TẠNG LUẬN
SỐ 1765 - ĐẠI BÁT-NIẾT-BÀN KINH HUYỀN NGHĨA
Đời Tùy Sa-môn Quán Đảnh thuộc Tông Thiên Thai, soạn
Chánh đạo vắng lặng không có bắt đầu, không có cuối cùng; diệu lý sâu xa không có mới, cũng không có cũ. Không có điểm bắt đầu mà cho là có bắt đầu đó là vô minh sinh tử, không có cuối cùng mà cho là có cuối cùng đó là chủng trí Niết-bàn. Vô minh sinh tử vốn tự có, nên gọi là cũ, chủng trí Niết-bàn do tu nhân mới được, nên gọi là mới. Kinh này y cứ theo sự bắt đầu của chẳng có bắt đầu mà chia ra ba nhân Phật tánh khác nhau; y cứ theo sự cuối cùng của không có cuối cùng để liệu giản ba đức Niết-bàn, là cực quả khác nhau. Nếu nhân của Phật tánh chẳng phải Nhân, quả của Niết-bàn chẳng phải Quả, thế thì "Nhân như" chẳng khác "Quả như", "Quả như" chẳng khác "Nhân như". Nếu "Nhân như" chẳng khác "Quả như", thì chẳng những Như của Niết-bàn chẳng mới mà Như của Phật tánh cũng chẳng phải mới. Nếu "Quả như" không khác "Nhân như", thì chẳng những Như của Phật tánh chẳng cũ, mà Như của Niếtbàn cũng chẳng cũ. Cho nên cái Như của nhân quả, Phật tánh, Niết-bàn đều chẳng phải mới, chẳng phải cũ. Lý chẳng mới chẳng cũ này tức là Pháp thân; Quả chẳng mới mà mới là Ma-ha Bát-nhã. Đã có chủng trí viên mãn rốt ráo chẳng phải mới mà mới, thì vô minh sinh tử, tai họa cũ mà chẳng phải cũ kia, cuối cùng sẽ Diệt, đó là Giải thoát. Nghĩa của ba đức rõ ràng như thế, chẳng phải dọc, chẳng phải ngang, nhiệm mầu như chữ Y. Nhưng chúng sinh căn tánh có lợi Độn chẳng đồng, cho nên bậc Đại thánh tùy duyên lập bày giáo nghĩa cũng có Đốn; Tiệm. Đốn như cỏ nhẫn nhục, bò ăn thì thành Đề hồ, Tiệm thì có năm vị, theo thứ lớp dần dần bước đến chỗ viên mãn. Hoặc có căn duyên bất định, thì nói giáo môn chẳng Đốn chẳng Tiệm, ví như hòa thuốc Độc vào sữa. Tất cả đều là hiển bày lý quyền thật rốt ráo nhiệm mầu, khéo léo tùy duyên, thích hợp với các loại căn cơ mà Bậc Năng Nhân đã lập, thật ra chẳng có mảy may mâu thuẫn. Nay kinh này vì muốn khai thông Giáo môn xưa kia, hiển bày phương tiện mật nghĩa của Như Lai, nên nơi Sa-la Song thọ phát tiếng rống của đại Sư tử, Sư tử hống gọi là quyết định thuyết; quyết định thuyết tức là nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh. Như Lai chẳng vào Niếtbàn; chẳng vào Niết-bàn tức là vào Đại Niết-bàn của đại thừa Vô thượng.
Nếu phiên âm theo tiếng Phạm thì kinh này phải gọi đủ là Ma-ha Bát-Niết-bàn-na Tu-đa-la. Ma-ha là Đại; Bát-Niết-bàn; na là Diệt Độ Tu-đa-la là kinh. Giải thích ba chữ này phải y cứ theo hai nghĩa: riêng và chung.
1/ Nghĩa riêng: Đại là Pháp thân. Kinh ghi "Gọi là Đại, vì tánh nó rộng lớn như hư không, tánh tức là Pháp tánh, pháp tánh tức là pháp thân". Diệt là Giải thoát, Giải thoát hai loại: phiền não sinh tử Diệt hẳn, xa lìa nhân quả trói buộc. Độ tức là Ma-ha Bát-nhã, nên Đại Luận ghi "Tín là năng nhập, Trí là năng Độ". Như thế theo nghĩa riêng thì ba từ của đề kinh này là tên khác của ba đức.
2/ Nghĩa chung: Thì Đại là Đại pháp thân, Đại Bátnhã, Đại Giải thoát. Diệt là ba đức đều vắng lặng. Độ tức ba đức đều cứu cánh viên mãn. Cho nên chung dùng ba chữ làm tên kinh, nói lên ba đức đều là hoàn toàn vắng lặng rốt ráo. Nghĩa chung và riêng tuy có khác nhau, nhưng đều dùng cực quả vô thượng bí mật, quả chẳng phải quả, để nêu lên tên của Nhất thừa giáo. Còn Tu-Đa-la, là từ gọi chung Thánh giáo; Giải thích theo nghĩa riêng về việc có phiên dịch hay không phiên dịch: Nếu y cứ theo bản tiếng Phạm, phải gọi đủ là Ma-ha Bát-Niếtbàn-na. Nay dịch là Đại Diệt Độ. Đại là rộng lớn như hư không, chẳng phải do tướng nhỏ mà nói là lớn, tánh nó rộng khắp chứa đựng tất cả là pháp giới của chư Phật chẳng thể nghĩ bàn, đó là giải thích ba nghĩa của chữ Đại. Diệt là Diệt hai mươi lăm Hữu và các pháp giả dối, thành tựu hai mươi lăm Tam-muội, các loại thị hiện. Lại, pháp sinh Diệt đã Diệt, tịch Diệt là an vui, đó là ba nghĩa giải thích chữ Diệt. Độ là Độ ở chỗ chẳng Độ, là Độ ở chỗ Độ, là Độ qua bờ kia của kia đây, và cũng là Độ qua bờ kia của chẳng kia chẳng đây. Giống như thần Quy, có thể đi được đến đất liền và dưới nước. Đó là ba nghĩa giải thích chữ Độ. Gồm chung ba pháp, ba mục và ba điểm gọi là Đại Niết-bàn, kho báu kim cương đầy đủ không thiếu sót, chẳng ngang, chẳng dọc, chẳng chung, chẳng riêng, nhiệm mầu bí mật là Thể của nó; thường trụ bất biến, thường an tịnh mát mẻ, chẳng già chẳng chết là Tông của nó; bỏ Độc Phật tánh vào khắp năm vị, mỗi vị đều có công năng giết người; đánh trống Độc, tuy người không có tâm muốn nghe, nhưng khi nghe thì đều chết, tám Đại tự tại ngã là Dụng của nó, hai chữ Thường trụ là đề hồ vô thượng, cùng với tiếng rống riêng quyết định trong các kinh là Giáo của nó. Như thế, Huyền nghĩa dùng Danh (tên) thì bao gồm, Thể thì thâu nhiếp, Tông thì thường trụ, Dụng thì Độc, Giáo thì tột cùng, để chia ra làm năm chương giải thích.
- Giải thích Danh.-Giải thích Thể.
- Giải thích Tông.
- Giải thích Dụng.
- Giải thích Giáo.
I. GIẢI THÍCH DANH: Gồm có năm phần: Phiên danh, Thông danh, Vô danh, Mượn danh và Tuyệt danh.
1. Phiên danh: Gồm có bốn thuyết:
1) Không phiên dịch
2) Có phiên dịch
3) Vừa có vừa không phiên dịch
4) Chẳng phải có chẳng phải không phiên dịch.
-Một là: Không phiên dịch:
Năm xứ Thiên Trúc không giống nhau, trong đó ba phương Đông, Nam và Trung thì xa gần có hơi khác nhau, nhưng hai phương Tây và Bắc thì khác nhau nhiều. Như nói Ma-ha, Ma-hê, Nê-viết, Nê-hoàn là âm đọc của ba phương, còn nói Hoàn-lệ-bàn-na, Bát-Niết-bàn-na là âm của hai phương kia. Giống như nước Sở và Hạ ở Trung Nguyên. Có người dùng từ Nê-viết để đặt tên cho bộ kinh hai quyển, dùng từ Nê-hoàn đặt tên cho bộ sáu quyển, còn dùng từ Niết-bàn đặt tên cho Đại bản, các nghĩa này đều không đúng vì bản kinh hai quyển thì nói về tám mươi tuổi vô thường, bản kinh sáu quyển thì nói về kim cương chẳng hoại. Như thế đâu thể dùng phương ngôn để giản lược ý nghĩa? Luận Tỳ-bà-sa ghi "Niếtbàn-na", nay kinh này không ghi chữ Na vì người dịch đã lược bỏ. Triệu Luận cho rằng gọi Ma-ha Niết-bàn là chánh âm của vùng đất Thiên trúc, xưa nay thường sử dụng. Có năm nhà chủ trương không phiên dịch:
a) Đại Lượng ở Quảng Châu cho rằng: một tên gọi bao gồm nhiều nghĩa cho nên các dịch giả không phiên, nghĩa ẩn dưới tên nên dẫn đến sự giải thích khác nhau. Ví dụ như nói Đại (lớn) nghĩa là "không có pháp nào hơn"; tức là tất cả pháp chẳng có pháp nào hơn pháp này. Lại Đại là Thường, Đại là hiệu cao nhất của thần thông, là tên chính của thường lạc, vì thế không thể phiên dịch.
b) Danh tự là pháp sắc thanh, không thể một tên gọi viết thành nhiều tên gọi, một nghĩa mà nói được nhiều nghĩa, cho nên không thể phiên dịch.
Tên đã để nói lên nghĩa, nghĩa là nghĩa ẩn dưới tên, nên tên là một thì nghĩa đâu có nhiều? Chỉ một tên mà có nhiều cách giải thích. Như chữ "Tức" của Trung Hoa hoặc giải thích là Tử tức (con gái) hoặc giải thích Trưởng tức (người lớn), hoặc giải thích là Tức của "Chỉ trụ" (dừng trú) hoặc giải thích là Tạm thời tiêu tức (nghỉ ngơi), hoặc giải thích là "Báo thị Tiêu tức" (tin tức), v.v... Nếu theo một nghĩa thì mất nhiều nghĩa, vì thế không thể phiên dịch. d) Một tên có nhiều nghĩa, như Tiên-đà-bà chỉ một tên gọi mà có bốn nghĩa, quan hệ rất nhiều, vì thế không thể phiên dịch. Chỉ có một tên là Tiên-đàn-bà mà tùy lúc sử dụng khác nhau, như trí tuệ, bề tôi, khéo hiểu phù hợp được lòng vua.
Niết-bàn cũng giống như thế, mới ra đời nói Niếtbàn, thì Niết-bàn tức là sinh; sắp mất nói Niết-bàn, thì Niết-bàn tức là Diệt. Nhưng ở đây không có mật ngữ để phiên dịch mật nghĩa kia, vì thế không nên phiên dịch.
- Hai là: Có phiên dịch: Lương Võ Đế nói rằng: Phật vốn có bốn âm bình đẳng, tùy theo từng loại mà Ngài giảng nói dạy dỗ khắp chúng sinh, nếu chẳng thể phiên dịch thì quốc Độ này (Trung Hoa) phải thành xa cách giáo hóa, bốn đẳng cũng không cùng khắp?
Dẫn Thích Luận nói: "Bát-nhã" thì tôn trọng, "Trí tuệ" thì nhẹ mỏng, đã dùng khinh thay thế cho trọng, thì đâu không được dùng tiếng Chấn Đán (Trung Quốc)". Thiên Trúc, đơn dịch, biệt dịch đều có đủ, đã được phiên dịch, thì gồm mười nhà chủ trương:
1) Trúc Đạo Sinh được người đời tôn xưng là Thánh Niết-bàn, dịch Niết-bàn là Diệt. Dẫn văn kinh rằng "Nghe Đức Phật nói rằng sắp Diệt Độ nên lo buồn thỉnh Ngài trụ thế, còn ma vương thì khuyên Ngài nên mau Diệt Độ v.v..."
2) Trang Nghiêm Đại Bân dịch Niết-bàn là Tịch
Diệt. Dẫn văn kinh rằng "Sinh Diệt Diệt rồi, tịch Diệt là vui". Thuyết trước là Diệt ở sinh, thuyết sau là Diệt cái sinh, lại Diệt cả cái Diệt, nên nói là tịch Diệt v.v...
3) Bạch Mã Ái dịch Niết-bàn là Bí Tạng. Dẫn văn kinh: "Đều an trụ trong tạng Bí mật tạng"...
4) Trường Can Ảnh dịch Niết-bàn là an vui. Dẫn văn kinh: "Như người hết bệnh gọi là an vui, an vui gọi là Niết-bàn".
5) Định Lâm Nhu dịch Niết-bàn là Giải thoát, không còn ràng buộc. Đã không còn bị hai loại chết (tử) ép ngặt tức không bị khổ lụy.
6) Thái Xương Tông dịch Niết-bàn là Giải thoát. Dẫn phẩm Tứ Tướng: "Niết-bàn gọi là Giải thoát". Phẩm Ca-diếp: "Từ bi là Giải tho-át chân thật, Giải thoát tức là Đại Niết-bàn".
7) Lương Võ Đế dịch Niết-bàn là Bất sinh. Dẫn văn kinh "Dứt trừ phiền não, chẳng phải Niết-bàn; chẳng sinh phiền não mới gọi là Niết-bàn".
8) Triệu Luận dịch Niết-bàn là Vô vi, cũng dịch là Diệt Độ.
9) Hội Kê Cơ chỉ dịch Niết-bàn là Vô vi.
10) Khai Thiện Quang Trạch cùng dịch Niết-bàn là Diệt Độ. Dẫn văn kinh rằng: "Bậc Đại Giác Thế Tôn sắp nhập Niết-bàn". Dẫn kinh Niết-bàn bản sáu quyển rằng "Đại Mâu-ni Thế Tôn nay sắp Diệt Độ". Hai bản hiện còn này chính là có phiên dịch vậy. Ví như Đại Bản ghi Ta-la Song thọ, bản sáu quyển gọi là Kiên cố Lâm Dẫn văn xuôi kinh Pháp Hoa nói: "Giữa đêm sẽ nhập Niếtbàn". Kệ sau nói: "Đêm nay Phật Diệt Độ". Lại dẫn kinh Hoa Nghiêm: "Xưa nay chư Phật không Bát-Niết-bàn, trừ khi giáo hóa chúng sinh các Ngài lập ra phương tiện Diệt Độ". Kinh Di Giáo nói "Phật sắp nhập Niết-bàn nên lược nói giáo giới" và đoạn sau ghi "Thời gian sắp đến, ta sắp Diệt Độ".
- Ba là: Cũng có thể phiên dịch cũng có thể không phiên dịch: Ngài Tăng Duệ nói "Tiếng Tần lầm lẫn, ấy là quyết định lấy tiếng đó mới thành sách, tiếng Phạm không thể biến đổi ấy là ngay tiếng Phạm mà viết thành. Thầy nghiêm cẩn, thì người ghi chép phải càng thận trọng".
Nay kinh này dịch Ma-ha là Đại, còn ba chữ BátNiết-bàn vẫn giữ nguyên âm Phạm, như thế thì một chữ được phiên dịch, ba chữ không phiên dịch, Phạm Hán ghép chung, chính là ý này.
- Bốn là: Chẳng phải có, chẳng phải không phiên dịch: Chữ Đại là không thể nghĩ bàn, cho nên chẳng thể phiên dịch, cũng chẳng thể không phiên dịch. Nay người Hán phần nhiều không hiểu âm Phạm, lại có rất nhiều thuyết, nhưng không biết ai đúng. Thế gian đều theo thuyết của Khai Thiện mà chưa thể làm khác được. Nay tuy đồng cách phiên dịch ấy nhưng không dùng nghĩa ấy. Tức là cùng dịch Ma-ha là Đại, Bát-niết dịch là Diệt, Bàn-na là Độ, gọi chung là Đại Diệt Độ.
Có phiên dịch ra hay không phiên dịch gồm bốn nhà đã nói xong.
Nay nói về bốn cách giải thích của Khai Thiện.
1) Diệt là y cứ theo Pháp, Độ là y cứ theo Người (nhân). Pháp sinh tử Diệt trở về Không, người sinh tử chuyển thành Phật.
2) Diệt gọi là không có vì Diệt cái có trở về không có. Độ gọi là có vì từ nơi này đến nơi kia. Đối với đạo thật pháp thì Người và Pháp đều Diệt, còn đối với đạo nối nhau thì Người và Pháp đều Độ.
3) Diệt là Hữu dư, Độ là Vô dư. Niết-bàn Hữu dư chưa phải là rốt ráo nên chỉ có thể là Diệt, Niết-bàn Vô dư vĩnh viễn giải thoát mới được là Độ.
4) Diệt là nghĩa xưa có nay không, mà thêm từ Độ có nghĩa là xa lìa hẳn. Muốn nói sự chết của phàm phu cũng là Diệt, nhưng chẳng phải xa lìa hẳn sinh tử cho nên không được gọi là Độ. Xét câu thứ nhất rằng: Nếu pháp sinh tử Diệt là không có thì người sinh tử nương vào đâu để Độ? Nếu người giả tạm trong sinh tử chuyển thành Phật, thì pháp sinh tử sao chẳng chuyển thành Niết-bàn. Nay nghiên cứu ý thứ nhất thử xem có nghĩa gì? Nếu y cứ vào pháp Thanh văn thì ba quả vị đầu, pháp sinh tử chưa Diệt, người giả tạm vĩnh viễn Độ; quả thứ tư, tuy nhân pháp đã Diệt, bao gồm quả pháp chưa Diệt mà người giả tạm chưa được Độ. Nếu thân hoại trí Diệt, giả pháp đều vắng lặng, đã vắng lặng thì không luận là Độ, cũng không được thành Phật. Nếu y cứ theo pháp Bồ-tát, thì pháp chẳng Diệt, nhân (người giả tạm) chẳng Độ. Vậy pháp nào Diệt, người nào Độ? Như thế suy ra chẳng phải nghĩa Tam tạng giáo.
Nếu theo Cộng pháp Thanh văn, Bồ-tát thì người Ba thừa cũng dùng đạo vô ngôn thuyết, đoạn phiền não để nhập vào Đệ nhất nghĩa; tức thể hội được pháp sinh tử là pháp Niết-bàn; bất luận là Diệt và chẳng Diệt; tức người chịu sinh tử là người nhập Niết-bàn mà bất luận là Độ và không Độ. Đã không có pháp để Diệt, thì đâu cần dùng Diệt để đặt tên, không có người để Độ thì dùng Độ để gọi ai? Như đây suy ra thì chẳng phải nghĩa Thông giáo. Nếu chỉ y cứ theo pháp Bồ-tát, thì chẳng những Diệt pháp sinh tử giả dối, mà còn Diệt cả pháp Niết-bàn chân thật, chẳng những Độ kẻ phàm sinh tử, mà còn Độ cả bậc Thánh xuất thế. Các Sư kia nói không liên quan đến chân pháp, lời thì không luận đến Thánh nhân. Do đó suy ra, chẳng phải là nghĩa Biệt giáo.
Nếu y cứ theo pháp của Phật thì Diệt và Độ chẳng ngang, chẳng dọc không hai, không khác. Sư kia phân chia Diệt khác Độ, lìa pháp mà nói về người, như thế suy ra chẳng phải nghĩa Viên giáo.
Đã chẳng phải pháp Tiểu thừa, chẳng phải cộng pháp, chẳng phải pháp Bồ-tát, chẳng phải pháp Phật, lại chẳng phải lời của thánh nhân đi trước, thì chẳng dám là đạo vậy v.v...!
* Xét câu thứ hai: Nếu cho Diệt là không, cho Độ là có, thì thọ nhân có, không này vẫn là Khổ đế, chấp có, không này vẫn là Tập đế, tu có không, này vẫn là Đạo đế, trừ hết có không này vẫn là Diệt đế. Diệt đế chân thật mà chẳng thể dùng có không làm tên thì đâu thể dùng có không mà gọi là Đại Niết-bàn, cho nên biết chẳng phải chân nghĩa của tam tạng giáo; Gọi Diệt là không, gọi Độ là có và cho có không là sinh tử, sinh tử vốn chẳng phải như thế, mà nay thì không Diệt, sinh tử đã không Diệt thì dùng Diệt đặt cho ai? Sinh tử vốn chẳng phải thế thì đâu thể gọi là có, chẳng phải có thì chẳng có pháp Độ cũng chẳng có người được Độ. Vậy dùng Độ đặt cho ai? Đã không thể dùng Diệt Độ đặt cho sinh tử, thì đâu thể dùng Diệt Độ mà gọi Niết-bàn. Trong hư không mà gượng đắp thành gò nỗng. Do đó suy ra chẳng phải nghĩa của cộng pháp Thanh văn, Bồ-tát.
