TẠNG LUẬN
SỐ 1766 - NIẾT-BÀN HUYỀN NGHĨA PHÁT NGUYÊN CƠ YẾU
Đời Tống Sa-môn Thích Trí Viên ở Tiền đường soạn
Niết-bàn không có nơi chốn, Phật tánh không có thật thể, mà Bồ-tát thấy đó cho là Giả, Nhị thừa thấy đó cho là Không, còn phàm phu hàng ngày vẫn sử dụng nhưng chẳng biết. Cho nên đạo của Như Lai thật hiếm có. Xưa, Đức Đại Giác Năng Nhân thương xót các loài chúng sinh chưa giác ngộ, nên trên thì quán xét lý diệu, dưới thì lập bày danh hiệu, do đó mà kinh liễu nghĩa Viên thường xuất hiện. Kinh ấy Thể thì nói thấy tâm, được thỏ quên lưới, chẳng biết giềng mối cùng cực. Đến thời kỳ cách xa bậc Thánh, căn cơ chúng sinh có đốn có tiệm, nên Đại sĩ Tứ Y soạn Sớ. Nhưng có một số người quá mê muội chẳng hiểu yếu chỉ này, cho nên bậc Đại sư mới soạn lời ký, khiến cho nhờ ký mà rõ được sớ; từ sớ hiểu được kinh, từ kinh thấu được lý, lý từ đây mà được, vậy thế nào là kinh, thế nào là sớ, thế nào là ký, nếu hòa lẫn thành một thì đạo của Như Lai phục hồi chẳng xa. Nếu xét công lao thì ký có công khải phát, cho nên người cầm bút lập ngôn, thật là khó khăn. Tôi đã từng thử nói về điều này. Hễ muốn giải mối nghi của người trước, mở
84 BỘ KINH SỚ 21 chỗ ngăn lấp của kẻ sau, thì phải có trí, có học, có tài. Nếu chẳng trí thì đâu thấu được viên lý mà dứt trừ thị phi; nếu không có học thì đâu hiểu lời của bậc Thánh mà thông được lý luận; nếu chẳng có tài thì nói không có văn chương, hành chẳng được cao xa; cả ba phải đầy đủ, mới gọi là Bút tước.
Bộ Huyền sớ này, Đại sư Chương An đã dùng nghĩa thú của Đại sư Trí Giả giảng bày tông chỉ của ngài Long Thọ hầu làm rõ ý kinh. Theo người xưa mà soạn thì chẳng có gì gọi là lớn lao, Viên tôi hèn kém, trí thì mê, học thì ít, tài thì sơ, cho nên chẳng phải là người lập ngôn. Nhưng thầm nghĩ, bản văn này đã thất truyền, cho nên mới biện lý giải phân mà soạn Bút ký cho Huyền Sớ, nên có Huyền Ký hai quyển, Sớ ký hai mươi quyển, nhưng văn thì đơn giản, nghĩa lý thì sâu xa, người học không thể nắm bắt được ý thú, về sau có người thông đạt như Kinh Khê thuở trước nhận ra được chỗ lầm lẫn của tôi, mới cầm bút chỉ bày những điều hay đẹp khiến cho kinh này, sớ này được truyền bá rộng khắp ở đời, mà dẫn dắt nhiều thứ căn cơ vào tạng Bí mật. Đó chẳng phải là tôi có chút công đức hay sao?
Tên kinh là nêu lên lý Đại, văn kinh thì phân tích các nghĩa, các nghĩa do lý Đại mà có. Thí như thấy nguồn thì biết nhánh của nó nhiều, hợp các nhánh lại thì biết nguồn của nó chỉ là một. Cho nên, năm nghĩa của Huyền, năm môn của Sớ, đại khái cũng đều làm rõ ý này, khiến cho lý Đại và các nghĩa, chung và riêng quan hệ nhau mà không vượt ngoài ba đức. Ba đức là sở chứng của Phật, vốn đầy đủ trong chúng sinh. Chúng sinh và Phật
SỐ 1766 NIẾT BÀN HUYỀN NGHĨA PHÁT NGUYÊN CƠ YẾU, Lời tựa không hai, đồng trở về tâm. Nếu như thế thì cái chung của tên kinh, cái riêng của phẩm quyển đều ở trong tâm ta mà chẳng phải vật khác. Tôi có soạn Sớ ký, dùng chỉ quy làm tên, đó là vì giúp cho từ riêng mà biết chung. Bản này dùng phát nguyện làm tên là khiến cho từ chung mà biết riêng. Đó cũng là khen ngợi yếu chỉ nhiệm mầu của sớ chủ, như thế đâu phải là do tôi tự soạn ra chăng? Vả lại, Huyền nghĩa này dùng lời kinh để tạo thành văn chương, nhưng dẫn đủ thì văn dài dòng, lược bỏ thì nghĩa lại thiếu, cho nên mới thô thiển trích dẫn văn kinh, hầu bổ sung cho đại nghĩa, đặt tên cơ yếu. Người thông đạt được tông tôi, nếu chẳng cho đây là những lời phân biệt ngông cuồng để định tội tôi, thì có lẽ có chỗ đáng xem qua mà không giấu giếm.
Đời Tống năm thứ ba, Thiên tử tại vị năm thứ mười bảy, niên hiệu Đại Trung Tường Phù thứ bảy, ngày mười lăm tháng giêng năm Giáp Dần. Sa-môn Thích Trí Viên, tự Vô Ngoại ở Tiền đường, soạn lời tựa tại phương trượng chùa Sùng pháp, ở núi Đại từ.
-------------------------------
Huyền nghĩa này là bản cũ của ngài Chương An, văn nghĩa đã đến chỗ cùng tột rồi, cho nên ngài Kinh Khê không cần phải sửa đổi nữa. Có chỗ cho rằng; đoạn văn sau có câu "một chương đã sót", tức biết đã được tu chỉnh. Nay thì cho rằng chẳng phải như thế, câu nói ấy là do người sau thêm vào, là viết lầm. Vì đó là những lời hẹp lậu thông thường, đâu thể lấy đó làm chứng cứ để cho rằng do ngài Kinh Khê đã sửa đổi. Nếu có sửa đổi thì phải viết: "Bốn, là nói về Bất sinh, và bất sinh" dưới có ghi chú chữ "khuyết" giống như họ Lương san định ba chương lớn của Chỉ Quán đều có ghi chú chữ Khuyết. Nay dùng bảy nghĩa để xem xét rằng phải do ngài Kinh Khê sửa đổi.
1) Nếu sớ văn đã được sửa đổi thì đề mục chung phải lược bỏ hai chữ "Đại Bát" mà bản này lại đầy đủ nên biết không qua sửa đổi.
2) Dưới đề mục không có tên hiệu của người sửa đổi.
3) Có chỗ cho rằng khuyết danh, nhưng dầu có khuyết danh thì không hợp, vì tên của sớ chủ đã viết rõ. Như vậy so sánh trong sớ này thì thích hợp nhất là nói
Pháp sư Quán Đảnh soạn. Nay đã hiểu rõ tên húy của sớ chủ, cho nên biết chẳng phải có tu chỉnh.
4) Trong văn hoàn toàn không có lời tự xưng cho nên biết không có sửa đổi.
5) Y cứ theo bộ Tịnh Danh thì ngài Kinh Khê chỉ san lược sớ văn, mà không sửa đổi Huyền nghĩa, cho nên biết chẳng có sửa đổi.
6) Văn sớ bản cũ và bản sửa lại cả hai đều phải còn, mà Huyền nghĩa chỉ có một bản.
7) Y cứ vào văn sớ, nếu phần giải thích nghĩa có thiếu sót thì ngài Kinh Khê thêm vào. Nay đều đã có sửa đổi, vì sao chương Bất sinh thiếu sót không có giải thích? Nhưng ý nghĩa chẳng phải khó nhận thấy, nhưng sợ người sau xuyên tạc lầm lẫn, cho nên mới bình luận.
A. GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC: Gồm có hai phần:
I. Pháp: Đề là huyền nghĩa, vì năm chương giải thích đề, đã hiểu rõ cùng tận yếu chỉ của kinh.
II. Nói về người soạn sớ: Sa-môn, Hán dịch là Cần tức, nghĩa là siêng năng dứt trừ phiền não. Kinh Thụy Ứng ghi: "Vì dứt bỏ vọng tâm mà được bản nguyên, nên gọi là Sa-môn". Nếu dứt trừ vọng tâm kiến hoặc, tư hoặc đạt được bản nguyên Chân đế, đó gọi là Sa-môn Tạng thông; Nếu dứt bỏ vọng tâm trần sa hoặc được bản nguyên Tục đế, đó là Sa-môn Biệt giáo: Nếu dứt trừ vọng tâm vô minh đạt được bản nguyên Trung đạo, đó là Sa-môn Viên dung. Như theo thứ lớp dứt trừ ba hoặc, đạt ba bản, là Sa-môn Biệt giáo; nếu trong một niệm tâm dứt được ba hoặc, là Sa-môn Viên giáo. Nhưng danh từ
Sa-môn, trong các giáo lại chung với nhân quả. Nay nói theo sự tích của Sớ chủ, thì ngài chính là Sa-môn trong nhân ở trước Thập trụ.
Quán Đảnh tức là tên húy, Pháp vân địa thứ mười trong ngôi vị Thập địa của Hoa Nghiêm gọi là Bồ-tát Quán đảnh vị. Kinh ghi: "Vì chư Phật rải nước trí tuệ lên đảnh của vị Bồ-tát ấy, cho nên gọi là Quán đảnh; ngài tự là Pháp Vân, tiểu tự là Phi Phàm, nghĩa là bậc Thánh Thập địa chứ chẳng phải phàm phu, Tam Hiền. Ngài vốn họ Ngô, quê ở Nghĩa Hưng thuộc Thường Châu, tổ tiên lánh sang Đông Âu nay là Chương An, Lâm Hải, không trở về quê cũ nữa. Cha ngài mất sớm, mẹ tự nuôi con. Lúc mới sinh được ba tháng, ngài đã muốn đặt tên, mẹ ngài suy nghĩ đến các vật loại mà chưa biết đặt tên gì, cho nên hằng đêm thường niệm Phật, Pháp, Tăng, Ngài liền bắt chước đọc theo, âm thanh câu chữ thật rõ ràng, mẹ ngài kinh ngạc, thưa lại với Hòa thượng Tuệ Chửng chùa Nhiếp Tịnh. Hoà thượng nghe xong liền cười và nói: "Đứa bé này thật phi phàm", liền dùng chữ này làm tự. Lên bảy tuổi, ngài vào làm đệ tử ngài Tuệ Chửng; tài trí ngày càng tiến, Nho Lão ngày càng thông. Đủ hai mươi tuổi được đăng đàn thọ giới Cụ túc. Sau khi Tuệ Chửng viên tịch, ngài đến Thiên Thai thọ học. Lúc bấy giờ là niên hiệu Chí Đức năm thứ nhất đời Trần, ngài hai mươi bảy tuổi. Đại sư Trí Giả có biện tài như nước chảy mây trôi, chỉ có mình ngài lãnh thọ được, có khả năng ghi nhớ. Cho nên, trong các Pháp hội của Đại sư hoặc lúc du phương; thì ngài đều là bậc Thượng thủ. Về sau, đến tháng mười, niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười, đời Tùy, ngài dời đến phía Nam Thiên thai, soạn bộ sớ văn này. Trải qua năm năm bộ sớ hoàn thành ở An châu, tức là vào niên hiệu Vũ Đức thứ nhất đời Đường. Ngài thường giảng kinh này (Niết-bàn) tại chùa Nhiếp Tịnh, ở Chương An, một hôm bỗng bọn cướp biển đến cướp phá, Tăng tục đều bỏ chạy, ngài liền gióng chuông, vẫn giảng kinh, nét mặt không hề sợ hãi. Quân giặc từ xa phất cờ xông đến, bỗng thấy binh lính cờ xí rợp trời, người cao hơn trượng, kẻ cầm cung, người mang kích, mạnh mẽ xông lên, quân giặc hoảng hốt kinh sợ trước thần thông cảm ứng như thế nên liền bỏ chạy. Sự tích này có ghi trong Khoa Tập Thiền của Đường Tục Cao Tăng truyện. Còn những thuận lợi của việc soạn sớ và những khổ nạn vì pháp thì phần sau sẽ nói rõ. Ngày bảy tháng tám niên hiệu Trinh Nguyên năm thứ mười đời Đường ngài thị tịch tại chùa Quốc Thanh thọ bảy mươi hai tuổi, mùi thơm lan tỏa đầy thất. Ngài bảo đệ tử rằng: "Kinh Di-lặc nói: Khi Phật vào thành, khói hương như mây, các con hãy đốt nhiều hương, ta sắp đi đây". Có người bạn đồng học là Trí Hy, đệ tử Đại sư Trí Giả, lúc sắp thị tịch, vào niên hiệu Trinh Quán thứ nhất, nói rằng: "Ta sinh ở cõi trời Đâu-suất, thấy trong hàng tòa báu của Tiên sư Trí Giả đều có người, chỉ còn một chỗ trống, liền hỏi và biết rằng sáu năm sau có Pháp sư Quán Đảnh lên tòa này niêm hương nói pháp. "Theo ý này thì ngài là Bồ-tát Từ Thị thị hiện giáng sinh, còn tính theo năm, nói theo kỳ hạn thì lời của Trí Hy chẳng dối. Như thế thì tên Quán Đảnh tự Pháp Vân, đâu có ngại gì chẳng thật?
Soạn là gom tập văn nghĩa để giải thích.
B. BẢN VĂN: Gồm hai phần:
I. Tựa chung của huyền chỉ: gồm hai:
1) Nêu tên kinh Đại Bát-Niết-bàn.
Vì tựa này là tựa vương mở đề, cho nên lập riêng, như bài tựa Pháp Hoa Huyền Biệt Hành Kinh, cũng gọi là Tựa vương, nếu lược bỏ thì chẳng đúng.
Từ "Phàm Chánh v.v... trở xuống": Là phần chính của lời tựa, gồm có hai: a) Khen ngợi chung về tông quy của ba đức, gồm hai phần: a1. Khen ngợi tông chỉ nghĩa lý sáng tỏ của kinh: Gồm có ba. a1.1. Khen ngợi Lý và Sự: gồm có hai. a2.1.1. Khen ngợi Sự Lý dung tức: gồm có hai: Khen ngợi Lý tức sự-Sự tức Lý.
Lý tức là lý Tam thiên Tam đế, chúng sinh và Phật nhất quán, nhân quả không khác; Sự tức sự tướng mười cõi mê ngộ, mới cũ khác nhau, đầu cuối khác nhau. Thế thì tức sự mà lý, như sóng tức là nước; ngay nơi lý mà sự, như nước tức là sóng. Cho nên lý và sự là chỗ giải thích sáng tỏ của kinh này, là chỗ cực trí của Giáo, cho nên ở đầu bản văn dùng để khen ngợi.
+. Khen ngợi Lý tức Sự.
Văn đầu, Chánh đạo, tức là Diệu lý, cả hai đan dệt nhau trong đoạn văn này. Chánh để phân biệt tà đạo, tức là nói theo năm thông. Nghĩa là lý Niết-bàn Phật tánh, không có hai bên mà trùm khắp tất cả, cho nên gọi là Chánh đạo. Diệu thì chẳng ngang chẳng dọc, lý thì gồm thâu tất cả. Không có xao động đầu cuối, cho nên gọi là vắng lặng; không trệ ngại nơi cũ và mới, nên gọi là hư huyền. Lại vắng lặng tức là Diệu lý vắng lặng, hư huyền tức Chánh đạo rảnh rang. Nói Chánh đạo vắng lặng bởi vì chánh đạo tức Diệu lý, nói Diệu lý hư huyền vì Diệu lý là tức Chánh đạo. Tuy hai tên gọi nhưng chẳng có hai thể. Cho nên, theo Lý thì không có Sự khác nhau giữa mới và cũ, đầu và cuối; nhưng theo sự thì rõ ràng có đầu cuối, mới cũ. Nay nói Lý thật chẳng lìa Sự, ngay nơi đầu cuối mà không có đầu cuối, mới cũ mà không có mới cũ, giống như ngay nơi sóng tức là nước.
+. Khen ngợi Sự tức Lý:
Từ "vô thỉ v.v... là mới: Không đầu cuối mà có đầu cuối, không có mới cũ mà có mới cũ, giống như nước tức là sóng. Sóng nước đã dung hợp thành một, thì lý sự đâu có phân ra.
Vô minh sinh tử. v.v...
Vô minh đối với chủng trí mà nói có đầu cuối, sinh tử đối với Niết-bàn mà nói có đầu cuối. Chuyển vô minh thành chủng trí, ngay nơi sinh tử tức Niết-bàn; vốn tự vì vô thỉ vốn đã mê; Tu nhân mới được là vì nhờ duyên liễu nhân mà được trí đoạn quả. a2.. Từ "câu kinh này v.v..." Là quy kết để dẫn đến nghĩa lý sáng tỏ của kinh. "Bắt đầu mà chẳng phải bắt đầu v.v...": Trước thì nói vô minh sinh tử là khởi đầu, nay vì sao nói ba nhân Phật tánh là khởi đầu? Vì thể của vô minh sinh tử tức là ba nhân. a1.2. Từ "nếu nhân Phật, v.v..." Là giải thích theo phức và đơn, gồm có ba:
- Xét theo định: Từ thế thì v.v... là giải thích nghĩa hai câu trên, "Như" tức là lý sự. Nhân lý tức quả lý, cho nên Phật tánh chẳng phải nhân. "Quả như v.v... là nói về việc vì quả lý tức nhân lý, cho nên Niết-bàn chẳng phải quả.
- "Nếu nhân v.v...": Là giải thích theo phức về đoạn văn trên. Nghĩa là đã hiểu lý nhân quả đồng thời, thì chẳng những lý sở chứng cực quả chẳng phải cũ chẳng phải mới, mà lý vốn đầy đủ ở phàm phu cũng chẳng mới chẳng cũ. Trong văn lặp đi lặp lại nhiều lần để giải thích. Cho nên nói: "Nhân như chẳng khác quả như, quả như chẳng khác nhân như". Đại khái là để hiểu lý nhân quả là một. Hỏi?: Y theo sự giải thích ở trước, Niết-bàn chẳng cũ, vì sao ở đây lại nói chẳng phải mới? Đáp: Nếu nói theo nhân quả đối đãi thì thật có chỗ trái ngược mà nay, tuy phân chia câu để giải thích nghĩa, nhưng cũng hiểu được lý nhân quả đồng thời và chẳng mới chẳng cũ. Cho nên đoạn văn dưới kết luận rằng: "Thế thì cái Như của Phật tánh, Niết-bàn, nhân quả, đều chẳng cũ chẳng mới".
"Thế thì v.v...." là phần kết luận của đoạn văn trên. a1.3. Từ lý chẳng phải mới v.v... là phần kết luận quy về ba đức. Vì lý sự đối nhau cho nên có một tánh hai tu, cộng thành ba đức. Một tánh nghĩa là phối hợp với Pháp thân; tuy lý vẫn có ba, nhưng nay đối với tu nên thành một; hai tu nghĩa là sự, tuy trí, Đoạn nhưng để thầm hợp với lý; nay đối với tánh chỉ nói có hai; đó là hợp tánh thành một, hợp tu thành hai. Nếu y cứ theo Khai (phân chia) thì Tu và Tánh mỗi thứ có ba. Lý tức có đủ ba Pháp thân, Trí là ba Bát-nhã, đoạn là ba Giải thoát. Khai ra tuy thành chín, nhưng chín chỉ là ba; ba và chín xoay vần dung nhiếp lẫn nhau, không ngại. Đoạn sau nói về Thể, Tông, Dụng, mỗi thứ đều đầy đủ trong nhau, tức là ý này. Ngay nơi lý thành giải gọi là chẳng mới mà mới, ngay nơi lý thành hoặc, nên gọi là chẳng phải cũ mà cũ. Đã là hoặc giải, tức lý cho nên chủng trí chẳng phát, vô minh chẳng dứt mà dứt. Vì ngay nơi một mà ba, cho nên chẳng phải chiều dọc như ba chấm thủy, ngay nơi ba mà một, cho nên chẳng phải ngang như bốn chấm hỏa. Chẳng dọc chẳng ngang như chữ Y (...) mới. Nói về Tu và Tánh thì tiến lùi chẳng phải là một; trong Hiển Tánh Lục có nói đầy đủ việc này. a2) Nói về điều làm nghĩa lý kinh sáng tỏ và nguyên do:
Gồm hai phần: a2.1) Nêu chung căn cơ được hóa độ có căn tánh lanh lợi, căn tánh trì độn khác nhau.
Tất cả chúng sinh đều có đủ ba đức, bình đẳng không khác nhau. Nhưng do năng lực huân tập sâu cạn, mà kinh thành căn tánh lanh lợi và trì độn khác nhau. Hàng căn tánh lanh lợi, như trong hội Hoa Nghiêm liền ngộ được Viên Thường: Cho nên kinh Pháp Hoa nói: "Vừa thấy thân ta đều tin nhận, mà nhập vào Như Lai tuệ". Còn người căn tánh trì độn thì trong hội Hoa Nghiêm đều như câm như điếc; hoàn toàn còn như sữa sống; cho nên phải lần lượt trải qua ba vị thần thục, đến kinh này mới trở về Bí tạng. Kinh Pháp Hoa ghi: "Trừ những người trước đã tu tập Tiểu thừa, còn những người như thế, nay ta đều giúp cho họ được nghe kinh này mà được vào Phật tuệ". Trong đó có căn tánh bất định, thì đối với ba vị mà ngộ được Diệu lý. Đối với hạng trước thì gọi là trì độn, đối với hạng người sau thì gọi là lanh lợi. Do căn tánh chẳng đồng như thế, nên có năm thời giáo khác nhau, mới có sự tùy duyên của bậc Đại Thánh. Đốn tức Hoa Nghiêm, Tiệm tức Ba vị. Thời Lộc Uyển là Tiệm Thỉ, thời Phương Đẳng là Tiệm Trung, thời Bát-nhã là Tiệm Chung, thời Pháp Hoa Niết-bàn xóa bỏ ba thời đốn tiệm mà trở về chẳng đốn chẳng tiệm.
"Đốn thì như v.v..." trở xuống. Là phần nêu lên văn kinh để nói lên ý nghĩa đã giải thích.
Cỏ nhẫn nhục, v.v... trở xuống: Kinh Niết-bàn quyển hai mươi lăm ghi: "Ở núi Tuyết có một loại cỏ, tên là Nhẫn nhục, nếu bò ăn sẽ được vị đề hồ". Núi Tuyết dụ cho Phật, nhẫn nhục dụ cho giáo, bò dụ cho căn cơ, ăn dụ cho sự tu hành, được đề hồ dụ cho nhập vào ngôi vị. Hàng đốn căn cầu xin Phật nói giáo Viên đốn, nghe giáo tu hành phát sinh kiến giải được nhập Trụ. Chứng ngộ như thế là căn tánh lanh lợi, trong hội Hoa Nghiêm ngộ được lý ba Đức, căn cơ này tuy gồm cả Biệt, nhưng đây là nói theo Viên. "Tiệm thì, v.v... trở xuống: Kinh Niết-bàn quyển mười ba ghi: " Từ bò sinh ra sữa, giống như từ Phật mà có ra mười hai thể loại kinh, tức là thời Hoa Nghiêm; Từ sữa biến thành lạc, từ mười hai thể loại còn chín thể loại, tức là thời A-hàm; Từ lạc biến thành bơ, như từ chín thể loại có ra Phương Đẳng; Từ bơ sống biến thành bơ chín, như từ Phương Đẳng có bơ chín, biến thành đề hồ, như từ Bát-nhã mà có ra Đại Niết-bàn". Nghĩa "Khai Hiển" của Pháp Hoa và Niết-bàn giống nhau, cho nên trong kinh tạm lược bỏ. Đây là sự chứng ngộ của người căn tánh trì độn, như trong hội Hoa Nghiêm: "Hoàn toàn như sữa" phải lần lượt trải qua ba vị theo thứ lớp thành thục, đến kinh này mới tròn đầy ba đức, cho nên gọi là "thứ lớp tròn đầy". "Ví như, v.v..." trở xuống: Kinh Niết-bàn quyển hai mươi bảy ghi: "Hòa thuốc độc vào sữa, thì sẽ giết người. Lạc và hai vị bơ (bơ sống, bơ chín) hòa với thuốc độc cũng như thế". Xưa chứa nhóm liễu nhân gọi là hòa thuốc vào sữa, nhờ hôm nay nghe giáo pháp, thuốc độc bộc phát khác nhau. Như lúc xưa, hai vị bơ gieo trồng giống Viên thừa, nay lại được nghe giáo pháp thì vô minh liền diệt, nên gọi là giết người, sự chứng ngộ này là căn tánh bất định, mỗi vị đều được vào. "Tất cả đều là v.v..." trở xuống là đoạn tổng kết. "Năng Nhân là tiếng Trung Quốc dịch của danh từ Thích-ca. Diệu cùng khắp quyền thật. Năm thời tăng hoặc giảm cũng không ngoài bốn giáo. Sở thuyên của mỗi giáo đâu lìa mười cõi, Tạng Thông thì nói sáu cõi; Biệt Viên thì nói mười cõi. Từ tức và chẳng tức mà chia thành bốn giáo khác nhau. Nay bậc Năng Nhân rốt ráo hiểu lý, mười cõi chỉ ở nơi tâm, chín quyền một thật, Lý quyền thật bình đẳng. Cho nên gọi là Diệu cùng. "Xảo phó" v.v... trở xuống nghĩa là cũng do chúng sinh đầy đủ lý quyền thật nên mới cảm đến Như Lai bày ra giáo quyền thật. Quyền thật tuy khác mà lý thường bình đẳng. Cho nên luận Bất Nhị Môn ghi: "Do chúng sinh có đầy đủ lý chẳng quyền chẳng thật đó là cơ quyền thật, Phật cũng có quả chẳng quyền chẳng thật, đó là ứng quyền thật. Khánh là tận, Sảng là mất. a2.2) "Nay kinh này v.v..." là phần nêu riêng ý kinh.
Kinh này khai thông vãng tích v.v... là khai các môn quyền thừa, hiển bày nghĩa thật ngày nay. Cho nên kinh Pháp Hoa ghi: "Mở cửa phương tiện, chỉ rõ tướng chân thật". Mật nghĩa, tức là Phật không chỉ bày thì hàng Tiểu cơ chẳng biết. Ngoài ra, trước đã lập bày phương tiện, mà Mật nghĩa ở tại Viên giáo, nay lại nói về nghĩa này, cho nên mới gọi là hiểu rõ phương tiện Mật nghĩa của Như Lai. Như Lai rốt ráo chẳng nhập Niết-bàn, nghĩa là hàng căn cơ Tiểu thừa cho rằng Phật là Viên đốn, nguội thân bặt trí, biết Phật thường trụ. b) Tựa riêng của năm chương Huyền Nghĩa: "Từ kinh này v.v..." trở xuống là gồm: b1) Tựa: có hai: b1.1) Giải thích tên gọi các tựa: Gồm có hai: b1.2) Phiên dịch danh và thích nghĩa: gồm có hai: b3.1) Giải thích theo ba đức: Gồm có hai: b4.1) Nêu chung tiếng Phạm. b4.2) Tùy văn phiên dịch: Gồm có hai: b4.2) Giải thích tên riêng: Gồm có ba: b4.2.1.1) Phiên đối khai chương. b4.2.1.2) Y chương chánh thích.
Hai thứ phiền não sinh tử, tức là kiến hoặc và tư hoặc thuộc giới nội, chiêu cảm sinh tử phần đoạn, vô minh phiền não thuộc giới ngoại, chiêu cảm sinh tử biến dịch. Xa lìa nhân quả trói buộc, nhân tức phiền não, quả là sinh tử. Từ giải thích theo nghĩa chung v.v... là phần giải thích chữ Đại, rộng lớn bao trùm gọi là Đại. Vì ba đức bao gồm trăm cõi, nên đủ để thọ nhận tên gọi Đại. Vì Viên dung, vì không lưu động ở hai bên, cho nên vắng lặng, tròn đầy dung nhiếp, vì vượt khỏi dòng thác sinh tử, nên đều rốt ráo. b4.2.1.3) Từ "nghĩa chung và nghĩa riêng v.v..." trở xuống là kết luận ý nghĩa:
Hiển bày đề mục là quả vô thượng chí cực, nghĩa là y cứ theo Niết-bàn do rốt ráo hiển bày để lập đề. b4.2.2) Thông danh là tên chung của Thánh giáo, vì Đại, Tiểu, Thiên, Viên đều gọi là Kinh. Giải thích riêng về việc có phiên dịch hay không phiên dịch.
Như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, y cứ vào Hữu phiên và Vô phiên mà chia ra mỗi thứ đều có năm nghĩa. Năm nghĩa về vô phiên (không phiên dịch): Vì tiếng Phạm bao gồm, còn tiếng Trung Quốc đơn và cạn, không dùng để phiên dịch, nên phải giữ nguyên âm. Đã không phiên dịch thì gồm năm nghĩa: Pháp bản, Vi phát (hiển thị), Dũng tuyền, Thằng hắc và Kết phát. Năm nghĩa của Hữu phiên là: Kinh, Khế, Pháp bản, Tuyến, Thiện ngữ giáo. Thuở xưa, khi Phật pháp mới truyền đến Trung Quốc, Phạm và Hán chưa đối chiếu rõ ràng, cho nên có thuyết Vô phiên, đó là các học thuyết do vùng Hà Tây truyền, và người xưa thường sử dụng. Các nhà chủ trương Hữu phiên, tuy có năm nghĩa, nhưng chỉ dùng nghĩa kinh làm chánh, vì ở Trung Quốc thì lời của bậc Thánh đều gọi là Kinh, cho nên lời Phật nói cũng được gọi là Kinh, đó là phiên dịch theo nghĩa. Vì thế trong tam tạng chỉ gọi là Tạng kinh, trong mười hai bộ chỉ có Kinh bộ. b3.2) "Nếu có v.v..." trở xuống là giải thích theo ba Đế:
Ba đức và ba Đế đồng thể mà khác tên. Trước y cứ theo ba Đức, kế là y cứ theo ba Đế, Văn chia làm hai phần:
- Phiên dịch lại tên riêng
- Giải thích lại ba chữ
* Y cứ theo Chân, Tục, Trung để giải thích Đại.
+ Nói về Chân đế: Vì chấp trước vào tướng rỗng rang cho nên có Đại, vì thế nói là lớn như hư không.
+ Y cứ theo nghĩa Tục đế: Vì Thể có đủ ba ngàn nên gọi là Đại, vì thế mà nói rằng, tánh nó rộng lớn.
+ Y cứ theo nghĩa Trung đạo đế: Vì ngăn che và chiếu soi không hai, cho nên là Đại, vì thế gọi là không nghĩ bàn, chẳng do tiếng nhỏ:
Nghĩa là hư không dứt bặt đối đãi, chẳng phải đối với nhỏ mà gọi là lớn.
* Y cứ theo Chân, Tục, Trung đều gọi là Diệt:
+ Y cứ theo Chân đế tự lợi mà gọi là Diệt:
Vì diệt sinh tử của phàm phu nên gọi là Diệt. Vì diệt hai mươi lăm hữu chứng Niết-bàn Nhị thừa, nên gọi là vật luống dối.
+ Y cứ theo Tục đế hóa tha để nói Diệt: Vì đã diệt ba hoặc, tùy loại hiện thân, nên nói được hai mươi lăm Tam-muội, như phẩm Thánh Hạnh đã giải thích.
+ Y cứ theo Trung đạo để nói về Diệt: Vì diệt chân diệt tục, nên nói sinh diệt đã diệt, sinh tức tục, diệt tức chân; hai bên đều Diệt, nên gọi là đã diệt, vì thế Trung đạo đế gọi là Tịch diệt lạc.
* Y cứ theo Chân, Tục, Trung để nói về Độ.
Độ nghĩa là vượt qua, không chấp trước ba Đế, nên gọi là vượt qua, còn gọi là Đắc độ.
Chẳng chấp Tục đế nên gọi là Độ nơi chẳng độ; chẳng chấp trước chân, nên gọi là Độ nơi độ:
Qua bờ kia của kia đây, v.v... là y cứ theo Trung đạo đế để nói về Độ. Chẳng chấp sự đồng chiếu soi nên gọi là Độ; bờ kia của kia đây là chẳng chấp trước việc cùng ngăn che, cho nên cũng gọi là Độ chẳng kia chẳng đây. Đây tức là sinh tử tục, kia tức là Niết-bàn Chân. "Thần Quy", Trung Hoa xưa nay chú thích linh quy rằng: Huyền văn năm màu là tinh của thần quy, trên hưng long phép trời, dưới thì bình định phép tắc của cõi nước, thấy được sự còn mất, rõ được sự lành dữ, đi được trên đất liền và dưới nước. Trung đạo vượt qua hai bên: Nước dụ cho sinh tử; Đất dụ cho Niết-bàn. b2.2) Tổng kết luận quy về ba pháp, v.v...
Phẩm Ai Thán ghi: "Vì sao gọi là Tạng bí mật, vì giống như ba chấm của chữ Y (...) nếu ngang bằng thì không thành chữ Y, nếu đứng một hàng dọc cũng chẳng thành chữ Y; như ba mắt trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la, mới thành chữ Y, ta cũng giống như thế, pháp Giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn. Thân Như Lai cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma-ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn, ba pháp đều khác nhau, cũng chẳng phải Niết-bàn". Cho nên biết ngay nơi một là ba, ngay nơi ba là một mới gọi là Niết-bàn. b1.2) Lược tựa, "từ Kim cương, v.v..." trở xuống:
Có bốn pháp nhưng phần giải thích Danh đã nói chung ba pháp: Thể, Tông và Dụng, và nói riêng ba pháp. Chung đã bao gồm riêng, riêng chẳng lìa chung; vì riêng chẳng lìa chung, cho nên Thể tức là Đại, Tông tức là Độ, Dụng tức là Diệt, giáo tướng là phân biệt chung và riêng về ba pháp. Kinh Kim Cương Bảo Tạng quyển hai mươi mốt ghi: "Như kho báu có đủ các thứ châu báu. Kho tàng sâu kín của Phật cũng giống như thế, đầy đủ không thiếu sót những vật kỳ lạ, nên gọi là Đại Niết-bàn". Vì chẳng hoại hai bên, nên gọi là Kim Cương; vì gồm thâu Tam thiên cho nên gọi là Bảo Tạng; vì không có sự đổi dời của hai thứ tử cho nên gọi là thường an, không bị ba hoặc thiêu đốt nên gọi là mát mẽ, chẳng già chẳng chết là thường trụ bất biến. Bỏ chất độc vào Phạt tánh, chất độc dụ cho Phật tánh, Năm vị dụ cho năm đường. Kinh Niết-bàn quyển hai mươi bảy ghi: "Thí như có người hòa thuốc độc vào sữa, cho đến đề hồ cũng đều có chất độc, tên gọi tuy có thay đổi, nhưng độc tánh vẫn không mất, nếu uống đề hồ thì cũng sẽ chết. Phật tánh của chúng sinh cũng giống như thế, tuy sống trong năm đường thọ thân hình khác nhau, mà Phật tánh vẫn thường nhất không thay đổi. Dùng thấy tánh để phá hoặc thì gọi là giết người, tức là Đại lực dụng của kinh này. Đoạn trước dẫn "trí độc" dụ cho năm thời giáo, ở đây dẫn "trí độc" dụ cho căn cơ năm đường khác nhau. Dẫn một đoạn văn mà dụng ý có khác. Trống độc, như kinh Niết-bàn quyển chín đã nói, thí như có người thoa chất độc vào mặt trống, rồi đánh lên giữa đại chúng, tuy người không có tâm muốn nghe, nhưng khi nghe đều chết, chỉ trừ người không phải chết đột ngột (hoạnh tử). Kinh này cũng như thế, trong đại chúng có người nghe âm thanh kinh, nếu có ba độc thì cũng được diệt hết; tuy rằng không có tâm nghĩ đến, nhưng do năng lực của kinh, phiền não cũng tiêu tan, phạm tội trọng, năm tội nghịch nghe xong cũng gieo được nhân duyên Bồ-đề, dần dần dứt phiền não. Trừ hạng người chẳng chết đột ngột tức là Nhất-xiển-đề. Tám tự tại ngã gồm:
1. Một nhiều: chỉ bày một thân là nhiều thân, số thân lớn nhỏ nhiều như cát bụi, đầy khắp mười phương. Thân Như Lai thật chẳng phải bụi, nhưng do năng lực tự tại nên hiện thành nhiều thân như bụi.
2. Lớn nhỏ, chỉ để bày một trần thân đầy khắp thế giới đại thiên.
3. Nặng nhẹ, dùng thân hình đầy cõi Tam thiên này nhẹ nhàng bay lên hư không, mà thật không có nặng nhẹ.
4. Sắc tâm: Như Lai nhất tâm an trụ bất động, có khả năng thị hiện biến hóa thành vô lượng hình loại.
5. Căn: Sáu căn sử dụng lẫn nhau.
6. Đắc: Đắc tất cả pháp mà không có tướng đắc.
7. Thuyết: Giảng nói một bài kệ, dẫu trải qua vô lượng kiếp, nghĩa cũng chẳng cùng tận.
8. Kiến: Như Lai ở cùng khắp tất cả mọi nơi, như hư không chẳng thể thấy được. Tất cả được ghi trong kinh Niết-bàn quyển mười hai.
Hai chữ Thường Trụ: Phẩm Thọ Mạng ghi: "Thường nên chuyên tâm tu tập hai chữ này: Phật là thường trụ, nếu tu hai chữ này, thì nên biết người ấy tu theo hạnh của ta, mà đến được chỗ ta đến". Phẩm Tứ Đế ghi: "Hoặc nghe âm thanh hai chữ Thường trụ, dù chỉ một lần thôi, liền được sinh lên cõi trời, là Vô thượng đề hồ.
Kinh ghi: "Từ bơ chín sinh ra đề hồ, như từ Ma-ha Bát-nhã sinh ra Đại Niết-bàn. b2) Quy về tướng của cực giáo: Từ câu "tên thì bao gồm, v.v..." trở xuống.
Lời của bậc Thánh chỉ dạy kẻ dưới gọi là Giáo, phân biệt đồng dị gọi là Tướng. Nghĩa là phân biệt kinh này nói về Ba đức Viên dung khác với ngang dọc nghiêng lệch của Tiểu thừa. Ngoài ra nếu so với các Bộ trước nói về viên tuy có đồng, nhưng "Kiêm đẳng" thì khác, nay tuy có lập bày lại là cũng đồng biết Phật tánh, nhưng ý nghĩa không bao giờ giống với "Kiêm đẳng".
Năm xứ thuộc Thiên Trúc chẳng giống nhau.
Nghĩa là năm nước đều gọi là Thiên Trúc, mà ngôn ngữ âm vận khác nhau. Thiên-trúc, có chỗ dịch là Thân Độc, hoặc dịch là Hiền Đậu thì đều sai lầm. Gọi đúng là Ấn-Độ; Ấn-Độ là tên của mặt trăng, mặt trăng có một ngàn tên, đây chỉ là một trong các tên đó. Bởi khai ngộ chúng sinh chiếu soi như mặt trăng, do đó mà có tên là Ấn-Độ. Xa gần hơi khác: Nghĩa là âm điệu phần lớn khác nhau, chỉ có xa gần hơi khác, như ở vùng trung ương thì nói là Ma-ha, còn vùng Đông nam thì gọi là Ma-hê. Như Sở Hạ ở đây nói.
