ít kia. Văn cũng có tám câu: Được khen bốn, biết không khác với nói trên."
Các lậu dứt hết: Phiền não nối nhau tuôn ra. Vì phiền não đó cũng như mụt nhọt rĩ chảy, nên gọi là lậu. Lậu, được chia làm ba là: Dục, hữu, vô minh lậu v.v... Dưới đây, sẽ nói đủ ba lậu, chẳng phải một, cho nên nói "Các". Vô học dứt hết, gọi là hết lậu. Ngoài ra, như trước đã giải thích.
"Cũng vào sáng sớm v.v... trở xuống là ngắm xem tướng, thêm buồn thương.
"Cũng muốn lợi v.v..." trở xuống là nhóm họp ở chỗ Phật, văn như trên nói, nói trong chúng quyền, ở trong chúng ni lại có các ni, đều là Bồ tát, bỏ quyền bày thật. Rồng trong loài người trở xuống là y theo "Thật" để khen ngợi đức. Trước là khen công đức của mình, là rồng trong loài người, là bày tỏ đức cao quý của người. Rồng là động vật trên hết trong tất cả súc sinh. Các vị ni v.v... này hơn hết trong loài người, tương tự với rồng. Y cứ dụ mà gọi là người, gọi là rồng trong loài người.
"Từng cấp giai vị v.v... trở xuống là nói về địa vị cùng cực của Thập Trụ. Thập trụ của tầng bậc giai vị, phân biệt khác với cửu trụ ở trước. An trụ bất động, phân biệt khác với Sơ trụ. Sau đây là khen ngợi lợi người:
Vì hóa hiện nữ, là hóa ra thân khác, thường tu vô lượng là hóa độ tâm người. Nghĩa của bốn vô lượng dưới đây sẽ nói riêng:
Được năng lực tự tại, có khả năng hóa thành Phật, là năng lực hóa tha. Vì năng lực thần thông tự tại, nên có khả năng thành Phật.
Kế là nêu Bồ-tát, văn cũng chia làm ba: Đồng với Tỳ-kheo, trong phần đầu có bốn:
1. Nêu chúng Bồ-tát kia.
2. Sơ lược khen ngợi đức.
3. Nêu danh hiệu Bồ-tát.
4. Khen rộng công đức.
Đầu tiên, trong phần nêu chúng, một là hằng nêu số. Đại Bồ-tát, là nêu chúng Bồ-tát khác nhau. Bồ-tát, là tiếng Phạm, Hán dịch là đạo chúng sinh. Người này cầu đạo, bên trong ôm ấp đạo hạnh, do đạo trở mà thành người, gọi là đạo chúng sinh.
Hỏi: Người Nhị thừa đều cầu đạo. Ở đây có đạo hạnh, vì sao chỉ có Bồ-tát được danh hiệu kia?
Giải thích: Danh hiệu Hiền, Thánh có chung, riêng. Chung là từ Tu-đà-hoàn cho đến Chư Phật, danh hiệu đồng không, khác. Như văn dưới nói: "Riêng là mỗi danh hiệu đều khác. Nay, vì phân biệt hiền, Thánh khác nhau, nên vị Bồ-tát này được gọi là đạo chúng sinh.
Vì sao như thế?
Giải thích có ba nghĩa:
1. Y theo tâm nguyện, phân biệt đối với quả thì chỉ có chúng sinh này là cầu đại Bồ-đề, không cầu các thứ khác. Cho nên chỉ có Bồ-tát này được gọi là đạo chúng sinh, vì vậy Địa luận nói: "Ở trên, quyết định nguyện sẽ thành đại Bồ-đề, kệ nói là Bồ-tát."
2. Y theo tâm giải, đối với lý để phân biệt thì phàm phu chấp "có", Nhị thừa chấp "Không". "Có", "Không" đều trái với trung, không hội nhập trung đạo. Cho nên không được gọi đạo chúng sinh, chỉ có Bồ-tát này khéo bỏ "Có", "Không", khế hội với Trung đạo, nên được gọi là đạo chúng sinh.
3. Y theo hạnh để phân biệt: Trong phần nhập pháp Phật có ba môn:
1. Giáo.
2. Nghĩa.
3. Hạnh.
Giáo cạn, nghĩa sâu, hạnh là hơn hết. Thanh văn căn cơ mềm mỏng, từ giáo mà được tên gọi. Thanh là giáo, vì nghe âm thanh, được giải ngộ, nên gọi là Thanh văn, Duyên giác. Kế là từ thắng mà đặt tên gọi. Duyên là nghĩa. Đối với duyên, ngộ giải, nên gọi là Duyên giác.
Bồ-tát là hơn hết, y cứ theo hạnh, để làm sáng tỏ danh, vì có khả năng thành tựu đạo tự lợi, lợi tha đều có lợi, nên gọi là Bồ-tát. Luận Địa Trì chép: "Thanh văn,
Duyên giác chỉ có thể tự độ, Bồ-tát không phải như thế, tự độ, độ người, đó gọi là đạo thù thắng. Vì đạo thù thắng, nên gọi là đạo chúng sinh.
Ma-ha-tát: Hán dịch là đại. Đại có ba thứ, như Địa Luận nói:
1. Nguyện, đại: Mong đại Bồ-đề.
2. Hạnh đại: Nhóm hợp rộng rãi các độ.
Lợi ích chúng sinh đại: Như lợi ích của bốn nhiếp v.v... "Rồng trong loài người v.v... trở xuống, là phần hai, sơ lược khen, trước là khen công đức của mình, phương tiện hiện thân, khen ngợi công đức lợi người.
Phần ba là nêu danh hiệu, danh hiệu riêng, có thể biết.
"Tâm của chúng kia đều v.v... trở xuống, là phần thứ tư là khen rộng. Trong phần khen rộng, đầu tiên là riêng. "Thành như thế v.v... trở xuống là dùng kết khen chung. Trong phần khen ngợi riêng công đức của ba đời thì trước là khen công đức hiện tại. Kế là đức quá khứ, sau là đức vị lai. Trong ba đời này đều khen đức lợi mình, lợi người. Y theo trong hiện tại, trước khen ngợi công đức mình. Về câu, có chia làm năm:
Bốn câu trước thuộc về pháp. Một câu sau, là hộ pháp. Y theo bốn câu trước, là kính trọng Đại thừa, là mở đầu của phần mình. Thừa: là công dụng của hạnh Đại thừa. Đi, có khả năng vận dụng thần thông, gọi là Thừa. Thừa được chia làm ba: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Về sở thừa của Chư Phật, hai thừa trước vì không thêm, nên gọi là Đại. An trụ Đại thừa là mức cuối cùng của phần mình, vì tu thành không lui sụt, nên nói là an trụ. Hiểu sâu sắc Đại thừa là mở đầu của thắng tấn. Đối với chỗ chưa tu, quán chiếu rõ ràng nên nói là hiểu sâu sắc. Yêu mến Đại thừa, là cuối cùng của thắng tấn. Đối với đối tượng kiến giải ở trước, ưa muốn tu hành.
Trên nay, pháp nhiếp giữ gìn Đại thừa, là công hạnh hộ pháp, không để người khác chê bai, hủy diệt, nên nói là giữ gìn. Nghĩa này, như phẩm Kim cương thân dưới đây sẽ phân biệt rộng.
Ở trên, khen đức mình, ở dưới khen lợi người. Khéo tùy thế gian, pháp giáo hóa thế gian. Thế gian có hai thứ:
1. Chúng sinh thế gian.
2. Khí thế gian.
Nay, ở đây khéo tùy theo chúng sinh thế gian, sao chúng sinh được gọi thế gian? Thế, là thời gian. Gian là trong. Chúng sinh được hóa độ, vì không ra khỏi thời gian, nên gọi là thế gian.
"Lập nên lời thệ nguyện này v.v..." trở xuống là pháp xuất thế hóa độ.
"Đối với quá khứ v.v..." trở xuống là khen ngợi đức quá khứ. Trước là khen lợi mình. Đã tu trì tịnh giới trong quá khứ, là lìa xa hành vi xấu ác. Khéo gìn giữ công hạnh mình đã thực hành, là hạnh nhiếp thiện.
"Hiểu chưa hiểu v.v..." trở xuống là khen ngợi đức lợi người. Hiểu, chưa hiểu: là pháp hóa độ của Tiểu thừa, kế thừa Tam bảo là Pháp hóa độ của Đại thừa. Ở đây, như Minh pháp trong kinh Hoa Nghiêm chép phẩm nói, pháp Pháp hóa độ của Đại thừa gồm có ba lượt:
1. Lượt thứ nhất, làm sao cho chúng sinh phát tâm Bồ-đề, làm sao cho Phật bảo không dứt. Mở bày, giảng nói rộng pháp tạng sâu xa của mười hai bộ kinh, giúp cho pháp bảo không dứt mất. Nhớ chắc tất cả hành pháp oai nghi, giúp cho Tăng bảo không dứt.
2. Lượt thứ hai, khen ngợi đại nguyện, giúp cho Phật bảo không dứt mất. Phân biệt, chỉ bày rõ ràng mười hai duyên khởi; giúp cho Pháp bảo không dứt. Tu sáu pháp hòa kính giúp cho Tăng bảo không dứt mất.
3. Lượt thứ ba, gieo hạt giống Phật trong ruộng chúng sinh, nẩy mầm Chánh giác giúp cho Phật bảo không dứt giữ gìn pháp tạng, không tiếc thân mạng, giúp cho pháp bảo không dứt. Khéo chế ngự đại chúng, tâm không lo lắng, ăn năn, giúp cho Tăng bảo không dứt.
Trong ba lượt này cũng có tầng bậc, trước là, y theo Phật bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia. Lượt đầu, làm cho phát tâm Bồ-đề, khởi sự mong cầu Phật nguyện.
Lượt thứ hai, là khen ngợi nguyện lớn: Khen ngợi khởi hạnh nguyện, giúp cho chúng sinh tu tập.
Lượt thứ ba, gieo hạt giống Phật trong ruộng chúng sinh: Hóa độ trở thành chủng hạnh.
Kế là y theo Pháp bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia. Lượt đầu, giảng nói mười hai bộ kinh, là giáo pháp của Phật.
Lượt thứ hai là chỉ bày rõ duyên khởi là pháp lý của mười hai bộ kinh.
Trong lượt thứ ba là hộ trì pháp: "là pháp hạnh của Bồ-tát v.v... trở xuống, y theo Tăng bảo, làm rạng rỡ tầng bậc kia.
Lượt đầu là thọ trì pháp oai nghi: Tăng thực hành phương tiện. Lượt thứ hai là tu sáu pháp hòa kính: Hạnh thành không trái.
Lượt thứ ba là khéo chế ngự đại chúng. "Với đức thuần thục, nhiếp hóa người khác v.v..." trở xuống, khen đức ở vị lai, ở đời vị lai, sẽ xoay bánh xe pháp, là đức lợi tha, vì vị lai sẽ thành Phật, nên có thể chuyển pháp, do trang nghiêm Đại thừa v.v... là đức lợi mình, nghĩa là dùng công đức, trí tuệ trang nghiêm để tự nghiêm.
Trên đây là khen riêng, sau đây là tổng kết. "Thành như thế v.v...", kết lợi mình ở trước. "Quán đồng đẳng, sinh v.v..." trở xuống là kết lợi người ở trước.
Trên đây, phần thứ nhất là nêu chung, khen đức, thêm thương xót, nhóm hợp, đều đồng với cách giải thích trước.
Hỏi: Vì sao trên đây, các chúng không nói về dâng cúng?
Đáp: Vì người xuất gia trụ trong pháp vô vi, vì không có đối tượng chất chứa, nên không có cúng hiến.
Dưới đây sẽ nói về hai chúng tại gia:
Vì Ưu-bà-tắc, thân cao quý, thường là ít, nên xếp ở trước. Ưu-bà-di v.v..., thân hình thấp kém, thường nhiều, nên xếp ở sau. Văn trong Ưu-bà-tắc, chia ra làm bốn:
1. Nêu chúng, khen đức.
2. "Vào lúc sáng sớm v.v..." trở xuống là nói về thờ Phật.
3. "Đức Thế Tôn biết v.v..." trở xuống là Như lai không nhận.
4. Không chấp nhận trụ lại.
Với bốn phần này, các chúng phần nhiều đồng, phải nên xét biết.
Trong phần đầu có bốn:
1. Nêu chúng Ưu-bà-tắc.
2. Hằng nêu số, ở trước nói một hằng, nay thêm nói có hai.
Hỏi: Hiện thấy loài người không nhiều, nay ở đây vì sao lại riêng Ưu-bà-tắc có hai hằng, còn chúng khác thì nhiều dần?
Giải thích rằng:
Nay, ba ngàn này vì đồng nhóm, nên có hai hằng. Lại, tùy theo quả báo riêng, trong một chỗ có nhiều hạng người, vì đều nhóm hợp ở đây, nên có hai hằng. Như trong kinh Pháp Hoa nói: "Chúng sinh thấy kiếp tận, khi bị lửa lớn đốt, người, trời thường đông đầy." "Như thế v.v....." trở xuống, trong các chúng, số hằng tăng dần, sự nêu chúng đó đều giống như vậy.
Các Ưu-bà-tắc có nêu riêng chúng, Hán dịch là Cận trụ, là ở gần thiện, cũng gọi là Thiện túc nam, nhớ nghĩ đều thiện mà trụ gọi là Thiện túc, lại cũng gọi là Thanh tín sĩ.
2. "Thọ trì v.v..." trở xuống, là khen sơ lược đức tốt của Ưu-bà-tắc: Thọ trì năm giới, nói lìa lỗi nặng, oai nghi đầy đủ, chứng tỏ lìa tội nhẹ. Vì năm giới là chánh hạnh của người tại gia, nên khen nghiêng về.
3. "Danh hiệu Ưu-bà-tắc v.v..." trở xuống, là nêu danh tự Ưu-bà-tắc.
4. "Ưa sâu sắc v.v..." trở xuống là khen rộng đức của
Ưu-bà-tắc, trước là khen hạnh ngăn dứt phiền não. "Cũng muốn ưa v.v..." trở xuống là khen hạnh giữ gìn Tiểu thừa.
Trong ngăn dứt phiền não, đầu tiên là chung, kế là riêng. Sau là tổng kết chung, riêng. Ưa quán sát sâu sắc các môn đối trị, là chung ngăn dứt phiền não.
Sau đây là sở quán, đều là lỗi của năng đối trị, nên gọi là môn đối trị.
"Cái gọi là v.v..." trở xuống, là riêng. Môn đối trị vô lượng. Nay, ở đây lược nêu sáu môn:
1. Khổ, vui v.v... là tám môn tu: Quán các pháp sinh tử, vô thường, khổ v.v..., quán pháp Niết-bàn: Là thường, lạc, tịnh v.v...
2. Thật, không thật, là môn Nhị đế: Chân đế là thật, thế đế là không thật.
3. Quy, chẳng quy; là môn ưa thích, nhàm chán. Quy hướng Tam bảo, gọi là quy y, trái lìa tà pháp, chẳng phải là quy y. Cũng có thể xu hướng Niết-bàn xuất thế, gọi là quy y. Liên tục quay lưng với sinh tử, chẳng phải là quy y.
4. Sinh chẳng phải sinh, là môn giả thật.
5. Ấm chẳng phải sinh mà thành người giả, gọi là chúng sinh.
6 Hằng chẳng phải hằng v.v... là môn nhân quả.
Hằng và chẳng phải hằng là môn quả kia. Niết-bàn là hằng, sinh tử chẳng phải hằng. An và chẳng an là môn Nhân hạnh. Hạnh thiện là an, hành động xấu ác là chẳng an. Cũng có thể Thánh hạnh vô lậu là yên ổn, hữu lậu không phải yên ổn.
6. Hữu vi, vô vi v.v... là môn bốn đế. Hữu Vi, vô vi, là khổ đế kia. Hữu vi là khổ. Sắc pháp, tâm pháp, pháp chẳng phải sắc, tâm là hữu vi. Vô vi chẳng khổ, vì tương đối nên có. Hư không là số diệt, phi số diệt v.v... là vô vi. Đoạn là tập đáng dứt bỏ gọi là dứt. Không dứt thì chẳng phải tập, vì tương đối nên có. Niết-bàn là diệt. Chẳng phải Niết-bàn nghĩa là vì tương đối nên có. Tăng thượng là đạo, vì cao quý. Chẳng phải tăng thượng, là vì tương đối nên có.
"Thường, lạc v.v... trở xuống là phần thứ ba tổng kết. Trong phần hộ Tiểu thừa, trước phân biệt, sau là kết. Trong phần riêng, chỉ khen công đức hiện tại, vị lai, không khen công đức quá khứ. Vì dấu vết của Ưu-bà-tắc ở hạnh gần, nên lược qua không khen. Y theo phần khen công đức hiện tại thì mình, người, đều khen. Văn có ba cặp: Cặp đầu là mở đầu hạnh, cặp thứ hai là hạnh kế tiếp, cặp thứ ba là hạnh cuối cùng. Cũng muốn ưa nghe Đại thừa Vô thượng, là mở đầu lợi mình. Đối với tên gọi trước, cũng như nghe nói "Vì người" là mở đầu của lợi người, đó là cặp đầu. Khéo giữ tịnh giới, khao khát kính mến Đại thừa, là lợi mình. Kế là giữ giới, lìa lỗi, khao khát tu nhiều điều lành. Đã tự sung túc, lại bổ sung cho nỗi khát khao của người, kế là lợi mình. Cặp thứ hai này khéo có khả năng nhiếp hóa v.v... là cuối cùng của lợi mình. Về câu, có chia làm ba: Hai câu trước nói về hạnh của pháp nhiếp. Trí nhiếp Vô thượng, cầu quả Đại thừa. Yêu mến Đại thừa, học nhân Đại thừa. Cũng có thể nhiếp thủ trí tuệ Vô thượng, cầu chứng pháp yêu mến Đại thừa, cầu được giáo pháp. Một câu thủ hộ, là hạnh hộ pháp. "Khéo có thể tùy v.v..." trở xuống, là cuối cùng của hạnh lợi người. Khéo tùy theo thế gian, pháp hóa của thế gian đã độ, chưa độ v.v... Pháp hóa của Tiểu thừa đã độ, chưa độ, giúp cho họ vượt qua quả khổ.
Người đã hiểu, chưa hiểu, làm cho họ dứt bỏ nhân tập, tiếp nối pháp hóa của Đại thừa như Tam Bảo v.v..., đây là cặp thứ ba. Sau đây là khen công đức ở vị lai, sẽ chuyển thành lợi tha. "Dùng Đại thừa v.v..." là tự lợi, dùng Đại thừa trang nghiêm là hạnh nhiếp thiện. Vị sâu tịnh giới, là hạnh lìa lỗi.
Trên đây là khen riêng. Sau đây, là kết thúc chung: "Đều có thể thành v.v..." là kết tự lợi ở trước. "Đối với chúng sinh v.v..." là kết lợi tha ở trên.
Dưới đây là phần hai, nói về cúng dường Phật. Vì người tại gia có cung, có phụng, nên sau đây sẽ nói về cúng dường Phật. Văn được chia làm bốn:
1. Nói về các cúng phẩm.
2. Lại nghĩ: "Nay, Như lai nhận cúng phẩm của con v.v..." trở xuống là nghĩ sau khi Phật nhận con cúng dường xong, sẽ nhập Niết-bàn, lòng cảm thấy thương xót ngậm ngùi!
3. "Mỗi thứ được xếp đặt v.v..." trở xuống, là dâng lên cúng Phật.
4 "Cất tiếng kêu v.v..." trở xuống, tha thiết ai bi thỉnh Phật nhận cúng dường.
Trong phần trước có hai:
1. Cúng dường của cải.
2. Mỗi người đều nghĩ rằng: "Tất cả chúng sinh, nếu có ai thiếu thốn v.v..." trở xuống là nói thực hành cúng dường.
Trong của cải gồm có tám:
1. Sắm gỗ thơm.
2. Sắm đủ cờ báu.
3. Cầm lọng báu.
4. Trỗi lên các thứ âm nhạc.
5. Bưng các hoa mầu nhiệm.
6. Bày các thứ hương.
7. Chuẩn bị đầy đủ thực phẩm.
8. Trang hoàng nơi cúng dường.
Y theo đoạn đầu, cũng vào lúc sáng sớm, thời gian sắm sửa gỗ củi, sắp sửa xà-tỳ, sắm gỗ để dùng. Hán dịch là phần thi. Mọi người đều nhặt củi, chính là nói sắp đặt giàn gỗ, toàn bằng gỗ Chiên-đàn v.v..., là thể của gỗ kia. Ánh sáng, hương hoa, cờ phướn, được trang hoàng quanh giàn gỗ. Hai thứ xe và ngựa dùng để chuyên chở gỗ.
Thứ hai, là cờ báu, được tô điểm bằng lưới báu.
Thứ ba, là lọng báu được đan xen bằng hoa thơm. Trong đài hoa ngát hương này, có nhiều ong đen.
Vì sao ở đây lại có lắm ong vờn hoa? Sao nói là đen?
Có người nói là biểu thị cho vô minh, chúng sinh cho rằng có đối tượng để biểu thị, trong văn không nói cho nên chỉ nêu. Kỹ nhạc, hoa, hương, văn phân biệt dễ hiểu. Thứ bảy là trong thức ăn, sắm sửa thức ăn cho Phật và Tăng là chung, sau đây là riêng, sẽ giải thích rõ:
Củi thơm, nước đức là duyên hình thành thức ăn. Vị thể của thức ăn là đắng, chua, cay v.v... Dưới đây, có ba đức, là nói lên thức ăn cao quý:
Trong duyên hình thành thức ăn, có tám thứ nước công đức đã được hình thành: thanh tịnh, không hôi, nhẹ nhàng, mát lạnh, mềm mại, ngọt ngon, khi uống vào được điều hòa, thích hợp. Uống xong, không bị bệnh, là tám công đức nói ở trước.
Sắc nhập thanh tịnh, hương nhập không hôi, nhẹ nhàng, mát lạnh, mềm mại, ngọt ngon, khi uống vào, được điều hòa, khoan khoái. Uống xong, không bị bệnh, là tám tính chất tốt của thứ trước đó.
Sắc nhập thanh tịnh, hương nhập không hôi, nhẹ, mát lạnh và mềm mại, đây là ba xúc nhập. Ngon là vị nhập. Hai thứ sau là pháp nhập. Tám nhập này là công năng của nước công đức kia. Vì là đức của nước, nên gọi là công đức. Sáu vị trong vi thể của thức ăn là nêu chung. Vị đắng v.v..., là nêu tên. Dưới đây sẽ nói bở ngọt có tám vị đầy đủ. Nay, ở đây nói có sáu, nghĩa ấy thế nào? Sáu và tám, là nói ly, hợp. Hợp tức nói sáu, ly tức là tám.
Chia vị ngọt thành ba:
1. Không đắng, gọi là ngọt, trái với vị đắng.
2. Không chua, gọi là ngọt, trái với vị chua.
3 Không cay, gọi là ngọt trái với vị cay.
Cũng như hai vị mặn, lạt kia trái nhau. Trong tiếng phạm, lẽ ra có tên riêng. Ở đây, không có tên gọi khác, mà nói chung là ngọt.
Trong ba đức sau, trước nêu, sau bày: Nói mềm mại là công năng của thức ăn. Ăn vào, làm cho thân thể con người được nhẹ nhàng, mềm mại.
Nói trong sạch: Thể của thức ăn tinh, ròng không có chất ô uế khác.
Nói đúng pháp, nghĩa là thọ dụng thuận với đạo, chẳng phải rượu, thịt v.v...
Trong xứ thứ tám là trước đến, sau nghiêm. Đầu tiên, trang nghiêm đất kia. Kế là tòa ngồi, sau là cây. Các Ưubà-tắc hiện đang ở quả báo loài người, đâu thể trang nghiêm chỗ ngồi, như núi Tu-di?
Giải thích: "Các Ưu-bà-tắc này dù ở giai vị con người, nhưng đều là Bồ-tát xuất thế không thể suy nghĩ bàn luận, nên có khả năng như thế. Hơn nữa, vì là pháp môn Tam-muội mà Như lai đã thị hiện, nên có khả năng như thế. Dưới đây, đều giống như vậy.
Trên đây đồng nói về cúng dường tài vật. Sau đây, sẽ nói về hạnh cúng dường, cũng gọi là cúng dường pháp. Luận Địa Trì gọi là Chí Xứ đạo cúng. trong đó có ba:
1. Nghĩ rằng: "Trong tất cả chúng sinh, nếu có người thiếu thốn thì nghĩ đến tâm chúng sinh."
2. Tạo nên thời gian bố thí này, lìa dục, sân v.v... tâm ngăn dứt phiền não.
3. "Suy nghĩ không dư sót v.v..." trở xuống, là cầu tâm Bồ-đề: Suy nghĩ không dư sót, để cầu mong phước lạc thế gian, chỉ mong Bồ-đề, cầu quả vị Phật, đều đã an trụ trong đạo Bồ-tát, có đủ nhân Phật.
Lại nữa, câu trước là nguyện cầu Phật, đều được yên ổn v.v... là cầu hạnh Phật.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về các vật cúng dường. "Lại nghĩ v.v..." trở xuống, là đoạn hai, nghĩ về Đức Phật nhận cúng dường xong, sẽ nhập diệt, lòng cảm thấy thương xót, não nề.
"Mọi người đều xếp đặt v.v..." trở xuống, là đoạn ba, dâng cúng phẩm lên Đức Phật.
"Cất tiếng kêu khóc v.v..." trở xuống là đoạn bốn, tha thiết thỉnh Phật nhận vật cúng dường. Đầu tiên là gào khóc, "Lại xem thấy tướng, nói là v.v..." trở xuống là nói lời thở than thảm thiết.
"Bèn tự nêu v.v... trở xuống chính là thỉnh Phật thọ cúng. Cử động thân, thân thỉnh, mà nói là miệng thỉnh.
Trên đây là phần hai, nói về kính thờ Phật. Dưới đây là phần ba, Đức Như lai không nhận cúng dường.
Nói biết thời gian là thời gian nhận. Thời gian nhận có hai:
1. Thời gian hứa nhận: trong chương Thuần-đà.
2. Thời gian chánh thọ: Phẩm Đại Chúng Vấn.
Thời gian hứa nhận ở trước, chỉ rõ Đức Phật là thường. Thời gian chánh thọ sau, nói lên Niết-bàn là thường. Nay, vì chẳng phải thuộc thời gian đó, nên Đức Phật không nhận.
Nói im lặng, nghĩa là nói việc không nhận. Vì sao phải yên lặng? Vì Như lai, bậc Đại Nhân, với thể là đạo ít muốn, nên hoặc thọ, không thọ, thường đều im lặng.
Làm sao phân biệt được tướng hiện tại để biết được? Nói không thọ chính là nói không thọ. Ý giải thích có bốn:
1. Vì Phật muốn cho các chúng đều được dâng cúng, nên ở đây không nhận. Vì nếu Phật nhận cúng phẩm này thì chúng khác sẽ chấm dứt ý nghĩ, đâu dám dâng cúng nữa! vì khiến cho Thuần-đà hiến cúng hiển bày pháp nên ở đây không nhận, nếu nhận vật cúng dường này thì Thuần-đà đâu dám sanh tâm hiến cúng nữa.
2. Vì Đức Phật muốn cho các chúng bày tỏ sự trân trọng đối với việc bố thí, nên ở đây không nhận. Đến sau, trong phẩm Đại Chúng Vấn, mới vì chúng nhận cúng dường.
3. Ở trụ xứ này Phật chưa đối với Thuần-đà giảng rõ về nghĩa Phật là thường, e rằng các chúng kia đã bố thí mà không có mục tiêu hướng đến! Cho nên ở đây không nhận.
Sau đây, đối với Thuận-đà, đã hiểu rõ nghĩa Phật là thường, trong phẩm Đại Chúng Vấn v.v..., Đức Phật đồng nhận đại chúng cúng dường.
Nay, đối với việc cúng dường này, Phật không nhận đã như vậy, dưới đây, Phật không nhận trong chúng khác, so sánh cũng giống như vậy.
Dưới đây là phần bốn, không nhận trụ lại. Đầu tiên, không nhận, sau thương xót mà trụ lại. Ở lại, trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dùng dụ để chỉ rõ gốc lành cúng Phật, thật đáng yêu như con. Như lai không nhận, gọi là bệnh đã tiêu mất, đã đặt ra không thật, vứt bỏ đi, gọi là đưa vào trong gò mả. Không làm tốt đẹp lại gốc, gọi là về lại. Tâm bố thí không giải bày, gọi là oán hận. Dưới đây là hợp, rất dễ hiểu.
Trong Ưu-bà-di, văn cũng có bốn:
1. Nêu chúng, khen đức.
2. Nói về việc kính thờ Phật.
3. Như lai không nhận.
4. Không nhận trụ lại. Trong phần đầu có bốn:
1. Nêu chúng: Ba hằng là nêu số. Các Ưu-bà-di, là nêu riêng chúng Ưu-bà-di, Hán dịch là Cận trụ nữ, cũng dịch là Thiện túc nữ. Nghĩa đồng với cách giải thích trước.
2. "Thọ trì v.v... trở xuống, sơ lược khen đức của Ưubà-di (cũng như giải thích trên).
3. Nêu tên gọi Ưu-bà-di.
4. Khen rộng công đức của Ưu-bà-di, trong đó, trước phân biệt, sau là tổng kết, khen.
Trong phần riêng có bốn:
1. Có khả năng đảm trách, che chở pháp v.v..., giữ gìn hạnh Tiểu thừa.
2. Quở trách pháp tại gia, hạnh ngăn dứt phiền não.
3. "Tự quán sát v.v... trở xuống, rộng ngăn dứt phiền não.
4. "Rất ưa thích v.v... trở xuống, rộng giữ gìn Tiểu thừa.
Trong phần đầu, đều có khả năng che chở chánh pháp, là hạnh hộ pháp. "Vì độ mình v.v... trở xuống, là hạnh nhiếp hóa người.
Trong đoạn hai, quở trách pháp tại gia: Quở trách pháp của thân năm ấm của mình (về nghĩa quở, như sau).
Trong đoạn ba, văn chia làm hai:
1. Quán sát lỗi lầm, sinh ra nhàm chán.
2. Do duyên này v.v... trở xuống là tu đối trị dứt trừ.
Đầu tiên, trong phần trước, là quán năm lỗi của thân. Thà dùng trâu v.v... trở xuống là hai việc để nêu lỗi. Cho nên phải v.v... trở xuống là tổng kết, sinh tâm nhàm chán.
Đầu tiên, trong phần quán sát lỗi, trước quán thân khổ. Quán thân như con rắn, là khổ bên trong. Ví như bốn con rắn, tánh tướng trái nhau. Bốn đại cũng giống như vậy: Đất cứng mà nặng, gió lay động mà nhẹ. Nước ẩm ướt mà lạnh. Lửa khô ráo mà nóng, vì mỗi tánh của chúng đều trái nhau, nên như bốn con rắn. Các vi trùng cắn ăn, là khổ bên ngoài. Khổ chia ra vô lượng, lược nêu hai khổ này, từ "thân hôi hám v.v..." trở xuống là quán thân bất tịnh. Bất tịnh có năm:
1. Hạt giống bất tịnh: Tinh huyết của cha mẹ hiện tại là hạt giống. Nghiệp kiết phiền não ở quá khứ là hạt giống.
2. Chỗ ở bất tịnh: Ở trong bụng mẹ, phía dưới là sinh tạng, phía trên là thục tạng, nơi an trí thân của mình.
3. Tự thể bất tịnh: Ba mươi sáu vật thể hình thành chung thể của mình.
4. Tự tướng bất tịnh: Chín lỗ thường rịn ra chất nhơ.
5. Rốt ráo bất tịnh: Thân này khi chết rồi, giòi trùng ăn thành phân, lửa đốt thành tro, chôn bỏ dưới đất, rốt ráo không sạch.
Nay, trong văn này, nêu sơ lược ba thứ: Thân hôi hám do tham ràng buộc. Hạt giống bất tịnh. Tinh huyết cha mẹ hiện tại làm hạt giống, nên thân hôi thối, nhơ bẩn. Phiền não tham ái quá khứ làm hạt giống, gọi là ngục tham ràng buộc. Thân như con chó chết, tự thể bất tịnh, chín lỗ thường chảy. Tự tướng bất tịnh: Hai mắt, hai lỗ tai, hai lỗ mũi và miệng, đường đại, tiểu tiện, là chín lỗ.
"Thân như thành v.v..." trở xuống là quán thân vô "Ngã", trong đó, trước phải xem xét, quán sát, nương gá, dụ thành, nói thân không thật, giả tạm. (Xem văn dễ hiểu).
"Bức thành thân như thế, Chư Phật đã hủy bỏ v.v..." trở xuống, mượn người để làm rõ pháp. Chư Phật xả bỏ thân, nhằm chỉ rõ sự thật vô "Ngã". Phàm phu ngu muội thường bám trụ trong vị tham v.v... là nói về sự mê đắm ngu si. Lại, Phật xả bỏ, nêu bậc Thánh, quở trách phàm. Phàm ngu chấp mắc vị, trách phàm khác với Thánh, là thân không cứng chắc, như lau sậy v.v...
"Quán thân là không v.v..." trở xuống, là quán vô thường, trước là chánh quán.
"Ai là người có trí v.v..." trở xuống, nhờ bậc Thánh chỉ rõ lỗi lầm.
Trong phần trước, nói rộng về vô thường có ba:
1. Phần đoạn vô thường, là quả báo sáu đường, phần khác của ba đời.
2. Niệm vô thường: Niệm niệm dời đổi, dứt diệt.
3. Tự tánh không thành, thật sự vô thường. Pháp có nhóm hợp, đều không tự tánh.
Nay, nói sơ lược có hai: Thân này vô thường, niệm niệm không dừng. Niệm này vô thường, như ánh chớp... là thí dụ để so sánh.
"Thân này thay đổi v.v..." trở xuống là phần đoạn vô thường. Thân này dễ hư hoại như bờ sông v.v... là quán sinh dễ tử, trước là pháp, sau là dụ.
"Không lâu v.v..." trở xuống, là quán cái chết dễ đến. Trên đây, là chánh quán. Ai là người có trí mà ưa thích thân này?
Là nêu bậc Thánh không ưa, nói thân đáng nhàm chán.
Trên đây, thứ nhất là quán thân có năm lỗi.
Dưới đây là thứ hai, nêu hai việc để chỉ rõ lỗi lầm, với hai nghĩa để giải thích:
1. Dùng khó, dễ để phân biệt: Dấu chân bò đựng nước biển, cục đất bằng trái táo, cho đến như hạt bụi. Việc này rất khó, vẫn có thể làm ra nó. Nói về lỗi của thân, rốt ráo không thật có.
2. Dùng nhiều, ít để phân biệt: Biển cả sâu rộng, dấu chân bò đựng nước biển, đếm mãi cũng có thể hết. Mặt đất rộng bao la, cục đất như trái táo, cho đến như hạt bụi, đếm cũng có thể hết. Tai hoạ của thân nhiều hơn các vật đó, nói đủ không thể hết. Cho nên phải bỏ, như hỉ bỏ mũi dãi, là đoạn ba, tổng kết sinh tâm nhàm chán.
Trên đây là phần thứ nhất, quán lỗi lầm, sinh nhàm chán.
"Do duyên này v.v..." trở xuống là tu đối trị để dứt trừ. Do nhân duyên quán sát thân có nhiều lỗi lầm, nên tu "Không" v.v... để đối trị. "Không, Vô tướng, Vô nguyện, rộng như chương riêng.
Y cứ theo đoạn bốn, trong phần rộng giữ gìn Tiểu thừa, của đoạn bốn khen công đức hiện tại, vị lai, không khen công đức quá khứ. (Về nghĩa, đồng với giải thích ở trước).
Khen tự lợi, lợi tha của Ưu-bà-di ở hiện tại. Văn được chia làm ba cặp:
1. Phần mở đầu hạnh.
2. Kế tiếp của hạnh.
3. Phần cuối của hạnh.
Ưa sâu sắc, thưa hỏi, thọ lãnh, là mở đầu hạnh lợi mình. Nghe xong, giảng nói, là mở đầu hạnh lợi người. Đây là cặp đầu, giữ gìn bổn nguyện v.v..., kế là hạnh lợi mình, giữ gìn bổn nguyện, giữ lấy tâm Bồ-đề.
"Chê bai người nữ v.v... trở xuống là khởi hạnh Bồđề. Trước là nhàm chán hữu vi, kế là ưa thích vô vi.
Trong phần nhàm chán hữu vi, chê bai người nữ v.v..., là lỗi hiện tại, rất đáng nhàm chán. Phá hoại sự sinh v.v..., lỗi lầm quá khứ có thể diệt. Khát khao, kính mến Đại thừa, là hướng về vô vi.
"Đã tự sung mãn v.v..." trở xuống, kế là lợi người, là cuối cùng của hạnh lợi mình, ưa giữ gìn sâu sắc.
Y theo thật, mà khen đức. Ưa sâu sắc trở xuống là hạnh của pháp nhiếp. Giữ gìn trở xuống, là hạnh hộ pháp.
"Dù hiện nữ v.v..." trở xuống, là bỏ "Quyền", bày "Thật".
"Khéo có thể tùy v.v..." trở xuống, là hạnh lợi người kết thúc. Khéo tùy thế gian là pháp hóa độ thế gian, độ chưa độ... là pháp hóa của Tiểu thừa, giúp họ thoát khỏi quả khổ.
"Hiểu rõ nhân của tập, nối tiếp Tam bảo v.v..." trở xuống là pháp hóa độ của Đại thừa, đây là cặp thứ ba.
Trong phần khen ngợi công đức vị lai, sẽ chuyển lợi người, dùng Đại thừa trang nghiêm v.v... để khen hạnh lợi mình. Dùng Đại thừa trang nghiêm là hạnh nhiếp thiện, giữ vững giới cấm là hành vi lìa ác.
Trên đây, là khen riêng. Sau đây là tổng kết hạnh đó, nêu lên danh sách có thể biết. Đoạn đầu này đã xong, kế là ba đoạn sau dễ hiểu.
Trong đoạn thứ tư, trước nói lìa chiếc xe, không là quả thương xót, sầu não. Sau là dùng oai lực Phật làm cho chúng ở trên hư không. Vì sao làm như vậy? Vì các chúng lìa xe, chuyển tâm che chở giữ gìn chánh pháp. Vì công đức hộ pháp cao nêu, nên làm cho chúng dừng lại trên hư không, để cho người bắt chước tu theo.
Bảy Đa-la:
1. Cây Đa-la, cách mặt đất bảy nhận. Một nhận bằng bảy thước. Một cây, gồm có bốn mươi chín thước, bảy cây cộng chung là ba trăm bốn mươi ba thước.
Kế là nêu đại thần và các trưởng giả, cũng vì cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên nêu theo thứ lớp. Văn cũng có bốn:
1. Nêu chúng, khen đức: Nói về chúng, khen ngợi đức, nêu danh hiệu có thể biết.
2. Nói về kính thờ Phật, gấp năm lần trước, nêu đối với kia đầu tiên nói năm.
3. Như lai không nhận.
4. Nhờ thần lực Phật, trụ trong hư không. Đây cũng là vì hộ pháp, nên Phật làm cho chúng ở trên hư không.
Kế là, nêu các vị vua, cũng vì cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên theo thứ lớp nêu ra đây. Về văn, chia ra làm có sáu:
1. Nêu chúng của Phật.
2. Nói về vật cúng.
3. Khen đức của chúng.
4. Dâng cúng phẩm lên Phật.
5. Như lai không nhận.
6. Không nhận trụ lại.
Y theo đoạn đầu, trước nói về các vị nhóm họp. Trừ A-xà trở xuống là phân biệt những vị chưa nhóm hợp, đó là những kẻ giết cha trên đời, vì lòng họ rất hổ thẹn, nên chưa đến đây.
Sau đây, là nêu danh của chúng. Vì sao không nêu số chúng? Vì phải dùng các vị vua nhiều hơn năm Hằng, không đầy sáu hằng. Vì giới hạn khó bày rõ rệt, cho nên giấu không nêu. Thứ hai, dễ hiểu.
Thứ ba, trong phần khen, trước mình, sau người. Trong phần khen mình có bốn câu: Hai câu trước nói bỏ tà, về chánh. Hai câu sau, là bỏ Tiểu, học Đại. Về lợi người dễ hiểu, ba câu sau, dễ hiểu.
Kế là, nêu các phu nhân. Cũng do số cúng phẩm của người trước nhiều, sau ít, nên nêu theo thứ lớp này. Văn, chia làm bốn:
1. Nêu chúng, khen đức.
2. Nói dâng cúng phẩm lên Phật.
3. Như lai không nhận.
4. Không nhận trụ lại. Trong phần đầu có bốn:
1. Nêu chúng đến tham dự.
2. Khen đức của chúng.
3. Nêu tên.
4. Lại khen đức.
Trong phần nêu chúng ở đầu, có bảy Hằng phu nhân chính là nêu các vị đã nhóm hợp. Trừ A-xà trở xuống là phân biệt với các vị chưa nhóm hợp. Các Vua thế gian chưa đến, phu nhân cũng thế, theo vua chưa đến.
Trong phần khen thứ hai, vì độ người nữ ở hiện tại, là đức lợi tha.
Thường quán thân v.v... là đức tự lợi. Nêu tên, dễ hiểu.
Trong phần khen thứ tư, trước là nói về lợi mình: an trụ trong nhiếp thiện, tu giới, ngăn dứt điều ác. "Thương xót v.v..." trở xuống, là lợi người. Ba phần sau dễ hiểu. Kế là nêu thiên nữ. Văn được chia làm sáu đoạn:
1. Nêu chúng thiên nữ.
2 "Nói rằng v.v..." trở xuống là nói rõ nên dâng cúng.
3. Khen đức của thiên nữ.
4. Nói về cúng dường Phật.
5. Như lai không nhận.
6. Không nhận trụ lại.
Đoạn đầu dễ hiểu. Trong đoạn hai, trước là khuyến cáo. Quan sát người khác đã sắp bày cúng phẩm. "Chúng ta cũng v.v..." trở xuống, tự nguyện dâng cúng, trong đó có bốn:
1. Thừa nhận có dâng cúng.
2. Nghĩ Đức Phật nhận cúng dường xong, sẽ nhập Niết-bàn, chứng tỏ cần phải làm.
3. Nói sau cùng là cúng Phật rất khó, đủ biết cần phải làm.
4. Nêu sau khi Như lai diệt độ, thế gian sẽ trống rỗng. Nói nay ứng cúng.
Trong phần khen thứ ba là trước riêng, sau kết. Trong phần riêng, là khen công đức hiện tại, vị lai của chúng, không khen quá khứ. (Nghĩa đồng với giải thích ở trước). Khen công đức ở hiện tại là hạnh lợi mình, lợi người.
Văn có ba cặp:
1. Cặp đầu, là hạnh mở đầu.
2. Cặp thứ hai, hạnh kế tiếp.
3. Cặp thứ ba, hạnh sau cùng.
Ưa thích muốn nghe là mở đầu của lợi mình. Nghe xong, muốn giảng nói là khởi đầu của hạnh lợi người.
Đây là cặp đầu. Khao khát, kính mến Đại thừa là hạnh lợi mình kế đó.
"Đã tự sung mãn v.v..." trở xuống, là lợi người kế đó, đây là cặp thứ hai.
"Giữ gìn Đại thừa v.v...", là cuối cùng của hạnh lợi mình, trong đó, trước nói về hạnh nhiếp thiện. Đó là dùng hạnh hộ pháp làm hạnh nhiếp thiện, giữ gìn Đại thừa là chung.
"Nếu có khác v.v... "trở xuống, là phân biệt để làm rõ tướng giữ gìn, oai nghi giữ giới đầy đủ là hạnh xa lìa lỗi lầm. "Khéo tùy v.v...trở xuống, là cuối cùng của hạnh lợi người. Khéo tùy thế gian, pháp hóa độ thế gian, độ người chưa được độ v.v... là pháp hóa độ xuất thế. Đây là cặp thứ ba.
Sau đây là khen công đức ở vị lai. Sẽ chuyển chánh pháp v.v... là hạnh lợi người. Dùng Đại thừa trang nghiêm v.v... là hạnh lợi mình.
Trên đây, đã khen công đức riêng. Sau đây là tổng kết: Thành tựu đức như thế, kết lợi mình trước.
"Sinh lòng từ bình đẳng v.v..." trở xuống, là kết hạnh lợi người ở trên.
Trong phần thứ tư, là nói về kính thờ Phật, văn chia làm bốn:
1. Trang nghiêm, là nói về sự cúng. Sự cúng có mười thứ, đó là gỗ thơm, lọng trướng, cờ, thức ăn ngon kỹ nhạc, giường, ghế, đèn, hoa.
2. Nghĩ Phật sắp diệt độ, ôm lòng thương xót, sầu não.
3 Vì chúng sinh đến chỗ Phật. (Văn đồng với cách giải thích ở trước).
4. Thỉnh Phật nhận cúng. (Hai phần sau dễ hiểu)
Trong chúng rồng v.v... phần nhiều trước nêu chúng, kế là nói về kính thờ Phật. Sau, "Đức Như lai không nhận v.v..." trở xuống là không trụ lại. Văn rõ ràng dễ hiểu.
Trên đây, theo số tăng dần, do nêu hai mươi sông Hằng. "Đai hương tượng v.v..." trở xuống là nêu lẫn lộn các chúng.
"Bấy giờ, ở Diêm-phù-đề, Tỳ-kheo và và Tỳ-kheo-ni, tất cả đều nhóm hợp" đâu khác gì với ở trên, sao lại phải nêu nữa?
Vì ở trước chỉ là bậc Vô học, còn giờ đây thì chung cho cả trên, dưới, Thánh, phàm đều nhóm hợp, nên nói "tất cả", chỉ trừ Bồ-tát Ca-diếp và chúng A-nan, vì Anan bấy giờ đang ở bên ngoài rừng Ta-la, bị ma khuấy rối, nên chưa kịp đến. Bồ-tát Ca-diếp đến sau, Đức Phật ló đôi chân ra ngoài kim quan, vì đem lại lợi ích sâu rộng cho nhiều người, nên chưa nhóm hợp ở đây.
Hỏi: Lúc Như lai nhập Niết-bàn, Kiều-phạm-ba-đề đang ở trên cõi trời không đến, vì sao không phân biệt?
Giải thích:
Bồ-tát Ca-diếp và Tôn giả A-nan, hiện giờ dù chưa đến, nhưng về sau sẽ đến, nên ở đây lược bớt hai vi. Kiều Phạm đang ở cõi trời, không bao giờ đến, nhưng về sau sẽ đến, cho nên nay không lược qua.
Dòng phải như trên lẽ ra cũng chẳng phải duy nhất.
Đoạn thứ năm này đã xong.
Từ sau đây là đoạn sáu, Đức Như lai biến đổi rừng, để đôn đốc tâm đại chúng, vì sao phải như vậy. Chúng mới đã đến, thấy Đức Phật vẫn còn, với hy vọng thiết tha là bậc Thánh sẽ không nhập diệt. Vì thấy tâm luyến mến của chúng mới còn xa, nên Phật biến khu rừng, để nói lên việc nhập diệt, thúc giục chúng hãy cố gắng, khích lệ.
Trong văn, trước là giải thích, kế là so sánh, sau là hợp.
Trong phần giải thích, trước là biến rừng, thành màu trắng, gọi là trắng tươi, nên nói như chim hạt. Vì sao biểu hiện màu trắng? Có người nói: "Màu trắng là hình ảnh cây chết, để nói lên bậc Thánh nhập diệt." Quan niệm này đã bị bác bỏ như trước. Lại, có người nói: "Màu trắng là màu gốc, chứng tỏ Đức Phật trở về gốc."
Có người chấp nhận có thể như vậy, chỉ vì đó chẳng phải là kinh nói, nên chưa thể chuyên quyết định.
Kế là, Đức Phật hóa hiện ngôi nhà báu, ánh sáng rọi lại, tỏa chiếu song âm. Con người cũng y theo điểm này, với các cách tỏ bày khác lạ, khó biết.
"Vả thôi đi v.v..." trở xuống, Phật hóa hiện ra suối, ao, hoa nhiệm mầu dẫy đầy, phản chiếu ánh sáng, tô điểm giảng đường. (Giống như hợp, rất dễ hiểu). Y theo văn hợp này, chắc chắn biết rừng, giảng đường chẳng phải tướng riêng. Sau khi hiện ngôi nhà, mới nói rừng cây, các thứ trang nghiêm rất đáng yêu v.v...
Sau đây là lớp thứ bảy, nói các chúng ngắm xem tướng, càng thêm thương xót, buồn thảm, hiến dâng cúng dường, trong đó có hai:
1 Nói cõi này đã nhóm họp các chúng, thấy tướng buồn thương, thờ phụng cúng dường.
2. "Bấy giờ, ở phương Đông cách đây v.v..." trở xuống, là nói ở phương khác, chúng đang nhóm hợp hiến cúng. Theo đoạn đầu, trước nói thấy tướng, đại chúng đều cảm thấy thương xót là thêm bi, gọi là biến đổi rừng ở trước, là tướng Niết-bàn. Sau đây, sẽ nói về việc dâng cúng:
Hỏi: Những người này có phải là chúng ở trước hay không? Giải thích:
Các tầng trời Dục và A-tu-la, chính là ở trên đã nêu thuộc về hai chúng trời và A-tu-la. Nay, lại nêu nữa, nên trong văn ở trước đã nêu bốn vị vua trời, nay lại nêu. Chúng khác cũng giống như vậy. Chúng Phạm mới đến, như dưới đây nêu:
Các tầng trời cõi Dục và Tu-la là chúng trước, vì sao đến đây mới nói về dâng cúng?
Giải thích rằng:
Những vị này vừa từ hư không ở trước mà đến. Đã đến Song lâm, thấy chúng lập bày, mới sinh ra ý dâng cúng, nên giờ đây mới nêu, thành ra vì thấy ở sau, mới nói là: "Ông quan sát người, trời đa số đang sắp bày cúng dường, chúng tôi cũng cúng. Cũng có thể là người trước, nghĩa là người và cúng phẩm đều đến, trong số đó, người cúng lần lượt thêm nhiều: trước đã nêu đủ. Hoặc có khi người nhiều mà cúng phẩm giảm ít. Hoặc người ít, mà cúng phẩm lại thêm nhiều. Vì nêu trước bất tiện, nên ở đây mới nói, trong đó có sáu:
1. Nói về các tầng trời cõi Dục hiến cúng.
2. Nói các tầng trời ở trên hư không" cõi Dục dâng cúng.
3. Các phạm dâng cúng.
4. Tu-la Tỳ-ma-chất-đa hiến cúng.
5. Ma vương hiến cúng
6. Vua trời Đại Tự Tại dâng cúng.
Các vị này là tùy vật cúng tăng dần mà nêu. Trong phần đầu có ba:
1. Tứ vương, Đế-thích cùng bàn luận rõ ràng về dâng cúng.
2. Tứ vương dâng cúng.
3. Đế-thích dâng cúng.
Trong phần đầu, các ông quán sát trời, người v.v..., xem thấy người khác sắp bày, chúng tôi cũng v.v... trở xuống là tự muốn dâng cúng. Nếu sau cùng, ta v.v... trở xuống là nêu lên sự lợi ích để khuyên bảo.
Trong Tứ vương hiến cúng, trước nêu người đứng đầu dâng cúng. Bốn mặt Tu-di có bốn núi Na-càn-đa-la, cách mặt đất bốn mươi hai ngàn do-tuần, rộng mỗi bề cũng thế, phương trên có bốn vị thiên vương, phương Đông có Thiên vương, hiệu là Đề-đầu-lại-tra, Hán dịch là Trì quốc, thống lãnh các vị trời, đều là hai bộ quỷ thần Càn-thát-bà và Tỳ-xá-xà. Phương Nam có Thiên vương, tên là Tỳ-lâu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng trưởng Chủ, thống lãnh các vị trời, đều là hai bộ quỷ thần Cưu-bàntrà và Bệ-lệ-đa. Phương Tây có Thiên vương hiệu là Tỳlâu-bác-xoa, Hán dịch là Tạp ngữ, lãnh đạo các vị trời và hai bộ quỷ thần: Rồng và Phú-đơn-na. Phương Bắc, có Thiên vương hiệu là Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Đa văn, thống lãnh các vị trời và hai bộ quỷ thần: Dạ-xoa, Lasát. Cho nên, trong hướng về quỷ thần ở trước, Tỳ-samôn. Bốn vị thiên vương này đến dâng cúng. "Đã lập bày v.v... trở xuống, nói về kính thờ Phật. Gấp bội hơn trước, nghĩa là gấp bội hơn trước nay. "Tất cả các phẩm sắp bày v.v..." trở xuống, là Phật không thọ nhận. Không nhận lời trụ lại.
Trong phần Đế-thích dâng cúng, trước nêu người đứng đầu dâng cúng là Thích-đề-hoàn-nhân. Thiên vương Đao-lợi, Hán dịch là Năng, là Thiên vương. Trời Ba Mươi Ba là gồm nêu cả chúng trời này. Trên đỉnh núi Tu-di, trụ xứ riêng của trời Ba Mươi Ba kia. Ở chính giữa, nơi Đế-thích cư ngụ, mỗi phía đều có tám nước là nơi cư trú của thần dân. Cho nên nói chung là trời ba mươi ba. Kế là, là nói về dâng cúng gấp bội hơn trước: Gấp bội hơn bốn thiên vương, cũng có thể gấp bội tất cả cúng phẩm đã bày biện ở trước.
Đức Như lai không nhận: Không là quả, đồng với ở trước, "Cho đến thứ sáu cúng phẩm đã sắp bày v.v... trở xuống, các tầng trời trên hư không trên hư không của cõi Dục kia dâng cúng (bắt đầu từ tầng trời Dạ-ma, cho đến tầng trời Tha Hóa đều đến dâng cúng văn rất dễ hiểu).
Trong các phạm dâng cúng, văn chia ra làm năm:
1. Nói chung chúng Phạm, tất cả đều đến nhóm họp. Trên, đến Hữu đảnh. Tất cả đều đến, nghĩa là đến Hữu đảnh ở cõi Sắc, vì cõi Sắc không có thân hình, cho nên không nói. Cũng có thể trên, đến Hữu đảnh Phi tưởng, Tứ không Vô sắc. Cõi Vô sắc đó làm sao đến?
Giải thích:
Vì phàm phu, Nhị thừa không nhìn thấy, nên nói là Vô sắc, nhưng thật ra thì có sắc, nên nói là "Đến". Vì cho nên trong A-hàm nói: "Khi Xá-lợi-phất nhập Niết-bàn, các vị trời ở cõi Vô sắc cảm động đến rơi lệ như mưa mùa xuân. Kinh Hoa Nghiêm cũng chép: "Tỷ căn của Bồ-tát ngửi mùi hương của cung điện cõi Vô sắc." Văn sau của kinh này cũng nói là có sắc, cho nên đến Phi Tưởng; thảy đều đến vì trên cõi Sắc đều lìa dục, được gọi chung là chúng Phạm.
2. "Lúc bấy giờ v.v..." trở xuống, là nêu chủ cúng riêng. Trong chỗ nhóm họp ở trước, vì có lập bày, không lập bày, nên nêu riêng. Ở đây, lẽ ra là Phạm vương trung gian kia, làm sao biết được? Vì cờ phướn kia ngắn, chỉ treo ở cung Phạm, nên biết chẳng phải ở trên, cũng có thể là vua Phạm của ba thiền.
3. Nói về kính thờ Phật.
4. Như lai không nhận.
5. Không nhận trụ lại.
Trong Tỳ-ma dâng cúng, trước nêu vị chủ, vị đại Bồtát này phát ra ánh sáng từ thân vượt hơn trời Phạm, che phủ ngàn cõi.
Nói về cúng phẩm, Đức Phật không nhận, không quả đồng với trước.
Trong phần Ma vương hiến cúng, văn chia làm sáu:
1. Nêu lên chủ cúng đều khen việc đã làm.
2. Nói về kính thờ Phật.
3. Dâng thần chú.
4. Thỉnh Phật thọ cúng.
5. Đức Phật hứa nhận chú, không nhận cúng phẩm của Ma vương.
6. Không nhận trụ lại.
Trong phần đầu, Ma vương Ba-tuần ở cõi Dục, là nêu chủ cúng. Ma-la là tiếng Phạm, Hán dịch là Sát giả, vì hãm hại người lành, nên Ba-tuần là tiếng Phạm, Hán dịch là cực ác. Dựa vào pháp Phật mà được lợi ích tốt đẹp. Vì không nghĩ đến đền đáp ơn Phật, trái lại còn muốn, hủy diệt, nên gọi là cực ác. Trên tầng trời Tha hóa có riêng cõi ma. Nói chung, ma vương này cũng thuộc về cõi trời Tha hóa kia, nên hiện nay, nói là ma vương cõi Dục. Ở đây, vì có nhiều Bồ-tát vì hóa độ nên thị hiện làm ma vương, dẫn quyến thuộc đến.
"Sự cúng dường này, mở cửa địa ngục v.v... trở xuống, là khen việc làm của ma vương kia: Trước cứu khổ địa ngục, sau, nhiếp hóa dân ma. Trong cứu khổ địa ngục, trước nói về vật cho. Sau, nói về vật xả bỏ. Vật cho là sao? Nghĩa là cho niềm vui, cho điều lành. Mở cửa địa ngục để bố thí nước uống là cho vui. "Nhân khuyên bảo v.v... trở xuống, là cho điều lành. Nhân cho nước ở trước, đồng thời khuyên dùng điều lành, nên nói: "Nhân khuyên bảo: Ông không có khả năng thực hành, chứng tỏ không kham, không kham cúng Phật", "Chỉ phải v.v... trở xuống, là suy lường khả năng họ, ý bảo họ tu điều lành. Trước bảo họ niệm Phật, sau bảo tùy hỷ.
"Sẽ làm cho ông v.v..." trở xuống, là nói về lợi ích của tu, ngu mê trong sinh tử, gọi là đêm. Trôi lăn không có bờ mé, nói là dài. Được điều lành tự bình yên, gọi là được an. Đây là nói về vật cho.
"Ma đến địa ngục đều bỏ dao v.v..." trở xuống, nói về điều ma kia đã nói: "Vì bỏ đao gươm, như mưa rơi sẽ dập tắt lửa." Đây là quả báo nghiệp ác của chúng sinh, ma đâu thể nào dứt trừ nghiệp ác cho chúng sanh được! Thật vậy không được, phải do lời khuyên bảo ở trước là niệm Phật tùy hỷ, tất nhiên tội nhơ sẽ tiêu mỏng, mới được diệt trừ. Lại, ma là Bồ-tát không thể suy nghĩ. Có người gặp ma, chắc chắn là người lành đời trước, thọ lãnh, có thể chuyển, nên sẽ được dứt trừ. Như người nghèo cùng, dù là quả báo, nhưng vẫn có thể dùng của cải để cứu giúp, ma kia cũng giống như vậy.
Trên, cứu giúp khổ địa ngục, dưới nhiếp hóa ma dân, là do thần lực Phật sinh ra tâm, lại phát tâm này, lại khởi ý hóa độ.
"Làm cho các v.v..." trở xuống, là khuyên răn hãy vứt bỏ dụng cụ chiến đấu. Bởi ma chuyên phá khuấy. Lúc chúng phá hoại người lành, thường dùng công cụ đấu tranh, vì e sợ người tu hành. Nay, khuyên nên vứt bỏ chúng.
Thứ hai, là nói về cúng dường, văn rõ ràng dễ hiểu. Y theo văn dâng chú đoạn ba, chia thành sáu đoạn:
1. Tự nói về tâm mình, bày tỏ sự yêu mến chánh pháp của mình.
2. "Người nam, nữ vì cúng dường v.v..." trở xuống, là nói về tác dụng của chú, vì đối với tất cả những người che chở giữ gìn chánh pháp.
3. "Dùng cây chỉ v.v..." trở xuống chính là đọc lời chú.
4. "Chú này có thể v.v..." trở xuống là nói về công năng của chú.
5. "Vì khuất phục v.v..." trở xuống là nói về ý nói chú.
6. "Nếu có khả năng v.v..." trở xuống là nói người trì chú sẽ được lợi ích, cũng được gọi là nêu lên lợi ích để khuyên trì chú.
Trong phần đầu, nói "Chúng tôi yêu mến Đại thừa" là tâm nhiếp pháp; "Giữ gìn Đại thừa" là tâm che chở chánh pháp. Ma phần nhiều không thật, dối trá, vì sợ rằng, Đức Phật sẽ không tin, nên nói ra lời này, đủ chứng tỏ ma đã có ý chân thành.
Trong đoạn hai, là nói về ma vương đã vì bảo vệ người thọ lãnh chánh pháp, nên nói thần chú để ngăn dứt. Con người thông suốt chân, ngụy, vì đạo vì người, gọi là chân, người nào vì thân, vì của cải, gọi là ngụy. Trong văn đã giải thích cụ thể, lẽ ra có ba phần:
1. Nêu chỗ chân thật kia.
2. Nói về điều ngụy đó.
3. "Hoặc chân ngụy v.v..." trở xuống, là nhắc lại cả chân, ngụy nhằm chứng tỏ đã nói. Văn chỉ có hai, lược qua không nêu chân Ngụy còn là hữu vi, chân thì quên lời, nên lược qua không nêu. Trong ngụy có năm: vì cúng dường, nghĩa là vì được cơm, áo, giường nằm, và thuốc thang bốn việc cúng dường mà thọ trì kinh pháp. Vì sợ hãi: Sợ các khổ ở hiện tại và đường ác ở tương lai. Vì lừa dối người: Khinh khi, lừa dối người khác, làm cho họ kính trọng mình.
Vì lợi ích của cải: Vì được các vật dụng: Vàng, bạc, kho, lẫm v.v...
Vì tùy người khác: Vì bị người khác ức chế, quở trách, tự không có thành ý. Vì năm việc này mà thọ lãnh Đại thừa này, nên gọi là ngụy. Thông suốt, tức là thọ tất cả kinh, pháp, đó đều là ngụy. Nay, đối với kinh này nói rằng thọ Đại thừa, mà ngụy là vô lượng, thử nêu năm việc này, sợ sệt là một trong năm: Hoàn toàn vì thân mà cúng dường tài lợi. Một bề vì tài lợi mà lừa dối người, đều là thân tài.
Sau đây, là nhắc lại việc đã làm. Hoặc chân, nhắc lại một ít chân trước. Hoặc ngụy, nhắc lại ngụy đã nói ở trên: "Ta vì người này trừ diệt nỗi sợ hãi mà nói thần chú. Nói chung, vì nói sự lợi ích chẳng phải một. Công năng dứt trừ sợ sệt rất mạnh, là do nêu nghiêng một bên. Thứ ba, là lời thần chú. Vì sao không dịch? Vì nếu dịch thì sẽ thay đổi, làm mất tác dụng của chú, thường không linh nghiệm, cho nên không dịch. Lại, lời chú chưa hẳn chỉ là lời nói của người Thiên trúc, người dịch không hiểu. Vì vậy, không dịch. Lời của các kinh chú đều không dịch, thường là vì lý do như vậy.
Thứ tư, ngữ nghĩa trong công năng không đủ. Nếu đủ thì lẽ ra phải nói rằng, chú này có công năng giúp cho kẻ mất tâm, người sợ sệt, người giảng nói, đều lìa các sợ hãi. (Về nghĩa lìa sợ hãi, như trong phẩm Trì ích ở sau sẽ nói, nên ở đây không nêu.
Nói mất tâm: Là sự kém cỏi trong ngụy, nghĩa là vì sợ hãi trong ngụy ở trước. Vì của cải tùy theo người, có bốn hạng người, những thứ này mất đi tâm lành xa lìa, nên gọi là mất tâm. Nói sợ hãi: Là hơn trong ngụy, là sợ hãi trong ngụy ở trước.
Nói là người nói pháp, là vượt hơn trong chân, cái gọi là giảng nói kinh pháp Đại thừa.
Người không dứt pháp, là yếu kém trong chân, cái gọi là không dứt pháp Tiểu thừa, nghĩa là "Quyền" hóa độ không dứt, gọi là không dứt pháp. Do năng lực thần chú này, hộ vệ chung tất cả bốn bộ chúng, nên Đại thừa, Tiểu thừa được nêu chung. Bốn hạng người này nhờ thần chú đều giúp cho dứt nỗi sợ hãi.
Thứ năm, là thuyết nói minh ý nghĩa ma nói thần chú, trước là phân biệt, sau là kết. Trong phần phân biệt có bốn câu: Hai câu trước vì người, hai câu sau vì pháp. Y theo vì người, trước là nói vì lý do hàng phục ngoại đạo: Đối với người giảng nói ở trước, người không dứt pháp, bảy tỏ việc đã làm. Vì khiến người này giảng nói thông suốt chánh pháp. Vì hàng phục ngoại đạo, nên nói chú để che chở người ấy.
Phòng hộ thân mình: Đối với người mất tâm và sợ hãi ở trước, bày tỏ nói mà làm, vì khiến người kia được thần chú này mà che chở thân mình, để thọ trì kinh pháp, cho nên nói chú.
Y theo người hộ trì chánh pháp trong vì pháp, giữ gìn pháp Tiểu thừa, ý của ma vì giữ gìn pháp Tiểu thừa, nên nói thần chú, nhằm ủng hộ người không dứt bỏ chánh pháp ở trước.
Hộ trì Đại thừa: Ý ma vì giữ gìn pháp Đại thừa, nên nói thần chú để che chở người nói pháp Đại thừa ở trước. "Nói thần chú như thế" là tổng kết.
Thứ sáu là hộ trì: Trong phần được lợi ích, đầu tiên là được lợi ích chánh pháp, trước nêu, sau kết (văn rất dễ hiểu).
Người trì chú này: "Chúng tôi che chở v.v..." trở xuống là được lợi ích cho người kia. Người trì chú, ta che chở, như con rùa che giấu sáu phần thân.
Gia hộ người mất tâm ở trước và người sợ hãi, làm cho họ không thương xót, sầu não. Con rùa giấu kỹ bốn chân, đầu, đuôi là sáu. Ta không dua nịnh, với năng lực ích chí thành, giúp người nói pháp ở trước, người không dứt pháp, giúp cho tăng thêm năng lực giảng nói là vì muốn cho người truyền bá chánh pháp ở vị lai biết được ma thật sự che chở. Vì ý quyết định mở mang pháp, nên nói không dua nịnh, được lợi ích chí thành.
Trên đây, sáu đoạn hợp thành đoạn ba, dâng cúng thần chú. Đoạn thứ tư là thỉnh Phật thọ cúng, rất dễ hiểu. Trong đoạn năm là đầu tiên, không thọ cúng dường, kế là được Phật vì ma mà nhận lãnh thần chú. Sau, nói về ý thọ lãnh. Vì an bốn chúng, y theo đây, chắc chắn biết. Ý ma nói chung chỉ vì những người gìn giữ chánh pháp.
"Chẳng phải chỉ kinh này v.v..." trở xuống, là Đức Phật im lặng không nhận.
Thứ sáu là không nhận trụ lại, đồng với trong Đại tự tại ở trước. Trước, nên nêu chủ cúng. Đại tự tại, cũng là Thiên vương Ma-hê-thủ-la. Như Bồ-tát Long Thọ nói trên năm tầng trời Tịnh cư, có riêng chỗ trời Tịnh cư của Bồ-tát, gọi là Ma-hê-thủ-la. Bồ-tát Thập địa phần nhiều sinh lên đó. Nay, đến dâng cúng. Đã sắp bày v.v... trở xuống, là nói về kính thờ Phật, trong đó có ba:
1. Nói cúng phẩm nhiều hơn trước, mang đến chỗ Phật.
2. "Bạch Phật v.v..." trở xuống là bày tỏ cúng phẩm của mình ít ỏi, để chứng tỏ ruộng Phật rất tôn trọng.
3. "Cho nên v.v..." trở xuống, xin Phật thương xót nhận cho. (Đoạn đầu dễ hiểu).
Trong đoạn hai, có ba văn riêng:
1. Nói lên cúng phẩm của mình quá ít.
2. "Dùng Tam thiên đại thiên v.v..." trở xuống, nêu nhiều để làm sáng tỏ ít.
3. "Vì sao v.v..." trở xuống, là giải thích.
Trong đoạn trước, đầu tiên là pháp, kế là dụ. Sau, hợp "Pháp thuyết", rất dễ hiểu.
Trong dụ, đầu tiên nêu riêng năm dụ. Y theo dụ đầu, con muỗi dụ cho chính mình. "Ngã" dụ cho Như lai, bốn dụ còn lại dễ hiểu.
"Há sẽ có v.v..." trở xuống, là kết thúc cúng phẩm ít ỏi ở trước, không thể được nhiều ích lợi. Sao là ít? Cúng phẩm mà Tự tại đã dâng thế nào là nhiều? Cái gọi là quả y báo Tịnh độ của Như lai, chỉ kết bốn dụ sau:
1. Thí dụ đầu tiên không luận, đâu có ích lợi như biển cả, là kết trước.
2. Thí dụ thứ hai, là nói một chén nước không ích gì cho biển cả, dụ cho phẩm vật của mình dâng cúng, không lợi ích gì cho quả y báo Tịnh độ của Như lai, đâu ích gì cho ánh sáng của mặt trời, kết thúc đoạn ba ở trước, nói không có lợi ích trong nhiều ngày, kết đoạn ba ở trước, nói một ngọn đèn nhỏ không ích gì cho nhiều mặt trời, đâu ích lợi cho các hoa, kết thúc đoạn thứ tư, trước nói một đóa hoa kia không ích gì cho nhiều hoa, đâu ích lợi cho Tu-di, kết thúc đoạn năm ở trước, nói một ngọn đèn không lợi ích cho Tu-di. Dưới là hợp rất dễ hiểu.
Trên đây là đoạn thứ tư, chính là nói về cúng phẩm ít ỏi. Sau đây là đoạn hai, nêu nhiều, làm sáng tỏ cho ít: Ơn đức của Phật rất sâu. Dù cho cúng phẩm đầy dẫy khắp Tam thiên Đại thiên thế giới, mà vì cúng dường, còn không nói đủ, so với cúng phẩm mà chúng tôi đã bày biện, đâu không quá ít ỏi ư?
Sau đây là đoạn ba, nêu ơn Phật sâu nặng, để nói về sự ít ỏi của cúng phẩm ở trước, vì sao lại hỏi? "Vì sao tam thiên đại thiên cúng dường mà vẫn gọi là không đủ?" Sau đây sẽ giải thích:
Vì Đức Phật đã vì chúng sinh mà thường dấn thân vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh để chịu khổ, cứu khổ, nên Phật đã đem tam thiên đại thiên cúng dường, vẫn gọi là không đủ. Địa ngục tiếng phạm là Nê-lê. Luận Địa Trì giải thích: "Tăng thượng đáng nhàm chán, gọi là Nê-lê." Luận Tạp tâm giải thích: "Vì không đáng ưa thích nên gọi là địa ngục. Nghĩa ấy là một. Hai nghĩa này đều đối tâm nhàm chán, để vạch rõ lỗi lầm của địa ngục, chẳng phải tướng thích hợp. Tướng thích hợp được giải thích đúng là y cứ nơi chốn để nêu rõ danh. Lao ngục ở phía dưới quả đất là nơi sinh của người đó, nên gọi là địa ngục, nói ngạ quỷ:
Luận Tạp Tâm giải thích: Vì cầu từ người khác nên gọi là ngạ quỷ, lại thường đói khát gọi là ngạ, thường hay sợ sệt nên gọi là quỷ.
Nói súc sanh: Luận Tạp Tâm giải thích: "Vì chúng sinh đi ngang, nên gọi là súc sinh. Đây là nói về tướng, chứ chẳng phải giải thích danh nghĩa. Giải thích đúng là súc vật được chứa, nuôi từ chủ, mà đặt tên. Tất cả người đời được nuôi gia súc để ăn thịt, hoặc để sai khiến, rong chạy. Chứa, nuôi có từ đây, vì một nửa được rút ra từ nghĩa này, nên gọi là súc sinh.
Các đường ác: Nghĩa là Tu-la v.v... Đức Phật vì chúng sinh nên thường ở chốn này để chịu khổ. Vì cứu giúp chúng sinh nên hợp thành đoạn hai, đủ rõ cung cấp ít súc sinh này hợp thành đoạn hai, đủ rõ đã cung cấp ít ỏi. Sau đây là đoạn ba, thỉnh Phật thương xót nhận cúng dường, là Phật vì chúng sinh, nên thường ở các đường ác để chịu khổ. Vì cứu giúp, nên hôm nay lẽ ra Phật thương xót mà nhận cúng phẩm nhỏ mọn của tôi, vì sao kinh này nói Phật không nhận, không nhận trụ lại đời?
Có người giải thích rằng: "Vì khách đến từ phương khác, nên sơ lược không nói. Lẽ ra không đúng. Dù cho khách đến, thì đâu ngại gì không thọ, không nhận trụ lại đời? Nói thẳng là nhà dịch kinh lược qua không nói!"
Đại Bát-niết-bàn kinh Nghĩa Ký quyển 1, phần đầu hết.
Sau đây là phần hai, nói về chúng phương khác nhóm hợp dâng cúng. Vì sao chúng phương khác lại đến đây? Giải thích rộng có ba:
1. Tự vì mình mà đến, vì muốn đến nơi này để cúng dường và hỏi pháp. Cúng dường sanh phước, hỏi pháp sinh trí, nên văn sau nói: "Ông dâng cúng cơm này lên Đức Phật kia, đều hãy lễ kính để xin Đức Phật giải quyết những nỗi nghi ngờ. Sao không đến chỗ Phật ở cõi kia cúng dường, thỉnh pháp, mà lại đến nơi này? Vì có duyên đời trước với chỗ của Đức Phật này. Như nói Đại Phẩm, Phổ Minh từ xa đến, đều bình đẳng như thế.
2. Vì người khác cho nên đến, trong đó có hai:
a. Vì chúng sinh ở cõi nước này nên đến. Chúng sinh ở cõi nước này lẽ ra thấy chúng kia đến, sinh ra gốc lành.
b. Vì chúng sinh ở cõi nước kia nên đến. Chúng sinh ở cõi đó đã có nhân duyên từ đời trước với Đức Phật ở cõi này, nên thấy sinh ra điều lành. Vì năng lực đức lành của chúng sinh yếu kém nên không thể tự vận dụng, nên Bồ-tát phải dẫn dắt chúng đến. Cho nên dưới đây nói: "Trong thân vô biên, Bồ-tát đã từng đem vô lượng chúng sinh từ cõi kia đến cõi này. Đây là đoạn hai, vì người khác nên đến.
3. Vì ảnh hưởng mở mang Phật pháp nên đến. Trong văn, nói rộng vô lượng, Vô Biên Thân từ bốn phương đến. Trước nêu phương Đông, văn được chia thành sáu:
a. Nêu tên nước kia và danh hiệu Phật.
Bày tỏ Đức Phật kia bảo Bồ-tát Vô Biên Thân giúp chúng được đến cõi này.
b. Bồ-tát Vô Biên Thân vâng lệnh Phật đến cõi này.
c. Đến rồi, dâng cúng.
d. Đức Như lai không nhận.
e. Không nhận trụ lại.
Theo đoạn văn đầu nói phương Đông, nghĩa là chỉ cho biết chỗ ở của Đức Phật kia, cách cõi này vô lượng, rõ được cõi nước kia xa gần với danh hiệu là ý lạc là nêu danh hiệu cõi nước đó.
"Hiệu Phật là "Không" v.v..." trở xuống, là nêu danh hiệu Đức Phật kia. "Hư không" là tên riêng, Như lai ứng cúng v.v... là hiệu chung của Đức Phật kia. Chư Phật đều có hai tên gọi này. Vì hóa thân phải khác, nên lập tên riêng. Vì thật đức cần làm sáng tỏ, nên đặt tên chung. Tên chung có mười, như dưới đây sẽ giải thích rộng.
Trong lời dạy bảo thứ hai, trước nêu rõ cõi này, "cõi này có Phật v.v..." trở xuống, chứng tỏ hóa chủ này sắp nhập Niết-bàn. "Ông hãy đến đó v.v..." trở xuống, khuyên đến cúng dường, để sinh công đức.
"Đều hãy lễ v.v..." trở xuống là khuyên đến hỏi pháp, để sinh ra trí tuệ, lễ kính là thân thỉnh, xin Đức Phật giải quyết nghi ngờ là miệng thỉnh.
Thứ ba là Bồ-tát Vô Biên Thân vâng lệnh Phật đến cõi này. Tùy hóa thân đến từ phương Đông, thật ra là vì hiện trong pháp thân bình đẳng, nên gọi là "đến". Y theo dưới đây, lưu ly phát ra ánh sáng như vậy. Nay, y theo tướng hóa thân. Văn chia ra làm chín:
1. Cung kính từ giã Đức Phật ở cõi kia, vì muốn đến cõi này.
2. Sắp đến cõi này, trước hiện điềm lành.
3. Nói về cõi này thấy tướng liền kinh hãi.
4. Bồ-tát Văn-thù an ủi.
5. Nói về chúng cõi này tìm xét lời nói mà được nhìn thấy cõi kia.
6. Bồ-tát Văn-thù bảo chúng rằng, do oai lực Phật, nên nhìn thấy được chín phương.
7. Nói về đại chúng đều biết khi chúng ở cõi kia đã đến cõi này rồi, chắc chắn Đức Như lai sẽ nhập diệt, nên đều buồn, than.
8. Nói về đại chúng, do năng lực oai đức của Vô Biên Thân nên được nhìn thấy thần biến kia.
9. Nói về hạn lượng của Vô Biên Thân, chỉ có Phật mới thấy được, các Bồ-tát không thể thấy. Vô Biên Thân ban đầu liền thọ giáo v.v..., là đoạn đầu thời gian thích hợp dưới đây là đoạn hai.
Sáu thứ rung chuyển: Như Địa kinh nói, cái nói là: Rung chuyển, nước suối vọt lên, muôn vật hăng hái trỗi dậy.
"Lúc đó, chúng v.v..." trở xuống, là đoạn ba, nói chúng sợ hãi. Vì sao? Vì oai đức của Bồ-tát này đáng tôn trọng rất đáng kinh sợ, nên đã làm cho chúng sợ sệt. Lại, khi chúng đến rồi, Đức Như lai chắc chắn sẽ nhập diệt, khổ lớn sắp đến, vì sự, lý như thế, nên làm cho chúng sợ hãi.
Sau đó, Đức Phật ấy đến, vì sao lại không như vậy?
Bởi Đức Phật kia đến là vì muốn mở bày phát ra nghĩa thật, giúp cho người sẽ chứng nhập. Lại vì muốn dẫn dắt người vãng sinh Tịnh độ. Vì lợi ích cao quý sắp đến, nên đã làm cho chúng hớn hở, vui vẻ. Nay, Bồ-tát Vô Biên Thân đến, ý chưa thuần thành, vì thêm lưu luyến, kính mến, nên đã làm cho đại chúng kinh sợ. Công hạnh hóa độ còn tùy thuộc vào sự biến chuyển của thời gian, không thể nhất định.
"Lúc đó, Bồ-tát Văn-thù v.v..." trở xuống, là đoạn thứ tư, Văn-thù an ủi. Đầu tiên, khuyên chúng đừng sợ. "Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết luận.
"Bấy giờ, đại chúng đều nhìn thấy từ xa v.v..." trở xuống, là đoạn năm, y theo lời nói mà được nhìn thấy chúng kia.
"Văn-thù-sư-lợi lại bảo v.v..." trở xuống, là đoạn sáu. Bồ-tát Văn-thù dự ký, nói do oai lực Phật nên chúng được nhìn thấy cả chín phương.
"Được thấy chỗ nào? "Nói là v.v..." trở xuống, Đức Như lai biến hóa nhìn thấy cõi nước ngay trong cõi nước mình, chính là thấy khắp cõi nước Phật trong mười phương, chứ chẳng phải chỉ nhìn thấy chỗ Bồ-tát Vô Biên Thân đến. Nơi vô biên đến, chỉ ở bốn phương. "Lúc bấy giờ, đại chúng bảo nhau rằng v.v..." trở xuống, là đoạn bảy, đại chúng buồn than! Bậc đại nhân đã đến, bậc Thánh sắp nhập diệt không xa, cho nên đại chúng than thở cõi đời này rồi đây sẽ trống rỗng!
"Bấy giờ, đại chúng, tất cả đều v.v..." trở xuống, là đoạn tám, nói chúng do năng lực của Bồ-tát Vô Biên Thân kia mà được nhìn thấy cảnh tượng thần biến ấy, trong đó có hai:
1. Thấy thần biến kia.
2. "Do năng lực thần thông của Bồ-tát này v.v..." trở xuống, là nói về lý do nhìn thấy.
Trong phần trước có ba:
1. Nhìn thấy được thân Bồ-tát và quyến thuộc của Bồ-tát ấy.
2. "Mỗi sợi lông v.v...," trở xuống, là nhìn thấy người dân của cõi nước trong thân Bồ-tát kia.
3. "Bấy giờ, Bồ-tát Vô Biên Thân và vô lượng Bồtát đồng vây quanh v.v... trở xuống, là thấy chúng Bồ-tát đó đem đến các vật cúng dường. (Đoạn đầu dễ hiểu).
Trong đoạn hai, đầu tiên là thấy cõi nước, "Mỗi thành này đều có tám muôn bốn ngàn vị vua v.v...," trở xuống, là thấy người dân nước kia, trong đó có ba:
1. Thấy dân chúng cõi kia thọ vui.
2. "Trong đây v.v...," trở xuống, là thấy dân chúng cõi đó tu điều lành.
"Nghỉ ngơi v.v..." trở xuống, là thấy đại chúng kia than thở thảm thiết!
Trong phần đầu, trước là thấy các cõi người thọ vui, sau thấy người dân, văn rõ ràng dễ hiểu. Thấy trong sự tu điều lành, đầu tiên là nói về đối tượng được nghe, nghe thuần túy Đại thừa.
"Trong mỗi đóa hoa đều có tòa sư tử v.v...," trở xuống, nói về vị trí, nơi Bồ-tát kia nói pháp, nói ròng rặt Đại thừa.
"Y phục của chúng Bồ-tát kia rất mầu nhiệm, vượt ngoài ba cõi", nghĩa là vì quả báo thanh tịnh xuất thế, nên vượt ngoài ba cõi. Hoặc có chúng sinh viết chép, giữ gìn chánh pháp v.v... trở xuống, là nói về sự tu hành của chúng kia, tu ròng rặt Đại thừa.
Trong phần nhìn thấy than thở là an trụ trong vô lượng, đối với chính bản thân mình đã xong, là nhắc lại trước khởi sau, làm cho chúng sinh xả bỏ niềm vui thế tục, sinh tâm nhàm chán, đều nói cõi đời trống không, tâm càng thêm lưu luyến Đức Phật kia, luyến mến bậc Thánh, sợ nhập diệt, nên nói ra lời than thở!
Hỏi: Những cảnh tượng đã thấy ở đây đều là thật hay biến hóa? Giải thích: Là thật.
Hỏi: Nếu là thật thì vì sao phải trụ trong Vô Biên Thân? Giải thích:
Thân, cõi nước đều nương vào nhau không nhất định: hoặc thân nương vào cõi như điều mà ta thường nhìn thấy. Hoặc cõi nước nương vào thân, như kinh Hoa Nghiêm chép: "Chỗ nương của cõi nước Chư Phật không nhất định. Hoặc nương vào mão trời của Bồ-tát, hoặc nương vào nếp áo của Bồ-tát, hoặc trụ trong lòng bàn tay của lực sĩ, hoặc an trụ vào nguyện lực của Phổ Hiền."
Nay, dừng lại trong lỗ chân lông của Bồ-tát Vô Biên Thân, đâu có gì đáng kinh ngạc!
Trên đây là đoạn hai, là thấy người dân, cõi nước trong thân Bồ-tát kia.
Dưới đây là đoạn ba, là thấy cúng phẩm của chúng
Bồ-tát mang đến.
"Bấy giờ, Vô Biên đã thị hiện thần thông rồi, nêu trước, khởi sau.
Dưới đây, sẽ nói về sự cúng. Trước là nói về hương, hoa, cờ phướn, lọng báu v.v... Các thứ rất nhiều, rộng lớn vô lượng. Nghĩa là mỗi thứ đều có vô lượng. Sau đây, là nói về các thức ăn uống thơm ngon, hấp dẫn, là thể thức ăn vượt hơn. Nếu nghe nói nhơ bẩn bị tiêu diệt, là do công dụng của tư chất vượt hơn."
Trên đây là đoạn thứ nhất, nhìn thấy thần biến.
"Do năng lực thần thông của Bồ-tát này v.v..." trở xuống là đoạn hai, là phần kết, nói về lý do đại chúng được nhìn thấy. Theo chúng đều thấy Vô Biên Thân đến, hợp thành đoạn tám.
Dưới đây là đoạn chín, nói về hạn lượng của Bồ-tát Vô Biên Thân kia, chỉ Đức Phật mới thấy, ngoài ra, không ai thấy được.
"Thân lớn Vô biên, kích cỡ đồng với hư không" là lượng đồng với Phật Hư Không của thế giới kia. Cũng có thể đồng với hư không ở Pháp tánh.
Trên đây, đại chúng chỉ thấy hóa thân của Bồ-tát kia, thật ra thì rộng lớn như pháp giới. Chư Phật ba đời, thể của pháp thân đồng, nên chỉ có Phật mới biết, Bồ-tát khác không thể thấy. Bồ-tát Đẳng hạnh có lẽ cũng nhìn thấy. Nay, lược qua không nói.
Trên đây, có chín đoạn, hợp thành đoạn ba, vâng lịnh Phật đến đây. Đoạn bốn, là dâng cúng. Đoạn năm, là Phật không nhận. Đoạn sáu, từ chối trụ lại đời. Văn rõ ràng dễ hiểu. Sau đây, sẽ nói về Vô Biên Thân ở cõi khác đến:
Phương Nam, Tây, Bắc nói rõ chỗ các Bồ-tát đến, cũng có vô lương Vô Biên Thân: Nói về nêu số người, nghĩa là mỗi phương đều có vô lượng, vô số Bồ-tát, tự là Vô Biên Thân, đồng đến dâng cúng, chẳng phải nói mỗi phương đều có một vị đến.
Cúng phẩm gập bội ở trước: cúng phẩm mà phương Nam sắp bày nhiều gấp bội phương Đông, đều đã dâng lên cúng, cho đến cúng phẩm của phương Bắc lại gấp bội hơn Vô biên của ba phương trên sắp bày và phương trên dâng cúng. Vượt ngoài thỉnh cầu, không nhận, vượt qua số nêu, Phật từ chối không ở lại đời nữa. Cho nên nói "Cho đến".
Dưới đây, là đoạn tám, tổng kết số chúng nhóm họp, trong đó có bốn:
1. Nói về chúng ở Ta-la nhóm hợp nhiều, ít. Mỗi bề rộng ba mươi hai do-tuần, đại chúng đầy dẫy. Chỗ này sinh ra điều lành, gọi là địa an lành. Mỗi do-tuần có bốn mươi dặm, ba mươi hai do-tuần gồm có một ngàn hai trăm tám mươi dặm, chúng đều đầy dẫy. Ở trước, trong chỗ mà Ưu-bàtắc trang nghiêm, chí có mười hai do-tuần, còn trong đây đến ba mươi hai do-tuần. Trong tòa sư tử ở phía dưới có bốn mươi do-tuần, vì sao không bằng nhau? Vì lẽ ra phải là ba trụ xứ rộng, nên mới được như vậy, đồng với kinh Pháp Hoa.
2. "Bấy giờ, Vô Biên Thân ở bốn phương v.v...," trở xuống là nói về ngăn dứt nghi ngờ, thưa hỏi. Tướng trạng nghi ngờ như thế nào? "Vô Biên Thân cao lớn ba mươi hai do-tuần, mà chỗ kia thì quá hẹp, đâu thể tiếp nhận nhau, lại còn chứa chúng khác?" Cho nên ở đây giải thích:
Chỗ ngồi của Vô biên ở bốn phương, hoặc như đầu cây chùy, đầu mũi kim có chút bụi, nên được thọ nhận với nhau. Người thường nói: "Có Vô Biên Thân ở mười phương đến. So với trước, nghiệm ở đây chỉ có bốn phương." Ba mươi phương v.v... trở xuống, là nói đại chúng đều nhóm hợp. Trong đó, trước là nói về chúng ở các cõi khác nhóm hợp, chỉ có Bồ-tát và chúng ở cõi này nhóm họp dưới Diêm-phù, cùng các loại đều nhóm hợp lẫn lộn. Trước là nói về loài người nhóm hợp, trừ Bồ-tát Ca-diếp v.v... "Cho đến v.v... trở xuống, là chúng khác đều nhóm hợp."
Mười sáu hành vi ác, như đã nói rộng trong phẩm Sư Tử dưới đây.
"Bốn Đà-na-bà v.v... trở xuống là nói về chúng nhóm hợp, đều bỏ ý nghĩ xấu xa, dùng tâm từ nhìn nhau, trong đó đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là phân biệt với Xiển-đề.
Dưới đây là đoạn chín, biến cõi nước thành thanh tịnh, giới hạn phần tịnh của Tam thiên Đại thiên, dùng thần lực Phật là lý do cõi nước thanh tịnh. "Đất đều mềm mại v.v..." chính là nói cõi nước thanh tịnh. Giống như phương Tây, giống như làm sáng tỏ tướng thanh tịnh. Cõi kia thường thanh tịnh. Vật thể vốn thấy nhơ, do tâm trước tốt lành, và oai lực Phật chuyển hóa.
Nay, mới thấy thanh tịnh, gọi là biến cõi nước, về lý, thật ra là biến tâm.
Dưới đây là đoạn mười, nói các đại chúng do cõi nước thanh tịnh, nên thấy suốt các cõi nước nhiều như số cát bụi ở mười phương, trong đó, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp pháp, dụ.
Bồ-tát Văn-thù hướng về phía trước nói: "Nhờ oai lực Phật sẽ nhìn thấy chín phương, là chỉ định việc này." Ở đây thấy mười phương, vì sao nói chín?
Vì trước đây là thời gian thông báo. Sau khi thấy phương Đông, đối với cõi này đã thấy, nên nói nghiêng một bên là chín. Sau đây là đoạn mười một, Đức Như lai hóa độ khắp, thu nhiếp ánh sáng trở vào miệng.
Trước nói Phật phát ra sáu tia sáng, vì sao nay lại nói có năm?
Lý do này đã giải thích như trên: Pha lê, mã não hợp thành sắc lẫn lộn, nên nói là năm. Vả lại, tương truyền người nước ngoài, giải thích rằng: "Trong sáu tia sáng mà Phật đã phát ra, vì để lại một tia sáng truyền pháp, nên chỉ thâu lại năm tia sáng."
Trước là, nói ánh sáng Phật chiếu khắp mười phương. Nay, ở đây vì sao chỉ nói che khắp đại hội?
Cũng như giải thích ở trên. Vì tùy theo chúng sinh được soi chiếu, cho nên như vậy. Vì Đức Phật thị hiện hóa độ đã khắp, nên ánh sáng từ miệng vào. Sau đây là đoạn mười hai, nói các đại chúng nhìn thấy tướng liền thương xót, sầu não, trong đó có bốn:
1. Thấy tướng, liền kinh sợ. Thấy ánh sáng vào miệng Phật, đều rất sợ hãi, nội tâm kinh sợ, nổi ốc khắp mình đứng không vững.
"Lại nói lời này v.v..." trở xuống, là nói về ánh sáng nhập vào ý.
2. "Kỳ hạn nào? v.v..." trở xuống, nói ra lời, than thở, điều tổn hại có bốn:
a. Tổn hại đã khổ, nay lại, buồn rầu, sẽ rơi vào sinh tử, chính là khổ kia. Vì không lo cái chết đến, nên nói là "Kỳ hạn nào?"
"Thay!" là trợ động từ, rất oán trách, thở than. Lời nói lặp lại là để than thở.
b. "Một mai v.v..." trở xuống, là than Phật không nhận cúng dường. Xưa, thực hành bốn đẳng, làm lợi ích thế gian. Nay, "Phế" gọi là bỏ. (Bốn tâm vô lượng, sẽ nói cụ thể như ở dưới.)
Không nhận cúng dường, là tướng lìa bỏ.
c. Tuệ Thánh diệt hẳn, lo nghĩ sẽ mất Minh sư. Vì Tuệ Thánh xua tan bóng tối, như mặt trời, mặt trăng, nên từ dụ đặt tên.
d. Thuyền pháp chìm mất, lo nghĩ chánh pháp sẽ diệt sớm. Chánh pháp có công năng cứu giúp rộng khắp. Từ thí dụ mà gọi thuyền. Đây là đoạn ba đã xong.
"Bốn lời kêu gọi v.v..." trở xuống, là thương, oán trách áo não. Buồn trách lỗi lầm thêm nhiều, lệ rơi xuống đất. Đó là phần tựa đã xong.
Đoạn hai của kinh là đoạn hai trong phần mở rộng tông chỉ để làm sáng tỏ đức, trước nêu thuyết khác. Kế là nói về được, mất. Sau, là chỉ rõ nghĩa đúng.
Thuyết khác là gì?
Xưa nay tương truyền, từ đây đến phẩm Ca-diếp ở sau, đồng là chánh tông. Pháp quyến thô trong chánh tông có hai, phần tế có sáu.
Phán quyết thô có hai, là lược và rộng. Từ phẩm đầu tiên đến phẩm Chúng là nói lược. Từ phẩm Chúng về sau, là nói rộng.
Phần tế có sáu: Trong lược có ba:
1. Nói về quả hiện tại của Phật.
2. Ba phần khuyến cáo v.v... trở xuống, là chỉ rõ "Duyên" nhân của Phật.
Hai mươi lăm "Hữu" (cõi) có "Ngã" hay không? v.v... trở xuống, làm rõ chánh nhân Phật tánh. Trong rộng cũng có ba:
1. Phẩm Đại Chúng Vấn, nói rộng về quả hiện ở trước.
2. "Bệnh hiện tại v.v..." trở xuống, là nói rộng về "Duyên" nhân ở trên.
3. "Phẩm Sư tử v.v..." trở xuống, là nói rộng về chánh nhân ở trước. Nói khác lạ là như vậy.
Kế là, là nói về được, mất.
Theo truyền thuyết xưa nay, cái thô sơ, xem dường như "Phải".
Nghiên cứu kỹ thì "Quấy", dùng hai nghĩa để giải thích:
1. Y theo câu hỏi để trắc nghiệm: nếu trước phẩm Chúng và sau phẩm Chúng, rộng lược khác nhau thì lẽ ra cả hai chỗ phải hỏi riêng, đáp riêng, chứ sao lại "Duyên" trong lược và rộng để làm câu hỏi? Trong văn rộng và lược để làm lời đáp? Nhưng ba khuyến cáo v.v... trở xuống, là Bồ-tát Ca-diếp hỏi rộng, Đức Như lai đã đáp rộng chưa xong, bỗng nhiên, nửa chừng lại chia ra trước lược, sau rộng, phải chăng cũng không phải luống uổng? Ba khuyến cáo v.v... trở xuống, đều là hỏi, đáp chung, nói là một phần, chứ chẳng phải chia ra rộng, lược. Lại, nếu sáu phần thì một nói thứ lớp là phải, thì lẽ ra năm phẩm đầu chương Thuần-đà đều hỏi về nương gá, sau đó, Đức Phật đều đáp, chẳng lẽ sau chương Ai
Thán của Thuần-đà mới được hỏi? Sau hai chương Ai Thán của Thuần-đà, thì hỏi đáp, riêng, là nói biết với giới hạn ở trước hoàn toàn khác nhau, không được theo nhau hợp thành sáu phần. Nếu cho rằng phẩm Ai Thán của Thuần-đà đã nói khác với nghĩa sau, thì sẽ không được một chỗ đều hỏi, đều đáp. Ba khuyến cáo về sau, đều hỏi, đều đáp, nói là một phần, không được kết hợp với trước thành sáu phần. Y theo câu hỏi là như thế. Kế là phải y theo văn để trắc nghiệm xem pháp thô kia là đúng hay sai?
Y theo phần đầu trong sáu phần đã lập trước, để nói về quả, và trong phần hai, nói về "Duyên" nhân, vì thô, nên có tướng này. "Nếu nói hai mươi lăm cõi v.v..." trở xuống, đến phẩm Chúng ở sau là nói chung, đều nói về chánh nhân Phật tánh kia. Nghĩa này không đúng! Như trong văn dưới nói về Bồ-tát thấy câu hỏi về thấy tánh, người đã hiểu bán tự, mãn tự, nhưng chưa phát tâm, sẽ được làm Bồ-tát. Không có sợ sệt đối với chúng, ở trong đời vẩn đục mà không ô nhiễm, như hoa sen, ở ngay trong phiền não, mà phiền não không làm nhiễm được. Quán sát Tam bảo được chúng không hư hoại, làm mắt sáng dẫn đường cho đám người mù." Đây là Phật đáp chín câu hỏi, đều để giải thích hạnh "Duyên" nhân của Bồ-tát.
Thế nào gọi là chánh nhân Phật tánh?
Lại, như thuyết ở dưới nói: "Đức Như lai hiện đang hóa độ, như Ca-lân-đề, mặt trời, mặt trăng, sao tuế. Phật là thuyền sư (thuyền trưởng). Phật bỏ sinh tử, như rắn lột da. Phật thị hiện nhiều đầu. Nói như trăng thượng tuần." Đây là Phật đáp tám câu hỏi, đều nói về tác dụng hiện quả của Như lai.
Thế nào gọi là chánh nhân Phật tánh?
Có người lại giải thích: "Vì nói về tông chỉ của nghĩa này để làm rõ Phật tánh, nên được gọi là chánh nhân, nhưng vì văn không nói, thì làm sao biết được? Ngần ấy văn kinh, chỉ làm rõ Phật là điều rất khó hiểu! Lại, nếu thuyết này thật sự không nói về tánh mà nói làm rõ tánh, thì Thuần-đà buồn than, thật ra không nói về nhân, lẽ ra gọi là hiển nhân. "Ba khuyên cáo v.v..." trở xuống, thật sự không nói là quả, lẽ ra gọi là hiển quả. Tuy nhiên, nói là vị trí của quả không thể gọi là nhân.
Nói về lĩnh vực của nhân, thì không thể gọi là quả, không nói về lĩnh vực tánh thì làm sao gượng gọi là tánh, vì người đời không hiểu văn ấy, đã giả làm sáu phần của phán quyết này, phân tích văn đã phạm rất nhiều lỗi là do đây.
Có người nói: "Phẩm Chúng nói rộng về hiện quả ở trước là cũng không đúng! Vì sao không đúng? Trong Phẩm Chúng dưới đây sẽ đáp cụ thể bảy câu hỏi.
Đáp một câu hỏi đầu là nói về Phật thường trụ, có thể gọi là quả, là đáp sáu câu hỏi sau, đều nói về nhân hạnh, đâu được gọi là nói rộng về hiện quả ở trước? Lại nói: "Hai phẩm Sư tử Hống và Ca-diếp nói rộng về Chánh nhân ở trước, điều này cũng không đúng! Vì y theo hỏi đáp ở dưới thì phẩm Ca-diếp ở sau, là nói về đức dụng khéo léo của Như lai, có công năng giúp ích cho Xiển-đề, chứ chẳng phải làm rõ tánh, thì làm sao được gọi là nói rộng về chánh nhân ở trước, do trắc nghiệm này, nên tìm tòi sáu phần nhất định là sai." Kế đây, là nói về nghĩa đúng.
Văn trước, sau của kinh này, được chia thành năm phần đầy đủ như phán quyết ở trước).
Trên đây, là phần tựa. Phần cuối cùng của phẩm Ai Thán này là đoạn hai, mở ra tông chỉ, nhằm làm sáng tỏ phần đức.
"Ba khuyến cáo v.v..." trở xuống, là đoạn ba, nói về đức tu hành: "Nếu biết được, thì đây gọi là Sa-môn, Bàla-môn v.v..." trở xuống, là đoạn thứ tư, phá tà, bày chánh.
Một phần thứ năm, là Như lai diệt độ. Người, trời, đại chúng Xà-duy cúng dường. Nước ngoài không đến. Phần đầu trong năm là ba lợi ích chính đáng trong phương tiện lợi ích của hóa độ. Một phần sau rốt là hóa độ xong, nhập diệt, còn ba phần trung gian chính là giúp ích con người trong lợi ích của sự nghiệp hóa độ, gồm có ba. Văn được chia thành bốn. Phần tế có sáu, giúp ích con người có ba, hóa độ, đem lại lợi ích cho phàm phu, Thanh văn, Bồ-tát là ba. Văn chia làm bốn:
1. Từ đầu đến cuối dụ cho "Vì sao" v.v... đến nay, là hóa độ giúp ích Thanh văn làm cho họ học Đại thừa, nên trong đoạn văn sau, thường nói về Đức Như lai phá Tiểu thừa, về Đại thừa.
2. "Ví như mặt trời vừa mọc, thì sương mù đều tan biến v.v... trở xuống, là hóa độ giúp ích phàm phu, làm cho họ được vào pháp Phật, cho nên trong văn sau, thường nói về hóa độ, đem lại lợi ích cho ba người tội v.v..., giúp họ đi vào Phật pháp.
3. "Hạnh Thánh v.v... trở xuống, vì hóa độ giúp ích cho Bồ-tát, nên trong văn dưới thuần nói về sở tu, sở chứng của Bồ-tát.
4. "Phẩm Ca-diếp, đến phẩm Kiều-trần-như, vì hóa độ giúp ích cho phàm phu, nên trong văn dưới, nói về hóa độ Xiển-đề, các ma, ngoại đạo, làm cho họ đi vào Phật pháp.
Phần tế có sáu: Tướng trong đoạn hai ở trước, được chia thành hai. Từ đầu đến tận cùng phẩm Đại Chúng Vấn, phần nhiều nói về hóa độ giúp ích cho phàm phu có tội, giúp họ xa lìa ba tội, được vào Phật pháp. Phẩm Hiện bệnh, thường nói giúp ích cho phàm phu bị khổ, hiện thần thông nói pháp, giúp họ lìa khổ.
4. Lại nói trong hóa độ giúp ích phàm phu, về tướng, cũng chia làm hai: Đầu tiên là phẩm Ca-diếp, nói về hóa độ Xiển-đề, làm cho họ tin Phật, pháp. Trong phẩm Trần-như, hóa độ ma, ngoại đạo, giúp họ quy y Phật, Pháp, thông qua thuyết khác có sáu. Ba phần trung gian giúp ích cho người như thế.
Y theo đầu tiên trong phần mở bày tông chỉ để làm sáng tỏ công đức, có bốn câu để giải thích:
1. Nói về mở rộng tông chỉ, nói rõ nghĩa đức. Tông là quả thường, mở bày có hai thứ:
a. Quét ứng, bày chân, gọi là mở bày.
b. Phá tiểu, mở đại, gọi là mở bày.
Quét ưng, bày chân trong chương Thuần-đà, gọi là khai tông. Phá Tiểu thừa, mở rộng Đại thừa trong chương Ai Thán, gọi là khai tông. Vì tông là thường, giáo xưa là vô thường, vết dấu hóa độ đã bị che ngăn, nên phải quét ứng, bày chân để mở rộng. Xưa vì Tiểu thừa nói dấu vết bị che lấp, nên phải phá Tiểu, bày đại để mở bày.
2. Y theo người để giải thích mở bày, người có hai hạng:
a. Bị gửi gắm.
b. Bị làm.
Bị gửi gắm là Phật, bị làm là chúng sinh. Thân chúng sinh bị làm, có tánh thường, bị hoặc chướng che lấp mà không hay biết, giống như cô gái nghèo không biết trong nhà mình có sẵn kho báu. Nay, dứt vọng, bày chân, giúp cho chúng sinh ngộ nhập, chỉ y theo giả dối để nói về chân lý, vì vẫn tồn tại khá rõ rệt, nên phải nhờ Đức Phật mở bày cho. Dù nói Phật là thường, nhưng ý là nhằm chỉ rõ thân chúng sinh có tánh thường, giúp cho chúng sinh hội nhập.
3. Đối với người để nói về mở bày. Người có hai loại:
a. Dòng ảnh hưởng được bậc Thánh hóa độ đối trị.
Được bậc Thánh hóa độ, chúng đương cơ. Thuần-đà, Văn-thù chính là ảnh hưởng của chúng đó. Người học vô thường như: Các Tỳ-kheo v.v... là đối tượng làm (được làm). Đối tượng làm với trí kém, cho nên chia ra nghĩa thường bên ngoài, không thể hỏi han, thưa thỉnh. Cho nên trước, đối với ảnh hưởng kia trong chương Thuần-đà mở bày pháp thường. Vì trước đã khai tông, nêu các Tỳ-kheo v.v... có thể ngộ nhập dần trong pháp thường, nên từ phẩm Ai Thán trở xuống, Đức Phật đối với đối tượng được làm để giải thích rộng về nghĩa thường.
4. Phân tích văn để giải thích: Đối với ảnh hưởng của chúng kia trong chương Thuần-đà, nhằm mở bày báo thường Bồ-đề của Như lai. Đối với hành vi của chúng kia trong chương Ai Thán để nói rõ về pháp thường Niết-bàn của Như lai. Hai chương này đâu khác nhau mà phải nói riêng? Nên giải thích chung thành một, vì tất cả các đức vắng lặng đều được gọi là Niết-bàn, rỗng suốt vô ngại, đều gọi là Bồ-đề. Phân biệt theo tướng, chẳng phải không khác nhau. Khác có ba thứ:
a. Nhân quả phân biệt. Nhân gọi là Bồ-đề, Bồ-đề là Đạo. Những gì đã làm trong nhân đều hướng về quả cõi người, nên đều gọi là Đạo.
Quả, gọi là Niết-bàn. Niết-bàn là diệt, khi đã đến quả thì bỏ tu. Vì vô vi vắng lặng, nên đều gọi là diệt.
Hạnh đoạn là nói riêng, tất cả hạnh đức đều được gọi là Bồ-đề. Tất cả đoạn đức đều gọi là Niết-bàn.
b. Y theo phương tiện của tánh tịnh để nói riêng, như văn dưới nói: "Sinh nhân" đã khởi quả của phương tiện, đều gọi là Bồ-đề. "Liễu nhân" đã làm sáng tỏ quả của tánh tịnh, gọi là Niết-bàn. Nay, dựa vào quả báo phương tiện của môn sau, vì thô nên nói trước. Vì pháp của tánh tịnh sâu kín, nên nói sau."
Hỏi: Kinh Niết-bàn này là tông chỉ, nay vì sao lại nói Bồ-đề? Giải thích:
Phân tích về tướng, thì hai môn Bồ-đề, Niết-bàn đều khác nhau. Nếu y theo vào tướng nhiếp hóa thì sẽ được thành tựu lẫn nhau. Nay, vì y theo tướng nhiếp hóa, nên nói Bồ-tát cũng thành tựu Niết-bàn. Cũng có thể kinh này nói đủ quả thường của Bồ-đề, Niết-bàn. Tựa đề kinh nói: "Đại Niết-bàn được gọi là pháp bất tận, nếu nêu một bên thì không nói đủ." Trong chương Thuần-đà, nghĩa có hai, văn có ba. Nói nghĩa có hai là:
1. Nói chân thân của Như lai là thường trụ.
2. Nói ứng thân của Như lai là Vô thường.
Hỏi: Chân thường xưa nay bị che lấp. Nay phải mở bày ứng thân là hóa thân xưa, xưa nay thường thấy, thì cần gì phải nhọc công nói ư?
Giải thích:
Ứng thân dù là hóa thân xưa, nhưng xưa gọi là thật! Nay mới gọi là Ứng thân. Cho nên phải nói. Lại, vì "Quyền" ẩn che dẫn dắt, cho đến hóa thân phế bỏ, nên phải nói về Ứng thân. Nói Phật là chân, thường, vì muốn cho chúng sinh hướng vào vô vi, chỉ bày Ứng thân Phật nhập diệt, là vì khiến cho chúng sinh đều nhàm chán pháp hữu vi. Văn chia làm ba:
1. Phật bày chân thân, nói Ứng thân cho Thuần-đà nghe. 2. "Thuần-đà bạch Phật: "Đúng thế, đúng thế, đúng như bậc Thánh v.v... trở xuống, là Thuần-đà đối với Văn-thù nói rộng về chân thân ở trước.
3. Từ "Ánh sáng Phật chiếu Văn-thù v.v... trở xuống, là Đức Phật đối với Thuần-đà, nói rõ về Ứng thân ở trước. Trong phần trước, đầu tiên, nhân Thuần-đà dâng cúng, nói về Ứng thân Phật thọ lãnh, thật ra thì không có đối đãi, vì không có khác nhau, nên thuộc về thường. Hai là, "Lúc bấy giờ, đại chúng nghe nói Phật, Thế Tôn khắp vì v.v... trở xuống, là nhân Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại, để nói về Ứng thân Phật nhập diệt. Thật ra thì không dời đổi, vì vô vi nên thuộc về thường.
Đầu tiên, trong phần trước, do Thuần-đà thưa hỏi, nên Phật mở bày sơ lược về pháp Thường. Hai là, Thuần-đà bạch Phật: "Hai thứ bố thí không khác nhau là không đúng v.v..." trở xuống, do Thuần-đà đặt ra câu hỏi, nên Phật nói rộng về nghĩa Thường.
Y theo đoạn đầu, trước hỏi, sau đáp. Đầu tiên trong phần hỏi, trước là nêu người hỏi. Bấy giờ, hiện diện trong hội, có Ưu-bà-tắc được nêu riêng cho người hỏi kia. Ở đây, thật sự bậc Đại Thánh bảo cho biết ở người mới học, dẫn dắt không bằng. Ở trụ xứ kia, ngoài thành Câu-thi-la này, có con của một người thợ khéo, cho biết rõ tên họ mình là Thuần-đà. Nói về tên "Húy" của ông với đồng loại của mình gồm mười lăm vị đều nêu trước chúng.
Hỏi: Những người này có phải là các Ưu-bà-tắc đã được nêu ở trước không?
Giải thích: Không phải! Sao biết là không phải?
Vì chúng trước ở từ xa đến, còn ở đây là chúng cũ. Vả lại, Ưu-bà-tắc v.v... ở trước, đã dọn bày thức ăn, vật dụng để dâng cúng, Phật không nhận. Nay, ở đây, Thuần-đà chưa sắp bày cúng phẩm, sau, mong Phật nhận cho, mới sắm sửa đủ, nên biết là khác nhau. Vì, nếu chẳng phải chúng trước, thì vì sao trong bài tựa trước không nêu chúng cũ của thành Câu-thi-la? Số không nêu thì nhiều, đâu trách riêng ở đây? Sau đây, chính là thỉnh, vì giúp cho thế gian được quả tốt. Với phương tiện của ý nghiệp, và lòng yêu thương sâu xa của Bồ-tát, nên bất cứ làm điều gì, Bồ-tát cũng vì chúng sinh, cho nên nay dâng cúng là vì thế gian được điều lành. Thiện nghĩa là nhân lành, quả là quả vui. Thuần-đà tự dâng cúng, sao lại làm cho thế gian được quả lành ư? Bởi dâng cúng sẽ được thành Phật, rồi hóa độ người cũng đồng với mình, thế, nên làm cho đời được quả lành.
"Bỏ thân v.v..." trở xuống, phương tiện của thân nghiệp là oai nghi có bốn: đi, đứng, ngồi, nằm. Nay, bỏ oai nghi ngồi để tiến đến chỗ Phật. Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, chứng tỏ rằng đã bỏ tướng. Vén y bày vai phải, là nói lên việc đã làm. Gối bên phải sát đất, giải thích có ba nghĩa:
1. Gối phải có sức, quỳ xuống sẽ giữ yên thân người.
2. Gối phải có sức, đứng dậy dễ dàng.
3. Gối phải thường cử động nhiều nên sát đất cho vững. Vì thế, người ngồi thiền, tay chân phải xếp ở dưới, chắp tay hướng về Phật để chuyên chú tâm mình. Thương, khóc rơi lệ, đề cầu Phật thương xót, thương xót khổ lâu dài của thế gian, nghĩ đến nỗi chìm đắm của chính mình, đều do cách xa Đức Phật, cho nên thương xót khóc lóc.
Đảnh lễ dưới chân Phật, để nói lên sự kính cẩn chí thành của mình. Đầu là phần cao quý của mình, chân là phần thấp của Phật, đem cái cao quý để tiếp xúc với cái thấp, để nói lên cử chỉ cùng cực của sự tôn kính.
"Mà bạch Phật v.v..." trở xuống, miệng nói chính là thỉnh. Trước hết, thỉnh Phật nhận cúng, "Như Sát-lợi v.v... trở xuống, là thỉnh Phật nói pháp.
"Nay, tôi dâng cúng, dù là phẩm vật mọn v.v... trở xuống, là thỉnh Phật nhận cúng lần nữa. Thuần-đà nhân đại chúng ở trước dâng cúng, Như lai không nhận, nên trước hết là thỉnh cúng. Thỉnh cúng là phước. Vì cầu trí nương vào pháp, nên kế là thỉnh pháp. Ở trước, dù thỉnh cúng, nhưng vì sợ rằng, Như lai sẽ không nhận đồng như trên, nên thỉnh lại lần nữa.
Trong phần thỉnh cúng ở trước, trước là vì người.
"Kể từ nay, chúng con sẽ không có chủ v.v..." trở xuống là đoạn hai tự vì mình. Y theo người khác, thì trước thỉnh nhận cúng, sau nói lên việc mình đã làm. Văn rõ ràng dễ hiểu.
Y theo tự vì mình, trước nói việc mình đã làm, sau là thỉnh Phật nhận cúng. Về mặt đúng sai của văn, câu nói về việc đã làm, có chia làm tám:
1. Sáu câu đầu, nói không có người, một câu kế là nói không có pháp, một câu sau là kết cầu thỉnh. Từ nay, sẽ không có chủ, không có chỗ lìa ác. Nói không có thân thích nghĩa là không có nơi gom nhóm điều lành. Đối với ở trước có Phật, nên nói là "Từ nay".
"Không có ai cứu giúp không có ai che chở", là nói về lỗi không có chủ, nên việc xấu ác, ở hiện tại sẽ không có ai cứu giúp, điều gian ác ở đương lai, sẽ không có người nào che chở.
"Không có chỗ trở về, không có chỗ hướng đến", là nói lỗi không có người thân. Đầu tiên không có nơi trở về, cuối cùng, không có chỗ hướng đến! Đây là sáu câu về không có người.
"Nghèo đói, khốn khổ", là nói không có pháp lành, muốn từ Như lai để cầu được thức ăn ở tương lai, kết thúc điều mình đã mong cầu. Bởi từ nay về sau, không có chủ, người thân v.v..., nên từ Như lai mong cầu thức ăn ở tương lai. Cúng Phật để mong được kết quả, nói là cầu. Quả Phật tương lai sẽ giúp ích cho sự thiếu thốn luống dối của mình. Theo thí dụ, gọi là thức ăn, lại là quả của nhà cho thức ăn ở hiện tại. Từ nhân, gọi là thức ăn ở trên đã nói việc làm.
"Cúi mong v.v..." trở xuống là kết thỉnh nhận cúng. "Duy" là chỉ vì chỉ cầu nhận cúng, nên nói là "Cúi mong". Thọ thực xong, nhập diệt, gọi là "Hậu Niết-bàn". Thuần-đà nay, nghĩa là chẳng trực tiếp dâng cúng, cũng muốn thỉnh Phật trụ lại thế gian, vì sao trong đây lại nói là nghe Phật Niết-bàn? Vì về sự, không phải đều nói. Vả lại, xin thọ cúng, được thọ cúng xong, sau đó sẽ thỉnh Phật trụ lại. Lại nữa, Thuần-đà vì Đức Phật sắp nhập diệt, đến sau cùng mới dâng cúng, không được thỉnh Phật trụ lại. Nếu thỉnh Phật trụ lại thì sẽ không được nhập diệt.
Thỉnh Phật nhận cúng đã xong. Kế đây là thỉnh pháp. Đầu tiên, vì cứu giúp mình và trở xuống v.v... là đoạn hai, vì người khác và đúng sai ở trước. Y theo phần tự vì mình, đầu tiên là thí dụ, kế là hợp. "Cúi mong v.v..." trở xuống, kết thỉnh để Phật nói. Trong dụ có sáu câu, như Sát-lợi v.v... là câu thứ nhất, dụ cho người cầu pháp đối với tự mình. Dòng vua Sát-lợi, người Bà-la-môn, tịnh hạnh cao đẹp, bình dân trong Tỳ-xá, làm việc nặng nhọc trong Thủ-đà. Trong bốn họ này, nêu giống người nghèo làm dụ, không lấy đủ bốn.
Có người nói: "Nêu người nghèo ở đây là vì muốn cầu thỉnh. Nếu Phật nói pháp thì tôi sẽ đồng với Sát-lợi và Bà-la-môn. Nếu Phật không nói, thì tôi sẽ đồng với hạnh Tỳ-xá, Thủ-đà! Nếu vậy, thì người đời sẽ được trời rãi mưa, chính là Tỳ-xá và Thủ-đà. Về nghĩa thì không có việc này, vì nghèo nàn nên là câu thứ hai, dụ cho cái mình thiếu thốn.
"Xa đến người khác v.v..." trở xuống, là câu thứ ba, dụ cho những gì xưa đã làm. Ngày xưa, Thuần-đà đã bỏ tà, về chánh. Vì tà khác xa với chánh, nên gọi là xa. Quy đầu Phật pháp, gọi là đến nước khác. Nhân hạnh giúp quả, gọi là tác động của năng lực sai khiến.
"Được tốt đẹp v.v..." trở xuống, là câu bốn, dụ cho cái mình đã có. "Không có các ruộng muối cát v.v..." trở xuống, là câu năm, dụ cho cái "Không có", chỉ hy vọng ở thiên hạ là câu sáu, dụ cho điều mình mong cầu, hợp với câu giữa không thứ lớp mà lại không hết. Trước hợp với ba câu sau, vì từ chối hợp với hai câu đầu, nên nói là, không thứ lớp. Câu thứ ba vì không hợp, nên nói "Không hết". Trước hợp với câu bốn, nói là "Người điều phục con bò", là nhắc lại thí dụ trước. Dụ cho thân miệng có bảy, hợp với dụ ở trước để làm rõ pháp. Đây là nói về có "Hạnh". Trước khi đến đây, Thuần-đà là Ưu-bà-tắc đã dứt trừ ba điều tà của thân, xa lìa bốn lỗi của miệng là bảy.
"Thuở ruộng màu mỡ, bằng phẳng," là nhắc lại thí dụ ở trước, dụ cho tuệ, làm sáng tỏ chánh pháp. Đây là nói có "Giải". Trước nay, Thuần-đà tu tập theo kiến giải Tiểu thừa, vì có công năng là nhân của Đại thừa, nên gọi là ruộng. Sự hiểu biết chân chánh, không tà vạy, gọi là "Bằng phẳng". Nói chung, là những gì đã tu trong quá khứ. Hiểu biết nhiều về Đại thừa, đó gọi là trí tuệ.
Kế là hợp với câu thứ năm, không có các thứ bụi cát v.v..., là nhắc lại thí dụ ở trước, dụ cho dứt trừ phiền não, kết hợp để làm rõ pháp. Thuần-đà xưa nay đã dứt kiến hoặc, như nhổ cỏ, gốc cây mục. Cũng có thể đã dứt bốn trụ địa phiền não, như ruộng cát bụi nọ. Bốn trụ đã khởi, như cỏ, gốc cây khô mục.