- Lại nếu gọi Diệt là không, gọi Độ là có thì đây là dùng tên để gọi pháp, dùng pháp thuận theo tên. Tên vật còn giữ bị cái thấy trói buộc, vậy đâu thể dùng nghĩa thấy để giải thích Đại Niết-bàn. Nếu gọi Diệt là Vô môn, Độ là Môn Có, vậy là Tiểu môn hay Đại môn? Tiểu môn thì năng thông vụng về, sở thông giả dối, kẻ nghèo trụ ở Hóa thành lâu ngày bị vất bỏ, vậy đâu thể dùng năng thông vụng về, mà giải thích Đại Niết-bàn.
Lại nếu gọi Diệt là không, Độ là có để nói về hai Đế Chân Tục, đó là thiên vị, tà chấp hai bên, đâu thể dùng hai bên mà giải thích Trung đạo Đại Niết-bàn. Do đó, suy ra chẳng phải pháp Bồ-tát.
- Lại nếu gọi Diệt là không, gọi Độ là có, thì có chẳng liên quan đến không, không chẳng dính dáng đến có. Diệt chẳng phải Độ, Độ lại khác Diệt, ngang dọc lẫn lộn, giống như ăn trộm trâu chẳng biết chăn dắt, thì sữa còn không lấy được, huống gì là bơ sữa, đề hồ. Như thế suy ra chẳng phải là pháp của Phật.
Đã chẳng phải nghĩa Tiểu thừa, Cộng thừa, Bồ-tát thừa cho đến Phật thừa, thì đó là nghĩa gì? v.v...
* Xét đến câu thứ ba: Niết-bàn Hữu dư chưa phải hoàn toàn rốt ráo nên chỉ có thể gọi là Diệt, Niết-bàn Vô dư vĩnh viễn giải thoát mới được gọi là Độ, cũng thuận theo là Diệt độ thì Tứ trụ chưa phải là rốt ráo Diệt Độ, trần sa mới được gọi là Độ; Diệt Độ trần sa cũng chẳng phải rốt ráo Diệt Độ; mà Diệt Độ vô minh mới được gọi là Độ, Diệt Độ vô minh cũng chưa phải rốt ráo Diệt Độ, rốt ráo Diệt Độ rồi mới được gọi là Độ. Dùng nghĩa sau mà so sánh với nghĩa trước, thì nghĩa trước chưa phải là rốt ráo. Lần thứ ba, lần thứ hai chưa phải là rốt ráo thì đâu thể dùng ý Diệt Độ thứ nhất mà giải thích Đại Niếtbàn.
* Xét câu thứ tư: Nếu phàm phu đã từ có trở về không gọi là Diệt, thì phàm phu từ nơi này đến nơi kia cũng gọi là Độ. Nếu phàm phu chẳng phải Độ thì phàm phu cũng chẳng phải Diệt. Cũng thế, bậc Thánh vốn có rồi không gọi là Diệt, thì bậc Thánh từ nơi này đến nơi kia lẽ ra cũng gọi là Độ. Vậy phàm Thánh đều có Diệt, có Độ, vì sao lại nói khác nhau? Nếu đồng với phàm Thánh thì nhỏ hẹp chẳng cao rộng, khác phàm Thánh thì cũng chẳng phải cao rộng! Chẳng cao thì chẳng phải vô thượng, chẳng rộng thì có bờ mé. Như thế thì đâu thể dùng nghĩa này mà giải thích Đại Niết-bàn.
Nếu xét đủ bốn câu thì phải mười sáu lần giải thích, nhưng nay chỉ nói mười câu, còn sáu lần kia thì tự cũng dễ hiểu được, đâu cần phải nhiều lời!
Người bấy giờ thường cho thuyết của Khai Thiện là hay nhất nên nay đem nghiên cứu, còn các thuyết khác thì gác lại không nói thôi.
Về việc phiên dịch tên gọi đã trình bày, nay là phần giải thích ý nghĩa tên gọi Đại Bát Niết-bàn-na.
Đại có ba nghĩa: Lý đại, Trí đại và Dụng đại. Thích luận cho rằng "Đại, Đa, Thắng". Trong đó, Đại nghĩa là bao trùm rộng lớn, Đa là gồm thâu, Thắng là vượt hơn. Nay nói rằng pháp thân pháp giới cùng khắp tất cả mọi nơi, đó là nghĩa rộng lớn, Báo thân trí cảnh chiếu và phát tương ưng nhau, không có cùng tận, đó là nghĩa gồm thâu, Ứng thân tự tại không bao giờ thôi dứt, đó là nghĩa vượt hơn. Một chữ Đại đầy đủ ba pháp, chẳng ngang, chẳng dọc, chẳng thể nghĩ bàn, gọi là Bí mật tạng. Bí mật tạng tức là Đại Niết-bàn.
Bát-niết nghĩa là Diệt, Diệt có ba nghĩa: Tánh Diệt, Viên Diệt và Phương tiện Diệt. Tánh Diệt là lý tánh cực kỳ vắng lặng chẳng sinh chẳng khởi. Vì sinh khởi thì không thể làm dao Động, cho nên gọi là Tánh Diệt. Viên Diệt tức là chiếu soi cùng khắp, không nơi nào thiếu sót, phát ra thì không chỗ nào là không đầy đủ. Vì sáng rõ đẹp đến cùng, cảnh đến tột bậc, nên gọi là Viên Diệt. Phương tiện Diệt, tức là năng lực nhiệm mầu khéo léo. Vì lưu lại ắt phải hội tụ, vì giữ lấy ắt phải khắc phục, cho nên gọi là phương tiện Diệt. Như thế ba Diệt tức ba Giải thoát, Không có trói buộc, không có giải thoát, đó là Tánh tịnh Giải thoát; nhân quả hoàn thành xong là Viên tịnh giải thoát khéo léo thuận theo cơ nghi, không nhiễm, không bị hệ lụy là phương tiện Giải thoát. Ở một chữ Diệt đầy đủ ba thoát chẳng dọc, chẳng ngang, chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là ba điểm. Ba điểm tức là Đại Niếtbàn.
Bàn-na là Độ. Độ cũng có ba nghĩa: Thật tướng rốt ráo Độ, Trí rốt ráo Độ và Sự rốt ráo Độ. Thật tướng Độ là thầy của chư Phật. Vì chẳng phải bên này, chẳng phải bên kia, cũng chẳng phải ở giữa dòng, chẳng phải chủ thể chẳng phải đối tượng, không đầu không cuối nên gọi là Thật tướng Độ. Luận ghi: "Đường lớn trí Độ, Phật khéo qua lại, biển lớn Trí Độ Phật thấu suốt tận đáy" tức là nghĩa này. Trí Độ là trí Như như, xứng hợp với cảnh Như như. Như chiếc rương lớn thì nắp lớn, chiếu và phát tương ưng, nên gọi là Trí Độ. Vì Thầy của Phật độ nên chư Phật cũng độ Luận ghi "Tướng nghĩa của Trí Độ thì Phật không ngăn ngại", chính là nghĩa này. Sự Độ, tức là tự Độ Độ tha; mình và người đều được lợi ích rốt ráo Từ bi. Thệ nguyện tất cả đều đầy đủ, nên gọi là Sự Độ. Ba Độ này tức là ba Bát-nhã. Thật tướng Bát-nhã là Nhất thiết chủng trí, đồng thể với chư Phật. Quán chiếu Bátnhã là Nhất thiết trí đồng một ý với chư Phật, văn tự Bátnhã là Đạo chủng trí đồng sự với chư Phật. Chữ Độ đầy đủ ba trí chẳng ngang, chẳng dọc, chẳng thể nghĩ bàn, nên gọi là ba con mắt trên mặt. Ba mắt tức là Đại Niếtbàn.
Nay thực hiện ba lần, giải thích chín nghĩa, sâu cạn, khác nhau mỗi mỗi khác nhau, là tuy nhiều nghĩa gồm thâu, vượt hơn mà, chưa phải là ý chánh của kinh này. Văn Kinh nói: "Pháp thân cũng chẳng phải", thì đâu thể chỉ dùng ba thân giải thích chữ Đại. Văn kinh lại ghi: "Giải thoát cũng chẳng phải", thì đâu thể chỉ dùng ba Giải thoát mà giải thích chữ Diệt. Văn kinh lại ghi: "Bátnhã cũng chẳng phải" thì đâu thể chỉ dùng ba trí giải thích chữ Độ. Cho nên biết rằng dùng một nghĩa để giải thích thì chẳng phải ý kinh này. Kinh ý là ghi: "Ba pháp đầy đủ gọi là Đại Bát-Niết-bàn, ba pháp là ba trí, ba trí là ba điểm". Ba pháp là chín pháp, chín pháp là ba pháp, ba pháp là chín pháp thì chẳng phải dọc; chín pháp tức ba pháp thì chẳng phải ngang, chẳng chung chẳng riêng cũng giống như thế. Chẳng phải ba mà ba, chẳng phải một mà một nên gọi là Bí mật tạng, gồm thâu tất cả các pháp. Vào trong đó là thể của chư Phật, là thầy của chư Phật đều gọi là hiệu chủng mới là đầy đủ là Đại Niếtbàn. Đó chính là ý của kinh này. Một trí là ba trí, ba trí là một trí, nên gọi là một mặt mà ba mắt. Niết-bàn cũng như thế, một Giải thoát là ba Giải thoát, ba Giải thoát là một Giải thoát, nên mới gọi là ba điểm của chữ Y. Niếtbàn cũng như thế, ý và sự chẳng lìa nhau, chẳng lẫn lộn nhau, chẳng thể dùng lời mà nói, chẳng thể dùng ý mà suy, nên gọi là Đại Niết-bàn.
2. Thông danh: là giải thích tên gọi chung. Danh từ Niết-bàn thì cùng khắp tất cả chỗ. Với một nghĩa là an vui, thì suốt cả mười pháp giới cũng đều gọi là an vui. Phẩm Phạm Hạnh ghi: "Nếu trong địa ngục lạnh mà gặp được gió nóng, thì cho đó là an vui, do đó ở địa ngục nóng mà gặp được gió lạnh thì cũng cho đó là an vui". Như thế an vui cũng gọi là Niết-bàn. Như loài vượn uống rượu say, liền nhảy nhót, leo trèo. Nước mùa thu chợt đến, hà bá vui mừng, cá rùa tóe nước tung tăng đùa giỡn, tất cả vui vẻ an vui như thế cũng gọi là Niết-bàn. Như loài ngạ quỉ đói khát, có cơm nước đầy đủ thì được an vui, an vui như thế cũng gọi là Niết-bàn. A-tu-la thường có tâm sợ hãi, nếu được chỗ trú ẩn tin cậy thì an vui, an vui như thế cũng gọi là Niết-bàn. Bà-la-môn Bàn-đề, ăn no vỗ bụng nói rằng "Thân ta hôm nay là
Niết-bàn". Đó đều là chấp pháp quả báo ở cõi Dục làm
Niết-bàn. Tiên A-la-la đắc định Vô tưởng, chấp pháp ở cõi Sắc là Niết-bàn. Uất-đầu-lam-phất được định Phi tưởng, chấp pháp ở cõi Vô Sắc là Niết-bàn. Kinh nói:
"Dứt kết sử của cõi Dục thì được an vui, cho đến dứt trừ kết sử ở cõi Vô sắc thì được an vui; an vui như thế cũng gọi là Niết-bàn". Đó là lấy nhân thiện làm Niếtbàn. Như Thường, Lạc, Ngã, Tịnh ở cõi trời ba mươi ba đều dùng quả thiện làm Niết-bàn. Như người nặng về tham dục tu tập pháp Nhị thừa do quán Bất tịnh mà sinh an vui, an vui như thế cũng gọi là Niết-bàn. Cho đến tâm từ, sổ tức, niệm Phật nhân duyên cũng giống như thế. Đó là chấp pháp Nhị thừa phương tiện làm
Niết-bàn. Nếu dứt phiền não ba cõi, trải qua được tám muôn, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn hoặc một muôn trụ xứ thì được an vui, an vui như thế cũng gọi là Niếtbàn. Đây là chấp quả pháp của Nhị thừa là Niết-bàn.
Thích Luận ghi: "Bồ-tát từ lúc mới phát tâm thường quán Niết-bàn để hành đạo", vậy Bồ-tát lúc mới phát tâm cũng gọi là Niết-bàn. Thích Luận còn nói: "Bồ-tát
Thập trụ tuy chỗ thấy chưa thấu suốt cũng gọi là Niếtbàn". Còn trụ xứ của chư Phật Pháp Vương, Thánh chủ mới được gọi là Đại Niết-bàn. Danh từ Niết-bàn tùy tình huống, tùy sự việc mà có ý nghĩa rộng lớn như thế, bởi đó là tên gọi chung.
Ngài Đạt-ma Uất-đa-la (Hán dịch là Pháp Thắng) giải thích rằng: "Phiền não đã Diệt gọi là Niết-bàn Hữu dư". Dẫn kinh "Diệt các phiền não gọi là Niết-bàn"; "Xa lìa sinh tử gọi là Niết-bàn Vô dư". Dẫn kinh nói: Lìa các Hữu mới gọi là Niết-bàn. Đó là y cứ theo đối tượng được Diệt mà giải thích hai loại Niết-bàn. Hai loại Niết-bàn của Nhị thừa chứng đắc, nếu đối với Như Lai thì đều là Hữu dư, chỉ có Phật mới là Vô dư. Kinh Thắng Man nói: "Nhị thừa là Hữu dư, Như Lai là Vô dư". Xưa Diệt là tận, nay Diệt chẳng phải tận". Kinh nói: "Chẳng nên tưởng sinh Diệt tận", Niết-bàn chẳng Diệt, vì chẳng Diệt cho nên là thường. Nếu y cứ theo sự giải thích của Uất-đa thì đó là thông suốt Niết-bàn. Xưa nay đối đãi chỉ có một đường, nghĩa là xưa Tiểu nay Đại đều có Niết-bàn. Nếu phân tích kỹ nghĩa lý thì chẳng phải như thế. Vì sao? Vì Hữu dư, Vô dư của Nhị thừa thì sở Diệt khác, mà Chân đế lại đồng? Lại đối với Như Lai đều là Hữu dư, chỉ có Phật mới là Vô dư. Nghĩa là nếu Nhị thừa kia đã là Niết-bàn Hữu dư, thì đoạn dứt hạt giống phược, phá bỏ vô minh, đi vào vị Bồ-tát, thấy được Phật tánh, thân sinh tử đã lìa, đồng với Phật mà nhập Niết-bàn Vô dư, vì sao quở trách chẳng đúng? Nếu chẳng dứt phiền não, chẳng đến bờ kia, phá trừ am tranh, đều không có phần, vì sao lại nói đối với Phật thì họ đã được Niết-bàn Hữu dư? Nếu Hữu dư, Vô dư của Nhị thừa khi đối với Phật được gọi là Niết-bàn Hữu dư, thì từ địa ngục lên đến Bồtát, từ Bồ-tát trở xuống tất cả đều phải như thế. Nếu Niếtbàn chẳng được như thế, thì Niết-bàn Nhị thừa đâu có đúng? Cho nên thuyết của Uất-đa-la không thể y cứ được.
Hỏi: Tên gọi An lạc đã chung cho cả mười pháp giới, vậy tên gọi bốn đức của Phật tánh thì sao?
Đáp: Kinh nói: "Tất cả các pháp đều có tánh an lạc, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, như vậy há chẳng phải là Phật tánh thông suốt hay sao? Văn kinh nói: "Hai mươi lăm Hữu có ngã hay không? Đáp: Có ngã", ngủ nói đạo đạo. Lại cây dương, lá vàng, v.v... há chẳng phải bốn đức thông suốt sao? Nhưng tên thì bao trùm tất cả, mà nghĩa thì không được lẫn lộn. Thuận theo làm ba lần bốn câu liệu giản: (chọn lọc, phân tích):
-Bốn câu đầu là chung, riêng, vừa chung vừa riêng, chẳng phải chung chẳng phải riêng: Chung thì như đã nói ở trên, riêng thì mỗi pháp đều có nguyên nhân, như sáu đường thì lấy việc an thân, thuận tánh làm an vui. Vẫn khởi phiền não nhân ác nhân lấy quả khổ sinh tử thì không thành nghĩa an vui. Còn người đã dứt phiền não kết sử, khổ vui không theo thân, buồn vui không buộc tâm, được Hữu dư và Vô dư, thân hoại trí Diệt, xa lìa sinh tử, nhập Niết-bàn thì khác với sáu đường. Bồ-tát từ mới phát tâm, vì tất cả chúng sinh mà quán Niết-bàn để hành đạo, như thế đối với Nhị thừa thì riêng, đối với chư Phật thì chung, đây tức là nghĩa vừa chung vừa riêng. Chư Phật thì rốt ráo là Đại Niết-bàn, chẳng phải cùng chung với sáu đường, chẳng phải riêng với Nhị thừa, tức là nghĩa an vui chẳng chung chẳng riêng. Lại tên gọi An lạc, hoặc là bệnh chẳng phải thuốc, hoặc là thuốc chẳng phải bệnh, hoặc vừa là bệnh vừa là thuốc, hoặc chẳng phải bệnh chẳng phải thuốc. Bệnh ví như Trưởng giả đã chết, người con đi trộm trâu về vắt sửa để nuôi, nhưng tất cả bơ sữa đề hồ đều chẳng được. Cũng thế, sau khi Như Lai Diệt Độ, sao chép trộm danh từ thường lạc của chánh pháp. Như sâu đục cây tình cờ thành chữ, chẳng biết phải trái, khởi rộng ra điên đảo, đắm chìm trong sinh tử, tùy chỗ trôi dạt mà có tên gọi khác nhau, hoặc cay, hoặc chua, v.v... Cho nên biết rằng ba cõi, bốn điên đảo chỉ là bệnh chẳng phải là thuốc. Vì muốn trị bệnh này, nên nói bốn vị mặn điên đảo chẳng phải thường đó là bệnh. Bệnh lành hoặc dứt gọi là nhập Niết-bàn. Văn nói: "Trong ba thứ bệnh, không có ba thứ thuốc, trong ba thứ thuốc không có ba thứ bệnh".
Tiểu Niết-bàn này là thuốc chứ chẳng phải bệnh. Tuy bệnh đã lành mà thuốc vẫn giữ, do chấp thuốc này mà thành bệnh. Văn nói: "Sau đó không lâu, vua lại bị bệnh", cho nên biết bốn phi thường vừa là thuốc vừa là bệnh. Vì trị bệnh này nên trở lại dùng Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đảo ngược vị mặn. Cho nên bác bỏ bệnh vô thường mà nói Y mới. Đây là ba tu thù thắng, chẳng đồng với bệnh điên đảo của phàm phu, chẳng đồng với "thuốc" thiên lệch của Nhị thừa, cho nên gọi là chẳng phải thuốc, chẳng phải bệnh. Lại Y mới chỉ là thuốc mà chẳng phải bệnh. Chánh pháp chánh tánh là an vui, chẳng phải thuốc chẳng phải bệnh. Lại Tiểu chứ chẳng phải Đại, Đại mà chẳng phải Tiểu, vừa Tiểu vừa Đại, chẳng phải Tiểu chẳng phải Đại. Tiểu tức là Nhị thừa. Tuy đã đoạn phiền não nhưng vẫn còn tập khí, ngã thân, ngã y, ngã khứ, ngã lai. Nghĩa là ta và Phật đồng, chỉ có Thường, Tịnh mà không có Ngã, Lạc vì thấy Tam bảo có khác nhau, là tập khí, nên gọi là Tiểu.
