TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ KINH SỚ

SỐ 1775 - CHÚ GIẢI KINH DUY-MA-CẬT

Đời Hậu Tần, Ngài Tăng Triệu, Trung Quốc.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: PHẬT QUỐC

QUYỂN 2

Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN

Phẩm 3: ĐỆ TỬ

QUYỂN 3

QUYỂN 4

Phẩm 4: BỒ TÁT

QUYỂN 5

Phẩm 5: VĂN THÙ SƯ LỢI VẤN TẬT

QUYỂN 6

Phẩm 6: BẤT TƯ NGHỊ

Phẩm 7: QUÁN CHÚNG SANH

QUYỂN 7

Phẩm 8: PHẬT ĐẠO

QUYỂN 8

Phẩm 9: NHẬP PHÁP MÔN BẤT NHỊ

Phẩm 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH

QUYỂN 9

Phẩm 11: BỒ TÁT HẠNH

Phẩm 12: PHẬT A-SÚC

QUYỂN 10

Phẩm 13: PHÁP CÚNG DƯỜNG

Phẩm 14: CHÚC LỤY

LỜI TỰA SAU KHI KHẮC LẠI BẢN KINH DUY MA

 


QUYỂN 1

TỰA

Duy-ma-cật Bất Tư Nghị kinh là một danh xưng tuyệt diệu, cùng tận u huyền; chỉ thú rất sâu xa, lời nói hay hình tượng chẳng thể đạt được; đạo vượt ra ngoài ba không, chẳng phải là điều mà hàng Nhị thừa có thể suy nghĩ. Vì thế, vượt trên sự biểu thị của số lượng, dứt bặt cảnh giới của hữu tâm. Mù mịt không làm mà không gì chẳng làm; chẳng biết vì sao như thế mà luôn như thế, đó là Bất tư nghị vậy. Thế thì, Thánh trí đã tri tư mà chiếu soi cả vạn loài, pháp thân chẳng có hình mà ứng hiện đầy đủ các hình thể; lại âm vận cùng tột thì không lời mà kinh tạng đầy khắp; quyền trí thầm kín đã chẳng tính lường mà khi phát động thì hợp với sự. Cho nên có thể cứu độ khắp tất cả, khai ngộ cho chúng sinh để thành tựu mong cầu; thế thì, lợi lạc khắp thiên hạ mà đối với ngã thật là vô vi. Nhưng người mê thấy cảm ứng chiếu soi liền cho là trí, quán sát thấy ứng hiện các hình thì liền cho là thân, thấy kinh sách vi diệu thì cho là có lời, thấy biến động thì liền cho là quyền. Phàm chỗ cùng tột của đạo há có thể dùng thân hình, ngôn ngữ, quyền biến, trí tuệ mà luận đến cảnh giới rốt ráo linh diệu đó ư? Nhưng chúng sinh mê ngủ trong đêm dài nếu không có lời thì chẳng tỉnh thức, còn đạo thì chẳng tự mình chuyển vận mà phải có người truyền. Vì thế, Như Lai khiến ngài Văn-thù ở phương kia, bảo ông Duy-ma ở cõi nọ, tất cả đều nhóm họp đến Tỳ-da để mở mang đạo lớn này. Kinh này nói rõ, nếu thống nhiếp vạn hạnh thì dùng quyền trí làm chủ, dựng lập gốc đức thì lấy sáu Độ làm gốc, cứu độ quần mê thì dùng Từ bi làm đầu, luận về Tông chỉ thì lấy bất nhị làm môn. Phàm những điều đại chúng nói đều là Bản bất tư nghị, còn như việc mượn tòa Đăng vương, xin cơm Hương tích, tay tiếp cõi đại thiên, trượng thất dung chứa vạn tượng, đều là Tích bất tư nghị. Nhưng cửa huyền thì khó mở, Thánh ứng thì chẳng đồng, nếu chẳng có bản thì không biết lấy gì để thùy tích, nếu chẳng có tích thì chẳng biết lấy gì để hiển bản. Bản tích tuy khác mà bất tư nghị chỉ là một, cho nên mới bảo thị giả lấy đó đặt tên kinh.

Vua nước Đại Tần là bậc thông tuệ siêu thế, linh tâm khai ngộ, hoằng thế pháp trên cả vạn cơ, xiển dương đạo mầu mãi về sau muôn thuở; ông thường xem đọc kinh này, cho rằng đó là ngôi nhà để an tâm, nhưng hận vì bản dịch của Chi Khiêm thì lý trệ ngại nơi văn, mà sợ rằng huyền tông mất nơi người dịch. May thay vận của trời Bắc vẫn hành thông, nên vào niên hiệu Hoằng Thỉ thứ tám, năm Bính Ngọ (406), Vua ban chiếu ra lệnh cho đại tướng quân Thường Sơn công, hữu tướng quân An

Thành Hầu cùng với một ngàn hai trăm vị Sa-môn nghĩa học đến Đại tự ở Trường an thỉnh ngài La-thập dịch lại bản chánh. Ngài La-thập là bậc siêu xuất thế tục, tâm đã thầm hợp chân cảnh, trong đời không ai bằng, mà lại giỏi phương ngôn; tay cầm bản tiếng Phạm, miệng dịch thành Hán văn, hàng đạo tục đều kính thành, chỉ một lời mà suy xét kỹ; luyện lọc những điều tinh yếu, mong cầu giữ được ý của Thế Tôn. Do đó văn từ gọn mà đạt, chỉ thú hợp mà rõ. Những lời cao xa vi diệu đều hiển bày ở đây. Tôi bấy giờ, trí tuệ cạn hẹp, chỉ được dự nghe, tuy dùng suy nghĩ thô thiển để tham cứu huyền tông nhưng cũng tạm đạt được văn ý, rồi thuận theo những điều đã nghe được mà chú giải, lược chép thành văn; như thế chỉ là thuật lại mà chẳng phải tự soạn, ngõ hầu trình ra cho các bậc Tri thức nhiều thời cùng được nghe biết.

GIẢI ĐỀ: Kinh Duy-ma-cật Sở Thuyết Ngài La-thập nói:

- Duy-ma-cật, nhà Tần dịch là Tịnh Danh, là một trong năm trăm đồng tử, từ cõi Diệu hỷ du hóa đến cõi này, việc ứng hóa đã xong, sắp trở về bản độ, muốn nhân đây mà hiển bày thần đức để nhuần thấm quần sinh. Nhưng khi hiển tích để khai ngộ thì phải có nguyên do, nên mới bảo các đồng học đến trụ xứ của Phật, còn mình thì chẳng đến, vì một mình ông chẳng đến, nên biết có bệnh. Vì sao? Vì năm trăm bạn đồng học cùng tôn phụng Đại thừa, đến như tiến đức tu thiện, động tĩnh đều gồm đủ, khiến cho hội Tịnh quốc tập nghiệp những người Đại thừa, mà lại chẳng đồng đến, thế thì biết rõ ông Duy-ma có bệnh. Vì có bệnh cho nên có hội Vấn tật, hội Vấn tật là do có hội Tịnh quốc, hội Tịnh quốc là do ông Tịnh Danh phương tiện lập ra. Thế thì kinh này trước sau đều có nguyên do vậy. Nếu căn cứ thuyết mà xét thì các Thánh đều có công, nếu từ bản mà luận thì công đều ở nơi ngài Tịnh Danh. Vốn từ nguyên do đó, cho nên gọi là Duy-ma-cật Sở Thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Duy-ma-cật, Tần dịch là Tịnh Danh, là pháp thân Đại sĩ. Đạo quyền hóa của ông thật vô cùng, ẩn hiển đều không dấu tích; bỏ cõi Diệu hỷ kia mà hiện đến cõi Kham nhẫn này, để hòa quang đồng trần mà khai thông đạo giáo. Ngài thường cùng với Bản Tích du hóa, làm bạn lữ pháp thành. Nay duyên giáo hóa đã hết, sắp trở về cõi Diệu hỷ, cho nên mới hiển hiện thần đức để hoằng đạo chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Do ông bảo chỉ một Bảo Tích đến lễ Như Lai, còn riêng mình ở lại, thị hiện có bệnh; vì thế mà phát sinh nguyên do thăm bệnh, kiến lập đầu mối vô ngôn. Vì những lời vi diệu được diễn xướng từ ông Duy-ma, nên nói là Duy-ma Sở Thuyết.

Ngài Trúc Đạo Sinh nói:

- Duy-ma-cật, Hán dịch là Vô cấu xưng; Ngài đã ấn tích nơi năm dục mà siêu nhiên chẳng nhiễm, danh tiếng vang xa, cho nên có hiệu như thế. Người thích danh mà cầu thật thì tôn trọng lời nói của ông ấy; lời vốn là để hiển lý chân thật; nếu tôn trọng thì cuối cùng sẽ đạt được điều mong cầu nhân đó mà gần gũi lời bậc Thánh cao xa.

Chánh văn: Kinh

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh tức là thường, xưa nay tuy khác, nhưng đạo giác ngộ chẳng thay đổi, các tà giáo chẳng thể làm ngăn ngại, bậc Thánh chẳng thể làm cho biến dị nên gọi là thường.

Chánh văn: Tên gọi khác là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát.

Ngài La-thập nói:

- Cũng gọi là Tam-muội, cũng gọi là Thần túc. Hoặc dài ngắn biến đổi, hoặc lớn nhỏ tương dung, biến hóa tùy ý; tự tại vô ngại đối với tất cả các pháp nên gọi là giải thoát. Bậc Năng nhân thì có khả năng, nhưng chúng sinh chẳng biết nguyên nhân, cho nên gọi là Bất tư nghị; cũng có thể nói pháp thân Đại sĩ hễ nghĩ đến thì tùy ứng, chẳng phải nhập thiền định rồi sau mới có khả năng như thế. Tâm được tự tại, chẳng bị sự bất năng trói buộc, cho nên gọi là giải thoát. Nếu nói thẳng vào pháp Không, thì trái với lẽ thường không biết lấy gì để làm tin, cho nên mới hiện cảnh vật tùy tâm biến, hầu nêu lên vật không có định tánh. Vật đã không có định tánh, thì tánh đó hư giả. Bồ-tát đạt được không định tánh đó, cho nên có thể khiến cho vật tùy tâm mà biến chuyển, thế thì Bất tư nghị là minh chứng của Không vậy. Vì lấy đó để hiển chỉ thú, cho nên đặt làm tên kinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vi diệu sâu xa, hàng Nhị thừa chẳng thể lường, là Bất tư nghị; tự tại vô ngại, trần lụy chẳng thể câu thúc, gọi là giải thoát. Kinh này, đầu tiên từ phẩm Tịnh Độ cuối cùng là pháp dưỡng, trong đó những điều được đề cập đến tuy khác, nhưng Bất tư nghị giải thoát chỉ là một, cho nên lấy đó làm tên. Trên là lấy tên người để đặt tên kinh, đây thì theo pháp để đặt tên kinh. Dùng pháp làm tên kinh để nêu rõ chỉ thú, dùng người làm tên kinh để nhân nơi người mà hoằng đạo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói vô cấu, hoặc là để dứt ngăn hình tích, còn tâm thì k hẳn như thế, nên lại nói thêm là giải thoát. Lại còn một tên khác là Bất tư nghị, gồm hai nghĩa:

1. Lý không thì chẳng phải là nơi mà hoặc tình có thể mong đến.

2. Thần kỳ thì chẳng phải là cảnh giới mà hàng hiểu biết cạn cợt thấu suốt được.

Nếu thể hội được lý không thì lìa khỏi cái hoặc tư nghị. Lìa được hoặc thì việc làm khó có thể suy lường. Ông Duy-ma-cật, hôm nay động tĩnh đều thần kỳ, ắt là lìa các hoặc, thoát khỏi các hoặc là do thể hội được không, thuyết không là chỗ thể hội kia, cho nên danh xưng là vô cấu đáng tin mà có chứng cứ, danh xưng mà có chứng cứ thì tâm mong cầu càng cùng tột, mong cầu cùng tột thì lo gì chẳng ngộ?

-------------------------

Phẩm 1: PHẬT QUỐC

Ngài La-thập nói:

- Từ đầu đến cuối, kinh này đều do nơi Tịnh quốc, cho nên phẩm Phật Quốc được đặt trên các phẩm khác.

Chánh văn: Như thị (như vậy)

Ngài Tăng Triệu nói: Như thị là lời tin thuận. Phàm có tin thì lý được trình bày mới thuận, thuận thì đạo thầy trò mới thành Kinh không có nơi y cứ, không tin thì chẳng thể lưu truyền, vì thế lập lời Như thị. Chánh văn: Ngã văn (tôi nghe) Ngài La-thập nói:

- Nếu chẳng nói là nghe, thì tự ta có pháp, ta đã có pháp thì tình thức có chỗ chấp trước, tình thức đã có chỗ chấp trước thì tranh loạn ắt khởi. Nếu nói ta nghe, thì ta không có pháp nên không có chỗ để chấp trước, được mất thị phi trở về nơi nghe, thế thì ta đã không chấp, người không giành, không chấp không giành, thì tranh làm sao mà sinh được? Vả lại ái có hai loại:

1. Ngũ dục ái.

2. Pháp ái.

Hàng ngoại đạo xuất gia thì thường đoạn dục ái mà chẳng đoạn pháp ái, cho nên tình thức có chỗ chấp trước; còn đệ tử Phật thì đoạn trừ cả hai ái, pháp ái đã dứt thì chấp trước tranh cạnh đều trừ. Đầu một bộ kinh có ghi từ "Tôi nghe", tức bao hàm ý này vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người kết tập kinh nêu rõ là chính mình thọ nhận yếu chỉ từ bậc Thánh, chẳng có sự lầm lẫn của việc truyền nghe.

Chánh văn: Nhất thời (một thời) Ngài La-thập nói:

- Đó là thời gian thuyết kinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là thời gian Đấng Pháp Vương bắt đầu vận chuyển pháp luân đại chúng hoan hỷ tập hội.

Chánh văn: Đức Phật trụ nơi thành Tỳ-da-ly Ngài La-thập nói:

- Đó là nơi Phật an trụ. Tỳ nghĩa là nơi thích nghi cho ruộng lúa, Da-ly là Quảng nghiêm. Đất đai ở đây bằng phẳng, rộng rãi và trang nghiêm nên gọi như thế.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tỳ-da-ly là tên một nước, Hán dịch là Quảng nghiêm. Vì đất đai ở đây bằng phẳng rộng rãi và trang nghiêm nên đặt tên như thế. Chánh văn: Vườn Am-la thọ Ngài La-thập nói:

- Quả của cây Am-la giống như quả đào mà chẳng phải đào.

Ngài Tăng Triệu ghi: Am-la là tên một loài cây, quả của nó giống quả đào mà chẳng phải đào. Trước kia nói là Nại thị, sự việc như đã nói ở kinh khác.

Chánh văn: Cùng với tám ngàn vị đại Tỳ-kheo dự hội

Ngài Tăng Triệu ghi: Tỳ-kheo, Hán dịch là Tịnh khất thực, hoặc dịch là phá phiền não, hoặc là năng trì giới, hoặc là năng bố ma; một từ của Ấn Độ mà gồm bốn nghĩa trên, Trung Quốc không có từ ngữ nào thích hợp để phiên dịch, nên vẫn giữ nguyên danh nghĩa. Có bản khác ghi là Tám ngàn đại Tỳ-kheo Tăng đều dự hội.

Ngài La-thập nói:

-Đây là những người đồng nghe kinh. Nêu thời gian, xứ sở và người nghe để chứng minh cho những điều đã được nghe. Ma-ha, Hán dịch là Đại, đa, thắng. Là hơn hết trong tất cả chúng, được trời người tôn kính, nên nói là đại. Có khả năng chiến thắng chín mươi sáu loại luận nghị, nên gọi là thắng; có số lượng đến tám ngàn vị, nên nói là đa.

Tỳ-kheo, Hán dịch là Phá phiền não, hoặc dịch là Khất sĩ. Vì trừ bỏ năm loại tà mạng, nuôi lớn Pháp thân, nên nói là Khất sĩ. Tỳ-kheo và Bồ-tát chẳng tính chung, là vì Tỳ-kheo đều thuộc nhục thân, Bồ-tát phần nhiều thuộc pháp thân, tức thân khác nhau. Nếu Bồ-tát nhục thân thì chưa chứng chánh vị, tức là tâm khác nhau. Vì hai nhân duyên đó, cho nên chẳng kể chung Tỳ-kheo và Bồ-tát. Sở dĩ trước nêu La-hán, sau kể Bồ-tát vì người đời thường cho Bồ-tát chưa tận trừ các lậu, trí tuệ chưa viên mãn, còn La-hán thì ba lậu đã trừ, trí tuệ đã thành tựu; tùy theo nhân tình suy nghiệm mà đặt trước kể sau. Chánh văn: Ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát

Ngài Tăng Triệu ghi: Bồ-tát gọi đủ là Bồ-đề Tát-đỏa. Bồ-đề là Phật đạo; Tát-đỏa, Hán dịch là Đại tâm chúng sinh. Người có tâm Đại thừa mà vào Phật đạo thì gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, không có từ chánh thức để phiên dịch. Bản khác ghi: "Ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát đã được đại thần thông".

Ngài La-thập ghi: Đại sĩ gồm có ba vị là Đại sĩ xuất gia, tại gia, từ phương khác đến. Vả lại bậc thứ nhất thì có thân kết nghiệp, thứ hai thì thuộc pháp thân, trong đó Bồ-tát phần nhiều là pháp thân Đại sĩ, nhưng thân hình ứng cảm đó lại đồng với chúng sinh, nên chúng sinh cảm cho rằng giống với chỗ thấy của mình, mà sinh ý tưởng là thấp kém. Cho nên trước nêu số lớn, sau đó mới nói về đức. Bản Phạm ghi: "Bản sự của trí tuệ thần thông đã làm xong". Các pháp sáu Độ là nhân của Thần thông trí tuệ, nhân đó tức là bản sự.

Chánh văn: Mọi người đều quen biết Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Đại sĩ sống ở thế gian như mặt trời mặt trăng trên hư không, người có mắt sáng ai mà chẳng nhận biết? Bản khác ghi: "Được đại chúng kính ngưỡng".

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi là "Nhiều người quen, nhiều người biết", vì hiển đức hợp thời cơ cho nên mọi người đều quen biết. Mọi người đều quen biết, nên có nhiều người kính ngưỡng. Nghĩa này thì rõ hơn.

Chánh văn: Bản hạnh của đại trí đều đã thành tựu.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đại trí tức Nhất thiết chủng trí, trí này lấy các hạnh sáu Độ, sáu Thông làm gốc. Các Đại sĩ đã đầy đủ bản hạnh này.

Chánh văn: Được oai thần của chư Phật kiến lập.

Ngài La-thập nói:

- Được oai thần của Phật kiến lập tức là được chư Phật hộ niệm, được chư Phật hộ niệm thì không có gì có thể ngăn trở phá hoại. Giống như cá con được cá mẹ nhớ nghĩ đến thì sẽ tồn tại.

Ngài Tăng Triệu ghi: Trời vô tư ban mưa móc, nhưng chẳng nhuận thấm cây khô, oai thần của Phật cùng khắp nhưng chẳng kiến lập cho kẻ vô căn. Người được kiến lập thì đạo ắt phải sâu.

Chánh văn: Bảo hộ thành pháp, thọ trì chánh pháp.

Ngài La-thập nói:

- Thành pháp tức là pháp thật tướng làm cho chúng sinh chẳng khởi dị kiến, nên gọi là hộ. Vả lại, tất cả các kinh pháp đều gọi là thành pháp. Giữ gìn, diễn nói chớ làm cho hoại diệt. Người có khả năng giữ gìn chánh pháp cũng bảo hộ pháp thành.

Ngài Tăng Triệu ghi: Bên ngoài làm bức thành hộ pháp, bên trong kiên cố thọ trì.

Chánh văn: Thường rống tiếng rống sư tử (Sư tử hống)

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sư tử hống là âm thanh vô úy. Phàm nói ra đều không sợ sệt các tà giáo, dị học; giống như tiếng rống sư tử chẳng sợ các thú nhỏ yếu hơn.

Sư tử hống là khéo diễn nói các pháp.

Chánh văn: Danh tiếng vang xa khắp mười phương. Ngài La-thập nói:

- Trên nói nhiều người quen biết tức là hiện tích ở một phương, thuần giáo hóa ở một cõi nước, chúng sinh đều thấm nhuần ân huệ ấy, lại quen biết được người. Nay nói danh tiếng vang xa mười phương, tức là đạo phong vang xa khiến người nghe tên.

Ngài Tăng Triệu ghi: Hạnh thì khắp cả thiên hạ, danh thì không đâu chẳng vang.

Chánh văn: Làm người bạn chẳng mời mà đến an ủi họ.

Ngài La-thập nói:

- Lợi ích có hai loại: Như đời này, đời sau, chúng sinh dùng lợi giao du, cố mời thỉnh sau đó mới đến, còn bậc Thánh thì do tâm từ mà ứng, cho nên chẳng cầu mà đến, đến ắt là thân thiết, thân thiết thì phải hộ trì, cho nên nói là người bạn chẳng mời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người bạn chân thật thì chẳng cần mời thỉnh, như mẹ hiền đến với con ngoan.

Chánh văn: Làm hưng thịnh Tam bảo, chẳng thể đoạn đứt.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tiếp nối Phật chủng thì Tam bảo hưng thịnh.

Bản khác ghi: "Hưng long Tam bảo, khiến chẳng đoạn tuyệt".

Ngài La-thập nói:

- Chẳng phải việc hiển rõ Tam bảo, diễn nói kinh pháp mà đó là nói đến việc tích tập căn lành, gom chứa công đức, dẫn đến thành Phật. Thành Phật thì có pháp, có pháp thì có Tăng, công đức chẳng tuyệt đứt là việc ở kiếp vị lai, còn ở đây nói chẳng tuyệt thì ắt là năng hữu. Vả lại, trong đó có tự hành và hóa tha, ta đã giáo hóa người, người lại hóa độ người khác, ta và chúng sinh đều thành tựu, Tam bảo càng hưng long. Vì chúng sinh vô tận nên Tam bảo cũng chẳng đoạn đứt.

Chánh văn: Hàng phục ma oán, chế ngự ngoại đạo.

Ngài La-thập nói:

- Ma tức bốn ma. Được Vô sinh nhẫn, phiền não vĩnh viễn đoạn đứt, nên hàng phục được ma năm dục. Được pháp thân thì chẳng chịu sinh thân, nên hàng phục được ma thân. Không có thân thì không có tử, nên hàng phục được ma tử. Không có ba loại ma này thì Ba-tuần chẳng thuận tiện thừa cơ, nên hàng phục được thiên ma. Còn việc chế phục ngoại đạo thì như việc sai Xá-lợi-phất luận với ngoại đạo, trải qua bảy ngày đêm mới thắng được; đây là ví dụ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma tức bốn ma; ngoại đạo tức chín mươi sáu phái ngoại đạo.

Chánh văn: Đều đã thanh tịnh, vĩnh viễn xa lìa cái và triền.

Ngài La-thập nói:

- Lìa Cái và Triền có ba nghĩa:

1. Trì giới thanh tịnh thì Cái và Triền chẳng khởi.

2. Đoạn trừ đạo thế tục, nhưng đoạn mà chưa tận dứt, làm cho nó chẳng khởi, cũng gọi là xa lìa.

Ở đây nói được Vô sinh pháp nhẫn, diệt hết Cái và Triền, tức là lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cái tức Năm cái, triền tức Mười triền, cũng có vô lượng triền.

Thân, khẩu, ý, ba nghiệp đều thanh tịnh, thì Triền và Cái chẳng thể trói buộc được.

Chánh văn: Tâm thường an trụ, vô ngại giải thoát.

Ngài La-thập nói:

- Cũng giống như nói bất tư nghị giải thoát. Đối với sự vô ngại, vì vô ngại nên giải thoát, hoặc là một việc cho đến trăm ngàn việc, một nước cho đến hằng sa cõi nước, trong đó thảy đều thông đạt, tự tại vô ngại; nhưng chưa được tất cả đều vô ngại như Đức Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giải thoát này là sở đắc của Bồ-tát trụ Địa thứ bảy. Được giải thoát này thông đạt vô ngại đối với các pháp, nên tâm thường an trụ.

Chánh văn: Niệm, định, tổng trì, biện tài vô ngại.

Ngài Tăng Triệu ghi: Niệm tức chánh niệm, định là chánh định, tổng trì tức giữ điều thiện chẳng mất, khiến điều ác chẳng sinh. Không để quên sót gọi là trì. Trì có hai loại là hữu tâm tương ưng và bất tương ưng trì. Biện tài tức bảy biện tài. Bốn pháp kể trên là pháp cần yếu của bậc Đại sĩ, cho nên mãi mãi chẳng đoạn. Bản khác ghi: "Niệm ấy chẳng vĩnh viễn đoạn, cho đến thành tựu biện tài".

Ngài La-thập nói:

- Niệm tức là niệm đạo Vô thượng, chẳng đoạn, tức trong đó chẳng đoạn đứt. Nghĩa chẳng đoạn chung cho cả ba pháp sau. Bồ-tát được bốn pháp này, thâm nhập kiên cố thì thân chẳng mất, trải qua vô lượng kiếp càng thêm sáng tỏ, cho nên nói chẳng đoạn.

Chánh văn: Đầy đủ các hạnh Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ và lực Phương tiện.

Ngài La-thập nói:

- Trên nói niệm đạo chẳng đoạn, niệm đạo chẳng đoạn, nhưng sau phải hành sáu Độ, đầy đủ thì việc của mình mới xong, việc mình đã xong thì dùng phương tiện độ người, độ người rộng khắp chẳng có gì bằng thần thông, thần thông đã đủ mới giáo hóa chúng sinh. Thứ tự như thế, như trong phẩm Tịnh Quốc sau sẽ nói.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đầy đủ nghĩa là hạnh vô tướng. Trụ thứ bảy trở lên, tâm trí vắng lặng; vì tâm vô vi nên không đức nào không làm, vì thế bố thí thì cùng tột việc bố thí mà chưa từng có bố thí. Trì giới thì rốt ráo trì giới mà chưa từng trì giới. Bảy đức, công khác nhau mà tướng chẳng khác, nên gọi là đầy đủ. Phương tiện tức là dụng riêng của trí. Trí dùng để thông thấu chỗ sâu xa, đạt cùng chỗ vi diệu và quyết định pháp tướng; không biết mà không gì chẳng biết gọi đó là trí. Tuy đạt được pháp tướng mà chẳng chứng, ở nơi hữu mà chẳng mất vô, tại vô mà chẳng bỏ hữu, hợp với không mà lại giữ các đức, mỗi mỗi đều bình đẳng, cho nên gọi là phương tiện.

Chánh văn: Đạt đến độ vô sở đắc mà chẳng khởi pháp nhẫn. Ngài La-thập nói:

- Từ lúc có biết đến nay, chưa từng thấy pháp, mà nay mới được tin nhận. Nhẫn chịu chẳng sợ sệt, an trụ chẳng động nên gọi là nhẫn.

Ngài Tăng Triệu ghi: Nhẫn tức tuệ vô sinh. Vì hay kham nhận thật tướng, nên lấy nhẫn làm tên. Đạt được nhẫn này, thì đối với các pháp không giữ không được, tâm tướng vĩnh viễn diệt. Vì thế nói là đạt được vô sở đắc mà chẳng khởi pháp nhẫn.

Chánh văn: Đã có thể tùy thuận chuyển pháp luân bất thoái. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo vô sinh không có được mà lại có mất, tức bất thoái. Lưu thông cùng khắp không bị bó buộc bởi một người gọi là luân. Chư Phật đã chuyển luân này, thì các bậc Đại sĩ cũng tùy thuận mà chuyển. Bản khác ghi: "Chuyển pháp luân bất thoái chuyển".

Ngài La-thập ghi: Pháp luân tức vô sinh nhẫn, vì dùng luân mà trao cho chúng sinh, chúng sinh được luân này, nên gọi là chuyển. Người nhận được thì chẳng thể mất nên gọi là bất thoái chuyển. Tự điều khiển di chuyển tiến lên, cũng gọi là chuyển.

Chánh văn: Khéo hiểu pháp tướng, biết căn cơ của chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các tướng trạng khác nhau của tất cả pháp đều hiểu rõ; căn tánh khác nhau của tất cả chúng sinh biết thấu.

Chánh văn: Phủ trùm các đại chúng.

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi: "Chúng chẳng thể che mờ được". Chúng chẳng thể che mờ là nói các vị ấy siêu xuất. Nay nói phủ trùm đại chúng thì nghĩa cũng giống nhau.

Chánh văn: Được vô sở úy.

Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát có bốn Vô úy, chẳng phải lực vô úy của Phật. Sợ hãi sinh là do chẳng đủ, nay đã đầy đủ, cho nên chẳng sợ hãi. Hay thuyết mà chẳng thể hành cũng sinh sợ hãi. Thường thuyết và hành đều có, cho nên không sợ hãi (vô úy). Luôn thuyết luôn hành gọi là pháp tượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát có riêng bốn Vô úy:

1. Được văn thì tổng trì.

2. Biết căn khí chúng sinh.

Không thấy có người có khả năng vấn nạn mình mà mình không thể đáp.

3. Tùy hỏi mà đáp, khéo giải quyết các điều nghi ngờ.

Vì có bốn đức này ánh sáng che phủ các chúng. Chín mươi sáu phái ngoại đạo, mỗi mỗi đều có bộ chúng, nên gọi là các chúng.

Chánh văn: Dùng công đức trí tuệ để tu tâm, dùng tướng tốt và vẻ đẹp trang nghiêm thân, sắc tượng bậc nhất.

Ngài La-thập nói:

- Đầy đủ các đức này, cho nên đạt được sự không sợ hãi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm thì dùng trí đức để trang nghiêm, hình thì dùng tướng quý để phục sức. Nghiêm tâm để tiến đạo, nghiêm thân để khác tục.

Chánh văn: Xa lìa tất cả những phục sức thế gian. Ngài La-thập nói:

- Đầy đủ các sắc tướng anh lạc và vẻ đẹp trang nghiêm, nên không cần các vật trang sức bên ngoài.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì những người tôn kính hình thể mà hiển thị tướng quý và vẻ đẹp nghiêm thân, há có thể dùng vật thế tục mà nghiêm sức nơi tâm ư?

Chánh văn: Danh tiếng vang cao xa, vượt trên núi Tu-di. Ngài Tăng Triệu nói:

- Có người danh cao mà chẳng xa, xa mà chẳng cao. Trước nói mười phương đều nghe là nói xa, ở đây nói vượt trên cả núi Tu-di là nói cao. Cao tức là vượt hơn.

Chánh văn: Lòng tin sâu xa kiên cố, như kim cang.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát trụ Địa thứ bảy trở lên đạt được tín tâm vô sinh, nên chẳng thể hủy hoại.

Chánh văn: Dùng pháp bảo chiếu khắp nơi, rưới mưa cam lộ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ánh sáng của Pháp bảo luôn chiếu soi tất cả những ngu si tăm tối. Rưới mưa làm nhuần thấm tất cả sinh tử. Giống như biển có châu báu luôn phóng ánh sáng trừ diệt tối tăm; cũng nhân nơi ánh sáng mà có thể mưa cam lộ nhuần thấm cây khô.

Chánh văn: Âm thanh vi diệu bậc nhất.

Ngài Tăng Triệu ghi: Khác loài thì khác âm thanh, lời nói âm thanh đã hay mà còn thù thắng siêu việt.

Chánh văn: Thâm nhập duyên khởi, đoạn các tà kiến nhị biên có không, không còn các tập khí tàn dư.

Ngài Tăng Triệu ghi: Thâm nhập tức là trí giải ngộ sâu xa. Nếu biết pháp từ duyên khởi thì tà kiến không do đâu để sinh. Còn hai kiến có, không là chúng sinh nhiều hoặc, bậc Đại sĩ đã diệt hết từ lâu, cho nên không còn tập khí tàn dư.

Chánh văn: Diễn nói các pháp không sợ sệt như Sư tử hống.

Ngài La-Thập nói:

- Trên là nói tất cả thời không sợ hãi, ở đây nói thuyết pháp không sợ hãi. Trên nói sư tử hống là nói về đức âm chấn động xa, ở đây là nói về pháp thật tướng có thể thuyết được tất cả đại chúng kính thuận, giống như tiếng rống sư tử, có oai lực làm cho các thú kinh sợ.

Chánh văn: Âm thanh giảng nói như tiếng sấm.

Ngài La-thập nói:

- Chánh trí lưu xuất nhuần thấm như trời mưa. Âm thanh biện thuyết phát ra như tiếng sấm. Người có tuệ thì không có âm thanh luận biện, hoặc có âm thanh luận biện mà không có tuệ. Đã nói không sợ sệt lại nói về tiếng sấm là nói có đủ âm thanh luận biện và tuệ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp âm chấn động vang xa để khai ngộ cho những kẻ mê mờ.

Giống như tiếng sấm mùa xuân phát động thì cây cối nảy mầm.

Chánh văn: Vô lượng, hữu lượng đã quá hạn lượng.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đã được Pháp thân, nhập vào cảnh giới vô vi, tâm chẳng thể dùng trí mà cầu, thân chẳng thể dùng hình tượng mà chấp giữ, cho nên nói là vô lượng. Trụ Địa thứ sáu trở xuống gọi là hữu lượng.

Chánh văn: Gom nhóm các pháp bảo, như người thầy dẫn đường trên biển.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dẫn dắt chúng sinh vào biển Đại thừa để lấy Pháp bảo, khiến cho tất cả không bị hiểm nạn, giống như người thầy trên biển, khéo dẫn dắt các khách buôn, tất cả đều thấy ánh sáng.

Chánh văn: Liễu đạt nghĩa thâm diệu của pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghĩa thâm diệu tức thật nghĩa.

Chánh văn: Biết rõ những nơi qua lại và tâm hành của chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Qua lại trong sáu đường, các tâm hành thiện ác, các ngài đều biết rõ.

Chánh văn: Gần đạt đến Bậc Phật Vô Đẳng Đẳng, đầy đủ các tuệ tự tại như thần lực Vô úy mười tám, pháp Bất cộng.

Ngài La-thập nói:

- Trí tuệ của Phật không có ai sánh bằng, mà chỉ có Phật mới bằng; lại nữa, pháp thật tướng không có gì so sánh bằng, chỉ có Phật mới bằng. Bồ-tát gần đến nhưng chưa đạt, nên nói là gần.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phật đạo siêu tuyệt chẳng có ai sánh được, chỉ có Phật và Phật tự bằng nhau, cho nên nói Vô đẳng đẳng. Sở dĩ luận về đẳng là để nêu lý của Đệ nhất đại đạo không đâu chẳng cùng tột, bình đẳng như hư không, há có lên xuống ư? Tự tại tuệ tức là các việc như mười Lực, bốn Vô úy, mười tám Bất cộng. Bậc Đại sĩ tuy chưa hoàn toàn như trí tuệ Phật, mà chỉ gần đạt đến thôi.

Chánh văn: Đóng bít tất cả các cửa của ác thú mà hiện thân sinh vào năm đường.

Ngài Tăng Triệu ghi: Pháp thân chẳng sinh mà không đâu chẳng sinh, không sinh nên cửa ác thú đóng bít; không đâu chẳng sinh, nên hiện thân trong năm đường.

Chánh văn: Làm bậc Đại y vương, giỏi chữa trị các bệnh, tùy bệnh cho thuốc, khiến đều được chữa lành.

Ngài Tăng Triệu ghi: Pháp dược giỏi trị lành các bệnh, giống như Y vương.

Chánh văn: Vô lượng công đức đều thành tựu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đầy đủ các đức.

Chánh văn: Vô lượng cõi Phật đều trang nghiêm thanh tịnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh có nhiều sở thích khác nhau, nên cần phải có vô lượng tịnh độ để đáp ứng với sở thích của họ. Chánh văn: Những người thấy nghe đều được lợi ích.

Ngài Tăng Triệu ghi: Pháp thân vốn không có hình tướng và âm thanh, chỉ vì tùy ứng chúng sinh mà hiện hình tướng âm thanh; thế thì thấy nghe mà không được lợi ích ư?

Chánh văn: Các việc làm cũng chẳng uổng phí.

Ngài Tăng Triệu ghi: Công đức chẳng phải hư ngụy lập ra. Bản khác ghi: "Việc làm chẳng luống uổng".

Ngài La-thập nói:

- Việc làm đều thành tựu, tất cả dùng để độ người, cho nên chẳng luống uổng.

Chánh văn: Tất cả các công đức như thế đều đã đầy đủ. Đó là Bồ-tát Đẳng Quán, Bồ-tát Bất Đẳng Quán, Bồtát Đẳng Bất Đẳng Quán.

Ngài La-thập nói:

- Đẳng quán tức dùng bốn Đẳng quán xét chúng sinh. Bất đẳng tức là dùng trí tuệ để phân biệt các pháp. Đẳng bất đẳng tức gồm hai pháp đã nêu. Chánh văn: Bồ-tát Định Tự Tại Vương Ngài La-thập nói:

- Tự tại trong các định.

Chánh văn: Bồ-tát Pháp Tự Tại Vương.

Ngài La-thập nói:

- Tự tại trong các pháp. Chánh văn: Bồ-tát Pháp Tướng Ngài La-thập nói:

- Công đức pháp tướng hiện nơi thân.

Chánh văn: Bồ-tát Quang Tướng Ngài La-thập nói:

- Tướng ánh sáng hiện nơi thân.

Chánh văn: Bồ-tát Quang Nghiêm Ngài La-thập nói:

- Dùng ánh sáng trang nghiêm thân. Chánh văn: Bồ-tát Đại Nghiêm Ngài La-thập nói:

- Thân tướng rất trang nghiêm.

Chánh văn: Bồ-tát Bảo Tích Ngài La-thập nói:

- Tích tập của báu trí tuệ.

Chánh văn: Bồ-tát Biện Tích Ngài La-thập nói:

- Tích tập bốn vô ngại biện.

Chánh văn: Bồ-tát Bảo Thủ Ngài La-thập nói:

- Từ tay có lưu xuất ra vô lượng của báu. Chánh văn: Bồ-tát Bảo Ấn Thủ Ngài La-thập nói:

- Ấn tức là tướng, tay có tướng lưu xuất ra của báu.

Cũng có thể nói trong tay có ấn báu (Bảo ấn). tát Thường Cử Thủ

Hiện dùng bàn tay đại từ vỗ về, an ủi chúng sinh, khiến họ chẳng sợ hãi. Vì thế thường đưa bàn tay hướng về phía mọi người và nói rằng: "Chớ sợ hãi". Chánh văn: Bồ-tát Thường Hạ Thủ Ngài La-thập nói:

- Thường buông tay xuống, biểu thị tâm từ, khuất mình không thể làm tổn thương đến chúng sinh. Chánh văn: Bồ-tát Thường Thảm Ngài La-thập nói:

- Thương xót nhớ nghĩ đến chúng sinh. Chánh văn: Bồ-tát Hỷ Căn Ngài La-thập nói:

- Hỷ căn tức là Hỷ đẳng (Hỷ vô lượng), tức đối với pháp thật tướng sinh tâm hoan hỷ và tùy hỷ. Chánh văn: Bồ-tát Hỷ Vương Ngài La-thập nói:

- Hỷ có hai loại:

1. Bất tịnh hỷ.

2. Thanh tịnh hỷ.

Vì đó là tâm hỷ thanh tịnh nên gọi là vương. Chánh văn: Bồ-tát Biện Âm Ngài La-thập nói:

- Đó là ngôn từ luận biện.

Chánh văn: Bồ-tát Hư Không Tạng Ngài La-thập nói:

- Tuệ tạng thật tướng giống như hư không. Chánh văn: Bồ-tát Chấp Bảo Cự Ngài La-thập nói:

- Cầm đuốc tuệ báu soi sáng, phá tan đêm tối.

Chánh văn: Bồ-tát Bảo Dũng. Ngài La-thập nói:

- Mạnh mẽ đối với đức báu, thì cũng được của báu, nên gọi là dũng.

Chánh văn: Bồ-tát Bảo Kiến Ngài La-thập nói:

- Dùng tuệ báu chiếu soi các pháp. Chánh văn: Bồ-tát Đế Võng Ngài La-thập nói:

- Đế võng kinh gọi là huyễn thuật. Thần biến của vị Đại sĩ này tự tại giống như huyễn hóa, cho nên mượn từ ngữ Đế võng (màng lưới của trời Đế Thích) để đặt tên. Chánh văn: Bồ-tát Minh Võng Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát Minh Võng thuyết pháp, tay có cầm màng lưới phóng ánh sáng.

Chánh văn: Bồ-tát Vô Duyên Quán Ngài La-thập nói:

- Khi quán chẳng chấp tướng vô duyên; cũng có thể nói khi nhập quán sâu xa thì không thấy có cảnh sở duyên.

Chánh văn: Bồ-tát Tuệ Tích Ngài La-thập nói:

Tích tụ các tuệ. tát Bảo Thắng

Công đức báu siêu xuất thế gian. Chánh văn: Bồtát Thiên Vương Ngài La-thập nói:

- Thiên Vương có ba:

1. Giả danh thiên.

2. Sinh thiên.

3. Hiền Thánh thiên.

Ở đây nói Thiên vương tức Hiền Thánh thiên. Chánh văn: Bồ-tát Hoại Ma Ngài La-thập nói:

- Phá hoại ma đạo.

Chánh văn: Bồ-tát Điện Đắc Ngài La-thập nói:

- Y nơi sự mà đặt tên.

Chánh văn: Bồ-tát Tự Tại Vương Ngài La-thập nói:

- Tự tại nơi pháp, giống như vua Tự Tại trước thần dân.

Chánh văn: Bồ-tát Công Đức Tướng Nghiêm Ngài La-thập nói:

- Dùng tướng công đức trang nghiêm thân. Chánh văn: Bồ-tát Sư Tử Hống Ngài La-thập nói:

- Dùng đại pháp âm khiến cho chúng sinh quy phục. Chánh văn: Bồ-tát Lôi Âm Ngài La-thập nói:

- Thuyết pháp làm cho trời người hoan hỷ còn kẻ tà ác run sợ, giống như khi tiếng sấm vang có kẻ sợ người vui.

Chánh văn: Bồ-tát Sơn Tương Kích Âm Ngài La-thập nói:

- Dùng đại pháp âm làm tiêu ma ý chí kẻ can cường, âm thanh chấn động, như các núi chạm nhau. Chánh văn: Bồ-tát Hương Tượng Ngài La-thập nói:

- Có một loài Hương tượng xanh, thân phát ra mùi hương. Vị Bồ-tát này, thân phát ra mùi hương cũng như thế.

Chánh văn: Bồ-tát Bạch Hương Tượng Ngài La-thập nói:

- Hương ấy rất quý giá, hương nơi thân Đại sĩ cũng như thế.

Chánh văn: Bồ-tát Thường Tinh Tấn Ngài La-thập nói:

- Trước sau chẳng lui sụt. Chánh văn: Bồ-tát Bất Hưu Tức Ngài La-thập nói:

- Chưa từng tạm nghỉ.

Chánh văn: Bồ-tát Diệu Sinh Ngài La-thập nói:

- Khi sinh có những điềm kỳ diệu.

Chánh văn: Bồ-tát Hoa Nghiêm Ngài La-thập nói:

Dùng sức Tam-muội hiện ra các loại hoa, trang nghiêm khắp cả hư không. tát Quán Thế Âm

Nếu người thế gian, ai gặp hiểm nạn mà xưng niệm danh hiệu ngài và quay về nương tựa, Bồ-tát quán xét âm thanh ấy liền được thoát khỏi. Cũng có thể cho rằng quán xét tâm niệm của người thế gian, gọi là Quán Thế tự tại.

Chánh văn: Bồ-tát Đắc Đại Thế Ngài La-thập nói:

- Có thế lực lớn. Tức dùng Đại thần lực bay qua mười phương, nơi cõi nước mà ngài đến phát ra chấn động sáu cách, tất cả các đường ác đều tiêu diệt. Chánh văn: Bồ-tát Phạm Võng Ngài La-thập nói:

- Phạm tức bốn phạm hạnh, võng tức số nhiều. Chánh văn: Bồ-tát Bảo Trượng Ngài La-thập nói:

- Hoặc là vật báu (bảo) hoặc là pháp báu đều lấy làm gậy (trượng).

Chánh văn: Bồ-tát Vô Thắng, Bồ-tát Nghiêm Độ Ngài La-thập nói:

- Làm thanh tịnh cõi nước.

Chánh văn: Bồ-tát Kim Kế Ngài La-thập nói:

- Vàng nơi búi tóc. Chánh văn: Bồ-tát Châu Kế Ngài La-thập nói:

- Hạt châu như ý (châu) trong búi tóc (kế), thấy tất cả mười phương cõi nước, các hạnh nghiệp và nhân duyên quả báo của chúng sinh.

Chánh văn: Bồ-tát Di-lặc, Ngài La-thập nói:

- Di-lặc là họ, A-dật-đa là tên, là con của một vị Bàla-môn ở Nam Thiên Trúc.

Chánh văn: Bồ-tát Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi.

Ngài La-thập nói:

- Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Tính từ nhỏ đến lớn, nên hai vị này được nêu lên sau cùng. Vả lại hai vị này đối với cõi này là lớn còn đối với cõi khác là bậc nhỏ, nên cũng có thể xếp sau. Bồ-tát dùng Pháp thân du phương giáo hóa, chẳng biết nơi sinh của ngài. Lại đến cõi Bổ Phật cho nên gọi là Pháp vương tử.

Chánh văn: Ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khen đức mà kể tên, vì thế nêu người để chứng minh cho kinh.

Chánh văn: Lại có Phạm vương Thi-khí...

Ngài Tăng Triệu ghi: Thi-khí là tên của Phạm vương, Hán dịch là Đảnh Kế.

Chánh văn: Từ bốn Thiên hạ khác đến trụ xứ Phật để nghe pháp.

Lại có mười hai ngàn Thiên đế.

Ngài La-thập nói:

Nếu các Phạm vương này là từ bốn thiên hạ khác đến, tức y cứ theo bốn thiên hạ này mà nói về Phạm vương. Phạm thiên lại có hai loại là Địa thiên và Hư không thiên. Đế Thích cư trụ trên đỉnh núi Tu-di, thuộc về Địa thiên lại là Địa chủ. Nêu Thích tức thuộc Địa thiên, nêu Phạm vương thì thuộc Hư không thiên. Lại nữa, Đế Thích đắc đạo tích, Phạm vương đắc quả Bất hoàn, thường đến nghe pháp nên mọi người đều quen biết. Vì thế đầu kinh đã ghi mọi người đều quen biết, lấy đó để hợp chứng minh. Vả lại tất cả chúng sinh đều tôn sùng Phạm thiên, người được tôn sùng đã đến, thì biết các người khác cũng đến.

Chánh văn: [Cũng từ bốn thiên hạ khác đến hội tòa.] Ngài Tăng Triệu ghi: Một cõi Phật có trăm ức bốn thiên hạ; một tứ thiên hạ đều có Đế Thích, Phạm thiên, cho nên nói bốn thiên hạ khác; hoặc có thể cho rằng từ cõi Phật phương khác đến.

Chánh văn: Và các trời Đại oai lực khác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là các vị trời lớn khác, ngoài Thích, Phạm kể trên.

Chánh văn: Rồng Ngài La-thập nói:

- Rồng có hai loại là rồng sống ở đất và rồng sống ở hư không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Rồng có hai loại là loại rồng ở mặt đất (Địa long) và loại sống trên hư không (Hư không long), mỗi loại có bốn loài sinh.

Chánh văn: Thần Ngài La-thập nói:

- Thần chịu quả báo thiện ác xen lẫn, giống trời người mà chẳng phải trời, người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thần chịu quả báo thiện ác xen nhau hình tốt đẹp hơn người mà thua kém trời. Thân mờ nhạt khó thấy. Chánh văn: Dạ-xoa Ngài La-thập nói:

- Dạ-xoa, Hán dịch là quý nhân, cũng gọi là Khinh tiệp; gồm ba loại là loại sống trên mặt đất, loại sống trên hư không và loại Thiên Dạ-xoa. Loài Dạ-xoa sống ở mặt đất chỉ dùng Tài thí, chẳng thể bay trên hư không. Loại Thiên Dạ-xoa bố thí xe ngựa, nên có thể bay trên hư không. Khi Đức Phật chuyển pháp luân thì loại Dạ-xoa sống ở trên đất xướng cáo cho Dạ-xoa sống trên hư không nghe. Loại này xướng cáo tiếp cho trời Tứ Thiên vương nghe như thế truyền báo đến Phạm thiên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dạ-xoa, Hán dịch là Khinh tiệp, gồm ba loại là Địa Dạ-xoa, Hư không Dạ-xoa và Thiên Dạ-xoa, sống ở dưới hai tầng trời, thủ hộ cửa thành của cõi Trời. Chánh văn: Càn-thát-bà Ngài La-thập nói:

- Đó là Thần âm nhạc của cõi Trời, cư ngụ trong núi báu trên mặt đất. Khi các vị trời muốn tấu nhạc thì trên thân của vị Thần này có hiện tướng báo hiệu, sau đó vị thần này lên cõi Trời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Là Thần âm nhạc của cõi Trời, cư ngụ ở núi báu trên mặt đất, khi các vị trời muốn nghe nhạc, thì trên thân vị Thần này hiện các tướng lạ, các vị thần này biết được liền lên cõi Trời tấu nhạc.

Chánh văn: A-tu-la Ngài La-thập nói:

- Hán dịch là Bất ẩm tửu, về nhân duyên chẳng uống rượu có ghi trong kinh Tạp Bảo Tạng, đây thuộc về đường ác. A-tu-la nam thì xấu, nữ thì rất đoan chánh, có thế lực rất lớn, thường chiến đấu với trời.

Ngài Tăng Triệu cũng giải thích đồng như trên. Chánh văn: Ca-lâu-la Ngài La-thập nói:

- Hán dịch là Kim sí điểu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là thần Kim sí điểu. Chánh văn: Khẩn-na-la Ngài La-thập nói:

- Hán dịch là Nhân phi nhân, tức tựa như người mà đầu có sừng, người thấy tự hỏi "là người ư, chẳng phải người ư?". Do đó mà gọi là Nhân phi nhân. Cũng là Nhạc thần, nhưng nhỏ hơn Càn-thát-bà.

Ngài Tăng Triệu cũng chú thích như thế. Chánh văn: Ma-hầu-la-già... đều đến pháp hội. Ngài La-thập nói:

- Đây là loài rồng sống trên đất, di chuyển bằng bụng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma-hầu-la-già là đại Mảng xà. Tám bộ trên đây đều có Thần lực rất lớn, có thể tự biến hình đến hội tòa nghe pháp.

Chánh văn: Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni

Ngài Tăng Triệu ghi: Tỳ-kheo, nghĩa như đã nói ở trên. Nói Ni là từ ngữ chỉ người nữ. Tám ngàn vị Tỳ-kheo nêu ở trên là nêu riêng những vị đã đắc đạo.

Chánh văn: Ưu-bà-tắc

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức là Tín sĩ nam. Chánh văn: Ưu-bà-di Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức là Tín sĩ nữ.

Chánh văn: Đều đến hội tòa. Bấy giờ, Đức Phật thuyết pháp cho vô lượng, chúng đang cung kính vây quanh nghe; giống như Tu-di sơn vương nổi lên giữa biển lớn. Ngài ngồi trên tòa Sư tử có các báu vật trang nghiêm, oai đức phủ trùm đại chúng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Núi Tu-di tức là núi Kim cang nơi Đế Thích cư trụ, Hán dịch là Diệu cao, nổi lên giữa biển lớn, cao hơn mặt nước ba trăm ba mươi sáu vạn dặm. Đức Như Lai ngồi giữa bốn bộ chúng, oai tướng siêu tuyệt, ánh sáng phủ trùm đại chúng, giống như núi vàng nổi lên giữa biển khơi.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, trong thành Tỳ-da-ly có một Trưởng giả tên là Bảo Tích.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bảo Tích cũng là pháp thân Đại sĩ, thường cùng ngài Tịnh Danh đến gặp Như Lai, cùng nhau hoằng đạo, mà nay chỉ mình ông dẫn mọi người đến trụ xứ của Phật, đó là nguyên do sắp phát sinh việc thăm bệnh, mở cánh cửa vào bộ kinh này.

Chánh văn: Cùng với năm trăm Trưởng giả khác, tất cả đều mang lọng bảy báu đến trước Phật, cúi đầu lễ chân Thế Tôn rồi dâng cúng lọng bảy báu cho ngài.

Ngài Tăng Triệu ghi: Việc làm tôn quý và tốt đẹp nhất ở Thiên Trúc là mỗi người mang lọng bảy báu đến dâng cúng Đức Phật.

Chánh văn: Do oai thần của Đức Phật mà các lọng báu hợp thành một lọng báu, phủ trùm cả tam thiên đại thiên thế giới.

Ngài La-thập nói:

- Hiện việc thần biến này, gồm có hai yếu chỉ:

1. Hiện vô lượng thần biến để hiển trí tuệ ắt phải sâu xa.

2. Bảo Tích... dâng hiến vật quý giá ắt sẽ đạt được quả quý giá.

Việc thành tựu ở vị lai ắt cũng kỳ diệu như thế. Đó là nói nhân thì nhỏ mà quả thì lớn.

Chánh văn: mà tướng rộng lớn của thế giới này đều hiện trong đó.

Ngài Tăng Triệu ghi: Lọng báu chẳng rộng mà phủ trùm tám cực, thế giới chẳng hẹp mà lại hiện trong lọng báu.

Chánh văn: Lại các núi Tu-di... Ngài La-thập nói:

- Tu-di, Hán dịch là Diệu cao. Có mười núi báu, núi Tu-di nằm ở giữa, chín núi kia vây quanh.

Chánh văn: Tuyết sơn, Mục-chân-lân-đà, Ma-ha Mục-chân-lân-đà, Hương sơn, Bảo sơn, Kim sơn, Hắc sơn, Thiết vi sơn, Đại thiết vi sơn, biển lớn, sông rạch, dòng suối, khe, nguồn, ngòi, lạch...

Bản khác ghi: "Hiện nơi biển lớn kia". Ngài La-thập nói:

Núi có màu vàng ròng, nước biển trong xanh cùng ánh hiện phát ra, rồi rừng xanh hiển phát, ánh sáng sắc vàng ròng cũng như thế.

Chánh văn: Và mặt trời, mặt trăng, các vì sao, Thiên cung, Long cung, cùng các Tôn thần trong tam thiên đại thiên thế giới đều hiện trong lọng báu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là thế giới Phật.

Chánh văn: Hơn nữa, chư Phật trong mười phương và chư Phật đang thuyết pháp cũng đều hiện trong lọng báu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì sắp hiển bày cõi Phật thù thắng khác nhau, cho nên hiện khắp cả mười phương. Các Trưởng giả tử đều đã phát tâm Từ lâu xa mà chưa tu tịnh độ, nay muốn họ từ nơi tâm đến cúng dường mà khải phát chí cầu Tịnh độ, vì thế nhân có bảo cái mà hiện làm như thế.

Chánh văn: Khi ấy tất cả đại chúng đều thấy thần lực của Phật, đều khen là điều chưa từng có, chắp tay lễ Phật, nhìn ngắm tôn dung của ngài mà mắt chẳng chút tạm rời. Ngài La-thập nói:

- Tin thích khởi phát bên trong, thì tướng hiện ra bên ngoài.

Chánh văn: Trưởng giả tử Bảo Tích liền đến trước Phật đọc bài kệ khen rằng.

Ngài La-thập nói:

- Trên là dùng thân cúng dường, ở đây là tâm và khẩu cúng dường. Trên là dùng tài vật cúng dường, ở đây là dùng pháp cúng dường. Hơn nữa, đại chúng tuy đã thấy việc biến hiện kia, nhưng chưa biết nguyên do, muốn khiến sự suy tôn vẫn còn, lòng tin thích càng sâu, cho nên mới dùng kệ khen ngợi.

Ngài Tăng Triệu nói: Thân hình lễ kính chưa đủ để diễn tả hết tâm, cho nên cần phải ca vịnh.

Chánh văn: Mắt trong, dài, rộng như sen xanh. Ngài La-thập nói:

- Mặt là phần quý của thân mà mắt là điểm trọng yếu của mặt, cho nên khen thân hình thì đầu tiên là khen cặp mắt. Vả lại, chư Phật dùng mắt Từ bình đẳng nhìn chúng sinh, kính trọng sự bình đẳng ấy, cho nên khen tặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong năm tình (năm căn), trăm vóc thì mắt là tối thượng, vì nhìn dung nhan mà làm kệ, cho nên đầu tiên khen ngợi đôi mắt. Ở Ấn Độ có loại hoa sen xanh, cánh hoa dài và rộng, xanh trắng phân minh, có hình tướng như con mắt của bậc Đại nhân, cho nên lấy đó làm dụ.

Chánh văn: Tâm tịnh đã đạt các thiền định.

Ngài La-thập nói:

- Tâm tịnh thì mắt sáng, cho nên nêu tâm để chứng cho mắt. Vả lại, mắt là cơ quan trọng yếu của thân, tâm là gốc của đức, vì muốn khen ngợi đức, nên tán thán tâm.

Nói đạt các thiền định là giải thích vì sao tâm tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cái quý của thân là mắt, chủ của đức là tâm, cho nên người làm kệ nêu hai việc này ở đầu bài tụng. Biển thiền định sâu rộng không bờ, nếu chẳng phải là Như Lai có chân tâm thanh tịnh thì chẳng thể đạt đến.

Chánh văn: Tích chứa tịnh nghiệp vô lượng từ lâu, cho nên danh cũng vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì tích chứa ba tịnh nghiệp từ vô số kiếp về trước, cho nên danh xưng vô lượng.

Chánh văn: Dùng Tịch độ chúng, nêu kính lễ. Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi là: "Tịch đạo". Tịch đạo tức tám Chánh đạo. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tịch tức là đạo vô vi tịch diệt.

Chánh văn:

Đã thấy Đại Thánh dùng thần biến Hiện khắp mười phương vô lượng cõi Trong đó chư Phật diễn nói pháp Nơi đây tất cả đều thấy nghe.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã thấy thần biến hợp các lọng báu thành một, đã là việc chẳng thể nghĩ lường, nay trong đó lại hiện cõi nước ở mười phương và chư Phật thuyết pháp, khiến ở cõi Kham nhẫn này, tất cả chúng hội đều thấy nghe, thì thật là việc hiếm có.

Chánh văn:

Pháp lực Pháp vương vượt quần sinh Thường dùng pháp tài ban tất cả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vua thế tục thì dùng sức thế tục để hơn nhân dân, nên có thể ban ân một nước, còn Đấng Pháp Vương thì dùng sức pháp siêu việt chúng sinh, nên có thể cứu giúp vô cùng.

Chánh văn: Thường khéo phân biệt các pháp tướng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp đều có các tướng trạng khác nhau, nhưng khéo phân biệt được tất cả. Từ đây đến câu "Nghiệp chẳng quên" là khen ngợi Pháp thí.

Chánh văn: Nơi Đệ nhất nghĩa thường chẳng động.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đệ nhất nghĩa là nghĩa nhất tướng của các pháp. Tuy phân biệt rõ tướng trạng khác nhau của các pháp, nhưng chẳng trái với nhất tướng. Đây là khen tặng đạo không biến dịch của đấng pháp vương. Động tức là trái nghịch.

Chánh văn:

Đã được tự tại với các pháp Nên con đảnh lễ Đấng Pháp Vương Ngài Tăng Triệu nói:

- Vị vua của thế gian thì tự tại đối với nhân dân, Đấng Pháp Vương thì tự tại đối với pháp. Pháp không có tướng nhất định, chỉ tùy ứng mà luận biện, tức vì người thích khác biệt mà luận về khác biệt nhưng chẳng trái đồng, vì người thích đồng mà luận đồng, nhưng chẳng trái với khác. Đồng và khác tuy luận sai biệt, nhưng đều thích ứng với pháp tướng, cho nên được tự tại.

Chánh văn: Thuyết pháp chẳng có cũng chẳng không.

Ngài Tăng Triệu nói:

Muốn nói có thì chẳng tự sinh, muốn nói là không thì duyên hợp liền thành. Hợp thành hình thì chẳng thể gọi là không; chẳng tự sinh thì chẳng thể là có. Vả lại, có có mới có không, không có có thì không nào có.

Có không cho nên có có, không có "không" làm sao có "có"? Thế thì tự có thì chẳng có, tự không thì chẳng không, đây là chánh thuyết của Đấng Pháp Vương.

Chánh văn: Vì nhân duyên nên các pháp sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Cũng do nhân duyên, không cũng do nhân duyên. Vì pháp chẳng phải có không, cho nên nói do nhân duyên sinh. Luận ghi: "Pháp từ duyên, nên chẳng có, vì duyên khởi nên chẳng không".

Chánh văn: Không ngã, không tạo, không thọ giả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp đều từ nhân duyên sinh. Không có một chủ tể chân thật riêng biệt, nên nói không ngã. Nếu có ngã thì tạo tác thiện ác, lãnh thọ họa phước, đã không có ngã thì không tạo tác, không lãnh thọ.

Chánh văn: Các nghiệp thiện ác đều chẳng mất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu không tạo tác, không người lãnh thọ thì lẽ ra không làm thiện được phước, làm ác chiêu họa, nhưng tâm thức của chúng sinh tương tục, đẹp xấu do đó mà khởi, đạo báo ứng liên hoàn tiếp nối nhau, giống như tiếng hòa thì vang thuận, hình thẳng thì ảnh ngay, đây là lý tự nhiên, không sai một mảy may, đâu cần nhờ vào một ngã thường hằng làm chủ tể?

Chánh văn: Đầu tiên hàng ma nơi Phật thọ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bị đạo lực chế phục, ma binh há có thể đối địch lại ư? Từ đây đến câu Lễ biển pháp, là khen công đức của Như Lai lúc mới thành đạo.

Chánh văn: Được Cam lộ diệt. Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi: "Tịch diệt Cam lộ". Tịch diệt Cam lộ tức pháp thật tướng.

Chánh văn: Thành đạo giác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo đại giác thì vắng lặng vô tướng, vị của đạo ấy làm tâm thần điều hòa như cam lộ. Nơi cây Bồ-đề, trước tiên hàng phục ngoại đạo, sau đó mới thành đạo Đại giác cam lộ tịch diệt, nội ma kết sử tập khí từ đây vĩnh viễn diệt trừ.

Chánh văn: Đã không tâm ý. Ngài La-thập nói:-Tức không có ý phân biệt.

Chánh văn: Không thọ hành. Ngài La-thập nói:

- Tức không có thọ, tưởng, hành. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm là thế nào? Do nhiễm hữu mà sinh. Thọ là thế nào? Khổ vui là hành. Bậc Chí nhân thầm biết chân thể vắng lặng rỗng rang, chẳng ôm lòng chấp giữ, tuy vạn pháp đều chiếu soi, nhưng tâm chưa từng có; khổ vui là con đường thẳng mà chẳng lãnh thọ; vật ngã vĩnh viễn vắng lặng; thì đâu có tâm để lãnh thọ? Thọ tức là ba thọ: Khổ thọ, lạc thọ và chẳng khổ chẳng lạc thọ.

Chánh văn: Phá dẹp tất cả các ngoại đạo. Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có tâm chế phục chúng sinh mà không chúng sinh nào không khuất phục.

Chánh văn: Ba chuyển pháp luân khắp đại thiên.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đầu tiên nơi Lộc uyển vì năm người như Câu-lân... chuyển pháp luân bốn Đế khắp cả tam thiên đại thiên thế giới.

Chánh văn: Luân ấy xưa nay thường thanh tịnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp luân hằng tịnh như hư không. Tuy có cổ kim, nhưng chẳng cùng với thời gian di chuyển, chẳng đồng với thế tục đổi dời. Thánh và Thánh tiếp nối truyền thừa, đạo ấy vĩnh viễn chẳng thay đổi.

Chánh văn: Trời, người đạt đạo là minh chứng.

Ngài La-thập nói:

- Tức minh chứng cho thời sơ chuyển pháp luân của Phật. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thời sơ chuyển pháp luân thì năm người như Câulân... và tám vạn vị trời đắc đạo, đó là minh chứng đạo này thường thanh tịnh.

Chánh văn: Từ đây Tam bảo hiện ở đời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo giác đã thành thì có Phật bảo; pháp luân đã chuyển tức có Pháp bảo; năm vị xuất gia đắc đạo là Tăng bảo. Ở đây là nói về thời gian đầu tiên.

Chánh văn:

Dùng biện pháp này cứu quần sinh. Đã thọ, chẳng lui thường vắng lặng.

Ngài Tăng Triệu ghi: Những người bậc Thượng trong chín mươi sáu loại ngoại đạo cũng có thể đoạn kết tập sinh vào cõi Vô sắc, nhưng vì đạo lý ấy chẳng chân, nên lại rơi vào ba đường. Còn Đức Phật dùng diệu pháp bốn Đế cứu độ chúng sinh cả ba thừa, không có việc người đã thọ nhận rồi mà còn trở lại đọa vào sinh tử. Cho nên nói: "Đã thọ thì chẳng lui"; vĩnh viễn vô vi nên nói là "thường vắng lặng".

Chánh văn: Làm Đại y vương cứu bệnh, chết.

Ngài Tăng Triệu ghi: Sinh già, bệnh, chết là nổi khổ đau nặng nề nhất, Đức Phật dùng thuốc pháp để cứu chữa, cho nên nói là Đại y vương.

Chánh văn: Nên lễ biển pháp đức vô biên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp luân sâu rộng khó lường, biển pháp chảy khắp bến bờ, vì thế đức ấy cũng vô biên.

Chánh văn: Khen chê chẳng động như Tu-di.

Ngài Tăng Triệu ghi: Lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc là tám ngọn gió pháp chẳng thể làm động Như Lai, giống như bốn ngọn gió thổi vào núi Tu-di.

Chánh văn: Thiện ác đều dùng Từ bình đẳng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Người chặt tay mình, mình chẳng oán, người nịnh bợ mình mình cũng chẳng vui. Thiện ác do người, nhưng tâm Từ chẳng khác.

Chánh văn: Tâm hành bình đẳng như hư không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có tâm thì có hạn lượng, đã có hạn lượng thì không trùm khắp. Vì tâm bậc Thánh là vô tâm, cho nên bình đẳng như hư không.

Chánh văn: Ai nghe nhân bảo chẳng kính vâng.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đức Phật đối với cõi Trời là bậc tôn quý nhất cõi Trời, đối với con người là bậc tôn quý nhất của cõi người. Là tôn quý nhất của trời, người; há trời, người có thể làm được chăng? Cho nên không ai mà chẳng kính vâng.

Chánh văn: Nay dâng Thế Tôn lọng nhỏ này. Ngài La-thập nói:

- Vui mừng vì vật hiến cúng nhỏ mà thấy được sự biến hiện lớn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vi tức là nhỏ.

Chánh văn:

Trong đó hiện đủ cõi tam thiên Cung điện của trời và rồng thần Loại Càn-thát-bà với Dạ-xoa Mọi vật thế gian đều thấy rõ

Xót thương thập lực hóa tướng này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vật phụng cúng rất nhỏ bé, mà cảnh được thấy vô cùng rộng lớn, đó là do Như Lai xót thương mà hiện ra. Nói mười Lực là hiệu khác của Như Lai. Vì Phật đầy đủ mười Lực nên lấy đó làm hiệu. Ngoài mười hiệu ra còn có các danh hiệu khác giống như thế.

Chánh văn:

Thấy việc hy hữu đều khen Phật Nay con kính lạy Tam giới Tôn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức là thấy những việc hiện trong lọng báu.

Chánh văn:

Đại Thánh, chỗ nương của mọi loài Tâm tịnh quán Phật đều hoan hỷ Đều thấy Thế Tôn trước mặt mình.

Ngài Tăng Triệu: Pháp thân viên mãn ứng hiện cùng khắp, giống như mặt trăng trên hư không, ảnh hiện khắp trăm sông.

Chánh văn: Đây là thần lực pháp Bất cộng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức chẳng chung cho Nhị thừa.

Chánh văn:

Phật dùng một âm diễn nói pháp Chúng sinh tùy loại đều được hiểu

Cho rằng âm Phật đồng với tiếng mình. Đây là thần lực pháp Bất cộng

Ngài Tăng Triệu nói:

- Một âm của khẩu mật, tất cả các loài đều hiểu được Chánh văn:

Phật dùng một âm diễn nói pháp Chúng sinh tùy thích đều nghe hiểu Mà đạt thọ hành được lợi ích Đây là thần lực pháp Bất cộng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức Phật dùng một âm nói một pháp, chúng sinh tùy điều ưa thích mà nghe hiểu, như người thích bố thí thì nghe Phật nói bố thí, người thích nghe giới thì nghe được giới, mỗi mỗi lãnh thọ khác nhau, đạt được lợi ích khác nhau. Trên là nói một âm mà thích ứng khác, đây nói một pháp mà chỗ thích ứng khác.

Chánh văn:

Phật dùng một âm diễn nói pháp Có người kinh sợ, kẻ vui mừng Hoặc sinh xa lìa hoặc dứt nghi Đó là thần lực pháp Bất cộng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh nghe nói khổ báo thì lo sợ, nghe diệu quả thì vui mừng, nghe bất tịnh thì nhàm chán, xa lìa, nghe pháp tướng thì dứt nghi. Chẳng biết một âm mà diễn thuyết thế nào, khiến cho người vui mừng, kẻ sợ hãi khác nhau; vậy Nhị thừa đâu có thể cùng chung được?

Chánh văn: Lạy Đấng Thập Lực đại tinh tấn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đây trở xuống mỗi mỗi câu đều tán thán đức của Như Lai mà lễ kính.

Chánh văn: Lạy Đấng đã được Vô sở úy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức bốn Vô úy.

Chánh văn: Lạy Đấng trụ nơi pháp Bất cộng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là mười tám pháp Bất cộng.

Chánh văn:

Lạy Đấng Đạo sư của mọi loài.

Lạy Đấng thường đoạn các kết phược Lạy Đấng đã đạt đến bờ kia.

Ngài Tăng Triệu ghi: Bờ kia tức là bờ Niết-bàn, Niết-bàn kia há có bờ bến ư? Vì ngã khác với bĩ cho nên lược danh từ bờ để gọi.

Chánh văn:

Lạy Đấng luôn độ các thế gian Lạy Đấng vĩnh viễn lìa sinh tử Biết tướng đến đi của chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Thân hình chúng sinh qua lại trong sáu đường, tâm thức dong ruổi theo thị phi; tất cả đều rõ biết.

Chánh văn: Khéo được giải thoát nơi các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ta nhiễm các pháp, cho nên các pháp trói buộc ta. Tâm ta không nhiễm thì vạn sự trói buộc đều giải thoát.

Chánh văn:

Chẳng nhiễm thế gian như hoa sen Thường giỏi vào nơi hạnh không tịch.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Xuất nhập tự tại mà chẳng trái với tịch diệt, cho nên thường giỏi vào đó.

Chánh văn: Đạt các pháp tướng không ngăn ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn pháp sâu xa, ai có thể biết được bờ mé, chỉ có Phật vô ngại, cho nên nói là đạt.

Chánh văn: Lạy Đấng như không chẳng chỗ nương. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm bậc Thánh không gá nương, giống như hư không, không y cứ vào đâu.

Chánh văn: Bấy giờ, Trưởng giả tử Bảo Tích nói kệ tán thán xong, liền bạch Đức Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Năm trăm Trưởng giả này đều đã phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nguyện xin được nghe nói về cõi Phật thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- A-nậu-đa-la, Hán dịch là Vô thượng; Tam-miệu Tam-bồ-đề; Hán dịch là Chánh biến tri. Đạo lớn không có gì hơn nên nói là Vô thượng; đạo đó chân chánh, không có pháp nào chẳng biết, nên gọi là Chánh biến tri. Các trưởng giả phát tâm vô thượng đã lâu mà chưa tu Tịnh độ, vì thế cùng đến với Bảo Tích. Đức Như Lai hiện lọng báu để khai phát mầm thiện kia. Đã thấy trong lọng báu hiện các cõi Phật thanh tịnh trang nghiêm khác nhau, thì tâm ý tôn kính, muốn tu tập, cho nên nguyện được nghe cõi Phật thanh tịnh tốt đẹp mà Phật đã chứng đắc.

Chánh văn: Cúi mong Thế Tôn nói về hạnh Tịnh độ của các Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi nước sở dĩ là tịnh, đâu phải do trang sức mà có thể thanh tịnh, mà phải do hạnh, cho nên phải nói về hạnh. Phàm hạnh ắt phải do học. Cho nên vì các Bồ-tát mà đặt câu hỏi này là để nêu yếu chỉ hiện lọng báu của Như Lai, cũng là bản ý của việc Bảo Tích và các Trưởng giả cùng đến.

Bản khác ghi: "Hạnh thanh tịnh cõi Phật". Ngài Lathập nói:

- Bản Phạm ghi: "Tướng thanh tịnh", sau đó nói: "Chúng sinh là cõi Phật", thế thì tướng ấy hiện hôm nay, cho nên sẽ ứng với mai sau.

Chánh văn: Đức Phật nói rằng: "Hay thay! Bảo Tích! Ông vì các Bồ-tát mà hỏi Như Lai về hạnh Tịnh độ, vậy hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ, Ta sẽ nói cho ông nghe". Bấy giờ, Bảo Tích và năm trăm Trưởng giả vâng lời dạy cung kính lắng nghe. Phật dạy rằng: "Này Bảo Tích! Chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát".

Ngài La-thập nói:

- Bảo Tích hỏi về tướng Tịnh độ, nên trả lời về tướng Tịnh độ. Tướng tịnh tức là nhân duyên của Tịnh độ; nhân duyên Tịnh độ có ba việc:

1. Công đức của Bồ-tát.

2. Công đức của chúng sinh.

3. Chúng sinh.

Ba nhân đã tịnh thì được cõi Tịnh. Nay nói chúng sinh tức là trong nhân nói quả. Trong phần giải thích nghĩa ở sau có đủ ba nhân này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm bậc Chí nhân thì rỗng lặng không hình, tùy vật mà hiện hình, hình không có thật thể thường hằng, huống gì cõi nước lại hằng hữu ư? Phàm muôn vạn hành nghiệp của chúng sinh đều khác nhau, nên việc biến hóa khác nhau, dẫn đến báo ứng cũng chẳng phải một. Như tịnh thì ứng hiện bảo ngọc, uế thì ứng hiện cát sỏi... Đẹp xấu do người, đối với mình thì không định. Cõi nước không định đó chính là cõi chân thật (chân độ). Thế thì cõi nước tịnh hay uế là lệ thuộc nơi chúng sinh, nên nói "Chúng sinh là cõi Phật của Bồ-tát". Hoặc có thể cho rằng sự tịnh uế của cõi nước lệ thuộc nơi chúng sinh, thế thì cõi báo ứng của chúng sinh chẳng phải là cõi nước của Như Lai; và hiện lọng báu này chưa dụ cho việc cõi báo ứng khác phương sở. Hãy thử luận xem về điều này, phàm Tịnh độ mà Như Lai tu tập lấy vô phương làm thể, nên khiến cho các chúng sinh tu tập hạnh đồng nhìn mà thấy khác. Vì thấy khác nên tịnh uế sinh. Vì không phương sở nên chân độ có hình. Nếu chấp thủ tịnh uế thì là báo độ của chúng sinh. Biết cõi ấy vốn không phương sở, tức là chân độ của Phật. Há có thể cho là hai cõi Phàm Thánh khác phương sở, rồi sau đó luận về tịnh uế ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hạnh Tịnh độ tức tu hành đạt đến Tịnh độ, chứ chẳng phải là tạo ra Tịnh độ, người tạo Tịnh độ tức chúng sinh. Đâu có thể lạm cho là tạo ra; trước không thể không nói về gốc tạo tác là để hiểu nghĩa cốt yếu, sau đó mới nói về hạnh.

Chánh văn: Vì sao? Vì Bồ-tát tuy thuận chúng sinh được giáo hóa mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài La-thập nói:

- Từ đây trở xuống gồm hai chương, nêu ba nhân để giải thích nghĩa. Bản Phạm ghi: "Tùy bao nhiêu chúng sinh được giáo hóa", tựa như nói tùy người hóa độ nhiều ít mà cõi nước có lớn nhỏ. Nghĩa là tùy thuận dùng pháp gì để giáo hóa chúng sinh, hoặc pháp bố thí, trì giới... Mỗi mỗi đều tùy hạnh tu của họ mà sinh sang nước ấy. Cũng tùy theo ba nhân sâu cạn để thành tựu quả nghiêm tịnh khác nhau. Nếu nhân trì giới thì đất đai bằng phẳng, nếu nhân bố thí thì đầy đủ bảy vật báu, chỉ lược nêu hai pháp, các pháp còn lại tự có thể biết được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đây trở xuống là giải thích vì sao chúng sinh là cõi Phật. Cõi Phật là ảnh hưởng của chúng sinh. Như hình cao thì ảnh dài, hình thấp thì ảnh ngắn, há mặt trời, mặt trăng có thể khiến cho dài ngắn được ư? Hình tự nhiên như thế. Cho nên tùy theo chúng sinh được hóa độ nhiều ít mà lãnh lấy cõi Phật rộng hẹp. Thế thì cõi Phật là một tứ thiên hạ, hoặc lấy ba ngàn, hoặc hằng hà sa làm một cõi...

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm cõi nước là bờ cõi của chúng sinh, trong đó không có uế thì gọi là tịnh; không uế là không, bờ cõi là có; có sinh nơi hoặc, thì không sinh nơi giải thoát. Nếu giải thoát thành tựu thì hoặc mới hết. Mới giải thoát là bản hóa tự ứng của Bồ-tát, đến cuối cùng liền khiến thành tựu, thành tựu là cõi thống nhất, có dấu tích thuộc về Phật. Căn cứ theo bản thì tùy thuận chỗ hóa độ, ý nghĩa là lãnh lấy cõi kia, đã nói lãnh lấy cõi kia, thì chẳng phải là tự tạo. Nếu tự tạo thì không có chỗ thống nhất, không có chúng sinh thì thành tựu điều gì?

Chánh văn: Tùy thuận chúng sinh được điều phục mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm nói là "Tỳ-ni"; Tỳ-ni, Hán dịch là Thiện trị, tức là khéo trị chúng sinh khiến cho bỏ ác mà hành thiện. Tùy theo chúng sinh bỏ ác nhiều ít, hành thiện sâu cạn mà thành tựu cõi nước. Nói điều phục thì ý đồng mà lời khác, cho nên giữ âm Phạm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tùy theo chúng sinh điều phục sâu cạn mà lãnh lấy cõi Phật tốt xấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

Hóa tuy đã gồm đủ mà tên thì chỉ mới bắt đầu, cõi kia chẳng chấp nhận không điều phục sinh về, cho nên cần phải luận. Nếu chẳng điều phục thì chẳng có cõi nước đầy đủ bảy báu.

Chánh văn: Tùy thuận chúng sinh hợp với cõi nào để vào được trí tuệ Phật mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài La-thập nói:

- Khi tu tịnh cõi nước thì nghịch quán tâm của chúng sinh đời vị lai; nơi đời vị lai nên hiện cõi nước nào để họ được giải thoát. Trước tiên nơi kiếp vị lai lập cõi nước có hơn kém, sau đó cùng với chúng sinh đồng thâu nhiếp ba nhân để thành cõi nước, khiến chúng sinh kia sinh về. Nói nhiếp tức là nhiếp phục lấy những người mong cầu trước tiên. Ở đây là nói về Phật tuệ, sau đây là nói về Bồtát căn, để hiển thị những người được giáo hóa ở vị lai có sâu cạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong tất cả chúng sinh, cũng có người thấy tịnh liền ưa thích mà tiến tu, cũng có người thấy uế nhàm chán mà tiến tu, sự ưa thích nhiều khác biệt, chỉ lược nêu mà thôi. Nhân tuy khác, nhưng chứng nhập Phật tuệ thì chỉ một mà thôi. Cho nên tùy sự thích hợp mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tùy thuận giáo hóa tuy đã được biết rõ, nhưng đâu cho lạm dụng cõi nước, nên cần phải nói rõ. Nếu như có lạm dụng thì đồng với kẻ mê hoặc, ắt chẳng thể thành tựu được cõi nước.

Chánh văn: Tùy thuận chúng sinh hợp với cõi nước nào để khởi Bồ-tát căn mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói nhập Phật tuệ, Phật tuệ là tuệ vô sinh mà Bồ-tát trụ Địa thứ bảy chứng đắc. Ở đây nói Bồ-tát căn, tức là tâm Bồ-đề của Bồ-tát trụ Địa thứ sáu trở xuống.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vào Phật tuệ thì cũng đã gồm đủ, nhưng tâm thì mới thuộc khởi đầu, đâu không sâu xa rộng lớn, nên cần phải nói rõ. Nếu chẳng sâu xa rộng lớn, thì không có cõi Nhất thừa.

Chánh văn: Vì sao? Vì Bồ-tát lãnh lấy cõi Phật thanh tịnh là muốn làm lợi ích cho chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Đây là giải thích vì sao trước lập cõi nước hơn kém, sau mới nói đến hạnh tạo lập. Nếu vì mình mà lãnh lấy cõi Phật, thì tự ý mình mà tạo lập ra cõi nước. Nay đã vì lợi ích chúng sinh, nên phải hợp với chỗ cần cầu của chúng sinh mà tạo ra cõi nước.

Ngài Tăng Triệu ghi: Pháp thân không định, thì nào có cõi nước mà luận tốt xấu, ngoài chỗ này ra thì đâu có tịnh để lãnh lấy; Lãnh lấy cõi tịnh đều là ở nơi người. Cho nên tùy sự thích hợp của chúng sinh mà lãnh lấy cõi Phật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói "Vì sao" là của bốn câu trên tự mình chẳng tạo cõi nước, lại chẳng phải là cõi bờ của người, sau đó mới có thể thành tựu chúng sinh.

Chánh văn: Ví như có người muốn xây dựng nhà cửa cung điện trên đất trống, thì tùy ý không có gì trở ngại.

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi: "Nơi khoảng trống mà tạo lập nhà cửa cung điện thì được tự do, không trở ngại". Hư không thì chẳng thể dùng làm cung điện nhà cửa, thế thì chẳng thể lìa chúng sinh mà có cõi tịnh. Lại nói rằng: Trong nơi trống không thì làm được nhà cửa, mà chẳng thể dùng không làm nhà cửa, mà phải cần có vật liệu mới tạo thành. Như thế, Bồ-tát tuy biết rõ không, nhưng chẳng thể dùng tâm không mà được, cần phải có ba nhân mới thành tựu cõi nước. Vì ý người khác nhau cho nên văn kinh ghi khác nhau.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tạo lập nhà cửa dụ cho việc thành tựu chúng sinh. Đất trống là nơi không có phương hướng trở ngại, dụ cho việc lãnh lấy cõi không uế, nếu có uế thì có ngại.

Chánh văn: Nếu làm nơi hư không thì chẳng thành.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói nơi hư không nghĩa là không có vật liệu để làm cung điện nhà cửa. Thí dụ cho việc tự tạo cõi nước mà không có chúng sinh để thành lập.

Chánh văn: Bồ-tát cũng như thế, vì thành tựu chúng sinh nên nguyện lãnh lấy cõi Phật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chính là xứ vô ngại.

Chánh văn: Nguyện lãnh lấy cõi Phật chẳng phải ở nơi không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tịnh độ ắt do chúng sinh, thí như xây dựng cung điện ắt phải nương nơi đất, không có đất, không có chúng sinh thì nhà cửa, quốc độ chẳng thể thành tựu. Hàng Nhị thừa lóng tâm nơi hư vô chẳng vì chúng sinh, cho nên không có Tịnh độ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng thể không có chúng sinh.

Chánh văn: Bảo Tích nên biết! Trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi nước thanh tịnh ắt là do nơi chúng sinh, chúng sinh tinh ắt do nơi các hạnh; trên nói đến chúng sinh để giải thích Tịnh độ, nay nêu đủ các hạnh để nói về lý do thanh tịnh. Phàm hạnh tịnh thì chúng sinh tịnh, chúng sinh tịnh thì cõi Phật tịnh, đây là điều tất nhiên chẳng thể sai khác. Cõi nước không lồi lõm cong gãy là do nơi trực tâm. Cho nên nói Trực tâm là Tịnh độ của Bồ-tát. Đây là trong nhân nói quả, như chỉ vàng làm thức ăn. Trực tâm tức là tâm ngay thật không siểm khúc, tâm này là gốc của vạn hạnh, cho nên lập chương có nêu tâm này.

Chánh văn: Khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh không siểm khúc sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không siểm khúc là tên khác của hạnh trực tâm. Tâm Bồ-tát đã ngay thật thì dạy dỗ người cũng đồng như mình. Cõi của chính mình đã thành, nên khiến người đồng thực hành nhân này. Đây là nói về hóa duyên cùng đến, thì quả báo liên kết nhau, cho nên nghĩa Phật độ mới hiển rõ. Từ đây trở xuống là hai câu đối nhau, hoặc trước sau khác tên, hoặc là trước lược sau rộng, hoặc trước nhân sau quả, để hiển nhân hạnh. Phàm hạnh thiện gồm có hai loại là hạnh thiện và báo thiện. Từ đây trở xuống nêu các pháp tu tập của các chúng sinh sinh về đều là thiện báo.

Ngài Đạo Sinh ghi: Nghĩa lãnh lấy cõi nước thì đã nêu đủ ở trên, bây giờ chỉ nói về nghĩa các hạnh là gốc của Tịnh độ. Chắc chắn có thể lãnh ngộ được cho nên nói "Bảo Tích nên biết!" Tức là biết như trước đã nói. Vì trả lời câu hỏi, cho nên chỉ nêu sự tịnh để biểu thị tâm chân thật không uế. Đó là gốc của thiện hạnh, nên luận đầu tiên. Chúng sinh không siểm khúc là một việc của cõi tịnh. Bồ-tát đều nói đến hạnh ấy, chúng sinh đều nói đến quả báo ấy, mà lập đối thuyết về việc ấy, để nói rằng chúng sinh từ xưa đã thọ sự giáo hóa này nên nay có quả. Hạnh Bồ-tát thành tựu, ứng hiện cõi nước thì thuộc về Phật.

Chánh văn: Thâm tâm là Tịnh độ của Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các đức của tâm Bồ-đề rất sâu và kiên cố, cho nên khó đánh bạt thâm tâm.

Chánh văn: Khi Bồ-tát thành Phật những chúng sinh có đầy đủ công đức sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm sâu xa nên đức đầy đủ.

Chánh văn: Tâm Đại thừa là Tịnh đô của Bồ-tát; khi Bồ-tát thành Phật thì những chúng sinh có tâm Đại thừa sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cưỡi trên xe tám vạn hạnh, chuyên chở tất cả thiên hạ không bỏ sót một người có tâm Đại thừa nào. Trên nói ba tâm là hạnh thứ tự của người mới học. Phàm muốn hoằng đạo thì trước cần phải có tâm ngay thật, sau đó thì vào hạnh mới sâu, vào hạnh đã sâu thì chuyển vận rộng lớn không bờ mé. Đây là thứ tự của ba tâm. Đầy đủ ba tâm này, sau đó mới tu sáu Độ.

Bản khác ghi: "Trực tâm, Thâm tâm và Bồ-đề tâm". Ngài La-thập nói:

- Trực tâm là tâm thành thật. Đầu tiên phát tâm, thì đầu tiên ở nơi thành thật. Đạo tâm càng sáng tỏ gọi là thâm tâm; Thâm tâm tăng trưởng rộng lớn chân chánh thú hướng đến Phật tuệ gọi là Bồ-đề tâm. Đây đều là tâm của người được giáo hóa. Còn hạnh của người giáo hóa là dẫn đến Tịnh độ; người lại sinh đến cõi kia, dùng nhân duyên mà thành tựu cõi nước Bồ-tát. Thiện có hai loại là hạnh thiện và báo sinh thiện. Phàm nói chúng sinh sinh sang nước kia có đầy đủ các thiện đều là Báo sinh thiện.

Chánh văn: Bố thí là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật thì tất cả chúng sinh thường thí xả sinh sang nước kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngoài thì xả bỏ quốc thành, tiền tài, thân mạng, trong thì xả bỏ tham ái, tật đố gọi là tất cả đều xả bỏ.

Chánh văn: Trì giới là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồtát thành Phật, những chúng sinh tu tập mười điều thiện, đầy đủ hạnh nguyện sinh sang nước ấy.

Ngài La-thập nói:

- Trì giới chỉ nói đến đầy đủ nguyện. Vì giới hạnh là hạnh khó hành trì, cũng gồm thâu tất cả thiện, cho nên nguyện được đầy đủ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mười thiện là giới Bồ-tát, cũng có vô lượng giới, nhưng chỉ lược nêu mười mà thôi. Đầy đủ giới thì không nguyện nào chẳng đạt được, nên nói là viên mãn.

Chánh văn: Nhẫn nhục là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh có ba mươi hai tướng trang nghiêm sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu ghi: Nhẫn nhục thì dung nhan hòa dịu, cho nên quan hệ đến dung mạo hình tướng, há chỉ có báo hình đoan chánh mà thôi ư?

Chánh văn: Tinh tấn là Tịnh độ của Bồ-tát. Khi Bồtát thành Phật thì những chúng sinh tu tập tất cả công đức sinh sang nước ấy. Thiền định là Tịnh độ của Bồtát, khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh nhiếp tâm, không tán loạn sinh sang nước ấy. Trí tuệ là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh được chánh định sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Được chánh trí tuệ thì quyết định được thật tướng các pháp, thuộc về chánh định tụ trong ba tướng chúng sinh.

Chánh văn: Bốn Tâm vô lượng là Tịnh độ của Bồtát. Khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu Từ, Bi, Hỷ, Xả sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn tâm này cùng khắp, không có giới hạn nên gọi là vô lượng.

Chánh văn: Bốn Nhiếp pháp là Tịnh độ của Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dùng bốn việc để thu phục chúng sinh nên gọi là bốn nhiếp. Đó là:

1. Tuệ thí tài và pháp, hai việc bố thí này tùy thuận người cần cầu.

2. Ái ngữ là tâm yêu mến, lời nói hòa dịu tùy thuận sự ưa thích của người.

3. Lợi hành, tức tùy thuận sự lợi ích của người mà phương tiện làm lợi ích.

4. Đồng sự, gặp kẻ ác thì đồng hiện ác, đoạn ác cho người, gặp người thiện thì đồng hiện thiện, tăng trưởng thiện cho họ.

Nên gọi là Đồng sự nhiếp.

Chánh văn: Khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh được nhiếp phục giải thoát sinh sang nước ấy.

Ngài La-thập nói:

-Hoặc có người thấy Phật mà chẳng giải thoát là do công đức còn cạn mỏng. Thường thực hành bốn Nhiếp pháp ắt là tuệ đạt được sâu xa mà công đức nặng, nên ở trước Phật đạt được giải thoát. Cũng có thể nói rằng bốn

Nhiếp pháp có thể làm cho chúng sinh được giải thoát, cho nên trước là hạnh sau đạt đến quả báo giải thoát.

Ngài Tăng Triệu ghi: Giải thoát là bốn Nhiếp pháp thành quả vô vi. Vì đồng hành nên chúng sinh đều được quả này nhiếp thủ.

Chánh văn: Phương tiện là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, chúng sinh đạt được phương tiện vô ngại đối với các pháp sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu ghi: Phương tiện tức là tuệ phương tiện thiện xảo (xảo tuệ). Tích tụ đức nhỏ mà đạt công lớn. Công tuy đã đạt nhưng chẳng lấy làm chứng, vào nơi hữu mà chẳng trái tịch diệt, trụ nơi vô mà chẳng mất việc giáo hóa, không làm mà không gì chẳng làm, phương tiện vô ngại.

Chánh văn: Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, những chúng sinh đầy đủ Niệm xứ, Chánh cần, Thần túc, Căn, Lực, Giác, Đạo sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Niệm xứ tức bốn Niệm xứ, Chánh cần là bốn Chánh cần, Thần túc là bốn Thần túc, Căn tức năm Căn, Lực là Năm lực, Giác tức bảy Giác ý, Đạo tức tám Chánh đạo, tổng cộng ba mươi bảy phẩm, nghĩa ba mươi bảy phẩm có ghi tại một bộ kinh khác.

Chánh văn: Tâm hồi hướng là Tịnh độ của Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhị thừa nơi ba cõi, mỗi mỗi đều có hạnh riêng biệt, nếu tâm không cần điều thù thắng thì tùy hạnh mà thọ báo, bậc Đại sĩ thì chuyên tâm nơi Phật đạo, nên có thể xoay tạp hạnh kia hướng về Nhất thừa, đó gọi là tâm hồi hướng.

Chánh văn: Khi Bồ-tát thành Phật thì được cõi nước có đầy đủ các công đức.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Gặp điều thiện thì đều hồi hướng, vậy đức nào mà chẳng đủ. Từ đây trở xuống gồm ba câu, tuy chẳng nói đến chúng sinh, mà nói đến cõi nước thì cũng có chúng sinh.

Chánh văn: Thuyết trừ tám nạn là Tịnh độ của Bồtát, khi Bồ-tát thành Phật, quốc độ sẽ không có ba ác, tám nạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thuyết về pháp trừ nạn, nên cõi nước không có tám nạn.

Chánh văn: Tự giữ giới hạnh chẳng chê lỗi người là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, được cõi nước không có danh từ phạm giới.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Danh từ phạm cấm phát xuất từ việc chê người mà chẳng tự giữ luật hạnh.

Chánh văn: Mười thiện là Tịnh độ của Bồ-tát, khi Bồ-tát thành Phật, thì những chúng sinh không yểu mệnh...

Ngài La-thập nói:

- Xoay pháp thiện hướng về Phật đạo, nên nói là hồi hướng, hồi hướng thì chính mình gồm chung với tất cả chúng sinh, cho nên nói là đầy đủ công đức, đầy đủ công đức thì không có tám nạn, nên nói là thuyết trừ tám nạn, trừ tám nạn là hạnh, nên thọ quả báo không có nạn, đã không có tám nạn thì không có các pháp ác, không có pháp ác thì không có phạm cấm, cho nên kế đó nói đến phạm giới. Nay nói về giới thì nghĩa chẳng tại nơi giới, vì muốn nhân nơi giới để nói về việc chẳng chê lỗi người, chẳng chê lỗi người thì chẳng biết lỗi người, chẳng biết lỗi người thì không có danh từ phạm cấm, lấy đây làm hạnh, cho nên đạt được quả này, đạt được quả này thì các điều ác đều trừ, vì thế kế đến nêu mười thiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng có quả báo của sát sinh.

Chánh văn: Giàu to.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có quả báo của trộm cướp.

Chánh văn: Phạm hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có quả báo của tà dâm.

Chánh văn: Lời nói thành thật. Ngài Tăng Triệu nói:-Không có quả báo của vọng ngữ.

Chánh văn: Thường có lời hòa dịu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có quả báo của ác khẩu.

Chánh văn: Quyến thuộc chẳng ly tán, khéo hay hòa giải tranh tụng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng có quả báo của lưỡng thiệt.

Chánh văn: Lời nói đều có lợi ích. Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có quả báo của lời thêu dệt.

Chánh văn: Chẳng ganh ghét, chẳng giận dữ, thấy biết chân chánh thấy chúng sinh, sinh sang nước ấy.

Ngài Tăng Triệu: Tâm ganh ghét, giận dữ và tà kiến là hoạn họa bậc nhất, cho nên lập ba thiện.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người tu mười thiện hợp với các hạnh nói trên, thành tựu thân, miệng, ý tịnh là gốc của Tịnh độ.

Chánh văn: Như thế, này Bảo Tích! Bồ-tát tùy theo trực tâm mà phát khởi các hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm tâm ngay thật (trực) thì lòng tin vững chắc, có lòng tin vững chắc thì sau đó mới phát khởi tạo các hạnh. Thế thì khởi đầu của vạn hạnh chỉ là trực tâm ư? Chương này nói về thứ tự trước sau của hạnh. Không chấp tướng nhân, vì thế đầu tiên ở nơi trực tâm và cuối cùng là Tịnh độ. Giống như gieo trồng một hạt nhỏ mà sum suê cả trăm vườn; cây trực tâm là mầm giống, các hạnh nhân đó mà thành tựu, cho nên nói là tùy theo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước tuy nói về các hạnh, mỗi mỗi đều là nhân Tịnh độ, nhưng chưa biết vì sao mà được, cho nên theo thứ tự cần phải nêu lên. Nói như thế tức là các hạnh nói ở trên như ý nêu dưới đây; nói tùy thuận thế lực của trực tâm mà tự nhiên phát khởi tu hành các hạnh.

Chánh văn: Tùy sự phát hạnh kia mà được thâm tâm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có thể phát hạnh thì được đạo tâm càng sâu.

Chánh văn: Tùy thâm tâm mà ý được điều phục.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo tâm đã sâu thì ý không còn thô bạo.

Chánh văn: Tùy ý điều phục thì được như thuyết mà thực hành. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm đã điều phục thì theo điều đã nghe mà thực hành.

Chánh văn: Tùy thuận như thuyết thực hành thì luôn hồi hướng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghe rồi luôn thực hành, thì có thể hồi hướng việc làm ấy, chuyên tâm nơi cảnh giới thù thắng.

Chánh văn: Tùy hồi hướng thì đạt được phương tiện. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có thể hồi hướng Đại thừa thì Đại phương tiện do đó mà sinh.

Chánh văn: Tùy phương tiện mà thành tựu chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Phương tiện được lập ra là mong để thành tựu chúng sinh.

Chánh văn: Tùy thành tựu chúng sinh mà cõi Phật thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Chúng sinh đã thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, không uế.

Chánh văn: Tùy cõi Phật thanh tịnh mà thuyết pháp thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Ở nơi cõi tịnh thì có thuyết pháp tịnh.

Chánh văn: Tùy thuyết pháp tịnh mà trí tuệ tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có thuyết pháp thanh tịnh thì trí tuệ thanh tịnh phát sinh.

Chánh văn: Tùy trí tuệ tịnh thì tâm tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí thanh tịnh đã sinh thì tâm tịnh càng sáng tỏ.

Chánh văn: Tùy tâm tịnh mà tất cả công đức đều thanh tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Trực tâm tức là dùng tâm chân thành để tin Phật pháp. Tâm thành tín đã lập thì luôn phát khởi thực hành các thiện, các thiện đã được tích tập thì tâm ấy càng sâu, tâm càng sâu thì chẳng rơi vào các ác thú; bỏ ác theo thiện gọi là điều phục, tâm đã điều phục thì gặp thiện liền thực hành, gặp thiện thực hành thì làm được hạnh khó làm, làm được việc khó làm, thì có thể như thuyết mà thực hành; đã như thuyết mà hành thì vạn thiện gồm đủ, vạn thiện gồm đủ nên luôn hồi hướng đến Phật đạo, hướng càng tăng tiến là sức phương tiện. Phương tiện đại khái gồm ba loại:

1. Khéo nơi tự hành mà chẳng chấp tướng.

2. Chẳng thủ chứng.

3. Khéo hóa độ chúng sinh.

Đầy đủ ba nhân này thì luôn thành tựu chúng sinh, đã thành tựu chúng sinh thì ba nhân đầy đủ, ba nhân đầy đủ thì đạt được Tịnh độ, quốc độ đã thanh tịnh thì chúng sinh thuần tịnh, chúng sinh đã thuần tịnh thì chẳng thuyết các giáo khác, cho nên nói thuyết thanh tịnh. Thọ pháp thì đầy đủ ba tịnh sau, đầy đủ ba tịnh sau thì đồng đức với hóa chủ; cho nên nói "Tất cả tịnh".

Chương trước tuy nói rộng về hạnh thanh tịnh quốc độ mà chưa nói về thứ bậc của hạnh, chương này nói về nghĩa sâu rộng cùng cực chẳng thể đốn siêu, tìm nó thì có đường, bước lên thì có thứ bậc, cho nên nói khởi đầu của phát khởi là khởi tại nơi Trực tâm, cuối cùng thành tựu hoàn toàn thì tất cả đều tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tích tụ đức không ngưng nghỉ là muốn làm tịnh tâm, tâm đã tịnh thì không đức nào chẳng tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Công đức tức là quả thù thắng vi diệu; vốn là chỗ phát khởi, cho nên lấy làm tên.

Chánh văn: Cho nên, này Bảo Tích! Nếu Bồ-tát muốn được Tịnh độ thì nên tịnh tâm mình, tùy nơi tâm tịnh mà cõi Phật tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kết luận để thành tựu nghĩa Tịnh độ. Tịnh độ chính là hình ảnh âm hưởng của tâm vậy. Phàm muốn tiếng vang được thuận thì âm thanh phải hòa dịu, muốn ảnh được ngay thì hình phải thẳng; đây là định số của lý báo ứng.

Chánh văn: Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nhờ oai thần của Phật.

Bản dịch khác ghi: "Thừa Thánh chỉ của Phật". Ngài La-thập nói:

- Thánh chỉ, bản Phạm ghi là thần lực. Thần lực biến chuyển khiến cho người không nghi lại phát sinh niệm nghi.

Chánh văn: Mà suy nghĩ rằng: Nếu Bồ-tát, tâm đã tịnh thì cõi Phật tịnh, vì sao Thế Tôn ta khi còn là Bồtát, tâm của Ngài há chẳng tịnh sao, mà cõi Phật chẳng được tịnh như thế?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sự tịnh hay uế của cõi nước thì hàng Nhị thừa chẳng thể nào biết được. Đức Như Lai sắp nói về nghĩa cõi nước thường tịnh, đẹp xấu do chúng sinh, cho nên mới dùng oai thần phát khởi niệm nghi, để sinh đầu mối cho ngôn luận sau này, vì thế mà nói là "Thừa oai lực".

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nghe nói sự tịnh liền chấp chặt tại sự, lại mê lầm nghĩa không uế, cho rằng cát đá trái với diệu hạnh, vì thế biểu thị tâm khó quyết định; ngài Xá-lợi-phất thật ra thông đạt tất cả, trụ ở giai vị Bất túc, nhưng có thể vì chẳng ngộ, nên khởi niệm này để trình bày điều chúng hoài nghi, đó là do ứng cơ mà tạo ra, vốn từ nơi Phật tuệ mà hiện. Nay đã nêu chẳng phải là mình nói, há có luống dối ư?

Chánh văn: Đức Phật chẳng biết tâm niệm ấy nên nói rằng: "Mặt trời, mặt trăng há chẳng thanh tịnh ư, mà người mù chẳng thấy?" Xá-lợi-phất đáp rằng: "Chẳng phải! Bạch Thế Tôn! Đó là lỗi của người mù, chẳng phải là lỗi của mặt trời, mặt trăng!". "Này Xá-lợi-phất! Vì chúng sinh có tội chướng, nên chẳng thấy cõi Phật thanh tịnh của Như Lai, chứ chẳng phải lỗi ở Như Lai".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mặt trời, mặt trăng há chẳng sáng ư? Chẳng thấy được là do mắt mù; cõi Phật há chẳng tịnh ư? Vì do có tội cấu mà chẳng thấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Mặt trời, mặt trăng chiếu rọi, tất cả vật đều hiện sắc tướng, mà người mù chẳng thấy, vậy mặt trời, mặt trăng có lỗi ư? Phật cũng thế, khi xưa tu hành là để giáo hóa chúng sinh, không có gì chẳng cùng tận, chẳng có cõi cát đá, nhưng chúng sinh có tội, cho nên thấy cõi uế này mà chẳng thấy cõi không có cát đá kia, lỗi chẳng phải nơi Như Lai.

Chánh văn: Này Xá-lợi-phất! Cõi nước của Ta thanh tịnh như thế mà ông chẳng thấy!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước do cõi này mà sinh nghi, nên bây giờ ngay cõi này để nói về tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nói chẳng tịnh là tội nơi chúng sinh, thế thì yếu chỉ về tịnh rõ ràng thuộc về Phật, cho nên nói: "Cõi nước của Ta thanh tịnh", nhưng Xá-lợi-phất y cứ theo uế để lập nghi là chẳng thấy. Nói "mà" là lời thương xót Xálợi-phất.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, Phạm vương Loa Kế nói với ngài Xá-lợi-phất rằng: "Chớ nên nghĩ như thế! Cho rằng cõi Phật này không tịnh. Vì sao? Vì tôi thấy cõi nước của Đức Thích-ca Mâu-ni thanh tịnh như cung trời Tự tại.

Ngài La-thập nói:

- Cõi Phật thanh tịnh có nhiều bậc khác nhau, hoặc tịnh như Tứ thiên cho đến Lục thiên, hoặc như Phạm thiên cho đến Tịnh cư thiên, hoặc hơn cả Tịnh cư thiên; vượt trên cả Tịnh cư thiên thì chỉ là nơi Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ sinh về. Vì hợp với tâm ưa thích của chúng sinh nên quốc độ hiện chẳng đồng. Cõi mà Loa Kế thấy được thì giống như cung trời Tự tại, đó chỉ là cảnh thấy thích hợp với Loa Kế, mà chưa thấy cùng tận được cõi tịnh ấy. Văn sau nói: "Ví như cõi Phật Bảo Trang Nghiêm", đầu tiên là cõi tịnh chân báo ứng của Đức Thích-ca, cõi Tịnh tức ở ngay nơi thế giới này, như phẩm Vô Lượng Thọ kinh Pháp Hoa đã nói. Đây là cõi tịnh uế đồng xứ mà chẳng xen lẫn, giống như văn sau nói: "Trong một bát mà có hai món cơm khác nhau, ứng hợp với hai loại chúng sinh".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm đồng âm thanh thì hòa nhau, đồng quan điểm thì thuận nhau. Phạm vương tức là pháp thân Đại sĩ, vì nương theo Phật tuệ, cho nên chỗ thấy đều tịnh, nhân chỗ thấy mà chứng ngộ. Hơn nữa cõi chân thật của Phật vượt ngoài ba cõi, há chỉ tịnh như cung trời Tự tại thôi ư? Đây là Loa Kế nói ra đồng với chỗ thấy của ông vậy. Ngài Xá-lợi-phất ở cõi người thì thấy cõi nước toàn là cát đá, Phạm vương sống ở cõi Trời thì thấy cõi nước như Thiên cung; chỗ thấy của các loài mỗi mỗi cũng bất đồng như thế. Nghĩa về cõi Phật ứng hiện ở tại đây vậy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phạm vương Loa Kế tùy thích nói sinh tử, mà lệch suy là mình đồng ở tại ba cõi thọ phước báu là tịnh, biết người không có phước thì nhận lấy cõi uế của Đức Thích-ca, mà cho đó đồng với Thiên cung không khác, để chất vấn việc ngài Xá-lợi-phất không thông đạt là rất mê hoặc vậy.

Chánh văn: Xá-lợi-phất nói rằng: "Tôi thấy cõi này toàn là gò nổng, hầm hố, gai góc, cát sỏi, đất đá, núi non, đầy dẫy dơ xấu như thế". Ngài Tăng Triệu nói:

- Mỗi mỗi đều dùng chỗ thấy của mình để chứng minh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy có nghe lời nói trước kia, nhưng còn chấp sự dơ xấu, cho nên lại nói điều mình thấy để trình bày chỗ nghi ngờ.

Chánh văn: Phạm vương Loa Kế nói rằng: "Thưa Nhân giả! Vì tâm ngài có cao thấp, chẳng nương vào Phật tuệ, cho nên thấy cõi nước chẳng tịnh vậy".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn sự vạn hình đều do tâm mà thành tựu, tâm đã có cao thấp, thì gò nổng hầm hố hiện ra vậy.

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Bậc Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh, nương vào Phật tuệ, nên thấy cõi Phật này thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có tâm bình đẳng đối với tất cả chúng sinh, thâm nhập Phật tuệ, vậy tịnh nghiệp đã đồng, thì chỗ thấy cũng đồng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm đã có cao thấp, tức y cứ vào việc thấy đất đá mà đặt nghi vấn, thế thì đó là căn cứ theo sự hơn kém của chúng sinh. Vả lại, chẳng nương vào Phật tuệ là còn cõi Ứng hóa ư? Ắt đó là chỗ ngộ, cho nên chỉ thấy bất tịnh. Nếu theo lý lìa ác thì chúng sinh ở cõi cát đá và người ở cõi tịnh bình đẳng chẳng khác. Lại nương vào Phật tuệ mà quán, cho nên không gì thấy chẳng tịnh.

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Phật dùng ngón chân ấn trên đất, tức thời cõi tam thiên đại thiên liền được bao nhiêu trăm ngàn trân bảo trang nghiêm rực rỡ, giống như cõi Vô lượng công đức bảo trang nghiêm của Đức Phật Bảo Trang Nghiêm. Tất cả đại chúng thấy vậy đều khen là điều chưa từng có, và tự thấy mình ngồi trên tòa sen báu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi Phật thường thanh tịnh, đâu có đợi biến hiện mới có trang nghiêm? Ấn ngón chân trên đất là biến đổi chỗ thấy do tội nghiệp sinh của đại chúng vậy. Cõi Bảo trang nghiêm là cõi Tịnh độ thù thắng nhất, nên lấy làm dụ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng thần lực biến cõi nước là để hiển thị ý nghĩa ra khỏi uế là tịnh, dụ cho việc cát đá tuy uế, nhưng đến khi lìa ác thì đâu có gì khác với tịnh. Vả lại, hiện thần biến này để biểu thị các pháp không có tướng nhất định, hầu ngăn trừ tình chấp về uế, nhận lấy yếu chỉ về tịnh.