Nghĩa là ở xứ này phát âm khác nhau, như Trung Quốc thì nói là Bát-niết, Tây Bắc thì nói là Niết-Lệ; Hoài Nam thì gọi là Sở, Trung Nguyên thì nói là Hạ, Sở thì gọi là Man-di. Tiếng Trung Nguyên chính xác, giống như vùng Trung Thiên Trúc kia, tiếng Hoài Sở là sai, giống như vùng Tây bắc xứ kia. Xuân Thu Hậu Ngữ ghi: "Con cháu của Tiên Quý Liên nước Sở là Chúc Hùng, con của Quý Liên là bề tôi của Văn Vương, mất sớm, có con là Hùng Nhậm, Nhậm sinh ra Hùng Đạo, vua Thành Vương khen là người có tài võ, nên phong cho đất Sở Man". Khổng An Quốc ghi: "Nước Sở gọi là Hạ". Hai quyển nghĩa là vốn có hai kinh, một bản gọi là kinh Phật Bát-Nê-hoàn, hai quyển, do Đức Phật nói tại Thứu Sơn trong thành Vương xá, do Bạch Pháp Tổ dịch vào đời Tây Tấn, một bản gọi là kinh Đại Bát-Niết-bàn, hai quyển, do Đức Phật nói tại giảng đường Trùng Các, ở Đại Lâm nước Tỳ-xá-ly, được ngài Pháp Hiển dịch vào đời Tây Tấn. Hai bản này thuộc hệ kinh Niết-bàn của Tiểu thừa. Bản sáu quyển gọi là kinh Đại Bát-Nê-hoàn, cũng do ngài Pháp Hiển dịch. Đại Bản thì do Đàm-vôsấm dịch, gồm sáu quyển, là phần đầu của Đại Bản hiện nay. "Nghĩa này chẳng đúng v.v... là nói lên việc bác bỏ, cho người xưa là sai. "Triệu Luận v.v...": Luận Niết-bàn Vô Danh ghi: "Nê-hoàn, Nê-viết, Niết-bàn, ba danh từ này trước sau xuất hiện khác nhau, bởi vì Sở Hạ khác nhau. Trong đó Niết-bàn là đúng nhất" cho nên nói là chánh âm của nước kia. "Như nói Đại v.v...", là dùng chữ Đại nhiều nghĩa của Trung Quốc để dụ cho Niếtbàn. Từ câu "Chẳng nên dịch nghiêng về bên nào" cho đến câu "ở đây", đoạn này chỉ cho Niết-bàn. Đại Phẩm ghi: "Trong tất cả các pháp thí, Niết-bàn là bậc nhất". Lại chữ Đại v.v..., phẩm Danh Tự Công Đức ghi: "Nói là Đại, tức là Thường." "Về Thần thông, kinh Anh Lạc ghi: "Thần gọi là Thiên tâm, gọi chung là Tuệ tánh". Thiên tâm, Tuệ tánh rốt ráo khai ngộ, đó gọi là Đại, cho nên nói là Cực hiệu. "Thường lạc v.v...", bao gồm bốn đức cho nên gọi là Đại, là tên chung. Vì vậy chẳng thể phiên dịch. Về Niết-bàn bao gồm nhiều nghĩa nên giữ nguyên âm tiếng Phạm. Là pháp sắc thanh, vì tay viết cho nên thuộc về sắc, miệng tụng nên thuộc về thanh. Không thể viết chồng lên sắc, nói lặp lại là thanh, nghĩa là đã viết tên tiếng Phạm, thì không thể viết thêm tiếng Hoa; Vả lại một tiếng Phạm bao gồm nhiều nghĩa, không thể nói nhiều tên được. Do đó mà chẳng phiên dịch, nghĩa há chẳng có nhiều hay sao? Các vị này không chấp nhận một tên mà nhiều nghĩa. Nhưng chỉ một tên v.v... Chính là phần nói lên ý kiến của mình (Sớ Chủ), lại dẫn chữ Tức của Trung Quốc để thí dụ. Hỏi: Nhiều cách giải thích và nhiều nghĩa, há chẳng đồng hay sao? Đáp: Chẳng đồng. Như khi giải thích là Tử tức (con), thì chỉ có một nghĩa là Tử tức, cho nên danh từ Tử tức không có nhiều nghĩa, đó là do tình kiến của cha con, thầy trò mà có như thế, chẳng phải dùng chung cho tất cả. Hoặc như giải thích là Trưởng tức, nghĩa là dùng sự sinh trưởng để giải thích Tức. Tạm thời tiêu tức (tạm thời nghỉ ngơi), đây tức là dùng sự nghỉ ngơi để giải thích tiêu tức. Báo thị tin tức (báo tin) nghĩa là dùng âm thanh hoặc tín hiệu để báo tin tức. "Một tên mà có bốn nghĩa như một tên là Tiên-đà-bà, mà nói lên bốn việc là muối, đồ vật, nước và ngựa; Vị Đại thần thông minh khéo hiểu. Phẩm Bồ-tát ghi: "Bốn việc như thế cùng có một tên, vị quan thông minh khéo biết danh từ này: Nếu khi vua tắm, mà gọi Tiên-đà-bà, thì quan hầu liền dâng nước, khi vua muốn uống nước, gọi Tiên-đà-bà, liền dâng chén, khi vua muốn đi, gọi Tiên-đà-bà, thì quan hầu liền dâng ngựa". Kinh dùng việc này để dụ cho mật ngữ của Như Lai, chỉ người có trí tuệ Đại thừa mới hiểu ý. "Tứ đẳng" (bốn pháp) tức là bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỉ, Xả. Vô lượng từ cảnh, bốn đẳng từ tâm, cảnh dù vô lượng mà tâm ta thường bình đẳng". Đã dùng khinh thay trọng" tức là dùng Trí tuệ để dịch Bát-nhã. "Chân-đan", hoặc là Chấn-đán, Chiên-đan, Chỉ-na, Chỉ-nan đều là phiên âm tiếng Phạm. Nếu y cứ theo Hoa Nghiêm thì dịch là Hán Địa. Còn luận Tỳ-bà-sa có ghi hai âm: Một là Chỉ-na, Hán dịch là nước Văn vật, lối khen tặng cõi này là một nơi có áo mão văn vật. Một gọi là Chỉ-nan, Hán dịch là Biên Địa, tức xem thường nước này chẳng phải là trung tâm. Tây vực ký dịch Ma-ha Chi-na là Đại Hán Quốc; có lẽ cho rằng mặt trời mọc ở phương Đông, có màu đỏ, nên gọi là Chấn-đán; còn gọi Chân-đan có lẽ là lầm. "Trúc Đạo Sinh", Trúc là họ, Đạo Sinh là tên. Sư vốn họ Ngụy, người ở Cự lộc, thuở nhỏ đã thông minh, lanh lợi, sau gặp Sa-môn Trúc Pháp Thải, bèn xuất gia tu học, do đó mà đổi thành họ Trúc. Gọi là Thánh giả kinh Niếtbàn", đầu tiên ngài Đạo Sinh đến Trường An, theo ngài La-thập học giáo pháp ở Quan trung, được Tăng chúng cho là thần ngộ. Sau sư trở về Kiến khang trụ chùa Thanh viên, chùa xây dựng trên vườn tre của Cung Tư Hoàng hậu họ Trữ đời Tấn, nên có tên như trên. Vì kinh Nêhoàn sáu quyển truyền đến kinh đô, sư bèn phân tích nghiên cứu nghĩa lý, bỗng nhiên thâm nhập được yếu chỉ, bèn tuyên bố: "Xiển-đề cũng được thành Phật", và soạn ra mười bốn khoa, trong đó khoa thứ mười gọi là "nghĩa chúng sinh đều có Phật tánh", khoa này cho rằng: "Kinh nói Xiển-đề không có Phật tánh", là để răn dạy người ác, chứ chẳng phải thật không có Phật tánh. Vì để cho họ thấy ác, nói không, là không có ác, như thế sẽ có sự kỳ diệu khen chê để dẫn dắt chúng sinh đương thời, há thể chấp văn tự hay sao?" Lúc bấy giờ, Đại Bản chưa truyền đến, một mình sư đầu tiên chủ trương nghĩa này, trái với học thuyết xưa nay, nên các nhà cựu học cho là tà thuyết, tức giận phản đối đưa ra đại chúng quở trách và đuổi đi. Sư ra trước đại chúng, nghiêm sắc mặt thề rằng: "Nếu thuyết của tôi trái với nghĩa kinh, thì xin hiện đời sẽ bị bệnh hủi, còn nếu không trái với Thật tướng, thì nguyện lúc qua đời sẽ được ngồi tòa Sư tử". Nói xong phất tay áo bước ra. Đầu tiên đến núi Hổ khâu ở đất Ngô, chỉ trong vòng mười ngày mà người theo học hơn mấy trăm. Hạ năm ấy, sét đánh xuống điện Phật chùa Thanh viên, rồng bay lên trời, ánh sáng chói lòa ở vách tường phía Tây bắc. Do đó nên chùa đổi tên là Song Quang. Bấy giờ, mọi người than rằng: "Rồng đã đi, thì Đạo Sinh cũng sẽ đi". Không bao lâu, Đạo Sinh đến ẩn cư ở Lô Sơn, giấu thân trong hang núi; Tăng chúng đều kính phục. Sau, kinh Niết-bàn Đại Bản truyền đến Nam kinh, thật có nói Xiển-đề đều có Phật tánh, rất khế hợp với thuyết của Sư nói lúc trước. Sư tìm được kinh này, liền lên tòa giảng nói. Vào ngày Canh Tý, tháng mười một mùa Đông niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một đời
Tống, sư lên tòa ở Lô sơn, với thần sắc sáng rỡ, âm thanh rõ ràng, uy nghiêm, sư luận nghị mấy phen, diệu lý tột cùng, khiến người thấy nghe đều được lãnh hội, tâm được an vui. Lúc sắp kết thúc pháp hội, bỗng phất trần tự nhiên rơi xuống, Sư ngồi thẳng, nét mặt nghiêm trang thâu thần nhập diệt, sắt mặt Sư vẫn không thay đổi, giống như đang nhập định. Lúc bấy giờ, chư Tăng vùng Kinh Ấp trong lòng cảm thấy hổ thẹn, vội vàng truy tìm mà kính phục, những người ấy xem xét thấy hiện điềm lành như thế. Sư có soạn Niết-bàn Ký, sự tích có ghi đầy đủ trong Lương Cao Tăng truyện quyển chín. Sư đối với kinh Niết-bàn có kiến giải đầu tiên độc đáo như thế, cho nên người đương thời tôn xưng Sư là Niết-bàn Thánh. "Dẫn v.v..." tức là dẫn văn kinh "Nói diệt chóng diệt", nghĩa là người dịch đã dịch Niết-bàn là Diệt. "Thuyết trước v.v..." trở xuống: Đây là lời phán của Sư (Quán Đảnh). Thuyết trước, nhà phiên dịch được nêu lên trước là chỉ cho Đạo Sinh, nhà phiên dịch được nêu lên sau là chỉ cho Trang Nghiêm; tuyên bố diệt nên chóng diệt là y cứ vào Sinh thân, cho nên nói là chỉ diệt. Nói sinh là diệt, diệt cũng diệt đó là Niết-bàn, hai bên đều diệt nên gọi là tịch diệt. Nói sinh lại diệt, diệt ấy cũng diệt, là Niết-bàn. Hai bên đều diệt, nên gọi là tịch diệt. Bạch Mã Ái dẫn Niết-bàn quyển hai, Trường Can Ảnh dẫn Niếtbàn quyển mười lăm, Định Lâm dẫn kinh Niết-bàn quyển năm, Ung bướu là dụ cho hai thứ tử (chết). Lương Võ dẫn kinh Niết-bàn quyển hai mươi ba, trong nhân dụng trí gọi là đoạn, trong quả dứt hoặc gọi là bất sinh v.v..." "Sư Tăng Duệ v.v..." trở xuống là sư Tăng Duệ dẫn bài tựa Thích Luận của Tăng Duệ. "Tiếng Tần v.v..." Tần thì có Vong Tần, Phù Tần, Dao Tần, Phục Tần. Nay nói Tần tức chỉ cho Dao Tần, còn gọi là Đức Tần; Phù Tần là Tiền Tần. Tăng Duệ là đệ tử ngài La-thập, tức vào thời Dao Tần. Phương sách tức chỉ cho kinh điển ở nước này. Bài Trung Dung trong Lễ Ký ghi: "Chánh trị của Văn Vũ được ghi chép trong phương sách". Trịnh Huyền chú rằng: Phương là tấm ván, Sách là thẻ tre. Có chỗ gọi một thẻ là giản, viết trên nhiều thẻ liên tiếp gọi là sách. Cho nên bài tựa của Tả Truyện có ghi: "Những việc lớn thì ghi trên sách, việc nhỏ thì ghi trên thẻ". "Âm Phạm" không thể biến, tức là âm Phạm không thể phiên dịch. Pháp sư Tam Tạng đời Đường khi nói về chẳng thể phiên dịch, có nêu năm thí dụ:
- Bí mật, như Đà-la-ni.
- Bao gồm nhiều nghĩa, như Bạc-già-phạm-Cõi nước này không có, như cây Diêm-phù.
- Thuận theo cổ: Như A-nậu-bồ-đề.
- Sinh thiện, như Bát-nhã.
Nay chữ Niết-bàn không phiên dịch tức nhằm vào hai dụ là bao gồm và Sinh thiện; cũng có nghĩa kinh thư này, cùng nghĩa là thành tựu nhiều nghĩa. Tượng nghĩa là thầy, chỉ cho ngài La-thập. Thọ là đệ tử, chỉ cho người ghi chép. Cẩn nghĩa là kính cẩn. "Chữ Đại v.v..." vì y cứ vào lý sở thuyên chẳng thể nghĩ bàn, cho nên văn Hoa Phạm, chẳng dịch cũng chẳng thể chẳng dịch. Vì lý khó nghĩ bàn cho nên chẳng thể dịch; lại vì Ma-ha có thể dịch là Đại, cho nên chẳng thể chẳng dịch.
"Diệt là y cứ theo pháp v.v...", trở xuống: Pháp nói ở đây tức năm ấm, nhân (người) tức giả danh. "Sinh tử v.v..." nghĩa là diệt pháp sinh tử giả dối, chứng pháp Niết-bàn chân thật, chuyển người của nhân phàm phu trở thành người của quả Thánh, đây là dùng từ chuyển để giải thích nghĩa Độ. Diệt gọi là vô, Mục là đề mục, nghĩa là dùng diệt để gọi đề mục là vô, dùng độ gọi đề mục là hữu. Thật pháp tức là Đệ nhất nghĩa đế, giả nhân năm ấm đều chẳng thể sánh bằng, cho nên nói rằng đều diệt; tương tục tức là Thế đế. Từ nhân đến quả, chuyển phàm thành Thánh. Đều độ ba, v.v..." trở xuống là khổ do nương vào thân mà có, nên gọi là hữu dư, thân trí đều diệt nên gọi là Vô dư. Nhưng chẳng phải xa lìa hẳn, nghĩa là tử rồi lại sinh cho nên chỉ gọi là diệt. Phật chẳng thọ sinh trong ba cõi, mới được gọi là Độ. "Quán Đảnh Sư v.v..." trở xuống là vặn hỏi về Khai Thiện; người sinh tử nương vào đâu mà được độ, vả lại người và pháp há lìa nhau sao; do năm ấm thật pháp mà có chúng sinh giả nhân, như nắm tay thành quyền, cho nên không thể khác, pháp đã Diệt trước rồi, thì người ấy chẳng nương vào đâu để được độ? Đây là hỏi vặn nghĩa Diệt của Khai Thiện. Nếu sinh tử v.v..." nghĩa là người đã có thể chuyển, biết được như thế, thì pháp cũng có thể chuyển, vì người và pháp không khác thể thì đâu thể nói là diệt pháp sinh tử? Đây là hỏi vặn nghĩa Độ của Khai Thiện. "Nay nghiên cứu v.v...", trở xuống là nay Sư dùng bốn giáo để so sánh, theo thứ lớp phá bốn cách giải thích của Khai Thiện. Ba quả đầu, sinh tử chưa diệt hết, nghĩa là Sơ quả tuy đã diệt bốn đường sinh tử, nhưng còn bảy lần sinh lên cõi trời và cõi người; quả thứ hai còn một lần sinh; quả thứ ba tuy không còn sinh tử ở cõi Dục, nhưng còn sinh tử ở cõi Sắc và Vô sắc, cho nên nói ba quả trước chưa diệt hết. "Từ pháp v.v..." trở xuống là y cứ vào sự Giải thoát hữu dư để vặn hỏi. Hạt giống trói buộc đã dứt gọi là nhân diệt; khổ nương vào thân mà tồn tại nên gọi là quả chưa diệt. "Nếu thân hoại trí diệt v.v... trở xuống là y cứ theo vô dư để vặn hỏi. Pháp Giả đều vắng lặng, nghĩa là người giả, pháp báu. Tịch thì bất luận là độ; người đã tịch diệt thì y cứ vào ai để nói về độ. "Lại chẳng được v.v..." trở xuống là giáo Tiểu nghĩa thừa nói rằng hàng Nhị thừa chứng đắc Vô dư, không có nghĩa Phật, vì Bồ-tát Tạng giáo chẳng dứt hoặc, bất luận Diệt và chẳng Diệt, Độ và chẳng Độ, xưa vốn chẳng tự sinh cho nên nay chẳng diệt, vì pháp và người đều như huyễn hóa. "Chẳng những, v.v... trở xuống là đoạn diệt pháp giả dối. Vì ở giai vị Thập trụ diệt pháp chân thật, ở giai vị Thập hạnh diệt pháp giả dối, nên gọi là Diệt, vì phàm phu diệt, Niết-bàn cho nên Độ. Lời bậc Thánh không quan hệ đến pháp chân thật, các Sư kia giải thích Diệt chỉ là pháp sinh tử. "Lời diệt chẳng, v.v..." trở xuống là giải thích Độ. Chỉ nói là người sinh tử chuyển, nên nói rằng "chẳng quan hệ đến chân, chẳng luận về Thánh". Diệt và Độ chẳng ngang chẳng dọc; Diệt tức ba Giải thoát, Độ tức ba Bát-nhã, thể đồng mà tên khác; ba và một tức nhau chẳng dọc chẳng ngang. "Đã chẳng phải v.v..." trở xuống: Tiểu tức tam tạng giáo, cộng tức Thông giáo, Bồtát tức Biệt giáo, Phật tức Viên giáo. Pháp của bậc Thánh xưa cho rằng chỉ có bốn giáo này, nay họ đều cho là không đúng, cho nên chẳng dám nói.
Nhận có không thì còn là khổ v.v..." là lãnh thọ hai kiến cho nên bị ép ngặt đó là Khổ, chấp vào đó mà khởi hoặc nên thành Tập, tu hành đối trị là Đạo, đoạn thường đều lìa là Diệt; đây là phá nghĩa Có, Không của Khai Thiện, hoàn toàn đồng với nghĩa đoạn, thường. Nói vẫn còn là Diệt đế nghĩa là dẫu cho diệt đoạn thường cũng chưa ra khỏi tam tạng giáo của Tiểu thừa, tức chưa thậm nhập Đại thừa, cho nên nói còn là Chân đế của Diệt đế. Đoạn kế là chỉ rõ những điều Khai Thiện nói, còn chưa phải là nghĩa Diệt của Tiểu thừa, thì đâu thể dùng đó để giải thích Niết-bàn viên đốn. "Nếu dùng v.v..." trở xuống: Gọi có là lặp lại nghĩa trên. Nếu cả hai v.v..." trở xuống là xét theo cả hai mà gọi tên sinh tử, nghĩa là dùng Diệt độ y cứ vào Sinh và Tử để nói. "Sinh tử vốn tự v.v..." trở xuống là phần vặn hỏi. "Thì không có pháp độ v.v..." trở xuống: Pháp thật đã không, người giả cũng không, cho nên nói không có người độ (Độ giả). "Đã chẳng thể" v.v... trở xuống vì sinh vốn không, như huyễn hóa. "Vì sao nói v.v..." trở xuống: Sinh tử còn chẳng thật có, huống chi là Niết-bàn. "Vưu Chuế, phần thuyết văn ghi: "Vưu Chuế, mụt nhỏ gọi là Vưu, mụt lớn gọi là chuế". Thích Danh ghi: Vưu tức là nổi lên, vì nổi lên trên da như đất nổi, gò nổng; nay dùng nghĩa Diệt độ như Vưu Chuế kia, chung với lý chân, dụ như hư không. Nếu dùng v.v..." trở xuống tức y cứ theo Biệt giáo để phá, lại dùng Trung đạo của Sơ địa làm Niết-bàn. Trong chánh văn thì trước nói tà, kế nói Tiểu. Theo hai bên lần lượt đả phá. Dù chẳng phải tà chấp thì cũng là nghĩa Tiểu thừa, dẫu chẳng phải nghĩa Tiểu thừa, thì cũng là Giáo đạo, hai bên nhất định chẳng phải Trung đạo. "Niết-bàn dùng danh mà triệu pháp v.v...", nghĩa là dùng danh từ Diệt độ để câu triệu pháp hữu vô, lại dùng pháp hữu vô ứng hợp với danh từ Diệt độ. Danh vật vẫn còn, vật tức là pháp. Năng thông thì hạn hẹp, vì Nhị thừa tam tạng giáo tùy phân tích để phá sắc, nên gọi là hạn hẹp (chuyết). Sở thông thì hư giả, vì sở chứng nghiêng về chân, chẳng phải chân thật nên gọi là Ngụy (giả dối). Kẻ nghèo trụ ở Hóa thành, thiếu của báu tài vật Đại thừa, giống như người con nghèo khổ chỉ thích sống ở lều tranh, sợ Phật đạo lâu dài xa xôi, giống như những người khách buôn mỏi mệt, tạm thời nghỉ tại Hóa thành. Kinh Pháp Hoa, ý mở bày phá bỏ sự trệ ngại về nhà tranh, dứt chấp trước về giáo Hóa thành, cho nên nói là lâu ngày bị bỏ rơi. "Vì sao v.v..." trở xuống nghĩa là đâu thể dùng nghĩa "đã bị bỏ rơi trong Pháp Hoa mà giải thích danh từ Viên thường của kinh này". Nghiêng chấp hai bên, vì xem giáo hiện tại là lý Đản Trung, hai bên sẽ là nghiêng về tà. Hữu chẳng liên quan đến vô v.v..." trở xuống: Hữu vô chẳng dung nhiếp, nên chẳng phải nghĩa viên. "Dọc ngang lẫn lộn v.v..." trở xuống: Vì mỗi pháp đều tự có thể riêng, nên gọi là Dọc, cả hai cùng được cho nên gọi là Ngang. Tức là trộm trâu: Kinh ví dụ ngoại đạo trộm danh từ Thường, Lạc của Phật, cũng như kẻ trộm trâu, nay bác bỏ Khai Thiện chỉ được gọi là Diệt độ, như ăn trộm trâu; mà không biết nghĩa của nó, giống như chẳng biết chăn dắt trâu, cho nên sữa tam tạng giáo còn không được, huống chi là bơ sống, bơ chín, Thông giáo, Biệt giáo, cho đến đề hồ Viên giáo! Lại Diệt độ vô minh cũng chẳng phải rốt ráo, vì phá vô minh mới diệt được một phần chân. Diệt độ rốt ráo, phá hoặc rốt ráo chỉ là Diệu giác. Chữ Diệt độ ở trên hai chữ "mới được" là do văn viết lầm. "Dùng nghĩa sau v.v..." trở xuống: Sau là Diệu giác, trước là Phần chân. "Lần thứ hai, lần thứ ba" hai từ này văn cũng viết sai, mà phải viết là thứ ba thứ hai. Thứ ba là y cứ vào Vô minh trần sa, thứ hai là y cứ theo Tứ trụ trần sa; lần thứ nhất thì Hữu dư và Vô dư còn chẳng được dùng phần phá của lần thứ tư mà giải thích Niếtbàn, huống chi là dùng lần thứ ba, lần thứ hai; lần thứ ba lần thứ hai còn chẳng thật có, huống chi là dùng nghĩa Tiểu thừa của lần thứ nhất để giải thích quả Niết-bàn Viên đốn? Cũng chính là phàm phu từ nơi này đến nơi kia, nên gọi là Độ, y cứ vào sự lập nghĩa của Khai Thiện, thì Độ tức là thoát khỏi hẳn, chẳng nói từ đây đến kia, ví dụ này chẳng đúng, đã được dùng "lấy hữu trở về vô" để giải thích Diệt, thì lẽ ra phải dùng nghĩa phàm phu chết đây sinh kia để giải thích Độ. Trong văn, đầu tiên là y cứ vào phàm phu để vặn hỏi, xoay vần giải thích, ý cho rằng đã chấp nhận là Diệt thì phải nhận là Độ; nếu chẳng phải Độ, thì lẽ ra cũng chẳng phải Diệt, đâu được cho là Diệt, là chung cho phàm phu, độ chỉ có bậc Thánh, như bậc Thánh v.v..." Kế đến là y cứ vào bậc Thánh để vặn hỏi, đã chấp nhận nghĩa Diệt, đồng với phàm phu, thì lẽ ra nghĩa Độ cũng đồng, cho nên phải nói bậc Thánh từ đây đến kia. "Nếu đồng v.v..." trở xuống là kết luận phần vặn hỏi; Nếu đồng với Tiểu thừa, Phàm Thánh thì gần đồng với Tiểu quả, mà chẳng phải chỗ chí cao cùng cực; hẹp, là chỉ cho sáu đường chứ chẳng bao gồm mười cõi. "Nếu khác v.v..." trở xuống: Nếu khác Tiểu thừa, phàm Thánh, cũng chỉ là Thông giáo, Biệt giáo, cho nên cũng không cao rộng. Vì sao? Vì kết luận phần bác bỏ thì phải mười sáu lần giải thích câu hỏi, lời giải thích thứ ba thứ tư, lẽ ra cũng nên nêu ra hai lời giải trước, theo bốn giáo để vặn hỏi, thành mười sáu lần nay đã lược bớt. Hai lời giải thích trước, nếu y cứ theo bốn giáo để vặn hỏi, thì gồm tám lần, hai lời giải thích sau đều hợp thành một, tổng cộng thành mười lần; nhưng văn của hai lần giải thích sau, tuy chỉ một nghĩa, nhưng mỗi pháp lại bao gồm bốn nghĩa. Lần thứ ba y cứ theo Hữu dư, Vô dư cho đến ba hoặc thì đã bao gồm bốn giáo. Thứ tư thì y cứ theo hạn hẹp, chẳng phải cao rộng để bác bỏ, thì cao rộng thuộc viên, cạn hẹp gồm thâu ba nghĩa mà mỗi pháp gồm bốn giáo, yếu chỉ đã rõ ràng như thế. "Minh triết v.v..." trở xuống là Biểu thị ý nghĩa lược bỏ bớt; triết tức là trí. "Người thời bấy giờ v.v..." trở xuống là biểu thị ý nghĩa nghiên cứu câu hỏi. Vì nghĩa là viễn (xa). Như đã giải thích ở trên, tức là như trước, vẫn y cứ vào danh từ do Khai Thiện phiên dịch. "Giải thích nghĩa chữ Đại v.v... trở xuống là y cứ theo phiên dịch mà giải thích ý nghĩa, trong đó có hai phần, một là dựa vào sự phân biệt rõ ràng, để giải thích nghĩa; hai là chính thức y cứ theo Viên dung, vì để hiển rõ lý. Nếu trước chẳng có sự phân biệt rõ ràng, thì chẳng biết lấy gì để sau hiển bày Viên dung; chẳng có cái Viên dung sau thì sẽ không cách gì biết sự phân biệt rõ ràng, cho nên biết Viên dung không còn có pháp nào khác, mà chỉ là đạt được ba, chín ở trước gồm thâu lẫn nhau. Lại trong hai đoạn văn, đều đưa ra thuyết về Bí tạng trong phẩm Ai Thán để hiển bày nghĩa ấy.
Trong thứ lớp có dẫn pháp thuyết văn, dùng để quy kết ba thân, cho nên nói bí mật tạng là Đại Niết-bàn. Như ba chấm của chữ Y, như ba mắt trên mặt của trời Ma-hêthủ-la, chỉ là thí dụ, lại dụ cho ba đức, cho nên không có đường khác. Nay theo nghĩa thì chấm là thuộc văn tự, nên quy về đức Giải thoát. Mắt chiếu soi, thì nên quy kết về đức Bát-nhã, còn giải thích Viên dung là tổng hợp các văn thí dụ để kết luận nghĩa ấy, cho nên nói Pháp thân cũng chẳng phải v.v..." Vì thế thuyết bí tạng mà có trong phẩm Ai Thán là pháp dụ và hợp, ba nghĩa không có ý thú khác. Đã dùng pháp dụ để chứng minh cho sự phân biệt rõ ràng, hợp văn để chứng minh Viên dung, thì biết rằng hai đoạn văn này nghĩa đều quy về một đường. "Chẳng thể thấy v.v..." trở xuống tức là bác bỏ đó chưa phải ý của kinh này, nên liền bỏ sự phân biệt rõ ràng mà tìm Viên dung. Nếu được ý này v.v..." trở xuống là giải thích kinh, tức là dùng Biệt dùng Viên, chỗ nào cũng đều như thế. Tú xuất, tú cũng là xuất, cũng là tươi tốt. Trí và cảnh chiếu phát ra sự tương ứng, dùng trí chiếu cảnh, do cảnh mà trí phát, cảnh lớn thì trí lớn, cho nên gọi là tương ưng. Cảnh tức Pháp thân, Trí tức Báo thân. Ứng thân tự tại, tức là ứng hiện khắp pháp giới như gương hiện bóng; hình ảnh đối cảnh tượng mà hiển hiện, cho nên nói là không thể tuyệt dứt. Chẳng sinh chẳng khởi tức trước sinh tức là nhân, sau khởi tức là quả. "Chiếu vô v.v..." trở xuống là dùng nghĩa cùng khắp và nghĩa đủ để giải thích nghĩa Viên. Chiếu soi cùng khắp là vì Viên diệt cùng khắp, chiếu soi ba Đế; tánh diệt phát ra đầy đủ khắp nơi; phát huy đầy đủ ba trí, tuy cảnh và trí cùng nêu, nhưng chính là hiển bày Báo trí Viên diệt. Chiếu soi cùng khắp, nên rốt ráo sáng tỏ, phát huy đầy đủ, nên cùng tột các cảnh. Tạm dừng tất sẽ hội nhập, nghĩa là, dùng pháp bốn giáo để tạm dừng các căn cơ quyền thật, tùy mình tùy người mà hiện sinh hiện diệt, xướng cơ chẳng trái nên gọi là sẽ hội hợp. Giữ gìn thì ứng hợp, ý nghĩa cũng như câu trên, khắc tức là được hơn. "Là thầy của chư Phật", chư Phật tức là trí, thầy tức cảnh, cảnh có thể khai phát ra trí cho nên gọi là thầy của chư Phật. Chẳng phải là bốn, tức là bờ này; chẳng phải rốt ráo là bờ kia, chẳng phải trong phần chân, lưu xuất ra; chẳng thể khế hợp với trí, chẳng thể khế lý, không có nhân bắt đầu, không có quả chung cuộc, thật tướng dứt bặt đối đãi, cho nên tất cả đều chẳng đúng, cho nên nói: "Gọi là Thật tướng độ", thầy của Phật đã độ, chư Phật cũng được độ, nghĩa là cảnh đã dứt bặt đối đãi cho nên trí cũng dứt bặt đối đãi, vì cảnh và trí không hai. Đoạn này tuy nói về trí, nhưng chính là nói về cảnh. "Luận ghi v.v...", trở xuống tức là kệ tán Bát-nhã trong Thích luận. Cảnh phát sinh trí tuệ nên gọi là "Phật thiện lai" (Phật khéo đến). Trí chiếu cảnh cho nên nói "Phật cùng để" (Phật biết tận cùng). "Trí như như v.v..." nghĩa là toàn cảnh như là trí như, cho nên nói là trí như như; toàn trí như là cảnh như, cho nên gọi là cảnh như như. "Phật vô ngại" tức là nghĩa Đại. Độ mình, độ người, là tự mình ra khỏi hai loại tử; cũng khiến cho người ra khỏi hai loại tử (chết) đó; Vì độ người cho nên chúng sinh được lợi ích, vì tự độ mình cho nên bản thân được lợi ích. Tất cả đều thành tựu, bằng với mười cõi kia, cho nên gọi là xong xuôi. Sâu cạn khác nhau, trong ba lần, mỗi lần đều có sâu cạn, Pháp thân thì sâu, hai thân kia thì cạn, tánh tịnh Niết-bàn, Nhất thiết chủng trí thì sâu, hai tịnh hai trí kia thì cạn. Thân trí và Giải thoát chẳng đồng cho nên có khác nhau. Chưa phải là chánh ý của kinh này, vì ý kinh vốn Viên dung mà nói có thứ lớp, nay y cứ vào chỗ luận thuyết, cho nên nói chẳng phải ý kinh. Ý tức là v.v... trở xuống, là chính thức nói về ba pháp Viên dung. Ba trí tức là ba pháp, nghĩa là ba pháp thân. Vì lý trí dụng đều có thể dùng chung một phép tắc, cho nên cũng có tên là Pháp. Ba trí tức ba Bátnhã, ba chấm tức ba Giải thoát, pháp thân tức Nhất thiết chủng trí tánh tịnh Niết-bàn; Báo thân tức trí nhất thiết viên tịnh Niết-bàn; Ứng thân tức trí Đạo chủng phương tiện tịnh Niết-bàn. "Ba pháp v.v..." trở xuống là hai lần dung và tức, đầu tiên là chín, ba tương tức, kế đó là ba, một tương tức, vì chín chỉ là ba, ba chỉ là một. Ba pháp tức chín pháp, vì thân, trí và Giải thoát mỗi pháp có ba. Chín pháp tức ba pháp, vì hợp ba thân thành ba Pháp thân, hợp ba trí thành Bát-nhã, hợp ba Giải thoát thành Giải thoát. Chẳng ba mà là ba, nói về ba, một tương dung. Chẳng là như, vì ngay nơi ba là một. Không được lẫn lộn nhau, vì ngay nơi một mà ba. Danh từ Niết-bàn cùng khắp tất cả mọi nơi, Niết-bàn là pháp an vui, tất cả mọi nơi tức mười pháp giới, đây là vì y cứ vào Sự để giải thích, cho nên có mười cõi sâu cạn khác nhau. "Di hầu" (vượn), kinh Mao Thi Thảo Trùng ghi: "Nhu là Di hầu (vượn), người nước Sở gọi nó là mộc hầu". Nhảy nhót leo trèo, Hậu Hán Vương, Diên Thọ Vương Tôn Phú nói: "Leo cây cao trăm trượng, vịn theo cành lá dài". Hà Bá, tức thủy thần tên là Thiên Ngô. Kinh Sơn Hải ghi: "Thiên Ngô có tám đầu, mười tám đuôi", cũng gọi là Thủy bá, Viên Thần Khế nói: "Hà là bá chủ sông nước, trên ứng với sông Thiên Hán, loài, cá vểnh môi lên phát ra âm thanh chứng nghiệm; dưới thì loài trâu bò rất ư hung bạo. Thuyết Văn ghi: "Hiện trên miệng của loài cá". Hoài Nam Tử nói: "Trời mưa, loài cá đớp mồi". Tu-la đánh nhau với trời Đế Thích, thua chạy, sợ hãi trốn vào cọng sen, tức là được chỗ an ổn. Quả báo cõi Dục tức sự no đủ ở cõi Dục là an vui, là báo pháp. Dứt kết sử của cõi dục, văn kinh Niết-bàn quyển hai mươi mốt thường nói về nhân lành, nói về dứt kết sử là tại cõi người mà ngầm phát sinh định của hai cõi trên, nên gọi là nhân lành. "Nếu ba v.v..." trở xuống là lời văn trong phẩm Anh Nhi Hạnh. Tám muôn v.v... trở xuống: chứng Sơ quả phải trải qua tám muôn kiếp mới thành Bồ-đề, sáu muôn, bốn muôn, hai muôn và một muôn, cũng giống như thế, tương ứng với quả thứ hai, quả thứ ba, quả thứ tư, và Bích-chi-Phật; vì số lần sinh nhiều ít ở cảnh giới bên trong mà việc thành Bồ-đề có mau chậm khác nhau. Kinh có ba đoạn văn, ở quyển thứ mười nói là thành Bồ-đề, thứ mười chín nói là đến Đại Niết-bàn, thứ hai mươi nói là đắc tâm A-nậu Bồ-đề, đã giải thích như trong sớ ký.
"Thích Luận v.v...", trở xuống là các văn nói về pháp giới Bồ-tát, phần nhiều nói về Bồ-tát Tam giáo, hoặc chỉ giảng nói Biệt giáo, nay ở đây dùng Viên giáo phần chân gọi là giới Bồ-tát; cho nên biết, vì từ mới phát tâm tức chỉ cho Sơ trụ, cho nên dẫn văn kinh nói Bồ-tát Thập trụ chỗ thấy chưa thấu suốt, để chứng minh cho nghĩa trên và chỉ giữ lấy cực quả làm Phật giới. Hỏi: Bồ-tát Tam giáo và trước Viên trụ, vì sao chẳng nói đến? Đáp: Vì muốn hiển bày cực quả trụ Đại Niết-bàn là ý chính của kinh, vả lại, dùng nhân chân chánh làm giới Bồ-tát, còn tất cả các giai vị khác đều có thể y cứ theo đó mà biết, mỗi pháp đều có nghĩa Niết-bàn. Tùy tình huống, tùy sự việc, mười cõi mỗi việc đều khác nhau, mỗi việc đều cho là Niết-bàn. Trung Quốc dịch là Pháp Thắng, cũng gọi là Pháp Thượng, tức là một vị A-la-hán, sau khi Phật diệt độ tám trăm năm, vị này trích riêng ba trăm câu kệ trong Bà-sa để làm một bộ riêng, gọi là Tạp A-tỳ-đàm, lại soạn Tăng Nhất Tập để giải thích hai thứ Niết-bàn; Đều trước lập nghĩa, sau dẫn chứng văn trong quyển hai mươi mốt của kinh này. Diệt phiền não tức là dứt trừ hạt giống trói buộc, lìa các hữu tức dứt trừ phược. Đều là hữu dư, Nhị thừa tuy dứt quả trói buộc, nhưng vô minh vẫn còn, cho nên đối với Phật vẫn là hữu dư; vì thế dẫn kinh Thắng Man để chứng minh cho ý nghĩa ấy. "Xưa diệt v.v...", Xưa, giáo Tiểu thừa cho tan thân dứt trí là Niết-bàn, cho nên nói là Tận; nay kinh Đại thừa này, lấy Thường trụ làm Niết-bàn, cho nên nói chẳng phải tận. Nếu y cứ theo nghĩa riêng để phản bác thì xưa nay đối đãi nhau, xưa Tiểu nay Đại đều có Niết-bàn, chính là nghĩa chung, chẳng phải hiển bày riêng Niết-bàn viên cực của kinh này. "Nếu phân tích kỹ v.v..." trở xuống là y cứ theo nghĩa riêng để chia chẻ phân tích; cho nên gọi là "chẳng phải như thế". Cơ tức là bắp thịt, lý tức thớ thịt. Tây
Lương Phú của Trường Bình Tử ghi: "Phố chợ luận bàn, phân biệt thiện ác; phân tích mảy may, chia chẻ tỉ mỉ. Chú thích rằng: Ý nói người này phân tích thiện ác, thì cho dù trong khoảng mảy may, cũng có thể chia chẻ phân biệt được. "Vì sao v.v..." trở xuống lặp lại lập nghĩa của Uất-đa; Sở diệt thì khác, thuyết ấy lấy việc diệt phiền não làm hữu dư, diệt sinh tử làm Vô dư. "Nếu Nhị thừa ấy v.v..." trở xuống: Nay Sư chính thức vặn hỏi, Pháp Thượng đã cho rằng Tiểu thừa lấy việc dứt Kiến sư tử phược làm hữu dư, dứt sinh tử quả phược làm Vô dư, như Đại thừa lẽ ra cũng phải lấy việc phá vô minh căn bản làm hữu dư, phá sinh tử biến dịch làm Vô dư, cho nên Đại thừa, Tiểu thừa, hai giới đều có hai thứ Niết-bàn cao thấp khác nhau, Tiểu đã chưa phá vô minh, thì đâu thể dùng hai loại sở đắc nhỏ hẹp làm Niết-bàn Hữu dư của Đại thừa ư? Nay ông đã cho hai thứ Niết-bàn của Tiểu thừa là Đại thừa Hữu dư; thì lẽ ra Tiểu thừa đã phá vô minh, nhập vào giai vị Bồ-tát rồi. Cho nên mới nói: Nếu như thế v.v..." trở xuống, là đồng với Phật nhập Niết-bàn Vô dư.