Thế nào là Đại, chư Phật Như Lai, dọc thì vượt khỏi chín cõi, ngang thì gồm thâu tất cả. Không có biên hạn tận cùng cho nên là Thường, vì là bậc Đại Trượng phu cho nên là Thường, hóa Độ được tất cả cho nên là Thường, chẳng thể nghĩ bàn cho nên Thường; Đầy đủ tám tự tại nên gọi là Ngã; Dứt trừ khổ vui cho nên Lạc, được vắng lặng rộng lớn cho nên Lạc, tất cả đều biết cho nên Lạc, thân thường hằng cho nên Lạc. Vì được thanh tịnh rộng lớn, cho nên nghiệp tịnh, thân tịnh, tâm tịnh, nên gọi là Đại Niết-bàn. Bồ-tát, so với địa dưới cũng là Đại, so với trên cũng là Tiểu. Phàm phu trong sáu đường không dứt các hoặc nghiệp, nên chẳng phải Tiểu, không có bốn đức nên chẳng phải Đại. Y theo trước nên căn cứ ở Lý trở thành, chẳng phải Tiểu chẳng phải Đại, cùng nhau hiển bày khiến cho dễ hiểu đó thông. Lần thứ nhất là nói từ địa ngục trở lên để liệu giản, lần thứ hai nói từ ngoại đạo trở lên để liệu giản, lần thứ ba là luận từ Nhị thừa trở lên để liệu giản.
Hỏi: Như liệu giản sáu đường, Nhị thừa này chẳng phải an lạc, vì sao lại gượng nói là Niết-bàn.
Đáp: Vì chung có nhân duyên bốn Tất-đàn, cho nên nói chung, sao lại hỏi riêng? Sở dĩ nói chung là vì muốn làm cho chúng sinh ưa thích, vì muốn dẫn dắt sinh thiện. Vì phá hoại các ác, vì hiển bày Đệ nhất nghĩa khi xưa. Nói chung như thế không có lỗi. Lại Phật thường y cứ vào ba Đế để nói pháp. Vì y cứ vào Tục đế nên nói của sáu đường, an vui. Vì y cứ vào Chân đế nên nói an vui của Nhị thừa, vì y cứ vào Trung đạo cho nên nói an vui của Phật, Bồ-tát. Vả lại chẳng lìa Tục mà có Chân, Trung, huống là còn được Tức Tục, tức Chân, tức Trung thì vì sao lại chẳng được nói sự an vui chung của sáu đường là Niết-bàn? Ngài Long Thọ nói: "Pháp do nhân duyên sinh, tức Không, tức Ngã, tức Trung" tức là nghĩa này vậy.
3. Giải thích về vô danh:
Đầu tiên nêu lên các giải thích xưa.
Một là nói: Chân như, Thật tế là tên của Chân đế, quả Phật Niết-bàn Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là tên của Tục đế. Nhưng nói Niết-bàn vô danh, là không có tên sinh tử hệ lụy, mà có tên mỹ diệu vậy. Dẫn chứng không có lẫn nhau là: "Niết-bàn không có tên gọi sinh tử, sinh tử không có tên gọi Niết-bàn đó thôi".
Hai là nói: Niết-bàn, Chân đế đều không có danh, không có tướng, danh tướng không thể đạt đến được, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt. Dẫn Triệu Luận: "Sông ngòi đua nhau chảy mà chẳng thành dòng, mặt trời, mặt trăng trải trên bầu trời, mà không khắp đủ. Há có danh ở trong đó ư?
Ba là nói: vẫn là còn hai giả của tương tục và đối đãi. Cho nên Niết-bàn chẳng được nói là không tên.
Thuyết thứ nhất thì Chân, Tục đều có tên. Thuyết thứ hai, Chân, Tục đều không tên. Thuyết thứ ba Chân không tên, tục có tên. Như thế phải có thuyết thứ tư là chấp Chân có tên, tục không tên, nhưng thuyết này chưa thấy có người chấp; Nếu nhất định chấp vào đây thì rơi vào bốn kiến chấp điên đảo. Nếu dùng bốn thuyết trên làm phương tiện thì chính là bốn môn của Tam tạng giáo. Vì sao? Vì nếu dẫn không có lẫn nhau thì có tên mỹ diệu là đoạn bỏ Môn Có của Tam tạng giáo, Năng thông là hữu, Sở thông là phi hữu. Đâu thể dùng Năng thông của Tiểu thừa mà giải thích Sở thông của Đại Niết-bàn. Chỉ đường hoang vu làm hành bảo sở, nhận mắt cá là minh châu, nên không có lý do gì là Đại. Nếu nói Chân đế, Niết-bàn đều không có tên, thì đó chỉ là Không môn của Tam tạng giáo. Nếu nói Chân đế không có tên quả Phật Niết-bàn vẫn còn hai giả của tương tục và đối đãi, thì đó là nghĩa vừa có vừa không của Tam tạng giáo. Lại có chấp môn chẳng phải có, chẳng phải không có thì chưa thấy có người này. Niết-bàn của Tam tạng giáo chẳng phải là số pháp, một còn không được làm, làm sao có bốn. Bốn là môn năng thông. Chẳng thể dùng năng thông làm Sở thông. Cho dù nhảy vượt làm bốn môn của Thông giáo, thì cũng không thể dùng Năng thông của Thông giáo làm sở thông của Thông giáo, sao được dùng Năng thông chung để giải thích Sở thông riêng. Lạy nhảy vượt làm Năng thông của Biệt giáo thì cũng không được lấy Năng thông biệt làm Sở thông, vậy đâu thể dùng Biệt năng thông giải thích Viên Sở thông Dùng đây đối chiếu từng chi tiết tự nhiên sẽ trở thành xa cách, cho nên không dùng vô danh để giải thích Đại Niết-bàn, v.v...
- Hỏi: Xưa nay những người nổi tiếng theo ngài Lathập truyền dịch, lúc thăng đường, hay khi nhập thất thì chỉ có ngài Tăng Triệu mà thôi. Tăng Triệu soạn luận Niết-bàn Vô danh, lời lẽ trong đó u huyền bao la đầy đủ, người xem thưởng thức được ý vị, tay không hề rời sách, vậy ý như thế nào?
- Đáp: Bậc Cao tăng Đại đức, đã có chỗ sáng tỏ trong tâm. Nếu chẳng phải tự thân được truyền thọ pháp môn ấy thì khó có thể thấy được. Nghiền ngẫm
Kính ngưỡng văn để lại hiểu được ít nhiều mà thôi.
Nay xét chỉ thú của luận này, thì không ngoài bốn câu. Luận ấy nói: "Niết-bàn Hữu dư, Vô dư, chỉ là tên khác của xuất, xử", là mượn danh để ứng cơ tiếp vật. Nếu không có bậc Thánh thì ai biết "không có", nếu không có bậc Thánh thì ai vui với đạo, đây là Câu nói về Có. vắng lặng rỗng rang không thể dùng hình sắc tên gọi mà đạt được, vi diệu vô tướng không thể dùng tâm mà biết; như vậy há có tên trong đó sao? Đây là câu nói về không có. Quả có, nguyên nhân của nó là chẳng có, cho nên chẳng thể đạt được mà. Có nguyên nhân của nó là chẳng không, cho nên chẳng thể đạt được mà là không đó thôi. Hữu tình hoảng hốt chìm sâu trong đó, nếu là cảnh có thì năm ấm đã vĩnh viễn diệt, nếu suy là là cảnh không có thì u linh chẳng hết, tức là câu cũng có cũng không. Thế thì, có không tuyệt dứt ở trong, xưng gọi chim mất ở ngoài, nghe nhìn không đến được. Bốn Không vẫn còn mờ mịt, như thế mà muốn dùng Có, Không đặt tên, để chỉ nơi chốn của nó, thì chẳng phải là xa vời lắm sao? Đó là câu chẳng phải có chẳng phải không. Tuy nhiên ngài Tăng Triệu trong luận này, đại ý luận bàn chẳng phải là Tiểu, nên chẳng thể cho là bốn câu của Tạng giáo vậy.
Văn, Luận nói: "Vượt qua dòng có, ngôn từ mà chẳng thấm nhuần dòng chảy ngoài Cõi. đại hoạ Diệt hẳn mà chẳng Diệt họa Niết-bàn". Cho nên chẳng thể cho là bốn câu của Viên giáo, Biệt giáo.
Trong phần biện luận sai biệt Luận nói: "Ba xe ra khỏi nhà lửa đều ra khỏi sinh tử "Không có" là một vậy. Đây lấy ba, là cả ba đối với "Không có" chứ không phải không có ba; Như Lai thì kết sử và tập khí đều đã dứt hết, Thanh văn thì kết sử hết mà tập khí vẫn còn, hết tức là bỏ thước thì không có thước, bỏ tấc thì không có tấc, dài ngắn tại thước tấc, chẳng phải ở không có. Trí soi xét có sâu cạn, Đức hành có thấp cao, tuy đều đến Bờ kia, nhưng hơn kém khác nhau. Bờ kia đâu có khác, khác chỉ do ta thôi. Do đây mà suy rộng chỗ quy về rốt ráo, thì ba người đều dùng đạo vô ngôn thuyết, dứt phiền não mà vào Niết-bàn, văn nghĩa rõ ràng đâu có gì ẩn giấu. Cho nên biết đó là bốn câu của Thông giáo. Thông giáo giảng bày lý thì chẳng phải có chẳng phải số, nhưng lại dùng bốn câu Có, Không làm cửa thông đường. Nếu chấp vào cửa mà cầu sở thông thì đó là điều sai thứ nhất. Lại như quán thế pháp của Thông giáo chẳng phải là lời tùy tự ý, bản hoài của Như Lai, mà là lời phụ của chi mạt tùy tha ý. Cho nên, phẩm Anh Nhi Hạnh có ghi: "Chẳng biết các tướng khổ vui, ngày, đêm, xa, gần v.v... Chẳng thể làm các công việc lớn nhỏ, gọi là Anh nhi (trẻ thơ). Chẳng biết khổ vui là hết buồn, mừng, chẳng biết ngày đêm là sáng tối bằng nhau, chẳng biết thân sơ là yêu ghét bằng nhau, chẳng làm việc lớn nhỏ bỏ lớn nhỏ. Ba người đồng học quán Thể dụ như trẻ thơ. Đều chứng vô vi, dụ như đi vào nước. Nói về Trí đức của họ thì dụ như ba con thú lội qua sông. Nói về đoạn đức thì dụ cho khôi đoạn (tro tàn). Đó là tông chỉ của kinh khác, chẳng phải yếu chỉ của sách này, thế thì đâu thể dùng kia giải thích đây; Đó là điều sai trái thứ hai.
Giáo pháp của kinh Pháp Hoa, khởi rồi phá bỏ Hóa thành, lưới nghi của tất cả Bồ-tát đều đã được dứt hết, một ngàn hai trăm vị La-hán tương lai cũng thành Phật, Phật mở cửa phương tiện Thông giáo mà chỉ bày tướng chân thật, vì sao ép vui ba thứ qua sông mà lập lại am tranh? Đó là điều sai thứ ba.
Lại hạng đui điếc không ở trong hội Pháp Hoa, ở phẩm Ai Thán lại vì phân biệt; sở tu trước đây của ông là điên đảo, sở thuyết trước đây của ta cũng chẳng phải chân thật, bác bỏ cái cũ hiển bày cái mới, chỉ chỗ kém nêu ra chỗ hơn thì sao trái ý kinh: "Dấy Động sóng nước, mò lấy gạch đá, nắm bắt bóng trăng. Đó là điều sai thứ tư.
Vậy giềng lưới đã thiếu thì mắt lưới đâu có chỗ nương. Chấp những điều đã vất bỏ của Phật pháp cho là chân thật thì rõ ràng chỉ là luống uổng lập ra mười diễn mà rốt cuộc chẳng phải nói rõ ràng ba đức.
Nay nói về Niết-bàn vô danh: Niết-bàn chỉ cho ba đức Niết-bàn, Vô danh là không có danh của sáu đường an vui. Lại không có danh của môn Có thuộc có tam tạng giáo, thấy có đắc đạo đạt được Niết-bàn, Hữu dư, Vô dư. Cũng chẳng có các danh của môn "thấy không đắc đạo", cũng vô, cũng không, cũng có đắc đạo; cũng chẳng vô cũng chẳng không cũng chẳng có đắc đạo" mà đạt được Niết-bàn Hữu dư, Vô dư; Lại không có danh của môn có thuộc Ba thừa cộng hành, Thập địa Môn Có đắc đạo mà đạt được Niết-bàn Hữu dư, Vô dư. Cũng không có danh của "môn Không", của môn cũng "Không cũng có của môn", "chẳng phải Không chẳng phải có" đạt được, mà đạt được Niết-bàn Hữu dư, Vô dư. Lại không có danh của môn có thuộc Biệt giáo đạt được Niết-bàn thường trụ. Cũng không có danh của môn "Không của môn cũng không cũng có, của môn chẳng phải Không chẳng phải có đắc đạo, mà đạt được Niết-bàn thường trụ.
Không có tất cả các danh phương tiện như thế, vì thuận theo những thứ lìa bỏ ấy nên nói là vô danh; thuận theo những gì đạt được nên nói là Niết-bàn. Đây tức là ý nghĩa Môn Có của Viên giáo. Chẳng phải lìa ngoài danh mà có một Niết-bàn khác, tức các danh là tức các danh là vô danh, thuận tiện là Niết bàn, nên nói Niết bàn vô danh. Đây là Ý môn không của viên giáo. Lại theo những gì (sở) xa lìa nên nói là vô danh theo chủ thể năng xa lìa nên nói Niết-bàn. Năng và Sở hợp lại nói nên gọi là Niếtbàn vô danh. Đây chính là ý nghĩa môn cũng không cũng Có của Viên giáo. Nếu có Năng, Sở thì đều có danh, vì sao nói là vô danh. Nay không có Năng Sở mà gọi là Niết bàn vô danh. Đây là ý phải có chẳng phải không của Viên giáo. Môn tuy có bốn mà Niết-bàn chẳng có bốn, v.v... Ý nghĩa vô danh vượt qua các danh Niết-bàn như thế, rồi sau mới hiển bày bốn môn Đại Bát Niết-bàn phù hợp Viên giáo. Nhưng các sư không hề phân biệt một hai tiết mục tức liền nói là vô danh, không có những danh nào gọi đó là vô danh. E đời sau nghi ngờ hiểu lầm nên. Cho nên phẩm Phạm Hạnh nói: "Vô duyên từ tức là không duyên với chúng sinh, cũng không duyên với pháp, mà duyên với Như Lai, nên gọi là Vô duyên". Nay cũng giống như thế, không có danh của sáu đường và không có danh của bốn Thánh mà có danh của Bí mật tạng, cho nên nói là Niết-bàn vô danh.
4. Giải thích mượn danh:
Trong phẩm Đức Vương đầu tiên là nói: "Niết-bàn chẳng có tên gọi, chẳng có tướng trạng, vì sao nói có thể thấy nghe? Vì chẳng thể thấy nên không có tướng; vì chẳng thể nghe nên không có tên, Phật dùng mắt Phật, tai Phật còn không thấy được huống chi phàm phu hạ địa mà có thể thấy nghe? Đức Phật đại bi phương tiện, y cứ vào cây Động giải thích gió, đưa quạt dụ trăng để giúp cho chúng sinh hợp với cơ duyên mà được thấy nghe, thấy nghe đó thật chẳng phải thấy nghe mà nói là thấy nghe. Phẩm Ca-diếp nói: "Một tên Niết-bàn có vô lượng tên, cũng có tên là Vô sinh, Vô xuất, cho đến tên là Cam lộ, cũng tên là Cát tường. Tổng nêu hai mươi lăm loại hiển thị vô lượng tên gọi, thảy đều vì chúng sinh mà thiết lập. Kinh nói: "Như Chi-la-bà-di gọi là dầu ăn, thật chẳng phải dầu ăn cũng không có nhân duyên mà gượng đặt tên gọi là dầu ăn". Như kinh nói rộng ra: Niết-bàn cũng giống như thế, không có nhân duyên mà gượng lập tên gọi là Niết-bàn. Luận Trí Độ ghi: "Danh giả lập, giả lập Thọ, giả lập Pháp". Thật chẳng phải sắc tâm mà nói là sắc tâm, là giả lập Pháp. Trong sắc tâm lại lập ra năm Am, mười hai nhập mười tám Giới... là giả lập các Trương, Vương, Lý, Triệu... là giả lập Pháp. Cũng như hòa trộn sắc, hương, vị, xúc là giả lập Pháp, trong bốn pháp này lại sinh ra rễ, thân, cành, lá là Giả lập Thọ, rồi trên rễ, thân, cành, lá, v.v... lại có các tên gọi phong, chiên-đàn, si, bách, v.v... là giả lập Danh. Đại Niết-bàn cũng giống như thế, gượng chỉ cho cái Thật pháp này là Phật sư (thầy của chư Phật) là Phật bí tạng, tức giả lập Pháp. Trên Phật sư lại chia ra ba pháp là Pháp thân, Giải thoát và Bát-nhã, là Giả lập Thọ, trên ba điểm lại lập ra tên gọi Đại Niết-bàn, là Danh giả lập, hoặc gọi là sông, hồ, hang, Động, hoặc gọi là sữa cháo vị ngon, hoặc gọi là đề hồ thuốc quý, hoặc gọi là Nhất-xiển-đề, hoặc nhất phá giới gương sáng, v.v... thí như nói hư không chẳng thể đạt được, không có chướng ngại, như thế há chẳng phải là danh giả lập bày sao? Nên biết từ địa ngục trở lên, từ Phật trở xuống gọi là an vui, thì tất cả đều là mượn danh. Đại Luận nói: "chúng sanh vô thượng là Phật vậy; Pháp vô thượng là Niết-bàn". Vậy Sở dĩ thiết lập mượn danh này để giúp cho chúng sinh biết danh chẳng phải danh, danh chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở giữa, cũng chẳng thường có. Kinh Đại Phẩm Bát-nhã ghi: "Bồ-tát, Bồ-tát chỉ có danh tự; Phật, Phật chỉ có danh tự. Danh tự ấy chẳng trụ, cũng chẳng phải không trụ. Danh tự này không gì có" Niết-bàn cũng như thế, Niết-bàn chẳng ở nơi Pháp thân. Kinh nói: "Pháp thân cũng chẳng phải", lại Niết-bàn chẳng phải ở nơi Bát-nhã. Kinh nói: "Bát-nhã cũng chẳng phải". Niết-bàn chẳng ở Giải thoát. Kinh nói: "Giải thoát cũng chẳng phải". Tìm cầu Niếtbàn trong mỗi đức của ba đức chẳng thể được, ba pháp hợp lại để tìm cầu Niết-bàn cũng chẳng thể được. Cho nên, Luận Đại Trí Độ nói: "Nếu có người thấy Bát-nhã thì bị trói buộc, nếu chẳng thấy Bát-nhã cũng bị trói buộc. Nếu có người thấy Bát-nhã thì được Giải thoát, nếu không thấy Bát-nhã cũng được Giải thoát". Pháp thân Giải thoát cũng giống như thế. Thí như các vật huyễn hóa chẳng thể thấy mà thấy, thấy mà chẳng thể thấy, việc này rất ít có. Kinh này tên là Vi Diệu Bất Khả Tư Nghị, nhưng mượn danh mà gọi ba thân này là Bí mật tạng Niết-bàn. Mượn danh tự mà gọi ba Bát-nhã là Ma-hê Tam mục Niết-bàn, mượn danh tự mà gọi ba Giải thoát là Tam điểm Niết-bàn, mượn danh tự đầy đủ ba pháp là Đại Niết-bàn, mượn danh tự dẫn dắt chúng sinh, cũng như nắm tay không, làm cho đứa bé vui, để dụ đứa bé, làm cho nó nín khóc, làm cho đứa trẻ thông minh, khi việc đã xong xòe tay mở nắm tay, thì nắm tay chẳng còn là nắm tay nữa, Niết-bàn cũng giống như thế, dùng Y mới để làm vui chúng sinh, dùng Y mới để dẫn dắt tiến tới, dùng Y mới để phá chấp chúng sanh, dùng Y mới để ngộ cho chúng sinh, đó là bốn thứ lợi ích của mượn danh. Được lợi ích rồi, sao còn chấp vào danh mà sinh ra tranh luận! Giả lập hữu danh đã như thế, thì giả lập vô danh, giả lập cũng hữu cũng vô danh, giả lập chẳng hữu chẳng vô danh cũng giống như thế, v.v... Thuận theo nói sẽ vượt đến nghĩa nhân duyên v.v... Lại như cách trị bệnh nghẹn.