Chánh văn: Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất rằng:

"Ông hãy xem cõi Phật thanh tịnh này!".

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói "Hãy xem! Tức là hãy nhờ vào cõi nghiêm tịnh để hiểu nghĩa không có uế, đối với thật mà hiện cũng không có sự tịnh độ.

Chánh văn: Xá-lợi-phất nói rằng: "Dạ, bạch Thế Tôn! Từ trước đến giờ con chưa từng thấy, chưa từng nghe, mà nay cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh đều hiện rõ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ cõi tịnh cho người chưa nghe, cũng như khai mở điếc đui để thấy nghe hình ảnh âm thanh vậy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã ngộ được nghĩa này mà cứ tự nghi; từ trước gọi là "Vốn", cho nên nói "vốn chưa thấy nghe". Từ chỗ chẳng thấy nghe mà ngộ, thì cõi Phật tốt đẹp thanh tịnh đều hiện.

Chánh văn: Đức Phật nói với Xá-lợi-phất rằng: "Cõi Phật của Ta luôn thanh tịnh như thế, nhưng vì muốn độ những người có căn cơ thấp kém, nên thị hiện cõi nước dơ xấu bất tịnh này.

Ngài La-thập nói:

- Nếu tùy theo tội phước mà lập tịnh uế thì chẳng phải là thị hiện, nhưng nói thị hiện, tức phải có nghĩa thị hiện. Tức chư Phật vì chúng sinh mà hiện tịnh ẩn giấu bất tịnh; hiện tịnh ẩn bất tịnh thì không lợi ích cho chúng sinh, vì thế tùy hiện mà chẳng ẩn là nghĩa thị hiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

Nhìn từ Phật mà nói, nên thường tịnh như thế, vì ứng hợp với kẻ hạ liệt bên ngoài, cho nên có bất tịnh đồng như cõi kia.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nói là đồng thì không khác với cõi kia. Xót thương kẻ thấp kém, cho nên thị hiện như cõi bất tịnh.

Chánh văn: Ví như chúng Thiên đồng có một loại bát báu ăn cơm, nhưng tùy phước đức mà màu cơm khác nhau. Như thế, Xá-lợi-phất! Nếu tâm thanh tịnh thì liền thấy cõi này có công đức trang nghiêm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người mới sinh Thiên, muốn cùng thử biết công đức nhiều hay ít, thì dùng một loại bát báu đựng cơm của cõi Trời, lấy cơm trời cực trắng hay không trắng để so sánh. Nếu người phước nhiều thì khi đưa cơm vào miệng, màu cơm vẫn không đổi, nếu người ít phước khi đưa cơm vào miệng, màu cơm sẽ biến đổi. Trong bát thì cơm vẫn một màu, đến nơi tay thì khác nhau; vậy cơm đâu có khác, khác là do từng vị trời. Như thế cõi Phật khác nhau, theo đó có thể biết.

Ngài Đạo Sinh nói:

- So sánh Phạm thiên và Xá-lợi-phất, nếu tuệ tâm trong lặng sáng tỏ, thì thấy cõi nước có công đức trang nghiêm, nếu từ tâm tối tăm mê mờ mà nhìn thì cho rằng cõi nước là dơ uế, chứ chẳng phải cõi Phật như thế.

Chánh văn: Trong khi Đức Phật hiện ra cõi Phật trang nghiêm này, năm trăm vị trưởng giả được Bảo Tích đưa đến đã đạt được Vô sinh pháp nhẫn, tám vạn bốn ngàn người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phát khởi việc hiện cõi Phật, chủ yếu là vì việc này. Vô sinh pháp nhẫn đồng với Bất khởi pháp nhẫn nói ở trước. Nhẫn tức tuệ tánh. Vì thấy pháp vô sinh, tâm trí vắng lặng, đạt được sự không thoái, nên gọi là Vô sinh pháp nhẫn.

Chánh văn: Đức Phật thâu nhiếp Thần túc, thế giới lại trở về như cũ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải là phần của mình thì chẳng thể ở lâu, vì thế trả về chỗ thấy của đại chúng.

Chánh văn: Cầu Thanh văn thừa. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo hạ thừa chẳng phải là Độc giác, vì cần phải có thầy chỉ dạy mới thành đạo, nên gọi là Thanh văn thừa, cũng gọi là Đệ tử thừa.

Chánh văn: Ba mươi hai ngàn trời, người, biết được pháp hữu vi vô thường, xa trần lìa cấu, được pháp Nhãn tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi nước uế mà có thể biến thành tịnh, tịnh mà trở lại uế, do đó mà ngộ được vô thường, nên được pháp Nhãn tịnh. Pháp Nhãn tịnh là thuộc đạo của Tu-đà-hoàn, vừa thấy dấu vết của đạo (đạo tích), nên được tên pháp nhãn, xa lìa tám mươi tám kết sử trần cấu.

Chánh văn: Tám ngàn Tỳ-kheo chẳng thọ các pháp, các lậu đã tận, ý được giải thoát.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đạo không chấp trước, đối với các pháp chẳng thọ chẳng nhiễm; lậu tận tức chín mươi tám kết lậu đã tận, cho nên ý được giải thoát, thành A-la-hán.

QUYỂN 2

Phẩm 2: PHƯƠNG TIỆN

Ngài La-thập nói:

- Phẩm này nói về đức của ông Tịnh Danh, đó chẳng phải là ý của người kết tập kinh; vì phương tiện và biện tài của ông ấy, thường được Thế Tôn khen ngợi; cho nên người kết tập kinh y theo những điều đã nghe để nêu lên tự đức.

Chánh văn: Bấy giờ, trong thành lớn Tỳ-da-ly có một ông Trưởng giả tên là Duy-ma-cật, xưa từng cúng dường vô lượng chư Phật.

Ngài La-thập nói:

- Sắp thuật về đức của ông ấy, trước nói về nguyên do tu đức.

Chánh văn: Trồng sâu cội lành.

Ngài La-thập nói:

- Đây là nghiệp công đức. Ngài Tăng Triệu nói:

- Lập đức nơi các bậc Thánh trước, nên gốc thiện được trồng sâu. Kinh này phát khởi là từ nơi ngài Tịnh Danh, những lời nói vi diệu, ngôn từ sâu xa của ông được ghi chép đầy đủ ở sau. Người tập kinh, muốn lưu giữ mãi người này đến mai sau để hoằng đạo giáo, nên một phẩm này toàn là nói về đức của người ấy.

Chánh văn: Được Vô sinh nhẫn.

Ngài La-thập nói:

- Đây là nghiệp minh tuệ (tuệ sáng tỏ). Như Lai đã rốt ráo chứng đạo, thì lấy trí làm tên. Bồ-tát đã thấy nhưng chưa được cùng tận, chỉ có thể kham nhẫn lãnh thọ không thoái, nên lấy nhẫn làm tên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sở dĩ tuệ vô sinh của Bồ-tát chỉ gọi là nhẫn, bởi vì Đại giác chưa thành, trí lực còn yếu kém; tuy đã ngộ vô sinh, nhưng chỉ là tâm kham nhẫn lãnh thọ mà thôi, chưa được an nhiên tự tại; cho nên chỉ gọi là nhẫn. Còn Như Lai thì trí lực đã đầy đủ, tự tại đối với pháp, hằng trụ nơi an nhiên, cho nên không đặt tên nhẫn.

Chánh văn: Biện tài vô ngại.

- Đã đầy đủ hai nghiệp thì dùng biện tài thuyết pháp giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là bảy biện tài.

Chánh văn: Du hý thần thông.

Ngài La-thập nói:

- Nhờ có thần thông mà làm rộng lớn công đức giáo hóa, cũng dùng sức thần thông để minh chứng cho biện tài, như Bồ-tát Long Thọ luận nghị với ngoại đạo. Ngoại đạo hỏi rằng: "Trời hôm nay đang làm gì?". Ngài Long Thọ đáp: "Trời đang đánh với A-tu-la"; lại hỏi: "Lấy gì làm chứng cho việc này?". Tức thời Bồ-tát hiện chứng cứ, nào là đao thương gãy nát và đầu thân A-tu-la từ trên không rơi xuống đất, lại thấy cả việc chư Thiên và A-tu-la lập bày thế trận đối nhau trên đó. Ngoại đạo nhìn thấy chứng cớ liền kính phục biện tài của Bồ-tát. Thần thông minh chứng cho biện tài là như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh ghi: "Bồ-tát được năm thông", lại nói: "Được sáu thông". Vì được Vô sinh nhẫn, các kết sử của ba cõi tận trừ, thì mới bằng Nhị thừa, cho nên phải nói sáu mới bằng Như Lai. Vì kết tập chưa tận, cho nên nói có năm.

Chánh văn: Chứng được Tổng trì.

Ngài La-thập nói:

- Trí tuệ là năng trì, thật tướng cũng gọi là trì, còn các nghĩa trì khác thì như luận Đại Trí Độ đã nói.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghĩa Tổng trì như trên đã giải thích. Kinh nói: "Có năm trăm Tổng trì, cũng có vô lượng Tổng trì".

Chánh văn: Đạt được vô úy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức bốn Vô sở úy của Bồ-tát. Chánh văn: Hàng phục ma oán. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn ma làm cho ngã lao nhọc, dẫn đến oán trách.

Chánh văn: Thâm nhập pháp môn.

Ngài Tăng Triệu ghi: Nghĩa sâu xa của các pháp có vô lượng môn, tất cả đều khéo thấu hiểu, chứng nhập.

Chánh văn: Khéo léo nơi Trí độ, thông đạt được phương tiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

Đến bờ thật trí gọi là khéo nơi Trí độ. Sức vận dụng vô cùng gọi là đạt phương tiện.

Chánh văn: Thành tựu đại nguyện.

Ngài La-thập nói:

- Lúc mới phát tâm thì nguyện chưa lớn, hoặc đã lớn mà chưa thành. Đã lớn mà thành chỉ có Bồ-tát Pháp Nhẫn. Như bốn mươi tám nguyện của Đức Phật Vô Lượng Thọ, là đại nguyện vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đại nguyện có thể sánh với bốn mươi tám nguyện của Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Chánh văn: Biết rõ nơi hướng đến của tâm chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nơi hướng đến của tâm chúng sinh có muôn vạn nẻo không đồng, tất cả đều biết rõ.

Chánh văn: Lại thường phân biệt được các căn cơ lợi độn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các căn lợi độn của ba thừa thật khó biết, mà vị Bồ-tát này lại có thể phân biệt rõ.

Chánh văn: Đã ở lâu nơi Phật đạo, tâm đã thuần thục, quyết định Đại thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát trụ Địa thứ bảy trở lên mới được quyết định.

Chánh văn: Các việc làm đều khéo suy lường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các sự tạo tác của thân, miệng, ý đều có trí tuệ hiện tiền, cho nên việc làm chẳng sai trái.

Chánh văn: Trụ nơi oai nghi Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cử động hay dừng trụ đều chẳng mất oai nghi của bậc Thánh. Bản khác ghi: "Đầy đủ oai nghi của Phật".

Ngài La-thập nói:

- Tức có thể biến thân làm Phật, cử động đến đi, dừng trụ đều như Phật.

Chánh văn: Tâm lớn như biển.

Ngài La-thập nói:

- Biển có ba đức:

1. Sâu rộng vô biên.

2. Trong sạch, chẳng dung nạp các vật dơ uế.

3. Tích tụ vô lượng trân bảo.

Ba đức của Bồ-tát, nghĩa cũng đồng như thế. Ngài Tăng Triệu ghi: Biển có năm đức:

1. Trong sạch chẳng dung chứa tử thi.

2. Có nhiều châu báu quý.

3. Rồng lớn trút mưa xuống, giọt mưa như trục bánh xe mà biển chẳng tràn đầy.

4. Gió và nắng chẳng thể làm khô cạn.

5. Sâu thẳm khó dò.

Tâm của bậc Đại sĩ thanh tịnh chẳng dung nạp thây chết phá giới, gió nắng tà ma chẳng thể làm suy tổn, phát khởi của báu tuệ minh, thọ nhận mưa pháp lớn của Phật mà chẳng dư thừa, trí tuệ ấy sâu thẳm khó lường, vì thế mà nói là rộng lớn như biển.

Chánh văn: Được chư Phật khen ngợi và các đệ tử,

Đế Thích, Phạm vương, vua... cung kính. Vì muốn độ chúng sinh, nên ông dùng phương tiện khéo léo cư trụ ở thành Tỳ-da-ly.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Được chư Phật khen, được trời người cung kính, việc ấy đâu có gì vui thích? Vì muốn độ người, cho nên thị hiện sống ở Tỳ-da-ly.

Chánh văn: Có của cải nhiều vô lượng để nhiếp độ những kẻ nghèo khổ; giữ gìn giới hạnh thanh tịnh để nhiếp phục người phá giới; dùng hạnh nhẫn nhục nhu hòa để thu phục kẻ giận dữ; dùng đại tinh tấn để độ người biếng nhác; dùng nhất tâm thiền định để nhiếp phục người tán loạn tâm ý; dùng tuệ quyết định để nhiếp phục kẻ vô trí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Chí nhân chẳng bao giờ hiện hành, nay hiện hành sáu Độ là để nhiếp phục sáu điều tệ.

Chánh văn: Tuy là hàng bạch y mà giữ gìn luật hạnh thanh tịnh của Sa-môn.

Ngài Tăng Triệu ghi: Sa-môn là từ gọi chung những người xuất gia, Trung Quốc dịch nghĩa là Cần hành, tức siêng năng tu hành đến Niết-bàn.

Chánh văn: Tuy sống đời cư sĩ tại gia mà chẳng đắm trước ba cõi (Tam giới).

Ngài Tăng Triệu ghi: Tức ngôi nhà Tam giới.

Chánh văn: Thị hiện có vợ con mà thường tu Phạm hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phạm hạnh thanh tịnh tức là hạnh vô dục.

Chánh văn: Hiện có quyến thuộc mà thường thích xa lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tại gia như ngục tù nên nói là xa lìa. Tại chúng (đông người) như ở nơi đồng trống.

Chánh văn: Tuy mặc các quần áo tốt đẹp, nhưng lại dùng tướng quý và vẻ đẹp để trang nghiêm thân.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân mặc áo quần thế tục, nhưng trong đầy đủ các tướng quý và vẻ đẹp.

Chánh văn: Tuy có uống ăn mà thường dùng thiền duyệt làm vị.

Ngài Tăng Triệu ghi: Ngoài dùng món ăn thế gian mà bên trong dùng vị cam lộ thiền duyệt.

Chánh văn: Nếu đến những nơi bài bạc, hát ca thì tùy thuận mà độ người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân vui chơi ca hát mà ngăn dứt sự vui chơi ca hát.

Chánh văn: Thọ nhận các pháp của dị đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hiện thọ học các pháp của ngoại đạo.

Chánh văn: Chẳng hủy hoại chánh tín.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đồng với dị đạo tức muốn làm cho dị đạo đồng với ta, vậy há có thể hủy hoại chánh tín ư? Thọ tức là thọ học pháp của dị đạo.

Chánh văn: Tuy hiểu rõ các sách thế tục mà thường thích Phật pháp.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tuy hiểu biết rõ ràng tất cả sách thế gian, nhưng sở thích chính là chân pháp.

Chánh văn: Tất cả đều cung kính, là bậc tối thắng nhất trong các bậc được cúng dường.

Ngài La-thập nói:

- Các bậc có đức luôn được cúng dường, những bậc được cúng dường này lại cúng dường bậc Hiền Thánh này, nên gọi là tối thắng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mọi người đều cung kính, tất cả đều cúng dường, nên gọi là bậc cúng dường tối thắng.

Chánh văn: Giữ gìn chánh pháp, nhiếp phục kẻ lớn người nhỏ.

Ngài Tăng Triệu ghi: Ở nước ngoài, các nơi đều lập Tam lão là những người có đức làm vị chấp pháp để giải quyết các việc tranh tụng trong làng xóm, ngài Tịnh Danh thị hiện làm người nắm giữ pháp thế tục, nhân đó mà lưu thông đạo pháp.

Chánh văn: Tất cả các việc làm ăn hùn hạp tuy có đạt được lợi ích thế tục nhưng chẳng lấy làm vui.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đối với pháp thân Đại sĩ thì tất cả ngói gạch đá sỏi đều là châu ngọc, nhưng thế thì chúng sinh chẳng quý ân huệ của Đại sĩ, cho nên mới hiện đồng như thế tục cầu lợi, chứ đâu có gì vui thú?

Chánh văn: Dạo chơi nơi ngã tư đường, nhưng làm lợi ích chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngã tư đường là nơi đông người tụ tập qua lại. Tùy những việc chúng sinh cần cầu mà làm lợi ích.

Chánh văn: Dự vào việc trị chánh mà cứu giúp tất cả.

Ngài Tăng Triệu ghi: Trị chánh tức vị quan phụ trách về luật pháp. Tức dùng chánh pháp dẫn dắt làm cho nhân dân không hành tà vọng, cứu giúp tất cả.

Chánh văn: Vào các giảng đường, dùng pháp Đại thừa dẫn dắt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở Thiên Trúc có rất nhiều dị đạo, mỗi mỗi đều cho mình là hơn hết, nên nước này có lập ra giảng đường. Những người nào muốn luận hơn kém, muốn xiển dương đạo của mình thì nổi trống tập họp mọi người tại giảng đường để luận biện. Người thắng là thầy, kẻ thua làm đệ tử. Ngài Tịnh Danh đã lên tòa ở đây nhiếp phục ngoại đạo, sau đó dùng Đại thừa dẫn dắt, làm thầy của mọi người.

Chánh văn: Vào các trường học mở mang cho kẻ mới học.

Ngài La-thập nói:

- Như Bồ-tát Thích-ca vào trường học nói Phạm thư, Phạm thiên đến làm chứng cho mọi người tin nhận. Ở đây cũng giống như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

Học đường là nơi những kẻ mới học đến học tập mở mang, ví như khi Thái tử vào học thì hiện ra Phạm thư.

Chánh văn: Vào nhà dâm chỉ bày tội lỗi của dục.

Ngài La-thập nói:

- Xưa ở nước Ấn Độ có một người con gái, thân thể màu vàng ròng, có một Trưởng giả tên là Đạt-mộ-đa-la, hai người đồng chở một ngàn lượng vàng vào rừng trúc, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi biến làm một Cư sĩ thân mặc áo quần rất quý giá đẹp đẽ đứng bên đường, người nữ thấy được, tâm tham liền khởi. Ngài Văn-thù biết được liền nói rằng: "Cô muốn được y phục này, thì nên phát tâm Bồ-đề". Người nữ liền hỏi: "Tâm Bồ-đề là gì?". Đáp rằng: "Chính là thân của cô". Hỏi: "Vì sao như thế?". Đáp: "Bồ-đề, tánh là không, thân của cô cũng không, vì thế nói là thân của cô". Người nữ này đã từng trồng cội lành vào thời quá khứ Phật Ca-diếp, nên nghe nói như thế liền được Vô sinh pháp nhẫn. Được Vô sinh pháp nhẫn rồi, lại muốn chỉ bày tội lỗi của dục, nên cùng với Trưởng giả vào rừng trúc, khi đã vào rừng trúc thì người nữ bèn biến hiện thân thành một tử thi sình trương hôi thối, Trưởng giả thấy thế rất sợ hãi, liền đến trụ xứ của Phật thưa hỏi, Đức Phật thuyết pháp cho Trưởng giả nghe, vị này cũng được Vô sinh pháp nhẫn. Chỉ bày tội lỗi của dục có lợi ích như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở Thiên Trúc các dâm nữ lập làng xóm riêng, phàm kẻ sĩ chẳng bao giờ ghé mắt đến, nhưng bậc Đại sĩ hiện đồng dục như họ là để sau đó chỉ bày tội lỗi của họ.

Chánh văn: Vào các quán rượu mà giữ vững ý chí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Rượu đưa đến mất ý chí, mở lối buông lung.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng Trưởng giả là bậc tôn quý trong hàng Trưởng giả, giảng nói pháp thù thắng.

Ngài La-thập nói:

- Trưởng giả, như nay là bốn dòng họ tôn quý. Pháp Thanh văn, nếu đối với phàm phu thì thù thắng, cứ như thế chuyển dần đến pháp Phật là tối thắng.

Ngài Tăng Triệu ghi: Hàng phàm phu, nếu dùng oai lực thì khiến họ quy thuận, dùng lý thì họ khó tin theo, cho nên bậc Đại sĩ thường ở địa vị tôn quý để hoằng dương đạo xuất thế. Trưởng giả là những người giàu có trọng vọng, phần nhiều tự sống với pháp thế gian mà chẳng hoằng truyền pháp xuất thế thù thắng.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng Cư sĩ là bậc tôn quý nhất trong hàng Cư sĩ.

Ngài La-thập nói:

- Ở Thiên Trúc, những người bạch y giàu có gọi là Cư sĩ.

Chánh văn: Mà đoạn trừ tâm tham đắm cho họ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tích chứa một ức tiền thì đứng vào hàng Cư sĩ, buôn bán sinh lợi càng nhiều thì tâm tham đắm càng sâu. Chánh văn: Nếu ở trong hàng Sát-đế-lợi là bậc tôn quý trong hàng Sát-đế-lợi.

Ngài La-thập nói:

- Đây là âm tiếng Phạm, gồm hai nghĩa là nhẫn nhục và sân nhuế. Người này có thế lực rất lớn, thường sinh giận dữ, nhẫn chịu các khổ, ương ngạnh khó điều phục, nhân đó mà gọi là Sát-lợi.

Chánh văn: Dạy cho họ nhẫn nhục.

Ngài Tăng Triệu ghi: Sát-lợi là dòng vua chúa, Hán dịch là Điền chủ. Vào thời kiếp sơ, con người ăn những vị của đất, kế đó ăn các loại lúa mọc tự nhiên, sau lòng người ngày càng xảo trá, mỗi mỗi tự chiếm đất riêng, mới lập ra những người có đức để phân chia bình đẳng ruộng đất. Đó là khởi đầu của chế độ vua chúa, từ đó thừa kế nhau mà lấy làm tên gọi. Hạng người này tôn quý, tự tại, phần nhiều cường bạo, quyết ý, chẳng chịu nhẫn nhục nhu hòa.

Chánh văn: Nếu trong hàng Bà-la-môn thì là bậc tôn quý trong hàng Bà-la-môn.

Ngài La-thập nói:

- Những hạng người có học vấn rộng, chuyên theo tà đạo, tự thị với trí tuệ, tự cao kiêu mạn gọi là Bà-la-môn.

Chánh văn: Diệt trừ kiêu mạn cho họ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bà-la-môn, Hán dịch là ngoại ý. Hàng Bà-la-môn có kinh điển riêng, đời đời truyền thừa nhau, lấy việc học đạo làm sự nghiệp; hoặc ở tại gia hoặc xuất gia tu khổ hạnh. Phần nhiều tự ỷ vào đạo thuật của mình mà khinh mạn người khác.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng đại thần thì là bậc tôn quý trong hàng đại thần, dùng chánh pháp chỉ dạy.

Ngài Tăng Triệu ghi: Chánh pháp tức là pháp cai trị nhân dân. Tức dạy họ dùng chánh pháp trị nước, dùng đạo pháp giúp đỡ bảo hộ.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng vương tử thì là tôn quý trong hàng Vương tử, dạy cho họ trung hiếu.

Ngài Tăng Triệu ghi: Ngôi vị kế thừa rất nặng, nên cần phải lấy trung hiếu làm đầu.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng nội quan là bậc tôn quý trong hàng nội quan, dạy sự chánh trực cho cung nữ.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng phải như nội quan ngày nay (thời ngài Lathập); ở Thiên Trúc theo phép tắc phải tuyển chọn những bậc Trưởng lão nhiều đời trung lương, có đức cao trọng làm nội quan, để chỉ dạy uốn nắn các cung nữ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Yêu mị tà vạy là tâm của người nữ, cho nên cần phải dạy cho họ chánh trực.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng thứ dân thì là bậc tôn quý trong hàng thứ dân, khuyên bảo khiến làm việc phước đức.

Ngài La-thập nói:

- Xưa có người thấp hèn vào một thành ấp kia, thấy một người ăn mặc đẹp đẽ sang trọng cưỡi một con ngựa lớn, tay cầm lọng báu, liền xướng lời rằng: "Chẳng được", ba lần như thế. Người kia lấy làm lạ bèn hỏi rằng: "Ta đẹp đẽ sang trọng như thế! Vì sao ngươi lại nói chẳng được?". Người thấp hèn kia nói rằng: "Ngài trước kia đã trồng cội phước đức, nay được quả báo này, có oai đức, y phục sang trọng khiến người kính ngưỡng. Còn tôi xưa kia chẳng gieo trồng phước đức, nên hôm nay thô lậu hèn hạ thế này. Vì so sánh với ngài thì tôi như cầm thú, cho nên tự nói chẳng được, chứ chẳng phải hủy nhục ngài." Người thấp hèn nhân đó cảm thán, gắng sức tu tập tất cả phước nghiệp. Hình tướng tôn quý còn có thể cảm ngộ được người, lợi ích đã lớn như thế, huống hồ dùng đạo pháp giáo hóa ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì phước lực cạn mỏng, nên sinh làm thứ dân.

Chánh văn: Nếu trong hàng Phạm thiên thì là bậc tôn quý trong hàng Phạm thiên, dạy cho họ trí tuệ thù thắng. Ngài La-thập nói:

- Trong Tiểu thừa, Phạm thiên có ba loại, trong Đại thừa có bốn loại, còn ba địa trên cũng như thế. Phạm vương tuy có định tuệ, nhưng chẳng phải là pháp xuất thế gian cần yếu, vì thế phải dạy Phật tuệ cho họ, nên nói là thù thắng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phạm thiên phần nhiều chấp vào thiền phước, chẳng cầu tuệ thù thắng xuất thế gian.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng Đế thích thì là bậc tôn quý trong hàng Đế Thích, mà thị hiện vô thường.

Ngài La-thập nói:

- Phạm vương thì cấu uế mỏng, tâm chấp trước cạn; Đế Thích thì ái nặng, tâm chấp trước sâu, vì thế mà phải hiện vô thường.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đế thích sống ở cung trời Đaolợi, tự vui thú với năm dục, nhìn Đông thì quên Tây, phần nhiều chẳng nghĩ đến vô thường.

Chánh văn: Nếu ở trong hàng trời Hộ thế thì là bậc tôn quý trong hàng Hộ thế, luôn luôn bảo vệ các chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Trời Hộ thế tức là Tứ Thiên vương. Các quỉ, thần ác tàn hại chúng sinh, bốn vị vua trời Hộ thế bảo vệ, chẳng để cho quỉ thần ác kia làm hại. Nay nói tôn quý là vì dùng đạo lực bảo vệ khắp cả mười phương.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn vị trời Hộ thế, mỗi mỗi thống trị một phương, bảo hộ khu vực trực thuộc, làm cho quỉ thần ác không thể xâm hại được.

Chánh văn: Trưởng giả Duy-ma-cật dùng vô lượng phương tiện như thế để làm lợi ích chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân ứng đầy khắp dấu tích hiện không có đầu mối, cho nên nói là vô lượng, ở trên chỉ là lược nêu mà thôi.

Chánh văn: Ông dùng phương tiện hiện thân có bệnh.

Ngài La-thập nói:

- Các phương tiện kể trên là dùng thí và giới để nhiếp thủ chúng sinh, dùng thí giới nhiếp thủ chúng sinh cảm ân huệ ấy; nghe ông ấy bệnh thì người đến thăm bệnh rất đông; người thăm bệnh đông thì công hoằng hóa rộng lớn. Vì thế hiện khắp các phương tiện, sau đó mới dưỡng bệnh.

Chánh văn: Vì ông ấy có bệnh cho nên Quốc vương,

Đại thần, Trưởng giả, Cư sĩ, Bà-la-môn, các Vương tử và các quan thuộc, vô số ngàn người đến thăm bệnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy biến hóa ứng hiện khác phương, vết tích kỳ diệu chẳng phải một, nhưng việc phát khởi kinh này, nguyên là nơi hiện bệnh, cho nên người soạn kinh chỉ nêu riêng việc ấy.

Chánh văn: Vì những người đến thăm bệnh, ông Duy-ma-cật nhân đó dùng thân bệnh để thuyết pháp.

Ngài La-thập nói:

- Muốn nói về thân chứng đạo này chưa tránh khỏi khổ hoạn, huống gì kẻ vô đức mà có thể bảo tồn ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đồng với ta thì dễ tin, khác với ta thì khó thuận, nên nhân nơi thân bệnh mà nói về khổ hoạn khi có thân. Chánh văn: "Này các nhân giả! Thân này là vô thường".

Ngài La-thập nói:

- Chư Phật diễn pháp, trước tiên dùng bảy việc để phát khởi tâm người, sau đó nói bốn Đế. Bảy việc là gì?

1. Bố thí.

2. Trì giới.

3. Quả báo sinh Thiên.

4. Thuyết vị. Vị tức là vị ưa thích.

5. Quả báo quá hoạn, tức tuy có một ít vui mà các khổ nhiều vô lượng. Chúng sinh mê nơi một ít vui thú mà chẳng biết các khổ, giống như đặt một hạt cải trên đỉnh núi, chỉ thấy hạt cải mà chẳng thấy Thái sơn.

6. Dạy xa lìa thế gian.

7. Tán thán công đức Niết-bàn.

Nay chẳng nói bảy pháp mà nói thẳng vào vô thường, là vì muốn dùng hội này tích tập các đức, rồi thuần tuệ thức, tu tập các minh. Vả lại, vô thường là tướng đầu tiên của không, muốn nói về không trước phải nói vô thường, vì thế chỉ nói về thân mà chẳng nói đến pháp khác. Hơn nữa tâm ít sinh chấp trước đối với các pháp khác.

Chánh văn: Không lực, không bền chắc.

Ngài La-thập nói:

- Không có lực tạo tác, không có một thể bền chắc, thể không thật có.

Chánh văn: Là pháp chứng hư hoại, chẳng thể tin.

Ngài Tăng Triệu ghi: Lực làm cho thân hư hoại rất mạnh, khó có thể giữ gìn được, ai có thể tin nó vĩnh viễn bền chắc được? Đây là nghĩa vô thường.

Chánh văn: Là nơi khổ, não.

Ngài La-thập nói:

- Vì vô thường nên khổ, khổ cho nên phiền não sinh. Chánh văn: Và các bệnh tụ tập.

Ngài Tăng Triệu ghi: Khổ là tám khổ, vô lượng khổ, não là chín não, vô lượng não, bệnh tức bốn trăm lẻ bốn bệnh. Đây là nghĩa khổ.

Chánh văn: Này các nhân giả! Thân này như thế, người trí biết rõ, không bao giờ nương gá vào nó. Thân này như bọt nước tụ không thể cầm nắm.

Ngài Tăng Triệu ghi: Cầm nắm bọt tụ không thật là dụ cho quán thân hư giả. Từ đây trở xuống cho đến dụ điện chớp là nói về nghĩa không.

Chánh văn: Thân này như bong bóng nước chẳng lâu dài.

Ngài Tăng Triệu nói:

-Không lâu dài, tựa như nói về nghĩa vô thường, nhưng bọt bóng trên mặt nước hư giả chẳng thật, nên nói chẳng tồn tại lâu dài, như nghĩa không.

Chánh văn: Thân này như sóng nắng, từ khát ái sinh ra.

Ngài Tăng Triệu ghi: Khát nước thấy sóng nắng, lầm cho là nước; ái thấy bốn đại mê chấp là thân.

Chánh văn: Thân này như cây chuối, không bền chắc.

Ngài Tăng Triệu ghi: Cây chuối chỉ có lá và bẹ không có thân.

Chánh văn: Thân này như huyễn, từ điên đảo sinh ra.

Ngài Tăng Triệu ghi: Thấy huyễn là người, thấy bốn đại là thân đều do điên đảo.

Chánh văn: Thân này như mộng, do hư vọng mà thấy.

Ngài La-thập nói:

- Trong mộng hư vọng thấy có, sau khi tỉnh thức thì biết chẳng chân thật.

Chánh văn: Thân này như cái bóng, từ nghiệp duyên sinh.

Ngài La-thập nói:

- Hình ngăn ánh sáng mặt trời, ánh sáng không chiếu đến được, do đó mà sinh bóng. Do vô minh, ba nghiệp ngăn che trí tuệ chân thật, cho nên có thân.

Chánh văn: Thân này như âm vang, thuộc về nhân duyên.

Ngài Tăng Triệu ghi: Thân sinh khởi là do nơi nghiệp duyên, giống như bóng và vang có là do hình và tiếng.

Chánh văn: Thân này như mây nổi, biến diệt trong chốc lát.

Ngài La-thập nói:

- Trong một thoáng liền đổi sắc, chốc lát thì tan hoại, thân cũng như thế, trong chớp mắt thì có biến chuyển từ niên thiếu đến trưởng thành rồi già, bệnh, chết. Từ như bọt tụ đến như điện đều là dụ vô thường, hoặc nói không bền chắc, hoặc dùng không lâu dài, hoặc nói chẳng thật, hoặc nói thuộc nhân duyên, tất cả đều nói về nguyên nhân của vô thường. Còn bốn dụ lớn sau đây là dụ cho không, vô ngã.

Chánh văn: Thân này như điện chớp và niệm niệm chẳng dừng trụ.

Ngài Tăng Triệu ghi: Biến đổi hoại diệt không dừng trụ, tựa như giải thích vô thường, nhưng đều lấy nghĩa hư giả chẳng thật làm chánh, cho nên nói chóng diệt chẳng trụ, giống như giải thích nghĩa không.

Chánh văn: Thân này không có chủ như đất.

Ngài La-thập nói:

- Đất không có một chủ thường trụ, kẻ mạnh thì được; thân cũng như thế, tùy theo sự việc mà biến, bệnh đến thì khổ não, chết đến thì diệt; tụ tán tùy duyên, chẳng được tự tại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm vạn sự, vạn hình đều do bốn đại tạo thành, bên ngoài thì tạo thành đất đá, cỏ cây, sông núi; bên trong thì tạo ra bốn chi, trăm vóc, tụ mà chẳng sinh, tán mà chẳng chết; sinh là bên trong, chết là bên ngoài; trong ngoài tuy khác nhưng các đại vẫn chẳng khác. Nên dùng bốn đại trong và ngoài để so sánh nói về vô ngã. Ví như đất bên ngoài, xưa nay tương truyền kẻ mạnh thì chiếm trước, cho nên không có chủ. Thân này cũng thế, do các duyên mà thành, khi duyên hợp thì có, duyên tan thì lìa, nào có cái gì gọi là chân tể thường nhất? Người chủ của thọ mạng chỉ là một ngã, mà tùy nghĩa lập bốn tên.

Chánh văn: Thân này không có ngã, như lửa.

Ngài La-thập nói:

- Đốt lửa nơi rừng hoang, tạo uy thanh chấn động, như khi dũng sĩ trong quân trận được lập ra để thắng trận, nếu theo thật mà tìm cầu thì chẳng có kẻ địch. Thân này cũng như thế, cử động, nói, làm khởi phát vạn mối, nếu từ mê hoặc mà nhìn thì tựa như có chủ tể, nhưng truy tìm nguyên do thì thật chẳng có ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngang dọc tự do gọi đó là ngã, nhưng lửa cháy bên ngoài là do nơi củi, chứ chẳng phải lửa được tự do, lửa chẳng được tự do thì lửa không có ngã, lửa bên ngoài đã không có ngã thì lửa bên trong cũng như thế.

Chánh văn: Thân này chẳng thọ, như gió.

Ngài La-thập nói:

- Tuy có gió nổi lên, hoặc qua hoặc lại, nhưng do khí tụ tập lưu động mà thành, chẳng thật có một chủ sinh khởi, tồn tại, thân cũng như thế, hít thở ra vào, đi đứng nói năng đều là nhờ vào khí (hơi) mà có động, chẳng thật có thọ.

Ngài Tăng Triệu ghi: Còn mãi chẳng biến đổi gọi là thọ, nhưng gió bên ngoài, do tích tụ khí mà nổi lên thổi dừng đều vô thường, như thế gió không thọ, gió bên ngoài đã không thọ, thì gió bên trong so sánh cũng có thể biết.

Chánh văn: Thân này không nhân (người) như nước. Ngài La-thập nói:

- Lắng trong, sáng sạch, tẩy trừ dơ uế, vuông tròn, thẳng cong, tất cả đều tùy thời mà thích ứng, nếu thật suy tìm người tạo tác thì đó là ai? Thân cũng như thế, thấy biết đứng đi đều do ứng với sự mà thay đổi, nhờ vào duyên mà thành dụng, nương vào số mà thực hành. Nếu xét rõ nguyên nhân thì thật chẳng có người.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tôn quý nhất trong vạn vật mà trước sau chẳng biến đổi gọi là người, nhưng nước ở bên ngoài khéo léo làm lợi ích, biến đổi thành vạn hình, vuông tròn tùy vật chứa, chảy đọng khác nhau, mà thể vẫn chẳng định được. Thể chẳng định thì nước không có cái ngã. Nước ở bên ngoài không có nghĩa ngã, thì nước bên trong so sánh cũng có thể biết được.

Chánh văn: Thân này chẳng thật, bốn đại là nhà.

Ngài Tăng Triệu ghi: Bốn vô thường đã giải thích xong ở trên, từ đây trở xuống chỉ nói về những tội lỗi của thân hư giả đầy các tạp uế. Bốn đại giả hợp cho là thần trạch mà chẳng phải là ngôi nhà thật.

Chánh văn: Thân này là không, vì lìa ngã và ngã sở. Ngài La-thập nói:

- Lìa ngã là chúng sinh không, lìa ngã sở là pháp không. Bốn câu trên là dụ nói về không vô ngã, ở đây là nói thẳng vào nghĩa không vô ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngã là chủ kỳ diệu của thân, ngã sở là vật bên ngoài của tự ngã, như thân và nước, thành, vợ con, vạn vật đều là sở hữu của ngã. Người trí quán thân, thì biết nội thân vắng lặng, hai việc đều lìa.

Chánh văn: Thân này vô tri như cỏ cây, ngói đá.

Ngài La-thập nói:

- Do hội hợp mà tạo thành cái biết (tri), thì chẳng phải là thật biết.

Tìm cầu cái biết này chẳng thể được, đồng như gạch ngói.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân tuy hay xúc chạm nhưng chẳng thể biết, thức hay biết mà chẳng thể xúc chạm, theo tự tánh mà tìm xét thì cả hai đều không biết. Đã nói không biết thì đâu khác gì ngói gạch.

Chánh văn: Thân này vô tác, nhờ vào sức gió mà chuyển.

Ngài La-thập nói:

- Không có chủ tể tạo tác mà luôn tạo tác là do sức gió chuyển động. Từ vô tri đến vô tác đều là giải thích nghĩa không, vô ngã.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tất cả các việc cử động đều do sức gió sai khiến, chứ đâu có ai tạo tác.

Chánh văn: Thân này bất tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Bậc Tu-đà-hoàn tuy thấy được bốn đế, nhưng còn mê hoặc nơi sắc thanh tịnh, cho nên sau bốn vô thường thì kế tiếp nói về bất tịnh. Vả lại, trên đã nói vô thường, khổ, vô ngã, thì đây nói môn bất tịnh; để phá đủ bốn điên đảo, nên đây phải nói bốn pháp quán hạnh. Thực hành quán pháp này rồi sau đó mới chẳng chấp thân, thân đã chẳng chấp thì mới có thể học Pháp thân. Vì thế trước nói pháp xa lìa, sau mới nói Pháp thân.

Chánh văn: Đầy dẫy những dơ xấu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đầy đủ ba mươi sáu vật bất tịnh nơi thân thể.

Chánh văn: Thân này hư giả, tuy có nhờ vào tắm rửa, y phục, uống ăn, nhưng cuối cùng rồi sẽ trở về hoại diệt. Ngài La-thập nói:

- Đây là nói do vô thường làm hoại diệt nên khổ. Từ đây trở xuống đều là dụ nói về khổ, là các khổ về tai họa, bệnh hoạn. Từ câu "như gò giếng" trở xuống là dụ chung cho các khổ sinh, lão, bệnh, tử thật vô lượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy dùng nước thơm tắm rửa, mặc y phục đẹp, nhưng vì chẳng chân thật, nên nào có bền lâu?

Chánh văn: Thân này là tai họa, có một trăm lẻ một bệnh khổ não loạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Một đại tăng trưởng hoặc tổn giảm thì sinh một trăm lẻ một bệnh, bốn đại tăng giảm thì bốn trăm lẻ bốn bệnh đồng thời sinh, nên nói thân này là nơi các tai họa tụ tập.

Chánh văn: Thân này như giếng trên gò (khâu tỉnh). Ngài La-thập nói:

- Khâu tỉnh tức giếng khô trên gò cao. Khi xưa có một người phạm vào pháp vua, sợ hãi chạy trốn, vua sai một con voi say đuổi theo; vì quá sợ, người này nhảy xuống một cái giếng khô, rơi giữa chừng tay nắm được một sợi dây cỏ mục, phía dưới giếng một con rồng dữ đang phun hơi độc, bên cạnh có năm con rắn độc như muốn làm hại, lại có hai con chuột đang cắn dây cỏ sắp đứt, voi dữ đã đến bên miệng giếng. Người này thấy vậy rất khổ não và vô cùng sợ hãi, bỗng trên một cây cao mọc bên giếng có một giọt mật rơi xuống trúng miệng người ấy, người này đắm nơi vị của mật mà quên mất sự sợ hãi. Giếng trên gò dụ cho sinh tử, voi say dụ vô thường, rồng dữ dụ ác đạo, năm rắn độc dụ năm ấm, cỏ mục dụ mạng căn, hai con chuột đen trắng dụ cho ngày đêm, giọt mật dụ cho năm dục, được giọt mật mà quên sự sợ hãi là dụ cho việc chúng sinh được giọt mật năm dục, chẳng sợ khổ.

Chánh văn: Vì bị sự già suy bức bách.

Ngài Tăng Triệu ghi: Thần ở nơi thân bị già chết bức bách, giống như người khốn khổ rơi vào giếng khô bị rồng dữ bức hại. Nhân duyên ghi ở kinh khác.

Chánh văn: Thân này không định.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩ rằng sẽ có chết, nhưng không có kỳ hạn nhất định.

Chánh văn: Vì sẽ phải chết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thọ mệnh hay yểu mệnh tuy không định được, nhưng không thể không chết.

Chánh văn: Thân này như rắn độc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn đại như bốn rắn độc.

Chánh văn: Như giặc cướp.

Ngài Tăng triệu ghi: Năm ấm như năm kẻ giặc.

Chánh văn: Như làng vắng.

Ngài La-thập nói:

- Khi xưa có một người đắc tội với vua, vua muốn ngầm giết hại, nên nhốt bốn con rắn độc vào một chiếc hòm, bảo người ấy canh giữ, lại có năm kẻ giặc cầm dao bảo vệ, có một Thiện tri thức đến bảo người ấy chạy trốn, người ấy liền đến một làng vắng và dừng ở đó. Vị Thiện tri thức lại nói đây là sào huyệt của giặc cướp, nếu dừng ở đây lát nữa giặc cướp đến, ngươi sẽ bị chúng giết hại, cướp đoạt tiền của, hãy mau chóng đến nơi khác mới được an ổn. Người ấy theo lời dạy, bỏ chạy đến nơi khác, đến một con sông lớn thì kết bè vượt sang bờ kia, đến bờ kia rồi mới được an ổn, không còn các khổ hoạn. Vua dụ cho ma, cái hòm dụ cho thân, bốn con rắn dụ cho bốn đại, năm tên giặc dụ cho năm ấm, làng vắng dụ cho sáu nhập, giặc ác dụ cho sáu trần, sông dụ cho sinh tử; Thiện tri thức bảo nên chạy trốn, tức là dụ cho việc Đức Phật và các Bồ-tát dạy chúng sinh nên xa lìa ác ma, bỏ bốn đại, dẹp năm ấm, chúng sinh nghe lời dạy xa lìa ba hoạn nhưng chưa ra khỏi làng xóm, chưa tránh được giặc ác, vì thế lại phải chỉ dạy ngồi trên bè tám Chánh đạo mà vượt qua dòng sinh tử. Vượt qua dòng sinh tử rồi thì an nhiên, không còn làm gì và không còn các khổ hoạn.

Ngài Tăng Triệu ghi: Sáu tình dụ cho làng vắng đều có thật chứng, mà dụ ghi ở kinh khác. Vì thế kinh Niếtbàn ghi: "Quán thân như bốn đại rắn độc, thân này vô thường, luôn bị các loài trùng độc cắn rỉa; thân này luôn là hôi thối, bị tham dục trói buộc, thân này đáng sợ giống như chó chết, thân này thật bất tịnh, chín nơi thường bài tiết ra, thân này như thành trì, có máu thịt gân xương được da bao phủ, tay chân là những lá chắn để có thể đánh lùi giặc, mắt là lỗ trống, đầu là điện đường, tâm vương ở trong đó. Thân thành như thế, chư Phật Thế Tôn đều xả bỏ, còn hàng phàm phu ngu si chấp trước, các Lasát tham dâm, sân hận, ngu si cư ngụ trong đó. Thân này không bền chắc, giống như cây lau, cây y lan, bọt nước, cây chuối. Thân này vô thường, niệm niệm chẳng dừng trụ, giống như điện chớp, nước tuôn, sóng nắng, huyễn hóa, giống như vạch trên nước, vạch qua thì nước liền hợp lại. Thân này dễ hư hoại giống như cây lớn bên bờ sông. Thân này chẳng dài lâu, có thể bị các loài cọp, sói, chim dữ, chó đói ăn thịt, người trí ai mà ham thích thân này? Đâu có thể dùng dấu chân trâu mà chứa nước biển lớn, chẳng thể nói hết thân này là vô thường, bất tịnh hôi thối! Đâu có thể vo tròn đại địa khiến như quả táo... dần dần chuyển thành nhỏ như đình Lịch tử cho đến vi trần, như thế! Chẳng thể nói hết những quá hoạn của thân này. Vì thế nên xả bỏ như bỏ đàm giải.

Chánh văn: Ấm giới và các nhập hợp thành.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ấm là năm ấm, giới là mười tám giới, nhập tức mười hai nhập. Ba pháp này giả hợp thành thân, giống như làng vắng chẳng thể nào nương ở được.

Chánh văn: Này các nhân giả! Nên nhàm chán thân này mà ưa thích Phật thân!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng ta đồng các họa hoạn này, nên xả bỏ từ lâu, nên đồng ưa thích cầu thân Phật.

Chánh văn: Vì sao?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người có kiến giải thiển cận cho rằng thân Phật chính là thể vi diệu của thân hình, chưa tránh khỏi các khổ hoạn lạnh nóng, đâu muốn mong cầu, vì thế sẽ vì họ mà luận về thể cực vi diệu của Pháp thân.

Chánh văn: Thân Phật tức Pháp thân.

Ngài Tăng Triệu ghi: kinh nói rằng: "Pháp thân là thân hư không", không sinh mà không gì chẳng sinh, không hình mà không đâu chẳng hiện hình, vượt ngoài ba cõi, bặt cảnh hữu tâm, ấm nhập chẳng thể gồm thâu, khen tặng chẳng thể đến, lạnh nóng chẳng làm khổ hoạn, sinh tử không thể làm thay đổi thể ấy. Cho nên nếu nói là vật thì vi diệu không hình, chẳng thể nói là có, vì ứng đủ vạn hình nên chẳng thể nói là không, bao trùm tám cực, nên chẳng thể cho là nhỏ; nhỏ chẳng thể dung chứa được gì, nên chẳng thể cho là lớn. Nếu có thể vào tử ra sinh thì rỗng rang hay hóa hiện vô cùng; biến khắp mười phương, ứng cầu không vết tích. Đó là điều mà hàng Nhị thừa chẳng thể luận bàn, hàng Bổ xứ chưa từng nhìn thấy, huống gì hàng phàm phu không có mắt mà dám ghé tâm vào đó ư? Nay nương vào những lời chân thật trong kinh mà tạm nêu chỗ cùng tột u huyền kia vậy. Thế thì Pháp thân tại nơi trời thì là trời, tại người thì là người, há có thể bỏ thân một trượng sáu gần gũi mà cầu Pháp thân xa vời ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm thân Phật tức thân một trượng sáu, thân một trượng sáu từ Pháp thân mà xuất sinh, vì y cứ theo nghĩa xuất mà đặt tên, nên nói "tức Pháp thân". Pháp nghĩa là vô phi pháp, nghĩa vô phi pháp tức vô tướng thật; thân là thể của nghĩa này; Pháp thân là chân thật, thân một trượng sáu là thân ứng hóa. Vì sao biết được? Vì người ngộ được pháp thì hoặc chấp vĩnh viễn hết, mê muội cũng không còn, vi diệu dứt bặt ba cõi, lý thầm hợp với cảnh vô hình, hình đã không thì không đâu chẳng hiện hình, ba cõi đã bặt thì không nơi nào chẳng là cõi; không đâu chẳng hiện hình thì chỉ cần cảm là ứng, mà Phật chẳng làm gì. Đến như hình lớn nhỏ, thọ mạng dài ngắn đều là hình ảnh dấu vết để hóa độ chúng sinh, mà chẳng phải là Phật thật. Nếu chúng sinh chẳng cảm, ắt sẽ không hiện, chẳng phải là Phật không muốn tiếp độ. Chúng sinh chẳng thỉnh, cho nên tự mình đoạn dứt vậy. Nếu chẳng thỉnh mà hiện thì thật là chưa có. Ví như mặt trời hiện trên hư không mà ảnh hiện nơi các vật, vạn ảnh vạn hình đều là cảnh chấp thủ của các vật, chứ mặt trời đâu có làm gì? Nếu vật không có nước thì hình ảnh không hiện, chứ chẳng phải mặt trời không muốn hiện, vật chứa nước chẳng cần cầu, cho nên tự đoạn dứt. Thế thì thân một trượng sáu và thân tám tấc đều là Phật trong nước tâm chúng sinh, mà Phật thường không có hình thể há lại có hai ư? Các hoạn họa kể trên đều là do có thân mà sinh, cho nên khuyến khích thích thân Phật. Nhưng thân Phật hiện hóa, giao tiếp với các hữu tình, tuy có tinh thô sai biệt, đến như vô thường chẳng ứng cũng có khác, mà nay khiến ưa thích; ta hãy luận về ý này! Đã nói Pháp thân thì không chỉ làm cho biết không có thân bệnh, mà còn dùng để trừ bệnh cho tất cả chúng sinh nữa. Nay lại chỉ dạy khiến thích pháp, hạnh thích pháp là hạ pháp, thế thì người thực hành nơi pháp thì được thân Phật.

Chánh văn: Từ vô lượng công đức trí tuệ sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Phàm thân cực diệu ắt phải do nhân cực diệu sinh. Công đức và trí tuệ là hai nghiệp của bậc Đại sĩ, đó là môn đầu tiên của vạn hạnh, là then chốt của Niết-bàn, nên xướng lời thì đều có. Từ đây trở xuống tuy nêu riêng các hạnh, nhưng đều là hạnh vô vi vô tướng. Vì hạnh vô vi vô tướng, nên pháp thân thành tựu cũng vô vi vô tướng.

Chánh văn: Từ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Đó là năm phần pháp thân.

Chánh văn: Từ nơi Từ, Bi, Hỷ, Xả sinh; từ bố thí, trì giới, nhẫn nhục nhu hòa, cần hành tinh tấn, thiền định, giải thoát, Tam-muội sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiền tức bốn Thiền, Định tức bốn Định, giải thoát tức tám Giải thoát, Tam-muội tức ba Tam-muội, đây đều là hạnh riêng của Thiền ba-la-mật.

Chánh văn: Từ đa văn trí tuệ các Ba-la-mật sinh ra.

Ngài Tăng Triệu ghi: Tức sáu Độ đã kể trên. Ba-lamật, Hán dịch là Đáo bỉ ngạn (đến bờ kia), bờ kia tức là bờ thật tướng. Được vô sinh trở về sau, tu tập tất cả các hạnh đều khế hợp với thật tướng, Thể cũng không còn phân biệt.

Chánh văn: Từ phương tiện sinh, từ sáu thông sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ thứ bảy trở lên đầy đủ sáu thông, nếu chẳng có sáu Thông chuyển vận sự biến hóa vô cùng thì chẳng thể nào thành tựu thể vô cực được.

Chánh văn: Từ ba minh sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Ba minh là Thiên nhãn, Túc mạng và Lậu tận.

Chánh văn: Từ ba mươi bảy Phẩm trợ đạo sinh, từ Chỉ quán sinh.

Ngài La-thập ghi: Lúc mới quán thì buộc tâm tại một cảnh gọi là Chỉ, cùng cực tĩnh lặng thì sáng tỏ, sáng tỏ tức là tuệ, tuệ gọi là Quán.

Ngài Tăng Triệu ghi: Chỉ là định, Quán là tuệ.

Chánh văn: Từ mười Lực, bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng sinh; từ việc đoạn tất cả pháp bất thiện, gom tập tất cả pháp thiện sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

-Ý chí quyết đoạn, tâm quyết gom tập, cả hai là giềng mối của tâm hạnh.

Chánh văn: Từ chân thật sinh, từ chẳng buông lung sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Do thiện căn chân thật sinh, do nghiệp chẳng buông lung mà thành, đây là yếu dụng của tâm hạnh.

Chánh văn: Từ vô lượng pháp thanh tịnh như thế sinh ra thân Như Lai. Này các nhân giả! Muốn được thân Phật, đoạn trừ bệnh cho tất cả chúng sinh, thì nên phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ngài Tăng Triệu ghi: Phát tâm vô thượng há chỉ để trừ bệnh thôi ư? Mà cũng là để cứu chữa bệnh cho chúng sinh.

Chánh văn: Như thế! Ông Trưởng giả Duy-ma-cật vì những người đến thăm bệnh, tùy chỗ thích ứng mà nói pháp, khiến cho vô số trời người phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

-----------------------------------

Phẩm 3: ĐỆ TỬ

Chánh văn: Lúc bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật tự nghĩ rằng: "Ta bệnh nằm trên giường".

Ngài Đạo Sinh nói:

-Tự nghĩ bệnh nằm trên giường là nghĩ đến bệnh mà tự cảm thương. Phàm có thân ắt phải có bệnh, đây là lẽ thường ở thế gian, người liễu đạt tự thể hội được điều này, sao phải cảm thương? Nhưng các Trưởng giả ở thành Tỳ-da-ly đều đến thăm Phật nghe pháp, ông Duyma theo sự lẽ ra phải đồng đến, nhưng ngại bệnh chẳng tham dự, vì lý này mà dẫn đến thương cảm, cho nên nhờ vào việc diễn pháp để cầu Phật đến thăm.

Chánh văn: Đức Thế Tôn đại Từ, đại Bi, há chẳng đoái lòng thương xót ư?

Ngài Tăng Triệu ghi: Bậc Thượng thiện như nước, đọng hay chảy đều thuận với tâm thiện và lòng nhân từ, nên thường tùy thuận để thành tựu mà không tham tiếc. Thiện khởi thì đúng thời, vì thế hợp cơ mà chẳng sai, tự tại sống trên điều xấu của mọi người. Cho nên có thể hiện đồng bệnh như họ. Đức Thế Tôn có lòng đại Từ ắt đến thăm bệnh, nhân đó mà hoằng đạo khiến cho chỗ cứu giúp rất nhiều. Đây là bản ý của việc hiện bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì có bệnh nên chẳng đến tham dự nghe diệu pháp, vì thế đáng xót thương. Việc đáng xót thương này theo lý phải thân cận, còn theo sự thì đối với việc đáng xót thương cần phải sai người đến an ủi thăm hỏi, mà nay Đức Phật cò lòng đại Từ nghĩ đến tất cả, lại chẳng sai đến thăm, há ngài chẳng xót thương ư? Đây là theo thường tình để mong người đến thăm, há còn ở nơi tâm ta ư? Đó là vì chung cho tất cả chúng sinh ở mai sau. Nếu Phật sai người đến, thì những điều tệ hại của bệnh trước kia bỗng chốc hóa thành việc tốt lành hết sao? Điều trái với thường tình như thế thì chẳng đúng.

Chánh văn: Đức Phật biết ý nghĩ này liền bảo Xálợi-phất rằng: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật".

Ngài La-thập nói:

- Trong pháp Thanh văn, thì A-la-hán có trí tuệ vô lậu thù thắng, còn Bồ-tát thì có trí tuệ thù thắng. Trong Đại thừa thì hai tuệ của Bồ-tát đều thù thắng. Nay căn cứ theo pháp Thanh văn để nói về Đại tiểu, nên trước bảo các đệ tử. Ngài Xá-lợi-phất là bậc có trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Phật, vì thế được sai bảo đầu tiên. Biết Xá-lợi Phất chẳng kham nhận mà còn sai bảo, là muốn hiển thị biện tài của ông Duy-ma thù thắng hầu phát khởi toàn chúng hội; lại sai bảo những vị khác, là vì muốn khiến cho mỗi mỗi khen ngợi đức hạnh cao đẹp của ông Duy-ma, đồng thời nói rõ về trí tuệ biện tài vô cùng của ông ấy. Ở đây nói: "Yên tọa", còn bản Phạm ghi là:

"Nhiếp thân tâm".

Ngài Tăng Triệu nói:

- "Bậc Chí nhân tâm rỗng rang thông đạt, theo lý trước phải nhờ vào hình tượng và ngôn ngữ hợp cơ để ngầm ứng, cho nên khiến đến thăm bệnh. Ngài Xá-lợiphất là bậc Trí tuệ bậc nhất trong năm trăm đệ tử, nên được sai bảo trước. Như Lai biết đại chúng chẳng kham nhận mà còn sai bảo là vì muốn hiển đức của ông Tịnh Danh thật vô cùng, để chúng hội sinh tâm kính ngưỡng. Xá-lợi là tên của người mẹ; Phất, Hán dịch là Tử; Ở Thiên Trúc phần nhiều lấy tên người mẹ đặt cho tên con. Ngài Đạo Sinh nói:

Nói "biết ý nghĩ" tức là đạt được chỉ thú. Ngày hôm nay sai bảo, lẽ ra quy về ngài Văn-thù, nhưng sai bảo các vị khác là nhờ vào phép tắc sai sứ thông thường để hiển đức độ của ông Duy-ma-cật. Đức do đây mà hiển, tức đã tạo thành từ xưa ngày nay ắt phải suy tôn, suy nếu có lý thì lý ấy đáng quý vậy. Ví như mình đã phục đức độ mà nương gá, nghe lý đáng quý trọng, thì đến khi luận về bệnh há chẳng ngộ ư? Phàm phép tắc sai sứ thì phải từ gần đến xa, vì thế trước bảo đệ tử, sau sai Bồ-tát. Ngài Xá-lợi-phất là bậc Đệ nhất, thừa thọ giáo pháp của Như Lai, nên được sai bảo đầu tiên.

Chánh văn: Xá-lợi-phất bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Con không thể kham nhận đến thăm bệnh ông ấy!".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vâng lãnh sứ mệnh của Phật phải là người quan trọng, Đại sĩ Tịnh Danh là bậc có trí tuệ vô lượng, hàng đệ tử chẳng có khả năng kham nhận. Vả lại, xưa đã từng bị quở trách mà im lặng chẳng thể đáp trả, nay há dám xem thường sứ mạng để dẫn đến bị chê là kém cỏi ư?

Đạo Sinh nói: Phàm dùng diệu mà cưỡi thô, không đến thì chẳng tận biết, nay lại hợp các bảo cái là ứng hợp quần sinh, đối với ngài Xá-lợi-phất há có lúc chẳng kham nhận ư? Ý nghĩa chẳng kham ở tại nơi đây. Nay há lại muốn hiện, nếu thật thì cần phải có chỗ nương gá. Ông Duy-ma-cật ứng tích biện luận nhanh nhẹn, cả nước đều kính sợ, người đến ắt nêu lý để luận bàn, nhưng ngài Xá-lợi-phất từng bị khuất phục nơi ông ấy, cho nên chẳng kham nhận, ai cho rằng có hư dối?

Chánh văn: Vì sao? Nhớ khi xưa, con đang yên tọa nơi cội cây trong rừng, thì ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Xá-lợi-phất! Chẳng cần ngồi như thế mới là yên tọa."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp không hiện bày dấu tích, đã học từ trước, khi yên tọa nơi cội cây trong rừng, ông Tịnh Danh đến cho rằng phép ngồi chẳng đúng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có những lời này chẳng phải là để từ chối sứ mệnh của Như Lai, mà nhờ vào lời chẳng trái mệnh này suy tôn đức cao đẹp của ông Duy-ma. Nói "chẳng cần thế", tức chẳng nói không phải như thế mà chỉ nói chẳng cần như thế vậy. Chẳng nói không phải thế, tức thật có thể cho đó là phương tiện cầu định. Nói "chẳng cần như thế", là có thể dẫn đến bệnh, bệnh nơi chẳng bệnh, chẳng đáng quở trách ư? Ngài Xá-lợi-phất thật không có chỗ trả lời. Nhờ vào hành nghi để làm phép tắc cho chúng sinh, việc làm chính là việc hiện bệnh của ông ấy. Ông Duy-macật trụ ở giai vị Bất túc, chắc có thể nhờ vào đó để quở trách, thế thì khi xưa ngài Xá-lợi-phất đã bị khuất phục. Yên tọa giống như cư trụ nơi vắng vẻ.

Chánh văn: Yên tọa, tức chẳng hiện thân ý nơi ba cõi là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

- Chương này luận về Chí định để chỉ dạy người chưa đạt được, chứ chẳng phải chỉ nói về Không. Bồ-tát an tâm nơi chân cảnh, thức chẳng dong ruổi theo ngoại cảnh, thì tâm này chẳng hiện. Pháp Hóa thân vượt ngoài ba cõi, thân tâm này đều ẩn nơi cảnh giới cùng tột của thiền định. Hàng Thanh văn tuy có thể ẩn thân nơi Phật pháp, nhưng chưa thể chẳng hiện thân kia, thân hiện nơi ba cõi thì bị trói buộc nơi vật, nên ẩn mà còn hiện, chưa khéo thâu nhiếp. Cũng có thể nói rằng ngài Thân Tử khi nhập thiền định thì khiến cho tâm ẩn, thân còn hiện, nên bị chê trách.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm pháp thân yên tọa thì hình và tâm đều bặt, đạo lìa thường cảnh, thấy nghe chẳng được, vậy há có hiện thân nơi ba cõi ư? Tu tâm ý mà cho là định ư? Ngài Xá-lợi-phất còn có thân sinh báo thế gian, còn ý căn báo, nên cho rằng nhân gian là chốn ưu phiền mà cầu phải yên tọa nơi rừng vắng, chưa thể đạt đến đỉnh cảnh giới hình tâm đều dứt bặt, không dấu tích, nên dẫn đến bị chê trách, phàm ý chỉ phát khởi sự là để lợi ích cho nhiều người, đâu chỉ nơi người và ta mà lấy thị phi làm tâm ư? Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm yên tọa nơi rừng vắng là để ẩn thân mình, nếu chẳng ẩn hình ắt bị sự (cảnh) làm xao động, vì thế ẩn thân để tránh sự, cho rằng đó là phương pháp cầu định. Nhưng ẩn có hoạn họa là hình chẳng ẩn. Vả lại, nếu chấp cho là chẳng ẩn cũng là hoạn, mà ẩn còn bị chẳng ẩn hoặc loạn, chẳng thể cho là ẩn. Ẩn hình vốn là muốn dấu ý, ý chẳng dấu thì bị sáu trần kéo dắt, vì thế dấu ý để chẳng thấy điều ham muốn, nhân đó mà dứt các dục. Nhưng giấu mà có hoạn là ý chẳng giấu. Vả lại, chấp cho là chẳng giấu cũng là hoạn, mà giấu còn bị chẳng giấu làm hoặc loạn, vì thế chưa thể gọi là giấu. Nếu ở nơi ba cõi chẳng thấy có nơi chẳng ẩn chẳng giấu thì chẳng bị nó làm hoặc loạn, đó mới chính là ý nghĩa ẩn giấu. Có chẳng ẩn chẳng giấu thì có hiện, hiện ắt chẳng ra khỏi ba cõi, cho nên nói chẳng hiện thân ý nơi ba cõi.

Chánh văn: Chẳng khởi diệt định mà hiện các oai nghi là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là tuy đã nhập diệt định mà có thể hiện vô lượng các thứ biến hóa để ứng hợp chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Hàng Tiểu thừa nhập diệt định thì hình như cây khô, không có công năng vận dụng. Bậc Đại sĩ vào thật tướng định thì tâm trí vĩnh viễn diệt, mà hình biến khắp tám cực, tùy thuận cơ duyên mà làm, ứng hợp vô cùng; cử động, đến đi, dừng trụ chẳng bỏ oai nghi, đó chính là yên tọa, cũng là chỗ cùng cực vậy. Trên nói chẳng hiện thân ý nơi ba cõi, ở đây nói hiện các oai nghi, nghĩa là vì không hiện, nên có thể hiện cùng khắp, hiện cùng khắp tức là thể của không hiện, ngõ hầu để cho bậc Quân tử tham cứu huyền chỉ hội được vì sao đồng, mà đồng vì sao lại khác biệt.]

Chánh văn: Chẳng bỏ đạo pháp mà hiện phàm phu là yên tọa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa bị sinh tử làm ngăn ngại nên chẳng thể hòa quang đồng trần tục. Bậc Đại sĩ thì đẹp xấu bình đẳng, đạo tục như nhau, cho nên suốt ngày là phàm phu mà suốt ngày là đạo pháp. Ngài Tịnh Danh có đời sống gia đình, chính là việc này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã ẩn nơi rừng vắng, thì phải cầu định, phép cầu định, trước nên chánh thân ngay ngắn, chẳng dao động, vì chẳng động, nên chẳng trái với định; vì chánh thân nên chẳng trái với đạo. Đây có thể nói là thuật khéo léo để cầu định. Nếu chấp trước dùng bất chánh trái đạo mà chánh thân, dùng động trái định mà trụ thì sẽ bất chánh và động hoặc loạn, chẳng thể cho đó là yếu chỉ chánh thân bất động được. Nếu chẳng khởi diệt định mà liền hiện các oai nghi thì chẳng thấy oai nghi khác với định, không khác thì không trái nhau. Oai nghi là động, diệt định tức diệt pháp tâm tâm sở tức là định. Định này là chỗ cùng tột trái với hình động, cho nên chỉ được nêu lên mà thôi. Nếu chẳng bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, thì chẳng thấy việc phàm phu khác với đạo, việc phàm phu là thân bất chánh. Oai nghi và việc phàm phu nói tại câu sau là vì bệnh, ý tại nơi đây, cho nên dùng câu trên để dẫn phát.

Chánh văn: Tâm chẳng ở trong chẳng ở ngoài là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

- Bậc Thánh Hiền nhiếp tâm gọi là ở trong, phàm phu tâm tưởng dong ruổi gọi là bên ngoài. Nói chẳng ở trong chẳng ở ngoài là tâm trong ngoài bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân là nhà huyễn, há có trụ trong đó? Vạn vật thì hư dối há có theo bên ngoài? Tiểu thừa phòng hộ niệm khởi, nên buộc tâm ở bên trong; phàm phu tham cầu nhiều, nên dong ruổi ở bên ngoài. Bậc Đại sĩ quán xét thấy bình đẳng nên trong ngoài chẳng nương gá.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã chánh thân chẳng động, kế đó nên nhiếp niệm; pháp nhiếp niệm, nếu niệm chạy theo cảnh duyên thì khiến thâu nhiếp trở về; niệm chạy theo duyên sự gọi là dong ruổi bên ngoài, thâu nhiếp trở về mình gọi là bên trong. Nếu cho rằng chạy theo bên ngoài là loạn, trụ bên trong là định thì liền bị trong ngoài lôi kéo, chẳng thể cho đó là ý chỉ của nhiếp niệm. Tâm chẳng trụ bên trong thì không có bên trong để trụ, cũng không tại bên ngoài tức không có cảnh bên ngoài để duyên, sau đó mới chẳng bị bên trong ngoài lôi kéo.

Chánh văn: Chẳng động nơi các kiến.

Ngài La-thập nói:

- Nếu cho các kiến là động tức kiến chấp. Chánh văn: Mà tu ba mươi bảy phẩm là yên tọa. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các kiến tức sáu mươi hai vọng kiến. Phàm nếu cho kiến là kiến thì cần phải động, xả bỏ các kiến để tu đạo phẩm, bậc Đại sĩ quán chân tánh các kiến là đạo phẩm, cho nên chẳng cần gần thì xả bỏ các kiến, xa thì tu đạo phẩm.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nghĩa nhiếp niệm cần phải đạt đạo ấy, vậy đạo ấy ở đâu? Tại chánh quán, Chánh quán tức ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm quán là gốc để thấy lý, vì từ lý mà thấy, nên ý có thể trụ, nếu chấp quán được lý, tức bị quán mê hoặc, lại mất lý, chẳng thể cho là quán. Nếu đối với các kiến chẳng động mà hành ba mươi bảy phẩm, thì chẳng thấy ba mươi bảy phẩm khác với các kiến vậy chẳng bị mê hoặc. Chẳng động tức chẳng theo nó. Các kiến tức tà kiến.

Chánh văn: Chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn mới là yên tọa.

Ngài La-thập nói:

- Phiền não tức Niết-bàn, nên chẳng thể đợi đoạn này rồi sau mới vào.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bảy sử, chín kết não loạn chúng sinh, nên gọi là phiền não. Chân tánh của phiền não tức là Niết-bàn. Người có sức tuệ mạnh thì quán phiền não tức nhập Niếtbàn, chẳng đợi đoạn rồi mới nhập.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã quán lý được tánh, thì các trói buộc liền hết, nhập Niết-bàn. Nếu lại cho Niết-bàn là quý trọng mà muốn chấp giữ, thì liền bị Niết-bàn trói buộc. Nếu chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, chẳng thấy có Niết-bàn khác với phiền não, nên không bị trói buộc. Hai câu trên này cũng nêu chỗ bệnh ở dưới, nên dùng câu trên mà dẫn phát.

Chánh văn: Nếu ngồi được như thế thì chư Phật mới ấn khả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là pháp tọa bình đẳng được chư Phật ấn khả, há như pháp tọa có đối đãi của nhân giả sao?

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy xong thì im lặng, không thể trả lời được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lý vượt ra ngoài tâm ý, chẳng biết chỗ đối đáp.

Chánh văn: Cho nên con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Đức Phật lại bảo ngài Đại Mục-kiền-liên rằng:

Ngài La-thập nói:

- Mục-kiền-liên, Mục-liên là một họ của dòng Bà-lamôn, tên là Câu-luật-đà; Câu-luật-đà là tên của một vị thần cây. Vì cầu vị thần này mà sinh ra ngài, nên đặt tên như thế. Lúc mới sinh đã có đại trí tuệ nên gọi là Đại Mục-kiền-liên. Là bậc Thần túc đệ nhất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mục-kiền-liên là bậc có Thần túc bậc nhất trong các đệ tử Phật, thuộc dòng Bà-la-môn, họ là Mục-kiềnliên, tên là Câu-luật-đà.

Chánh văn: "Ông đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật". Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm tài lực của người thì có trường đoản, khả năng khác nhau. Ngài Xá-lợi-phất tự cho chẳng thể làm được, còn những người khác đâu cần cũng như thế, cho nên Đức Phật chẳng thể bỏ qua mà chẳng bảo. Vả lại, nhân đó để hiển bày đức cao của ông Duy-ma.

Chánh văn: Mục-kiền-liên bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con vào thành lớn Tỳ-da-ly, ở nơi một ngôi làng kia thuyết pháp cho các Cư sĩ nghe.

Ngài La-thập nói:

- Hàng Cư sĩ, trí tuệ lanh lợi lẽ ra phải nghe thẳng về thật tướng, nhưng ngài Mục-liên chưa thấy rõ căn cơ của người, y theo lúc bình thường mà nói pháp, trước dùng bảy việc như Bố thí, Trì giới... để khai phát Cư sĩ, các Cư sĩ nghe nói Thí, Giới... được phước sinh về cõi Trời, thì khởi tưởng chúng sinh, khởi tưởng về chúng sinh thì đối với các pháp vọng sinh các tướng. Cho nên lập chương trước nói không chúng sinh, sau phá các tướng, thế mới có thể phản mê mà hợp với bản thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh chẳng ghi những điều ngài Mục-liên nói, nhưng căn cứ theo ý chê trách sau thì biết ngài Mục-liên thuyết các pháp thiện hữu vi như Thí, Giới...

Chánh văn: Lúc ấy ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Đại Mục-liên! Nói pháp cho các Cư sĩ, chẳng phải như pháp mà ngài đang nói đó!".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh quán căn cơ của các Cư sĩ, lẽ ra phải được nghe pháp "không", nhưng ngài Mục-kiềnliên, chẳng khéo quán xét căn cơ, nên dùng pháp "hữu" để chỉ dạy, vì thế bị chê trách.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thuyết pháp vốn muốn khiến cho người tôn quý pháp, trừ bỏ phi pháp; nếu họ quý pháp thì chấp trước mà thích Tiểu; thích pháp Tiểu thừa thì chỉ muốn lìa bệnh, nhưng lại trái với gốc Đại thừa; chấp trước thì nghịch với lý pháp; trái nghịch thì thật xuất phát từ tâm của họ mà việc thuyết pháp có thể dẫn đến làm mờ lấp căn cơ của họ. Lại có dấu hiệu thuyết chẳng như pháp, hàng cư sĩ chẳng phải là những người chấp giữ đạo, mong rằng chẳng nghe thuyết lý lìa tục, để không tổn thương bản tâm của họ. Vả lại, cư sĩ lấy sự tham trước làm bản hoài, chẳng thể làm cho họ thấy pháp mà quý trọng để xa lìa tâm tham trước kia. Cho nên nói: "Thuyết pháp cho các cư sĩ, chẳng phải như pháp mà ngài đã nói". Chánh văn: Phàm thuyết pháp thì nên thuyết như pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tức là pháp nhất tướng chân thật. Nghĩa của pháp sẽ thuật đầy đủ ở văn sau.

Chánh văn: Pháp không chúng sinh, vì lìa chúng sinh cấu.

Ngài La-thập nói:

- Chúng sinh cấu tức hai mươi thân kiến. Vọng kiến chấp giữ các tướng, nhưng pháp rốt ráo vô tướng, theo lý trái với các kiến nên nói là lìa. Từ đầu đến cuối của chương này đều dùng hai nghĩa để nói về rốt ráo không. Hai nghĩa là:

1. Lìa tướng.

2. Lìa kiến.

Vì người mê hoặc nói có tướng, cho nên dùng lìa tướng để nói vô tướng. Còn hàng tà đạo tuy có khởi vọng kiến, mà nói pháp vô kiến, cho nên dùng lìa kiến để nói không có tướng kiến do vọng tưởng của họ khởi lên. Từ đây trở xuống phàm có nói: không danh, không thuyết, lìa thức, lìa quán thì cũng giống như lìa kiến vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đây trở xuống là luận về nghĩa chân pháp. Phàm còn chúng sinh thì cấu nhiễm chân pháp, nếu ngộ được pháp không chúng sinh thì cấu ấy tự lìa. Chúng sinh do chấp ngã quá nặng, cho nên trước tiên nói không chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ đây trở xuống, phần lớn bàn về pháp lý. Pháp có hai là chúng sinh không và pháp không, thật ra thì chẳng khác, nhưng đối với người mê hoặc thì việc chứng ngộ có khó và dễ khác nhau, nên phân biệt như thế. Chúng sinh do sự tổng hợp mà thành Thể, ý chẳng thật trụ trong đó, rõ ràng có thể lãnh hội được, cho nên nói là dễ. Pháp thì độc lập, ý thú gần thật, rất nhiều, nên nói là khó. Nay trước luận về chúng sinh không; nói pháp không chúng sinh, tức lấy không chúng sinh làm pháp. Vì lìa chúng sinh cấu là lời giải thích; tức nói chúng sinh tự ra khỏi tình thức chấp trước, chứ chẳng phải lý như thế. Tình thức chẳng theo lý, gọi là cấu, nếu thấy được cấu thì tình và cấu ắt bị diệt hết. Dùng lìa cấu mà nghiệm xét thì biết không có chúng sinh. Chúng sinh tức do mọi sự hợp lại mà sinh, cũng gọi là chủ tể.

Chánh văn: Pháp không có ngã, vì lìa ngã cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngã tức tự tại, nói là chủ vậy.

Chánh văn: Pháp không có thọ mạng, vì lìa sinh tử.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh và tử tức khởi đầu và kết cuộc của mạng. Đầu cuối đã lìa thì thọ mạng chẳng có. Nói lìa tức là tên khác của "giai không" (đều không).

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tồn tại ở thế gian gọi là mệnh, được một trăm năm gọi là thọ, cũng có thể gọi là có thọ mạng vậy. Thọ mạng là quả báo của các hành vi đời trước, là pháp sinh tử. Phàm có cấu uế thọ mạng thì có khổ lụy sinh tử; từ nơi đã lìa khổ lụy mà nghiệm biết không có người thọ mạng thì càng rõ ràng thêm. Chẳng nói thọ mạng mà nói sinh tử là vì thọ mạng là điều mà con người yêu mến, nếu nghe nói xa lìa, ắt hẳn là chẳng vui thích; còn sinh tử là pháp mà con người đều ghét chán, nếu nghe nói xa lìa, thì hết thảy đều vui mừng.

Chánh văn: Pháp không có nhân (người) vì mé trước mé sau đều đoạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trời sinh vạn vật, có loài người là quý trọng nhất. Trước sau chẳng biến đổi gọi là người, vì thế ngoại đạo gọi người là thần, nghĩa là trước sau chẳng biến. Nếu mé trước mé sau của pháp đều đoạn đứt, thì các pháp mới sinh khác nhau, pháp mới sinh khác nhau, thì không thể không biến đổi, không thể không biến thì không có người.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người là một vật có tánh linh so với đất gỗ; là vật có đến đi sống chết, đến đi chắc chắn là vô cùng, nếu đoạn thì càng đáng vui thích.

Chánh văn: Pháp thường vắng lặng, vì các tướng đều diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có tướng thì những điều sai khác hình thành, những sai biệt hình thành thì thị phi khởi, thị phi đã khởi, thì đâu được vắng lặng. Nếu các tướng đã diệt thì không đâu chẳng vắng lặng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bốn câu trên là nói về chúng sinh không, từ đây trở xuống là hai mươi sáu câu nói về pháp không. Vắng lặng tức là lặng lẽ vô sự. Tướng tức là hình dáng của sự, chúng sinh dễ biết, chấp trước thì tướng mê hoặc nặng, vì nó làm cấu nhiễm sự sáng tỏ ở bên trong, pháp thì khó ngộ, nếu chấp trước, thì hoặc nhẹ, vì nó làm mê mờ sự hiển hiện ở bên ngoài.

Chánh văn: Pháp lìa tướng, vì không có cảnh duyên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Duyên tức tâm duyên, tướng tức là hình ảnh và âm thanh của tâm.

Phàm có duyên nên có tướng, không có duyên thì không có tướng. Chánh văn: Pháp không danh tự vì nẻo ngôn ngữ đoạn dứt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Danh tự sinh từ lời, lời đã đoạn thì cái gì là danh?

Chánh văn: Pháp không thuyết, vì lìa giác quán.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giác quán thuộc về tâm thô, là gốc của ngôn ngữ. Chân pháp vô tướng nên giác quán tự lìa, đã lìa giác quán thì không có ngôn thuyết. Nhị thiền trở lên không còn giác quán, cho nên nói Thánh Hiền im lặng.

Chánh văn: Pháp không hình tướng, vì như hư không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn pháp có vạn hình, vạn hình thì sinh vạn tướng.

Chánh văn: Pháp không hý luận, vì rốt ráo không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân cảnh thì không lời, nếu có luận bàn thì đều rỗng suông, diệu tuyệt ngôn cảnh mới là rốt ráo không.

Chánh văn: Pháp không ngã sở, vì lìa ngã sở.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên đã nói là vô ngã, đây nói vô ngã sở. Tất cả các pháp ngoài tự ngã đều gọi là ngã sở.

Chánh văn: Pháp không phân biệt vì lìa các thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phân biệt sinh từ thức.

Chánh văn: Pháp không có so sánh, vì không đối đãi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp đối đã nhau mà sinh, giống như dài ngắn đối đãi nhau mà hình thành.

Chánh văn: Pháp chẳng thuộc nhân, vì chẳng tại nơi duyên. Ngài La-thập nói:

- Lực mạnh là nhân, lực yếu là duyên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước sau nương nhau mà sinh tức là nhân, sức trợ giúp để thành hiện tướng gọi là duyên. Các pháp cần phải có nhân duyên nương giúp nhau, sau đó mới thành lập được. Nếu quán các pháp chẳng tại nơi duyên thì pháp cũng chẳng thuộc nhân.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nhân, nghĩa là trước chưa có việc ấy mà nay từ kia sinh; duyên, tức vốn đã có phần việc ấy mà nay theo kia phát khởi: Nhân vốn lấy sinh làm nghĩa, nên nay chẳng thể sinh, há lại nói sinh ư? Thế thì nhân chẳng thành nhân vậy. Nhân gần cho nên khó hiểu, duyên xa nên dễ hiểu. Nay y cứ theo chỗ dễ để giải thích chỗ khó, thì đều dễ, vậy nhân gần nên nói là thuộc, duyên xa nên nói là tại.

Chánh văn: Pháp đồng pháp tánh, vì vào các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như, pháp tánh, chân tế, ba không này đồng nhất thật, nhưng dụng quán có sâu cạn, nên lập ba tên. Mới thấy thật pháp, như từ xa thấy cây biết nhất định là cây, đó gọi là Như. Thấy pháp càng sâu, như ở gần thấy cây biết là cây gì, đó gọi là Pháp tánh. Thấy rốt ráo cùng tận các pháp, như biết rõ ràng cành lá gốc rễ của cây, đó là Thật tế. Cả ba chưa từng chẳng phải là cây, nhưng do thấy khác nhau mà thôi, chân pháp được thuyết cũng đồng với ba không này. Vào các pháp, nghĩa là các pháp có tướng trạng khác nhau, ai có thể vào khắp, cái vào được khắp các pháp chỉ có pháp tánh mà thôi!

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp tánh tức phần gốc của pháp, phàm do duyên mà có tức giả có, giả có thì chẳng phải là tánh "có" "có" đã chẳng phải tánh, đó chính là bản phần của pháp. Thế thì pháp và pháp tánh, lý chỉ là một mà tên lại khác, cho nên nói là đồng. Tánh cần phải đồng nên nói là đồng. Các pháp đều khác nhau, mà pháp nhập vào đó, thì một thống nhiếp nhiều vậy. Thống nhiếp nhiều thành một, vì thế đồng pháp tánh.

Chánh văn: Pháp tùy như, vì không chỗ tùy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tự chẳng phải pháp, cái gì lại là tùy như? Vì không chỗ tùy, nên nói là tùy như.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như tức không gì chẳng như, nếu có chỗ để tùy thì thành dị, chẳng thể tùy được, nếu đều không có chỗ tùy thì mới được tùy, bởi vì danh khác thật, nhân đó nên có lời tùy. "Như cần" phải nói là tùy, nên dùng "tùy" để nói về như.

Chánh văn: Pháp trụ thật tế.

Bản khác ghi: "Pháp đồng như, pháp tánh và thật tế". Ngài La-thập nói:

- Ba pháp này đồng một thể, nhân khi quán có sâu cạn, mà đặt ba tên. Mới thấy Thật, gọi là Như; thấy đã sâu thì gọi là Tánh; thấy tận cùng mé thật gọi là thật tế. Vì hạng người mới học bị sáu tình trói buộc, tâm tùy theo cảnh mà biến đổi, khi quán thấy đồng, khi xuất quán thì thấy khác, nên nói các pháp đồng với ba pháp này.

Chánh văn: Vì các bên chẳng động.

Ngài La-thập nói:

- Có, không, sai, đúng tất cả đối với thật là các bên. Nói có mà chẳng phải có, nói không mà chẳng phải không, tuy các bên trần khởi mà chẳng thể chuyển làm cho nó biến khác. Cho nên nói các bên chẳng động.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có bên nên có động, không có các bên đâu có động? Bên mà không bên là thật tế. Đây là chỗ trụ của chân pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các bên hữu vô, chẳng thể biến cải các pháp, khiến pháp thay đổi, thế thì không có bờ mé, bờ mé không bờ mé chính là mé thật (thật tế). Pháp bất động trụ ở nơi đây.

Chánh văn: Pháp chẳng lay động, vì chẳng nương sáu trần. Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu tình y cứ vào sáu trần nên có sự dao động, pháp vốn không nương gá nên không dao động.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sáu trần mỗi mỗi đều có chủ, về mặt sự thì chúng khuynh đoạt lẫn nhau nên có nghĩa dao động. Đã có dao động thì liền thành sai biệt, mà chẳng phải là thật.

Chánh văn: Pháp không khứ lai, vì thường chẳng trụ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu pháp thường trụ, thì sẽ từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại về quá khứ, pháp trải qua ba thời thì có khứ lai, vì pháp không thường trụ nên không khứ lai (đến đi).

Chánh văn: Pháp thuận không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu chấp trước thì trái với lý quá xa. Cho nên đối với "không" cần phải thuận.

Chánh văn: Vì tùy vô tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không tựa như có tướng không, nhưng không nếu có không thì thành có, chẳng thể cho là không, nên nói vô tướng. Đã thuận thì phải tùy vô tướng.

Chánh văn: Ứng với vô tác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đồng với ba không. Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngăn trừ để thành vô tướng, tựa như có ý tạo tác, nếu có ý tạo tác thì chẳng hợp lý, nên nói vô tác. Đã thuận không, tùy vô tướng thì sẽ ngầm hợp với vô tác.

Chánh văn: Pháp lìa tốt xấu, pháp không tăng giảm, pháp không sinh diệt, pháp không chỗ về, pháp vượt ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm.

Ngài Tăng Triệu ghi: Vượt ngoài cảnh thường, chẳng phải là nơi mà sáu tình có thể vịn đến.

Chánh văn: Pháp không cao thấp, pháp thường trụ bất động.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân pháp thường trụ, Hiền Thánh cũng chẳng thể dời đổi nó được.

Chánh văn: Pháp lìa tất cả quán hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp vốn vô tướng, chẳng phải là chỗ thấy của quán hạnh, cái có thể thấy được pháp chỉ là vô quán mà thôi.

Chánh văn: Thưa ngài Mục-kiền-liên! Pháp tướng như thế, há có thể nói được ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm quán còn chẳng thể biết, hà huống là ngôn thuyết?

Chánh văn: Phàm người thuyết pháp thì không thuyết không chỉ, người nghe pháp thì không nghe không đắc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không thuyết chứ nào nói không lời, nghĩa là thường không nơi pháp được thuyết, không nghe chứ nào nói chẳng có nghe, nghĩa là thường không nơi pháp được nghe kia. Không nơi pháp được thuyết thì suốt ngày thuyết mà chưa từng thuyết. Không nơi pháp được nghe thì suốt ngày nghe mà chưa từng nghe. Chỉ tức là thuyết pháp chỉ dạy cho người; đắc tức nghe pháp mà chứng đắc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp đã nói như ở trước, thì có gì để thuyết. Vả lại, đây đã không thuyết thì kia há có nghe ư?

Chánh văn: Ví như nhà huyễn thuật thuyết pháp cho người huyễn nghe, thì nên lập ý thế nào mà thuyết pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nên như người huyễn, dùng vô tâm mà thuyết. Chánh văn: Nên biết căn cơ chúng sinh có lợi độn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Cư sĩ nên nghe nghĩa không, mà ngài Mụcliên nói pháp có, là do ngài Mục-liên chưa biết được căn cơ chúng sinh.

Chánh văn: Khéo léo nơi tri kiến không ngăn ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thuyết có mà chẳng luận đến không, đó là do tri kiến vô ngại đối với các pháp của ngài chưa hoàn toàn khéo léo. Tri kiến vô ngại tức là trí thật tướng.

Chánh văn: Dùng tâm đại Bi khen ngợi Đại thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tự xả bỏ nghĩa không mà có chỗ để thuyết thì đều chẳng phải là tán thán Đại thừa, chẳng phải hoằng dương tán thán đạo Đại thừa chẳng có tâm đại Bi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu rõ biết được căn cơ thì sẽ không nói pháp Tiểu thừa. Phàm nói đến Đại thừa, ắt phải có lời tán thán Đại thừa, tán thán Đại thừa thì hợp với bản (gốc), đã hợp với bản, thì người ấy có thể cứu bạt gốc khổ, thường cứu bạt, thì sau đó mới có lòng đại Bi. Đây là chê trách ngài Mụcliên không biết căn cơ để trừ bỏ tâm thích Tiểu thừa của họ.

Chánh văn: Nghĩ đến báo ân Phật chẳng đoạn Tam bảo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm lập được đại Bi, tán thán được Đại thừa, báo được ân Phật, hưng long được Tam bảo, đều là do biết rõ được căn cơ chúng sinh, khéo ngộ được thật tướng, mà ngài Mục-kiền-liên lại thiếu sót các điều kiện này, nên cần phải chỉ dạy.

Chánh văn: Sau đó mới thuyết pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu đầy đủ các điều kiện đã nêu thì có thể thuyết pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thành tựu Đại thừa chính là kế tục dòng giống Phật; khiến cho Tam bảo chẳng đoạn là báo ân Phật, sau đó mới được thuyết pháp.

Chánh văn: Khi ông Duy-ma-cật thuyết pháp này xong, có tám trăm cư sĩ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con không có được biện tài như thế, nên không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Đại Ca-diếp rằng:

Ngài La-thập nói:

- Ngài Ca-diếp xuất gia trước Phật, là một đệ tử có hạnh Đầu-đà đệ nhất. Khi xưa, một hôm ngài Ca-diếp từ trong núi rừng mới ra, thân hình dơ dáy, y phục rách nát đến trụ xứ của Phật, các vị Tỳ-kheo thấy thế liền sinh tâm khinh thường. Đức Phật muốn trừ tâm khinh mạn của các Tỳ-kheo, nên khen rằng: "Ca-diếp! Vui mừng ông đã đến!" Rồi phân tòa đồng ngồi. Ngài Ca-diếp từ chối nói rằng: "Phật là Đấng Đại Sư, còn con là Đệ tử, sao dám cùng ngồi!". Đức Phật liền nói: "Ta có đủ Thiền định, Giải thoát, Trí tuệ, Tam-muội, Đại Từ, đại Bi giáo hóa chúng sinh, ông cũng được như thế, có gì khác nhau?" Các Tỳ-kheo nghe như thế liền sinh tâm hy hữu, khởi lòng cung kính. Ngài Ca-diếp nghe Đức Phật nói rồi, thường tu học hạnh Phật, Từ bi cứu độ những chúng sinh đau khổ. Đã có tâm Từ bi mà bỏ giàu theo nghèo là ý gì? Vì Ca-diếp cho rằng người nghèo là do xưa không gieo trồng phước nghiệp, nên nay gặp phải báo này, nếu nay chẳng độ họ thì đời sau càng nghèo khổ thêm. Cũng cho rằng đến nhà giàu thì sẽ bị nghi là vì danh lợi. Vả lại, giàu thì chẳng thấy đời sau mà chỉ biết hiện hưởng thọ sự vui thú. Cũng cho rằng người giàu thường có tâm khinh mạn phóng túng giáo hóa, người nghèo thì biết khổ, có tâm nhàm chán, nên dễ độ. Sinh khởi việc theo và bỏ đều do dị kiến mà thôi. Vì thế ông Duy-ma chê trách là không có tâm Từ bi rộng khắp và dạy cho lòng bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Ca-diếp là vị đệ tử Đệ nhất khổ hạnh, thuộc dòng Ba-la-môn, họ là Ca-diếp.

Chánh văn: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật!" Ngài Ca-diếp bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con đến một xóm nghèo kia khất thực.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Ca-diếp thực hành thiểu dục, là bậc nhất trong hạnh Đầu-đà, đã đạt được Tam-muội diệt hết rất thù thắng. Phàm người đã được diệt hết định thì có thể làm phước điền ở hiện đời cho mọi người. Ngài tự mong rằng có thể làm cho người được phước ở đời này, mà người nghèo thì có khổ não bức bách, nên muốn dùng đại Bi mà cứu vớt. Khất thực là một hạnh của Đầu-đà. Vả lại, đến xóm nghèo thì có hành tích hợp với hạnh thiểu dục hơn.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma đến nói với con rằng: "Thưa ngài Đại Ca-diếp! Ngài có tâm Từ bi mà không được rộng khắp, bỏ nhà giàu đến nhà nghèo khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Ca-diếp cho rằng người nghèo là do trước kia không gieo trồng phước đức, nên nay sinh vào xóm nghèo; nếu nay không tích tập các thiện thì sau này nghèo khổ càng nhiều. Vì xót thương cảnh khổ dài lâu cho nên thường đến nhà nghèo khất thực. Ông Tịnh Danh cho rằng ngài Ca-diếp bỏ giàu theo nghèo cho nên chê trách là tâm từ bi chẳng rộng khắp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đến nhà nghèo khất thực, vốn lấy tâm Từ bi làm chủ, nên trước chê trách tâm Bi có thiên vị. Phàm nghèo thì khổ bức thiết giao kết nhau, cần phải cứu giúp trước, thế thì đâu có gì là thiên lệch? Nhưng đối với người chẳng đạt lý thì đó là thiên; mà dùng có thiên lệch là do sai lầm vậy.

Chánh văn: Ngài Ca-diếp! Trụ nơi pháp bình đẳng, nên theo thứ tự hành khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử luân chuyển, giàu nghèo vô thường, hoặc đời này giàu đời sau nghèo, hoặc nay giàu sau nghèo. Nhìn chung thì giàu nghèo chẳng khác. Vì thế phàm trụ nơi pháp bình đẳng, nên theo thứ tự mà khất thực, chẳng nên bỏ giàu đến nghèo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã dùng tâm Bi khất thực mà khất thực lại có thiên lệch, cho nên kế đó chê trách khất thực thiên lệch. Khất thực có bốn việc, theo thứ tự hành khất thực là một, thứ tự hành tức là vì pháp không vượt thứ tự, không vượt thứ tự tức là theo bình đẳng mà đến. Nay chỉ đến xóm nghèo, tuy chẳng trái việc ấy, nhưng lại tổn thương đến ý. Trụ nơi pháp bình đẳng, tức người xuất gia vốn cầu Niết-bàn, Niết-bàn thì bình đẳng trụ nơi ấy. Vả lại, trụ nơi pháp bình đẳng thì lý chẳng trái tình, cho nên nói phải theo thứ tự mà hành khất thực.

Chánh văn: Vì chẳng thọ thực nên hành khất thực.

Ngài La-thập nói:

- Tức là thật tướng của thực, nên dụng tâm này mà khất thực. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thọ thực tức là pháp Niết-bàn. Niết-bàn không có các họa hoạn, sinh tử, đói khát, lạnh nóng, đạo ấy bình đẳng, há có phân biệt ư? Nên dùng tâm bình đẳng này mà hành khất thực, khiến cho nhân quả chẳng khác nhau.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khất thực có hai: Tại gia vì sự sinh sống nên cần phải khất thực, nên có nghiệp sinh nhai, nghiệp này đã phồn thịnh thì điều ác tăng nhiều, nghiệp thịnh ác nhiều thì sinh tử càng tăng. Đó là dùng khất thực để tăng trưởng khất thực, nếu muốn dứt tuyệt khất thực thì không thể không xuất gia, xả bỏ nghiệp sinh nhai. Đã xả bỏ nghiệp sinh nhai thì không có vật dụng để nuôi sống, thế thì không thể không khất thực để giữ gìn sắc thân mà tu đạo. Cho nên nói: "Vì chẳng thọ thực nên hành khất thực". Chẳng thọ thực là pháp bình đẳng, nhưng nay có thiên lệch là trái ngược vậy.

Chánh văn: Vì phá hoại tướng hòa hợp, cho nên cần phải nhận đoàn thực (thức ăn nắm vắt thành viên).

Ngài La-thập nói:

- Tướng hòa hợp là đoàn thực. Thức ăn có bốn loại:

1. Đoàn thực.

2. Nguyện thực, như thấy bao cát mà sinh mạng chẳng tuyệt, là nguyện thực.

3. Nghiệp thực, như chúng sinh ở địa ngục chẳng ăn mà vẫn sống, đó là do tội nghiệp nên người ấy cần phải sống để chịu thống khổ dài lâu.

4. Thức thực, chúng sinh ở cõi Vô sắc thức tưởng tương tục.

Hoại tướng hòa hợp tức là thật tướng, khiến họ dùng tâm này mà hành khất thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm ấm và đoàn thực đều có tướng hòa hợp. Hoại tướng hòa hợp của năm ấm tức là Niết-bàn, nên dùng tâm này mà nhận vắt cơm (đoàn thực), nếu thế thì suốt ngày nhận đoàn thực, suốt ngày Niết-bàn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nhận lấy đoàn thực gồm ba nghĩa, phàm thức ăn ở cõi dục là đoàn thực; đoàn thực tức là thức ăn nắm vắt thành viên sủy (nắm, vắt lại thành viên) là vật hòa hợp. Vì tùy nghĩa mà gọi như thế. Hoại hòa hợp, tức là phá hoại sự hòa hợp của năm ấm. Niết-bàn tức là năm ấm hủy hoại.

Chánh văn: Vì chẳng thọ nhận, cho nên nhận thức ăn của người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thọ nhận cũng là pháp Niết-bàn. Phàm vì Niết-bàn mà hành khất thực, nên dùng tâm chẳng thọ nhận mà nhận thức ăn của người, thế thì suốt ngày nhận mà chưa từng có nhận.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì thọ có bốn. Nói chẳng thọ nhận tức chẳng thọ nhận sinh tử.

Chánh văn: Vì tưởng "không tụ" mà vào các thôn xóm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không tụ (làng vắng) cũng là tướng Niết-bàn. Phàm vào làng xóm, nên giữ tưởng này, nếu thế thì suốt ngày là làng xóm mà suốt ngày là làng vắng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Kế đó chê trách ngài Ca-diếp hành hạnh thiểu dục. Nếu thấy có người kia giàu người này nghèo rồi bỏ giàu, đến nghèo mà cho là thiểu dục, thì đó là thấy ác nhiều, thấy ác nhiều thì tránh khỏi nhiều, thế thì chẳng thể gọi là thiểu được. Vì thế dùng tưởng không tụ mà vào làng xóm, chớ nên thấy có người giàu nghèo.

Chánh văn: Thấy sắc như mù.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhị thừa chán ghét sinh tử, sợ hãi sáu trần, cho nên dạy họ dùng bình đẳng quán. Nói mù, tức chẳng thấy đẹp xấu khác nhau, chứ chẳng phải nói nhắm mắt không thấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tham dục của sáu trần rất nhiều, nếu có thể "không" ở nơi đó, thì sau mới tránh khỏi được.

Chánh văn: Nghe âm thanh như vang.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc vì tiếng vang của núi mà dẫn đến vui, giận.

Chánh văn: Ngửi mùi cũng như gió.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thơm hôi nhân nơi gió, mà gió thì chẳng có thơm hôi, nắm bắt thì chẳng giữ được.

Chánh văn: Nếm vị thì không phân biệt.

Ngài La-thập nói:

- Pháp không có định tánh, do phân biệt chấp tướng gọi đó là vị, nếu chẳng phân biệt thì chẳng có vị, tuy có nếm mà nên như bản tướng.

Chánh văn: Xúc chạm như trí chứng.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa chẳng đồng như xúc, khi xúc chạm nên như dùng trí mà xúc chạm thật tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Được Lậu tận trí, Vô sinh trí, tự chứng thành Phật đạo, toàn thân nhẹ nhàng khoan khoái mà chẳng sinh chấp trước, thân nhận sự xúc chạm cũng nên như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tiếng Phạm thì từ trí chứng và xúc có âm gần giống nhau, cho nên lấy đó làm dụ. Niết-bàn là cảnh giới chứng ngộ của trí.

Chánh văn: Biết các pháp như tướng huyễn, không có tự tánh, không có tha tánh.

Ngài La-thập nói:

- Nắm ngón tay thành quyền, cho nên không có tự tánh, các ngón tay cũng như thế, nên không phải tha tánh.

Ngài Tăng Triệu nói:

Các pháp như huyễn, từ nhân duyên sinh, há có tự tha để được ư? Phàm có tự nên có tha, có tha nên có tự, không có tự thì không có tha, không tha thì cũng không tự.

Chánh văn: Xưa vốn chẳng sinh thì nay chẳng diệt.

Ngài La-thập nói:

- Ngài Ca-diếp cho rằng diệt sinh tử thì có thể làm phước điền; cho nên dùng chẳng sinh để nói về không diệt, hầu dứt trừ kiến giải kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như lửa có cháy thì có tắt, pháp tánh thường không, vốn tự chẳng khởi, thì nay nào có diệt, giống như giải thích pháp sở đối của ý.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ tha sinh nên không có tự tánh, đã không có tự tánh, há có tha tánh ư? Thế thì vốn tự chẳng sinh thì nào có diệt, vì thế nói như huyễn.

Chánh văn: Này Ca-diếp! Nếu chẳng thể xả tám tà vào tám giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tám tà và tám giải thoát, bản tánh là thường nhất, khéo quán tám tà tức là vào tám giải thoát, há bỏ tà mà cầu tám giải thoát được ư? Nếu có thể như thế, gọi là vào giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sau cùng là chê trách ngài Ca-diếp dùng diệt hết định để làm phước điền cho người là chẳng thể được. Nếu dùng định mà muốn làm phước điền cho người, thì

Diệt hết định khác với tám tà, vậy đã có dị tâm thì chẳng thể làm phước điền. Nếu có thể chẳng bỏ tám tà mà vào tám Giải thoát, thì chẳng khác (dị tâm).

Chánh văn: Dùng tướng tà mà vào chánh pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu bản tánh thường nhất thì tà chánh nhập vào nhau, chẳng trái các tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước nói tám việc, còn nay thì nói nghĩa tà chánh. Chánh văn: Dùng một bữa ăn mà ban cho tất cả, cúng dường chư Phật và các Hiền Thánh, sau đó mới thọ thực.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dùng Pháp thí vô ngại để chỉ dạy. Nếu tà chánh bình đẳng, lại có thể dùng một bữa ăn, với tâm bình đẳng ban phát cho tất cả chúng sinh, cúng dường chư Phật và Hiền Thánh, đó mới đáng dùng món ăn của người. Bố thí vô ngại nghĩa là phàm được thức ăn, đầu tiên cần phải khởi tâm ban cho tất cả chúng sinh, sau đó mới được thọ thực. Nếu được Pháp thân thì luôn chân thật làm cho đầy đủ tất cả, như một bát cơm nói ở sau. Nếu chưa được Pháp thân thì chỉ khởi tâm bình đẳng ban phát tất cả, đó là pháp bố thí vô ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khất thực được nhiều mà ở nơi chúng, thì trước nên phân cho các thượng hạ tọa, đó là cúng dường. Nếu bình đẳng giải thoát thì không đâu không cúng dường. Sức mình đã được như thế thì sau mới có thể làm phước điền cho người.

Chánh văn: Thọ thực như thế, chẳng có phiền não chẳng lìa phiền não.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có phiền não mà thọ thực là hàng phàm phu, lìa phiền não mà thọ thực là Nhị thừa. Nếu có thể bình đẳng thọ thực như đã nói thì đó là thọ thực của Pháp thân, tức chẳng có phiền não mà thọ thực, chẳng lìa phiền não mà thọ thực.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nhận thức ăn mà thọ thực rồi lẽ ra phải đắm trước các vị sinh phiền não, nhưng vì tâm giải thoát mà thọ thực, thì không sinh phiền não, nên nói chẳng có phiền não, đã không có phiền não. Vả lại, chẳng thấy cơ lìa.

Chánh văn: Chẳng nhập định ý, chẳng khởi định ý. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Tiểu thừa nhập định thì chẳng thọ thực, thọ thực thì chẳng nhập định, còn pháp thân Đại sĩ thì suốt ngày thọ thực mà suốt ngày nhập định, nên không có danh từ xuất nhập.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Theo pháp thọ thực của Tỳ-kheo, thì khi thọ thực phải thực hành pháp quán bất tịnh mà quán thức ăn. Tuy nhập định này nhưng chẳng thấy có nhập, chẳng thấy có nhập thì chẳng nhập định chẳng xuất định.

Chánh văn: Chẳng trụ thế gian, chẳng trụ Niết-bàn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói trụ thế gian, thì pháp thân bặt thế tục, muốn nói trụ Niết-bàn thì hiện thọ thực đồng với thế tục. Ngài Đạo Sinh nói:

- Thức ăn đầy đủ cho thân thì mệnh tồn tại trụ ở thế gian, mệnh đã tồn tại ở thế gian, thì hành đạo để đạt đến Niết-bàn, cho nên chẳng trụ ở cả hai.

Chánh văn: Người bố thí.

Ngài La-thập nói:

- Cho đến chẳng nương vào Thanh văn, đó là điều mà thí chủ đạt được.

Chánh văn: Không được phước lớn, không có phước nhỏ, chẳng được lợi ích, chẳng bị tổn hại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể dùng tâm bình đẳng thọ thực, thì có giáo pháp bình đẳng, có giáo pháp bình đẳng thì thí chủ đồng đạt được sự bình đảng, không tính đến sự lớn nhỏ của phước, sự ích lợi hay tổn hại tự kỷ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người tu bình đẳng thì được quả báo bình đẳng, nên thí chủ cũng chẳng thấy có phước lớn nhỏ.

Chánh văn: Đó chính là vào Phật đạo, chẳng nương theo hạnh Thanh văn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bình đẳng khất thực thì được tự lợi và lợi tha, nên chân chánh vào Phật đạo mà chẳng nương vào đạo Thanh văn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Được quả báo bình đẳng thì chẳng thiên lệch về Tiểu thừa.

Chánh văn: Thưa ngài Ca-diếp! Nếu thọ thực như thế thì chẳng luống uổng thức ăn của người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức thọ thực ắt phải có ích lợi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói ắt có thể làm phước điền cho người, thế thì chẳng phải chỉ cứu giúp kẻ bần khổ mà rốt cuộc còn được quả Đại thừa.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy thì đạt được điều chưa từng có, liền khởi tâm cung kính tất cả các Bồ-tát, và tự nghĩ rằng: "Người này là một Cư sĩ đầy đủ trí tuệ biện tài mới có thể được như thế, ai nghe mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bấy giờ, cho rằng một Đại sĩ tại gia mà trí tuệ biện tài còn như thế, thì ai mà chẳng phát tâm vô thượng.

Chánh văn: Từ nay về sau con chẳng dạy cho người hạnh Thanh văn và Bích-chi-Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vừa biết được pháp Nhị thừa kém, liền chẳng dùng để dạy cho người.

Chánh văn: Vì thế con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

QUYỂN 3

Chánh văn: Đức Phật bảo Tu-bồ-đề. Ngài La-thập nói:

- Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện Nghiệp là đệ tử đệ nhất về giải không. Vì sao ngài Thiện Nghiệp đến nhà Cư sĩ để dẫn đến bị lỗi lầm? Là vì có nguyên do mà đến, cũng có nguyên do mà bị lỗi lầm. Nay xin dùng dụ để giải thích. Ví như một người thiện xạ, bắn không bao giờ sai tuy nhẹ nhàng nhanh nhẹn, nhưng chẳng thể đến được nhà kia, giống như ông Duy-ma-cật trí tuệ biện tài rất sâu xa, lời nói chẳng bao giờ phạm lỗi, cho nên được năm trăm Thanh văn chẳng dám đến nhà ông, ngài Thiện Nghiệp tự cho rằng, trí tuệ đã đạt sâu xa, biện tài đầy đủ, ứng thời, cho nên thẳng đến mà chẳng nghi ngại gì, đây là ý nghĩa của việc đến nhà. Nhưng ngài Thiện Nghiệp, lúc nhập quán thì tâm thuận với pháp tướng, khi xuất định thì tình theo sự mà chuyển, dẫn đến phạm lỗi, đây là lý do bị khuất phục. Ông Duy-ma biết rằng Thiện Nghiệp tự cho đã thâm nhập, nhưng lại trái với bình đẳng, cho nên chương này, lời văn thì gần gũi, chỉ thú sâu xa vậy. Các vị Thanh văn thể hội chưa đầy đủ, nên mỗi vị có một khả năng riêng biệt, do mỗi vị có khả năng riêng biệt nên gọi là Đệ nhất, năm trăm vị đều được gọi là Đệ nhất. Trên bốn vị Thanh văn đều là những vị có đức đặc biệt có thể ban cho người cúng dường phước báo ở hiện đời, nên đặc biệt gọi là bốn đại Thanh văn, còn các vị Thanh văn khác không có đức này, chỉ gọi là đệ nhất mà chẳng gọi là đại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu-bồ-đề, Hán dịch là Thiện Cát là bậc giải không đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.

