TẠNG LUẬN
SỐ 1779 - DUY-MA KINH LƯỢC SỚ THÙY DỤ KÝ
Hán dịch: Tiền Đường, Sa-môn Thích Trí Viên thuật.
Nói dụng của ăn. Ngài Kinh Khê nói: “Dùng một bữa ăn mà thí cho tất cả..., nghĩa tuy nhân chung, đây căn cứ quả nhân thường dùng cơm là để chê trách ngài Ca-diếp. Vì không có công năng này nên dẫn thắng tích để làm lệ thành thực. Nếu luận ý ấy thì tuy ở quả, mà dụng quả là do nhân. Nghiệm thì biết. Việc làm trước của ngài Ca-diếp cũng thiên lệch, nhân quả đều lỗi. Thế nên bị chê trách. Nương vào bất tư nghì đến song du hai đế là do được trung. Cho nên công năng cũ song chiếu thế và xuất thế. Thế tức là dùng thức ăn chốn nhân gian uế độ mà bố thí. Xuất thế tức chỉ các trần ngoại giới như lệ theo Hương tích, tức là trung đạo.
Tiếp giải thích lại, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Giải thích thể của ăn, a, Căn cứ lý. b, Căn cứ sự.
Hỏi: Trước nêu thể của ăn trước sự sau lý. Ngài Kinh Khê nói: Trong phần giải thích thể trước có hai: a, Sự. b, Lý. Nay nói tức sớ văn trước căn cứ sự lý tà chánh mà giải thích. Đối kinh văn nay trước là lý sau sự mà lập. Giải thích chung sự lý. Giải thích về dụng của ăn. Bồ-tát tạo nhân thực vô thượng. Ngài Kinh Khê nói: Người Viên môn phát tâm, quán ăn hoặc nhận hoặc thí. Pháp giới bình đẳng mới kham làm nhân ăn tất cả, nên nói vô thượng. Đây mới chánh đáng lấy Viên trách Tiểu mà chê trách Ca-diếp. Cho nên phàm nhân thí hay nhận được lợi ích lớn thì kia đây đều tổn ích.
Nghĩa là đến nhà nghèo thì kia đây đều lợi ích, còn đến nhà giàu thì kia đây đều tổn. Tâm kia đã khinh thì đây lại bỏ nghiệp, cho nên đều tổn. Không bị tổn lại tổn, ngài Kinh Khê nói: “Quẻ tổn trong Kinh Dịch nói tổn rồi lại tổn. Cho đến không tổn. Nay dẫn ý là không chấp thì không tổn, chỉ tạm mượn tiếng lại tổn mà nói. Tổn về phiền não thì được hữu dư. Lại tổn sinh tử thì nhập vô dư. Bồ-tát không thế. Cho nên không làm lệ.
Tiếp kết khuyển. Bất liễu nghĩa..., ngài Kinh Khê nói: Chuẩn theo ý này, nếu lấy một đời năm thời so nhau thì chỉ có kinh Pháp Hoa được tên là liễu. Cho nên Thanh văn được là tiệm. Nếu đương bộ mà luận các người Đại thừa thì đều có liễu phần nhưng có gồm đới. Kính chào, ngài Kinh Khê nói: Kinh nói đây có danh gia. Tư là đây, là nói người tại gia. Kinh nói ta từ đó đến... là thẹn tiểu vậy. Cho nên biết, lúc ấy tuy mến mà không thể nhận lấy. Lúc ấy tuy thẹn mà không thể bỏ. Cho nên chỉ ngầm giúp mà không thể hiển ích. Dùng thẳng chê trách thì cũng được tên hiển. So ý chê trách nên gọi là mật. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Sai Tu-bồ-đề:
Có hai: a, Phân khoa nêu ý. b, “Từ tu...” là tùy văn giải nghĩa, Sai thăm bệnh. Thấy Không mà được đạo, ngài Kinh Khê nói: “Tức là môn Không giải thoát vì nương vào Không môn mà được giải thoát. b, Chối từ không kham, Phân khoa. Tùy giải thích, Chánh từ chối không kham. Nêu lý do không kham: Không dám liếc nhìn cửa nhà ấy. Khuy là liếc nhìn qua. Trong văn viết là nhìn (thị) là lầm. Ngài Kinh Khê nói: “Không dám liếc nhìn qua cửa ấy. Song mười đức có năm trăm lẻ bốn, lớn nhất có đến tám ngàn há đều không tới nhà ông ấy ư? Đây là muốn hiển bày việc ngài Thiện Cát trì Không nên bảo là rất thương tâm mà nói. Kẻ còn hữu... đây là thuật việc ngài Thiện Cát để nói tất cả người Tiểu thừa và các Bồ-tát đều làm những kẻ còn hữu thì ắt không đến gần cửa nhà ông ấy. Ta đã giải Không, tới thẳng nhà ông ấy nào có sợ gì.
Tiếp nói việc không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Giữ lấy bát đầy cơm. Ngài Kinh Khê nói: Nếu biểu thị lý, thì giả biểu thị cho số đông. Vả lại nêu một dấu vết để trách chung. Dùng cơm diệu hữu mà điểm bát không, lại khiến biết không tức chẳng Không. Nếu thế thì lúc đó cần ở chẳng Không lại được chẳng Không ư?
Đáp: Đây tức là tìm cầu, đây tức là có được. Vì sao? Vì tâm tướng thể tín mà nhập xuất không khó khăn. Nhân nghe đại giáo tức ở đương cơ cũng gọi ngầm cầu, cũng gọi ngầm được. Song việc ngầm lợi ích thì biểu thị còn chuộng không, thế nên ở nhà thì tâm vẫn trụ ở tiểu. Chánh kể việc chê trách, có hai: a”, Phân khoa nêu trước, và phân khoa định giáo. “Sở dĩ...” là nêu trước ý nghĩa: Phục đồng ma ngoại. Thỏa là phục. Ngài Kinh Khê nói:
Song ngài Thiện Cát và Ca-diếp nhân khất thực mà không xứng hợp thượng điền, căn cứ ở người bị chê trách có hai biên, thì mỗi người một khác và đều có chỗ quy về. Nhưng ngài Ca-diếp thì theo nghèo nên tâm có thấp kém. Còn ngài Thiện Cát tự ỷ mình giải không hơn người khác, huống lại chính mình đến nhà ông ấy dáng vẻ khinh khỉnh không chịu giữ ý để tùy nghi dùng bi kính hai thứ mà thu phục. Việc của hai vị này tuy khác nhưng ở lý thì rất đồng. Vì sao, vì nếu kham được kính điền thì mới có thể lấy ăn. Đây đồng với tâm đạo diệt của ngài Ca-diếp, không tự bảo là chân điền mà sinh hiểu lầm. Tâm ngài đã lánh vào xóm đông ắt không phải cốt ở ăn... đồng với ngài Ca-diếp ở chỗ không pháp chánh thực, nên bị chê trách đồng bi điền. Cũng là chê trách ngài chỉ có khổ tập. Bồ-tát thường hiện thân ở năm đạo nghe đồng với bi điền tình còn chưa thỏa mãn. Như cùng đồng dòng với bọn ngoại đạo thiên ma mà muốn tự cho mình là bậc khất sĩ vô thượng. Khất sĩ cần là phước điền cho chúng sinh. Việc ấy không trọn thì phước điền ở đâu? Vốn “không” hiểu bi kính thì lý tánh bình đẳng, nên nghe lời chê trách này thì để bát mà hoang mang. Lại giống Ca-diếp bị chê trách mà tự thẹn, cả hai người việc lấy bỏ có lỗi giống nhau, nên cả hai đều bị chê trách về bốn đế. Do đó cùng Ca-diếp ý chỉ tóm tắt đồng nhau. Ngoài khất thực ra tùy việc có khác. “ Trước hỏi...” là tùy văn giải nghĩa, Trước căn cứ kính điền mà hỏi, Hỏi biết Thánh pháp chăng; gồm nêu chung phân chương, ngài Kinh Khê nói: Vì pháp có thể thành người, tức nếu hiểu pháp đâu cần phải hỏi người. Sau lại hỏi người là do mê muội pháp, y chương giải nghĩa, căn cứ sự. Ngài Kinh Khê nói: Trong sự lại nói đối với pháp bình đẳng thì đối với ăn cũng bình đẳng. Trong sự mà ăn thì có nhà nghèo nhà giàu và thức ăn. Pháp trong sự thì đối với nhà với ăn đều có tâm bi trí. Cả ăn và pháp hỗ tương nhau, mất một đều hỏng. Cho nên biết. Đối với ăn mà khởi bình đẳng, tức đối với ăn phải có tâm bất nhị. Nghiệm thì biết. Ngài Thiện Cát hai thứ đều thiếu, thì làm sao thành được hạnh tịnh độ. Đối với ăn đã thế, đối các pháp cũng vậy. “Lại nữa...” là lại căn cứ hai môn. Căn cứ ăn đối với pháp mà chê trách sự thiên lệch, cho nên ở pháp và ăn có sự bất bình đẳng. Cho nên biết ngài Thiện Cát đối với khất thực có lỗi. Bồ-tát không thế, là bày đại mà chê Không và Có. Không và Có đều là một pháp giới, cho nên đều có thể phá và không thể phá. Không thể phá là lập tất cả pháp, đều có thể phá là phá tất cả pháp. Khắp phá khắp lập đâu được xem đó là đồng với Thiện Cát ư? Ngài Thiện Cát lệch lấy Không mà phá tất cả. Phá tức là không phải khắp mà chỉ lập ở không. Lập cũng chẳng khắp vì có năng có sở có đối đãi. Cho nên khất thực đã hỏng, tự tha không thành. Nay người Đại thừa lấy Không và Có làm lời đầu mối mà phá lập khắp tất cả pháp. Từ “nếu hay cho...” đối với ăn không tranh cãi) là phá ngài Thiện Cát Không chẳng thành Không. Nay phá vô tránh ngược lại là hữu tránh. Giàu nghèo đã quá khác thì tránh đâu thoát khỏi việc này, vì chẳng thể như Bồ-tát. Nếu là bậc Khất sĩ chí chân trái với Thiện Cát tức phải giống như điều ngài Tịnh Danh nói. Căn cứ lý, ngài Kinh Khê nói: Dựa vào hạnh lập quán, vẫn gọi là sự. Nay đây chỉ luận về khất thực pháp giới. Văn có hai: a, Dẫn văn chánh bày. Đại phẩm... không phải thú, đối ba đế có thể hiểu. b, “Lại các...” là khắp trải các khoa, vừa căn cứ vị để nói lý. Đối năm ấm chỉ là sắc ấm, ở mười hai nhập chỉ ở vị nhập, ở mười tám giới cũng chỉ ở vị giới, cho nên được khắp trải ba khoa. Đến chủng trí thì một tâm khắp thâu đều tức ba đế, ngoài tâm không cảnh, chỉ luận giàu nghèo. Sát-na ba tướng là sinh, trụ, diệt, dị đồng ở diệt nên chỉ nói là ba. Ngài Kinh Khê nói: Nay mượn ba tướng mà dụ cho ba đế đồng thời. Ba đế bèn gọi pháp lý bình đẳng. “ Lại đối...” là căn cứ làm kính điền. Thường như thế mà biết, là biết Thánh pháp. Biết chỉ là chiếu, Thánh pháp tức ba đế. Lấy một tâm ba quán mà chiếu một tâm ba đế. Cho nên biết Thánh pháp thì có các biết về giả danh quán hành, tương tợ phần chân... đều là kính điền. “Đã không...” là đã mê tự tánh, đây thật đáng thương xót tức là bi điền. Từ “đây...” phần nhiều là quán tâm, là một nhà chương sớ lập giải về quán tâm gồm có hai ý:
1. Người chưa tu quán không có lỗi đối văn trệ sự, thì biết là ý nương giải mà khởi hạnh.
2. Người đã tu quán, là tùy nghe một câu, nhiếp sự thành lý, không quên tập xưa.
Nay tuy nêu văn phần nhiều ước quán đế thì ngăn trệ đóng kín há sinh, lại thuận theo tập xưa đâu đợi làm quán tâm mà giải thích ư? Nên biết người mới học tìm đọc chỉ biết sơ lược ý chỉ; muốn tu tập thì phải nương chỉ quán mười cảnh mười thừa mới có chỗ đến. Nếu cố chấp các văn thì việc tu chứng đã mờ tối mà đại ý một nhà bị phá hỏng xin tự lường tâm đâu cần phải rêu rao. Việc luận bàn của một nhà sáng tỏ hơn nhật nguyệt, đối với người sáng mắt ngước mặt đều thấy ta đi đâu cần phải nói gì nữa!
Hỏi: Có phải là Thánh nhân chăng, có hai: a, Phân chương nêu ý.
Nếu là Thánh nhân thì đến mà lấy bát. Ngài Kinh Khê nói: Trước lấy người mà nghiệm pháp. Nay lấy pháp để hiểu người. Người và pháp Không lẫn lộn nhau tức đều cùng. Cho nên biết: Trước đã không pháp, đã biết không người nên cần thử nghiệm lại. Nay lại căn cứ pháp e là sinh niệm mà đến kính điền lấy ăn, là trước ở chương ngài Ca-diếp bốn đế Tiểu thừa mà vấn nạn, khiến thành lỗi ở Đại thừa. Nay lấy bốn đế ở Đại thừa mà vấn nạn thì khiến kẻ chấp tiểu là có lỗi. Cho nên dùng bốn đế mà chung riêng vấn nạn. Nên biết ngài Thiện Cát lấy bốn đế tiểu làm chỗ chứng. Ngài Tịnh Danh lấy bốn đế Đại thừa mà chê trách bảo không nên. Đại tiểu trái nhau đâu thể đáp lại.
Tiếp, “Văn đầu...” là tùy văn giải nghĩa, Riêng trải bốn đế kiểm hỏi Phân khoa. Luận bày nhân quả thứ lớp, vì thế và xuất thế đều từ nhân đến quả. “Nếu cần...” là tùy văn giải nghĩa, Tập. Ngài Kinh Khê nói: “Nếu phàm phu...” thì tâm là tâm vương và thường cùng chung với độc. Từ “đây...” cũng nên dùng bốn câu để phân biệt. Nay chỉ ba câu đoạn mà cùng chung vì không có lý này. Nếu lập nghĩa, tức các ngoại đạo đoạn hoặc thường kiến thường cùng chung với kiến ở lý cũng được. Nay câu thứ hai chính là bị trách. Câu ba là thường trách. Bồ-tát..., điều nói trong đây tức là trung đạo Phật tánh tức là chân tánh. Kế “thông suốt...” tức là thật tuệ. Thấy tất cả pháp tức là phương tiện. Nếu Nhị thừa quán hữu tác khổ đế... tức Tiểu thừa có thể biết Bồ-tát quán vô tác khổ đế, thì tiếng vô tác gồm cả Thông giáo. Ngài Kinh Khê nói: “Trong đây cũng phải làm đủ bốn câu. Lấy biến đối thật có hoại và bất hoại. Nay văn thiếu Biệt, chỉ có Tạng, Thông, Viên ba thứ. Trước lấy Tạng, Thông đối Viên chân mà luận hoại, bất hoại. Cho nên trong văn Thông không nói bất hoại, vì lạm dùng Viên, nên không lập. Không nói Biệt, là chỉ người Biệt giáo thì trước hoại mà sau theo. Vì lạm dùng tam tạng cho nên đầy đủ bốn câu mà chỉ thành hai cú. Nghĩa là hoại mà theo và bất hoại mà theo, là vì nội ngoại giới, mỗi thứ có hoại và bất hoại. Nếu làm thành nghĩa bốn câu là hoại thân không theo (tùy) là khổ hạnh ngoại đạo, còn bất hoại không theo là thường kiến ngoại đạo. Lại văn trong Thông giáo cũng nói bất hoại mà theo, không phải là ý kinh nay. Ba đạo chỉ quán đến tám giải thoát, đây là thể đã có tập dùng làm đạo vô tác tuy là tên chúng sinh ở quả nhưng tên Bồđề lại thông cả nhân. Chúng cùng mang nhau mà đến, chính là ở câu sau làm chứng. Nay nghĩa đạo chúng sinh khổ là do tám tà kết tập. Song du..., ngài Kinh Khê nói: Lý tánh tương tức, nên nói là song du. Đâu có thể ở trong sự đều còn mà nói ám danh là song du ư? Nay vì văn này từ dụng của quả nên được nói là song du. Mặc tình ám thể tức minh, minh thì hay thùy ám, ám cũng luôn minh. Như thế mới có thể gọi là song du. Há có thể chướng trí vô minh cũng còn không phá mà được gọi là minh ám tương tức. Nay bèn chung ở ngôi vị nhân quả mà sự lý tương tức, nghĩa không ngại nhau. Cho nên người tu quán thì lý cũng phải tương tức. Đâu có thể một mực suy công Thánh nhân. Cho nên biết người tu cần luôn ở trong sự mà quán lý minh ám. Khi ám hết thì minh thành cũng không diệt mất. Cho nên phải ở trong sự nói ám, chiếu lý minh ám mà ở quán hành cũng gọi là song du. Thế thì sự ám không phải ám, lý minh không phải minh. Tuy tức sự lý, vị có khác nhau, nhưng cũng nói là sự lý không ngại hại nhau. Vì do nhân song du mà thành quả song du. Hành ở lý phi đạo, cũng do cớ ấy mà được chứng về song du, thì ba ngàn thế gian đều gọi là phi đạo. Việc bày si ái không lìa không trung. Minh ám lý đồng mới gọi là Phật đạo. Thế thì sự lý nhân quả đều không hai.
Hỏi: Vì sao lấy minh thoát mà làm đạo đế?
Đáp: Ba minh đều có chánh trợ hai đạo. Vô lậu là chánh, quá khứ vị lai là trợ. Đạo đế không ra ngoài hạnh chánh trợ. Lại có thể ba minh là chánh, tám giải là trợ. Lại tám giải, nếu đối với sự, thiền đạt lý thật tướng, mà hay hóa dụng thật lý là chánh. Hóa dụng là trợ. Đối như thế... mới gọi là đạo đế. Diệt kinh nói: Cũng không phải không buộc. Ngài Kinh Khê nói: “Chữ giải có người đọc là cải, có gì mà chẳng được, nhưng trái với giải thoát trên thì không hợp. Vì sao? Nếu chánh vận công trên có thể đọc là giải, dưới đọc là hạt. Ngày công thành phải đọc là sải, dưới phải đọc là sải. Phược (buộc) không có hai âm, nghĩa thật chung cả hai. Vì khi đọc phược thì cũng chỉ là phược (buộc). Thanh văn giáo đến tức là diệt đế. Ý nay diệt đế mà từ giải thoát ngũ nghịch làm tên, tức ngũ nghịch là nhân rất khổ. Nhân tất chiêu quả, vì khổ tức diệt mất. Cho nên trong Tiểu thừa làm mười ba nạn chướng. Giới không phát thì định tuệ không thành. Định tuệ không thành thì nghĩa quả không được. Nay giáo Đại thừa thể đạt tâm tánh tức là giải thoát, sao lại có chướng. Nếu thế, vì sao kinh Phạm Võng bảy nghịch bị ngăn cấm?
Đáp: Tiểu thừa ngăn chướng giới mà lại chướng quả. Đại thừa tuy chướng giới mà không ngăn tiến đạo. Cho nên vua A-xà-thế được tín vô căn. Ương-quật-ma-la được Vô sinh nhẫn. Nếu thế thì đại đâu cần giới?
Đáp: Nếu thế thì tự biết đời trước có thừa ngăn mà cũng được pháp. Nên ở đời này kẻ mới nhập mà trợ mỏng thì đời sau thừa chủng ít ngăn kém lôi kéo vào đường ác. Thật giả thừa giới nhân thiên gặp Phật. Lại chướng Đại thừa, không đồng với Tiểu thừa một đời bỏ hẳn.
Vì trong Đại thừa cho sám hối tội nghịch. Cõi này rất ưa dùng việc làm đó. Tông này nương vào việc sám tội của Đại thừa trở lại kiểm tra Tiểu thừa, huống vốn học Đại thừa thì sám hối có ngại gì? Phạm Võng nói là cấm ngăn người chưa sám hối mà thôi. Đủ như văn sau trong chương ngài Ba-ly có nói: Há có triết sĩ lánh giới theo thừa còn ngăn luyến sâu, đâu có thể cầu chí đạo được? Như Điều-đạt..., đây cần phải từ quyền tích mà bày biện thuyết. Luôn thuận ở nghịch tội, thuận không trái ngại. Chê tiểu chẳng trọn. Phi đạo là đạo. Chuẩn theo lý nên nói: Thể nghịch nhập diệt. Thể nghịch diệt mất rồi mới gọi là thật hạnh. Chẳng thế thì đều không phải, tức ngài Thiện Cát không thấy vô tác, cũng không phải phần chân Thánh nhân. Lại không phải là vô thượng kỉnh điền nên nói là không phải. Ngài Kinh Khê nói: Đây lại cử quả mà chê quả. Dẫn quyền Điều-đạt ý cũng thế. Vì quyền tích tức là dụng của quả địa vậy. Căn cứ chung bốn đế giải thích lại, có hai: a, Nêu ý. b, “Không thấy...” là tùy giải thích, Căn cứ đế. Đôi thứ nhất không phải giải thích trung, trước căn cứ pháp mà giải thích. Căn cứ nhân mà giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Trước căn cứ pháp trung lại nêu kinh lấy đế vô tác mà ngăn hai biên. Cho nên nếu nói không thấy... là lại e rằng trong tâm ngăn chặn nói rằng nếu phá hữu tác thì toàn là không ư? Cho nên liền bày nói bốn đế vô tác đâu cũng không phải? Cho nên lấy điều văn trên nói mà đáp lại là chỉ có đại mà không phải tiểu, sao cần phải bỏ hoặc. Kế “lại giải...” là căn cứ nhân mà giải thích chỉ vì không đồng với phàm phu Nhị thừa, vì Đại thừa tự có đế vô tác vậy. Tuy có hai giải thích cùng căn cứ pháp, tức lý nó hơi mạnh, nên pháp chung thuộc nhân cùng giải thích không lỗi. Kế căn cứ lấy bỏ, tức chỉ lấy ba giáo mà chê một.
Hỏi: Trong văn lấy bỏ thì bỏ một lấy ba hay dùng ba giáo mà chê trách Thiện Cát?
Đáp: Tiểu đại đối nhau. Đúng như văn sau, lỗi ở ngoại đạo. Luận chủ nói: Nếu phá tất cả pháp là nêu lỗi của luận chủ, nghĩa là luận chủ phá tất cả pháp ông là đều phá bốn tứ đế, đây là ngoại đạo, lấy mình mà suy người. Phải biết đây là chỗ đại rất đáng sợ. Luận chủ chất vấn lại. Ngược lại thấy này mà trở lại ngoại đạo. Ông chấp kiến này phá các nhân quả. Nay nói phá tuy biểu thị bất tận, tức phá tức lập. Như chỗ tà phá là phá tiểu lập đại, cho đến lập tất cả nhân quả, đại tiểu đều lập, nên nói rất rõ ràng. Phản chất, thì chất là hỏi, cũng là thành vậy.
Căn cứ ở bốn bất khả thuyết, ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Nêu chê trách Tiểu thừa chỉ hợp dụng Đại thừa mà nói bốn bất khả thuyết là không thấy đế. Thiện Cát cũng có được lý diệt. Hữu tác, cũng nói là không thấy, sao còn gọi là chê trách không phải không thấy đế, cũng chỉ Đại kinh có thuyết nhân duyên. Ngài Thiện Cát đã học giáo sinh diệt, cũng thường nói đến, sao gọi là chê trách?
Đáp: Văn trước trước đã nêu song phi “đều không phải) mà giải thích, rốt sau lại thuộc vô tác. Lại lấy bỏ mà giải thích, rồi dùng tướng đại tiểu đối môn mà chê trách. Tức nói Thiện Cát không phải chỉ không thấy bốn đế vô tác. Có ý nói trong diễn thì cả ba thứ đều không thấy. Nay dẫn Đại kinh bốn thứ bất khả thuyết và bốn thứ khả thuyết. Nói bốn thứ tứ đế đều là trong Thánh pháp nhất tâm mà thấy đầy đủ. Với lý cụ này mà thường nói đầy đủ, hoặc phá hoặc lập đều nói chỉ có mất hẳn, chỉ có Tu-bồ-đề không có chứng dụng này thì cả hai đều lỗi sao gọi là Thánh điền.
Tiếp căn cứ quả, ngài Kinh Khê nói: “Chỉ hàng Nhị thừa...” là phá tiểu quả. Nay ý chê trách, là nêu văn lấy bỏ bốn đế. Văn đó đã thông lại lập viên cực coi đó là năng phi. Nếu như đây thì mới gọi là được quả. “Hàng phục đây...” ra ngoài là như phá hóa thành trở đi. Văn đó trải đủ bốn giáo còn coi Đẳng giác của viên giáo không phải đã được quả, thì ngài Thiện Cát là người gì tự bảo đã được quả ư? Nói đã phá hóa thành là tuy đứng trực ở thảo am mà xuất nhập không khó khăn. Nghĩa đã ngầm phá hóa thành. Từ Biệt giáo đến chứng quả. Là hỏi: Chuẩn theo giáo Biệt Viên đều phải coi vị Đẳng giác là không phải được quả, sao chỉ nói thập địa chưa đủ?
Đáp: Do vị Đẳng giác hữu vô bất định và vì Đẳng giác là Đẳng giác Phật. Căn cứ đây không lập vị Đẳng giác là đối trong Biệt giáo thì nghĩa Thập địa là cực vị của Bồ-tát. Nếu so với Viên địa thì vẫn thuộc trụ, nên nói là chưa đầy đủ. Văn sau..., là tuy trong sơ trụ đã thành Phật đạo thì cũng không phải là được Phật quả rốt ráo.
“Căn cứ phàm không phải lìa phàm phu...”, ngài Kinh Khê nói: Lần lượt so sánh nhau thì cũng lấy Phật quả mới gọi là không phải phàm phu. Dẫn năm loại phàm phu mà luận, thì cũng chứng là đều phàm, chỉ có Phật mới là Thánh. Năm phàm tức là tín, trụ, hạnh, hướng, địa.
“Căn cứ Thánh còn không thấy đến Thánh nhân”, tức còn không có pháp chứng sao lại có người chứng.
Tiếp, kết phá. Ngài Kinh Khê nói: “Mà lìa... thủ trước”, tức bốn thứ Tứ đế chỉ là Quyền thật. Bốn thứ lý tánh nhân quả chỉ là bình đẳng pháp giới, nên nói là không thủ trước (đắm trước). “Tức trung đạo... định tuệ trang nghiêm”, tức Tam-muội là định, ba trí là tuệ, đế chỉ là cảnh, tức Pháp thân ư? Định tuệ trang nghiêm Pháp thân, cho nên biết trong đây đủ cả ba đức. Pháp ái không sinh, nếu pháp ái sinh tức ở vị tương tợ, không tiến lên vị trên nên gọi là Đảnh đọa. Đại luận quyển ba mươi có nói:
Hỏi: Thế nào là Đảnh đọa?
Đáp: Không thể lên ngôi vị Bồ-tát, cũng không thể đọa ở địa Nhị thừa, ái trước các công đức, chấp tướng phân biệt là Bồ-tát đảnh đọa.
Dựa theo bi điền mà hỏi, Bàn sâu về ý nghĩa, nêu chung. “Văn này...” là giải thích riêng, Chê xưa: Bản xưa giải không đúng, tức hai nhà giải nghĩa đều không đúng lý, nên chê chung rằng không đúng. Phân tích khiến đồng lục sư, khiến lại nêu duyên khởi. “Nay nói...” là hiển bày nay. 2, Nay tùy văn chánh giải thích, Hỏi có thích đồng với người tà, gồm phân khoa. b, Tùy giải thích, Y cứ không thấy Phật, không nghe pháp.
Hỏi: Không nghe ba thứ tứ đế của diễn giáo (Đại thừa). Ngài Kinh Khê nói: Văn này ý chê tuy phần nhiều ở Thông Viên mà chẳng nêu nghe biên, nên cần phải nói ba thứ. Nên biết còn không nghe Thông Biệt, huống là Viên ư? Từ “chỉ túc... phấn khí”, đây là nói kinh ở Lộc uyển, thời Phương đẳng thì nghe pháp Đại thừa nhưng vẫn còn trụ ở tiểu quả. Nên kinh lập dụ nói cũng còn chỗ. Nên biết ở chỗ chỉ thời Lộc uyển chính duyên chánh đạo đều chỉ cho diễn môn cả. So đồng ngoại đạo, tức Tiểu thừa Không thấy lý trung. So đồng ngoại đạo không thấy chân lý, không phải gọi Tiểu thừa là tà ngoại. Căn cứ đồng lục sư mà hỏi, có ba: a, Nêu ý nghĩa chung. “Sở dĩ... thọ học”, ngài Kinh Khê nói: Trược không thấy... đã là hỏi rốt ráo: Đã không thấy Phật tức là người tà kiến. Tuy đã hỏi chung, còn e ngài Thiện Cát nhân lần lượt đổ lỗi không nhận, nói vọng rằng ta đã đích thân thấy Phật sao gọi rằng không thấy? Cho nên bèn căn cứ chỉ người không thấy Phật ắt thấy lục sư. Cho nên biết lục sư đã không thấy Phật không nghe Phật pháp. Thiện Cát cũng thế, cùng họ nào khác sao lại bỏ đi, hãy lấy sự mà nghiệm biết. Tức lấy việc lúc giải Không của Thiện Cát so với ngày đầu mới theo học với lục sư. Lục sư ở trước nên Thiện Cát thấy trước. Nói hậu tập tức là học sau. Sư phạm, thì pháp ngôn nói thầy là gương mẫu, làm khuôn phép cho người.
Riêng nêu đồng loại, Chánh giải lục sư. Các pháp đều không sinh diệt, nghĩa là các pháp như hư không. Triệu Pháp sư nói: Người ấy khởi tà kiến, nghĩa là tất cả pháp đoạn diệt tánh Không, không có đạo vua tôi cha con trung hiếu.
Mẹ là Câu-dư-lê, tức người sinh ra ngài, nên gọi là con của Câu-dư-lê. Dưới gọi con đều như thế. Khi thuần thục thì tùy ý được đạo, nghĩa là đạo không cần phải cầu ngang, khổ sinh tử kiếp số hết thì liền tự được. Như lũ... như chuyển lũ hoàn ở Cao sơn. Lũ hết thì tự ngừng đâu cần tìm ư? “Lại nói...”, người ấy được thần thông thấy việc ở vị lai, chỉ đến tám vạn kiếp mịt mù không biết, bèn nói khổ hết. Khâm-bà-la là áo xấu. Triệu Pháp sư nói đó là áo xấu, hoặc nói dệt lông làm áo. Nay lấy chỗ vui thích nhất nghĩa là thân nay dứt việc chịu khổ, thân sau được vui. Xuất gia ngoại đạo là tên gọi chung. Triệu sư nói: Như người xuất gia của Phật pháp gọi chung là Sa-môn. Không thể đổi được..., là khổ vui tôi phước đã có nhân nhất định thì tất yếu phải chịu, không phải hành đạo mà đoạn dứt được. Riêng nói về lục sư chấp tông như ở kinh Niết-bàn.
“Nay đại...” là giống như Tiểu thừa, có hai: a, Trước căn cứ dụ nêu ý. b, “Nói tướng...” là chính nói đồng loại, Đồng loại lục sư, Nói ngoại đạo giống Tiểu thừa. Phá nhân không phá quả: Không tạo là phá nhân, tất cả tự nhiên là phá quả. Như việc Trang Chu chấp “kế), lấy cõi này làm mẫu. Trang Tử người Mông tên Chu, cùng học với Lương Tuệ Vương. Làm sách hơn mười vạn lời mà đều là ngụ ngôn. Nay Tống châu tức Mông thành cũ, là chỗ ấy. Hiện có làng Thiêm viên trong tác phẩm của ông, nên hoặc nói là Mông trang, vì đã từng làm chức quan nhỏ ở Thiêm viên. Sạn định xà-dạ đến chưa tường là họ cho rằng đến lúc thuần thục thì mặc tìm được đạo, hoặc là tà nhân duyên hoặc không có nhân duyên, chưa dám định chắc, nên nói chưa tường. Ca-chiên-diên tức là người thứ năm trước. Còn hai người kia, tức thứ năm là Khâm-bà-la, thứ sáu là Ni-kiền-đà, nghĩa là phải chịu khổ báo. Lại nói đều do nghiệp nhất định và thuộc hữu môn.
“Thanh văn...” là nói Tiểu thừa giống ngoại đạo. “Quá khứ... định số”, là Phật Câu-lưu-tôn, khi người ấy sống đến sáu vạn tuổi thì ngài ra đời. Phật Câu-na-hàm thì người sống đến bốn vạn tuổi, Phật Ca-diếp thì hai vạn tuổi, còn Phật Thích-ca thì người sống một trăm tuổi thì ra đời. Đức Thích-ca trước nói năm người chứng quả, tám vạn người được nhẫn. Đến ngài Di-lặc ba hội thuyết pháp thì số người đều nhất định. Như kinh Di-lặc thành
Phật đã nói. Các lúc khác không được, từ trừ lúc người sống sáu trăm tuổi, bốn trăm, hai trăm và tám vạn tuổi... thì không có Phật ra đời, vì không có cơ được đạo.
Hỏi: Trong các kinh Đại Thừa đều cùng nói điều này. Đến như kinh Pháp Hoa khi thọ ký cho đệ tử đều nói rõ về tên nước, số kiếp, số thọ mạng và số đệ tử được hóa độ..., sao chỉ riêng có Tiểu thừa?
Đáp: Đại thừa nói về Phật và Phật đạo đều tùy cơ mà ứng hiện, tuy hoặc đồng nói Tiểu thừa nhưng đâu thể chấp nhất định. Như kinh Pháp Hoa luôn nói là sinh diệt, có phân thân ở mười phương, thường có núi Linh thứu, làm Phật ở các nước khác. Lại như kinh Niết-bàn nói ở phương Tây có nước Vô thắng, trang nghiêm như cõi nước An dưỡng. Đức Thích-ca ra đời ở cõi ấy nói Lăng nghiêm Tam-muội. Bảy trăm tăng cầu sống lâu, Đức Thích-ca có tên khác là Quang Minh nói Phật có tuổi thọ như hư không, đất núi biển không thể lấy ra dụ so sánh. Đại luận nói Đức Thích-ca có cõi nước thanh tịnh cũng như Đức Di-đà, nay kinh Phạm Vương thấy cũng như trời Tự tại. Phàm các kinh luận này há đồng với Tiểu thừa nói cõi uế có số tuổi sống một trăm năm là của Đức Thích-ca văn. Một Phật đã không suy lường được thì các Phật đều như thế. Nên suy xét tông chỉ ấy đừng để Đại Tiểu lẫn lộn. Phạm trọng tội Tỳ-ni nói tẩn “đuổi) thì luật Tứ Phần nói: Nếu Tỳ-kheo và ni phạm tội Ba-la-di rồi, lại không tâm che dấu, khiến đúng pháp sám hối. Tỳ-ni Mẫu luận nói: Bạch bốn pháp sám hối xong thì gọi là thanh tịnh trì giới. Nhưng thân này không thoát ly sinh tử chỉ khỏi đọa địa ngục mà thôi. Tứ phần nói: Nếu người phạm trọng cấm thì bị diệt tẩn và các tội chướng đạo thì gọi là Phạm Tăng-tàn trở xuống. Đồng loại ba thứ, Nói ngoại đạo giống Tiểu thừa. Nếu được thiền định, là bốn thiền bốn không. Đình hà..., Đại luận quyển ba mươi lăm nói: Các ngoại đạo... đến thưa vua Ba-tưnặc rằng: Mặt trăng có tròn khuyết là do ai làm ra, nước biển có vị mặn muối Ma-la-diên do ai tạo ra, đâu không phải là bọn Bà-la-môn chúng tôi ư? Đại vương không nghe nói Tiên A-kiệt-đa đã để nước sông Hằng trong lỗ tai mình suốt mười hai năm ư? Tiên nhân Cù-đàm đã dùng đại thần biến hiện làm thân Thích-ca suốt mười hai năm, lại khiến Thích-ca thành đê đực và biến nữ căn hiện trên mình Thích-ca. Kỳ Thố Tiên nhân trong một ngày nọ đã uống hết nước biển khơi khiến đại địa khô khan ư? Bà-tẩu Tiên nhân vì trời Tự tại đã làm ra ba mắt. LA-la Tiên nhân đã biến thành Ca-tỳ-la thành vùng đất muối mặn ư?
Tam quang là mặt trời, mặt trăng và các sao. Bốn Viđà như trước nói y phương, Văn Tâm Diêu Long nói: Phương là góc, y là phương thuốc trị bệnh mỗi thứ chuyên chủ một góc. Cho nên dược thạch gọi là phương. Mười sáu nước lớn, tên trích từ kinh Trường A-hàm là:
1. Ương-già.
2. Ma-kiệt-đề.
3. Ca-thy.
4. Câu-tát-la.
5. Bạt-kỳ.
6. Mạt-la.
7. Chi-đề.
8. Bạt-sa.
9. Ni-lâu.
10. Bàn-xà-la.
11. A-thấp-bà.
12. Bà-sai.
13. Tô-la.
14. Càn-đà-la.
15. Kiếm-phù-sa.
16. A-bàn-đề.
“Tam tạng...” là nói Tiểu thừa giống ngoại đạo. “ Sở dĩ...” là hiển bày ý chê trách. Tâm hạnh lý ngoại, là hai giáo bỏ sinh tử cầu Niết-bàn. Biệt giáo thì bỏ hai biên cầu trung đạo. Không thể nhanh chóng biết bản tánh đều gọi là tâm hành lý ngoại. Từ “đây...” Niết-bàn Ca-diếp là lời tự thuật của đồng tử. Người Biệt giáo còn tà, Tạng, Thông đâu thể chánh, vì đều không phải viên dung vô tác, cho nên Thông Biệt còn thế, tam tạng làm sao khác được. Tích đồng lục sư là do lẽ ấy.
Tiếp kết khiến lấy ăn. Tuy phần đến không thấy Phật tánh, ngài Kinh Khê nói: “Sinh tử đồng nghĩa với mất đạo lý..... Hỏi có thích tà pháp chăng, nêu ý phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Vì sao cũng còn đầy đủ kiến tư... là cũng lấy thể khác tên đồng mà chê trách. Ngài Thiện Cát còn đủ các bỉ ác ngoại giới. Ác xấu là giặc, sao còn gọi là Sát tặc, ắt là sinh Không phải bất sinh. Là giặc ắt là sinh, đâu thể kham được Ứng cúng. Không có ba đức này ắt không thành La-hán.
“Một ước...” là tùy văn giải nghĩa, Ước sát tặc mà chê trách, nêu ý phân khoa. “Nếu thuận...” là tùy văn giải nghĩa, Chê có kiến nhập ở tám nạn, giải thích có kiến hoặc. Nói tà kiến, là những kiến nào. Ngài Kinh Khê nói: Dẫn chứng nói chỗ khởi, nếu là tà nội giới tà thì dễ biết, còn ngoại tà thì khó biết, tức chỉ ngài Thiện Cát. Cho nên muốn giải thích trước cần phải dẫn chỗ khởi rồi giải thích sau. Nếu họp với trung tức không thấy nhiếp. Ý nói tà này vẫn dự vào hai đế, ba đế. Hai thì chỉ tục là hữu, ba thì chỉ chân là vô. Tuy là hai đế, ba đế vẫn thuộc tà, đều không thấy trung, tức thuộc tà kiến ngoại giới. Nếu giới nôi đều bị hai, ba tục nhiếp giữ. Cho nên biết là nội ngoại tà kiến khác hẳn. Nay vì nội giới đã không thấy trung, đầy đủ vô minh, biến dịch sinh tử. Nội giới có nghĩa thường phá giặc nhưng còn nói bao hàm Trung, tức bảy lớp Tạng, Thông tức là không có trung. Hai đế Biệt Viên tiếp Thông gọi là bao hàm Trung. Biệt là hiển Trung. Hiển trung hoặc có lúc chỉ ở Viên. Trong Niếtbàn sớ cũng dùng bảy lớp đơn và phức chân tục hai đế. Nay ở ý này nói trong hai đế có trung đạo. Trung đạo cùng chân mà làm chân đế gọi là bao hàm Trung. Nếu hiển Trung thì cũng là Biệt và Viên. Nhập biệt hai đế, cho nên chuẩn theo ý nay cũng bao hàm được gọi là hiển. Nói chân đế hợp tục tức là chân của Nhị thừa ở trong tục. Tục cũng gọi là hữu nên nói là hữu kiến. Nếu chia làm ba, thì chân đế Nhị thừa cũng được gọi là vô. Cho nên nói thì không nhiếp. Chuẩn trên hợp tục đã gọi là hữu kiến, lìa ba thứ này thì thuộc vô, tức là vô kiến. Văn lược bỏ chữ kiến vậy. Vì không thấy trung đều gọi là kiến. Vì kiến nên gọi là tà. Lấy năm thứ trung của Biệt Viên nhập Thông, chính là chê trách chân, há luận tiếp chân. Cho nên năm thứ trung chỉ là Viên mà không phải kiến, các thứ khác cũng gọi là kiến. “Cho nên Đại kinh...” là chứng tỏ hai thứ thuộc tà. “Bởi sao...” là giải thích đồng ngoại đạo thì thuộc tà.
Giải thích vào tám nạn, Ở nội giới nói hai thứ Đại Tiểu khác nhau. Ngài Kinh Khê nói: “Trụ ở tám nạn...” là nói ngài Tịnh Danh chê trách, bổn ý dùng lý để vấn nạn, chê trách ngài Thiện Cát nói Trung. Nói Trung mà lập sự cúi thấp. Vì đồng bi điền cho nên là giải thích chê trách đều gồm lý sự. Thanh văn... là nói phần hạn khó khăn của người Thanh văn là người đã phá tư hoặc, nên nói là không có nạn. Nay lấy nạn mà chê trách nói đủ lý nạn thì thâu nhận lấy tám nạn ngoại giới. Sao có thể vào kiến đạo Đại thừa được. Nếu Bồ-tát thì không nhất định, tức Thánh nội giới bị cảnh chướng của ngoại giới, thấu suốt ngoại giới mới gọi là không nạn. Cho nên ở cảnh này mà có chướng không chướng. Nói không chướng là Bồ-tát chung cả bốn. Hai thứ trước thành chướng, chưa thể khéo léo quán nội chướng thành ngoại vô chướng. Hai thứ sau phải khéo quán mới là không phải chướng. Lại sự lý hai thứ trước tất cả đều chướng. Biệt giáo dạy đạo cũng không khỏi chướng. Người viên trước sau tất cả không phải chướng. Chính ước văn này để trách ngài Thiện Cát. Lại hai thứ trước hay biết nội chướng, không thể biết ngoại chướng, cho nên người Nhị thừa nghĩa đúng hai thứ trước, thế nên bị chê trách. Bàng hoàng không biết cho nên khiến kẻ học tiểu trụ ở nạn nội ngoại, không được khỏi nạn. Ý chê trách là ở tại đây. Đây tức là hành ở phi đạo. Tám nạn nội ngoại đều gọi là phi đạo. “ Thiện Cát...” là nhìn sang ngoại giới phân chia hai thứ sự lý khác nhau, có hai: a, Nói Thiện Cát đủ cả hai, người hiển Viên đều không. Nói đủ hai là văn lầm, đáng lẽ phải nói đủ một, nghĩa là Thiện Cát dù không có sự nạn nhưng đủ lý nạn. Chỉ có viên Bồ-tát... ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Nếu lấy sự nạn mà làm lý cảnh, thì Bồ-tát trụ ở các chỗ đường ác cho đến căn hoại, vì sao khiến vô thỉ gọi là không nạn?
Đáp: Đây có hai nghĩa:
1. Nhập vị.
2. Căn cứ quán hành.
Nếu người nhập vị sao còn ngại hữu, chỉ chê trách Tiểu thừa Không có việc này mà thôi. Nếu quán hành, thì cũng cho là không chướng. Vì sao, vì sơ tâm Bồ-tát thừa gấp giới chậm ở ba đường ác, thiên và bắc châu, nhưng thừa chủng không mất. Còn người thừa giới đều gấp thì dù ở trước Phật cũng nhờ do nguyện xưa lôi dắt. Hoặc ở sau Phật mà học giáo không bỏ, căn thiếu và thế trí biện thông thì có hại chi cho quán môn, huống nói về thể nạn, là nói gồm cả sự lý. Về sự nạn thì như trước, về lý nạn thì chỉ là nhất niệm tiểu tâm, tiểu tâm tức trung thì có nạn nào mà được. Huống lại do đại nguyện thì không nơi nào chẳng đến, sao được ngăn cách bởi nạn xứ, thời, căn, trí. Trụ đó, thể đó, hóa đó, dụng đó. Thế nên Đại thừa lý cần phải thể sự. Cho nên biết nhân quả Tiểu thừa đều khác. “ Sự bát...” là sự lý đều nói. Kết khắp chê trách nguyên do có hai: a, ước sự lý mỗi thứ đều nói. Sự nạn trước đã nói. “Nay nói...” là nói về lý nạn. Ngài Kinh Khê nói: “Giải thích nêu nội ngoại mà phân sự lý. Đó là ngài Thiện Cát không biết rõ lý nạn ngoại giới, mà thường chướng ở trung đạo. “Có sư...” là phá người xưa, nay chỉ phá tiểu. Vì đại tiểu ba thừa cùng có ba Không. Thế nên lấy không được ba Không mà giải thích. Lại vị ba Không ở trước kiến đạo, cũng thường phát tâm, nên cũng không dùng. Nay nói kiến... ba đạo là đã chết rồi. Cho nên ở nghĩa vì tiện mà dẫn chánh vị tức là kiến đạo. Kiến đạo còn thế huống là tu đạo. Lại từ thật nói nhập ba đạo tức cũng có thể được phát. Nhập vô dư là chuẩn theo Tiểu thừa, phát lý giáo vô hữu. Nói các nước khác là cũng từ thật giáo. “Bồ-tát...” là nói tâm Nhị thừa còn là tâm nặng nhất trong đường ác đâu không gọi là ba đường ác ư? “Như Đại luận...” là người Nhị thừa bị Bồ-tát oán, oan gia há vượt khỏi nhân đường ác mà chứng đường ác vậy. Tiêm sư nói: Đại luận quyển ba mươi nói: Ví như ở chỗ trống vắng có một cây tên là Xama-lê, cành cây vuông dài to lớn rất nhiều chim đến trú ngụ. Có một con bồ câu đến sau đậu trên một cành thì cành ấy liền gãy. Thần đầm hỏi: Các chim điêu thứu lớn đều đến đậu, vì sao với con chim nhỏ này mà cành lại gãy? Thần cây đáp: Con chim này từ cây có thù oán với tôi đến, nó ăn hạt cây ấy đến đậu trên mình tôi mà phóng uế, hạt rơi xuống đất sẽ mọc lên cây ác ấy gây hại rất lớn. Thế nên tôi luôn lo lắng, thà gãy một cành mà tránh được đại họa sau này, Bồ-tát cũng thế. Đối với các ma ngoại, các sử ác nghiệp không sợ như thế. Hàng Nhị thừa ở bên Bồ-tát cũng như con chim nhỏ ấy làm hư hại tâm
Đại thừa, diệt hẳn tâm Phật thừa. Trong luận lấy đại mà chê trách tiểu, cho nên đối tâm Nhị thừa đúng là nạn đường ác ngoại giới. Diệt trong tứ đế... ngài Kinh Khê nói: Đây là lấy ý trong phẩm thí dụ của Pháp Hoa. Phẩm ấy nói người ấy chạy khắp đông tây chỉ nhìn cha mà thôi. Sớ ấy giải thích rằng: Đông tây là Khổ tập, Nam bắc là Diệt đạo. Cho nên lấy đối diệt dùng chứng diệt đế. Nếu nhập vô dư thì số thọ mạng tám vạn, sáu trăm, bốn trăm, hai trăm tuổi như đã định. Dù hiện định hữu dư mà nhập vô dư, nên cũng gọi là định. Nên luận Câu-xá nói Bắc châu nhất định là ngàn năm, Tây đông giảm gần phân nửa. Tây đông cũng nhất định. Nay lấy số lớn nhất tự bảo là mất hẳn, lớn đâu vượt quá mức này. Trước Phật sau Phật... là tục sau chân trước đều không thấy tánh. Vì sao? Vì sau chân đế cần phải thấy trung mà liền chiếu tục, nghĩa đồng ở sau. Ước đế mà luận thì cũng có thể gọi là tục trước chân sau. Ngoại đạo không thấy chân lý..., tức thấy tuệ là Nhất thiết trí ngoại đạo. Cho nên thần thông Vi-đà phần nhiều đều trước tu Nhất thiết trí vậy. Vì vậy Tiểu thừa gọi chân, nhưng đối Đại thừa vẫn còn tục. Vì tục nên gọi là thế. Cả hai đế chân tục đều không thấy trung, chỉ thành thế trí, do đó mà thuộc nạn ấm á tức câm ngọng, không thể nói.
“Thiện Cát...” là kết chê trách nguyên do, có hai: a, trách người có tư lìa pháp thanh tịnh. Tâm cùng đây hợp, tức trí vô lậu cùng vô minh hợp. Toàn trí là hoặc nên nói hợp. Chỗ không thể đoạn đứt, ngài Kinh Khê nói: Nói tách che ra là căn cứ vào trước lúc chưa phát tâm mà thôi. Cho nên nghe..., Đại luận quyển hai mươi chín nói: Như Thanh văn mà nghe vua Khẩn-đà-la đồn luận tiếng ca Ma-đàn-cầm dùng các pháp thật tướng để khen Phật. Lúc đó núi Tu-di và cây cối đều rúng động. Đại Cadiếp... các đại đệ tử của Phật đều ngồi trên tòa không yên. Bồ-tát Thiên Man hỏi ngài Đại Ca-diếp: Ngài là người lớn tuổi tu hạnh Đầu-đà bậc nhất, nay vì sao không thể chế phục tâm để tự an? Ngài Đại Ca-diếp đáp: Ta đối với trời người thì các dục tâm không thể lay động. Còn Bồ-tát ấy có báo tiếng vô lượng công đức, lại dùng trí tuệ biến hóa thành tiếng khiến không thể nhịn được. Nếu gió tám phương nổi lên thì không thể khiến núi Tu-di lay động, nhưng khi kiếp tận thì gió Tỳ-lam thổi đến sẽ khiến nó như cỏ mục. Lìa tự tánh..., là tự tánh thanh tịnh, tâm tức lý trung đạo. Phàm phu cụ hoặc, là phàm phu có đủ ba hoặc mà tâm không tỉnh giác, thản hoặc gặp được tịnh duyên liền liễu đạt tự tánh. Cho nên Thai kinh nói: Chỉ do cấu ở tâm diệt mất thì thủ chứng như trở bàn tay. “Nhị thừa...” là Pháp Hoa trở về trước, tự chấp mình là đã chứng quả cùng cực. Cho nên phân tách rằng đã lìa hẳn. Nếu đến thời Pháp Hoa thì mới hiểu kỳ thật là chưa lìa.
Tiếp, căn cứ Ứng cúng mà trách Tích đồng với thế thiền, Căn cứ phàm phu cho đến hết nghiệp mà giải thích, Chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Bốn thứ vô lượng vô tránh... các định tức là Từ bi hữu lậu không cùng thế gian tranh nhau, cũng gọi là vô tránh, đâu có gì lạ.
Liệu giản, Ước ngoại đạo hiện được mà giải thích. b, Phân tích không phải là ruộng tốt. Có ruộng muối kiến tư, đây là mượn ruộng thế gian để giải thích ruộng phước xuất thế. Nói không phải là chỉ có muối mặn mà không phải là ruộng tốt. Cho nên hàng Nhị thừa cũng còn muối trần sa vô minh. Lỗ là đất muối mặn. Tích đồng ba ác, có hai: a, Ước nhập vị đến ngoại giới mà giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Vì người Tiểu thừa Không có nguyện dắt dẫn nên không có tâm hóa vật. Cho nên bố thí thì được phước trước ở nhân thiên. Đây nói người không có thệ nguyện. Bồ-tát không thế. Đã như giải thích trước. Ước sơ tâm ở nội giới mà giải thích. Phàm phu chấp tiểu nhất định phải đọa ở ba ác, mà không phải ngoại giới. Ngài Kinh Khê nói: Căn cứ người bác văn Tiểu thừa, tức tự mình không chút lợi nhỏ chỉ thường báng bổ Đại thừa. Kế dẫn chuyện thắng ý để chứng tỏ có đọa ác. Đại luận quyển bảy nói thời quá khứ, Đức Phật Sư Tử Âm Vương sau khi tịch diệt, có hai Tỳ-kheo một tên là Hỷ căn, một tên là Thắng ý. Đệ tử của hỷ căn thông minh ham thích nghe nghĩa sâu xa, vì thầy họ chỉ nói các pháp thật tướng. Thầy bảo đệ tử rằng: Dâm dục si tướng tức là thật tướng, không có gì trở ngại. Do đó phương tiện không sân, không hối thì được Vô sinh nhẫn. Còn Thắng ý thì trì giới đầu-đà bốn thiền, các đệ tử căn độn phần nhiều đều tìm cầu phân biệt. Thắng ý bảo các Tỳ-kheo rằng: “Hỷ căn dối lừa mê hoặc các người dẫn vào tà kiến, ông ta nói dâm dục là pháp vô ngại”. Lúc đó hỷ căn nghĩ rằng: Ông ta bị nghiệp rất sân ác che lấp khiến sẽ rơi vào tội lớn. Ta nay phải vì ông ấy mà nói pháp thậm thâm để làm nhân cho đời sau. Liền tập họp chúng Tăng một lúc nói kệ rằng: Dâm dục tức là đạo. Khuể si cũng như thế. Thì cả ba vạn Thiên tử đều được Vô sinh nhẫn, tám ngàn Thanh văn đều được giải thoát. Ngay lúc ấy Thắng ý rơi vào địa ngục chịu ngàn vạn ức năm khổ não. Hỷ căn tức ngày nay là Đức Phật Đông Phương Bảo Nghiêm Độ Quang Du Nhật Nguyệt. Thắng ý tức là Thích-ca. Đủ như trong luận nói. Phụ hành và các văn cũng dẫn đủ.