5. Giải thích tuyệt danh (tuyệt dứt tên gọi):
Có người dùng nghĩa "không có" để giải thích tuyệt dứt thì bỏ có còn giữ không có. Còn không có thì chẳng phải tuyệt dứt không dùng cách giải thích này. Có người dùng "lìa" để giải thích tuyệt dứt nói trong Niết-bàn không có các Có (Hữu) Đây còn chẳng phải là nghĩa của Tiểu thừa, huống chi được sử dụng ở đây. Có người dùng "Diệt" để giải thích tuyệt dứt, nói Diệt các phiền não thảy không còn gì giống như lửa tắt còn giữ ở Niết-bàn thì. Kinh gọi đó là tà giải, hiểu tà, ngại tà, nghĩa này đâu thể dùng? Có người lại dẫn kinh: "Như đại Hương tượng (voi chúa lớn) nhanh chóng dứt hẳn được sự ràng buộc mà đi lại tự do". Đem nghĩa này để giải thích tuyệt dứt. Đây chỉ mới là trong ba hạng Tỳ kheo tu riêng khen ngợi một phía tuyệt dứt của Bồ-tát, ý nghĩa chưa đầy đủ, giống với ý nghĩa vô danh nêu trên, mà chẳng phải là ý tuyệt danh ở đây.
Nếu dùng ngôn ngữ đuổi nhau, đối Không nói Có, cho đến đối với Có, Không nói chẳng phải Có chẳng phải Không; đối đãi không dừng thì ngôn ngữ chẳng tuyệt. Nếu lấy tâm phân biệt mảy may Động niệm khiến tâm khởi tưởng, tức là si mê, thì tâm cũng chẳng dứt, tâm đã chẳng bặt thì ngôi sao được dứt. Nếu biết tâm phan duyên theo ba cõi, duyên theo ba cõi thì sinh Diệt thì vô thường, khổ, không, vô ngã. Dứt sự phan duyên này thì tâm không có gì đạt được, vì tâm tuyệt dứt cho nên ngôn ngữ cũng tuyệt dứt. Đây tức là tu tập "Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt" chứ không phải tuyệt dứt thật sự. Nếu khi nhập vào kiến đế khổ pháp nhẫn, khổ, minh phát Thế đế khi chết thì gọi là sinh bất sinh. Thân Tử nói: "Tôi nghe nói trong Giải thoát, không có ngôn thuyết, cũng là trong giải thoát không có phân biệt. Đây là thật chứng "đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt". Đó là nghĩa tuyệt dứt của Tam tạng giáo. Chỉ một ý tuyệt dứt này là đã bao gồm tuyệt dứt nhân pháp, huống chi ác pháp khác ư? Nhưng khi nhập Chân thì tuyệt dứt mà xuất quán thì chẳng tuyệt dứt. Vì sao? Vì Chân Tục khác nhau. Một tuyệt dứt một chẳng tuyệt dứt, đối đãi rõ ràng, thì sao được gọi là tuyệt dứt. Nếu như thế thì đạo xa lắm, ngay nơi sự mà chân thì bậc Thánh xa lắm? Thể ngộ được điều này tức là thần, thấy sắc đồng với chẳng thấy, nghe tiếng đồng với tiếng vang, người nói pháp chẳng nói chẳng chỉ bày, người phân biệt chẳng có chỗ để liệu giản; chẳng tuyệt dứt, chẳng phải chẳng tuyệt dứt mà gọi là tuyệt dứt. Đây cũng là trong đạo phương tiện. "Đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt". Nếu tuệ không tương ưng nhập vào Đệ nhất nghĩa, hoát nhiên thanh tịnh, không có Năng tuyệt, Sở tuyệt, không có người tuyệt, không có pháp tuyệt, đó là ý nghĩa Tuyệt danh của Thông giáo. Ý này tuy hợp với Chân đế mà chưa hợp với Trung đạo đế, tuy dứt Thông mà chưa dứt Biệt. Kinh Tịnh Danh nói: "Kết sử và tập khí chưa dứt trừ nên hoa còn dính trên thân". Đoạn văn sau có ghi "Vô minh chưa dứt, thì thấy trời trăng xoay chuyển" Như người bị bệnh sốt rét. Đối với trong cõi mà nói ngoài cõi; tưởng Hoặc chung đối với Hoặc riêng, tức là chẳng tuyệt dứt t. Nếu có thể dùng tâm Đại Niết-bàn tu hành năm hạnh, đầy đủ mười công đức, thì bấy giờ một hướng chuyên cần hành Đại Niết-bàn, không còn tâm trong ba cõi, không còn lời nói trong ba cõi. Phương tiện như thế, cũng gọi là đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt, nhưng chưa phải là thầm hợp Trung đạo. Nếu phát khởi công đức đạt từ Trung đạo thì không chung với Thanh văn và Bích-chiPhật, xưa không được mà nay được, xưa chẳng tuyệt dứt mà nay tuyệt dứt thì, đó là ý tuyệt danh của Biệt giáo. Nhưng khi chứng được tuyệt dứt thì mới đồng với viên tột đỉnh, mà khi tu tập thì có thứ lớp quanh co. Vì sao? Vì phát tâm chẳng thể cùng khắp pháp giới. Cho nên ngoài pháp giới lại có pháp, vì thế chẳng gọi là pháp tuyệt dứt. Hạnh kém thì chẳng thể hành một hạnh là Như Lai hạnh, tức ngoài Như Lai hạnh còn có hạnh, cho nên chẳng gọi là hạnh tuyệt dứt. Chẳng phải là phương tiện vô thượng, vì trên phương tiện lại có phương tiện, nên chẳng gọi là Bặt phương tiện tuyệt dứt. Nếu phát tâm đầy đủ, quán Đại Niết-bàn là các tâm pháp giới, thì ngoài pháp giới không có pháp giới, chỉ một pháp giới, cho nên gọi là pháp giới tuyệt dứt. Lại như kinh nói: "Lại có một hạnh là Như Lai hạnh" thì ngoài hạnh Như Lai không có hạnh khác, cho nên gọi là Độc tuyệt hạnh. Lại như kinh nói: chính thức bỏ thẳng phương tiện, chỉ nói Đạo vô thượng như ở châu Nê-câu-da thẳng vào biển Tây, giống như một sợi dây thẳng. Đó là phương tiện tuyệt dứt, Phương tiện tuyệt dứt cũng tuyệt dứt là như Kinh nói: "Đã đoạn tuyệt tất cả tâm nghi cho nên gọi là Giải thoát". Bốn môn của Tam tạng giáo tức là pháp giới, tức hạnh Như Lai, tức là phương tiện cao tột: Vì sao? Vì sinh tử tức Niết-bàn, huống chi pháp Thanh văn, nếu sinh tâm quyết định thì đâu còn lưới nghi. Bốn môn của Thông giáo cũng là pháp giới, vì Cộng thừa (Bồ-tát và Thanh văn) đã xé rách lưới nghi. Bốn môn của Biệt giáo tức là pháp giới, vì Bồ-tát thừa đã xé rách lưới nghi. Đó là tâm dứt trừ tất cả lưới nghi. Gọi là độc tuyệt Giải thoát, chỉ nói một pháp giới, không nói pháp giới nào khác, chỉ nghĩ đến một pháp giới, không nghĩ đến pháp giới nào khác, đó là Trung đạo phương tiện, đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành Diệt. Phương tiện viên giáo cũng có bốn môn. Nếu cho rằng tất cả pháp tuyệt dứt là pháp giới duy nhất, pháp giới đó là y cứ theo Tuyệt danh của Môn Có; Nếu cho rằng pháp giới còn không có pháp giới thì sao có gì khác; đó là y cứ theo tuyệt danh của môn Không. Nếu cho rằng pháp giới một pháp vi diệu, một pháp tức ba pháp, ba pháp tức một pháp, thì đó là y cứ theo tuyệt danh của môn cũng Có cũng Không. Nếu cho rằng pháp giới chẳng thể nghĩ bàn, thì đó là theo tuyệt danh của môn chẳng Có chẳng Không, tất cả đều là đạo phương tiện. Nếu cho rằng khai thị ngộ nhập, như dùng dao vàng mổ mắt, giúp cho người hết mù, mà thấy được rõ ràng, thì đó gọi là rốt ráo tuyệt dứt ngôn từ. Ngôn từ đầy khắp pháp giới mà chẳng có một ngôn từ; tâm đầy khắp pháp giới mà chẳng có một niệm. Đó chính là ý nghĩa tuyệt danh của Viên giáo.
Nhưng ý chỉ về tuyệt danh, trong các kinh đều khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Như nắm gió hư không, như vẽ hoa trong hư không, trình bày còn khó huống chi chỉ cho người thấy". Kinh Tịnh Danh ghi: "Các pháp không đối đãi nhau vì một niệm chẳng dừng trụ". Các Bồ-tát nói bằng ngôn từ, Văn-thù nói bằng vô ngôn. Tịnh Danh ngậm miệng tuyệt dứt ngôn từ. Ngài Thiện Cát nói: "Ta không nói gì là chẳng giác, chẳng đắc". Long Thọ nói: "Nếu pháp do đối đãi mà thành, thì pháp ấy trở lại thành đối đãi; nay không có nhân đối đãi, cũng chẳng có pháp được thành". Kinh này nói: "Cũng như hư không, chẳng do có hư không nhỏ mà nói lớn. Niết-bàn cũng giống như thế, chẳng do có tướng nhỏ mà nói Đại Niết-bàn". Thế nào là tướng nhỏ? Từ sở chứng của Nhị thừa cho đến sự an vui của phàm phu sinh tử đều là tướng nhỏ, chẳng do tướng nhỏ này mà nói là Đại vậy. Kinh lại ghi: "Thí như có pháp chẳng thể lường tính, chẳng thể nghĩ bàn mới, nên gọi là Đại". Niết-bàn cũng vậy, không thể lường tính, không thể nghĩ bàn nên gọi là Đại. Nên biết nghĩa Niết-bàn tuyệt danh hiển bày như vậy. Văn đây rất dài hợp, duyên cũng khác, không thể bao nói đại khái, Nay dùng bốn câu để liệu giản. Đó là Bất tuyệt, Tuyệt, Chẳng tuyệt chẳng bất tuyệt và Tuyệt tuyệt. Thế nào là Bất tuyệt? Như sự an vui của sáu đường. Thế nào là Tuyệt? Như Niết-bàn chung của Tam tạng giáo và Thông giáo. Thế nào là Chẳng tuyệt chẳng bất tuyệt? Đó là bốn môn của Biệt giáo? Thế nào là Tuyệt tuyệt? Đó là tuyệt năng tuyệt Sở, nên nói Tuyệt tuyệt. Từ bốn môn của Biệt giáo trở xuống gọi là Sở tuyệt, còn bốn môn của Viên giáo gọi là Năng tuyệt. Dùng Năng tuyệt dứt hết Sở tuyệt, rồi chủ thể tuyệt cũng tuyệt dứt, như que lửa, trước đốt cháy cỏ rồi lại tự đốt cháy. Nên biết tuyệt danh khác vô danh, nghĩa là như thế. Cho nên gọi là Tuyệt tuyệt.
Tổng kết một chương giải thích danh, triển khai năm lớp, đều là Ý bốn môn của Viên giáo. Nếu Đại Niết-bàn gọi là chân thiện diệu hữu vốn tự có, chẳng phải nay mới có, thì đây là nghĩa Môn Có, Cho nên dùng Phiên danh đồng danh để giải thích. Nếu Đại Niết-bàn không, thành
Ca-tỳ-la Không, thì đó là nghĩa môn không. Cho nên dùng Vô danh để giải thích. Nếu Đại Niết-bàn cũng là sắc cũng chẳng phải sắc, thì đó là nghĩa của môn cũng không cũng có, cho nên dùng giả danh để giải thích. Nếu Đại Niết-bàn gọi là Trung đạo lìa hai bên, thì đây là nghĩa môn chẳng không chẳng có. Cho nên dùng tuyệt danh để giải thích.
Đã là Đại Niết-bàn thì một còn chẳng có, sao lại nói bốn? Vì bốn là môn. Môn là dùng để nêu lý, nên có nhiều tên, như trời Đế Thích có một ngàn tên, Giải thoát cũng vậy rất nhiều tên gọi. Phẩm Danh Tự Công Đức ghi: "Niết-bàn là Danh, còn những lời khen ngợi khác đều là Tự. Như vậy Niết-bàn là chung mà đương cơ lập đó là Danh, ba điểm v.v... và tất cả các pháp khác đều gọi là Tự. Nếu Pháp thân đương cơ là tổng lại dùng làm Danh, thì Niết-bàn và tất cả pháp lại thuộc về Tự. Nếu vậy lẫn nhau vô định, tuy vô định mà nay đã định dùng Niết-bàn làm danh. Như định, bất định, tổng, biệt đều không đối đãi tất cả chẳng thể nghĩ bàn, tất cả là Đại tuyệt, nên gọi là Tuyệt Đại Niết-bàn".
II. GIẢI THÍCH VỀ THỂ CỦA NIẾT BÀN:
Trước nêu các giải thích xưa:
- Trang Nghiêm nói: "Quả Phật Niết-bàn vượt ngoài hai đế, không thuộc Chân Tục, phàm phu do nhân Hoặc mà cảm quả, là Thế đế phù hư, Thể giả tức Không, đó là Chân đế, quả Phật chẳng bị nhân Hoặc chiêu cảm, cho nên chẳng phải Thế đế, không thể trở lại không, nên chẳng phải Chân đế. Dẫn kinh Nhân Vương chép: "Vượt hơn Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế, trụ ở Tát-vân-nhã địa thứ mười một".
- Khai Thiện nói: Quả Phật Niết-bàn lại thuộc về hai Đế. Thể của nó là hai giả "tục và đãi", nên là Thế đế. Hai giả này có thể Không, cho nên là Chân đế, Quả Phật linh trí thầm hợp với Chân đế.
- Trị Thành Tú nói: quả Phật Niết-bàn chẳng phải Thế đế, mà là Chân đế vi diệu vắng lặng, tuyệt dứt. Cho nên nói khi Thế đế tử (kiến tư bị phá) thì gọi là Sinh bất sinh.
- Long Quang cho rằng quả Phật Niết-bàn vốn đủ hai giả là tương tục và tương đãi nên thuộc về Thế đế, là nghĩa tức Chân mà chẳng hợp Chân. Nếu hợp với Chân thì đồng với cảnh ngoan không, tức không có linh trí nên chẳng phải Chân đế.
Có người hỏi bốn nhà này rằng, nếu quả Phật vượt ngoài Nhị đế, thì chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, trong nghĩa của ông vì sao gọi quả Phật một hưởng là vô vi? Nếu thuộc về nhị đế, thì quả Phật lẽ ra phải là vừa hữu vi vừa vô vi. Nếu quả Phật là Chân đế thì Chân đế chẳng thể nói là vô dụng ở nơi chúng sinh. Nếu quả Phật là Tục đế, thì quả Phật một hướng chỉ là Hữu vi. Đây chính là thuyết của Luận sư Thành Thật, tự mâu thuẫn nhau, chẳng hợp với nhân tình, cũng không thuận với Triệu Luận. Luận ghi: "Chẳng thể dùng Hình và Danh mà luận, chẳng thể dùng hữu tâm mà biết, luận thì mất đi cái chân, biết thì trái lại thành ngu, có thì trái với tự tánh, Không có thì thương tổn hình thân". Theo ý của Triệu Luận thì bốn nhà trên rơi vào bốn kiến chấp. Ngoài Phật pháp còn không phải như Niết-bàn môn, huống chi là thể của Tiểu Niết-bàn, còn không phải thể của Tiểu Niết-bàn thì sao được là thể cộng biệt Niết-bàn môn, còn không là thể của cộng biệt Niết-bàn, thì sao được. Kinh nói: "Nầy các người! Vào đêm trăng mùa xuân, bơi thuyền dạo chơi trên sông, làm rơi hạt lưu ly xuống nước, liền cùng nhau lặn tìm, tranh nhau nhặt sỏi đá, cho là ngọc lưu ly, khi đem lên khỏi nước mới biết là chẳng phải, hạt ngọc này vẫn ở dưới nước, phải giữ cho nước lắng yên trong suốt, giống như nhìn lên hư không thấy mặt trăng chiếu soi vằng vặc trên cao, chẳng phải người mắt sáng thì chẳng thể thấy được, cũng chẳng phải người mù tiếp xúc được. "Xưa nay thường căn cứ ba tụ luận về thể của Niết-bàn. Nói rằng Phật địa là tụ hoàn toàn là có tâm tụ hoàn toàn không có vô tác, tụ sắc cũng không, không có sắc thô mà có sắc thô mà có sắc diệu. Dẫn Kinh nói: "Vì Diệt sắc này mà đạt được thường sắc". Kinh Niết-bàn bản sáu quyển ghi: "Diệu sắc vắng lặng thường an ổn". Lại có thuyết cho sắc là ngăn ngại, không thể nghiền nhỏ tiến tới, cho nên Phật địa không có sắc và không có Vô tác, chỉ có cái linh tri Độc tồn. Kinh nói Sắc có thể ứng hợp đó là sắc của vô cùng. Lại nghĩa diệu quả hiển nói là hiện nói là phi. Dẫn Kinh: "Nguyện các chúng sinh Diệt tất cả sắc nhập vào vô sắc Đại Niết-bàn". Lại chia ra hai cõi có sắc, một cõi vô sắc. Lại vô sắc của cõi Tứ không là chẳng có sắc thô đó thôi. Ba cõi đều có sắc biến dịch sinh tử, ngoài ba cõi thì không có sắc. Địa thứ sáu trở xuống, thân còn ở sinh tử phần đoạn cho nên có sắc, Địa thứ bảy trở lên thân ở ngoài ba cõi cho nên không có. Lại nói Địa thứ bảy như giữa hai nước nên còn có bóng dáng của sắc, Địa thứ tám trở lên thì không có sắc. Lại nói tâm kim cương còn có sắc, nên kinh nói: "Ý sanh thân tuy không còn một lần thọ sinh, nhưng có niệm niệm sinh Diệt, gọi là biến dịch nên nói là Ý sanh thân.
Thân, tức là còn có sắc vậy. Chỉ có Phật địa không có sắc thôi. Vô tác, là trước giai vị tâm kim cương đến có vô tác; chỉ có tâm kim cương là vô tâm và không có vô tác. Có người hỏi về nghĩa này rằng: "Nếu Niết-bàn nhất định có sắc, thì phải có hình dáng dài ngắn, phải nương vào ăn uống, trụ xứ; nếu Niết-bàn nhất định không có sắc thì tâm không có chỗ nương, đâu thể có tâm mà không có sắc chăng? Nếu là ngoan sắc ngơ phải lìa tâm là chấp tướng, thì vì sao lại chẳng lìa"? Như vậy những giải thích trên đều là nói dối, giống như kẻ mù thọt, có thấy Phật cũng là mù thọt. Vua nói với các quan rằng trong kho báu của ta chẳng có loại đao như thế, không nên hỏi vậy.
Xưa nay lại y cứ vào ba tánh để nói về thể của Niếtbàn. Cho rằng Phật địa hoàn toàn là tánh thiện, hoàn toàn không có tánh ác, còn tánh vô ký thì cũng có cũng không v.v... Quang Trạch nói rằng: Quả Phật thường trụ có hai loại vô ký là Tri giải vô ký và Quả báo vô ký. Như đánh cờ, viết chữ, bắn cung, cỡi ngựa, Xiển-đề cũng có, cho nên chẳng phải thiện; Phật địa cũng có, cho nên chẳng phải ác, tức là tánh vô ký. Về quả báo, như quả báo khổ sinh tử, vô thường, vốn chẳng phải ác, chỉ là vô ký. Niếtbàn địa Thường, Lạc, Ngã, Tịnh cũng chẳng phải thiện mà chỉ là vô ký. Khai Thiện Trang Nghiêm đều nói: "Phật không có vô ký, chỉ có một tánh thiện". Về Tri giải vô ký thì có nhiều giải thích. Trang Nghiêm cho rằng đó là tánh thiện. Khai Thiện thì cho rằng có cả ba tánh vì ở Xiển-đề thì thuộc tánh ác, ở Phật thì thuộc tánh thiện, ở người thì thuộc vô ký. Nói quả báo là vì trong sinh tử có nhiều thứ khác, khác nên. Quả báo có thể là vô ký, còn quả Phật vì sao lại vô ký? Quả Phật chỉ là một tập quả không còn pháp báo đâu thể xếp vào vô ký? Vì tập thiện đã đầy đủ bao gồm thành tựu tập quả. Ba tánh, hoặc có, hoặc không, đối với thể của Tục đế còn chẳng phải chân thật, thì đâu được dùng để giải thích thể của Niết-bàn. Đây đều là thuyết cực đoạn của học phái Số Luận, an lập thể của Phật, cũng như người nhà quê bày lưng trần để dâng hiến Đấng Chí Tôn v.v...