Chánh văn: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật". Tu-bồ-đề bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa con đến nhà ông ấy khất thực." Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Tu-bồ-đề được Vô tránh Tam-muội, là bậc nhất trong chúng đệ tử. Vô tránh Tam-muội đã giải không thì không còn nơi để tranh luận gọi là Vô tránh. Ông Duy-ma-cật cơ phong bén nhạy, luận biện tài giỏi khó đối địch, ít có người dám đến nhà ông, nhưng ngài Tu-bồ-đề đã có định này, lại một mình dám đến nhà ông Duy-ma-cật, đó là cậy vào định để vào, liền có nguyên nhân cậy vào định mà dẫn đến cật vấn, há chẳng có như thế ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nhận lấy bát của con mà cho đầy cơm vào đó.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ông Duy-ma-cật hiện thân là Cư sĩ có sự hiềm nghi là bỏn sẻn, nếu chưa cho thức ăn mà cật vấn, thì mọi người sẽ cho ông là như thế, nên trước nhận bát bới đầy cơm; nhưng chưa trao lại cho ngài Tu-bồ-đề, vì sợ được cơm rồi liền đi, mà không thể nghe hết được sự luận bàn. Chánh văn: Và nói với con rằng: "Thưa ngài Tu-bồđề! Đối với thức ăn bình đẳng thì pháp cũng bình đẳng." Ngài Đạo Sinh nói:

- Ví như cậy vào định mà đến thì chẳng bình đẳng đối với định, đây là dùng thức ăn để cật vấn mà nêu ra đối với thức ăn cũng không bình đẳng. Nếu không bình đẳng nơi thức ăn thì há có bình đẳng nơi định ư? Vậy đều không có gì bình đẳng, đã không có bình đẳng, thì làm sao có định bình đẳng để nương cậy?

Chánh văn: Nếu các pháp bình đẳng thì đối với thức ăn cũng bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lại trình bày lời văn trước. Về thức ăn thì sự tuy thô cạn nhưng lý của nó thật vi diệu, cần phải đạt được bình đẳng đối với các pháp, sau đó mới có thể bình đẳng với thức ăn.

Chánh văn: Thực hành khất thực như thế mới được nhận lấy thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tu-bồ-đề cho rằng hàng Trưởng giả giàu có, phóng túng, tâm tham lam bỏn sẻn, chẳng nghĩ đến vô thường, nay tuy sung sướng sau ắt phải nghèo khổ; thương xót sự mê muội ấy, nên thường hay đến đây để khất thực. Kế đó thì vào nhà ông Tịnh Danh, ông Tịnh Danh liền nhận lấy bát đầy cơm, trong thời gian chưa trao lại bát đã chê trách ngài Tu-bồ-đề không bình đẳng.

Nói rằng vạn pháp đều đồng nhau y cứ một pháp thì có thể biết tất cả, nếu đối với thức ăn bình đẳng thì các pháp cũng bình đẳng. Nếu đối với các pháp mà bình đẳng thì thức ăn cũng bình đẳng, y cứ theo đây mà hành khất thực thì mới có thể nhận thức ăn. Há vì bỏ nghèo đến giàu mà sinh khởi ý tưởng có khác biệt ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói dụng tâm như thế mới có thể nương cậy mà thọ nhận thức ăn của tôi, nghĩa là nếu chẳng như thế thì không nên nhận.

Chánh văn: Thưa ngài Tu-bồ-đề! Nếu chẳng đoạn dâm, nộ, si, và chẳng cùng chung với nó.

Ngài La-thập nói:

- Đạt được chân tánh của nó thì có mà không, có mà không thì không có gì để đoạn, cũng không có gì, cho nên không đoạn mà cũng không cùng chung.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đoạn dâm, nộ, si là hàng Thanh văn, cùng chung với dâm, nộ, si là phàm phu. Bậc Đại sĩ quán dâm, nộ, si tức Niết-bàn nên chẳng đoạn mà chẳng cùng chung. Nếu người được như thế mới có thể nhận thức ăn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Tu-bồ-đề là người đã đoạn dâm, nộ, si. Nguyên vì ngài cậy vào định thì ắt đã đoạn mà chẳng cùng chung, nên căn cứ theo đó để vấn cật. Theo ý cật vấn thì có thể đã chuyển thành ý khuyên bảo tận tình thiết tha. Nếu cho rằng đoạn là chẳng cùng chung thì không chỉ có định bình đẳng mà còn chẳng thể đoạn dâm, nộ, si.

Chánh văn: Chẳng hoại thân thể mà tùy nhất tướng Ngài La-thập nói:

- Thân tức nhất tướng, chẳng đợi thân hoại mà tùy. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn vật đồng một chỉ thú, thị phi đồng quán nhất tướng, thế thì thân tức nhất tướng, há đợi hoại thân diệt thể, sau đó mới cho là một tướng ư? Thân tức thân năm ấm.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người đoạn dâm, nộ, si thì thân hoại mạng chung vào Niết-bàn. Niết-bàn thì không có vô lượng thân tướng mà là nhất tướng. Chẳng hoại thân, thì tựa như trái ngược, cho nên nói là tùy.

Chánh văn: Chẳng diệt si ái mà khởi minh thoát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Thanh văn vì si che mờ trí nên diệt si thì minh (sáng), vì ái buộc tâm nên dứt ái thì giải thoát. Bậc Đại sĩ quán chân tướng của si ái tức là minh và giải thoát, cho nên chẳng diệt si ái mà khởi trí minh và giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thân vốn từ si ái mà có, cho nên kế đó phải đề cập. Chẳng bị si che lấp là minh, chẳng bị ái trói buộc là thoát. Chánh văn: Dùng tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, cũng chẳng mở chẳng trói buộc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân tướng của ngũ nghịch là giải thoát, há có trói buộc, giải thoát khác nhau ư? Tội năm nghịch là nặng nhất, đạo giải thoát là thù thắng nhất, nếu có thể ngay nơi tướng ngũ nghịch mà được giải thoát, thì mới có thể nhận thức ăn của người.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nói nơi trói buộc được giải thoát, mà năm nghịch là cùng tột của sự trói buộc, cho nên nói như thế. Đó tức là giải thoát mà chẳng giải thoát, trói buộc mà chẳng trói buộc.

Chánh văn: Chẳng thấy bốn Đế, chẳng phải chẳng thấy các Đế. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân thật thấy bốn Đế, chẳng phải như cái thấy của hữu tâm, cũng chẳng phải như cái không thấy của vô tâm.

Chánh văn: Không đắc quả, cũng chẳng phải không đắc quả.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nơi trói buộc được giải thoát là công năng của kiến đế, nên phải luận đến. Chẳng phải chẳng thấy đế là đắc quả, cho nên phải giải thích.

Chánh văn: Chẳng phải phàm phu, chẳng lìa pháp phàm phu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Quả tức các đạo quả. Vì chẳng thấy bốn đế nên chẳng đắc quả; chẳng phải chẳng thấy các đế, nên chẳng phải phàm phu. Tuy chẳng phải phàm phu mà chẳng lìa pháp phàm phu, đó chính là đạo bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thấy đế là do nơi người, cho nên nay lại luận đến người.

Chánh văn: Chẳng phải Thánh nhân, chẳng phải chẳng Thánh nhân.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng lìa pháp phàm phu thì chẳng phải là Thánh nhân; đạo vượt ngoài ba cõi thì chẳng phải chẳng Thánh nhân.

Chánh văn: Tuy thành tựu tất cả pháp mà lìa tướng của các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng bỏ pháp ác mà theo pháp thiện, thì tất cả các pháp, nơi đâu mà chẳng thành. Các pháp tuy thành mà lìa tướng của nó. Vì lìa tướng thì đẹp xấu do đây thành tựu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người ắt phải thành tựu nơi pháp, cho nên phải đạt đến cùng cực thế lực của nó.

Chánh văn: Mới có thể thọ nhận thức ăn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể đạt được đầy đủ các điều đã nói ở trên thì mới đáng thọ nhận thức ăn.

Chánh văn: Thưa ngài Tu-bồ-đề! Nếu chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Còn dùng nghĩa bình đẳng để chỉ dạy. Nếu đạt được thị phi đồng, xấu tốt là một, thì tuy trên đồng Như Lai nhưng chẳng lấy làm tôn quý, dưới bằng sáu sư ngoại đạo cũng chẳng lấy làm thấp hèn. Thế thì trời đất đồng nhất chỉ quy, vạn vật đồng nhất quán. Tà chánh tuy khác mà tánh của nó chẳng hai, vậy đâu chỉ Như Lai tôn quý mà sáu sư ngoại đạo lại hèn kém ư? Nếu có thể đồng với sáu sư ngoại đạo kia, chẳng thấy Phật chẳng nghe pháp, theo họ xuất gia, tùy thuận chỗ họ đọa lạc mà chẳng lấy làm sai khác, mới có thể nhận lấy thức ăn. Đây là lời luận biện đến chỗ lý tánh cùng tận, rốt ráo vô phương. Nơi đó thiện ác thì nghịch luận mà chẳng trái với đạo thường, tà chánh thì đồng nêu mà chẳng mất chân thật. Đây có thể nói là đạo bình đẳng chánh hóa chẳng hai.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là một bậc, dẫu lời có trái mà lý thì thuận. Ví như thể hội được không bên trong sáng tỏ, thì chẳng cho lời trái mà hoặc loạn ý nghĩa. Ngài Tu-bồ-đề có thấy Phật nghe pháp mà nói không thấy Phật không nghe pháp là lời nói trái ngược. Nếu cho rằng không có Phật để thấy là không thấy Phật, không có pháp để nghe là không nghe pháp tức là thuận lý.

Chánh văn: Sáu sư ngoại đạo kia là Phú-lan-na Cadiếp. Ngài La-thập nói:

- Ca-diếp là họ của người mẹ, Phú-lan-na là tên. Người này khởi tà kiến cho rằng tất cả pháp là không có gì cả, như hư không chẳng sinh, chẳng diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Họ là Ca-diếp, tên là Phú-lan-na, người này khởi tà kiến, cho rằng tất cả pháp là không tánh, đoạn diệt, không có đạo vua tôi, cha con, trung hiếu.

Chánh văn: Mạt-già-lê Câu-xa-lê Tử.

Ngài La-thập nói:

- Mạt-già-lê là tự, Câu-xa-lê là tên của người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng tội cấu của chúng sinh chẳng có nhân chẳng có duyên.

Ngài Tăng Triệu ghi: Mạt-già-lê là tên chữ, Câu-xalê là tên của người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng khổ vui của chúng sinh chẳng do nơi nhân hạnh mà được, chỉ tự nhiên mà có.

Chánh văn: San-xà-dạ Tỳ-la-chi Tử.

Ngài La-thập nói:

- San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên người mẹ. Người này khởi tà kiến cho rằng cần phải trải qua vô số kiếp sinh tử, sau đó tự nhiên hết khổ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- San-xà-dạ là tên, Tỳ-la-chi là tên người mẹ. Người này cho rằng đạo chẳng cần phải tìm cầu, trải qua vô số kiếp sinh tử diệt hết thì tự nhiên được, như thả trục chỉ từ núi cao, chỉ hết thì tự dừng, đâu nhờ vào tìm cầu.

Chánh văn: A-kỳ-đa-xí-xá Khâm-bà-la. Ngài Lathập nói:

- A-kỳ-đa là tên, Xí-xá-khâm-bà-la là y phục thô xấu. Người này khởi tà kiến chẳng phải nhân chấp là nhân; mặc áo gai thô xấu, tự nhổ tóc, đốt lửa, xông khói vào mũi... cho các việc khổ hạnh ấy là đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- A-kỳ-đa-xí-xá là tên, Khâm-bà-la là một loại y phục thô xấu. Người này mặc y phục thô xấu, tự nhổ tóc dùng năm loại lửa đốt quanh thân mình, cho các khổ hạnh này là đạo. Cho rằng thân ngày nay nên chịu các khổ thân, mai sau sẽ được an lạc mãi mãi.

Chánh văn: Ca-la-cưu-đà Ca-chiên-diên. Ngài Lathập nói:

- Đây là tên của một ngoại đạo. Người này tùy theo người khác mà khởi chấp, nếu người hỏi: "Có chăng?" thì đáp là có, nếu người hỏi: "Không chăng?" thì đáp là không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Họ là Ca-chiên-diên, tên là Ca-la-cưu-đà. Người này cho rằng các pháp cũng có tướng, cũng không có tướng.

Chánh văn: Ni-kiền-đà Nhã-đề Tử.

Ngài La-thập nói:

- Ni-kiền là tên, Nhã-đề là tên người mẹ. Người này khởi kiến chấp cho rằng tội phước khổ vui đều do đời trước, đã làm ắt phải đền, đời này tuy có hành đạo, nhưng chẳng thể nửa chừng hết tội. Sáu vị này đều khởi tà kiến, ngoại đạo khổ hạnh, lõa hình, tự xưng đã được Nhất thiết trí, hai loại này chỗ đồng thì nhiều, chỗ sai biệt thì ít. Gồm có ba loại, tức sáu sư ngoại đạo hợp lại thành mười tám bộ:

1. Tự xưng là Nhất thiết trí.

2. Được năm Thông.

3. Tụng bốn bộ Vệ-đà.

Sáu sư ở trên thuộc loại thứ nhất. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ni-kiền-đà là từ gọi chung những người xuất gia, như xuất gia nơi Phật pháp gọi là Sa-môn. Nhã-đề là tên mẹ. Người này cho rằng tội phước, khổ vui đã có nguyên nhân nhất định, đã làm ắt phải chịu, chẳng thể tu hành mà đoạn trừ được. Khi Đức Phật chưa xuất thế thì sáu sư ngoại đạo này đều thống trị các đạo ở Thiên Trúc. Chánh văn: Là thầy của ông, ông theo họ xuất gia Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng thấy Phật nghe pháp thì thọ học đạo nơi các sư tà kiến, nhân đó mà được tà xuất gia, tức thuận ở chỗ lý của sáu sư ngoại đạo là nguyên do của ngộ, là thầy. Vả lại, từ đó mà thành tựu đạo xuất gia.

Chánh văn: Thầy ông đọa, ông cũng đọa theo, thế mới có thể thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sống thì theo tà kiến, chết thì đọa vào ác đạo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã thờ họ làm thầy, họ đọa vào ba ác đạo, thì ông chẳng thể chẳng đọa theo. Tức là thuận ở chỗ, nếu tôn phụng lý của sáu sư mà xuất gia, thì tuy lìa ba ác đạo mà chẳng trái nghịch với nghĩa đọa.

Bản khác ghi: "Chẳng thấy Phật cho đến đọa theo các sư". Ngài La-thập nói:

- Nhân kia thấy khác nhau nên chỉ dạy quán bình đẳng. Nếu chẳng thấy Phật thù thắng hơn sáu sư, thì theo họ xuất gia, cùng với họ là một không hoạt tướng khác thì mới được thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể đồng với sáu sư kia mà chẳng phá hoại tướng dị, thì mới có thể thọ nhận thức ăn.

Chánh văn: Nếu ngài Tu-bồ-đề! Vào nơi tà kiến mà chẳng đến bờ kia.

Ngài La-thập nói:

- Từ đây trở xuống là nói nếu chưa hợp bình đẳng thì chưa ra khỏi các khổ lụy. Cho nên nói vào tà kiến; trụ tám nạn, đồng với phiền não, có đầy đủ các pháp ác này, trái với các thiện kia. Các câu sau đều là nói về điều chẳng được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bờ kia tức là bờ thật tướng. Kẻ mê hoặc cho tà kiến là tà, bỉ ngạn là chánh, cho nên bỏ tà kiến này mà đến bờ kia. Tà kiến và bờ kia, bản tánh vốn chẳng khác, vậy há có bỏ tà mà cầu bờ kia ư? Vì thế nói vào các tà kiến mà chẳng đến bờ kia mới có thể thọ nhận thức ăn. Từ câu sáu sư cho đến câu không được diệt độ là tự so sánh với chúng sinh nghịch luận để thành nghĩa thuận rộng lớn, ngõ hầu thông thấu các tâm, vì có người chỉ nêu huyền chỉ mà ngăn dứt các điều đúng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tôn thờ thầy tà kiến thì rơi vào các tà kiến. Còn đến bờ kia là do chánh kiến, nếu vào tà kiến thì chẳng đến bờ kia. Thuận ở chỗ là nếu hiểu được lý tà kiến tức là vào, đã vào được lý ấy tức là bờ kia mà không còn bờ kia nào nữa để đến cả.

Chánh văn: Trụ nơi tám nạn, chẳng được không nạn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm thấy nạn là nạn, ắt phải lìa nạn mà cầu không nạn, nếu có thể chẳng cho nạn là nạn, thì chắc chắn có thể trụ nơi nạn; vì chẳng cho không nạn là không nạn, cho nên chẳng được không nạn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã vào tà kiến thì liền sinh tám nạn, chẳng thể được nơi không có nạn. Thuận ở chỗ nếu đã hiểu được lý tà kiến thì liền được trụ trong lý tám nạn, mà chẳng có chỗ không nạn nào nữa để được.

Chánh văn: Đồng với phiền não, lìa pháp thanh tịnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm ngộ được phiền não chẳng phải phiền não, thì tuy phiền não mà thường thanh tịnh. Nếu cho tịnh là tịnh, thì tuy tịnh mà phiền não. Vì thế nói đồng phiền não mà xa lìa thanh tịnh, đó mới là thường thanh tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vào tà kiến, sinh nơi tám nạn thì không kết sử nào chẳng khởi, bị phiền não trói buộc, chẳng được tự tại, càng xa pháp thanh tịnh. Nhưng thuận ở chỗ, nếu đã trụ trong lý tám nạn, tâm thầm hợp với lý phiền não, thì đó tức là tịnh mà không còn tịnh nào để xa lìa.

Chánh văn: Ông được Vô tránh Tam-muội.

Ngài La-thập nói:

- Vô tránh có hai:

1. Dùng sức Tam-muội hộ trì chúng sinh, khiến họ chẳng khởi tâm tranh luận.

2. Tùy thuận pháp tánh, chẳng chống trái, chẳng tranh luận.

Thiện nghiệp tự cho rằng đạt sâu xa được pháp không, không còn trái nghịch luận tranh, nay chẳng thuận bình đẳng mà nói vô tránh thì không khác với chúng sinh.

Chánh văn: Thì tất cả chúng sinh cũng được định này. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiện Cát và chúng sinh, tánh tự thường nhất, đâu chỉ Thiện Cát được mà chúng sinh chẳng được ư? Đây là nói tánh vốn chẳng thiên lệch. Ngài Thiện Cát là bậc Giải không đệ nhất trong năm trăm đệ tử, thường khéo thuận pháp tánh, chẳng trái, chẳng tranh. Trong đã chẳng tranh, ngoài lại khéo thuận tâm người, khiến không tranh luận, ngài đã được định này, gọi là Vô tránh Tam-muội. Ngài Đạo Sinh nói:

- Trên là cật vấn về việc cậy vào định mà chẳng bình đẳng, nên mới nói ông chẳng được định; ý tuy tại nơi đó nhưng chưa phản bác, vì thế cuối cùng căn cứ vào việc này để chỉ trích rằng nếu Tu-bồ-đề được định này thì chúng sinh không thể không được. Thuận ở chỗ kia chẳng được cũng là đây được, không có gì khác nhau.

Chánh văn: Người cúng cho ngài chẳng gọi là phước điền.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ta nhận vật thí của người khiến cho người đạt được phước lớn, nên gọi là phước điền. Còn nếu nhìn chung thì ta người chẳng khác thì ai là người gieo các phước, ai là mảnh ruộng (điền)?

Chánh văn: Người cúng dường cho ngài sẽ đọa vào ba đường ác.

Ngài Tăng Triệu nói:

Sự tổn hại của năm tội nghịch, sự lợi ích của cúng dường, nếu nhìn tổng quát thì đồng nhau, vì chưa giác cho nên thấy khác. Nếu năm nghịch mà có thể làm đọa lạc thì cúng dường cũng đọa lạc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Báo và ứng, ảnh và hưởng rất phù hợp, ví như cúng dường cho người tà kiến thì sẽ dẫn đến quả báo tà kiến mà đọa vào ba đường ác. Báo tà kiến tức là không phải phước điền. Đã không phước điền, thì có gì để nói. Nhưng thuận ở chỗ nếu cuối cùng đạt được chánh kiến thì không có phước điền để gọi. Vĩnh viễn xa lìa khỏi ba ác đạo mà chẳng khác với đọa.

Chánh văn: Chung một tay với chúng ma mà tạo ra các bạn bè trần lao.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng ma tức bốn ma, cùng làm bạn bè với các trần lao. Ngài Đạo Sinh nói:

- Bố thí hay tạo ra quả nên gọi là nghiệp. Nếu sinh tà nghiệp thì chiêu cảm quả báo trong ba cõi, làm chúng sinh chịu lao khổ. Ở đây nói tà kiến và nghiệp là bạn, sau đó mới chiêu cảm quả báo trong ba cõi nhưng nghiệp này tạo thành sự lao nhọc đồng với sự tạo tác của các ma nên nói là đồng một tay. Nhưng thuận ở chỗ đã được chánh kiến thì chẳng khác với các ma, mà làm bạn trần lao.

Chánh văn: Ngài cùng với chúng ma và các trần lao không sai biệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

Đã là bạn bè, thì đâu được khác nhau? Phàm chẳng khác, nên có thể trở thành khác.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu thọ nhận vật thí mà làm cho người thí bị quả báo tà kiến, thì tổn hại tuệ mạng của họ, là nội ngoại ma. Nhưng thuận ở chỗ nếu khiến họ đạt được bình đẳng, thì sinh được tuệ tâm, ắt chẳng thấy khác với sự tổn hại.

Chánh văn: Có tâm oán hận đối với tất cả chúng sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Làm hại tuệ mạng của họ là ma, thì người oán rất nhiều vậy. Thuận ở chỗ nếu phát khởi tuệ tâm của họ là nghĩa thân hữu, thì chẳng thấy khác với oán. Chánh văn: Bài báng Phật, khinh hủy pháp Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm oán thân, ý khen chê, pháp thiện ác đều là một, ai nói khác? Ví như nói chẳng khác, cũng là nói vì sao chẳng đồng.

Chánh văn: Chẳng vào chúng số, rốt cuộc chẳng được diệt độ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nguyên do bị tổn hại là do hủy báng Phật, khinh khi pháp, người này chẳng được dự vào hàng bốn chúng. Nhưng thuận ở chỗ nếu dùng nghĩa thân hữu để khen Phật, tôn quý pháp làm thể, thì chẳng khác với hủy báng, cho nên nói là hủy báng.

Chánh văn: Nếu ngài được như thế, mới có thể lãnh thọ thức ăn.

Ngài La-thập nói:

Nếu ngài tự biết có lỗi sâu nặng như thế thì mới thọ nhận thức ăn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người phạm trọng tội, chẳng được dự vào hàng Hiền Thánh, rốt cuộc chẳng được diệt độ, nhưng nếu có thể đầy đủ các pháp ác kể trên mới được thọ nhận thức ăn. Vì sao? Phàm bỏ ác theo thiện là lẽ thường của con người. Thế thì thị phi còn nơi tâm, chưa tránh khỏi khổ lụy. Vì thế người thực hành bình đẳng quán, cho rằng còn thiện là hoạn, mới bỏ thiện mà cầu chỗ rốt ráo. Vì xả bỏ ác là khổ lụy, cho nên ngay nơi ác mà trở về gốc, thế thì ngay nơi ác đã có công dứt bặt khổ lụy, còn xả bỏ thiện thì có công vô nhiễm. Cho nên biết đồng với thiện chưa hẳn là được, đồng với ác chưa hẳn là mất. Ý nghĩa trong lời nói của ngài Tịnh Danh tựa hồ như thế.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con nghe những lời ấy xong thì mờ mịt chẳng biết ông ấy nói gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu theo lời mà luận thì ta chẳng được như thế, nếu theo ý mà suy thì mình cũng chẳng bằng, cho nên rốt cuộc chẳng biết là nói gì?

Chánh văn: Chẳng biết trả lời như thế nào, liền muốn để bát lại mà ra khỏi nhà ông ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lời của ngài Tịnh Danh thì nghịch mà lý thì thuận, ngài Thiện Cát chưa suy nghĩ được lời này, nên chẳng biết là nói gì, liền bỏ bát muốn đi.

Ngài Đạo Sinh nói:

Tiến thoái chẳng có nơi y cứ nên chẳng biết trả lời sao, thế thì bị khuất phục. Trước nói nếu như thế mới được thọ nhận thức ăn, nếu chẳng như thế thì chẳng được nhận. Đã chịu khuất phục nên phải bỏ bát, để lại, muốn đi khỏi.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: "Thưa ngài Tu-bồ-đề! Hãy nhận bát, chớ kinh sợ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Kinh sợ chẳng đáp, lại không lấy bát, là chấp trước tướng ngôn ngữ. Vì muốn giải trừ chỗ ngăn trệ này để được thọ lãnh bát cơm, nên mới nói: "Hãy nhận bát, chớ kinh sợ".

Chánh văn: Ý ông thế nào? Nếu người huyễn do Như Lai biến hóa tạo ra, đem việc ấy hỏi ngài, thì ngài có sợ chăng?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh muốn Thiện Cát hoằng dương đạo bình đẳng, dùng vô tâm để nghe, tùy thuận tốt xấu, nhưng ngài Thiện Cát chưa tư duy đến lời này, mê mờ lời nói, cho nên cần phải lập dụ để chỉ bày.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lời nói cho dù như huyễn hóa tức cũng chẳng thể có tâm nơi lời vấn cật.

Chánh văn: Con nói: "Không sợ". Ông Duy-ma-cật lại nói: "Các pháp như huyễn hóa, ngài nay chẳng nên kinh sợ!"

Ngài Tăng Triệu nói:

Là bậc Giải không đệ nhất trong các đệ tử, đã biết huyễn hóa là vô tâm, cũng đã biết các pháp như huyễn hóa, dùng tâm này mà nghe thì há có kinh sợ ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Huyễn hóa thì chẳng sợ, các pháp như huyễn hóa thì chẳng được sinh sợ hãi.

Chánh văn: Vì sao? Vì tất cả ngôn thuyết chẳng lìa tướng ấy. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng ấy tức là tướng huyễn. Ngôn thuyết như huyễn hóa, nghe cũng như huyễn hóa, dùng huyễn mà nghe huyễn, há có sợ hãi ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sở dĩ nói pháp như huyễn hóa cần phải không kinh sợ, là vì các pháp hóa như huyễn, ngôn thuyết cũng như thế. Ngôn thuyết đã nói như huyễn, vì sao phải sợ hãi nơi lời?

Chánh văn: Đến như người trí chẳng chấp trước văn tự, cho nên chẳng sợ. Vì sao? Vì tánh văn tự vốn xa lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm văn tự sinh nơi mê hoặc chấp thủ, pháp không chấp thủ thì tướng của văn tự lìa, là pháp hư vọng giả danh, người trí không chấp giữ.

Chánh văn: Không có văn tự là giải thoát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Giải thoát nghĩa là vô vi chân giải thoát. Phàm danh sinh khởi nơi chẳng đủ, đủ thì không có danh, nên không có văn tự, đó là chân giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

Chẳng bị trói buộc nơi văn tự nên nói giải thoát.

Chánh văn: Tướng giải thoát tức là các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Danh tự sinh nơi pháp, pháp sinh từ danh tự, danh tự đã giải thoát thì các pháp cũng đồng giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước dùng các pháp như huyễn để luận không văn tự, nay văn tự giải thoát thì lại nhờ đó để nói các pháp giải thoát.

Chánh văn: Khi ông Duy-ma-cật nói pháp này xong, có hai trăm Thiên tử được Pháp nhãn tịnh. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài Phú-lâu-na Di-đa-la-ni Tử.

Ngài La-thập nói:

- Phú-lâu-na, Hán dịch là Mãn; Di-đa-la-ni, Hán dịch là Thiện tri thức; Thiện Tri Thức là tên của người mẹ. Ngài là bậc Luận thuyết A-tỳ-đàm đệ nhất trong các Pháp sư.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phú-lâu-na là tên, Hán dịch là Mãn; Di-đa-la-ni là tên người mẹ, Hán dịch là Thiện tri thức, lấy tên mẹ làm tên mình. Ngài là bậc đệ nhất về luận nghị.

Chánh văn: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật". Phú-lâu-na đáp: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ khi xưa, con ngồi dưới một cội cây trong rừng thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới nghe.

Ngài La-thập nói:

Gần thành Tỳ-da-ly có một khu rừng, trong đó có một dòng suối tên là Di-hầu, và các Tăng phòng, là một trong ba tinh xá ở thành Tỳ-da-ly. Ngài Phú-lâu-na trụ nơi đây thuyết pháp cho các Tỳ-kheo mới học nghe.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Phú-lâu-na! Trước tiên nên nhập định quán xét tâm người rồi sau mới nên thuyết pháp".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đối với Đại thừa từ bậc Pháp thân trở lên đã được chân tâm vô ngại, tâm trí vắng lặng, chưa từng không có định. Vì tâm thường định nên luôn chiếu soi khắp vạn sự, chẳng cần suy cầu mới biết. Còn hàng Tiểu thừa tâm còn có hạn, chẳng thể thường định, phàm quán xét, thì khi nhập định mới thấy, xuất định chẳng thấy. Vả lại, trong hàng Thanh văn vị nào có định sâu thì thấy được căn cơ của chúng sinh trong cùng tận tám vạn kiếp; vị có định lực kém thì chỉ thấy được vài đời mà thôi. Còn chỗ thấy của bậc Đại sĩ thì vô cùng. Các Tỳ-kheo mới học này căn cơ thuộc Đại thừa, cần phải được nghe đạo Đại thừa, mà Phú-lâu-na lại nói pháp Tiểu thừa, cho nên khuyên nhập định.

Chánh văn: Chẳng nên đặt thức ăn dở vào bát báu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thức ăn dở chỉ nên làm no người đói pháp Tiểu thừa, còn vật báu vô thượng thì đựng đầy vào bát Đại thừa.

Chánh văn: Nên biết tâm niệm của các vị Tỳ-kheo này, chẳng nên cho lưu ly đồng với thủy tinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nên biết được chỗ căn bản trong tâm niệm của họ, chẳng nên khiến cho không thể phân biệt được chân ngụy.

Chánh văn: Ngài đã không biết được căn nguyên của chúng sinh, thì không được dùng pháp Tiểu thừa để phát khởi họ, họ vốn không tổn thương, chớ nên làm họ tổn thương.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thể Đại thừa của các vị này vốn không tỳ vết, không nên dùng mũi nhọn Tiểu thừa mà làm tổn thương họ.

Chánh văn: Họ muốn đi đường lớn, chớ nên chỉ lối nhỏ, không nên đem cả biển lớn đặt vào dấu chân trâu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vật lớn nên đặt vào nơi lớn, há có thể dắt long tượng vào lối thỏ, đặt biển lớn vào dấu chân trâu ư?

Chánh văn: Không nên cho ánh sáng mặt trời đồng với lửa đom đóm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáng tối khác nhau, việc ấy cũng như thế, mà muốn đồng nhau sao được?

Chánh văn: Thưa ngài Phú-lâu-na! Các Tỳ-kheo này, phát tâm Đại thừa đã lâu xa, nửa chừng quên mất.

Ngài Tăng Triệu ghi: Chưa đạt vô sinh, thì hẳn sẽ thoái tâm mà quên mất.

Chánh văn: Mà nay vì sao lại dùng pháp Tiểu thừa dẫn dắt họ. Tôi xem trí tuệ của Tiểu thừa cạn mỏng, giống như người mù, chẳng thể phân biệt căn tánh lợi độn của chúng sinh. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật liền nhập Tam-muội, khiến các Tỳ-kheo tự biết được kiếp trước lâu xa của mình là đã từng ở nơi năm trăm Đức Phật trồng các cội công đức và hồi hướng về đạo Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh muốn chỉ lại tâm xưa kia để thành tựu bản ý cho họ, nên mới dùng sức định, khiến các Tỳ-kheo này biết được túc mệnh, tự rõ được mình đã từng trồng cội công đức nơi năm trăm Đức Phật và đã hồi hướng các công đức này về đạo Vô thượng, đó là bản ý của họ. Chánh văn: Tức thời rỗng rang đạt được bản tâm.

Liền đó các Tỳ-kheo cúi đầu đảnh lễ nơi chân ông Duy-ma-cật. Nhân đó ông thuyết pháp khiến cho các vị Tỳ-kheo không còn lui sụt nơi đạo Vô thượng Bồ-đề. Con nghĩ rằng hàng Thanh văn chẳng biết quán xét căn cơ chúng sinh thì chẳng nên thuyết pháp. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài Ma-ha Ca-chiên-diên:

Ngài La-thập nói:

- Ngài thuộc dòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, là người thông suốt Khế kinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ca-chiên-diên là một họ của giòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, ở đây lấy họ gốc làm tên. Ngài là người giải nghĩa đệ nhất trong các đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật. Ca-chiên-diên bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Vì nhớ lại khi xưa, Đức Phật lược nói pháp yếu cho các Tỳ-kheo nghe.

Ngài La-thập nói:

- Pháp yếu nghĩa là tất cả pháp lược nói thành hai loại là hữu vi và vô vi. Ngài Ca-chiên-diên sau đó diễn thuyết lại, nói hữu vi thì có bốn vô thường, vô vi thì vắng lặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như Lai thường lược thuyết pháp hữu vi là vô thường, khổ, không, vô ngã; pháp vô vi thì vắng lặng chẳng động. Hai pháp này gồm thâu tất cả pháp, nên gọi là lược.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Là ngộ được chỗ rốt ráo, nếu muốn ra thì phải từ cửa ngõ phương tiện.

Chánh văn: Sau đó con diễn nói lại các nghĩa ấy. Đó là các nghĩa vô thường, khổ, không, vô ngã, tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu ghi: Như Lai diễn thuyết chưa từng có tâm, nên pháp được Ngài nói ra chưa từng có tướng. Ngài Ca-chiên-diên chẳng đạt được huyền chỉ, nên sau khi nhập thất đều dùng tướng mà nói; đâu biết Như Lai vì muốn dứt trừ chấp thường nên nói vô thường, chẳng cho là vô thường; dứt trừ chấp lạc nên nói khổ, chẳng phải cho là khổ; dứt trừ chấp thật nên nói không, chẳng phải cho là không; dứt trừ chấp ngã nên nói vô ngã, chẳng phải cho là vô ngã, trừ chấp tướng nên nói tịch diệt, chẳng cho là tịch diệt. Năm pháp này có thể cho rằng là giáo vô ngôn, là luận vô tướng. Nhưng ngài Cachiên-diên diễn lại thì khác, vì nghe thì tùy thuận mà tâm có sai biệt, nên nghe vô thường thì chấp thật có lưu động, cho đến nghe tịch diệt thì chấp tướng diệt. Đây là lời nói thì đồng mà chỉ thú lại khác, vì thế dẫn đến sự mê lầm của Ca-chiên-diên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Ca-chiên-diên là một bậc Đệ nhất trong hàng phân biệt Phật ngữ. Phật đã lược thuyết trước, thì sau đó Ca-chiên-diên diễn thuật lại. Vì chỉ cần giữ yếu chỉ mà chẳng cần đúng lời, cho nên nói là diễn bày nghĩa ấy.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Ca-chiên-diên! Chẳng nên với tâm hành sinh diệt mà thuyết pháp thật tướng".

Ngài La-thập nói:

- Nếu không sinh diệt thì không có chỗ tâm hành, không có chỗ tâm hành chính là đến thật tướng. Vì ngài Ca-chiên-diên cho sinh diệt là thật tướng, nên chê trách, bảo là không nên dùng tâm sinh diệt mà nói pháp thật tướng; giải thích gồm thông cả năm câu sau.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm là gì? Mê hoặc nơi tướng mà sinh. Hành là gì? Là tên của tác dụng. Phàm có hình ắt có bóng, có tướng ắt có tâm, không hình thì không bóng, không tướng ắt không tâm. Thế thì tâm tùy theo cảnh mà chuyển; hành nhân dụng mà khởi. Vì thấy pháp sinh diệt, nên tâm có sinh diệt, ngộ pháp chẳng sinh diệt thì tâm chẳng sinh diệt. Ngài Ca-chiên-diên giảng nghĩa vô thường cho rằng pháp có tướng sanh diệt, có tướng sinh diệt, nên ảnh hưởng đến tâm kia đồng sinh diệt. Phàm thật tướng thâm u, vi diệu, dứt bặt cảnh thường, chẳng phải là pháp mà tâm hữu có thể biết, chẳng phải là điều mà có thể dùng lời để biện biệt; thế thì sao có thể dùng tâm hành sinh diệt để thuyết mà được?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đức Phật đã khen ngài Ca-chiên-diên khéo phân biệt nghĩa, há có lầm lẫn ư? Vì chấp trước lời nói mà luận biện nên phạm khuyết điểm. Phàm điều mà Phật và ngài Ca-chiên-diên nói đều đồng nhau, đến như không đạt được mà chấp giữ thì cũng chẳng thể cho là khác. Nhưng nghĩa của Phật nói không bị phản bác, còn việc của Ca-chiên-diên lại bị sự cật vấn. Vì sao như thế? Vì Phật lấy lý cùng tuyệt làm chủ, lời nói thảy đều thông suốt, còn ngài Ca-chiên-diên thì chưa đạt đến chỗ cùng tột nên nói trái chỉ thú, nên có thể y cứ vào chỗ này mà chê là còn khuyết phạm. Vô thường tức biến đổi đến diệt, khổ tức mất sự yêu thương, không tức tự kỷ chẳng có, vô ngã tức không có chủ, tịch diệt tức không có bốn điều vừa kể. Thế thì bốn việc đó là pháp đáng ghét, không có chúng tức là lý đáng ưa thích. Phàm năm việc trên vốn là lời để biểu thị sự thật của lý, mà lại cho rằng tất cả cảnh sinh diệt là sở hành của tâm. Các Tỳ-kheo hành các sở hành của tâm nên chẳng được giải thoát, nếu ngộ rốt ráo được yếu chỉ này thì mới thật đúng.

Chánh văn: Thưa ngài Ca-chiên-diên! Các pháp rốt ráo chẳng sinh diệt là nghĩa vô thường.

Ngài La-thập nói:

- Phàm muốn nói không thì trước nói vô thường, vô thường là môn đầu tiên của không. Môn đầu tiên thì gọi đó là vô thường, rốt ráo thì gọi đó là không, chỉ thú thì đồng mà lấy sự tinh thô làm sâu cạn. Vì sao nói như thế? Vì nói vô thường tức nói niệm niệm chẳng dừng trụ, chẳng trụ thì dùng hữu để buộc khiến trụ. Tuy đã dẹp trụ lâu mà chưa nói về vô trụ, đó là thô vô thường, chưa đến chỗ cùng tột. Nay một niệm này nếu buộc cho dừng trụ mà sau đó cũng lại trụ, nếu nay trụ, mai sau trụ thì trước sau chẳng biến đổi. Trước sau chẳng biến, thì chẳng hợp, vì khi trụ mà chẳng trụ thì đó là diệt, trụ tức chẳng trụ mới là chân vô thường. Vốn cho trụ là hữu, nay vô trụ thì chẳng có hữu, không có hữu thì rốt ráo không, đây chính là diệu nghĩa của vô thường. Cho nên nói: "Rốt ráo không là nghĩa vô thường". Ngài Ca-chiên-diên chưa đạt đến chỗ cùng tận, mà cho đó là lý rốt ráo, nên tự rước lấy lời chê trách là vọng chấp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là luận về nghĩa lược thuyết của Như Lai. Tiểu thừa quán các pháp cho sinh diệt là nghĩa vô thường, Đại thừa cho chẳng sinh diệt là nghĩa vô thường. Tên vô thường tuy đồng, nhưng chỉ thú lại sâu xa siêu tuyệt, đạo ấy thật rỗng xang, hẳn chẳng phải là chỗ suy lường của thường tình. Người đạt được diệu chỉ ấy chính là ngài Tịnh Danh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm nói vô thường là y cứ vào sự diệt mà nghiệm xét. Ví như cuối cùng có diệt mà đầu tiên chẳng có sinh ư? Nếu đầu tiên thật có sinh, thì sinh chẳng nhất định sinh, sinh chẳng nhất định là sinh, thì diệt làm sao nhất định được? Sinh diệt đã chẳng định, thì chân thể nào có nơi tồn tại, suy xét về lý không tồn tại đó, chính là chỗ chân thật của các pháp. Thật, thì lấy chẳng sinh chẳng diệt làm nghĩa. Há chẳng phải chỗ tồn tại của vô thường ư? Thế thì vô thường tuy là nói về vô của thường, nhưng cũng để biểu hiện nghĩa vô của vô thường. Rốt ráo tức chẳng thể chẳng sinh.

Chánh văn: Năm thọ ấm rỗng không, chẳng có chỗ khởi là nghĩa khổ.

Ngài La-thập nói:

- Vô thường phá hoại các pháp, cho nên khổ. Nếu vô thường thô thì sự phá hoại pháp cũng thô, hoại cũng thô, thì khổ chẳng cùng cực. Nay nói diệu vô thường, thì không pháp nào chẳng bị phá hoại, không pháp nào chẳng bị hoại thì pháp chẳng thể hoại, khổ rất sâu nặng, là chỗ cùng tột của pháp bất khả đắc không. Từ không mà quán thì chẳng hoại chẳng khổ, từ hữu mà nhìn thì tan hoại là nguyên do nghĩa khổ sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm ấm hữu lậu, thọ nhận ái nhiễm sinh tử nên gọi là năm thọ ấm. Tiểu thừa cho thọ ấm khởi thì các khổ sinh, đó là nghĩa khổ. Đại thừa thông đạt trong ngoài thọ ấm thường không, vốn tự chẳng khởi, thì có gì mà sinh khổ, đây là nghĩa khổ chân thật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm khổ là do các sự hội hợp mà thành, cái mà do hội hợp thành, há thật có ư? Vì thế nói năm thọ ấm không là nghĩa khổ. Năm thọ ấm là gốc của khổ. Từ vô thường suy đến sinh và diệt chẳng tại một việc. Vả lại, nói chung cho hữu lậu và vô lậu, nên nói là các pháp. Khổ là nghĩa của không, sinh khởi bên trong. Hơn nữa người đạt được vô lậu thì chẳng lấy việc mất các thọ mà làm khổ, nên chỉ nói thọ ấm mà thôi. Rỗng không, nghĩa là vô thường căn cứ vào chung cuộc mà nghiệm biết, cho nên nói là rốt ráo, khổ lấy không làm thể nên nói là rỗng không. Không có chỗ khởi, nghĩa là vô thường tức nói về sự biến chuyển không gốc, lý hiển tại nơi sinh; khổ là nói về pháp giả hợp, vì thế phối hợp mà nói khởi.

Chánh văn: Các pháp rốt ráo chẳng có là nghĩa không. Ngài La-thập nói:

- Nói không là muốn trừ có, chẳng phải bỏ có mà giữ không. Nếu bỏ có giữ không, thì không chẳng thật là không. Hai pháp đều dứt bặt mới là nghĩa không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa quán các pháp duyên khởi, trong đó không có chủ tể chân thật là nghĩa không. Tuy thường quán nói không mà chưa từng bặt không, nên chẳng rốt ráo. Còn Đại thừa ở nơi có mà chẳng chấp có, nơi không mà chẳng chấp không, lý không há chẳng cùng cực, nên gọi là nghĩa không rốt ráo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người mê hoặc đều cho là các pháp là sở hữu của ngã, theo lý đã là khổ, thì sự chẳng theo mình, sự đã chẳng theo ý mình thì chẳng phải là vật nắm giữ của ngã, chẳng phải ngã giữ gìn, thì vật đó ắt chẳng có; có là có mà nói chẳng có; không là không, há nói có ư? Đây là không hữu, không vô, rốt ráo đều dứt bặt, đó chính là nghĩa không.

Chánh văn: Ngã, vô ngã, chẳng hai là nghĩa vô ngã Ngài La-thập nói:

- Nếu trừ ngã để được vô ngã, thì chưa tránh được còn ngã. Vì sao? Phàm nói ngã tức là chủ. Kinh nói rằng: "Có hai mươi hai căn, hai mươi hai căn tức hai mươi hai chủ", tuy nói không có chủ tể chân thật mà có chủ của tác dụng, đó còn là phế bỏ chủ mà lập chủ. Nên nói nếu ngã, vô ngã chẳng hai mới là vô ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa vì chấp ngã mà bị phiền lụy, cho nên lập vô ngã. Vô ngã đã lập thì đối với ngã mà thành hai. Đại thừa thì thị phi đồng một chỉ thú, hai pháp chẳng khác, đó là nghĩa vô ngã.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý đã chẳng theo ngã là không, há có ngã có thể tạo tác ư? Thế thì vô ngã. Vô ngã vốn là ngã trong vô sinh tử, chẳng phải không có ngã Phật tánh.

Chánh văn: Pháp vốn chẳng sinh, nay cũng chẳng diệt là nghĩa tịch diệt. Ngài La-thập nói:

- Đây là nói về nghĩa Niết-bàn. Do sinh tử hết nên có diệt, sinh tử đã chẳng sinh thì không có Niết-bàn diệt, không có Niết-bàn diệt là chân tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa cho ba cõi là loạn động nên mới diệt mà cầu vô vi; phàm loạn động đã hình thành, cho nên diệt tức để sinh. Đại thừa thì quán các pháp vốn chẳng sinh, nay nào có diệt, chẳng sinh chẳng diệt tức là chân tịch diệt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp đã là vô thường, khổ, không vô ngã, nếu ngộ được thì rốt ráo Niết-bàn, Niết-bàn tức chẳng sinh, chẳng sinh tức sự bặt. Phàm cuối cùng được tịch diệt, là vì pháp vốn chẳng thật sinh, chẳng thật sinh, thì chỉ diệt là thật ư?

Chánh văn: Khi thuyết pháp này xong, các Tỳ-kheo kia tâm được giải thoát. Vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài A-na-luật rằng.

Ngài La-thập nói:

- Là bậc Đệ nhất về Thiên nhãn. Ngài Tăng Triệu nói:

- A-na-luật, Hán dịch là Như ý, thuộc dòng Sát-đếlợi, là người Đệ nhất về Thiên nhãn trong hàng đệ tử của Phật.

Chánh văn: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật". A-na-luật bạch Phật rằng: "Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Vì sao? Nhớ lại khi xưa, con đang kinh hành ở một nơi kia, bỗng có Phạm vương tên là Nghiêm Tịnh cùng với vạn Phạm vương khác phóng ánh sáng nghiêm tịnh, đến nơi con đang kinh hành, cúi đầu thi lễ rồi hỏi con rằng: "Thưa ngài A-na-luật! Thiên nhãn của ngài thấy được bao xa?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Các Phạm vương nghe nói A-na-luật là bậc Thiên nhãn đệ nhất, cho nên hỏi thấy được xa gần.

Chánh văn: Con liền đáp rằng: "Nhân giả! Tôi thấy tam thiên đại thiên thế giới của cõi Phật Thích-ca Mâuni, như thấy trái Am-ma-lặc trong lòng bàn tay." Ngài Tăng Triệu nói:

- Quả Am-ma-lặc tựa như quả cau, ăn vào sẽ trừ được khí lạnh. Vì lúc bấy giờ, tay cầm quả này, cho nên lấy làm dụ.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài A-na-luật! Chỗ thấy của Thiên nhãn đó là thuộc về tướng tạo tác, hay là tướng không tạo tác?

Ngài La-thập nói:

- Sắc không có tướng nhất định, nếu thấy sắc có tinh thô, xa gần rồi cho là sắc, thì đó là con mắt bệnh hoạn điên đảo, cho nên đồng với ngoại đạo. Nếu chẳng là tướng do sắc tạo, thì sắc vô vi, vô vi thì chẳng thể thấy được xa gần, mà nói là thấy đến tam thiên đại thiên? Tiến thoái đều chẳng được, nên chẳng hợp với Phạm thiên, bị khuất phục nơi hai câu vấn nạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu căn của Báo thân trong ba cõi đều từ kết nghiệp mà sinh, đó gọi là tướng có tạo tác, pháp thân vượt ngoài ba cõi, sáu căn chẳng phải do kết nghiệp sinh, đó gọi là tướng không do tạo tác. Vì có tạo tác, nên có chỗ không tạo tác. Pháp thân này không tạo tác nên không có gì không tạo ra.

Chánh văn: Giả sử là tướng tạo ra thì đồng với ngoại đạo năm thông.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngoại đạo tu pháp thiền thế tục đạt được năm thần thông, nhưng chẳng thể vượt ra ngoài cảnh thấy nghe của cõi phàm phu. Đây là tướng có tạo tác, muốn đồng được ư?

Chánh văn: Nếu là tướng không tạo tác tức là vô vi, thì chẳng thể thấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu là tướng không do tạo tác, thì đó là tướng của pháp thân vô vi, há có thể nói là thấy xa gần ư?

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Bấy giờ, con chỉ biết im lặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói có tạo tác thì đồng với ngoại đạo, muốn nói không tạo tác thì trái với ý thấy ở trước, nên chẳng biết trả lời như thế nào?

Chánh văn: Các Phạm thiên nghe lời này, đạt được điều chưa từng có, liền đảnh lễ mà hỏi rằng: "Thưa ngài!

Trên đời này ai là người được chân thiên nhãn?" Ngài La-thập nói:

- Vì thiên nhãn của A-na-luật là tướng do sắc tạo, nên chẳng phải là chân thiên nhãn, nếu chẳng phải là tướng tạo tác thì mới là chân Thiên nhãn. Chưa biết ai có, cho nên mới hỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các Phạm vương cho rằng thiên nhãn chính là dùng sự thấy rõ nhìn xa làm lý, mà ông Tịnh Danh vặn hỏi lại trái với bản ý của họ, nên nghi có chân thiên nhãn khác, vì thế có lời hỏi này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Có Đức Phật Thế Tôn đã đạt được chân thiên nhãn, thường trụ nơi tammuội, thấy suốt các cõi Phật chẳng có hai tướng.

Ngài La-thập nói:

- Tức nói chẳng phải hai tướng tinh thô do sắc tạo ra. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân thiên nhãn tức là con mắt vô tướng của Pháp thân Như Lai, chiếu soi thấu triệt các hình, lớn nhỏ đều thấy, vạn sắc đều hiển bày, nếu có vật gì trước mắt ấy thì chưa từng chẳng thấy mà chưa từng thấy. Cho nên không có hai tướng là sắc và mắt. Hàng nhị thừa nơi định thì thấy, xuất định thì chẳng thấy, Như Lai thì chưa từng chẳng định, chưa từng chẳng thấy, nên thường trụ nơi tam-muội.

Chánh văn: Bấy giờ, Phạm vương Nghiêm Tịnh cùng năm trăm Phạm vương quyến thuộc đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đảnh lễ nơi chân ông Duy-ma-cật, rồi bỗng nhiên biến mất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỗ phát minh của các Phạm vương được thành lập như thế.

Chánh văn: Cho nên con không thể kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Ưu-ba-ly rằng:

Ngài La-thập nói:

- Người này luôn luôn thệ nguyện rằng đời đời kiếp kiếp phụng trì giới luật, cho nên nay là bậc Đệ nhất về trì luật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ưu-ba-ly, Hán dịch là Thượng thủ, là Đệ nhất trì luật trong các đệ tử của Đức Phật.

Chánh văn: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật". Ưu-ba-ly bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con chẳng kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ lại khi xưa, có hai vị Tỳ-kheo phạm luật hạnh, lấy làm hổ thẹn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người phạm tội ắt sinh hoặc tâm sợ tội. Nguyên vì làm sai không chỉ sợ khổ hoạn mà còn xấu hổ bởi việc làm của mình.

Chánh văn: Chẳng dám đến hỏi Đức Phật.

Ngài La-thập nói:

- Vì Phật tôn quý, nên sự hổ thẹn càng sâu nặng, hơn nữa rất sợ hãi khi đến trước chúng. Lại muốn nhờ đức Như Lai để thấy rõ pháp tướng. Quyết định tội của chúng tôi ắt phải rơi vào vô tàn, thì vĩnh viễn rời khỏi chúng Tăng, dứt bặt con đường chân chánh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã trái giới cấm của Phật, lại thêm việc làm ngu si, cho nên chẳng dám trình bày để hỏi Phật.

Chánh văn: Bèn đến hỏi con rằng: "Thưa ngài Ưuba-ly! Chúng tôi phạm giới luật, hổ thẹn chẳng dám đến hỏi Phật, xin Ngài giải trừ nghi hối để tránh khỏi tội ấy". Ngài Tăng Triệu nói:

Hổ thẹn vì việc phạm tội của mình chẳng dám đến hỏi Phật, mà đến hỏi ngài Ưu-ba-ly, vì Ưu-ba-ly là người Đệ nhất trì luật. Hai vị này nghi rằng tội mình phạm chưa biết nặng hay nhẹ. Hối hận vì đã phế bỏ đạo hạnh, nên xin ngài Ưu-ba-ly giải trừ lỗi này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trái giới cấm là tội nặng nhưng có hối cải là quý, vì thế cho là có pháp để hối cải. Ngài Ưu-ba-ly là người rất giỏi về luật, cho nên đến hỏi. Nghi tức là sợ tội đến với mình mà còn có một cái gì khác chưa đến. Hối nghĩa là đã sợ tội ấy ắt phải tự hối tiếc vì việc làm của mình.

Chánh văn: Con liền căn cứ theo như pháp để giải nói. Ngài Tăng Triệu nói:

- Như pháp tức y theo giới luật để quyết định tội ấy nặng hay nhẹ, để chỉ bày pháp sám hối tội lỗi.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Ưu-ba-ly! Chớ nên tăng tội thêm cho hai vị Tỳ-kheo này!" Ngài Đạo Sinh nói:

- Chưa biết tướng tội, còn chấp trước nên dẫn đến sợ sệt, đã rõ được thuộc về đâu, thì cải hối. Pháp luật nặng thì tâm chấp sợ sệt càng sâu, mê hoặc sâu thì tội càng nặng.

Chánh văn: Nên dứt trừ ngay, chớ nên não loạn tâm của họ!

Ngài La-thập nói:

- Người phạm luật thì tâm thường sợ sệt, nếu định tướng tội, lại càng thêm bức thiết, thế thì có thể cho rằng tâm ưu não mà tội tăng. Nếu nghe thật tướng thì tâm rỗng rang không nương gá, tội lỗi tự tiêu. Cho nên nói: "Nên diệt trừ ngay".

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hai vị Tỳ-kheo này đã phạm luật hạnh, thì tâm nghi hối rất sâu, nếu lại kết thêm tội thì phiền lụy càng dày. Phiền lụy càng dày thì tội càng tăng. Nên nói ngay về pháp không, để họ ngộ được tội chẳng thật. Ngộ được tội chẳng thật thì tâm phiền lụy dứt trừ, tâm phiền lụy dứt trừ thì tội cấu diệt, đâu vì chẳng xét biết căn cơ của họ mà định tội, não loạn tâm trí, tăng thêm tội khổ cho họ ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trừ tội thì dùng thuật, đối với lý đã là xa vời. Vả lại, tùy bệnh mà cho đúng phương thang, nếu sai thì tăng thêm bệnh.

Chánh văn: Vì sao? Vì tánh tội chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giải thích lại để trừ diệt ngay tội cho họ. Phàm tội sinh là do nhân duyên mà thành, tìm cầu thật tánh của nó, chẳng ở ba nơi. Như giết là nhân có bỉ ngã, bỉ ngã tức là trong ngoài. Riêng tự nơi ngã thì chẳng có giết, riêng tự nơi bỉ cũng chẳng có giết, bỉ ngã đã chẳng có, há ở khoảng giữa ư? Đó là do các duyên hợp thành, tìm cầu nó đều chẳng thật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hoặc chấp vốn khởi từ người, thì tội kia há thật có ư? Nếu thể hội được nó thì chẳng tự buộc nơi tội. Đã chẳng tự buộc nơi tội thì liền ra khỏi cảnh ấy, người đã ra khỏi cảnh ấy, thì tội há có được ư? Chẳng tại bên trong tức chẳng tại tâm ta, nếu tại tâm ta thì chẳng cần đợi thêm bên ngoài. Chẳng tại bên ngoài tức chẳng phải nơi việc của người, nếu tại việc của người thì chẳng phải tội của ta. Chẳng tại khoảng giữa, tức là hợp với ta và sự. Tội là một, há tại hai nơi sao?

Chánh văn: Như Phật đã nói: "Do tâm cấu nên chúng sinh cấu, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh." Ngài La-thập nói:

- Cho tội là tội, thì tâm tự sinh cấu uế, tâm tự sinh cấu uế thì cấu uế thường làm khổ lụy tâm, cấu uế thường làm khổ lụy tâm thì tội làm cấu uế chúng sinh. Nếu chẳng cho tội là tội thì tâm liền thanh tịnh, tâm tịnh thì chúng sinh tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dẫn lời Phật để chứng minh. Tâm cấu tức là tâm chấp trước mê hoặc. Chúng sinh cấu, tức tâm đã cấu thì tội ắt sẽ đến. Nếu không chấp trước mê hoặc thì liền tịnh, tâm đã tịnh thì tội kia liền trừ.

Chánh văn: Tâm cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tội tuy do nơi tâm cấu uế mà có, nhưng nếu ngộ được tánh tội, ắt tội sẽ tự trừ. Trước đã nói tội chẳng ở trong, ngoài và khoảng giữa, cho nên nay nói tâm cũng chẳng ở ba nơi như trên.

Chánh văn: Nếu tâm như thế thì tội cấu cũng thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngược tìm để biết gốc, phàm nắm gốc để biết ngọn, giữ mẹ để thấy con. Phật nói chúng sinh cấu hay tịnh đều do tâm khởi, tìm gốc tâm, biết chẳng tại ba nơi, tâm đã chẳng tại, thì tội cấu cũng có thể tự biết.

Chánh văn: Các pháp cũng như thế, chẳng ra ngoài Như.

Ngài Tăng Triệu ghi: Vạn pháp rối ren đều do tâm khởi, há chỉ có cấu tịnh như thế thôi ư? Cho nên nói các pháp cũng như thế, chẳng lìa nơi Như, Như tức là Như bản tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm đã chẳng tại ba nơi, thì tội cấu cũng như thế, tất cả đều chẳng khác, thì các pháp há có khác ư? Thế thì không đâu chẳng như.

Chánh văn: Như ngài Ưu-ba-ly, khi tâm tướng được giải thoát thì có cấu uế chăng?

Ngài La-thập nói:

- Tâm tướng, tức bậc A-la-hán cũng quán tâm thật tướng chúng sinh mà được giải thoát. Nay hỏi khi thành đạo, tức là khi quán thật tướng trong giải thoát đạo thứ chín, thì có thấy tội cấu trong đó chăng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng Ưu-ba-ly mà suy nghiệm. Tâm tướng thì không ở trong ngoài và khoảng giữa. Được giải thoát tức tâm chẳng bị trói buộc. Vì tâm tướng đã được giải thoát thì không thấy có tội cấu.

Chánh văn: Con đáp là "không". Ngài Tăng Triệu nói:

- Khi được giải thoát, tức lúc mới thành La-hán, được giải thoát đạo thứ chín, bấy giờ, tâm ngầm hợp nhất nghĩa, không còn tâm tướng. Vì muốn dùng tâm này so sánh để nói về tâm tướng của chúng sinh. Cho nên trước nêu ra lời này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: "Tâm tướng của tất cả chúng sinh không cấu nhiễm cũng giống như thế!"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm tướng của quần sinh cũng như tâm tướng giải thoát. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm tướng chúng sinh không cấu uế, theo lý cũng chẳng khác, chỉ có thấy và chẳng thấy khác nhau mà thôi.

Chánh văn: Thưa ngài Ưu-ba-ly! Vọng tưởng là cấu, không vọng tưởng là tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Tôi vốn không có tướng, mà cưỡng cho là tướng sinh, nên thuộc vọng tưởng, vọng tưởng tự sinh cấu nhiễm, chẳng phải là lỗi của lý.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Ưu-ba-ly phân biệt tội tướng để trừ cấu nhiễm, nhưng tội vốn không có tướng mà lại vọng sinh tướng của tội, thì trần cấu càng tăng. Lời này tuy chung nhưng ý thì tại nơi đây.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cấu, thật chẳng có, chỉ ở trong vọng tưởng là cấu.

Nếu không vọng tưởng, thì cấu tức tịnh. Vọng tưởng tức ý tưởng vọng tưởng phân biệt.

Chánh văn: Điên đảo là cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cái thấy đã chuyển, cái thấy chuyển bên trong thì vọng phân biệt các việc bên ngoài.

Chánh văn: [Không điên đảo là tịnh.] Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có tội cấu mà thấy có tội cấu là điên đảo.

Chánh văn: Chấp ngã là cấu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu chấp tướng ngã thì chẳng thể xả bỏ tự kỷ để trở về với lý.

Đã chấp tướng ngã thì cái thấy liền chuyển.

Chánh văn: Chẳng chấp ngã là tịnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thấy tội tức còn ngã.

Chánh văn: Thưa ngài Ưu-ba-ly! Tất cả pháp sinh diệt đều chẳng dừng.

Ngài La-thập nói:

- Từ đây trở xuống giải thích vì sao tội chẳng thật. Ngài Đạo Sinh nói:

- Các pháp đều từ vọng tưởng sinh, tất cả đều như thế.

Chánh văn: Như huyễn, như ánh chớp, các pháp chẳng đợi nhau, cho dù một niệm cũng chẳng trụ.

Ngài La-thập nói:

- Tâm trước chẳng đợi tâm sau sinh rồi mới diệt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thành tựu nghĩa vô tướng thường tịnh nêu ở trước. Các pháp như ánh chớp sinh sau chẳng dừng, một niệm khởi, một niệm diệt chẳng chờ đợi nhau. Trong khoảng khảy móng tay có sáu mươi niệm trôi qua, các pháp không có một niệm dừng trụ, huống là muốn dừng lâu. Không trụ thì như huyễn, như huyễn thì chẳng thật, chẳng thật thì không, không thì thường thanh tịnh; thế thì các vật đều tịnh, đâu có tội nào buộc ngã?

Chánh văn: Các pháp đều là vọng kiến.

Ngài La-thập nói:

- Đều do vọng kiến, nên cho rằng pháp có.

Chánh văn: Như chiêm bao, như sóng nắng, như bóng trăng trong nước, như ảnh trong gương, do vọng tưởng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói về pháp bên ngoài chẳng trụ, đây là nói về vọng kiến nơi nội tâm, đều là luận về nghĩa không. Trong ngoài khác nhau, phàm là vọng kiến thì cảnh thấy chẳng thật, cảnh thấy chẳng thật, thì thật nằm ngoài cảnh, cảnh thật nằm ngoài cảnh được thấy thì thấy chỗ chẳng thể thấy, thấy chỗ chẳng thể thấy, cho nên không tướng, thường thanh tịnh. Hai dụ trên là nói về chóng diệt, bốn dụ này là nói về vọng tưởng.

Chánh văn: Người biết được như thế, gọi là phụng luật.

Ngài La-thập nói:

- Phụng luật, bản Phạm gọi là Tỳ-ni. Tỳ-ni, Hán dịch là Thiện trị, nghĩa là tự đối trị dâm, nộ, si, hoặc đối trị ác chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hiểu biết như thế, thì chẳng sợ phạm luật.

Chánh văn: Người nào rõ được nghĩa này tức là khéo biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể biết pháp như thế gọi là khéo biết phụng trì luật. Chẳng biết pháp này mà gọi là người Trì luật đệ nhất là sao? Khiến biết được Ưu-ba-ly đã hiểu lầm ý Thánh giáo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khéo biết luật tức là lý.

Chánh văn: Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo này nói rằng: "Thật là bậc Thượng trí! Ngài Ưu-ba-ly chẳng thể bằng được! Là bậc Thượng thủ về trì luật mà chẳng nói được!" Ngài Tăng Triệu nói:

- Hai vị Tỳ-kheo ngộ được tội tánh thường tịnh, không còn nghi hối, cho nên khen ngợi.

Chánh văn: Con đáp rằng: "Ngoài đức Như Lai ra, chưa có một Thanh văn hay vị Bồ-tát nào chế phục được biện tài nhạo thuyết của ông ấy!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bên trong có trí nhạo thuyết sinh khởi thì thuyết pháp vô cùng tận gọi là nhạo thuyết biện. Biện này vừa khởi thì hàng Bồ-tát Bổ xứ còn khen ngợi, huống gì là hàng Thanh văn.

Chánh văn: Trí tuệ của ông ấy sáng tỏ thông đạt như thế. Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáng tỏ thông đạt như thế, tôi đây há bằng được ư? Chánh văn: Bấy giờ, hai vị Tỳ-kheo liền dứt trừ nghi hối. Ngài La-thập nói:

- Có tội thì tự sinh tâm lo sợ buồn khổ, tội đã không thì nghi hối tự diệt.

Chánh văn: Phát tâm Vô thượng Bồ-đề và nguyện rằng: "Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được biện tài như thế". Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo ngài La-hầu-la rằng:

Ngài La-thập nói:

- La-hầu-la là tên gọi. Khi A-tu-la nuốt mặt trăng. La-hầu-la, Hán dịch là Phú chướng, nghĩa là che lấp ánh sáng của mặt trăng. Ngài La-hầu-la sáu năm ở trong thai mẹ, bị ngăn che, nên có tên như thế. Là bậc Đệ nhất về mật hạnh trong hàng Thanh văn. Ngày đức Bồ-tát xuất gia các thầy tướng số nói rằng: "Nếu đêm nay không xuất gia, thì sáng hôm sau bảy báu tự đến, làm Chuyển luân Thánh vương thống trị bốn thiên hạ. Nghe thế, vua Tịnh Phạn liền trong đêm ấy tăng thêm kỷ nhạc để làm Thái tử vui thú. Bấy giờ, tâm dục phát khởi, ngài Lahầu-la tức thời nhập thai. Ngay trong đêm ấy Da-da-đàla có thai, các trời Tịnh cư cùng nhau buồn bả mà nói rằng: "Bồ-tát bị ái dục trói buộc, mê lụy nữ sắc; chúng sinh thật đáng thương xót, ai sẽ cứu độ họ đây?". Tức thời biến các kỹ nữ giống như người chết, rất ghê sợ, khiến tâm Bồ-tát nhàm chán, liền khuyên xuất gia. Xanặc dắt ngựa, Tứ Thiên vương đỡ chân vượt thành mà đi, đến nơi cội Bồ-đề tư duy, sáu năm khổ hạnh, đêm cuối cùng thành Phật. Lúc bấy giờ, La-hầu-la mới được sinh ra. Sau khi sinh, nhũ mẫu của Đức Phật nói rằng: "Tất-đạt-đa xuất gia đã sáu năm, vậy ngươi có thai từ đâu? Nếu mang thai sáu năm thì thật là điều chưa từng nghe ở thế gian này". Các Thích tử nghe thế bèn cùng nhau luận bàn cho rằng đây là điều chẳng lành, hủy nhục giòng họ Thích, ắt là có tư thông, muốn y theo phép mà giết đi. Da-du nói: "Xin gặp được Đại vương rồi sẽ chết". Bây giờ, vua đang đứng cách một bức màn nói rằng:

"Hãy trình bày đầy đủ nguyên do cho ta biết!". Dadu bèn thuật đầy đủ sự thật đã xảy ra: "Chẳng phải là con tư thông, mà chính là huyết thống của Thái tử. Từ khi Thái tử xuất gia, con luôn sầu khổ, nằm trên đất lạnh, cho nên đứa trẻ không sinh ra đúng thời gian". Lại nói với vua rằng: "Đại vương hãy tự nhìn đứa bé này, sắc tướng dung mạo có đúng là cháu của mình chăng?". Vua liền bồng đứa bé lên xem thì thấy rất giống với Thái tử, vua liền khóc và nói rằng: "Đúng là cháu của ta". Đức Phật muốn chứng minh việc này, nên hóa làm một Phạm chí, vào vương cung gặp đứa bé hỏi rằng: "Con tên gì? Đứa bé đáp: "Con tên La-hầu-la". Phạm chí khen rằng: "Đúng thay! Vì nhân duyên nghiệp mà con ở trong thai sáu năm, bị ngăn che, cho nên đặt tên như thế". Đức Vua bèn hỏi: "Đó là nhân duyên nghiệp gì?". Đức Phật đáp: "Ta biết nghiệp duyên, chẳng biết nghiệp gì?". Sau Đức Phật trở về nước, La-hầu-la thấy Phật có thân tướng trang nghiêm, tâm sinh cung kính, phát nguyện muốn xuất gia. Người mẹ nói rằng: "Người này xuất gia đạt thành Thánh đạo! Về đạo thì con chẳng có phần, đâu cần phải xuất gia". La-hầu-la nói: "Nếu làm một người đắc đạo, thì con sẽ đắc. Liền bảo người cạo tóc, tóc cạo gần hết chỉ còn một chỏm nhỏ trên đỉnh, người ấy lại nói: "Nếu cạo sạch thì đâu khác với người chết, sau này nhất định người không hối tiếc chứ? Đáp rằng: "Ngôi vua, trân bảo, vô số điều vui thú kỳ diệu mà ta còn bỏ được huống gì một chỏm tóc bé xíu này! Tâm đạo kiên cố, bỏ ngôi vua xuất gia, ngài Xá-lợi-phất là Hòa thượng truyền giới. Nhân duyên và việc xuất gia tu pháp Thanh văn của ngài La-hầu-la đã lược thuyết như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- La-hầu-la, Hán dịch là Phú chướng. Vì sáu năm ở trong thai mẹ, bị ngăn che với thế gian, cho nên đặt tên như thế. Là vị có Mật hạnh bậc nhất trong hàng đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật! La-hầu-la thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ khi xưa, các Trưởng giả ở thành Tỳ-da-ly đến chỗ con, cuối đầu đảnh lễ rồi hỏi rằng: "Thưa ngài La-hầu-la, ngài là con Phật..."

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tức là nói ngài kế thừa nền móng của bậc Thánh.

Chánh văn: Bỏ ngôi vị Chuyển luân vương. Ngài Lathập nói:

- Chuyển luân vương cũng có vị chẳng nhập thai, như Đảnh Sinh Vương. Xưa có một vị Chuyển luân vương, trên đảnh vị này có sinh một bướu, vương lo sợ cho đó là ung nhọt, vị Bà-la-môn muốn dùng dao mổ phá, vương giận dữ nói rằng: "Vì sao dám dùng dao đặt trên đảnh đầu Đại vương?". Lại có một vị Bà-la-môn khác dùng thuốc thoa vào bướu ấy, bảy ngày sau bướu trên đầu vỡ ra, trong đó có một đứa bé, tướng mạo đoan chánh oai nghiêm, bèn giữ lấy nuôi dưỡng, sau kế vương vị. Vì sinh tử đảnh đầu, nên gọi là Đảnh Sinh Vương. Hoặc có vị sinh từ vai, cánh tay, chân... tất cả đều sinh từ người nam, Phật, nếu chẳng xuất gia thì sẽ làm vị đại Chuyển luân vương thống trị bốn thiên hạ. Ngài La-hầula, nếu chẳng xuất gia thì làm vua ở cõi Diêm-phù-đề. Những quỉ thần cư ngụ trong vòng mười do-tuần ở mặt đất và trong vòng mười do-tuần ở trên hư không đều là cấp sứ của ngài La-hầu-la. Ngài La-hầu-la phạm khuyết điểm là có bốn nguyên do:

1. Không thấy được căn cơ của người, cho thuốc chẳng đúng.

2. Công đức xuất gia vô lượng mà nói có hạn lượng.

3. Tức thật tướng, mà dùng tướng để thuyết.

4. Pháp xuất gia vốn là thật tướng và Niết-bàn, xuất gia chính là phương tiện của hai pháp này, nay tuy chưa đạt được nhưng đã có tướng ấy.

Ngài La-hầu-la tuy có nói sự cao quý của xuất gia, nhưng chưa nói đến tướng rốt ráo, cho nên trái với lý, mất chân nghĩa, mà bị khuất phục là điều đúng. Hai vị tuy đều nói về công đức xuất gia, nhưng ngài La-hầu-la bị bốn điều sai, trái tông chỉ; đúng sai trái nghịch sai biệt như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài La-vân có tướng làm Chuyển luân vương, cai trị cõi Diêm-phù-đề.

Chánh văn: Xuất gia tu đạo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Ý nói rằng chẳng nên xả bỏ mà xuất gia.

Chánh văn: Việc xuất gia ấy có lợi ích gì? Ngài Lathập nói:

- Các Trưởng giả thấy La-hầu-la cạo bỏ râu tóc, đắp y thô xấu, ôm bát khất thực để nuôi sống sinh mạng, là chỉ mới thấy được những điều mà La-hầu-la đạt được. Từ bên ngoài mà nhìn thì thật đáng thương. Vì tiếc cho khi xưa, buồn thương cho hôm nay mà mong cầu Lahầu-la được lợi lạc, cho nên hỏi về lợi ích.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức Phật, nếu chẳng xuất gia thì làm Chuyển luân vương, thống trị bốn thiên hạ; La-hầu-la chẳng xuất gia thì sẽ làm Thiết luân vương, thống trị một thiên hạ. Điều ngài xả bỏ chẳng phải là nhỏ, thì điều cần cầu ắt phải lớn, nên mới hỏi về chỗ lợi ích.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã bỏ mà xuất gia, về sau ắt sẽ có việc tốt đẹp. Vậy rốt cuộc đạt được lợi ích gì nơi đây?

Chánh văn: Còn liền như pháp mà nói về lợi ích của công đức xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng biết rõ căn cơ, mà như pháp nói về lợi ích của công đức xuất gia.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sự vinh hoa phú quý thế gian tuy có vui thích nhưng khó giữ lâu bền, lý xuất gia thì mãi mãi an lạc mà vô vi, há có thể cho là đồng thời mà luận hơn kém ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài La-hầu-la! Chẳng nên nói về lợi ích của công đức xuất gia".

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các Trưởng giả lấy tham muốn dục lạc giữ gìn vinh hoa phú quý làm bản hoài, nếu nghe được thì chuyển sinh tham trước, thế thì trái với lợi ích của xuất gia, đối với họ chẳng đúng, cho nên ông Duy-ma nói như thế.

Chánh văn: Vì sao? Vì không lợi ích, không có công đức mới là xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm ý xuất gia tức là khéo đạt vô vi, đạo vô vi há có công đức và lợi ích ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chính là dùng không lợi ích, không công đức để làm lý xuất gia.

Chánh văn: Pháp hữu vi thì có thể cho là có lợi ích, có công đức.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tham muốn dục lạc là pháp vô cùng là pháp hữu vi.

Chánh văn: Phàm xuất gia là pháp vô vi, trong pháp vô vi không có lợi ích, không có công đức.

Ngài La-thập nói:

- Đối với đạo phẩm vô lậu thì tất cả pháp và luật nghi đều gọi là pháp xuất gia, pháp xuất gia thì không có lợi ích. Nếu nơi pháp thế tục thì chịu sinh tử mãi mãi, quả báo lợi ích càng tích tụ nhiều. Còn như pháp xuất gia, hôm nay tuy có, cuối cùng thì không. Vì sao? Vì muốn mượn sự mà trừ sự, nhân hữu mà lập không, để ra khỏi cõi công đức vào cảnh không lợi, cảnh không lợi tức Niết-bàn. Nay căn cứ vào có lợi mà nói không lợi, là từ nhân mà nói quả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có quả vô vi ắt có nhân vô vi, nhân quả đồng tướng là đạo tự nhiên. Xuất gia là vô vi, là nhân vô vi, vô vi thì không lợi, không công đức, thì biết xuất gia cũng như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vô vi là pháp biểu lý, nên thật không có công đức và lợi ích.

Chánh văn: Thưa ngài La-hầu-la! Xuất gia, tức không phải kia, không phải đây, cũng không phải chính giữa.

Ngài La-thập nói:

- Đây tức trong nhân mà nói về tướng Niết-bàn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngụy xuất gia thì ghét sinh tử mà quý trọng Niếtbàn kia, vì thế mà có khoảng giữa, ba nơi khác nhau. Chân xuất gia, thì dứt vạn khổ, bặt đây kia, thì há có thị phi, ba nơi khác nhau ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Kia là xuất gia, đây là ngã, khoảng giữa là hai pháp này. Lợi ích của công đức xuất phát từ ba nơi này, ba nơi này đã không thì nào có lợi ích công đức?

Chánh văn: Lìa sáu mươi hai kiến. Ngài La-thập nói:

- Vì không lợi ích, nên lìa các kiến.

Chánh văn: Trụ nơi Niết-bàn. Ngài La-thập nói:

- Pháp xuất gia là trụ ở, tức là nói hướng đến Niếtbàn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã không đây kia thì xa lìa các tà kiến, đồng Niếtbàn. Trên là nói về nghĩa xuất gia, từ đây trở xuống là nói về sự xuất gia. Tuy nói sự, nhưng vô sự nơi sự. Thế thì xuất gia lấy việc dẹp bỏ phiền não làm chí, lấy vô vi làm tâm, vì tâm vô vi, nên các đức tạo ra cũng đều vô vi. Chánh văn: Là pháp mà người trí thọ nhận. Ngài Lathập nói:

- Tất cả Hiền Thánh và các bậc Đại nhân đều khen ngợi, thọ trì pháp xuất gia.

Chánh văn: Là pháp mà bậc Thánh hành trì Ngài La-thập nói:

- Các bậc Thánh hành pháp này mà thông đạt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Hiền trí nghe pháp này mà vâng theo, các Thánh hành pháp này mà thông đạt. Có thể cho đó là đạo xuất gia chân thật.

Chánh văn: Hàng phục các ma. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các ma tức bốn ma. Chánh đạo đã thông thì tà đạo tự bít, kinh ghi: "Một người xuất gia, thì ma cung đều chấn động".

Chánh văn: Độ năm đường. Ngài La-thập nói:

Phàm phu có thể ra khỏi bốn đường, nhưng chẳng ra khỏi cõi Trời. Người xuất gia cầu tịch diệt, thì vượt cả năm đường, ta người đều độ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm đường chẳng phải là con đường vô vi.

Chánh văn: Thanh tịnh năm loại mắt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thanh tịnh năm loại mắt, như kinh Phóng Quang đã nói.

Chánh văn: Được năm Lực, lập năm Căn, chẳng não loạn người khác.

Ngài La-thập nói:

- Tại gia tuy có làm các điều thiện, nhưng còn bị phiền lụy bởi tình cha mẹ vợ con quyến thuộc. Nếu có người đến xâm hại thì liền báo trả, cho nên tại gia là nhân duyên não loạn người khác. Xuất gia thì không có các phiền lụy này, thì nhân não loạn người tự dứt, cho nên nói chẳng làm não loạn người khác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo vượt ra ngoài sự, chẳng nghịch với chúng sinh, thế thì đâu có gì gọi là não loạn?

Chánh văn: Lìa các tạp ác.

Ngài La-thập nói:

- Phàm phu dùng tâm xen tạp mà làm các điều thiện, đó gọi là tạp ác. Người xuất gia tu thiện thì diệt trừ vọng tưởng. Vả lại, vì Niết-bàn, nên xa lìa các tạp ác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiện của thế tục, tuy gọi là thiện nhưng còn xen lẫn bất thiện.

Đạo pháp thì chân tịnh, nên thuần là thiện chẳng xen tạp.

Chánh văn: Phá dẹp các ngoại đạo.

Ngài La-thập nói:

- Xuất gia chẳng phá dẹp chúng sinh mà các ác tự diệt, giống như mặt trời lên thì bóng tối tự tan.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mặt trời, mặt trăng chẳng cầu mong trừ khử bóng tối, mà bóng tối tự tan. Xuất gia chẳng mong phá ngoại đạo mà ngoại đạo tự diệt.

Chánh văn: Vượt ngoài giả danh. Ngài La-thập nói:

- Do duyên hội họp nên chẳng thật, chỉ là giả danh. Nếu đạt được thật tướng thì chẳng mê nơi giả danh, vì thế nói là vượt khỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn sự vạn danh đều từ hư giả mà sinh. Đạo là ngộ được chân, nên vượt qua giả danh.

Chánh văn: Ra khỏi bùn lầy.

Ngài La-thập nói:

- Tại gia thì chìm trong bùn lầy ái dục; xuất gia thì chìm trong bùn lầy kiến chấp. Nay nói chân xuất gia, nên nói chung là ra khỏi tất cả.

Chánh văn: Không bị trói buộc.

Ngài La-thập nói:

- Nếu có chỉ bị trói buộc, thì chưa gọi là xuất gia, tất cả chẳng bị trói buộc mới gọi là chân xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

Ra khỏi bùn lầy sinh tử ái kiến; không xuất gia, thì bị đường ái kiến trói buộc.

Chánh văn: Không có ngã sở.

Ngài La-thập nói:

- Trong pháp ngã sở, tất cả đều xa lìa, nên nói là không. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo xuất gia vốn là vô vi.

Chánh văn: Không có thọ. Ngài La-thập nói:

- Thọ tức thủ, chấp giữ. Thủ có bốn loại, người tại gia thì có ái thủ; người xuất gia thì có giới thủ, kiến thủ và ái thủ. Người chân xuất gia không có bốn thọ này. Cũng tức là không chấp thủ tất cả pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có bốn thọ là Dục thọ, Ngã thọ, Giới thọ và Kiến thọ.

Chánh văn: Không rối loạn. Ngài La-thập nói:

- Phàm tâm có chỗ để trụ thì phương tiện chẳng dứt trừ, gọi là rối loạn xuất gia thì vô sự, tất cả vĩnh viễn xa lìa.

Chánh văn: Trong lòng luôn hoan hỷ. Ngài La-thập nói:

- Hỷ có hai loại:

1. Hiện đời có công đức, tự nhiên sinh vui thích.

2. Sau đạt được Niết-bàn, tâm thường an lạc, vui thích.

Đã đầy đủ hai hỷ này, lại không có ý tưởng chấp trước, mới thật là chân hỷ.

Ngài Tăng Triệu nói:

Phàm tâm rối loạn là do mong cầu nhiều, buồn khổ là do chẳng biết đủ. Người xuất gia tham dục đã dứt, tâm rối loạn chẳng còn, bên trong đạo pháp đầy đủ, nên có thừa hoan hỷ nơi tâm.

Chánh văn: Trợ giúp ý người.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là thường thuận chúng sinh, không trái nghịch tâm ý của họ.

Chánh văn: Tùy thiền định.

Ngài La-Thập nói:

- Xuất gia có ba, pháp là trì giới, thiền định và trí tuệ; trì giới để chiết phục phiền não, làm thế lực của nó yếu kém, thiền định ngăn chặn nó như núi đá chặn dòng, trí tuệ thì diệt trừ tất cả phiền não, rốt ráo không còn gì. Nay trì giới thanh tịnh thì kết sử mỏng dần, tâm thanh tịnh thì thuận thiền định, cho nên nói là tùy. Chánh văn: Xa lìa các lỗi Ngài Tăng Triệu nói:

- Các Trưởng giả nên nghe đạo xuất gia vô vi, mà lại dạy cho lợi ích của công đức hữu vi. Đó là do chẳng tùy thiền định để quán các căn, chẳng xét kỷ pháp để hợp ý họ, lỗi sinh là do nơi đây. Vì thế nhân đây mà nói về xuất gia để khuyên bảo.

Chánh văn: Nếu được như thế là chân xuất gia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể không trái với những điều đã nêu, thì mới đúng là đạo xuất gia, đạo xuất gia chẳng tồn tại năng lực làm lợi ích.

Chánh văn: Lúc ấy ông Duy-ma-cật bảo các Trưởng giả rằng: "Các ông nên cùng nhau xuất gia trong chánh pháp."

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lợi mà không lợi mới là chân thật lợi ích, nên khuyên bảo họ.

Chánh văn: Vì sao? Vì rất khó gặp Phật xuất thế. Ngài La-thập nói:

- Phật thường trụ ở thế gian, người có tội rất khó gặp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh biết các Trưởng giả này không thể xuất gia mà còn khuyên, là vì muốn phát khởi tâm Bồđề cho họ.

Chánh văn: Các Trưởng giả thưa rằng: "Thưa Cư sĩ: "Chúng tôi nghe Đức Phật dạy rằng cha mẹ chưa cho phép thì không được xuất gia." Ngài La-thập nói:

- Các Trưởng giả không được xuất gia, mà tôn trọng sự cao đẹp của xuất gia, vì thế rất buồn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải không muốn xuất gia, chỉ vì không dám trái ý cha mẹ.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Vâng! Nếu các ông phát tâm Vô thượng Bồ-đề tức đã xuất gia.

Ngài La-thập nói:

- Nếu phát tâm Vô thượng đạo, tâm vượt ngoài ba cõi, thì hình tuy còn sự trói buộc, nhưng đã là chân xuất gia.

Chánh văn: Có đầy đủ giới pháp. Ngài La-thập nói:

- Tuy là Cư sĩ mà phát tâm vô thượng thì đã là xuất gia, đầy đủ giới hạnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Xuất gia là muốn xa lìa pháp ác, hành đạo. Nếu tại gia mà thường phát tâm tức là cụ túc, cũng đầy đủ đạo hạnh vậy.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, ba mươi hai vị Trưởng giả phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các Trưởng giả đã có sự ngăn ngại pháp xuất gia mà nghe được tại gia ấy có lý xuất gia, nên vui thích vâng theo.

Chánh văn: Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy.

Đức Phật lại bảo ông A-nan rằng:

Ngài La-thập nói:

- A-nan, Hán dịch là Khánh hỷ.

Hỏi: Ngài A-nan giữ gìn pháp tạng của Phật, thì điều mà A-nan nghe đủ biết không bệnh, vì sao nay nói chẳng đạt?

Đáp: Chân thật và phương tiện đều là lời Phật, nên hai thuyết đều tin.

Vả lại, nói A-nan cũng là phương tiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- A-nan, Hán dịch là Hoan hỷ là bậc Đệ nhất tổng trì trong các đệ tử Phật.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông ấy! A-nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ lại khi xưa, lúc Thế Tôn thân hơi có bệnh, cần dùng sữa bò.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phật mà có bệnh, tức thị hiện cách chúng sinh chẳng xa, khiến chúng sinh có tâm trông mong kính ngưỡng; mà cần dùng sữa bò, tức là có ý muốn ứng theo đây để hóa độ.

Chánh văn: Con liền ôm bát đến đứng trước cửa nhà của một vị đại Bà-la-môn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chưa vội xin sữa mà đợi như thế ư?

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài A-nan! Vì sao ôm bát đứng nơi đây sớm thế?"

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sáng sớm chưa phải là thời gian khất thực, vậy ắt có nguyên do.

Chánh văn: Con nói rằng: "Này Cư sĩ! Thế Tôn hơi có bệnh, cần dùng sữa cho nên tôi đến đây!" Ngài Đạo Sinh nói:

- Theo sự việc mà trả lời.

Chánh văn: Ông Duy-ma nói: "Thôi! Thôi! Ngài Anan, chớ nên nói lời ấy!"' Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Chí nhân, phàm mỗi mỗi động tác, há chỉ lấy suông thôi ư? Việc Đức Như Lai hiện bệnh để độ người, ngài Tịnh Danh chê trách để làm lợi ích, tất cả đều chép tại kinh khác.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đối với người chẳng đạt, thì chẳng nên nói.

Chánh văn: Thân Như Lai là Thể Kim cang.

Ngài La-thập nói:

- Tiểu thừa nói xương cốt là Kim cang, thịt chẳng phải là Kim cang. Đối với Đại thừa thì trong ngoài đều là Kim cang, tất cả đều chân thật trọn vẹn, có thế lực mạnh, không có bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thân Như Lai không thể bị tổn hoại, bền chắc như Kim cang.

Chánh văn: Các ác đã dứt, các thiện tụ hội, vậy có bệnh gì, còn não gì?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm bệnh hoạn là do hành nghiệp sinh, Đức Như Lai tích tập đủ các thiện, diệt trừ tất cả ác, thân như Kim cang, thì não bệnh hoạn gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là lược nêu lên lý không bệnh, tức là nói không có gốc sinh ra bệnh, chỉ có nhân vui thích tụ hội, thế thì có bệnh gì?

Chánh văn: Hãy im lặng mà đi, hỡi A-nan Ngài Đạo Sinh nói:

- Hãy im lặng mà rời khỏi nơi đây.

Chánh văn: Chớ phỉ báng Như Lai. Ngài Tăng Triệu nói:

- Như Lai không có bệnh, mà nói có bệnh là phỉ báng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Như nói có thật bệnh là phỉ báng Phật, theo đó thì không có lý gì để xin sữa, cho nên bảo trở về.

Chánh văn: Chớ để cho người khác nghe được lời nói thô xấu này?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bệnh là một việc rất tầm thường thô xấu, nếu người không thông đạt nghe được ắt sẽ nghi ngờ.

Chánh văn: Chẳng để cho các vị trời Đại oai đức.

Ngài La-thập nói: Trên cõi Trời Ngũ tịnh cư có riêng các vị trời thanh tịnh gọi là Thế gian đảnh, đều là các Bồ-tát Thập trụ sinh về. Nếu các vị này nghe được những lời ấy, ắt biết ngài A-nan chưa thông đạt phương tiện mà sinh khởi ý tưởng thấp kém. Cho nên răn bảo chớ nên để các vị ấy nghe được; e rằng lời này tựa như là lời thích hợp cho lúc bấy giờ, mà chẳng phải là lời chân thật.

Chánh văn: Và các Bồ-tát từ Tịnh độ khác đến đây nghe được lời này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Kia suy biết đã không bệnh ắt là đạt thành Phật, mà đây nói là thật bệnh, thì chẳng phải là chê lời ấy chẳng đúng ư?

Chánh văn: Thưa ngài A-nan! Chuyển luân Thánh vương chỉ có ít phước mà còn không bệnh.

Ngài La-thập nói:

- Có một vị La-hán tên là Bạc-câu-la, khi xưa là một người bán thuốc, nói với chúng Tăng trong hạ an cư rằng: "Nếu ai cần thuốc men, thì đến tôi mà lấy dùng", rốt cuộc chẳng ai cần, chỉ có một vị Tỳ-kheo hơi có bệnh, nhận một quả Ha lê lặc. Nhân đây mà người thầy thuốc kia trong chín mươi kiếp sinh về cõi Trời, hưởng vô lượng điều vui thú. Chỉ nghe tên thuốc mà thân không có một chút bệnh, ở đời này thọ chín mươi tuổi cũng chưa từng có bệnh, huống hồ Đức Phật tích tụ vô lượng căn lành, thì bệnh từ đâu mà sinh được?

Hỏi: Thiện ác đối nghịch, báo ứng hợp nhau tạo tội ngũ nghịch thì một kiếp chịu khổ, vì sao nói thiện từ một quả Ha-lê-lặc mà hưởng phước vô lượng?

Đáp: Việc tội nặng mà lực yếu, việc thiện nhẹ mà thế lại mạnh, thí như con rắn độc muốn ăn thịt người, trước phun nọc độc trên đất, người đạp phải liền hôn mê, chẳng thể đi được, sau đó dùng khí mà hút lấy. Tạo công đức nơi Tam bảo cũng thế. Lúc mới tạo công đức, việc ấy tuy nhỏ, nhưng lợi ích âm thầm đã sâu xa, sau đó dùng phương tiện dẫn vào Phật đạo, rốt ráo Niết-bàn thì phước ấy mới hết.

Chánh văn: Huống gì Như Lai là Bậc có vô lượng phước tích tụ, hơn cả mọi người ở đó ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chuyển luân Thánh vương tùy thọ mạng dài ngắn mà thân chẳng bao giờ có bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng sự mà suy diễn khiến cho người ngộ được. Chuyển luân Thánh vương chẳng bằng chư Thiên cõi Dục, chỉ có ít phước của loài người mà còn không bệnh, hà huống Như Lai, phước hơn cả ba cõi, mà lại có bệnh ư?

Chánh văn: "Hãy đi! Chớ làm cho chúng tôi bị sự nhục này!" Ngài Đạo Sinh nói:

- Suy sự việc đã như thế, thì ắt phải trở về. Nếu cố chấp chẳng đi, thì không chỉ Phật chịu sự phỉ báng này, mà chúng tôi cũng bị sự sĩ nhục ấy.

Chánh văn: Còn các ngoại đạo, Phạm chí nếu nghe lời này, sẽ nghĩ rằng: "Vì sao đã là thầy lại chẳng chữa được bệnh của mình mà mong cứu được bệnh người ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thầy mà chẳng thể chỉ dạy cho người, thì chịu sự sĩ nhục này.

Chánh văn: Hãy lặng lẽ đi nhanh, chớ để người khác nghe được! Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Chánh sĩ nghe thì cho rằng ông chẳng đạt, kẻ tà đạo nghe được thì cho Phật thật có bệnh, thì sao được gọi là Bậc lương y của pháp, thân bệnh còn chẳng thể chữa được, mà muốn chữa tâm bệnh cho người ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nên gấp trở về.

Chánh văn: [Ngài A-nan! Nên biết thân Như Lai là Pháp thân.] Ngài La-thập nói:

- Pháp thân có ba loại:

1. Pháp hóa sanh thân, tức thân Kim cang.

2. Ngũ phần Pháp thân.

3. Thật tướng các pháp hòa hợp thành Phật, cho nên thật tướng cũng gọi là Pháp thân.

Chánh văn: Chẳng phải thân tư dục.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng phải nhục thân tức là thân pháp hóa; chẳng phải là thân của ba cõi, nên vượt ngoài ba cõi. Tuy có sinh diệt mà không có mười việc khổ hoạn của lão bệnh, nên gọi là vô lậu. Vô lậu thì thân bặt các hành vi, nên gọi là vô vi. Hình vượt năm đường, chẳng thuộc vào số chúng sinh, nên gọi là vô số.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân có đối đãi trong ba cõi gọi là thân Tư dục; nghĩa của Pháp thân đã cho đó là thân quyền xảo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Những lời nói từ trước đến đây, nên biết đều như những lời luận bàn ở sau. Tư dục là tình vọng tưởng, là gốc dẫn đến bệnh. Thân Như Lai là từ thật lý sinh, khởi chẳng do vọng tưởng, thì nào có bệnh gì?

Chánh văn: Phật là Thế Tôn vượt trên ba cõi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã lấy Tư dục làm nguồn gốc thì chẳng thể ra khỏi ba cõi. Ba cõi là cảnh bệnh khổ, Phật là thân do ngộ lý mà được, siêu việt cõi kia, thì có bệnh gì? Nói Phật là Thế Tôn, là để nói rõ Phật vượt trên thế gian.

Chánh văn: Thân Phật vô lậu, các lậu đã dứt sạch. Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm pháp thân rỗng rang vi diệu, vượt khỏi cảnh thường, tình lụy chẳng thể nhiễm, tâm tưởng chẳng thể bàn đến, cho nên nói các lậu đã dứt, vượt khỏi ba cõi, trong ba cõi thì đều là hữu lậu.

Ngài Đạo Sinh nói:

Tuy vượt khỏi ba cõi, mà báo thân sau cùng thì còn là pháp hữu lậu, pháp hữu lậu há không bệnh ư? Phật đã vượt trên tất cả, không còn pháp lậu này, thì có bệnh gì?

Chánh văn: Thân Phật vô vi chẳng rơi vào số lượng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vô vi mà vô bất vi; vô bất vi nên hiện thân có bệnh.

Vô vi nên chẳng rơi vào số lượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy nói là vô lậu hoặc còn là hữu vi, mà hữu vi là pháp khởi diệt, tuy chẳng phải là bốn đại nhưng vẫn còn là hoạn. Phật đã lấy vô lậu làm thể, lại chẳng phải là hữu vi, thì nào có bệnh gì? Hữu vi thì rơi vào các số.

Chánh văn: Thân như thế, sẽ có bệnh gì? Ngài Đạo Sinh nói:

- Tổng kết bốn câu trên.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Lúc đó con thật sinh lòng hổ thẹn nghĩ rằng: "Không lẽ được gần Phật mà lại nghe lầm ư?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhận mệnh lệnh mà như thế, bị ông Duy-ma chê trách, tiến lui đều ôm lòng hổ thẹn, mà cho rằng hoặc là nghe lầm.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ở gần Phật mà nghe lầm, thế nên hổ thẹn. Lầm ắt dẫn đến phạm tội, như thế chẳng thể không lo sợ. Nói "chẳng lẽ được" thật là lời chẳng quyết định, nhưng ý đã nghĩ là ắt nghe lầm.

Chánh văn: Bỗng nghe trên hư không có tiếng nói rằng: "Này A-nan! Đúng như lời Cư sĩ nói! Chỉ vì Đức

Phật xuất hiện ở đời năm ác trược." Ngài La-thập nói:

- Kiếp trược, chúng sinh trược, phiền não trược, kiến trược và mạng trược. Vì nhiều năm gọi là du-hoằng, nhiều du-hoằng gọi là kiếp.

Đại kiếp cũng như hiền kiếp. Trong Đại kiếp có kiếp nhiều việc ác, nên gọi chung là kiếp trược. Người thiện không còn, chúng sinh toàn là ác nên gọi là chúng sinh trược. Người đã trừ bỏ tà kiến rồi, chỉ còn các phiền não như ba độc... tăng mạnh, không biết đạo lý, luôn chướng ngại Thánh đạo, ắt là rơi vào ác thú, kết sử như thế tức là phiền não trược. Con người đã trừ bốn kiến, chỉ còn tà kiến, bài bác nhân quả, tội phước và Thánh đạo, Niếtbàn, gọi là Kiến trược. Vào thời kỳ đầu của Đại kiếp con người có thọ mạng vô lượng. Bấy giờ, Phật chưa xuất thế. Sau đó thọ mạng con người giảm dần còn sáu vạn tuổi, thì Phật Câu-lưu-tôn xuất thế, giảm còn một trăm hai mươi tuổi thì Đức Phật Thích-ca Mâu-ni xuất thế. Từ đó tuổi thọ giảm dần còn ba mươi tuổi. Thọ mạng từ một trăm hai mươi tuổi trở xuống đều gọi là mạng trược. Vào tiểu kiếp, Đức Di-lặc sinh, thì tuổi thọ con người bắt đầu tăng.

Chánh văn: Thực hành pháp này.

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi là pháp tham; hiện thân có bệnh, hành khất thực... là pháp tham.

Chánh văn: Để độ thoát chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tức giải trừ tâm nghi sợ cho A-nan, khiến cho nhận được sữa. Tức như lời Duy-ma-cật nói, chỉ vì Đức Phật ứng hợp theo đời ác năm trược mà tự hiện thực hành như thế.

Chánh văn: A-nan! Hãy lấy sửa đi! Chớ nên hổ thẹn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì A-nan hổ thẹn nên trên hư không phát tiếng nói bảo thôi dứt, tức như lời Cư sĩ nói nào có thân vô lậu mà mắc bệnh thế gian đâu? Chỉ vì độ chúng sinh ở đời ác năm trược, nên thị hiện bệnh này, nên lấy sữa đi, chớ hổ thẹn nữa! Năm trược tức Kiếp trược, Chúng sinh trược, Phiền não trược, Kiến trược và Mạng trược.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dấu vết của tâm hổ thẹn vẫn còn thì ắt phải đi, cho nên bảo hãy lấy sữa, chớ hổ thẹn!

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật có trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Như thế, năm trăm vị đại đệ tử, mỗi mỗi đều trình bày với Phật về bản duyên của mình, vị nào cũng khen ngợi, thuật lại điều ông Duy-ma-cật đã nói và đều thưa rằng: "Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy!"

QUYỂN 4

Phẩm 4: BỒ TÁT

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Phật lại bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát Di-lặc đã là bậc tiếp nối ngôi vị Phật, về sau sẽ thành Phật ở cõi này, chúng sinh đều tôn sùng kính ngưỡng nên được sai bảo trước tiên. Về việc lớn nhỏ của ngài Di-lặc và Duy-ma thì chưa thể định được. Hoặc có thể cho rằng ông Duy-ma tuy là lớn, hoặc có lý do mà chẳng thành Phật; hoặc nói rằng Bồ-tát Di-lặc tuy là lớn, nhưng là thân hữu vi, nên cố từ chối chẳng đi; hoặc cho rằng đây là phân thân của ngài Di-lặc mà chẳng phải là thân chánh. Do ba duyên trên mà có việc dẫn đến bị khuất phục. Ngài Di-lặc đã chẳng kham nhận thì lẽ ra nên liền bảo ngài Văn-thù mà lại sai bảo các vị khác, là vì một người thì tuy chẳng thể kham nhận, nhưng cả chúng thì chẳng thể bị khuất phục, suy xét từ chúng thì nên sai bảo tất cả. Vả lại, cũng muốn mỗi mỗi tự nêu lên điều đã nghe để rõ biết hết đức cao quý của ông Duyma.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Di-lặc là một họ của dòng Bà-la-môn ở Nam Thiên Trúc, vì thuộc về dòng họ này nên lấy đó làm tên.

Chánh văn: Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-macật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm trăm đệ tử đều nói chẳng kham nhận, nên nay lại bảo các Bồ-tát, đó là sắp hiển đầy đủ đức độ khó có thể sánh của ông Duy-ma.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Di-lặc là một họ của Bà-la-môn, tuy sinh lên Đâusuất làm thầy chư Thiên mà còn lấy họ gốc làm tên, đó là vì ngài thân thừa làm đệ tử của Phật, cũng là người được sai bảo đầu tiên trong chúng Bồ-tát.

Chánh văn: Bồ-tát Di-lặc bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ khi xưa, con vì các vua trời Đâu-suất và quyến thuộc của họ."

Ngài La-thập nói:

- Bấy giờ, thuyết pháp ở cõi người, các vị trời này biết ngài Di-lặc sắp sinh về Đâu-suất làm thầy chư Thiên, muốn tạo tâm tôn kính trước, cho nên thường đến nghe pháp.

Chánh văn: Mà nói về hạnh không thoái chuyển.

Ngài La-thập nói:

- Tức Vô sinh pháp nhẫn. Ông Duy-ma trước tiên không ngăn trừ tâm nhẫn mà ngăn trừ việc thọ ký, vì chư Thiên thấy ngài Di-lặc được thọ ký, có được tôn vị bổ xứ, bèn buộc tâm nơi việc thành Phật, mong muốn được thọ ký, cho nên trước nói không có thọ ký, thọ ký ắt do tâm sinh. Vậy nên tìm sinh nào để cầu thọ ký, sinh hoại thì thọ ký mất nên suy từ đời để trừ sinh.

Ngài Tăng Triệu ghi: Sau chê trách rằng: "Thật không có phát tâm, cũng không có thoái thất", từ đây mà suy, thì tựa như còn hạnh không thoái để khuyết phát tâm vô thượng. Tuy có nói: "Sự mong cầu thù thắng" nhưng chưa tránh khỏi phiền lụy. Dấu tích của giáo chưa bặt, nên dẫn đến bị sự chê trách này. Nhưng kinh nói: "Bậc Đại sĩ Bổ xứ tâm không đâu không nhất, trí không đâu chẳng khắp, theo vật mà động, có khuyết phạm gì? Nhưng vì được mất đồng giữ, ngắn dài thay nhau ứng, lợi chúng sinh mà động, chẳng chấp ta người, cho nên ngài Di-lặc nhờ vào hữu để khải phát đầu tiên. Ngài Tịnh Danh dùng Tông vô để cứu tế cuối cùng. Hằng làm người thợ giỏi để rèn đúc kia cho thuần phát. Tuy hiện đồng Nho Mặc mà lập giáo chẳng đồng, nhưng cái cao quý của sự thành tựu cho nhau, thật đã tồn tại trong đó.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã như thế thì hạnh chẳng thể thoái chuyển. Ngài Di-lặc tự thân đã có hạnh này mà thị hiện được thọ ký, nay lại nói ra là để dẫn dắt khiến cho người thấy được pháp lợi lạc.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến nói với con rằng: "Thưa ngài Di-lặc! Thế Tôn thọ ký cho nhân giả một đời được A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam Bồ-đề.

Ngài Đạo Sinh nói:

- A-nậu-đa-la, tức là Vô thượng, Tam-miệu-tam, là chánh biến, Bồ-đề, Thiên Trúc thì có từ này, Trung Quốc thì không có tên này; thật ra thể của nó cùng tột, ở vị trí tuệ rốt ráo. Nhưng có ba phẩm là Thanh văn, Bích-chiPhật và Phật. Nhị thừa mỗi mỗi đều từ đạo của họ mà lập Bồ-đề, nhưng chẳng phải là Bồ-đề nói ở đây. Chỉ có Bồ-đề của Phật mới được Vô thượng Chánh biến tri. Một đời tức không có vô lượng đời, hoặc không có một đời nào khác, gồm hai nghĩa như thế.

Chánh văn: Là dùng đời nào để thọ ký?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Di-lặc trước nói hạnh, ý là dùng thọ ký để dẫn dắt, chứ chẳng phải nói về thọ ký. Nhưng chúng sinh kia có tâm chấp trước, tham muốn thọ ký hạnh không thoái, từ đó thấy có Bồ-đề để chứng đắc. Vì thế ông Duy-macật liền cho việc ngài Di-lặc được thọ ký là "không" mà chê trách. Ý nghĩa nói hạnh là để trừ tâm chấp trước cho các Thiên vương, sau đó mới giải thích thấy tâm Bồ-đề. Phàm thọ ký phải có đủ bốn việc mới thành, ở đây suy tìm mỗi mỗi đều chẳng có. Bốn việc:

1. Lấy người được thọ ký làm chủ.

2. Lấy thể "Như" làm gốc.

3. Không có vô lượng đời.

4. Trong một đời được thành Phật.

Nếu quan hệ trong một đời mà lấy một đời để thọ ký, thì trước nhất phải suy xét về một đời. Một đời, tức nêu một đời tám mươi ngàn năm, nhưng chỉ có một niệm hiện tại, còn tất cả đều là quá khứ và vị lai. Vì thế nói dùng đời nào để thọ ký cho Di-lặc.

Chánh văn: Quá khứ ư? Vị lai ư? Hay là hiện tại?

Ngài Tăng Triệu nói:

Phát tâm vô thượng, tu hạnh không thoái, được thọ ký thành đạo, tức là bản ý mà Bồ-tát Di-lặc chỉ dạy. Nay sắp nói về đạo lớn bình đẳng lấy vô hạnh làm nhân, Vô thượng Chánh giác lấy vô đắc làm quả, vì thế trước tiên chất vấn Bồ-tát Di-lặc, làm rõ vô đắc, vô thọ ký, sau đó mới cứu độ khắp chúng sinh. Chỉ có một mối vạn vật để hoằng dương thì chẳng có hai đạo Bồ-đề. Phàm có sinh thì có thọ ký, không sinh thì không thọ ký. Vì thế bài bác ba thời, lấy đời nào mà được thọ ký?

Chánh văn: Nếu là đời quá khứ, thì quá khứ đã diệt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Luận riêng về ba thời để nói về vô sinh. Nói là đời quá khứ thì quá khứ đã diệt, pháp đã diệt, thì chẳng thể cho đó là một đời.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không có.

Chánh văn: Nếu là đời vị lai, thì đời vị lai chưa đến. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đời vị lai chưa đến, thì không có pháp, không pháp thì lấy gì làm đời.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Rốt cuộc chưa có.

Chánh văn: Nếu là đời hiện tại, thì hiện tại không dừng trụ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp hiện tại lưu chuyển không dừng, thì lấy gì làm đời? Nếu sinh diệt cùng một thời thì hai tướng đều hoại, nếu sinh diệt khác thời thì khi sinh không có diệt, khi sinh không có diệt thì pháp không có ba tướng, pháp không có ba tướng thì chẳng phải hữu vi. Nếu có đủ ba tướng thì phạm lỗi vô cùng. Thuyết vô sinh này có ghi đủ ở các luận. Ba thời đã vô sinh, thì lấy gì mà thọ ký?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vừa sinh đã dời rồi, không một chút tạm dừng, há có thể thành Phật trong đó được ư?

Chánh văn: Như lời Phật dạy: Tỳ-kheo các ông tức thời (ngay bây giờ) cũng có sinh, cũng có già, cũng có diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức chủng nghĩa vô trụ. Sinh sinh diệt diệt, vừa duỗi tay là niệm đã dời, há đợi bạc đầu mới biến đổi ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Diễn lời Phật để chứng minh cho nghĩa vô trụ. Tức thời là chẳng đợi biến đổi.

Chánh văn: Nếu lấy vô sinh để được thọ ký, thì vô sinh là chánh vị.

Ngài La-thập nói:

- Thật tướng thường tịnh, nên gọi là chánh vị. Trước dùng nhân duyên để nói về sinh, chẳng phải là chân thật, nên không có thọ ký. Nay nói về sinh đã chẳng phải là chân thì vô sinh, vô sinh thì thường định, trong thường định không có thọ ký.