"Việc gì v.v..." Đã như Nhị thừa phá vô minh, nhập vào ngôi vị Bồ-tát, vì sao lại bị chê là chẳng phải Đại thừa? Cho nên nói: Bị chê là chẳng đúng. "Chẳng đoạn v.v..." trở xuống: Đưa ra đoạn văn có ý quở trách Tiểu thừa, vì chẳng dứt vô minh căn bản, vì chẳng đến bờ kia. Ba đức, vì đó là am tranh ngoài cửa, chẳng phải ở trong nhà của Trưởng giả. "Vì sao?:" Kết luận lời quở trách, ở đây nếu y cứ theo nghĩa Biệt giáo, thì hai thứ Niết-bàn của Đại thừa, chỉ có Phật mới chứng đắc, cho nên chẳng được đối với Phật mà nói Tiểu là hữu dư. "Lại nếu như v.v..." trở xuống là theo nghĩa chung để thí dụ bác bỏ, chung thì chín cõi lẽ ra đối với Phật cũng được gọi là hữu dư, vì sao chỉ nói Nhị thừa? Đều chẳng đúng; nhiên tức là đúng, nghĩa là đều chẳng phải là Đại thừa hữu dư. Há chẳng phải Phật tánh cùng khắp hay sao? Tánh an vui tức Phật tánh; đoạn trước nói về Niết-bàn, là đã y cứ theo sự, nên chung cả mười cõi, như nói ở địa ngục lạnh gặp nóng là an vui, v.v..." Nay nói về Phật tánh, theo lý lẽ ra cũng chung cả mười cõi. Vì muốn giải thích nghĩa chung, cho nên nêu ra để giải đáp.
Văn nói, v.v... trở xuống là văn trong phẩm Như Lai Tánh. Hai mươi lăm hữu được chia thành sáu đường, gồm bốn châu, bốn đường ác, trời Vô tưởng, trời Nahàm, sáu tầng trời cõi Dục, Phạm thiên, bốn Thiền cõi Sắc và bốn Không thiên của cõi Vô Sắc. Vì trong hai mươi lăm hữu, sinh tử không bao giờ mất, cho nên gọi là hữu ngã. Chân ngã cũng là Phật tánh phải chăng? Đây là câu hỏi của Ca-diếp; Đáp rằng tức là Đức Phật trả lời: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tức là nghĩa của Ngã". Về Ngụ ngôn (lời nói mớ), Văn Tuyển ghi: "Ngụ ngôn, Mạc Dư Ưng chú thích rằng: "Nằm mà nói". Nếu theo văn thì phải đọc nghệ, tức ngủ mà nói. Phẩm Như Lai Tánh ghi: "Ví như có hai người bạn rất thân nhau, một người là Vương tử, một người là kẻ nghèo hèn, người nghèo thấy Vương tử có mang một cây đao quý, tâm sinh tham đắm. Sau đó vị Vương tử mang đao báu đến một nước khác, còn người nghèo kia tạm trú tại một ngôi nhà kia, ban đêm nằm ngủ thường mớ, la "đao đao", người bên cạnh nghe được, dẫn đến chỗ vua v.v..." Bồ-tát cũng giống như thế, ngài xuất hiện ở thế gian nói tướng chân ngã, nói xong liền bỏ, giống như vị Vương tử mang đao đến nước khác; còn phàm phu nói tất cả đều có ngã, cũng như kẻ nghèo tạm trú ở ngôi nhà kia, ban đêm ngủ mớ nói "đao đao". "Cho đến thông xanh, lá vàng, v.v..." trở xuống là lời trong phẩm Anh Nhi Hạnh, vì muốn dỗ cho đứa trẻ nín khóc, cho nên dùng lá thông vàng giả làm vàng bạc; dùng người gỗ, ngựa gỗ đều để làm cho đứa trẻ nín khóc. Ví dụ này nói về Thường, Lạc, Ngã, Tịnh luống dối của cõi trời ba mươi ba. Lời sớ ghi: "Lá vàng dụ cho Vọng thường, vàng bạc dụ cho vọng Tịnh, người dụ cho vọng Ngã, ngựa dụ cho vọng Lạc. Sáu đường lấy việc an thân thuận tánh làm vui sướng, v.v..." như trong địa ngục lạnh, thì cho nóng là vui sướng, tất cả các đường khác cũng y theo đó mà biết được. Đối với Phật là thông, nghĩa là chưa đạt đến rốt ráo, vì còn cách nhau bởi sinh tử biến dịch. Chẳng chung chẳng riêng, vì đây thành bốn câu, cho nên thuộc về song phi (hai lần phi). Nếu nói tóm gọn thì chỉ là chung riêng, chín cõi là chung, cõi Phật là riêng, câu đầu là nói về Bồ-tát nên đối với Phật là chung. Cốc là vắt sữa bò, chỗ nào cũng chảy ra, phẩm Như Lai Tánh ghi: "Ví như trên núi Tuyết có một vị thuốc tên là Lạc vị, do Luân vương chế ra, cho nên chỗ nào cũng làm chiếc ống bằng gỗ để nhận loại thuốc này. Vị của thuốc chân chánh. Sau khi Luân Vương chết, thì thuốc này, hoặc có vị rượu, hoặc là mặn, hoặc là ngọt, cay, đắng, lạt, v.v..." như thế chỉ có một vị, mà tùy chỗ đến có khác nhau. Vị chân chánh của thuốc này vẫn giữ tại núi Tuyết; giống như mặt trăng tròn v. v..." Bí tạng cũng giống thế, vì phiền não cho nên biến thành nhiều vị, có cái gọi là năm đường, bốn tánh, đã giải thích như trong sớ ký. Dứt bỏ bệnh này, đảo tức là thổ (nhả ra, vứt bỏ). "Kinh ghi v.v..." trở xuống: Tức dẫn văn trong phẩm Kiều-trầnnhư. Ba thứ bệnh tức tham, sân, si; ba thứ thuốc tức Bất tịnh, từ tâm, nhân duyên. Vì sự lý chẳng dung hợp vào nhau, cho nên thuốc và bệnh không liên hệ nhau. Vua lại bị bệnh, tức là dụ cho khách y trong phẩm Ai Thán. Vua bị bệnh, tức là hàng căn cơ nhỏ (Tiểu) chấp vô thường là bệnh. Vừa là thuốc vừa là bệnh: Trị tà thường cho nên gọi là thuốc, chướng ngại chân thường cho nên gọi là bệnh. Ba pháp tu cao quý này tức là Thường, Lạc, Ngã,. Ngang dọc của chữ Y cũ dụ cho ba pháp tu thấp kém, là vô thường, khổ, vô ngã. Lại chữ Y mới v.v..." trở xuống vì đoạn trước đối trị hai bên, cho nên Giáo, Hạnh, Lý của Trung đạo đều có tên song phi (hai lần chẳng phải), nay lại dùng Giáo, Hạnh đối với Lý, thì (giáo, Hạnh của Viên y có thể đối trị hai bên; cho nên gọi là thuốc (dược). Lý tròn đầy dứt bặt hai bên cho nên thuộc về song phi, vì thế nói là chánh pháp chánh tánh v.v... "Chỉ có thường tịnh v.v...", đây là y cứ theo Bán và Bán đoạt nhau, tức là cho hai để đoạt hai; nếu hoàn toàn đoạt, thì bốn đức đều không, như Sớ ký đã nói. "Là tập khí", nghĩa là Tam bảo khác nhau tức là tâm vô minh, vô minh tức tập hết, thì hoa còn dính thân", đây là vô vi duyên với tập khí, chẳng phải tập khí nơi cảnh giới bên trong. Dọc vượt khỏi chín cõi, đây là theo tự hành (tự tu) phá chín cõi để hiển bày cõi Phật, nên gọi là Thụ xuất; nhưng chỉ phá về Sự có chín chớ chẳng phải phá Tánh có chín. Ngang gồm thâu tất cả, ngang thì cùng khắp chín cõi, không bờ, không đáy cho nên là Thường, ngang gồm thâu cho nên nói vô biên, dọc vượt ra cho nên không đáy. Do đạt được chỗ không bờ, không đáy nên gọi là Đại trượng phu. Đã là Trượng phu, lại có Điều phục trượng phu, nên gọi là năng hóa độ tất cả, tự tha dung nhiếp; cho nên chẳng thể nghĩ bàn. "Dứt khổ v.v..." Cũng dùng bốn câu để giải thích Lạc. Hai câu đầu y cứ theo Đoạn, hai câu sau y cứ theo Trí. Trong hai câu đầu thì một nói về Dụng của dứt, nói dứt khổ lạc, cho nên lạc tức là dứt khổ sinh tử và vui Niết-bàn mà được Trung đạo an vui hoàn toàn, câu sau là nói về Thể của dứt, nên gọi là Đại tịch, vì vậy lạc tức là Trung đạo vắng lặng hoàn toàn, lìa hai bên, nên gọi là Đại tịch. Trong hai câu sau, thì câu thứ nhất luận về Trí Dụng, nói vì (tất cả đều rõ biết) Nhất thiết trí nên Lạc, tức là Trung đạo soi chiếu cả hai bên, nên gọi là Nhất thiết trí; câu sau nói về trí thể. Nói thân thường nên an vui, tức rõ ràng thường biết. Nghiệp tịnh, cho nên chung. "Thân tịnh v.v..." tức ba nghiệp đều thanh tịnh; gồm thân và miệng, nhưng chỉ nêu thân tịnh, tức là muốn nói sắc tâm không hai, bao gồm không, giả trung; nên đều gọi là Tịnh. "Cho nên v.v..." trở xuống là phần tổng kết, nhưng trong đoạn văn này nói về Thường và Lạc, mỗi thứ đều có bốn câu; nói về Ngã chỉ có một câu, còn nói về Tịnh có ba câu, mỗi câu đều tùy theo lời nói, mà không có ý gì khác. "Theo như văn trước thì lẽ ra y cứ vào lý, v.v..." tức là đoạn văn Chánh pháp Chánh tánh chẳng thuốc chẳng bệnh, hiển bày lẫn nhau... ở trước đã theo Lý để nói cái chẳng phải nay lại y theo Sự để nói cái chẳng phải, dùng văn trước để so sánh văn sau, dùng văn sau để so với văn trước, cho nên gọi là hiển bày lẫn nhau. Từ địa ngục trở lên mà phân biệt, tức là trong đoạn văn về chung riêng có nói: Sáu đường lấy an thân và thuận tánh làm an vui. "Từ ngoại đạo trở lên, tức là trong đoạn văn về thuốc bệnh nói về Trưởng giả, chết rồi liền trộm bầy bò. "Nhị thừa trở lên" tức trong đoạn văn về Đại, Tiểu có nói Tiểu là Nhị thừa. "Bốn Tất-đàn", danh từ này xuất xứ từ Trí luận, Tất là từ ngữ Trung Quốc, Đàn là tiếng Phạm, Tất là cùng khắp, Đàn là bố thí, tức là dùng bốn pháp vui mừng, sinh thiện, phá ác và nhập chánh lý mà ban bố khắp cho loài hữu tình nên gọi là Tất-đàn, Trung Quốc dịch là Thành tựu, Luận ghi: Tất-đàn cũng là Tấtđàm (thành tựu). Xét hai chữ này, đều là âm Phạm, cho nên các nhà Tông học khác có vị cho rằng các nhà Thiên Thai không giỏi tiếng Phạm và Hoa, lại xưa nay cũng đều cho rằng hai chữ này đều là tiếng Phạm, đâu chỉ có đời Đường mới biết? Cho nên Tịnh Danh Huyền Nghĩa ghi: "Tất-đàn là tiếng nước ngoài, các Pháp sư giải thích đều khác nhau, có vị nói là không dịch, vì tiếng nước ngoài bao gồm nhiều nghĩa, ví như Tu-đa-la gồm năm nghĩa, nên ở xứ này không dịch, hoặc dịch là Tông Thừa, Mặc ấn, Thật, Thành tựu, rốt ráo; phiên dịch khác nhau như thế chẳng phải một nghĩa, thật khó xét định. Ngài Nam Nhạc nói rằng: "Ví như Đại Niết-bàn là một từ ghép chung Phạm Hán". Ngài Nam Nhạc đã thân chứng thì không thể dùng lầm lẫn. Cho nên ngài Trí Giả tông Thiên Thai y cứ vào đó để giải thích nghĩa. Vả lại như từ Long Thọ, các nhà phiên dịch xưa đều cho rằng hai từ này là tiếng Hoa, tức Long là sinh Pháp thân, Thọ là sinh sinh thân; nhưng đến đời Đường thì có thuyết cho rằng Long là tiếng Hoa, còn Thọ là âm Phạm. Phạm là Nagià-thọ-na, Trung Quốc dịch là Long Mãnh; nên biết Long Mãnh là do nhân duyên cha mẹ cầu xin cây (thọ), lại lạm dụng âm Thọ-na, cho nên dẫn đến giải thích khác nhau mà dùng ví dụ cho Tất-đàn; Tất là giải thích "biến" là âm Phạm, lẽ ra cũng không sai lầm, như dịch Rốt ráo cũng là cùng khắp. "Nói lên Đệ nhất nghĩa khi xưa", xưa là Nhân Thiên giáo và Tiểu thừa giáo, mỗi giáo đều cho Niết-bàn của tự giáo là Đệ nhất nghĩa. Dẫn "sự không có lẫn nhau" để chứng minh, tức kinh Niết-bàn quyển ba mươi lăm ghi: "Chỗ của bò thì không có ngựa, chỗ ngựa thì không có bò, nên gọi là không có lẫn nhau. Niết-bàn chân đế, cũng giống với thuyết của nhà đầu tiên, cho Niết-bàn là tục đế; nghĩa là cho rằng Niết-bàn do tu mà được, nên thuộc về Tục đế, dẫn Triệu Luận để chứng minh, cho rằng Niết-bàn tục đế vô danh vô tướng. Ngài Tăng Triệu có soạn bốn bộ luận, đó là Vật Bất Thiên, Bất Chân Không, Bát-nhã Vô Trí và Niết-bàn Vô Danh. Nay dẫn văn trong Vật Bất Thiên: Nước sông đến lúc không chảy, nghĩa là sóng sau sóng trước tuy nối nhau, mà không đến nhau; tánh nó đều thường trụ, tuy trôi mà chẳng chảy. Mặt trời, mặt trăng soi khắp bầu trời mà chẳng chuyển. Nghĩa là mặt trời, mặt trăng soi sáng bầu trời ngày đêm chẳng dứt, vì tánh của nó mỗi pháp thường trụ, cho nên chẳng khắp. "Há có v.v..." trở xuống là kết luận để hiển bày Niết-bàn vô danh vô tướng, nghĩa là các vật như núi sông, trăng sao... cho đến Niết-bàn đều là Tục đế. Còn là nhị giả là tục và đãi. Vì ngầm hợp với chân, vì vô minh đã hết, chẳng phải do thành mà có cái giả, nối nhau duyên với chân, có cái giả đối đãi mê ngộ; vì có hai giả tức là Tục đế cho nên gọi là chân. Chấp trước chân có tên, nghĩa là tục vốn không có danh, do nương vào chân mà lập tên, như bậc Thánh vào thời kiếp sơ, đã y cứ theo chân lý của pháp để tạm lập ra danh từ Tục đế, chân lý năng thông gọi là đường sá, chân lý bất động gọi là núi non. Sở thông chẳng phải có, vì bốn môn sở thông, đều là thiên chân, chỉ có Lân hư gọi là Hữu môn, phân tích phá bỏ Lân hư thì gọi là không môn, cả hai cũng chẳng đúng, y cứ theo nghĩa cũng biết được. "Chỉ ba đường là v.v..." trở xuống là dùng dụ để kết luận ý bác bỏ. Ba đường là tên ba ngọn núi Thái Hành, Hoàn Viên và Hào Mẫn. Tả Truyện ghi: "Ba non bốn núi, chín châu rất hiểm trở". Có chỗ gọi là Hoang đồ: Là do người sau vọng sửa đổi. Đó là dụ cho việc dùng Tiểu để giải thích Đại, giống như cho sự nguy hiểm của ba non là đất bằng phẳng của kho châu báu. Mắt loài cá dụ cho Tiểu, minh châu dụ cho Đại, yếu chỉ này rất dễ hiểu. "Hỏi: Xưa nay v.v..." trở xuống là khen ngợi sự vi diệu chân thật của luận mà lập ba câu hỏi: Câu hỏi thứ nhất là lời khen ngợi thứ nhất, là đạo thầy trò truyền thừa cao siêu. "Hai là ngài Tăng Triệu soạn v.v..." trở xuống là khen ngợi lời soạn thuật cao tột.
"Ba là người đời v.v... trở xuống là khen ngợi xưa nay cùng chấp nhận. "Ý như thế nào? v.v... trở xuống là câu hỏi thứ nhất, tuy có đầy đủ ý nghĩa của ba điều hay đẹp được trình bày nhưng so với các nhà hiện nay, thì ai hơn ai kém, cho nên nói: Ý như thế nào? Về Mệnh thế, thì Văn Tuyển, Lý Lăng Thư ghi: "Đều tin vào tài của Mệnh thế, bao gồm văn võ". Chú thích: "Mệnh tức là danh tiếng, ý nói là tên tuổi vang danh thời đại". Mạnh Tử nói: "Năm trăm năm ắt có vua làm hưng thịnh, trong đó có bậc vang danh ở đời". Chú thích: Danh Thế là người tài giỏi dưới bậc Thánh, người đến có thể dạy dỗ. Nhất thế tức là: Sinh đồng thời với bậc Thánh. Thăng đường nhập thất, đạo hạnh còn cạn thấp là thăng đường, đạo hạnh cao sâu gọi là Nhập thất. Luận Ngữ chép: "Khổng Tử nói: Tử Do cũng thăng đường nhưng chưa nhập thất". Chỉ một mình Triệu mà thôi, môn hạ của ngài La-thập có mười Triết, tám Tuấn và bốn Thánh, thì Tăng Triệu được xếp vào trong đó. Đạo Sinh, Tăng Triệu, Đạo Dung và Tăng Duệ được tôn xưng là bốn vị Thánh, lại thêm Ảnh, Nghiễm, Phùng, Quán thành tám Tuấn, cộng với Đạo Thường, Đạo Tiêu là mười Triết. Tăng Truyện ghi: "Thông tình thì Đạo Sinh, Đạo Dung là thượng thủ, thấu rõ sự lý thì Tăng Triệu, Tuệ Quán là bậc nhất. Lưu Di Dân khi đọc những thiên luận của Tăng Triệu có khen ngợi rằng: "Đâu ngờ trong hàng xuất gia lại có Bình Thúc". "Dương Dương, v.v... trở xuống: Nghĩa là văn từ Triệu luận mênh mông, dào dạt, làm thỏa mãn người nghe. Luận Ngữ ghi: "Sư Chí lúc mới ra làm quan, tấu khúc loạn của Thiên quan, nghe thật là dào dạt rất hay".
Sách không rời tay: Thích là buông ra. Trong lời đáp, đầu tiên là tự khiêm nhường, chỉ chung cho mặt trời, mặt trăng ở trong lòng, là dụ cho sự sáng tỏ thông đạt. "Đã chẳng v.v...", trở xuống là lời tự trách, đã chẳng thân thọ từ ngài Tăng Triệu, nên yếu chỉ sâu xa khó thể biết được. "Toản ngưỡng v.v...", trở xuống tuy không đích thân thọ luận này từ ngài Tăng Triệu, nhưng đã tìm cầu chỉ thú của ngài nên cũng có biết được. Toản ngưỡng, Nhan Uyên khen Trọng Ni rằng: "Dùi vào thì biết nó cứng, ngửa lên nhìn thì biết nó cao". Quản Khuy, Trang Tử nói rằng: "Dùng ống nhìn trời cao, lấy dùi chỉ xuống đất". Kế đó trong lời đáp là dùng bốn câu để phán xét văn luận, tức là từ câu luận này... Luận gồm có chín Tích và mười Diễn, tổng cộng gồm mười chín thiên, nay những điều bác bỏ đều nằm trong bài biểu và phần Khai tông thứ nhất, phần Hạnh Thể thứ hai. Những lời nói, câu văn nhiệm mầu cốt yếu trong đó đều không ngoài bốn câu, cho nên dẫn trích xen lẫn không thành thứ lớp. Nay đầu tiên chỉ rõ văn, sau giải thích ý nghĩa.
Chỉ rõ văn ở phần nào:
* Trong "câu có" (hữu cú), thì đầu tiên là văn trong phần Khai tông, còn câu nếu không v.v..." là văn trong bài Biểu.
* Trong "câu không" (vô cú) thì hai câu đầu, là văn trong phần Khai tông, tức câu: Tôi có thử nói về điều đó, đạo Niết-bàn thì vắng lặng rỗng rang. Câu chẳng lẽ có v.v... trở xuống là lời văn trong bài Biểu, ghi đầy đủ tức là câu: "Đã gọi là Niết-bàn, há lại có tên trong đó sao?"
* Trong "câu hai lần cũng", thì câu "Mờ mờ mịt mịt, trong đó có điểm sáng tỏ" thuộc văn trong bài Biểu, còn những câu khác thuộc về văn trong phần Khai tông.
* Câu hai lần phi (song phi cú), cũng là văn trong phần Khai tông. Mà muốn v.v..." trở xuống: Nói đủ là: "Đây là cảnh giới khi muôn vật chưa sinh, là quê hương của mầu nhiệm, "mà muốn" dùng hữu vô đặt tên, hầu chỉ bày nơi chốn; dùng lời nói để diễn tả đạo thần diệu, thì chẳng phải là càng xa hay sao!"
-Giải thích nghĩa: Xuất xử... đến giả danh, hữu dư trụ thế gọi là Xuất, Vô dư nhập diệt gọi là Xử, đây là do ứng cơ mà thị hiện có sinh diệt, không có thật thể, cho nên đều gọi là giả danh. "Nếu không v.v..." trở xuống đây là lời trong thư của vua Tần, bác bỏ các nhà thông hiểu Đệ nhất nghĩa đế, cho rằng tất cả đều rỗng rang vắng lặng, chẳng có bậc Thánh, cho nên ngài Tăng Triệu nêu ra: "Nếu chân đế rỗng rang không có gì gọi là bậc Thánh thì ai biết bậc Thánh đây? Đã có người biết, thì nghiệm biết có bậc Thánh". Cho nên luận nói: Thật biết được đây là bài chiếu sáng suốt. Nếu không v.v..." trở xuống là Ngài Tăng Triệu làm sáng tỏ ý của vua Tần, bậc Thánh bặt ý quên lời, động tịnh đều hợp với đạo, cho nên nói vui chơi với đạo. Tức là câu Hữu, đã có người biết, và vui với đạo, há chẳng phải hữu cú tức vô cú hay sao? Đã không có hình tướng không có tên gọi, lại chẳng có tâm biết, thì đó há chẳng phải là vô cú hay sao? Cho nên chẳng thể cho là có, đây là câu cũng không, chẳng thể cho là không, đây là câu cũng có. Hoảng là Hữu, hốt là vô, yểu tức mờ mịt, minh là tối. Nghĩa là hữu vô bất định, mờ mịt khó lường, nhưng trong đó lại có điểm sáng tỏ, cho nên nói "có tinh", mờ mịt là cũng không, có tinh là cũng có, năm ấm diệt hẳn, nên gọi là "cũng vô", u linh chẳng dứt, nên gọi là cũng hữu. Hữu vi dứt bặt ở trong, vì hòa lẫn mà không thay đổi; chẳng thể cho là Hữu cho nên bặt Hữu; có công năng còn mãi cho nên bặt vô. "Danh nghĩa v.v..." tức nói thể của Niết-bàn, bên trong thì bặt Hữu vô, bên ngoài thì không có danh nghĩa. "Xem nghe v.v..." trở xuống là giải thích hai câu trên; do bên ngoài dứt bặt danh nghĩa, cho nên chỗ thấy nghe của hai cõi chẳng thể đến được; do bên trong dứt Hữu vô cho nên định Tứ không của cõi sắc chẳng thể rõ biết. Viết lên bảng nghĩa là tên gọi; phương hướng bờ cõi là Thể của Lý, chẳng phải là xa lắm sao? Nếu chấp có chấp không thì cách đạo rất xa. "Nhưng v.v..." trở xuống: Đoạn này dùng bốn giáo để phán định ý nghĩa của luận. "Luận v.v..." trở xuống nghĩa là trong phần Khai tông ghi: "Diệt độ, là Đại hoạn dứt hẳn, vượt qua bốn dòng". Chẳng quan hệ đến cảnh giới bên ngoài, vượt qua bốn dòng là vô minh, hữu, kiến và dục ở cảnh giới bên trong. Chẳng diệt cái họa hoạn ở Niết-bàn, chỉ cho thân năm ấm là đại hoạn. "Cho nên phần nói về sai lầm v.v..." trở xuống: Đã nói luận kia là Đại, lại chẳng phải Biệt Viên, nay tìm văn trong Biện sai, thì biết thuộc về Thông giáo; Biện sai tức là thiên thứ chín, vô vi chỉ là một, luận ghi: Vì đều ra khỏi sinh tử, nên đều gọi là vô vi. "Đây là dùng, v.v... trở xuống là kia nói các đạo ba Thừa, đều do vô vi mà có khác nhau, ba này là ba vô vi, chứ chẳng phải vô vi có ba. "Như Lai v.v..." trở xuống là kinh Phóng Quang chép: "Niết-bàn có sai biệt chăng? Đáp rằng, không sai biệt, chỉ vì Như Lai kết sử và tập khí đã dứt hết, còn Thanh văn thì kết sử và tập khí chưa trừ hết mà thôi; nay xin dùng thí dụ gần gũi đây để chỉ bày ý chỉ sâu xa, như người chặt cây, chặt một thước thì cây ngắn một thước, chặt một tấc thì ngắn một tấc, như ngắn tại thước tấc chẳng phải tại không có thuốc. Lời do Sư dẫn ở đây hoặc có thay đổi. Có bản ghi rằng Thanh văn kết sử đã dứt hết, nhưng tập khí chẳng dứt. "Kết, v.v... trở xuống là phần nhiều hết chữ. Tại thước tấc, chẳng tại không có. Thước tấc dụ cho ba thừa có cạn sâu, không có dụ cho Niết-bàn lý nhất. "Tuy đều v.v..." trở xuống là Niết-bàn bên bờ kia, lên xuống tức ba thừa. Dùng đường không nói năng, tức là Đại phẩm và Bát-nhã. "Sản nhiên", Thượng Thư ghi: "Phương cưu Sản công", Khổng An Quốc ghi rằng: "Cưu là nhóm họp, Sản là hiện rõ". "Phàm Thông giáo v.v..." trở xuống, đoạn này Sư bác bỏ bốn điều lỗi của Tăng Triệu, thứ lớp như văn đã ghi. Dưới thì nâng đỡ ngọn ngành, Triệu Luận ghi: "Trên thì theo gốc huyền, dưới thì cứu vớt kẻ chìm đắm", câu đầu là trên cầu, câu sau là dưới hóa. Lý là gốc đạo cho nên gọi là gốc huyền, đứa bé mất quê xưa, cho nên gọi là chìm đắm, phương tiện khéo léo gọi là trẻ thơ, vốn đã tự có chân như cho nên gọi là quê cũ. Nay xét ý này cho nên nói đó là: Chính là, ấy là dứt bặt vui buồn..., hàng Thông giáo hiển bày huyễn hóa tức không, cho nên vui buồn... đều dứt bặt. Đồng với sáng tối, trí thì sáng, hoặc thì tối. Chẳng tạo ra các việc lớn nhỏ. Sớ giải thích rằng: "Anh nhi của Biệt giáo: Chẳng gây năm tội nghịch, gọi là chẳng làm việc lớn; chẳng khởi tâm Nhị thừa, gọi là chẳng làm việc nhỏ. Dùng trẻ thơ làm dụ, đây là y cứ theo ý của phần sau, chỉ là hòa quang đồng trần lợi lạc chúng sinh, khiến cho chúng sinh thấy biết. Bồ-tát đồng với chúng sinh lúc mới tu học, cho nên gọi là hạnh trẻ thơ, thế thì hiện đồng với trời người. Tam giáo cùng với trước Thập trụ của Viên giáo đều gọi là trẻ thơ. Nay xét Triệu Luận, chỉ là Anh Nhi Thông giáo. Dùng ba con thú qua sông để làm thí dụ, dùng ba thừa đều chứng Niếtbàn, mà trí tuệ có sâu cạn để dụ. Văn này xuất xứ từ Đại Phẩm và kinh Niết-bàn quyển hai mươi mốt, tức Thanh văn dụ như thỏ qua sông, Duyên giác dụ như ngựa, Bồtát dụ như voi qua sông. Dụ về nguội thân bặt trí, thì trích trong luận Trí Độ, tức Thanh văn dứt chánh kết sử như đốt gỗ thành than, Duyên giác dứt tập khí như đốt than thành tro, Bồ-tát tro than đều chẳng còn. Tông chỉ ở kinh khác, thế pháp của Thông giáo chẳng phải là pháp Viên đốn nay. "Tất cả Bồ-tát v.v..." trở xuống: Bồ-tát thuộc ba giáo: La-hán, Tạng, Thông, đều xé rách lưới nghi đồng thành Phật đạo. "Phật khai mở v. v..." trở xuống là khai mở Thông giáo tức Viên giáo. Vì sao lại lập nghĩa Thông giáo? Về người câm điếc, trong kinh Pháp Hoa, các chúng sinh chưa được Giải thoát thì bị mắng là câm điếc, nay được khai ngộ đều được thông minh lanh lợi. Hội tức là điếc. Bày cũ hiển mới, cũ tức là ba pháp tu kém, mới tức là ba pháp tu cao siêu. "Sóng nổi lên, v.v... trở xuống là dụ cho đánh rơi hạt châu dưới hồ nói trong phẩm Ai Thán, gạch ngói dụ cho lý Tiểu thừa, mặt trăng tức hạt châu, dụ cho lý Viên giáo; đã giải thích ở Sớ ký. Ngài Tăng Triệu dùng lý Sở chứng của ba thừa Tích giáo, để giải thích Niết-bàn Viên dung của kinh này, đâu khác gì nhặt sỏi tưởng là châu. Tức giềng mối, tức là sợi dây lớn ở mép tấm lưới, nếu giềng mối ngay thẳng thì mắt lưới ngay ngắn, nếu giềng mối thiếu sót thì mắt lưới bị hư đứt lệch lạc, không ngay ngắn; nghĩa Đại của Niếtbàn dụ cho giềng mối; chín, mười chín phần phân tích, mười phần diễn bày (Diễn) là chỉ cho mắt lưới. Nếu nghĩa Niết-bàn hoại diệt thì còn dùng sự phân tích hay diễn bày để làm gì? Cho nên nói là đâu có chỗ gá nương (an ký). "Chấp Phật v.v..." trở xuống: Tích giáo phương tiện, trong kinh Pháp Hoa, Niết-bàn, Đức Phật đã quở trách Quyền giáo, cho nên nói là vất bỏ. Mười phần diễn bày, nghĩa là luận có mười chín thiên, gồm chín phần phân tích mười phần diễn bày (Diễn): Chiết là vặn hỏi, Diễn là lời đáp, giải thích. Mười chín thiên tức là: 1. Khai
Tông, 2. Hạch Thể, 3. Vị Thể, 4. Trưng Xuất, 5. Siêu Cảnh, 6. Sưu
Huyền, 7. Diệu Tồn, 8. Nạn Sai, 9. Biện Sai, 10. Trách Dị, 11. Hội Dị,
12. Cật Tiệm, 13. Minh Tiệm, 14. Cơ Động, 15. Động Tịch, 16. Cùng Nguyên, 17. Thông Cổ, 18. Khảo Đắc, 19. Huyền Đắc; trong đó thiên một, ba, năm, bảy, chín, mười một, mười ba, mười lăm, mười bảy, mười chín là phần Diễn, chín thiên còn lại là phần phân tích. "Chẳng phải ba đức"; bàn luận của mười Diễn chỉ là làm rõ Niết-bàn của Tích giáo, chẳng phải là ba đức viên thường. "Nay nói v.v..." trở xuống là Sư chính luận bàn về nghĩa Niết-bàn vô danh, xin tìm xem văn mà xét rõ yếu chỉ; so sánh với ngài Tăng Triệu, mặc dù cách xa Đồ hán; lớn nhỏ khác nhau, nhưng không thể sánh được; hơn kém rõ ràng, biết rõ như lòng bàn tay, chẳng phải vì cảm tình riêng. Đầu tiên Sư nêu ra ba đức để giải thích Niết-bàn, kế đó lại lìa chín cõi để giải thích vô danh, sáu đường và Ba thừa của giáo hợp thành chín cõi. Từ "sở ly v.v..." trở xuống: Sở ly tức chín cõi, năng ly (chủ thể xa lìa) tức cõi Phật, vì không có tên Niết-bàn của chín cõi, nên gọi là Vô danh, mà có tên ba đức của cõi Phật; cho nên biết trong bốn chữ Niết-bàn Vô danh, thì hai chữ hiển bày năng ly, hai chữ sau nói rõ sở ly, vì y cứ theo năng sở đối đãi cho nên thuộc về Hữu môn. "Tức các danh là vô danh", nghĩa là vì chín cõi hữu danh, Phật giới vô danh, nên gọi là Niết-bàn. Đây là y cứ theo sự dứt bặt đối đãi cho nên thuộc về Không môn. Niết-bàn chẳng có bốn, nghĩa là ba và một dung nhiếp nhau, đâu còn có bốn tướng? Nên biết bốn môn vẫn là ba quán, vì tức không cho nên gọi là tức vô danh; tức Giả cho nên chẳng lìa tên chín cõi; tức Trung, song chiếu là hai cũng (cũng... cũng), song giả là câu phi (chẳng... chẳng). Nên biết rằng mười giới, nhất tâm, ba quán dung nhiếp yếu chỉ Niết-bàn vô danh, chẳng lìa tâm mà hiển bày rõ ràng trước mắt, há lại nhờ vào chín Chiết mười Diễn quanh co để luận bàn hay sao? Cho nên gọi là vô duyên, nghĩa là không duyên theo hai bên. "Nay cũng v.v...", là không có tên gọi sáu đường, tức Không duyên với chúng sinh, không có tên bốn Thánh nên không duyên với Pháp, có tên Bí tạng tức duyên với Như Lai. Huống chi hạ địa và phàm phu v.v...", mắt Phật, tai Phật còn không thể thấy nghe, huống chi bốn loại mắt, bốn loại tai khác mà nghe thấy được sao? Hỏi: Mắt Phật, tai Phật mà chẳng thấy nghe được sao? Đáp: Thấy mà không có tướng thấy, nghe mà không có tướng nghe, cho nên nói không có thấy nghe.
Đại bi phương tiện, tức là thuận theo bốn Tất-đàn mà lập giả danh. Cây lay động và giơ quạt dụ cho danh tướng, mặt trăng dụ cho thật lý. "Văn ghi v.v..." tức là lời trong kinh Niết-bàn quyển hai mươi mốt. Chi-la-bàdi sớ ghi rằng: "Chim sẻ này một âm mà hai tên". "Trí Độ v.v..." trở xuống quyển bốn mươi sáu, lại lập năm ấm v.v..." Vì phân tích tâm nên thành năm ấm, phân tích sắc nên có mười hai nhập, sắc tâm cùng phân tích nên thành mười tám giới, vì thế ba khoa này không lìa phạm vi của sắc tâm. "Có chỗ lại gọi là v.v...", đoạn này nói các danh từ đã nêu ghi rải rác trong các văn kinh. Chỗ mà bốn dòng là dục, hữu, kiến, và vô minh, không thể nhiễm đến được, gọi là châu, cồn, bãi. Nhĩ Nhã ghi: "Chỗ đất nổi lên giữa sông mà sinh sống được gọi là cồn, châu nhỏ gọi là bãi". Ngăn chặn được mưa gió phiền não, nghiệp ác gọi là hang động nhà cửa. "Viên pháp cùng khắp cho nên có người tu viên. Như ăn cháo sữa, không có gì hơn, là bậc nhất, vì thế dụ như đề hồ, vì giúp cho hàng xiểnđề khởi thâu tín tâm viên dung, cho nên dụ như cây gậy, kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn ghi: "Kinh này có thể là một cây gậy của hàng nhất-xiển-đề". Giống như người yếu, có thể nhờ vào gậy mà đứng dậy; soi rõ kẻ phá giới giống như gương sáng. Cho nên Kinh nói: "Kinh này là gương sáng, giống như gương thế gian soi bóng các sắc tượng, vì thế gọi là "gương sáng phá giới". Có bản ghi sau chữ vị thêm chữ nhất là sai. "Không thể v.v... trở xuống là giải thích ý nghĩa dụ như hư không. Tức là, vì rỗng rang cho nên nói là như hư không chẳng thật có; vì cùng khắp, cho nên nói là như hư không chẳng chướng ngại. "Đại Luận ghi v.v..." trở xuống: Chúng sinh là giả danh, năm ấm là thật pháp, đều là tên gọi trong nhân, đã chung cho cực quả, thì có thể biết tên gọi quả Niết-bàn, cũng chung trong nhân, cho nên mười cõi đều nói là an lạc. Chẳng ở trong v.v..." "chẳng ở trong" tức chẳng, không, chẳng ở ngoài tức chẳng có. Trung gian tức cả hai. Cũng "thường tự có" tức chẳng có chẳng không. Chữ "này" chẳng trụ, tức bốn tánh không thật có nên gọi là tánh không. Cũng chẳng phải chẳng trụ, là không này cũng không, nên gọi là Tướng không, Niết-bàn cũng như thế. Chư Phật và Bồ-tát là người Năng trụ, Niết-bàn là pháp Sở trụ. Người đã hai không thì Pháp há chẳng phải như thế? Người pháp không hai, thể tánh chẳng khác, Hợp lại tìm cầu cũng chẳng thật có, nghĩa là đầy đủ ba đức cũng chẳng phải Niết-bàn. Đây là nói về ba đức, hoặc đầy đủ, hay riêng biệt, đều không có tướng nhất định, cho nên riêng biệt hay hợp lại để tìm đều không thật có, mới gọi là Niết-bàn. "Cho nên trí v.v..." trở xuống là dẫn kệ tán thán Bát-nhã trong Đại Luận để nói lên kiến và chẳng kiến, riêng cầu hay hợp cầu, đều trói buộc hay đều giải thoát, là những lời nói lên Niết-bàn chẳng có nơi chốn, là chẳng kiến thoát. "Nếu có người thấy v.v..." trở xuống là đối với pháp sinh khởi sự thấy, thì gọi là kiến bị phược, mê chấp pháp tướng gọi là chẳng kiến phược, xứng pháp sinh khởi cái thấy gọi là kiến đắc, lìa tướng thấy và chẳng thấy gọi là chẳng kiến thoát. Pháp thân, Giải thoát, mỗi pháp đều làm bốn câu giống như Bát-nhã, cho nên nói cũng giống như thế. "Thí như vật huyễn hóa v.v... vì huyễn thể vốn luống dối cho nên chẳng thể thấy, mà có sắc tướng, cho nên nói "mà thấy" chẳng thể thấy mà thấy dụ cho kiến thoát thấy mà chẳng thấy dụ cho chẳng kiến thoát. Nhưng nhờ vào tên gọi để dẫn dắt chúng sinh, tức là giả lập tên ba đức bí tạng để cho chúng sinh ngộ được lý ẩn chứa trong tên gọi, mà thông suốt được danh tức chẳng phải danh, đó là Đại bi phương tiện như cây lay động, giơ quạt... "Thí như nắm tay v.v..." trở xuống là theo thứ tự lần lượt phối hợp với bốn Tất-đàn. Dùng chữ Y mới để làm cho họ ưa thích, hàng căn cơ Đại thừa sinh tâm ưa thích, liền được lợi ích vui mừng, dẫn tiến tức dẫn chúng sinh đến điều thiện lớn; phá bỏ tức phá tiểu ác xưa, ngộ được tiểu tức là Đại. Không có thì chẳng dứt bặt, nơi không mà khởi chấp thì không hề dứt bặt, còn chẳng phải nghĩa của Tiểu thừa, Nhị thừa Thông giáo tức hữu mà đạt không, chứng Niếtbàn. "Voi đầu đàn v.v..." là văn trong phẩm Ai Thán. Trói cột ràng rịt, buộc dàm ở đầu ngựa gọi là kỵ. Thích Danh ghi: Kỵ tức là kiểm. Sở dĩ nói kiểm là để giữ gìn chế phục loài ngựa. Một mảy may động niệm, là nhỏ nhặt yếu ớt. Phần Hệ từ trong Chu Dịch ghi: "Buồn khổ, hối hận, tiếc nuối còn trong giới tâm (tâm yếu ớt)" "Đã chẳng dứt bặt v.v..." âm là gốc của lời nói. Dương Tử pháp ngôn ghi: "Ngôn ngữ là âm thanh của tâm, chữ viết là bức họa của tâm". Đây chính là tu tập đường ngôn ngữ dứt v.v..." tức đạo Phương tiện của Tiểu thừa và nội phàm. Khổ nhẫn minh phát tức là khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí đầu tiên trong mười sáu tâm của kiến đạo. Lược nêu ý nghĩa của Kiến đạo bao gồm Tu đạo, vì hai đạo này đều là chân thật chứng ngộ. "Khi Thế đế tử diệt", tức chỗ Kiến hoặc và Tư hoặc bị phá trừ gọi là Thế đế tử. "Chỉ cho việc này v.v...", trở xuống là nêu lên chỗ kém để so sánh với chỗ hơn. Tam tạng thua kém đã bặt nhân pháp sáu đường, huống chi là ba giáo khác của Đại thừa cao siêu hơn.