Nay nói về thể của Niết-bàn, từ trên đến đây giải thích về Danh, luận về Không có, không có tất cả phương tiện, giải thích về tuyệt, tuyệt dứt. Năng sở, thì Diệu lý ở danh đâu có thể nghĩ bàn! Đức Vương nói: "Đại Bát-niết-bàn chẳng phải sắc, chẳng phải thanh" làm sao nói là thấy nghe được? Xưa nay các xưa sao có thể dùng sắc làm thể của Niết-bàn? Kinh nói: "Phàm là Niếtbàn, chẳng từ nhân sinh nên thể chẳng phải là quả". Thế thì vì sao xưa nay các sư lại lại dùng quả Phật để giải thích thể của Niết-bàn. Thể của Niết-bàn không nhất định, không có quả, thì vì sao xưa nay các sư lại cho rằng thể của Niết-bàn nhất định là một pháp? Nên biết rằng thể ấy chẳng phải sắc, chẳng phải thanh, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải một chẳng phải khác, chẳng phải chỗ hiểu biết của Thanh văn, Duyên giác, cũng chẳng phải Bồ-tát Thập trụ có thể rõ biết. Tuy nhiên chẳng thể không nói cho nên gượng y cứ vào năm loại để chỉ bày:
1) -Y cứ theo Tánh tịnh Niết-bàn.
2) -Y cứ theo đức Pháp thân.
3) -Y cứ theo Nhất đế.
4) -Y cứ theo bất sinh, bất sinh.
5) -Y cứ theo chánh tánh.
Nói theo Tánh tịnh là chỉ chung cho toàn bộ kinh. Nói theo Pháp thân là chỉ cho phẩm Ai Thán. Nói theo Nhất đế là chỉ cho phẩm Thánh Hạnh. Nói theo Bất sinh là chỉ cho phẩm Đức Vương. Nói theo chánh tánh là chỉ cho các phẩm Sư Tử Hống, Ca-diếp, v.v..., chẳng thể nêu ra đầy đủ, chỉ lược nói mà thôi.
Một là, Về Tánh tịnh, tịnh có ba là Phương tiện tịnh, Viên tịnh và Tánh tịnh.
- Phương tiện tịnh tức là phương tiện khéo léo, quyền biến hòa hợp với vật, như trụ ở Thủ-lăng-nghiêm kiến lập nghĩa Đại, hoặc là một Diêm-phù-đề, hoặc là một Tứ thiên hạ, hoặc là một thế giới đại thiên, hoặc cõi nước mười phương, tùy theo cáo chúng sinh cần đáng được điều phục mà thị hiện các loại; không sinh mà sinh, nơi cung vua đi bảy bước; không diệt mà diệt tại Song thọ nằm yên, cho đến sáng sớm phát ra ánh sáng, xướng đại âm thanh, thông cáo cùng khắp. Đấng Chánh Giác Thế Tôn, sắp nhập Niết-bàn, nếu còn điều gì nghi thì hôm nay nên hỏi, đó là lời hỏi cuối cùng. Cho nên ba cõi rung chuyển, tám bộ kêu gào, hiến cúng hoa trời đầy khắp hư không, máu và nước mắt chảy đầy mặt đất, cờ phướn che kín mặt trời, mặt trăng, lọng báu trùm phủ đại thiên thế giới. Cho đến giáng hạ làm thân trong chín pháp giới, chẳng sinh mà hiện sinh, chẳng diệt mà hiện diệt, chẳng trước chẳng sau, "nhất thời" đều hiện. Thế nhưng ở tịch diệt, không hề tổn giảm, ở các đường sinh tử chẳng nhiễm chẳng lụy, cho nên gọi là Phương tiện tịnh Niết-bàn.
- Viên tịnh, là nhân đầy quả đủ, rốt ráo thành tựu. Vốn khi mới phát tâm đã dùng tâm Đại Niết-bàn, thực hành hạnh Như Lai, giữ gìn giới sát, ủng hộ chánh pháp, tuyên bố rộng khắp, lợi ích chúng sinh, hồi hướng Đại thừa, mà cảm được thể kim cương vững chắc, pháp thân, thường thân đều đầy đủ, đạt được Đại Niết-bàn. Vì tu đắc, nên an trụ trong Bí mật tạng, đồng thời tuyên bố rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, ban phát cho tất cả, đầy đủ năm đức thường mệnh, thường sắc, lực dụng vô cùng, an ổn bất động và biện tài vô ngại. Tuy phá phiền não nhưng cũng không có gì phá, tuy trí tuệ viên mãn nhưng không có chủ thể viên mãn, tuy bố thí cho chúng sinh nhưng không thấy có tướng chúng sinh và tướng bố thí, đó gọi là Viên tịnh Niết-bàn.
- Tánh tịnh, là chẳng tu chẳng đắc, chẳng tạo nghiệp, chẳng dứt nghiệp, vốn đã tự có, chẳng phải nay mới thành. Vắng lặng sâu xa, chẳng sinh chẳng diệt, tuy ở trong chốn ô trược, nhưng ô trược chẳng làm mờ tối, như nhìn lên bầu trời trong suốt thấy vầng trăng vằng vặc trên cao, chẳng bị năm thứ che ngăn che. Tuy bị trôi giạt trong vòng cay đắng nhưng mùi vị vẫn chân chánh, vẫn còn trên núi cao. Tuy ở dưới đẫy da, nhưng không bị máu mủ vây nhiễm, đó là tánh tịnh Niết-bàn. Ba thứ Niết-bàn này chẳng thể lìa nhau, tức ba mà một, chẳng thể xen lẫn, tức một mà ba. Tuy là một, ba nhưng chẳng phải là ba, một; tuy chẳng phải một, ba nhưng lại là một, ba. Nhóm họp thì lại càng chia lìa, chia lìa thì lại càng nhóm họp, ngang thì lại càng cao, mà dọc thì càng rộng, nhiệm mầu khó lường chẳng thể nghĩ bàn. Nay muốn phân biệt cho dễ hiểu nên gọi chung Niết-bàn là tên, lấy Tánh tịnh làm thể, lấy Viên tịnh làm tông, phương tiện khéo léo là Dụng. Thực hiện sự phân biệt như thế, tức là giáo. Tuy có phân biệt nhưng cũng chỉ là một pháp, đó là Đại thừa Đại Bát-niết-bàn. Nếu người đạt được ý này thì đâu cần phải nhiều lời. Như có người chưa hiểu thì phải nói thêm.
Hai là, Pháp thân đức: Đức có ba thứ là đức Pháp thân, đức Bát-nhã và đức Giải thoát.
- Pháp thân là thể kim cương vững chắc, chẳng phải sắc mà tức sắc; chẳng phải sắc, chẳng phải chẳng sắc mà gọi là diệu sắc chân thiện. Vì chân cho nên chẳng phải sắc, vì thiện cho nên là sắc, vì diệu cho nên chẳng phải sắc chẳng phải chẳng sắc; Chân tức Không, Thiện tức Giả, Diệu tức Trung. Tất cả pháp cũng giống như thế. Vì có nghĩa ấy nên gọi là Phật pháp, là Phật pháp giới, vì nhiếp tất cả pháp nên gọi là Pháp thân tạng, Pháp thân đức.
- Đức Bát-nhã, tức Vô thượng Điều ngự, Nhất thiết chủng trí, gọi là Đại Niết-bàn, là Gương minh tịnh (sáng sạch). Gương này đã chiếu thì tất cả đều chiếu, vì chiếu Trung cho nên gọi là Gương (gương), chiếu Chân nên gọi là Tịnh, chiếu tịnh nên gọi là Minh, vì sáng tỏ (minh) thì cảnh tượng rõ ràng (giả hiện), vì tịnh cho nên vọng hết (chân hiện), vì là gương cho nên Viên trung hiển hiện, ba trí đầy đủ trong một tâm nên gọi là gương sáng sạch. Vì gồm thâu tất cả pháp nên gọi là Điều ngự, là Phật Trí tạng, đó gọi là đức Bát-nhã.
- Đức Giải thoát, tức Như Lai tự tại Giải thoát. Tánh ấy rộng lớn vô cùng, chẳng có sự trói buộc, cũng chẳng có Giải thoát, đó là nghĩa rộng lớn. Thể hội trói buộc tức Giải thoát, là nghĩa xa lìa. Điều phục chúng sinh, là nghĩa không có hai loại Tử, Giải thoát như thế, gồm thâu tất cả pháp, cho nên cũng gọi là tạng Giải thoát, cũng gọi là đức Giải thoát. Ba đức này, không thể xa lìa. Kinh nói: "Pháp thân chẳng phải, cho đến Giải thoát cũng chẳng phải". Ba đức này không thể lẫn lộn. Văn nói: "Ba điểm đầy đủ, không thiếu sót" nên biết tuy một mà ba, tuy ba mà một; tuy là ba, một mà chẳng phải ba, một; tuy chẳng phải ba, một mà ba mà một, chẳng thể nghĩ bàn, gồm thâu tất cả pháp, gồm thâu tất cả người. Văn nói: "Ta và các đệ tử, gồm bốn bộ chúng đều vào Trung đạo vi diệu khó nghĩ suy". Vì thế nay muốn phân biệt để cho dễ hiểu nên đặt Bí tạng làm Danh, dùng Pháp thân gồm thâu tất cả pháp chẳng ngang chẳng dọc làm Thể, dùng Bát-nhã nhiếp tất cả pháp như ba mắt trên khuôn mặt làm Tông; dùng Giải thoát gồm thâu tất cả pháp, như chữ Y ba điểm làm Dụng; giảng bày như thế tức là Giáo. Như thế chẳng những đã sáng tỏ ý nghĩa về Thể của kinh mà các nghĩa khác cũng hiển bày.
Ba là, Nói về Nhất đế:
Người thế gian hiểu về đế thì hoặc là Cảnh, hoặc là Trí, hoặc là Giáo, thì đều có nghĩa này. Nay dùng Lý để giải thích rõ ràng. Nếu lý đúng thì Cảnh chánh, Cảnh đã chánh thì Trí và Giáo đều chánh, dùng Lý giải thích đế thì ý nghĩa rất chính xác; có bốn loại Tứ đế.
1) -Sinh diệt Tứ đế: Tập là năng (chủ thể) sinh, khổ là sở (đối tượng bị) sinh, năng sinh sinh ra sở sinh, sở sinh trở lại sinh năng sinh, Khổ tập xoay vần, sinh tử không dứt. Đạo là năng (chủ thể) hoại, Diệt là sở (đối tượng) hoại, sở hoại cũng hoại năng hoại, năng hoại cũng làm hoại sở hoại, thay nhau sinh diệt, thế nên gọi là Sinh diệt Tứ đế. Nếu nói về tướng trạng, thì chính là ép ngặt nhau để nuôi lớn, năng trừ, sở trừ v.v... như kinh đã nói.
2) -Vô sinh Tứ đế: Suy tìm nguồn gốc của Khổ, Tập thì nó vốn tự chẳng sinh, chẳng sinh thì không có Khổ Tập, đã không có Sở bị hoại, cũng không có Năng hoại, nên gọi là Vô sinh tứ đế. Nói về tướng thì biết khổ chẳng phải khổ mà đạt chân đế; Tập, Diệt và Đạo đế cũng giống như thế, như kinh đã ghi.
3)-Vô lượng Tứ đế: Phân biệt, so lường Khổ, Tập, Diệt, Đạo có vô lượng tướng, đó chẳng phải điều mà các hàng Thanh văn, Duyên giác hiểu biết.
4)-Nhất Thật Tứ đế: Biết Khổ chẳng phải khổ thì đạt được chân thật, cho đến biết Diệt chẳng phải diệt thì đạt được chân thật. Thật chẳng phải đối trị khổ (Khổ), chẳng phải nhân khổ (Tập), chẳng phải khổ tận (Diệt), chẳng phải khổ (Đạo) mà là Nhất thật, cho đến Diệt cũng như thế. Đó gọi là Nhất thật tứ đế. Chẳng thể lìa Sinh diệt Tứ đế mà có Nhất thật tứ đế. Tức là thoát khỏi sinh diệt mà được Nhất thật. Vô sinh Tứ đế và Vô lượng tứ đế cũng giống như thế. Trong một có vô lượng, trong vô lượng có một, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể luận nói chỉ bày, vì muốn phân biệt, để cho dễ hiểu, nên gọi Nhất nhật Tứ đế là Danh, Diệt đế là Thể. Kinh Thắng Man ghi: "Một y tức là một Diệt đế"; Đạo đế dùng đó làm Tông, lấy cái mà Đạo đế đối trị, tức là Khổ, Tập làm Dụng. Đấng Điều Ngự dùng tâm vui mừng giảng nói chân đế này tức là Giáo. Tuy nói có khác nhau nhưng chỉ một pháp không sai khác.
Bốn là, Nói về sinh, bất sinh: (Trong Hán tạng sót phần này) Năm là, Nói về chánh tánh:
Tánh có năm thứ là chánh tánh, nhân tánh, nhân nhân tánh, quả tánh, và quả quả tánh.
- Chánh tánh: Chẳng phải nhân, chẳng phải nhân của nhân, chẳng phải quả, chẳng phải quả của quả, tức là chánh tánh.
- Nhân tánh, tức mười hai nhân duyên.
- Nhân nhân tánh, tức là trí tuệ do mười hai nhân duyên sinh ra.
- Quả tánh, tức Tam-miệu Tam-Bồ-đề.
- Quả quả tánh, tức Đại Bát-Niết-bàn.
Nay y cứ vào một việc để làm thí dụ luận bàn, như năm ấm tức sự mà lý, là chánh nhân Phật tánh. Năm ấm là nhân tánh, quán năm ấm sinh trí tuệ tức là nhân nhân tánh, trí tuệ này tăng trưởng và thành tựu quả tánh này, trí tuệ diệt là quả quả tánh. Đối với năm ấm như thế, thì các pháp khác cũng như vậy. Nên biết năm tánh cũng chẳng phải chia cách, ngay nơi năm mà một, ngay nơi một mà năm, một mà không lẫn lộn năm, năm mà chẳng lìa một, chẳng thể nghĩ bàn, chẳng thể chỉ bày, gượng phân biệt cho dễ hiểu, nên gọi quả quả tánh là Danh, chỉ cho chánh tánh là Thể, chỉ cho nhân nhân tánh, quả tánh là Tông, chỉ cho nhân tánh là Dụng, thực hành sự phân biệt năm tánh này là Giáo. Tuy có phân biệt, nhưng chỉ là một pháp không hề khác nhau. Nếu người hiểu được thì chẳng những biết được Thể mà Danh, Tông, Dụng, Giáo, gặp sự đều tự rõ ràng. Vì người chưa hiểu cho nên phải nói thêm về Tông.
III. GIẢI THÍCH VỀ TÔNG CỦA NIẾT BÀN:
Có người cho rằng Tông và Thể không khác nhau, nghĩa này không đúng. Vì sao? Vì nếu nói đến cùng lý thì hai tức chẳng hai, chẳng hai tức hai, đó là điều đúng. Nhưng nếu nói về Danh sự, thì chẳng hai chẳng thể là hai, hai chẳng thể là chẳng hai. Đã lập ra Tông và Thể, thì đâu được cho là giống nhau. Tông tức là cốt yếu. Giáo pháp cốt yếu của sự tu hành chẳng ngoài nhân quả. Kinh này nói về nhân, lược nêu có ba thứ:
1/ Phá chấp về vô thường để tu thường:
Như phẩm Ai Thán, Đức Thế Tôn dùng Thường, Lạc, Ngã trách cho các Tỳ kheo chấp các pháp Vô thường, Khổ, Vô ngã là giả dối chẳng chân thật, cần phải xa lìa, nay sẽ là các ông ba pháp tu thù thắng, đó là phá Vô thường để tu Thường, thì sẽ đạt được quả thường mà hiển bày nơi chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Phiền não là củi, trí tuệ là lửa, do nhân duyên này mà thành món ăn Niết-bàn khiến cho các đệ tử đều được vị ngon. Ba pháp tu kém là củi, phiền não. Ba pháp tu thù thắng là lửa trí tuệ, chẳng phải thường chẳng phải vô thường là món ăn Niết-bàn, bốn chúng an trụ trong tạng Bí mật, tức là hưởng vị ngon ngọt. Lại nói rằng: "Như Lai thể hội được cho nên gọi là Thường". Thể tức là bước lên, bước lên mà đi. Vì pháp thường cho nên Phật cũng Thường, cũng là pháp chẳng phải thường chẳng phải vô thường cho nên Phật cũng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.
Hỏi: Đầu tiên vì ông Thuần-đà, Đức Phật chỉ nói một chữ Thường, kế đó là nói về hai chữ Thường trụ, rồi phá chấp cho các Tỳ-kheo mà giảng nói ba pháp tu sao siêu.
Ý gì có sự tăng giảm như thế?
Đáp: Đó đều là sự đối đãi giữa xưa và nay. Xưa nói bốn phi thường gom vào vô thường, nay nói bốn đức gom vào thường, nêu thường để phá vô thường. Xưa nói sinh tử vô thường có lưu động, nay dùng thường để phá sinh tử, dùng trụ để phá lưu động. Đó là dùng hai chữ để phá hai chữ. Các Tỳ-kheo bỏ sự theo lý, chỉ tu ba thứ tưởng, nay nêu lý thù thắng để phá lý kém cỏi nên dùng ba pháp tu v.v...
2/ Dùng tâm Đại Niết-bàn để tu tập từ cạn đến sâu, thứ lớp thực hiện như trong phẩm Thánh Hạnh, chỉ bày chuyên hành năm hạnh, đầu tiên là thực hành Giới, Định, Tuệ, cho rằng sống đời tại gia như lao ngục, phạm hạnh như hư không, quán từ đầu đến chân chỉ là tóc, móng, lông, răng, ruột, gan, tỳ vị v.v... quán tám khổ, năm ấm v.v... Kế đó lại biết khổ không khổ mà đạt được chân đế, rồi phân biệt so tính, Khổ, Tập, Diệt, Đạo có vô lượng vô biên tướng trạng, cuối cùng là quán chẳng Khổ chẳng Tập, chẳng Diệt, chẳng Đạo mà đạt được Thật đế. Như kinh đã chỉ bày đầy đủ. Tu hành các hạnh xong thì được hai mươi lăm thứ Tam-muội, trụ Đại Niết-bàn, được công đức hơn cả chư Phật, không thể nói hết. Nên biết từ cạn đến sâu, nhân thành quả được, hiển bày lý chẳng phải nhân chẳng phải quả. Trước sau đều lấy Thường làm Tông. Trong phẩm Đức Vương cũng nói như thế, đầu tiên là quán bốn đại như cái rương, năm ấm như sự nguy hại, sáu trần như giặc cướp, ái như kẻ thù dối trá, phiền não như sông. Tám Chánh đạo như chiếc bè, vận động tay chân, xẻ dòng mà đi, được đến bờ kia. Giới, Định như động chân, trí tuệ như vận tay, Niết-bàn là bờ kia. Trong phẩm Sư Tử Hống cũng nói như thế. Đầu tiên là từ ít muốn biết đủ, cho đến trụ ở Đại Niết-bàn, lại khéo tu Giới, chẳng thấy có nhân giới, quả giới, một giới, hai giới, v.v... đó gọi là khéo tu. Định, Tuệ cũng như thế, từ đầu đến cuối đều lấy Thường trụ làm Tông.
3/ Trong phẩm Thánh Hạnh ghi: "Lại có một hạnh là Như Lai hạnh" gọi là Đại thừa Đại Niết-bàn. Đại thừa là tu nhân, Niết-bàn là đắc quả. Đại thừa đã là nhân, thì chỗ nào mà không chuyển vận đến. Đại Bát Niết-bàn là quả thì chỗ nào mà chẳng bao trùm: Tất cả đều không chướng ngại người tu hành, con đường ra khỏi sinh tử không đường nào hơn đường này. Đại khái như thế rất dễ hiểu, không cần nói nhiều.
Trong luận này, nơi nào cũng đều đề cập đến Hạnh, như tu mười tưởng, hoặc tri căn, tri dục v.v... nhiều thứ khác nhau, nhưng không ngoài ba loại: Đầu tiên phá vô thường tu thường, tức là dùng Viên tiếp thu Tiểu thừa và Thông giáo. Hai là dùng tâm Đại Niết-bàn tu vô thường rồi tu thường, đây là ý của Biệt giáo, tức là từ Tiệm theo thứ lớp mà vào Đốn. Ba là ngay vô thường mà tu thường, tức là pháp tu của hàng Viên đốn. Tuy ba pháp chẳng đồng nhưng đều lấy nhân thường để quy về tông thường quả, trụ Đại Niết-bàn, tất cả đều như nhau chẳng khác. Cho nên kinh nói: "Nhân tuy vô thường mà quả là thường". Đây là ý nghĩa của lần giải thích thứ hai. Còn các thí dụ khác, theo đó cũng sẽ hiểu được.