Chánh văn: Trong chánh vị cũng không có thọ ký, cũng không có A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam Bồ-đề Ngài Đạo Sinh nói:

- Kế đó nói không có vô lượng sinh. Phàm không có vô lượng sinh, vì thể của sinh là không, cho nên được. Ví như thể của sinh là không, thì không có vô lượng sinh, đã không có vô lượng sinh, thì nào có gì? Đây chính là chánh vị. Nói chánh vị thì vĩnh viễn khác với tà. Thế thì đã lấy không vô lượng sinh làm chánh vị là không có thọ ký, lý đã tự rõ. Vì được Bồ-đề nên có thọ ký. Lại nói không được Bồ-đề. Trước luận về sinh là luận về thể, nay luận không vô lượng sinh là dùng chánh vị để suy, là vì sinh vốn gốc nơi si ái, là chỗ mê hoặc của người chấp trước, nên cần phải từ bên ngoài mà luận về thể. Không vô lượng sinh vốn ở nơi ngộ lý, là chỗ đạt được của người chứng đắc, nên tự dùng chánh vị bên trong để luận.

Chánh văn: Vì sao ngài Di-lặc được thọ ký một đời ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói về có sinh không được thọ ký, ở đây là luận vô sinh cũng không có thọ ký. Vô sinh tức là pháp vị chân chánh vô tướng của trụ Địa thứ bảy. Vị này là lý, không có thọ ký không có thành tựu. Vậy ngài Di-lặc từ đâu mà được thọ ký một đời thành Phật?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đồng thời chất vấn ngài Di-lặc.

Chánh văn: Là từ Như sinh mà được thọ ký, hay từ Như diệt mà được thọ ký?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như tuy không sinh diệt, mà sinh diệt không khác Như. Nhưng thọ ký khởi từ sinh diệt, thầm hợp do nơi tức chân, cho nên nhờ vào sự sinh diệt của Như, để nói sự chẳng khác của việc thọ ký.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lần nữa lại nói về thể hội Như. Như sinh, tức khi thể hội được Như thì xưa Ta vốn chẳng Như, Như nay mới xuất hiện gọi là sinh. Như diệt, Như là danh nghĩa lúc mới ngộ cho đến bặt tâm sau cùng của Bồ-tát gọi là diệt. Phàm là nhân thành Phật đã tại nơi đầu tiên, lại tại nơi sau cùng, nên nói là từ như sinh diệt được thọ ký ư?

Bản khác ghi: "Từ Như khởi diệt." Ngài La-thập nói:

- Đây cũng nhân chỗ chấp giữ mà phá trừ. Phàm thọ ký cần phải được Như. Xưa chưa được mà nay được, tựa như có sinh khởi. Như khởi thì phiền não diệt, cũng tựa như có vật diệt trong Như. Cho nên trước nói về khởi diệt để nói về không khởi diệt. Từ câu "Tất cả người đều như..." trở xuống là nói về lý như không hai, không thọ ký.

Chánh văn: Nếu lấy Như sinh mà được thọ ký thì Như chẳng sinh, nếu lấy Như diệt để được thọ ký thì như không diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như chẳng phải không sinh diệt, chẳng phải có sinh diệt; chẳng phải không sinh diệt, nên tạm nói có thọ ký, như chẳng có sinh diệt, nên biết thật không có thọ ký.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như là pháp ngộ lý, nên được dùng để nói về thọ ký. Lý đã Như, há lại có thể sinh diệt ư? Nếu Như không sinh diệt thì chẳng khác với lúc chưa thể hội, vậy đâu chỉ được lấy đó làm nhân của đạo Vô thượng? Nếu chẳng phải là nhân, thì chẳng được dùng đó để thọ ký.

Chánh văn: Tất cả chúng sinh đều Như, tất cả pháp cũng Như, các Hiền Thánh cũng Như, cho đến ngài Dilặc cũng Như.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn loài tuy khác nhau nhưng chưa từng chẳng Như. Như tức là dùng thị phi đồng đẳng, ngu trí nhất như để thành tựu nghĩa không thọ ký và không chứng đắc.

Ngài Đạo Sinh ghi: Lại một lần nữa nói người thọ ký. Thọ ký chẳng phải là pháp ngộ, đã thể hội được Như ở trước, cho nên lấy chỗ thể ngộ để cho sự nương gá, sự đã Như, thì sau đó mới luận đến.

Chánh văn: Nếu ngài Di-lặc được thọ ký, thì tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được thọ ký. Vì sao? Vì như chẳng hai, chẳng khác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm Thánh nhất như, há có được mất khác nhau ư? Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm nói Như thì không có đắc và bất đắc khác nhau. Đã không có đắc và bất đắc khác nhau, mà Di-lặc lại có đắc tức là nhờ vào bất đắc làm đắc. Nếu ngài Dilặc lấy bất đắc làm vô đắc, thì tất cả chúng sinh bất đắc lẽ ra cũng có lý đắc này. Thế thì nói chúng sinh lẽ ra cũng được thọ ký là để nói ngài Di-lặc thật ra cũng không được thọ ký. Nói hai tức là hai việc, khác tức khác nhau. Việc ấy đã có hai, thì sau đó mới khác nhau. Cho nên trước nói chẳng hai, sau nói chẳng khác. Về sự của Như đã nói ở trên, vì thế đây chỉ giải thích nghĩa Như mà thôi.

Chánh văn: Nếu ngài Di-lặc được Vô thượng Bồ-đề, thì tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được Bồ-đề. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều là tướng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng vô tướng là tướng Bồ-đề. Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-đề đã là lý vô tướng là cực tuệ, mà nói được, thì được tức là tướng Bồ-đề. Quả là tướng ấy thì chẳng phải thật. Vả lại, nếu được cái chẳng phải thật, thì tất cả chúng sinh cũng được lý này. Vì sao? Vì Bồ-đề vốn cùng khắp tất cả, chúng sinh tức là tướng ấy. Phàm thọ ký nói được Bồ-đề tức là huyền chỉ; nay nói ngài Di-lặc có được tức căn cứ lời nói. Đã căn cứ để được thời mà không được tướng, vậy há nên huyền chỉ để được chỗ chỉ bày chăng? Vả lại, đã nghiệm xét vô vi thì lý chỉ bày tự nhiên thầm hợp.

Chánh văn: Nếu Di-lặc được diệt độ thì tất cả chúng sinh cũng được diệt độ. Vì sao? Vì chư Phật biết tất cả chúng sinh rốt ráo tịch diệt tức tướng Niết-bàn, chẳng cần phải diệt nữa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bản tánh thường tịch diệt, nay còn diệt gì? Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã được Bồ-đề đến nơi diệt độ, trong diệt độ lại chẳng có diệt độ. Cho nên, rốt ráo lại căn cứ theo chung cuộc mà nghiệm xét thì diệt độ chẳng phải là tuệ. Vì sự chấm dứt tại diệt, cho nên chẳng được giải thích như Bồđề. Nhưng chung cuộc đã là chỗ cùng diệt rồi, nên lấy lúc mới diệt mà nghiệm, nếu quả thật đầu tiên đã diệt thì cuối cùng há có diệt nữa chăng? Cuối cùng đã chẳng diệt, thì chúng sinh cũng có nghĩa diệt này. Chỉ nghiệm nơi chung cuộc để ngộ được chỗ đầu tiên, tức là biết nó như thế. Nêu Phật để minh chứng, vì Phật đã tự đạt được diệt độ. Hơn nữa ngộ rốt ráo ắt có thể quyết định được. Phật suốt ngày diệt độ chúng sinh, nhưng biết tất cả chúng sinh là tướng Niết-bàn chẳng cần phải diệt nữa, đó chính là diệt mà chẳng diệt.

Chánh văn: Vì thế! Ngài Di-lặc chẳng nên dùng pháp này để chỉ dạy các Thiên tử.

Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi là: "Dối gạt." Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã không được thọ ký, há lại dùng thọ ký để dẫn dắt ư? Nếu lấy việc không có mà chỉ dẫn, tức dối gạt người.

Chánh văn: Thật không có việc phát tâm Vô thượng Bồ-đề, cũng không có việc lui sụt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo bình đẳng, thật chẳng có phát tâm, chẳng có thoái thất, mà nói hạnh không thoái để dụ dẫn họ phát tâm, chỉ bày việc thọ ký, là vì sao?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là nói chẳng nên chấp giữ hạnh. Đã có phát tâm thì có thoái tâm, nên cần có hạnh không thoái. Đã không có phát tâm, thoái tâm, đâu cần đến hạnh làm gì? Nếu trong ác phát tâm có thoái tâm, mà cần hạnh không thoái, thì chưa tránh khỏi thoái, đó chẳng phải là bất thoái.

Chánh văn: Ngài Di-lặc! Nên làm cho các vị Thiên tử này xa lìa kiến chấp phân biệt Bồ-đề!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-đề lấy tịch diệt làm tướng, sinh tử cũng đồng tướng, nhưng các Thiên tử ghét sinh tử, trọng Bồ-đề; tuy có nói cầu sự thù thắng mà lại sinh ra trần lụy, nên mở con đường chân chánh, khiến họ xả bỏ sự phân biệt, há lại dùng đường thọ ký chỉ dạy để làm tăng thêm kiến chấp của họ ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phá bỏ các kiến chấp về tâm Bồ-đề của chư thiên. Đầu tiên chê trách, sau đó là chỉ dạy. Chê trách là để ngăn trừ sự chấp trước, chỉ dạy là để phá bỏ kiến chấp. Chấp trước là lỗi lầm, nên chê trách để ngăn trừ, kiến chấp là thuộc về lý, nên dùng sự chỉ dạy để phá bỏ.

Chánh văn: Vì sao? Vì Bồ-đề chẳng thể dùng thân mà được, chẳng thể dùng tâm mà được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đây trở xuống là nói về nghĩa Bồ-đề. Chỗ cùng tột của Đạo gọi là Bồ-đề, Trung Quốc không có từ ngữ nào để chuyển dịch. Bồ-đề, là chân trí của chánh giác vô tướng, đạo ấy rỗng rang huyền diệu, dứt bặt cảnh thường tình. Muốn nghe thì chẳng biết lấy gì để dung chứa chỗ nghe; dùng trí thì chẳng biết lấy gì để vận trí, luận biện thì chẳng biết làm sao để thi thố ngôn từ; muốn dùng hình tượng thì chẳng biết lấy gì để diễn tả hình nghi. Cho nên Đạo ấy vi diệu vô tướng chẳng thể nói là có; dùng nó thì càng thịnh, nên chẳng thể nói là không. Cho nên thầm soi xét vạn vật mà chẳng chiếu diệu, làm quy tắc siêu việt muôn đời mà chẳng hiển bày, trùm khắp thiên hạ mà chẳng gá nương, cứu khắp quần sinh mà không có tư ý, đến như hay truyền đạt đến vô cùng, lấy việc khai ngộ chúng sinh làm nhiệm vụ, huyền cơ ắt xét rõ mà chẳng nghĩ chẳng suy. Thế thì không biết mà không gì chẳng biết, không làm mà không gì chẳng làm. Đó chính là đạo Đại giác Bồ-đề. Đây là pháp vô danh, chắc chắn không có tên để có thể gọi. Chẳng biết gọi là gì nên gượng đặt là Bồ-đề. Đây là đạo vô vi há có thể dùng thân tâm mà được ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu thấy có Bồ-đề để được thì có hình tướng. Nếu lấy tướng làm tình, thì há chẳng thể dùng đó để khởi thân hành, tâm hành ư? Nếu dùng thân và tâm hành cầu Bồđề, thì cách Bồ-đề càng xa vậy.

Chánh văn: Tịch diệt là Bồ-đề, vì diệt hết các tướng. Ngài La-thập nói:

- Bồ-đề có ba là A-la-hán, Duyên giác và Như Lai. Ba bậc đều đã được lậu tận, tuệ thông đạt, tự tại vô ngại nên gọi là Bồ-đề. Từ đây trở xuống là khen ngợi Bồ-đề chân giải thoát, vi diệu đồng với thật tướng. Muốn dụng tâm cầu giải thoát thì cũng nên như thế. Đây cũng nói Bồ-đề tức thật tướng, để phá trừ chấp trước. Thật tướng là nhân Bồ-đề cũng gọi là Bồ-đề. Các câu khác so sánh có thể tự biết được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khéo hợp chân tánh diệt hết các pháp tướng, nên đạo Bồ-đề và các pháp đều vắng lặng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã chẳng thể dùng tướng mà được Bồ-đề thì không có tướng Bồ-đề. Nếu chẳng diệt các tướng, há được dùng tịch diệt làm thể sao?

Chánh văn: Chẳng quán là Bồ-đề, vì lìa các duyên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quán khởi từ duyên, lìa duyên thì chẳng có quán.

Chánh văn: Chẳng hành là Bồ-đề, vì không nhớ nghĩ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hành là sinh từ nhớ nghĩ, không nhớ nghĩ thì không có hành.

Chánh văn: Đoạn là Bồ-đề, vì xả bỏ các kiến, lìa là Bồ-đề vì đã lìa vọng tưởng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đoạn các kiến, lìa vọng tưởng gọi là Bồ-đề.

Chánh văn: Chướng là Bồ-đề vì chướng các nguyện. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân đạo thì vô dục, chướng ngại các nguyện.

Chánh văn: Chẳng nhập là Bồ-đề vì không tham trước. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhập tức thọ nhập các dục.

Chánh văn: Thuận là Bồ-đề vì thuận Như, trụ là Bồđề vì trụ pháp tánh, đến là Bồ-đề vì đến mé thật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng khác ba không, là nghĩa Bồ-đề; tùy thuận bản tướng là Như, cho nên dùng thuận để buộc; thường trụ bất biến gọi là tánh, cho nên dùng tánh để buộc; đến thật tướng bờ kia, gọi là mé, nên dùng đến để buộc.

Chánh văn: Chẳng hai là Bồ-đề vì lìa ý pháp. Ngài La-thập nói:

- Sáu thức đối sáu trần chưa từng lìa nhau, sự giải thoát của Bồ-đề vượt ngoài sáu trần nên nói là lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ý và pháp là hai, Bồ-đề thì vô tâm, làm gì có pháp? Chánh văn: Bình đẳng là Bồ-đề, vì đồng như hư không. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô tâm nơi bình đẳng mà không đâu chẳng bình đẳng, cho nên gọi là như hư không.

Chánh văn: Vô vi là Bồ-đề, vì không sinh diệt, Tri là Bồ-đề vì rõ biết tâm hành của chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Trí tuệ là Bồ-đề vì biết tâm của người khác. Thật tướng là nhân của trí tuệ cũng gọi là biết tâm người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-đề chẳng phải hữu nên không sinh diệt; Bồ-đề chẳng phải không, nên rõ biết tâm chúng sinh.

Chánh văn: Chẳng hội là Bồ-đề, vì các nhập chẳng hôi

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các nhập tức sáu nhập trong ngoài, trong ngoài đều không, nên các nhập chẳng hội, các nhập chẳng hội là tướng Bồ-đề.

Chánh văn: Chẳng hợp là Bồ-đề, vì lìa các tập khí phiền não. Ngài Tăng Triệu nói:

- Sở dĩ có sinh tử hợp là do phiền não trói buộc, lìa các phiền não nên chẳng hợp, chẳng hợp tức Bồ-đề.

Chánh văn: Không xứ sở tức Bồ-đề, vì không hình sắc; giả danh là Bồ-đề, vì danh tự vốn không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bên ngoài không ở nơi hình sắc, trong chẳng có thật để đặt tên.

Chánh văn: Như huyễn hóa là Bồ-đề, vì không lấy bỏ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-đề không có lấy bỏ, vô tâm giống như người huyễn hóa.

Chánh văn: Không loạn là Bồ-đề, vì thường tự vắng lặng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nội tâm đã thường vắng lặng, thì sự loạn động bên ngoài chẳng có nguyên do để sinh khởi.

Chánh văn: Thiện tịch diệt là Bồ-đề, vì tánh thanh tịnh

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tánh thì không lúc nào chẳng thanh tịnh, nên tịnh không đâu chẳng thiện. Thiện tịch tức là khéo tùy thuận đạo tịch diệt thường tịnh.

Chánh văn: Không chấp thủ là Bồ-đề vì lìa phan duyên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tình thức thì có sự chấp thủ, nên chạy theo duyên trước mắt.

Nếu lìa phan duyên thì không có chấp thủ.

Chánh văn: Không khác Bồ-đề, vì các pháp đồng nhau. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn pháp đều đồng thể, thị phi là một mối, cái chẳng khác ở nơi sai khác, chỉ là Bồ-đề.

Chánh văn: Không so sánh là Bồ-đề, vì chẳng thể ví dụ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo lớn bậc nhất, chẳng có hai lối, độc nhất trên đời, nên chẳng thể lấy gì làm dụ.

Chánh văn: Vi diệu là Bồ-đề vì pháp khó biết. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp thật sâu xa khó lường, chẳng phải là chỗ biết của trí, còn Bồ-đề thì không biết mà không gì chẳng biết. Không biết mà không gì chẳng biết là cùng tột vi diệu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các lời đều khen đó là tôn quý, mà ca vịnh về nó, há cho là dùng sự tôn quý để phát khởi tâm người ư?

Chánh văn: [Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật nói lời này xong, hai trăm Thiên tử đều được Vô sinh pháp nhẫn.]

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Di-lặc trước tiên dẫn dắt để làm cho các vị trời ưa thích giáo pháp, sau đó ông Duy-ma-cật dứt trừ tâm bệnh cho họ, vì thế được pháp nhẫn. Đó là thành tựu việc giáo hóa cho nhau, có gì mà nói là khuất phục?

Chánh văn: Cho nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Đồng tử Quang Nghiêm rằng: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật!", Quang nghiêm bạch rằng: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy! Vì sao? Nhớ khi xưa con vừa ra khỏi thành Tỳ-da-ly.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sống trong thành mà nay đi ra ngoài thành là có nguyên do.

Chánh văn: Thì gặp ông Duy-ma-cật vừa vào thành, con liền thi lễ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cửa thành là nơi mọi người qua lại tụ họp, cho nên có được nhân duyên giáo hóa rộng lớn. Thi lễ, là vì hai vị vốn là đồng hương, nay phải theo lớn nhỏ mà hành lễ.

Chánh văn: Mà hỏi rằng: "Cư sĩ từ đâu đến?" Ngài Đạo Sinh nói:

- Gặp từ bên ngoài đến, cho nên hỏi để biết được việc ông ấy đến đây là có nơi phát xuất.

Chánh văn: Tôi từ đạo tràng đến.

Ngài La-thập nói:

- Vì tâm của Quang Nghiêm thích đạo tràng, nên nói từ đạo tràng đến để khai ngộ. Quang Nghiêm tuy muốn được đạo tràng, nhưng chưa biết do đâu mà được, được ắt do nhân nên nói rộng về vạn hạnh, vì vạn hạnh là nhân của đạo tràng, nói đạo tràng là từ trong nhân nói quả. Vả lại, nơi Đức Phật ngồi để thành đạo, gọi là đạo tràng. Thiện tâm là đạo tràng thì cũng như thế, vì tích tập các thiện nên thành tựu Phật đạo, vì thế vạn thiện là nhất thiết trí địa, là chân đạo tràng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nơi vắng vẻ để tu đạo gọi là đạo tràng. Ý Quang Nghiêm thích độc tọa nhàn cư, thường lấy nơi vắng vẻ để tu tâm, cho nên ra khỏi Tỳ-da tìm đến đạo tràng. Ngài Tịnh Danh thầm xét biết, nên thị hiện từ bên ngoài vào, để chỉ bày chân đạo tràng, khai mở sự ngăn bít, chấp trước của Quang Nghiêm. Vì thế nói nghịch là "Ta từ đạo tràng đến đây." Từ đạo tràng đến, tức là nói đạo không có gì chẳng trường, không đâu chẳng tại, nếu hay ôm giữ đạo tràng nơi tâm, dẹp bỏ vạn phiền lụy ra ngoài thân, thì tuy hình ở nơi ồn náo, thân hay gần gũi với sự mà động tịnh đến đi đâu chẳng phải là đạo tràng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Là nơi đắc Phật đạo.

Chánh văn: Con liền hỏi: "Thế nào là đạo tràng?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Hợp với điều mong cầu cho nên mới hỏi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm đạt được Phật đạo ắt là do hạnh, hạnh chính là tràng của đạo. Nhưng nhờ vào nơi chốn thành tựu, nơi chốn thì có tên. Đã căn cứ vào thường mà đáp tức là từ nơi chốn đến. Vả lại, vốn chẳng mê mờ, nên hỏi "Thế nào", để dẫn phát lời đáp ở sau.

Chánh văn: Ông ấy đáp rằng: "Trực tâm là đạo tràng, vì không hư giả."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tâm tấn đạo, đối cảnh chẳng loạn, tức là đạo tràng. Nếu hay nêu tâm làm chủ, vạn hạnh làm tràng, chẳng lìa tấc tâm mà tự tu đạo thì chính là chân đạo tràng. Há bỏ nơi náo loạn ở gần, mà tìm cầu cảnh nhàn tịnh ở xa ư? Trực tâm, tức nội tâm chân thật, ngoài không hư giả, đây gốc của vạn hạnh, là tràng để tấn đạo. Từ đây trở xuống nêu đủ các hạnh, là cảnh vắng để tu tâm, là nơi thanh tịnh để hoằng đạo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy sự không hư giả làm bản hoài ắt là thành Phật đạo. Chánh văn: Phát hạnh và đạo tràng, vì hay thành tựu các việc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm đã ngay thật thì có thể phát tích tạo các hạnh, phát tích tạo hạnh thì sự nghiệp thành tựu.

Chánh văn: Thâm tâm là đạo tràng, vì tăng trưởng công đức. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có thể phát hạnh, thì tâm thọ càng sâu, tâm thọ càng sâu thì đức càng tăng vậy.

Chánh văn: Tâm Bồ-đề là đạo tràng, vì không lầm lỗi. Ngài La-thập nói:

- Đạo tâm, chân thật sáng tỏ chẳng tùy thuận con đường khác, chẳng lầm lỗi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trực tâm vào hạnh chuyển đến chỗ sâu xa, thì thành tâm Bồ-đề. Tâm này ngay thẳng, nên chỗ thấy chẳng lầm lẫn. Phàm người hoằng đạo, đầu tiên cần phải đủ bốn tâm này, bốn tâm đã sinh thì hạnh sáu độ không đâu chẳng thành tựu.

Chánh văn: Bố thí là đạo tràng, vì chẳng mong báo đáp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bố thí chẳng mong cầu báo đáp là hạnh vô tướng. Phàm nói có mà chẳng mất không, nói không mà chẳng mất có; có không tuy nói là khác nhau mà chẳng trái với gốc, điều đó chỉ là đạo Đại thừa mà thôi. Vậy nói có là để làm rõ chẳng không, chứ chẳng phải nói thật có; nói không là để làm rõ chẳng có, chứ chẳng phải nói thật không. Thế thì vạn hạnh tuy khác mà đều lấy vô tướng làm thể, không mà chẳng không, cho nên tức có là thật có, mà chẳng phải có thì bố thí và giới là một. Nhưng kinh này từ đầu đến cuối, đều luận biện về các hạnh, có không chẳng đồng. Như có thể lãnh hội được chỗ đồng kia thì chẳng khác mà cũng chẳng đồng.

Chánh văn: Trì giới là đạo tràng, vì được đầy đủ các nguyện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc giới đã đầy đủ nguyện mà nguyện không đầy đủ!

Chánh văn: Nhẫn nhục là đạo tràng, vì vô ngại đối với tâm chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ôm lòng giận hờn thì tâm còn ngăn ngại.

Chánh văn: Tinh tấn là đạo tràng, vì không biếng trễ; thiền định là đạo tràng vì tâm đã điều hòa; trí tuệ là đạo tràng vì hiện thấy các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn pháp rộng lớn, đều hiện thấy trước mắt, đó là do năng lực của trí tuệ.

Chánh văn: Từ là đạo tràng, vì bình đẳng với chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm bình đẳng đối với oán thân, muốn cho tất cả đều được an lạc, đó là hạnh Từ.

Chánh văn: Bi là đạo tràng vì nhẫn chịu các khổ nhọc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thấy khổ liền đến, chẳng tránh những nơi nước sôi lửa bỏng, đó là hạnh Bi.

Chánh văn: Hỷ là đạo tràng vì ưa thích pháp.

Ngài La-thập nói:

- Từ tuy là giả tưởng ban vui cho chúng sinh, niềm vui khởi nơi tâm Từ, nhưng khi thấy chúng sinh chịu khổ, tâm lại thương xót, thì nhập tâm Bi muốn khiến cho họ được niềm vui này, kế đó lại nhập vào tâm Hỷ. Tâm Hỷ tuy là giả tưởng, mà tác ý muốn khiến chúng sinh được thường lạc, nên khác với tâm Từ. Lại nữa, tâm Từ là ban vui; tâm Hỷ, tức thấy chúng sinh được an lạc thì tâm Hoan hỷ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dùng pháp lạc của mình mà ưa thích niềm vui của người tức là hạnh Hỷ.

Chánh văn: Xả là đạo tràng vì đã đoạn yêu ghét.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm từ thì sinh ái, ái thì sinh chấp trước, chấp trước thì sinh phiền lụy. Bi thì sinh ưu, ưu thì sinh khổ não, khổ não thì sinh ghét. Từ, Bi tuy là thiện mà sinh tình tưởng khổ lụy, vì thế nên xả bỏ cả hai, thực hành bình đẳng quán, đó là hạnh Xả.

Chánh văn: Thần thông là đạo tràng vì thành tựu sáu Thông; giải thoát là đạo tràng vì luôn bối xả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giải thoát tức tám giải thoát. Quán xanh là vàng, quán vàng là xanh. Cảnh giới trái nghịch này là từ chỗ quán của tâm nên gọi là bối xả.

Chánh văn: Phương tiện là đạo tràng, vì có thể giáo hóa chúng sinh; bốn Nhiếp pháp là đạo tràng, vì có thể, nhiếp phục chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Đó là:

1. Tuệ thí: Tuệ thí có hai loại, nếu thí cho người thấp hèn thì dùng tài, nếu thí cho bậc thượng nhân thì dùng pháp.

2. Ái ngữ: Cũng có hai loại, đối với kẻ thấp hèn thì dùng lời ôn hòa để làm vui tâm họ, nếu đối với bậc Thượng nhân thì dùng pháp ngữ để ủy dụ, đều là dùng tâm ái để phát khởi ái ngữ.

3. Lợi hành: Cũng có hai loại, đối với kẻ thấp kém thì dùng phương tiện làm cho họ đạt được lợi ích thế gian, đối với bậc Thượng nhân thì dùng phương tiện làm cho họ được lợi ích về pháp.

4. Đồng sự: Cũng có hai loại, đồng với người ác thì dùng pháp thiện để dụ dẫn, đồng với người thiện thì làm cho họ tăng trưởng thiện căn.

Tùy loại chúng sinh mà đồng làm việc như họ, nên gọi là đồng sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phương tiện lập ra là vì hoằng hóa, bốn nhiếp khởi là từ chúng sinh.

Chánh văn: Đa văn là đạo tràng, vì như nghe mà hành. Ngài Tăng Triệu nói:

Nghe mà chẳng thể thật hành, thì giống như chim thú nghe vậy.

Chánh văn: Điều phục tâm là đạo tràng, vì chánh quán các pháp.

Ngài La-thập nói:

- Hoặc dùng sự để điều phục tâm, hoặc dùng lý để điều phục tâm.

Nay nói chánh quán tức dùng các pháp quán như vô thường... để điều phục tâm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm tức là tánh, nếu ương ngạnh thì quán tà, nếu điều phục thì quán chánh.

Chánh văn: Ba mươi bảy phẩm là đạo tràng, vì xả bỏ các pháp hữu vi.

Ngài La-thập nói:

- Đạo phẩm đoạn đứt việc thọ sinh, nên gọi là xả hữu vi, cũng là dùng không không Tam-muội... xả bỏ tammuội và tất cả pháp thiện, nên gọi là xả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba mươi bảy phẩm là nhân vô vi.

Chánh văn: Đế là đạo tràng, vì chẳng dối gạt thế gian. Ngài La-thập nói:

- Trong giáo Tiểu thừa nói có bốn Đế, trong pháp Đại thừa nói chỉ có một Đế, ở đây nói Đế tức là nhất Đế. Nhất đế tức thật tướng. Số pháp thế tục hư vọng, cho rằng lời nói có mà lại không, cho rằng lời nói không mà lại có, đó là dối gạt người. Thấy các đế khác cho rằng lời nói ắt trừ được các hoặc nghiệp của ta, mà rốt cuộc chẳng thể tránh khỏi vọng tưởng, đó cũng là dối người. Nay nói nhất đế thì không có các lỗi này, nên chẳng dối gạt người. Từ Nhất đế cho đến các pháp vô ngã là thật tướng các pháp. Tức câu khác, vị khác trong nhất đế. Do nhất đế này mà được thành Phật, nhất đế tức là nhân Phật, vì là nhân nên gọi là đạo tràng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn Đế là chân thật không hư dối.

Chánh văn: Duyên khởi là đạo tràng, vì từ vô minh cho đến lão tử đều vô tận.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mười hai duyên khởi, làm nhân duyên tương sinh vô cùng vô tận. Ngộ được nguyên do này thì trí tâm tự sáng tỏ, trí tâm đã sáng tỏ thì đạo tâm tự thành. Thế thì đạo thành là do lấy duyên khởi làm gốc, cho nên gọi đó là đạo tràng.

Chánh văn: Các phiền não là đạo tràng, vì biết như thật; chúng sinh là đạo tràng, vì biết vô ngã; tất cả pháp là đạo tràng, vì biết pháp không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thật tánh của phiền não, vô ngã của chúng sinh, nghĩa không của các pháp là nguyên do để sinh đạo.

Chánh văn: Hàng ma là đạo tràng vì chẳng khuynh động; ba cõi là đạo tràng vì không chỗ đến; sư tử hống là đạo tràng vì không sợ sệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là chỗ chứng đắc của chư Phật, lìa chỗ chứng đắc này thì Phật chẳng gọi là tràng. Tên chung là Phật,

Phật tức là đạo. Ở trên đã lấy hạnh Bồ-tát làm tràng, nay trong quả gọi Phật là đạo, còn các việc gọi là tràng.

Chánh văn: Lực, Vô úy, pháp Bất cộng là đạo tràng, vì lìa các lỗi; ba Minh là đạo tràng, vì không còn gì ngăn ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng ma binh mà chẳng động, dạo nơi ba cõi mà chẳng thuận các đường, diễn nói pháp âm không sợ sệt mà chẳng khó, đầy đủ ba mươi hai nghiệp Phật mà chẳng khuyết, thông đạt ba Minh mà chẳng khuyết, đây đều là nguyên do thành tựu đạo lớn.

Chánh văn: Một niệm biết tất cả pháp là đạo tràng, vì thành tựu Nhất thiết trí.

Ngài La-thập nói:

- Nhị thừa dùng ba mươi bốn tâm để thành đạo, trong pháp Đại thừa thì dùng một niệm hoát nhiên đại ngộ, đầy đủ Nhất thiết trí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhất thiết trí là trí cùng tột, sáng rỡ như ánh nắng ban mai, chiếu phá tất cả màn đen tối, trong như đầm lặng soi rõ muôn hình, không biết mà không gì chẳng biết, đó chỉ có Nhất thiết trí mà thôi. Thế thì, phàm có tâm thì có bờ cõi, có bờ cõi thì có giới hạn, bờ cõi và giới hạn đã hình thành thì trí có bờ mé; trí ấy đã có bờ mé thì chiếu soi chẳng cùng khắp. Bậc Chí nhân thì vô tâm, vô tâm thì không có bờ cõi, không bờ cõi, thì không giới hạn. Bờ cõi và giới hạn đã không thì trí ấy không bờ mé, trí không bờ mé thì chiếu soi vô biên, nên có thể một niệm đồng thời biết tất cả pháp. Nhất thiết trí tuy nói là đứng đầu của hạnh, nhưng cũng là một trong vạn hạnh. Cái mà do họp vạn hạnh hình thành chỉ là đạo Vô thượng, nên nói các pháp đều là tràng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Một niệm biết cùng khắp, là lúc mới đại ngộ. Vì đầu tiên là hành các hạnh, cuối cùng được việc này, nên lấy đó lập tên. Dùng trực tâm làm hạnh đầu tiên, nghĩa cùng thì nói một niệm biết tất cả pháp, chẳng phải cũng là được cõi Phật ư?

Chánh văn: Như thế, này thiện nam! Nếu Bồ-tát đúng theo các pháp Ba-la-mật giáo hóa chúng sinh, thì nên biết các hành động như nhấc chân hạ chân... đều từ đạo tràng mà phát khởi.' Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu thực hành các hạnh nói trên đúng với các Ba-la-mật thì không còn sinh tử qua lại. Nhưng có lúc tùy ứng mà xuất hiện, xuất hiện tùy ứng há chẳng phải là từ đạo tràng đến ư? Suy những điều đã nói ở trước thì liền biết được như thế.

Chánh văn: Trụ nơi Phật pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể ứng hợp các độ kể trên để giáo hóa thiên hạ, người này đi thì dạo nơi đạo tràng, dừng thì trụ ở Phật pháp, tất cả các cử động đều là đạo tràng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nên lấy việc khai ngộ quần sinh làm nghĩa Phật. Đã từ hạnh đến, mà lý thì đã cùng tột nơi đây, nên nói trụ.

Chánh văn: [Khi thuyết pháp này xong, năm trăm trời người đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồđề, vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Bồ-tát Trì Thế rằng: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật!" Bồ-tát Trì Thế bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy!"

Vì sao? Nhớ khi xưa, con trụ ở một tịnh thất kia, thì ma

Ba-tuần.]

Ngài La-thập nói:

- Ba-tuần, Hán dịch là Sát giả. Vì thường đoạn đứt tuệ mạng của người, nên gọi là Sát giả, cũng gọi là Ác trung ác. Ác có ba loại là ác, đại ác và ác trung ác. Nếu có người dùng ác hại mình, mình dùng ác để đáp trả thì gọi là ác; nếu người không gia hại mình, mình vô cớ gia hại người thì gọi là đại ác; nếu người cung kính đến cúng dường mình, mình đã chẳng nghĩ đến báo ân, trái lại còn gia hại, đó gọi là ác trung ác. Trong ác trung ác thì Ma vương là đệ nhất. Chư Phật luôn muốn khiến cho chúng sinh được an ổn, còn ma vương trái lại muốn phá hoại làm loạn động, nên gọi là nhất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba-tuần, Hán dịch là Sát giả, cực ác. Vì hay đoạn dứt thiện căn của người nên gọi là Sát giả. Vì nghịch với Phật, làm loạn tăng, không tội nào lớn hơn nên gọi là Cực ác.

Chánh văn: Dẫn một vạn hai ngàn Thiên nữ, hình dáng của Ba-tuần giống như trời Đế Thích.

Ngài La-thập nói:

- Đế Thích là đệ tử Phật, biết Bồ-tát Trì Thế chẳng nghi, nên hóa thành Đế Thích mà đến. Bồ-tát Trì Thế chẳng dụng tâm quán xét ma, nên chẳng biết.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ma nghĩa là hại tuệ mạng của con người; ác trong ác, nên gọi là Ba-tuần. Phàm thiện ác, theo lý thì cách biệt chẳng quan hệ nhau, huống hồ là chí thiện và cực ác, lại làm tổn hoại lẫn nhau ư? Nhưng có việc này là do bậc Bồ-tát có phương tiện lớn gá vào đó để biến hóa như thế. Thật ra, nói là gá vào thì cần phải khiến cho thân hoàn toàn như thế. Thân như thế nào? Nghĩa là đây tuy làm thiện nhưng lại là người, kia tuy hành ác nhưng lại là trời; trời dùng ác để hiện thân xuống, còn người nêu thiện để dẫn dắt hối cải. Có thể mượn nghĩa này mà tin rằng việc ấy chẳng đúng như thế ư? Hình như Đế Thích, Đế Thích là đệ tử Phật, tôn kính Phật pháp, nên giả hình Đế Thích để làm cho ngài Trì Thế chẳng biết. Trì Thế, thân là Sa-môn, mà Sa-môn thì lấy việc giáo hóa người làm thể. Kia phạm phi pháp nên chỉ dạy, có thể nhân đó mà dùng nữ để mê hoặc.

Chánh văn: Trổi trống nhạc đàn ca đến nơi con ở, cùng với quyến thuộc cúi đầu làm lễ nơi chân con, rồi cung kính chắp tay đứng về một phía. Bấy giờ, trong ý con nghĩa rằng đây là Đế Thích.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma thấy Bồ-tát Trì Thế yên tĩnh muốn làm loạn tâm, nếu hiện nguyên hình e rằng ngài Trì Thế chẳng nói chuyện, nên biến thành hình Đế Thích, bấy giờ, Bồ-tát Trì Thế chẳng quán rõ, nên mới cho là Đế Thích.

Ngài Đạo Sinh nói:

Việc ấy là của Đế Thích thường làm, Bồ-tát Trì Thế đã y cứ theo người, nên có thể nói như thế.

Chánh văn: Mà nói rằng: "Hay thay! Kiều-thi-ca. Ngài La-thập nói:

- Kiều-thi là họ, tên là Ma-ca-đà. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kiều-thi-ca là họ của Đế Thích.

Chánh văn: Tuy có đủ phước đức, nhưng chẳng nên buông lung!

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì cúng dường mà đến cho nên khen, dẫn theo các Thiên nữ đàn ca là pháp buông lung. Có phước mà buông lung là gốc của tội.

Chánh văn: Nên quán năm dục vô thường để cầu gốc thiện. Ngài Đạo Sinh nói:

- Năm dục tức là chỗ ưa thích của năm căn. Phàm sử dụng mà buông lung thì của báu ắt phải nhiều. Nếu biết nó vô thường, thì sau có thể lấy đó tìm cầu gốc thiện.

Chánh văn: Đối với thân, mạng, tài mà tu tập pháp bền chắc. Ngài La-thập nói:

- Nếu có mạng mà chẳng hành đạo thì không khác gì mạng cầm thú. Nếu như nay có thể chẳng tiếc thân mạng này mà tu tập pháp thiện, thì thân mạng đời sau ắt có thể hành đạo tu thiện, đó gọi là mạng thanh tịnh, chẳng phải là do kết sử sinh ra.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp bền chắc, tức ba pháp thân, mệnh và tài bảo. Nếu quên thân mệnh, bỏ tài bảo, dẹp phiền lụy mà tu đạo, ắt sẽ đạt được thân vô cực, mệnh vô cùng và tài bảo vô tận. Ba pháp bền chắc này, khi trời đất cháy hết mà nó chẳng cháy, kiếp số đã chung mà nó chẳng tận, nên gọi là pháp kiên cố. Đế thích ưa đắm năm dục không lo sợ vô thường nên khuyên tu pháp kiên cố.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì việc cầu gốc thiện, nên thân đã vô thường thì hãy khiến làm thiện; mệnh đã nguy ách, thì nên khiến tận lực hành đạo; tài sản thuộc năm nhà, nên cần phải ban cho. Vì đó đều là những pháp mà vô thường chẳng thể hủy hoại nên gọi đó là pháp kiên cố.

Chánh văn: Ma vương nói với con rằng: "Thưa Chánh sĩ! Xin Ngài nhận mười hai ngàn thiên nữ này để hầu hạ quét dọn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nhân ngài Trì Thế thuyết pháp cho nên có thể trá ngụy theo thiện, thật ra muốn dùng Thiên nữ để hoặc loạn.

Chánh văn: Con nói rằng: "Này Kiều-thi-ca! Không nên cúng dường vật phi pháp này cho ta, vì ta là Sa-môn

Thích tử."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát Trì Thế lúc bấy giờ là Tỳ-kheo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước dạy hành bố thí, ma liền nghe theo, theo lý nên thọ nhận, nhưng đây chẳng phải là món cần dùng. Phàm tâm của người thí là chỉ muốn cho người thọ nhận, cho nên nói "chớ dùng." Là bảo ma chớ nên nghe kêu bố thí, nên nay yêu cầu ta thọ nhận. Sa-môn Thích tử, là nêu lý của mình chẳng được thọ nhận, chứ chẳng phải trái nghịch với lòng tốt của người.

Chánh văn: Đây chẳng phải là món ta cần. Nói chưa dứt thì ông Duy-ma-cật đã đến và nói rằng: "Chẳng phải là Đế Thích đâu! Đó là ma đến nhiễu loạn ngài đấy." Ngài Đạo Sinh nói:

- Do ngài Trì Thế chẳng biết, nên mượn lời để nói rằng ma chẳng thể ẩn giấu được với mình, đây có thể dùng sức chế phục được, lại muốn khiến cho ma kinh sợ chẳng thể chẳng cho. Cố tức là chẳng hư dối.

Chánh văn: Ông lại nói với ma rằng: "Các Thiên nữ này có thể cho ta, như ta đây mới nên thọ nhận." Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì ngài Trì Thế chưa biết, nên mới hiện hình ấy. Nay muốn giáo hóa các Thiên nữ, nên hiện đòi nhận các nữ này, vì ta là cư sĩ nên có thể thọ nhận các Thiên nữ, há lại đem cúng dường cho Sa-môn Thích tử ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thí vốn chỉ muốn xả bỏ các vật, chẳng nên chọn chủ, đã có thể thực hành thì nên cho ta, ta đúng là người thọ nhận món này.

Chánh văn: Ma kinh sợ nghĩ rằng: "Ông Duy-ma-cật muốn não loạn ta ư?"

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng thể ẩn giấu thân được với ông Duy-ma-cật, thì biết sức lực chẳng bằng, nên khởi ý nghĩ này.

Chánh văn: Liền muốn ẩn thân mà đi, nhưng chẳng thể ẩn được, dù dùng hết sức cũng chẳng thể đi được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bị thần lực của ngài Tịnh Danh chế ngự. Ngài Đạo Sinh nói:

- Hiện hết Thần lực của ma.

Chánh văn: Liền nghe trên hư không có tiếng nói rằng: "Này Ba-tuần! Hãy cho ông Duy-ma-cật các

Thiên nữ này mới có thể đi được." Ngài Tăng Triệu nói:

- Ông Tịnh Danh cho rằng ma mê muội kiên cố, nên cần phải giáo hóa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng phải ông Duy-ma-cật, thì là do ngài Trì Thế, cũng có thể là do ma tự tạo ra.

Chánh văn: Vì sợ, nên ma miễn cưỡng phải cho. Ngài Đạo Sinh nói:

- So sánh chỗ nặng nhẹ, nếu lưu giữ các Thiên nữ thì chắc sẽ được, nhưng tự chẳng thể đi được.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nói với các Thiên nữ rằng: "Ma đã đem các ngươi cho ta rồi! Nay các ngươi cần phải phát tâm Vô thượng Bồ-đề!" Ngài La-thập nói:

- Nữ nhân thường có tâm niệm là theo chủ. Thuộc về ma thì học tà giáo, thuộc về Bồ-tát thì theo đạo pháp, nên nghe theo lời chỉ dạy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở với ma, cho nên theo các dục, ở với ta thì nên theo đạo giáo. Ngài Đạo Sinh nói:

Đã cho ta thì thuộc về ta, chẳng thể chẳng theo lời ta dạy.

Chánh văn: Rồi ông tùy theo căn cơ mà thuyết pháp khiến phát đạo ý, rồi bảo rằng: "Các ngươi đã phát đạo ý..."

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phát đạo ý, tức chẳng thể tự động theo người, nên lại thuyết pháp cho nghe, khiến họ ngộ đạo, sau đó mới phát ý.

Chánh văn: Có pháp lạc để tự vui, chẳng nên ưa thích năm dục lạc nữa.

Ngài La-thập nói:

- Phàm tánh của cá là chỉ nương vào nước, tánh của người nữ chỉ vui với các dục. Mới phát đạo ý tự gắng sức tu thiện, chưa thể tự vui. Khi tích đức đã thuần thục thì sự vui thích càng sâu, dù trải qua khó khăn chẳng biến, nếm đủ các khổ lại càng dày. Bên trong tâm đã có niềm vui thích, thì bên ngoài chẳng có gì phải đáng ưa. Nay họ lấy đó để tự vui, thì xa lìa các dục lạc của cõi Trời. Từ đây trở xuống là nêu ra vạn pháp, ý chỉ là giữ niềm vui trong pháp, chứ chẳng phải là chấp giữ các pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tánh của người nữ chỉ lấy dục làm vui. Vì lúc mới bỏ các niềm vui cõi Trời nên phải chỉ dạy cho pháp lạc. Nếu có thể lấy sự hoằng đạo làm đẹp, tích đức làm vui thì tuy có trải qua khó khăn, nếm đủ cực khổ mà chẳng thể đổi cái đẹp ấy; dù trời đất biến động mà chẳng xê dịch được niềm vui ấy. Lấy đây để tự vui, là niềm vui cùng tột, há năm dục còn tồn tại ư? Từ đây trở xuống là nêu đủ các hạnh để nói về đạo siêu thế, là nguyên do sinh khởi niềm vui chí cực.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vào lý chưa sâu, thì chẳng thể không tạo niềm vui, nếu không có niềm vui nào thay thế vào đó, ắt sẽ trở lại niềm vui cũ mà thoái tâm. Cho nên nói pháp lạc để chuyển đổi năm dục lạc khi xưa.

Chánh văn: Thiên nữ liền hỏi: "Thế nào là pháp lạc?"

Đáp: "Vui thường tin Phật." Ngài Đạo Sinh nói:

- Thiên ma lấy việc chẳng tin chánh pháp làm gốc, nên khiến họ tin Phật. Phàm lý vốn không định, nếu như có thể ưa thích đó thì chính là niềm vui. Đã thích mà được lâu dài thì niềm vui càng tăng.

Chánh văn: Vui muốn nghe pháp, vui cúng dường chúng.

Ngài La-thập nói:

- Tức sinh tín Tam bảo. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tin rồi sau đó sinh vui thích, thì không gì bằng tin Tam bảo.

Chánh văn: Vui xa lìa năm dục Ngài La-thập nói:

- Đây là tin giới. Khi được bốn lòng tin này, thì trước tin Pháp, kế đó tin Phật, sau đó là tin Tăng và tin Giới.

Hỏi: Bốn tín này vì sao trước tin Pháp, kế đó mới tin Phật, sau cùng là tin Tăng và tin Giới?

Đáp: Ví như có người bị bệnh nặng được cho uống thuốc, nếu hết bệnh thì tin là thuốc hay, thuốc hay ắt phải do thầy, thì tin thầy; tuy thầy giỏi thuốc hay, nhưng cần phải có người khéo xem bệnh, thế thì tin người xem bệnh. Ba việc tuy rất tốt nhưng cần phải do nơi ta mới có thể tiêu trừ được bệnh, thế thì phải tin ta. Đối với pháp thì bốn tín cũng như thế. Khi quán thật tướng thấy đế thì phiền não liền trừ diệt, đó là tin pháp diệu, Tam bảo tuy vi diệu nhưng phải do ta hành trì. Nếu giới nghiệp của ta thanh tịnh thì bệnh khổ tiêu trừ, đó là tin giới. Tin sâu bốn pháp, thì tâm thường hoan hỷ. Có thể dùng đó để làm vui tinh thần, sướng thích tâm tánh. Cho nên niềm vui cõi Trời chẳng thể tự bằng được.

Chánh văn: Vui quán năm ấm như oán tặc, vui quán bốn đại như rắn độc, vui quán nội nhập như làng vắng.

Ngài La-thập nói:

- Như phẩm Phương Tiện đã nói. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiện ác đều quán xét, nào có gì vui thích.

Chánh văn: Vui giữ gìn đạo ý. Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là có thể bảo vệ đạo tâm vô thượng, khiến cho không mất, không tán loạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hộ trì đạo tâm vô thượng khiến không mất.

Chánh văn: Vui làm lợi ích chúng sinh, vui cúng dường bậc sư trưởng, vui bố thí rộng khắp, vui giữ gìn giới cấm, vui nhẫn nhục nhu hòa.

Ngài La-thập nói:

Như Tỳ-kheo Sằn-đề, tuy bị cắt thân thể, nhưng tâm vẫn vui vẻ, điềm nhiên chẳng biến đổi. Trong pháp, sinh khởi niềm vui cũng thế.

Chánh văn: Vui siêng năng tích tụ căn lành, vui thiền định chẳng loạn, vui lìa cấu nhiễm, được tuệ sáng tỏ.

Ngài La-thập nói:

- Tuệ thế tục chẳng thể sinh niềm vui, cần phải được tuệ vô lậu, xa lìa trần cấu thì mới sinh được niềm vui cùng tột.

Chánh văn: Vui tâm Bồ-đề rộng lớn. Ngài La-thập nói:

- Làm cho chúng sinh đồng như mình, không giới hạn, nên gọi là rộng lớn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người và ta đều được, gọi là rộng lớn.

Chánh văn: Vui hàng phục các ma.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các ma tức bốn ma.

Chánh văn: Vui đoạn phiền não.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các phiền não là tên chung của các kết sử.

Chánh văn: Vui làm thanh tịnh cõi Phật, vui thành tựu các tướng quý và vẻ đẹp phụ mà tu các công đức, vui trang nghiêm đạo tràng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo tràng, nơi Đức Phật Thích-ca Văn mới thành đạo, ở cội Bồ-đề với chu vi ba ngàn hai trăm dặm đất toàn là Kim cang, đó là đạo tràng. Chư Phật, tùy theo cõi nước lớn nhỏ mà chọn lấy đạo tràng rộng hoặc hẹp, không nhất định.

Chánh văn: Vui nghe pháp sâu xa không sợ sệt. Ngài La-thập nói:

- Tâm không chấp trước, không tà nghi, lại tin chư Phật có pháp chẳng thể nghĩ bàn, nên nghe pháp sâu xa không sinh sợ hãi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm thích pháp chẳng sâu, ắt nghe pháp sâu xa sinh sợ hãi.

Chánh văn: Vui ba môn giải thoát, chẳng vui phi thời. Ngài La-thập nói:

- Công hạnh chưa mãn thì chẳng thể được cực quả, chưa đến mà cầu là hạnh phi thời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba môn giải thoát là không, vô tướng, vô tác. Bị trói buộc thì dùng các pháp này để cởi mở nên gọi là thoát; là chỗ vào của ba thừa nên gọi là môn. Nhị thừa vào chưa đến chỗ cùng tột của ba môn giải thoát mà thủ chứng giữa đường nên gọi là phi thời, đây là điều mà bậc Đại sĩ chẳng vui thích.

Chánh văn: Vui gần bạn đồng học, vui tâm không chướng ngại với người chẳng phải đồng học.

Ngài La-thập nói:

- Ta học Đại thừa, người cũng như thế, gọi là đồng học; còn chẳng đồng việc học gọi là chẳng phải đồng học, sống chung thì vui, không sống chung thì cũng thế, tâm ấy bình đẳng không hơn kém.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khác với ta là từ nơi người, há lại sinh tức giận? Chẳng phải là đồng học với các ngoại đạo.

Chánh văn: Vui giúp đỡ ác tri thức, vui gần Thiện tri thức, vui tâm hoan hỷ thanh tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Đối với các thiền định và thật pháp, thì tâm thanh tịnh hoan hỷ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thanh tịnh tức pháp thật tướng chân tịnh. Chánh văn: Vui tu tập vô lượng pháp đạo phẩm. Ngài La-thập nói:

- Tức tất cả pháp thiện ngoài những pháp đã kể trên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp lạc thì có vô lượng, trên chỉ lược nêu mà thôi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đầu tiên là tín sau cùng là đạo phẩm, đều là tùy bệnh của ma mà nói ý nghĩa.

Chánh văn: Đó là pháp lạc của Bồ-tát. Bấy giờ, BA-tuần bảo các Thiên nữ rằng: "Ta muốn cùng các ngươi trở về Thiên cung."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở trước nghe trên hư không bảo nên sợ mà cho, chứ chẳng phải thật tâm, nên bảo muốn cùng trở về.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vốn chẳng thật cho, nên bảo cùng trở về. Lại sợ các Thiên nữ không chịu nên dùng Thiên cung để dụ dẫn. Vốn đã đồng mà muốn biến đổi thì giáo hóa trở lại rất dễ, mang các Thiên nữ trở về Thiên cung, thật ý tại nơi đây.

Chánh văn: Các Thiên nữ nói rằng: "Ông đã đem chúng tôi cho Cư sĩ này rồi." Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã thuộc về người, chẳng được tự do, nếu muốn tự ý đi thì người tự có sức giữ lại, tất cả chẳng thể thoát. Đây là trả lời câu nói bảo trở về.

Chánh văn: Có pháp lạc, chúng tôi rất vui, chẳng còn thích năm dục lạc nữa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã thuộc về người, có đầy đủ pháp lạc, thì cần gì trở về? Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là các Thiên nữ nói mình đã có pháp lạc, chẳng còn thích năm dục lạc. Đây là trả lời ý dùng Thiên cung để dụ dẫn.

Chánh văn: Ma vương nói: "Thưa Cư sĩ! Ngài nên xả thí các Thiên nữ này!" Ngài La-thập nói:

- Trước không có tâm cho chân thật, nay thấy ngài Duy-ma-cật giáo hóa đã xong, biết không tiếc, nên xin lại.

Chánh văn: Người mà bố thí tất cả vật của mình có cho người là Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh hóa đạo đã xong; ma biết ngài chẳng tiếc, nên mới xin. Đạo Bồ-tát là tất cả không tham tiếc; tưởng có thể được trả về.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các Thiên nữ thật chẳng thích Thiên cung, nên chẳng đi. Vả lại, bị chủ sai khiến chẳng được tự do, cho nên phải xin. Sợ chẳng được nên nói như thế.

Chánh văn: Duy-ma-cật nói: "Ta đã xả rồi! Ngươi hãy dẫn đi!

Khiến cho tất cả chúng sinh đều được đầy đủ pháp nguyện.

Ngài La-thập nói:

- Cư sĩ trả Thiên nữ lại cho ma thì nguyện ma đầy đủ, vì thế mà phát nguyện khiến cho tất cả chúng sinh được đầy đủ pháp nguyện. Đây là lời nguyện của ông Duy-ma-cật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân nơi sự mà phát nguyện là pháp thường hành của Bồ-tát. Vì trả nữ trở về ma thì nguyện ma đầy đủ, nhân đây khởi nguyện nguyện tất cả chúng sinh đầy đủ pháp nguyện, như ma nguyện đầy đủ.

Chánh văn: Bấy giờ, các Thiên nữ hỏi ông Duy-macật rằng: "Chúng tôi làm thế nào để trụ ở ma cung?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Xưa ở Ma cung lấy năm dục làm vui, nay ở nơi Bồtát thì lấy pháp lạc làm vui, bây giờ lại trở về ma cung thì nên làm như thế nào?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã chẳng thích ma cung, có nên dùng lý để khiến cho thích chăng?

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Này các chị! Có một pháp môn tên là Vô tận đăng, các chị nên tu học." Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn lưu dẫn ánh sáng Đại pháp chiếu soi ngôi nhà si ám ma cung, cho nên thuyết pháp môn này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có pháp môn này thì liền thích ma cung.

Chánh văn: Vô tận đăng, thí như có một ngọn đèn mồi trăm ngọn đèn, tất cả chỗ tối tăm đều sáng tỏ, sáng mãi chẳng dứt, cũng như thế, này các chị! Một Bồ-tát chỉ bày dẫn dắt trăm ngàn chúng sinh, khiến đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, đạo tâm cũng chẳng bao giờ diệt hết, tùy theo pháp được nói, mà tăng trưởng tất cả pháp thiện, đó gọi là Vô tận đăng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tự hành và hóa tha thì công đức càng tăng, ánh sáng pháp chẳng dứt tuyệt, đó gọi là Vô tận đăng.

Chánh văn: Các ngươi tuy trụ ở ma cung mà dùng pháp môn Vô tận đăng này làm cho vô số Thiên tử, Thiên nữ phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tức là báo ân Phật, cũng là làm lợi ích tất cả chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn báo ân không gì bằng hoằng đạo.

Chánh văn: Bấy giờ, các Thiên nữ cúi đầu đảnh lễ chân ông Duy-ma-cật, theo ma vương trở về Thiên cung, bỗng nhiên biến mất ở đây. Bạch Thế Tôn! Ông Duy-ma-cật có thần lực tự tại, trí tuệ biện tài như thế, nên con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Đức Phật lại bảo Trưởng giả Thiện Đức rằng: "Ông nên đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật!" Trưởng giả Thiện Đức bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy; vì sao? Nhớ khi xưa, ở nơi nhà cha mẹ con.

Ngài La-thập nói:

- Từ cha mà được, chẳng từ nơi phi pháp mà được, nên gọi là nhà của cha.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vốn nối tiếp kế thừa nhà của Tổ phụ, nên gọi là nhà của cha.

Chánh văn: Lập hội đại thí.

Ngài La-thập nói:

- Hội đại thí có hai loại:

1. Chẳng theo lễ pháp chỉ tự ban thí cho tất cả.

2. Dùng lễ pháp trong các kinh sách của ngoại đạo để tế tự và thực hành đại bố thí.

Nay Thiện Đức theo lễ pháp để hành bố thí. Ngài Đạo Sinh nói:

- Theo pháp của Bà-la-môn, thí bảy ngày cúng tế Phạm thiên, thực hành đại bố thí để cầu sinh về đó. Trưởng giả Thiện Đức ắt đã đích thừa sản nghiệp nơi nhà của cha, nên nhờ vào đó để lập hội đại thí.

Chánh văn: Cúng dường tất cả Sa-môn. Ngài Lathập nói:

- Những người xuất gia bất luận là trong Phật đạo hay ngoại đạo đều được gọi chung là Sa-môn. Những kẻ dị học có khả năng luận nghị giỏi gọi là ngoại đạo.

Chánh văn: Bà-la-môn, các ngoại đạo, những người ăn xin, kẻ bần cùng, hạ tiện và cô độc.

Ngài La-thập nói:

- Người ăn xin có ba loại là Sa-môn, quý nhân và hạ tiện. Tùy theo việc cầu xin của họ mà đều gọi là người ăn xin.

Chánh văn: Đã mãn bảy ngày. Ngài La-thập nói:

- Tức là ngày thứ bảy, sở dĩ đợi đến ngày thứ bảy mới đến chê trách, là muốn khiến cho công đức đầy đủ, tâm thuần thục.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thời hạn bảy ngày hoàn mãn. Cần hoàn mãn mới chê trách, là vì hoàn mãn thì công đức thành tựu, tâm ắt sinh tự thị.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, ông Duy-ma-cật đến pháp hội nói với con rằng: "Này Trưởng giả! Phàm hội đại thí chẳng phải như ông lập đâu!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp hội đại thí ở Ấn Độ, thì được thiết lập tại nhà người cha, mở rộng bốn cửa, dựng tràng cao để bố cáo khắp thiên hạ, nếu người nào cần món gì thì đến nhà ấy nhận, trong bảy ngày bố thí hết tài sản trong nhà để cầu phước sinh về Phạm thiên. Bấy giờ, ngài Tịnh Danh cho rằng tài thí đã xong, muốn đến đây chỉ bày pháp thí, nên chê trách việc làm này mà nói rõ về pháp thù thắng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng thể cho là Đại.

Chánh văn: Nên lập hội Pháp thí. Ngài Đạo Sinh nói:

- Bố thí từ lý mà phát khởi là Pháp thí; nói lập hội nghĩa là sắp đặt đầy đủ.

Chánh văn: Đâu cần lập hội tài thí làm gì?

Ngài La-thập nói:

- Thấy ông Trưởng giả bố thí, đã chẳng thực hành tâm tùy hỷ, trái lại còn có sự tỵ hiềm. Thí có ba loại là Tài thí, Tâm thí và Pháp thí. Dùng tài sản ban cho người là Bố thí; dùng tâm Từ, tâm bình đẳng ban vui cho người gọi là Tâm thí; thuyết pháp làm lợi ích cho người gọi là Pháp thí, cũng là những pháp thiện mà Bồ-tát làm là vì sự lợi ích cho chúng sinh. Lợi ích chúng sinh có hai loại:

1. Tức thời lợi ích.

2. Làm nhân lợi ích ở vị lai.

Cả hai đều gọi là pháp thí. Nay muốn giúp cho Thiện Đức thực hành pháp thí tâm thí, nên phá bỏ tài thí của ông ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có hình ắt có chỗ ngại, tài vật ắt có lúc tận. Vậy nên, dùng hình mà hội mọi người thì chẳng thể tập hội rộng khắp, dùng tài vật cho người thì chẳng thể cấp đầy đủ hết. Vả lại, bố thí đã chẳng cùng khắp, tài vật lại chẳng có ích cho tâm thần. Ví như chưa hội quần sinh khắp mười phương mà ngay nơi đó là bản độ, giữ pháp thí nơi lòng mà ban ân huệ cùng khắp, lấy đây làm hội thì hội chẳng thể không đủ, lấy đây để thí, thì thí chẳng bỏ ai. Há lại bỏ phương xa mà tập khách gần, xả lợi ích của tâm mà chỉ cần lợi ích của thân sao?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tài là vật hữu hạn, từ đây mà hành bố thí, theo lý thì chẳng được cùng khắp và bình đẳng.

Chánh văn: Con nói rằng: "Thưa Cư sĩ! Thế nào là hội Pháp thí?"

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ý muốn hỏi lý đại của hội Pháp thí.

Chánh văn: Hội pháp thí tức chẳng trước, chẳng sau. Ngài La-thập nói:

- Tài thí chẳng thể cùng lúc thí cho tất cả, thì có trước sau; còn hội Pháp thí thì đồng thời thí khắp tất cả. Tức vừa khởi tâm Từ thì đồng duyên khắp mười phương là pháp thí tối thượng trong các Pháp thí, không pháp nào hơn, nên nói không trước sau.

Chánh văn: Đồng thời cúng dường tất cả chúng sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Phật là chân Phạm thiên, thực hành pháp để cúng dường tức là tế tự ngài, rốt cuộc được sinh về cảnh giới ấy. Vả lại, Pháp thí này, theo lý thì không đâu không khắp, không đâu không bình đẳng. Không đâu không bình đẳng thì chẳng trước cái này sau cái kia; không đâu chẳng khắp thì có thể đồng thời ban cho tất cả.

Chánh văn: Đó gọi là hôi Pháp thí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm lấy phương sở mà hội họp mọi người thì chẳng thể một thời đủ hết, dùng tài vật mà cứu giúp chúng sinh, thì chẳng thể đồng thời chu cấp. Vì thế, nếu hội họp cùng khắp không bờ mé, thì trùm khắp mà chẳng rơi sót; nếu pháp nhuần thắm thầm đầy đủ thì chẳng chuyển thời mà che khắp. Cho nên nếu có thể lấy vô cương làm một hội thì đạo thấm nhuần cùng khắp. Tâm rỗng rang giữ vạn đức thì vạn vật tự hội, há chỉ giữ tuệ nhỏ bọt bóng mà bỏ lợi ích lớn sông biển ư? Bỏ pháp dưỡng nhất thời mà lập tài thí có trước sau ư?

Chánh văn: Nghĩa là phải làm sao?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh vô cùng mà nhận sự giáo hóa không khắp, muốn không trước không sau mà đồng thời giáo dưỡng thì làm thế nào?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi về phương cách tập hội.

Chánh văn: Nghĩa là phải vì Bồ-đề mà khởi tâm Từ.

Ngài La-thập nói:

- Khởi tâm Từ, có ba loại:

1. Phàm phu vì muốn sinh Phạm thiên.

2. Nhị thừa vì cầu công đức.

3. Bồ-tát vì cầu Phật quả, độ chúng sinh.

Nay muốn khiến cho Trưởng giả cầu Phật đạo mà khởi tâm từ. Từ đây trở xuống là tùy văn giải thích nghĩa, chẳng cần phải phân biệt hết, chỉ làm cho chẳng trái với pháp thí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm tài thí thì nuôi dưỡng thân, Pháp thí thì dưỡng thần, giữ đạo dưỡng thần thì thầm được lợi ích, nghĩa thầm lợi ích há có trước sau ư? kinh nói: "Một người xuất thế thì thiên hạ được lợi ích", thế thì quần sinh lưu chuyển, lấy vô cùng làm đường, mãi mãi kế tiếp nhau, chẳng thể nào tự phản tỉnh, cho nên bậc Đại sĩ lập đức chẳng phải vì tự thân, một niệm thiện cũng là vì quần sinh, vì quần sinh nên nguyện hạnh đều thật, hạnh thật thì công đức của tự kỷ lập; nguyện thật thì quần sinh được lợi ích. Công đã lập thì có công năng cứu chúng sinh; chúng sinh được lợi ích thì có bổn phận phản ngược dòng. Thế thì Bồ-tát vừa lập đức bên trong, thì bên ngoài quần sinh đã thấm nhuần lợi ích, hà tất phải đợi cấp dưỡng, khai đạo mới được lợi ích ư? Bồ-đề là đạo cứu độ, vì thế nếu vì Bồ-đề mà khởi tâm Từ, thì một niệm đồng thời lợi ích đến vô biên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thí là tâm cứu vật, dùng bốn Đẳng tâm làm chủ, nên trước nói Từ. Nhưng cần phải hành bốn Đẳng tâm chân thật, nếu hư dối thì chẳng thành Pháp thí. Từ vốn là nghĩ đến người, theo lý chẳng được thiên lệch; suy nghĩ chẳng thiên lệch thì chỉ muốn lợi ích tất cả. Bồ-đề đã không đâu không bình đẳng, lại hay làm lợi ích chân thật. Nếu lấy lý này làm bản hoài thì há lại hư dối ư?

Chánh văn: Vì cứu chúng sinh mà khởi đại Bi. Ngài La-thập nói:

- Nếu khởi tâm Bi mà chẳng vì cứu quần sinh thì lại trái với Bi.

Phải vì cứu quần sinh mà khởi tâm Bi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hưng phát đại Bi là do cứu người mà khởi, vì thế tâm Bi sinh nơi ta mà thiên hạ đồng được lợi ích.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bi là nghĩ đến người khổ liền muốn phá trừ. Nếu dùng thật cứu mà khởi Bi, thì tâm Bi ấy mới rộng lớn.

Chánh văn: Vì giữ chánh pháp mà khởi tâm hoan hỷ.

Ngài La-thập nói:

- Phàm phu và Tiểu thừa thấy chúng sinh vui thì khởi tâm hỷ. Nay muốn khiến cho người giữ gìn chánh pháp, cho nên khởi tâm hỷ. Tức trong pháp, tâm sinh hỷ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn làm cho Ta và người đều giữ gìn chánh pháp, hỷ do đó mà sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỷ vốn vui thích khi người xa lìa phi pháp, là ý giữ gìn pháp.

Nếu lấy việc giữ gìn chánh pháp làm hỷ, thì mới là hỷ chân thật.

Chánh văn: Vì nhiếp trí tuệ mà hành tâm Xả.

Ngài La-thập nói:

- Phàm phu và Tiểu thừa vì xa lìa oán thân nên hành tâm Xả. Nay muốn khiến cho họ vì trí tuệ bình đẳng mà xa lìa tất cả để hành tâm Xả. Vả lại, trong tâm Xả tuy có thấy chúng sinh, nhưng không khởi ý tưởng phân biệt, đồng như chẳng biết. Muốn khiến trong tâm Xả mà hành trí tuệ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa xả thì xả bỏ oán thân, Đại thừa xả thì xả cả vạn hữu, xả vạn hữu tức là xả tánh của chánh trí; nên thực hành tâm xả để thâu nhiếp trí tuệ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Xả tức lấy việc xả bỏ yêu ghét làm bản hoài để nhiếp trí tuệ, thì không tuệ nào chẳng gồm thâu. Nếu lấy việc tuệ không đâu chẳng thâu làm xả, thì xả cũng không gì chẳng xả.

Chánh văn: Vì thâu nhiếp xan tham mà khởi Đàn Ba-la-mật, vì giáo hóa kẻ phạm giới mà khởi Thi-la ba-lamật, vì pháp vô ngã mà khởi Sằn-đề ba-la-mật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giận hờn là sinh từ ngã, không ngã thì không tranh cãi. Bản khác ghi: Vì pháp vô ngã mà khởi nhẫn.

Ngài La-thập nói:

- Khi mới thực hành pháp nhẫn, thì vì ngã mà cầu phước, hành đã sâu xa thì quên ngã mà vẫn hành nhẫn. Hơn nữa nếu có thể nơi ngã mà vô ngã thì không có người thọ khổ, không người thọ khổ nên không việc gì chẳng nhẫn. Nếu từ vô ngã mà hành pháp nhẫn thì phước ấy thật vô tận. Ví như trong nước mà sinh lửa thì không thể diệt hết.

Chánh văn: Vì lìa tướng thân tâm. Ngài La-thập nói:

- Xa lìa có hai nghĩa:

1. Thân lìa các sự tướng gọi là thân xa lìa.

2. Tâm không có các lụy tưởng gọi là tâm xa lìa. Lại chẳng chấp thân tâm cũng gọi là xa lìa.

Chánh văn: Mà khởi Tỳ-lê-da ba-la-mật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng tinh tấn khởi nơi thân tâm mà nói lìa tướng thân tâm thì đó là vô tướng tinh tấn.

Chánh văn: Vì tướng Bồ-đề mà khởi Thiền ba-lamật.

Ngài La-thập nói:

Khiến người thành Phật đạo nên khởi thiền định, chứ chẳng phải vì vui thú và phước báu. Lại trong bản Phạm ghi: "Tướng Bồ-đề cũng gọi là tướng tịch diệt.

Nên vì tướng này mà khởi thiền." Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng Bồ-đề không định, không loạn, dùng tướng này mà khởi thiền, thì thiền cũng đồng tướng ấy.

Chánh văn: Vì Nhất thiết trí mà khởi Bát-nhã ba-lamật.

Ngài La-thập nói:

- Muốn khiến người chuyên tâm cầu Đại giác mà chẳng vì danh lợi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nơi Phật gọi là Nhất thiết trí, tại Bồ-tát thì gọi là Bát-nhã. Nhân quả khác tên, nhưng Nhất thiết trí lấy vô tướng làm tướng; từ đây khởi Bát-nhã cũng vô tướng. Nhân quả tuy khác tên, nhưng tướng thì chẳng khác.

Chánh văn: Giáo hóa chúng sinh mà khởi không. Ngài La-thập nói:

- Tức là bỏ pháp chúng sinh, vì giáo hóa chúng sinh mà khởi không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Còn chúng sinh thì trái nghĩa không, giữ nghĩa không thì xả bỏ chúng sinh. Khéo thông đạt pháp tướng, hư không là bản hoài thì suốt ngày giáo hóa chúng sanh mà chẳng trái không.

Chánh văn: Chẳng bỏ pháp hữu vi mà khởi vô tướng. Ngài La-thập nói:

- Vô tướng thì bặt hữu vi, nên dạy chẳng xả bỏ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức có mà không, nên hay khởi vô tướng. Tức không mà có, nên chẳng thể xả bỏ. Vì chẳng xả nên vạn pháp gồm đủ. Khởi không, nên đẹp xấu như nhau.

Chánh văn: Thị hiện thọ sinh mà khởi hạnh vô tác.

Ngài La-thập nói:

- Vô tác tức chẳng thực hành hạnh thọ sinh. Vô tác thì không còn thọ sinh. Vì thế dạy thị hiện là khởi vô tác. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tác nghĩa là tạo tác sinh tử. Vì người mà thọ sinh chứ chẳng phải tạo tác sinh tử mà thọ sinh. Vì thế bậc Đại sĩ thọ sinh mà thường khởi vô tác.

Chánh văn: Hộ trì chánh pháp mà khởi sức phương tiện.

Ngài La-thập nói:

- Không có tuệ phương tiện thì chấp tướng, chấp tướng thì hủy hoại chánh pháp. Có tuệ phương tiện thì không chấp tướng, không chấp tướng thì giữ gìn chánh pháp.

Chánh văn: Vì độ chúng sinh mà khởi hành bốn

Nhiếp pháp

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có phương tiện thì không biết gì để giữ gìn chánh pháp.

Không có phương tiện thì không biết gì để cứu chúng sinh.

Chánh văn: Vì cung kính thờ phụng tất cả mà khởi tâm trừ pháp mạn, đối với thân, mệnh, tài mà khởi tu ba pháp bền chắc, đối với sáu niệm mà khởi pháp tư niệm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghĩ nhớ Phật, Pháp, Tăng, Thí, Giới, Thiên.

Chánh văn: Đối với sáu pháp hòa kính mà khởi tâm chất trực.

Ngài La-thập nói:

- Muốn làm cho mọi người hòa hợp, cần phải có sáu pháp:

1. Dùng tâm Từ mà khởi thân nghiệp.

2. Dùng tâm Từ mà khởi khẩu nghiệp.

3. Dùng tâm Từ mà khởi ý nghiệp.

4. Khi được thức ăn, nên dùng cơm trong bát cúng dường một vị Thượng tọa, hai vị Hạ tọa.

5. Trì giới thanh tịnh.

6. Được trí tuệ lậu tận.

Nếu thực hành sáu pháp này thì đại chúng hòa thuận không có sự tranh cãi. Khi xưa có hai vị Tỳ-kheo thường hay tranh cãi nhau, Đức Phật nhân đó mà nói sáu pháp hòa kính này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dùng tâm Từ mà khởi ba nghiệp thân, miệng, ý là ba pháp; bốn là nếu được cúng dường thì chia cho người khác cùng hưởng; năm là trì giới thanh tịnh; sáu là tu trí tuệ lậu tận. Chẳng có trực tâm thì chẳng đủ sáu pháp này, chẳng có sáu pháp này thì không biết làm thế nào để chúng hòa hợp; đại chúng không hòa, không có đạo kính thuận.

Chánh văn: Chân chánh thực hành pháp thiện mà khởi tịnh mạng (sự sống trong sạch, chân chánh).

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm làm những việc thiện chẳng dùng tâm tà làm mạng.

Chánh văn: Tâm thanh tịnh hoan hỷ gần gũi bậc Hiền Thánh, chẳng ghét người ác mà nên khởi tâm điều phục họ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Gần gũi bậc Thánh, sinh tâm thanh tịnh hoan hỷ, gặp người ác, không sinh tâm oán ghét.

Chánh văn: Vì pháp xuất gia mà khởi thâm tâm. Ngài La-thập nói:

- Xuất gia thì thâm nhập Phật pháp, hành đầy đủ các tịnh giới. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp xuất gia, không có tâm sâu xa thì không thể hoằng truyền.

Chánh văn: Vì như thuyết mà hành, khởi đa văn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghe mà chẳng thể thực hành chẳng phải là đa văn.

Chánh văn: Vì pháp vô tránh mà trụ nơi vắng vẻ.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng trái nghịch với chúng sinh lại chẳng trái với pháp nên gọi là pháp vô tránh. Nên vì pháp này mà sống nơi vắng vẻ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giận dữ cạnh tranh phát sinh do tụ tập đông người, vô tránh thì ở nơi vắng vẻ.

Chánh văn: Vì hướng đến Phật tuệ mà thực hành yên tọa. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuệ Phật sâu xa, nếu chẳng có định thì chẳng thể hướng đến.

Chánh văn: Vì mở những trói buộc cho chúng sinh mà khởi tâm tu hành.

Ngài La-thập nói:

- Tức là tu các pháp thiền định, đạo phẩm. Nên vì giải trừ sự trói buộc chúng sinh mà tu hành, chẳng nên chỉ vì mình mà tu hành.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hạnh mình chẳng tu, thì đâu thể mở trói cho người? Chánh văn: Vì đầy đủ các tướng quý và các vẻ đẹp phụ cùng sự thanh tịnh cõi Phật mà khởi tu phước đức.

Ngài La-thập nói:

- Tất cả các pháp thiện được phân làm hai nghiệp là Phước đức nghiệp và Minh tuệ nghiệp. Trong sáu Độ, ba Độ trước thuộc Phước đức nghiệp, ba Độ sau thuộc Minh tuệ nghiệp. Đầy đủ hai nghiệp này, ắt là đến Phật đạo. Ví như xe đủ hai bánh ắt sẽ có chỗ đến. Tu nghiệp phước đức thì dẫn đến các quả báo được tướng quý, vẻ đẹp phụ và cõi nước thanh tịnh. Còn tu nghiệp minh tuệ thì được Nhất thiết trí.

Chánh văn: Vì biết tất cả tâm niệm của chúng sinh, tùy thuận thuyết pháp, nên khởi tu trí nghiệp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn hạnh của Đại thừa được phân làm hai nghiệp:

1. Dùng trí tuệ làm hạnh cốt yếu, nên lập riêng trí nghiệp.

2. Các hạnh tùy thuộc gọi chung là đức nghiệp.

Phàm kiếp lập sự tu tập, chẳng thể một hạnh nghiệp mà thành tựu, cần phải tu đức nghiệp để thành tựu tướng tốt, vẻ đẹp và thanh tịnh cõi nước, tu trí nghiệp để biết rõ tâm niệm mà tùy thuận thuyết pháp. Hai nghiệp này công dụng rất nhiều, chưa từng không có nhau.

Chánh văn: Vì biết tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ, nhập nhất tướng mà khởi tu tuệ nghiệp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quyết định thẩm xét nghĩa lý gọi là trí, tạo tâm phân biệt gọi là tuệ. Trên là quyết liễu niệm của chúng sinh, ấn định các pháp tướng sau đó mới thuyết pháp, cho nên phải dùng trí để hành. Nay tạo tâm phân biệt pháp tướng mà nhập vào một môn, cho nên phải dùng tuệ thực hành.

Bản khác ghi: "Trí nghiệp, Tuệ nghiệp." Ngài Lathập nói:

- Trong hai nghiệp thì minh tuệ thù thắng hơn, nên phân biệt làm hai. Trong tự thấy các pháp gọi là tuệ. Ngoài biết tâm tướng chúng sinh quyết định chẳng nghi, vì họ thuyết pháp, gọi là trí.

Chánh văn: Vì đoạn tất cả phiền não. Ngài La-thập nói:

- Tức là nghiệp minh tuệ. Chánh văn: Tất cả chướng ngại Ngài La-thập nói:

- Lại tổng quát hai nghiệp phước đức và tuệ minh. Đầy đủ hai nghiệp này thì sự ngăn ngại tự trừ. Hai câu sau cũng tổng quát hai nghiệp.

Chánh văn: Tất cả pháp bất thiện mà khởi tu tất cả nghiệp thiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không điều thiện nào chẳng làm, nên không có nghiệp ác nào chẳng đoạn.

Chánh văn: Vì muốn được tất cả trí tuệ, tất cả pháp thiện mà thực hành tất cả các pháp hỗ trợ Phật đạo.

Ngài La-thập nói:

- Phật pháp có hai là thế gian và xuất thế gian. Xuất thế gọi là pháp trợ Phật đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tất cả trí tuệ tức trí nghiệp, tất cả pháp thiện là đức nghiệp. Pháp trợ Phật đạo là các pháp vô lậu Đại thừa. Vì hai nghiệp trí đức chẳng phải từ hữu lậu mà thành, thành tựu là do pháp trợ Phật đạo.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu dùng tất cả trí tuệ, tất cả pháp thiện làm pháp trợ Phật đạo, thì hội pháp thí ắt thành tựu.

Chánh văn: Như thế, này thiện nam! Đó là hội Pháp thí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể đầy đủ các pháp nói ở trên, ắt thầm lợi ích không bờ bến; đó là hội, vì chẳng hạn hẹp nơi một phương; đó chính là thí, vì chẳng hạn hẹp nơi thân hình. Chẳng hạn hẹp nơi thân hình thế nên vi diệu cứu giúp cả tinh thần; chẳng hạn hẹp ở một phương, nên hội ấy trùm khắp. Đó có thể cho là đại thí, đại hội vậy.

Chánh văn: Bồ-tát trụ ở hội pháp thí này là một đại thí chủ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Không gì chẳng ban cho, nên gọi là cực đại.

Chánh văn: Cũng là phước điền cho tất cả thế gian. Ngài La-thập nói:

- Nếu thực hành tài thí, chỉ gọi là thí chủ, không gọi là phước điền.

Nếu pháp thí thì vừa gọi là thí chủ vừa gọi là phước điền.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phước điền, nghĩa là người gieo phước vào ta. Nếu ta không có các thứ cỏ dại uế hạnh, thì người đạt được vô lượng quả báo, nên gọi là phước điền.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Làm thí chủ thì dễ, nhận của thí mới khó. Cần phải có đức, ắt có thể tạo phước, sau đó mới làm điền.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Khi ông Duy-ma-cật thuyết pháp này xong, hai trăm Bà-la-môn ở trong chúng.

Ngài La-thập nói:

- Đã dùng lễ pháp của ông và cũng vì ông có phước đức trí tuệ như thế, nên tôn là tông chủ trong hội tòa.

Chánh văn: Đều phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam Bồ-đề; lúc ấy tâm con cũng được thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm khổ lụy đã trừ được lòng tin thanh tịnh.

Chánh văn: Khen là điều chưa từng có, cúi đầu đảnh lễ chân ông Duy-ma-cật, rồi con mở chuỗi Anh lạc giá trị trăm ngàn cúng dường ông ấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã hành bố thí bảy ngày mà vẫn còn vật này, thì ắt là vật rất quý giá, lại dâng cho ông Duy-ma, là hiển bày tâm sùng kính Pháp thí.

Chánh văn: Nhưng ông chẳng nhận.

Ngài La-thập nói:

- Ý đến đây là để thuyết pháp, cũng để phá bỏ tài thí; vì chỉ giữ hai tâm này, nên chẳng chịu nhận.

Chánh văn: Con nói: "Thưa Cư sĩ! Xin ngài nhận cho, tùy ý ban phát." Ông Duy-ma liền nhận chuỗi anh lạc, phân làm hai phần, dùng một phần bố thí cho người ăn xin thấp hèn nhất trong hội, còn một phần dâng cúng Đức Như Lai Nan Thắng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên nói thẳng về Pháp thí mà chưa nói tâm bình đẳng hành thí, nên ở đây nói dâng cho Bậc Tối Thượng, ban cho kẻ cùng hạ để chỉ bày tâm bố thí bình đẳng, để thành tựu ý nghĩa dùng đức thiện làm thí.

Chánh văn: Tất cả chúng hội đều thấy Như Lai Nan Thắng ở cõi nước Quang minh.

Ngài La-thập nói:

- Muốn dùng oai đức thù thắng của Đức Phật kia và cõi nước thanh tịnh ấy để khiến chúng hội phát tâm mong cầu. Vì thế trước dâng cúng, sau đó mới làm cho thấy.

Chánh văn: Lại thấy một phần chuỗi anh lạc trên thân Đức Phật kia biến thành đài báu có bốn trụ.

Ngài La-thập nói:

- Đây là vì Thiện Đức mà hiện ra quả báo thù thắng vi diệu như thế.

Chánh văn: Bốn mặt đều trang nghiêm rực rỡ mà không ngăn che nhau.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phân làm hai phần là muốn nói về bình đẳng; Hiện thần lực là để chứng nghiệm pháp thí. Biến đài báu có bốn trụ há có cho là do tài thí mà có ư? Đó là do hội Pháp thí sinh xuất, cho nên năng lực trùm khắp.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, ông Duy-ma-cật hiện thần biến xong, nói rằng: "Nếu thí chủ dùng tâm bình đẳng bố thí cho người ăn xin thấp hèn nhất giống như tướng phước điền của Như Lai.

Ngài La-thập nói:

- Cúng dường Phật như đất tốt nên tâm dày, bố thí cho người nghèo như đất khổ nên lòng Bi sâu, thế thì phước điền đồng tướng quả báo giống nhau.

Chánh văn: Không phân biệt, tâm đại Bi bình đẳng, chẳng cầu quả báo, đó gọi là đầy đủ pháp thí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể xem tôn ti bằng nhau, hành báo là một, dùng tâm Bi bình đẳng mà bố thí, thì mới đầy đủ hội pháp thí.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dụng tâm như thế thì chẳng phải là Tài thí, mà chính là đầy đủ hội Pháp thí.

Chánh văn: Những người ăn xin thấp hèn nhất trong thành thấy được Thần lực và nghe điều ông Duy-ma-cật nói, đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, vì thế con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy. Như thế, các vị Bồtát mỗi mỗi đều thưa với Phật về bản duyên của mình, đồng thời thuật lại điều ông Duy-ma đã nói, và đều bạch Phật rằng: "Con không kham nhận đến thăm bệnh ông ấy."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba mươi hai ngàn Bồ-tát đều trình bày về nhân duyên chẳng kham nhận, nhưng văn chẳng nêu đủ.

QUYỂN 5

Phẩm 5: VĂN THÙ SƯ LỢI VẤN TẬT

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Văn-thù-sưlợi rằng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Văn-thù-sư-lợi, Hán dịch là Diệu Đức. Kinh nói: "Ngài đã từng thành Phật hiệu là Long Chủng Tôn."

Chánh văn: Ông đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

Văn-thù-sư-lợi bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Bậc

Thượng nhân kia thật khó bề đối đáp lại!" Ngài La-thập nói:

- Tức nói vượt trên cả ta nữa, há là chư hiền? Đây là tình thâm giao há có thật ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba mươi hai ngàn vị Bồ-tát hà tất phải nói chẳng kham, ngài Văn-thù-sư-lợi hà tất phải độc tôn đến được. Đó chỉ là bậc Chí nhân quyền biến vô cùng, ẩn hiển khác vết, nên thay nhau hiện dài ngắn, để ứng với tâm chúng sinh, ai dám định là có hơn kém, luận được mất sao? Bồtát Văn-thù vì muốn làm vui tâm đại chúng mà phụng mệnh Phật, cho nên trước khen đức của ông Duy-ma, để chúng hội sinh ý tưởng khó gặp. Người ấy đạo lực thật cao khó mà đối đáp lại, nhưng vì thừa phụng Thánh chỉ của Phật mà đến thăm bệnh.

Chánh văn: Thâm đạt thật tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thật tướng khó lường mà thường đạt đến chỗ sâu xa.

Chánh văn: Khéo nói pháp yếu.

Ngài La-thập nói:

- Lời văn này nói chẳng đủ, theo bản văn đáng lẽ phải ghi: "Dùng yếu ngôn thuyết pháp" tức dùng lời văn đơn giản, gọn, mà phân tích nghĩa lý sâu rộng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức dùng lời ước lược mà diễn bày được nhiều nghĩa. Tức là khen ông Duy-ma khéo đạt được chỉ thú thuyết pháp.

Chánh văn: Biện tài không trệ, trí tuệ vô ngại. Ngài Tăng Triệu nói:

- Lời lẽ luận biện thật trôi chảy, hợp lý không ngăn trệ, trí tuệ thông suốt không chướng ngại.

Chánh văn: Biết rõ tất cả pháp thức của Bồ-tát. Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là các oai nghi thần thông biến hóa.

Chánh văn: Vào tất cả các bí tạng của chư Phật. Ngài

La-thập nói:

- Như nói về thân, khẩu, ý trong kinh Mật Tích. Ngài Tăng Triệu nói:

- Gần thì biết các nghi thức của Bồ-tát, xa thì vào bí tạng của chư Phật. Bí tạng tức là kho tàng bí mật về thân miệng ý của chư Phật.

Chánh văn: Hàng phục các ma. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các ma tức bốn ma.

Chánh văn: Du hý thần thông. Ngài La-thập nói:

- Thần thông biến hóa là Du, dùng đó để dẫn dắt chúng sinh, đối với ta chẳng phải là chân thật, nên gọi là Hý. Lại Thần thông tuy lớn, nhưng người có năng lực thì dễ hiện, đối với ta cũng chẳng khó, giống như làm trò vui chơi. Cũng nói trong Thần thông có thể ra, vào, trụ, ở đều vô ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dạo chơi khắp nơi để giáo hóa chúng sinh, và lấy đó để tự vui

Chánh văn: Trí tuệ và phương tiện đều đã rốt ráo (đắc độ).

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí dụng cùng tột, quyền đạo rốt ráo, nên gọi là độ. Chánh văn: Tuy thế, con xin vâng theo Thánh chỉ đến thăm bệnh ông ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức của ông ấy đã như thế, thật chẳng thể kham đối đáp, nhưng vì vâng lời Phật mà đến.

Chánh văn: Bấy giờ, trong chúng hôi, các vị Bồ-tát, Đại đệ tử, Đế thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương... đều suy nghĩ rằng: "Nay hai vị Đại sĩ là Bồ-tát Văn-thù-sưlợi và Trưởng giả Duy-ma-cật đàm luận nhau, ắt là nói về diệu pháp. Tức thời tám ngàn vị Bồ-tát, năm trăm Thanh văn.

Ngài La-thập nói:

- Các Thanh văn khác chỉ lấy việc lìa khổ làm tâm nguyện, chẳng cầu pháp sâu xa, nên chẳng đồng đi. Năm trăm vị Thanh văn này đều có trí tuệ sâu xa, thích nghe pháp sâu xa. Vì thế mà cùng đi.

Chánh văn: Năm ngàn trời, người đều muốn đi theo. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Đại sĩ tập hội, ắt có nói đến diệu pháp, cho nên tất cả đều muốn cùng đi.

Chánh văn: Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi cùng các Bồ-tát, các đại đệ tử có hàng trời người cung kính vây quanh đồng vào thành Tỳ-da-ly.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Am-la viên bên ngoài thành, trượng thất của ngài Tịnh Danh bên trong thành.

Chánh văn: Lúc ấy, Trưởng giả Duy-ma-cật thầm nghĩ rằng: "Nay ngài Văn-thù-sư-lợi và Đại chúng sẽ đến nơi đây." Ông liền dùng thần lực làm cho trượng thất trống rỗng, dẹp bỏ tất cả các vật.

Ngài La-thập nói:

- Sắp làm sáng tỏ không, nên hiện tướng không để phát khởi. Ví như có hết lòng cung kính đặt vật cúng dường, ắt cho là do ông sắp đặt. Vì ngài Văn-thù thích thanh tịnh rỗng rang, cho nên làm trượng thất trống không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khởi phát niệm này là để nhân đó mà làm trượng thất trống không, hầu nêu tâm rỗng rang dung nạp, vì có dẹp bỏ thì mới có không. Bí mật ở việc dùng để nêu tông chỉ. Hiện thần thông, nghĩa là dẫu có việc chẳng thay đổi vị trí mà thật có dẹp bỏ, là để nói rằng người có sức biến hóa như thế ắt là lời nói không hư dối.

Chánh văn: Và các thị giả. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì ngại mình tiếp thị giả, nếu cần thì gọi riêng đến, lại để nói về việc phàm thể hội được tông chỉ thì chẳng có tâm xả bỏ quần sinh, ví như không bỏ, thì tất cả đều là thị giả.

Chánh văn: Chỉ đặt một chiếc giường nằm dưỡng bệnh

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hưng khởi việc hiện bệnh là nơi đây, còn làm thất trống không, dẹp bỏ thị giả để phát khởi đầu mối luận biện, thì chứng dẫn ở văn sau. Chỉ đặt một chiếc giường là nguyên do của việc mượn tòa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người nhiều, thất nhỏ, chỉ đặt một chiếc giường cũng còn ngăn ngại. Hơn nữa đi, đứng, nằm, ngồi là tùy theo sự thích nghi của thân, nếu cần thì sắp đặt, hà tất phải dự định trước. Vì thế mà dẹp bỏ, há cho là chẳng tiếp đón ư? Vì có khách cho nên như thế, mà thật sắp đặt là để tiếp người cần dùng. Hiện sức thần thông là để biểu thị công đức của việc nói lý, công đã chẳng thể lường, thì biết sở thuyết là thật.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi vào trượng thất trống rỗng, không có gì cả, chỉ có một chiếc giường.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người thấy sẽ được chủ ý của ông ấy.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Thưa ngài Vănthù-sư-lợi!

Ngài đến thật đúng lúc." Ngài La-thập nói:

- Nếu im lặng không nói gì thì chủ khách chẳng hòa hợp. Khen "Thiện lai (lành thay)" là muốn nói khách đến rất hợp, chủ cũng rộng tiếp đón.

Chánh văn: Tướng chẳng đến mà đến, tướng chẳng thấy mà thấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói đến đi cử động của pháp thân Đại sĩ chẳng trái với thật tướng. Thật tướng chẳng đến vì thế mà đến, thật tướng chẳng thấy vì thế mà cùng thấy. Chẳng đến mà thường đến, chẳng thấy mà thường thấy. Pháp thân đã như thế, thì đâu có gì khéo léo bằng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã lấy lý thể làm tâm, thì đến đối với kia chính là đến của tướng chẳng đến, đến của tướng chẳng đến là cùng tột của thiện xảo.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: "Thật vậy, này Cư sĩ! Nếu đã đến thì chẳng đến nữa, nếu đã đi lại chẳng đi nữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói "thật vậy" tức là lý đã nói ở trước đúng như thế. Nếu, nghĩa là giả sử có đến thì chẳng thể tự nêu là chẳng có đến, đã đến thì chẳng đến nữa, tướng đến mà chẳng đến, rõ ràng hiển bày. Thể hội được thì biết chẳng có công, vậy ngã nào có thiện xảo gì?

Chánh văn: Vì sao? Đến, chẳng từ đâu; đi, chẳng có nơi đến.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đến vốn tại nơi chẳng đến, đến còn chẳng từ nơi đâu mà đến, huống gì đến lại có thể đến nữa sao? Đi đối chiếu với đến thì hai nghĩa tự rõ ràng nhau.

Chánh văn: Cái có thể thấy, lại chẳng thể thấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức nói không có tướng đến đi để thành tựu chỗ thiện xảo của ngài Tịnh Danh. Phàm đến, đi, thấy nhau đều là nhân duyên giả gọi. Chưa đến cũng chẳng có đến, đã đến lại chẳng đến nữa. Xa lìa đến, đã đến và chưa đến, thì có gì gọi là đến đi? Thấy cũng như thế. Trong đó uyển chuyển luận biện về các luận sẽ tìm cầu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã luận đủ ở văn trước, cho nên nay chẳng bàn rộng thêm.

Chánh văn: Hãy gác việc này lại. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy thích luận đàm, nhưng sứ mạng chưa làm, nên tạm dừng việc luận đàm ấy để thăm bệnh.

Chánh văn: Cư sĩ! Bệnh này có thể nhẫn chịu được chăng?

Ngài La-thập nói:

- Nếu bệnh nặng, khó nhẫn chịu thì sẽ bỏ đạo nghiệp. Hỏi bệnh nặng nhẹ, có thể nhẫn chịu được chăng?

Chánh văn: Chữa trị thuyên giảm chăng? Chẳng tăng thêm chứ?

Đức Thế Tôn ân cần thăm hỏi không xiết. Bệnh do đâu mà sinh?

Ngài La-thập nói:

- Kinh sách của ngoại đạo chỉ biết bệnh của ba đại, chẳng biết đại địa. Phật pháp nói bệnh của bốn đại. Bệnh sinh là do bốn đại tăng hoặc giảm. Bốn đại tăng giảm ắt tự có nhân mà sinh, nên nay hỏi nhân khởi bệnh.

Chánh văn: Bệnh phát đã bao lâu, khi nào bệnh lành? Ngài Tăng Triệu nói:

- Sứ mạng đã xong, nên lại hỏi đến nguyên do sinh bệnh. Bệnh này do đâu sinh, đã bao lâu rồi, làm sao để lành bệnh?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi nguyên do của thật bệnh để tìm ý của giả bệnh. Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Từ si mà có ái nên bệnh tôi sinh."

Ngài Đạo Dung nói: Chúng sinh có si nên sinh ái, có ái nên thọ thân, có thân ắt có bệnh. Vì họ có bệnh nên bệnh tôi sinh. Nói chúng sinh có bệnh thì tôi có bệnh là nói vì chúng sinh cho nên sinh bệnh. Ông Duy-ma vì chúng sinh đã từ lâu xa, nên biết chẳng phải là mới đây. Sau nói bệnh chúng sinh diệt thì bệnh tôi cũng lành, là nói ông ấy khởi bệnh chẳng đồng, hạn cuộc nơi chúng sinh. Hàng Bồ-tát mới học chưa thể ở lâu nơi sinh tử vì tất cả mà khởi bệnh, cho nên nói bậc Đại sĩ có tâm rộng lớn, trụ nơi bệnh thật. Suy mé trước lấy phát tâm làm khởi đầu, tìm mé sau cùng chúng sinh đồng diệt. Hàng mới học nghe thế thì tâm hạn hẹp liền tự phát rộng lớn. Hai câu nói về bệnh sinh diệt, tuy là nói về bệnh, nhưng ý là muốn nói về Bi. Cho nên chỉ luận về bệnh khởi diệt lâu mau. Lâu mau đã rõ thì đại Bi tự hiển. Vì thế trước trả lời về sinh diệt, sau mới đáp về đại Bi khởi. Tập này lấy việc nói về Tông làm gốc, mà trước nói đại Bi có hai môn vào Phật pháp là đại Bi và trí tuệ, thứ bậc từ cạn đến sâu, hoằng truyền thì có thứ tự, cho nên trước nói đại Bi sau nói về thật tướng.

Ngài La-thập soạn Không Giải có ghi: "Si không có mé trước, không có mé trước thì không có mé sau và khoảng giữa." Bệnh cũng như thế, không có lâu mau, trong đó chẳng giống như có nghĩa không. Cho nên ghi riêng để thông với nghĩa trên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đáp về lâu mau; Bồ-tát có bệnh gì, do thương xót người mà sinh bệnh, bệnh của chúng sinh do si ái là gốc, bệnh của Bồ-tát thì đại Bi là nguồn. Phàm cao là do thấp mà khởi, bệnh nhân nơi Bi mà sinh. Vì thế bệnh Bi khởi từ si ái, mà si ái lại không có đầu mối, chẳng rõ nguồn gốc của nó. Bệnh của tôi lâu mau, đồng nguồn với điều ấy. Đây là nói phát khởi của bệnh Bi, chẳng cần phải căn cứ theo tự kỷ mà luận.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm ý hiện bệnh là muốn dứt trừ si ái từ vô thỉ chúng sinh, diệt hết nguồn vô cùng của nó. Ta nay tuy có sinh nhưng thật chẳng phải là ta nay có sinh. Ý tại nơi nghĩa khi xưa của chúng sinh, tức là bệnh từ xưa của chúng sinh. Thế thì bệnh khởi khi có si ái, chẳng phải đến hôm nay. Chẳng thể nói tất cả, vì nay đáp bệnh lâu mau, thì nghĩa chẳng cùng khắp. Nhưng nói chung thì si ái cùng khắp, cũng trong nghĩa này. Vả lại, chẳng nói chúng sinh, là vì Bồ-tát không có si ái, rõ ràng có chỗ lệ thuộc.

Chánh văn: Vì tất cả chúng sinh bệnh, nên tôi có bệnh, nếu tất cả chúng sinh hết bệnh, thì bệnh của tôi cũng lành.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trả lời về bệnh lành. Bệnh của Cư sĩ do nơi chúng sinh bệnh mà có; bệnh của chúng sinh hết, thì ta nào có bệnh gì? Nhưng do chúng sinh vô biên, si ái vô bờ, thì đại Bi cũng phải có hạn lượng đồng như thế. Cho nên, trước nói đại Bi vô cùng, lấy si ái làm bờ mé, sau nói đại Bi vô biên cùng diệt bệnh với chúng sinh. Đây là nhân nơi chỗ đến của Bi mà nói về Bi diệt si ái chẳng gần.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Si ái là nguồn nhiễm bệnh của chúng sinh, nguồn đã tận thì bệnh tự trừ. Bệnh của Bồ-tát vốn do nơi đây, vậy bệnh của chúng sinh hết thì bệnh Bồ-tát chẳng trừ ư? Vả lại, bệnh của Bồ-tát là lấy sự cứu vớt tất cả làm chủ; nếu chúng sinh, có ai không được lợi ích thì đó là do chẳng thuận theo, chứ giáo hóa chẳng thiên lệch. Thế thì tuy nói một người hết bệnh thì Bồ-tát hết bệnh, nhưng đó chính là nói nếu tất cả chúng sinh không sinh bệnh sau đo Bồ-tát mới lành bệnh. Từ chúng sinh mà nói thì Bồ-tát cũng có bệnh. Chẳng thể chẳng cho là khác.

Chánh văn: Vì sao? Bồ-tát vì chúng sinh mà vào sinh tử, có sinh tử thì có bệnh, nếu chúng sinh lìa bệnh thì Bồ-tát không bệnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vô sinh, hà huống lại có hình, đã không hình thì bệnh do đâu mà khởi. Nhưng chúng sinh đã thọ sinh chẳng thể không có hình, đã có hình thì chẳng thể không bệnh, nên tùy bệnh chúng sinh lâu mau mà Bồ-tát cũng hiện bệnh đồng như thế. Nếu chúng sinh lìa bệnh, thì Bồ-tát chẳng có bệnh.

Chánh văn: Ví như ông Trưởng giả chỉ có một người con, người con ấy bị bệnh thì cha mẹ cũng bệnh theo. Nếu người con lành bệnh, bệnh của cha mẹ cũng lành. Bồ-tát cũng như thế, thương chúng sinh như con một, nếu chúng sinh bệnh thì Bồ-tát bệnh, chúng sinh lành bệnh, Bồ-tát cũng hết bệnh. Vậy lại hỏi bệnh này do đâu mà sinh?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi thì hỏi trước mà nay lại đáp sau, cho nên nói như thế. Chẳng trả lời trước là vì nhân của bệnh cần phải dùng sinh diệt để hiển thị.

Chánh văn: Bồ-tát bị bệnh là do đại Bi mà khởi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bệnh của Bồ-tát lấy đại Bi làm gốc, nhân đó mà phát khởi. Đây là trả lời câu hỏi đầu tiên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu chẳng có đại Bi thì bệnh chẳng thể tự khởi.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi: "Cư sĩ! Ngôi trượng thất này vì sao lại trống không, không có thị giả? Ngài Tăng Triệu nói:

- Việc hưng khởi làm thất trống không là tại nơi đây. Hỏi trượng thất vì sao trống không, lại chẳng có thị giả.

Không có thị giả thì sau mới đáp riêng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi thăm về bệnh trạng đã xong, kế đến hỏi về ý trượng thất trống. Phàm nơi người cư trụ ắt phải có những vật dụng cần thiết để sinh hoạt, mà nay lại trống không, là lý do gì? Vả lại, người bệnh ắt phải có người giúp đỡ, mà nay chẳng biết chỗ nào, ở đâu? Đồng hỏi hai việc mà dùng không để phân biệt với thị giả.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Quốc độ của chư

Phật cũng đều không." Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo lý bình đẳng chẳng có hai đường, cõi nước trong mười phương không đâu chẳng không, há chỉ hỏi một trượng thất này không ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã có mà hôm nay trừ bỏ, rõ ràng là chẳng thật, nói về cõi nước chư Phật, tuy thanh tịnh an lạc mà cũng là không vậy. Cõi nước của chư Phật tức là cõi nước có Phật. Nêu lời này, là vì cho dù Phật được tự tại mà còn chẳng thể làm cho cõi nước của mình thành có, hà huống là các việc khác? Đó cũng là điều mà tâm người xem trọng, nên nêu lên làm đầu mối đạt ngộ. Chánh văn: Lại hỏi: "Lấy gì làm không?" Ngài La-thập nói:

- Trong thất lấy không vật làm không, cõi nước thì lấy lý gì làm không?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trượng thất thì lấy không vật làm không, vậy cõi Phật lấy gì làm không? Đó là sắp luận đến rốt ráo không. Ngài Đạo Sinh nói:

- Còn tồn tại cõi nước thì đâu được có, chẳng ngộ thì đồng với không ở đây. Nhưng trụ ở cõi nước thì nói là đồng, lấy gì mà đạt được không đây? Chánh văn: Đáp: "Lấy không làm không." Ngài La-thập nói:

- Không là vì không có vật. Không là tánh của cõi nước, tức là tất cánh không, cho nên không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có là do tâm sinh, tâm nhân nơi có mà khởi; từ đó có thị phi, sinh vọng tưởng, có không phân biệt, tranh nhau luận biện. Nếu ý được rỗng lặng như hư không, tâm thầm hợp với chân cảnh, vi diệu tồn tại trong hoàn vũ này, có không nhất quán, thì tuy trí trùm khắp vạn vật mà chưa từng là có, thầm soi chẳng chiếu, mà chưa từng không. Cho nên có thể bằng trời đất là một chỗ về, mà chẳng trái chân thật, gương sáng và ảnh tượng đã huyền thông mà ta và vật đều là một. Ta vật là một, cho nên trí không có công chiếu soi, nên chẳng trái với chân thật. Vì thế vật vật tự đồng, kinh ghi: "Thánh trí vô tri vì lấy hư không làm tướng, các pháp vô vi, đối với hư không đồng lượng." Cho nên lấy trí không mà không nơi hữu, thế thì tức hữu mà tự không, há nhờ vào trừ bỏ tất cả, sau đó mới không ư? Trên nói không là trí không, dưới nói không là pháp không. Nói thẳng vào pháp không; không lấy gì để thủ chứng định, cho nên bên trong dẫn chân trí, bên ngoài chứng pháp không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không nói trên là không của không tuệ, không nêu dưới là lý không nói ở trước. Tức là nói cần phải có không tuệ sau đó mới được không. Nếu chẳng có không tuệ, thì rốt cuộc chẳng được không, vậy đâu có thể cho rằng ta nói là chẳng không?

Chánh văn: Hỏi: Đã không, cần gì phải không?

Ngài La-thập nói:

- Nếu pháp tánh tự không, thì lẽ ra thẳng đến mà tự không, các Hiền Thánh đâu cần dùng không tuệ để không các pháp?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không nói trước là pháp không, không nói sau là trí không. Các pháp tánh tự không, thì đâu cần nhờ vào trí không rồi sau đó mới không?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu lý thật là không, đâu cần dùng không tuệ sau đó mới không? Mà tự có không tuệ giải thoát. Không này tức là chỗ làm của tuệ, chẳng phải là lý tự như thế, vậy đâu có thể dùng không tuệ rồi sau đó mới không mà liền nói theo lý là không?

Chánh văn: Đáp: "Vì không phân biệt không cho nên không." Ngài La-thập nói:

- Không ghi trên là không tuệ, không nói ở dưới là pháp không. Tuy pháp tánh tự không chẳng đợi không tuệ, nhưng nếu không có không tuệ, thì đối với ta là có. Dùng vô phân biệt không tuệ này mà được không kia, đối với ta là không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí sinh khởi nơi phân biệt, nhưng các pháp không tướng, nên trí không phân biệt, trí không phân biệt tức trí không, vậy các pháp vô tướng tức pháp không. Vì trí không phân biệt các pháp tức biết trí pháp không, há có trí không nào khác, mà nhờ vào đó để không các pháp ư? Thế thì khi trí chẳng phân biệt pháp, lúc ấy trí pháp đều đồng một không, chẳng có không khác. Cho nên nói: "Vì không phân biệt là trí không, nên trí biết pháp không", chứ chẳng có trí không nào khác để không các pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước nói không tuệ, chẳng phải cho rằng phân biệt để tạo tuệ không, mà đó là tùy lý chứng ngộ. Nếu tùy lý để ngộ mà đạt được tuệ này, sau đó mới không thì theo lý chẳng đúng sao?

Chánh văn: Lại hỏi: Không có thể phân biệt không? Ngài La-thập nói:

- Hỏi về tuệ giải không. Trước tuy đã nói về không tuệ, chẳng thấy "không" có sự phân biệt, chưa rõ được tuệ thể không không phân biệt, nên hỏi không tuệ này có thể phân biệt chăng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên đã nói vì vô phân biệt là không tuệ, nên biết pháp không, lại không có không sai biệt. Tuy nói không sai khác mà tướng sai khác đã hình thành, tướng sai khác đã hình thành thì phân biệt lại sinh. Nếu biết trí và pháp chẳng khác không, thì do đâu mà nói: "Vì không phân biệt là trí không, nên biết pháp không?" Cho nên mới hỏi trí không và pháp không có thể phân biệt chăng? Vì trí, pháp đều không, nên chỉ nói một không là đầy đủ rồi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói tức không thì không tựa như có tướng, có tướng thì liền phân biệt với các việc khác. Không ví như có phân biệt mà tuệ chẳng phân biệt, thì không và tuệ khác nhau. Không đã khác tuệ, thì chẳng từ tuệ mà có vậy.

Chánh văn: Đáp: Phân biệt cũng không.

Ngài La-thập nói:

- Tuệ khác không, thì thành phân biệt, tuy có phân biệt nhưng tánh của cả hai là không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước là nói phân biệt nơi không phân biệt vậy. Nếu hay vô tâm nơi phân biệt, mà phân biệt nơi không phân biệt thì suốt ngày phân biệt mà chưa từng phân biệt. Cho nên nói phân biệt cũng không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói không tức tướng không cũng không, nếu tướng không chẳng không, không trở thành có. Không đã là có, thì có há không được chăng? Thế thì đều có mà chẳng không. Cho nên phân biệt cũng không, rồi sau đó mới không.

Chánh văn: Lại hỏi: Không nên tìm cầu nơi đâu?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nhờ vào chánh trí để nói về không, sợ người mê sẽ cho rằng nghĩa không chỉ tại nơi chánh mà chẳng có nơi tà, nên mới hỏi nghĩa không tại nơi đâu, để nói tà chánh chẳng khác.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lời thật đã hết rồi, nhưng người mê còn chưa hoàn toàn tin hiểu, nên mới xin nghiệm lại lời ấy để đạt ngộ. Trước suy theo lý thì thật là không rốt ráo rồi, vì phân biệt cũng không; không thì vô tướng. Nếu quả như lấy không vô tướng làm thật, thì phải tìm cầu nơi đâu mới được không ấy?