"Đức Thế Tôn v.v..." trở xuống, là hợp với câu sáu. "Nay, thân tôi có bò điều phục, ruộng tốt, là nhắc lại câu bốn ở trước, đã cày bỏ cỏ dại, gốc cây mục, là nêu lên câu năm ở trước. Vì cầu pháp dựa vào ruộng tốt này, cho nên nhắc lại.
"Chỉ hy vọng v.v... trở xuống, chính là hợp với câu sáu. Đức Như lai hợp với trời mưa pháp cam lộ, là hợp với mưa ở trước. Cứ theo dụ gọi là pháp, gọi mưa cam lồ. "Ngã" của dòng họ là hợp với câu thứ nhất. Nghèo về pháp, của báu, hợp với câu hai.
Trên đây, đã hợp xong.
"Cúi mong thương xót dứt trừ cái nghèo của con", là kết thúc xin Phật cho nói.
Trên đây, tự vì mình v.v... trở xuống, là nói về người khác. "Chửng" cũng giống như "Tế" (cứu giúp). Nhân nói cứu giúp rộng, gọi là cứu giúp vô lượng chúng sinh khổ não. Sau đây là thỉnh cúng dường lần nữa:
"Cúng phẩm của con dù ít", là nói một cách khiêm tốn về cúng phẩm hèn mọn của mình. Như văn dưới nói: "Vì cơm chỉ có tám hộc, nên nói ít ỏi. Phẩm vật dâng cúng dù ít, nhưng hy vọng sẽ được đầy đủ, nhiều hơn. Nói cái ít bao gồm cái nhiều, do đó nên nói là "Dù".
Hỏi: Thuần-đà sau này vì Như lai mà trang nghiêm nơi chốn, đã giúp cho thế giới Tam thiên như cõi nước An lạc, đáng lẽ có khả năng giải thích nhiều, vì sao lại nói là mọn, ít?
Giải thích:
Thật ra Thuần-đà có thể nói nhiều, nhưng vì muốn mượn số ít để nói lên oai lực không thể suy nghĩ bàn luận của Như lai, làm sao cho chúng trở về với niềm tin, nên đại chúng ở dưới nhìn thấy cảnh tượng thần biến này, đều vô cùng vui mừng và mong muốn sẽ được đầy đủ. Như lai, đại chúng đồng bày tỏ ý nguyện rộng khắp của mình. Sự mong muốn cũng giống như hy vọng. Hy vọng do thức ăn này sẽ giúp đầy đủ cho chúng đệ tử Phật. Như Bồ-tát Duy-ma-cật dùng một bát cơm, hy vọng sẽ làm cho tất cả chúng sinh được đầy đủ." Vì lời nói này là muốn cho Như lai sẽ giúp cho viên mãn tâm nguyện của mình. Giảng nói ít thành nhiều để cho đại chúng được ngắm nhìn hiện tượng thần biến của Phật mà vui mừng, tin ưa.
"Nay, con không có chủ, không có thân thích v.v..." trở xuống, là xin Phật thương xót nhận cho! Đây là nhắc lại việc không có chủ, người thân v.v... nói trên, để xin Phật thương xót. Cầu xin Phật thương xót sâu xa, xin được đồng với La-hầu-la. La-hầu-la là con ruột của Phật, với lòng từ ái sâu nặng, thương xót các chúng sinh, thường lấy đây để so sánh.
Sau đây, là Phật đáp:
Bấy giờ, Đức Thế Tôn nêu người đáp lại, Nhất Thiết Chủng Trí Điều Ngự Vô Thượng, nêu đức cao quý. Đối với tất cả pháp chủng khác nhau, đều nhận biết, gọi là Nhất thiết trí. Tự điều phục, điều phục người, là cùng cực trong điều ngự, gọi là điều ngự Vô thượng. "Biệt", là chủng trí, là đức năng thuyết. Điều ngự Vô thượng là đức nhận cúng. Vì tự điều phục tâm mình, nên có khả năng nhận phẩm vật cúng dường. Nói chung, về nghĩa là bình đẳng. Vì Nhất thiết trí nên có thể nói pháp cho nghe, có thể thọ cúng phẩm của Thuần-đà, đại chúng. Đều nhận biết thời gian nói pháp, và thời gian nhận cúng. Vì Điều ngự Vô thượng, nên có khả năng điều phục chúng sinh, nói pháp cho chúng sinh nghe, vì chúng sinh mà nhận cúng.
"Phật bảo Thuần-đà v.v...," trở xuống là nói về lời giải đáp. Trước là Đức Phật khen chung, rất tốt đẹp về việc khéo thưa hỏi. Nên nói: "Lành thay, lành thay! Là trợ từ. Do lời thưa hỏi rất khế hợp, nên Phật nói lại để khen ngợi! Sau đây chính là đáp:
Trước là thừa nhận nói pháp, sau là bằng lòng nhận cúng. Vì sao không theo thứ lớp với lời thỉnh trước?
Vì ý của Thuần-đà là chỉ dâng cúng, nên trước là thỉnh nhận cúng, còn ý của Phật thì ở pháp, nên trước là nói pháp.
"Nay ta vì ông dứt trừ sự nghèo thiếu, khốn cùng", đối đáp lại với lời thỉnh trên: "Cúi xin thương xót dứt trừ sự nghèo thiếu của con."
Do nói được quả, nên dứt nghèo cùng, đây là nói về điều bị dứt bỏ.
"Mưa pháp Vô thượng, mưa xuống thân ruộng của ông" là "Chỉ mong mưa pháp" trong lời thỉnh trên.
Dựa vào bảy chi của thân, miệng ở trước để trao pháp, gọi là "Mưa trên thân ông". Dựa vào thửa ruộng tốt, trí tuệ ở trước để trao cho Pháp, gọi là mưa xuống ruộng ông.
Y theo thí dụ gọi là pháp, nên gọi là mưa. Vì nói khởi hạt giống của pháp thân Phật, gọi là sinh mầm pháp. Đây là nói về vật cho trong hứa nhận cúng, "Nay ông muốn cầu được sống lâu v.v... đối với ta", là nhắc lại điều Thuần-đà mong cầu, gọi là điều mong cầu ở trước. Thức ăn tương lai là tuổi thọ v.v...
"Ta sẽ nói v.v... trở xuống, chính là hứa nhận cúng. Do Phật nhận cúng, sẽ làm cho Thuần-đà được quả, nên gọi là bố thí ruộng thường, gieo trồng phước sẽ được quả báo không dời đổi, nên nói là thường. Tuổi thọ, sắc lực v.v... là thể của quả kia. Cho thức ăn ở hiện tại, có công năng làm cho người tiếp nhận sẽ được sống lâu. Sắc lực ổn định, nói về lợi ích của năm việc, nên ở vị lai, sẽ được lại quả này."
"Vì sao? v.v..." trở xuống, là giải thích. Trước là, gạn hỏi, hỏi có hai ý:
1. Hỏi về nhân hạnh tự sẽ được quả. Vì sao ta nói rằng, bố thí ông?
2. Hỏi về năm quả là pháp hữu vi, vì sao ta lại nói: "Cho ông được thường? Sau đây sẽ giải thích riêng:
Trước, nói về bố thí thường, ý giải thích ra sao? Do ta thường, nên có thể cho ông thường. Nhưng, nay trong văn chỉ nói Phật là thường. Phật là thường đã thành, thì thường kia sẽ thể hiện rõ ràng, không nhọc công nói lại? Hỏi: Vì sao không y cứ trực tiếp vào đối tượng chứng đắc kia để nói về thường, mà y theo Đức Phật?
Giải thích:
Vì nghĩa thường kia, ở vị lai thì chưa có, hiện tại lại mờ mịt, khó sáng rõ, nên phải y theo Đức Phật để nói. Đức Phật thường là vì theo giáo xưa đã bị che giấu bởi dấu vết "Quyền". Nay, phải bỏ "Quyền" để làm sáng tỏ "Thật" kia, nên y theo hai thời gian không khác nhau để được rõ ràng hơn. Cái gọi là Thuần-đà vì đã khởi sự phát tâm, nên cho rằng thức ăn sẽ có hai quả báo không khác nhau.
Giải thích đúng về nghĩa thường, cho thức ăn có hai, vì văn ít nên khó hiểu! Nếu cụ thể thì nên nói: "Người nhận bố thí thức ăn có hai." Người dịch vì muốn bốn chữ thành văn, nên bỏ bớt chữ "Thọ" ở đầu câu.
Vấn đề này làm sao biết được?
Sau đây, sẽ y theo người nhận để nói, vì có hai nên quả không khác nhau.
Bỏ "Quyền" bày "Thật", là nói theo tùy hóa. Trước khi nhận là nhân, chẳng phải quả, sau khi nhận cho là quả chẳng phải nhân. Hai thứ nhân, quả khác nhau, tức là Vô thường. Y theo "Thật", thì hai thời gian đều là quả Phật, vì quả báo không khác nhau, cho nên là thường.
Hỏi: Ở trên đã nói đoạn này nhân việc Thuần-đà dâng cúng để nói về Đức Phật vì không có đối đãi, nên gọi là thường. Nay, vì sao không có khác nhau là giải thích thường?
Giải thích:
Bởi không khác nhau vẫn là không có đối đãi. Hai thời gian, xưa và nay đều không có giả đối đãi, nên nói là không khác. Sau đây, là nói về hai tướng, trước hỏi, sau giải thích:
1. Nhận thức ăn xong, chứng đắc Bồ-đề: Khi chưa thành Phật, Đức Như lai trước đã nhận bát cháo sữa do hai cô gái dâng cúng. Sau đó mới thành Phật.
A-nậu Bồ-đề là tiếng Phạm, Hán dịch là Vô thượng Chánh chân Chánh đạo. "A" dịch là "Vô", Nậu-đa-la, dịch là "Thượng", "Tam" dịch là "Chánh". "Miệu" dịch là "Chân". "Tam" còn dịch là "Chánh", Bồ-đề dịch là "Đạo".
2. Người nhận đã nhập Niết-bàn, chỉ cho vật được nhận hiện nay. Trên đây, giải thích nghĩa thường. Sau đây, giải thích nghĩa bố thí.
"Nay, ta nhận sự cúng dường sau cùng của ông, sẽ giúp cho ông có "Đàn". Vì ở vị lai sẽ được quả, nên gọi là bố thí. Đây là pháp thí, chẳng phải thí khác.
Trên đây, nhân thỉnh Đức Phật chỉ bày sơ lược về pháp thường. Dưới đây là đoạn hai, nhân Thuần-đà đặt ra câu hỏi, nên Phật giải đáp rộng về nghĩa thường.
Trước hết, Thuần-đà nêu câu hỏi về lời nói "Không có khác nhau", trái với pháp mà ông đã nghe nói từ giáo xưa. Chẳng hạn như Phật nói: "Quả báo của hai thí không khác nhau" là không đúng! Đây là nhắc lại để bác bỏ chung!
"Vì sao? v.v..." trở xuống, chứng tỏ là không đúng: Trước là tự tra gạn, trách cứ: "Vì sao tôi nói lời Đức Phật nói là không đúng! Sau đây, sẽ nêu năm việc để hỏi, nhằm đả phá "Nghĩa không khác nhau" để chứng thành "Không đúng" ở trước:
1. Y theo ruộng để đặt ra câu hỏi.
2. Y theo người.
3. Y theo thân.
4. Y theo nhân.
5. Y theo duyên.
Vì người nhận bố bố thí là ruộng, nên trước, y theo ruộng. Ruộng, là con người, nên kế là y theo người. Vì là con người, thì có tự thể, nên kế là, y theo thân. Thân thì phải có gốc, nên kế là y theo nhân. Vì thân là giả tạm, nhờ vả, nên kế là y theo "Duyên".
Trong năm câu hỏi này, lẽ ra có ba trường hợp:
1. Bày tỏ giáo nay khác với giáo xưa.
2. Nói giáo nay khác với giáo xưa.
3. Kết luận, phá nghĩa không khác nhau.
Tuy nhiên, trong văn nay có đủ, không đủ. Y theo thửa ruộng đầu, chỉ có hai trường hợp trước:
1. Chứng tỏ giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận bố thí ở trước, phiền não chưa hết, đoạn đức không thành. Chưa thành tựu chủng trí, trí đức chưa đủ, do đó vẫn chưa có khả năng làm cho chúng sinh có đủ "Đàn", nghĩa là phước của chúng sinh không vượt hơn.
2. Nói nay khác xưa: Người nhận bố thí ở sau, phiền não đã hết. Nói về đoạn đức đã hoàn thành. Đã thành chủng trí: nói trí, đức đã đủ, giúp cho chúng sinh đầy đủ, nói phước của chúng sinh vượt hơn.
3. Ứng với kết luận đả phá. Trong văn, lược qua không có. Trong người thứ hai cũng nên có đủ ba câu hỏi. Văn chỉ có hai:
1. Nói nhận cúng ở trước, trực tiếp với chúng sinh này, để nói lên giáo nay khác với giáo xưa: Trước khi nhận thí thì sinh tử chưa hết, vẫn thuộc về sinh tử, nên gọi là "Chúng sinh".
2. "Nhận bố thí sau v.v..." trở xuống, là nói giáo nay khác với giáo xưa. Như trong văn dưới nói trời có năm hạng:
a. Trời thế gian, trong luận Đại Trí gọi là "Trời giả hiệu", là vua cõi người gọi là Thiên tử, hoặc gọi là Thiên vương.
Trời Sinh: Từ bốn Thiên vương, cho đến Phi tưởng.
b. Trời Tịnh: Từ Tu-đà-hoàn cho đến Bích-chi.
c. Trời Nghĩa: Từ Sơ địa trên đến địa Pháp Vân, vì các Bồ-tát đồng hiểu thấu nghĩa "Không", nên gọi là Trời Nghĩa.
Trời Đệ nhất nghĩa: Phật, Như lai vì đã thấy tánh cùng cực, nên gọi là Nghĩa bậc nhất.
Đối với năm vị trời trên đây, Đức Phật là vị trời trên hết, gọi là trời trong đời.
Đoạn ba, thích ứng với kết phá, văn lược qua không có. Y theo câu hỏi về thân, có đủ ba:
1. Nói rõ giáo nay khác với giáo xưa: Trước là người nhận bố thí là thân tạp thực. Y theo "Duyên" nói về thân. Thân phiền não là y theo nhân mà nói về thân. Từ phiền não sinh, vì sinh phiền não, nên là thân hậu biên. Thân Vô thường, là y theo tướng để nói về thân. Hậu biên phân biệt với cùng tận của sinh tử ở trước, nên nói là hậu biên. Vô thường khác với hậu biên, vì động cơ thuyên chuyển chưa dứt, nên gọi là vô thường.
2. Nói giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận bố thí sau không có thân phiền não, trái với phiền não ở trước. Kim cương biệt luận cho rằng, chẳng trái với phiền não trước, vì thân khó hư hoại, nên như Kim cương. Pháp thân trái với thân tạp thực ở trước. Vì pháp của các công đức nhóm góp thành thân Phật, nên gọi là pháp thân. Thường trái với vô thường, vô biên trái với biên.
Hỏi:
Thuần-đà hỏi để phá nghĩa không khác nhau, thành Phật là Vô thường. Nay, nói Như lai về sau khi nhận cúng dường thì pháp thân, thường thân và Vô Biên Thân đều bình đẳng.
Đã biết Phật là Thường, đâu cần phải hỏi nữa? Giải thích:
Thuần-đà nói Phật là thường vì lẽ:
Đức Phật đã chứng được không lui sụt, nên gọi là Thường, chứ chẳng phải do im lặng, nên được đặt ra câu hỏi. Cũng có thể Thuần-đà đặt giả sử Phật là Thường để khác với giáo xưa nói vô thường. Giáo nay đã khác với giáo xưa, lại là vô thường. Ý câu hỏi là như vậy.
"Thế nào là v.v..." trở xuống là kết phá "Không khác nhau". Y theo văn trong câu hỏi về nhân, cũng có ba:
1. Nói lên giáo nay khác với giáo xưa: Người nhận cúng dường ở trước chưa có "đàn" v.v..., là nói về công hạnh chưa viên. Về nghĩa sáu độ, đã nói rộng như chương riêng. "Chỉ được nhục nhãn v.v..." trở xuống, là nói lên "giải" không có.
Vì sao phải đủ năm nhãn mới được gọi là "Giải"?"
Vì pháp nhãn, tuệ Phật trong năm nhãn là "Giải" của trí, do đó, nghĩa năm nhãn cũng như chương riêng. Nhục nhãn trong năm nhãn là mở đầu. Thiên nhãn là kế đó, tuệ nhãn đứng thứ ba, pháp nhãn đứng thứ tư, Phật nhãn đứng thứ năm. Nhục nhãn trong năm nhãn này vì có trước, nên nói rằng "Chỉ được". Bốn nhãn còn lại, là do tu mà sinh.
"Lúc bấy giờ chưa được": Y cứ ở pháp phàm của Thiên nhãn, trong chưa được, nay bỏ không nói, ba-nhãn còn lại là Thánh trí, nay ở đây sẽ nói.
Y theo ba nhãn này, vì từ dưới hướng lên trên, nên phải nói là chưa được tuệ nhãn, cho đến Phật nhãn. Nay, trong văn này, vì từ trên hướng xuống dưới, nên phải nói là chưa được Phật nhãn, cho đến tuệ nhãn.
Pháp vượt qua, gọi là "Cho đến". Đây là nói theo Biệt giáo của Ba thừa. Y theo Bồ-tát thật thừa, cũng chia làm năm nhãn.
2. Nói giáo nay khác với giáo xưa. Sau khi người nhận bố thí (cúng dường), đã đủ "Đàn" v.v..., là nói công hành của họ đã viên, vì các độ này đã tu ở Bồ-tát. Vì thành tựu Phật, nên có Phật nhãn v.v..., chứng tỏ "Giải" của người đó đủ.
Y theo Thánh nhãn, vì từ trên hướng xuống dưới, nên nói rằng Đức Phật có đủ, cho đến tuệ nhãn. Về Thiện nhãn, nhục nhãn không nói đến.
3. "Thế nào v.v..." trở xuống, là kết phá "Không khác nhau". Y theo "Duyên" câu hỏi, văn cũng có ba:
1. Nói người nhận cho ở trước, nuốt vào bụng, tiêu hóa v.v... đủ rõ giáo nay khác với giáo xưa.
2. "Sau khi nhận rồi v.v..." trở xuống, là nói giáo nay khác với giáo xưa.
Không có năm quả: không có thức ăn nào đã thành tựu kết quả của năm việc: Sắc lực, mạng sống lâu v.v...
3. "Thế nào là v.v... trở xuống là kết phá "Không khác nhau." Sau đây, là Phật giải thích câu hỏi và hỏi không thứ lớp.
1. Trước y theo thân để giải thích thành "Không khác nhau".
2. Y theo nhân.
3. Y theo người. 4. Y theo ruộng.
5. Y theo duyên.
Thân là thể của đức, nên trước y theo thân. Vì thân phải có gốc, nên kế tiếp là y theo nhân. Thân vì có khả năng thành người, nên kế là y theo người vì thân có khả năng thọ cúng, cho nên kế là y theo ruộng. Vì thân có giả dối đối đãi, nên kế là căn cứ vào duyên.
Cứ so sánh năm y cứ này lẽ ra có ba:
1. Nói giáo xưa đồng với giáo nay.
2. Nói giáo xưa đồng với giáo nay.
3. Kết thành không có khác nhau.
Nhưng "Có" và "Không" trong văn nay không bình đẳng. Trong y theo thân ở đầu chỉ có một câu trước, không có hai câu sau. Văn rõ ràng dễ hiểu.
Trong nhân thứ hai, lẽ ra cũng đủ ba, mà trong văn chỉ có y cứ thứ nhất và thứ ba, lược qua không có y cứ thứ hai.
Y theo đoạn đầu, nói về câu hỏi không hết. Không hết là sao? Nhắm vào câu hỏi ở trước nói: "Người nhận bố thí trước, sáu độ không đủ, năm nhãn không đủ. Nay, chỉ nói nhãn, còn sáu độ thì không nói.
Y theo năm nhãn, chỉ nói về Phật nhãn, bốn nhãn còn lại, vì không giải thích, nên nói là "Không hết".
Một nghĩa đã suốt qua, các nghĩa khác so sánh dễ hiểu, nên không giải thích đủ.
Làm sao biết được giải thích nghiêng về Phật nhãn, vì soi thấy Phật tánh là Phật nhãn? Lời nói đầu trong văn là nói: "Chưa thấy Phật tánh, gọi là thân phiền não, thân ăn tạp v.v... Y theo làm rõ "Thật" ở trước, cũng được gọi là y cứ quả để làm rõ nhân. Làm rõ nhân là sao? Chưa thấy Phật tánh, gọi là thân phiền não. Vì thân Vô thường, hậu biên của thức ăn tạp, nên hướng về trước để nói là từ vô lượng kiếp đến nay, không có thân ăn tạp, thân phiền não v.v..., là nói biết được từ vô lượng kiếp đến nay, ta đã thấy Phật tánh. Vì đã thấy tánh, nên có Phật nhãn.
"Bấy giờ, Bồ-tát nhận thức uống ăn v.v..." trở xuống, là y cứ chân thân để hiển bày ứng thân. Làm rạng rỡ là thế nào? Thật ra là Như lai từ vô lượng kiếp đến nay, đã là thân thường, đã thấy Phật tánh, mà nói "Lúc bấy giờ, thọ thức uống ăn xong, nhập định Kim cương, mới thấy Phật tánh, được Bồ-đề", nên biết là ứng thân.
"Cho nên, ta v.v..." trở xuống là kết thành không khác nhau, vì giáo nay, xưa đồng thấy tánh, nên hai quả không có khác nhau."
Trong người thứ ba, văn có đủ ba:
1. Nói "Lúc bấy giờ, Đức Phật phá hoại bốn ma", chứng tỏ xưa đồng với nay. Ấm phiền não chết và ma trời, cộng chung là bốn. Phá ma phiền não, lìa nhân sanh tử, phá hoại ma trời lìa "Duyên" sinh tử, phá ấm, phá chết, xa lìa quả sinh tử. Vì phá bốn ma này, nên chẳng phải chúng sinh.
2. "Nay nhập v.v..." trở xuống, là nói giáo nay đồng với giáo xưa.
3. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết thành không khác nhau.
4. Trong ruộng, văn cũng có ba:
Đầu tiên là nói "Lúc bấy giờ", dù không bày tỏ giáo xưa đồng với giáo nay, nhưng giải thích không hết, hướng về trước để hỏi rằng: "Người nhận bố thí ở trước, vì phiền não của họ chưa hết, nên chưa thành chủng trí, chưa có khả năng làm cho người đầy đủ đàn, độ. Nhưng nay, giải thích trực tiếp người có trí thì sáng rỡ, người khác đều không nói.
Đây là nói Như lai trước khi nhận cúng dường, dù không nói rộng mười hai bộ kinh, nhưng trước đã thấu suốt. Cho nên trước, ta đã có đủ Nhất thiết trí. Về mười hai bộ kinh, sau đây sẽ giải thích cụ thể:
"Nay nhập v.v..." trở xuống, là nói giáo nay đồng với giáo xưa.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết thành không khác nhau.
Đoạn năm, trong "duyên" lẽ ra cũng có ba:
1. Nói lên giáo xưa đồng với giáo nay.
2. Nói giáo nay đồng với giáo xưa.
3. Kết thành không khác nhau.
Nay, có hai câu trước, lược qua không có câu thứ ba. Trong câu đầu, Đức Như lai đã không nhận thức uống, ăn trong vô lượng kiếp, chính là làm rạng rỡ cho cái "Thật" kia.
"Vì Thanh văn v.v..." trở xuống là bỏ "Quyền", bày "Thật". Trước nêu "Quyền" xưa, nói là Đức Thế Tôn đã nhận sữa mà Nan-đà và Nan-đà-bà-la dâng cúng: Thuở xưa, có hai cô gái, cô gái: lớn tên là Nan-đà, cô gái nhỏ tên Nan-đà-bà-la, cùng chăn một ngàn con bò. Trong một giờ, hai nàng đã vắt lấy sữa của một ngàn con bò, để cho một trăm người uống. Lại vắt sữa một trăm con bò cho mười người uống. Lại, vắt lấy sữa mười con bò để cho một người uống. Vắt lấy sữa một con bò, đem nấu thành cháo. Đun sôi cháo giữa trên hư không cách mặt đất bảy thước. Cô gái thấy hiện tượng kỳ lạ, không dám tự ăn, mà dâng lên vị thọ thần. Đức Phật ở dưới gốc cây, hai cô gái không biết. Khi đến đây mới gặp Phật, liền vội vàng dâng cúng." Vì thế, nay nêu ra ở đây.
Trên đây là nêu "Quyền", tức là nói về thân ứng cúng. "Ta thật sự không ăn", là bỏ "Quyền" bày "Thật".
"Nay, ta vì v.v..." trở xuống, là đoạn hai, nói giáo nay đồng với giáo xưa. Ta đã vì chúng hội này mà nhận phần dâng cúng của ông, lẽ ra đồng với xưa. "Thật ra ta cũng không ăn", tức là chân đồng với xưa.
Hỏi: Ứng thân là một bề ăn, cũng có khi không ăn. Các thứ hóa thân Phật chẳng phải là hoàn toàn ăn. Như kinh Chuyển Nữ Thân chép: "Ứng thân Phật, như Toàn đoạn Kim cương, không có sinh tạng, Thục tạng, không có đại tiện, tiểu tiện, không có hơi thở ra vào. Thức ăn đã thọ nhận, bố thí cho các đại hội trong mười phương. Vì tự không có cái ăn, cho nên biết Ứng thân cũng có khi ăn, có khi không ăn. Nay, y cứ một hóa thân, nên nói là ăn.
Dưới đây là đoạn hai, nhân Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại. Nói Ứng thân Phật nhập diệt, thật ra không dời đổi. Vì vô vi nên thường Thuần-đà thỉnh trước, Như lai đáp sau. Trong phần thỉnh có hai:
1. Chúng đề cử Thuần-đà làm chủ thỉnh.
2. "Thuần-đà vui mừng v.v..." trở xuống, là ví chúng chính thức thỉnh.
Đầu tiên trong phần trước, là nói chung chúng vui mừng.
"Lúc bấy giờ, đại chúng đề cử người vui mừng nghe Đức Phật vì khắp cả đại hội nhận cúng", nói lý do "Vui mừng phấn khởi" chính là nói về vui mừng. Vui mừng có hai ý:
1. Thuần-đà dâng cúng, khắp vì đại chúng. Nay, Như lai nhận cúng dường, thì chúng sẽ có phần, cho nên vui mừng. Vì Phật thành đạo, sẽ độ thoát ta.
2. Thuần-đà đã vì chúng dâng lên cúng dường. Như lai vì chúng nhận, vì chúng thỉnh ở lại. Phật cũng nên lưu lại. Hy vọng Phật sẽ trụ lại, vì cho nên vui mừng.
"Cả hai đồng thanh v.v..." trở xuống là bày tỏ riêng về ý vui mừng.
Trong phần riêng có hai:
1. Cuối đoạn văn xuôi, nói về ý vui mừng ban đầu. Sau đây, có bốn bài kệ nói về ý vui mừng như sau:
Trong văn xuôi trước, Trước khen, sau quy. Lành thay! Là khen Nam-mô, quy mạng
Vì Thuần-đà thành Hạnh thí đáng quý Nếu chúng đồng khen
Hạnh thành đáng phục Nên chúng đồng quy.
Trong phần khen, đầu tiên nói:
"Lành thay! Ít có" Là lời khen chung Nay ông trở xuống Là lời khen riêng.
Trong riêng có bốn:
Theo đức nghiệm chữ Khen danh không dối Hai, khen danh lợi Ba, khen nguyện đủ Bốn, khen năm câu
Ở trong đoạn đầu Có riêng bốn câu:
Một khen danh thật Hai, Thuần-đà xuống Giải thích danh nghĩa Ba, ông lập xuống Bày thật đức kia
Như trong Địa kinh Mười Ba-la-mật
Có nghĩa lợi lớn Đồng gọi nghĩa đại Thuần-đà dâng Phật Thành tựu đàn, độ. Gọi lập nghĩa lớn Nên gọi Thuần-đà.
Hỏi: Nghĩa Đại thừa do Thuần-đà lập ra. Thời nay mới lập, danh tự đã có trước. Nay, sao lại nói rằng, từ nghĩa lập danh, gọi là Thuần-đà?
Giải thích:
Tất cả danh tự của các bậc Hiền, Thánh. Dù khi cha mẹ sinh mới lập ra, nhưng "minh" và đức đã hội ngộ. Như Duy-ma-cật hiệu là Vô cấu xưng. Như Tu-bồ-đề được gọi là Không sinh, là như thế v.v...
Sau đây là đoạn hai, khen được danh lợi. Do Phật đã nhận cúng dường, tiếng tăm tốt đẹp vang xa, gọi là danh đại. Do được danh, nên chúng đều quy về, trở thành công hạnh nhiếp hóa người, thành ra nói là được lợi lớn.
Sau đây là đoạn ba, Phật ngợi khen nguyện của ông đã mãn:
Ở đời quá khứ, thời Phật Ca-diếp, Thuần-đà đã từng khởi xướng việc cúng Phật, nhiếp hóa các nguyện công đức. Nguyện đó đến nay đã được viên mãn, danh, đức, nguyện đều được viên mãn.
Lại, ở hiện tại, ông đang phát tâm cúng dường Phật, cũng là Thuần-đà gồm thâu nguyện công đức. Nguyện này đã được viên mãn: là danh, đức, nguyện viên mãn.
Sau đây là đoạn thứ tư, khen thành tựu năm việc khó. Lạ thay Thuần-đà, là nêu chung lời khen ngợi, dưới đây sẽ giải thích riêng để làm rõ: Năm việc khó là:
1. Thân người khó được.
2. Đức Phật ở đời rất khó gặp.
3. Lòng tin khó sinh.
4. Kinh pháp khó được nghe.
5. Dâng cúng sau khó thành.
Được sinh trong loài người là điều khó đầu tiên.
Dưới đây, sẽ nêu bốn điều khó còn lại. Lại, được việc khó là được lợi ích vô thượng. Nêu chung là trên thân người lại có bốn việc khó, nên nói: "Lại được" thân người, lợi thế gian. Bốn việc khó sau là danh xuất thế, lợi ích vô thượng. Sau đây là nêu riêng: Trong đó, trước nói về Phật ra đời, là khó như hoa Ưu-đàm rất ít có ở thế gian. Dụ thuyết để làm sáng tỏ việc khó. Trung quốc gọi là hoa điềm lành linh ứng. Khi Luân vương ra đời, mới có hoa này, gọi là việc ít có ở thế gian. Đức Phật xuất hiện ở thế gian là khó, hợp dụ để làm sáng tỏ việc khó. Sau đây, là y theo Đức Phật này để nói về bốn việc khó sau, sự khác nhau có thể biết là dường nào. Bởi vì sự khéo này đều đối với cái khó ở cạnh Phật ra đời mà thành tựu, cho nên rất khó.
Trên đây, là khen xong, dưới đây là trong quy mạng, đầu tiên là quy hạnh cúng Phật của Thuần-đà. "Dù là người nhận..." trở xuống, là quy mạng tâm cúng Phật của Thuần-đà. Vì công hạnh thường hóa độ chúng sinh, nên trở vế với công hạnh của ông. Vì tâm ông vì chúng sinh, nên quy tâm ông.
Trong hạnh quy y ở trước, đầu tiên là pháp, kế là thí dụ, sau là hợp. Sau đây là phần kết thúc về pháp, đầu tiên nói "Nam-mô Thuần-đà" là lời quy mạng. Nam-mô là tiếng Phạm, Hán dịch là quy mạng, thành tâm quy mạng, lời nói lặp lại để làm sáng tỏ việc quy mạng. Ông đã có đàn, vượt ngoài chỗ quy y.
Trong thí dụ như mặt trăng, cho đến không bị mây, sương mù che khuất, dụ cho chỗ quy y ở trước. Trăng thu chính là dụ cho thân Thuần-đà. Đêm rằm, dụ cho thời gian Phật nhập diệt. Trong sáng tròn đầy không bị sương mù che khuất, dụ cho thành tựu hạnh đàn (bố thí). Tất cả chúng sinh đều chiêm ngưỡng, dụ cho năng quy y ở trên. Trong việc hợp, đầu tiên là nói: "Ông cũng như thế", là hợp với dụ trên, như mặt trăng trong sáng, tròn đầy không bị sương mù che khuất. "Mà vì tôi v.v..." trở xuống, là hợp với tất cả chúng sinh, đều chiêm ngưỡng, dưới đây là nhắc lại kết. Trước là nêu pháp ở trước, Đức Phật nhận ông cúng dường, giúp ông có đủ đàn, là nhắc lại chỗ quy y ở trên. "Nam-mô Thuần-đà, là nhắc lại năng quy y ở trên. "Cho nên v.v..." trở xuống là dụ đồng với hợp, là "Ông có đủ đàn", nên nói như mặt trăng. Vì chúng đều quy y ông, nên nói "Tất cả đều chiêm ngưỡng". Sau đây, trong tâm cúng Phật của Thuần-đà,
Nam-mô Thuần-đà là lời quy mạng.
"Dù người nhận v.v..." trở xuống, là nêu ra chỗ quy y, dù thân, tâm người nhận như tâm Phật, chính là nêu ra chỗ quy y. Thân kém, tâm vượt hơn, nêu thua kém, gồm vượt hơn, cho nên nói "Dù". Tâm Phật vì chúng sinh, Thuần-đà cũng vậy. Cho nên nói: "Như ông là chân Phật tử". Là khen người để chứng tỏ tâm họ, vì tâm như Phật, nên cuối cùng có khả năng kế thừa, gọi là chân Phật tử. Như La-hầu-la, là so sánh để làm sáng tỏ cho tâm của Thuần-đà chính là đệ tử của pháp thân Phật, còn La-hầu-la là con ruột của Phật. Nghĩa con không nhau, cho nên nói "Như".
Sau đây là đoạn hai, nói về ý vui mừng.
Suy tôn làm chủ thỉnh, một bài kệ đầu trong kệ thỉnh, là đại chúng đồng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh. Một bài kệ thứ hai, chính là khuyên nên thỉnh Phật. Một bài kệ thứ ba nói về việc thỉnh, nhằm thỉnh Phật trụ lại đời, thân, miệng làm lại lợi ích cho chúng sinh. Bài kệ thứ tư, là kết khuyên hãy thỉnh.
Nửa bài kệ trên trong phần đầu, là khen cử chỉ tôn trọng người của đại chúng, vì người tôn quý có khả năng đi đầu dẫn đường, vì chúng thưa hỏi, cho nên khen ngợi Thuần-đà.
Giải thích có hai nghĩa:
1. Y theo nội tâm của Thuần-đà để giải thích: Tâm Thuần-đà vì chúng sinh như Phật. Cho nên dù Thuần-đà lại sinh ở cõi người, nhưng là người đã vượt lên trên tầng trời thứ sáu.
2. Y theo đức thỉnh của Thuần-đà để giải thích: Khi Phật mới thành đạo, Phạm vương Sơ thiền thỉnh Phật nói pháp. Nay, Thuần-đà thỉnh, Phật cũng đồng với Phạm vương. Cho nên, dù rằng sinh trong loài người, nhưng đã vượt lên tầng trời Tha Hóa thứ sáu. Nay, ta và tất cả cố ý cúi đầu suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh.
Nửa bài kệ trên trong bài kệ thứ hai là nêu việc Đức Phật nhập diệt. Nửa bài kệ dưới, chính là khuyên thỉnh Phật trụ lại. Nửa bài kệ trên trong bài kệ thứ ba, là thỉnh Phật trụ lại bằng thân nghiệp để làm lợi ích cho chúng sinh. Giảng nói văn nửa bài kệ dưới là thỉnh Phật trụ lại bằng khẩu nghiệp để lợi ích chúng sanh. Cam lộ vô thượng là pháp Đại thừa, vì được trí của Phật khen ngợi, nguyện trụ lại giảng nói.
Nửa trên trong bài kệ thứ tư là nói Thuần-đà không thỉnh Phật trụ lại sẽ có tổn giảm, có hai nghĩa:
1. Hiện tại buồn khổ, là thân mạng không bảo toàn.
2. Trôi lăn trong sinh tử, tuệ mạng không bảo toàn. Nửa bài kệ dưới, là kết khuyên để thỉnh. Kệ này phải ghi nhận.
"Thuần-đà v.v..." trở xuống là thuật lại việc này để thỉnh.
Trên đây, đại chúng đồng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh. Sau đây là đoạn hai, Thuần-đà sẽ vì chúng thỉnh Phật trụ lại thế gian, trong đó, đầu tiên là nói về tâm vui mừng của Thuần-đà, vì sao Thuần-đà vui mừng? Lại có hai ý:
Mong Phật nhận cúng, vì thành tựu đàn, cho nên vui mừng.
So sánh trước sau, mong thỉnh Phật trụ lại, cho nên sinh vui mừng.
Đầu tiên trong văn là pháp, kế là dùng thí dụ để làm rõ.
Cha mẹ đã chết, bỗng nhiên sống lại, giải thích có hai nghĩa:
1. Y theo hạnh đàn để giải thích nghĩa sống lại: Gốc lành cúng Phật thật đáng tôn trọng, như cha mẹ thế gian. Ở trước Phật, không nhận trời, người cúng dường gọi là chết mất. Nay, được nhận phần mà Thuần-đà dâng cúng, giống như sống lại.
2. Y theo Phật để giải thích: Đức Phật như cha mẹ, trước tuyên bố nhập diệt, gọi là chết mất. Nay, Thuầnđà y cứ trước để nghiệm sau, với hy vọng thỉnh Phật trụ lại. "Nói là sống lại v.v... trở xuống, là hợp rất dễ hiểu. Kế là dùng thân lễ kính. Sau đây, dùng miệng thỉnh. Kệ nói: "Khéo tốt". Trong chữ "Ít" có thể gồm thâu nghĩa "Nhiều" nên dùng kệ thỉnh, trong đó kệ có mười tám hàng rưỡi, được chia làm hai: mười bài kệ rưỡi đầu là chúc mừng chứng đắc, ở trước, tám bài kệ dưới là khái thỉnh ở sau, đối với đại chúng ở trước là khen thành tựu năm đều khó cho nên vui mừng ở trước đối với đại chúng ở trên, dùng bốn bài kệ để suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh, cho nên thỉnh sau. Hai việc này là nói rõ hai ý trong sự vui mừng.
Hỏi: Nay, Thuần-đà đã vì chúng thỉnh Phật trụ lại, thỉnh trực tiếp là đủ rồi, cần gì phải chúc mừng trước?
Đáp: Vì muốn cho Như lai thuật lại sau đồng với trước, cho nên phải chúc mừng trước, qua đó bài kệ đầu là chúc mừng được thân người. Vui thay! Là được lợi ích chúc mừng. Sau đây, là phát ra sự chúc mừng:
Khéo được thân người, là nói lên cái mình được. Vì được thân tu điều lành, nên gọi là "Khéo được". Dứt trừ tham v.v..., lấy xa lìa si mê, lìa hẳn ba đường ác, là nói lìa quả khổ.
Theo kinh loại sáu quyển, thì đây là lìa khổ địa ngục. Nay, vì thân người vượt hơn ba đường, nên nói lìa hẳn ba đường ác.
Một bài kệ thứ hai là mừng được gặp Phật. Vui thay là lời chúc mừng. Sau đây là nói đối tượng mừng: gặp được đống vàng ròng là gặp đấng Điều Ngự Sư, nói cái mình được, trước là dụ sau là pháp, không sợ đọa vào súc sinh, nói lên cái mình xa lìa. Vì gặp Phật thì dứt nghi, nên xa lìa súc sinh. Trước được thân người, lẽ ra lìa địa ngục, giấu riêng bày chung, sau là gặp Phật... lẽ ra cũng đều lìa, là giấu chung bày riêng hai bên của văn.
Một bài kệ rưỡi kế đó mừng vì được sinh niềm tin và nghe pháp.
Trước, nói lên điều mình đã được.
Đức Phật như hoa Ưu-đàm, là nói Đức Phật ít có. Sau đây, đối với Đức Phật này nói chúng kia sinh niềm tin. Nghe pháp là khó, sinh niềm tin cũng khó, mừng vì được sinh niềm tin. Gặp Phật rồi, gieo trồng gốc lành, mừng vì được nghe pháp. Sau đây, là nói về sự xa lìa.
Diệt hẳn ngạ quỷ, sinh niềm tin được lìa. Vì tin ưa cúng dường, nên lìa ngạ quỷ. Cũng lại làm cho giảm bớt hạt giống Tu-la. Nghĩa là nghe pháp được xa lìa, nghe pháp được dứt bỏ nghi ngờ, nên lìa Tu-la. Sau đây, có bảy bài kệ nói lên sự vui mừng vì đã hoàn thành đàn độ, trong đó có hai:
Năm bài kệ đầu, là nêu điều vui mừng kia. Hai bài kệ sau, nói lên sự vui mừng của mình:
Trong năm kệ trước
Trước nói sở đắc
Độ khắp mọi người
Nói lên chỗ lìa
Trong sở đắc trước
Hạt cải đầu kim
Phật ra đời khó
Khó gặp được Phật,
Nói Phật khó gặp
Nói ở chỗ Phật
Thành đàn rất khó,
Trước nêu việc khó
Sau hiển bày Phật
Ta đã có đàn
Nói hướng về trước
Khó gặp chỗ Phật
Thành đàn đáng mừng
Dưới nói chỗ lìa
Độ người, trời chết
Nói chung chỗ lìa
Từ Phật không nhiễm
Nói riêng chỗ lìa
Trong đó có hai:
Một, dùng hạnh đàn
Trên cầu quả Phật,
Nên được hóa độ,
trời người sanh tử
Hai, mọi phiền não
Dẹp tan trở xuống.
Không dùng hạnh đàn
Cầu báo người, trời,
Cho nên được độ,
người, trời, sanh tử.
Trong trước nói,
Phật thoát sanh tử
Sinh ra đời khó,
Dùng hạnh đàn mình
Hồi hướng cầu cho
Nói Phật ra đời
Phật không nhiễm đời
Lìa duyên sinh tử
"Duyên" là phiền não
Khéo dứt giống lậu
Lìa nhân sinh tử
Nhân, là hành nghiệp
Phi tưởng cùng tận
Của ba cõi kia
Gọi là Hữu đảnh
Phật dứt giống đó
Dưới tức quên lời
Qua dòng sinh tử
Lìa quả sinh tử"
Sau đây, trong phần dùng đàn độ để nguyện cầu, trước là nói sinh ra đời làm người rất khó. Nêu điều này đã chứng tỏ rằng, trong cái khó được thân mà khởi hạnh đàn, chỉ nên cầu Phật, không nên cầu điều gì khác, kia nói có gì là khó. Như văn dưới đây nói: "Bỏ thân người rồi lại sinh làm người, ít như đất dính trong móng tay.
"Gặp Phật ra đời v.v..." trở xuống là nói rất khó gặp Phật. Trước pháp sau dụ, nêu thí dụ này để chứng tỏ rằng, khó gặp Phật mà thành tựu hạnh đàn, thì chỉ nên cầu Phật, không nên cầu ai khác: "Nay, tôi dâng cúng thực phẩm, nguyện báo Vô thượng. Chính là nguyện cầu Phật, cầu cho trước không nhiễm, cho đến lội hẳn qua dòng sinh tử. Đức Phật được gọi là quả báo Vô thượng. Vì cầu mong được quả báo này, nên được độ người, trời v.v... sinh tử Trở xuống là không cầu quả người, trời tất cả kiết sử phiền não đều phá bỏ không còn bền chắc, phá nhân trời người, thực hành bố thí để cầu quả Phật, cho nên có khả năng phá bỏ. Ta ở đây trở xuống là lìa quả trời, người. Nay tôi ở đây không cầu người trời, chưa được không cầu, nghĩa là nay, đối với việc cúng Phật mày đã thành tựu chỗ hạnh đàn, không mong cầu được thân người, trời ở vị lai. Dù cho được, tâm cũng không ưa thích, đã được cũng không nhận.
Trên đây, năm bài kệ đã vui mừng đối tượng mừng vui của mình. Sau đây, sẽ nói về vui mừng, trong đó, đầu tiên là pháp. Kế là dụ, sau hợp, dưới kết rất dễ hiểu.
Trên đây là vui mừng ở trước. Dưới đây, sẽ thỉnh sau. Thuật lại bốn bài kệ đã khuyên đại chúng ở trước, tức là thỉnh. Một bài kệ đầu trong tám bài kệ dưới, là thuật lại ý bài kệ thứ nhất của đại chúng ở trước, nói đại chúng suy tôn Thuần-đà làm chủ thỉnh rồi. Kế có hai bài kệ thuật lại ý bài kệ thứ hai của đại chúng ở trước, gọi chính là thỉnh.
Kế là, có ba bài kệ nói lại ý bài kệ thứ ba của đại chúng, bày tỏ về mục đích thỉnh là vì thỉnh Phật trụ lại đời, thân, miệng làm lợi ích cho chúng sinh, đây cũng nói về bậc Thánh ở lại sẽ có ích. Dưới có hai bài kệ thuật lại ý bài kệ thứ tư của đại chúng, nói đại chúng có khổ, đây cũng chính là chứng tỏ cách Thánh đã xa, sẽ có tổn hại. Y theo bài kệ đầu: "Ta được hiện báo, là chỗ hơn hết", thuật lại trong bài kệ trên: "Dù ông sinh trong loài người, đã vượt trên sáu tầng trời cõi Dục." Do Phật nhận cúng, được vì đại chúng, làm Thượng thủ pháp nhiếp, gọi là được chỗ trên hết của hiện báo.
"Đế-thích, Phạm Thiên v.v... đều đến cúng dường ta", là thuật lại câu: "Ta và tất cả, nay cúi đầu thỉnh" trong bài kệ trên.
Trong hai bài kệ kế là, đầu tiên là đến tiếng lớn lên rằng: "Không có đấng Điều ngự", là nói "Tôn quý trong loài người" trong bài kệ trên.
"Nay, sẽ Niết-bàn", là nói về khổ thương xót của chúng, tất cả thế gian đều sinh khổ não, vì biết Đức Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn. Nói về nỗi khổ tâm của chúng, nói lớn lên rằng: "Đời không có đấng Điều ngự!" là nói chúng buộc miệng oán trách: "Phật nhập Niết-bàn, gọi là không có Điều ngự, chẳng lẽ Phật ruồng bỏ chúng sinh, lẽ ra nên xem như con."
Thuật lại trong bài kệ trên: "Ông nên thương xót tôi, hãy mau chóng thỉnh Phật, vì chúng chính thức thỉnh."
Kế là "Như lai ở trong Tăng, thuật lại trong kệ trên, trụ lâu lại thế gian, lợi ích vô lượng chúng", là nói về lợi ích trụ thân. Tăng vẫn là vô lượng chúng ở trước.
Giảng nói pháp vô thượng", là thuật lại: "Nói người trí đã khen, cam lộ vô thượng" trong bài kệ trước là nói lợi ích trụ ở miệng. Như ngồi trong chỗ yên định của núi Tu-di, biển cả, để nói rõ lợi ích ở trong tăng của Như lai ở trước. Vật báu của Tu-di hình thành, ánh sáng phát ra biển cả. Các Đức của Phật thành tựu, phát sáng soi tỏ đại chúng.
"Trí Phật có công năng v.v... trở xuống, là chứng minh rõ về lợi ích của pháp vô thượng đã giảng nói ở trước. Trí Phật có năng lực cắt đứt vô minh như ngã v.v..., diệt trừ địa vô minh, như hư không nổi lên áng mây trong mát, dụ để làm rõ. Đức Phật như hư không, nói là như nổi lên áng mây, do dứt vô minh, bốn trụ chẳng sinh, giống như mặt trời mọc, phá tan mây đen, ánh sáng soi khắp, dụ để làm rõ. Dứt trừ bốn trụ, do diệt vô minh, nên như mặt trời xuất hiện. Phá tan mây che, ánh sáng soi chiếu, đây chính là gốc, ngọn hiển bày lẫn nhau.
Trong hai bài kệ dưới là kệ đầu nói lại việc trong kệ thứ tư ở trên: "Nếu ông không thỉnh, mạng ta không toàn." "Các chúng sinh này khóc than đến sưng cả mặt", nói lên nỗi khổ thương xót, thân mạng không an toàn, "Đều bị nước khổ sinh tử nhận chìm", là nói đã chìm trong sinh tử, thì tuệ mạng không bảo toàn.
Bài kệ sau nói lại ở trên: "Cho nên, phải thấy vì chúng mà Thuần-đà thưa thỉnh Đấng Điều Ngự Sư. "Vì cho nên", nghĩa vì chúng khóc than, nên phải nổi trôi trong dòng sinh tử.
"Nên làm cho niềm tin thêm lớn": Đối với sự khóc than ở trước, để thỉnh Phật trụ lại đời. Chúng cho rằng, Đức Phật diệt độ cho nên khóc than, kể lể: "Phật nên trụ lâu để làm cho niềm tin thường của họ được kéo dài. "Vì dứt sinh tử", nghĩa là đối với nước khổ sinh tử ở trước, chúng đã bị trôi nổi, xin Đức Phật dứt trừ cho.
"Trụ lâu trên thế gian" là nói chung để kết thỉnh. Sau đây, là Phật đáp:
Văn lại có hai:
1. Thuật lại những sự vui mừng ở trước của chúng.
2. "Chúng không nên thỉnh v.v... trở xuống, là trái với thỉnh sau." Trong phần trước, trước là nói lại năm việc khó đã thành. "Nay ông đã v.v... trở xuống, là nói lại lời khuyên khiến chúng vui mừng."
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Đúng thế, đúng thế! Như lời ông nói", là thuật chung lời Thuần-đà nói.
"Phật ra đời v.v..." trở xuống là thuật riêng lời Thuần-đà nói, là có năm việc khó ở trên. Nay, thuật lại ba. Thân người nghe pháp, lược qua không nêu, trong đó trước nói về Như lai khó xuất hiện. Sau đây sẽ y theo Đức Phật này để nói về sự khó được gặp Phật, phát sinh niềm tin v.v..., dưới là khuyên chúng hãy vui mừng, trong đó, đầu tiên Phật nói: "Chớ nên quá sầu khổ, khuyên tâm sầu khổ hãy nên hăng hái v.v...", là Phật bảo đại chúng hãy sinh tâm vui mừng, vì được gặp Như lai, cúng dường v.v... sau cùng là việc khó sau nêu trên thành vui mừng ở trước.
Sau đây là trái với thỉnh Phật trụ lại, văn chia làm hai:
1. Nói về hóa thân của Như lai, tất nhiên phải nhập diệt, chúng không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian.
2. Từ "Lìa dục, khéo suy nghĩ v.v..." trở xuống là nói về chân thường tồn tại, không nên thỉnh Phật trụ lại.
Trước mở bày Ứng thân, sau mở bày chân thân.
Trong phần trước có hai:
1. Chính là trái với sự thỉnh Phật trụ lại, không nên thỉnh Phật trụ lâu trên thế gian.
2. "Nay ông xem v.v..." trở xuống là nói hóa thân phải nhập diệt, trở thành không ứng thân ở trước, trong đó trước là nói Ứng thân phải nhập diệt, nói lên thỉnh không ứng, chính vì Thuần-đà mà Phật nói kệ. Văn của chín bài kệ rưỡi ở dưới, là nói có người không ưa thích, nên trở thành thỉnh không ứng.
Trong phần trước, đầu tiên, Phật nói: "Ông quán cảnh Phật đều vô thường", là nói ứng với sự vô thường của cảnh giới. Giới hạn của ứng thân được gọi là cảnh giới Phật. Vì tùy theo hóa thân thị hiện nhập diệt, nên nói là vô thường. Sự kiện này mới là Như lai được đại Niết-bàn, không bỏ thường và vô thường của thế gian.
"Tánh tướng các hành pháp cũng giống như vậy", nghĩa là lấy Thánh so với phàm, các pháp năm ấm thường dời đổi, gọi là "Hành". Vì đồng với Phật vô thường nói là "Như vậy". Chánh ứng, trước nói về các hành pháp vô thường, sau là so sánh với Phật. Nay, vì sao ở đây lại nói là "Trước nói cảnh giới của Chư Phật vô thường, sau so sánh với các hành?"
Giải thích: Vì lấy mặt trái của nghĩa khác nhau: Nếu muốn biết Đức Phật là hữu vi, vô thường, thì nêu "hành" để so sánh. Nếu muốn cho người biết "hành" là vô thường, thì hãy nêu Phật để so sánh. Tuy nhiên, ý của hóa thân nay, làm cho chúng sinh do Đức Phật Vô thường, mà biết được "hành" của hữu vi là vô thường đáng nhàm chán. Cho nên trước nêu Phật, sau so sánh với các hành.
Sau đây là đoạn hai, nói có người không ưa thích, nên thành thỉnh mà không ứng. Vì Thuần-đà nói: "Nhà dịch Kinh nêu chung, sau đây, chính là nói rõ, trong đó, gồm có văn của chín bài kệ rưỡi. Chín bài kệ trước, nói rộng về hữu vi có nhiều lỗi lầm. Nửa bài kệ sau cuối là kết thúc điều mình không ưa thích.
Trong chín bài kệ trước, là nói pháp hữu vị có năm lỗi vô thường. Ba bài kệ rưỡi đầu, nói về vô thường của pháp hữu vi kia. Một bài kệ kế là nói về khổ. Nửa bài kệ kế là nói về "không". Hai bài kệ rưỡi tiếp theo là, nói về "vô ngã" của pháp hữu vi. Một bài kệ rưỡi dưới, là nói về sự "Bất tịnh" của pháp hữu vi.
"Không" và "Vô ngã" có gì khác nhau không?
"Không" là "Pháp không", còn "Vô ngã" là chúng sinh chẳng có "Ngã". Trong phần đầu, giả định y cứ ở sinh già, bệnh, chết để nói về vô thường, bài kệ đầu nói pháp sanh ấy vô thường tất cả pháp sinh của thế gian đều trở về với cái chết là nói vô thường rộng khắp. Sự sống lâu dù vô lượng, nhưng rồi cũng cùng tận, là nói vô thường quyết định, vì sinh vô thường, nên đều sẽ phải chết.
Kế là, có ba câu nói về già vô thường, hễ có hưng thịnh, thì đều phải có suy đồi, có hội hợp, thì phải có ly tan. Thông thường, nêu việc đời để so sánh với thân phải già, tuổi trẻ không dừng, chính là nói về thể của già. Một câu "Sắc thịnh vượng bị bệnh xâm chiếm, là nói về bệnh.
Một bài kệ rưỡi ở dưới là nói về chết vô thường. Mạng bị chết nuốt, ngay nơi tướng để nói về cái chết. "Chẳng có pháp nào là thường v.v..." trở xuống là nêu pháp giống nhau để làm rõ cái chết. "Không có pháp nào thường, là nêu pháp để so sánh: Với thế lực tự tại của các vua là vô song (không hai), nhưng tất cả đều không tránh khỏi sự dời đổi, là nêu con người để so sánh. Về tuổi thọ cũng giống như vậy, ước định so sánh để làm rõ cái chết.
Y theo phần nói về khổ, đầu tiên, có nửa bài kệ, nói về nỗi khổ của thô kia. Nói các khổ, nghĩa là nỗi khổ nặng nề kia bên trong có những nỗi khổ sinh, già, bệnh, chết v.v..., bên ngoài, có các khổ gây ép ngặt v.v..., gọi là "Các khổ". Không có bờ mé, không có thôi dứt là khổ rất sâu. Quá khứ không có bờ mé, vị lai không có thôi dứt.
Nửa bài kệ dưới là nói về nỗi khổ nhỏ nhiệm của sinh, diệt kia. Ba cõi vô thường, nói về lý do khổ. Các "Hữu" không có vui, chính là nói về khổ ấy. Vì ba cõi đều vô thường, nên trong "Ba hữu" đều không có vui.
Y theo phần nói về "Không", tánh tướng của "Hữu", "đạo", tất cả đều không v.v... Nghĩa là nhân duyên của ba hữu, sáu đường là sự nhóm họp không thật, tìm kiếm tánh tướng của chúng tất cả đều là không. trong giả không có, tánh gọi là tánh không. duyên giả cũng không gọi là tướng không.
Trong phần nói về vô ngã, hai bài kệ đầu chính là nói về vô ngã. Sau, có nửa bài kệ, y theo trí để chỉ rõ lỗi lầm. Trong hai bài kệ trước, một bài kệ rưỡi đầu là y theo quả sinh tử để nói là vô ngã. Một bài kệ rưỡi sau, y theo nhân sinh tử để nói vô ngã.
Trong nửa bài kệ trước chính là giải thích. Nửa bài kệ sau là kết luận vô ngã.
Trong phần chính nói ở trước, có thể hư hoại, lưu động. Y theo nghĩa vô thường để làm sáng tỏ vô ngã. Thường có âu lo v.v..., là y theo lỗi lầm của khổ đó, để làm rõ vô ngã. Khổ tâm lo lắng, e là bằng với khổ thân. Y theo khổ thân, e sợ các điều xấu xa đều là nỗi khổ bên ngoài kia. Già, bệnh, chết v.v... là khổ bên trong thân. Cũng có thể lo, nghĩa là khổ của tâm mình. Bệnh hoạn là khổ của thân. Hai khổ này đều nêu, nên gọi là vân vân. E sợ các điều xấu, ác sẽ phát ra nỗi lo âu. Già, bệnh, chết v.v... sẽ gây ra những bệnh tật kia.
Trên đây, chính là giải thích. Kế sau đây là kết. "Các vô biên này" là tổng kết, phần nhỏ nhiệm của các lỗi trước rất rộng nhiều, nên nói là vô biên. "Dễ hư hoại, kẻ thù xâm chiếm" là kết riêng. "Dễ hư hoại" là kết thúc "Có thể hư hoại, lưu động" ở trước. "Kẻ thù xâm chiếm" là kết Thường có âu lo v.v..." ở trước.
Trên đây là y theo quả. Sau đây, sẽ nói theo nhân: Bị phiền não ràng buộc, dùng pháp thuyết để giải thích. Như con tằm ở trong kén, so sánh để thấy rõ phiền não. Chỉ là vọng tưởng, phiền não ràng buộc, nêu là thể của vô ngã. Trên đây là chính nói, đâu có người trí nào mà ưa thích điều này. Y theo trí để hiển bày lỗi. Sau đây, là nói về bất tịnh:
Thân này do khổ nhóm hợp, tất cả đều bất tịnh, thể của quả là bất tịnh, là căn bản của ách, ràng buộc, ung thư, mụt nhọt, không có lợi ích, vì hạt giống bất tịnh. Ách, là bốn ách, đó là dục, hữu, vô minh và kiến. Phiền não cõi Dục, trừ vô minh, kiến, gọi là ách dục. Tất cả phiền não cõi Sắc, Vô sắc trừ vô minh, kiến, gọi là "Ách hữu". Vô minh của ba cõi, gọi là Ách vô minh. Các kiến của ba cõi, gọi là Ách kiến. Bốn thứ này làm cho chúng sinh bị khổ ách, nên gọi là ách. Như Tạp Tâm giải thích: "Phược, nghĩa là bốn ràng buộc, tên gọi đồng với bốn ách. Mụt, nhọt là lậu. Lậu có ba thứ: Dục, hữu và vô minh lậu. Như ở dưới có giải thích rộng.
Dùng các lậu này để làm căn bản cho thân, nên không có ý nghĩa, lợi ích. Trên, đến thân trời đều cũng giống như vậy, nói phạm vi của chúng. Dưới, đến địa ngục, trên đến thân trời, đều là khổ tập. Vì căn bản không lợi ích, nên thuộc về bất tịnh.
Trên đây đã nói rộng về năm lỗi chẳng phải thường. Vì các dục đều vô thường, nên ta không tham, là tổng kết lìa bỏ.
Trên nói có năm lỗi, do nghĩa gì mà nói nói nghiêng về vô thường?
Vì vô thường đứng đầu, nên phải nói nghiêng về nó. Cũng có thể làm nghĩa lẫn nhau để xét cho rõ, vả nói là vô thường.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đã nói rằng, phải nhập diệt, không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian.
Sau đây là đoạn hai, sẽ nói về "Chân" thường tồn tại, không nên thỉnh Phật trụ lại, trong đó, văn kệ nhiều ít không nhất định. Gồm có ba phần:
1. Dựa vào bản kinh này chỉ có hai bài kệ.
2. Dựa vào bản kinh này có năm bài kệ rưỡi.
3. Dựa vào bản kinh này có sáu hàng kệ. Sáu hàng là đúng. Nay, dựa theo giải thích, trong đó chia làm hai:
1. Ba bài kệ rưỡi ở trước, nói Chân thân là thường trụ, đủ nói lên lý do chúng không nên thỉnh Phật trụ lại. Hai bài kệ rưỡi sau chính là khuyên không nên. Trong phần nói về Ứng thân ở trước, trước khuyên không nên, sau phát ra lý do không nên thỉnh Phật trụ lại thế gian.
Nay, ở đây, trước là nói về lý do không nên. Sau, khuyên không nên, là mặt trái của văn. Ba bài kệ rưỡi ở trước, nói trong Chân thường, được chia làm bốn:
a. Dứt tập, chứng chân.
b. "Rốt ráo đoạn" trở xuống là dứt khổ được diệt.
"Ta đã lội qua hữu v.v..." trở xuống, là nói Phật đã dứt khổ, được diệt, nên vui.
"Do duyên này v.v... trở xuống, là nói Đức Phật vì dứt tập, chứng diệt nên thường.
Trong phần đầu, lìa dục, nói các lỗi của dứt tập đều dứt. Lỗi của dục sâu nặng, là gốc của thọ sinh, đứng đầu ba độc, nên nói riêng là lìa.
"Khéo suy nghĩ v.v..." trở xuống, là nói về chứng chân. Khéo suy nghĩ là phương tiện hướng về chứng mà chứng được chân thật, chính là nói về nhập chứng. Như lai tạng tánh là chân thật nói bỏ vọng, hợp chân gọi là chứng.
Rốt ráo dứt "Hữu" trong đoạn hai, là nói Đức Phật kia đã dứt trừ khổ, nay sẽ Niết-bàn, nói Đức Phật đã chứng được diệt, thật ra Ngài đã tự chứng từ lâu. Đối với hiện nay, thôi hóa độ, mới trở về "Thật" kia, nên nói "Hôm nay" sẽ Niết-bàn.
Trong đoạn ba, Phật nói: "Ta đã lội qua bờ, là nhắc lại việc dứt "Hữu" ở trước. "Ta đã vượt qua khổ", là nhắc lại Niết-bàn ở trước, vì quả Niết-bàn vượt ngoài các khổ, nên nói là qua khổ
Sau đây, sẽ y theo nghĩa này, để nói về niềm vui của
Phật, vì Ngài đã thoát ra các khổ, nên mãi cho đến nay, ngài vẫn thuần thọ hưởng niềm vui vô thượng.
Trong đoạn thứ tư, do "Duyên" này" nghĩa là dùng nhân duyên lìa dục trong đoạn đầu để chứng minh rằng, không có bên hý luận, cũng như khéo suy nghĩ chứng thật trong đoạn đầu. Tâm vọng phân biệt, gọi là hý luận. Được thật sự dứt bỏ, nên gọi là chứng bên không có hý luận.
Sau đây, sẽ y theo nghĩa này để nói Phật thường trụ, dứt hẳn mọi buộc ràng, nay nhập Niết-bàn, là đã lìa nhân vô thường, do lìa dục ở trước, nên đã cắt đứt ràng buộc.
Triền có mười thứ: Vô tàm, vô quý, thùy hối, san, tật, điệu, miên, phẫn, phú, đó là mười. Nói chung là các kiết, ở đây gọi triền là ràng buộc. "Phược" như trên đã nói.
"Ta không bị già, bệnh, sống lâu không cùng, đã lìa quả vô thường, do ta đã chứng "Thật" ở trước, nên mạng không hết.
Trên đây là thứ nhất, nói về Phật thường trụ.
Sau đây là đoạn hai, sẽ bày tỏ việc không nên thỉnh, trong đó chia làm hai:
1. Một bài kệ rưỡi đầu, đối với các triền, ràng buộc v.v..., mà Phật đã dứt hẳn ở trước, nên khuyên chúng đừng lo nghĩ. Dưới, có một bài kệ, đối với ở trước và hiện nay, là Đức Phật chỉ thuần thọ hưởng niềm vui vô thượng, nên ngài khuyên chúng đừng kêu khóc.
Trong phần trước, đầu tiên, Phật nói: "Nay ta Niết-bàn, giống như lửa tắt!" Đối với "Dứt hẳn triền phược" trong văn trước nay nhập Niết-bàn, nói về các lỗi của mình rốt ráo dứt hẳn.
"Thuần-đà không nên suy nghĩ Như lai: Đối với "Ta không có già, bệnh, chết v.v...", nên khuyên Thuần-đà chớ lo nghĩ. Chớ lo cho Như lai bị các lỗi già, bệnh, chết. Phải quán Như lai như núi Tu-di. Đối với "Tuổi thọ không cùng tận" trong văn trước, Phật bảo Thuần-đà hãy quán sát cho đúng. Quán sát cho đúng Như lai là thường trụ, không lay động như núi Tu-di.
Trong phần sau, trước tiên Đức Phật nói: "Ta nhập Niết-bàn, được vui bậc nhất" là nhắc lại: "Cho nên, nay ta được vui ròng rặt vô thượng" trong văn trước.
"Chư Phật như thế, không nên than khóc", kết thúc Phật khuyên hãy thôi thương xót buồn bã!"
Trên đây là thứ nhất, Phật đối với Thuần-đà, khai thị Chân thân, giải thích Ứng thân.
Sau đây, Thuần-đà đối với Văn-thù, giải thích rộng về chân ở trước. Lại nữa, trước đây đối với Thuần-đà, Đức Phật dùng lý để dạy bảo cho đúng, sinh ra hiểu biết thường của mình.
Sau đây là Bồ-tát Văn-thù thử ngược lại Thuần-đà, xem ông có am hiểu vững chắc về nghĩa thường của Phật hay không?
Nhưng, sau đây Thuần-đà đối với Văn-thù, lại chứng minh rõ ràng về "Chân" trong hai đoạn trước. Trước là đối với đoạn sau. Chỉ bày rộng về Chân bất diệt của Như lai. "Như lai kế sau, tự sẽ giảng rộng v.v... trở xuống, đã chỉ bày rộng về "Chân" chẳng có đối đãi của Như lai. Nhân lời nói tiện lợi, nên từ sau hướng tới trước, thứ lớp chỉ bày rõ ràng:
Trong phần đầu có bốn:
1. Thuần-đà nhân lời thưa thỉnh làm lý do.
2. Văn-thù thử ngược lại.
3. Thuần-đà nhân so sánh, tự bày tỏ sự hiểu biết của mình.
4. Văn-thù thuật lại lời Phật khen, Thuần-đà hiểu rõ nghĩa thường một cách vững chắc.
Trong phần đầu có ba:
1. Thuần-đà thuật lại lời trước đây của Phật, nhằm nói lên trí hèn mọn của mình, vì không thể suy nghĩ nghĩa sâu sắc Niết-bàn Phật, nên rất cần Đức Phật trụ lại thế gian.
2. "Nay, tôi và v.v... trở xuống là nói về điều mình đã hiểu. Tham dự cao và thượng lưu để nghe Phật nói pháp và có khả năng nhận lãnh, đã lưu Phật trụ lại thế gian.
3. "Ví như đói v.v... trở xuống, là xin Phật thương xót sâu xa, sẽ vì mình mà trụ lại.
Trong phần đầu, thật như lời dạy bảo của bậc Thánh như thế, thuật chung lời Phật dạy. Dựa vào bổn kinh cũ, hướng về lời Phật khuyên Thuần-đà trong bài kệ trước, không nên suy nghĩ, đo lường nghĩa của Như lai, nên nay thuật lại. Nay, tôi trí kém, nhỏ nhen, đâu có khả năng suy nghĩ, suy lường nghĩa sâu của Như lai, nên chỉ nói riêng về lời Phật, vì trí tôi nhỏ nhen, không thể suy nghĩ suy lường Niết-bàn của Như lai, nên cần Phật trụ lại.
Trong lần thỉnh Phật thứ hai, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là kết.
Trong pháp, nói bản thân mình có hiểu biết về nghĩa Thường, nên ngang bằng với Pháp vương tử Văn-thù. Trong dụ, trẻ nhỏ mới xuất gia, tu đạo chưa lâu, gọi là trẻ nhỏ. Kiến giải về thường mới sinh, gọi là mới xuất gia. Chưa có hạnh thường, gọi là chưa thọ giới cụ túc. Đồng với sự hiểu biết về Thường, gọi là thuộc về số tăng. Trong phần hợp, đầu tiên là nói: "Ta cũng giống như vậy" chính là hợp với dụ trước, do năng lực thần thông của Phật, Bồ-tát, nên ta được ở trong số Bồ-tát như vậy, nghĩa là Thuần-đà nói về lý do mình ở trong số Bồ-tát, do thần lực Phật hiện tại và năng lực giáo hóa của Bồ-tát ở quá khứ, đã sinh cho ta hiểu biết về nghĩa Thường, nên ở trong số đại Bồ-tát như vậy.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết, là ta có hiểu biết đồng với Bồ-tát ở trên, vì có khả năng thọ lãnh pháp, nên mới thỉnh Phật trụ lại.
"Như đói không có nhả ra" trong lần thỉnh thứ ba, là lập dụ để nói về Phật. Đức Phật thường suy nghĩ hóa độ chúng sinh, như người đói ở thế gian thường kêu than: "Xin đừng bỏ tôi!", gọi là không đổi thay lời nói.
"Nguyện cho v.v..." trở xuống là y cứ dụ để cầu Phật, nguyện như người đói, "Xin đừng bỏ chúng con mà nhập Niết-bàn!
Đoạn hai, trong phần Văn-thù thử ngược lại, trước quở trách, sau dạy bảo. Đầu tiên, Bồ-tát Văn-thù bảo: "Nay, ông không nên nói những lời như vậy", là lời quở trách. Nói Phật là vô thường, vì thế không nên thỉnh. "Nay, ông hãy quán sát v.v..." trở xuống là lời dạy bảo, bảo quán sát Như lai là hữu vi, vô thường, hãy chấm dứt ý nghĩ thỉnh Phật trụ lại của ông đi! "Nay ông phải quán tánh tướng của các hành", chính là bảo phải khởi quán. Trong pháp Tiểu thừa, Phật là hữu vi thuộc về các hành. Nếu quán tánh tướng các hành là vô thường, thì tự nhiên biết được Phật cuối cùng sẽ tận diệt. Do đó, ông không nên thỉnh Phật trụ lại đời. Quán như vậy là thực hành đầy đủ "Tam-muội Không", là nêu ích lợi để khuyên Thuần-đà: Nhờ quán vô thường, nên biết pháp là vô tánh, nên có đủ "Không định". Muốn cầu chánh pháp, ông nên học như vậy" là lời kết luận, khuyên tu tập. Muốn cầu "Pháp không", thì phải học như vậy, quán tánh tướng hữu vi là vô thường."
Đoạn ba, trong phần Thuần-đà trình bày kiến giải của mình, đầu tiên là được lời Văn-thù ở trước đã bảo: "Dùng lý để quán Phật chẳng phải hữu vi."
"Dụ tuổi thọ ngắn v.v..." trở xuống, là Thuần-đà đem điều mình biết để dạy bảo và quở trách Văn-thù:
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Đức Như lai chính là Đấng Tối Tôn, Tối Thắng trong trời, người, trực tiếp lập ra đạo lý v.v... trở xuống, là y theo lý này để suy nghiệm về Như lai, nói chẳng phải hữu vi, trong đó, trước là nói đồng với hữu vi thì không phải tôn, không phải thắng. "Thí dụ lực sĩ v.v..." trở xuống, nói là tôn quý, hơn hết, tất nhiên là đả phá hữu vi.
Trong phần trước có hai:
1. Chính là nói Như lai là hữu vi, chẳng phải tôn quý, chẳng phải tối thắng.
2. Lại nữa, Văn-thù là như thuyết v.v... trở xuống, là xem xét lại Văn-thù.
Trong phần trước có bốn:
1. Như lai như thế chẳng lẽ là hành: Xét lại lời nói của Văn-thù.
2. "Nếu là hành v.v..." trở xuống, để bảo cho biết lỗi lầm, nói Như lai đồng với các hành, thì sẽ có lỗi sinh diệt, trôi lăn.
3. "Ta nghe v.v..." trở xuống, là nói có lỗi sinh diệt, trôi lăn, tức chẳng phải là đấng tôn quý, tối thắng.
4. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết luận, quở trách Văn-thù.
Y theo đoạn đầu, "Đức Như lai như thế" là nhắc lại lời trên, cái gọi là Như lai, đấng tối thắng trong người, trời như thế, chẳng lẽ là "Hành" ư? Là xét lại lời Vănthù đã nói. Vì nghi ngờ không quyết định, nên nói là chẳng lẽ?
Trong đoạn hai, nếu là "Hành" thì nhắc lại lập luận của Văn-thù. Sau đây, sẽ y cứ làm rõ lỗi, trong đó, trước y theo Phật để nói lỗi, tất cả hành, v.v... trở xuống là so sánh để làm rõ lỗi, trong phần trước đầu tiên là nói pháp sinh diệt, pháp nói về lỗi có sinh diệt. Ví như bọt nước vừa nổi lên, liền tan mất, là dụ thuyết để nói về lỗi có sinh diệt.
"Trôi lăn qua lại" là pháp thuyết nhằm nói về lỗi có trôi lăn. "Giống như bánh xe", lập dụ để chỉ rõ lỗi. Sau đây, so sánh để được sáng tỏ, tất cả các hành cũng giống như vậy, nghĩa là các hành sinh tử cũng đều có hai thứ lỗi này. Các hành so sánh như vậy, Phật là hữu vi, thì đâu riêng gì không như vậy?
Trong đoạn ba, trước y theo sinh diệt, để nói Phật không được là Đấng Tôn Quý, Tối Thắng! Như chùm bọt nước trở xuống là y theo sự trôi lăn ở trước mà nói Phật không được gọi là đấng Tôn quý, Tối thắng.
Trong phần trước, "Ta nghe nói tuổi thọ của chư thiên rất dài" nêu phàm để suy ra Thánh, cũng được gọi là phân biệt phàm hơn Thánh. Như bốn vị thiên vương thọ năm trăm tuổi, cho đến Phi Tưởng thọ hưởng tám muôn kiếp, gọi là rất dài. Vậy, vì sao Đức Thế Tôn là trời trong loài trời mà tuổi thọ lại không đầy một trăm năm? Là nêu phàm để trách Thánh, cũng gọi là chứng tỏ Thánh kém phàm. Đức Thế Tôn đã là trời trong loài trời, thì tuổi thọ đáng lẽ phải vô lượng, sao tuổi thọ lại ngắn ngủi không đầy một trăm năm? Vì không đầy một trăm tuổi nên Phật không được gọi là trời trong loài trời rất tôn quý, rất hơn hết? Sau đây, sẽ y theo sự trôi lăn để nói Đức Phật chẳng phải Đấng Chí Tôn.
Trước là lập dụ: Như người trưởng làng, dụ cho Phật được làm Hóa chủ cõi Tam thiên, có thế lực tự tại, có năng lực chế ngự người khác, dụ cho Phật tự tại, có khả năng điều phục chúng sinh. "Về sau, Ngài bị người nghèo hèn kia khinh dễ" dụ cho Đức Phật sẽ trôi lăn, bị con người khinh thường. Bị người khác sai khiến, trái lại được người khác hóa độ.
"Sở dĩ v.v..." trở xuống, là giải thích. Sau đây, là hợp để làm rõ pháp.
"Đức Thế Tôn cũng giống như vậy", hợp với thế lực tự tại của vị trưởng làng, có khả năng chế phục người khác, đồng với các hành, hợp với phước tần không được gọi là trời trong loài trời. Hợp với sự nghèo hèn kia bị người khinh dễ.
"Vì sao v.v..." trở xuống, là giải thích, tức là hợp với "Vì mất thế lực ở trên.
Trong đoạn thứ tư là kết: Cho nên Văn-thù chớ xem Như lai đồng với "Các hành", vì đồng với các hành, tức là có lỗi sinh diệt trôi lăn, sẽ không được gọi là trời trong loài trời. Ngài chớ quán Như lai đồng với các hành hữu vi, chẳng phải tôn quý, chẳng phải hơn hết.
Sau đây là đoạn hai, xét lại Văn-thù. Cao nhân Vănthù mừng vì có kiến thức khác lạ, nên phải xét kiến thức đó.
"Lại nữa, Văn-thù biết mà nói hay không biết mà nói?" Xét định lời nói của Văn-thù: Vì biết Phật chắc chắn là hữu vi, nên nói đồng với các hành, hay sẽ không biết, tâm mình mờ tối nên nói giả dối?
"Dù cho v.v..." trở xuống, là nếu vì chỉ bày lỗi lầm, đặt ra biết Như lai đồng với các hành, với quả báo tuổi thọ ngắn ngủi, không được gọi là trời trong loài trời. Trôi lăn không nhất định, như người trưởng làng, không được gọi là Pháp vương tự tại.
Trên đây, nói Phật đồng với hữu vi, chẳng phải Đấng Tôn Quý, Tối Thắng.
Sau đây là đoạn hai, nói Như lai là Đấng Tôn Quý, Tối Thắng, hẳn phá hữu vi, phá lìa bốn ma, hữu vi sinh tử, mới được gọi là đấng tôn quý duy nhất của ba cõi, trong đó, trước là dụ, kế là hợp, sau là kết. Trong dụ có ba:
1. Dụ Phật phá hữu vi.
2. "Lực sĩ như thế, được vua sủng ái v.v..." trở xuống là dụ cho đấng Tôn quý chung của thế gian.
3. "Cho nên v.v..." trở xuống là dụ cho Phật là vô vi, trong phần đầu, như vua có lực sĩ, là chúng sinh có năng lực chiêu cảm bậc Thánh kia, vì được theo hầu Phật, nên gọi là vua. Phật có năng lực dẹp tan bốn ma, kẻ thủ mạnh mẽ, gọi là lực sĩ. Năng lực tương đương với ngàn người, là kết thúc năng lực cao quý của Phật.
Trong đoạn hai, "Lực sĩ như vậy" là nhắc lại Phật, Như lai Được nhà vua rất sủng ái, nhớ nghĩ, kính mến làm Thế Tôn, ban riêng cho chức tước v.v..., đặc biệt là thêm kính trọng, nuôi nấng.
Trong đoạn ba, "Cho nên được gọi là bằng ngàn người", hỏi trước khởi sau là người này chưa hẳn chống lại ngàn người, nghĩa là phân biệt trước khởi sau, chưa hẳn chỉ dùng năng lực để phá chướng, tương đương chống lại các thứ kỹ năng của ngàn người. "Khả năng chiến thắng ngàn người" đầy đủ các thứ công đức vô vi, vượt hơn ngàn người.
"Nên gọi" là kết, Như lai v.v... trở xuống là hợp: Dựa vào ba đoạn trước, thứ lớp tự hợp.
Trong đoạn đầu của hợp, "Như lai cũng vậy" là kết hợp với lực sĩ ở trước.
"Hàng phục phiền não" v.v..., là hợp với thể lực, tương đương với ngàn người. "Lại không có hàng phục: Hàng phục ma phiền não, dứt nhân sinh tử. Hàng phục ma trời, dẹp bỏ "Duyên" sinh tử. Hàng phục ma năm ấm và ma chết lìa quả sinh tử. Do hàng phục bốn ma này, nên chẳng phải hữu vi. Vì thế, Như lai gọi là Đấng tôn quý của ba cõi.
Hợp với đoạn hai, được vua nhớ nghĩ, sủng ái, đặc cách ban cho chức tước, bổng lộc.
"Như Thái tử kia v.v..." trở xuống, là nêu dụ, để trùm nhiếp, trùm riêng. Đoạn đầu, "Do duyên này v.v... trở xuống, là kết hợp với đoạn ba. "Do duyên này", nên là nhắc lại trước, làm rõ sau. Vì Đức Phật đã phá tan nhân duyên hữu vi, thành tựu các công đức vô vi, thành tựu các thứ vô lượng công đức chân chính, kết hợp với các thứ kỹ năng hơn ngàn người, ở trên nên được gọi là Như lai, Ứng Chánh Biến Tri. Vì trong hợp dụ ở trước, nên nói tương đương ngàn người.
"Văn-thù không nên nghĩ rằng Như lai đồng với các hành, là kết quở chung."
Trên đây, Thuần-đà đã thọ giáo với Văn-thù, là "Dùng lý để suy ra" rằng, Đức Phật chẳng phải hữu vi.
Sau đây, Thuần-đà đem điều mình biết để dạy bảo, quở trách Văn-thù, trong đó trước là quở:
"Cô gái nghèo v.v..." trở xuống, trong dạy bảo, quở trách, trước là thí dụ. "Như trưởng giả giàu có sinh được đứa con trai" dụ cho phàm chiêu cảm Thánh. Bên trong người chiêu cảm Thánh có căn cơ với Đạo gọi là Trưởng giả giàu có, chiêu cảm bậc Thánh xuất hiện, gọi là sinh được con trai. Thầy tướng đoán xem, thấy đứa con đó có tướng chết yểu, dụ cho ở trước Văn-thù nói Phật là hữu vi. Thầy tướng Văn-thù xem Phật, gọi là đoán, nói nay Phật nhập diệt, gọi là tướng tuổi thọ ngắn ngủi.
"Cha mẹ nghe nói v.v..." trở xuống là dụ cho người đời khinh chê, xem thường. "Dụ cha mẹ nghe nói v.v..." là nói căn cơ chúng sinh cảm về đạo Thánh, nghe nói tuổi thọ của Phật ngắn ngủi, đều không ưa thích. Biết Phật không thể thường lưu truyền pháp, hóa độ, gọi là không gánh vác nối dõi gia tộc, do đó nên không yêu thích.
"Xem Như lai đồng với phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, gọi là xem như cỏ."
"Nói về tuổi thọ v.v... trở xuống, là nói ngoài ra, chúng sinh không có đạo, nghe nói Đức Phật tuổi thọ ngắn ngủi, cũng không kính trọng." Kế là hợp để làm rõ pháp: "Nếu cho rằng Như lai đồng với các hành, thì hợp với "Sinh con trai" có tuổi thọ ngắn ngủi, cũng còn không được thế gian tôn kính, nghĩa là vượt qua hợp, cũng không được Sa-môn v.v... kính trọng.
Pháp chân thật không biến đổi mà Như lai nói cũng không có người thọ. Lại hợp với cha mẹ, không còn ái v.v.... Vì không ái, nên những lời Phật dạy không thọ. "Cho nên Văn-thù không nên nói v.v... trở xuống là tổng kết để quở."
Sau đây, Thuần-đà dùng sự hiểu biết của mình để dạy bảo ngược lại Văn-thù, trong đó có hai thí dụ:
1. "Thí dụ cô gái nghèo", bảo ngược lại Văn-thù, để chứng tỏ Đức Phật là vô vi.
2. "Thí dụ đại nhân", dạy ngược lại Văn-thù; trái với
Phật hữu vi.
Trong phần trước là dụ, kế là khuyên, sau là hợp. Trong dụ có sáu câu:
1. "Thí dụ ở trong cảnh khổ, mong cầu điều lành."
2. Dứt ác của người khác v.v... trở xuống, là dụ cho nương tựa kiến giải của Giáo chủ.
3. "Là nhà khách v.v... trở xuống, là dụ truyền dạy cho xuất gia."
4. "Sản phụ kia chưa v.v... trở xuống, là dụ cho ôm ấp kiến giải hướng về quả.
5. "Đến giữa đường gặp kẻ gian ác v.v... trở xuống, là dụ cho gặp khổ không lùi bước."
6. "Lòng từ nghĩ đến v.v... trở xuống, là dụ cho khen thưởng hiểu biết được quả.
Trong phần đầu của dụ nói, cô gái nghèo dụ cho người tu hành không có đức, gọi là nghèo. Vì có khả năng sinh ra hiểu biết nghĩa Thường, nên gọi là người nữ. Không có cảnh an tâm, gọi là không có nhà ở. Lìa thiện tri thức, gọi là không có người cứu giúp. Phiền não ràng buộc, gọi là thêm khổ bệnh. Không có pháp nào bổ sung cho tâm thần, gọi là đói khát. Hỏi thăm khắp các bạn cùng đi dạo, cầu pháp, xin ăn.
Trong câu thứ hai, tạm dừng chân ở nhà khách (quán trọ) của người khác, sinh một con trai: gọi Phật là người khác. Giáo pháp Đại thừa là Đức Phật nhiếp hóa con người đã được chỗ nghỉ ngơi yên ổn, gọi là nhà khách. Y giáo, gọi là "Chỉ", khởi giải gọi là sinh, cuối cùng vì có khả năng thừa kế, nên gọi là con.
Trong câu thứ ba, chủ của nhà khách này đuổi đi. Đức Phật là chủ nhà, truyền dạy hướng về quả, gọi là đuổi đi. Cũng có thể bảo hãy bỏ giải thích để mong cầu chân thật, gọi là đuổi đi.
Trong câu bốn, sản phụ kia chưa lâu, bèn bồng con đến nước khác, mới sanh không lâu gọi là chưa lâu, ôm ấp hiểu trong tâm gọi là ẵm đứa con này. Tâm hy vọng hướng quả, gọi là "Muốn đến" Bồ-đề Vô thượng, là chỗ ở của Phật, gọi là "Nước khác".
Trong câu thứ năm, lúc tu hành, gọi là giữa đường. Tiếp xúc với cảnh trần, gọi là gặp phải gió, mưa. Khởi điều xấu ác, vời lấy quả khổ, ép ngặt thân mình, gọi là khổ rét mướt tột độ, thêm vào đó, bị bạn ác lấn hiếp, hãm hại pháp lành, gọi là bị trùng độc rút rỉa cắn ăn.
Giữa đường gặp Tiểu thừa, gọi là trải qua sông Hằng, thưởng hiểu biết cầu ra khỏi, gọi là ôm con lội qua sông. Chúng sinh Tiểu thừa ép ngặt lẫn nhau, gọi là trôi nhanh theo dòng nước. Bảo thủ kiến giải không theo danh, không buông bỏ, thậm chí bị Tiểu thừa giết chết. Người mất, đạo bỏ, nên gọi là cả mẹ lẫn con đều chìm, chưa hẳn có hiểu biết này! Đó là giả thiết phần lỗi là lời nói, dù có hiểu biết về nghĩa thường này, cũng phải giữ chắc.
Trong câu sáu, người nữ như thế, sinh lên cõi trời Phạm thiên, dụ cho các Bồ-tát được thưởng công đức hiểu biết, cuối cùng được Bồ-đề.
Trên đây là lập dụ, kế là dạy khuyên, trong đó có hai:
1. Khuyên người ngu, tất cả chớ nói.
2. "Nếu chánh kiến v.v..." trở xuống, là khuyên người trí kia nhất định nói Phật là vô vi.
Trong phần trước, Văn-thù muốn giữ gìn chánh pháp nên không nói là Như lai đồng với các hành. Thuần-đà khuyên Văn-thù chớ nói. Như vậy, vì người ngu, tâm họ chưa thấy pháp, lời nói nhiều lỗi lầm! Cho nên, "Khuyên họ, tất cả đừng nói".
Kế là dạy bảo chớ mê đắm, chỉ nên tự trách, nay tôi ngu si, khuyên bỏ tâm giải, chánh pháp của Như lai không thể suy nghĩ bàn luận, là dạy sinh tín tâm.
"Cho nên v.v..." trở xuống, là kết khuyên chớ nói, vì pháp Như lai không thể suy nghĩ bàn luận, không nên nhất định là hữu vi, vô vi.
Sau đây khuyên người trí nhất định nói là vô vi. Nếu là người có chánh kiến, thì nên nói Như lai chắc chắn là vô vi, vì dùng ý đúng để khuyên.
"Vì sao..." trở xuống là giải thích, trước hỏi, sau giải thích. Do nói vô vi, nên giúp cho người được hiểu biết đúng, khởi tu, thu hướng, gọi là sinh pháp lành, không nói hữu vi, làm cho người từ bỏ sự chê bai, sẽ không đọa vào ba đường ác, gọi là sinh tâm thương xót.
Sau đây, kế là hợp dụ. Trong sáu câu trước, chỉ hợp với hai dụ sau: Như người phụ nữ ở bờ sông, yêu thương, nhớ nghĩ đến con v.v..., là nêu câu năm ở trước. Bồ-tát giữ gìn chánh pháp cũng nên như thế.
"Thà bỏ thân v.v..., là nêu pháp để hợp, vì nói Như lai đồng với vô vi v.v..." trở xuống, là hợp với câu sáu, trong đó có hai:
1. Nói đắc quả.
2. Nói người kia được quả tự nhiên.
Trong phần được quả ở trước, đầu tiên chính là hợp; "Như phụ nữ kia v.v..." trở xuống, để bắt chước theo.
"Vì sao v.v... trở xuống là giải thích."
"Giữ gìn là thế nào? v.v..." trở xuống là giải thích rõ về sự che chở giữ gìn, nghĩa là nói Như lai đồng với vô vi, cái gọi là đồng với Niết-bàn vô vi, cũng đồng với pháp tánh vô vi.
Sau đây là nói về trong tự nhiên, trước là nêu pháp, sau, dùng dụ tấm thiếp lời văn dễ hiểu.
Dưới đây, trong phần bảo Văn-thù che giấu hữu vi, đầu tiên là lập dụ, kế là khuyên, sau là hợp.
Trong dụ có sáu:
1. Thí dụ bỏ phế trong hạnh tu.
2. "Nghỉ nhờ v.v... trở xuống là dụ cho thối lui, dừng lại ở Tiểu thừa."
3. "Nằm ngủ v.v... trở xuống, là dụ cho nghe nói vô thường."
4. "Tức thời sợ hãi v.v... trở xuống là dụ cho sợ nói lạm quá Phật."
5. "Dụ như hổ thẹn v.v... trở xuống, chính là nói dụ cho che giấu Phật.
6. "Sinh lên trời Đao-lợi v.v... trở xuống là thí dụ che giấu Đức Phật đắc quả."
Y theo câu đầu, là khởi sự tu lâu dài, gọi là đi xa. Bỏ trong hạnh tu, gọi là rất mệt mỏi.
Trong câu hai, nghĩa là ở nhà người: Pháp Tiểu thừa là chỗ mà người Tiểu thừa yên nghỉ, gọi là nhà người.
Thối lui ở lại, gọi là dừng nghỉ, tạm dừng gọi là gởi.
Trong câu ba, hiểu nhiều chưa phát ra, gọi là trong lúc nằm ngủ nghe nói về vô thường đốt cháy các thế gian, gọi là ngôi nhà bỗng nhiên lửa lớn bốc cháy. Giáo pháp quyền bỗng nhiên lập bày, nên nói là chết.
"Giác biết lỗi vô thường lạm quá Phật" trong câu bốn, gọi là liền tỉnh ngộ. Buồn lo thân Phật bị vô thường kia. Quyền giáo đã bị che giấu, gọi là tự suy nghĩ. "Hôm nay ta", nghĩa là chắc chắn chết không nghi ngờ. Đây là tự thân dụ đối với thân Phật, vì pháp thân Chư Phật là thể của mình.
Trong câu năm, vì có hổ thẹn, nên áo quàng lấy thân: Đức Phật biểu hiện vô thường, giống như thân xấu xí, hổ thẹn vì Phật vô thường, gọi là có hổ thẹn. Nói Phật chân thường là ẩn giấu vô thường Phật, gọi áo quàng thân, giữ gìn Phật đến chết, tức gọi là qua đời.
Trong câu sáu, sinh lên trời Đao-lợi dụ cho Phật được quả ba mươi hai tướng, đủ tám mươi lần trở lại làm Đại phạm vương dụ cho được tám mươi vẻ đẹp của Như lai, đủ trăm ngàn đời làm Luân vương v.v..., dụ cho được vô lượng công đức của mười tám pháp bất cộng v.v...
Trên đây lập dụ, sau đây là dạy khuyên, trong đó, văn có sáu câu, ba cặp:
1. Tà chánh đối nhau: Người có hổ thẹn, không nên quán Phật đồng với các hành, chính là nói không nên. Tà kiến ngoại đạo có thể nói Như lai đồng với các hành, vì chứng tỏ chúng hợp với tà.
2. Trì, phạm đối nhau: Tỳ-kheo giữ giới không nên nghĩ là hữu vi, nói trì không nên. "Nếu nói Như lai là hữu vi" v.v... trở xuống, là bày tỏ mọi hành vi của mình đã trái phạm. Nếu nói Đức Phật là hữu vi, thì đó là nói dối, nói nhân có tội khi chết sẽ đọa vào địa ngục, là chứng tỏ quả có tội.
3. Tâm và lời nói đối nhau. Như lai vô vi, không nên nói Như lai hữu vi, là Thuần-đà khuyên Văn-thù hãy bỏ lời nói bất chính: "Kể từ hôm nay, ông nên từ bỏ "Vô trí" để cầu chánh trí v.v...", là khuyên bỏ tà tâm.
Trên đây là khuyên bảo. "Nếu có thể v.v... trở xuống, là hợp. Chỉ hợp thứ sáu trong sáu câu trước, lời văn dễ hiểu.
Trên đây là đoạn ba, Văn-thù thuật lại lời khen vững chắc về kiến giải thường của Thuần-đà. Bồ-tát Văn-thù khen: "Lành thay, lành thay! Là lời khen chung, sau đây là khen riêng Thuần-đà:
Trong phần khen riêng này, trước y theo thí dụ cô gái nghèo, để khen lại Thuần-đà: "Hiện nay, ông đã gieo nhân duyên sống lâu", khen đối tượng lập ra của Thuầnđà, có thể biết Như lai là pháp thường v.v..., khen chỗ hiểu biết của Thuần-đà, là thường, chung. Không thay đổi, vô vi, là cách riêng của Thuần-đà. Lìa sinh diệt nhỏ nhiệm, gọi là không biến đổi. Lìa phần đoạn thô, gọi là vô vi. Cũng có thể chân thân của Như lai vô sinh, gọi là vô vi. Vì không có cuối cùng diệt, nên nói là không thay đổi.
Dưới đây, lại y theo thí dụ người và lửa ở trước để khen lại Thuần-đà: "Nay, ông đã khéo che giấu tướng hữu vi của Như lai như thế." Đây là Bồ-tát Văn-thù khen những gì mà Thuần-đà đã nói, trong đó, trước là pháp, sau dùng thí dụ để làm dấu hiệu đáng tin cậy.
Do tâm lành sẽ sinh lên tầng trời Đao-lợi v.v... trở xuống là khen kết quả đạt được của Thuần-đà, trong đó, trước là dùng thí dụ.
"Ông cũng v.v... trở xuống là hợp: "Ông cũng khéo che giấu hữu vi như thế, hợp với lời nói "Do tâm lành này" ở trước. "Chắc chắn sẽ được ba mươi hai tướng", hợp với " Sinh lên tầng trời Đao-lợi".
"Tám mươi vẻ đẹp" hợp với "Làm Phạm vương". Mười tám pháp bất cộng, vô lượng tuổi thọ, hợp với "làm Luân vương". "Không ở trong sinh tử", hợp với "Không sinh điều ác". "Thường thọ hưởng yên vui", hợp với "Thường hưởng yên vui".
Trên đây, bốn đoạn hợp thành thứ nhất, nói Đức Phật là vô vi. Sau đây là đoạn hai, nói Đức Phật không có đối đãi, trong đó có bốn:
1. Nói thân Như lai bệnh rồi mất.
2. "Phật bảo v.v..." trở xuống, là Như lai nói lại lời Thuần-đà và khen ngợi.
3. Nhân lời nói ở trước, nên nói lại lần nữa rằng tâm lo lắng của Như lai đã hết.
4. "Văn-thù nói: "Đúng thế, đúng thế! Như lời ông vừa nói v.v..." trở xuống, Văn-thù thuật lại lời Phật khen. Theo đoạn đầu, trước là Văn-thù thúc giục chúng, thử lại Thuần-đà.
"Thuần-đà nói v.v..." trở xuống, Thuần-đà dùng lý để nói Phật không có đối đãi. Trong sự thúc giục của Văn-thù, trước là ngăn dứt lời nói trước.
Sau đây, chính là thúc giục Thuần-đà. Trong phần ngăn cấm lời nói ở trước, kế là Như lai sẽ nói rộng. Dò xét về thuyết nói quy y Phật. Phật thương xót thở than v.v... trở xuống, là nói rõ về nghĩa thường của mình, gọi là "Sau sẽ tự nói".
"Ta và ông v.v... trở xuống, là tự đè nén ngăn cấm nhau: Ta và ông đều che lấp hữu vi, hãy dứt bỏ tâm biện luận của mình. Hữu vi, vô vi chúng ta hãy cùng nhau gác lại." nghĩa là ngăn dứt lời giải thích của chúng ta, mà tạm dừng, chẳng phải dứt hẳn chứ không phải nên nói "Hãy gác lại".
Sau đây, câu trong chính là thúc giục, được chia làm bốn:
1. Thúc giục sao cho mau chóng cúng dường.
2. "Bố thí như thế v.v... trở xuống, là khen vượt hơn, khuyên hãy thực hành hạnh bố thí.
Vì sao cúng phẩm này lại nghiêng về là vượt hơn? Giải thích có ba nghĩa:
1. Nhân cúng phẩm này vì được biểu thị rõ ràng, sâu rộng pháp hóa độ, nên thành vượt hơn.
2. Đức Phật thọ thực ở đây xong, liền nhập đại Niết-bàn. Vì sự nghiệp bố thí đã thực hành quá lớn lao, nên cúng dường là hơn hẳn.
3. Đức Như lai sắp diệt độ, đạo chúng đều nhóm hợp ở đây. Vì cúng phẩm hiến dâng rộng rãi, cho nên được vượt hơn.
"Nếu Tỳ-kheo v.v... trở xuống, là nêu ra so sánh cúng phẩm để làm rõ sự vượt hơn. Nhưng, ở đây, nêu rộng tất cả Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni v.v..., vì đi xa mệt mỏi, nên tùy theo thời gian cấp thí, có hạt giống đàn. So sánh với nay cũng vậy, không nói hội này.
4. "Nếu có cúng dường Phật sau cùng v.v... trở xuống, là nêu Phật diệt độ, nhằm thúc giục lần nữa!"
Trên đây, Bồ-tát Văn-thù thúc giục cúng dường, thử lại Thuần-đà. Sau đây, Thuần-đà nói Phật không có đối đãi. Trong bố thí có bốn:
1. Quở trách Văn-thù: "Vì sao ông tự tham thức ăn này? Khiến đúng thời cúng dường?" Ý hỏi: "Văn-thù đã vì Phật mới thúc giục cúng, vì sao Thuần-đà lại quở trách
Văn-thù rằng, tự tham thức ăn này?" Giải thích:
Văn-thù vì Phật mà đôn đốc cúng dường, vì tự khởi tâm niệm cần ăn của mình. Tự bản thân mình cần ăn, rồi cho rằng Phật cũng vậy. Thuần-đà trắc nghiệm sâu sắc về mặt tâm lý, nên y theo gốc để quở trách Văn-thù, cho nên mới nói rằng: "Vì sao tự tham thức ăn này?" Lại nữa, Văn-thù từ trước, đã thôi thúc cúng dường Phật và Tăng, mà Văn-thù là tăng, nên rõ ràng là đã vì cá nhân mình mà đôn đốc thức ăn. Cho nên quở trách Văn-thù: "Vì sao hôm nay ông tự tham thức ăn này? Nói Văn-thù tự tham, đủ thấy rõ Phật không có đối đãi."
2. "Đức Như lai xưa v.v... trở xuống, chính là nói không có đối đãi, trong đó nêu khổ hạnh xưa kia để nghiệm.
3. "Nay ông thật sự cho rằng Như lai v.v... trở xuống, là xét định Văn-thù.
4. "Tôi biết chắc chắn v.v... trở xuống, bày tỏ điều mình đã hiểu, rõ ràng Đức Phật không có đối đãi.
Đoạn hai, trong phần Đức Như lai khen ngợi Thuầnđà, trước là, đối trước Văn-thù, ấn khả cho Thuần-đà. Bồ-tát Văn-thù với trí sâu sắc, nói "Luyện" là "Phi", nên đối với Thuần-đà thuật lại lời Phật "Ấn khả", để chứng tỏ lời Thuần-đà nói là quyết định.
"Lành thay! v.v..." trở xuống, Văn-thù chính là đối diện với Thuần-đà mà thuật lại lời Phật đã khen cho Thuần-đà nghe. Thuần-đà như học, người thường không tin, nên Phật thuật lại "Ấn khả" để cho con người quy tín.
"Ông thành đại trí" chính là lời khen.
"Bậc Thiện nhân v.v... trở xuống, là chỉ bày tướng của bậc Đại trí. "Nhập" giống như "Giải", nghĩa là hiểu được nghĩa sâu sắc trong kinh Đại thừa.
Sau đây là đoạn ba, nói lại tâm lo lắng của Như lai đã hết. Vì sao nói việc này?
Vì ở trước, Như lai nói lại việc "Ấn khả" cho Thuầnđà. Vì dường như có yêu, ghét, nên dưới đây sẽ quở trách, trong đó có hai:
1. Nói về thể của Như lai không có phân biệt.
2. "Như vị vua v.v..." trở xuống, là nói Phật đã vượt ngoài cảnh giới phân biệt.
Trong phần trước có bốn:
1. Nhân Văn-thù thử nghiệm trở lại, Thuần-đà nói Phật không có thiên vị.
Văn-thù nói: "Như lai đối với ông và kể cả tôi v.v..." trở xuống, nhân Văn-thù thử nghiệm lại, Thuầnđà nói Phật không có vui thích.
3. "Như lai không có niệm tưởng đến ái v.v..." trở xuống, đã nói trong đoạn hai ở trước.
4. Xem tất cả bình đẳng như La-hầu-la trở xuống, là nói đoạn thứ nhất ở trước.
Trong phần đầu, trước tiên Văn-thù vì thử nghiệm lại, nên nói với Thuần-đà rằng: "Ông cho rằng Như lai là vô vi", là nhắc lại lời của Thuần-đà rằng: "Thân Như lai là sống lâu", Văn-thù tự thuật lại lời Thuần-đà nói.
"Nếu nói như vậy v.v..." trở xuống là nói Đức Phật đã cảm thấy hài lòng, nên "ấn khả" cho ông?
Thuần-đà đáp: "Chẳng phải Đức Phật cảm thấy hài lòng riêng mình tôi, thật ra Ngài cũng hài lòng tất cả!", ý nói Phật không thiên vị.
Trong đoạn hai, trước Văn-thù nói: "Như lai đối với ông và tôi, tất cả đều cảm thấy hài lòng, nên ấn khả cho ông, Văn-thù thử lại Thuần-đà.
"Thuần-đà đáp v.v..." trở xuống, là nói Phật không hài lòng, trong đó có bốn:
1. Quở chung Văn-thù: "Ông không nên nói Như lai vì vui lòng, nên "Ấn khả" cho tôi!"
2. "Nói về vì hài lòng, nên Phật ấn khả v.v..." trở xuống là nói sự hài lòng có thể phạm lỗi, nói về lỗi có bốn lớp:
a. Phật vì hài lòng nên ấn khả cho tôi.
b. Tưởng điên đảo.
c. Sinh tử.
d. Hữu vi.
3. Kết luận, quở Văn-thù bằng câu: "Ông cho rằng, Như lai là hữu vi", là y theo câu sau để quở.
4. Cho dù để bảo cho biết lỗi, nhưng nếu nói là hữu vi thì tôi và Ngài đều hành động điên đảo. Vì sao ông nói Đức Phật vì vui lòng nên ấn khả cho tôi, tức là hữu vi rồi, nên là điên đảo!
Sau đây là đoạn ba, nói Đức Phật không có ái, trở thành nghĩa không có hài lòng ấn khả của đoạn hai ở trước.
"Như lai không có ý nghĩ về ái, chính là nói không có ái."
"Nói về ý niệm ái v.v... trở xuống, là nêu ra lỗi để nói lìa ái. Trước là nêu lỗi của ái.
Nghĩ đến ái: là nói chung để nêu.
"Như bò mẹ kia v.v..." trở xuống, là mượn dụ để chỉ rõ lỗi: Như bò mẹ ở đời, vì yêu thương, nhớ nghĩ con mình, nên cho dù đang đói khát, nhưng nó vẫn đi tìm kiếm nước, cỏ cho con nó, hoặc có đủ không có đủ thì nó cũng quay về chỗ con nó, dụ này nói về người đời vì có ý nhớ nghĩ yêu thương, nên dù rằng đang thực hành hóa độ, lợi ích cho người, hoặc xong, không xong, nhưng cũng buông bỏ, quay lại giúp ích cho người thân yêu của mình. Đức Phật không có ý niệm này, trái lại, đối với lỗi, thường có thái độ xa lìa.
Dưới đây là đoạn thứ tư, nêu lòng từ bình đẳng của Phật, trở thành nghĩa không có nghiêng về thứ nhất nói trên. Đức Phật xem tất cả bình đẳng như La-hầu-la.
Chinh là nói đức từ bình đẳng, nhớ nghĩ như thế là cảnh giới Phật, kết thúc các Đức thuộc về con người.
Trên đây nói về Thể của Phật không có phân biệt. Sau đây, nói vượt ngoài cảnh giới phân biệt, trong đó có hai thí dụ:
Thí dụ đầu là nói về cảnh giới gần kia không bắt kịp cảnh giới xa, cũng được gọi là đần độn không theo kịp lanh lợi, nhạy bén.
Thí dụ sau nói về cảnh giới dưới không suy lường được cảnh giới trên.
Trong phần trước, trước là thí dụ: "Ví như vị vua điều khiển xe ngựa lực lưỡng, dụ cho Đức Phật xuất hiện vượt hơn, tu tập lâu trí tuệ cao siêu. Muốn cho con lừa theo kịp, thì thật không có việc ấy!", dụ cho chính mình không theo kịp, hợp với ở dưới rất dễ hiểu.
Sau đây là trong không suy lường, trước dụ, sau pháp. Trong dụ, nói nghiêng về trên có thể biết dưới, như chim cánh vàng dụ cho chân thân của Phật. "Bay lên hư không", là dụ cho chân thân Phật. Trụ pháp tánh không, vô lượng do-tuần, chứng đắc sâu xa, đó là nói về chứng trí.
Sau đây là quán biển: Dụ cho trí giáo của Phật soi rọi biết biển cả sinh tử của thế gian, đều nhìn thấy tánh chất nước, cá, trạnh v.v..., dụ cho Phật thấy chúng sinh, ngu, trí khác nhau. Và thấy hình ảnh của thân mình, dụ cho nhìn thấy chính ứng thân của mình tùy theo thế gian. Trong pháp, nói nghiêng về dưới không suy lường được trên, mặt trái của văn. Tiểu trí, phàm phu không thể suy lường: Ý nói phàm phu, nhị thừa đều không thể biết ở trên. Người Nhị thừa gọi là Tiểu trí. "Tôi và nhân giả cũng giống như vậy, không thể suy lường", nghĩa là nói các Bồ-tát không thể biết ở trên. Thuần-đà nói: "Mình và Văn-thù cũng như tiểu trí, phàm phu ở trước không thể suy lường".
Nói "Mình và Văn-thù không suy lường, suy ra, các
Bồ-tát, tất cả đều như vậy."
Trên đây nói về nỗi lo trong tâm Phật đã hết.
Sau đây là đoạn thứ tư, Văn-thù thuật lời khen Thuần-đà. Vì sao phải làm như vậy? Vì cao nhân Vănthù nói lập phi lý, vì nhiều người theo thọ lãnh, nên khen Thuần-đà khiến cho mọi người đều trở về tin tưởng Thuần-đà. "Đúng thế, đúng thế là "Ấn khả" lời nói của mình: "Tôi từ đây về sau, sẽ xoay về sự hiểu biết của chính mình, để chứng tỏ những hiểu biết trước đây của mình đã trở thành thuyết của Thuần-đà đã nói là đúng! Trực tiếp muốn thử quét dưới để lãnh tội lời nói trên.
Chính mình đã biết từ lâu, chỉ vì thử Thuần-đà kia, nên nói rằng, thử trực tiếp: Thuần-đà ông đồng với việc mà các Bồ-tát đã hiểu, nên nói rằng so sánh ông với sự nghiệp của các Bồ-tát. Vì trước đây, Thuần-đà tự nói rằng, "Mình đã hiểu" vì mình bình đẳng với các đại Bồtát, nên phải thử nghiệm.
Sau đây là đoạn ba, Đức Phật đối với Thuần-đà giảng giải rộng, để làm rõ ứng thân ở trước.
Hỏi: Trực tiếp giải thích như vậy, là đủ đâu nhọc công nói ứng thân?
Giải thích: Quyền che giấu sự lãnh đạo, dẫn đến hóa thân bỏ phế, nên phải nói về ứng thân. Nghĩa ấy ra sao?
Nếu không nói về ứng thân của Phật có diệt độ thì không thể nào làm cho người nhàm bỏ hữu vi. Nếu không nói về Ứng thân Phật nhận cúng dường thì sẽ không thể nào giúp cho người được thành tựu công hạnh đàn (bố thí), và hướng vào vô vi, nên phải nói về Ứng thân. Trong văn có bốn:
1. Đức Phật đôn đốc cúng dường, là nói Phật có đối đãi.
2. "Bấy giờ nghe Phật nói xong, Thuần-đà cất tiếng kêu khóc v.v... trở xuống là nói ứng thân là hữu vi."
3. Như lai không muốn trụ lâu ở thế gian v.v... trở xuống, là đối với đoạn hai ở trước nói Ứng thân có diệt độ.
4. Nay, ta nhận cúng phẩm mà ông đã dâng v.v... trở xuống là đối với đoạn thứ nhất ở trên nói Ứng thân có thọ cúng.
Hỏi: Vì sao có bốn đoạn này?
Vì trái với đoạn trước, thành đoạn trên, nên có bốn đoạn như vậy. Hai đoạn trước trong bốn, trái với hai đoạn sau của hai chân mà Thuần-đà đã nói ở trên, trở thành hai Ứng thân mà Như lai đã nói rõ ở trước, thế nên có bốn đoạn. Nghĩa này thế nào? Ở trước, đầu tiên là Thuần-đà nói về chân thân của Như lai là vô vi. Về sau, lại nói rõ chân thân của Như lai không có đối đãi. Nay, nương lời nói, tiện, lợi tức là trái với thứ lớp là từ sau tới trước: đoạn đầu trái ngược với "Chân thân không có đối đãi" của đoạn sau, là nói Ứng thân có đối đãi.
Đoạn hai trái với "Chân thân vô vi của đoạn trước, Ứng thân là hữu vi. Hai đoạn sau trở thành hai Ứng thân mà Như lai đã nói ở trên. Như lai hướng về trước, đầu tiên là nói Ứng thân của Như lai có thọ. Sau nói Ứng thân của Như lai có diệt. Nay, nương lời nói tùy tiện, theo thứ lớp từ sau tới trước mà thành lập.
Đoạn ba trở thành Ứng thân có diệt ở trên. Đoạn thứ tư trở thành Ứng thân có thọ ở trước.
Trong phần đầu có hai:
1. Ánh sáng Phật soi chiếu thân nghiệp của Văn-thù thúc giục cúng dường.
2. Nói bảo, là khẩu nghiệp của Thuần-đà thúc giục cúng. Trong phần trước có ba:
1. Ánh sáng Phật chiếu soi Văn-thù. Vì sao Phật phải làm như vậy? Vì trên đây, trong văn, Thuần-đà nói về chân thân Văn-thù thì biểu dương sáng tỏ về Ứng thân. Nay, vì muốn thuật lại thành đối tượng được Văn-thù làm sáng tỏ, nên Phật phát ra ánh sáng chiếu ngay Văn-thù. Lại nữa, trước đây, Văn-thù đã thúc giục cúng dường. Nay, Như lai vì muốn cho Văn-thù thúc giục cúng lần nữa, nên Phật dùng ánh sáng chiếu soi. Lại, Phật là Bậc Đại Nhân muốn nói thẳng, tự vì mình thôi thúc thức ăn. Vì đối với hóa thân thì bất tiện, nên Phật dùng ánh sáng soi rọi Văn-thù, làm cho ngài thúc giục cúng trước, rồi sau đó mới giúp đỡ khuyến khích.
2. Văn-thù gặp ánh sáng, biết ngay biểu hiện thúc giục khiến cho mau chóng cúng dường. Gặp ánh sáng này là thân Văn-thù gặp ánh sáng Phật. Biết việc này, là biết của nội tâm. Biết việc Phật diệt độ, cũng biết Đức Phật phát ra ánh sáng vì thúc giục sự cúng dường.
"Tìm tòi, bảo v.v..." trở xuống là miệng nói thúc giục. Trước nói về ý nghĩa ánh sáng, Phật hiện tướng này thì không bao lâu nữa sẽ Niết-bàn.
Kế là Phật khuyên hãy mau chóng cúng dường v.v... trở xuống, là khuyên Thuần-đà biết ý ánh sáng, Phật phát ra ánh sáng này là vì thúc giục ông cúng dường, chẳng phải không có nhân duyên.
3. Thuần-đà nghe Phật nói, cảm thấy thương xót, nghẹn ngào, im lặng. Trong miệng Phật thúc giục, ý Thánh tha thiết, trịnh trọng đến ba lần.
Trên đây là đoạn thứ nhất nói Ứng thân có đối đãi. Dưới đây là đoạn hai, nói Ứng thân là hữu vi, trong đó, Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại là lý do. Sau là Phật giải đáp. Trong thỉnh có hai:
1. Nghe Đức Như lai sắp nhập Niết-bàn, nên thương xót, kêu gào, than khóc.
2. "Lại bạch chúng v.v..." trở xuống là cầu chúng cùng với mình thỉnh chung. Vì sức cảm của một người không bằng nhiều người, nên mong cầu chúng thỉnh.
Trong phần Phật giải đáp, lại có hai:
1. Đạp lại tình cảm của Thuần-đà, thương tiếc, khóc kể ở trước, Đức Phật khuyên ông đừng kêu khóc nữa!
2. "Phải quán v.v..." trở xuống là đáp lại lời thỉnh trụ lại ở trước của Thuần-đà, Đức Phật khuyên quán năm điều lỗi quấy, nói Ứng thân là hữu vi, không thể trụ lâu. Đầu tiên, Đức Phật khuyên Thuần-đà và đại chúng hãy quán nghĩa "Không" vô ngã.
"Đồ dựng chén bát v.v..." trở xuống là khuyên quán vô thường, nên quán các hành như thức ăn có trộn lẫn thuốc độc. Khuyên quán khổ kia đều là hữu vi, thường có nhiều lỗi lầm. Khuyên quán bất tịnh: Ba mươi sáu vật nhóm hợp, hình thành thân mình, gọi là nhiều tai hoạ lỗi lầm!
Sau đây là đoạn ba, sẽ nói về Ứng thân có diệt. Văn chia làm bốn:
1. Thuần-đà thỉnh Phật trụ lại.
2. Như lai đáp.
3. Thuần-đà lãnh hội hiểu biết.
4. Như lai nói lại lời khen. Trong phần đầu có hai:
1. Đối với lời khuyên Thuần-đà đừng kêu khóc của Như lai ở trước là nói Phật không trụ lại, nên thương xót, kêu khóc khó dừng.
2. "Cúi mong v.v..." trở xuống, là đối với lời khuyên quán hữu vi của Như lai ở trên, thỉnh Phật thương xót vì tôi mà trụ lại lâu. Ý thỉnh như thế nào? Dù biết rằng Như lai tự nhàm chán hữu vi, nhưng vẫn xin Phật hãy thương xót, trụ lại đời lâu hơn, để dạy chúng con cách lìa bỏ.
Trong phần đáp cũng có hai:
1. Đối với lời thỉnh sau nói trên, nói vì thương xót ông, nên hôm nay ta mới nhập Niết-bàn.
2. "Nay ông hãy quán v.v..." trở xuống, là đối với lời thỉnh đầu, Như lai nói pháp hữu vi không thể trụ lại lâu. Khuyên Thuần-đà đừng nên thương tiếc!
Trong phần trước gồm bốn câu:
1. Quở trách lời thỉnh của Thuần-đà: "Ông không nên nói rằng: "Vì thương xót con, mà trụ lại!"
"Ta vì thương xót v.v..." trở xuống là nói biểu thị rõ ý hóa độ của mình trái với lời thỉnh của Thuần-đà: "Ta vì thương xót ông", đối với "Cúi mong thương xót con" ở trước. "Và, tất cả", nghĩa là đối với lần thỉnh trước và các chúng sinh mà nói. "Nay, ta nhập Niết-bàn", trái với lời trụ lại lâu, chớ nhập Niết-bàn" ở trước, vì Đức Phật mong sao chúng sinh đồng lìa bỏ hữu vi, thú nhập vô vi, nên nói "Thương xót".
2. "Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích, biểu lộ dáng vẻ thương xót: "Vì sao hôm nay ta nhập Niết-bàn?", gọi là "Thương xót ông". Pháp như vậy của Chư Phật, hữu vi cũng giống như vậy. Đối với câu hỏi, trình bày giải thích. Chư Phật vì hóa độ, pháp như vậy tận diệt, nên nói: "Pháp nhĩ". Vì pháp hữu vi đồng với Phật, nên nói "Cũng như vậy", làm cho các chúng sinh biết Phật là "Pháp nhĩ", pháp hữu vi cũng thế, nhàm lìa hữu vi nên nói là "Thương xót". Pháp hữu vi này và cảnh giới của Chư Phật ở trước đều vô thường. Các hành pháp cũng như vậy, tương tự với nghĩa đó.
3. "Cho nên v.v..." trở xuống, chứng minh rõ tướng trạng cũng giống như vậy của hữu vi ở trước, hữu vi là vô thường, sinh rồi thì không trụ nói đồng với Như lai hữu vi, vô thường. Vì vô thường nên khổ, vì vắng lặng nên vui, nói đồng với Như lai "Diệt rồi là vui".
Sau đây là đối với lời thỉnh đầu, trong phần khuyên dứt thương xót, trước là đối với lời nói "Không muốn trụ lại lâu" của Như lai ở trước nói pháp hữu vi có nhiều lỗi lầm, khó trụ lại.
"Thế nên v.v..." trở xuống, đối với "Ta làm sao mà không kêu gào, khóc lóc" ở văn trên, là kết khuyên dứt, buồn thảm. Trong phần trước, "Ông hãy quán tất cả hành", là khuyên bảo lẫn lộn với quán khổ kia. "Các pháp vô ngã" là khuyên quán vô ngã, vô thường không dừng trụ là khuyên quán vô thường. Thân này có vô lượng tai hại lỗi lầm, là khuyên quán bất tịnh. Giống như bọt nước, là khuyên quán không kia. Cho nên, nay ông không nên kêu khóc. Pháp hữu vi này có đủ các lỗi trước nên không thể trụ lại, không nên kêu khóc.
Đoạn ba, trong phần nhận hiểu của Thuần-đà, "Đúng thế, đúng thế" là thành thật như lời Thế Tôn đã dạy bảo, thuật chung lại lời Phật đã dạy, như Phật đã nói "Tất cả đều phải lìa" nên nói "Như thế"
Sau đây, là thứ lớp giải đáp: Dù biết Như lai phương tiện Niết-bàn nhưng con chẳng thể không ôm lòng khổ não. Đối với "Sau khi Đức Phật khuyên nhủ, không nên gào khóc", đủ thấy rõ thương xót khó ngăn dứt. "Che giấu lo nghĩ của mình v.v..." trở xuống, là đối với lời đáp trước của Phật, nói về sự vui mừng của mình, là do Đức Phật thị hiện diệt độ, mà được biết lỗi của hữu vi, hướng vào vô vi, cho nên vui mừng.