Hỏi: Một chương nói về Thể thì đạt được năm ý, chương nói về Tông có như thế chăng?
Đáp: Tông có ba nghĩa là Tông bản, Tông yếu và
Tông trợ. Tông bản, nghĩa là các hạnh đều lấy tông Đại
Niết-bàn làm gốc, gốc được lập thì đạo mới lớn lên, nếu không có giềng mối thì mắt lưới không thể lập được, không có da thì lông chẳng có chỗ dựa. Vì dùng tâm Niết-bàn làm gốc cho nên Tông được lập. Tông yếu tức chủ yếu của Tông ở Thường, hạnh hội tụ ở Thường, Tông yếu đã thường thì hạnh sẽ thường nên hiển bày được chẳng phải thường chẳng phải vô thường; như chòm sao Thất diệu xoay tròn ở phương Bắc, như ngàn sông đổ về biển Đông. Hạnh lấy Thường làm chủ yếu cũng giống như thế. Tông trợ, trợ là khí lực. Tông Thường được thành là nhờ sự giúp đỡ, hoặc do người giúp đỡ, hoặc do giáo giúp đỡ, hoặc do hành giúp đỡ, hoặc do Đạo giúp đỡ. Do sự giúp đỡ mà có năng lực nên gọi là Tông trợ. Gom chung cả ba thì Tông là giải thích Danh; chỉ nói về Tông bản tức là ý giải thích thể; chỉ nói về Tông yếu tức là ý giải thích Tông, chỉ nói về Tông trợ tức là ý giải thích Dụng; thực hành sự phân biệt ba thứ này khác với các pháp môn khác gọi là ý giải thích giáo.
IV. GIẢI THÍCH VỀ DỤNG CỦA NIẾT BÀN:
Dụng gồm có ba là Bản dụng, Đương dụng và Tự tại khởi dụng.
1/ Bản dụng: Trước là nêu lên các thuyết đã có:
- Linh Vị Tiểu Lượng nói rằng: Trong sinh tử vốn có tánh chân thần, như vải rách gói tượng vàng ròng rớt xuống bùn sâu, người có thiên nhãn biết được nhặt lên rửa sạch và mở ra, tượng vàng ròng vẫn sáng rỡ như cũ. Phật thể chân thần gồm có muôn đức mà bị phiền não che lấp, nếu dứt trừ được hoặc chướng thì Phật thể tự hiện tiền. Các ví dụ như hạt châu trên trán của lực sĩ; cô gái nghèo với kho báu; "bảy báu trong giếng v.v... Bình, thau trong ngôi nhà tối cũng đều như thế, tất cả đều nêu lên công dụng sẵn có này.
- Tân An: Thuật lại kiến giải của Tiểu Sơn Dao rằng: Tâm thần của chúng sinh không cắt đứt chánh nhân Phật tánh nương vào đó, tuy chúng sinh chưa đầy đủ muôn đức, nhưng phải có lý thành Phật, như giữ lý sẽ thành Phật, ấy chính là công dụng sẵn có.
- Khai Thiện Trang Nghiêm nói: Chánh nhân Phật tánh là lý một pháp, không có hai, nhưng y cứ vào hai thời là bản hữu và thỉ hữu khác nhau. Nếu tâm thần bản hữu trợ giúp thì có lý đương quả, nếu có thể tu hành tâm kim cương đoạn, chủng giác hiện khởi, thì gọi là thỉ hữu, lý thỉ hữu vốn đã có. Để chứng minh nên đã dẫn các dụ trong phẩm. Như Lai Tánh như cô gái nghèo, hạt châu trên trán, và nhà tối. Còn nói lên lý bản hữu thì dẫn việc "Trong sữa không có lạc" ở phẩm Ca-diếp và phẩm Sư Tử Hống. Nhưng lạc từ sữa sinh ra, cho nên nói có lạc, lạc chẳng phải bản hữu mà phải nhờ chưng nấu. Cũng như trồng mè, hợp lại nói là có dầu, nhưng dầu cần phải ép mới có. Dẫn phẩm Phật Tánh: "Chúng sinh trong ba thời thì vị lai sẽ có thân thanh tịnh trang nghiêm", để chứng minh cho lý sẽ có. Cả hai đoạn văn không khác với ý của Tiểu Sơn Dao. Lại dẫn các loại gỗ đá không có lý thành Phật, thì chẳng có lý dụng bản hữu. Chúng sinh ắt phải thành Phật, nhưng ngày nay còn là nhân Phật tánh, nhân là, bản hữu quả là thỉ hữu; bản hữu có lý thỉ hữu, tức là nghĩa công dụng. Có người hỏi về nghĩa của Linh Vị Tiểu Lượng rằng: Nếu hỏi trong thân chúng sinh đã có quả Phật, thì trong nhân đã có quả rồi, trong thức ăn đã có phân, trong bé gái đã có hài nhi. Nếu vốn có quả, vì sao lại trụ trong phiền não mà không chịu ra? Vì sao không phóng quang làm rung chuyển đất trời? Cho nên trong kinh nói: "Nếu nói có, vì sao lại im lặng" chính là để phá sự chấp trước này. Tiếp hỏi ý của Tiểu Sơn Dao rằng: "Lý thành Phật nếu thường là thường tương tục hay thường ngưng lặng". Nếu là thường tương tục, vì sao lại cho rằng vốn có lý quả Phật? Nếu thường ngưng lắng thì trong nhân đã có quả, giống như ý thứ nhất? Tiếp hỏi ý của Khai Thiện Trang Nghiêm rằng: Nếu nói bản hữu có thỉ hữu, thì bản hữu thường trụ cũng có vô thường, nhưng bản hữu chỉ được Thường trụ mà không thể vô thường, cho nên bản hữu chỉ là bản hữu chớ đâu có thỉ hữu. Nếu bản hữu vốn có thỉ hữu, thì lẽ ra vô thường cũng phải có nơi thường mà vô thường thì chẳng thể có ở Thường, cho nên bản hữu đâu thể có thỉ hữu? Nếu bản hữu có thỉ hữu thì liễu nhân có sinh nhân, liễu nhân rõ biết bản hữu là thường thì sinh nhân sinh thỉ hữu là vô thường, thì không được cùng có là bản hữu ngày nay, làm sao có thỉ hữu. Ngao, cò giằng nhau lại tranh nhau đúng sai đã có từ xưa, nay sẽ nói rõ nghĩa này. Nếu chấp nhất định bản hữu và đương hữu (vốn có và sẽ có) thì chẳng phải tông chỉ của tam tạng Thông giáo mà là ý của bốn môn thuộc Biệt giáo và Viên giáo.
Bản hữu là Hữu môn, Đương hữu là Không môn, cả hai đều lấy là môn cũng. Có cũng không, cả hai đều dẹp bỏ là môn chẳng phải có, chẳng phải không. Biệt giáo thì y cứ một bên mà không dung thông, cho nên Môn và Lý đều mất, bị các nhà Viên giáo bác bỏ. Vì sao? Vì nếu chấp công dụng Bản hữu thì cũng như sử dụng cây gỗ, người thợ gỗ đẽo gọt, tùy đó sử dụng, nếu gặp gỗ cong thì làm kèo, thẳng thì dùng làm đà ngang, dài thì làm giáo, ngắn thì làm tên. Công dụng của Bản hữu cũng giống như thế. Phật liền phá chấp này. Như thế cây cối còn sống thì không có các công dụng của kèo, tên, v.v..., đến khi người thợ đốn về, tùy theo nhân duyên mà có việc sử dụng. Nếu cắt cong làm thẳng, thì cong sẽ không thể sử dụng làm kèo, nếu uốn thẳng thành cong, thì thẳng không thể làm đà ngang, nếu cắt dài thành từng thẻ thì dài không thể làm giáo, nếu chẻ ngắn thành củi, thì ngắn không thể làm tên, như thế thì làm sao lại chấp chặt cái dụng Bản hữu. Kinh nói: "Ba đời có pháp, thật không có việc này". Thế thì sao lại cố chấp Bản hữu; Đương hữu, Đương và Bản không lập thì Dụng an ở đâu? Nếu chỉ nạn phá thì lại mất duyên thích hợp. Vì sao? Vì lý chẳng Bản, chẳng Đương, chẳng phải là Bản Đương, chẳng phải không Bản, Đương. Lại có bốn lợi ích, hoặc nói Bản hữu là thường dụng, Đương hữu tức là vô thường dụng, hoặc nói vừa Bản vừa Đương là Thường dụng và Vô thường dụng, hoặc nói chẳng Đương chẳng Bản là chẳng phải Dụng chẳng phải chẳng Dụng. Bản hữu thường dụng gồm thâu tất cả pháp, thì làm sao không có ba môn dụng? Ba môn cũng gồm thâu tất cả pháp, thì sao lại không có Bản hữu thường dụng. Kinh nói: "Đại Bát Niết-bàn là pháp giới của chư Phật" tức là nghĩa này. Đó là Viên giáo theo duyên mà nói về bốn dụng này, đạt được lợi ích lớn, không giống với các thuyết đã có.
2/ Đương hữu dụng:
Đầu tiên nêu lên những giải thích xưa, có ba:
Một là: Lý ở ngoài các hoặc, nếu dứt được hoặc thì sẽ thấy được. Thí như cây trụ được bao phủ bởi mười lớp giấy, nếu lột bỏ chín lớp thì cũng chưa thấy được Trụ, phải lột sạch mới thấy được Trụ.
Hai là: Dẫn kinh Tiệm Bị để nói về việc tất cả trí tuệ đều do dần dần mà được tròn đầy, không thể một lúc mà ngộ được.
Ba là: Chân đế có thể dần dần rõ biết, quả Phật sẽ đốn ngộ. Vì sao? Vì ngay nơi tục là chân, lại chẳng phải là vật khác, cho nên chân có thể biết từng phần. Quả Phật siêu xuất hoặc nghiệp vì chẳng phải sinh tử cho nên chẳng thể dần dần biết được.
Có người hỏi nghĩa thứ nhất rằng, nếu lý chẳng thể dần dần thấy được, thì hoặc nghiệp đâu thể dần dần dứt trừ, đã không nhận thấy lý thì lấy gì để dứt hoặc. Nếu nói lý có thể dần dần thấy, thì lý đã có phần đoạn, có thể chia ra từng phần để biết. Nếu lý đã Viên thông mà dần dần hiểu hoặc sơ kiến hợp với hậu kiến và không khác với hậu kiến thì chẳng gọi là Tiệm kiến (thấy dần dần), nếu sơ kiến (lúc mới thấy) không hợp với hậu kiến thì chẳng gọi là Đốn kiến. Nếu nói chân lý là tiệm ngộ, Phật là đốn ngộ, thì nghĩa này chẳng đúng. Thích Luận ghi: "Nếu đúng như pháp mà quán Phật, Bát-nhã và Niết-bàn thì cả ba chỉ là một tướng". Kinh Hoa Nghiêm ghi: "Hư vọng phân biệt sinh tử và Niết-bàn khác nhau mê hoặc pháp của Thánh Hiền, chẳng biết đạo Vô thượng". Chân đế và Niết-bàn chẳng khác, thì sao lại nói chân đế là Tiệm tri, quả Phật là Đốn ngộ? Nay rõ biết, các thuyết trên thành chấp, công kích phản bác nhau, sóng nổi dậy thì hạt châu bị che mờ. Rõ ràng lý không có xa gần thì trí tuệ nhận biết được lý ấy cũng đâu có đốn tiệm, trí mà có đốn tiệm thì đâu xứng hợp với lý. Như gỗ vuông đặt vào lỗ tròn thì đâu thể khít nhau, phải đúng như lý mà hiểu và phải hiểu đúng như thật lý. Chẳng thấy tướng mà thấy, vô sở đắc mà đắc, vì có nhân duyên cho nên cũng có tiệm đốn. Trong đây thuận theo có bốn câu là Tiệm tiệm, Tiệm đốn, Đốn tiệm và Đốn đốn. Tiệm tiệm còn chẳng phải tiệm đốn, huống chi là Đốn tiệm. Tiệm đốn còn chẳng phải Đốn tiệm, huống chi là Đốn đốn. Pháp Hoa Huyền Nghĩa nói rằng: "Đốn tiệm tức là khác nhau trong không khác nhau, Đốn đốn là không khác nhau trong khác nhau". Ba loại tu, ba loại kiến là ý trong phần nói về Tông. Tiệm, Đốn tu, Tiệm đốn kiến là Bất định quán, Tiệm lại chẳng giống nhau nên chia thành bốn câu là: Tiệm tu Tiệm kiến, Tiệm tu Đốn kiến, Tiệm tu Đốn, Tiệm kiến và Tiệm tu phi Đốn, Tiệm kiến. Hiểu được một câu này thì ba câu kia cũng sẽ hiểu được. Bốn lần bốn là mười sáu câu chẳng giống nhau. Nên biết hiển bày công dụng của Thể rất nhiều, đâu chỉ dùng một, hai loại để giải thích. Kinh nói: "Một người lực sĩ của nhà vua có thể địch một ngàn người, cho nên một người địch ngàn người". Lại ghi: "Thí như cỏ cây trên mặt đất đều là vật được chúng sinh dùng đến, pháp của ta cũng giống như thế". Nên biết dụng thì đồng cỏ cây, có thể sánh với đại lực sĩ. Cho nên dụng chẳng phải một. Luận xưa nói về dụng chiếu cảnh không giống nhau.
- Hỏi: Tục có ba đời chuyển biến, chẳng có cảnh nào không đến đi. Nếu trí Phật chiếu soi? Thì theo cảnh đến đi sinh diệt vô thường hay không theo cảnh đến đi chẳng tương xứng với cảnh.
Do câu hỏi này mà có bảy câu giải thích khác nhau.
- Dã Thành Tung giải thích rằng: Trí Phật không có một thời kỳ tử diệt. Nếu nói vẫn còn có niệm niệm lưu động theo cảnh đến đi, thì người này khi sắp chết, lưỡi sẽ tan rã trong miệng, là báo ứng của lời nói cẩu thả này.
- Dược Sư giải thích rằng Thể của trí Phật là thường trụ, còn Dụng thì vô thường theo cảnh đến đi. Cách giải thích này cũng trái với kinh, vì kinh nói: "Nếu người có chánh kiến nên nói Như Lai nhất định là vô vi, đâu thể cho rằng Thể là vô vi, Dụng là hữu vi".
Quang Trạch giải thích rằng: Nếu trí vô thường chiếu cảnh thường trụ mà chẳng theo cảnh tức là thường, nay trí thường trụ chiếu cảnh vô thường, thì đâu thể chạy theo cảnh vô thường? Cách giải thích này cũng không thể được.
- Giải thích theo nghĩa chín đời chiếu cảnh, cảnh này tuy ở vị lai, nhưng cũng có nghĩa đương hiện tại và đương quá khứ. Nay vị lai, hiện tại và quá khứ, ngã đều soi chiếu tất cả, cho nên không sinh diệt. Cách giải thích này chẳng đúng, vì trước kia khi còn là vị lai giống như đương hiện tại mà chưa phải là đúng hiện tại, nay vị lai đã là hiện tại, tức là chánh hiện tại, thì đương chiếu đã diệt, há chẳng phải là có sinh diệt hay sao?
- Giải thích theo nghĩa nghịch chiếu: Như Lai nói rằng khi mới thành Chánh Giác, thì một niệm đầu tiên đều nghịch chiếu muôn cảnh. Từ lúc mê chân khởi vọng cho đến thành Phật đều có chiếu soi và sau đó muôn cảnh tự đến đi, ta chẳng cần phải chiếu soi nữa. Như khi vua mới lên ngôi, đã chế ra hình pháp. Nếu người sau trái phạm, thì y cứ theo tội nặng nhẹ mà trị, chẳng cần phải chế lại. Cách giải thích này cũng chẳng đúng. Vì trí Phật chiếu cảnh không hề tạm thời ngừng dứt, mà cho rằng đầu tiên thì có chiếu sau không chiếu. Dẫu được như thế cũng đâu tương xứng với cảnh.
- Khai Thiện cho rằng lúc Đức Phật còn ở giai vị tu nhân mới phát tâm, đã có khả năng ngang thì chiếu mấy cảnh, dọc thì chiếu mấy thời, kế đến nhập vào Sơ địa thì một niệm, ngang đã chiếu trăm pháp, dọc đã chiếu một trăm thời, khi nhập vào Nhị địa thì chiếu một ngàn pháp, cho đến Phật địa thì một niệm ngang chiếu muôn pháp, dọc chiếu muôn thời, như gương sáng trên đài cao. Cách giải thích này cũng không đúng. Vì gương chiếu soi, trước không mà sau có, thì không tránh khỏi lỗi vô thường.
- Linh Vị thì lại mượn hư không làm dụ, cho rằng muôn pháp ở hư không, hư không chẳng sinh diệt mà vật thì có đến đi. Thuyết này cũng chẳng đúng, vì trí Phật linh tri đâu đồng ngoan không.
Nay nói rõ vì Nhị đế trong tam tạng giáo không tương tức, nên hai trí mỗi trí tự chiếu do đó mới có nhiều cách giải thích rườm rà như thế. Còn trong Thông giáo, hai đế tương tức hai trí, hai mà chẳng phải hai, nên không còn sự tranh luận này, huống chi ba Đế tức một Đế, một Đế tức ba Đế, ba trí tức một trí, một trí tức ba trí, một chiếu thì tất cả đều chiếu, tất cả chiếu thì một chiếu, chẳng phải một, chẳng phải tất cả. Chẳng thể nghĩ bàn, đâu có sự hỏi đáp cạn cợt này. Lại theo sự giải thích của Khai Thiện, thì trí Phật chiếu chân cảnh và thầm hợp với chân cảnh, lại không khác với trí cảnh, nên trí thể và chân cảnh không khác. Nếu nói theo phần vị để phân biệt, thì phàm phu chẳng thầm hợp và chẳng hội, bậc Thánh đối với nhân hội mà chẳng thầm hợp. Quả Phật vừa thầm hợp vừa hội. Thuyết thứ hai cho rằng trí Phật là linh tri, Chân đế là vô tri, hai thể đã khác thì đâu có hữu tri đồng với vô tri. Nhưng thể hội đã cùng cực, thì gọi là thầm hợp, đâu có thầm hợp khác với hội chăng. Kinh Tuệ Ấn Tam-muội nói: "Thầm hợp chẳng thầm hợp, vắng lặng chẳng vắng lặng". Triệu Luận cũng có từ ngữ "Dụng minh thể tịch".
Nay hỏi: Chân trí của Phật đã thầm hợp với chân, lại chẳng khác chân, thì Tục trí của Phật cũng phải thầm hợp với tục và chẳng khác tục phải không?
Đáp: Phật tuy biết huyễn nhưng chẳng phải người huyễn, Phật tuy biết tục mà chẳng thầm hợp với tục. Thầm hợp với chân nhưng chẳng đồng với chân. Chẳng nên giải thích nghĩa thầm hợp với chân, thầm hợp với tục như thế. Nếu thầm hợp với Chân thì chẳng ngoài Nhị thừa, còn thầm hợp với Tục thì chẳng ngoài chín cõi.
Như vậy đâu thể cho là dụng của trí Phật.
3/ Tự tại khởi dụng: Dụng cùng khắp cả pháp giới. Kinh nói: "Như cây cỏ đầy khắp mặt đất, là vật của chúng sinh sử dụng, pháp của ta cũng giống như thế". Nên biết trí Phật thù thắng có đại dụng vô lượng vô biên, nay y cứ theo ba loại là Dụng chẳng thể nghĩ bàn, Dụng hai chim cùng bay và Dụng thiện ác tà chánh cùng gồm thâu để giải thích.
- Dụng chẳng thể nghĩ bàn:
Xưa đã có bảy thuyết giải thích:
- Một là: cho rằng có thể khiến cho người khác thấy được núi Tu-di nhét vào hạt cải, thật ra chẳng nhét được, chỉ có người được độ mới thấy. Cách giải này không đúng, vì chẳng nhập vào hạt cải thì làm sao được gọi là thần thông.
- Hai là: cho rằng thật có nhập, vì thần lực của Phật có công năng biến nhỏ thành lớn, chuyển lớn thành nhỏ. Thuyết này cũng chẳng đúng, vì như thế thì dùng lớn chứa nhỏ, chứ đâu thể cho rằng dùng nhỏ chứa lớn!