"Nhưng khi vào v.v..." trở xuống là khi sắp nói về nghĩa Thông giáo, trước bác bỏ tam tạng. Vì chân tục khác nhau, vì Tam Tạng giáo Sự Lý cách biệt, vì nhập quán hợp với chân cho nên dứt bặt, xuất quán thì nhập vào tục, cho nên chẳng dứt bặt, không như Thông giáo, Sự Lý tức nhau, xuất quán hay nhập quán đều khế hợp dứt bặt. "Như thế thì đạo xa lắm ư v.v..." trở xuống là chính thức bày nghĩa Thông giáo. Hai câu đầu là văn trong Triệu Luận, vì các giáo mà Triệu Luận nói chỉ ở tại Thông giáo mà thôi. Xa là sao? Ý nói chẳng xa. Câu đầu nói về Pháp thì ngay nơi tục là chân, cho nên nói đạo chẳng xa, câu kế nói về người, thì ngay nơi phàm là Thánh, cho nên nói rằng bậc Thánh chẳng xa. Không dứt bặt chẳng phải không dứt bặt, vì đều như huyễn hóa nên không có hai tướng, đạo phương tiện tức là Tánh địa. Không và Tuệ tương ưng: Kiến địa trở lên đều gọi là tương ưng. "Kinh Tịnh Danh ghi v.v..." trở xuống: Tức Thiên nữ trách mắng Thân tử. Vô minh chưa nhở được. Theo phẩm Ai Thán ghi: "Hàng Nhị thừa bạch Phật rằng, khi xưa con bị tình sắc làm say mê, trôi lăn trong sinh tử, như người say kia nằm ở chỗ dơ uế, nay Như Lai ban cho con pháp lạc, khiến cho con nhổ ra được rượu ác phiền não, nhưng con vẫn chưa tỉnh ngộ hoàn toàn, mà sao lại buông bỏ? "Mặt trời, mặt trăng xoay chuyển", Kinh ghi: "Như người say rượu kia nhìn thấy mặt trăng trên hư không, vốn không xoay chuyển mà nghĩ là xoay chuyển. Chúng sinh cũng giống như thế, vì bị vô minh phiền não che lấp, sinh tâm điên đảo, ngã chấp là vô ngã, cho đến vui thú chấp là khổ, như người say, không hề có chuyển động mà nghĩ là có chuyển động". "Như người bị bệnh sốt rét", là Kinh ghi: "Như người bị bệnh sốt rét được gặp thầy thuốc, sự đau đớn được hết, con cũng giống như thế, bị bệnh tà mạng thiêu đốt, tuy được gặp Như Lai, nhưng bệnh chưa được dứt hết, chưa được an ổn thường lạc vô thượng. "Đối với cảnh giới v.v... trở xuống là kết luận ý kinh. Hoặc, nghiệp chung ở cảnh giới bên trong tuy dứt hết, nhưng hoặc nghiệp riêng ở cảnh giới bên ngoài vẫn còn, cho nên nói kết sử và phiền não tập khí chưa dứt, vô minh chưa hết... Dùng tâm Đại Niếtbàn tu hành, là hiểu đãn trung thứ lớp tu tập năm hạnh, đầy đủ mười đức. Nhưng nói năm hạnh phân biệt rõ ràng là y cứ theo tu, mười đức là y cứ theo chứng, cũng là tu và chứng thông nhau. Nay hãy nói theo sự giáo đạo trước Thập địa, thì cả hai đều ở nơi hạnh tu tập, tức là chỉ vì chuyên tâm, một bề cầu Sơ địa, chân chứng Đại Niếtbàn mà tu các hạnh trước Thập địa. "Không còn tâm ở bên trong cõi v.v..." trở xuống: Tâm bên trong còn tức là trí phân tích thể.
Nói về bên trong cõi tức Tạng giáo, Thông giáo Phương tiện như thế, tức ba mươi tâm của Biệt giáo. Mà chưa phải là thầm hợp Trung đạo, là vì Sơ địa phần chứng là thầm hợp Trung đạo. Chỗ xưa chẳng được; xưa nơi phàm phu vị chưa chứng được trí Trung đạo, nay nghe Trung đạo trí chẳng dứt bặt vô minh. Nay dứt vô minh: "mà khi tu thì có thứ bậc v.v..." trở xuống là từ quả mà đối với nhân thì bị quở là theo thứ lớp cấp bậc, như người leo lên từng nấc thang. Lìa hai bên mà tìm Trung đạo, như dòng sông quanh co uốn lượn. Kinh Niết-bàn quyển mười ghi: "Tất cả sông rạch đều có chỗ quanh co". Phát tâm chẳng cùng khắp pháp giới, tin tánh bản hữu cho đến quả mới phát, cho nên lần lượt diệt chín cõi mà hiện ra cõi Phật, chẳng thể đạt được chín tức Phật, gọi là chẳng khắp. Chẳng phải phương tiện vô thượng, là ba mươi tâm của Biệt giáo chưa phải viên dung, chỉ là phương tiện tương tự. Trên phương tiện lại có phương tiện, là trên phương tiện Biệt giáo lại có phương tiện nội phàm của Viên giáo.
"Nếu phát tâm viên mãn v.v..." trở xuống là nói chung về Viên tuyệt. Trong văn nói về Lý, Hạnh, Giáo đều dứt bặt (tuyệt)đầu tiên nói về lý dứt bặt. Nói các tâm pháp giới, các tâm tức là tâm của chín cõi, đạt được vọng tâm của chín cõi tức chân lý của ba Đế. Cho nên nói pháp giới lại không có pháp giới, nửa là như quán tâm địa ngục, tức đầy đủ lý ba quán Đế, đầy đủ ba ngàn, bao gồm tất cả, không đâu chẳng cùng khắp, lìa tâm này thì không có pháp nào khác, quán chín cõi khác, khởi tâm gồm thâu cùng khắp, cũng đều như thế. Cho nên nói chỉ một pháp giới. "Lại như kinh v.v..." trở xuống là nói lại có một hạnh, đoạn này nói về hạnh tuyệt. "Lại như kinh nói trực tiếp xả bỏ phương tiện v.v..." trở xuống: Đoạn này nói về giáo tuyệt. Câu-da-ni châu là dụ cho giáo, nói sự tức lý như đi thẳng vào biển, kinh quyển mười ghi: "Ở trong thế giới đại thiên này có một châu tên là Câu-da-ni, châu này có dòng sông chảy thẳng không quanh co, tên là Tabà-da, giống như sợi dây giăng thẳng đến biển Tây. "Tuyệt phương tiện v.v..." trở xuống là giải thích phương tiện, đầu tiên là nói dứt Thiên, để hiển Viên. Có bản ghi dưới chữ tuyệt phương tiện lại thêm chữ tuyệt nữa, là sai. "Như kinh nói dứt bặt tất cả v.v..." là y cứ vào kinh để lập chung Tam Tạng giáo".... là, y cứ vào giáo để chỉ bày. Tất cả lưới nghi, tức là chỗ nghi ngờ nghiêng về một bên của ba giáo. Đâu khởi lưới nghi, Ninh là lời nguyện, vì nghi là bến bờ của sự hiểu biết, chẳng khởi tâm nghi, thì đâu thể hiểu được? Cho nên phẩm Ca-diếp ghi: "Nếu có người đối với việc này khởi tâm nghi, thì sẽ phá được phiền não lớn như núi Tu-di. Cho nên biết, nếu chấp Tiểu thừa, là quyết định thì không cách gì vào được Viên. Phương tiện Trung đạo, tức là quán hành tương tự. "Viên này v.v..." trở xuống là kết thành bốn môn. Môn cũng có cũng không; một tức ba là cũng có, ba tức một là cũng không. Chẳng thể nghĩ bàn, tức là chẳng phải ba chẳng phải một, là môn song phi.
"Nếu cho rằng v.v..." trở xuống là Khai, Thị, Ngộ, Nhập chân đạo, tức bốn mươi nhân vị chân thật. Kim bề (dao mổ bằng vàng) dụ cho giáo pháp của Niết-bàn, màng mắt dụ cho vô minh, ba dụ cho ba Đế. Đó gọi là rốt ra dứt bặt, là đối với nhân chân thật của tiền phương tiện mà được một phần hiển hiện, gọi chung là rốt ráo, chẳng phải chỉ riêng cho quả Diệu giác. Mà chẳng có một lời, lời nói do tâm biến hiện, tức lời nói là tâm, tâm không thì lời nói cũng không, cho nên đầy khắp cả pháp giới mà không có một lời để được. Tâm cùng khắp cũng như thế, tâm không có tướng nhất định, chỉ tùy duyên mà biến khởi. Nếu tùy theo duyên nhiễm thì khởi tâm chín cõi, tùy theo duyên tịnh thì khởi tâm cõi Phật, nhiễm tịnh tuy khác, nhưng tâm chỉ là một, vì tâm tánh vắng bặt cho nên chẳng có một niệm.
"Nhưng các kinh v.v..." trở xuống là dẫn kinh để chứng minh. "Các Bồ-tát nói mà có lời v.v..." trở xuống là ba mươi hai vị Bồ-tát mỗi vị đều trình bày pháp môn không hai tức là nói đối với giáo thuyên lý, cho nên gọi là nói mà có lời ngài Tịnh Danh im lặng nói lên tuyệt lý. Ngài Văn-thù khen. Ngài Tịnh Danh rằng: "Vắng lặng không có lời đây mới chính là vào không hai", tức là dùng lời nói ở nơi lý không lời chẳng tuyệt chẳng phải chẳng tuyệt. Như bốn môn của Biệt giáo, là chẳng phải các tuyệt của Tạng, Thông, chẳng phải bất tuyệt của sáu đường. Cây tiền hỏa là que gỗ để lấy lửa, cỏ dụ cho sở tuyệt, que gỗ dụ cho năng tuyệt.
Kế đến là tổng kết chương Thích danh v.v..." trở xuống là chỉ rõ năm lớp trước đều y cứ vào kinh để lập nghĩa, chẳng phải tự đặt ra, cho nên nêu văn kinh để hiển bày môn tiết, gồm thâu năm nghĩa, trong văn có thể thấy được. Đồng Danh tức là tên chung. Bốn tức là môn, Niếtbàn là lý sở nhập, bốn thuyết là môn năng nhập.
"Như Thiên đế v.v... trở xuống: Thiên đế dụ cho lý, ngàn tên dụ cho môn. Niết-bàn là tên, cũng do người dùng thể định làm tên, vì hiển đức mà lập chữ. Chẳng thể trở lại không; ý nói Niết-bàn là diệu hữu. Có hai giả là tương tục và tương đãi, như trước đã trình bày. Chính là nghĩa tức chân; vì tức chân cho nên không hoàn toàn giống với Thế đế. Chẳng thầm hợp với chân: Vì chẳng thầm hợp với chân, cho nên chẳng hoàn toàn đồng với chân đế, vì thế không giống với cách lập nghĩa của ba Sư trước. "Có người hỏi" trở xuống, tức lần lượt phá bỏ lập luận của bốn Sư trước. Đầu tiên là phá lập luận của Trang Nghiêm. Hai là từ nếu bị v.v..." trở xuống là phá nghĩa của Khai Thiện; ba là, nếu Phật v.v..." trở xuống là phá nghĩa của Trị Thành; "Bốn là, nếu Phật v.v..." trở xuống là phá nghĩa Long Quang. Đây là các sư thuộc luận Thành Thật... vì các vị này đều y cứ vào luận Thành
Thật để lập nghĩa, cho rằng quả Phật là vô vi, cho đến Thích nghĩa, dịch tên đều ở tại hữu vi, khiến cho người không phục, gặp bốn lập luận trên đều bác bỏ: Mâu thuẫn, mâu là một loại binh khí, thuẫn là một tấm chắn, Trang Tử nói rằng: "Nước Sở có một người bán mâu và thuẫn, cho rằng cả hai đều rất tuyệt, người mua bèn hỏi rằng nếu dùng cái mâu của ông, đâm vào cái thuẫn của ông thì thế nào? Người bán không đáp được". Phàm nói ý nghĩa trái nhau thì đều dùng mâu thuẫn để dụ. Khiếp tức là phục.
"Triệu Luận, v.v..." trở xuống là lý Niết-bàn, vì chẳng phải sắc tướng, nên chẳng thể dùng hình tướng, tên gọi mà được; chẳng phải là duyên lự, nên chẳng thể dùng hữu tâm mà biết, vốn không nói năng, cho nên mất đi cái chân thật; vốn chẳng thể biết mà gượng khởi suy nghĩ để biết, cho nên trái lại trở thành ngu chấp, cho nên nếu cho là hữu thì trái với thể phi hữu, nếu cho là không thì tổn thương đến thân chẳng không, đó là do Niết-bàn chẳng có chẳng không". "Y cứ theo ý của ngài Tăng Triệu mà suy, v.v..." trở xuống là nêu lên chủ ý của ngài Tăng Triệu. Rơi vào bốn kiến chấp, tức là dùng bốn câu để suy nghĩ, luận bàn, vì cho là hữu hay cho là vô đều là tà kiến, cho nên nói rằng không thể dùng tên gọi mà được. Nhưng ngài Tăng Triệu lập nghĩa tuy là lìa tà chấp và lìa bốn môn của Tiểu thừa, nhưng ý chính là ở Thông giáo, như đã trình bày đầy đủ ở phần trên.
"Kinh ghi v.v..." trở xuống là dẫn thí dụ trong phẩm Ai Thán để phá lập thuyết của các sư. Dùng bốn kiến để giải thích đại Niết-bàn, như nhặt sỏi đá cho là ngọc lưu ly, mặt trời mùa xuân dụ cho cảnh say đắm trần dục, cưỡi thuyền dụ cho đang mang nghiệp, du hý dụ cho quả ưa thích, mất châu dụ cho việc không thể hiểu biết. Vì buông lung cho nên tuệ giải mê mờ, gọi là mất. Liền cùng nhau nhảy xuống nước, tin ngôn giáo như vào nước: Cho rằng quả Phật là hai đế v.v...: Như tranh nhau nhặt sỏi đá cho là đã được châu nên vui mừng. Dùng việc này để chỉ cho người nhặt sỏi đá lên, cho đó là lý sâu xa của Niết-bàn, cũng như cho rằng đây là ngọc lưu ly, như thế đều trái với viên thường đều chẳng phải thể chân thật. Vì chẳng phải thể của bốn chấp cho nên nói là nước lặng yên trong suốt. Vì giáo được chỉ bày, người không thể hiểu được, nên nói ở trong nước cùng khắp tất cả, như nhìn lên hư không bao la tròn đầy, không thiếu sót như mặt trăng kia; chẳng phải cái mà mọi người nắm bắt được. Kết luận ý nghĩa bác bỏ các sư; như nhặt sỏi đá cho là châu, dụ cho việc bác bỏ ba cách tu của Tiểu thừa, nay lại mượn ý này, để bác bỏ những kiến giải khác. Về người mù xúc chạm: Người mù tranh nhau sờ đuôi, ngà v.v..." mà không thấy được toàn thể con voi, dụ cho các sư. Tụ sắc cũng có cũng không, tức là vừa có chân thường diệu sắc, vừa không có vô thường sắc thô. "Kinh nói sắc v.v..." trở xuống: Các sư này giải thích, sợ bị người khác vặn hỏi rằng: Quả Phật nếu chỉ có tâm, vì sao kinh lại nói đạt được thường sắc, cho nên mới dùng hai nghĩa, Chân ứng đế giải thích. Một là Ứng hợp với đồng phương loại, cho nên có sắc, hai là nghĩa chân quả bày thấy được, vì thế mới dụ là "vì sắc cho nên nói là sắc". Dưới chữ Vi không có chữ Phi, hoặc là dưới chữ Vi thiếu ba chữ "Sắc Kỳ Thật" Lẽ ra phải nói là "nói là sắc thật ra chẳng phải sắc". Hai cõi có Sắc, tức là cõi Dục và cõi Sắc. Không có thô sắc, Xá-lợi-phất Tỳ-đàm ghi: "Vô sắc hữu sắc". Kinh này lại ghi: "Sắc ở cõi vô sắc thì hàng Thanh Văn không thể biết được". Cho nên các sư này mới nhất định cho rằng ba cõi đều có sắc. Địa thứ sáu trở xuống, tức địa thứ sáu của Thông giáo, là ba quả trước vẫn còn sinh, cho nên nói thân còn phần đoạn, Địa thứ bảy trở lên v.v..." là Tư hoặc còn sót lại cũng đã trừ hết, cho nên sinh vào bên ngoài cõi; Ở giữa hai cõi: hai cõi là phần đoạn và biến dịch, cũng là hai cõi Phàm Thánh đồng cư và Phương tiện. Kim tâm tức là tâm Kim cương, chỉ cho Đẳng giác. Tùy ý sinh thân, trong kinh Lăng-già, Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật rằng: Thế nào gọi là Ý sinh thân? Phật nói: "Ví như ý đi rất nhanh không bị ngăn ngại", luận y cứ vào dụ này, dùng hai nghĩa của kinh ấy mà giải thích tên chung. Thứ nhất nói như ngoài mười muôn do-tuần, nhớ những gì thấy trước liền khởi niệm niệm nối nhau, nhanh chóng sinh về nơi ấy. Thứ hai nhờ năng lực Tam-muội như huyễn, vì nhớ bản nguyện, cho nên sinh vào hàng Thánh, hai nghĩa đều là do ý nhớ nghĩ sinh, mà có ba loại ý sinh, như sớ ký đã nói; Đều có vô tác tức là đều có tụ thứ ba. Vì sao chẳng lìa, đã lìa vọng sắc thì cũng phải lìa vọng tâm, nếu cho rằng có chân tâm thì đâu ngại gì có chân sắc!
"Như thế v.v..." trở xuống, nay Sư bài bác các nhà giải thích trước, lập hoặc phá đều là nói dối. "Không có loại dao như thế", như đã giải thích sơ lược ở đoạn sớ ký trước, còn giải thích đầy đủ ở đoạn kinh sau. Nay dùng các việc như người nghèo hèn hoặc lời nói mớ để dụ cho sự lập luận, giải thích của các Sư.
Tánh vô ký cũng có cũng không, vô ký có bốn thứ: "Dị thục, Oai nghi lộ, Công xảo xứ và Thông quả, quả báo năm ấm của ba cõi năm đường đều là Thời dị thục, Biến dị thục, Dị loại thục, vì đã có đủ ba nghĩa này nên gọi là Dị thục. "Oai nghi lộ, có hai loại: Một là, oai ghi sự, nghĩa là bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi lấy bốn trần làm tánh; Hai là oai nghi tâm, tức ý thức mạnh mẽ, có công năng dẫn phát oai nghi, còn năm thức trước, tự tánh yếu kém, tuy có duyên với oai nghi, nhưng không thể dẫn khởi oai nghi, Thức thứ bảy là Mạt-na, tuy chấp Lạida làm nội ngã, đã chẳng duyên bốn trần là sắc, thanh nên cũng không phát ra oai nghi. Thức thứ tám A-lại-da tuy có duyên các trần như sắc... Nhưng tánh cũng yếu kém nên chẳng thể dẫn phát oai nghi, nói lộ nghĩa là oai nghi hiện hành như đi trên đường. "Về Công xảo, cũng gồm hai loại: Một là công xảo sự, nghĩa là vẽ họa điêu khắc màu sắc tô điểm, lấy năm trần làm thể. Hai là công xảo tâm, tức là ý thức và mắt tai,..., Chẳng phải là oai nghi, y cứ theo trước đã giải thích. Thông quả, còn gọi là Biến hóa vô ký. Nghĩa là chứng quả có lực dụng nơi thần thông, cũng gồm hai loại: Là biến hóa sự, tức là thay đổi hình chất, không mà thành có, Tiểu thừa thì dùng năm trần làm tánh, Đại thừa thì dùng năm ấm làm tánh; biến hóa tâm, tức là ý thức. "Nay nói vừa có tức là quả Phật cũng có Công xảo và Dị thục; vừa không tức quả Phật không có oai nghi lộ và Thông quả, như văn sau Văn Trạch đã phân biệt hai loại. Nghĩa là tự rõ ràng, cho nên nghi chú là vân vân. Một là tri giải tức là công xảo, hai là quả báo tức là Dị thục. Nhưng ở đây lắng bỏ, đều là do tính chấp của người, không đúng chánh lý thì không thể vặn hỏi, tất cả như những lời luận phá ở văn sau. Như nền tảng v.v... trở xuống là giải thích Phật địa có tri giải vô ký. Có nhiều cách giải thích, nên nói là có hai cách giải thích mà không nên nói nhiều về Tánh thiện này, nghĩa là như sự hiểu biết (trí giải) về đánh cờ, viết chữ... điều chẳng phải vô ký, vì quả Phật có, cho nên nói là Tánh Thiện. "Những người khác..." trở xuống là trừ Phật và xiển-đề, còn phàm phu cho đến Bồ-tát đều gọi là những người khác, nghĩa là đánh cờ, viết chữ... đối với những khác đều được gọi là tri giải, vô ký, còn đối với Phật địa gọi là thiện, mà chẳng phải là vô ký. "Nói về quả v.v... trở xuống là giải thích quả Phật không có quả báo, vô ký. Phần nhiều là dị cụ, cụ đáng lẽ phải viết là thục, do văn viết lầm. Lại không có pháp báo, nghĩa là Phật không có chấp Dị thục trong sinh tử, đoạn này nói Phật chỉ có tập nhân, tập quả. "Phàm ba tánh v.v..." trở xuống là bác bỏ chung. Còn chẳng phải chân thật, là ba tánh còn chẳng phải thiên chân của Tiểu thừa, Niếtbàn thiên chân không có ba tánh này.
"Đâu thể v.v... trở xuống là còn chẳng phải Thiên chân, làm sao có thể dùng nó để giải thích Đại Niết-bàn cực quả Trung đạo? Như người nông dân bày lưng trần v.v..." Liệt Tử nói: "Chỗ an vui của người quê mùa, chỗ tốt đẹp của người quê mùa". Nghĩa là trong thiên hạ không có ai hơn. Nước Tống có người nông phu thường mặc áo vải gai để qua mùa đông lạnh, khi xuân sang thì tự phơi mình trần dưới ánh mặt trời. Vì không biết rằng trong thiên hạ có biết bao nhiêu người nhà cao cửa rộng, lụa là, áo lông cừu..., cho nên nói với người vợ rằng, nay đã nhờ nắng ấm của mặt trời mà chẳng ai biết được, ta hãy hiến cái áo này cho vua, sẽ được trọng thưởng. Có một người giàu trong làng nói với anh nông phu rằng: "Xưa, có người có các loại đậu xanh, đậu nành, mía, rau cần, v.v..." cho là ngon, bèn đem đến biếu cho một người giàu, người này bèn nếm thử, cảm thấy miệng đắng, bụng lại đau, mọi người tức giận quở trách, người ấy cảm thấy rất xấu hổ, ông cũng giống như thế", các Sư dụ cho người quê mùa, ba tánh dụ cho phơi lưng trần, Niếtbàn dụ cho Đấng Chí Tôn, việc Sư nay bác bỏ, dụ cho người giàu có trong làng. Chia làm năm loại để luận bàn, năm tên tuy khác mà thể chẳng khác nhau. Tánh tịnh tức Pháp thân, cho đến tức là chánh nhân, chánh nhân tức là Bất sinh, cho đến bất sinh tức tánh tịnh, tất cả các nghĩa khác đều như thế. Nêu lên một tức năm, năm tức một. Chỉ chung một bộ tức hai mươi lăm phẩm được gọi chung là Niết-bàn cho nên từ đoạn phương tiện thanh tịnh trở xuống, đầu tiên là phần chánh giải thích về Tướng, có ba:
1) Trong văn nói về phương tiện tịnh thì đầu tiên giải thích nghĩa phương tiện: kế là từ "câu nhưng nơi vắng lặng v.v..." là phần giải thích nghĩa Niết-bàn.
* Giải thích phương tiện tức là hiện thân trong mười cõi. Có hai phần:
- Nói về năng (chủ thể) hiện, do trụ Thủ-lăngnghiêm, cho nên có thể hiện ra sắc tượng. Âu-hòa, Hán dịch là Đạo chủng trí. "Kiến lập trên Đại nghĩa", kiến là lập nên.
- Nói về sở (đối tượng) hiện, hoặc bốn thiên hạ, trước nói về nơi chốn, từ hẹp đến rộng, từ một cõi Diêm-phùđề cho đến cuối cùng là mười phương.
* "Nói về hiện thân tùy theo các chúng sinh..." trở xuống: Đầu tiên là nói về việc hiện thân ở cõi Phật, thị hiện sinh diệt, trong văn thị hiện sinh, thì nói là đi bảy bước, phẩm Tứ Tướng nói đi về hướng Đông bảy bước, là đối với Tiểu cơ, còn hướng về mười phương mỗi phương đều đi bảy bước là đối với đại cơ, trong văn thị hiện diệt độ thì nói là nằm nghiêng, tức sau khi Như Lai đáp ba mươi bốn câu hỏi của ngài Ca-diếp xong, liền nằm nghiêng như đứa trẻ kia và người thường bị bệnh, như phẩm Hiện Bịnh phần đầu đã nói, vì thế v.v..." tức là nói về việc phát khởi tướng nằm nghiêng thị hiện diệt độ trong phẩm Tựa. Tịch Dũng, Tịch là tâm đau xót, Dũng là hớn hở. Ế tức là ẩn, ngăn ngại.
"Cho đến v.v..." trở xuống là thị hiện thân chín cõi.
Trở xuống tức chỉ cho sở cảm của các căn cơ yếu kém, chỉ thấy thân ở địa ngục cho đến thân Bồ-tát mà thôi. Vả lại, y cứ theo việc thấy thân thì cho là căn cơ thấp kém, nếu nói theo nghe pháp thì mỗi giới đều nói bốn giáo. Nếu như thế thì Thắng thân nói là Liệt thân, Liệt thân nói là Thắng. Còn nói về ngộ giải thì thắng liệt tự phân biệt lấy. Nay y cứ theo hiện thân, thì cho rằng thấy thân Phật là Thắng, thấy thân chín cõi là liệt, chẳng trước chẳng sau là phần tổng kết mười cõi sinh diệt, tùy căn cơ, lợi ích mà thấy thân, chẳng ngăn ngại lẫn nhau, cho nên nói tức thời đều hiện.
* Giải thích về nghĩa Niết-bàn, từ câu những nơi vắng lặng v.v..." trở xuống: Tuy mười cõi xao động, nhưng không làm giảm bớt, phá hoại sự vắng lặng, do khế hợp với vắng lặng, cho nên nơi sinh thì không nhiễm, nơi tử thì chẳng bị phiền lụy. Nghĩa Niết-bàn đều ở tại đó.
"Cho nên gọi v.v..." là đoạn văn tổng kết.
Viên tịnh: Gồm có hai phần, trước nói chung, sau bàn riêng. a. Trong phần giải thích chung có ghi nhân tròn quả đủ, tức là nhân phần chân thì tròn đầy, quả diệu giác thì gồm đủ. Vốn mới phát tâm, phải giải thích riêng. Trước nói về nhân, kế nói về quả. Trong ba đoạn văn đều có ý tự độ mình và giáo hóa người. Từ đoạn đầu, tức là câu vốn khi mới phát tâm v.v..." cho đến chánh pháp, là phần tư mình trong nhân đầu tiên từ danh tự đạt tánh mà thành tựu tu tập. Cho nên gọi là sơ cơ. Năm hạnh dung nhiếp nhau gọi là hạnh Như Lai.
"Trì giới v.v..." trở xuống là nói riêng về giới của Thánh hạnh. Bất sát đều là Trung đạo, đến đây thì lý sự, tự tha không hai, gọi là hộ trì chánh pháp, tuyên bố cùng khắp v.v..." trở xuống là nói về phần giáo hóa người, mở mang chánh pháp, cho nên gọi là Quảng tuyên, khiến cho người nghe được chứng ngộ, nên gọi là lợi ích, chuyển sự đến lý, xoay nhân về quả, nên gọi là hồi hướng Đại thừa, tự tha ở đây; đầu tiên đều từ danh tự, cuối cùng đạt về Đẳng giác, cho nên đều gọi là trong nhân. "Cảm được thể Kim cương tâm v.v..." trở xuống là nói về phần tự độ trên quả, cảm tức nhân năng cảm, Đắc tức là quả Sơ đắc, tức cực quả Diệu giác.
"Kim cương v.v... trở xuống là chính thức hiển bày quả Sơ đắc chẳng thể bị phá hoại, cho nên dụ như kim cương, lý có thể làm quy tắc cho nên gọi là Pháp thân, lý không bao giờ thay đổi nên gọi là Thường thân. Ba tên này đều là tên khác của Pháp thân, tuy ba thân mà không hai, vả lại đó là nói theo Thắng thân. Vì nhờ tu đạo mà được, nêu nhân để hiển bày quả, do tu nhân thường mà được quả thường này.
"Đồng thời tuyên bố rằng v.v..." trở xuống, đoạn này nói về giáo hóa người. Tất cả đều có Phật tánh, nếu có một niệm tâm thì đầy đủ ba ngàn, không phân biệt xiểnđề và định tánh, cho nên nói là đều có, y báo chánh báo đều do tâm; chẳng trừ cây cỏ, cho nên nói là đều có. "Ban cho tất cả v.v... trở xuống: Đây là nói về Thuần-đà hiến cúng lần cuối cùng, Phật ấn chứng cho được quả thường. Chữ Thường nầy xuyên suốt đến các chữ mạng, sắc, lực..., ý nói năm pháp đều thường. Đầu tiên là thường giữ gìn nối nhau cho nên gọi là Mạng, thường mạng thì vô thỉ vô chung mà không dứt mất, dùng phi sắc làm sắc, nay Ta, thân này chính là Pháp thân; tác dụng là lực, cùng khắp tất cả mọi nơi, sử dụng vô cùng tận; bất động gọi là an, tuy có lực dụng mà thường an tịnh chẳng động, đối với các căn cơ được giáo hóa đều hiển bày biện tài vô ngại, dùng vô duyên từ bi ban pháp lạc cho tất cả chúng sinh. "Tuy phá phiền não v.v..." trở xuống là giải thích nghĩa Niết-bàn. Đầu tiên y cứ vào tự hành để nói về sự vắng lặng; kế đến, từ câu tuy ban cho chúng sinh v.v..." trở xuống là y cứ theo việc giáo hóa người để nói về sự vắng lặng. Không có chỗ phá, vì phiền não tức trí tuệ; cũng không có năng viên, vì trí tuệ tức phiền não. Không có các tướng chúng sinh và tướng bố thí, vì Phật cũng như, chúng sinh cũng như, như một không hai. Đó là Niết-bàn tròn đầy thanh tịnh, tổng kết về phần nói về tròn đầy thanh tịnh.
2) Tánh tịnh: Văn gồm có hai phần: Đầu tiên là giải thích về tánh tịnh, "Trong lặng v.v..." trở xuống là giải thích về Niết-bàn.
"Đầu tiên văn ghi Phi tu phi đắc v.v..." trở xuống nghĩa là ba ngàn ba Đế xưa nay vốn đầy đủ, chẳng có tu nhân, chẳng có đắc quả, chẳng có tạo nghiệp, chẳng có dữ nghiệp; chữ Tác lẽ ra phải viết là chữ Chánh, chữ Dữ phải viết là chữ Kỳ. Vì chẳng phải ý nghiệp, cho nên nói chẳng phải chánh nghiệp; và chẳng phải do thân miệng nên chẳng phải kỳ nghiệp. Kinh Niết-bàn quyển ba mươi bốn ghi: "Chánh nghiệp là ý nghiệp; kỳ nghiệp là nghiệp thân miệng". Sớ giải thích rằng: Ý là thể của nghiệp. Vì thân miệng tự nhiên phù hợp mà có, như đến kỳ hạn khế hợp, nên gọi là kỳ nghiệp.
"Vốn tự... trở xuống đã chẳng phải nhân quả cho đến ba nghiệp, nên biết xưa nay tự đầy đủ, chẳng phải hôm nay mới tu thành, chứng quả mới có. "Vừa mới trong lặng v.v..." trở xuống là giải thích nghĩa vắng lặng. Bất sinh bất diệt, vì tánh vốn vắng lặng, nên gọi tánh này là Niết-bàn. "Tuy ở trong sóng nước dơ uế v.v..." trở xuống là nêu lên dụ ao nước mùa xuân để giải thích, như trước đã ghi. Năm ế tức là khói, mây, bụi, sương, móc, tay của Tu-la, để dụ cho năm trụ phiền não không làm nhiễm ô tánh tịnh; giống như năm ế chẳng che lấp mặt trăng. Ở đây nói mặt trăng tức chỉ cho hạt châu ở dưới ao nước, năm ế chẳng thể làm cho ẩn khuất. "Theo dòng v.v..." trở xuống: Như đã ghi ở đoạn trước. "Tuy ở dưới lớp da v.v..." trở xuống: Phẩm Như Lai Tánh ghi: "Ví như nhà vua có một đại lực sĩ, giữa hai đầu chân mày có một hạt kim cương, khi đấu vật với các lực sĩ khác vừa chạm đến, hạt châu bỗng nhiên lặn xuống dưới da, mà không biết hạt châu ở đâu. Chỗ hạt châu lặn xuống lại biến thành ung nhọt, bèn mời thầy thuốc đến chữa trị. Thầy thuốc giỏi xem bệnh cho thuốc, nên biết ung nhọt này là do hạt châu gây ra, hạt châu lặn xuống dưới lớp da liền dừng lại", chi tiết đầy đủ như kinh đã nói. Nay dụ hạt châu cho lý tánh tịnh, vì xưa nay vắng lặng cho nên nói lẫn trong máu mủ mà chẳng nhiễm ô.
"Ba thứ Niết-bàn này v.v..." trở xuống là nói về sự dung hợp lẫn nhau của ba thứ Niết-bàn; chẳng được lìa nhau, vì thể tánh dung nhiếp nhau, cho nên chỉ có duy nhất một pháp; chẳng thể xen lẫn, vì thể dụng đã phân, nên tự thành ra ba loại. Hợp lại thì càng chia lìa vì tức một mà ba, chia ra thì càng hợp lại, vì ngay ba là một, ngang tức dọc cho nên càng cao, dọc tức ngang cho nên càng rộng; lại phải nói thêm tức là lại y cứ theo Pháp thân để giải thích về nghĩa Niết-bàn.
Đức có ba thứ, nhưng ở đây giải thích Thể là y cứ theo Pháp thân, vì ba đức dung hợp nhau cho nên phải nêu đầy đủ, mà ở đây cả ba đức đều tự có đủ ba, nghĩa là ba thân, ba trí, ba Giải thoát chia ra thì thành chín, hợp lại thì thành ba. Ba, chín tuy khác nhưng cùng quy về một thể. Một còn không có một, há lại có chín và ba? Tuy không có chín, ba mà chín, ba vẫn rõ ràng. Quả Phật đã như thế thì sinh nhân cũng giống như thế. Nên biết Thể, Tông, Dụng, cả ba xoay vần nương nhau mà thành tựu, chỉ trong một niệm của ta, nếu biết được yếu chỉ này thì trước sau dễ dàng phân biệt. "Pháp thân là v.v..." trở xuống là giải thích tướng ba đức, mỗi đức tướng đều có đủ ba tướng, dễ dàng thấy trong văn. Đoạn giải thích về Đức pháp thân có ghi: "Chẳng phải sắc tức Báo thân, tức sắc là Ứng thân, chẳng phải sắc chẳng tức sắc là Pháp thân, vì ba thân dung hợp nhau nên gọi là diệu sắc chân thiện. "Chân tức là không v.v..." trở xuống là y cứ theo Ba quán để giải thích nhân tu ba quán, quả chứng ba thân. "Ví dụ như tất cả pháp v.v... cũng tức là nói tâm chân, thiện, diệu ấm; nhập, giới, chân, thiện, diệu v.v... cho đến căn trần chia chẻ, phàm thánh căn tánh lanh lợi hay trì độn đều có thể thêm vào ba chữ Chân Thiện Diệu, để nói lên rằng tất cả các pháp đều trở về ba. "Ví như tất cả pháp v.v..." trở xuống là dùng ba chữ Chân Thiện Diệu để gom nhiếp tất cả ba pháp. "Pháp thân tạng v.v..." trở xuống: Vì bao gồm ba, nên gọi là Tạng đều có đầy đủ Thường, v.v... "Gọi là Đức v.v... trở xuống quy kết cả hai nên nói Tạng đức, cũng giống như thế.