Đoạn thứ tư, trong phần Như lai thuật lại lời khen, đầu tiên là đối với ở trước, dù biết rằng, Như lai phương tiện Niết-bàn mà vì khen ngợi. Lành thay! Là lời khen.
"Có thể biết mình v.v..." trở xuống, là nói ra lời Phật đã khen. "Nay, ông v.v..." trở xuống là đối với câu "không thể không mang khổ não" ở trước, mà Phật phải vì Thuần-đà và đại chúng mà mở rộng giải thích, trong đó có ba:
1. Nói về hóa thân của Như lai sẽ phải diệt độ.
2. "Không nên lo nghĩ v.v..." trở xuống, là nói tuổi thọ của Phật dài ngắn khó có thể suy lường, không nên buồn rầu không nhiễm đắm đối với tâm hữu vi, bảo phải cầu lìa bỏ không nên buồn rầu, trong đó trước là thí dụ. Như chim Ta-la-ta dụ cho Ứng thân Phật. Tháng xuân dương là tháng nuôi con, dụ cho thời gian căn cơ các chúng sinh thành thục, đều nhóm hợp ở ao A-nậu kia, dụ cho Đức Phật đồng quy tận diệt ở sông lớn. Chim bay vào ao lớn, dẫn con cùng vào. Đức Phật nhập Niết-bàn vì dẫn dắt chúng sinh tiến vào vô vi.
Sau đây, kế là hợp dụ. "Chư Phật cũng giống như vậy", hợp với chim Sa-la-sa, "đều đến chỗ này" hợp với tháng xuân dương. Nhóm hợp ở ao A-nậu, cái gọi là đến chỗ tận diệt.
Trong câu hai, "Không nên lo nghĩ tuổi thọ của Phật là dài hay ngắn, vì dùng lý để khuyên răn dài, ngắn khó suy lường, vì thế không nên lo nghĩ."
Trong câu thứ ba nói: "Tất cả các pháp đều như ảo thuật", nghĩa là nói hữu vi luống dối, Như lai đã tận dụng năng lực phương tiện, nên không đắm nhiễm ô, vướng mắc là nói Đức Phật không nhiễm ô, không mê đắm, nên nói "Phương tiện".
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích: Đối với pháp hữu vi, Chư Phật đều không tiêm nhiễm, nên nói "Pháp nhĩ". Do không chấp mắc, nên hôm nay nhập Niết-bàn, ông không nên buồn rầu.
Trên đây là đoạn ba, đã nói về Ứng thân có diệt độ. Sau đây là đoạn bốn, sẽ nói về ứng thân có thọ, trong đó có hai:
1. Đức Phật hứa nhận cúng, thúc giục chúng mau cúng dường.
2. Thuần-đà vâng lời Phật, trở về nhà để sửa soạn cúng phẩm. Trong phần trước lại có hai:
1. Đối với Thuần-đà ở trên, tâm tự vì mình, nên Phật hứa vì Thuần-đà mà nhận cúng.
2. "Nếu ông vì chúng sinh mà làm ruộng phước v.v..." trở xuống, đối với Thuần-đà ở trên, tâm vì người khác, thúc giục mau chóng cúng dường.
Trong phần trước nói: "Nay ta nhận cúng phẩm mà ông đã dâng", chính là hứa nhận cúng, vì muốn cho ông vượt qua biển sinh tử, là nói ý nhận cúng của mình. "Nếu về sau, các người, trời cúng dường"... trở xuống là khen lợi ích, khuyên làm, nghĩa là sẽ được quả báo bất động của Như lai. Vì sao? v.v... trở xuống là giải thích lý do được. Vì ta là ruộng phước tốt của chúng sinh, nên người cúng đều được. Đối với trong vì người khác, ông muốn làm ruộng phước cho chúng sinh: Là nêu chỗ cầu mong của Thuần-đà là mau chóng nói về quyền thí.
Y theo phần nói về Thuần-đà sắm sửa cúng phẩm được chia làm ba:
1. Nói: "Vì chúng sinh được độ thoát, nên Thuần-đà phải đành cúi đầu nuốt lệ, gắng gượng đè nén tình cảm thương đau. Nếu không cúng Phật để cầu thoát khỏi sinh tử, thì luống thương xót, buồn bã vô ích, nên phải gắng gượng đè nén cảm xúc, cắt đứt tình thương tiếc, bèn không rơi lệ, gọi là nuốt lệ."
2. "Bạch Phật v.v..." trở xuống, là lãnh hội lời khuyên ở trước của Phật, nói trong hiện tại, mình không thể lo nghĩ suy lường tuổi thọ của Phật là dài hay ngắn, trong đó trước nói về đương lai, có thể biết. "Nay, chúng con v.v..." trở xuống, là nói hiện tại không biết. Đó gọi là ứng, hóa thân của Như lai, thị hiện diệt độ, cho là Niết-bàn, chân thân sẽ ở lại là chẳng phải Niết-bàn. Nếu khi ta thành Phật, thì sẽ có khả năng vì chúng sinh làm ruộng phước, biết hóa thân Phật diệt, gọi là biết Niết-bàn. Biết chân là thường còn gọi là chẳng phải Niết-bàn. Vì hiện tại chưa biết hóa than của Như lai diệt độ, nên nói "Chúng con không thể suy nghĩ, suy lường Niết-bàn của Như lai. Cũng không biết được chân thân của Phật là thường trụ, nên gọi là chẳng phải Niết-bàn.
3. Lúc bấy giờ v.v... trở xuống: giã từ Đức Phật để sắm sửa cúng phẩm. Thuần-đà dâng cúng phải có người chỉ bảo, nên thường đi theo Văn-thù.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đối với ảnh hưởng của Thuần-đà, nói quả báo Bồ-đề là thường.
Sau đây là đoạn hai, đối với hành vi của Thuần-đà, nói pháp Niết-bàn là thường, trong đó, đầu tiên quả đất rung chuyển là lý do. Bấy giờ "Trời, rồng v.v..." trở xuống là Tỳ-kheo hết lòng thỉnh, Như lai nói pháp cho họ nghe.
Trong phần trước có ba:
1. Chính là nói về quả đất rung chuyển.
2. "Động có hai v.v..." trở xuống, là nói rộng về mặt đất rung chuyển, lớn nhỏ khác nhau.
3. "Từ Đâu-suất v.v..." trở xuống, là nói về hiện tượng xảy ra trong thời gian quả đất rung chuyển.
Y theo đoạn đầu, cách Phật chưa lâu, là nói thời gian quả đất rung chuyển, là thời gian mà mặt đất rung chuyển sáu cách, nghĩa chính là nói quả đất rung chuyển. Hiện tượng này gây rung chuyển mặt đất có sáu:
Như Địa kinh nói:
1. Chuyển động.
2. Nhảy vọt lên.
3. Nổi dậy.
4. Rung động, phấn phát lên.
5. Tĩnh.
6. Tiếng rống.
Cho đến Phạm thiên, là nói về phạm vi của việc rung động.
Trong đoạn hai, trước là nêu hai số. Kế là nêu hai danh. Có khi đất rung chuyển là tiểu động, hoặc có khi rung chuyển cả mặt đất, là đại động. Theo Địa kinh, thì sự rung chuyển chia làm ba: rung động, rung động khắp và rung động bình đẳng.
Xứ động: gọi tắt là động, rung chuyển cùng khắp theo thứ lớp trước sau, gọi là biến động. Rung động khắp cùng lúc, gọi là đẳng biến động. Nay, xếp vào hai: Đầu tiên là rung chuyển trực tiếp, gọi là tiểu. Biến và đẳng biến, gọi là đại. Sau đây, sẽ nói rộng:
Về câu, được chia làm năm:
1. Y cứ sự rung động để nói về lớn, nhỏ. Rung động, như xe lắc lư.
2. Y theo tiếng rống phát ra từ trong lòng đất.
Y theo địa chấn. Rung chuyển thì đi xuống, đứng dậy như cây lúa đứng dậy.
3. Y theo hiện tượng phun vọt lên. Vọt lên, như suối nước sôi sùng sục.
4. Y theo thức tỉnh, làm cho người tỉnh biết, lời văn dễ hiểu. Người kiết tập kinh này đã phân biệt rõ.
Trong đoạn ba, trước là người kiết tập kinh, đã nói rộng về đối tượng đã làm. Trong tám tướng thành đạo của Như lai, y theo sáu tướng để nói về việc mà Phật đã làm:
1. Lúc từ Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề.
2. Lúc mới sinh.
3. Lúc xuất gia.
4. Lúc thành đạo.
5. Lúc xoay bánh xe pháp.
6. Lúc Niết-bàn.
Hai thời kỳ sinh lên Đâu-suất và ở trong thai mẹ thì không nói. "Ngày nay v.v..." trở xuống, là tự nói về việc mà Phật đã thực hành trong tiếng rung chuyển của mặt đất, nên văn sau nói: "Người, chẳng phải loài người, khi vừa nghe âm thanh này rồi, khắp mình đều nổi óc.
Sau đây là đoạn hai, Tỳ-kheo lộ vẻ thảm thương, thỉnh Phật giảng nói. Về nghĩa trong phần này có hai, văn có bốn.
Nói nghĩa có hai:
1. Nói về ba việc Niết-bàn của Như lai.
2. "Lúc bấy giờ v.v..." các Tỳ-kheo nghe Phật, Thế
Tôn nói chắc chắn Niết-bàn v.v... trở xuống, là nói về nghĩa thật của bốn pháp.
Văn có bốn:
1. Các Tỳ-kheo tha thiết thỉnh Phật là lý do.
2. Phật bảo Tỳ-kheo: "Đừng như phàm phu, các trời, người v.v..." trở xuống, là Như lai vì chúng nói ba việc Niết-bàn.
3. Các Tỳ-kheo nghe Phật, Thế Tôn chắc chắn nhập Niết-bàn v.v... trở xuống, là Tỳ-kheo lại tha thiết thỉnh Phật lần nữa là lý do.
4. Phật bảo Tỳ-kheo: "Hãy lắng nghe cho kỹ v.v..." trở xuống, Như lai vì chúng nói bốn pháp thật nghĩa.
Trong đoạn thứ nhất, đầu tiên là nói đại chúng thấy tướng mà thương xót trước nêu người buồn khóc. Nghe lời này rồi là lý do thảm thương. Nghĩa là nghe tiếng rung chuyển của mặt đất ở trước. Nay vì Như lai sắp nhập Niết bàn, nên mặt đất mới rung chuyển mạnh như thế.
"Rùng mình v.v..." trở xuống chính là nói về nỗi thảm thương. "Thân trước, miệng sau" trở xuống là thỉnh Phật trụ lại, trong đó có hai:
1. Nêu lên sự tổn hại và lợi ích của việc Như lai ra đi, trụ lại, cho nên cầu thỉnh Như lai.
2. Sau bài kệ, là văn xuôi nêu việc bậc Thánh ra đi, không nên gạn thỉnh Như lai.
Trong phần trước, kệ có mười ba hàng rưỡi, được chia thành hai: đầu tiên là mười một bài kệ rưỡi, nói bậc Thánh ra đi sẽ gây ra tổn hại. Hai bài kệ sau cuối, nói về bậc Thánh ở lại có lợi ích.
Trong tổn hại có bốn:
1. Bốn hàng rưỡi, nói chính mình không có người cứu giúp.
2. Có bốn bài kệ chỉ bày rõ ràng mình không có nơi nương tựa.
3. Có một bài kệ nêu việc bậc Thánh ra đi không trở lại, thành ra không có người cứu giúp ở trước.
4. Có hai bài kệ, nói không có người cứu giúp.
Hai bài kệ rưỡi sau, nói về tổn hại không có người cứu giúp.
Trong không có người cứu giúp, đầu tiên có nửa bài kệ tự giảng nói tâm mình. Kế là, có nửa bài kệ nói không có người cứu giúp. Một bài kệ sau, bày tỏ nỗi khổ thương xót của mình.
Trong tổn hại không có người cứu giúp, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp, dưới là kết.
Nghèo cùng không ai cứu giúp là pháp thuyết, nghèo, không có của cải tốt lành, ác không có ai cứu giúp.
"Giống như v.v..." trở xuống là dụ. "Chúng sinh v.v..." trở xuống là hợp. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Bốn bài kệ kế là nói trong không có nương tựa, bài kệ đầu là nói không có công đức sở y. Trước là dụ, sau là hợp.
"Chúng ta" hợp với người, "Mất Bồ-tát", hợp với nước không có vua chúa trước và pháp vị, nghĩa là hợp với đói khát ở trước.
Bài kệ thứ hai nói về nỗi khổ thương xót của mình, trước là pháp, sau là dụ.
Bài kệ thứ ba, không có chỗ nương của tuệ. Đại tiên nhập Niết-bàn, mặt trời Phật đã lặn. Không có người để nương tựa.
"Chúng ta chắc chắn phải chết", là nói tổn hại không có ai để nương tựa. Vì tuệ mạng không nối tiếp nên nói là chắc chắn chết.
Bài kệ thứ tư là nói về nỗi khổ thương xót của mình, trước pháp, sau dụ.
Bài kệ kế là, nêu Đức Phật không thể trở lại, trở thành không có người cứu giúp. Nửa bài kệ đầu, là nêu Đức Phật không trở lại, nửa bài kệ sau, là nói không ai cứu giúp mình.
Hai bài kệ kế là, nêu Đức Phật buông bỏ, trở thành không có ai nương tựa, đầu tiên có một bài kệ rưỡi, nói về nỗi khổ thương xót của mình. nửa bài kệ sau, oán trách Phật buông bỏ, trở thành không có người nương tựa.
Trên đã nói về việc tổn hại của sự ra đi. Dưới là bày tỏ lợi ích của việc trụ lại. Một bài kệ rưỡi đầu, là nói Đức Phật trụ ở đời, giúp cho người lìa khổ. Bài kệ đầu lập dụ, nửa bài kệ sau là hợp. Ánh sáng, thần thông của Như lai hợp với ba câu trước, có thể dứt trừ nỗi khổ của con, hợp với một câu sau. Dưới, có nửa bài kệ, nói về công năng sinh ra điều lành, trước pháp, sau dụ.
Sau đây là đoạn hai, nói về bậc Thánh ra đi., không nên gạn thỉnh Như lai. Về thỉnh, riêng có năm được gọi bằng hai nghĩa:
1. Y cứ đối tượng hóa độ để chia ra năm cách thỉnh. Chia thế nào?
a. Chúng sanh được hóa độ có thỉnh trước.
b. Chúng sanh được hóa độ có khả năng nhận thỉnh.
c. Chúng sanh được hóa độ chưa nói ra lời thỉnh.
d. Chúng sanh được hóa độ chưa thỉnh ngang nhau.
e. Chúng sanh được hóa độ thỉnh một cách mê hoặc.
2. Y theo chủ thể hóa độ, để chia thành năm cách thỉnh. Phân chia thế nào?
a. Nói về thỉnh Như lai có đầu, không có cuối.
b. Thỉnh có sự sợ hãi chưa dứt trừ.
c. Thỉnh việc chưa làm xong.
d. Thỉnh việc làm chưa ngang nhau.
Thỉnh chưa đồng với đức Từ dẫn đường. Trong phần thỉnh thứ nhất, đầu tiên là dụ, kế là hợp.
"Cúi mong v.v..." trở xuống là kết thỉnh Phật trụ lại đời. Trong dụ, như vua dụ cho Phật, Như lai. Sinh ra, nuôi dạy các con dụ cho các Tỳ-kheo. Vì từ Phật hóa độ mà khởi, nên nói là sinh ra, nuôi dạy. Căn cơ đạo không cong vạy, gọi là dung mạo khôi ngô. Tâm Thánh thương xót, gọi thường yêu thương, nhớ nghĩ. "Khuyên dạy ba học", gọi là dạy về kỹ nghệ. "Việc tập đều thành" gọi là "Đều thông minh, nhạy bén". Đây là dụ cho có đầu. Sau đây, so sánh với không có cuối: Đức Phật bỏ diệt độ, làm cho các Tỳ-kheo sẽ bị biến dịch sinh tử "gọi là giết kẻ đầu sỏ. Sau đây kế là hợp. Ngày nay chúng ta là Pháp vương tử hợp với Vương tử ở trước, được Phật dạy bảo, hợp với dạy kỹ nghệ, đã có chánh kiến lại thông minh nhạy bén". Cũng có thể hợp với "Dung mạo khôi ngô" ở trước. Đây là hợp với có đầu.
Sau đây, là hợp với không có cuối.
"Xin đừng xả bỏ, trái với sự gửi gắm cho sự giết hại, như cử chỉ xả bỏ của Phật hợp với phó thác cho sự giết hại. Kết thỉnh, rất dễ hiểu.
Trong lần thỉnh thứ hai, trước là nói Như lai còn có sự sợ sệt. Trong phần trước, trước là dụ: "Có người" là dụ cho Phật. "Người khéo học biện luận, dụ cho tự mình biết pháp, lại sinh ra sợ sệt đối với luận này, sợ người khác không tin.
Sau đây, kế là hợp: "Như lai cũng thế", hợp với "Có người" ở trước. Người thông suốt pháp, hợp với "Học các luận", nghĩa là thấu suốt các pháp Đại thừa. Người sợ sệt đối với pháp, hợp với "Người học biện luận này mà sinh ra sợ hãi", sợ người không tin, sẽ đọa vào địa ngục.
Sau đây trong phần thỉnh Phật trụ lại, nếu làm cho Như lai trụ lâu trên thế gian, để nói vị cam lộ, đầy đủ tất cả, thì thỉnh Phật trụ lại để nói pháp, gọi pháp Đại thừa cho là cam lộ. Với chúng sinh như vậy, thì không còn sợ đọa địa ngục: Là nói về lợi ích, cho rằng đối với chúng sinh đã được hóa độ như thế, Như lai không còn sợ họ không tin để phải đọa vào địa ngục nữa.
Trong lần thỉnh thứ ba, trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ, "Như người mới học làm việc, bị quan bắt bỏ tù", là dụ cho Đức Phật hóa độ, mở đầu tùy theo chúng sinh ở "Hữu". "Có người" dụ cho Đức Phật. Thời kỳ còn ở trong nhân ở trước, Đức Phật mới tập hóa độ người, gọi chung là học làm việc. Cảm căn cơ của bậc Thánh, gọi là quan. Cảm Phật tồn tại hữu vi, gọi là bị quan bắt. Thường theo không bỏ, gọi là bị giam trong tù. Theo xưa, ngục vuông vức, được gọi là nhà tù.
"Có người hỏi v.v..." trở xuống là dụ cho việc hóa độ chưa xong, không được yên ổn. Có người hỏi Thuầnđà: "Ông đã nhận việc gì? Mượn câu hỏi để khởi phát. Hạng đồng hành, gọi là "Có người".
Hỏi: Đức Phật ở trong ba cõi, nên gọi là "nhận việc gì?"
Đáp: Nay, ta cảm nhận khổ lớn. Giả đáp để bày đức. Vì chúng sinh đang đau khổ mà khuyên bảo, gọi là cảm nhận nỗi khổ lớn.
"Nếu chúng sinh kia thoát khỏi v.v..." trở xuống là dụ cho nói về sự nghiệp hóa độ đã xong, mới được niềm vui.
Dưới đây là hợp. "Đức Thế Tôn cũng vậy", hợp với "Có người". "Vì chúng con, nên Phật mới tu các khổ hạnh", hợp với "vì mới học làm việc, nên đã bị quan bắt." Nay, chúng con chưa thoát khỏi sinh tử, làm sao Như lai được niềm vui?, là hợp với có người hỏi: "Ông nhận việc gì?"
Đáp: Nay, ta chịu khổ não lớn". Con chưa thoát khổ, nay Đức Phật chính là vì con mà chịu khổ, sao nỡ bỏ con để tự thọ hưởng yên vui? Nếu thoát khỏi thọ hưởng niềm vui, thì lược bớt mà không hợp.
Trong lần thỉnh thứ tư, văn chia làm ba:
1. Nói về công hạnh mà Như lai đã làm không bình đẳng.
2. Như lai đối với pháp, lẽ ra không có bỏn xẻn v.v... trở xuống, dùng lý để trách Phật.
3. "Cúi mong v.v..." trở xuống, là kết thỉnh Phật trụ lại.
Trong phần đầu, trước là dụ. Y vương, dụ cho Phật. "Hiểu rành phương thuốc" dụ cho Phật biết được bí pháp
Đại thừa, truyền dạy riêng cho con mình, nghĩa là dụ cho Phật chỉ dạy cho Văn-thù, không dạy người khác, dụ cho Phật không dạy các Tỳ-kheo v.v...
Dưới đây là hợp. "Như lai cũng vậy", hợp với "Thầy thuốc hiểu rành phương thuốc". Chỉ dùng bí tạng, truyền dạy riêng cho Văn-thù, hợp với thầy thuốc truyền dạy bí phương cho con mình.
"Bỏ sót chúng con" hợp với "Không dạy người thọ học bên ngoài khác."
Trong lời trách thứ hai, trước nói đối với pháp, Như lai không có bỏn sẻn, trách đồng với thầy thuốc thế gian. Sau là nói Như lai không có nghiêng về đối với người, trách đồng với thầy thuốc ở đời.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Như lai đối với pháp lẽ ra không có bỏn xẻn, nghĩa là lượng Thánh khác với phàm. Dùng lý để trắc nghiệm, tìm tòi, chưa dám chuyên quyết, do đó nên nói "Lẽ ra".
"Như thầy thuốc kia dạy riêng con mình v.v..., là trách Thánh đồng với phàm."
Trong phần sau, đầu tiên nói: "Sở dĩ thầy thuốc kia không thể truyền dạy khắp, là vì tâm còn thấy hơn, thua còn phân biệt phàm khác với Thánh, tâm Như lai không hề hơn kém. Lượng Thánh khác với phàm. "Sao không thấy dạy bỏ", là trách Thánh đồng với phàm.
Đoạn ba, là kết thỉnh. Văn rõ ràng, dễ hiểu. Trong lần thỉnh thứ năm thì trước dụ, sau hợp. Trong dụ, ví như người già bệnh, trẻ, Tỳ-kheo dụ cho mình, lìa xa người lành, đi vào chốn nguy hiểm, rõ ràng là mình đã mê hoặc. "Lại, có người v.v...", dụ cho Ứng thân của Phật, Như lai nhìn thấy liền chỉ bảo, dẫn dắt họ. Người khác dụ cho Phật, thấy vậy thương xót, dụ cho Ứng thân thương xót, "liền chỉ bảo v.v..." dụ cho nên dạy bảo."
Trong hợp, đầu tiên là hợp với "Mê hoặc của mình".
"Ta cũng như thế" là tổng hợp. "Nghĩa là v.v... trở xuống, là riêng".
"Cúi mong v.v..." trở xuống là y theo người khác ở trước để thỉnh Phật chỉ bảo, dẫn đường cho họ. Cúi mong chỉ bảo cho con đường chánh cam lộ, thỉnh Phật nói pháp Niết-bàn vô thượng. Vì có công năng dứt trừ phiền não, nóng bức, nên nói là cam lộ.
Y theo dụ để gọi pháp, nói là chánh đạo, trụ lâu trên đời v.v..., là xin Phật không diệt độ.
"Nhưng hai lần thỉnh này v.v..." trở xuống là Phật giải đáp có thuận, có trái, cần phải xem xét, ghi nhận.
Trên đây Tỳ-kheo tha thiết thỉnh Phật trụ lại là lý do.
Mục sau đây là đoạn hai, Đức Như lai nói pháp cho Đại chúng nghe. Văn, chia làm hai:
1. Đối với sự ức chế nỗi niềm thương xót, ngăn tâm tình tha thiết bi ai của chúng ở trước.
2. "Lại nữa, Tỳ-kheo v.v..." trở xuống, đối với lời thỉnh cầu của chúng ở trước, Như lai chính là giảng nói cho họ nghe.
Vì nỗi bi ai của chúng, sẽ gây trở ngại rối loạn khi thọ lãnh chánh pháp, nên trước hết, phải ức chế, ngăn dứt cảm xúc. Trong đó, đầu tiên là ngăn dứt sự thương xót!
"Vì nói kệ v.v..." trở xuống, Đức Phật khai mở tâm chúng sinh.
Trong phần trước, trước hết Như lai khuyên chúng đừng thương xót, bi lụy nữa! Sau, là nói đại chúng nghe lời Phật khuyên đừng thương xót!
Trong lời khuyên của Như lai, "Các thầy Tỳ-kheo chớ như phàm phu, chư Thiên v.v...", là khuyên răn nên chấm dứt nỗi thương xót, bởi Tỳ-kheo ái đã hết, thành ra không nên giống như các phàm phu, vì Tỳ-kheo chính là người đã có hành vi đó, đại chúng nghe Phật nói ngăn dứt thương xót, phải siêng năng, tinh tấn cung kính, tu niệm lành.
Sau đây là nói Tỳ-kheo nghe Phật nói dứt thương xót, đầu tiên là pháp thuyết. "Như người v.v..." trở xuống, là dụ. Dù gạt bỏ hình tướng bên ngoài, nhưng trong thâm tâm vẫn xót xa thương tiếc khôn nguôi, phải như đang tẩm liệm xác con, cố đè nén, ngăn không gào thét, khóc than!
Sau đây, là Phật khai mở tâm chúng, trong đó có hai bài kệ: Bài kệ trước, dùng lý để khuyên chúng hãy bỏ đi nỗi khổ tâm vì thương xót Phật. Bài kệ sau là Phật dựa vào điều lành, để khuyên chúng nên sinh tâm vui mừng. Phật khai ý đại chúng trong bài kệ trước là "Không nên sầu khổ", chính là khuyên đừng thương xót, vì Chư Phật pháp như như vậy, nên phải im lặng, dùng lý để mở mang sự hiểu biết.
Trong phần sau, trước là Phật bảo tu pháp lành, ưa thích không buông lung, dạy tu giới hạnh. Giữ tâm chánh niệm, dạy tu định hạnh. Xa lìa phi pháp, dạy tu tuệ hạnh. Tuệ là công năng đối trị lỗi lầm, gọi là lìa phi pháp. Cũng có thể câu đầu ưa không buông lung, khuyên tu tuệ học. Tuệ là căn bản của Bát-nhã không buông lung, gọi là không buông thả. Giữ tâm chánh niệm, khuyên tu định học. Xa lìa phi pháp, khuyên tu giới học. Giới là công năng lìa các lỗi, gọi là lìa phi pháp. Ý an ủi cảm nhận niềm vui, khuyên bảo sinh tâm vui mừng. Ý an ủi ở đây hợp với "Ý mở mang sự hiểu biết cho các ông ở trước. Cảm nhận niềm vui, hợp với "Không nên sầu khổ" ở trước.
Sau đây là đoạn hai, trong phần đối với lời chúng thỉnh và nói kệ, trong đó có ba:
1. Nêu lên nỗi hoài nghi, khuyên nên hỏi.
2. "Cũng sẽ vì ông, trước là nói v.v..." trở xuống, đối với việc chúng thỉnh trên, Đức Phật thừa nhận trái với trụ lại đời.
3. "Đức Phật ra đời v.v..." trở xuống, chính là Phật giảng nói cho đại chúng nghe.
Trong phần đầu, Đức Như lai sợ rằng, các Tỳ-kheo sẽ không có khả năng thưa hỏi, nên khuyên hãy thưa hỏi, trong đó, trước nêu ra điều nghi, để cho chúng hỏi. Sau, Phật hứa sẽ đáp.
Trong phần trước, "Tỳ-kheo nào có nghi ngờ, phải hỏi", là khuyên chung. "Nếu không v.v..." trở xuống, là khuyên riêng.
Trong phần khuyên riêng, nêu sơ lược mười bốn môn để khuyên chúng nên hỏi. Nếu "Không" bất không có chứa đựng nhiều nghĩa mà y theo sinh tử và Niết-bàn đối lập nhau, thì sinh tử gọi là không, còn Niết-bàn là bất không cho nên văn dưới nói: Không là tất cả sanh tử, bất không là Đại Niết-bàn. Nếu y cứ hai đế đối nhau để nói về nghĩa thì không nhất định. Nếu nói tướng không, cho là chân đế, thì chân đế gọi là không, còn Thế đế thì bất không. Nếu nói chân thật Như lai tạng tánh cho là chân đế thì chân đế là bất không, còn Thế đế gọi là không, vì không thật. Nên trong kinh Thắng Man nói: "Pháp vọng gọi là Không Như lai tạng, pháp chân, gọi là Bất không tạng. Hoặc thường, vô thường, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Nếu lấy sinh tử, Niết-bàn đối nhau, thì sinh tử vô thường, Niết-bàn là thường. Hai đế đối nhau, thế đế vô thường, chân đế là thường. Nếu là nương tựa, chẳng phải nương tựa, thì cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Tà chánh đối nhau. Tam bảo đáng nương tựa, ngoại đạo không đáng nương tựa. Chân, vọng đối lập nhau:
Pháp chân đáng nương tựa, pháp vọng không đáng nương tựa. Thế trong kinh Thắng Man chép: "Như lai tạng được cho là một nơi nương tựa."
Hoặc đi, không đi, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Tà chánh đối nhau. Chánh hạnh xuất ly gọi là đi, tà hạnh chìm mất, nói là "Không đi". Nhân quả đối nhau, nhân gọi là đi, quả thì không đi. Đại, tiểu đối nhau, Tiểu thừa hướng về Đại thừa, gọi là có trở về. Nhân quả đối nhau: nhân thì có trở về, quả thì không có trở về. Nếu là hằng, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Nhiễm, tịnh đối nhau. Sinh tử chẳng phải hằng, Niết-bàn là hằng.
Hai đế đối nhau: Chân đế gọi là hằng, thế đế chẳng phải hằng. Hoặc đoạn, hoặc thường, cũng chứa đựng nhiều nghĩa. Nhiễm, tịnh đối nhau: sinh tử cuối cùng là đoạn, Niết-bàn là thường. Chân vọng đối nhau: Vọng Tưởng đáng "Dứt", thức chân là "Thường".
Hoặc chúng sinh, chẳng phải chúng sinh, cũng chứa đựng nhiều nghĩa. Trong ngoài đối nhau: trong là chúng sinh, ngoài là phi chúng sinh. Giả, thật đối nhau: giả là chúng sinh, thật chẳng phải chúng sinh. "Không" và "Hữu" đối nhau: "Hữu" là chúng sinh, "Không" chẳng phải chúng sinh.
Y theo sự tương đối giữa con người. Phật chẳng phải chúng sinh, vì đã lìa sinh tử, ngoài ra là chúng sinh.
Hoặc "Có", hoặc "Không" cũng chứa đựng nhiều nghĩa. Nếu phân biệt hữu vi, vô vi thì sẽ có ba pháp hữu vi gọi là "Có", ba pháp vô vi, gọi là "Không". Nếu phân biệt theo hai đế đối nhau, thì hữu vi, vô vi đều gọi là "Có". Không có ngã, sở hữu của ngã, nói là "Không". Như kinh Địa Trì chép: "Nếu nói theo người, thì hễ có sinh tử thì không có Niết-bàn, bậc Thánh có Niết-bàn mà không có sinh tử, như văn sau sẽ nói.
Nếu là thật, không thật, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Nhiễm tịnh đối nhau, sinh tử không thật, Niết-bàn gọi là thật. Quyền, thật đối lập nhau: Nhất thừa là thật, ba thừa không thật. Chân, vọng đối nhau: vong tình không thật, Phật tánh là thật. Hai đế đối nhau: Thế đế không thật, chân đế là thật. Cạn sâu đối nhau: Ba đế chẳng phải thật, nhất thật là thật.
Nếu là chân, không chân, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: nhiễm, tịnh đối nhau: sinh tử chẳng phải chân, Niết-bàn là chân. Hai đế đối nhau: chân đế là chân, thế đế chẳng phải chân. Nếu là diệt, không diệt, cũng chứa đựng nhiều nghĩa: Bốn đế đối nhau: Diệt đế là diệt, ba đế còn lại chẳng phải diệt. Chân, vọng đối nhau: Pháp vọng có thể diệt: pháp chân bất diệt. Nếu mật, bất mật thì y theo giáo để biện luận: Đại, Tiểu không nhất định: hoặc Tiểu giáo gọi là mật, Đại giáo không phải mật. Tiểu thừa che giấu "Thật", gọi là Mật. Vì Đại giáo làm sáng tỏ "Thật", nên gọi là bất Mật. Hoặc Đại giáo gọi là Mật, Tiểu giáo là không Mật: vì Đại thừa thâm ẩn, nên gọi là Mật. Vì Tiểu thừa thô hiển nên gọi là bất Mật.
Nếu hai, không hai thì y theo thừa để luận: "Quyền" được chia ra đại, tiểu, gọi là hai. "Thật" chỉ một Đại, gọi là không hai.
Với những thứ như thế, nếu có nghi ngờ, thì nay nên hỏi. Gom chung để kết khuyên:
"Ta sẽ thuận theo vì ông mà giải quyết xử đoán, là Đức Phật hứa sẽ giải đáp."
Sau đây là đoạn hai, đối với những lần đã thỉnh của chúng, ta hứa sẽ nói trái với sự trụ lại lâu trên đời, cũng sẽ vì ông nói pháp cam lộ", là hứa sẽ nói. Vì đối với chúng trước mà hứa sẽ đáp, nên nói rằng "Cũng sẽ". Đối với chúng sinh, nói chứng diệt, gọi là nói trước. Sau đó Niết-bàn trái với lời thỉnh Phật trụ lại đời của chúng kia. Trong lần thỉnh thứ năm của các Tỳ-kheo ở trước, nói rằng Đức Phật nói sẽ bảo cho tôi được biết đường chánh cam lộ, nên "Hứa sẽ nói" cho nghe. Lại nói trụ lâu dễ nhập Niết-bàn, nên nay, Phật nói trái lại lời thỉnh đó.
Sau đây là đoạn ba, chính là Phật giảng nói, cho chúng nghe, trong đó có hai:
1. Khuyên bỏ ngụy xưa, để tu chân nay.
2. "Nay ta sẽ làm cho tất cả chúng sinh v.v..." trở xuống, là y theo chân, thật nói cho nghe ba việc Niết-bàn, chính là đạp lại lời thỉnh trên của đại chúng. Trong phần trước có ba:
1. Đoạt cả hai nhân quả, khuyên tu chân nay.
2. Thế nào là trang nghiêm ngôi thành chánh pháp v.v.... trở xuống là đoạt riêng quả xưa, khuyên tu chân nay.
3. Dù các thầy đã được xuất gia v.v... trở xuống là đoạt riêng nhân xưa, khuyên tu chân nay.
Y theo đoạn đầu, trước hết là đoạt ngụy xưa. "Ta ở đời quá khứ v.v..." trở xuống là khuyên tu chân hiện nay. Trong đoạt ngụy xưa, trước là nói về đối tượng chứng đắc xưa nay là khó. "Lìa tám nạn, v.v..." trở xuống, là nhắc lại để đoạt ngụy xưa.
Trong phần trước, đầu tiên là pháp thuyết, nói về cái khó. Cái khó có sáu thứ:
1. Phật ra đời là khó.
2. Được thân người là khó.
3. Được gặp Phật ra đời là khó.
4. Sinh niềm tin là khó.
5. Nhẫn được việc khó nhẫn, được nghe pháp là khó. Nhẫn còn được đối với pháp khó tin mà nhẫn được, nên gọi là khó. "Cũng có thể nhẫn, hiểu là tên gọi riêng. Vì đối với pháp khó hiểu mà hiểu biết, nên gọi là khó.
6. Đầy đủ giới cấm, chứng đắc La-hán là việc khó. Đầy đủ giới là nhân, La-hán là quả.
Trong sáu thứ khó, cái khó thứ nhất là y cứ cái khó mà Đức Phật nói. Năm thứ khó sau là y theo Tỳ-kheo để nói về cái khó. Thí dụ sau đây sẽ làm rõ:
"Ví như tìm vàng trong cát", dụ cho năm thứ khó sau. Tìm vàng trong cát rất khó được. Tìm năm việc này trong pháp sinh tử, thật rất khó được.
"Như hoa Ưu-đàm", dụ cho Đức Phật ra đời là việc khó. Trên đây, là nói về sự chứng đắc kia là khó.
Sau đây là đoạn hai, nhắc lại để đoạt: "Lìa tám nạn"; là nêu sáu nạn trước đã lìa. Khi Tỳ-kheo được hướng về năm thứ khó sau, thì lìa tám nạn, nên nay nêu tám nạn.
Nói tám nạn là: Ba đường là ba, mù bẩm sinh, điếc bẩm sinh v.v... là thứ tư. Thế trí biện thông là thứ năm, sinh trước Phật, sau Phật là thứ sáu, Uất-đơn-việt là thứ bảy, trời Trường Thọ là thứ tám.
Ba nạn trước trong tám nạn là ba đường, bốn nạn kế là ở cõi người, một nạn sau ở cõi trời. Vì đã được thân người, nên lìa nạn ba đường. Được gặp Phật, là đã lìa nạn sinh trước Phật, sau Phật. Sinh niềm tin là đã lìa khỏi nạn tà kiến, thế trí biện thông ở trước. Được nghe pháp là đã tránh khỏi nạn mù, điếc v.v... Cụ giới, được quả, là đã lìa khỏi nạn cõi trời Trường Thọ Uất-đơn-việt.
"Vì không gặp các nạn ấy, nên được thân người v.v..." trở xuống, là nhắc lại những gì mà con người được.
Trong năm nạn sau, chỉ nhắc lại về hai nạn đầu. Hai nạn đầu cũng là chỗ nương của Đại thừa. Vì không cần phải đoạt phá, cho nên chỉ nhắc lại nó.
Được thân người là khó, là nhắc lại khó thứ nhất ở trước. "Các ông gặp ta", là nhắc lại cái khó thứ hai ở trước. "Không nên để trôi qua luống uổng" là y theo hai thứ khó trước. Đoạt phá ba thứ khó sau. Đối với Tiểu thừa dù có tin v.v..., nhưng nếu so với Đại thừa thì hoàn toàn không có sở đắc, nên nói là "Luống qua".
Trên đây là đoạt phá ngụy, dưới đây là khuyên tu chân. Về câu, được chia thành bốn:
1. Nêu nhân xưa của mình.
2. Nay "Được v.v..." trở xuống là nêu quả nay của mình. Vì quả đức thành tựu là đức vượt qua Nhị thừa, nên nói là vô thượng. Được đại Niết-bàn, không bỏ thế gian. Vì khéo léo vô ngại, nên gọi là phương tiện.
3. "Vì các thầy v.v..." trở xuống là y theo nhân ở trước của mình, để nói về việc tu đã làm. Vì Đức Phật muốn cho chúng sinh đội ơn, thọ lãnh, thực hành, nên đã bỏ thân, tay v.v..., giống như khổ hạnh ở trước.
4. "Cho nên v.v..." trở xuống là y theo quả nay của mình để kết khuyên tu tập.
"Ta đã vì các thầy mà cầu được quả Vô thượng như thế, cho nên không nên xả bỏ mà không học."
Trong quả đoạt phá riêng thì trước nói về chân nay. "Nay các thầy gặp v.v..." trở xuống, là y theo chân mà đoạt phá ngụy.
Trong phần trước nói: "Thế nào là trang nghiêm ngôi thành pháp? Là hỏi để phát khởi. Chánh pháp Niết-bàn giống như ngôi thành báu ở thế gian. Pháp được gọi từ dụ, gọi là ngôi thành báu pháp. Ngôi thành báu pháp này được trang nghiêm thế nào? Sau đây sẽ giải đáp rõ:
"Đủ các đức", là nói chung về trang nghiêm. Giới, định, trí tuệ là tường, hào v.v..., bày tỏ riêng về trang nghiêm. Giới có công năng ngăn dứt điều lỗi lầm, nên nói là tường. Ý định sâu lặng, gọi là hào. Tuệ có công năng quán chiếu, gọi là tường thấp.
Dưới đây là y theo chân để đoạt phá ngụy. "Nay, ông gặp ta là không nên dùng vật luống dối này". Chính là khuyên chúng từ bỏ luống dối. "Ví như v.v..." trở xuống là nói về lỗi lầm lấy ngụy. Trước là dụ, sau là hợp. "Các thầy v.v..." trở xuống, là Phật kết khuyên dứt bỏ ngụy.
Trong đoạt riêng nhân, thì trước đoạt phá ngụy xưa. "Nay, sẽ v.v..." trở xuống là khuyên tu chân nay.
Trong phần trước có bốn câu:
1. Đoạt xuất gia.
2. Đoạt nhuộm y.
3. Đoạt khất thực.
4. Đoạt cạo tóc.
Văn rõ ràng dễ hiểu.
Trong phần khuyên tu chân, "Nay ta chân thật dạy bảo các thầy" nói chung để nêu lên lời Phật hứa.
Sau đây, là phân tích để dạy bảo riêng, trong đó có ba:
1. Nói về Tam Bảo hiện tại đã đủ duyên, Phật khuyên chúng hãy siêng tu: "Nay ta là duyên Phật Bảo hiện tại đầy đủ. Duyên đại chúng hòa hợp Tăng bảo đầy đủ. "Duyên" Pháp bảo không điên đảo của pháp tánh.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết khuyên tu tập: Phải siêng năng tinh tấn, nhiếp tâm mạnh mẽ, siêng tu pháp lành, dứt các kiết sử, dạy dứt pháp ác.
2. "Mười lực ẩn mất v.v..." trở xuống là nêu việc bậc Thánh diệt độ, sẽ có tổn hại, nên thúc giục chúng mau chóng tu hành, gọi Phật là mặt trời tuệ mười lực. Sau Phật diệt độ, không có người dạy các thầy dứt trừ chướng tối. Cho nên, sẽ bị vô minh che lấp, dung nhan xinh đẹp của Phật đến nay vẫn tồn tại, phải nên mau chóng tu hành.
3. "Ví như v.v..." trở xuống là Đức Phật khen pháp có nhiều lợi ích, để cho chúng phải tu. Trước dụ, sau hợp, pháp ta cũng như vậy. Hợp với cỏ thuốc của đất, mọc ra thuốc hay v.v..., hợp vì chúng sinh mà dùng. Sinh ra pháp vị cam lộ ngon ngọt, là nói công năng sinh ra điều lành. "Mà thầy thuốc vì bệnh của chúng sinh" nói về công năng tiêu diệt cái ác. Chúng sinh nhân đối tượng đoạt, đối tượng khuyên mà vì thưa thỉnh, cần phải ghi nhận.
Trên là đoạt phá ngụy xưa, khuyên tu chân nay.
Dưới đây là đoạn hai, y theo chân, Đức Phật nói cho chúng nghe ba việc Niết-bàn. Văn được chia thành ba:
1. Đức Phật hứa làm an vui chúng sinh để cho trụ trong tạng bí mật.
2. "Ta cũng v.v..." trở xuống là Đức Phật tự hứa an trụ.
3. "Những gì v.v..." trở xuống, nói lên tướng bí mật mà chúng sinh kia đã an trụ.
Trong phần đầu, "Sẽ làm cho tất cả chúng sinh, nghĩa là chúng sinh phàm phu và con của ta (Bồ-tát gọi là con), vì đức của các Bồ Tát có khả năng kế thừa, nên nói là con.
Bốn bộ chúng: Chúng Thanh văn, tại gia, xuất gia, mỗi chúng đều được chia ra nam nữ, nên có bốn bộ, mà Đức Phật đồng giáo hóa sao cho được chứng đại Bátniết-bàn, gọi là bí tạng. Vì đại Niết-bàn xưa kia ẩn không nói, nên gọi là bí mật. Vì bị quyền giáo che lấp, nên còn gọi là tạng. Thế, nên văn dưới đây nói: "Vì có đối tượng không nói đến trong mười một bộ, gọi là Tạng. Lại, ở trong đó, đã chứa đựng các đức, cũng gọi là Tạng.
Trong đoạn hai, "Ta cũng sẽ an trụ trong đây mà nhập Niết-bàn", nghĩa là Đức Phật tự hứa an trụ. Vì đã trụ đồng với người khác, cho nên nói "Cũng", thật ra thì Phật đã trụ lại từ lâu. Đối với thôi hóa độ hôm nay, mở đầu nhập Niết-bàn, gọi là "Sẽ". Thôi hóa độ, trở về chân, gọi là nhập Niết-bàn.
Trong đoạn ba, "Thế nào là tạng bí mật?", là nhắc lại câu hỏi để phát khởi. Sau đây sẽ giải đáp rõ ràng về tạng bí mật đó.
Đáng lẽ trước phải nói về ba việc Niết-bàn, rồi sau đó mới giải thích văn, nghĩa như chương riêng. Trong văn, trước là thí dụ. Trong dụ, đầu tiên là nói: "Giống như chữ y", nêu chung về sự dụ. Ở đây mới nêu chữ Y của sách nhà Hồ. Sau đây, là nói về tướng của dụ. Văn có bốn câu: trước sau không thứ lớp. Nếu đúng thì nên nói ba điểm. Nếu là "Đều" thì sẽ không thành chữ y, "Ngang cũng không thành ba điểm. Nếu riêng cũng không được thành. Như trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la có ba mắt, mới được thành chữ Y.
Y theo hợp, thì lẽ ra là như vậy, nhưng trong văn nay, trước nêu "Ngang", "Đều" kế là, nêu lên ba mắt của Ma-hê thành chữ Y, từ chối nói về khác nhau, như ba mắt trên mặt trời Ma-hê. Đây là lập dụ để làm rõ dụ.
Trong hợp, đầu tiên là nói: "Ta cũng như vậy". Hợp với chữ Y đầu tiên, trong văn nói "Không đủ". Nếu đủ thì lẽ ra phải nói: "Đối tượng mà ta đã được, tạng bí mật cũng giống như vậy. Sau đây là hợp riêng. Trước hợp không thành, pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, cho đến Bát nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Hợp với "Ngang", "Đều trên" thì không được thành chữ Y. Mỗi ba điểm đều riêng, cũng chẳng phải Niết-bàn. Hợp với ba điểm trong văn trên, nếu riêng cũng không thành. Thành, không thành này sẽ được nói cụ thể trong chương riêng. Nay, ở đây sơ lược dùng ba nghĩa để giải thích:
1. Y theo chân, ứng đối nhau để phân biệt. Ba việc ứng, hóa vô thường, sinh diệt không thành Niết-bàn. Vì không thành, nên phải diệt. Ba việc của đức chân mới thành Niết-bàn. Do chân thành, nên nay được nhập vào đó.
2. Y theo phương tiện tánh tịnh để phân biệt. Ba việc phương tiện gầm thâu môn Bồ-đề không thành Niết-bàn. Ba việc của tánh tịnh mới thành Niết-bàn. Kinh này nói nghiêng về quả của tánh tịnh là Niết-bàn.
3. Y theo tánh tịnh chung, riêng để phân biệt. Chia riêng không thành, gồm chung thì thành. Như ba điểm kia riêng thì không thành chữ Y, gồm chung thì thành.
"Nay, ta an trụ ba điểm như vậy v.v..." trở xuống, hợp như ba mắt của Ma-hê-hủ-la mới được thành chữ Y. Đây là an trụ ba việc chân thường, cũng có thể vì an trụ ba việc tánh tịnh, nên thành Niết-bàn. Đối tượng an trụ dù thường, nhưng vì hóa độ chúng sinh, vì diệt độ, nên trở về nên nói là sinh, gọi là nhập Niết-bàn, cái gọi là nhập Niết-bàn hóa thành diệt độ, nên đại chúng ở dưới cảm thấy thương xót, kêu khóc khi nghe Đức Phật tuyên bố nhập Niết-bàn.
Như chữ Y của thế gian, nêu dụ để tập, tùy phần thô của pháp. Trên đây, là nói về ba việc Niết-bàn kia.
Sau đây, sẽ chỉ rõ nghĩa thật của bốn pháp kia. Nếu tạo ra bốn phần để phân tích, phán quyết văn đó. Hai đoạn trước đã nói xong.
Sau đây là đoạn ba, Tỳ-kheo lại tha thiết thỉnh Phật lần nữa là lý do, vì nghe Phật, Thế Tôn chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn nên đều lo lắng, buồn bã v.v..., là nói chúng khóc lóc thảm thương!
Cúi đầu xuống để thỉnh: Cúi đầu là thân thỉnh, bạch Phật là miệng thỉnh, miệng thỉnh có ba:
1. Khen ngợi giáo xưa để thỉnh.
2. "Như đế vương v.v..." trở xuống, Tỳ-kheo nêu "Hoặc" mà mình đã có, để thỉnh.
3. Như có người khen cây chuối v.v... trở xuống, là khen mình để thỉnh. Vì sao Tỳ kheo kheo giáo xưa để thỉnh. Do Đức Phật nhắm vào quả đã đoạt riêng ở trước, mà bảo các Tỳ-kheo: "Các thầy không nên chấp vào vật luống dối, cho nên nay, Tỳ-kheo khen ngược lại: "Pháp chân mà tôi đã được ngày xưa, có chân năng quán tưởng vượt hơn, là vì muốn cho Như lai làm rõ chân." Vì sao đoạn hai nêu "Hoặc" để thỉnh?
Vì Đức Phật đã hướng về trong đoạt riêng nhân ở trước, để khuyên chúng dứt trừ kiết sử.
Mười lực diệt rồi, các ông sẽ bị vô minh che lấp. Pháp của ta vì có thể là thuốc hay của người bệnh, nên hôm nay, Tỳ-kheo nêu "Hoặc" mà mình có, cho nên thỉnh Phật ở đời để dứt "Hoặc" cho.
Vì sao đoạn ba khen mình có "Kiến giải"?
Do Đức Phật nhắm vào trong nhân quả của Tỳ-kheo đã song đoạt ở trước mà bảo các Tỳ-kheo: "Gặp Ta, các thầy không nên để thì giờ trôi qua vô ích, không nên sống buông thả!" Cho nên hôm nay, tự khen mình khéo tu vô ngã, nên không buông lung. Vì tu vô ngã sẽ được Niết-bàn, nên chẳng phải luống qua vô ích.
Nói lên lời này, vì muốn cho Như lai xóa bỏ những gì mình đã hiểu biết, lại nói về tu chân chánh.
Sau đây, dựa vào ba pháp này, Như lai sẽ đáp riêng, phải ghi nhận để biết.
Trong phần đầu, được chia thành bốn:
1. Nhân nay, Đức Phật diệt độ, khen lại giáo xưa, nói lên ngày xưa, mình đã được pháp chân, chẳng phải luống dối.
2. "Như dấu vết của chúng sinh v.v..." trở xuống, nói lên ngày xưa, mình đã có thể quán tưởng vượt hơn, chẳng phải luống dối.
3. "Nếu Như lai đã lìa ý tưởng vô thường v.v..." trở xuống là phá bỏ ý nghĩa an trụ của Như lai, để nói về "Diệt định" của Phật, đã trở thành pháp Chân Vô thường trong đoạn đầu.
4. "Như người làm ruộng v.v..." trở xuống, là khen lại giáo xưa nói, chúng sinh hãy quán tưởng xa hơn, sẽ có khả năng quán tưởng tốt hơn đoạn hai ở trước.
Trong phần đầu, "Ưa thích với vô thường, khổ v.v..." khen lại giáo xưa.
Vì sao Tỳ-kheo lại khen ngợi Đức Phật nói giáo xưa? Do hôm nay, Đức Phật nhập diệt. Nay, Đức Phật chắc chắn nhập diệt, là nói về pháp chắc chắn là vô thường, khổ, không. Pháp đã như vậy, giáo xưa nói là pháp thích hợp, cho nên nói là "Ưa thích".
Vì sao lại khen?
Vì nói lên pháp chân: vô thường, khổ, không mà chính mình đã được, làm cho Phật nói ngược với các pháp đó, nhằm chỉ bày rõ pháp chân.
Trong đoạn hai, ở trước là dụ, kế là hợp, sau làm rõ tướng cao quý hơn.
Trong dụ, dấu vết của chúng sinh, dụ cho môn quán năm độ như bất tịnh v.v... "Dấu chân voi", dụ cho quán vô thường, khổ, không, vô ngã v.v..., vì dấu chân voi dẫm đạp to rộng, nên là vượt.
Trong phần hợp, đầu tiên là "Tưởng vô thường này cũng giống như vậy" nghĩa là hợp với "Dấu chân voi" ở trước. Đoạn văn này sơ lược ít. Nếu nói đủ thì nên nói "Tưởng vô thường, khổ, vô ngã này cũng giống như vậy".
Trong văn, y theo mở đầu và nói vô thường. Vô thường này thật ra là tuệ, vì là tưởng, danh, thuyết.
Vì sao? Vì các tâm, tâm pháp là tưởng, thọ, danh. Như thể của bốn Niệm xứ, thật sự là tuệ, mà "Danh" là niệm. Tuệ này cũng đồng với vô thường kia. Lại nữa, tuệ này lấy tướng danh, tưởng, bậc nhất trong các tưởng, nghĩa là trên hết trong hợp với tất cả dấu chân ở trước.
Sau đây là nói lên tướng tốt đẹp hơn: "Nếu có người nào siêng tu, thì sẽ dứt bỏ dục ái, cho đến kiêu căng, ngã mạn", nói về công năng dứt trừ phiền não, "Tu đạo" được quả hữu dư: dục ái của cõi Dục, sắc ái của cõi Sắc, sử tham của ba cõi. Vô minh và kiêu mạn là hai sử si và mạn trong ba cõi. Sân ở cõi Dục, khi chứng được Nahoàn rồi thì sẽ dứt trừ, nên lược qua không nói.
Tu tưởng vô thường, thì sẽ diệt được sân, cũng dứt luôn kiến hoặc. Trong văn nêu đầu, cuối tức có thể biết. Tưởng vô thường, là nói về trí "Năng diệt" chứng quả vô dư, cũng tiêu diệt các tưởng khổ, không, vô ngã, nên nói là vô thường.
Sau đây là đoạn ba, thưa hỏi để phá nghĩa an trụ của Như lai nói Phật chắc chắn diệt độ, trở thành chân pháp vô thường bậc nhất ở trước. Y theo Bát-nhã trong ba việc để thưa hỏi, phá nghĩa trụ lại. Các nghĩa khác, so sánh rất dễ hiểu). Nhưng ở đây y theo tưởng vô thường ở trước, để nêu lên câu hỏi tới lui, vì tưởng vô thường và Bát-nhã đồng là tuệ.
Ý câu hỏi thế nào? Nếu Như lai lìa tưởng vô thường này, lại có pháp Thường, an trụ trong đó, thì sẽ không diệt, nay lẽ ra không nhập Niết-bàn. Nay, nhập Niết-bàn là nói Đức Phật lìa tưởng vô thường này, lại có pháp vô thường để an trụ? Nếu Phật không lìa tưởng vô thường này rốt ráo an trụ trong tư tưởng như vậy, thì tưởng này là thường, không thể đoạn diệt?
Vì sao giáo xưa nói tu tưởng vô thường, có công năng dứt trừ phiền não và tưởng vô thường. Tu tưởng vô thường, lại có công năng tiêu diệt tư tưởng vô thường. Vậy, an trụ ở chỗ nào mà nói không lìa? Lìa và không lìa, đều là nghĩa vô trụ, là nói Phật chắc chắn diệt độ. Vì Đức Phật chắc chắn diệt độ, nên lý vô thường chắc chắn là chân pháp vô thường.
Đoạn thứ tư, trong phần chỉ rõ lại năng quán, trước là khen đúng, sau là nhắc lại để kết.
Trong phần trước, trước là thí dụ nói dấu chân voi trên để phá rộng, nên cao siêu hơn. Đây là nói về mùa thu, canh tác đất một cách trọn vẹn, hết sạch cỏ dại. Sau đây là hợp rất dễ hiểu. Trong phần nhắc lại kiết ở dưới, trước là nhắc lại dụ cày ruộng, nương vào lời nói tiện lợi, kế là, nêu thí dụ dấu chân voi.
Đối với các tưởng v.v... trở xuống là tổng hợp làm sáng tỏ những việc tốt đẹp hơn.
Trong đoạn hai, nêu "Hoặc" để thỉnh, văn chia làm năm:
Hai phần đầu, bày tỏ vô minh của mình chưa dứt bỏ mà thỉnh Phật trụ lại để dứt bỏ. Hai phần kế là, bốn trụ của mình chưa tiêu mất, nên thỉnh Phật trụ lại.
Một phần sau, nói về tưởng điên đảo của mình chưa dứt trừ nên thỉnh Phật trụ lại để dứt trừ.
Do đâu mà Tỳ-kheo nêu lên việc thỉnh Phật trụ lại để dứt trừ điên đảo?
Do Phật đã nói trong đoạt riêng nhân ở trước rằng: "Mười lực đã dứt mất thì các thầy sẽ bị vô minh che lấp! Cho nên nêu vô minh, để thỉnh Phật trụ lại, để dứt vô minh." Do trước đây Phật đã nói: "Pháp của ta là thuốc hay của người bệnh, nên nêu tưởng điên đảo thỉnh Phật trụ lại để dứt trừ cho."
Hỏi: Kinh nói: "Nhị thừa có khả năng dứt bốn trụ phiền não, Tỳ-kheo lẽ ra không có. Nay, vì sao lại thỉnh Phật trụ lại để dứt bốn trụ cho?
Giải thích: Bốn trụ có thô, có tế. Thô là từ lâu rồi không có, tế thì vẫn còn, cho nên nay xin Phật dứt cho.
Lại hỏi: Tưởng điên đảo chẳng khác gì với bốn trụ vô minh ở trước, sao lại thỉnh đoạn riêng?
Giải thích: Tưởng điên đảo là vô minh khởi, vì là nhân của bốn trụ, nên thỉnh dứt riêng.
Làm sao biết được?
Như Địa Trì chép: "Đúng thật như vậy, phàm phu không biết, mới khởi tám tướng giả dối, nên biết được tư tưởng điên đảo là vô minh khởi, tức Nhị thừa kia nói tám thứ vọng tưởng có công năng sinh ra kiến, mạn, giận dữ, si mê, nên biết được tưởng điên đảo là nhân của bốn trụ."
Hai trụ đầu trong năm trụ có gì khác nhau? Một trụ trước nói rõ vô minh của mình chưa dứt, một trụ sau, chứng tỏ rằng vô minh của mình vẫn còn nên không được ba việc Niết-bàn của Như lai.
Kế là, hai trụ đâu có khác nhau, vì trụ trước, đã bày tỏ bốn trụ của mình vẫn còn, nên không được yên vui, thành ra có năm phần.
Y theo lần thỉnh đầu, trước là lập dụ. Đế vương dụ cho Đức Phật, nhận biết sau cùng, vì có lịnh ân xá, nên được ra khỏi tù: Dụ cho Phật sắp nhập diệt, ứng thân giáo hóa chúng sinh, dứt trừ vô minh.
"Nay, Như lai v.v..." trở xuống, là y theo dụ để cầu Phật.
"Nay, chúng con v.v..." trở xuống, là bày tỏ mình chưa phát ra lời thưa hỏi để thỉnh Phật trụ lại."
Trong lần thỉnh cầu thứ hai, trước là lập dụ, như người bị quỷ bắt giữ. Tỳ-kheo, dụ cho mình bị vô minh ràng buộc, gặp chú sư giỏi, nhờ năng lực chú mà dứt trừ, dụ cho Đức Phật, có khả năng cứu giúp, ít nhất là một thân trong đây được yên vui.
Sau đây là y theo cầu Phật, Như lai cũng giống như vậy, hợp với chú sư giỏi. "Vì Thanh văn v.v... cầu Phật, đồng với năng lực chú trừ quỷ ở trước."
"Làm cho được yên v.v..." trở xuống, là rất giống với người bệnh, thân được yên vui. Ở đây, nêu Bát-nhã và giải thoát, ngang với pháp thân, như chữ Y của thế gian. Y theo dụ, cho pháp riêng. Ba việc của Đại thừa, như chữ Y của thế gian. Ba việc của Tiểu thừa, hoặc "Ngang", hoặc "Đều", hoặc khác nhau, không giống với chữ Y. Nay nói "Như Y", tức là chứng tỏ khác với ba việc của Tiểu thừa.
Trong lần thỉnh thứ ba, trước là lập dụ: "Ta chưa v.v..." trở xuống là nói ta chưa đồng.
"Vì sao v.v..." trở xuống, là thưa thỉnh Phật trụ lại. Trong dụ, "Như voi bị người trói buộc": Dụ cho Phật, Bồ-tát vốn bị bốn trụ phiền não ràng buộc. Người dụ cho cảnh "Hoặc" xiềng xích dụ cho "Hoặc". Ràng buộc tâm, gọi là phược. "Dù có thầy thuốc, nhưng không thể chế phục, dụ cho năm dục trên và các ma v.v... không thể ràng buộc. Cắt đứt xiềng xích tự do ra đi: Dụ cho Phật, Bồ-tát đã dứt chướng ra đi.
Kế là, y theo thí dụ trước, nói lên mình chưa đồng: "Ta chưa được như vậy, chưa đồng với hương tượng."
Chưa thoát khỏi năm mươi bảy phiền não: Tự mình chưa thấy văn, có người truyền rằng: "Xuất xứ từ Đức Phật Tỳ-bà-sa. Phật Tỳ-bà-sa có mười tám quyển, luận nói kiến hoặc có năm mươi, cái gọi là mười sử làm mê hoặc, che lấp năm ấm. Tu hoặc có bảy. Cõi Dục có bốn: Tham, giận, si, mạn. Cõi trên có ba, dứt trừ sân còn thừa, về nghĩa rất khế hợp ý chỉ của luận Tỳ-bà-sa. Trong kinh lục không nói nên không biết đúng sai.
"Thế nào v.v..." trở xuống, là thỉnh Phật trụ lại.
Trong lần thỉnh thứ tư, cũng trước lập dụ. Kế là y cứ nói lên mình. "Thế nào v.v..." trở xuống, là thỉnh Phật trụ lại. Trong dụ, đầu tiên nói: "Như người bị mụt nhọt, dụ cho Phật, Bồ-tát vốn bị kiết sử ràng buộc. Chúng sai khiến nhỏ nhiệm trong tâm, chưa phát ra như mụt ghẻ. Gặp thầy thuốc thì khổ sẽ được tiêu trừ, dụ cho Phật, Bồtát, gặp Phật quá khứ, nghe pháp, các chướng đều dứt trừ.
Kế là y cứ nói lên mình: "Ta cũng bị nhiều các thứ bệnh v.v... như vậy, là nói lên mình đồng với người bệnh ở trước. Kiết dư thưa của bốn trụ, gây nên tai hại ràng buộc thân, tâm, gọi là nhiều bệnh khổ. Kiến là tà mạng, ái là bệnh nhiệt.
"Dù đã gặp v.v..." trở xuống, là thưa thỉnh Phật trụ lại thế gian. Trong lần thỉnh thứ năm, đầu tiên là lập dụ, kế là hiển bày pháp, sau là thỉnh Phật trụ lại.
Trong dụ có hai:
1. Dụ cho mình mê hoặc.
2. "Lúc ấy, có thầy thuốc và thuốc v.v..." trở xuống, là dụ cho Phật năng trị.
Trong phần trước, ban đầu nói: "Ví như người say rượu" là nêu việc dụ kia. Người say rượu dụ cho mình. Vô minh trụ địa và căn, trần giả dối có khả năng sinh ra tưởng điên đảo, dụ như rượu. Tâm "Hoặc" khởi vọng, nói tâm là say.
Sau đây, là nói về lỗi của say, có ba lỗi:
1. Dụ cho khởi phiền não.
2. "Nói năng v.v..." trở xuống là dụ cho gây ra nghiệp.
3. "Nằm trên phân nhơ v.v..." trở xuống là dụ cho chịu khổ. Trong khởi phiền não, không tự hay biết, không biết kẻ thân, người sơ, mẹ, người nữ, chị, em gái, dụ cho mình có si mê, không biết tự thể Như lai tạng tánh vốn vắng lặng vô vi, gọi là không tự biết. Không biết tâm vọng do mê chân mà khởi, gọi là không biết gần. Không biết cảnh vọng từ tâm vọng mà sinh, gọi là không biết xa. Vì không biết các pháp này nên gọi là si mê. Dâm dục quá độ, dụ cho nghĩ là điên đảo. Tưởng là tám vọng, như Địa Trì nói: "Trong dụ gây ra nghiệp, lời nói là khẩu nghiệp. Buông lung là thân nghiệp. Sự chịu khổ, có thể biết là dường nào.
Đoạn hai, trong phần nói về dụ Đức Phật, có khả năng trị, đầu tiên là trị thể của say rượu. Lại tự mình trở xuống là dứt trừ lỗi của say rượu. Trong chữa trị thể của say rượu, thầy thuốc dụ cho Phật. Nói pháp, truyền trao cho người, gọi là cho thuốc uống. Thọ pháp, tu hành, gọi là uống thuốc, lìa "Hoặc" si mê, không chạy theo cảnh giả dối, gọi là mửa ra rượu.
Trong phần dứt trừ lỗi say, tỏ ngộ, tự thể, bản tánh thanh tịnh, gọi là tự nhớ lại, trái với ở trước nói "Không tự hay biết", biết rõ thân sơ gọi đó là biết, trái với trước không biết thân sơ. Tâm biết hổ thẹn, tự khắc phục mình v.v... sâu sắc, trái với mê muội, dâm loạn...
Trong phần nói năng buông thả, nằm trên phân nhơ, lược qua không dịch.
Sau đây, làm sáng tỏ pháp, trong đó lại có hai:
1. Y theo dụ trước, nói về mê hoặc của mình.
2. Y theo dụ sau, nói Phật là năng trị, thỉnh Phật nói pháp. Trong phần trước, trước là hợp thí dụ như người say.
"Ta cũng như vậy" là hợp với người trước. Từ dĩ vãng xa xưa đến nay, bị say đắm bởi sắc, là hợp với say ở trước. Dựa vào rượu này mà sinh ra "Hoặc" kiết, gây rối loạn tâm mình, gọi là tình say sắc.
Sau đây là hợp với lỗi say: không tự hay biết, không biết được gần v.v..., lược qua mà không hợp.
Tham đắm năm dục, hợp với dâm loạn ở trước: Chẳng phải mẹ nghĩ là mẹ, cho đến chẳng phải chúng sinh, mà nghĩ là chúng sinh, hợp với mê muội, dâm loạn quá độ ở trước. Lời nói buông thả, lược qua mà không hợp.
"Cho nên, trôi lăn, chịu khổ sinh tử, hợp với nằm trên phân nhơ." "Như người say kia", là nêu dụ để kết hợp.
Từ sau đây, là đoạn hai, y theo thí dụ thầy thuốc năng chữa trị ở trước, thỉnh Phật nói pháp. Nay, Như lai sẽ cho con thuốc pháp, thỉnh đồng với thầy thuốc cho thuốc uống, làm cho con lại mửa ra rượu phiền não, hợp với uống rồi mửa ra.
"Mà con chưa v.v..." trở xuống, là nói lên mình chưa đồng với người đã tỉnh ngộ, nên thưa thỉnh Phật trụ lại.
Y theo phần khen mình để thỉnh ở đoạn ba, văn được chia làm ba:
1. Tỳ-kheo nhân lời Phật nói ở trên: "Các thầy gặp ta, không nên buông lung, không nên để thời gian luống qua vô ích", rồi tự khen mình khéo tu, muốn cho Như lai nói trái lại với thắng tu.
2. Như lai nói lại lời khen của mình.
3. Tỳ-kheo Nghe Phật khen, do lời nói, mà khởi lỗi.
Y theo đoạn đầu có năm lần "Lại nữa". Ba lần "Lại nữa" trước là khen mình khéo tu, hai lần "Lại nữa" sau nói về việc tu của mình cao siêu.
Lại, y theo phần trước, một lần "Lại nữa" đầu là trách tình, làm rõ lý, để nói lên mình khéo tu. Hai lần "Lại nữa" sau, quán pháp lìa "Ngã" để nói lên mình khéo tu.
Trong phần trước, trước là dụ, kế là hợp làm rõ pháp. "Chúng con v.v..." trở xuống, là kết mình khéo tu.
Trong dụ, "như người khen cây chuối cho là chắc thật, dụ cho phàm phu chấp ngã. Cây chuối dụ cho thân, nói ngã là thật, thì không có việc đó, tức trách mình để làm rõ lý. Trong hợp, chúng sinh hợp với người nói trên. Nếu khen chúng con thì hợp với khen cây chuối cho là chắc thật, "Cũng không có việc đó" hợp với không có việc này.
"Chúng con v.v..." trở xuống, kết thúc khen mình khéo tu. Cũng có thể tu tập tưởng vô thường v.v..., vô ngã đối trị cao hơn, cho nên nói nghiêng về.
Y theo hai lần "Lại nữa" sau, một lần "Lại nữa" trước là quán pháp năm ấm không có tác dụng của ngã. Trước dụ, sau hợp. Một lần "Lại nữa" sau là quán pháp năm ấm không có thể của ngã. Trước dụ, kế là hợp.
"Chúng con v.v..." trở xuống, là kết khen mình đã khéo tu. Hai lần "Lại nữa" sau, trong phần khen mình đã thắng tu, một lần "Lại nữa" trước, vì có công năng trừ tu hoặc, nên cao quý hơn, trong đó, dẫn giáo xưa mà Phật đã nói để làm rõ. Tham, sân, si, mạn ở đây đều dứt trừ. Vả lại nói dứt trừ mạn, các phiền não khác, so sánh dễ hiểu. Một lần "Lại nữa" sau vì có công năng dứt trừ "Kiến hoặc" cho nên cao hơn. Trước là dụ, sau là hợp: Tu tưởng vô ngã, hợp với không ở trước. "Mà có các kiến, thì không có việc đó" hợp với "Dấu chân chim hiện ra ở trên, là không có việc đó."
Đoạn ba, trong lời nói khởi lỗi lầm, đầu tiên là khởi lỗi. "Như người say rượu v.v... trở xuống, nói mình là đúng, con người là sai. Trước khởi lỗi, là khởi những lỗi nào? Vì Đức Phật khen Tỳ-kheo kia đã khéo tu vô ngã trong pháp hữu vi. Vì đối với Phật địa, vì khởi lên bốn điên đảo vô vi như vô thường v.v..., nên gọi là khởi lỗi.
Tỳ-kheo bạch Phật: "Chúng con chẳng những tu tưởng vô ngã, mà còn tu tập các tưởng khác nữa. Chẳng những tu tưởng vô ngã trong ấm của phàm phu kia, mà còn tu tưởng vô thường, khổ, vô ngã v.v... trong ấm của quả Phật kia. Nhưng ở đây chính được gọi là nghĩ là vô thường, khổ, vô ngã v.v... đối với Phật địa, chẳng được gọi là nghĩ là vô thường, khổ, vô ngã v.v... trong pháp vô vi. Vì sao? Vì nếu biết vô vi thì sẽ không bao giờ nghĩ là điên đảo vô thường.
Vì sao không nói bất tịnh? Vì quán sự bất tịnh, nên không nói đến. Lại, đối với pháp vô lậu của Như lai, vì người thường không chấp nhận, cho là bất tịnh, cho nên không nói, về lý thật ra có đủ.
Hỏi: Tỳ-kheo đối với tất cả pháp mà Phật đã được, đều khởi lên ý nghĩ này hay có khi không khởi?
Giải thích: Tỳ-kheo đối với Niết-bàn số diệt mà Phật đã chứng đắc, chỉ nghĩ là vô ngã, không bao giờ chấp là vô thường, khổ v.v... Đối với trí của thân Phật, khởi đủ các tư tưởng điên đảo, vì cho rằng mình đã được kính mến như Phật.
Y theo đây, thì mình là đúng, người là sai, đầu tiên, là người sai, sau mình là đúng. Trong phần trước, trước lập dụ người khác là sai. Người dụ cho phàm phu và các Bồ-tát. Si "Hoặc" làm rối loạn tâm, gọi là say. Tâm chí vẩn đục, buồn bực, gọi là tối tăm.
Núi, sông v.v... dụ cho năm ấm của phàm phu. Mặt trời, mặt trăng, sao, dụ cho năm ấm của Phật. Kiến giả dối gọi là kiến, chấp là pháp thường, lạc thanh tịnh trái với cảnh trước gọi là đều xoay trở lại, thấy núi sông, v.v... đều xoay trở lại, dụ cho phàm phu chấp năm ấm hạ địa là thường lạc, v.v..., quán mặt trời mặt trăng, v.v... đều xoay trở lại v.v... nhìn thấy núi, sông v.v... dụ cho các Bồ-tát chấp năm ấm của Phật là thường, lạc v.v... Vì các Thanh văn đều cho là điên đảo, nên gọi là xoay trở lại.
"Nếu không tu v.v..." trở xuống là pháp thuyết, người khác là sai.
Trước nêu phàm phu và các Bồ-tát là người không tu.
Sau đây là chỉ rõ sai lầm. "Người như thế không gọi là Thánh", là nói không có sự hiểu biết chân chính, thường buông lung là nói có lỗi tà vạy. Buông lung là nhân, sinh tử là quả.
"Nói người không tu là người buông lung kia, vì chứng tỏ mình tu, nên không gọi buông lung. Vì không buông lung, nên trên đây, Phật không nên nói "Ta buông lung".
Trên đây là người khác sai. Vì nhân duyên này, nên chúng con khéo tu. Tự là lời nói. Vì không tu tập tưởng vô thường v.v..., nên không gọi là Thánh. Vì phần nhiều các nhân duyên trôi lăn buông lung, nên hạnh con đã tu được, gọi là điều lành.
Trên đây là Tỳ-kheo tha thiết thỉnh Phật là lý do.
Sau đây là đoạn thứ tư, Như lai vì chúng nói thật nghĩa của bốn pháp, nhằm đáp lại lời thỉnh trên.
Dựa vào ba lần thỉnh trên, từ sau tới trước, theo thứ lớp, Phật đáp:
Trước là đối với lời tự khen trong đoạn ba, lại vì giảng nói pháp tu cao siêu. Hai là, Tỳ-kheo bạch Phật: "Như Phật đã nói, nếu lìa bốn điên đảo sẽ biết được thường, lạc, ngã v.v... trở xuống, là đối với lời thỉnh Phật trụ lại lần thứ hai ở trước, nói mình không ở lại. Ba là, "Các thầy phải biết rằng, vô thường, khổ v.v... mà các thầy đã tu tập ở trước chẳng phải chân thật v.v... trở xuống, là đối với sự phân biệt lời khen thứ nhất ở trên về lời thỉnh giáo xưa. Trong phần đầu, Như lai trước dạy phải lắng nghe cho kỹ, sau giảng nói cho chúng nghe. Trong thuyết có hai:
1. Đoạt ngụy xưa để tu.
2. "Thế nào là nghĩa vô ngã, gọi là sinh tử v.v...?" trở xuống, Phật bảo các Tỳ-kheo phải tu chân.
Trong phần trước lại có hai:
1. Nói vì Tỳ-kheo đầy đủ tám điên đảo, nên tu chẳng chân.
2. "Thế gian cũng có thường, lạc, ngã v.v..." trở xuống, là nói lên tám đảo kia dựa vào ba đảo nảy mà sinh.
Trong phần trước lại có hai:
1. Đối với "Mình đúng, người sai" của Tỳ-kheo ở trước là nói trong pháp vô vi của các Tỳ-kheo có đủ bốn đảo.
2. "Nếu các thầy nói: "Tôi cũng tu v.v..." trở xuống là đối với Tỳ-kheo trên, do lời nói, mà khởi lỗi, là nói trong pháp hữu vi của Tỳ-kheo đã có đủ bốn đảo. Bốn đảo hữu vi vẫn chưa dứt bỏ, sao lại dám tự khen rằng:
"Chúng con đã khéo tu vô thường, khổ v.v...?" Trong phần trước đã có ba:
1. Nhắc lại để quở trách chung.
2. "Thế nào là nghĩa v.v...?" trở xuống là nói về không thông đạt.
Tỳ-kheo các thầy sao lại nói có tưởng ngã v.v..." trở xuống là nói chung để kết thúc quở trách.
Trong phần đầu, các thầy hãy nhắm vào thí dụ say rượu mà ta đã dẫn, nhắc lại lời "Người khác" là quấy của Tỳ-kheo ở trước. "Chỉ biết văn tự, không thấu đạt ý nghĩa", nghĩa là Đức Phật quở trách các Tỳ-kheo để chỉ rõ lỗi lầm, cái gọi là "chỉ biết xoay lại danh tự. "Không thấu đạt danh v.v..." trở xuống, không phải là nghĩa xoay lại.
Phần hai, trong giải thích rộng: "Thế nào là nghĩa?", là thưa hỏi để khởi phát. Câu hỏi này không đủ. Nếu cụ thể, thì nên hỏi: "Thế nào là không thấu đạt, thế nào gọi là nghĩa chưa thấu đạt?" Y theo lời hỏi này, thì câu đáp nên như vậy. Sau đây là lời đáp để làm rõ:
Trước là đáp câu hỏi thiếu ở trước, để nói về việc chưa thấu đạt. "Tôi là v.v..." trở xuống là đáp câu hỏi đã có trong văn trước, để nói về ý nghĩa của câu hỏi đó.
Trong phần trước, trước là nói các Tỳ-kheo tự mình xoay lại. Kế là, là nói không thấu đạt. Sau là dùng thí dụ để nói trong phần xoay lại, "Như người say rượu kia nhìn thấy mặt trời, mặt trăng thật ra chẳng xoay ngược trở lại, mà nghĩ là xoay ngược trở lại: Là nhắc lại lời nói "Người khác là sai" của Tỳ-kheo ở trước. Tỳ-kheo ở trước nói là đã nhìn thấy núi, sông v.v... đều quay ngược trở lại. Nay, vì sao ở đây chỉ nêu mặt trời, mặt trăng?
Giải thích:
Núi sông, cho đến nhà cửa là dụ cho năm ấm của phàm phu. Mặt trời, mặt trăng, sao, là dụ cho năm ấm của Phật. Đối với năm ấm của phàm phu, chấp là thường, lạc v.v..., gọi là xoay ngược lại, nghĩa là với đạo lý đúng, không cần sai quấy, chê bai, ở đây không nhắc lại. Thấy năm ấm của Phật là thường, lạc v.v... gọi là xoay ngược lại, nghĩa là vì trái với pháp lý, cho nên nhắc lại nghiêng về một bên, để tìm lỗi của Tỳ-kheo.
"Chúng sinh cũng v.v... trở xuống là y theo thí dụ ở trước để nói các Tỳ-kheo tự mình xoay ngược lại. "Chúng sinh cũng giống như vậy" hợp với người say rượu ở trước. Ở đây, nói Tỳ-kheo cho là chúng sinh đều bị phiền não vô minh che lấp, hợp với phiền não là thể của say ở trước. Bốn trụ vô minh, tức là Vô minh trụ địa. "Sinh ra điên đảo v.v..." trở xuống là hợp với xoay ngược trở lại ở trước. Sinh tâm điên đảo, là nói chung về xoay ngược trở lại: "Ngã", chấp là vô ngã, cho đến chấp khổ là nói riêng về xoay ngược trở lại.
Sau đây, là nói về không thấu đạt:
"Vì bị phiền não che lấp" là lý do không thấu đạt. "Dù sinh ra tư tưởng này, nhưng không thấu đạt nghĩa", chính là nói không thấu đạt. Dù sinh ra tư tưởng vô thường, vô ngã v.v..., nhưng không thấu suốt nghĩa thường, lạc, ngã, tịnh. "Như người say rượu kia", là nêu dụ để làm dấu hiệu.
Ở trên, đã nói về chưa thấu đạt, sau đây, là nói về nghĩa:
Thường, lạc, ngã, tịnh, về lý, thật ra là chung khắp cho tất cả Phật pháp. Nhưng, nay ẩn, hiển, nên ta chỉ y cứ nghiêng một bên là con người, ba nghĩa còn lại, y theo pháp.
"Ta là Phật": tự tại gọi là "Ngã". Vì tác dụng tự tại đối với người Phật, nên gọi là "Ngã". Lại nữa, vì "Ngã" là tên khác của người, nên y theo người Phật mà nói là "Ngã".
Pháp thân thường: Pháp thân là thể của Phật, rõ ràng vốn do pháp mà thành. Tánh phát ra từ xưa, thể không có đổi khác, nói về nghĩa thường sáng tỏ, nên nói là Thường.
Niết-bàn là vui: Niết-bàn là diệt, diệt lìa các khổ, nghĩa là vắng lặng, yên vui rõ ràng, nên nói là "Lạc". Tịnh là pháp: Thể của Pháp bảo trong Tam bảo, vì có công năng đối trị nhiễm nhơ, nên nói là Tịnh.
Trên đây là đoạn hai, nói rộng về chưa thấu đạt.
"Các thầy v.v..." trở xuống là nói chung để kết thúc quở trách. "Ngã" là nghĩa Phật, khéo nhận lấy "Ngã", là xứng đáng với nghĩa Phật. Tỳ-kheo các thầy sao lại nói là có tưởng "Ngã"? là kiêu mạn, cống cao, trôi lăn trong sinh tử. Lời nói trên của Tỳ-kheo, nếu có ai không tu khổ, vô thường v.v... thì gọi là có tư tưởng "Ngã". Lẽ ra cũng nói là tư tưởng vô thường v.v... Đối với nghĩa "Ngã" ban đầu nếu nói là tưởng "Ngã", thì lời nói trên đây của Tỳ-kheo phần nhiều là buông lung, nên gọi là cống cao, ngã mạn.
Sau đây, là nói Tỳ-kheo đã có đầy đủ bốn đảo trong pháp hữu vi.
Trong văn có ba:
1. Quở cái "Ngã" mà Tỳ-kheo chấp.
2. "Ta sẽ v.v..." trở xuống, là nêu chân để làm rõ ngụy.
3. "Khổ chấp cho là vui v.v..." trở xuống, chính là nói về Tỳ-kheo đầy đủ bốn đảo trong pháp hữu vi, không nên khen mình khéo tu khổ v.v...
Y theo đoạn đầu, "Nếu các thầy nói: "Ta cũng tu tập vô thường, khổ v.v..." là nhắc lại lời nói trên của Tỳ-kheo. Lời nói trên của Tỳ-kheo là chúng con chẳng những tu tưởng vô ngã mà còn tu tập các tưởng khác nữa, đó là tưởng vô thường, khổ, vô ngã v.v... Vì thế nay nhắc lại.
Ba thứ tu này không có nghĩa thật, dùng lý để quở trách. Vì đối với trong pháp thường lạc, ngã, tịnh mà tu khổ v.v..., nên không có nghĩa thật.
Vì sao không nói bất tịnh? Nghĩa như trên đã giải thích.
Trong đoạn hai, "Nay ta sẽ nói ba pháp tu cao siêu", nghĩa là sau đây sẽ nói bốn tu: thường, lạc, ngã, tịnh, nhưng trái với tu ba ngụy ở trước, nên nói là ba. Nói là mình sẽ nói ba pháp tu cao siêu hơn, tức nói lên pháp mà Tỳ-kheo tu là không thật.
Trong đoạn ba, văn lại có ba:
1. Nêu rộng tám đảo.
2. "Có như vậy v.v..." trở xuống là nói về bốn đảo hữu vi trong tám đảo, không biết tu chân chánh.
3. "Tỳ-kheo các thầy đối với pháp khổ v.v..." trở xuống, là kết bốn đảo kia thuộc về các Tỳ-kheo. Đáng ra trong phần đầu, trước phải giải nghĩa của tám đảo, rồi mới giải thích văn, nghĩa như chương riêng.
Trong văn Đầu tiên nói: "Khổ chấp là vui, vui chấp là khổ là pháp điên đảo: sinh tử là thật khổ, chấp giả dối là vui. Niết-bàn thật vui, mà chấp ngang trái là khổ, nên thuộc về điên đảo. Ba pháp còn lại, so sánh cũng như vậy.
Ở trước đã nói về bốn đảo vô vi, nay ở đây vì sao nói lại? Vì mới nêu ở trước để so sánh ở sau, cho nên như vậy. Tỳ-kheo chẳng những đầy đủ bốn điên đảo trong pháp vô vi, mà cũng đủ bốn điên đảo trong pháp hữu vi, cho nên nêu chung. Lại, sợ người nghe nói thường, lạc, ngã, tịnh là điên đảo, hoàn toàn nhập vào bốn điên đảo: Khổ, vô thường v.v... Vì ngăn dứt lỗi này, nên nói tám thứ đều là điên đảo.
Trong đoạn hai, "Có pháp của bốn đảo như thế v.v..." là y cứ nhắc lại riêng bốn đảo hữu vi trong tám đảo ở trước.
"Người này chẳng biết pháp tu chân chính", là không biết bốn tu vi tế: Vô thường, khổ, vô ngã v.v... Lại cũng không biết bốn thứ tu chân: Thường, lạc, ngã, tịnh.
Đoạn ba là kết đảo, thuộc về các Tỳ-kheo.
Tỳ-kheo các thầy cảm thấy vui trong khổ, cho đến bất tịnh, mà nghĩ là tịnh, giải thích có hai nghĩa:
1. Nói theo phạm vi của chúng sinh. Dù Tỳ-kheo quán "Chúng sinh là không", dứt bỏ chánh sử, nhưng vì tập khi chưa hết, nên nghĩ là thường, lạc, ngã, tịnh v.v... 2. Nói theo phạm vi của các pháp thì các Tỳ-kheo vì đều chưa được "Pháp không", nên nghĩ là bốn đảo thường, lạc v.v... đối với các pháp. Vì không biết tự tánh của pháp là vô thường, nên nghĩ là thường. Vì không biết tự tánh các pháp là hoại khổ, tập không thật, hành khổ, nên nghĩ là vui. Vì chẳng biết "Pháp không, nên nghĩ là "Ngã". Không biết tướng định của các pháp vốn vắng lặng, nên nghĩ là tịnh. "Tưởng này chưa dứt trừ, làm sao lại tự khen khéo tu vô thượng, vô ngã v.v... ư?"
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói các Tỳ-kheo có đủ tám đảo. Dưới đây là đoạn hai, chỉ rõ tám đảo kia sinh ra từ ba đảo.
Tám đảo, ba đảo có gì khác nhau mà nói là dựa vào ba đảo, mà sinh ra tám đảo?
Ba đảo trong đây là đảo mê lý, mê các pháp "Như", lập ra pháp tướng sinh tử, Niết-bàn, khác với ba đảo mà Tiểu thừa nói. Tám đảo là đảo của mê pháp tướng kia, mê pháp nhiễm sinh tử đã lập ở trước mà lập ra thường v.v... Đối với pháp do ba đảo lập ra mà khởi tám đảo, nên nói dựa vào sinh.
Trong văn, đầu tiên là nói bốn đảo hữu vi dựa vào ba đảo mà sinh. "Vì ba đảo v.v..." trở xuống là nói về đảo vô vi dựa vào ba đảo mà sinh.
Trong phần trước có bốn:
1. Nói thế gian và xuất thế gian đều có thường, lạc, ngã, tịnh.
2. Chia ra hư và thật, Thường v.v... của thế gian có chữ, không có nghĩa. Thường v.v... của xuất thế, có chữ, có nghĩa.
3. "Vì sao v.v..." trở xuống, là giải thích lý do thế gian không có nghĩa, trong đó, trước là hỏi: Vì sao thế gian nghiêng về một bên, vô nghĩa? Sau đây là giải đáp. Vì có bốn điên đảo: thường, lạc, ngã, tịnh, không biết được nghĩa đúng của thường chân thật v.v..., cho nên là không.
4. "Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích lý do thế gian có điên đảo. Chính là nói về bốn đảo dựa vào ba đảo mà sinh, trong đó, trước hỏi lý do vì sao thế gian có bốn điên đảo? Sau đây, là giải đáp:
Vì có tâm tưởng thấy đảo, cho nên như vậy. Thể của bảy thức tâm là đảo của tâm kia. Chấp lấy tướng pháp giả dối, gọi là tưởng đảo. Đối với tướng bị chấp lấy, lập ra nhất định thật, gọi là kiến đảo. Cũng có thể vọng tưởng, cho là có các pháp, gọi là tưởng đảo. Lại khởi tâm duyên, "duyên" với chỗ tưởng ở trước, gọi là tâm đảo. Đối với "Sở duyên" của tâm, chấp chắc chắn rõ ràng, gọi là kiến đảo. (Rộng như chương riêng). Ở đây, nên nói đủ.
Sau đây là nói về bốn đảo vô vi kia nương vào ba đảo mà sinh. Về câu được chia thành hai:
1. Nói người đời vì ba đảo, nên trong vui thấy khổ, cho đến trong tịnh thấy bất tịnh.
2. "Vì điên đảo v.v..." trở xuống là nói về thế gian kia có điên đảo, nên chỉ biết qua danh từ vô thường, khổ v.v..., chứ không biết được nghĩa đúng của thường, lạc, ngã, tịnh.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đã đoạt phá ngụy xưa, để tu. Dưới đây là đoạn lớn thứ hai, Đức Phật dạy Tỳ-kheo tu chân, trong đó có ba:
1. Nói rộng nghĩa thật của tám pháp.
"Đây gọi v.v..." trở xuống là y theo nghĩa để nói về tu.
2. "Nếu muốn v.v..." trở xuống là y theo đối tượng tu, phân biệt pháp vượt hơn, khuyên học.
Trong phần đầu, trước hỏi: "Thế nào là nghĩa?" Sau đây, là đối đáp, cắt nghĩa, giải thích. Ý chính trong đây là nói về bốn nghĩa: Thường, lạc, ngã, tịnh.
Y theo đối đáp, để giải thích nói chung về khổ v.v... Thường, lạc, ngã, tịnh về lý thật ra đều thông đạt, nhưng nay ẩn, hiện. Như lai gọi là "Ngã", về nghĩa thì đồng với cách giải thích ở trước. Pháp thân gọi là thường, cũng như giải thích ở trên. Niết-bàn gọi là lạc. Vì lìa hẳn khổ, nên pháp bảo gọi là tịnh, vì có công năng đối trị chướng. Khổ, vô thường v.v... về lý, cũng ngang bằng, thông đạt. Nhưng nay ẩn, hiện.
Y theo người sống chết, nói nghiêng về vô ngã, vì trôi lăn qua lại, không tự tại. Y theo người Nhị thừa, để giảng nói vô thường, vì cuối cùng cũng diệt. Theo người ngoại đạo, giảng nói khổ, vì việc làm của ngoại đạo là nhân khổ. Y cứ chung tất cả pháp hữu vi, để giảng nói bất tịnh, vì năng nhiễm ô.
Đoạn hai, là y theo nghĩa để nói về tu, đây gọi là không đảo. Y theo pháp để nói về tu. Vì như pháp, hiểu biết đúng, nên gọi là không đảo. Vì không đảo, nên biết chữ, nghĩa, nghĩa là biết danh của tám pháp, biết nghĩa của tám pháp mà không mê "Hoặc".
Đoạn ba, trong phân biệt vượt hơn, để khuyên học, là phân biệt thường v.v... để giúp người tu tập.
"Nếu muốn xa lìa bốn điên đảo, là lìa bốn đảo: Vô thường, khổ v.v... ở trước, ở trước nói Tỳ-kheo có đủ tám đảo. Nay, vì sao ở đây chỉ nói lìa bốn? Bốn thứ như vô thường v.v... mà Tỳ-kheo bảo thủ, chính là vì trái với thường, lạc, ngã, tịnh xuất thế, nên nghiêng về một bên. Bốn đảo như thường v.v... chẳng phải là đối tượng mà họ bảo thủ. Năng lực dù chưa bằng, nhưng vì sẽ sinh nhàm chán, dứt trừ, nên không nêu ra.
"Nên biết v.v..." trở xuống, là khuyên nên biết bốn nghĩa đúng như thường v.v...
Một đoạn trên đây là đáp lại lần thỉnh thứ ba của Tỳ-kheo ở trên. Dưới đây kế là đáp lại lần thỉnh có "Hoặc" thứ hai ở trước, nói
Đức Phật không trụ lại. Trong đó, Tỳ-kheo nhân ở trước, Đức Phật đã nói, thỉnh lại để khởi phát. Sau đây là Đức Phật đáp:
Trong thỉnh có bốn:
1. Tỳ-kheo bạch Phật, như Phật đã nói: "Người lìa bốn đảo, thì sẽ biết thường v.v...", là nêu lời Phật nói ở trước.
2. "Nay, Như lai không bao giờ có đảo v.v..." trở xuống, là nói Đức Phật đã lìa đảo, biết đủ về thường v.v...
3. "Nếu đã biết rõ thường, lạc v.v..." trở xuống, là thưa thỉnh Phật trụ lại. Nếu Phật đã biết thường, lạc, ngã, tịnh thì vì sao Ngài không trụ lại một kiếp rưỡi để dẫn dắt chúng con, mà muốn nhập Niết-bàn?
4. "Nếu không đoái nghĩ v.v..." trở xuống là phải thỉnh Phật trụ lại, trong đó, nêu ích lợi của việc trụ lại, cần phải thỉnh. Nếu Đức Phật trụ lại dạy con, về thường, lạc, tịnh v.v... thì con sẽ dốc lòng vâng lãnh tu tập.
"Nếu nhập v.v..." trở xuống là nêu Như lai ra đi, con sẽ bị tổn hại, cho nên phải thỉnh. Nếu Phật không ở lại mà nhập Niết-bàn thì chúng con đâu thể nào đồng ở chung với thân độc này mà tu trị phạm hạnh, con cũng sẽ theo Phật nhập Niết-bàn tận diệt. Ý văn đúng như vậy, không nhọc giải thích khác. Sau đây là Đức Phật đáp.
Nói chánh pháp của mình đều gửi gắm cho Ca-diếp, không cần ta ở lại, trong đó, trước là quở: "Các thầy không nên nói như vậy, Ta ở lại thì tu, không ở lại thì sẽ nhập diệt theo."
"Nay, Ta v.v..." trở xuống là nói về ý không trụ lại, trong đó, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp.
Trong pháp, trước là nói chánh pháp mà ta có đều gửi gắm cho Ca-diếp, về sau nói Ca-diếp làm y chỉ đồng với Phật.
"Hỏi rằng v.v..." trở xuống là nói tất cả Thanh văn và Đại Ca-diếp đều là thường, vô thường, nên gửi gắm Đại thừa cho các Bồ-tát để pháp sẽ được trụ lâu, không giao phó cho Thanh văn. Sao nay lại nói chánh pháp vô thượng đều trao cho Ca-diếp?
Giải thích: Trao cho pháp, có chia làm ba:
1. Y theo thời gian để phân biệt. Thời gian có hai thứ:
a. Đầu, cuối thường trao cho. Trao cho các Bồ-tát để các Bồ tát thường thọ trì, truyền bá không dứt, cho nên trao riêng. Đệ tử Thanh văn, đại Ca-diếp v.v... đều vô thường, không thể truyền bá, cho nên không trao cho.
b. Tùy thời gian trao cho riêng. Trao cho chúng Thanh văn và các Bồ-tát, như Phó Pháp Tạng nói: "Đệ tử Thanh văn dù không thể thường truyền bá chánh pháp, hóa độ, nhưng cũng có thể giúp sức hóa độ, làm lợi ích chúng sinh, nên trao chung." Nay, nói chánh pháp đều trao cho Ca-diếp. Về nghĩa thì thích hợp với môn sau, vì Bồ-tát Ca-diếp kia, đã mở rộng chánh pháp suốt trong hai mươi năm sau Phật diệt độ, nên Phật mới trao cho. Sau đó nói: "Đại thừa thì Phật trao cho các Bồ-tát. Về nghĩa thích hợp với môn trước."
2. Y theo người để phân biệt, nghĩa, được chia thành ba:
Phàm, Thánh được trao chung, như văn sau nói: "Nay, Như lai trao cho chánh pháp vô thượng, dặn dò các vị vua, đại thần, tể tướng, bốn bộ chúng v.v...
Bỏ phàm, trao Thánh, chỉ trao cho Thanh văn và các Bồ-tát, như Phó Pháp Tạng nói.
Bỏ Tiểu, trao cho Đại, chỉ trao cho Bồ-tát, như văn ở dưới nói:
Nay, trong văn này nói là trao cho Ca-diếp, về nghĩa hợp với đoạn hai. Dưới, trao cho Bồ-tát về nghĩa hợp với đoạn ba.
3. Y theo pháp để phân biệt, nghĩa được chia thành ba:
a. Đại, Tiểu phân biệt: Tiểu, trao cho Thanh văn, Đại trao cho Bồ-tát. Cho nên văn dưới nói: "Mười hai bộ kinh, chỉ có bộ Phương Quảng, được Bồ-tát giữ gìn, mười một bộ còn lại, được Nhị thừa giữ gìn.
b. Y theo Đại thừa cạn, sâu để phân biệt: cạn, trao cho Thanh văn, sâu trao cho Bồ-tát. Vì thế, Bồ-tát Long Thọ nói: "Nghĩa Bát-nhã cạn, phó chúng cho Thanh văn, nghĩa Pháp Hoa sâu, phó chúc cho các Bồ-tát. Bát-nhã phần nhiều nói về phá tướng, mà lý "Không" thì vẫn chưa làm sáng tỏ thật nghĩa, nên gọi là cạn thấp. Pháp Hoa nói, Thanh văn có khả năng thành Phật, chỉ bày rõ ràng Thanh văn có Phật tánh, nên gọi là sâu.
c. Y theo giáo nghĩa của thâm kinh để phân biệt, nói về giáo pháp của kinh, gửi gắm chung cho Thanh văn, riêng về nghĩa thì phó chúc cho Bồ-tát. Cho nên văn sau nói: "Nay, Phật hỏi A-nan muốn cho thọ trì kinh Đại Niết-bàn. Những điều Tỳ-kheo A-nan chưa nghe, Bồ-tát hoằng hóa sâu rộng, sẽ có khả năng truyền bá. Vì phó chúc pháp có nhiều nghĩa như thế, nên thuyết ở đây và thuyết sau khác nhau, về dụ, hợp rất dễ hiểu.
"Các thầy phải biết pháp đã tu trước v.v..." trở xuống là đoạn lớn thứ ba, đối với sự phân biệt của thỉnh giáo đầu tiên nói trên, trong đó, trước là chánh giáo lấy bỏ, dứt tâm chấp kia.
"Tỳ-kheo bạch v.v..." trở xuống, vì Tỳ-kheo mà Đức Phật hội thông suốt qua tâm ngờ vực của họ.
Trong phần trước có hai:
1. Đối với Tỳ-kheo ở trên tự khen mình xưa kia đã tu tưởng vô thường vượt hơn, dùng lý để quở đoạt.
2. "Dụ mùa xuân v.v..." trở xuống, là đối với Tỳ-kheo ở trước, khen từ xưa đã hiểu các pháp chân thật là vô thường, khổ, không, vô ngã, Phật bảo Tỳ-kheo phải phân biệt.
Trong phần đầu, "Phải biết rằng tưởng vô thường, khổ mà các thầy nói rằng đã tu tập ở trước chẳng phải chân thật. Dùng lý chánh để đoạt phá. Tưởng Vô ngã v.v... cũng chẳng phải chân thật. Lược bớt không nêu đủ.
Trong phần sau, trước là dụ, sau y cứ dạy khuyên. Trong dụ có ba:
1. Dụ tìm chân lấy ngụy.
2. Đem ra khỏi v.v... trở xuống, là dụ biết ngụy chẳng phải chân.
3. Lúc đó, viên ngọc báu vẫn còn ở dưới nước v.v... trở xuống, là dụ bỏ ngụy, lấy chân.
Trong dụ ở đoạn trước, thí dụ đầu là Văn tuệ, dụ kế là tư tuệ, sau là tu tuệ. Đức Phật lần đầu tiên xuất thế, gọi là mùa xuân. Tỳ-kheo chẳng phải một lần nói là vì mọi người. Giáo xưa là ao. Các Tỳ kheo v.v.... nương theo giáo mà dứt chướng, gọi là ao tắm. Các Tỳ kheo, v.v.... Tìm giáo khởi nghe, gọi là ngồi thuyền. Được pháp, tâm hớn hở, nói là dạo chơi. Nghe nói khổ v.v..., vì bị si mê che lấp các pháp chân thật: thường, lạc, ngã, tịnh, nên gọi là mất viên ngọc. Bị quyền giáo che lấp, gọi là chìm sâu dưới nước. Đây là dụ cho văn tuệ. Dưới đây là dụ cho tư tuệ.
Suy nghĩ giáo, để tìm nghĩa, gọi là cùng lội xuống ao nước để mò tìm viên ngọc báu này. Sau đây là dụ cho tu tuệ.
Người chứng riêng pháp, gọi là giành nhau nắm bắt. Đối tượng chứng là khổ v.v..., đều chẳng phải chân lý, gọi là sỏi, đá. Lấy ngụy làm chân, nên nói: "Tự cho rằng mình đã mò được viên ngọc lưu ly. Được pháp vừa lòng, cho nên vui mừng."
Thứ hai, là trong dụ biết ngụy chẳng phải chân, vì được chỉ thú, bỏ giải thích, nên nói "Đem ra khỏi" ngộ biết khổ v.v... chẳng phải là lẽ thật, gọi là biết chẳng phải chân.
Thứ ba, trong dụ bỏ ngụy lấy chân, lại thí dụ đầu là nghe. Kế là tư, sau là tu. Vì chân lý thường, lạc vẫn bị quyền giáo che lấp, nên nói viên ngọc báu vẫn còn ở dưới đáy nước. Do lý khác nhau, nên chia ra giáo quyền, thật, cho nên nói là do năng lực của viên ngọc tác dụng, làm cho nước được lắng trong. Một việc của nước so sánh với hai giáo: Vẩn đục, dụ cho Quyền giáo, trong dụ cho Thật giáo. Vì tìm tòi giải thích, tỏ ngộ được chỉ thú, nên nói là "Thấy viên ngọc".
"Vẫn còn ở dưới nước": Lý chưa tức tâm, nên nói: "Như quán hình dáng mặt trăng trên hư không. Đây là dụ cho văn tuệ. Kế là, dụ cho tư tuệ. Người hiểu được nghĩa Thường trong chúng Tỳ-kheo, cho là một người. Khéo quán sát để tìm chân, gọi là năng lực phương tiện, dựa vào giáo để xem xét, suy nghĩ gọi là yên định, thong thả nhập vào. Ở dưới, dụ cho tu tuệ, tu tâm chứng thật, gọi là liền được viên ngọc.
Sau đây, là y theo thí dụ ở trước, khuyên bảo Tỳ-kheo. Văn chia làm bốn:
1. Y theo thí dụ đầu, nhằm quở trách Tỳ-kheo chấp ngụy.
2. Y theo thí dụ thứ ba, Phật bảo các Tỳ-kheo nên lấy chân.
Y theo dụ thứ hai, Phật khuyên Tỳ-kheo phải nhận biết ngụy xưa.
3. Y theo thí dụ thứ ba, để khuyên hãy lấy chân nay. Trong phần đầu, Đức Phật nói: "Các ông không nên tu tập tưởng vô thường v.v... cho là thật", y theo dụ để quở. "Như người kia v.v..." trở xuống, là nêu thí dụ giống nhau để trách cứ.
"Các thầy phải khéo học phương tiện, chỗ nào cũng thường tu thường, lạc, tịnh v.v...", y theo thí dụ thứ ba, để bảo nên tu, hướng về thật, đời đời thường tu tập nên nói là nơi nào cũng. Lại, phải biết rằng, tướng trạng của bốn pháp mà Tỳ-kheo tu tập ở trước, đều là điên đảo.
Y theo thí dụ thứ hai, để khuyên chúng nên biết ngụy xưa. Sau đây, sẽ y theo dụ thứ ba, để khuyên chúng nên tu chân hiện nay.
"Muốn được tu các tưởng chân thật" là nêu điều mà chúng mong cầu, như người trí đem viên ngọc lên khỏi nước. Y theo thí dụ để khuyên, cái gọi là chúng con nói ra pháp sở tu. Sau đây, là hội thông.
Nay, nói vì khác xưa, nên phải hội thông, trong đó, y theo cặp "Ngã" và "Vô ngã" để hội ý thông qua, so sánh khác cũng dễ hiểu. Trước là, Tỳ-kheo hỏi, theo thuyết xưa nói: "Tu học vô ngã có ích, dứt được phiền não, nhập vào Niết-bàn". Nay, lại nói: "Ta cho là chân thật", nghĩa này thế nào?
Sau đây là Phật đáp: Trước khen, sau hội. Trong hội, trước dụ. Kế là hợp để làm rõ pháp.
"Như đại ý v.v..." trở xuống, là nêu để kết khuyên.
Trong dụ có hai:
1 Dụ thuyết xưa nói vô ngã.
2 "Về sau, không bao lâu, nhà vua lại bị bệnh v.v..." trở xuống, là dụ cho nay nói chân ngã. Trong phần trước lại có hai:
a. Dụ ngoại đạo nói "ngã".
Bấy giờ, có vị thầy thuốc từ xa mới đến v.v... trở xuống là dụ cho bậc Thánh nói vô ngã.
Trong phần ngoại đạo nói, như ông vua tối tăm, đần độn, là nói đối tượng hóa độ là ngu. Như Xá-lợi v.v... khi còn ở thế tục, đều có giúp sữa sai lãnh đạo, nên nói là vua. Bên trong không có giải tuệ, gọi là tối tăm, đần độn. Vì sự hiểu biết cạn, hẹp, nên nói là trí ít. "Có một thầy thuốc v.v..." trở xuống là nói năng hóa si, trong đó có bốn:
1. Năng hóa người si.
2. Sở hóa không phân biệt.
3. Nói lại năng hóa người si kia.
4. Bày tỏ lại sở hóa kia không phân biệt.
Y theo đoạn đầu, đồ chúng của lục sư Phú-lan-na v.v... đã dùng tà pháp để dạy bảo thế gian, gọi là thầy thuốc. Tâm không biết pháp, gọi là Ngu. Miệng không nói lời đứng đắn, mà huyên thuyên.
Dưới đây là đoạn hai, sở hóa không phân biệt, thêm vào đó cúng kính, cúng dường, gọi là "Ban cho bổng lộc".
Sau đây là đoạn ba, lại giải thích rộng năng hóa người si. Chữa lành các chứng bệnh, bằng cách dùng rặt sữa, không biết cách chữa trị rộng, nói "Ngã" là sữa.
Cũng lại không biết bệnh khởi v.v... trở xuống, là không biết chữa trị đúng. Trong đó, đầu tiên là nói "Không biết bệnh v.v..." là nói không nhận thức được bệnh. "Dù biết thuốc sữa, lại không hiểu rành", nói không phân biệt được thuốc, do đó, "Hầu hết các chứng bệnh phong, lạnh, nóng đều bảo người bệnh uống sữa", là nói không hiểu rõ cách chữa trị. Bệnh phong dụ cho sân, vì vội vã, gấp rút. Bệnh lạnh dụ cho si, do ngu si. Bệnh nóng, dụ cho tham, vì nung đốt tim gan. Phiền não chẳng phải một, gọi là tất cả bệnh. "Đều nói chấp ngã" là đều bảo uống sữa.
Dưới đây là đoạn thứ tư, nói lại sở hóa kia không phân biệt. Không phân biệt thầy thuốc này biết sữa ngon dở, tốt xấu: ngon, dở là y theo thể, tốt xấu là nói về công dụng.
Đoạn hai, trong dụ Thánh nói vô ngã, văn chia làm ba:
1. Dụ Như lai xuất hiện.
2. Bấy giờ, thầy thuốc cũ không biết hỏi han v.v... trở xuống là dụ cho trái dấu vết, đồng với tà.
3. "Bấy giờ, khách y liền bị nhà vua v.v..." trở xuống, là dụ cho phá tà, thông suốt chánh.
Trong phần đầu, nói thầy thuốc dụ cho Phật, Như lai, vì có khả năng giảng nói phương pháp trị liệu, nên nói là thầy thuốc. "Người hiểu rõ tám thuật, dụ cho Phật, Như lai nói về nhận thức cội nguồn của chứng bệnh và các phương thuốc đặc trị. Tám thuật đó là:
1. Biết thể (tính chất) của bệnh.
2 Biết nguyên nhân gây ra bệnh.
3 Biết trạng thái của bệnh.
4. Biết chỗ gây ra bệnh: Hoặc ở năm tạng, hay ở chi tiết.
5. Biết thời gian xảy ra bệnh: Phát sinh sớm muộn, hay bình thường, những chứng bệnh như thế.
6. Biết thuốc, nhận thức tánh chất thuốc.
7. Biết cách điều trị: Biết phương thuốc như thế, chữa trị chứng bệnh như thế.
8. Biết kiêng cữ: Biết bệnh đó thì phải uống loại thuốc đó, phải kiêng cữ thức ăn như thế, như thế v.v... Biết rõ sự khác nhau trong tám phương thuật chữa lành mọi chứng bệnh.
Từ chân thân hiện ứng thân, gọi là từ phương xa đến. Đoạn hai, trong thí dụ trái lại dấu vết, đồng với tà, văn chia làm năm:
1. Dụ cho ngoại đạo không biết, lại sinh ra kiêu mạn.
Ngoại đạo không biết thỉnh Phật làm thầy, gọi là không biết hỏi han. Không biết từ Phật lắng nghe chánh pháp, gọi là không biết thọ. Cho rằng mình hơn Phật, gọi là trái lại, cống cao. Cho rằng, Phật kém hơn mình, gọi là sinh ra cử chỉ khinh khi, ngạo mạn.
2. Dụ cho Như lai tiêu biểu đức, thị hiện tiếp nhận hóa độ tà giáo. Trước suy nghĩ, sau thỉnh. Trong suy nghĩ, nói về thầy thuốc, chính là dựa vào thỉnh làm thầy, nghĩa là thỉnh người làm thầy.
"Hỏi han, tiếp nhận phương: là thọ lãnh pháp Phật. Sau đây, trong phần chánh thỉnh nói với thầy thuốc cũ rằng: "Nay, ta thỉnh ông làm khuôn phép", là thỉnh người kia. Chỉ mong giảng nói, đồng thọ lãnh pháp của người đó.
3. Dụ cho ngoại đạo cầu thỉnh. Ngoại đạo yêu cầu Phật làm đệ tử mình, thuận theo lời dạy bảo vâng làm, gọi là cung cấp sai khiến. Yêu cầu Phật mỗi lần hóa độ thường làm đệ tử, cho nên nói: "Bốn mươi tám năm, Như lai ở đời đến bốn mươi chín năm, trừ năm sau cùng giảng nói Niết-bàn, cho nên chỉ nói bốn mươi tám năm.
4. Dụ cho Như lai quyền theo, nói về thầy thuốc được ta dạy bảo phải như thế, quyền theo điều mình đã yêu cầu, tùy khả năng của ta, nói không chuyên theo. Đã nói tùy ta, là nói chẳng phải hoàn toàn theo nhu cầu của họ.
5. Dụ cho đồ chúng sửa đổi chung, tức dẫn khách y nhận kiến thức chung, là đồ chúng biết chung. Như ngày xưa, Đức Phật đã theo học với A-lam-ca-lam v.v... Về sau, họ cùng đến ở chung với Phật, đồng coi sóc việc tăng, là nói ở đây. Cũng có thể hai sư tà, chánh trong đây cùng xem xét chung căn cơ của chung, gọi là cùng yết kiến vua.
Trên đây, năm câu hợp thành đoạn hai, trái lại dấu vết, đồng với tà.
Đoạn ba, trong thí dụ phá tà, thông suốt chánh, trước khiển trách người tà. Khách y có ý nghĩ muốn dạy bảo nhà vua. Sau là đả phá tà pháp của họ.
Trong phần trước lại có hai:
1 Nói chánh pháp cho nghe.
2 "Bấy giờ nhà vua v.v... trở xuống, là xua đuổi người tà, trong phần trước đầu tiên là nói là vì nhà vua, nói cho nghe các pháp y và kỹ nghệ khác. Chính thức vì nói pháp, phương y là phương pháp đối trị việc xấu của họ. Kỹ nghệ là phương pháp tu điều lành. Lại, phương y là pháp tự thực hành, kỹ nghệ là phương pháp hóa độ người của thầy thuốc.
"Đại vương phải biết, nên khéo phân biệt", là khuyên nên biết được, mất. Vì nay và xưa lẫn lộn nhau, nên phải phân biệt. Pháp này như thế có công năng cai trị nước, hóa độ người. Nói phương y có khả năng trị lành mọi chứng bệnh. Trị lành mọi chứng bệnh là tự thực hành. Sau đây là khiển trách người tà:
"Bấy giờ, nhà vua nghe lời này xong, mới biết cũ v.v...", biết cũ kém mới, cho nên quở trách, đuổi người tà đi.
"Sau đó v.v..." trở xuống, vì biết mới hơn cũ, nên càng thêm kính nể. Trong pháp phá tà, văn cũng có hai:
1. Phá pháp tà.
2. "Bấy giờ, khách y dùng các thứ v.v..." trở xuống, là trao cho chánh pháp của ông, với đúng sai ở trước.
Trong phần đầu có bốn:
1. Thỉnh thí pháp, hóa độ.
2. "Vua liền đáp v.v..." trở xuống, là khách y kia đã nghe, vâng làm.
Y theo đoạn đầu, trước lo nghĩ, sau thỉnh. Khách y định tâu với nhà vua: Nay, chính là lúc tâm lo nghĩ bên trong, vì căn cơ thuần thục ở nay, nên nói "Lúc này".
"Vội tâu với nhà vua v.v..." trở xuống là phát ngôn chánh thỉnh. Căn cơ chúng sinh thuận với bậc Thánh, gọi là thành thật, kính yêu, nhớ nghĩ. Thỉnh thí pháp, hóa độ, gọi là cầu một nguyện.
Trong đoạn hai, nhà vua liền đáp: "Từ đây, cánh tay phải, kể cả phần thân khác, tất cả đều cho: Căn cơ làm rạng rỡ tâm Thánh, nói nghĩa, là đáp. Tiếp nhận căn cơ Tiểu, phương tiện của đạo nhiếp hóa, gọi là cánh tay phải. Việc làm trong một đời, gọi là phần thân khác. "Đều từ bậc Thánh hóa độ, gọi là tùy ý mong cầu. Tự không đoái nghĩ đến, gọi là cho tất cả.
Trong đoạn ba có chia ra bốn câu:
1. Khuyên trực tiếp dứt "Ngã".
2. "Sở dĩ v.v..." trở xuống, là nói về dứt trừ "Ngã", không có tổnhại.
3. "Nếu muốn v.v..." trở xuống, là lập ra chế phục để dứt "Ngã".
4. "Dứt sữa rồi, sau cùng, lại không có v.v..." trở xuống, là nói dứt "Ngã" có lợi ích.
Y theo câu đầu, nhà vua dù cho tất cả phần thân của ta, nêu lên phần nhà vua đã cho ở trước. "Nhưng ta không dám có nhiều người cầu xin", là nói hóa độ không tức khắc, vì căn cơ Đại thừa chưa thành thục, nên chưa thể nhiếp hóa ngay được, gọi là không cầu nhiều. "Nay, những gì đã mong cầu v.v... trở xuống chính là khuyên dứt "Ngã".
"Nay, nói sở cầu" là nói khác với việc cầu xin ở sau.
Các Tỳ-kheo v.v... lúc còn ở thế tục, đều có cấp lãnh đạo sửa sai. Như vua thống lãnh cả nước. Thuở xưa, Đức Phật hóa độ chúng sinh, tự dứt tâm "Ngã", khuyên cả chúng khác, nên nói: "Xin vua truyền lịnh trong cả nước không được uống thuốc sữa của thầy thuốc cũ nữa.
Trong câu hai, "Cho nên thưa hỏi v.v..." trở xuống là giải đáp câu hỏi về thuốc độc, vì đã giết hại, tổn thương nhiều người, nên không được uống. Tâm mê đắm "Ngã" sẽ với lấy khổ, chướng ngoại đạo, gọi là tổn hại nhiều.
Trong câu ba, "Ai uống thuốc sữa sẽ bị chém đầu", nghĩa là chặt đầu, pháp thân xuất thế của Phật.
Trong câu bốn, dứt "Ngã" rồi thì chẳng còn ai bị chết ngang trái nữa, nghĩa là không đọa vào sinh tử.
"Thường thọ vui", là nhận lấy vui Niết-bàn. "Nên cầu nguyện này" là kết, nói về ý hóa độ.
Trên đây là bốn câu hợp thành đoạn ba, chính là lập bày pháp hóa độ.
Đoạn thứ tư, trong dụ người kia nghe vâng làm theo, nhà vua đáp:
"Ông nói cầu không đủ" nghĩa là nói về khả năng dứt bỏ "Ngã". Đây cũng là lời nói trong căn tánh của chúng sinh kia. Đối với người hóa độ sau, gọi lúc đầu thọ lãnh Tiểu, là nói không đủ. Tìm tòi vì giảng nói gi-úp cho tất cả nước v.v..., đồng vâng theo lời dạy bảo dứt trừ "Ngã". "Vì uống thuốc sữa nên bị chém đầu", là nêu lỗi để khuyên dứt bỏ "Ngã".
Trên đây bốn đoạn hợp thành đoạn thứ nhất, chính là phá nghĩa tà. Dưới đây là trao chánh pháp, dùng các thứ vị hòa hợp với thuốc, là những vị vô thường, khổ, vô ngã v.v..., kết hợp để chữa trị. Vì chữa trị các chứng bệnh, nên chẳng có chứng bệnh nào không lành, có công dụng đối trị các "Hoặc", chẳng có "Hoặc" nào không bị tiêu diệt.
Đoạn hai, trong dụ nay nói chân ngã, văn chia làm năm:
1. Dụ cho căn cơ bệnh hoạn mà chiêu cảm bậc Thánh.
2. "Đoán tướng nhà vua v.v..." trở xuống, là dụ cho Thánh nói chân ngã.
3. "Nay ông điên loạn rồi v.v..." trở xuống, là dụ cho đầu tiên nghe, không thọ lãnh.
4. "Lúc bấy giờ, khách y lại nói với nhà vua v.v..." trở xuống, là dụ cho khách vì hội ý thông qua.
5. "Vua nghe nói xong, khen rằng v.v..." trở xuống, là dụ nhận hiểu tu hành.
Trong phần đầu, "Không bao lâu nhà vua lại trở bệnh", là dụ cho các Tỳ-kheo nhân học vô ngã, bèn khởi lên tư tưởng điên đảo vô ngã đối với Phật địa: "Tâm ta đã dứt bỏ rồi!", tức là chấp Phật cho là vô ngã, nên nói
"Không bao lâu". Căn cơ bệnh hoạn mà chiêu cảm đến Thánh, gọi là "Mạng y". Có bệnh cảm đến nghĩa chữa trị, nói là: "Nay, con bị chứng bệnh nặng sắp chết, phải điều trị thế nào?" Vì kiến chấp tình sâu, nên nói là bệnh nặng. Dứt bỏ mạng thường, gọi là "Khốn khổ sắp chết". Thưa hỏi phương pháp điều trị, gọi là "Điều trị thế nào?" Trong đoạn hai, thầy thuốc chẩn đoán chứng bệnh của nhà vua nên dùng sữa, là xét nghiệm chứng bệnh, phỏng theo thuốc: chứng bệnh vô ngã, vì "Chẳng phải ngã" không thể chữa trị, nên nói: "Phải dùng". "Tìm kiếm, tâu với vua v.v..." trở xuống, chính là vì nói "Ngã", trong đó có ba:
1. Dụ cho truyền trao chân ngã.
2. "Ở trước, ta v.v..." trở xuống, là chê xưa, khen nay, giúp cho người ưa thích tiếp nhận.