Căn cứ Bất sinh mà trách, Tích đồng chúng ma, Nêu chung. “Vì cùng...” là giải thích riêng. Tự hành... ngài Kinh Khê nói: Đồng ham thích sinh tử như đồng một tay. Bổn ý của nội giới thiên ma chỉ khiến chúng sinh ham thích hữu. Hữu tức nội sinh, nội ngoại nào khác. Vì sinh nhân đồng, cho nên như một tay làm. “Lại giải...” là bền chắc. Lao dịch và kiên lao là chữ xưa, mượn mà không phân biệt hai thứ khác nhau. Cho nên văn tuyển nói chữ lao cố phần nhiều viết chữ lao. Nên khiến văn nay phải dùng nghĩa bền chắc. Đều nhiễm đến khá chuyển, tức chấp chặt, tức nghĩa bền chắc. Ma cùng thiện chấp chặt đồng nhau, có thể làm bè bạn.
Tích đồng trần lao. Các ông cũng đầy đủ hữu nên nói đẳng. Ngài Kinh Khê nói: Tám vạn... là nói chung cả đại Tiểu thừa. Nên luận Câu-xá nói: Mâu-ni nói Pháp uẩn số có tám vạn, cho đến như kinh báo ân nêu nhiều hơn tám vạn. Đây đều là tám vạn nội giới. Như đối bốn phần, mỗi phần đều có hai vạn một ngàn. Bốn phần chỉ là hoặc nội giới. Như Tam-muội Ba-la-mật trong Đại thừa việc trị liệu đều là hoặc nội giới. Cho nên biết ngài Thiện Cát có đủ ngoại giới, tên đồng loại đồng. Vì vậy Đại sĩ chê trách là không khác.
Tích đồng thế oán (kẻ thù ở đời). Yêm nhân là người nam bị thiến. Nguyệt ra lệnh trọng đông sai Yêm doãn xét phòng thất của lữ thận. Kinh Khê nói: Phải nói là yêm tặc (giặc thiến) lại lấy thiến người khác để diệt bỏ, diệt người khác đến không thể trị được. Lại hại... hại tức là oán. Trước giải thích tướng hại, đây giải thích điều hại. Lại trước chỉ chánh nhân nên nói là chủng tử. Đây dựa vào ba nhân, nên nói thân mạng và quyến thuộc.
Phân tích hủy báng Phật pháp, ngài Kinh Khê nói: Báng có hai thứ, tuy đối hai thứ chỉ có một sinh tử. Nói cũng gồm hai hủy báng. Nếu có sinh tử ắt không thường trụ. Vì thành tướng hao tổn nên cần phải đối thường trụ.
Phân tích không phải chân tăng. Ngài Kinh Khê nói: Không nhập vào số chúng, cũng có thể nói lý sự hai thứ hòa hợp mới gọi là chúng. Chúng ắt hòa hợp. Tức là sự cùng pháp giới chúng sinh hòa hợp, lý cùng chân như pháp giới hòa hợp. Thiện Cát đều không có cho nên không nhập số.
Phân tích không phải chân diệt. Ngài Kinh Khê nói: Vì không nhập số nên trọn không được đại bát Niết-bàn tức là đại diệt độ. Dẫu có nhập số còn chưa được diệt, huống là không nhập số, đâu thể được diệt. Đây dẫu có chê trách thì trọn không nhập số mà không diệt độ. “ Người đời...” là chê trách nghi dẫn chứng. Phần nhiều nghi lời giải này. Nay nghi mà chê trách sát tặc... ba nghĩa văn đã giải tức là không căn cứ. Mà không biết sư nay. Toàn căn cứ vào Pháp Hoa mà thấy ý chê trách này. Vì trong Pháp Hoa ngài Thiện Cát đã hiểu rõ nói rằng ta nay thật là A-la-hán, há không phải là truy xét tiểu quả đời xưa đã không chân thật, đến nỗi bị chê trách. Cho nên cần phải lấy ba nghĩa của La-hán để giải thích lời chê trách này. “Cho nên...” đến Pháp Hoa mới hiển sáng. “Cho nên bốn...” là dẫn chứng. Bốn vị đại Thanh văn ngài Thiện Cát là một trong số đó.
Để bát mà đi, Nói chung: Trước tự phục mình không phải là kính điền. “Lại ta...” là không phục làm bi điền. Suy nghĩ tới lui, là kết hai văn trên, nghĩ tới thì mình không phải kính điền, nghĩ lui mình không phải là bi điền. Bi kính đều không phải thì làm sao lấy ăn, chi bằng bỏ bát ra khỏi nhà mà đi.
“Lúc ta...” là giải thích riêng. Ngài Kinh Khê nói: “Mang nhiên là tướng chung của không biết, tức không biết Phật pháp Quyền thật khai giá. Nếu khiến biết, tức là đáp rằng Thế tôn biết ta thật là cơ chưa phát. Thế nên phải ngăn thật mà trước phải bày quyền. Đại sĩ sao được liền lấy thật mà chê trách. Đến sau cơ thành mới có thể ngăn quyền mà dùng thật. Như Lai còn tự quán cơ để hợp vật, Đại sĩ sao lại làm tổn hại cơ nghi ta. Ngầm ý như thế nhưng Thiện Cát trong đó đã đáp ý này. Ở hội Niết-bàn Thanh văn đâu nhận lời chê trách của Đại sĩ. Đại sĩ chính vì Phương đẳng không biết đưa vào đề hồ tiện cho phương xa mà thôi. Vì không biết nên im lặng không đáp.
Tiếp là Tịnh Danh an ủi, có hai: a, Nêu ý phân khoa. b, Tùy văn giải thích, An ủi hỏi. Ngài Kinh Khê nói: “Tức là Pháp thân... tức là Pháp thân Như Lai trong việc hóa độ. Làm giải thích này, tức từ lý, cũng nên lại cần phải từ sự mà giải thích. Giả sử Như Lai hóa làm một người lại lấy đây mà kết nạn về việc hóa người há lại sợ sắc. Cật là trách hỏi, tiếp là Thiện Cát đáp.
Lại an ủi giải thích, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chánh an ủi. Ngài Kinh Khê nói: Tất cả pháp. Am, giới, nhập... là tất cả pháp vậy. Pháp này còn thế, sao riêng mình là bi kính. Giải thích. Luận lại.
Nghe là ngộ đạo. Trước dùng Thông giáo giải thích... vì đây nói được pháp Nhãn tịnh là được ích lợi Thông giáo, cho nên trước cần phải ước thông mà giải thích. Hoặc là nghe an ủi nói huyễn hóa liền ngộ được pháp nhãn tịnh.
Hỏi: Được pháp Nhãn tịnh hà tất phải ở Thông?
Đáp: Một đời giáo văn đều lấy được ích sơ quả là pháp nhãn tịnh. Thông giáo có địa chung nên có lợi ích nhỏ. Đã là nghe chê trách nên ích không phải ở Tạng giáo. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Sai ngài Phú-lâu-na:
Có hai: a, Phân khoa nêu ý. b, “Phú-lâu-na...” là tùy văn giải nghĩa: Sai thăm bệnh, và dịch tên. “Chỉ pháp...” là giải nghi. Trong Pháp Hoa, ngài Ca-chiên-diên là trung căn, ngài mãn nguyện là hạ căn. Nhưng nay sai ngài Mãn Nguyện trước ngài Ca-chiên-diên, nên cần phải phân biệt nêu rõ. Hoặc do Phật chọn sai người đứng gần ở bên tả mình mà sai đi, không luận thứ lớp. “Vì sao...” là giải thích ý cơ tiện lợi. Văn từ trang nghiêm, là ngài Chiên-diên chỉ thường vấn nạn, văn từ không được trang nhã nên không sai trước. Khổng tử nói: Nói để làm rõ ý, văn làm rõ lời nói. Không nói ra, ai biết ý chí mình. Nói mà không văn từ thì truyền đi không xa. Nước Tấn làm bá, Trịnh chiếm nước Trần, nếu không có văn từ thì không công phạt được. Đại phẩm... ngài Kinh Khê nói:
Tuy ở Pháp Hoa mà được hạ căn rồi kham nhận lệnh chuyển giáo Bát-nhã. Cho nên ở giáo này không phải trước cũng không phải sau. Cho nên biết đại quyền biến để dắt dẫn cơ nào có nhất định. Có đủ liệu giản, tức hạch hỏi kỹ về đại ý thì ngài Thân Tử chuyên trí tuệ, ngài Thiện Cát là giải Không, ngài Mãn Nguyện thì nói pháp... đều thuận Bát-nhã. Nên riêng nhận lệnh. Đó là gia hộ chỗ đáng gia hộ rộng như luận văn đã nói.
Từ chối không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Từ chối không kham. nêu lý do không kham. Là sơ tâm ba thừa, ngài Kinh Khê nói: Các Tỳ-kheo ở trong tam tạng kia chính là chúng ba thừa mới muốn học tiểu. Tuy tạm hiện làm chúng trong tam tạng nhưng túc căn không phải Tiểu thừa mà ngài Mãn Từ Tử thấy họ là chúng Tiểu thừa mà nói pháp Tiểu nên không hợp cơ và chủng từ xưa, không có công năng của bốn Tất-đàn. Lại hoặc có thể ở trong chúng ba thừa của Thông giáo, nhưng ngài Mãn Nguyện thấy họ đồng với chúng Nhị thừa bỏ phương tiện mà nói tích pháp, tiểu tông còn lỗi thì tiểu cơ đâu thể sinh thiện riêng. Cho nên bị Đại sĩ chê trách. Trách bảo cơ họ là đại do tích tập ở đời trước. Tìm đọc kinh có thể biết, “tầm...” là chê trách từ chối, vì biết đang nói pháp Tiểu. Chánh kể việc không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Trách nói pháp lỗi cơ, Phân khoa bày nghĩa, Phân khoa. và bày nghĩa, Chánh bày. Nhớ nghĩ việc gì, ngài Kinh Khê nói: “Gì là nói biểu thị các thứ, tức bảy phương tiện, cũng là mượn ý ở Pháp Hoa sao được riêng dùng tiểu pháp mà dạy. “Chỉ bốn...” là nêu ý bổn là Đệ nhất nghĩa làm gốc, ba Tất-đàn kia như cành lá. Nương vào cành lá mà tìm thấy gốc thì lý ở trước, nương vào gốc mà tìm cành lá thì lý ở sau. Ngài Kinh Khê nói: Cũng phải hỏi lại nguyên do: Ở tại thế giới vì người mà đối trị là sau. Vì sao không giống ý của chương năm. Lợi căn thì ở thứ nhất, độn căn thì ở thứ tư chăng?
Đáp: Vì người đối trị nên hợp cơ ở nhân thiện ác. Thế giới tức là quả thiện ác. Xem quả thì biết nhân, nghiệm xét nhân thì biết quả, đều là tùy tiện nào có ngại gì? Nếu là người lợi căn cho đến cũng có thể Không dùng đủ ba thứ. Chuẩn theo đây thì đối độn căn cũng phải có nhân quả trước sau này.
“Mãn nguyện...” là kết bày. “ Thời duy...” là tùy văn chánh giải thích, Chê trách không xem xét bản tâm, Giải thích pháp, Chánh giải thích. Nếu không nhập định..., ngài Kinh Khê nói: Đây há không răn kẻ nói pháp sau này ư? Dù trước không có tri căn Tam-muội cũng cần quán xét người sau mới nói pháp... (đẳng) là không biết nương hạnh an lạc dùng Đại thừa mà đáp, tức là người ấy vọng nói Tiểu thừa Đệ nhất nghĩa. Đã có đại cơ thì phải nói pháp Đại thừa Đệ nhất nghĩa, trái lại nói pháp tiểu sai cơ, đến nỗi bị chê trách. Ngài Kinh Khê nói: Nếu chuẩn theo văn sau thì được bất thoái chuyển, phải dùng Đệ nhất nghĩa Tất-đàn từ đầu. Như thế thì các Tỳ-kheo liền thành, không cần dùng ba Tất-đàn sau. Sao được dùng bốn Tất-đàn mà trách ngài Mãn Nguyện?
Đáp: Hợp căn duyên hiện đời của các Tỳ-kheo này thì chỉ dùng chung một lượt bốn thứ, nên nêu riêng ba thứ. Huống lại nhân thấm nhuần chung mà nói lý che phủ vật, thì cần nêu đủ cả bốn. Không nghi ngờ, vì các Tỳ-kheo từng tu bốn thứ này. Đủ như trong sớ văn đã nêu, là nghe ngài Tịnh Danh nói, tức là thế giới Tất-đàn phá ác kiến tư sinh thiện tục đế. Đây đều là ở vị tương tợ. Nếu đem bất thoái mà làm tương tợ là Đệ nhất nghĩa. Từng bậc đi lên mà làm ba Tất-đàn, tức làm bốn Tất-đàn bất thoái. Bất thoái của Thông Biệt nghĩa chuẩn có thể biết.
Tiếp liệu giản, Giản định thường biết cơ. Chướng vô tri của thông giáo, ngài Kinh Khê nói: Cũng phải nói kiến kiến thuộc tri, cho nên coi thông là tri. Nên lấy vô tri mà luận chướng Thông. Bồ-tát cũng thế tức cũng như Tiểu thừa đương giáo, có người được thiền và người không được thiền. Song ở Thông giáo đương thời há toàn là không biết. Ý nói chưa phải là tùy ý chân hóa. Chưa biết mười sáu môn nội ngoại và sáu mươi bốn Tấtđàn. Thế nên chỉ lấy Bồ-tát của Biệt viên. Song ở Biệt viên thì không phán định vị, ắt cần phán thuộc vị ở hạ căn. Nên lấy hạ căn, vì vị đó nhất định. Nên đầy đủ như văn sau hỏi đáp để chọn lấy. Tự động tức chân xuất giả, vị tức Sơ địa sơ trụ mà viên chiếu. Là trí này vô vi chiếu cơ vậy. Tiếp, chọn tâm căn sai khác. Chọn trách nguyên do tâm. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Nếu thế, ngài Tịnh Danh sao được xem đồng nhau, mà văn sau lại nói phải biết tâm nghĩ ngợi của các Tỳ-kheo.
Ý đáp: Phàm phu muốn lợi vật trước phải nhờ biết tâm, vì tất cả các cơ không ngoài tâm. Xưa có ý muốn này nay mới thành cơ. Tiếp, chọn Biệt Viên có hơn kém.
Chọn ý khuyên nhập. Hoặc là phá hoặc là khuyên, ngài Kinh Khê nói: Tức phá tiểu mà khuyên viên từ không có chỗ nhập. Vì người khác mà nhập nên nói là Phương tiện. Tuy phân chia Biệt viên nhưng lại gồm ba. “Lại nữa...”, là lấy chứng lý làm nhập định. Nên trước phải chứng lý rồi mới vì người khác mà nói pháp. Giải thích dụ. Đại tâm tức là pháp tánh. Ngài Kinh Khê nói: Nói các Tỳ-kheo đó, từ xưa đã từng phát Bồ-đề pháp tánh. Bảo khí đẳng đẳng, là lấy báu làm khí, báu tức là khí nên nói bảo khí (đồ đựng báu). Đại tâm rất quý, cho nên đại tâm như báu vật thọ pháp cho nên hiểu như là khí (đồ đựng). Tuy dùng chữ khác nhưng hiển bày đại tâm. Chê trách không quán tâm niệm. Đây như ngài Thân Tử dạy hai đệ tử của mình đã dùng Tiểu thừa quán môn sai cơ làm ví dụ cho văn này, vì đại mà nói tiểu Niết-bàn nói: Ta xưa ở nước Ba-la-nại, lúc đó ngài Xá-lợi-phất dạy hai đệ tử của mình, một người quán xương trắng, một người đến hơi thở, trải đã nhiều năm đều không được định, liền sinh tà kiến nói không có Niết-bàn, không có pháp vô lậu. Nếu có thì ta đã được rồi. Lúc đó ta thấy các Tỳ-kheo ấy sinh tâm tà nên trách Xá-lợi-phất rằng: Ông không khéo dạy, vì sao lại vì hai đệ tử nói pháp điên đảo. Hai người đệ tử của ông tánh mỗi người đều khác, một người chuyên nghề giặc áo, một người là thợ vàng. Người thợ vàng phải dạy phép sổ tức, người giặt áo phải dạy quán xương. Ông đã dạy lầm khiến họ sinh ác tà. Lúc đó ta theo chỗ thích ứng của hai người ấy mà nói pháp thì đều chứng được A-la-hán”. Đại thừa chân thật... là lưu ly bền chắc để dụ cho đại thật, nước trong không bền chắc dụ cho tiễu hư. Lưu ly nói đủ là Phệ-lưu-ly, Hán dịch là bất viễn (không xa), nghĩa là ở tây vức có núi cách thành Ba-la-nại không xa. Báu này lấy ở đó ra nên gọi tên như thế. Tánh nó rất cứng chắc, sức người nung đốt không thể phá hoại được. Chữ xưa chỉ nói lưu ly, người sau mới thêm tiếng ngọc. Tả đại trọng trong ngô đô phú có nói rất xa lưu ly cùng hà tuất. Âm thúy chú giải rằng lưu ly và hà tuất đều là tên các ngọc báu. Tiếp chê trách không quán căn nguyên. Có chướng phải nói Đại thừa để đối trị, ngài Kinh Khê nói: Chướng này phải hợp dụng Đại thừa mà trị, cho nên không phải tiểu mà đối trị được. Chưa có bệnh ghẻ có niệm đắm trước pháp Tiểu thừa. Là chớ làm thương tổn khiến thành bệnh ghẻ Tiểu thừa. Đại luận nói: Người nghe pháp cần phải có chủng tử đời trước. Tín tâm bị ghẻ như nằm trên bụi độc. Thân nếu không bị ghẻ lở lói thì chất độc không thấm vào được. Luận nguyên là dụ cho đại nay mượn dụ tiểu. Nếu vốn “không” có ghẻ tiểu, dầu nằm trên pháp độc tiểu giáo thì nó vẫn không thấm vào được. Cần gì dùng tiểu. Lấy thân bị ghẻ cũng là lấy tiểu mà làm tổn hại Pháp thân của đại. Xưa vốn đã phát đại, vì Pháp thân hoàn toàn đầy đủ. Tiếp, không quán sự ham thích, Nêu chung. và Giải thích riêng, Đối trước chọn nêu, có hai: a”. Chánh nêu sở thuộc là ba trong mười Lực:
1. Xứ phi xứ lực.
2. Trí nghiệp lực.
3. Định lực.
4. Căn lực.
5. Dục lực.
6. Tánh lực.
7. Chí xứ đạo lực.
8. Túc mạng lực.
9. Thiên nhãn lực.
10. Lậu tận lực.
Ba lực tức là các lực thứ tư, năm, sáu.
“Trong đây...” nguyên do tánh thiếu, nói tánh thiếu, Chánh nêu. Trong đây chỉ nói căn dục. Đẳng (v.v...) Là trước nói căn nguyên chúng sinh. Đây nói muốn làm đại đạo. “Dĩ thiện...” là giải thích nguyên do tánh thiếu. Ngài Kinh Khê nói: Nói căn nếu thành tức không thể đổi. Nay tâm các Tỳ-kheo cũng có thể phát. Thế nên trước dùng ba nghĩa mà chê bác. Tuy các văn khác nói thì ba đời lại được dùng chung tên đó. Nên nay nhất định cần phải giải thích. Các Tỳ-kheo đổi Tiểu vào Đại, tức đối cảnh mà sinh ý muốn. “Cho nên Đại...” là dẫn chứng. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Tâm ấy đã sâu sao không gọi căn?
Đáp: Được tên chỗ khác nên không gọi. Tên căn là do thường sinh tánh, tức là không đổi, nên cũng gọi là thâm tâm. Nếu chưa có thể sinh thì không phải căn. “ Nếu quá...” là giải thích thành. Ngài Kinh Khê nói: Thiện căn bền chắc sao lại dùng tánh dục cùng được tên, giúp giải thích ý này. Quen dục thành tánh. Tánh ở vị lai, do tánh mà thành dục thì tánh ở quá khứ. Thế thì căn dục hiện tại nhất định là ở quá khứ. Lại dục đối duyên ắt cần phải ở hiện tại. “ Dục tánh...” là kết bày gồm chê trách. Ngài Kinh Khê nói: Dục tánh liên quan nhau là do cùng dục đối luận cho nên tánh thông quá khứ vị lai. Tiếp, chánh giải thích. Dụ, có hai: a, Chánh giải thích ý dụ. Ba thứ tâm ham muốn là muốn hiển lý, muốn phát trí, muốn tu hành, muốn hiển Pháp thân... ngài Kinh Khê nói: Trí là thường đi, đạo bị dẫm đạp cho nên biết bị dẫm đạp tức thật tướng. Cho nên biết đại đạo cũng là tiểu, chỗ hành Tiểu thừa ở trung mà nhận lấy chân đế. Cho nên lấy dụng năng hành dùng để hiển đại đạo sở hành. Muốn tu..., hành đại đạo là do tâm. Đại tâm dẫn dắt hành muôn thiện cùng về, tức là duyên nhân. “Cho nên...” là kết thành, đây là giải thoát. “Nếu nói...” là phòng bị vấn nạn, sợ bị vấn nạn nên nói kiến chân. Kiến và chân không khác, tức đưa thí dụ mà ngăn rằng không gì bằng. Cho nên lấy năm nghĩa mà làm riêng. Nói năm nghĩa:
1. Trùng và báu khác nhau, chân và trung khác nhau.
3. Dừng và không dừng, cực và chưa cực.
3. Nhiều ít khác nhau có nội ngoại giới.
4. Tự và tha phần tác và vô tác.
5. Ích và không ích, hóa độ gần xa.
Ánh sáng báu, vì nhật cung do hai thứ báu tạo nên. Ánh lửa đom đóm, Dị Thông Quái Nghiệm nói: Tiết lập thu, loài sâu trong cỏ hóa làm đom đóm. Quảng nhã nói: Cảnh thiên đom đóm lửa lân. “Hai thứ này...” là kết thành ba đức. Chuẩn theo kết thành này, thì biết đại đạo là chánh nhân. Nhật quang là liễu nhân, vạn hạnh là duyên nhân, tức là dụ biển lớn vậy. Văn kinh nói trước là hạnh sau là trí, tức ba thứ dung nhau, hà tất phải thứ lớp. “Lại nữa...” là ước lỗi mà kết về. Bốn tâm này là bốn Tất-đàn của Đại thừa. Khoảng giữa bỏ quên... là lúc đầu khi kết duyên thì sức ngài Mãn Nguyện Tiểu thừa Không thể biết được.
Tiếp kết lỗi, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chánh kết lỗi mà trách. Ngài Kinh Khê nói: Tuy bị báo chướng che lấp, báo chướng tức là lui sụt Đại thừa xong, về sau ở trong ba đường ác. Đã nói lưu chuyển thì phần nhiều không phải là chỗ lành. Nếu ở nhân thiên thì không gọi là báo chướng. Thế nên phải nói là đồng. Qua ba ngàn trần điểm trong Pháp Hoa rồi sau mới được ngộ. Cho nên người đời trước chưa nhập chánh vị, đã ở thời Phương đẳng được gặp ngài Tịnh Danh đến khai thị cơ duyên giảng đạo dẫn dắt ắt đến Pháp Hoa được nhập chánh vị. Nay dẫn Pháp Hoa là do lẽ ấy.
Hỏi: Thuở xưa... trước nói là đã phát từ lâu, lại nói ở khoảng giữa quên mất, cho nên cần phải hỏi có lỗi cùng không lỗi. Và lỗi ấy do nói lợi ích gì. Lại lỗi và không lỗi thì có duyên nhân và liễu nhân. Liễu nhân thì như văn này. Nếu duyên nhân thì việc liên quán đến ngài đạo sinh nói thiện và không chịu báo. Nghĩa đó dù một mảy lông cũng không mất, huống là tâm Bồ-đề liễu nhân. Lý hợp ở đây là nói rộng về lý lỗi cùng không lỗi. Đó là đại ý chỉ về thọ và không thọ, mượn biển mượn ánh lửa để khéo dụ. Dụ để hiển sang việc kết lỗi. Kinh có hợp pháp dụ văn đầu là pháp, cũng như dụ người mù vậy. “Không thể bỏ hợp, không thể đoạn trần sa... gọi là vi”, ngài Kinh Khê nói: Thượng thượng là nói trần sa căn cứ pháp dược (thuốc pháp). Tri căn tức là phá hướng trần sa. Viên chiếu chiếu vô minh trần sa trên vô minh trần sa tức là sở phá, tri căn viên chiếu tức là năng phá. Cần căn cứ viên biệt phân biệt hai thứ này, cho nên nói như mù, trước là ước pháp mà nói không, nên không có hai mắt, kế là căn cứ nhân mà nói Không. Không căn Bồ-tát... tên trần là dùng chung cho phàm phu, nhưng Bồ-tát viên này thì căn trần thuộc ba đế. Lại như mù bẩm sinh trở đi đến căn lợi độn, thì phải biết Nhị thừa hoàn toàn không có chỗ thấy của năm nhãn Đại thừa, nên nói như mù. Đây thì năm nhãn này là ý đoạt.
Hỏi: Ba nhãn trước thì hai giáo Tiểu thừa cũng thường được, còn pháp nhãn thì Bồ-tát của ba giáo cũng thường được, vì sao năm nhãn đều đoạt nói là không?
Đáp: Tùy giáo nương lý, tướng nó có khác. Nếu nói chỗ thấy của chư Phật Bồ-tát tức là bốn mắt đới lý, thì Địa, Trụ được từng phần, chỉ Phật là rốt ráo. Cho nên nhục nhãn có lúc khắp thấy mười phương. Thiên nhãn không dùng hai tướng, mà thấy tuệ nhãn. Mới nói là đệ nhất tịnh. Vì thế, pháp nhãn và Phật nhãn nguyên do có rất khác. Cho nên trong văn không luận riêng, đầy đủ như văn trước đã luận xong. Như thế năm nhãn đều thuộc Phật nhãn đâu thành năm thứ riêng?
Đáp: Không phải thế. Chư Phật Như Lai Pháp thân Bồ-tát là dựa vào thể mà phân dụng, năm tướng không đồng. Hơn nữa, nhục nhãn thấy sắc thô, ở chỗ sắc thô mà thấy trung đạo. Từ bên sắc thô gọi là nhục nhãn. Từ chỗ thấy trung liền gọi là Phật nhãn. Cho nên chỗ thấy sắc gọi là dụng. Phật nhãn chánh đáng là thể trung đạo. Còn ba nhãn kia thì so sánh như vừa nói. Nếu cùng giải thích ban đầu mà nói thì Nhị thừa chỉ mù hai thứ pháp nhãn và Phật nhãn. Nay từ đoạt mà nói nên nói mù cả năm nhãn. Huống lấy Phật địa mà so thì Bồ-tát còn đoạt huống là Nhị thừa. Pháp Hoa chột mắt vẫn từ ban cho mà luận. Ngài Tịnh Danh nhập định như các Tỳ-kheo, ngài Kinh Khê nói: “Nhờ túc mạng trí. Nhờ là lấy thứ này giúp thứ kia nên gọi thế. Nhưng nay ngài Tịnh Danh trụ ở vị vô cấu; đâu cần nhập định sau đó mới biết ư? Nay bày tướng nhập khiến các Tỳ-kheo biết, thì khiến các Tỳ-kheo ghi ân kính trọng. Ở năm trăm chỗ Phật tức đã quên. Nếu dựa vào Pháp Hoa thì trước là năm trăm, hoặc nương vào Phật này. Nếu chuẩn theo Đại kinh sau bốn hằng thì năm trăm chỗ Phật thật là không nhiều. Tuy không có nói trần điểm và nêu hiệu một vị Phật nào, nay đã được lợi ích. Từ ngài Tịnh Danh phải biết. Ngài Tịnh Danh hoặc lúc đó là quyến thuộc thầy trò đem việc bác không phải Tịnh Danh cũng ở năm trăm vị mà trợ giúp khiến phát. Phàm một câu được ích lợi đều không uổng công. Cho nên hóa nghi của các Thánh hoặc riêng hoặc chung, hoặc gồm hoặc chánh thức đều do túc duyên không đồng.
Các Tỳ-kheo tâm chí khai phát, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, được bổn tâm. Xưa ở vị quán hành mà lui sụt, nay lại được., Nói chí kính nát thân cũng không thể báo đền. Ngài Kinh Khê nói: Ngày bỏ ba hằng chưa đáp được một câu, há lại nói về luật ở tiểu giáo. Muốn làm đại hạnh “hạnh Đại thừa) đâu thể nguyên hình thức. Kiểm xét đại tiểu hai luật khai giá khác nhau. Giáo quên phạm không ở Thinh văn, há nghe pháp Đại thừa mà khép nép sợ trái. Đề bà bỏ y Đại thừa, cũng thường mất tướng lễ tục. Ngài Thiện Cát dù tiểu đâu đủ dứt trừ. Nay bảo là tìm về bổn vậy. Ngoại phàm lễ kính bậc Đẳng giác đâu đủ nghi ngờ. Là luận về tích cũng quên vì phạm mà tạm lập, vốn “không” phải là lễ lâu dài. Vì được lợi ích sâu xa bất giác mà khuất thân. Đời gần đây kẻ tầm thường hoặc thỉnh nói mà hiểu sai, hoặc cẩu thả vì tài lợi mà uốn mình, hoặc pháp phục mà lạy kẻ bạch y, bảo Tịnh Danh kia là đạo câm, cho ta đây là nguồn gió tân học, làm ô nhiễm Tăng-già, trái phạm luật nghi, là tướng diệt của chân pháp. Tự cho là nghĩ kịp bước Thánh thì rất lầm xa ngàn dặm. Ngài Từ ân nói: Kẻ tân học chưa biết đủ lễ Duy-ma há ngài Từ Ân không hiểu ý pháp lớn về vong phạm hay sao? Ấy chỉ là răn kẻ ít tu đời mạt.
Ngài Tịnh Danh nói pháp. Lời thuyết pháp kinh văn không ghi.
Cho nên biết bản phạm rộng lớn không phải luống dối.
Các Tỳ-kheo được bất thoái chuyển. Viên giáo..., ngài Kinh Khê nói: Từ tợ đến chân tức ba bất thoái. Trong tợ có hai thứ bất thoái; tức vị và hạnh. Đồng luân tức niệm bất thoái, từ xưa đến vị mà thôi. Vì năm phẩm cụ hoặc vị nó cũng có lui sụt. Cho nên khiến lưu chuyển quên mất quán hành. Nay gặp ngài Tịnh Danh thì rỗng sáng. Lại nói vị bất định, là dùng vị quán hành gặp duyên thiện ác tấn thoái bất định nên nói bất định vị. Hoặc giáo nào lỗi. Tuy ba bất định mà so với năm phẩm của Viên thì đều là ngoại phàm. Tuy ở văn kinh mà không căn cứ tướng vị cho nên khiến không thể chuyên ở một văn.
Ngài Phú-lâu-na chào cung kính. Cuối cùng là kết thành chẳng kham.
-Sai ngài Ca-chiên-diên.
Có hai: a, Phân khoa nêu ý. b, “Ma-ha...” là tùy văn giải nghĩa, Sai thăm bệnh. Tu-đà-da Sa-di..., Thập Tụng nói Sa-di bảy tuổi cùng Phật nghị luận. Phật hỏi năm ấm là một hay khác... trí vượt kẻ hai mươi tuổi, Phật bèn cho thọ giới cụ túc. Luận Câu-xá nói Phật hỏi nhà con ở đâu? Đáp rằng: Ba cõi không nhà mới xứng tâm Thánh. Phật khiến làm phép Yết-ma cho thọ giới Cụ túc. Mười tiên luận nghị như Đại kinh quyển ba mươi lăm, ba mươi sáu nói. Ngài Kinh Khê nói: Đầu tiên là Sa-di, cuối cùng là Niết-bàn. Lấy đây mà chuẩn biết khoảng giữa có thể thấy. Tin biết người ấy cũng trải qua năm thời. Đây là nghị luận thấy cõi cơ được đạo. Tức ở cõi trời ấy mà nhập Niết-bàn, là nói sau khi Phật diệt độ cho đến giữa trời nghị luận, cũng là nghiệp giải thoát. Khi Phật còn tại thế, ngài Ca-chiên-diên làm luận Côn-lặc trình bày hữu môn Tam tạng. Vì tôn giả từ môn này nhập đạo. Luận này truyền ở nước Nam Thiên Trúc không truyền đến nước Trung Quốc. từ chối không kham, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Từ chối không kham. Nói lý do không kham, Nêu ý phân khoa. “Ức niệm...” là tùy văn chánh giải thích. Phật lược nói pháp yếu, Nêu chung kinh. “Phật...” là giải thích riêng, Nêu câu giải thích tướng, “như tổng...” là giải thích tướng. Ngài Kinh Khê nói: Tướng chung nói khổ đế, tức tên tóm lược, không giải thích nhiều, tức nghĩa tóm lược. Chỉ nói rằng có thân đều khổ không nên yêu thích, tức nghĩa tóm tắt. Tên rộng nghĩa rộng chuẩn nói có thể biết. Nếu thế đến nghĩa thứ hai mới nói văn kinh. Kinh tự nêu năm thứ không giải thích nhiều. Chuẩn việc nêu năm tên cũng có thể gọi là tên rộng mà nghĩa tóm. Cho nên khiến ngài Chiên-diên rộng diễn nói. Nay chỗ chê trách không trách nghĩa rộng, chỉ trách dùng Tiểu thừa Không xứng cơ nghi. Song kinh đều bảo là nói pháp yếu tức là tên tóm lược vậy. Sau tên tóm lược là nói về đại tiểu. Ngài Ca-chiên-diên không hiểu nên lấy tiểu mà giảng dạy. “Phật vì...” là kết ý chỉ kinh. “Đồng...” là giải thích nghi. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Chiên-diên sao được lấy năm hành mà gọi là hiểu năm nghĩa Phật. Năm nghĩa Phật đâu phải thế? Đáp ý: Nghĩa hành và thiền chỗ nương có khác. Giải thích pháp yếu, Nhập đạo hơn hết nên là cần yếu, “khổ... bốn hành...” Ngài Kinh Khê nói: “Chỉ là bốn Niệm xứ mà thôi. Đồng duyên với khổ, nên gọi là chung. Đại tiểu nhập đạo không như ở đây, nên nói là yếu. Nếu thế sao không lập bất tịnh niệm xứ mà bỏ đi lại nói không?
Đáp: bất tịnh cho nên không. Nếu thế vì sao không nói biệt tướng niệm xứ. Đã có nói chung. Nay từ thân nhập vào Noãn pháp mà nói. Cho nên lại nói chung. Tùy dùng một hạnh, là ở vị hạ nhẫn khắp quán mười sáu hành tướng, ở vị trung nhẫn trải hai mươi bốn vòng. Giảm hạnh thì giảm duyên bảy vòng. Cho nên đến vị thượng nhẫn thì lưu một hạnh một duyên được nhập kiến đạo. Căn cứ nhân có hai thứ khác nhau: Lợi căn là kiến hạnh, Nếu đắm trước ngã thì lưu ở vô ngã hạnh, nếu đắm trước ngã sở thì lưu ở không hạnh. Độn căn là ái hạnh, Nếu kiêu mạn nhiều thì lưu ở vô thường hạnh, nếu giải đãi nhiều thì lưu ở khổ hạnh. Cho nên nói tùy dùng một hạnh, đủ như Thích Thiêm đã nói.
Tức ba Pháp ấn cho nên yếu. Ngài Kinh Khê nói: Đối ba pháp phàm khai hợp là thích nghi với vật. Tất cả kinh luận văn đều như thế. Nay khai hợp này cũng chỉ ở lệ cùng loại, tức hợp thành ba, nếu khai thành năm, tức là năm pháp ấn có gì không được. Như bốn Ưu-đàn-na trong kinh Địa Trì. Ưu-đàn-na, Hán dịch là ấn. Ở bốn ấn ấy lại hợp bất tịnh hoặc lại hợp không. Thế nên ba thứ Tiểu thừa Không thể thiếu. Pháp sinh tử cùng Niết-bàn khác nhau cho nên ấn riêng. Sinh tử cần giữ còn trước sau hai thứ cho nên sinh tử ấn không thể một được. Vô thường là ấn đầu, vô ngã là ấn sau. Trước phải quán vô thường mới sinh chán lìa. Cho nên dùng ấn đầu đã chán lìa rồi mới có thể giữ được năng quán. Cho nên dùng các ấn sau để suy tìm năng quán cho đến không thể được, tức khế hợp với Niết-bàn. Do đó Niết-bàn chỉ dùng một ấn. Nếu Đại thừa pháp ấn chỉ có một. Vì sinh tử và Niếtbàn thể không khác nhau nên gọi là thật tướng ấn.
Tức ba thoát môn cho nên yếu. Chiên-diên nói rộng, Lược giải thích. “Lại rộng...” là rộng giải thích, Chánh giải thích, căn cứ pháp chánh chỉ bày, Chính nói nghĩa rộng. Ngài Kinh Khê nói: Một ngang hai dọc, là ba cõi phải dọc. Nay nói ngang tức từ tâm một đời ba cõi, các kiến phải ngang. Nay nói dọc, là trải ba đời bốn câu mà phân biệt. Lại các kiến do thân thứ lớp tương sinh, nên cũng nói là dọc. Lại cũng có thể nói các kiến là ngang vì luông tuồng khởi lên, cho nên ba cõi là dọc, cạn sâu khác nhau. Lý cần phải tế, căn cứ các kiến mà luận rõ năm nghĩa. Kiến chuyển đổi đều dùng năm nghĩa mà truy tìm.
Khiến thành việc người sau nhập đạo khác với việc đếm báu luống công. Cho nên phàm các việc nhập đạo đều từ dọc, đầy đủ như trong phá kiến biên của chỉ quán. Các luận nói rộng là khiến chánh pháp trụ lâu trên đời. Nếu thường ở đây mà chê trách người đếm báu không được nhập đạo, là lỗi ở người thầy không lỗi ở luận chủ.
“Chỉ Ca-chiên-diên...” là căn cứ luận năng thông, Chính nói Côn-lặc, Nói ý chỉ thung dung của luận, Nói nghĩa chỉ trong luận. Côn-lặc, Hán dịch là Khiếp tàng. Trình bày hai thứ cũng là môn. Nếu nói niệm xứ..., ngài Kinh Khê nói: Đây là nói công năng của môn đều nói về mê ngộ, nghĩa phải có hai môn hữu và vô. “Thánh hạnh là không tham...” ba thứ việc làm ra của Thánh nhân gọi là Thánh hạnh. “ Chỉ Phật...” là hiển bày Phật ở đời không tranh cãi. Nhập môn tuy khác... là bốn môn tuy khác, nhưng chứng quả không khác. Mỗi người đều nói về môn của mình, tức Tỳ-đàm, Bà-sa thì nói về hữu môn, Thành Thật thì nói về không môn, Côn-lặc thì nói môn hai thứ cũng “cũng hữu cũng vô). Như vì Xiển-da nói lìa hữu không có kinh, tức môn song phi “đều không phải). Nhân sư mất ý chỉ, chấp chặt thành tranh cãi. Cho nên đời Tống, ngài Cầu-na-bạt-ma được quả thứ hai. Đến khi diệt độ thì nói di chúc dặn dò đệ tử A-sa-la đem về Thiên Trúc để khuyên răn các sư. Vua Tống Văn Đế bèn sai dịch ra tiếng Hoa, tóm tắt rằng các luận mỗi thứ đều có đầu mối khác nhau, nhưng lý tu hành không hai, kẻ chấp thì có phải quấy, người thấu suốt thì không trái, nên không tranh cãi. “Chiên-diên...” là kết thường thông suốt được ý chỉ. Ngài Kinh Khê nói: Nếu không khéo thông tam tạng, là ý nói có hữu vô chỉ là thuật lại môn mình được nhập. Kẻ học phụ thêm thường thấy suốt ở bốn môn. Cho nên khiến truyền ở nước Nam Thiên Trúc. “ Tỳ-đàm...” là lược chỉ ba môn, ngài Kinh Khê nói: bốn môn đều năm, là tất cả đều đủ bốn nghĩa khổ... tịch diệt chỉ là chỗ quy về của bốn nghĩa. Liệu giản, Dẫn chứng luận chỉ. Ngài Kinh Khê nói: Mắt xanh đến người độn căn. Mắt xanh toàn là phá. Thế nên hai ít cũng là người độn căn. “E đây...”, là nay phán ý luận, bốn môn so nhau lần lượt cùng được lợi độn. Mới dùng môn thứ tư là người lợi căn bậc nhất. “ Hỏi Phật...” là quy lỗi cho Chiên-diên. Ngài Kinh Khê nói: Sinh và mất nhiều mối, là hoặc mất nghĩa Đại gồm dùng tên Tiểu, tức như giáo này. Hoặc mất tên Đại mà dùng nghĩa Tiểu, tức như Cachiên-diên. Đây không phải là ý Phật. Hoặc trước tên Đại sau dùng nghĩa Tiểu, như Nhị thừa của Thông giáo. Đây cũng không phải là ý Phật. Hoặc trước tên Tiểu sau dùng nghĩa Đại, như nay ngài Tịnh Danh đã dùng. Đây là được ý Phật. Hoặc trước tên tiểu và gồm dùng nghĩa tiểu. Như Bồ-tát Thông giáo. Biệt giáo cũng thế. Cũng không phải ý Phật. Hoặc trước sau đều tiểu như Tam tạng giáo. Chắc chắn đây không phải là ý Phật. Hoặc trước sau đều đại tức độn Bồ-tát của Thông giáo thì phân nửa là ý Phật. Trong một âm mà có nhiều ý thú của chúng đại cơ. Trong đó tuy không phải ý Phật, nhưng không phải là giáo một đời hợp cơ. Đậu không đúng cách nên nói là không phải. Chỉ ngài Ca-chiên-diên không dùng đúng ý Phật. Đối với cơ vô ích trái lại bị chê trách. Chính kể việc không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Trách tâm năng thuyết là quấy, có hai: a”, Chính căn cứ năng thuyết tâm quấy. Ngài Kinh Khê nói: Trong đây ý nói là do tâm sinh, tâm đã sinh diệt sao nói vô sinh. Nói từ tâm sinh, chứng tùy tâm được, nói cũng tùy tâm chứng. Hãy tin tưởng không còn lẽ nào khác. Cho nên lấy tâm nghiệm pháp thì biết pháp ắt như tâm. Trọn không có tâm sinh diệt thì có thể nói thật tướng Đại thừa. Thật tướng là tên chung cần lấy lý mà định, ý trách là điều nói ra còn không phải là thật tướng của Thông giáo. Sớ văn giải thích gồm có năm lớp, nhưng pháp nói ra do tâm quấy của ngài Ca-chiên-diên không ngoài năm thứ này. Đây đều là năng trách và sở trách đối nhau mà so sánh thì gồm chung bốn môn. Tất cả lý hạnh đồng khác đều là sinh diệt. Văn căn cứ hai đế mà giải thích. “Lại bốn...” là dựa vào năm nghĩa mà giải thích. “Lại nêu...” là căn cứ quán dụng giải thích. “Lại Chiên...” là ước bổn môn giải thích. e, “Lại thinh...” là căn cứ quán thể giải thích, Dựa theo tiểu nói lỗi. b, Hà giả...” là ước Diễn mà chọn bày. Ngài Kinh Khê nói: Thông giáo tám Địa trở lên là ý nói chỉ có tên song lưu mà thật không có lý song lưu. Tuy không sinh diệt có giáo mà không có người, vì song lưu đó không có thật quả. Biệt giáo Sơ địa thì lý tuy là thật địa nhưng cũng không người. Tuy dùng Thông mà trách, nhưng Thông không phải là ý giáo, huống lại ý văn cũng không phải chuyên thông. Cho nên đến Biệt giáo còn nói là không người. Đờn tu-la, không vỗ mà kêu để dụ cho tức tịch mà nói.
“Lại không phải...” là gồm căn cứ bất tri căn và duyên. Ngài Kinh Khê nói: Không phải chỉ... là nói công dụng của cơ giáo. Nên biết ý trách chính là dùng chân của Thông giáo.
Trách chỗ nói pháp quấy, có hai: a, Lược bày đại ý. Chỉ thông nhập chân, chỉ là chỉ là. b, “Các pháp...” là nói rộng văn kinh, Chánh giải thích, Đối chung năm pháp Tiểu thừa mà trách, Chánh giải thích năm pháp. Ngài Kinh Khê nói: Năm nghĩa đều cùng tạng đối luận, đều chánh chê tam tạng tên đồng mà nghĩa khác, vì do cảnh đồng mà quán khác. Các pháp rốt ráo, tiểu cũng gọi không mà không phải nghĩa không. Không của tiểu chẳng có ý chỉ, nghĩa chân không thành. Cho đến tịch diệt đồng hay khác chuẩn theo đó mà nói: Tam tạng nói về sinh pháp hai Không, tức hoặc một hoặc ba đầy đủ như ở chương Mục-liên đã luận rõ. Đại thừa (diễn) nói thật tướng chân không là nghĩa thông cả chân trung. Đây chính dùng chân mà ngầm gồm trung đạo. Cho nên ở đây chính cùng ý chương Mục-liên được nói cho các quốc vương, trưởng giả. “Đều...” là giải thích phẩm Quán Chúng Sinh có đại ý hơi đồng. Các thứ khác không phải toàn không, đều chẳng kịp ba chỗ. Ý kinh trong đây cũng chánh nói nghĩa Thông, nên bày nói Thông. Cho nên biết bốn nghĩa này dần dần ẩn mất không hiện. Ở trong tịch diệt mà thiên hiển Viên Biệt. Thế nên trong văn chỉ cho đại Niết-bàn. “Tam tạng...” là đối luận kết bày. Ngài Kinh Khê nói: “Đây là nẻo thông, tức chỉ lấy chương này thành nghĩa ba ý, cho nên nói là nẻo thông. Cho nên văn trước sau phần nhiều đều gồm nói trung đạo. Cho nên trong đây nói cũng được tức là đẳng, tức giáo pháp thông sâu sắc. “ Nếu phá...” là riêng căn cứ bổn môn Chiên-diên mà chê trách. Liệu giản, Hỏi Ngài Kinh Khê nói: “Chỉ duyên những thứ gồm trước. Thế nên hỏi đáp muốn khiến ý sáng tỏ. Ý hỏi: Vì hiển bốn vinh nên phải lấy vinh mà chê trách. Tuy dính mắc chữ nghĩa nên khổ... vẫn còn. Cho nên nói là khô. Chỉ là bốn khô hiển bày vinh ở đâu.
Đáp: Nói tức khô là vinh. Ngài Kinh Khê nói: Đáp ý nói phá vụng vào khéo, vụng khéo tự khác. Hiển bày ý phá vụng tức nhập trung vậy. Mượn kết vụng này mà thành ý khô khéo tự thành vinh. Cho nên trước vào khéo, khi vào rồi thì thấy trung. Về nghĩa song du thì khô tức vinh vậy. Cho nên dẫn hai chim thì nghĩa đó khéo thành. Cho nên cư sĩ trách tức gọi là vinh. Khổ... mỗi mỗi đều nói nghĩa, cho nên có thể kết là chẳng phải khô chẳng phải vinh. Vì chữ nghĩa không gián đoạn chân trung cho nên lập nói bất sinh bất diệt, ngã và vô ngã không hai... huống cửa thông này là nguyên thông diệu lý. Hai chim cùng dạo bay “song du”. Chim là dụ cho phẩm mà nói: Một là Ca-lân-đề; hai là uyên ương, cùng bay đậu, không hề bỏ nhau. Người xưa có nhiều cách giải rõ như trong lời sớ. Nay Đại sư dùng con trống chỉ thường, con mái chỉ vô thường. Sinh tử có tánh thiện, cho nên vô thường tức thường, như hai chim đang đậu dưới thấp. Niết-bàn có tánh ác, nên thường tức vô thường như hai chim bay trên cao. Thế thì ở trên cao hay ở dưới thấp, cùng dạo bay hay cùng đậu nghỉ, thì nghĩa đều thành. Cho nên nay tuy kết khô, mà gọi khô tức vinh, vì hai chim không lìa bỏ nhau. Trong pháp vô ngã có chân ngã, đây là chỉ văn Đại kinh nói ngài Ca-diếp khen Phật. Cũng phải lệ rằng trong vô thường có thường, trong khổ có vui, trong không có chẳng Không, tất cả đều là hai chim cùng dạo chơi, tức ý khô là vinh vậy.
“Tịnh Danh...” là nói ý bộ cũng ngầm kín. Ngài Kinh Khê nói: “Tịnh Danh kết chân... chính là nêu ý đáp, đầy đủ như vừa nói, chân tức là trung, tiếng song du “cùng dạo) tất là tương tức. Cho nên không sinh Không diệt, tuy kết vô thường mà không chuyên vô thường vì nghĩa vô thường vẫn thông. Cho nên cần phải chê trách Nhị thừa của Tam tạng, khiến ở tòa này mà thành lợi ích sinh tô.
Tâm các Tỳ-kheo được giải thoát. Ngài Kinh Khê nói: Các Tỳ-kheo đó được lợi ích không do Phật mà do ngài Tịnh Danh được lợi Thông giáo. Nên biết duyên ở cả hai Thánh vậy, đầy đủ như trước nói. Được La-hán, trước nói chân ngã, lại nói thật tướng cho đến song du “cùng dạo), nay kết được La-hán là nghiệm trước tiến lên nói lý Biệt Viên. Nói công lực của giáo không phải chính là tướng chê trách. Tâm giải thoát là đều tuệ. Thoát là tuệ. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Sai ngài A-na-luật:
Có hai: a, Phân khoa nêu ý. b, “Sát-lợi...” là tùy văn giải nghĩa, Sai thăm bệnh. Sở hạ, tức như Niết-bàn huyền ký. Từ chối không kham, Phân khoa. Và tùy giải thích, Từ chối không kham. Nêu lý do không kham, Phân khoa. Và tùy giải thích, Phạm vương đến hỏi. Thống ngự đại thiên, thì Gia ngữ nói rằng: phàm pháp đức độ là vật để chăm dân cũng như người dạy ngựa phải có dây cương hàm thiết. Lại nói dạy bốn ngựa, phải giữ sáu dây cương. Ngự trị thiên hạ, chính là sáu quan. “Nay thần...”, Thiên tử là người cai trị, bởi lấy nghĩa này vì Thiên tử (vua) ở ngôi vị tôn quý nhất, cai trị các phần dưới vậy. Nay Phạm vương thống lãnh tam thiên, cũng như chế trị bốn ngựa nên nói thống ngự. Báo được Thiên nhãn, ngài Kinh Khê nói: “cũng có sinh được quỉ thần... và phát được.... Na-luật đáp, Chánh giải thích. Kinh nói: Trong tay có quả Am-ma-lặc. Triệu sư nói: Quả hình giống trái tân lang “quả cau) ăn vào trừ phong hàn. Lúc đó tay cầm quả này nên liền lấy làm dụ. Đại Bích-chi... ngài Kinh Khê nói: Hỏi Phật biết cả Phật mười phương chăng?
Đáp: Cũng biết cũng không biết. Nếu chuẩn theo chỗ thấy một trăm Phật thì thế giới đâu thể Không có Phật. Lý phải hợp mà biết. Chỉ sợ chỗ thấy không biết có Phật. Lại cho biết, là chỉ biết một cõi chỉ có Phật giáo hóa, biết cũng nào có hại gì? Cho nên trong hai mươi bộ cũng có cho biết có Phật mười phương. Đây cũng là bậc thang Tiệm đại giáo.
Liệu giản, Dùng Phạm vương đối Thiên nhãn Tiểu thừa mà chọn lựa. Hỏi nếu thế đâu có gì khác, tức vừa nghe ức chế Tiểu thừa đồng với Phạm thiên. Nay hỏi nếu nói đồng thì sao lại phân làm Phàm Thánh có khác. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi khác mà vấn nạn đồng. “Đáp...” là năm thứ bốn thiền, tức là thiền căn bản và quán luyện huân tu. Ngài Kinh Khê nói: Đáp nêu ý khác một mực chỗ thấy xa gần tuy đồng nhưng lại báo... các nhân cũng không phải một. Văn có ba thứ khác: Một là báo và tu khác; hai là chung và riêng khác; ba là thông và minh khác như văn.
Lấy Phạm vương đối nhục nhãn người viên chọn ý hỏi: Sáu căn của tịnh nhân thì sáu thấy đại thiên sao khác Phạm vương. Ý đáp nhục nhãn của Pháp Hoa còn vượt bậc Tiểu Thánh huống là Thiên nhãn Phạm vương. Mở mang, ngài Kinh Khê nói: “Nhục nhãn tuy thấy rộng là do ở Thiên nhãn. Đại phẩm... là nói nhục nhãn Đại thừa Không nhờ mở mang. Cho nên muốn đoạt Thiên nhãn trước phải luận cái khác của nhục nhãn. Đại tiểu đã riêng, nhân quả tự khác như sức kinh Pháp Hoa... là nương vào giáo khai hiển, quán lý bổn cụ, nhập vị tương tợ. Công do giáo nên nói là sức kinh. Nên biết nương giáo tu hành, hạnh thành thì chứng lý. Đã được chứng tương tợ. Công nhục nhãn gấp bội thì gọi là Phật nhãn. Còn tức Phật nhãn huống là thiên tuệ. “Dĩ kỳ...” là giải thích nghĩa Đại kinh. Trước nói tuệ nhãn của Nhị thừa gọi là nhục nhãn, kế giải thích nhục nhãn của người viên gọi là Phật nhãn. Trong phần đầu nói có bằng có kém, tức đồng trừ bốn trụ, chỗ này là bằng. Nếu trừ phục vô minh tam tạng là kém. Chỗ chứng đã kém thì tuệ nhãn chỉ gọi là nhục nhãn. “Viên giáo...” là ý kế. Cho đến... là kẻ cụ hoặc (phàm phu) đạt tánh nên gọi là Phật nhãn. Đây tức là bốn phẩm y của Đại kinh nói trước là y văn. Năm phẩm sáu căn vô minh đều ở đó cùng chiếu ba đức, cho nên nói là tri tạng. Trụ tiền có hai, tức đồng là y đầu. Chánh kể việc bị chê trách, Phân khoa. “Thời duy...” là chánh giải thích, Vấn nạn tột cùng, Song cùng. Mười trí là: Thế trí, tha tâm trí, bốn đế trí, pháp trí, tỷ trí, tận trí, vô sinh trí. Cùng vấn nạn, kinh nói: Giả sử tác tướng... ngài Kinh Khê nói: La-hán chứng diệt không phải có kiến, nên nói giả sử. Cùng ngoại đạo... cũng là lời ức chế. Có người làm công đức đầy đủ thì có ba minh, sao đồng kiến của ngoại đạo mà nói là... cho nên bắt bẻ khi xuất quán. Sớ nói: Tuy cho..., ngài Kinh Khê nói: Cho mà lại đoạt có khác tức cho, hữu vi tức đoạt. Chứng số duyên hết, bản dịch mới nói là trạch diệt là vô vi. Sức chọn lựa được diệt gọi là trạch diệt. Nghĩa là đoạn trí suy lường khiến diệt nên gọi là trạch diệt. Xưa nói: Số duyên, tức là trạch, đồng với hèn kém yếu đuối, chữ phải viết là đọc là sàn. Thượng Thư nói: Phương cưu sàn công, Khổng An Quốc nói: Chim cưu tụ hợp hiện điềm suy kém. Nhập quán..., ngài Kinh Khê nói: Nếu căn cứ Naluật mất mắt xuất quán chỉ giống như người thế tục. Hư căn là không thấy. A-na-luật bị khuất phục. Phạm vương thỉnh hỏi, Phân khoa. Tùy giải thích, có ba: a, Khen chưa từng có. Cung kính đảnh lễ. c, Chánh thỉnh hỏi.