- Ba là thì giải thích là chẳng cần biết nhập hay chẳng chẳng nhập, đã là chẳng thể nghĩ bàn, thì đâu thể nhất định phán xét là nhập hay chẳng nhập. Thuyết này cũng chẳng đúng, vì quả Phật hay Bồ-tát Thập địa đều không thể nghĩ bàn, có thể không giải thích được, còn các phần vị khác thì có thể dùng lời nói diễn tả; còn nghĩa này, mà nói là chẳng biết sao?
- Bốn là: cho rằng nếu Có thì ngại nhau, nhưng vì lớn nhỏ đều không, cho nên dung nhập được. Thuyết này cũng không đúng, vì như thế thì đâu có gì để nói là nhập cũng chẳng có lớn nhỏ.
- Năm là: cho rằng trong lớn có tánh nhỏ, trong nhỏ có tánh lớn, dùng tánh lớn của hạt cải dung chứa tánh nhỏ của núi Tu-di. Điều này cũng chẳng đúng, vì nếu chấp tánh nhất định thì đồng với ngoại đạo, lại giống Tỳđàm chủ trương nghĩa lớn dung chứa nhỏ, đâu thể cho rằng dùng nhỏ dung chứa lớn.
- Sáu là: Địa Luận cho rằng lớn mà không có tướng lớn, cũng chẳng phải không có cái lớn vô tướng; nhỏ mà không có tướng nhỏ, cũng chẳng phải không có cái nhỏ vô tướng, dùng cái nhỏ vô tướng dung chứa cái lớn vô tướng, rồi cái lớn vô tướng lại nhập vào cái nhỏ vô tướng. Thuyết này cũng không đúng, lớn nhỏ vốn đều là tướng, đã nói là vô tướng thì đâu có nói lớn nhỏ, nếu có lớn nhỏ thì thuộc về hữu tướng. Nếu nhất định là vô tướng thì đồng với Không.
- Bảy là: Hưng Hoàng cho rằng các pháp vốn không có lớn nhỏ, do nhân duyên giả danh đối đãi nhau mà tạm nói lớn là nhỏ, tạm nói nhỏ là lớn, nói lớn là nhỏ thì nhỏ là nhỏ của lớn, nói nhỏ là lớn thì lớn là lớn của nhỏ, cho nên dung hợp nhau được. Thuyết này cũng chẳng đúng, vì lớn chẳng phải tự là lớn, mà do đối với nhỏ cho nên lớn, nhỏ cũng chẳng phải tự nhỏ, mà đối với lớn cho nên nhỏ, đó là rơi vào nghĩa "Tha tánh" (tùy thuộc vào một pháp khác). Tự tánh lớn nhỏ còn không thể dung hợp, thì tha tánh lớn nhỏ đâu thể dung hợp. Nay biết rõ nhỏ chẳng phải tự có nhỏ. Cũng chẳng phải do lớn mà có nhỏ, lớn cũng chẳng phải tự lớn, cũng chẳng phải do nhỏ mà có lớn, mà vì nhân duyên cho nên có lớn có nhỏ, cũng chẳng lìa lớn lìa nhỏ mà có nhỏ, cũng chẳng ở trong ở ngoài ở khoảng giữa, cũng chẳng thường tự có, chẳng thể nghĩ bàn, lớn cũng giống như thế, thông đạt được lý này thì ngay nơi sự là chân, chỉ có người được độ mới thấy sự to lớn chẳng thể nghĩ bàn của núi Tu-di nhập vào cái nhỏ hẹp chẳng thể nghĩ bàn của hạt cải. Đó gọi là dùng lớn chẳng thể nghĩ bàn nhập vào nhỏ chẳng thể nghĩ bàn. Nếu trụ trong Thủ-lăng-nghiêm thì có thể kiến lập nghĩa lớn như kinh đã nói rộng.
Trên đã trình bày Dụng chẳng thể nghĩ bàn hiển bày sau khi đắc đạo. Lý ấy thật thông suốt, cho đến thiện ác, tà chánh cũng giống như thế. Bốn đường là tà, nhân thiên là chánh, ba cõi là tà, Nhị thừa là chánh; Nhị thừa là tà, Bồ-tát là chánh v.v... Tà chánh đều là Dụng cùng khắp pháp giới. Bốn đường là ác, Trời, Người là thiện, ba cõi là ác, Nhị thừa là thiện; Nhị thừa là ác, Bồ-tát là thiện, Dụng này cũng trùm khắp pháp giới. Ba cõi đều vô thường, Nhị thừa là ba vô vi thường, Nhị thừa là vô thường, Bồ-tát là thường, hai dụng thường và vô thường cũng trùm khắp pháp giới. Như thế môn thì sơ lược mà nghĩa thì sâu rộng.
Cả hai dụng thường và vô thường đều lìa hai bên, như phẩm Điểu Dụ đã nói, tức là cùng một lúc mà có hai tác dụng. Trước sau chuyển đổi là khác thời, dụng có thiên lệch. Nếu đồng thời thì dụng cả hai, nếu có trước sau tức là đơn dụng, không cần phải nói một thứ vì dụng tự tại, cho nên dụng cả thiện ác; như trong phẩm Ca-diếp nói "Thiện Tinh cực ác còn được nhiếp thọ cho xuất gia, huống chi là người lành mà chẳng được thâu giữ hay sao", hoặc đồng thời cùng dụng, hoặc trước sau đơn dụng v.v...
- Dụng tà chánh thiện ác đều được gồm thâu:
Phẩm Kiều-trần-như ghi: "Tà là ngoại đạo, chánh là Kiều-trần-như, mở mang chánh pháp sâu rộng. Tà là các ma, chánh là A-nan. Tất cả đều bình đẳng thâu giữ, khéo léo hiển bày diệu dụng, du hóa thế gian, làm lợi ích chúng sinh. Nếu ngộ được ý này, thì có dụng tự tại, được bốn Tùy khéo léo, ứng hợp căn cơ, trụ trong Thủ-lăngnghiêm, thị hiện các tướng mà chẳng làm lay động pháp tánh, giúp cho người thấy nghe đều lợi ích. Nghĩa này rất dễ hiểu, chẳng cần nói nhiều.
- Hỏi: Năm ý của chương này thế nào?
- Đáp: Cũng như đoạn trước, nghĩa là nếu nói chung về ba Dụng là ý nghĩa giải thích Danh, nếu chỉ nói về Bản dụng thì ý nghĩa giải thích thể. Đương dụng là ý nghĩa giải thích Tông, Dụng Tự tại là ý nghĩa giải thích
Dụng, nếu phân biệt ba Dụng là ý nghĩa giải thích Giáo.
V. GIẢI THÍCH VỀ GIÁO TƯỚNG:
Chia làm hai: 1/ Tăng số, 2/ Nhân duyên kinh này đến Trung Quốc
1) Tăng số: Gồm có năm
a) Một là Sữa (Nhũ)
b) Hai là Chữ
c) Ba là Tu
d) Bốn là Giáo
Năm là Vị. a) Sữa: Danh từ sữa được sử dụng chung cho các Giáo, như ngôn giáo của ngoại đạo cũng gọi là Sữa. Kinh nói: "Lúc bấy giờ vị thầy thuốc khi xưa đã dùng sữa làm thuốc". Ngôn giáo của Nhị thừa cũng gọi là Sữa. Kinh A-hàm ghi: "Xá-lợi-phất là mẹ đẻ, Mục-kiền-liên là nhũ mẫu (mẹ nuôi), hai người nói pháp nuôi dưỡng bốn chúng." Đoạn sau cũng nói Phật tánh của Thanh văn, Duyên giác như Sữa, giáo hành của Bồ-tát cũng gọi là Sữa. Cho nên nói rằng: Sữa hương sắc từ tay tuôn ra ban phát cho chúng sinh để họ được no đủ. Giáo hạnh của Phật cũng gọi là Sữa, cho nên Mục-kiền-liên nói rằng: "Ví như bò con mới đẻ nếu không có sữa thì phải chết, không nghi ngờ gì". Lại nói: "Thầy thuốc khám bệnh cho vua quyết định phải cho uống sữa." Danh từ sữa được dùng cho các giáo. Nếu phân biệt, thì thầy thuốc xưa trộm lấy giáo pháp như trộm danh từ sữa mà chẳng biết ý nghĩa, cứ mãi vui sướng, cứ chấp vô thường, tương tục là thường, chấp vui thú trời người là lạc, chấp năm ấm biến chuyển là ngã, chấp bốn đại dẫy da hôi thối này là tịnh, bị bốn điên đảo này làm mê hoặc, làm cho tâm bị thương tổn, đó là tà giáo.
Sữa của Nhị thừa: Đức Phật dùng phương tiện hòa hợp ba thứ thuốc là mặn, đắng và ngọt cho Nhị thừa sử dụng, để đối trị loại sữa xấu (tà chấp) của bốn chúng, cũng như dùng nêm để tháo nêm. Đây là dùng sữa đặt tên cho bốn phi thường giáo.
Sữa của Bồ-tát: Bồ-tát dùng đại Từ bi tùy theo chúng sinh thích hợp với pháp nào được độ thoát, thì y theo đó chỉ dạy, hoặc nói pháp phương tiện, hoặc nói pháp chân thật, hoặc trị tà thường, hoặc trị vô thường, đều hợp với cơ duyên làm cho được no đủ, đó gọi là sữa giáo của Bồtát.
Sữa của Phật là sữa rốt ráo chân thật như kinh đã nói, con bò kia vì khéo điều phục, nên chẳng còn hung hăng chạy nhảy, cũng chẳng nằm yên không chịu đi, chẳng sống ở cao nguyên, cũng chẳng ở bình nguyên, chẳng ăn bã rượu, lúa mạch, cỏ thường, không nhập bầy đàn với những con bò khác. Cho nên sữa của nó có nhiều chất dinh dưỡng, vị ngon bậc nhất, đây là nói lên giáo nghĩa Niết-bàn là loại sữa đặc biệt ngon quý. Giáo nghĩa của ngoại đạo như sữa lừa, nấu vào sẽ thành phân bã, do giáo nghĩa này mà rơi vào ba đường ác, giáo của Nhị thừa như sữa dê hươu, nấu sẽ thành lạc, từ giáo pháp này mà ra khỏi sinh tử, giáo của Bồ-tát như sữa bò hạ phẩm nấu sẽ thành bơ. Từ giáo nghĩa này sẽ chuyển phàm thành Thánh. Cũng từ bậc Thánh mà thành đạo vô thượng, giáo của Phật thừa như sữa bò thượng phẩm, do giáo này mà được an trụ trong tạng Bí mật, nên sữa giáo Niết-bàn là nhiệm mầu cùng tột.
- Hỏi: Vì sao chỉ trong một loại sữa mà chia ra nhiều vị?
Đáp: Đó là ý của kinh này Như có một bài kệ "xưa có mà nay không" mà có bốn phẩm nêu ra để giải thích ý nghĩa, hoặc nói về đắc vô đắc, hoặc nói về khác nhau, không khác nhau v.v... Ví như có nêu lên thuyết này để ví dụ, cũng không ngại gì. Trong phẩm Đức Vương cũng có bốn câu kệ về bất văn văn, bất sinh sinh v.v... nay cũng như thế, sữa tà, tà gọi là sữa sữa nhũ, sữa của Nhị thừa gọi là sữa chẳng phải Sữa, sữa của Bồ-tát gọi là chẳng phải Sữa mà sữa, sữa của Phật thừa gọi là chẳng phải Sữa chẳng phải chẳng Sữa, ý thì sâu xa, dụ thì cùng tận, ông có gì để nghi ngờ nữa? b) Chữ: Thế tục cũng có hai chữ, xuất thế cũng có hai chữ, thượng thượng xuất thế cũng có hai chữ, nay văn này cũng có hai chữ, hai chữ đã chung, nếu phân biệt thì hai chữ thế gian như kinh Thụy Ứng ghi: "Thái tử cưỡi xe dê, đến chỗ thầy học viết, thầy dạy hai chữ Phạm là Khư Lâu, hai chữ này nói về phép lễ, nhạc, y phương, kỹ nghệ, chánh trị của thế gian, nên gọi là hai chữ của thế gian. Lại nói chữ Phạm, phải như trong kinh Kim Quang Minh nói Luận Xuất Dục. Vì nói về việc tu phạm hạnh và khen ngợi quả báo của phạm hạnh nên gọi là Luận Xuất Dục. Chữ Khư, Lâu tương ưng như trong luận Vô Lượng Thắng, nói về mười pháp lành và khen ngợi quả báo của Đế Thích; vì Thiện có công năng phá ác, nên gọi là Thắng Luận. Tóm lại đó là hai chữ thế gian. Tạ Linh Vận cho rằng: "Phạm Khư Lâu là tên người, chữ này có thề thâu gọn các chữ có nghĩa rộng trở thành giản lược, như ở Trung Quốc có lập ra loại Thương Nhã. Từ người mà đặt tên nên gọi là Phạm Khư lâu. Tuy có rộng và tóm tắt nhưng cũng là hai chữ thế gian".
Hai chữ của xuất thế gian, phẩm Anh Nhi Hạnh ghi: "Hai chữ Bà Hòa, chính là hai chữ hữu vi và vô vi". Nếu xuất thế gian và xuất thế thượng thượng cùng là hai chữ, thì Bán Mãn là hai chữ. Các kinh đều cho thời nói pháp ở vườn Nai là Bán tự giáo, thuyết Ma-ha-diễn là Mãn tự, do Đại, Tiểu khác nhau đối đãi cộng thành hai chữ. Các sư giải thích chữ mãn này không giống nhau. Địa Nhân cho rằng sáu hạnh của kinh Niết-bàn đều rõ ràng là Mãn tự. Pháp Hoa là Đại thừa mà chẳng phải Mãn tự, vì vô thường. Ở đây đều chẳng đúng, không cần phải giải thích v.v... Hưng Hoàng chê các sư tạo nghĩa năm mãn: Bán biên mãn, Thụ mãn, Tích túc mãn, Công mãn và Cụ túc mãn, ở đây cũng chẳng cần bàn nói.
Về hai chữ Bán và Mãn, gồm có năm ý: Trực thị bán, Đối bán mãn, Đới bán mãn, Phế bán mãn và Khai bán mãn. Các kinh được nói ở Lộc Uyển là giáo vô thường tức trực thị bán (chỉ là bán), không có Mãn.
Các kinh Phương Đẳng nói vô thường là để dẫn dắt Tiểu thừa, chê Tiểu thừa khen Đại thừa, chính là đối Bán nói rõ Mãn. Kinh Đại Phẩm nói rõ cả ba người cùng học chính là kèm Bán để rõ Mãn. Kinh Pháp Hoa dẹp bỏ phương tiện là phế bán lập mãn, cũng là bỏ quyền bày thật, tức là bỏ bán nói mãn. Kinh này bác bỏ chỗ kém mà hiện rõ cái hơn, tức là khế Bán để nêu lên mãn "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh". Tu-bạt-đà-la đắc quả A-la-hán đó là bỏ Bán lập Mãn, phá sinh tử lưu động, nói về hai chữ chữ Thường trụ, thường phá sinh tử, trụ trong phá lưu động, đây cũng là ý bỏ Bán nói Mãn.
Trong tất cả các pháp đều có tánh an vui, cũng là ý bỏ Bán nói Mãn, cho nên biết hai chữ gồm thâu tất cả, chẳng phải chỉ riêng cho một ý nào, như thế biết được hai chữ Thường trụ là tôn quý, cao đẹp nhất trong tất cả các chữ. Tất cả có thể quy kết về bốn câu Nhị thừa vô thường là Bán chẳng phải Mãn, Nhất thừa là Mãn chẳng phải Bán. Nếu vừa bác bỏ Tiểu vừa, kèm theo Tiểu thừa là vừa Bán vừa Mãn. Thế gian thì chẳng phải Bán, chẳng phải Mãn. Ý nghĩa như thế có thể hiểu v.v... c) Tam tu: Gồm có Tà tam tu, Liệt tam tu và Thắng tam tu.
- Tà tam tu (ba phép tu tà vạy) là thế gian điên đảo, theo lời dạy của tà sư thấy tướng tương tự, nối nhau cho là Thường, thuận ý ưa thích cho là Lạc, vận động tạo tác cho là Ngã, bị ngu si mê hoặc che ngăn như chấp điện chớp, như con tằm, cái kén, mà tìm kiếm không chán, như khát uống nước mặn thật không có ích lợi gì. Về chán ghét khổ thô chướng ở hạ địa mà tìm cầu Thắng, Diệu, Xuất ở Thượng địa nên gọi Tà tam tu.
- Liệt tam tu (ba phép tu thấp kém): Nương vào Bán giáo để phá tà chấp, dùng vị mặn vô thường phá chấp lạt, dùng vị đắng không vui phá chấp ngọt, dùng vị bơ vô ngã để phá chấp cay. Ba cõi đều vô thường, các hữu chẳng có gì vui thú, tất cả đều không, vô ngã, vô ngã sở nên phá trừ vô minh, điệu cử, mạn nghi của Dục nhiễm, Sắc nhiễm, Vô sắc nhiễm như trong các dấu chân thì dấu chân của voi là lớn nhất, trong các tưởng thì vô thường là nhất đó, là Liệt tam tu như trong các kinh đã nói.
- Thắng tam tu (ba phép tu thù thắng): Nương theo giáo pháp thù thắng của Phật mà phá Liệt tam tu. Nghĩa là tu tập ba pháp Thường Lạc Ngã, tức thân thường hằng không biến đổi, dạo chơi nơi Hoa giác, thọ hưởng sự vui vẻ an lạc, đầy đủ và tự tại, không bao giờ dứt, người tu tập như thế nhập vào tạng bí mật thì gọi là Thắng tam tu.
Ngoài Tà tu là chữ Y thế gian, liệt tu là chữ Y cũ, Thắng tu là Y mới, nhưng lý của Đại Niết-bàn là chữ Y chẳng phải cũ, chẳng phải mới. Nay kinh này nói lên giáo pháp Thắng tu rất tôn quý, rất cùng tột của chữ Y mới. d) Tứ giáo:
Tứ giáo bao gồm một đời hoằng hóa của Đức Phật, như về danh tướng lý thú đều có bản sớ giải thích riêng v.v...
- Tam tạng giáo, tức là tạng Giới, Định, Tuệ: Như đứa trẻ kia theo thứ lớp ra khỏi khổ nạn, sự hành trình lâu xa nên dừng nghỉ tại hóa thành, đó là pháp Tiểu thừa, còn Bồ-tát Viên giáo dùng tâm Đại Niết-bàn tu tập giáo này để giúp đạo tức Thánh hạnh, như kinh nói phao nổi, xương trắng, quán tám khổ v.v... những văn nghĩa biểu thị Tam tạng giáo.
- Thông giáo, hàng ba thừa cùng tu học, xa gần đều thông suốt nếu tiến lên phía trước thì cũng đạt được, đó là pháp Ma-ha-diễn. Bồ-tát Viên giáo dùng tâm Đại Niết-bàn tu tập giáo này thì thành tựu thánh hạnh. Như kinh nói biết khổ chẳng phải là khổ thì đạt được chân đế, cho đến hiểu đạo là vô đạo mà được chân đế, đó tức là văn nghĩa.
- Biệt giáo, chỉ dành riêng cho Bồ-tát mà chẳng chung cho hàng Nhị thừa. Sự và lý được tu tập chẳng phải là cảnh giới mà Nhị thừa biết được. Nếu Bồ-tát Viên giáo dùng tâm Đại Niết-bàn tu tập giáo này thì thành Thánh hạnh. Như kinh nói, khổ có vô lượng tướng, phân biệt suy tính có vô lượng, Thanh văn, Duyên giác chẳng thể biết được, cho đến Tập, Diệt, Đạo cũng giống như thế. Đó là văn nghĩa biểu thị cho Biệt giáo-Viên giáo.
Ngay nơi sự là lý, một giáo là tất cả giáo, tất cả giáo là một giáo, chẳng phải một chẳng phải tất cả, chẳng thể nghĩ bàn, tùy theo ý Phật tức là cảnh giới Phật, hàng Nhị thừa và Bồ-tát hạ địa chẳng thể biết được. Như kinh nói: "Chẳng phải khổ, chẳng phải Đế mà có chân thật, cho đến chẳng phải Đạo, chẳng phải Đế mà có chân thật, nên gọi là Nhất thật đế". Đây là văn nghĩa hiển bày Viên giáo.