Trước đây, ta dứt uống sữa là lời nói dối là chê bai giáo xưa, tự gọi là lời dứt sữa về trước để làm lời nói dối. Cũng có thể nói ở trước ta đã không uống sữa, cho là lời nói dối, là vì thuốc nói dối của thầy thuốc cũ kia, nên thuyết của họ đã lẫn lộn sang chân, cho nên chê thuốc đó.
"Nay, nếu người nào uống thì sẽ dứt trừ được bệnh" là khen nay.
3. "Nay, vua bệnh v.v..." trở xuống, là bày tỏ chứng bệnh rõ ràng điều trị để cho người tin tưởng chấp nhận.
Đoạn ba, trong thí dụ đầu tiên nghe không thọ lãnh, trước hết là nói cuồng tà là bịnh thuần thục hay sao? Là quở trách người ấy. Mà nói xong, v.v... trở xuống là quở trách lời ấy. Trước là quở thẳng mà nói uống sữa sẽ dứt trừ bệnh này.
"Ở trước ông đã nói v.v..." trở xuống là khen xưa, chê nay.
Đoạn thứ tư, trong dụ Thánh vì hội ý thông suốt, đầu tiên là quở trách không thích hợp.
"Sâu mọt ăn v.v..." trở xuống là nói rộng để chứng tỏ không thích hợp. Trước dụ, kế là hợp. Nhà vua nói: "Sao không hiểu? v.v..." trở xuống là hỏi, đáp để được rõ ràng hơn. Nhưng trong đoạn văn này đã dùng dụ để so sánh với dụ, nhằm làm rõ pháp. Sâu mọt dụ cho thầy thuốc cũ. Xa, so sánh với ngoại đạo. Tìm phương pháp điều trị, gọi là ăn gỗ. Xa, là so sánh ngoại đạo tìm cầu năm ấm. Có khi thành chữ, nghĩa là gần, so sánh với thầy thuốc cũ nói sữa là thuốc. Nếu tương đương với sữa tốt thì gọi là thành chữ. Xa, là dụ cho ngoại đạo nói "Ngã" vì so sánh pho tượng gỗ tương đương với chân ngã. Mọt này chẳng biết là chữ hay không, dụ cho thầy thuốc cũ kia không thể tự biết là thuốc hay chẳng phải thuốc. Xa, so sánh ngoại đạo không thể tự biết là lý, hay phi lý. Người trí thấy vậy, không bao giờ nói rằng: "Con mọt này biết chữ, cũng không lấy làm kinh ngạc", dụ cho người trí ở đời, miệng không tuyên bố rằng: "Thầy thuốc cũ hiểu biết thuốc", lòng cũng không ngạc nhiên. Xa, dụ cho người trí. Miệng không hô hào: "Ngoại đạo đã hiểu, tâm ta cũng không ngạc nhiên."
Sau đây là hợp dụ. Nhưng trong văn này dùng dụ hợp với dụ, nhằm nêu thầy thuốc cũ đã nói dối rằng, thuốc sữa trộn lẫn với gỗ do mọt ăn. Đầu tiên nói thầy thuốc cũ cũng vậy, không phân biệt các bệnh, bất cứ chứng bệnh nào cũng đều cho dùng thuốc sữa, trộn với phân mọt.
"Như mọt kia v.v..." trở xuống, là nêu dụ để làm dấu hiệu.
"Là thầy thuốc cũ trước v.v... trở xuống, là hợp với "Mọt không hiểu", là thầy thuốc cũ ở trước hợp với "Con mọt này". "Không hiểu thuốc sữa tốt và điều lành, hợp với "Không biết chữ", không hiểu thuốc sữa xấu và ác, hợp với "Chẳng biết không phải chữ". Tốt xấu, thiện ác đủ cho giải thích trên.
"Người trí thấy v.v..., sơ lược mà không hợp."
Dưới đây là hỏi đáp để làm rõ lại tướng trạng không hiểu ở trước.
Đầu tiên là hỏi chung: "Thế nào là không hiểu?"
"Khách y đáp v.v..." trở xuống, là đối với câu hỏi, giải thích sơ lược.
Sau đây là nói rộng, trước là hiểu cam lộ. Đầu tiên là hỏi, kế là giải thích.
"Nếu là bò cái", dụ cho các Bồ-tát. Không ăn hèm, cỏ trơn nhẵn, lúa tẻ lộn trấu, dụ cho lìa phiền não. Hèm, dụ cho si. Cỏ trơn nhẵn, dụ cho tham, lúa tẻ trộn trấu dụ cho sân. Dứt, gọi là không ăn. Giải tâm nhu nhuận, gọi là nghe con khéo điều phục.
"Dạo xem cảnh giới" là gọi khu vực thả, chăn. "Lìa "Có", lìa "Không", gọi không là cao nguyên, không cũng là nơi ẩm thấp. Ăn là thọ lãnh chánh giáo, gọi là uống dòng nước trong. Khởi hành trước khi tra xét tường tận, gọi là "Không chạy rong". Vì xa ác tri thức, nên nói: "Không ở chung bầy với bò đực. Dạy bảo, do thời gian, gọi là uống ăn điều độ. Thích hợp với chỉ quán, nghỉ ngơi chừng mực, gọi là đi, đứng đúng oai nghi. Dựa vào đây, chứng tỏ có khả năng vì chân để đối trị. Cho nên, nói rằng: "Sữa ấy có thể chữa lành các bệnh."
"Đây là v.v..." trở xuống, là kết. Sau đây là giải thích thuốc độc.
Văn rõ ràng dễ hiểu.
Trên đây, đã hội, thông.
Đoạn năm, trong dụ lãnh hội giải tu hành thì đầu tiên là tự tu hành.
Sau là khuyên người khác tu.
Trong phần tự tu hành, vua nghe nói khen rằng: "Mở đầu biết lời lãnh hội hiểu biết, liền uống, bệnh khỏi, tu được lợi ích.
Y theo phần khuyên người khác, câu, chia làm bốn:
1. Khuyên người khác tu hành.
2. "Người trong nước v.v..." trở xuống là mới nghe, không nhận lãnh. Trước là quở người kia. Đầu tiên, là giận, sau là quở. Tiếp nhận lời tà của người khác, gọi "Bị quỷ bắt giữ". Tự sinh tưởng tà, gọi là cuồng, điên.
Sau đây là quở lời nói kia. Trước quở, sau giận văn rõ ràng dễ hiểu.
3. "Vua nghe v.v..." trở xuống là suy tôn Đức Phật đã tránh khỏi mọi lỗi lầm. Trước hết, Đức Phật khuyên chớ giận. "Mà v.v..." trở xuống là suy tôn Đức Phật. "Không phải v.v..." trở xuống là tránh khỏi mọi lỗi lầm.
4. Nhà vua nghe xong vâng làm.
Trên đây là lập dụ, sau đây là hợp. Trước là hợp dụ vô ngã của thuyết xưa.
"Vì điều phục chúng sinh v.v..." trở xuống là hợp dụ nói chân ngã hiện nay và về sau.
Y theo dụ vô ngã của thuyết xưa ở trước, văn có hai đoạn:
1. Dụ cho ngoại đạo nói "Ngã".
2. Dụ cho Thánh nói vô ngã. Đầy đủ như giải thích trên.
Nay, chỉ hợp sau Thánh nói vô ngã. Y theo đối tượng hợp, văn dụ có ba:
1. Dụ cho Như lai ra đời.
2. Dụ cho trái với dấu vết, đồng với tà.
3. Dụ cho phá tà, thông suốt chánh. Cũng như giải thích trên
Nay, ở đây, chỉ hợp với hai đoạn đầu và sau, trung gian không hợp.
"Tỳ-kheo phải biết rằng, Như lai Ứng Đẳng cũng giống như vậy, là thầy thuốc xuất thế", hợp với "Lại có thầy thuốc hiểu rõ tám thuật" của đoạn thứ nhất ở trên.
"Hàng phục v.v..." trở xuống, là hợp vượt qua với phá tà, thông suốt chánh của đoạn ba, trong đó, văn dụ có hai đoạn:
1. Quở trách người tà.
2. Phá pháp tà (giải thích rộng như trước). Nay, hợp đủ.
"Hàng phục tất cả ngoại đạo, tuyên bố rằng: "Ta là y vương", hợp với quở trách người tà. Vì muốn khuất phục ngoại đạo, nên tuyên bố rằng.
"Vô ngã v.v..." trở xuống, là hợp với pháp phá tà, trong đó, đầu tiên là nói "Nhân vô ngã" v.v..., chính là hợp với "Không uống sữa".
"Tỳ-kheo phải biết rằng các ngoại đạo v.v..." trở xuống, lấy xa thí dụ sau để quở trách điều do họ lập ra. Trong đây, chưa hợp với dụ ăn gỗ. Cho nên Đức Như lai nói rằng "Vô ngã", là kết nói lý do. Vì cái "Ngã" mà ngoại đạo kia nói, khác nào như con mọt ăn tượng gỗ thành chữ, nên ta nói "Vô ngã".
"Vì điều phục chúng sinh v.v..." trở xuống là hợp với dụ chân ngã mà bậc Thánh ở sau sẽ nói. Văn dụ có năm:
1. Dụ cho căn cơ bệnh cảm Thánh. 2. Dụ cho bậc Thánh nói chân ngã.
3. Dụ cho đầu tiên nghe, không thọ lãnh.
4. Dụ cho bậc Thánh hội thông cho họ.
5. Dụ cho lãnh hội kiến giải, tu hành (đủ như giải thích ở trên). Nhưng, nay chỉ hợp với dụ thứ hai và thứ tư, ba dụ còn lại không hợp.
"Vì điều phục chúng sinh, vì biết thời gian, cho nên "Vô ngã" như thế, vì có nhân duyên, nên cũng nói là "Có ngã".
Hợp với "Vua nên uống sữa" của đoạn hai. Đức Phật vì các Tỳ-kheo dứt trừ điên đảo vô ngã, gọi là điều phục chúng sinh. Biết thời gian nào các Tỳ-kheo nên thọ lãnh giáo pháp Đại thừa, gọi là biết thời gian. Vì có nhân duyên này nên nói "Có ngã" kia.
"Như thầy thuốc kia v.v..." trở xuống, là hợp với văn hội thông của đoạn bốn, nhưng trong văn trên, trước lập ví dụ như mọt ăn gỗ, kế là hợp với thầy thuốc cũ.
Bấy giờ, vua hỏi trở xuống v.v... là hỏi đáp hiển bày rộng.
Nay, chỉ hợp với văn giải thích rõ lại ở sau, văn còn lại, sơ lược không hợp.
"Như lương thầy thuốc giỏi kia khéo biết sữa là thuốc hay chẳng phải thuốc", nên nhắc lại thí dụ ở trước. Trước, đã nói thầy thuốc giải thích rộng về sữa nọ có nghĩa thuốc của cam lộ này, gọi "Biết là thuốc". Cũng giải thích là độc, gọi là "Biết chẳng phải thuốc".
Sau đây là y cứ làm rõ pháp, chẳng phải như "Ngã" v.v... mà phàm phu chấp, hợp với "Biết chẳng phải thuốc" trong đó, trước là nêu ngoại đạo nói các thứ "Ngã" khác nhau.
Như lai nói: "Ta không phải như thế v.v..." trở xuống là đáp lại, để giải thích "Là chẳng phải".
"Vì sao? Ta v.v..." trở xuống là hợp với "Biết là thuốc". Trước là hỏi, kế là giải thích:
Thể của Niết-bàn khác với tướng luống dối của sinh tử không thật, giả gọi là thật. Thoát ra khỏi tình vọng, gọi là chân. Vì thể không có dời đổi, nên nói là thường. Vì bị các hành nương gá vào, nên còn gọi "Y". Thể không có sinh diệt, gọi là không thay đổi.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Dưới đây là đoạn ba, nhắc lại kết khuyên. "Như thầy thuốc v.v... kia", là nêu dụ trước. "Như lai cũng đồng", là nhắc lại dụ ở trước.
"Các ông v.v..." trở xuống là kết khuyên tu tập.
Đoạn ba, trong giải thích tập thành phần đức, có chai ra bốn câu:
1. Giải thích nghĩa tu thành đức.
Trên đã nói về quả đức, quả do nhân thành.
Từ đây trở xuống, là giải thích công hạnh tu thành quả đức ở trước, nên nói rằng "Nói về phần tu thành đức.
2. Y theo người để phân biệt. Người có hai loại:
a. Đối tượng nhờ.
b. Đối tượng làm.
Đối tượng nhờ là Phật, đối tượng làm là chúng sinh. Thân chúng sinh bị làm có tánh thường, nếu không tu hành thì tánh thường sẽ không hiển bày. Nếu tu hành thì tánh thường sẽ biểu lộ rõ ràng, tất nhiên, do tu học mà thành. Vì học dựa vào pháp mà khởi, nên phải nhờ Phật nói rộng về nhân của tánh kia làm pháp sở học. Dù nói là nhân Phật, nhưng vì bảo chúng sinh phải học Phật, rồi mới khởi sự tu hành.
3. Đối với người để phân biệt, người có hai loại:
a. Ảnh hưởng.
b. Đối tượng làm.
Ca-diếp, Đức vương, Sư Tử Hống v.v... là ảnh hưởng của con người. Kiều-trần-như v.v..., người học vô thường, là đối tượng làm của con người. Người của đối tượng làm, với trí giải nhỏ nhoi, kém cỏi, là nhân thường bên ngoài, nên không thể thưa hỏi, vì vậy trước phải đối với ảnh hưởng kia để giải thích. Do người của đối tượng làm đã được nói rộng ở trước, nên có thể ngộ nhập, về sau, lại một lần nữa đối với họ để làm rõ.
4. Phân tích văn, giải thích. Y theo đoạn lớn trong phần này có hai:
Từ đây đến phẩm Ca-diếp sau cùng, rộng đối với ảnh hưởng, nói về đức tu thành. Phẩm Trần-như, đầu tiên là đối với đối tượng làm của con người kia, người học vô thường là Kiều-trần-như v.v..., nói về đức tu thành, tương tự với mở mang tông, dường như làm rạng rỡ đức.
Y theo phần thô ở đoạn đầu, có hai:
1. Trước thỉnh.
2. Sau đáp.
Trước kệ là thỉnh, sau kệ là đáp. Phần tế có năm:
1. Như lai khuyên nên hỏi.
2. "Bấy giờ trong hội có Bồ-tát v.v..." trở xuống là Ca-diếp thưa hỏi.
3. "Phật khen v.v..." trở xuống là Như lai khen Cadiếp hỏi.
4. Ca-diếp bạch Phật: "Tôi không có trí v.v..." trở xuống là Ca-diếp khiêm tốn hỏi.
5. "Hãy lắng nghe cho kỹ v.v..." trở xuống, là Như lai đáp lại câu hỏi của Ca-diếp.
Y theo đoạn đầu, trước bảo Tỳ-kheo, sau bảo đại chúng. Vì việc mà Tỳ-kheo làm, nên trước Phật bảo Tỳ-kheo. Cũng có thể nhân đối với lời nói tùy tiện của Tỳ-kheo trong chương Ai Thán ở trên. Đó là lý do Đức Phật bảo Tỳ-kheo ở trước. Vì lời của Tỳ-kheo kia không có khả năng đề cao Bồ-tát, nên sau bảo chúng. Trong phần trước có ba:
1. Phật trực tiếp bảo Tỳ-kheo nên thưa hỏi.
2. Lại khuyên Tỳ-kheo nên thưa hỏi.
3. Nêu lợi ích để khuyên Tỳ-kheo nên thưa hỏi.
Vì ý Thánh dặn dò, nên phải như vậy. Y theo lần khuyên bảo ban đầu, Đức Phật trước khuyên Tỳ-kheo nên thưa hỏi.
"Tôi đã tu v.v..." trở xuống, là Tỳ-kheo tự khoe khoang, chống lại lời Phật khuyên nên không thưa hỏi.
"Các ông chớ v.v..." trở xuống, là Đức Phật quở các Tỳ-kheo, khiến cho thưa họ hỏi.
Trong phần đầu, Phật bảo: "Đối với giới luật, nếu có chỗ nào hoài nghi, thì các thầy cứ thưa hỏi", chính là khuyên nên hỏi.
Trong được nhân thường, giới học đứng đầu. Lại, giới luật mà Tỳ-kheo tu tập, nên Đức Phật khuyên phải hỏi. Ta sẽ giải thích là hứa sẽ đáp, để cho tâm các thầy được vui mừng, chứng tỏ mình đã khéo đáp.
Trong Tỳ-kheo chống đối: "Tôi đã tu học tất cả pháp bổn tánh là không, nghĩa là sự hiểu biết của con người không nhất định."
Có người giải thích rằng: Đây là lời Phật nói, Như lai nói biết pháp vắng lặng, vì muốn cho Tỳ-kheo y theo pháp không này để thưa hỏi. Theo kinh loại sáu quyển, thì đây là lời Tỳ-kheo nói, nên trong kinh kia nói: Tỳ-kheo bạch Phật: "Tôi đã tu pháp bổn tánh vắng lặng, rõ ràng thấu suốt." Tỳ-kheo nói: "Đối với các pháp, ở trước tôi đã thấu suốt rồi, cần gì hỏi nữa."
Năm ấm là tất cả các pháp kia, Tỳ-kheo quán pháp chỉ từ duyên sinh không có bổn tánh, gọi là tánh vắng lặng. Sự hiểu biết vượt hơn người mới học, gọi là liễu đạt rõ ràng.
Sau đây, trong lời Phật quở: "Chớ cho rằng Như lai chỉ tu các pháp bổn tánh không." Nghĩa là Như lai chứng tỏ mình còn có đức bất không của Đại thừa: là nói cần phải hỏi, cho nên kinh nói: "Chư Phật, Như lai không phải vì được một pháp vô phân biệt này mà gọi là Phật."
Trong lời dạy bảo thứ hai, đầu tiên, Đức Phật khuyên Tỳ-kheo nên thưa hỏi: "Về giới luật, nếu chỗ nào có thắc mắc, các thầy hãy hỏi."
Sau đây, các Tỳ-kheo đã tỏ ra khiêm tốn rằng, mình không có khả năng hỏi, trong đó có ba:
1. Nói mình không có trí, không có khả năng nêu câu hỏi.
2. Ví như người già v.v... trở xuống, là nói rằng, vì mình không có thể lực, nên không thể thọ trì.
3. Từ "Nay tôi không có trí v.v..." trở xuống, là kết mình không có khả năng nêu câu hỏi.
Trong phần đầu, "Chúng con không có trí để hỏi", chính là nói không có khả năng.
"Sở dĩ v.v..." trở xuống là giải thích.
"Cảnh giới của Như lai không thể suy nghĩ bàn luận", nghĩa là nói về trí tuệ Phật khó suy lường. Phạm vi của trí tuệ, được gọi là cảnh giới. Trí Phật rất sâu rộng, vượt hơn những người khác. Vì tâm người khác không theo kịp, nên gọi là không lo nghĩ. Lời nói khác không bắt kịp, gọi là không bàn luận. Tất cả các định không thể suy nghĩ, là nói về định khó suy lường.
Những lời dạy bảo mà Phật đã giảng nói, không thể lo nghĩ, là nói giới khó suy lường. Cũng có thể câu đầu nói chung không suy nghĩ. Hai câu sau là riêng. Trong phần riêng này, đầu tiên là chứng, một câu sau là giáo.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết luận, mình không có khả năng hỏi.
Đoạn hai, trong phần nói về mình không có khả năng thọ trì, trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ có năm:
1. Dụ cho tự mình không có đức có khả năng thọ trì.
2. Dụ có một người v.v... trở xuống là nói Như lai không nên gửi gắm cho mình.
3. Dụ cho lúc này đã già v.v... trở xuống là nói chính mình không nên thọ lãnh ngay.
4. Già này v.v... trở xuống là nói hễ thọ lãnh là mất.
5. Hạnh của tài chủ v.v... trở xuống là nói trao cho là mất.
Trong phần đầu, như người sống một trăm hai mươi tuổi. Tỳ-kheo dụ cho mình có phiền não nặng, lấy già làm thí dụ, không lấy số tuổi của người kia. Thân trẻ con thì bệnh dài dài, dụ cho có đổi dời. Nhân quả chưa dứt trừ, tâm ưa vắng lặng, gọi là ngủ giường chiếu, không có khả năng tùy hữu thực hành hóa độ chúng sinh, gọi là "Không thể khởi". Bi, nguyện mỏng, ít, gọi là "Năng lực kém cỏi", chứng lấy diệt không xa, gọi là mạng không còn bao lâu.
Trong đoạn hai, một người là dụ cho Đức Phật. Đủ pháp gọi là giàu. Vì tùy cảm, dời đổi, nên nói "Vì duyên sự nên muốn đến phương khác. Chánh pháp Đại thừa dụ cho trăm cân vàng ròng. Lấy sự quý trọng để so sánh, không lấy số tuổi của người kia, để phó chúc cho Tỳ-kheo, gọi là trao cho người già.
"Nói ra lời nói đó v.v... trở xuống là nói về sự gửi gắm, dặn dò. Hoặc mười tuổi trở xuống, hai mươi tuổi trở lên, đủ chứng tỏ trở lại không nhất định. Căn tánh thuần thục thì đến sớm, ngược lại thì đến muộn. Cho nên nói là "Hoặc". Làm cho pháp trụ trì, gọi Phật vốn hóa độ. Nghĩa là nói trở lại ngã.
Trong đoạn ba, "Lúc bấy giờ, người già là người thọ lãnh. Tỳ-kheo dụ cho mình chẳng nhận sự thọ lãnh ngay."
Trong đoạn thứ tư, các Tỳ-kheo v.v... không có thọ lãnh pháp truyền thừa, hóa độ đệ tử, có khả năng phó chúc, nên gọi là không có kế thừa.
"Vô thường, dời đổi, ép ngặt, gọi là bệnh nặng. Thân diệt, trở về với "Không", gọi là qua đời. Pháp được gửi gắm sẽ không có người vâng làm, gọi là tan mất.
Trong đoạn năm, cõi này có cảm đến Như lai, lại hóa độ, gọi là trở lại làm. Pháp xưa hoàn toàn diệt, gọi là nợ đòi không có chỗ.
"Si như thế v.v..." trở xuống, là quở trách để hiển bày lỗi, cho nên hành, v.v... trở xuống kết để nói về lỗi.
Sau đây là hợp.
Trong năm câu trước, chỉ hợp với câu thứ nhất, thứ ba, thứ tư.
Thanh văn chúng con cũng giống như thế: là hợp câu thứ nhất. "Dù nghe v.v..." trở xuống, là hợp với câu thứ ba. "Không thể thọ lãnh v.v..." trở xuống, hợp với câu bốn.
"Như người già kia v.v..." trở xuống, nêu dụ để làm dấu hiệu.
Trên đây là đoạn hai, là nói mình không có năng lực, nên không thể thọ trì.
"Nay, tôi không có trí, sẽ phải hỏi ra sao, là đoạn ba, kết thúc mình không có khả năng."
Trong hai đoạn trước, y theo đoạn trước để kết luận.
Trong lần dạy bảo thứ ba, đầu tiên, Đức Phật khuyên Tỳ-kheo nên thưa hỏi. Kế là, các Tỳ-kheo suy tôn Bồtát. Sau, Đức Phật nói lại lời khen.
Trong phần đầu, Phật bảo: "Nay, nếu ông hỏi, thì sẽ làm lợi ích cho tất cả", là nêu sự lợi ích để khuyên nên hỏi.
"Cho nên v.v..." trở xuống, kết khuyên lý do nên hỏi." Y theo phần nói về Tỳ-kheo suy tôn Bồ-tát, đầu tiên là suy tôn Bồ-tát.
"Trí tuệ của chúng con nhỏ nhoi như con muỗi v.v..." trở xuống là lời khiêm tốn nói mình không có khả năng.
"Lúc bấy giờ, Thanh văn v.v..." trở xuống, là nói lời khiêm tốn xong, đứng im lặng.
Trong phần đầu, trước là dụ, kế là hợp, sau là kết. Trong dụ có năm; tương tự với trước.
1. Dụ cho Bồ-tát có đức năng gìn giữ.
2. "Cũng có người v.v..." trở xuống là dụ cho Phật nên trao cho.
3. "Có người tráng niên v.v..." trở xuống là dụ cho Bồ-tát nên thọ lãnh.
4. "Người kia bị bệnh, sai gia thuộc v.v..." trở xuống là nói hễ thọ là được.
5. "Người trí v.v..." trở xuống là dụ cho hễ phó chúc thì được.
Trong phần đầu, như người hai mươi lăm tuổi, dụ cho pháp thân của các Bồ-tát đầy khắp. Lấy ít làm thí dụ, không lấy số tuổi của người kia.
Vì trí giải không tà vạy, nên nói là khôi ngô. Đủ các pháp lành, gọi là nhiều của báu.
Cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, dòng họ thân thích, như kinh Duy ma nói: "Trí độ là mẹ, phương tiện là cha v.v..."
Trong đoạn hai, giống như trước gọi là cũng.
"Có người", là dụ cho Đức Phật, gửi gắm pháp cho Bồ-tát, gọi là gởi vật báu.
"Nói với người kia v.v..." trở xuống, là nói lên rõ ràng tướng trạng gửi gắm, dặn dò. (Nghĩa đồng với giải thích trên).
Trong đoạn ba, người tráng niên giữ gìn vật như chính mình có.
Như pháp mà tự tâm mình đã chứng.
Trong đoạn thứ tư, Bồ-tát cảm hóa cùng khắp đối với chúng sinh này, gọi là "Bị bệnh". Bảo người truyền pháp, gọi là "Sai gia thuộc". "Nói với đối tượng gửi gắm" là khen pháp của Chư Phật, gọi là sở hữu của người khác.
"Khuyên hãy gìn giữ vững chắc, lại là bậc Thánh vốn hóa độ. Về nghĩa, nói là đến cầu xin, đều trở lại."
Trong đoạn năm, người trí khéo cân nhắc, dụ cho Phật khéo phó chúc.
"Thánh lại vốn hóa độ", gọi là công hạnh trở về. Trước là pháp được gửi gắm, trụ trì như xưa. Về nghĩa, nói là cầu mong chúng sinh đều được không mất.
Sau đây là hợp. Trong văn, chỉ hợp với thứ hai, thứ tư. Trong hợp thứ hai, "Đức Thế Tôn cũng vậy" là hợp với "Người giàu" ở trước.
"Nếu gửi gắm pháp Phật cho Ca-diếp v.v...", là nêu mất, làm rõ được. Trái lại, hợp với thích ứng gửi gắm. Trước là nói về mất.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
"Như người già kia v.v..." trở xuống, là nêu thí dụ để so sánh bày rõ.
"Cho nên, phải v.v..." trở xuống, là nói lên được khác với mất, chính là nên gửi gắm.
"Vì các Bồ-tát khéo hỏi v.v..." trở xuống, là hợp với câu bốn, trước là nêu pháp kia khác với số ít ở trước.
Trong dụ ở trước là nói do gửi gắm của cải sau không bị mất mát.
Nay, trong trường hợp này, nói các Bồ-tát có khả năng hỏi đáp rõ ràng chánh pháp được an trụ lâu, là nên nói "Đúng sai".
"Như người tráng niên kia v.v..." trở xuống, là nêu thí dụ để nói theo.
Như trên là hợp xong.
"Vì nghĩa này nên Bồ-tát có thể hỏi", là kết suy tôn Bồ-tát.
Trên đây là các Tỳ-kheo kính mến suy tôn Bồ-tát có thể hỏi Phật.
Kế là lời nói khiêm tốn, sau là im lặng, văn rõ ràng dễ hiểu.
Đoạn ba, trong Như lai thuật lại lời khen trước là khen tự khiêm tốn. Sau, nói lại việc suy tôn Bồ-tát.
Trong phần trước, nói "Lành thay", chính là lời khen. Được tâm vô lậu, tâm A-la-hán vượt ngoài lời Phật đã khen, không tự cao, gọi là tâm vô lậu. Không mê đắm cái cái "Tôi cái ta", gọi là tâm La-hán.
"Ta cũng từng v.v..." trở xuống là nói lại việc suy tôn Bồ-tát ở trên.
Ta cũng nghĩ rằng do hai duyên này, nên gửi gắm cho Bồ-tát, để pháp được an trụ. Nghĩ đến các Bồ-tát vì có khả năng hai thứ nhân duyên hỏi, đáp, thành ra nên trao cho. Cũng có thể từng nghĩ rằng, gửi gắm cho Thanh văn, sẽ nhanh chóng tiêu diệt nhân duyên, phó chúc cho các Bồ-tát, thì nhân duyên trụ lại lâu. Do đó, nên gửi gắm cho Bồ-tát.
Ở trên, Phật bảo Tỳ-kheo, vì họ tự khiêm nhượng, đề cao Bồ-tát, nên ở dưới, Phật bảo đại chúng. Trong đó cũng có ba: y theo lời Phật bảo đầu tiên, trước nêu năm quả, sau khuyên chúng nên hỏi.
Trong nhân quả, nêu riêng về mạng sống lâu, biện tài, ngoài ra lược qua không nêu.
Trong lý do Đức Phật khuyên nên hỏi, hoặc do giới lìa điều ác, hoặc do gom về điều lành, đều khuyên nên hỏi, vì ý Thánh rất tha thiết, đến hai, ba lần khuyên.
Dưới đây là đoạn hai, Ca-diếp thưa hỏi, trong đó, phần thô có hai:
1. Lý do thỉnh.
2. Chính là thỉnh. Phần tế có bảy:
1. Nêu thỉnh người.
2. Bày tỏ lý do hỏi, nói nhờ oai lực Phật.
3. Thỉnh Phật, xin nghe.
4. Như lai cho phép.
5. Nhờ nghe, cho phép hỏi.
6. Muốn hỏi, nương oai lực Phật.
7. Chính là hỏi.
Đầu tiên là trong nói chúng, bày tỏ ở hiện tại.
"Có Bồ-tát v.v..." trở xuống, là nói về số người, vốn là Đa-la, xuất hiện ở nơi sinh ra họ. Họ Đại Ca-diếp, nói lên dòng họ của ngài.
"Giòng Bà-la-môn", là nói chủng tánh của họ. "Tuổi còn thơ bé" là nói về người đó già hay trẻ.
Trong đoạn hai, nói nhờ oai lực Phật, cho nên phát ra câu hỏi, nêu ở đây là bày tỏ các câu hỏi khế hợp.
Trong đoạn ba nói, đứng dậy v.v..., là phương tiện của thân nghiệp, "Còn bạch v.v..." là miệng thỉnh.
Trong đoạn tư, trước Phật nghe Bồ-tát Ca-diếp hỏi, sau là hứa sẽ nói cho nghe.
Đoạn năm, rất dễ hiểu.
Trong đoạn sáu, đầu tiên, là nói lên trí mình nhỏ nhoi, nên nối tiếp, vâng lời.
"Như lai v.v..." trở xuống là nói về những gì Phật đáp là đáng nể sợ, nên xin vâng lời, qua đó, trước là nói Đức Phật đáng kính sợ.
"Chúng hội này v.v..." trở xuống là Bồ-tát đáng kính sợ. "Nay, sẽ v.v..." trở xuống, là nói mình nương oai lực Phật. Trong phần Phật đáng kính sợ, câu văn được chia làm bốn:
1. Khen ngợi Đức của Phật cao vòi vọi, tốt đẹp hơn hết.
2. Khen ngợi chúng của Phật tinh thuần, không có xen lẫn.
3. Khen ngợi thân Phật cũng như kim cương, là nói thân cứng chắc. "Sắc như lưu ly" là nói thân thanh tịnh.
4. Khen ngợi chúng của Phật trí tuệ sâu rộng.
Y theo phần nói Bồ-tát đáng kinh sợ, đầu tiên là nói Bồ-tát đều thành tựu đức rộng.
"Đại chúng này đâu dám phát khởi trước", là nói Bồtát thật đáng kinh sợ.
Sau đây, trong phần nương oai lực Phật, đầu tiên là nương oai lực Phật. Sau là nương oai lực chúng.
Trong câu hỏi thứ bảy, trước là Phật nói kệ, nhà dịch kinh nêu lên.
Vì sao dùng kệ thỉnh? Vì lời nói của kệ rất khéo léo. Trong chữ ít có thể gồm thâu nghĩa nhiều. Vì thế, nên dùng kệ để thỉnh.
Sau đây, là nêu lời thỉnh, chia ra ba môn:
1. Nhất định hỏi nhiều, ít. Xưa nay, tương truyền rằng: Ba mươi sáu câu hỏi trong bài kệ này, là y theo pháp, xem xét để đáp.
Trong đây có bốn mươi hai câu hỏi, cho nên có người lại nói ba mươi sáu là vì nói hạnh Thánh chung, cho đến năm, tháng, trăng sao, hợp thành một câu hỏi.
Chúng sinh phần nhiều đều dựa vào thuốc hay của Đấng Lưỡng Túc. Nay, muốn hỏi về ấm mà con lại vô trí, nên không biết lấy gì để hỏi. Cho nên chỉ nói ba mươi sáu câu hỏi thôi. Hạnh Thánh chung kia, cho đến bốn thí dụ về sao.
Dưới đây, đều là đáp riêng, đâu được hợp thành một. Nếu dùng những thứ này hợp thành một thì làm sao thành một câu hỏi?
Trong bài kệ đầu, làm sao được tuổi thọ như kim cương không hư hoại, lẽ ra cũng là một, được chia làm hai ở đây nói riêng thì đâu có nghi ngờ? Chúng sinh phần nhiều dựa vào thuốc hay của Đấng Lưỡng Túc. Nay, muốn hỏi về ấm.
"Các câu hỏi này v.v..." trở xuống, văn đều có lời đáp riêng, sao lại chẳng phải hỏi nhiều, ít? Như hai câu hỏi này là bày tỏ sự khác nhau của câu hỏi, có sáu câu hỏi:
1. Hỏi vì nghi, cũng gọi thưa hỏi. Như nói: "Thế nào là sự sống lâu v.v..."
2. Hỏi vì cầu mong. Như nói: "Xin Phật chỉ bày chỗ sâu kín v.v..."
3. Thưa hỏi, Như hỏi: "Nếu ba thừa không có tánh v.v..."
4. Hỏi bằng cách trách cứ. Như hỏi: "Nếu cắt đứt lưới nghi kia, sao lại không nói nhất định v.v..."
5. Hỏi bằng cách khen, như hỏi: "Chúng sinh phần nhiều đều y chỉ v.v... Bồ-tát Ca-diếp muốn thưa hỏi, sắp đoạt phá, trước hết là cho mà vì khen ngợi. Cho nên, dù khen mà được là hỏi.
6. Hỏi một cách khiêm nhường, như văn sau hỏi: "Nay, muốn hỏi ấm, tôi là người vô trí v.v..." là Khiêm nhường mình không kham mà khởi nói sau, nên gọi là hỏi một cách khiêm nhượng. Câu hỏi đã được phân biệt như thế.
Ba phần là của văn, biện minh, giải thích. Về kệ, được chia thành hai: Đầu tiên là hỏi về pháp học.
"Thế nào là được gần đạo Vô thượng? v.v..." trở xuống, là hỏi về học hạnh của người kia. Điều này làm sao biết? Như dưới đây, cuối phẩm Đại Chúng Vấn, sắp đáp về học hạnh, Bồ-tát Ca-diếp thỉnh Phật: "Cúi mong nói công đức có được trong Đại Niết-bàn này."
Phán quyết biết sau pháp trước là học hạnh. Học pháp, học hạnh có gì khác nhau mà phải phân biệt để hỏi?
Giải thích rộng có bốn:
1. Lý sự phân biệt, pháp suốt qua lý, sự. Hạnh chỉ có ở sự.
2. Trong ngoài, phân biệt, pháp suốt qua trong, ngoài. Đức hạnh chỉ ở bên trong.
3. Ba tánh phân biệt, pháp có cả ba tánh. Quán pháp ba tánh đều được khởi hạnh, hạnh chỉ ở điều lành. Ở đây nói hạnh lành, không nói nghĩa khác.
4. Mình và người phân biệt, pháp có cả mình và người. Hạnh của người khác được làm pháp của mình. Hạnh của nhà mình được làm pháp của người khác. Hạnh thì không như vậy. Hạnh kia, hạnh đây đều khác nhau. Nay, nghĩa được biện luận ở đây sẽ ở môn sau. Pháp học ở trước, nước ngoài gọi là phần thật nghĩa của chánh pháp. Học hạnh sau kia, tiếng nước ngoài gọi là phần y pháp tu thành. Lại, pháp học trước, tiếng nước ngoài gọi là phần pháp tánh hư không. Học hạnh sau kia, tiếng nước ngoài gọi là phần biển cả trí tuệ. Đây là dựa vào văn kinh ở dưới để nói kệ, nên trong văn dưới, Bồtát Ca-diếp tự nói: "Tôi không có sức trí để có thể hỏi về pháp tánh hư không của biển cả trí tuệ, tên gọi dù có khác, nhưng nghĩa ấy không khác.
Y theo học pháp, đầu tiên, đối với năm việc quả báo trong chương Thuần-đà ở trên.
Hỏi: Nhân Bồ-đề vì sao lại thị hiện Niết-bàn rốt ráo v.v... trở xuống, là đối với quả Niết-bàn trong chương Ai Thán ở trước, hỏi về nhân Bồ-đề kia. Bồ-đề được sinh ra từ nhân sinh. Vì Niết-bàn do liễu nhân kia mà được, nên phân biệt thành câu hỏi.
Trong phần trước có hai:
1. Dạy bảo bậc Hiền thánh thu hướng hạnh Bồ-đề, nghĩa là bảo Thanh văn hướng về Đại Bồ-đề.
2. Từ câu: "Thế nào là chưa phát tâm v.v... trở xuống, là nói về dạy bảo phàm phu hướng về hạnh Bồđề."
Trong phần trước lại có ba:
1. Hỏi về hạnh tùy duyên tạo tu.
2. Từ câu: "Thế nào là các bậc Điều ngự? v.v..." trở xuống, hỏi về hạnh chứng nhập của tướng xả kia?
3. Từ câu: "Thế nào là hạnh Thánh chung? v.v..." trở xuống là hỏi về hạnh chứng quả thành thật kia, cũng gọi là hạnh chứng thật khởi dụng.
Trong tùy duyên tạo tu hành ở câu hỏi trước, đầu tiên là đối với năm quả, hỏi về thể của hạnh Thánh kia?
Thế nào là được rộng lớn làm chỗ nương tựa cho đại chúng v.v... trở xuống là hỏi về chỗ nương của hạnh.
Đầu tiên nói: "Thế nào là được tuổi thọ lâu dài?" Nghĩa là đối với sống lâu ở trước, hỏi về nguyên nhân được sống lâu, không hỏi quả quả sống lâu.
Dưới đây là đáp:
Vì Từ bi không sát sinh, nên được sống lâu.
Hỏi: Trước đây nói: "Vì bố thí thức ăn, nên được sống lâu." Nay, vì sao lại hỏi nhân sống lâu.
Giải thích: Về sống lâu có hai thứ nhân:
1. Dưỡng nhân, cái gọi là bố thí thức ăn. Như mẹ nuôi ở thế gian.
2. Sinh nhân, là các hạnh từ bi không giết hại v.v..., như mẹ ruột ở thế gian.
Trước đã nói bố thí thức ăn, vì nhân ấy chưa tròn, nên lại hỏi. Các nhân khác đều giống như vậy.
Đạo nói: "Làm sao được thân kim cương?", hỏi về nhân của sắc thân kia? Cũng không hỏi về quả. Một nhân này làm sao hỏi chung hai việc? Dưới đây là đáp:
Vì nhân duyên hộ pháp, nên được thân kim cương.
Lại do nhân duyên nào mà được năng lực bền chắc?
Đối với quả của năng lực trên để hỏi về nhân được quả kia, đồng với thân trong văn dưới.
Thế nào là rốt ráo đến bờ bên kia đối với kinh?
Hỏi về nhân an vui. Tông chỉ của kinh này, nhằm làm sáng tỏ quả thường, lạc. Quả thường, lạc là chỉ thú của kinh, gọi là bờ bên kia của kinh. Đến bờ bên kia của kinh, mới được yên vui.
Bờ bên kia của kinh này làm sao đến được? Sau đây là Phật đáp:
Công đức thọ trì danh tự kinh này là được đến bờ bên kia!" Rốt ráo đến cùng cực, gọi là "Rốt ráo".
"Xin khai mở chỗ sâu kín, nói rộng cho chúng sinh mà nghe: Là về nhân biện tài, y theo kinh loại sáu quyển, câu hỏi này hơi ẩn. Kinh loại sáu quyển chép: "Bồ-tát vì chúng sinh nói pháp có mấy thứ?" Dưới đây, Đức Phật sẽ đáp:
Về đức năng thuyết gồm có bốn thứ:
1. Tự sửa mình cho đúng.
2. Sửa cho người khác đúng.
3. Có khả năng trả lời bất cứ câu hỏi nào.
4. Khéo hiểu nhân duyên. Pháp được nói có ba thứ:
1. Pháp thân. 2. Giải thoát.
3. Ma-ha Bát-nhã.
Dùng đức kia, để thử nghiệm pháp này. Câu hỏi trên vì sơ lược cho nên thiếu. Nếu đủ thì nên nói rằng: "Xin Phật mở bày chỗ sâu xa, Bồ-tát dựa vào pháp này, nói rộng cho chúng sinh nghe. Thế nên trong văn dưới, Phật mở ra ba việc để cho Bồ-tát nói pháp. Vì người khác nên được biện tài.
Ở trên hỏi về thể của hạnh, ở dưới, hỏi về chỗ nương tựa. Trong đó, có hai bài kệ: Một bài kệ đầu, chính là hỏi về chỗ nương tựa.
Thế nào là được rộng lớn, làm y chỉ cho chúng sinh? Con người dù thật sự không phải Chư Phật, La-hán, nhưng vì có thể hóa độ, đem lại lợi ích cho chúng sinh ngang bằng với công hạnh hóa độ của Phật, La-hán, nghĩa là "Chúng con vâng theo công hạnh vị tha của
Phật, La-hán."
Sau đây, là Phật đáp bốn y chính là con người.
Một bài kệ sau là hỏi về chỗ không nương tựa: "Làm sao biết ma gây ra tai nạn cho chúng sinh? Là hỏi về người tà kia, vì người tà lẫn lộn với bậc Thánh, nên hỏi để dứt bỏ chúng.
Phật nói và ma nói, làm sao phân biệt biết được?" hỏi về pháp tà của ma, vì pháp tà lẫn lộn với chánh, nên hỏi để dứt bỏ chúng. Sau đây, Phật sẽ giải thích cụ thể.
Trên đây là câu hỏi thứ nhất, về hạnh tu tạo tùy duyên của chúng sinh. Sau đây là hỏi về hạnh chứng nhập của tướng xả, trong đó, trước là hỏi về thể nhập chứng của hạnh.
"Thế nào là Bồ-tát có thể thấy v.v..." trở xuống là hỏi về chứng chỗ nương tựa, giống với ở trước. Sự khác nhau trong câu hỏi về chứng thể, có ba:
1. Tìm tướng, hướng về Phật.
2. Giải thích tà trở về chánh.
3. Bỏ tướng, nhập chứng.
Thế nào là tâm hỷ của Đấng Điều ngự nói đế? Là tìm kiếm tướng, hướng về thật. Các điều phục là Bốn đế vô tác của Phật, gọi là tâm Phật, gọi tâm là hỷ thuyết. Nghĩa này thế nào? Sau đây, Phật sẽ nói rộng.
Vì sao là không hỷ nói để mà nói là hỷ nói? Vì có người tạo ra bốn đế, cuộc hạn theo tình mà nói, chứ chẳng phải cùng tận đạo lý, không thích hợp với ý Thánh, gọi là không hỷ nói.
Nói về đế làm gì? Đế là tướng của pháp. Tạng là pháp thật. Vì để chứng nhập thật kia, nên phải nói về tướng. Khi Chánh, thiện đã thành tựu đầy đủ rồi, mới giảng nói bốn điên đảo, giải thích tà trở về chánh, gọi là Đức Phật cho là đã thành tựu đầy đủ chánh thiện. Thỉnh Phật nói về bốn đảo, cũng có thể thành tựu đủ điều lành chân chính, nghĩa là nêu câu hỏi để thực hành: "Chúng con muốn được chánh thiện được thành tựu đầy đủ để nói về bốn điên đảo, nếu làm cho chúng con sẽ phải lìa bỏ chánh thiện kia, thì làm sao thành bậc Đại tiên làm việc lành? Ở đây nói tướng xả, nhập chứng thứ ba này. Vì sao làm việc lành chính là lời hỏi? Ý hỏi thế nào? Giải thích có ba nghĩa:
1. Y theo tu để hỏi. Phàm phu, nhị thừa đều thực hành nghiệp lành mà không được Bồ-đề? Sao Bồ-tát tu tạo nghiệp lành lại chứng được Bồ-đề?
Đây là hỏi về công hạnh, để tìm tòi lý ấy. Sau đây, Phật sẽ đáp. Lìa bỏ "Có", "Không" thú nhập Trung đạo.
Tu điều lành như vậy, thì sẽ được Bồ-đề.
2. Đối với quả vì chúng mà hỏi. "Nếu đương lai có quả để được, thì phải tu thiện. Trái lại, nếu không có "Sở đắc" thì làm sao tạo nên việc lành?" Đức Phật sẽ đáp sau đây.
"Chúng sinh có tánh, thì sẽ được quả, như đứa con đang ở trong thai mẹ, chắc chắn sẽ sinh không còn lâu, nhưng phải tu điều lành."
3. Đối với lý, vì chúng mà hỏi: "Nay con không biết chỗ nào để thú nhập thì làm sao thực hành điều lành?", so với "Không biết chỗ Tam bảo", thì làm sao tạo ra "Vô ngã" ở văn dưới, lời nói ấy giống nhau.
Sau đây, Phật sẽ giải đáp:
"Có Như lai tạng để thú nhập, nên phải tạo ra nghiệp lành."
"Cúi mong Đại tiên nói", là thỉnh Phật giải đáp. Vì Như lai sống lâu, nên gọi là Đại tiên.
Trên đây đã hỏi Phật về nhập chứng, hành thể. Sau đây, là hỏi về chỗ nương tựa. Chỗ nương có hai:
1. Nói về thấy tánh, phải do dựa vào kinh.
2. Nói về hiểu kinh, là do hiểu chữ.
"Thế nào là Bồ-tát thấy tánh khó thấy?" Là hỏi về nghĩa đầu tiên, tánh đã khó thấy thì làm sao Bồ-tát thấy tánh được? Đức Phật đáp:
Do nương tựa vào kinh, nên thấy được.
"Hiểu mãn tự, kể cả bán tự là thế nào?" Là hỏi về nghĩa sau, bán tự và mãn tự có nhiều nghĩa. Sau đây, Phật sẽ giải thích để chúng được hiểu.
"Thế nào là các Đấng Điều Ngự đến đây?" Là câu hỏi thứ hai về hạnh nhập chứng của tướng xả.
Dưới đây là phần ba, hỏi về hạnh chứng thành quả thật, cũng gọi là hạnh khởi tác dụng của chứng thật, trong đó, nói về hành động của thân, miệng, ý của Phật.
"Thế nào là hạnh Thánh chung đến Ca-lân-đề", hỏi về ý nghiệp của Phật, gọi Phật là bậc Thánh. Hạnh mà Phật đã thành, gọi là hạnh Thánh. Chư Phật, Như lai được đại Niết-bàn, không bỏ thế gian. Không bỏ thế gian mà vẫn nhập Niết-bàn. Vô thường chung với thường, thường chung với vô thường, cho đến khổ, vui, ngã, vô ngã v.v..., so sánh cũng đồng như vậy, nên gọi là chung.
"Tướng này thế nào?" Sau đây, là dùng thí dụ để làm rõ:
"Như chim Ta-la và Ca-lân-đề (Ca-lăng-tần-già), cùng dạo chơi, ngơi nghỉ, đều chung nhau, không rời nhau.
Mặt trời, mặt trăng và cái sao, ba thứ này dụ cho hai nghiệp thân, miệng của Phật. Dưới đây, đều đáp riêng:
Từ đầu bài kệ đến đây là câu hỏi thứ nhất của đoạn lớn nói về Phật bảo dạy các vị Thánh hướng về hạnh Bồđề. Sau đây, là hỏi về Đức Phật khuyên bảo phàm phu hãy hướng về công hạnh Bồ-đề, trong đó có hai:
1. Nói do oai lực của pháp được nghĩa Bồ-đề.
2. Từ câu: "Thế nào là quán Tam bảo? v.v..." trở xuống là nói về nghĩa do năng lực tu của phàm phu kia mà được Bồ-đề.
Trong phần trước có ba:
1. Nói về oai lực của pháp giúp cho người phát tâm.
2. "Ở trong đại chúng không còn sợ sệt v.v..." trở xuống là nói về oai lực của pháp giúp con người được thành tựu công hạnh.
3. "Sinh tử v.v..." trở xuống là nói về năng lực của pháp kia giúp cho người được quả.
Câu hỏi đầu: Thế nào là đối với người chưa phát tâm, bảo cho họ phát tâm sẽ được thành Bồ-tát? Sau đây là đáp:
Kinh này nhập vào lỗ chân lông của thân chúng sinh, vì giúp cho dứt trừ tội nặng, nên làm cho chúng sinh phát tâm.
Thứ hai, là trong oai lực của pháp giúp thành tựu hạnh, thế nào là đối với chúng không sợ sệt, như vàng ròng không có tì vết? Là nói về pháp giúp cho thành tựu công hạnh dứt trừ tội lỗi. Nhất-xiển-đề v.v..., là người tội chê bai chánh pháp, gọi là đại chúng.
Thế nào là ở trong đó riêng được không có sợ sệt? Như vàng ròng của thế gian không thể nói nó có tì vết nhơ nhớp. Dưới đây là Đức Phật đáp:
Y kinh sám hối, các tội, làm cho các tội nghiệp đến chỗ không đến, nên không còn sợ sệt, như vàng ròng không có tì vết.
"Thế nào là ở chỗ vẩn đục mà không ô nhiễm? v.v..." trở xuống là nói về pháp giúp đỡ thành tựu hạnh dứt trừ phiền não.
"Thế nào là ở trong chốn vẩn đục mà không ô nhiễm như hoa sen?", đây là y theo con người để vì chúng hỏi.
"Sự vẩn dục có năm thứ, nay ở đây nói về phiền não kiến trược."
Thế nào là bảo phàm phu hướng về phát tâm Bồ-tát ở chỗ vẩn đục này mà không ô nhiễm như hoa sen?
Đáp: Do kinh, nên được không ô nhiễm.
"Thế nào là ở trong phiền não mà Phiền não không ô nhiễm, như thầy thuốc trị lành bệnh, không bị chứng bệnh làm ô nhiễm", đây là y theo pháp để vì chúng sinh mà hỏi.
Kinh pháp vì sao có nhiễm, không nhiễm? Không thể làm cho con người gội sạch được vết nhơ phiền não. Vì thế lực của kinh, nên gọi là nhiễm. Như thầy thuốc ở đời trị bịnh không lành, làm hoen ố y đạo của họ. Ngược lại, nếu làm cho con người dứt trừ phiền não, không ô nhiễm, thì vì thế lực của kinh, nên gọi là không nhiễm. Như thầy thuốc ở đời trị bệnh đều lành, thì sẽ không làm ô nhiễm y đạo. Chính vì vậy, nên nay hỏi:
Thế nào là kinh, ở trong phiền não mà không nhiễm, như thầy thuốc không ô nhiễm?
Đáp: Kinh Niết-bàn này có công năng tiêu diệt tất cả phiền não của chúng sinh, như thầy thuốc chữa lành các chứng bệnh, nên được không ô nhiễm.
Thứ ba, là trong thế lực của pháp được quả, đầu tiên là hỏi: "Thế nào làm thuyền sư (thuyền trưởng)? Đây là hỏi về đức hóa độ người phải không?"
Đáp: Vì Như lai đã được thuyền Niết-bàn, có khả năng cứu giúp chúng sinh qua biển ái, nên làm Đại Thuyền sư."
Bỏ sinh tử như rắn lột da là thế nào? Là hỏi về đức lợi mình phải không?
Đáp: Vì Như lai đã diệt độ mà vẫn thường còn, nên như rắn lột da, không chết. Chia làm hai:
1. Y theo tu được chứng nhập, để nói về dứt bỏ luống dối, khế hợp với chân thật, như rắn không chết.
2. Y theo thôi dứt hóa độ, trở về chân để giải thích ứng thân diệt độ, trở về với chân thân, như rắn không chết.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về thế lực của pháp kia được nghĩa Bồ-đề. Dưới đây là đoạn hai, nói về năng lực tu được nghĩa Bồ-đề, trong đó cũng có ba:
1. Nói về quán "Giải".
2. "Thế nào là Bồ-tát được không hư hoại? v.v..." trở xuống là dựa vào "Giải" để khởi hạnh.
3. "Thị hiện nhiều đầu v.v..." trở xuống là dựa vào hạnh được quả.
Trong phần đầu, y theo Phật tánh Tam bảo để nói về quán "Giải".
Đầu tiên là nói: "Thế nào là quán Tam bảo?" là y theo Tam bảo để hỏi Phật về quán "Giải" kia. Tam bảo sở quán, tùy duyên không nhất định. Như cây Thiên Ý, tùy theo ý trời mà chuyển biến. Quán này thế nào? Đức Phật đáp:
Hóa độ tùy chúng sinh có thay đổi, mà thật ra là thường còn.
Ba thừa vô tánh, sao lại nói bình đẳng? Vì y theo Phật tánh để nói về quán giải kia, trong đó, đầu tiên, đương pháp, chính là câu hỏi. Ý hỏi như thế nào? Người Ba thừa nói không có tánh riêng, thì làm sao nói riêng về Ba thừa được?
Nói riêng về ba thừa, là nói biết Ba thừa, mỗi thừa đều có tánh riêng. Như vui chưa sinh ra, thì làm sao gọi là vui? Y theo dụ mà so sánh nêu lên, như vui chưa sanh thì không thể gọi là vui, thọ vui sanh rồi mới được gọi là vui, Ba thừa phải có ba tánh, mới được nói là ba.
Đức Phật đáp:
Nói người ba thừa đồng một Phật tánh, chứ không có tánh riêng. Vì không có tánh riêng, nên không có Ba thừa riêng, thành ra văn dưới đây nói: "Nếu đời không có Phật thì chẳng phải không có Nhị thừa được hai Niết-bàn. Tất cả thế gian chỉ một Phật thừa, cho nên, không có Niết-bàn riêng của Nhị thừa. Vì không có riêng, nên người Nhị thừa cuối cùng sẽ cùng được một đại Niết-bàn."
Kế là nói về khởi hạnh. "Thế nào là Bồ-tát được chúng không hư hoại?", hỏi về hạnh lợi mình, hạnh lợi mình đã thành tựu, thì sẽ đồng với các Bồ-tát là không thể trái khác, gọi là chúng không hư hoại. Vậy, nên văn dưới đây nói: "Bồ-tát siêng năng, tinh tấn hộ trì chánh pháp, nên được quyến thuộc không thể phá hoại."
Thế nào làm mắt sáng cho người mù, gọi là dẫn đường?
Là lời hỏi về hạnh lợi người. Cũng có thể hai thứ này đồng hỏi về lợi người, được chúng không hư hoại, là gồm nhiếp hạnh của người. Do người siêng năng giữ gìn pháp, đều ưa thọ trì, nên không thể phá hoại. Làm người dẫn dắt đám người mù là hạnh khai hóa. Sau đây, là nói về đắc quả.
Đầu tiên là hỏi: "Thế nào là thị hiện nhiều đầu?" Tùy từng loại chúng sinh mà Phật nói pháp khác nhau.
Thế nào là người nói pháp thêm như gọi ban đầu? Tùy căn cơ nói dần. Câu văn này trái ngược lại không đủ. Nếu đúng thì nên nói: "Thế nào là người nói pháp thêm nhiều như trăng mồng một (trăng non)?" Nếu nói cụ thể, thì nên nói: "Thế nào là người thuyết pháp làm thêm lớn chúng sinh, như cha mẹ ở thế gian bảo đứa con thơ mới sinh vào đêm trăng mười sáu." Đúng theo lời đáp thì nên nói như vầy: Trẻ con mới sinh, vào thời gian trăng mười sáu, lời nói không đúng. Vì lẽ cha mẹ giáo dục con nên lời nói đúng đắn của lần dạy bảo sau phải đồng với trước. Phật cũng như vậy. Trước tùy theo chúng sinh nói pháp Tiểu thừa, sau vì nói Đại thừa, vì cho nên nay mới hỏi.
Từ đầu bài kệ đến đây, đối với năm quả trên, đã hỏi về nhân Bồ-đề. Từ đây trở xuống, đối với quả Niết-bàn ở trên, để hỏi về nhân Niết-bàn, trong đó có bảy câu hỏi. Trước là hỏi: "Vì sao lại thị hiện Niết-bàn?" là nêu câu hỏi về quả Niết-bàn, vì muốn cho nhân Bồ-đề ở trên, nên cần phải hỏi. Ý hỏi thế nào? "Nay, Như lai đã rốt ráo nhập Niết-bàn rồi, sao lại còn thị hiện ở thế gian được?"
Đáp: Như lai không bao giờ rốt ráo nhập Niết-bàn, nên thường thị hiện ở thế gian. Việc thường thị hiện này chính là Niết-bàn mà Chư Phật đã khéo có. Sau đây, y vào quả này để hỏi nhân kia, trong đó có sáu câu hỏi: Ba câu hỏi trước, là hỏi về nhân hạnh chứng đạo của Bồ-tát kia, tức là lợi mình. Ba câu hỏi sau là hỏi về nhân hạnh của đạo giáo hóa, tức là lợi người.
Trong câu hỏi về chứng hạnh, "Thế nào là mạnh mẽ, tinh tấn, chỉ dạy đạo cho người trời?" chính là hỏi về thể của chứng nhập. Đoạn văn này không đủ. Nếu đủ thì nên nói: "Thế nào là người dũng cảm chỉ bày đạo cho người, trời, và các ma, phạm, Sa-môn?" Đây mới gọi Đức Phật là người mạnh mẽ tinh tấn. Vì Đức Phật là người rất mạnh mẽ, rất tinh tấn, nên đã chỉ bày rõ chánh đạo xuất thế cho người v.v..., giúp cho được Niết-bàn. Sau đây là Phật chỉ bày:
Quán sát Tam bảo thường trụ đồng với chân. Ngã tánh, Phật tánh không hai, không có khác nhau là chánh đạo kia.
Sau đây là hỏi về lợi ích được chúng của phàm phu.
Thế nào là biết tánh mà thọ hưởng niềm vui của pháp? Là hỏi về lợi ích do chứng pháp mà được vui của phàm phu kia.
Thế nào là Bồ-tát lìa tất cả bệnh? Hỏi về lợi ích do chứng pháp trừ chướng của phàm phu kia. Sau đây là hỏi về hạnh giáo hóa, trong đó, Bồ-tát Ca-diếp hỏi về giáo quyền, thật. "Biết quyền, thật để cầu quả sao lại nói là "Mật" là hỏi về giáo Quyền, Thật.
Lời nói này vì tóm lược nên ít. Nếu đầy đủ, thì nên nói: "Nói mật và không bí mật là sao? Giáo "Quyền" ẩn giấu "Thật", gọi là Bí mật. Thật giáo sáng tỏ, rõ ràng, gọi là không bí mật.
Thế nào là rốt ráo và không rốt ráo? Hỏi về chỉ thu của giáo đó.
Sâu gọi là rốt ráo, cạn không gọi là rốt ráo.
Như Phật đã dứt nghi rồi, vì sao không nhất định? Vì y cứ chung về ý nói hai thuyết quở trách ở trước. Người khác sinh nghi, có thể nói là không nhất định.
Đức Phật đã cắt đứt lưới nghi, nay vì sao Phật lại đặt ra thuyết không nhất định?
Đáp: Vì hóa độ người khác nhau, cho nên như vậy.
Từ đầu bài kệ đến đây, là nói về pháp học của phàm phu kia. Dưới đây, là nói về hạnh Hữu Học, trong đó có ba:
1. Nói về tùy duyên tạo ra hạnh tu.
2. "Có tánh vui đối với tất cả pháp v.v..." trở xuống, nói về hạnh nhập chứng của tướng xả kia.
3. "Chúng sinh phần nhiều nương tựa v.v..." trở xuống, là nói về hạnh chứng thật thành quả của chúng sinh kia, cũng gọi là hạnh chứng thật khởi dụng.
Hai hạnh đầu trong ba hạnh là nói về hạnh mà các bậc Hiền thánh đã tu. Một hạnh sau là nói về hạnh hóa độ phàm phu của Phật.
Hỏi: Hai nhân Bồ-đề, Niết-bàn trong pháp Hữu Học ở trước là nhân riêng, vì sao trong hạnh hữu Học này lại không như vậy?
Giải thích:
Nói về lý pháp, cần phải lìa rộng, vì lý phải uyển chuyển, nên ở trước là hỏi riêng, dựa vào pháp thành tựu hạnh, hoặc thành tựu hạnh không khác, cho nên hợp thuyết là vì lẫn nhau đều được.
Trong phần tu tạo đầu tiên là năm hạnh thế gian, mười đức xuất thế. Đầu tiên nói: "Thế nào là gần đạo Vô thượng?", hỏi về hạnh thế gian. Đức chân xuất thế là đạo vô thượng. Vì công hạnh địa trước gần thành đức kia, nên gọi là gần. Tướng này thế nào? "Nay, con thỉnh v.v... trở xuống là hỏi về hạnh xuất thế. "Con thỉnh Như lai tự nói lên tâm mình, vì Bồ-tát, nên bày tỏ việc làm, nguyện nói Chư Phật sâu xa mầu nhiệm chính là nói về đối tượng thỉnh. Đức chân thật của địa trên đã khế hợp với "Thật", gọi là "Thâm", lìa tướng gọi là diệu. Mười đức không phải một, gọi là các hành, xin Phật nói cho nghe.
"Do tu mà nhập chứng v.v..." trở xuống là kế là hỏi về thật. Trong tất cả pháp đều có tánh lạc, là nêu sở chứng của phàm
Thánh. Năm ấm là pháp, năm ấm của phàm, Thánh đều có Phật tánh, nên nói "Tất cả đều có tánh lạc." Cũng có tánh thường, tánh ngã, tịnh v.v... Nay nói về vui, vì người phần nhiều ưa vui.
"Cúi mong Đại tiên v.v..." trở xuống là thỉnh Phật giảng nói. Thỉnh là gì? Vì muốn chứng nhập. Nhưng, trong văn này chỉ nói về sở chứng, không nói về năng chứng.
Sau đây, sẽ đáp "Sư tử cụ vấn", nói: "Thế nào là Phật tánh v.v...?, là hỏi về sở chứng của Phật tánh.
"Phật trụ pháp nào để thấy tánh rõ ràng v.v...?" là hỏi về chủ thể chứng.
Y theo đối tượng chứng kia để so sánh với năng chứng ở đây, về lý lẽ ra cũng bằng nhau. Kế là dùng kệ để hỏi sơ lược không đầy đủ. Nhân chứng thành quả, chứng tịch khởi dụng.
Sau đây là hỏi. "Chúng sinh phần nhiều nương tựa", là hỏi về thân nghiệp của Phật. Thuốc hay của Đấng Lưỡng Túc là hỏi về khẩu nghiệp của Phật. Nay, muốn hỏi về ấm, con là người vô trí v.v..., là hỏi về ý nghiệp của Phật. Cũng có thể là câu đầu nói về Như lai là chỗ nương cho chúng sinh, vì làm cho Xiển-đề sinh ra niềm tin đối với Phật.
Đoạn hai, là nói pháp Phật là vị thuốc hay, vì làm cho Xiển-đề đối với giáo pháp Phật, từ bỏ sự chê bai, sinh ra niềm tin.
Đoạn ba là bày tỏ đức trí của Phật rất sâu xa, "Sở tri" dứt bặt, vì để cho Xiển-đề đối với pháp nghĩa của Phật, tỏ ra kính mến, suy tôn trở thành niềm tin.
Đầu tiên, là nói "Chúng sinh phần nhiều y chỉ", là Đức Phật khen hỏi chúng sinh. Khen ngợi Như lai có thể làm chỗ nương cho chúng sinh. Ca-diếp muốn hỏi, vì sắp đoạt phá ở trước, nên trước là khen ngợi. Cho nên dù khen mà gọi là hỏi. Trong đây, sao Bồ-tát Ca-diếp không thưa hỏi ngay?
Giải thích: Không được.
Dưới đây là nêu Tỳ-kheo Thiện Tinh đã hỏi Phật không có lòng từ, không có phương tiện lớn, nên chẳng phải là chỗ y chỉ của chúng sinh. Lời lẽ câu hỏi rất rộng. Nếu ở đây vì hỏi mà nói thì rất nhiều, không thành nghĩa kệ, nên khen ngợi được lược qua. "Thuốc hay của Đấng Lưỡng Túc" cũng là khen mà hỏi. Khen ngợi thuyết mà Phật nói có thể là thuốc hay. Bồ-tát Ca-diếp muốn thưa hỏi, sắp đoạt phá cái cho trước, nên trước là khen ngợi. Cho nên, dù khen mà gọi là hỏi. Trong trường hợp này, sao Bồ-tát Ca-diếp không thưa hỏi ngay? Điều này cũng không được.
Dưới đây, là nêu hai mươi mốt cặp để tranh luận. Thưa hỏi về thuyết mà Đức Phật đã nói, có phải là vị thuốc hay hay không?
Nếu ở đây vì thưa hỏi thì lời câu hỏi sẽ rộng, nhiều, không thành kệ, tụng, nên lời khen được lược qua.
"Nay, muốn hỏi về ấm, con không có trí v.v...", là câu hỏi có tính cách khiêm tốn. Khiêm tốn mình không biết mà khởi nói sau, nên được thành câu hỏi, làm cho muốn hỏi về ấm, phải tự giảng nói với tâm mình.
Dưới đây, là nói năm ấm có hai thứ:
1. Năm ấm của Phật tánh.
2. Năm ấm của pháp tướng.
Y theo Phật tánh có thiện, bất thiện, năm ấm của quả Phật, trong y cứ pháp tướng có nhân, có quả, nên gọi là các ấm.
"Con là người vô trí v.v..." trở xuống, là chứng tỏ rằng, các ấm này chỉ là "sở tri" của Phật, người khác không thể, suy lường. Cho nên sau đây, khi Như lai đáp câu hỏi này, thì sẽ gọi là Như lai đã tùy ngữ ý của mình, trong đó, trước là nói mình không biết.
Kế là, là nói về tinh tấn, Bồ-tát không biết tự thân Ca-diếp trụ ở thập địa. Phải nên gọi tâm mãn của thập địa kia. Cho là các Bồ-tát tinh tấn, vì sự tu học của các Ngài đã cùng cực hướng về Phật không xen hở, nên nói là tinh tấn.
"Sự sâu xa như vậy v.v..." trở xuống là nói chỉ có Phật biết. Sâu sắc như vậy v.v..., là nêu các ấm ở trước, vì chỉ có Phật biết, nên nói là cảnh Phật.
Nói lời này, nhằm nói lên pháp rất sâu xa, chỉ có Phật biết, làm cho con người kính mến, suy tôn, từ bỏ sự chê bai, trở thành niềm tin.
Dưới đây là đoạn ba, Đức Như lai hỏi mà khen: "Lành thay!" là khen chung. Sau đây là phân biệt để khen, trong phân biệt có ba:
1. Khen câu hỏi, trên đồng với Như lai.
2. Trong phần khen câu hỏi ngang với Bồ-tát.
3. "Khen mà hỏi v.v..." trở xuống, là giúp ích cho chúng sinh.
Y theo lần khen đầu, trước nói trí của Bồ-tát Ca-diếp chưa đồng với Phật. Sau, nói lên các câu hỏi của Ca-diếp đều đồng với Như lai, cho nên đáng khen.
Trong lần khen thứ hai, "Ta đang ngồi ở đạo tràng, cũng đã có hỏi v.v...", là nêu Bồ-tát hỏi trong Hoa Nghiêm. Nhưng các công đức của nghĩa câu mà các Bồtát kia đã khéo hỏi. Vậy, vì sao Bồ-tát Ca-diếp lại tỏ ra cử chỉ khiêm tốn rằng, mình không thể đều có lý do.
Vì các câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp đều khế hợp với Pháp tướng, nên Phật khen ngợi. Ca-diếp tự nghĩ rằng, mình đã nhờ oai lực Phật, mới kham nỗi, nếu chỉ tự lực thì chắc chắn không nổi. Đó là lý do hỏi một cách khiêm tốn.
Trong sự kính mến, gìn giữ sau đây, trước là dụ, kế là hợp. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích, văn rõ ràng dễ hiểu.
Đoạn năm, trong phần Như lai đáp câu hỏi đầu tiên ở trên, trong đó:
1. Nói về nguyên nhân sống lâu.
2. Bồ-tát tu tập nghiệp này như vậy, sẽ được sống lâu v.v... trở xuống, là nói nhân được quả.
Trong phần trước, đầu tiên là giải thích đúng về thể của nhân.
3. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Nghĩa này rất sâu xa kín đáo, con vẫn chưa hiểu v.v... trở xuống là quét bỏ các trở ngại về dấu vết.
Trong phần đầu có bốn:
1. Y theo đối tượng gửi gắm, Đức Phật hứa sẽ nói về nghiệp sống lâu của Như lai.
2. Bồ-tát do nhân duyên của nghiệp sống lâu này trở xuống là y theo đối tượng tạo tác của nghiệp đó để nói về các Bồ-tát đều do nghiệp nhân mà được sống lâu, nhằm khuyên chúng hãy lắng nghe hãy nói.
3. Ta do tu v.v... trở xuống, là y cứ lại đối tượng gửi gắm, để nói hiện đang tu nhân, sẽ được quả báo.
Trong phần đầu, Đức Như lai trước là dạy bảo, sau hứa nói về nhân.
Trong đoạn hai, đầu tiên là nói về Bồ-tát do nghiệp gì mà được sống lâu.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết khuyên lắng nghe, thọ trì.
"Nếu nghiệp có thể v.v..." trở xuống, là nêu lại nghiệp trước. Vì y theo quả, lấy nghiệp, nên nói có công năng làm nhân Bồ-đề.
"Cần phải chân thành v.v..." trở xuống, khuyên chúng hãy vì nói pháp cho người nghe, nhắc lại việc lắng nghe, tiếp nhận ở trước, nhằm làm cho mọi người đều nương vào pháp đã nói.
Trong đoạn ba, là "Ta do tu tập nghiệp như vậy, nên nói lên sự tu của mình trước đây.
Sau đây, là nói về sở đắc.
Nay, đã chứng đắc Bồ-đề là quả lợi mình. Vì người mà nói rộng, hóa độ người ngoài, là quả của hạnh. Lại, chứng được Bồ-đề là thể của quả kia, gọi là công dụng của quả.
Trong đoạn thứ tư, trước nói về nhân hiện tại.
"Do nhân duyên của nghiệp ấy v.v..." trở xuống, là nói về quả sẽ được.
Trong phần trước, đầu tiên là thí dụ. Trong dụ có hai câu: Câu đầu là rất thương xót, dụ cho tâm lợi người. Vị vua dụ cho Bồ-tát, con dụ cho chúng sinh. Khởi nghiệp phiền não, gọi là phạm tội. Đắm chìm trong ba cõi, gọi là bị trói chặt trong ngục tù. Bồ-tát yêu thương, nghĩ nhớ, gọi là thương xót.
Câu thứ hai, là "Thân mình tự v.v..." trở xuống là dụ cho hạnh lợi người. Thân ở trong các cõi, cứu giúp chúng sinh, gọi ngồi xa giá trở lại chỗ trói buộc kia.
Sau đây là hợp. Từ câu đầu đến đại xả" là hợp với câu đầu ở trên, nói về tâm lợi người.
"Bồ-tát nên che chở tất cả chúng sinh nghĩ như con mình" hợp với vương tử nói trên. "Sinh ra đại từ v.v...", hợp với sự thương xót ở trên.
"Truyền trao không giết hại v.v..." trở xuống, là hợp với câu hai, là nói về hạnh lợi người, trong đó, đầu tiên là nói về lợi ích của pháp lành.
"An ủi v.v..." trở xuống là lợi ích của sự an vui. Trong phần trước, đầu tiên là lợi ích hóa độ Bồ-tát.
"Cũng sẽ yên định v.v..." trở xuống là nói lợi ích hóa độ phàmphu.
"Giải thoát, chưa giải thoát v.v..." trở xuống là lợi ích hóa độ Nhị thừa.
Trong hóa độ Bồ-tát, truyền trao giới không không sát sinh, dạy người phải bỏ làm ác. Về lý, thật sự chung cho thọ tất cả giới cấm, chỉ có giới không sát sinh là nhân sống lâu, nên nói nghiêng về, bảo tu pháp lành, khuyến khích thực hành điều lành.
Trong hóa độ phàm phu, cũng phải an bài, sửa đổi tất cả chúng sinh cho đúng. Dùng năm giới, mười điều lành để hóa độ, nhằm đem làm lợi ích cho người, trời. Năm giới là pháp cõi người, mười điều lành là pháp cõi trời.
Sau đây là đem lại lợi ích cho chúng sinh trong ba đường ác, dạy tu pháp lành, gọi là cứu giúp.
Trong hóa độ Nhị thừa, đầu tiên là giáo hóa, giúp cho ra khỏi sinh tử. Thoát người chưa thoát: Thoát nhân sanh tử.
Độ người chưa được độ, nghĩa là độ thoát quả sinh tử.
"Chưa Niết-bàn v.v..." trở xuống là giúp cho chúng sinh chứng được Niết-bàn.
Như trên đã nói về lợi ích của thực hành việc lành, an ủi tất cả chúng sinh khổ não, giúp cho họ được lợi ích do sự yên vui mang lại.
Trên, là nói về nhân hiện tại. Dưới đây là nói về được quả báo, trong đó, trước là nói về được quả xuất thế. Do nghiệp duyên này mà được mạng sống lâu dài, chính là nói được quả. Đối với tuệ tự tại, thoát khỏi thể của mạng. Vì tuệ Thánh có công năng giữ gìn các đức không hư hoại, nên nói là mạng, đó là do trong kinh nói: "Xá-lợi, Mục-liên, Tu-bồ-đề v.v... đều gọi là Tuệ mạng. Vì tuệ Phật không có chướng ngại, nên gọi là tự tại. Khi qua đời sinh lên cõi trời, được quả thế gian."
Dưới đây là đoạn hai, Đức Phật quét bỏ dấu vết nghi ngờ, trong đó có hai:
1. Quét bỏ dấu vết không yêu thương của giáo xưa.
2. "Như Phật đã nói, tức là đối với không bình đẳng, xem đồng như con mình v.v..." trở xuống là quét bỏ dấu vết không bình đẳng của nay.
Trong phần trước có bốn:
1. Bồ-tát Ca-diếp dùng lý để thưa hỏi.
2. Đức Như lai dùng lý để chính đáp.
3. Bồ-tát Ca-diếp chấp dấu vết, đặt ra câu hỏi.
4. Đức Như lai quét sạch dấu vết, giảng thích thông suốt.
Về văn, phân biệt dễ hiểu. Trong phần đầu, ca diếp trước nhắc lại lời nói trên, để bày tỏ điều mình chưa hiểu. Kế là quở Như lai không nên nói rằng: "Bồ-tát tu bình đẳng".
"Sở dĩ v.v..." trở xuống là giải thích: Người có kẻ lành, người dữ, đâu thể như nhau. Việc ác có sáu cấp:
1. Xiển-đề.
2. Chê bai Phương Đẳng.
3. Gây ra năm tội nghịch.
4. Trái phạm trọng cấm.
5. Gây ra mười điều ác.
6. Trái phạm tất cả tội về oai nghi. Nay, nêu ra đầy đủ. Lược nêu có ba.
"Thế nào sẽ v.v..." trở xuống là kết, nói về câu hỏi về nghĩa bình đẳng.
Đoạn hai là Như lai dùng lý chính đáp nói về "thật" v.v... của mình.
Đoạn ba, trong phần Ca-diếp chấp dấu vết, thưa hỏi, trước, là nêu việc xưa. Về việc như kinh nói: "Kim cương này v.v..." trở xuống là nhắc lại để thưa hỏi Phật. Đoạn thứ tư, trong phần Đức Như lai quét sạch dấu vết và giải thích. Đầu tiên, y theo sự trái phạm của hóa độ, giải thích lược qua câu hỏi ở trước. Sau, y theo thật sự trái phạm, bày tỏ ích lợi đức từ của mình.
Trong phần trước thì trước là quở, kế là nói về việc hóa độ.
"Vì muốn xua đuổi v.v..." trở xuống là bày tỏ ý hóa độ của mình. Y theo thật sự trái phạm, đầu tiên là y cứ hiện đang trái phạm, để nói về lợi ích lòng từ của mình.
"Chưa thể thấy pháp, ông muốn thấy v.v..." trở xuống, là y cứ sẽ trái phạm kia, nói về ích lợi lòng từ của mình.
Trong phần trước, đầu tiên là ý, kế là miệng, sau là thân. Trong ý, trước nêu bốn hạng người ác, sơ lược không có năm tội nghịch và lỗi oai nghi.
"Ta ở đây v.v..." trở xuống, là trong phần nói về lợi ích lòng từ của mình là miệng. Như nhà vua có trái phạm giết hại mà không buông bỏ, nói phàm khác với Phật.
"Như lai, Thế Tôn không như vậy v.v..." trở xuống, chứng tỏ Phật khác với phàm. Khác có hai hạng:
1. Vua người ở thế gian thấy kẻ phạm tội, dùng quả báo khổ để trừng trị. Đức Phật thì không làm như vậy, mà vì ngăn dứt khổ cho họ.
2. Vua cõi người ở thế gian lúc trừng trị người tội, dù người đó chưa ăn năn, cũng không buông bỏ. Đức Phật thì không phải như vậy, hễ người đó ăn năn, đều được tha thứ.
"Đầu tiên là nói Đức Thế Tôn v.v..." trở xuống, như vậy nói chung là khác nhau. Sau đây, sẽ phân biệt để làm rõ.
Trong phần riêng, trước nêu bảy pháp yết-ma. Kế là nói về ý hóa độ. Sau là tổng kết khen.
Thứ nhất trong phần đầu là yết-ma xua đuổi, khiển trách, cũng là yết-ma xua đuổi trong luật. A-thấp-ba v.v... hành động xấu ác, ô nhiễm trong thôn xóm, Đức Như lai lập pháp "Khu tẩn" (đuổi ra khỏi chúng), gọi là "yết-ma khu khiển".
Yết-ma quở trách: Như trong luật nói: "Trí tuệ Lôhê-na rất ưa thích tranh cãi. Miệng thốt ra toàn dao, gươm, mắng nhiếc hạ nhục lẫn nhau, làm cho tăng phải bị hoen ố bởi vết nhơ trần tục. Như lai lập ra pháp quở trách, bảo đình chỉ, gọi là yết-ma quở trách.
Yết-ma đặt để: Cũng là yết-ma y chỉ trong luật. Bísô Tỳ-kheo vì ngu si không có trí, nên thường sám hối, thường trái phạm, không thể tự kiềm chế. Đức Như lai lập pháp bảo phải nương người có đức, nên nói là "Y chỉ", được an trí bên cạnh người có đức, gọi là yết-ma đặt để.
Yết-ma nêu tội: Về nghĩa phải hợp với yết-ma ngăn cấm không được đến nhà người tại gia trong luật.
Tỳ-kheo Thiện Pháp chê bái, mắng nhiếc người đànviệt, đàn-việt mắng lại, giận hờn bỏ đi. Như lai lập pháp, buộc phải sám hối với đàn-việt, ngắn cấm ức chế không cho phép đến nhà đàn-việt kia, gọi là yết-ma ngăn cấm không đến nhà người tại gia.
Nêu lên tội lỗi, bảo cho biết, vì bắt buộc phải sám hối với đàn-việt, nên còn gọi là "Yết ma nêu tội".
Không thể thấy người yết-ma, cũng không thấy nêu tội trong luật.
Tỳ-kheo Xiển-đề phạm tội mà không biết. Đức Như lai lập pháp đuổi ra ngoài chúng.
"Có lợi đều đoạt, đợi thấy mới hiểu, gọi là cử không thấy tội." Yết-ma diệt: cũng là cử không sám hối tội lỗi trong luật. Lại do
Xiển-đà gây ra tội, nhận biết mà không sám hối, để cho tội được tiêu diệt. Đức Như lai lập pháp, nêu tội, đuổi ra khỏi chúng, chờ sám hối mới giải thích, gọi là không sám hối tội cử, vì nêu khuất phục cho diệt độ, nên ở đây gọi là yết-ma diệt tội, không xả bỏ ác kiến, cũng chính là nêu không bỏ ác kiến trong luật.
Tỳ-kheo A-lợi-tra nói dục không chướng đạo. Đức Như lai lập pháp, đuổi ra ngoài chúng, đợi xả bỏ mới giải yết-ma, gọi là không xả ác kiến cử.
"Cho nên Như lai đối với chê bai pháp v.v..." trở xuống, là nói về ý hóa độ của mình. Đây là khác với vua cõi người ở thế gian.
"Tức là thí v.v..." trở xuống là tổng kết để khen. Cấm điều xấu ác, ngăn dứt các khổ, gọi là thí không sợ sệt.
"Trong sự lợi ích của thân nghiệp, hoặc phát ra một tia sáng, hoặc hai, hoặc năm", chính là nói lợi ích của thân. Trong ánh sáng năm màu, hoặc Đức Phật phát ra một, hai tia sáng, cho đến năm tia sáng.
"Có đủ v.v..." trở xuống là nói chung để kết khen.
Trên đây là y cứ Tỳ-kheo kia hiện đang trái phạm, để nói về lợi ích. Dưới đây, y cứ ở sẽ phạm:
"Pháp chưa thấy, ông muốn thấy v.v..." là nêu chung, Đức Phật hứa sẽ nói về nghi thức hóa độ trong thời đại mạt pháp mà Bồ-tát Ca-diếp chưa biết, gọi là chưa thể thấy. Sau đây, Đức Phật chính là nói cho nghe.
Đầu tiên, nhà vua dụ cho giáo hóa, trị vì chúng sinh. "Thí dụ cây độc" khuyên trị phạt đồ chúng. "Thí dụ tóc bạc" là đối trị quyến thuộc của mình.
Trong phần trước, đầu tiên là pháp; kế là dụ; sau là hợp. Trong pháp, trước là bảo trị phạt người xấu ác.
"Phải biết v.v..." trở xuống là nói về trị phạt có ích.
Trong dụ có bốn câu:
1. Dụ cho sở trị. Người ác ở vị lai, đứng đầu trong chúng, nên nói là vua. Thường phạm giới cấm, gọi là chuyên bạo lực, gây ra điều ác không thôi, mọi người đều nhàm chán sự hèn hạ, gọi là gặp phải bệnh nặng.
2. "Có vị vua ở gần v.v..." trở xuống, là dụ cho người năng trị phạt. Người hộ trì pháp, gọi là Lân vương. Biết điều ác gọi là nghe Tỳ-kheo tu điều lành, gọi dấy binh đến, muốn đến trị phạt, gọi là khuôn pháp sắp diệt.
3. "Bấy giờ, nhà vua bị bệnh v.v..." trở xuống là hàng phục sở trị.
4. "Lân vương như vậy v.v..." trở xuống là năng trị được phước.
"Hộ trì pháp trong hợp cũng giống như vậy v.v..." là hợp với câu hai. "Được phước vô lượng" hợp với câu bốn.
Trong đoạn hai, chỉ có dụ không có hợp. "Trưởng giả", dụ cho Tỳ-kheo giữ gìn chánh pháp. "Chúng" dụ cho ruộng, nhà. "Sinh ra độc", dụ cho người gây ra điều ác. "Chém" dụ cho trị phạt.
Trong đoạn ba, trước là dụ, kế là hợp, sau là nêu được mất, để khuyên người vâng làm. Trong dụ, người tráng niên dụ cho người hộ trì pháp. "Đầu có tóc bạc, dụ cho người tạo ra điều xấu trong quyến thuộc". Thẹn mà cắt, nhổ, dụ cho dạy bảo, quở trách, đuổi đi. Hợp văn rất dễ hiểu.
Y theo dưới đây, trong lời khuyên, trước là mất, sau là được.
Trên đây là đoạn thứ nhất, quét bỏ dấu vết không có tâm từ" của ngày xưa. Sau đây, sẽ quét bỏ dấu vết hiện tại không bình đẳng.
Bồ-tát Ca-diếp trước hỏi: "Như lời Phật nói, thì không bình đẳng, xem như La-hầu-la. Chấp lời nói, thưa hỏi hạnh. Chấp lời nói trị phạt của Như lai ở trước "Thưa hỏi không có hạnh bình đẳng". Nếu có một người dùng dao giết hại v.v... trở xuống là chấp hạnh, gạn lời nói.
"Nếu trị phạt, phá hủy giới cấm là lời nói thì mất" là kết, để hiển bày lỗi, đồng nói là mất.
Sau đây, Đức Phật giải thích thông suốt. Trước là dụ, kế là hợp, sau là kết, nói lên bình đẳng.
Trong dụ có ba:
1. Lập tướng của dụ.
2. Hỏi lại Bồ-tát Ca-diếp.
3. Bồ-tát Ca-diếp chính đáp.
Trong phần đầu, "Vị vua v.v..., dụ cho Phật, Như lai." Người Học ở vị lai, gọi là các con. Từ Phật hóa sinh, do lời nói sinh ra có. Nói căn cơ không cong vạy, gọi là ngay thẳng. Biết suốt nhân quả, gọi là trí tuệ, hoặc hai, ba, bốn, nhiều ít không nhất định. Người ác có sáu, như trên đã nêu. Trong sáu người ác này, Xiển-đề không có niềm tin, nên không thể nhiếp hóa, nay, bỏ không nói. "Lỗi nhẹ của oai nghi", ở đây không nói.
Y theo hai người ác còn lại, người gây ra mười điều ác và phạm bốn tội nặng, nói là hai. Thêm vào năm tội nghịch, chung với ở trước nói là ba. Lại, thêm người chê bai chánh pháp chung với người còn lại, nói là bốn.
Vì sao không nói một người ác kia? Vì muốn trong số người ác đó, có người được giữ lại, có kẻ bị đuổi, nên không nói một người ác đó.
Khéo gởi gắm cho người truyền pháp tương lai, để họ nhiếp hóa, gọi là giao phó cho nghiêm sư.
"Mà nói rằng v.v..." trở xuống làm sáng tỏ tướng gởi gắm, dặn dò, trong đó, đầu tiên là phó chúc để giao hóa việc lành, khuyên bảo người học, nói "Ông hãy vì ta mà dạy bảo các con", sao cho thành ba học, gọi là oai nghi v.v... đều được thành tựu."
Sau đây là phó chúc đối trị với điều ác: "Nay, bốn đứa con của ta sẽ đến xin học với ông", là nhắc lại đối tượng gởi gắm ở trước, trong số đó, có kẻ đã phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch và chê bai chánh pháp. Ba người tội này, phải y theo pháp, đuổi thẳng, gọi là ba con bệnh vì bị hình phạt đánh bằng gậy mà chết. Trong số đệ tử có trái phạm mười điều ác, đối với người phạm tội khinh, cũng phải trị tội, gọi là "Một con còn lại", phải trừng trị một cách nghiêm khắc.
Trị phạt kẻ ác, trong sạch hóa đại chúng, rất hợp với bổn ý của Đức Phật. Cho nên nói: "Dù mất đi ba người con, nhưng ta không bao giờ ân hận!" Về câu hỏi trái lại rất dễ hiểu.
Trong phần đáp lại câu hỏi của Bồ-tát Ca-diếp, đầu tiên là Phật dựa vào lý để đáp chung là "Không".
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trong hợp có bốn:
1. Hợp dụ ở trước.
2. Y cứ đối tượng gởi gắm, hỏi ngược lại Ca-diếp.
3. Bồ-tát Ca-diếp chính thức đáp.
4. Như lai thể theo lời đáp của Ca-diếp, để nói lên mình không có tội.
Trong phần đầu, Như lai hợp với "Vị vua v.v..." ở trước. Xem kẻ phá hoại chánh pháp như "Một đứa con", hợp với "Các con đẻ". Như lai gửi gắm chánh pháp cho các vị vua v.v...", là hợp với "Trao cho Nghiêm sư ".
Trong dụ ở trước, nêu người nhân để nói lên việc gửi gắm. Nay, trong phần hợp này, y theo "Pháp" để giải thích, là nói đúng sai vậy.
"Cần phải khuyên v.v..." trở xuống là hợp với "Ông hãy vì ta mà dạy bảo các con.
"Giúp cho chúng được giới, định, tuệ tăng thượng v.v..." trở xuống là hợp với "Oai nghi v.v..." đều được thành tựu.
"Nếu có đứa con nào không học" v.v... cho đến "Nên trừng trị", hợp với "Ba đứa con bị bệnh, bị phạt đánh bằng gậy mà chết, chỉ có một đứa con, phải trị phạt nghiêm khắc. Văn ba đoạn sau rõ ràng, dễ hiểu.
Trên đây là hợp xong, dưới đây là đoạn ba, kết thúc để nói lên sự ngang bằng.
Trước, y theo đối tượng gửi gắm, Như lai kết thúc ngang bằng. "Đây gọi v.v..." trở xuống, y theo việc đã làm của chúng kia để kết luận ngang bằng.
Trên đây, đã nói về nhân. Dưới đây, là đoạn hai, nói về nhân sẽ được quả, trong đó đầu tiên là nói về thể của quả là thường trụ, tức là đức của mình.
"Cần phải tu tập Phật, Pháp, Tăng, mà tạo nên nghĩa thường v.v..." trở xuống là y theo nghĩa thường để nói về quy, là nói về đức lợi người.
Trong phần trước, đầu tiên là nói về thể của quả là thường trụ. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Pháp thế gian, xuất thế gian có gì khác nhau? v.v..." trở xuống là dựa vào lời Phật đáp, để nói về điểm bị diệt, chứng tỏ pháp thế gian, xuất thế gian khác nhau.
Trong phần trước có ba:
1. Nói Bồ-tát tu tập nghiệp này, sẽ được tuổi thọ lâu dài, khéo biết việc đã xảy ra ở đời trước.
Nói lược về được quả.
2. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật v.v... trở xuống là hỏi, đáp, giải thích rộng.
3. Này Ca-diếp! Phải biết thật là thường v.v... trở xuống, là kết khuyên tu học. Đoạn đầu dễ hiểu.
Trong đoạn hai, là giải thích rộng, có ba lời hỏi đáp:
1. Bồ-tát Ca-diếp chấp nhân, gạn quả để bắt bẻ Phật là Vô thường. Đức Như lai đáp câu hỏi của Bồ-tát Cadiếp, nhằm chứng minh mình là thường.
2. Ca-diếp nghe Phật nói "Thường" không hiểu, xin Phật giảng nói rộng. Đức Như lai giải thích cho nghe.
3. Bồ-tát Ca-diếp chấp chân thân, hỏi về ứng thân. Đức Như lai giải thích:
Trong phần đầu, trước Ca-diếp nhắc lại lời Phật nói: "Quở trách không nên nói."
"Vì sao? v.v..." trở xuống là Bồ-tát dùng lý để gạn lại lời Phật trách cứ, trở thành "Không nên nói" ở trước. Trong đó có hai:
1. Nêu nhân, gạn quả, nhằm bắt bẻ Phật vô thường.
2. Từ "Như lai sẽ không có" v.v... trở xuống là y theo quả, để chứng nghiệm nhân, nghi ngờ Như lai không có hạnh từ.
Y theo câu hỏi đầu, trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ có hai:
1. Dụ cho lời nói và việc làm trái nhau, gọi Phật cho là người biết pháp. Đức Phật nói quả thường, tức là viên mãn đáp lại nhân thường, gọi là các thứ pháp hiếu, chân, vì nhân là cha mẹ, quả là con, nên nghĩa gồm thâu trong cái gọi là "Đến nhà", dùng quả vô thường chống với nhân thường, gọi là dùng gạch đá để đánh ném cha mẹ.
2. "Mà là v.v..." trở xuống là dụ khen nhân, trách quả. Trước là khen nhân thường kia, cha mẹ như vậy, là nêu nhân xưa của Phật, được chỗ nương của quả, gọi là ruộng phước tốt, có công năng sinh ra quả thường, gọi là nhiều lợi ích. Nhân này không được gọi là khó gặp, nên dùng quả thường mà đáp lại gọi là "Ứng cúng dường".
Dưới đây là trách quả nay: Quả vô thường trái với nhân thường, gọi là não hại ngược lại. Sau đây là hợp. Trước là hợp với câu đầu, là biết pháp, nhân, ngôn, hành trái nhau, nhắc lại kế là nêu dụ trước. Lời Như lai nói:
"Cũng giống như vậy", nghĩa là nêu pháp để hợp. "Bồ-tát tu trở xuống là hợp với câu hai. Bồ tát tu bình đẳng, nên được sống lâu hợp với "Khen nhân" ở trước.
"Nay là v.v..." trở xuống là hợp với trách cứ quả sau. Thứ hai là trong phần nêu quả nghiệm nhân, sẽ không có ý nghĩa oán ghét đối với chúng sinh, nói là không có lòng từ.
"Ngày xưa, Đức Thế Tôn đã gây ra điều ác gì? v.v..." trở xuống, là nói không có hạnh tốt? Sau đây là Phật giải đáp:
Nay, vì sao ông lại quở câu hỏi kia trái với câu hỏi sau ở trên. "Như lai có tuổi thọ lâu dài hơn hết trong các tuổi thọ v.v..." trở xuống là nói thể Phật là thường, đối với câu hỏi đầu tiên ở trên. Hơn hết trong các tuổi thọ nghĩa là báo thân Phật là thường. Đã được pháp thường hơn hết trong các thường, là pháp Phật thường.
Trong đoạn hai, trước là Bồ-tát Ca-diếp thỉnh Phật giải đáp. Sau đây là Phật giải thích:
Có bốn lần "Lại nữa": Hai lần "Lại nữa" trước, là nói về lý do thường. Hai lần "Lại nữa" sau, là nói nêu thường thù thắng.
Y theo hai lần "Lại nữa" ở trước, một lần "Lại nữa" đầu là nói về mạng sống của các chúng sinh kia đồng nhập lý do gọi là thường. Trước dụ, sau hợp. Cõi người, cõi trời, đất và hư không đều nhập vào biển tuổi thọ của Như lai. Giải thích có hai nghĩa:
1. Y theo tự thực hành, hướng về quả để nói thì Đức
Phật có đủ vô lượng nghiệp lành người, trời ở trong nhân, nên đồng được quả. Nay, đều cảm chung mạng của Như lai. Cho nên nói là "Nhập".
2. Y theo người khác để giải thích. Tất cả người, trời đã có tuổi thọ, đều ở trong giới hạn tuổi thọ của Như lai, nên nói là "Nhập".
Thứ hai là nói về chúng sinh sinh ra đa số là mạng, nên được gọi là thường, trong đó, hết là thí dụ. Ao Anậu-đạt từ chủ mà đặt tên. Hán dịch là Vô Nhiệt Não, lại dịch là Thanh lương, không có nóng bức, vì rồng ở trong đó, phát ra bốn con sông. Kinh nói không nhất định, hoặc nói phát ra tám dòng sông. Hoặc nói phát ra hai mươi con sông lớn, đều có lý do.
Nói phát ra bốn con sông, là ao này ở trên đỉnh Hương Sơn. Bốn phía núi có bốn đầu thú: Phương Đông có voi vàng, từ miệng phát ra sông Hằng. Phương Nam, là bò bạc, trong miệng chảy ra con sông lớn Tân-đầu. Phương Tây có ngựa hữu ly, trong miệng chảy ra sông lớn Tất-đà. Phía Bắc, là sư tử pha lê, trong miệng chảy ra sông lớn Bác-xoa.
Nói hai mươi con sông: Như kinh A-hàm chép: "Bốn sông nằm cách ao ngoài bốn mươi dặm, mỗi sông đều chảy ra bốn sông, chung với hai mươi sông gốc, đều chảy ra biển.
Nói ra, vào: Đức Phật xuất hiện ở phía Đông núi. Phương Đông có năm con sông mọi người đều nhìn thấy trọn vẹn đầy đủ làm ví dụ. Sông lớn của phương khác nổi tiếng mà mọi người đều biết, cũng lấy làm ví dụ, chung với thuyết trước nói là tám. Sông nhỏ của phương khác không nổi tiếng lắm, nên phần nhiều người ta không biết. Vì vậy, nên không nêu.
Sở dĩ nói tám, nay chỉ nói bốn. Sau đây là hợp.
Như lai cũng vậy, phát ra tất cả mạng. Giải thích có hai nghĩa:
1. Nói theo ở công dụng hóa độ của mình thì hóa thân khởi ra nhiều mạng, gọi là "Xuất" tất cả.
2. Nói theo Như lai hóa độ người thì do hóa độ người làm cho họ được, cho nên nói là "Phát ra".
Hai lần "Lại nữa" sau, là nói trong phần nói về thường thì kệ vượt hơn, trước nói về pháp thường, sau chứng tỏ quả báo thường, đều trước lập dụ, sau hợp, rất dễ hiểu.
Trong đoạn ba, trước là Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Nếu Phật là thường, thì sao không ở lại đời một kiếp nửa kiếp?" Sau đây là Phật đáp:
Trước quở, sau giải thích. Trong giải thích có hai:
1. Nêu pháp kém để chỉ rõ pháp vượt hơn, nhằm nói về Phật bảo là thường. Trước, nêu thân thua kém của Bồtát kia: "Năm thông như vậy còn được v.v... trở xuống, là nhắc lại kém để chỉ rõ hơn.
"Vì là v.v..." trở xuống là kết.
2. Thân này của Như lai là thân biến hóa v.v... trở xuống, là nói lên thân nhập diệt là ứng thân. Trước nói là ứng thân.
"Vì độ thoát cho mình v.v..." trở xuống, nêu rõ ý hóa độ của mình.
Trên đây ba lượt hợp thành phần hỏi, đáp thứ hai, để giải thích rộng. Sau đây, là Phật khuyên tu học, đầu tiên là khuyên hãy biết. Kế là Phật khuyên tu hành. Sau, khuyên nên nói pháp. Lời văn dễ hiểu.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói thể của Phật là thường. Dưới đây là đoạn hai, nhờ đối với giải thích khác, để nói rõ điểm khác nhau của pháp ấy, trong đó, đầu tiên là nói khác với phàm phu. Nghĩa Niết-bàn, tức là pháp tánh của Chư Phật trở xuống, là khác với Nhị thừa. Nay, ông không nên lo nghĩ suy lường Như lai sẽ ở lại chỗ nào v.v... trở xuống, là khác với Bồ-tát.
Trong phần trước, Ca-diếp hỏi trước để khởi phát.
Sau, Phật đáp.
Trong phần hỏi có hai:
1. Hỏi về sự khác nhau của Phật.
2. "Như Phật nói v.v..." trở xuống là hỏi khiến cho không khác nhau. Trong đó, trước là nêu tà chánh. Hai là "Thường", "nếu nói v.v..." trở xuống là y theo nghĩa khác nhau này để đặt câu hỏi. Trước là hỏi Như lai đồng với nghĩa "Thường" của thế gian.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích nghĩa thường của thế gian kia đồng với nghĩa thường của Phật? Phật đáp có ba:
1. Nói tà khác với chánh.
2. "Cho nên, Như lai ra đời v.v..." trở xuống là nói chánh khác với tà.
3. "Vì nghĩa này v.v..." trở xuống là kết khuyên tu học.
Y theo đoạn đầu, trước là dụ, kế là hợp. Có người nói khó hiểu.
Sau đây sẽ giải thích rõ lần nữa.
Bảy câu trong thí dụ:
1. Dụ Phật quá khứ nói kinh.
2. "Trưởng giả cuối cùng v.v..." trở xuống, là dụ ngoại đạo trộm pháp.
3. "Gặp trộm được bò v.v..." trở xuống, là dụ cho không có thầy, tự vắt sữa.
4. Mỗi người đều bảo nhau, trở xuống là dụ học Phật, tìm nghĩa thường.
5. "Chúng con không có v.v..." trở xuống là dụ cho tìm cầu nghĩa thường không được.
6. "Dùng đề hồ v.v..." trở xuống là dụ cho sự giả dối tăng thêm tình cảm của mình.
7. "Dùng nước nhiều v.v..." trở xuống là dụ thêm tình mà tổn thất.
Trong phần đầu, trưởng giả dụ cho Như lai. Bò dụ cho hành pháp. Sự khác nhau giữa môn hạnh, gọi là các thứ sắc. Đồng nói lên một giải thích, gọi chung là một bầy. Gửi gắm cho người tu hành, nghĩa là tùy duyên tu học, gọi là gửi gắm cho người chăn bò, chạy theo cỏ nước.
Vì được Niết-bàn, nên không mong cầu quả báo khác, gọi là đề hồ không tìm sữa, lạc. Bồ-tát như kẻ chăn bò kia. Y theo pháp, lo nghĩ, suy lường, nói là vắt sữa. Được nghĩa bổ sung cho thần, gọi là ăn.
Trong đoạn hai, Phật quá khứ thiên hóa, gọi là qua đời. Các ngoại đạo v.v... trộm chánh pháp của Phật đặt vào sách của mình, gọi là bọn trộm sao chép.
Trong đoạn ba, "Ngoại đạo không có thầy khéo giải thích, gọi là "Không có phụ nữ". Phát ra y mưu toan suy lường, gọi là tự vắt lấy sữa đem đi. Lấy sự nhớ tưởng làm hiểu biết, dùng để bổ sung cho tinh thần, gọi được đã ăn.
Trong đoạn thứ tư, Đại trưởng giả kia đã nuôi các con bò này, chỉ vì đề hồ, nên đi xa để tìm kiếm ý Thánh.
"Chúng con v.v..." trở xuống là người học Phật tìm kiếm nghĩa thường. "Nói về đề hồ v.v..." trở xuống là khen đối tượng tìm kiếm của họ.
Trong đoạn năm, ngoại đạo tự nghĩ thân không có căn cơ Đạo, gọi là "Không có đồ đựng". Đây là y cứ ở lời nói trong căn tánh của họ. Dựa vào pháp để tu điều lành, gọi là được sữa. Không có căn cơ đạo, ghi chép hạnh lành của chánh pháp kia, gọi là không có chỗ yên ổn. Ngoại đạo chỉ có căn cơ lành của thế tục, gom vào trong điều lành, nên nói về tướng, nghĩa là chỉ có đãy da để đựng. Không thể quán sát, phá tướng, cầu thật. Cho nên nói là không biết chứa góp, khuấy. Chánh quán gọi là chứa góp, đổ vào đồ đựng, nói là khuấy. Việc lành của thế gian, không sinh, gọi "Nước cất khó được". Đạo quả không bao giờ có, gọi là "Huống chi bơ sống".
Trong đoạn sáu, vì lấy đề hồ, nên pha thêm nước vào, nghĩa là vì được quả thường nên lập vọng tưởng trong sinh tử, nói rộng trời Phạm Thiên, trời Tự Tại v.v... cho là thường, lạc.
Trong đoạn bảy, "Vì dùng nước nhiều, nên tất cả đều mất." Nghĩa là do thêm vọng tình, nên mất việc lành thế gian, gọi là mất "Sữa", mất đi đạo hạnh mà các bậc Hiền thánh đã tu, gọi là mất "Lạc". Không được Niết-bàn, gọi mất "Đề hồ". Sữa, lạc, đề hồ này đáng lý được mà không được, gọi là mất.
Sau đây, là hợp: Trong bảy câu trước, chỉ hợp năm câu: Câu thứ nhất, thứ tư lược qua không hợp. Trong hợp thứ hai, đầu tiên chính là hợp.
"Vì sao? v.v..." trở xuống, là giải thích. "Như giặc kia v.v..." trở xuống, là nêu dụ để làm tín hiệu. Kế là hợp thứ ba, "Dù phàm phu được giới định, trí, tuệ", hợp với bọn "Trộm được bò". Không có phương tiện, không biết giải thoát, hợp với "Không có phụ nữ".
Kế là hợp với câu thứ năm. Vì nghĩa này, nên không thể đạt được giới, định v.v... chân thường, hợp với "Nước cất tinh chế khó được, huống chi là bơ sống."
"Như kẻ trộm kia v.v..." trở xuống, là nêu dụ để so sánh.
Trên đây là hợp xong. Dưới đây là lớp thứ ba, biểu thị việc pha thêm nước vào sữa ở trước. Phàm phu mà tu hành điều lành của người, trời như pha thêm sữa nói càn là thường, v.v... gọi là thêm nước. Trong văn, trước nói về sữa được thêm, là nêu pháp để dụ.
"Như vậy, phàm phu thật không biết v.v..." trở xuống, là nói về thêm nước. Văn rõ ràng dễ hiểu.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói tà khác với chánh.
Dưới đây là đoạn hai, nói chánh khác với tà. Đầu tiên, là pháp thuyết. Kế là dụ, sau là hợp.
"Cho nên, sau khi Như lai ra đời, mới vì giảng nói "Pháp thuyết" như thường v.v..., là đả phá nói giả dối thường, lạc, ngã, tịnh. Đức Phật vì nói đúng về thường, lạc, tịnh v.v... Trong dụ có sáu câu:
1. Dụ Như lai xuất hiện. Luân vương dụ cho Phật, hóa hiện ở thế gian, gọi xuất hiện ở đời.
2. "Thế lực phước đức v.v..." trở xuống là dụ ngoại đạo lui tan.
3. "Bò không có tổn hại v.v..." trở xuống là dụ chánh pháp không bị tổn hại."
4. Nhà vua giao các con bò cho một người chăn v.v... trở xuống là dụ giao phó cho người tu học. Đức Phật giao phó chánh pháp cho các Bồ-tát, gọi là giao phó cho người chăn bò, người có nhiều phương tiện khéo léo.
5. "Người này v.v..." trở xuống là dụ người tu học được Bồ tát khéo tu chứng, hiểu được pháp thường gọi là được đề hồ.
6. Đề hồ, v.v... trở xuống là dụ được lợi ích rộng lớn của thường. Đem những gì mình đã được để hóa độ người khác cùng chứng, làm cho họ thoát khỏi sinh tử, gọi là không có khổ đau hoạn nạn. Trong phần hợp, lúc Thánh vương xuất hiện ở đời, hợp với câu đầu ở trên.
"Các phàm phu v.v..." trở xuống, hợp với câu thứ hai. Trước là hợp, sau là yên định. Đức Như lai đã khéo nói pháp thế gian, xuất thế gian, hợp với câu thứ ba: "Bò không bị tổn hại mạng."
"Vì chúng sinh v.v..." trở xuống là hợp với "Giao cho một người chăn" của câu bốn. Vì chúng sinh, nên Đức Phật bảo các Bồ-tát hãy tùy chúng sinh mà giảng nói.
"Bồ-tát đã được" là hợp với câu thứ năm: "Phương tiện của người này", tức được đề hồ. Đúng ra, nên nói là "Đã được quả thường. Vì pháp từ dụ mà gọi, nên nói là đề hồ.
"Lại làm cho mình v.v..." trở xuống, hợp với câu thứ sáu. Nhưng trong dụ ở trên nói rằng: "Không có khổ bệnh." Nay, trong phần hợp này nói được thường, lạc là nói đúng sai mà thôi!
Trên đây đã nói chánh khác với tà.
Dưới đây là đoạn ba, kết khuyên tu học. Trước là kết, sau là khuyên. Trong phần kết, đầu tiên nói "Vì nghĩa này", là nghĩa Đức Phật khác với thế gian.
"Như lai thường v.v..." là kết, nói về nghĩa thường, chỉ có ở Như lai, không có ở người khác.
"Pháp thường này phải được gọi là v.v..." trở xuống là kết, khuyên về danh từ thường chỉ có ở Như lai, không ở pháp khác.
Kế là khuyên chúng tu học. Đầu tiên là khuyên hãy biết. Sau là khuyên tu học, khuyên học có ba:
1. Khuyên tu học hai chữ "Thường trụ". Thường là pháp thường, trụ là báo thường, vì dựa vào pháp mà trụ.
2. Nói về tu, là theo hạnh Phật đã thực hành mà đến chỗ Phật, đến. Tu đồng với Như lai, gọi là theo hạnh ta. Được quả đồng với Phật, gọi là đến chỗ ta. Lại, tu quả báo thường, gọi là theo hạnh ta. Chứng ngộ pháp thường, gọi là đến chỗ ta.
3. Nói về tu, là Đức Phật vì Niết-bàn, ý nói tu hai chữ là tướng diệt, nghĩa là tu Phật thường trụ, là tướng vắng lặng của đại Niết-bàn. Vì hai pháp này lìa tướng, lìa tánh, nên gọi là vắng lặng. Phải biết rằng, Như lai đối với người kia là Niết-bàn, nghĩa là đại Bát-niết-bàn, vì làm sáng tỏ riêng tâm họ, nên nói là bát". Y theo giải thích sau đây về nghĩa Niết-bàn, về đạo lý, chính là như vậy, không được giải thích khác.
Trên đây là đoạn thứ nhất, khác với phàm phu.
Dưới đây là đoạn hai, khác với Nhị thừa, trong đó có ba:
1. Nói Niết-bàn chỉ là pháp Phật.
2. Ca-diếp chấp Tiểu, hỏi Đại.
3. Đức Như lai nói Đại khác với Tiểu.
Y theo đoạn đầu, về nghĩa Niết-bàn, là nhắc lại Phật ở trước vì Bát-niết-bàn tức là pháp tánh của Chư Phật: Y theo nhân để nói về pháp, nói khác với Nhị thừa.
Trong đoạn hai, trước là thỉnh, san là hỏi. Trong phần thỉnh, đầu tiên là nói pháp tánh của Phật, nghĩa ấy thế nào? Thưa hỏi nghĩa Phật, "Nay con muốn v.v..." trở xuống là cầu thỉnh Phật nói.
Trong phần hỏi có bốn câu:
1. Câu hỏi có tánh, không có thân. Nói về pháp tánh, là nhắc lại Phật hướng về tánh Niết-bàn ở trước, tức là bỏ thân, y cứ theo Tiểu để so sánh với Đại, nghĩa là đồng với Tiểu thừa bỏ thân, trí mới là Niết-bàn. Nói bỏ thân: gọi là không có sở hữu.
Giải thích Đại thừa đồng với Tiểu thừa, đồng với "Diệt không có sở hữu" của Tiểu thừa. Nếu không có sở hữu, thì làm sao thân được tồn tại? Là Chấp "Không" mà hỏi "Có".
2. "Nếu thân tồn tại v.v..." trở xuống, là nói có thân không có tánh. Nếu thân còn, nghĩa là nếu có thân, thì sao lại nói thân có pháp tánh? Đây là hỏi nhằm đả phá "Có tánh". Do thân tồn tại, nên không được cho diệt thân là Niết-bàn, cho nên không có pháp tánh.
3. "Thân có tánh v.v..." trở xuống là nhắc lại cả hai, đều hỏi. Nói thân, là nhắc lại thân "Hữu" ở sau. "Có pháp tánh" là nhắc lại "Có tánh" ở trước.
Thế nào là con? Nghĩa là y theo đều nêu. Nếu nói có thân, thì nghĩa pháp tánh làm sao có được? Nếu "Có" pháp tánh, pháp tánh là "Không", thì thân làm sao tồn tại?
4. "Nay, tôi v.v..." trở xuống là bày tỏ điều mình không biết, thỉnh Phật giải thích thông suốt?
Đức Phật đáp có bốn:
1. Nói pháp tánh chẳng phải "Không".
2. Nói Nhị thừa không biết.
3. Nói thân Phật chẳng phải "Không".
4. Nói người Nhị thừa không biết.
Về văn, phân biệt dễ hiểu. Y theo đoạn đầu: "Ông không nên nói "Diệt" là "Pháp tánh", là quở lời hỏi của Tiểu thừa. Nói tánh không có diệt, chính là nói lên tính chất "Chẳng phải không"
Trong đoạn hai, y theo dụ để nói Nhị thừa không biết kính mến đức của Phật, như trời Vô Tưởng thành tựu sắc ấm mà là tưởng Vô sắc, là nêu việc để dụ.
Trời Quảng Quả trong Đệ Tứ thiền, có các ngoại đạo tu định Vô tưởng, sinh lên cõi đó. Mới sinh lên Hữu tưởng, tưởng trung gian diệt, trải qua năm trăm kiếp, khi tuổi thọ sắp hết, tâm tưởng sinh trở lại, bèn chê bai Niết-bàn, cuối cùng đọa vào địa ngục. Nay, Phật nêu việc đó: Lúc tưởng kia diệt, chỉ có sắc ấm, mà không có tưởng đã nương sắc ấm, cũng không dựa vào tưởng duyên bám của sắc, gọi là không có tưởng sắc.
"Không nên hỏi v.v..." trở xuống, chứng tỏ Nhị thừa khó biết. Trời Vô Tưởng kia dù không có tưởng thô, nhưng chẳng phải không có tâm thức sở hữu của tưởng tế. Vì người Nhị thừa chẳng biết, nên không hỏi.
Dụ nói Đức Như lai, dù đã dứt hết sinh tử, nhưng chân đức vẫn thường còn. Vì tất cả chân đức của Phật Nhị thừa không thể biết được, vì thế không nên hỏi.
Thế nào là trụ? Là hỏi về sắc ấm kia, thế nào là thọ hưởng thú vui? Là hỏi về thọ ấm. Thế nào là hành? Là hỏi về hành ấm. Sao là tưởng? Là hỏi về tưởng ấm. Thế nào là thấy nghe? Là hỏi về Thức ấm. Với các ấm này đều không nên hỏi.
"Cảnh của Như lai v.v..." trở xuống là Phật chỉ bày rõ lý do không nên hỏi. Vì quả báo của trời Vô tưởng chỉ cảnh giới của Phật, Nhị thừa, chẳng thể biết được, vì thế không nên hỏi. Đã so sánh với đức của Phật, dường như cũng đồng như vậy.
Trong đoạn ba, "Không nên nói rằng thân Như lai diệt", là nói thân chẳng phải "Không ". Lại nói thân Phật chẳng phải là pháp Vô thường, dời đổi diệt hoại. Vì thế, không nên nói thân Như lai là diệt.
Trong đoạn thứ tư, y theo pháp để nói về Nhị thừa không biết: "Pháp diệt như thế", là nhắc lại Niết-bàn ở trước là cảnh giới của
Phật, nói rằng chỉ Phật biết.
"Chẳng phải các v.v..." trở xuống, là nói Nhị thừa chẳng thể biết được.
Dưới đây là đoạn ba, khác với Bồ-tát, trong đó có ba câu:
1. Phật khuyên Ca-diếp không nên suy lường ở chỗ nào là suy nghĩ sắc ấm của Phật. chỗ nào là hành suy nghĩ là hành ấm. Của Phật, chỗ nào là suy nghĩ thức ấm của Phật, lược qua không nói tưởng. Các ấm này đều không nên hỏi. Vì thân pháp môn bình đẳng của Phật, mầu nhiệm ra khoải ngoài tình. Vì không còn ở một chỗ nào, mà chẳng chỗ nào không ở, vì thế không nên suy nghĩ.
2. "Nghĩa như vậy v.v..." trở xuống là nói Nhị thừa không biết, trở thành nghĩa không nên suy lường ở trước, không biết đồng với Tiểu thừa, nên nói là "Cũng".
3. "Chư Phật v.v..." trở xuống, là nêu Đức Phật không suy nghĩ, trở thành "Không biết" ở trước. Pháp thân Chư Phật là thân pháp tánh. Các thứ phương tiện là báo thân Phật. Vì công đức khác nhau của báo thân, nên nói là các thứ. Vì phương tiện tu sinh, nên gọi là phương tiện, cũng có thể pháp thân là chân thân của Phật. Mỗi thứ phương tiện là ứng thân Phật. Đều không thể suy nghĩ, nên Nhị thừa không biết.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về thể của Phật là thường, tức là đức của mình.
Dưới đây là đoạn hai, y theo nghĩa thường để nói quy y, là nói gồm thâu đức của người khác, trong đó có ba:
1. Y theo thường để nói về quy.
2. Bồ-tát Ca-diếp nghe Phật nói xong, nhận hiểu tu hành.
3. Như lai nói lại lời khen của mình. Trong phần đầu "Nên tu Phật, Pháp và Tăng mà nghĩ là thường", khuyên chung tu học, cũng nên nói rằng, tạo ra ý nghĩa không khác và không nghĩ là thay đổi, nhưng nay trong văn do chỗ giải thích ở trên, chỉ khuyên tu thường, các tưởng khác, lược qua không nói.
"Ba pháp này v.v..." trở xuống là tu học theo Biệt giáo. Trước mở ra ba môn, kế là nói rộng giải thích:
"Nếu nói Như lai khác với Tăng, Pháp v.v..." trở xuống là phá tà, bày chánh. Trong phần mở môn ở trước, nói ba "Pháp này không có tưởng khác", là nói chẳng có tự thể riêng. Vì trong một thể của Phật, tùy nghĩa được chia làm ba, nên không khác nhau. Không có "Vô thường, nghĩa là thể của Phật chẳng sinh, diệt, khác với "Biến dịch". Không có đổi khác, là thể không có cùng tận, khác với (sinh tử) phần đoạn. Y theo cách giải thích, thì nên như vậy.
Y theo ba môn này, Phật bảo phải dẹp bỏ ý nghĩ bất chính. Sau đây sẽ nói rộng:
Trước, nói rộng về không khác. Kế là, nói rộng về nghĩa chẳng có vô thường của đoạn hai. Sau là nói rộng nghĩa không có thay đổi.
Văn trong ba đoạn này có ẩn giấu và biểu lộ.
Trong phần nói rộng về không khác, riêng trái lại không thuận theo. Trong không có vô thường, trái lại thuận theo nêu cả hai. Trong "Giải" không có thay đổi, chỉ thuận không có trái ngược, lẫn nhau đều được.
Trong phần nói về không khác, đối với ba tu khác với ba quy thanh tịnh, thì sẽ không có nơi nương tựa, nói không có tâm quy thú ngay từ đầu. Ba quy thanh tịnh chẳng phải chỗ thu hướng của người kia, gọi là không có chỗ trả về.
"Giới cấm không đủ", là nói không có hạnh chánh tu trung gian, thiếu hướng về chân hạnh, cho nên không đủ, các hạnh đều thiếu. Vì lìa ác lúc đầu, nên chỉ nói là giới. Cuối cùng không thể được quả Bồ-đề của Thanh văn, Duyên giác, nghĩa là nói không có được thành quả rốt ráo. Vì quả Ba thừa đều không thành, nên nói rằng, không được quả Thanh văn v.v...
Không được nghĩa Bồ-đề, thì có thể được, sao lại không được quả Thanh văn, Duyên giác?
Giải thích:
Nếu người hoàn toàn không nghe ba quy y một thể, rồi nghĩa khác, cho rằng sẽ được quả Thanh văn, Duyên giác. Hoặc có người nghe nói ba quy y một thể, bèn chê bai không thọ, nghĩ là khác. Đây tức là người chê bai Phương Đẳng này tội hơn tội năm nghịch. Quả báo người, trời còn không thể nương dựa được, huống chi chứng được đạo quả Nhị thừa?
"Nếu có thể đối với v.v..." trở xuống là giải thích
"Không có nghĩa vô thường" của đoạn hai. Trước thuận, sau trái.
Trong thuận, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp. Trong pháp, "Nếu có thể ở đây, người không suy nghĩ tu tưởng "Thường", thì có chỗ trở về, nói có tâm quy hướng từ lúc đầu. Ba quy y thường trụ là chỗ hướng đến của họ, nên có chỗ quy về. Cứ như trước, nên nói giới cấm đầy đủ sẽ được quả Thanh văn, Duyên giác, lược qua không nói đủ.