Chánh văn: Đáp: Nên tìm cầu nơi sáu mươi hai kiến. Ngài La-thập nói:

- Trên đã nói rốt ráo không, thì chẳng pháp nào chẳng không. Nhưng muốn lập tâm cầu ngộ, cần yếu phải có phương tiện, cầu phương tiện, cần yếu phải có chỗ nghi hoặc, hoặc sinh là sinh nơi cái thấy sai biệt, cái thấy cùng tột sai biệt, không đâu hơn là tà chánh, cùng tột của tà chánh không gì hơn nơi đây (sáu mươi hai kiến). Cho nên mới hỏi tìm cầu nơi đâu, mà đáp bằng hai pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tà nhân nơi chánh mà sinh, chánh nhân nơi tà mà khởi. Nếu tìm tánh, thì tánh không hai. Cho nên muốn tìm cái không của chánh trí, nên tìm nơi sáu mươi hai kiến.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu lấy tướng làm tâm, rốt cuộc chẳng ra khỏi sáu mươi hai kiến, kiến là tà, trong đó chẳng có không, không chẳng phải như thế ư?

Chánh văn: Hỏi: Sáu mươi hai kiến nên cầu ở đâu?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu sáu mươi hai kiến tồn tại, đều là tà, thì lại cầu nơi đâu mà được nghĩa không kia?

Chánh văn: Đáp: Nên cầu trong pháp giải thoát của chư Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Xả tà kiến gọi là giải thoát, trái với giải thoát gọi là tà kiến. Thế thì tà và giải trái nhau, cái gì gọi là nguồn gốc? Cái mà làm nguồn gốc của hai pháp này là một mà thôi. Cho nên, tìm cầu tà kiến, nên tìm nơi giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Giải thoát tức thoát khỏi các kiết trói buộc, nếu tồn tại đều chẳng tà, thì chẳng thể dẹp bỏ, mà trong giải thoát không có điều đó. Cho nên biết các kiến, theo lý ắt phải như thế. Nói chư Phật tức nói đồng vi diệu.

Chánh văn: Hỏi: Giải thoát của chư Phật nên cầu nơi đâu? Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu giải thoát của chư Phật là giải thoát các kiết hoặc trói buộc, thì lại nên tìm cầu nơi đâu mà được?

Chánh văn: Đáp: Nên cầu nơi tất cả tâm hành của chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm hành của chúng sinh tức là hạnh trói buộc; hạnh trói buộc tức là nguyên nhân sinh giải thoát. Hơn nữa, tà chánh đồng nguồn, trói, mở chỉ một môn; tìm về chân tánh của nó, thì chưa từng có sai biệt; cho nên cầu giải thoát của chư Phật, nên cầu nơi tâm hành của chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm hành tức chẳng lấy lý làm tâm, tâm chẳng theo lý thì mãi bị trói buộc trong sinh tử, chẳng khi nào ra khỏi. Nếu trong tâm hành của tất cả chúng sinh đều không có giải thoát, thì biết giải thoát tức giải thoát được. Tâm hành cũng gọi là sáu mươi hai kiến vậy, chỉ vì nghĩa chẳng đồng cho nên lấy làm đây kia. Nếu không luận về giải thoát của chư Phật là xa lìa kiết phược, thì chưa đủ để nghiệm chứng sáu mươi kiến là tà. Nếu không luận về sáu mươi hai kiến là tà, thì cũng chưa đủ nghiệm chứng không là thật. Vì thế, kế đó xin hỏi để rõ biết.

Bản khác ghi: Sáu mươi hai kiến, giải thoát của chư Phật và ý hành của chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Nói hai kiến có thì gốc tà cực sâu nặng, nói giải thoát có thì nguồn chánh thật diệu, ý hành của chúng sinh ở giữa hai kiến chấp này. Ba tụ pháp này là nơi chúng sinh chấp trước, nhất định thấy có sai biệt. Phàm chấp tướng khởi hoặc do đây mà sinh. Phản mê cầu tông ắt cũng là từ đây. Ba tánh đồng một mối, nên xoay vần quan hệ với nhau.

Chánh văn: Nhân giả lại hỏi vì sao không có thị giả? Thì tất cả chúng ma và các ngoại đạo đều là thị giả của tôi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thị giả theo nghĩa thế gian thì chỉ lo cung kính phụng mạng chủ nhân, chu cấp những món cần dùng. Còn thị giả của Bồ-tát thì ngã mạn, trái mệnh chủ nhân, nghịch với chánh đạo, đồng với điều đại nghịch kia, hòa để thầm hợp mà nuôi lớn pháp thân, đó là thị giả. Vì thế các ma và ngoại đạo là các thị giả trước tiên.

Chánh văn: Vì sao? Vì chúng ma thích sinh tử, còn Bồ-tát ở nơi sinh tử mà chẳng bỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ma thích sinh tử thì trụ nơi ấy, nếu chẳng theo việc giáo hóa thì vĩnh viễn trái với chúng, há có thể khiến ngộ được lý hữu tông ư?

Chánh văn: Ngoại đạo thích các kiến, còn Bồ-tát thì đối với các kiến chẳng động.

Ngài La-thập nói:

- Nói chẳng thấy các pháp có tướng sai biệt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma thích năm dục chẳng cầu pháp xuất thế, nên bị trói buộc nơi sinh tử. Hàng ngoại đạo tuy có cầu xuất thế, nhưng chấp trước đạo của mình, bị trói buộc nơi tà kiến. Bậc Đại sĩ quán sinh tử đồng Niết-bàn, nên chẳng xả bỏ; quán tà kiến đồng chánh kiến nên chẳng động. Vì chẳng động, chẳng xả bỏ, nên có thể lấy đó làm thị giả.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cũng chẳng bỏ các kiến. Ma và ngoại đạo đều là những kẻ nghịch lý cùng tột, nhưng đã đạt được tông chỉ rồi, thì ngoài điều này ra đâu còn gì phải nói?

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: "Cư sĩ! Bệnh của ngài có tướng trạng thế nào?" Ngài La-thập nói:

- Ngay nơi sự mà quán xét, thì như không bệnh mà nói có. Vả lại, chưa thấy được tướng bệnh, nên mới tìm tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã biết nguyên nhân khởi bệnh lại hỏi tướng bệnh sinh. Bốn trăm lẻ bốn bệnh đều có tướng trạng khác nhau, mà bệnh đại Bi lấy gì làm tướng? Đây là muốn nói đến vô tướng đại Bi. Tùy thuận chúng sinh mà khởi bệnh, thì tuy suốt ngày hiện bệnh mà suốt ngày vô tướng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi về tướng trạng của bệnh lẽ ra phải hỏi trước khi hỏi về không, nhưng hỏi trước thì đáp ắt rõ ràng, nhưng phương hại đến ý hỏi về không; Vả lại, nếu nghĩa không đã rõ thì tướng trạng của bệnh cũng hiển bày.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Bệnh của tôi không có hình để có thể thấy." Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm đại Bi không duyên mà không đâu chẳng duyên, không đâu chẳng duyên, nên ứng chúng sinh mà khởi bệnh, thì Ta chưa từng có bệnh, vì chưa từng có bệnh nên đồng với tướng của các bệnh mà chẳng trái với đạo vô tướng. Vì sao? Vì là đại Bi vô duyên, vô duyên thì vô tướng, từ đây mà sinh bệnh thì bệnh cũng vô tướng. Cho nên nói: "Bệnh của tôi không có hình để thấy."

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bệnh đã hình thành, theo lý ắt là phải thấy, nhưng chẳng có thật bệnh, nên nói như thế.

Chánh văn: Hỏi: Bệnh này hợp với thân hay hợp với tâm?

Ngài La-thập nói:

- Không hình tướng để thấy tức là nói về rốt ráo không. Theo lời nói tựa hồ như có bệnh mà chẳng thấy, nên sinh câu hỏi này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người mê hoặc nghe nói bệnh chẳng thể thấy thì cho rằng là tâm bệnh vô hình nên chẳng thể thấy, hoặc định là thân bệnh quá nhỏ nhiệm, nên chẳng thấy, vì thế mà phải lập câu hỏi này. Tức bệnh nơi thân tâm, hợp với chỗ nào mà nói là chẳng thể thấy?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm thân là gốc thọ nhận các bệnh, tâm là chủ để nhận biết đau đớn. Vậy bệnh hợp với tâm là vô hình vậy; nên nhờ vào ý này để hỏi, hầu dẫn đến việc nói bệnh không có chỗ gá nương, sau đó mới thật là vô hình tướng.

Chánh văn: Chẳng hợp với thân, vì thân tướng vốn xa lìa. Ngài La-thập nói:

- Không thân nên không bệnh.

Chánh văn: Cũng chẳng hợp với tâm, vì tâm như huyễn

Ngài La-thập nói:

- Tâm không chân thật nên không có bệnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân tướng xa lìa thì chẳng phải thân, tâm như huyễn thì chẳng phải tâm. Thân tâm đã không, bệnh hợp với cái gì? Không hợp nên không bệnh, không bệnh nên chẳng thấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thân vốn là biểu hiện bên ngoài nên nói là lìa tướng, còn tâm thì xao động vô cùng, nên nói như huyễn. Thân tâm đã không, thì lấy gì mà hợp?

Chánh văn: Lại hỏi: Bốn đại đất, nước, lửa, gió, đại nào có bệnh.

Ngài La-thập nói:

- Đây là nói về nguyên do khởi bệnh. Nguyên do khởi bệnh chẳng phải từ một việc, ắt phải do bốn đại giả hợp mà sinh. Giả hợp sinh thì bệnh không tự tánh; bệnh đã không tự tánh thì đồng như trên đã nói là không thể thấy. Ở đây tuy nói về nguyên do khởi bệnh, thật ra là nói về sở dĩ không bệnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân sinh là do bốn đại hợp thành. Trên nói chung về thân, nay suy diễn về bốn đại để tìm kỹ về gốc bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thân tâm vốn do bốn đại hợp thành. Thân tâm có thể không, nhưng bốn đại là có, bốn đại mỗi mỗi đều khởi một trăm lẻ một bệnh, nhưng có thể cho đó nhất định là vô hình. Lại nhờ vào đây mà hỏi, để nói rằng nhân nơi bốn đại có bệnh mà không có hình tướng.

Chánh văn: Đáp: Bệnh này chẳng phải là địa đại cũng chăng lìa địa đại, các đại hỏa thủy, phong cũng như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bản tánh của bốn đại tự không có bệnh. Nhưng do các duyên hội hợp, bốn đại tăng giảm, khắc chế nhau mà sinh bệnh; vậy muốn cho là có bệnh thì bản tánh tự không bệnh, muốn cho là không bệnh thì tướng giả là có. Nên bệnh chẳng phải do địa đại cũng chẳng lìa địa đại. Các đại khác cũng thế.

Chánh văn: Nhưng bệnh của chúng sinh lại từ bốn đại sinh khởi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thật nhân nơi đó vậy.

Chánh văn: Vì họ có bệnh nên tôi bệnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn đại vốn không, bệnh cũng chẳng có, nhưng bệnh hư giả của chúng sinh từ bốn đại khởi. Nên ta cùng với bệnh hư giả kia để ứng hợp với bệnh của chúng sinh. Nếu suy tìm trở lại nguồn gốc thì ta người không có thật bệnh. Vậy muốn thấy hình tướng ấy, phải làm thế nào?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cũng nhân nơi đó mà nói chẳng phải là bệnh thật.

Chánh văn: [Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy-ma-cật rằng: "Bồ-tát phải an ủi Bồ-tát có bệnh như thế nào?"] Ngài Tăng Triệu nói:

- Việc an ủi người bệnh lẽ ra là việc của ngài Vănthù, ngược lại hỏi ngài Tịnh Danh, đó là vì những người đồng tập hội chú tâm nơi đây lại thủ chứng nơi bệnh, nên cần xét kỹ để biết an ủi. Đây là nói đạo Đại thừa vô chứng để an ủi các Bồ-tát mới tập hiện bệnh, vì thế mà có câu hỏi này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm an ủi người có bệnh là việc làm của người không bệnh. Ông Duy-ma-cật đã có thể không bệnh, nên hỏi ông. Tuy là Bồ-tát nhưng chưa tránh khỏi bệnh, chẳng thể không bị bệnh làm khổ, từ đó mà tiếc sống sợ chết; vì như có tâm tiếc sinh sợ chết thì cũng chỉ tăng thêm sinh tử mà thôi! Vì thế, là thân đồng đạo với nhau thì nên an ủi. An ủi họ thì mới trừ được tâm này, tâm này đã trừ, thì sinh tử cơ hồ dứt vậy.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Nên thuyết thân vô thường, chẳng nên thuyết nhàm chán thân." Ngài La-thập nói:

- Có ba pháp, gồm trong pháp thế gian và pháp xuất thế gian, đó là:

1. Nếu quán vô thường mà nhàm chán thân này là pháp Thanh văn.

2. Chấp trước thân này, chẳng quán vô thường là pháp phàm phu.

3. Quán vô thường mà chẳng nhàm chán thân là pháp Bồ-tát. Nay vì người bệnh mà thuyết pháp Bồ-tát. Lấy pháp này mà sống với bệnh thì tâm chẳng loạn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp an ủi là vì người bệnh, nói thân vô thường để trừ bỏ tâm tham chấp cho họ; chẳng nên nói nhàm chán xa lìa thân này để làm cho họ thủ chứng. Chẳng quán vô thường, chẳng có tâm nhàm chán thì đó là phàm phu. Quán vô thường mà sinh tâm nhàm chán xa lìa là Nhị thừa. Quán vô thường mà chẳng có tâm nhàm chán xa lìa là bậc Bồ-tát. Vì thế nên an ủi người mới học khiến họ an tâm chữa bệnh, để cứu độ quần sinh, mà chẳng chán sinh tử, chẳng thích Niết-bàn, đây là pháp an ủi của bậc Đại sĩ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm người luyến tiếc sự sống thì tâm yêu mến thân, tâm đã yêu mến thân thì không nhàm chán mình, nếu nói vô thường, há có thể ái luyến được chăng? Nếu từ đó mà ngộ được thì chẳng mong trừ dẹp các hoặc mà hoặc tự tiêu. Hoặc tiêu thì chẳng thọ thân. Tuy hoặc đã tiêu trừ thân chẳng có, nhưng rốt cuộc chẳng chấp vào lý; đối với lý chẳng chấp, thì hay cùng tận được lý, cùng được lý tận được tánh, thì thế lực quy tụ, cứu độ được tất cả. Đến như khi còn hoặc, chắc chắn sợ hoặc mà cầu ngộ, tâm cầu ngộ ắt là quán vô thường nhàm chán thân này. Thế thì tâm nhàm chán thân, phát xuất từ hoặc, chẳng phải tâm trong lý.

Chánh văn: Thuyết thân có khổ, chẳng thuyết ưa thích Niết-bàn. Ngài Đạo Sinh nói:

- Theo lý nếu là vô thường, thì mất điều ưa thích sẽ dẫn sinh phiền não. Nếu luận kỹ thì tám khổ tụ tập, chẳng có gì đáng luyến tiếc. Trước thì nói thân có hoặc, dùng vô thường để nhàm chán xa lìa, ở đây cũng nói khổ lạc và Niết-bàn lạc, theo lý mà luận, há được như thế ư?

Chánh văn: Thuyết thân vô ngã mà dạy dỗ dẫn dắt chúng sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm yêu mến thân là do chấp ngã, nếu đã là vô thường khổ, há có một chủ tể của nó chăng? Đã không có một chủ tể trong đó thì sao lại yêu mến? Đây là cũng y cứ vào người sợ hoặc khổ dùng độc thiện chỉ dạy mà thôi, đã ngộ được tâm, thì gọi đó là dẫn dắt chỉ dạy.

Chánh văn: Nói thân không tịch. Ngài La-thập nói:

- Tùy căn cơ lợi độn mà thuyết có rộng hẹp. Ví như cây lớn chẳng thể một búa mà ngã, gốc phiền não đã sâu, chẳng thể một pháp mà trừ được. Hoặc có người tuy nghe vô thường nhưng cho chẳng khổ, thì phải nói khổ; đã nghe khổ thì liền cho rằng có một chủ nhân thọ khổ vui, nên phải nói vô ngã và không.

Chánh văn: Chẳng nói rốt ráo không tịch.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy thấy thân khổ, mà lại chẳng thích Niết-bàn vui thú. Tuy biết vô ngã mà chẳng cho là chúng sinh không, cho nên chẳng thiếu sự chỉ dạy dẫn dắt. Tuy biết thân không mà chẳng chấp thủ đạo Niết-bàn rốt ráo không tịch, nên hay an trụ nơi sinh tử, hiện đồng bệnh với chúng sinh. Vì thế người an ủi nên nói pháp mà họ nên làm, việc chẳng nên làm thì chẳng nên nói.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã không có một năng lực làm chủ tể thì ngã và thân nào có? Nếu chẳng có thân thì sự luyến mến từ đâu sinh? Nói không tịch là để hiển bày nghĩa không thật, chứ chẳng phải cho là không. Nhưng bốn câu này đều là tùy nghĩa mà sắp xếp thứ tự, theo lý thì gồm chung tất cả.

Chánh văn: Nói chúng sinh hối tội trước, chẳng nói nhập vào quá khứ.

Ngài La-thập nói:

- Người lợi căn nghe bốn câu trên thì có thể sống nơi bệnh mà chẳng loạn. Từ đây trở xuống là vì hàng độn căn. Nói những lời gần gũi thân thiết để dụ dẫn tâm họ.

Ngày hôm nay bệnh ắt là do quá khứ tạo tội. Nên chỉ dạy sám hối tội từ trước đã gây. Đã nói có tội trước, thì tựa như tội có tánh thường, rơi vào quá khứ, nên nói chẳng rơi vào quá khứ, diệt trừ ý tưởng về thường tánh kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ dạy Bồ-tát có bệnh sám hối tội đã gây tạo từ trước, tội đã gây tạo tuy trói buộc người, nhưng chẳng nói tội có tánh thường, từ vị lai về hiện tại, từ hiện tại rơi vào quá khứ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm tham tiếc sự sống chán sợ sự chết là sợ có tội. Nếu có thể cải hối thì ra khỏi cảnh này thì đâu có gì phải sợ? Vì thế dạy sám hối tội xưa để diệt trừ sự sợ hãi ấy. Đây là căn cứ theo duyên, chẳng nói thật có.

Chánh văn: Từ bệnh mình mà thương xót bệnh người. Ngài La-thập nói:

- Khiến họ suy từ mình mà xót thương người. Nên nghĩ rằng: "Ta hôm nay mới có một chút bệnh mà đau khổ như thế, huống gì chúng sinh trong các đường ác chịu biết bao nhiêu thống khổ." Ngài Tăng Triệu nói:

- Khuyên người bệnh nên suy bệnh của mình mà xót thương bệnh người.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ta có trí tuệ mà còn có bệnh khổ, huống gì kẻ không thông đạt? Suy mình để xót cho người, là tâm cứu giúp tất cả, há để cho mình sợ chết ư?

Chánh văn: Nên biết sự khổ não ở vô số kiếp về trước.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ vô số kiếp đến nay trải qua vô lượng đau khổ, làm sao chỉ một sớm mà bỗng tiêu tan?

Chánh văn: Nên nghĩ đến sự lợi ích cho tất cả chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Từ vô số kiếp đến nay chịu vô lượng thống khổ, chưa từng vì đạo, vì đạo mà chịu khổ ắt đạt được lợi ích lớn. Đã lấy đây tự nhủ mình, lại nên nghĩ đến việc làm lợi ích cho chúng sinh, khiến chúng sinh cùng đạt được lợi ích này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nên nghĩ đến vô lượng khổ đã thọ ở quá khứ mà nay chỉ một chốc lát thì đâu đủ gây ưu phiền, nên gắng sức cứu giúp người thoát khổ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nghĩ muốn làm lợi ích tất cả chúng sinh, nên mới vào sinh tử, chẳng được sợ hãi.

Chánh văn: Nhớ những phước đức đã làm. Ngài Lathập nói:

- Ở Ấn Độ, phàm những việc phước đức đã làm từ khi sinh đến lúc chết đều ghi chép rõ, lúc sắp chết người thân đọc lại, khiến nhờ phước này mà tâm chẳng lo buồn sợ hãi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sợ Bồ-tát mới học bị bệnh tật làm loạn tâm, nên khuyên nhớ lại những phước đã tạo để tâm thần nhẹ nhàng an vui.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người có phước ắt chỗ sinh về phải thù thắng, có gì phải lo sợ?

Chánh văn: Nghĩ đến tịnh mạng.

Ngài La-thập nói:

- Tịnh mạng tức chánh mạng. Tự nghĩ rằng từ lúc sinh đến nay thường hành chánh mạng, ắt sẽ được đường lành, có gì ta phải lo sợ?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chớ vì cứu thân bệnh mà khởi thực hành tà mạng, tà mạng tức là mạng xiểm khúc, cầu lợi lạc để giữ sinh mạng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khi hành thiện vốn là muốn đắc đạo độ thế gian, chưa từng cầu y phục, uống, ăn, lợi lạc, thì còn chẳng sợ bị sinh tử kéo dắt, hà huống gì tội khổ ư?

Chánh văn: Chớ sinh lo buồn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lo buồn cũng vô ích, chỉ đưa đến khổ não mà thôi.

Chánh văn: Thường khởi tinh tấn.

Ngài La-thập nói:

- Tuy thân mạng gần chết nhưng ý chưa từng xả bỏ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Do bệnh tật mà sinh biếng trễ, biếng trễ thì càng sinh lo buồn, nên siêng năng tranh đua cùng thọ mạng, luôn sợ rằng chẳng đến bờ kia, vậy há lại khởi phiền não ư?

Chánh văn: Nên làm Đại y vương chữa trị các bệnh của chúng sinh

Ngài La-thập nói:

- Khiến họ nhân nơi bệnh mà phát thệ nguyện lớn như thế, đối với các bệnh không thể cứu chữa, nên làm bậc pháp y để chữa trị.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nên làm bậc Đại pháp y vương chữa trị bệnh tật cho chúng sinh, còn bệnh của Ta đâu cần phải lo nghĩ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chỉ nên siêng năng chữa trị để cứu giúp tất cả, chớ khởi tâm lo buồn, chỉ thêm khổ, vô ích mà thôi.

Chánh văn: Bồ-tát cần phải an ủi Bồ-tát có bệnh như thế, để họ hoan hỷ. Ngài Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: "Cư sĩ!

Bồ-tát có bệnh làm thế nào để điều phục tâm mình?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là hỏi về hành nghi an ủi, ở đây lại hỏi về phép tắc điều tâm. Ngoài có thiện để an ủi, trong cũng lấy thiện để điều phục, thì có thể vào khắp sinh tử, đồng bệnh với chúng sinh, nếm đủ chua cay mà chẳng cho là khổ. Đó là nguyên do ông Tịnh Danh hiện bệnh. Vì muốn chỉ phép tắc sống nơi bệnh cho người mới học, nên phát khởi câu hỏi này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm tâm bị cảnh lôi kéo thì chẳng điều ác nào mà chẳng làm, thí như con ngựa buông lung, khó mà cấm chế. Vì thế nổi trôi trong sinh tử, chẳng khi nào ra khỏi. Vậy muốn tự trừ gốc khổ, cần phải chế ngự mà điều phục mới được. Phương pháp điều phục ắt là có đạo, giống như điều phục ngựa thì phải dùng chuồng trại, há chẳng thuận theo ư? Đã được pháp tắc ấy thì sau mới điều phục được. Những Bồ-tát chưa tránh khỏi bệnh tật, ắt sẽ bị bệnh khổ bức bách trói buộc thì càng khó chế phục hơn, nên phải đặt câu hỏi này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật đáp: "Bồ-tát có bệnh phải tự nghĩ rằng: Nay ta có bệnh, đều là do các phiền não, điên đảo vọng tưởng từ đời quá khứ sinh ra.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu như bị bệnh nặng bức bách thì chẳng thể chẳng suy đến lý của bệnh. Lý của bệnh là không thì đâu thể bức bách ta. Phàm những pháp từ duyên khởi thì đã tự chẳng có, huống hồ gì pháp do điên đảo vọng tưởng sinh ra?

Chánh văn: Là pháp chẳng thật có, thì có ai thọ bệnh?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phép tắc sống nơi bệnh trước tiên cần phải biết gốc bệnh, bệnh sinh đều là do những điên đảo vọng tưởng từ đời trước, vì có vọng tưởng điên đảo nên phiền não sinh, phiền não đã sinh thì phải có thân, đã có thân thì chẳng thể không có bệnh, ngược suy tìm gốc của bệnh, thì biết là hư vọng chẳng thật; gốc đã chẳng thật thì ai thọ bệnh? Đây là nói người mới tu hành, đầu tiên tập quán vô ngã. Ngài Đạo Sinh nói:

- Không có chỗ để thọ bệnh, đã không có chỗ để thọ bệnh thì bệnh không.

Chánh văn: Vì sao? Vì bốn đại hòa hợp, giả gọi là thân, bốn đại không có chủ.

Ngài La-thập nói:

- Bốn đại là gốc của thân, gốc đã vô chủ, nên thân vô ngã.

Chánh văn: Thân cũng vô ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giải thích nghĩa vô ngã. Bốn đại hòa hợp, giả gọi là thân, bốn đại đã vô chủ thì thân, ngã do đâu sinh? Ví như một hạt cát không có dầu thì gom tụ vô số cát cũng chẳng có dầu. Chủ là một vật mà khác tên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm chấp ngã, thì hoặc lấy thân làm ngã hoặc cho trong thân có ngã. Nay suy từ thân, theo lý thì chỉ do bốn đại hợp thành, mà không có pháp nào khác. Vậy bốn đại vô chủ thì thân cũng vô ngã. Bốn đại thì có bốn, ngã thì chỉ là một. Nếu nói ở trong đó làm chủ, nhưng đã vô chủ thì ngã cũng không ở trong đó; vì thân một thì ngã cũng chỉ là một. Nếu nói tức thân này là chủ, nhưng vô ngã thì ngã chẳng tức; ngã thật là không, làm sao có bệnh được?

Chánh văn: Bệnh này khởi lên là do chấp ngã. Ngài La-thập nói:

- Bệnh khởi do có hai việc.

1. Do ở quá khứ chấp ngã, sinh ra các kết nghiệp. Quả kết nghiệp đã chín thì thọ khổ.

2. Do hiện tại chấp ngã tâm sinh phiền não, nên bệnh càng tăng.

Chánh văn: Vì thế chẳng nên chấp ngã. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu ngã là thật, thì há có bệnh sinh? Ngài Đạo Sinh nói:

- Tìm nguồn gốc của bệnh thì biết vốn không, nhưng có bệnh đều là do chấp ngã mà khởi. Nếu chẳng chấp ngã, thì nào có bệnh?

Chánh văn: Đã biết gốc bệnh. Ngài La-thập nói:

- Tức là chấp ngã.

Chánh văn: Tức trừ được ngã tưởng và chúng sinh tưởng.

Ngài La-thập nói:

- Ba việc này theo sự thì đồng mà nghĩa thì khác.

Ngài Tăng Triệu ghi: Gốc bệnh tức là vọng tưởng nêu ở trên. Vì có vọng tưởng, nên thấy có ngã và chúng sinh. Nếu ngộ được điên đảo của vọng tưởng, thì không ngã, không chúng sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã biết bệnh do chấp ngã mà khởi, thì nên dứt trừ. Chúng sinh tuy rằng tức là ngã, nhưng muốn suy biết trong các pháp tụ hợp không có ngã, nên nêu lên để tạm thấy được nghĩa này.

Chánh văn: Nên khởi pháp tưởng. Ngài La-thập nói:

- Đây là nhờ pháp để trừ ngã. Giống như người dùng sự giận dữ này để dẹp sự giận dữ kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bệnh ngã tưởng rất nặng, nên cần phải trừ ngã tưởng mà khởi pháp tưởng. Pháp tưởng đối với không là bệnh, đối với ngã là thuốc, lên xuống nghịch nhau, nên nhờ vào đó để đối trị.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trừ làm gì? Vì đã dạy khởi pháp tưởng. Khởi pháp tưởng, chẳng phải nói là chấp pháp.

Chánh văn: Nên nghĩ rằng: "Thân này chỉ do các pháp hợp thành."

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các pháp tức là ấm, giới, nhập. Hợp thành thân tức nói đó là nhân nói "chỉ do", tức nói trong nhân không có ngã.

Chánh văn: [Khởi chỉ có pháp khởi, diệt chỉ là pháp diệt.]

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là giải thích pháp tưởng. Các pháp năm ấm giả hợp thành thân, khởi chỉ có các pháp cùng khởi, diệt chỉ có các pháp cùng diệt, không có một chân tể chủ quản sự khởi diệt kia. Đã trừ ngã tưởng, chỉ thấy các pháp duyên khởi nên gọi là pháp tưởng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khởi diệt là quả. Nói "chỉ" tức nói trong quả không có ngã.

Chánh văn: Vả lại, trong pháp này không biết nhau. Ngài Đạo Sinh nói:

- Hai câu sau này lại nói về nhân quả tức chẳng phải ngã. Khi các pháp hợp thành, thì duyên nhau mà khởi, duyên nhau mà khởi thì chẳng thể chẳng cùng khởi hay chẳng thể cùng khởi? Nếu cùng khởi ắt có cái biết cùng khởi, nhưng cái biết đó tại nơi người, chẳng tại nơi Ta, ngược lại thì cùng biết nhau. Đó là lấy tự tại làm nghĩa ngã.

Chánh văn: Khi khởi chẳng nói ta khởi, khi diệt chẳng nói ta diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn vật rối rắm loạn động, tụ tán ai làm chủ, chỉ do duyên hợp thì khởi, duyên tan thì lìa. Tụ tán chẳng dự trước, nên các pháp chẳng biết nhau.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ duyên mà khởi, cũng chẳng thể chẳng có chỗ từ để khởi hay chẳng có chỗ từ để khởi. Nếu có từ để khởi, ắt có biết từ đâu khởi, nhưng chỗ biết là từ mình chứ chẳng phải nơi người, nên không có nghĩa biết nhau. Đây cũng lấy tự tại làm nghĩa ngã.

Chánh văn: Bồ-tát có bệnh muốn diệt trừ pháp tưởng. Ngài La-thập nói:

- Trước dùng pháp trừ ngã, từ đây trở xuống là dùng không để trừ pháp.

Chánh văn: Thì nên nghĩ rằng: Pháp tưởng này cũng là điên đảo.

Điên đảo là bệnh lớn, ta cần phải xa lìa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tưởng tuy trừ được ngã, nhưng đối với chân còn là điên đảo, chưa tránh khỏi bệnh, nên cần xa lìa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm dùng pháp tưởng trừ ngã tưởng, há lại có pháp để sinh chấp trước ư? Có nơi ngôn từ thì cũng sinh hoặc, nên kế đó phải trừ, lại có thể dùng để so sánh giải thích hầu nghĩa được rốt ráo.

Chánh văn: Thế nào là lìa? Tức lìa ngã và ngã sở. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngã là chủ của vạn vật, vạn vật là sở hữu của ngã.

Nếu xa lìa ngã và ngã sở thì không pháp nào chẳng lìa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu có tâm chấp ngã thì tất cả các pháp bên ngoài đều cho là của ngã. Sở hữu của ngã là pháp đối đãi với ngã. Ngã đã không thì sở hữu tồn tại độc lập được ư?

Chánh văn: Thế nào là lìa ngã và ngã sở? Đó là lìa hai pháp

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước đã nói hai việc, nay lại nói cần lìa hai việc. Đối đãi làm hai, sau đó xa lìa.

Chánh văn: Hai pháp là gì? Tức chẳng nghĩ các pháp trong ngoài, mà thực hành bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có ngã và ngã sở thì hai pháp tự sinh, hai pháp đã sinh thì trong và ngoài hình thành, trong ngoài đã hình thành thì các pháp khác tên, các pháp khác tên thì thị phi khuynh đoạt nhau, thị phi khuynh đoạt nhau thì các bệnh lại thành. Nếu có thể chẳng nghĩ đến các pháp trong ngoài, tâm luôn hành bình đẳng, thì vào hạnh không, chẳng còn hoạn pháp tưởng. Trong ngoài tức là hình thức và trần cảnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

Trong tức là ngã, ngoài tức tất cả pháp. Đây là lấy đối đãi làm hai. Nghĩa chẳng nghĩ đến đó, mà thực hành bình đẳng tức là lìa.

Chánh văn: Thế nào là bình đẳng? Là ngã bình đẳng, Niết-bàn bình đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức hai pháp một cực cao, một cực thấp, đồng dùng một pháp quán là bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Niết-bàn tuy chẳng phải không nhưng là pháp biểu thị cho không, cho nên trong các pháp bên ngoài chỉ nêu Niết-bàn để đối ngã mà luận về bình đẳng.

Chánh văn: Vì sao? Vì ngã và Niết-bàn đều không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nơi sự thì chẳng phải không khác, nơi không thì chẳng phải không là một.

Chánh văn: Vì sao là không? Chỉ vì danh tự nên không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dưới danh tự thì chẳng có thật.

Chánh văn: Hai pháp như thế không có tánh quyết định.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Do trái nghịch với Niết-bàn nên có ngã, như xả bỏ ngã thì gọi là Niết-bàn. Hai pháp đều giả nên có danh tự, nhưng sinh vốn là tự tánh của nó, tánh không quyết định, nên hai pháp đều không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không nhất định.

Chánh văn: Đạt được bình đẳng này, thì không còn bệnh nào khác, chỉ còn bệnh không.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cũng là dùng lời để phá trừ. Vì nghĩa có thô và diệu nên nói như thế.

Chánh văn: Bệnh không cũng không. Ngài La-thập nói:

- Trên là nói về vô ngã vô pháp, mà chưa trừ không, chưa trừ không thì còn bị trói buộc, còn trói buộc tức là bệnh, nên phải nói bệnh không cũng không còn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quần sinh tâm chấp trước sâu dày chẳng thể bỗng chốc xả bỏ, nên theo thứ bậc dần dần dứt trừ, cho đến khi chẳng còn trừ nữa. Trên là dùng pháp để trừ ngã, rồi dùng không để trừ pháp, nay lại dùng rốt ráo không để không nghĩa không kia, thì mới được vĩnh viễn không bệnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý không thì chẳng bệnh, bệnh là do có không. Vì luận theo bệnh, cho nên nói không là bệnh.

Chánh văn: Bồ-tát có bệnh nên không có tâm thọ mà thọ nhận các pháp.

Ngài La-thập nói:

- Thọ tức ba thọ khổ, lạc và xả. Nếu có thể biết thọ là không thọ, thì có thể vì chúng sinh mà thọ sinh, nhẫn chịu ba thọ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các thọ tức ba thọ. Đã quán bệnh không thì ba thọ cũng đều không. Nếu có thể không nơi ba thọ thì ba thọ tự trừ, chẳng phải là muốn xả bỏ, nên có vào các thọ là vì giáo hóa hữu tình.

Chánh văn: Chưa đầy đủ Phật pháp thì chưa diệt các thọ mà thủ chứng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người khéo tự điều phục thì vào hữu chẳng nhiễm hữu, nơi không chẳng nhiễm không. Đây là chỗ rốt ráo của không thọ. Vì tâm không thọ, nên không gì chẳng thọ; không gì chẳng thọ nên vĩnh viễn cùng với chúng sinh thọ nhận các thọ. Các thọ tức là khổ thọ, lạc thọ và chẳng khổ chẳng lạc thọ. Chưa đầy đủ Phật pháp, chưa độ tận chúng sinh, thì chưa diệt ba thọ mà thủ chứng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Y cứ theo người có tâm lo sợ các thọ muốn cầu diệt độ, ắt nắm lấy đó là đủ để trừ các bệnh và cho rằng đã cực diệu, chẳng còn cầu đạt tận lý, thế thì chứng đắc nghĩa không mới nữa đường đã bỏ dỡ.

Chánh văn: Dẫu thân có khổ, nhưng nên nghĩ đến chúng sinh ở đường ác mà khởi tâm đại Bi.

Ngài La-thập nói:

- Thân công đức trí tuệ của ta còn thống khổ như thế, huống gì các chúng sinh trong đường ác thọ vô lượng khổ? Tức khởi tâm Bi, muốn cứu khổ cho họ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước nói vào các thọ là vì tâm giáo hóa chúng sinh đó là tâm đại Bi. Thế nào là đại Bi? Nghĩa là dẫu thân ta có thống khổ, nhưng vì nghĩ đến chúng sinh trong các đường ác mà cứu vớt họ. Trước tuy quán bệnh không, nhưng chính là khiến cho tâm chẳng còn hoặc khổ, mà chưa có thể đạt được thật không. Nếu quán thuần thục, lý sáng tỏ, sau đó mới sinh thì thật là không. Vì thế nói dẫu thân có bệnh khổ, nhưng nên nghĩ đến chúng sinh ở các đường ác, tức nói ta ở trong loài người đã có phước, lại thêm trí tuệ sáng tỏ mà còn khổ như thế, hà huống trong ba đường ác không có phước trí? Chỉ nghĩ đến ba đường ác, là vì đã nơi sinh tử chẳng ai tránh khỏi. Nên lấy đó làm duyên để phát khởi đại Bi.

Chánh văn: Ta đã được điều phục, cũng nên điều phục cho tất cả chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cần phải cùng với chúng sinh mà chịu các khổ vui. Ngài Đạo Sinh nói:

- Mình chẳng điều phục, thì chẳng tránh khỏi ba đường ác.

Chánh văn: Chỉ trừ bệnh của họ, mà chẳng nên trừ các pháp. Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là các pháp thường lạc, tịnh do vọng kiến thấy được. Sở dĩ nói không là vì chẳng lấy có để lạc và tịnh các pháp, mà lấy không để trừ bỏ. Tức là trừ bệnh vọng tưởng mà không có pháp để trừ bỏ, nên hay ở trong đó mà chẳng trừ bỏ pháp đó.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Điều phục để trừ sự hiện hữu của hoặc mà chẳng trừ sự hiện hữu của pháp.

Chánh văn: Vì đoạn gốc bệnh mà chỉ dạy cho họ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp do duyên sinh, tụ tan chẳng do tự kỷ. Hợp thì có hình, tan thì chẳng có tượng, pháp vẫn tự y nhiên, đối với ta đâu có gì phải gọi là bệnh. Sở dĩ bệnh sinh, là do ta có vọng tưởng nơi pháp, tự gây ra bệnh, mà pháp đâu có làm ta sinh vọng tưởng? Thế thì vọng tưởng là gốc bệnh mà pháp chẳng phải bệnh của ta, cho nên chỉ dạy trừ gốc bệnh mà chẳng nên trừ pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Gốc bệnh đoạn trừ thì bệnh sẽ dứt.

Chánh văn: Thế nào là gốc bệnh? Vì có phan duyên. Ngài Đạo Sinh nói:

- Chấp thủ tướng tức phan duyên. Nói có tức kia có vậy.

Chánh văn: Từ có phan duyên mà có gốc bệnh. Ngài La-thập nói:

- Trên nói Bồ-tát tự tìm gốc bệnh, dùng lý mà điều phục tâm, nên có thể sống nơi bệnh mà tâm chẳng loạn. Nay nói vì đoạn bệnh cho chúng sinh, nên suy tìm gốc bệnh của họ, sau đó mới tùy nghi. Máy thần vừa động thì tâm có chỗ tùy thuộc, nên gọi là phan duyên. Phan duyên chấp tướng là khởi đầu của vọng động, là gốc của bệnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phan duyên, nghĩa là vọng tưởng, máy động phan duyên các pháp. Vọng tưởng đã duyên thì đẹp xấu đã phân, đẹp xấu đã phân thì yêu ghét liền khởi mạnh. Vì thế các kết sử xao động bên trong, các bệnh tật sinh bên ngoài. Từ khi có từ trở về trước thì thật rõ ràng, nên chẳng ghi chép. Nguyên do vốn là vọng tưởng nhỏ nhiệm mà thôi, cho nên nói phan duyên là gốc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước thì nói có, còn ở đây thì nói mới có.

Chánh văn: Phan duyên nơi đâu? Nơi ba cõi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là nói về cảnh phan duyên. Pháp ngoài ba cõi thì vô lậu vô vi, pháp ấy không tướng; vọng tưởng chẳng thể phan duyên. Các hay phan duyên, chỉ có ba cõi mà thôi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp của ba cõi, chẳng phải là thật lý.

Chánh văn: Làm sao để đoạn phan duyên? Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã biết gốc ấy do đâu mà đoạn trừ.

Chánh văn: Dùng vô sở đắc. Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng lý vô sở đắc mà đoạn phan duyên.

Chánh văn: Nếu vô sở đắc thì không có phan duyên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Sở dĩ có phan duyên là do tâm còn chấp giữ, đã có chấp giữ, thì tâm có chỗ chứng đắc. Nếu biết các pháp hư dối không chấp giữ, không được, thì phan duyên tự dứt trừ.

Chánh văn: Thế nào là vô sở đắc? Đó là lìa hai kiến.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hai kiến không có chỗ để đạt đến được.

Chánh văn: Thế nào là hai kiến? Đó là nội kiến ngoại kiến vô sở đắc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong có vọng tưởng, ngoài có các pháp, hai pháp này đều hư giả, nên rốt cuộc chẳng được.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hai kiến vốn lấy việc đạt được các pháp trong ngoài làm chính, nhưng trí tuệ quán xét, theo lý không có trong ngoài, sau đó hai kiến mới chẳng đạt được trong ngoài.

Chánh văn: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Đó là Bồ-tát có bệnh điều phục tâm mình để đoạn các khổ già, bệnh, chết, đó là Bồ-đề của Bồ-tát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-đề lấy thật tế làm đạo, nếu Bồ-tát có thể được như thế, tuy chưa đạt được, nhưng cũng đã có.

Chánh văn: Nếu chẳng như thế thì việc tu hành của mình không được trí tuệ và lợi ích.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu điều phục được tâm, chẳng chấp dị tưởng, vĩnh viễn ở nơi sinh tử, đoạn trừ khổ cho người, thì đó là đạo Bồ-đề của Bồ-tát. Nếu chẳng như thế thì việc tu hành, chẳng đủ để phát sinh trí tuệ bên trong, chẳng đủ để làm lợi ích bên ngoài.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không có trí tuệ và lợi ích đối với chúng sinh.

Chánh văn: Ví như chiến thắng kẻ giặc mới được gọi là dũng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ta và người thân đều không còn giặc oán.

Chánh văn: Như thế, người nào trừ diệt được già, bệnh, chết mới là Bồ-tát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-tát nghĩ chúng sinh như người thân không khác, nếu chẳng trừ các oán giặc già, bệnh, chết cho người, thì oán giặc của mình cũng chưa trừ được.

Chánh văn: Bồ-tát có bệnh nên suy nghĩ rằng: "Như bệnh của ta đây chẳng phải thật, chẳng phải có, bệnh của chúng sinh chẳng phải thật, chẳng phải có.

Ngài La-thập nói:

- Biết được bệnh chẳng chân thật, nên hay ở nơi bệnh mà chẳng loạn. Nếu cho bệnh là thật thì chẳng thể trừ bệnh. Chúng sinh vô biên thì bệnh cũng vô tận. Bệnh đã vô tận, tánh của nó thật có thì làm sao có thể độ, thế thì liền mê loạn, tâm sinh thoái chuyển; nếu cho là bệnh chẳng thật thì dễ trừ diệt, tâm Bi liền sinh, phát thệ nguyện rộng lớn cứu độ tất cả.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng sự suy nghĩ này mà khởi tâm đại Bi vậy. Như bệnh này của ta chẳng phải thật, chẳng có, tức nói ta đã đạt ngộ; bệnh của chúng sinh cũng chẳng thật chẳng chân, tức là nói chúng sinh chẳng ngộ, nên chỉ dạy cho họ biết được pháp này. Nhưng vì việc khởi tâm đại Bi đã nói đầy đủ ở văn trước, nên nay chỉ nói đến suy nghĩ mà thôi.

Chánh văn: Khi quán như thế, nếu đối với chúng sinh mà khởi ái kiến đại Bi thì nên xả bỏ ngay.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là chưa thâm nhập thật tướng, thì thấy có chúng sinh, tâm liền sinh yêu mến, nhân đó mà sinh Bi, gọi là ái kiến đại Bi. Ái kiến đại Bi thì hư vọng, chẳng thanh tịnh, hay làm cho người khởi ý tưởng nhàm chán, nên cần phải xả bỏ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu tự điều phục thì trước nên quán xét bệnh của chính mình và bệnh của chúng sinh do nhân duyên tạo thành, là hư giả chẳng thật; nên dùng tâm này mà khởi đại Bi. Nếu quán xét chưa thuần thục, thấy chúng sinh liền yêu thương mà khởi Bi, đó gọi là ái kiến Bi. Bi này tuy là thiện mà có xen lẫn ái kiến, là cảnh của hữu tâm, chưa tránh khỏi sự phiền lụy nên cần phải xả bỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khi thực hành hai pháp quán trên mà khởi đại Bi, nếu trong quán có tâm niệm ái, thấy chúng sinh mà muốn cứu độ, thì đó là ái kiến đại Bi.

Chánh văn: [Vì sao? Vì Bồ-tát phải đoạn trừ khách trần phiền não.]

Ngài La-thập nói:

- Tâm vốn thanh tịnh, không có trần cấu, có trần cấu là do các sự tụ hội mà sinh, đối với tâm là khách trần.

Chánh văn: Mà khởi đại Bi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm gặp ngoại duyên, phiền não liền khởi, nên gọi là khách trần. Pháp của Bồ-tát cần phải trừ khách trần mà khởi đại Bi. Nếu ái kiến chưa đoạn thì phiền não càng nhiều. Nên cần phải xả bỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ái kiến do hoặc tưởng sinh khởi là khách trần cần diệt trừ để khởi đại Bi.

Chánh văn: Nếu có ái kiến Bi thì có tâm nhàm chán sinh tử. Ngài La-thập nói:

- Nếu nhân nơi ái mà sinh kiến bi thì sẽ có tâm nhàm chán. Chánh văn: Nếu xa lìa ái kiến thì không có tâm nhàm chán. Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu dùng ái mà cứu bạt thì gặp tắng ắt sẽ bỏ. Đã thấy mà chẳng trừ thì há có thể giáo hóa tất cả được ư?

Chánh văn: Sinh ra nơi nào đều chẳng bị ái kiến che đậy. Ngài La-thập nói:

- Nếu trừ được ái kiến, thì liền xả bỏ kết nghiệp, lãnh thọ pháp giáo hóa chúng sinh, tự tại vô ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có kiến chấp ắt có chỗ ngăn trệ, có chỗ yêu thích ắt có chỗ chán ghét, đây là dụng có tận, đâu có thể đặt vào đạo vô tận. Nếu có thể xa lìa điều này thì pháp thân hóa sinh, không không đâu chẳng tại. Sinh tử thật vô cùng, chẳng ngộ thì xa, nào có bị sự che lấp của ái kiến, sự lao nhọc của nhàm chán ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nơi nơi đều sinh là vì không nhàm chán, há bị ái kiến che lấp ư?

Chánh văn: Sinh ra không bị trói buộc, hay thuyết pháp mở sự trói buộc cho chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ái kiến đã trừ, pháp thân đã lập thì sinh ra không bị trói buộc, lại hay mở trói buộc cho người.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đại Bi đã chẳng bị ái kiến che lấp mà có sinh, ắt chẳng bị trói buộc nơi sinh.

Chánh văn: Như lời Phật dạy: "Nếu mình bị trói buộc mà có thể mở trói cho người, thật chẳng có việc ấy; nếu mình không bị trói buộc mới có thể mở trói cho người." Cho nên, Bồ-tát chẳng nên khởi những điều ràng buộc. Thế nào là ràng buộc, thế nào là giải thoát?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nhân nơi trói buộc và giải thoát mà giải thích nghĩa điều phục bên trong.

Chánh văn: Tham đắm thiền vị là Bồ-tát bị trói buộc.

Ngài La-thập nói:

- Tham đắm thiền vị có hai chướng: Chướng Niếtbàn và chướng đạo Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thọ sinh nơi ba cõi và nhị thừa thủ chứng đều do tham đắm thiền vị, vì thế bị trói buộc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tham cầu quả báo mà hành thiền định thì có vị nơi hành. Hành đã có vị quả báo ắt mê hoặc; phàm có hoặc báo thì bị trói buộc nơi sinh.

Chánh văn: Dùng phương tiện thọ sinh là Bồ-tát giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã xa lìa sinh mà phương tiện vì chúng sinh mà thọ sinh thì ta và người không bị trói buộc, vì thế được giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Muốn cứu độ quần sinh mà thọ sinh, là phương tiện thọ sinh, vì chẳng riêng vì mình nên quả báo không bị mê hoặc.

Chánh văn: Không có phương tiện tuệ thì bị trói buộc, có phương tiện tuệ là giải thoát, không có phương tiện tuệ là trói buộc, có tuệ phương tiện là giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khéo léo tích tụ các đức, gọi là phương tiện, thông đạt pháp tướng gọi đó là tuệ, gồm đủ hai hạnh mới được giải thoát. Nếu không có phương tiện mà có tuệ thì chưa tránh khỏi trói buộc; không có tuệ mà có phương tiện cũng chưa tránh khỏi sự trói buộc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lại nói rộng về trói buộc và giải thoát. Phương tiện có hai loại:

1. Tạo hạnh có công đức cuối cùng đạt đến diệu quả.

2. Lấy đó để giáo hóa khiến tất cả đều thành tựu.

-Tuệ cũng có hai loại:

1. Quán lý điều phục tâm.

2. Ngay nơi quán mà các kết sử tận diệt.

Quán lý điều phục tâm tức ba thừa đều đồng, nếu thiên chấp thì bị trói buộc tại Tiểu thừa; nếu lấy đó làm phương tiện giáo hóa mà sử dụng thì chẳng bị trói buộc. Tu hành công đức dẫn đến quả, tức nếu có kết sử thì thọ quả báo trong ba cõi, bị trói buộc tại sinh, nếu kết sử tận, đạt được tuệ thì giải thoát.

Chánh văn: Thế nào gọi là không có phương tiện tuệ thì trói buộc? Nghĩa là Bồ-tát dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi Phật, thành tựu chúng sinh, nơi pháp không vô tướng vô tác mà tự điều phục, đó gọi là không có phương tiện tuệ thì trói buộc.

Ngài La-thập nói:

- Quán không chẳng thủ chứng, vào hữu chẳng nhiễm ô, là phương tiện thiện xảo. Nay nói trụ thứ sáu trở về trước chưa được vô ngại, nên lúc quán không thì không chấp trước, nhưng đến khi xuất quán cõi tịnh để hóa độ người thì sinh kiến chấp, tâm có yêu mến, đó là vụng nơi hữu động mà diệu nơi tịnh quán. Tuệ quán không chẳng chấp tướng, tuy là phương tiện nhưng lại lấy tên theo tuệ. Ở đây chỉ lấy nghĩa liên quan hữu chẳng chấp làm phương tiện; nên nói không có phương tiện mà có tuệ. Trụ Địa thứ bảy trở lên thường định, động tịnh chẳng khác, nên nói phương tiện tuệ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ thứ sáu trở về trước, tâm chưa được thuần nhất, vào hữu thì bỏ không, tại không thì lìa hữu, chưa thể dùng chân tâm bình đẳng và cả hữu vô đều liên quan, vì thế trang nghiêm cõi nước và giáo hóa người thì có xen lẫn ái kiến. Đây chẳng phải là phương tiện thiện xảo tu đức, nên nói không có phương tiện, nhưng lại dùng ba không tự điều phục, nên nói có tuệ.

Chánh văn: Thế nào gọi là có phương tiện tuệ là giải thoát? Nghĩa là không dùng tâm ái kiến trang nghiêm cõi

Phật thành tựu chúng sinh, nơi các pháp không, vô tướng, vô tác mà tự điều phục, chẳng sinh mỏi mệt, nhàm chán.]

Ngài Đạo Sinh nói:

- Quán lý điều phục tâm, ắt là chán ghét sinh tử, lấy đây để làm phương tiện giáo hóa thì sẽ tạo ra mà được.

Chánh văn: Đó gọi là có phương tiện tuệ là giải thoát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ Địa thứ bảy trở lên hai hạnh đều đầy đủ, đến đi nơi sinh tử mà chẳng nhàm chán mỏi mệt, nên gọi là giải thoát.

Chánh văn: Vì sao gọi là không có phương tiện tuệ thì trói buộc? Nghĩa là Bồ-tát trụ ở các phiền não tham dục, sân khuể, tà kiến... mà trồng các cội công đức, thì gọi là có phương tiện tuệ thì giải thoát.

Ngài La-thập nói:

- Trụ Địa thứ bảy trở về trước thì hơn kém khác nhau. Đây là nói hàng Bồ-tát mới học chẳng tu chánh quán, chẳng đoạn phiền não, nên gọi là không có tuệ, lại hay tu đức, hồi hướng mong cầu quả lớn, nên nói là có phương tiện. Nếu có thể tu bốn Niệm xứ trừ bốn điên đảo, thì gọi là tuệ lìa phiền não. Lại khéo hay hồi hướng, tâm không lui sụt, là hay cầu phương tiện. Trụ Địa thứ sáu trở về trước tuy cùng tại cảnh trói buộc, nhưng nếu có thể đầy đủ hai pháp này thì sẽ giải thoát trong trói buộc. Trên là nói về tuệ vô tướng và phương tiện vào hữu chẳng chấp trước, là hai môn xuất thế gian. Còn ở đây nói về tuệ hữu tướng và phương tiện hay cầu tu; là hai pháp thế gian.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng tu không tuệ để trừ phiền não, gọi là tuệ, siêng năng tích tụ các công đức gọi là có phương tiện.

Chánh văn: Thế nào gọi là có tuệ phương tiện là giải thoát? Nghĩa là xa lìa các phiền não tham dục, sân khuể, tà kiến... mà trồng các cội công đức, hồi hướng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy không còn các kết sử, tránh khỏi sự trói buộc nơi sinh, nhưng đâu thể lấy đó tự trang nghiêm để thành Tiểu thừa, nên cần phải nói hồi hướng.

Chánh văn: Gọi là có tuệ phương tiện là giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên đã nói có phương tiện tuệ là giải thoát, ở đây nói có tuệ phương tiện là giải thoát, thì giải tuy đồng mà hạnh có trước sau. Mới tu hạnh, hoặc có người trước dùng phương tiện tích tập công đức, sau đó mới tu tập không tuệ; cũng có người trước tu không tuệ, sau đó mới tích tập các đức, mỗi mỗi tùy sự thích hợp mà giải thì chẳng khác. Lìa phiền não tức năng lực của ba không tự điều phục; tích tập các đức hồi hướng Bồ-đề tức thuộc trang nghiêm cõi nước, giáo hóa chúng sinh. Trước sau tuy khác nhưng đều cùng tận khéo léo.

Chánh văn: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có bệnh nên quán các pháp như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ câu "Chẳng phải chân" trở xuống là nói về quán không trói buộc.

Chánh văn: Lại quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã gọi là tuệ.

Ngài La-thập nói:

- Bốn câu trên nói chung cả tuệ phương tiện thế gian và xuất thế gian. Bốn câu này chỉ nói về tuệ phương tiện xuất thế gian. Cũng có thể nói rằng trên là nói chung về tuệ phương tiện, còn ở đây chỉ nói về tuệ phương tiện sự dụng khi bị bệnh, có năng lực chẳng diệt thân, thủ chứng. Nếu cho thân là có, thì khi bệnh đến ắt phiền não, nếu biết thân chẳng thật thì dù có bệnh cũng chẳng loạn tâm. Tuệ xuất thế gian cũng có sâu cạn. Vô thường là tướng đầu tiên của không, nên trước phải nói vô thường, vô thường cũng là tuệ cạn mỏng xuất thế gian.

Chánh văn: Tuy thân có bệnh mà thường ở nơi sinh tử làm lợi ích tất cả, chẳng nhàm chán, đó gọi là phương tiện.

Ngài La-thập nói:

- Sinh tử đáng chán, mà chẳng chán, khéo ở nơi hiểm nạn, nên gọi là phương tiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quán bốn vô thường của Đại thừa là chân quán bình đẳng nên gọi là tuệ. Dùng tâm bình đẳng trụ thế gian chẳng mỏi mệt, nên gọi là phương tiện. Nói an ủi tức là việc này.

Chánh văn: Vả lại, quán thân thì thân chẳng lìa bệnh, bệnh chẳng lìa thân.

Ngài La-thập nói:

- Lìa thân thì chẳng có bệnh, nên cả hai chẳng lìa nhau. Vả lại, nói thân bệnh là một tướng, nên chẳng lìa nhau.

Chánh văn: Bệnh này, thân này chẳng phải mới, chẳng phải cũ. Ngài La-thập nói:

- Đây là nói thật tướng, của thân và bệnh chúng chẳng có mới cũ, tức nói tuệ sâu xa xuất thế gian.

Chánh văn: Đó gọi là tuệ, dẫu thân có bệnh nhưng chẳng vĩnh viễn diệt độ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy cho rằng phương tiện có tuệ, nhưng trong phương tiện lại chẳng có tuệ. Dùng phương tiện tạo tuệ, tức trong tuệ lại có phương tiện. Vì thế cần phải luận để nghĩa lý được sâu rộng thêm.

Chánh văn: Gọi là phương tiện.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng chấp giữ tướng diệt nên chẳng thể diệt, là sức phương tiện. Vào hữu lẽ ra là chấp giữ tướng mà chẳng giữ tướng, chẳng giữ tướng thì lý và hữu bặt, mà có thể vào hữu, khéo léo ở nơi hiểm nạn, nên gọi là phương tiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ ngữ cũ mới xuất phát nơi từ trước sau, nhưng lìa thân thì không bệnh, lìa bệnh thì chẳng có thân; tất cả đều do các duyên hợp thành thì có cái gì sau, cái gì trước. Đã không trước sau thì không có mới cũ; mới cũ đã không tức vào thật tướng, nên gọi là tuệ. Đã có tuệ này mà đồng bệnh với chúng sinh, chẳng thủ chứng Niếtbàn, nên gọi đó là phương tiện. Nói về điều phục ở trước, là việc này. An ủi tự điều phục, là lược nêu về quyền trí. Quyền trí là điểm quan yếu trong kinh này, nên các lời thuyết giải đều có nói đến.

Chánh văn: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Bồ-tát có bệnh nên điều phục tâm mình như thế!

Ngài Đạo Sinh nói:

- Quán xét được mất cũng là điều phục.

Chánh văn: Chẳng trụ trong đó.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu muốn trừ bỏ tâm chẳng điều phục, ắt phải dùng điều phục làm tâm.

Chánh văn: Cũng chẳng trụ nơi tâm chẳng điều phục. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hạnh Đại thừa vô ngôn vô tướng, mà văn trước dùng ngôn từ để nói về điều phục, nay nói ý chỉ ngoài lời nói, nên chẳng trụ cả hai. Cả hai đều chẳng trụ tức bản ý của việc nhờ vào lời nói, bản ý của việc nhờ vào lời nói là chỗ cùng tột của điều phục.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng lấy điều phục làm bản hoài, tức chẳng phải chẳng điều phục.

Chánh văn: Vì sao? Nếu trụ nơi tâm chẳng điều phục là pháp của người ngu; nếu trụ nơi tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Vì thế Bồ-tát chẳng nên trụ nơi tâm điều phục và tâm chẳng điều phục. Lìa hai pháp này là hạnh

Bồ-tát

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ ngữ chẳng điều phục khởi từ người ngu, từ ngữ điều phục là khởi từ Thanh văn. Hạnh Đại thừa vốn không danh không tướng, muốn nói chẳng điều phục thì đồng với người ngu, muốn nói điều phục thì đồng với Thanh văn. Cả hai đều lìa mới là hạnh trung đạo của Bồtát.

Chánh văn: Tại sinh tử mà chẳng bị nhiễm ô, nơi Niết-bàn mà chẳng vĩnh viễn diệt độ là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói ở tại sinh tử thì sinh tử chẳng thể làm nhiễm ô; muốn nói trụ Niết-bàn thì vĩnh viễn chẳng diệt độ. Vì thế trụ nơi trung đạo mà thực hành, tức chẳng tại sinh tử chẳng trụ Niết-bàn.

Chánh văn: Chẳng phải hạnh phàm phu.

Ngài La-thập nói:

- Hạnh phàm phu có ba là thiện, bất thiện và vô động. Hạnh vô động tức là hạnh của cõi Sắc và cõi Vô sắc. Hai cõi trên có thọ mạng kiếp số dài lâu, ngoại đạo cho là thường đó là nghĩa bất động. Phật cũng nhân nơi sự lập danh của thế gian mà gọi như thế.

Chánh văn: Chẳng phải hạnh Hiền Thánh. Ngài Lathập nói:

- Tức là thực hành ba môn giải thoát mà chẳng thủ chứng.

Chánh văn: Là hạnh Bồ-tát; chẳng phải hạnh cấu, chẳng phải hạnh tịnh, là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thể đặt tên.

Chánh văn: Tuy vượt khỏi hạnh ma, mà thường thị hiện hàng phục các ma là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thể nắm bắt được mà lại có, chẳng thể nắm bắt được mà không, đó chỉ có hạnh Đại thừa mà thôi. Thế nên, muốn nói có thì vô tướng vô danh, muốn nói không thì vạn đức đều hiện hành; vạn đức đều hiện hành nên tuy không mà có, vô tướng vô danh nên tuy có mà không. Vậy nói có mà chẳng trái không, nói không chẳng trái với có. Vì thế chương này hoặc nói hạnh có hoặc nói hạnh không, có không tuy khác mà điểm cực trí chẳng khác. Hạnh ma tức hạnh của bốn ma. Siêu việt đã lâu, mà hiện hàng phục các ma, tức thị hiện có chỗ vượt hơn.

Chánh văn: Cầu Nhất thiết trí, chẳng cầu phi thời là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Công hạnh chưa đủ mà cầu quả rốt ráo gọi là cầu phi thời. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhất thiết trí chưa thành tựu mà cầu chứng trung đạo, gọi là cầu phi thời.

Chánh văn: Tuy quán các pháp chẳng sinh mà chẳng vào chánh vị là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Quán vô sinh là pháp thủ chứng; chẳng vào chánh vị, là nói chẳng chứng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chánh vị tức là vị thủ chứng. Ba thừa đồng quán vô sinh, nếu người có sức tuệ kém thì chẳng thể tự vượt ra; hàng có sức tuệ mạnh thì vượt qua mà chẳng chứng.

Chánh văn: Tuy quán mười hai nhân duyên mà vào các tà kiến là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quán duyên khởi là đạo đoạn tà kiến, mà trái lại đồng tà kiến, há Nhị thừa có thể làm được chăng?

Chánh văn: Tuy nhiếp tất cả chúng sinh mà chẳng khởi ái chấp là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Nhiếp tức bốn Nhiếp pháp. Bốn nhiếp là pháp để thương mến nghĩ nhớ đến chúng sinh. Nay nói thương mến mà chẳng chấp trước.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn Nhiếp pháp, nhiếp phục chúng sinh, là pháp rốt ráo của lòng Từ ban vui, xem người cũng như mình mà không chấp trước.

Chánh văn: Tuy thích xa lìa mà chẳng nương vào thân tâm tận, là hạnh Bồ-tát Ngài La-thập nói:

- Tâm thức diệt hết gọi là xa lìa, xa lìa tức là nghĩa không. Nói chẳng nương tức ở nơi không mà chẳng chấp tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Xa lìa nhỏ, tức là xa lìa sự náo loạn, xa lìa lớn tức thân tâm diệt hết. Bồ-tát tuy thích xa lìa lớn nhưng chẳng nương cậy vào đó.

Chánh văn: Tuy hành nơi ba cõi. Ngài La-thập nói:

- Tức hiện sinh nơi ba cõi.

Chánh văn: [Mà chẳng hủy hoại pháp tánh là hạnh Bồ-tát.] Ngài La-thập nói:

- Ở trong đó mà chẳng mê hoặc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba cõi tức pháp tánh, nên ở trong đó mà nào có phá hoại?

Chánh văn: Tuy hành nơi không mà trồng các cội công đức là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tập "không" là muốn trừ hữu, mà lại trồng các cội công đức. Chánh văn: Tuy hành vô tướng mà độ chúng sinh là hạnh Bồ-tát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tập vô tướng là muốn phá trừ sự chấp thủ tướng chúng sinh, mà lại độ chúng sinh.

Chánh văn: Tuy hành vô tác mà hiện thọ thân là hạnh Bồ-tát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tập vô tác là muốn chẳng tạo nghiệp sinh tử, mà lại hiện thọ thân.

Chánh văn: Tuy hành vô khởi mà khởi tất cả các hạnh thiện là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tập vô khởi là muốn trừ diệt tâm khởi, mà lại khởi các hạnh thiện.

Chánh văn: Tuy hành sáu pháp Ba-la-mật mà biết khắp các tâm sở của chúng sinh là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Sáu Độ là pháp tự hành, tự hành đã đủ thì hóa tha; hóa tha mới có thể biết tâm chúng sinh. Nay tuy tự hành mà đã biết rõ tâm của người. Lại theo thứ tự sáu Độ mà quán pháp vô tướng, chẳng cho vô tướng là ngại, cũng có thể biết tâm chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu Độ là hạnh vô tướng, vô tướng thì vô tri, mà trái lại nay biết khắp tâm hành của chúng sinh.

Chánh văn: Tuy hành sáu Thông mà chẳng tận các lậu là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy đầy đủ sáu Thông mà chẳng phải là hạnh lậu tận. Vì sao? Vì Bồ-tát quán các lậu là vô lậu, cho nên có thể vĩnh viễn ở nơi sinh tử, đồng các lậu như chúng sinh, há cho lậu tận mà khác với các lậu ư?

Chánh văn: Tuy hành bốn Tâm vô lượng mà chẳng tham đắm sinh về Phạm thiên là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Hạnh bốn Tâm vô lượng ứng sinh về cõi bốn Thiền, nay chỉ nói Phạm là vì chúng sinh tôn sùng Phạm thiên, nên nêu lên. Vả lại, bốn Thiền gọi chung là Phạm.

Chánh văn: Tuy hành thiền định, giải thoát Tammuội. Ngài La-thập nói:

- Thiền tức bốn Thiền, định tức bốn không, giải thoát tức tám Giải thoát, Tam-muội tức không, vô tướng, vô tác.

Chánh văn: Mà chẳng tùy thiền thọ sinh là hạnh Bồtát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Giữ nhân mà chẳng giữ quả, có thể cho là hạnh tự tại.

Chánh văn: Tuy hành bốn Niệm xứ mà vĩnh viễn chẳng lìa thân, thọ, tâm, pháp là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Tuy quán bốn pháp này, nhưng chẳng vĩnh viễn diệt độ mà thủ chứng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa quán thân, thọ, tâm, pháp, thì xa lìa mà thủ chứng, còn Bồ-tát tuy quán bốn pháp này mà chẳng vĩnh viễn xa lìa mà thủ chứng.

Chánh văn: Tuy hành bốn Chánh cần mà chẳng xả, thân tâm tinh tấn là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Tinh tấn tức bốn Chánh cần. Chẳng chấp thủ nên nói là xa lìa. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong pháp Tiểu thừa, thực hành bốn Chánh cần, khi công đức thành tựu thì xả bỏ mà vào vô vi. Bồ-tát tuy cũng đồng thực hành mà chẳng xả bỏ.

Chánh văn: Tuy hành bốn Như ý túc mà được tự tại Thần thông là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Tuy hiện tu tập Thần túc mà thật đã được Thần thông tự tại. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy đồng như Tiểu thừa tu tập Như ý túc, mà từ lâu đã đạt được thần thông tự tại của Đại thừa. Như ý tức là nhân của thần thông.

Chánh văn: Tuy hành năm Căn mà thường phân biệt các căn lợi độn của chúng sinh là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tiểu thừa chỉ tự tu các căn của chính mình chẳng biết căn của người. Bồ-tát tuy đồng tu như thế mà khéo biết căn của người, khiến ta và người thuận nhau.

Chánh văn: Tuy hành năm Lực mà cầu mười Lực của Phật là hạnh Bồ-tát, tuy hành bảy Giác chi mà phân biệt trí tuệ Phật là hạnh Bồ-tát, tuy hành tám Chánh đạo mà thích hành vô lượng Phật đạo là hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Tức nói rõ về việc tuy thị hiện thực hành các pháp cạn, thấp nhưng nội tâm thật đã vào được pháp sâu xa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy đồng tu hành các pháp Căn, Lực, Giác, Đạo như Thanh văn, nhưng chí hằng cầu hạnh Phật.

Chánh văn: Tuy hành pháp chỉ quán.

Ngài La-thập nói:

- Đầu tiên buộc tâm tại duyên gọi là chỉ. Chỉ tương ưng gọi là quán.

Chánh văn: Pháp trợ đạo mà rốt ráo chẳng đọa nơi Tịch diệt là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Buộc tâm nơi duyên gọi là chỉ, phân biệt đạt đến chỗ sâu xa gọi là quán; chỉ và quán là pháp yếu trợ giúp cho Niết-bàn. Bồ-tát vì thế mà thực hành, nhưng chẳng thuận theo để rồi rơi vào Niết-bàn.

Chánh văn: Tuy hành các pháp chẳng sinh chẳng diệt mà dùng tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu hạnh vô sinh diệt, vô tướng vốn là vì diệt tướng, mà trái lại dùng tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân.

Chánh văn: Tuy hành các oai nghi của Thanh văn và Bích-chi-Phật mà chẳng bỏ Phật pháp là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy hiện hành các oai nghi của Tiểu thừa mà chẳng bỏ pháp Đại thừa.

Chánh văn: Tuy tùy các pháp tướng rốt ráo thanh tịnh, mà tùy chỗ thích ứng để hiện thân, là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng rốt ráo thanh tịnh, theo lý thì không hình tướng, mà tùy sự thích hợp của chúng sinh, hiện biết bao nhiêu hình.

Chánh văn: Tuy quán các cõi Phật vĩnh viễn vắng lặng như hư không, mà thường hiện các cõi Phật thanh tịnh, là hạnh Bồ-tát

Ngài Tăng Triệu nói:

- "Không" thì chẳng hiện, nhưng vì chúng sinh mà hiện bày.

Chánh văn: Tuy được Phật đạo, chuyển pháp luân, vào Niết-bàn, nhưng chẳng bỏ đạo Bồ-tát là hạnh Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy hiện thành Phật, chuyển pháp luân, vào Niếtbàn, nhưng chẳng vĩnh viễn tịch diệt, trở lại sinh tử, tu pháp Bồ-tát như trên đã nêu, hàng Nhị thừa há có được năng lực ấy ư? Chỉ có hạnh Bồ-tát mà thôi.

Chánh văn: Khi nói những lời này, tám ngàn Thiên tử đi theo ngài Văn-thù đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.

QUYỂN 6

Phẩm 6: BẤT TƯ NGHỊ

Chánh văn: Lúc bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất thấy trong trượng thất của ông Duy-ma không có giường ngồi thì nghĩ rằng:

Ngài La-thập nói:

- Bậc Pháp thân Đại sĩ thì thân tâm chẳng mỏi mệt, còn thân của Thanh văn là thân kết nghiệp, tuy tâm ưa thích pháp thân, nhưng vẫn có sự mỏi mệt, nên khởi tưởng muốn nghỉ ngơi. Ngài Xá-lợi-phất là người cao tuổi trong hàng đệ tử, thân thể già suy, nên trước tiên khởi niệm này mà chẳng cần hiện dáng vẻ mỏi mệt. Vả lại, ông Duy-ma ắt thầm biết thân của ngài, nên chỉ nghĩ đến mà chẳng nói ra. Xét lời nói: "Các Đại nhân sẽ ngồi ở đâu?" ở sau, tựa như suy từ sự mỏi mệt của mình để xét biết thân của đại chúng, e rằng mọi người đều cần, nên phát khởi niệm.

Chánh văn: Các vị Bồ-tát và các đại đệ tử đây sẽ ngồi nơi đâu?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước dẹp bỏ các tòa, đợi khi cần đến, nên ngài Xálợi-phất khởi niệm cần.

Chánh văn: Trưởng giả Duy-ma-cật biết ý niệm của ông ấy, nên nói rằng: "Nhân giả vì pháp đến...." Ngài La-thập nói:

- Chẳng chê trách thẳng ý nghĩ mà lại hỏi, là vì muốn nêu sự suy nghĩ trái lý, tiến thoái đều rơi vào môn phụ (thất bại, thua).

Chánh văn: Hay vì giường ngồi mà đến?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ đặt một chiếc giường nằm dưỡng bệnh, yếu chỉ đã hiển tại đây. Ngài Xá-lợi-phất im lặng lãnh lấy huyền cơ, nên cùng với ông Duy-ma phát khởi đầu mối luận biện. Ông Tịnh Danh sắp luận về đạo không cầu, nên nhân việc này mà cật vấn ngài Xá-lợi-phất.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ý niệm cần tòa phát khởi tại tâm có mong cầu, có mong cầu thì trái với pháp, chẳng phải ý đến đây.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Tôi vì pháp đến, chẳng phải vì giường ngồi mà đến." Ông Duy-ma-cật nói: "Thưa ngài Xá-lợi-phất! Phàm người cầu pháp..." Ngài La-thập nói:

- Chẳng chấp thủ tướng của các pháp, theo lý thì hợp với pháp, gọi là cầu pháp. Nếu chấp tướng sinh tham trước, tâm trái pháp thì chẳng phải là cầu pháp.

Chánh văn: Chẳng tham tiếc thân mạng, huống gì là giường ngồi! Phàm người cầu pháp, chẳng phải từ sắc, thọ, tưởng, hành, thức mà cầu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân chánh cầu pháp là chẳng cầu pháp, huống là vật để an thân? Từ đây trở xuống là từ các pháp mà nói về nghĩa không cầu.

Chánh văn: Chẳng phải từ giới, nhập mà cầu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giới tức mười tám giới, nhập tức mười hai nhập. Chánh văn: Chẳng phải từ dục, sắc và vô sắc mà cầu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải cầu nơi ba cõi.

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Phàm người cầu pháp chẳng nên chấp Phật mà cầu, chẳng nên chấp Pháp mà cầu, chẳng nên chấp Tăng mà cầu. Người cầu pháp nên không thấy khổ mà cầu, không đoạn tập mà cầu, không chứng diệt mà cầu, không tu đạo mà cầu. Vì sao? Vì pháp không hý luận. Nếu nói ta thấy khổ, đoạn tập, chứng diệt, tu đạo thì đó là hý luận mà chẳng phải là cầu pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có cầu tức hý luận, hý luận thì chẳng phải cầu, vì thế biết chân thật cầu, tức không cầu.

Chánh văn: "Thưa ngài Xá-lợi-phất! Pháp gọi là tịch diệt, nếu hành sinh diệt, đó là cầu sinh diệt mà chẳng phải là cầu pháp. Pháp gọi là vô nhiễm, nếu nhiễm nơi pháp cho dù là pháp Niết-bàn, nhưng đó là nhiễm trước, chẳng phải cầu pháp. Pháp không có hành xứ, nếu hành nơi pháp, đó là hành xứ, chẳng phải là cầu pháp. Pháp không lấy bỏ, nếu lấy bỏ pháp, đó là lấy bỏ, chẳng phải là cầu pháp. Pháp không có xứ sở, nếu chấp có xứ sở, đó là chấp xứ sở, chẳng phải là cầu pháp. Pháp gọi là vô tướng, nếu theo tướng mà biết, đó là cầu tướng, chẳng phải là cầu pháp. Pháp chẳng thể trụ, nếu trụ nơi pháp, đó là trụ pháp, chẳng phải là cầu pháp. Pháp chẳng thể thấy, nghe, hay, biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu thức lược gọi bốn tên thì thấy, nghe (kiến, văn) là nhãn thức, nhĩ thức; nhận biết (giác) thuộc tỷ thức, thiệt thức và thân thức; biết (tri) thuộc ý thức.

Chánh văn: Nếu hành thấy, nghe, giác, biết tức thấy, nghe, giác, biết, chẳng phải là cầu pháp. Pháp gọi là vô vi, nếu hành hữu vi, là cầu hữu vi, chẳng phải là cầu pháp. Vì thế, thưa ngài Xá-lợi-phất! Nếu cầu pháp, nên đối với các pháp không có chỗ mong cầu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tướng như thế, sao có thể cầu được ư? Nếu muốn cầu, chỉ có không cầu mới chính là chân thật cầu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm cầu pháp tức chẳng phải cho là cầu, lấy không có các cầu để cầu pháp.

Chánh văn: Khi nói lời này xong thì năm trăm Thiên tử ở trong các pháp đạt được pháp nhãn tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức pháp nhãn tịnh của Đại thừa.

Chánh văn: Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: "Thưa nhân giả! Ngài đã đi khắp vô lượng ngàn muôn ức a-tăng-kỳ cõi nước, ngài thấy cõi nào có tòa Sư tử tốt đẹp bậc nhất do công đức tạo thành?"

Ngài La-thập nói:

- Tự biết mà còn hỏi, là muốn làm cho chúng hội tin tưởng. Mượn tòa cõi kia gồm hai nghĩa:

1. Muốn hiện tòa đặc biệt thù thắng do công đức trang nghiêm thanh tịnh tạo thành của chư Phật, hầu khiến cho chí nguyện các Bồ-tát mới tu tập thêm sâu xa.

2. Muốn nhân nơi dấu tích đi, về mà khiến việc giáo hóa của hai cõi lưu thông.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đại sĩ Văn-thù du hóa khắp nơi, ắt thấy được tòa ngồi thù thắng ở các cõi, ngài Tịnh Danh muốn chúng sinh đương thời đều pháp tâm kính tín, nên trước hỏi rồi sau mới lấy về, hiển thị đúng là có việc ấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước hỏi là muốn chỉ rõ, sau đem về là hiện việc thật.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói rằng: "Cư sĩ! Cách đây ba mươi sáu hằng hà sa cõi Phật về phương Đông có một thế giới tên là Tu-di tướng, Đức Phật hiệu Tu-di Đăng Vương vẫn còn trụ thế. Thân Đức Phật ấy cao tám mươi bốn ngàn do-tuần.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Do-tuần tức là tên gọi số dặm của Thiên Trúc. Thượng do-tuần là sáu mươi dặm, trung do-tuần là năm mươi dặm, hạ do-tuần là bốn mươi dặm.

Chánh văn: Tòa Sư tử của ngài cao tám mươi bốn ngàn do-tuần trang nghiêm bậc nhất. Bấy giờ, Trưởng giả Duy-ma-cật hiện sức thần thông, tức thời đức Phật kia liền chuyển ba mươi hai ngàn tòa Sư tử cao, rộng, trang nghiêm, thanh tịnh vào trượng thất của ông Duyma.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh tuy dùng thần lực đến kia lấy về, nhưng ví như Đức Phật chẳng chuyển thì cũng chẳng làm sao đặt vào trượng thất được.

Chánh văn: Các Bồ-tát, các Đại đệ tử, Đế thích, Phạm thiên đều thấy được việc từ xưa chưa từng thấy. Trượng thất ông Duy-ma-cật trở nên rộng lớn, dung chứa cả ba mươi hai ngàn tòa Sư tử mà không ngăn ngại, thành Tỳ-da-ly và bốn thiên hạ ở cõi Diêm-phù-đề cũng không bị ép chật, tất cả đều thấy như cũ. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật thỉnh ngài Văn-thù-sư-lợi và các Đại Bồtát thượng nhân lên tòa, nhưng phải hiện bằng tòa thì mới được. Tức thời các vị Bồ-tát đã được thần thông tự biến thân hình cao bốn mươi hai ngàn do-tuần, ngồi vào tòa Sư tử. Còn các Bồ-tát mới phát tâm và các Đại đệ tử đều không thể lên được. Lúc đó ông Duy-ma-cật mời ngài Xá-lợi-phất lên tòa. Ngài Xá-lợi-phất nói: "Thưa

Cư sĩ! Tòa này cao rộng quá, tôi không lên được." Ngài La-thập nói:

- Do thần lực của ông Duy-ma chế ngự, khiến chúng hội biết được sự hơn kém của Đại, Tiểu thừa xa cách như thế. Cũng có thể nói rằng tòa công đức của Phật, thì hàng vô đức chẳng thể lên, theo lý tự rõ biết, chứ chẳng phải do chế ngự.

Chánh văn: Duy-ma-cật nói: "Thưa ngài Xá-lợiphất! Phải đảnh lễ Đức Phật Tu-di Đăng Vương mới lên được!" Bấy giờ, các Bồ-tát mới phát tâm và các Đại đệ tử liền đảnh lễ Đức Phật Tu-di Đăng Vương, thì được ngồi vào tòa Sư tử. Ngài Xá-lợi-phất nói: "Thưa Cư sĩ! Thật là chưa từng có, trượng thất nhỏ mà dung chứa được tòa cao rộng này, lại thành Tỳ-da-ly không bị ngăn ngại, các làng xóm, thành ấp, cùng những cung điện của chư Thiên, Long Vương, Quỉ thần trong bốn thiên hạ ở cõi Diêm-phù-đề cũng không bị ép chật. Ông Duy-macật nói: "Thưa ngài Xá-lợi-phất! Chư Phật và Bồ-tát có môn giải thoát tên là Bất khả tư nghị." Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm nếu có tích Bất tư nghị hiển bên ngoài, ắt có đức bất tư nghị bên trong. Nếu tìm lại gốc của nó thì đó chỉ là quyền trí mà thôi. Thế thì, trí không tối tăm nào mà chẳng chiếu đến, quyền không đức nào mà chẳng tu. Không tối tăm nào chẳng chiếu nên lý không đâu chẳng cùng tột; không đức nào chẳng tu, nên công không đâu chẳng thành tựu. Công thành tựu ở nơi chẳng thành tựu, nên lấy một để thành lập; lý cùng tột tồn tại nơi chẳng cùng tột, nên lấy rỗng rang để thông thấu. Vì thế trí bao trùm vạn vật mà không chiếu, quyền tích tụ các đức mà chẳng có công, lặng lẽ không làm mà không gì chẳng làm, đây là chỗ cùng cực của Bất tư nghị. Lớn nhỏ dung chứa nhau, khác hình đều ứng hợp, đây là dấu tích thô ở nơi tai mắt, đâu đáng để nói đến ư? Nhưng nhân nơi ngọn để chỉ ra gốc, nhờ nơi thô để hiển thị chỗ vi tế, cho nên nhân nơi việc mượn tòa để lược hiển thị việc ấy. Kinh này đầu tiên từ Tịnh độ đến cuối cùng là pháp Cúng dường, trong đó đạo Đại thừa được nói đến, tất cả đều là pháp Bất tư nghị. Vì thế phẩm Chúc Lụy ghi: "Kinh này tên là Pháp môn Giải thoát bất tư nghị, nên phụng trì." Phẩm này nhân nơi dấu tích hiện bên ngoài mà đặt tên. Giải thoát tức tâm pháp tự tại. Đạt được sự giải thoát này thì phàm các việc làm, trong ngoài đều ứng hợp, tự tại vô ngại, đây chẳng phải là điều mà Nhị thừa có thể nghĩ bàn. Hàng Pháp thân Bồ-tát trụ Địa thứ bảy trở lên mới đạt được giải thoát này.

Bản khác ghi: Thần túc, Tam-muội, Giải thoát.

Ngài La-thập ghi: Cả ba đồng thể mà khác tên. Phàm muốn làm mà chẳng có khả năng thì bị trói buộc. Ứng niệm tức thành giải thoát, không đâu không có khả năng là giải thoát. Năng lực như thế mà chẳng biết vì sao như thế, nên gọi là Bất tư nghị.

Chánh văn: Nếu Bồ-tát trụ ở giải thoát này thì có thể nhét núi Tu-di to lớn vào hạt cải mà không thêm bớt, bản tướng của Tu-di sơn vương vẫn như cũ.

Ngài La-thập nói:

- Tu-di là đất tinh diệu, đây là địa đại. Sau nói nước, lửa, gió, đất là bốn đại. Người mê hoặc cho rằng bốn đại có thần cũng cho rằng rất lớn, thường hằng. Nay dùng đạo lực chế phục là để nói chẳng có thần. Nhét vào hạt cải là nói chẳng lớn. Lớn nhỏ dung hợp nhau, vật không một thể nhất định là nói bốn đại đều chẳng thường. Đây đều là phá sự chấp trước, thông sự ngăn trệ để trừ khử thói quen, khiến có đường trở về tông chỉ.

Chánh văn: Mà chư Thiên cõi Trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương chẳng biết chẳng hay mình đã được đưa vào đó. Chỉ có người được độ mới thấy núi Tu-di nhét vào hạt cải. Đó là pháp môn Giải thoát bất tư nghị. Lại cho nước bốn biển lớn vào lỗ chân lông mà các loài thủy tộc như cá trạnh, thuồng luồng không bị khuấy động, bản tướng của biển vẫn y như cũ. Các loài Quỉ, Thần, A-tu-la... không biết mình đã vào đó, các loài chúng sinh này cũng không bị loạn động. Thưa ngài Xá-lợi-phất, Bồ-tát trụ ở môn giải thoát Bất tư nghị này, cắt lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới nhanh như bánh xe quay của người thợ gốm, rồi đặt vào bàn tay phải ném qua khỏi những thế giới nhiều như số cát sông Hằng, mà chúng sinh trong đó không hay không biết mình đã đi đâu, rồi đem thế giới ấy đặt vào chỗ cũ, chúng sinh vẫn không tưởng rằng mình có qua lại, bản tướng thế giới này vẫn như cũ. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Hoặc có chúng sinh nào thích ở lâu nơi thế gian mà có thể độ được, thì Bồ-tát kéo dài bảy ngày thành một kiếp.

Ngài La-thập nói:

- Người mê hoặc cũng cho rằng: "Thời gian là pháp thường, nên khiến dài ngắn thay đổi để hiển thị chẳng thường."

Chánh văn: Làm cho các chúng sinh ấy tưởng là một kiếp. Hoặc có chúng sinh chẳng thích ở lâu nơi thế gian mà có thể độ được, Bồ-tát lại rút ngắn một kiếp còn bảy ngày, khiến chúng sinh kia cho là bảy ngày. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Bồ-tát trụ ở pháp môn Giải thoát bất tư nghị có thể gom hết tất cả việc trang nghiêm của các cõi Phật chỉ bày cho chúng sinh. Bồ-tát đặt tất cả chúng sinh trong một cõi Phật vào lòng bàn tay phải của mình, bay qua mười phương, chỉ bày tất cả, mà chẳng làm bản xứ lay động. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Những phẩm vật cúng dường chư Phật của chúng sinh trong mười phương, Bồtát đều khiến cho tất cả đều hiện trong một lỗ chân lông. Lại tất cả mặt trời, mặt trăng, các vì sao trong mười phương cõi nước, Bồ-tát cũng làm cho tất cả đều hiện trong một lỗ chân lông. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Gió ở mười phương thế giới, Bồ-tát đều hút vào miệng mà thân không hề bị tổn hại, các cây cối bên ngoài cũng không bị xiêu ngã, gãy đổ. Lại khi lửa ở kiếp tận thiêu đốt mười phương thế giới, Bồ-tát hút hết lửa vào bụng, lửa vẫn cháy mà không làm hại thân. Lại từ các cõi Phật cách đây hơn hằng hà sa cõi nước về phương dưới, lấy một cõi Phật đặt lên phương trên cách hằng hà sa thế giới nhẹ nhàng như cầm một cây kim nâng một lá táo, không làm nhiễu loạn. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Bồ-tát trụ ở môn Giải thoát bất tư nghị này có thể dùng Thần thông hiện làm thân Phật, thân Bích-chi-Phật, thân Thanh văn, thân Đế Thích, thân Phạm vương, thân Thế chủ, thân Chuyển luân vương. Các âm thanh lớn, vừa, nhỏ trong các cõi nước ở mười phương đều biến thành âm thanh Phật diễn nói các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã và các pháp mà chư Phật trong mười phương đã nói, khiến cho tất cả đều được nghe. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Nay tôi chỉ nói lược qua thần lực Giải thoát bất tư nghị của Bồ-tát, nếu nói rộng ra, thì cùng kiếp cũng không thể nói hết. Bấy giờ, ngài Đại Ca-diếp nghe nói pháp môn Giải thoát bất tư nghị của Bồ-tát, liền ngợi khen là điều chưa từng có và nói với ngài Xá-lợi-phất rằng: "Như có người bày các sắc tướng trước người mù, người mù chẳng thể thấy được; nay tất cả Thanh văn nghe pháp môn Giải thoát bất tư nghị này thì cũng không thể hiểu được. Còn người trí, ai nghe được mà chẳng phát tâm Vô thượng Bồ-đề? Tại sao chúng ta tuyệt mất căn lành ấy, thành hạt giống hư thối trong pháp Đại thừa? Tất cả Thanh văn nghe pháp môn Giải thoát bất tư nghị này thì đều kêu gào khóc lóc, chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỗ sai trái rất nặng, nên tạm nói là kêu gào khóc lóc. Hàng Nhị thừa sầu bi vĩnh viễn trừ diệt, khóc ít còn chẳng có, hà huống chấn động tam thiên!

Chánh văn: Các Bồ-tát thì vui mừng kính tin thọ nhận pháp ấy. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Ca-diếp muốn nói sự khác biệt của Đại, Tiểu thừa, khen chê nghe nhận đúng thời, cho nên nói người chẳng có phần thì dẫn đến khóc lóc tuyệt vọng, người đã có phần thì nên vui mừng vâng lãnh.

Chánh văn: Nếu có Bồ-tát nào tin hiểu pháp môn Giải thoát bất tư nghị này, thì các ma không thể làm gì được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ tin hiểu mà ma chẳng thể khuấy động, hà huống gì người thực hành ứng hợp.

Chánh văn: Ngài Đại Ca-diếp nói lời này xong, ba mươi hai ngàn Thiên tử phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nói với ngài Đại Ca-diếp: "Thưa nhân giả! Tất cả những vị làm Ma vương trong vô lượng a-tăng-kỳ cõi nước ở mười phương, phần nhiều là các

Bồ-tát trụ ở pháp môn Giải thoát bất tư nghị, vì muốn dùng sức phương tiện giáo hóa chúng sinh nên hiện làm

Ma vương

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân ngài Ca-diếp nói người tin hiểu pháp bất tư nghị này thì ma chẳng thể nhiễu loạn, mà mười phương cũng có các Bồ-tát tin hiểu bị ma nhiễu loạn; đó là muốn nói các việc làm tự tại của Bồ-tát trụ ở bất tư nghị sách tấn người mới học, cho nên hiện làm Ma vương, chứ chẳng phải năng lực của Ma vương. Ở đây nói về Bất tư nghị cũng là để thành tựu cho ý của ngài Ca-diếp.

Chánh văn: Thưa ngài Ca-diếp! Vô lượng Bồ-tát trong mười phương, hoặc có người đến xin tay chân, tai mũi, đầu mắt, tủy não, máu thịt, da xương, xóm làng, thành ấp, vợ con, nô tỳ, voi ngựa, xe cộ, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu, đồi mồi, áo quần, thức uống, ăn, người đến xin này là Bồ-tát trụ ở pháp môn Giải thoát bất tư nghị dùng sức phương tiện đến thử thách để đạo tâm vị Bồ-tát kia thêm bền vững.

Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát có kết nghiệp đối với Bố thí ba-la-mật sắp thành tựu nhưng chưa được rốt ráo, nên Bồ-tát trụ ở Bất tư nghì đến cưỡng bức cầu xin, khiến xa lìa hoàn toàn tâm tham tiếc, cùng tột kiên cố. Lại cũng khiến cho chúng sinh biết tâm kiên cố đó, và cũng khiến Bồ-tát tự biết tâm kiên cố của mình.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm thử thách phát xuất từ nơi người chưa có phần, còn bậc Đại sĩ trụ Bất tư nghị, thần thông đã đầy đủ, có thể thấy được căn cơ của người, đâu có gì gọi là thử thách? Nhưng muốn tâm kia kiên cố, nên chẳng cần mà đến xin. Chẳng cần mà xin thì đồng với hành tích của ma đến thử thách, vì thế mà dùng từ thử thách, chứ đâu phải đợi thử thách rồi sau mới biết ư?

Chánh văn: Vì sao? Vì Bồ-tát trụ ở Bất tư nghị giải thoát có oai đức mạnh mẽ, nên có thể thực hành việc bức bách như thế, hầu chỉ cho các chúng sinh những việc khó làm. Còn kẻ phàm phu thấp kém không có thế lực lớn thì chẳng thể bức ngặt Bồ-tát được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cắt tay chân của người, chia lìa vợ con của người, cưỡng xin quốc thành, tài vật, làm cho người sầu bi; thì tuy có gây cho người một ít đau khổ trước mắt, nhưng mai sau họ sẽ vĩnh viễn hưởng kiếp an lạc.

Đó là do quán rõ được căn cơ của người, nặng nhẹ đều có cân nhắc. Người thấy gần mà chẳng đạt được ích lợi xa thì chẳng thể làm được việc này.

Chánh văn: Ví như loài long tượng dày đạp thì lừa ngựa chẳng thể chịu đựng nổi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lấy có khả năng và không khả năng để dụ. Voi mạnh nhất trong loài voi gọi là long tượng.

Chánh văn: Đó gọi là môn trí tuệ và phương tiện của hàng Bồ-tát trụ ở Bất tư nghị giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí tuệ là thông đạt được chỗ sâu xa, phương tiện là dẫn dắt chỉ dạy những điều gần gũi. Vì thế mà hình tích sai biệt hiển hiện, các loài được thành tựu. Chúng sinh không loại nào chẳng từ đây, nhưng chẳng thể suy lường được, cho nên hai môn quyền, trí là bản bất tư nghị.

--------------------------------

Phẩm 7: QUÁN CHÚNG SANH

Chánh văn: Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy-ma-cật rằng: "Bồ-tát phải quán chúng sinh như thế nào?"

Ngài La-thập nói:

- Nếu chúng sinh có tướng nhất định chân thật, thì Bồ-tát trụ ở Bất tư nghị chẳng cần phải thực hành sự bức bách để khiến họ thọ khổ. Vì chẳng phải chân thật, và dễ thành tựu, nên mới hành việc bức bách làm khổ não. Vả lại, Phật pháp có hai loại là hữu và không. Nếu thường tại hữu thì trói buộc nơi tưởng chấp, nếu thường tại không thì xả bỏ gốc thiện. Nếu không hữu thay nhau sử dụng thì chẳng phạm hai lỗi. Giống như mặt trời, mặt trăng thay nhau chiếu soi mà vạn vật sinh trưởng. Trên đã nói hữu, ở đây lại nói về không. Quán chúng sinh là như thế. Chúng sinh, thần chủ và ngã chỉ là một nghĩa. Như người ngu si đi trên đường thấy và nhặt được một chiếc hòm bỏ rơi, bên trong có một chiếc hòm. Mở chiếc hòm ra, nhìn vào gương tự thấy hình của mình, liền cho rằng đó là chủ của chiếc gương, nên cúi đầu cám ơn rồi bỏ đó mà đi. Chúng sinh nhìn vào chiếc gương quý trong Phật pháp tạng, bèn giữ lấy tướng, chấp ngã rồi xả bỏ mà đi cũng giống như thế. Lại nữa, cũng như một người mù đi trên đường gặp phải một vị Vương tử, liền ôm chặt lấy vị ấy, trong chốc lát những hộ vệ trong vương cung đến đánh đập khổ sở đau đớn, bức ép buông ra thì mới chịu buông. Như chúng sinh tà kiến, nơi phi ngã thấy là ngã, khi vô thường khổ đến, tuỳ duyên tan hoại rồi mới biết là phi ngã, thì cũng như thế. Như mây nổi trong hư không, bỗng chốc liền không.

Dùng lòng Từ chân thật quán các pháp không, là chân thật tuệ, trong chân thật tuệ sinh vô duyên từ gọi là chân từ. Cũng ở nơi từ là gốc vì chúng sanh mà thuyết pháp chân thật gọi là chân từ, lấy từ làm gốc, mà thực hành các hạnh như bố thí... làm tên hoặc lấy tự tánh làm tên, hoặc lấy sở nhân làm tên. Từ đây trở xuống theo dụ có thể tự biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thương xót Bồ-tát có bệnh, pháp quán tự điều phục, những lời nói vi diệu, hay yếu chỉ sâu xa đều đã trình bày đầy đủ ở văn trên. Nhưng pháp tướng rỗng rang, chẳng phải là chỗ thấy của hữu tâm; chân quán thì vắng lặng, chẳng phải là điều mà lời nói có thể luận bàn. Nhưng nói chẳng chứng Niết-bàn, đồng bệnh với chúng sinh, lại hiện bất tư nghì, mà dấu tích lại không đầu mối, hoặc hiện làm ma vương bức bách người mới học, tất cả những điều đó đều là việc làm của bậc Đại sĩ tự điều phục. Quán tự điều phục thì người ta đều không. Nhưng lấy việc ấy làm dụ thì càng rộng lớn thêm. Đến như khiến cho người cầu tông chỉ, hoặc rốt ráo quên lời. Nếu còn chấp ta người thì tăng thêm kiến chấp chúng sinh. Vì thế đạo vô ngôn thật khó mà dùng ngôn từ. Lấy gần mà thành lập các dụ, xa thì dụ cho chân quán. Vì trừ dẹp những phiền lụy về chấp trước ngôn từ của người đương thời, cho nên có câu hỏi này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trên nói Bất tư nghị là hành tích ứng hiện, hóa độ chúng sinh, ứng hiện vô cùng nên tựa như có tình đối với chúng sinh, có tình đối với chúng sinh, thì chẳng thể giáo hóa, cho nên mới lập câu hỏi này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: "Ví như nhà huyễn thuật nhìn người huyễn do mình tạo ra, Bồ-tát quán chúng sinh cũng như thế." Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhà huyễn thuật nhìn người huyễn biết chẳng thật.

Bậc Đại sĩ quán chúng sinh cũng như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng phải không có người huyễn, nhưng không phải người thật. Nếu đã không phải người thật, thì biết được người huyễn cũng không thật. Người huyễn đã không thật, há chỉ có chúng sinh là thật sao?

Chánh văn: Như người trí thấy bóng trăng trong nước, như thấy mặt mày hình ảnh của mình trong gương, như sóng nắng hiện khi trời nóng, như vang của âm thanh, như mây nổi trên không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở xa thì thấy có hình, đến gần thì hoàn toàn không.

Chánh văn: Như bọt tụ, như bóng nổi trên mặt nước, như cây chuối bền chắc, như sự dừng lâu của ánh chớp, như đại thứ năm, như ấm thứ sáu, như căn thứ bảy, như nhập thứ mười ba, như giới thứ mười chín.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có số nhất định.

Chánh văn: Bồ-tát quán chúng sinh cũng như thế. Như sắc ở cõi Vô sắc, như mầm của hạt giống hư, như thân kiến của Tu-đà-hoàn, như sự nhập thai của A-nahàm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc A-na-hàm tuy có tạm thoái tâm, nhưng chẳng còn sinh.

Chánh văn: Như ba độc của A-la-hán. Ngài La-thập nói:

- Trong pháp Đại thừa thì nói chung ngoài ba cõi, nhưng rất nhỏ nhiệm.

Chánh văn: Như sự tham giận phá giới của Bồ-tát đã được Vô sinh nhẫn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy được vô sinh nhẫn, tâm kết sử vĩnh viễn trừ diệt, huống gì có việc hủy giới cấm thô nặng ư?

Chánh văn: Như phiền não tập khí của Phật. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ có Như Lai mới diệt hết các phiền não kết sử.

Chánh văn: Như việc thấy sắc của người mù, như hơi thở ra vào của người nhập diệt hết định.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm xao động ở bên trong, hơi thở ra vào ở bên ngoài, tâm tưởng đã diệt nên không còn hơi thở ra vào.

Chánh văn: Như dấu chân chim trong hư không, như cảnh mộng khi đã thức, như người đã diệt độ thọ thân, như con của thạch nữ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có ai đã nhập Niết-bàn mà còn thọ thân.

Chánh văn: Như lửa không khói.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lửa cháy ắt nhân nơi vật chất.

Chánh văn: Bồ-tát quán chúng sinh cũng như thế. Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: "Nếu Bồ-tát quán chúng như thế, thì làm thế nào để thực hành tâm Từ?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ thì lấy chúng sinh làm duyên, nếu không có chúng sinh, thì từ sẽ lấy gì nương gá? Đây là muốn nói chân từ vô duyên mà không lìa nhân duyên, để thành tựu nghĩa chân từ vô tướng ở trên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã ngộ được chúng sinh chẳng thật, ắt là tự có đủ tâm cứu vật, thế thì đã có tâm từ, nhưng lại tựa như không có từ trong đó, cho nên mới hỏi câu này.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật đáp: "Bồ-tát quán thế rồi tự nghĩ rằng: Ta phải vì chúng sinh mà nói pháp ấy." Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý thường sáng tỏ như thế mà chúng sinh vĩnh kiếp trái nghịch. Bồ-tát đã ngộ được lý này, chẳng thể không chỉ bày ư? Đây là nhờ vào ý quán tưởng để lập niệm, chứ chẳng phải thật niệm (suy nghĩ).

Chánh văn: Tức là tâm Từ chân thật. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh vốn không mà chẳng thể tự giác, nên mới thuyết pháp ấy, làm cho họ tự ngộ; há có ta, người ư? Nếu có thể quán chúng sinh không thì tâm hành cũng không. Dùng tâm không này mà thực hành tâm Từ ở nơi không, thì đó là tâm Từ chân thật vô tướng. Nếu có tâm nơi chúng sinh mà hành Từ, thì đây là tâm Từ hư dối, đâu đủ để nói đến?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ắt có thể chân thật cứu giúp, chứ chẳng phải suy nghĩ luống suông mà thôi đâu?

Chánh văn: Thực hành lòng Từ tịch diệt, vì không sinh.

Ngài La-thập nói:

- Biết các pháp tịch diệt vô sinh, nhân đó mà sinh tâm Từ thì chẳng mất tịch diệt, nên lấy tịch diệt làm tên. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn hạnh được các Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy thực hành sau khi đã đắc Vô sinh nhẫn đều vô tướng vô duyên, đồng thể với không sinh không phân biệt. Chân từ vô duyên lại không có tâm tướng, tâm tướng đã không thì rỗng rang vắng lặng, chưa từng chẳng có từ mà chưa từng có từ. Cho nên nói hành tâm Từ tịch diệt, vì không sinh. Từ đây trở xuống là nói về hạnh từ vô tướng để thành tựu nghĩa chân thật. Tên các hành tuy khác mà đều khởi từ nơi Thể của Từ, nên đều lấy Từ làm tên.

Ngài Đạo Sinh nói:

Muốn quán chúng sinh như huyễn mà thuyết, đó là tâm Từ như huyễn, luận chung có thể cho là không tâm Từ nào chẳng như thế, cho nên y cứ theo đó đặt tên, chẳng nói gì khác. Như huyễn đã luận ở trước, nên không giải thích. Dưới đã không luận thì chẳng lẻ không giải thích sao?

Chánh văn: Hành tâm Từ chẳng nóng, vì không có phiền não. Ngài Tăng Triệu nói:

- Phiền não phát khởi từ ái kiến, tâm Từ không có ái kiến nên không nóng bức.

Chánh văn: Hành tâm Từ bình đẳng, vì ba thời bình đẳng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm từ đầy đủ nơi ba thời, mà chẳng thấy ba thời khác nhau.

Chánh văn: Hành tâm Từ không tranh cãi vì không có gì để khởi.

Ngài La-thập nói:

- Thấy pháp có khởi thì có tranh cạnh với pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Người và ta đều không, tranh tụng nào khởi được? Chánh văn: Hành tâm Từ chẳng hai, vì trong ngoài chẳng hợp. Ngài La-thập nói:

- Trong ngoài tức các nhập trong và ngoài. Trong ngoài là hai, đối đãi nhau mà hợp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ bên trong, duyên bên ngoài đều không, chẳng có hợp.

Chánh văn: Hành tâm Từ chẳng hoại, vì rốt ráo tận diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân từ vô duyên thì tướng từ vĩnh viễn không còn, có vật nào mà có thể phá hoại?

Chánh văn: Hành tâm Từ kiên cố, vì tâm không hủy hoại được. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói ngoại cảnh không thể phá, ở đây thì nói nội tâm chẳng thể tự hủy hoại.

Chánh văn: Hành tâm Từ thanh tịnh, vì pháp tánh tịnh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân Từ không có tướng, thanh tịnh đồng như pháp tánh.

Chánh văn: Hành tâm Từ vô biên, vì như hư không. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô tâm nơi che phủ, mà tâm không đâu chẳng che phủ.

Chánh văn: Hành tâm Từ A-la-hán, vì phá giặc kết sử. Ngài La-thập nói:

- A-la-hán, Hán dịch là Sát kết sử tặc. Đây là từ việc trừ bỏ kết sử sinh, nên đặt tên như thế, cũng có thể nói lấy khả năng trừ bỏ kết sử, mà đặt tên gọi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- A-la-hán, Hán dịch là Phá kiết tặc. Các phiền não kết sử như tật đố, sân khuể, tà nghi đều do Từ mà diệt hết, nên gọi là A-la-hán.

Chánh văn: Hành tâm Từ Bồ-tát, vì luôn an ổn cho chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Danh xưng Bồ-tát là do làm an ổn chúng sinh, tâm Từ làm an ổn chúng sinh, nên gọi là Bồ-tát.

Chánh văn: Hành tâm Từ Như Lai, vì đạt được tướng Như. Ngài Tăng Triệu nói:

- Danh xưng là Như Lai là do được tướng Như, tâm Từ thuận với tướng Như, nên gọi là Như Lai.

Chánh văn: Hành tâm Từ Phật, vì biết rõ chúng sinh. Ngài La-thập nói:

- Quần sinh mãi say ngủ, Bồ-tát cảnh tỉnh họ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tự giác và giác tha là Phật. Tâm Từ đã ngộ, lại có thể giác ngộ cho người nên gọi là Phật.

Chánh văn: Hành tâm Từ tự nhiên, vì không có nhân mà được.

Ngài La-thập nói:

- Không nhân tức tự nhiên, tự nhiên là nghĩa vô sư. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo Đại thừa không có thầy (vô sư) mà thành, nên gọi là tự nhiên. Tâm Từ chân thật của Bồ-tát cũng không có nhân mà thành tựu, nên gọi là tự nhiên.

Chánh văn: Hành tâm Từ Bồ-đề, vì bình đẳng một vị.

Ngài La-thập nói:

- Chỉ có Bồ-đề của chư Phật mới có thể thấu suốt được một tướng, một vị của tất cả pháp. Nay trong sự thấu suốt vô tướng mà sinh tâm Từ, nên đồng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo vô tướng bình đẳng một vị tức là Bồ-đề. Chân Từ vô tướng cũng bình đẳng một vị, nên gọi là Bồ-đề.

Chánh văn: Hành tâm Từ vô đẳng, vì đoạn dứt các ái. Ngài La-thập nói:

- Phàm phu có ái kết mà hành Từ, thì có sánh bằng, đã đoạn trừ các ái mà hành Từ, thì không gì có thể sánh bằng (vô đẳng).

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Nhị thừa và Bồ-tát trụ Địa thứ sáu trở về trước, đều vì yêu mến chúng sinh mà khởi tâm từ; nếu không có tâm (ái) yêu thương người mà khởi Từ, thì lòng Từ này mới siêu tuyệt, nên gọi là vô đẳng.

Chánh văn: Hành tâm Từ đại Bi, vì dùng Đại thừa dẫn dắt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cứu thoát khổ nạn mà dùng đạo Đại thừa dẫn dắt người là năng lực của đại Bi. Từ là muốn người an vui, cũng dùng Đại thừa dẫn dắt, nên gọi là đại Bi.

Chánh văn: Hành tâm Từ không nhàm chán, vì quán không, vô ngã.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm nhàm chán mỏi mệt phát khởi là do chấp ngã, nên tâm đã không, vô ngã mà hành Từ, thì đồng đi đến cuối cùng với sinh tử mà không nhàm chán mỏi mệt.

Chánh văn: Hành tâm Từ pháp thí, vì không hối tiếc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã đạt tâm Từ chân thật, mà còn hối tiếc pháp tài, nên gọi là Pháp thí.

Chánh văn: Hành tâm Từ trì giới, vì giáo hóa người phá giới.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà còn giết người, trộm cắp, chẳng giáo hóa người, nên gọi là trì giới.

Chánh văn: Hành tâm Từ nhẫn nhục, vì hộ trì mình và người. Ngài La-thập nói:

- Nếu thường hành nhẫn nhục, thì bên trong chẳng phiền não, bên ngoài chẳng làm thương tổn người, nên nói là hộ trì ta và người. Chữ hành trước chữ Từ trong bản tiếng Phạm không có ghi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà chẳng hộ trì ta và người để dẫn đến tranh tụng. Nên có thể gọi là nhẫn nhục.

Chánh văn: Hành tâm Từ tinh tấn, vì luôn gánh vác chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà không gánh vác chúng sinh, nên có thể gọi là tinh tấn.