Tâm đại Niết-bàn của Bồ-tát tu tập tức là Viên tâm, Viên tâm là hạnh chính trong các hạnh, từ cạn đến sâu, đến cùng cực là dừng, như phóng kim cương đến mé thì dừng, nên biết một ý của Thánh hạnh tức là Giáo, tiệm đốn cũng gọi là Giáo tiệm viên, đây là một pháp quán nói trong kinh.
* Lại có một hạnh là hạnh Như Lai, còn gọi là Đại thừa Đại Bát Niết-bàn, tức là lúc mới phát tâm tu hành đã có đốn có viên, tất cả các pháp đều nhập vào trong đó, các dòng đều có vị mặn, đều là tánh của biển, Tiệm viên và Đốn viên không khác nhau, nhưng vì trải qua thứ lớp cho nên gọi là Tiệm. Nay kinh nêu đủ hai văn; vì từ thắng diệu mà đặt tên nên gọi là Giáo viên đốn, là giáo tối tôn, tối thượng trong các giáo. Nếu phân biệt theo tên chung và tên riêng thì gồm bốn tạng: Tam tạng giáo là Thanh văn tạng;, Thông giáo tức là Tạp tạng; Biệt giáo tức là Bồ-tát tạng, Viên giáo tức là Phật tạng. Trên gồm thâu dưới, cho nên Phật tạng là bậc nhất. Nếu theo bốn câu thì Tam tạng là văn văn, Thông giáo là văn bất văn, Biệt giáo là bất văn văn, Viên giáo là bất văn bất văn, cho đến thí dụ về Sinh sinh cũng giống như thế. e) Ngũ vị: Tức là năm vị của sữa bò, dụ cho thứ lớp thời gian giảng nói giáo pháp, chứ không phải theo ý sâu cạn của giáo pháp, nếu cho rằng trước cạn, sau sâu thì chẳng đúng. Kinh nói: "Thầy thuốc xem bệnh cho vua, quyết định cho uống thuốc sữa". Và còn ghi rằng: "Nếu được cháo sữa, thì không còn cần gì, tức chân Giải thoát, chân Giải thoát tức Đại Bát Niết-bàn, như thế há là cạn sao? Kinh lại ghi: "Như nước hòa lẫn với sữa, để đến một tháng vẫn chẳng thành lạc, nếu nhỏ một giọt nước của cây phả-cầu hòa vào thì sữa liền biến thành lạc. Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế, nếu vốn có vì sao phải đợi duyên, như thế dụ về lạc chẳng thể nói là cạn được. Kinh nói: "Thí như vị bơ có tám vị, Đại Niếtbàn cũng giống như thế". Thế thì biết dụ về bơ nghĩa lý rất sâu xa. Kinh nói: "Này A-nan! Bích-chi-phật cũng như đề hồ, chẳng thể nói là sâu xa". Nếu ấn định ý nghĩa của vị đầu tiên là cạn, thì vị sau cũng có ý nghĩa sâu, ngăn ngừa lỗi về văn, thì tổn hại đến ý nghĩa. Nếu giải thích theo ý nghĩa thứ lớp trước sau thì không có lỗi.
Bò dụ cho Đức Phật, bậc Đại giác ngộ thành tựu tròn đầy, rỗng suốt như từ máu biến thành sữa, vốn có đầy đủ trong thân bò. Từ bò con cho ra sữa dụ cho thời nói pháp đầu tiên của Đức Phật. Ngay đạo tràng tịch diệt, từ thể của pháp giới lưu xuất ra pháp giới các pháp giáo hóa Bồ-tát. Như mặt trời mới mọc đầu tiên là chiếu trên đỉnh núi cao, cho nên gọi là từ bò sinh ra sữa. Kế là từ Sữa biến thành Lạc, vì người căn cơ thấp kém chẳng thể kham nhận, như câm như điếc, nên Như Lai ẩn giấu thần đức vô biên, thị hiện thân trượng sáu, giấu kín Như Lai tạng, mà chỉ nói Tam tạng cho người nghèo ưa thích, tùy nghi phương tiện khiến phàm thành Thánh, cho nên sau thời Hoa Nghiêm Đại thừa lại nói Tam tạng Tiểu thừa như Sữa sinh Lạc. Kế đó từ Lạc ra Sinh tô như sau thời tam tạng lại dùng Đại để chê trách Tiểu, phá bỏ cảnh giới họ đã chứng đắc và cho rằng đó là hạt giống hư, rễ thối vô dụng. Trước cho sau đoạt như uống lạc để được sinh tô kế đó từ sinh tô cho ra Thục tô, tức là sau thời Phương đẳng, được gửi gắm gia nghiệp, nhận lãnh tài sản khiến các Thanh văn chuyển giáo, dạy Bồ-tát. Lại từ Thục tô sinh ra Đề hồ, như sau thời Bát-nhã, giao phó tài sản, xác định thiên tánh và thọ ký cho họ thành Phật, nên kinh Pháp Hoa nói tám ngàn vị Thanh văn được thọ ký thành Phật. Thấy tánh Như Lai như mùa thu thâu hoạch, mùa đông cất chứa, không còn làm gì nữa tức là rốt ráo. Chúng sinh không thấy được Phật tánh cho nên Đức Phật mới dùng hai trí chỉ bày cho họ, hoặc nói đại, hoặc nói tiểu, hoặc trách mắng, hoặc nói là giáo hóa, hoặc nói định thiên tánh, nếu chúng sinh đã thấy được Phật tánh thì Ngài liền diệt độ, nơi Song thọ sự chỉ bày đã xong, nói giáo đã dứt, hai dòng pháp đã cạn. Như cho ra sữa đến đề hồ là cùng tột, chư Phật giảng nói giáo pháp đến thấy tánh là cùng tột. Nay kinh này được nói vào thời sau cuối, dụ như đề hồ, tất cả các vị thuốc đều chứa đựng trong đó, nên khen là ngang rộng, đối với bốn vị thì khen dọc cao, cho nên kinh này chỗ nào cũng đều khen ngợi là giáo pháp không thể nghĩ bàn, chính là khen ngợi vị sữa ngon quý, khen ngợi hai chữ Thường trụ, cuối cùng là giáo viên cực và đề hồ diệu vị. Tên tuy nhiều nhưng pháp chỉ có một, một pháp ấy là thầy chư Phật, là mẹ của Bồ-tát, biện tài của chư Phật, Bồ-tát chẳng thể tuyên dương thì ngàn lưỡi của phàm phu đâu thể khen tặng, Nhị thừa đui mù đâu thể hớn hở để xưng tán là nghĩa đó vậy? Nghĩa của năm vị đã được nói đầy đủ trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa.
Tóm lại, tăng từ một đến năm, gom hết tất cả thuyết, tức là ý giải thích danh, nếu chỉ dùng nghĩa lý trình bày qua năm lần tức là giải thích Thể, nếu chỉ dùng nghĩa các hành tướng do nương vào lý sinh khởi được trình bày qua năm phen tức là giải thích Tông, nếu chỉ dùng nghĩa Viên để phá Thiên là giải thích Dụng, thực hiện phân biệt tướng trạng của các vị, tức là giải thích Giáo, nếu y cứ theo các phần trước thì rất dễ hiểu, đâu cần phải nhiều lời giải thích.
2/ Nguyên nhân kinh truyền đến Trung Quốc:
Gồm có hai phần, tức là Duyên Khởi kinh và sớ Duyên Khởi.
a) Duyên Khởi Kinh:
Kinh gồm có bản hai quyển, bản sáu quyển và Đại bản. Bản hai quyển nói về việc Đức Phật tám mươi tuổi nhập diệt mà không nói về thường trụ, thuộc Tam tạng giáo do tiểu duyên chiêu cảm. Bản sáu quyển và Đại bản đều nói về Thường trụ do đại duyên chiêu cảm nhưng do cùng một hội mà nghe khác, cũng như Đại tiểu phẩm Bát-nhã. Tiểu bản là do ngài Pháp Hiển sao chép phần đầu ở Thiên Trúc, dịch thành sáu quyển, còn pho đầu của Đại bản là do ngài Đạo Mãnh mang về. Nay chính là hai bản lược và đầy đủ, người đời vẫn còn nghi ngờ việc này: Nếu cho rằng nghe khác nhau thì vì sao các câu hỏi và yếu chỉ lời đáp của hai bản lại giống nhau? Nếu là sao chép thì lẽ ra chỉ là lược mà thôi, chứ đâu có lẫn lộn trước sau? Đại bản thì Như Lai nói về việc trộm chó, Đại bản thì kệ nói ba quy y, còn bản sáu quyển thì phần văn xuôi nói ba quy y. Giải thích rằng: Câu hỏi và yếu chỉ lời đáp trong hai bản nhiều điểm khác nhau, ít điểm giống nhau. Xưa sao chép bản Phạm không có trước sau, khi truyền đến Trung Quốc phiên dịch bèn theo ý đổi lại, nhưng hai nghĩa không trái nhau. Ngài Đạo Mãnh sang Thiên Trúc gian khổ, chỉ mang về năm phẩm là Thọ Mạng, Kim cương thân, Danh Tự Công Đức, Như Lai tánh và Đại Chúng Vấn. Khi đến Kinh Châu, gặp lúc Thư Cừ Mông Tốn chiếm cứ Lũng Tây, tự đổi hiệu nước là Huyền Thỉ, đến năm thứ ba Mông Tốn thỉnh ngài Đàm-Vô-la-sám và Đạo Mãnh dịch năm phẩm được hai mươi quyển. Sau Mông Tốn tiếc rằng văn nghĩa chưa đủ nên lại sai sứ đến Tây thiên thỉnh về được tám phẩm là Bệnh hạnh, Thánh hạnh, Phạm hạnh, Anh Nhi hạnh, Đức vương, Sư tử hống, Ca-diếp và Kiều-Trần-như, dịch được hai mươi quyển gồm bốn mươi cuốn truyền bá ở phương Bắc đến niên hiệu Huyền thỉ năm thứ năm là xong. Bấy giờ Giao Hưng (ghi lầm là Giao Trường) lại đổi hiệu là Hoằng Thỉ. Niên hiệu Huyền Thỉ thứ năm tức là niên hiệu Nguyên Hi thứ nhất đời vua Cung đế (viết lầm là Thái Đế) nhà Tấn, kinh truyền đến nhà Tống đời Vũ đế Lưu Dụ, được bốn năm thì sang đời Văn đế, Văn đế rất tôn kính và ưa thích kinh này, cho nên ban sắc cho hai vị Cao tăng danh đức là Tuệ Quán ở chùa Đạo Tràng, Tuệ Nghiêm ở chùa Ô Y, và một vị cư sĩ nổi tiếng thông hiểu các sách là Tạ Linh Vận, huyện lệnh Khang lạc, chứng nghĩa hiệu đính, và chia phẩm Thọ mạng thành các phẩm Tự, phẩm Thuần-đà và phẩm Ai thán, chia phẩm Như Lai tánh thành phẩm Tứ tướng, Tứ y, Tà chánh, Tứ đế, Tứ đảo, Văn tự, Điểu dụ, Nguyệt dụ và Bồ-tát, tổng cộng là mười hai phẩm, cộng với mười ba phẩm đã có thành hai mươi lăm phẩm, ba mươi sáu quyển, hơn một muôn bài kệ. Ngài Đàm-vô-sấm nói rằng: "Nghĩa kinh đã đủ, nhưng văn kinh thì chưa hết, còn thiếu ba phẩm, đó là phẩm Phó chúc, Thiên Thân và Phân Xá-lợi, với hai muôn lời chưa đến Trung Quốc". Tiểu Lượng nói: "Các phẩm được phân chia là của Lathập". Vì ở Quang Trung chưa có kinh Niết-bàn truyền đến, nên e rằng lời nói ấy là sai lầm. Các kinh luật đều nói các phẩm ấy là của Tạ Linh Vận v.v... là đáng tin cậy.
Đầu tiên ba vị muốn lược bỏ trăm câu kệ, nhưng đêm nằm mộng đều thấy một người rất uy mãnh nghiêm khắc quở trách rằng: "Người dùng tâm phàm mà thay đổi ý Thánh, tội ấy rất lớn, nếu không dừng ngay, ta sẽ dùng chày Kim cương đập nát ra như bụi". Do đó mà chẳng dám lược bỏ, chỉ lược bỏ lời thô mà giữ lại ý đẹp, như câu "Khóc lóc mặt mũi sưng" đổi thành "Luyến mến tăng bi động", câu "Lanh lợi miệng ta" đổi thành "Như cách thương con" cho nên văn chương rất bóng bẩy trong sáng.
Kinh là từ ngữ gọi chung, như Pháp Hoa Sớ đã nói, phẩm Tựa thứ nhất cũng giống như Pháp Hoa Văn Cú.
b) Duyên khởi sớ: Lúc tôi còn trẻ theo hầu ngài Tuệ Chửng ở Nhiếp tịnh, ngài Tuệ Chửng trao cho kinh Đại Niết-bàn tôi đã tụng được một nữa, tuy không lanh lợi thông minh nhưng vẫn nguyện muốn được nghe chỉ thú kinh này, bèn mang hành trang đến Thiên Thai, trong tâm vui mừng mong được nghĩa thù thắng. Vừa đến không lâu, lại gặp Đại sư xuất cốc không ngờ rằng ta đức mỏng mà được theo hầu Đại sư về triều đình. Đại sư đã truyền giới cho hai cung, soi sáng cho bảy chúng. Đạo tục đến tham thỉnh không bao giờ dứt. Ta tuy khao khát cam lồ, như đợi nước sông Hoàng Hà trong mát nhưng há có được chăng? Từng diện kiến, thỉnh giảng kinh này, vua đã giáng chỉ cho phép, nhưng tôi vì nghiệp nặng nên không có ngày được nghe. Đến khi nhà Tần sụp đổ, thầy trò tản lạc. Sau được nhóm họp ở Khuông lĩnh, lại đến Kiền lưu (vùng biên giới Trung Quốc), rồi qua Giang lăng lại gặp chiến tranh. Sau vua Dạng đế ban sắc thỉnh Đại sư đến Giang phố, còn ta bị bệnh nặng nằm ở Dự chương, hết bệnh lại xuôi về Nam hồ thì đã nghe Đại sư trở về Thiên Thai. Mùa thu đến Phật lũng, thì mùa đông Đại sư đã nhập diệt. Ôi! Pháp chướng của ta sâu nặng, đâu thể nói hết được! Xưa, năm trăm người mù bảy lần đến chỗ Phật tìm Phật nhưng không gặp Phật, một con chó nghe hai chuông cùng đánh, chó chết giữa dòng mà chẳng được ăn, vào núi ra hang, băng đồi vượt suối, hy vọng nghe được kinh này nhưng rốt cuộc không được mãn nguyện. Ôi! Mặt trời đã khuất núi mà mong có ánh sáng, rùa mù dưới đáy biển mà tưởng được bọng cây thì có thể tìm được sao? Tôi bèn đến tháp Đại sư quét dọn trồng cây, tụng đọc kinh này, suy nghĩ biết rằng do oan nghiệt đời trước mà dẫn đến chướng nạn hôm nay, muốn ẩn cư suốt đời, nhưng việc chẳng như ý muốn, bị ép ngặt không nghỉ ngơi được, đành phải gởi thư về triều đình. Thuận việc tăng sai mà đi, việc xong trở về, ròng rã suốt tám năm. Rồi do cuộc tranh luận ở chùa Nhật Nghiêm nên phải trở lại Hành dương, nước dâng ở rừng Đào lâm, chạy tránh cho nên mất bạn, lại bị gièm xiểm vu cáo mà đày đến Bắc (U kế), đi trên băng để qua sông, thì lại bị sụp băng mà chết, may thay thân vẫn còn, nguy nạn như xuống vực sâu, như đi trên băng mỏng, sống mà bước trên đất chết, ách nạn nguy hiểm liên miên chẳng thể kể xiết. Xưa mang hành lý, ngàn dặm đi về Đông nam, rồi ba lần bị vu cáo mang tội, bị đày nơi Tây Bắc, do đó mà việc nghe và học không thành tựu. Nhưng tâm mến pháp chẳng mất, bèn tìm những bản sớ xưa, đối chiếu với văn kinh, nhưng lại thấy chẳng hợp. Điều đó khiến cho tôi suốt ngày buồn bực, tựa như thân bị bệnh, cho nên bắt chước kẻ mù rờ voi, học theo kẻ nằm mộng mà bàn về đạo. Vào ngày 10 tháng 10 niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười, tôi tạm ngụ ở phía Nam Thiên thai, dùng trí hiểu biết hời hợt cạn cợt của mình đối với ý nghĩa của Đại sư Trí Giả, mà giải thích văn kinh. Nhưng gặp lúc nhà Tùy suy vi giặc giã cướp bóc nổi lên khắp nơi, đến nỗi rừng núi náo động, sông biển nổi sóng cuồng, không đâu có thể dùng làm nơi soạn sớ. Tôi bèn ẩn tránh đến Ốc châu, lấy bóng cây rừng làm màn, trúc làm chiếu, nghiên tầm nghĩa lý của bậc Thánh. Nhưng y phục đã rách nát, thức ăn đã cạn, nên việc biên soạn lẫn lộn trước sau, đành phải ôm giữ chí bé nhỏ mà gởi thân nơi an vui. Bản thảo tạm xong buông bút nghỉ dưỡng bệnh. Lúc bấy giờ, quan huyện lệnh họ Đặng, thỉnh giảng kinh Duy-ma, tôi liền đáp ứng.
Vì không thể thực hiện cả hai, nên phải giữ bản thảo tại dinh của huyện lệnh, bỗng nhà bị cháy sạch, may thay bản thảo được bậc Thánh hộ trì nên chẳng hủy hoại. Sau lại gởi thân đến Sách thành. Thì bọn cướp biển đột nhiên đánh phá, vàng đá đều tan, nhưng nhờ Tiêu Lượng giúp đỡ, nên thân được an mà sớ nguyên vẹn, vì thế cho rằng lửa chẳng đốt được, giặc chẳng hại được. Lần nữa lại nhờ linh dị, nên tâm càng tín thành tinh tấn. Sau đó, tôi lại trở về Toại An để sửa lại bản thảo. Nhưng lại gặp chiến tranh, ăn nghỉ chẳng yên mới dời về An châu. Nơi đây bốn phía là nước, sóng gợn lăn tăn không có dấu vết của người và vật, cảnh trí thanh vắng u nhàn, lại có hai ngọn Vĩ và Quán chập chùng liền nhau rất đẹp. Bên trái có dòng suối, nước lắng trong như gương để soi tâm, bên phải có hồ sen hoa nở hồng xem thật vui mắt, gió luồn qua bụi trúc còn mát hơn cả quạt bằng ngà voi, cỏ tốt làm tòa còn hơn cả chỗ ngồi của họ Đới. Lại thêm mây trắng ráng hồng vẽ lên cây tùng cành quế, tạo thành bức tranh năm màu tuyệt đẹp. Rồi vượn hú, chim kêu hòa âm cùng tiếng ve tiếng ếch, như tám âm điệu phát ra từ tiếng trúc tiếng tơ, thật là tự nhiên mà thanh thoát u nhàn, chẳng phải cảnh nhân gian, nhưng hằng ngày sáng tối vẫn siêng năng trồng lúa đốn củi nuôi dưỡng sắc thân.
Từ khi bắt đầu soạn sớ đến nay đã được năm năm. Trong thời gian này, không năm nào chẳng gặp chiến tranh, không tháng nào chẳng có đánh nhau. Rau rừng làm thức ăn, nước suối làm thức uống, băng lạnh làm giường, tuyết làm mền chiếu, một mình một cõi, mộng sợ hãi đã hết mà mối lo lắng vẫn còn. Từ ngữ đã có mùi hoang dã ý nghĩa thì chẳng hợp văn kinh, bộ Huyền Nghĩa này một quyển, giải thích văn mười hai quyển, dùng bảy trăm trang giấy (có bờ thì dễ mất, biển rộng thì khó cùng), như cái biết nghiêng lệch của người mù rờ voi, của kẻ mộng nói được đao, thì đâu dám tự cho là tròn đầy? Chỉ vì không phụ bản hoài, vì sợ vô thường chợt đến như đập đá nháng lửa nên chẳng dám đợi lâu. Bôn ba tìm kinh này là trả thân nghiệp, khen ngợi pháp môn Giải thoát là tạ ơn khẩu nghiệp và ý nghiệp. Vì dẹp sạch cỏ dại và thuốc độc để nuôi dưỡng Dược vương, chớ loài bò ngựa, cua càng này đâu dám chống cự với xe, lửa đom đóm này đâu dám sánh với mặt trời.