Trong các dụ, như dụ cây, đoạn đầu nói "Thể Như lai là thường", "Thì có bóng cây", dụ cho nghĩa ba quy y là thường, trong đoạn sau này, y theo thể thường của Phật mà khai ra ba quy y này, gom nhiếp dụng của người nên hợp với câu ở trước, thì "Có chỗ quy" hợp với "Có bóng cây", chẳng phải vô thường, tổng kết là thường.
Sau đây, là giải thích ngược lại:
Nếu nói Như lai là vô thường, mà nêu kiến chấp khác lạ kia, thì chẳng phải chỗ quy y của người đời. Nói lỗi là sai. Vô thường diệt đi thì ai là chỗ quy y của chúng sinh? Dưới đây là đoạn ba, giải thích về không thay đổi:
"Đầu tiên, Bồ-tát Ca-diếp nêu chỗ tối không có bóng, vì muốn cho Như lai đồng với thay đổi?" Sau đây là Phật đáp:
Nói bóng thường có, chứng tỏ Đức Phật không có thay đổi, trong đó, trước là nói Như lai thường có không có mắt thì không đủ. Trước là dụ, sau là hợp:
"Như bóng tối kia v.v..." trở xuống, là nói về các chúng sinh không thấy thời gian. Trước là dụ, sau là hợp. "Sau Phật diệt độ, hợp với "Thời gian bóng tối kia". Nói là vô thường hợp với "Không thấy bóng".
Như trên là nói rộng. Dưới đây là đoạn ba, là phá tà hiển chánh. Y theo môn đầu là phá tà, hiển chánh, hai môn còn lại dễ hiểu.
"Nếu nói Như lai khác với pháp, tăng", là nêu kiến chấp khác lạ kia, thì sẽ không thể trở thành chỗ nương tựa ba quy y, dùng lý để bảo cho biết lỗi.
"Như ông v.v..." trở xuống là y theo dụ để chỉ rõ lỗi. Ba quy y đều khác nhau, vì không tức là tánh thường, nên là vô thường.
Trên đây là giáo thứ nhất, Đức Phật thị hiện trở về chân. Dưới đây là Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, tu hành, trong đó có ba:
1. Dùng chân để trở về, ở trên, đã mở ra cha mẹ, cho đến bảy đời vô thỉ đều mở ra, chỉ tùy theo thế tục, nên nói bảy đời. Lại, bảy đời về sau, tập khí ái chưa bỏ, vì có thể nhiếp hóa, nên nói là mở bày. Cha mẹ bảy đời hễ sinh vào bất cư đường nào, Ca-diếp đều đến, mà mở bày giáo hóa cho. Như Đức Phật lên cõi trời nói pháp để hóa độ cho mẹ.
2. "Trong nay ta v.v..." trở xuống là lợi ích cho thân mình.
3. "Đã tự hạ..." trở xuống là lợi ích cho chúng sinh. Chúng sinh có lòng tin, Đức Phật sẽ trực tiếp nói rộng cho họ nghe. Chúng sinh không có lòng tin, sợ hàng phục, thì Phật dạy họ phải học.
Đoạn ba, trong phần Như lai nói lại lời mình khen, trước là khen hộ pháp, kế khen làm lợi ích cho người. Vì dùng điều lành giúp ích cho con người, nên nói không dối trá. Sau đây, là nói về được quả.
Phẩm Kim cương Thân: trong phẩm này, Phật đáp đủ hai câu hỏi:
1. Đáp: Thế nào được thân Kim cương?
2. Đáp: Do đâu được năng lực vững chắc?
Nguyên nhân của hai câu hỏi này là đồng nhau, nên đáp một chỗ.
Trong hai câu hỏi này, y theo mở đầu để nêu "Nên, gọi là phẩm Kim cương Thân."
Trong văn dưới sẽ nói đủ năm thân:
Vì sao chỉ gọi phẩm Kim cương Thân, không thể nêu cả hai? Vả lại, nêu Kim cương là y theo câu hỏi thứ nhất, chỉ nói là Kim cương, phẩm này có bốn:
1. Nói về được thân.
2. Tổng kết là khen.
3. Ca-diếp nhận hiểu.
4. Như lai nói lại lời mình khen.
Y theo đoạn đầu, trước nói về quả của thân Kim cương kia.
"Mà chưa biết nguyên nhân v.v..." trở xuống là nói về Đức Phật được nhân.
Trong phẩm trước, trước là nhân, sau là quả. Nay do phương tiện ở trước, nên trước quả, sau nhân.
Y theo phần nói về quả, trước sơ lược, sau nói rộng: Thân Như lai: Là thân thường trụ, cho đến pháp thân, là nói lược về thân. Thể của thân không thay đổi, gọi là thân thường trụ, không bị duyên làm tan rã, gọi là thân không hư hoại. Nghĩa không hư hoại, như Kim cương ở thế gian. Cho nên, y theo dụ, gọi là thân Kim cương. Không nhờ các vật giúp thành, gọi là "chẳng phải thân tạp thực", chỉ dùng pháp thành tựu, gọi là pháp thân. Sau đây, sẽ nói rộng:
Bồ-tát Ca-diếp trước hỏi, kế là Như lai đáp. Dưới, Ca-diếp nhận hiểu.
Trong câu hỏi có hai:
1. Nhắc lại lời Phật nói, nói mình không thấy.
2. "Chỉ thấy v.v..." trở xuống, là nêu dấu ấn hóa độ của Phật, để bày tỏ điều mình đã thấy.
Trước là nói về đối tượng thấy vô thường, hư hoại v.v... Hư hoại trái với không hư hoại. Hạt bụi trái với Kim cương. Ăn trái với không ăn. Ngang bằng, nghĩa là ngang bằng với thân máu thịt, trái với pháp thân ở trước.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Vì nhập Niết-bàn, nên chẳng phải thường v.v... Nghĩa này trước nay, Đức Phật thường giải thích. Vì sao Bồ-tát Ca-diếp vẫn đặt ra câu hỏi này để khởi thuyết. Lại, vì đời người kiến chấp khó bỏ, muốn cho Như lai vì khiển trách, đả phá, nên lại nêu lên.
Trong lời đáp có bốn:
1. Y theo đối tượng thấy để quở.
2. "Thân Như lai rất vững chắc trong vô lượng kiếp v.v..." trở xuống là y theo đối tượng không thấy để giáo hóa.
3. "Công đức như vậy đã thành tựu thân Như lai, chẳng phải là thân có uống ăn v.v..." trở xuống, là y theo đối tượng giáo hóa ở trước để khuyên.
Trong phần đầu, "Chớ cho rằng", là lời quở trách. Văn trong giáo thứ hai, được chia làm ba:
1. Nói về đức và giáo.
2. "Pháp thân Như lai đều thành tựu v.v..." trở xuống là nói chung để kết khen.
3. "Chỉ có Như lai mới biết v.v..." trở xuống là nói ở trước Bồ-tát Ca-diếp không thấy lý do. Trong phần đầu, trước là y theo quá khứ để giáo hóa.
"Như lai chẳng phải thân là thân v.v..." trở xuống là y theo tương lai để giáo hóa khi bát niết-bàn là không bát v.v... trở xuống là y cứ sau để giáo hóa. Đầu tiên là nói: "Thân Như lai bền chắc trong vô lượng kiếp, khó hư hoại", nêu xưa để làm rõ nay. Trong hiện tại, đầu tiên là nói: "Chẳng phải thân là thân", là mở bày môn chương. Có quá khứ đều bỏ, gọi là chẳng phải thân. Có đủ đức ở đây gọi là thân này.
"Không sinh diệt v.v..." trở xuống, là nói rộng để làm rõ, trong đó có lời khiển trách tướng, trở thành "Chẳng phải thân" ở trước, từ ngữ nói về đức, làm rõ "thân này" ở trên, chỉ có thể là tướng chung như thế, chỉ phán quyết sơ lược, không thể phân tích tỉ mỉ.
"Chẳng phải thân là thân, không thể nói v.v... trở xuống, là nhắc lại để kết khen. Chẳng phải thân là thân, là nhắc lại điều đã nói ở trước. "Không thể tuyên nói", là phát ra lời nói. Trừ một pháp bình đẳng, bày tỏ lìa tướng. Trừ một pháp tướng, là nói chẳng phải một tướng, không thể tính đếm, là nói rộng phải tướng khác. Y theo thời gian Bát-niết-bàn, không Bát-niết-bàn trong giáo sau để nói thật không diệt.
Trên đây đã giáo hóa rộng. "Pháp thân Như lai đều thành v.v..." trở xuống là đoạn hai, tổng kết.
"Chỉ Như lai v.v..." trở xuống, là đoạn ba, nói lý do không thấy của Ca-diếp ở trước, bởi thân Phật chỉ có Như lai biết, các Thanh văn, Duyên giác không thể biết, nên Ca-diếp không thấy." Ca-diếp thị hiện đồng với "Nhị thừa không thấy", nên nay, nêu sự thị hiện này, để giải thích sự không thấy của Nhị thừa.
Trên đây là đoạn hai, Đức Như lai đã giáo hóa xong. Dưới đây là đoạn ba, y theo đối tượng quở trách thứ nhất để phá, trong đó có ba câu: Hai câu trước, là nêu đức chân của Phật để phá đối tượng chấp kia. Một câu sau, là nêu Phật ứng bệnh, để nói về đối tượng chấp kia. Trong hai câu trước, với công đức như vậy thành tựu thân Như lai chẳng phải là thân tạp thực, là phá "Chỉ thấy thực thân" mà Ca-diếp đã nói ở trước. Với công đức của Chân thân Như lai như vậy, làm sao bị các bệnh khổ v.v...? Là phá lối chấp thân tan hoại, vô thường của Cadiếp ở trước.
Nói không có nguy v.v... tức là chứng tỏ năng lực bền chắc của Phật. Trong câu thứ ba nói Phật đã vì chúng sinh mà thị hiện bệnh khổ, nên để cho Ca-diếp thầy thân vô thường tan hoại của Phật.
Dưới đây là đoạn thứ tư, y theo "Đối tượng giáo hóa để khuyên" ở đoạn hai trên.
Trước, Đức Phật khuyên nên biết thân Như lai tức là Kim cương. Kế là khuyên suy nghĩ, suy nghĩ Phật Kim cương chẳng phải thực thân. Sau là khuyên nên nói, nói pháp thân Phật.
Trên đây là đoạn hai, Đức Như lai đáp rộng. Dưới đây là đoạn ba, Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, trong đó, đầu tiên là lãnh hội lời Phật nói ở trước để bày tỏ sự hiểu biết của mình. Kế là nhận lời khuyên ở trước của Phật, nhằm bày tỏ ý nghĩ "Thường" của mình. Sau là tiếp nhận lời Phật khuyên, bày tỏ sự giảng lên của mình.
Trên đây, nói về quả, sau đây là nói về nhân.
Trước, Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội trước, hỏi sau, để làm khởi phát đúng là pháp thân Kim cương không hư hoại, là lãnh hội trước.
"Mà chưa thể v.v..." trở xuống, là hỏi sau. Phật đáp có hai:
1. Nói lấy việc hộ pháp làm nhân của thân.
2. "Cho nên, Ưu-bà-tắc hộ pháp, nên cầm dao v.v..." trở xuống là nói về tướng, đức hạnh của người hộ pháp.
Trong phần trước có bốn:
1. Nói sơ lược về hộ pháp để làm nhân của thân.
2. "Từ dĩ vãng xa xưa, ta v.v..." trở xuống dẫn sơ lược xong để làm chứng.
3. "Người hộ trì pháp không thọ giới v.v..." trở xuống là nói về hộ pháp để làm nhân của thân.
4. "Quá khứ v.v..." trở xuống là dẫn rộng để làm chứng.
Hai đoạn đầu dễ hiểu. Trong đoạn ba, đầu tiên, là nói về người thế tục tại gia hộ pháp không thọ năm giới, không tu oai nghi. Khuyên họ bỏ Tiểu thừa. Trong pháp Tiểu thừa, Ưu-bà-tắc hiền thiện không chứa dao gậy, không được hộ pháp, vì là không thọ, nên cầm dao v.v..., bảo họ tu tập Đại thừa.
"Ca-diếp bạch v.v..." trở xuống là nói về xuất gia hộ pháp. Đầu tiên, Ca-diếp hỏi lại, để khởi phát. Nếu có Tỳ-kheo nào lìa việc thủ hộ là Tỳ-kheo chân thật, là trên hết trong các chấp. Nếu theo thủ hộ là cư sĩ trọc lấy trên làm dưới. Trong giới, nói đối với người cầm dao gậy, thì Tỳ-kheo không được nói pháp cho họ nghe. Nay, có người theo phạm giới, không có đức hạnh, cho nên gọi là cư sĩ trọc. Sau đây, Đức Phật quở trước: "Chớ nói Tỳ-kheo phẩm thượng như thế là cư sĩ trọc!" Sau đây, chính là nói về phẩm thượng. Sau, nói về phẩm hạ.
Trong phần nói về phẩm trung, trước nói điều mình được, kế là nói điều bị mất sau là kế thúc hiển bày lỗi, trong phần nói về được thì đầu tiên nói về được của tự hành. Có người đến hỏi, v.v... trở xuống là nói được của lợi tha. Trong lợi mình, trước là nói cung phụng từ thân đến chân, có hạnh tiết, lượng. Đọc tụng kinh v.v... có tu hạnh lành, lợi người rất dễ hiểu. Kế là nói về mất.
Dù được như vậy, nhưng cố nhiên không thể làm sư tử rống, không thể giảng nói giáo pháp Đại thừa, không được Sư tử vậy quanh, không thể truyền bá pháp hạnh Đại thừa, không thể dùng pháp lành Đại thừa để nhiếp hóa mọi người. Cho nên không được Sư tử vây quanh. Không thể thực hành trái với nhiếp hóa người ác, do đó, không thể hàng phục phi pháp. Sau đây, trong phần kết lỗi:
"Tỳ-kheo như thế, không thể lợi mình và làm lợi cho chúng sinh.
Y theo phần mất ở trước, kết để nói lỗi."
"Dù có thể gìn giữ v.v..." trở xuống, y theo phần được mất, kết để nói lỗi.
Y theo phẩm thượng, đầu tiên, là bày tỏ phần mất của mình. Kế là, nói về phần được của mình. Sau là khuyên tu học.
Trong phần mất, cung phụng thân cũng thường đủ, nghĩa là không có hạnh tiết lường.
Y theo phần nói về được, lại giữ giới là đức lợi mình.
"Có thể làm tiếng rống Sư tử v.v..." trở xuống, là đức lợi người, trong đó có ba:
1. Có thể giảng nói thông suốt giáo pháp Đại thừa.
2. "Lợi mình, yên vui v.v..." trở xuống là nói có thể truyền bá pháp hạnh Đại thừa.
3. "Nếu có Tỳ-kheo làm được như thế v.v..." trở xuống là khuyên người nên ngăn dứt, giữ gìn.
Trong phần trước, đầu tiên là nói chung. "Tu phần nhiều v.v..." trở xuống là nói riêng.
Kinh có mười hai. Vì sao chỉ nói chín bộ? Giải thích:
Các kinh giải thích nghĩa không nhất định: Đôi khi Đại, Tiểu thừa hợp thành mười hai. Trong pháp Tiểu thừa nói mười một, không có Phương quảng. Tiểu thừa vì chưa nói lý Phương quảng, nên kinh pháp Đại thừa hợp thành Phương Quảng. Đại thừa vì làm rạng rỡ lý Phương quảng, nên Địa Trì chép: "Trong mười hai bộ, chỉ có bộ Phương Quảng là tạng Bồ-tát, mười một bộ còn lại là tạng Thanh văn. Kinh này cũng giống như vậy, cho nên văn sau nói: "Mười một bộ kinh được Nhị thừa giữ gìn, một bộ Phương quảng được Bồ-tát giữ gìn. Hoặc Đại thừa, Tiểu thừa đều nói chín bộ, như trong kinh Pháp Hoa nói.
Trong pháp Tiểu thừa, không có pháp Thọ ký, Vô Vấn tự thuyết và Phương quảng nên chỉ có chín. Vì trong Tiểu thừa chưa nói về nghĩa nhân hạnh thành Phật, nên không có thọ ký. Vì pháp cạn thấp dễ thưa hỏi, nên không có Vô Vấn tự thuyết. Vì chưa nói về lý rộng, nên không có Phương quảng.
Trong pháp Đại thừa, không có Nhân duyên, thí dụ, Luận nghĩa, nên chỉ có chín. Chúng sinh Đại thừa vì căn cơ nhạy bén dễ tỏ ngộ, nên không cần Nhân duyên, Thí dụ, Luận nghĩa, mà tỏ ngộ, hiểu biết. Cho nên không có. Hoặc tùy nghĩa có biện luận về Đại thừa, Tiểu thừa đều có mười hai. Nay, y theo một môn mà nói chín bộ:
"Vì như thế v.v..." trở xuống, là nói chung để kết.
Trong đoạn hai, đầu tiên là dựa vào kinh để xướng chế. "Nếu có Tỳ-kheo cất chứa như thế..." trở xuống, thì sẽ y pháp trị tội, trong đó, đầu tiên là đúng như pháp trị phạt.
"Như lai trước v.v..." trở xuống là dẫn thuyết để chứng thành, nói phải trị phạt.
Y theo đoạn hai là khuyên người hộ pháp, đầu tiên là nêu việc thưa hỏi ở vị lai.
"Người nói pháp này, dù cho qua đời v.v..." trở xuống, là nói về lợi ích, khuyên nên nói pháp cho chúng sinh nghe.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống là khuyên người nên ngăn dứt, gìn giữ.
Trên đây, đã nói về phần được xong. Đoạn ba là kết khuyên, văn rõ ràng dễ hiểu.
Y theo phần nói về Tỳ-kheo phẩm hạ, phá giới như vậy, gọi là cư sĩ trọc, nghĩa là gọi ở trước đã phá giới, hãm hại Pháp sư là cư sĩ trọc, người giữ giới không có tên gọi này, phân biệt trên khác với ở dưới.
Y theo đoạn thứ tư là dẫn chứng rộng, văn chia làm bốn:
1. Nêu việc trong dĩ vãng: Nhà vua Hữu Đức sinh về cõi nước A-súc, làm đệ tử thứ nhất, đó là người thứ nhất trong bốn quả Thanh văn. Giác Đức sinh về cõi nước ấy, làm đệ tử thứ hai, là người thứ hai trong bốn quả.
2. Kết khuyên hộ pháp.
3. Hội thông xưa và nay, đầu tiên là hội thông. "Người hộ trì chánh pháp được như thế v.v..." trở xuống là khen nhân, thành quả.
"Ca-diếp bạch v.v..." trở xuống là nói lại lời Phật khen đã thành.
4. Kết khuyên hộ pháp.
Dưới đây là đoạn hai, nói về tướng, đức hạnh của người hộ pháp. Trước là nói về đức hạnh, tướng đức hạnh của người tại gia. Sau nói về người xuất gia.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Cho nên, Ưu-bàtắc v.v... hộ pháp, nhân trước để khuyên người hộ pháp này, vì có quả Đại thừa, nên phải cầm dao, gậy để bảo vệ người hộ trì pháp."
"Nếu thọ v.v..." trở xuống chính là nói về tướng, đức hạnh của người hộ pháp. Người thọ năm giới của Tiểu thừa, không cầm dao gậy, để bảo vệ người nói pháp thì không gọi là Đại thừa, không thọ năm giới, cầm gậy hộ pháp, mới gọi là Đại thừa. Sau đây tổng kết là khuyên.
Y theo phần nói về tướng, đức hạnh của người xuất gia, đầu tiên, Bồ-tát Ca-diếp nói: "Vì có thầy hay vì không có thầy?", là hỏi đức của thầy người trì pháp "có" hay "không". Là trì giới hay phá giới? Hỏi hạnh của thầy, người trì pháp là trì hay phạm? Sau đây, là Phật đáp:
Trước đáp câu hỏi sau, là nói về trì, chẳng phải phạm, "Nghĩa là chính đủ v.v..." trở xuống là đáp câu hỏi đầu nói có đức của thầy.
Trong phần trước, trước là Đức Phật quở: "Chớ cho rằng v.v..." là người phá giới.
Sau đây, giải thích có bốn:
1. Nêu việc thắc mắc ở vị lai.
2. Ca-diếp thỉnh. Ngay lúc ấy làm sao thực hành hóa độ.
3. Đức Như lai đáp: "Vì ta nghe Tỳ-kheo hộ trì pháp, tùy tục hóa độ chung. Đây, chính là nói Tỳ-kheo kia không phạm."
4. "Nếu các nước v.v..." trở xuống là nhân nói người thế tục không có phạm giới, có thể hộ pháp, trong đó, đầu tiên là nói về các vị vua v.v... dù cầm dao gậy cũng là trì chẳng phải phạm.
Kế là khuyên đừng giết, sau là kết rằng người kia, trì giới bậc nhất.
Y theo phần đáp câu hỏi đầu, nói về có đức, trước là nói về ba nghiệp của người kia là thiện chánh, có đức hạnh của thầy.
"Chúng có ba v.v..." trở xuống, là khéo nhiếp hóa đồ chúng, có đủ năng lực như thầy, cũng gọi là ích lợi của thầy.
"Khéo trì luật v.v..." trở xuống là thông kinh, đạt luật oai nghi hóa độ của Thánh thể, có đủ đức như thầy.
Y theo đoạn đầu, trước nói có hạnh. "Nếu có Tỳ-kheo vì lợi dưỡng v.v..." trở xuống, là nêu ác để làm rõ điều lành.
Trong phần nói có hạnh, trước nói về hạnh của mình, nghĩa là có chánh kiến, ý nghiệp lành.
"Có thể giảng nói rộng v.v..." trở xuống là khẩu nghiệp lành. "Không bao giờ chấp lấy v.v..." trở xuống, là thân nghiệp lành. "Chế phục v.v..." trở xuống, là nói có khả năng lợi người.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết lợi mình ở trước.
"Có khả năng vì chúng sinh v.v..." trở xuống là kết lợi tha trên, nêu việc ác dễ hiểu."
Trong phần nói về năng lực của thầy, trước nêu ba chúng, kế là, nêu ba danh. Dù thân không phạm hòa tạp một chỗ với người phá giới, nhưng vẫn gọi là phạm "Giới tạp tăng". Tự thân không phạm, thấy đệ tử mình có phạm, liền bảo sám hối, còn người khác phạm thì gác qua một bên, gọi là ngu si tăng. Tự tịnh và tịnh hóa người khác, gọi Thanh tịnh tăng.
Kế là, nói về hơn, kém. Phá giới tạp tăng vì lợi mà đồng phạm, nên dễ hư hoại. Vì tịnh tăng không như vậy, nên không thể hư hoại. Si tăng chưa hẳn vì lợi mà đồng phạm. Lại, vì không thể khác, nên bỏ không nói đến. Sau đây, là giải thích rộng:
Dù nói hai đoạn trước, nhưng về ý sẽ được nói rõ trong đoạn ba:
Trong phần nói về đức của thầy, trước nói về biết luật, sau nói giỏi về kinh. Y theo phần biết luật, trước mở ra năm môn, kế là giải thích, sau là kết.
Trong phần mở ra các môn ở trước, người khéo trì luật, để nêu chung. Sau đây, sẽ nêu năm tên gọi.
Vì muốn điều phục, lợi ích chúng sinh, là môn thứ nhất, cái gọi là Bồ-tát thực hành quyền phương tiện hóa độ, chẳng phải là đi suốt qua đạo. Hoặc khinh thứ hai, hoặc trọng thứ ba, chẳng phải luật thì không chứng là thứ tư. Là luật thì liền chứng là thứ năm giải thích rộng, rất dễ hiểu.
Trong phần kết, khéo giải thích nghĩa của một chữ, là giải thích một chữ "Luật". Khéo trì Khế kinh cũng như vậy, nghĩa là cũng đồng biết luật. Vả lại, có năm môn:
1. Biết Bồ-tát quyền thực hành phương tiện.
2. Biết cạn.
3. Biết sâu.
4. Là kinh thì nên chứng.
5. Chẳng phải kinh thì không chứng.
Trên đây là đoạn thứ nhất nói nhân được quả. Dưới đây là đoạn hai, nói chung, để kết khen.
"Pháp Phật không suy nghĩ", là kết khen nhân trước. "Đức Như lai không suy nghĩ" là kết khen quả trên.
"Ca-diếp bạch v.v..." trở xuống là đoạn lớn thứ ba, nói về nhận hiểu, vâng làm. Đầu tiên là nhận hiểu: "Đúng thế, đúng thế! Thật như Thánh giáo!". Lãnh hội pháp Phật không suy nghĩ mà Phật đã nói ở trước. Như lai cũng vậy, sau là lãnh hội, kết khen.
"Nên biết v.v..." trở xuống, là bày tỏ mình đã vâng làm. Trước hứa tự thực hành, sau nói cho người khác nghe.
Dưới đây là đoạn thứ tư, Như lai thuật lại lời mình khen. Trước là khen chung; kế là khuyên chánh học. Sau nói về ích lợi của học.
Phẩm Danh Tự Công Đức. Trong tên kinh này nói về pháp công đức của Đại Niết-bàn, gồm thâu chỉ thú từ giải thích. Cho nên, nói là công đức danh tự, sẽ nói rộng về nghĩa này, nên gọi là phẩm Danh Tự Công Đức.
Phẩm này đáp câu hỏi: "Thế nào là đối với kinh rốt ráo đạt đến bờ giác ở trên, để nói về công đức của danh tự kinh, gọi là đến bờ kinh. Đây là nói nhân của sự yên vui trong kinh kia. Thọ trì công đức tên kinh, gần thì xa lìa đường ác, cuối cùng sẽ được quả thường, lạc rốt ráo, gọi là được yên vui.
Trong văn có hai:
1. Nói về công đức, tên kinh, khuyên người thọ trì, sao cho đến bờ kinh.
Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, trong phần trước lại có ba:
Nêu chung công đức tên kinh, khuyên bảo thọ trì.
"Nghe danh hiệu kinh này, mà sanh về bốn đường v.v..." trở xuống, là bày tỏ lợi ích, khuyên thọ trì. Đây là nói được sự an vui thế gian. c. "Công đức đã được, nay ta nói v.v..." trở xuống, là nói về công đức, lời Phật khuyên bảo thọ trì. Đây là nói được an vui xuất thế.
Y theo đoạn đầu, "Ông nên thọ trì tất cả công đức của danh tự chương cú", là trong danh hiệu kinh này nói về tất cả công đức của Đại Niết-bàn gồm thâu chỉ thú từ giải thích, nên nói là danh tự. Tất cả Công đức thọ trì. Thì được vui nên phải thọ trì.
Trong đoạn hai, nghe kinh sinh về bốn đường thì không có việc đó, chính là nêu ích lợi của nghe. Nghe có ba phẩm:
1. Phẩm thượng, xưng kinh mà nghe, không làm tướng nghe, không làm tướng của tiếng, không làm tướng chữ, không làm tướng câu, cho đến không chấp tất cả pháp tướng. Người này rốt ráo không sinh vào bốn đường, trừ năng lực bi, nguyện.
2. Phẩm trung, dù chưa lìa tướng, tâm khéo lắng nghe lãnh thọ, tạm thời bất sinh, nhưng chẳng phải không bao giờ chứng nhập.
3. Phẩm hạ, tâm lành cuối cùng, nghe nhận kinh này, xa làm nhân duyên thoát khổ ở vị lai, chẳng phải tức bất sinh. Nay, đối tượng biện luận này là phẩm thượng, nên sinh về bốn đường, thì không có việc đó.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích: Vì kinh này là kinh mà vô lượng Chư Phật đã tu tập. Nghe kinh này, sẽ không đọa vào ba đường, Tu-la, là bốn đường ác.
Trong đoạn ba, "Công đức đã được, nay ta sẽ nói", là nêu chung, hứa nói, là các công đức mà Chư Phật kia đã được, nay sẽ nói.
Kế là Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi:
Thế nào gọi là kinh? Gọi là hỏi tên kinh. Trong kinh này nói đủ có nhiều nghĩa. "Tương đương với nghĩa nào mà gọi kinh này?" "Thế nào là trì?", là hỏi về nghi thức vâng giữ.
Sau đây là Đức Phật đáp:
Kinh này gọi là Đại Bát-niết-bàn, là đáp câu hỏi đầu tiên của Bồ-tát Ca-diếp.
Ở trên nói "Thiện v.v..." là đáp câu hỏi sau của Bồtát Ca-diếp, trong đó có hai:
1. Khen kinh cao quý để làm cho mọi người cung kính, thọ trì.
2. "Nay các thầy lắng nghe v.v..." trở xuống là nói về công đức, tên kinh, để cho mọi người ưa thích thọ trì. 3. "Nếu muốn đối với Đại Bát-niết-bàn này mà Niết-bàn v.v..." trở xuống chính là Phật bảo vâng giữ. Dựa vào kinh để học nghĩa thường, gọi là vâng giữ.
Trong phần đầu có bốn:
1. Khen giáo khéo léo.
2. Khen nghĩa sâu xa.
3. Khen văn rõ ràng.
4. Khen nghĩa đầy đủ.
Trong phần khen giáo khéo léo, tùy văn kinh Niết-bàn, trong phần đầu, giữa, sau, được chia thành thượng, trung, hạ. Hợp pháp, xứng cơ, thì sinh ra tâm hạnh, nên gọi là khéo léo.
Vị nghĩa sâu trong câu thứ hai: Danh nghĩa là vị, khác với chỗ khác, danh tự là vị, nghĩa có công năng thấm nhuần tâm, làm cho người yêu thích, như mùi vị ngọt ngon của thế gian, nên gọi là vị. So với "Ví như mía ở văn dưới, thường chưng nấu được các mùi vị, nghĩa ấy giống nhau."
Trong câu ba, lời văn rất hay, nghĩa là nói về biện tài rất khéo không thêm, không bớt, nên nói là văn rất hay.
Trong câu bốn, "Thuần đầy đủ phạm hạnh", là nói hạnh kia tròn đầy, kho báu không thiếu, nói lên lý kia tròn đầy, cũng có thể đầy đủ một cách thuần túy, chứng tỏ nhân Niết-bàn kia tròn đầy. "Kho báu không thiếu" là nói quả Niết-bàn kia đã đầy đủ. Vì kinh có sự cao quý này, nên Phật khuyên chúng sinh nên vâng giữ.
Dưới đây là đoạn ba, nói về công đức của tên kinh, làm cho mọi người ưa thích thọ trì. Trước là Phật dạy chúng hãy chú ý lắng nghe, Ngài hứa sẽ giảng nói. Trên đã hứa nói, Ca-diếp liền thỉnh, không được nói ngay, nên giờ đây Phật lại hứa giảng nói.
Trong phần chính nói dưới đây có tám lần "Lại nữa". Một lần "Lại nữa" đầu chính là phát ra công đức của tên kinh. Bốn lần "Lại nữa" kế là nói công đức của kinh giáo hóa kia. Ba lần "Lại nữa" sau là bày tỏ công đức của nghĩa kinh kia, mà Đức Phật đã bảo vì nghĩa của bờ bên này là bờ bên kia.
Trong phần đầu, Đại gọi là thường, dựa vào danh Đại để nói về đức đại. Kinh này có đủ sáu nghĩa để nói Đại, đã nói như trên.
Nay, ở kinh này, dùng nghĩa "Thường" để giải thích rõ:
"Như tám sông v.v..." trở xuống là dựa vào danh tự Niết-bàn, để nói về công đức của Niết-bàn. Trước là dụ, sau là hợp.
Kinh này hàng phục tất cả các kiết phiền não như vậy và các tánh ma, phá tướng, thú hướng vắng lặng. Vì nghĩa mà kinh này nói đồng với tám sông trước, nên nói là "Như vậy". Hàng phục phiền não, lìa ma phiền não và các tánh ma, tiêu diệt ba thứ ma còn lại. Sau đó, phải buông bỏ thân mạng trong Đại Bát-niết-bàn, chứng thật bỏ tướng, chứng thật dứt vọng. Không có giả dối nào có thể tồn tại, cho nên nói là "bỏ". Gọi đại Niết-bàn là nói chung để kết thúc giải thích.
Kế là, giáo đầu tiên trong bốn giáo là "Viên", trước là dụ, sau là hợp. Giáo kế là "Cực", trước là dụ, sau là hợp. Hai giáo còn lại là "Thắng", trong đó, một giáo trước vì phá rộng, cho nên vượt hơn.
Đầu tiên là "Pháp thuyết", kế là dụ, sau là hợp. Một lần "Lại nữa" sau vì dứt hẳn, cho nên "Thắng" trước dụ, sau hợp. Hai nghĩa đầu trong ba nghĩa san là "Thể", một nghĩa sau là "Dụng". Một nghĩa trước trong thể là tiêu diệt điều ác, nên là "Thắng", trước dụ, sau hợp. Một nghĩa sau là việc lành đầy đủ. Đầu tiên là lập dụ. Đủ tám vị, là y theo phần vị ngon ngọt trong sáu vị, để chia làm ba, nên có tám vị:
1. Không đắng gọi là ngọt.
2. Không chua gọi là ngọt.
3. Không cay gọi là ngọt, gọi đó là ba.
Dưới đây là y cứ hiển bày pháp. Đầu tiên là chung, kế là riêng. Bất sinh gọi là thường, bất diệt, gọi là hằng. Vì dứt hẳn các sự nguy hiểm, sợ sệt, nên gọi là yên ổn. Lìa phiền não nóng bức, gọi là mát mẻ. Không già, không chết là lìa quả phiền não. Dứt các nghiệp ác, gọi là không nhơ bẩn. Vì lìa nghiệp quả ác, nên nói là vui sướng. Dưới là tổng kết.
Một lần "Lại nữa", kế là, trong phần nói về công dụng của nghĩa, y theo thuyết Bồ-tát nói, tức là Đức Phật có khả năng biết danh tự, công đức như thế, nên khéo vâng giữ.
Dưới đây là đoạn ba, Đức Phật dạy nghi thức vâng giữ, phải dựa vào kinh để học "Thường", gọi là vâng giữ. Trên đây đã hỏi đáp, dưới đây là Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, khuyên học. Trước là tự lãnh hội kiến giải.
"Như lai, Pháp, Tăng không thể suy nghĩ" nghĩa là lãnh hội nghĩa Tam bảo thường từ đầu đến cuối, Niết-bàn không suy nghĩ, lãnh hội lời Phật đã khen ở trước, để nói công đức vượt hơn của tên kinh.
Sau đây là khuyên người khác học. Trước là nói về lợi ích của học.
Sau là nói không học, sẽ có lỗi mất mát kia.
Phẩm Như lai Tánh: Trong phẩm này, nói đủ có nhiều pháp.
"Hai mươi lăm "Hữu" có "Ngã" hay không v.v..." trở xuống: Đoạn văn kinh này nói về tánh Như lai. Nay, từ đoạn văn kia, để nêu lên đề mục của phẩm, vì mới gồm thâu rộng từ lược để đặt tên. Tạng Như lai có khả năng làm nhân cho Phật, gọi là tánh Như lai. Nói rộng về nghĩa này, gọi là tánh Như lai. Đối với phẩm này, Đức Phật đã đáp đủ nhiều câu hỏi.
Chương bốn tướng, là Đức Pháp đáp câu hỏi: "Xin mở bày pháp nhiệm mầu sâu kín" trong câu hỏi trước của Bồ-tát Ca-diếp, nói rộng cho chúng sinh nghe. Theo kinh loại sáu quyển thì câu hỏi trước là qua loa. Nếu đặt câu hỏi một cách cụ thể, thì nên nói: "Cúi xin Phật mở bày về nghĩa nhiệm mầu sâu kín, Bồ-tát sẽ dựa vào nghĩa đó để nói cho chúng sinh nghe." Cho nên trong văn này, Đức Phật đã y cứ mở ra nghĩa ba việc trong nhiệm mầu sâu kín của Niết-bàn, để cho Bồ-tát nói.
Để đáp câu hỏi trên, ở đây sẽ nói về nghĩa gì?
Nay, ở đây hiển bày nói về nhân không có ngăn ngại vô ngại biện tài, vì chúng sinh nói pháp cho nên có được, cho nên ở đây giải thích.
Y theo ba môn trong phẩm này để phân biệt:
1. Chia khoa văn kinh.
2. Y theo người để nói về nhất định.
3. Giải thích từng câu văn. Chia khoa như thế nào? Văn của chương bốn tướng, chia làm hai:
1. Nói về đức năng khai của bốn tướng.
2. "Lại nữa, tự sửa cho đúng, cái gọi là được, là đại Niết-bàn" trở xuống là nói về pháp, được mở bày. Kế là y theo người nhất định. Người có hai hạng:
1. Người gửi gắm.
2. Người phải thực hành.
Người gửi gắm là Phật, người phải thực hành là Bồtát. Phật của người gửi gắm, tức là năng giáo hóa. Bồ tát phải thực hành tức là sở giáo. Nếu y theo người gửi gắm, thì bốn tướng của Phật đều là đức năng mở bày của Như lai. Cho nên trong văn dưới, sẽ y theo Phật để nói về đức. "Lại nữa, tự sửa cho đúng, cái gọi là "Được" là đại Niết-bàn v.v... trở xuống, là pháp của đối tượng mở bày của Như lai kia.
Đức Như lai y theo đại Niết-bàn, để mở bày ba việc, gọi là "Khai vi mật". Nếu y theo người thực hành thì bốn tướng của lượt đầu chính là đức của năng thuyết của Bồtát. Vì thế, trong kinh này, mới nêu lên tông chỉ rằng Bồtát mở bày Niết-bàn có nghĩa của bốn tướng. Sau đây, lại kết rằng: "Bồ-tát phân biệt, mở bày đại Niết-bàn như thế, có nghĩa của bốn tướng."
Trong Kinh loại sáu quyển cũng nói đồng với thuyết này, nên kinh đó nói: "Bồ-tát đầy đủ nghĩa của bốn thứ tướng, có khả năng vì chúng sinh nói Đại Niết-bàn."
"Lại nữa, tự sửa cho đúng, cái gọi là được, là đại Niết-bàn v.v..." trở xuống, là pháp mà Bồ-tát kia nói. Dựa vào điều mà Phật đã mở bày để nói cho chúng sinh nghe. Nghĩa này giống với nghĩa đã giải thích trong phẩm Trường Thọ ở trước. Phẩm ấy y theo người gửi gắm, được gọi là nghiệp sống lâu của Như lai. Phẩm ấy y theo đối tượng làm, nói là Bồ-tát đã dùng nghiệp này để "Duyên" với tuổi thọ lâu dài. Phẩm Kim cương Thân nói cũng giống như vậy.
Y theo người như thế, kế là tùy văn giải thích. Văn trong năng mở bày đức chia ra làm bốn:
1. Nêu chung.
2. Nêu bốn tên gọi.
3. Giải thích rộng.
4. Tổng kết.
Trong phần đầu, Bồ-tát mở bày Niết-bàn có bốn tướng: Y theo người được giáo hóa để nói về đức của năng mở bày. Với đối tượng giáo hóa, Bồ-tát phải có đủ bốn đức, mới có khả năng nói Đại Niết-bàn cho người nghe, nên nói rằng: "Bồ-tát mở bày Niết-bàn có nghĩa của bốn tướng". Cho nên kinh loại sáu quyển chép: "Bồtát có đủ nghĩa của bốn tướng, có khả năng vì chúng sinh nói đại Niết-bàn."
Kế là nêu bốn tên gọi, trước là hỏi, sau là nêu. Bốn tên gọi này nói chung, đều là lợi người. Vì nói đức, nên trong đó phân biệt: Thứ trước là một lợi mình, vì hành vi của mình chẳng tà, nên nói là tự ngay thẳng. Ba thứ sau, là lợi người. Hóa độ đúng đắn đối với chúng sinh, sao cho lìa bỏ lỗi tà, nên gọi sửa ngay thẳng người khác. Sự ngay thẳng này là thể của hạnh hóa độ người. Hai danh sau là đức hóa độ, có khả năng hỏi đâu đáp đó để nói biết thuốc pháp. Tự tại đối với pháp, khéo đáp khéo hỏi, gọi là hỏi đâu đáp đó. Hiểu rõ nhân duyên, nhận thức thấu suốt căn tánh. Khéo biết nhân duyên tùy căn cơ truyền trao, hóa độ, gọi là hiểu nhân duyên.
Đoạn ba: trong giải thích, trước giải thích tự làm cho mình ngay thẳng. Đầu tiên là hỏi. Kế là giải thích. Sau là nhắc lại tổng kết.
Trong giải thích có hai:
1. Y theo giáo pháp để nói tự ngay thẳng.
2. "Nếu nói Như lai, Pháp, Tăng v.v..." trở xuống là y theo nghĩa "Thường" để nói tự ngay thẳng.
Trong phần trước, nếu nói theo Tỳ-kheo thì tự ngay thẳng. Nếu Phật, Như lai thấy nhân duyên của Phật mà nói có người nói. Nếu nêu lời nói xét nghiệm, răn dạy của Như lai thì Đức Phật vào một thuở nọ, nhìn thấy nhân duyên của đống lửa to đang hừng hực cháy này, bèn bảo các Tỳ kheo: "Thà các thầy ôm đống lửa lớn này, nói rằng mười hai bộ kinh và tạng bí mật của Như lai, là Ba-tuần nói, gọi là thấy nhân duyên mà có đối tượng nói.
"Ví như v.v..." trở xuống là đáp câu hỏi để nói Tỳ-kheo tự ngay thẳng. Nêu lên so sánh với Tỳ-kheo kia để chứng tỏ Bồ-tát tự ngay thẳng, nên nói rằng: "Ví như mười hai Tiểu giáo, Bí tạng Đại giáo. Tự ngay thẳng tâm vững chắc nên thà ôm lấy đống lửa chứ không dám nói mười hai bộ kinh này là do Ba-tuần nói. Vì sao? Vì muốn nói ôm lửa chỉ hư hoại một thân trong vô lượng đời. Lại, ôm lửa chỉ tan hoại thân thịt, còn tội chê bai chánh pháp, thì sẽ làm hư hoại pháp thân, cho nên không nói.
Câu trong tự ngay thẳng ở sau, chia ra làm năm:
1. Biết người khác giảng nói Tam bảo vô thường, có suy tổn lớn, tự lấn chiếm tổn hại mình, lừa dối, gây hư hại cho người. Dạy bảo cho người tà pháp, gọi là lừa dối người.
2. "Thà dùng dao v.v..." trở xuống là tự ngăn cấm không làm, thà dùng dao cắt lưỡi, chứ không nói Tam bảo Vô thường, giống như việc ôm lửa ở trước.
3. "Nếu nghe người khác v.v..." trở xuống là nghe nói, không thọ.
4. "Ở đây v.v..." trở xuống là thấy họ nói sinh tâm thương xót, vì thương xót họ sẽ chịu vô lượng khổ!
5. "Như lai, Pháp, Tăng không thể suy nghĩ v.v..." trở xuống là dùng lý tự ngăn dứt.
Trên đây đã giải thích xong.
"Tự quán sát v.v..." trở xuống là nhắc lại để tổng kết. Tự quán sát thân mình cũng như đống lửa, là nêu ở trước.
Trong hai đoạn trước, y theo đầu tiên để nhắc lại. Đây là nói Bồ-tát tự quán thân mình giống như Tỳ-kheo thà ôm đống lửa lớn, đó gọi là kết.
Y theo việc sửa cho người đúng, đầu tiên là hỏi, kế là giải thích.
Sau là tổng kết.
Trong giải thích có hai:
1. Nói Như lai khéo truyền trao vào lúc ấy.
2. Lại bảo cô gái: "Người có duyên v.v..." trở xuống, thời gian sau, sẽ khéo giao phó.
Trong phần trước có bốn:
1. Nói về cách nuôi con của người phụ nữ, đầu tiên phải cho bơ.
2. Y cứ thí dụ này để nói mở đầu hóa độ, phải truyền trao Tiểu thừa.
3. Lại nói về cách nuôi con của người nữ, thường phải cho ăn.
4. Y cứ theo thí dụ này để nói về việc hóa độ cuối cùng, phải truyền trao Đại thừa giáo.
Trong phần đầu có sáu câu:
1. Nói Như lai khi sắp nói pháp, có một người nữ thường mớm cho con ăn bằng bơ. Đi đến trong hội Phật, sực nhớ đến con mình chẳng biết nó ăn bơ có tiêu hóa hay không?
2. Đức Phật biết nên hỏi: "Người mớm bơ cho con mà chẳng biết có tiêu hóa hay không?" Đức Phật đặt ra câu hỏi này có ba ý:
a. Muốn cho người nữ yên tâm nghe pháp.
b. Muốn chỉ rõ người nữ khéo cho con dùng bơ.
Y theo thí dụ này để nói Phật khéo có khả năng truyền trao chánh pháp. c. Vì muốn đáp, nên nói tiêu hóa, không tiêu hóa, cũng như nói rõ tự mình có khả năng đo lường chúng sinh có khả năng và không có khả năng. Đây là ý thứ hai, thứ ba.
3. Nghe xong, người nữ thỉnh Phật, trong đó, đầu tiên là khen ngợi Phật đã biết được tâm mình. Kế là nàng kính thỉnh Như lai, dạy bảo nhiều ít. Sau là thỉnh Như lai giảng nói về tiêu hóa, không tiêu hóa.
4. Đức Như lai giải thích cho người nữ hiểu: "Thức ăn mà đứa bé đã ăn sẽ tiêu, tăng thêm tuổi thọ!"
5. Người nữ nghe Phật nói rất vui mừng, trong đó đầu tiên là nói: "Tâm rất phấn khởi! Vì nghe nói thức ăn tiêu hóa cho nên mừng."
"Lại nói v.v..." trở xuống, vì vui thật sự cho nên mừng.
6. Kết thúc khen ngợi Như lai: "Bạch Đức Thế Tôn, đúng thế! Vì điều phục chúng sinh, nên Như lai đã khéo phân biệt nói tiêu hóa, không tiêu hóa!"
Đây là ai khen? Có người giải thích rằng: "Người nữ khen Phật." Lại có người nói: "Là Đức Phật tự khen, có lẽ là người kiết tập kinh khen."
Trên đây là sáu câu hợp thành câu thứ nhất. Dưới đây là đoạn hai, y theo câu thứ nhất để nói về việc hóa độ, cũng nói các pháp vô ngã, vô thường. Nói về giáo xưa chỉ được nói Tiểu thừa. Cũng giống như người nữ mới đầu cho con dùng bơ. Cho nên nói là "Cũng". Cũng có thể đồng với thuyết tiêu hóa, không tiêu hóa ở trước, nên nói "cũng nói".
"Nếu Phật, Thế Tôn trước nói rằng v.v..." trở xuống là chứng tỏ giáo xưa không được nói chứng Đại thừa. Bởi ngày xưa, phàm tình chưa bỏ, nên không được nói. Nếu nói Đại thừa cho họ nghe thì tức là nói pháp này đồng với ngoại đạo, liền bỏ đi.
Dưới đây là đoạn ba, lại nói về cách thức nuôi con của người nữ, thường phải cho con ăn. Văn rõ ràng dễ hiểu, "Tất cả Thanh văn của ta v.v..." trở xuống, là đoạn thứ tư, y theo đoạn này để nói về việc hóa độ, nói cuối cùng giảng Đại thừa, trong đó, đầu tiên là nói: "Tất cả đệ tử Thanh văn, của ta như con trẻ của người không tiêu hóa thường trụ, trước nói khổ v.v... nêu xưa, để làm rõ nay. "Nếu đệ tử ta công đức đầy đủ v.v... trở xuống là nói nay khác xưa, trong đó có bốn câu:
1. Nói công đức của đệ tử đã đầy đủ, có khả năng tu
Đại thừa, Đức Phật sẽ nói sáu vị. Như đứa trẻ đã khôn lớn, khả năng tiêu hóa được thức ăn khó tiêu, nên phải cho nó ăn.
Đối tượng hóa độ cũng như vậy, nên truyền trao sáu pháp. Pháp từ dụ mà gọi, nên nói là sáu vị.
2. "Thế nào v.v..." trở xuống là nêu tên của sáu pháp ấy. Nói đủ, thì có tám. Y cứ sáu vị của thế gian, chỉ nói sáu thứ, vì hai nghĩa tịnh, bất tịnh thô hiển, rõ ràng, nên không nói, dưới lại nói có.
3. "Thế gian kia v.v..." trở xuống là phân định hơn, kém: Ba là thế gian, ba là xuất thế gian. Trước là nói về thế gian.
Trong thế gian có ba thứ vị, đều để nói lên, cho là vô thường v.v..., được xếp vào danh tự.
Sau đây, là nói về xuất thế, trong đó, trước nói trở thành cơm Niết-bàn. Phiền não đã bị lửa trí đốt cháy, gọi là củi. Vì trí đốt cháy củi "Hoặc", nên gọi là lửa, xem nhân mà được mang tên. Vì đốt củi "Hoặc", nên thành Niết-bàn. Pháp từ dụ mà gọi, nên nói là cơm.
"Nói là thường, lạc v.v..." trở xuống, là y theo sáu vị, chọn vị vượt hơn để khuyên học, làm cho các đệ tử ưa thích vị ngọt, vị thường, lạc, ngã của Niết-bàn.
Trên đây là đoạn thứ nhất, khéo truyền trao ở đương thời,. Dưới đây là đoạn hai, nói về sau khéo léo giao phó, trong đó có ba:
1. Nói Đại thừa nên phó chúc cho Bồ-tát, không được phó chúc cho Thanh văn.
2. "Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích Bồ-tát biết "Thường". Đệ tử của Nhị thừa cho rằng Đức Phật diệt.
3. "Vì nghĩa này v.v..." trở xuống là nói chung để kết khen.
Trong phần đầu, Như lai trước bảo người nữ hãy đuổi đứa con tội ác đi, quý trọng chỉ dạy đứa con ngoan ngoãn.
"Người nữ bạch Phật v.v..." trở xuống là vâng lời Phật dạy.
"Chị v.v..." trở xuống là Đức Như lai y theo thí dụ này để nói về sự nghiệp hóa độ của mình:
"Khi ta Niết-bàn" hợp với người nữ ở trước "Muốn đến xứ khác".
"Pháp Phật Vô thượng không cho Thanh văn", hợp với "Đuổi đứa con xấu ác."
"Như ông v.v..." trở xuống là đánh dấu để làm tin.
"Trong phần giải thích của đoạn hai, trước là hỏi, khởi phát xua đuổi điều ác, chống trái v.v..."
"Nên hỏi vì sao? v.v..." trở xuống là đáp, giải thích: Câu, có chia làm bốn:
1. Nói về Thanh văn cho rằng Phật diệt độ, "Thật ra ta không diệt độ", nêu lý để chỉ rõ sự sai lầm.
2. "Như ông v.v..." trở xuống là nêu việc, so sánh để làm rõ.
3. Nói Bồ-tát cho rằng Phật không diệt độ.
4. "Như ông v.v..." trở xuống là nêu thí dụ, so sánh để làm rõ. Trong đoạn ba, vì nghĩa này, nên "Tạng bí mật vô thượng sẽ được
Phật gửi gắm cho Bồ-tát", là kết thúc đoạn đầu ở trên. Do Bồ-tát này như người con ngoan vì thế nên giáo phó cho bí tạng.
"Nếu có chúng sinh nào cho rằng Phật là thường v.v... trở xuống, là khen Bồ-tát biết "Thường" trong đoạn sau. Nếu biết Phật là thường, thì Phật sẽ thường còn không diệt độ đối với người đó. Vì thế, đối với nhà kia tức là có Phật.
"Đây gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Trong "Hãy thưa hỏi", đầu tiên là nhắc lại câu hỏi trước. Kế là giải thích. Sau là kết.
Sau đây, nhân lời nói của Tỳ-kheo ấy mà Phật tuyên bố cấm ăn thịt, trong giải thích, lại y theo pháp môn bố thí, để nói về hỏi đâu đáp đó. Các thứ khác dễ hiểu, trong đó trước là hỏi.
"Nếu có người đến", là giả nêu người hỏi. "Hỏi Phật v.v..." trở xuống, giả nêu lời hỏi.
Thí là lìa xả tài. Không bỏ tiền của mà trở thành bố thí là rất khó, nên nêu câu hỏi.
Sau đây là nói Phật trả lời, trong đó, đầu tiên là năm câu đáp riêng, vì tâm xả các tiền của này đã được thành tựu, nên được gọi là bố thí. Vì người ở trước không thọ lãnh, nên của cải không tổn hại. Nêu việc này là muốn nói những vật bất tịnh v.v... đã nêu trong kinh này đều không nên thọ.
"Bố thí như thế v.v... trở xuống là nói chung để kết. Bố thí gọi là truyền bá đến khắp phương khác, kết thành bố thí lớn, mượn danh để làm rõ. Vì đối tượng xả thí rộng khắp, nên gọi là bố thí lớn. Lại, do xả, nên người trước không thọ lãnh, mới biểu thị được nghĩa ngăn cấm của kinh này. Vì tài sản thông qua pháp, nên gọi là bố thí lớn. "Của báu không mất", kết thành không tổn hại. "Đây gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Sau đây, do người không rượu thịt ở trước, nói là bố thí rượu thịt. "Nên từ đây v.v..." trở xuống, vì chủ trương không ăn thịt nên văn được chia làm chín:
1. Nhân Bồ-tát Ca-diếp thỉnh Phật chính thức tuyên bố cấm ăn thịt.
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Vì sao Như lai không cho ăn thịt v.v..." trở xuống, là nói về ý không ăn thịt.
3. Bồ-tát Ca-diếp nói: "Vì sao trước đây, Như lai cho ăn thịt v.v..." trở xuống là hội ý thông qua lời Phật đã nói khi xưa.
4. Bồ-tát Ca-diếp nói: "Nếu Như lai đã cấm không cho ăn thịt v.v..." trở xuống là nói về giới hạn.
5. "Đối tượng mà Như lai ngăn cấm đều có khác nhau v.v..." trở xuống, là nói về ý của tất cả lập chế.
6. "Kể từ hôm nay, ta nghiêm cấm đệ tử v.v..." trở xuống là nói về lỗi ăn thịt.
7. "Sau khi ta Niết-bàn vô lượng năm v.v..." trở xuống là nói về người ăn thịt.
8. "Bồ-tát Ca-diếp bạch với các Tỳ-kheo do sự sống còn của người v.v..." trở xuống là nói về pháp "Khai", "Già".
9. "Nếu ta nói rộng v.v..." trở xuống là tổng kết, về cấm ăn thịt.
Lịnh cấm ăn thịt này cũng tức là khả năng hỏi đâu đáp đó trong môn trì giới.
Trong phần đầu, Bồ-tát Ca-diếp trước nêu câu hỏi, người ăn thịt không nên bố bố thí thịt, dùng lý để trực tiếp thưa hỏi.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích, sau đây Phật trước hỏi, kế là tuyên bố không ăn thịt. Sau nêu các thức ăn khác, để so sánh với thịt không nên ăn.
Vì sao Phật chỉ nói đệ tử Thanh văn không cho ăn thịt? "Bồ-tát trước ngăn cấm, như Lăng già nói nên trong đây chỉ ngăn cấm Tiểu thừa.
Dưới đây là đoạn hai, sẽ nói về ý không được ăn thịt. Bồ-tát Ca-diếp trước là hỏi: "Sao Đức Phật không cho?" Sau đây là lời Phật đáp: Vì ăn thịt là cắt đứt hạt giống của đại từ, nên Phật không cho. Ở địa thượng là đại Từ, ở địa tiền gọi là hạt giống.
Đoạn ba, Bồ-tát Ca-diếp trong hội ý thông qua lời Phật đã nói xưa kia, có ba lượt hỏi đáp:
Câu hỏi đầu nói ăn thịt là cắt đứt hạt giống đại từ, vì sao trước đây Như lai đã cho Tỳ-kheo ăn ba thứ tịnh nhục? Không thấy, nghe, nghi).
Phật đáp:
Vì tùy theo việc cắt đứt dần, cho nên như vậy. Ta nói cho phép ăn tịnh nhục là để dứt bất tịnh.
Câu hỏi thứ hai: "Như lai đã cho Tỳ-kheo ăn ba thứ tịnh nhục, vì sao chín thứ thanh tịnh trong mười thứ bất tịnh, mà Phật lại không cho?"
"Mười thứ bất tịnh v.v..." trở xuống là văn tự kể, là con người, rắn, voi, ngựa, lừa, chó, sư tử, heo, chồn, khỉ, vượn, đó là mười. Trong mười con thú này, không thấy, nghe, nghi người khác vì mình mà giết hại chúng. Cho nên, xếp vào ba thứ tịnh, vì sinh ra sự chê bai, ngờ vực của người đời, nên gọi là bất tịnh. Về chín thứ thanh tịnh, chưa thấy văn nào nói, mà là do người tuyền tụng, giải thích!
Ngoài mười thứ trước, trong chúng sinh khác không thấy người giết. Cũng không có nghe, nghi và không vì mình mà giết, tức là có bốn. Thứ thịt do con thú tự chết khô, và chim ăn còn thừa, chung với tịnh nhục trước thành bảy. Không mong tình cờ mà được và chim thú tự chết, rồi mời ăn, chung với tịnh nhục trước thành chín.
Sau đây là Phật đáp:
Các tịnh nhục này cũng là thí dụ mà ta dùng việc ngăn cấm dần. Với ba câu hỏi, Như lai tùy việc ngăn cấm dần, vì sao ngày xưa
Phật khen thịt là ngon? Phật đáp có hai ý:
1. Nói rằng Phật khen thức ăn khác.
2. Nêu y phục, để so với thức ăn, hình thành thân mình, không khen. Trên đây là đoạn ba đã xong.
Đoạn thứ tư, trong lập giới hạn ngăn cấm, Bồ-tát Cadiếp thỉnh Phật trước: "Nếu Phật cấm ăn thịt, thì năm thứ vị bò, dầu gai v.v..., lẽ ra Phật cũng không dùng?" Sau đây là Phật quở Ca-diếp:
Thầy không nên đồng ý với đối tượng chấp của Nikiền kia.
Đoạn năm, trong phần nói rộng về ý lập chế giới, tất cả lập chế giới đều có ý khác, nói chung để nêu lên.
Sau đây là làm rõ riêng: vì nói ý khác, nên cho phép ăn ba thứ tịnh nhục. Ý vì dứt hẳn các bất tịnh nhục khác. Trong lời nói: "Cho ăn ba thứ tịnh nhục" vì tâm và lời Phật nói là khác, nên nói là ý khác.
Nói "Vì tưởng khác, nên không ăn mười thứ": Tưởng cũng là ý. Vì muốn do dứt dần ba thứ tịnh nhục kia, nên mới nói không ăn mười thứ bất tịnh nhục. Ý này khác với ý trước, gọi là tưởng khác.
Nói "Vì tưởng khác nên tất cả đều dứt", nghĩa là vì muốn tất cả đều dứt ngoài mười thứ kia, nên nay, tuyên bố chín tịnh nhục cũng dứt. Ý này khác với tưởng dứt dần ở trước, nên lại gọi là khác.
Đoạn thứ sáu, trong phần nói rộng về lỗi ăn thịt trước, nêu sự ngăn cấm ở trước của Phật: "Kể từ nay, các đệ tử không được ăn tất cả các thứ thịt, sau đây sẽ nói rộng về lỗi ăn thịt:
Đầu tiên là pháp thuyết, kế là dụ, sau là hợp.
"Cho nên v.v..." trở xuống, trước là nói Bồ-tát không ăn thịt. "Vì độ thoát v.v..." trở xuống là bỏ "Quyền", bày "Thật". "Như thế v.v..." trở xuống, là nêu tịnh để bày uế. Đoạn bảy, trong phần nói về người ăn thịt, đầu tiên là ngoài thiện, trong ác.
"Bấy giờ, lại v.v..." trở xuống là trong, ngoài đều ác. Đoạn tám, trong phần nói rộng về "Khai", "Già", trước là Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi:
Khất thực lẫn lộn với thịt thì làm sao ăn được? Đức Phật dạy, rất dễ hiểu.
Đoạn chín là kết ngăn cấm, văn rõ ràng rất dễ hiểu.
Trong giải thích nhân duyên, trước là hỏi, kế là giải thích, thứ ba là tổng kết.
Trong giải thích có bốn:
1. Hỏi.
2. Đáp.
3. Vặn hỏi.
4. Hội thông.
Y theo câu hỏi đầu, vì bày tỏ nhân duyên của Như lai đã hiểu biết tường tận, tùy từng căn cơ mà hóa độ dần. Trách rằng kinh Như lai không nói tức khắc, luật không chế tức khắc. "Như có bốn chúng giả nêu lời hỏi, trong lời hỏi có hai:
1. Trách kinh của Như lai không nói ngay tức khắc.
2. "Hoặc gọi phạm v.v..." trở xuống, là quở trách luật của Như lai không chế ngay tức khắc.
Trong kinh, đầu tiên là trách Phật không nói ngay tức khắc (đốn).
"Đôi khi nói sâu sắc v.v..." trở xuống là quở trách nói dần dần (tiệm). Trong trách không nói ngay nghĩa như thế, là nghĩa Phật là "thường".
Đầu tiên, Như lai ra đời, sao không tức thì ngay thời vua Ba-tư-nặc mà nói nghĩa sâu kín này? Là trách không nói "Đốn".
Khi Đức Phật mới ra đời thì mẹ của vua Ba-tư-nặc qua đời, nhà vua rất buồn rầu! Đức Phật vì vua mở bày giải ngộ, nói Phật, Duyên giác và chúng đệ tử đều là vô thường. Cho nên hôm nay, Bồ-tát Ca-diếp trách Phật không nói ngay.
"Có khi Phật nói sâu, có khi lại nói "Cạn", quở trách Phật nói tiệm (dần dần)" Thuở xưa, Phật vì vua Ba-tưnặc nói Phật vô thường, gọi là nói cạn cợt. Ngày nay nói thường, cho là sâu sắc.
Sau đây, y theo luật, "Hoặc gọi là phạm, hoặc gọi không phạn" trách Phật chế giới dần dần.
"Như lai mới ra đời, chưa chế giới rộng, gọi là không phạm. Về sau, khi đã chế giới rộng, thì gọi là phạm."
"Thế nào là tùy? v.v..." trở xuống là trách Phật không chế giới trước. Nhưng trong văn này, nêu thẳng ba danh, để thỉnh Phật giải thích, để làm căn bản của sự trách cứ.
Tướng trách cứ chưa rõ ràng, đợi Phật giải thích xong. Đến lời hỏi sau, tướng trách cứ mới biểu lộ rõ.
"Thế nào là đọa?" là hỏi đối tượng ngăn dứt kia, tội làm ngăn ngại có công năng đọa vào địa ngục, súc sanh, quỷ, v.v... nên gọi là đọa. Luật và mộc xoa hỏi về công năng làm ngăn ngại, ngăn dứt giáo pháp, gọi là luật. Luật là giải thích, suy lường. Giải thích, suy lường khinh trọng, trì phạm, được mất, năng ngăn dứt hành pháp, nói là Mộc-xoa, Hán dịch là giải thoát. Vì giải thoát nghiệp lỗi, nên gọi là giải thoát. Kinh Di Giáo cũng chép: "Vì giới thuận với gốc giải thoát, nên gọi là Ba-la-đề Mộc-xoa. Tướng này thế nào?
Sau đây, là Phật đáp, văn chia làm bốn:
1. Nói giới luật không được chế ngay. Vì nếu chế ngay thì sẽ có người phá tất cả cấm giới.
2. "Hoặc có người chê bai v.v..." trở xuống là nói kinh pháp của Phật không được nói ngay. Vì nếu phải nói ngay thì sẽ có người bèn chê bai tất cả các pháp.
3. "Người như thế v.v sẽ tự nói mình thông minh v.v..." trở xuống là y theo kinh, pháp để nói về lỗi nói ngay, do nói ngay nên người hay chê bai, tự nói mình thông minh, không chịu sửa đổi, ăn năn.
4. "Tội nhẹ, nặng đều che giấu v.v..." trở xuống là lại y theo giới luật, nhằm nói về lỗi chế ngay. Do chế ngay nên người phá giới sẽ cố che giấu, không sám hối. Trong phần đầu có hai:
1. Đối với câu hỏi trên: "Thế nào là đọa? v.v..." là giải thích rõ nghĩa đọa kia.
2. "Có người đều phá giới v.v..." trở xuống là đối với câu hỏi trên, hoặc gọi là phạm, hoặc gọi là không phạm, nói về giới, luật kia không được chế ngay, vì nếu chế ngay, thì sẽ phạm ngay.
Trong phần trước có bốn:
1. Giải thích Mộc-xoa, nói về hạnh của năng ngăn dứt.
2. Giải thích nghĩa "Đọa", nói lên tội của sở ngăn dứt.
3. Giải thích lại Mộc-xoa, nói hạnh của sở giải thích.
4. Giải thích luật nghi, nói lên giáo của năng giải thích.
Hai chỗ nói Mộc-xoa có gì khác nhau? Trước là y theo lỗi "Già" để giải thích Mộc-xoa. Sau, y theo "Tánh tội" để giải thích Mộc-xoa.
Trong phần đầu, Phật nói về Mộc-xoa, nghĩa là nêu lại câu hỏi, gọi là biết đủ chuyển danh hiển bày. Thành tựu oai nghi, không có sở thọ lãnh, chứa để, chính là nói về tướng của Mộc-xoa, cũng gọi là chuyển biến tịnh mạng, gọi là chỉ bày rõ ràng. Đã giải thích nghĩa Mộc-xoa này xong.
Lời trách cứ ở trước, tức đã rõ ràng. Nếu Mộc-xoa có các nghĩa như thế, thì sao Phật không chế giới trước, mà đợi các Tỳ-kheo phạm rồi mới chế?
Y theo nói về nghĩa "Đọa", trước là giải thích, sau là kết. Trong giải thích có ba lượt: Hai lượt trước là y cứ một lượt đầu trong hai lượt trước, đối với chung cả bốn đường để nói. Theo trong luật, chỉ có thiên thứ ba được gọi là "Đọa". Ở đây thì không phải như vậy. Phạm năm thiên giới sẽ đọa vào bốn đường ác, gọi chung là "Đọa". Một thiên sau đối với địa ngục để giải thích. Đọa vào địa ngục, cho đến A-tỳ. Nói về sự nhanh chậm của địa ngục kia vượt hơn cơn mưa trút, là giải đúng về nghĩa "Đọa". Vì A-tỳ thấp nhất trong tám ngục lớn, nên nói rằng "Cho đến". Người đọa vào A-tỳ, nghiệp của họ là nặng. Vì hướng về quả báo Vô gián, nên vượt qua cơn mưa trút.
"Người nghe v.v..." trở xuống là nói về ý nói đọa. Người nghe, trì giới, không phạm oai nghi, tu hạnh lìa lỗi, không phạm "Tội tánh", gọi là kiên trì giới. Lỗi "Già" (ngăn dứt) cũng lìa, gọi là không phạm oai nghi. Tu tập biết đủ, không nhận bất tịnh, tu hạnh lìa chấp.
Sau đây, sẽ y theo tạo nhân để giải thích nghĩa "Đọa". Do gây nhân, nên nuôi lớn địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.
"Vì nghĩa này v.v..." trở xuống là nói chung để kết, giải thích nghĩa đọa này xong."
Lời trách ở trước liền được rõ ràng. Đọa có nghĩa này, sao Đức Phật không nói trước, mà phải đợi các chúng sinh đã trái phạm rồi mới chế giới?
Trong giải thích Mộc-xoa, Lớp thứ ba, lìa tà nghiệp bất thiện của thân, miệng, ý, nói lìa tội tánh. Giải thích ý nghĩa này xong. Lời trách ở trước liền được chứng minh rõ.
Mộc-xoa như thế, sao Phật không chế trước, mà phải đợi các Tỳ-kheo trái phạm xong, mới chế?
Y theo giải thích luật, oai nghi nhập giới, nói thuận với giới pháp. Nhập cũng là thuận. Chế giới dứt tội nặng gọi là "Nhập giới". "Già" lìa lỗi nhẹ, gọi là "Nhập oai nghi". Nghĩa thiện của kinh sâu, là nói thuận với kinh pháp. Một chữ "Nhập" trước xuyên suốt câu này. Ngăn dứt thọ lãnh tất cả và là duyên bất tịnh, chứng tỏ nhập vào tướng của nghĩa thiện kinh sâu, cũng ngăn dứt tội nặng v.v..., chỉ rõ tướng oai nghi nhập giới ở trước. Đã giải thích nghĩa này xong.
Lời trách ở trước của Bồ-tát Ca-diếp cũng rõ ràng:
"Luật đã có nghĩa này, sao không chế trước, mà đợi các Tỳ-kheo phạm rồi mới chế?"
Trên đây là đoạn thứ nhất, trong phần giải thích câu hỏi trước: "Thế nào là đọa? v.v..."
"Hoặc có người v.v..." trở xuống là trong việc đối trị câu hỏi trên, hoặc gọi là phạm, hoặc gọi không phạm, là nói về lý do Đức Phật không được chế giới ngay. Vì nếu phải chế giới ngay thì sẽ có người nghe giới rộng nhiều, khó giữ bèn, phá tất cả giới, cho nên không được.
"Thế nào v.v..." trở xuống là nói về việc phá kia.
Trên đây là đoạn thứ nhất, nói về giới luật của Đức Phật không được chế ngay.
"Hoặc có người chê bai v.v..." trở xuống là đoạn lớn thứ hai, nói lên kinh pháp của Phật không được nói ngay, trong đó, đầu tiên là nói: "Hoặc có người chê bai kinh pháp rất sâu mầu." Nghe nói nghĩa "Thường", chê bai đồng với ngoại đạo. Và, Nhất-xiển-đề thành tựu đầy đủ cùng tận tất cả tướng không có nhân duyên, nghĩa là nghe nói về nghĩa "Không" rất sâu của Đại thừa, đều chê bai chân đế, tất cả pháp tướng không có nhân duyên của thế gian, trở thành Nhất-xiển-đề, vì là không được.
Người như thế v.v... tự nói: "Mình thông minh" là đoạn ba, nói lại, nhắm vào người chê bai kinh ở trước, chấp chặt khó bỏ. Tự cho là mình thông minh, hiểu được nghĩa sâu, nên cố chấp không bỏ.
"Tội nhẹ nặng đều che giấu v.v..." trở xuống, là đoạn thứ tư, nói lại người phá giới ở trước che giấu, không sám hối, trong đó trước là nói phạm tội, che giấu. Trước là pháp, sau là dụ.
"Như thế v.v..." trở xuống là nói do không sám hối nên làm cho tội thêm nhiều.
"Là các v.v..." trở xuống là nêu để kết thành không được chế giới ngay.
Tội mà các Tỳ-kheo này đã phạm, không phát lộ che giấu. "Tội đã phạm đầy dẫy" là nhắc lại sự thêm nhiều ở trước. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Trên đây là đoạn hai, Như lai đáp xong. Văn trong câu hỏi thứ ba, có chia làm hai:
1. Đối với nghĩa đọa mà Đức Như lai đã giải thích ở trước, trách không chế trước.
2. Như nhiều người v.v... trở xuống, đối với nói về luật ở trên và giải thích Mộc-xoa, trách Phật không chế giới trước.
Trong phần trước, "Lúc bấy giờ, người nam, nữ giả thiết nêu người hỏi. Dưới đây là lời hỏi Đức Như lai từ lâu đã biết việc như thế, nói Đức Phật đã biết trước nghĩa đọa ở trước, sao không chế giới trước, là trách cứ lỗi Như lai. Từ lâu, Đức Như lai đã biết việc phạm tội sẽ đọa vào đường ác, sao không chế trước, để cho các chúng sinh sau khi phạm rồi mới chế, không có ý muốn cho chúng sinh đọa vào địa ngục.
Y theo câu hỏi sau, đầu tiên là nói về người đời mê lầm không biết. Trước là dụ, sau là hợp.
"Như lai nên v.v..." trở xuống là gạn trách Đức Như lai không vì nói trước, ở trong đó, đầu tiên là dùng lý để thưa hỏi Phật, kế là giải thích, sau là kết.
Trong phần gạn hỏi, Như lai nên trước nói là cho nghe nói chung, nên nói, dạy bảo các Tỳ-kheo: "Đây là phạm v.v..." là nói riêng nên nói. Trong giải thích, trước là gạn hỏi. "Vì sao ta gạn hỏi trách cứ Như lai nên trước nói cho chúng sinh nghe. Vì Như lai có thể biết và có thể nói. Như lai Chánh Giác thấy biết chánh đạo, chỉ có Như lai có khả năng nói mười điều lành là năng nói. Hay nói mười điều lành là pháp "Chỉ thiện", công đức tăng thượng là pháp "Tác thiện", hai pháp hạnh và vị nghĩa kia là pháp lý ấy.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết, là Phật có thể biết và có thể nói, nên ta không chế trước.
Đoạn thứ tư, trong phần hội thông, đối với hai câu hỏi trước, lại có hai cách giải thích:
Trước là đối với đoạn đầu: "Sẽ không có làm cho chúng sinh đọa vào ngục A-tỳ", mà tự qua khỏi.
"Như vua v.v..." trở xuống, đối với câu hỏi sau, nói
"Vì chúng sinh, nên Đức Phật không chế giới trước." Trong phần trước, y theo ba nghiệp để giải thích:
"Nếu nói Như lai có khả năng nói mười điều lành, tức là xem chúng sinh như La-hầu-la, sao lại hỏi rằng, sẽ không làm cho chúng sinh vào ngục A-tỳ", là nhắc lại lời hỏi trước, để nói khẩu nghiệp của mình làm lợi ích cho chúng sinh. Cho nên không muốn cho chúng sinh đọa vào địa ngục. Ta đối với chúng sanh có tâm đại từ, v.v... trở xuống là nói lòng từ trong tâm mình làm lợi ích chúng sanh nêu không muốn cho chúng sanh đọa vào địa ngục.
Ta nhìn thấy một người đọa vào A-tỳ v.v... trở xuống là nói thân nghiệp của mình từ lâu rồi đã bám trụ vào việc lợi ích cho chúng sinh, cho nên không muốn cho chúng sinh đọa vào địa ngục.
Trong giải thích câu hỏi sau có ba lần "Lại nữa":
Hai lần "Lại nữa" trước, khởi hóa độ lần lượt, kế là giải thích. Một lần "Lại nữa" sau là bỏ "Quyền", bày "Thật" để giải thích.
Trong phần trước, đầu tiên là nói về hóa độ người theo thứ lớp. "Như Luân vương v.v..." trở xuống là thực hành chánh pháp thứ lớp. Trong thứ lớp hóa độ, trước là dụ, sau là hợp.
Trong phần dụ, đầu tiên là nói: "Như trong nước", dụ cho thế giới Tam thiên. Có người mặc áo nạp dụ cho Phật Như lai. Người mặc áo vá, gọi là người mặc áo nạp. Áo dụ cho chúng sinh. Thấy chúng sinh gây ra lỗi lầm, gọi là áo có lỗ thủng. Chế giới để ngăn cấm, gọi là về sau mới vá. Con người nói giáo một cách sơ lược, lấy đó làm áo, hoàn toàn không đúng.
Trong phần hợp, "Như lai" là người mặc nạp y, "Thấy các chúng sinh", hợp với thấy áo ở trước, "Có người đọa vào A-tỳ", hợp với áo có lỗ. "Tức thì dùng giới để vá lại, hợp với "Mới vá" ở trên.
Trong phần hai trong phần, thực hành chánh pháp theo thứ lớp, trước là dụ, sau là hợp.
Trong phần dụ, nói vua trước nói mười điều lành, kế là có kẻ ác rơi vào lỗi lầm, thì dứt trừ dần. Về sau, các chúng sinh thực hành dần pháp lành mà bậc Thánh vương đã nói.
Trong phần hợp, đầu tiên là nói: "Ta cũng như thế", cũng như vua Chuyển luân kia, "Dù có nói" hợp với mười điều lành.
"Không được chế giới trước v.v..." trở xuống là hợp với kẻ ác ở sau, tùy việc dứt ác dần.
"Pháp lạc sinh" v.v... là hợp với "Tự thực hành pháp của Thánh vương.
Y cứ theo về sau, bỏ "Quyền" bày "Thật" trước là dụ, sau là hợp.
"Như lai, Pháp, Tăng không thể suy nghĩ: Nói về thật đức của Tam bảo kia không suy nghĩ."
"Người năng nói và người nghe pháp, không thể suy nghĩ: Nói về đức "Quyền" của Phật, tăng kia không suy nghĩ. Người nói là Phật, người nghe là nhóm Tỳ-kheo sáu vị, Tu-đề-na v.v..., đều là các Bồ-tát không suy nghĩ giải thoát. Chỉ bảo cho biết là khởi giáo. Không thể cố chấp giáo này để đặt ra lời trách cứ nhất định.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Trên đây là đoạn ba, đã giải thích rộng bốn tướng. Dưới đây là đoạn thứ tư, giải thích xong là tổng kết.
Bồ-tát chỉ bày bốn tướng như vậy, y theo người để tổng kết. Vì đức năng mở bày của Bồ-tát về bốn tướng này, nên y theo Bồ-tát để kết. Đó gọi là nghĩa nhân duyên trong đại Niết-bàn của Đại thừa.
Y theo pháp để kết riêng. Vì nói bốn tướng này trong kinh Niết-bàn, nên y theo pháp để kết. Về mặt lý, lẽ ra là kết đủ nhưng vì giải thích duyên ở sau, nên nghiêng một bên để kết, ba tướng còn lại thì sơ lược.
Trên đây đã nói về đức năng mở bày của Bồ-tát kia. Dưới đây là đoạn hai, nói về pháp được mở bày trong đó có ba:
1. Y theo nghĩa mầu nhiệm của Niết-bàn, mở bày ra Bát-nhã.
2. Nếu người nam, nữ nói rằng: "Như lai là vô thường v.v..." trở xuống, thì Bồ-tát sẽ y theo Niết-bàn để mở bày pháp thân Phật.
3. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Như thuở xưa, Phật nói không có chỗ chứa nhóm v.v..." trở xuống, đây là y theo Niết-bàn để mở ra giải thoát.
Trong phần trước, đầu tiên là nói về bốn tướng của Bát-nhã. Giả sử có người nói rằng v.v... trở xuống là kết bốn tướng của Bát-nhã kia, tức Đại Niết-bàn.
Train đây, đối tượng giải thích là đức năng mở bày, cho nên kết thúc thuộc về Bồ-tát.
Từ đây trở xuống, bốn tướng là pháp mở bày, cho nên, kết để thuộc về Niết-bàn.
Y theo đoạn đầu, tự ngay thẳng nêu lên, nghĩa là được Niết-bàn, giải thích rõ tướng Bát-nhã kia, sửa người khác cho đúng để nêu lên: "Tôi là Tỳ-kheo nói thường, không thay đổi", giải thích rõ ràng tướng đó tùy câu hỏi mà nêu lên.
Sau đây, sẽ giải thích có thể biết nhân duyên nêu lên. Dưới đây, sẽ giải thích rõ tướng Bát-nhã đó, trước nêu người Nhị thừa không hiểu nhân duyên, không hiểu nghĩa sâu. Chính là nói không nhận hiểu.
"Không nghe v.v..." trở xuống là nói lên lý do Nhị thừa không hiểu. Do họ không nghe, không nghe chữ Y, không nghe thí dụ nay, không nghe giải thoát, Niết-bàn, Bát-nhã, trở thành tạng bí mật.
Không nghe pháp nay, nhưng trong đoạn văn trên, đã nói về pháp thân, giải thoát, Bát-nhã, hình thành tạng bí mật. Ở đây, nói giải thoát, Niết-bàn, Bát-nhã thành tạng bí mật, vì sao khác nhau? Vì các đức đồng thể trong đại Niết-bàn đều nhóm họp lẫn nhau thành, nêu lẫn nhau đều được.
"Nay, ta v.v..." trở xuống là nói Đức Phật khéo giải thích, vì Nhị thừa mở bày.
Y theo kết bốn tướng, tức khởi phát câu hỏi đầu tiên trong Niết-bàn. Kế là y theo thí dụ, chất vấn ngược lại người hỏi.
"Không v.v..." trở xuống là người hỏi chính đáp.
"Tự ngay thẳng v.v..." trở xuống là y theo sự ngay thẳng này để làm rõ pháp. Nói tự ngay thẳng v.v... đều tức là Niết-bàn nên được thành một.
Trong phần nói về pháp thân, đầu tiên là nói về thể của Pháp thân Như lai là thường. Như Đức Phật đã nói: "Từ lâu rồi, ta đã lội qua biển phiền não v.v..." trở xuống, quét bỏ dấu vết nghi ngờ, thành tựu nghĩa "thường".
Trong phần trước, đầu tiên là hỏi đáp về "Thường", hai là Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội hiểu biết; ba là Đức Phật nói lại thành tựu.
Y theo đoạn đầu có ba câu hỏi đáp:
1. Chấp việc ngày xưa, đều không có thưa hỏi.
Phật vô thường v.v.. trở xuống sau đây là Phật đáp:
Nhân quả của sinh tử là pháp vô thường. Vì Như lai đã dứt hết, nên gọi là "thường".
2. Nhân lời Phật nói, Bồ-tát Ca-diếp hỏi lại: "Như tấm sắt nóng kia và màu đỏ đã tắt rồi nên không có. Như lai cũng giống như vậy, diệt độ rồi nên không có, sao nói là "Thường" v.v... trở xuống là Đức Phật đáp:
Phiền não đã dứt rồi, không còn sinh lại nữa, nên được gọi "Thường".
3. Bồ-tát Ca-diếp phá bỏ "Nghĩa không sinh lại" của Như lai: "Ví như tấm sắt nóng đã nguội rồi, lại đặt nó vào lửa, thì màu đỏ lại sinh. Như lai cũng vậy phiền não dứt rồi, lẽ ra lại sinh kiết, không được là "Thường".
Sau đây, Đức Phật đổi thí dụ, để giải thích thành và không thành, chứng minh là có nghĩa "Thường": Như khúc gỗ sau khi bị lửa đốt cháy, đã tắt hết rồi, chỉ còn tro, không còn trở lại gỗ. Như lai cũng như vậy, phiền não đã dứt rồi, thì Pháp thân thường còn, không còn sinh kiết, nên được gọi là "Thường".
Y theo câu hỏi đầu, "Nếu có nam nữ giả nêu người hỏi, nói lên lời này v.v... trở xuống, giả nêu lời hỏi: "Như lai vô thường?" Là hỏi chung.
"Làm sao biết được v.v..." trở xuống là nói rộng, về vô thường.
Trước là hỏi, sau giải thích, trong đó có năm lần "Lại nữa".
1. Một lần "Lại nữa" đầu, là nêu xưa Đức Phật nói "Diệt" "Hữu dư", hỏi Phật về vô thường.
2. "Lại nữa" lần thứ hai là nêu thuở xưa, Phật nói "Diệt" vô dư, hỏi Phật về vô thường.
Hai lần "Lại nữa" kế là nêu lại "Diệt" của hữu dư ngày xưa, hỏi Phật về vô thường và một lần "Lại nữa" sau, nêu cả hai "Diệt" hữu dư, để hỏi Phật về vô thường. Trong phần đầu, trước nêu lời nói ở trước của Như lai, qua đó, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp.
"Thế nào v.v..." trở xuống, y theo pháp để kết thúc câu hỏi, phá bỏ vô thường."
Trong câu hỏi thứ hai, trước là nêu "Diệt" vô dư của thuyết xưa, nói là lìa các "Hữu", gọi là Niết-bàn, nghĩa là bỏ tướng, hướng về vắng lặng. Quả báo của ba cõi, gọi là "Các hữu". Lại nữa, quả của hai mươi lăm "Hữu", cũng gọi là các "Hữu". Lìa các "Hữu" này, gọi là Niết-bàn vô dư. Trong Niết-bàn này không có các "Hữu" chứng được vắng lặng, lìa tướng.
"Thế nào v.v..." trở xuống là chấp thuyết xưa, nêu thuyết nay.
Trong hai lần "Lại nữa" kế là, đều trước là nêu "Diệt" hữu dư xưa. Sau là y theo kiết để thưa hỏi, lời văn dễ hiểu.
Trong câu hỏi thứ năm, trước nêu kệ xưa.
"Thế nào là v.v..." trở xuống, là y theo kệ để thưa hỏi. Trong phần nêu kệ ở trước, như Phật nói, nghĩa là thuở xưa, Như lai nhân Tỳ-kheo Đà-phiếu mà giảng nói kệ này. Đà-phiếu là Tri sự tăng, bị Tỳ-kheo ni Từ Địa chê bai, bèn nhập Niết-bàn. Có người vẫn còn hoài nghi không biết vị Tỳ-kheo đó thật sự có phạm giới hay không? Nhằm thanh minh cho việc đó, nên Đức Phật mới nói bài kệ này. Nay, nêu lên để thưa hỏi Phật. Trong đó, đầu tiên là lập dụ, để làm rõ pháp, tùy theo tướng để giải thích.
Dụ như người làm thợ rèn sắt, nghiên cứu các mẫu mã để làm đồ trang sức, tâm chân là sắt, lửa ở ngoài sắt, dụ cho cảnh phiền não. Sức nóng của sắt, dụ cho tánh phiền não. Màu đỏ dụ cho tướng phiền não. Lý sở quán, dụ cho tấm sắt. Quán giải như cái vồ. Quán lý phá kiết, gọi là đập, nện. Phiền não không nhóm hợp, gọi là sao chuyền đi (tia lửa bắn tung tóc như sao băng). Về sau, không còn nối nhau, gọi là phân tán đã tắt mất. Khổ báo mất hẳn không còn sinh trong sáu đường.
Vì nghĩa này nên không biết ở đâu, được chính là hợp, được chánh giải thoát cũng giống như vậy. Nói chung để hợp.
"Đã lội qua v.v..." trở xuống, là riêng. Đã lội qua khỏi vũng bùn các "Hữu" của dâm dục, hợp với đập nện, lửa văng tung tóe, rồi tắt mất ngay, để thanh minh cho Đà-phiếu.
Nói nghiêng về, là vượt qua dâm, được chỗ không lay động, không biết chỗ đến, hợp với "Lời nói không biết ở" đâu sau.
Thế nào là vì "Thường" mà chấp thuyết xưa, gạn hỏi thuyết nay? Sau đây là Phật đáp, trong đó, trước quở trách, sau giải thích.
Trong quở, nếu người nào đặt ra câu hỏi như thế, thì gọi là hỏi tà. Đối với người giả hỏi ở trước mà quở trách họ.
"Này Ca-diếp! Ông cũng không nên v.v..." trở xuống là răn cả Ca-diếp.
Trong phần giải thích, trước là phải hỏi để hiểu cho đúng, Đức Phật vì đã dứt hẳn pháp Vô thường, nên được gọi là "Thường".
"Thầy của Chư Phật, đó là pháp v.v..." trở xuống, là nói vì Đức Như lai đã chứng được "Thường" nên gọi là "Thường".
Ngay trong câu hỏi, giải thích, giải thích khó cùng tận. Trong năm câu hỏi ở trước, chỉ nói hai câu hỏi đầu và câu hỏi thứ năm. Câu hỏi thứ ba, thứ tư, vì đồng với câu hỏi đầu tiên, nên lược qua không giải thích.
Trong giải thích câu hỏi đầu, có chia làm ba:
1. Nói Đức Như lai đã dứt hẳn phiền não một cách rốt ráo, nên chẳng phải vô thường.
Nói diệt phiền não chẳng gọi là vật, nghĩa là không được gọi là vật vô thường.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trước hỏi, sau giải thích. Vì đã dứt hẳn phiền não rốt ráo, nên không được gọi là vật vô thường.
2. Cho nên v.v... trở xuống là kết thành nghĩa "Thường".
3. "Câu này v.v..." trở xuống là khen để nhận thấy rõ sự vượt hơn. Đó là câu diệt phiền não ở đây. Vì phiền não đã diệt, nên không còn rong ruổi qua lại trong sinh tử nữa, vì thế nói là vắng lặng. Vì vượt hơn phàm phu, nhị thừa cận học, nên không có ai trên.
Trong giải thích thứ hai cũng có ba câu, không có thứ lớp với trước. Đầu tiên là nói Như lai đã cắt đứt sinh tử rốt ráo hết hẳn, nên chẳng phải vô thường. Dứt hết các tướng, không có dư sót, nghĩa là diệt các tướng sinh tử trong ba cõi, vì đã dứt hết, nên nói là "Vô dư". Ở trước nói rốt ráo, ở đây nói là vô dư, là lời nói trái phải.
2. Câu này rõ ràng, khó có thể hơn. Quả báo sinh tử đã mất, vì lìa "Hoặc" nhiễm, nên nói tươi trắng. Ở trước nói lên sự vắng lặng, ở đây nói là tươi trắng, cũng là lời nói trái phải.
3. "Thường trụ v.v..." trở xuống là kết thành nghĩa "Thường". Thường trụ không lui sụt, là nói chung về "Thường". Vì đã dứt sinh tử, không còn khởi lại nữa, nên nói "Thường" không lùi lại.
Sau đây, là phân biệt rõ về nghĩa thường.
"Cho nên, Niết-bàn gọi là Thường trụ". Nói Niết-bàn là "Thường", vì không lui sụt, nên Niết-bàn là thường.
"Như lai cũng vậy", nói Pháp thân là thường. Vì "Thường" đồng với Niết-bàn, nên nói "Cũng vậy.
Trong giải thích thứ năm, văn chia làm hai:
1. Giải thích thí dụ ở trước, nói chẳng phải vô thường. Nêu kệ nghĩa là phiền não bị phá phiền não. Tan nát tắt mất v.v..., là nhắc lại văn kệ. Nghĩa là phiền não của các Đức Như lai đã diệt, hợp tan đã diệt, không ở trong năm đường. Hợp với "Không biết ở đâu" trong kệ.
2. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết thành nghĩa "Thường", là vì "Hoặc" của Phật đã diệt, không ở trong năm đường, nên được là "Thường".
Trên đây là đoạn thứ nhất, sẽ hỏi, chánh giải thích, nói vì dứt vô thường, nên được là thường.
Dưới đây, là nói vì Phật đã chứng thường, nên thường.
Thầy của Chư Phật, cái gọi là Pháp, nghĩa là nêu pháp sở chứng của Phật. Như lai tạng tánh vì thành chỗ nương của đức, nên gọi là thầy của Phật.
"Cho nên, Như lai cung kính cúng dường", là nói hạnh năng chứng, vì là thầy của Phật, nên Như lai cung kính, cúng dường. Đức Phật vốn đã tu các hạnh trong nhân, nội tâm thuận với chân tánh, gọi là cung kính. Hun đúc chân thành đức, nói là cúng dường. Vì pháp thường, nên Chư Phật cũng thường. Chứng thật thành đức, duyên khởi pháp tánh thành quả báo của Phật. Vì pháp tánh là thường, nên quả báo Phật cũng thường.
Trong cặp thứ hai, Ca-diếp hỏi trước. Y theo câu hỏi riêng trong ba câu mà Phật đã giải thích. Lời hỏi của câu sau có ba:
1. Y theo sức nóng đã nguội, để đặt ra câu hỏi. "Nếu lửa phiền não đã tắt", là nói về nhân Phật đã mất. Đây mới gọi là nhân Phật kia, tức là sức nóng của sắt cho là lửa, chứ chẳng phải lửa ngoài sắt. Y cứ theo dụ gọi là pháp, gọi là lửa phiền não. Như lai cũng diệt, nói là quả Phật diệt. Cho nên Như lai không có "Chỗ thường trụ", kết thúc phá Phật là thường.
2. "Rèn sắt v.v..." trở xuống là y theo màu đỏ của lửa đã tắt để đặt ra câu hỏi. Trước nêu thí dụ ở trước: Như màu đỏ đã tắt, dụ cho nhân phiền não hiện khởi của Phật đã diệt. Màu đỏ, dụ cho tướng phiền não.
"Không biết chỗ đến", dụ cho quả báo của Phật đã diệt.
Sau đây, sẽ y cứ làm rõ pháp: Phiền não của Như lai cũng vậy. Hợp với màu đỏ đã tắt, tắt không có chỗ đến, lại hợp với "Không biết chỗ đến" ở trước.
3. "Lại như sắt v.v..." trở xuống là y cứ song song hai cái đã tắt của sức nóng và màu đỏ, để đặt ra câu hỏi. Lại, như sắt nóng và màu đỏ kia đã tắt rồi, đều không có, là nêu dụ để làm rõ pháp.
"Như lai cũng v.v..." trở xuống là nói về pháp đồng với dụ. Như lai cũng giống như vậy, diệt độ rồi là vô thường, hợp với màu đỏ ở trước đã tắt. Lửa phiền não đã tắt, tức là nhập Niết-bàn, tức là vô thường, hợp với sức nóng ở trước đã tắt? Sau đây là Phật đáp:
Vì không còn sinh lại, là giải thích thành nghĩa thường, trong đó, đầu tiên là phân biệt phàm khác với Thánh. Nói là sắt, nghĩa là gọi các phàm phu. Tìm kiếm dụ thuộc về phàm. Vì sao phải tìm tòi? Vì sắt của thế gian lạnh, nóng không thường hằng. Trước, Phật lấy phần ít sắc kia để làm dụ, sợ rằng người sẽ lấy thường lạnh, thường nóng của Phật để bắt bẻ Phật là vô thường. Nên nay tìm kiếm thường lạnh, thường nóng kia. Sắt không thường hằng vì đồng với phàm phu. Phàm phu dù dứt phiền não, nhưng hễ vừa diệt rồi lại sinh, nên gọi là vô thường. Giải thích phàm đồng với dụ. "Như lai không v.v..." trở xuống, là nói Thánh khác với phàm. Vì không còn sinh lại, nên được gọi là thường.
Trong cặp thứ ba, đầu tiên là Ca-diếp nạn phá nghĩa không còn sinh lại của Như lai: "Như sắt nóng đã nguội rồi, lại đem đặt trong lò lửa, thì màu đỏ của sắt lại sinh", giải thích dụ để so sánh với pháp, nếu Như lai như vậy thì lẽ ra kiết sẽ sinh trở lại? Bắt bẻ Phật đồng với dụ.
Sau đây, Đức Phật thay đổi dụ để giải thích "Không sinh trở lại", thành nghĩa "Thường" ở trước, trong đó, đầu tiên, Phật quở lời hỏi của Ca-diếp, để chứng minh chẳng phải vô thường.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là nói Phật là thường.
Trước hỏi, sau giải thích "Như lai là thường", lập chung nghĩa "Thường". Sau đây, là giải thích rộng về sự thành lập, trong đó, đầu tiên nói về kiết của mình đã dứt hẳn, nên được gọi là "Thường".
"Vô lượng chúng sinh v.v..." trở xuống là nói về dứt kiết của người khác, nên được gọi là thường. Trong tự mình, đầu tiên là chuyển dụ để làm rõ "Thường".
"Như sắt v.v..." trở xuống, lại dùng thí dụ để giải thích câu hỏi.
Trong phần trước, đầu tiên là dụ, kế là hợp, sau là dụ. Đây là dụ sau của thuyết kia. Gỗ được đốt cháy, khi lửa tắt rồi, sẽ có tro. Lập dụ để làm rõ pháp: Gỗ đốt cháy sẽ có tro, dụ cho có tự thể "Thường". Tro không thành gỗ lại, dụ cho kiết không sinh lại, nên được gọi là "Thường". Phiền não đã dứt rồi, thì có Niết-bàn.
Y cứ dụ để làm sáng tỏ pháp, nghĩa là có Niết-bàn thường lạc chân thật, như tro kia, làm vững chắc thêm nghĩa thường.
"Áo rách v.v..." trở xuống là lại dùng nhiều thí dụ để làm rõ thành nghĩa thường.
Sau đây, lại y theo thí dụ đốt sắt kia, để giải thích câu hỏi của Ca-diếp:
Như sắt đã nguội lạnh rồi, có thể làm cho nóng trở lại, giải thích dụ khác với pháp, bởi vì một phần ít sắt kia giống với pháp, nên ở trước là dụ, chẳng phải hoàn toàn đồng. Cho nên nay làm rõ khác. Như lai thì không phải như vậy là làm rõ pháp khác với dụ, Như lai thì không phải như vậy, là nói chung điểm khác nhau kia.
"Dứt phiền não v.v...", là nói riêng cái khác kia. Dứt phiền não rồi, rốt ráo mát mẻ. "Hoặc" Đã sinh mất, lửa hừng hực phiền não không còn sinh lại. Kiết ở vị lai không khởi. Trong phần dứt kiết người khác, đầu tiên là nói vô lượng chúng sinh như sắt đã nguội lạnh mà nóng lại. "Ta dùng tuệ v.v..." trở xuống là nói mình có thể diệt, như lửa đốt gỗ không bao giờ còn thành gỗ trở lại.
Trên đây là lời hỏi đáp thứ nhất, nói rộng thân Như lai là thường. "Lành thay! v.v..." trở xuống là đoạn hai, lãnh hội hiểu biết. "Phật nói v.v..." trở xuống là đoạn ba,
Đức Phật thuật lại thành tựu, trong đó, đầu tiên là dụ: Thánh vương dụ cho Phật, vốn ở cung sâu, dụ ở cõi Diêm-phù. Đôi khi du ngoạn ở vườn sau, dụ cho Phật thôi hóa độ, nhập đại Niết-bàn. Vua dù không ở trong các thể nữ, dụ cho Đức Phật không ở trong các chúng sinh được hóa độ. Cũng không được nói là Thánh vương chết, dụ cho Phật thường còn.
Kế là hợp làm rõ pháp: "Như lai cũng vậy" hợp với Thánh vương vốn ở cung sau. Dù không xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề, nhưng vẫn vượt lên, hợp với không ở trong các thể nữ.
"Nhập Niết-bàn" hợp với du ngoạn ở vườn sau, không gọi là vô thường, hợp với không qua đời.
Sau đây làm rõ lại nghĩa thường.
"Thoát khỏi vô lượng phiền não", nói về sở lìa. "Nhập Niết-bàn v.v... là nói lên Niết-bàn sở đắc, trong đó, đầu tiên là nói được vui Niết-bàn.
"Đi dạo các giác v.v..." trở xuống là được vui Bồ-đề. Trên đây là nói về thể của pháp thân Phật là thường.
Dưới đây là đoạn hai, quét bỏ hoài nghi về dấu vết. Vì dấu vết hóa độ xâm lạm chân, nên phải quét bỏ, trong đó, đầu tiên là quét bỏ dấu vết của thân.
Bồ-tát Ca-diếp lại bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào là thường trụ v.v..." trở xuống là quét bỏ, nói là dấu vết. Trong phần quét dấu vết của thân, Cadiếp trước là hỏi: "Như Phật nói: "Từ lâu rồi, ta đã vượt qua biển lớn phiền não", là nhắc lại lời nói trước đây của Phật, gọi là "Ở trước Ngài đã ra khỏi vô lượng phiền não" là đã vượt qua từ lâu.
"Nếu Đức Phật v.v..." trở xuống là chấp dấu vết làm câu hỏi: "Nếu Đức Phật đã vượt qua biển lớn phiền não thì vì sao Ngài lại sống chung với Gia-du-đà-la?", là nêu "Thật" để gạn dấu vết. Vì nhân duyên này, nên biết Phật chưa vượt qua", là chấp dấu vết, sinh ra nghi ngờ sự thật.
"Cúi mong v.v..." trở xuống là thỉnh Phật giải thích để thông qua.
Sau đây là Phật đáp: trước là quở lời hỏi.
"Năng kiến lập v.v..." trở xuống là giải thích. Ý giải thích như thế nào? Nói xưa kia, việc nạp phi sinh con, là Đại Niết-bàn đã khởi công dụng của đức, chẳng phải thật phiền não. Nói về tướng ra sao? Nêu rộng Niết-bàn đã khởi công dụng của đức, so sánh để giải thích tướng đó. "Đại bát Niết-bàn có thể kiến lập nghĩa đại", là nêu chung để so sánh đáp. Nghĩa giống như dụng, kiến lập giống là khởi. Đại Niết-bàn có khả năng sanh khởi dụng đại. Tướng của công dụng chẳng phải một, gọi là kiến lập nghĩa đại. Sau đây, sẽ nói rộng, trong đó, đầu tiên là dạy bảo, khuyên lắng nghe, chớ sinh nghi. Sau đó, Đức Phật sẽ nói pháp cho nghe.
Văn chia làm bốn:
1. Nêu Bồ-tát trụ đại Niết-bàn, năng kiến lập nghĩa đại, kính mong Như lai.
2. "Ta đã trụ lâu trong cảnh Niết-bàn này v.v..." trở xuống chính là y theo Như lai để nói về kiến lập nghĩa đại.
3. "Nếu có Bồ-tát nào an trụ v.v..." trở xuống là kết đoạn thứ nhất ở trước.
4. "Vì duyên cớ này v.v..." trở xuống là y theo đoạn hai ở trước, để kết đáp câu hỏi trên.
Trong phần đầu có hai:
1. Nói Bồ-tát chứng thật, khởi phạm.
2. Bồ-tát có khả năng thị hiện v.v... trở xuống là lấy dưới so sánh với trên, để nói Phật không có dục.
Trong phần trước, văn hợp có tám lần "Lại nữa", bảy lần "Lại nữa" đầu, là nói riêng. Một lần "Lại nữa" sau là tổng kết.
Nói rằng "Bồ-tát an trụ Niết-bàn" là đối với đại Niết-bàn, vì tùy từng phần khắc định chứng, nên gọi là trụ. Tánh Niết-bàn sở trụ, là pháp của tác dụng duyên khởi. Cho nên trong nhập không có tâm thể hiện hóa độ, mà là do oai lực của pháp Tam-muội tự nhiên, có khả năng hóa hiện không có chướng ngại. Như viên ngọc như ý không có tâm phân biệt, tự nhiên tuôn ra tất cả vật châu báu nhiều như mưa. Ở dưới là nêu Bồ-tát so với Phật có thể biết là Ngài cao siêu dường nào.
Thứ hai, trong phần nói Đức Phật có thể kiến lập, đầu tiên là nói Như lai trụ Đại Niết-bàn khởi các thứ thị hiện hóa độ.
"Đối với Tam thiên Đại thiên thế giới này v.v..." trở xuống là nói rộng về tướng trạng hóa độ của Như lai.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết dụng quy thể.
Trong phần nói rộng về hóa độ, trước nói Như lai hóa hiện ở cõi Diêm-phù-đề này, kế là so sánh với phương khác và cõi Tam thiên.
Sau đây, là nêu nghĩa hai mươi lăm hữu, chỉ cho Thủ lăng nghiêm.
Sao gọi là hai mươi lăm hữu? Như văn dưới đây nói: Cõi Dục có mười bốn: Bốn đường ác, bốn thiên hạ, người và sáu tầng trời cõi Dục. Cõi Sắc có bảy: Bốn thiên xứ, trung gian thiền, Phạm vương, Vô tưởng và Tịnh cư.
Vô Sắc có bốn: Bốn không xứ, chung với hợp ở trước thành hai mươi lăm hữu.
Vì sao chỉ nêu kinh Thủ lăng nghiêm? Vì nói đều ứng hiện hóa độ trong hai mươi lăm hữu này, nên không thể nêu đầy đủ, thành ra chỉ cho kinh Lăng nghiêm kia.
Thứ ba là kết lại Bồ-tát rất dễ hiểu.
"Vì duyên cớ này v.v..." trở xuống là y theo phần hai ở trước, kết đáp câu hỏi trên. Cho nên Như lai trụ đại Niết-bàn để khởi các thứ hóa độ.
Vì thị hiện nhân duyên dâng nộp Phi tần để sinh con, nên ông không nên nói rằng La-hầu-la thật sự là con của Phật.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích: Từ lâu đã lìa phiền não, vì thường không thay đổi.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đã quét bỏ dấu vết của thân.
Dưới đây là đoạn hai, sẽ quét bỏ dấu vết lời nói, qua đó, trước là quét sạch dấu vết lời nói.
Bồ-tát Ca-diếp lại nói: "Hôm nay con nhất định biết rằng Như lai, Thế Tôn không có gì bí mật cả! v.v..." trở xuống là quét bỏ "Vô thường" nói là dấu vết.
Trong phần trước có ba:
1. Quét bỏ, tiêu diệt dấu vết, là nói Phật đã khéo có.
2. Ca-diếp lãnh hội, hiểu biết.
3. Như lai cho phép.
Trong phần trước, Ca-diếp trước hỏi để khởi phát. Sau, là Phật đáp.
Trong câu hỏi: "Bạch Đức Thế Tôn! Thế nào gọi là "Thường"?, quở Phật nói "Thường".
"Như Phật nói v.v..." trở xuống là hỏi, đả phá nghĩa "Thường" của Phật: "Như đèn tắt rồi, không có phương hướng nơi chốn. Là nêu xưa Phật nói: "Như lai cũng vậy" diệt không còn gì hữu. Tìm kiếm dụ đồng với Phật. "Diệt" rồi thì "không có", sao Như lai nói là "Thường"? Câu hỏi này đồng với "đâu nhọc công lại phải làm" ở trên. Trước là hỏi Phật.
Như lai giải thích thẳng câu hỏi, rằng: "Phật là thường". Lời Phật nói xưa kia vì chưa quở trách, nên nay ở đây nêu lại câu hỏi.
Lại nữa, ở trước nạn Đức Phật chẳng phải "Thường" Phật đáp: Nói về "Thường". Bồ-tát Ca-diếp thì hỏi lưng chừng: Phật "Chẳng phải có". Đức Phật đáp: "Chứng minh là có". Vì sao khác với ý trước, nên lại hỏi nữa.
Sau đây, trong phần Phật đáp, trước nói Như lai là "Có", chứ chẳng phải "Không".
Nói "Đèn tắt, nghĩa là La-hán v.v..." trở xuống, suy ra "Diệt" thuộc về Tiểu thừa. Giải thích lãnh hội lời Phật đã nói xưa kia.
Trong phần trước có hai:
1. Nói Như lai "Thường" mà là "Có".
2. "Dù không đều là v.v..." trở xuống, là nói Như lai "Có" mà là "Thường".
Trong phần trước, trước là Phật quở: "Ông không nên nói đèn tắt là "Không", Như lai cũng vậy!" Sau đây, Phật sẽ giải thích.
Trong giải thích, trước là dụ, kế là hợp làm rõ pháp. Dưới đây là Phật hỏi Ca-diếp, Ca-diếp đáp sau.
Trong dụ có hai câu:
1. Dụ dựa vào chân khởi "Hoặc", nam, nữ dụ cho người khởi "Hoặc". Dựa vào chân khởi "Hoặc", gọi là khi đốt đèn. Như lai tạng tánh bị "Vọng" nương tựa, nói là với bình đèn. Chân theo vọng mà chuyển biến, vì tùy theo quy cách rộng, hẹp của vọng, nên nói lớn, nhỏ. Vô minh khe khắp, gọi là dầu trong bình đầy. Dựa vào địa vô minh, sinh ra bốn trụ "Hoặc". Tâm phân biệt luống dối, như dầu sinh ánh sáng. Gốc còn, ngọn theo, nên nói là "Dầu còn thì ánh sáng kia vẫn còn."
2. "Nếu dầu cạn hết v.v..." trở xuống, là dụ cho diệt "Hoặc", làm sáng tỏ chân. Nếu dầu đã cạn hết, thì ánh sáng cũng tắt, là dụ diệt "Hoặc". Dứt bặt địa vô minh, gọi là dầu hết. Bốn trụ "Hoặc" mất theo, gọi là ánh sáng tắt, là dụ làm sáng tỏ chân.
Trong văn, lược qua không nói. Nếu đầy đủ thì lẽ ra nói: "Ánh sáng dù tắt hết, nhưng bình đèn vẫn còn".
Trong dụ dù không có, nhưng trong hợp có đủ.
Sau đây, kế là hợp dụ.
Dụ khởi "Hoặc", nay lược qua không hợp, chỉ hợp với dụ diệt "Hoặc", làm sáng tỏ chân. Ánh sáng kia tắt mất: Là dụ cho phiền não diệt, hợp với dụ diệt "Hoặc". Văn ít không đầy đủ. Nếu đầy đủ thì lẽ ra nói: "Dầu kia cạn hết, là dụ cho vô minh diệt, nhưng trong giáo xưa chỉ nói là đèn tắt, nên lược qua không hợp. "Dù ánh sáng tắt mất v.v..." trở xuống là hợp dụ hiển bày chân, ánh sáng tuy tắt mất nhưng bình đèn vẫn còn", nêu dụ để làm rõ pháp.
"Như lai cũng vậy", nghĩa là dù phiền não dứt, nhưng pháp thân vẫn thường còn, đâu đồng với đèn tắt hoàn toàn là "Không". Hỏi trái lại, đáp trái lại, văn rõ ràng dễ hiểu.
"Dù không đều cùng có v.v..." trở xuống là nói "Có" là "Thường". Đầu tiên, Ca-diếp chấp dụ đồng với pháp, nên bắt bẻ Phật vô thường. Sau đây là lời Phật đáp:
Phân biệt pháp khác với dụ, là nói Phật là thường. Trước, Đức Phật quở lời hỏi. Sau, Phật giải thích. Trong giải thích, đầu tiên là nói về thể của pháp thân là thường.
"Tất cả pháp v.v..." trở xuống là nói về báo thân Phật là thường.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Như đồ đựng của thế gian pháp khí vô thượng của Như lai, Thế Tôn, y theo dụ để làm rõ pháp. Pháp thân Như lai vốn bị vọng nương vào, vì thọ nhận tưởng giả dối, nên gọi pháp khí. Cho nên, ở trước lấy bình đèn làm dụ, mà đồ đựng là vô thường, chẳng phải Như lai. Nói pháp khác với dụ. Vì khác, nên là thường. Trong phần nói về báo thường thì, pháp Niết-bàn trong tất cả pháp là thường. Nêu gốc để làm rõ ngọn, cái gọi là pháp Niết-bàn tánh tịnh là thường. Thể của Như lai gọi là thường, gọi là báo thường.
Dưới đây là đoạn hai, tìm kiếm diệt thuộc về Tiểu thừa. Giải thích lãnh hội lời nói xưa của Phật, bày tỏ thuyết xưa đã nói: "Đèn tắt là Niết-bàn, là Tiểu thừa, chẳng phải Đại thừa, trong đó có bốn:
1. Nói Niết-bàn mà La-hán đã chứng đắc, đồng với đèn tắt.
2. Nêu bậc A-na-hàm kia có chướng chưa dứt hết, để thấy rõ La-hán đã diệt.
3. Nhân lời nói, tức giải thích bậc A-na-hàm nghĩa là Bất hoàn.
4. Nêu A-na-hàm kia có trở lại, đủ rõ ở trước không trở lại thế gian.
Đầu tiên nói đèn tắt, tức là Niết-bàn mà La-hán đã chứng, chính là hội ý lời nói xưa kia để diệt tham v.v..., giải thích thành nghĩa "Diệt". Trong đoạn hai, người Ana-hàm, được gọi là Hữu tham. Vì hữu tham, nên không đồng với đèn tắt, nêu "Hữu" để làm rõ "Diệt". Người Ana-hàm vẫn còn tham, si, mạn trong hai cõi trên. Vì lỗi tham nặng, nên nói nghiêng về.
"Cho nên, ta v.v..." trở xuống là đối với "Có" để hiển bày "Diệt" là "Hữu tham" của A-na-hàm chưa hết, vì Lahán đã dứt, nên đồng với đèn tắt mà ta đã nói xưa kia.
Vì nói Tiểu, che giấu đại, nên nói là tướng che lấp, chứ chẳng phải đại Niết-bàn đồng với đèn tắt, để bày tỏ phần giới hạn của "Diệt".
Trong đoạn ba có ba lần "Lại nữa".
Giải thích A-na-hàm là nghĩa Bất hoàn, trong đó, hai lần "lại nữa", đầu là y theo ở Xứ để, giải thích. Chẳng phải thường đến giải thích theo cõi Dục thì thông thường đến trong cõi Dục, nên gọi là Bất hoàn. Lại, không trở lại đến hai mươi lăm hữu, y cứ chung cõi Sắc, Vô sắc để giải thích. Người A-na-hàm tùy chỗ đã sinh trong hai mươi lăm hữu kia hễ sinh về chỗ nào thì, không còn sinh lại, nên gọi là Bất hoàn.
Một lần lại nữa sau, y cứ ở báo thân để giải thích, lại vì không thọ thân trùng hôi hám v.v..., nên gọi là Bất hoàn.
Trong đoạn thứ tư, có hai lần nêu vị Na-hàm kia có trở lại, để chứng tỏ ở trước không trở lại. Đây gọi là vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, cho là Na-hàm. Nếu lại thọ thân, thì gọi là Na-hàm. Không thọ thân thì gọi A-nahàm, làm rõ ở câu sau người có qua lại, gọi là Na hàm, người không có qua, lại gọi là A-na-hàm, nói rõ hai câu trước.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đã quét bỏ dấu vết "Diệt" để nói về Phật khéo có.
Dưới đây là đoạn hai, Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu. Nhận hiểu Như lai không có nghĩa bí tạng, nói "diệt" để bày tỏ Tiểu thừa. Vì luận có nói rõ về Đại, nên không có tạng bí mật, trong đó, đầu tiên, là nói Như lai không có tạng.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Ngày xưa, Như lai vì nói Tiểu, ẩn giấu đại, nên có mật ngữ. Vì tâm không bỏn xẻn, luyến tiếc, nên không có Bí tạng.
"Như huyễn v.v..." trở xuống, là nêu bí tạng của thế gian, rõ ràng không đồng với Phật. Sau đây, Đức Phật nói lại lời mình khen: "Lành thay!" là lời khen.
"Như lai không có che giấu là thuật khả."
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Có chín lần "Lại nữa":
1. Vì lời nói của Như lai không có che giấu, nên không tạng bí mật.
2. Vì tâm không bỏn xẻn, nên không có Bí tạng.
3. Vì pháp không có thiếu sót, nên không có Bí tạng.
4. Vì không có sở tham tiếc, nên không có Bí tạng.
5. Vì lòng yêu thương sâu nặng, nên không có Bí tạng.
6. Vì cội rễ xấu nhổ hẳn nên không có Bí tạng.
7. Vì lời nói không có lỗi lầm, nên không có Bí tạng.
8. Vì suy lường hóa độ để thích hợp với căn cơ, nên không có Bí tạng.
9. Vì mưa pháp thấm nhuần bình đẳng, nên không có Bí tạng. Trong "Lại nữa" lần đầu, trước là dụ, kế là hợp dưới, đây y theo ngu, trí để nói về đúng sai. Trong hai lần "Lại nữa" kế đều trước lập dụ. Sau, nói Phật là không.
Trong môn thứ tư, trước lập tạng dụ, sau là nói khác nhau. Như lai không phải như vậy, nói chung là khác nhau.
"Không nợ thế gian v.v..." trở xuống là nói riêng khác nhau. Không nợ thế gian, là đối với nợ nần trước để nói lên khác nhau. Đức Phật vốn phát tâm không muốn cho trao pháp thế gian cho con người, là vì không nợ.
"Dù nợ v.v..." trở xuống là đối với sợ chủ nợ che giấu không muốn nói lên để chứng tỏ khác nhau. Đức Phật vốn phát tâm hứa sẽ giáo hóa chúng sinh bằng pháp xuất thế. Nhưng Pháp xuất thế gian kia vẫn chưa được, nên gọi là nợ nần.
Vì tâm Phật thường muốn cho, nên không có Bí tạng. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Trong môn thứ năm, trước là dụ, sau là hợp. Trong hai lần "Lại nữa" thứ sáu, thứ bảy đều trước lập dụ Bí tạng. Sau nói Phật là không. "Lại nữa" thứ tám, trong suy lường hóa độ để thích hợp với căn cơ, đầu tiên là nói Như lai, vì suy lường căn cơ hợp với truyền trao Tiểu thừa, nên không có Bí tạng.
"Như con của Trưởng giả kia đã khôn lớn v.v..." trở xuống, là tùy căn cơ truyền trao giáo pháp Đại thừa, nên không có Bí tạng.
Trong phần trước có bốn:
1. Lập dụ để làm rõ pháp.
2. Hỏi trái lại với Ca-diếp. Ca-diếp chính đáp.
3. Phật khen lời Ca-diếp nói.
4. Y cứ vào dụ để làm rõ pháp.
Trong phần đầu, Trưởng giả là dụ cho Phật, Như lai, đã dạy bảo Thanh văn, gọi là con một. Ý Thánh thương xót, nhớ nghĩ, gọi là thường yêu thương nhớ nghĩ. Như lai vì thấy có các vị căn cơ Đại thừa chưa thành thục, nên xa ủy thác Phật đương lai sẽ giáo hóa, mở mang, dẫn dắt, gọi là đem đến thầy muốn cho thọ học. Lo Thanh văn kia chậm trễ, muộn màng, gọi là "Sợ không mau chóng". Nhiếp hóa theo mình, gọi là "Tìm kiếm mang trở lại". Siêng năng dạy học Tiểu thừa, gọi là dạy bán tự. Vì chưa trao cho Đại thừa, nên nói là không dạy luận Tỳ-già-la.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Thứ hai là hỏi ngược lại Ca-diếp. Trong phần đáp có hai lần hỏi đáp: Đầu tiên là y theo người được giáo hóa, Phật hỏi vặn lại Ca-diếp. Ca-diếp chính là đáp. Sau là y theo năng giáo hóa, Phật hỏi vặn lại Ca-diếp. Ca-diếp chính là đáp "Không" là đáp chung.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Trong phần giải thích, đầu tiên là nói trưởng giả không có bí mật.
Trước hỏi, sau giải thích.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là nói Phật không có Tạng.
Trước hỏi, sau giải thích.
Trong giải thích, đầu tiên là nói sự ganh tỵ, keo kiệt là Tạng. Sau nói Phật không có.
Trong lời khen thứ ba: "Lành thay!" là khen chung. Sau, nói lại lời Phật đã khen.
Thứ tư trong phần y theo dụ làm rõ pháp, đầu tiên là hợp với giáo bán. Sau hợp với không dạy luận Tỳ-giàla. Trước đã hợp với Tỳ-già.
"Vì Thanh văn v.v..." trở xuống là sức hợp chưa kham. "Cho nên v.v..." trở xuống là hợp với không dạy bảo.
Sau đây là nói Phật trao cho Đại vô tạng, đầu tiên là trái với nói Tạng. Trước là dụ, sau là hợp.
"Như lai không v.v..." trở xuống là thuận với nói không tạng. Đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp, rất dễ hiểu.
Thứ chín là trong mưa pháp thấm nhuần bình đẳng, đầu tiên là lập dụ: Tháng hạ dưới mưa, dụ cho Phật nói pháp bình đẳng. "Làm cho nông phu v.v... là dụ cho chúng sinh được ích khác nhau". "Chẳng phải lỗi ở rồng v.v...", là dụ cho Phật không có lỗi. Dưới là hợp, rất dễ hiểu.
Ca-diếp lại nói: "Nay tôi nhất định v.v..." trở xuống, quét bỏ dấu vết nói vô thường của ngày xưa. Đầu tiên là Ca-diếp lãnh hội trước, hỏi sau để làm khởi phát: "Nay, tôi biết chắc chắn Như lai không có tạng, là lãnh hội trước."
"Như Phật nói v.v..." là hỏi sau. Trong đó, trước nhắc lại lời nói trên đây của Như lai, nói thẳng chẳng phải không đúng. "Vì sao? v.v..." trở xuống, là giải thích. Trước là nêu kệ xưa, kế là nêu "Thường" hiện nay. Sau là hỏi: "Thế nào?" Trong phần Phật đáp, trước là hội ý lời nói xưa: "Nay ta vì v.v..." trở xuống là nói về "Thường" nay.