Tiếp ngài Tịnh Danh đáp, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Đáp có người có chân Thiên nhãn. Ngài Kinh Khê nói: Kinh có Phật Thế Tôn... có người lấy chữ có “hữu) làm câu trên, chưa sâu là không thể được. Hà giả là hỏi ai, để hỏi người và có không. Cho nên lại lấy người mà đáp. Thế nên trong sớ chỉ đáp giải thích người. Không có hai biên dối trá, là luận công dụng của Phật nhãn. Thấy sắc... là, phải nói tức trung thấy sắc thô tế. Luận tướng chân Thiên nhãn, có hai: a, Chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Thường ở trong hang sâu thiền định, tức ba pháp tên khác mà nghĩa đồng. Cũng có thể nghĩa khác, mà thể Không khác. Không khác mà khác, lý thông nhân quả, sự dụng không phải nhân. Thủ-lăng-nghiêm ở nhân, Niết-bàn chỉ quả. Ba thứ sinh tử thêm tự thể mà thôi. Liệu giản, hiển bày thuộc viên giáo. Ngài Kinh Khê nói: Không phải thiên, không phải Viên, cũng có thể nói là thiên là viên, tức là Biệt giáo. Căn cứ địa trước sau mà phân thiên viên. Đối Phật nhãn mà luận tướng. Gọi Phật Thiên nhãn là muốn chọn bỏ thiên, nên thêm chữ Phật. Lẽ ra ví như bốn nhãn đều phải riêng rẽ như Phật mà phân biệt. Kim cang Bát-nhã, Phật trải năm nhãn để hỏi. Ngài Thiện Cát đều đáp là có, đầy đủ như trước dẫn.
Phạm vương và quyến thuộc phát tâm, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, có hai: a, Chánh nói phát tâm. Chí kính mà đi. Cuối cùng kết thành không kham.
-Sai ngài Ưu-ba-ly:
Có hai: a, Phân khoa nêu ý. b, Tùy văn chánh giải thích, Sai thăm bệnh, Hóa tha cần nghĩ trì giới. Tu-Đa-la, Hán dịch là Khế kinh. A-tỳ-đàm, Hán dịch là Vô tỷ pháp (pháp Không sánh), tức là Luận tạng. Chánh là nội quyến thuộc, cầm luật quảng chúng tức là hóa tha. Ngài Ba-ly giữ luật đâu phải chỉ tự chánh mình mà cũng làm chánh người khác. Tự hành cần nghĩ nhớ trì giới. Ngài Kinh Khê nói: Sáu là chỉ cho biệt hạnh trong một ngày. Nhiều ngày tiếp nối nhau đều do niệm. Từ chối không kham, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chánh từ chối không kham. Nói lý do không kham, Nêu ý phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, Hai Tỳ-kheo phạm giới nghi hỏi. Kinh nói thành thật rất tủi thẹn, ngài Đạo Sinh nói: Người phạm tội ắt có lo sợ, tội là nguồn phá hoại, không phải chỉ sợ nhân khổ, tức nó kết hợp với tủi nhục mà phá.
Kinh nói: Nguyện giải trừ nghi hối, ngài Kinh Khê nói: Nghi tội nặng nhẹ. Hối cái che kín tâm. Tội nghi hối đều có, thì tội do đâu mà diệt được. Lại từ bổn mà sám hối thì không ra ngoài vô sinh. Nay ngài Ba-ly không biết cơ lý, bèn dựa tiểu mà giải thích. Được khỏi lỗi này là mong trừ được tội nặng, tội nhẹ càng dễ hết nghĩ có thể được gặp Phật. Trong sớ, trước căn cứ nghĩa mà suy, kế thử dẫn kinh mà nói. Nếu phạm trọng tội, phạm trọng tội Tiểu thừa gồm có bốn thứ. Vào như đầu lông gọi là dâm. Dời vật khỏi chỗ cũ gọi là trộm, đoạn dứt mạng căn gọi là giết, lời ý trái nhau gọi là vọng. Luật không có văn sám hối. Học Tiểu thừa sám hối xong thì chướng quả, nhưng vẫn thành trọng tội nếu chưa quên. Dựa vào đây mà luận thì trọng tội không thể sám hối. Nên nói không có văn sám hối. Hoặc trọng tội phương tiện. Luật Tứ phần nói: Khởi tâm nhưng không động thân khẩu, nhưng nghiêm khắc tự trách thì được trở lại tâm tốt, đó gọi là không phạm. Động thân khẩu rồi nhưng chưa đến trước cảnh gọi là kế phương tiện phạm Thâu-lan. Đã đến cảnh nhưng thân thể chưa đụng đến thì chỉ phạm chỗ đã đến gọi là cận phương tiện gọi là tội nặng Thâu-lan. Bậc Thượng thủ vì nói y luật mà phán xét, là nếu phạm tội căn bản thì cần phải học sám hối. Nếu phạm Phương tiện thì phải sám hối Thâu-lan. Nếu vốn vô tâm thì không kết tội. “Hoặc giáo...” là hỏi tình thật người ấy nếu vốn có tâm (cố ý) thì cần phải sám hối. Chánh tội hay phương tiện đều cần phải họp chư Tăng. Nếu phạm trọng tội thì luật Tăng-kỳ nói: Nếu phạm giới rồi mà gào khóc, không muốn lìa bỏ áo ca-sa, ham tin Phật pháp sâu xa thì khiến cho Yết-ma học sám hối. Sau đó mới đoạt ba mươi lăm việc... nếu phạm thâu lan, thì Thập tụng nói nếu thiên đầu sinh nặng, đây là cận phương tiện, nghĩa là có thêm thân khẩu nhưng chưa được thỏa thích thì phải ở trong tất cả Tăng mà sám hối. Nếu thiên đầu sinh nhẹ, thiên hai sinh nặng thì phải ở ngoài giới, trước bốn Tỳ-kheo mà sám hối. Nếu tăng tàn sinh nhẹ thì phải ở trước một Tỳ-kheo mà sám hối. Ấy là tập họp tăng có nội giới ngoại giới hai thứ khác nhau. Yết-ma phân ra tâm niệm, đối thú, chúng pháp ba loại khác nhau. Nay nói sám hối tội là dùng đối thú, chúng pháp. Nên ngài Kinh Khê nói: Tập họp tăng chỉ hai thứ yết-ma mà thông cả ba. Diệt cùng không diệt như đã thường luận. Ngài Ba-ly vì kẻ phạm giới kia như trên luật tướng mà nói. Cho nên nói vì họ đúng pháp mà giải nói. Thuật việc bị chê trách, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Chánh kể việc Chê trách, Chánh chê trách: Không có tội thêm nặng, ngài Kinh Khê nói: “Thiên hai trở đi pháp tăng có thể trừ chưa hại chân tu, sao thành quấy nhiễu tâm phải là nghi nặng và phương tiện nặng. Nương giáo làm pháp duyên đủ hỏi đùa. Nếu học sám hối chỉ thêm lo sợ, một đời vô dụng. Nghĩa cầu tâm quý kính mới khiến tội trừ. Di-lặc nghi tình gọi tội thêm nặng. Tội là do tưởng gây ra lời tóm tắt ý cao xa khéo cần được ý chỉ. Nhưng biết tội ấy tùy đó mà trị. Dẫu có người trị thì cũng chọn việc dễ chứ không trị việc khó. Cho nên khi quán cần phải thuốc và bệnh họp nhau, không thể một mực đều nói vô sinh. Cho nên Đại sư Thiên Thai nói có sám tịnh trong tiểu giáo, khiến nương sự mà tội hết, không phải hiểu tiểu rồi mới dùng đại tông. Đều trước phải đoạn đứt tâm tưởng nối tiếp, không cần quán lý mà khiến tiếp tục làm, huống lại cần cuối cùng nghịch thuận mười tâm. Quán thành pháp thuận mới diệt được tội nặng. Song trong đây từ chối chỉ còn đại ý chỉ, khiến thành việc Tịnh Danh chê trách tướng tiểu. Muốn tập làm không thể luống công. Phải chuyên bốn thứ Tam-muội trong cảnh bất tư nghì, chín pháp giúp thành, xa gần phương tiện, giải hạnh song toàn. Thế nên cần y chỉ quán đại bộ. Đây là cầu phao tốt nhất của tất cả hành giả. Yết-ma, Hán dịch là biện sự, tức là thỏa thuận làm việc thành công. Khuyên diệt trừ, có hai: a, Nêu bày. b, “Trực trừ...” là chánh giải thích, Giải thích tóm tắt. Tội từ tâm sinh, tức đế quán tội tánh. Cho nên trong Đại luận nói: Đệ tử Hỷ Căn hỏi Thắng Ý rằng: Thưa đại đức! Pháp dâm dục là tướng gì?
Đáp: Là tướng phiền não. Lại hỏi: Là trong hay ngoài?
Đáp: Phiền não này không trong không ngoài. Nếu ở trong thì không phải đợi duyên, nếu ở ngoài thì đối với ta có việc gì. Nếu như thế thì phiền não không phải trong không phải ngoài không phải ở mười phương, tìm không thể được, tức là chẳng sinh diệt, thế thì làm sao mà hay gây việc phiền não ư? Đây cũng là yếu thuật quán tánh tội. Nếu quán đến tướng tội tức Phổ Hiền quán nói: Tâm ta tự không, tội phước không chủ. Tiếp giải thích rộng, có hai: a, Nêu tên sám. b, Giải thích nghĩa sám, có hai: a, Nương môn luận chướng. Tỳ-ni dịch là luật, hoặc dịch là diệt, nghĩa như thường nói: Tội trái vô tác tức là tội trái luật pháp. Từ tác pháp mà thọ giới. Phát được cùng đi đôi với hình thể trái thì thành tội. Đây nương định môn, ngài Kinh Khê nói: Ý nói tìm tướng chuyên chú yên định mà không phải thiền định, giới và tuệ nhờ nhau thứ lớp mà nói, đầy đủ như trong Pháp Hoa Tam-muội đã luận. Căn bản là sinh tội. Chung về vọng tâm mà nói là nghiệp phiền não. Cho nên quán tướng tức là sự nhất tâm. Tuy nói giới... thật ra là căn cứ tuệ. Song trừ viên định ra thì vô phương diệt được trọng tội. Viên định tức tuệ nên như mặt trăng. Trái vô tác đầy đủ như trong Chỉ quán luận về nghiệp có nói rõ.
Chánh giải thích ba tướng, Tác pháp Đại luận... là chặt cỏ giết súc vật đều phạm Đơn đề, nên nói là đồng thiên. Tác pháp sám, là chuẩn theo luật trước thỉnh một Tỳ-kheo thanh tịnh biết luật có thể giải tội, cùng ở chỗ vắng vẻ hoặc đầy đủ nghi thức đối trước tượng Phật, ba lần thưa thỉnh phân biệt tội danh ba thứ chủng tướng. Lại vì nói hai tướng phá trì, khiến sinh tâm lo sợ, sau đó mới sám hối. Căn bản Pháp từ nói: “Đại đức một lòng nghĩ nhớ, con nay là Tỳ-kheo tên... phạm tội chặt cỏ giết súc vật, phạm hai tội Ba-dật-đề, nay hướng trước Đại đức xin phát lồ sám hối”. Đây tức là tác pháp sám hối. Vô tác diệt, tội trái luật dứt trừ thì khỏi khổ được hai ngàn năm. Nếu tánh tội còn thì lại đọa vào địa ngục, sau lại phải đền mạng. Vì người ngoài cho cỏ cây có mạng sống, nay thấy Sa-môn chém chặt, cho là không có từ bi, dứt tâm Như Lai, đời chê bai dị nghị nên mới chế giới luật. Nếu không phải loài hữu tình thì phạm tội vô tánh. Tác pháp phân động. Ngài Kinh Khê nói: Nêu vấn nạn từ dễ. Khiến rèn tập vô sinh. Ý nói sám ba thiên sau, còn tự phân động, huống là sám hai thiên trước, đâu thể toại ý.
Quán tướng như các kinh Phương đẳng, là như Phương đẳng Đà-la-ni Không tạng... thấy tướng tội diệt, tức nghe xướng tội diệt và thấy tay bắt ấn. Ngài Kinh Khê nói: “Trong giải thích về quán tướng y kinh mà tác pháp, nên không phải thiền định, huống nói là giữ tướng thì tâm động. Nghiệm thì biết không phải định vậy. Đây cũng là tâm quấy nhiễu. Đã không muốn khiến tu hai sám trước, do đó nêu ra đây. Vì đậu vật cơ cho đến đều quyết biết là không phải vô sinh mà tất cả là phân động. Vì sao? Tức một tuần, ba tuần, nhiều tuần hoặc chín mươi ngày, một năm; nhiều năm, hoặc nói cứ mãi làm như thế... các lệ, há không phân động ư? Ý lại gồm khuyên hai sám hối trước, tiến đến quán lý một thể để diệt hết, huống nêu văn trách mà không phải hai nghĩa trước. Thế nên quán tướng duyên tội tâm cảnh, đối cảnh diệt tội sinh nhiều tàm quý, không tiếc thân mạng đổi mới tâm đầu, cho nên biết người ấy lý quán toàn mê muội. Vô sinh, Chánh nói vô sinh. Khi quán này thành, ngài Kinh Khê nói. Chỉ tùy hỷ lúc đầu, trước mới rèn tập quán đạo. Trước đã luông tuồng, cho nên cần nghiêm khắc quán hành. Người tu ở đời mạt cần trị giữ tâm mình, nếu không phải hàng lợi căn sao lại từ chối quán tướng. Quán tướng diệt trọng tội thì vô sinh mới thành. Chớ dựa vào tâm không mà nói lý như thế, lời tương ưng không ở người khác. Khéo sửa trong lòng để đồng với các Thánh. Ngồi ngay niệm thật tướng tức ngồi là một trong bốn oai nghi. Niệm tức tên chung của ba quán, thật tướng là hiệu riêng của ba đế. Bởi dùng một tâm ba quán mà quán một tâm ba đế khắp dung các pháp, các tội đâu còn. Ngồi niệm đã thế thì ba oai nghi kia cũng vậy. Bốn nghi sáu tác đều là thật tướng. Đế quán còn một, tội phước nào phân. Thấu suốt tội trong không như mặt trời dẹp tan sương mốc. “Không nhọc...” là kết công bày lỗi. Đối sự liệu giản, Nêu sự mà hỏi. b, căn cứ người mà đáp. Y cứ người độn căn thì cần sự. Y cứ người lợi căn chỉ có lý, Chính nói lý sám. Ngài Kinh Khê nói: Môn vô sinh này sám ở ba đạo, một niệm diệt trừ, tiêu hết các khổ đạo. Vì hết nên quên tội mới, bỏ nghiệp phiền não, vì đã hay diệt nên không tạo tội mới. Đã không tạo tội mới thì đâu quen tập cũ. Tên trong khoảng một sát-na nên gọi là mới. Không sám hối thì rơi vào lỗi quấy, tầm liền có tên. Thiết lễ sám hối thì tội diệt. Vì hết nên quên tội mới. Tội mới đã trừ hết sao lại có tội mới, bèn không từ bỏ tội mới nữa nên gọi là quên. “Cho nên đại...” là dẫn chứng phá chấp. Ngài Kinh Khê nói: “Cho nên sau đó Đại luận chỉ việc hối lỗi trước sau. Trước sau ở đây, tức cho tội nhất định là có, mà càng lo lắng tội nặng nhất định không mất. Do đó khởi tâm không thuận vô sinh. Phải diệt hết tâm lo rầu rồi sinh vô chủ mới gọi là tội tánh vốn tự không sinh. Tội còn không sinh há chấp chặt lo rầu hối lỗi. Bỏ hẳn việc mãi lo rầu hối lỗi và quên hẳn đi thì hiểu rõ tâm tự tánh vốn “không” sinh diệt. Như thế mà hối lỗi, gọi là thật không sinh lo rầu, cũng là tên khác của hối mà thôi. Cho nên tất cả đại giáo đều vì chúng sinh chỉ bày tướng diệt tội, như lễ hai mươi lăm Phật nghe tên Văn-thù... cùng nói có tội tức gọi là hủy báng Phật. Tán tâm còn thế, huống lại vô sinh. “Lại nếu...” là giải thích lại về tội tâm. Tội thể gần như quên, không chỉ do chấp. Người đời làm tội thường bảo tội không. Có thể do tâm này mà khiến tội tự diệt. Nếu như thế há không tăng thêm các kiến chấp ư? Nay nói không chấp là từ tâm hối lỗi mà nói. Nếu bày việc sám hối xong thì tin Phật nói là không tội, nếu còn chấp có tội thì ông trái lời Phật dạy. Cho nên biết quán tội vốn để diệt tâm. Nếu chấp tâm ngược lại thì tướng diệt liền trái.
“Nếu...” là hiển công năng của lý. Nếu luôn... Ngài Kinh Khê nói: “lại tâm diệt tông hiển, công sám hối đắm trước kiến lý, tức thấy lý vô sinh. Sự tánh... sự tức là trái với tội vô tác, tánh tức là tánh tội, căn bản tức là tội căn bản vọng hoặc. Ba tội này tức chỗ phá của ba sám trước. Cho nên ngài Kinh Khê nói: Sự tức sự sám, tánh tức quán tướng, căn bản tức là vô sinh sám. Tội tâm là tâm tức là tội căn bản. Tâm hay thấu đạt tức quên hẳn căn bản. Lại thấy lý, là tham... vô sinh. Đây là lấy lý mà phá tâm chấp. Cho nên tâm chấp này hay chướng chung ba thứ sám. Trong ba thứ sám thì vô sinh đứng đầu. Vô sinh sinh chấp tội còn không diệt, huống là hai thứ trước mà sinh chấp ư? Giải thích, Chánh nói ba câu, căn cứ tâm cảnh mà giải. Ngài Kinh Khê nói: Tội tánh đó... bốn câu suy ra vốn suy ở cái chung đầy đủ như các văn trong Chỉ quán đã nói. Dựa theo căn cảnh thức mà giải. Ngài Kinh Khê nói: “Như mười tám giới... là căn trong trần ngoài và thức ở giữa. Mười tám giới này theo duyên mà sinh, còn không tự thật, huống lại thường giữ gìn tội tâm ư? Dựa theo duy tâm mà giải, chánh nêu, đối trong ba giải thích thì giải thích này rất cần yếu, sao cần trước nói căn cảnh mà không nêu sắc tâm. Sắc từ tâm tạo, toàn sắc là tâm. Cho nên chỉ quán tâm mà nhiếp tất cả. Bệnh nóng gặp được hang, chặt cây trừ gốc, dụ này có thể quán. Ngài Kinh Khê nói: “Quán tâm trước đối ngoại cảnh. Đây chỉ quán tâm tạo tội, do tâm không tạo tội, lúc đó còn phải quán chiếu, huống là tạo tội mà không quán ư? “ Cho nên khắp...” là dẫn chứng. Ngài Kinh Khê nói: Dẫn Phổ Hiền quán, tâm tức tâm tội, pháp tức cảnh tội, tâm cảnh thành nghiệp, toàn là do tâm, thế nên còn khiến quán tâm. Làm những thứ như thế..., tức là sám hối như thế gọi là thể sám hối. Nghiêm tức là các pháp giúp thể. Sở hành sở nghiêm tức là thật tướng trung đạo. Không tội nghĩa là tội, vốn “không” phá hoại là tưởng xả ly. Tâm thức tức tâm chấp là nhà phân biệt. Làm chí tâm này như nước chảy, là ý nói không trụ ở năng diệt sở diệt, tâm tướng thấy tội phước có không, niệm niệm không sinh. “Hai thứ trước...” là kết phán nêu ý. Ngài Kinh Khê nói: “Hai thứ trước đến tiểu sơ là trong vô sinh tự có ba giải thích: Giải thích lấy tâm cảnh đối nhau. “ Lại giải...” là lấy căn trần thức ba thứ đối nhau mà luận. Mà hai giải thích này đều là vô sinh đều diệt tội. Chỉ không cùng ăn khớp với lời Phật trong kinh, vì lời Phật chỉ khiến quán tâm. Cho nên nói vì tâm cấu chúng sinh cấu...
Tiếp, dẫn lời Phật làm chứng. Phá Ba-ly nghi chấp, nghi tội chấp tiểu. Trong Tiểu thừa chỉ có tác pháp. Nếu chuẩn theo Ưu-ba-ly làm chấp này, là còn trái tiểu giáo huống là đại ư? Vì trong Tỳ-ni phạm tội đã hỏi tâm, há không phải tội từ tâm khởi. Chỉ Tiểu thừa kia che tướng không nói, chỉ tâm gọi là bất liễu nghĩa. Đây là nói như thế. Nếu nương vào đây mà phán xét..., là căn cứ luật hỏi tâm bày lỗi Ba-ly. Như Tỳ-ni Mẫu nói: Phạm ắt nhờ cảnh liên hệ tâm thành nghiệp. Tâm có thêm chút cảnh vì có hơn kém. Hoặc tâm cảnh đều nặng, người làm người tưởng giết, hoặc cảnh nặng tâm nhẹ, người làm không phải người tưởng, hoặc cảnh nhẹ tâm nặng không phải người làm người tưởng. Lại Thành luận nói bị trói chặt sâu dày, giết kiến có từ tâm nặng bằng giết người. Cho nên biết luật tiểu kết tội do tâm. Nên nay nói rằng nếu tâm cấu thì làm nhẹ hay nặng đều có tội. “Đại sĩ...” ngài Kinh Khê nói: Ngài Tịnh Danh dẫn chánh giáo vô sinh của Phật trừ diệt để phá chấp tiểu. Nhưng vẫn không trái tiểu. Nếu tâm thấy có chúng sinh..., chúng sinh chỉ là chủ tể chấp tiểu. Cho nên kẻ có chấp gọi là bất tịnh, vì bất tịnh tức là có tội. Đây thì năng tri sở tri..., thì tâm là năng tri, tức tâm vô sinh, chúng sinh tội cấu tức là sở vậy. Hai tâm đầu đều không, thuộc bốn câu “chẳng” suy ra đều không thể được. Vì sao? Vì tâm vô sinh đã không phải bốn câu. Tâm tội không sinh đâu thuộc vào bốn. “Thế thì...” là lấy tâm để so sánh tội. Do tâm có tội, nên tâm không thì tội không. Các pháp còn thế sao tội có được. Bất xuất...” là đầy đủ như ba Không Viên giáo của ngài Mục-liên. Cho nên văn sau dùng như huyễn... mà dụ.
Hạch hỏi Ba-ly, có hai: a, Phân khoa. b, Tùy giải thích, Đại sĩ hỏi.
Ba-ly đáp. Đại sĩ xếp loại.
Nhập chân phần phán đoán dẹp trừ, Huyền kể phân khoa, Huyền kể ba giả, Nêu ba tên. Chọn thể tích, Chánh chọn. Ngài Kinh Khê nói: Giả tướng văn giả đủ ba, đều dùng huyễn... cũng nhập viên chân. Đã là thể pháp thì thường đến Viên trung. Vì thuộc Thông cho nên nói cũng vậy. Do đó nó đứng trước ba giải thích trên, hai giải thích sau cũng là Diễn môn nhưng không bằng cái thứ ba chỉ quán tâm tánh. Cho nên hai giải thích trước phần nhiều đều nhờ Thông chân. Tích giả, là nghĩa ba giả đã ở Thành luận, tam tạng giáo há không, chỉ các tên A-hàm phần nhiều không sáng tỏ. Do đó ba giả thịnh hành ở đại giáo. Cho nên nói rộng ở Thành luận. Trong văn nói tích giả, không phải không có lý đó. Vì sao? Như nói nhân vô thường cho nên duyên cũng vô thường, niệm trước niệm sau đều sinh diệt, dài không trụ nên ngắn cũng không trụ. Đã đủ vô thường tức là phá thường điên đảo. Không giả dùng các tên tự tha... cho nên bốn câu mà suy thì chỉ ở diễn giáo. Bèn khiến thành ở sinh tức vô sinh, cho nên dùng Diễn môn để phá vụng của Tạng. Tùy tình, giả không phải tức lý, nên được tên tình. Lý tức là không, thuận không tùy lý. “Đây tức...” là kết bày. Phân khoa nêu ý, “Nhân...” là tùy văn giải nghĩa, Riêng dụ ba giả, Thể nhân thành giả, Giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Ba đảo ba ấm... tâm đảo là thọ ấm, tưởng đảo là tưởng ấm, kiến đảo là hành ấm, tâm vương là thức ấm. Bốn ấm là tâm đều nương vào sắc. Nay thuận chỗ dẫn đổi lời Phật, cho nên bỏ sắc giữ tâm, càng có dị đồng, đầy đủ như Chỉ Quán Ký đã dẫn văn Bà-sa. Tức là vô sinh... là không tâm nêu vô sinh trên. Cho nên ba giả này đều ước vào tội tâm và tội cảnh. Do đó ý văn này thông khắp các văn. “Duy ưu...” là giải thích riêng. Ngài Kinh Khê nói: Ta thấy năm thứ... tức thân biên... bốn thứ đều nhân ngã sinh ra, năm và ba đảo đều nhân đó mà thành. Nên đều đối cảnh cho nên đều họp nói là thọ. Lãnh nạp tùy xúc tưởng nhận lấy hình tượng làm thể. Hành nhiếp nhiều tâm sở, trừ bất tương ưng hành và pháp vô vi đều có sở duyên. Cho nên mỗi mỗi trong văn đều thiếu sót suy câu, đến hai giả sau mới được đầy đủ.
Hai thể tiếp nối giả. Ngài Kinh Khê nói: Vì hiển bày nhanh chóng là, huyễn cũng giống trụ. Thể giả đối nhau. Đối đãi có hai thứ, ngài Kinh Khê nói: Khi khác thì dọc đối đãi, khi đồng thì ngang đối đãi. Văn đối đãi nhau đều đủ cả hai thứ đối đãi này. Trước không sau có nên dọc, đối đãi ba vô vi nên ngang. Tiếp dụ chung ba giả. “hoặc là”, tức phần trước văn này thuộc tướng đối đãi. Nay lại giải thích chung, cho nên nói hoặc là. Tiếp kết thành tuân giữ luật.
Hai vị Tỳ-kheo tâm được thanh tịnh, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích Tỳ-kheo khen ngợi, ngài Kinh Khê nói: Không thể dùng Thông Biệt Viên của Diễn môn, tức dùng bốn câu suy chung ba giáo. ngài Ưu-baly thuyết phục thỏa thích. Tỳ-kheo phát tâm. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Sai ngài La-vân.
Có hai: a, phân khoa nêu ý. b, “La-hầu...”: Tùy văn giải nghĩa, sai thăm bệnh. Cũng gọi là La-vân... bản dịch mới gọi là La-hộ-la, Hán dịch là Chấp nhật, là có thai “đọc thần, chẩn). Từ chối không kham, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, có bốn: a, chánh từ chối không kham. b, nêu lý do không kham, nêu ý phân khoa. tùy văn giải nghĩa, trưởng giả hỏi. Làm Luân vương, Luân vương có bốn là Kim, Ngân, Đồng và Thiết luân, theo thứ tự làm vua được bốn, ba, hai, một thiên hạ. Khi sắp lên ngôi trước phải tắm gội trai giới ở trên lầu cao, mà xe báu tự hiện từ phương Đông đến, quan, binh, voi, ngựa, con trai, con gái gồm bảy báu đều như thế. Đầy đủ như trong phẩm Thánh Hạnh của Đại kinh nói: Triệu sư nói: Nếu Phật không xuất gia sẽ hiện làm Kim luân vương, làm vua bốn thiên hạ. La-hầu-la nếu không xuất gia sẽ làm Thiết luân vương, làm vua một thiên hạ. Vì chỗ bỏ không nhẹ nên điều mong cầu rất nặng. Cho nên hỏi về lợi ấy. b, La-vân đáp: Như Hiền ngu... công đức xuất gia, kinh ấy quyển bảy có nói: về nhân duyên xuất gia có phước rất nhiều hoặc trả tự do cho nô tỳ nam nữ, hoặc cho nhân dân, hoặc chính mình xuất gia nhập đạo thì công đức vô lượng, quả báo bố thí được phước mười đời. Mười lần tới lui trong cõi nhân thiên lục dục cũng không bằng cho người xuất gia hoặc tự mình xuất gia thì công đức thù thắng hơn nhiều. Vì sao? Vì quả báo bố thí phước có hạn định, còn phước xuất gia thì vô lượng vô biên. Văn kinh so lường rất rộng không thể dẫn hết. Mười trí như trước đã nói.
Chánh thuật việc bị chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh chê trách. Hình thức xuất gia, thì sớ văn sau tự lập bốn câu. Ngài Kinh Khê nói: Phải lấy hình thể và tâm đối Thiên Viên cho đến tín pháp lập nhiều bốn câu. Nay chính là khiến nêu tâm Viên. Giải thích, chánh giải thích, trách mật hạnh. Ngài Kinh Khê nói: Nếu vì lợi sinh, thì phải ở vô lợi mà làm lợi, thì mới được “không” bất tư nghì. Không tâm xuất gia để phó vật cơ, khiến vật suy ra lý. Dựa vào lý mà chê trách. Phải mượn tên mật hạnh nương lý xuất gia mà chê trách. Ngầm chứa công đức về lợi mới gọi là không lợi, không có công đức. Tiếp giải thích chê trách trí đoạn, ngài Kinh Khê nói: “Pháp hữu vi, lại trách La-vân rằng: Tuy thấy thiên chân nhưng lại đồng với hữu vi. Nên Đại kinh nói không là bình đẳng, tức ý dẫn chẳng Không, tức trong vô vi có đầy đủ tất cả pháp. Nếu ở chân không của Tiểu thừa thì chỉ không mà chẳng đủ các pháp. Cho nên không hợp nói.
Giải thích tâm xuất gia, ngài Kinh Khê nói: Tức là bình đẳng chân pháp giới... trong đây mượn để chê các Sư xưa mà thành giải thích nay. Trong chân pháp giới còn không có ngoại giới để xuất gia độ người, thì đâu thể có công đức dùng hình tướng sắc phục độ người. Lại cũng được gọi là đại tiểu, tên đồng thể khác mà chê trách. Lại cũng là so sánh chê trách. Trước sau đều thế, tức như La-vân. Mật trong Tiểu thừa thì lý còn không thể được huống là bình đẳng pháp giới rốt ráo chân không mà nói là lợi ư? Nên dẫn chân đế kia để chứng là vô vi. Vô vi của Đại thừa đủ các công đức, nên không đồng với tiểu. Hoặc có hoặc không đều không thể đủ tất cả pháp.
Liệu giản, ngài Kinh Khê nói: Hỏi Tịnh Danh..., trong kinh chỉ nói là vô vi vô lợi. Đây tức hỏi trước dẫn đại Niết-bàn thì hư không Phật tánh bình đẳng pháp giới tên đó là tự đủ, sao còn gọi là chân mật hạnh, vì cùng nghĩa vô vi nó cũng không tương ưng? Đáp ý rằng: Lavân chính nói: Lợi của công đức vô vi Tiểu thừa, lại được khen là bậc mật hạnh bậc nhất của Tiểu thừa. Ngài Tịnh Danh dùng đại mà chê trách cả sự, khiến đều không thành. Vô vi của Đại thừa như châu như ý. Châu tức các vật đâu thể kín đáo hơn thứ này. Mà nói là vô vi thì lý chưa tột, nên nói một mực. Cho nên biết vô vi của Đại thừa đều là lợi cao quý. Vì La-vân đã được vô vi Tiểu thừa, nên lấy vô vi Đại thừa mà chê trách. Đã phá tiểu rồi mới kể thuật pháp vô vi biến khắp của Đại thừa để nói hữu vi, vô vi của Tiểu thừa đều không thể có đầy đủ tất cả các pháp. Nếu như thế thì mới là bậc Thượng phẩm trong mật hạnh. Cho nên trong mười người đều lấy hạnh của họ mà phá lập, coi là bán mãn cạn sâu đến mức vậy. Tiếp nói rộng về công đức xuất gia, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích. Tự hành nếu quán đến được chân vô vi. Ngài Kinh Khê nói: Chân vô vi tức là chân mật hạnh. Tiếp theo là xem chân vô vi là có đủ các công đức, mỗi mỗi nghĩa đều đem mật mà trách La-vân. Lìa tất cả kiến là thanh tịnh thiền, là kiến ngoại giới thì bậc Đẳng giác mới lìa, tiểu quả đâu lại không. Ở Niết-bàn..., ngài Kinh Khê nói: “cho nên lý mật hạnh vô vi này tức đủ ba đức. Đây tức là tánh đức văn nói ba đức. Đây là thâm ý của đại học giả một nhà ta, nguyện suy nghĩ về nhân duyên trăm cõi, một niệm ba đạo quán trung chứng quả đến tu nhân. Chữ quán đọc bình thanh.
Hóa tha, có hai: a) Phân khoa nêu trước. Ba-tuần, Hán dịch là Cực ác. b) Tùy văn giải nghĩa, hàng phục các ma, Kinh nói hàng phục các ma vượt năm đạo... Ngài Kinh Khê nói: “Do hàng phục nên được vượt thoát, cho đến lìa ác đều do hàng ma. Sớ nói: Được đạo Bồ-tát, là văn tuy nói Biệt mà cần phải căn cứ Viên, cho nên được đạo Bồ-tát. Lúc đó đã được pháp tánh. Đạo sơ trụ cho nên đủ cả hai, lúc đó đã được bất động tức là rốt ráo. Các thứ khác chuẩn theo đó mà biết. Lại bất động này không phải là bất động của hai mươi lăm Tam-muội. Đây là mượn thời gian hàng ma của Tam tạng mà riêng đặt tên. Phá Tha-hóa... tức là xích sắc Tam-muội vậy. Cho nên biết không được có trước sau. Nên dẫn Đại kinh để chứng thành Viên vị viên gia hàng phục ma đều ngang nhau. Lại mỗi mỗi văn nghĩa đều thông thì hạnh đầu mới có thể làm, tức mới tu. Vượt năm đạo ngoại giới đến ba thứ ý sinh thân. Trong đó tuy không thể lập tên năm đạo ngoại giới mà đã dẫn Đại kinh với hai mươi lăm Tammuội. Kinh đã gọi đó là vua của Tam-muội có thể vượt thoát hai mươi lăm hữu. Hoặc của ba đế đầy đủ ba trí, ba thân, ba giải thoát. Còn thành mười thứ phá hai mươi lăm hữu tức là mười thứ vượt năm đạo. Có thể vượt nội giới... tức là nói phần đoạn và biến dịch hai chỗ trong năm đạo. Huống lại câu sau nói tịnh năm nhãn. Nói tịnh năm nhãn, tuy đối năm nhưng không phải đồng thể, chỉ là nhắc lại cái thể dụng của vượt thoát mà thôi. Phá các ác nghiệp đối nhục nhãn, là muốn chỉ trong người là nhục nhãn. Cho nên nói nhãn bốn thú không bằng nhân thiên. Cho nên làm chỗ phá, đây cũng một loại. Cũng có nhục nhãn của rồng quỉ hơn người nhưng trọn là ác nghiệp. Từ đạo để phán quyết mà phá vậy. Các loạn tâm... loạn đã nói các, tức là chỉ cho Dục giới. Vì Thiên nhãn theo phép ở Sắc giới, cho nên phá Dục giới mới có Thiên nhãn tứ thiền. Nên biết, từ giáo phán là Biệt Viên. Căn cứ năm lực đã do nhãn. Vì nhãn do độ đạo. Giải thích căn lực cũng nương Biệt Viên tới lui mà nói, hoặc đủ cả bốn giáo.
Hỏi: Dựa theo đạo phẩm vì sao không nêu ba bốn bảy tám, vì sao năm căn lại ở sau lực?
Đáp: Đây chính là quả địa của Biệt Viên, các pháp bảy khoa mỗi mỗi đứng đầu làm một môn, vì sao lại dùng nhân pháp tương sinh mà gạn hỏi?
Hỏi: Nhãn không phân giáo, còn lực sao lại phân. Ở chỗ phân vẫn có quyền thật chăng?
Đáp: Đây cũng thành thể dụng của nhãn. Nếu tịnh năm nhãn thì căn lực đều gồm chung. Một mực trong văn tương tợ sinh đều do hàng ma tạo thành. Nên dùng hàng ma làm gốc. Tiếp theo sau thì văn nói tướng cùng gốc cùng sinh, sao chỉ riêng đứng đầu chợt sinh chợt gốc, tồi phục ngoại đạo.
Kết chân xuất gia, ngài Kinh Khê nói: Đó là một tâm đầy đủ muôn hạnh, tóm tắt các tự tha trước đều là một tâm. Cho nên bốn khoa trước đều là đồng thể.
Khuyên các trưởng giả xuất gia, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, khuyên xuất gia, Ngài Kinh Khê nói: Nay được gặp được nghe... là các trưởng giả mới nghe công đức xuất gia của Đại thừa, tin ở Phật pháp đều chưa từng thấm đượm. Cho nên biết từng nghe chỉ là nghe vừa nói. Nếu không nghe như ba ức người. Tiếp là từ chối có ngại. Và khuyên, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu phải đủ như trước, luận nhiều thứ bốn câu để phán quyết tâm.
Nếu không thế, sao lại khác tiểu. Cho nên nói mỗi thứ đều có Đại thừa... nói đều có..., đã nói thiện căn tức là giống đời trước (túc chủng). Không phải ở ngài Tịnh Danh mới khuyên phát tâm. Bồ-tát giới phẩm tùy tâm liền phát, tức nói không phải phát tâm liền có đủ giới thể. Hơn nữa như dùng hình tướng đại tiểu mà nói, song đối Đại thừa cũng phải nhờ duyên đủ. Tại nhà thì duyên đủ với cha mẹ đều cho, vì không ngại với sắc dưỡng vậy. Nhưng Tiểu thừa giáo dùng tâm sắc và không phải sắc làm giới thể. Bồ-tát tuy cũng thân khẩu làm trợ tăng thượng ở tâm nên gọi giới tùy tâm. Tuy Đại tiểu khác nhau nhưng bậc Thượng phẩm đều là tâm. Nhưng đại luật nghi thì bốn hoằng làm gốc. Lập tâm duyên cảnh ba nhóm cùng giúp nhau. Nên ngài Tịnh Danh nói: Tức là xuất gia, tức là đầy đủ bốn phát tâm. Cuối cùng là kết không kham.
Sai ngài A-nan:
Có hai: a, phân khoa nêu ý. b, “tức là...” là tùy văn giải thích, sai thăm bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Ba nhân duyên được tên, cũng có thể ba nghĩa này mà hợp bốn Tất-đàn bổn nguyện thế giới, cha mẹ đối trị. Từ kiến sinh thiện và Đệ nhất nghĩa.
Từ chối không kham, phân khoa. “ Nhất phụng...” là tùy giải thích, chánh từ chối không kham. Nêu lý do không kham. Nói sinh thân là Phật thật, tức chỉ thân sinh ở vương cung cho là Phật thật. Đói khát lạnh nóng... tức chín não. Tiêm sư nói:
1. Kim thương.
2. Lúa ngựa ăn.
3. Gió lạnh.
4. Bệnh nóng.
5. Ra máu.
6. Chiên-giá nữ hủy báng.
7. Khất thực không được, bát trống mà trở về.
8. Bị Bà-la-môn hại.
9. Đau lưng.
“Thế thì...”, ngài Kinh Khê nói: Nói theo ý Phương đẳng. Nếu từ bổn mà nói, chính rất phù hợp với văn bán mãn. Nếu thật hạnh phải chỉ một ý nay, mà nêu đủ hai đường, tức là ý giáo. Chánh kể việc bị chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích. Hạch hỏi ý xin, ngài Tịnh Danh hỏi phân vệ chưa đến, tức chưa phải giờ ăn. Phân vệ như trước đã nói. A-nan đáp hỏi. Chánh chê trách, phân khoa và tùy giải thích, lại ngăn A-nan hai hủy báng. Ngài Kinh Khê nói: Mà nói có, bệnh là quả khổ, quả tất do nhân. Thân có chút bệnh chỉ một lời nói này gồm hai hủy báng. Hiển bày thân kim cang, có hai: a, nêu văn chánh giải thích. Sở dĩ dụ kim cang, ngài Kinh Khê nói: Vì ba đức đầy đủ, nên lấy kim cang để dụ cho ba đức. Đã tức một mà ba. Cho nên căn cứ pháp thân để bày hai đức. “Các ác...”, là năm trụ đều trừ tức giải thoát bất tư nghì. Nhưng giải thoát Bát-nhã mỗi thứ đều đủ ba, gọi là ba thoát ba trí vậy. Ví như pháp thân có thể biết. Cho nên văn lược bỏ.
Hỏi: Nay nói năm trụ đều trừ, sao gọi là đối ba giải thoát ư?
Đáp: Ba thoát viên dung đều phá năm trụ. Nếu ước biệt đối thì đều là ý ấy. Chân tánh thoát vô minh, thật tuệ thoát kiến tư, phương tiện thoát trần sa. Lấy chung gồm riêng. Lấy riêng chọn chung phải thấy được ý mà không mất viên chỉ. “Ma-ha... vạn thiện”, chỉ là ba trí dắt dẫn phước. Từ nhân đến quả nên nói ngầm ở trung đạo, rốt ráo viên cực. “Đó là... rõ ràng” là ba câu văn kinh phù hợp ba đức, có thể thấy rõ ràng. Tức thể kim cang là pháp thân. Các ác đã đoạn là giải thoát, các thiện khắp hội là Bát-nhã. Mỗi thứ có ba thành chín, chín chỉ là ba, ba và một cùng dung nhau lần lượt không ngại. Như diệu thể này há có bệnh ư? Thì không có khổ quả, đã không có khổ nhân năm trụ thì không có khổ quả hai chết. Trước nói năm trụ đều dẹp trừ, đây nói không có khổ quả, nghĩa ấy cùng hiện. Chỉ nêu ác nên căn cứ năm trụ, nêu bệnh nên căn cứ khổ quả. Đây phá tam tạng..., báo thân tức thân vương cung. Trí đoạn tức ba mươi bốn tâm dưới cội cây đoạn bỏ kiến tư. Thế thì pháp thân trước có trí đoạn, sau được dọc mà lại ngang. Chưa khỏi bệnh não, ngài Kinh Khê nói: Đầu đủ nói như ở Chỉ quán. Dọc ngang ba đức đại tiểu đều ba, đây là ngài Kinh Khê chỉ bày thể tướng. Pháp thân trí đoạn ưa Diễn giáo, ngài Kinh Khê nói: Vượt qua Thông giáo kể thẳng Biệt Viên.
“Nhưng xưa...” là chê xưa bày nay. Bốn thời năm thời, là Pháp Hoa Huyền Nghĩa nói người xưa phán quyết giáo, đều lấy Hoa Nghiêm làm đốn, về tiệm thì có ba thời, bốn thời, năm thời... Tiêm sư nói: Hổ khâu ngập sư phân làm ba thời: Mười hai năm trước thì thấy hữu, được đạo thì gọi là giáo hữu tướng, mười hai năm sau ngang đến Pháp Hoa thì thấy không. Được đạo thì gọi là giáo vô tướng. Cuối cùng là ở song lâm, nói tất cả chúng sinh có Phật tánh, Xiển-đề làm Phật, gọi là giáo thường trụ. Sư tông ái chia làm bốn thời kỳ. Ba thời như trước. Lại vô tướng thường trụ trước chỉ cho Pháp Hoa hội ba về một, gọi là giáo đồng quy. Định lâm và như sư thứ hai nói có năm thời bốn thứ không khác trước, còn sau vô tướng và trước đồng quy là chỉ cho ngài Tịnh Danh và Tư Ích các kinh Phương đẳng là giáo. Bao biếm ức dương (khen, bỏ, ức chế, đề cao). Cũng là Phật tám mươi năm, người xưa đem Bát-nhã để trước Phương đẳng, cũng đồng tam tạng giáo xem Phật tám mươi tuổi tịch diệt. Bảy trăm A-tăng-kỳ, Tiêm sư nói trong kinh Thủlăng-nghiêm Tam-muội quyển hạ, ngài Kiên Thủ bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn! Phật sống bao lâu, khi nào nhập diệt? Phật bảo ngài Kiên Thủ rằng: Đi về phương Đông cách đây năm vạn hai ngàn cõi Phật, có nước tên Trang nghiêm, có Phật hiệu Chiếu Minh Trang Nghiêm Tự Tại Vương, đầy đủ mười hiệu, hiện đang thuyết pháp. Phật ấy sống bao lâu thì ta cũng sống bằng chừng ấy. Lại hỏi Đức Phật ấy có thọ mạng bao lâu? Phật bảo: Ông tự đến hỏi, Đức Phật ấy sẽ tự đáp. Ngài Kiên Thủ nương thần lực của Phật đến cõi ấy, Đức Phật ấy đáp rằng: Như Đức Thích-ca sống bao lâu ta cũng như thế. Ông muốn biết ư, ta sống bảy trăm A-tăng-kỳ kiếp. Đức Thích-ca cũng thế. Người xưa có ý nói: Nay nói thể Kim cang tức đồng thân bảy trăm thắng ứng, không phải pháp thân thường trụ. Mà không nhận sự giải thích nay, ngài Kinh Khê nói: Các nhà nói bốn thời năm thời đều không lấy bốn thời trước, chỉ lấy ba thời có lý thường trụ nên không nhận lời giải thích nay. Lời giải thích nay là hiển bày vinh. Vinh tức Đại thừa nên trái với các giải thích khác.
Tiếp là kết hai hủy báng, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, kết thành tổn báng “chê kém). Kết rằng các trời đại oai đức, ngài Kinh Khê nói: Luận chung các trời đều có oai đức, đều không bệnh. Tịnh độ ở phương khác là chỉ cho cõi An dưỡng. Dưới đến mười niệm khi lâm chung chỉ cần một niệm đều được vãng sinh. Nên nói là thiện nhỏ. Kết thành tăng báng. Thà cùng thầy há đâu thể. Đã là người ác đâu kham học thầy. Nêu giải thích đối phá, có hai: a, nêu. b, “Nên biết...” là tùy giải thích, Chánh giải thích, pháp thân đoạn đức. Giải thích pháp thân trí đức. Giải thích lại đoạn đức hai thứ ba lậu, là phiền não ở Dục giới trừ vô minh gọi là dục lậu. Phiền não hai cõi trên “Sắc, Vô sắc trừ vô minh gọi là hữu lậu. Si ở ba cõi gọi là vô minh lậu. Ba lậu ngoại giới, chuẩn đây khá biết. Lậu có hai nghĩa:
1. Lọt mất đạo lý.
2. Đọa lạc sinh tử.
Giải thích lại về trí đức. Tiếp đến kết chung và Anan hỗ thẹn, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh hỗ thẹn. Tiếng ủy dụ trên không, như Phổ Hiền quán đã nói. Tức kinh ấy nói: Đức Thích-ca Mâu-ni tên Tỳ-lôgiá-na Biến Nhất Thiết Xứ. Sở dĩ dẫn ra là Đại sư có ý muốn nói tiếng trên không tức là pháp thân của Đức
Thích-ca chứ không phải Phật khác. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Đây là pháp thân của Phật nào?
Đáp: Mười phương Như Lai đồng chung một pháp thân, sao được nói pháp thân ai? Song không riêng mà riêng. Ứng vật do tiếng, duyên khác thì tiếng khác, tức là thân pháp thân của Thích-ca.
Hỏi: pháp thân không tiếng sao được có tiếng?
Đáp: pháp Không mà ứng có.
Hỏi: Đã nói pháp thân nay sao nói ứng?
Đáp: Không sắc nói là pháp, tiếng tức là ứng, ứng tức pháp thân, sao tìm gì khác? Cho nên nói: Ta nay thân này tức là pháp thân. Tiếng trên không của Pháp Hoa chuẩn ứng có thể thấy. Năm trược, ngài La-thập nói trong đại kiếp có tiểu kiếp có nhiều việc ác, gọi chung là kiếp trược. Người thiện đã hết chỉ thuần ác chúng sinh, gọi là chúng sinh trược. Trừ bỏ tà kiến các phiền não rồi như ba cõi.... Tăng thượng nặng là không dùng đạo lý hay chướng Thánh đạo, ắt là vào ác thú, các kết sử như thế là phiền não trược. Trừ bỏ bốn kiến rồi, chỉ còn giữ tà kiến, hủy báng không có nhân quả tội phước và Thánh đạo Niết-bàn, đó gọi là kiến trược. Phàm kiếp giảm, giảm đến một trăm hai mươi tuổi trở xuống đến ba tuổi đều gọi là mạng trược. Đức Thích-ca ra đời lúc tuổi thọ đến một trăm hai mươi tuổi. Đây là dựa theo lời giải thích của ngài La-thập. Pháp Hoa sớ nói đầy đủ. Vì hóa độ Bà-la-môn, ngài Kinh Khê nói: Đây là ý hiện bệnh. Trong kinh Khổng Quang, bảy Thánh cùng hóa độ Bàla-môn xan tham:
1. Trâu mẹ.
2. Trâu nghé.
3. Cốt xe.
4. A-nan.
5. Tịnh Danh.
6. Như Lai.
7. Tiếng trên không.
Bà-la-môn này sinh ra đến nay không bố thí, lấy lưới sắt làm nhà chim bay không qua được. A-nan đến cửa Tịnh Danh trách, là hiển pháp thân thường trụ của Như Lai. A-nan muốn bỏ đi, nhân có tiếng trên không trung khuyên vị Bà-la-môn phát tâm bố thí, liền mở cửa chuồng chọn một con bò trong bầy và bảo tự đến vắt lấy sữa. A-nan nói: Ta là đại Tỳ-kheo không thể đụng sữa. Đức Phật liền hóa làm một Bà-la-môn nhỏ đứng gần bên. Vị Bà-la-môn thấy bèn khiến đến vắt sữa. Khi tay vừa đụng thân trâu thì trâu rất vui thích. Do đó mà trâu mẹ nói kệ rằng:
Nếu vắt hai vú bên phải
Phải để hai vú bên trái
Nếu vắt hai vú bên trái
Phải để lại hai vú bên
phải. Vắt hết dâng Thế Tôn
Trâu con cần phải nuôi.
Trâu con nghe xong liền nói kệ:
Tôi vốn “không” bố thí
Nên sinh làm súc sinh
Vắt hết dâng Thế Tôn
Tôi tự ăn cỏ nước.
Do đó vị Bà-la-môn kinh hãi khen thầm: Súc sinh còn thế sao ta xan tham? Nhân đó phát tâm đem hết tiền của ra bố thí lớn. Rồi theo ngài A-nan đến chỗ Phật. Phật nói pháp và thọ ký cho được làm Phật hiệu là Nhũ Quang. Tiếng khuyên trên không trung đầy đủ quyền thật. Cho nên một an ủi mà lợi cả hai người. Không phải nhọc công xấu hổ, tức người có cơ đại thì đại tự đầy đủ. Nếu cơ tiểu thì nghe bệnh, nào có ngại gì. Nguyên biết thân trong cung do cha mẹ sinh. Nhân đã không phải thường thì quả có gì lạ. Mà thật hành là chưa biết hội này, dựa vào việc hóa độ chung về xan tham nào có gì xấu hỗ. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Kế sai năm trăm vị:
Ngài Kinh Khê nói: “Mỗi người đều kể nhân của chính mình như mười vị trước. Nhưng chỉ kể nhân của mình về bán giáo mà thôi. Nhờ việc chê trách ngày nay liền thành chân nhân của thường trụ vậy.
--------------------------------
Phẩm Bồ-tát chiết phục Tự thể duyên tập, có hai: a) Nêu ý phân chương. b) Y chương giải thích, Chánh nói việc có phẩm này, nói chung việc có phẩm này. Y chánh bất tư nghì tịch quang là y, pháp thân là chánh. Lìa thân không có cõi, lìa cõi không có thân, gọi là bất tư nghì. Chúng sinh vốn đủ mê nên không biết. Sơ trụ phần chứng (chứng từng phần) đến Diệu giác mới rốt ráo khiến được hai thứ này, nên nói muốn khiến chúng sinh... mà có tai họa tự thể. Vô minh chưa hết cũng là chỗ chê trách. Hoặc đối cao mà dạy thấp, lấy viên mà trách thiên. Hoặc sách tấn viên hạnh để họ tiến lên ngôi vị trên. Nghĩa nói như sau. “Đây nói...” là dựa vào viên mà chê trách thiên, kết bày ý văn. Trách chánh báo thiên, hiển bày y quả viên.