_ Phần giải thích đức Bát-nhã có ghi Nhất thiết chủng trí, Đại Luận: "Nhất tướng tịch diệt tướng, các thứ hành loại tướng mạo đều biết gọi là Nhất thiết chủng trí, Nhất tướng tịch diệt tức là Trung đạo cùng ngăn che, biết rõ các thứ tướng mạo là Trung đạo cùng chiếu soi, cho nên biết ba trí viên dung gọi là Nhất thiết chủng trí, vì thế văn sau kết luận rằng: Ba trí đạt được trong một tâm, chiếu Trung tức Nhất thiết chủng trí, chiếu Chân tức Nhất thiết trí, chiếu tục tức Đạo chủng trí. "Ba Giải thoát: Tự tại giải thoát v.v..., Tự tại tức phương tiện giải thoát; giải thoát tức Thật tuệ giải thoát, tánh của nó rộng lớn tức là thật tướng giải thoát. "Không trói buộc v.v.... trở xuống là lần lượt giải thích ba nghĩa của thoát. Thể phược tức là thoát; thể tức là đạt được, thể hội, tức thật tuệ thấu đạt được sự trói buộc của kết nghiệp, là Giải thoát. Đây là giải thích hai chữ Giải thoát nêu trên. Điều phục chúng sinh một cách vô ngại tự tại, tức là phương tiện Giải thoát. Đây là giải thích hai chữ Tự tại ở trên. Khiến cho chúng sinh kia xa lìa hai loại chết khổ, gọi là ung nhọt. Ba đoạn văn được dẫn chứng đều là lời trong một trăm câu nói về Giải thoát của kinh này.
"Gồm thâu tất cả pháp, gồm thâu tất cả người, vì pháp thật và người giả của mười cõi, đều ở trong một niệm tức ba đức. "Nhập vào Trung đạo", nghĩa là ta rốt ráo nhập Trung, các ông một phần nhập Trung. "Các nghĩa khác cũng đều hiển bày, nghĩa là bốn chương khác. "Thế gian hiểu về Đế v.v... như Sớ ghi: "Xưa hoặc cho cảnh là Bốn Đế, hoặc cho trí là bốn Đế, nghĩa là phàm phu vô trí thì chỉ có ở cảnh, cho nên Kinh ghi: "Có khổ thì không có đế, hoặc ghi: Khổ, Tập, Diệt, Đạo, đều là đối cảnh mà nói trí, trí tức là Đế, cảnh phát ra trí, trí chẳng thật có, trí có thể chiếu cảnh, rõ cảnh vốn không. Cảnh trí thành tựu cho nhau nên nói bốn Đế. Sớ thiếu phần y cứ vào giáo để giải thích nghĩa của Đế, lẽ ra cũng nên nói rằng ngôn giáo phân biệt rõ ràng là nghĩa "Đế" chính xác. Kinh ghi: "Tâm vui mừng nói chân đế, thuyết tức là Giáo". Mỗi giáo đều có một đường, cho nên nói rằng: Đều là nghĩa này, nay dùng lý giải thích đế, đây là dùng nghĩa của Hưng Hoàng, cho nên sớ ghi "Hưng Hoàng nói Đế là chỉ cho Phật tánh Niết-bàn, chẳng phải cảnh, chẳng phải trí, chẳng phải hữu lậu, chẳng phải vô lậu, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải thế gian xuất thế gian, cho nên gọi là Thánh đế. Đây là y cứ theo lý mà giải thích". Nhưng nay y cứ theo nhất lý mà tùy cơ, nên có bốn thứ Tứ đế khác nhau, thì nghĩa của Hưng Hoàng chưa rốt ráo. "Đương tức cảnh chánh", vì cảnh là sự, sự lại nương vào lý. Cảnh chánh thì trí giáo đều chánh, vì nương vào cảnh mà phát ra trí, nương vào trí mà nói giáo. Dùng lý giải thích đế v.v..." Lý là gốc của cảnh, trí và giáo. Vì nêu lên gốc là gồm thâu cả ngọn, cho nên dùng lý giải thích nghĩa Đế, thì mới đầy đủ và thích hợp. Năng sinh sinh ra sở sinh, Tập nhân, chiêu cảm quả khổ. Sở sinh lại sinh ra năng sinh, nơi quả khổ lại khởi lên Tập nhân, nhân lại chiêu cảm quả cho nên nói Khổ, Tập xoay vần. "Đạo là năng hoại", giới định tuệ có công năng đối trị Khổ Tập. Diệt là sở hoại", cảnh giới Khổ, Tập đã dứt trừ gọi là Diệt đế. Lại cùng nhau sinh diệt, năng hoại sinh thì sở hoại diệt, đó là bậc Thánh. Sở hoại sinh thì năng hoại diệt tức là phàm phu. Ép ngặt sinh ra và lớn lên... cũng như đối với Tứ đế kế đó. Như kinh, là ba đoạn văn sau đều y cứ vào phần nói về Tuệ Tứ Đế của phẩm Tứ Đế và phẩm Thánh hạnh, cho nên cuối cùng đều có nói "như kinh", tức chỉ cho hai phẩm này. Có vô lượng tướng là vì y cứ theo mười cõi mà nói về Tứ đế. Rõ biết được khổ, thì chẳng có khổ, ấm nhập đều như, nên không có khổ để dứt bỏ, phiền não tức Bồđề, cho nên không có Tập để dứt, tà kiến hai bên đều là Trung đạo, cho nên không có đạo để tu, sinh tử tức Niếtbàn, cho nên không có Diệt để chứng, cho đến liễu được diệt thì không có diệt, vì đều tức Một tâm ba Đế, cho nên nói "mà đạt được thật". Nhân khổ tức là Tập, Khổ hết tức là Diệt; đối trị khổ tức là Đạo. Trong một có vô lượng, một tức là một thật Tứ đế, vô lượng tức là ba loại bốn đế kia. Lấy chỗ đối trị của đạo để làm dụng, nghĩa dụng hiển bày chính là chỗ khổ và tập đã dứt hết. "Đấng Điều Ngự tâm vui mừng v.v... trở xuống là lời hỏi của ngài Ca-diếp; hỏi vì sao các Đấng Điều Ngự với tâm vui mừng nói chân đế, nên Phật đáp bằng phẩm Tứ đế. Chỉ là một không khác nhau, trước y cứ theo lý để giải thích về Đế, thì nhiệm mầu ở ý này. "Ở đây đã thiếu một chương", đây chẳng phải là chánh văn, vì nói lên bản cổ đã bị mất một chương nói về nghĩa Bất sinh bất sinh, và do người sau hiệu đính ghi chú, ở quyển thượng hoặc là chú thích ở bên ngoài bản, người viết không hiểu lại đưa vào chánh văn, cũng như trong sớ đầu tiên dưới chữ "Như thị" có hai chữ "Trùng điểm", cũng là lặp lại trong chánh văn; lại chữ "Như thị" trong chánh văn đã thiếu, người đời sau khi phát hiện đã ghi chú. Mà nay hai chữ Trùng điểm dưới chữ Như thị, người viết không hiểu cũng đưa vào văn, câu "chim oanh vũ học nói" xem xét thật đúng. Nhưng nghĩa bất sinh bất sinh, nếu muốn nói thì như trong phẩm Đức Vương nói bốn câu là sinh sinh, sinh bất sinh, bất sinh sinh, bất sinh bất sinh; Sinh sinh là vô minh sinh tử, sinh bất sinh là Đoạn đức Giải thoát, bất sinh sinh là Trí đức Bát-nhã, bất sinh bất sinh là lý thể Pháp thân, bốn câu này là ngay nơi một mà bốn, ngay nơi bốn mà một, vì muốn cho dễ hiểu, nên gọi chung là bốn câu, tức gọi bất sinh bất sinh là Thể, bất sinh sinh là Tông, sinh bất sinh làm Dụng, luận thuyết như thế tức là Giáo, thế thì chẳng những nghĩa thể của kinh được hiển bày mà các nghĩa khác cũng dễ thấu rõ.
"Tánh có năm v.v..." trở xuống: Trong đó chánh nhân được y cứ theo lý, bốn thứ khác thì y cứ theo sự. Vì y cứ theo lý, cho nên tuy chẳng phải nhân quả mà thể cùng khắp trong nhân quả, và cảnh nhân duyên sinh ra trí tuệ đã làm nhân thì trí tuệ đối với quả, cũng lại là nhân, cho nên gọi là Nhân nhân. Tánh của quả quả, là trí đức Bồ-đề đã là quả, lại được quả Niết-bàn đoạn đức cho nên gọi là Quả quả. Nay hãy v.v..." tức là y cứ vào năm ấm để trình bày về cảnh năm ấm thường hiện tiền, cho nên pháp chỉ quán, đầu tiên là quán chín pháp như ấm, phiền não v.v...", và đợi có phát khởi mới quán. Nay vì theo nghĩa chủ yếu, cho nên y cứ vào năm ấm để trình bày năm tánh. "Năm ấm... sở dĩ cũng là nghĩa lý, vì năm ấm là sự, Phật tánh là lý, sự do lý thay đổi, sự này tức lý, nên gọi là sở dĩ, năm ấm là nhân lại sinh ra nhân trí tuệ, cho nên gọi là Nhân nhân. Hỏi: Năm ấm là quả, sao gọi là Nhân? Đáp: Phàm phu, hướng về quả, hướng về Phật vẫn là nhân. "Trí tuệ tăng thành", là trí tuệ tăng trưởng mà thành, phần chứng hay rốt ráo chứng ngộ đều gọi là trí tuệ tăng thành. "Sở diệt" tức vô minh, chỗ vô minh diệt tức quả Niết-bàn. "Những pháp khác v.v..." tức chỉ cho giới, nhập v.v..."
Tánh của quả Quả làm tên v.v..." trở xuống là vì tên kinh là Đại Niết-bàn, Chánh tánh là thể". Vì chánh tánh là Diệu lý. Nhân nhân tánh và quả tánh làm tông, vì lấy nhân quả làm tông. Hỏi: Đã dùng nhân làm tông vì sao không gồm chung Niết-bàn đoạn quả? Đáp: Thật ra thì gồm cả, nhưng đề kinh chỉ y cứ theo quả quả mà lập nghĩa, đã vừa thuận tiện lại vừa đúng tên. Nếu y cứ theo nghĩa vừa nêu để lập, cũng nên gom nhiếp cả năm tánh để làm tên. "Nhân tánh làm Dụng", mười hai nhân duyên làm sở phá, dùng sở để hiển năng, thì nghĩa của Dụng đã rõ. "Hai tức chẳng hai", hai là nhân quả, chẳng hai tức lý Thể, vì sự lý dung nhiếp làm một cho nên cùng tương tức bất nhị. "Chẳng thể là hai" v.v... vì danh và sự phân riêng, thì thể bất nhị chẳng thể làm tông nhân quả, cho nên nói là "Không thể là hai". Câu sau cũng giống như thế.
"Đã lập tông thể v.v..." chính là y cứ phân biệt danh và sự mà lập năm chương. Cốt yếu của việc tu hành, như cổ họng của thân, như cổ của chiếc áo, cho nên nói là Yếu. Không pháp nào hơn pháp nhân quả, vì nhân gồm thâu muôn điều thiện, quả thâu nhiếp muôn đức. "Cho nên lược nêu lên ba loại, tức là ba tu, năm hạnh, một hạnh, vì lần lượt giải thích nên không nêu lên trước;
Hỏi. Tịnh Danh Huyền Nghĩa ghi: "Niết-bàn chẳng phải không có nhân của năm hạnh, mà quả chánh nhân lại phụ lấy quả làm tông. Vả lại ở trên nói chẳng có gì hơn nhân quả, vì sao lại dẫn ba đoạn văn nói về nhân để giải thích nghĩa Tông? Đáp: "Tuy dẫn văn nói về nhân, nhưng nói nhân thì phải có quả, cho nên phù hợp với câu trên; kinh phân biệt chỉ bày thì đồng với nghĩa của Tịnh Danh Huyền Nghĩa. Trong văn nói về ba tu có nói rằng: "Đạt được quả Thường thành Niết-bàn thực". Trong văn nói về năm hạnh thì ghi: "Tu hạnh này rồi thì đạt được hai mươi lăm Tam-muội, trụ Đại Niết-bàn". Bờ kia rộng lớn là nói trong phẩm Đức Vương, trụ Đại Niết-bàn là nói trong phẩm Sư Tử Hống và Đại thừa Đại Niết-bàn nói trong phẩm Nhất Hạnh, đều là quả đạt được. Cho nên biết nói về nhân mà ý là ở quả. Thế thì ý của kinh là nói rõ về Tông, vì trong kinh chủ yếu là nói quả là sở chứng của người tu hành. Bác bỏ các Tỳ-kheo, dùng Viên để bác bỏ Tiểu thừa. Giảng nói về chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, tức là thể do nhân quả hiển bày. Ba pháp tu kém hơn, tức là vô thường, sở phá. "Là củi phiền não", vì hàng Nhị thừa, vô minh hoàn toàn vẫn còn; Ba pháp tu cao tu tức là nhân quả hiện tại. Niết-bàn thực tức là lý sở chứng, phần lý hay cực lý đều gọi là thực (thức ăn). Bốn chúng tức là bốn mươi nhân chân thật. Tức vị ngọt ưa thích, vì trí năng chứng lý cho nên dụ cho cam thị (món ngọt). Thực tế tu hành, tức thật chứng tánh thể ấy mà tu nhân đến quả. Pháp thường v.v... tức là cảnh sở chứng, Phật là trí năng chứng". Vì sao có thêm bớt? Tăng thì đến hai, ba giảm thì hai còn một. Bỏ sự theo lý, là các Tỳ-kheo bỏ các hạnh Tiểu thừa mà đối với Phật xưng tán lý quán ba tu khổ, vô thường, vô ngã của giáo khi xưa, cho nên kinh nói: "Thí như trong các dấu chân thì dấu chân voi là lớn nhất. Tưởng Vô thường này cũng như thế. Nêu lên lý cao siêu để phá lý kém hơn, khổ, vô thường v.v..." là lý kém sút, Thường, Lạc, Ngã là lý cao siêu. Hỏi: Vì sao chỉ nói ba tu? Đáp: Không muốn lạm bàn đến quả chứng ngộ, vả lại nay chỉ nói về nghĩa tu cho nên không nói thêm, nhưng đã có thêm bớt do căn cơ nên lẽ ra tăng đến bốn". Hai là v.v... trở xuống là y cứ theo thứ lớp năm hạnh để nói về nhân tu tập. Đầu tiên gọi là giới định tuệ", vì trong năm hạnh, thì Thánh hạnh đứng đầu cho nên gọi là Sơ Thánh hạnh không ngoài ba thứ, cho nên nêu lên giới, định, tuệ. "Nhà như lao ngục v.v..." trở xuống: Đoạn này lần lượt giải thích, đoạn văn đầu tiên là nói về Giới Thánh hạnh, tức kinh ghi: "Tại gia không có gì vui sướng, chỉ như lao ngục, xuất gia an nhàn như hư không xa rộng vô cùng". Văn nói Phạm hạnh không phải chỉ cho bốn loại phạm hạnh, mà chỉ cho xuất gia là phạm hạnh, vì lìa những nhiễm ô của trần thế. Đây là nói về Giới Thánh hạnh. "Từ đầu đến chân v.v..." là nói về Định Thánh hạnh, đây là thiền định đặc biệt thù thắng, văn dẫn tuy tóm lược mà đầy đủ nghĩa có tu có chứng. "Từ đầu đến chân là chỉ cho tu; từ "chỉ có v.v.." trở xuống là chỉ cho chứng. Chứng loại thiền đặc biệt này khai mở thân bốn đại này, mà thấy thân mình có đủ ba mươi sáu vật. Quán sát trở xuống, là nói về Tuệ Thánh hạnh. Có bốn thứ tuệ hạnh, đầu tiên là quán tám khổ... là sinh diệt, kế đến, là vô sinh, rồi vô lượng và cuối cùng là vô tác, đều có thể nhận thấy trong văn. "Như kinh", là chỉ cho quyển mười một kinh này. "Đắc hai mươi lăm Tammuội, tức quả tuệ hạnh đạt được là do tu tuệ hạnh, nghĩa là ở giai vị Vô úy đạt được hai mươi lăm Tam-muội, tùy cơ lợi ích chúng sinh. "Phần chứng ba đức gọi là trụ Đại Niết-bàn, huống chi đạt được công đức như Phật", là nêu lên phần chứng quả để so sánh với cực quả. Từ cạn đến sâu, nhân là cạn mà quả là sâu. Nói lên chẳng phải nhân, chẳng phải quả, dùng sự của nhân quả để hiển bày lý song phi (hai lớp phủ định). "Đức Vương, v.v... trở xuống là nói về năm hạnh, là y cứ theo tu hành, còn mười đức thì dùng để làm rõ về chứng. Cho nên phẩm kia có ghi: "Bồ-tát tu hành Đại Bát-niết-bàn, chứng mười thứ công đức", nhưng năm hạnh cũng gồm cả chứng, mười đức cũng gồm cả tu, bỏ phụ giữ chánh, phân biệt thành hai trong sớ ký đã nói; "Bốn đại như cái rương, Đại như rắn độc, thân như hòm rương, bốn đại thành thân như rắn độc trong rương". "Năm ấm như sự nguy hại", kinh ghi: "Năm kẻ Chiên-đà-la vung đao đi theo". Văn kinh nói rất rộng không thể ghi hết. "Cắt dòng", dòng dụ cho phiền não sinh tử. Từ nhân gọi là sông phiền não, từ quả thì nói là dòng sinh tử. Trong kinh có nói về sáu con sông là: Phiền não, sinh tử, nghiệp thiện, nghiệp ác, Phật tánh và Niết-bàn.
"Đầu tiên từ thiểu dục tri túc... tức quyển hai mươi lăm kinh này lần lượt nêu ra mười việc là ít muốn, biết đủ, tịch diệt, tinh tấn, chánh niệm, chánh định, chánh tuệ, giải thoát, khen ngợi giải thoát và dùng Niết-bàn hóa độ chúng sinh. Nay chỉ lược nêu một, hai và mười, nên gọi là cho đến. "Lại siêng năng tu tập giới hạnh v.v...", là văn trích dẫn trong quyển thứ hai mươi chín kinh này. Kinh ghi: "Nếu thấy có giới, giới tướng, giới nhân, giới quả, giới thượng, giới hạ, giới tụ, giới nhất, giới nhị, thử giới, bỉ giới, giới diệt, giới đẳng, giới tu, giới giả, giới Ba-la-mật. Nếu có người thấy như thế, thì chẳng phải là tu giới". Giải thích rằng: "Thấy có giới thể, có giới tướng là phòng phi chỉ ác, khi tu gọi là nhân, khi thành gọi là quả, Thánh là bậc thượng, phàm phu là bậc hạ, nhiều giới gọi là tụ, chung là một, riêng là hai, mình là đây, người là kia, dứt trừ lỗi lầm gọi là diệt, những điều thiện khác gọi là đẳng, tu tập bảy môn trên gọi là giới tu, người tu gọi là tu giả, giới có công năng đưa đến quả gọi là Ba-la-mật. Người thấy các tướng như thế gọi là chẳng tu giới. Vì văn này hiển bày tướng tu, cho nên nói chẳng thấy. Định tuệ v.v... cũng như thế, nghĩa là định, định tướng, định nhân, định quả v.v...", cũng giải thích như giới. Từ đầu đến cuối, đầu là nhân, cuối là quả. Chỗ nào chẳng vận chuyển, chỗ nào chẳng gồm thâu được, nhân lớn quả lớn thì nơi nào chẳng gồm thâu, cho nên nói nhân chuyên chở muôn điều lành, quả thì bao gồm muôn đức.
Nhân quả dung thông, tức sự mà lý. "Tất cả v.v..." nhân tròn, quả đủ, đầy khắp dung nhiếp tất cả, gọi là người vô ngại, chúng sinh và Phật không khác, gọi là nhất đạo, tu chứng như thế thoát khỏi hai thứ tử. Hoặc tu mười tưởng, cho đến tri dục là lời trong quyển ba mươi bốn kinh này, ghi rằng: "Nếu Bồ-tát, bốn chúng tu hành mười tưởng, thì nên biết những người này sẽ đạt được Niết-bàn, mười tưởng là tưởng vô thường cho đến tưởng vô ái". Tri căn tri dục, kinh ghi: "Bồ-tát đối với ba mươi bảy phẩm mà biết căn, biết nhân, biết nhiếp, biết tăng, biết chủ, biết đạo, biết thắng, biết thật, biết rốt ráo, thì được gọi là thanh tịnh phạm hạnh", Kinh lại ghi: "Ba mươi bảy phẩm, chủ yếu là nhân của dục, gọi là minh xúc v.v..."". Vì thế, nay văn này gọi Tri căn Tri dục. "Tiếp Tiểu thừa, tiếp Thông giáo", Tiểu tức Tam tạng giáo, dùng pháp viên thường để dắt dẫn hai giáo Ba thừa. Đây là y cứ vào chung để dẫn dắt, cho nên nói là "Tiếp tiểu", nếu nói tiếp cả ba thì chẳng chung với sáu độ của Bồ-tát thừa và hai giáo Nhị thừa, việc này có nói rõ trong sớ ký. "Từ Tiệm vào Đốn" là trước Thập địa là Tiệm, nhập vào Sơ địa trở lên là Đốn.
"Cho nên kinh nói v.v...". trở xuống là dẫn văn kinh trong phẩm Ca-Diếp để chứng minh cho ý Biệt giáo; gốc đã lập thì đạo phát sinh, gốc Niết-bàn đã lập, thì các hạnh lại sinh. Vậy Niết-bàn chỉ là gốc của các hành thôi sao? "Như không có v.v..." trở xuống là như không có giềng mối thì mắt lưới không thể lập được. Giềng mối và da dụ cho Niết-bàn; mắt lưới và lông dụ cho các hành; mĩ nghĩa là không quan trọng là ở thường, tuy phá nghiêng chấp lần lượt viên dung ba hạnh khác nhau, mà quả thường không khác nhau. Cho nên văn kinh trước ghi: "Tuy cả ba khác nhau, nhưng đều lấy Thường làm Tông". "Các hành đều hội về thường, hành tức là nhân, thường tức là quả. Có thể hiển bày, lý được hiển bày từ quả, tức là nghĩa của Tông bản đã nêu ở trước, cho nên biết gốc của Tông là y cứ theo lý, còn Tông chủ yếu y cứ theo trí, hổ trợ Tông thì y cứ theo hành, do đây mà tìm văn nghĩa thì không điều gì chẳng sáng tỏ. Thất diệu tức là mặt trời mặt trăng và năm sao. "Bắc thần", Kinh Châu Tinh Chiêm ghi: "Bắc thần gọi là Thiên quan, là Bắc cực, Bắc cực tức là Thiên tọa của Tử cung (cung điện màu tím)". Luận Ngữ ghi: "Trị dân phải dùng đức, thí như chỗ của Bắc thần chiếm, thì các sao khác vây quanh". Giống như muôn sông... Thượng Thư ghi: "Sông Giang, sông Hán đều đổ ra biển Đông". Thất diệu muôn sông dụ cho hành, Bắc thần, Đông hải dụ cho Trí. "Hoặc người v.v... trở xuống là nhân, Lý, Giáo, Hạnh đều giúp đỡ, khiến cho phần chân, cực quả thường trí được khai phát. Tức là nương vào người mà nghe giáo, nương vào giáo để tu hành, nhờ hành mà khế hợp với lý; từ bốn pháp này mà chứng đắc phần chân cho đến cực quả. Cho nên nói do giúp đỡ mà có được sức lực. Hoặc do đạo giúp đỡ, Đạo tức là lý, cũng là dùng Thiên nhân, thiên Giáo v.v... để giúp đỡ, như trong phần đối trị trợ khai của chỉ quán có nói. "Như vải thô xấu..." tức là dụ trong kinh Như Lai Tạng. Kinh ghi: "Như có người mang tượng vàng ròng đến một nước khác, dùng vải dơ uế, thô xấu bọc lại ném ngoài đồng, người có Thiên nhãn nhìn thấy bảo mọi người bỏ vải dơ hiện ra tượng vàng ròng, tất cả đều vui mừng. Thiên nhãn của Ta cũng giống như thế, thấy chúng sinh kia bị nghiệp ác phiền não trói buột chịu nhiều đau khổ, sinh tử, lại thấy chúng sinh kia ở trong vô minh bụi nhơ, mà tánh Như Lai vẫn bất động, không hề bị hủy hoại". "Hạt châu trên trán lực sĩ..." là dụ cho kinh này. Hạt châu trên trán thì như kinh đã dẫn ở đoạn trước. Phẩm Như Lai Tánh trong kinh Bảo Tạng ghi: "Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh từ trước đến nay thường bị phiền não che lấp, cho nên chúng sinh không thể thấy được; như cô gái nghèo trong nhà có kho vàng ròng, kẻ lớn người nhỏ trong nhà, chẳng ai biết được". "Trong giếng v.v..." trở xuống: Kinh ghi: "Như trong ngôi nhà tối có giếng nước và vô số châu báu, mọi người đều biết là có, nhưng vì tối cho nên không thấy, có người khéo léo thắp đuốc chiếu sáng ngôi nhà, nên mới thấy được. Người này chắc chắn sẽ không nghĩ rằng nước và hạt châu xưa nay không có, Niết-bàn cũng như thế, vốn tự có, chẳng phải nay mới có. Các đức Đại trí Như Lai dùng phương tiện khéo léo, thắp đèn trí tuệ, khiến các Bồ-tát thấy được Niết-bàn". Chánh nhân Phật tánh nương vào chúng sinh này, vì tâm thần không đoạn diệt. Nhưng y cứ theo.... nghĩa là lý ấy vốn chỉ có một, nhưng y cứ theo thời gian thì có hai, cho nên nói: "Việc trong hai thời", chữ Dị mà viết chữ Nhược là sai. "Vốn có v.v..." trở xuống: Lúc khởi đầu tuy chưa có việc đương quả, nhưng có lý đương quả, Thời mà viết là Trợ (giúp đỡ) là sai. Kim tâm tức Đẳng Giác, Chủng Giác tức Diệu Giác. Nói trong sữa dụ cho chúng sinh, lạc dụ cho Phật tánh, đun khuấy dụ cho sự tu hành. Chữ Dao (rượu) lẽ ra phải viết chữ Lao (khuấy), nghĩa là muốn trở thành lạc phải khuấy sữa. Ứng Pháp sư ghi: "Nên viết là Kiểu, là lên men rượu". Văn kinh phần nhiều đọc chữ Dao (rượu) là Lao. Tam Thương thuyết văn đều cho là rượu có cặn (rượu đục), Dao chẳng phải tự thể; mè dụ cho chúng sinh, dầu dụ cho Phật tánh, ép dầu dụ cho tu hành. Xét hai đoạn văn này, tức là đoạn văn trong phẩm Như Lai Tánh nói về chứng bản hữu, và đoạn này trong Sư Tử Hống và phẩm Ca-diếp nói về chứng Đương Hữu. "Lại dẫn các loại gỗ đá..." phẩm Ca-diếp ghi: "Chẳng phải Phật tánh nói là Phật tánh, chẳng phải Phật tánh tức là tường vách gạch ngói". Các vị Sư này chỉ biết lược bỏ văn nói về gỗ đá, mà đâu biết lý y chánh dung nhiếp lẫn nhau. Nên biết gỗ đá, bụi cõi đều do tâm biến hiện, đương thể tức tâm, tâm ta thành Phật thì sát trần đều thành Phật. "Đâu có cây gỗ nào ở riêng ngoài tâm, cho nên, chẳng có các dụng bản hữu" nghĩa là chỉ biết chúng sinh, có các dụng bản hữu, còn gỗ đá thì không, mà đâu biết rằng trong nhân đã có lý y báo chánh báo dung nhiếp nhau, trên quả đã có các sự y báo, chánh báo dung nhiếp nhau. Trong nhân đã có quả, bác bỏ sự giải thích kia, cũng đồng như ngoại đạo. Nếu tương tục thường, vì nhân nối nhau mà đạt đến quả. Lẽ ra cũng vô thường, vì người kia không biết yếu chỉ hai chim cùng bay, nên mới có câu hỏi này, nếu đạt được yếu chỉ "hai chim cùng bay", thì thường và vô thường đều là lý sẵn có. "Liễu nhân rõ bản hữu v.v..." Liễu nhân là trí chiếu tánh bản hữu, như đèn chiếu vật, sinh nhân là phước từ nhân đến quả, như đất nặn thành bình. "Ngao cò v.v..." trở xuống: Nay Sư bác bỏ hai nhà giải thích trên. Bên chuyên chấp, thì không chấp nhận chuyên phá, bên chuyên phá, thì không chấp nhận chuyên chấp; cả hai tranh cãi nhau như ngao cò, đều bị Sư là ngư ông bắt sống. Phần Hậu Ngữ thứ mười trong kinh Xuân Thu ghi: "Nước Triệu sắp đánh nước Yên, Tô Đại vì nước Yên đến bàn với Triệu vương rằng: Thần từ xa đến đây, lúc đi ngang qua một dòng sông nhỏ, thấy một con ngao vừa há miệng ra, thì bị một con cò mổ vào thịt của ngao, ngao liền khép vỏ kẹp mỏ cò, cò nói: Ngày nay không mưa, ngày mai không mưa sẽ thấy ngao chết khô, ngao thấy vậy cũng bảo cò rằng: "Hôm nay không mở, ngày mai không mở thì cò sẽ chết". Cả hai chẳng ai chịu thả ai, ngư ông thấy vậy bắt sống cả hai. Nay Triệu đánh Yên, Yên Triệu giao tranh, dân chúng cực khổ, binh lính mỏi mệt, thần e rằng có một ngư ông là nước Tần cường thịnh đang chờ bắt. Vì thế, xin Đại vương xét kỹ". Vua Triệu nghe thế bèn không đánh Yên.
"Nay nên v.v..." trở xuống là bác bỏ cả hai nhà. Đầu tiên y cứ theo lý chẳng phải ba thời để bác bỏ thuyết chuyên chấp, kế đến y cứ theo bốn thuyết về hợp duyên để bác bỏ thuyết chuyên phá. Trong đoạn văn đầu tiên nói chẳng phải yếu chỉ của Tam tạng giáo và Thông giáo, đó là vì tên gọi Phật tánh chẳng thuận với hai phái này. Người thợ mộc giỏi tính toán thì mặc tình mà sử dụng, quỹ tức là độ (so lường, tính toán). Tả Truyện ghi: "Núi có cây, người thợ mộc đo đạc tính toán". Dưới ba chữ "Hữu mộc nhậm" thiếu chữ Dụng. "Sác dụng", Ty Thương ghi: "Giáo dài một trượng tám thước", hoặc gọi là Sóc, chữ thường dụng. "Phật liền phá bỏ", đây là đoạn văn phá định tánh trong phẩm Sư Tử Hống. Thần trực vi khúc, viết Thần là lầm, lẽ ra phải viết là ủy (uốn ép). Sớ Trần-như Phẩm ghi: "Lúc trước đoạn cây cong thì làm khung cửi, nay uốn thẳng để làm giường, lúc trước đoạn cây thẳng thì làm giường, nay uốn cong làm khung cửi. Nếu chuyên v.v..." trở xuống là y cứ theo bốn thuyết hợp duyên để bác bỏ các nhà chuyên phá. Là pháp giới chư Phật, pháp giới cùng khắp, bốn môn dung nhiếp nhau. Các nghĩa xưa v.v..." trở xuống: Nay bốn câu dung nhiếp khác nhau, các cựu Sư mỗi vị đều có sở chấp, tại y cứ theo lý, nếu chẳng phải bốn câu thì khác với các nhà chuyên chấp, mà tùy cơ nói bốn câu thì không đồng với các nhà chuyên phá. Cả hai nhà này đều bị phá. Nên dứt hết hoặc nghiệp, Hoặc cần phải dần trừ, lý thì nên đốn ngộ. "Chẳng thể cùng lúc v.v..." trở xuống: do trí dần dần đầy đủ cho nên lý dần dần được thấy rõ. Ba là v.v..." trở xuống: Các Sư này cho rằng quả Phật ở ngoài Nhị đế, cho nên lý (chân) có thể dần biết, quả nên đốn chứng. Đã thấy chẳng phải lý v.v..." vì dứt hoặc là do thấy được lý. "Lý đã thông suốt"; vì lý thể viên thông như hư không chẳng thể phân chia để biết. "Nếu đầu tiên v.v..." trở xuống: đoạn này lặp đi lặp lại để vặn hỏi. Đầu tiên đã có thể xứng hợp với sau cùng, tức là Đốn kiến, thì chẳng phải là sau mới thấy. "Đầu tiên chẳng xứng hợp với sau cùng v.v..." trở xuống nghĩa là đầu tiên thì cạn, sau cùng thì sâu. Vì đã có sâu cạn thì chẳng phải là Đốn kiến. Nhưng các Sư thứ hai chỉ chấp Tiệm kiến, e rằng họ bị nạn phá mà chuyển sang chấp Đốn. Cho nên mới có sự ngăn chặn này. Đúng như pháp quán Phật, Phật tức là quả Phật, Niết-bàn tức là chân đế, không giống với các Sư ở trước chấp Niết-bàn là Tục đế. Phật và Niết-bàn đã là một tướng, chẳng lẽ Chân lại Tiệm kiến, mà Phật lại đốn chứng hay sao? Dẫn kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm cho rằng ngay nơi Tục là Chân cho nên có thể phần biết, quả ở ngoài Hoặc, chẳng tức sinh tử cho nên chẳng thể Tiệm chứng. Đã chẳng phải tức sinh tử, thì há chẳng phải là hư vọng phân biệt sinh tử khác Niết-bàn hay sao? Vì quả Phật không có chứng ngộ, chỉ có chứng Niết-bàn thôi. Chân và Niết-bàn, vì quả Phật và Niết-bàn được chứng ngộ tức là chân đế. Y cứ theo đây có thể biết rằng các thuyết chấp quả Phật này không ngoài các Sư Nhị đế vặn hỏi, như dùng thuyết của Sư để hội thông thì tất cả đều là nghĩa Thông giáo, nếu y cứ theo Đương giáo thì chẳng ra ngoài nhị đế, nếu căn cứ theo bị tiếp kiến Trung, thì vượt ngoài Nhị đế.
"Nay nói về các nhà giải thích v.v..." trở xuống là sắp nói nghĩa chính, trước phá các thuyết của cựu Sư chống đối nhau. Cho nên nói là theo đuổi nhau, do sự tranh luận này mà nước xao động, hạt châu diệu lý bị che lấp. "Nhưng lý thì v.v..." trở xuống: đoạn văn có thể chia làm hai phần, đầu tiên là nói về lý không có Đốn Tiệm. Kế đó Hữu nhân duyên" trở xuống, là nói về Tiệm Đốn tùy cơ, y theo lý thì không giống với các nhà chuyên chấp, theo cơ thì không giống với các nhà chuyên nạn phá. "Đâu có xứng với lý", vì như lý mà hiểu mới gọi là trí, cho nên trí chẳng xứng lý thì đều là tà chấp. "Như vuông đặt vào tròn v.v..." trở xuống, như đục vuông lắp vào cán tròn, nên nói là không tương ứng. "Không thấy v.v..." trở xuống: Không thấy là y cứ theo lý, không chứng đắc là y cứ theo trí, đều chẳng phải Tiệm Đốn, vì năng sở như một nên chẳng thấy, chẳng đắc mà lại là thấy, là đắc. Ý nghĩa trong đoạn nói về Tông, tức là đoạn văn trước nói: "Đầu tiên phá vô thường mà tu thường, tức là dùng Viên giáo để tiếp Tiểu, tiếp Thông giáo, kế đó là dùng tâm Đại Niết-bàn tu Vô thường, rồi tu Thường, tức đầu tiên là tu theo thứ lớp Biệt giáo, sau cùng tức vô thường mà tu Thường, đó là hàng căn cơ viên đốn. Tuy có ba thứ khác nhau, nhưng đều lấy thường làm Tông, cùng quy về quả thường, hai giáo trước là Đốn Tiệm, một giáo sau là Đốn đốn. Tạng Thông được Tiếp và thứ lớp biệt giáo đã hội quy, thì hiển bày được giáo trước là Tiệm của Đốn; Đốn không có khác nhau, Tiệm thì có khác nhau cho nên xưa nói "khác nhau trong không khác nhau"; vì giải và hành đều Đốn nên gọi là Đốn đốn. Là quán bất định, gồm hai câu trước và sau là Tiệm tiệm,... tức là ba thứ chỉ quán. "Tiệm lại v.v... trở xuống, nghĩa là y cứ vào câu Tiệm tiệm mà chia làm bốn câu, văn trước chỉ nói ba câu, ở đoạn này lại chia nhỏ thành Tiệm tiệm, cho nên văn trước bị thiếu. Ở đây chia nhỏ, vẫn còn thiếu ba câu, trước sau quan hệ, nêu lên được bốn câu đầy đủ. Tiệm tu tiệm kiến, tức là hàng đương giáo Tạng Thông, tu hành thấy chân; Tiệm tu đốn kiến là Bồ tát trước Thập địa của Biệt giáo, tiệm tu lên Sơ địa là Đốn kiến. Tiệm tu Đốn tiệm kiến, là Biệt giáo tiếp Thông giáo, tiếp quy về Địa tiền trở thành Tiệm kiến, tiếp quy Đăng địa thì gọi là Đốn Kiến. Tiệm tu chẳng phải Đốn tiệm kiến, tức Viên giáo tiếp Thông giáo, Biệt giáo, vì khác với ba giáo trước, nên chẳng phải Đốn Tiệm. Ba câu kia cũng có thể hiểu được nghĩa là Tiệm đốn, Đốn tiệm, Đốn đốn mỗi thứ đều chia làm bốn câu, có thể y cứ theo sự phối hợp giải thích về Tiệm mà hiểu được. Nay nói về bốn nghĩa trong Đốn đốn để chỉ bày cho hậu học. Đốn đốn tu mà tiệm kiến, tức là tu viên đốn mà chứng cảnh giới Ba thừa Tạng Thông. Đốn đốn tu mà Đốn kiến, nghĩa là viên tu viên thành, Đốn đốn tu Đốn Tiệm kiến, nghĩa là tu viên đốn, chứng đắc cảnh giới Bồ-tát Biệt giáo, Đốn đốn tu phi đốn tiệm kiến, nghĩa là vì y cứ theo lý cho nên cả hai đều chẳng đúng; cũng là phát sinh cảnh phiền não. Tác dụng chiếu cảnh, tức là trên tác dụng của Đương hữu đã có công năng chiếu cảnh. Sự tích lưỡi bị nát bấy trong miệng đã có nói trong sớ ký. Nên nói Như Lai chắc chắn là vô vi, Thể dụng đều là vô vi. "Đâu thể v.v..." trở xuống là quở trách thuyết của Dược Sư trái với kinh. "Quang Trạch v.v... trở xuống: Trí vô thường là trí của phàm phu, cảnh thường trụ là cảnh Phật, nghĩa là trí phàm phu quán Phật chẳng tùy theo cảnh Phật là thường trụ, thì nay Phật trí quán phàm phu há lại duyên theo cảnh phàm phu là vô thường hay sao? Đây cũng chẳng đúng. Đại Luận ghi: "Nếu như pháp quán Phật, Bát-nhã và Niết-bàn thì cả ba chỉ là một tướng, há chẳng phải trí phàm theo cảnh Phật là thường hay sao? Nếu đúng, thì trái lại trí Phật chạy theo tục cảnh là vô thường. Lập nghĩa chín đời chiếu cảnh, quá, hiện, vị lai mỗi đời đều chia làm ba. Muốn biết trí Phật không thay đổi, hãy y cứ theo ba đời vị lai mà nói. Lại có nghĩa đương hiện tại: đương tức là vị lai.