Trong phần trước, ta vì Thanh văn dạy bán tự, mà nói bài kệ này.
Nêu sơ lược lời nói xưa.
"Ba-tư-nặc v.v..." trở xuống là nói rộng về lý do khởi thuyết xưa. "Ta vì v.v..." trở xuống là kết.
Trong phần nói về "Thường" nay, đầu tiên là y theo người để nói về "Thường" nay.
"Nếu có người v.v..." trở xuống là răn bỏ vô thường.
Sau đây là nói về giải thoát. Văn chia làm năm:
1. Nói Niết-bàn là Xứ giải thoát.
Bồ-tát Ca-diếp nói: "Thế nào gọi là Niết-bàn v.v..." trở xuống là y căn vào ở xứ để mở ra đức giải thoát.
3. "Cho nên, giải thoát thành vô lượng v.v..." trở xuống là kết khen, làm rõ pháp cao quý.
4. Ca-diếp nhận hiểu.
5. Như lai kết khuyên tu học. Trong phần đầu có hai:
1. Nêu kệ xưa, xin Phật giải thích. Muốn ở trong đó nêu ra Niết-bàn là xứ giải thoát.
2. Nói đại, tánh Niết-bàn rộng v.v... trở xuống là y theo xứ để giải thích tướng Niết-bàn.
Trong phần trước, trước là hỏi. Trong phần hỏi, đầu tiên là nêu kệ, hỏi chung.
Không có sự chứa nhóm, là hạnh ít muốn trong tám điều giác ngộ. Chưa được không mong cầu, ăn ở biết vừa đủ, tức là hạnh tri túc, đã được tiết chế, suy lường. Như chim bay trên hư không, không để lại dấu vết, là hạnh không hí luận thứ tám. Chim dụ cho Hiền thánh, không dụ Pháp tánh. Chứng thật lìa tướng, khó dùng tướng để cầu, như chim bay trên hư không, dấu vết không thể tìm lược nêu ba pháp này. Trung gian vắng lặng, tinh tấn, chánh niệm, thiền định, và trí tuệ, lược qua không nêu.
Ý bài kệ này hướng về nửa bài kệ sau là xứ giải thoát đại Niết-bàn. Nghĩa này thế nào? Xin Phật giải thích cho.
"Ai được v.v..." trở xuống, là y theo người để hỏi riêng.
Sau đây, là Phật vì Ca-diếp giải thích: trong đó, trước nói về chứa nhóm pháp lành là cái mà Hiền thánh có. "Tăng có hai..." trở xuống là chứa nhóm pháp ác, là cái mà Hiền thánh không có.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Luận về chứa nhóm, gọi là của báu, nói chung là chứa nhóm." Pháp lành vật báu của Hiền thánh kia.
"Chứa nhóm có hai v.v..." trở xuống là y theo con người, để phân tích riêng. Trước là nêu, kế là sắp bày. Tiểu thừa khéo tu hành sinh diệt, hữu vi. Đại thừa vì khéo tu hành "Thường" cho nên vô vi.
Sau đây, sẽ y theo người để giải thích.
Trong phần chứa nhóm pháp ác, văn chia làm ba:
1. Nói về hai tăng, nêu số, nêu tên. Vì Tiểu thừa Vô thường, nên gọi là hữu vi. Vì Đại thừa tu hạnh "Thường" nên gọi là vô vi.
2. Đức Phật y theo hữu vi, nói không có chứa nhóm v.v... Trước là quyết định người hữu vi kia. Sau y cứ nói về đức. Trước nói không có chứa nhóm, đầu tiên chính là giải thích.
"Nếu có thuyết v.v..." trở xuống là chẳng phải tà làm rõ chánh. Kế là nói về tri túc. Đầu tiên, là giải thích đúng. "Nếu có tham v.v..." trở xuống là nêu lỗi, làm rõ đức. Dấu vết khó tìm là nêu văn kệ. Nói gần đạo Bồ-đề vô thượng, là sở chứng của Nhị thừa dần dần gần với đạo Phật. Người này dù ra đi không có chỗ đến, nghĩa là vì diệt thân, trở về với vắng lặng, nên không có chỗ đến.
3. Ca-diếp do hiểu vô vi ở trước, ở trong đó chỉ nói không có chứa nhóm, khó tìm kiếm.
Biết đủ không giải thích. Câu trong không có chứa nhóm, được chia làm ba:
1. Nêu dưới so sánh với trên, tăng hữu vì còn không có chứa nhóm, huống chi là tăng vô vi.
2. Nêu ra thể của tăng vô vi, tức là Như lai.
3. Y theo Như lai, để giải thích nghĩa không có chứa nhóm.
Sao Như lai sẽ có chứa nhóm? Y theo Phật tự thực hành, nói không có chứa nhóm, không chất chứa vật nuôi sống của thế gian.
"Nói về chứa nhóm v.v..." trở xuống, y theo Phật hóa độ bên ngoài để nói không có chứa nhóm, bỏn sẻn pháp không nói, gọi là cất giấu.
"Cho nên v.v..." trở xuống là đối với lỗi nói là không có. Đã nói không có bỏn sẻn thì sao gọi là cất giấu? Vì không có cất giấu, nên gọi là không có chứa nhóm. Có người cho rằng lời này giải thích không có cất giấu ở trên, cho nên phán quyết thuộc về trước, hoàn toàn chẳng đúng.
Sau đây là y theo Phật để nói về dấu vết khó tìm kiếm. Trước, nêu văn kệ, giải thích có bốn câu:
1. Nói trực tiếp có ra Niết-bàn thì khó tìm kiếm thể của pháp, cái gọi là Niết-bàn.
2. "Không có mặt trời, mặt trăng v.v..." trở xuống là nói về tướng khó tìm. Vì lìa tất cả tướng, nên không thể tìm.
3. Rõ ràng Niết-bàn là xứ Như lai thường còn không thay đổi. Đức Phật muốn y theo xứ này để mở bày đức giải thoát, nên nói là xứ.
4. Nói Phật thú nhập, vì Niết-bàn này là xứ của Như lai, nên nay, đến đây mà nhập Niết-bàn.
Trên là giải thích kệ xưa, để giải thích có ra Niết-bàn là chỗ giải thoát.
Dưới đây là đoạn hai, y theo xứ để nói về tướng Niết-bàn. Văn chia làm ba:
1. Giải thích nghĩa đại Niết-bàn ở trước.
2. Nói Niết-bàn này là xứ giải thoát.
3. Trong văn trước, vì có người khó hiểu, nên đặt ra câu hỏi đáp để nói rõ lần nữa.
Y theo đoạn đầu, trước giải thích nghĩa đại, dùng cả ba nghĩa để giải thích.
1. Đầu tiên, nói Đại: là tánh đại rộng lớn, dùng rộng để giải thích đại.
2. "Như người v.v..." trở xuống là dùng "Thường" để giải thích Đại, chỉ dụ không có hợp. Với "Đại" đã nói trong văn trên, gọi là "Thường", tương tự với nghĩa đại kia.
3. Dùng sự vượt hơn để giải thích Đại. Vượt hơn có hai thứ:
Đầu tiên là nói người này nếu trụ chánh pháp thì gọi là vượt hơn trong loài người. Vì trụ ngay thẳng, cho nên vượt hơn.
"Như ta nói v.v..." trở xuống là vì đủ đức nên vượt hơn. Như kinh Bát Đại Nhân Giác mà ta nói. Nêu tám điều giác ngộ mà ta đã nói trong kinh khác.
"Vì một người v.v..." trở xuống là y theo người để phân biệt: Vì một người có đức thành ở một người, nhiều người có đức tu ở nhiều người. Nếu một người có đủ tám đức thì là người vượt hơn.
Y theo thành tựu để làm rõ sự vượt hơn: một người là Phật, vì Phật có đủ tám đức, nên nói là vượt hơn vì vượt hơn nên gọi là đại.
Kế là nói Niết-bàn. Nói Niết-bàn: Gọi là không có mụt nhọt dùng lợi mình để giải thích: Mụt nhọt, là lậu. Tự vì không có các lậu, nên gọi là Niết-bàn. "Ví như người v.v..." trở xuống là dùng việc hóa độ người để giải thích: Trước là dụ, sau là hợp.
Trong dụ có hai:
1. Dụ cho hóa độ cõi Diêm-phù, như dụ về người. Chúng sinh ở cõi Diêm Phù kia khởi "Hoặc" ép ngặt mình, gọi là bị tên độc bắn trúng, trôi lăn trong sinh tử, gọi là chịu nhiều đau khổ. Gặp được Phật, Thánh, gọi là gặp được thầy thuốc. Phật dạy dứt "Hoặc", gọi là nhổ lấy mũi tên độc. Khuyên tu đạo pháp, gọi là truyền trao cho thuốc hay, giúp ra khỏi sinh tử, gọi là lìa khổ. Được đại Niết-bàn, gọi là thọ hưởng sự an vui.
2. Dụ thị hiện hóa độ ở cõi khác: Chiêu cảm cõi này hết, ứng hiện hóa độ với phương khác, gọi là dạo khắp kinh thành, thôn xóm. Vì hễ nơi nào có "Hoặc" thì ở đó, Phật liền cứu giúp ngay, nên nói: "Tùy chỗ có mụt nhọt, liền đến đó để chữa lành."
Sau đây là hợp dụ. Trước là hợp với dụ đầu: Như lai cũng giống như vậy, làm đại y vương, hợp với "Thầy thuốc ở trước". Cam chịu khổ lớn ép ngặt, hợp với "Chịu nhiều đau khổ v.v... lược qua mà không hợp.
"Chữa trị lành ở đây v.v..." trở xuống là hợp với dụ ở sau. Lại đến nơi khác, hợp với "Dạo khắp kinh thành v.v...". Các chỗ có độc, hợp với "Hễ chỗ nào có mụt nhọt, thì thành Phật để chữa trị, hợp với "Đến chỗ đó, vì trị lành các đau khổ."
"Nên gọi đại bát" là nói chung để kết.
Dưới đây là đoạn hai, nói lên Niết-bàn này là xứ giải thoát. Đại Bát-niết-bàn, gọi là xứ giải thoát. Nói đúng về tướng Niết-bàn kia, hễ chỗ nào có chúng sinh thì thị hiện ở trong đó, là nói thể khởi dụng. Dụng tức là đức giải thoát kia. Vì được đại Niết-bàn có thể khởi hiện dụng này, nên gọi Niết-bàn là xứ giải thoát.
"Vì chân này v.v..." trở xuống là kết dụng, làm sáng tỏ thể. Vắng lặng mà thường tác dụng, là nghĩa rất sâu xa, khác với Đại Niết-bàn mà Tiểu thừa gọi.
Dưới đây là đoạn ba, "Vì có người khó hiểu, nên đặt ra hỏi, đáp để làm rõ lại. Nói rõ ở trước để giúp người khác không có nghĩa mụt nhọt. Có hai lần hỏi đáp:
1. Y theo thí dụ, vì chúng hỏi: "Thầy thuốc ở thế gian có chữa trị được tất cả chứng ung nhọt không?" Đức Phật đáp: "Không nhất định".
2. Y theo pháp, làm câu hỏi. Trước là nhắc lại lời Phật nói. Sau đó là lập ra câu hỏi: "Nếu Phật nói đã chữa trị xong, sao còn có người chưa được Niết-bàn? Nếu chưa được, thì sao ở trên nói vừa trị lành bệnh ở chỗ này xong, liền đến chỗ khác để chữa bệnh?" Phật đáp: "Không nhất định". Trước nêu hai người, kế là nêu tên họ của họ. Sau y theo người đó để nói về điều trị hay không điều trị.
"Trừ Nhất-xiển-đề v.v..." trở xuống là loại bỏ không điều trị. Y theo người được trị kia, để kết thành nghĩa Niết-bàn không có mụt nhọt.
Trên đây, là nói về xứ giải thoát.
Dưới đây là đoạn hai, sẽ mở bày đức giải thoát, trong đó có bốn:
1. Y theo Niết-bàn để mở bày đức giải thoát.
Bồ-tát Ca-diếp nói: "Giải thoát là sắc hay phi sắc? v.v..." trở xuống, nói về thể giải thoát.
3. "Cúi mong Phật dũ lòng thương xót rộng lớn lần nữa v.v..." trở xuống là bày rõ tướng giải thoát.
4. Ca-diếp nói: "Bất sinh, bất diệt là giải thoát v.v..." trở xuống là quét bỏ giải thích so sánh.
Trong phần đầu, Ca-diếp trước hỏi để khởi phát: "Thế nào là Niết-bàn?" Là gạn thể khởi dụng.
Sau đây là Phật đáp: "Gọi là giải thoát".
Trong đoạn hai có hai lần hỏi đáp: Đầu tiên, Bồ-tát
Ca-diếp hỏi: "Nói giải thoát là sắc hay chẳng phải sắc?" Cũng nên hỏi: "Là tâm hay chẳng phải tâm?"
Nói theo sắc, thì tâm có thể biết, nên lược qua không hỏi. Sau đây, trong phần Phật đáp, đối với Tiểu để nói về đại. Hoặc sắc, chẳng phải sắc, được mở, nêu hai môn. Kế là làm rõ tướng của sắc đó. Giải thoát của Nhị thừa, chỉ là dứt kiết, thường diệt vô vi, chưa được chân sắc thường trụ của Chư Phật. Lại, vì chưa được sắc của công dụng Phật hóa, nên gọi là chẳng phải sắc. Chân thật giải thoát của Chư Phật là thường trụ, vì tùy duyên hóa độ, ứng hiện các thứ thân hình, nên gọi là sắc. Tùy hóa độ mà ứng hiện, tức là Chư Phật chung với thân thế gian. Chân thân thường trụ tức là thân pháp môn của Chư Phật. Nghĩa này thế nào? Như phần nghĩa đồng thể của mười tướng của biển, Phật cũng như thế, các căn tướng tốt đều khắp pháp giới, thể đồng với nghĩa phần. Không như ứng thân, hóa thân. Chân thân kia với hóa thân này khác nhau. Vì đồng thể, nên dùng nhãn làm môn, các căn tướng tốt và cõi nước Phật đều là hiện trong một nhãn. Các căn khác cũng giống như thế. Như Hoa Nghiêm chép: "Tất cả kiếp trong ba đời và với cõi nước của Chư Phật, các căn, tâm, tâm pháp và pháp luống dối, tất cả đều hiển hiện rõ ràng trong một thân Phật. Cho nên nói Bồ-đề vô lượng không có bờ mé." "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
"Như lai vì các Thanh văn v.v... trở xuống là hội ý thông qua lời Phật nói xưa kia: "Giải thoát của Chư Phật dù là sắc nhưng xưa Phật vì Thanh văn nói chẳng phải sắc."
Thứ hai, Bồ-tát Ca-diếp y cứ theo Tiểu thừa để gạn hỏi: "Giải thoát của Nhị thừa nếu chẳng phải sắc thì làm sao trụ được?" Sau đây, Đức Phật sẽ đáp. Ý đáp như thế nào? Rõ ràng là giải thoát mà Nhị thừa kia đã được cũng là sắc, chẳng phải sắc. Vì sắc này, nên Nhị thừa được trụ trong đó, trước là dụ trong đó có hai:
1. Nói Phi tưởng cũng là sắc, chẳng phải sắc, Phật nói là chẳng phải sắc. Bốn không có sắc, các kinh phần nhiều đồng nói. Kinh Hoa Nghiêm chép: "Tỷ căn của Bồ-tát nghe mùi hương phảng phất từ các cung điện ở cõi Vô sắc." Trong kinh A-hàm chép: "Khi Xá-lợi-phất Bát-niết-bàn, các tầng trời cõi Sắc, Vô sắc từ trong hư không thương khóc, nước mắt rơi xuống, như mưa phùn mùa xuân. Lúc bà Ba-xà-ba-đề nhập niết-bàn, các các tầng trời cõi Sắc, Vô sắc đều đứng nghiêng mình trước Phật. Kinh này nói rằng cũng sắc, tương tự với kinh kia.
2. "Như thế v.v..." trở xuống, là y theo người, để nói đúng cảnh giới Phật, người Nhị thừa không biết.
Sau đây là hợp, làm sáng tỏ pháp.
Giải thoát cũng giống như vậy. "Vừa là sắc, vừa chẳng phải sắc, nói là phi sắc. Vừa là tưởng, vừa là phi tưởng, gọi là phi tưởng" hợp với câu đầu ở trên.
Hỏi: Giải thoát của Thanh văn, Duyên giác, sao vừa cũng là sắc, sao vừa cũng là tưởng mà lại nói là phi?
Giải thích:
Vì khi Nhị thừa nhập Niết-bàn, về sự, thức, căn, trần, tất cả đều diệt, nên nói "Chẳng phải sắc". Và với vọng thức, chân thức của Phi tưởng và căn trần, tất cả đều có, nên nói "Cũng là sắc và cũng là tưởng."
Nghĩa này thế nào? Khi người Nhị thừa nhập Niết-bàn, dù diệt sự thức, nhưng vọng tâm vẫn còn, nên nói cũng là tưởng. Vì tâm còn, nên vọng tâm hiện ra vọng tưởng, căn, trần cũng còn không mất, thành ra nói cũng là sắc. Như ngủ chưa thức, mộng tâm đã khởi, căn, trần không diệt. Lại, lúc người Nhị thừa nhập Niết-bàn, chân tâm không diệt, gọi cũng là tưởng. "Thật" của Nhị thừa là Như lai tạng. Tạng Như lai là pháp thân Phật. Trong pháp thân này có đủ tánh của nhãn, nhỉ, tỉ, thiệt v.v... của Phật, gọi cũng là sắc. Cho nên kinh nói: "Trong thân chúng sinh có nhãn, nhỉ v.v... của Như lai, vì pháp thân Phật chung với tánh chúng sinh, không có tự thể khác nhau. Nên trong văn dưới nói: "Bốn đế thật tức là Như lai. Trong giải thoát của Thanh văn, Duyên giác đều có nghĩa này, nên nói là "Cũng là sắc, cũng chẳng phải sắc, cũng là tưởng, cũng là phi tưởng. "Nghĩa này như thế v.v..." trở xuống là hợp với câu trên. "Nhưng cảnh giới Phật, người Nhị thừa không thể biết được."
Dưới đây là đoạn ba, nói về tướng giải thoát. Ca-diếp trước thỉnh: "Cúi mong Đức Thế Tôn nói lại." Đối với ở trước, nói về thể gọi là lặp lại.
Sau đây là Đức Phật trước khen, sau là, giải thích, lấy nghĩa theo nhau, trong đó gồm chín mươi bốn câu, tùy theo sự khác nhau mà chia kỹ có một trăm lẻ chín câu.
Trong "Không có ép ngặt" của câu hai mươi hai, có riêng bảy câu. Trong "Không có nghĩa nghiêng động" của câu thứ hai mươi ba, có riêng bốn câu. Trong "Nghĩa ít có" của câu hai mươi lăm, có hai câu. Trong "nghĩa vắng lặng của câu hai mươi sáu, cũng có hai câu. Trong "Nghĩa rất sâu" của câu thứ ba mươi, cũng có hai câu. Trong "Nghĩa bình đẳng" của câu năm mươi mốt, cũng có hai câu. Trong "Không có chật hẹp" của câu sáu mươi bảy có ba câu. Ngoài ra, đều là một câu. Cho nên, chia thành một trăm lẻ chín câu. Trong mỗi câu đều có năm phần:
1. Nêu tên.
2. Giải thích.
3. Kết.
4. Tức Như lai.
5. Vì người khó hiểu, nên phân biệt lại. Nhưng, trong văn hiện nay, nhiều, ít không nhất định: Hoặc có câu đầu, không có câu sau, hoặc có câu sau không có câu đầu. Hoặc có khoảng giữa mà không có đầu và sau.
Y theo sự giải thích, hoặc chỉ có "Pháp thuyết", hoặc có cả ví dụ so sánh. Dụ có trái, thuận. Dụ thuận, là "Giải thoát cũng vậy". Dụ trái, là "Giải thoát không như vậy".
Pháp và dụ đối nhau: Ở trước thì không nhất định: Hoặc có khi đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp. Hoặc có khi trước là dụ, kế là pháp, sau là dụ. Hoặc có trường hợp trước pháp, sau dụ, rồi bãi bỏ. Tướng văn không nhất định.
Nay, trong câu đầu, trước nêu danh từ gọi là lìa ràng buộc. Kế là giải thích tướng giải thoát, gồm hai dụ, hai hợp, lược qua không có văn kết.
Kế là, "Như lai", vì phân biệt với giải thoát của Nhị thừa ở trước, nên "Tức Như lai".
Như trong văn dưới, cũng tức là Niết-bàn, hư không, Phật tánh, quyết định Bồ-đề, tất cả pháp Phật, so sánh pháp kia với pháp khác, pháp khác đều đồng như vậy, không thể rộng phiền, nên các câu trước chỉ "Tức Như lai".
"Như mùa xuân v.v..." trở xuống là lặp lại để làm rõ việc. Trước dụ, sau hợp. Pháp còn lại, so sánh dễ hiểu.
"Gọi là dứt tất cả pháp hữu vi, sinh ra tất cả pháp lành vô lậu" lìa câu tám mươi chín, nói lìa các kiến. Trước là nêu tên các kiến đó. "Dứt pháp hữu vi" nói lìa tà kiến, "Sinh ra pháp vô lậu", nói có chánh kiến. Kế là nói tướng giải thoát. Trước là giải thích dứt lậu, lấp bít các đường, nói chung là dứt lậu, dứt tất cả tà kiến của các ngoại đạo, gọi là dứt các đường. Sau đây, sẽ phân biệt, làm rõ.
Hoặc "Ngã" chấp có, vô ngã chấp không, chẳng phải ngã, không có ngã, chẳng phải có, chấp "Không có". Các thuyết này giống với chân, vì chấp cố định đó không hợp với pháp lý, nên phải dứt bỏ. Chỉ dứt chấp mắc, không dứt ngã kiến. Giải thích trước sinh ra pháp lành vô lậu, nghĩa là Phật tánh rõ ràng không dứt. Lời nói này không đầy đủ. Nếu đủ thì nên nói rằng, gọi là giải thích Phật tánh giải thoát chân thật, nói chung để kết.
Sau đây, "Ngay cả Như lai" gọi là bất không không, là câu chín mươi, nói khác với giải thoát mà ngoại đạo đã được. Trước là nêu tên giải thoát, giải thoát của ngoại đạo thì giả dối không thật, gọi là "Không không", thật không đồng với giải thoát của họ, gọi là bất "Không không".
Kế là nói tướng, trước là nói không không.
Nói không không, nghĩa là không có sở hữu là giải thích nghĩa "Không", tức là giải thoát của ngoại đạo Nikiền. Y theo người chỉ bác bỏ, mà thật ra Ni-kiền không có giải thoát. Y theo người để nói về không. "Chân thì không phải như vậy", nói có khác với "Không". Văn kết dễ hiểu. Gọi là quả bất không. Câu chín mươi mốt, nói chẳng phải "Có", "Không". Trước là nêu tên gọi. Trong tên gọi không đầy đủ. Nếu gọi là đủ thì nên gọi là bất không không. Vì phân biệt với môn trước, nên nói riêng rằng, "Bất không".
Kế là nói về tướng. Trong giải thích, đầu tiên là y theo dụ để làm rõ pháp.
"Như chiếc bình kia hễ gặp duyên thì bể v.v..." trở xuống là phân biệt pháp khác với dụ. Sau đây, sẽ nói về tướng trạng của dụ: trong đó, đầu tiên là y theo bình nước, rượu v.v..., để nói về "Không bất không", tuy không có nước v.v... là nghĩa không. Vẫn được gọi là nghĩa bất không của bình nước v.v.... Vì có thể của bình, nên gọi là bất không, chứ chẳng phải cho rằng vì có nước, rượu dư kia v.v... mà gọi là bất không. Với văn trên đã nói ánh sáng dù tắt mà bình đèn vẫn còn, nghĩa ấy tương tự.
"Bình như thế v.v..." trở xuống là nói "Không bất không", không thể nhất định nghiêng một bên: "Nếu nói không v.v..." trở xuống là phá nghĩa không kia. Nếu nói nhất định là không thì không được có thể của bình, sự sắc, hương, vị xúc v.v..., là đã phá nhất định không kia. Nếu nói "bất không", lại không có nước v.v... là phá định bất không.
Y theo dụ để làm rõ pháp. "Giải thoát cũng vậy", hợp với "thể của bình" ở trước. Sau đây là hợp với tướng của dụ.
"Không thể nói sắc và chẳng phải sắc", hợp với trước: "Dù lúc không có nước, rượu v.v... cũng vẫn được gọi là bình nước, bình rượu v.v..." Do đó, chẳng thể nói không và bất không, hợp với "Chẳng thể nói không" bất không ở trước.
"Nếu nói không v.v..." trở xuống là hợp với "Nếu nói không thì không được có sắc, hương, vị, xúc" ở trước.
Nếu nói bất không mà không có nước... thì đó là kết.
Ba lớp pháp dụ, đối nhau mà nói rộng, trong đó trước là y theo pháp để nói về "Không". "Không" là không có hai mươi lăm hữu, nói không có quả khổ và các phiền não, nói không có nhân của "Hoặc", không có tất cả khổ và tất cả tướng, lại nói không có quả. Vì không có quả của hai mươi lăm hữu, nên lìa các khổ, cũng lìa tướng vô thường, vô ngã v.v..., nên nói "Cho là không có tất cả khổ và tất cả tướng."
Nói "Không có tất cả hành pháp hữu vi", là nói không có nghiệp nhân. Hai nghiệp thiện, ác gọi là hành hữu vi. Một chữ "Vô" đầu tiên xuyên suốt chung cho các câu. Như chiếc bình không có lạc, là nêu dụ để làm tin.
Sau đây, là y theo pháp để nói về bất không. Nghĩa là thật thiện sắc là thường, lạc, ngã, tịnh, tướng tốt của các căn, gọi là sắc thiện.
"Như bình v.v..." trở xuống là nêu dụ để làm tin.
"Cho nên, giải thoát cũng như chiếc bình kia", là kết pháp đồng với dụ.
Trên đây, đã y theo dụ để nói về giải thoát. Có người cho rằng, giải thoát hoàn toàn đồng với dụ kia, nên sau đây là nói khác.
"Chiếc bình kia nếu gặp duyên, thì sẽ bị bể nát" là nói dụ khác với pháp. Giải thoát thì không phải như vậy. Nói khác với dụ, kết thúc rất dễ hiểu.
Gọi là lìa ái, câu chứ chín mươi hai, nói về lìa ái, nghi. Trong danh lược qua nên chỉ nói là lìa ái. Đầu tiên là nêu danh. Kế là nói tướng của ái. Trước là lập dụ ngược lại. Sau là nói khác nhau, được đại Bồ-đề, thì không còn đối tượng mong cầu, cho nên lìa ái. Vì đối với quả quyết định rõ ràng, nên không có nghi ngờ. Dưới là kết tức Phật. Nói rõ lại, rất dễ hiểu.
"Câu chín mươi ba: Dứt các hữu tham, nói về xa lìa nhân quả sinh tử. Trước là nêu tên hữu tham. Dứt "Hữu" nói lìa quả sinh tủ. Dứt tham nói về lìa nhân sinh tử.
Kế là giải thích tướng của hữu tham. Có chia làm sáu câu: Hai câu trước là lược bày, dứt tất cả tướng, hiển bày dứt hữu ở trước, nghĩa là dứt các tướng vô thường, khổ v.v... Dứt tất cả ràng buộc, chứng tỏ đã dứt tham ở trước. Bốn câu sau là giải thích rộng: Dứt tất cả phiền não, là nói dứt nhân của "Hoặc". Tất cả sinh tử là nói dứt quả của "Hoặc". Tất cả nhân duyên nói về dứt nhân của nghiệp. Tất cả quả báo nói về dứt quả của nghiệp. Một chữ "Dứt" ở đầu xuyên suốt chung các câu. Lược qua không có lời kết.
Sau đây, "Tức Như lai" và tức Niết-bàn, tất cả chúng sinh v.v... trở xuống, là câu chín mươi bốn, nói về xa lìa sợ hãi, được hưởng yên vui. Y theo môn này, trước là giải thích, kế là kết, sau là "Tức Phật" v.v...
"Có người khó hiểu v.v..." trở xuống là phân biệt lại.
Trong phần đầu, trước là pháp, văn ít không đầy đủ. Nếu đủ, thì nên nói: "Tất cả chúng sinh vì sợ hãi sinh tử, nên thọ ba quy y. Do ba quy y, nên được hưởng yên vui."
Kế là dùng thí dụ để làm rõ hơn: "Nai sợ thợ săn" dụ cho chúng sinh sợ phiền não sinh tử. "Đã được tránh khỏi v.v..." trở xuống là dụ cho thọ ba quy y. "Được thọ hưởng yên vui", dụ cho văn ít kia. Sau là hợp, rất dễ hiểu. Vui, tức giải thoát. Nói chung để kết.
Sau đây, cho rằng giải thoát, tức Như lai v.v... Pháp Phật là vô lượng. Nhưng, nay dùng bảy môn "Tức" nhau: Vô tận là pháp tánh, hư không kia chắc chắn là tuệ. Vì các môn này với phần nghĩa đồng thể, nên được "Tức nhau". Môn này đã vậy, môn trên lẽ ra cũng thế. Lược qua không nói đủ.
"Có người khó hiểu v.v..." trở xuống là giải thích rõ lại, có gì khó hiểu.
Ở trước giảng nói ba quy y, dường như khác nhau. Lại nói "Giải thoát" tức Như lai v.v..., dường như là một. Vì "Một" và "Khác" trái nhau, nên phải giải thích.
Lại nữa, vì ba quy y nên được yên vui, lẫn lộn với "Đồng thọ vui", nên sau đây sẽ làm rõ khác nhau. Có hai lần hỏi đáp:
Một lần hỏi đáp trước là giải thích rõ ràng về nghĩa "Một" và "Khác" của ba quy y.
Một lần hỏi đáp sau là nói về "Vui" chẳng phải "Thọ".
Y theo câu hỏi ban đầu sau đây: "Nếu Niết-bàn, Phật tánh, chắc chắn Như lai là một nghĩa, thì sao nói là ba?" Đây là chấp một nghi ba. Ở trước, đã nói bảy pháp "Tức nhau". Nay, chỉ nêu bốn. Câu hỏi này không đủ. Nếu hỏi cho đủ thì nên nói: "Quy y đã khác nhau, thì Niết-bàn kia v.v... làm sao là một được?" Y theo lời đáp cho nên có. Vả lại, nêu một bên, bên còn lại dễ hiểu.
Đức Phật đáp có ba:
1. Y theo ba mà giải thích một.
2. "Từ có pháp gọi một v.v..." trở xuống là y cứ một để nói về ba.
3. "Như lai đôi khi nói một là ba, nói ba là một v.v..." trở xuống là y cứ cả hai thứ: Một và ba, khen ngợi để chỉ bày rõ nghĩa sâu sắc.
Trong phần trước, đầu tiên là nói tất cả chúng sinh vì sợ hãi, nên cầu ba quy y, cho nên có ba khác nhau. Vì ba quy y nên chứng biết Phật tánh, chắn chắn là Niết-bàn. Vì sở chứng đồng thể, nên được là một.
Trong đoạn hai, trước là dùng lý để bày tỏ ba là khác nhau.
"Cho nên, ta v.v..." trở xuống là dẫn thuyết để chứng minh sự khác nhau.
Trong phần trước, đầu tiên là nói tản mạn về danh, nghĩa "Một" và "Khác" của các pháp, đương pháp lập bày danh chỉ có hai môn:
1. Danh, nghĩa đều là một.
2. Danh, nghĩa đều khác nhau.
Pháp có thể dụng, chung riêng, đồng khác. Y theo thể, y theo chung, y theo đồng để đặt tên, danh nghĩa đều là "Một".
Y theo dụng, tùy theo sự khác nhau mà đặt ra danh. Danh, nghĩa đều khác nhau. Ẩn, hiển giải thích lẫn nhau, có bốn trường hợp:
1. Danh nghĩa đều là "Một".
2. Danh nghĩa đều "Khác nhau" đầy đủ như giải thích ở trước.
3. Danh "Một", nghĩa "Khác", y theo thể, vào chung, vào đồng để đặt tên. Nhiếp nghĩa từ giải thích nói là danh một.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Trong giải thích môn sau, trước là nhắc lại, kế là giải thích. Môn nghĩa Phật, Pháp, Tăng v.v... đều khác. Dựa vào sự khác nhau đó, đặt ra danh. Danh cũng khác nhau, nên cả bốn đều khác. Phật gọi là giác, là dịch danh từ Phật kia, tức là nghĩa hiểu biết. Pháp, gọi là bất giác, chẳng phải dịch danh, cũng chẳng phải giải nghĩa. Đây chính là lời phân biệt khác với đối Phật.
Tăng, Hán dịch là hòa hợp, là dịch danh, giải thích nghĩa. Niết-bàn, gọi giải thoát, là nghĩa giải thoát của Niết-bàn, chẳng phải là phiên dịch danh.
"Không" gọi là chẳng phải thiện, là lời phân biệt khác, chẳng phải phiên dịch, chẳng phải giải thích.
Pháp tánh, hư không vì khác với thực hành điều lành, nên gọi là chẳng phải thiện. Không có ngăn ngại, phân biệt người khác cũng là nói về tướng.
"Đây là v.v..." trở xuống là kết.
Sau đây là y theo nghĩa trước, để nói rõ về ba quy y kia là khác nhau, chẳng phải "Một".
Dưới nhau đây, trong dẫn thuyết để chứng riêng, trước là nêu thuyết xưa, cho nên ba quy y không được thành "Một", kết thành nghĩa riêng.
Trong phần trước, đầu tiên là Đức Phật bảo Ba-xàba-đề cúng dường chúng tăng, tức cúng dường ba quy y. Ba-xà-ba-đề là dì của Đức Phật. Sau khi sinh bảy ngày, thân mẫu Phật qua đời, Thái tử được Ba-xà dùng sữa nuôi dưỡng. Sau khi Thái tử Phật xuất gia, Ba-xà thương nhớ, tự tay dệt thành áo lông cừu bằng chỉ vàng ròng, chờ khi Phật trở về cung, định dâng lên Phật. Về sau, Phật trở về nước, Ba-xà-ba-đề vội đem dâng lên. Lúc đó, Đức Phật bảo: "Với tâm ân ái mà cho, thì sẽ không được nhiều công đức, phải cúng dường Tăng, cúng dường chúng Tăng, thì đó là cúng dường ba quy y." Cho nên hôm nay nêu cúng dường ba quy y.
Kế là, Ba-xà-ba-đề hỏi Phật. Sau đó, Đức Phật giải thích cho bà nghe.
Vì ba nghĩa khác nhau, nên không phải một. Trước, nói về nghĩa "Một", kế nói về nghĩa khác. Dưới đây là thứ ba, Phật y theo cả một và khác để kết khen, nói lên rõ nghĩa sâu sắc.
"Đôi khi Như lai nói một là ba, nhắc lại " Phật tánh đồng một" của đoạn sau nói ở trên, y theo đó để nói ba quy y khác nhau. Nói ba là một, nhắc lại đoạn đầu trên y theo ba quy y, giảng nói Phật tánh, Niết-bàn đồng là "Một".
Nghĩa như thế là khen cảnh giới bình đẳng của Phật, để nói lên sự sâu sắc.
Trên đây, là nói về nghĩa "Một" và "Khác" của ba quy y trong giải thoát ở trước. Sau đây sẽ nói về sự yên vui mà ở trước đã có được là vắng lặng, chứ chẳng phải thọ hưởng.
Trước hết, Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Như Phật đã nói: "Rốt ráo yên vui, gọi là Niết-bàn", nghĩa này thế nào? Là thưa hỏi trực tiếp về tướng Niết-bàn, xin Phật chỉ bày rõ ràng về niềm vui vắng lặng.
"Nói về Niết-bàn v.v..." trở xuống là vặn hỏi, nhằm đả phá sự thọ vui. Sau đây là Phật đáp:
Có chia làm bốn câu:
1. Đối với lời thưa hỏi đầu, Phật xác định rõ Niết-bàn kia chỉ là thú vui vắng lặng.
2. "Dứt tất cả v.v..." trở xuống là đối với câu hỏi sau, Đức Phật nói Niết bàn kia chẳng phải là thọ vui.
3. "Nếu nói v.v..." trở xuống là hỏi, nhằm phá thọ vui, thành câu hỏi thứ hai ở trước.
4. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết niềm tin vắng lặng ở trước, dùng làm nghĩa giải thoát của Niết-bàn.
Trong phần đầu, trước là dụ. Dụ có bốn trường hợp:
1. Dụ tự ra khỏi sinh tử. "Có người", dụ cho Đức Phật. Xưa, trong nhân, Đức Phật đã khởi nghiệp phiền não, gọi là "Ăn xong, thọ khổ, tâm buồn bã, mong ra khỏi ba cõi, dứt trừ nghiệp kiết, gọi là ra khỏi dục. Chính là dứt trừ, gọi là được mửa ra.
2. Dụ cho ứng hiện hóa độ thuận theo chúng sinh. Tự mình ra khỏi sinh tử, ứng hiện xuống tùy từng loại chúng sinh, gọi là quay trở lại.
3. Dụ mượn câu hỏi để làm sáng tỏ đức. Cùng thực hành hạnh Bồ-tát, gọi là bạn đồng hành. Thưa hỏi Như lai: "Sinh tử hết, có được gọi là đã lành hay không, mà còn trở lại, ngạc nhiên Đức Phật đang còn khổ?"
4. Dụ mượn lời đáp để làm rõ đức. Các khổ đã hết, gọi là "Đã lành". Chứng vắng lặng, yên ổn mãi mãi, gọi là được yên vui.
Sau đây kế là hợp. "Như lai cũng vậy", rốt ráo xa lìa hai mươi lăm hữu, hợp với câu đầu ở trên.
"Mãi mãi được v.v..." trở xuống là hợp với câu bốn: "Thân được yên vui".
"Dứt tất cả thọ" trong đoạn hai, gọi là không có thọ, là năm thọ dứt ở đây.
"Không có thọ như thế, gọi là thường, lạc" Phật khen để nói lên sự vượt hơn.
Hỏi: Dưới đây nói: diệt sắc vô thường, được sắc "Thường". Thọ, tưởng, hành, thức cũng giống như vậy, sao lại nói Đức Phật không có thọ vui?
Giải thích: Trong thọ có hai thứ:
1. Thọ lãnh việc trái, thuận v.v... của cảnh giới.
2. Chứng pháp tướng, hợp với nhiếp thọ chánh pháp, nên gọi là thọ.
Nay, nói "Không", nghĩa là không có sự thọ hưởng lúc đầu.
Sau đây là nói "Được", là thọ hưởng ở sau. Hai lời nói không trái nhau. Hai thọ sau dễ hiểu. Trên nói "Cúi mong Phật dũ lòng Từ bi, là nói rộng."
Đoạn lớn thứ ba, là nói về tướng giải thoát.
Dưới đây là đoạn thứ tư, quét bỏ sự giải thích so sánh, Vì sao phải quét?
Trên đây, tạm mượn thí dụ để nghĩ về sự giải thoát. Có người cho rằng giải thoát là hoàn toàn vì nói về các thí dụ, nên sau đây mới xóa bỏ thí dụ, trong đó có hai:
1. Nói trên đây, đã lập các dụ chẳng phải dụ là dụ.
2. "Thế nào là Như lai tạo ra hai thuyết? v.v..." trở xuống là nói về dụ, chẳng phải dụ, không được nói nhất định.
Trong phần trước có ba:
1. Nói dụ trên chẳng phải dụ là dụ.
2. Chân giải thoát, là tất cả người, trời đều không thể sánh bằng v.v... trở xuống là nói chẳng phải thí dụ kia là lý do của dụ.
3. "Như không có so sánh v.v..." trở xuống là so sánh nói lên tướng chẳng phải dụ là dụ.
Y theo đoạn đầu, trước là nói về chẳng phải dụ:
"Có khi Đức Như lai vì nhân duyên v.v..." trở xuống là nói lên chẳng phải dụ kia là dụ, là nói trong chẳng phải dụ có bốn lần hỏi đáp:
1. Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Bất sinh, bất diệt có phải là giải thoát không?" Đức Phật đáp: "Phải!"
2. Ca-diếp chấp dụ đồng với pháp: "Nếu bất sinh, bất diệt là giải thoát, thì hư không thế gian cũng không có sinh diệt, lẽ ra là giải thoát rồi?" Đức Phật đáp: "Không đúng!"
3. Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Bạch Đức Như lai, vì sao không đúng!" Đức Như lai hỏi vặn lại Ca-diếp:
Vậy, tiếng hót của chim Ca-lan v.v... có đồng với tiếng kêu của chim khách không?
4. Ca-diếp dùng lý để đáp đúng. Đức Như lai khen ngợi: Ca-diếp đáp không là đáp chung. Sau đây là đáp riêng để làm rõ, chia làm bốn trường hợp:
a. Tiếng chim khách, không thể so sánh với tiếng hót của chim mạng mạng (cộng mạng) v.v... là nói dưới kém trên.
b. Ca-diếp nói: "Ca-lan-ca v.v..." trở xuống là nói trên gặp dưới, trong đó, Ca-diếp trước nói về lỗi kế là trách Như lai.
"Không khác với dưới đây v.v..." trở xuống là nói lên chứng tỏ Đức Phật không ứng.
"Phật và hư không v.v..." trở xuống là y theo dụ để làm rõ pháp.
c. "Tiếng chim Ca-lan-ca có thể dụ cho Phật v.v..." trở xuống là nói về dụ, làm rõ pháp. Ca-lan dụ cho Phật, không dụ cho chim khách, nói lên sự thanh tao của tiếng Ca-lan. Vì tiếng hót thanh tao, nên so sánh với giải thoát, chẳng so sánh với hư không. Phật khen rất dễ hiểu.
Trên đây là một đoạn nói rộng chẳng phải dụ.
"Như lai có khi dùng nhân duyên v.v..." trở xuống là nói nhân duyên kia là dụ, cái gọi là nhân duyên có khi hóa độ người khác, dẫn hư không dụ cho sáng sớm, vì đã so sánh đức của Phật, nên tức Như lai. Đoạn này đã nói xong.
Từ đây trở xuống, đoạn hai, giải thích lý do chẳng phải dụ là dụ.
Chân giải thoát: nghĩa là tất cả không có lỗi, là giải thích "Chẳng phải dụ" ở trước.
"Vì hóa độ chúng sinh v.v..." trở xuống là giải thích "Chẳng phải dụ" ở trước là thí dụ. Vì hóa độ, chứng tỏ ở trước có nhân duyên.
Dưới đây là đoạn ba, so sánh, làm rõ "Tướng chẳng phải dụ" là dụ. Trước là, nêu loại.
Nói "Chẳng phải dụ", nghĩa là nếu không có so sánh vật thì không thể dấn dụ, lược nêu "Chẳng phải dụ". Vì có nhân duyên nên được dẫn dụ, lược nêu làm dụ.
"Như trong kinh v.v..." trở xuống là ngay nơi sự mà bác bỏ. Sau đây là y cứ làm rõ pháp, không thể dùng thí dụ để dụ cho chân giải thoát, nói là "chẳng phải dụ".
"Vì hóa độ chúng sinh v.v..." trở xuống là nói "Chẳng phải dụ" kia là dụ.
"Vì các thí dụ v.v..." trở xuống là nói các dụ ở trên đều lấy "Chẳng phải dụ" kia làm dụ.
Trên đây là đoạn thứ nhất, đã nói các dụ ở trước chẳng phải dụ là dụ.
Dưới đây là đoạn hai, sẽ nói dụ chẳng phải dụ, không thể nói nhất định. Bồ-tát Ca-diếp trước hỏi: "Nếu đúng là dụ thì hoàn toàn nói dụ. Nếu đúng "Chẳng phải dụ" thì hoàn toàn nói chẳng phải, sao Như lai lại tạo ra hai thuyết?
Sau đây, là Phật đáp:
Nói vì pháp không nhất định, nên nói không nhất định. Văn chia ra làm bốn:
1. "Dụ hại Phật": nói pháp thân Phật "Chẳng phải dụ" làm dụ, không thể nói nhất định.
2. Dụ hại mẹ: nói báo thân Phật "Chẳng phải dụ" làm dụ, không thể nói nhất định.
3. "Vì nhân duyên này, nên ta nói các thí dụ v.v..." trở xuống là kết thúc đoạn hai ở trước, vì lời nói thuận tiện.
4. "Hoặc có nhân duyên cũng có thể dụ v.v..." trở xuống là kết thúc đoạn thứ nhất ở trước.
Trong phần đầu có bốn:
1. Như lai lập dụ.
2. Phật hỏi vặn lại Ca-diếp.
3. Ca-diếp chính đáp.
4. Như lai khen ngợi.
Trong phần lập dụ, nêu pháp thân Phật không thể được sát loại, là nói "Chẳng phải dụ". Muốn hại, là mắc tội loại, rõ ràng là dụ. Đầu tiên là nói "có người", dụ cho ứng thân Phật. Trong có bốn biện tài, gọi là cầm dao, gươm. Ý phẫn nộ nói thật là do tâm sân. Muốn dùng các thí dụ để so sánh với pháp thân Phật, nói là tướng bức hại chân, gọi là hại Như lai. Pháp thân bình đẳng, vì không thay đổi theo tướng, nên nói Như lai hòa với sắc vô sân.
Sau đây là Phật hỏi vặn lại Ca-diếp:
"Người này sẽ được làm hư hoại thân Như lai", là một câu hỏi của Ca-diếp. "Trở thành tội nghịch, không báo đáp", là hai câu hỏi.
Trong lời Ca-diếp đáp, trước là nói về tướng của dụ. Sau là y cứ làm rõ pháp. Trong dụ, trước là đối với câu hỏi đầu. Ở trên nói Đức Phật không sát, chứng tỏ trở thành "Chẳng phải dụ". Trực tiếp dùng tâm ác đối với câu hỏi sau, là nói do tâm ác, nên thành vô gián, chứng tỏ "Trở thành" làm dụ.
Trong phần trước, đầu tiên là nói "Không" là đáp chung. Vì Phật không thể sát, nên nói là "Không".
"Vì sao? v.v... trở xuống là giải thích "Thành" không sát hại. "Giới thân của Như lai không thể hư hoại: đối với câu hỏi, giải thích. Tánh của thân gọi là giới, phạm vi của thân người cũng gọi "Thân giới". Vì pháp thân lìa tướng, nên không thể hư hoại.
"Vì sao v.v..." trở xuống là chuyển giải thích lý do không hư hoại, để gạn hỏi: "Sở dĩ chỉ có thân Phật không thể hư hoại là vì không có thân, nghĩa là nói vì thân đã lìa tướng, nên không thể hư hoại.
"Chỉ có pháp tánh v.v..." trở xuống là nói vì thể của thân vắng lặng, nên không thể hư hoại.
"Người này v.v..." trở xuống là kết thành không hư hoại.
Trong phần đáp câu hỏi sau, trực tiếp dùng tâm ác để thành tựu vô gián, nghĩa là ý hóa độ trái với chân, gọi là tâm ác, trở thành sự nói năng của thí dụ kia, gọi là thành vô gián. Nghĩa vô gián, ở sau có nói riêng.
Sau đây, sẽ y cứ làm rõ pháp: Vì nhân duyên này, nên dẫn các thí dụ để biết pháp thật, nghĩa là y cứ riêng câu sau, để nói rõ là dụ. Vì tâm ác này cũng được thành tựu nhân duyên vô gián.
Đức Phật dẫn các thí dụ "Được", để cho đại chúng biết chân pháp của Phật, cũng nên y theo pháp đầu để nói về "Chẳng phải dụ" kia, lược qua không nói. Đức Phật khen, rất dễ hiểu.
Văn trong đoạn hai cũng có bốn:
1. Như lai lập dụ.
2. Phật hỏi trái lại Ca-diếp.
3. Ca-diếp chính đáp.
4. Như lai khen ngợi.
Trong phần đầu, người ác dụ cho ứng thân Phật. Vì nói là tướng xâm hại chân, nên gọi là người ác, muốn dùng các dụ để nói rõ về báo thân. Tướng dụ ép ngặt chân, gọi là hại. Vì chân là gốc hóa độ, nên gọi là mẹ. Hóa độ ba "Hữu", gọi là trụ ở thửa ruộng hoang vắng. Trong các tướng, gọi là ở dưới bụi rậm. Báo thân Phật dùng nguyện lực đại bi để giúp đỡ hóa độ không dứt, gọi mẹ đưa cho thức ăn. Ứng thân Như lai, bên trong "Duyên" với đức chân, gọi là thấy mình, tức là ý khởi nói, gọi là sinh tâm ác. Có đủ bốn biện tài, gọi là mài dao ở trước. Báo thân Như lai, nói về ý xem xét hóa độ, gọi là mẹ biết mình. Tùy hóa độ, tùy tướng, gọi là vào trong lùm gai rậm rạp. Nên dùng biện tài nhạy bén tùy theo tướng của dụ kia. Nói rộng về đức chân, gọi là chặt hết bụi rậm xung quanh. Hòa hợp với tâm hóa độ của bậc Thánh, gọi là chặt nỗi mừng của mình. Nghĩ đến mình đã nói xong, gọi là sinh tưởng sát. Thể của chân lìa tướng, gọi là từ bụi rậm đi ra. An trụ thật tế, gọi là đến giữa nhà. Đức Phật hỏi vặn lại, rất dễ hiểu.
Trong lời đáp của Ca-diếp, trước nói về tướng dụ, sau là y cứ làm rõ pháp. Lời nói đầu tiên trong dụ, chẳng thể nói nhất định: Nếu nói có thân của mẹ thì lẽ ra hư hoại thân. Nếu không hư hoại, thì sao nói là "Có"? Nói thân mẹ kia chẳng có tội, nói lên sự thành tựu "Chẳng phải dụ". Nếu nói "Chẳng có" v.v... trở xuống là nói thân của mẹ kia có tội, chứng tỏ thân mẹ kia là dụ.
Vì duyên cớ này v.v... trở xuống là y cứ dụ để làm rõ pháp. Y cứ nghiêng về câu sau, để nói có dụ kia.
Đầu tiên là lược qua không nói. Đức Phật khen, rất dễ hiểu. Dưới đây là đoạn ba, kết thúc đoạn hai ở trước.
"Vì nhân duyên này, nên ta nói các thứ dụ chân giải thoát", kết thành có dụ. Chặt khắp bụi rậm vây quanh, gọi là nói các thứ. "Dù dùng vô lượng a-tăng-kỳ v.v... trở xuống là kết thành không có thí dụ.
Sau đây là kết đoạn thứ nhất. Hoặc "Có nhân duyên" cũng có thể làm dụ, kết thành có dụ. Hoặc có nhân duyên chẳng thể dụ, kết thành chẳng có dụ.
Trên đây, thế nào gọi là Niết-bàn? Hợp thành đoạn hai: Mở bày đức giải thoát?
Dưới đây là đoạn ba, kết thúc khen ngợi, chỉ rõ pháp vượt hơn, trong đó có ba: Hai đoạn đầu là khen đức giải thoát ở sau. "Cho nên, giải thoát thành tựu vô lượng đức như thế" nghĩa là y theo pháp để kết khen vì đủ một trăm đức ở trước, nên nói là vô lượng.
Hướng về Niết-bàn: Như lai của Niết-bàn cũng có vô lượng công đức như vậy. Y theo người để kết khen:
"Như lai là người cầu Niết-bàn kia, gọi là người thu hướng Niết-bàn, chứng đại Niết-bàn, thành tựu thân Như lai, nên gọi là Như lai Niết-bàn.
Trước nói giải thoát đều tức là Như lai, cho nên Như lai cũng có vô lượng công đức như thế.
Một câu sau cuối là kết xứ giải thoát thứ nhất ở trước. Vì có đức giải thoát như thế, nên gọi là đại Niết-bàn.
Dưới đây là đoạn thứ tư, Ca-diếp nhận hiểu:
"Nay, tôi mới biết chỗ Như lai đến là không có cùng tận", lãnh hội lại, hướng về xứ giải thoát ở trước. Hướng về trước, trong phần nói rộng về xứ giải thoát, Ca-diếp nhận hiểu Niết-bàn như thế là xứ của Như lai thường, không biến đổi, nên nay lãnh hội lại: "Nay, tôi mới biết chỗ Như lai đến là không có cùng tận. Đối với xưa không biết, gọi nay là "Mới". Vô tận, vẫn là nghĩa thường trụ ở trước. Nếu xứ vô tận, thì phải biết mạng sống cũng là vô tận, là lãnh hội đức giải thoát.
Vì pháp vô tận, nên thành người vô tận. Đây chính là Như lai không có sinh, già, bệnh, chết trong đức giải thoát ở trên nên gọi là mạng vô tận.
Dưới đây là đoạn năm, là kết thúc khen ngợi, khuyên tu học: "Lành thay! Hãy giữ lấy lời khen này, khen đã nhận hiểu ở trước."
Nếu có người muốn v.v... trở xuống là lời khuyên học.
Từ phẩm Trường Thọ đến đây là nói về thể của hạnh. Dưới đây là đoạn hai, nói về chỗ nương của hạnh. Trong đó, trước chính là nói chỗ nương, dưới là nói tà chánh lìa chỗ không nương. Trong phần trước nói Bồ tát tốn y là người nương tựa. Đây là đáp câu hỏi trên: "Thế nào là được rộng lớn làm chỗ nương ở cho chúng? Thật chẳng phải A-la-hán mà với La-hán v.v...?"
Câu hỏi kia như thế nào? Thế nào là được rộng lớn kia làm người nương tựa cho đại chúng? Dù chưa đồng với Chư Phật, La-hán, nhưng công lao hóa độ đồng với Phật, La-hán kia, nghĩa là tôi muốn nương ở.
Nên, nay đáp câu hỏi đó, nói có bốn người có khả năng làm chỗ nương ở cho chúng sinh, như Phật không khác, có khả năng y chỉ.
Trong văn, đầu tiên chính là nói về bốn người làm chỗ nương tựa, như Đức Phật đã nói.
"Dựa vào bốn pháp v.v..." trở xuống, là đối với pháp, hội ý thông qua. Đây cũng tức là nói về pháp, chỗ nương của hạnh.
Trong phần trước, có hai:
1. Nói về tướng đức hạnh của bốn người.
2. "Nay, tôi không nương bốn người này v.v..." trở xuống là khuyên người nương theo, dạy, người cúng dường.
Trong phần đầu có bốn:
1. Nêu chung bốn người, khen chung đức của họ.
2. Nêu riêng bốn người, khen chung đức của họ.
3. Nhắc lại riêng bốn người, nói lên rõ đức riêng của họ.
4. Tổng kết bốn người, khen chung đức của họ.
Y theo đoạn đầu, trước nêu bốn người, vì bốn người này đã nương tựa kinh, thành tựu đức. Lại, vì đã giảng nói trong kinh này, nên nói là trong kinh Đại Niết-bàn có bốn hạng người.
Sau đây, là khen đức của bốn người đó. Hộ pháp, lập pháp, nhớ nghĩ chánh pháp là pháp hạnh chung, tức là lợi mình. Thân có thể giúp đỡ, che chở, không để cho người khác xem thường, chê bai, gọi là giữ gìn chánh pháp. Nói rộng như trên, miệng có thể dựng thành, gọi là kiến lập chánh pháp. Tâm tư không quên, gọi là nhớ nghĩ pháp.
"Có thể phần nhiều v.v..." trở xuống, là công hạnh lợi ích cho người, tức là lợi người, đem lại nhiều lợi ích cho việc hóa độ bằng pháp xuất thế. Thương xót thế gian v.v..., là hóa độ bằng pháp thế gian. Thương xót thế gian là tâm lợi người.
"Làm chỗ nương tựa cho thế gian v.v..." trở xuống, là hạnh lợi người. Người làm chỗ nương cho chúng sinh. Pháp có thể yên vui. Người, trời có thể hóa độ, nên nói nghiêng về. Cũng có thể thương xót, nhớ nghĩ yêu thương ba đường, làm chỗ nương cho đời, gần gũi làm lợi ích cho người, trời.
Trong đoạn hai, trước là nêu bốn người. Thế nào là gạn hỏi? Có người phát ra v.v..., là nêu tên người đó.
Về nghĩa bốn y, nói rộng như trong chương riêng. Nay chỉ nói tên bốn y:
Có người xuất thế, còn tánh phiền não, gọi là người thứ nhất, cái gọi là chủng tánh, giải, hạnh, địa, nhân. Trong kinh Nhân Vương chép: "Trên chủng tánh mới làm Pháp sư. Vì ở trước chưa thể, nên biết chẳng phải chủng tánh về trước. Văn sau nói cúng dường Phật. Vì năm hằng mới có khả năng làm chỗ y chỉ, nên chẳng phải đường lành. Trong văn nói có tánh phiền não chẳng phải là người thứ tám, là nói chẳng phải bậc Thượng địa. Sau khi Như lai diệt độ, hiện thân hóa độ lợi ích chúng sinh, gọi là xuất thế. Trong năm trụ "Hoặc", không có chỗ tận nghiêng về, gọi là có phiền não."
Hỏi: Địa trì nói chủng tánh có đủ hai tịnh. Nay, vì sao lại nói có phiền não.
Giải thích: Địa trì vì đối với Nhị thừa, nên nói có hai tịnh. Kinh này đối với Thượng địa, gọi là có phiền não. Tu-đà hoàn, Tư-đà-hàm, gọi là người thứ hai: Tu-đàhoàn, Hán dịch là Nghịch Lưu, ngược dòng sinh tử. Cũng gọi tẩy chay nợ, tẩy chay nợ ba đường. Lại, cũng gọi là tu tập vô lậu. Địa vị được chia ra ở chỗ nào? Tuđà-hoàn có ba:
1. Thủ quả, mãn tâm của Sơ địa.
2. Nhiếp nhân, là thỉ tâm của Sơ địa trở lên, đều phải.
3. Tấn hướng, trên, tận cùng hai địa, đều gọi là Tuđà-hoàn, vì hợp với hai địa vị trước là Tu-đà-hoàn, nên trong Địa Luận nói Sơ địa là Kiến đạo. Tư-đà-hàm, Hán dịch là (Tần Lai) (Thường đến). Ở địa cõi Dục, lại đến, lại sinh. Cũng gọi Trụ Bạc. Y như Tiểu thừa, dứt sáu ba trong chín phẩm "Hoặc", Tu đạo cõi Dục, vì còn, nhưng đều là Trụ bạc nếu theo Đại thừa, tu hoặc của ba cõi đều có thể mỏng, nên Địa kinh chép: Cõi dục, cõi sắc có phược, vô minh phược, v.v... đều là nhẹ mỏng. Địa vị được phân biệt chỗ nào? Có chia làm ba:
1. Thủ quả, ở địa thứ ba, nên trong Địa kinh, nói các phược của ba địa nhỏ nhặt, mỏng manh.
2. Nhiếp nhân. "Nhị địa v.v..." trở xuống là dứt dần "Tu hoặc", gọi chung là Tu-đà.
3. Tấn Hướng. Trên cùng tận Thất địa, hợp với ba hạng này, gọi chung là Tư-đà-hàm.
Vì sao hai người này hợp thành một y?
Vì công dụng của hai người này được vận hành đồng cúng Phật, hiểu nghĩa, nhưng vì trước hơn, sau kém, nên hợp thành một y.
A-na-hàm, Hán dịch là Bất Hoàn. Y như Tiểu thừa, ở trong cõi Dục, vì không còn thọ sinh, nên gọi là Bất Hoàn. Nếu theo Đại thừa, thì Bất Hoàn khởi tâm yêu mến Phật, vì phiền não, nên gọi là Bất Hoàn. Về địa vị được phân biệt chỗ nào? Có chia làm ba:
1. Thủ quả: ở Bát địa, yêu mến Phật, vì phiền não được dứt ở chỗ này.
2. Gồm thâu nhân. Tứ địa trở lên, đồng gọi là Nahàm tu tập thuận nhẫn, hướng về Bát địa.
3. Tấn Hướng. Trên tận Cửu địa, hợp với hai địa vị sau thành A-na-hàm. Sở dĩ ở chỗ này đồng bỏ công dụng cúng Phật, hiểu nghĩa, trước hơn, sau kém, nên hợp thành một.
A-la-hán, Hán dịch là Vô Trước. Vì dứt nhân "Hữu", nên cũng gọi Vô sinh. Vì hết quả khổ, địa vị được phân biệt ở chỗ nào? Có chia làm ba:
1. Thủ quả. Ở địa thứ mười.
2. Nhiếp nhân. Cửu địa trở lên đồng gọi là La-hán.
3. Tấn Hướng. Ở trên cùng tận Kim cương, hợp với hai địa vị sau thành A-la-hán. Vì địa vị này đồng ở địa rốt ráo, nên về mặt lý, thật ra là Phật, vì người ấy rất cao đẹp, nên đồng gọi là Phật. Địa vị này đều là Bồ-tát, vì sao lại dùng danh tự Thanh văn, phàm phu để gọi? Vì địa vị này dù là Bồ-tát, nhưng về địa vị được phân biệt là thô, đồng với Tiểu thừa. Vì muốn cho người Nhị thừa, phàm phu được hóa độ ở vị lai đều bằng nhau, y cứ Tiểu để biết đại, nên dùng để gọi.
Sau đây, trong phần khen đức, khen nghiêng về lợi người, tương tự với trước, vì là pháp chung, nên không nói.
Dưới đây là đoạn hai, nhắc lại riêng, khen riêng. Trước, nói về y ban đầu, qua đó, đầu tiên là hỏi. Kế là giải thích, sau là kết.
Chẳng phải dưới Bát địa, mà đối với địa vị khác để nói về khác nhau. Trong giải thích có bốn:
1. "Năng phụng cúng v.v..." là hạnh lợi mình. Vâng giữ giới, lìa xấu ác, kiến lập pháp, tu điều lành.
2. "Từ Phật..." trở xuống là "Giải thích" lợi mình.
3. "Chuyển biến thành v.v..." trở xuống, là hạnh lợi người. Vì nói tám điều giác ngộ, giúp cho họ tiến tu việc lành. Có phạm, thì bảo sám hối, để giúp họ lìa bỏ điều ác.
4. "Khéo biết v.v..." trở xuống, là "Giải thích" lợi người. Khéo thấu suốt nghi thức quyền hóa của Bồ-tát, gọi là biết pháp bí mật của phương tiện.
Gọi Phàm là tổng kết, Phàm có nội, ngoại. Đây là phàm nội. Không có chỗ cùng tận nghiêng về quả báo tàn dư phần đoạn của sáu đường, nên gọi là phàm nội.
Sau đây, trong phần nói về khác nhau, chẳng phải người thứ tám, mà đối với ở trên để nói về khác nhau.
"Vì sao thứ tám mà nói chẳng phải?"
Theo Tỳ-bà-sa, gọi Tu-đà-hoàn là thứ tám, đối với Kiến đạo, vì bảy phương tiện trước, nên trong Luận ấy hỏi rằng: "Thế nào là tám người? Cái gọi là Tín vững chắc, và pháp vững chắc. Người căn cơ chậm lụt nhập đạo kiến đế, gọi là Tín vững chắc, người căn cơ nhạy bén, gọi là pháp kiên cố.
Người nước ngoài truyền rằng lại có tám:
1. Người mới phát tâm mà chưa có hạnh.
2. Có hành tướng, chán ghét sinh tử, ưa tu pháp lành.
3. Người của hạnh vô tướng, học quán lý "Không", phá bỏ ưa chán. Thấy người làm ác, không có tâm tức giận. Thấy người làm việc lành, cũng không ưa thích, vui vẻ.
4. Người của hạnh phương tiện. Dù thấy pháp không, nhưng vẫn thường tùy "Hữu" khởi các hạnh lành.
Bốn người này ở địa vị đường lành.
5. Tập chủng.
6. Tánh chủng.
7. Giải hạnh.
8. Thánh chủng.
Ban đầu nương vào Địa tiền, vì chưa đồng với hạt giống Thánh, nên chẳng phải thứ tám. Người thứ tám không gọi phàm phu, chứng tỏ người sau khác với người trước. Không gọi là phàm phu, phân biệt khác với y ban đầu, gọi là Bồ-tát ngay nơi tướng để luận, không gọi là Phật khác với ở sau.
Trong y thứ hai, ở trước là nhắc lại, Kế là giải thích. Sau là tổng kết.
"Chưa được v.v..." trở xuống là đối với y khác để nói về chỗ khác nhau.
Y theo câu trong giải thích rộng, có chia thành sáu: Năm câu trước nói làm lành, một câu sau nói dứt ác. Y theo năm câu trước, bốn câu đầu nói về lợi mình, một câu sau nói về lợi người.
Y cứ trong phần lợi mình, nếu được chánh pháp là mở đầu tự phần. Nghe pháp gọi là được. Thọ trì chánh pháp là cuối cùng tự phần. Nghĩ nhớ tụng đọc thọ trì, từ Phật nghe pháp là bắt đầu thắng tấn.
"Như văn tuệ kia v.v..." trở xuống, là cuối cùng của thắng tấn. Những việc lợi mình này chuyển trở xuống, là lợi người, bỏ ác rất dễ hiểu. Đó gọi là tổng kết.
Sau đây, trong phần nói về khác nhau, chưa được trụ xứ thứ hai, thứ ba, đối với trụ xứ sau để nói về sự khác nhau. Trong bốn quả, Tư-đà-hoàn chưa được trụ xứ của Tư-đà-hàm. Tư-đà-hàm chưa được trụ xứ của Na-hàm, gọi là Bồ-tát đã được thọ ký, đối với trụ xứ trước làm rõ khác nhau. Vì không đồng với phàm ở trước, nên gọi là Bồ-tát. Giao tiếp có thể tám tướng thành đạo, vì độ người nên được Phật thọ ký. Y như Địa Trì nói, Bồ-tát Địa Tiền cũng được Phật thọ ký, chỉ trên Sơ địa có thể thọ ký rộng nhiều ở mười phương, nên nói nghiêng một bên.
Trong y thứ ba, trước nhắc lại, kế là giải thích, sau là tổng kết. Trong giải thích có ba:
1. Nói về hành tướng của bốn quả kia.
2. A-na-hàm, nghĩa thế nào? Nghĩa là v.v... trở xuống là giải thích danh nghĩa.
3. "Trụ trái lại v.v..." trở xuống là khen lại đức của A-na-hàm. Trong đoạn đầu, trước nói lìa lỗi:
"Nếu nói vô ngã là có việc đó v.v..." trở xuống là thuộc về đối trị của. Trong lìa lỗi ở trước, trước là nêu chín lỗi, đều không việc đó, tổng kết là nói lên lìa.
Trong chín lỗi, hạnh đức của tám câu ở trước không thuần thục, nói là trí giải của một câu ngã không sáng suốt.
Trong tám câu trước, ba câu đầu nói nghiệp ác không dứt. Hai câu giữa nói phiền não chưa hết. Ba câu sau, quả báo chưa sạch. Lời nói đầu trong nghiệp: "Là Chê bai pháp, là chê bai giáo pháp Phật."
Đáp rằng: "Nghe v.v..." trở xuống là trái với pháp hạnh của Phật. Hai pháp hạnh này trái với chánh. Một câu ngoài thọ nói lên, sự tu học của họ bất chánh.
Trong phiền não phiền não khách trần là năm trụ khởi, khởi sau gọi là khách. Bụi nhơ gọi là trần. Các phiền não cũ là năm trụ địa, đã hình thành trước, gọi là cũ.
Trong khổ, đầu tiên là nói: "Nếu cất giữ Pháp xá-lợi, thân chưa sáng tỏ, xá-lợi là gọi thân, Như lai tạng tánh là pháp thân Phật. Nỗi khổ che lấp, gọi là "Tàng".
Bệnh bên ngoài bị bốn đại não hại. Hai câu này nói báo thân chưa thanh tịnh, một câu nói về ngã, với lý giải không sáng suốt, đều không có việc này, tổng kết bày tỏ lìa.
Sau đây, trong gồm thâu đối trị, nếu nói không có ngã và ngã đã nói ở trước thì nói chấp đắm pháp thế gian, sẽ trái với thọ lãnh sách ngoại. Nếu nói pháp Đại thừa trái với chê bai chánh pháp thì nói là chứa cất v.v... Nếu thân đã được tám muôn hộ trùng cũng không có việc này, vì trái với xá-lợi ở trước. Lìa hẳn dâm dục, trái với khách trần ở trước. Cho đến trong mộng không ra chất bất tịnh, trái lìa các cũ xưa. Sắp chết sinh sợ sệt, cũng không có việc đó, trái với bị bệnh ngoài não hại, bị xâm chiếm bởi bốn đại.
Trong giải thích danh, trước hỏi để khởi phát. Người này không trở lại các lỗi như trên. Đối với câu hỏi, biện minh, giải thích.
Sau đây, trong phần khen ngợi, qua lại quanh khắp là tức lợi người.
Thu hướng vắng lặng, gọi là "Qua", tùy "Hữu", gọi là "Lại".
"Gọi Bồ-tát v.v..." trở xuống, là đức lợi mình. Gọi là Bồ-tát đã được thọ ký, nói nhân Bồ-tát đã thành tựu.
"Không được bao lâu v.v..." trở xuống, là nói lên quả của Bồ-tát đã thành thục. Đó gọi là tổng kết.
Trong y thứ tư, trước là nêu, kế là giải thích. Sau là tổng kết. Trong giải thích có ba:
Khen đức của Bồ-tát. Y theo La-hán của Tiểu thừa để khen. "Dứt các phiền não", là nói "Sanh tử của ta đã hết", buông bỏ gánh nặng, là nói không thọ "Hữu" ở sau. Nỗi khổ là gánh nặng. "Không thọ", gọi là buông bỏ.
"Đến khi được lợi mình", là phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, là "việc phải làm đã làm xong.
1. Nêu lên phần vị La-hán.
2. Đức Phật khen lại đức của La-hán, được trí tự tại là đức lợi mình. Tùy các thứ mà con người ưa thích đều ứng hiện, là đức lợi người hai tự phần này như chỗ trang nghiêm là đức lợi mình, nghĩa là đủ công đức trí tuệ trang nghiêm, muốn thành tựu Phật đạo, thì sẽ được thành là đức lợi người, cái gọi là phương tiện khéo của tám tướng cứu độ chúng sinh. Hai thứ này tiến bộ vượt hơn, có công năng thành tựu như thế, gọi là A-la-hán, là nhắc lại để tổng kết.
Dưới đây là đoạn thứ tư, tổng kết để khen: Đó gọi bốn người là tổng kết. Sau đây là nói chung để khen:
Xuất hiện ở đời, đem lại cho chúng sinh nhiều lợi ích v.v... chính là khen đức của Bồ-tát. Người, trời rất bình đẳng, nhờ đối nhau để làm rõ sự vượt hơn.
"Rất đối nhau trong người, trời v.v..." trở xuống, là bày tỏ sự xuất hiện, như Như lai đối với ở trên, là nói bình đẳng.
Hỏi: Bồ-tát đâu thể bằng Phật, nhưng vì công đức hóa độ chúng sinh bực hạ thì ngang bằng. Đây là đáp "thật chẳng phải La-hán và La-hán v.v..." ở trên.
Dưới đây là đoạn hai, Phật khuyên người nương tựa người dạy bảo mà, cúng dường người. Trước là khuyên nương tựa để gồm thâu trí tuệ: "Ông nên cúng dường người như thế v.v..." trở xuống là bảo người nên cúng dường để nhiếp thâu công đức.
Trong phần trước có hai:
1. Bảo người xem xét.
2. "Sau khi ta Niết-bàn, sẽ có vô lượng trăm ngàn chúng sinh chê bai v.v..." trở xuống, là khuyên người nương tựa.
Sau đây, trong cúng dường cũng có hai lời khuyên này, đến thời sẽ giải thích:
1. Trong bảo xem xét ở trước, đầu tiên là bảo xem xét.
2. "Đại Niết-bàn này không thể tiêu v.v..." trở xuống là khen kinh cao siêu, dạy người tu tập, hàng phục ma, nương tựa chánh.
Trong sự xem xét ở đầu có hai lượt hỏi đáp: Một lượt hỏi đáp trước chính là bảo xem xét, một lần hỏi đáp sau là phát ra đối tượng giáo hóa người.
Trong câu hỏi đầu, Ca-diếp bạch Phật: "Nay con không nương tựa bốn hạng người này", là nói chung không nương tựa.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trước hỏi, sau giải thích, nói các ma lẫn lộn đồng với bốn người nên không thể nương tựa, trong đó có ba:
1. Nêu lời Phật nói thuở xưa, là nói ma khuấy rối loạn chánh.
2. "Ma còn v.v..." trở xuống là dùng xưa so sánh nay, nói bốn người có lẫn lộn ma.
3. "Ngồi, nằm v.v..." trở xuống là biểu thị rõ tướng lẫn lộn của ma kia, bày tỏ mình không nương tựa.
Trong phần đầu, Như lai do đâu mà giáo hóa Cù-sư kia hàng ma? Xưa, Như lai đã từng vì Cù-sư-la nói bốn chân đế. Ông ấy tỏ ngộ chứng được Sơ quả. Sau khi Như lai đi, hàng phục ma xong, "hoặc" nổi loạn, hóa thành thân Phật bảo với trưởng giả: "Trước đây, ta đã nói pháp cho ông mà không hết, ngoài bốn đế ra, còn có một thứ đế thần ngã." Trưởng giả tìm đều không có lý này, vội đến thưa hỏi Phật. Phật liền bảo: "Nếu ma làm Phật, thì ông phải xem xét, so sánh để biết cách hàng phục mình." Đoạn hai rất dễ hiểu.
Trong đoạn ba, ngồi, nằm, "Không" v.v... là nói về sự lẫn lộn của thân ma kia.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống, chứng tỏ mình không nương tựa. Hoặc có nói gì thì miệng nói lẫn lộn, "Không thể bẩm thọ, v.v.... trở xuống là nói mình không nương tựa, không thể thọ lãnh pháp mà bốn người đã nói. Cũng không cung kính, nhớ nghĩ mà làm người nương tựa. Không nương tựa bốn người để làm thầy đứng đầu dưới là Phật đáp. Trước là nói lại lời mình rằng: "Đối với ta còn sinh nghi, không nên thọ, huống chi người bốn y như thế v.v..."
Kế là, Phật khuyên hãy phân biệt: "Cho nên, phải khéo phân biệt biết", chính là khuyên phân biệt. Vì có ma khuấy rối chánh, nên khuyên phân biệt thiện, bất thiện v.v..., để rút ra điều mình đã biết. Bốn y là thiện, ma biến hóa là bất thiện. Nương vào chân thì nên làm, dựa vào ma thì không nên làm.
"Làm như thế v.v..." trở xuống là nói biết lợi ích.
Sau đây, là Phật bảo xem xét. Trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ có ba:
1. Dụ ma hiện đến, làm khuấy rối chánh. Ma như con chó ăn vụng. Thân hình của bốn y, gọi là nhà người. Rình mò con người không cảnh giác, ma trộm nói, làm, gọi là ban đêm lẻn vào.
2. Dụ Đức Phật bảo phải xem xét. Người giác ngộ Đại thừa trong các Thanh văn, được gọi là sai khiến tôi tớ. Nếu biết là ma, thì nên xua đuổi, mắng nhiếc, khiến chúng hiện nguyên hình, gọi là "Mau ra khỏi". Nếu ma kia không chịu đi thì phải dùng thần chú để làm cho sợ, gọi là "Đoạt lấy mạng ông".
3. "Chó ăn vụng v.v..." trở xuống là dụ ma ra đi không trở lại. Trong hợp, chỉ hợp với hai câu sau:
"Kể từ nay, các ông cũng nên hàng phục ma Ba-tuần như thế", hợp với sai khiến tôi tớ ở trên. Nếu biết chúng thì xua đuổi, mắng nhiếc.
"Nay ông không nên tạo ra hình tượng như thế, hợp với mau đi khỏi.
"Nếu cố ý tạo ra", là năm trói buộc, trói buộc ông, hợp với "Không chịu đi" sẽ dứt mạng ông.
Chú có công năng trói buộc hai tay, hai chân và đầu của ma, gọi là năm trói buộc. Chú này hợp với dụ thứ hai.
"Ma nghe nói xong v.v..." trở xuống là hợp với câu ba. Trước là hợp, sau đánh dấu làm tin.
Dưới đây là đoạn hai, phát ra người giáo hóa. Cadiếp trước là hỏi, ở trong đó, đầu tiên là y cứ người ở trên để đặt ra câu hỏi.
Người ở phẩm trên, tự có khả năng hàng phục ma, gần với Niết-bàn, không cần bốn y. Như lai không nên bảo họ xem xét.
"Bốn người như thế có thể nói v.v..." trở xuống là y theo người ở dưới để đặt ra câu hỏi. Người ở dưới không thể xem xét những gì mà bốn y nói, chưa hẳn đáng tin cậy. Như lai không nên khuyên chúng sinh nương tựa bốn người.
Trong phần trước, như Phật nói cho Cù-sư nghe nêu việc xưa của Phật. "Nếu hàng phục được ma như thế", là nhắc lại lần nữa. Cũng sẽ được gần đại Niết-bàn, nghĩa là nói có thể tự biết Cù-sư là người Tu-đà-hoàn. Đối với đại Niết-bàn, chắc chắn có thể thu hướng, cho đó là gần. Dùng lý để trắc nghiệm, tìm kiếm, vì chưa dám chuyên quyết, nên nói rằng "Cũng có thể". Như lai cần gì nói bốn người này làm chỗ nương tựa?, Kế là không cần nương tựa, vì người này tự có khả năng hàng phục, gần với Niết-bàn. Như lai chưa hẳn nói bốn người làm chỗ nương tựa, không nói ở Phật nên chưa dám tự quyết, nên nói là "Chưa hẳn", y theo người kia v.v... trở xuống là người đặt ra câu hỏi, văn ít không đủ. Nếu đủ thì nên nói: "Người phàm phu không thể xem xét điều mà bốn người đã nói chưa hẳn đáng tin cậy, sao Như lai lại khuyên người nương tựa?"
Sau đây là Phật đáp: Trước Phật nói lại lời mình khen: "Như ta đã nói, chẳng phải là không đúng." Sau, phát ra đối tượng giáo hóa, chỉ dạy Thanh văn, Duyên giác hàng ma, không dạy Bồ-tát.
Các Thanh văn, Duyên giác nào cần được Phật giáo hóa? Từ mới phát tâm, cho đến Vô học.
Hỏi: Cù-sư là người Sơ quả, đã có khả năng hàng ma, không bị ma mê hoặc, vì sao Vô học vẫn cần được Phật giáo hóa?
Giải thích:
Đối với pháp Tiểu thừa kia, từ khổ nhẫn trở lên, thấy pháp rõ ràng, ma không thể mê hoặc, nên không cần Phật dạy bảo. Đối với pháp Đại thừa, cho đến Vô học, vẫn còn bị ma khuấy rối, nên cần Phật dạy bảo. Nên ở dưới, A-nan dù được Sơ quả, nhưng cũng bị sáu muôn bốn ngàn ức ma mê hoặc, gây rối loạn.
Trong văn, ban đầu là nói riêng, sau kết chung. Trong phần riêng có bốn cặp:
1. Nhục nhãn, Phật nhãn đối nhau. Thanh văn vì nhục nhãn, nên cần Phật dạy bảo. Bồ-tát vì Phật nhãn, nên không cần Phật dạy bảo.
2. "Như có người v.v... trở xuống là mạnh mẽ, yếu kém đối nhau. Vì Thanh văn yếu kém, nên Phật dạy hàng phục. Bồ-tát mạnh mẽ, có sức lực, không cần Phật dạy bảo.
3. "Như có rồng v.v..." trở xuống là nói Bồ-tát, Thanh văn kia có oai lực và không có oai lực đối nhau.
4. "Thanh văn, Duyên giác đối với phiền não v.v..." trở xuống là nói có sợ, không có sợ đối nhau: Người Nhị thừa vì sợ phiền não, nên phải được Phật dạy bảo.
Bồ-tát không sợ, không cần Phật dạy bảo.
Trong cặp đầu, "Ta vì Thanh văn có nhục nhãn nói, không vì người học Đại thừa, chính là nói về đối tượng giáo hóa.
Ai là người học Đại thừa? Đó là người khéo hướng về năm bậc Bồ-tát. Người ấy tự thấy pháp, ma không thể mê hoặc. Cho nên, Phật không cần dạy bảo họ cách hàng phục ma. "Hàng Thanh văn dù có v.v..." trở xuống, chứng tỏ mắt của hai người kia phân biệt khác nhau, thành nghĩa cần Phật dạy bảo. Hàng Thanh văn dù có thiên nhãn thấy các sắc tượng. Đối với pháp Đại thừa vì không phải đều thấy, nên gọi là nhục nhãn. Người học Đại thừa dù có nhục nhãn, nhưng không thấy sắc xa. Soi thấy Phật thừa, gọi là Phật nhãn.
"Vì sao? v.v... trở xuống là giải thích. Vì kinh Đại thừa gọi là Phật thừa. Đây là Tối thượng thừa. Bồ-tát thấy được thừa này, nên gọi là Phật nhãn.
Trong cặp thứ hai, đầu tiên là nói vì Thanh văn yếu kém, nên cần dạy bảo.
"Như người mạnh mẽ kia không từ người khác v.v..." trở xuống là nói vì Bồ-tát mạnh mẽ nên không cần dạy bảo.
Trong phần trước, trước là dụ. Phân biệt dụ có bốn:
1. Dụ Phật dạy Thanh văn tu học hàng phục ma.
2. "Đôi khi "Có người" vốn không có v.v..." trở xuống là dụ cho ma đến khuấy rối chánh.
3. "Bấy giờ, ông v.v..." trở xuống chính là dạy hàng ma.
4. "Bọn chúng như thế v.v..." trở xuống là dụ ma rút lui không trở lại.
Trong phần đầu có hai trường hợp:
1. Dụ cho Thanh văn nương tựa Phật. "Có người" là dụ cho Phật.
Đức Phật có vô úy, gọi là dũng cảm, sức mạnh. "Mười lực dẹp tà" nói là oai lực mạnh mẽ. Thanh văn sợ ma, gọi là người yếu kém. Nhờ Phật, tránh khỏi sợ hãi, gọi là đến nương tựa Phật.
2. Dụ Phật dạy hàng ma, thường xuyên dạy bảo người yếu kém, nói chung về dạy bảo.
Sau đây là dạy riêng. Trong phần dạy riêng, trước là dạy đức hàng ma, sau là dạy tâm hàng ma.
Trong phần giáo đức ở trước là tu định, mang cung, tập tuệ, cầm tên. Khởi sự thông qua đường giáo. Bốn biện tài là lưỡi câu dài. Thần chú là dây tơ lụa. Dạy phẩm dưới là trong tâm. Dù như mang dao nhọn, cũng không nên sợ sệt, khuyên bỏ tâm sợ. Đối với tà nguy hiểm, nên như đi trên dao nhọn.
"Phải nhìn xem v.v..." trở xuống là Phật dạy tâm sinh dũng cảm. Trước, dạy xem thường người khác, sau dạy tự dũng cảm. Thứ hai là trong dụ ma cho đến náo loạn chánh, "Có người" là dụ cho ma, vốn không có can đảm, mạnh mẽ dối trá làm tướng mạnh mẽ, dụ cho gây rối loạn tâm chánh. Tâm tình bên trong luống dối, hèn nhát, gọi là không có can đảm, mạnh mẽ. Bề ngoài là biểu hiện không sợ, gọi là tướng lừa dối mạnh mẽ. Cầm cung v.v..., dụ cho khuấy rối chánh đức. Tà định là cung, tà biện tài như dao. Tà trí, tà thần thông, gọi là các thứ gậy gộc để tự vệ.
"Ra trận v.v..." trở xuống là nói sự khuấy rối chánh, cho đến thân loạn. Kêu lớn là khẩu loạn, miệng giảng nói Đại thừa, gọi kêu to. Hai căn sau rất dễ hiểu.
Trong phần hợp, dựa vào thứ lớp trên để hợp dụ. Trước là hợp với đoạn đầu. "Như lai cũng vậy", hợp với "Như có người mạnh mẽ, uy lực. "Bảo các Thanh văn không nên sợ ma, hợp với người mạnh mẽ." Thường dạy bảo người yếu kém cho đến "Nên tự tạo cho mình ý nghĩ, mạnh mẽ." Nếu ma Ba-tuần biến hóa thành Phật v.v... trở xuống là hợp với đoạn hai.
Hỏi: Trong đây, Đức Phật dạy xem xét bốn y, vì sao nói rằng ma hóa thành Phật? Vì nêu trên, so sánh dưới, nên nói như vậy. Lại, cũng nêu giáo xưa để so với giáo nay, nên nói như vậy. Biến hóa thành thân Phật còn không nên sợ, huống chi là bốn y?
"Ông phải nhận xét rõ ràng v.v..." trở xuống, là hợp với đoạn ba. "Lúc bấy giờ, ma v.v..." trở xuống, hợp với đoạn tư.
Y theo phần nói về "Bồ-tát không cần Phật dạy", văn được chia làm ba:
1. Vì người có khả năng hàng phục ma, nên không cần Phật dạy bảo.
2. "A-kiệt-đà v.v..." trở xuống, là vì oai lực của chánh pháp tiêu diệt tà, nên không cần dạy bảo.
Trong phần trước, đầu tiên là dụ.
"Học Đại thừa v.v..." trở xuống là hợp. "Được nghe v.v..." trở xuống là giải thích, trong đó, trước là nói về trí tuệ sâu xa, nói vì nghe kinh, không sợ, nên phải dạy bảo.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là đã gieo trồng phước lâu xa nên đối với ma không sợ, vì thế không cần dạy bảo.
Sau là nói trong oai lực của chánh pháp tiêu diệt tà, đầu tiên là lập dụ. "Người" dụ cho Bồ-tát, thuốc dụ do Đại thừa. "Không sợ rắn v.v..." là nói người không sợ.
"Cũng có thể tiêu v.v..." trở xuống là nói lên chứng tỏ pháp có thể diệt, hợp với trung đạo. Đại thừa hợp với
A-kiệt-đà. "Không sợ ma v.v..." hợp với "không sợ tất cả rắn v.v..." ở trên.
"Cũng có thể hàng ma v.v..." trở xuống là hợp với có khả năng tiêu trừ tất cả chất độc v.v...
Trong đoạn ba, trước là dụ, sau là hợp. Trong dụ, phần thô có hai, phần tế được chia thành bốn:
Hai phần thô:
1. Dụ cho Thanh văn theo tà.
2. "Có thiện chú v.v..." trở xuống là dụ cho Bồ-tát dẹp tan tà. Phần tế có bốn:
a. Dụ ma hành động biến hóa tà vạy.
"Cho nên, tất cả sư tử v.v..." trở xuống là dụ Thanh văn theo tà.
"Có thiện chú v.v..." trở xuống là dụ Bồ-tát dẹp tan tà.
"Những thứ như vậy, thấy thiện chú v.v..." trở xuống, là dụ đối tượng được hóa theo chánh.
Trong giải thích đoạn đầu, "Có rồng", dụ cho ma, ghen ghét người khác hơn mình, gọi là ganh ghét. Ưa phá hoại việc lành của người, gọi là xấu. Khi muốn làm hỏng việc lành của người, gọi là hại người. Thân nghiệp "Hoặc" loạn, gọi là mắt nhìn thấy. Miệng nói mê "Hoặc", rối loạn, gọi là hà hơi.
Trong đoạn hai, dụ đầu là theo ma, dụ sau là theo từ tổn hại. "Cho nên tất cả v.v..." cho đến "Đều sợ", dụ cho từ biến hóa của ma.
"Sư tử, cọp v.v..." dụ cho Thanh văn bị ma mê hoặc, gây rối loạn, bị khuất phục từ ma biến hóa, nên nói "Đều sợ".
"Những việc ác này v.v..." trở xuống là dụ theo sự tổn hại của ma. "Hoặc nghe tiếng" nghĩa là nghe miệng nói ma. Hoặc nhìn thấy thân, nghĩa là thấy thân ma kia biến hóa ra. Hoặc xúc chạm thân, là đồng với tâm niệm, hành động của ma. Gần với tình, gọi là xúc chạm đều mất, nghĩa là mất tuệ mạng của mình.
Trong đoạn ba, có thần chú, nghĩa là dụ cho Bồ-tát "Dùng năng lực chú" là oai lực của pháp Đại thừa, có công năng làm cho rồng v.v... đều làm việc lành. "Dốc lòng vì thừa", nghĩa là nói hàng ma, có khả năng hóa độ các ma kia, và các Thanh văn đồng trở về Đại thừa, gọi là "Điều thiện". Có khả năng thọ lãnh pháp, truyền thừa, hóa độ đệ tử, gọi là ngồi trên thừa.
Trong đoạn thứ tư, các chú như thế v.v... là thấy thiện chú kia, liền điều thiện ma và Nhị thừa thấy Bồ-tát kia khéo nói Đại thừa, liền trở về.
Trong hợp không có thứ lớp: trước là hợp với đoạn hai, không hợp với đoạn thứ nhất. Kế là hợp với đoạn ba, sau hợp với đoạn thứ tư.
"Thanh văn, Duyên giác cũng giống như vậy, hợp với sư tử, cọp v.v... trong đoạn hai."
"Thấy ma đều sợ" là hợp với "Đều sinh sợ hãi" trong đoạn hai. "Nghe tiếng, thấy thân xúc chạm thân, mất mạng, lược qua không hợp."
"Mà ma v.v..." trở xuống là hợp với đoạn đầu, "Mà ma không sợ" là hợp với "Có rồng ganh ghét xấu xa" trong đoạn đầu.
"Cũng hành động nghiệp ma" là hợp với "Mắt ngắm nhìn hà hơi" khi muốn hại người ở đoạn đầu.
"Học Đại thừa v.v..." trở xuống là hợp với đoạn ba.
"Học Đại thừa như thế" là hợp với thấy người có thiện chú, thấy việc sợ hãi của các Thanh văn, không tin Đại thừa, nói về việc làm hóa độ, chẳng phải chính hợp với ở trước.
"Ở trước, dùng phương tiện hàng phục ma v.v..." trở xuống là hợp với có thể sai khiến rồng v.v... đều "Điều thiện" ở đoạn ba.
Dốc lòng ngồi trên thừa, trong đó trước là dùng phương tiện thần thông hàng phục các ma, sau nói pháp cho nghe. Nhưng rồng và các đường trong thí dụ trên đều "Điều thiện", dốc lòng ngồi trên thừa. Nay, ở đây chỉ hợp với rồng vì ngồi trên thừa, còn lại, lược qua không hợp.
"Thanh văn, Duyên giác thấy điều phục ma v.v..." trở xuống là hợp với đoạn thứ tư, trong đó, đầu tiên là nói thấy người sinh ra sợ.
"Đối với Đại thừa này v.v..." trở xuống là đối với pháp sinh niềm tin.
"Nói lên lời này v.v..." trở xuống là lìa bỏ bất tín.
Trong cặp thứ tư, trước là nói Nhị thừa vì sợ hãi phiền não, nên cần được Phật dạy bảo. Sau là nói Bồ-tát vì không sợ phiền não, nên Phật không dạy bảo. Người học Đại thừa có oai lực như thế, Phật khen Đại thừa khác Tiểu thừa.
Trên đây, bốn cặp, nói rộng về người được giáo hóa.
"Do đây v.v..." trở xuống là kết. Vì nhân duyên của bốn cặp nói ở trước, chỉ dạy Nhị thừa, không dạy Bồ-tát.
Trên đây là đoạn thứ nhất, Phật dạy người xem xét bốn y.
Dưới đây là đoạn hai, Phật khen ngợi kinh cao quý, sao cho người học tập hàng ma, nương tựa chánh. Đại Niết-bàn này rất nhiệm mầu, rất đặc biệt, đương pháp chính là khen ngợi.
"Nếu có người nghe v.v..." trở xuống là dùng người để làm tốt đẹp hơn, trong đó có hai câu: Trước, nói về tin ít có, sau nói lợi ích của lòng tin.
Trên đây là đoạn thứ nhất, Phật dạy người xem xét bốn y.
Dưới đây là đoạn hai, nói về sự nghiệp mở mang giữ gìn, đem lại lợi ích cho chúng sinh của bốn y, khuyên người nương tựa, trong đó có ba:
1. Nói về lợi ích do bốn người mở mang truyền bá, giữ gìn trong thời chánh pháp.
2. Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Sau Như lai diệt độ bốn mươi năm v.v..." trở xuống là nói về bốn người kia đã đem lại lợi ích của việc mở mang, giữ gìn trong thời Tượng pháp.
3. "Vì nhân duyên này, nên ta nói bốn người đó làm chỗ nương cho thế gian v.v..." trở xuống là kết, nói về bốn người có khả năng làm chỗ nương tựa cho chúng sinh.
Trong phần trước, đầu tiên là nói bốn y, mở mang giữ gìn là chỗ truyền bá kinh này, tức là Kim cương. Sau lại khen ngợi kinh cao siêu, để cho người ưa thích, nương nhờ tu học.
Trong phần đầu Như lai trước cho biết rõ ở vị lai sẽ có nhiều người chê bai kinh nói cần bốn y.
Kế là, Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi sao Phật diệt độ đã lâu, đến thời cận đại mới có sự chê bai. Hỏi: "Vào thời Phật diệt độ, phải bỏ phế, có những ai? v.v..." trở xuống là hỏi người mở mang, giữ gìn?
Sau đây, trong phần Phật đáp, trước đáp câu hỏi đầu: "Như có vị vua v.v..." trở xuống là đáp câu hỏi sau của Ca-diếp.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Sau ta Niết-bàn, trong bốn mươi năm, hoạt động truyền bá rộng là nói về thời kỳ chánh pháp hưng thịnh."
Vì sao chánh pháp độc thịnh trong thời kỳ này?
Sau Phật diệt độ, Bồ-tát Ca-diếp che chở chánh pháp suốt hai mươi năm. A-nan hộ trì pháp cũng hai mươi năm. Hai vị này đích thân nhìn thấy cách hóa độ của Phật, vì hoạt động chánh pháp giống như Phật, nên làm cho pháp được hưng thịnh.
Bồ-tát Ca-diếp hướng về trước hỏi thẳng thời kỳ bỏ phế nay, Đức Phật vì muốn đối với hưng thịnh để nói về bỏ phế, nên nói về thời kỳ hưng thịnh, sau đó, mới ẩn mất vào đất. Nghĩa là nói thời kỳ pháp bỏ phế. Vì ở ngay chỗ ấy không vận hành, nên nói là mất trong lòng đất.
"Như mía v.v..." trở xuống là nói về lý do hưng, suy ở trước. Vì người học, nên pháp được hưng thịnh vì không học, nên bị bỏ phế, suy đồi. Trước là dụ, sau là hợp.
Trong dụ có bốn:
1. Mía v.v..., dụ cho nói về thể của pháp.
2. "Tùy có chỗ v.v..." trở xuống, là mượn người để làm rõ sự cao quý hơn.
3. "Hoặc có người v.v..." trở xuống là nói về lý do bỏ phế, do người bỏ Tiểu thừa, học Đại thừa, nên bỏ phế. Bỏ Đại thừa học Tiểu thừa, gọi ăn gạo lúa tẻ. Tập đọc sách trời, gọi là đếm hạt lúa đắng. Vì lấy kém làm hơn, nên nói là thứ nhất. Học Tiểu do xưa gọi là thọ báo.
4. "Nếu là phước v.v..." trở xuống là nói lý do hưng thịnh. Do con người bỏ Tiểu thừa, học Đại thừa.
Đầu tiên không nghe nói danh từ gạo lúa tẻ, hạt lúa đắng, dụ cho không nghe Tiểu thừa, chỉ ăn cỏ ngọt, dụ cho ròng rặt học Đại thừa.
Trong hợp, theo thứ lớp ở trước để hợp. "Niết-bàn như thế" hợp với đoạn đầu ở trên. "Người căn cơ chậm lụt phước mỏng không thích nghe, nghĩa là hợp trái với đoạn hai. Nhưng trong thí dụ trên, nêu người có phước kia tham vui, ưa chấp mắc, nói rõ kinh cao siêu.
Trong hợp, nêu căn cơ chậm lụt kia phước mỏng, không ưa lắng nghe, chứng tỏ kinh sâu nặng, nói đúng sai.
"Như người phước mỏng kia thêm điều ác" v.v... trở xuống là hợp với đoạn ba. Trước là nhắc lại, sau là hợp. "Hoặc có chúng sinh tâm họ ngọt ngào v.v..." trở xuống là hợp với đoạn thứ tư, trước là hợp, sau là đánh dấu để làm tin.
Từ đây trở xuống, thứ hai là đáp câu hỏi sau của Cadiếp, nói về người mở mang, giữ gìn chánh pháp. Trước là dụ, sau là hợp.
Trong dụ có ba:
1. Dụ cho chúng sinh ở biên địa bỏ Đại thừa, học Tiểu thừa.
2. "Có khác với vua v.v..." trở xuống là dụ bốn y hóa độ sâu rộng.
3. "Vua kia được v.v..." trở xuống là dụ cho chúng sinh đã được hóa độ, đắc pháp, tu hành.
Y theo đoạn đầu, vua dụ cho biên địa. Người hóa độ, sửa cho đi vào đường ngay, lẽ phải, vì đều có lãnh đạo thống nhất, nên nói là vua. Thân sống nơi biên địa, gọi là ở chỗ gian nan nguy hiểm. Có kinh Niết-bàn, gọi là có mía, lương thực, đường phèn. Có mà khó đủ, là nói được gồm mất. Cho nên nói "Dù rằng". Vì người kia khó được, nên tham lam, luyến tiếc, chứa, nhóm, không dám nuốt ăn, dụ cho người không học Đại thừa. Đã ở biên địa thì toàn bộ không đủ, gọi là khó được. Như Bắc Thiên trúc chỉ có sáu quyển, không đủ toàn bộ, vì danh lợi mà viết chép kinh này, gọi là tham lam chứa nhóm. Không thể y pháp tự học, dạy người học, gọi là "Không dám ăn". Sợ rằng, lương thực kia có ngày sẽ hết, nên chỉ ăn lúa tẻ, lúa đắng, dụ cho nói học Tiểu thừa. Dùng cái thiếu, thừa kia để giải thích nghĩa không khắp, e rằng có ai hỏi, sẽ không dễ gì thông suốt, gọi là sợ lương thực sẽ cạn hết. Người chỉ học Tiểu thừa, gọi là ăn lúa tẻ, lúa đắng.
Trong đoạn hai, có vị vua kỳ lạ, dụ cho người bốn y, nghe nói, cảm thấy thương xót, buồn cười. Thương xót vì bỏ Đại thừa, buồn cười vì thấy dân chúng kia học Tiểu thừa. Ban cho xe chở nếp, lương thực. Âm thanh, lời nói để làm xe. Nói kinh, truyền trao cho họ, gọi là "Chở nếp", lương thực đem cho. Cũng có thể dùng giấy, tơ trắng, lụa để làm xe. Sao kinh trao cho họ, gọi là chở đem cho.
Trong đoạn ba, vua kia được, là hóa chủ biên địa tự nghe kinh pháp, liền phân phát lương thực cho cả nước, khuyên mọi người dân đồng tu tập. "Dân chúng đã ăn v.v..." trở xuống là người được hóa độ, nhờ ơn, vui mừng, khen ngợi. Thuận theo giáo pháp, vâng tu, gọi là ăn xong. Vui mừng vì thấm nhuần lợi ích của pháp, cho nên đều vui mừng. Nhận gánh vác ơn hoằng hóa của bốn y, cho nên đều nói vì vị vua kia, nên được thức ăn ít có.
Trong hợp, chỉ hợp với hai đoạn sau. Đoạn đầu là hợp trong "Thương xót, buồn cười" khi bốn y nghe nói trong đoạn hai, lại không có hợp riêng. Hợp với bốn người trong đoạn hai, như thế, hợp với vị vua khác lạ, là giải thích pháp Đại thừa là nghĩa vua. Vì người bốn y hóa độ không đồng đều, nên nói trong bốn, hoặc có một người thấy, hợp với nghe.
Sau đây, là nói về chỗ nhìn thấy.
Việc đã được so sánh ở đoạn đầu, là chỗ nhìn thấy. Nhìn thấy vô lượng Bồ-tát ở các cõi khác, hợp với vua ở trong núi sâu. Hiện nay dù học Tiểu thừa, nhưng vì đời trước đã có căn cơ Đại thừa, nên gọi là Bồ-tát. Dù học Đại thừa là hợp với "Dù có mía, nếp v.v..." ở trên. "Tự viết chép v.v..." trở xuống là hợp với lời nói "Tham, tiếc, chứa nhóm" ở trước. "Tự viết, bảo người khác viết" là hợp với chứa nhóm. "Vì lợi dưỡng v.v..." là hợp với "Tham, tiếc". Dù viết chép kinh điển, nhưng chỉ mong tín thí, gọi là vì lợi dưỡng, mong cầu lời khen tốt, nói là tiếng ngợi khen. Chỉ thêm biết rộng, không vì khởi công hạnh, gọi là liễu pháp, hợp với người khác nương tựa mình, gọi là y chỉ. Dùng pháp này để trao đổi với Tiểu thừa, gọi là hiểu rộng kinh khác.
"Không thể nói rộng cho người nghe" là hợp với "Sợ lương thực có ngày cạn hết, nên không dám ăn". Cho nên "Đem kinh này đến nước kia" là hợp với chuyên chở nếp, lương thực đưa đến cho dân chúng nước đó.
"Giúp họ phát tâm v.v..." trở xuống là nói đưa đến chỗ làm, phát tâm khởi nguyện, an trụ khởi công hạnh.
"Bồ-tát được v.v..." trở xuống là hợp với đoạn ba.
"Bồ-tát được rồi" là hợp với vua được rồi, liền nói rộng là hợp với "Sự mở mang ở trước, để cho vô lượng chúng được thọ pháp vị" là hợp với "cho cả nước ăn". Ăn xong, đều vui mừng, lược qua mà không hợp.
"Đều là một Bồ-tát này v.v..." trở xuống là hợp với "Nói lên lời này: "Vì vua kia, nên được thức ăn ít có. Trước là pháp, sau là đánh dấu để làm tin."
"Trong pháp là oai lực của một Bồ-tát này" là hợp với nhà vua, là hướng về trong bốn hoặc một người.
"Với người chưa nghe kinh, đều giúp cho được nghe" là hợp với "Được hy vọng ăn". Dụ cho đánh dấu để làm tin, rất dễ hiểu.
Trên đây là đoạn thứ nhất nói rộng về lợi ích của giữ gìn, mở mang chánh pháp trong thời kỳ chánh pháp của bốn người.
Dưới đây là đoạn hai, khen kinh cao quý, chia ra bốn câu:
Hai câu trước là khen tốt đẹp hơn để người tin ưa. Hai câu sau, là nói về lợi ích của sự học, khiến cho người tu tập.
Trong hai câu trước là chỗ truyền bá kinh, tức là Kim cương mượn chỗ để làm rõ sự vượt hơn. Vì chỗ vượt hơn khó hư hoại, nên như Kim cương. Các người trong đây cũng như Kim cương mượn người để làm rõ sự tốt đẹp. Về nghĩa đồng với cách giải thích ở trước.
Trong hai câu sau, câu đầu là nói về ích lợi của sự học.
"Nếu có sinh v.v..." trở xuống là nói sự tổn hại của không học. Trong lợi ích của sự học, nếu nghe pháp không lui sụt, sẽ thành tựu lợi ích của nhân. Nguyện vọng đều được, được lợi ích của quả.
"Các ông nên v.v..." trở xuống là kết khuyên thọ trì. Trong phần tổn thất không học, trước là nói về không nghe, rất đáng thương xót vì tổn thất rất lớn.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Đoạn hai, trong ích lợi của việc mở mang, giữ gìn của thời kỳ tượng pháp, trong văn có chia làm hai:
1. Nói về lợi ích do mở mang, giữ gìn trong thời tượng pháp của bốn y.
2. "Có Tỳ-kheo tội ác nghe ta v.v..." trở xuống, là nói lên kinh cao siêu, làm cho người yêu chuộng, ưa thích, nương nhờ học tập.
Y theo đoạn đầu có hai lần hỏi đáp: một lần hỏi đáp trước, là nói về thời kỳ hưng thịnh và bỏ phế.
Ca-diếp trước hỏi: "Trong bốn mươi năm sau Như lai diệt độ, Kinh này truyền bá rộng đã qua là lặn mất", là nhắc lại những điều nói ở trên. Lâu, dần xuất hiện trở lại, đối với diệt nên hỏi hưng thịnh?" Sau đây là Phật đáp:
Nếu chánh pháp của ta, hơn tám mươi năm trước, trong bốn mươi năm, kinh này lại sẽ tuôn xuống trận mưa pháp, nghĩa là thời Chánh pháp của Đức Thích-ca có năm trăm năm. Trong năm trăm năm, bốn mươi năm trước trong tám mươi năm sau, kinh này được hưng thịnh lần nữa, là đã tuôn xuống cơn mưa pháp Đại thừa ở cõi Diêm-phù-đề. Vì pháp lưu thông có lúc nên như vậy.
Sau đây là một lượt hỏi đáp, đối với hưng thịnh nói về bỏ phế.
Y theo thời kỳ bỏ phế kia, để nói về bốn y mở mang hóa độ. Ca-diếp trước hỏi. Hỏi có hai câu:
1. Nêu ra thời kỳ pháp diệt.
2. "Ai có thể v.v..." trở xuống là hỏi về người mở mang, giữ gìn chánh pháp. Trong phần nêu diệt ở trước, y theo ở dưới có sáu:
a. Thời kỳ chánh pháp diệt.
b. Thời kỳ chánh giới bị hủy hoại.
c. Thời kỳ phi pháp hưng thịnh.
d. Thời kỳ tăng phá giới.
e. Thời kỳ tất cả bậc Thánh ẩn mất không hiện.
f. Thời kỳ chứa cất tất cả vật bất tịnh.
Hiện nay, chỉ có năm thời kỳ. Một thời kỳ sau, lược qua không có. Bốn thời trước trong sáu thời là y theo thời kỳ chánh pháp để giải thích. Chánh pháp diệt, là thời kỳ kinh, pháp diệt. Chánh giới hủy hoại, là thời kỳ luật pháp hủy hoại.
Nói phi pháp, văn sau, gọi là thời kỳ phi pháp thịnh hành. Đối với pháp trước diệt, nói là thêm lớn, văn dưới đây gọi là thêm lớn phá giới, đối với hủy hoại giới ở trước. Hai câu sau là thời kỳ y cứ vào người để nói, không có chúng sinh đúng pháp. Văn dưới đây gọi là thời kỳ tất cả bậc Thánh ẩn mất không xuất hiện. Đây là nói không có việc lành, chứa cất vật bất tịnh, nói có điều ác kia.
Y cứ dưới đây, trong phần thưa hỏi người mở mang, giữ gìn chánh pháp, ai là người có khả năng nghe v.v... chính là hỏi người ấy.
"Nay nguyện v.v..." trở xuống là thỉnh Phật giảng nói. "Làm cho Bồ-tát v.v..." trở xuống là nói về lợi ích. Theo Địa Trì, thì kinh này lấy giữ gìn làm duyên tăng thượng, nên được tâm Bồ-đề không lui sụt? Sau đây, là Phật đáp:
Trước khen, sau giải thích. Người phân biệt có mười: chín người trước ở đường lành trở lên, cho đến Pháp Vân. Một người sau là người mới phát tâm đường lành về trước. Vì trên đường lành, có thể nối tiếp giữ gìn chánh pháp sau Phật diệt độ. Do đây nên nói trước. Người mới phát tâm vì còn lâu mới có khả năng, nên xoay lại nói sau.
Năm người đầu trong chín người trước là Bồ-tát ở đường lành kia.
Bốn người sau là người của bốn y.
Trong đường lành, trước là nói về người đầu tiên, có chia làm làm hai câu:
1. Hạnh hộ pháp: Do Phật Hy Liên đã phát tâm Bồđề. Hy Liên là quyến thuộc của sông Hằng. Một Đức Phật là một hạt cát của sông Hằng. Phải ngần ấy vị Phật đã phát tâm Bồ-đề, mới có công hạnh hộ pháp.
2. Hạnh hộ pháp, cõi đời vẩn đục không chê bai. Trong người thứ hai, có chia làm ba câu:
a. Nhân hạnh hộ pháp, một Hằng Phật đã phát tâm Bồ-đề.
Hạnh hộ pháp, không chê bai, đồng với thêm yêu thích thích pháp ở trước.
Nói về điều không thể, không thể nói rộng. Trong người thứ ba, chia làm ba câu:
1. Nhân hạnh hộ pháp.
2. Hằng phát tâm, hai hạnh hộ pháp, đời ác không chê bai, tin ưa đồng với trước, thêm vào đó khả năng thọ trì.
3. Nói về điều không thể, không thể nói rộng. Trong người thứ tư, cũng có ba câu:
1. Nhân hạnh hộ pháp, ba hằng phát tâm.
2. Hạnh hộ pháp. Các hạnh khác như trên, thêm chủ thể nói rộng.
3. Nói về điều không thể, không thể hiểu nghĩa. Trong người thứ năm cũng có ba câu:
1. Nhân hạnh hộ pháp với bốn Hằng phát tâm.
2. Hạnh hộ pháp. Các Hạnh còn lại đồng với trước, thêm khả năng hiểu nghĩa. Được một phần trong mười sáu phần. Mười sáu phần là gì? Tất cả nghĩa vị trong kinh này gom thành mười sáu, như nói một đức từ có mười sáu phần, một cân là mười sáu lượng.
3. Nói về điều không thể. Dù có khả năng nói pháp cũng không đầy đủ.
Năm người này đồng ở trong phần vị đường lành, bốn người sau ở tập khí hạt giống trở lên.
Trong y ban đầu, có chia ra làm ba câu:
1. Nhân tố hộ pháp, với năm Hằng Phật đã phát tâm
Bồ-đề.
2. Hạnh mở mang chánh pháp. Đời ác không chê bai, thọ trì, nói rộng.
3. Hiểu được nghĩa nhiều ít, được tám phần trong mười sáu phần. Trong y thứ hai, cũng có ba câu: Hai câu trước như trên, ba câu được nghĩa nhiều ít, lại được phân nửa trong tám phần dư thừa ở trước, chung với mười hai câu trước. Trong y thứ ba cũng có ba câu: hai câu trước như trên, câu thứ ba được nghĩa nhiều ít, được phân nửa trong bốn phần dư thừa ở trước, chung với mười bốn câu trước.
Trong y thứ tư, đầu tiên chính là giải thích.
"Khéo biết tất cả pháp của Như lai v.v..." trở xuống là lại kết lần nữa.
Trong phần trước cũng có ba:
1. Nhân của hộ pháp, với tám Hằng phát tâm.
2. Hạnh hộ pháp, trong đó có bốn cặp lợi mình, lợi người:
Tự sẽ không chê bai, đọc tụng, viết chép, cũng dạy người viết chép.
Tự có thể nghe, thọ lãnh, cũng khuyên người làm theo mình.
Vì thương xót chúng sinh, tự cúng dường kinh, cũng khuyên người khác.
Tự cung kính, trân trọng, đọc tụng, lễ bái, cũng khuyên người thực hành.
Bốn cặp này hợp thành câu hai.
3. Hiểu được nghĩa nhiều ít, đầy đủ mười sáu. Về lý, thật ra người này lại được một nửa trong hai phần dư thừa ở trước, chung với mười lăm phần trước. Một phần sau cùng, chỉ có Phật chứng đắc. Vì học này cùng cực đối với "Sở quán" của Phật đã chứng chiếu rõ ràng, nên nói rằng hiểu đủ, tường tận vị nghĩa của mười sáu phần. "Đó là v.v..." trở xuống là nêu ra chỗ hiểu biết của mười sáu phần kia, nghĩa là Phật thường trụ, làm sáng tỏ quả đương thời. Chúng sinh có tánh, là nhân của thời kỳ ẩn mất.
Trên đây chính là nói, sau đây lại kết khéo. "Biết tất cả pháp tạng của Như lai", là kết đoạn ba ở trước.
"Cúng dường v.v..." trở xuống là kết đoạn thứ nhất ở trước. "Kiến lập v.v..." trở xuống là kết đoạn hai ở trước.
Hỏi: Bốn y, trước kém sau hơn, làm sao hiểu được nghĩa trước nhiều, sau ít?
Giải thích:
Nghĩa thô cạn thì dễ hiểu, nên trước được nhiều. Vì nghĩa tế khó tinh lường, nên sau được ít. Lại, thô là tùy giải thích tướng, phân biệt ít thành nhiều phần. Nghĩa tế (nhỏ nhặt) y theo sự thật, tướng giáng xuống của cấp bậc: nhỏ nhặt số nhiều là phần ít. Số phần dù ít, nhưng nghĩa của phần đó thật rộng.
Hỏi: Nếu nói nghĩa thô dễ hiểu, chỗ ban đầu được nhiều, nghĩa tế khó tinh tường, chỗ sau được ít ấy, thì vì sao kinh nói: "Sơ địa được một trăm, Nhị địa được một ngàn? Như vậy càng nhiều?" Giải thích:
Nói về nghĩa, rộng thì có hai môn:
1. Y theo nghĩa nhiếp, từ trong môn thì nói được nhiều, ít.
2. Y theo môn chứng thật, bỏ giải thích nghĩa lý, để nói hiểu được nhiều, ít. Từ trong môn giải thích, có chia làm bốn:
a. Y theo một giải thích đầu cuối, để nói riêng, thì trước hiểu được nhiều nghĩa, thời gian sau được ít. Từ nghĩa giải thích đủ rõ ràng trong văn, trước được chỗ giữ, thành tựu, vì dựa vào văn, hiểu biết đủ, nên đầu tiên được nhiều. Sau suy nghĩ lại, xem xét xoay vần theo mà thôi. Vì không có nhiều kiến chấp khác, nên sau được ít. Cho nên người y đầu tiên trong kinh này được nghĩa của tám phần. Người y thứ hai lại được bốn phần, cho đến người y thứ tư được hai phần.
b. Y theo một để giải thích, dùng cuối để gồm thâu đầu, lúc đầu được ít, lúc sau được nhiều. Y đầu tiên trong kinh này chỉ được nghĩa của tám phần, cho đến y thứ tư được mười sáu phần.
c. Y theo nhiều để giải thích, đầu cuối nói khác nhau. Y đầu tiên được nghĩa ít, nghe giáo ít. Y cuối cùng được nghĩa nhiều nghe giáo nhiều. Cho nên Thập địa có thể tiếp nhận mây mưa nói pháp của Chư Phật. Dựa vào pháp đã được nghe Chư Phật kia nói, cũng biết được nhiều nghĩa.
d. Y theo nhiều giải thích, dùng sau, nhiếp thu trước, lúc đầu hiểu được một ít nghĩa, thời gian sau, sẽ được nhiều. Về lý dễ hiểu.
Y theo môn chứng thật, bỏ giải thích kia, có chia làm hai:
1. Y theo địa vị đầu, cuối để nói riêng. Thời gian đầu được ít, giữ kín đáo, tâm, vì thường thấy lý mờ tối. Thời gian cuối, sẽ hiểu được nhiều, vì bỏ được giải thích thấy lý sáng tỏ.
2. Lấy cuối gồm thâu đầu, lúc đầu ít, sau nhiều. Về lý dễ hiểu, điều Địa Kinh nói, là nghĩa, bỏ giải thích chứng thật, nên về sau được nhiều, không đồng với ở đây.
Trên đây nói về Bồ-tát hộ pháp từ đường lành trở lên.
Sau đây sẽ nói về sơ tâm hộ pháp của Bồ-tát kia. Chia làm ba câu:
1. Nói người mới phát tâm hiện tại, có khả năng hộ pháp.
"Cho nên v.v..." trở xuống là khuyên người biết là vì khích lệ sơ tâm, nên khuyên hiểu biết.
2. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Dưới đây là đoạn hai, khen kinh cao siêu, trong đó nêu lợi ích của tâm kính tin, sự tổn hại của tâm chê bai, để làm rõ sự cao siêu của kinh.
Văn chia làm bốn:
1. Nói về sự chê bai.
2. Nói về sự kính tin.
3. Nói về sự tổn hại của chê bai.
4. Trình bày lợi ích của đức tin.
Trong phần chê bai, đầu tiên là nói các Tỳ-kheo tội ác nghe Phật Niết-bàn, trong tâm không lo buồn.
"Ngày nay v.v..." trở xuống là nói rằng: "Thật vui sướng!". Trước là nói chung: "Vui sướng!", sau là biểu lộ việc thỏa thích đó.
"Như thế v.v..." trở xuống là kết.
Thứ hai, trong niềm tin, trước khuyên nhớ giữ. Sau là nói đúng về đức tin, trong đó, đầu tiên là nói chúng sinh có đức, tự giữ gìn được đức tin của mình.
"Ngoài ra, sinh v.v..." trở xuống là nói người có đức tin kia, có thể hóa độ, đem lại lời ích cho người. Có người ưa thích vì nói, cho họ nghe, chính là nói về hóa độ người.
"Người kia, nghe v.v..." trở xuống là nói ích lợi cho người. Người nghe pháp, diệt tội là lợi ích của họ.
Trong tổn hại thứ ba, văn chia làm bốn:
1. Nói về sự tổn hại ở hiện tại.
2. "Qua đời v.v..." trở xuống là nói tổn hại ở vị lai.
3. "Nếu qua đời v.v..." trở xuống là nói lại sự tổn hại ở hiện tại.
4. "Người như thế không chí thiện v.v..." trở xuống là nói về tổn hại ở vị lai.
Sự khác nhau trong ích lợi thứ tư có ba:
1. Nói nghe kinh, tin lâu có ích.
2. "Nếu có người xuất gia v.v..." trở xuống là là nói mới tin có ích.
3. "Hoặc có sinh v.v..." trở xuống là nói tin nhỏ nhặt có ích. Ích lợi của đức tin lâu dài, tồn tại ở Thượng địa. Ích lợi của mới tin là ở giải, hạnh, chủng tánh của Địa tiền. Ích lợi của niềm tin nhỏ bé ở đường lành trở xuống. Trong lợi ích của niềm tin lâu xa, đầu tiên là nói về tự tin của mình có ích.
"Nếu tôi v.v..." trở xuống là hóa độ người có ích.
Trong ích lợi của tự tin, trước nói về đức tin, nghĩa là nhờ oai lực kinh trang nghiêm thân, mọi người đều thích nhìn thấy.
"Nhà vua v.v..." trở xuống là oai lực kinh trang nghiêm ở miệng, có nói năng điều chi đều được mọi người kính tin.
Trong ích lợi hóa độ người, trước là khuyên truyền nói:
"Nếu trong các đệ tử Thanh văn của ta", là nêu người được khuyên đó thật là Bồ-tát truyền thừa giáo pháp Phật, nên gọi là Thanh văn. Như kinh Pháp Hoa nói: "Nay, chúng ta thật là Thanh văn, dùng tiếng của đạo
Phật làm cho tất cả đều nghe như thế v.v..."
Vì muốn thực hành việc ít có nên nêu sở cầu, gọi là tu Đại thừa. Vì thực hành việc ít có thứ nhất, nên sẽ phải nói rộng Đại, Chánh để khuyên truyền nói.
"Ví như v.v..." trở xuống là nói pháp có ích, giúp cho người nghe dứt trừ được tội chướng. Trước là dụ, sau là hợp.
Thứ hai, là mới mở đầu tin có ích, trước là dụ, sau là hợp. Trong phần dụ, như người ở Địa tiền.
Xuất gia cạo tóc, dụ cho người mới phát tâm quy tín Đại thừa, lìa bỏ tà vạy chê bai, gọi là xuất gia cạo tóc. Dù mặc cà-sa, dụ cho y giáo viết, chép, đọc tụng.