Riêng nói ý có phẩm này, khai chương luận khác. Mà nghĩa có khác, tức khác nghĩa trước, tùy chương tự thấy. Nếu hạch hỏi đại ý thì năm thứ trước chung thành chê tiểu, năm thứ này chung thành chê trách thiên. Y chương chánh giải thích, là hiển bày ngài Tịnh Danh thắng trí bất tư nghì. Không đâu không quy phục, mị là không. Chỉ bốn nghĩa khác, tức là bốn chương sau. Chuyển phương tiện giáo môn, “sơ chuyển...” là chánh giải thích. Thuật ý, độn căn Bồ-tát, tức Bồ-tát của ba giáo gọi chung là độn căn. “Có ba...” là chánh giải thích, nêu chương. Chánh giải thích, chuyển phương tiện của tam tạng, cùng Thanh văn năm vị đồng nhau, tức đến thời Pháp Hoa mới nhập vào viên. Cho nên kẻ lợi căn bị chê trách ngộ viên mà không được vị sau. Nên gọi là lợi. Chuyển phương tiện trong Bát-nhã. Phật từ đêm đắc đạo... ngài Kinh Khê nói: Đây trong Đại luận có nói: Nói Bát-nhã có hiển có mật, có định và bất định. Y cứ hiển thứ lớp chỉ ở thứ ba. Ở đương bộ thì quyền dọc bất định. Vả lại chưa nói nay chung luận dọc để nói mật giáo. Cho nên trong khoảng sau thành đạo luôn nói thường. Vì vậy nay dùng đó để đến Phương đẳng. Nên trong Phương đẳng thì lấy đại chê trách tiểu. Nghĩa đại chánh đáng trước sau vẫn là Bát-nhã. Cho nên đối Thông Biệt ích lợi không đồng đều từ trước đến nay phải đối đãi chê trách. Bồ-tát nghe riêng là không nghe ở Lộc uyển đối Nhị thừa nói. Đến hội Phương đẳng đối đại mà nghe tiểu. Song không phải là Bát-nhã bí mật. Đây chỉ là luận về nơi chốn không nhất định. Nói nơi chốn, là mười phương so với nhau. Lại đây cũng gọi là căn cứ hạnh năm vị mà luận bất định. Chuyển Phương tiện trong Hoa Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Học Hoa Nghiêm..., là đối với xứ hội đó chưa được lợi ích. Đến thời Lộc uyển thì ngầm lợi toàn không. Đến hội này thì đối Biệt mà chê trách. “Lại nữa...” là liệu giản, chọn chê trách dụng hay không, chánh chọn bày, lập nghĩa bốn vị..., ngài Kinh Khê nói: văn giải thích trước nói hiển mật năm vị. Ở trong năm vị mà luận ý chê trách nói sữa... phương tiện và chân thật, chê trách và không chê trách. “Vì cớ sao...” là giải thích nguyên do chê trách e mất ý chê trách. Đóng kín giáo... tức người không đắc ý. “Tuy bằng...”, tức người đắc ý. “Nhược bẩm...” là thất ý cần chê trách, đắc ý thì không chê trách. Nghi hỏi. Ngài Kinh Khê nói: “Hỏi về ý chê trách và không chê trách. Đáp giải thích. Dạy người đều bỏ, là đã không phải chân thật. Đắc ý và không đắc ý đều cần chê trách. “Giải thích này...” là bày ý văn. Pháp bệnh đều chê trách, pháp tức đắc ý, bệnh tức không đắc ý. Viên giáo tức đủ cả hai ý như văn.
Chọn thể ích thông trước đáp: Như chỗ hỏi thì ở Lộc uyển có chung Nhị thừa và chỉ mật mà không phải hiển. Chọn chê trách người còn giữ pháp. Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát phương tiện, ở giáo phương tiện lại căn cứ người và pháp mà luận chê trách và không chê trách. Vì còn giáo Phương đẳng vậy. Chọn Hoa Nghiêm quyền trệ, ngài Kinh Khê nói: Nếu đóng kín đến biển là Đại sư dùng giáo viên đốn là ý chỉ đầu của kinh Hoa Nghiêm, thế nên giáo đó không đồng với hai tô (sinh, thục tô), hai tô vẫn có ý xa gần. Bèn đều được xa mà luận chỉ đốn. Cho nên nói đây tức Pháp Hoa dẫn đùa chơi. Chọn Niếtbàn thông trước, ngài Kinh Khê nói: Hỏi cũng nói đến ý này, đã thông trước sau, cũng phải đủ bốn. Phương tiện trong bốn cho đến chân thật có chê trách và không chê trách sao không thấy nêu ra?
Đáp: Tuy có ý này nhưng không thấy văn nói rõ.
Hỏi: Đây là dẫn văn Phật đáp ngài Ca-diếp, đây tức văn ấy. Bèn nói rằng không chỉ chưa có văn Hoa Nghiêm rõ ràng, mà là văn nói của Trí luận cũng nói có văn ấy. Cho nên từ “nếu muốn...”, tức lấy nghĩa mà suy, tên khác nghĩa đồng để làm đáp ý.
Chọn Bát-nhã Hoa Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Đêm đắc đạo... là lời đáp trước tuy nói tên khác nghĩa đồng Hoa Nghiêm Bát-nhã đều nói Phương đẳng. Không biết cũng có bộ khác gọi là tên khác hay là bộ ấy mà lập khác ư?
Đáp: Trong đó phân hai, nếu bất cộng thì là khác bộ, nếu cộng thì là đồng bộ. Nếu thế thì lại lấy giáo so với giáo mà luận đồng dị vậy.
Chọn Niết-bàn khác tên. Trong hỏi trước dẫn kệ, kế “nếu thế...” là chánh hỏi đáp. Ngài Kinh Khê nói: Ý nói sao chỉ tên khác nghĩa đồng. Luận bộ cũng được có đồng có khác. Bộ khác mà lý đồng thì nghĩa không mất, huống là chỉ khác tên mà thôi.
Chọn Phương đẳng thông trước. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi từ ngài Tịnh Danh..., cũng phải hợp có sinh tô thông với sữa, lạc ư? Nếu có sao không nói?
Đáp: Văn tuy như thế nhưng cần phải đủ như trong Pháp Hoa Huyền Văn quyển mười. Nay nếu muốn luận lý có, là chê trách nói lý mật Lộc uyển. Lại trong Hoa Nghiêm bốn thứ sao cần phải luận lại cũng là lệ ấy. Đã tất cả đều thông trước sau, đâu thể Phương đẳng không với trước. Chuẩn đây hỏi trước cũng phải hỏi sau. Văn không có là do lược bỏ. Nếu thế thì giáo một âm không đâu không tiểu. Chỉ lỗi ở độn để trải năm thời, cho nên không toàn dùng chỗ dẫn của huyền văn.
Chuyển quán, ngài Kinh Khê nói: Chuyển quán..., là đối giáo chỉ là khác tín và pháp mà thôi. Hiển mật thứ lớp tất cả đều đồng giáo. Nương các nghĩa trước tùy quán mà đợi chê trách, nhưng thêm giết người cho là bất định. Dùng để hiển bày hành tướng do đây là khác. Cho nên dẫn Đại kinh nói giết người làm chứng. Văn có chánh giải thích, nói cơ nay đã thuần thục nên có khả năng nghe, Chánh nói chuyển quán, chánh nói được ích lợi. Đã là lợi căn, mỗi người ở đương giáo đối với tín hành mà được tên là lợi căn. Nghe tam tạng..., phàm gọi pháp hành thì không phải hoàn toàn là không nghe, nghe ít suy nghĩ nhiều, nên được tên ấy. Bát-nhã ở Thông, Hoa Nghiêm ở biệt. Mà chưa thấy chánh đạo là học ba giáo trước chưa thấy lý Viên. “Nếu nghe...” là chính nói chuyển quán. Nhập bất nhị môn, là từ thiên mà nhập viên, vị thông cả sâu cạn. Vì quán hành, tương tợ, phần chân đều nhập vào bất nhị môn, nay căn cứ ý chê trách, chỉ lấy phần chân.
“Lại nữa...” là căn cứ vị hiển bày ngôi vị, có hai: a, bày ngôi vị: Đối ba chỗ trước..., Tạng giáo Bồ-tát đã không đoạn hoặc sâu cạn tuy khác, nhưng vẫn gọi là sữa.
Người Thông dựa vào vị, phối ngôi vị có thể biết. Nếu phát trung đạo thì chỉ ở Biệt giáo. Nếu luận chứng đạo há nhờ chê trách. Nay từ ý bộ căn cứ giáo đạo mà nói cho nên ở vị đề hồ. Gặp chê trách nhận được lợi ích mới gọi giết người. “ Nếu nghe...” là nói lợi ích. Nếu luận nhận lợi ích thật thông sâu cạn. Nay nói độc phát là chỉ ở phần chân. Thế thì liễu nhân như độc, vô minh như người. “ Thế thì...” là kết bày ý sai thăm bệnh. Cối chày... là ngài Tịnh Danh như chày, ngài Di-lặc... như cối, thành đồ đựng cơ duyên thành thục của Đại thừa. Đều thắm đượm là nhân thuật nghe chê trách, ai nấy đều thấm đượm ích viên. Tín hành thì chuyển giáo, pháp hành thì chuyển quán. Nay nói nghe lại lợi ích rộng khắp. Ngài Kinh Khê nói: “Nhắc xưa nói nay, ích lợi của quán giáo nhất định không luống dối để thành lợi ích.” Tiếp liệu giản, có hai: a, chọn lợi ích thật.
Hỏi: Chê trách các Bồ-tát..., ngài Kinh Khê nói: Hỏi Đại sĩ chê trách lời và ý đều ở Viên, mà các Bồ-tát đâu đều được lợi ích của viên?
Đáp: Trong đó dẫn luận ngữ. Thi ba trăm, tức nay Mao thi có ba trăm lẻ năm thiên, đây nêu tròn số, một lời nghĩa là tư vô tà, tế cũng như đương. Thì tuy hơn ba trăm, rộng hơn sáu nghĩa mà chỉ dùng một lời tư vô tà để xứng với lý ba trăm thiên. Nay cũng bốn cơ tuy rộng nêu một Viên khắp lợi ích để xứng đáng. Ở trong thời Phương đẳng dẫu chưa nhập viên nhưng đã ngầm nhận lợi ích Viên ích. Vì nhân chê trách mà có khả năng đến hội Pháp Hoa. Học giáo quyền thật... thật tức Viên giáo. Không đắc ý là đã sinh ngữ kiến. Cho nên bị chê trách, chê bệnh không chê pháp. Chọn quyền ích cũng trệ phương tiện, trệ phải viết đới, vì lầm.
Hỏi: vừa nói đều được lợi ích một đạo. Vì sao trong đây nói là không được ích lợi phương tiện?
Đáp: Hiển thì hoặc phương tiện còn mật chỉ là một đạo. Dựa theo ý Phật làm mật mà không phải mật mà nhập viên.
Giúp thành giáo Phật quốc, ngài Kinh Khê nói: “Phù hợp thành... là gồm nêu các ý.” Đây dùng văn đầu Như Lai đáp ý tịnh độ. Nếu thấy thất trống nhập vị được tự ích. Nếu thấy Đăng Vương và Hương tích liền được nhập vào vị lợi tha, “kế nên tùy...” là nói bị chê trách, tức từ hạnh tịnh độ thành nhập vị vô sinh, cũng được sinh ở cõi Đồng cư.... Lại “tùy phước tuệ...” là chỉ bị chê trách thành hạnh tịnh độ để nhiếp chúng sinh đến sinh nước ấy. Kế, “đây là...” là tổng kết ý trước, cho nên biết Như Lai nói hạnh tịnh độ, nguyên là khiến đủ ý các văn từ trước đến nay. Chiết phục Bồ-tát trụ phương tiện hạnh là nhập hậu vị mà vẫn tự tại du hóa, có hai: a, nói dẫn chứng ba kinh để chê trách sữa thành lạc như phẩm Phật Quốc. Khi cõi hiện lại uế thì được pháp nhãn tịnh. Và ở phẩm Phương Tiện vì quốc vương, cư sĩ mà nói vô thường rã mục nhanh chóng. Đều là chê trách sữa phàm phu thành lạc Nhị thừa. Đến thời Pháp Hoa thành thục tô, ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Các văn một nhà gồm nói đến Pháp Hoa đều thành đề hồ, nay sao được nói chỉ thành thục tô?
Đáp: Giáo chỉ không khác, chỉ do người từ trước bỏ đi. Huống là giáo hiển lộ chỉ người Nhị thừa đến thời Pháp Hoa đều thành đề hồ. Các Bồ-tát... không nơi nào không nhập. Bát-nhã dị đồng cũng lại như thế. Năm ngàn khởi đi ba biến dời khắp nói góp nhặt là do nhiều ý, như thục tô tức gọi đề hồ. Cho nên liền ở sau Pháp Hoa lại nói Bát-nhã. Do đó còn có tên sinh tô. Đều là Niết-bàn nhập pháp giới. Phật hóa hiện đặt bày một kỳ việc xong, trước sau tiểu có khác nhưng đại thể vẫn không trái. Còn đặt lời truyền thuyết về các nước khác, hà tất chỉ ở tại tòa giảng Linh sơn. Nếu lấy bất tận mà nhập pháp giới thì khiến Pháp Hoa không phải là bộ sau cùng. Ta căn cứ đây các giáo có được nhập là bộ phải viên dung.
Lập năm câu hỏi để giải thích nghi, giải thích nghi kinh này nhập pháp giới, trong ý đáp là lợi căn đã ngộ nhập đâu chỉ cùng Hoa Nghiêm không khác, kỳ thật là cùng Pháp Hoa không khác. Độn căn đã chưa chứng nhập, ở đây chỉ thành sinh tô, hoặc chỉ thành lạc mà thôi. Đến Tam-muội sau, thì căn cứ vị phải là hai, căn cứ kinh phải là ba, vì Pháp Hoa và Niết-bàn đồng vị. Nên đại sớ nói: Chỉ kẻ chưa chứng nhập phải đến Đại phẩm Pháp Hoa Niết-bàn. Nếu dựa theo mới nhập trong đây thì đến Đại phẩm có người như sinh tô, Pháp Hoa có người như thục tô, thì Đại kinh là đề hồ, tất cũng được nói là Tammuội. Ngài Kinh Khê tu định, ý hoặc ở tại đây. Giải thích nghi Bảo Tánh luận không nói nghi. Hai chỗ không khác, là ở sau Lộc uyển đều nói viên đốn. Cho nên hai tô khác nhau. Đây căn cứ từ Lộc uyển thứ lớp mà nhập để nói. Người mới nhập thì ở đây mới là lạc, ở Đại phẩm bèn là sinh tô. Người lợi căn đốn nhập pháp giới thì thành đề hồ đều như trước nói. Cho nên biết năm thời thứ lớp là căn cứ một phen cơ duyên mà nói. Cho nên ở các văn đều chỉ năm người đầu tiên là học tiểu.
Giải thích nghi về Đại phẩm thượng căn. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Từ trước nay, đây căn cứ từ trước nay nhiều nghĩa năm vị, đều dùng Niết-bàn đối Pháp Hoa mà lập trên dưới, cho nên chúng Nhị thừa đều đến Pháp Hoa mà nhập pháp giới. Pháp giới tánh luận sao chỉ có thế?
Đáp: Pháp giới tánh luận chỉ căn cứ Bồ-tát nhập cơ nhất thừa, nên nói người Nhất thừa. Nếu người Nhị thừa thì ở Pháp Hoa mới là trên. Nói Nhị thừa là nói đại tiểu chung.
Giải thích nghi hai kinh đồng vị. Dựa theo giáo mà phán vị, tức vì đều khai hiển. Nay căn cứ người thì người nhập có trước sau.
Giải thích nghi Pháp Hoa sinh tô. Ngài Kinh Khê nói: Đúng như câu hỏi, tức chuẩn câu hỏi là đáp, tức là cũng có. Chuẩn đây nên hỏi rằng cũng có Pháp Hoa như sữa chăng? Đáp như câu hỏi vậy. Cũng cần phải hỏi xuất cũng có dùng Phương đẳng làm thượng căn, mà không đáp, đạo lý phải thế, vì sau tam tạng liền nhập vậy. Tiếp ấn định thành kinh. Đại luận quyển hai nói: Phật pháp có năm thứ người nói:
1. Miệng Phật tự nói.
2. Đệ tử Phật nói.
3. Tiên nhân nói.
4. Các trời nói.
5. Biến hóa nói.
Nay ngài Tịnh Danh là đệ tử Phật, cho nên được ấn định thành kinh. “Vì đây...” là tổng kết trước. Tiếp giải thích tóm lược Bồ-tát, có hai: a, danh nghĩa chỉ trên. b, ước giáo chánh giải thích, dựa theo giáo nói chung, chính nói hành tướng. Ngài Kinh Khê nói: Bốn thứ Bồtát đều gọi là Bạt-trí: Trước nêu phát tâm, kế nhập Bạttrí. Đây thì nêu đủ cả trước sau. Lại bị chê trách, đều là vị bất thoái, từ bất thoái trước nhập bất thoái sau. Ba thứ bất thoái thông nhau mà nói. Vì trong bốn Bồ-tát trước trách khuyên hạnh bất thoái thế nên trước nêu tiếng bất thoái. “Nhưng đại...” là kết bày ý Phật nói bốn giáo, nói nghĩa Bồ-tát. Ngài Kinh Khê nói: “Các Ba-la-mật tức là hạnh ngang, quán lý nhập trí tức là hạnh dọc. Ba giáo trước chỉ nói vị dọc, chỉ có Viên giáo đều nói cả dọc ngang. Nếu chuẩn văn trước cũng có thể đầy đủ. Như trong phẩm Phật Quốc mười bảy cú tức hạnh ngang, mười ba cú tức hạnh dọc. Tuy không thấm đượm nghĩa tạng mà lập ra nào có ngại gì. Không phải quyền không phải thật, ở một tâm với lý song phi “cùng không phải) diễn nói pháp quyền thật của bốn giáo, nên nói mà quyền mà thật. Căn duyên tự khác, ý Phật thường đồng. “Nay nói...” là dựa theo đề chánh nêu, chủ bạn đồng duyên. pháp thân quyến thuộc. Ngài Kinh Khê nói: Từ trước nay nhiều văn đều nói thâm cầu đến mức tức là ứng sinh, tùy cơ lợi vật mà thấy được như trăng hiện trong nước. Quang Minh nói: Ứng vật hiện hình như trăng trong nước. “Phương tiện...” là thầy trò chuyển ích. “Như đây...” là kết bày công năng. Liệu giản, các Bồ-tát cùng ngài Tịnh Danh luận sai khác, hỏi, ngài Kinh Khê nói:
Nói bị chê trách, phần nhiều là ở đồng nghe, biết mà tin, cùng nghe không phải là hạ vị “vị thấp), đã là đồng vị thì không thể có chê trách.
Đáp: Giải thích khác trước nêu ý chung. “Có người nói...” là nêu ý xưa. Là quyền lân quả, tức xưa là Kim Túc Như Lai quyền hiện làm Đẳng giác Bồ-tát. Có ba đời, tức văn dưới nói trước, giữa, sau. Giải thích nay, ngài Kinh Khê nói: Tuy lại có trách nhưng không ngại gì vị cao, tuy nói nêu ý văn gồm chê xưa. Ương-quật như trước đã ghi. Dựa vào nêu mười tâm trước ví như vào chỗ biểu thị ngày nay, có hai: hỏi và đáp, đồng với bốn tri kiến của Pháp Hoa. Khai, thị, ngộ, nhập tức là bốn mươi chân nhân. Dưới đối Hoa Nghiêm mà giải thích tự hiển bày. Cùng loại Hoa Nghiêm bốn mươi vị, chánh nói bốn Đại Bồ-tát, nghĩa là ngài Pháp Tuệ nói Thập trụ, ngài Công Đức Lâm nói Thập hạnh, ngài Kim Cang Tràng nói Thập hướng, ngài Kim Cang Tạng nói Thập địa. Thiện ác dung thông, là ma sự tức Phật sự gọi là ác dung, như nói hành ở phi đạo mà thông suốt Phật đạo. Phật sự tức ma sự gọi là thiện dung, như nói làm ma vương phần nhiều là trụ ở bất tư nghì.
“Ý chê trách...” là kết bày.
Căn cứ từ người đối vị cạn sâu mà ý dung.
Căn cứ nêu lại ngài Di-lặc đối trước mà luận lợi ích. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi phá một người Di-lặc... là trong ý đáp nói: Tất cả đều có vậy. Chỗ giáo hóa không nhất định. Đây là ngài Di-lặc đồng sự với cơ. Đã hay khắp đồng, chê năng hóa sở hóa tự tề chỉnh.
Căn cứ quyền thật song hành, không đâu không có chánh phụ. Nay sao được nói cộng hành đệ tử... đây là nêu lời đáp trước để hỏi. Đại sớ trong lời đáp trước đối với phần quyền thật hóa vật ở dưới có nói: Đệ tử được giáo hóa cộng hành bất định. Ngài Kinh Khê trước đã bỏ tiếng cộng hành, trong đây cũng theo đó mà bỏ. Phải nói rằng nay được sao nói việc giáo hóa của Di-lặc vốn là thật giáo ư? Thì văn mới ăn khớp.
Y cứ Hoa, Nghiêm Pháp Hoa, đối nay mà luận khác. Tiếp vào văn giải thích, có hai: a, phân khoa. b, sở dĩ...” là tùy giải thích. Sai bốn đại Bồ-tát.
-Sai ngài Di-lặc:
Nêu nguyên do sai trước. “nói di...”, là chánh giải thích danh nghĩa, có hai: a) định tên họ. Triệu sư nói: Dilặc thuộc giòng Bà-la-môn nước Nam Thiên trúc, sinh ra từ giòng này nên lấy đó làm tên. Ngài Đạo Sinh nói: Dù sinh ở cung Đâu-suất cũng lấy họ mà gọi. Lời giải của hai sư này cũng phù hợp với giải thích nay. “Mà tên...” là nêu nghĩa Từ, có hai: a, căn cứ tên ba Từ mà giải thích. Nghĩa tên ba Từ như trước đã ghi rõ. Hoặc hữu lậu hoặc vô lậu, lậu là rơi vào biến dịch, không phải rơi vào phần đoạn. Một mực vô lậu, là trung đạo đại Từ không rơi vào hai biên. Dùng nghĩa so sánh bốn giáo, ba giáo trước chỉ có Sinh Pháp, Viên giáo thì đủ cả Vô duyên. Ngài Kinh Khê nói: Bốn giáo đều nói: Vui cùng đạo không nói là dứt khổ tập. Vả lại đã bỏ biên từ. Chưa tức dứt khổ là thể của viên từ, lý không đi riêng. Nếu theo sự mà nói thì đều khác và không hai. Cho nên cùng nói vui một thứ mà thôi. “ Di-lặc...” là nói lý do bị chê trách, có hai: a, nói đây quyền kia thật. b, “lại quyền...” là nói hiện ra và mất đi tùy cơ. Xuất một bất định là tùy cơ mà hóa ra. Ngài Tịnh Danh cũng quyền mà ngài Di-lặc cũng thật. Trước ước một mực lại lấy đây kia mà phân.
Tiếp, từ chối không kham, có hai: a, phân khoa, b, tùy giải thích, từ chối không kham. Nêu lý do không kham, lược bày. Đâu-suất-đà, Hán dịch là Tri túc. Bản dịch mới nói là Đổ-sử-đà. “sở dĩ...” là rộng giải thích, nói Thiên vương thỉnh nói pháp làm nhân cho y báo. “ngài Di-lặc...” là nói bất thoái. Ngài Kinh Khê nói: “Dilặc vì nói... đủ như trong sớ văn. Giải thích rõ ràng đã xong. Nay giúp thêm một giải thích. Phàm được thọ ký, thì phần nhiều là ở bậc bất thoái. Đã tự được ký lại vì người khác mà nói. Cho nên vì Thiên tử nói mình được ký ngôi vị là nhân từ, nên bị Đại sĩ chê trách. Ký tuy bị trách mà không trách bất thoái. Nêu trách thọ ký là trách bất thoái. “ Nói chẳng...” là chánh giải thích, chánh nói bất thoái, nêu kinh giải nghĩa. Ngài Kinh Khê nói: “Trong nhân được lý..., là ở nhân mà chứng lý, nên lại nói. Nếu từ Di-lặc phải nói là quả. Do nhân chắc chắn nên nói là hạnh. “Chỉ bốn...” là căn cứ ở giáo mà phân biệt. Ngài Kinh Khê nói: “Vào noãn... phải dẫn luận Câu-xá noãn ắt đến Niết-bàn đảnh trọn không mất thiện... như Thông giáo nói ba bất thoái. Trong đó nói sáu địa ngang công.... Vì cùng chung tiểu nên được tên ngang. Nói “đều” là hiển thừa hiển địa. Bậc tánh địa trở đi đều là hàng bất thoái. Thập tín sơ tâm... là vị Thập tín, chỉ khác nhau về hai tâm sơ và trung. Bát tín đến thập Tín coi là tâm trung.
Tiếp, kết bày bị chê trách, có hai: a, nói giấu thật mà bày quyền. Lập hỏi đáp để hiển bày ý. Ngài Kinh Khê nói: Nghe ngài Di-lặc nói đến được nhập vì lúc được lợi ích thì khác xưa nên nhân làm có khác. Chánh kể việc bị chê trách, phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: 1. Trước định chung, “đối các văn sinh diệt...” nên đây thành chung. 2. Tùy giải thích, định chung, nêu ý. b', “nhất sinh...” là chánh giải thích, Nhất sinh. Ngài Kinh Khê nói: Nhất sinh..., cũng nói là hai tức nhân thiên vậy, cũng nói là ba gồm đời này. Giải thích thọ ký, chánh căn cứ bốn giáo kinh Tiểu Di-lặc nói được ký là của tam tạng. Kinh Đại Di-lặc thành Phật và kinh Đại phẩm đều nói Di-lặc của Thông giáo được ký. Bày đoạn một phẩm..., ngài Kinh Khê nói: “Trước không nói bày đến đây mới nói thì dễ lạm thật. Cho nên phần nhiều các kinh Đại thừa đều nói bày, huống là có giáo không người, nên cần phải nói.
Hỏi: Nếu thế thông cũng dễ lạm sao cần nói bày?
Đáp: Quán tên tuy lạm nhưng nó cùng tiểu cộng, cộng và bất cộng khác nhau cùng cực thì thành khó lạm. Lại cũng có thể nói bày, tức là nghĩa hiển bày mà thôi. Chuẩn đây mà nói các văn khác cũng có.
Thiện Tài vào lầu quán..., Thiên Nhĩ Nhã nói: Hẹp mà sửa quanh co nên gọi là lầu quán, gọi là khuyết. Quách Phác chú là hai cửa cung vua vậy. Giải thích tên nói quán là xem, tức là ở trên cao mà trông xa. Tiêm sư dẫn Tân kinh nói: Ngài Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải xong rồi bạch rằng: Kính mong Đại Thánh mở cửa lầu các. Khi ấy ngài Di-lặc đến trước khảy móng tay thì cửa liền mở, bèn mời ngài Thiện Tài vào. Ngài Thiện Tài vui mừng vào xong thì cửa liền đóng. Ngài thấy lầu các cao rộng khôn cùng đồng với hư không. Cho đến hoặc thấy ngài Di-lặc lúc mới phát tâm Bồ-đề liền được khai ngộ danh tự như thế, chủng tộc như thế, bạn lành như thế. Cho đến thọ mạng như thế trải qua các lúc gần gũi cúng dường đều thấy rõ ràng. Hoặc thấy ngài Di-lặc lúc đầu tiên mới chứng được Từ tâm Tam-muội. Từ đó đến nay gọi là Từ thị. Cho đến thấy được nhẫn, hoặc thấy trụ địa, hoặc thấy thành tựu thanh tịnh quốc độ. Hoặc thấy hộ trì chánh pháp Như Lai, làm đại Pháp sư được Vô sinh nhẫn. Lúc đó, chỗ đó, đức Như Lai đó đã thọ ký cho được Vô thượng Bồ-đề, lấy tích biểu thị cho bản. Ngài Kinh Khê nói: Viên là do thật thành. Nếu chuẩn theo thật thành thì cảnh trí hợp thời, chỉ Phật thấy Phật. Cho nên kinh Pháp Hoa nói: Chỉ Phật cùng Phật đồng vậy. Nếu làm Bồ-tát ở tịch trường, cho nên biết là tích. Trong tích nói viên chỉ có thể biểu thị cho bản. Đây cũng là thể dụng luận về bản tích mà thôi. Ý này cùng nghĩa hiện bày rất lớn. Cho nên dùng tịch trường chung biểu thị cho hai giáo. Cũng như kinh Hoa Nghiêm, hỏi vì sao dùng một văn mà biểu thị cho hai giáo?
Đáp: cơ và các giáo cùng chung khiến kinh bộ hợp nhau.
“Chỉ Di-lặc...” là kết bày định ý, kết ngài Di-lặc tùy cơ. Ngài Kinh Khê nói: Đâu thể suy lường cao thấp hoặc là cổ Phật lâu xa khó biết. Có bốn căn duyên.
Hỏi: Văn trước đã nói giấu thật dùng quyền, nay tùy bốn duyên thì quyền thật đều dùng là sao?
Đáp: Trước nói quyền, là không chuyên quyền, cho nên ở trong Viên giáo mà mất ý chỉ.
Cũng cần chê trách. Cho nên dù vị ba bất thoái, chỉ trách ngài Di-lặc. Các thứ khác là giấu tung tích. “ Nay...” là bày ý định ngài Tịnh Danh. Chánh chê trách hỏi phá, phân khoa nêu trước, phân khoa. nêu trước, nêu lập. chánh bày, riêng. chung, giải thích, bốn giáo đều sinh. bốn giáo đều vô sinh. “Thông giáo...” đều là vô sinh. Ngài Kinh Khê nói: Vì quả mãn chánh hiển bày sự mãn vậy. Khi tin sự mãn thì lý đâu chẳng mãn. Nhưng chẳng riêng lẽ từ lý làm tên, là lý lạm từ đầu vậy. Chế lập có khác, tức địa tiền, trụ tiền thứ lớp và không thứ lớp, đây là khác nhau. “ Tuy...” là lấy bỏ. Nay đến...” là tùy văn giải thích, sinh môn, gồm khoa. Tùy giải thích, ước ba đời mà định được dây để buộc, là chuẩn theo Hữu bộ mà lập được đắc. Tạm dùng hậu đắc mà được tiền đắc. Cho nên khiến nghiệp xưa hay đến vị lai. Cho nên trong Hữu bộ thì nghiệp nhập quá khứ đến vị lai. Thân chết rồi đắc mất, vị lai báo khởi như một nghiệp thành, lấy một đại đắc mà được pháp nghiệp. Lại dùng tiểu đắc mà được đại đắc. Sát-na thứ hai dùng ba đại đắc được hai thứ. Tiền đắc và pháp nghiệp ở trước. Đắc ở niệm đầu đều thành pháp. Cho nên lại ba tiểu đắc mà được ba đại trước, đều là chín pháp ở sát-na đầu. Thành tựu hai mươi bảy pháp ở sát-na thứ ba.
Đàm-vô-đức, Hán dịch là Pháp mật, là thấy không mà đắc đạo vậy. Tiếp là hỏi phá, riêng phá hai nhà, hỏi phá Tỳ-đàm có ba đời. Hỏi phá Đàm-vô-đức không hai đời. “Lại nữa...” là phá chung hai nhà. Ngài Kinh Khê nói: “Lại nữa...” là ước chung chỗ chấp của hai nhà để chê trách Di-lặc. Đây căn cứ chấp tâm ba đời mà phá. Vì chỗ chấp của hai nhà có lấy bỏ mà không ngoài phá này về ba đời. “Hai đời không vậy”, bốn chữ này hợp với ở cuối khoa trước, ở đây là lầm vậy.
Dẫn chứng, nêu ý giải thích chung. “ Cũng sinh...” là căn cứ tông mà giải thích riêng, căn cứ hữu môn mà giải thích. Tát-bà-đa, Hán dịch là Nhất thiết hữu, thấy có được đạo vậy. Ngài Kinh Khê nói: Nếu y vào Tát-bàđa... là lại căn cứ tiểu nói tông mà phá tiểu. Cho nên căn cứ hữu môn để phá không môn.
Liệu giản. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Ba tướng bốn tướng..., là nếu chỉ lập ba thì không có tướng khác. Đây cũng gồm phá việc chấp thường. “Nhược tác...” là phá chấp không môn.
“ Có Sư...” là phá xưa. Dựa theo vô sinh môn, có hai: a, đoán bày phân khoa, có hai: a, đoán bày nghĩa chỉ, có hai: a, nêu chung. Tức là trách lấy diễn môn..., tức khiến hai giáo chấp phương tiện. Và viên khởi là thấy người mà tự cảnh giác nói Di-lặc là bậc bất thoái mà còn bị chê trách. Bọn ta sơ tâm sao dám cố chấp. Cố chấp đã quên thì không chướng chánh đạo. “Vì sao...” là dẫn chứng giải thích, dẫn kinh nêu tên. “Tam tạng...” là y theo giáo giải thích nghĩa. Không có thọ ký vô sinh, tức không lấy vô sinh làm vị đoạn kết. Ngài Kinh Khê nói: “Tam tạng phục kết..., đây là chánh phá vậy. Lại dẫn tam tạng, là nói chỉ có ba thứ Thủ-lăng-nghiêm còn cần tự phá. Cho nên tam tạng giáo chưa được vô sinh thì không hợp cầu thọ ký. Cho nên quyền vô sinh Không phải là vị chánh thọ ký. Dẫu lại lập mà lập tức liền phá, cùng nó mà luận thì ra khỏi ba tướng. “Cho nên...” là trải các giáo đều trước dẫn ba giáo trước không phải chân, kế mới phá quyền thật mà được không. “Càn tuệ... tánh địa...” là chính ngoài vị chung. Cùng tam tạng giáo ba kỳ trăm kiếp vị đó bằng nhau. Nên nghe thọ ký thì tâm... là phá Di-lặc khiến tâm dứt các thứ khác. Nếu phá các trời e lạm phá các trông nhờ khác. “Ba trước...” là kết phán ý chê trách. Tâm kỳ ký này, kỳ là bảo, bảo cầu ký này. Tùy văn giải thích, ước lý vô sinh mà phá, trải bày ý chê trách, nói ký vị vô sinh, lược bày vô sinh. chỉ ba...” là nói rộng ký vị, gồm răn chung. Và ba giáo...” là bày riêng, giải thích ba ký trước. Tuy chưa phát tâm, tức chưa phát đại tâm vậy. “ Thông...” là giải thích ký vô sinh. Cũng gọi là hoan hỷ địa, vì mới thấy đế nên tâm hoan hỷ, nên mượn tên riêng để gọi địa ấy. Quả Phật thường trụ là khác, ngài Kinh Khê nói: Đây là ký pháp thân rốt ráo. Như trong Thông giáo chỉ có tám tướng không có bổn pháp thân nên không có tên gọi. Cho nên trong pháp thân này là khác hẳn. Hoặc trí hoặc đoạn gọi là vô sinh Biệt giáo. Mượn tên Thông giáo mà dùng chung. Lột cũ hành và xắt củ hành khác nhau, là thứ lớp đoạn trừ các hoặc từ ngoài đến trong cũng như lột củ hành. Nếu không thứ lớp đoạn trừ thì trong ngoài đều hỏng cũng như xắt ngang củ hành.
Hỏi: Người sáu căn tịnh trước đã hết kiến tư sao khác lột củ hành?
Đáp: Ba hoặc đều một tâm, chỉ luận trước sau, thô cấu tự rụng dần nên xét kỹ. “ Chỉ học...” là lý do chê trách, nói sơ tâm khởi đắm trước. “Vì đây...” là nói mượn cao dạy thấp, có ba: a, nêu bày. b, sở dĩ...” là chánh giải thích, có hai: a”, nói mượn cao mà chê trách. Ngài Kinh Khê nói: Xét cùng tận cội nguồn vô sinh của ba giáo, tức vị bổ xứ gọi là cội nguồn. “Nếu thông...” là dạy thấp được lợi ích, dựa vào giáo nói chung. Như viên Bồ-tát là người năm phẩm. “Lại nữa...” là trải các vị nêu riêng. Dựa theo lý khắp chê trách, tức ước lý vô sinh của Viên mà chê trách. “Mà cần...” là tổng kết. “ Nhược dĩ...” là chánh giải văn kinh, Giải thích thọ ký vô sinh. “Mà nói...” là giải thích vô sinh là chánh vị. Kim Cang Bátnhã... ngài Kinh Khê nói: Song ba giáo ấy vượt tiết mà nói thì đều có nghĩa này. Nếu hợp dụ trước thì Thánh hiền như các quan văn võ, vô vi như Thiên tử. “Vô sinh...” là giải thích không thọ ký thì không quả. Sở dĩ trở đi giải thích thọ ký là gì? “Nếu thế...” là kết bày lợi ích, mượn ý được lợi. Lập câu hỏi giải thích nghi. Ngài Kinh Khê nói: Vì Thiên vương Đâu-suất..., mà làm hai giải thích về thân chư Thiên và Di-lặc. Dựa theo hạnh vô sinh mà phá, nêu ý phân khoa. Hạnh thành trí đoạn, do hành liễu duyên mà được quả trí đoạn. Như sinh là trí, như diệt là đoạn. Tùy văn giải thích nghĩa, song định, nói chung về ý định: Chư Phật Bồ-tát đến đây dứt hết, là quán vô sinh ở phàm, trí sinh hoặc diệt ở Thánh. Chân trí đến tiệm diệt là nói Bồ-tát được từng phần (phần đắc). Nếu trí đến đây dứt hết là nói chư Phật rốt ráo. “Đến đây...” là căn cứ giáo chánh giải thích. Ngầm dựa theo ba giáo, ngài Kinh Khê nói: Đây chỉ nói ba giáo là đại phá tiểu. Nếu thông đến có khác là lý một mực khác, cần gì phải nghi. Sự tuy nói đồng nhưng vẫn khác chút ít, là nội ngoại giới khác. Tu khác tức thứ lớp và không thứ lớp.
Song phá, nói ý nêu chung thiên viên hai chân thì lý Thông là thiên chân, còn Biệt Viên là viên chân. Lý thật giáo quyền của Biệt giáo, chứng đạo thì đồng viên, chung gọi là viên chân. “Căn cứ Thông...” là nêu ý bày chánh, ước giáo bày nghĩa, hỏi Thông giáo, có hai: a”, nói chỗ chấp của Di-lặc. Từ như có hành, ngài Kinh Khê nói: Trước lập lý đương giáo coi là tình chấp được thọ ký. Nói ngài Tịnh Danh phá trí đoạn không phải như, nêu kinh bày nghĩa. Kết cú giải thích lại. Trước tức dựa theo thể như, sau dựa theo sự như. Nên ngài Kinh Khê nói: Thể mới căn cứ ở lý, bốn câu từ sự, sự lý tuy hai nhưng khiến không hai. Sự lý tức là trí cảnh cùng y theo lý. Thiên viên đều có sự lý. a, nêu kinh bày nghĩa, “ý hỏi...” là bày nghĩa: “Nếu như...” là kết hỏi. Kết cú giải thích lại, kết cú bày chấp. Ngài Kinh Khê nói: Do năng duyên... là trước dùng lý mà căn cứ theo hạnh, nay lấy sự căn cứ theo hạnh. Dẫn kệ hỏi phá, phá chung bốn câu. Đều như cú đầu..., phải nói kệ nói cũng không từ thứ khác sinh, há có lý sở duyên chân như sinh trí đoạn mà được thọ ký. Kệ nói không cộng sinh, há được năng sở hợp sinh trí đoạn mà được thọ ký. Kệ nói đều do nhân sinh, há có lìa năng duyên sở duyên mà có trí đoạn, mà được thọ ký. “Bốn câu...” là chánh bày chỗ chấp. Vấn nạn Biệt Viên. Hỏi đáp liệu giản, chọn chân duyên tự tha của ba giáo. Ngài Kinh Khê nói: Đây là chuẩn theo văn giải thích trước mà hỏi. Hỏi Pháp Hoa huyền văn nói thể của xe. Trong hai giáo Tạng và Biệt dùng duyên làm tự, còn hai giáo Thông và Viên dùng chân làm tự, cùng đây không đồng, ý đó như thế nào?
Đáp: Cũng không trái nhau. Chỉ ý mỗi thứ có khác. Cho nên khiến nội ngoại đều có tức và ly. Tức là sơ tâm tức được lý chân mà đến. Cho nên nhận lý dùng lý chân làm tự làm thể. Vì không thật lý nên không được làm tự. Cho nên lý Tạng, Thông đều tha. Do nhân duyên này mà nương. Chọn chân dung bất đẳng của Biệt Viên. Hỏi Thông giáo..., ngài Kinh Khê nói: Chân đã chưa rốt ráo nên nói là đoạn không. Lại từ trí sinh nên nói là tha. Cơ giáo không đồng, vì cơ là độn căn nên giáo thành thứ lớp. Nói biệt trở đi, ngài Kinh Khê nói: Song lại Biệt giáo cần nói hai nghĩa để bày ý chỉ. Địa tiền một mực lấy chân làm tha, đăng địa cũng cho lấy chân làm tự chỉ được tên biệt, phần nhiều không phải đăng địa. Thế nên văn nay không dùng làm tự. Lại chân làm tự cần có hai nghĩa: Một là từ lý; hai là phá chấp. Nói từ lý, tức trí còn bổn hữu vốn huống là cảnh ư?... cho nên tu tánh hợp thời ắt từ bổn mà nói. Cho nên từ bổn nói tên là tự sinh. Cho đến đều song phi. Vì tánh lý vốn “không” tự tha. Phá chấp, là lại cần nương lý, lý không phải tự tha sao được chấp làm bốn. Hai giáo trước chỉ có phá chấp, nên hai giáo sau đều nương lý xa. Chọn chân tu Viên giáo có hỏi đáp, nói bốn câu chẳng sinh. “Nếu bốn...” là kết thành ý hỏi, bày hỏi chỉ rộng. không sâu kết hơn huống kém. Chọn ngài Tịnh Danh, vấn nạn có ba lợi ích. Hạp hương, là tên huyện cũng là tên châu. Tướng Tần là Bạch Khởi đánh nước Sở, đốt Di lăng là đất ấy. Ngụy Võ Đế ở đấy đặt Lâm giang quận. Hậu Ngụy đặt là Thác châu, lấy nghĩa là khai thác mở mang. Hậu Chu vì ở cửa Tam giáp nhân đó đặt là Giáp châu. Một phen vấn nạn Chu, ngài Tịnh Danh một khi vấn nạn thì hợp thêm tươi tốt mọi cảnh tượng. Phá chấp ba giáo họp tùy người động hay yên. Cùng đều, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, lấy bốn đều làm đầu mối, chánh giải thích, Thông giáo, nêu nghịch thuận. Chánh giải thích. Văn có bốn đoạn. Lấy Thông giáo chỗ nói về chúng sinh và Phật Y chánh đều không, cho nên được thuận nghịch cùng Di-lặc. Trước căn cứ chúng sinh như thuận đều. Người giả đến không hai. Chúng sinh tức không, Di-lặc tức không. Phàm Thánh tuy khác nhưng thể Không chỉ là một. Khác thì không phải như, tức không khác mới gọi là như. Như chỉ là không, không thì đâu có khác. Nếu có hai khác thì nhất định là không phải như không phải vài ba phen tức là bốn vậy. Nói chung nghĩa đều cùng ở đây thật là vô cùng đâu chỉ ba, bốn. Căn cứ tất cả pháp như thuận đều. Trước chỉ chánh báo, đây gồm y báo, y chánh đều không nên được cùng đều. Cần xếp loại mà nói là phải nói nếu quốc độ như, thì không sinh Không diệt được thọ ký. Di-lặc như cũng thế. Lệ theo phen đầu mà nói. Vì sao đến Phật không thọ ký, ngài Kinh Khê nói: Đây mới dẫn dị mà hỏi về đồng. Huống ở trong đây lại từ phá mà nói. Nếu từ lập nghĩa đều là thọ ký, thì tất cả pháp được ký đâu có gì lạ. Y còn có thể ký, cần gì luận chánh? Ngài Tịnh Danh nay lại mượn diễn quyền giáo để không thọ ký pháp mà hỏi. Về độn căn nương Viên giáo, thì hỏi những gì? Cho nên trong Viên giáo thì nhân quả, y chánh, sự lý... đều chẳng hai thì ký làm sao nghi là quả có nhân chỉ không có quả vô thường mà thôi. Cho nên Đại kinh sau có dẫn chứng là đại ý cũng thế. Cho nên cũng lại từ quyền giáo để nói.
Căn cứ chúng Hiền Thánh như thuận đều. Ngài Kinh Khê nói: Hiền Thánh Tiểu thừa quyền không có nghĩa thọ ký. Thật giáo đầy đủ như kinh Pháp Hoa. Cho nên bốn vị đắm trước các pháp như và ký. Tiểu thừa thì bị lỗi nói thêu dệt cho Như Lai. Cho nên biết ngài Tịnh Danh không thể tức dụng ý kinh Pháp Hoa. Nên lại nương bộ Phương đẳng mà hỏi. Nếu thế sao không dùng viên trong Phương đẳng, ngược lấy các pháp chẳng như làm đều cùng.
Đáp: Lại là viên đới biệt của Phương đẳng. Cho nên cũng chưa được bày rõ mà nói Hoa Nghiêm đầu tiên là lý đốn không nói vô dư.
Căn cứ Di-lặc như mà trái ngược đều cùng. Mỗi mỗi đều nói... là ngược đều cùng với phen thứ ba, là ngài Dilặc như, không sinh diệt mà được thọ ký, vì Hiền Thánh cũng như không có sinh diệt nên được thọ ký. Hiền Thánh như không được thọ ký, Di-lặc như sao riêng được thọ ký ư? Nếu như có khác thì nói không phải như. Nếu như không khác sao được một thì thọ ký, một không thọ ký. Các Hiền Thánh không được thọ ký, tức Di-lặc cũng không được thọ ký. Thứ lớp trái đều cùng tất cả pháp, thứ lớp trái đều cùng tất cả chúng sinh. Lệ làm có thể thấy, nên nói là rõ ràng. Biệt Viên loại chung khá biết, là chỉ có hai giáo Biệt Viên đều ước chân như trung đạo làm đều cùng là khác. Trong đó, Viên giáo đã ngoài tâm không cảnh. Cho nên Di-lặc được thọ ký nào có ngại gì Hiền Thánh Tiểu thừa. Tất cả y chánh mười giới chúng sinh một lúc đều được thọ ký. Vì tâm Di-lặc khắp các thứ, nên tâm các thứ cũng biến khắp Di-lặc. Ba thứ không sai khác, nêu một thì gồm tất cả. Ước lý tuy đồng ước sự có khác. Cho nên Di-lặc thọ ký không liên quan gì đến người khác. Cho nên khiến Tịnh Danh phải dẫn lý đồng kia để vấn nạn sự khác này. Lại cũng như Ngài Kinh Khê nói: “Trước đây là lấy Viên kèm biệt để làm câu hỏi. Phàm ở viên nói thì cần phải khéo được ý. Truyền tông này, là hoặc tự hoặc tha không khiến trái nhau. Hoặc miệng nói dung tông mà tâm mờ mịt ý chỉ này thì như con phước đức mà không sống lâu thì chỉ là một đám yếu đuối chết chóc cùng họ với gốc mê, như được sang quý mà không biết tổ tông, cũng như người chết mà đắm mê chuỗi anh lạc, cái cần dùng là phước hay anh lạc?
Chánh kết đều cùng, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích, Dựa vào giáo, Thông giáo. Biệt Viên trong đó một vị nêu Viên. Văn kết này lấy lý đồng mà hỏi sự khác. Ý đó rất sáng tỏ, đâu ngại gì Phương đẳng đối cơ viên kia mà chỉ thẳng. Tất cả đều được thọ ký, ở viên thành hiển, ở hai thứ thành mật. Huống cũng chẳng ngại y, ngài Kinh Khê giải thích vì dùng cơ Phương đẳng. “ Nếu Di-lặc...” là kết bày. Tiếp, song kết, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, ước phá trí đức mà giải thích, dựa vào giáo chánh chỉ bày. Chúng sinh phiền não có tướng trí tuệ, là như sóng có tướng nước. Động tĩnh tuy khác nhưng tánh ẩm ướt không khác.
Động có tướng tịnh ý đó rất sáng tỏ. Mặt người phước đức cũng thành một phần dụ. “ Tuy gồm...” là kết phán quyết giải thích nghi, Kết phán. Ý kinh ở Viên, ngài Kinh Khê nói: Trước, trong giải thích chung tuy có nhiều ý hoặc ba chê trách một, hoặc một chê trách ba, nên nay gồm nói ý chính của văn. Nay bảo: Đại sư đã nói ý kinh ở Viên thì văn giải thích trước phá đều cùng... đều phải là sự khác lý đồng, đối nhau đều cùng mà hỏi. Lợi căn được ngộ há khác Pháp Hoa, còn độn căn ôm cây chưa có trái Phương đẳng. Gởi lời các kẻ hậu đức suy nghĩ xét cho.
“Hỏi...” là giải thích nghi. Ngài Kinh Khê nói: Vì sao ba giáo đều phá, cũng phải nói là bốn giáo, chỉ là ý phá sinh môn của tam tạng giáo. Nên trong văn này không cần phải nhắc lại.
Hỏi: Chỉ nên lại căn cứ ở hai giáo Thông Biệt, sao lại dùng phá Viên?
Đáp: Trong giải thích chung ở trước đã liệu giản rồi. Người Viên phá ngữ kiến... ba thứ. Nay trong đáp chỉ gọi chung là chấp. “Kết nay...” là kết bày.
Dựa theo phá đoạn đức mà giải thích. Biệt giáo nói chúng sinh như tức tướng Niết-bàn là lý vốn vắng lặng. Chỉ vì bị hoặc che chướng. Lý bị che chướng gọi là Niếtbàn. Đã chúng sinh vốn có, thì cần gì ở quả. “Giải thích này...” là kết bày.
Kết lỗi khuyên bỏ, a) Phân khoa. b) Tùy giải thích, chánh kết lỗi, có hai: chánh giải thích. Và liệu giản. Ngài Kinh Khê nói: Đáp Đại luận... Phật tuy lại nói tánh luôn lìa đắm trước, nay e có đắm trước thế nên cần phá. Nếu lấy dẫn dụ mà luận Phật thì cũng là tự dẫn dụ, đâu chỉ có Di-lặc. Song Phật không đắm trước tưởng năng hóa tuy trách Di-lặc ý đắm trước tưởng năng hóa khiến Thiên tử từ bỏ niệm chấp thọ ký. Nếu bỏ tâm chấp thì đổi quyền về thật. Khuyên bỏ, có hai: a, chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Chấp được quyền ký thì chấp tức gọi tà. b, liệu giản. c, giải thích, có bốn: phá tạng. Ngài Kinh Khê nói: Đại luận đã phá kỹ, tức rộng phá nhân quả Bồtát tam tạng đầy đủ như chỉ quán ký.
Phá Thông, ngài Kinh Khê nói: Phá như chất kim cương... là kinh tuy đủ ba nay lại phá thông. Thế nên văn nay dùng Biệt Viên mà phá, đều nói không thể dùng thân mà được tâm. Nói không thể lấy thân mà được tâm tức thân thinh là sắc, nêu sắc mà ví như tâm. Phá Biệt, nhân diệt... là trích lời của Đại kinh. Ý thật thông Viên, nay dựa theo nói cho tiện nên lại ở biệt. Khi đến Sơ địa thì diệt chín giới ấm mà hiển bày Phật giới thường còn. Như thế...” là chánh dùng bốn câu mà kiểm phá. Sắc diệt được thường còn là tha sinh, không diệt mà được thường còn gọi là tự sinh. Cộng ly khá biết. Vì không tự, không tha chẳng cộng chẳng ly gọi là Bồ-đề. Phá viên: Không cần duyên tu... là Biệt giáo tất nhờ địa tiền duyên tu để hiển bày chân tu của Sơ địa. Nên nói nhân diệt là sắc, nhận được thường sắc... viên từ sơ tâm tức quán bổn cụ, đến sơ trụ thì mặc tình khai phát, há đồng thứ lớp mà nhờ duyên hiển bày chân. Cho nên biết Viên giáo tuy lập chân duyên, nhưng trước sau là lý một. Nói duyên tu công đức trí tuệ, thì công đức là ước thân, trí tuệ ước tâm. “Lại nữa...”, ngài Kinh Khê nói: Từ trước chưa lập nên liền lập. Nên trước..., là lại đem phá trước để chỉ lập này, tức lập trong phá.