"Nay chạy theo vị lai v.v..." nghĩa là khi đến vị lai, thì vị lai thành hiện tại, còn hôm nay thành quá khứ cho nên nói là quá khứ. Ví như hôm nay nhìn về ngày mai thì ngày mai là vị lai, khi đã đến ngày mai, thì hôm nay đã thành quá khứ, nếu hôm nay lại biết việc ngày mai thì gọi là "biết tất cả việc trong ba thời" vì hôm nay là hiện tại, ngày mai là vị lai, vì ngày mai nhìn lại hôm nay là quá khứ. Đã trong một niệm chiếu soi cùng khắp, cho nên chẳng nên duyên theo cảnh sinh diệt. Cách giải thích này cũng không đúng, nay bác bỏ. Chiếu Đương trí đã dứt, vì nay chiếu tức là chánh hiện tại. Hướng tức là Đương hiện tại trí đã dứt. "Chẳng sinh diệt hay sao?" Chiếu đương trí đã diệt, chiếu hiện trí mới sinh đó chính là vô thường. Trong văn nói chiếu đương trí, nếu viết Tri là sai. "Nghịch chiếu", quán ngược về quá khứ gọi là nghịch chiếu. Nhà lập nghĩa chín đời ở trên y cứ theo ba thời của vị lai là thuận chiếu Từ đầu tiên lưu chuyển đến, Lưu chuyển đến là khởi đầu của việc mê chân khởi vọng. Nhà vua lên ngôi, Dịch Vĩ ghi: "Thiên tử, là hiệu của Đấng Chí Tôn, kế thừa trời mà cai trị muôn vật, sửa đổi chính trị, thống nhất một mối, mỗi vị vua đều có khuôn phép thay trời làm cha, thay đất làm mẹ để nuôi dưỡng con người. Rốt cuộc không hợp với cảnh, cảnh thể thường chiếu, trí thể cũng như thế, nếu sau mà chẳng chiếu thì đâu thể hợp với cảnh.
"Khi Phật còn ở nhân vị v.v..." trở xuống: Ở Địa tiền là lúc tu nhân. Đạo phát sơ tâm: Tức dẫn dắt, khai phát chúng sinh mới phát tâm, lúc bấy giờ tâm Ngài chiếu suốt ngang dọc, nhưng lực dụng còn yếu kém chưa thể cùng khắp, cho nên nói số cảnh, số thời, số tức là ba, bốn, năm nếu y cứ vào đoạn sau nói rằng trăm ngàn muôn xoay vần mà tăng tiến, thì số hợp với mười cảnh, nghĩa là mười phương, cho nên gọi là Ngang, thời là ba thời cho nên gọi là Dọc. Treo gương trên đài cao. Lương Nguyên Đế Giảng Học Bi ghi: "Xem rõ gương treo trên nhà cao kia, bưng chén đứng ở ngã tư, đợi rượu". Hoặc viết Đường thành Đài là sai. "Muôn vật ở tại không", muôn vật dụ cho cảnh, hư không dụ cho trí Phật. Huống chi ba Đế tức nhất đế..., Đế và Trí tức ba tức một, đã là tương tức, thì há sở chiếu là tục cảnh, năng chiếu là tục trí, là vô thường hay sao? Bậc thánh trong nhân vị là Bồtát Sơ địa trở lên. Vừa thầm hợp vừa khế hội. Minh là y cứ theo thể nhất, Hội là y theo khế hợp. Minh và Hội ý nghĩa khác nhau. Thứ hai v.v... trở xuống giải thích rằng: Các Sư lập nghĩa, phá nghĩa thầm hợp nhất của Khai Thiện. Hai thể đã khác, trí Phật có biết, chân đế không biết, biết và không biết khác nhau, cho nên nói là Thể khác nhau. "Há có thể v.v..." trở xuống là trách Khai Thiện. "Chỉ hiểu, v.v... trở xuống là biểu thị nghĩa của mình lập; hội đã cùng tột thì thành thầm hợp. Không dùng thể nhất làm thầm hợp. Tuệ Ấn v.v... dẫn chứng nghĩa Hội cực là thầm hợp, tịch diệt cũng thầm hợp. Triệu Luận v.v... trở xuống: Đây là văn trích trong thiên Bát-nhã vô tri của Triệu Luận. Cho nên Luận ấy ghi: "Dụng tức Tịch, Tịch tức Dụng, Dụng và Tịch là một thể. "Đức Phật tuy biết huyễn", là như trong kinh, có vị Trưởng giả hỏi Phật rằng: "Cù-đàm biết huyễn thì lẽ ra là người huyễn mới phải?" Đức Phật hỏi lại rằng: "Ông biết Chiên-đà-la, vậy ông có phải là Chiên-đà-la hay không? Nếu không thì Như Lai biết huyễn, cũng đâu phải là người huyễn". Nếu thế thì v.v..." trở xuống y kinh để bày nghĩa, phải biết trí trung đạo chiếu cả hai (song chiếu), đương thể ngăn cả hai (song giá), cho nên biết Tục mà chẳng thầm hợp Tục, biết Chân mà chẳng đồng chân. Thứ ba là Đương hữu khởi dụng.
Chánh văn phần trước sắp xếp chương cú, thì ghi tự tại khởi dụng, ở đây lại ghi Đương hữu, nghĩa là phần thứ ba dựa nhau thế cũng làm sáng tỏ nghĩa nên gọi là Đương hữu khởi dụng. Xem lại chương trước, ghi là "hiện thành cho nhau" trong sớ, loại ví dụ này rất nhiều, hoặc sửa đổi văn, Đương hữu ghi là tự tại là sai. "Vả lại, y cứ theo ba loại v.v... trở xuống tức là Ba luân trong việc giáo hóa. Chẳng thể nghĩ bàn tức là núi Tu-di nhét vào hạt cải, đây là Thân luân hiện thần thông, hai chim bay lượn là song chiếu; Thường và vô thường, tức là tâm luân. Soi xét cơ tà chánh, thiện ác là song nhiếp, nghĩa là Thánh giáo v.v... mang đến đã đầy đủ, tức là khẩu luân nói pháp. Về dụng Bất tư nghị. Trong phần nói về thân mật, phẩm Tứ Tướng, kinh Niết-bàn có ghi: "Này người Thiện nam! Đại Niết-bàn này có lập nghĩa Đại, các ông phải nên dốc lòng lóng nghe! Ta sẽ giải thích đầy đủ, chớ nên nghi sợ. Nếu có vị Đại Bồ-tát trụ đại Niết-bàn, thì có thể nhét núi chúa Tu-di to lớn như thế vào trong hạt cải. Các chúng sinh cư trú trên núi chúa Tu-di cũng không cảm thấy bị chật chội, cũng không thấy tướng qua lại, vẫn như cũ không khác, chỉ có người được độ, thấy Bồ-tát nhét núi Tu-di vào trong hạt cải rồi trả về chỗ cũ. Đó gọi là Dụng Bất khả tư nghị, như thế xưa nay có bảy nhà giải thích khác nhau. "Một, giải thích rằng, v.v... trở xuống là lần lượt nêu ra nghĩa của bảy nhà. Sao lại cho là thần thông? Nếu chúng sinh thấy được thì đâu thể bàn nói thần thông của Bồ-tát, huống chi kinh đã dạy: "Cao lớn như thế, mà đặt vào hạt cải", mà các Sư này lại nói rằng: "Thật sự chẳng có vào", thật trái với lời Phật. Ba giải thích là v.v..." trở xuống đây là các Sư tông Thành Thật lập nghĩa giải thích, dưới là phần sớ văn giải thích phẩm Tứ Tướng, để phá nghĩa của các Luận sư này là: "Phương tiện khéo léo của bậc Thánh, phàm phu không thể biết được", cho nên họ nói: "Đã không thể nghĩ bàn. "Ngoài ra.." trở xuống: Những điều khác, lời kinh nói, đều là cảnh giới của bậc Thánh, mà đã có thể giải thích nghĩa thì có thể nghiệm biết được, đâu có thể đối với phương tiện khéo léo, mà nói là không thể biết? Tiểu Đại đều không, nghĩa của Trường Sa giống với nghĩa này, tụng rằng: "Tu-di vốn chẳng thật có, hạt cải xưa nay không, đặt không vào chẳng có, chỗ nào chẳng dung nhau". "Nếu là đúng v... " trở xuống, là phần nạn phá nghĩa trên. Đại tiểu dung nhập vào nhau chính là nói về sự dụng, thì chẳng nên dùng lý giải Không để giải thích. "Trong lớn có tánh nhỏ", Tu-di có tánh hạt cải nên có thể nhỏ. "Trong nhỏ có tánh lớn", hạt cải có tánh Tu-di nên có thể lớn. "Thuyết này cũng v.v..." trở xuống là phá thuyết này, có ba điều sai lầm: Một là giống ngoại đạo, hai là giống Tiểu thừa, vì chấp tánh nhất định nên dù cho chẳng phải ngoại đạo thì cũng đồng với nghĩa của Tiểu thừa hữu môn, cho nên nói tựa như Tỳ-đàm; ba là không thành diệu dụng, cho nên nói: lại là Đại dung Tiểu nghĩa của các Sư Địa Luận lại giống với nghĩa của các Sư thứ tư. Hưng Hoàng cho là pháp tánh vốn không, dứt bặt các tướng Đại Tiểu, cho nên nói vốn không có Đại Tiểu, Thế đế đối đãi giả dối, mà nói có Đại Tiểu, thật ra Thể vẫn không khác, chỉ là một pháp hữu vi. Tiểu là tiểu của đại, hạt cải là tướng Tiểu của Tu-di. Đại là Đại của Tiểu, Tudi là tướng Đại của hạt cải, ở trong một pháp hữu vi mà có hai tướng này, thì đâu ngại gì không dung nhập nhau, cho nên nói rằng "được tương dung" "Lớn chẳng tự là lớn,..." nghĩa là Tu-di tự nó không có tướng Đại, phải đợi có tướng nhỏ của hạt cải mới thành tướng Đại; Nhỏ chẳng phải tự là nhỏ... hạt cải tự chẳng phải tướng nhỏ, đợi có tướng lớn của Tu-di mới có tướng nhỏ, vì thế rơi vào chấp trước Tha tánh của ngoại đạo.
"Tự tánh" trở xuống là nêu lên thuyết của Sư thứ năm để so sánh bác bỏ Hưng Hoàng. Sư thứ năm giải thích rằng trong lớn có tánh nhỏ, trong nhỏ có tánh lớn, tức là tự tánh lớn nhỏ, nghĩa ấy rất khéo, còn bị ta phá, huống chi nghĩa này thuận chấp tha tánh, ý nghĩa rất kém? "Nay nói rõ v.v..." trở xuống là nói về hai nghĩa của Sư, một là y lý khởi dụng, hai là dụng cùng khắp pháp giới, vì phần chứng Diệu lý, cho nên có Đại dụng mà tự tại ứng cơ, cùng khắp mười cõi; Văn được chia làm hai: Đoạn một cũng chia làm hai, đầu tiên nói về lý dứt bặt bốn chấp, vì tướng nhỏ của hạt cải, tướng lớn của
Tu di cả hai đều là Sự, mà Sự tức Lý, và dứt bặt bốn tánh, há lại giống với các Sư kia hay sao? Trong văn, đầu tiên nói về Tiểu, kế đến dùng Đại làm dụ, trong đoạn nói về Tiểu, câu đầu nói chẳng phải tự sinh. "Cũng không v.v... trở xuống là nói chẳng phải tha sinh. Đại chẳng phải v.v..." trở xuống hai câu này thuộc về suy Đại, nhưng do tương đối mà có nên dùng đoạn này để suy luận tiểu, đến đoạn sau nói "Đại cũng như thế" mới chính là nói về Đại. Vì nhân duyên cho nên có Đại tiểu, nói về không cộng sinh, nên biết hai chữ cũng không ở câu trên thông xuống ý dưới. "Cũng chẳng v.v..." trở xuống nói chẳng phải không có nhân sinh. Chẳng ở v.v..." trở xuống là dẫn kinh để chứng minh rằng lý dứt bặt bốn chấp, bên trong thuộc mình, bên ngoài thuộc về người tha; ở giữa và hai bên thuộc cộng sinh, thường tự có thuộc, không nhân sinh do diệu lý này vốn dứt bặt bốn chấp, cho nên chẳng thể dùng tâm để suy nghĩ luận bàn. "Đại cũng v.v..." trở xuống là nói đại nêu tiểu có thể biết được, cho nên nói cũng như thế: "Thông đạt v.v..." trở xuống là nói về việc y cứ vào lý khởi dụng. Thông đạt được lý này, tức thông đạt được lý dứt bặt bốn chấp nói ở trước; "Tức sự mà chân", đạt được Sự đại tiểu, tức là lý thật tướng. Chỉ ứng hợp với người được độ, tức là người năng cảm, thấy không thể nghĩ bàn, tức là sự năng ứng, do đường cảm ứng giao nhau mà thấy được. Lớn nhỏ đều nói chẳng thể nghĩ bàn, vì Tu-di lớn, hạt cải nhỏ, đều do tâm biến hiện, đều do tâm tánh, mà tâm tánh này vốn đầy đủ, y vào chánh vậy, tâm tánh đã một thì cùng tương nhập đâu có gì nghi ngờ? Chỉ do mê thì không có Dụng bên ngoài, lý này hiển bày thì dụng xoay chuyển vô cùng, trong thì quả trụ Lăng-nghiêm, ngoài thì lập ra đại nghĩa. "Như kinh đã nói", tức phẩm Tứ Tướng; "Đã một lần nói về v.v..." trở xuống là nói về Dụng khắp pháp giới. Dụng ở Đạo hậu v.v..." trở xuống chỉ hiện biến ở cõi Phật. Lý ấy thật thông đạt, nghĩa là cùng khắp mười cõi, cho đến hiện thân ở địa ngục v.v..."
"Cho đến v.v..." trở xuống là dùng ví dụ các dụng thiện ác v.v..." uống cũng khắp cả Bồ-tát mười cõi. Là chánh, v.v..." trở xuống tức nói về tà chánh của chín cõi đều là cõi Phật. "Thuộc chẳng phải tà, chẳng phải chánh v.v..." trở xuống là nói về thiện ác, ý nghĩa so sánh như thế. "Ba cõi v.v..." trở xuống là nêu lên dụng hai chim cùng bay, cũng cùng khắp mười pháp giới. Ba vô vi thường này, nghĩa là Hư không, Trạch diệt và Phi trạch diệt, nêu chung là ba, thật ra chỉ là chứng Trạch diệt vô vi, như sớ ký dùng Chân không dụ cho sinh tử, cho nên chân không gọi là thường.
"Lại Nhị thừa v.v...", trở xuống là Bồ-tát phá Không xuất Giả, Không đã được phá, cho nên nói Nhị thừa vô thường, Bồ-tát là thường. Dụng của thường và vô thường, đầu câu nên có chữ nhị (hai) tức là phần phân chương ở trước gọi là hai, là Dụng của hai chim cùng bay. Đều mất hai bên, thể của trí Trung, chẳng thường chẳng vô thường, cho nên nói đều mất, ngay nơi mất mà chiếu, hai bên đều Dụng, mà Dụng lại có hai khác, một đồng, như phẩm Điểu Dụ dùng đôi uyên ương cùng bay, cùng nghỉ, để dụ cho hai Dụng của Niết-bàn đồng thời. "Trước sau v.v..." trở xuống là hai đơn Dụng, như đoạn trước dùng vô thường phá tà thường. Nay kinh dùng chân thường phá vô thường và dùng việc chữa lành bệnh để thí dụ. "Thích nghi một v.v..." trở xuống là kết luận nêu hai ý, tức khi dụng tuy là một nhưng đối với ý Phật thì cả hai cùng lúc, cho nên đơn Dụng chẳng mất nghĩa hai chim cùng bay (song du). Vì Dụng tự tại, Đơn và Đồng thời lại thích hợp. "Thiện ác..." ví dụ việc nhiếp thiện hay nhiếp ác cũng là Song du, đâu ngại gì có Đơn, Kép khác nhau, cho nên nói hoặc Song dụng hoặc tiền hậu.
"Tà tức ngoại đạo..." đầu phẩm Kiều-trần-như, Đức Phật mới dạy Tỳ-kheo Kiều-trần-như nói năm ấm thường trụ, quy kết về hạnh chánh quán, xả bỏ sắc vô thường mà đạt được sắc thường trụ v.v...", nếu biết được như thế, thì gọi là Sa-môn, là Bà-la-môn, phá bỏ ngoại đạo luống dối tự xưng, đều chẳng thực hành. Ngoại đạo nghe lời Thế Tôn dạy tâm sinh sân hận, bèn vặn hỏi luận nghị, có mười ngoại đạo, ngoại đạo thứ mười là Hoằng Quảng. Vì là người phương tiện, cho nên thuộc về chánh; kinh ghi: "Vị Bà-la-môn này, đã phát tâm Bồ-đề vào thời Phật Phổ Quang Minh ở kiếp quá khứ, đã thông đạt rõ biết tướng các pháp, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện sống theo ngoại đạo". "Tà tức là các ma v.v..." Kinh ghi: "Thế Tôn biết rồi, liền hỏi Kiều-trần-như rằng: Tỳ-kheo A-nan bây giờ ở đâu? Đáp Tỳ-kheo A-nan đang ở trong rừng Ta-la, cách đây khoảng hơn mười hai dotuần, bị sáu mươi bốn ngàn ức ma làm não". Đều bình đẳng nhiếp phục, nghĩa là không chỉ nhiếp phục Trầnnhư mà A-nan cũng được nhiếp hóa, các ma và ngoại đạo cũng được Như Lai nhiếp hóa trở về trong Bí tạng. "Nếu ai thấy được ý này...", nghĩa là thấy ba ý là không thể nghĩ bàn. "Đầy đủ ba ý này" là có đủ Dụng tự tại. "Tứ tùy", Thiền kinh gọi là Tùy, Đại luận gọi là Tất, nghĩa là tùy lạc dục, tùy tiện nghi, tùy đối trị và tùy đệ nhất nghĩa. "Trụ Thủ-lăng-nghiêm tức là phần trụ và rốt ráo trụ, đều có thể khởi dụng ở mười cõi, cho nên nói thị hiện các thứ tuy suốt ngày thị hiện mà chẳng lìa Lăngnghiêm, nên gọi là pháp tánh Bất động. Những người thấy nghe, những người thấy hình tướng hoặc nghe âm thanh đều được bốn lợi ích. "Nếu chỉ nói bản dụng tức là thể", vì bản dụng là tại lý cho nên thuộc về Thể. Đương Dụng, là ở tại quả, cho nên thuộc về Tông. Tự tại hóa độ cho nên thuộc về Dụng. "Tay tuôn ra sữa hương sắc", đây là lời văn trong kinh Quán Âm, nay y cứ theo quán để giải thích thì hai tay biểu thị cho hai trí, tuôn sữa biểu thị cho việc giảng nói giáo pháp, khiến cho chúng sinh được no đủ pháp vị; Người thầy thuốc xưa trộm giáo pháp, tức chỉ cho ngoại đạo trộm giáo pháp của Phật, dùng danh từ Thường, Lạc của Phật, cho nên nói là trộm lấy danh từ sữa; Không hiểu nghĩa này là không hiểu chân nghĩa của bốn đức. "Mà bị..." trở xuống là: Do không hiểu bốn đức, nên khởi bốn điên đảo, vọng chấp niệm niệm nối nhau là Thường, vọng chấp nhận sự vui thú ở cõi trời, cõi người là Lạc; vọng chấp nhận sự chuyển động tự do là Ngã, vọng chấp nhận thân dơ uế được da dẻ bao bọc này là Tịnh, do bốn việc này mê hoặc mà sinh ra bốn điên đảo. "Độc loạn" là bốn điên đảo là sữa độc làm loạn chân tâm, mà thương tổn pháp thân, nguy hại đến tuệ mạng.
"Mặn, đắng và ngọt" là dụ cho ba tu. Dùng nêm tháo nêm, về Tiết thì thuyết văn nói Tiết tức là Tẩm (tứ lâm thiết) tức là dùng cái nêm "sữa chánh" để tháo nêm "sữa tà" hoặc nói là phương tiện, dùng vô thường của Tiểu thừa để trị tà thường, hoặc nói pháp chân thật, tức là dùng viên thường trị vô thường. Đây tức là Thập Hạnh của Biệt giáo, tùy cơ lợi ích chúng sinh.
"Như kinh" tức văn trong phẩm Ai Thán. "Nghé" dụ cho Phật, đạt được lý Trung đạo nhu hòa, khéo léo thuận theo chúng sinh, cho nên gọi là Điều ngự khéo. Chẳng theo không, chẳng trụ có, chẳng ở Niết-bàn cao nguyên, chẳng cùng với sinh tử dưới thấp, chẳng nhiễm Tammuội Chân đế, như chẳng uống rượu; chẳng dính mắc Tam-muội Tục đế như chẳng ăn hèm bả, trí Nê-hoàn dễ được như cỏ tươi, trí phân biệt khó sinh như lúa mạch, trâu đực không có sữa ví như không có từ bi. Cho nên để nói rằng Phật có tâm từ bi Bất cộng.
Chuyển phàm thành Thánh, đây là theo Biệt giáo, chuyển đổi hạnh phàm phu trước Thập địa, (Địa tiền) thành bậc thánh Đăng địa cũng chuyển bậc Thánh thành vô thượng đạo, chuyển bậc Thánh Thập Địa thành Diệu giác vô thượng đạo. "Phật giáo như sữa bò thượng diệu nghĩa là viên tín, viên tu, đầu và cuối chẳng hai, cho nên nói là được an trụ trong tạng Bí mật. Nêu kệ Tứ xuất để chứng minh cho nghĩa trên tức là bài kệ nói về xưa không mà nay có. Nhân Sư gọi là kệ Tứ xuất, kệ Tứ trụ tức Niết-bàn như căn nhà, bốn xuất như bốn trụ, nhất xuất là phẩm Bồ-tát, nhị xuất là phẩm Phạm Hạnh, tam xuất là phẩm thứ hai mươi lăm, tứ xuất là quyển hai mươi sáu, cả bốn về đại ý thì đồng mà duyên thì khác. Một, phẩm Bồ-tát thì giải thích khác nhau, không khác nhau; hai giải thích đắc và vô đắc; ba giải thích hữu bất định, hữu vô bất định vô; bốn, là phá thuyết định tánh, vô định tánh. Cho nên nói là luận về không khác nhau, khác nhau... y cứ vào đây mà nói thì không có lỗi, y cứ vào tứ xuất này mà nói sữa có nhiều loại. Sữa tà ác gọi là sữa sữa, sinh tử dụ cho sữa, Niết-bàn dụ cho chẳng phải sữa, nhân quả của phàm phu là câu sinh cho nên gọi là sữa sữa. Vì sao ông còn nghi ngờ? Lời kết luận trách cứ người vặn hỏi, "Tử" là từ tôn trọng khen tặng người nam. Theo thầy học viết chữ, thời xưa ở nơi này, khi con trai được sáu tuổi thì dạy cho số đếm và tên các phương hướng, mười tuổi thì vào tiểu học, dạy cho các việc như Lục giáp viết chữ và tính toán, gọi là văn học.
"Luận xuất dục", là bộ luận nói về Phạm thiên xa lìa cõi Dục.
Thích thiên tức là trời Đao-lợi.
Các loại Thương Nhã, Thương và Nhã có rất nhiều loại. Thương có thương Hiệt thiên, Bãi thương, Tam thương. Nhã thì có Quảng nhã, Bát-nhã, Tiểu nhã. Thương là tên người. Đế Vương Thế Kỷ ghi: "Hoàng đế rủ xiêm áo, Thương Hiệt đặt ra văn". Nhã chẳng phải tên người; Nhĩ tức là gần. Thấy nghe rộng có thể gần gũi mà học được đến chân chánh, nên gọi Nhĩ Nhã. Tạ Linh Vận chánh dẫn Thương Hiệt để chứng minh cho từ Phạm Khư-lâu là tên người, còn Nhã thì kèm theo mà có.
"Lại là hai chữ thế gian này", ví như hai bộ sách,
Thương và Nhã ở xứ này đều nói nghĩa văn tự hỗ huấn, gọi là hai chữ, cho nên Phạm là một người, Khư-lâu là một người. "Bà-hòa, là tiếng của đứa bé Tập nói, dụ cho Tiểu giáo phương tiện. Gọi là hữu vi vô vi, tức Khổ Tập là hữu vi, Diệt đạo là vô vi, ở đây gọi hai đế sinh diệt là hai chữ.
"Bán Mãn là hai chữ", Hữu vi vô vi nói ở trước hợp lại thành chữ Bán, đối với Đại thừa là chữ Mãn.
"Sáu hạnh đều biết rõ" là hơn kém mỗi thứ đều có ba tu.
"Là Đại mà chẳng phải Mãn", nghĩa là ở giáo Niếtbàn hơn kém đều nói, thì Đại Tiểu gồm đủ, cho nên gọi là Mãn; Pháp Hoa phế bỏ Tiểu thừa, nên chỉ là Đại mà chẳng phải Mãn.
" Do là vô thường", chữ Do nên viết là Du (giống, như), nghĩa là nói thường trụ tức chỉ ở Niết-bàn. "Các nghĩa này đều chẳng đúng", là giáo pháp kinh Pháp Hoa khai quyền hiển thật vượt hơn các giáo đã nói, đang nói và sẽ nói, là cao siêu bậc nhất, mà lại cho là chẳng phải Mãn. Tướng thế gian Thường trụ, biết các pháp thường vô tánh, rõ ràng là đã nói Thường trụ, mà lại cho là Vô thường, thật là trái ý Thánh, ngược với văn kinh, quá điên loạn, thật không thể nói được, cho nên văn nói là chẳng cần vặn hỏi. Hưng Hoàng nêu lên năm thứ Mãn, đã nói lược ở sớ ký. Chê Tiểu thừa, khen Đại thừa, chê Tam tạng giáo, khen ba giáo sau (Thông, Biệt, Viên).
Đới bán, là đới Nhị thừa (kèm theo Nhị thừa).
Phế bỏ Bán tự giáo để hiển bày Mãn tự giáo, nếu nói theo Bốn giáo, thì ba giáo sau đều được tên gọi là Mãn. Nếu ở Pháp Hoa, Niết-bàn, thì ba giáo trước gọi là Bán, chỉ có Viên mới được gọi là Mãn.
"Xóa bỏ bán để hiển bày Mãn"; nói phế là y cứ theo đối đãi, nói khai là để y cứ theo tuyệt dứt đối đãi, cho nên biết hai chữ Bán và Mãn, tên thì dùng chung, nhưng nghĩa thì khác nhau.
Tu-bạt, Hán dịch là Thiện Hiền, phẩm Kiều-trầnnhư ghi: "ngoài rừng Ta-la, có một vị Phạm chí, tên là Tu-bạt-đà, một trăm hai mươi tuổi, được định Phi tưởng, nghĩ là mình đã được Niết-bàn, Đức Phật bảo A-nan gọi đến nói cho Tu-bạt nghe về Đệ nhất nghĩa đế, Tu-bạt liền chứng quả A-la-hán".
Tu-bạt nghe giáo Viên thường mà chứng Tiểu quả, vì Tiểu bán tức là Đại mãn.
Nói rõ về hai chữ Thường Trụ, như phẩm Ai Thán đã ghi, lại y cứ vào năm thời để quy về bốn câu, đó là Lộc Uyển, Pháp Hoa, Niết-bàn, và hai vị nhân thiên giáo trước Lộc Uyển.
"Tà tam tu" là thế gian điên đảo, theo tà tu chỉ dạy thấy các tướng nối nhau, nối nhau cho là Thường, cảm thấy thân tâm ưa thích cho là lạc, chấp cái chuyển động vận hành cho là Ngã, đầu tiên y cứ theo tà tuệ để giải thích, kế đó y cứ theo tà thiền để giải thích, như chấp điện chớp chống diệt, dụ cho vọng tưởng chẳng trụ lâu, phù du lao vào đèn dụ cho vọng lạc, chỉ là khổ, tằm tự trói mình dụ cho vọng ngã chẳng được tự tại.
"Truy cầu không chán, như khát mà uống nước mặn, nước đường, thật không ích gì, do khởi tà chấp mà tìm cầu năm trần". Cũng là... trở xuống chán lìa khổ thô chướng ở cõi dưới mà tìm cầu thắng diệu siêu xuất ở cõi trên, tức y cứ theo tà thiền để giải thích, tức là sáu hạnh quán. Các ngoại đạo với chi giác quán ở Sơ thiền, thì nhàm lìa giác quán, cho Sơ thiền là khổ thô chướng. Vì hai pháp giác quán làm tán loạn tâm định cho nên gọi là khổ, từ hai pháp này sinh hỷ lạc nên gọi là thô, hai pháp làm ngăn ngại tâm định ở cõi trên nên gọi là chướng. Nhị thiền không giống với cảnh giới này nên gọi là Thắng Diệu Xuất, tu tập Ba thiền trên và bốn không cũng giống như thế. Vì nhàm chán ba pháp, ưa thích ba pháp nên gọi là Tà tam tu.
Có công năng phá được vô minh, điệu cử, mạn, nghi và tham của cõi Dục, cõi Sắc và Vô sắc.
Nói về Ba tu có công năng phá hoặc nhiễm tức là tham. Dạo chơi nơi giác hoa, bảy giác như hoa nên gọi là giác hoa.
"Tà-tu v.v..." trở xuống là văn trong phẩm Ai thán chữ Y thế gian, liệt tu là chữ Y xưa, thắng tu là chữ y mới, lý Đại Bát-niết-bàn là chữ y chẳng cũ chẳng mới. Đây là văn trong phẩm Ai Thán chỉ có hai chữ Y là cũ và mới. Nay theo nghĩa lập lại thêm chữ Y thế gian và chữ Y chẳng cũ chẳng mới, cũng như y cứ theo văn trước chỉ có sữa mà chia ra nhiều loại. Luận Trí Độ nói về bốn y, Bồ-tát y theo nghĩa mà đặt tên, tên là pháp thí, đây là một thí dụ. Nhưng kinh dùng chữ Y cũ dụ cho ngoại đạo, nay vì y cứ theo nghĩa lập thêm chữ Y thế gian cho nên dùng chữ y cũ dụ cho Nhị thừa.
"Có bản sớ riêng", là chia Tịnh Danh Huyền Sớ thành ba bộ, đó là Tứ Tất bốn quyển, Tứ giáo bốn quyển, Tam quán lưỡng quán. Nay chỉ cho Tứ giáo.
"Đó là tạng giới, định, tuệ", Luật tạng nói về giới, Kinh tạng nói về định và Luận tạng nói về tuệ. Tạng có ba thứ riêng cho nên gọi là Tam tạng, đây là hợp chữ để giải thích. Trong bốn Niệm xứ cho rằng có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát nên nói ba là, Kinh Luật Luận. "Cho nên gọi là Tam tạng; Đây là giải thích riêng từng chữ.
Là những trẻ thơ kia v.v... Ba thừa đều gọi là trẻ thơ, lần lượt tu hành ba học như bước lên từng bậc thang.
"Sợ phải lâu dài", chẳng thể đi xa năm trăm do-tuần.
"Dừng nghỉ ở hóa thành". Đây chỉ là y cứ theo Nhị thừa, nếu là Bồ-tát, trong nhân thì không nhập, đến quả mới nhập.
Bố-tát dùng tâm đại Niết-bàn tu hành thì thành Thánh hạnh, đây là chỉ cho Bồ-tát Viên đốn, tu ba học của Tiểu thừa để giúp đạo, cũng là người tu hành theo thứ lớp chỉ quán. Đoạn sau nói về Thông giáo và Biệt giáo cũng giống như thế. Thân dụ cho tiểu giới, xương trắng dụ cho tiểu định, tám khổ dụ cho tiểu tuệ. Xa gần đều thông suốt, hàng độn căn là gần thì thông với thiên chân, lợi căn là xa thì thông với Trung đạo, tức là căn cơ thọ tiếp.
"Nếu tiến lên phía trước thì sẽ đạt được", là nhờ vào lời văn bỏ Tiểu bày Đại của kinh Pháp Hoa, để tạo thành ý nghĩa hàng Thông giáo được tiếp nhận.
"Sự lý được thực hiện", sự tức trải qua nhiều kiếp tu hành, nhập Không ra Giả, lý thì mới phát tâm đã biết Trung đạo đăng địa, chẳng phải là điều mà hàng Ba thừa của hai giáo biết được, vì chân lý chứng ngộ của Bồ-tát hai giáo vốn không đã đồng với Nhị thừa, thì ắt thuộc về Nhị thừa. Cho nên văn trước nói: Không chung với Nhị thừa.
Chẳng phải là điều mà hàng Nhị thừa và Hạ địa biết được, là giáo pháp viên dung ba Đế, chẳng phải là nhị thừa Tạng Thông giáo và Hạ địa của Biệt giáo biết được. Hạ địa tức là trước Thập địa, chứng đạo đồng với Viên giáo thì sẽ biết được từng phần. "Từ cạn đến sâu", là ba giáo đều có sâu cạn, Viên giáo chỉ có sâu mà thôi. Bồtát tu đủ bốn giáo, cho nên nói là từ cạn đến sâu.
"Tức là giáo Tiệm đốn" là trải qua thiên Tiệm mà của ba giáo cho đến Viên Đốn. Cho nên gọi là Tiệm Đốn, Tiệm Viên. "Đây là một pháp quán ghi trong văn", tức là theo thứ lớp tu tập năm hạnh từ Tiệm đến viên, trong ba thứ chỉ quán thì thuộc về Thứ đệ chỉ quán.
"Lại có một hạnh là hạnh Như Lai": Một hạnh tức chẳng theo thứ lớp năm hạnh, trong ba loại Chỉ quán tức thuộc về Viên đốn chỉ quán. "Xe mới khởi hành": Văn Tuyển ghi: "Phát chẩn thanh lạc nhuế". chú thích: "Chẩn là xe cộ (xa), nghĩa là đánh xe đến Lạc dương. Nay dùng xe khởi hành để dụ cho người mới tu học.
"Lại chẳng có gì khác nhau", pháp Viên giáo không khác nhau nhưng vì từ Tiệm mà vào, nên gọi là Tiệm viên, chẳng phải cho rằng Viên có Tiệm có Đốn khác nhau.
"Thông giáo là Tạp tạng", vì đương giáo hóa ba thừa và hàng căn cơ được tiếp nhận chẳng giống nhau, nên gọi là Tạp.
"Chính là thí dụ dùng để nói lên thứ lớp thuyết giáo của Đức Thích Tôn", là dùng việc bò đầu tiên cho ra sữa, dụ cho việc Phật ra đời, đầu tiên nói Hoa Nghiêm, cho đến cuối cùng sữa thành Đề hồ dụ cho Đức Phật, cuối cùng nói Pháp Hoa, Niết-bàn như trong quyển mười ba có nói.
"Chẳng nên dùng ý sâu xa để hiểu", chẳng nên cho rằng sữa nhất định là kém dở (cạn) thì cho Hoa Nghiêm là kém, đề hồ nhất định là tuyệt (sâu), thì cho Niết-bàn là cao siêu. Nên biết vì y cứ theo thứ lớp sinh nhau, cho nên có năm, mà trong các vị đều có ý viên dung, cho nên không có hơn kém, Lộc uyển hiển bày vô, Bí mật cũng nói hữu, đây cũng chẳng y cứ theo khai hay chẳng khai, để phân biệt hơn kém.
"Nếu cho rằng đầu tiên là cạn sau cùng là sâu, nghĩa là chẳng đúng v.v..." trở xuống là nên giải thích theo thứ lớp thì không phạm lỗi, đoạn này dẫn văn kinh để phá định chấp. Về kiến chấp sâu cạn được dụ, nếu bốn vị cạn hẹp thì chẳng nên dụ là sâu xa, nếu đề hồ sâu xa, thì chẳng nên dụ cho cạn hẹp.
"Thầy thuốc khám bệnh cho vua, v.v..." Thầy thuốc dụ cho Phật, vua dụ cho chúng sinh, bệnh dụ cho chấp vô thường, sữa dụ cho kinh này, tức là dùng Thường, Lạc để phá vô thường.
Tô (bơ) ngọt có tám vị, khi còn là sữa lạc thì có vị lạt, khi thành đề hồ thì vị đậm, tô ở khoảng giữa nên có đủ tám vị. Đó là vị sống, vị chín, vị tô, vị tương, vị sữa, vị ngọt, vị lạt, vị béo; kinh dùng vị này dụ cho Niết-bàn có đủ tám đức là thường lạc, ngã, tịnh, hằng an ổn, không nhiễm nhơ, mát mẻ, không già không chết.
So ra nó rất sâu rộng, huống là so sánh, chẳng thể nói là sâu, đã dụ cho Nhị thừa, pháp ấy là cạn.
Như máu biến thành sữa, vô minh tức là minh, như máu biến thành sữa, từ thể của pháp giới lưu xuất ra pháp giới, tức nương vào Lý Viên đốn mà nói Giáo Viên đốn.
"Như mặt trời v.v..." trở xuống: Mặt trời dụ cho thể của pháp giới, chiếu dụ cho pháp giới, núi cao dụ cho Bồ-tát.
"Như điếc v.v..." trở xuống, dụ cho hàng Tiểu cơ ở trong hội Hoa Nghiêm, không đạt được lợi ích lớn, vì điếc cho nên không thể nghe nhiều, vì câm cho nên không thể nói được.
"Ẩn vô lượng thần đức, thị hiện thân một trượng sáu, ngăn che Như Lai Tạng": Đầu tiên là y cứ theo ẩn thân, kế là y cứ theo ẩn pháp, câu đầu thần đức là thân Xá-na; một trượng sáu, là thân Đức Thích-ca; ngăn che Như Lai tạng là nói về ẩn pháp.
Như Lai tạng, tức là pháp Viên đốn giúp cho chúng sinh phàm phu có thể chuyển thành bậc Thánh.
"Vô sinh vô dụng": hạt giống hư thì không thể sinh gốc rễ, hư thối thì vô dụng.
Trước cho sau đoạt, ban cho pháp Tiểu tức Lộc Uyển, đoạt Tiểu tức Phương đẳng.
"Trao gửi gia nghiệp, nhận lãnh tài sản", đây là dùng thí dụ Cùng tử trong kinh Pháp Hoa, dụ này nói về việc Thế Tôn giao phó gia nghiệp Đại thừa, để giáo hóa Bồtát, như các bộ Bát-nhã phần nhiều do Không Sinh, Thân Tử, Mãn Nguyện đối đáp.
Trao tài sản định thiên tánh, tức là cha con gặp nhau, xác định thiên tánh, như kinh ghi: "Đây thật là con ta, ta chính là cha nó", để dụ cho kinh Pháp Hoa bỏ quyền Nhị thừa, tất cả đều được thành Phật.
Cho nên kinh ghi: "Tám ngàn vị Thanh văn trong hội Pháp Hoa, được thọ ký thành Phật, thấy Như Lai tánh giống như mùa Thu thì thâu hoạch, qua mùa đông thì cất giữ, không còn làm gì nữa, không còn làm gì nữa tức là rốt ráo. Đây là văn trong quyển chín nói về tám ngàn vị Thanh văn trong kinh Pháp Hoa. Cho nên biết rằng việc khai hội của Pháp Hoa, Niết-bàn, đều được gọi là đề hồ. Nhưng ý nghĩa kia phế bỏ, đây lập bày có ít khác nhau, đó là bản hoài đối với Pháp Hoa đã xong, đến thời giáo này bèn nhập Niết-bàn.
"Chúng sinh chẳng thấy Phật tánh nên dang cánh tay hai trí để chỉ bày", là nêu chung ý nghĩa của việc giáo hóa, chúng sinh vốn đầy đủ, không khác với Phật, hàng ngày thường sử dụng mà chẳng biết, đắm chìm trong sinh tử, cho nên Phật ra đời, dùng cánh tay nhị trí để cảnh tỉnh đường mê, chỉ bày bản tánh, vừa mới hiển bày lại nghĩ đến việc chê bai chánh pháp, căn cơ khác nhau, nên có năm thời giáo hóa. Hoa Nghiêm Lộc uyển, Phương đẳng, Bát-nhã, "một thuở nọ" thuần thục, bèn đặt ra khai quyền, Pháp Hoa, Niết-bàn do đây hưng khởi.