"Chưa thọ giới v.v..." trở xuống là dụ cho chưa có hạnh. "Chưa thọ mười giới, dụ cho chưa tu tập công hạnh của Thập địa, vẫn chưa thọ mười giới Sa-di, huống chi giới Cụ túc, giới Cụ túc dụ cho Phật.
"Hoặc có trưởng giả đến thỉnh chúng tăng", mượn các cặp để làm rõ sự vượt hơn. Dụ cho có chúng sinh thưa thỉnh Bồ-tát và muốn cúng dường. Người chưa thọ giới, tức đều thọ thỉnh với đại chúng, dụ cho người mới tin là thuộc về số đại Bồ-tát xuất thế cao tham.
"Dù chưa v.v..." trở xuống là nhắc lại để kết.
Trường hợp, "Nếu có người phát tâm, mới học" là hợp với "Như có người xuất gia, cạo tóc".
"Viết chép, đọc tụng" là hợp với "Mặc cà-sa". "Chưa bước lên bậc Thập trụ" là hợp với "Chưa thọ mười giới Sa-di".
"Đã rơi vào mười số", là hợp với "Trưởng giả đến thỉnh chúng Tăng, người chưa thọ giới, đều thọ thỉnh với đại chúng, cho đến rơi vào số.
Thứ ba, trong niềm tin nhỏ nhoi có lợi ích, hoặc có chúng sinh là đệ tử Phật, hoặc chẳng phải đệ tử Phật, là nêu người đó. Bồ-tát ở đường lành, bên trong có lòng tin, gọi là đệ tử. Thường không có lòng tin, gọi là chẳng phải đệ tử.
Nếu do tham lam, sợ sệt mà nghe nhận kinh này, dù chỉ một bài kệ, nghe xong mà không chê bai là nói về niềm tin nhỏ nhoi của họ. Phải biết rằng, người này đã gần Bồ-đề, chứng tỏ họ có ích. Thương xót chủng tánh nói trên, gọi là gần Bồ-đề.
Hai đoạn trên đây là nói rộng lợi ích mở mang giữ gìn chánh pháp của bốn người.
Dưới đây là đoạn ba, kết thúc nói bốn người là chỗ nương của thế gian.
"Vì nhân duyên này, ta nói bốn người là người nương tựa của thế gian, vì bốn người này đã có nhân duyên mở mang chánh pháp trong suốt hai thời kỳ Tượng, Chánh, nên nói là y."
"Như thế v.v..." trở xuống là giải thích. Vì không có tà vạy, chê bai nên nói là y, cho nên trở xuống là kết.
Trên đây là đoạn thứ nhất, Phật khuyên người nương tựa để thu nhiếp trí tuệ.
Dưới đây là đoạn hai, Phật khuyên người cúng dường để sinh công đức, trong đó có hai:
1. Trực tiếp khuyên cúng dường.
2. "Trong chúng tăng có bốn người v.v..." trở xuống là Phật dạy nên xem xét bốn người đó, tương tự với trước. Nhưng trong văn trên, trước Phật dạy xem xét, sau là khuyên nên nương tựa. Nay, trong văn này, trước là Phật khuyên cúng dường, sau là dạy xem xét, đúng sai của văn.
Trong phần trước có ba:
1. Khuyên cúng dường chung.
2. Dạy cúng dường riêng.
3. "Từ sau kệ là phần văn xuôi trở xuống, có vặn hỏi, giải thích, nghĩa là hỏi đáp để hội ý thông qua. Đầu tiên là khuyên chung, rất dễ hiểu. Trong khuyên riêng thứ hai, Bồ-tát Ca-diếp trước là thưa hỏi: "Tôi phải làm sao để nhận biết người này nghe mà cúng dường người? Tôi phải làm sao để cúng dường? Là hỏi về nghi thức cúng dường."
Sau đây, trước là Phật dùng văn xuôi để dạy sơ lược. Sau, dùng kệ để dạy bảo rộng.
Trong phần sơ lược nói: "Nếu có kiến lập pháp, người, nên từ thưa hỏi" là đáp câu hỏi đầu tiên của Cadiếp.
"Phải xả bỏ thân v.v..." là đáp câu hỏi sau của Cadiếp.
Trong phần dạy bảo rộng: "Như ta nói kinh này nêu chung điều đã nói."
Sau đây là nói bày tướng một bài kệ rưỡi đầu là dạy kính mà sợ, một bài kệ rưỡi sau là trân trọng mà yêu thích.
Trong phần trước, nửa bài kệ đầu là nói người được cúng, đáp câu hỏi đầu ở trên. Một bài kệ sau nói về nghi thức cúng dường, là đáp câu hỏi sau ở trên. Trước là pháp, sau là dụ.
Trong một bài kệ rưỡi sau, nửa bài kệ đầu, lại nói về người, cúng dường, đáp câu hỏi đầu ở trên. Một bài kệ sau, lại nói về nghi thức cúng dường, là có khả năng câu hỏi sau ở trên. Trước là pháp, sau là dụ.
Thứ ba, trong phần hỏi đáp để hội ý thông qua có hai lần hỏi đáp: Một lần hỏi đáp trước là nói bốn người kia, hợp với "đáp cúng dường". Một lần hỏi đáp sau là nói bốn người kia vốn cụ giới hiện tại, trở thành hợp với cúng dường ở trước.
Y theo câu hỏi đầu, như Phật đã nói: "Cúng dường Sư trưởng, chính là nên lãnh hội điều mình đã hiểu ở trước như thế". Lãnh hội trong bài kệ trước: "Nếu là người già, thì nên cúng dường, cung kính, lễ bái."
"Nay có nghi ngờ v.v..." trở xuống là hỏi điều mình không hiểu. Hỏi: Trong giải thích trên, "Nếu là người trẻ, thì nên cúng dường, cung kính, lễ bái", trong đó đối với lời nói đầu, có hoài nghi, cúi mong giảng nói, nêu nghi, hỏi chung.
"Nếu có người lớn v.v..." trở xuống, là nêu nghi ngờ, hỏi riêng.
Trong hỏi riêng, trước là nêu ba câu để thưa hỏi.
"Nhưng xuất gia v.v..." trở xuống là nêu lời nói trong hai thời xưa, nay để thỉnh Phật hội thông. Như Phật nói: "Tỳ-kheo trì giới cũng có phạm v.v..." trở xuống là xét xưa chẳng phải nay, để cho Phật giải thích.
Trong đoạn đầu, trước là già trẻ đối nhau, nêu câu hỏi. Đoạn hai là trì, phạm. Đoạn ba là đạo, tục.
Trong đoạn hai, trước là nêu lời nói xưa.
"Lại, như Phật v.v..." trở xuống là nêu lời nói nay của Phật.
"Hai lời nói như thế v.v..." trở xuống là nhắc lại cả hai lời nói, để thỉnh Phật hội thông.
Y theo phần nêu lời nói xưa của Phật, đối với ba câu hỏi trên, lại có ba câu. Nhưng người xuất gia không kính người tại gia, đối với đoạn ba ở trước, nói về nghi lễ xưa của Phật. "Nhưng tuổi trẻ trong pháp Phật v.v..." trở xuống, đối với đoạn thứ nhất nói về nghi lễ xưa của Phật, trong đó trước là giải thích.
"Do đây v.v..." trở xuống là giải thích. "Cho nên v.v... trở xuống là kết.
"Như Phật nói v.v..." trở xuống là đối với đoạn hai ở trên, nói về nghi lễ xưa của Phật. Đây là nêu lời nói xưa.
"Dưới đây là nêu lời kệ mà Phật đã nói ở hiện tại. Sau đây là nhắc lại cả hai, thỉnh Phật giải quyết thông suốt."
"Hai câu như thế" là nhắc lại trước. Xưa là một câu, nay là một câu. Nghĩa ấy thế nào? Chính là thỉnh Phật giải thích thông suốt rằng chẳng phải luống dối" là gạn hỏi để khởi đáp.
Nếu xưa nay là "Ngôn thuyết" thì là luống dối. Nếu lời nói nay là thuyết xưa, thì luống dối. Vì hai chỗ chưa nhất định và vì nghi ngờ, trách cứ, nên nói rằng "E rằng chẳng phải". Nói rằng "Sẽ không phải" là nói luống dối. Đoạn ba là trong xét xưa chẳng phải nay, y cứ nghiêng một bên là trì, phạm, để xét xưa, gạn hỏi nay. Già, trẻ, đạo, tục, lược qua không nói, trong đó có hai câu: Một câu trước nói mở rộng kinh, nói người giữ giới không hợp với kính người phạm giới. Như Đức Phật nói: "Tỳ-kheo trì giới cũng có chỗ phạm", là nêu lời xưa của Phật. Xưa, Đức Phật nói kính người phạm giới, sẽ mắc tội, nên nói "Cũng phạm".
Vì sao Như lai nói thuyết như thế? Lấy xưa để gạn nay: "Kính kẻ phạm giới sẽ mắc tội." Vì sao nay, có người biết pháp, tất cả đều nên cúng dường, cung kính, lễ bái, bất luận trì giới hay phạm giới."
Sau đây, kinh Nhất thọ nói "Người phạm giới chỉ nên trị phạt, chứ không nên cúng dường". Đức Thế Tôn cũng có nói trong kinh rằng: "Cho trừng trị người phá giới", là nêu lời nói xưa của Phật.
Các thuyết như thế, về nghĩa chưa rõ ràng, vì lấy xưa để gạn nay, người phá giới, về lý, chỉ nên trị phạt. Thời nay, lại nói: "Có người biết pháp, tất cả đều nên cúng dường, không phân biệt trì hay phạm, nghĩa ấy chưa rõ ràng?"
Sau đây, trong phần Phật đáp. Văn chia làm ba:
1. Y theo con người được dạy bảo, để hội ý thông qua.
2. "Như thuyết trên của ta v.v..." trở xuống là y theo người được cúng, để lãnh hội lời Phật nói.
3. "Vì nhân duyên này, nên ta cũng không vì Thanh văn v.v..." trở xuống là nói chung để kết hợp.
Y theo đoạn đầu: "Ta vì Bồ-tát, không vì Thanh văn", tức là thông qua hội ý hai lời nói của Phật xưa và nay: Xưa, Phật vì Thanh văn, nói Tiểu thừa kính trọng Đại thừa, kẻ phạm giới phải kính trọng người trì giới, người tục kính trọng đạo. Nay, Phật vì Bồ-tát, nên nói: "Người biết pháp, tất cả đều kính trọng."
Hỏi: Vì sao ở trước, Phật dạy Thanh văn hàng ma, thì nói là nương nhờ Phật, không dạy Bồ-tát. Bây giờ đây, thì lại vì Bồ-tát, không vì Thanh văn.
Giải thích:
Việc này là do nêu lên đúng sai. Trước là nói theo xưa, nên Phật vì Thanh văn. Nay, vì tu tập Đại thừa, nên gọi là vì Bồ-tát.
Trong đoạn hai, đầu tiên là Phật nói bốn người thật trì, chẳng phải phạm. Về lý, hợp với cúng dường.
"Cho nên, xưa ta đã che lấp tướng để nói v.v..." trở xuống là nói bốn người kia thật sự là lớn chẳng phải nhỏ, nên phải cúng dường, là đạo chứ chẳng phải tục.
Trong phần đầu, gồm cả giải thích không luận riêng. Trong phần trước, đầu tiên nói: "Như ta nói trên, chỉ hội ý chung với trước". Như trước đây, Phật nói: "Bốn y của của hai thời kỳ tượng và chánh, mở mang giáo hóa nên phải cúng dường."
"Chánh pháp diệt v.v..." trở xuống là giải thích riêng để hội thông, trong đó, trước là pháp, kế là dụ, sau là hợp.
Trong pháp có bốn:
1. Nói ở đời vị lai, tà hưng thịnh, chánh hoại diệt, là thời kỳ hộ trì pháp rộng khắp.
2 "Bốn người này v.v..." trở xuống, là nói bốn người kia đi vào thế gian để hộ pháp.
3. "Bốn người như thế vì hộ pháp v.v..." trở xuống, đủ nói lên bốn người ấy là trì chẳng phải phạm.
4. Nói người đó phải được cúng dường, về nghĩa văn của ba thứ trước trong bốn thứ đều có. Một đoạn văn sau, nghĩa có, văn không có. Tuy văn không nói, nhưng y theo dụ sau, hợp với lý, tất nhiên phải có.
Y theo chánh pháp diệt ở đoạn đầu, nghĩa là vào thời kỳ kinh pháp diệt. Hủy hoại chánh giới, nghĩa là thời kỳ luật pháp hủy diệt. Thời kỳ phá giới lừng lẫy ở trước, thời gian phi pháp thịnh vượng, đối lập với pháp diệt ở trước.
Bốn câu này y theo pháp để nói về thời kỳ: Thời kỳ bậc Thánh không xuất hiện, không có người lành. Thời kỳ tiếp nhận, chứa chấp tất cả đều có kẻ xấu ác. Hai câu này lìa y theo để nói về thời kỳ.
Trong đoạn hai, đầu tiên là nói về bốn y xuất hiện ở thế gian. "Thấy Tỳ-kheo v.v..." trở xuống là đồng sự nhiếp hóa chúng sinh.
"Dù thấy v.v..." trở xuống là nói về hộ pháp, nên thấy người phạm giới, không nêu tội.
Y theo đoạn đầu, vì y theo hóa độ không đồng đều, nên nói một trong bốn người. Vì xuất thế gian làm thầy khuôn phép để giáo hóa, nên phải xuất gia. Đây chính là đáp câu hỏi của Bồ-tát trước đây, để nói vì đạo không phải tục, nên phải lễ kính.
Trong đồng sự nhiếp, đầu tiên là thấy Tỳ-kheo, được hóa độ, đều tiếp nhận các thứ phi pháp v.v..., nói Tỳ-kheo ấy không có "Hạnh".
"Tịnh, bất tịnh v.v..." trở xuống là nói Tỳ-kheo kia không hiểu. Tịnh và bất tịnh, tất cả đều không biết, không biết pháp lý, là luật hay chẳng phải luật. Cũng không có nhận thức, không nhận thức giáo pháp.
"Người này vì v.v..." trở xuống là nhiếp lấy đồng sự, vì nhiếp đồng sự với các Tỳ-kheo tội ác ở trước, giống như ánh sáng mặt trời hòa hợp với bụi, gọi là hòa lẫn vào.
"Không đồng trần v.v..." trở xuống là nói thật khác với thường. Không đồng trần là nói khác với hạnh người ấy. Nhóm thân trái với tâm, như ánh sáng khác với bụi, gọi là khác với trần.
Tự chỗ mình đã làm và chỗ Phật đã làm, khéo phân biệt biết, là nói khác với "Giải". Thuận với khởi sự tu, gọi là chỗ tự làm, làm chẳng phải thần thông, gọi là chỗ Phật làm, thảy đều biết được.
Thứ ba, trong phần thấy phạm giới, im lặng không nêu tội, đầu tiên là im lặng không nêu tội.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Trên đây là đoạn hai, nói về bốn người kia hoà lẫn vào thế gian để pháp. Bốn người như thế, vì hộ pháp nên không gọi là phá giới. Đoạn ba này nói về sự thật không phạm.
Đoạn thứ tư là phải cúng dường, văn lược qua không nói. Trong dụ có bốn:
1 Dụ tà khởi, chánh diệt, dụ cho đoạn đầu ở trên.
2 "Bấy giờ, có một Bà-la-môn v.v..." trở xuống là dụ bốn y hoằng hóa, dụ cho đoạn hai ở trước.
3 "Lúc này, dù đồng tử đã làm việc này vẫn không lỗi v.v..." trở xuống là dụ tự làm không phạm, dụ cho đoạn ba ở trước.
4 "Ngoài ra, cư sĩ, Bà-la-môn v.v... nghe nói việc mà y đã làm v.v..." trở xuống là "Dụ phải được cúng dường", dụ cho một đoạn ít thứ tư ở trên.
Trong phần đầu có năm:
1. Dụ hóa chủ dời đổi biến diệt.
2. "Có Chiên-đà-la v.v..." trở xuống là dụ cho tà khởi, chánh phế.
3. "Trị phạt chưa lâu v.v..." trở xuống là dụ chúng chân chánh tanrã.
"Vua Chiên-đà-la biết người dân nước mình v.v..." trở xuống là dụ cho bọn tà che lấp chánh.
5. "Lại bảy ngày v.v..." trở xuống là dụ căn cơ chiêu cảm đến bậc Thánh.
Trong phần đầu, như vua, dụ cho Phật, Như lai. Chúng sinh chiêu cảm cùng tận, gọi là bị bệnh. Bậc Thánh hóa độ hoàn diệt, nói là sụp lở. Bồ-tát ở đường lành sẽ nối tiếp Phật hóa độ, gọi là "Các ông". Đức hóa độ chưa thành, nói là thường nhỏ. Chưa có khả năng hóa độ xa, gọi là chưa nối tiếp.
Trong câu hai, các Tỳ-kheo tội ác gọi là Chiên-đàla. Miệng biện minh tà vạy, gọi của báu dồi dào, cũng có thể những người này chứa nhóm nhiều tiền của, tài sản, gọi là đầy đủ của báu. Cho nên ở trên đã nói các Tỳ-kheo kia chứa chất tất cả vật bất tịnh v.v... để cho người giàu có tài giỏi kia đều hùa theo, gọi là nhiều quyến thuộc. Với phe đảng có thế lực cao sang giúp đỡ, gọi là dùng sức mạnh. Đợi cho chánh pháp suy vi, bỏ phế, gọi là rình thừa sơ hở. Thân đứng đầu đại chúng, gọi là soán ngôi vua.
Trong câu ba, hóa độ tà không xa chánh, khiến cho xa lìa, gọi là "Trị phạt chưa lâu".
"Người dân trong nước v.v..." trở xuống, chính là nói về các thứ hư hoại. Chúng chân chánh có ba là hạ, trung, thượng. Dùng phẩm hạ nhìn việc xấu ác không nhẫn, thân trở về chỗ khác, nên nói người trong nước bị đày đến nước khác xa xôi. Về phẩm trung, thân nhóm họp tâm trái, nên nói là tồn tại, cho đến mắt không muốn nhìn thấy vị vua này.
Người phẩm thượng thấy việc ác nhẫn được, thân không khác xưa, gọi là "Không lìa cõi nước". Trước là giải thích, sau là dụ. Một chúng chia làm ba, gọi là ly tan, hư hoại.
Trong câu bốn, Tỳ-kheo tội ác kia nghe nói chống trái, gọi là biết người dân trong nước làm phản rất đông, khiến cho bè lũ ác kia làm trở ngại, gọi là bài trừ các đạo Chiên-đà, Thủ-la.
Trong câu thứ năm, lại chia ra làm bốn:
1. Dụ cho căn cơ bệnh hoạn, chiêu cảm đến bậc Thánh.
2. Dụ thỉ hạnh không theo.
3 Dụ không theo có tổn hại.
4. Dụ theo Thánh có lợi ích.
Trong phần đầu, vì cảm đến bậc Thánh đều có kỳ hạn, nên nói là, bảy ngày. Căn cơ phát, chiêu cảm bậc Thánh, gọi là "Đánh trống". Cảm đến bậc Thánh, biểu lộ rõ ràng, gọi là xướng lệnh. Kính cảm bốn người làm người đứng đầu của mình. Cho nên, về nghĩa, nói là thỉnh Bà-la-môn có khả năng làm thầy quán đảnh cho ta. Thầy có khả năng rưới nước pháp lên đỉnh tâm mình, gọi là sư quán đảnh. Hóa độ người thiện trở về nước kia, gọi là nửa nước, phong thưởng cho chức tước, bổng lộc. Cũng có thể đồ chúng về sau, sẽ cùng theo khuôn phép, gọi là tặng thưởng chức tước cho nửa nước.
Trong dụ thỉ hạnh không theo bậc Thánh thứ hai. "Các Bà-la-môn đều không đến", là nói thân không theo. "Đều nói v.v..." trở xuống là nói miệng không theo.
Phần thứ ba là trong dụ không theo có tổn hại, việc tổn hại rõ ràng, gọi là "Nói lời này". Giòng của thỉ hạnh giữ lấy chánh không theo, gọi là "không có người nào làm thầy ta". Bỏ chánh thì đồng với tà, cho nên nói: "Phải làm cho các Bà-la-môn ở chung với Chiên-đà-la. Cư trú chung qua đêm, nói đồng với thân họ, đồng sự nghiệp với họ, nói là hạnh đồng.
Thứ tư là trong dụ cùng hóa độ có lợi ích, một nửa nước không hư.
Cả hai cách giải thích đều đồng với giải thích ở trước.
Điều mà kinh Niết-bàn giải thích là pháp thường, cuối cùng phải đồng tu, gọi là chú thuật đã gây nên thuốc không chết, thích hợp với phần thức ăn chung.
Đoạn hai là trong dụ bốn y hoằng hóa, văn chia làm hai:
1. Dụ bốn y theo tà.
2. "Lúc bấy giờ, đồng tử tâu với nhà vua kia v.v..." trở xuống là dụ phá tà, suốt qua chánh.
Trong phần trước có năm câu:
1. Dụ bên trong có đức hóa độ.
2. Dụ ứng hiện hóa độ tùy theo chúng sinh.
3. Dụ hóa độ thích hợp với căn cơ chúng sinh.
4. Dụ giận hờn, ngờ vực của thỉ hạnh.
5. Dụ hóa độ điều lành này, mình cũng gọi là dụ mẫu mực chung cho đồ chúng.
Trong câu đầu: "Tịnh hạnh của Chư Phật", gọi là Bàla-môn. Y theo hóa độ chúng sinh, gọi là con của Bà-lamôn. Vì dựa vào "Sự hóa độ không đều", nên nói là "một". Pháp thân tốt đẹp", gọi là lứa tuổi đôi mươi. "Trì giới không phạm", gọi là "Tu tịnh hạnh". Dũ lòng đại Bi gọi là "Tướng tóc dài". Thông suốt Thánh giáo, gọi là "Giỏi về chú thuật".
"Hóa độ căn cơ chúng sinh" trong câu hai, gọi là đến chỗ vua. "Hóa hiện nghĩa tình của chúng sinh, gọi là "Trăm vua". Tùy điều cầu mong của con người, Đức Phật đều cảm ứng, gọi là "Đối với sắc lệnh của vua, ta đều có khả năng vâng làm."
Hóa độ thích hợp với tình cảm của chúng sinh trong câu ba, gọi là "Vua vui mừng".
Tâm chúng sinh yêu thích, gọi là "Nhận đồng tử, làm thầy quán đảnh."
Trong câu bốn, "Các Bà-la-môn nghe nói đều sinh tâm giận giữ, ngờ vực."
"Trách ở đây v.v..." trở xuống là miệng nói quở trách, quở chánh đồng với tà, cho nên trách: "Ba la môn sao ông lại làm thầy của Chiên-đà-la?"
Trong câu thứ năm: "Hóa độ thiện sư gọi là vua cho đồng tử này nửa nước. Cũng có thể với khuôn phép chung, thống lãnh chúng, gọi là cho đồng tử nửa nước.
Đồng hóa độ lâu ngày, gọi là "Cai trị chung nước, trải qua nhiều năm."
Trước nay đã theo tà, dưới đây là đoạn hai, phá tà, thông suốt chánh, trong đó có bốn:
1. Dụ thông suốt chánh.
2. "Bấy giờ, đồng tử dùng các thứ lẫn lộn v.v..." trở xuống, là dụ cho dẹp bỏ tà.
"Bấy giờ đồng tử lập gốc, "Các ông trở lại làm vua v.v..." trở xuống, là dụ lập chánh.
4. "Bấy giờ, đồng tử đi kinh lý là v.v..." trở xuống, là dụ quở trách tà.
Tám câu trong phần trước, năm câu đầu là nhiếp chánh trở về mình. Ba câu sau là dùng chánh để hóa độ tà kia.
Trong phần trước, câu đầu là nói oán ghét trở ngại, xa tà kia, hóa độ làm sáng tỏ tâm chúng sinh, gọi là lời vua nói. Cũng có thể miệng nói gọi là "Ngữ".
"Ta bỏ gia pháp để đến đây làm thầy vua, dạy cho vua chú thuật, nói lên lợi ích của mình. Vua kia nói mình đến trước, bỏ chánh theo tà. Hóa độ, truyền trao pháp Tiểu thừa, gọi là "Bỏ gia pháp, đến làm thầy vua, dạy cho chú thuật", mà nay, nhà vua vẫn không thấy thân, oán tà xa mình. Đại thừa chưa đồng tu tập, gọi là "không thấy thân".
2. Vua kia nghe nói ngạc nhiên. Ngạc nhiên vì nghe kẻ thù, nên nói: "Sao không thân với ông ư?"
3. Nói về kẻ thù của mình. Pháp thường trụ mà Phật quá khứ đã chứng, gọi là thuốc bất tử của Tiên vương. Vua kia chưa đồng tu, gọi là "không ăn chung".
4. "Vua nói lành thay v.v..." trở xuống là suy tôn bốn y hóa độ. Vì nghe nói, vua vui mừng theo, nên nói: "Lành thay!" chứng tỏ mình từ xưa đến nay chưa thể nhập ý hóa độ, gọi là "thật không biết".
Dùng pháp Đại thừa để hóa độ, tìm về với Bồ-tát, gọi là "xin đem đi".
5. "Bấy giờ v.v..." trở xuống là nhiếp chánh về mình. Pháp nhiếp theo mình, gọi là lấy trở lại nhà.
Trên đây, một đoạn là nhiếp chánh về mình. Từ đây trở xuống, ba câu dùng Chánh để hóa độ tà kia. Trước là thỉnh đại thần ăn chung, là hóa độ đệ tử. Vì đệ tử bệnh nhẹ, nên hóa độ trước. Dùng pháp nhiếp thọ, gọi là thỉnh Đại thần. Tự thực hành Đại thừa, khuyên đại thần kia đồng tu, gọi là ăn chung với Đại thần.
2. Đệ tử khuyên thầy hãy dùng lý để hiển bày, gọi là vua tự chung. Vì khen người y có pháp, nên nói: "Vui thay! Đại sư có thuốc bất tử này!"
3. Thầy nghe ưa thọ, khuyên tỏ ngộ, hiểu biết, gọi là "Biết mình". Vì không sớm nghe tiếng oán, nên nói: "Sao riêng uống, ăn cam lộ với các thần, mà không thấy phần mình."
Trên đây là dụ thứ nhất, nói thông suốt chánh. Dưới đây là dụ thứ hai, nói dẹp bỏ tà. Y trước vì nói pháp, để trách cứ tội, gọi là "Thuốc lẫn lộn với chất độc, khiến cho các quan kia nghe, nhận lãnh, gọi là "Cho uống".
Tỳ-kheo tội ác kia nghe nói vua, quan vì uống thuốc của mình, bỗng nhiên cảm thấy hổ thẹn, nên nói "Phút chốc". Pháp hạnh ở tâm, gọi là thuốc phát ra. Tâm cảm thấy hổ thẹn, gọi là phiền muộn, tán loạn.
"Biết minh xấu v.v..." trở xuống là bỏ ý tự cao, gọi là trợt chân ngã xuống đất. Vì rất ăn năn, hổ thẹn, nên không hay biết, giống như người chết.
Dưới đây là dụ thứ ba, nói về lập chánh, ở trong đó, đầu tiên là lập chánh thay tà, hợp với đường lành kia. Lập ra giai cấp Bồ-tát mẫu mực, nối dõi Phật hóa độ, gọi là lập "Các ông" lại để làm vua. Lại vì vốn hóa độ chính đáng, nên gọi là "Trở lại".
"Nói lên lời này v.v..." trở xuống là quở tà, khuyên chánh, đầu tiên là quở tà. Tòa chánh pháp, về lý chẳng phải phá giới. Vì là chỗ người ác, nên nói ngự pháp tòa, không nên để cho Chiên-đà-la bước lên. Người ác phá giới mà lại đứng đầu chúng xưa nay chưa có, nên nói: "Xưa nay chưa từng nghe thấy Chiên-đà-la lên làm vua. Nghĩa là người tội ác mà làm khuôn phép cho chúng, thì thật không có việc ấy, nên nói: "Chiên-đà trị vì nước sửa sinh dân, thì không có việc đó."
Sau đây, là nói khuyên chánh làm khuôn phép, nối dõi Phật hóa độ đối tượng thích nghi của Bồ-tát, nên nói: "Nay, ông hãy nối dõi Tiên vương đúng như pháp trị nước."
Dưới đây là thí dụ thứ tư, nói về trừ tà. "Bấy giờ, đồng tử đi kinh lý ở đây xong" là nhắc lại trước, sinh sau. Kinh lý việc phế tà, lập chánh xong. Lại, trao thuốc giải cho Chiên-đà, nghĩa là phương pháp sám tội, gọi là thuốc giải. Truyền dạy sám hối, gọi là "Cho Chiên-đà". Trừ tội, tâm vui mừng, nói là "Tỉnh ngộ".
Chiên-đà kia phạm tội nặng, dù đã sám hối xong, nhưng vẫn phải đuổi đi, buộc phải xa cách chúng thanh tịnh, gọi là đuổi ra khỏi chúng.
Dưới đây là thí dụ thứ ba, nói về bốn y.
"Tự tu hành không trái phạm", là hạnh đồng tử dù là đúng, nghĩa là dù đồng sự với tà ở trước, từ tà, thông chánh, nói được gồm mất, nên gọi là "Dù". Tự tu hành không phạm, gọi là "Cũng không mất pháp của Bà-lamôn."
Dưới đây là dụ thứ tư, nói về bốn y hợp với "Phải cúng dường". Bồ-tát mới thực hành, gọi là cư sĩ khác.
Bà-la-môn v.v..., thấy Bồ-tát kia khéo hóa độ, gọi là nghe đồn việc Bồ-tát đã làm, khen việc làm đó rất độc đáo, tuyệt đối, gọi là "Khen chưa từng có".
Khen rằng: "Lành thay! v.v..." trở xuống là nói ra lời Phật khen Bồ-tát.
Dưới đây, là hợp có bốn, không thứ lớp với trước, ở trước hợp với đoạn thứ nhất.
"Hộ pháp v.v..." trở xuống là hợp với đoạn hai.
"Bấy giờ, nếu Bồ-tát thấy v.v..." trở xuống là vượt qua hợp với đoạn thứ tư, nói hợp với "Cúng dường".
"Nếu có người thấy người hộ pháp v.v..." trở xuống là hợp với đoạn ba, nói "thật không phạm".
Trong đoạn đầu, "Sau khi ta Niết-bàn", là hợp với trước nói: "Nhà vua bị bệnh, sụp lở, mất mát, các ông còn trẻ nhỏ, chưa có khả năng gánh vác nối dõi v.v..."
Trong đoạn hai nói Bồ-tát hộ pháp cũng giống như thế, hợp với ở trên nói: "Có con một người Bà-la-môn, khoảng hai mươi tuổi, tu trì, tịnh hạnh, tóc dài, dùng năng lực phương tiện để đồng việc với tăng phá giới", hợp với "Đến chỗ vua, cho đến điều trị chung trải qua nhiều năm." Các việc khác lược qua không hợp.
Văn trong đoạn ba, có chia làm bốn:
1. Khuyên cúng dường.
2. "Vì duyên này v.v..." trở xuống là kết hội lời nói trên.
3. "Như Bồ-tát kia v.v..." trở xuống là nêu dụ để đánh dấu làm tin.
4. "Lành thay! v.v..." trở xuống là y theo dụ để làm rõ pháp. Trong đoạn đầu, bấy giờ, Bồ-tát nêu người được khuyên. Đây là gọi người năng cúng dường kia là Bồtát. Người học Đại thừa trong các Thanh văn là người năng cúng. "Nếu thấy có người dù thường phạm giới là nêu người được cúng dường.
"Liền đến v.v..." trở xuống chính là khuyên cúng dường. "Cung kính, lễ bái" là nói thân cúng dường.
"Bốn việc v.v..." trở xuống là nói cúng dường của, cúng dường của có ba:
1. Tự có của dâng lên cúng.
2. Không mong cầu mà cho.
3. "Vì phải v.v..." trở xuống là nói vì cúng dường nên được cất tám vật bất tịnh, trong đó có bốn trường hợp:
Nói được cất chứa tám vật bất tịnh. Tám vật ấy là:
Như Thiện Sinh kia, trong kinh Ưu-bà-tắc, có nêu đủ tên tám vật bất tịnh là:
1. Có nhiều ruộng đất, vườn nhà.
2. Gieo giống, trồng cây.
3. Chứa nếp, lúa tẻ, ở già lam cầu lợi.
4. Chứa nuôi tôi tớ, người dân.
5. Chứa nuôi gia súc.
6. Cất chứa vàng bạc, của tiền, vật quý báu.
7. Chứa ngà voi, vàng bạc, chạm trổ bằng chỉ vàng, các châu báu, giường to, gối thêu gấm, nệm lông thú.
8. Chứa tất cả chõ vạc bằng đồng.
Chứa tám thứ này làm cho hoen ố tịnh giới, nên gọi là bất tịnh. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
"Bấy giờ v.v..." trở xuống là nói chứa để không có tội. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Trên đây là khuyên cúng dường. Dưới đây là đoạn hai, kết hội ý lời Phật nói trên.
"Do duyên này", nghĩa là vì bốn y này dẹp tà, lập chánh, thông suốt pháp nhân duyên.
"Trong kinh này, ta nói hai bài kệ này để cho các Bồtát cúng dường pháp." Hai bài kệ sau, có thể biết. Đoạn ba đã nói xong.
Đoạn thứ tư, trong phần tự thực hành không có phạm, có chia làm bốn câu:
1. Nêu chê bai sẽ phạm tội, là nói việc thực hành kia không phạm.
2. Hộ pháp, v.v... trở xuống là nói thật không phạm, thành chê bai phạm tội
3. Có Tỳ kheo, v.v... trở xuống là nêu phạm để nói về trì.
4. Bồ tát v.v... trở xuống là trì khác với phạm, trước nói không phạm. Vì sao, v.v... trở xuống là giải thích. Trên đây như ta trước nói đến đây, hợp thành đoạn đầu, nói bốn người này là trì chẳng phải phạm cho nên bảo phải cúng dường.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Dưới đây là đoạn hai, nói bốn người kia vì là người lớn, không còn thơ bé, nên Phật bảo cúng dường. Bốn người kia thật sự đã thực hành lâu hạnh đầu tiên hóa độ, nên trong kinh, ta đã che giấu tướng mà nói rằng: "Nếu ít ứng cúng, về lý, thật ra họ đã thực hành lâu từ đời trước."
Trước kia, đã y theo người được giáo hóa mà hội thông. Ở đây, y theo người được cúng mà vì hội thông.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống là đoạn ba, kết hội ý. Y theo đoạn đầu trong hai đoạn trước để kết.
"Vì Thanh văn này không biết nhân duyên quyền hóa của bốn y, nên nay ta không nói kệ cho Thanh văn.
Vì Bồ-tát biết, nên ta nói kệ cho họ nghe." Y theo hội thông có hai câu hỏi đáp:
Một hỏi đáp trước là nói bốn người kia rất "Đáng cúng dường".
Một hỏi đáp sau là nói về người bốn y có đủ bổn giới, thành tựu ứng cúng ở trước. Vì Bồ-tát vốn đã nhận lãnh công hạnh trái với thông qua giới pháp. Thời nay, vì việc làm của Bồ-tát đều tương xứng với "bổn giới", nên được tồn tại đầy đủ.
Trong văn, Bồ-tát Ca-diếp hỏi trước để khởi phát.
"Bồ-tát ấy, đối với giới rất thong thả", dùng làm một câu, là nhắc lại việc trước.
Cùng với người ác phạm giới, gọi là thong thả. Bổn giới vẫn tồn tại không vì câu thứ hai mà chính là để thưa hỏi.
Sau đây, Đức Phật trước quở trách Bồ-tát:
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trước hỏi, sau giải đáp. Trong giải đáp có hai:
1. Đối với câu sau, nói giới còn đủ.
2. "Thong thả đối với thừa v.v..." trở xuống là đối với câu trước, nói giới không thong thả (hoãn đãi).
Trong phần trước, đầu tiên là nói tự mình thực hành thanh tịnh, nên giới đầy đủ. Như bờ đê, v.v... trở xuống là giúp người khác giữ giới thanh tịnh nên giới đầy đủ.
"Nếu có người trì giới thanh tịnh v.v..." trở xuống là nói giới còn.
Trong tự thực hành tịnh giới, giới vốn đã thọ lãnh, nhưng vốn đã không mất, nói về chuyên hộ trì.
"Dù cho có v.v..." trở xuống là nói phạm rồi, sám hối. Trong phần làm tịnh hóa người khác, trước là dụ, sau là hợp.
Y theo thí dụ trước, đầu tiên là nói ngược lại, không trị phạt, sẽ có tổn hại. Đống đất ngăn nước, gọi là đê, dụ cho các pháp. Các pháp tổn hại, gọi là có lỗ thủng. Nước dụ cho chúng tăng. Hạnh của tăng thiếu kém, gọi là rò rỉ.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
"Nếu có v.v..." trở xuống là nói thuận với lợi ích của trì giới. Bốn y vì người thực hành pháp, vì sửa trị hạnh của Tăng sao cho không có tổn hại, gọi là "Nước không có thoát ra."
Dưới đây trong hợp, trước hợp với ích lợi của việc trị phạt:
"Bồ-tát cũng vậy", hợp với "Có người". Dù đồng với giới Bồ-tát kia, nhưng tăng sự kia tất cả giới luật, không phải như bờ đê có lỗ thủng rò rỉ chảy ra, hợp với "Nước không thoát ra".
Sau đây, là hợp với "Sự tổn hại không trị phạt ở đầu". Nói "Vì sao", là gạn hỏi trước, khởi sau: "Vì sao giới luật không như bờ đê?"
"Nếu không có v.v..." trở xuống là nêu câu sau làm rõ trái với câu trước để giải thích.
"Nếu không có người trì giới thanh tịnh" thì hợp với "Vì không có người trị phạt" trong câu đầu.
"Tăng thì tổn hại" v.v... trở xuống là hợp với bờ đê có lỗ thủng" thì nước sẽ rỉ chảy" trong câu đầu.
Trong câu kết thứ ba, "Nếu có người trì giới thanh tịnh" là nhắc lại bốn y.
"Tức có thể v.v..." trở xuống là kết thúc nói giới tồn tại.
Sau đây, đối lập với câu đầu là nói về giới không huân đãi. Về câu, chia làm ba trường hợp:
1. Lập rộng đạo lý đối với người đảm nhiệm thong thả, mới gọi là hoãn đãi đối với giới. Người thong thả không gọi là hoãn đãi. Không thể đi vào cuộc đời để thông với Đại thừa, gọi là thong thả đối với thừa. Vì pháp trông coi nhàn tản, nên gọi là thong thả. Lại, vì trái với chánh giới Đại thừa của Bồ-tát, nên gọi là hoãn đãi. Lại, vì thuận theo chánh giới của Đại thừa Bồ-tát nên không gọi là thong thả.
2. Nói Bồ-tát không thong thả đối với Thừa, thì được gọi là không hoãn đãi đối với giới. Vì pháp phá hư giới gọi là đối với Đại thừa, tâm không lười biếng, trễ nãi. Lúc thọ giáo xưa kia phải kỳ hạn như vậy. Vì xứng đáng với đại giới, nên gọi là bổn giới. Vì gọi là bổn giới, nên đối với giới không trì hoãn.
3. "Vì hộ pháp v.v..." trở xuống là nói về người ấy, do pháp diệt tội, trở thành giới không hoãn đãi. Vì hộ pháp, nên dùng nước Đại thừa, để tự tắm gội, nên được vô tội. Vì đã mở rộng Đại thừa, có công năng dứt trừ tội nhơ, nên gọi là nước. Hộ trì chánh pháp, sẽ dứt trừ được tội, gọi là tự tắm gội. Nước Đại thừa này, vì tự mình tắm gội, nên dù phá cũng không thong thả.
Trên đây, Phật đã khuyên nên cúng dường. Từ đoạn hai sau đây, Đức Phật dạy cần xem xét bốn y kia. Trước đã xem xét xong, đâu cần phải xem xét lại.
Giải thích:
Ở trước, vì ma biến hóa thành tà y đến khuấy rối chánh, nên Phật bảo phải xem xét. Nay, bốn y này cũng đồng phá giới, vì chánh lẫn lộn với tà, nên lại phải xem xét. Ca-diếp trước thưa hỏi, kế là Như lai dạy bảo.
"Ca-diếp v.v..." trở xuống là lại nhận hiểu, khen ngợi.
Trong thưa hỏi, đầu tiên là nói: "Trong chúng tăng có bốn hạng người. Pháp thuyết, là nói quá lạm: trong chín, ngoài sống; ngoài sống, trong chín; trong, ngoài đều sống; trong, ngoài đều chín, là bốn hạng người, như quả Am-la.
Dụ thuyết, là nói quá lạm: "Phá giới, trì giới làm sao nhận biết được? Xin Phật chỉ dạy cho?"
Sau đây, trong sự chỉ dạy của Phật, "Nhân đại Niết-bàn thì biết được dễ dàng", Phật chỉ dạy chung về pháp chứng nghiệm.
"Thế nào là nhân v.v..." trở xuống là chỉ dạy riêng cách chứng nghiệm. Trước hỏi, sau giải thích.
Giải thích rộng về cách chứng nghiệm. Nói chứng nghiệm thì phải phải dựa vào giáo rộng của ba tạng, mới khẳng định được phải, trái, đúng, sai. Chứng nghiệm về hạnh thì phải thêm vào đó bốn giáo. Ở chung một chỗ lâu, dùng trí tuệ để quán sát, là bốn người kia. Ở chung một chỗ lâu để nghiệm xét về thân hạnh của họ. Dùng trí tuệ quán sát, xem xét tâm hạnh của mình. Thân có sự khác nhau giữa khó biết và dễ hiểu. Về dễ hiểu, là ở chung, thì biết. Ở chung, không rèn luyện, thêm vào đó ở chỗ lâu, trong tâm cũng có sự khác nhau của khó, dễ. Dễ nhận thức, nghĩa là dùng tuệ xem xét thì biết ngay. Nếu tuệ không hiểu rõ thì thêm quán sát. Y theo giáo để chứng nghiệm tâm mình, gọi là trí tuệ. Dùng lý lẽ để trắc nghiệm, tìm kiếm, thì gọi là quán sát.
Dưới đây, trong văn, Phật dạy dùng bốn quán để xem xét chứng nghiệm hạnh của mình, trong đó có ba dụ:
1. Dụ người cày ruộng, dạy bốn y cư trú chung một chỗ lâu để kiểm nghiệm.
2. Dụ rừng, Phật dạy dùng trí tuệ.
3. Dụ thuốc, dạy dùng quán sát.
Trong phần đầu, trước là thí dụ. Trong dụ, từ đầu đến gọi là ruộng sạch là nói về ở chung. Chúng tăng như thửa ruộng, có công năng sinh ra phước, người gieo trồng phước đức giống như người cày rộng, cúng dường chúng tăng sanh phước như gieo trồng lúa nếp. Ác hạnh trong tăng, giống như thứ lúa đắng. Vì phân biệt ác để cúng dường thiện, nên gọi là cỏ lúa thơm sạch. Nhìn sơ qua giống như tốt đẹp, gọi là cách nhìn của nhục nhãn, gọi là ruộng sạch.
"Đến khi bốn y kia đã thành tựu v.v..." trở xuống là dụ cho nói ở chỗ lâu, giống như lúa đắng, giống như nếp tẻ, vì không thể phân biệt được, nên phải chờ đến khi chín mới thấy khác.
Sau đây là hợp, trước hợp với đoạn đầu:
"Tám việc như thế làm ô nhiễm tăng", hợp với "Lúa đắng" ở trước. Chứa tám vật bất tịnh, gọi là tám việc. Như cỏ dại làm nhơ ruộng, gọi làm ô nhiễm (hoen ố) tăng. "Nếu dứt trừ" thì hợp với "Nhổ sạch cỏ lúa thơm".
"Dùng nhục nhãn nhìn thì biết sạch", hợp với cách nhìn của nhục nhãn, gọi là ruộng sạch.
"Nếu có người trì giới v.v..." trở xuống là hợp với "thành tựu đều khác" ở đoạn sau.
"Trì giới, phá giới, lúc người đó không làm điều xấu ác, thì khó biết v.v..." trở xuống là phân biệt, nói trái lại: chưa thành thục, vì khó có thể phân biệt khác.
"Nếu việc ác tỏ rõ v.v..." trở xuống chính là hợp với cỏ, lúa đã chín, mỗi thứ đều khác nhau. "Nếu điều ác được biểu lộ rõ ràng, thì dễ biết", hợp với "cỏ khác với lúa".
"Như lúa đắng v.v..." trở xuống là nêu dụ, để làm dấu.
"Trong tăng cũng vậy", là hợp "Lúa khác với cỏ." Vì tăng như ruộng sạch, nên nói là "Cũng vậy". Nếu lìa bất tịnh, là nói lìa lỗi của Tăng. Tám vật bất tịnh bị tổn hại, gọi là "Pháp của rắn độc".
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết khen, chỉ rõ pháp vượt hơn. "Nên vì v.v..." trở xuống là nói hợp với "Cúng dường"
"Chẳng phải nhục nhãn v.v..." trở xuống là nói chỉ trụ lâu mới nhận biết được.
Trong trí tuệ chứng nghiệm, trước là dụ, sau là hợp.
Trong dụ có bốn:
1. Dụ tà chánh xen lẫn.
2. "Quả tà kia đã thành thục v.v..." trở xuống là dụ vô trí mà lạm truyền.
3. "Phàm ngu v.v..." trở xuống là dụ người ngu không phân biệt.
4. "Có trí v.v..." trở xuống là dụ cho người trí có khả năng phân biệt.
Trong phần đầu, Ca-la, dụ cho Tăng phá giới. Người phá giới, nhiều gọi là đông nhiều. Đầu trấn, dụ người của bốn y. Người y hóa độ không đều, nên nói là một. Y hóa độ đồng với tà, gọi là quả tương tự không thể phân biệt.
Phần hai, trong dụ không có trí mà lạm truyền, y và người tà gọi là "Theo hiểu biết của mình, lập ra thuyết để dạy người, gọi là khi quả thành thục".
Có một cô gái dụ cho người lạm truyền. Cô gái có nhiều nghĩa, trong đây chỉ là tà không có trí làm dụ. Tà chánh đều nhận lãnh, gọi là đều "Nhặt lấy". Vì tà nhiều, chánh ít, nên nói đầu trấn, vừa có một phần, Ca-la mười phần. Tà chánh lạm truyền, gọi là cô gái không biết. Ở trong chúng tuyên bố, gọi là đem "Ra chợ để bán".
Trong câu ba, phàm ngu, trẻ nhỏ, dụ cho người lạm thọ. Vì trẻ nhỏ không có trí, nên lấy làm thí dụ. Không biết đồng với trước, gọi là không còn phân biệt. Bỏ chánh, lấy tà, gọi là mua Ca-la. Vì thọ pháp tà đọa vào ba đường ác, nên gọi "Nuốt rồi chết".
Hạng người có trí trong câu bốn, dụ cho người năng phân biệt. Biết người ngu kia thọ lãnh tà có tổn hại, gọi là nghe việc này. Vì tìm được chỗ theo, nên nói là "Chỗ nào?"
"Cầm quả này đến đáp chỗ nghe của người kia, gọi là chỉ cho phương hướng, nơi chốn."
Người trí biết tà kia nhiều, chánh ít, nên nói "vùng này có nhiều quả Ca-la, chỉ có một trấn đầu, là bỏ tà không nhận, gọi là "Cười rồi bỏ đi".
Trong hợp, chỉ hợp với đoạn thứ nhất, thứ ba và thứ tư, không hợp với đoạn hai.
Trong hợp với đoạn đầu, "Trong đại chúng, nhập pháp bất tịnh cũng giống như thế", hợp với rừng Ca-la. Văn này lược thiếu. Nếu đủ, thì nên nói: "Nhận chứa tám pháp bất tịnh, người cũng như thế." Trong chúng này thường có nhận chứa. Tám pháp này hợp với rất nhiều cây. "Chỉ một người trì giới không nhận vật bất tịnh" hợp với "Chỉ có một cây, gọi trấn đầu-ca." Biết chứa để là phi pháp, nhưng không lìa bỏ đồng sự, dường như hợp với quả.
"Như rừng kia v.v..." trở xuống là nêu ví dụ để yên định. Đoạn đầu này đã nói xong, kế là hợp với đoạn hai, đoạn ba, "Người mau không phân biệt".
"Có Ưu-bà-tắc" hợp với đứa "trẻ ngu".
"Thấy các người này có nhiều điều phi pháp, đều không cung kính", hợp với trái lại "Không phân biệt mua quả Ca-la ăn xong là chết." Nghĩa là không cung kính, cúng dường người bốn y này.
Trong dụ, chứng tỏ người kia gặp lượm lấy chung. Trong hợp, nói "Người kia đều vứt bỏ mất, đều không phân biệt" nêu lên hai bên.
Sau đây là hợp với đoạn thứ tư: "Người trí có khả năng phân biệt", trong đó có bốn câu:
1. Đức Phật dạy phải xét hỏi: "Với tám vật bất tịnh Phật cho phép cất chứa hay không?"
2. Nếu người kia nói là Phật cho, lại dạy xét hỏi, người như thế có được làm yết-ma chung với Bồ-tát hay không?"
3. Nếu người kia nói: "Được!", lại dạy thọ kinh để chứng nghiệm thuyết của họ.
Hỏi như thế xong, đều nói "Tám việc Như lai đều cho", nêu đáp lại người tà kia.
Sau đây, là Phật dạy xem xét chứng nghiệm: Ở Kỳhoàn, có Tỳ-kheo nói: "Đức Phật cho chứa vàng, bạc", là nêu lời nói tà xưa. Hoặc nói: "Phật không cho", là nêu chánh ngữ xưa.
Có người nói "Cho", là nhắc lại người tà ở trước, "Không cho" là nhắc lại người chánh ở trước.
"Không cho đồng chung" là nói chánh đuổi tà, "Không cho ở chung, nói giới, tự tứ", là nói pháp khác nhau, cho đến không uống chung một dòng sông là nói về sự khác nhau. "Sao các ông lại nói Phật cho chứa?" là lấy xưa để gạn hỏi nay.
4. Phật quở người tà kia rồi khuyên. Phật là Trời trong loài trời, dù là tiếp nhận, chúng tăng các thầy cũng không nên chứa. Đối với lời đáp đầu tiên ở trên, khuyên tự mình không nhận. Phật vì lợi người, nên cho pháp nhận vàng, bạc v.v... chúng Tăng vì cá nhân mình, không nên chứa cất.
"Nếu có nhận v.v..." trở xuống là đối với lời đáp sau ở trên là nói người có nhận, không nên đồng chung. Trước khuyên khác nhau.
"Nếu nói chung v.v..." trở xuống là nói đều có tổn hại. Trước là pháp, sau là dụ.
Trong quan sát chứng nghiệm, đầu tiên là lập dụ, kế là hợp, sau là khuyên.
Trong dụ y theo hợp lẽ ra có ba:
1. Dụ tà chánh xen nhau.
2. Dụ người ngu không phân biệt.
3. Dụ người trí có khả năng phân biệt.
Nay, trong đoạn văn này chỉ có hai thí dụ trước, lược qua thí dụ thứ ba.
Y theo đoạn đầu, "Thành thị" dụ cho chúng. "Có người bán thuốc", dụ cho người nói pháp.
"Có thuốc cam lộ mầu nhiệm xuất hiện ở núi Tuyết", là dụ cho nói chánh pháp xuất hiện ở kinh Niết-bàn, "Cũng bán thuốc tạp nhạp" dụ cho nói pháp tà. Lời nói tà thuận với tình, gọi là vị ngọt. Vì thuyết tà lạm chân, nên nói "Tương tự".
Đoạn hai, trong dụ "Người ngu không phân biệt", các người muốn mua thuốc ngọt. Nhưng người không biết, ngay từ đầu đã không biết.
"Đến người bán thuốc v.v..." trở xuống là khoảng giữa không biết.
Đầu tiên là hỏi, kế là đáp.
"Người này v.v..." trở xuống là cho pháp tà kia, gọi là dùng thuốc tạp nhạp. Vì khen sai là đúng, nên nói: "Đây là thuốc ngọt ở núi Tuyết."
"Bấy giờ người bán v.v..." trở xuống vì tâm ám muội không thấu suốt tà, chánh, nên nói: "Nhục nhãn không thể khéo biết. Nghe nói cho nhận, gọi là "mua rồi đem đi".
"Lại nói v.v..." trở xuống là lúc sau cùng, không biết, là sai là đúng nên nói: "Tôi được thuốc ngọt ở núi Tuyết".
Trong hợp có hai: "Trước, hợp với ban đầu, "Nếu chúng Thanh văn" là hợp với "thành thị" ở trước. Cho đến bốn y cũng gọi Thanh văn. Bốn y xuất thế, ứng hiện làm Thanh văn, hóa độ chúng sinh, nên có tăng giả danh, hợp với "Người bán thuốc độc trong thành thị". Thật ra không có đức của Tăng, giả gọi là Tăng, gọi là Tăng giả danh. "Có tăng chân thật", hợp với người bán thuốc hay ở núi Tuyết.
Người bốn y thật sự có đức của Tăng, gọi là Tăng chân thật. Tăng hòa hợp, là hợp với vị tượng tự. Tà, chánh xen nhau gọi là hòa hợp Tăng, lại không có người nào khác. "Nếu trì giới v.v..." trở xuống là hợp với đoạn hai ở trước, nói về người ngu không phân biệt. Trước hợp, sau yên định.
"Ai là trì? v.v..." trở xuống, là đoạn ba, hợp với đối tượng ít ở trên, nói người trí có khả năng phân biệt.
"Ai trì giới, ai phá giới?" y theo hạnh để phân biệt. "Ai chân ai giả", y theo người để phân biệt. Đây là nêu sở tri. Người có thiên nhãn mới phân biệt được, chứng tỏ năng biết kia, là người có thiên nhãn thanh tịnh của Ba thừa mới biết được.
Trong lời Phật khuyên có ba trường hợp:
1. Nói ở đời vị lai, sẽ có người phá giới, không nên giúp đỡ, lễ bái, cúng dường họ.
2. Người có nhận chứa để vật bất tịnh, cũng không nên bố thí, lễ bái, cúng dường.
3. Giới trọng, khuyên người có phá giới, không nên vì nhân duyên mặc cà-sa mà cung kính, lễ bái họ. Vì lỗi phá giới rất nặng, nên nêu nghiêng về một bên.
Dưới đây là đoạn ba, nhận hiểu, khen ngợi: Lành thay! Là lời khen, lời nói khác là nhận hiểu.
Nói chân ngã thọ pháp, gọi là nhận hiểu. "Như Kim cương v.v..." là dụ nói nhận hiểu.
Trên đây, đối với câu hỏi, chính là nói về nhân y.
Dưới đây là đoạn hai, đối với xưa, hội thông. Pháp xưa, nhân nay, vì hai lời nói khác nhau, nên phải hội ý. Cũng tức là nói pháp "Sở y" của hạnh người kia. Bồ-tát Ca-diếp trước là hỏi. Trong phần hỏi, trước nêu pháp mà xưa đã nói, chẳng phải do bốn hạng người, nên đối với người để gạn hỏi.
Trong phần trước, như nói: "Phải nương bốn pháp", nêu chung lời nói xưa.
"Thế nào là? v.v..." trở xuống là nói riêng. "Như thế v.v..." trở xuống là kết.
Sau đây là Phật hội ý, trong đó trước nêu giải nghĩa bốn y, như chương riêng có nói.
Trong văn có hai:
1. Nói về pháp tức nhân để hội ý. Nay, pháp đã được nói tức là bốn người, nên dựa vào pháp nay cũng dựa vào bốn người. Pháp đã nói xưa vì khác với bốn người, nên dựa vào người nay, nghĩa là không dựa vào pháp xưa.
2. Phân biệt pháp khác với người để hội ý. Vì người và pháp khác nhau, nên người là nhục nhãn, pháp là tuệ nhãn.
Trong phần trước có hai lượt:
1. Từ thể khởi dụng để nói về bốn y.
2. Từ "Lại nữa", y theo nghĩa v.v... trở xuống là y theo quả, tìm kiếm nhân, để nói về bốn y.
Y theo lượt đầu, trước là giải thích, sau là kết.
Trong phần giải thích, đầu tiên là nói về y pháp của bốn y. Pháp là thể đại Niết-bàn của Chư Phật, nên trước phải giải thích. Kế là nói về nghĩa y. Nghĩa: pháp thân, giải thoát, Bát-nhã, tất cả các đức. Vì y thể của đức, nên kế là nói về thể. Kế là nói về y trí. Trí, nghĩa là trí Nhất thiết chủng của Chư Phật. Vì y đức, khởi công dụng trí của A-hàm, nên kế là nói về đức.
Thứ tư là nói về y kinh liễu nghĩa của bốn y. Kinh, nghĩa là giáo pháp Đại thừa của Chư Phật. Vì y trí khởi thuyết nên kế là nói về trí.
Văn trong y pháp đầu tiên, có chia làm bốn:
1. Chính là nói về y pháp không y người.
2. "Bốn hạng người đã nói trên v.v..." trở xuống là chọn chân khác với ngụy, nói không y người đã nói ở trước, nghĩa là không nương người tà, chứ chẳng phải nói không nương vào bốn y.
3. Y pháp: Tức pháp tánh v.v... trở xuống là nói về y người, không y pháp trong bốn y. nghĩa là y nhân tức pháp ở trước, không dựa vào pháp tức người ở trước.
4. "Nếu người phá giới vì lợi ích v.v..." trở xuống là chọn chân khác với nguy, nói về y người là nương tựa vào người tức pháp chân thật, chứ không phải cho rằng, nương tựa vào người phá giới.
Y theo đoạn đầu, trước nói y pháp. Chia làm bốn trường hợp:
1. Phát ra thể của pháp, là đại Niết-bàn.
2. "Tất cả v.v..." trở xuống, nói về đại Niết-bàn, tức pháp tánh, tất cả pháp Phật cũng là Niết-bàn ở trước. Pháp tánh là pháp tánh vô thỉ của Niết-bàn, chứng tỏ vốn có pháp tánh để thành tựu Niết-bàn, nên tức pháp tánh là phân biệt đối trị. Vì Niết-bàn dứt hết kiết, nên "Tức" là pháp tánh.
3. Nói pháp tánh "Tức" Như lai, nói lên vì pháp thành tựu con người, nên được "Tức" pháp. Vì phân biệt pháp tánh mà Tiểu thừa chứng đắc, nên "Tức" là Như lai. Lại, vì nói Phật đồng với pháp đáng nương tựa, nên "Tức" là Như lai.
4. Nói Đức Phật "Tức" thường. Như lai là Phật, vì "Tức" pháp tánh cho nên "Thường", không thay đổi. Vì phân biệt Như lai vô thường là hóa thân, nên phải nói "Thường".
"Nếu lại nói v.v..." trở xuống, là nói không y người. Thanh văn, Duyên giác đều nói Phật vô thường, vì họ không thấy pháp tánh. Vì không thấy pháp tánh cho nên không nên nương tựa họ.
Thứ hai, trong phân biệt chân khác với nguy, trước nói về bốn người, "Là" pháp đáng nương tựa.
"Nếu có người biết rõ v.v..." trở xuống là nêu kém để so sánh với hơn, nói bốn đáng nương tựa, là nêu năm cấp bậc Bồ-tát của đường lành để so sánh với bốn người. Trong phần trước, đầu tiên nói như thuyết đã nói trên. "Bốn người xuất thế, phải nên nương tựa", chính là nói đáng nương tựa.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích, trong đó, trước là gạn hỏi. "Thuyết xưa nói: "Y pháp, không y người". Nay, vì sao lại nói
"người" đáng nương tựa?"
Sau đây, là giải thích có hai:
1. Nói "Người" kia có khả năng hiểu nghĩa sâu xa, cho nên đáng nương tựa.
2. "Bốn người như thế, tức Như lai v.v..." trở xuống, vì hiểu được "Mật giáo", nên đáng nương tựa.
Trong phần trước, đầu tiên nói: "Hiểu rành tạng sâu kín của Như lai, là biết Niết-bàn ở trước thì biết được Như lai là "Thường", không thay đổi, tức biết Phật "Thường" trước là trước thuận, sau trái.
Ở trước có bốn câu, nhưng ở đây đối với đầu tiên và sau cùng để nói là "Biết".
Sau đây, trong phần "Biết" giáo, đầu tiên là nói về bốn người "Tức" gọi là Như lai.
"Vì sao? v.v..." trở xuống, là giải thích. Trước gạn hỏi, sau là hiểu, hiểu được "Mật ngữ", nói hiểu đồng với
Phật. Và, người năng nói, là nói đồng với Phật. Vì "Đồng với Phật" này, nên gọi là Như lai. Trong phần nêu kém để so sánh, trước là nêu phần kém của người y kia. "Nếu có người", nghĩa là năm cấp bậc người trong giai vị đường lành. "Biết được tạng sâu kín của Như lai, là niết bàn ở trước và biết Như lai "Thường" không thay đổi v.v... nên biết Đức Phật trước là "Thường".
"Trước thuận, sau trái v.v..." trở xuống là nhắc lại để so sánh phần hơn: Người như thế còn đáng nương tựa, huống chi là bốn người.
3. Trong y nhân không y pháp, văn có ba cặp:
a. Nhất định là "Người", "Pháp" ở trên. Y pháp ở trước, tức là pháp tánh. Không y "Người" tức là Thanh văn.
b. Dùng "pháp" ở trước, tức là người nương tựa. Nghĩa là pháp tánh tức là Như lai, dùng "Người" ở trước tức pháp mà người đã chứng, nói là Thanh văn, tức là hữu vi. Vì pháp Tiểu thừa Vô thường, trôi lăn nên nói hữu vi.
c. Nói về đối tượng trước "Tức "Người", "Pháp" có nghĩa đáng nương tựa, không đáng nương tựa. Vì Như lai thường trụ, nên đáng nương tựa. Vì hữu vi vô thường, nên không đáng nương tựa.
d. Trong phân biệt chân khác với ngụy, "Nếu là người phá giới" là nói người đó không có hạnh. "Vì lợi dưỡng, nên nói Phật Vô thường", là nói người đó không có hiểu biết. Người như thế, không nên y chỉ. Vì nghĩa này đã được quyết đoán rõ ràng, nên gọi là nghĩa nhất định.
"Đây là nói về người được nương tựa ở trước, nghĩa là nương tựa Như lai, không nương tựa người phá giới như thế."
Y theo phần nói về y nghĩa, không y ngữ, trước là nêu, sau giải thích. Đầu tiên, nói về y nghĩa. Trước là giải thích, sau là kết. Trong giải thích có sáu: Ba phần trước tức là ba việc Niết-bàn, nghĩa là "Giác liễu" là Bátnhã của Niết-bàn. Vì Bát-nhã quán chiếu, nên gọi "Giác liễu". Giác liễu nghĩa, gọi là không yếu kém, là giải thoát. Vì chướng phiền não đã dứt hết ở đây, nên không yếu kém. Nói không yếu kém, gọi là đầy đủ, chính là pháp thân của Phật. Pháp thân tròn đầy, gọi là đầy đủ. Nghĩa này đủ, nghĩa là gọi Như lai thường là Phật Bảo. Pháp thường tức là Tăng, là Tăng bảo của Niết-bàn.
"Đây gọi là v.v..." trở xuống là kết.
"Những gì? v.v..." trở xuống là nói không y ngữ. Đầu tiên là hỏi, kế là giải thích.
Trong phần giải thích có ba:
1. Các luận của thế tục phần nhiều thêu dệt, trau chuốt lời văn, nên không đáng nương tựa.
2. "Như Phật nói v.v..." trở xuống, kinh tà luống dối, dối gọi là Phật nói, không đáng nương tựa. Cũng có thể như Phật đã giảng nói trong kinh khác, vô lượng kinh tà của thế tục, không thể đáng nương tựa.
3. "Lại xướng v.v..." trở xuống là lời chê bai Phật, không đáng nương tựa. "Như thế", có thể kết.
Y theo phần nói y trí không y thức, trước là nêu, sau là giải thích.
Trong giải thích có bốn:
1. Nói trí, tức là Như lai, nói y trí Phật.
2. "Nếu có v.v..." trở xuống là nói người trí kia không dựa vào thức của Thanh văn.
3. "Nếu biết Như lai tức pháp thân v.v..." trở xuống là y trí của Bồ-tát.
4. "Nếu thấy thân phương tiện của Như lai v.v..." trở xuống là nói thân ấy không dựa vào thức của phàm phu, trong đó, trước là nói không y thức.
"Nếu lại có v.v..." trở xuống là nói người và thuyết, đều không đáng nương tựa. Câu này đâu khác gì với câu thứ hai ở trước, trước nói rõ về mê chân. Ở đây nói về "Hoặc" ứng.
Trong y kinh liễu nghĩa, trước nêu, sau giải thích. Trong giải thích, nói về Tiểu thừa kia, vì bất liễu nghĩa, nên không đáng nương tựa. Đại thừa liễu nghĩa, mới đáng nương tựa. Văn có bảy cặp: Sáu cặp trước nói về liễu, không nghĩa liễu. Một cặp sau, nói về hai nghĩa đáng nương tựa, không đáng nương tựa.
Trong sáu cặp trước, hai cặp đầu, y theo nhân để nói về liễu, bất liễu. Trước, "Giải", sau "Hạnh". Một cặp kế là y theo quả. Một cặp kế là y theo nhân, hai cặp sau là y cứ theo quả. Trong quả, một cặp trước, y theo Bồ-đề, cặp sau y theo Niết-bàn. Cũng có thể hai cặp trước trong sáu, là y theo nhân. Một đôi kế là y theo quả. Một cặp kế là y theo "Giáo". Hai cặp sau là y theo "Nghĩa".
Trong bảy cặp, đầu tiên là nói Tiểu thừa bất liễu nghĩa, không y chỉ. Pháp Thanh văn thừa thì không nên nương tựa, chính là nói không nương tựa.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trước là gạn hỏi, sau là giải thích. Trong giải thích có bốn câu:
1. Nói Tiểu thừa quyền mà bất liễu. Trước là pháp, sau là dụ.
"Thừa Thanh văn, như người cày ruộng đầu tiên v.v..." trở xuống là nói minh không nên nương tựa.
3. "Như thế, gọi là bất liễu nghĩa", là kết cặp thứ nhất ở trước.
4. "Vì thế, không nên nương thừa Thanh văn", kết cặp thứ hai ở trước.
Sau đây là nói về Đại thừa kia đáng nương. Chia làm bốn câu:
1. Pháp Đại thừa thì nên nương tựa, chính là nói đáng nương tựa.
2. "Vì sao? v.v..." trở xuống, là nói liễu nghĩa của Đại thừa, thành nên nương tựa ở trước. Trước gạn hỏi, sau giải thích. Nói Phật vì độ các chúng sinh, nên dùng năng lực phương tiện, khéo nói về Đại thừa quyết đoán rõ ràng, sâu xa cho nên đáng nương tựa.
3. "Cho nên nương tựa, là kết cặp thứ nhất ở trước."
4. "Đó gọi là liễu nghĩa", kết cặp thứ hai ở trước.
"Bốn người như thế v.v..." trở xuống là nói chung để kết. Trong lượt thứ hai:
1. Đầu tiên là nói về nghĩa y, là đức của quả.
2. Y pháp: Pháp là pháp tánh.
3. Y trí: Trí là hạnh của Tăng.
4. Y kinh: Kinh là giáo pháp.
Hai y trước trong bốn, là y cứ quả để nói về y. Hai y sau là y cứ nhân. Nghĩa là thể của quả. Do đó, trước nói về quả y pháp mà thành, nên kế là nói về pháp. Trí là thể của nhân, do đó, nói trước. Vì nhân do pháp mà hình thành, nên sau nói về kinh.
Trong văn đầu tiên có hai:
1. Xứ là hợp với biện luận. Trước nói về ý nghĩa.
2. Kế là nói về y pháp.
3. Nói không y người.
4. Nói về không y ngữ.
Trong nghĩa, y cứ ở trước, cũng có sáu. Nay, chỉ nêu bốn: pháp thân, giải thoát, Bát-nhã và Như lai. Lược qua không có pháp tăng.
Đầu tiên là nói: "Lại nữa, nghĩa gọi ngay thẳng là pháp thân. Vì thân không có tà vạy, nên nói là ngay thẳng. Gọi thẳng là ánh sáng, là Bát-nhã. Vì tuệ không có bóng tối ngăn che, nên gọi là ánh sáng. Nói danh không yếu kém tức là giải thoát. Danh là Như lai, là Phật Bảo.
Sau đây, sẽ giải thích lại cho rõ. Nói trí tuệ là nói về thể của Bát nhã. Gọi thẳng là thường trụ, nói lên nghĩa pháp thân. Thường vì thân trụ, không đổi thay theo thời gian, nên nói là, ngay thẳng. Kế là nói về y pháp. Như lai thường: gọi là y pháp. Nói chung đều để nêu lên. Sau đây là phân biệt riêng để làm rõ.
Thường và vô biên, là ngay nơi tướng mà nói về pháp: Không thay đổi, gọi là Thường. Vì nghĩa nhiều, thể rộng, nên nói là vô biên.
"Không thể suy nghĩ v.v..." trở xuống là đối với tình để nói về Pháp. Đầu tiên là nói chẳng phải có mà cũng có thể thấy, chứng tỏ pháp chẳng phải "Không ".
Không thể suy nghĩ bàn luận trong "Chẳng phải có" ở trước là nói lìa tướng của tâm, không nên chấp ràng buộc, nói lìa tướng của sắc. Thể thật là "Không vô", cho nên có thể thấy. Nếu có thuyết nói: "Không thể thấy", thì không nên dựa theo thuyết đó, là nói không y "Theo người".
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Nếu dùng lời hay để nói về Vô thường, thì không nên y theo lời nói đó, là nói không y ngữ. Lời nói hay đẹp còn không y, huống chi lời thô bỉ?
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Trong y thứ ba, trước là nói y trí. Trước là nêu, kế là nói.
Chúng Tăng là "Thường", vô vi, không biến đổi là trí chứng của chúng Tăng. Không chứa bất tịnh, là trí giáo của chúng Tăng.
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết, nói nên nương tựa. Sau đây, cũng nói không nương theo thức. Không nương thức, nghĩa là nói chung, để nêu lên. Kế là, sẽ nói về tướng của thức.
Nếu có thuyết nói: "Thức tạo ra thức, thọ, không có hòa hợp tăng" là nêu thức tà kia. Chấp thật, chê giả cho nên là tà.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích, nói là "Không có", không có sở hữu, tức là không có thường, thì chỗ nào có Tăng?
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết thành không nương tựa. Trong y liễu nghĩa ở trước, nói về y liễu, sau nói về bất liễu.
Trong Y theo liễu, đầu tiên là nói về liễu nghĩa: gọi là liễu trong các pháp hạnh tri túc v.v..., cũng đối với Như lai tùy cơ nghi mà nói, không sinh chấp mắc. Nói Phật cũng là liễu trong các pháp nghĩa như vô thường, khổ v.v... đó gọi là v.v... trở xuống, là kết.
"Nếu có khả năng v.v..." trở xuống là nói y liễu nghĩa. Y hai liễu trước, gọi là năng trụ. Chỗ nương cao siêu trong Như lai v.v..., gọi là đã được trụ đệ nhất nghĩa. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Sau đây kế là nói Như lai không nương tựa bất liễu nghĩa. Trước nêu, sau giải thích.
Trong phần giải thích, đầu tiên là y theo pháp nghĩa, nói về kinh bất liễu, không đáng nương tựa.
Nếu có người nói: "Như lai thương xót v.v..." trở xuống, là y theo hành pháp để nói về kinh bất liễu không nên nương tựa. Trong phần trước, đầu tiên là nói rộng về bất liễu. Sau là kết, không nương tựa.
Trong phần nói về bất liễu, văn chia làm bốn:
1. Nêu kinh bất liễu nghĩa ngày xưa. Như kinh nói, nghĩa là như trong kinh Tiểu thừa xưa có nói: "Tất cả đốt cháy". Nghĩa là xưa nói: "Vì ba độc đốt cháy các chúng sinh, nên gọi là đốt." Như văn dưới đây nói: "Cũng có thể kinh xưa nói: "Vì lửa vô thường đốt rụi các thế gian, nên gọi là đốt. Giảng nói các pháp ở đây đều bị lửa kia đốt cháy, nên nói "Tất cả" vô thường. Suy ra khổ v.v... cũng giống như vậy.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết. Do nói "Tất cả", vì lời nói không có phân biệt, nên gọi là bất liễu.
2. "Vì sao? v.v... trở xuống là giải thích bất liễu nghĩa. Nói "Vì sao" là gạn hỏi trước, khởi nói sau:
"Tất cả đốt cháy v.v...", vì sao bất liễu? Vì không thể hiểu rõ nghĩa như thế, nên phải giải thích. Y chỉ sinh tâm, không thể hiểu về các nghĩa đốt v.v..., vì cuộc hạn ở hữu vi, nên gọi là bất liễu.
3. "Làm cho các v.v..." trở xuống là nói về sự tổn hại của bất liễu, làm cho đọa vào A-tỳ, chính là nói về sự tổn hại đó, làm cho người khác nương vào "Bất liễu" đó, thậm chí chê Phật vô thường, khổ v.v..., vì trở thành chê bai Phương Đẳng cho nên đọa vào A-tỳ.
"Sở dĩ v.v..." trở xuống là giải thích. Trong đó, trước hỏi: "Sở dĩ nay đọa là vì chấp mắc?" Đối với câu hỏi là giải thích lý do vì sao.
Vì nghe nói tất cả bị vô thường đốt cháy v.v..., rồi quyết định chấp chặt rằng "Phật cũng vậy", nên nói là "Chấp mắc".
4. "Tất cả đốt" nghĩa là Như lai sau đây sẽ nói về tướng bất liễu. Trước là nói, sau là kết, lời văn dễ hiểu.
"Không nên y" nghĩa là kết thúc thành không y.
Sau đây, sẽ y theo pháp hạnh, nhằm nói về kinh bất liễu.
Trong không đáng nương tựa, đầu tiên là nêu trái lại, liễu nghĩa đáng nương tựa, để làm rõ bất liễu.
Nếu có thuyết nói: "Thời gian chẳng phải thời gian", v.v... trở xuống là trái với liễu ở trước, chính là nói về bất liễu.
Trong phần trước có bốn câu:
1. Y theo lời nói của người để nói về kinh liễu nghĩa.
2. Kết y dưới.
3. "Nếu có giới v.v..." trở xuống là y cứ rộng về giáo pháp, để nói về kinh liễu nghĩa.
4. Kết, đáng nương tựa.
Trong phần đầu, nếu nói: "Như lai thương xót, biết rõ về thời gian nói tội nhẹ thành nặng, nói tội nặng thành nhẹ, nói lược về liễu nghĩa."
Về thời gian, có chia làm bốn, như sau đây sẽ giải thích cụ thể: Trong thời điểm này, nếu có đàn-việt dồi dào, chẳng phải hộ pháp, không vì tịnh thí, nhận chứa nhóm tất cả vật bất tịnh, Phật nói là nặng, trái lại, gọi là nhẹ. Sau đây, sẽ nói rộng, trong đó có bốn:
1. Thấy đệ tử mình có các đàn việt vật quý trọng thì ngăn cấm, không có thì cho chứa.
2. Dù không có đàn việt lúc thịnh vượng thì ngăn cấm, khi ngặt nghèo thiếu thốn thì cho chứa.
3. Dù lúc thiếu thốn, không vì hộ pháp, thì Như lai ngăn cấm, vì hộ pháp thì cho phép được chứa.
4. Tuy hộ pháp mà không y theo tịnh thí thì Như lai cũng ngăn cấm. Nếu tịnh thí thì cho phép chứa.
Trong bốn điều này, Như lai ngăn cấm, gọi là trọng. Như lai đã cho, gọi là khinh.
"Bốn pháp như thế, nên nương tựa" là kết, nói đáng nương tựa. Đến sau đây, trong y theo giáo để nói về liễu nghĩa, nếu có giới v.v..., không trái với bốn pháp, nghĩa là không trái với bốn pháp ở trước, cũng nên y chỉ là kết, nói về đáng nương tựa.
Sau đây, trong chính là nói về bất liễu nghĩa, về câu cũng có bốn:
1. Y cứ lời nói của người để nói về bất liễu.
Có thời gian, chẳng phải thời gian, trái với pháp thứ hai ở trên, thiếu ít, gọi là có thời gian, không thiếu thì không phải thời gian. Có hộ pháp, không hộ pháp, trái với pháp thứ ba ở trước. Hai câu còn lại, lược qua không trái.
Nói rằng: "Như lai cho phép theo nhận, chứa để vật bất tịnh", nên gọi là "bất hữu".
2. "Nói như thế v.v..." trở xuống là kết, nói về không nương tựa.
3. "Nếu có giới v.v..." trở xuống là y cứ giáo pháp của Phật để nói về bất liễu.
4. "Như thế v.v..." trở xuống là kết. Nói về không đáng nương tựa gọi ba tạng kia chỉ là ba phần.
Trên đây đã nói về pháp "Tức" nhân, để hội ý. Dưới đây là chọn pháp "Khác" với nhân, để hội nhập, trong đó, đầu tiên nói "Người" khác với "Pháp".
"Pháp, nghĩa là v.v..." trở xuống là nói về "Pháp" khác "Người". Trong phần trước, đầu tiên nói: "Ta vì nhục nhãn, không vì tuệ nhãn", nói thích đáng khác với pháp. Vì nhục nhãn, không nhận thức pháp, nên nói "Nhân y".
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết. "Người nhục nhãn này vì không biết pháp, nên nay ta vì họ nói người bốn y."
Y theo phần nói pháp khác người ở sau: "Pháp" khác với "Nhân", là nói thể trạng của pháp, chứng tỏ nhục nhãn của người kia không thể soi thấy, chỉ là tuệ nhãn.
Trong hai lượt trước, y cứ lượt đầu để phân biệt. Lượt sau lược qua không nêu.
Người học Đại thừa trong các Thanh văn gọi là nhục nhãn. Tất cả Bồ-tát được gọi là tuệ nhãn.
Trong phần đáp câu hỏi trên: "Làm sao biết được ma để lại tai nạn cho chúng? Phật nói, ma nói, làm sao phân biệt biết? Làm sao giải thích việc này?
Giải thích có ba nghĩa:
1. Vì nói bốn người dẹp tà, thông chánh, có khả năng làm chỗ nương tựa cho chúng sinh.
2. Là nói lý do chúng sinh cần nương tựa, nên kinh nói: "Nên y bốn người, vì có bốn ma."
3. Vì muốn cho người biết tà không từ đâu, lìa đối tượng, thì không nương dựa vào đâu.
Trong văn có ba:
1. Do Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi, nêu lược nêu bốn ma.
2. Do Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi, nên nói rộng về bốn ma.
3. Do Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, nên Như lai nói lại lời mình khen.
Trong phần đầu, bốn người như trên, nên nương tựa.
Hỏi trước, khởi sau. Dưới đây là Phật đáp:
Như Ta đã nói: "Cần phải nương tựa", chính là đáp câu hỏi ở trước."
"Vì sao? v.v... trở xuống là giải thích: Vì có bốn ma mê hoặc não loạn chúng sinh, cho nên phải nương vào bốn y.
"Những ma nào? v.v..." trở xuống là nói về xuất hiện bốn ma. Trước hỏi, sau giải thích. Chỗ khác, thường nói ma phiền não, ma năm ấm, ma chết và ma trời thành bốn thứ. Trong đây, chỉ y theo ma trời ma nói bốn.
Bốn tướng là gì?
Nghĩa phân biệt, ma và đệ tử Phật đối lập nhau là hai. Kinh, luật đã nói, lại chia làm hai, hợp thành bốn thứ. Hai thứ trước trong bốn là người ma. Hai thứ sau là pháp và ma. Nêu người để đáp câu hỏi ở trên: "Làm sao biết được ma để lại tai nạn cho đại chúng?" Nêu pháp để đáp câu hỏi ở trên: "Làm sao phân biệt được Phật nói và ma nói?" Lại phân biệt bốn thứ ma đều y theo con người để nói. Ma nói kinh là một, ma nói luật là hai, ma thọ lãnh kinh là ba. Ma thọ luật là bốn.
Trong phần nói rộng thứ hai, Bồ-tát Ca-diếp trước hỏi: "Như Phật nói có bốn thứ ma", là nhắc lại lời nói trước đây của Phật.
Sau đây, y theo câu hỏi được đặt ra, trong đó, y theo lời Phật đáp, câu hỏi thiếu không đủ, lẽ ra có ba câu hỏi:
1. Hỏi: "Các ma dùng những hình tướng nào để phá hoại, khuấy rối chánh pháp?"
2. Hỏi: "Ma nói và pháp Phật nói, làm sao phân biệt được?"
3. Hỏi: "Theo ma, theo lời Phật dạy, làm sao biết được?"
Một câu hỏi đầu trong ba nói về thầy của ma, câu hỏi kế là pháp, câu hỏi cuối là đệ tử của ma. Lại nữa, một câu hỏi đầu, hỏi về hình lạm của ma. Câu hỏi giữa là nói lạm, câu hỏi cuối là thọ quá lạm. Nhưng trong văn nay chỉ có hai câu hỏi sau, lược qua không có câu hỏi đầu. Y theo lời Phật đáp thì cần Phật đáp câu hỏi sau. Trước là đối với câu hỏi bị thiếu ở trước, lúc ma phá hoại pháp, nên nói lên lời này v.v... trở xuống, là đối với văn trước đã có hai câu hỏi.
Trong đoạn đầu: "Ta nhập Niết-bàn, sau bảy trăm năm, gọi là thời kỳ hoại pháp, ma Ba-tuần này sẽ xúi giục người phá hoại chánh pháp, làm hư hoại dần chánh pháp của ta", chính là nói về pháp hư hoại.
"Ví như v.v..." trở xuống là nói về tướng trạng của pháp hư hoại. Trước là dụ, sau là hợp. Câu đầu trong hai là chung. Câu kế là riêng, câu sau là kết.
Trong đoạn sau, trước nói rộng, sau là kết. Trong phần rộng, có mười cặp:
1. Y theo Phật hạ sinh, để nói về tà, chánh.
2. Y theo Như lai xuất hiện, đi bảy bước, để nói về chánh tà.
3. Y theo sự kiện thiên thần cung kính, thờ, để nói về tà chánh.
4. Y theo việc Thái tử cưới vợ, để nói về tà chánh.
5. Y theo chế giới, để nói về tà chánh.
Y theo các thứ kỹ năng của Như lai, nhằm nói về tà, chánh.
6. Đại thừa và Tiểu thừa đối nhau để nói về tà chánh
7. Y theo thân Phật để nói về tà chánh
8. Y theo giới, hạnh, việc trì, phạm để nói về tà chánh.
9. Y theo đạo pháp trong, ngoài để nói về tà, chánh. Bốn cặp trước trong mười là việc trước khi thành đạo. Một cặp kế là, là việc sau khi Phật thành đạo. Một cặp kế nói chung một sự nghiệp hóa độ. Bốn cặp sau, nói trở lại sự nghiệp sau khi thành đạo. Trong mười cặp, trước đều nói về tà, chánh, đối với câu hỏi đầu ở trước. Sau là nói về người thọ lãnh, đối với câu hỏi sau và trước.
Trong cặp đầu, trước nói về ma nói. Văn chia làm ba:
1. Nói Như lai do ái mà thọ sinh.
2. Nói sinh rồi không được đời kính trọng.
3. Nói Như lai chỉ tu bố thí, khổ hạnh mà thành Phật, không tu các đức khác.
Kế là nói Phật nói chỉ trái với câu đầu. Nói Đức Phật ứng sinh, chứ chẳng phải do ái dục.
Trong cặp thứ hai, nói Phật mới sinh, hiện đi bảy bước, không tin, là tà. Nói Phật hiện đi, đáng tin là chánh.
Trong cặp thứ ba, nói Phật mới sinh, đi vào trong miếu thờ trời, thiên thần không kính, gọi đó là tà, cung kính, thờ phụng là chánh.
Trong cặp thứ tư, nói Phật ở tại gia, với tâm tham cưới vợ, thật sự thọ hưởng dục lạc, đó là tà. Nói Đức Phật ứng tác, đó là chánh.
Trong cặp thứ năm, nói Phật cho chứa vật bất tịnh, đó là tà. Nói Đức Phật cấm ngăn, gọi là Chánh.
Trong cặp thứ sáu, nói Phật không có các thứ kỹ năng, gọi đó là tà. Trong đó có sáu:
1. Nói Như lai vì cúng thiên thần, nên vào miếu thờ trời.
"Cho nên Đức Phật đi vào v.v..." trở xuống là nêu chánh để phá tà.
"Nếu nói không v.v..." trở xuống thì chẳng phải tà làm sáng tỏ chánh.
"Nếu nói Như lai vì điều phục người trời, nên vào miếu thờ trời, là không đúng. Lời nói này suy ra trái với lý, gọi là không có lý này.
2. Nói Như lai không thể thâm nhập các luận của ngoại đạo, biết kỹ nghệ, văn chương, oai nghi của họ.
3. Nói Như lai không thể hòa hợp các tôi tớ, làm cho chúng đấu tranh.
4. Nói Như lai không được nam, nữ, vua, quan kính nể.
5. Nói Như lai không biết hòa hợp tất cả các thứ thuốc, trong đó, đầu tiên là nói Như lai không biết. Kế là nói vì không biết, cho nên gọi Như lai. Sau nói nếu biết, thì sẽ rơi vào tà kiến.
6. Nói Như lai chỉ có thể trung bình, không thể đầy đủ các phương tiện khéo léo, thuận theo thế gian. Sau đây, là nói Như lai có đủ các thứ đức, gọi là chánh, cũng có sáu câu:
1. Nói Như lai khi còn làm Bồ-tát đã vì điều phục chúng sinh, thị hiện vào miếu thờ trời, trái với câu thứ nhất ở trước.
2. Nói trong pháp ngoại học, Như lai đã xuất gia, tu đạo, biết kỹ nghệ, văn chương, oai nghi của mình, trái với câu thứ hai ở trước.
3. Nói Như lai có khả năng dung hòa cuộc đấu tranh, trái với câu bốn ở trên.
4. Nói Như lai được đời khâm phục, kính trọng, trái với câu thứ ba ở trên.
5. "Cũng có khả năng thị hiện v.v..." trở xuống, nói Đức Phật tùy theo thế gian, cũng có khả năng thị hiện hòa hợp các thứ thuốc, mà chẳng phải là tà kiến, trái với câu thứ năm ở trên.
6. "Vì độ v.v..." trở xuống là nói Phật vì độ các chúng sinh, nên vận dụng các phương tiện thuận theo pháp thế tục, không chỉ ở mức trung bình, trái với câu thứ sáu trước.
Trong cặp thứ bảy: Chấp Tiểu thừa chẳng phải Đại thừa, gọi đó là tà. Biết Đại thừa ngoài Tiểu thừa, nói là chánh. Trong tà có hai:
1. Chấp Tiểu thừa chẳng phải Đại thừa.
"Người này lại nói rằng: "Về Kinh luật, tôi sẽ thọ v.v..." trở xuống là học Tiểu thừa, bỏ Đại thừa. Trong phần đầu lại có hai:
1. Chấp luật Tiểu thừa chẳng phải luật Đại thừa.
"Như lai trước nói chín bộ pháp v.v..." trở xuống, là chấp nghiêng về kinh Tiểu thừa chẳng phải kinh Đại thừa.
Trong luật có năm câu:
1. Nêu việc khi xưa Phật chế giới. Xưa, trong luật Tiểu thừa, Đức Như lai đã nói tội nhẹ, nặng của năm thiên và Thâu lan già. Vì tánh tội đều nặng, nên nay nêu tánh. Vì đồng cảm vời khổ lớn, nên nói "Đều nặng".
2. "Luật của chúng ta v.v..." trở xuống là nêu Tiểu thừa thuộc về mình.
3. "Từ lâu, tôi đã nhẫn v.v..." trở xuống là nói mình đã tin nhận, ngờ vực người khác không tin.
4. "Tôi sẽ v.v..." trở xuống là chấp Tiểu, bỏ Đại. Giới pháp Tiểu thừa gọi là luật của mình, giới pháp Đại thừa, gọi là luật của ông, nên hôm nay mới nói: "Tôi phải làm sao tự từ bỏ luật của mình để đến với luật của ông?"
5. "Ông đã có v.v..." trở xuống, vì suy luận Đại thừa là tà, nên mới nói: "Luật của ông là do ma nói." Trong kinh có ba:
1. Nói người ma chấp Tiểu thừa chẳng phải Đại thừa.
2. "Ở đời vị lai sẽ có v.v..." trở xuống là Phật quở trách, chỉ rõ lỗi.
3. "Tôi lại nói v.v..." trở xuống, là nói mình nói Đại thừa sẽ trở thành sai lầm của tà kia.
Trong phần đầu có sáu:
1. Nêu chín bộ để chứng minh không có Phương Đẳng.
2. Nêu vô lượng kinh Tiểu thừa của Như lai, để chứng minh không có Phương Đẳng.
2. "Như Phương Đẳng kia có v.v..." trở xuống, là suy ra kinh Phương Đẳng là kinh mà Phật nói cho Điều-đạt nghe.
3. "Như thế v.v..." trở xuống, suy ra là do ma nói. Trước suy tìm, sau giải thích.
4. "Lời nói như thế v.v..." trở xuống, tìm kinh của người khác có đạo, còn kinh mình không có.
5. "Kinh, luật của tôi v.v..." trở xuống, dẫn bừa kinh Phật nói để chứng minh đúng là sai.
Đã nói đoạn đầu này xong.
"Đến đời vị lai sẽ có các Tỳ-kheo tội ác như vậy", là lời Phật quở trong đoạn hai ở sau, để chỉ rõ lỗi. Trong đoạn ba, có chia ra ba câu:
1. Phật tự nêu lỗi của mình trong chín bộ nói có Phương Đẳng.
2. "Nếu có người v.v..." trở xuống là nói người chánh thì được.
3. "Nếu có thuyết v.v..." trở xuống là nói người chê bài thì mất. Trước nói về sự chê bai của người kia. Sau, là kết luận mắc tội.
Trên đây là đoạn thứ nhất, chấp Tiểu thừa, chẳng phải Đại thừa.
Dưới đây là thứ hai học Tiểu thừa, bỏ Đại thừa.
"Kinh, luật như thế, tôi sẽ thọ trì, chính là nói học Tiểu thừa. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Ít muốn biết đủ là "Đạo" trong nhân. Dứt trừ phiền não là "Diệt" trong nhân. Trí tuệ là "Đạo" trong quả.
Niết-bàn là "Diệt" trong quả kia.
Bốn thứ trước này, gọi chung là pháp lành. Kinh, luật Tiểu thừa lấy bốn thứ này làm gốc, nên nay tôi thọ trì.
"Người nói như thế, chẳng phải đệ tử của ta, Đức Phật quở để chỉ rõ lỗi."
Kế là nói về chánh. Có người nói: "Đức Như lai vì độ thoát chúng sinh, nên nói kinh Phương Đẳng, thật là đệ tử của ta" chính là làm rõ chánh kia.
"Nếu có người không thọ kinh Phương Đẳng v.v..." trở xuống là quở trách tà, làm sáng tỏ chánh.
"Kinh, luật như thế là do Phật nói" là kết, nói về chánh ở trước. "Nếu không phải như thế là do ma nói" là kết, nói về tà ở trên.
Sau đây, sẽ nói về người thọ.
Trong cặp thứ tám, nói "Phật không vì vô lượng đức mà thành", gọi là tà, trong đó, đầu tiên là nói Như lai không phải do vô lượng đức mà thành, gọi là tà, trong đó đầu tiên là nói Như lai không phải do vô lượng đức mà thành chỉ được pháp "Không".
"Tuyên nói v.v..." trở xuống là nói vô ngã không thuận với thế gian. Cho nên, giả nói vô lượng đức thành. "Như thế v.v..." trở xuống là kết.
Nói "Phật do vô lượng đức mà thành" gọi là chánh.
Trước giải thích, sau là kết. Sau đây, là nói về người thọ.
Trong cặp thứ chín, y theo trì, phạm để nói về tà, chánh. Văn chia làm bốn:
1 Y theo không phạm, để nói về tà, chánh.
2 "Lại có thuyết nói: "Không có Ba-la-di v.v..." trở xuống là y theo nghĩa có phạm, để nói về tà, chánh.
3. Ca-diếp bạch Phật: "Như trên, Phật nói, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh v.v..." trở xuống là hỏi đáp nêu lại nghĩa không phạm.
4. "Phạm Đột-cát-la, trên trời Đao-lợi thọ tám trăm muôn tuổi v.v..." trở xuống là nêu lại nghĩa có phạm ở trước.
Trong đoạn đầu, trước nói về tà, chánh. Sau là nói về người thọ. "Không phạm mà nói là phạm" trong phần nói về tà, chánh gọi đó là tà. "Không có phạm, lại nói là không phạm, gọi đó là chánh. Trong hai văn này nói có đúng sai."
Trong phần nói về tà ở trước, nói nghiêng về người biết đủ của Tiểu thừa, cho là không phạm. Nói "Không phạm" này cho là có phạm, nên gọi là tà.
Sau, trong phần nói về chánh, nói nghiêng về người chánh kiến của Đại thừa, cho là không phạm. Nói không phạm ở đây vì cho là không phạm, nên gọi là chánh. Về lý, thật sự đều thông suốt.
Trong tà ban đầu, trước nói không phạm. "Nếu nói người nào phạm tội v.v..." trở xuống, đối lập với chánh để nói về tà.
Trong phần trước có bốn:
1. Lược nói không có phạm.
2. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
3. Nói rộng không phạm.
4 "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Trong phần sơ lược ở đầu, hoặc có Tỳ-kheo thật không phạm tội Ba-la-di, là nói đúng không phạm. Như văn dưới nói: "Có các Tỳ-kheo sống ít muốn biết đủ, ở chỗ vắng vẻ, nhàn tản, có người cho là Thánh, nên lễ bái, khen ngợi Tỳ-kheo không nhận, gọi là thật không phạm.
"Mọi người v.v..." trở xuống là nói người tà kiến thì cho là Tỳ-kheo này thật đã phạm tội nặng.
"Như thế v.v..." trở xuống, Đức Như lai dùng lý để nói vị Tỳ-kheo kia không phạm.
Trong giải thích thứ hai, đầu tiên là gạn hỏi: "Vì sao ta nói Tỳ-kheo kia không phạm? Sau đây là Phật, giải thích. Trong đó, nêu phạm để nói rõ không phạm.
Ta thường nói: "Bốn Ba-la-di, nếu phạm một thì cũng như viên đá bẻ hai", chính là nêu phạm lỗi.
"Nếu có người tự nói mắc tội v.v..." trở xuống là nói về tướng phạm tội.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích, chỉ rõ tướng phạm. "Người như vậy v.v..." trở xuống, kết thành lỗi trái phạm. Nghĩa là lui sụt pháp của bậc Thánh xuất thế.
Trong phần thứ ba nói rộng về không phạm, văn có chia làm năm:
1. Nói Tỳ-kheo ít muốn biết đủ, ở chỗ vắng vẻ.
2. Nói nhà vua và đại thần đều cho rằng các Tỳ-kheo đó là bậc Thánh.
3. "Tỳ-kheo nghe v.v..." trở xuống là Tỳ-kheo không nhận.
4 "Vua và Đại thần càng cho là bậc Thánh."
5 Kết thành không phạm.
Đoạn đầu dễ hiểu. Trong đoạn hai, trước là nghĩ rằng, người kia hiện đã chứng quả La-hán. Sau, khen người ấy sẽ chứng được Bồ-đề.
Trong đoạn ba, văn chia làm ba:
1. Nói lên hiện tại mình chưa được đạo quả, khuyên nhà vua đừng nên nói vậy.
2. "Cúi mong v.v..." trở xuống là nói về lỗi không biết đủ của mình, xin nhà vua chớ nói. Trong đó, đầu tiên là xin vua chớ nói.
"Người" không biết đủ, cho đến v.v..." trở xuống là nói về sự không biết đủ.
"Nay ta v.v..." trở xuống là nói lỗi không biết đủ.
3. "Hạnh biết đủ v.v..." trở xuống là nêu biết đủ, được bày tỏ về lạc thọ của mình, qua đó, đầu tiên là nói được biết đủ, là Phật khen ngợi.
"Cho nên v.v..." trở xuống là nói về lạc thọ của mình. "Lại, biết đủ v.v..." trở xuống là nói về sự biết đủ.
Trong đoạn bốn vua điều tự khen thầy đắc quả la hán, kế là bảo người trong nước khiến cho đều biết. Cho nên, v.v... trở xuống là người trong nước nghe việc ấy đều khen ngợi. Trong đoạn năm, trước là khen người kia tự thực hành thanh tịnh.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống, có công năng sinh phước cho người.
"Như thế v.v..." trở xuống là kết thành không phạm. Trên đây là đoạn ba, nói rộng về không phạm.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Văn rõ ràng dễ hiểu. Trên, đã nói không phạm. Dưới đây, là nói về tà:
"Nếu có người không phạm như thế là mắc tội", là ma nói.
Trong phần nói về chánh, trước là nói, sau là kết.
Trong phần nói có bốn:
1. Nói thân có tánh.
2. "Dù là v.v..." trở xuống là chứng tỏ người kia không phạm.
3. "Có Tỳ-kheo liền xuất gia v.v..." trở xuống là suy nghĩ được Bồ-đề.
4. "Người như thế chưa được v.v..." trở xuống, lại nói không phạm.
Trong phần đầu có ba câu:
1. Nói Tỳ-kheo bảo rằng tạng bí mật của Phật cho là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Vì có tánh, nên cắt đứt kiết phiền não, liền được Bồ-đề.
2. "Nếu nhà vua v.v..." trở xuống là mượn câu hỏi để làm sáng tỏ pháp. Trước là hỏi, sau là đáp.
Trong phần hỏi, "Tỳ-kheo các thầy có thành Phật không?", là một câu hỏi.
"Có Phật tánh hay không?" là câu hỏi thứ hai.
Trong phần đáp: "Nay, ta nói chắc chắn có Phật tánh" là đáp trước, hỏi sau, thành hay không thành, chưa thể xét định để đáp câu hỏi ở đầu.
3. "Vua nói v.v..." trở xuống, nhà vua nghe, nhận hiểu, Tỳ-kheo ấn khả. Đoạn đầu này đã nói xong.
Trong đoạn hai, là nói có tánh, hợp với đạo lý, không phạm tội nặng. Đoạn ba rất dễ hiểu.
Trong đoạn thứ tư, chia làm ba câu:
1. Nói người kia dù chưa chứng quả, nhưng được phước vô lượng, vì ý rộng lớn của tâm Bồ-đề.
2. "Dù cho v.v..." trở xuống là chứng tỏ không phạm, nêu lời nói tà, so sánh để phá tà. Nếu người kia phạm tội, thì tất cả Tỳ-kheo đều đồng với người ấy. Tự nghĩ rằng mình đã chứng được quả bình đẳng, lẽ ra phạm tội, tất cả không phạm. Người kia cũng như vậy.
3. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích cả hai trường hợp ở trước, trong đó, trước là hỏi:
Vì sao người kia được phước không có tội?
"Ta đối với trụ v.v..." trở xuống, là nêu mình để so sánh, nói rõ.
Nêu mình trụ tu, nay được Bồ-đề. So sánh làm rõ người kia, tất nhiên sẽ được quả, trở thành ý nghĩa không có tội.
Theo giáo xưa, thường lìa vật bất tịnh v.v..., là nói về nhân duyên tu. Cũng tự biết v.v..., là biết có chánh nhân. Cho nên, nay ta được thành Bồ-đề, là thành tựu quả lợi mình. Có đại từ bi, là thành tựu quả lợi người. Người kia đồng với ta, sẽ được Bồ-đề, nên tự nghĩ mình sẽ được Bồ-đề, xứng đáng với đạo lý được phước, không có tội."
Trên đây là nói rộng.
"Như vậy v.v..." trở xuống là kết, nói về người thọ rất dễ hiểu. Trên đây là đoạn thứ nhất, y theo không phạm để nói về tà chánh.
Dưới đây là đoạn hai, sẽ y theo có phạm, để nói về tà, chánh:
Có phạm mà nói là không phạm, gọi là tà. Có phạm mà nói là phạm, gọi là chánh.
Trong tà ở trước, trước là nói, sau là kết. Trong phần nói có năm:
1. Nói không có tội báo.
2. "Nếu nói Phật nói muốn hành dâm v.v..." trở xuống là nói dâm không có lỗi.
3. "Hoặc phạm bốn tội nặng v.v..." trở xuống là nói các tội đó không chướng ngại giải thoát.
4. "Như lai nói Đột-cát-la v.v..." trở xuống là nói về tội có quả báo, là Phật sợ người không có chân thật.
5. "Ba-la-di cho đến Đột-cát-la v.v..." trở xuống là nói năm thiên giới chẳng phải do Phật chế.
Sau đây, trong phần nói về chánh, trái với năm thiên này, cần nên xem xét, ghi nhận.
Trong đoạn đầu, trước nói là không tội.
"Nếu có Tỳ-kheo phạm như thế v.v..." trở xuống là nói không có tội báo. Đầu tiên là đặt ra câu hỏi:
Nếu phạm các tội này, thì sẽ đọa vào địa ngục. Các ngoại đạo không có giới nào để phạm, lẽ ra đều sinh lên cõi trời?
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết.
Trong đoạn hai, có chia làm bốn:
1. Nêu Như lai cho các Tỳ-kheo bỏ đạo, hành dâm, chứng minh chẳng phải là tánh tội.
2. "Lại, nên v.v..." trở xuống là nói dâm là pháp xưa, không phải lỗi của ta.
3. "Như lai ở v.v..." trở xuống là nói dâm không chướng ngại sinh lên cõi trời, giải thoát, trở thành đoạn thứ nhất ở trước.
4. "Xưa nay có v.v..." trở xuống là kết đoạn hai ở trước. Trong đoạn ba nói tất cả tội không chướng ngại giải thoát, văn rõ ràng dễ hiểu.
Trong đoạn thứ tư, nêu xưa kia, Phật đã nói "Tội Đột-cát-la, như trời Đao-lợi sống lâu đến tám trăm muôn tuổi, còn đọa vào địa ngục! Chỉ làm cho người sợ nói không có thật báo, lại nên nói tội Đột-cát-la, còn các tội khác, suy ra cũng giống như vậy.
Trong đoạn năm, nói về các tội trong năm thiên, luật sự tạo ra giả dối, giả gọi là Phật chế.
"Nói như thế v.v..." trở xuống là kết tà khác hẳn với chánh. Trong chánh có ba:
1. Nói có tội báo, trái với đoạn thứ nhất ở trước.
2. "Trong kinh, ta cũng nói có v.v..." trở xuống là nói tất cả đều do Phật chế, trái với đoạn năm ở trên.
3. "Nếu không trì giới, thì làm sao thấy v.v..." trở xuống là nói tội gây trở ngại cho sự giải thoát, trái với đoạn ba ở trước. Hai đoạn còn lại, lược qua không dịch. Trong phần đầu có năm:
1. Nói về các tội phải chịu quả báo không có giới hạn, nên Đức Phật khuyên người ngăn dứt.
2. "Có luật sư v.v..." trở xuống là nói lối giảng nói của luật sư ấy rằng không có tội báo, mọi người không nên gần gũi họ.
3. "Như Phật nói v.v..." trở xuống là nêu lời nói xưa của Phật trở thành không gần gũi ở trước. Trước là nêu lời nói xưa: "Nếu quá một" nghĩa là khi thuyết giới, tụng quá một giới, gọi nói dối, nghĩa là trong lúc này, có tội che giấu, gọi là nói dối bằng cách im lặng.
"Không thấy về sau, nghĩa là sự nói dối này sẽ không chiêu cảm sự khổ ở đương lai, gọi là "Không thấy về sau". Vì không nhận thấy, nên các tội đều được che giấu, gọi là "không có điều xấu ác nào không gây ra."
"Cho nên v.v..." trở xuống là kết thành không gần gũi ở trước, là đối với tội nói dối bằng cách im lặng như thế, sẽ không thấy ở đời sau, tức là với các điều ác, đều gây ra tất cả.
Về lời giảng nói đều không có tội báo ở trước, không nên gần gũi.
Đoạn ba này đã nói xong.
4. "Pháp của ta v.v..." trở xuống là nêu nhẹ để so sánh với nặng, trở thành có tội ở trước. Thanh tịnh như thế trong pháp Phật của ta, là nêu nhẹ. Cho đến im lặng giả dối phạm tội Đột-cát-la, cũng đều không cho, nên nói rằng: "Pháp của ta thanh tịnh như thế."
"Huống chi lại v.v..." trở xuống, là lấy nhẹ để so sánh với nặng, trở thành có tội nặng.
5. "Cho nên v.v..." trở xuống là kết khuyên ngăn dứt, giữ gìn. Trên đây là đoạn thứ nhất, gồm có năm câu, nói về tội báo kia.
Đoạn hai dễ hiểu. Trong đoạn ba: "Nếu không trì giới, thì làm sao thấy tánh?" Chính là nói các tội làm chướng ngại giải thoát.
"Tất cả chúng sinh v.v..." trở xuống, là nói chúng sinh kia phải xa lìa tội, mới được giải thoát.
"Chín bộ kinh v.v..." trở xuống là giải thích nghi ngờ, để làm sáng tỏ pháp. Tướng nghi ngờ như thế nào? Trong giáo xưa, Phật không có nói tánh, sao lại nói giữ giới được thấy tánh? Cho nên nay sẽ giải thích: "Vì trong chín bộ kinh không có Phương Đẳng, nên không nói có tánh. Dù kinh không nói, nhưng về lý thì thật có, nên giữ giới được thấy tánh."
Dưới đây, là nói về người thọ giới, nói chánh che giấu tà. Dưới đây là đoạn ba, lại phân biệt rõ về nghĩa trong "Không phạm" ở trước, có hai lần hỏi đáp:
Một lần hỏi đáp trước, giải thích rõ lại nghĩa trong chánh của đoạn đầu. Một lần hỏi đáp sau, sẽ làm rõ lại nghĩa tà trong đoạn đầu.
Có gì không rõ trong chánh trước, mà cần phải làm rõ lại? "Trước, Phật đã nói có tánh sẽ được Bồ-đề.
Không phạm tội nặng, được nói là có tánh." Vì "Không phạm", cần phải giải thích, nên nay phải nói lại. Lại nữa, trước đã nói không phạm, vì chưa nói về phạm kia, nên nay nói lại.
"Trong tà ở trước, có gì không rõ, mà phải làm rõ lại?" Trước, đã nói Tỳ-kheo ít muốn ở chỗ vắng vẻ, được người khen là "Không phạm", nhưng vì chưa nói về nghĩa phạm, nên phải giải thích.
Trong hỏi đáp ở trước, trước là nói không phạm. "Nếu có người nào không thể nói như thế v.v..." trở xuống là nói người đó có phạm. Không phạm có ba:
1. Nói có "Không phạm".
2. "Ví như có người nói biển cả v.v..." trở xuống là nói đều phạm.
3. "Có ngoại đạo v.v..." trở xuống là nói chẳng phải có, chẳng phải không "Không phạm".
Trong phần đầu, trước là hỏi:
Hỏi: Do đâu mà sinh?
Đáp: Vì trong chín bộ kinh ở trước không nói là do tánh sinh.
Ở trên đã nói: "Tất cả chúng sinh đều có tánh. Trong chín bộ kinh không hề nói tánh. Như thuyết ấy nói, có trái với Thánh giáo, vì sao không phạm tội Ba-la-di?" Sau đây, là Phật đáp:
Dù kinh không nói, nhưng vì lời nói chưa hợp lý, nên không phạm.
Trong đoạn hai nói đều phạm, trong văn trước là dụ, kế là hợp. "Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích.
Trong giải thích, đầu tiên là nói người Nhị thừa không biết Phật tánh. Do nghĩa này, nên nói là đều phạm. "Cảnh như thế v.v..." trở xuống, chứng tỏ tánh chỉ là "Sở tri" pháp mà Như lai biết, giải thích rõ người Nhị thừa không biết lý do.
"Nếu người không v.v..." trở xuống là nói người Nhị thừa vì không nghe bí tạng, nên không biết tánh.
"Những gì? v.v..." trở xuống là nói ra Bí tạng, là kinh Phương Đẳng.
Trong đoạn ba, trước là nói Phật tánh chẳng phải có, chẳng phải không.
"Nếu có thuyết nói v.v..." trở xuống là nói thuyết đó nói không phạm. Trong phần trước, đầu tiên là nói có các ngoại đạo, hoặc nói đoạn, thường nêu tà là để làm rõ chánh.
"Như lai không v.v..." trở xuống là nói chánh khác với tà. Không phạm rất dễ hiểu.
Ở trên nói không phạm, dưới đây là nói về phạm, trong đó có ba:
1. Y theo tánh, mà nói phạm.
2. "Ta đã thành v.v..." trở xuống, là y theo bồ đề mà nói phạm do người không hiểu, chấp lấy giả dối, thành phạm. Khen pháp không nghĩ bàn, khiến cho người kính mến, bỏ phạm, thành trì.
Trong phần đầu nói: "Không thể nói như thế, gọi là phạm", nghĩa là không nói trong thân thật có Phật tánh. Vì "Hoặc" che lấp không thấy, nên mới nói rằng chắc chắn không có Phật tánh, thành ra gọi phạm là tội nặng.
Trong đoạn hai nếu nói: "Ta đã thành tựu Bồ-đề, là nói nhân có quả."
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích thành nghĩa có.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống là kết, thành nghĩa có. Đây là nói về tướng phạm. Nên biết là, v.v... trở xuống là kết nói có phạm. Nói trong nhân đã có quả Bồđề phương tiện, cho nên thành phạm.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích thành nghĩa phạm. Có tánh mà chưa tu trì không được Bồ-đề, nêu đúng để chỉ rõ sai.
Trong đoạn ba, "Vì nghĩa này, nên pháp Phật rất sâu, không suy nghĩ bàn luận, nghĩa là vì người không hiểu, chấp lấy giả dối, nên thành phạm, thành ra pháp rất sâu xa không suy nghĩ bàn luận.
Sau đây sẽ giải thích rõ nghĩa trong tà nói trên. Bồtát Ca-diếp thưa hỏi trước.
Có vua hỏi, nghĩa là mượn để nói. Vì trong văn trên, nhà vua khen Tỳ-kheo, Tỳ-kheo chẳng nhận là không phạm giới, nên nay, trong đây, lại nói vua hỏi.
Trên, đã nói Tỳ-kheo ít muốn ở chốn vắng vẻ, vua khen không nhận, không gọi là phạm giới, sao lại cho phạm rơi vào pháp hơn người?"
Sau đây, là Phật giải thích, trong đó đầu tiên đối với câu hỏi trước nói các Tỳ-kheo vì lợi dưỡng, ngụy trang là thiện, phạm pháp hơn người.
"Lại có Tỳ-kheo vì kiến lập v.v..." trở xuống, là phân biệt chân khác với ngụy, nói Tỳ-kheo ấy không phạm. Trong phạm, trước là nói vì lợi dưỡng, lừa dối điều lành, muốn cho người khác biết mình là Khất sĩ.
"Tỳ-kheo như thế, thường ngu si v.v..." trở xuống là vì lợi mà khéo lừa dối, muốn cho người khác nghĩ mình là Thánh.
Sau đây là kết thành phạm, nói trong không phạm, trước là vì giáo pháp chung mà hiện Thánh nên không phạm.
Lại nói: "Nay tôi cũng có tánh v.v..." trở xuống, vì pháp chứng chung, nói trong thân mình có tánh, nên không phạm.
"Nói như thế v.v..." trở xuống là kết. Trong phần đầu có năm câu:
1. Vì kiến lập chánh pháp, trụ chỗ vắng lặng, muốn cho người khác nghĩ mình là bậc Thánh.
2. Làm cho người khác kính tin.
3. Do người khác kính tin, nên đều đến nương tựa mình.
4. Vì họ đến nương tựa mình nên bảo họ khởi "hạnh", để thông suốt chánh pháp.
5. "Làm rạng rỡ v.v..." trở xuống là do người khác nương tựa mình, nên hóa độ làm cho sinh "giải", để thông suốt chánh pháp. nghĩa là bảo cho chúng sinh hiểu được nghĩa khinh trọng do Phật nói. Câu trong đoạn hai, được chia làm ba:
a. Vì giáo hóa người, nên nói trong thân có tánh, được quả. Nay, "trong thân tôi cũng có Phật tánh", là nói hiện tại có nhân.
"Có kinh gọi v.v..." trở xuống là nói sẽ được quả. Ta thành Phật đạo, được quả Bồ-đề, dứt hết kiết phiền não, được quả Niết-bàn.
b. "Rộng vì v.v..." trở xuống là nói người có tánh.
c. "Tôi và ông v.v..." trở xuống là nói mình và người vì có tánh, nên sẽ có nhân Phật, thành tựu quả Phật. Ông và tôi đều sẽ an trụ trong đạo Thập địa. Của Như lai: là nói có nhân Phật, nghĩa là trụ trong đạo Thập Địa.
"Thành v.v..." trở xuống là đắc quả, trong đó đầu tiên là nói thành tựu quả Bồ-đề.
"Vô lượng v.v..." trở xuống là được quả Niết-bàn.
"Nói như thế v.v..." trở xuống là tổng kết không phạm.
Dưới đây là đoạn thứ tư, giải thích rõ lại nghĩa trong có phạm ở trước, trong đó, đầu tiên là nói "Phạm Độtcát-la, thọ tám trăm muôn tuổi trên cõi trời Đao-lợi, còn đọa vào địa ngục, huống chi là tội Thâu-lan-giá? Trái với trong tà ở trên nói Đột-cát-la, thọ tám trăm muôn tuổi, còn đọa vào địa ngục! Đức Như lai vì sợ cho người, nên nay nói thật ra sẽ rơi vào giả dối. Vì nêu nhẹ so với nặng, nên nói: "Huống chi là phạm Thâu-lan-già? Trong đây, tội nặng, gọi chung là Thâu-lan, không chỉ phương tiện.
"Đại thừa này v.v..." trở xuống là trái với các tội của năm thiên trong tà ở trên, chẳng phải do Phật chế. Nói tất cả tội đều do Phật chế. Trước là chế giới không trộm, kế là chế giới không sát, không uống rượu, không nói dối. Sau, chế giới không tà dâm. Vì hỏi đáp trong chế giới dâm để giải thích rõ lại, nên trở lại sau.
Y theo câu trong chế giới trộm, phân tích có ba:
1. Nêu chung Thâu-lan, Phật khuyên người chớ gần gũi.
2. "Những gì v.v..." trở xuống là ba lượt hiển bày riêng.
3. "Tỳ-kheo như thế, gọi là vô ăn v.v..." trở xuống là quở chung, chỉ rõ lỗi.
Cách hành văn trong chế giới không sát v.v... rất dễ hiểu. Sau đây, là chế giới dâm tức là trái với "Hành dâm không có tội" ở trên, là nói có tội. Trước chính là chế:
"Ca-diếp bạch v.v..." trở xuống là hỏi đáp, lại giải thích rõ. Trước hỏi, sau đáp. Trong phần đáp, đầu tiên chính là đáp câu hỏi ở trước, nói nằm mộng không phạm. Sau đây là nhân giáo hóa.
Có chia làm năm:
1. Dạy về việc dâm dục, phải sinh ra ý tưởng nhơ bẩn.
2. Dạy người nữ, chớ sinh tư tưởng ái.
3. Chiêm bao thấy hành dâm rồi, Phật dạy phải sinh tâm ăn năn.
4. Phật dạy Tỳ-kheo nên vận dụng tư tưởng nhàm chán cái ăn. Vì ăn là nhân của dâm, nên Ngài bảo phải nhàm chán.
5. Nếu sinh tâm dâm thì Phật dạy phải nhanh chóng lìa bỏ. "Như thế v.v..." trở xuống là kết. Sau đây, là nói về người thọ.
Trong cặp thứ mười, trước nói về tà, chánh, sau nói về người thọ.
Pháp ngoại gọi là tà, pháp nội gọi là chánh. Trong tà có bốn:
1. Nói ngoại đạo dùng pháp tà khởi hạnh làm chánh đạo.
2. Nói Đức Như lai cho phép hóa độ người ác và vô căn v.v...
3. Nói Đức Như lai cho phép chứa những vật bất tịnh, trong đó, trước là nói về những vật nào được Phật cho phép chứa để.
Trừ những vật này v.v... trở xuống, y theo những thứ nào mà Phật không cho chứa để nói tà khác với chánh.
4. Nói rằng: Đức Như lai nói cỏ, cây v.v... đều có tuổi thọ. Bốn thứ như vậy, gọi là ma nói.
Sau đây, trong phần nói về chánh, chỉ trái với ba câu. Một câu thứ hai, lược qua không dịch.
"Ta cũng không cho phép thường giở một chân lên, cho đến hại chúng sinh mới nói chú thuật, trái với câu thứ nhất ở trước.
"Đủ trắc trở v.v..." trở xuống là trái với câu thứ ba, và câu bốn ở trên, trong đó trước là quở tà, làm rõ chánh. "Ta chỉ cho phép v.v..." trở xuống là nói chánh khác với tà: "Ta chỉ cho phép được ăn năm thứ chánh vị v.v... là trái với câu thứ ba."
"Ta nói bốn đại không có tuổi thọ" chính là trái với câu bốn. "Nếu có v.v..." trở xuống là kết.
Mười cặp trên đây đã nói rộng về tà, chánh, ma nói, Phật nói khác nhau.
Dưới đây là nói chung để kết.
"Ca-diếp bạch Phật v.v..." trở xuống, là đoạn ba, nhân Bồ-tát Ca-diếp lãnh hội, Đức Như lai nói lại lời mình khen.
Từ phẩm Trường Thọ đến đây hợp thành đoạn thứ nhất, Đức Phật tuy duyên, tạo ra hạnh tu.
Dưới đây là đoạn hai, nói về hạnh chứng nhập của tướng xả của Phật.
Trong phần chứng, đầu tiên chính là nói về hạnh chứng.
"Chúng sinh phước mỏng không thấy v.v..." trở xuống là nói về chỗ nương tựa của chứng, giống với ở trên. Sự chính là nói về khác nhau trong chứng gồm có ba: Đầu tiên là chương Bốn đế, nói về tướng thú hướng "Thật". Chương bốn đảo là nói tà về chánh.
"Hai mươi lăm hữu có "Ngã" hay không? v.v..." trở xuống là tướng xả, nhập chứng."
Đầu tiên là nói về bốn Đế, tức là đáp câu hỏi ở trên: "Thế nào là các tâm điều phục ưa nói đế?" ở trên. Nay ở đây sẽ nói về Bốn đế vô tác.
Hợp với y hóa độ của Phật, gọi là "Tâm ưa nói". Nói về đế để làm gì? Đế là pháp tướng. Như lai tạng tánh là đế thật. Đức Phật vì muốn bảo chúng sinh theo tướng, hướng về sự thật, nên phải nói đế.
Về nghĩa của bốn đế, như giải thích trong chương riêng. Trong đó, Đức Như lai, đầu tiên nói rộng về Đế, sau là Ca-diếp nhận hiểu.
Trong phần đầu, trước là riêng, sau là chung, kết.