Chánh văn: Hành tâm Từ thiền định, vì chẳng thọ các vị. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật, mà còn loạn tâm thọ vị năm dục, cho nên có thể gọi là thiền định. Chánh văn: Hành tâm Từ trí tuệ, vì đều biết đúng thời. Ngài La-thập nói:

- Hạnh chưa đầy đủ mà mong cầu quả vị gọi là chẳng biết đúng thời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà hành chẳng đúng thời, nên gọi là trí tuệ.

Chánh văn: Hành tâm Từ phương tiện, vì tất cả đều thị hiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà chẳng dùng quyền biến để ứng hiện khắp cả, nên gọi là phương tiện.

Chánh văn: Hành tâm Từ không che giấu, vì tâm ngay thẳng thanh tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Có tâm ngay thẳng chân thật, khi có tội ắt sám hối, chẳng che giấu tội lỗi, đây là khẩu nghiệp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà tâm còn che giấu, chẳng thanh tịnh, nên có thể gọi là không che giấu.

Chánh văn: Hành tâm Từ thâm tâm, vì không có hạnh xen tạp.

Ngài La-thập nói:

- Trong trực tâm còn có kết sử phiền não, nay vào sâu trong Phật pháp, thì sẽ không còn các ý tưởng tạp loạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà còn xen lẫn các hạnh cạn mỏng khác, nên có thể gọi là thâm tâm. Chánh văn: Thực hành tâm Từ không dối gạt, vì chẳng hư giả. Ngài La-thập nói:

- Thân nghiệp chân chánh, chẳng dối gạt người. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà còn giả dối không thật, nên có thể gọi là không dối.

Chánh văn: Hành tâm Từ an lạc, vì khiến cho được niềm vui Phật.

Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi là trụ Niết-bàn an lạc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc đã được tâm Từ chân thật mà chẳng làm cho ta và người được niềm vui Phật, nên gọi là an lạc.

Chánh văn: Tâm từ của Bồ-tát là như thế. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các tên gọi từ trên đến đây đều là tâm Từ chân thật, thể của nó tự có năng lực như thế, nên lấy đó làm tên, mà chẳng nhờ vào các hạnh khác ở bên ngoài làm tên gọi. Chân từ như thế, há có chúng sinh kiến ư?

Chánh văn: Ngài Văn-thù Sư Lợi lại hỏi rằng: "Thế nào là Bi?" Đáp rằng: "Bồ-tát tạo được công đức gì đều ban cho chúng sinh cùng hưởng." Ngài La-thập nói:

- Công đức và quả báo của công đức đều ban cho chúng sinh. Dùng sự bố thí này để cứu khổ chúng sinh. Ba đẳng đều y cứ vào thí để nói về đẳng. Nếu nói đầy đủ thì cũng như đã nói về Từ đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân nơi quán mà hỏi về từ, giải thích đủ bốn đẳng. Xót thương chúng sinh dài lâu chịu khổ, chẳng tự dùng thân tích tụ các công đức, nên nguyện cùng tất cả, trước là người sau là mình đều hành đại Bi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm muốn cứu khổ, cần phải xả bỏ niềm vui của mình để cứu giúp chúng sinh, đó mới là tâm bi chân thật. Chánh văn: Thế nào là Hỷ? Đáp: Tất cả những việc làm lợi ích đều hoan hỷ, không hối tiếc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mình đạt được lợi ích về pháp thì đồng hoan hỷ với mọi người, ta và người đều được niềm vui pháp, đó gọi là Hỷ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ bi đã làm lợi ích cho người, thì chỉ hoan hỷ mà không hối tiếc, đó mới là chân thật hỷ.

Chánh văn: Thế nào là Xả? Đáp: Các phước đức đã làm.

Ngài La-thập nói:

- Cũng từ bố thí mà luận về bình đẳng.

Chánh văn: Không mong cầu. Ngài La-thập nói:

- Hiện đời thì chẳng cầu người mang ân, vị lai thì chẳng cần báo đáp. Hàng Thanh văn hành bốn Đẳng, chưa thật ích lợi cho chúng sinh, Bồ-tát thực hành bốn Đẳng đã chân thật làm lợi ích cho chúng sinh, nên bốn Đẳng đều gọi là đại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đại Bi là hạnh khổ, sự lo buồn sinh nơi đây; Từ và Hỷ là hạnh vui, sự vui thích sinh từ đây, vui buồn đã có thì yêu ghét liền khởi. Vì thế hành giả cần phải xả khổ vui mà thực hành bình đẳng quán chúng sinh. Việc chánh Xả của Đại thừa thì hạnh và báo đều dứt, nên không có tâm mong cầu. Ba đẳng đều vô tướng vô duyên, đồng hạnh với Từ. Hạnh Từ đã đầy đủ, thì so sánh có thể tự biết.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Luống nghĩ đến chúng sinh để xả bỏ yêu ghét, chưa thật là Xả. Nếu chẳng mong cầu quả báo của công đức thì hạnh Xả mới cùng tột.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi lại hỏi rằng: "Sinh tử đáng sợ, Bồ-tát phải nương vào đâu?" Ngài La-thập nói:

- Vì chúng sinh thọ thân, mà chưa xa lìa được kết nghiệp, thể của kết nghiệp chẳng thể không sợ, ắt phải có chỗ nương, sau đó mới có thể chế ngự được nghiệp lớn ấy, cho nên mới hỏi chỗ nương, để chẳng bị thoái thất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử là việc đáng sợ, không có gì đáng sợ hơn, Bồ-tát có bệnh phải nương tựa vào đâu, để có thể vĩnh viễn ở nơi sinh tử mà chẳng sợ hãi?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hành bốn Đẳng chân thật ắt phải vào sinh tử, nhưng luận theo sinh tử, thì đó là cảnh đáng sợ, nếu chưa thể tránh khỏi bị hoặc trói buộc, thì Bồ-tát phải nương gá vào đâu để chẳng còn sợ hãi?

Chánh văn: Duy-ma-cật đáp: "Ở trong sinh tử đáng sợ đó, Bồ-tát nên nương vào sức công đức của Như Lai.

Ngài La-thập nói:

- Công đức của Như Lai sâu xa vi diệu như thế, ta cần phải đạt được, há có thể vì một chút khổ nhỏ mà sinh chán nản mỏi mệt ư? Phải một lòng cầu Phật đạo, tiến thẳng về trước, không quay đầu, thì các khổ tự tiêu, sợ hãi tự diệt; đó cũng là nương vào niệm, nương vào nơi cầu đạt đến.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử đáng sợ là nạn của Nhị thừa, nếu chẳng nương vào công đức của Như Lai, thì ai có thể ở nơi sinh tử được?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm dùng bốn Đẳng mà vào sinh tử, ắt là muốn cứu độ sinh tử. Ví như vì cứu độ mà vào, thì rốt cuộc sẽ đạt được quả vị Như Lai. Nếu theo lợi ích lớn mà suy, thì chắc chắn chẳng nên cho là có nạn nơi khổ nhỏ. Vả lại, đã có quả báo âm thầm này, thì sinh tử há có thể dẫn đến các khổ được ư?

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi lại hỏi: "Bồ-tát muốn nương vào sức công đức của Như Lai, nên trụ nơi đâu?"

Ngài La-thập nói:

- Muốn y cứ vào công đức của Như Lai, thì cần phải nêu lên chỗ trụ của tâm, nên mới hỏi chỗ trụ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu muốn vào thẳng sinh tử mà cứu độ, thì chưa nhất định đã có thể cứu được, chẳng hẳn cứu được thì quả lớn chẳng thành. Cho nên hỏi: "Vào thì phải trụ ở đâu?"

Chánh văn: Đáp: Nếu Bồ-tát muốn nương vào sức công đức của Như Lai thì phải trụ nơi độ thoát tất cả chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ ở nơi giáo hóa tất cả, thì tâm ấy rất rộng lớn, tâm ấy rộng lớn thì ở nơi sinh tử không khó. Đây là trụ nơi sức của Phật đức.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là nói vì cứu độ mà vào sinh tử ắt phải trụ nơi độ thoát tất cả.

Chánh văn: Hỏi: Muốn độ chúng sinh thì phải trừ những gì? Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói độ thoát ắt phải có chỗ độ, có chỗ thoát, nên hỏi như thế.

Chánh văn: Đáp: Muốn độ chúng sinh, phải trừ phiền não. Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn tìm gốc, nên trước nói đến ngọn. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vượt qua sông phiền não, thoát khỏi sự trói buộc của phiền não.

Chánh văn: Hỏi: Muốn đoạn phiền não thì nên thực hành những gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tức là hỏi chúng sinh đã có phiền não, nên làm những hạnh gì, mới có thể trừ diệt cho họ.

Chánh văn: Đáp: Nên thực hành chánh niệm.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm phiền não khởi từ tâm mê hoặc, cần phải quán xét lý pháp để trừ dẹp. Nhưng khi mới quán thì lý chưa sáng tỏ, tâm chưa trụ nơi lý, nên cần phải có sức niệm thì sau đó mới quán được. Niệm thì lấy sự chẳng quên làm dụng, nên quán được tồn tại.

Bản khác ghi: Chánh ức niệm (nghĩ nhớ). Ngài Lathập nói:

- Chánh ức niệm thì chung cho đầu và cuối, gồm cả tinh và thô. Phàm chẳng phải là tà tưởng, niệm chẳng trái với lý thì đều gọi là ức niệm.

Chánh văn: Hỏi: Thế nào là hành chánh niệm?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hỏi lại về việc thực hành chánh niệm.

Chánh văn: Đáp: Nên thực hành chẳng sinh chẳng diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chánh niệm tức tâm chân chánh nghĩ đến pháp, xét rõ về thiện ác, nếu thiện thì làm cho tăng trưởng, chẳng nên để cho diệt mất; nếu là pháp ác, thì nên diệt trừ, làm cho không còn sinh nữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy bất sinh bất diệt làm hạnh.

Chánh văn: Hỏi: Pháp nào chẳng sinh, pháp nào chẳng diệt?

Đáp: Pháp bất thiện chẳng sinh, pháp thiện chẳng diệt.

Ngài La-thập nói:

- Nếu pháp ác đã sinh thì liền diệt trừ, nếu chưa khởi thì làm cho chẳng thể sinh khởi. Pháp thiện chưa diệt thì làm cho tăng trưởng rộng lớn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ niệm lực mà quán là khởi đầu của việc đạt đến lý, đầu tiên là chế phục ác pháp, mà theo pháp thiện.

Chánh văn: Lại hỏi: Thiện, bất thiện lấy gì làm gốc? Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã biết thiện đáng làm cho sinh, ác đáng làm cho diệt, mà xả bỏ cả hai để cầu chánh tông, nên phải tìm ngược về gốc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp một thiện một ác đắp đổi nhau làm căn bản, vĩnh viễn không thể phán định được, cần phải tìm cầu nguồn gốc mà quán thì mới phân định được.

Chánh văn: Đáp: Lấy thân làm gốc.

Ngài La-thập nói:

- Thân tức là năm ấm. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các hành thiện ác, nếu chẳng có thân thì chẳng thể sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Sở dĩ có thiện và ác là do có thân.

Chánh văn: Hỏi: Thân lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tham dục làm gốc.

Ngài La-thập nói:

- Do tâm tham dục sâu nặng, nên sinh nhiều kết nghiệp, cũng là do nước ái nhuần thấm nên thọ sinh. Vì thế trong tất cả các kết sử chỉ nêu lên tham dục.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ái là gốc của sinh, làm tăng trưởng các kết phược.

Phàm có thân đều là do nơi đây.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dục tức là tham sử ở nơi ngã, nên thọ thân.

Chánh văn: Dục tham lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy hư vọng phân biệt làm gốc.

Ngài La-thập nói:

- Pháp không có tướng nhất định, tướng chỉ do mê hoặc mà sinh. Vọng tưởng phân biệt tốt, xấu; Tốt xấu đã có, tâm dục tự phát khởi, nên đó là gốc của dục tham.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tự không có đẹp xấu, chỉ do hư vọng phân biệt mà cho là đẹp xấu. Đẹp xấu đã hình thành, thì tham dục tự sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì vọng phân biệt các pháp, nên có pháp để tham trước.

Chánh văn: Hỏi: Hư vọng phân biệt lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy tưởng điên đảo làm gốc.

Ngài La-thập nói:

- Kiến chấp hữu vô trái nghịch với pháp tướng, nên gọi là Điên đảo. Trước thấy có không, sau mới phân biệt tốt xấu. Thế thì kiến chấp hữu vô là gốc của các phiền não, là khởi đầu của vọng tưởng, nên lập tên là điên đảo. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp vốn chẳng có, trái lại tưởng là có, đã cho là có, thì kế đó chọn pháp tốt pháp xấu, gọi đó là phân biệt. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm mê hoặc bên trong chuyển thành điên đảo, sau đó mới vọng phân biệt các việc bên ngoài.

Chánh văn: Hỏi: Điên đảo tưởng lấy gì làm gốc? Đáp: Lấy vô trụ làm gốc.

Ngài La-thập nói:

- Pháp không có tự tánh, do duyên cảm mà thành. Ngay lúc pháp chưa khởi, thì chẳng biết chỗ gá nương; chẳng biết chỗ gá nương nên không chỗ trụ; không chỗ trụ thì không có hữu vô; chẳng có hữu vô lại là gốc của hữu vô. Không trụ thì tận cùng nguồn của nó rồi, lại không có chỗ sinh khởi nên gọi là không có gốc, không gốc mà lại là gốc của muôn vật, nên nói là tạo lập tất cả pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm giống như nước, tĩnh lặng thì có chiếu soi, xao động thì chẳng có chiếu soi. Si ái làm cho đục, gió tà thổi mạnh làm nổi sóng, chưa từng tạm dừng. Từ đây mà quán các pháp, thì sao chẳng điên đảo cho được? Ví như mặt soi dưới sóng nước, mà trách mặt mình, là điều chưa từng có vậy. Gốc dấy khởi của tưởng điên đảo là nghĩa chẳng trụ, tồn tại nơi đây. Tất cả pháp đều từ các duyên hội hợp mà thành, khi duyên chưa hội thì pháp không có chỗ nương gá, không có chỗ nương gá thì vô trụ, vô trụ thì không có pháp, lấy không pháp làm gốc nên có thể thành lập tất cả pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nói điên đảo tức là trái lại với thật, là chẳng thật. Ví như lấy chẳng thật làm thể, tức là tự chẳng trụ, tự đã chẳng trụ, há tha lại có trụ ư? Nếu có chỗ trụ thì chẳng phải là điên đảo.

Chánh văn: Hỏi: Vô trụ lấy gì làm gốc? Đáp: Vô trụ thì không có gốc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu lấy tâm động làm gốc thì nhân nơi hữu mà tướng hữu sinh, theo lý thì lúc mới động lại không có gốc. Nếu lấy không pháp làm gốc thì hữu nhân nơi vô mà sinh, vô lại chẳng có nhân nơi vô, nên chẳng có gốc.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vô trụ tức là lý của không gốc.

Chánh văn: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Từ gốc vô trụ mà lập tất cả pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô trụ nên có tưởng điên đảo, vì tưởng điên đảo nên có phân biệt, vì phân biệt nên có tham dục, vì tham dục nên có thân, đã có thân thì thiện ác tự hiện bày, thiện ác đã hiện bày thì vạn pháp đều khởi. Từ đây mà suy về trước thì lời nói chẳng thể hết, nếu khéo đạt được gốc kia thì cành lá tự trừ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tất cả pháp không pháp nào chẳng như thế. Nhưng vì lý mà hiện nơi điên đảo, nên y cứ theo điên đảo, lấy đó để làm chỗ hiển bày. Nếu từ đây mà quán, thì lại có phiền não ư?

Chánh văn: Bấy giờ, trong thất ông Duy-ma-cật có một Thiên nữ.

Ngài La-thập nói:

- Không có ngôi nhà nào mà không có thần chủ, tùy theo chủ ngôi nhà có hơn kém, mà thần có thô hay diệu. Đây là ngôi trượng thất hy hữu nên lấy Thiên nữ làm thần.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ở Ấn Độ cũng tôn vị thần làm trời. Phàm nhà có phước ắt có phước Thần nương náu, vì thế ngôi nhà của Bồ-tát có Thiên nữ làm thần. Đây là việc vào sinh tử.

Chánh văn: Thấy các trời, người đến nghe pháp, liền hiện thân tung hoa trời lên trên thân các Bồ-tát và đại đệ tử.

Ngài La-thập nói:

- Vì các Bồ-tát chê ngôi thất này trống không, nên nay dùng hoa cúng dường. Đó là do chủ ngôi nhà bị bệnh, nên thần thừa lệnh hiện ra cúng dường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiên nữ là vị pháp thân Đại sĩ, thường cùng với ngài Tịnh Danh xiển dương đạo Bất tư nghị của Đại thừa. Cho nên hiện làm vị thần thổ trạch ở trong cùng một ngôi nhà, nay thấy Đại sĩ Tịnh Danh tập chúng đến nghe thuyết pháp, liền hiện thân rải hoa cúng dường, để khởi đầu mối luận nghị.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hiện vị Thần nữ rải hoa tức biểu thị người thấp hèn mà kính trọng pháp, hầu làm tăng thêm tâm kính ngưỡng pháp. Nhầm muốn nhân nơi sự mà hiển lý, để nói đến việc không sợ sinh tử, nên tuy vào mà chẳng nhiễm, nếu sợ hãi mà trốn lánh thì càng tăng thêm tâm chấp trước.

Chánh văn: Hoa đến thân Bồ-tát thì liền rơi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Mặc ý rơi rớt.

Chánh văn: Chạm vào thân các đại đệ tử thì dính chặt, chẳng rơi.

Ngài La-thập nói:

- Thiên nữ cho rằng ngôi trượng thất chưa từng có này không có các giáo khác xen vào, nên muốn hủy nhục Tiểu thừa thấp kém mà xiển dương đạo lớn. Vì thế cùng nhau tạo ảnh hưởng để phát dương yếu chỉ thù thắng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy nói sức của Thiên nữ khiến như thế, nhưng do tự mình chiêu cảm nên.

Chánh văn: Tất cả các đệ tử dùng Thần lực để phủi mà hoa chẳng rơi

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sắp luận Đại, Tiểu khác nhau, nên khiến hoa như thế. Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm cấm chế trang sức bông hoa là muốn trừ dẹp tâm ham thích. Ví như không có tâm nơi vật trang sức tốt đẹp, thì suốt ngày ở bên mình mà há có phạm ư? Lại dùng Thần lực phủi hoa, ghét hoa dính nơi thân, là muốn mong cầu bảo toàn được giới. Tức ý nói có ghét ắt dẫn đến có ưa thích, tuy thuận giới luật mà trái với tâm ý. Cho nên nhờ sự để hiển nghĩa này, lý cũng như sự.

Chánh văn: Bấy giờ, Thiên nữ hỏi ngài Xá-lợi-phất rằng: "Vì sao lại phủi hoa?" Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy làm lạ mà hỏi.

Chánh văn: Đáp: Vì hoa này chẳng như pháp, nên phải phủi đi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Dùng hương hoa trang sức thân, chẳng phải là pháp của Sa-môn. Vì thế nên trừ bỏ. Một nghĩa khác là nếu hoa như pháp thì chạm thân phải rơi, nếu chẳng rơi thì chẳng phải là hoa như pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng đúng như pháp luật.

Chánh văn: Thiên nữ liền nói chớ nên cho rằng hoa này chẳng như pháp.

Bản khác ghi: Chẳng như pháp, có phân biệt. Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi là Bất tịnh. Hàng Sa-môn không có sự trang sức, nên cho hoa là bất tịnh.

Chánh văn: Vì sao? Vì hoa này không phân biệt.

Ngài La-thập nói:

- Tánh của hoa vốn bất nhị, nên không phân biệt. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tánh của hoa không thật, há có phân biệt như pháp hay không như pháp?

Chánh văn: Do nhân giả tự sinh ý tưởng phân biệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hoa há có tâm nơi rơi hay không rơi, ý tưởng phân biệt này là của nhân giả mà thôi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như pháp hay chẳng như pháp đều khởi từ tâm có tưởng mê hoặc, chẳng phải lý của hoa như thế.

Chánh văn: Nếu xuất gia nơi Phật pháp mà có phân biệt là không như pháp, nếu không phân biệt mới là như pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như pháp hay chẳng như pháp là tại nơi tâm, chẳng phải tại hoa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu thể hội được lý của hoa không đẹp xấu thì mới đúng là pháp của luật.

Chánh văn: Hãy xem, hoa chẳng dính trên thân các Bồ-tát, vì các vị này đã đoạn trừ tất cả phân biệt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng thể khiến nó chẳng dính cũng chẳng thể khiến nó dính.

Chánh văn: Ví như con người lúc sợ hãi, thì hàng phi nhân mới thừa cơ làm hại.

Ngài La-thập nói:

- Như có một La-sát biến thành một con ngựa, một người cưỡi đi mà chẳng nghi ngại gì; đi được nửa đường, ngựa hỏi người cưỡi rằng: "Ngựa tôi đây tốt chăng?" Người kia liền rút đao ra và hỏi: "Đao này tốt chăng?" Ngựa biết tâm người ấy không sợ hãi, nên rốt cuộc chẳng dám làm hại. Nếu chẳng như thế thì phi nhân thừa cơ gia hại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Khi sợ hãi thì tâm yếu đuối, nên phi nhân có dịp để hại.

Chánh văn: Cũng như thế! Các đệ tử sợ sinh tử. Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu ưa thích hương hoa cúng càng nhiều thì tăng thêm sinh tử, nếu ghét nó thì sợ sinh tử.

Chánh văn: Thì sắc, thanh, hương, vị xúc mới thừa cơ làm nhiễm ô được.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu nói ghét, thì cái yêu thích thừa cơ xâm nhập.

Chánh văn: Nếu người đã xa lìa sự sợ hãi, tất cả năm dục không thể làm gì được.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã xa lìa sự chán ghét thì dẫu có các dục của năm tình (căn) bày ra trước mắt, cũng chẳng thể khiến cho yêu thích được.

Chánh văn: Do kết tập chưa trừ hết nên hoa dính thân, nếu kết tập trừ hết thì hoa chẳng thể dính.

Ngài La-thập nói:

- Hỏi rằng: Bồ-tát cũng chưa trừ hết các kết tập, vì sao hoa chẳng dính? Đáp: Có hai loại kết tập:

1. Kết tập.

2. Ái kết tập trong Phật pháp.

Đắc Vô sinh nhẫn thì kết tập đã hết, mà ái tập Phật pháp chưa đoạn. Tức là Bồ-tát pháp thân tuy có kết tập, nhưng do thân thanh tịnh nên tập khí chẳng khởi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Dính hay chẳng dính đều do tự nội tâm, chứ hoa nào có tâm gì? Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước vì ghét hoa nên trừ bỏ, tuy chẳng phải là bệnh kết tập, nhưng đó là tập nghiệp, tập nghiệp chiêu cảm hoa dính thân còn chẳng thể trừ bỏ được, huống gì có kết sử.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất hỏi: "Thiên nữ trụ nơi nhà này đã bao lâu rồi?" Ngài La-thập nói:

- Bản Phạm ghi: "Lâu thế nào?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ nơi trượng thất Đại thừa của ngài Tịnh danh bao lâu rồi, mà có biện tài khéo léo như thế?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã bị khuất phục rồi, liền chê là Thiên mà trụ ở trượng thất, nhưng chẳng muốn ngay nơi tướng để chỉ trích, nên mới hỏi trụ lâu mau.

Chánh văn: Đáp: "Tôi trụ ở ngôi thất này lâu như ngài được giải thoát."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói đến đệ nhất nghĩa không lâu, mau nên lấy sự giải tho-át làm dụ, giải thoát tức vô vi giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trụ nơi trượng thất là có trói buộc. Nói "Như giải thoát" tức nói không có thật trói buộc.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Ở đây đã lâu thế ư?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo giải thoát không hình không tướng, nghịch tìm thì chẳng thấy chỗ khởi đầu, thuận cầu thì chẳng thấy điểm chung cuộc; mờ mịt không dấu vết, gọi đó là giải thoát. Nếu trụ ở đây lâu mau, giống như giải thoát, thì chẳng thể biết được, đó chính là lâu vô lượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

Ngài Xá-lợi-phất tuy ý hỏi trụ ở trượng thất, nhưng lời này thì đặt tại nơi lâu mau, nếu không thông đạt thì chấp vào đó mà cho rằng câu trả lời trước kia là đúng. Ví như có trả lời câu ấy thì nên nói: "Lâu như khi ngài Xá-lợi-phất được giải thoát đến nay." Nay ngài Xá-lợi-phất, từ khi giải thoát đến nay thật là đã lâu, vậy trụ ở ngôi trượng thất này chẳng lâu ư? Trự ở ngôi thất đã lâu, mà lại chẳng đồng với giải thoát, vì thế chẳng thể chẳng hỏi là trụ lâu.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Bậc Kỳ lão giải thoát lâu như thế nào?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phản vấn về chỗ đắc để khiến cho tự ngộ. Bậc kỳ lão đạt được vô vi giải thoát, há có thể nói là lâu ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bậc Kỳ lão giải thoát lâu tựa như thế nào? Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất im lặng chẳng đáp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nói lâu thì ở trước, trách thật thì ở sau, nên chẳng biết trả lời như thế nào.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nói giải thoát không lâu, thì vết tích là thật không. Ví như giải thoát lấy vô làm thật, thì lời cũng thật có; có không trái nhau, há có thể dùng lời để giải thoát, vì thế nhờ vào sự im lặng để hiển thị giải thoát chẳng phải thật không. Giải thoát đã thật không, rồi sau đó bặt dứt lời, thì mới có thể đạt được, mà ắt đồng nhau.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Bậc kỳ cựu đại trí, tại sao lại im lặng?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong năm trăm đệ tử, nhân giả là bậc Trí tuệ bậc nhất, sao lại im lặng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Im lặng thì tựa như có điều chẳng thông đạt, nên nói như thế.

Chánh văn: Đáp: Phàm giải thoát thì không có lời nói, cho nên nơi đó ta không biết nói thế nào!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước nghe nói như giải thoát, liền cho rằng trước sau khó biết, chỉ nói là lâu, mà tướng giải thoát thì chẳng phải là điều mà tâm có thể biết, lời có thể bàn. Muốn thuận chỉ thú giải thoát không lời, nên chẳng biết nói thế nào.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng biết chỗ hiểu của Xá-lợi-phất.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Lời nói và văn tự đều là tướng giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Xá-lợi-phất cho rằng nói đã lâu thì sai, nên im lặng không nói, cho là thuận với chân giải thoát, mà chưa có thể đạt đến chỗ nói nín như nhau, chạm vật vô ngại, cho nên Thiên nữ nói bình đẳng giải thoát để khai ngộ tâm của ngài Xá-lợi-phất.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có chỗ thể hội.

Chánh văn: Vì sao? Vì giải thoát không ở trong, không ở ngoài, không ở khoảng giữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm giải thoát tức ta thoát khỏi sự trói buộc, chẳng chỉ ở nơi ta nên chẳng phải ở trong, cũng chẳng phải ở nơi trói buộc, nên chẳng phải ở ngoài, hợp thành là giải thoát, lại chẳng tại khoảng giữa.

Chánh văn: Văn tự cũng chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, chẳng ở khoảng giữa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngã là bên trong, sở thuyết là bên ngoài, hợp cả hai gọi là khoảng giữa.

Chánh văn: Vì thế, thưa ngài Xá-lợi-phất! Chớ lìa văn tự mà nói giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỗ tồn tại của pháp, rốt ráo chỉ ở ba nơi. Ở ba nơi này tìm cầu văn tự giải thoát đều chẳng được như thế, làm sao muốn lìa văn tự mà nói riêng về giải thoát được ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lúc trước ngài Xá-lợi-phất nói giải thoát không có lời nói, nên im lặng, tức cho rằng lời nói khác với giải thoát. Nay đã nói không khác, nên khuyên bảo.

Chánh văn: Vì sao? Vì tất cả các pháp là tướng giải thoát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn pháp tuy khác nhau, nhưng đều là tướng giải thoát, há chỉ có văn tự khác biệt sao? Ngài Đạo Sinh nói:-Vì không pháp nào chẳng phải là tướng giải thoát.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói rằng: "Chẳng lìa dâm, nộ, si mà giải thoát ư?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhị thừa cho rằng các kết sử diệt hết, đạt được vô vi là giải tho-át, nay nghe nói bình đẳng giải thoát ở trên lại trái nghịch với chỉ thú của mình, nên mới hỏi như thế. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì Phật thường nói lìa dâm, nộ, si là giải thoát, nên mới hỏi.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Đức Phật vì những người tăng thượng mạn mà nói lìa dâm, nộ, si là giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hàng tăng thượng mạn lấy việc đắc pháp làm bản hoài, chẳng thể ngay nơi dâm, nộ, si làm giải thoát. Cho nên nghiệm xét chỗ rốt ráo mà nói khiến họ ngộ được.

Chánh văn: Nếu chẳng phải là người tăng thượng mạn thì Đức Phật nói tánh của dâm, nộ, si là giải thoát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ghét sinh tử, tôn quý đạo của mình là người tăng thượng mạn. Vì những người này mà nói lìa kết sử là giải thoát. Nếu gặp người chẳng chán ghét sinh tử, tôn quý đạo mình thì nói Tánh của ba độc tức giải thoát, không có giải thoát nào khác. Hàng Nhị thừa tuy không còn mạn, nhưng chán ghét sinh tử, tôn quý Niết-bàn, còn tương tự mạn kết. Mạn nghĩa là chưa đắc đạo nói đã được mà sinh mạn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người lấy sự không chấp trước làm bản hoài, thì chẳng đợi nghiệm rồi sau mới ngộ.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Hay thay! Hay thay! Này Thiên nữ! Cô đạt được gì, chứng được gì?" Ngài La-thập nói:

- Đối với quả hữu vi thì nói là được, quả vô vi thì nói là chứng.

Chánh văn: Mà có biện tài như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khen ngợi sự luận thuyết của Thiên nữ, mình chẳng bằng được, nên mới hỏi được đạo gì, chứng quả gì mà có biện tài như thế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã giải thoát mà lời nói lại quá khéo léo. Vì cần phải có sở đắc và sở chứng mới có biện tài như thế, nên mới hỏi.

Chánh văn: Thiên nữ nói: Tôi không đắc không chứng mới được biện tài như thế.

Ngài La-thập nói:

- Nếu thấy có đắc có chứng thì tâm còn có chỗ chấp trước, còn chấp trước thì còn ngăn ngại, còn ngăn ngại thì không có biện tài. Vì không đắc, không chứng, nên mới được như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm đạo có ngại thì chẳng thể sinh biện tài vô ngại. Biện tài vô ngại ắt sinh từ đạo vô ngại. Đạo mà có chứng đắc, ắt sẽ có chỗ không đắc không chứng. Vì đạo Đại thừa không đắc không chứng, nên không gì chẳng được, không gì chẳng chứng; vì từ đây mà sinh biện tài, nên không gì chẳng luận biện được.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không đắc tức là đắc, không chứng tức là chứng, nên có biện tài như thế.

Chánh văn: Vì sao? Nếu có được có chứng, thì đó là kẻ tăng thượng mạn trong Phật pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu thấy mình có đắc, ắt thấy người chẳng đắc, như thế trở thành kẻ tăng thượng mạn trong pháp bình đẳng của Phật, làm sao có thể dẫn sinh vô ngại biện được?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu có người đắc thì chẳng đắc vì chẳng đắc là được tăng thượng mạn.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất hỏi: "Trong ba thừa, ý

Cô cầu thừa nào?" Ngài La-thập nói:

- Khâm phục biện tài, biết chẳng phải là tầm thường, nhưng chưa biết Thiên nữ thuộc thừa nào, nên mới hỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói thẳng không được không chứng, mà chưa biết thuộc thừa nào, nên mới hỏi tiếp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ba thừa đồng lấy không chứng đắc làm cốt yếu, nên chẳng biết ý thuộc thừa nào.

Chánh văn: Nếu cần pháp Thanh văn để giáo hóa chúng sinh, tôi sẽ làm Thanh văn. Nếu cần pháp Duyên giác để giáo hóa chúng sinh thì tôi làm Bích-chi-Phật. Nếu cần pháp đại Bi để giáo hóa chúng sinh thì tôi làm Đại thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo Đại thừa không gì chẳng thừa (chuyên chở); vì chúng sinh mà thừa, chứ ta nào có thừa gì?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tùy chúng sinh mà làm, còn ta không nhất định.

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Như người vào rừng chiêm-bặc, thì chỉ ngửi mùi chiêm-bặc mà không còn ngửi mùi hương nào khác.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng phải cho rằng có mà không ngửi, mà đó là tự đã nghe đủ, không còn cầu tìm gì bên ngoài nữa. Theo nghĩa của dụ có thể tự biết được.

Chánh văn: Cũng như thế, nếu vào ngôi thất này thì chỉ nghe mùi hương công đức của Phật, mà chẳng thích nghe mùi hương công đức của Thanh văn và Bích-chiPhật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không thừa nào chẳng thừa mới là Đại thừa, nên lấy rừng hương làm dụ, để nói ngôi thất của ông Duyma chẳng xen lẫn mùi hương Nhị thừa. Người trụ ở ngôi thất này há lại ngửi mùi hương khác ư? Từ đây có thể biết ý tôi cầu thừa nào.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ông Duy-ma-cật ứng hiện cư trụ ở ngôi thất này, là muốn nói rõ về lý rốt ráo, mà biết lý rốt ráo này không dung chứa nghĩa nhỏ hẹp. Đó là biểu thị công năng bên ngoài của công đức Phật.

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Những vị Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương, Thiên long, Quỉ thần... vào ngôi thất này, đều nghe vị Thượng nhân đây giảng thuyết chánh pháp, đều thích mùi hương công đức của Phật mà phát tâm, rồi đi ra. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Tôi trụ ở ngôi thất này đã mười hai năm, chưa từng nghe nói pháp Thanh văn, Bích-chi-Phật, chỉ nghe Đại Từ đại Bi của Bồ-tát và pháp chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp Đại thừa đều gọi là chẳng thể nghĩ bàn. Trên hỏi trụ ở ngôi thất này bao lâu là để phát khởi đầu mối luận biện, nên dùng giải thoát để trả lời. nay nói số năm thật cư trụ là để nói về pháp được nghe không xen tạp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các vị trời, quỉ thần... tạm vào ngôi thất này, còn chẳng có ai không phát đại tâm mà ra, huống gì tôi được nghe diệu pháp đã lâu? Thế thì chẳng thể chẳng làm Đại thừa hay chẳng thể làm Đại thừa?

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Ngôi trượng thất này thường hiện tám pháp chưa từng có và khó được Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã được nghe diệu pháp, lại thấy các việc hy hữu, há chẳng làm Đại thừa được ư?

Chánh văn: Tám pháp đó là gì? Ngôi thất này thường có ánh sáng màu vàng ròng chiếu soi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ứng hợp với tâm Từ của chủ nhân, há có lúc chẳng chiếu ư? Mà có người chẳng thấy là do họ tự tuyệt dứt, chứ chẳng phải trong thất không có chiếu.

Chánh văn: Ngày đêm chẳng khác, chẳng cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu soi. Đây là pháp chưa từng có và khó được thứ nhất. Người vào ngôi thất này thì không bị các cấu nhiễm não loạn.

Ngài La-thập nói:

- Ngôi trượng thất này rất thanh tịnh, không có các hơi xấu nghịch, ác quỉ thần. Duyên cấu nhiễm đã sạch, nên cấu nhiễm chẳng sinh. Ác thần khởi, ví như La-sát mười đầu nhập vào thân của vua, thì sự sân hận liền sinh, cũng giống như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người vào ngôi thất này phiền não tự trừ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngôi thất này thường biểu hiện nơi lý, người thấy được tức là vào. Nếu được vào thì chẳng bị các cấu nhiễm não loạn.

Chánh văn: Là pháp chưa từng có và khó được thứ hai. Ngôi thất này thường có Đế thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương và các Bồ-tát phương khác liên tục đến nhóm họp, là pháp chưa từng có và khó được thứ ba. Nơi ngôi thất này thường thuyết sáu pháp Ba-la-mật và pháp bất thoái chuyển là pháp chưa từng có và khó được thứ tư. Ngôi thất này thường trổi các âm nhạc bậc nhất của Trời người, phát ra vô lượng âm thanh pháp hóa, là pháp chưa từng có và khó được thứ năm. Ngôi thất này có bốn kho tàng lớn, chứa đầy của báu, có thể cứu giúp cho tất cả kẻ nghèo cùng, hễ cầu liền được, không bao giờ hết, là pháp chưa từng có và khó được thứ sáu. Trong ngôi thất này, khi bậc Thượng nhân đây vừa nghĩ đến các Đức Phật trong mười phương như Đức Phật Thích-ca Mâuni, Phật A-di-đà, Phật A-súc, Phật Bảo Tích, Phật Bảo Diệm, Phật Bảo Nguyệt, Phật Bảo Nghiêm, Phật Nan Thắng, Phật Sư Tử, Phật Nhất Thiết nghĩa (hay lợi) thành...? thì các Ngài liền đến.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý Phật thường hằng tại tâm, nên vừa nghĩ thì liền đến.

Chánh văn: Diễn nói pháp tạng bí yếu của Phật, nói xong trở về bản độ, là pháp chưa từng có và khó được thứ bảy. Ngôi thất này có hiển hiện các cung điện trang nghiêm của chư Thiên và các Tịnh độ của chư Phật.

Ngài La-thập nói:

- Như có một tấc vuông kim cang, mà tất cả những hình sắc trên mặt một vách đá trong vòng mấy mươi dặm đều hiện trong đó, ngôi thất này trong sáng cũng như thế. Chánh văn: Đó là pháp chưa từng có và khó được thứ tám. Thưa ngài Xá-lợi-phất! Ngôi thất này thường hiện tám pháp chưa từng có và khó gặp như thế, ai thấy được việc chẳng thể nghĩ bàn này mà còn thích pháp Thanh văn được sao?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hiển bày việc kỳ đặc của trượng thất để thành tựu nghĩa rừng hương.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Vì sao cô không chuyển thân nữ đi?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cô dùng trí vô ngại thọ thân có ngại, vì sao chẳng chuyển bỏ đi?

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Mười hai năm nay tôi tìm cầu tướng người nữ chẳng được, thì làm sao mà chuyển?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trụ ngôi thất này đến nay được nghe chánh pháp, nên chưa từng biết nam nữ khác nhau, thì chuyển cái gì? Thiên nữ ngộ được tướng nữ, há chỉ mới mười hai năm thôi sao? Đây là muốn nói trong ngôi thất này chỉ thuần là một giáo bình đẳng, không nghe các giáo khác, nên mới nói như thế. Trời làm thân nữ là để sinh ngôn luận này.

Chánh văn: Ví như nhà huyễn thuật, hóa ra một người nữ huyễn, có người hỏi rằng: "Sao không chuyển thân nữ đi?" Câu hỏi của người đó có đúng chăng? Ngài Xá-lợi-phất đáp: "Không đúng! Vì huyễn không có tướng nhất định, thì đâu cần phải chuyển." Thiên nữ nói: "Tất cả các pháp cũng như thế, không có tướng nhất định, vì sao lại hỏi là không chuyển thân nữ." Ngài Tăng Triệu nói:

- Vạn vật như huyễn, không có tướng nhất định, ai tốt ai xấu mà để chuyển?

Chánh văn: Tức thời Thiên nữ dùng Thần lực biến ngài Xá-lợi-phất thành Thiên nữ, Thiên nữ lại tự biến thành Xá-lợi-phất, rồi hỏi rằng: "Sao ngài không chuyển thân nữ đi?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn thành tựu nghĩa huyễn hóa không định, nên biến hiện mà hỏi để làm Xá-lợi-phất tự ngộ.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất mang hình Thiên nữ đáp rằng: "Bây giờ, tôi không biết vì sao lại chuyển..." Ngài La-thập nói:

- Đây là từ nơi giải ngộ, căn cứ theo lý mà nói.

Chánh văn: Mà biến thành thân nữ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tôi chẳng biết vì sao lại chuyển mà thành thân này, thế nào? Lại muốn chuyển nó ư?

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Thưa ngài Xá-lợi-phất! Nếu ngài chuyển được thân nữ này thì tất cả người nữ cũng sẽ chuyển được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân giả? Chẳng biết vì sao chuyển mà chuyển thành thân nữ, thì các người nữ cũng chẳng biết vì sao chuyển mà làm thân nữ. Nếu nhân giả vô tâm nơi việc biến làm thân nữ mà chẳng thể chuyển thân nữ, thì các người nữ cũng như thế, chẳng thể tự chuyển, vậy vì sao lại khuyên người chuyển thân nữ? Đây là nói thân nữ tuy không có tướng nhất định, nhưng do nhân duyên tạo thành, chẳng thể tự tại chuyển biến được.

Chánh văn: Như ngài Xá-lợi-phất chẳng phải là người nữ mà hiện thân nữ, tất cả người nữ cũng như thế, tuy có hiện thân nữ mà chẳng phải người nữ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như ngài Xá-lợi-phất thật chẳng phải là người nữ mà hiện thân nữ, các người nữ cũng hiện thân nữ này, thật chẳng phải là nữ. Tướng nam nữ không nhất định, so sánh với mình có thể tự biết.

Chánh văn: Vì thế Đức Phật nói: "Tất cả pháp chẳng phải nam chẳng phải nữ." Ngài Tăng Triệu nói:

- Phật pháp nói há chẳng thật ư?

Chánh văn: Tức thời Thiên nữ thu nhiếp thần lực, thân ngài Xá-lợi-phất trở lại như cũ. Thiên nữ liền hỏi:

"Thưa ngài Xá-lợi-phất! Sắc tướng thân nữ đâu rồi?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn suy tìm chỗ tồn tại của tướng nữ, nên trả lại thân như cũ để hỏi.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Sắc tướng thân nữ chẳng tồn tại đâu mà không đâu chẳng tồn tại." Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói có tướng nữ tồn tại thì nay lại thấy không có tướng, muốn nói không có tướng nữ tồn tại thì trước kia thấy có tướng. Giống như huyễn hóa, không nhất định, chẳng biết ở nơi đâu.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Tất cả pháp cũng như thế, không tồn hại đâu, cũng không đâu chẳng tồn tại. Phàm "không tồn tại mà không đâu chẳng tồn tại" là lời Phật thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đâu chỉ có tướng nữ, mà tất cả pháp cũng đều như thế. Nêu lời Phật thuyết để minh chứng cho lý chẳng thể thay đổi.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ: "Cô chết ở đây sẽ sinh về đâu?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã biết tướng trạng hiện tiền không tại đâu, mà còn hỏi chỗ sinh mai sau.

Chánh văn: Thiên nữ đáp: "Phật hóa sinh." Ngài La-thập nói:

- Chẳng nói thẳng là vô sinh mà nói sinh, là muốn y cứ vào tướng có sinh mà nói đến lý không sinh diệt.

Chánh văn: Tôi sinh cũng như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng của sinh thân này đã như huyễn, chết đây lại sinh kia, há có khác ư?

Chánh văn: "Phật hóa sinh chẳng phải chết rồi sinh." Thiên nữ nói: "Chúng sinh cũng như thế, không phải chết rồi sinh."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đâu chỉ có mình ta như huyễn hóa, vạn vật tất cả đều như hóa.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất hỏi Thiên nữ: "Bao lâu thì cô chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân tướng chết rồi sinh như huyễn hóa thì Bồ-đề chân đạo ắt là chân thật, nên hỏi bao lâu sẽ đạt được.

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Như ngài Xá-lợi-phất trở lại phàm phu, tôi sẽ thành tựu quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ắt không có thời hạn này.

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Tôi mà trở lại làm phàm phu, thật không có việc ấy!" Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Thánh mà trở lại làm phàm phu, đâu có việc này được?

Chánh văn: Thiên nữ nói: "Tôi mà đắc Vô thượng

Chánh đẳng Chánh giác, thật cũng không có việc ấy!" Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Thánh kia trở lại làm phàm phu, tôi thành Vô thượng Bồ-đề, cả hai việc đều không có.

Chánh văn: Vì sao? Vì Bồ-đề không có chỗ trụ, nên không có được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo Bồ-đề vô vi vô tướng, thật không có trụ xứ, vậy ai được đây?

Chánh văn: Ngài Xá-lợi-phất nói: "Vậy hiện tại chư Phật đắc Vô thượng Bồ-đề, chư Phật đã chứng và sẽ chứng nhiều như số cát sông Hằng, việc ấy thì thế nào?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Y cứ theo sự chứng đắc để hỏi.

Chánh văn: Thiên nữ đáp: "Đó đều là dùng số lượng, văn từ thế gian, nên nói có ba thời, chứ Bồ-đề thật chẳng có quá khứ, vị lai, hiện tại.

Ngài La-thập nói:

- Bồ-đề tánh không, nên vượt ngoài ba cõi. Bồ-đề đã không thì chẳng có chứng đắc Phật, không chứng đắc Phật thì cũng không có Bồ-đề. Chỉ vì duyên hội thì sinh, theo lý chẳng lìa nhau, nên có, không tương đồng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Theo số lượng ngôn từ thế tục thì có ba thời chứng đắc, chứ chẳng phải nói Đệ nhất chân đạo Bồ-đề có quá khứ, vị lai, hiện tại.

Chánh văn: Thiên nữ nói rằng: "Thưa ngài Xá-lợiphất! Ngài đắc đạo A-la-hán ư?" Ngài La-thập nói:

- Phật đạo chân thật rốt ráo, sâu xa vi diệu. Ta chưa đạt được thì cho là chẳng phải không, đạt được rồi thì biết rằng chẳng có. Nên hỏi để suy xét lại mình mà ngộ được Phật đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc La-hán đạt được tâm vô lậu, chẳng thấy có đắc đạo, nếu vào tâm hữu lậu thì thấy có đắc đạo. Nay hỏi rằng khi đạt đến giải thoát thứ chín tự chứng thành Phật đạo, thấy có đắc đạo chăng? Tức muốn khiến cho tự ngộ được nghĩa vô đắc.

Chánh văn: Đáp: Không đắc, cho nên đắc.

Ngài La-thập nói:

- Đã hiểu được pháp không đắc thì hợp lý với pháp, nên nhân đó mà thể hội được giả danh là đắc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Suy từ tâm mình mà đáp. Không đắc nên có đắc, có đắc thì không đắc. Đây là nói chân đắc chính ở nơi bất đắc.

Chánh văn: Thiên nữ nói rằng: "Chư Phật Bồ-tát cũng như thế, không đắc cho nên đắc.

Ngài La-thập nói:

- Tam thừa chứng vô đắc đều đồng nhau, nhưng Đại thừa ngộ các pháp sâu xa hơn lại không có xuất nhập định khác nhau.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nói với ngài Xá-lợi-phất: "Thiên nữ này đã từng cúng dường chín mươi hai ức Đức Phật, đã có thể dạo chơi nơi thần thông của Bồ-tát, đầy đủ bản nguyện, đạt Vô sinh nhẫn, không còn thoái chuyển. Vì sức bản nguyện tùy ý hiển hiện giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên chỉ ngay nơi lời nói mà phát sinh luận biện, chưa biết được đạo pháp sâu cạn thế nào, nên ông Tịnh Danh phụ hiển bày sự thật để phát khởi tâm kính tín của chúng hội.

QUYỂN 7

Phẩm 8: PHẬT ĐẠO

Chánh văn: Bấy giờ, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi hỏi ông Duy-ma-cật rằng: "Bồ-tát làm thế nào để thông đạt Phật đạo?"

Ngài La-thập nói:

- Nhân phẩm trước Thiên nữ tùy thuận thọ thân để lưu thông Phật pháp, nên phẩm này nói rộng về dấu tích ứng hóa viên mãn, để hiển rõ công năng thông đạt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói đạo của chư Phật lấy không đắc làm đắc. Đạo này thật rỗng rang chẳng phải các hạnh thường có thể thông đạt được. Muốn thông đạt phải có nguyên nhân cho nên hỏi làm sao để thông đạt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ứng hóa vô cùng là đạo của chư Phật. Đã thể hội được tức là thông đạt.

Chánh văn: Duy-ma-cật nói: "Bồ-tát thực hành nơi phi đạo."

Ngài La-thập nói:

- Phi đạo có ba:

1. Quả báo của đường ác.

2. Hành nghiệp của đường ác.

3. Thiện nghiệp thế gian và quả báo của thiện nghiệp.

Phàm trái nghịch với gốc thật mà ở trong đó đều gọi là phi đạo. Ở nơi trái nghịch mà chẳng xa lìa gốc, nên nhân phi đạo mà hoằng đạo thì thông đạt Phật đạo. Ví như đối với lương y, các vật đều là thuốc, nên y thuật được lưu hành, gặp bệnh liền chữa trị.

Chánh văn: Là thông đạt Phật đạo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm cho đạo là đạo, phi đạo là phi đạo, thì yêu ghét khởi, trần cấu phiền não hiện, sao có thể thông suốt được diệu chỉ của tâm, đạt được đạo bình đẳng? Nếu chẳng cho đạo là đạo, chẳng cho phi đạo là phi đạo thì thị phi bặt dứt nơi tâm, gặp chúng sinh liền chuyển vận. Vì thế, ở nơi thị mà chẳng có tâm là thị, chuyển vận phi mà chẳng có ý chẳng phải phi, nên có thể đồng quán thiện ác, ở nơi nghịch mà thường thuận, hòa quang cùng trần lao, càng tối thì càng sáng. Đó có thể cho là thông đạt Phật đạo bình đẳng vô ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã vượt ra ngoài hình nghi mà thực hành thì đều là ứng hóa.

Nhân nơi Thiên nữ chính là việc ấy, cho nên bàn luận rộng thêm.

Chánh văn: Lại hỏi: "Thế nào là Bồ-tát thực hành nơi phi đạo?"

Đáp: "Bồ-tát thực hành năm vô gián mà không sân hận."

Ngài La-thập nói:

- Tức năm tội nghiệp vô gián. Địa ngục, ngạ quỉ là các quả báo của đường ác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tội ngũ nghịch ắt là do sân hận sinh khởi. Phàm tội này, khi xả thân mạng ắt phải vào địa ngục, chịu khổ không bao giờ gián đoạn. Bồ-tát thị hiện thực hành năm tội nghịch mà không có tâm sân hận, đó là do chẳng cho nghịch là nghịch, nên có thể đồng với nghịch. Nếu cho nghịch là nghịch thì ai dám đồng với nó?

Chánh văn: Vào địa ngục mà không có tội cấu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tội cấu là nhân của địa ngục, thị hiện thọ quả báo này, mà thật chẳng gây nhân.

Chánh văn: Vào súc sinh mà không có các lỗi vô minh, kiêu mạn...

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngu si, kiêu mạn phần nhiều đọa vào súc sinh.

Chánh văn: Vào loài ngạ quỉ mà đầy đủ các công đức. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tham lam bỏn sẻn, không phước đức, phần nhiều đọa vào ngạ quỉ.

Chánh văn: Vào cõi Sắc và Vô sắc chẳng cho là thù thắng. Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi: Vào cõi Sắc và Vô sắc. Phàm phu sinh vào đó thì cho là Niết-bàn, tối thắng bậc nhất.

Nay từ hữu vi mà sinh, nên chẳng cho là thù thắng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo của hai cõi trên là thọ nhân hữu vi, tuy đồng một hạnh nhưng biết rõ đó là cảnh giới thấp kém.

Chánh văn: Thị hiện hành tham dục mà xa lìa đắm nhiễm; thị hiện giận dữ mà đối với chúng sinh không ngăn ngại; thị hiện ngu si mà dùng trí tuệ điều phục tâm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thị hiện có ba độc mà chẳng trái với ba thiện.

Chánh văn: Thị hiện tham lam bỏn sẻn mà lại xả bỏ tất cả, chẳng tiếc thân mệnh. Thị hiện sân hận mà thường Từ bi nhẫn nhục. Thị hiện biếng trễ mà siêng năng tu các công đức. Thị hiện có tâm tán loạn mà thường định. Thị hiện ngu si mà thông đạt trí tuệ thế gian, xuất thế gian.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thị hiện sáu tệ mà chẳng trái sáu Độ.

Chánh văn: Thị hiện dối trá mà khéo dùng phương tiện tùy thuận nghĩa kinh.

Ngài La-thập nói:

- Tuy hiện tích đồng với siểm khúc mà thật chẳng trái chánh đạo.

Đó là dùng phương tiện khéo léo tùy thuận nghĩa kinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bên ngoài thì hiện tùy tục dối trá, bên trong thì thật tùy phương tiện các kinh.

Chánh văn: Thị hiện kiêu mạn mà đối với chúng sinh như chiếc cầu, bến nước.

Ngài La-thập nói:

- Tức nói tự khiêm hạ, nếu có bị chúng sinh dày đạp mà vẫn nhẫn chịu, không kiêu mạn, giống như chiếc cầu. Ngài Tăng Triệu nói:

- Dẫu cho chúng sinh đều đạp trên ta, nhưng ta vẫn giữ sự khiêm hạ cùng tột.

Chánh văn: Thị hiện có phiền não mà tâm thường thanh tịnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hiện phiền não bên ngoài mà bên trong tâm thường thanh tịnh.

Chánh văn: Thị hiện vào các ma mà thuận trí tuệ Phật, chẳng theo sự giáo hóa của chúng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngoài đồng với tà giáo, mà bên trong thuận với chánh tuệ.

Chánh văn: Thị hiện làm Thanh văn, mà thường thuyết cho chúng sinh nghe pháp chưa từng nghe.

Ngài La-thập nói:

- Ở nơi trái nghịch mà chẳng xả bỏ gốc, thì sự tu tập thù thắng càng sáng tỏ, nên chẳng đợi nghe rồi mới thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Thanh văn nếu chẳng nghe người thuyết thì chẳng tự ngộ, huống gì là việc nói cho người nghe pháp chưa từng nghe?

Chánh văn: Thị hiện làm Bích-chi-Phật mà thành tựu đại Bi giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

Đại Bi là pháp Đại thừa, hàng Bích-chi-Phật chẳng thể hành trì.

Chánh văn: Thị hiện vào hàng bần cùng mà có trong tay báu vô tận công đức.

Ngài La-thập nói:

- Từ tay lưu xuất ra báu vật, ban phát cho khắp tất cả mà không cùng tận.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ tay tự nhiên tuôn ra vật báu, ban phát cùng khắp mà chẳng hết.

Chánh văn: Thị hiện làm kẻ tàn tật mà đầy đủ tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân. Thị hiện vào hàng hạ tiện mà sinh trong chủng tánh Phật, đầy đủ công đức.

Ngài La-thập nói:

- Chủng tánh Phật tức Vô sinh nhẫn. Đạt pháp nhẫn sâu xa này gọi là pháp sinh, thì đã vượt trên hàng hạ tiện mà vào cảnh giới Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Được Vô sinh nhẫn ắt kế thừa hạt giống Phật nên gọi là sinh trong chủng tánh Phật.

Chánh văn: Thị hiện làm kẻ gầy yếu xấu xí mà được thân Na-la-diên.

Ngài La-thập nói:

- Na-la-diên là một vị lực sĩ ở cõi Trời, vị này thân thể đoan chánh, bền chắc, mạnh mẽ.

Chánh văn: Tất cả chúng sinh đều muốn nhìn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Na-la-diên là tên một lực sĩ ở cõi Trời, thân hình đoan chánh đẹp đẽ kỳ lạ, chí lực dũng mãnh.

Chánh văn: Thị hiện già, bệnh mà vĩnh viễn đoạn trừ gốc bệnh, không còn sợ chết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Pháp thân Đại sĩ vĩnh viễn không còn sinh tử, huống là già bệnh?

Chánh văn: Thị hiện làm những người có tài sản lớn mà luôn quán vô thường, không còn tham đắm. Thị hiện có thê thiếp nô tỳ, mà thường xa lìa vũng bùn năm dục.

Ngài La-thập nói:

- Ví dụ như Thái tử Mộ Phách.

Chánh văn: Hiện làm kẻ đần độn mà thành tựu biện tài, Tổng trì chẳng mất. Thị hiện vào tà tế mà dùng chánh tế.

Ngài La-thập nói:

- Nơi để vượt qua sông gọi là tế (bến sông).

Chánh văn: Độ chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nơi bến sông có thể vượt qua gọi là Chánh tế (bến tốt, thuận lợi). Nơi hiểm nạn gọi là tà tế. Phật đạo gọi là Chánh tế, ngoại đạo là tà tế.

Chánh văn: Hiện khắp các đường, mà đoạn trừ nhân duyên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vào khắp các dị đạo, há nói là mến mộ mong cầu ư? Đó là muốn đoạn trừ duyên ấy mà thôi.

Chánh văn: Hiện vào Niết-bàn mà chẳng đoạn sinh tử. Ngài Tăng Triệu nói:

Hiện thân vào Niết-bàn mà lại vào sinh tử. Những việc nêu trên đều là phi đạo đối với Bồ-tát, nhưng vẫn ở trong đó mà không ngăn ngại, đó mới là đạo, nên gọi là thông đạt Phật đạo.

Chánh văn: Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Nếu Bồ-tát có thể thực hành phi đạo như thế, mới thông đạt Phật đạo. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi. Ngài La-thập nói:

- Từ khi gặp gỡ đến bây giờ chỉ một mình ông Duyma nói, tựa như công năng của tuệ biện tài này có chỗ quy về thiên lệch. Nay muốn thỉnh ngài Văn-thù thuyết để hiển đức của ngài. Cũng nói rằng khen tặng để cúng dường.

Chánh văn: Thế nào là hạt giống Như Lai?

Ngài La-thập nói:

- Hạt giống, căn bản, nhân duyên chỉ là một nghĩa. Do ở trên Đại sĩ tùy các loại giáo hóa chúng sinh, thông đạt Phật đạo. Chắc chắn biết các chúng sinh tích ác có thể phát đạo tâm. Có thể phát đạo tâm, thì đó là nhân duyên của Phật đạo, nên hỏi về Phật chủng (hạt giống Phật). Cũng có thể cho rằng hàng mới học muốn đạt quả Phật mà chưa biết nhân Phật, nên hỏi về nhân.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã luận về nguyên do thông đạt Phật đạo, lại hỏi nơi phát khởi của đạo này. Ông Duy-ma và ngài Vănthù thay nhau hỏi đáp, tùy thuận chúng sinh mà làm, ai biết được lý do.

Ngài Đạo Sinh nói:

Hạt giống Như Lai là nói theo hạt giống ngũ cốc. Trước nói các ác là Phật, nay nói thật ác là hạt giống, nên kế đến phản vấn.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: "Thân hữu là hạt giống."

Ngài La-thập nói:

- Thân hữu tức là thân năm thọ ấm hữu lậu. Nghĩa ghi: thân hữu tức thân kiến, thân kiến là nguồn của ba hữu là căn bản của kết sử phiền não, nên nói thẳng vào thân kiến. Thân kiến thì chấp ngã, muốn khiến cho được vui thì luôn làm thiện, nên gọi là hạt giống Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thân hữu tức thân kiến. Phàm tâm không nhất định, tùy theo vật mà biến đổi, nếu tại tà thì theo tà, tại chánh thì thuận chánh. Tà chánh tuy khác, nhưng hạt giống không khác. Vì sao? Vì chuyển tà thành chánh cải ác là thiện; há có chánh khác tà, thiện khác ác nào riêng biệt, siêu việt không có nhân mà bỗng nhiên tự được ư? Vậy chánh là do tà mà khởi, thiện là do ác mà sinh. Cho nên nói các kết sử phiền não là hạt giống Như Lai.

Chánh văn: Vô minh hữu ái là hạt giống. Ngài Lathập nói:

- Trước là nói chung, ở đây thì chia hai môn. Tất cả các kết sử thuộc hai môn này, nên chỉ nêu hai môn. Từ đây trở xuống lần lược khai triển rộng thêm.

Chánh văn: Tham, nhuế, si là hạt giống, bốn điên đảo là hạt giống, năm cái là hạt giống.

Ngài La-thập nói:

Bốn đảo là nhân, năm cái là quả, đó gọi là hai bánh xe của sinh tử, hai bánh xe đã đủ thì lăn khắp trong sáu đường.

Chánh văn: Sáu nhập là hạt giống.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là sáu tình ái. Ái là gốc của sinh, nên được nêu lên.

Chánh văn: Bảy thức là hạt giống. Ngài La-thập nói:

- Trong Sơ thiền, trừ Phạm vương và các Tiểu Phạm thiên vào thời kiếp sơ, còn từ đó về sau đều là Thức trụ thứ nhất. Vào kiếp sơ chỉ có Phạm vương chưa có các Phạm thiên khác. Phạm vương khởi tâm suy nghĩ muốn có các Phạm thiên khác, các Phạm thiên kia bấy giờ, cảm được niệm ấy bèn sinh sang. Phạm vương nhân đó khởi tà kiến cho rằng do ta tạo ra; các Phạm vương khác cũng tự cho rằng mình do Phạm vương sinh ra. Tuy có tinh thô, nhưng ý tưởng sai trái kia chẳng khác, vì thế gọi là Thân khác tưởng đồng, đây là Thức trụ thứ hai. Ở đệ Nhị thiền hình sắc không có hơn kém, nhưng tâm thì rất nhiều, trừ các vị vào giải thoát, còn lại thì rất nhiều niệm khác nhau, nên gọi là thân đồng tưởng khác, đây là Thức trụ thứ ba. Đệ Tam thiền thì hình thể không có hơn kém, tâm cũng không có các tưởng khác nhau, chỉ có một ý tưởng vui, đây là Thức trụ thứ tư, cộng với ba thức trụ ở ba địa trước của Vô sắc thành bảy thức trụ. Thức trụ tức thức được an trụ. Thức niệm rõ ràng không có phiền não, không bị hủy hoại, nên gọi là trụ. Các đường ác thì sự thống khổ hủy hoại; đệ Tứ thiền thì bị vô tưởng phá hoại, phi tưởng thì bị diệt định hủy hoại, tức nói rằng các địa ấy tâm tưởng nhỏ nhiệm mờ mịt, thức niệm không rõ ràng, nên thức không an trụ.

Hỏi: Dục giới cũng bị đường ác hủy hoại vì sao lập thức trụ?

Đáp: Vì y cứ vào Địa mà không y cứ vào giới (cõi) hoại. Đường ác đường thiện ở cõi Dục thì đường cũng nghịch mà địa cũng trái, khổ lạc khác nhau chẳng quan hệ, nên chẳng hủy hoại lẫn nhau. Nghĩa ghi: "Lẽ ra là bảy sử."

Chánh văn: Tám tà pháp là hạt giống, chín não xứ là hạt giống. Ngài La-thập nói:

- Thương yêu oan gia của ta, ghét bỏ bạn lành của ta, não hại thân mạng của ta, một đời có ba, ba đời thành chín. Nghĩa ghi: Chín kết.

Chánh văn: Mười bất thiện đạo là hạt giống. Tóm lại sáu mươi hai kiến và tất cả phiền não là hạt giống Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh trần lao tức thành Phật đạo, chứ chẳng có người nào khác thành Phật, nên gọi là hạt giống Phật. Ngài Đạo Sinh nói:

Phàm giác ngộ đạo Đại thừa vốn chẳng phải gần thì bỏ sinh tử, lại xa xôi tìm cầu mà chính từ các việc trong sinh tử, nếu ứng dụng được chỗ chân thật thì đó là ngộ. Nếu ở các việc ấy mà biến cái thật kia làm khởi đầu của ngộ, thì há chẳng phải là mầm Phật sinh khởi từ việc sinh tử ư? Việc ngộ ấy đã được nuôi lớn, ắt việc ấy phải khéo léo, thế thì chẳng phải là nghĩa hạt giống ư? Vì thế đầu tiên là nói thân hữu lậu, cuối cùng là nói tất cả phiền não, đều là để nói về lý chuyển từ lúc mới khởi đến cuối cùng đại ngộ được thật lý.

Chánh văn: Hỏi: Vì sao?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm đạo rốt ráo vi diệu ắt phải có nhân vi diệu mà lại nói trần lao là hạt giống là vì sao?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phật là tuệ cùng tột mà lại dùng cái ác làm hạt giống thì chưa có thể chắc chắn là tin được, nên mới hỏi thêm. Chánh văn: Đáp: Nếu người thấy được vô vi mà vào chánh vị. Ngài La-thập nói:

- Từ giai vị Khổ pháp nhẫn đến A-la-hán vô sinh, đến Phật đều gọi là Chánh vị. Nói vô vi mà vào tức do chấp tướng mà thấy nên vào chánh vị thủ chứng. Lại nói thấy vô vi, vô vi tức Diệt đế, Diệt đế là chứng pháp, quyết định rõ ràng. Khi thấy hai đế trước, tuy không có thế lực phản hồi, nhưng chưa quyết định rõ ràng. Đó là nói căn cứ vào tâm quyết định để chấp chỗ chứng ngộ.

Chánh văn: Thì chẳng thể phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy việc hiện hữu mà chứng minh. Thấy vô vi vào chánh vị, nghĩa là từ giai vị khổ pháp nhẫn trở lên, các kết sử đã đoạn trừ. Đã đến đây thì bắt đầu thấy được vô vi. Vì muốn bỏ sinh tử mà cầu chứng ngộ, thì ngộ ở ngoài sinh tử; không gì chẳng xả bỏ là nghĩa ngộ, nên không thể phát tâm Bồ-đề.

Chánh văn: Ví như trên gò cao thì hoa sen chẳng sinh trưởng, nơi đất thấp bùn lầy thì hoa sen mới sinh. Như thế người thấy pháp vô vi vào chánh vị, rốt cuộc chẳng thể sinh nơi Phật pháp, chỉ ở trong bùn lầy phiền não mới có chúng sinh khởi Phật pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dụ cho việc vào chánh vị.

Chánh văn: Vả lại, như gieo hạt giống trong hư không thì chẳng thể mọc được, gieo vào vùng đất có phân mới sinh trưởng tốt tươi. Như thế người vào vô vi chánh vị thì chẳng sinh nơi Phật pháp; kẻ khởi ngã kiến như núi Tu-di.

Ngài La-thập nói:

- Tức là nói ngã kiến ấy đã sâu nặng mà lại cao.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm của ta cao như núi Tu-di nằm giữa các núi.

Chánh văn: Còn có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề, sinh vào Phật pháp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dụ cho việc thấy vô vi. Hai dụ này đều nói về mầm giống phát khởi từ việc ấy.

Chánh văn: Vì thế nên biết tất cả phiền não đều là hạt giống Phật.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa là vì tất cả chúng sinh mà từ vô số kiếp đến nay, lấy phiền não thọ thân, vào sâu nơi sinh tử, tích tụ tất cả gốc thiện để cứu độ họ, sau đó mới thành Phật đạo, vì thế gọi là hạt giống.

Chánh văn: Ví như chẳng vào biển lớn thì chẳng lấy được hạt châu vô giá, như thế chẳng vào biển lớn phiền não thì chẳng đạt được của báu Nhất thiết trí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hàng Nhị thừa đã thấy vô vi, an trụ nơi chánh vị, tâm rỗng không, vắng lặng điềm nhiên; chẳng còn sợ hãi sinh tử, nhưng còn ưa thích vô vi, thờ ơ lãnh đạm tự cho là đầy đủ, không còn mong cầu gì nữa, đâu có gì che chắn ngăn ngại, để lấy Đại thừa làm tâm? Còn phàm phu chìm đắm trong năm đường, bị phiền não che mờ, tiến thì không thuộc vào số vô vi, thoái thì có sự sợ hãi sinh tử; vậy tâm ta tự cao chỉ mến mộ sự thù thắng, nên có thể vào nơi trần lao mà chuyên tâm cầu đạo Vô thượng. Tuy gốc là sinh tử mà nở hoa chánh giác. Nếu chẳng phải là phàm phu, mạng vào vực sâu, thân lặn trong biển trần thì nào có thể lấy được của báu vô thượng này? Vì thế phàm phu được gọi là xoay trở qua lại. Nhị thừa lại bị chê là căn cơ bại hoại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Châu báu vô giá do biển cả tạo thành, của báu Nhất thiết trí là do phiền não tạo ra. Cần phải vào biển phiền não tìm cầu mới được. Một dụ này nói về nghĩa chẳng xả bỏ các kết sử thì có nghĩa phản nhập.

Chánh văn: Bấy giờ, ngài Đại Ca-diếp khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thưa ngài Văn-thù-sư-lợi! Thích thú quá! Đúng như lời ngài nói! Tất cả các trần lao là hạt giống Như Lai; chúng tôi, ngày hôm nay chẳng còn có thể phát tâm Vô thượng Bồ-đề. Đến như kẻ tạo ra năm tội vô gián mà còn có thể phát ý, sinh vào Phật pháp, mà chúng tôi vĩnh viễn chẳng thể phát tâm, như những kẻ các căn đã hư hoại (căn bại), chẳng còn cảm xúc với năm món dục lạc. Cũng thế, hàng Thanh văn đã đoạn trừ hết kết sử, không còn lợi ích trong Phật pháp, vĩnh viễn không còn chí nguyện gì

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Ca-diếp tự biết tâm mình yếu kém, không thể phát tâm nơi đạo lớn; đến như cầu pháp thù thắng, chỉ là để cho những người tạo năm tội nghịch, cảm tưởng mình chẳng kham nổi, khen lời nói của ngài Văn-thù.

Chánh văn: Vì thế, thưa ngài Văn-thù! Phàm phu ở trong Phật pháp có sự trở lại còn Thanh văn thì không có, vì sao? Vì phàm phu nghe Phật pháp có thể phát khởi tâm Vô thượng đạo, chẳng đoạn Tam bảo. Còn chính như Thanh văn suốt đời nghe các Phật pháp như Lực, Vô úy... mà vĩnh viễn chẳng thể phát tâm cầu đạo Vô thượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm phu nghe pháp, thì kế thừa được giòng giống Phật, thì việc báo ân có đáp trả. Hàng Thanh văn chỉ tự tu thân mình chẳng hoằng truyền Tam bảo, đối với Phật pháp không đáp trả. Vả lại, kinh Pháp Hoa ghi: "Hàng Nhị thừa giữa đường dừng nghỉ, rốt cuộc thành Phật đạo", nhưng kinh này lấy việc căn hư hoại để làm dụ, không còn chí mong cầu. Phàm Niết-bàn là đạo chân thật, rốt ráo vi diệu, Nhị thừa thì tập khí kết sử chưa hết, ám chướng chưa trừ, như thế làm sao có thể dùng tâm trần lụy mà cầu đạo rốt ráo chân thật? Vì ba thừa đều có phần tận nên giả trao cho Niết-bàn, mà chẳng phải là

Niết-bàn chân thật. Kinh này cho rằng hàng Nhị thừa nhàm chán sinh tử, không còn muốn tiến lên phía trước nữa, ẩn náu mãi mãi nơi vô vi; trái lại, hàng phàm phu thì vĩnh viễn dứt tuyệt. Vả lại, khi khen ngợi thì nghe xem thường Tiểu thừa. Bậc Chí nhân ứng hóa khác nhau, lập giáo chẳng phải là một, cho nên các kinh có thuyết khác nhau.

Chánh văn: Bấy giờ, trong chúng hội có một vị Bồtát tên là Phổ Hiện Sắc Thân hỏi ông Duy-ma-cật rằng: "Cư sĩ! Cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc, nhân dân, tri thức là những ai? Tớ gái, tôi trai, voi ngựa, xe cộ đều ở nơi đâu?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh có phương tiện vô cùng khéo léo, ẩn hiện khó lường. Bên ngoài hiện đồng thế tục có quyến thuộc gia đình, bên trong lấy pháp làm gia thuộc, sợ người mê hoặc thấy hình chẳng bằng đạo pháp, nên mới hỏi câu này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-tát Phổ Hiện Sắc Thân cho việc thông đạt Phật đạo là dấu tích, hỏi nghĩa này là muốn nói rõ việc ấy ắt phải có gốc, trái với đầu mối sinh tử, cho nên có thể vào tất cả. Vì thế cuối cùng trả lời về giới phẩm thì liền nói việc làm thật là vô cùng.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật dùng kệ đáp rằng: Trí ba-la-mật là mẹ của Bồ-tát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đó là Bồ-tát lấy trí tuệ làm chủ, mà trí tuệ lại lấy sự minh giải bên trong làm dụng, có nghĩa mẹ trong đó.

Chánh văn: Phương tiện đó là cha.

Ngài La-thập nói:

- Cùng tận nguồn của trí nên gọi là Độ. Trong tiếng Phạm có nghĩa mẹ, nên gọi là mẹ. Cũng nói rằng Trí độ tuy lấy sự chiếu soi làm thể, thành tựu vạn hạnh cứu độ, so sánh về công dụng thì không bằng phương tiện, nên nói là mẹ. Chánh phương tiện là cha, trong âm tiếng Phạm có nghĩa cha. Phương tiện có hai loại:

1. Giải "không" thật sâu xa mà không chấp tướng thủ chứng.

2. Vì lý thật tướng quá sâu xa, không ai có thể tin nhận, nên cần phải có phương tiện dụ dẫn quần sinh, khiến họ dần dần ngộ nhập, nghĩa của phương tiện sâu xa mà công thì nặng nên gọi là cha.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí là chiếu soi bên trong, phương tiện là dụng ở bên ngoài. Vạn hạnh đều do đây mà sinh, chư Phật nhân đây mà xuất hiện. Vì thế Bồ-tát lấy trí làm mẹ, lấy phương tiện làm cha.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phương tiện lấy việc cứu giúp bên ngoài làm dụng, trở thành nghĩa cha của đạo Bồ-tát.

Chánh văn:

Đạo sư của mọi loài Đều từ nơi đây sinh.

Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát và Như Lai gọi chung là Đạo sư. Vì các vị Bồ-tát mới học cho rằng mình chưa tránh khỏi việc thọ sinh, cần có cha mẹ. Nay muốn hiển thị do pháp hóa sinh, bặt dứt việc thọ sinh thân, nên dùng pháp để trả lời.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-tát trở lên đến Phật.

Chánh văn: Pháp hỷ chính là vợ.

Ngài La-thập nói:

- Như trong Nhị thiền, tự vui vì đã xa lìa địa dưới, nên sinh Hỷ. Cũng nói rằng đối với các thiện và thật pháp, thâm tâm ưa thích, phát sinh đại hoan hỷ. Lấy đây để tự vui, không cần niềm vui nào nữa. Hỷ là nhạc cụ, dụ như người vợ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp hỷ tức thấy bên trong sinh hoan hỷ. Người thế tục lấy sắc đẹp của vợ làm vui, Bồ-tát lấy pháp Hỷ làm vui.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người vợ lấy việc thủ tiết làm vui, thất tiết thì buồn. Hỷ đối với pháp, ý nghĩa như thế.

Chánh văn: Tâm Từ bi là nữ. Ngài La-thập nói:

- Tánh của Từ bi yếu kém, tùy chúng sinh mà vào các hữu, giống như người nữ tánh yếu kém thường tùy vật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm Từ bi giống như tánh của người nữ, nên gọi là nữ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ bi lấy việc thích ứng bên ngoài làm dụng, có nghĩa của nữ.

Chánh văn: Tâm thiện thành thật, là nam. Ngài Lathập nói:

- Tâm thành thật có thể làm các việc, giống như tánh kiên cố của người nam, tạo thành gia nghiệp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thành thật, ngay thẳng là tánh của người nam. Cũng có người làm ác mà thật, nên ở đây nêu tâm thiện. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm đã thiện lại thêm thành thực, ắt có thể cán đáng ngôi nhà Bồ-tát mà thành tựu nghiệp lớn; có việc của người nam, nên gọi thành thực là nam.

Chánh văn: Rốt ráo không tịch, nhà.

Ngài La-thập nói:

- Ngăn che gió mưa không gì bằng nhà cửa, diệt trừ các tưởng chẳng có gì hơn được không. Cũng có thể làm bặt dứt các vấn nạn, hàng phục hết các ma oán, giống như nhà cửa chắc, kín thì sự lo sợ sâu nặng về giặc cướp tự tiêu trừ. cũng nói rằng hữu chẳng phải chân yếu, có lúc tạm đổi dời, không là tông lý tức ngôi nhà thường trụ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhà cửa dùng để ngăn che sương gió, không tịch để dứt trừ bụi tưởng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ duyên mà có là có bên ngoài tự tánh thì không là rỗng rang bên trong. Hay ngăn che gió mưa phi pháp, trừ sự lo sợ về giặc kết sử, đó là lý của nhà cửa.

Chánh văn: Trần lao là đệ tử.

Ngài La-thập nói:

- Các trần tức chúng sinh trần lao, giáo hóa khiến thuận theo mình mà nhận lấy chánh đạo.

Chánh văn: Tùy ý mà xoay chuyển.

Ngài La-thập nói:

- Xoay chuyển khiến theo sự giáo hóa của mình. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh trần lao, tùy ý mình hóa độ, thì đâu chẳng phải là đệ tử.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chuyển sự ngu si của các chúng sinh trần lao trở thành sự sáng suốt của trí tuệ, há chẳng phải là nghĩa tùy ý chuyển hóa ư?

Chánh văn: Đạo phẩm Thiện tri thức. Ngài La-thập nói:

- Ba mươi bảy phẩm, ba thừa đều tu tập, Bồ-tát gồm cả sáu Độ làm phẩm. Lấy đó làm thân cận để hộ trì, làm lợi ích và thành tựu, ý nghĩa đồng có ba lợi ích, nên dụ như Thiện tri thức.

Chánh văn: Do đây thành Chánh giác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thành tựu và làm lợi ích cho ta, chính là ba mươi bảy Đạo phẩm, nên có thể gọi là Thiện tri thức.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dùng đạo mà làm lợi ích cho ta, do đó mà thành nghĩa bạn lành.

Chánh văn: Các Độ là pháp lữ. Ngài La-thập nói:

- Hoặc có thể là tri thức nhưng chẳng cần phải là bạn suốt đời, hoặc có thể là bạn nhưng chưa hẳn là tri thức. Vả lại, nói bạn lữ là để hiển rõ ý khéo léo từ đầu đến cuối ắt đến đạo tràng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu Độ là hạnh cốt yếu của Đại thừa, phát tâm làm bạn lữ cùng đến đạo tràng, là bạn chân chánh của ta.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ta vốn muốn đến bờ kia của các pháp, mà nhờ các Độ đến được, nên đó là người bạn tốt.

Chánh văn: Bốn Nhiếp là kỹ nữ.

Ngài La-thập nói:

- Bốn Nhiếp pháp, tu tập Đại chúng giống như các kỹ nữ dẫn dụ chúng nhân.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn Nhiếp pháp làm vui lòng đại chúng, nên dụ như kỹ nữ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Làm vui để nhiếp thủ người, là lý bốn Nhiếp pháp.

Chánh văn:

Ca vịnh tụng lời pháp Lấy đó làm âm nhạc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Miệng tụng lời pháp, lấy làm âm nhạc. Ngài Đạo Sinh nói:

- Làm vui tai dẫn đến sự thích thú, không việc gì hơn được việc này.

Chánh văn: Tổng trì là vườn tược.

Ngài La-thập nói:

- Tổng trì gom chứa rộng khắp là khu rừng của các pháp vi diệu, du ngoạn nơi đó làm vui tâm giống như vườn tược.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Giữ gìn các pháp không để cho thất lạc là nghĩa của vườn tược.

Chánh văn: Pháp vô lậu rừng cây.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp vô lậu, gốc rễ đã sâu, chẳng thể đánh bạt. Vả lại, lý cao mà tươi tốt là hình tượng của cây cối, pháp lậu chẳng thể xen lẫn trong đó, chính là nghĩa của rừng cây. Chánh văn: Giác ý tinh diệu hoa. Ngài La-thập nói:

- Hoa chưa nở thì chẳng đẹp, nở quá thì sắp tàn, nở đúng độ thì mới thật là kỳ diệu. Điều thuận giác ý cũng như thế, cao quá thì tán loạn, thấp quá thì hôn trầm, cao thấp vừa đủ thì nhẹ nhàng mà thẳng sang. Tướng búp nở giống như hoa thanh tịnh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bảy Giác lấy việc khai ngộ làm đạo. Không nhiễm là pháp của hoa thanh tịnh.

Chánh văn: Giải thoát trí tuệ quả.

Ngài La-thập nói:

- Giải thoát là quả vô vi. Trí tuệ là quả hữu vi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Các kết sử hết là giải thoát. Vì từ trí tuệ sinh nên có tên như thế.

Chỗ chứng đắc cuối cùng là quả.

Chánh văn: Tám giải là ao tắm. Ngài La-thập nói:

- Nước dùng để rửa bụi dơ, trừ nóng bức. Tánh của giải thoát cũng trừ chấp, dẹp ngăn ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tám là định đặt tám phương pháp, giải thoát là trừ tâm cấu uế, nên có nghĩa ao tắm.

Chánh văn: Nước định đầy, trong lặng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dừng lặng tức hay chiếu soi là nghĩa của nước. Đã định thì ý tức lặng trong tràn đầy. Chánh văn: Rải bảy loại tịnh hoa Ngài La-thập nói:

- Bảy loại là:

1. Giới tịnh tức trước sau đều tịnh, những điều do thân miệng tạo tác không có một mảy may bất thiện, ý thì chẳng khởi niệm cấu uế, cũng chẳng chấp tướng, cũng chẳng nguyện thọ sinh; ban cho người sự vô úy, chẳng giới hạn số chúng sinh.

2. Tâm tịnh, tâm chế phục phiền não, tâm đoạn kết sử cho đến lậu tận của ba thừa đều gọi là tịnh tâm.

3. Kiến tịnh, chỉ thấy chân tánh các pháp, chẳng khởi vọng tưởng là kiến tịnh.

4. Độ nghi tịnh, nếu chỗ thấy chưa sâu, thì đương thời tuy liễu ngộ nhưng sau đó có thể sinh nghi; nếu chỗ thấy sâu xa, đoạn trừ các nghi, gọi là độ nghi tịnh.

5. Phân biệt đạo tịnh, khéo thấy đạo thì nên tu hành, phi đạo thì nên xả bỏ, gọi là phân biệt đạo tịnh.

6. Hạnh đoạn tri kiến tịnh. Hạnh tức bốn hạnh: khổ khó, khổ dễ, vui khó, vui dễ; đoạn tức đoạn các kết sử, trong giai vị hữu học chưa thể biết hết các hạnh nên làm và các pháp nên đoạn, nếu đã đến vị vô học đạt được tận trí, vô sinh trí, thì biết rõ các hạnh làm và các pháp nên đoạn, thông đạt rõ ràng, đó gọi là hạnh đoạn tri kiến tịnh.

7. Niết-bàn tịnh.

-Ngài Đạo Sinh nói:

1. Giới tịnh.

2. Tâm tịnh.

3. Kiến tịnh.

4. Độ nghi tịnh.

5. Đạo phi đạo tri kiến tịnh.

6. Hành tri kiến tịnh.

7. Đoạn tri kiến tịnh.

Bảy pháp này đều lấy thanh tịnh và tốt đẹp làm lý, lại từ nước định xuất sinh, đó là nghĩa hoa trong nước.

Chánh văn: Tắm rửa người không nhơ. Ngài La-thập nói:

- Không nhơ mà tắm, là trừ sự nóng bức được mát mẻ. Bồ-tát không còn các kết sử mà vào tám giải thoát là vì chúng sinh bên ngoài và tự làm vui tâm bên trong.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tổng trì là khu vườn ghi nhớ kỷ muôn điều thiện. Trong khu vườn này, rừng cây vô lậu nở hoa bảy giác, kết quả giải thoát. Lại có ao tám Giải thoát, chứa đầy nước thiền định lặng trong, rải bảy thứ hoa thanh tịnh đầy khắp mặt nước. Sau đó bậc Vô cấu dạo chơi nơi khu vườn này, tắm ao có đầy hoa này, an nhàn tự vui, thật là thích thú vậy, há lại sánh bằng với vườn rừng, ao tắm của thế gian ư? Giác ý tức bảy Giác ý; giải thoát tức quả hữu vi vô vi; trí tuệ tức là quả trí.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tắm ở ao này thì không còn cấu uế. Chánh văn: Voi ngựa chạy, năm Thông. Ngài La-thập nói:

- Cưỡi trên xe Đại thừa đi khắp mười phương một cách tự tại vô ngại và gồm chuyên chở cả chúng sinh đến đạo tràng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Năm Thông chẳng nhanh mà nhanh, dụ cho voi ngựa.

Chánh văn: Đại thừa là xe cộ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Cưỡi trên xe Đại thừa.

Chánh văn: Nhất tâm là điều ngự.

Ngài La-thập nói:

- Nhất tâm, bản tiếng Phạm ghi là hòa hợp. Trong tâm Đạo phẩm có ba tướng là phát động, nhiếp tâm và xả. Nếu phát động quá mức thì tâm tán loạn, tán loạn thì thâu nhiếp, nhiếp quá mức thì hôn trầm, hôn trầm thì tinh tiến làm cho tâm phát động. Nếu động tịnh thích hợp thì tự tại tiến lên phía trước. Dung hòa ở khoảng giữa gọi là xả. Xả tức là điều ngự, điều ngự tức hòa hợp. Ví như người khéo cưỡi ngựa nếu đi chậm thì ra roi, nếu đi nhanh thì gìm cương chế phục. Nhanh chậm thích hợp, thì buông thõng mà tiến lên, mặc tình bước trên con đường bằng phẳng, ắt sẽ đến nơi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nhất tâm nghĩa là xả, nếu không có cao thấp, nhanh chậm, thì liền dùng nhất tâm mà tự tại tiến bước.

Chánh văn: Đi trên đường Bát chánh

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm Thông là voi ngựa, Đại thừa là xe quý, nhất tâm là người điều khiển, chạy trên con đường tám điều chân chánh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tám Chánh là con đường thông suốt, hành giả cất bước trên con đường này.

Chánh văn:

Tướng quý đủ nghiêm thân. Các vẻ trau hình dáng.

Ngài La-thập nói:

- Các tướng quý và vẻ đẹp đủ trang nghiêm thân thể, không cần các vật báu bên ngoài.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tướng quý và vẻ đẹp là các vật dùng để nghiêm thân.

Chánh văn: Tàm quý y phục tốt. Ngài La-thập nói:

- Lấy đó để ngăn chặn điều lỗi, đoạn đứt điều ác, giống như y phục hay ngăn ngừa được gió và lạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tàm quý ngăn các điều ác, là y phục quý báu của Pháp thân. Ngài Đạo Sinh nói:

- Y phục che thân là để khỏi thẹn bởi các nơi xấu lộ ra ngoài. Tàm quý thì chẳng làm việc ác, chính là nghĩa này.

Chánh văn: Thâm tâm là tràng hoa. Ngài La-thập nói:

- Thâm tâm tin thích, nên hay tu thiện, lấy thiện làm trước tiên, giống như vòng hoa trang sức trên đầu. Lại nói thâm tâm phát khởi các pháp thiện, cũng như tràng hoa trang sức thân hình.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thâm tâm là vật trang sức tối thượng pháp thân, giống như vòng hoa trang sức trên đầu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vòng hoa dùng để trang sức trên đầu, lại có công dụng buộc tóc làm cho tóc không bị rối. Thâm tâm là khởi đầu để kiểm kiểm hành vi, nên dụ như vòng hoa.

Chánh văn: Giàu có bảy Thánh tài.

Ngài La-thập nói:

- Bảy Thánh tài tức: Tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm và quý. Hàng tại gia thì thường xả bỏ tài sản; xuất gia thì luôn xả bỏ năm dục và phiền não. Do tin thiện nên giữ giới, do giữ giới thì dứt điều ác, dứt điều ác thì thực hành các việc thiện, hành thiện cần phải có đa văn, nghe được pháp thì có thể xả bỏ, thường xả thì tuệ sinh, nên theo thứ tự nói năm việc, năm việc là của báu, tàm và quý là người giữ gìn; người giữ gìn thì đối với chủ tài sản thì cũng là tài sản. Vì thế bảy việc đều gọi chung là tài.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tài bảo có bảy, nhưng lý thì thật vô cùng, nên nói thật vô cùng giàu có.

Chánh văn: Dạy bảo là lợi tức.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dạy bảo chúng sinh, là cùng với người nuôi lớn điều thiện.

Chánh văn:

Như thuyết mà tu hành, Hồi hướng là lợi lớn. Ngài La-thập nói:

- Hành tức tự hành, lấy bảy Thánh tài làm gốc, để ta người cùng lợi lạc, lại dùng phước này hồi hướng Phật đạo; bảy Thánh tài càng tăng trưởng, thì lợi càng lớn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bảy Thánh tài là tín, giới, văn, xả, tuệ, tàm, quý. Người thế gian lấy ngọc, gấm làm giàu có, Bồ-tát lấy bảy Thánh tài làm sự giàu có, xuất hay nhập Pháp bảo đều đồng lợi ích với người, lại kiêm dùng pháp lợi ích để chỉ bày, khiến họ như thuyết tu hành, hồi hướng về Phật đạo, lợi ích này thật to lớn vậy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như pháp đã nói mà tu hành thì đã gồm thâu lợi ích bên ngoài, lại có thể dễ được của báu lớn, cho nên nói là lợi ích lớn.

Chánh văn: Bốn Thiền là giường, tòa...

Ngài La-thập nói:

- Nói bốn Thiền là chọn lấy chốn tương tựa, như giường tòa xa lìa ba hoạn là:

1. Tránh rắn rết độc.

2. Lìa xa bụi dơ.

3. Tránh đất lạnh ẩm ướt.

-Bốn Thiền cũng xa lìa ba hoạn là:

1. Lìa độc sân khuể.

2. Lìa bụi tham dục.

3. Xa lìa ẩm lạnh thùy miên.

Xa lìa ba hoạn này thì an vui yên ổn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Người thế gian vì sợ rắn độc và sự ẩm ướt nên chặt cây làm giường ghế. Bồ-tát vì sự độc ác cõi dưới, nên mới lấy bốn Thiền làm giường tòa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bốn tức định đặt bốn phương pháp. Thiền lấy sự an lạc làm lý, có nghĩa của giường, tòa.

Chánh văn: Từ đây sinh tịnh mạng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giường cao bốn Thiền để tu thành tựu tịnh mạng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tịnh mạng là công năng khéo léo của Thiền.

Chánh văn:

Đa văn tăng trí tuệ
Lấy làm tiếng tự giác.

Ngài La-thập nói:

- Trước nói giường tòa thì dùng để ngủ nghỉ, ngủ nghỉ khi muốn tỉnh thức phải có pháp, nên kế đến là nói về nhạc. Ở Ấn Độ, khi người quyền quý sắp ngủ, trước tiên bảo nhạc công lúc trời sáng thì tấu một khúc nhạc nhẹ để đánh thức. Nay dùng pháp âm đa văn để tỉnh thức giấc ngũ Thiền.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở Ấn Độ, khi các bậc Vương công, Đại thần ngủ muốn đánh thức thì phải tấu nhạc (tiếng tơ, tiếng trúc), nay Bồ-tát dùng đa văn để tự đánh thức giấc ngủ trên giường Tứ thiền.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Người quyền quý, các quan lại ở Ấn độ khi muốn thức giấc thì tấu nhạc. Từ nơi nghe mà ngộ đạo, tức là ý này vậy.

Chánh văn: Pháp Cam lộ, thức ăn.

Ngài La-thập nói:

- Chư Thiên dùng các loại thuốc quý hiếm ngâm vào biển, rồi dùng núi báu mà tán nhuyễn thành cam lộ, người ăn được sẽ thành tiên gọi là thuốc Bất tử. Trong Phật pháp dùng Cam lộ Niết-bàn khiến sinh tử vĩnh viễn không còn, đó là thuốc chân bất tử. Cũng có thể cho rằng vào thời kiếp sơ, đất có vị cam lộ, ăn vào sẽ được trường sinh; trong Phật pháp thì có cam lộ thật tướng, nuôi lớn tuệ mạng, đó là món ăn chân cam lộ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thức ăn của chư Thiên là vị cam lộ, ăn vào sẽ trường thọ, nên đặt là món ăn bất tử. Niết-bàn là pháp bất tử, nên lấy đó làm dụ.

Chánh văn: Vị giải thoát là nước (uống) Ngài La-thập nói:

- Vị có bốn loại:

1. Xuất gia lìa năm dục.

2. Hành thiền xa lìa phiền não tán loạn.

3. Trí tuệ xa lìa vọng tưởng.

4. Niết-bàn xa lìa sinh tử.-Giải thoát có hai:

1. Giải thoát phiền não.

2. Giải thoát ngăn ngại.

Cũng có thể nói rằng tánh của ái là không nhàm chán nên gọi là khát ái, đoạn ái thì được giải thoát. Giải thoát trừ dứt được cơn khát ái nên gọi là nước uống. Bốn vị cũng dùng để trừ sự khát nên gọi là nước uống.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cam lộ vô lậu dùng để thân thể được sung mãn, nước pháp tám Giải thoát dùng để nhuần mát thân.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ái là gốc của sự trói buộc, lấy sự không nhàm chán làm chủ. Nếu khát nó phải cần nước, thì sinh khổ não vô cùng. Nếu thoát được nó, thì lấy không khát ái làm nước uống, không khổ làm vị.

Chánh văn: Tắm rửa để tâm tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Tâm sạch thì không nhiễm, không nhiễm tức là tắm, cũng gọi là lội trong ao nước tám giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Làm thanh tịnh tâm cấu uế tức là tắm rửa.

Chánh văn: Giới phẩm là hương thoa.

Ngài La-thập nói:

- Có tịnh giới diệt trừ cấu uế, chẳng nhờ vào hương. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tịnh tâm là nước tắm rửa, giới phẩm là hương xoa thân. Ngài Đạo Sinh nói:

- Giới ở tại nơi hình thể, còn do sự xông ướp bên ngoài là hương xoa thân.

Chánh văn: Phá dẹp giặc phiền não.

Ngài La-thập nói:

- Đạo phiền não có hai loại là già đoạn và vĩnh đoạn.

Phá dẹp là già đoạn, câu sau nói: "Hàng phục bốn ma" là vĩnh đoạn. Trên là nói nuôi dưỡng thân bốn đại, thân đã an ổn mạnh khoẻ thì khởi tu các sự nghiệp. Từ đây trở xuống là nói về sự nghiệp.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Từ đây trở xuống là nói về thuyết và làm.

Chánh văn:

Mạnh mẽ không ai hơn
Hàng phục bốn loại ma
Phướn thắng lập đạo tràng.

Ngài La-thập nói:

- Ở Ấn Độ, khi thắng địch thì dựng phướn thắng trận.

Đạo tràng hàng ma cũng biểu thị tướng thắng trận kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở Ấn Độ, khi có chiến tranh, phá được quân địch thì dựng phướn để biểu thị thắng trận. Bồ-tát dẹp giặc phiền não, hàng phục bốn ma oán, liền lập đạo tràng, dựng phướn thắng trận.

Chánh văn:

Tuy biết không khởi diệt
Chỉ dạy nên có sinh
Hiện vào các cõi nước
Như mặt trời đều thấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Biết không khởi diệt thì đạt được Pháp thân, không còn sinh nữa, nhưng vì chúng sinh nên có sinh, không nơi nào chẳng hiện. Từ đây trở xuống là khen ngợi đức biến hóa ứng hiện của Bồ-tát. Vì lấy pháp làm nhà nên mới làm được như thế.

Chánh văn:

Cúng dường khắp mười phương
Vô lượng ức Như Lai
Chư Phật và thân mình
Mà chẳng khởi tưởng phân biệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa từng hay biết ta và người khác nhau.

Chánh văn:

Tuy biết các cõi Phật
Và chúng sinh đều không
Mà thường tu tịnh độ
Giáo hóa khắp chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Biết không mà chẳng lìa bỏ hữu, nên thường ở trong đó.

Chánh văn:

Bao nhiêu loài chúng sinh,
Hình, tiếng và oai nghi,
Bồ-tát lực, vô úy.
Đồng thời hiện đều khắp
Biết rõ các việc ma
Mà tùy thuận hiện theo
Dùng trí phương tiện khéo
Tùy ý đều hiện đủ
Hoặc hiện già, bệnh, chết.

Ngài La-thập nói:

-Như Đức Phật muốn độ vua Phất-ca-sa mà hiện làm một vị Tỳ-kheo già; cũng như việc hóa hiện ở bốn cửa thành.

Chánh văn:

Thành tựu cho chúng sinh
Biết rõ như huyễn hóa
Thông đạt không ngăn ngại
Hoặc hiện kiếp lửa thiêu.
Trời đất đều rỗng không
Chúng sinh có tưởng thường
Soi thấy biết vô thường.

Ngài La-thập nói:

- Hoặc thật thiêu đốt hoặc chẳng thật thiêu đốt. Chẳng thật thiêu đốt, tức xuất hiện trong thời gian từ hai đến ba, bốn ngày, chúng sinh thấy tướng thiêu đốt mà ngộ được vô thường, rồi lại thu nhiếp, chẳng xuất hiện nữa.

Chánh văn:

Vô số ức chúng sinh Đều đến thỉnh Bồ-tát Đồng thời đến nhà kia Kinh sách và chú thuật

Các nghề nghiệp khéo léo. Đều hiện làm việc ấy

Lợi ích khắp quần sinh Các đạo pháp thế gian Đều xuất gia trong đó.

Ngài La-thập nói:

- Vì đồng học tập nên cảm ứng nhau, nhưng trước thì đồng mà sau thì nghịch. Người xuất gia có đức, làm quy tắc cho chúng sinh, nên hiện vào hàng xuất gia tu tập các đức để dẫn dắt quần sinh.

Chánh văn:

Để giải mê cho người Chẳng rơi vào tà kiến.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chín mươi sáu loại ngoại đạo đều xuất gia cầu đạo, cũng tùy theo đó xuất gia để phá trừ mê hoặc chấp trước, mà chẳng đồng kiến chấp với ngoại đạo.

Chánh văn: Hoặc làm nhật nguyệt thiên.

Ngài La-thập nói:

- Vào thời kiếp sơ chưa có mặt trời, mặt trăng, cũng chưa có chúng sinh; nơi cõi u minh, lúc đầu cũng chưa thấy mặt trời, mặt trăng, cho nên làm mặt trời mặt trăng chiếu sáng tất cả.

Chánh văn:

Phạm vương, thế giới chủ
Hoặc khi làm đất nước
Hoặc lúc làm gió lửa.

Ngài La-thập nói:

- Vào thời kiếp sơ, mặt đất chưa hình thành, nên dùng thần lực khiến gió ở sáu phương thổi đến, kết nước thành đất. Hoặc thấy người đi biển thuyền sắp chìm, thì hóa thành đất liền, khiến họ được an ổn; đến như những nơi cần nước lửa gió, đều tùy theo nhu cầu mà hiện, hoặc hóa ra hoặc tự thân tạo ra. Các món ăn và thuốc men cũng được làm như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Gặp người nổi trôi trên biển thì thân biến thành đất cứu độ. Lửa, nước, gió thì cũng đều tùy thuận chỗ cần dùng mà tự biến hình.

Chánh văn:

Vào kiếp có dịch bệnh
Thì hiện làm cỏ thuốc.

Ngài La-thập nói:

- Hoặc trừ bệnh cho họ, hoặc được làm tiên, nhân đó mà giáo hóa khiến vào chánh đạo. Ở Ấn Độ có một loại thuốc quý, hoặc giống hình người, hoặc giống voi ngựa. Nếu giống voi ngựa, người cưỡi trên đó sẽ vọt thẳng lên hư không mà bay đi. Hoặc chỉ mới nghe tên thuốc, bệnh liền tiêu trừ.

Chánh văn:

Nếu người mà uống được
Trừ hết các bệnh độc
Vào kiếp có đói khát
Hiện thân làm thức ăn
Trước cứu đói khát kia
Sau giảng nói chánh pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân Bồ-tát, có việc gì mà chẳng làm được? Hoặc hiện làm cây thuốc, người uống vào lành bệnh, hoặc hiện làm thức ăn, thức uống, người dùng hết đói khát.

Chánh văn:

Vào kiếp có đao binh
Vì họ khởi Từ bi.

Ngài La-thập nói:

- Thế gian đến kiếp tận thì chiến tranh nổi lên, con người chỉ thọ mười tuổi. Bấy giờ, Bà-tu-mật từ cõi Trời

Đao-lợi hạ sinh vào vương cung làm Thái tử, dạy mọi người rằng: "Tổ phụ của chúng ta có thọ mạng rất dài lâu; hôm nay vì quá sân hận không có từ tâm nên thọ mạng ngắn ngủi như thế. Vậy các ngươi nên thực hành tâm Từ." Mọi người tuân theo, tâm ác dần dần cạn mỏng. Từ đó sinh con tuổi thọ tăng đến hai mươi năm. Cứ như thế khi ngài Di-lặc xuất thế thì tuổi thọ tăng đến tám mươi bốn ngàn năm.

Chánh văn:

Giáo hóa các chúng sinh
Khiến không còn tranh đấu
Nếu có chiến trận lớn
Làm hai bên ngang nhau
Bồ-tát hiện oai lực
Hàng phục khiến giải hòa.

Ngài La-thập nói:

- Hai bên đối kháng nhau, thì trợ giúp bên yếu kém, hai bên ngang sức, không còn tranh thắng bại, nhân đó mà yên hòa.

Chánh văn:

Trong tất cả cõi nước
Nơi nào có địa ngục
Liền đến ngay nơi ấy
Cứu giúp các khổ não.
Trong tất cả cõi nước
Súc sinh ăn lẫn nhau
Bồ-tát đều hiện đến
Làm chúng được lợi ích.

Ngài La-thập nói:

- Như vào thời quá khứ, con người chưa có lễ nghĩa muốn tàn hại bậc Trưởng lão, thì hiện làm khỉ, voi và chim sùng kính người già cả, khiến cho con người tu thiện cùng nhau hòa hợp, như trong luận Đại Trí Độ đã nói.

Chánh văn:

Thị hiện thọ năm dục
Cũng thị hiện hành thiền
Khiến tâm ma rối loạn
Không thừa cơ gây hại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức muốn nói hành thiền thì lại thọ năm dục, muốn nói thọ năm dục thì lại hành thiền, chẳng biết sự biến hóa, nên tâm ma rối loạn.

Chánh văn:

Trong lửa sinh hoa sen
Thật là việc hiếm có
Tại dục mà hành thiền
Cũng hiếm có như thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu chẳng phải là người đạt được tĩnh loạn nhất như, thì ai có thể làm được như thế?

Chánh văn:

Hoặc hiện làm dâm nữ.
Dẫn dắt kẻ hiếu sắc,
Trước dùng dục dẫn dụ,
Sau đưa vào trí Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trái với dục tức thuận.

Chánh văn:

Hoặc làm chủ thành ấp.
Hoặc làm thầy thương nhân,
Quốc sư và đại thần
Để lợi ích chúng sinh,
Những nơi quá nghèo cùng,
Hiện làm kho vô tận,
Nhân đó khuyên dạy người
Khiến phát tâm Bồ-đề,
Kẻ ngã mạn kiêu căng
Hiện làm Đại lực sĩ,
Tiêu trừ tâm cống cao,
Khiến trụ đạo Vô thượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm ngã mạn tự cao như núi, nước chẳng thể đọng lại, Bồ-tát hiện làm Đại lực sĩ chế phục tâm cống cao kia, sau đó dùng nước pháp để nhuần thấm.

Chánh văn:

Nếu có người sợ hãi
Liền đến để an ủi
Trước ban cho vô úy
Sau dạy phát đạo tâm
Hoặc hiện lìa thân dục
Mà làm Tiên ngũ thông
Dẫn dắt các quần sinh
Để trụ giới nhẫn từ.

Ngài La-thập nói:

- Nếu thế gian không có bậc Hiền Thánh, thì chúng sinh thấp kém không thể thâm nhập Phật pháp, nên dùng giới nhẫn để giáo hóa.

Chánh văn:

Thấy người cần hầu hạ Thì hiện làm nô bộc Đã làm vui ý họ

Lại phát khởi đạo tâm Tùy theo việc cần dùng Mà vào được Phật đạo Lại dùng sức phương tiện Cung cấp cho đầy đủ Như thế đạo vô lượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thích ứng tất cả, đều là đạo của Phật.

Chánh văn:

Việc làm không bờ mé Trí tuệ lại vô biên

Độ thoát vô số chúng Giả sử tất cả Phật Trong vô số ức kiếp Đều khen công đức ấy Cũng không thể hết được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo quyền trí của Bồ-tát không bờ mé, tuy các bậc Thánh dùng lời lẽ thù thắng để tán dương chẳng thể cùng tận.

Chánh văn:

Ai nghe được pháp này, Mà chẳng phát đạo tâm? Trừ những kẻ bất tiếu Ngu si không trí tuệ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kẻ hạ trí nghe đạo lớn thì cười; như mặt trời, mặt trăng tuy sáng soi nhưng nào có ích lợi đối với người mù?

QUYỂN 8

Phẩm 9: NHẬP PHÁP MÔN BẤT NHỊ

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nói với các vị Bồ-tát rằng: "Thưa các Nhân giả! Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn chẳng hai?" Ngài La-thập nói:

- Có và không được thay nhau sử dụng là pháp thường của Phật pháp. Phẩm trước nói về có, phẩm này nói về không. Vả lại, từ hội đầu tiên đến đây, chỉ có hai vị Đại sĩ đối đáp còn các vị khác đều im lặng. Nay muốn mỗi người hiển bày đức tu tập của mình, nên mới hỏi đến để cho vị nào cũng đều được trình bày. Cũng có thể nói rằng sự mê hoặc bất đồng, việc khai ngộ phải có nhân, nên khiến mỗi mỗi đều có chỗ ngộ của mình để giải thích các mê hoặc. Phàm pháp hội thù thắng nêu rõ tông chỉ, ắt phải làm cho cuối cùng được hoàn mỹ, nay pháp hội sắp tan, muốn truy cứu đến đầu mối sâu xa, nói rộng về Bất nhị, mới đạt đến tận cùng chỗ vi diệu kia vậy.

Hỏi: Cũng có ba, bốn cho đến vô lượng pháp môn, vì sao chỉ nói về chẳng hai?

Đáp: Hai tức việc này đã ít mà hoặc nghiệp lại cạn mỏng, còn các môn khác thì việc lại rộng nhiều mà phiền não lại sâu. Hai tức còn phải phá thì những pháp khác có thể tự biết. Vả lại, vạn pháp sinh là từ duyên khởi; duyên sinh pháp, nhiều ít khác nhau, nhưng ít nhất cần phải từ hai duyên. Nếu chỉ có một duyên mà sinh ra pháp thì chưa từng nghe nói. Thế thì duyên khởi hữu, nhỏ nhất là hai pháp, nếu hai đã trừ thì nhập vào cảnh rỗng lặng. Cũng nói rằng pháp môn hai gồm thâu tất cả pháp môn. Hỏi: Vì sao chẳng phá một?

Đáp: Nếu theo danh mà tính thì chẳng phải là một, nếu cho một là một, thì cũng chưa lìa hai, trừ bỏ hai thì một chẳng còn. Lại một vô tướng, danh giả mà thật chẳng có, thật chẳng có thì thể và tướng dứt bặt, cho nên đã đặt ra mà tự không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Làm phép tắc cho thế gian gọi là pháp, căn nguyên của các Thánh hiền gọi là môn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã ngộ được một, thì các việc sẽ tự được, cho nên một là căn nguyên của các việc.

Chánh văn: Mỗi mỗi tùy sở thích của mình mà thuyết. Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đầu kinh đến đây việc luận bàn tuy khác, nhưng đều là đạo Đại thừa vô tướng. Đạo vô tướng tức là pháp môn Giải thoát bất tư nghị, là pháp môn Đệ nhất nghĩa bất nhị. Đó là chỗ kiến lập của việc Tịnh Danh hiện bệnh, của việc ngài Văn-thù thăm bệnh. Thánh đạo được thành tựu đều là do nơi đây. Cho nên sự việc là đầu mối của thiên, chương, luận đàm là khởi đầu của ngôn ngữ.

Nghiên cứu chỗ trở về thì chỉ là một mà thôi. Nhưng người học khai tâm thì phải có chỗ, việc tu tập chẳng đồng, hoặc quán sinh diệt để phản bổn hoàn nguyên, hoặc suy cứu hữu vô để thể hội chân tướng, hoặc từ tội phước để đạt được nhất tâm, hoặc xét thân miệng để đạt đến vắng lặng. Phương pháp tuy khác mà chỗ khế hợp chỉ là một. Cho nên dùng chỗ đồng của đại chúng để minh chứng cho yếu chỉ lớn của kinh này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nguyên do thì vô cùng, nhưng đạo ấy đều vào Bất nhị. Nay muốn mỗi người đều nói ra để chứng nghiệm.

Chánh văn: Trong hội có một vị Bồ-tát tên là Pháp Tự Tại nói rằng: "Các nhân giả! Sinh diệt là hai, pháp vốn chẳng sinh, nay thì chẳng diệt, đạt được Vô sinh pháp nhẫn này là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Diệt tức diệt sự sinh, nếu ngộ vô sinh, thì diệt nào có diệt? Đây là Vô sinh pháp nhẫn. Bồ-tát này nhân nơi quán sinh diệt mà ngộ đạo, nên nói ra điều mình biết là pháp môn chẳng hai. Các vị sau nói cũng giống như thế. Vạn pháp rối ren loạn động, nếu lìa chân thì đều là hai, nên lấy chẳng hai làm ngôn luận.