Hoặc nói Đại, hoặc nói Tiểu, hoặc quở trách, hoặc nói giáo, hoặc nói là định thiên tánh. Nói về năm thời thì Hoa Nghiêm chỉ nói Biệt Viên, cho nên thuộc về Đại; Lộc uyển chỉ nói Ba tạng, cho nên thuộc về Tiểu; Phương đẳng quở trách Thiên tiểu, khen ngợi Viên đại, ý muốn cho chúng sinh ghét Tiểu ưa Đại; Bát-nhã giao phó Đại pháp, dẫn dắt hàng Bồ-tát dần dần trở thành thông thái; Pháp Hoa khai quyền gọi là định Thiên tánh.
"Nếu chúng sinh v.v..." trở xuống: Vì ở hội Pháp Hoa đã thấy được Phật tánh, cho nên ở kinh này vào Niết-bàn. Như vậy, nghĩa thấy tánh của hai kinh là một.
"Phật Niết-bàn giữa hai cây Ta-la", tức là kinh ghi: "Nằm theo tư thế nghiêng về hông phải", nói lên một đời giáo hóa đã xong, nội trí dẫn dắt đã dứt.
"Lời dạy đã dứt, hai sông đã cạn", kinh ghi: "Vắng lặng không có âm thanh", là giáo đã hết; hai con sông thì sông Bạt-đề lớn ở phía Nam thành và sông Hy-liên nhỏ ở phía Bắc thành, hai sông cách nhau một trăm dặm, Phật nhập Niết-bàn dưới bốn cặp tám cây Ta-la ở khoảng giữa hai con sông này. chư Phật nói giáo, tột cùng là nói thấy tánh, còn kinh này là lời sau cùng dụ như đề hồ, tất cả các vị đều gồm đủ trong đó, Đức Phật Đăng Minh Ca-diếp xuất hiện ở tịnh độ, giảng nói kinh Pháp Hoa, rồi liền Niết-bàn. Nay Đức Thích Tôn xuất hiện ở cõi uế cho nên cần phải phò luật để thu thập các căn cơ. Hai kinh tuy khác nhau, nhưng nghĩa thấy tánh không khác. Nếu theo phò luật để nói về Niết-bàn thì chỉ có ở cõi uế. Cho nên, nếu y cứ theo Thường để nói về Niết-bàn thì tịnh uế đều được.
"Chỉ là thầy của chư Phật, mẹ của Bồ-tát", vì có khả năng khai phát trí rốt ráo, cho nên gọi là thầy chư Phật, vì năng sinh trí phần chân cho nên gọi là mẹ của Bồ-tát. "Chỗ khác nhau giữa Phật và Bồ-tát thì chẳng thể nói được, dù phàm phu có ngàn lưỡi cũng đâu thể khen ngợi được, Nhị thừa đui mù thì đâu thể dùng tay múa may xưng tán được. Đoạn này là nêu lên sự cao quý của Phật, Bồ-tát để so sánh với sự thấp kém của phàm phu; ngàn lưỡi trăm mũi, ý nói là dùng ngôn ngữ rất nhiều cũng đâu thể được; tay múa may, theo bài tựa Mao Thi ghi: "Khen ngợi không đủ, cho nên ca vịnh, ca vịnh không đủ cho nên tay múa, chân nhảy nhót".
"Nếu chỉ dùng năm sở dĩ làm ý của Thể", lý được năm lần trình bày gọi là sở dĩ, nghĩa là từ chữ Mãn sữa thượng phẩm cho đến thắng tu Viên giáo sở thuyên đề hồ đều là chánh thể của kinh này. Lập các danh tướng, lẽ ra phải viết là hành tướng, vì nương vào lý khởi hành là ý của Tông.
"Ý đối phá", là trong năm phen đều có dùng Viên để phá Thiên.
Đều nói là nếu chuyên, chuyên tức là một mình, nghĩa là trong năm phen đều bao gồm các nghĩa, nay nếu chỉ dùng một ý thì thành Thể, Tông, Dụng v.v..." khác nhau.
Bản hai quyển, bản sáu quyển, Đại bản như quyển thượng đã nói Đại bản, tuy có hai bản Nam, Bắc khác nhau, nhưng đều lấy tên là Đại, bản sáu quyển gọi là Tiểu bản.
"Cùng trong một hội mà nghe khác nhau", cần nghe rộng thì ở Đại bản, tóm lược thì ở tiểu bản.
"Ví như Đại Tiểu phẩm", kinh Bát-nhã cũng có Đại phẩm và Tiểu phẩm nên lấy làm thí dụ. Y cứ theo mục lục các kinh, thì Đại phẩm Bát-nhã được dịch xong vào ngày hai mươi ba tháng tư niên hiệu Hoằng Thỉ năm thứ năm đời Tần, gồm hai mươi bảy quyển. Trúc Pháp Hộ dịch pho đầu vào niên hiệu Đại Khương năm thứ nhất đời Tần lấy tên là Quang Tán Bát-nhã. Sau ngài La-thập dịch lại gồm mười quyển, gọi là Tiểu phẩm. Tiểu phẩm này cũng lược sao chép lại phần trước của Đại phẩm. Nếu như thế, thì thuyết kế nói là đúng, bản sáu quyển chỉ hết phẩm Bồ-tát.
"Nay có hai bản quảng và lược"; là bản sáu quyển thì lược nêu ở phần trước, Đại bản thì rộng gồm cả phần sau.
"Mọi người còn nghi ngờ", hoặc cho là nghe khác, hoặc cho là có quảng và lược, khó có thể xác định, cho nên mọi người còn nghi ngờ.
"Như Lai nói trộm chó", Bản sáu quyển, Ca-diếp hỏi về trộm chó. Đại bản thì ba quy y nói ở phần kệ, bản sáu quyển thì ba quy y nói ở văn xuôi. Giải thích, lời hỏi ý đáp, giống thì ít, khác thì nhiều, v.v..."
Hai kinh này, trước sau khác nhau. Như Lai nói thì xếp ở sau, Ca-diếp nói thì đặt phía trước. Thâu nghĩa là trộm cắp, dụ cho ma kiến, chó dụ cho ma Ái, như phẩm Tứ y nói ba quy y trong phẩm Như Lai Tánh.
Người đời Tần dịch là bản sáu quyển, được dịch vào đời Đông Tấn, là Đại bản, bản dịch vào đời Bắc Lương, đều chẳng phải dịch vào đời Tần, nói người đời Tần thì chỉ có bản dịch vào đời Dao Tần rất thạnh hành, cho nên các nhà Nghĩa học kế thừa nhau sử dụng. "Hề hổ giả"; Hề tức là thay đổi, viết là Hề không có bộ thủ là lầm. "Xưa, Đạo Mãnh quên thân mà mang được năm phẩm kinh từ Thiên-Trúc trở về, xét Dịch Kinh Đồ Kỷ và Tăng Truyện đều ghi là Đàm-vô-sấm đến Cô Tang vào năm Nhâm Tý, tức là niên hiệu Huyền Thỉ thứ nhất đời Tần, có mang mười quyển trước của kinh Niết-bàn, ở một nhà thế tục. Mông Tốn nghe danh ngài Vô-sấm nên thỉnh dịch kinh. Khởi dịch vào niên hiệu Huyền thỉ năm thứ ba, tức năm Giáp dần, đến niên hiệu Huyền Thỉ năm thứ mười, Tân Dậu, đã dịch được hai mươi ba bộ kinh luận, tổng cộng gồm một trăm bốn mươi tám quyển, có Tuệ Tung ghi chép. Ngoài ra bài tựa Nam Sơn Niết-bàn Hoằng Truyền có ghi: "Vào niên hiệu Huyền Thỉ thứ ba đời Thư Cừ, thuộc Bắc Lương có vị Tam tạng Pháp sư người Thiên-trúc là Đàm-vô-sấm, Hán dịch là Pháp Phong, mang mười quyển thuộc phần đầu bản Phạm kinh Niết-bàn đến Cô Tang, được Ngụy chúa Mông Tốn ban thưởng tiếp đãi long trọng, mời ở lại trong cung Nhàn Dự ở kinh thành nhà Lương, lần lượt trải qua ba lần, phiên dịch được bốn mươi quyển, hoàn thành vào niên hiệu Vĩnh Sơ năm thứ hai đời Tống Vũ Đế thời Nam Bắc Triều. Y cứ vào những lời văn trên thì chắc chắn kinh này, phần đầu là do Đàm-vô-sấm mang đến, chẳng nên nói Đạo Mãnh mang về. " Thư Cừ Mông
Tốn", vốn là người Hồ, làm đến chức Tả Thư Cừ của Hung Nô, cho nên lấy chức quan làm họ. Mông Tốn làu thông kinh sử, giỏi về thiên văn; giết Đoàn Nghiệp rồi tự xưng là Lương Châu Mục, sau lại phá được Nộc Thiện ở Cùng Tuyền, thừa thắng vào Cô Tang, tiếm vị, xưng là Tây Hà Vương. Lũng Hữu tức Lũng Tây, viết là Hữu hoặc Hậu đều không đúng.
"Tự lấy niên hiệu là Huyền Thỉ", là đổi niên hiệu là Huyền Thỉ. Lúc bấy giờ Dao Trường lại lấy niên hiệu là Hoằng Thỉ, chẳng phải là Huyền Thỉ. Từ niên hiệu Huyền Thỉ thứ năm, tức niên hiệu Nguyên Hy thứ nhất đời Thái Đế nhà Tấn, rồi truyền đến Tống Lưu Dụ được bốn năm, đến Tống Văn Đế, Văn Đế ưa thích kinh này bèn sắc chỉ cho sư Tuệ Quán chùa Đạo Tràng; Tuệ Nghiêm chùa Ô Y là hai bậc Cao tăng thạc đức, cùng với Tạ Linh Vận, huyện lệnh Khương Lạc, nổi tiếng ở đời, cùng nhau sửa chữa, hiệu đính kinh này.
Đây là duyên khởi của kinh Niết-bàn bản Nam. Kinh đã từ Bắc Lương vào Giang Nam, sau được hiệu đính, cho nên khác với phẩm quyển của bản cũ, bèn có tên là Nam Bản Niết-bàn. Dao Trường giết Phù Kiên, đổi Trường An thành kinh đô Thường An, đổi niên hiệu là Bạch Tước, sau là Kiến Nguyên; Dao Trường mất, con là Dao Hưng kế vị, đổi niên hiệu là Hoàng Sơ, sau đổi Hoằng Thỉ là lầm; phải nói là Dao Hưng Hoằng Thỉ, chẳng phải Huyền Thỉ, để phân biệt niên hiệu hai nước.
Niên hiệu Huyền Thỉ năm thứ năm tức là niên hiệu Nguyên Hi thứ nhất đời Tấn Cung Đế, Cung Đế tức là vị vua thứ mười một của nhà Đông Tấn, đóng đô ở Kiến Khang, làm vua được một năm thì nhường ngôi cho Lưu Dụ, là Tống Vũ Đế, cho nên văn gọi là "kế truyền đến Tống Lưu Dụ".
Niên hiệu Nguyên Hi thứ nhất đời vua Cung Đế nhà Tấn, tức là niên hiệu Vĩnh sơ thứ nhất đời vua Vũ Đế nhà Tống, vì cùng năm ấy đổi tên niên hiệu Tống Vũ Đế Lưu húy Dụ, tự là Đức Dư. Được bốn năm, nghĩa là Tống Vũ Đế làm vua ba năm thì băng, Trưởng tử là Nghĩa Phù kế vị, tức Thiếu Đế, Thiếu Đế hỗn loạn bị Thái hậu phế làm Vinh Dương Vương, chỉ làm vua hai năm. Em thứ ba của Vũ Đế húy là Nghĩa Long lên ngôi, tức Văn Đế. Thiếu Đế lên ngôi vào năm thứ ba đời Vũ Đế, làm vua hai năm, đến niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất đời vua Văn Đế là bốn năm, đây là năm mà kinh Niếtbàn Đại bản mới đến Nam Triều, cho nên trong Khai Hoàng Lục ghi: "Niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất đời vua Văn Đế nhà Tống thời Nam Bắc Triều mới đến Kiến Khang, lúc bấy giờ là niên hiệu Huyền Thỉ thứ chín.
Đây là hai vị Cao minh, lời tôn xưng người có đạo đức cao, trí tuệ sáng tỏ, sự tích như Lương Cao Tăng Truyện quyển bảy đã ghi.
Huyện lịnh Khương Lạc: Nam sử quyển mười tám ghi: "Tạ Linh Vận, thuở nhỏ rất hiếu học, thông hiểu các sách, giỏi văn chương, cùng với Nhan Diên Chi được xem là bậc nhất ở vùng Giang Tả, ngang dọc sôi nổi thì hơn Diên Chi, nhưng sâu kín thì không bằng. Được tập phong là Khương Lạc Công. Nay văn ghi là Huyện
Lệnh, e là sai.
"Kháng thế dật quần": Là vượt trên tất cả, kháng là nêu tất cả toàn bộ, dật quần là siêu xuất, vượt hơn. Nam sử ghi: "Dùng tước Quốc công phong cho viên ngoại Tán Kỵ Thị Lang, không nhận mà làm Tham quân cho Lang Da Vương Đại tư mã. Xe ngựa phục sức đẹp đẽ, y vật rất nhiều, sửa đổi đặt định lại hình thức luật lệ; mọi người đều tôn sùng ông và gọi là Tạ Khương Lạc. "Khai Hoàng Tam Bảo Lục ghi": Tạ Linh Vận, là Xử Sỉ đất Trần, là người trị định. Tạ Linh Vận tự xưng là Xử Sĩ, Linh Vận người ở Dương Hạ, quận Trần, từng làm Thái thú Vĩnh Gia, nơi đây có núi non đẹp đẽ, ông rất ưa thích, bèn thỏa chí ngao du; cáo bệnh từ quan, đến huyện Thỉ Ninh tạo lập dinh thự, sông lượn bên núi, cảnh trí thật đẹp, thuận lợi cho việc nhàn cư. Nhân đó làm bài Phú Sơn Cư; mỗi khi ông lên núi thường mang đôi guốc gỗ, khi lên thì tháo bỏ đế trước, khi xuống thì bỏ đế sau. Lúc bấy giờ, Thái thú Cối Kê là Mạnh khởi kính tin Phật Pháp, Linh Vận đến nói rằng: "Đắc đạo thì nên tu tuệ nghiệp, nếu sinh cõi trời thì Ngài trước tôi, nhưng thành Phật thì sau tôi". Mạnh Khởi nghe vậy rất tức giận. Nay cách thành Phú Châu về phía Đông nam bốn dặm có đài dịch kinh; Nhan Lỗ Công đời Đường soạn văn bia ghi: "Khương Lạc Hầu đời Nam Tống là Tạ Công, vào niên hiệu Nguyên Gia thứ nhất, đã dịch kinh Niết-bàn tại đây, do đó mà lấy tên là phiên kinh đài".
Hỏi: Tạ Công chỉ sửa sang bản cũ, đâu thể gọi là phiên dịch? Đáp: Dịch kinh thì có người dịch ngữ, ghi chép, sửa văn, chứng nghĩa, nhuận sắc, tất cả đều gọi là dịch giả, nay Tạ Công làm chức trị định tức là chứng nghĩa và nhuận sắc. Vì thế gọi Tạ Linh Vận dịch kinh.
"Chia phẩm Thọ Mạng v.v..." trở xuống: Chia phẩm Thọ Mạng thành bốn phần và đổi tên là Trường Thọ, chia phẩm Như Lai Tánh thành mười phần. Gồm mười hai phẩm, là số phẩm mới được chia thành mười hai phẩm và hai phẩm cũ là Thọ Mạng và Như Lai Tánh, tổng cộng là mười bốn phẩm, đó đều là y cứ theo tên phẩm trong bản sáu quyển mà phân chia. Cho nên, Tam Bảo Lục ghi: "Linh Vận v.v..." cho rằng phẩm mục trong bản dịch kinh Niết-bàn của Đàm-vô-sấm quá giản lược, người mới học khó có thể hiểu được, bèn y cứ vào chánh bản kinh Nê-hoàn cựu dịch mà thêm vào. Văn có khúc mắc thì được sửa chữa. Còn với những phần đã có trước, tức là cộng với các phẩm như Đại Chúng Vấn v.v..." Bản Bắc chỉ có mười ba phẩm bốn mươi quyển, Nam bản hai mươi lăm phẩm ba mươi sáu quyển, cho nên Sư Tuệ Viễn ở phương Bắc gọi bản Bắc là kinh quyển nhiều phẩm ít, gọi kinh bản Nam là quyển ít phẩm nhiều.
Còn ba phẩm, đến niên hiệu Lân Đức đời Đường thì phần sau của kinh có nói, cho nên còn thiếu phẩm Phân Xá-lợi. Trong phần sau lập phẩm khác với ý của Đàmvô-sấm, giống như sớ ký quyển hai mươi có nói. "Xưa nay Quan Trung v.v..." trở xuống: Quan Trung là đất Tần, ngài La-thập trụ ở đây, chưa thấy Đại bản, cho nên biết các phẩm chia ra không phải của ngài La-thập.
"Kinh lục cho rằng v.v..." tức là Bảo Xướng Lục đời Lương và Khai Hoàng Tam Bảo Lục quyển mười ba đời Tùy ghi: "Sa-môn Phạm Tuệ Nghiêm ở Thanh Hà và Xử Sĩ Trần Quận là Tạ Linh Vận thêm phẩm mục và hiệu đính", cho nên nay cũng y cứ theo đó mà biết là ý của Tiểu lượng chẳng phải.
"Lúc đầu ba vị v.v..." đó là nói về sự tích, không giống với Lương Cao Tăng Truyện và Khai Hoàng Lục, e rằng có truyền thuyết khác. Nhưng cả hai bản đều cho rằng có ba mươi sáu quyển, lúc đầu mới lưu hành được mấy bản, chưa được rộng khắp, thì một hôm Tuệ Nghiêm nằm mộng, thấy vị thần rất cao lớn, nghiêm giọng nói rằng: "Niết-bàn là một bộ kinh tôn quý vì sao các ngươi dám khinh thường mà thêm bớt". Tuệ Nghiêm giật mình thức giấc, trong tâm lo sợ. Đến sáng bèn nhóm hợp chúng Tăng, muốn thâu lại các bản đã lưu hành, lúc bấy giờ có người biết được liền can ngăn rằng: Đây là muốn khuyên răn người sau thôi! Nếu kinh này trái lý, vì sao không tức thời cảm mộng mà bây giờ mới có". Tuệ Nghiêm cho là đúng, lát sau lại nằm mộng thấy vị thần đến bảo: "Các ngươi vì dốc sức siêng năng truyền bá kinh này, mai sau sẽ thấy Phật".
"Nhưng Pháp Hoa Sớ đã nói", tức Pháp Hoa Huyền Nghĩa quyển tám, nói về phiên và không phiên, mỗi trường hợp đều có năm nghĩa. "Cũng như bản kia", tức là như văn cú, vì Huyền Nghĩa và Văn Cú đều giải thích kinh, nên gọi chung là sớ. Giải thích nghĩa phẩm Tựa chỉ cho văn cú, nên sớ văn sau chỉ giải thích thẳng vào năm việc của lời Tựa. Lại sớ văn sau, đầu tiên là lời văn nêu chung năm chương. Vì thế đầu tiên không ghi hai chữ "phẩm Tựa"; như Pháp Hoa Sớ, đầu tiên là giải thích phẩm Tựa cho nên ghi "Tựa là tường tựa", do đó đầu sớ ghi hai chữ "phẩm Tựa". Nếu phỏng theo Pháp Hoa Văn Cú mà đầu sớ này thêm hai chữ "phẩm Tựa", là không đúng, như Tịnh Danh Sớ đầu tiên cũng không ghi hai chữ "phẩm Tựa" dụng ý mỗi bên đều khác nhau thì đâu thể lấy làm tiêu chuẩn được, vả lại sớ văn đã qua hiệu đính, tiêu đề đã được tỉnh lược, cho nên bỏ hai chữ Đại Bát, chỉ đề là Niết-bàn Sớ, đây là ý của ngài Kinh Khê, nếu có thêm hai chữ Đại Bát cũng không đúng; chính danh Tuyên Ni khuyên bảo hàng hậu học nên khéo suy nghĩ chọn lựa. "Nhị sớ v.v..." trở xuống là thứ hai phần duyên khởi của sớ có hai phần:
1) Nêu chung
Nguyên do: Gồm hai phần: a. Nguyên nhân xa soạn sớ: Có hai-Học kinh ở Nhiếp Tịnh.
Duyên khởi: Lý do gọi là duyên, hưng phát gọi là khởi. Dư tức là ngã (ta), Đồng niên là tuổi còn thơ. Nhiếp Tịnh là tên một ngôi chùa ở Chương An, trụ trì là ngài Tuệ Chương. Truyện ghi rằng: "Bảy tuổi vào làm đệ tử Chửng Công", có ghi chép đầy đủ ở quyển thượng. Sư nói: "Tôi có đọc Cao Tăng truyện, biết các cao đức danh tiếng xưa nay ít có người không đọc kinh này, không ngờ cố mệnh của Đấng Pháp Vương, di chúc của Từ phụ, lẽ ra phận làm tôi hiền con thảo phải vâng thờ, thế mà gần đây giảng tòa lại vắng vẻ không người, chánh pháp dần dần chìm mất, có thể nghiệm biết ở điều này. Tôi làm việc khâu vá lại những giềng mối đã đứt, dựng lại cờ hiệu đã đổ ngã, để cùng thấy nghe, cùng thực hành mà gắng sức làm cho lưu thông, như thế mới xứng đáng là trung thần hiếu tử.
-Cầu yếu chỉ ở Thiên Thai: Từ câu "tôi trung kém cõi v.v..." trở xuống gồm hai ý: b. Nêu riêng duyên khác nhau có hai:
-Nói về tám chướng ngại không được nghe pháp, gồm có hai: Thầy hiện còn mà không được nghe có hai:
* Nói về tám chướng:
Nói "Tẩu" hoặc "Bộc" hoặc "Mông" đều là lời khiêm nhường. Đông Kinh Phú ghi: "Tẩu tuy chẳng thông minh mà khéo đạt" Chú ghi: "Tẩu là người bị sai khiến"; đây là lời công tử khiêm nhường tự cho rằng mình không bén nhạy thông đạt. Mong nghe chỉ thú, nghĩa là đã tụng đọc văn, nay nguyện nghe được ý thú.
Mang hành trang đến Thiên thai, cấp tức là hòm đựng sách vở. Sử Ký ghi: "Tô Chương đời Hậu Hán, tự là Sĩ Thành, người ở Bắc Hải, mang hòm sách theo thầy bất kể ngàn dặm xa xôi". Thiên Thai tức là nơi Đại sư Trí Giả cư ngụ. Đào Ẩn Cư Chân Cáo ghi: " Cao một muôn tám ngàn trượng, chu vi tám trăm dặm, núi có tám lớp, bốn mặt bằng nhau, đúng vào địa phận của Đẩu Ngưu, trên thì ứng với sao Thai nên gọi là Thiên Thai". Dư địa chí ghi: "Núi Thiên Thai còn gọi là Đồng Bá, là ngọn núi đẹp nhất ở vùng này".
"Tâm ưa thích lam nhiễm", Lưu Tử ghi: Mầu xanh có ra từ mầu lam, thì xanh ở nơi lam; nhiễm tức là nhuộm, ở đây dùng nghĩa nhuộm để dụ cho việc theo thầy cầu học, không được thắng nghĩa.
Mới lên núi, phủ tức là mới, ý nói chưa bao lâu.
"Lại gặp thầy xuất cốc", gặp lúc Đại sư Trí Giả vâng chiếu Trần Hậu chúa xuống núi. Truyện của sớ chủ có ghi: "Vào niên hiệu Chí Đức thứ nhất đời Trần, theo thầy đến kinh đô trụ chùa Quang Trạch.
"Chẳng những v.v..." trở xuống là lời tự khiêm, nghĩa là không ngờ rằng mình đức mỏng mà được hầu hạ thầy, theo thầy về triều đình diện kiến hoàng đế. Dịch Vĩ ghi: "Đế là hiệu của trời, đức sánh với trời đất, vị không có riêng tư, gọi là Đế". Hương đồ tam cung (truyền giới cho ba cung) có chỗ nói là sáu cung, đều do văn này khi xưa chẳng ai ghi chú, giảng đọc, cũng không có người, nên việc truyền chép sai lầm khiến cho ngư thành Lỗ, nay cho rằng ba cung chắc chắn là chẳng phải hai cung hoặc sáu cung thì thông dụng hơn, có thuyết lại cho rằng ba cung, vì đó là địa danh, dẫn truyện Sớ chủ trong Đường Cao Tăng truyện: "Ba cung tức là Lô Phụ (Lô sơn), Cửu Hướng và Hành Phong, nơi nào cũng gần gũi hầu hạ". Tham phỏng di tích cố sự, điều này chẳng phải như thế, vì nay đang nói về Đại sư ở tại kinh đô Kim Lăng, chẳng phải ở ba cung như kể trên, nay xét ba cung tức Đông Nhạc Thái Sơn, cho nên Mao Quân Nội truyện ghi: "Hang động ở núi Đại Tông (Thái sơn) chu vi trên ba ngàn dặm, gọi là "vùng trời Tam cung không động". Nói nhị cung, Văn Tuyển ghi: "Hai cung luyến mộ, điện các bồi hồi", hai cung chỉ cho cung của Đế và Thái tử. Cho nên phần Đại Sư Biệt Truyện ghi: "Trần chúa thân hành đến chùa xả thân đại thí". Lại ghi: "Từ Hoàng Thái tử trở xuống đều nương tựa quy y, tôn làm bậc giới phạm". Vì thế nên nói hai cung, trong Tục Cao Tăng Truyện cũng chỉ cung của Đế và cung của Thái tử là hai cung; đã thọ nhận giới pháp nên gọi là Đồ hương. Kinh nói: "Thường dùng giới hương xoa vóc sáng", hoặc cho rằng Đại sư là giới sư của hai vua Tùy và Trần, tức hai cung. Điều này chẳng đúng, vì ở đây chính là đang nói về việc Trần chúa tôn phụng. Văn sau ghi: "Đất Kim Lăng sụp đổ mới trở về nước Tùy", chẳng lẽ đang ở đời
Trần mà nói trước về đời Tùy? Không như thế thì không trái. Có chỗ cho rằng sáu cung, tức đặc biệt chỉ cho thiên tử, nghĩa này cũng có thể thông. Sáu cung, theo Châu Lễ: "Thiên tử và Hoàng hậu lập sáu cung gồm tam phu nhân, chín tần, hai mươi bảy thế phụ, tám mươi mốt ngự thê". Trịnh Huyền chú ghi: "Sáu cung thì vua một cung, sau năm cung là: Hoàng hậu một cung, ba phu nhân một cung, chín phi tần một cung, hai mươi bảy thế phụ một cung, tám mươi mốt ngự thê một cung, tất cả một trăm hai mươi vị. Hoàng hậu ở tại cung chánh, lễ nghi đồng với vua".
Bảy chúng, là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thức-xoa-Ma-na, Sa-di, Sa-di-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Sáu chúng thì phiên danh và thích nghĩa như sớ văn đã ghi, còn Thứcxoa-ma-na, Hán dịch là Học pháp nữ, không học thì không đắc giới, trước tiên học sáu pháp để luyện tâm, đó là thọ duyên. Luật Tứ Phần ghi: "Người nữ mười tám tuổi nên học giới hai năm". Lại ghi: "Tuổi còn nhỏ đã hứa hôn, mười tuổi nên trao cho sáu pháp". Luật Thập Tụng ghi: "Sáu pháp là luyện tâm, để thử xem đại giới thọ duyên trong hai năm là luyện thân, để biết có thai hay không". Thức-xoa-ma-na phải học đủ ba pháp:
- Học căn bản tức là giữ bốn giới trọng.
- Học sáu pháp là: Có nhiễm tâm xúc chạm nhau, trộm của người bốn đồng tiền, cắt đứt mạng sống súc sinh, nói dối, ăn phi thời và uống rượu.
- Học hành pháp, phải học tất cả các giới hạnh của Tỳ-kheo-ni. (Soi sáng bảy chúng), nghĩa là dùng hương giới xông ướp cho hai cung, dùng ánh sáng đạo chiếu soi bảy chúng.
- "Đạo tục tham thỉnh": Đạo là năm chúng xuất gia, tục là hai chúng tại gia.
"Chen nhau", người tham vấn huyền chỉ, thưa hỏi pháp yếu, qua lại không dứt.
"Tuy vua v.v..." trở xuống: Cam lộ dụ cho chỉ thú kinh Niết-bàn. Thụy Ứng Đồ ghi; "Lộ mầu cam đậm nên gọi là cam lộ. Vua ban cho ân tuệ thì có cam lộ rơi xuống thấm nhuần cây cỏ, cam lộ tức nhuần thấm lòng nhân, còn gọi là Thiên tửu.
Như đợi nước Hoàng Hà trong, nghĩa là đợi Đại sư Trí Giả giảng kinh này, như đợi nước sông Hoàng Hà trong, thật là khó được, Thập Di Ký của Vương Tử Niên ghi: "Đan Khâu một ngàn năm cháy một lần, Hoàng Hà một ngàn năm trong xanh một lần, Vua và các bậc Thánh đều cho đó là điềm lành lớn, vả lại nước Hoàng Hà trong thì có bậc Thánh xuất hiện. Tả Truyện ghi: "Tử Tứ nói châu thi có câu: Đợi nước sông Hoàng Hà trong thì người thọ đến bao nhiêu?" Đỗ Dự chú thích: "Nghĩa là tuổi thọ con người ngắn ngủi mà thời gian đợi nước Hoàng Hà trong thì quá dài".
"Có hẹn mà chẳng có ngày": Nghĩa là tuy có hứa giảng nói, nhưng tôi bị nhiều chướng nạn, nên rốt cuộc chẳng có ngày được nghe. Đãi tức là đến, Kim Lăng là địa danh. Ngô, Tấn, Tống, Tề, Trần, Lương đều đóng đô ở đây và gọi là Giang Nam, Kiến Khang Thật Lục ghi: "Vốn là ấp Kim Lăng của Sở, nhà Tần đổi thành Mạt Lăng, Ngô đổi thành Kiến Nghiệp, Mẫn Đế nhà Tần húy là Nghiệp nên đổi thành Kiến Khang. Nguyên Đế lên ngôi thì gọi là cung Kiến Khang.
Thổ Băng (đất lở); vào niên hiệu Khai Hoàng thứ tám, vua Văn Đế nhà Tùy, sai Tấn vương Dương Quảng, Thanh Hà Công Dương Tố lãnh năm mươi vạn quân chinh phạt nhà Trần, đoàn quân hùng mạnh cờ xí rợp trời, trống chiên dậy đất, bỗng chốc bình định Giang Đông, cầm tù chúa nhà Trần. Nhà Trần thoắt đã tiêu tan, dụ như đất lở. Văn Tuyển, Trần Lâm Hịch ghi: "Sẽ đất lở ngói tan, chẳng đợi máu đổ". Thầy trò tan tác: Nước Trần đã bị phá, pháp hội liền đình chỉ, thầy trò lìa nhau như mưa phân tán. Luận Tuyệt Giao ghi: "Lạc dịch tung hoành khói bay mưa tuôn". Đại sư di chúc: "Sáng đồng vân tập, chiều như mưa phân tán". Viết chữ Lưỡng là sai. Sau gặp ở Khuông Lĩnh, Khuông Lĩnh tức Lô Sơn, Lô Sơn ký ghi: "Vào thời Châu Uy vương có người tên là Khuông Tục, lúc còn sống đã có thần thông linh nghiệm, thích cảnh vắng vẻ nên đến cư trú nơi núi này, người đời gọi là Lô quân, cho nên núi có tên như thế". Đại Sư Biệt Truyện ghi: "Kim Lăng đã bại, nên quay về Kinh Tương, khi đến Ích Thành, thì mộng thấy một vị tăng nói: "Đào Khảm hiện điềm lành cung kính bảo vệ, Viễn Công thầm thỉnh". Vì thế, Đại sư trụ ở Lô Sơn. Bỗng nhiên, Tầm Dương xảy ra chiến tranh loạn lạc, chùa miếu bị đốt phá, chỉ có núi này không bị xâm hại.
Lại thuộc Kiền Lưu, Tả Truyện ghi: "Kiền Lưu thuộc vùng biên giới Trung Quốc". Đỗ Dự ghi: "Kiền Lưu đều bị giết" tức là gặp lúc Tầm Dương chiến tranh loạn lạc. Giang Lăng tức là Kinh Châu.
Nhưng gặp sương mộc, tức là vẫn gặp binh lửa; Bao
Phác Tử ghi: "Sương trắng bao vây bốn mặt thành, không quá một trăm ngày sẽ có đại binh đến". Tam Quốc Danh Thần Tán ghi: "Trần vụ nghĩa là sỉ nhục".
"Dạng Đế ban sắc v.v..." trở xuống: Giang Phố tức Giang Đô, nay là Dương Châu, cũng gọi là Lạc Phố. Văn Tuyển ghi: "Trở về Lạc phố". Chú thích ghi: "Dương Châu là Lạc Dương của nhà Lương. Ban sắc, khi Dạng Đế chưa lên ngôi, trấn thủ ở Giang Hoài, hai lần thỉnh Đại sư Trí Giả. Lần đầu thỉnh đến Giang Đô xin truyền giới pháp, tức là vào niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười một, việc xong Đại sư trở về lập chùa Ngọc Tuyền ở Giang Lăng. Lần thứ hai thỉnh đến Giang Đô soạn Tịnh Danh Sớ. Ở đây nói là khi Đại sư lại ra Giang Đô, thì sớ chủ (Quán Đảnh) bị bệnh phải ở lại Hồng Châu, còn lần đầu thì được theo hầu. Truyện của sớ chủ ghi: "Vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười, khi Tấn Vương trấn thủ Dương Việt, tôi có theo hầu Đại sư Trí Giả đến trụ ở Bang Cấu". Theo chế độ nhà Hán thì lời thiên tử ban xuống gọi là Sắc, Thái tử thì gọi là Lịnh, các vương thì gọi là Giáo. Khi Dạng Đế trấn thủ Dương Việt thì là Vương. Sau lên ngôi nên mới gọi là sắc trưng. Cho nên Biệt Truyện chép: "Vâng sắc soạn Tịnh Danh Sớ". Đảnh bị bệnh phải ở lại Dự Chương, Đảnh là lời sớ chủ tự xưng, đầu tiên gọi là Dư, kế đó xưng là Tẩu, bây giờ xưng tên, đó là sự thay đổi theo văn thể mà thôi. Dự Chương là tên quận, nay là Hồng Châu. Đại sư một lần nữa đến Giang Đô mà sớ chủ bị bệnh phải ở tạm tại Hồng Châu, không được theo hầu, cho nên đã xa cách Thánh sư, đâu thể nghe được kinh này.
"Mới giương buồm đến Nam Hồ", Nam Hồ tức Hồ Cung Đình, cũng gọi là Cũng đình, nghĩa là khi bệnh đã bớt liền xuôi thuyền về Nam Hồ.
Vội đến Giang Đô để gặp Đại sư, nhưng lại gặp Tùy Văn Đế tuần thú về Đông, Tấn Vương vào triều. Do đó, Đại sư phải quay về Đông đến Thiên Thai, nên không có thời gian để giảng kinh và hầu hạ Đại sư về Đông. Đây là lần cuối cùng Đại sư trở về Thiên Thai, lúc bấy giờ là mùa xuân niên hiệu Khai Hoàng năm thứ mười sáu.
"Đông toàn" là trở về Đông, mùa Thu đến Phật Lũng, Thần Ấp Thiên Thai Sơn ký ghi: "Từ chùa Tu Thiền đi về hướng Nam hai trăm bước gặp một tảng đá bằng phẳng dường như có người đẽo gọt thành, người xưa truyền rằng, Đức Phật thường phát ra ánh sáng ở đây, cho nên gọi là Phật Lũng". Mùa xuân rời Giang Đô, mùa thu mới đến đây, là vì phải tùy nơi giáo hóa lợi sinh, cho nên hành trình có chậm. Mùa đông thì nhập tịch, tức là vào giờ mùi ngày hai mươi bốn tháng mười một cùng năm, Đại sư ngồi kiết già trước tượng Phật Di-lặc ở chùa Thạch Thành cửa Tây Thiên Thai mà thị tịch. Ôi! Pháp chướng của ta, "y" tức "duy" là phát ngữ từ, dư tức là ngã. Pháp chướng, tức là muốn nghe pháp nghĩa của kinh này mà rốt cuộc chẳng được, do tám việc trước mà thành chướng. Đó là: Gặp Đại sư rời cốc, người tham học thưa hỏi quá đông, Kim Lăng sụp đổ, Kiền Lưu phản loạn, Giang Lăng chiến tranh, bệnh ở lại Dự Chương, đi về phía đông đến Thiên Thai, thì Đại sư nhập diệt. Do tám chướng này mà ta không được nghe pháp, nên gọi là pháp chướng. Nếu chẳng ra khỏi cốc thì đã được nghe; tuy ở Đế Kinh, nhưng nếu ít người thưa hỏi thì chắc sẽ được nghe; người thưa hỏi nhiều, nhưng Kim Lăng nếu được an ổn lâu dài thì sẽ được nghe; cho đến nếu Đại sư không nhập diệt, dù có pháp chướng đời trước thì cuối cùng vẫn được nghe. Cho nên, chướng gặp Đại sư nhập diệt thật là sâu nặng, vì thế ở dưới than rằng "mắt trời đã khuất núi, mà rùa mù còn ở dưới đáy biển"
Đâu thể nói nên lời! Hề tức là Hà (đâu), tức là pháp chướng quá nhiều đâu thể dùng lời mà nói hết.
* Dẫn sự cảm thương: Từ "xưa năm trăm v.v..." trở xuống có hai:
+ Dẫn việc để so sánh chính mình: Kinh Hiền Ngu quyển sáu ghi: "Ở nước Tỳ-xá-ly có năm trăm người mù, xin ăn để tự sống, một hôm nghe người nói, có Đức Như Lai ra đời, những người mù này liền bàn rằng: Nếu chúng ta gặp Như Lai sẽ được Ngài cứu giúp; bèn hỏi rằng: Hiện giờ Như Lai ở đâu? Người kia đáp: "Phật đang ở nước Xá-vệ", năm trăm người này mỗi người góp một đồng tiền vàng, nhờ người dẫn đường. Người này lấy tiền, liền dẫn năm trăm người mù đến nước Ma-kiệt bỏ ở đầm lầy. Những người mù không biết đây là đâu bèn dắt nhau đi, băng qua đồng ruộng làm hư nát lúa mạ của người. Vị Trưởng giả đi thăm đồng thấy ruộng lúa bị dẫm nát, rất tức giận la mắng, những người mù xin thương xót, kể lại việc đã xảy ra. Trưởng giả liền sai người dẫn năm trăm kẻ mù đến nước Xá-vệ, khi đến nước Xá-vệ thì nghe Đức Thế Tôn đã đến nước Ma-kiệtđà, năm trăm người mù này đến nước Ma-kiệt-đà thì Thế Tôn đã trở về Xá-vệ, như thế trải qua bảy lần, Phật biết năm trăm người mù lòng tin đã thuần thục nên ở lại Xávệ đợi họ. Họ được gặp Phật, nhờ ánh sáng Phật mà mắt họ được sáng trở lại, Phật lại nói pháp cho nghe, nghe xong họ đều chứng quả A-la-hán.