Trong phần riêng, Khổ, Tập, Diệt, Đạo là bốn. Y theo văn trong phần nói về khổ, văn chia làm hai:
1. Nói tướng khác với thật.
2. "Nếu người v.v..." trở xuống là nói về thật khác với tướng.
Y theo đoạn đầu, trước là nói về khổ, không gọi Thánh đế, chính là nói khác với thật. Nay đây là nói pháp thân Chư Phật, Như lai tạng tánh, cho là thật khổ. Vì tướng của khổ chẳng thật, nên nỗi khổ chẳng phải Đế.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Trước là gạn hỏi: "Vì sao ta nói nỗi khổ chẳng phải đế?"
"Nếu nói v.v..." trở xuống, chẳng phải tà làm rõ chánh. Nếu phải sự khổ là Thánh đế khổ, thì bò v.v... có khổ, lẽ ra có Thánh đế?
Hỏi:
Các khổ này chẳng lẽ không có Thánh đế? Giải thích:
Nếu thể của các khổ này là sự thật thì đúng, nhưng vì đã giác biết phần tình của các khổ đó không chân thật, nên được nói là chẳng phải. Như văn dưới đây nói: "Có khổ, có đế có sự thật. Nỗi khổ còn chẳng phải đế, thì đây được là thật được sao?"
Dưới đây, trong phần nói về thật khác với tướng, y theo ngu, trí để chứng tỏ pháp là sai. Về nghĩa, chủ yếu có hai:
1. Y theo ngu để nói về sai.
2. Y theo trí, để nói về đúng. Văn có ba cặp:
1. Nói về ngu trí, mê ngộ, được mất.
2. Bày tỏ sự tổn hại, ích lợi của mê, ngộ v.v... kia.
3. Kết luận cả đúng và sai.
Y theo sự đối đầu thì trước mê, sau ngộ. Trong mê có hai:
1. Nói đúng về mê kia.
2. Nói mê có lỗi lầm.
Trong mê, nếu người không biết cảnh giới sâu xa của Như lai, mê cảnh giới Phật tánh của Như lai tạng thì sẽ không biết được pháp thân sâu kín của Như lai, nói là thực thân này chẳng phải pháp thân, tức là mê pháp thân Phật. Không biết oai lực, đạo đức của Như lai, là mê báo thân Phật. Cũng có thể câu trước là mê tâm Phật, câu sau là "Mê" đức của Phật.
Hỏi: Đạo đức của pháp thân Như lai chẳng phải là pháp khổ, sao lại nói mê pháp thân này, gọi là mê khổ đế?
Giải thích:
Các khổ này dù chẳng phải tướng khổ, mà là thật khổ, cho nên mê các khổ này, gọi là mê khổ đế.
Nghĩa này thế nào? Tánh thật của khổ là Như lai tạng. Như lai tạng chính là thể của tất cả phàm phu, và Phật. Y theo Đức Phật để trông xa với xưa nay thường tịnh. Ngoài tạng, không có một sinh tử nào để được. Chính cho nên Như lai tạng tức là thân Phật, tức là đức của Phật.
Y theo phàm để giải thích, Như lai tạng kia đã bị "Vọng" che lấp. Tạng bị che lấp, lấy pháp thân khi được sáng tỏ sau này làm gốc, được nói là nhân Phật, nói là Phật tánh. Như thật tánh này và thật đế kia và pháp thân Phật không hai, không khác nhau, nên văn sau nói: "Có khổ, có đế, có thật, cho đến có đạo, có đế, có thật. Thật đế này tức là Như lai, Phật tánh, hư không, vì không khác nhau."
Nay, nói thân Phật và các đức của Phật, cho là thật khổ, vì mê thật khổ này, nên gọi là mê khổ đế. Đế khác cũng vậy. Sau đây, sẽ nói về lỗi của mê.
"Đây gọi là khổ", là nói chung về lỗi của mê. Vì mê chân, sinh ra khổ, nên gọi là khổ.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Vì không biết, nên pháp thấy chẳng phải pháp, chẳng phải pháp thấy là pháp, nói có nhân khổ. "Không biết", cũng là tên khác của mê. Vì mê pháp thân Phật, nên cho rằng thực thân này chẳng phải pháp thân. Cho nên, gọi pháp thấy là phi pháp. Sinh tử không thật, không có là "Phi pháp" kia. Vì chấp lấy giả dối là "Có", nên nói "Thấy pháp".
"Phải biết là v.v..." trở xuống là nói có quả khổ, tất nhiên rơi vào đường ác là quả của ba đường, trôi lăn sinh tử là quả của người, trời. Đây là nhân quả của báo, chung một cặp ở trước. Thêm lớn các kiết, lại là nói về nhân khổ. Chịu nhiều khổ não, lại nói về quả khổ. Đây là một cặp sau, là nhân quả của quả báo riêng. Cũng có thể cặp trước là phần đoạn, cặp sau là quả của sinh tử biến dịch.
Trong tỏ ngộ đầu tiên, chính là nói về sự tỏ ngộ kia. Sau là nói về ngộ được. Trong tỏ ngộ, nếu biết Đức Như lai thường trụ không có thay đổi, là sự thấy của mắt kia. Hoặc nghe âm thanh của hai chữ "Thường trụ", là sự thấy, nghe của người kia. Thường là pháp thường, trụ là báo thường.
Y theo phần nói về "Đắc", đầu tiên chính là giải thích: "Khi xưa, ta v.v..." trở xuống là dẫn mình làm chứng.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Nếu một lần nghe qua tai, liền sinh lên cõi trời, lìa khổ ba đường. Sau, "Giải thoát v.v..." trở xuống là lìa khổ người, trời. Về sau, khi đã giải thoát, mới chứng biết được Như lai thường trụ từ đầu đến cuối.
"Đã chứng v.v..." trở xuống là y theo chung cuộc để tìm điểm mở đầu.
Trong phần dẫn mình để làm chứng: "Ta đối với bổn tế, vì không biết, nên phải trôi lăn trong sinh tử." Trái với mê "Lỗi".
"Mở đầu từ hôm nay v.v..." trở xuống là trái với "Mất" hiển bày "Được". Văn thiếu không đủ, nếu đủ thì nên nói: "Mở đầu từ ngày nay, mới được chân trí, do chân trí, nên mới ra khỏi sinh tử.
Trên, đã nói về mê ngộ. Dưới đây, sẽ nói về sự tổn hại và lợi ích:
Nếu biết chân như thế, là tu khổ thường được lợi ích, nói về lợi ích của sự tỏ ngộ ở trước, thấy tánh thật của khổ, gọi là chân tu khổ.
"Nếu không biết v.v..." trở xuống là nói lên sự tổn hại của mê ở trước.
Trong kết thứ hai, trước kết tỏ ngộ là đúng, sau kết mê là sai.
Kế là nói về Tập đế. Trước nêu sau giải thích. Trong giải thích, lại y theo ngu, trí để làm rõ. Văn có ba cặp:
1. Nói về ngu trí, mê ngộ, được mất.
2. Nói về tổn hại, ích lợi.
3. Kết thúc đúng sai.
Y theo cặp đầu, trước mê, sau ngộ. Trong mê, đầu tiên nói: "Ở trong chân pháp, không sinh chân trí", là nói mê Tập đế. Như lai tạng tánh là chân pháp kia, không có tâm ngộ "Giải", gọi là không sinh trí.
"Nhận lãnh biết tịnh v.v..." trở xuống là nói mê có lỗi, trong đó, từ đầu đến "Không biết pháp tánh" là nói có nhân của tập.
Thọ vật bất tịnh, cái gọi là tôi tớ nói về Tỳ-kheo kia không có "Hạnh".
"Hạnh dùng phi pháp nói là pháp v.v..." trở xuống là nói lên Tỳ-kheo kia không có "Giải", hay gọi phi pháp là pháp v.v..., là không hiểu hành pháp. Vì nhân duyên này nên không biết pháp tánh, không biết pháp lý.
"Vì không biết v.v..." trở xuống là nói có quả tập trước nói về chịu khổ.
"Bất đắc dĩ v.v..." trở xuống là nói lên mất vui của người kia, không được sinh lên cõi trời, mất vui của thế gian và chánh giải thoát, mất đi thú vui xuất thế.
Trong tỏ ngộ, đầu tiên là nói: "Nếu có biết sâu", là nói về biết Tập đế. Vì biết thật tánh của tập, nên nói là "Biết sâu".
"Không hư hoại v.v..." trở xuống là nói ngộ có "đắc", không phá hoại chánh pháp là nói không có nhân của Tập.
"Do nhân này v.v..." trở xuống là nói không có quả Tập. Được sinh lên trời, không có quả của ba đường. Và, chánh giải thoát không có quả của người, trời.
Trong cặp thứ hai, chỉ nói về sự tổn hại của mê, lược qua không nói ích lợi của tỏ ngộ.
Nếu có người không biết chỗ của Khổ đế, Tập đế, mà nói là chánh pháp không có thường v.v..., là nhắc lại mê ở trước, gọi Như lai tạng là chỗ của Khổ, Tập.
"Vì duyên này v.v..." trở xuống chính là nói về sự tổn hại của mê mờ kia.
Trong đoạn kết thứ ba, trước kết tỏ ngộ là đúng, sau kết mê mờ là sai.
Kế là nói về Diệt đế, trong đó có bốn:
1. Nêu diệt pháp.
2. Nêu con người để nói về tu.
3. Kết pháp ở trước.
4. Kết tu ở trước.
Đoạn đầu dễ hiểu. Trong tu của đoạn hai, mê ngộ đều nói. Văn có hai cặp:
1. Nói về ngu trí, mê ngộ, được mất.
2. Nói về tổn hại, ích lợi.
Y theo cặp đầu, trước mê, sau ngộ. Trong mê, nếu có tu tập pháp "Không", chính là nói về mê kia.
"Gọi bất thiện v.v..." trở xuống là nói về lỗi của mê kia. Đây là bất thiện, nói chung về lỗi của mê. Vì chấp không nên trái với thật, gọi là bất thiện.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Diệt tất cả pháp là trái với đức chân của Phật. Nói "diệt", chỉ là kiết hết, vô vi. Vì chê bai không có đức chân, nên diệt tất cả, hư hoại Như lai tạng, trái với chân tánh của Phật. Nói "Diệt", chỉ là không mà chẳng chân thật. Vì nghĩa này, nên hư hoại Như lai tạng.
"Tạo ra tu này v.v..." trở xuống là nhắc lại để kết lỗi. Kế là nói về sự tỏ ngộ của chúng sinh kia. Trong đó, đầu tiên, là Phật giáo hóa chúng sinh thú nhập, giúp cho chúng được giác ngộ, giải thoát.
"Nếu phát v.v..." trở xuống là nói tỏ ngộ có chứng đắc.
Trong phần trước, đầu tiên là nói tu khổ diệt, là trái với ngoại đạo, nói chánh khác với tà. Biết thể tánh của "Diệt" là Như lai tạng, khác với ngoại đạo, vì hoàn toàn chấp không nên gọi là trái ngược.
"Nếu nói tu v.v..." trở xuống là phá tà, bày chánh. Trước là nêu loại tu tà của ngoại đạo, để phá.
"Nếu có thuyết v.v..." trở xuống là dùng lý để giáo hóa đúng, thì thể của Tạng chẳng phải không. Cho nên nói là "Có".
Về tướng "Có" như thế nào? Như trong kinh nói: "Một khổ diệt đế là Như lai tạng. Như lai tạng, là tâm của chân thức. Trong chân tâm này đã sẵn có tất cả Pháp Phật nhiều như cát sông Hằng, đó là các pháp như trí tuệ, Tam-muội, thần thông, giải thoát v.v... Như trong vọng tâm đã sẵn có pháp của các phiền não nhiều như số cát sông Hằng. Tâm này đồng một thể tánh với pháp không lìa, không khác nhau. Vì trong Như lai tạng có đủ nghĩa này, nên gọi là "Có". Thể của Tạng dù có, nhưng vì bị "Hoặc" che lấp nên không thấy được. Dứt hết phiền não rồi thì sẽ được thấy, nên biết là "Có". Như người mê nhờ hiểu chánh pháp mới thấy, nên được gọi là "Có". Sau đây, sẽ nói về tỏ ngộ. "Đó là nếu phát biết tâm của tạng v.v..." trở xuống, một ý niệm cùng cực, nhờ nhân duyên này, mà pháp vọng sinh tử không thể làm trở ngại. Chân pháp của Phật tánh đã chứng biết vô ngại, gọi là đều được tự tại đối với các pháp.
Trong cặp thứ hai, trước là tổn hại, sau là ích lợi. Trong tổn hại, nếu tu vô ngã vắng lặng của mật tạng Như lai, là nêu mê ở trước. Dùng lý "Không" đó làm Như lai tạng, gọi là tu không vô ngã của tạng Bí mật.
"Trôi lăn chịu khổ sinh tử trong vô lượng đời", chính là nói có tổn hại. Vì chấp không chê bai thật, nên ở trong sinh tử, gọi là chịu các khổ.
Trong ích lợi, nếu có người không làm như thế, là nhắc lại sự tỏ ngộ ở trước, trái với không, mong cầu sự thật, gọi là "Không phải như thế".
"Có phiền não, nhanh chóng dứt trừ", chính là nói có ích.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Vì biết tạng, vì thấu suốt vọng vốn "không", nên mau chóng dứt trừ phiền não.
Trên đây, là nói rộng về tu. Đây gọi là Diệt đế, là đoạn ba, kết thúc nói về pháp ở trước.
"Nếu có thể v.v..." trở xuống, là đoạn thứ tư, kết thúc nói về tu ở trước.
"Nếu được như thế, là đệ tử của ta", kết thúc nói tỏ ngộ là đúng. "Nếu có người không v.v..." trở xuống là kết thúc mê muội ở trên là sai.
Trong đạo cũng có bốn:
1. Nói về pháp đạo.
2. Y theo người để nói về tu.
3. Kết thúc pháp ở trước.
4. Kết thúc tu ở trước.
Trong phần đầu, đạo là nói chung để nêu lên nghĩa là Phật, pháp, tăng và chánh giải thoát, chỉ cho "Thể" của đạo, trong đó, chia riêng Như lai, pháp, tăng là "Duyên" của đạo kia. Và chánh giải thoát chính là thể của đạo. Đó là giải thoát hữu vi kia.
Phần thứ hai là mê, ngộ trong tu đều giải thích trước mê, sau ngộ.
Trong mê, đầu tiên chính là nói về mê kia.
"Vì nhân này v.v..." trở xuống là nói mê có lỗi.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Có các chúng sinh với tâm địa điên đảo nói: "Không có Phật, Pháp v.v..." là nói về đối tượng mà họ chê bai.
"Dòng sinh tử v.v..." trở xuống, bày tỏ đối tượng do chúng sinh lập ra. Giảng nói tất cả chỉ là sinh tử, cũng như sự biến hóa của trò ảo thuật.
"Tu tập cái thấy này", là kết thúc nói về mê của chúng sinh kia.
Lỗi của mê có thể biết là dường nào.
Trong tỏ ngộ, "Nếu phát tâm thấy v.v..." chính là nói về sự tỏ ngộ của chúng sinh.
"Nhân tỏ ngộ này v.v... trở xuống, là nói sự tỏ ngộ có chứng đắc, trong đó, trước là giải thích.
"Vì sao v.v... trở xuống là dẫn bản thân mình làm chứng, nói lên tỏ ngộ có ích. Trong đó, đầu tiên là hỏi trước, khởi sau.
Vì sao thấy "Thường" làm cho đối với quả báo, tùy ý mà được?
Phật đáp:
"Xưa kia, ta đã dùng bốn điên đảo v.v..." là nêu tổn hại, chỉ rõ lợi ích.
"Nay đã diệt v.v..." trở xuống là chính nói về có ích. Đó gọi là Đại đế, là đoạn hai, kết thúc nói về pháp ở trước.
"Nếu có người v.v... trở xuống, là đoạn thứ tư, kết thúc nói về tu ở trước. Trước kết mê là sai, sau kết ngộ là đúng. Chỉ nên kết đạo.
Y theo sau gồm thâu ở trước, cho nên nhân nói chân thật thấy tu tập bốn pháp Thánh đế, đó gọi là tổng kết, nhận hiểu rất dễ dàng.
Dưới đây là đoạn hai, nói tà về chánh. Đây là đáp câu hỏi trên: "Chánh thiện, thành tựu đủ, giảng nói bốn điên đảo?" Vì muốn cho chúng sinh bỏ tà, về chánh, cho nên mới nói về bốn đảo.
Trong văn, trước là nói, sau là Ca-diếp lãnh hội. Trong phần giải thích, đầu tiên là nói: "Rằng bốn điên đảo, nghĩa là nói chung, để cho nêu.
Thật ra có tám điên đảo, vì sao nói bốn? Vì bốn cặp. Sau đây, là nói rộng về bốn điên đảo đó:
Đầu tiên nói về hai đảo khổ, vui kia. Trước nói về đảo vui, kế là nói về đảo khổ. Sau là tổng kết hai đảo.
Đảo vui ở đây ít, khác với chỗ khác nói. Ở chỗ khác nói thẳng khổ sinh tử, lấy đó làm vui, gọi là đảo vui. Trong đây nói mê vui chân thật của Phật, chấp càn là khổ, gọi là tội lớn. Khổ lấy khổ tội này cho là nhân vui, với hy vọng được hưởng vui, gọi là trong khổ, sinh ra đảo vui.
Trong văn có sáu câu ba cặp:
1. Nói chúng sinh chấp ngã, đối với vui của Phật, cho là khổ.
2. Nói tám điên đảo kia cho là tội khổ. Hai câu này là một cặp.
3. Giải thích Phật là khổ, trở thành câu đầu trên.
4. Nói khổ của tội ở trước cho là vui. Hai câu này là một cặp.
5. Vặn hỏi, nhằm đả phá cái vui của Phật, thành Phật là khổ, thành câu đầu ở trên.
6. Kết thúc ở trước chấp khổ là vui, là trái ngược. Hai câu này là một cặp.
Trong câu đầu, chẳng phải khổ cho là khổ, gọi là điên đảo, nói chung để nêu lên.
Sau đây, là nói tướng của khổ kia.
Chẳng phải khổ, Như lai đã hiểu về chỗ mê kia. Sinh tưởng điên đảo, nói là Phật vô thường, bày tỏ lập trường của mình: Vì vô thường nên khổ.
Trong câu hai, "Nếu nói Như lai là vô thường" là nhắc lại tư tưởng trái ngược ở trước. "Gọi là tội khổ lớn", kết cho là khổ. Đây là tội lỗi làm nhân cho khổ, nên gọi là tội khổ.
Trong câu ba, "Nếu nói Như lai bỏ thân khổ này nhập Niết-bàn, là nêu "diệt" chứng khổ." "Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết.
Trong câu bốn, "Nếu ta nói Như lai là "Thường" thì chính là ta đã thấy có vô lượng tội, sợ vui là khổ."
"Cho nên, phải v.v..." trở xuống là lấy khổ làm vui, lấy tội khổ điên đảo kia làm niềm vui.
Nói "Cho nên", là nói Phật "Thường" vì có vô lượng tội, nên nói Phật vô thường. Nói Phật vô thường là hợp với đạo lý. Cho nên lại nói "Nói như thế", tức là ta hưởng thú vui.
Trong câu năm, "Như lai vô thường, tức là khổ", nghĩa là tự lập ra nghĩa khổ. Đây chính là nói ở trước, Như lai bỏ thân nhập Niết-bàn, cho là vô thường. Vì vô thường nên khổ. Cũng có thể vô thường là vì hành khổ sinh diệt hữu vi kia, nên nói là khổ.
"Nếu nỗi khổ này có thì làm sao sinh ra vui?" Vặn hỏi để đả phá cái vui của Phật, thành Phật là khổ.
"Trong khổ sinh ra niềm vui" trong câu thứ sáu, gọi là trái ngược, nghĩa là ở trong tội khổ điên đảo, vì chấp lấy làm vui, nên gọi là điên đảo.
Kế là nói về khổ điên đảo, vui sinh ra tưởng khổ, gọi là điên đảo, đều được nêu lên.
Kế là giải thích rộng, trong đó có ba câu:
1. Mê thú vui chấp là khổ. Vui, là Như lai nói về sự mê lầm kia. Đạo nói khổ, là Như lai vô thường, nói "Sở lập" Như lai.
"Nếu nói v.v..." trở xuống là nhắc lại để kết luận.
2. Phá vui thành khổ: "Như lai thường trụ", đó gọi là thú vui. Trái lại nếu lập: "Nếu ta nói thường thì làm sao được nhập Niết-bàn?", nêu lên vặn hỏi để phá.
3. Vặn hỏi, phá chẳng phải khổ, thành Phật chẳng phải vui.
"Nếu nói chẳng phải khổ, là nêu cái khổ mà người khác đã chịu, thì làm sao Đức Phật bỏ thân mà diệt độ?", là nêu câu hỏi để phá.
Trên đây, đã giải thích rộng.
"Vì đối với vui sinh ra khổ v.v..." trở xuống là kết. Đó gọi là điên đảo đầu tiên, là tổng kết hai đảo trước. Nghĩa là đảo của cặp đầu trong bốn cặp.
Trong cặp thứ hai, "Vô thường tưởng là thường. Thường tưởng là vô thường", đó gọi là điên đảo, nói chung để nêu.
Kế là giải thích tướng của chúng, trong đó, chỉ nói về vô thường chấp là thường, thường chấp là vô thường. Trên đây thường nói. Nay lược qua không nói. Nói vô thường, gọi là chẳng tu "Không", nói về lý do vô thường. Vì chẳng tu "Không", nên tuổi thọ ngắn ngủi, chính là nói về vô thường. Do chẳng chứng "Không", vì theo "Hữu" trôi lăn, biến đổi, nên mạng sống ngắn ngủi. Đó là nói về sự mê lầm.
"Nếu có thuyết v.v..." trở xuống là nói về lập luận của thuyết đó. "Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết. Gọi là đảo thứ hai, đều là để kết.
Trong cặp thứ ba, không có "ngã" mà tưởng là
"Ngã", "Ngã" tưởng là "Vô ngã", đó gọi là điên đảo, nói chung để nêu. Sau đây sẽ nói tướng của điên đảo.
Trước là nói sự trái ngược về ngã:
Người thế gian cũng nói có "Ngã", chính là nêu về "ngã điên đảo".
"Phật tánh cũng vậy", là nêu chính để bày tà.
"Người đời dù v.v..." trở xuống là nói tà khác với chánh. "Đây tức là v.v..." trở xuống là kết.
Sau đây là nói về sự trái ngược của "Vô ngã" kia. Pháp Phật nói "Có ngã", tức là Phật tánh, nêu sự mê lầm của chúng sinh.
"Thế gian nói v.v..." trở xuống là nói về điều mà thế gian lập ra.
Thế gian nói vô ngã, chính là nói khởi trái ngược. "Đây gọi là v.v..." trở xuống là kết.
"Nếu nói v.v..." trở xuống là dẫn thuyết để chứng minh là "Không có"y theo sự chứng nghiệm "Không" phá tướng của lời nói này, chắc chắn chẳng phải Phật tánh.
"Gọi là v.v..." trở xuống là kết. Đó gọi là cặp thứ ba, nói chung để kết.
Trong cặp thứ tư, "Tịnh mà tưởng bất tịnh, bất tịnh mà tưởng tịnh, là pháp điên đảo", nói chung để nêu.
Sau đây, là nói rộng: Trong đó, trước là nói về tịnh mà chấp bất tịnh.
Tịnh: tức là Như lai thường v.v..., là nói sự mê lầm đó, nếu có người nói, v.v... trở xuống là nêu lên điều đã lập. Sau đây, là nói về tưởng trái ngược của tịnh.
"Bất tịnh mà tưởng tịnh, gọi là điên đảo" nêu để nêu chung. "Nếu có thuyết nói v.v..." trở xuống là nói rộng.
Nếu nói "Trong thân không có vật nào bất tịnh" thì chính là nói khởi trái ngược. Vì không có bất tịnh, thì chắc chắn sẽ chứng nhập. Sau đây, sẽ nêu điểm chung cuộc để làm sáng tỏ điểm mở đầu, để thành nghĩa tịnh. Quả Niết-bàn, được gọi là chỗ thanh tịnh.
"Thuyết của Như lai v.v..." trở xuống là phá uế, bày tịnh.
"Đó gọi là v.v..." trở xuống là kết: gọi là điên đảo của cặp thứ tư, nói chung để kết thúc, Bồ-tát Ca-diếp nhận hiểu, rất dễ hiểu. Phật bảo cho biết vì đồng với hạnh mở đầu, nên nói "Từ trước đều gọi tà kiến".
Dưới đây là đoạn ba nói về bỏ tướng, nhập chứng:
Trong đáp câu hỏi trên: "Thế nào làm điều lành?" Nay, bậc Đại Tiên nói: "Câu hỏi kia như thế nào?" Giải thích, có ba nghĩa:
1. Y theo "Tu" để hỏi. "Phàm phu, Nhị thừa đều làm nghiệp lành, không được Bồ-đề. Sao Bồ-tát tu tạo nghiệp lành mà được Bồ-đề?" Sau đây, Phật sẽ dạy bảo:
Lìa "Có", "Không", thú nhập Trung đạo. Làm việc lành như vậy, sẽ được Bồ-đề.
2. Đối với quả để hỏi: "Nếu khiến cho đương lai có quả để được, thì cần phải tu điều lành. Nếu không thể được thì làm sao làm việc lành?"
Sau đây, trong phần Phật đáp là nói các chúng sinh đều hiện đang có Phật tánh, tất nhiên, sẽ được quả. Chẳng hạn như đứa con đang ở trong thai mẹ, chắc chắn không bao lâu sẽ sinh, chỉ cần tu điều lành.
3. Đối với lý để nêu câu hỏi: "Nay, tôi không biết chỗ thú nhập, thì làm sao thực hành điều lành?" Đức Phật đáp:
Có Như lai tạng để thú nhập, chuyên tu nghiệp lành. Trong văn có hai:
a. Nói chúng sinh có Như lai tánh, để thú nhập.
b. "Kinh Phương Đẳng như cam lộ v.v... trở xuống là dạy người thú nhập. Trước là sở chứng, sau là năng chứng.
Trong phần trước lại có hai:
1. Chính là nói về có "Tánh".
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: "Thật ra không có ngã v.v..." trở xuống, hỏi đáp để giải thích lại.
Trong phần trước, đầu tiên là nói phàm phu chúng sinh đều có tánh mà không thấy.
"Dụ hài nhi v.v..." trở xuống là nói người Nhị thừa có tánh mà không thấy.
Trong phần trước, trước hết là hỏi: "Hai mươi lăm "Hữu" có "Ngã" hay không? Do đâu mà sinh?" Như lai trước đó đã nói: "Dù người đời nói là ta không có Phật tánh, nhưng vì Ca-diếp biết ta có, nên mới hỏi. Sau đây, Phật sẽ đáp: "Về nghĩa Phật tánh có giải thích trong chương riêng."
Trong văn, đầu tiên là pháp, kế là dụ, sau là hợp. Trong pháp có ba câu:
1. Nói "Ngã" tức Như lai tạng, chỉ bác bỏ thể của "Ngã", đối với nói thẳng: "Ta sợ đồng với chấp lấy của hữu tình. Vì nghĩa này, nên đối với tạng để nói.
Như lai tạng là tên khác của Phật tánh. Nói về thể của Như lai tạng, là tâm của chân thức. Ở trong tâm này, vì chứa đựng pháp giới, pháp Phật nhiều như số cát sông Hằng, nên gọi là Tạng. Lại, vì chứa đựng vô lượng phiền não, nên cũng gọi là Tạng.
Pháp thân Như lai chứa trong Tạng này, gọi là Như lai tạng. Lại, Đức Như lai sinh ra từ trong tạng này, nên cũng gọi là Như lai tạng.
2. "Tất cả v.v..." trở xuống là nói chúng sinh đều có Như lai tạng. Tất cả chúng sinh đều có Như lai tạng, có công năng làm nhân Phật, gọi là có Phật tánh. Như lúc ngủ, trong tâm mình có tánh thức tỉnh. Cũng như quặng đá có tánh, vàng, bạc. Tất cả như thế. Tánh này vì chúng sinh kia tự cho là thật, nên gọi là "Ngã". Vì "Ngã" này, nên tất cả có tánh, tức gọi là có "Ngã". Vì "Sao không nhìn xa, nói thẳng rằng, chúng sinh có ngã, là trước nói tánh mới nói là Ngã, đây như trước giải thích. Nhìn thẳng nói ngã e rằng: đồng với chấp chặt của hữu tình, nên ta nói "Có tánh", y theo "Có tánh" này để nói về "Ngã", nghĩa "Ngã" khác nhau. Thông thường có bốn thứ:
a. Tự thật, gọi là "Ngã", là thể của tất cả pháp là thật.
Tự tại, gọi là "Ngã", là tám tự tại, như văn sau sẽ nói.
b. Là giả gọi "Ngã" của dụng nhóm họp. Như sau đây sẽ nói "Ngã" trong sáu pháp, các pháp năm ấm nhóm hợp, hình thành "Ngã", "Người".
c. Là "Thần ngã" do ngoại đạo lập ra. "Ngã" được nói ở đây là "ngã" của môn đầu.
3. "Ngã" như thế v.v... trở xuống là nói các chúng sinh không thấy lý do. Vì phiền não che lấp, nên không thấy được. Đạo nói là xưa nay bị phiền não che lấp, tức thấy rõ khác với tám ngà tự tại. Đạo nói thường bị phiền não che lấp, tức là nói lên khác với thế đế giả gọi "Ngã" vô thường. Đạo nói: "Tất cả chúng sinh không thấy, tức nói lên khác với "Thần ngã" của ngoại đạo.
Trong dụ có ba:
1. Dụ Phàm phu có tánh, bị "Hoặc" che lấp, nên không thấy.
2. "Có" người lạ v.v... trở xuống là dụ Phật mới nói, cho nghe chúng sinh kia nghe mà không thấy.
3. Ở ngay trong nhà cô gái nghèo kia, đào xới đất lên v.v... trở xuống là dụ cuối cùng, Phật khai thị cho cô được nghe, tỏ ngộ, hiểu biết.
Trong phần đầu, cô gái nghèo dụ cho các phàm phu. Không có đức, gọi là nghèo. Vì sinh ra sự hiểu biết thật, nên gọi là nữ. Năm ấm là nhà. Vì ngay với ấm có tánh, nên nói trong nhà có nhiều kho vàng. Tự tâm mình biết, gọi là người nhà. Tâm có thô tế, nhạy bén, chậm lụt khác nhau, nói là Đại, Tiểu (Đại thừa, Tiểu thừa). Không giác ngộ trong thân mình có Như lai tạng tánh, gọi là người vô tri. Cũng có thể là chúng sinh của hai mươi lăm hữu, gọi là người nhà. Người có hơn, kém, gọi là Đại, Tiểu. Không đồng tánh hiểu biết, gọi là người không hiểu biết. Văn trong đoạn hai có ba cặp:
Phật khuyên tu hành, dụ cô gái kia phải thấy tánh.
Như lai hứa chỉ bảo, dụ cô gái kia nghe, mà không tin.
Đức Phật hại mình, dụ cho cô gái kia nghe, cầu xin được thấy. Y theo cặp đầu, có người lạ v.v..., dụ cho
Phật khuyên tu. Đức
Phật vượt ngoài thế tục, gọi là khác người.
"Khéo hiểu pháp tạo tu, làm sáng tỏ tánh, gọi là biết phương tiện. Dùng pháp bảo cho biết, gọi là nói với người nữ. Khuyên nàng dứt chướng, sao cho khéo được ích lợi, người kia gọi thuê nhổ cỏ, sau đó, phải thấy tánh. "Người nữ (cô gái nghèo) liền đáp: "Tôi không làm được." Trái lại, phải thấy tánh. Căn cơ làm rõ nghĩa Thánh tâm, gọi là "Đáp". Nếu không có sở chứng thì không bằng lòng. Tu đoạn, gọi là "Tôi không thể làm được".
"Nếu có người bảo cho biết v.v..." trở xuống là thuận với "Phải thấy tánh". Tâm "Giải" ở vị lai, là mượn hiện tại tu sinh, gọi là "Con của ta". Nếu Phật chỉ rõ tánh, thì hôm nay, ta sẽ cầu tâm "Giải" để chứng kiến, nên nói: "Nếu bảo cho con ta biết kho vàng ở đâu?" Vì tánh, siêng tu, gọi là mau làm.
Trong cặp thứ hai, "Ta biết cách thức có thể chỉ bảo cho con ông biết", là Như lai hứa sẽ bảo cho biết.
"Cô gái đáp v.v..." trở xuống là nói người kia nghe
Phật nói, không tin.
"Về nghĩa lớn nhỏ trong nhà ta" như trước đã giải thích. Tánh ở trong thân ta, mà ta còn không biết, huống chi Phật khác với người mà biết được tánh của ta, hãy bảo cho con ta biết?
Trong cặp thứ ba, người này lại nói: "Theo ta nghĩ, người có khả năng là Đức Phật, vì Đức Phật chứng tỏ rằng, mình có thể biết, có khả năng chỉ bảo cho ta biết.
"Người nữ đáp v.v..." trở xuống là người kia nghe Phật nói, cầu mong được thấy. Không phải chỉ cầu được thấy trong tương lai, mà cũng cầu thấy ngay trong hiện tại.
Tùy văn được hiểu thấy cho nên nói rằng: "Tôi cũng muốn thấy, hãy chỉ bảo cho tôi."
Trên đây là cặp thứ ba hợp thành cặp thứ hai, Phật mới nói cho họ nghe, người kia nghe nhưng không thấy. Dưới đây là đoạn ba, sau cùng Phật mở bày cho người kia nghe, tỏ ngộ, hiểu biết, liền đào ngay trong nhà cô gái nghèo để tìm kho vàng, dụ cho Phật chỉ bày.
Nay, Đức Như lai chỉ bày Phật tánh ở ngay trong thân chúng sinh, gọi là ở ngay trong nhà cô gái nghèo kia, đào đất lên để tìm kho vàng. "Người nữ thấy v.v..." trở xuống là dụ nói chúng sinh nhờ Phật dạy mà tỏ ngộ, hiểu biết. Theo lời Phật nói, hiểu tánh, gọi là thấy mình. Vì hiểu tánh, giải thích tâm, nên nói rằng sinh ra vui mừng. Vì thấy chân trong vọng, cho nên tưởng lạ. Hiểu pháp, kính Phật, gọi tông là con người.
Trong hợp, đầu tiên là dựa vào văn, chính thức hợp.
"Phương tiện tốt v.v..." trở xuống là tùy sự hợp lại. Trong chính thức hợp ở trước, dựa vào ba đoạn trên, theo thứ lớp hợp:
"Phật tánh như thế" hợp với "Kho vàng trong nhà" ở đoạn đầu. "Tất cả chúng sinh không thấy được", hợp với
"người lớn, nhỏ trong nhà đều không thấy" ở đoạn trước.
"Như kho báu kia, người nghèo không biết" là nêu dụ để khắc ghi làm tin. Kho báu yên định tánh, người nghèo vì không biết khắc ghi, nên sinh ra không thấy.
"Nay, ta chỉ bày cho khắp chúng sinh, Phật tánh bị phiền não che lấp" hợp với đoạn hai.
Văn trong thí dụ ở trước có ba cặp, nay tổng hợp ba cặp đó: "Như cô gái nghèo kia v.v..." trở xuống là nêu dụ để ghi nhận.
"Ngày nay, Như lai chỉ bày cho khắp chúng sinh, được biết các kho báu giác", hợp với "Tức ở ngay trong nhà cô gái nghèo kia, đào đất, tìm được kho vàng" trong đoạn ba, cái gọi là Phật tánh, chỉ cho thể của kho báu kia, mà chúng sinh v.v... trở xuống là hợp với "Cô gái thấy kho vàng, sinh tâm vui mừng", trong đoạn ba.
"Kính mến Như lai", hợp với "Kính mến người này". Y theo sự tùy hợp dưới đây, có chia làm ba:
1. Người năng chỉ bày.
2. Người được chỉ bày.
3. Kho vàng được chỉ bày.
Phương tiện tốt, nghĩa là nêu người năng chỉ bày, tức là Đức Như lai, đối với pháp để hợp.
Cô gái nghèo nêu người chỉ bảo tức tất cả chúng sinh đối với pháp để hợp.
Vàng, là nêu người được chỉ bày, tức là Phật tánh, nghĩa là đối với pháp để hợp.
Y cứ trong phần nói về Thanh văn có tánh, trước là dụ, sau là hợp.
Trong dụ có ba:
1. Dụ xưa nói vô ngã.
2. "Đích thân bảo cô gái v.v..." trở xuống là dụ không có ngã che lấp chân.
3. "Bèn đến v.v..." trở xuống là dụ cho hôm nay nói chân ngã.
Y theo đoạn đầu, "Cô gái" dụ cho Như lai. Vì Phật có khả năng nuôi nấng, hóa độ, nên nói là "Nữ".
Trong quá khứ, Đức Phật hóa độ các chúng sinh, giúp cho sinh căn cơ Đại thừa, gọi là "Sinh một con". Chúng sinh được giáo hóa, pháp thân chưa thêm, gọi là trẻ nhỏ. Khởi "Hoặc" chấp ngã, gọi là "Bị bệnh". Tâm từ của Phật thương xót, nói là buồn rầu. Hỏi thăm, mong cầu nghĩa hóa độ, gọi "Tìm thầy thuốc". Oai nghi hóa độ được thể hiện ở tâm, gọi y là thầy thuốc đến.
Nói "Đối trị với vô thường, khổ, vô ngã v.v..." gọi là hợp với "Ba thứ thuốc: Bơ sữa, đường phèn", nêu thể của thuốc đó. Đức Phật khuyên chúng sinh tu tập, gọi là cho thuốc bảo phải uống.
Trong đoạn hai, chia làm ba:
1. Dụ cho nghĩa hóa độ, được thể hiện ở tâm.
2. "Lúc bấy giờ cô gái v.v..." trở xuống là nói dụ "Quyền" che lấp Phật.
3. "Trẻ thơ khát sữa v.v..." trở xuống là dụ cho chúng sinh được hóa độ, theo "Quyền" bỏ thật.
Trong câu, "chính là nói vô ngã, ngăn cả nói "Ngã", gọi là nhân. Bảo vì dung nghi hóa độ được thể hiện ở tâm bậc Thánh, gọi "Bảo người nữ".
Xưa, Như lai dạy đệ tử Thanh văn tu học vô ngã, gọi là "Uống thuốc xong". "Chưa được thọ", gọi là "Chớ cho bú sữa". Tạm thời dừng lại, chứ chẳng phải dùng hẳn lời nói này. Vả lại, bệnh của ta đã lành. Vô ngã đối trị phế bỏ, gọi là thuốc đã tiêu hóa xong, mới được nói danh từ "Ngã", tức là cho thuốc.
Phần thứ hai, trong dụ "Quyền" che lấp "Thật", Phật nói vô ngã che lấp chân ngã, nên nói: "người phụ nữ thoa vị đắng vào núm vú, bảo đứa con hãy lìa bỏ "Ta", mẹ nói với con rằng: "Núm vú của ta có thoa chất độc", "Chân" bị "Quyền" che lấp.
"Chưa thể thọ tập", gọi là "Không được sờ mó". Phần ba, trọng dụ chấp "Quyền" bỏ "Thật", chúng sinh được Phật hóa độ, phần nhiều muốn khởi dần, gọi là "Đứa con khát sữa". Tâm nhàm chán Tiểu thừa phát sinh, gọi là "Thiếu". Cầu chân ngã của Phật, gọi là "Thèm bú vú mẹ". Chấp lời nói "Quyền" xưa, gọi là "Nghe hơi độc". Chưa chịu theo "Chân", gọi là "Bỏ đi xa".
Trên đây, ba câu hợp thành câu hai. Câu ba nay nói.
Trong dụ chân ngã, có chia làm bốn câu:
1. Dụ nói cho nghe chân ngã.
2. Dụ mới nghe, không chấp nhận.
3. Dụ Phật giải thích cho nghe.
4. Dụ lãnh thọ tu hành.
Y theo câu đầu, bệnh của ta đã lành. Vô ngã đối trị bỏ phế, gọi là "Đến khi thuốc đã tiêu, Phật đã dùng giáo pháp Đại thừa, để xóa bỏ "Quyền" làm sáng tỏ "Thật", gọi là "Người mẹ dùng nước sạch để rửa núm vú mình." Dùng pháp dẫn dắt, gọi là "Kêu con mình". Khuyên học chân ngã, gọi là "Cho con bú vú".
Trong câu hai, "Phần nhiều sẽ trở nên rất hết long, gọi là "Đói khát".
"Bảo thủ lời nói "Quyền" xưa, chưa bằng lòng thọ lãnh Đại thừa, gọi là "Nghe hơi độc xông lên". nên, "Đứa con không đến với mẹ".
Trong câu thứ ba, "Hóa độ làm sáng tỏ tâm chúng sinh" gọi là "Mẹ bảo con".
"Vì ông cho uống thuốc" là thoa chất đắng vào núm vú", là nói xưa mình đã nói lý vô ngã.
"Thuốc của ông đã tiêu hóa v.v..." trở xuống là nói lý do nay nói về chân ngã. Về ý nghĩa "Thuốc đã tiêu hóa", "Rửa sạch đầu vú", đồng với giải thích ở trước.
Sự học hôm nay chẳng có lỗi, gọi là "Uống thuốc không đắng".
Trong câu bốn, người Thanh văn được Phật hóa độ, nghe Phật nói, lãnh hội, thông qua, gọi là "Con đã nghe mẹ nói rồi!". Là Tu học chân ngã, gọi là "Trở lại uống sữa. Vì học Phật không tức khắc, nên nói "Dần dần".
Trong hợp, dựa vào văn của ba đoạn trên, theo thứ lớp phối hợp.
Trong phần hợp với đoạn đầu, "Như lai cũng vậy" hợp với "Người nữ" ở trước.
"Vì độ v.v..." trở xuống, là hợp với "Thầy thuốc đã đến", hợp ba thứ thuốc cho người bệnh uống. Trong đó có ba câu: Hai câu trước, đả phá, lìa năng chấp. Một câu sau là đả phá, quở trách sở chấp.
Trong hai câu trước, câu đầu là phá ngã kiến, câu sau là phá kiến chấp khác.
Trong câu đầu, "Vì độ thoát tất cả, dạy tu vô ngã, chẩn đoán bệnh, thọ lãnh pháp.
"Tu như thế v.v..." trở xuống là nói học có giảng nói. Dứt hẳn tâm "Ngã", nói về pháp mà tâm lìa bỏ, nghĩa là lìa ngã kiến.
"Nhập Niết-bàn": Nói lên sở đắc của mình, được tiểu Niết-bàn. "Vì dứt trừ kiến chấp giả dối" trong câu hai là bảo chúng sinh phải lìa chướng, là lìa biên, tà, giới, kiến thủ v.v... Thị hiện pháp xuất thế gian, bảo tu đối trị, nghĩa là bảo cho biết đạo pháp vô lậu xuất thế, khiến chúng sinh tu học.
Trước kia là "Dứt trừ ngã kiến", là nói về chứng "Diệt". Ở đây, dứt kiến chấp khác, bảo tu Thánh đạo. Nói là ẩn, hiển, về lý thật sự bình đẳng.
Trong câu thứ ba, lại chỉ bày cho thế gian biết chấp ngã chẳng phải chân, khiến bỏ ngã giả dối. Người đời thường chấp năm ấm làm "Ngã". Nay, biết "Ngã" nay luống dối không chân thật. Tu pháp vô ngã, thanh tịnh thân, nghĩa là bảo học Vô ngã. Quán thân chẳng có
"Ngã", thấy thân vắng lặng. Không lập thần chủ giả dối, ở trong thân, gọi là thân thanh tịnh. Cũng có thể câu đầu vì bảo thành tựu "Đoạn đức", nên kinh nói: Dứt hẳn "Ngã" tâm, nhập vào Niết-bàn. Hai câu sau, là bảo thành hạnh "đoạn đức".
Câu trước trong hạnh, là dứt trừ bốn kiến, tu tập tịnh hóa tâm. Câu sau, là dứt trừ "Ngã", tu thân thanh tịnh. Cũng được nói rằng, cầu đầu bảo người chứng quả Vô học. Cho nên kinh nói: "Dứt bỏ hẳn ngã, tâm nhập Niết-bàn." Hai câu sau, bảo người tu, khởi nhân học. Trong nhân, câu trước là dứt trừ bốn kiến, tu khởi chánh trí. Câu sau, là dứt trừ "Ngã", tu tập tịnh thân. Dù có nhiều nghĩa, nhưng các môn đều tốt hơn.
"Dụ như v.v..." trở xuống là hợp với đoạn hai. Ba câu trong dụ chỉ hợp với đoạn hai. Trước nêu dụ ở trước. Sau là hợp rất dễ hiểu.
"Như người nữ kia v.v..." trở xuống là hợp với đoạn ba. Bốn câu trong dụ chỉ hợp với đoạn thứ nhất, thứ ba, thứ tư. Một câu trong đoạn hai, là lược qua không hợp.
"Như người nữ kia rửa sạch đầu vú, gọi con lại, vì muốn cho con bú lại" là nêu đoạn văn của câu đầu trong thí dụ ở trước.
"Nay ta cũng như vậy", là nói Như lai tạng nêu pháp để hợp. "Cho nên Tỳ-kheo không nên sinh ra sợ sệt", là hợp với "núm vú của ta đã rửa sạch rồi, bú sữa không đắng nữa!" trong câu thứ ba.
"Như con trẻ kia nghe mẹ gọi, bèn bú trở lại", là nêu văn của câu bốn trong dụ trước.
"Tỳ-kheo cũng vậy", là nêu pháp để hợp.
"Nên tự phần bí tạng của Như lai, chẳng thể không có", là y theo dụ để khuyên.
Trên đây là một đoạn chính là nói về chúng sinh có tánh, mà không nhận thấy.
Dưới đây là đoạn hai, hỏi đáp để giải thích rõ lại, có hai lớp hỏi đáp:
1. Ca-diếp chấp tướng, vặn hỏi về thật, bắt bẻ không có Phật tánh.
Như lai nói về thật khác với tướng để đáp.
2. Ca-diếp chấp sự thật, vặn hỏi tướng, câu hỏi không sát sinh? Như lai nói tướng khác với sự thật để đáp.
Trong lời hỏi đầu có mười hai câu: Hai câu trước, hỏi tất cả chúng sinh đều có tánh ngã. Mười sâu sau hỏi về "Nghĩa thường có từ xưa đến nay" ở trước.
Trong hai câu trước, Ca-diếp bạch Phật: "Thật ra không có "Ngã", trái với lời Phật đã nói ở trước.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích. Trước, tự gạn trách, sau là giải thích rõ lúc vô sanh không có biết, dùng tướng để nghiệm sự thật.
Nếu có "Ngã" v.v... trở xuống là dùng thật để trách tướng. "Vì nghĩa này v.v..." trở xuống là kết thành vô nghĩa.
Dùng "Có mất sau cùng, chứng thành vô ngã" trong câu hai. Câu thứ nhất trong mười câu sau dùng nghĩa khác nhau của mười câu sau để hỏi, đả phá tánh "Thường". "Nếu đều có tánh là thường trụ" là nhắc lại nghĩa trước đây của Phật. "Lẽ ra không có hư hoại, là y theo sự thật để hỏi về tướng. Tướng khác nhau, gọi là hoại. Nếu tánh là thường, pháp thường không khác, thì tất cả chúng sinh đáng lý không có các khác nhau tướng hư hoại?
"Nếu không có hư hoại v.v..." trở xuống là vặn hỏi, đả phá không có hư hoại, trở thành tướng khác nhau.
"Nay, thấy rồi v.v..." trở xuống là dùng tướng khác nhau để nạn phá tánh "thường".
"Nghiệp duyên khác nhau" là nói về nhân của nghiệp duyên đó khác nhau. Các đường đều khác nhau, chứng tỏ quả của các cõi ấy đều khác nhau. Nhân quả đã khác, thì chỗ nào được "Thường"?
Câu hai, cùng có hơn, thua để vặn hỏi, đả phá tánh "Thường".
Câu ba, lấy các nghiệp bất thiện sát sinh, trộm cắp, dâm dục, để vặn hỏi, đả phá tánh "Thường".
Câu bốn là dùng uống rượu say, điên loạn kia để vặn hỏi không có tánh "thường".
Câu năm là dùng người mù không thấy sắc, điếc không nghe tiếng v.v... kia để vặn hỏi, đả phá tánh "Thường".
Câu sáu là tránh khỏi hầm lửa, chất độc v.v..., để vặn hỏi không có tánh "Thường".
Câu bảy là dùng chỗ tụt hậu, tức là sự quên mất, để vặn hỏi không có tánh "Thường".
Câu thứ tám là dùng có già, trẻ v.v... khác nhau để vặn hỏi, đả phá tánh "Thường".
Trong thứ chín, y theo xứ để vặn hỏi.
Trong thứ mười, y theo sát sinh để trách cứ. Sau đây là Phật đáp:
"Dụ năng lực đầu tiên" là đáp hai câu hỏi trước, nói tánh là "Có". "Dưới là Núi tuyết dụ cho đáp mười sâu hỏi sau, chứng tỏ tánh là "Thường".
Y theo phần nói "Có", trước là dụ, kế là hợp.
"Bí tạng của Như lai như thế v.v..." trở xuống là kết khen cao quý.
Trong dụ có ba:
1. Dụ phàm phu khởi "Hoặc" che lấp Phật tánh.
2. "Túc mạng v.v..." trở xuống là dụ cho Nhị thừa tu "Không", chẳng thấy chân ngã.
3. "Bấy giờ, thầy thuốc an ủi lực sĩ v.v..." trở xuống là dụ Phật vì làm sáng tỏ sự thật, để cho lực sĩ kia được chứng kiến.
Đoạn đầu trong ba dụ, lại chứng tỏ phàm phu không thấy trong dụ cô gái nghèo ở trước.
Phần thứ hai là chứng tỏ người Nhị thừa thấy chân ngã trong hai đoạn trước.
Phần thứ ba là trở thành Đức Phật chỉ bày để cho thấy chân ngã trong hai đoạn trước.
Y theo đoạn đầu, vua dụ cho Như lai. Chỗ Phật đã hóa độ trong thế giới tam thiên, gọi là nhà vua.
Tánh "Hoặc" của chúng sinh phàm phu tăng thêm, gọi là lực sĩ. Vì tâm có Phật tánh, nên nói "Giữa hai đầu chân mày có viên ngọc kim cương. Các ác tri thức, gọi là lực sĩ khác. Do gần bạn ác, phiền não của người kia, người này, đều hiện khởi, nên nói là đấu sức. Lãnh hội nhau pháp lành, gọi là đánh nhau. Tâm đối trị duyên "Hoặc" gọi là lúc đầu nhau. Tánh trong tâm bị chướng che lấp, gọi là viên ngọc kim cương trên trán, bị lún vào da mà không hay biết, gọi là "Không tự biết". Viên ngọc này ở đâu? Do tánh bị che giấu, nên phải chịu nhiều đau khổ, gọi là "Chỗ có mụt nhọt".
Phân tích trong đoạn hai có bốn:
1. Dụ cho căn cơ bệnh chiêu cảm bậc Thánh.
2. "Bấy giờ có ánh sáng v.v..." trở xuống là dụ Đức Phật biết chứng bệnh của căn cơ.
3. "Thầy thuốc tìm kiếm, hỏi han v.v..." trở xuống là dụ gạn hỏi tình, trách cứ sự thật.
"Bốn lực sĩ sợ hãi v.v..." trở xuống là dụ các lực sĩ đó nghe nói bỏ "Ngã".
Trong câu đầu, căn cơ bệnh chiêu cảm bậc Thánh, gọi là vâng lời thầy thuốc. Cầu Phật diệt trừ chướng, gọi là mong muốn tự chữa trị.
Trong câu thứ hai Phật là nói thầy thuốc, tập quen sâu sắc phương pháp điều trị, gọi là biết phương thuốc. Biết khổ do mê lý mà sinh, nên nói biết mụt nhọt, vì viên kim cương lún vào thân. Phật tánh ẩn trong thân cạn, gần, ở hiện tại gọi là viên ngọc lún vào da. Vì hiện đang có không diệt, nên nói là dừng lại.
Trong câu thứ ba "Như lai ra đời, vì dùng lý để vặn hỏi phàm phu, nên nói: "Thầy thuốc tìm kiếm, hỏi han lực sĩ. Trách chấp "Cái ta" trong tâm chúng sinh, gọi là viên ngọc kim cương trên trán, hiện đang ở đâu? Nhưng cái "Ngã" mà các chúng sinh chấp, vốn từ chỗ chân ngã của Phật tánh khởi. Chân ngã ẩn mất, tức là ở chỗ "không có", chấp giả dối là có chân ngã.
Nay, ở chỗ "Không có", Phật vặn hỏi để chúng sinh biết là "Không có", làm cho ở chỗ có, khởi ý thú mong cầu, nên, nay mới vặn hỏi là ở đâu?
Trong câu bốn nói về các phàm phu đã bị bậc Thánh vặn hỏi cùng cực, mới biết là vô "Ngã". Vừa thấy vô "Ngã", trái với ý xưa, bèn kinh ngạc đáp: "Viên ngọc ở trên trán tôi, không đi đâu phải chăng?" Đã biết thần thức là không, rồi cho là gọi chân ngã của Phật tánh cũng "không", nên mới nói "Viên ngọc này hiện đang ở đâu?" Vì ngờ vực đồng với hữu vi giả dối, không thật, nên nói: "Chẳng phải huyễn hóa."
Thanh văn tâm lui sụt, dù lui sụt Đại thừa, tạm thời học Tiểu thừa, nhưng tâm thường không vui, gọi là buồn rầu, than khóc", như Xá-lợi-phất bị hại.
Trong đoạn ba, có chia làm bốn.
1. Dụ Phật làm sáng tỏ thật.
2. "Không tin thầy thuốc v.v..." trở xuống là dụ mới nghe, không chấp nhận.
3. "Chấp gương soi v.v..." trở xuống là dụ Đức Phật chỉ bày rõ ràng lần nữa.
4. "Lực sĩ thấy vậy v.v..." trở xuống là dụ lực sĩ kia nghe, liền tỏ ngộ.
Trong câu đầu, Thanh văn với tâm lui sụt, mất Đại thừa, lo buồn!
Như lai làm sáng tỏ tánh, để yên định tâm Thanh văn, gọi là "An ủi lực sĩ". Vì có tánh thì sẽ được. Cho nên, Đức Phật khuyên rằng: "Không nên buồn khổ! Lúc ông tranh giành thì viên ngọc báu đã lún vào thân ông, là nói lý do viên ngọc ẩn? Do đối với duyên "Hoặc", ẩn giấu trong thân, gọi là "Viên ngọc lún vào thân. Nay viên ngọc nằm ở trong da, chỉ cho chỗ ở của viên ngọc. Ở ngay trong thân, gần cạn với hiện tại, không tồn tại ở thân sâu xa vị lai, gọi ở trong da mà bóng hiện ra ngoài, chứng tỏ có tướng không giả dối, hiện trong tâm Thánh, gọi là bóng hiện ra ngoài.
"Bọn ông giành giựt v.v..." trở xuống là nói chúng sinh đều không thấy lý do. Bọn, giống như nhóm. Do "Hoặc" lừng lẫy nên tiềm ẩn không biết.
Trong câu hai: "Mới nghe nói, không chấp nhận, gọi là không tin thầy thuốc."
"Nếu hạt ngọc trong da v.v..." trở xuống là nói lên sự không tin thân hiện tại, gọi là da. Thân chứng tánh ở đời vị lai, sâu xa như gân. Tánh ở thân hiện tại, gọi là ở trong da. Mủ máu bất tịnh ở trong thân hiện tại, vì sao không chảy ra? Tánh trong thân sâu xa ở vị lai, gọi là "Ở trong gân", sẽ có hiện tại lẽ ra thấy được. Vì mê lý, nghi giáo, nên nói: "Sao lại lừa dối ta?"
Trong câu ba, Đức Phật lại chỉ bày rõ kinh đại Niết-bàn. Công năng có sáng rõ, nói là gương soi. Đức Phật dùng kinh này để soi rõ tâm chúng sinh, gọi là soi mặt. Tu tánh trong tâm được thể hiện rõ ràng ở kinh, gọi là hiện trong gương soi.
Trong câu bốn, "lực sĩ kia nghe nói, tỏ ngộ, hiểu biết, tìm thuyết, biết tánh, gọi là "Thấy rồi". Rất ngạc nhiên vì vọng có chân, nên nói: Là "Kinh ngạc!, vui vẻ vì vọng có chân, nên sinh ra tư tưởng lạ kỳ.
Y theo hợp dưới đây, dựa vào ba đoạn trên, theo thứ lớp phối hợp.
Trong hợp đoạn đầu, "Chúng sinh như thế" là hợp với "Lực sĩ" ở trước. "Không gần gũi tri thức" là hợp với "Lực sĩ đọ sức đánh nhau". "Dù có người không thấy" là hợp với "Đều không biết viên ngọc này nằm ở đâu?" "Mà trái phạm v.v..." là hợp với "Lún mất vào trong da". "Nên rơi v.v..." trở xuống là hợp với "Chỗ có mụt nhọt".
"Tham dâm, giận dữ, ngu si che lấp v.v..." trở xuống là hợp với đoạn hai. Có bốn câu trước chỉ hợp với câu bốn, trong đó, trước là nói người Nhị thừa vốn bị "Hoặc" che lấp, nên không thấy Phật tánh.
"Như sức người kia v.v..." trở xuống là nói do không thấy, chuyên giác vô ngã. Như viên ngọc báu của lực sĩ kia, ở ngay trong thân, mà la hoảng rằng bị mất rồi, nêu thí dụ ở trước.
"Chúng sinh cũng v.v..." trở xuống là nêu pháp để hợp. Vì không gần gũi bạn lành, vì không biết mật tạng, nên tu vô ngã.
"Dụ như v.v..." trở xuống là nói người Nhị thừa vì tu vô ngã nên không thấy chân ngã. Dụ như chẳng phải Thánh, dù nói ngã đi nữa, nhưng vẫn không biết tánh của ngã, là nêu phàm để làm rõ Thánh. Vì phàm chưa đồng với Thánh, nên nói là chẳng phải Thánh.
"Đệ tử của ta v.v..." trở xuống là nói Thánh đồng với phàm. Đệ tử Thanh văn đồng với phàm phu ở trước, vì không biết chân ngã, nên nói "Như thế". Sau đây, sẽ giải thích rộng.
"Vì không biết gần gũi thiện tri thức, nên vô ngã", nghĩa là không gần gũi tri thức Đại thừa chuyên tu vô ngã, cũng lại không biết chỗ vô ngã, là không biết vô ngã chính là ở hữu vi, chân tánh vô ngã còn không biết, huống chi là biết có tánh ngã, là nêu cạn để so sánh sâu, để nói không biết "Ngã". Nêu cạn để nghĩ về sâu, là để nói "Còn". Pháp không cho là chân tánh vô ngã, vì tất cả pháp thật là vô "Ngã". Người Nhị thừa chỉ biết sinh không, chẳng hiểu pháp không, gọi là không biết chân tánh vô ngã. Vô ngã dễ hiểu mà còn không hiểu, huống chi biết được chân tánh hữu "Ngã".
"Này người thiện nam v.v..." trở xuống là hợp với câu trong dụ trước của đoạn ba, có chia làm bốn: Nay, hợp với câu của đoạn thứ nhất, thứ hai, thứ tư, câu thứ ba không hợp.
Như lai đã nói thế này: "Các chúng sinh đều có Phật tánh", hợp với câu đầu ở trên. "Dụ như thầy thuốc chỉ cho lực sĩ có viên ngọc", nêu dụ để ghi nhận làm tin.
"Các chúng sinh này vì bị phiền não che lấp, nên không biết Phật tánh" là hợp với "Mới nghe nói, không tin" trong câu thứ hai.
"Nếu cùng tận v.v..." trở xuống là hợp với câu bốn, nhân thuyết nói, tỏ ngộ, hiểu biết. Trước là nêu pháp của Phật. Sau là dùng thí dụ để ghi nhận làm tin.
Trên đây, hợp đã xong.
"Bí tạng của Như lai vô lượng như thế", không suy nghĩ bàn luận" là đoạn ba, kết khen sự cao siêu của kinh. Nhờ kinh mà thấy tánh, cho nên khen ngợi kinh. Kinh Đại Niết-bàn gọi là Bí tạng. Vì nghĩa được giải thích rất rộng, nên nói "Vô lượng". Nghĩa được giải thích rõ ràng rất sâu xa, nên gọi là không thể suy nghĩ. Cũng có thể nói lời này là kết khen Phật tánh. Tánh gọi là Bí tạng, vì rộng nên gọi là vô lượng. Vì sâu nên gọi không suy nghĩ. Trên đây là một dụ đáp hai câu hỏi đầu tiên, nói chúng sinh có tánh.
Dưới đây là một thí dụ đáp mười câu sau, vặn hỏi về vô thường, nói tánh là "Thường", trong đó trước là dụ, kế là hợp, sau là kết. Trong dụ có sáu:
1. Dụ cho chúng sinh có tánh, vì bị "Hoặc" che lấp, nên không thấy.
2. "Có người nghe v.v..." trở xuống là nêu cái thấy của họ, là dụ chứng minh tánh là "Có".
3. "Vua đã băng v.v..." trở xuống là dụ tùy duyên chuyển biến.
4. "Thuốc này chân thật v.v..." trở xuống là dụ thể "Thường" một vị.
5. "Phàm phu phước mỏng v.v..." trở xuống là dụ cho phàm phu không thấy, nói lên tánh sâu xa, cao quý.
6. "Lại, có vua v.v..." trở xuống là nêu dụ về sau, chứng thấy, nói tánh là "thường".
Trong câu đầu: "Ở núi Tuyết có thứ thuốc, vị nó rất ngọt", dụ cho chúng sinh có tánh. Núi dụ cho năm ấm, thuốc dụ cho Phật tánh. Danh, gọi là vị thuốc, nêu danh, làm rõ pháp. Vì ăn thuốc sẽ sinh ra niềm vui, nên gọi là vị vui. Dụ cho nói Phật tánh, chứng thành thú vui cao quý. "Vị thuốc ấy rất ngọt", là nói về tướng, làm rõ pháp, dụ nói về vị thể của Phật tánh rất tinh thuần.
"Ở trong lùm bụi sâu v.v..." trở xuống là dụ cho các chúng sinh bị "Hoặc" che lấp nên không thấy Phật tánh. Bụi cây dụ cho phiền não. Vì phiền não ngăn che, nên không thấy được.
Trong câu hai, "Có người nghe mùi thơm, biết đất có thuốc", là Bồ-tát kia nghe thấy Phật tánh, chứng tánh là "Có". Người dụ Bồ-tát. Dựa vào kinh nghe danh, gọi là nghe mùi thơm. Vì biết thân có tánh, nên nói biết đất sẽ có thuốc này, vì thật có nên gọi là sẽ có. Không nói vị lai mới có.
"Đời quá khứ có vị vua v.v..." trở xuống là nêu Phật đã chứng kiến nói tánh là "Có". Ở đời quá khứ Phật làm vua, muốn ngay thân mình mong cầu Phật tánh, gọi là ở núi Tuyết. Vì thấy Phật tánh, đời đời tu đạo, nên nói là thuốc. Ở khắp mọi nơi, đều làm bọng gỗ để hứng lấy thuốc này. Hạnh huân xông đầy đủ, về lý, từ duyên rõ ràng, gọi là thời gian thuốc chín. Hiện trong thân năm ấm, gọi là sinh ra từ đất. Làm sáng tỏ ở hạnh, tâm, gọi là tập trung ở bọng gỗ. Chứng hội bản tánh, gọi là vị chân chánh.
Trong câu ba, "Vua đã băng" là dụ cho sau Phật diệt độ, vì tánh thay đổi theo "Duyên", nên nói thuốc này hoặc chua, mặn v.v...
"Như thế, một v.v..." trở xuống là nói lý do khác nhau. Vì tùy theo chỗ cho nên như vậy. Cũng được gọi là lý do kết riêng. Đây là đáp chín câu hỏi trước trong mười câu hỏi sau ở trên. Nói vì tánh tùy duyên, nên có khác nhau, khác nhau ở chỗ hơn kém.
Trong câu bốn, "Vị chân của thuốc này được ở lại một nơi ở núi, giống như mặt trăng tròn đầy, đáp câu hỏi thứ mười, nói thể tánh là thường, không thể cắt đứt.
Người phàm trong câu năm, dụ cho phàm phu, Nhị thừa mới thực hành hạnh Bồ-tát, chứng tỏ tánh hạnh của họ nhỏ nhoi, gọi là phước mỏng. Vì tâm tưởng tìm cầu, nên nói chảo vạc, siêng năng mong cầu, không thấy Phật tánh, nói rằng gia công khốn khổ không được.
Về sau, Đức Phật làm vua trong câu sáu, quả thành tựu, gọi là xuất. Làm rõ tánh đủ duyên, gọi là nhân duyên phước. Chứng thật thể của tánh, gọi là được vị thuốc.
Câu hai trong hợp, lược qua không hợp, các câu khác đều hợp. Trong hợp câu đầu, "Bí tạng của Như lai" hợp với "Thuốc của núi Tuyết". "Vị thuốc ấy cũng vậy" hợp với "Gọi là vị vui, vị ấy rất ngọt". "Bị phiền não che lấp" hợp với "Ở bụi cây rậm rạp v.v..." trở xuống, là "Chúng sinh bị vô minh che lấp nên không thể thấy Phật tánh", là hợp với "Người không thấy".
"Tất cả v.v..." trở xuống là vượt qua hợp với câu ba.
"Một vị" dụ cho tánh, hợp với "Một vị như thế trong văn trước". "Vì phiền não, nên phát ra các thứ vị", hợp với "Tùy chỗ trôi chảy mà có các thứ vị, nghĩa là địa ngục v.v... là nói các tướng", cũng hợp với "hoặc chua, mặn v.v..." ở trước.
"Phật tánh mạnh mẽ v.v...." trở xuống là hợp với "Vị chân" ở núi Tuyết trong đoạn thứ tư. Trong đó, đầu tiên chính là y theo Phật tánh để nói về "Không được giết".
"Như tánh của ngã v.v..." trở xuống, vì tánh tức là Tạng, thật không nên sát sinh.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Phật tánh rất mạnh mẽ, khó có thể làm hư hoại được, cho nên "Không có khả năng giết hại", chính là nói Phật tánh không thể giết hại.
"Nếu có giết v.v..." trở xuống là nói trái lại Phật tánh mà người khác không thể giết hại.
"Phật tánh như thế, không bao giờ dứt", kết thúc nói về chánh ở trước. "Nếu dứt được thì không có việc đó", là kết thúc nói trái với sau.
Trong đoạn sau, sơ tánh tức là Tạng. Sau nói không hư hoại.
"Dù không thể v.v..." trở xuống là hợp với đoạn năm. Phàm phu đẽo vạc rất khốn khổ mà không được.
"Nếu được thành v.v..." trở xuống là hợp với đoạn sáu. Trên đây đã hợp xong.
"Do nhân duyên này, nên không thể giết hại, là kết thúc đáp câu hỏi trên, nên không thể dứt."
Y cứ riêng bốn đoạn trong sáu đoạn ở trước, là kết thúc đáp câu hỏi ở trên.
Trên đây, là Ca-diếp chấp tướng, gạn thật, vặn hỏi không có Phật tánh. Đức Như lai nói về thật khác với tướng để đáp.
Dưới đây là Bồ-tát Ca-diếp chấp "Thật", gạn lọc "Tướng", nhằm vặn hỏi không có sát sinh. Đức Như lai nói tướng khác với "Thật" để đáp.
Ý vặn hỏi thế nào? Nếu tánh không sát thì lẽ ra đều là việc lành?
Sau đây, là Phật đáp.
Vì nói "Tướng" khác với "Tánh", nên có sát sinh. Vì có sát sinh nên có nghiệp bất thiện. Trong văn, đầu tiên, chính là đối với câu hỏi ở trước nói có sát sinh.
"Chắc chắn sẽ v.v..." trở xuống là kết khen pháp sâu xa.
Trong phần trước, đầu tiên là nói: "Thật có sát sinh" là nói chung có sát.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Trong giải thích có hai:
1. Nói Phật tánh không lìa tướng ấm. Do đó, nếu giết là có tội, trái với "Đều là nghiệp lành trong câu hỏi trước".
2. "Chẳng phải Thánh v.v..." trở xuống là nói "Tướng" của năm ấm kia chẳng tức Phật tánh. Cho nên, có thể sát sính, trái với "không có sát" ở trước.
Trong phần sát, đầu tiên là nói tánh không lìa ấm, nên làm tan hoại năm ấm, gọi là sát sinh. Vì trái với tánh, nên nói biết do sát, sẽ rơi vào đường ác. Sau nói do nghiệp, nên có các chủng tánh khác nhau như Sát-lợi v.v v.v...
Trong phần sau, đầu tiên là nói về tướng "Ngã" của chúng sinh khác với Phật tánh, cho nên có thể sát sinh.
"Ví như v.v..." trở xuống là nói các pháp ấm của chúng sinh vì khác với tánh, nên có thể sát sinh.
Trong phần trước có hai câu:
1. Nói vọng khác với chân, người không phải Thánh, chấp ngang trái về "Ngã" nêu "Ngã" của phàm phu kia. "Như thế v.v..." trở xuống là nói vọng khác với chân.
2. "Ngã xuất thế v.v..." trở xuống là nói chân khác với vọng. Tướng của "Ngã" xuất thế, gọi là Phật tánh nêu chân ngã kia.
Chấp "Ngã" như vậy, gọi là rất tốt lành, khen chân khác với vọng.
Trong ấm khác với tánh, y theo trí để nói về "Khác". Năm ấm có thể suy nghĩ, còn Phật tánh thì khó suy lường, cho nên khác nhau. Trong đó, trước là dụ, kế là y cứ làm rõ về pháp.
"Vì nghĩa này v.v..." trở xuống là kết ấm có thể sát sinh.
Trong dụ "Có người", dụ cho người cầu tánh, nghe nói thân có tánh, gọi là biết điều phục tạng, nên dùng chính mình để làm sáng tỏ tâm, quán ấm cầu tánh gọi là lấy lợi, đẽo vạc thẳng xuống, ý chánh gọi là thẳng. Tảng đá to, cát sỏi, đá vụn đào thẳng qua không khó, nói tướng khác với tánh.
Phần tế trong ấm, gọi là đá, sỏi gạch. Suy nghĩ đều không thấu suốt, gọi đào xuyên qua không khó.
"Chỉ đến v.v..." trở xuống là nói tánh khác với tướng. Tánh như kim cương. Tình không nhập "Thật", gọi là đến Kim cương. Không thể xuyên suốt nghĩa thật, vì phát ra tình, nên nói là dao, búa kim cương không bị hư hoại.
Trong phần hợp, "Phật tánh cũng giống như vậy" hợp với "Phục tàng" ở trước.
"Tất cả luận giả và thiên ma v.v v.v... hợp với có người ở trên. Tất cả Sa-môn, Bà-la-môn gọi là Luận giả. Những người này đều là người cầu tánh cho nên nêu lên.
"Cái không thể hư hoại" hợp đến kim cương. Không thể xuyên suốt các tướng như v.v... năm ấm, tức hợp với đẽo đất, tảng đá to, đá, cát, xuyên thẳng qua không khó. Trước nêu pháp kia, sau cùng thí dụ để ghi rõ làm tin. Tánh như kim cương, không thể làm hư hoại, hợp với "Nói về năng lực của kim cương, búa không thể đập nát. Sau đây là kết. Vì năm ấm này là nghĩa có thể tan hoại của tướng khởi tác, nên hủy hoại năm ấm, gọi là sát sinh. Trên đây, chính là Phật đáp đúng. Sau đây là Phật khen, chỉ rõ nghĩa sâu.
Tánh dù là thường trụ, mà ấm có thể sát sinh. Dù ấm có thể sát sinh nhưng tánh là "Thường hằng". Cho nên biết rằng, pháp Phật không suy nghĩ bàn luận.
Ở trên nói về có tánh, dưới đây Phật sẽ chứng nhập, trong đó có hai:
1. Dạy ba quy y, là mở đầu của thú nhập.
2. "Lại vì ông nói nhập Như lai tạng v.v..." trở xuống là chỉ bày Trung đạo, là bước sau cùng của thú nhập.
Trong phần trước, Như lai trước dạy thú nhập. Cadiếp bạch Phật: "Tôi biết, nên hỏi v.v..." trở xuống là Bồtát Ca-diếp vâng thực hành theo lời thuật khen của Như lai. Trong phần trước có ba:
1. Do Bồ tát Ca diếp thỉnh dạy bảo sơ lược về thú nhập.
2. Bấy giờ, Bồ tát ca diếp lại nói kệ, v.v... trở xuống là ca diếp nói mình không biết quy chân, cũng không biết lý do trở về chân. Trái lại, dựa vào giáo xưa, để phân biệt về trọng giáo của Như lai.
3. Ca-diếp bạch Phật: "Tôi cũng quy v.v..." trở xuống là Ca-diếp bày tỏ mình tương "Thật" thông quy. Phật dạy nên phân biệt trong đoạn đầu, trước là Như lai lược nói khởi phát. Ca-diếp thưa thỉnh, sau là Phật dùng kệ đáp.
Trong phần trước có bốn câu:
1. Như lai chỉ bày rõ ràng về nghĩa sâu nặng của kinh, nói như cam lộ, cũng như thuốc độc.
2. Bồ-tát Ca-diếp thưa hỏi.
3. Như lai hỏi thử Ca-diếp: "Ông có muốn biết tạng hay không?"
4. Ca-diếp hỏi: Y theo lời Phật nói trong câu đầu: "Như cam lộ, cũng như thuốc độc." Đối với người có đức tin, thì có thể được ích lợi cho nên như cam lộ, ngược lại, đối với kẻ chê bai, thì sẽ bị tổn hại, nên giống như thuốc độc. Như lai nói lên câu này với mục đích để làm gì?
Phật đáp:
Chân tánh của ba quy y do kinh mà thú nhập, nên nói là cam lộ, để cho người tin ưa. Nói là thuốc độc, để cho người dứt bỏ chê bai.
Ca-diếp thưa:
Nghĩa này chưa được rõ ràng. Cho nên lần thứ hai thưa hỏi Như lai: "Vì sao nói kinh Phương Đẳng như cam lộ lại như thuốc độc? Muốn cầu bí tạng thì cần phải biết lạc hay không?
Cho nên lần thứ ba, Phật hỏi: Muốn biết tạng hay không?
Ca-diếp nghe Phật nói, trong tâm hớn hở nên lần thứ tư thỉnh rằng: Con muốn biết tạng.
Sau đây, trong phần Phật đáp mười một bài kệ: Bảy bài kệ rưỡi đầu, là đối với thưa hỏi đầu trên, Phật nói kinh pháp này như cam lộ, như thuốc độc. Ba bài kệ rưỡi sau là hướng về sau thỉnh giáo, nhập bí tạng.
Trong đoạn trước, bốn bài kệ rưỡi đầu, chính là y theo kinh pháp để nói như cam lộ, cũng như thuốc độc. Ba bài kệ sau, y theo người để bày rõ.
Trong phần trước, đầu tiên có hai hàng rưỡi kệ, dùng hai thí dụ để so sánh với một pháp. Hai bài kệ sau, dùng một dụ để so sánh với một pháp. Lại y theo một bài kệ rưỡi đầu ở phần trước, lập dụ để làm rõ pháp. Trong dụ thì bài kệ đầu dùng cam lộ làm dụ, tức y theo ngu, trí để nói về tổn hại, lợi ích. Nửa bài kệ sau là dùng thuốc độc kia làm thí dụ. Cũng y theo ngu, trí để nói về tổn hại, lợi ích.
Một bài kệ sau là hợp, trong đó, nửa bài kệ trước là hợp với cam lộ ở trên.
Đạo nói trí vô ngại cam lộ: Kinh Niết-bàn này, đối với người có trí tuệ vô ngại kia, được gọi là cam lộ. Cái gọi là sự bác bỏ của Đại thừa, phát ra thể của trí vô ngại kia. Đại thừa như vậy, cũng gọi là thuốc độc, hợp với nửa bài kệ sau. Câu trước là nêu người hướng. Câu sau là Đại thừa.
Sau đây là y cứ nói về thuốc độc, trái với cam lộ ở trước. Y theo một dụ sau so sánh với một pháp, bài kệ đầu là lập dụ: Như bơ, đề hồ, kể cả đường phèn, nêu thể của dụ kia. Lấy một trong các thứ này làm dụ, chứ chẳng phải đều lấy.
"Uống vào tiêu hóa là thuốc, không tiêu hóa là chất độc", là nói về tổn hại, ích lợi. Bài kệ sau là hợp.
"Phương Đẳng như thế, hợp với bơ, đề hồ và đường phèn v.v... Trí là cam lộ, hợp với tiêu hóa là thuốc.
"Không biết, trở thành chất độc", hợp với "Không tiêu hóa thì thành thuốc độc" ở sau.
Trong nói theo người để nói thì nêu riêng người trí, kẻ ngu lược qua không nói. Trong đó, kệ đầu gọi người học Đại thừa trong nhị thừa, cho là người trí. Thanh văn, Duyên giác nêu là người trí kia. Nghĩa là Đại thừa là cam lộ, y theo người để làm rõ pháp.
Như sữa là vị tốt nhất trong các vị, là nói pháp đồng dụ. Một bài kệ trung gian nói các Bồ-tát cho là người trí.
"Siêng năng, tinh tấn như thế, là nêu người trí. Vì các Bồ-tát cầu Phật không có xen hở nên nói là siêng năng, tinh tấn. Nương theo Đại thừa v.v... là y theo Đại thừa để làm sáng tỏ pháp. Dựa vào Đại thừa, nương vào giáo để nhập chứng.
"Được đến v.v..." trở xuống, là nhờ chứng mà thành tựu quả. Được đến Niết-bàn, là đến quả Niết-bàn. Thành voi đầu đàn trong loài người, là thành tựu quả Phật. Đức Phật đã thành, là Đấng Tối Thắng trong loài người, cũng như voi đầu đàn có sức mạnh hơn hết trong loài súc sanh. Y theo dụ để gọi pháp, gọi là voi đầu đàn trong loài người.
Niết-bàn là Niết-bàn của tánh thanh tịnh chỉ do tu mà làm sáng tỏ, chứ không phải do tu mà tạo ra, nên nói là "Được đến". Đức Phật y theo phương tiện, từ nhân tu để giải thích, cho nên nói "Thành". Dựa vào pháp Đại thừa để thành tựu đức này, nên nói là cam lộ. Một bài kệ sau cuối, là nói người hiểu Phật tánh trong phàm phu, được cho là người trí. Chúng sanh biết tánh là nêu người trí. Như Phật khen Ca-diếp v.v... để chứng tỏ phần vượt hơn, là người có kiến giải đồng với Bồ-tát như các Bồtát, Ca-diếp v.v...
Cam lộ vô thượng bất sinh, bất tử, y theo đây để làm rõ pháp. Dựa vào pháp cam lộ của Đại thừa này để chứng nhập thường trụ, thành tựu quả "Thường", nên không có sinh tử. Đã thành tựu quả không sinh tử, nên gọi là cam lộ.
Y theo lời Phật dạy nhập bí tạng dưới đây, trước là nêu giải thích nghĩa ba quy y. Về nghĩa đã được giải thích trong chương riêng, sau là văn giải thích. Trong văn có bốn:
1. Có nửa bài kệ khuyên phân biệt chung.
2. Kế là, là nửa bài kệ chính là Phật dạy Bí tạng.
3. Một bài kệ rưỡi là nói về ích lợi, khuyên quán sát.
4. Một bài kệ sau là kết khen, nêu rõ sự tốt đẹp hơn. Trong phần đầu, Đức Phật bảo: "Ông phải khéo phân biệt", ba quy y có hai:
1. Tướng khác.
2. Một thể.
Tùy sự tướng ấy mà ba quy y đều khác nhau, gọi là tướng khác, nói về thật tánh thì của ba quy đồng, gọi là một thể.
Nay, Phật khuyên người bỏ khác mà được đồng, nên nói: "Phải khéo phân biệt ba quy y!"
Trong chánh giáo, ba quy y như thế là tánh của "ngã", nêu lên lời Phật khuyên người nên nhận lấy một thể ba quy y ở trước.
Tánh của ba quy y này chính là tánh của ngã, như đã nói ở trên. Chân ngã Phật tánh, gọi là "Ngã tánh". "Ngã tánh" này là nói theo Phật tức là tự thể pháp thân của Chư Phật. Vì pháp thân Phật chung với thể của chúng sinh nên không có hai tánh. "Nếu tánh không có hai thì vì sao chúng sinh gọi là Phật tánh, còn Phật thì gọi là pháp thân?"
Giải thích:
Nếu việc này nói theo Phật thì ngoài tánh không còn có phiền não nào. Cho nên, Phật tánh tức là pháp thân thanh tịnh của Chư Phật. Ngược lại, nếu y theo phàm chấp cái thật bị vọng che lấp. Về sau, khi sáng tỏ, do lấy đức tịnh làm gốc, nên gọi là Phật tánh. Hai nghĩa dù khác, nhưng nói về thể thì không khác. Cho nên Phật quy tức là "ngã tánh".
Nói theo pháp thì "Ngã tánh" này là thể của các pháp, nên pháp tức "Ngã".
Nói theo Tăng thì nghĩa này tức là thật thể của tăng, nên tăng tức "Ngã". Chính cho nên tánh của ba quy y tức là "Ngã tánh".
Nói thế để làm gì? Vì Phật muốn cho chúng sinh cầu ba quy y ở ngay trong thân mình. Dựa vào ba quy y đó, thú nhập Như lai tạng tánh chân thật của mình.
Trong bày tỏ ích lợi và khuyên răn, có chia ra làm hai: Kệ đầu nói về ích lợi của phát ra tướng kia. Lược có chia làm bốn:
1. Nêu Phật quán, quán sát kỹ, gọi là "Đế".
"Tôi có thật tánh", nghĩa là lời nói không đủ. Nếu đủ thì nên nói: "Tôi có pháp tánh và Tăng tánh." Vì kệ sơ lược nên không đủ để nói. Nói ngã tánh kia là thể tánh của thể tánh của Phật, gọi là Phật tánh. Cũng có thể nói vì là tánh nhân của Phật, nên gọi là Phật tánh.
2. "Phải biết rằng v.v..." trở xuống là nói về quán lợi ích. Do quán "Ngã tánh" vì có Phật tánh v.v... nên nhập bí tạng.
3. "Biết ngã v.v..." trở xuống là nêu lại thật quán. Ngã, cũng là hướng về "Ngã tánh" ở trước. "Ngã sở" cũng là hướng về Phật tánh và Pháp tánh, Tăng tánh ở trước. Ba tánh này đều là sỡ hữu trong "Ngã", nên nói là "Ngã sở".
4. "Người này v.v..." trở xuống là nói về lợi ích của quán sát. Chứng thật lìa tướng, vì không có đời nào có thể tồn tại, nên được xuất thế.
Sau đây trong phần kết khen, nửa bài kệ trước là khen vượt hơn, nửa bài kệ sau là kết.
Trong lần hai, đầu tiên là Bồ-tát Ca-diếp bày tỏ mình không biết, phải trở lại nương vào giáo xưa để phân biệt. Sau, Phật chỉ giáo lại.
Trong phần trước, Bồ-tát Ca-diếp lại nói kệ rằng:
Kinh gia nêu bày Dưới nêu lời nói Có mười bài kệ Có kèm theo ba.
Đầu tiên có năm bài kệ. Ca-diếp nói mình không biết quy chân, cũng lại không biết lý do quy chân, lại dựa vào giáo xưa để phân biệt.
Kế là, có hai bài kệ đề xét định là "Có", "Không". Sau, có ba bài kệ nêu ở trước, Phật nói về sự tổn hại của "Không biết", nên thỉnh Phật chỉ giáo.
Bốn hàng rưỡi đầu trong năm bài kệ trước, Ca-diếp đã nói lên mình không nhận biết chân đế và lý do quy y. Nửa bài kệ sau, lại dựa vào giáo xưa để phân biệt, bắt mở đầu tâm quy thú. Kế là, có nửa bài kệ, nói mình không biết công hạnh chánh phải tu. Ba bài kệ sau là nói mình không biết rốt ráo thành tựu.
Y theo bài kệ đầu, tôi đều không biết chỗ quy y Tam bảo, nói mình không biết. Cả ba đều không biết, gọi là "Đều không biết".
"Thế nào là phải v.v..." trở xuống là hỏi pháp quy thú. Quả Phật là vô thượng vô úy kia làm sao quy thú?
Trong nửa bài kệ kế, không biết ba chỗ nói lên mình không biết. "Thế nào là tác giả?", hỏi Phật về pháp tu? Các hạnh đã tu không đồng với chân ngã, nên gọi là vô ngã. Cũng có thể duyên đã khởi tu đối trị tánh, vì chẳng chân thật, nên gọi là vô ngã. Hạnh vô ngã này làm sao tạo tác?
Hai bài kệ đầu trong ba bài kệ sau, là hỏi riêng về ba quy y. Một bài kệ sau là hỏi chung. Y theo phần riêng ở trước, đầu tiên hỏi về quy y Phật: "Thế nào là quy Phật?" Là hỏi về lý do quy y? Sao lại khuyên tôi quy y Đức Phật này? Y theo lời đáp: "Như thế!", chẳng phải hỏi đối tượng quy y. Dưới đều như vậy mà được an ủi? Hỏi về thành tựu của quy y, quả đã dứt nguy hiểm, sợ sệt, gọi là an ủi. Thế nào là hứa được?
Kế là hỏi về quy y Pháp? Thế nào là quy y Pháp? Xin nói cho tôi hiểu? Hỏi về lý do quy y? Sao Phật lại khuyên tôi quy y pháp này?
Thế nào là tự tại và không tự tại? Là hỏi về sở thành tựu. Chân ngã sở chứng, gọi là tự tại. Hạnh đức phương tiện khác với chân ngã, gọi là không tự tại.
Thế nào là hứa được? Cũng có thể tám tự tại ngã của Chư Phật, gọi là tự tại. "Duyên" tu đối trị tánh là trôi lăn, dời đổi, gọi là không tự tại.
Câu trước: "Thế nào là được tự tại?" Là hỏi về sở thành kia. Câu sau: "Thế nào là không tự tại?" Là hỏi về sở hành.
Sau đây là hỏi về quy y Tăng: "Thế nào là quy y tăng? Là hỏi lý do quy y.
Sao Phật lại khuyên tôi quy y Tăng này? Vì chuyển được Vô thượng, hỏi về sở thành. Quả Phật cùng cực, gọi là lợi ích Vô thượng. Lợi vô thượng này làm sao chuyển được?
Trên đây là hỏi riêng, sau đây là hỏi chung: "Thế nào là Phật nói chân thật sẽ thành đạo ở vị lai là hỏi thuận?" Nếu là văn đủ, thì lẽ ra nên nói: "Về lý của việc này, thế nào là cúi xin Phật giảng nói sự thật là Phật sẽ thành đạo ở vị lai hay không? Vị lai sẽ không thành Phật, thì làm sao quy y Tam bảo? Để vặn hỏi ngược lại.
Nếu vị lai không có "Quả đức" để thành, thì làm sao ngài khuyên tôi quy y Tam bảo?
Trên đây, Bồ-tát Ca-diếp đã nói rằng, mình không biết được quy y chân thật.
Từ đây trở xuống, nửa bài kệ nói quy y trở lại giáo xưa để phân biệt:
"Hiện nay, tôi không dự biết rằng, ở vị lai, Đức Phật kia sẽ thành Phật hay không. Về hạnh thích hợp, sẽ thứ lớp nói về ba quy y theo tướng riêng. Trong tướng riêng, trên là Phật, giữa là Pháp, Tăng được đặt ở dưới, nên nói là theo thứ lớp.
Thứ hai, xát định văn kệ, trong "có", "Không" có hai: Bảy câu kệ đầu được y theo thí dụ để xét định. Một câu sau cuối, dùng dụ để so sánh pháp.
Nửa bài kệ đầu trong thí dụ ở trước, là y theo không có vặn hỏi ngược lại, làm cho người không mang thai thì làm sao tác động có ý nghĩ sinh con? Phật Cũng như vậy, nếu trong thân chưa có chân tánh của ba quy y thì làm sao có ý nghĩ thành Phật?
"Nếu phải ở v.v..." trở xuống, y cứ có thuật để được. Nếu chắc chắn ở thai, thì gọi là có con, có thể có việc đó. Nếu con ở trong thai, thì chắc chắn sẽ sinh không bao lâu, là nói về nghĩa sinh đứa con đó, ba quy y cũng như thế.
Nếu ở trong thân thì gọi là "có". Nếu trong thân đã có con thì chắc chắn không bao lâu sẽ thành con. Đó gọi là nghĩa con. Nói chung để kết chắc chắn, đó gọi là chẳng có nghĩa "Có". Nghiệp của chúng sinh cũng vậy. Dùng ví dụ để so sánh pháp, cũng được gọi là nói pháp đồng với dụ.
Chân tánh của ba quy y trong thân chúng sinh có công năng sinh ra quả ở đương lai, gọi là nghiệp chúng sinh. Vì đồng với "Có" con hay "Không có" con, nên nói "Cũng vậy".
Văn kệ trong đoạn ba có ba phần:
1. Một bài kệ đầu, là nhắc lại lời nói trên của Phật, nói về sự tổn hại của không biết.
2. Một bài kệ kế là nói mình không biết, thỉnh Phật giải đáp nỗi nghi ngờ của mình.
3. Một bài kệ sau nói Phật năng biết nên thỉnh Phật giảng nói.
Trong kệ đầu, như Phật nói: "Người ngu không biết", là nhắc lại lời nói trên của Phật. Như lai đã nói người ngu không biết Đạo đế trong chương bốn Đế ở trước. Không biết Tam bảo thường trụ không thay đổi trong Đạo đế, cho là pháp "Diệt". Vì không biết, nên trôi lăn trong sinh tử. Cho nên nay nhắc lại, để nói là mình "Không biết".
Trong phần thỉnh Phật giải đáp, đầu tiên có nửa bài kệ nói mình không biết. Thân hiện nay của Ca-diếp là người thế tục, gọi là Ưu-bà-tắc, chỉ quy y tướng riêng, chưa quy y nhất thể, không có hạnh chân quy, nên nói là giả gọi không biết nghĩa chân. Vì không biết, nên phải có sự tổn hại.
Cúi xin cắt đứt lưới nghi, chính là thỉnh Phật giảng nói. Trong phần nói về Phật biết thì Như lai là Đấng Đại Trí, là nói khả năng hiểu biết của Phật.
"Mong Phật mở rộng lòng Từ v.v..." trở xuống là thỉnh Phật giảng nói. "Chỉ rủ lòng Từ phân biệt" là thỉnh chung giảng nói.
"Cúi xin Phật nói Bảo tạng" là thỉnh riêng giảng nói.
Sau đây, trong phần Phật dạy, dựa vào ba đoạn trên, Đức Phật sẽ đáp theo thứ lớp từ sau tới trước.
Bài kệ đầu dạy bảo, Phật hứa giảng nói cho Ca-diếp nghe là Đáp lời thỉnh trong đoạn ba của Ca-diếp ở trên.
Một bài kệ kế là nói "Có" chẳng phải "Không", đối với lời thỉnh trong đoạn hai của Ca-diếp ở trước.
Hai bài kệ rưỡi sau, nói về lợi ích quy y. Đối với lời thỉnh trong đoạn đầu của Ca-diếp ở trên.
Trong phần đầu, Phật bảo: "Này Ca-diếp! Ông phải biết!" là lời dạy bảo.
"Nay ta hứa vì ông sẽ giảng nói khéo chỉ bày Mật tạng", cho ông biết là bày tỏ mình đã nói, đối với "Nguyện nói Bảo tạng" trong lời thỉnh ở trước của Cadiếp.
"Để cho ông cắt đứt lưới nghi" là nói Phật nói lợi ích đối với "Dứt trừ nỗi hoài nghi của tôi" trong lời thỉnh ở trước.
Trong bài kệ thứ hai, "Phải dốc lòng lắng nghe" là lời răn dạy. "Ông đối với mình v.v..." trở xuống là nói tánh của ba quy y là "Có" hay "Không"? Ông là Ca-diếp và đối với tất cả các Bồ-tát, trong có tánh ba quy y chân thật không khác với danh tự Thích-ca, của ta gọi là vị Phật thứ bảy đồng một danh hiệu. Thích-ca là vị Phật sau cùng trong bảy vị Phật, gọi là vị Phật thứ bảy. Thíchca là họ, Hán dịch là Năng. Mâu-ni là tự, Hán dịch là Mãn (đầy). Nghĩa là pháp thân trong thân chúng sinh đầy đủ, không khác với sự đầy đủ cả tôn đức của Mâu-ni, nên đồng một danh hiệu với vị Phật thứ bảy.
Chân tánh của ba quy y, loài hàm thức đồng có. Vì sao Ngài chỉ nói nghiêng về: "Ông đối với Bồ-tát?"
Vì chúng sinh kia mong cầu được thấy Phật tánh, nên đối với họ, Phật nói là "Có". Về nghĩa "Có", thật sự là "Có" chung, nên đồng với tất cả Chư Phật."
Vì sao chỉ nói đồng với vị Phật thứ bảy?" Vì vị Phật thứ bảy được gọi là Mãn."
Một đoạn dưới đây là nói về lợi ích của quy y, đối với lời thỉnh ban đầu ở trên của Ca-diếp.
Thế nào là đối với?
Trước kia Bồ-tát Ca-diếp đã hỏi: "Thế nào là quy Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng? Là lý do quy y. Nay nói quy y chân tánh, ba quy, lìa hẳn lỗi tà, nên phải quy y.
Lại, ở trước Bồ-tát Ca-diếp hỏi: "Vì sao phải hướng về vô úy Vô thượng?" Nay nói, người quy y Tam bảo như thế, thì sẽ không còn sợ sệt. Đáp như thế.
Trong văn này, trước Phật đáp câu hỏi ở trước: "Thế nào là quy y Phật, Pháp, Tăng...?" Nửa bài kệ cuối là đáp câu hỏi trên: "Vì sao phải thu hướng Vô úy?"
Trong phần trước, đầu tiên nói "Quy y Phật", là nhắc lại câu hỏi.
Sau nói về lợi ích của quy y, nhằm giải thích rõ lý do quy y.
Gọi Ưu-bà là ích lợi của thuận theo chánh. Vì trở về với hạnh Phật mà được thành, nên được gọi là Ưu-bàtắc. Trong ba quy y, đều nên giải thích như thế.
Y theo mở đầu, bày tỏ nghiêng một bên. Không bao giờ còn quy y thiên thần nào nữa, là ích lợi của lìa tà. Nếu sẽ quy Phật của tướng riêng thì dù thân này không quy y thiên thần khác, nhưng vì nương tựa hạnh Phật kia chưa thành tựu, nên sau cho phép quy y thiên thần khác. Nếu y theo "Ngã tánh" để quy y chân Phật, thì quy chân hạnh sẽ được thành tựu. Không bao giờ quy y thiên thần nào khác.
Thiên, là Phạm Thiện Tự Tại v.v... Thiên thần, là các thứ quỷ thần của thế gian.
Quy y pháp, là nhắc lại câu hỏi, tức là lìa sát hại, là nói về lợi ích quy y, giải thích rõ về lý do quy y.
Nếu quy y với pháp Ba thừa của tướng riêng thì trong thân này dù lìa sát hại, nhưng vì nương tựa hạnh Phật kia chưa thành tựu, nên ở thân khác được cho phép quy y với pháp cúng tế giết hại chúng sinh của ngoại đạo. Nếu y theo "Ngã tánh" để quy pháp chân, thì quy y hạnh chân sẽ được thành tựu, không bao giờ quy y pháp giết hại của ngoại đạo khác.
Quy y tăng, nghĩa là nhắc lại câu hỏi: Không cầu ngoại đạo, nói lợi ích của quy y, Bồ-tát về nguyện quy y với Tăng ba thừa của tướng riêng, thì dù thân này không nương vào ngoại đạo, nhưng vì nương nương hạnh tăng ba thừa kia chưa thành tựu, nên trong đời khác, cho phép lại quy y với ngoại đạo khác. Quy y với nhất thể chân thật tăng này, nghĩa là quy y với chân hạnh đã thành tựu thì không bao giờ quy y với ngoại đạo khác.
"Ba quy y như thế sẽ không còn sợ sệt, là đáp câu hỏi trên: "Thế nào là phải hướng về vô úy?". Vì quy y nhất thể Tam bảo như thế, là đã dứt lìa lỗi tà, nên sẽ được thành Phật không còn sợ sệt.
Trong lần thứ ba, Bồ-tát Ca-diếp đầu tiên là tướng thật quy y chung. Sau kệ là văn xuôi, Phật đã dạy nên phân biệt.
Bốn bài kệ trong phần trước, kệ đầu là nói quy y Tam bảo của tướng riêng, bài kệ còn lại là quy y với nhất thể Tam bảo nay.
"Ta cũng ba quy y" trong quy riêng ở trước chính là nói riêng. Vì quy y riêng, cũng đồng một thể, nên nói là "Cũng".
Sau đây là Phật khen, chỉ rõ sự vượt hơn, nhằm nói về lý do quy y, đó gọi là con đường chánh, chỗ nương tựa của Bồ-tát. Cảnh giới Chư Phật là đối tượng mà Phật nương tựa, dựa vào đó mà thành Phật. Cũng có thể Phật trong Tam bảo của tướng riêng là đối người được Phật hóa độ, trong tiếng riêng, pháp là do Phật nói, trong tướng riêng tăng là người được Phật hóa độ gọi là cảnh giới Phật.
Một bài kệ đầu trong ba bài kệ sau là nêu đối tượng quy y của Phật là Nhất thể Tam bảo. Kế là, một bài kệ nêu Phật khen sự cao siêu để nói về lý do quy y, kế là nữa bài kệ, Đức Phật nói mình đã quy y, nữa bài kệ sau là tự khen, nói về lý do quy y.
Trong phần đầu, tướng bình đẳng của Tam Bảo, nghĩa là phần nghĩa của đồng thể, khác với Phật cao siêu của tướng riêng. Kế là pháp tăng cho là kém, nên gọi là bình đẳng.
Thường có tánh đại, là nói nêu ra ba tướng trước. Đó gọi là Phật tánh, là tánh của Đại trí. vì trong "Ngã tánh" thường có Phật tánh, nên nói thường có tánh Đại trí. Về lý, cũng có pháp tánh, tăng tánh. Vì hạn hẹp nên không nói. Vì "Ngã tánh" và Phật tánh không hai, không riêng nên làm sáng tỏ lý bình đẳng ở trước. Cũng không khác với pháp tánh, tăng tánh, nên lược qua không nói. Vì tánh của ba quy y đều tức "Ngã tánh", nên nói là bình đẳng.
Phần đầu trong một bài kệ kế có hai câu nói về công hạnh của Bồ-tát quy chân này, nên được Phật khen ngợi. Hai câu kệ sau nói về quy chân này là sở chứng của Phật, nên được Phật khen.
Trong hai câu trước, trước là nói về Phật khen. Như lai hướng về lời mình đã khen ngợi nhất thể ở trước, để làm tông bậc nhất Vô thượng, nên nói đạo này được Phật khen.
"Chỗ yên ổn chánh tinh tấn, phát ra lời Phật khen" là về Chánh tinh tấn của Bồ-tát này, nghĩa là chỗ ở yên ổn. Trong hai câu sau, trước là nêu người được khen.
Một quy này chẳng phải trực tiếp là chỗ yên ổn của chánh tinh tấn kia. Cũng gọi là Chánh biến tri của Chư Phật là đối tượng đã chứng kiến.
Sau đây, là nói về Phật khen. Vì chánh biến tri, nghĩa là đối tượng chứng kiến, nên được Phật khen ngợi.
Trong cặp trước, trước là nói Phật khen, sau là phát ra người được khen.
Trong cặp sau, trước nêu người được khen, sau là nói về lời Phật khen, trái, phải của văn.
Kế là trong nửa bài kệ: "Ta cũng hướng về lời Đấng Thiện Thệ đã khen đạo Vô thượng", nói đã quy y nhất thể Tam Bảo, đồng hướng về tướng riêng. Cho nên nói là "Cũng", về nghĩa đã khen của Đấng Thiện Thệ, như giải thích ở trước.
"Là tối Cam lộ trong nửa bài kệ sau, các cõi đều không. Bồ-tát Ca-diếp tự khen, để nói về lý do quy y.
Vượt hơn trong trị bệnh, gọi là tối Cam lộ. Vì thoát khỏi ba cõi rất mầu nhiệm trong tướng lìa, nên nói các cõi không có cam lộ.
Sau đây để đáp lại, Phật dạy Bồ-tát Ca-diếp nên khéo phân biệt.
Trong đó, đầu tiên là sơ lược những điều Bồ-tát nên làm.
"Suy nghĩ như thế v.v..." trở xuống là Phật dạy phân biệt rộng. Trong phần sơ lược có ba:
1. Phật khuyên bỏ phân biệt giáo xưa. Không nên như các Thanh văn, phàm phu phân biệt Tam bảo.
2. Sau đây Đức Phật khuyên học nhất thể, qua đó, trước là nói Đại thừa không có ba quy khác nhau.
"Sở dĩ v.v..." trở xuống là giải thích. Sự giải thích rất dễ hiểu".
3. "Vì muốn hóa độ v.v..." trở xuống là hội ý thông qua phân biệt xưa. Vì hóa độ, nên nói là ba, chính là hội ý phân biệt xưa.
"Nếu muốn v.v..." trở xuống là Phật khuyên.
Trong phần phân biệt rộng cũng có ba, không theo thứ lớp với trước:
1. Khuyên học Nhất thể.
2. "Đức Như lai gọi là Vô thượng v.v..." trở xuống là hội thông phân biệt xưa. Cho nên nay ông không nên thọ nhận, v.v... trở xuống là Phật khuyên xả bỏ phân biệt xưa.
Trong phần trước, trước là Phật dạy tự học chân quy.
"Nếu muốn tôn v.v..." trở xuống là Phật dạy người tu học. Trong phần tự mình, Phật chỉ dạy tu học quy y Phật, còn quy y Pháp, quy y Tăng lược qua không nói.
Đầu tiên là nói: "Bồ-tát suy nghĩ rằng". Nay thân này của tôi quy y Phật, bỏ tướng, hướng về "Thật". Quan niệm bỏ tướng tình, để cầu thân Phật pháp trong thân mình, gọi là quy Phật.
"Nếu tức thật này v.v..." trở xuống là chứng "Thật" bỏ tướng. Bỏ vọng, chứng "Thật", gọi là tự thành Phật. Khi tự thành Phật, từ bên ngoài, không có vị Phật khác để cầu, nên không cung kính các Đức Thế Tôn khác.
"Vì sao? v.v..." trở xuống là giải thích. Thể của Chư Phật đều đồng, gọi là bình đẳng. Phật đã dùng thân bình đẳng này làm chỗ nương tựa cho chúng sinh. Vì thế, các chúng sinh đến chỗ nương tựa, tức đồng với thể của pháp thân Chư Phật không khác nhau.
Nói "Không cung kính các Đức Thế Tôn khác", chẳng phải cho rằng đức của Thế Tôn kia, đây đều không cung kính.
Văn Phật dạy người khác học, được chia làm hai:
1. Dạy hạnh của người khác.
2. "Ví như người v.v..." trở xuống là nói dạy tâm người.
Trong phần dạy hạnh người khác, trước là Phật dạy phàm phu bỏ ngụy về chân.
"Nếu có phân biệt ba quy y v.v..." trở xuống là Phật dạy Nhị thừa bỏ riêng quy y nhất.
"Đối với người mù bẩm sinh v.v..." trở xuống là nêu cả hai để kết. Y theo giáo hóa phàm phu, trước là Phật dạy quy y Phật, có chia làm hai câu:
1. Dạy chúng sinh quy y pháp thân Phật.
2. "Cũng khiến cho v.v..." trở xuống là dạy chúng sinh khác quy y pháp thân mình.
Trong phần trước, nếu tôn trọng Xá-lợi pháp thân, thì nên tôn trọng tháp, miếu, tìm tướng để thú nhập. Pháp thân này, là thân pháp tánh của Phật. Xá-lợi, là tiếng Phạn, Hán dịch là thân, Phạn và Hán đều nêu nên nói tôn trọng Xá-lợi pháp thân, pháp thân vô tướng, vì khó hướng về mong cầu, nên Phật dạy cung kính tháp để tôn trọng pháp thân. Vì pháp thân không có chỗ, không tồn tại, nên kính trọng tháp miếu thì được gọi là kính trọng pháp thân Phật.
"Sở dĩ v.v..." trở xuống là giải thích. Đầu tiên là vặn hỏi: "Vì kính trọng pháp thân nên lễ kính tháp, miếu."
Vì sao... trở xuống là giải thích. Vì các chúng sinh không thấy pháp thân. Phật muốn hóa độ chúng sinh kia, nên dạy kính trọng pháp, y theo tướng để thú nhập. Nêu pháp thân ở đây là vì Phật muốn so sánh với tự thân.
Trong câu hai "Cũng làm cho chúng sinh nghĩ là tháp miếu trong thân ta". Y theo trước, so sánh sau. Vì quy y mình đồng với ở trước, cho nên nói "Cũng". Cũng vì pháp thân Bồ-tát khó thấy, nên Phật dạy chúng sinh kính trọng ấm thân mình mà thú hướng. Thân mình tức là trụ xứ của pháp thân, nên gọi là tháp miếu.
"Sao không dạy chúng sinh nghĩ là tháp miếu ngay trong thân mình, mà lại dạy chúng sinh nghĩ là tháp miếu ở thân Bồ-tát ư?" Giải thích:
Dạy chúng sinh nghĩ là tháp ở trong thân mình, tức là hướng thuộc về môn hạnh lợi mình ở trước. Nay, vì nói về hạnh lợi người của Bồ-tát, nên Phật dạy chúng sinh nghĩ là tháp miếu ở thân Bồ-tát.
"Như vậy v.v..." trở xuống là giải thích. Vì các chúng sinh dùng pháp thân của ta làm chỗ quy y, nên ta dạy nghĩ là tháp miếu trong thân năm ấm của ta.
Kế là Phật dạy quy pháp. Tất cả chúng sinh đều quy y pháp phi chân tà ngụy, là nêu người được Phật giáo hóa. Cũng chính là nói lý do cần giáo hóa của Ngài.
Vì tướng riêng không thật, nên nói là "Phi chân", lập giả dối ngoài lý, gọi là tà ngụy cũng có thể gọi là ngoại đạo tà pháp kia cho là pháp phi chân tà ngụy, ta sẽ thứ lớp nói cho nghe pháp chân thật, dạy bảo khiến quy y chân thật. Trước là tướng của Biệt giáo, sau là giáo Nhất thể, nên nói là thứ lớp. Cũng có thể trước dạy quy y chân Phật.
Kế là, dạy quy y chân pháp, nên nói là thứ lớp. Sau đây, Phật dạy về quy y Tăng.
Lại, có quy y chẳng phải chân tăng, là nêu người được giáo hóa. Cũng tức là nói rõ lý do giáo hóa của Phật. Quy y với chúng của tướng riêng gọi là chẳng phải chân tăng. Cũng có thể gọi người tà ngoại đạo kia chẳng phải chân tăng. Ta sẽ vì họ làm chỗ chân quy tăng, giáo hóa họ hướng về "Thật". Bồ-tát giáo hóa chúng sinh cầu tăng chân thật ở ngay trong thân mình, nên nói "Vì làm chỗ chân quy tăng".
Trên đây, là Phật dạy phàm phu, sau đây là Phật dạy Nhị thừa: "Nếu có người phân biệt ba quy y" là nêu người được hóa độ.
Chúng sinh Tiểu thừa chỉ lấy tướng riêng, gọi là phân biệt ba.
"Ta sẽ vì v.v..." trở xuống là Phật hóa độ họ quy nhất. Về nghĩa trong một Phật tánh, phân biệt có ba quy y, nên nói "Vì hóa độ một chỗ quy y, không có ba khác nhau".
Dưới đây là đoạn ba, nêu cả hai để kết:
Đối với chúng sinh mù bẩm sinh, Đức Phật sẽ vì họ làm đôi mắt sáng, là nhắc lại giáo hóa phàm phu ở trước. Lại Phật vì Thanh văn, Duyên giác làm chỗ quy thú, là nhắc lại giáo hóa Nhị thừa.
"Như thế v.v..." trở xống là kết. Dạy phàm phu quy y chân, gọi là vì vô lượng chúng sinh ác mà làm Phật sự. Dạy bảo Tiểu thừa quy nhất, gọi là người trí làm Phật sự.
Đoạn trên đây, nói về hạnh dạy người.
Dưới đây là đoạn hai, nói Phật dạy tâm người, trong đó có hai:
1. Đối với phàm phu tạo ra tâm quy chân.
2. "Nghĩ rằng v.v..." trở xuống là đối với người Nhị thừa, tạo ra tâm quy nhất.
Trong phần trước, trước là thí dụ, dụ chia ra làm ba:
1. Dụ vua: Dụ cho Phật dạy Bồ-tát làm tâm quy y Phật đối với các chúng sinh muốn làm quy y Phật che chở chúng sinh kia.
2. Dụ Vương Tử: Dụ cho Phật dạy Bồ-tát làm tâm quy pháp cho các chúng sinh, tự muốn làm quy y pháp che chở chúng sinh kia.
3. Dụ quan: Dụ Phật dạy Bồ-tát làm tâm quy y Tăng đối với các chúng sinh, muốn làm quy y Tăng che chở chúng sinh kia.
Trong thí dụ đầu, như người là vua, dụ cho Bồ-tát dạy người phá tướng, gọi là khi lâm trận, vì nghĩ rằng mình sẽ thắng người, nên nói "Ta là bậc nhất ở trong đây", vì có khả năng dạy bảo người phá bỏ tướng riêng, quy Phật tâm, nghĩ người khác quy y mình, nên nói: "Khi tất cả đều nương tựa vào ta", nghĩa là nương tựa Bồ-tát để bỏ vọng, về chân. Lại, vì nương tựa vào chân tánh ngã của Bồ-tát, nên nói "Nương vào ta".
Trong dụ thứ hai "Cũng như vương tử" là dụ cho Bồtát nghĩ rằng mình có thể dạy chúng sinh lìa bỏ pháp vọng, quy y pháp chân, nên nói "Suy nghĩ ta sẽ điều phục vương tử kia, nghĩ rằng mình có khả năng kế thừa chỗ Phật để nói pháp chân thật của Phật, gọi là nối ngôi Đại vương, giữ gìn sự nghiệp của vua. Nghĩ rằng sự hiểu biết của mình vượt hơn người khác đồng đến quy y mình, nên nói để cho các vương tử thấy quy y.
"Cho nên v.v..." trở xuống là Phật khuyên phát sinh ý Đại thừa. Tự nghĩ vì chúng sinh làm chỗ quy y, thành ra không sinh ý tưởng thấp kém.
Trong dụ thứ ba, như vua và con vua, là nhắc lại vua trước để so sánh với vua sau; nhắc lại dụ con đầu tiên, nhắc lại đại thần thứ hai cũng vậy, nói sau đồng với trước. Nghĩ rằng mình vì vượt hơn các quan nhỏ khác, nên nói "Cũng vậy".
"Bồ-tát v.v..." trở xuống là hợp. Như vua, vương tử và Đại thần, nên nói như thế.
Trên đây đối với phàm là khởi tâm quy chân. Sau đây đối với Đại thừa khởi tâm quy nhất. Trước Bồ-tát nghĩ rằng: "Thế nào là ba việc là một thể với ta?"
Sau đây là Phật chỉ dạy: Ta bảo cho biết ba việc, tức là Niết-bàn nên gọi là Nhất thể. Nhưng nói nhất trong kinh luận chẳng nhất định. Nếu y theo Niết-bàn để chỉ bày ba quy y, giảng nói ba quy y, tức là thể Niết-bàn. Nếu y theo Phật tánh để mở bày ba quy y, giảng nói ba quy y, tức là Phật tánh. Nếu y theo chân đế để mở bày ba quy y, giảng nói ba quy tức là thể của chân đế, nên văn dưới nói: "Nếu chấp Tam Bảo thường trụ đồng với chân đế thì đây tức là thệ nguyện trên hết của Phật." Nếu y theo nghĩa "Thường" để mở bày ba quy, giảng nói ba quy đồng một thể "Thường", nên văn sau nói: "Ta không nói Phật, Pháp, Tăng có sự khác nhau, chỉ nói thường hằng, không có thay đổi, không có khác nhau.
Nếu y theo pháp môn "Không hai" để nói về ba tức không hai, nên kinh nói rằng, Phật tức là Pháp, Pháp tức là Tăng.
Tam bảo này đều là tướng vô vi, bình đẳng với hư không. Tất cả Pháp cũng vậy, nên nói: "Nhất thể, tất cả như thế."
Nay, nói ba việc tức là một môn Niết-bàn.
Trên đây là đoạn thứ nhất, dạy học về Nhất thể.
Dưới đây là đoạn hai, hội thông phân biệt giáo xưa.
Trước là nêu giáo xưa để phân biệt.
"Vì muốn v.v..." trở xuống là hội ý.
Trong phần trước "Như lai hiệu là Vô Thượng Sĩ", pháp thuyết phân biệt rõ ràng. Pháp Tăng vượt hơn hết. Chẳng nên gọi là Vô thường. Thí như, v.v... trở xuống là dụ nói hiển bày khác nhau, Biệt tướng Tam bảo hợp thành thân người. Đầu là trên hết, dụ cho Phật cao đẹp hơn hết phải các chi v.v... khác là dụ nói về pháp, tăng của các tướng riêng không bình đẳng.
Sau đây là hợp, rất dễ hiểu, dưới đây là hội ý:
Vì muốn hóa độ các thế gian, nên Phật thị hiện tướng riêng. Như cái thang của đời, Đức Phật là cao, kế là Pháp Tăng là thấp.
"Cho nên, ông v.v..." trở xuống là Phật khuyên Bồ-tát Ca-diếp nên bỏ sự phân biệt của giáo xưa. Trong đó, đầu tiên Phật khuyên hãy bỏ tướng riêng:
"Ông đối với Đại thừa..." trở xuống là Đức Phật khuyên Bồ-tát Ca-diếp nên bỏ tâm phân biệt. Vì tâm chắc chắn bỏ phân biệt, nên nói quyết đoán, phải như dao cứng.
Trên đây là đoạn thứ nhất, Đức Phật dạy thú nhập.
Dưới đây là đoạn hai, là nói Bồ-tát Ca-diếp vâng làm. Như lai nói lại lời mình khen. Trong đó có bốn:
1. Ca-diếp nói lên mình trước đã hiểu, nay vâng làm.
2. Như lai nói lời khuyên.
3. Ca-diếp khen ngợi sâu sắc.
4. Đức Như lai nói lời khen. Trong phần đầu, có bốn:
1. Ca-diếp nói lên mình tự biết người khác cho nên hỏi.
2. "Muốn cho Như lai v.v..." trở xuống là nói về ý đã hỏi, vui mừng mong Phật đáp.
3. "Tôi cũng yên v.v..." trở xuống là nói mình tự thực hành, chuyển biến nói cho người nghe.
4. "Cũng sẽ chứng v.v..." trở xuống là nói mình tự chứng chuyển sang khuyên người khác.
Trong đoạn đầu, trước nói tự biết.
"Tôi vì v.v..." trở xuống là nói hỏi vì người khác. Trong Bồ-đề, quyết ý cầu "Thật", gọi là người đại dũng. Tôi vì người này hỏi Phật về hạnh thanh tịnh Vô cấu. Trí chứng "Thật" là hạnh thanh tịnh vô cấu kia.
Ba quy y chân tánh là hành xứ đó.
Trong đoạn hai: "Muốn cho Như lai vì Bồ-tát v.v..." nói về ý hỏi của mình. Ba quy y chân tánh là việc kỳ lạ đặc biệt. Giáo của chủ thể khuyên giải, gọi là kinh Phương Đẳng. Vì mong muốn Như lai sẽ phân biệt khen ngợi Phương Đẳng một cách đặc biệt nên mới nêu câu hỏi.
"Như lai thương xót v.v..." trở xuống là nói cho người khác, trong đó, đầu tiên là nói: "Hành xứ Thanh tịnh của Bồ-tát" là nêu lời nói trên của Phật, tức là Phật giảng nói kinh Đại Niết-bàn, chỉ định bác bỏ tướng của hạnh thanh tịnh đó.
"Nay, tôi cũng v.v..." trở xuống là nói về truyền thuyết của mình. Vì người nói kinh Đại Niết-bàn, nên nói: "Nay, tôi rộng vì chúng sinh khen ngợi Bí tạng." Vì nói kinh đồng với Phật, cho nên nói "Cũng".
"Cũng sẽ chứng biết chỗ của ba quy" trong đoạn thứ tư, nói mình đã tự chứng, đồng với Phật, gọi là "Cũng".
"Nếu có sinh v.v..." trở xuống là càng khuyên người, trong đó, đầu tiên là khuyên người sinh niềm tin.
"Có người nói v.v..." trở xuống là khuyên người khác nói.
"Cho nên, Thanh văn, Duyên giác v.v..." trở xuống là khuyên người quy y. Trong phần khuyên người tin có nói: "Nếu có chúng sinh nào tin Niết-bàn", là nêu người năng tin, thì sẽ rõ biết chỗ nương của ba quy y, nói lợi ích của đức tin.
"Vì sao v.v..." trở xuống là giải thích: Vì trong kinh Niết-bàn Bí tạng này nói có Phật tánh, nên tin kinh này nói rõ chỗ của ba quy y.
Trong phần khuyên người nói "Có người nói" nêu người nói kia, đều nói rằng, trong thân đều có Phật tánh, là nói về tướng nói kia.
Người như thế thì không cầu xa là nói về lợi ích của nói pháp. "Vì sao..." trở xuống là giải thích. Vì thân mình có tánh của ba quy, sẽ thành tựu Tam bảo ở vị lai, nên không xa cầu chỗ của ba quy y.
Trong phần khuyên người nói "Cho nên", là trong thân ta có tánh ba quy y, vì vị lai sẽ thành tựu Tam Bảo, nên Thanh văn, Duyên giác và phàm phu khác đều nên quy y chân tánh của ta, cung kính lễ bái. Khởi sự tu, thuận với thú hướng, gọi là cung kính, lễ bái. "Cũng có thể Bồ-tát tự nói vì ta, là trong thân ta có tánh của ba quy y, cho nên Thanh văn, Duyên giác, chúng sinh đều cung kính, lễ bái ta."
Trong văn trên, "Cũng bảo chúng sinh nghĩ là tháp miếu ở trong thân ta, tương tự nói là lời của Bồ-tát kia." Trên đây là đoạn thứ nhất Ca-diếp vâng làm.
Dưới đây là đoạn hai, Như lai khuyên. Vì tin kinh và nói kinh có nhiều lợi ích, cho nên phải học hỏi cho đúng kinh điển Đại thừa.
Sau đây là đoạn ba, Ca-diếp khen sâu sắc Phật tánh không thể suy nghĩ, là khen nhân của Phật tánh. Tướng cao siêu không thể suy nghĩ, khen quả đã thành tựu. Tùy dường như phân biệt mà "Thật" ra tức là chân tánh, cho nên không thể suy nghĩ.
Dưới đây là đoạn thứ tư, Đức Như lai nói lại lời mình đã khen: "Lành thay!" chính là khen "Ông đã thành tựu trí sâu xa, phát ra việc lành kia".