Nói rộng về tướng chân Bồ-đề, nêu ý phân khoa chung nói ý đến. Và phân khoa bày nghĩa, “Tịch diệt...” là tùy văn giải thích nghĩa, lược nói thật tướng Bồ-đề nêu chương: Tất cả pháp thú tâm, là mười giới bốn giáo nhiếp thuộc ở tâm, ngoài tâm không có gì khác, đâu lại cách biệt. Tất cả tức tâm, tâm tức tất cả. Chỉ mê khiến ngộ cưỡng lại gọi là thú mà thôi. Tâm tức trung đạo, là tâm tánh bất động, tuy lập tên trung mà không giả dối, thể lại không khác nên gọi là chân như, nên chân như này gọi là tịch diệt. Thật tướng Bồ-đề, Bồ-đề dịch là đạo, là nghĩa hay thông. Tức hướng tâm tánh tịch diệt khắp thông tất cả, nên gọi Bồ-đề. Bốn chủng tướng có mười sáu tướng, ngài Kinh Khê nói: “Chỉ là mười sáu môn của bốn giáo, cấp khác thành cơ, nên lấy môn mà đậu. Nguyên biết thật tướng vốn “không” mười sáu. “Cho nên có...” tức ba hoặc hai chết vậy. Nếu thật đến đều diệt là bốn môn của Viên giáo đều tức tịch diệt há còn bốn tướng? “Huống gì...” là chấp Viên còn diệt huống là ba giáo kia. Sinh Không sinh tức đối Biệt giáo, như trong giải thích thông tự trước đã nói. Nếu ở các văn đều đối Thông Giáo. Nay nói... là kể thông tạng. Chánh căn cứ chân trí đoạn mà nói Bồ-đề, phân khoa. Tức Ma ha Bátnhã, ngài Kinh Khê nói: Đây từ ba đức mà lập tên Bátnhã, đối với hai nhân, tức là liễu nhân, đối hai nghiêm tức gọi là trí. Còn tất cả pháp khác chuẩn đây có thể biết. Nói chân đoạn đức, trí đức đã là Bát-nhã thì đây gọi là giải thoát. Gọi duyên gọi phước đối trên có thể biết. “Chẳng quán...” là tùy giải thích, có hai: a, lược, có hai: a, hai phen nói chân trí đức, ngài Kinh Khê nói: Kinh nói chẳng quán chẳng hạnh..., đây trông văn dưới đoạn đức mà giải thích nghĩa. Bèn là gọi ngược mà dùng giải thích nghĩa. Vì sao quán thì gọi trí đức, không quán thì gọi là đoạn. Chẳng hành cũng thế. Lệ đó có thể biết. Cũng có thể nói không đoạn gọi là đoạn, không trí gọi là trí. Phàm các giải thích nghĩa đều có cái thế của nó. Nếu phá ở trong lập tức là từ trái ngược mà giải thích. Nếu lập trong phá thì phải theo thuận thuyết, chính nói có trí tức là Bồđề. Lời sớ nói: Tâm và tâm số pháp Không hành, là để chứng chân không làm hạnh Bát-nhã, để chứng muôn hạnh. Bốn thứ đến và tất cả pháp, là nếu chuẩn theo bốn giáo, ngoài hai nghiêm thì lại không có pháp nào khác. Nay lấy nhân thiên và một mảy may... mà được tên tất cả. Trở đi đều giống như đây. Tiếp, bốn phen nói chân đoạn đức, ngài Kinh Khê nói: “Lìa bốn môn..., đã nói duyên tu tức là bốn môn của ba giáo. Nói tất cả vọng tưởng, đã nói đầy đủ trong văn diệt các tướng ở trước. Chướng là Bồ-đề... là lý Bồ-đề bình đẳng pháp giới. Chư Phật không hành, đây là phá tự hành trong phương tiện giáo. Phật không độ sinh, tức là phá hóa tha trong giáo phương tiện. Phàm nói chướng..., chẳng qua hai thứ này tức là trên cầu và dưới hóa độ. Trên cầu thì gồm tự, mà dưới hóa chỉ có tha. Cho nên nói tức chướng các phương tiện giáo môn mà thệ nguyện. Nói rộng, nêu bày phân khoa, ngài Kinh Khê nói: Ít nói đoạn, vì Bồ-đề gọi là trí. Nay giải thích Bồ-đề không nói nhiều về đoạn. Cho nên trong chín cái đầu chỉ có hai đoạn. Do ít lại tạp nên không phân chương. Sở dĩ có, là muốn nói văn viên trí đoạn không hai. Tùy văn giải nghĩa, chín phen chính ước trí đức, ngài Kinh Khê nói: Nếu có thiên giáo phương tiện đến đối nội ý căn tức là hai, là quyền giáo sơ tâm không lìa bỏ tình tưởng, không bết ý căn tức là Bồ-đề, vì có năng đối và sở đối. Từ viên chân đến không phải trí đến hội tức từ mới phát tâm, trí và lý cùng đều. Do trí theo lý nên nhân quả nghĩa đồng, há từ trí nhân mà đến khế hợp với lý quả. Mà chẳng cùng hợp: 1. Vô minh không hết
2. Vô minh thể như.
Bảy phen nói không thể lấy thân mà được tâm. Ngài Kinh Khê nói: “Thứ lớp bảy phen tức không thể lấy thân mà được tâm... là văn trước đã phá thân được tâm rồi, nay lại nói, là trước một mực phá bỏ, nay nói tương tức: Được mà không được, không được mà được. Trở đi tất cả các câu đều như thế. Nói không có chỗ (vô xứ), là trong giáo phương tiện tâm là năng y cho thân và độ. Thế nên dùng sắc gọi là xứ, cũng có thể thân tâm đều gọi là xứ. Quán trí tức là pháp năng y, lìa ngoài sở y không riêng có năng y. Giả danh..., là quán giả tức lý, lý nhiếp tất cả không đồng với Tiểu thừa quán vô ngã.... Lại căn cứ diệu lý thật tướng kết thành chân trí đoạn. Bồ-đề không thể lấy pháp lại sánh với pháp là hoàn toàn năng dụ là sở dụ. “Không phải các”, là Phật giới Bồ-tát không phải chín giới kia biết được. Phàm gọi sáu giới, tiểu gọi là Nhị thừa và Bồ-tát là chín giới. Song đối Phật giới phải lấy lục tức mà chọn, đâu chỉ trong đây, các văn đều họp thế.
Tiếp, các Thiên tử được lợi ích. Cuối cùng là kết thành không kham.
-Sai ngài Quang Nghiêm:
Có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, sai thăm bệnh, nêu ý luận vị. “sở dĩ...” là nêu tên giải nghĩa. Tám thứ ánh sáng “quang minh”. Là quán xương người, giữa chặn mày phóng ánh sáng có tám sắc, nghĩa là thấy sắc đất như đất có màu vàng, trắng, xanh trong sạch. Thấy sắc nước như sắc nước ở vực sâu lắng trong. Thấy sắc lửa như lửa không khói trong sạch. Thấy sắc gió như gió không bụi bậm trong mát. Thấy sắc xanh như núi vàng ròng. Thấy sắc vàng như màu hoa Chiêm-bặc. Thấy sắc đỏ như ráng trời chiều xuân. Thấy sắc trắng như ngọc kha. “Chuyển làm...” là tám Thắng xứ, mười Nhất thiết xứ. Như thứ lớp pháp giới. Đây... đều gọi là định quả sắc. Tiêm sư nói: Tám sắc chỉ có ý được thì nó thuộc tâm. Nay dựa vào xương người phóng ra nên nó thuộc sắc. Đại kinh nói Lưu ly quang... trong phẩm Đức Vương ấy nói: Lúc đó trong đại chúng bỗng nhiên có ánh sáng lớn, không phải xanh thấy xanh, không phải vàng thấy vàng, không phải đỏ thấy đỏ, không phải trắng thấy trắng, không phải sắc thấy sắc, không phải sáng thấy sáng, không phải thấy mà thấy. Lúc ấy đại chúng gặp được ánh sáng ấy rồi thì thân tâm sảng khoái vui vẻ. Ngài Văn-thù bạch Phật rằng: Nay ánh sáng này do ai phóng ra. Đức Như Lai im lặng không nói. Cho đến năm trăm Bồ-tát thay nhau thưa hỏi, Phật vẫn im lặng. Đức Phật hỏi ngài Văn-thù rằng: Do nhân duyên gì có ánh sáng này. Ngài Văn-thù thưa rằng: Ánh sáng như thế gọi là trí tuệ. Trí tuệ tức là thường trụ, mà pháp thường trụ thì không có nhân duyên. Vì sao Đức Phật lại hỏi do nhân duyên gì có ánh sáng đó. Ánh sáng đó gọi là đại Niếtbàn... đều giống văn trước. Cho đến nói: Cũng có nhân duyên nhân diệt vô minh thì được ba đèn Bồ-đề. Đức Phật bảo: Này Văn-thù! Nay ông chớ nhập các pháp thậm thâm Đệ nhất nghĩa đế, nên lấy thế đế mà giảng nói. Ngài Văn-thù liền thưa: Ở phương Đông tạo thế giới Bất động có Bồ-tát Lưu Ly Quang muốn đến đây, nên trước hiện ánh lưu ly. Nay nêu các thứ không phải xanh không phải vàng... để chứng lý quang, nên tức sự ấy. Kinh ấy trở đi là dẫn kinh ấy phối thành ý nay. Ánh sáng tức là Đệ nhất nghĩa đế, tức kinh nói ánh sáng gọi là đại Niết-bàn. Tam tạng, Thông Biệt chỉ có sắc tâm hai thứ ánh sáng, ngài Kinh Khê nói: Trong giáo phương tiện không nói lý cụ, nên không nói là ánh sáng Đệ nhất nghĩa. Nói sắc tâm, ánh sáng đã là sắc, tức sắc phóng ra sắc, thì chỉ có thể nói là sắc tâm tức thiên chân, do chân thiên lệch nên không phải ánh sáng Đệ nhất nghĩa.
Địa tiền của Biệt giáo đồng với chưa thấy tâm nên ánh sáng đều khác tiểu. Vì biết lý đản trung nên chỉ có nói chọn lựa ở ba giáo. Ánh sáng Đệ nhất nghĩa tức là viên chân. Song Đệ nhất nghĩa không phải không do sắc. Toàn sắc là tâm, từ tâm làm gốc. Tiểu thừa chẳng tức đến nỗi phân ra sắc tâm, nên phải tế ước giáo mỗi mỗi đều phân biệt. Gọi là đồng chân, chỉ có bậc bát trụ gọi là đồng chân, nay gọi chung những người không nhiễm, thì bắt đầu sơ trụ cuối cùng là Đẳng giác đều gọi là đồng chân. Sắc vàng Ca-diếp tức thân ngài Đại Ca-diếp có sắc vàng, lại cưới vợ có thân sắc vàng, nằm cùng giường mà không dâm dục, rồi bỏ mà đi xuất gia. “ Trước sai...” là đối trước mà nói lợi ích, đối trước mà luận nghĩa, nói trước sau gồm một. Nói chung riêng không khác. “ Ngài Tịnh Danh...” bị trách nói lợi ích. Từ chối không kham, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, thưa từ chối không kham. Nói lý do không kham, nêu ý phân khoa. Tùy văn chánh giải thích, xuất nhập gặp nhau, chánh giải thích, ngài Kinh Khê nói: Trước căn cứ sự mà giải thích. “Kế hoặc có...” tức căn cứ lý mà giải thích. Hoặc mê hoặc ngộ đều không khác đường. Nên như người mê lấy phương Đông làm phương Tây, người mê ngộ có khác chứ lý vẫn một đường. Nếu từ bày tích cho là hiểu. Ngài Quang Nghiêm từ thật mà bày quyền, không xuất mà xuất. Ngài Tịnh Danh từ quyền để bày thật không nhập mà nhập.
Liệu giản. Ngài Quang Nghiêm chí kính đảnh lễ, tích đồng hương đảng hiện tu lớn nhỏ đều lạy. Tây Vức ký nói: Cõi ấy rất chí kính, nghi thức có chín:
1. Hỏi an ủi.
2. Cúi đầu tỏ cung kính.
3. Đưa cao tay kính chào.
4. Chấp tay đứng hầu.
5. Quì gối.
6. Quỳ dài.
7. Tay và gối đụng đất.
8. Năm phần của thân đều gập lại.
9. Năm phần thân sát đất.
Hỏi từ đâu đến.
Đáp: Từ đạo tràng đến. Ngài Kinh Khê nói: Vì muốn đến sự tích là chỉ muốn nói lý viên. Cho nên đối Viên giáo sự có thể biểu thị cũng phá, vì đều khiến nhập thật. Ngài Quang Nghiêm lại hỏi, chánh nói đạo tràng, Dựa vào sự giải thích chung. Khoáng là lúa hoang. “Trị trừ...” là hoặc của tâm hợp dụ lúa thóc, thật tướng hợp dụ cho gạo. Dựa vào giáo giải thích riêng. Liên hoa hư không làm tòa, chỉ là mượn Biệt giáo nói chỗ thành đạo. Vì viên thành Phật cũng không có chỗ riêng cho nên nói cũng là hỏi hư không làm tòa sao thân ngồi được?
Đáp: Lấy thân hư không mà ngồi tòa như hư không, thân và tòa xứng nhau, năng sở giao nhau, tức pháp thân Tịch quang, y chánh không hai, chỉ do lý cụ đến quả mới nói như thế được. Cho nên khiến sơ tâm cũng ngồi không tòa. Nên kinh Pháp Hoa nói: Tòa Như Lai, tức là các pháp Không, đây tức không tòa quán hành. Nay nói giới thành tức không tòa rốt ráo. Phải ước lục tức để luận tòa khác. “ Quang nghiêm...” là cùng hỏi nguyên do. Chánh nói bị chê trách, đoán nói ý nghĩa, nói lý do bị chê trách, nói Quang Nghiêm chấp tình. nói ý ngài Tịnh Danh trách. Ngài Kinh Khê nói: Đốt cháy đầy đủ như trong Chỉ quán ký đã nói rồi. Đốt cháy chỉ là đoạn vị, nay thì không phải quả lý cũng không lìa quả lý, tuy không phải nhân lý cũng không lìa nhân lý là đạo tràng. Cho nên đoạn không phải trước sau cũng không lìa trước sau. Nương đó mặc tình tự được đạo tràng, “Hỏi...” là bày nghĩa viên đạo tràng. Hỏi đáp chọn thiên, ngài Kinh Khê nói: Một mực ước quán ở nghĩa còn sơ sài chỉ là giúp lý phương tiện đến làm lệ, là vẫn ước vào đương phần. “
Chỉ tịnh...” là chánh bày nghĩa viên, lại thỉnh hiển bày viên. Một trong vô lượng, là đối một tâm đầy đủ cả ngang dọc tất cả các hạnh. Cho nên nói vô lượng trong một, mà tất cả hạnh không lìa một tâm, tức là một trong vô lượng. Nay ngài Tịnh Danh mở chung nói riêng. Ý kiến vật cơ hiểu riêng tức chung, nay dựa vào hiện văn thì trước chung sau riêng. Cho nên nói vô lượng trong một... “như túi...”, túi như một tâm, ngọc báu như muôn hạnh. Ngọc ở trong túi như hạnh ở trong tâm, thám sát để chỉ cho người. Dụ ở một tâm phân biệt nói rộng. “ Chỉ bày...” là xếp loại chung Đại sự. Trước đáp chung đạo tràng loại đó. Xe đó nay chỉ bày ngang dọc cũng là luận nói cao rộng. “ Nếu tùy...” là chỉ văn bày ý. Căn cứ viên sơ tâm, là đối tâm quán hành chung nắm cả dọc ngang, bèn là chánh ý văn nay. Tùy văn chánh giải thích, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, một mực nói dọc, đoán nói ý nghĩa, nương biệt đối dọc. “cũng chẳng...” là nương viên mà luận ngang, sơ trụ luận ngang, ngài Kinh Khê nói: Đủ ba tâm này như đá nam châm... là ý nhậm vận (mặc tình) hiển bày trụ nhậm vận trên cầu dưới hóa độ. “ Dưới đây...” là y theo các cú. “Trực tâm...” là tùy văn chánh giải thích. Hoa Nghiêm..., ngài Kinh Khê nói: Dẫn sơ tâm thành chánh giác để chứng trực tâm là đạo tràng. Từ thấu suốt đến tất cả là chứng không giả dối. Tám trực tức tám chánh đạo. Pháp hoa hỏi năm phẩm..., là đến vị năm phẩm ắt đến sáu căn vào sâu sơ trụ phần chân đạo tràng. Phát hành, ngài Kinh Khê nói: phát đủ muôn hạnh..., là tự hành hóa tha đều được gọi hạnh. Thâm tâm, ngài Kinh Khê nói: “Tự nhiên chảy vào biển cũng chứng được thâm tâm.” Tâm Bồ-đề gồm ba tâm trước là ba đức Bồ-đề, là đây đối ba tâm trước làm chung riêng mà giải thích. Trực tâm là đức pháp thân. Thật tánh Bồ-đề thâm tâm là đức Bát-nhã. Thật trí Bồ-đề phát hành là đức giải thoát. Phương tiện Bồ-đề nay nắm chung cả ba thứ trước. Cho nên nói tâm Bồ-đề là đạo tràng. Như ba tâm này không dọc không ngang gọi là không nhầm lẫn. Một mực nói ngang, có hai: a, đoán bày phân khoa. Lấy ngang trông dọc, là ngang của tâm viên gồm thâu dọc biệt. Vì lấy môn chữ A gồm đủ các địa, nên thành cao rộng. “ Một căn cứ...” là tùy văn giải nghĩa, Dựa vào lục độ tự hành, nêu bày. Đều đủ năm thứ, là thế gian và bốn giáo. Đủ như giải thích trước, tức giải thích trước trong tịnh độ, đồng là lấy độ lợi vật làm đạo tràng, đâu không phải là chỗ thành Phật! Cho nên nói đồng nghĩa tịnh độ. “Bố thí...” là chánh giải thích, ngài Kinh Khê nói: Trong sáu độ mỗi mỗi đều nói là pháp thân, là sáu độ đều đầy đủ pháp thân. Cố nhiên chỉ dùng đối trị để làm năng y, cho nên mỗi mỗi câu đều là sở y. Sở y tức là pháp thân vậy. Văn chia làm sáu đều có thể hiểu. Căn cứ bốn đẳng hóa tha, nêu bày, Ngài Kinh Khê nói: Bốn đẳng đều cần từ viên mà giải thích lời giống phương tiện giải thích khiến thành viên. Nay bảo rằng một tâm ba từ, cho đến một tâm ba xả, thì bốn ba dung nhau mới xứng ý văn. Chánh giải thích, có hai: a, bốn đẳng như văn. b, năng hóa pháp. Bốn đẳng ở trong, hóa pháp ở ngoài. Do thần thông có bốn đẳng, bốn đẳng mới lợi vật. Thần thông, ngài Kinh Khê nói: Hiển bày pháp tánh chân tịnh sáu căn, là nhập sơ trụ sáu căn đều đủ mười. Sáu căn tức sáu thông vậy.
Giải thoát, ngài Kinh Khê nói: “Mới có thể xuất..., là trừ nhập thắng xứ. Nói có thể xuất Nhị thừa..., là Tiểu từ Đại xuất. Đại ắt đủ Tiểu, nên nay khai ra đều khiến thành Đại. Vì trong nhân ấy đều đẳng, nghĩa là trong nhân dùng tám giải thoát của Tiểu thừa. Sau chuyển nhập vào Đại mà thấy lý tám giải thoát. Trong mỗi mỗi địa đều đầy đủ Phật tánh cho nên đổi gọi là vương giải thoát, sau dùng lợi vật trở lại nương vào bổn tập tùy nghi mà hóa độ. Vì tất cả pháp được nhập trung rồi thì tất cả đều đủ hạnh hóa tha khó nghĩ bàn. Tâm cùng pháp đều gọi là hạnh, cho nên thành thắng diệu giải thoát trong hai mươi lăm Tam-muội.
Phương tiện, ngài Kinh Khê nói: Phương tiện là đạo tràng... phương tiện tức là thật đạo tràng. Tiếp nói Tứ nhiếp. Căn cứ ở đa văn tiến hành, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích, đa văn tiến hành. Ngài Kinh Khê nói: Đa văn là đạo tràng, là tự trị và trị người đều được gọi là như nghe mà làm. Nói hiển phát, tức đối văn tự mà thấu suốt lý. Giải thích hai nghĩa đạo tràng, đều nói sơ tâm Bồ-tát. Đạo tràng tức là từ quả mà lập tên, nay chung cả ở nhân, nên đều nói sơ tâm phát tâm rốt ráo là hai mà không riêng, cho nên cũng có thể dùng lục tức mà phân biệt. Song bốn Bồ-tát này, hai thứ trước thì ước quả, hai thứ sau thì ước nhân, cũng biểu thị cho trước sau không hai. Hai phục tâm đều gọi là phục, vì có hoặc thượng địa. Kim cang Đẳng giác ở đầu các phục. Ba đạo phẩm nội giới bốn đế đến hữu vi, là diệt nội giới rồi cũng có biến dịch, cho nên thành khổ ngoại giới. Do đó bốn thứ đều là hữu vi khổ tập đạo ngoại giới tức Trung đạo mới là vô vi. Vô lượng trở đi, là trước ước nội ngoại mà đối luận, nghĩa chung Thông Biệt vì hai giáo ở cạnh nhau. Nên đối ngoại giới lại chọn Biệt Viên thì biết ba thứ đều hữu vi là thuộc Biệt giáo. Bốn đế trong viên chỉ có khổ tập là hữu vi. Nếu luận về tức, tức khổ là diệt, tức tập là đạo. Cho nên toàn hữu vi tức là vô vi. Cho nên khổ tập này cùng biệt hoàn toàn khác. Bởi khổ tập của biệt nhất định là hữu vi, vì không hay tức vậy. Quán đế, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích, có năm: a, đế hiển bày lý quyền thật, là mười giới duy tâm, lý quyền thật là một. Bốn thứ tứ đế nhiếp đều khắp. Duyên khởi. Có bốn chủng tướng là tùy bốn trí được quán. Được ba thứ Bồ-đề, là vì quán ba đạo tức ba đức. Thấy ba Phật tánh, là lại ước ba đạo đối luận ba tánh. Phiền não và Phật pháp đều rốt ráo không, là có pháp hơn Niết-bàn là cũng như huyễn hóa. Chúng sinh, từ quán chín đạo đến chân tánh. Đã thấu suốt tâm mình thì chín giới đương thể là không trung thì nhiếp cảnh ngoại sự, mỗi mỗi đều như thế. Vì nội ngoại không hai, tự tha dung nhau. Về quán thật pháp cũng lệ như thế. Tất cả pháp, được năm thứ Niết-bàn, tức bỏ sắc vô thường mà được sắc thường. Thọ tưởng hành thức cũng thế, nên gọi là Niết-bàn.
Tiếp căn cứ hàng ma nói pháp, gồm nêu và chánh giải thích, hàng ma, ba giới. sư tử hống. Căn cứ lực vô úy quả đức, gồm nêu bày. Và chánh giải thích. Lực vô úy Bất cộng. Mười thứ trí lực, Tiêm sư nói: Quyển mười bốn kinh ấy nói: Bồ-tát Trí Thủ hỏi ngài Văn-thù rằng: Phật tử Bồ-tát! Thế nào là được xứ và phi xứ trí lực, quá hiện vị nghiệp báo trí lực, căn thắng liệt trí lực, chủng chúng giới trí lực, chủng chủng giải trí lực, nhất thiết chí xứ đạo trí lực, thiền giải thoát Tam-muội nhiễm tịnh trí lực, túc trụ niệm trí lực, vô chướng ngại Thiên nhãn trí lực, đoạn chư tập trí lực.
Tiếp nói, ba Minh, một niệm. Cuối cùng là kết giải thích. Ngài Kinh Khê nói: văn đầu khai chương tức nói kết giải thích. Trong đây từ tiện lợi tức nói kết thành. Giải thích chỉ là thành. Dẹp ngụy hiển chân, là trừ ngụy ba giáo, hiển chân lý viên.
-Sai ngài Trì Thế:
Có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích. Sai thăm bệnh, nêu ý luận vị. “sở ngôn...” là nêu tên giải nghĩa, giải thích chung về thật tướng chân tâm. Hiểu nhớ các pháp, là một niệm ba đế đầy đủ cả ba ngàn, nên gọi hiểu các pháp.
“Trì nghĩa...” là giải thích riêng,, nêu bày năm tên. “Bốn giáo...” là ước giáo giải nghĩa, có hai: a, bỏ thiên lấy viên. b, “nhất giá...” là nương viên giải nghĩa, giải nghĩa năm tên. “Bồ-tát...” là kết thành viên đầy đủ, nói trước sau viên đầy đủ. “trì thế...” là kết bày việc quyền lợi vật, chính nói bày lợi ích. “khai tức...” là kết bày hiển vị. Tiêm sư nói: Chung riêng không hai, chỉ là cũng chung cũng riêng. Thiện đức tức không phải chung không phải riêng, vì đều ở sơ tâm vậy. “ Chê trách trước...” là đối trước nói lợi ích, Luận chung về chê trách. Tiêm sư nói: Đều phá quả trên nhân. Vả lại dựa vào thiên mà nói nghĩa cùng giúp nhau đầy đủ. “nay Phật...” là chính nói lợi ích nay. Từ chối không kham, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, thưa lời không kham.
Nêu lý do không kham, nêu ý phân khoa. Tùy văn chánh giải thích, ở trong tịnh thất. Ma giả làm Đế Thích đến. Kinh nói khi đó ma Ba-tuần. Triệu sư nói: Ba-tuần là tiếng Tần, hoặc gọi là kẻ giết chóc “sát giả hoặc gọi cực ác. Vì đoạn dứt thiện căn của người nên gọi kẻ giết chóc. Vì trái Phật loạn tăng tội không gì lớn hơn nên nói là cực ác. Kinh Huyền Ca Chu Lễ Chú rằng: Huyền là đàn cầm đàn sắt. Thi truyện nói: Ca nghĩa là khúc hát hợp với nhạc. Luận ngữ nói: Khổng tử đi Võ thành nghe tiếng đàn là đó. Sớ phân hai: lược giải thích. Đã được Thánh đạo, là được sơ quả. Nếu căn cứ Đại thừa tức là nhị địa Bồ-tát. “ Nay nói...” là rộng giải thích, Căn cứ chánh giáo mà giải thích, căn cứ bốn ma. Hiểu biết chiết phục mà thôi, tức là dùng quán vô thường mà quán sát năm ấm, đè kết ba cõi nên gọi là chiết phục. “Thọ vương...” là trước hàng phục thiên ma. Duyên khởi như ứng điềm lành. Phụ hành quyển một dẫn đầy đủ. Căn cứ tám ma. “Tam tạng... phục bốn ma”, tức là tà về thường, lạc, ngã, tịnh. Viên phá tám ma, là ma hai biên tức trung. Tức Phật giới không phá mà phá nên gọi là viên phá. Sở dĩ tám ma đều gọi là ma, vì ma là kẻ giết chóc. Thường... giết thiện chân đế, vô thường... giết thiện trung đạo. Cho nên từ sơ trụ trở lên tuy phần chứng chân thường nhưng vô minh chưa hết, nên vẫn còn biến dịch. Cho nên vô thường... bốn thứ rốt đến hậu tâm.
Hỏi: Hạnh hướng của Biệt giáo đã phục được vô thường... bốn thứ, nhưng chưa chứng chân thường, thì chỗ quán tục đế có bị ma nhiếp chăng?
Đáp: Cũng là thường... nhiếp phục, nhưng không phải là nội giới tà thường. Vì sao? Vì phàm lý vốn “không” tên cưỡng ép lập tên, tuy cưỡng lập nhưng đức không ngoài bốn thứ đó. Sau khi Phật diệt độ rồi, ngoại đạo mới trộm dùng thường... bốn tên để lập thần ngã. Cho nên Phật ra đời, trước nói vô thường để phá thường... Nhị thừa Không hiểu chấp vô thường... cho là rốt ráo. Cho nên Phật lại nói thường... bốn đức để phá vô thường.... Xuất giả Bồ-tát khác với hàng Nhị thừa cho là thường... Bồ-tát không thông đạt chỉ chấp giáo đạo lại nói là phi thường phi vô thường... để phá. Nay viên sơ trụ viên phá tám ma hiển bày song phi, mà song phi chỉ là chân thường... bốn thứ đối phá hai biên mà được tên song phi. Hỏi đáp liệu giản, có hai: a, hỏi. b, đáp, có hai: a, nói chung về Trì thế là quyền. Riêng căn cứ ba nghĩa đối luận, chánh nói ba nghĩa, giải thích, sự lý một phương tiện đến nhất như, là người ba giáo trước đều lánh sự vào lý, Tạng, Thông lánh sinh tử vào thiên chân. Người biệt lánh hai biên vào đản trung. Thông giáo tuy tức lánh sự đều đồng. Đâu biết tánh cụ ba ngàn mỗi mỗi đều dung thông, nhất như không hai. Không có lấy bỏ... là ma tức Phật nên không bỏ, Phật tức ma nên không lấy. Ma Phật nhất như có gì trệ ngại. Kẻ quán như thế gọi là thường biết, không bị cảnh động, do đó thường hàng phục, há nghe Phật tức là ma mà liền cầu ma pháp. Cần phải hiểu rõ tức ma là Phật, do đó mới thường hàng phục. Phàm nói tương tức là ý hiển lý dung. Tông khắp giáo là cốt khiến bỏ ác. Sự lý chân vọng ma Phật nội ngoại... tất cả đều như nhiên. Kẻ học sau cần nên lưu ý.
Căn cứ ở chân duyên. Thường trụ ở Tam-muội vắng lặng mà thường chiếu, vì ngoài tâm không cảnh, ma há có thể giấu mình ư? Phần chân đoán thấy việc ấy có thể biết. Nếu viên sơ tâm chỉ thấu đạt thật tướng mặc tình biến quái yên vắng như không, cần phải dự bị sẵn gương linh thì ma đến không thể biến hình... Bao Phát Tử nói: xưa có Trương Cái Đạp và Ngẫu Hào Thành, hai người chuyên ngồi suy tư trong động đá ở núi Vân đài nước Thục. Bỗng có bốn người mặc áo cộc lụa vàng bịt khăn sô đến trước mặt bảo rằng: Đạo sĩ ôi! Tâm tư cực nhọc cay đắng biết bao! Bấy giờ hai người cùng nhìn vào gương thì thấy là bốn con nai. Tục Sưu Thần ký kể rằng: Tại cánh rừng dưới chân núi Lô có một ngôi đình, người mỗi khi đi qua đây ngủ đêm đều bị bệnh chết. Lúc đó có Chí Bá Di đến nghỉ đêm ở đấy đốt đuốc sáng mà ngồi. Nửa đêm bỗng có hơn mười người đến cùng ngồi chơi đổ bác. Bá Di kín đáo lấy gương ra soi thì thấy là bầy chó. Căn cứ điều phục chăng? “Quyền giáo...” là kết. “Nay trì...” là kết chỉ người ấy. Ma cũng biết người... là vì có tha tâm thông. Ma đến không biết người trong họ, là duyên khởi như Niết-bàn ký. Bèn khiến chuyển giáo, ngài Kinh Khê nói: Nay bèn chuyển giáo nói Bát-nhã. Cũng là ba đức, là thường trụ pháp thân, Bát-nhã tuệ mạng, giải thoát pháp tài. Năm thứ ba bền chắc chưa biết nói những gì. Đã phá Thiên nhạc chỉ ứng hiện mà nói ba bền chắc của tam tạng. Nhưng cơ Thiên chủ khó thể phán định, sau là phá dục đâu ắt ở Tạng ư? Đều chung bốn cơ nên chưa phán định. Bốn ma lại dâng các ma nữ. Kinh nói bị tảo sái. Thông Tục Văn nói: Lấy nước rải bụi nói là sái. Khúc Lễ nói: Dâng con gái cho vua gọi là bị. Bá tánh đối với vua gọi là bị tửu tương, đối với quan đại phu gọi là bị tảo sái. Trịnh huyền nói: Tửu tướng tảo sái là chức của người vợ. Sinh công nói nhân nghe thuyết pháp để dối gạt là mình đã theo thiện, kỳ thật là muốn dâng gái để phá rối. Lấy làm kỳ dị không nhận mà yêu cầu ta. Quảng Nhã nói: Yếu là ngăn cấm.
Nói việc không kham, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, ngài Tịnh Danh thức tỉnh ngài Trì Thế. “Nhiễu cố”, Toản văn nói “nhiễu” là giỡn chơi, quấy nhiễu. Chữ “cố” phải viết cổ làm người mê dại. Nhĩ nhã nói cổ là nghi. Quách Phác nói: Làm nghi hoặc người vậy. Kinh Ma-đăng-già viết là nhiễu cổ. Nghĩa là ma mà làm nhiễu loạn khiến rồ dại chán sợ. Sinh công nói: Cố không phải là luống dối “tức chắc chắn). Ngài Tịnh Danh đến chỗ ma đòi ma nữ. Ma sợ sệt muốn bỏ đi. Trên không khuyên bỏ. Ngài Kinh Khê nói: Tiếng trên không ba giải thích đều không lấy bỏ. Đã giải thích trong văn A-nan trước. Sinh công nói: Không phải Duy-ma-cật thì là Trì Thế, cũng có thể là ma tự làm. ma bỏ ma nữ. Phủ ngưỡng, tức cúi đầu ngẩng đầu, nghĩa là tự gắng gượng làm.
Đại sĩ vì ma nữ nói pháp, nêu ý bày nghĩa, nêu chung ý đến. phân khoa. “Như ứng...” là tùy văn chánh giải thích, khuyên phát tâm. khuyên tu hành, nêu ý phân khoa. tùy văn giải nghĩa, ngài Tịnh Danh khuyên tu pháp lạc. Thiên nữ thỉnh hỏi. ngài Tịnh Danh đáp, đoán nói ý nghĩa. phân khoa lược bày. “ Văn đầu...” là tùy văn chánh giải thích, có năm: thích quy y Tam bảo. thích lìa tập đế. thích quán khổ đế. thích tu đạo đế, chánh hạnh đều gọi pháp lạc.
Biến hành, có hai: a, đối trước luận bày. “Lạc quảng...” là nêu văn giải thích riêng. Hàng phục các ma, ngài Kinh Khê nói: Ngài Tịnh Danh nhân đây ngầm chế chúng ma, chỉ bày cho Thiên nữ cách ở Thiên cung ham thích tịnh Phật quốc độ, là tất cả đều là hạnh Cõi Phật. Trong đây riêng bày nói tịnh độ, tức trong đây chỉ biệt và thông, sợ e các Thiên nữ chưa có duyên Bồ-tát tịnh độ, cho nên thích thành tựu tướng hảo. Tướng hảo tức là thân nhận lấy cõi. Các giáo phương tiện lúc tu không phải lúc chứng, người hai giáo trước hạnh chứng có thể biết. Địa tiền của Biệt giáo gọi là hành thời, chưa thấy trung đạo không gọi là chứng thời. Nếu chứng tiểu là thất địa của Thông giáo, hai thứ Nhị thừa cũng là hai thông học địa của hai giáo. Chỉ bày giáo lợi hỷ, là Đại luận quyển năm mươi chín nói: Chỉ bày là chỉ bày người tốt xấu, thiện hay bất thiện, đáng làm hay không đáng làm. Sinh tử là xấu, Niết-bàn an ổn là tốt. Phân biệt ba thừa sáu độ như thế... là chỉ bày. Giáo là dạy, nói ông hãy bỏ ác làm thiện, gọi là giáo. Lợi là chưa được vị thiện pháp cho nên tâm lui sụt, vì họ nói pháp dẫn dắt khiến ra khỏi. Ông chớ nhân thời nay mà cầu quả. Nay ông đang có quả báo cần khổ nhưng khi ra khỏi rồi lúc đó được lợi ích lớn, khiến tâm người ấy được lợi nên gọi là lợi. Hỷ là tùy chỗ người ấy được mà khen ngợi khiến tâm vui vẻ. Là bố thí vui, bố thí khen ngợi thì mừng “hỷ). Cho nên bốn sự này để trang nghiêm nói pháp. Đại tập... đây là kinh ấy nói thông, minh, thiền năm chi trong đó là tướng hỷ chi. Kinh ấy nói: Như tâm giác đại giác, tư duy đại tư duy, quán tâm tánh gọi đó là giác chi. Quán tâm hạnh, đại hạnh, thiên hạnh, đó là quán chi. Như thật tri đại tri tâm động đến tâm hỷ, đó là hỷ chi. Thân an tâm thọ lạc xúc, đó là an chi. Thân trụ ở đại trụ, không loạn động ở duyên, đó là định chi. Chỉ quán lấy chân tục hai đế phối nhau mà giải thích. Như tâm giác đại giác... sớ văn đã dẫn nói tiểu không đồng. Văn nay như thật biết chữ thặng chân chí tâm...” là thiếu chữ hỷ nhưng không hại nghĩa. Lấy bỏ khó hiểu. Đây là khuyên răn người sau phải theo kinh bộ thêm bớt mà giải thích, tức lấy bỏ vậy. Tiếp là kết thành pháp lạc.
Ma Ba-tuần xin lại Thiên nữ, có ba như sớ. Đại sĩ cho lại Thiên nữ.
Các Thiên nữ thỉnh pháp muốn trở về. Sự cần thỉnh hỏi, Tả truyện nói: Hỏi han về thiện là tư, hỏi thăm thân thích là tuân, hỏi về lễ là độ, hỏi về sự việc là tựu, hỏi vấn nạn gọi là mưu. Nay là hỏi nhau về thiện. Vì nói Vô tận đăng. Có tận đăng và vô tận đăng. Vì khôi đoạn nên có tận, chuyển đổi sau tức vô tận. Các Thiên nữ chí kính xin đi. Kết thành không kham.
-Sai ngài Thiện Đắc:
Có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, sai thăm bệnh, nêu người luận vị. “sở dĩ...” là nêu tên giải nghĩa,], giải thích chung. “chỉ căn cứ...” là giải thích riêng, có hai: a+, chánh nói bốn giáo. Thế thì vô đắc là đắc... pháp tánh thì không nói không lý có thể được. Không nói tức pháp tánh không sự có thể được. Sự lý đều quên nên nói vô đắc. Như thế mà chiếu liễu (soi sáng) gọi đó là đắc. Nên nói vô đắc là đắc. Chiếu liễu ở đâu chỉ cần hiểu rõ vô đắc cho nên đắc mà vô đắc. Lại cảnh có thể phát trí nên gọi vô đắc mà đắc. Trí có thể chiếu cảnh, nên gọi đắc mà không chỗ đắc. Cảnh trí cùng dung nhau bày rõ tên thiện đắc. “ Nay trưởng...” là kết bày lập tên. “Nghĩa đó...” là đối trước nói lợi ích, đối trước luận nghĩa, Nêu chung về Thi quyền, “hà dĩ...” là đối trước mà chánh luận. “Đây tức...” là ước viên kết bày. “ Ngài Tịnh Danh...” là bị chê trách nói ích lợi. Từ chối không kham, phân khoa. b, tùy giải thích, có bốn: Nói lời không kham. kể lý do không kham. Kinh nói: Tất cả Sa-môn, ngài La-thập nói: Phật pháp và ngoại đạo phàm kẻ xuất gia đều gọi Sa-môn. Dị học hay đại nghi luận là tên gọi ngoại đạo. Người cô độc ăn xin. Sách Mạnh tử nói: Già mà không vợ thì gọi là hoan, già mà không chồng gọi là quả, già mà không con gọi là độc, nhỏ mà không cha gọi là cô, là hạng cùng dân trong bốn thiên hạ không nói đến. Ngài La-thập nói người xin có ba loại: Sa-môn. Người sang. Người hèn. Tùy chỗ xin đều gọi là người xin. Sớ gồm nêu ý. “nói văn...” là chánh giải thích, giải thích chung. Quan Hà theo lời giải xưa, nghĩa là các sư ở Hà tây trong quan ải. Ngài Kinh Khê nói: “Xem ý văn nay không lấy giải thích này. Trong số các đệ tử bị chê trách trước đã dẹp bỏ tà kiến từ lâu. Nay chê trách Bồ-tát cũng cần phải khác với Tiểu thừa. Đây bèn dùng viên mà chê trách thiên, hoặc viên mà chê trách tạng. Thế nên không chấp nhận hạnh ấy. Cúng tể tà. Từ đọc từ là cúng tế. Khúc lễ nói cầu đảo cúng tế cung cấp cho quỉ thần không phải lễ thì không chí thành, không trang nghiêm. Tế trâu. Tễ là cắt.
“Chỉ thí...” là giải thích riêng, căn cứ bốn giáo mà luận nghĩa. Bốn giáo so với nhau, chỉ có viên là độ, vì tất cả pháp thí đều giả. Đàn “bố thí” còn chẳng thể được không. Thế nào là hạ trung thấu suốt thí ba đế đến đại Niết-bàn mới gọi là độ. “Thật là...” là nói bày quyền lợi vật. Chánh kể việc bị chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Chánh chê trách, chánh giải thích. Liệu giản, chánh chọn tài pháp, hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Văn chỉ lược nêu pháp thí mà thôi. Kinh chỉ đối tài mà nói là pháp thí. Ý chỉ đó khó hiểu nên cần phải hỏi. Song trong sớ văn vừa rồi tuy nói trong tài có lý pháp chưa được rõ ràng bày ra ở quán môn. Nay muốn cùng sáng tỏ nên cần phải hỏi. Cùng nêu. Bị là lấy nói pháp làm pháp thí, là lấy tức tài đầy đủ pháp làm pháp thí. Ngài Kinh Khê nói: Nghĩa thông cả bốn, tức lý chỉ là viên, cho nên dựa vào pháp mà luận tài, dùng thí cho tất cả người nhận đều được thấm nhuần pháp môn. Pháp đã không bờ bến thì thí cũng vô cùng. Lấy đây mà truyền hóa thì như Vô tận đăng.
“Kinh luận...” là cùng giải thích, căn cứ chung bốn giáo tài pháp đều khác. Đây đáp nghĩa đầu. Lấy nói pháp làm pháp thí nghĩa chung cả thiên tiểu. “Nay không...” là riêng căn cứ viên dung, tức tài là pháp. Sau đây đáp nghĩa kế, thì tài là pháp gọi là pháp thí không chung ba thứ trước. Văn nói chung nghĩa thí, lược bày. Trong tài đầy đủ tất cả Phật pháp, vì tài tức sắc trần. Há chỉ là tâm khắp thì sắc ấy cũng khắp, sắc do đâu mà khắp, vì sắc là tâm vậy. Do đó mà ba ngàn y chánh không ngoài một trần, nên nói là đầy đủ tất cả Phật pháp. Thế nên biết không chỉ duy tâm mà cũng là duy sắc. Nếu không duy sắc thì sắc không phải là tâm sao? Duy sắc duy tâm một thể Không hai. Ngõ hầu là rõ ràng không hề mất ý.
“Như không...” là luận rộng, nương pháp mà luận bày. “nay tịnh...” là dẫn văn nay mà giải thích thành. Hà Quan nói pháp, tức tài là công năng pháp, do quán tâm không do miệng nói. “ Nay văn...” là riêng bày văn nay, nói trong tài đủ pháp. “Nếu có thể...” là nói người nhận được nhờ lợi ích. “như đây...” là không hiểu nên bị chê trách. Tất cả đồng thấm nhuần, là nếu hiểu một trần tức tâm tánh mình, thì đầy đủ tất cả Phật pháp, cũng đầy đủ tất cả chúng sinh pháp, kia đây dung hợp nhau, ba thứ không sai khác. Cho nên thí một trần lượng đồng pháp giới. Vì không hiểu nên bị chê trách. “ Hỏi chỉ...” là chọn khắp viên. Ý hỏi: Viên giáo, quán tâm mà tài thí đã gọi là pháp thí, người ba giáo trước khi làm việc bố thí, nếu y vào đương giáo mà tu quán thì có gọi là pháp thí chăng?
Đáp: Trong đó nói cũng có nghĩa này. Ngài Kinh Khê nói: Đây không phải là ý chánh chỉ là lập nghĩa mà thôi, nên nói là cũng có. Vì tâm ba giáo không thể “tức” được. Cho nên lý ba giáo, ngoài lý mà luận sự. Nếu sự không thấy lý là không xứng với viên tông. Và chỉ căn cứ quán mà giải thích. Cho nên nói nhưng chẳng phải viên khắp. Xuất một là có không. Chỉ trong Viên giáo đối các kinh luận thì có không (hữu vô) rất bất định đâu chỉ văn ba giáo trước ư? Cho nên văn bốn giáo đều được gọi là xuất một bất định. Ngài Thiện đắc thỉnh nói. Ngài Tịnh Danh lược nói. Ngài Kinh Khê nói: Đủ pháp mười giới đến tức là pháp thí là hỏi. Song chiếu tức là thí mười pháp giới. Vậy thí mười giới có công đức gì? Chín giới nếu không phải sao lại đem thí cho nó, chín giới nếu phải thì dùng Phật giới làm gì?
Đáp: Hoặc sự hoặc lý đều có lợi ích lớn. Nói về sự, là đoạn pháp sáu giới cung cấp cho bốn giới, vì cho đoạn pháp ấy nên gọi là thí. Trong bốn giới sau thì dẹp quyền mà về thật tạm cùng bất định, sự lý đều thế. Nói về lý, là lý mười giới đồng ở một tâm, không một không nhiều, chẳng Không chẳng có, mười tức trăm, trăm tức ngàn, ngàn tức ba ngàn mà không, giả, trung. Nên không giả trung đều gọi là lý pháp. Pháp Không ngoài sự nên gọi là pháp tài, lấy pháp dung nạp tài, lấy tài dẫn pháp. Dùng thí đối đó gọi là pháp thí. Thế nên pháp ở tài thì gọi là Ba-la-mật, thí dụ như châu như ý suy nghĩ tất biết. “Lại nữa...” là cũng khiến dùng quyền giúp bất tư nghì, tức như Pháp Hoa khác phương tiện... trông chung mọi người cũng gọi là tất cả.
Ngài Thiện Đắc lại thỉnh. Ngài Kinh Khê nói: Lại tích bày chưa ngộ. Nếu bản địa như thế thì trong hội này Thiện đắc tự biết lý pháp thí. Nhưng vì người nhận tâm chưa dung, nên nhắc lại để người nhận hiểu rõ, thành nghĩa phù hợp, lý ấy rõ ràng. Song ngài Tịnh Danh nguyên bày trong tài có pháp. Có ý khiến ở đời sau người làm người nói xem văn đối cảnh đều cần đối tài luận pháp.
Tịnh Danh nói rộng, đoán bày phân khoa, Đoán bày, nói trong tài có đầy đủ pháp. Nếu lìa tài... thì ba giáo đối tài ắt không có pháp. “Sở dĩ...” là nói người nhận được lợi ích, chánh nói được lợi ích, ngài Kinh Khê nói: lấy người thí này đến tất cả pháp, là hỏi: Chư Phật Bồ-tát người được thâm vị “vị sâu) sao lìa việc lấy tài dẫn pháp. Còn chúng sinh dùng địa, thủy, hỏa, phong mặc tình thường cúng dường lợi ích cho Phật Bồ-tát. Chư Phật Bồ-tát không thể đếm biết số lượng, thời gian thọ dụng càng dài thì chúng sinh được lợi ích càng lâu. Tại sao lại khiến phàm phu giả tưởng như thế người làm được lợi ích có bao nhiêu. Huống là lại ẩn dấu thuật của Phật Bồtát.
Đáp: Nghĩa đó thật như thế song cần phải hiểu tông trước báo ân Thánh gồm nhờ lợi phàm. Chỉ cách lợi vật ví như người chiến sĩ trận lớn khó đương, lý nhờ chiến đấu nhiều. Tướng tài tuy mạnh nhưng không thể chỉ một mình, nên cần có người phụ giúp, khen ngợi và sức mạnh cùng tiến công. Đánh dẹp tốt được công trạng là do tài giỏi, huống lại chưa phá giặc thì giáo duyên có ngại gì? Cuối cùng bày binh cứu kiện gấp rút. Vì sắp tung ra chưa hoàn toàn được nên cố gắng dồi mài mới thành được việc. Cho nên Bồ-tát hành từ từ vô thỉ mà chúng sinh cũng từ vô thỉ được hóa độ. Do đó mà thật khó độ, luôn ở trong sinh tử chịu khổ lâu dài. Bỗng được cảm ứng đạo giao bèn kia đây đều được lợi ích. Huống lại chúng sinh trước cũng có người tu hạnh tịnh độ. Mọi người phát thệ lớn cùng hun đúc giúp nhau đạt quả mới được ích. Tức người được hóa độ chung riêng không đồng ta và người đều thế. Hãy ngẫm thật kỹ. Cho nên một đức Phật ra đời thì muôn Thánh đều giúp. Cần hiểu kẻ hầu già, lệ đây có thể thấy. Tiếp là dụ, là hợp, và dẫn thí dụ mà giải thích, có hai: a, dẫn Đại kinh, kinh ấy dụ Phật tánh ở khắp năm đạo. Nay dụ pháp thí ở khắp năm trần. “ Chúng sinh...” là nay giải thích thành. Tiếp là phân khoa.
“Một ước...” là tùy văn giải nghĩa, căn cứ bốn đẳng, ngài Kinh Khê nói: “không thí không thọ nhận... là ý nói đại xả đẳng vô duyên từ. Thế nên kia đây đều nói là không. Thế nên lấy bốn pháp bất khả thuyết gọi là bình đẳng, tức là thể lý của đại xả. Bình đẳng chân pháp giới thì Phật không độ chúng sinh..., là đối với xả này thì Từ, Bi, Hỷ ba thứ trước là độ tâm, còn trong xả không đắm trước tức là không độ. Song bốn và sáu cùng các tạp hạnh mỗi mỗi đều là độc đầu pháp thí là muốn cùng thành nên đều nêu ra. Căn cứ sáu độ, chánh giải thích. Sở dĩ sáu độ sau bốn đẳng, ngài Kinh Khê nói: Bốn hoặc được sáu mới xứng mong ước. Liệu giản. Vì sao lại cùng giải thích, tức trước nói khởi bốn thứ đàn (bố thí) bốn quyền một thật. Căn cứ ba giải thoát, ngài Kinh Khê nói: Căn cứ ba thoát, tức lấy không bình đẳng đối hóa độ chúng sinh bình đẳng. Đã là hạnh viên thì phải đủ tất cả. Tuy đối như thế mà không hẳn hoàn toàn thế, vì cùng đối nhau cùng thành hạnh viên. Dùng ý cùng đối nhau, mỗi mỗi mà giải thích, khiến thành nghĩa viên mới xứng giáo chỉ. Căn cứ các hạnh. Người xưa phân làm mười đoạn. Nay nương vào đó. Hộ pháp độ sinh. Bốn nhiếp, nghĩa là Ái ngữ, Lợi hành, Bố thí, Đồng sự. Kính thờ tu bố thí. Đều như cúng dường Phật. Do đây mà có tam ba ngàn đầy đủ. Ngài Bất Khinh đều kính lễ là bởi ý này. Sáu niệm lục hòa sinh tịnh thiên Đệ nhất nghĩa thiên. Đại luận nói có ba thứ trời:
1. Giả gọi trời như vua cõi người.
2. Sinh lên trời tức các trời ba cõi.
3. Thanh tịnh thiên tức Thánh nhân ba thừa.
-Đại kinh nói có bốn trời:
1. Trời ở đời tức giả gọi.
2. Sinh lên trời.
3. Tịnh thiên, tức là bốn quả và Bích-chi-phật.
4. Nghĩa thiên nghĩa là Thập trụ Bồ-tát.
Nên kinh ấy nói. Vì nghĩa gì mà Thập trụ Bồ-tát gọi là nghĩa thiên? Vì khéo hay giải nghĩa các pháp, nên nói là nghĩa. Thấy tất cả các pháp là nghĩa không, nên lại nói: Ta từng nghe có Đệ nhất nghĩa thiên, nghĩa là Phật Bồ-tát thường chẳng biến dịch (thay đổi). Nay nói đạt đàn pháp giới hay phá vô minh tức là sinh lên nghĩa thiên và Đệ nhất nghĩa thiên. Lục niệm duyên chung bốn giáo, nên gồm nói là tịnh thiên. Cho nên biết: Tịnh thiên tức là hai giáo trước. Bốn thứ lục hòa so lệ làm rõ, tất có thể thấy nghĩa ấy. Nay lại lược bày lục hòa trong viên. Song sáu pháp này đều nói là hòa kỉnh, nghĩa là thân từ hòa kính... lại văn đã nêu Tiểu thừa Không theo thứ lớp. Nếu dựa vào cách thường nói là:
1. Giới đồng hòa kính, nghĩa là thấu suốt thật tướng, biết tội vốn “không”. Vì muốn an lập chúng sinh mà trì các giới phẩm không tranh cãi trái nhau. Lại hòa nhân chúng sinh mà giới thiện, ở vị lai ắt được Bồ-đề. Do đó phải kính trọng như Phật. Cho nên nói giới đồng hòa kính.
2. Kiến hòa đồng kính, nghĩa là thấu suốt thật tướng vốn “không” tri kiến, vì muốn an lập chúng sinh mà khéo léo đồng hòa tri kiến, không tranh cãi trái nhau. Cũng biết chúng sinh tri kiến khai giải ắt được chủng trí, thế nên kính như Phật.
3. Hạnh hòa đồng kính. Nghĩa là thấu suốt thật tướng vốn “không” niệm hạnh, vì muốn an lập chúng sinh đối thật tướng lý hạnh mà làm không sai trái. Cũng biết chúng sinh nhân các hạnh này sẽ thành Phật đạo. Thế nên kính trọng như Phật.
4. Thân từ hòa kính. Nghĩa là trụ vô duyên từ, hiện các oai nghi hòa đồng chín đạo. Cũng biết chúng sinh đều có Phật tánh, ở vị lai ắt được thân kim cang, thế nên kính trọng như Phật.
5. Khẩu từ hòa kính. Nghĩa là dùng vô duyên từ khắp phát ra các âm hòa đồng chín đạo. Cũng biết chúng sinh đều có Phật tánh, ở vị lai ắt được khẩu nghiệp vô thượng, thế nên kính trọng như Phật.
6. Ý từ hòa kính. Nghĩa là dùng vô duyên từ hiện các tâm ý hòa đồng chín đạo. Cũng biết chúng sinh đều có Phật tánh, ở vị lai sẽ được như tâm Phật, thế nên kính trọng như Phật.
Đã biết bốn...” là bốn lý tuy khác, nhưng ba đế gồm thâu. Một tâm ba đế cùng dung nhau không trệ ngại, không thể nói bày gọi là chất trực.
Chánh hạnh tịnh tâm mà gần dưới, bày làm quyền thật. Cho nên gần bậc Thánh hiền thiên tiểu.
Điều phục kẻ ác xuất gia, người ác đến xin... là làm việc cực ác không gì hơn Xiển-đề, đã có Phật tánh đều tức là Phật, há ở chỗ Phật mà sinh khổ nhọc. Bộ tuy chưa nói nhưng ý viên không khác.
Tiếp nói hạnh vô tránh. Phật tuệ cởi trói. Tướng hảo tịnh độ.
Soi cơ hiểu pháp. Tùy tình quyền thật, thống lãnh ba giáo là tùy tình, dùng đối viên dung gọi là tùy trí. Không đồng các văn nói về ba thứ ấy. Khởi tuệ nghiệp, ngài Kinh Khê nói: Đây cũng cùng các văn không giống. Các văn đối trí hoặc nói nhân quả. Nay bèn lấy tuệ mà thông sang trí. Tiếp là dứt hạnh trợ đạo.
Kết thành pháp thí: Kinh nói: Như thế các thiện nam... ngài Kinh Khê nói: Các câu như trước mỗi mỗi đều căn cứ tâm viên thí mà luận kỹ tướng trạng, đầy đủ như chương trước nói: Các giáo đem vào đây là mượn Pháp Hoa mà nói về ý chỉ của quán, tất cả đều nhập pháp môn, hiểu tài như pháp, mới xứng hợp ý văn các khoa trong đây. Nếu chỉ nêu pháp tướng thì sao có thể biết rõ pháp ở trong tài ư? Pháp thí đã mờ thì cũng không thấy rõ Bồ-đề, đạo tràng và pháp lạc... như nay nêu ra giải thích, mới chỉ rõ việc ấy. Thế nên không cùng tham... tương ưng, cho đến không cùng vô lượng tương ưng, chỉ cùng một thật không chịu ngầm hợp.