Chánh văn: Bồ-tát Đức Thủ nói: "Ngã và ngã sở là hai, nhân có ngã nên có ngã sở, nếu không có ngã thì không có ngã sở là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Chủ tể thường tồn là ngã, thân và vạn vật là ngã sở. Ngã sở tức là cái hữu của ngã. Pháp đã vô ngã thì cái gì là ngã sở.

Chánh văn: Bồ-tát Bất Thuấn nói. Ngài La-thập nói:

- Bất Thuấn có ba nghĩa:

1. Như chư Thiên.

2. Ái kính thân Phật, chăm chú nhìn, mắt chẳng nháy (Bất Thuấn).

3. Tâm không bị trần lụy ngăn che, mắt tuệ thường sáng tỏ.

Chánh văn: Thọ và chẳng thọ là hai. Ngài La-thập nói:

- Thọ hay chẳng thọ đều là chấp tướng. Cũng nói năm ấm hữu lậu là thọ, vô lậu là chẳng thọ. Cũng nói tâm thọ và tâm chẳng thọ, như trong A-tỳ-đàm Tâm luận đã nói.

Chánh văn: Nếu pháp chẳng thọ là chẳng thể nắm bắt được, vì chẳng thể nắm bắt được nên không giữ, không bỏ.

Ngài La-thập nói:

- Phá trừ chẳng thọ.

Chánh văn: Không tạo tác. Ngài La-thập nói:

- Tức ý nói chẳng tạo tác nghiệp thọ sinh.

Chánh văn: Không hành.

Ngài La-thập nói:

- Là tâm hành đã diệt.

Chánh văn: Đó là vào pháp môn chẳng hai. Ngài Tăng Triệu nói:

- Có tâm ắt có thọ, có thọ ắt có chẳng thọ, đó là hai.

Nếu ngộ được các pháp vốn không, cả hai đều chẳng thọ, thì không được, không hành, là môn chẳng hai.

Chánh văn: Bồ-tát Đức Đảnh nói: "Cấu tịnh là hai, nếu thấy thật tánh của cấu." Ngài La-thập nói:

- Như rửa vật bị nhơ, khi hết nhơ là sạch, sạch thì hết, hết thì không có sạch.

Chánh văn: Thì không có tướng tịnh, thuận với tướng diệt, đó là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tịnh sinh từ cấu, thật tánh thì chẳng có cấu, vậy tịnh từ đâu mà có tịnh?

Chánh văn: Bồ-tát Thiện Túc nói: "Động và niệm là hai."

Ngài La-thập nói:

- Tâm mê hoặc vừa máy khởi gọi là động, chấp giữ tướng sâu nặng gọi là niệm, trước sau sai biệt, không chấp giữ tức ngăn dứt các thọ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tình phát khởi là động, tưởng về ngã là niệm.

Chánh văn: Chẳng động thì không có niệm, không niệm tức không phân biệt. Thông đạt được lý này tức là vào pháp môn chẳng hai.

Bồ-tát Thiện Nhãn nói: "Nhất tướng và vô tướng là hai, nếu biết nhất tướng tức vô tướng cũng chẳng chấp giữ vô tướng mà nhập bình đẳng, tức là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nói một tức muốn trừ hai, chứ chẳng phải nói thật là một. Nói không (vô) tức muốn trừ có, chứ chẳng nói thật không. Nhưng người mê nghe nói một liền chấp tướng một, nghe không thì chấp tướng không, vì thế mà có hai.

Chánh văn: Bồ-tát Diệu Tý nói. Ngài La-thập nói:

- Vì quả báo của bố thí, nên từ tay có khả năng tuôn ra vô tận của báu, như nước của năm con sông, nên gọi là Diệu Tý.

Chánh văn: Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn là hai, nếu quán tâm tướng đều không, như huyễn hóa thì không có tâm Bồ-tát, và tâm Thanh văn, đó là vào pháp môn chẳng hai. Bồ-tát Phất-sa nói.

Ngài La-thập nói:

- Là tên của Sao Quỉ trong hai mươi tám ngôi sao. Khi vị Bồ-tát này sinh thì gặp vì sao này, cho nên lấy đó làm tên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phất-sa là tên của một ngôi sao, Bồ-tát nhân lấy đó làm tên.

Chánh văn: Thiện và bất thiện là hai.

Ngài La-thập nói:

- Tất cả tâm thiện hữu lậu, nghiệp thiện của thân miệng, pháp vô lậu cho đến Niết-bàn đều gọi là thiện. Tất cả nghiệp thân miệng do phiền não tạo ra đều là bất thiện.

Chánh văn: Nếu chẳng khởi thiện và bất thiện, nhập mé vô tướng mà thông đạt, thì đó gọi là vào pháp môn chẳng hai. Bồ-tát Sư Tử nói: "Tội phước là hai".

Ngài La-thập nói:

- Phiền não trong ba cõi, cái tương ưng với phiền não và thân khẩu nghiệp do phiền não tạo ra đều gọi là tội. Tất cả thiện hữu lậu gọi là phước.

Chánh văn: Nếu đạt được tánh của tội thì sẽ không khác với phước, dùng kim cang tuệ quyết định rõ tướng ấy.

Ngài La-thập nói:

- Kim cang cắm vào đất, sâu đến tận mé Địa luân mới dừng. Thật tướng tuệ đạt đến cùng tận pháp tánh mới dừng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kim cang tuệ tức thật tướng tuệ.

Chánh văn: [Không trói buộc, không giải thoát là vào pháp môn chẳng hai.] Bồ-tát Sư Tử Ý nói.

Ngài La-thập nói:

- Sư tử qua sông thì cắt thẳng dòng mà qua, đi vòng thì chẳng qua. Bậc Đại sĩ này dùng trí tuệ chân thật, vào sâu các pháp, thẳng qua bờ kia, nên mượn đó làm tên.

Chánh văn: Hữu lậu, vô lậu là hai, nếu đạt được các pháp bình đẳng, thì chẳng khởi tưởng hữu lậu hay vô lậu, lại chẳng chấp tướng cũng chẳng trụ vô tướng, đó là vào pháp môn chẳng hai. Bồ-tát Tịnh Giải nói: "Hữu vi, vô vi là hai. Nếu xa lìa tất cả số lượng thì tâm như hư không, đạt được tuệ thanh tịnh không ngăn ngại, đó là vào pháp môn chẳng hai." Bồ-tát Na-la-diên nói: "Thế gian, xuất thế gian là hai."

Ngài La-thập nói:

- Thế gian tức ba cõi; xuất thế gian tức các pháp Đạo phẩm vô lậu hữu vi.

Chánh văn: Tánh của thế gian là không, tức xuất thế gian, ở trong đó chẳng nhập chẳng xuất.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩa xuất phát sinh từ nhập. Vì không vào sinh tử, nên không có xuất thế gian.

Chánh văn: Chẳng đầy. Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi là lưu (dòng, chảy).

Chánh văn: Chẳng vơi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm có nhập ắt có xuất, có xuất ắt có đầy, có đầy ắt có vơi, đây là việc thường ở thế gian.

Chánh văn: Đó gọi là vào pháp môn chẳng hai. Bồtát Thiện Ý nói: "Sinh tử, Niết-bàn là hai." Ngài La-thập nói:

- Ở trên là nói vô vi, tức ba vô vi, ở đây nói về Niếtbàn rốt ráo.

Chánh văn: Nếu thấy tánh của sinh tử thì không sinh tử, không trói buộc, không giải thoát, không sinh không diệt, ngộ được như thế, gọi là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phược (trói buộc), nhiên (sinh) là tên khác của sinh tử, giải (giải thoát), diệt là tên khác của Niết-bàn.

Chánh văn: Bồ-tát Hiện Kiến nói: "Tận, chẳng tận là hai, nếu pháp rốt ráo tận." Ngài La-thập nói:

- Vô thường là môn đầu tiên của không. Phá pháp chẳng hết gọi là chẳng tận. Như chỉ một niệm mà chẳng trụ thì không có sinh, không có sinh thì sinh tận, sinh đã tận thì rốt ráo không, đó gọi là tận.

Chánh văn: Nếu chẳng tận thì đều là tướng chẳng tận, tướng chẳng tận là không, không thì không có tướng tận và chẳng tận. Người vào được như thế tức là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp hữu vi là pháp hư giả; vì vô thường nên gọi là tận. Thật tướng là pháp vô vi, vì thường trụ nên chẳng tận. Nếu cho tận là tận, chẳng tận là chẳng tận thì đều là pháp hai. Nếu có thể ngộ được tận và chẳng tận đều là tướng chẳng tận thì vào pháp môn nhất không bất nhị.

Chánh văn: Bồ-tát Phổ Thủ nói. Ngài La-thập nói:

- Là chỗ giữ gìn vạn pháp thiện, là nơi thủ hộ các bậc Thánh, nên gọi là Phổ Thủ.

Chánh văn: Ngã, vô ngã là hai, ngã còn chẳng thật thì phi ngã làm sao mà có thật?

Ngài La-thập nói:

- Vọng kiến có ngã, nếu ngộ thì vô ngã. Nói vô ngã là để ngăn trừ ngã, chứ chẳng phải có một pháp vô ngã riêng khác.

Chánh văn: Thấy được thật tánh của ngã, chẳng khởi hai, thì đó là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô ngã phát sinh từ ngã, nếu thấy thật tánh của ngã thì ngã liền tự vô, huống là vô ngã?

Chánh văn: Bồ-tát Điện Thiên nói: "Minh và vô minh là hai. Thật tánh của vô minh tức là minh." Ngài La-thập nói:

- Vô minh thường sinh ra minh, nên chẳng khác minh; minh từ vô minh sinh, nên chẳng khác vô minh. Vì vô minh nên chẳng thể lấy, vì luôn sinh ra minh, nên chẳng thể bỏ. Minh cũng như thế, chẳng phải vô minh nên chẳng thể xa lìa, vì từ vô minh sinh nên chẳng thể lấy. Ví như màu sắc của hoa sen, tuy thanh khiết nhưng nhân lại bất tịnh. suy từ nhân, thì tâm chẳng sinh chấp trước.

Chánh văn: Minh chẳng thể chấp thủ, lìa tất cả số lượng, trong đó bình đẳng không hai, đó là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Minh tức tuệ minh, vô minh tức là si minh. Thấy được tánh của vô minh tức là minh. Nếu thấy minh là minh thì thành vô minh, nên chẳng thể chấp giữ.

Chánh văn: Bồ-tát Hỷ Kiến nói: "Sắc, sắc không là hai. Sắc tức không, chẳng phải sắc diệt rồi mới không, tánh sắc tự không; thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Thức và không là hai, thức tức không, chẳng phải thức diệt rồi mới không, tánh thức tự không, thông đạt như thế gọi là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Sắc tức không, chẳng đợi sắc diệt rồi mới không. Vì thế thấy sắc khác không thì có hai nơi pháp tướng.

Chánh văn: Bồ-tát Minh Tướng nói: "Bốn đại khác không đại là hai."

Ngài La-thập nói:

- Trong pháp của ngoại đạo, gồm năm đại, trong Phật pháp chỉ nêu bốn đại. Bốn loại này là lớn nhất trong các pháp tạo tác nên gọi là đại.

Chánh văn: Tánh của bốn đại tức tánh không đại. Như mé trước mé sau không thì khoảng giữa cũng không. Nếu có thể biết tánh các đại như thế là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Năm đại này là nguồn gốc sinh ra chúng sinh, nên gọi là chủng (đại). Nhưng tánh của bốn đại không có trước, sau và giữa, lại chẳng khác không đại.

Chánh văn: Bồ-tát Diệu Ý nói: "Mắt và sắc là hai, nếu biết tánh của mắt thì chẳng khởi tham, sân si đối với sắc, đó là tịch diệt; tai và âm thanh, mũi và mùi hương, lưỡi và vị, thân và xúc, ý và pháp cũng là hai. Nếu biết tánh của ý thì chẳng khởi tham, sân, si đối với pháp, đó là tịch diệt, an trụ trong đó gọi là vào pháp môn chẳng hai."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Còn tình, trần nên ba độc sinh khởi, nếu ngộ được tánh của sáu tình (căn) thì chẳng khởi ba độc đối với sáu trần, đây là đạo tịch diệt.

Chánh văn: Bồ-tát Vô Tận Ý nói: "Bố thí và hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Tánh của bố thí tức tánh hồi hướng Nhất thiết trí. Trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ với hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Tánh của trí tuệ tức là tánh của hồi hướng Nhất thiết trí, như trong đó mà nhập vào nhất tướng, tức là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lấy sáu Độ làm diệu nhân với hồi hướng Nhất thiết trí là hai. Nếu ngộ được nhân quả đồng tánh, nhập vào nhất tướng đó mới là chẳng hai.

Chánh văn: Bồ-tát Thâm Tuệ nói: "Không với vô tướng, vô tác là hai. Không tức vô tướng, vô tướng tức vô tác. Nếu không, vô tướng, vô tác tức không có tâm, ý, thức. Nơi một môn giải thoát tức ba môn giải thoát, đó là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba hạnh tuy khác nhưng đều là vô duyên giải thoát, nên không có tâm, ý, thức. Đã đồng vô duyên, thì ba giải thoát chẳng khác.

Chánh văn: Bồ-tát Tịch Căn nói: "Phật, Pháp, Tăng là hai:" Ngài La-thập nói:

- Có tướng thì có đối đãi, có đối đãi thì có hai, chẳng thuộc một và ba.

Chánh văn: Phật tức pháp. Ngài La-thập nói:

- Lấy thể của pháp làm Phật, chẳng thể lìa pháp mà có Phật. Nếu chẳng lìa pháp mà có Phật thì Phật tức pháp, thế thì Phật cũng là pháp.

Chánh văn: Pháp tức Tăng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Cũng lấy thể của Pháp làm Tăng.

Chánh văn: Ba báu đều là tướng vô vi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân trí vô tướng là Phật bảo, thật tướng vô vi là Pháp bảo, tu đạo vô vi là Tăng bảo. Ba bảo tuy khác nhưng đồng có tướng vô vi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trái với lý là tạo tác, cho nên Tam bảo đều vô vi.

Chánh văn: Bình đẳng như hư không. Tất cả pháp cũng như thế.

Nếu có thể tùy thuận hạnh này tức là vào pháp môn chẳng hai." Bồ-tát Tâm Vô Ngại nói: "Thân và thân diệt là hai."

Ngài La-thập nói:

- Thân tức năm thọ ấm, thân diệt tức Niết-bàn.

Chánh văn: Thân tức thân diệt. Vì sao? Nếu thấy thật tướng của thân thì chẳng thấy thân và thân diệt. Thân và thân diệt không hai, không phân biệt, trong đó chẳng sợ hãi, đó là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khi các pháp sinh thì "không" sinh, khi các pháp diệt thì "không" diệt, thân còn hay mất cũng đâu có gì khác mà ôm lòng sợ hãi nơi đó?

Chánh văn: Bồ-tát Thượng Thiện nói: "Nghiệp thân, nghiệp miệng và nghiệp ý là hai. Ba nghiệp này đều là tướng vô tác. Tướng vô tác của thân tức tướng vô tác của miệng, tướng vô tác của miệng tức tướng vô tác của ý. Tướng vô tác của ba nghiệp này tức tướng vô tác của tất cả pháp. Nếu có thể tùy thuận tuệ vô tác như thế tức là vào pháp môn chẳng hai. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba nghiệp tuy khác, nhưng chỉ là một vô tác mà thôi. Các pháp sinh vốn do nơi ba nghiệp. Ba nghiệp đã không thì ai tạo tác các pháp?

Chánh văn: Bồ-tát Phước Điền nói: "Phước hạnh tội hạnh và bất động hạnh là hai." Ngài La-thập nói:

- Phước hạnh là hạnh thiện ở cõi dục, thường dẫn đến quả báo yên vui. Tội hạnh là mười nghiệp bất thiện, dẫn đến quả báo khổ đau. Bất động hạnh là hạnh ở cõi Sắc và Vô sắc. Nghĩa bất động cũng như trong phần luận về thông đạt Phật đạo đã nói.

Chánh văn: Thật tánh của ba hạnh tức là không, không thì chẳng có phước hạnh, tội hạnh và bất động hạnh. Chẳng khởi ba hạnh này là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phước tức là hạnh thiện ở cõi Dục; tội tức mười ác; bất động tức là hạnh ở cõi Sắc và Vô sắc.

Chánh văn: Bồ-tát Hoa Nghiêm nói: "Từ ngã mà khởi hai là hai. Thấy được thật tướng của ngã, chẳng khởi hai pháp. Nếu chẳng trụ hai pháp thì không có thức, không có thức là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Do có ngã nên có bỉ, do đó mà sinh ra hai. Nếu thấy thật tướng của ngã thì thức của bỉ ngã không do đâu mà sinh.

Chánh văn: Bồ-tát Đức Tạng nói: "Có tướng sở đắc" là hai, nếu không có sở đắc tức không lấy bỏ, không lấy bỏ tức là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đắc là do nơi ngã, tướng là tại nơi bỉ. Ngã chẳng có tướng đắc thì ai lấy ai bỏ?

Chánh văn: Bồ-tát Nguyệt Thượng nói: "Tối và sáng là hai. Không tối không sáng, tức không có hai. Vì sao? Vì như nhập định Diệt thọ tưởng thì...

Ngài La-thập nói:

- Chỉ nói về biết chiếu và diệt trong đó, mà không có tối sáng.

Chánh văn: Không tối không sáng. Tất cả các pháp cũng như thế, nếu bình đẳng thâm nhập lý này tức là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhị thừa nhập định diệt hết thì sáu căn không còn tác dụng, tâm tưởng cũng diệt, tuy có trải qua ngày đêm mà chẳng biết sáng tối khác nhau. Đây là dụ cho việc Bồ-tát vô tâm nơi sáng tối.

Chánh văn: Bồ-tát Bảo Ấn Thủ nói: "Thích Niếtbàn, không thích thế gian là hai. Nếu chẳng thích Niếtbàn, chẳng chán thế gian thì không có hai. Vì sao? Vì nếu có trói buộc thì có giải thoát, nếu không trói buộc thì nào có cầu giải thoát. Không trói buộc, không giải thoát thì không thích không chán, đó là vào pháp môn không hai."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thế gian chẳng trói buộc, há lại chán ư? Niết-bàn không giải thoát, há lại thích ư?

Chánh văn: Bồ-tát Châu Đảnh Vương nói: "Chánh đạo, tà đạo là hai. Trụ nơi chánh đạo thì chẳng thể phân biệt tà chánh. Xa lìa hai bên này là vào pháp môn chẳng hai." Bồ-tát Nhạo Thật nói rằng: "Thật và chẳng thật là hai. Thật thấy còn chẳng thấy thật huống là chẳng thật. Vì sao? Vì chẳng phải là chỗ thấy của nhục nhãn, tuệ nhãn mới thấy được. Tuệ nhãn này không thấy mà không gì chẳng thấy, là vào pháp môn chẳng hai." Ngài Tăng Triệu nói:

- Thật tướng là cảnh của tuệ nhãn, chẳng phải cái thấy của nhục nhãn, tuệ nhãn còn không thấy thật huống chi chẳng thật. Tuy nói không thấy nhưng không gì chẳng thấy. Đó là thể của chân tuệ nhãn.

Chánh văn: Như thế các vị Bồ-tát, mỗi mỗi đều đã nói xong, thì lại đồng hỏi ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: "Thế nào là Bồ-tát vào pháp môn chẳng hai?" Ngài Văn-thùsư-lợi đáp: "Theo như ý của tôi, thì đối với tất cả pháp không nói năng."

Ngài La-thập nói:

- Thuyết tức luận biện khéo léo, uyển chuyển.

Chánh văn: Không thuyết giảng.

Ngài La-thập nói:

- Thuyết việc đã qua.

Chánh văn: Không chỉ bày. Ngài La-thập nói:

- Hiển hiện tướng trạng, rồi nói là thiện là ác, tức chỉ bày.

Chánh văn: Không biết, xa lìa sự hỏi đáp. Đó là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các vị Bồ-tát nêu trên, chỗ trình bày tuy đồng mà nhân duyên lại khác nhau. Chỉ nói thẳng vào pháp tướng, chẳng nói về không lời. nay ngài Văn-thù tổng gom tất cả các thuyết của những vị Bồ-tát kia mà khai thị pháp môn chẳng hai. Nói thẳng pháp tướng chẳng có lời, chẳng nên dùng lời nơi pháp tướng, lấy đó làm lời là chỗ cùng tột của lời. Nhưng so với im lặng thì cũng còn ở phía sau.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Các vị Bồ-tát trước, mỗi mỗi đều nói về nghĩa chẳng hai, tựa như có chẳng hai để nói bàn. Nếu có chẳng hai để luận nói, thì lại là đối đãi với hai mà có chẳng hai kia. Vì thế ngài Văn-thù nói không thể thuyết mới là chẳng hai.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi lại hỏi ông Duyma-cật rằng: "Chúng tôi mỗi người đã nói xong, còn nhân giả nói thế nào là Bồ-tát vào pháp môn chẳng hai? Ông Duy-ma-cật im lặng không nói năng gì.

Ngài La-thập nói:

- Sau khi Đức Phật nhập Niết-bàn sáu trăm năm, có một người đã sáu mươi tuổi mới xuất gia, nhưng không bao lâu đã tụng thuộc tam tạng. Kế đó lại tạo các luận nghị về tam tạng. Tạo các luận xong thì suy nghĩ rằng: Trong Phật pháp lại còn có việc gì? Chỉ có pháp Thiền, ta nên tu tập." Do đó mà ngài hành trì pháp thiền, và tự lập nguyện rằng: "Nếu chẳng đắc đạo, chẳng đầy đủ tất cả công đức của Thiền định, thì chẳng bao giờ ngủ nghỉ, hông chẳng chạm đất. Do đó mà có tên là Tỳ-kheo Hiếp.

Không bao lâu chứng quả A-la-hán, đầy đủ ba minh, sáu thông, có đại biện tài, giỏi luận nghị. Bấy giờ, có một thầy ngoại đạo tên là Mã Minh, có trí tuệ, căn cơ lanh lợi, thông đạt tất cả các kinh sách, lại cũng có đại biện tài, có thể phá tất cả các luận nghị, nghe danh Tỳ-kheo Hiếp, liền dẫn các đệ tử đến mà nói rằng: "Tất cả các luận nghị ta đều phá được, nếu ta không phá được ngôn luận của ông thì sẽ cắt đầu tạ tội." Tỳ-kheo Hiếp nghe Mã Minh nói thế thì im lặng không đáp. Mã Minh sinh tâm kiêu mạn nói rằng: "Người này chỉ có hư danh, thật ra chẳng biết gì cả." Xong liền dắt các đệ tử đi. Đi được nữa đường suy nghĩ xong rồi nói với đệ tử rằng: "Người này có trí tuệ sâu xa, ta bị thua rồi!" Các đệ tử lấy làm lạ hỏi rằng: "Vì sao?" Đáp: "Ta nói có thể phá tất cả ngôn luận, tức là tự phá mình, còn ông ấy chẳng nói năng bàn luận thì không có chỗ để phá." Tức thời dẫn các đệ tử trở lại nói với Tỳ-kheo Hiếp rằng: "Tôi bị thua, tức là ngu si, đầu ngu si này, tôi chẳng cần, ông hãy cắt đi! Nếu ngài chẳng cắt thì tôi sẽ tự cắt." Tỳ-kheo Hiếp nói rằng: "Chẳng cần cắt đầu của ông, chỉ cần cắt búi tóc, thì so với người thế gian cũng như đã chết." Tức thời cắt tóc làm đệ tử Tỳ-kheo Hiếp. Về sau trở thành một bậc có trí tuệ biện tài, trên đời không ai sánh bằng; lại tạo nhiều luận, hoằng dương Phật pháp rộng khắp; người thời bấy giờ, tôn xưng là vị Phật thứ hai. Phàm im lặng và nói năng tuy khác mà luận về tông chỉ chỉ là một; chỗ thể hội tuy một mà hiển bày thì có tinh và thô. Có nói nơi không lời chẳng bằng không nói nơi không lời. Cho nên im lặng để luận bàn là sự luận bàn kỳ diệu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có nói nơi không lời, chẳng bằng không nói nơi không lời, vì thế mà im lặng. Trên các vị Bồ-tát thi thố lời nơi pháp tướng, ngài Văn-thù thì dùng có nói nơi không lời, ngài Tịnh Danh thì lại không nói nơi không lời. Cả ba, về tông tuy đồng nhưng sự thể hiện có sâu cạn. Vì thế nói chẳng bằng không nói, tri chẳng bằng vô tri, thật đáng tin vậy ư? Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài Văn-thù tuy nói chẳng thể thuyết, nhưng chưa nói thuyết tức không thuyết. Vì thế ông Duy-ma im lặng không nói để biểu hiện lời nói chẳng thật. Nếu lời nói là thật thì há có thể im lặng được chăng?

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi khen rằng: "Kỳ diệu thay! Kỳ diệu thay! Cho đến không có văn tự ngôn ngữ mới thật là vào pháp môn chẳng hai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người lãnh hội sự im lặng của ông Duy-ma chính là ngài Văn-thù. Vì ông Duy-ma giữ kín lời nên khen tặng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dấu tích của lời nói bặt dứt chỗ không lời, nên khen kỳ diệu!

Chánh văn: Khi nói phẩm vào pháp môn chẳng hai này, năm ngàn vị Bồ-tát trong chúng hội đều vào pháp môn chẳng hai, được Vô sinh pháp nhẫn.

---------------------------------

Phẩm 10: PHẬT HƯƠNG TÍCH

Chánh văn: Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất suy nghĩ rằng:

"Đã đến giờ thọ thực, các Bồ-tát sẽ thọ thực nơi đâu?" Ngài La-thập nói:

- Chỉ một mình ngài Xá-lợi-phất khởi niệm là có ba lý do:

1. Thân kết nghiệp chẳng thể không cần bồi dưỡng.

2. Dứt tuyệt ý nơi Đại thừa, tâm thích pháp chẳng sâu xa.

3. Suy từ thân mình có cần, nên cho đại chúng cũng thế, là bậc Thượng thủ trong hàng đệ tử nên phải sắp đặt cho chúng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bày biện giường ghế, sắm sửa thức ăn là lẽ thường đãi khách, nhưng nay lại đợi khách phát khởi trước là để dẫn sinh sự luận nghị. Ngài Xá-lợi-phất bấy giờ là bậc trưởng thượng trong chúng hội, nên thường cùng nhau phát động đầu mối luận nghị.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng nghĩ đến các đệ tử là vì các Thanh văn tự có pháp khất thực riêng.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật biết tâm niệm của ngài Xá-lợi-phất nên nói rằng: "Đức Phật nói tám Giải thoát, nhân giả đã tin nhận hành trì, há lại có tâm muốn ăn xen lẫn với nghe pháp ư?

Ngài La-thập nói:

- Có thể ở pháp trước kia được tự tại vô ngại, vô ngại thì tâm tưởng phiền lụy nên phế bỏ. Cũng có thể nói rằng giải thoát dùng để nhàm chán thân, xả bỏ sự chấp trước, mà nay lại nghĩ đến việc thọ thực, há chẳng quá trái ngược với chỉ thú ư?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức Phật nói tám Giải thoát chính là món ăn quý của vô dục, là thức ăn thượng hạng để nuôi lớn pháp thân; nhân giả đã tự thân thọ nhận, tức không còn tham cầu nhiều. Nhưng nay trái lại xen vào ý tưởng muốn thọ thực mà nghe pháp, há không có tâm hoàn toàn đến cầu pháp ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tám Giải thoát lấy bất tịnh quán làm môn đầu tiên mà thức ăn là vật bất tịnh, đã lấy sự thể hội tám giải làm bản hoài thì còn có tâm muốn ăn ư? Vả lại, trong pháp không có thức ăn đáng ham muốn, vì thế chẳng nên dùng tâm muốn ăn mà nghe pháp.

Chánh văn: Nếu muốn ăn, hãy đợi trong chốc lát, tôi sẽ cúng ngài một bữa ăn chưa từng có.

Ngài La-thập nói:

- Chẳng biến hóa ra vì e rằng dẫn đến sự khinh chê là hư vọng. Còn chẳng lấy cơm bình thường, là vì nếu chẳng phải tịnh diệu thì không có lợi ích. Muốn làm cho chúng hội thấy cõi nước thanh tịnh. Vả lại, nhân nơi cơm thơm mà đạt được chủ ý hoằng đạo. Vì thế từ việc ngài Xá-lợi cầu thức ăn mà xin cơm ở cõi Hương tích.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cơm thông thường là pháp sinh dục, trừ bỏ món ăn tham dục mà được món ăn chưa từng có.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nhập tammuội, dùng thần lực hiện bày cho đại chúng thấy cảnh giới ở phương trên cách đây hơn bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật có một cõi nước tên là Chúng hương, có Đức Phật hiệu là Hương Tích hiện đang trụ. Mùi hương cõi nước này bậc nhất trong các mùi hương kỳ diệu cõi Trời của người và các cõi Phật trong mười phương. Nước này không có tên là Thanh văn và Bích-chi-Phật, chỉ có các Đại Bồ-tát thanh tịnh nghe Phật thuyết pháp. Tất cả các vật ở nước này đều do chất hương tạo thành như lầu gác, vườn hoa, đường kinh hành... Mùi hương ấy lan tỏa khắp vô lượng thế giới trong mười phương. Lúc ấy Đức Phật và các Bồ-tát cõi kia đang ngồi thọ thực, các Thiên tử đồng có tên là Hương Nghiêm phát tâm Vô thượng Bồđề, cúng dường Phật và các Bồ-tát. Đại chúng ở cõi này đều thấy rõ. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật hỏi các Bồ-tát rằng: "Các Nhân giả! Vị nào có thể đến xin cơm của Đức

Phật cõi kia?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã hiện ra cõi nước kia, lại suy tìm người có thần lực khiến đến xin cơm.

Chánh văn: Do sức oai thần của ngài Văn-thù-sư-lợi nên tất cả đều im lặng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Văn-thù muốn hiển oai đức của ông Tịnh Danh, nên dùng thần lực chế phục khiến đại chúng đều im lặng.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói: "Các nhân giả!

Không hổ thẹn sao?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khích lệ người chưa thành đạo.

Chánh văn: Ngài Văn-thù-sư-lợi nói: "Như Đức Phật dạy: Chẳng nên khinh người chưa học." Ngài Tăng Triệu nói:

- Sách tấn người mới học.

Chánh văn: Bấy giờ, ông Duy-ma-cật chẳng rời tòa, ngồi yên trước chúng hội, hóa ra một vị Bồ-tát có tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm rực rỡ, oai đức thù thắng hơn cả đại chúng, rồi nói với vị hóa Bồ-tát rằng: "Ông hãy qua cảnh giới ở phương trên cách đây hơn bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật có một nước tên là Chúng hương, Đức Phật hiệu là Hương Tích và các Bồ-tát đang cùng ngồi thọ thực. Ông đến đó theo như lời tôi mà thưa rằng: "Duy-ma-cật cúi đầu lễ chân Thế Tôn, vô cùng cung kính, thăm hỏi Đức Thế Tôn đi đứng có ít bệnh ít não chăng? Sức khỏe được an ổn chăng?" Ngài La-thập nói:

- Không nói "không có" mà nói là "ít" vì muốn nói rõ thân là gốc bệnh, là gốc nên vứt bỏ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn chỉ bày có thân thì chẳng tránh khỏi bệnh, cho nên kính hỏi Như Lai, nên nói ít bệnh ít não!

Chánh văn: Nguyện được xin món cơm thừa của Thế Tôn mang về cõi Ta-bà làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Phật sự tức việc giáo hóa chúng sinh.

Chánh văn: Khiến cho những người thích pháp nhỏ.

Bản khác nói: Người ưa thích nhỏ hẹp. Ngài La-thập nói:

- Sự ưa thích chẳng cao xa, đều gọi là nhỏ, chẳng phải chỉ riêng Tiểu thừa.

Chánh văn: Được đạo rộng lớn và cũng làm cho thanh danh của Như Lai vang khắp." Ngài La-thập nói:

- Muốn khiến cho người nghe mà tin rồi phát đạo tâm, ba việc này là chủ ý của việc xin cơm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nói cơm thừa là lời nhún nhường kính thuận. Cõi kia nhân mùi hương để lưu thông đạo lớn, cõi này thì chúng sinh có chí nguyện nhỏ hẹp, cho nên nói xin cơm thừa để làm Phật sự.

Chánh văn: Bấy giờ, vị hóa Bồ-tát liền ở trước chúng hội bay lên phương trên. Đại chúng đều thấy vị ấy đến nước Chúng Hương lễ chân Đức Phật. Lại nghe tiếng nói rằng: "Duy-ma-cật xin cúi đầu đảnh lễ dưới chân Thế Tôn, vô cùng cung kính thăm hỏi Thế Tôn hằng ngày đi đứng có ít bệnh ít não, sức khỏe an ổn chăng. Nguyện được món cơm thừa của Thế Tôn đem về cõi Ta-bà làm Phật sự, khiến cho những người thích pháp nhỏ được đạo lớn và thanh danh của Như Lai vang khắp." Các Đại sĩ nước Chúng hương thấy vị hóa Bồ-tát, đều khen là việc chưa từng có và suy nghĩ rằng: "Bậc Thượng nhân này từ đâu đến? Cõi Ta-bà ở nơi nào? Sao gọi là người ưa thích pháp nhỏ? Rồi liền đem các việc ấy hỏi Đức Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các vị Đại sĩ nước kia đều được thần thông, nhưng chẳng thể thường hiện tiền. Vả lại, cõi ấy thuần là Đại thừa, chẳng nghe danh từ ưa thích pháp nhỏ, nên mới sinh nghi vấn này.

Chánh văn: Đức Phật bảo rằng: "Ở phương dưới cách đây bốn mươi hai hằng hà sa cõi Phật có một thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện đang trụ ở đời ác có năm trược, vì những chúng sinh thích pháp nhỏ mà giảng thuyết đạo pháp. Cõi Ta-bà này có một vị Bồ-tát tên là Duy-ma-cật, trụ ở Bất tư nghị giải thoát, đang nói pháp cho các Bồ-tát khác nghe, nên sai vị Hóa Bồ-tát này đến tán thán danh hiệu ta và tán thán cõi này để cho các Bồ-tát cõi kia tăng trưởng công đức. Các Bồ-tát nước Chúng hương nói rằng: "Vị Đại sĩ đó như thế nào mà có thể hóa ra vị Bồ-tát có đức, lực, thần túc, vô úy như thế?" Đức Phật nói: Rất lớn! Vị Đại sĩ này thường sai hóa Bồ-tát đi khắp mười phương làm Phật sự, lợi ích chúng sinh. Khi đó Đức Như Lai Hương Tích dùng cái bát ở nước Chúng hương bới đầy cơm thơm trao cho Hóa Bồ-tát, lúc ấy chín trăm vạn vị Bồ-tát cõi Chúng hương đồng thưa rằng: "Chúng con muốn đến cõi Ta-bà để cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni đồng thời ra mắt ông Duy-ma-cật và các Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghe Đức Phật Hương Tích khen ngợi công đức của Phật và Bồ-tát cõi Ta-bà, nên đồng muốn đi.

Chánh văn: Đức Phật bảo: "Các ông nên đi, nhưng phải thu nhiếp mùi hương nơi thân, chớ khiến cho chúng sinh cõi kia khởi tâm tham đắm.

Ngài La-thập nói:

- Quá giận thì cuồng, quá vui thì mê, nên phải thu nhiếp mùi hương, ngăn chặn nguyên nhân khiến kia mê hoặc.

Hỏi: Nếu thế, vì sao không thu nhiếp mùi hương của cơm?

Đáp: Do thần lực của Phật, nên có thể ngăn chặn nguồn mê hoặc mà phát khởi đạo tâm cho họ. Vì thế mà chẳng nhiếp thu.

Chánh văn: Nên chuyển thân hình vốn có của các ông, chớ nên khiến cho những người cầu đạo Bồ-tát ở cõi kia phải tự hổ thẹn mình thấp kém.

Ngài La-thập nói:

- Hổ nhiều thì đọa, thẹn ít cũng phiền não, hai hoặc này cùng nhau đến thì cách đạo càng xa. Trên nói tham đắm, ở đây nói hổ thẹn thấp hèn. Hai môn cùng hiển thị cho nhau, nhưng văn lại ước lược.

Chánh văn: Lại các ông đến đó chớ khởi tâm khinh khi mà sinh ý tưởng ngăn ngại. Vì sao? Vì mười phương cõi nước đều như hư không. Hơn nữa, chư Phật vì muốn hóa độ những người thích pháp nhỏ, nên không hiện ra cõi nước hoàn toàn thanh tịnh. Bấy giờ, hóa Bồ-tát đã nhận bát cơm, cùng với chín trăm vạn Bồ-tát cõi kia, nương oai thần của Phật và sức của ông Duy-ma-cật, bỗng nhiên biến mất ở cõi kia, trong khoảng khắc về đến phương trượng của ông Duy-ma. Ông Duy-ma-cật lại hóa ra chín trăm vạn tòa Sư tử trang nghiêm tốt đẹp như trước, mời các Bồ-tát cõi kia đến ngồi trên đó. Hóa Bồtát liền dâng bát cơm thơm cho ông Duy-ma-cật, mùi thơm xông khắp thành Tỳ-da-ly và cõi tam thiên đại thiên. Lúc ấy các Bà-la-môn, Cư sĩ... trong thành Tỳ-daly nghe được mùi hương này, thân tâm khoan khoái nên khen là điều chưa từng có.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mùi hương lạ xông vào thân thể, khiến tâm thư thái dễ chịu.

Chánh văn: Khi ấy trưởng giả chủ Nguyệt Cái dẫn theo tám mươi bốn ngàn người vào trượng thất của ông Duy-ma-cật.

Ngài La-thập nói:

- Cõi nước ấy chẳng có vua, chỉ có năm trăm cư sĩ cùng nhau trị quốc. Nay nói chủ ắt do mọi người tôn kính mà gọi thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nước Tỳ-da-ly không có vua, chỉ có năm trăm trưởng giả cùng nhau chăm lo việc nước. Nguyệt Cái được mọi người kính trọng, nên gọi là chủ. Từ đây trở xuống đều là do nghe mùi hương mà vân tập đến.

Chánh văn: Thấy trong ấy rất đông các vị Bồ-tát, và các tòa Sư tử cao rộng trang nghiêm, tất cả đều vui mừng kính lễ các Bồ-tát và Đại đệ tử rồi đứng về một phía. Các vị địa thần, thần hư không và chư thiên ở cõi Dục nghe mùi hương cũng đến trượng thất của ông Duy-ma-cật. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật bảo ngài Xá-lợi-phất và các vị đại đệ tử Thanh văn rằng: "Các Nhân giả! Hãy dùng món cơm có vị cam lộ của Như Lai." Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì trước kia nghĩ đến việc thọ thực, nên nay mời dùng. Cũng muốn nhân đây để nói thức ăn là lý. Nê hoàn là pháp cam lộ, nếu ăn thức ăn này ắt sẽ được Nê hoàn, cho nên trong món cơm có vị cam lộ.

Chánh văn: Từ đại Bi huân tập.

Ngài La-thập nói:

- Huân có ba nghĩa:

1. Quả báo của đại bi.

2. Do tâm bi nghĩ đến.

3. Dùng mắt từ nhìn xét. Ngài Đạo Sinh nói:

- Khiến cho người đắc ngộ là sức huân tập bên ngoài, đâu có thể nói năng lực của thức ăn là sức đại Bi ư? Thế thì món cơm là hơi do đại Bi huân kết.

Chánh văn: Không nên dùng tâm hạn lượng mà ăn món cơm này, nó sẽ không tiêu.

Ngài La-thập nói:

- Ăn món cơm này nên phát tâm Đại thừa, lập nghiệp lớn, đó gọi là báo ân, báo ân gọi là cơm tiêu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước chỉ bày pháp thọ thực. Cơm này là quả của đại bi. Được ý bi lập ra, được tâm bi hưng khởi, nên nói là do đại bi huân kết. Dùng ý có hạn lượng mà ăn món cơm này thì chẳng thể tiêu. Nếu biết món cơm này do đại bi huân kết thành, chẳng thể nghĩ bàn, phát đạo tâm mà thọ thực thì cơm tiêu, báo được ân của thí chủ, không có ý hạn lượng ngăn ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

Món cơm có từ đại bi thì không hạn lượng, nhưng tự tâm hạn lượng nói ít, thì cơm sẽ chẳng tiêu.

Chánh văn: Có các Thanh văn khác nghĩ rằng: "Cơm này quá ít, mà đại chúng cũng nên ăn." Ngài Tăng Triệu nói:

- Món cơm chẳng thể nghĩ bàn thì Nhị thừa chẳng thể thông đạt, nên mới phát sinh niệm nghi này.

Chánh văn: Hóa Bồ-tát nói: "Chớ nên dùng trí hẹp đức nhỏ của Thanh văn mà so lường với phước tuệ vô lượng của Như Lai!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô lượng phước tuệ tức là nhân của món cơm thơm, phàm có nhân vô lượng ắt có quả vô lượng, nếu nhân hạn lượng thì quả cũng có hạn lượng. Vô lượng phước tuệ của Như Lai, thì trí nhỏ hẹp của Thanh văn há có thể lường được ư?

Chánh văn: Bốn biển còn có thể cạn nhưng món cơm này chẳng thể hết. Dẫu cho tất cả mọi người ăn một vắt cơm lớn như núi Tu-di, ăn mãi trong một kiếp, cũng chẳng thể hết. Vì sao? Vì đây là món cơm dư của bậc có đầy đủ công đức vô tận giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến, nên chẳng bao giờ hết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như Lai có đầy đủ vô tận công đức năm phần pháp thân. Món cơm của thân báo ứng như thế làm sao có thể hết.

Chánh văn: Bát cơm như thế, cả chúng hội đều đã dùng no đủ mà vẫn còn. Các vị Bồ-tát, Thanh văn, trời, người ăn món cơm này thì thân thể an ổn khoan khoái, thí như các Bồ-tát ở cõi Nhất thiết lạc trang nghiêm. Lại từ nơi lỗ chân lông phát ra mùi thơm vi diệu như mùi hương từ các cây cối ở cõi Chúng hương. Bấy giờ, ông Duy-ma-cật hỏi các Bồ-tát nước Chúng hương rằng: "Như Lai Hương Tích dùng phương tiện gì để diễn pháp?"

Đáp: "Như Lai ở cõi nước của chúng tôi không dùng văn tự thuyết pháp, chỉ dùng các mùi hương làm cho trời người vào luật hạnh."

Ngài La-thập nói:

- Nêu lên phần nhiều như thế. Ở trên có nói thuyết pháp, nhưng chưa hẳn là có ngôn thuyết. Có người nhân mùi hương mà thông đạt giáo pháp thì công năng cũng đồng như ngôn thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi nước ấy chẳng phải hoàn toàn không có ngôn ngữ, nhưng vì mùi hương là căn bản để thông đạt Phật đạo, như ở cõi này lời nói là căn bản để thông đạt Phật đạo. Cũng có người nhân nơi thần thông biến hóa mà ngộ đạo.

Chánh văn: Các Bồ-tát đến ngồi dưới các cây phát ra mùi hương, nghe được mùi hương vi diệu này, liền chứng đắc tam-muôi Nhất thiết đức tạng. Khi được tammuội này thì đầy đủ tất cả công đức của Bồ-tát.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sức của tam-muội này có thể sinh ra tất cả các công đức.

Chánh văn: Các Bồ-tát kia hỏi ông Duy-ma-cật rằng: "Đức Thích-ca Mâu-ni thì dùng phương tiện gì để diễn pháp?" Duy-ma-cật đáp rằng:

"Chúng sinh ở cõi này ngang ngạnh khó giáo hóa, nên Phật phải dùng lời lẽ cứng cõi, sắc bén để điều phục họ.

Ngài La-thập nói:

- Như Lai thuyết pháp, có ba trường hợp:

1. Dùng lời nhu hòa.

2. Dùng lời cứng rắn sắc bén.

3. Vừa nhu hòa vừa sắc bén.

Nói về hạnh thiện đạt quả vui thú thì dùng lời nhu hòa; nói về hạnh ác chiêu quả khổ thì dùng lời cang cường; khen thiện chê ác thì vừa nhu hòa vừa cang cường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Thánh giáo hóa đâu có thường nhất, chỉ tùy vật mà thích ứng. Ở cõi này chúng sinh ngang ngạnh nên dùng giáo pháp cứng mạnh để thích hợp.

Chánh văn: Nói đó là địa ngục, đó là ngạ quỉ, đó là súc sinh, đó là nơi hiểm nạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chỉ tất cả tám nơi nạn.

Chánh văn: Đó là nơi người ngu sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngoại đạo dị học, gọi là nơi người ngu sinh.

Chánh văn: Đây là thân tà hạnh, là quả báo của thân tà hạnh; đó là khẩu tà hạnh, là quả báo của khẩu tà hạnh; đây là ý tà hạnh, là quả báo của ý tà hạnh; đây là sát sinh, là quả báo của sát sinh; đây là trộm cắp, là quả báo của trộm cắp; đây là tà dâm, là quả báo của tà dâm; đây là vọng ngữ, là quả báo của vọng ngữ; đây là lưỡng thiệt, là quả báo của lưỡng thiệt; đây là ác khẩu, là quả báo của ác khẩu; đây là lời vô nghĩa, là quả báo của lời vô nghĩa. Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi là tạp thuyết. Phàm chẳng vì thiện pháp và Niết-bàn mà khởi khẩu nghiệp thì đều gọi là tạp thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trau chuốc làm cho lời nói, câu văn thêm bóng bẩy hoa mỹ làm vui lòng người đều gọi là lời vô nghĩa.

Chánh văn: Đây là tham lam, tật đố, là quả báo của tham lam tật đố; đây là sân hận, là quả báo của sân hận; đây là tà kiến, là quả báo của tà kiến; đây là xan lận, là quả báo của xan lận; đây là phá giới, là quả báo của phá giới; đây là giận hờn, là quả báo của giận hờn; đây là lười biếng, là quả báo của lười biếng; đây là loạn ý là quả báo của loạn ý; đây là ngu si, là quả báo của ngu si; đây là kết giới, là giữ giới, là phạm giới.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như Luật tạng đã thuyết rõ.

Chánh văn: Đây là điều nên làm, đây là điều không nên làm, đây là chướng ngại, đây là không chướng ngại. Ngài Tăng Triệu nói:

- Phạm luật có người bị tội nặng không chướng đạo, bị tội nhẹ mà chướng đạo, là tùy thuộc vào ba chướng:

Nghiệp chướng, báo chướng và phiền não chướng.

Chánh văn: Đây là phạm tội, đây là lìa tội, đây là tịnh, đây là cấu, đây là hữu lậu, đây là vô lậu, đây là tà đạo, đây là chánh đạo, là hữu vi, là vô vi, là thế gian, là xuất thế gian, là Niết-bàn. Vì có những hạn người khó giáo hóa, tâm như khỉ vượn, nên dùng biết bao nhiêu phương pháp để chế ngự tâm họ rồi mới điều phục được. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì khó giáo hóa, cho nên phải chỉ rõ tội phước như vậy.

Chánh văn: Ví như voi ngựa hung hăng không thể điều phục, thì phải đánh đập đau đớn đến thấu xương, sau đó mới điều phục.

Ngài La-thập nói:

- Ngựa có năm loại:

1. Thấy bóng roi liền điều phục.

2. Bị đánh roi mới điều phục.

3. Dùng dùi nhọn đâm vào da mới điều phục.

4. Xuyên đến thịt mới điều phục.

5. Đâm thấu xương mới điều phục.

Chúng sinh căn cơ lợi độn cũng có năm loại:

1. Vừa thấy vô thường hiện nơi người thì tâm liền ngộ.

2. Thấy sự vô thường hiện bày nơi bậc Thiện tri thức thì tâm mới ngộ.

3. Thấy sự vô thường đến với anh em thân thuộc, tâm mới ngộ.

4. Thấy vô thường đến với cha mẹ, tâm mới ngộ.

Vô thường đến nơi thân, chịu cùng cực đau khổ, lại phải nói lời khổ, thì tâm mới ngộ.

Chánh văn: Chúng sinh ngang ngạnh khó giáo hóa như thế, nên phải dùng tất cả lời bức thiết như thế mới vào được luật hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng có móc, dùi thì không biết lấy gì để điều phục voi ngựa, nếu chẳng có lời khổ thì không biết lấy gì điều phục chúng sinh khó giáo hóa.

Chánh văn: Các Bồ-tát cõi kia nghe nói như thế, thì nói rằng: "Thật chưa từng có! Như Đức Phật Thích-ca Mâu-ni ẩn thần lực vô lượng tự tại, dùng những phương pháp mà người nghèo khổ ưa thích để độ thoát tất cả chúng sinh."

Ngài La-thập nói:

- Giấu hình tích, che ánh quang minh, hiện đồng với kẻ hành khất nghèo cùng, tự đồng với kẻ hành khất thì có thể giao tiếp với họ, giao tiếp thì dễ gần gũi, nên được người nghèo cùng tin thích.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chư Phật đều bình đẳng, nhưng hiện hình tích có sai biệt, đó là do chí nguyện nhỏ hẹp của quần sinh hạ liệt vậy. Đức Phật ẩn thần lực tự tại để đồng như kẻ nghèo cùng thô lậu, thuận với sở thích của họ mà cứu giúp. Cảm ứng vô cùng, chẳng thuộc tịnh uế, đây là việc chưa từng có.

Chánh văn: Các Bồ-tát cõi này cũng chịu khổ sở, khiêm nhường, dùng vô lượng đại bi sinh vào cõi Phật này. Ông Duy-ma-cật nói: "Các Bồ-tát cõi này đối với chúng sinh có lòng đại bi kiên cố, thật như lời các ngài đã nói."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đúng như lời khen của các Bồ-tát.

Chánh văn: Nhưng một đời ở cõi này làm lợi ích cho chúng sinh, còn hơn ở cõi khác tu hành trăm ngàn kiếp.

Ngài La-thập nói:

- Ví như vị lương y gặp lúc xảy ra kiếp dịch bệnh, thực hành y thuật cùng khắp, ban phát thuốc men cho tất cả; những người được chữa trị rất nhiều, thì việc cúng dường cũng vô lượng. Bồ-tát Đại sĩ ở nơi bất tịnh cũng như thế, chúng sinh ác càng nhiều, thì việc cứu giúp càng rộng lớn. Có mười loại thuốc pháp chữa trị tất cả các bệnh. Giáo hóa rộng thì lợi ích sâu, một đời hơn cả vạn kiếp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thực hành chẳng cần phải lâu mà quý ở chỗ có được lợi ích.

Chánh văn: Vì sao? Vì ở cõi Ta-bà có mười điều thiện mà các Tịnh độ khác chẳng có. Mười điều thiện là:

1. Dùng bố thí để nhiếp độ kẻ bần cùng.

2. Dùng tịnh giới để nhiếp độ kẻ phá giới.

3. Dùng nhẫn nhục để độ kẻ sân hận.

4. Dùng tinh tấn để độ người lười biếng

5. Dùng thiền định độ người loạn tâm.

6. Dùng trí tuệ độ người ngu si.

Ngài La-thập nói:

-Si có hai loại:

1. Ngu si đối với tất cả pháp.

2. Không thông đạt pháp sâu xa của chư Phật.

Trong cõi bất tịnh có hai loại ngu si, trong cõi tịnh chỉ có một loại là không thông đạt pháp sâu xa của chư Phật.

Chánh văn:

7. Thuyết pháp trừ nạn để độ người bị tám nạn.

8. Dùng pháp Đại thừa để độ hàng Tiểu thừa.

9. Dùng các căn lành để độ người không có đức.

10. Thường dùng bốn Nhiếp pháp để thành tựu chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm thiện do nơi ác mà sinh, tịnh từ nơi uế mà tăng. Cõi này có mười pháp ác nên có mười đức tăng trưởng. Cõi kia thuần là thuận nên không có đất để lập đức. Vì thế trăm ngàn kiếp tu hành không bằng một đời. Bản khác ghi: Mười ác nghiệp. Ngài La-thập nói:

- Mười ác nghiệp có ba phẩm là thượng, trung, hạ. Thượng là quả báo địa ngục, trung là quả báo súc sinh, hạ là quả báo ngạ quỉ. Trong mỗi phẩm lại phân ba phẩm nhỏ, như thế gồm chín phẩm. Hành bất thiện thì chiêu cảm chín phẩm quả báo khổ trong ba đường ác.

Chánh văn: Các Bồ-tát cõi kia nói: "Bồ-tát thành tựu mấy pháp mà ở cõi này tu hành không lầm lỗi (sang vưu) được sinh về cõi Tịnh.

Ngài La-thập nói:

- Bồ-tát có hạnh sâu xa thì không có điều nghi này. Còn đối với các Bồ-tát công hạnh cạn mỏng, khi ở cõi bất tịnh sợ rằng hạnh còn cạn, công còn kém nhỏ, chưa thể tự cứu khổ. Ví như chỉ có một ít nước nóng mà đổ vào sông lớn, sức yếu mà cứu người bị chìm, chưa thể cứu vớt, thì cả hai đều trầm luân. Cho nên hỏi thực hành pháp gì để được sinh Tịnh độ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn sách tấn các Bồ-tát mới học ở cõi này, khiến cầu sinh tịnh độ, nên mới nêu câu hỏi trên.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói rằng: "Bồ-tát thành tựu tám pháp, thì ở cõi này tu hành không lầm lỗi mà được sinh về Tịnh độ. Tám pháp là gì? Đó là:

1. Làm lợi ích tất cả chúng sinh mà chẳng mong cầu báo đáp, thay thế chúng sinh chịu mọi khổ não, tất cả công đức có được đều ban cho chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thay thế chúng sinh chịu khổ, chẳng chấp tự thân; tất cả công đức tạo được đều ban cho chúng sinh, đâu vì có ích mà mong muốn họ báo đáp? Nếu chẳng vì chúng sinh thì lẽ ra đã vào Niết-bàn từ lâu rồi! Vì họ mà chịu khổ, làm cho họ được độ trước; họ đi ta lưu lại, lại chẳng phải là thay thế; nghĩa là tất cả những việc lợi ích rốt ráo cho chúng sinh này là một pháp.

Chánh văn: 2. Tâm bình đẳng đối với chúng sinh, khiêm hạ không ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Oán thân chẳng khác, hạ mình tôn kính người, tôn ti bình đẳng, tâm không khởi mảy may phân biệt là pháp thứ hai.

Chánh văn: 3. Đối với các Bồ-tát tâm kính như Phật. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát là bến bãi cầu đường của chúng sinh, thuộc về Tam bảo, tôn kính các ngài như Phật thì ta được tăng trưởng công đức, đây là pháp thứ ba.

Chánh văn: 4. Những kinh chưa được nghe, nghe chẳng sinh nghi ngờ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh của Phật nói ra, khi được nghe thì tin thọ, chẳng cho rằng vì chưa nghe mà sinh nghi hoặc; là pháp thứ tư.

Chánh văn: 5. Không trái nghịch với hàng Thanh văn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba thừa tuy khác mà tông yếu chẳng khác, chẳng vì có Đại, Tiểu mà sinh tâm chống trái, là pháp thứ năm. Chánh văn: 6. Chẳng ganh ghét khi thấy người được cúng dường.

Ngài La-thập nói:

- Suy tìm nguyên do được cúng dường, là từ nơi việc làm ở đời trước, ganh ghét chỉ vô ích, chỉ nên tu thiện, dùng lý lẽ để an tâm nên ganh ghét chẳng sinh.

Chánh văn: Chẳng tự cao khi mình được lợi lạc.

Ngài La-thập nói:

- Nếu tu thiện, trì giới mà được lợi dưỡng thì nên tự nghĩ rằng: "Người cúng dường có công đức chẳng phải là vì ngã. Giả sử có ngã, thì người chẳng thấy có vì lý đã vô ngã, thì tâm cống cao không có chủ." Suy nghĩ như thế thì tâm cống cao tự trừ diệt.

Chánh văn: Ở nơi đó mà điều phục tâm mình.

Ngài La-thập nói:

- Tức trong hai việc người được cúng dường và ta được lợi lạc mà điều phục tâm. Điều phục tâm thì như trước đã nói. Ba câu này hợp thành một việc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người gieo thì người được, sao lại ganh ghét? Ta trồng thì ta được, đâu có gì mà cống cao? Trong hai pháp này mà khéo tự điều phục, là pháp thứ sáu.

Chánh văn: 7. Thường xét lỗi mình, chẳng nói lỗi người.

Ngài La-thập nói:

- Như có một vị Tỳ-kheo tọa thiền trong rừng vắng, khi đến giờ thì ôm bát ra khỏi rừng khất thực, một hôm đi giữa đường thì bị một tên giặc ác giương cung nhắm bắn. Vị Tỳ-kheo ấy rộng lượng tha thứ, chỉ tự trách mình mà chẳng sinh tâm giận ghét, lại còn chỉ vào bụng mình mà nói rằng: "Người nên bắn vào đây! Ta vì cái bụng mà cần phải ra khỏi rừng để dẫn đến phiền não này, đây là tội của các bụng vậy." Tự xét mình mà khoan thứ cho người tương tự như thế. Còn chẳng rao nói lỗi người, chẳng như vị Duy-na độn căn kia nếm vật dơ trong đất mà tìm lỗi người.

Từ câu xét lỗi mình đến câu cầu các công đức là chung cho một việc.

Ngài Tăng Triệu nói:

Thường xét lỗi mình thì lỗi tự tiêu, rao nói lỗi người thì lỗi về nơi ta, là pháp thứ bảy.

Chánh văn: 8. Hằng dùng nhất tâm mà cầu tất cả các công đức. Đó là tám pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trần cấu dễ tăng, công đức khó đủ. Nếu chẳng có nhất tâm chuyên cầu thì không biết lấy gì để thành tựu. Đầy đủ tám pháp này, thì tu hành không lầm lỗi, rốt cuộc được sinh Tịnh độ.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật và ngài Văn-thù-sư-lợi ở trong đại chúng thuyết pháp này xong thì có trăm ngàn trời người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mười ngàn vị Bồtát chứng được Vô sinh pháp nhẫn.

QUYỂN 9

Phẩm 11: BỒ TÁT HẠNH

Chánh văn: Lúc bấy giờ, Đức Phật đang thuyết pháp nơi vườn cây Am-la, bỗng nhiên khu vườn trở nên rộng rãi trang nghiêm, tất cả đại chúng trong hội đều có màu vàng ròng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Chí nhân không có xứ sở thường nhất, lý hợp thì thân cận. Như Lai và ông Tịnh Danh tuy hình tướng chẳng đồng xứ sở khác nhau, nhưng vẫn đồng thời tồn tại một cách kỳ diệu, vì thế thường hay qua lại giáo hóa, cùng hoằng dương đạo bất tư nghị. Nhân sai người đến thăm bệnh, đã nói như trên, mà bây giờ đến diện kiến Như Lai để ấn chứng kinh này. Cho nên trước tiên hiện điềm này để khai phát tâm đại chúng.

Chánh văn: Ngài A-nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có điềm lành này? Khu vườn bỗng nhiên rộng rãi trang nghiêm, tất cả chúng hội đều có sắc vàng?

Ngài Tăng Triệu nói:

- Việc làm của bậc Đại sĩ thì hàng hành đạo kém nhỏ chẳng thể biết, nên phải hỏi nguyên nhân.

Chánh văn: Phật bảo A-nan rằng: "Đây là do ông Duy-ma-cật, Văn-thù-sư-lợi cùng với đại chúng vây quanh phát tâm muốn đến nơi đây. Nên trước tiên hiện điềm lành này." Bấy giờ, ông Duy-ma-cật nói với ngài Văn-thù-sư-lợi rằng: "Chúng ta cùng nhau đến ra mắt

Đức Phật."

Ngài La-thập nói:

- Ông Duy-ma-cật khuyên cùng nhau ra mắt Phật, yếu chỉ có thể suy biết rằng:

1. Thấy tâm thành thật của ông ấy, mà muốn được thỏa mãn bản ý của ông.

2. Muốn chứng minh món cơm thơm có nhiều khả năng khai ngộ.

3. Vì tâm các Bồ-tát ưa thích sự thù thắng viễn du, nay cần khiến trở về, nên muốn cùng nhau đến trụ xứ của Phật để cầu xin giáo pháp đem về.

Chánh văn: Để các Bồ-tát đảnh lễ cúng dường. Ngài

Văn-thù-sư-lợi nói: "Hay lắm! Nay chính là lúc nên đi!" Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức thời gian có ích lợi.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật liền dùng sức thần đặt đại chúng và các tòa sư tử vào bàn tay phải rồi đi đến trụ xứ của Phật. Đến rồi, ông đặt xuống đất.

Ngài La-thập nói:

- Ở thế gian nếu đón hay tiễn đều dùng xe ngựa, còn Đại sĩ thì vận thần thông diệu dụng.

Chánh văn: Đảnh lễ chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi chắp tay đứng một bên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài Tịnh Danh đặt các tòa nơi đất, rồi trước tiên kính lễ Thế Tôn.

Chánh văn: Các Bồ-tát liền rời tòa, đến đảnh lễ nơi chân Phật, nhiễu quanh bên phải bảy vòng rồi đứng qua một bên. Các Đại đệ tử, Đế thích, Phạm vương, Tứ thiên vương... cũng đều rời tòa, lễ chân Phật rồi đứng về một bên. Bấy giờ, Thế Tôn y như pháp an ủi các Bồ-tát rồi bảo các đại chúng ngồi nơi tòa của mình. Đại chúng vâng lời dạy thực hành theo. Khi đã ổn định, Đức Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất rằng: "Ông thấy thần lực tự tại mà Bồtát Đại sĩ thi thố chăng?" Ngài La-thập nói:

- Muốn khen ngợi thần lực kỳ diệu của đại sĩ để khuyên gắng những người có tâm tưởng nhỏ hẹp.

Chánh văn: "Thưa vâng! Bạch Thế Tôn con đã thấy." Phật hỏi: "Ý ông thế nào?" Xá-lợi-phất đáp: "Con thấy các việc ấy thật chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải ý có thể lường, chẳng phải suy nghĩ có thể tính được." Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước kia đã cùng với Bồ-tát Văn-thù vào ngôi thất bất tư nghị, nhân nơi việc mượn bảo tòa, đã thấy được thần lực, đến ăn cơm thơm, ở trên lòng bàn tay mà trở về đều chẳng thể dò được sự thần biến ấy, cho nên nói là bặt dứt suy nghĩ tính lường. Yếu chỉ lớn của kinh này là nói về đạo bất tư nghị, cho nên luôn hiển bày dấu tích bất tư nghị.

Chánh văn: Lúc bấy giờ, A-nan bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Mùi hương mà con nghe đây thật từ xưa chưa từng có, chưa biết là hương gì?"

Ngài La-thập nói:

- Hỏi về mùi hương thượng phẩm xông khắp tam thiên đại thiên, vì sao ngài A-nan chẳng nghe?

Đáp: "Chẳng có phần nên dù ở gần mà chẳng nghe, nay mới được nghe."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức Như Lai sắp nói về nhân duyên của cơm thơm, cho nên khiến ngài A-nan hỏi.

Chánh văn: Đức Phật bảo A-nan rằng: "Đây là mùi hương từ lỗ chân lông của các Bồ-tát phát ra." Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát cõi kia tức các Bồ-tát nước Chúng Hương. Sở dĩ chỉ nói các Bồ-tát cõi kia là vì muốn khiến cho Xálợi-phất tự nói mùi hương của một món cơm, nhân đó nói về lợi ích lớn của cơm thơm.

Chánh văn: Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất nói với ngài A-nan rằng: "Từ lổ chân lông của chúng tôi cũng phát ra mùi hương ấy!" Ngài A-nan hỏi: "Mùi hương ấy từ đâu mà có?"

Đáp: "Trưởng giả Duy-ma-cật xin món cơm thừa của Đức Như Lai nước Chúng hương đem về nơi trượng thất của ông. Người nào ăn thì từ lổ chân lông đều phát ra mùi hương như thế!" Ngài A-nan lại hỏi ông Duy-macật rằng: "Mùi hương ấy giữ được bao lâu?" Ông Duyma-cật đáp: "Đến khi cơm này tiêu hết." Lại hỏi: "Cơm ấy bao lâu mới tiêu?"

Đáp: "Sức của cơm này trải qua bảy ngày mới tiêu." Ngài La-thập nói:

- Bảy ngày mới tiêu là có hai nhân duyên, hoặc có người ăn cơm thơm, cơm tiêu chẳng đúng thời, thì chán mà xả bỏ, nên chẳng khiến để lâu. Cũng có thể nói ứng với người đắc đạo, mùi cơm đúng thời xông không quá bảy ngày thì ắt sẽ đắc đạo. Như bảy lần sinh đối với đạo tích, rắn cắn đi bảy bước... tất cả thế lực không quá số bảy. Theo sự việc thì chẳng cần phải để lâu, cho nên khiến không quá bảy ngày.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bảy ngày, thế lực của cơm mới tiêu là sức bình thường. Nếu ứng với việc nhân nơi món cơm mà bước lên thềm thang của đạo, thì cần phải đạt đến chỗ nên đạt thì cơm mới tiêu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không quá bảy ngày.

Chánh văn: Thưa ngài A-nan! Những Thanh văn chưa vào chánh vị, ăn món cơm này, khi vào chánh vị thì cơm mới tiêu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vào cảnh vô lậu gọi là vào chánh vị.

Chánh văn: Đã vào chánh vị mà ăn cơm này thì đến khi được tâm giải thoát cơm mới tiêu.

Ngài La-thập nói:

- Tức mười sáu tâm kiến đế.

Hỏi: Vì sao ăn cơm thơm lại đắc đạo?

Đáp: Thân an thì tâm thanh tịnh, phát khởi tâm chưa từng có. Cơm còn như thế, huống gì là đạo? Có diệu quả này ắt có diệu nhân, vô cùng tin thích, thấu đạt nhân quả tức hiểu được duyên khởi, hiểu duyên khởi thì thấy được thật pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thành tựu quả không chấp rước, gọi là tâm giải thoát.

Chánh văn: Nếu chưa phát tâm Đại thừa mà ăn cơm đó, thì đến khi phát tâm rồi cơm mới tiêu; nếu đã phát tâm Đại thừa, ăn món cơm này, đến khi đạt được Vô sinh pháp nhẫn cơm mới tiêu; đã đạt được Vô sinh pháp nhẫn ăn món cơm này thì đến Nhất sinh bổ xứ cơm mới tiêu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trong bảy ngày ắt có sở đắc. Nhưng khi ngộ từ món ăn, không được có hai giai vị, chỉ là Nhất sanh bổ xứ, còn Phật thì không nhờ nơi đó mà được, vậy Bồ-tát vô sinh và người đã vào chánh vị há nhờ vào phương pháp bên ngoài để tiến lên ư? Mà nay nói như thế là để chỉ rõ món cơm này để tuyên lý cùng cực, có đủ các nghĩa ấy.

Chánh văn: Ví như có món thuốc tên là thượng vị, người uống vào các độc tiêu hết rồi thuốc mới tiêu. Cơm này cũng như thế, diệt trừ tất cả độc phiền não rồi cơm mới tiêu. A-nan bạch Phật rằng: "Thật chưa từng có! Bạch Thế Tôn! Như món cơm thơm này có thể làm Phật sự vậy.

Ngài La-thập nói:

- Thần thông biến hóa, thuyết pháp độ người là những pháp thông thường để giáo hóa. Còn cơm vốn là để nuôi lớn thân thể mà nay dùng đó để đắc đạo, nên khen là chưa từng có. Phật lấy việc giáo hóa người làm sự nghiệp, phàm giáo hóa người đều gọi là Phật sự. Anan cho rằng việc kỳ diệu của Phật sự đều là tại nơi đây. Nên về sau nói rộng về Phật sự để khai mở tâm A-nan. Ngài Tăng Triệu nói:

- Cơm vốn là để nuôi dưỡng thân thể mà nay lại trừ cả kết phược, thì thật là chưa từng thấy nghe.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phật lấy việc khai ngộ làm sự nghiệp, mà cơm thơm có thể làm được, đó là việc chưa từng có.

Chánh văn: Phật nói: "Đúng thế! Đúng thế! A-nan! Hoặc có cõi Phật lấy ánh sáng làm Phật sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- A-nan thấy được sự lợi ích của cơm thơm, cho rằng lý rốt ráo của Phật sự chỉ ở tại đó, cho nên Phật khai thị rộng thêm về việc này, khiến cho A-nan ngộ được Phật đạo thật vô cùng. Chúng sinh ở cõi ấy thấy ánh sáng kỳ diệu của Phật thì tự vào đạo; xét kỹ cũng có những lợi ích khác, nhưng chỗ lấy ánh sáng làm chủ. Các câu sau cũng giống như thế.

Chánh văn: Có cõi nước lấy Bồ-tát làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Đức Phật trụ ở vị Tông chủ, im lặng không nói, chỉ sai các Bồ-tát hoằng đạo giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có vị Phật luôn im lặng, trụ ở vị Tông chủ, để Bồtát làm hóa chủ.

Chánh văn: Có cõi lấy hóa nhân của Phật làm Phật sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có cõi nước thuần chỉ dùng hóa nhân làm Phật sự, như Tu-phiến-đầu-tỷ.

Chánh văn: Có cõi lấy cây Bồ-đề làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Trổ hoa kết quả hoặc phát ra mùi hương vi diệu, hoặc phóng ra ánh sáng, hoặc thuyết pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cây nơi Đức Phật thành đạo gọi là Bồ-đề. Ánh sáng của cây này chiếu cùng khắp, mùi hương lan tỏa mọi nơi, hình sắc thật vi diệu, tùy mỗi người ưa thích mà được thấy như ý. Cây phát ra pháp âm, tùy sự ưa thích của mỗi người mà được nghe như thế. Đây là cây báo ứng của Như Lai. Chúng sinh gặp cây này, tự nhiên ngộ đạo. Cõi này lấy cây làm căn bản cho việc giáo hóa.

Chánh văn: Có cõi lấy y phục, ngọa cụ của Phật làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Xưa vua ở cõi Diêm-phù-đề được đại y của Phật. Bấy giờ, thế gian xảy ra dịch bệnh, vua bèn treo y trên cao để mọi người nhìn thấy. Người nào nhìn thấy mà quy y thì bệnh tiêu trừ, tâm tin kính càng sâu, nhân đó mà được giải thoát. Đó là ví dụ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chú thích cũng đồng như thế.

Chánh văn: Có cõi lấy cơm làm Phật sự, có cõi lấy vườn rừng, nhà cửa làm Phật sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nước Chúng hương tức theo việc này. Nghĩa khác thì cho rằng về ăn uống là lấy thiệt căn để thông đạt đạo pháp; về vườn rừng là lấy nhãn căn để thông đạt Phật đạo.

Chánh văn: Có cõi lấy ba mươi hai tướng quý, tám mươi vẻ đẹp tùy hình làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Hoặc một tướng, hai tướng, cho đến nhiều tướng, tùy sự ưa nhìn của chúng sinh mà hiện tướng thích hợp. Cũng có thể nói dùng hình tượng Phật, như vua Bình-sa tặng cho vua Phất-ca-sa một tượng Phật, nhân đó mà vua Phất-ca-sa đắc đạo. Sau nói thân Phật là thân hóa hiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người thích tướng đẹp trang nghiêm thì dùng tướng tốt và vẻ đẹp chỉ bày.

Chánh văn: Có cõi nước dùng thân Phật làm Phật sự. Có cõi nước lấy hư không làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Trừ bỏ hình sắc thì rỗng rang không tượng, khiến kia được tâm không và vắng lặng, lụy tưởng tiêu trừ, cũng như ngài Văn-thù-sư-lợi trừ bỏ các sắc tượng, hiện tướng hư không để giáo hóa vua A-xà-thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người thích có thì giữ thân để chỉ bày có, người thích không thì diệt thân để hiển thị không, như kinh Mật Tích đã nói. Tám tướng tuy nơi thân mà thân và tướng chẳng phải một, vì nhân mỗi mỗi khác nhau, thế thì Phật sự chẳng đồng.

Chánh văn: Chúng sinh theo duyên ấy mà vào luật hạnh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân tuy khác, nhưng đều được vào luật hạnh.

Chánh văn: Có cõi lấy các dụ mộng, huyễn, bóng vang, ảnh trong gương, trăng trong nước, sóng nắng làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Trong mộng mà ngộ thì cảm được chúng sinh. Sáu việc kia tức là hiển hiện các hình sắc không thật, khiến cho người ngộ được lý sâu xa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như có người chẳng ngộ được lời chánh, thì nhân nơi dụ mà hiểu.

Chánh văn: Có cõi nước dùng âm thanh, ngôn ngữ, văn tự mà làm Phật sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức Phật sự ở cõi Ta-bà.

Chánh văn: Hoặc có cõi Phật dùng cõi thanh tịnh vắng lặng, không lời, không thuyết.

Ngài La-thập nói:

- Có hình sắc nhưng không có ngôn giáo như ông Duy-ma im lặng mà thành tựu sự luận bàn.

Chánh văn: Không chỉ bày, không biết, không tạo tác, không làm mà làm Phật sự.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Có cõi chân tịnh độ, chỉ thuần là pháp thân Bồ-tát, ngoài không ngôn thuyết, trong không còn tình thức, vắng lặng vô vi mà siêu việt, giác ngộ ngoài sự, chẳng phải là cảnh giới mà lời nói và tình thức có thể nghĩ bàn, đó là Phật sự tối thượng.

Chánh văn: "Như thế, này A-nan! Tất cả những oai nghi đi đứng, các việc làm của chư Phật đều là Phật sự." Ngài Tăng Triệu nói:

- Phật sự là lấy việc có lợi ích làm sự nghiệp, các oai nghi đi đứng, cử động, cúi ngước của Như Lai cho đến động chân giơ tay của ngài đều có ích lợi, vì thế các việc làm, không gì chẳng phải là Phật sự. Trên đã lược nói xong.

Chánh văn: Này A-nan! Có bốn ma và tám mươi bốn ngàn môn phiền não.

Ngài La-thập nói:

- Căn bản phiền não có bốn là ba độc và đẳng phần. Hai mươi mốt ngàn trần cấu thuộc về một bệnh, bốn bệnh là tám mươi bốn ngàn trần cấu. Nói chung thì tám mươi bốn ngàn, nếu phân biệt riêng các tướng thì gồm có vô lượng. Nay nói tám mươi bốn ngàn thì gần vô lượng nên nói là môn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ba độc và đẳng phần, bốn pháp này là gốc của phiền não, từ một gốc sinh ra hai mươi mốt ngàn phiền não, tổng cộng là tám mươi bốn ngàn phiền não. Từ tám mươi bốn ngàn phiền não sinh ra vô lượng trần cấu nên gọi là môn.

Chánh văn: Các chúng sinh vì nó mà nhọc nhằn khổ sở, còn chư Phật thì lấy đó làm Phật sự.

Ngài La-thập nói:

- Phật sự có ba loại:

1. Lấy pháp thiện làm Phật sự, như ánh sáng, thần thông, thuyết pháp...

2. Lấy vô ký làm Phật sự, như hư không....

3. Lấy các pháp bất thiện làm Phật sự như tám mươi bốn ngàn môn phiền não.

Ví như một thầy thuốc có thể dùng thuốc lành hoặc dùng thuốc độc để trị bệnh cho người. Đức Phật cũng như thế, có lúc dùng phiền não, như Phật dùng ái để độ Nan-đà, dùng sân khuể để độ rồng độc...

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh đều cho phiền não là bệnh, mà chư Phật lại lấy phiền não làm thuốc. Như dâm nữ cho dục là bệnh, đến cùng tột tâm dục đó mới ngộ đạo, rồng độc cho sân hận là bệnh, thì làm tăng trưởng tâm sân hận này cùng tột rồi mới chịu giáo hóa. Đấy là lấy dục trừ dục, lấy sân trừ sân giống như lương y lấy độc trừ độc. Đó là tính vô cùng của Phật sự vậy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu cho nhầm thuốc, thì thuốc trở thành độc. Nếu bệnh trừ thì độc là thuốc. Vì thế bậc Đại Thánh là bậc Y vương chữa tâm bệnh, chạm việc đều là pháp lương dược.

Chánh văn: Đó gọi là vào pháp môn của tất cả chư Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể ứng hợp vô cùng mới thuận đẹp xấu, không việc gì chẳng làm, làm thì chẳng gì không phải là Phật sự. Đó mới gọi là vào pháp môn của chư Phật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chỉ cần đạt một môn thì các việc đều thành tựu.

Chánh văn: Bồ-tát vào pháp môn này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát trụ thứ bảy trở lên dự vào môn này.

Chánh văn: Nếu thấy tất cả cõi Phật thanh tịnh đẹp đẽ chẳng lấy làm vui, chẳng tham trước, chẳng cống cao; dù thấy tất cả cõi Phật bất tịnh cũng chẳng buồn, chẳng ngại, chẳng lui sụt chỉ nên ở nơi chư Phật sinh tâm thanh tịnh, hoan hỷ cung kính khen chưa từng có. Công đức của chư Phật Như Lai đều bình đẳng, vì giáo hóa chúng sinh mà hiện ra các cõi Phật bất đồng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phật không có xứ sở nhất định, ứng vật mà hiện, tại tịnh thì hiện tịnh, tại uế thì hiện uế, đẹp xấu nơi người, còn đối với Phật thì không hai, như thế há tự sinh vui buồn trong đó ư? Vì thế người dự vào môn này thấy tịnh chẳng tham vì phần mình chẳng cao; thấy uế chẳng ngại, vì trái tâm chẳng lui sụt, nên sinh tâm chân tịnh, biết Phật bình đẳng mà ứng tích chẳng đồng, còn như hàng hẹp lậu thì chẳng thể có tín tâm bình đẳng. Nếu chẳng vào môn Phật sự, thì sao có thể lấy tịnh uế làm tâm?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-tát đã vào môn này thì liền biết cõi Phật có nghĩa tùy ứng, đẹp xấu do người, đối với ta nào có khác.

Chỗ đáng quý trọng chỉ là ứng, nên chỉ khen ngợi ứng sinh là kỳ diệu.

Chánh văn: Này A-nan! Ông thấy đất của cõi Phật có bao nhiêu thì hư không không có bấy nhiêu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không có đất là hư không, mà đất phát sinh từ trong đó. Chánh văn: Như thế, thấy sắc thân của chư Phật có bao nhiêu. Ngài La-thập nói:

- Ở đây là nói thân hóa hiện. Sau nói sắc thân... là thân chân báo ứng.

Chánh văn: Thì tuệ vô ngại không có bấy nhiêu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phật tuệ như hư không, ứng hình giống như đất, chẳng thể cho đất sai khác mà hư không có khác, chẳng thể cho hư không là một mà giải thích đất.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sắc thân là ứng hiện bên ngoài, xuất sinh từ tuệ vô ngại, không phải sắc thân.

Chánh văn: Này A-nan! Sắc thân, oai tướng, chủng tánh, giới, định, tuệ, giải thoát, Giải thoát tri kiến, lực, vô úy, pháp bất cộng, đại từ, đại bi, oai nghi được hành trì của chư Phật và thọ mạng, sự thuyết pháp giáo hóa, thành tựu chúng sinh, thanh tịnh cõi Phật của ngài, đầy đủ các Phật pháp, tất cả đều bình đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sắc thân của chư Phật tuy có rất nhiều, nhưng mỗi một vị Phật đều gồm đủ, cho nên không gì chẳng bình đẳng.

Chánh văn: Cho nên gọi là Tam-miệu-tam Phật-đà.

Ngài La-thập nói:

- Tam-miệu-tam Bồ-đề, Hán dịch là Chánh biến tri. Nay nói Tam-miệu-tam Phật-đà tức dịch Chánh biến giác. Thấy các pháp không sai biệt là chánh, trí trùm khắp cả gọi là biến, ra khỏi cơn mộng sinh tử gọi là giác. Ngài Tăng Triệu nói:

- Hán dịch là Chánh biến tri. Thấy các pháp không sai biệt là chánh, trí trùm khắp là biến, quyết định pháp tướng là tri.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu chẳng bình đẳng, thì có chỗ chẳng rốt ráo, chẳng được gọi là Bậc Chánh Biến Giác.

Chánh văn: Gọi là Đa-đà A-già-độ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hán dịch là Như Lai, cũng nói là Như Khứ. Như pháp mà lai (đến), như pháp mà khứ (đi). Cổ kim chẳng thể biến đổi, ngàn Thánh đồng dấu vết nên gọi là Như Lai, cũng gọi là Như Khứ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như tức tâm thầm hợp với như, không có lý chẳng như; từ trong ấy mà lai (đến), nên không đâu chẳng như.

Chánh văn: Gọi là Phật-đà.

Ngài La-thập nói:

- Đa-đà A-già-độ, Hán dịch là Như Lai, cũng gọi là Như Khứ. Biết như pháp, thuyết như pháp, nên gọi là Như. Chư Phật từ đạo an ổn mà đến (lai), Đức Phật này cũng đến như thế, Đức Phật kia từng an ổn mà đi, Đức Phật này cũng đi như thế. Phật-đà, Hán dịch là Giác, đắc đạo gọi là Giác. Giác có hai nghĩa:

1. Giác bốn đế.

2. Giác tất cả pháp, giác mà chẳng rốt ráo thì chẳng phải là chân giác, nên không gọi là Giác.

Như Đức Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất ba câu mà chẳng đáp, thiên nữ hỏi thì im lặng không lời, đó đều chưa tránh khỏi còn mê ngủ. Nói biến, nói như, nói giác, ba tên này là danh xưng của sự thể hội rốt ráo, đủ để nói chư Phật đều bình đẳng, khác với Nhị thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hán dịch là Giác, tức là tỉnh thức từ trong giấc ngủ sinh tử triền miên chẳng thể tự thức. Tỉnh thức cho mình, đánh thức người chỉ có Phật mà thôi. Ba câu này đều là danh xưng của sự thể hội cùng cực. Nếu đầy đủ các Phật sự như trên, mà có một mảy may không bình đẳng thì chẳng đủ để có ba hiệu đã nêu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trong giấc ngủ kết sử mà tỉnh giấc, nên tâm thầm hợp với như.

Chánh văn: Này A-nan! Nếu ta nói rộng nghĩa ba câu này, thì suốt đời ông cũng chẳng thể lãnh thọ hết.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không gì chẳng biết, không gì chẳng làm được, há có thể thọ nhận cùng tận được ư? Nói ngài A-nan chẳng thể lãnh thọ hết cũng đâu đủ để khen ngợi cho sự rộng lớn kia? Ý muốn khen Bồ-tát mới có khả năng lãnh thọ hết.

Chánh văn: Dẫu cho tất cả chúng sinh đầy trong cõi tam thiên đại thiên, đa văn bậc nhất như ông A-nan, được niệm Tổng trì, thì những người đó cùng kiếp cũng không lãnh thọ hết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghĩa ba câu vô cùng như thế, thì đạo bình đẳng theo lý không đâu chẳng rốt ráo, há cho là có hơn kém xen lẫn trong ấy ư?

Chánh văn: "Như thế, này A-nan! Quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của chư Phật không có hạn lượng, trí tuệ biện tài không thể nghĩ bàn." A-nan bạch Phật rằng: "Từ nay về sau con không dám tự cho mình là đa văn nữa."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngài A-nan là bậc Đa văn nhớ giỏi nhất trong năm trăm đệ tử.

Nay nghe Phật sự bèn tự xét mình là thiểu văn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ngài A-nan đâu chẳng biết mình có đa văn? Mà tự cho là chẳng đạt, chính là để hiển rõ ý Phật.

Chánh văn: Đức Phật bảo A-nan rằng: "Chớ nên sinh tâm lui sụt! Vì sao? Ta nói ông Đa văn bậc nhất trong hàng Thanh văn, chứ chẳng phải là trong hàng Bồ-tát. Hãy thôi đi A-nan! Người trí chẳng nên so sánh với các Bồ-tát. Vì tất cả biển sâu có thể dò, nhưng thiền định, trí tuệ Tổng trì, biện tài và tất cả các công đức của Bồ-tát khó có thể suy lường được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chúng sinh có người so với bậc trên thì chẳng đủ, so với bậc dưới thì có dư. Chẳng nên dùng dưới có dư mà so lường với trên.

Chánh văn: Này A-nan! Các ông hãy gác qua việc của Bồ-tát đi; chỉ như ông Duy-ma đây trong một lúc hiện bày sức thần thông, mà tất cả các Thanh văn, Bíchchi-Phật trải qua trăm ngàn kiếp tận lực biến hóa cũng chẳng thể làm được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Một lúc tức là từ các việc được hóa hiện từ đầu đến giờ. Một lúc mà còn như thế, huống gì nói đến tất cả việc biến hiện của ông ấy?

Chánh văn: Lúc bấy giờ, các Bồ-tát nước Chúng hương chắp tay bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Khi chúng con vừa mới thấy cõi này, đã khởi ý tưởng cho là thấp kém, bây giờ hối hận tự trách." Ngài La-thập nói:

- Tuy đã tuân phụng Thánh chỉ, nhưng đến khi thấy cõi bất tịnh thì ý tưởng cho là thấp kém phát khởi. Do nhớ lời Phật dạy, nên khởi tưởng còn mỏng nhẹ. Đã hiểu được bình đẳng nên thành tâm tự hối trách.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vừa thấy cõi uế liền sinh ý tưởng cho là thấp kém, nghĩ rằng chư Phật, Bồ-tát cũng có cao thấp, nay nghe Phật sự ở cõi này liền tự hối lỗi.

Chánh văn: Xa lìa tâm này, vì sao? Chư Phật có phương tiện không thể nghĩ bàn, vì độ các chúng sinh, nên thuận theo sự thích ứng mà hiện các cõi Phật sai khác. "Dạ, bạch Thế Tôn! Xin ban cho chúng con một ít pháp, để khi trở về cõi kia chúng con nhớ nghĩ đến Như

Lai."

Ngài La-thập nói:

- Cõi kia cũng chưa hẳn chỉ dùng mùi hương làm Phật sự, cho nên xin ban cho giáo pháp. Lại cũng muốn đem đến khắp mười phương để giáo hóa ở các cõi nước bất tịnh, cho nên xin nghe các pháp môn. Cũng có thể cho rằng đến một cõi nước ở phương xa, chẳng lẽ lại trở về không; Vả lại, các Bồ-tát còn ở lại nơi cõi kia sẽ hỏi han những điều cốt yếu, cho nên cầu xin được nghe pháp khác lạ. Cũng nói rằng muốn các Bồ-tát cõi kia biết ân, cho nên xin nghe pháp. Vì sao phải khiến cho biết báo ân? Vì các Bồ-tát cõi kia trụ ở cõi nước thanh tịnh, chỉ cần dùng cơm thơm mà tự vào luật hạnh. Thường lạc thì quên lạc, quên lạc thì quên nguyên do, nguyên do là Phật, mà kia lại chẳng biết, đó là chẳng biết ân vậy. Nếu nghe được hai môn khổ ở sau mà chứng đắc, chính là ngộ tự nhiên, người chứng đắc nhân pháp vi diệu mà được công đức sâu xa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã biết Phật sự khó nghĩ bàn, nên muốn xin được nghe pháp để đem về bản độ, tuyên dương đạo chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, khiến chúng sinh nơi đó nhớ nghĩ đến công đức của Phật.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Xin pháp đem về cõi kia.

Chánh văn: Đức Phật nói với các Bồ-tát rằng: Có pháp môn tận, vô tận vô ngại.

Ngài La-thập nói:

- Tận có hai loại:

1. Vô vi tận.

2. Hữu vi tận.

Hữu vi tận tức là vô thường dời đổi diệt hết. Vô vi tận tức trí tuệ đoạn trừ khiến diệt hết. Nay nói môn Tận tức là hữu vi vô thường diệt hết. Nói vô ngại tức không ngăn ngại đối với hai việc. Chẳng diệt hết công đức hữu vi nên không có ngại của phàm phu, không trụ vô vi nên chẳng có ngại của Nhị thừa.

Chánh văn: Các ông nên tu học.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Muốn trở về cõi kia, vốn là từ nơi việc xả bỏ đây mà đến kia, còn là tâm tự tế độ, đối với Bồ-tát còn là trói buộc. Nếu giải thoát mới đúng là pháp.

Chánh văn: Thế nào là tận? Đó là pháp hữu vi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hữu vi là pháp vô thường tận diệt.

Chánh văn: Thế nào là vô tận? Đó là pháp vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp hữu vi có ba tướng nên có tận diệt, pháp vô vi không có ba tướng nên không tận.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vô vi thì bất tận.

Chánh văn: Như Bồ-tát thì không tận diệt hữu vi.

Ngài La-thập nói:

Tất cả pháp thiện là công đức hữu vi, tất cả hữu vi đều là phiền não lớn, vì để trừ bỏ phiền não, nên có pháp cần phải giữ lại. Ví như có vô lượng oán tặc trong một ngôi thành lớn, trong thành có một người đến hàng phục, nhờ người này phá được oán tặc, cho nên tuy là giặc mà cũng nên cúng dường.

Chánh văn: Chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hữu vi tuy hư giả, nhưng nếu xả bỏ thì nghiệp lớn chẳng thành. Pháp vô vi tuy là thật, nhưng nếu trụ nơi đó thì tuệ tâm chẳng sáng tỏ. Vì thế Bồ-tát chẳng diệt hết hữu vi thì các đức thảy đều thành tựu; vì không trụ vô vi nên đạo che trùm tất cả. Đến như vào tử ra sinh, gặp chúng sinh đều chuyển vận, ở nơi tịnh thì hiện tịnh mà chẳng lấy làm vui, nơi uế thì hiện uế mà chẳng lấy làm lo. Thích ứng theo người mà động, thật đối với ta là vô vi. Đó là đạo bình đẳng chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật. Phàm đạo chẳng thể nghĩ bàn ắt sinh khởi từ môn tận bất tận, các Bồ-tát cõi kia nghe được Phật sự bình đẳng chẳng thể nghĩ bàn, nên xin được nghe pháp. Cho nên Đức Phật khai thị hai môn này để chỉ bày đạo chẳng thể nghĩ bàn không ngăn ngại.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ở cõi này có khổ là hữu vi, cõi kia không khổ là vô vi. Nếu bị trói buộc tại tận hữu vi trụ vô vi, thì đó là tâm khổ hoạn của cõi này, chẳng phải là cõi kia có như thế. Thế thì nhờ vào việc trở về cõi kia để nói về pháp thật có thể trừ khử được sự trói buộc này.

Chánh văn: Thế nào là chẳng tận hữu vi? Đó là chẳng lìa đại từ, chẳng bỏ đại bi.

Ngài La-thập nói:

- Từ bi là căn bản của Phật đạo. Hàng Thanh văn không có, nên diệt hữu mà trụ vô. Muốn chẳng diệt hết hữu vi mà vào Phật đạo, cần phải do từ bi, cho nên phải nói trước.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ bi là nền móng để vào hữu, là gốc để lập đức, cho nên phát khởi thì liền nói đến.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Hạnh Bồ-tát có hai là công đức và trí tuệ. Công đức tại khởi đầu, trí tuệ tại chung cuộc. Nghĩa của chẳng tận hữu vi thuộc về khởi đầu, nên công đức chẳng tận diệt, nghĩa của trụ vô vi thuộc về chung cuộc, nên trí tuệ chẳng trụ. Chẳng tận hữu vi là cầu lý mà chẳng xả bỏ thân sinh tử, lấy từ bi làm gốc, nên đầu tiên phải nêu lên. Chánh văn: Phát tâm Nhất thiết trí mà không quên bỏ.

Ngài La-thập nói:

- Chí cầu Phật đạo, tâm ấy sâu xa kiên cố, thí như trồng cây gốc rễ ăn sâu, khổ nhổ. Cho nên trải qua kiếp số càng sáng tỏ, chẳng bao giờ tạm mất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phát tâm chẳng bao giờ quên, là trọng tâm của các hạnh.

Chánh văn: Giáo hóa chúng sinh chẳng bao giờ nhàm chán mỏi mệt.

Bản khác ghi: Tâm chẳng nhàm mỏi. Ngài La-thập nói:

- Phiền não nhiều hay ít cũng không chán nản, vì đã dùng đại Bi làm gốc, nên vào khổ càng ân cần. Tuy ma oán bức bách tâm cũng không mỏi mệt.

Chánh văn: Đối với bốn Nhiếp pháp thường nghĩ nhớ thuận làm, giữ gìn chánh pháp chẳng tiếc thân mạng, gieo trồng thiện căn.

Ngài La-thập nói:

- Tâm thuận vững chắc sâu xa, chẳng thể lay động, gọi là căn. Như có một người kia đến thăm ngài Xá-lợiphất cầu xuất gia, ngài Xá-lợi-phất quán xét túc mạng của người này, biết rằng đã chẳng trồng thiện căn từ tám vạn đại kiếp trước, nên không chịu độ. Người này lần lượt đến năm trăm vị đệ tử Thanh văn cầu khẩn, nhưng tất cả đều chẳng nhận. Bấy giờ, người này đến bên cổng tinh xá Kỳ-hoàn khóc than sầu não, Đức Phật từ bên ngoài trở về thấy vậy bèn hỏi han. Người ấy thuật lại mọi việc. Đức Phật liền la trách ngài Xá-lợi-phất không cùng, và nói rằng: "Trí tuệ của ông chẳng sâu xa, chẳng thấy được căn cơ người này, mà vọng khinh khi ư?" Đức Phật liền độ người ấy, ngài khen rằng: "Thiện lai! Tỳ-kheo" thì râu tóc tự rụng, pháp y đắp nơi thân, trở thành Sa-môn. Sau đó Đức Phật thuyết pháp khai ngộ thì chứng quả A-la-hán.

Ngài Xá-lợi-phất hỏi Đức Phật rằng: "Người này trồng thiện căn Nê hoàn khi nào?" Đức Phật đáp: "Vào thời quá khứ vô số kiếp lâu xa về trước có Đức Phật xuất thế hiệu là Nhân Khả, bấy giờ, có một người vào rừng đốn củi, gặp một con hổ từ trong rừng vọt ra muốn ăn thịt, người này bèn trèo lên cây cao, còn con hổ thì đang đứng chờ bên dưới. Người này vô cùng sợ hãi, đúng lúc ấy, Đức Phật Nhân Khả từ hư không bay qua, người này vừa thấy liền niệm "Nam-mô Phật", thì tự tâm sinh tin thích, chán nhàm sinh tử, từ nơi tâm sâu xa phát nguyện rằng: "Nguyện xa lìa nỗi khổ này." Do thiện căn này mà nay được giải thoát. Bấy giờ, ngài Xá-lợi-phất hướng về Phật sám hối lỗi lầm của mình, toàn thân gieo xuống đất vô cùng buồn khổ. Đức Phật nói: "Ví như trong đá có vàng, người ngu chẳng biết nên vứt đi chẳng giữ, người thợ kim hoàn thấy biết là có vàng, liền dùng dụng cụ mà lọc lấy. Cũng như thế trong đá chúng sinh vô minh có vàng trí tuệ, nay trí tuệ của ông không sâu xa cho nên chẳng độ, Như Lai thấy được căn cơ của họ nên dùng pháp thiền định trí tuệ mà lọc lấy." Chánh văn: Không mỏi mệt nhàm chán.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lấy từ bi làm gốc, phát tâm làm tâm, sau đó mới thuận bốn Nhiếp pháp mà giáo hóa chúng sinh, hộ trì chánh pháp, gieo trồng thiện căn, dùng các đức này để làm tươi tốt cành lá, cây đạo ngày càng sum suê, đó là chẳng tận hữu vi vậy. Ở sau nói các hạnh nguyện là thuộc về cành lá, ngày càng tươi tốt, ngày càng sum suê để thành tựu nghĩa chẳng tận. Nếu xả bỏ từ bi, cây đạo chẳng lập, các đức hao tổn, tự ẩn nơi Niết-bàn là tận hữu vi.

Chánh văn: Chí thường an trụ nơi phương tiện hồi hướng.

Ngài La-thập nói:

Vạn pháp thiện đều vô thường tùy ý mà thành tựu, nên cần phải dùng phương tiện hồi hướng đến Phật đạo. Như vua Bình-sa bị nhốt trong ngục, từ một lổ trống nhỏ của ngục, vua xa thấy Đức Phật đang dạo qua lại trên núi, tâm sinh hoan hỷ vô cùng, ứng sinh về cõi Trời Đâusuất. Lúc đó nghe Tỳ-sa-môn Thiên vương ăn mùi hương, vì đói mà chết nên khi ấy tâm rất ưa thích, nguyện rằng: "Ta nay nên sinh về cõi có món ăn kia", tức thời liền hóa sinh nơi đầu gối của Tỳ-sa-môn. Việc nhỏ đã hồi hướng, thì việc lớn cũng thế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phương tiện hồi hướng là hạnh cốt yếu để tăng tiến pháp thiện, cho nên thường an trụ nơi đó.

Chánh văn: Cầu pháp không biếng trễ.

Ngài La-thập nói:

- Cầu pháp không siêng năng thì quả báo chưa ứng đáp, nên tâm sinh tà kiến, cho rằng không có chỗ chứng đắc. Vì thế người tu hành nên siêng năng cầu pháp. Chánh văn: Thuyết pháp không tiếc.

Bản tiếng Phạm ghi: "Vô sư quyện."

Ngài La-thập ghi: Các sư ngoại đạo thuyết pháp cho các đệ tử nghe, nhưng những điều cốt yếu của pháp thì giữ lại mà không ban cho. Còn Bồ-tát thì dốc hết điều mình biết để truyền dạy, nên gọi là vô sư quyện.

Chánh văn: Siêng năng cúng dường chư Phật, vào sinh tử mà không sợ hãi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải do kết nghiệp mà sinh, thì đâu có gì phải sợ?

Chánh văn: Đối với các vinh nhục, tâm không vui buồn, chẳng khinh người chưa học, kính người mới học như Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa học thì sẽ học, nên chẳng khinh; đã học thì sẽ thành, nên kính như Đức Phật.

Chánh văn: Người bị phiền não, thì làm cho phát sinh chánh niệm.

Ngài La-thập nói:

- Nghĩ đến tà thì phiền não sinh, nghĩ đến chánh thì phiền não diệt, cho nên giáo hóa làm tâm nhớ nghĩ đến Chánh đạo.

Chánh văn: Đối với niềm vui xa lìa thì chẳng cho là quý.

Ngài La-thập nói:

- Xuất gia lìa dục và thiền định trí tuệ xa lìa vọng tưởng đều gọi là niềm vui xa lìa. Nhờ vào đó để cầu đạo, chứ chẳng phải là việc đáng tôn quý nhất.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo độc thiện đâu đủ để quý trọng.

Chánh văn: Chẳng đắm trước niềm vui của mình, vui với niềm vui của người.

Bản khác ghi: Chẳng đắm trước niềm vui mình, vui với niềm vui của người.

Ngài La-thập nói:

- Phàm phu thấy người khác vui vẻ thì sinh đố kỵ, thấy người khổ đau thì tâm an lạc, mình vui thì đắm trước, mình khổ thì tâm dao động. Bồ-tát không như thế, thấy người vui, chẳng đố kỵ mà sinh tâm tùy hỷ, thấy người khổ thì tâm động muốn làm cho được giải thoát; chẳng đắm trước niềm vui của mình, an lạc với sự đau khổ của mình.

Chánh văn: Tại Thiền định tưởng như địa ngục.

Ngài La-thập nói:

- Thiền định có ba:

1. Đại thừa.

2. Tiểu thừa.

3. Phàm phu.

Thiền định của phàm phu thì sinh tâm cống cao ngã mạn; Thiền định của Tiểu thừa thì độc thiện, mong cầu chứng ngộ, hay thiêu hủy các pháp thiện, hủy hoại đạo căn vô thượng, đối với Bồ-tát thì đó là đường ác, nên xem như địa ngục.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiền định tuy vui thích, nhưng an trụ nơi đó thì đạo lớn chẳng thành. Bồ-tát chẳng vui thích, nên tưởng như địa ngục.

Chánh văn: Ở trong sinh tử tưởng như vườn nhà.

Ngài La-thập nói:

- Ý luôn luôn muốn tế độ mình và người, nên thích dạo chơi nơi đó mà không sợ hãi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử tuy có khổ, nhưng là nhân của đạo lớn, Bồtát thích dạo chơi, nên tưởng như vườn nhà.

Chánh văn: Thấy người đến cầu xin thì tưởng như thầy giỏi.

Ngài La-thập nói:

- Vốn không có tâm bố thí, nhưng do người đến cầu xin phát khởi tâm bố thí của ta, thì đó là thầy của ta, nên khởi tưởng như thầy. Như vua Nguyệt Thị, một hôm tuần du quán xét, có vài ngàn người hành khất đứng bên đường đưa tay cầu xin những vật cần dùng. Vua hỏi đại thần rằng: "Những người ấy là ai? Họ trình bày điều gì?" Đại thần đáp: "Đó là những người ăn xin." Vua là người có trí tuệ, căn cơ lanh lợi, đã hiểu được ý kia, liền nói với đại thần rằng: "Họ đều là thầy của ta, chứ chẳng phải người ăn xin đâu, ông chẳng hiểu được lời ấy vậy. Những điều mà họ cần là thuyết pháp cho ta, chứ chẳng phải xin ta." Họ nói rằng: "Chúng tôi vào kiếp trước cũng đã làm quốc vương, do chẳng tu hạnh bố thí, nên nay thọ quả báo này, nếu vua nay chẳng bố thí, mai sau cũng sẽ như thế. Vì thế, nên biết đó là thầy của ta." Ngài Tăng Triệu nói:

- Người ăn xin tuy muốn tự lợi ích cho họ, nhưng thật ra là lợi ích cho ta, nên tưởng như thầy giỏi.

Chánh văn: Xả bỏ tất cả vật sở hữu mà tưởng đầy đủ Nhất thiết trí.

Ngài La-thập nói:

- Xả bỏ những vật sở hữu; tức là thân mạng, quốc thành, vợ con đều xả bỏ, ban phát cho chúng sinh. Khi ban phát nên biết rõ sự bố thí này ắt luôn sinh đầy đủ Nhất thiết trí, thấy rõ nhân quả, bố thí mà không hối tiếc. Ngài Tăng Triệu nói:

Phàm ban cho, còn có sự mong cầu kỳ diệu; lại xét rõ nhân quả chẳng hư dối.

Chánh văn: Thấy người phá giới, khởi tâm cứu hộ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giới là để hộ vệ cho người, phá giới thì không có sự hộ vệ. Bồ-tát tự mình đã có giới hộ vệ, nên muốn hộ vệ cho người không có sự bảo vệ.

Chánh văn: Các Ba-la-mật, tưởng là cha mẹ.

Ngài La-thập nói:

- Tức lấy nghĩa Ba-la-mật thường sinh ra pháp thân. Cũng nói rằng con có việc cần thì thưa cha mẹ, Bồ-tát có việc cần thì cầu nơi sáu Độ, đây là lấy nghĩa làm lợi ích mà dụ như cha mẹ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bốn Độ còn lại, thực hành càng vào sâu, thì Pháp thân từ đó mà sinh ra, nên tưởng là cha mẹ.

Chánh văn: Pháp đạo phẩm tưởng là quyến thuộc.

Ngài La-thập nói:

- Trợ giúp thành tựu Thánh đạo, khiến đạo thêm tôn quý thù thắng.

Giống như người có quyến thuộc thì càng thêm tôn quý.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trợ giúp thành tựu cho ta đó là ba mươi bảy Đạo phẩm, giống như người có quyến thuộc giúp đỡ, thành đạt sự nghiệp.

Chánh văn: Phát hành căn lành không có giới hạn.

Ngài La-thập nói:

- Trên nói đầu tiên trồng căn lành, bây giờ nói tu tập thăng tiến, tu tập tăng tiến gọi là hành. Vạn thiện được thực hành không có giới hạn. Cũng nói rằng chẳng lấy kiếp số làm giới hạn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên nói trồng căn lành, ở đây nói không giới hạn, tức chuyển tăng rộng lớn dần.

Chánh văn: Dùng các việc trang nghiêm ở Tịnh độ để thành tựu cõi Phật của mình.

Ngài La-thập nói:

- Giữ lấy tướng tịnh kia, sau đó tu hành tương xứng với tướng ấy, nên cõi tịnh không khác với tướng tịnh kia.

Đó gọi là lấy của người mà thành tựu cho ta.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì cõi trang nghiêm tốt đẹp là tịnh độ, thì chẳng thể đạt cùng tận sự đẹp đẽ của Tịnh độ.

Chánh văn: Thực hành bố thí vô hạn lượng, đầy đủ tướng quý và vẻ đẹp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mở rộng bốn cửa, để tự do những ai cầu thì đến lấy, đó là pháp đại bố thí không ngăn ngại. Pháp bố thí này là nhân cảm tướng quý và vẻ đẹp.

Bản khác ghi: Thực hành bố thí vô ngại. Ngài Lathập nói:

- Hoặc tâm bố thí thì đầy đủ mà tài vật thì thiếu, hoặc tài vật đủ mà tâm bố thí hạn hẹp, hai việc chẳng đủ thì chẳng thể đáp ứng với người mong cầu vô cùng. Nay hai việc đã đủ, nên có thể thực hành bố thí không giới hạn, thỏa mãn tất cả những mong cầu của chúng sinh.

Chánh văn: Trừ tất cả ác, thanh tịnh thân, khẩu, ý.

Ngài La-thập nói:

- Thân, khẩu, ý thanh tịnh nên các ác đều tiêu trừ. Nhân đã thanh tịnh thì quả tốt đẹp, do đó đầy đủ các tướng quý và vẻ đẹp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là nói ngay lúc hành bố thí, các ác đã trừ, ba nghiệp đều thanh tịnh, nên dẫn đến quả báo thanh tịnh sáng tỏ.

Chánh văn: Trải qua sinh tử vô số kiếp, mà ý vẫn dũng mãnh.

Ngài La-thập nói:

- Dũng tức nói có lực. Trên nói ý thanh tịnh, ở đây nói ý có lực, thanh tịnh mà có lực nên quả đại nguyện thành tựu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử dài lâu, độc khổ vô lượng, nếu chẳng có trí dũng, thì ai có thể ở được nơi ấy?

Chánh văn: Nghe vô lượng công đức của Phật mà chí chẳng mỏi mệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng nên cho rằng công đức của Phật khó sánh, mà mỏi mệt, chẳng tu tập theo.

Chánh văn: Dùng kiếm trí tuệ phá giặc phiền não.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Giặc phiền não ẩn kín và kiên cố khó phá trừ, nếu chẳng có kiếm tuệ, thì không biết lấy gì mà đoạn dứt.

Chánh văn: Ra khỏi ấm, giới, nhập.

Ngài La-thập nói:

- Phiền não đã trừ thì tùy pháp hóa sinh, thân pháp hóa siêu xuất ấm, giới nhập.

Chánh văn: Gánh vác chúng sinh.

Ngài La-thập nói:

- Ắt đến chỗ rốt ráo, chẳng bỏ dở nửa đường.

Chánh văn: Vĩnh viễn khiến được giải thoát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vượt ngoài ba cõi, chẳng thuộc ấm, giới, nhập, nên nói là ra khỏi. Nếu thọ thân, ấm, giới nhập thì ở trong tình trần bị trói buộc kềm tỏa, đâu thể tế độ cho người?

Chánh văn: Dùng đại tinh tấn phá dẹp ma quân.

Ngài La-thập nói:

- Ma tức Thiên ma. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma binh rất mạnh mẽ, nếu lười biếng thì chẳng thể chế phục.

Chánh văn: Thường cầu trí tuệ thật tướng vô niệm.

Ngài La-thập nói:

- Không chấp tướng mà niệm. Hàng phàm phu thực hành trí tuệ hữu niệm, thì tâm cống cao ngã mạn càng tăng, vì thế Bồ-tát cầu trí vô niệm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chân trí vô duyên, nên lấy vô niệm làm tên, tục trí có duyên nên tướng niệm liền sinh.

Chánh văn: Thực hành thiểu dục tri túc mà xả bỏ pháp thế gian.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng vì vô dục mà xả bỏ pháp thế gian, tự làm biệt dị.

Chánh văn: Chẳng phá oai nghi.

Ngài La-thập nói:

- Hòa mà chẳng đồng.

Chánh văn: Mà thường tùy thuận thế tục.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đồng như thế tục hành động mà chẳng mất oai nghi của đạo, thiên hạ đều cho ta đồng như người mà chỉ mình ta khác người.

Chánh văn: Khởi Thần thông tuệ dẫn dắt chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Như những người thấy thân tướng chẳng xứng với đạo pháp, nếu không có thần thông biến hóa thì không biết lấy gì để dẫn dắt họ.

Chánh văn: Được niệm.

Ngài La-thập nói:

- Tức chánh niệm.

Chánh văn: Tổng trì. Ngài La-thập nói:

- Lấy niệm giữ niệm, còn trì hay giữ gìn các pháp; nên đã nói niệm lại còn trì. Cũng có thể nói các niệm tăng trưởng, thì thành nghĩa của trì.

Chánh văn: Những điều đã nghe thì không quên sót.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là do hai pháp trì vừa nêu.