"Kỳ hoàn v.v..." Kinh Thí Dụ quyển ba ghi: "Xưa có một người làm hai nghề, cưới hai người vợ, khi đến người vợ nhỏ, thì người vợ này nói rằng: "Tôi trẻ còn ông già, tôi không thích ông ở đây, ông hãy đến với người vợ lớn; người chồng bèn nhổ hết tóc bạc rồi đến chỗ người vợ lớn, vừa đến thì người vợ lớn liền nói: "Tôi đã già, tóc đã bạc, còn ông thì đầu tóc đen thế kia, vậy nên đi đi; người chồng bèn nhổ tóc đen rồi đến chỗ người vợ nhỏ; cứ như thế ít lâu sau trên đầu không còn tóc, hai người vợ đều ghét và bỏ đi, người chồng buồn bã mà chết. Người này vào thời quá khứ, là một con chó trong một ngôi chùa kia, ở bờ đông của con sông có một ngôi chùa, khi chó nghe tiếng kiền-chùy thì đến và được thức ăn. Hôm sau, hai chùa đồng lúc đánh kiền-chùy, chó bơi qua sông, muốn qua chùa Tây thì sợ chùa Đông có thức ăn ngon, khi muốn qua chùa Đông thì sợ chùa Tây có thức ăn ngon, chó cứ ở giữa dòng như thế mà chết chìm. Kỳ-hoàn là tên gọi chung các chùa, chứ chẳng phải chỉ cho chùa Kỳ-hoàn.
"Chỉ đến chỗ Phật mà không gặp Phật, chó chết giữa dòng mà không được ăn" là tổng kết hai việc trước, tức là năm trăm người mù tìm tới cõi nước kia mà chẳng gặp Phật, cho nên nói là "Duy cương vô kiến"; chó nghe tiếng kiền chùy của hai chùa mà chết giữa dòng, rốt cuộc chẳng được ăn, cho nên nói là "Duy trầm vô đắc".
+ Vào núi v.v..." trở xuống là dùng việc của mình để so sánh với việc kia: Bản thân nhiều chướng nạn, như những người mù, như con chó kia, vào núi ra cốc, gồm có tám chướng; trong đó vào núi có hai chướng thứ bảy và tám, ra cốc có sáu chướng trước.
-"Băng đồi vượt suối", là giải thích câu trước rằng: "Phù đọa" là sai, phải viết là "thừa lăng" (Băng đồi), nghĩa là vào núi thì băng đồi, ra cốc thì vượt suối, phải chịu nhiều gian khổ mà chẳng được nghe kinh này. Bắc chinh phú trong Văn Tuyển ghi" Thừa lăng cương để đăng giáng", giải thích: "Lăng cương đều chỉ cho đồi núi". Tả Truyện ghi: "Ngô đem tất cả Tố giang (sông ngòi) nhập vào đất Trịnh". Nhĩ Nhã ghi: "Ngược dòng thì gọi là Tố hồi, xuôi dòng thì gọi là Tố du". Tự Lâm ghi: Xuôi dòng gọi là Duyên, ngược dòng gọi là Tố".
"Mặt trời đã v.v..." trở xuống là nêu dụ, than thở vì Đại sư đã nhập diệt, mặt trời dụ cho kiến giải của thầy tròn sáng, khuất núi dụ cho thầy đã nhập diệt. Nhai là núi. Hoàn Nam Tử ghi: "Mặt trời đã khuất sau ngọn Yêm tử", chú thích: "Cũng gọi là núi Lạc Thường". Rùa mù dụ cho mình không có mắt trí tuệ, đáy biển dụ cho sự si mê lâu dài. Tạp A-hàm quyển mười sáu ghi: "Phật bảo các Tỳ kheo rằng: Như dưới đáy biển có một con rùa mù sống đã vô lượng kiếp, cứ một trăm năm nổi lên một lần, lại có một bọng cây nổi trên mặt biển, tùy sóng gió mà trôi dạt đông tây. Rùa mù một trăm năm nổi lên, muốn gặp được bọng cây này, nhưng rùa bơi về phía Đông thì bọng cây trôi về phía Tây, xoay vần như thế, hoặc cách xa nhau, hoặc được gặp nhau. Phàm phu trôi nổi trong biển lớn năm đường, lại được thân người cũng khó như thế". Nay mượn văn này để dụ cho việc rất khó gặp được sư.
"Nhờ ánh sáng. tưởng bọng cây", tức là đêm khuya mà có người còn mong cầu ánh sáng mặt trời để soi rõ vật, rùa ở đáy biển mà tưởng gặp được bọng cây để an thân, điều ấy thật không thể có, cho nên nói "Há được hay sao?"
Thầy thị tịch, suy nghĩ lại nghiệp chướng của mình. "Tôi bèn v.v..." trở xuống là Đại sư đã nhập diệt, không được nghe chỉ thú kinh này, mới suy xét lại tội lỗi đời trước, vì thế mà phát tâm sáng tối giữ gìn tháp miếu, tụng đọc văn kinh cầu mong đời vị lai được gặp thầy nghe pháp; quét tháp là nguyện gặp thầy, tụng kệ là mong nghe pháp. Ấn-độ gọi là Tháp-bà, Trung Quốc gọi là phần mộ. Quét dọn tháp mộ trồng các loại cây, về mộ phải có cây cho nên gồm nêu. Gia ghi: "Phần mộ của vua, cao ba nhận trồng cây bách, phần mộ Chư hầu cao 1.5 nhận, trồng cây tùng, phần mộ của hàng đại phu cao tám thước, trồng cây hòe, thứ dân không xây phần tháp, trồng cây dương liễu.
"Canh phục khôi trường" là thay đổi tịnh y. "Kính thờ tháp miếu" nghĩa là thường thay y sạch sẽ, tụng kinh trước tháp. Pháp Hoa ghi: "Mặc y phục mới, sạch sẽ, trong ngoài đều thanh tịnh". Đất Xà-duy của Như Lai gọi là khôi trường, nay nơi an táng Đại sư cũng được gọi là khôi trường là mô phỏng theo sự tích xưa; bài tựa Pháp Hoa Sớ ghi: "Trở về Thiên Thai, vẫn gặp Hạc Lâm". Hạc Lâm là khôi trường. Thạch kệ là kinh Niết-bàn, như trong phẩm Thánh Hạnh ghi: "Đại sĩ Tuyết Sơn đã được nửa bài kệ bèn viết trên cây, cỏ, đá, vách để chỉ cho người sau". Nên gọi kinh này là Thạch kệ. Sớ chủ khi còn nhỏ đã tụng nữa bộ kinh này, cho nên biết rằng lần này tụng toàn bộ, chẳng phải chỉ một bài kệ.
"Xét nghiệp đời trước, mà ẩn cư suốt đời", nghĩa là suy nghĩ do tội lỗi kiếp trước mà gây nên chướng nạn hôm nay. Bèn dùng thân này quét tháp, miệng tụng văn kinh, ẩn cư cầu chí, mong rằng đến hết đời này, nên gọi là "suốt đời".
Nói về năm nạn không thành tựu được ý nguyện:
1) Sự việc không theo ý muốn của mình, vì việc tăng sai muốn ẩn cư hết đời mà phải cùng Trí Tảo về kinh đô, cho nên nói việc chẳng theo ý muốn. Vì bị việc này ép ngặt, cho nên nói là không thể nghỉ ngơi, tất cả được chép đầy đủ trong Quốc Thanh Bách Lục.
"Mang chiếu chỉ, biểu, điệp"; Điệp, biểu, sắc đều dùng rương để cất giữ. Bách Lục ghi: "Một hòm sách vàng cho chúng Tăng ở Thiên Thai".
"Tây khảo khuyết đình" (hướng về tây đến khuyết đình) Khảo phải viết là Triều (hướng về), khuyết là song khuyết, làm bằng đá, trên đó có tạc chìm các hình dạng chim thú kỳ lạ, đặt hai bên đường ngoài cổng, còn gọi là tượng khuyết, ngụy khuyết. Theo Châu Lễ, Thái Tể vào tháng giêng treo pháp Lý Tượng ở Tượng Ngụy để cho muôn dân xem biết. Theo Tả Truyện: "Đời Ai Công, năm thứ ba, mùa hạ, mệnh thư của Hoàng tử đặt ở Tượng Ngụy ghi: "Cựu chương chẳng thể quên". Thôi Báo Cổ Kim chú ghi: "Khuyết tức là quán. Xưa ở trước cổng thường dựng hai cổng để tượng trưng cho cung môn, trên đó có thể ở được, vì từ đây có thể nhìn thấy những cảnh vật ở xa, cho nên gọi là quán; các quan chức trước khi vào chầu, khi đến đây thường xét nét các khuyết điểm của mình, nên gọi là Khuyết. Nơi nhà vua cư ngụ gọi là Khuyết Đình, nhà Tùy đóng đô ở Trường An.
Vì việc riêng mà đi, vì việc công mà về, tức là thuận với tăng sai mà đi, vâng sắc chỉ mà trở về. Hoặc độ tăng tạo tượng, hoặc xây dựng đạo tràng, tất cả đều được ghi đầy đủ trong Bách Lục. Bách Lục ghi: "Nay khiến Đại đô đốc Đoàn Trí Hưng, tiễn sư về chùa". Vì thế nói "Tư khứ công hoàn".
"Trải qua v.v..." trở xuống là đi và về vì công việc tăng sai suốt tám năm.
2) Vì tranh luận phải đi:
Chùa Nhật Nghiêm, tuy không phải tăng sai nhưng vì tranh luận, mà một lần nữa phải vào đế kinh. Nhật Nghiêm là tên một ngôi chùa, Đường Cao Tăng Truyện ghi: "Lúc bấy giờ, Dạng Đế còn làm Tấn vương, đã xây dựng phủ đệ và chùa Nhật Nghiêm tại Khúc Trì ở kinh đô, Hàn Dương tức Trường An nay là quận Vĩnh Hưng. Việc tranh luận mà không truyền bá, không ghi chép là khuyết điểm của việc sưu tầm mô phỏng truyện ký.
3) "Ban đêm gặp nước lụt phải chạy tránh":
Núi Đào Lâm gặp nước dâng phải chạy tránh, chính là câu: "Thả trâu ở Đào Lâm" ghi trong Thượng Thư. Tả Truyện: "Tấn Hầu khiến Chiêm Gia, Xử Hà đến giữ ải Đào Lâm". Đỗ Dự chú: "Đào Lâm thuộc huyện Hoa Âm ở Hoằng Nông. Ở đây nói khi đến Đào Lâm, ban đêm nước ngập tràn phải mau chạy tránh, cho nên thất lạc bạn đồng hành.
4) Do sàm tấu ở đây: Lại bị sàm tấu là dối gạt người, khi đến kinh đô gặp phải những lời gièm siểm, cho rằng ta làm mê hoặc người, Dạng Đế tin những lời này và đày ta đến Hà Bắc. U và Kế là hai châu ở Hà Bắc.
5) Đi qua băng mỏng ngựa bị sụp: Mùa đông qua sông cho nên đạp trên băng mỏng để qua bờ Bắc, vì thế ngựa sụp băng mà chết, may thay thân mạng vẫn còn.
Gặp ách nạn đi trên băng mỏng, Thơ ghi: "Run rẩy như đi bên bờ vực thẳm, như đi trên băng mỏng". Sớ chủ muốn nói: Xưa, nghe lời thơ làm Dụ để tự răn nhắc, mà nay thân đang gặp thực tế như thế, cho nên câu sau ghi: "Sống mà đi trên đất chết". Đâu thể nói hết, là ách nạn như thế đâu thể nói hết được.
Tổng kết tất cả đều mất:
"Xưa mang hành trang v.v..." trở xuống là mang lương thực, hành trang về Đông Nam, tức chỉ cho câu: "Hành trang đến Thiên thai" đã nói ở đoạn trước vào núi ra cốc, đến đi vùng Dương Việt, đâu chẳng hơn ngàn dặm. Văn Tuyển ghi: "Hành trang muôn dặm, đội nón trúc lợp bằng lá; sử ký ghi: Ngu Khanh mang giầy gai, tay kẹp nón lá". Đoạn văn trước là nói vua... Hiếu Thành nhà Triệu vừa được ban cho một trăm dật vàng, văn sau là nói được phong làm Thượng Khanh.
"Mang tội đến Tây Bắc", tức là chỉ cho đoạn văn: "Lại bị sàm tấu là dối gạt". Ba lần bị gièm siểm, ba công tử con của Tống Hiến Công đều bị Ly Cơ gièm siểm, cho nên nói là Tam Xiểm. Sớ chủ muốn lấy đó để dụ cho bản thân mình. Ba vị công tử là Thái tử Thân Sinh, Trùng Nhĩ, và Di Ngô. Tả Truyện quyển năm ghi: "Lúc đầu, Tấn Hiến Công muốn lập Ly Cơ làm Phu nhân, khi bói mai rùa thì không tốt, khi bói cỏ thi thì tốt; Công bèn theo cách bói cỏ thi, người bói mai rùa nói rằng: "Thệ thì ngắn, bốc thì lâu dài, chẳng bằng theo sự lâu dài thì hơn". Công không nghe theo và vẫn cho Ly Cơ làm phu nhân, sinh được Hề Tề, em gái Ly cơ sinh Trác tử. Vì muốn lập Hề Tề nên cùng Trung Đại Phu bày mưu, Ly Cơ bảo Thái tử: "Vua mộng thấy Tề Khương, vậy phải mau sắm vật tế lễ". Thái tử bèn tế lễ ở Khúc Yêu, rồi đem thịt về dâng cho Hiến Công, Hiến Công đi săn, nên Ly Cơ để ở cung, sáu ngày sau, Hiến Công trở về, Ly Cơ bèn bỏ thuốc độc vào và dâng lên, Hiến Công sinh nghi nên ném xuống đất thì thấy sủi bọt, cho chó ăn thì chó chết. Ly Cơ khóc lóc nói rằng: "Thái tử chính là giặc!" Thái tử nghe được liền chạy đến Tân Thành. Hiến Công giết thầy của Thái tử. Đỗ Nguyên Hy bảo Thái tử rằng: "Thái tử trình bày thì vua sẽ hiểu được". Thái tử nói: "Vua mà không có Ly Cơ, thì ăn không ngon ngủ không yên, nếu ta trình bày ra thì Ly Cơ sẽ có tội; mà vua già rồi, nếu làm như thế thì ta chẳng vui thích gì? Nguyên Hy nói: "Thái tử có chạy trốn không"? Thái tử đáp: "Dẫu vua thật chẳng xét tội ấy, nhưng đã bị mang tiếng như thế, nếu có đi thì ai dung nạp ta?" Do đó, Thái tử không đi mà tự ải ở Tân Thành vào tháng mười hai năm Mậu Thân. Ly Cơ lại sàm tấu hai vị Công tử kia rằng: "Cả hai người kia đều đồng mưu". Do đó, Trùng Nhĩ chạy đến đất Bồ; Di Ngô chạy ra đất Quật. Nói Đông nam, Tây bắc, nghĩa là kinh đô ở giữa, thì Dương Việt ở Đông nam, U kế ở Tây bắc.
Nghe và suy xét, lúc trước mong được nghe kinh, mới mang hành trang về Đông nam, vì gặp tám chướng nên không được nghe kinh, sau muốn suốt đời suy xét tội lỗi ngày trước, nhưng do bôn tẩu lên Tây Bắc gặp năm nạn, cho nên không thể suy nghĩ được, vì thế nói cả hai đường đều không thành tựu.
Lý do soạn sớ:
Lòng mến pháp vẫn không dứt, về sau tuy được sống còn trở về Thiên thai, tuy xưa hai duyên nghe và suy nghĩ đều mất, nhưng tâm mến pháp vẫn không lui sụt, vì thế mới tìm những bản sớ khác để xem xét yếu chỉ của kinh, thì biết nghĩa đã trái ý kinh, do đó mới phát tâm soạn sớ. Các bản sớ xưa tức là các bản sớ nghĩa của Quang Trạch ở Hà tây, v.v..." đến nay vẫn còn.
Chẳng đúng với văn kinh, tức trái văn kinh, sai yếu chỉ, ương ương là buồn bực; "bệnh chư" tức là "bệnh chi", nghĩa là thấy nghĩa trong các bản sớ chẳng đúng, thì thân như bị bệnh ở đây là nguyên nhân gần để soạn sớ.?Thời gian và nơi chốn soạn sớ: Gồm có hai:? "Bắt chước kẻ mù v.v..." gồm có hai phần: Tự khiêm kém cỏi, nói lại bản hoài:
Kinh Niết-bàn quyển ba mươi ghi: "Thí như vua bảo Đại thần rằng: "Ông nên dắt đến đây một con voi, và bảo cho các người mù biết, lúc bấy giờ những người mù kia, đều dùng tay sờ voi, người sờ trúng ngà voi, thì cho rằng voi giống như rễ cây lai phục, người sờ trúng tai voi thì cho rằng voi giống như cái ky v.v..." "cuối cùng kinh tổng kết lại rằng vua dụ cho Như Lai, thần dụ cho kinh Phương Đẳng Đại Niết-bàn, voi dụ cho Phật tánh, những người mù dụ cho chúng sinh vô minh".
Trong mộng nói đạo, như kinh Niết-bàn quyển mười tám ghi, đã nói lược ở trên. Đạo dụ cho Phật tánh, lời nói luống dối lúc nằm mơ, chẳng phải thật được đạo, đều là sớ chủ tự khiêm cho rằng tâm suy nghĩ yếu chỉ kinh như người mù sờ voi, đâu biết được toàn thể; miệng đọc văn kinh như nằm mộng nói Đạo, chẳng phải thật có.
Nói về thời xứ: Ngày mười tháng mười niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười v.v... gồm có hai: a. Thời gian, nơi chốn: Gồm có hai:
-Thời gian và nơi chốn bắt đầu soạn:
Đại Nghiệp là niên hiệu của vua Vạn Đế đời Tùy, năm thứ mười tức năm Giáp Tuất.
Ngụ ở phía Nam Thiên Thai, Tiểu Nhĩ Nhã ghi: "Lô là tạm cư ngụ, cũng là nhà riêng. Hoàng Đế làm Lô (biệt xá) để tránh nóng bức, giá rét, xuân thu thì đi nơi khác, đông hạ thì ngụ ở đây. Vì thế nên gọi là ký chỉ (tạm cư ngụ). Thần ấp, Thiên Thai Tạp Ký ghi: "Xích Thành là cửa Nam, Thập Thành là cửa Tây", nay nói Nam Thiên Thai, tức là ở Xích Thành.
Nương vào ý của thầy mà biên soạn.
Dùng trí cạn hẹp để hiểu nghĩa ý của Đại sư Trí Giả, Trang Tử nói: "Nhìn trời qua ống nhỏ, nghĩa là pháp môn của ngài Trí Giả cao rộng vô cùng, còn sự hiểu biết suy tìm của mình như dùng ống mà nhìn trời. Ý nghĩa, nghĩa tức là năm thời bốn giáo, ý tức là ba Quán, sáu Tức. Y cứ theo nghĩa ý này mà giải thích chỉ thú kinh này. Thượng Thư ghi: "Vâng chiếu soạn năm mươi chín thiên truyện. Đại Nghiệp là nói thời gian soạn sớ; Nam Thiên Thai là chỉ cho nơi soạn sớ. Noi theo Trí Giả, nghĩa là nêu? lên tông chỉ đã học.
Nạn duyên:
Gồm hai phần:
- Lánh nạn: Bốn lần di chuyển, hai lần gặp được điều linh dị. Vào niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười hai, có chim lớn như đại bàng bay vào nội điện, vào phòng vua đến sáng mới bay đi. Tháng chín, vua tuần du Giang đô, để thay vua là Hữu Lưu giữ Tây đô, vua nước Triệu là Đồng Lưu giữ Đông đô; khi đến Giang đô, Dạng Đế đam mê tửu sắc.
Tháng năm sao rơi biến thành đá ở quận Ngô, đom đóm xuất hiện nhiều đến mấy hộc, ban đêm dạo núi ánh sáng chiếu khắp hang động, sao Vũ Lâm xuất hiện lớn như cái đấu; lầu Vương Lương âm thanh đạo phát ra như tường đổ; Uổng thỉ xuất hiện ở Bắc Đẩu; mỗi hộc gạo tám, chín muôn đồng tiền, lại dùng loại tiền Tích hoàn nhỏ như sợi chỉ. Tháng mười Lý Mật dấy binh ở vùng Lương Sở, Âu Kiến Đức, Lư Minh Nguyệt v.v..." tự xưng hiệu. Trộm cướp giặc giã khắp cả châu huyện, lại có các đảng giặc như sư Mạnh Hải Công, Từ Hiên Lãng, Châu Xán, Lưu Vũ Dụng, Tiết Cử, Tiêu Tiển, Lý Tử Thông, Thẩm Pháp Hưng v.v..." dẫn quân đánh phá cướp bóc, nhiều thì đến mấy mươi vạn, ít thì vài ba vạn thuộc hạ. Trong nước không có nơi nào an ổn. Vì thế nên nói trộm cướp tung hoành. Lúc bấy giờ, Thiên thai thuộc sự kiểm soát của Thẩm Pháp Hưng. Tạp ký ghi: "Niên hiệu Đại Nghiệp thứ mười bốn, Thẩm Pháp Hưng chiếm cứ Hải Châu"; đổi huyện Lâm Hải thành Hải Châu.
- Ẩn náu tại Ốc châu, nặc tức là ẩn, Ốc Châu là tên một ngọn núi ở đất Diệm, là nơi ngài Chi Độn ẩn cư. Xích thành đã loạn lạc lại phải ẩn lánh, tránh nạn giặc cướp nên đến núi Ốc châu. Bóng cây làm màn, trúc làm chiếu, vì ẩn tránh nơi núi rừng hoang vắng, nên không có phòng nhà, chỉ có bóng cây rừng làm màn trướng, tre trúc lót làm giường, cũng giống như người xưa trải chiếu gai mà ngồi. Loại Tiểu Trúc chỉ sống ở vùng Cối kê. Nhĩ Nhã ghi: "Cái đẹp ở vùng Đông nam chỉ có Tiểu Trúc ở Cối kê thôi". Y phục và lương thực đã hết.
Đơn là hết, nghĩa là lánh nạn ở nơi núi sâu hang cùng, y phục đã rách nát, lương thực đã hết sạch, cho nên việc biên soạn lẫn lộn trước sau.
"Bấy giờ v.v..." trở xuống là nói về thiếu duyên biên soạn, lại đến nơi khác xin ẩn náu. Bỉ chí (chí bé nhỏ thấp hèn) là lời tự khiêm nhường.
"Gởi thân nơi an ổn", tức là tạm nương náu nơi chỗ an ổn. Toại An là một huyện nay thuộc Mục châu, quan huyện lệnh họ Đặng, tức Toại An lệnh.
"Liền nhận lời mời giảng kinh Duy-ma". Chẳng thể thực hiện cả hai, tức là đã lo việc giảng kinh nên dừng soạn sớ. Do đó giữ bản thảo tại dinh huyện lệnh, thầm giữ bản này nghĩa là Hiền Thánh thầm giữ gìn, cho nên nhà cháy mà bản sớ vẫn còn. Vì thế nói là chẳng thành tro, "Dương Dương" tức gió thổi làm cho bay đi.
"Lại gởi đến Sách Thành": Giảng kinh xong, lại gởi đến Sách Thành, với ý muốn sửa lại bản thảo, Sách Thành không biết là nơi nào, nay ở huyện Tiên cư có Sách Ngọc Bảo, có lẽ là nơi này.
"Ngọc đá đều hết": Ngọc đá dụ cho sang hèn, hiền ngu. Giặc biển cướp phá sang hèn đều tiêu, cho nên nói là "đều hết". Thượng Thư ghi: "Lửa cháy Côn Lôn, ngọc đá đều bị thiêu hết". Tiêu Lượng là tướng soái đương thời.
"Lại được bảo tồn", tức thân được bình an, sớ được giữ gìn.
"Đốt chẳng cháy", tức đoạn trước nói, ngầm giữ bản này tránh khỏi bị cháy thành tro, giặc không làm gì được; tức giặc cướp Sách Thành, ngọc đá đều hết, mà chỉ có sớ này vẫn còn. Lại nhờ Linh dị, lần đầu thì lửa chẳng đốt cháy, lần sau thì giặc không cướp được. Lệ là cố gắng thành tâm.
Thực là ăn uống ngủ nghỉ không lúc nào an ổn.
Cảnh trí vắng vẻ, hợp với lòng mong cầu, nên siêng năng sửa chữa, gồm có hai phần: Cảnh trí u nhàn hợp với lòng mong cầu: Lễ Ký ghi "Dùng mai rùa là bốc, bói cỏ thì gọi là vu, người xưa mỗi khi dời nơi ở thường thực hành bốc, cho nên kinh Ly Tao có pháp Bốc cư ". Tả Truyện ghi: "Phi trạch là bốc, duy lân là bốc". Nay sớ chủ gọi di cư là bốc cư. An Châu thuộc huyện Lạc An, nay là huyện Tiên Cư. Tăng Truyện ghi: "Vùng núi non phía Nam Lạc An gọi là An Châu. Nhưng danh từ An Châu mới có từ thời Sớ chủ mà thôi. Thai Châu Đồ kinh ghi: "Núi Quản trúc cách huyện về phía Đông nam năm dặm, cao hai mươi trượng, chu vi hai dặm, dưới chân núi có một cái đầm, vào niên hiệu Vũ Đức thứ hai đời Đường, người dân ở vùng này thỉnh Tôn giả Quán Đảnh chùa Quốc thanh đến chùa Quang minh giảng kinh, lúc bấy giờ cá trong đầm này đang bị nhiều người đến đánh bắt, Tôn giả liền dẫn Tăng tục đến bên đầm giảng kinh Kim Quang Minh, khuyến dụ ngư phủ thôi đánh bắt cá. Một đêm, trời bỗng nổi cơn mưa to gió lớn, sáng ra đầm này biến thành đất liền (châu); vì đầm này ở huyện Lạc an, nên gọi là An châu.
Về Vi Lan, Lạn, Nhĩ Nhã ghi: "Nước sông trong sóng gợn lăn tăn, sóng lớn gọi là lạn, sóng nhỏ gọi là dật".
"Không dấu chân người và thú" là vì núi cao, khe sâu cách trở, người và thú không đến được.
Núi non liên tiếp, Phong tức núi Vĩ Mỹ, Quát là núi Quát Thương, Đào Hằng Cảnh, Ngọc Hội ghi: "Cách Tây nam núi Quát Thương trên một trăm dặm, có núi Vĩ Mỹ giống như cung vua, có nhiều điềm linh dị, rất hùng vĩ và đẹp lạ". Hoàng Triều Tân Tu Đồ Kinh ghi: "Núi Đại Quát Thương ở về phía Tây huyện một trăm tám mươi dặm".
Gồm đủ cái đẹp của hai núi này, nghĩa là cảnh tượng An Châu có cả hai cái đẹp của hai ngọn núi này.
"Thủy cảnh", nghĩa là khe suối trong vắt, mặt nước yên lặng, soi sáng như gương. Cứ trì là ao có hoa sen nở. Nhĩ Nhã ghi: "Sen chính là phù cừ", Quách Phát chú: "Sen tên khác là phù dung, vùng Giang Đông gọi là Hà; Hồng ba là hoa màu hồng.
Về "quạt ngà voi", luật Thiện Kiến ghi: "Ưu-ba-ly lên tòa cầm quạt được làm bằng ngà voi, trước khi kết tập Luật tạng".
Thê thiến tức là cỏ tươi, gia cũng là hơn.
Tòa họ Đới, Đông Quán Hán Ký: "Đới Phùng tự là Thứ Trọng, được phong làm Thị Trung, một hôm vào triều, vua hội tất cả các quan bảo rằng: các vị hãy luận bàn kinh sử và cùng nhau thưa hỏi về nghĩa lý, nếu ai trả lời không thông thì bị chiếm chỗ ngồi, nhờ luận rất thông nên Đới Phùng đoạt luôn trên năm mươi chỗ. "Nay sớ chủ được gió luồn qua khe trúc, có tòa ngồi bằng cỏ xanh, còn hơn cả quạt của Ưu-ba-ly, hơn cả trà của họ Đới. Vì đó là do làm ra mới có, còn đây chỉ là tự nhiên chân, điều đó thật sự hơn hẳn mà chẳng phải có ý khoa trương. Văn sau nói mầu sắc tạo thành bức họa, âm thanh phát ra từ tiếng tơ tiếng trúc cũng giống như thế, mây trắng ráng hồng vẽ trên thông xanh quế sẫm, thêu dệt xen lẫn tạo thành những đường nét với năm mầu sắc khiến cho bức tranh có mầu sắc rực rỡ của hội hoa. Vượn hú chương ngâm, ve ca ếch kêu, hòa nhau tạo thành âm thanh giống như nhạc Bát âm, trúc huyện Phiên Linh trở thành âm thanh dở. Chiêu Ẩn Thi của Tả Thái Xung ghi: "Chẳng phải chỉ có đàn và sáo trúc, mà núi sông cũng có âm thanh trong trẻo" Chương cũng thuộc loài nai. Về tám âm, Ngũ Kinh Thông Nghĩa ghi: "Vàng, đá, tơ, trúc, tiếng bầu, tiếng da, tiếng gỗ, tiếng đất", tiếng vàng là chuông, tiếng đá thuộc khánh, tiếng tơ là đàn, tiếng trúc là tiêu sáo, tiếng bầu thuộc sênh, tiếng đất thuộc vận, tiếng da thuộc trống, tiếng gỗ thuộc về chúc ngữ.
Thật là từ tự nhiên mà được, gió qua rừng trúc, cỏ tốt làm tòa, cảnh trí như bức tranh, âm thanh của vật loại như nhạc bát âm, đều là tự nhiên, nên gọi là cao trí.
Thanh thoát u nhàn, minh là u nhàn vắng vẻ, luân là người; cảnh tự nhiên này thật là thanh thoát vắng vẻ không người, đều trở về nơi ta. Hoặc gọi Luân là ẩn cư nơi núi rừng.
Nhưng vẫn v.v... trở xuống là nói về Tư duyên cần khổ, "Thì" tức là gieo trồng, cấy lúa để đủ ăn, nhặt củi để đun nấu.
"Ký nhiễm v.v..." trở xuống là đến khi bắt đầu soạn sớ, nói về việc khiêm nhường mà cảm thương chính mình. Gồm có hai phần:
* Cảm thương gặp nhiều hoạn nạn: Ký tức là chí (đến khi), từ lúc soạn xong tính đến lúc bắt đầu soạn là năm năm. Tức là niên hiệu Vũ Đức thứ nhất đời Đường Cao Tổ là năm Mậu Dần, soạn xong. Tùy Dạng Đế lên ngôi đổi niên hiệu là Đại Nghiệp, làm vua mười ba năm, năm thứ mười hai dời đến Giang Đông, cũng năm thứ mười ba Đường Tông khởi nghĩa đóng quân ở Thái nguyên, phá Tổng Lão Sinh ở Hoắc ấp, cầm chân địch ở tại chỗ, vào Trường An Tôn Dạng Đế làm Thái Thượng Hoàng, đưa Hựu là con của Thái tử Văn Đức, cháu của Dạng Đế lên ngôi lấy hiệu là Cung Đế, đổi tên nước là Nghĩa Ninh. Niên hiệu Nghĩa Ninh thứ hai nhường ngôi cho Đường Công, đổi tên nước là Vũ Đức. Đã nói trải qua năm năm, tức là biết niên hiệu Vũ Đức thứ nhất là soạn xong. Năm năm này sáu lần dời chỗ ở, đầu tiên ở phía nam Thiên Thai, thứ hai đến Ốc Châu, thứ ba Đến
Toại An, thứ tư đến Sách Thành, thứ năm lại về Toại An, thứ sáu ở An Châu, cùng với tám chướng đã gặp từ trước và năm nạn thành mười chín nạn duyên. Trong sáu lần sau, nếu kể thêm hai lần gặp hỏa hoạn và giặc cướp thì thành hai mươi mốt nạn. Năm nạn là Tăng sai, tranh luận, gặp nước dâng, bị vu cáo, và ngựa sụp băng; Tám chướng năm nạn thuộc về lý do xa để soạn sớ. Tìm sớ cũ là lý do gần, sáu lần sau thuộc về các chướng duyên trong lúc soạn sớ.
Hỏi: Tám việc trước là chướng, vì sao gọi là nhân duyên xa?.
Đáp: Vì không được nghe pháp cho nên tự soạn sớ, nếu có nghe thì sớ là do thầy giảng nói, đâu được cho là tự soạn sớ. Tám việc trước làm chướng ngại, khiến không được nghe pháp, sáu việc sau tuy gian khổ, nhưng rốt cuộc cũng thành tựu được sớ. Than ôi! Chánh pháp khó được nghe, chánh đạo khó hành trì, việc ấy thật như thế.
-"Can qua v.v..." trở xuống: Khổng An Quốc ghi: "Can là thuẫn, qua là kích". Luận Ngữ ghi: "Mưu dấy động can qua trong nước". "Rau rừng nước trong" là nói đời sống đạm bạc. "Băng làm giường, tuyết làm chăn" là nói về cái khổ chịu đựng giá rét. Những kẻ kia có đủ tăng tướng, đầu tròn áo vuông, ăn no mặc ấm, lại nghe được những lời di giáo, gặp được lúc đất nước thái bình, nhưng miệng chẳng bàn đến lời xuất thế, tâm chẳng nghĩ đến đạo chí chân, tự chịu tối tăm, trái lại còn xem nhẹ tông học, ta biết những kẻ đó sẽ vời lấy nghiệp ba đường, sớ chủ là bậc Thánh há chẳng buồn hay sao?
Mộng bỏ nghĩ ất, ất phải viết là nhất, lời tựa Chiêu Minh Văn Tuyển chép: "Tâm chánh trực đã phục hồi, lòng lo nghĩ chưa dứt". Nay cho rằng bị binh lửa làm kinh hoàng, bị chiến tranh làm sợ hãi, nhưng mộng kinh hãi đã hết, mà lo lắng vẫn còn. Từ ngữ đượm mùi hoang dã.
* Nói về việc tự khiêm mà nhắc đến bản hoài. Về Dã chất, Luận Ngữ ghi: "Chất thì hay, văn thì mộc mạc", ý nói văn từ thì thô sơ, ý nghĩa thì kém cõi. "Há hiểu văn ư"? Nghĩa là ý nghĩa lập ra rất cạn cợt, đâu thể khế hợp với lời văn viên đốn của kinh này, ở đây nói nghĩa thì tối, lời thì vụng, đều là lời tự khiêm.
"Có bờ dễ nguy khốn", Nhĩ Nhã ghi: "Trùng Nhai ngạn". Chú thích: "Hai bên vách đá gọi là ngạn". Đãi là nguy hiểm, nghĩa là nếu có thân thì chóng diệt như đất bên bờ dễ lở.
"Biển rộng khó cùng", rộng lớn như biển xanh, bao la thật khó cùng khắp, cho nên chẳng thể dùng thân dễ mất này mà thấu được nghĩa mầu khó cùng tận kia.
Như cái biết nghiêng lệch v.v... trở xuống như người mù sờ voi, như nằm mộng nói được đao, hoặc chỉ biết được một phần ý nghĩa mà dám cho là thông hiểu toàn bộ viên lý sao? "Chỉ vì v.v..." trở xuống là nói về ý soạn sớ. Đã nghiêng lệch vì sao lại soạn ra sớ, cho nên mới nói: "Chỉ vì không phụ bản hoài", nói bản hoài, đầu tiên vì muốn hiểu kinh này mà gần gũi Đại sư Trí Giả. Tức là đoạn ghi: "Tôi tuy không thông minh nhưng cũng mong nghe được chỉ thú này", do đó mà hành lý đến Thiên thai, tâm vui mừng được nghe yếu chỉ.
Vô thường như đập đá nháng lửa, Hoài Nam Tử ghi:
" Người sống trong trời đất này, như đập đá nháng lửa, như ánh chớp lóe qua khe cửa". Sớ chủ tự cho rằng vô thường chợt đến như tia lửa tóe ra do đập đá, không thể mãi nghiên cứu nghĩa kinh được, cho nên mới chóng mau hoàn thành lời sớ.
"Co duỗi v.v..." trở xuống là tự khen ngợi, câu đầu "Tìm kiếm quyển kinh thường trụ, là đều trả cho thân nghiệp", là nói về việc đi đây đó tìm kinh; câu hai là khen ngợi pháp môn Giải thoát, là đáp tạ cho khẩu nghiệp, khen ngợi việc soạn sớ, tức do tâm suy nghĩ mà miệng luận bàn, xưng dương.
"Thô vân Độc thảo": Thô là viết lầm, phải viết là Tiêu cổn tức là làm cỏ, vun xới lúa. Tả Truyện ghi: "Thí như người nông phu làm cỏ lúa và vun xới lúa". Nhưng câu: "Độc thảo dược vương" xuất hiện ở kinh này, phẩm Như Lai Tánh ghi: "Thí như ở núi Tuyết có nhiều loại cỏ thuốc mọc, nhưng cũng có nhiều cỏ độc, thân chúng sinh cũng giống như thế, tuy có bốn đại như rắn độc, nhưng trong đó cũng có thuốc hay, người thợ giỏi gọi là Phật tánh". Hoặc chấp chữ sai liền tìm hươu nai là duyên xới cỏ, thì đâu khác gì thấy ba con thú lội qua sông lại cho rằng heo đi trên mặt nước. Cao Tăng Truyện, ngài Đạo Phi bình luận về việc sa thải Tăng rằng: "Những vị Tăng thanh cao không muốn lộ cho người biết, còn những hạng Tăng xấu ác thì đi khắp nơi", như thế việc chánh là muốn dọn sạch cỏ mà e rằng cỏ và lan đều bị cắt bỏ, như việc gạn lọc vàng theo cát bùn mà trôi sạch, đoạn này dùng tiêu cổn mà nghĩa đồng với sớ. Nay sớ chỉ bác bỏ nghĩa sai lầm của các vị sư, giống như việc cày bỏ cỏ độc, mà hiển bày chánh lý Phật tánh như chăm bón thuốc hay. Cho nên đoạn văn trước ghi: "Dùng sớ nghiệm kinh thì sớ không hợp văn kinh, nên trong tâm suốt ngày buồn bực, như bị bệnh". Càng bọ ngựa, ánh sáng đom đóm, loài bọ ngựa tánh hay tức giận, mỗi lần gặp vật gì thì giương hai càng để chống cự. Trang Tử nói: "Bọ ngựa nổi giận giương càng, chống chọi lại với xe, đâu tránh khỏi bị bánh xe nghiền nát". Văn Tuyển ghi: "Muốn dùng búa bọ ngựa mà chặn đoàn xe lớn"? Chú thích "Hai chân trước của bọ ngựa đưa lên giống như hai cây búa". Thôi Báo Cổ Kim Chú ghi: "Lửa đom đóm còn gọi là Huy dạ, cảnh thiên, tập tập, lân, đơn lương, đơn ô, dạ quang, tiêu chúc, đều chẳng thể chống cự với xe, sánh với mặt trời, Quảng Nhã ghi: "Mặt trời còn gọi là Diệu linh", nghĩa là bọ ngựa không thể chống cự với xe, ánh sáng đom đóm đâu thể sánh bằng mặt trời. Đây là sớ chủ tự khiêm nhường cho rằng kiến giải của mình thấp kém, không thể sánh bằng các Đại sư.
Sự tích về bậc Thánh Tổ Tông ta vì chí cầu pháp mà chịu nhiều gian khổ, đều ghi trong bản văn này. Người truyền tông này chẳng suy nghĩ đến hay sao? Kinh Thi ghi: "Chặt cây, chặt cây, điều đó chẳng xa, chẳng lẽ không gắng sức hay sao?" Hoặc cuối quyển sớ có nửa trang phê bình, đó lá do người sau lầm chép vào.