Thời chúng được lợi ích, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Bà-la-môn phát tâm, ngài Kinh Khê nói: Đây là bậc lợi căn nhất, thế nên trong đây riêng nêu việc phát ra hai thiện được thanh tịnh, khéo được tâm tịnh nên rất cung kính cúng dường. Ngài Tịnh Danh khiêm nhường không nhận.
Ngài Thiện Đắc lại thỉnh mời nhận. Tâm son sắt thành thật.
Ngài Tịnh Danh nhận rồi thí lại, nêu ý phân khoa. Vì không chỗ thọ nhận..., là tự tánh vắng lặng vốn “không” chỗ thọ nhận. Chỉ tùy cơ thấy lợi bốn giáo, nên nói thọ nhận, nên nói mà thọ các thọ. b, tùy văn giải nghĩa, có bốn: a, thí lại cho bi điền và kính điền, phước điền không hai, là ruộng gieo trồng phước gọi là phước điền. Bi và kính tuy khác nhưng đều kham gieo trồng phước nên gọi chung là phước điền. Gieo trồng phước tuy đồng nhưng cao thấp thật khác nhau. Nay đối sự khác mà thấu suốt lý đồng. Người xin tâm địa ba ngàn cũng khó hơn được. Tâm địa ba ngàn cùng nhập bằng nhau. Chúng sinh và Phật đồng một, nên gọi là không hai. Thấu suốt không hai gọi là hội pháp thí. Chúng thấy chuỗi anh lạc trên cổ đức Phật kia. Bốn đức vô ngại, là bốn thứ để biểu thị cho bốn đức. Không cùng che nhau là biểu thị cho vô ngại.
Ngài Tịnh Danh lược nói hội pháp thí. Trong thành người xin phát tâm Bồ-đề. Cuối cùng kết thành không kham.
-Sai các đại Bồ-tát khác.
Trong thất nói pháp để dẫn tiếp và nhiếp thọ, đối trước lược bày, giải thích tên phẩm. Nói ý có phẩm này, bày nghĩa. Ngài Kinh Khê nói: Trước nói ngài Tịnh Danh giả bệnh.... Tức là chỉ sự có mặt của hai tiết văn trước. Trong phẩm Phương Tiện rộng vì các người đến thăm bệnh, nói đây có hai nghĩa gần là chúng tục đang được lợi ích ở đương tòa, xa là ấn định thành kinh cho sau này. Tức là văn liệu giản đầu ở phẩm Phương Tiện. Kế, là phẩm Đệ Tử, trước nói tự nghĩ mình đang bệnh nằm trên giường... đủ như năm thứ lợi ích ở văn trước. Nay muốn chung lấy hai chỗ văn trước mà làm ngoài thất. Chê trách ở ngoài thất, là hỏi vì sao không nói thế giới Tất-đàn?
Đáp: Hai môn trước cần phải hoan hỷ rồi sau mới nói. Hai môn cộng hữu nên không luận.
Hỏi: Lý Đệ nhất nghĩa cũng là cộng hữu vì sao lại nói?
Đáp: Tuy tức cộng hữu có nhập, không nhập mà ở nhập, nên cần phải nói. Lại thế giới một thứ hữu thì bất định. Như Đệ nhất nghĩa một mực cần có, thế nên cần phải nói cả hai. Đã chê trách...” là kết ý, khai chương giải thích rõ, nêu chương. b, tùy giải thích, ý có phẩm này, nêu chung. Ngài Kinh Khê nói: quyền mưu, là nói phương tiện. Trong phẩm mọi nơi đều hiện thân, tức việc này. Phải hỏi là quyền không mưu tính, sao được gọi là quyền mưu?
Đáp: Không mưu tức là đại quyền mưu. Cảnh tượng lớn không hình, tâm lớn ít tiếng. Cho nên biết quyền mưu bất tư nghì không tiếng không hình của hình và tiếng lớn. Trước đã dùng bốn giáo..., là nói kẻ phàm phu chỉ cho phẩm Phương Tiện, nói Nhị thừa là chỉ cho phẩm Đệ Tử, các thiên Bồ-tát là chỉ cho phẩm Bồ-tát.
Hỏi: Nhưng phải nói dùng Viên chiết phục mà nói bốn giáo là sao?
Đáp: Trách phàm thì dùng Tạng, chê tiểu thì dùng Diễn, chê đại thì dùng Viên hoặc thay nhau mà chê trách, nên cần dùng cả bốn.
Nay khen... là chỉ cho Văn-thù khen ngợi. Ngài Tịnh Danh khiến tu... tức là chỉ cho văn điều phục và ủy dụ và bốn phẩm sau. Nhập bất tư nghì chỉ cho phẩm Bất Tư Nghì. Được thấy cõi tịnh tức chỉ cho phẩm Hương Tích, A-súc Phật. Nói và năm phẩm sau, là đến văn dưới thì tùy mỗi phẩm không ngoài chiết phục và nhiếp thọ.
Giải thích riêng, nêu chương. Ngài Kinh Khê nói: Đây lại là năm, tức cùng đồng nghĩa năm phẩm trước. Vì Văn-thù nhận lịnh thăm bệnh cũng dựa vào văn khác có năm việc khác đây, nên cần biện biệt với văn trước. chánh giải năm việc:
1. Đáp ứng tâm khát ngưỡng của thời chúng. Ngài Kinh Khê nói: Đích thân nhận lời thăm bệnh vì tuy vừa nghe kể việc bị chê trách nhưng không thấy rõ việc vừa tin. Nếu thấy được ngài Tịnh Danh thần biến và nghe luận bàn trí tuệ thì sẽ được lợi ích không nhỏ, nên cần phải đi theo.
2. Ba quán nhiếp thọ dẫn nhập.
3. Vì giúp thành giáo tịnh độ. Ngài Kinh Khê nói: Tùy chướng dứt nhiều ít. Chướng tức là nghiệp đời trước. Chướng phải đủ ba. Vì trong cõi Đồng cư có phân tịnh uế, thế nên chướng tất cần phân ba, chỉ là ba thứ không đồng duyên tập. Nếu người Nhị thừa đã nhập vị, thì cũng có thể theo giáo hiển lộ mà nói. Lại cũng cần nói khiến nhập vị hiển lộ mà thành sinh tô. Ở ý thứ bốn là vì người sau dẫn nẻo, là mỗi người đều sinh tịnh quốc, đầy đủ như văn trước trong phẩm Phật Quốc.
4. Dẫn đường để nhập Đại phẩm Pháp Hoa. Đã nhập chánh vị là đã chứng quả Nhị thừa. Trước tuy..., ngài Kinh Khê nói: “Trước căn cứ vào người chưa chuyển cũng kể cả người đã chuyển căn và ngộ bí mật. Các văn trên dưới tất cả đều như thế, lời nói không nệ việc làm, văn ít mà việc đầy đủ. Cho nên một mực lấy hiển giáo mà nói. Nếu đến Đại phẩm..., là văn này cũng dựa thứ lớp mà nói. Không thể chuẩn theo chuyển giáo quán ở trước... là trước đã tóm chung Đái chỉ rồi. Từ đây trở đi tất cả các chỗ đều khác. Lại cần phải thuật ý, nên nói là lợi căn khi phát thì bất định, đầy đủ như trước nói.
5. Trở về chỗ Phật để kết định. Đối việc Phật ấn định thì trước nêu chương chỉ nói kết định. Ngài Kinh Khê nói: Kết tức là ấn. Nói kết là vì công việc giáo hóa của Đại sĩ vừa xong. Tóm tất cơ nghi lý ở giáo đã thành nên nói là kết.
Hỏi: Trước ấn có thể như thế, cần gì nói sau?
Đáp: Không phải sau việc làm viên gọi là sau. Trước tuy nghe kể lại việc chê trách mà chỉ được ngầm ấn nên không biết ngầm ý của tông chỉ ở đâu. Đến sau này khi vào thất nghe nhiều thắng nhân, lại thấy Đại sĩ thi thố nhiều quyền biến sau khi vào thất nên nói là sau. Các sự lý như thế không dễ dàng, nên nhờ Đức Như Lai đối trước chúng mà ấn khả. Lại nhờ Thiên đế phát nguyện lớn hộ trì lưu thông và Phật kể thành để truyền đời sau. Chuẩn theo đây thì cần phải trở lại Am viên để khởi phát cho A-nan. Tức ở đầu phẩm Bồ-tát Hạnh, A-nan bạch Phật do nhân duyên gì mà ứng hiện điềm lành...
Ngài Văn-thù kham việc thăm bệnh, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích:
1. Ở vị cao. Tất cả đều cao trở đi, là bậc Đẳng giác có sơ, trung và hậu tâm, nên ngài Văn-thù tu hành đã lâu, tức là hậu tâm Bồ-tát. Đây cũng một thứ, Tiêm sư nói: Vì đều trông vào giải thích sau, do đó văn trước chỉ thành một thứ.
2. Thùy tích. Ngài Văn-thù là trong chủng Như Lai, theo kinh Lăng Nghiêm nói.
3. Hiển viên. Ương-quật từ tiểu, tức phần ít là hoằng hóa thiên, nên bị Ương-quật chê trách, phần nhiều là hoằng hóa viên nên cùng đồng sự với ngài Tịnh Danh.
4. Thỏa thích tình chúng, ngài là vị đại thần ở tả diện, hơn nữa thuận theo phương này đã phân tả hữu. Các điều khác như trước đã ghi.
5. Tùy vật cơ.
Từ “các Bồ-tát... lưỡng chùy”, ngài Kinh Khê nói: Không nói Nhị thừa chỉ nói Bồ-tát, chỉ là cùng không cối chày mà thôi. Vì dùng sức nên được tên hai chày, tất không thể nói hai cối. Cũng có thể dùng cối chày như lúc mới vào thất. Ngài Văn-thù hỏi và ngài Tịnh Danh đáp. Đến phẩm Quán Chúng Sinh thì ngài Tịnh Danh bèn mời ngài Văn-thù nói pháp. Đến phẩm Bất Nhị Môn thì cả hai Thánh cùng dùng cách nói và im lặng để lợi vật. Cũng có thể nói rằng ngài Văn-thù dùng chày nói năng để giả đập cối chân lý của ngài Tịnh Danh để thành lợi ích trung gian xứng giáo, mới hội được cái dụng của lý giáo chày cối. Được ngài Tịnh Danh khen ngợi. Tiêm sư bảo: Kinh nói: Thiện lai! Văn-thù-sư-lợi... là đó.
Giải thích hai bệnh quyền thật, nêu ý nói chung, nói hai bệnh. “Nếu từ...” là luận trước sau. Năng hóa tức Đại sĩ, sở hóa tức chúng sinh. “Văn nói...” là chứng tỏ năng hóa. Trước chứng tỏ bệnh quyền trước. “Lại nói...” là kế chứng tỏ bệnh thật sau. “Cho nên tịnh...” là chứng tỏ sở hóa. Vì chúng sinh có bệnh thật trước, thì ta có bệnh quyền sau. “ Nay ước...” là khai chương giải thích riêng, bệnh thật, nêu bày phân chương. Y chương chánh giải thích, luận về bệnh tướng nhân quả. Sái ngại, sái là bệnh. Đồng hộp mà tánh khác. Tức sắc thân như cái hộp, bốn đại như rắn độc. Kinh Quang Minh nói: Hai rắn đất nước tánh nó chìm xuống, hai rắn gió lửa tánh nó nhẹ bốc cao. Cùng khởi tăng giảm, là nếu nước tăng, lửa giảm yếu, thì thành bệnh lạnh... các đại kia so đây mà nói. Giải thích, nhân của bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Tham dục đến một thân, ba phần trước dẫn kinh lập nghĩa. Đẳng phần đối thân là hơi giống thân mà thôi. Tuy theo nghĩa, nhưng nghĩa thông với thật. Tất nhiên thật là do lý tâm.
Giải thích bệnh của quả, căn cứ bốn đại. Căn cứ bốn tướng. Như điềm lành... ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Vì sao không nói sinh?
Đáp: Ba do sinh, sinh cũng do ba, cho nên không nêu riêng. Lửa dụ cho tham, là lấy mình nhiếp người khác như lửa đốt củi. Nước dụ cho sân, vì tâm sân phá hủy lòng từ như nước nhận chìm mọi vật. Nay một mực..., ngài Kinh Khê nói: “Hai nghĩa chung riêng đối lý mới thành. Vì sao do đây mà ba cõi cảm chung ở thân. Riêng đối không phải không chung tạo ra các thiện. Cho nên dẫn văn chung để thành riêng.
Nhân quả chung riêng. Mỗi thứ đều có chung riêng, là đều lấy việc mọi người chung có làm chung; riêng tạo riêng phát mà làm riêng. Nhân chung riêng như văn. Trong quả nói bốn đại bốn khổ là chung. Bốn khổ tức là sinh... nếu trong nhân thì chỉ có chung, nghĩa là không riêng tạo bốn trọng tội... thế nên chỉ cảm thân bốn đại bốn khổ trong loài người. Cho nên nói khi là quả cũng thế. Nếu trong nhân mà riêng tạo tội từ trong thập ác, thì riêng phát khổ nặng ba đường. Cho đến được sinh trong loài người.
Riêng chịu bốn đại tăng tổn, bốn khổ gia tăng. Cho nên kinh Hoa Nghiêm nói: Tội sát sinh hay khiến chúng sinh đọa vào ba ác đạo. Sau sinh làm loài người bị hai quả báo: Một là nhiều bệnh; hai là yểu mạng. Trải thập ác mà nói thì đây là nhân riêng mà phát quả riêng. Nhiều bệnh thì bốn đại tăng tổn, chết yểu thì bốn khổ gia tăng. Mạnh yếu, tức nặng thì mạnh, nhẹ thì yếu.
Căn cứ độ nặng nhẹ, ngài Kinh Khê nói: Căn cứ độ nặng nhẹ, là tuy luận ngang mà lại nhiếp dọc. Lại có cõi Đồng cư, thì nhân bệnh của thiên đạo và địa ngục đều nói là không nhất định. Vì căn cứ tâm mà luận thì thường khởi thiện ác, cho nên trời không nhất định là thiện, mà địa ngục không nhất định là ác. Cõi Hữu dư, Chánh giải thích. Chỉ có Biệt giáo chung riêng... ngài Kinh Khê nói: Bậc thượng trung cõi Hữu dư, tuy có Tạng, Thông năm người sinh ở đó đến đó không còn tên Tạng, Thông. Giáo đó đã hết thì tên và ngôi vị cũng mất. Căn cứ người chưa thấy lý biệt, tức là địa tiền của Biệt giáo. Cõi ấy khắc thiệt chỉ có hai thứ người Biệt Viên. Từ tiệm giáo nói Tạng, Thông, mới chuyển hoặc nhập Biệt, mới chuyển há chịu hoàn toàn không nhập Viên, chỉ là phụ theo văn nói theo Biệt. Liệu giản, chọn bệnh là nhân bốn phần. Ngài Kinh Khê nói:
Đáp: phần vô vi duyên tập... tức tên đồng mà nghĩa khác, tức cùng ái kiến ba cõi nội giới thì bốn phần có thể khác hẳn nội giới, huống lại ngoại giới phương tiện mà nói ư? b, chọn bệnh là quả bốn đại. Ngài Kinh Khê nói: Đáp cũng có biến dịch... là nhẹ không nặng, nên chỉ nói chung. Nói đủ thì có địa... bốn đại và sinh... bốn khổ, chỉ khổ quả kia cùng với tâm thì thể đồng. Vì từ tham... mà được tên bốn đại, cho nên khiến sinh... mỗi niệm đều biến dịch. Vì biến dịch nên gọi là sinh tử. Vì có sinh tử mà mặc tình già bệnh. Chọn quả bệnh rất nhẹ. Ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ không hỏi khổ sinh tử là vì biến dịch sinh tử các giáo đã nói rất nhiều. Do đó chỉ nghi khổ già bệnh mà thôi. Cõi Thật báo, chánh giải thích, thích tướng bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Cũng gọi là nhân duyên, chỉ vì chưa thấy lý, nên thuộc nhân duyên. Nên cùng nội giới có tên đồng mà thể khác. Tức pháp tánh là nhân, vô minh là duyên. Không thành bệnh thật. Không viết chữ cũng là lầm. “ Nhưng biến...” là đối trước mà chọn bày, có hai: a, riêng đối hai cõi. Biến dịch là tên chung vì không có nội giới phần đoạn sinh tử, thì ngoại giới gọi chung là biến dịch, vì nhân dời quả đổi vậy. Nếu luận riêng về quán giải đoạn hoặc, thì có phương tiện, quả báo hai thứ khác nhau. Nếu luận về tự thể, tức cõi quả báo có tự thể duyên tập. Cho đến không có hậu hữu, đây là đối cõi quả báo mà ước nhân duyên. Và Thập địa có hậu, Đẳng giác không hậu. Các vị đều phá hoặc trên dưới trông nhau lại luận nặng nhẹ. Dựa chung mười giới. Đối trước mà nói hai cõi chỉ ở bốn Thánh, nay đối sáu phàm chung thành mười giới, mà luận bệnh nặng nhẹ. A-tỳ là bắt đầu của sáu phàm, Đẳng giác là cuối cùng của bốn Thánh. Trông về rốt ráo đều có thật bệnh. Vì quả báo tức quả phần chứng, cho nên được gọi Phật giới có bệnh. Nói đủ là Nhất-xiển-đề. Hán dịch là ác dục là ác dục, bậc nhất, nghĩa là không tín... năm căn, hoặc dịch là tín bất cụ “không đủ tin). A-tỳ, Hán dịch là vô gián. Vô gián có hai: Một là thân; hai là chịu khổ, vì nhân bệnh Xiển-đề cảm quả bệnh vô gián. Đây là bệnh riêng rất nặng. Từ chín giới trên truyền luận nặng nhẹ lược bỏ tám giới nên nói “cho đến”. Lại ở Phật giới lược bỏ sơ trụ... nên nói “cho đến”. Cho nên một cho đến hai phen lược bỏ.
Liệu giản, chọn nhân bệnh. Dẫn thỉnh Quan Âm, đã tịnh được độc căn liền thành Phật đạo. Nghiệm là ngoại giới phá vô minh thấy Phật tánh. Không hiểu rõ tự thể được nói là ba cõi. Đã gọi ba cõi tức là bốn phần. Chọn quả bệnh. Đã có... ngài Kinh Khê nói: Đã chịu sinh tử nào ngại gì bốn đại. Bốn đại đã riêng nên dẫn Đại phẩm tất cả pháp thú. Bốn đại ngoại giới là tên đồng thể khác, lý đó không chút nghi ngờ. Kẻ dẫn Đại kinh nói vị rốt ráo, thì bốn đại bốn khổ đã hết, cho nên không bị sinh tử biến dời. 3. Chê xưa. Còn như giáo nào, là vừa dẫn kinh Niết-bàn nói Phật chẳng bị sinh tử biến dời, đâu không phải là Đẳng giác cũng còn bị sinh tử biến đổi ư? “Huống lại...” là nói từ si mà có ái, là chung cho cả Đẳng giác. Há không bị sinh tử ư? Đây là thành giáo, các sư nào có trái gì. Ngài Kinh Khê nói: “Xưa chưa biết văn này khó hiểu. Nếu không được ý nay làm sao có thể giải thích trong phẩm Quan Âm về các thứ quả báo, ác nghiệp, phiền não, lửa, nước, gió... khác nhau. Từ si có ái, cho nên trong Đẳng giác một phần vô minh cũng gọi là si ái. Từ si ái này mà cảm một phẩm sinh tử ở địa Đẳng giác, bèn thường vì vật mà thọ sinh si ái. Nếu không phải thế thì đạo cảm ứng không đồng, việc hóa độ chưa khắp. Nếu kim cang...” là vô minh của Đẳng giác cũng gọi là si ái. Bày đồng Đẳng giác, hóa độ khắp vậy.
Căn cứ cõi Tịch quang, chánh giải thích, rốt ráo không bệnh. Có hai thứ:
1. Chỉ ở cực quả.
2. Chung cả hạ địa.
“Nếu thông...” là căn cứ trung hạ có bệnh, căn cứ Biệt giáo. Ngài Kinh Khê nói: “Đây có hậu mà không có hậu sinh tử. Chỉ lấy đây hai ngôi vị là trung và hạ. Nếu nương kinh Nhân Vương... đối vị vô hậu Đẳng giác để lập hai sinh mà không lập Đẳng giác. Nhưng nói ở vị Thập địa có ba sinh thì lập vị Pháp vân mà làm mới sinh. Chuẩn theo đây chỉ lấy trụ sinh chung sinh để làm Tịch quang. Lấy mới sinh vì nhường thật báo, cho nên nói là nhân duyên. “ Riêng hai...” là ước Viên, chọn Biệt nương Viên, ngài Kinh Khê nói: Biệt giáo này là phương tiện, vì y kinh Nhân Vương nên không lập ba mươi tâm làm vị đoạn vô minh. Lại một địa pháp vân mà phân làm ba phẩm, nên thành Biệt. Huống là có giáo mà không người chưa thể dung y. Nay đối Tịch quang nương Viên giáo. Cho nên ba mươi tâm của Viên giáo đều là nhân duyên. “ Tuy làm...” là chọn nhân nương quả. Ngài Kinh Khê nói: Chưa thể dùng nhất định, là vừa rồi tuy đối Biệt Viên hai giáo và Đẳng giác hữu vô để lập nghĩa trung hạ của Tịch quang, chưa là, nếu chỉ lập thượng phẩm làm nhất định. Huống lại tạm mượn tên Nhiếp sư (Vô Trước). Liệu giản, hỏi, ngài Kinh Khê nói: “Ý này hỏi do dụng có hậu sinh tử..., nói là nghĩa của Nhiếp sư, thế nên suy ra là thuộc ngài Thiên Thân, Huyền Nghĩa nói: Ngài Vô Trước tạo luận Nhiếp Đại thừa. Vô Trước tức là anh ngài Thiên Thân đều là Ngũ tánh tông, nhưng tông pháp tướng thạnh hành nhất là do ngài Thiên Thân, nên nói là nghĩa Thiên Thân. Đáp, nói hai Thánh đồng ngộ nghĩa họp thông dụng. Cùng nhập Bất nhị pháp môn là chỗ chứng diệu lý một thể Không khác. Bốn Tất-đàn tùy cơ lập tông hai thứ khác nhau. Ngài Long Thọ nối ngài Văn-thù nói tất cả chúng sinh đều có Phật tánh gọi là nhất tánh tông. Ngài Thiên Thân nối ngài Di-lặc nói ba Không hai có, gọi là ngũ tánh tông. Ba Không tức là Xiển-đề, định tánh và Nhị thừa, đều là không có Phật tánh, không được làm Phật. Hai có là bất định và Bồ-tát cho là đều có Phật tánh và ở vị lai sẽ thành Phật. Cho nên Tây phương và cõi này người sinh đến, đến nay có hai tông khác nhau. “Nay vốn...” là Đại sư tuy nối ngài Long Thọ nhưng quán pháp và cách giải thích về danh tướng Phật kinh nào khác ngài Thiên Thân. Huống biết nội chứng vốn đồng, tùy cơ mà tạm có khác. Cho nên ở văn này phải chăng là dùng nghĩa của Nhiếp sư. Ngài Kinh Khê nói: Đáp ý tuy như thế nhưng chỗ dùng của nhà ta gốc ở ngài Long Thọ. Cả hai tông rực rỡ cùng làm sáng tỏ kinh Phật. Nếu phân biệt kỹ thì đời xem ngài Thiên Thân là tông pháp tướng, còn ngài Long Thọ là tông pháp tánh. Việc đó có thể biết. Ngài Long Thọ ra đời khi Phật diệt độ năm trăm năm, đến năm chín trăm ngài Thiên Thân mới xuất hiện. “Nhưng...”, là nghĩa phù hợp với ngài Thiên Thân để lập bỏ sự chê bai của các người khác. Địa nhiếp chiếu nhau, Địa Trì luận là của ngài Di-lặc tạo ra, cũng là tông của ngài Thiên Thân. Nay một nhà ta giải thích kinh, há chỉ nối tông quán pháp ở ngài Long Thọ. Đến như danh tướng nghĩa môn tất cả đều nương vào trí luận và trung luận. Nếu pháp tướng có thiếu thì lấy các tông khác mà bổ trợ, các văn đều thế, không riêng trong đây. Đã không phải chánh dụng nên nói là chiếu nhau. Hoặc vị...” là đã dựa vào ngài Thiên Thân thì kẻ khác không chê trách.
Quyền bệnh, có năm: Song năm hạnh này gồm nhân quả thể dụng. Trong Niết-bàn sớ phân biệt rất rõ. Nay lấy Thánh hạnh làm nhân, Thiên phạm làm quả. Thiên phạm là thể, bệnh nhi làm dụng.
Hỏi: Các văn hoặc nói Thánh Phạm là nhân, nay sao lấy Phạm hạnh ở quả?
Đáp: Thánh, Phạm hai hạnh đều chung nhân quả. Đối với Thiên hạnh lấy hai thứ làm nhân, nay nói ở quả thì có gì nghi? Vì Thánh tức ba học, Phạm tức bốn đẳng. Cho nên biết giới, định, tuệ Từ bi nhân quả đều có luận về chánh phụ, cần phân biệt. Ngài Kinh Khê nói: Từ Thánh sinh Thiên phạm..., đây là do nhân chứng lý, từ lý khởi dụng, dụng lại chỉ nhân. Cho nên nói Thánh hạnh cho đến mà khởi hỏi: Trời đã là chứng sao gọi là hạnh? Đáp: Từ trời khởi hạnh, nên gọi là Thiên hạnh. Cho nên vị của Thiên hạnh ở tại Địa Trụ, nghiệm mà biết là từ Thánh hạnh của hai thứ Biệt Viên mà sinh.
“Anh Nhi...” là giải thích riêng bệnh nhi, nêu bày chỗ khởi chỉ đồng với thiện Tiểu thừa nên gọi là anh nhi, chỉ đồng có ác nên gọi bệnh hạnh. Đồng thiện là ban vui, đồng ác là cứu khổ, cho nên hai dụng này là do Từ bi. Nên vừa rồi Kinh Khê có nói: Dụng lại chỉ nhân. Thế nên có người lấy Thánh làm nhân tự hành, thiên là quả tự hành. Phạm hạnh là nhân hóa tha, Bệnh nhi là quả hóa tha. Cho nên nhân đối Từ bi mà có hai hạnh. Phạm thông cả nhân quả, đã lược nói. “ Vì sao...” là dẫn giải thích tự tha, có hai: a, nói tự hành thì không. Các ác dứt hẳn là hiển bày hạnh không. Anh nhi thiện Tiểu thừa so với Phật vẫn ác. Các thiện khắp hội, tức là thiện hạnh rốt ráo vậy. Thiên lý sáng rỡ, định tuệ trang nghiêm, nên nói là khắp hội. “Có gì...” là trước không có nhi hạnh thì sau không có bệnh hạnh. “ Chỉ vì...” là vì hóa tha bày có, có hai: a, chánh nói hai hạnh. Hình đầy pháp giới, là hiện cảnh tượng mười giới. “Nếu đây...” là nói do cơ dứt nên phải hết. Ngài Kinh Khê nói: “Là nói nguyên do dứt hai hạnh.” “ Chỉ chúng...” là kết bày tùy cơ. Ngài Kinh Khê nói: Cơ sinh gọi là hưng. Nếu ước bệnh vật có lúc nào chẳng hưng. Cho nên văn...” là dẫn chứng thành. “ Nay tịnh...” là kết chỉ Tịnh Danh. Ngài Kinh Khê nói: Ước pháp từ người, trước tuy luận chung, ý bày ở văn nay. Ý văn cũng khắp chung các cõi (cõi). “Nhưng thật...” là giải thích riêng, có ba: a, chỉ trên nêu nay. Nay quyền bệnh cũng ước vào bốn cõi (cõi). Ngài Kinh Khê nói: Song bốn cõi đều có hai bệnh quyền thật. Nếu ước cõi Tịch quang mà hiện quyền bệnh thì chỉ có thật báo, thì trong mỗi vị có một thật một quyền. Nếu trong Phương tiện cũng có thần thông thì được gọi là quyền bệnh, nhưng không được gọi là quyền ứng hóa. Thế thì hai độ cũng quyền cũng thật. Còn hai cõi Đồng cư một mực chỉ có thật. Ở trong đồng cư mà được thật ích, thì cũng có thể tùy nghĩa mà phán giải thích không đồng. “ Một đồng...” là nói bốn cõi, có bốn: a, cư, có hai: a', uế, có hai: a”, chánh giải thích. b”, liệu giản. Ý đáp: Phật giới tức là vị tương tợ của viên, từ Thất tín trở về trước, còn Bồ-tát giới ở Biệt, từ Thất trụ trở về trước. Ở thông tức đã luận trở về trước. Thanh văn tức ba quả trở lại, còn Duyên giác chỉ là phàm vị một phen dứt trừ. Song Nhị thừa chưa nhập vô dư cũng là bệnh chung về có quả. Bồtát Phật giới chưa sinh cõi phương tiện. Chuẩn đây có thể biết. Cho nên nói căn cứ các nội giới đến chưa hết. b', tịnh, ngài Kinh Khê nói: “Nhân thiên đều bốn, nên gọi là sáu giới. Song trong tịnh độ tuy không có người Nhị thừa tạng giáo, nhưng cũng có thể được với người Nhị thừa Thông giáo, cùng Bồ-tát ở ba giáo sau và Phật, nên thành sáu. Do đó cũng được tên là sáu giới. Cõi hữu dư. Cõi quả báo. Nhân duyên hữu hậu... ở trong bảy thứ thì ba thứ sinh tử này đều thuộc quả báo. Cõi Tịch quang. “Thế thì...” là kết bày quyền bệnh. Quyền đồng bốn cõi, ngài Kinh Khê nói: Thật báo, phương tiện và hai cõi Đồng cư nên nói là bốn cõi. Vì Tịch quang rốt ráo nên không có thật bệnh. Cho nên nay nói nếu ước trung hạ đồng cõi thật báo thì nói bốn cõi đồng cư hợp nhất cùng nghĩa ngài Kinh Khê, chung thành hai giải thích. Liệu giản, có hai: a, hỏi, ngài Kinh Khê nói: Hỏi lời này, là lấy độ nhìn người, người ấy cũng có thật bệnh, sao có thể vô chướng ngại mà hiện quyền bệnh ở địa Đẳng giác ư? Đáp quý chung, ngài Kinh Khê nói: Trước lấy bản tích cao thấp, bốn câu không thể suy lường mà đáp. Song nếu nói ngài Tịnh Danh bản là Kim Túc Như Lai thì là bản cao tích thấp, đâu không thể hiện thật báo quyền bệnh ư? “ Chỉ quyền...” là chánh đáp, có hai: a, nêu chung. Ngài Kinh Khê nói: Từ thật vị mà giải thích. “ Nếu diệu...” là nêu riêng, nói Tịch quang chỉ có quyền. “ Đẳng giác...” là nói ba cõi đều có, có hai: a', cõi thật báo, có hai: a”, chánh nói Đẳng giác hai bệnh quyền thật đều có. “Như đây...” lệ nêu vị dưới. Cõi Hữu dư. Cõi Đồng cư. Quán tâm. Ngài Kinh Khê nói: ước quán tâm thì nghĩa chung cả sơ tâm. Thế nên nói vậy. Như người không tham quyền hiện tham... cho nên nói không bệnh mà thị hiện bệnh... hoặc tự hành... là nói nguyên do thị hiện quyền bệnh. Tự hành tinh chỉ có thể quyền hiện giải đãi, không thể thật đọa mà thị hiện tinh tấn, giáo hóa lợi ích bất định ý ở tùy nghi. Cho đến tất cả, là tất cả quỉ thần cũng có quyền biến hình tướng giả hiện. Việc thông mà ý hạn cục. “ Như đây...” kết khen, khen chỉ có Phật mới có thể biết. Nay tịnh...” là ngài Văn-thù khéo hiểu. Nói nhân bệnh sinh ra sáu phẩm, nói nhân bệnh có phẩm,
Chánh bày. Sáu phẩm đều theo đến cho nên có. Nghĩa bệnh là quyền, bệnh là thật sinh ra các phẩm. Giống như Phù khế. Văn Tâm Điêu Long nói: phù là phù khi gọi mời phòng việc giả dối nên phải trưng phù, đời Tam Hoàng dùng ngọc thụy, nhà Hán dùng vàng và thẻ tre. Mạt Đại từ tỉnh đại dùng viết thư. Khế là kết, thắt buộc. Thời thượng cổ thuần hậu chất phác thắt dây kết bạn. Nay bảo vào văn nêu giải thích đều hợp với đây. Nên nói như Phù khế. Phá xưa hiển nay, hỏi: Ngài Kinh Khê nói: Năm nguồn tám cội, là ý người xưa nói: một phẩm Thăm Bệnh là ngài Văn-thù đến thất ngài Tịnh Danh là trừ bỏ bao nhiêu cội nguồn ở năm phẩm sau. Tám cội, là đến phẩm Pháp Cúng Dường cũng là chánh kinh, cho nên phẩm Thăm Bệnh là đầu mối tám phẩm của chánh kinh. Đáp, chê xưa, chủ đáp toàn sơ. “ Nay nói...” là hiển nghĩa bệnh nay cùng khắp, bày chương nêu ý. “ Ba do...” là y chương chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: “Ba nguyên do... là nhân giải thích xưa, nay cũng lập ba nên cũng gọi là do, nhưng nghĩa có sai khác chút ít. Chỉ từ bệnh sinh Không phải nguyên cả phẩm mà là nguyên do xưa, chỉ ba chỗ do bệnh nên nói ba nguyên do:
1. Chúng tục.
2. Chúng Thanh văn.
3. Chúng Bồ-tát.
Sáu nguồn, ý nói thị hiện bệnh là do nguồn gốc sáu phẩm. Văn đầu của phẩm Thăm Bệnh cũng không có cội nguồn về điều phục ủy dụ và năm phẩm sau là sáu nguồn.
Tiếp vào văn, nêu giải thích, Phẩm Thăm Bệnh.
Lược nói hai bệnh quyền thật, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Phật sai ngài Văn-thù. Ngài Văn-thù vâng lệnh, nêu ý phân khoa. “nhất tự...”, tùy văn giải nghĩa, Vâng lệnh đi thăm bệnh, tự khiêm nhường. Lẽ thường của người tu. Chữ hành đọc bình thanh, cũng nói là người sứ giả. Vâng lệnh sắp ra đi lễ nghi khiêm tốn, nên nói là thường nghi (lẽ thường). Luận đáp không phải dễ. Chữ vãng phục “qua lại” cũng như hỏi đáp qua lại. Nói khiêm nhường về việc hỏi đáp, có hai: a, phân khoa. Khiêm nạn, nạn đọc khứ thinh, là sợ vấn nạn. Tùy giải thích, trí sâu rộng, thật trí sâu rộng là dọc gần bậc diệu giác nên nói là sâu, ngang khắp pháp giới nên nói là rộng. Như quyền trí đến không phải yếu. Ngài Kinh Khê nói: Hai trí có thể đồng, đều được gọi là nói quyền nói thật. Nay cũng quyền biến tùy tình luận chơi để nói về việc này. Như ở Pháp Hoa quyển hạ phẩm năm thí dụ về Chuyển luân vương thưởng cho vàng bạc bảy báu là dụ nói bảy Giác chi của quyền tiểu. Ban cho minh châu lấy từ búi tóc, là dụ nói pháp khai hiển viên thật. Ngọc minh châu, thì sáng (minh) là dụ cho trí trung đạo, tròn là dụ cho thường. Ở trên đỉnh đầu là ý nói cực quả. Trong búi tóc, thật vì quyền mà ẩn kín. Mở búi tóc tức là khai quyền. Ban cho minh châu là hiển thật. Bộ tuy khác tiểu mà đối viên cơ luận bàn cùng Pháp Hoa không khác, cho nên lại dẫn. Bốn câu, ngài Kinh Khê nói: Hai cú trước là ba giáo, hai cú sau là Viên giáo. Đây tức...” là dùng Đại kinh ba cú thứ lớp phối ba giáo, sinh bất sinh phối Biệt giáo, ý như giải thích trước.
Luận về phó duyên. Nói ba giáo..., ngài Kinh Khê nói: Đã nói phó duyên, lý cần nói bốn. Nay dùng quyền nên lại nói ba. Biết bệnh... là bệnh khổ tập của ba giáo và thuốc diệt đạo. Nói nhân quả đức mãn là pháp thức quyền thật tức là việc tu quán đoạn hoặc nhanh chậm, trải vị cao thấp, hóa độ nhiều ít rộng hẹp... đều là pháp thức. Không phải chỉ... ngài Kinh Khê nói: Ý nói tiếng biết tất cả thì cũng là nói quá mức những kẻ chưa chứng. Cho nên để thành tựu bèn căn cứ chứng mà nói không cốt nói nhanh. Vụ thì trong Hoàng khảng sớ là mến mộ. Công hóa tha, ngài Kinh Khê nói: Mười phương... tức có nghĩa thông cả dọc ngang. Tám phương ngang tức Đồng cư tịnh uế hai cõi, trên dưới dọc tức là Hữu dư, quả báo hai cõi vậy. Ngài Kinh Khê giải thích một lượt hai cái này. Nay bảo rằng mười phương là ngang tất bao hàm cả dọc. Vì không lìa Đồng cư mà có ba cõi “độ) cho nên như phẩm Thọ Lượng của kinh Pháp Hoa.
Kết hai trí rốt ráo. Chánh vâng lời thăm bệnh. Nhờ vô đẳng, ký là mong. Đại chúng đều đến, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chúng muốn theo đến. Văn-thù và chúng cùng đến. Chủ khách đối đáp qua lại, phân khoa. Ngài Tịnh Danh là chủ, ngài Văn-thù là khách, khách hỏi chủ đáp tức qua lại. “Sơ hựu...” là tùy giải thích, ngài Tịnh Danh hiện tướng thất trống, có hai: a, phân khoa nêu ý. b, “trước nói...” là tùy văn giải nghĩa, thần lực làm thất trống, lược nêu bày ý, “thất trống...” là nêu ý, thành trước. Sinh sau. “ Nay căn cứ...” là rộng giải thích các biểu hiện, chánh căn cứ bốn cõi, cõi Đồng cư, Uế, tịnh.
- Cõi Phương tiện.
- Cõi Thật báo.
- Cõi Tịch quang.
Ngài Kinh Khê nói: Thường Tịch quang rốt ráo thanh tịnh, để biểu thị cho rốt ráo. Nếu căn cứ tự hành hiện tướng này là chính nói: Ta cùng Văn-thù vì trừ các làn khói mỏng, nên dùng để biểu hiện, vì người khác cũng thế. Nên lý cần theo biểu hiện rốt ráo. Quả báo ở cuối, cũng chỉ cho Đẳng giác. Cho nên Địa Trì... câu trên giải thích nguyên do. “Kế lìa tất cả...” là chánh nêu đoạn chướng, gọi là thiền nói là Đẳng giác. “ Nếu biểu...” là kết hiển quyền thật. Ngài Kinh Khê nói: Nếu biểu thị... là đủ như giải thích trước về hai bệnh quyền thật mỗi người tùy mình có mà nói quyền thật, không đồng.
Vì bệnh mà nằm, chánh giải thích, lược nêu bày ý, lược nêu. “đây cũng...” là bày ý, thành trước. Sinh sau. “ Sở dĩ...” là rộng giải thích các biểu thị, có hai: a, giải thích giường bệnh. “Nằm biểu thị...”, giải thích nằm, chánh giải thích các biểu thị. Ngài Kinh Khê nói: Tâm yên không động... là trí khế hợp với cực cảnh đoạn dứt được trọn, không phải là nguyên phẩm vô minh đã dứt hẳn đến được trí đoạn rốt ráo. Há khiến ba việc đều đầy đủ cũng được tên trọn. Ngài Tịnh Danh tuy ở bậc Đẳng giác nhưng các thị hiện đều thành rốt ráo. “Cho nên đại...” là dẫn kinh để chứng thành. Ngài Kinh Khê nói: dẫn ý kệ an miên này tức là khuôn phép chân tánh. Thật tuệ từ bi tức là Phương tiện giải thoát. “Như người...” là giải thích tự tha, có hai: a, lập dụ. b, “thật...” là họp giải thích. Thật tuệ cũng thế, là hợp dụ như người vậy. Thật tuệ ngầm pháp thân như không có bệnh ngủ. Thật tuệ khởi ứng dụng như có bệnh ngủ. Thật tuệ tức là báo thân. Căn cứ tự hành thật tuệ ngầm chân. “Nếu có...” là căn cứ hóa tha. Thật tuệ khởi ứng, chánh nói tức là thật tuệ pháp thân ứng hiện. Báo cùng pháp thân họp lại hay khởi ứng dụng như nước bạc hòa cùng vàng ròng, hay tô vẽ các màu sắc.
“Nếu tịnh...” là kết như trước. Liệu giản, có hai: a, chọn biểu thị của bệnh. b, chọn biểu thị của giường. Nay giải Tịnh Danh... ngài Kinh Khê nói: Khuyên bỏ chấp. Dùng cách Trang Chu nói thác lời lập giả thiết đặt tên người này là võng tượng. Ý nói bỗng võng tượng được ngọc châu. Tìm xét kỹ chỉ e mất báu. Huống lại chuyển dụ thật có bằng cớ. Nói về Võng Tượng được châu, sách Trang tử, Thiên Ngoại có nói: Huỳnh đế dạo chơi vùng Bắc Xích thủy, lên gò Côn luân nhìn về phương Nam nhớ cố hương còn để hạt huyền châu. Sai Trí đòi mà không được. Sai Ly Chu đòi không được. Lại sai Khiết Hậu đòi cũng không được. Bèn sai Võng Tượng, Võng Tượng đòi được. Huỳnh đế khen lạ thay! Võng Tượng mà đòi được ư?! Chuyện có ý nói: Dứt hết suy nghĩ, nên trí đòi không được. Lìa thanh sắc nên Ly Chu đòi không được, lìa bỏ nói bàn nên Khiết Hậu đòi không được. Võng Tượng là nghĩa vô tâm, vô tâm bèn đòi được. Khiết Hậu đọc là kha khâu là nói khéo. Văn nói về châu hiện tướng thì biết biểu thị, có hai: a, chánh giải thích. b, liệu giản, hỏi và đáp, trưng văn chỉ nghĩa. Biểu thị độ, biểu thị thân, là biểu thị Tịch quang pháp thân. Ngài Kinh Khê nói: Như đối văn bốn bất khả thuyết mà ứng biểu thị cho bốn cõi ba thân. “ Lại...” là nêu hơn huống là kém. Ngài Kinh Khê nói: Lại Văn-thù còn biết muốn nói Pháp Hoa, là nếu lấy Tịnh Danh so với Như Lai thì thật không dễ, huống Pháp Hoa Phương đẳng khó dễ có thể biết, tin biết. Kinh nào lại chẳng có mưa hoa trời, đất rúng động, phóng quang ở chặn mày. Văn-thù vừa nhìn thấy thì biết khác một đời. Liền nhớ khi trụ thế đã từng thấy nghe. Cho nên khi thấy điềm lành liền dẫn đèn mà giải nghi cho Di-lặc. Tức là đoán biết nay muốn nói diệu pháp. Việc này còn biết, huống là Phương đẳng ư?
Ngài Tịnh Danh khen ngợi ngài Văn-thù, có hai: a, nêu ý phân khoa. b, tùy văn giải nghĩa, chánh khen ngợi, lược giải thích. “Dư phi...” là rộng giải thích, chọn không phải thiện lai. Ngài Kinh Khê nói: “Trong cầu vô dư. Tiếng vô dư vốn ở tam tạng. Thông tuy khéo hơn cho đến đoạn hoặc, song quả cầu không ngoài vô dư. Quả là ước nguyện nên nói trọn cầu. Chuyển tâm quán, tâm tức tâm này, thứ lớp mà quán, tức Sơ địa song lưu, sở dĩ chê trách Bồ-tát phần nhiều ở ba giáo và mất ý viên. Là hỏi ai là người được vị thứ bảy là Viên giáo hậu tâm?
Đáp: Viên giáo mất ý nhất định là ở sơ tâm. Cùng vật không duyên, là chọn bỏ thứ sáu, bảy. Nếu bị chê trách, là chọn bỏ bốn thứ trước. Nay nói chung là được làm thuyết này. “ Nay, văn...” là hiển bày thiện lai. Giải thích khen, tướng không đến mà đến, dẫn xưa để phá. Nên khen Nhị thừa, ngài Kinh Khê nói: Hai đế ngũ thông trách dị đồng mà thôi. Ngài Tịnh Danh đều nên khen các Bồ-tát, là từ Địa, Trụ trở lên đều có pháp ứng, tức nêu trong chúng sinh đều là người ấy. Chỉ có ngữ kiến cần ở bạc địa, đều nói bày ngữ thông ở ba vạn hai ngàn. Tức là tự tánh đến. Người xưa cho rằng chấp nhất định tướng đến mà thành tự tánh, còn không quyết ý chấp nhất định mà giả đến lại thành tha tánh. Không ngoài bốn chấp và ngoài cái nào khác. “ Nay nói...” là nay Sư chánh giải thích, cùng nêu. “sao...” là cùng giải thích, chọn không phải. “Nếu viên...” là nói phải, chọn có đức không duyên. Biết bốn bất khả thuyết, là thấu suốt ba đế dung nhau, tức biết bốn lý đều bất khả thuyết. Nay họp chương Như Lai mạng. Mạng là mời, là bắt đầu. Bắt đầu nói tịnh độ mà lấy Phật quốc mời chương. Nhưng các Viên giáo... không khen, ngài Kinh Khê nói: Trong đây giải thích viên trước không nên chê bai bác bỏ. Đã nói tâm trước giữa sau. Cho nên biết văn trước lý họp chung lấy thứ sáu, thứ bảy. Chỉ vì không duyên mà không kham thăm bệnh. Cho nên ở vị cao rất nhờ có duyên. Do đó chỉ có một mình ngài Văn-thù mà thôi. “Nay văn...” là nói đức và duyên đều đủ. Ngài Kinh Khê nói: Đều là bốn bất khả thuyết, tức người có duyên lý cũng không nói. Lý không tự bày nhưng do nói mà thành. Ngài Văn-thù ứng cơ không nói mà nói. Giải thích tướng không thấy mà thấy, có hai: a, lược giải thích. b, “nói chẳng...” là rộng giải thích, chọn tướng thấy mà thấy. “nếu nhập...” là hiển bày tướng không thấy mà thấy, chung nêu cái thấy viên. Ba nhóm chúng sinh, Đại luận quyển năm mươi có nói: Chúng sinh có ba nhóm:
1. Chánh định thì vào Niết-bàn.
2. Tà định thì vào ác đạo.
3. Bất định.
Nay đều thấy, là ngoại cảnh tức tâm vì gồm cả không và trung. Nên Bất Nhị Môn nói: Vì không trung diệu nên thể tâm sắc dứt mất. Không thấy chúng sinh bảy phương liền khác, không thấy quốc độ phẩm tịnh uế khác nhau. Mà viên thấy pháp giới, tức không. Trung tức giả mà y chánh đế cũng trọn ngày sáng tỏ. “ Nay văn...” là riêng nói về Văn-thù. Ngài Kinh Khê nói: Cùng ngài Tịnh Danh ngang nhau, nay đại hội này há không có người sánh ngang, cho nên cũng cần lấy có duyên mà chọn. Chuẩn khen đức trước đều khen Đẳng giác. Tiếp theo là đối giải thích chỉ là người có duyên quá ít. Cho nên cần từng lúc thêm kể có duyên. Liệu giản, có hai: a, ước đến gặp. b, hỏi: Về hai thứ nhãn và trí. Đáp phân đối dẫn. Ngài Kinh Khê nói: Ý đáp trước phân biệt phải. Kế dẫn hai văn Pháp Hoa, là ý nói tri kiến hẳn không lìa nhau, không đồng biệt tướng tri kiến của ba giáo. “ Lại...” là căn cứ vị chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: lại nữa Viên giáo..., cũng là chung ra từ vị tri kiến biểu thị từ nhân đến quả, đều là không đến mà đến. Song đối với Văn-thù không có nghĩa thú quả, chính là nghĩa không đến mà đến. Vì không giống chúng sinh đến, nên nói tướng không đến mà đến. Thấy cũng thế...
Văn-thù kể thành về nói, có hai: a, nêu ý phân khoa. b, tùy văn giải nghĩa, Văn-thù hiểu rõ ấn khả kể thành, nêu bày. Nói ba câu. Đời truyền bản kinh thiếu câu ba. Dựa vào nghĩa chuẩn của Đại sư giải thích hợp có chỉ biết mà thôi, không cần thêm kinh. “ Câu đầu...” là chánh giải thích, có ba: a, giải thích đến rồi lại không đến, chọn không phải, ngài Kinh Khê nói: Năm thứ..., cho nên biết khéo đến lấy hai thứ sau, vì chọn có duyên nên không lấy. “Từ đây...” không cần thuật lại, chuẩn theo lệ có thể biết. “Nay vì viên...” là nói phải, chung lấy viên nhân. Phát chẩn, chẩn là ổ xe. Văn tuyển nói: Khởi hành xe, trong thanh lạc có sông lớn cát vàng. Đại kinh bảo rằng: Phật nói tất cả sông suối đều có khúc quanh. Ngài Vănthù thưa hỏi, Phật bảo: Ở tam thiên thế giới này có bến sông tên là Ni-câu-gia. Bến đó có con sông thẳng không quanh co tên Ta-bà, cũng như sợi dây thẳng chảy thẳng vào biển Tây. Nay lấy sông suối có quanh co dụ cho giáo trước, kim sa chảy thẳng vào dụ cho quán pháp viên đốn, tức chướng là đức chảy thẳng vào biển. “ Lại nữa...” nói riêng về quả viên. Giải thích đi rồi lại không đi, Không phải là khéo đi. Do ba giáo trước quả lý đều chưa rốt ráo nên không phải khéo đi. Đi rồi cũng phải lại đi, nghĩa là đi đến chấp tướng liền bỏ thiên chân. Cho đến bỏ đản trung lại bỏ viên trung. “ Đây...” là đối trước mà chọn, dẫn văn chọn luận. Ngài Kinh Khê nói: Nếu lấy quả trông nhân thì cũng như văn trước lấy sự biểu thị cho lý. Cho nên Đại phẩm... cần nói hai ý ba cõi. Lại Đại luận... tức trước vì Phật y lý không đến không đi. Vì chúng sinh mà không đi không đến. Ngài Văn-thù đáp cũng nương vào lý này. “Như tịnh...” là nêu nghĩa nay. Tịnh Danh là chủ nên gọi Văn-thù là đến. Văn-thù là khách nên chỉ thất trống bảo là đi. Đến đi gọi khác, nhưng đều ở thất trống. Giải thích thấy rồi lại không thấy, có hai: a, giải thích chung, qua đây chỗ biểu hiện, là cực quả viên dung đã rốt ráo. Tuy thấy, là có cạn sâu, Văn-thù luận về sự biểu hiện của viên cực là một. “ Lại nữa...” là giải thích riêng. Giải thích kể thành.
Chánh tuyên chỉ “nói ý Phật”, nêu ý giải thích, ngài Kinh Khê nói: Nghi gặp nhau của chủ khách, nếu hai Đại sĩ đều là pháp thân, sao có khách chủ mà toan lập nghi thức. Như ước vào việc hóa độ, nay ngài Tịnh Danh có bổn tuy Diệu hỷ, Diệu thiện cũng là tích ở trong đó. Nhưng ước tích này thì trước hết là ở Tỳ-da. Cho nên khiến ngài Văn-thù vẫn là diệu dụng. Huống lại thăm bệnh đích thân đến nơi ở, cho nên có nghi thức chủ khách nào có ngại gì?
“Văn cú...” là phân khoa đoán bày. “Tuyên chỉ...” là tùy văn giải nghĩa, tuyên nói ý chỉ Phật, phân khoa. và tùy giải thích, chánh tuyên ý chỉ Phật, thăm bệnh có dễ chịu chăng cho nên có thăm hỏi an ủi “lao là an ủi”. Lại như Đại phẩm nói ít bệnh ít não... là hứng thú ở lợi nhỏ thì khí lực sao an? Trí luận quyển mười nói: Các Phật pháp đều như thế, biết nên hỏi. Lại nữa, tùy pháp thế giới người đời mà thăm hỏi. Phật thị hiện sinh trong loài người chịu sinh tử nóng lạnh cùng người... nên phép thăm hỏi cũng phải ứng hợp.... Lại nữa trong thế gian kẻ cực sang với hàng cực hèn không hề thăm hỏi nhau, nhờ Phật lực cho nên phải thăm hỏi nhau. Lại nữa cõi Phật tịnh uế tuy khác, trí tuệ thần lực đều bằng nhau không khác, cho nên thăm hỏi nhau.
Tiếp giải thích riêng, cõi Đồng cư. Nay cũng căn cứ bốn cõi, ngài Kinh Khê nói: phàm không thể nhẫn là ác bậc nhất. Bên trong đã ác tất hiện tướng bên ngoài. Cho nên có thể nhẫn là lý có tổn, tức là người dễ trị. Tám khổ năm tướng suy. Tám khổ như trước đã ghi. Hiển tông luận nói có năm suy lớn nhỏ. Năm tướng suy lớn:
1. Áo dính bụi.
2. Hoa dắt trên đầu héo úa.
3. Hai nách ra mồ hôi.
4. Mùi hôi dính thân.
5. Không còn ham thích chỗ ngồi.
Năm tướng này hiện ra quyết định là sẽ chết. Nếu gặp duyên mạnh cũng không thể đổi được. Năm tướng suy nhỏ là:
1. Không còn ưa thích y phục đồ trang nghiêm.
2. Ánh sáng tự thân chói lọi không còn.
3. Ở nơi tắm rữa giọt nước dính thân.