Chánh văn: Khéo phân biệt các căn, đoạn dứt nghi hoặc cho chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là tuệ.

Chánh văn: Dùng nhạo thuyết biện để nói pháp vô ngại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhạo thuyết biện là một trong bốn vô ngại biện. Trên nói về niệm định trì biện, ở đây nói về niệm trì tuệ biện. Định tuệ sử dụng thay nhau hiển hiện ở bốn môn.

Chánh văn: Thanh tịnh mười nghiệp thiện, hưởng phước trời người.

Ngài La-thập nói:

- Vì chẳng kham lãnh thọ pháp, cho nên thuyết pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng vì phước báo mà tu thiện gọi là thanh tịnh các nghiệp thiện. Nhưng vì chúng sinh mà thọ nhận quả báo trời người ở cõi dục.

Chánh văn: Tu bốn Vô lượng, mở đường đến Phạm thiên. Bản khác ghi: Tu bốn Vô lượng khiến sinh Phạm thiên. Ngài La-thập nói:

- Muốn khiến làm Phạm thiên xin chuyển pháp luân, ở ngôi vị tôn quý mà dẫn dắt chúng sinh. Đó cũng là Bồtát tự hành, tự sinh về Phạm thiên.

Chánh văn: Khuyến thỉnh thuyết pháp, tùy hỷ khen ngợi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu Bốn đẳng tức mở đường vào Phạm thiên. Hiện làm Phạm vương thỉnh Phật thuyết pháp, tùy hỷ khen ngợi để hoằng dương chánh pháp, như các Thi-khí Phạm vương.

Chánh văn: Được âm thanh Phật.

Ngài La-thập nói:

- Là quả báo của lời khen ngợi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh nói có tám loại âm thanh, hoặc mười sáu loại âm thanh. Kinh Mật Tích nói âm thanh Phật chẳng thể nghĩ bàn, thường tùy thuận theo chúng sinh mà phát ra vô lượng chủng loại.

Chánh văn: Thân khẩu ý đều thiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đó là ba pháp bất hộ của Như Lai.

Chánh văn: Được oai nghi Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm những cử động, như một âm thanh Như Lai, và ba bất hộ oai nghi của Phật, tất cả đều là Phật sự, Bồtát tuy chưa hoàn toàn đầy đủ, nhưng cũng sắp được nhập cảnh ấy, nên nói là được.

Chánh văn: Tu tập sâu dày các pháp thiện, công phu ngày càng tiến xa hơn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy chẳng tu pháp thiện, nhưng quý ở chỗ ngày càng tiến sâu.

Chánh văn: Dùng pháp Đại thừa giáo hóa để thành tựu Bồ-tát tăng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tăng đồ tuy đông, nhưng chỉ quý trọng Đại thừa Bồ-tát. Chánh văn: Tâm không buông lung, chẳng mất các gốc lành. Ngài Tăng Triệu nói:

- Buông lung là cửa của các điều ác, là gốc mất đạo. Tâm không buông lung thì các điều thiện đều tụ tập, pháp thiện được vô lượng, nên nói lược là gốc.

Chánh văn: Tu hành các pháp như thế, tức là Bồ-tát chẳng tận hữu vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tu tập các pháp như trên là tự hành và hóa tha, công đức ngày càng tăng trưởng, chẳng diệt hết hữu vi. Phàm pháp hữu vi thiện biến đổi chúng sinh, nếu phế bỏ chẳng tu thì ngày càng hao tổn, ngày càng diệt hết.

Chánh văn: Thế nào là Bồ-tát chẳng trụ vô vi? Đó là tu học môn không mà chẳng chứng không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ đây trở xuống đều nói về hạnh quán vô vi. Quán vô vi ắt thấy được niềm vui vắng lặng mà chẳng chứng Niết-bàn, vĩnh viễn ở nơi sinh tử, gọi là chẳng trụ vô vi. Không, vô tướng, vô tác ba thừa đều tu, nhưng pháp quán khác nhau. Nhị thừa quán không chỉ đạt vô ngã. Đại thừa quán không thì không pháp nào chẳng đạt nên không và pháp đều không, không và pháp đã không, nên chẳng chứng không.

Chánh văn: Tu học vô tướng, vô tác mà chẳng chứng vô tướng, vô tác.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô tướng của Nhị thừa chỉ tại nơi Diệt đế, còn vô tướng của Đại thừa thì tại tất cả pháp. Vô tác của Nhị thừa chẳng tạo sinh tử, vô tác của Đại thừa chẳng tạo cả vạn pháp.

Chánh văn: Tu tập vô khởi mà chẳng chứng vô khởi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp do duyên hợp mà có, duyên tan thì không, đâu có pháp nào có trước rồi đợi duyên để khởi? Đây là môn khác của không quán.

Chánh văn: Quán vô thường mà chẳng nhàm chán là gốc thiện.

Ngài La-thập nói:

- Vô thường thì các pháp đều diệt; diệt mà chẳng đoạn nên chẳng nhàm chán tu thiện. Cũng quán vô thường là đạo Niết-bàn, đạo Niết-bàn thì trái với gốc thiện. Nay chẳng trụ vô vi, nên chẳng nhàm chán hữu vi. Chánh văn: Quán thế gian là khổ mà chẳng ghét sinh tử; quán vô ngã mà chỉ dạy cho người không mỏi mệt.

Ngài La-thập nói:

- Vô ngã thì chúng sinh không, không mà chẳng phải là vô, nên chỉ dạy cho chúng sinh mà không mỏi mệt.

Chánh văn: Quán tịch diệt mà vĩnh viễn chẳng tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhị thừa cho vô thường là vô thường, nên không thích pháp thiện hữu vi; cho khổ là khổ, nên chán ghét sinh tử khổ; cho vô ngã là vô ngã, nên biếng dạy cho người; cho tịch diệt là tịch diệt nên muốn vĩnh viễn tịch diệt. Bồ-tát chẳng cho vô thường là vô thường nên chẳng nhàm chán gốc thiện, chẳng cho khổ là khổ nên chẳng ghét sinh tử, chẳng cho vô ngã là vô ngã nên siêng năng dạy người không mỏi mệt. Chẳng cho tịch diệt là tịch diệt, nên chẳng vĩnh viễn tịch diệt.

Chánh văn: Quán xa lìa mà thân tâm tu thiện.

Ngài La-thập nói:

- Xa lìa có ba:

1. Xa lìa năm dục thế gian.

2. Xa lìa phiền não.

3. Tánh các pháp đều là không, xa lìa.

Nay quán tánh không, xa lìa mà chẳng nhàm chán pháp thiện. Ngài Tăng Triệu nói:

- Xa lìa là tên khác của vô vi. Tuy đạt được niềm an lạc của vô vi xa lìa mà chẳng bỏ pháp thiện hữu vi.

Chánh văn: Quán không nơi về mà trở về với các pháp thiện.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp, khởi đầu chẳng có chỗ đến, chung cuộc chẳng có nơi về, mà luôn trở về pháp thiện.

Chánh văn: Quán vô sinh mà dùng pháp có sinh để gánh vác chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy thấy vô sinh, mà ở nơi sinh để gánh vác chúng sinh.

Chánh văn: Quán vô lậu mà chẳng đoạn các lậu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm các pháp vô lậu đồng với vô vi, Thể của nó tự vô tướng, đều là hạnh vô vi. Tuy thấy vô lậu mà đồng hữu lậu với chúng sinh. Đồng hữu lậu có hai loại:

1. Có người vào sinh tử, mà thật chưa đoạn các lậu.

2. Người đã tận trừ các lậu, mà hiện chẳng đoạn.

Chánh văn: Quán không có tu hành, mà dùng hành pháp giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tánh vốn không có nghiệp, đâu có gì để tu hành? Tuy biết không có tu hành mà ắt dùng các hành để giáo hóa người.

Chánh văn: Quán không mà chẳng bỏ đại Bi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tướng các pháp chỉ là không, chỉ là vô, nhưng chẳng vì không ấy mà xả đại Bi.

Chánh văn: Quán chánh pháp vị.

Ngài La-thập nói:

- Tức quán không sinh diệt, thủ chứng các pháp.

Chánh văn: Mà chẳng rơi vào Tiểu thừa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chánh pháp vị tức giai vị quán vô vi mà thủ chứng. Chánh văn: Quán các pháp hư vọng, không bền chắc, không người, không chủ, không tướng, nhưng vì bản nguyện chưa đầy đủ thì không dối bỏ phước đức, thiền định, trí tuệ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các pháp do nhân duyên mà thành, hư giả chẳng có gốc, thì lấy gì là thật, lấy gì là chủ? Tuy biết như thế, nhưng bản nguyện chưa đầy đủ, thì chẳng vì công đức định tuệ hư giả mà phế bỏ chẳng tu tập.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng trụ vô vi là lý cùng tột, dùng bản hoài vào sinh tử để đầy đủ các nguyện rốt ráo, cho nên được nêu sau cùng.

Chánh văn: Tu tập những pháp như thế tức là Bồ-tát chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

Tu tập đầy đủ các pháp môn ở trên, thì chẳng chứng vô vi. Chứng tức là quán vô vi tự chứng, đạo thành; tự chứng đạo thành tức là trụ vô vi.

Chánh văn: Lại vì đầy đủ phước đức nên chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là nói thẳng vào ý Bồ-tát chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi, chưa giải thích vì sao chẳng trụ, vì sao chẳng tận. Phàm mỗi mỗi hạnh của bậc Đại sĩ đều có nguyên do, có sự kỳ diệu, cho nên cần phải đối luận rõ. Phàm tích tập các đức ắt phải vào các hữu, nếu trụ vô vi, thì chẳng đủ các công đức.

Chánh văn: Vì đầy đủ trí tuệ nên chẳng tận hữu vi.

Ngài La-thập nói:

- Trong một môn nói ở trên hiện bày một nghĩa, ở đây nói một môn có đủ hai nghĩa. Nếu chẳng trụ vô thì chẳng tận hữu, chẳng tận hữu thì chẳng trụ vô.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trí sáng tỏ ắt phải do sự rộng lớn, nếu phế bỏ hữu vi, thì chẳng đầy đủ trí tuệ.

Ngài Đạo Sinh nói:

Giải thích chung hai nghĩa ở trước. Sở dĩ muốn trụ vô vi là do tham trước niềm vui, như phước đầy đủ, thì liền tự có thường lạc, cần gì phải tham trước? Sở dĩ muốn tận hữu vi là vì ghét sự đau khổ, nếu trí tuệ đầy đủ thì tự chẳng khổ, có gì phải ghét?

Chánh văn: Vì đại Từ bi nên chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ bi thì vào sinh tử, há có thể trụ vô vi mà làm được ư?

Chánh văn: Đầy đủ bản nguyện nên chẳng tận hữu vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nguyện thành tựu là do tích đức, há có thể xả hữu vi mà làm được ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Giải thích riêng một nghĩa ở trên, lấy từ bi làm bản hoài, thì chẳng tham đắm niềm vui của mình. Muốn đầy đủ bản nguyện thì chẳng nên chấp vào khổ của mình. Đây là lấy công đức ở câu trước và trí tuệ ở câu sau, lược nêu hai đầu để luận thuyết được đầy đủ.

Chánh văn: Vì gom tập pháp dược nên chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn hái thuốc quý ắt phải vào núi hiểm hang sâu, chứ chẳng thể có nơi phòng nhà đẹp đẽ, muốn gom tập pháp dược ắt phải ở nơi các hữu nguy hiểm, chứ chẳng thể có được từ pháp vô vi.

Chánh văn: Tùy bệnh cho thuốc nên chẳng tận hữu vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phế bỏ hữu vi thì cách biệt với quần sinh, làm sao có thể tùy bệnh cho thuốc?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Giải thích chung hai nghĩa ở trên. Thế thì trở lại vào sinh tử, ắt có thể cứu độ chúng sinh, cho nên mới có bốn câu sau. Gom tập pháp dược, khiến đầy đủ lý các pháp, là ý nghĩa của công đức. Tùy bệnh cho thuốc, tức là biết được chủ, tùy bệnh mà trao thuốc tức là nghĩa trí tuệ.

Chánh văn: Vì biết bệnh của chúng sinh nên chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Biết rõ các bệnh của chúng sinh, ắt biết chỗ tận dứt các bệnh, vậy há đó là khả năng của vô vi ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Biết được tướng bệnh tức là nghĩa công đức. Chánh văn: Vì diệt các bệnh nên chẳng tận hữu vi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Diệt bệnh của chúng sinh ắt phải vào hữu mà trị, há là năng lực của tận hữu vi ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thấu đạt được chỗ thích ứng của bệnh là nghĩa trí tuệ.

Chánh văn: Các Chánh sĩ Bồ-tát tu tập các pháp này thì chẳng tận hữu vi, chẳng trụ vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

Hai pháp tuy khác mà hành ắt tương đồng. Cho nên đối luận để hiển bày. Nói về hạnh mỗi mỗi đều có nguyên do, nên khởi dụng chẳng đồng.

Chánh văn: Đó gọi là pháp môn Tận vô tận vô ngại, các ông nên tu tập.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì chẳng tận hữu vi, nên không ngại về đức thiếu sót; vì chẳng trụ vô vi, nên không ngại về độc thiện. Đó là hai môn vô ngại. Đây là con đường quan yếu để hoằng đạo của Bồ-tát, là nguyên nhân khởi Phật sự vô cùng. Khuyên tu học, lại chỉ bày đạo Phật sự chẳng thể nghĩ bàn, là khiến cho thẩm xét biết chư Phật không chỉ có bấy nhiêu.

Chánh văn: Bấy giờ, các Bồ-tát của Chúng hương nghe thuyết pháp này xong, tâm vô cùng hoan hỷ, dùng các loại hoa đẹp, đủ các màu sắc, tỏa các mùi thơm, rải khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới để cúng dường Đức Phật, kinh này và các vị Bồ-tát, kế đó cúi đầu lễ chân Phật, khen ngợi là việc chưa từng có, nói rằng: "Đức Phật Thích-ca Mâu-ni mới có thể ở cõi này mà khéo léo thực hành các phương tiện." Nói vừa xong bỗng biến mất ở đây mà trở về nước Chúng hương.

-------------------------------------

Phẩm 12: PHẬT A-SÚC

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Thế Tôn hỏi ông Duy-macật rằng: "Ông muốn thấy Như Lai, thì làm thế nào để quán Như Lai?"

Ngài La-thập nói:

-Nếu tự có tuệ nhãn, thì thường rỗng lặng chiếu soi, chẳng cần phải quán hình tướng. Nếu không có tuệ nhãn, thì đối diện với hình mà lại cách xa, nên mới hỏi nguyên do, làm thế nào để quán Như Lai? Vả lại, quán Phật có ba cách:

1. Quán hình tướng.

2. Quán pháp thân.

3. Quán tánh không.

Tức trong ba pháp quán này, ông dùng quán pháp nào? Sau đều dùng tánh không mà đáp. Chương này đều dùng nghĩa phá tướng trong pháp quán của Trung luận và Bách luận để nói rõ về tánh không của Như Lai, mà không có nghĩa nào khác, cho nên chẳng cần hỏi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước nói với ngài Văn-thù cùng đến ra mắt Phật, tuy mở mắt nhìn như thế tục mà chỗ quán xét thì khác. Như Lai nghịch nhìn lại tâm ông ấy đã biết là muốn hiểu rõ yếu chỉ đến quán Phật của mình. Nhưng muốn nói về Phật sự chẳng thể nghĩ bàn, cho nên đã biết mà còn hỏi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Ông Duy-ma-cật, trước đã mời các Bồ-tát cùng đến ra mắt Đức Phật, vốn là tại Phật tướng người, nhưng thấy Phật chẳng thể cho là vừa thấy hình tướng đã thấy Phật. Vì thế mới hỏi để luận rõ về nghĩa thấy Phật.

Chánh văn: Như con quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

Phật là gì? Là danh xưng của đạo Đại giác cùng lý tận tánh. Đạo ấy rỗng lặng kiên cố, siêu tuyệt cảnh thường, tâm chẳng thể dùng trí mà biết, hình chẳng thể dùng tượng mà dò, đồng hữu vi với vạn vật mà cư trụ nơi cảnh vô vi, ở trong ngôn từ số lượng mà ngụ tại làng vô ngôn; chẳng có mà chẳng phải là không, chẳng không mà chẳng phải là có. Vắng lặng rỗng rang, chúng sinh chẳng thể biết. Chẳng biết đặt tên là gì, nên gượng cho là giác, đó là cùng, là tột rồi vậy. Thế thì đồng với đắc, thì đắc cùng là đắc; đồng với thất, thì thất cũng là đắc. Vậy, nơi chân thì đồng với chân, nơi ngụy thì đồng với ngụy. Như Lai linh diệu chiếu soi, thầm hợp nhất với thật tướng, tướng của thật tướng tức tướng Như Lai. Cho nên kinh nói: "Thấy thật tướng của pháp tức thấy Phật." Ông Tịnh Danh tự quán thật tướng của thân, cho là quán tướng Như Lai, nghĩa hợp ở nơi đây.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu cho rằng ta và Phật đối diện là thấy Phật, thì ta và Phật khác thấy nhau, cách nhau quá xa, há được Phật ư? Nếu có thể tự quán thật tướng của thân, quán Phật cũng như thế, thì chẳng khác nhau, vì không nghịch là thấy được Phật.

Chánh văn: Con quán Như Lai quá khứ chẳng đến, vị lai chẳng đi, hiện tại chẳng dừng trụ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu cho thấy Phật là thấy, thật không có lý này, vì Phật chẳng thể thấy. Chẳng thấy có Phật mới chính là thấy Phật. Thấy Phật, tức thấy người này là Phật từ vị lai đến hiện tại, từ hiện tại vào quá khứ. Cho nên, suy biết chẳng thấy ba thời có Phật. Nếu ở quá khứ có Phật, thì lẽ ra phải đến, nhưng chẳng đến, vậy biết Phật chẳng tại quá khứ. Nếu vị lai có Phật, thì lẽ ra phải đi, nhưng Phật chẳng đi, nên biết Phật chẳng ở vị lai. Nếu hiện tại có Phật thì lẽ ra có dừng trụ, nhưng chẳng dừng trụ, nên biết Phật chẳng ở hiện tại.

Chánh văn: Chẳng quán sắc, chẳng quán sắc như, chẳng quán tánh của sắc, chẳng quán thọ, tưởng, hành, thức, chẳng quán thức như, chẳng quán tánh của thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vượt ngoài ba cõi, chẳng thuộc ấm, giới, nhập, nên chẳng thể dùng sinh, trụ, khứ, lai để quán; chẳng thể dùng như và tánh của năm ấm để quán.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ở trước nói chẳng thấy Phật, hoặc là chẳng thể thấy chứ chẳng phải không có Phật, cho nên suy không có Phật có thể thấy để tận lý vậy. Nhân Phật tức thân Phật do năm ấm tạo thành; nếu có thì lẽ ra sắc tức là Phật, nếu sắc chẳng tức Phật thì lẽ ra ngoài sắc có Phật. Ngoài sắc có Phật thì có ba trường hợp:

1. Phật ở trong sắc.

2. Sắc ở trong Phật.

3. Sắc thuộc Phật.

Nếu sắc tức Phật thì chẳng cần bốn ấm khác; nếu ngoài sắc có Phật, thì chẳng cần có sắc, nếu trong sắc có Phật thì Phật vô thường.

Nếu trong Phật có sắc thì Phật có phần hạn. Nếu sắc thuộc về Phật thì chẳng thể biến đổi. Sắc tức là sự của sắc, như là sắc chẳng khác, tánh tức vô bản là sắc. Đã nói sự của sắc thì hoặc có thể thay đổi, cho nên nói như; tuy nói chẳng thay đổi bản, hoặc chẳng có thể như thế, nên lại nói tánh. Thế thì đầy đủ ba nghĩa mới thành nghĩa sắc. Vì thế tánh, như và năm việc chẳng khác, đến như thức cũng đồng. Đã không có chỗ thấy chính là thấy thật, vì thật thấy là Phật nên thấy thật chính là thấy Phật vậy.

Chánh văn: Chẳng phải do tứ đại tạo, đồng như hư không.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân như hư không, chẳng phải do bốn đại tạo ra. Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước tuy suy nói không có Phật tướng người, chính là biểu thị không thật có Phật nhân, nhưng chưa đủ để hiển rõ nguyên do. Phật rốt cuộc không phải là Phật nhân, nếu có Phật nhân (người) ắt phải do bốn đại sinh, từ bốn đại sinh là người sinh tử, Phật thì chẳng như thế; đối với ứng mà có, nhưng Phật thì thường không.

Chánh văn: Sáu nhập không tích tập.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm có Phật nhân (người) ắt phải cần có sáu nhập tích tập mà xuất sinh. Đã không tích tập lại có Phật nhân ư? Năm ấm là bốn đại tạo ra, nên căn cứ theo sáu nhập để thuyết minh.

Chánh văn: Đã vượt ra ngoài mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vượt ngoài sáu căn nên các nhập bên ngoài chẳng thể tích tập.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trên là nói sáu nhập không tích tập, nên không có Phật nhân, chính là nói đời sau không có Phật nhân, nhưng chưa đủ để nói hiện tại không có Phật nhân, nên lại phải nói đến sáu nhập đã vượt qua. Nói đã vượt qua sáu nhập tức không có tích tập từ rất lâu rồi.

Chánh văn: Chẳng tại ba cõi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trên nói đã vượt qua sáu nhập, thì còn cho ở tại sáu xứ. Vượt qua hoặc chẳng đến là không có sáu nhập, xứ, nên mới nói chẳng tại ba cõi.

Chánh văn: Đã lìa ba cấu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã vượt qua ba cõi, thì đâu có cấu nhiễm của ba cõi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã lìa ba cấu nên chẳng trụ trong ba cõi. Vì chẳng có ba nên chẳng trụ ba.

Chánh văn: Thuận ba môn giải thoát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì thuận ba giải thoát nên lìa ba cấu. Lấy ba để lìa ba.

Chánh văn: Ba Minh và vô minh đồng đẳng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thế của pháp thân vô tướng thuận ba giải thoát.

Tuy có ba Minh mà chẳng khác vô minh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thuận ba pháp môn Giải thoát thì minh và vô minh đồng đẳng. Ba môn giải thoát đã là ba Minh, nên lại căn cứ theo ba Minh để luận.

Chánh văn: Không phải nhất tướng chẳng phải dị tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không có hình tượng chẳng phải không hình tượng, cho nên chẳng phải là một. Hình tượng mà chẳng phải hình tượng, nên chẳng thể nói là khác (dị).

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đẳng tức cả hai đồng đẳng, cả hai đồng đẳng thì chẳng một chẳng khác.

Chánh văn: Chẳng phải tự tướng, chẳng phải tha tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải tự mà đồng với tự, nên tự mà chẳng tự; chẳng phải tha mà đồng với tha, nên tha mà chẳng phải tha. Thân vô tướng há có thể lấy nhất, dị, tự, tha để quán thể của thân ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có tự có tha thì trở thành sai biệt (dị).

Chánh văn: Chẳng phải vô tướng, chẳng phải chấp thủ tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã chẳng phải là tướng không vật, lại chẳng phải là tướng có thể chấp thủ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu vô tướng là một, thì lại chẳng thể chấp thủ tướng không nhất và không dị.

Chánh văn: Chẳng phải bờ này, chẳng phải bờ kia, chẳng phải giữa dòng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thuận ba môn giải thoát thì đến bờ kia. Nếu có đến thì chẳng đến, không đến không phải chẳng đến, thì mới thật là đến. Bờ này là sinh tử, bờ kia là Niết-bàn, giữa dòng là kết sử.

Chánh văn: Mà giáo hóa chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói bờ này, thì lại tịch diệt đồng Niết-bàn, muốn nói là bờ kia thì sinh tử là trụ xứ, lại chẳng phải giữa dòng mà giáo hóa chúng sinh. Đây là chỗ cùng tột của đạo. Bờ này là sinh tử, bờ kia là Niết-bàn, giữa dòng là Hiền Thánh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm giáo hóa chúng sinh là làm cho họ đoạn trừ kết sử xa lìa sinh tử đến Niết-bàn, nhưng trước nói không phải ba nơi, tựa như chẳng có giáo hóa, nên phải nói như thế, vậy ba nơi chẳng phải không có.

Chánh văn: Quán tịch diệt mà chẳng vĩnh viễn diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Quán tịch diệt, quán tức tịch diệt, diệt mà chẳng diệt, há có thể có hình tướng, tên gọi?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã nói giáo hóa chúng sinh, thì tựa như thấy có chúng sinh, nên nói thêm quán tịch diệt. Quán tịch diệt, chẳng phải là vĩnh viễn diệt độ.

Chánh văn: Chẳng đây, chẳng kia.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu giáo hóa chúng sinh, thì tựa như có tại đây tại kia. Tại đây tại kia là dấu tích của ứng hóa, chứ chẳng phải là thật.

Chánh văn: Chẳng lấy đây, chẳng lấy kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải đây mà đồng với đây, nên đây mà chẳng phải đây; chẳng phải kia mà đồng với kia, cho nên kia mà chẳng phải kia, thế thì đâu thể lấy đây mà đồng với kia, lấy kia mà đồng với kia? Đây là nói tâm của bậc Thánh không có lấy đây kia để đồng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy nói chẳng tại đây tại kia, nhưng có thể lấy dấu tích đây kia mà giáo hóa. Đây kia là do chúng sinh chấp thủ, chứ chẳng phải là Phật như thế.

Chánh văn: Chẳng thể dùng trí mà hiểu, chẳng thể dùng thức mà biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phàm trí thức sinh là sinh từ nơi tướng, pháp thân đã vô tướng thì chẳng phải là chỗ lường biết của trí thức. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã chẳng trụ đây kia, lại chẳng lấy đây kia, thì đâu thể dùng trí để hiểu, dùng thức để biết mà nói về nó được?

Chánh văn: Không tối không sáng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáng thì vượt trên cả ba loại ánh sáng, ai có thể cho là tối? Tối thì tối hơn mật thất, ai có thể cho là sáng? Thế thì tại tối là tối, tại sáng là sáng. Hay tối hay sáng, đâu phải là năng lực của tối sáng làm được ư? Nên nói không tối không sáng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sáng chẳng tại hình tích tức là tối, nhưng lý thì chẳng có tại đâu, nên chẳng phải là tối. Hình tích mà trái lại có sáng là sáng. Nhưng đó là do chúng sinh chấp giữ, chứ chẳng phải là sáng thật.

Chánh văn: Không danh không tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thể dùng danh để đặt tên, chẳng thể dùng tướng để lập tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trong hình tích đã có danh, mà Phật thì không danh. Tướng là dáng mạo có thể đặt tên.

Chánh văn: Chẳng mạnh, chẳng yếu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Là chỗ chí nhu chẳng có trái nghịch thì ai nói là mạnh? Mạnh mẽ không thể chế phục thì ai nói là yếu?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vận động cả trời đất mà chẳng phải mạnh, ứng khắp cõi vô thường cũng chẳng phải là yếu.

Chánh văn: Chẳng tịnh, chẳng uế.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở nơi tịnh thì tịnh, ai cho là uế, ở nơi uế là uế, ai cho là tịnh. Thế thì làm mạnh yếu, tịnh uế mà thật chẳng phải là chỗ làm của mạnh yếu, tịnh uế.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tướng quý và vẻ đẹp trang nghiêm thân mà chẳng phải là tịnh, quả báo bị thương xăn lúa ngựa mà chẳng phải là uế.

Chánh văn: Chẳng tại phương, chẳng lìa phương.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân chẳng tồn tại đâu mà không đâu chẳng tồn tại. Không tại đâu nên chẳng ở nơi phương sở; không đâu chẳng tại, nên chẳng lìa phương sở.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đông cảm thì tại Đông, Tây cảm thì tại Tây, há tại phương sở nhất định ư? Nhưng Phật ứng hiện, chẳng được nói là phương sở không có Phật, cho nên nói chẳng tại chẳng lìa.

Chánh văn: Chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Muốn nói là hữu vi ư? Thì lại không danh không tướng. Muốn nói là vô vi ư? Thì ứng hiện vạn hình.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu vào hữu thì hữu vi, nếu tại không thì vô vi, mà Phật đã không có cái hữu này, lại chẳng phải không có hữu, thế thì có gì là hữu vi vô vi?

Chánh văn: Không chỉ bày, không ngôn thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sáu căn chẳng thể đạt đến, há có thể thuyết để chỉ cho người ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Ứng với thấy thì chỉ bày, ứng với nghe thì tuyên thuyết, Phật vốn không chỉ bày, không tuyên thuyết.

Chánh văn: Chẳng bố thí, chẳng bỏn sẻn, chẳng giữ giới, chẳng phạm giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng sân khuể, chẳng tinh tấn, chẳng lười biếng, chẳng định, chẳng loạn, chẳng phải trí, chẳng phải ngu.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy sáu Độ làm thể, nên có thể ứng hiện như trước đã nói, độ mà có độ thì chẳng phải độ, chẳng độ không độ, thì mới là độ.

Chánh văn: Chẳng thành thật, chẳng dối trá.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng thể cho thiện là thiện, chẳng thể cho ác là ác. Ngài Đạo Sinh nói:

- Sáu Độ lấy thành thật làm đạo, nhưng thành mà có thành thì chẳng phải là thành thật, chẳng thành không thành mới là thành thật.

Chánh văn: Chẳng đến chẳng đi. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã có độ, đã có thành thật, thì liền ứng theo cảm mà đến, hết cảm thì đi. Nếu có đến đi này, thì chẳng thể đến đi.

Chánh văn: Chẳng thể xuất nhập.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Lặng lẽ mà đi, im vắng mà đến, âm thầm mà vào, kín nhiệm mà ra, ai biết được tăm hơi?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đến là xuất, đi là nhập.

Chánh văn: Bặt đường nói năng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thể thì bặt đường ngôn ngữ. Ngài Đạo Sinh nói:

- Tạm tổng kết. Đã nói dùng sáu Độ vô tướng làm Phật, há có thể dùng tướng ngôn thuyết mà diễn bày ư?

Chánh văn: Chẳng phải phước điền, chẳng phải chẳng phước điền.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì lấy vô tướng làm Phật, nên hay khiến cho người cúng dường được phước, đó là phước điền. Nếu như thế thì có tướng.

Chánh văn: Chẳng xứng cúng dường, chẳng phải không xứng cúng dường. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thể vô tướng thì chẳng thể thấy được bờ bến, vậy ai có thể biết được là điền hay chẳng phải là điền, là xứng hay chẳng xứng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Là phước điền thì xứng được cúng dường, chẳng phải phước điền thì chẳng xứng cúng dường.

Chánh văn: Chẳng giữ, chẳng bỏ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chấp giữ thì mất chân thật, xả bỏ thì trái với đạo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Là phước điền thì nên giữ, chẳng phải phước điền thì nên xả bỏ.

Chánh văn: Chẳng phải hữu tướng, chẳng phải vô tướng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Vắng lặng vô hình thì chẳng phải là hữu tướng; có ba mươi hai tướng, thì chẳng phải là vô tướng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu là phước điền là người phước đức, người phước đức thì có tướng có lộc.

Chánh văn: Đồng với mé chân, bình đẳng với pháp tánh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vô tướng thì được như thế. Cho Phật là sai biệt, nên nói là đồng đẳng.

Chánh văn: Chẳng thể cân, chẳng thể lường, vượt ngoài sự cân lường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thể vô tướng đồng với chân tế (mé thật), bình đẳng với pháp tánh. Lời nói chẳng thể luận đến được, ý nghĩa chẳng thể suy lường được, vượt khỏi cảnh tính toán, ra ngoài phạm vi cân lường.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã đồng chân tế, bình đẳng với pháp tánh, há có thể dùng ý để suy nghĩ được ư? Vượt qua các sự cân lường, nghĩa là lời nói chẳng thể đạt đến.

Chánh văn: Chẳng lớn, chẳng nhỏ. Ngài Tăng Triệu nói:

- Lớn bao trùm trời đất, nên chẳng thể cho là nhỏ; nhỏ không có gì có thể chứa trong đó, nên chẳng thể cho là lớn, mà có thể làm lớn làm nhỏ, chỉ vì đó là không lớn không nhỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nếu nói là nhỏ thì lớn bao trùm cả trời đất, nếu nói là lớn thì nhỏ không gì có thể nhập vào trong đó.

Chánh văn: Chẳng thấy (kiến) Ngài Tăng Triệu nói:

- Vì chẳng phải là sắc, cho nên chẳng thấy (kiến).

Chánh văn: Chẳng nghe (văn).

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải là âm thanh, nên chẳng nghe.

Chánh văn: Chẳng nhận biết (giác).

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải là hương, vị, xúc cho nên chẳng phải là cảnh biết của ba căn.

Chánh văn: Chẳng hiểu biết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng phải là pháp, nên chẳng phải là cảnh mà ý biết được. Ngài Đạo Sinh nói:

- Không chỉ không thể thấy nghe nhận biết và hiểu biết, mà cũng không thể tạo tác ra thấy nghe hay biết.

Chánh văn: Xa lìa các trói buộc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thể vô lậu dứt bặt các trói buộc. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã không thấy, nghe, hay, biết thì do đâu mà sinh trói buộc?

Chánh văn: Bình đẳng với các trí, đồng với chúng sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Há lại cho trí vượt quần trí, tự khác với quần sinh ư?

Chánh văn: Không phân biệt các pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Bình đẳng với trí thật tướng, đồng với tánh của chúng sinh, mịt mờ không bờ bến, há có phân biệt với các pháp ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đối với tất cả pháp, đều không có tâm phân biệt.

Chánh văn: Tất cả đều không được, không mất, không ô trược, không phiền não.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không được nên không mất, chẳng trong nên chẳng đục (trược); thể ở ngoài sự thì đâu có gì phiền não?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có mất thì có ô trược, đã ô trược thì thành phiền não. Từ đây trở xuống là nói về "không" trong lý không tướng của Phật.

Chánh văn: Không tạo tác, không khởi.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có trược thì có phiền não, liền có tạo tác có khởi thân sau.

Chánh văn: Không sinh không diệt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân vô vi, bặt dứt tạo tác, thì ai có thể tạo tác đây; để khiến khởi sinh, làm diệt?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã tạo tác khởi thân sau, thì có sinh diệt.

Chánh văn: Không sợ sệt, không lo buồn, không vui mừng, không nhàm chán.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Có sinh diệt, là pháp đáng lo sợ, thì liền vui sinh mà buồn diệt, vui buồn không dứt thì sinh nhàm chán.

Chánh văn: Không đã có, không sẽ có, không hiện có. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp thân chẳng nương gá, bặt dứt hữu vi ba cõi, tam tai chẳng thể làm lo sợ, trước sau không thể biến đổi. Thể ấy vắng lặng vô vi, không thuộc số lượng, há có lo sợ, buồn chán, vui thích trong đó ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã không buồn vui, thì chẳng thọ các hữu.

Chánh văn: Chẳng thể dùng tất cả ngôn thuyết phân biệt để hiển thị được.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là tổng kết.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai, con quán như thế! Ngài Tăng Triệu nói:

- Hết lời nói, cùng tột trí nghĩ suy mà chẳng thể hiển bày; yếu chỉ đến quán Như Lai là như thế.

Chánh văn: Nếu quán như thế là Chánh quán, nếu quán pháp khác là Tà quán. Bấy giờ, Xá-lợi-phất hỏi ông

Duy-ma rằng: "Ông chết ở đâu mà sinh đến cõi này?" Ngài La-thập nói:

- Thấy thần đức kỳ diệu, thì nơi đến ắt phải thù thắng. Nên mới hỏi nơi đã đến đây. Ông Duy-ma sợ người còn chấp vào chết sinh cho nên văn sau phản vấn để nói rõ không có việc chết rồi sinh. Cũng có người cho rằng sinh phần của ông Duy-ma chưa hết, mới hỏi về chết rồi sinh, nên sau đáp chẳng dứt pháp thiện, chẳng tăng trưởng pháp ác để nói sinh phần đã hết. Chẳng đáp thẳng vào câu hỏi là muốn:

1. Khuất phục hàng Thanh văn.

2. Chẳng muốn tự hiển thị chỗ phát xuất của mình thù thắng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên nói như quán thật tướng của thân, thật tướng vô sinh, mà nay có sinh là để thành tựu nghĩa tự quán ấy, nên dùng chết sinh để hỏi.

Chánh văn: Ông Duy-ma hỏi: "Pháp mà ngài đạt được, có chết rồi sinh không?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghịch vấn sở đắc của ngài Xá-lợi, để chứng minh không có chết rồi sinh. Pháp đạt được là pháp vô vi vô tướng. Tam thừa đều từ vô tướng mà đắc quả.

Chánh văn: Ông Xá-lợi-phất nói: "Không có chết rồi sinh!" Nếu các pháp không có tướng diệt rồi sinh, thì vì sao ngài hỏi: "Ông chết ở nơi đâu mà sinh về đây?" Ngài Tăng Triệu nói:

- Từ sở đắc của mình, mà có thể biết được pháp tướng, nên mới hỏi lại ngài Xá-lợi-phất.

Chánh văn: Ý ngài thế nào? Ví như một nhà huyễn thuật tạo ra các nam nữ, các người huyễn này có chết rồi sinh không? Xá-lợi-phất đáp: "Không có chết rồi sinh." Nói: "Ngài không nghe Đức Phật dạy các pháp như huyễn ư?" Đáp: "Có nghe như thế!" Lại nói: "Nếu tướng các pháp như huyễn, vì sao ngài lại hỏi ta: "Ông chết ở đâu mà sinh đến đây?"

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh giống như sự tồn tại của biến hóa, tử giống như sự qua đi của biến hóa, chúng sinh thì đều như thế, nên hỏi là vì sao?

Chánh văn: Thưa ngài Xá-lợi-phất! Chết là tướng hư hoại của pháp hư giả, sinh là tướng tương tục của pháp hư giả.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trước xác định tướng chết rồi sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là lý sinh tử, mà chẳng thật.

Chánh văn: Bồ-tát tuy chết nhưng không đoạn các gốc thiện, tuy sinh nhưng chẳng tăng trưởng pháp ác.

Ngài La-thập nói:

- Phàm phu khi chết thì khởi ác diệt thiện, đã sinh thì tăng thêm điều ác. Bồ-tát thì chẳng như thế. Vả lại, phàm phu đã đoạn hết gốc thiện, nên mệnh chung tăng trưởng tâm ác điên đảo, sau đó mới thọ sinh. Bồ-tát thì chẳng phải như thế, từ pháp hóa sinh, thanh tịnh, tùy ý hiển hiện, nên không có hoạn lụy này; không có hoạn này thì thân tuy có đến đi mà chẳng phải là chết rồi sinh. Ở đoạn trên, trước nói về tánh không hiển thị, không có chết rồi sinh. Ở đây thì nói từ pháp hóa sinh, tự tại, để hiển thị không có chết sinh. Xét hai môn thì nói chết sinh là không có căn cứ, mà hỏi chết rồi sinh là quá sai lầm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiện ác đều là tướng tương tục hư dối, là pháp hư hoại. Nhưng phàm phu sinh thì tăng trưởng pháp ác, chết thì đoạn dứt pháp thiện. Bồ-tát sinh thì tăng trưởng pháp thiện, chết thì dứt pháp ác. Chết sinh tuy đồng mà tăng, diệt khác nhau. Nhưng đều là tướng bại hoại hư dối, đâu khác gì huyễn hóa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sinh tử còn chẳng thật, đã chẳng nên hỏi, huống là đều không?

Nếu có sinh tử, vậy tử thì phước đức tận. Sinh thì tăng trưởng các ác.

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất rằng: "Có một cõi nước tên là Diệu hỷ, có Đức Phật hiệu là Vô Động, ông Duy-ma-cật đã chết ở cõi đó mà sinh sang đây."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên trả lời là không có sinh, ở đây lại nêu ra nơi sinh, đó là do thích ứng với chúng sinh mà nói, chẳng phải là vô ích.

Chánh văn: Xá-lợi-phất nói: "Thật chưa từng có! Bạch Thế Tôn! Vị này có thể xả bỏ cõi thanh tịnh mà thích đến cõi nhiều khổ não oán hại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi này trái nghịch với cõi khác, có rất nhiều oán hại.

Chánh văn: Ông Duy-ma-cật nói với ngài Xá-lợiphất rằng: "Ý ông nghĩ sao? Khi ánh sáng mặt trời xuất hiện thì có hợp với tối chăng?" Đáp: "Không, ánh sáng mặt trời xuất hiện thì không còn bóng tối." Hỏi: "Vì sao mặt trời đi qua cõi Diêm-phù-đề?" Ngài Xá-lợi-phất đáp: "Vì muốn dùng ánh sáng chiếu phá tối tăm cho cõi này." Ông Duy-ma-cật lại nói: "Bồ-tát cũng thế, tuy sinh vào cõi Phật bất tịnh, nhưng chủ yếu là giáo hóa chúng sinh mà chẳng hợp với kẻ ngu tối, chỉ trừ phiền não tăm tối cho họ mà thôi." Bấy giờ, cả đại chúng khát ngưỡng muốn thấy cõi Diệu hỷ, Đức Như Lai Vô Động và các vị Bồ-tát, Thanh văn. Đức Phật biết tâm niệm của chúng hội, nên bảo ông Duy-ma-cật rằng: "Này thiện nam! Hãy hiện ra cõi Diệu hỷ, Đức Phật Vô Động, các Bồ-tát và hàng Thanh văn cho đại chúng ở đây được thấy, mọi người đang muốn xem." Ngài La-thập nói:

- Vì những người có căn cơ thấp kém muốn tu Tịnh độ cầu vãng sinh, nên hiện ra quốc độ này. Chẳng phải thấy từ xa mà đem đặt vào cõi này là để hiển bày thần lực của ông Duy-ma. Chứng kiến trực tiếp sự việc thì tâm vui thích mà ngộ lại sâu, nên khiến hiện việc này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã thấy tâm đại chúng khát ngưỡng, lại muốn nêu rõ đức chẳng thể nghĩ bàn của ông Tịnh Danh, cho nên bảo hiện bản quốc.

Chánh văn: Khi ấy ông Duy-ma nghĩ rằng: "Ta sẽ không rời tòa ngồi mà tiếp lấy cõi Diệu hỷ, cùng với tất cả núi Thiết vi, sông, suối, hang, ngòi, lạch, biển lớn, nguồn, các núi Tu-di và mặt trời, mặt trăng, các vì sao, các cung điện của trời, rồng, quỉ thần, Phạm thiên, các hàng Bồ-tát, Thanh văn, thành ấp tụ lạc, nam nữ, lớn nhỏ, cho đến Đức Như Lai Vô Động.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khuất phục được bậc tôn quý là rất khó nên nói cho đến.

Chánh văn: Và cây Bồ-đề, hoa sen quý báu có thể làm Phật sự trong mười phương.

Ngài La-thập nói:

- Trên hoa sen có hiện hóa Phật, hoặc phóng ánh sáng, và thuyết pháp... biến hiện các tướng trạng, để khai ngộ chúng sinh.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cây Bồ-đề cõi kia và hoa sen quý báu đều thường phóng ánh sáng, làm Phật sự ở khắp mười phương, và trên hoa sen có các hóa Phật và Bồ-tát, cũng làm Phật sự khắp cả mười phương, đều đem về cõi này.

Chánh văn: Ba đường thềm báu từ cõi Diêm-phù-đề đến cõi Trời Đao-lợi, do đường thềm báu này mà chư Thiên xuống kính lễ Đức Như Lai Vô Động và nghe nhận kinh pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Báo lực thần thông của chư thiên cõi Dục, có thể đạp hư không mà đi, nhưng cõi kia dùng thềm báu để nghiêm sức, làm đường dạo chơi, nhân đó mà lên xuống. Chánh văn: Người ở cõi Diêm-phù-đề cùng bước trên đường này để gặp chư thiên ở cõi Đao-lợi Ngài Tăng Triệu nói:

- Cõi nghiêm tịnh, thì phước tích tập. Quả báo của trời, người đều khác nhau không bao nhiêu, cho nên qua lại trên một con đường, ắt có niềm vui giao du nhau.

Chánh văn: Cõi Diệu hỷ thành tựu công đức vô lượng như thế. Phía trên từ trời A-ca-nị-trá, dưới đến mé thủy luân, dùng tay phải đoạn lấy rất nhanh và nhẹ nhàng như bánh xe của người thợ gốm.

Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm ghi: "Như đoạn lấy khối bùn." Nay nói như bánh xe của người thợ gốm là nói chặn lấy ngay ở giữa, như bánh xe của người thợ gốm, phía dưới chẳng chạm đất, bốn phía đều đoạn lìa.

Chánh văn: Đặt vào thế giới này giống như cầm một tràng hoa, chỉ cho tất cả đại chúng xem. Ông suy nghĩ xong thì nhập tam-muội, hiện sức thần thông.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nặng là gốc của nhẹ, tĩnh là chủ của động, nếu chẳng có sức tam-muội thì chẳng biết lấy gì để vận động thần túc.

Chánh văn: Dùng tay phải chặn lấy cõi Diệu hỷ.

Ngài La-thập nói:

- Chấn lấy tức là biểu thị không đem về hết cõi ấy.

Chánh văn: Đặt vào cõi này. Các Bồ-tát có thần thông và Thanh văn, trời, người cõi ấy đều cất tiếng hỏi rằng: "Dạ! Bạch Thế Tôn! Ai đem chúng con đi? Xin

Đức Thế Tôn cứu hộ!" Ngài Tăng Triệu nói:

- Bồ-tát có đại thần thông nghịch quán thấy được nguyên nhân biến hóa này, vì đại chúng mà hỏi; còn những trời người khác vì chẳng biết mà hỏi. Tâm lo sợ không cùng, nên cầu xin cứu hộ.

Chánh văn: Đức Phật Vô Động nói: "Chẳng phải Ta làm ra! Đó là sức thần thông của ông Duy-ma-cật tạo ra đấy!'. Còn tất cả những người chưa có thần thông khác chẳng biết chẳng hay mình đã đi đâu. Cõi Diệu hỷ tuy đã nhập vào cõi Ta-bà này mà chẳng tăng chẳng giảm, cõi này cũng không bị ép chật, vẫn nguyên như cũ, không sai khác. Bấy giờ, Đức Thích-ca Mâu-ni nói với đại chúng rằng: "Các ông hãy xem cõi Diệu hỷ, Phật Vô Động. Cõi ấy trang nghiêm bằng hạnh thanh tịnh của Bồtát và sự trong sáng của các đệ tử." Đại chúng nói: "Dạ! Bạch Thế Tôn! Chúng con đã thấy!" Đức Phật bảo: "Các Bồ-tát muốn được cõi Phật thanh tịnh như thế, thì nên học đạo của Đức Như Lai Vô Động." Ngài Tăng Triệu nói:

- Lên được cao ắt phải do bước từ gốc thấp; cầu quả ắt phải tìm nhân.

Chánh văn: Khi hiện cõi Diệu hỷ này, ở cõi Ta-bà có mười bốn na-do-tha người.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Mười vạn là một na-do-tha.

Chánh văn: Phát tâm Vô thượng Bồ-đề và đều nguyện sinh về cõi Phật Diệu hỷ. Đức Phật Thích-ca Mâu-ni thọ ký rằng: "Sẽ được sinh sang nước ấy!" Bấy giờ, cõi Diệu hỷ đã thực hiện những việc lợi ích ở cõi Ta-bà xong liền trở về nơi cũ, cả đại chúng đều thấy. Đức Phật hỏi Xá-lợi-phất rằng: "Ông có thấy cõi Diệu hỷ và Đức Phật Vô Động chăng?" Ngài Tăng Triệu nói:

Tức nhờ nơi Xá-lợi-phất để nói về bậc Thánh tụ tập rất khó gặp, nghe được kinh pháp cũng chẳng dễ, nên hỏi riêng là "Ông có thấy chăng?"

Chánh văn: Dạ! Con đã thấy! Bạch Thế Tôn! Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được cõi thanh tịnh của Đức Phật Vô Động và sức thần thông như ông Duyma.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Do thấy mà phát nguyện.

Chánh văn: "Bạch Thế Tôn! Chúng con vui thích được lợi lành, được gặp người này để gần gũi cúng dường."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là lời tự chúc mừng.

Chánh văn: Còn những chúng sinh hiện tại, hoặc sau khi Phật diệt độ mà nghe được kinh này thì cũng được lợi lành, huống là nghe rồi tin, hiểu, thọ trì, đọc tụng, giải nói, như pháp tu hành! Nếu có người tay cầm được kinh này là đã được kho pháp bảo.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tay cầm được quyển kinh, tuy chưa tụng đọc, thì cũng như người đã được kho báu mà chưa sử dụng. Trên dùng ngay việc nghe để so sánh chung, ở đây thì kết luận riêng về đức, để xét về chỗ hơn kém.

Chánh văn: Nếu có người đọc tụng, giải thích nghĩa của kinh này, như pháp tu hành, thì sẽ được chư Phật hộ niệm.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hạnh là bên trong, hộ niệm là sức bên ngoài, lý hợp thì thầm cảm ứng, đó là lẽ tự nhiên.

Chánh văn: Nếu cúng dường người này, nên biết đó là cúng dường Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Người này là người được Phật hộ niệm.

Chánh văn: Nếu có người nào biên chép thọ trì kinh này, nên biết nhà người ấy có Như Lai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tùy theo ngôi nhà an trú để biên chép thọ trì kinh này, nên biết ngôi nhà ấy có Như Lai. Biên chép, thọ trì chủ yếu là ở nơi tay.

Chánh văn: Nếu có người nghe kinh này mà tùy hỷ, người này sẽ chứng thủ Nhất thiết trí.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu nghe kinh này, có thể tùy thuận theo nghĩa mà vui mừng thì người này sẽ hội được Nhất thiết trí, cho nên nói là thủ.

Chánh văn: Nếu có người tin hiểu kinh này, dù chỉ một bài kệ bốn câu, rồi giảng nói cho người khác nghe, nên biết người này đã được thọ ký Vô thượng Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đây là nói đã hiểu một bài kệ bốn câu rồi giảng giải cho người khác nghe, thì phước ấy nhiều hơn phước của tùy hỷ, cho nên mới nói thọ ký. Trước nói thủ là chỉ nói hội quy, mà chưa đề cập đến thọ ký.

QUYỂN 10

Phẩm 13: PHÁP CÚNG DƯỜNG

Chánh văn: Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân ở trong đại chúng bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Con đã gần gũi Thế Tôn và ngài Văn-thù-sư-lợi, nghe nói trăm ngàn bộ kinh, mà chưa từng nghe được kinh Bất Khả Tư Nghị Tự Tại Thần Thông Quyết Định Thật Tướng này.

Ngài La-thập nói:

- Ngài Duy-ma chặn lấy cõi Diệu hỷ đặt vào thế giới này và các việc chẳng thể nghĩ bàn nói trên, đều là các điều kỳ lạ từ trước đến nay chưa từng thấy qua. Các kinh như Phóng Quang... nói về thật tướng, thì quá rộng và tản mác khó tìm, còn kinh này lược thuật yếu nghĩa các kinh, rõ ràng đơn giản dễ hiểu, nên khen là chưa từng có. Cũng có thể nói vì hợp với ta, là kỳ diệu nên khen là chưa từng có.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh sắp xong, ngài Xá-lợi-phất vui mừng khen ngợi ở phẩm trên, Đế Thích sung sướng vì được gặp, nên khen ngợi kế tiếp. Lời của kinh này tuy đơn giản mà nghĩa lại bao hàm các kinh khác. Ngồi chưa quá một ngày mà thấy khắp tất cả thần thông biến hóa, lời vi diệu của Đại thừa, sức thần thông cảm ứng, nhất thời được gặp biết, lý không đâu chẳng thấu. Vả lại, lấy việc hợp với Ta làm diệu, cho nên khen là điều chưa từng có.

Chánh văn: Như con hiểu nghĩa lý của Phật nói, nếu có chúng sinh nghe kinh pháp này, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thì nhất định được pháp này, không còn nghi ngờ gì.

Ngài La-thập nói:

- Nếu lụy sâu tin mỏng, thì phải trải qua sinh tử, nhưng cuối cùng ắt cũng được. Nếu khéo tích tập các thiện mà ngộ sâu xa thì tùy nguyện mà mau được thành tựu, lâu mau chẳng lấy kiếp số để hạn định.

Chánh văn: Huống là như thuyết tu hành.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp này tức là pháp Bất tư nghị tự tại thần thông quyết định thật tướng. Như con hiểu nghĩa lý của Phật sâu xa khó gặp, nếu nghe rồi mà tụng đọc thọ trì ắt sẽ được pháp này chẳng nghi, huống gì người như thuyết tu hành. Đức của người này sẽ nêu ở sau.

Chánh văn: Người này đã đóng kín các nẻo ác. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tức các nẻo tám nạn.

Chánh văn: Mở các cửa thiện. Ngài Tăng Triệu nói:-Tức các cửa trời, người, Niết-bàn.

Chánh văn: Thường được chư Phật hộ niệm, hàng phục ngoại đạo, phá dẹp ma oán.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma tức bốn ma oán.

Chánh văn: Tu tập Bồ-đề. Ngài La-thập nói:

- Bản tiếng Phạm, ở trước chữ Bồ-đề có chữ đạo. Đạo tức hướng đến đạo Bồ-đề.

Chánh văn: An trụ ở đạo tràng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Ở nơi đạo tràng đạt thành Phật đạo gọi là Bồ-đề. Nay tuy chưa thành, nhưng vì tu tập Phật đạo, nên an trụ trong đạo tràng.

Chánh văn: Bước theo dấu vết thực hành của Như Lai.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Như thuyết tu hành thì đồng với hạnh Phật.

Chánh văn: Bạch Thế Tôn! Nếu có người đọc tụng, thọ trì, như thuyết tu hành, thì con cùng các quyến thuộc đến cúng dường giúp đỡ. Nếu các nơi như làng xóm, thành ấp, núi rừng, đồng nội, ở đâu có kinh này thì con cũng sẽ cùng với quyến thuộc đến đó nghe nhận. Nếu có những người chưa tin sẽ khiến cho tin, người đã tin thì sẽ bảo hộ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thiên đế vui mừng với sự gặp gỡ kinh pháp của mình, cho nên khen chưa từng có, đồng thời muốn hộ trì, cúng dường, để hoằng truyền đạo ấy.

Chánh văn: Đức Phật nói: "Hay thay! Hay thay! Thiên đế! Như lời ông nói, ta sẽ hỗ trợ cho ông được vui thêm. Kinh này nói về đạo Vô thượng Bồ-đề chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Ngài La-thập nói:

- Ở bản tiếng Phạm trước chữ vô thượng có chữ Pháp. Ngài Đạo Sinh nói:

- Kinh nói Phật tuệ, thì tuệ ở nơi kinh. Kinh đã có tuệ thì đó là Pháp thân Phật.

Chánh văn: Vì thế, này Thiên đế! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào thọ trì đọc tụng cúng dường kinh này, thì đã cúng dường chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khen ngợi ý hộ trì của Thiên đế. Đạo Bồ-đề chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật ba đời đều được trình bày ở kinh này, nếu thọ trì đọc tụng, cúng dường thì đó là cúng dường chư Phật ở ba thời, nên mới trợ giúp niềm vui của ông.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phàm cúng dường y phục thức ăn thì bảo tồn và nuôi lớn thân bốn đại, còn nếu thọ trì đọc tụng kinh này, đã trọn vẹn nghĩa lý lại ngày càng tăng trưởng Pháp thân, vậy há chẳng phải là nghĩa cúng dường ư?

Chánh văn: Này Thiên đế! Giả sử tất cả Như Lai trong cõi tam thiên đại thiên nhiều như lúa, mì, tre, lau, rừng rậm... nếu có thiện nam hay thiện nữ nào trong một kiếp, hoặc dưới một kiếp cung kính, tôn trọng, tán thán cúng dường các món cần dùng, mãi cho đến sau khi Đức Phật diệt độ, lại dùng toàn thân xá-lợi của mỗi Đức Phật tôn thờ nơi pháp bảy báu rộng một tứ thiên hạ, cao đến cõi Phạm thiên chót vót trang nghiêm, lại dùng tất cả hương hoa, anh lạc, tràng phan, kỹ nhạc vi diệu bậc nhất, trong một kiếp hoặc chưa được một kiếp mà cúng dường. Này Thiên đế! Ông nghĩ thế nào, người ấy làm thế, phước nhiều chăng? Thiên đế đáp: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều, dù cho trăm ngàn ức kiếp cũng chẳng thể nói hết phước đức của người ấy." Đức Phật bảo Thiên đế rằng: "Nên biết thiện nam, thiện nữ nghe kinh Bất Tư Nghị Giải Thoát này mà tin hiểu thọ trì đọc tụng tu hành thì phước đức nhiều hơn người hành cúng dường kia.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phước của việc cúng dường, ngăn ngại tuệ giải Bátnhã, trong các kinh thường có so sánh để thành tựu việc ấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cúng dường y phục, thức ăn là để lập công tạo phước, chẳng phải là pháp để đạt lý, theo đó thật có thể sinh vào cõi Trời người, nhưng rốt cuộc chẳng thể thành Phật. Cúng dường pháp thân thì lấy sự thể hội của Phật làm bản hoài, cho nên cuối cùng đại ngộ trí tuệ, mà so sánh với đó, há có thể đồng lúc mà nói về hơn kém ư?

Chánh văn: Vì sao? Vì chư Phật Bồ-đề từ đó xuất sinh. Ngài Đạo Sinh nói:

- Thể hội lý của kinh, thì rốt cuộc thành Bồ-đề, nên nói từ trong đó sinh.

Chánh văn: Tướng Bồ-đề chẳng thể hạn lượng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Bồ-đề thì vô tướng, chẳng thể dùng ý để suy lường. Chánh văn: Do nhân duyên đó, phước đức cũng không thể hạn lượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Cây cao ắt mọc từ đất thích hợp mà tốt, ngọc quý ắt sinh nơi hang sâu núi hiểm. Vì thế quả vô lượng ắt phải do nơi nhân vô lượng. Chư Phật Bồ-đề đều do tu tập kinh này mà sinh. Đạo Bồ-đề lấy vô tướng làm tướng, tướng của vô tướng thì chẳng thể hạn lượng, từ đây mà sinh phước thì phước đâu thể hạn lượng?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lấy vô tướng làm phước của việc thọ trì, thì phước vô tận.

Chánh văn: Đức Phật bảo Thiên đế rằng: "Vào thời quá khứ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, lúc bấy giờ, ở thế gian có một vị Phật hiệu là Dược Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới tên là Đại trang nghiêm, Đức Phật thọ hai mươi tiểu kiếp, các Thanh văn tăng gồm ba mươi sáu ức na-do-tha vị, Bồ-tát tăng gồm mười hai ức vị. Này Thiên đế! Bấy giờ cũng có một Chuyển luân Thánh vương tên là Bảo Cái, có đủ bảy báu, cai trị bốn thiên hạ. Vua có một ngàn người con, xinh đẹp oai dũng, có thể diệt trừ được các oán địch. Bấy giờ, vua Bảo Cái và các quyến thuộc cúng dường Như Lai Dược Vương, dâng các món cần dùng đầy đủ năm kiếp. Trải qua năm kiếp rồi, vua bảo một ngàn người con rằng: "Các con cũng phải dùng tâm thâm sâu mà cúng dường Phật như ta hôm nay vậy." Các người con đều vâng lời cha cúng dường Đức Như Lai Dược Vương, lại trải qua năm kiếp dâng các món cần dùng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là dùng tài vật cúng dường, so sánh với thọ trì, thọ trì tức pháp cúng dường. Như Lai sắp thành tựu nghĩa pháp cúng dường, nên dẫn sự việc đã có để chứng minh.

Chánh văn: Có một người con tên là Nguyệt Cái ngồi một mình suy nghĩ rằng: "Há có việc cúng dường nào hơn việc cúng dường này?" Ngài La-thập nói:

- Mong có pháp cúng dường thù thắng của một Đại đức hay chư Thiên nào, nếu có việc nào hơn việc này thì sẽ kính mộ mà đến học. Nói rằng tuy đã dùng tất cả vật quý giá của mình để cúng dường, mà chẳng thể làm vui tâm bậc Thánh, mong rằng ngoài các vật quý giá ra, còn có một cách gì khác để nói lên tâm chân thành của mình, cho nên mới khởi niệm, suy nghĩ về phương cách cúng dường thù thắng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Trân bảo bậc nhất trên đời cũng không thỏa mãn được tâm chí thành, nên mới mong có một cách cúng dường nào ngoài dùng tài bảo, để đúng với tâm chân thành của mình. Vả lại, túc duyên sắp hội tụ nên mới khởi tâm niệm này.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Dẫn việc quá khứ để chứng nghiệm pháp thân cúng dường là thù thắng.

Chánh văn: Do thần lực của Đức Phật mà trên hư không có tiếng nói rằng: "Này thiện nam! Có pháp cúng dường là thù thắng bậc nhất trong các pháp cúng dường." Ngài La-thập nói:

- Nếu dùng tài vật cúng dường thì thật vô dụng đối với Phật, vô ích đối với chúng sinh, nên không phải là việc vui thích. Như Lai tích lũy công đức vốn là vì chúng sinh. Nếu cung kính tùy thuận kinh này, như thuyết tu hành, thì sẽ làm vui thích tâm Thánh, đó mới thật là chân cúng dường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đức Như Lai Dược Vương biết vị vương tử này sắp được độ, cho nên biến làm thần hư không để phát lời chỉ dạy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Pháp cúng dường tức thực hành pháp là cúng dường.

Chánh văn: Liền hỏi rằng: "Thế nào là cúng dường pháp?" Đáp: "Ông có thể hỏi Đức Như Lai Dược Vương, ngài sẽ nói rõ cho ông nghe về cúng dường pháp." Tức thời Vương tử Nguyệt Cái đến trước Như Lai Dược Vương, cúi đầu lễ chân Phật, rồi đứng sang một bên mà bạch Đức Phật rằng: "Bạch Phật Thế Tôn! Trong các loại cúng dường thì cúng dường pháp là thù thắng nhất, thế nào là cúng dường pháp?" Đức Phật đáp: "Này thiện nam! Cúng dường pháp tức là kinh sâu xa vi diệu do Đức

Như Lai thuyết ra." Ngài La-thập nói:

- Tam tạng, Tạp tạng và Bồ-tát tạng là năm tạng kinh. Lấy nghĩa sâu xa trong bốn Tạng trên mà thuyết về thật tướng... nên được gọi là kinh sâu xa. Từ đó về sau những pháp được chư Phật trong mười phương ba đời tuyên nói đều tán thán kinh sâu xa của Đức Phật thuyết ra, mà chưa nói về nghĩa thọ trì tu hành là pháp cúng dường.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Trước nói về kinh. Thâm kinh, nghĩa là pháp thật tướng được Đức Phật chỉ dạy, là đạo Bồ-tát.

Chánh văn: Tất cả thế gian khó tin khó nhận. Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý thật tướng bình đẳng đâu có sâu cạn? Tình thức thế gian trái với lý này, nên khó kham tin nhận vì chẳng dò đến được nên gọi là sâu xa.

Chánh văn: Vi diệu khó thấy. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vi diệu vượt ngoài tâm người nên khó thấy.

Chánh văn: Thanh tịnh không nhiễm ô. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh sâu xa tức kinh Phương Đẳng Đệ Nhất Nghĩa. Chỉ thú của kinh này thật sâu xa huyền diệu, chẳng phải là sở đắc của Hữu tâm; vi diệu chẳng có hình tượng, chẳng phải là sở kiến của người mắt sáng, siêu việt cảnh trần không bị nhiễm ô, như hư không, muốn dùng có tâm có mắt để tin nhận, tìm thấy thì chẳng phải cũng khó lắm ư? Từ đây trở xuống là khen ngợi yếu chỉ của kinh sâu xa. Kinh sâu xa được chư Phật thuyết ra tức là pháp thân Phật, như dùng tài vật cúng dường là để nuôi dưỡng thân bốn đại, dùng pháp cúng dường là nuôi lớn Pháp thân. Nếu hộ trì kinh này, khiến Pháp thân tăng trưởng, thì đó là pháp cúng dường tối thượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không có tướng để chấp giữ, nên chẳng sinh trần cấu, nếu có thể thấy được lý này thì cấu uế tự trừ.

Chánh văn: Không thể dùng suy nghĩ phân biệt mà đạt được. Ngài La-thập nói:

- Cần phải tu tập các công đức như Thiền định... chứ chẳng thể dùng trí phân biệt mà đạt được. Cũng chính là nói cần phải dùng Thật trí tuệ, sau đó mới có thể thấu suốt, chứ không thể dùng phân biệt chấp tướng mà hiểu được.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh Đệ Nhất Nghĩa sâu xa, vi diệu, vô tướng, nếu chẳng phải là bậc minh triết thì ai có khả năng phân biệt? Xét về sai biệt ắt là do nơi phân biệt, nhưng chẳng phải là cảnh giới mà phân biệt có thể đạt được, chỉ vì nó là không phân biệt, nên nói chẳng thể dùng phân biệt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cần phải tích tập công đức rồi sau mới thể hội được.

Chánh văn: Thuộc về pháp tạng của Bồ-tát. Ngài Lathập nói:

- Phàm vì Bồ-tát mà thuyết pháp để thành tựu đạo Bồ-tát, thì đều thuộc về pháp tạng của Bồ-tát.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đây là chỗ thể ngộ của Bồ-tát, mà các chúng sinh khác chẳng thể nào ghé mắt đến được.

Chánh văn: Ấn Đà-la-ni ấn chứng vào. Ngài La-thập nói:

- Tổng trì có vô lượng, trong đó thật tướng là một trong các Tổng trì. Nếu trong kinh có nói Thật tướng, thì thật tướng là ấn, dùng ấn thật tướng ấn chứng vào kinh này, thì đó là kinh sâu xa. Lại Ấn, bản tiếng Phạm nói là tướng của thật tướng tức lấy thật tướng làm tiêu tướng cho kinh vậy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thuộc về Pháp tạng của Bồ-tát nên chẳng phải là vật báu của Tiểu thừa, là chỗ ấn của ấn Tổng trì, thì chắc chắn chẳng phải là đạo thế gian. Được ấn Tổng trì ấn chứng vào, thì chỗ ấn chắc phải chân thật, được thâu vào pháp tạng ắt vật được thâu phải là vật báu chân thật. Đã thâu giữ vào Pháp tạng, đã được Tổng trì ấn chứng vào, thì há người tầm thường có thể khai phát để thấy rõ được pháp bảo sâu xa, kiên cố, khó thấy này ư?

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đà-la-ni tức là trì. Nếu bảo trì thật tướng chẳng mất, thì ở trong cõi Trời, người, ma, phạm chẳng lo sợ có nghĩa chẳng thông đạt. Ví như người thế gian lấy ấn làm tin, khi qua các nơi cấm như quan ải... không bị hạch sách và bắt giữ. Đó quả thật là ấn giữ gìn. Kinh đã được ấn thì không ngăn ngại.

Chánh văn: Đến không thoái chuyển.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lý không có nơi thoái chuyển, theo đó mà tu tập ắt sẽ đến.

Chánh văn: Thành tựu sáu Độ. Ngài La-thập nói:

- Tức nói các kinh này có thể làm cho không thoái chuyển, thành tựu sáu Độ.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không thoái lui nên đạt đến sáu Độ, đạt sáu Độ nên thành tựu Đại thừa, Đại thừa đều do nơi kinh này mà xuất sinh.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Không chỉ chẳng lui sụt mà còn đạt đến bờ mé tột cùng của các pháp.

Chánh văn: Khéo phân biệt các nghĩa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nghĩa tức là nghĩa lý trong lời nói, mà kinh này khéo phân biệt được.

Chánh văn: Thuận pháp Bồ-đề. Ngài La-thập nói:

- Những pháp mà kinh sâu xa đã nói thì lý không sai biệt, nên khéo phân biệt, vì khéo phân biệt, nên thuận Bồ-đề.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Khéo phân biệt nghĩa thật tướng, thuận pháp Bồđề vô tướng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Kinh này chuyên chở pháp Bồ-đề, nên chẳng trái nghịch.

Chánh văn: Là trên hết trong các kinh Ngài La-thập nói:

- Nêu sự sâu xa của kinh là bậc nhất trong các kinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trong mười hai thể loại kinh của Tam tạng, chỉ có Phương đẳng là bậc nhất.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Là trên hết trong chín mươi sáu loại kinh.

Chánh văn: Vào đại Từ bi.

Ngài La-thập nói:

- Kinh sâu xa có thể làm cho mọi người vào đại Từ bi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh sâu xa được kiến lập, Từ bi được rộng lớn, người nhập vào đó, ắt được đại Từ đại Bi, vì thế kinh Phương Đẳng sâu xa đều nhập đại Từ đại Bi, hợp thành một thể.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thấy rõ pháp lý, ắt có thể chỉ cho những người chưa thông đạt.

Chánh văn: Lìa các việc ma. Ngài La-thập nói:

- Phàm chẳng phải là pháp duyên, thì đều là việc ma.

Chánh văn: Và các tà kiến.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ma tức bốn ma, kiến tức sáu mươi hai kiến.

Chánh văn: Chánh giáo đã hoằng truyền thì các tà liền bặt dứt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tà và ma đều sinh khởi từ hoặc, nếu thể hội được kinh này thì xa lìa được tà ma.

Chánh văn: Thuận pháp nhân duyên.

Ngài La-thập nói:

- Nếu pháp nhất định là có thì chẳng sinh diệt, nếu pháp hoàn toàn không, thì cũng không sinh diệt; không sinh diệt thì trái với nhân duyên. Những pháp thuyết trong kinh sâu xa thì chẳng có chẳng không, vì chẳng có chẳng không nên thuận với nhân duyên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thuyết chẳng trái với lý nhân duyên.

Chánh văn: Không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng; không, vô tướng, vô tác, vô khởi. Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp từ nhân duyên sinh, từ duyên sinh thì không tự tánh, không tự tánh thì không chủ, không chủ thì không ngã, nhân thọ mạng; mà chỉ là không, vô tướng, vô khởi, vô tác, đây là pháp mà kinh sâu xa đã thuận.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đó là pháp nhân duyên.

Chánh văn: Hay khiến chúng sinh ngồi đạo tràng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Khi ngồi nơi đạo tràng thì tư duy mười hai nhân duyên, vì như thế nên thành Phật.

Chánh văn: Mà chuyển pháp luân. Ngài Tăng Triệu nói:

- Là năng lực của kinh sâu xa. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã thành Phật lại có thể khiến cho người ngộ được pháp này. Chánh văn: Chư Thiên, Long, Thần, Càn-thátbà đều khen ngợi. Ngài La-thập nói:

- Vì kinh sâu xa có thể khiến người thành Phật, chuyển pháp luân, thì trời, người được độ, vì thế các Thánh đồng khen ngợi kinh sâu xa này.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đã có năng lực này, nên có được vinh dự này. Ngài Đạo Sinh nói:

- Khen ngợi pháp luân.

Chánh văn: Có thể khiến chúng sinh vào kho tàng Phật pháp. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chưa có việc trái bỏ kinh sâu xa mà vào được kho tàng Phật pháp.

Ngài Đạo Sinh nói: Người thể hội kinh này thì vào tạng pháp Phật.

Chánh văn: "Thâu nhiếp tất cả trí tuệ của các hiền Thánh". Ngài

Tăng Triệu nói: trí tuệ của tất cả hiền Thánh đều không lìa kinh sâu xa....

- Ba thừa đồng lấy lý này để ngộ, nên không đâu chẳng gồm thâu.

Chánh văn: Nói về đạo tu hành của Bồ-tát. Ngài Tăng Triệu nói:

- Đạo sở hành của Bồ-tát thật vô cùng, tám vạn hạnh đều hiển bày trong kinh sâu xa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tuy nói gồm thâu tất cả trí tuệ của Hiền Thánh, nhưng Nhị thừa chẳng thông đạt hết lý này, chỉ là đạo sở hành của Bồ-tát mà thôi.

Chánh văn: Nương vào nghĩa thật tướng của các pháp.

Ngài La-thập nói:

- Kinh nói về thật tướng, nên kinh nương nơi thật tướng. Ngài Đạo Sinh nói:

- Lời nói chẳng lìa tông chỉ.

Chánh văn: Nói về pháp vô thường, khổ không, vô ngã, tịch diệt.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng nương vào thật tướng, mà luận bốn vô thường, thì chẳng phải là giáo bình đẳng. Nếu nương vào thật tướng mới sáng tỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Nương vào nghĩa của chư pháp thật tướng, thì hiển bày tất cả, chẳng phải không vô thường mà không có tướng vô thường.

Chánh văn: Có thể cứu độ tất cả chúng sinh hủy giới cấm.

Ngài La-thập nói:

- Trong pháp Tiểu thừa, đối với những người phạm năm tội nghịch và bốn tội trọng thì bỏ mà chẳng cứu độ, còn trong pháp Đại thừa thì cứu độ tất cả.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thể hội được thì vượt ra ngoài cảnh của tội phá hủy giới cấm.

Chánh văn: Các ma, ngoại đạo và người tham trước đều sợ sệt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Những người hủy bốn trọng cấm và phạm năm tội nghịch, pháp Tiểu thừa chẳng thể cứu độ. Các ma, ngoại đạo, người tham trước tài sắc, pháp Tiểu thừa chẳng thể diệt hết. Cứu được, diệt được chỉ có kinh sâu xa Đại thừa Phương đẳng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Sợ mất những cái đã có.

Chánh văn: Chư Phật và các Hiền Thánh đều khen ngợi.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Chư Phật đồng khen ngợi để quyết định pháp ấy ắt chân thật. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì chỉ có chư Phật và Hiền Thánh biết được đó là pháp vi diệu, nên mới khen ngợi. Chánh văn: Trái với sinh tử khổ Ngài Đạo Sinh nói:

- Thể hội được thì các khổ trừ diệt, đạt đến Nê hoàn.

Chánh văn: Thị hiện Niết-bàn an lạc. Ngài Tăng Triệu nói:

- Sinh tử tuy là khổ, nhưng muốn trái nghịch với nó thật là quá khó; Niết-bàn tuy vui mà đạt được chẳng phải là dễ, nếu chẳng phải là kinh sâu xa này thì cái gì có thể khai mở con đường ấy.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã thông đạt pháp nhân duyên, thì biết dứt khổ là an lạc.

Chánh văn: Chư Phật trong mười phương ba đời đều thuyết. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chư Phật tuy khác nhau, nhưng đạo ấy vẫn là một. Xưa, nay tuy khác mà đạo ấy chẳng biến đổi, đó là nói kinh Đệ nhất nghĩa này vẫn thường nhất, chẳng sai biệt. Khen ngợi kinh sâu xa đến đây là hết.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Mười phương ba đời chư Phật đều đồng.

Chánh văn: Nếu nghe được các kinh như thế. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh sâu xa của Đại thừa có vô lượng bộ số, nên nói các kinh.

Chánh văn: Tin hiểu, thọ trì, đọc tụng dùng sức phương tiện phân biệt, giải nói, chỉ bày rõ ràng cho chúng sinh, giữ gìn chánh pháp, đó gọi là pháp Cúng dường.

Ngài La-thập nói:

- Trên là khen ngợi kinh sâu xa, ở đây lại nói về nghĩa thọ trì giảng nói, thực hành pháp Cúng dường.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Các kinh như thế, hiển bày cùng tận về Pháp thân chư Phật, nếu nghe được mà có thể tin hiểu, hộ trì, giảng nói, phân biệt làm cho pháp lớn tăng trưởng, thì đó gọi là pháp cúng dường, thành tựu Pháp thân.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Vì thọ trì, đọc tụng là nghĩa thủ hộ, nên gọi là pháp Cúng dường.

Chánh văn: Đối với các pháp thì như lời nói mà tu hành

Ngài La-thập nói:

- Đoạn trên nói kính thuận thọ trì kinh này là chân thật cúng dường pháp, ở đây nói như thuyết tu hành là nêu chung sáu độ. Từ đoạn nói mười hai nhân duyên trở xuống, là nói được vô sinh nhẫn, dùng trí tuệ chân thật tùy thuận thật pháp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Đoạn trên nói tin hiểu, hộ trì, giảng nói, chỉ bày, lưu thông là cúng dường pháp, ở đây nói về bên trong tu hạnh tùy thuận là cúng dường pháp. Các pháp tức là sáu Độ nói trong kinh sâu xa.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như kinh nói mà tu hành là điều rất quan trọng, cho nên được nêu riêng.

Chánh văn: Tùy thuận mười hai nhân duyên.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Tâm chẳng trái lý nhân duyên.

Chánh văn: Xa lìa các tà kiến. Ngài Đạo Sinh nói:

- Đã thuận lý nhân duyên, thì xa lìa các tà kiến hữu vô.

Chánh văn: Được Vô sinh nhẫn.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thuận lý nhân duyên, thì đã không còn tà kiến, lại được Vô sinh nhẫn.

Chánh văn: Quyết định không có ngã, không có chúng sinh. Ngài Tăng Triệu nói:

- Chẳng ngộ duyên khởi, nên có mê của tà kiến, có hoặc chấp ngã; nếu có thể như thuyết tu hành thì đạt được minh tuệ, thấy rõ nguồn gốc khởi mười hai nhân duyên, nên có thể xa lìa các tà kiến, đạt được Vô sinh nhẫn, không còn khởi tướng có ngã, chúng sinh, thấy duyên như duyên, đó là tùy thuận, hữu vô rõ ràng đó là quyết định, tất cả là tên gọi khác của dụng.

Chánh văn: Mà đối với nhân duyên quả báo. Ngài Đạo Sinh nói:

- Vô sinh nhẫn đã thấy, thì đạt được quyết định. Tuy không ngã, không chúng sinh, nhưng chẳng phải không có chủ tể thọ báo.

Chánh văn: Không trái nghịch, không tranh cãi.

Ngài La-thập nói:

- Thấy pháp như pháp nên chẳng trái nghịch, chẳng trái nghịch nên không tranh cải.

Chánh văn: Lìa các ngã sở.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Không trái nghịch, không tranh cãi là nghĩa tùy thuận. Thân thọ năm ấm và các nhân duyên, quả báo tùy thuộc của nó đều là ngã sở. Nếu có thể thấy rõ được tánh của nhân duyên, quả báo thì thuận mà không trái nghịch, xa lìa các ngã sở. Trên là quán thẳng vào nhân duyên biết không có người tạo tác, nên lìa ngã kiến, ở đây quán nhân duyên, quả báo biết không có vật tùy thuộc nên lìa kiến chấp ngã sở.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Cũng lìa cả ngã sở.

Chánh văn: Y vào nghĩa chẳng y cứ vào lời.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghĩa cùng tột thì lời nói chẳng thể diễn bày, theo lời thì mất nghĩa rốt ráo. Vả lại, diệu lý thường nhất, còn ngôn ngữ thì vô cùng, mà muốn dùng ngôn ngữ vô cùng để ấn định lý thường nhất, há chẳng phải cũng đã lầm lẫn lắm ư? Vì thế y nghĩa lý chẳng y ngôn ngữ thì chỗ thấy mới sáng tỏ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Chẳng theo lời nói chấp thủ các tướng mà mê mờ nơi lý.

Chánh văn: Y trí chẳng y thức.

Ngài Tăng Triệu nói:

Sáu thức chỉ biết sáu trần mà thôi, chẳng thể phân biệt được đúng sai, phân biệt được đúng sai chỉ có chánh trí mà thôi. Vì thế người tu hành chỉ nên nương vào trí, chẳng nên nương vào thức.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Thức lấy sự chấp trước làm tình, trí lấy sự đạt lý làm dụng, như thế nhất định chẳng theo thức mà trái với trí.

Chánh văn: Y kinh liễu nghĩa, chẳng y kinh không liễu nghĩa. Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh được Đức Phật thuyết, tự đã có nghĩa lý rõ ràng, những kinh rốt ráo rõ ràng dễ biết rõ thì nên nương tựa, cũng có những kinh ứng thời, trá ngôn để hợp đạo, ý Thánh khó lường, mình chưa thể biết rõ được thì chẳng nên y cứ.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Kinh luận bàn về lý tức là kinh liễu nghĩa, kinh chỉ dùng lời hay đẹp mà không hiển lý là kinh chẳng liễu nghĩa.

Chánh văn: Y pháp chẳng y người.

Ngài La-thập nói:

- Đức Phật nói sau khi ta Nê hoàn thì nên nương vào bốn pháp, lấy đó làm thầy, đó là pháp bốn y. Rõ ràng bốn pháp này có thể nương gá, có thể tin nhận. Nương nơi pháp chẳng nương nơi người, trong đó pháp tức kinh giáo, tức nên nương vào kinh pháp, chẳng nên cho người cao quý mà trái pháp nương theo người. Pháp có hai loại:

1. Văn tự ngôn ngữ.

2. Pháp nghĩa.

Trong đó chẳng nên nương vào ngôn ngữ. Nghĩa cũng có hai loại:

1. Nghĩa do thức biết.

2. Nghĩa được trí biết. Thức thì chỉ tìm cầu năm dục hư vọng, chẳng cầu lợi ích chân thật; còn trí thì chuyên cầu lợi ích chân thật, vứt bỏ năm dục, vì thế nên nương vào nghĩa được trí đạt, chẳng nên nương vào nghĩa được thức biết. Vì cầu tìm nghĩa mà trí đạt, cho nên y vào trí. Nhưng nghĩa mà trí đạt cũng có hai loại là kinh liễu nghĩa và kinh chẳng liễu nghĩa, về kinh chẳng liễu nghĩa, như Đức Phật nói giết cha mẹ không có tội, mà chưa phân biệt rõ là thuộc kinh chẳng liễu nghĩa. Nếu nói vô minh là cha, tham ái là mẹ, là gốc của sinh tử, nên gọi là cha mẹ, cần phải đoạn gốc này thì sinh tử mới dứt, nên nói giết cha mẹ không có tội; vì đã phân biệt rõ nên thuộc kinh liễu nghĩa. Lại Đức Phật nói Phật là bậc nhất trong loài người, pháp Niết-bàn là bậc nhất trong các pháp, như thế đều gọi là liễu nghĩa. Vì thế nên y cứ vào kinh liễu nghĩa, chẳng nên y cứ vào kinh chẳng liễu nghĩa.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tuy do người hoằng truyền, nhưng người chưa hẳn đã theo pháp; vì pháp có phép tắc nhất định, còn con người thì vô thường, vì thế người tu hành nên y theo pháp mà chẳng y cứ theo người.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Như người thực hành theo lý thì không lấy phi pháp làm pháp. Nếu người nói có pháp thì dù là hàng hạ tiện cũng chẳng bỏ, nếu nói không có pháp thì tuy là người tôn quý cực cao thì cũng chẳng nên theo.

Chánh văn: Tùy thuận pháp tướng, không chỗ vào, không chỗ trở về

Ngài Tăng Triệu nói:

- Pháp tức pháp nhân duyên nói ở sau. Trên nói tùy thuận nhân duyên, biết pháp vô sinh, nay nói thuận nhân duyên biết pháp vô tận. Pháp từ duyên mà có, từ duyên mà không, có chẳng phải từ vị lai đến, không chẳng phải trở về quá khứ, nên nói không có chỗ vào, không có chỗ trở về.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Lại tùy thuận pháp tướng tức là nghĩa không vào, không trở về.

Không chỗ vào, không trở về vì rốt ráo chẳng phải là thật.

Chánh văn: [Vô minh vĩnh viễn diệt, nên các hành cũng rốt ráo diệt, cho đến sinh rốt ráo diệt, nên lão tử cũng rốt ráo diệt.]

Ngài La-thập nói:

- Đây là như thật pháp trong bốn y. Mười hai nhân duyên ở trên, là nói như thuyết tu hành, tùy thuận nhân duyên nên được Vô sinh nhẫn; nay nói hành bốn y, y cứ theo như thật tướng của mười hai nhân duyên.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Vô minh là căn bản của mười hai nhân duyên, vô minh đã diệt thì các duyên khác cũng diệt. Rốt ráo tức là trước sau thường diệt, chẳng cần diệt nữa, mới thành nghĩa vô tận diệt.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Rốt ráo diệt, tức cuối cùng phải diệt, cuối cùng diệt thì há có sinh ư? Sinh đã chẳng có thì có cái gì là diệt? Thế thì chẳng vào, chẳng trở về.

Chánh văn: Quán như thế thì mười hai nhân duyên không có tướng tận.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Diệt và tận chỉ một nghĩa, đã nói rốt ráo diệt, mà còn nói vô tận, là thế nào? Phàm diệt là sinh nơi chẳng diệt, rốt ráo thường diệt thì tất cả đều diệt, đều diệt thì diệt mà không có chỗ diệt, diệt không có chỗ diệt là nghĩa vô tận.

Chánh văn: Không còn khởi kiến. Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên là quán nhân duyên vô sinh, lìa các kiến chấp thường, ngã; ở đây nói quán nhân duyên vô tận, lìa các kiến chấp đoạn diệt...

Chánh văn: Đó là pháp cúng dường tối thượng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nếu có thể tùy thuận thực hành kinh sâu xa, thấy rõ được duyên khởi, đầy đủ bốn y, xa lìa các kiến thì đó là pháp cúng dường tối thượng. Trên nói thẳng về tụng trì, đây là bên trong thực hành tùy thuận, cho nó là tối thượng.

Ngài Đạo Sinh nói:

- Phúng tụng giảng thuyết đã hơn việc cúng dường y phục thức ăn, còn ở đây thì trên cả việc phúng tụng...

Chánh văn: Đức Phật bảo Thiên đế rằng: "Vương tử

Nguyệt Cái theo Đức Dược Vương nghe pháp này thì đạt được nhu thuận nhẫn." Ngài La-thập nói:

- Nhu tức là nhuyến độn, là nhún chậm chạp, nghĩa là chưa thể thâm nhập pháp thật tướng, trí nhu hòa, tín nhu hòa tùy thuận chẳng trái nghịch, nên gọi là Nhu thuận nhẫn.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Tâm nhu trí thuận, kham thọ lãnh thật tướng, nhưng chưa đến vô sinh nên gọi là Nhu thuận nhẫn.

Chánh văn: Liền cởi y báu và các vật trang sức cúng dường Đức Phật, bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, con thực hành pháp cúng dường để giữ gìn chánh pháp, nguyện nhờ oai thần của Như Lai xót thương gia hộ và kiến lập, khiến cho con hàng phục được ma oán, tu hạnh Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Bốn ma hợp thành ba oán là phiền não, thiên ma và ngoại đạo. Sau khi Như Lai diệt độ, đạo lực của Nguyệt Cái chưa đủ, nếu chẳng có oai thần gia hộ thì bị ma phá hoại, chẳng thể hàng phục, cho nên thỉnh cầu oai thần gia bị.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Nghe pháp cúng dường, vui thích muốn thực hành, nhưng kinh đạo sâu xa, chỉ sức mình thì chẳng thể hoằng truyền, nên nguyện xin oai thần gia bị.

Chánh văn: Đức Phật biết sự suy nghĩ trong thâm tâm của ông ấy mà thọ ký rằng.

Ngài La-thập nói:

- Muốn khiến người đời sau tin phục, nên thọ ký cho Nguyệt Cái giữ gìn kho tàng chánh pháp.

Chánh văn: "Về đời sau ông sẽ giữ thành trì chánh pháp." Bấy giờ, Vương tử Nguyệt Cái thấy được pháp thanh tịnh, nghe Đức Phật thọ ký, liền khởi lòng tin xuất gia.

Ngài La-thập nói:

- Nếu là tục uế thì tự trói buộc trái với pháp thanh tịnh, biết chẳng thể ở nơi uế mà hoằng đạo, cho nên xuất gia, tu tập pháp thanh tịnh để hoằng pháp thanh tịnh.

Chánh văn: Tu tập pháp thiện, tinh tấn không bao lâu chứng được năm thông, đầy đủ đạo Bồ-tát.

Ngài La-thập nói:

- Đây là nói về vô ngại, như trong phần thông đạt Phật đạo đã nói.

Chánh văn: Được Đà-la-ni.

Ngài La-thập nói:

- Đây là văn trì.

Chánh văn: Biện tài chẳng đoạn dứt Ngài La-thập nói:

- Biện tài vô tận, tùy thuận thời gian tuyên thuyết lâu mau mà chẳng đoạn dứt nửa chừng.

Chánh văn: Sau khi Đức Phật diệt độ, ông dùng sức Thần thông, Tổng trì, Biện tài đã chứng đắc.

Ngài La-thập nói:

- Vì có sức thần thông, cho nên hiện tiền có thể biết khắp các tâm, nhờ sức văn trì nên chẳng quên điều đã nghe, nhờ sức biện tài nên hay bình đẳng vì người mà thuyết pháp. Có ba sức này, nên hay tuyên truyền lưu cùng khắp pháp tạng mà Như Lai đã để lại.

Chánh văn: Tùy thuận pháp luân mà Đức Như Lai Dược Vương đã chuyển, phân bố trong mười tiểu kiếp.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Phân bố pháp luân tức hoằng truyền pháp cúng dường.

Chánh văn: Tỳ-kheo Nguyệt Cái giữ gìn chánh pháp, tinh tấn tu tập, ngay ở đời đó đã hóa độ được trăm vạn ức người đạt Vô thượng Bồ-đề, không còn thoái chuyển; mười bốn na-do-tha người phát tâm Thanh văn, Bíchchi-Phật, vô lượng chúng sinh được sinh về cõi Trời. Này Thiên đế! Vua Bảo Cái lúc ấy đâu phải là người nào khác, mà chính là Phật Bảo Diệm, một ngàn người con là một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp, mà Đức Phật Ca-la Cưu-tôn-đà là vị thứ nhất, vị sau cùng là Lâu-chí. Còn Tỳ-kheo Nguyệt Cái chính là ta. Như thế, này Thiên đế! Nên biết điều quan trọng này: "Pháp cúng dường là tối thắng nhất trong các loại cúng dường, không gì so sánh được."

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ta thành Chánh giác do thực hành pháp cúng dường, do đó có thể biết pháp cúng dường là hơn hết.

Chánh văn: Vì thế, này Thiên đế! Nên dùng pháp cúng dường mà cung kính chư Phật.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Thực hành pháp cúng dường là cung kính Phật.

-----------------------------------

Phẩm 14: CHÚC LỤY

Chánh văn: Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc rằng: "Này Di-lặc! Nay Ta phó chúc cho ông pháp Vô thượng Bồ-đề đã được chứa nhóm từ vô lượng ức a-tăngkỳ kiếp đến nay.

Ngài La-thập nói: Kinh này là nhân của bồ đề, sở dĩ không phó chúc cho ngài A-nan là vì ngài A-nan không có thần lực, không thể hoằng truyền, còn ông Duy-ma không phải là bậc Đại sĩ ở cõi này nên cũng chẳng trao phó; ngài Văn-thù thì luôn du phương không có trụ xứ nhất định nên cũng không phó chúc. Phó chúc cho ngài Di-lặc là vì ngài sẽ thành Phật ở cõi này. Đức Phật dùng thần lực tuyên bố, là muốn thành tựu công đức cho ngài Di-lặc.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Kinh Bất Tư Nghị tức là đạo Vô thượng Bồ-đề của Phật, đạo ấy sâu xa, khó có thể trong chốc lát mà thành tựu, như ta đã từ vô lượng kiếp chẳng tiếc thân mạng, bố thí thịt xương chất cao hơn núi Tu-di, máu nhiều hơn sông biển, cần khổ tích tụ đến nay mới thành tựu, thương xót loài quần sinh mãi si mê chìm đắm, cho nên mới ban cho kinh văn. Nhưng quần sinh đức mỏng, ma sự quá nhiều, đạo ta lại quá khó, nếu chẳng do ông, hẳn chẳng thể hoằng truyền kế thừa chánh pháp, vì thế phó chúc cho ông.

Chánh văn: Những kinh thế này sau khi Phật diệt độ, vào thời mạt pháp, các ông phải dùng thần lực diễn nói lưu thông cùng khắp.

Ngài La-thập nói:

- Vận dụng thần lực thì có thể trừ dẹp ma oán, diễn nói cùng khắp mà không ngăn ngại.

Chánh văn: Cõi Diêm-phù-đề, chớ để cho đoạn dứt. Ngài Tăng Triệu nói:

- Thành cao thì phải bảo vệ, đạo quý thì ma hưng khởi, nếu chẳng có thần lực thì không biết lấy gì để chế phục, nên khuyên dùng thần lực.

Chánh văn: Vì sao? Vì ở đời vị lai sẽ có những thiện nam, thiện nữ và trời, rồng, quỉ thần, càn-thát-bà, la-sát... phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thích Đại pháp, nếu chẳng được nghe các kinh như thế ắt mất lợi ích lớn.

Ngài La-thập nói:

- Nếu chẳng nghe được kinh này hoặc là đọa vào Nhị thừa thì mất lợi ích lớn Đại thừa.

Chánh văn: Các người như thế, nghe kinh này ắt sinh tin thích, phát tâm hy hữu, sẽ đảnh lễ vâng thọ, rồi tùy thuận những điều lợi lạc mà chúng sinh cần có để rộng tuyên thuyết.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Việc lưu thông hay ngăn ngại, lợi ích hay tổn hại của pháp như thế, cho nên khuyên ngài Di-lặc vâng thọ, diễn nói.

Chánh văn: Này Di-lặc nên biết! Bồ-tát có hai tướng. Ngài La-thập nói:

- Nếu người thích những câu văn hay đẹp, thì trao cho văn từ ngôn cú, nếu người thích kinh sâu xa thì chỉ dạy yếu nghĩa. Cần nên biết tướng ấy, cho nên phải luận đến hai tướng.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Hành sâu hay cạn, mỗi mỗi đều có tướng riêng biệt, được mất đều trình bày để khuyên bảo hộ trì chánh pháp. Chánh văn: Thế nào là hai?

1. Thích câu văn hay đẹp, bóng bẩy. Ngài Tăng Triệu nói:

- Văn là gì? Đó là phương tiện để hiển bày diệu chỉ, mà người mới học trí còn nông cạn, chưa thể được ý quên lời, bỏ gốc tìm ngọn nên chỉ thích câu văn hay đẹp bóng bẩy.

Chánh văn: 2. Chẳng sợ nghĩa sâu xa, thâm nhập như thật. Ngài Tăng Triệu nói:

- Yếu chỉ thì sâu xa, lời diệu thì trái tục, nếu chẳng phải là bậc có trí dũng thì ai có thể vào được?

Chánh văn: Nếu thích câu văn bóng bẩy trau chuốt, thì biết đó là hàng Bồ-tát mới học. Nếu đối với các kinh điển sâu xa không nhiễm, không chấp trước kia mà chẳng sợ sệt, thâm nhập được vào đó, nghe rồi tâm thanh tịnh thọ trì, giảng nói, như lời nói tu hành, thì biết đó là bậc tu hành đã lâu.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Sự sâu xa của kinh không nhiễm không trước, nếu chẳng phải là bậc tu hành đã lâu thì ai có thể không sợ sệt?

Chánh văn: Này Di-lặc! Lại có hai pháp gọi là Bồtát mới học.

Ngài La-thập nói:

- Muốn khiến cho người tin nhận kinh điển sâu xa, đề phòng lỗi của hàng mới học, nên nói rộng về lỗi của hàng mới học.

Chánh văn: Chẳng thể quyết định đối với pháp sâu xa. Thế nào là hai pháp?

1. Những kinh điển sâu xa chưa được nghe, khi nghe thì sợ sệt, sinh tâm nghi ngờ.

Ngài La-thập nói:

- Mới nghe thì sợ, suy nghĩ thì nghi ngờ, nghi ngờ thì sinh hủy báng.

Chánh văn: Chẳng thể tùy thuận, hủy báng chẳng tin mà lại nói rằng: "Từ trước đến nay ta chưa từng nghe kinh này! Nay kinh này từ đâu có?" Nếu có người hộ trì giảng nói các kinh sâu xa như thế thì không chịu thân cận cúng dường cung kính, hoặc có lúc lại nêu lỗi của người ấy.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Một là, hủy báng pháp; hai là, hủy báng người.

Chánh văn: [Nếu có hai pháp này, nên biết Bồ-tát mới học sẽ tự làm tổn hại mình mà chẳng thể ở nơi pháp sâu xa mà điều phục tâm. Này Di-lặc! Lại có hai pháp làm cho Bồ-tát dầu tin hiểu pháp sâu xa, nhưng vẫn còn bị thương tổn, chẳng thể chứng Vô sinh pháp nhẫn.] Ngài Tăng Triệu nói:

- Trên tuy đã nghe được kinh sâu xa, mà chẳng thể tin hiểu, nay tuy đã tin hiểu mà chẳng thể hành trì. Lần lượt nói rõ các lỗi để răn dạy hàng hậu học.

Chánh văn: Hai pháp là gì?

1. Khinh các Bồ-tát mới học mà chẳng chịu dạy dỗ. Ngài La-thập nói:

- Tự cho mình đã hiểu kinh sâu xa nên sinh tâm ngã mạn. Ngài Tăng Triệu nói:

- Tuy hiểu được nghĩa sâu xa, nhưng vì chưa dụng tâm được, nên tôn mình mà khinh người, chẳng thể chỉ dạy làm lợi ích, đây là chướng ngại bên ngoài của người học.

Chánh văn:

2. Tuy hiểu pháp sâu xa, mà còn chấp tướng phân biệt.

Ngài La-thập nói:

- Tuy chẳng sinh ngã mạn, mà còn phiền não chấp tướng. Ngài Tăng Triệu nói:

- Nhân nơi tin hiểu mà sinh chấp tướng, phân biệt. Tuy nói là hiểu mà thật chưa họp chân giải ngộ. Đây là chướng ngại bên trong của người học.

Chánh văn: Bồ-tát Di-lặc nghe nói như thế xong, bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Thật chưa từng có! Như lời Thế Tôn nói.

Ngài La-thập nói:

- Khen ngợi lời kinh và sự luận biện về tướng sai biệt của Bồ-tát mà Đức Phật đã nói ở trên.

Chánh văn: Con nên xa lìa các lỗi như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Bậc Đại sĩ Nhất sinh bổ xứ há có lỗi ấy sao, mà nghe rồi nói là trừ bỏ? Sở dĩ phát ra lời này là vì những người chưa xả bỏ được lỗi ấy. Chánh văn: Nguyện xin kính giữ pháp Vô thượng Bồ-đề mà Như

Lai đã gom tập từ vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đến nay. Nếu ở vị lai có thiện nam, tín nữ nào cầu Đại thừa, thì con sẽ làm cho tay người ấy cầm được kinh này và ban cho họ sức ghi nhớ.

Ngài La-thập nói:

- Dùng sức thần thông gia bị khiến cho họ được sức ghi nhớ chẳng quên.

Hỏi: Khi xưa ma thường xuất thế gian phá hoại não loạn người học, nay vì nhân duyên gì mà ma chẳng đến? Đáp: Đó là nhờ ân của Ưu-ba-quật. Khi Đức Phật còn tại thế có một ngoại đạo Tát-giá Ni-kiền Tử rất thông minh lanh lợi, giỏi luận nghị, tâm rất cống cao khinh mạn. Ngoại đạo biết pháp của Phật cao sâu vi diệu, ý muốn xuất gia nên mới hỏi Đức Phật rằng: "Nếu tôi xuất gia thì có được trí đức, thanh danh như Phật chăng?" Đức Phật đáp: "Không được!" Ngoại đạo lại hỏi: "Được như ngài Xá-lợi-phất chăng?" Đức Phật đáp: "Không được!" Như thế cứ lần lượt hỏi so sánh với năm trăm đệ tử, cho đến hỏi: "Có được như La-hầu-la chăng?" Đức Phật đều đáp chẳng được. Bấy giờ, Ni-kiền tử nói: Tôi xuất gia chẳng được như Phật, chẳng bằng các đệ tử thì cần gì phải xuất gia! Lại tiếp rằng: "Sau này có được như thế chăng?" Đức Phật đáp: "Đến đời sau khi không còn các bậc Đại nhân, thì ngươi mới chứng đắc." Ni-kiền tử mệnh chung; sau khi Đức Phật Niết-bàn một trăm năm, thời vua A-dục thì vị này tái sinh, xuất gia tu đạo chứng quả A-la-hán, có thanh danh lớn; giáo hóa người trong nước đắc quả A-la-hán, trừ những gia đình độ vợ chẳng độ chồng, độ chồng chẳng độ vợ không tính, còn những gia đình vợ chồng đều đắc quả A-la-hán, nếu dùng thẻ mà tính thì thẻ xếp đầy một ngôi nhà, sau khi nhập Niếtbàn dùng thẻ này để đốt thân cũng đủ, không còn cần những vật khác. Khi chưa Niết-bàn vị A-la-hán này thường tọa thiền trong rừng vắng, một hôm thấy một con chó đói khát, gầy yếu sắp chết, ngài thường bớt phần ăn của mình mà cho chó, các Tỳ-kheo mỗi mỗi cũng bớt phần của mình để cho. Chó ăn quá no trướng bụng sắp chết. Bấy giờ, các Tỳ-kheo ngồi trên võng vòng quanh con chó kia trông nom, tụng kinh, thuyết pháp cho nghe, chó phát tâm thiện, nhìn các vị Tỳ-kheo, nghe pháp âm rồi mạng chung sinh về cõi Trời thứ sáu, có oai đức lớn, cùng ngồi với ma vương. Bấy giờ, thân chó đã thối rữa. Ma vương suy nghĩ rằng, vì nguyên do gì mà có vị đại nhân này cùng ngồi với ta? Nghĩ thế liền quán xét bản duyên biết được là chó, vô cùng tức giận nói rằng: "Đây là Tỳ-kheo Ưu-ba-quật khiến con chó thối này cùng ngồi với ta, nên tìm phương kế để hủy nhục." Bấy giờ, Tỳ-kheo Ưu-ba-quật đang tọa thiền nhập định diệt hết trong rừng, ma dùng tràng hoa trang nghiêm cõi Trời mà kết nơi trán của Tỳ-kheo Ưu-ba-quật rồi nói lớn để bốn chúng cùng thấy: "Vị Tỳ-kheo này đã ở nơi vắng lặng mà còn trang sức thế kia, sao gọi là người có giới đức thanh tịnh được." Trong chốc lát Ưu-ba-quật xuất định, biết trên đầu có tràng hoa, biết do ma làm, nên nói rằng: "Ngươi là ma vương", Ngài liền biến thây chó chết thành một tràng hoa rất đẹp rồi nói với ma vương rằng: "Ngươi cúng cho ta một tràng hoa, ta cũng dùng một tràng hoa đáp trả, ngươi có thể mang nó", nói xong dùng thần lực treo tràng hoa vào cổ ma vương, treo xong thì tràng hoa trở thành thây chó chết, trương sình rữa nát vô cùng hôi thối. Ma dùng hết thần lực mà chẳng thể nào lấy ra được, bèn đến cầu Đế Thích, Đế Thích chẳng nhận, lại trở về sáu tầng trời cõi Dục đến cầu các Phạm thiên, tất cả đều chẳng nhận giúp, chẳng thể nào mở cho ông ta được và bảo hãy về cầu vị Tỳ-kheo ấy. Ma liền đến trụ xứ của Ưu-ba-quật khẩn cầu mở tràng hoa hôi thối. Ưu-ba-quật nói rằng: "Ngươi hãy thệ từ nay về sau cho đến khi pháp diệt hết, không còn xuống nhân gian não loạn người tu hành nữa." Vả lại, ta tuy đã thấy pháp thân Phật, nhưng chưa thấy được sắc thân, bây giờ ngươi hãy vì ta biến thành thân Phật. Nếu được như thế, ta sẽ mở tràng hoa hôi thối ấy cho ngươi! Ma liền phát lời thệ như thế, rồi nói tiếp rằng: "Khi tôi biến thành thân Phật, thì ngài chớ nên lễ kính tôi!" Liền khi ấy, ma vào trong rừng lớn biến thành thân Phật đầy đủ tướng quý và vẻ đẹp, hào quang phóng rực rỡ, có các đệ tử như ngài Xá-lợi-phất vây quanh, từ trong rừng đi đến. Ưu-ba-quật khen ngợi, vui mừng không xiết kể, quên mất lời hứa, nên liền đảnh lễ. Ma vội nói: "Sao lại trái lời hứa mà kính lễ tôi." Ưu-baquật nói: "Ta khởi tưởng Phật mà kính lễ." Lúc ấy tự nhiên tràng hoa hôi thối kia tự mất. Ma liền nói: "Phật chân đại Từ, đại Bi, tôi não hại Phật rất nhiều mà Phật chẳng báo trả, mà nay Tỳ-kheo lại báo trả quá nặng như thế! Tỳ-kheo Ưu-ba-quật nói rằng: "Đức Phật đại Từ, đại

Bi hay dung thứ, khoan hòa nhẫn nhịn được, còn ta là hàng Tiểu thừa không làm được như thế. Nhân duyên ma chẳng đến thế gian nói tóm tắt như thế!

Ngài Tăng Triệu nói:

- Ngầm khai phát tâm của chúng sinh để tăng trưởng niệm thiện cho họ.

Chánh văn: Khiến họ thọ trì, đọc tụng, diễn nói cho người khác nghe. Bạch Thế Tôn! Nếu đời sau có người thọ trì đọc tụng kinh này, rồi nói cho người khác nghe, nên biết đó chính là nhờ thần lực của Di-lặc kiến lập.

Ngài Tăng Triệu nói:

- Định công lao của mình ở vị lai, để trừ dẹp sự dò xét của các ma.

Chánh văn: Đức Phật nói: "Thật quý thay! Thật quý thay! Này Di-lặc, như lời ông nói, Ta sẽ hỗ trợ cho niềm vui của ông." Bấy giờ, các Bồ-tát chắp tay bạch Đức Phật rằng: "Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con sẽ truyền bá đạo Vô thượng Bồ-đề khắp các cõi nước ở mười phương và chỉ bày cho những người thuyết pháp được kinh này." Bấy giờ, trời Tứ Thiên vương thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! Tại tất cả cõi như thành, ấp, thôn xóm, núi rừng, đồng vắng... nếu có quyển kinh này, có người đọc tụng, giảng nói thì con sẽ dẫn quyến thuộc đến đó nghe pháp, và bảo vệ người đó, khiến trong vòng một trăm do-tuần không để ai làm hại được." Bấy giờ, Đức Phật bảo A-nan rằng: "Ông hãy thọ trì kinh này, truyền cho đời sau." A-nan thưa rằng: "Dạ, con thọ trì rồi. Bạch Thế Tôn! Kinh này tên là gì?" Đức Phật đáp: "Kinh này tên là Duy-ma-cật Sở Thuyết, cũng gọi là Bất Khả Tư Nghị Giải Thoát Pháp Môn, ông nên ghi nhớ." Khi Đức Phật thuyết kinh này xong, trưởng giả Duy-ma-cật, Vănthù-sư-lợi, Xá-lợi-phất, A-nan... và các hàng trời, người, a-tu-la, toàn thể đại chúng đều vui mừng cung kính tin nhận vâng theo.

--------------------------------

LỜI TỰA SAU KHI KHẮC LẠI BẢN KINH DUY MA

Đầu đông năm Nhâm ngọ, tôi từ Hữu bộ _trực lại quán chuyển vận sứ ở giang Nam nhận chiếu về lại gia tộc, theo thuyền thuận dòng mà xuôi. Bấy giờ là ngày mồng 9 tháng 10, dừng thuyền nơi bờ Hồ khẩu, trời gần tối, có một người khoảng năm mươi tuổi y phục và dáng vẻ như người đánh cá, đứng trên bờ vái mà thưa rằng: Tôi nhiều đời sống nơi sông nước (phương Nam sống nơi thuyền bè gọi là sống nơi sông nước) biết nước phong thủy, biết luồng nước từ hang núi ra, nay xin báo rằng: Ngày 14 sẽ có gió lớn. Tôi bèn ghi vào sách. Mấy ngày sau lại mộng thấy một người áo đen, lộ nửa người khỏi nước, tự nói là sẽ tha cho nạn sông nước và cần mười quyển kinh Duy-ma-cật. Tỉnh dậy cảm thấy lạ lùng. Ngày 14 quả nhiên gặp cuồng phong nơi nhánh sông Địch, thuyền bốn lần muốn lật chìm, cuối cùng là được yên ổn quả như những sự thấy nghe trước đó. Cả nhà thoát khỏi rơi vào bụng cá đều cảm thấy may mắn. Khi đến kinh sư, tôi tìm cầu mười quyển kinh Duy-ma-cật khắp nơi mà chẳng có. Mấy tháng sau, nơi nhà người thân, tôi trông thấy một hòm kinh, mở ra thì thấy đó là một bộ kinh Duy-ma mười quyển. Đẹp đẽ thay sức công đức và sự thủ hộ của cung rồng đối với hải tạng thù thắng lời vàng kệ ngọc này. Thật sáng tỏ thay, sáng tỏ thay bộ kinh, vậy mà hàng ngu tối chẳng thể khởi tin thì thật đáng thương xót! Nhân đó tôi cho thợ khắc lại với chí nguyện truyền bá rộng khắp. Để nêu bày sự linh dị mà ghi lại ngày tháng. Làng Đạo đức, 15 tháng 8. Thuần hóa thứ 4 đời Tống Công thần khai quốc Trương Tề Hiền thuật.

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Kinh Sớ][Mục lục tổng quát]