4. Bản tánh tới lui ung dung nay trệ vào một cảnh.
5. Mắt vốn ngưng yên nay nhiều máy động.
Năm tướng này hiện ra không nhất định là phải chết, gặp duyên thắng thiện có thể chuyển đổi. Cho nên quả bệnh là một, mà nhân bệnh có chín thứ, ngài Kinh Khê nói: Nói quả một, là sáu đạo tùy một, ba thiện tùy một, ba ác đồ tùy một. Vì trong ba đồ cũng có thể do tập đời trước hay sinh nhân ba thừa và sáu đạo. Cho nên nói chín nhân. Trong chín nhân thì ba thừa có thể nhẫn, còn sáu thứ sáu không thể. Tiếp là cõi Hữu dư, cõi Thật báo, ngài Kinh Khê nói: Chỉ không như cõi Hữu dư... là lấy các địa đối đãi nhau không thể nhẫn thì cũng đối đãi bất khả nhẫn, có gì không thể được. Chỉ không như ngang một thời trông nhau có thể đối. Nghĩa không thể thì dễ thấy. Đây đều là trong cõi quả báo mà lập nghĩa.
Cõi Tịch quang, ngài Kinh Khê nói: Không có bệnh quyền thật... là hỏi đã không có bệnh thật vì sao không có bệnh quyền.
Đáp: Nay ước tự hành đương độ thì không cần nên nói là không. Nếu trông vào ba cõi phải nói là không thật mà được có quyền. “ Phật chỉ...” là kết khen. Phật chỉ một câu... Ngài Kinh Khê nói: “bèn thành việc Như Lai một âm khắp ứng. Cho nên một nhà giải thích tận cùng tâm Phật bao gồm tất cả. Cai là bao gồm. Gia ngữ nói Khổng tử là bậc Đại Thánh không bao gồm. Vương Túc chú rằng cai là bao gồm.
Liệu giản, ngài Kinh Khê nói: “Đáp... thật bệnh” là cố khuyên người học hãy thuận ý Đại sư, thấy các kinh luận không cần chống trái. Thấu suốt giáo hai nghĩa lại không trái. Cho nên lấy Tịch quang cùng ba cõi kia các thể tương tức nhau. Lại thuận văn ba phẩm Tịch quang. Hỏi trị liệu có tổn, có hai: a, giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ vì chúng sinh có bệnh nên có ba cõi không đồng. Đến đây không nói hữu vi... có ba, chỉ nói thấy kiến tư... ba thứ là sao? Ý nói tướng của bệnh hiển bày ba nghĩa. Cho nên hữu vi... chỉ tạm dùng mà không phải rốt. Vì phá trệ có đắm trước nên hữu vi gọi là vô vi. Phá đắm trước cũng thế. Lại vô vi đi với trần sa và vô minh nên thể nó hỗn tạp quá mức, nên không phải là nghĩa tột. Lại lập kiến... là muốn đối văn ba quán bốn giáo dùng văn điều phục ủy dụ cho tiện. Giải thích riêng, dựa thẳng bốn cõi, ngài Kinh Khê nói: “Từ không đến phụ cấp vô tri ở đồng cư, nghĩa là dùng nội giới trần sa không chướng sinh ngoại giới, cho nên tuy sinh cõi ấy mà cần phải đoạn các sinh ngoại giới. Ngoại giới là chánh. Dẫu chưa ra khỏi giới hoặc trọn không phải là chánh ở ngoại mà phá nội, nội thì dễ hư. Chánh quán trung đạo chính là trị hữu dư..., trong cõi Hữu dư vô minh còn nguyên ở đó. Ở cõi Quả báo còn sót vô minh. Tuy lại Quả báo, Hữu dư còn nguyên đều được trị liệu ở đó. Nói lợi căn đến bàng trị, là lợi căn Thông giáo còn đầy đủ hoặc nội giới, chỉ tu Trung quán mà tế hoặc chưa phá. Thô hoặc tuy trước đã trừ nhưng cũng phải chánh ý, nên phải lập bàng. Lại vì không phải chánh chướng nên cũng gọi là bàng. Nay nói trở đi trải bày căn giá, căn cứ cõi Đồng cư, có hai: a, chánh nêu: Bốn câu chỉ tụng một kệ. Phật đích thân trao kệ, khiến Bàn-đặc tụng kệ rằng:
Giữ miệng, nhiếp ý, thân chớ phạm Như thế hành giả được xuất thế.
Bàn-đặc cảm ân Phật sâu xa, tụng luôn miệng. Phật bảo: Nay ông tuổi đã già chỉ tụng một bài kệ người đều biết không có gì kỳ lạ, cần phải hiểu nghĩa, đó là nói thân ba khẩu bốn ý ba quán sát kỹ việc chúng khởi lên và diệt mất, do đó mà được sinh lên trời, do đó mà rơi vực sâu, do đó mà được đạo Bồ-đề tự nhiên. Nhân đó mà tâm ý Bàn-đặc khai giải được quả La-hán. Đại luận nói: Chín mươi ngày tụng kệ. Kinh Pháp Cú nói: Ba năm mới tụng một kệ. Nay dựa vào Đại luận nên nói một hạ. Ươngquật..., kinh ấy nói Ương-quật-ma-la với tên là Nhất Thiết Thế Gian Hiện, theo học với thầy Bà-la-môn Mani-bạt-đà về bốn kinh Phệ-đà (Vi-đà). Thầy được vua mời bèn bảo ông ở lại giữ nhà. Vợ thầy thấy ông hình dung đẹp đẽ nên sinh nhiễm tâm bèn đến kéo áo ông. Ương-quật không nghe theo. Khi thầy về thì vợ thầy nói lời gièm siểm rằng: “Người mới sinh ra có tướng đẹp đẽ đến thế tất không phạm lỗi này”. Thầy nghe nói thế liền bảo: Ngươi nên giết một ngàn người lấy đốt tay làm vành hoa ở mũ, tất được khỏi tội mà thành Bà-la-môn. Thế Gian Hiện “Ương Quật) nghe lời thầy mà đi giết người. Sau gặp Phật bèn nói: Thầy ta bảo nếu giết được Sa-môn sẽ được sinh lên trời, bèn rượt đuổi theo Phật, nhưng chạy theo không kịp. Nhân xin Phật nói kệ. Phật liền hóa độ và được thành A-la-hán. Nghe A Thuyết Thị... A Thuyết Thị tức Át-bệ, là tiếng Phạm thời Sở Hạ. Đại luận nói: Ngài Thân Tử nhân thấy Át-bệ oai nghi đỉnh đạc bèn hỏi: Thầy ông là ai? Đáp rằng: Thái tử Tất-đạt bỏ sinh, già, bệnh, chết mà được Tam-bồ-đề, đó là thầy tôi. Lại hỏi: Thầy ông nói pháp gì?
Đáp: Các pháp từ duyên sinh “Khổ đế), là pháp nói nhân duyên “Tập đế), là pháp duyên và hết “Diệt đế), thầy tôi nói như thế. Ngài Thân Tử nghe xong liền được sơ quả. Rồi trở về nhà. Ngài Mục-liên gặp liền hỏi: Ngài được cam lồ xin cho cùng thưởng thức. Ngài Thân Tử nhắc lại lời đã nghe, Mục-liên cũng được sơ quả, hai người cùng đến gặp Phật và cùng thành La-hán.
“Tịnh Danh...” là kết chỉ Tịnh Danh.
Căn cứ ba cõi, ngài Kinh Khê nói: Nếu đến... là nói vô minh dứt khoát không mất hoàn toàn như thế nhưng lại nói hình tướng ba thừa lớn nhỏ sai khác, cũng có thể lập nghĩa, nhưng cõi ấy không mê chấp giáo thí nên không có lý không hao tổn. Nếu ước sơ tâm nghiệp đời trước, là nếu đã sinh vào cõi ấy thì không còn phạm trọng tội. Giá chướng tức nghiệp ước cõi này là người tu viên quán chưa phá vô minh. Hoặc lại sẽ phá mà nói có nghĩa ngăn cấm đồng cõi ấy. Nên mượn lời mà nói. Nhưng có tổn tổn và tăng tổn. Hỏi không đến tăng ư?, có hai: a, nêu việc. b, “Tịnh Danh...” là biểu thị pháp, trải các cõi nêu nghĩa. Thiện quả Điều-đạt. Đại kinh phẩm Ca-diếp nói: Thiện Tinh tuy đọc tụng mười hai bộ kinh mà được bốn thiền, nhưng vì gần gũi bạn xấu nên lui mất bốn thiền, sinh ác tà kiến, nói không có Phật pháp, không có Niết-bàn. Thiện tinh nay ở gần sông Ni-liên-thiền. Đức Phật và Ca-diếp cùng đến nơi ấy. Thiện Tinh trông thấy Phật từ xa đến liền sinh tâm quấy ác, ngay thân đang sống bị rơi vào địa ngục. Việc Điều-đạt đọa địa ngục như trước đã nói. Thi-lợi-cúc-đa Trang Nghiêm luận nói: Trưởng giả Thi-lợi-cúc-đa nghe lời phó chúc của ngoại đạo bảo giết Phật, đã cho chất độc vào cơm mời Phật dùng. Phật biết liền bảo A-nan đọc Tăng-bạt rồi mới ăn, đọc xong thì chất độc tan. Người thoái pháp, tức là thoái pháp La-hán gặp duyên lui sụt còn sơ quả. Nhưng ba thừa đến cũng được có ba, ngài Kinh Khê nói: Năm người vị sai khác là do học giáo không đồng, cho nên nói có lợi độn. Đã được vị bất thoái, là nếu ước ba cõi nói ba bất thoái tức trong cõi ấy còn có hai thoái. Hoặc phá trần sa được hạnh bất thoái, hoặc phá vô minh được niệm bất thoái. Tức nhập quả báo, quả báo một mực là niệm bất thoái, huống là hai thứ kia. Dựa cõi đã thế thì theo vị khá biết. Đều là tổn tổn. Nếu lời nói này phương tiện thì cũng chỉ có tổn tổn. Văn đã mượn ở hai nghĩa thoái mà gọi tổn tăng. Kỳ thật không phải là thêm bệnh. Hoặc ước vào nghĩa xuất nhập quán mà lập ba câu, Tiêm sư bảo: Nhập quán là tăng tổn, xuất quán là tổn tăng. Nhập lại không xuất thẳng đến niệm bất thoái gọi là tổn tổn. Tịnh Danh...” là chỉ người kết quy. Nêu chung ý Phật. Hoặc có nhiều câu ở sớ dưới ước hai nghĩa để giải thích vô lượng. Ngài Kinh Khê nói: Một là đương thời lời Phật nói nhiều mà người dịch lược bỏ bớt. Hoặc là...” là nói chung về tướng chẳng hết. Như người đời nói vô lượng mãi không thôi. Cho nên biết Văn-thù đặc biệt tuyên nói ý chỉ Phật không dư một từ nên tuân lịnh là đúng lẽ. Trong phần sớ nói độ không hết, chỉ lấy giải thích trong nghĩa đầu, là lược bỏ. Nói về tình, có hai: a, nêu ý phân khoa đáp nêu phẩm Bất Tư Nghì. Dụng bất tư nghì là quyền tích, cho nên đáp xuất quán chúng sinh... bốn phẩm là phẩm Quán Chúng Sinh nói không quán, phẩm Phật Đạo nói giả quán, hai phẩm Bất Nhị Môn và Hương Tích nói trung quán. Song ba quán ba hoặc bị phá tức là thật bệnh. “ Hỏi...” là tùy văn giải nghĩa, hỏi quyền bệnh trong quả, nêu nghĩa phân khoa, hỏi...” là tùy văn chánh giải thích, hỏi bệnh quả nhân khởi. Trước Văn-thù hỏi nhân đâu bệnh khởi. hỏi lâu hay mới. hỏi cách diệt bệnh. Tịnh Danh đáp, phân khoa nêu ý. Nay trước...” là tùy văn giải nghĩa, đáp trước câu hỏi thứ hai, thứ ba, chánh nhắc lại đáp hai câu hỏi, đáp câu hỏi bệnh sinh, chánh giải thích, cõi Đồng cư, ngài Kinh Khê nói: Ngài Tịnh Danh vì chúng sinh... ý chánh là ở đây, nếu đều không phải gần thì cần luận bi thể. Thể tức thật lý, lý thì cùng đồng với tất cả chúng. Riêng luận phát tâm, là từ khi mới phát bốn hoằng thệ đến nay thì có bệnh, mà chúng sinh cũng vốn có từ vô thỉ. Chỉ kể rằng Bồ-tát có bệnh trước khi chưa phát tâm và chưa được
Vô sinh nhẫn có thể được thế. Huống phát tâm rồi đại nguyện mới mở, đến đầu chân vị thì bệnh mới phần hiện, chưa xét ngài Tịnh Danh chứng đến nay đã bao lâu thì việc hiện bệnh chưa biết lâu hay mới. Ước việc độ vật hễ gặp duyên ứng hợp thì bệnh liền hiện. Cho nên có liên quan với sơ tâm. Kết duyên nhiều ít sinh thục thiên viên, tịnh độ quyết thành quyền bệnh mới hiện. Từ đó về sau sinh sinh thành thục, sinh sinh nguyện hạnh, từng sát-na, ba nghiệp bốn nghi, chưa từng sát-na thiếu sót hạnh nguyện. Cho nên biết bi bệnh sau này tùy khỏi. Dựa vào lời nói này thì ngài Tịnh Danh có bệnh gần đây, chúng sinh có bệnh đã lâu. Nay dựa vào lý mà nói thì đâu có mới lâu. Nghĩa mới lâu các tiết luận rõ.
Phương tiện hỏi đồng cư si ái dứt... ngài Kinh Khê nói: Theo lý Hữu dư, Quả báo thì bệnh chỉ là chưa đoạn, không gọi là sinh. Nay nói sinh là mượn thô phá tế pháp mới hiện. Nghĩa đáng ở sinh như chưa sinh trong bốn chánh cần, là nhân ái sinh tử, ái tức hoặc riêng. Ái tâm còn, thì gọi là sinh, ái tâm diệt thì gọi là tử. Hạ địa thì ái diệt, thượng địa ái sinh, luôn luôn thay đổi gọi là sinh tử. Cũng không lui tế mà nhận thô, tức không lui sụt thượng địa có tế biến dịch mà nhận hạ địa có thô biến dịch. Song phương tiện nhận diệt tức nhập quả báo. Nay vì làm sáng tỏ nghĩa sinh tử cõi phương tiện nên cần can thiệp mà nói. Lại căn cứ cõi phương tiện có vô minh đã phục, chưa phục khác nhau. Viên quán có sơ, trung, hậu tâm khác nhau, thì cùng được luận về hạ địa, thượng địa để nói sinh tử. Đã chưa phá vô minh thì đều ở Phương tiện. Nếu thế thì cũng không đến cõi Quả báo. Từ nội dung giải nghĩa nói hai thuyết không lỗi.
Thật báo nhiễm y chánh, là ái trước y chánh cõi Thật báo. Tuy tâm tâm vắng lặng tự nhiên lưu nhập, đối với hạ địa diệu giác đều có ái nhiễm. Cõi Tịch quang. Liệu giản, hỏi, ngài Kinh Khê nói: “ý câu hỏi này là lấy lý để hỏi sự, sự có lâu mới, lý không lâu mới.
Đáp: Ngài Kinh Khê nói: “Trong ý đáp muốn phân sự lý, trước là lý, sau là sự. Nói về lý. Chỉ si ái này tức là nói thoát, si ái nói thoát đều là vốn có. Nay cùng ngài Tịnh Danh vốn lý bi đồng. Nói về sự, là chúng sinh còn mê, Tịnh Danh ngộ đã lâu. Tịnh Danh từ lâu lấy tánh động đại bi, chúng sinh cơ phát đối bi của ngài Tịnh Danh mà cơ cảm tương ưng, bèn thành tướng bệnh. Thế nên ngài Tịnh Danh quyền bệnh thì mới, tất cả chúng sinh thật bệnh thì lâu. Sau khi phát tâm tuy có đại bi nhưng vẫn chưa kham đồng bệnh với chúng sinh. Do đó năng độ sở độ đều không phải mới lâu mà luận lâu mới. Nếu biết ý này thì có thể lập nguyện, có thể tu hành, có thể phó cơ, có thể thí giáo. Dựa vào lý đều không. “ Mà luận...” là dựa theo sự thì có. “ Nếu y...” là đối nhau mà kết bày. Ngài Kinh Khê nói: Nếu dựa vào lý... lý vốn có nên tức vô minh. Thế nên nói lâu. Tức vô minh này lại gọi là sự, nên sự cũng lâu. Đáp câu hỏi ba về bệnh diệt, chánh giải thích bệnh diệt, giải thích chung. “hà giả...” giải thích riêng. “ Nếu các...” là phá xưa giải nghi. Luận chung về thật bệnh bất tận... vì chúng sinh Không thể hết. “Nay lại...” là căn cứ cơ thục được hóa độ để luận về nghĩa diệt. Giải thích, đáp quyền bệnh lâu mới. Giải thích đáp lý do quyền bệnh được diệt. Thí dụ làm sáng tỏ, phân khoa. Và tùy giải thích, mở ví dụ, khai có bệnh sinh đại bi trụ ở địa con một (nhất tử), dùng bốn đẳng tâm đến quả trụ nhị địa, nên Từ, Bi, Hỷ thành trụ ở địa con một. Thương nhớ chúng sinh như con một, cho nên Xả tâm thành, thì trụ địa không bình đẳng. Năng sở đều không chẳng cầu báo ân. Cho nên hai địa này các vị đều ngang đủ. Nay căn cứ hiện thiên bệnh Từ bi, nói năng lược ý đều khắp bốn đẳng đầy đủ đều mở. Có lý tánh... là mười giới tuy khác tánh một không khác, nên nói là con một. Khai bệnh lành, con là thật bệnh, cha mẹ là quyền bệnh. Hợp dụ như văn. Đáp theo câu hỏi một. Văn kinh hai câu: Nêu văn hỏi khác. “ Bồ-tát...” là chánh đáp. Sớ đối văn trước nêu bày. “tức bất...” là hiển bày vô duyên chánh giải thích, dựa theo nghĩa chánh luận, Dựa theo vô duyên chánh bày. Đây vô tâm đối với vật..., là thật không duyên niệm với chúng sinh ở ba cõi, mà đối với chúng sinh tự nhiên hiện làm lợi ích. “Đại kinh nói...”, tức Như Lai vào thành Vương xá khất thực. Lúc đó Điều-đạt bảo vua A-xà-thế thả voi sang tên Hộ tài để giết Phật. Như Lai liền nhập từ định duỗi tay thị hiện, tức thì ở năm đầu ngón tay hiện ra năm con sư tử. “Nay ngài Tịnh Danh...” là giống như trước. Chỉ có phần chân cực quả cạn sâu có chút ít sai khác mà thôi. “ Chúng sinh...” là chọn sinh pháp. Nhắc lại duyên chúng sinh... là ba nghĩa từ rõ ràng như trước đã ghi. “Cố đại...” là dẫn kinh dẫn chứng giải thích, dẫn kinh lược nêu. Hỏi...” là ước dụ dẫn giải thích, Dẫn chứng hỏi: Ngài Kinh Khê nói: “Đá khác với hút... là một mực quán hai câu không sai khác. Xét kỹ ý văn đều có khác chút ít. Trước hỏi đá khác với hút, là ý hỏi thể của pháp Không liên quan đến dụng sao. Kế hỏi hút khác với đá là ý hỏi dụng của pháp Không liên quan đến thể sao. Thể tức là pháp thân, dụng tức là bi bệnh. Đáp giải thích, dựa vào dụ chọn bày. Ngài Kinh Khê nói: Trong ý đáp không có khác nhau, mới gọi là thể dụng. “ Vô duyên...” là dựa vào pháp chánh nói, nói thể dụng dung nhau pháp thân là thể, từ bi là dụng. Như gương... lại lấy dụ để làm sáng. “Chúng sinh...” là căn cứ cơ ứng kết bày, nói thể tánh nhất như. “dĩ tam...” là tùy cơ khởi ứng. Chúng sinh vì mê tánh mà khởi hoặc, Bồ-tát bèn ứng hiện đến. 2. Hỏi thất này vì sao trống, gồm phân khoa và tùy giải thích, “Nay muốn...” là nay biểu thị chân thật, chánh biểu thị Tịch quang. “ Không hà...” gồm không ba cõi. Liệu giản, hỏi: Ngài Kinh Khê nói: Hỏi riêng có... là như trước đã giải thích. Đã biết không riêng khác cũng còn e không hiểu, nên cần hỏi lại. Đáp, chánh đáp hiển đồng. Ngài Kinh Khê nói: Như trong ý đáp ba cõi tức là đó, sao cần tìm riêng. Nếu thế thì ba thứ còn khắp có. Ba cõi ngoài hư không sao được không có. Nếu thế cái có của hư thông thì đồng hay khác với thái hư?
Đáp: Nếu đồng Thái Hư thì sao lại biến khắp ba cõi. Nếu khác thái hư đâu được thông ba. Trong ngoài linh tri khắp mà không khắp. Bốn câu kiểm xét, Thông giáo hiển chân.
Hỏi: Ngoài ba cõi sao khác thái hư?
Đáp: Khắp thì đồng nhưng lý lại khác.
Hỏi: Dựa theo lý nói khắp vậy nó thường khắp hay là không có.
Đáp: Thể của pháp thường khắp mà thường ở tánh không. Chỉ có thể suy ra mà không thể nghĩ, chỉ có thể nghĩ mà không thể suy, không thể quán thấy, chỉ có thể hội hoặc không thể hội, nhưng có thể quán thấy. “Như Loa...” là dẫn chứng giải thích thành, dẫn chứng bày nghĩa. Ngài Kinh Khê nói: “Như Loa Kế... là nêu cạn để sánh với sâu. Cạn còn tương tại, huống là sâu ư? Cho nên nói đẳng (...). Vả lại mượn việc tương tại “cùng ở” để biểu thị tương tức. Cho nên đem tương tức mà đáp câu hỏi trước về ý hữu vô. “Nói đều...” là giải thích thành đều không, giải thích y chánh đều không. Phong cương là Trung Hoa cổ, nay chú rằng Phong cương là vạch rõ ranh giới cõi nước Phong thổ làm đài, để biểu thị biết là ranh giới. Vạch ranh giới là ở khoảng giữa hai vùng đất đóng những buộc mốc để phân chia bờ cõi. Ngài Kinh Khê nói: Nói đều là không, ý nói, khắp không để chỉ rõ không có ranh giới bờ cõi.
Cũng chỉ rõ ngoài bờ cõi thì lý chẳng Không. Vì chẳng Không nên cũng gọi chẳng phải có thiện khí tức ly mới có thể thấy. “ Tùng...” là đối xưa kết bày. Hỏi thế nào là không? Hỏi, ngài Kinh Khê nói: “Phân đoạn...” là ước ba cõi kia, đối pháp tánh mà hỏi. “Lại tiếng...” là dựa đại chê tiểu mà hỏi. Nói không Tam-muội, là Tiểu thừa chỉ nói đản không. Nếu diễn môn thì nói trong mười tám không tức có không không. Dưới bảy câu hỏi đáp đều nói hai thứ. Đáp, dẫn kinh nói chung, ngài Kinh Khê nói: Nếu ước cảnh trí mà nói..., nói nhắc lại không, là cùng đối cảnh trí. Cảnh không đối với trí, trí không đối với cảnh. “ Nay nói...” là nương giáo nêu riêng, chê thất. Ngài Kinh Khê nói: “tuy mở cảnh trí nhưng tướng riêng khó phân:
Từ chứng mà không thể phân.
Ở nhân cạn sâu mà khó suy lường, cho nên cần dựa vào giáo để phân biệt.
“Nếu tạng...” là hiển bày đắc để biết giáo không có hai thất trên.
Hỏi không sao dùng không, ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ cùng tiến hỏi... trong hỏi cùng bày thế của hai câu hỏi. Trước là dựa chung lý tánh đối trí để biện biệt. “Huống lại nói...” là riêng dựa chân đế, vì không này gọi là gần chân đế. Cho nên một mực từ gần nhau mà hỏi.
Hỏi: Không sao dùng không để làm đủ hai ý này?
Đáp: Nói thấu suốt bổn tánh cần không cả trí chướng, như trước đã ghi. b, quên chân đế cần đối không với hai ý trong câu hỏi trước, xét tìm kỹ mà nói.
Hỏi không có thể phân biệt, ngài Kinh Khê nói: Trước là chánh hỏi, kế từ “nhược dĩ...” là dẫn đồng Tiểu thừa. “Nếu không...', phàm nói không là phải không phân biệt. Nay sao nói không mà chẳng Không?
Đáp, là nương nơi thật chánh giải thích, nói năng sở đều không. Ngài Kinh Khê nói: “Phân biệt còn không huống là chẳng phân biệt, đâu thể chẳng Không ư! Nếu chỗ quán phân biệt... là tuy căn cứ cảnh trí đối nhau để luận tướng không phân biệt, mà cần phải cùng làm tự tha... tánh và phá tánh mà luận hai Không. “Nếu hay...” là ước năng sở cùng hiển bày. Trước lấy năng mà hiển sở. Lấy sở quán...” là lấy sở mà hiển năng. “ Các phương...” là quyền thật đối nhau hiển sáng, ước giáo đối hiển, ngài Kinh Khê nói: Viên giáo... từ đó mà quán cảnh trí ba giáo, cảnh trí cũng còn hai. Thế nên chưa gọi phân biệt cũng không. Cho nên cần chỉ rõ cảnh trí của Viên giáo vậy. “ Lại nữa...” là căn cứ cõi đối hiển.
Hỏi: Tìm không ở đâu? Ước dụ giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Nay chúng sinh chưa ngộ đến cõi Thường tịch. Trong văn bèn lấy ngộ chưa ngộ mà nói. Lại do nhân quả so nhau thì dễ thấy. Nếu chưa nhập viên thì chưa gọi là ngộ. Cho nên vì chưa nhập viên không phải thiện hạnh. Vì vậy cũng phải nói rằng: Viên cùng ba giáo chỗ nói không đồng, cũng có thể nói tức và chẳng tức. Đồng cả phân biệt há ngoài các kiến. Các kiến là đó sao còn riêng tìm? “ Nay nói...” là dựa vào kiến giải thích riêng, chính bày tướng kiến. “ Nay ước...” là dựa vào giáo luận bày, trải các giáo mà nói. Kiến không môn, Côn-lặc môn.... Vào Thành luận thì rơi vào không, vào Côn-lặc thì rơi vào hai thứ cũng trung, cùng lấy song phi “cùng không phải). Như Đại kinh thí dụ về sữa... là Đại kinh nói: Phật dạy: Như có thuyết nói trong sữa có lạc, đó gọi là chấp trước, nếu nói không có lạc, đó gọi là hư vọng, lìa hai thứ này phải nhất định nói là cũng có cũng không. Cho đến nói không phải có tánh lạc, không phải không có tánh lạc. Thế nên nói tất cả chúng sinh nhất định có Phật tánh, đó gọi là đắm trước. Nếu nói không Phật tánh, đó gọi là hư vọng. Người trí nên nói: Nói chúng sinh thì Phật tánh cũng có cũng không. Ngài Kinh Khê nói: Phật tánh từ duyên sinh, bốn câu không thể được. Phật tánh cũng thế. Chấp thành bốn kiến thể nhập thì thấy lý. Từ đây trở về trước đều gọi tà kiến, vì đối viên mất ý cũng gọi là tà kiến huống là ba thứ trước. Vô ngã, chỉ là nhân pháp hai thứ vô ngã. Có kiến, thì đều là ngã, thể nhập thì toàn không tức là giáo phá kiến nhập không thì năng không chẳng đồng, cho nên phân giáo riêng. “Sở dĩ...” là kết ý nói về tìm, ngài Kinh Khê nói: Nếu từ phàm phu... tuy cùng một nẻo nhưng chỉ giống dọc. Nay lại dựa vào giáo tức thành luận ngang, phải nói là đầy đủ ngang dọc hai hạnh như đã giải thích trước.
Hỏi sáu mươi hai kiến phải tìm ở đâu? Ngài Kinh Khê nói: Không nhiễm mà nhiễm... là lý vốn “không” nhiễm, từ vô thỉ thường mê muội há nhiễm không nhiễm mà có thể quán. Cho nên khởi sáu mươi hai cho đến nguồn cội. Như thấu cội nguồn vô minh, là đó. Băng, là lý đồng mà nghĩa khác, không riêng mà riêng. Đồng một chân độ mà chúng sinh nương nhờ, chỉ một pháp thân là các thân thể. Sở y không hai nhưng năng y tự khác. Sở đã không khác thì năng sao khác được. Do vọng tập từ vô thỉ cho là y chánh khác nhau.
Hỏi giải thoát của chư Phật phải tìm ở đâu?, giải thích trọng tâm ba thứ giải thoát viên dung, nói chung về giải thoát. Bát-nhã..., câu đầu nói tất cả chư Phật do quán tâm mình không khác tâm Phật, nên được thành Phật. Câu kế là giải thích tâm được quán trong câu trước. Tâm như tâm Phật, tâm Phật không cấu thì tâm mình cũng không. Câu kế nữa là năm đạo do tâm. Tâm thể vốn tịnh, tuy khắp năm đạo mà không thọ nhận sắc ấy. Như người bệnh mắt, khắp không trung thấy hoa, hoa tuy khắp không mà không chẳng nhận gì cả. Băng sáng nước ướt cũng lại như thế. Câu kế, là kết chung ý quán. Hiểu như thế là thành đạo viên dung.
“Hỏi...” là trưng cầu giải thích ba thứ. Ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Tìm chân tánh... là nêu tâm tu quán, quán tướng hoặc không có tự thể, tất cả các pháp chỉ một chân như. Nếu thế thì lại có hai thứ giải thoát khác chăng? Trong ý đáp nói chân tánh tuy một, một thể cũng ba, thể của hoặc đã ba mà không ba. Giải thoát cũng tức ba mà một.
“Nếu thấy...” là nói y chánh không hai, về tông Phật quốc, nói y chánh không hai. Sở dĩ đến chí cực mà gọi là có khác. Mong kẻ hậu đức đọc kỹ văn này, một tâm gồm khắp. Ở đây có thể hiểu vô tình thành Phật không còn nghi ngờ gì. Hoặc có người tin hữu tình thành Phật mà không tin vô tình thành Phật, cũng như tin Thiên đế là chúa trời Đao-lợi mà không tin Kiều-thi-ca là chúa trời Tam thập tam. Huống văn đã nói rõ rằng thân độ lý đồng mà tên gọi có khác. Đại sư thân nói cần phải suy nghĩ thật kỹ.
“Cho nên tịnh...” là dựa vào sở biểu mà giải thích thành, nói y chánh cùng hiển bày. “cho nên...” là nói ý đáp hợp tông, đều từ đây mà ra, là ý nói tuy có ba quán và Thông Biệt nhưng căn bản đều từ thất trống mà sinh. Đáp: Không có thị giả, đoán bày phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, chánh đáp, nói ứng cơ có thị giả. Ngài Kinh Khê nói: Nói thị giả không ngoài bốn giáo. Ngài Tịnh Danh chuyển dụng, là chuyển ma sự làm Phật sự. “Nếu đồng...” là căn cứ ở cõi mà nói rộng. Giải thích nêu ba câu. Hỏi tướng bệnh ấy thế nào? Phân khoa. Tùy giải thích, hỏi thể tướng của bệnh, hỏi dụng của bệnh, là giải thích. Thân kim cang, tức pháp thân bất hoại, dùng kim cang để dụ, rút từ Đại kinh... Ngài Kinh Khê nói: “Phật dùng sư tử hống nói mười Lực là đó. “Nếu cùng...” là thoái hợp. “Nếu chẳng...” là kết. Đáp pháp là nêu thật bệnh của phàm phu. Huống Thánh nhân quyền bệnh. “tuy chẳng...” là nói hiện tượng. Hợp dưới, hợp chẳng hợp bởi do phàm Thánh sắc tâm đều tức không cho nên bệnh không hợp cùng thân. Nói thân lìa nhau, cũng nói là thân tướng không. “Phàm phu...” là hợp hiện tượng. Hỏi pháp thành bệnh, ước bệnh đại đối nói tức ly, dựa theo nội ngoại mà luận. Nội cũng phải thế, nghĩa là y chánh tuy khác, bốn đại Không khác. Đại ngoài không bệnh thì trong sao lại có. Bốn đại trong, thì xương thịt là địa đại, máu mồ hôi là thủy đại, sức ấm nóng là hỏa đại, hơi thở là phong đại.
“Lại nữa...” là ước đại trong hai thời kỳ. “Cũng chẳng...” là không ly. “Tịnh Danh...” là quyền bệnh. “Lại chẳng phải...” là ước lý sự đối nói tức ly, y kinh chánh bày, y kinh khác mà hiển nghĩa. Dẫn thỉnh Quan Âm giải thích rõ như trước đã ghi. “Cho nên tịnh...” là nêu văn nay nói quyền. “Nay khắp...” là dựa vào cõi giải thích thành. Hỏi thật bệnh trong nhân, đoán luận lược phán, nêu ý nói chung. “văn có...” là phân văn bày nghĩa, có hai: a”, phân văn đối hạnh, phân khoa chỉ kinh. “tín hành...” là đối căn lập pháp, đối hiện căn hai thứ khác nhau, cùng có lợi độn, lại tín hành lợi căn, một khi nghe liền ngộ, pháp hành độn căn trải các pháp mà quán sát. Hoặc đều lợi đều độn. Người tín hành nghe tuệ thì lợi, tu tuệ thì độn. Người pháp hành tu tuệ thì lợi, mà nghe tuệ thì độn. Đối chủng tử đời trước hai thứ khác nhau. Thành lập trên dưới, ngài Kinh Khê nói: Ngài Văn-thù vì sao phải ủy dụ... là chuẩn vào năm phẩm dưới, đã từ đây mà sinh năm phẩm dưới, lại có thể thành trên. Cần lấy thông tướng ba quán mà giải thích. Nếu không như thế, là quốc vương, trưởng giả cũng ham thích thân Phật. Các đại đệ tử dùng ba giáo để chê, Bồ-tát cũng dùng ba giáo để trách. Tuy phần nhiều dùng nghĩa viên, nhưng vẫn quy về diễn, cho nên cần thông nhau riêng ở trong ấy. Thế nên văn chương chỉ nói từ biệt. Cho nên ý văn này dùng trên làm cơ sở. Đã không thông rồi há trung giả chẳng thông ư? Cho nên chuẩn hỏi đáp qua lại để luận chỗ biểu thị. Kế từ không trung sinh tất cả pháp. Là giữ còn Phương đẳng khắp đối các cõi và ba hoặc nhân quả không đồng, cho nên cần luận riêng. Quán chúng sinh... cho đến riêng trách đệ tử Bồ-tát. Cho nên đến thời Pháp Hoa mới thuần một vị. Thành trên. Và thành dưới là nhập bất nhị làm gốc, phẩm Bất Nhị là cùng ngăn cấm, phẩm Hương Tích là song lưu. Mà không...” là bốn giáo dùng xả, đối trước nói ý dụng xả khác nhau. Ngài Kinh Khê nói: Chưa vào thất nói bốn giáo... là chúng tục chưa đoạn các hoặc kiến tư, cần thêm tam tạng mà đối trị. Vì tam tạng giáo trụ dục là hơn hết. Nếu thế thì tục chúng đâu không đoạn hữu vi?
Đáp: Nếu y vào tiểu đoạn rồi thì ở tiểu số, nếu y vào đại đoạn tồi thì ở đại số. Cho nên lại riêng dẫn đủ các hoặc làm tục. “Cho nên biết...” là nói kinh văn cùng một nhà ta nghĩa hợp. “ Nay ước...” là tùy văn rộng giải thích, vì người tín hành hỏi ủy dụ giáo môn, Văn-thù hỏi. Ngài Tịnh Danh đáp, phân khoa đoán bày. Ngài Kinh Khê nói: “Tam tạng giúp Thông. Cho nên kinh nói: Nói thân vô thường, vô thường là tam tạng. Không nói chán lìa tức dùng Thông môn. Cho nên biết người Thông dùng tam tạng, là biết vô thường rồi đều tức không. Nếu giúp Biệt Viên đối chuyển gồm đủ, thì chuẩn theo trên có thể biết.
Nay lại nêu kinh chưa Thông Viên Biệt lại làm trợ Thông để nói. “Nay trước...” là tùy văn giải nghĩa, dùng Tạng giúp Thông mà ủy dụ, nêu ý phân khoa. “quả là...” là tùy văn giải nghĩa, từ quả giả nhập không. Từ nhân giả nhập không. Không sám hối tội đời trước, Tiểu thừa từng chẳng sám hối tội đời trước ư?
Đáp: Chỉ do không hay quán tâm tức không, nên gọi không sám hối. Lại chẳng thường quán tâm thật tướng, mười giới tội phước tánh không vô chủ. Cho nên chân Thiên nhãn không từ đó mà khai phát, không thấy tịnh độ nguyên là do đây vậy. Nếu muốn phân biệt dễ hiểu thì phải nói rằng Tiểu thừa sám hối tội đời trước nội giới mà không sám hối tội đời trước ngoại giới. Tội đời trước ngoại giới là sao, đó là căn bản vô minh. Thấu suốt vô minh tức pháp tánh, thì gọi là vô sinh sám-nếu không oán đối, là nội ngoại oán đối đều do một niệm vô minh tạo nên. Phản quán vô sinh oán đối là từ đâu, đổi oán làm thân mặc tình giáo hóa. Đốn cây tuyệt gốc ý dụ có thể biết. Bồ-tát lấy sát làm đầu, vì lấy đại từ làm gốc. Cho nên quán tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, ở vị lai nhất định thành Phật. Cho nên Thanh văn trở xuống Đại luận quyển năm mươi mốt nói: dâm dục tuy không quấy não chúng sinh, nhưng tâm bị trói chặt, nên thành tội lớn... vì thế trong giới luật dâm dục làm đầu. Kẻ bạch y giới bất sát làm trước để cầu phước. Dẫn Tỳ-đàm Thành luận như trước đã ghi.
Hỏi: văn này dùng thông để ủy dụ, vì sao lại lấy nghĩa Viên để giải thích sám hối tội trước?
Đáp: Thông có lợi căn, tức hiểu pháp Viên giáo. Thông tướng ba quán ý ở đây vậy. Cho nên dẫn Bồ-tát lấy sát làm đầu, chính là chỉ Biệt Viên. Như Bồ-tát Tạng, Thông đồng giới với Thanh văn, như Đại luận đã nói. Biệt giáo ủy dụ, nêu ý phân khoa. “trước nói...” là tùy văn giải nghĩa, khuyên khởi bi tâm. Khuyên phát nguyện nhiêu ích. khuyên tu phước tuệ. “Như Đại luận...” là lìa bốn, năm tà nên gọi là chánh mạng. Bốn tà thì Đại luận quyển bốn nói: Người xuất gia hợp thuốc năm giống lúa trồng cây để nuôi mạng sống... bất tịnh gọi là hạ khẩu thực. Bói xem tinh tú nhật nguyệt gió mưa sấm sét... sinh hoạt bất tịnh gọi là ngưỡng khẩu thực. Nịnh nọt người giàu sang giao tiếp sứ giả bốn phương khéo nói cầu nhiều để nuôi mạng sống bất tịnh, gọi là phương khẩu thực. Dùng các thứ bùa chú bói toán tốt xấu thuật vụn vặt bất chính gọi là tứ duy khẩu thực. Năm tà:
1. Vì cầu lợi dưỡng giả nên hiện tướng lạ.
2. Vì lợi dưỡng nên tự nói công đức mình.
3. Xem bói tướng tốt xấu vì người nói pháp.
4. Lớn tiếng hiện oai nghi khiến người kính sợ.
5. Nói những điều có được do cúng dường để khích động lòng người.
Đây đều là các bậc cao danh vị trên cần thận trọng, chứ không phải kẻ quả đức thấp kém dè chừng. Nếu không được..., ngài Kinh Khê nói: Không phải chỉ lìa bỏ bốn tà năm tà mà chính là nói trụ ở tuệ mạng bốn giáo.
Tiếp, khuyên sinh tâm mạnh mẽ. Ngài Kinh Khê nói, tức là người tâm Thủ lăng nghiêm nhập giả, tâm mạnh mẽ gọi là kiện tướng.
Khuyên tinh tấn không lui sụt.
Viên giáo ủy dụ, chánh giải thích hiện văn. “Đây...” là thông trước luận bày.
Kết thành.
Vì người pháp hành mà hỏi quán pháp điều phục, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Văn-thù hỏi. Tịnh Danh đáp, đoán luận, nêu ý phân khoa. Điều phục nội giới Biệt Viên... phải nói là nội ngoại giới. Không nói ngoại vì văn thiếu.
Ba quán...” là đoán bày quán pháp, Chọn Tạng, Thông. “Nay chỉ...” là hiển bày Biệt Viên, Chánh nêu ba quán, nêu bày. Giải thích. Biệt tướng đầu tức là chỗ tu của người Biệt giáo: Thập trụ nhập không, thập hạnh nhập giả, Thập hướng tu trung, Sơ địa chứng trung. Cho nên nói nếu nhập trung đạo....
Thông tướng tức Thông, người Biệt nhận Viên tiếp, là chỗ tu. Như thông biệt nhập trung của không vị, hiểu nhanh lý viên, ở tâm không này mà thấu suốt ba đế. Tuy biết cùng nhiếp nhau nhưng chỉ ở đương giáo mà nhập vị không. Cho nên khiến ba quán thông tướng đều không. Thông biệt xuất giả nhận tiếp, Biệt giáo tu trung nhận tiếp, chuẩn không có thể hiểu. Chỉ là ở giả trung, tâm hiểu viên dung. Từ bổn được gọi là giả là trung. Nếu luận viên dung thì cùng một tâm không khác. Chỉ dựa vào chỗ nhập liền có hai thứ khác nhau. Cho nên văn dưới thông tướng một tâm đích thị thuộc Viên giáo. “Tuy nhiên...” là kết bày quán tướng. Trước nói tín giải hư thông nhận được tiếp viên. Kế nói đến quán từ bệnh là ở vị đương giáo.
Hỏi: Như người tiếp thọ y vào viên ấy mà tu tiến phá kết hoặc thì là viên vị, há lại đến vị đương giáo ư?
Đáp: Việc giải đó tuy viên, từ bổn nhập vị lại gọi là thứ lớp. Ba thứ một tâm tướng nó khá biết.
“ Sơ biệt...” là là kết phán thông tướng một tâm, đích thị ở Viên, ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Ai nói đoạn hoặc trọn thành trước sau?
Đáp: Hành tướng không khác, trước sau từ giáo. Cho nên văn nói: E là ý trong Phương đẳng, phải biết là do thuyết phương tiện này: Quán thông tướng này do đâu học giả chưa dám phán quyết nhất định. Có người cho rằng đồng với tiệm thứ của chỉ quán. Có người bảo là trong bộ Phương đẳng riêng có một cơ phải tu chứng này. Huống là sớ văn của Đại sư, ngài Kinh Khê, cựu ký đều không nói thông tướng là viên tiếp thông biệt. Nay vì sao lại lấy nghĩa tiếp mà giải thích?
Đáp: Đại sư pháp quyết giải thích, ngài Kinh Khê tán thuật (khen kể) văn đó rất tinh tế ý chỉ rất rõ ràng. Nếu không căn cứ tiếp mà giải thích e trái với tông sư, xin được trình bày ra đây. Đại sư vừa nói tín tâm hư thông đến quán trừ hoặc đều có trước sau. Ở đây luận thông tướng nhất tâm đích thị thuộc viên. Trừ hoặc trước sau không phải là vị Thông Biệt ư? Đích thuộc Viên giáo chẳng phải bị tiếp ư? Ngài Kinh Khê lại nói hành tướng không khác mà theo giáo có trước sau, đã nói theo giáo há chẳng phải chỉ bày đương giáo nhận tiếp vị có không giả... ư? “Huống...”, ngài Kinh Khê nêu trung quán điều phục bày trung nói là viên tiếp. Lại nói ba Không chỉ phá kiến tư, ba giả chỉ phá trần sa, chỉ giải thông suông chưa thành thật ích. Nay Trung quán định không, giả, trung đâu không phải là nhận tiếp tiến phá vô minh ư? Nếu cho rằng đồng với tiệm thứ chỉ quán thì Đại sư và ngài Kinh Khê đâu từng nói thế. Huống ba chỉ quán đều là Pháp Hoa diệu hạnh. Đây nói thông tướng chỉ ở Phương đẳng. Nên sớ nói “e là ý trong Phương đẳng”, cho nên biết là không đồng. Nếu bảo riêng có một cơ thì lại càng không thể. Nếu thế thì bốn giáo bao gồm cơ chưa khắp, trong Phương đẳng phải có năm giáo, đây thật quá sai!
Hỏi: Ở bộ Phương đẳng có thông tướng quán, sao lại riêng lấy Đại sư ở đây mà nói? Như quang minh quán kinh đều thuộc Phương đẳng sao sớ ấy không nói?
Đáp: Hoa Nghiêm, Bát-nhã đều phải có. Đâu chỉ các bộ Phương đẳng mới có nghĩa ấy. Kinh này có văn nói còn các kinh ấy không có, cho nên ở các sớ bỏ mà không nói. Sáu phẩm kinh này văn nghĩa đều đầy đủ, đâu được không luận. Mong các hậu hiền hãy suy nghĩ kỹ nghĩa này. Như văn lý ấy có hiểu thì đường thẳng cùng đi; mất ý trái dấu, xin hãy nương bậc thầy dẫn đường giỏi.
“Nay thất...” là thông kinh giải nghi, thông văn kinh dưới. Giải thích hai nghi. Ý hỏi: Đã đều là viên, vì sao lại có thông tướng nhất tâm hai thứ khác nhau?
Đáp: Trong đó dựa Thông mà luận Viên là thông với người có thọ tiếp của thông biệt, nên nói ước thông luận viên. Vì người thọ tiếp không phải cùng Viên tu trước sau. Cho nên cần thông tướng để chọn nhất tâm. E là.... Vì thời bộ chưa dung nạp nên có thọ tiếp. Pháp hoa khai hiển chỉ một viên dung.
Hỏi: Đại sư đích thân lấy ba thứ ba quán mà giải thích kinh, vì sao lại nói e là?
Đáp: ba quán của một nhà, xa nối ngài Long Thọ, gần học ngài Nam Nhạc. Nay dùng giải thích kinh, suy ra có căn cứ. Chưa dám đoán riêng, nên nói e là. Tùy giải thích, không quán để điều phục bệnh kiến tư, phân khoa đoán bày, cũng gọi là quán hai đế. Giả là nói nhập không, trước cần phải quán giả, biết giả là hư dối mà được gặp chân, cho nên nói quán hai đế.
“Văn đầu...” là đoán bày, nói nghĩa tích trái thông. “nay nói...” là bày nguyên do nghĩa thông, ước nghĩa nói rõ, nói Bồ-tát khác tiểu. Nhưng thể nhập ba giả, là thể nhập Tiểu thừa, tùy sự ba giả mà thành Đại thừa tùy lý ba giả. Nói tùy sự, có hai thứ: ước chánh báo. Căn cứ y báo. Chánh báo lại có hai: a, ước tâm, là pháp trần đối ý căn, một niệm tâm khởi tức là nhân thành giả. Niệm trước niệm sau thứ lớp không dứt là tương tục giả. Các đối đãi khác không tâm, biết có tâm này tức tương đãi giả. Trên nhân thành ước nội căn ngoại trần, tương tục chỉ ước nội căn. Tương đãi đối dọc diệt mất không cả không. Lại đối ngang không tâm cả ba thứ vô vi. Dựa theo sắc mà nói ba giả, là do hạnh nghiệp đời trước thác sinh cha mẹ được có thân này tức nhân thành, giữ mãi tức tương tục. Dùng thân đối đãi chẳng thâm tức là tương đãi. Y cứ y báo, như bốn vi thành trụ, thời tiết biến đổi nối tiếp mãi không dứt. Trụ này đối đãi chẳng trụ và dài ngắn... nay Đại thừa thấu rõ vô minh khởi, đều như huyễn hóa. Nhân thành còn không, há có hai thứ sau. Cho nên sắc tâm y chánh, đều như huyễn hóa. Là (đây trở đi mười một hạnh không đủ) nghĩa, nhập chúng sinh giả không, phân khoa. Tùy giải thích, phá chúng sinh giả nhập không. Giải thích. Kết. Ngài Kinh Khê nói: Hỏi ngã và chúng sinh có gì khác?
Đáp: Ngã chấp là chủ tể, chúng sinh thì nắm giữ ấm. Nhập thật pháp giả không, phân biệt pháp, có hai: a”, nêu ý, “sở dĩ...” là nói lại khởi pháp tưởng, nêu nghĩa chỉ như trên. Như ngài Thân Tử... là dẫn ngài Thân Tử làm lệ. Tiểu thừa lợi căn liền được Vô học. Đã là chuyển pháp còn phải dừng lại, huống là Bồ-tát hóa tha. Cho nên trước cần khởi pháp tưởng. “Nay Bồ-tát...” là kết bày ý nay. “Chỉ vì...” là nêu giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Phân biệt pháp, pháp chỉ là ấm nhập mà thôi, cũng là pháp mười pháp giới. Bốn pháp giới sau chỉ là không giả trung của sáu thứ. Bốn pháp giới này cũng gọi là pháp. Cho nên biết pháp Không nghĩa rất dài. Người khác nói Nhị thừa Không được pháp Không, nên không nói sự dài ngắn của pháp Không. Nay không cả bốn giới nhập vào trung thật tướng. Phá trừ, không đồng với số nhân, số nhân là nói nghĩa Tiểu thừa mà thôi. Bốn người Niết-bàn tức bốn Thánh pháp giới. Pháp tưởng hai biên, ngài Kinh Khê nói: Trước đã có hai giải thích, tức có hai thứ hai biên không đồng. Như văn sau nói: Nếu dựa vào giải thích trước thì ngã và ngã sở là hai biên. Nếu ước giải thích sau thì căn cứ mười giới sinh tử Niết-bàn là hai biên. Tức là hai thứ bình đẳng không, là có tám mươi mốt phẩm mỗi phẩm đều có mười hai câu hỏi: vì sao phá kiến một phen, có bốn mươi tám cú, còn phá tư một phẩm đều có mười hai?
Đáp: Đoạn tuy một phen các kiến mỗi thứ đều riêng, ở mỗi kiến đều đề phòng chuyển chấp, nên có bốn mươi tám. Còn tư không có chuyển chấp, chỉ có một thứ ba giả, nên chỉ có mười hai.
Giải thích ba nhập bình đẳng giả không, chánh giải thích, ngài Kinh Khê nói: “nếu còn bình đẳng... là gồm phá người xưa, giải thích bình đẳng không, nói đầy đủ như trong văn trước ở chương Mục-liên đã luận về tam không của đại tiểu không đồng.
Liệu giản, hỏi: Đây trái với kinh Anh Lạc. Quyển hai kinh ấy từ không vào giả quán, cũng gọi là quán không bình đẳng. Nghĩa là trước phá giả dùng không, nay phá không dùng giả. Phá dụng đã đều nên gọi là bình đẳng. Nay lấy tên bình đẳng này đồng vấn nạn. Đáp, Lợi căn huyền phá. Đã huyền phá bệnh không. Cho nên cái quán đầu đồng với cái thứ hai.
“Đâu có...” là đáp riêng, căn cứ chân đế làm bệnh,, ý nêu. “thông...” là giải thích, nói phàm phu chấp không là bệnh, Ngài Kinh Khê nói: Đây như Đại luận đến sinh tử, là luận ấy luận về kẻ hữu duyên đối với vô vi mà sinh hoặc sử. Đây là dẫn Tỳ-đàm để chứng Đệ nhất nghĩa cũng cần không. Tuy như bình đẳng, lại nói bình đẳng tức cho là có, thì cũng cần phải không. Cho nên như vô vi không có sử, tâm năng duyên, duyên với nó mà sinh các sử. Diệt đế trở đi, hoặc tức là tướng đó.
“Biệt Viên...” là nói đoạn hoặc trệ không là bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Biệt Viên không như thế... là khác với thiên chân... tuy lấy Biệt Viên nói cùng lúc để giải thích, nên cần phải phân biệt tướng Biệt Viên. Như trước thuộc đối ba thứ ba quán. Đã nói rằng biệt tướng để thuộc Biệt giáo, Thông tướng nhất tâm để thuộc Viên giáo. Lại nói: Thông tướng tuy viên, nhưng đối Phương đẳng bèn thành biệt tướng trong Viên. Cho nên ba thứ không này, thuộc chung cả Biệt Viên. “Từ đây...” chỉ tìm trong đây một đoạn văn kinh. Nếu nói không tức là không đối với Niết-bàn và trung đạo. Kết giải thích, tức nói từ giả nhập không mà thôi, cho nên biết, vì không ba đế nên tại trung. Cuối cùng nhập không nên chỉ giống biệt. Cho nên xưa cùng nêu Biệt Viên hai giáo. Sở dĩ kinh này nếu phân giáo mà giải thích, thì lý đủ cả Biệt Viên. Chung nêu kinh văn, lại nương thông tướng. Nếu thế thì nhất định là Biệt Viên.
Đáp: Đã nói Phương đẳng thích hợp cơ làm tông. Biệt Viên hai người tùy chỗ nghe có khác. Cho nên từ tông mà giải thích, cần biện rõ Biệt Viên, gọi là phân nghĩa thông, tùy cơ mà luôn biệt. Chúng sinh Phật tánh chuẩn theo lệ có thể biết. Cho nên văn trên nói rằng ba phẩm dưới từ đây sinh ra. Nếu thế thì đầu cuối đều là giáo một âm, nào có khác dòng.
Đáp: Hiển bí đã khác, một âm ngầm hợp. “ Lại nữa...” là căn cứ trung đạo làm bệnh, có hai: a, bệnh trung cũng không, có hai: a. Chánh nói: Nếu nói... là lại dẫn văn trước đối đây để nói ba đế đều không, thì hiển văn nay là không ở bệnh trung. Đây chính là dùng thông tướng mà quán ý. Lần một..., tức lần một chung ở ba quán, lần hai chỉ ở không.
“ Quán này...” là kết bày, “quán...” là căn cứ vị hiển bày. Vị hạnh đến nhập không, là tiếp nhập kiến địa của thông trở lên, sơ trụ của biệt trở lên, chỉ là vị tương tợ của viên. Do đó mà biết trung đạo chưa phá vô minh. Giả quán điều phục bệnh vô tri, đoán nói nghĩa chính luận nghĩa chỉ, có nêu quán bày ý, có hai: a”, căn cứ quán nêu chung. Ngài Kinh Khê nói: Cũng gọi bình đẳng là lại dựa vào Anh lạc mà nói thuyết này. “ Do không...” là nêu văn bày ý. “Xuất giả...” là mượn thông bày vị, có hai: a, mượn thông ba căn. Ngài Kinh Khê nói: xuất giả có ba... tức là ba căn: Thượng căn phiền não chưa đoạn, dựa ba giáo này đồng ở không này. Cho nên thông ba căn đều gọi là có bệnh. Vì người hạ căn còn có tập khí, cho nên ý Thông giáo đều còn lưu các dư tập. Cho nên người ba căn đều có thật bệnh.
“Nếu biệt...” là hiển bày vị Biệt giáo, ngài Kinh Khê nói: Nếu biệt đến nhập giả là dẫn biệt mà luận khác. “Nhưng Biệt Viên...” là nói ý đối hai giáo gởi vị. Không phải dụng thông... là trước căn cứ Thông giáo đoạn ba căn, là ý nói Biệt giáo ba căn cũng thế. Cho nên trước luận ý thông khiến biết rõ Biệt, rồi nói Thông không. Cho nên được mượn luận không này. Tuy tức chẳng Không mà ở không bèn có hai quán giả, trung. Cho nên nếu...” là hai quán ba thứ đều giả trung để dần dần thêm sâu. Cho nên kẻ lưu tập của Thông giáo còn gọi là có bệnh, huống là vốn Biệt Viên mà vẫn còn có hoặc trần sa vô minh. Cho nên Phương đẳng giáo lại đối chỗ sinh ra ba căn muốn đồng. Nếu luận chỗ nhập thì trường đoản rất khác nhau, nên khiến có bệnh nhiều ít không đồng. Vì thế Đẳng giác của Biệt giáo chỉ có một phẩm, còn gọi có bệnh, cho nên khiến Bồ-tát không có bệnh hữu vô. Song trong đây phần lớn đều dựa theo thứ lớp ba quán. Cho nên biết không phải là giả bất tư nghì. Cho nên khiến Biệt Viên căn cứ ở địa trụ tiền. Như trong chỉ quán ba căn sinh ra giả ý thì không như thế.... “ Trước nói...” là đối trước nói giả.
Theo giống trên phân chương, ngài Kinh Khê nói: Tuy không thứ lớp, thứ nhất trước thứ ba, thứ hai trước thứ năm, thứ ba phải trước thứ nhất, thứ tư trước thứ hai, thứ năm trước thứ tư. Sở dĩ có hai thứ lớp này vì mỗi thứ có ý chỉ của nó. Thứ lớp trước, là giáo môn tất cần đại bi làm đầu. Nương bi mà khởi thệ nguyện. Căn đó cần phải lợi và tiến mạnh. Nay thứ lớp, nội quán mặc tình tức là hàng lợi căn và tiến mạnh, thế nên đứng đầu. Lợi căn cần phải tiến mạnh và khởi hoằng thệ đại Bi tiến mạnh. “Đầu tiên giải thích...” là tùy văn chánh giải thích, lợi căn xuất giả, thích chung, giải thích lấy trí đoạn không chỗ thọ là Bồ-tát vô sinh, là Đại luận nói nếu A-la-hán trí đoạn là Bồ-tát Vô sinh nhẫn. Chữ A-la-hán dưới mất hai chữ La-hán. Đáng lẽ nói La-hán trí đoạn. “ Đại phẩm...” là giải thích mà thọ các thọ, dẫn kinh lập chung. “Bồ-tát...” là căn cứ thọ chánh giải thích, “vi thị...” là nêu kết, thích riêng, nêu bày, chánh giải thích, “thuộc hạ...” là giải thích, ngài Kinh Khê nói: “Thuộc ái thiện thọ... là thiện ác mỗi thứ đều có ba, hợp Tu-la là dưới thập thiện. Song đối trung mà thọ các thọ đầy đủ. Rộng ước tiết mục thềm bậc làm tướng trạng, ý muốn lược nói Bồ-tát xuất giả rõ ràng đều là tướng thọ khiến kẻ hậu học làm nhân xuất giả, trước đã chiếu đủ mà làm phương tiện. Kiến có hai. Thừa có hai: Tạng, ngài Kinh Khê nói: “Diệt ba tâm Niết-bàn, là ba Không. Thông mười dụ như trước đã ghi. Từ lâu đã biết bất sinh sinh, vì bất sinh sinh đối thông là như mộng như huyễn điểm không mà nói sinh. Bồ-tát có hai: a, chánh giải thích. b, liệu giản, ngài Kinh Khê nói: “quán đây... song thông tướng này là viên của ba quán. Nhưng hai quán trước chỉ nói không giả, chưa có một trung thì tất cả đều trung. Cho nên cần nói bốn môn Viên giáo, vì bốn môn Viên giáo trước sau đều nhập trung, thế nên cần nói quán thứ ba. Đại tinh tấn, giải thích chung, cũng như người lười biếng... cũng như thợ đồ gốm, tuy được bàn xoay để nắn nót, nhưng nếu không chuyên cần thì không do đâu nên việc. Như Thái tử Đại thí... Tiêm sư nói: Như Thái tử ưa bố thí cầu xin châu như ý, được châu rơi xuống biển mà tát cạn cả biển khơi đến nổi khiến gân cốt khô cả, mà vẫn không lười bỏ. Nguyện được châu như ý để ban cấp cho chúng sinh cứu thân khốn khổ. Các trời đến hỏi thì đáp đời đời tát mãi không thôi. Các trời thấy người ấy quá siêng năng, bèn đến giúp tát cạn biển. Các rồng thấy nước biển giảm xuống sợ e sẽ cạn khô, liền trả lại châu như ý. Kinh Hoa Nghiêm nói: Bậc Thất địa muốn trầm không... Ngài Kinh Khê nói: “Đầy đủ như văn Hoa Nghiêm đã dẫn ở trước. Giải thích riêng, nói ba pháp thọ cụ. Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát đối các bất thiện đến thông đạt Phật đạo, là đối ác này biết là ác mà làm sơ quán đối năng quán đầy đủ cả bốn thứ, phân ra thuốc và bệnh, thành tám thứ không đồng, mỗi thứ lại phân nhân quả thành mười sáu đế sở quán ác cảnh không đồng. Đã thế thì thiện cảnh cho đến Nhị thừa Bồ-tát tiết cấp giảm dần. Biết bệnh biết thuốc. Thuốc trị bệnh giảm, nên tùy giảm mà nói. Đạo phẩm trở đi, mỗi mỗi đều nói tự tha. Vì có bệnh, vì tập giả, cho nên cần tự hành. b], thiện. Thiên văn nghĩa là đoán biết sự di dời của các sao. Địa lý là đoán biết hình thế của núi sông. Lý cũng như văn. Vi-đà “phệ-đà” như trước đã ghi.
Thư sử tức chỉ chung cho sáu kinh như trước đã ghi. Sử tức là Sử ký của Tư Mã Thiên, Hán thư của Ban Cố, Đông Quán Hán ký của Lưu Trân. Đời gọi là ba bộ sử. Sau đời Tam quốc phân chia bờ cõi có Ngụy Ngô, mỗi nước đều có Sử quan. Nước Thục không có chức quan này. Từ đầu đời Tấn đến đời Trần góp nhặt các thứ ghi chép gọi là Tam quốc chí. Từ đó đến các đời sau đều có Sử thư. Ngũ minh, thì nội ngoại đều có năm minh. Nội năm minh là thanh, y phương, công xảo, chú thuật và nhân minh. Về ngoại năm minh, thì bốn thứ trước giống, cái thứ năm là phù ấn. Sáu nghề là lễ, nhạc, thư, số, tạ, ngự. Vi-đà và năm minh là theo Ấn Độ, thư sử sáu nghề là theo Trung Quốc.
Luận về thần tiên thì thích danh nói rằng già mà không chết thì gọi là tiên. Tiên là dời “thiên). Bao Phác Tử nói: Cầu làm tiên, cần phải trung hiếu, hòa thuận, nhân tín làm gốc. Nếu đức không chịu tu mà chỉ cầu phương thuật thì trọn không được trường sinh. Làm ác lớn thì quan tư mạng sẽ cướp mạng sống cả mấy kỷ, lỗi nhỏ thì cướp vài năm. Tùy chỗ phạm tội nặng nhẹ mà giảm tuổi thọ nhiều ít. Đây cũng là luận về thần tiên ở Trung Quốc này. Kinh Lăng-nghiêm nói bảy thú, tức sáu thú thêm tiên thú. Luận về thiện, thì Đế Thích cũng còn ở Dục giới. Chỉ nói tán tâm thập thiện coi là nhân làm trời. Phạm vương đều nói thiền định để khiến lìa Dục giới, nên gọi là Xuất dục luận. Đều biết, nghĩa là xuất giả Bồ-tát trên từ thiên văn, địa lý cho đến Phạm luận đều biết một cách rành rẽ tinh luyện, để giáo hóa chúng sinh. Hai kiến Nhị thừa lệ như ác đã vừa nói trên. Phải nói là lệ như giải thích trước ở phần lợi căn xuất giả. Bồtát. “Nếu thọ...” là dẫn chứng kết bày. Khởi Bi tâm. Thệ lớn, gồm a, phân khoa. b, tùy giải thích, đáp lời nguyện hóa độ vật. Ngài Kinh Khê nói: Hoặc bạc hoặc tận... là ba đối căn điều phục kiến và tư thì đều gọi là bạc địa, căn cứ xuất giả đầu tiên nên nói là tiêu phá. Lấy bỏ, có hai: a, chê xưa. b, nay giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Tất cả chúng sinh đủ pháp mười giới. Đây là từ thật lý mà nói ý đó. Đã nói mười pháp Không đồng. Đó là phàm, Thánh, sự, lý, nhân quả, hạnh vị đủ mười thứ. Mười giới, một trăm giới; tam thiên... đều ở một niệm. Nếu người phàm phu mê trung tam thiên, hoặc gồm Biệt Viên, nên biết thứ lớp cùng không thứ lớp, có trừ và không trừ. Nếu chỉ là Viên thì lý tánh tam thiên một mực không trừ. Cho nên nói mà pháp chẳng trừ. Nói bệnh trừ, là thứ lớp nên biết trừ bệnh chín giới. Còn không thứ lớp thì chỉ nói thể đạt (thấu suốt), vì thấu suốt là trừ, thô tế trước sau để phân ngôi vị thứ tự, thì không có tên các giới giảm bớt. Nói ôn thân... là ôn pháp thân chiếu hoặc ám thành hạnh thực, chiếu ám Bát-nhã thành món ăn giải thoát.
Mười hai nhân duyên cũng thế. Chỉ phá bệnh chấp, pháp đâu diệt trừ. Pháp ba đạo vốn là ba đức. Cũng như trị bệnh mắt, cũng là phần dụ, có thể dụ thứ lớp. Chánh hóa độ vật. Ngài Kinh Khê nói: Nay bảo đến vô minh thủ tướng. Vô minh nội giới gọi là thủ tướng. Truyền giải thích, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, có hai: a, giải thích ra khỏi gốc bệnh. Ngài Kinh Khê nói: Phan duyên quá khứ..., nhân là cội gốc của bệnh quả. Hiện tại, vị lai đều thế. Giải thích giáo hóa đoạn trừ, gốc bệnh tức là nội ngoại kiến, Niết-bàn tức nội, ngã tức ngoại. Đây tức là hai biên không, thì thường thấy Bát-nhã tức thấy thật tướng Bát-nhã. Tâm mạnh mẽ, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh kết thích: Không được pháp thí tuệ lợi là không tuệ ban bố tuệ. Bởi nói pháp thí là lợi về trí tuệ. Triệu sư nói: Nếu không thế thì chỗ tu hành kia trong chưa đủ tuệ, ngoài chưa đủ lợi. Sinh Công nói: Không có tuệ lợi đối với vật. Hai sư này cũng dùng trí tuệ mà giải thích nghĩa. Thí dụ làm sáng tỏ. Oan đọc bình thanh, Luận ngữ dùng thẳng chữ báo oán đều viết thế. Thuyết văn giải theo tà theo oán. Quán trung để điều phục bệnh vô minh, đoán nói nghĩa chỉ, nói quán bày ý. Luận tu vị thứ, bày vị thứ, ngài Kinh Khê nói: Tu vị quán này dựa vào giáo có ba thứ. Ngài Kinh Khê nói: Biệt giáo tiếp thông tám địa trở lên đều đối địa tiền, trụ tiền của Biệt Viên mới nêu Thông giáo, là muốn xuất vị biệt tiếp mà thôi. Bảy địa phá trần sa đến gọi nhãn kiến, là bảy địa tiếp đủ tám địa song lưu chín địa, nghe trung mười địa mới chứng, nên nói là nhãn kiến. Lại căn cứ một cách không cần phải toàn nhóm. Tùy ba căn nên đây chỉ thuộc bậc dưới Viên giáo, là tuy thuộc Thông tướng nhưng lại dùng giáo để phân Biệt Viên giáo khác hẳn cho nên dùng không quán phần nhiều đều thuộc thông, nhập giả thuộc biệt, nhập trung thuộc viên. Hoặc Viên tiếp biệt, hoặc viên tiếp Thông. Vì trong phương đẳng không phán quyết nhất định. Xin xem phần giải thích của ngài Kinh Khê. Đã dùng Thông tướng quán trung mà ước nghĩa viên tiếp, giải thích nghiệm ra không giả trước cũng là căn cứ Viên tiếp. Đây là đối giáo nên chưa luận. Nếu bảo không phải thế, đâu được nói rằng thông tướng thuộc Viên ư? “ Di biệt...” là phán quyết quyền thật. Hành sinh tu, nghĩa là hành Bát-nhã cho đến tu Bátnhã, rõ ràng như trước đã ghi.
Phân khoa chánh giải thích, có hai: a, phân khoa. b, chánh giải thích, nói trung quán, quán thể, tự quán. Nhân hai Không trước là không quán không sinh tử, giả quán không Niết-bàn nên gọi là hai quán không. Quán chúng sinh, tức là dùng nội quán trước mà trải quán khắp ngoại cảnh, tức ngoại là nội, đồng về lý một. Đây là đầu mối lớn của quán pháp mà một nhà ta gởi gắm vào đấy. Cho nên nghĩa chuẩn là nếu: Nếu muốn tu quán thì cầu nội tâm. Nội tâm nếu tịnh do đó tịnh tâm khắp trải các cảnh tức nội ngoại đều họp cả. Phổ Môn Huyền nói: Cảnh không ngoài hai thứ. Nội nghĩa là tức tâm mà đầy đủ, ngoại tức là chúng sinh và Phật. Bất nhị môn nói: Phàm cảnh sở quán không ngoài nội ngoại. Nói chung chỉ là tâm, Phật và chúng sinh của Hoa Nghiêm, ba thứ không sai khác. Niết-bàn hư không Phật tánh các pháp thật tướng của Pháp Hoa mà thôi. Cho nên kẻ học giả sơ tâm thể nhập nội ngoại chẳng hai, hiểu rõ ba thứ không sai khác như nghe mà quán lại không có cách khác. Cho nên nói khi tu quán này, thì không phải chỉ tự biết bệnh phi chân phi hữu, biết chúng sinh cũng thế. Đây tuy thông tướng có thể lệ vào nhất tâm. “Vì sao...” là dẫn bày giải thích. Chúng sinh đến sinh tử là chúng sinh sáu giới đọa vào phần đoạn tử, còn bốn giới chúng sinh kia đọa vào biến dịch tử. Vì Phật giới là nhân chung, nên biết rõ mười giới tức là ngoại cảnh sự tạo ra mười giới. Cho nên mình người đến vô minh là nhiếp ngoại quy về nội. Cho nên Bất Nhị Môn nói: Ấy thì ngoại pháp toàn là tâm tánh, cho nên nói đồng là chân thể... đã biết toàn chân thể là vô minh, tức là thấu đạt toàn vô minh là chân thể. Như biết nước tức là sóng, biết sóng tức là nước. Nhắn gởi người sau hiểu sâu ý này, liền có thể từ tâm bệnh hoạn mà tìm thấy giải thoát của chư Phật. Bèn biết tất cả pháp thú bệnh là thú không ngoài... mới biết một nhà ta quán cảnh bệnh hoạn thành bất tư nghì. Bậc thượng căn tức nhập sơ trụ, hoặc nội ngoại phàm, trung hạ cũng còn mê. Lại giả phát tâm đến không có pháp ái, mười thừa tuy khác, nhưng một tâm không khác. Gồm lý, không, giả, trung không khác hướng. Dẫu đám mê hoặc này tự hớn hở toan làm Phật thừa, thì ta cũng chưa tin được hái hoa phù dung ở ngọn cây, lấp vùi cỏ tiết cỏ lệ trong nước, uổng phí công phu trọn chẳng được gì. Xin hãy bỏ vọng chấp mà phản chiếu chân tâm. Ngài Kinh Khê nói: Bồtát quán chiếu... tức là bệnh của ngài Tịnh Danh cùng muôn vật lý đồng. Đã chuyên hậu tâm nghiệm biết tức là người vốn tu viên. Thành hai quán trước đã là trước sau. Tuy sau nhưng cũng nói là ba Không ba giả. Ba Không thì chỉ phá hoặc kiến tư, ba giả thì chỉ phá hoặc trần sa, mới hiểu sơ sài chưa thành thật ích. Nay ở trung quán nhất định không giả đều trung. Tới lui dần dà nương giáo chuẩn bộ khiến không mất ý chỉ. Phân biệt sai, có hai: a, phân khoa nêu bày. b, “văn đầu...” là tùy văn giải nghĩa, Dựa vào ái kiến đại bi. Ngài Kinh Khê nói: Đã phân biệt về quán trung, đây phân biệt về ái kiến. Tín ở sơ tâm chỉ là tu trung quán mà thôi. Cho nên vừa nói: Từ xưa đến nay cùng Bồ-tát ấy đều không phải hữu vô. Lại nói: Thuận đạo mà sinh ái (yêu thích) thì làm chướng việc nhập Bồ-tát vị. Bồ-tát vị tức là bậc sơ trụ. Cho nên biết ái kiến lại thuộc vô minh. Nói từ bi, chính là từ bi của hai biên. Nói như thế tức là chê vị hai biên khiến nhập trung mà thôi. Cho nên biết đồng thể kiến ái gọi là thuận đạo. Đoán bày nghĩa chỉ, chọn quấy bày thể. Trong văn trước là chọn quấy. Kế, “nay quán...” là bày thể. “ Đây...” là dựa vào thể bày hoặc. Nếu căn cứ chánh đạo, thì chánh đạo tức là trung đế. Tùy văn giải thích, Phân khoa, và tùy giải thích, chánh khởi ái kiến. Đảnh đọa như trước đã ghi. Giải thích đúng sai, phân khoa. Và tùy giải thích, trừ lỗi không mà có, do vọng tưởng nhân duyên hòa hợp mà có. Tâm tự tánh tức là trung đạo. Nếu dụng bi tâm tức là ái kiến bi. Hiển đắc. Và dẫn lời Phật làm chứng. Kết quán xả. Căn cứ thiền định, phân khoa. Tùy giải thích, phân biệt sai. Ngài Kinh Khê nói: Nếu tham trước căn bản hữu lậu... người đời nếu chỉ giải thích như thế, thì sao có thể giải thích được trung đạo thật tuệ. Tiểu thừa còn lìa đắm trước căn bản, huống là Bồ-tát?
Cho nên trong văn nay cho đến tiệm thâm là giải thích về các cõi (cõi). Nói về đúng. Dựa theo hai trí, phân khoa. “nêu...” là tùy giải thích, ước tu hành mà nói nhân hai trí, nêu chương, giải thích, nêu chung. Ngài Kinh Khê nói: Giải thích bốn chương môn trước. Tuệ tức là thật tuệ, phương tiện là quyền, cho nên phương tiện cùng thật giúp nhau mà thành. Thiếu một thì mất tất cả, cho nên cùng nói. Cho nên hai câu trước dựa vào quyền mà luận thật, luận quyền hữu vô mà nói thật phược giải. Hai câu sau là dựa vào thật luận quyền. Luận thật hữu vô mà nói quyền giải phược. Cho nên hai câu trên trang nghiêm... là quyền. Vì quyền không mà thật giải phược thì trái đây. Hai câu dưới gieo trồng gốc là thật. Thật không mà quyền giải phược thì trái đây. Tùy giải thích, giải thích không có phương tiện tuệ phược. Nói ba thoát môn là phải dựa theo Viên trung mà giải thích. Giải thích có phương tiện tuệ phược. Tiếp giải thích không có phương tiện tuệ phược. Ngài Kinh Khê nói: “Không tu thêm chân tuệ, chân là thật. Chính nói không thật nên khiến không quyền. Nếu đều phá cả thì quyền thật đều hiển bày. Giải thích có tuệ phương tiện giải, có hai: a, chánh giải thích. b, liệu giản đáp: ái kiến là thuận đạo mà khởi, ngài Kinh Khê nói: vì thuận thật đạo mà khởi ái, nên khiến thiếu phương tiện. Nên kinh nói không có phương tiện tuệ phược. Cho nên nói lấy tâm ái kiến mà trang nghiêm Cõi Phật.... Ba cõi đắm trước y chánh, kinh nói không có tuệ phương tiện phược. Cho nên nói, trụ ở tham dục tà kiến phiền não mà gieo trồng các đức đáp lợi vật...” là vì lợi tha mà lấy tên tịnh độ để thành tựu chúng sinh. Tự hành cầu thân Phật gọi là gieo trồng gốc các đức. Cho nên dẫn văn Kim cang luận để chứng thành hai nghĩa. Trí tập đến tịnh độ, đây là nói chân độ của chư Phật không có việc trang nghiêm quốc độ, chỉ có trí tuệ chân thật tập thức thông suốt. Ấy là tu tập trí vô phân biệt mà thấu suốt tánh duy thức chân thật. Đây là nói nhận lấy cõi Tịch quang. Thể Tịch quang bao dung gồm đủ ba cõi kia. Đây tức là thành tựu chúng sinh nên nhận lấy cõi. Tức không phải hình... tức là chánh trí chứng chân như, công đức vô lậu không có hình tướng đều làm trang nghiêm. Đây là nói cầu Phật quả pháp thân tức gieo trồng gốc các đức. Tổng kết. Căn cứ chân ứng nói quả hai trí, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, quán thân có thật bệnh và quyền bệnh, phân khoa: Trước, quán thật bệnh của pháp thân là thật trí. Ngài Kinh Khê nói: Quán pháp thân nên gọi là thật tuệ. Có thật bệnh nên cần phải quán vô thường. Cho nên biết cũng dựa đủ cả ba hoặc, mà tu trung quán thì cần phải làm quán ấy. Kế quán ứng thân quyền bệnh... có thể biết. Tùy giải thích, có hai: a, quán thật bệnh của pháp thân là thật trí, tức là việc không thật. Ngài Kinh Khê nói: Nói vô thường... các sự tức là sự chân như. Như thường chiếu. Cho nên đối trong sự thật bệnh mà trung quán thường pháp thân lý cảnh, nên nói đều “du”. Hai chim như trước đã ghi. Quán ứng thân quyền bệnh là quyền trí. Quán thân bệnh không lìa không mất, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, ước không lìa mà nói thật trí. Ngài Kinh Khê nói: “thân ấy bệnh ấy... là Bồ-tát tự quán thân bệnh thật bệnh, tức là ước thật tuệ để nói thật cảnh. Cảnh tức là thật thể cùng bi thật đồng nhau. Cho nên bi cùng sinh Không phải mới. Căn cứ bất diệt mà nói quyền trí. Ngài Kinh Khê nói: “Đối các chúng sinh khác lại đợi kẻ có duyên. Đạo quán song lưu, nêu ý phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, kết quán trước làm hạnh gốc, điều phục quán thành. Kết lỗi chánh giải thích. Kết thành bản hạnh. Chánh nói hạnh song lưu, phân khoa. Tùy giải thích, cùng nói hạnh song lưu. Riêng nói hạnh song lưu. Ngài Kinh Khê nói: Riêng nói hạnh song lưu, như nói việc qua ma phục ma chỉ là một biên mà không nói ma đồng ma một biên. Tuy chỉ một biên mà mặc tình đủ cả hai, nên ở ngoài một biên, cũng nói là song lưu. Lại như cầu Nhất thiết trí và cầu bất phi thời cũng chỉ là một biên đối đó mà thị hiện nhập giả mới là song lưu. Trở đi chuẩn mà biết không thể giải thích đầy đủ nửa. Không tùy giải thoát sinh Ngũ tịnh cư, tu tám giải thoát đầy đủ các thiền.
Hỏi: Vì sao không nói chẳng tùy thật báo nhập vô công dụng?
Đáp: giải thích chung vô hại, chỉ là văn lược bỏ. Căn cứ đạo phẩm mà chánh quán, ngài Kinh Khê nói: Tuy hành bốn Niệm xứ, mà là chánh quán tương ưng bốn chữ đều đứng đầu bảy khoa dưới. Chiếu tục mười Lực... là dùng lực nhìn sang lý, mười dụng đều tục chánh quán trợ đạo, đạo phẩm tất là chính, lại dựa vào không biên để đối với trợ, rộng phân biệt chánh trợ, đầy đủ như Chỉ quán ký. Đều khác Nhị thừa, là hai phá hai nhập vậy. Căn cứ hiện tướng tự tại nhập chân mà hay nhập tục, tức nội bí đại hạnh là nhập chân, hiện hình Nhị thừa là nhập tục. Phải biết đều dùng trung đạo chẳng sinh chẳng diệt làm chân, cho nên hiện oai nghi Nhị thừa mà nhập tục. Căn cứ y chánh, có ba: nêu bày, chánh giải thích, có hai: a, ước y báo kết thành tông Phật quốc. Ước chánh báo kết thành thể giải thoát. “Nếu các...” là chê xưa. Vì sao nêu văn kinh này. Hiển nhiên kinh này là nói y chánh ngoại giới, cho nên văn vừa nêu là đó. Chúng bấy giờ được ích.
---------------------------------
Là phẩm Bất Tư Nghì rộng giải thích về quyền bệnh,, nêu chung chương lớn, nêu chung phán quyết lại ý có phẩm Thăm Bệnh trước đây. Quyết tức khai quyết. Nghĩa trước đã lược bỏ nên khai quyết để nói rộng. “Năm thứ này...” là đối dưới để phân lại. “Nay lược...” là giải thích riêng phẩm này, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, nêu ý có phẩm. Ngài Kinh Khê nói: Thất trống của ngài Tịnh Danh đến chỗ biểu hiện. Không (trống) là biểu thị cho Tịch quang. Tịch quang cũng có bổn tích khác nhau. Thân ở thất trống là tích. Bổn nhân cảm bổn quả. Thân cũng có hai, so với độ có thể biết. Hiện bệnh biểu thị cho tích, cũng là dụng của tích. Lược giải thích bất tư nghì, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, nói ba đức giải thoát bất tư nghì, là trưng văn nêu chung, “hà giả...” là nêu kinh bày nghĩa. Bồ-tát trụ đây... tuệ là năng trụ, tánh là sở trụ. Chỉ là phần chân, cảnh trí ngầm hợp, hay khởi đại dụng. Cho nên có thể để núi Tudi trong hạt cải. Tu-di và hạt cải chỉ là y báo, mười giới y chánh còn ở một tâm. Trong một giới thì y báo lớn nhỏ nào ngại gì việc nhập vào nhau. Lớn nhỏ chỉ do tâm tánh. Tâm tánh mỗi mỗi đều dung thông. Cho nên đến phần chân thì có đại dụng này.
“Chỉ bốn...” là ước giáo chọn bày, nêu chung lược bày, ngài Kinh Khê nói: Bốn giáo đều nói lý ba thứ, hai thứ trước đều lấy lý chân đế làm chân tánh. Mỗi thứ đều lấy hai trí mà làm hai cái kia. Nhận được ý này trở về sau hai thứ tự sáng, dứt hẳn đối đãi, ba và một đối nhau. Nghĩa bất tư nghì mà có hai thứ, tức ba. Một đối nhau. Nếu trong huyền văn từ lý đối nhau, tức hai giáo trước là ước lý tư nghì mà luận về sinh vô sinh, hai giáo tuy là ước lý bất tư nghì mà luận sinh vô sinh. Nay dứt hẳn đối đãi đối nhau, trong bất tư nghì còn có giáo đạo. Đây dứt hẳn đối đãi. Nay trừ Biệt giáo. Thế nên cần lấy dứt hẳn đối đãi mà chọn. “ Nếu ba...” là dựa theo nghĩa chánh giải thích. Như ba giáo đã nói tức là đối đãi. Ngài Kinh Khê nói: “cùng ngoài ba đạo có ba giải thoát. Người viên ở ba đạo mà căn cứ, liền có thể biết, như văn đã rộng giải thích. Có tư nghì và bất tư nghì, là ba giáo lần lượt đối trên. Trên hay nghĩ dưới nên có tư hạ. Chẳng nghĩ trên là bất tư. Không nghĩ đến bất tư, thì ba đạo liền là ba đức, phàm Thánh lý một. Không phải chỉ dưới, không hay nghĩ trên, trên cũng không hay nghĩ dưới. Cho nên nói vô tư....
“Sở dĩ...” là rộng giải thích, Dựa ba giáo nói đối đãi nhau. “Nay nói...” là dựa vào viên dung nói dứt đối đãi, chánh nói. “ấy thì...” là kết bày. Ấy thì đến ba đạo, vì phàm Thánh lý đồng, nhân quả tánh một.
Dẫn ngài Văn-thù trong Bát-nhã, Phật giới bất tư nghì chứng dưới thì không thể nghĩ trên. Chúng sinh bất tư nghì, chứng trên thì không hay nghĩ dưới. Há chỉ không thể lấy tâm mà nghĩ, cũng không thể lấy lời mà luận bàn. Nói chung chỉ là viên dung diệu lý, không phải tâm miệng Thánh phàm có thể nghĩ bàn được. Nói bổn tích y độ bất tư nghì, đối trước mà chọn bày. “nay nói...” là chánh nói dụng của tích, chánh nói đồng cư. Tập hợp ở một nước, ngài Kinh Khê nói: lại ở kinh này, nếu từ lý này thì cũng có thể trong một hạt bụi mà đầy đủ tất cả cõi. Cho nên Bất Nhị Môn nói: Trần thân cùng pháp thân có lượng đồng. Trần quốc và Tịch quang không khác. Thế thì mỗi mỗi trần sát là tất cả sát, mỗi mỗi trần thân là tất cả thân. Rộng hẹp hơn kém khó nghĩ bàn. Tịnh uế nơi chốn không cùng tận. Nếu không phải ba ngàn không giả trung thì đâu có thể thành được cái dụng tự tại này. “Nếu tích...” là kết so sánh hai cõi. Liệu giản, hỏi là lấy tên chung của kinh mà hỏi mục riêng của phẩm. Đã nói một tên giải thoát bất tư nghì thì các phẩm đều bất tư nghì, sao chỉ có riêng phẩm này? Đáp, có hai: a, chánh đáp. b, dẫn ví dụ. Nay phẩm này cũng thế. Tuy một kinh trước sau đều bất tư nghì, nhưng muốn tìm việc bất tư nghì thì phải ở phẩm này mà tìm. Do ngài Thân Tử nghĩ đến tòa ngồi, ngài Tịnh Danh mượn tòa ngồi. Do đó một mực nói rộng thần dụng bất tư nghì.
Vào văn nêu tích giải thích, có hai: phân khoa và tùy giải thích, Ngài Thân Tử vì chúng nghĩ đến tòa ngồi, Thân Tử sinh niệm. Ngài Tịnh Danh hỏi kinh. Vì sao, là lời trách chung cũng nói là vì sao lại nghĩ đến tòa ngồi.
Nhân giả...” là lấy hai việc khác nhau mà trách. Ngài Thân Tử đáp. Ngài Kinh Khê nói: Tức có ba lỗi: Trách lỗi trái tâm. Đây là nói lúc đáp. Song ngài Thân Tử xưa nay không phải toàn cầu tòa ngồi. Chỉ là trách hiện tại không hay quên thân mình. Lấy nghĩa cầu tòa ngồi để thành lỗi về thân mà trách. Nay trong dạ cầu tòa ngồi mà miệng bảo là vì pháp đâu không phải là tâm miệng trái nhau ư? Căn cứ pháp mà trách. Không xứng lý. Tức chuẩn theo giáo thừa thứ lớp từ trước đến nay vẫn chưa từng cầu Đại thừa. Tuy nói đã khắp khuất phục, lại nghe ngài Văn-thù khen ngợi khó đối đáp. Nhưng cũng chưa sinh lòng ngưỡng mộ Đại thừa. Việc tin biết lúc đó tuy nói là vì pháp, chỉ muốn thích nghe, nhưng việc làm vẫn còn là pháp Tiểu thừa. Đây đúng là trái lý mong cầu. Lỗi khởi ý nghĩ, chỉ đối Tiểu thừa còn có lỗi, huống là Đại thừa ư? Ngài Tịnh Danh chê trách, Dựa theo sự mà trách lỗi trái tâm. Dựa theo pháp mà trách lỗi không xứng lý, nêu ý phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, căn cứ ấm nhập ba cõi mà trách, tức còn chiêu cảm cái chết thô biến dịch. Phương tiện là thô, thật báo là tế. căn cứ Tam bảo mà trách. Chín bộ là pháp, vì Tiểu thừa đối mười hai bộ thì không có Phương quảng, Thọ ký, Vô vấn tự thuyết. Lại biết pháp gọi là Phật... ngài Kinh Khê nói: Ở trung hay biết tức nghĩa Phật, lìa tướng gọi là pháp. Tức hướng về thể sở tri thì toàn là pháp cảnh. Đã nói lìa tướng khiến biết không đắm trước. Vô vi là tăng. Pháp thể đã lìa nên được khắp hòa hợp. Nếu không hòa hợp là do pháp chưa lìa. Sự hòa còn thế huống là lý hòa ư? Dựa theo bốn đế mà trách, là nêu ý phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, trách há phân tích quán khổ. Phân tách phá ấm giới là phá bỏ thân. Giải thích nếu chấp sinh diệt thì có tranh luận. Nghĩa là ở lý sinh diệt mỗi người chấp một môn gọi là tranh luận. Riêng căn cứ bốn đế mà trách, có hai: a, nêu ý phân khoa. Khoa lại giải đến riêng trách, tức là ngài Thân Tử lợi căn trách chung đã ngộ, nhưng ngài lại chưa ngộ, nên đợi dùng lời riêng mà trách thì mới ngộ. Đây chỉ là thẹn tiểu mến đại, được ích sinh tô mà thôi. Tùy văn giải nghĩa, khổ, ngài Kinh Khê nói: Nay làm sinh diệt, thì sinh diệt ngoại giới cũng là sinh diệt nội giới, mà trách ngược lại. Tập, là tập báo hai nhân mà thành. Chỉ là hoặc nghiệp tập họp hay chiêu dời quả khổ, nên gọi là tập. Phàm nói tập đế thì đại tiểu hai thứ khác nhau. Tiểu thừa thì căn cứ hoặc nghiệp, Đại thừa chỉ căn cứ có hoặc. Trong Niết-bàn Thánh hạnh chỉ lấy ái làm tập. Vì trong các hoặc, thì tham ái thường lôi kéo sinh tử nhất. Dưới dẫn chín dụ tức nguyên văn. Tập nhân đến ước nghiệp. Có người bảo tập nhân thì căn cứ tâm, báo nhân thì căn cứ sắc. Sắc tức thân khẩu, nói chung là ba nghiệp. Nay nói báo nhân dựa vào nghiệp thì chung cả ba nghiệp. Ý nghiệp cùng phiền não sao lại riêng khác. Đúng là ba cõi tương ưng cùng thân khẩu thì gọi là nghiệp, không tương ưng với thân khẩu thì gọi là hoặc. Do đây mà phân biệt, thì báo, tập tự khác. Ái có chín thứ, theo văn phẩm Thánh Hạnh:
1. Như chủ nợ dư tiền của, có người nghèo thiếu nợ, trả chưa xong thì vẫn còn bị giam ở ngục. Nhị thừa cũng thế, vì có ái tập nên không được Bồ-đề.
Như vợ là quỉ La-sát, hễ sinh con thì ăn thịt, tức ái La-sát ăn con thiện căn.
2. Như cành hoa đẹp có ẩn chứa rắn độc. Tức phàm phu ham hoa ngũ dục mà không thấy rắn độc ái, chết rồi đọa ba ác đạo.
3. Như thức ăn độc, ăn vào thì chết. Tức thức ăn ái, ăn vào thì đọa ba ác đạo.
4. Như dâm nữ cùng kẻ ngu thông dâm. Dâm nữ nịnh nọt gạt gẫm lấy tiền của rồi đuổi đi. Dâm nữ ái đoạt tiền của thiện pháp rồi đuổi đi vào ác đạo.
5. Như hạt dây leo Ma-lâu-ca bị chim ăn, phóng uế liền mọc thành cây, quấn chặt cây Ni-câu đến chết khô. Ái quấn chặt thiện pháp cũng thế.
6. Như sâu ăn thịt trong ghẻ nếu không trị tất phải chết. Kẻ phàm phu năm ấm như ghẻ, ái như sâu ăn thịt, nếu không trị thì chết đọa vào ba ác đạo.
7. Như gió bão đè rạp cây sơn bạt, gió dữ ái cũng thế. Nếu đối cha mẹ hay sinh ác tâm thì có thể đào tung gốc Bồ-đề đại trí Xá-lợi-phất.
8. Như sao chổi, khi sao chổi xuất hiện thì thiên hạ đói khát. Sao chổi ái cũng thế. Khiến người bị khổ sinh tử.
Phàm phu làm thế đế... giải thích là tâm hạnh đối cảnh như trên. Tâm tức tâm phàm phu, tâm Nhị thừa. Cảnh tức thế đế, chân đế. Mỗi người do tâm hạnh đối cảnh mà thành nghiệp nhân, nên chiêu lấy khổ nội ngoại. Diệt, tức có bảy thức. Ngài Kinh Khê nói: Đây không nói nội chấp tiểu giáo. Đã lấy diệt đế, tức là bên trong còn chấp danh tùy tướng mà sinh thức. Tiêm sư nói nội chấp là lấy thức thứ bảy chấp kiến phần của thức thứ tám làm nôi ngã, chấp thức thứ sáu... làm ngoại ngã, nên nói là nội chấp. Vì Tiểu thừa lấy tướng diệt đế, nghĩa đúng là thứ thứ bảy. Bốn đạo cũng gọi là Phật. Vì có nghĩa giác nên đây căn cứ tên chung để nói. Trách khởi niệm có lỗi bỏ đạo pháp. Thiên tử được pháp nhãn tịnh, ngài Kinh Khê nói: Nay suy văn này... là quán trách bốn đoạn kinh văn không có tướng Biệt Viên, mà phần nhiều là giống thông. Lại chê trách tiểu không phải chỉ thông, cho nên biết chỉ là dùng trung mà nhập không. Cho nên khiến người nghe cũng được pháp nhãn tịnh Tiểu thừa, tức ở vị đoạn kiến.
Ngài Tịnh Danh mượn tòa ngồi, có hai: a, nêu ý phân khoa. Tùy văn giải nghĩa, có sáu: a, ngài Tịnh Danh hỏi. b, ngài Văn-thù đáp. c, dùng thần lực mượn tòa ngồi. Ngài Kinh Khê nói: Nếu chuẩn văn dưới... văn dưới là thành hạnh song lưu của Bồ-tát cõi ấy. Nên trước cần nói trắng ra cơ ấy có ý muốn đến. Bồ-tát ấy hỏi tức trước phải sai hóa Bồ-tát đến nay không có việc này nên cần khiến nghĩa khắp. Phật Đăng Vương dời tòa. Ngài Kinh Khê nói: Tức biểu thị cho cõi quả báo. Hỏi sao không nói ba cõi kia?
Đáp: Cõi quả báo đã đủ ba, đâu cần phải nêu riêng. Huống là nhỏ hay dung nạp lớn còn ở trong một hạt bụi. Đại chúng khen kính. Mời chúng đến tòa ngồi, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, có hai: a, mời ngài Vănthù... đến tòa ngồi. b, người có thần thông lựa đúng tòa mà ngồi. c, người mới phát tâm đều không thể lên ngồi, có hai: a', phân khoa. b, tùy giải thích, có năm: a, kẻ mới phát tâm đều không thể lên ngồi. Mời ngài Thân Tử đến ngồi. Ngài Thân Tử từ chối vì không thể lên ngồi được. Ngài Kinh Khê nói: Thân Tử và các... Thân Tử nội tâm chưa chứng lý này. Tòa ngồi của Phật Đăng Vương do chứng mà thành. Ngài Tịnh Danh cũng đã chứng nên có thể mượn được, còn ngài Thân Tử chưa chứng. Chỗ chứng của hai người xứng hợp lý sự, sự cao thì khó thể lên ngồi. Chính do sự tức lý cao rộng, cho nên khiến sự không lý thì không lên ngồi được. Vượt qua tất cả phương tiện ngoài lý nhân sự. Cho nên khiến họ đều không thể lên tòa. Do đó người mới phát tâm cũng không thể lên. Bồ-tát không phải một loại nên so đây mà phán quyết. Cho nên sắp ngôi vị các hiền lần lượt không đồng. Người mới phát tâm của Biệt Viên còn chưa kịp, huống là người mới phát tâm của hai giáo trước. Ngài Thân Tử tuy là hậu tâm của giáo trước nhưng vẫn là Tiểu thừa, nên cần phải đảnh lễ tòa. Khi đã được gia bị cho, thì sẽ lên ngồi nào khó gì. Khiến đảnh lễ Phật Đăng Vương. Ngài Kinh Khê nói: “Tiểu thừa nên quy hướng... đây là trong số bị chê trách cũng được lợi sinh tô, nên mời lên ngồi ý dự định biểu thị sẽ lên sau, nên đến thời Pháp Hoa thì đều lên rốt ráo. Có đảnh lễ thì mới lên ngồi được. Nói thần dụng bất tư nghì, có hai: a, phân khoa. Và tùy giải thích, nói ngài Thân Tử thấy thần dụng này thì khen ngợi chưa từng có. Chỉ dài bảy ngàn do-tuần. Tiêm sư nói: Thắng Thiên vương Bát-nhã nói: Đất cõi Diêm-phù-đề ngang dọc bảy ngàn do-tuần, phía bắc rộng phía nam hẹp, mặt người ở đó cũng giống hình đất. Khen chưa từng có. Là từ kinh Phổ Tập đến nay chưa thấy dấu tích đó. Ngài Tịnh Danh đáp: nói rộng chư Phật Bồ-tát có thần dụng lớn, đoán nói nghĩa chỉ, nêu ý phân khoa. Nay Tịnh Danh đến giải thoát này, tức là Đẳng giác phần trụ, không phải trụ rốt ráo. Hiển thành quyền bệnh, đối trên giải thích thành, nêu bày. Hà giả trở đi là chánh giải thích. “Sở dĩ...” là kết bày ý nay, “trước nói...” là tùy văn giải nghĩa, căn cứ Phật Bồ-tát hiển bày thể bất tư nghì. Ngài Kinh Khê nói: Trước nói chư Phật Bồ-tát... nếu nói về lý thì chúng sinh cùng chung. Đã nói chư Phật và chư Bồ-tát thì đã chứng lý bất tư nghì. Văn dưới lại nói: Nếu Bồ-tát trụ ở giải thoát ấy, thì tức là đã khế lý chân tánh. Nghiệm chỗ khế trước cũng là chân tánh. Khi trí cảnh hợp nhau thì lý phải có hai. Đây bèn tu tánh hợp luận, nên chân tánh chỉ có một. Căn cứ Bồ-tát trụ trí bất tư nghì. Trụ trí bất tư nghì... là nếu không phải sơ tâm thấu suốt một niệm đầy đủ cả ba ngàn thì đều gồm không, giả, trung tự tha cùng biến khắp, thì phần chân thật tuệ do đâu mà khai phát. Nhắn lời kẻ học sau cần nên dụng tâm thêm nhiều. Xưa Thái thú ở Cối kê là Mạnh Khải thờ Phật tinh chuyên. Tạ công gọi ông bảo rằng: Được đạo cần nên tu tuệ nghiệp ông sẽ sinh lên trời trước Linh Vận, nhưng thành Phật thì phải sau Linh Vận. Khải rất hận. Nên một ngày ba lần xả thân mà không bằng thọ trì bốn câu, ấy là chỉ do tuệ nghiệp hay khiến ra khỏi sinh tử. Khi đã gặp bí yếu thì cần phải tu tâm, chẳng nên tụng lời khống mà mong được viên diệu, như loài két học nói ích lợi còn xa! Nói đại dụng bất tư nghì, nêu ý phân khoa, sơ nhất...” là tùy văn giải nghĩa. Riêng lược nói về dụng bất tư nghì, cất chứa núi biển đối nhau, chánh giải thích, giải thích hạt cải chứa núi Tu-di, bày chung nêu vấn nạn. Có sư...” là giải thích nghĩa xưa nay, bác xưa mà giải thích. Chuẩn theo Niết-bàn huyền nghĩa giải thích xưa về hạt cải dung chứa núi Tu-di, gồm có bảy nhà. Nay sớ lược bỏ, chỉ nêu ra hai nhà:
1. Nói do thần lực mà được như thế. Đây là lấy có tác ý thần thông để giải dụng bất tư nghì, nên bị nay phá. Cho nên nói thần lực sao được thế. Nếu hiểu vô tác diệu tánh vốn tự dung thông. Phàm phu mê nên không phải hạn cục mà hạn cục thì lớn nhỏ có chất ngại. Thánh nhân ngộ nên không phải khắp mà biến khắp, nên núi và hạt cải dung nhau. Do chứng lý thể mà có sự dụng này. Cho nên sự dụng này cũng gọi là thần thông. Tên cùng nghĩa dị đồng nhưng thể thì khác hẳn. Kế nói tướng nhỏ mà không nhỏ... đây nói hạt cải tự nó không có tướng nhỏ, vì đối với Tu-di nên gọi là nhỏ. Tu-di tự nó không có tướng lớn, vì đối với hạt cải nên gọi là lớn. Đã đều là hư giả đối đãi, do đó hư giả cùng tương nhập. “Nay bảo...” là nay phá. Tự tánh đã không tương nhập, tha tánh há lại tương nhập ư? Đối lớn gọi là nhỏ, đối nhỏ gọi là lớn, đó là tha tánh.
2. Nói giải thích nay, nói chứng lý thì có dụng, dẫn kinh lập chung. “quán...” là ước chứng giải thích thành, nhân chứng mà có dụng, một niệm tâm vô minh tức tâm Như Lai. Tức vọng mà chân, ba đế đầy đủ, gọi là tâm
Như Lai, đâu chỉ tức nhân mà quả, gọi là tâm Như Lai. Đó cũng tức tự mà tha gọi là tâm Như Lai. Thế thì tha sinh tha Phật còn tức tự tâm, huống lại tự mình y chánh đâu trái một niệm. Nên biết ngoài tâm không có cảnh, lớn nhỏ dung nhau, lấy tâm mà nhập vào tâm, ai nói là cách ngại. Tất ở sơ trụ thì diệu dụng mới hiển bày. Cho nên quán chúng sinh một niệm đồng nhau liền thông cả danh tự, quán hành, tương tợ. Nếu thấy mà nói thì chỉ ở phần chân và cứu cánh. Bổn cụ lý hiển gọi là thấy tâm này. Thần dụng vô cùng nên thường nhập vào hạt cải.
Việc này đã vậy, các việc khác đều thế. Chỉ ước vào một tâm không có đường nào khác. Thế nên quả địa diệu dụng đều ở nhân tâm, cho nên chỗ nhân tâm hiển bày thì diệu dụng vô ngại. Nên Ngài Kinh Khê nói: “Xưa giải thích phẩm này tùy sự mà nói nhiều chưa phải là ý chỉ của kinh. Nay sớ một lần giải thích về dụng bao trùm cả mười đôi bèn khiến các sư xưa nay cùng khoanh tay chấp nhận. Nếu quán...” là kết bày chung. Nếu quán hai chữ chỉ ở sơ tâm được giải thoát của chư Phật. Được nghĩa là chứng được phần chung của cực quả. “Vì sao...” là chọn Thiên bày Viên. Tâm tánh Nhị thừa đâu từng không đủ tánh bất tư nghì ư? Chỉ do quay lưng với tánh mê mà thành mê, không hạn cục mà hạn cục. Cho nên Pháp Hoa mở rồi không ngoài một đạo. “Ngôn kỳ...” là người có cơ duyên mới thấy, chọn bỏ không cơ. Hiển bày có cơ, nói có thần lực gia bị. “nếu hay...” là nhân thấy mà nhập vị. Ắt được diệt độ của Như Lai, là phần chứng và cứu cánh. Sợi lông chứa nước biển cả. Kinh nói ngoan đà. Ngoan, Tam Thương nói nó giống con ba ba mà lớn hơn. Kỷ Niên Chí nói: Năm thứ mười bảy, Mục Vương dẫn quân đến Cửu giang dùng con ngoan làm cầu. Đà, Tam Thương nói: Nó giống con giao mà lớn hơn. Sơn Hải kinh nói: Giang thủy Túc đà, Quách Phác nói: Nó giống con rắn mối mà lớn hơn, dài một trượng, da có vảy dùng để bịt trống. Thế giới đi về đối kinh đọc âm đoạn là đoản. Đào Gia, Thương Hiệt thiên nói đào là thợ làm đồ gốm.
Kéo dài và gấp rút đối mặt trời. Lý kia đây đối với độ “cõi”.
Cúng đủ ba đối với ánh sáng. Hút gió trong đối với lửa.
Thế giới trên dưới đối nhau.
Hiện thân biến tiếng đối nhau, có hai: a, nêu hiện văn. Trong kinh nói hiện thân là phải hiện đủ mười giới, lược bỏ chỉ nêu bốn Thánh và nhân thiên mà thôi. Ở bốn Thánh lại thiếu Bồ-tát, vì chính nói Bồ-tát giới mà hiện các thân. Cho nên biến tiếng liền thông cả mười giới và Đại Tiểu thừa. Tìm đọc kinh có thể thấy. “ Trên đến đây...” là chỉ chung lệ trước. Giải thích khen ngợi xong liền lược nói. Khiến người tìm đọc, là không quên tâm tánh. Đại luận quyển năm mươi mốt có nói: Chư Phật có hai cách nói pháp:
1. Trước tóm lược sau rộng để giải nghĩa.
2. Trước rộng sau tóm lược để nhiếp trì.
Nay sớ y theo trên mà lược bày chính là để nhiếp trì. Nói rộng chung về dụng bất tư nghì. Ngài Ca-diếp khen kính, phân khoa. Tùy giải thích, ngài Ca-diếp khen kính. Bảo ngài Thân Tử đây là việc đáng khen ngợi, phân khoa. Tùy giải thích, Tiểu thừa nghe không thể hiểu. Ba căn vô lậu, là khi chứng ba đạo thì ắt phát ba căn:
1. Vị tri dục tri căn, tức Kiến đạo.
2. Tri căn tức Tu đạo.
3. Tri dĩ căn tức vô học đạo Đại thừa.
Vì bậc Sơ địa là kiến, từ Nhị địa đến Thất địa gọi là tu, Bát. Cửu, Thập địa là Vô học. Lấy Biệt nhìn sang Viên phân định trụ thì cũng thế. Ngài Kinh Khê nói: Tức dùng trụ tiền đối với đăng trụ là đạo vô lậu. Nhìn sang tiểu mà so sánh định đoạt cũng có thể thấy được. Pháp nhãn căn hoại, là đối sự mà luận, thì không thể cùng tận lý rốt ráo. Phải nói là Phật nhãn căn hoại. Tuy lại nghe nói không thể phát thức, tức là không thể phát đạo chủng trí. Khuyến người trí phát tâm trừ chánh vị, nghĩa là Thánh nhân Tiểu thừa. Tự trách Thanh văn không có phần. Ngài Kinh Khê nói: Tất cả Thanh văn là chuẩn theo đây. Cũng là Phật và đại Thánh Tịnh Danh gia bị nên mới có lời nói này. Cho nên nói Ca-diếp có ý này... Mừng Bồ-tát được lợi, mừng khuyên đảnh lễ thọ trì. Nói trụ pháp biết ma, tức biết ma là huyễn, do thấu suốt ma giới tức là Phật. Thời chúng được lợi ích. Ngài Tịnh Danh thuật thành, phân khoa. Giải thích, kể ma không thể phá hoại. Nói trụ bất tư nghì Bồ-tát hay thành tựu hạnh người, pháp như Pháp Hoa đến sở thành. Kinh ấy nói: Do Đề-bà-đạt-đa làm Thiện tri thức khiến ta đầy đủ sáu Ba-la-mật, cho đến thành đẳng chánh giác, rộng độ chúng sinh. Cho nên biết đời đời não hại, khiến hạnh càng bền chắc. Pháp Hoa phát tích gọi chung là Thiện tri thức, không phải chỉ nói lúc làm tiên A Tư. Cho nên nói luôn như Điều-đạt giúp thành. Kinh nói kha bối, là ốc ngọc kha trắng muốt như tuyết dùng để đeo quanh ức ngựa. Thí kinh nói long tượng “rồng voi), tức gọi voi là rồng. Cũng như ở Trung Hoa ta gọi rồng là ngựa vậy. Chu quan nói: Ngựa dài tám thước trở lên gọi là rồng, bảy thước trở lên gọi là lai, sáu thước trở lên gọi là ngựa. Triệu sư nói: Trên loài voi gọi là long tượng. Nếu theo Đại luận văn giải thích khen đức gọi long tượng là hai loại. Rồng là con vật lớn ở trong nước. Voi là con vật lớn đi trên đất. Cho nên biết hai giải thích đều thông. Xúc đạp, nghĩa là lấy chân đạp ngược lại thì gọi là xúc. Đạp là giẫm đạp. Cuối cùng là hợp.
--------------------------------
Bốn phẩm sau rộng giải thích về thật bệnh, có hai: a, nêu chung bày chương. b, y chương giải nghĩa, nói ý có phẩm này và ba phẩm sau, nói ý có, căn cứ phẩm Bất Tư Nghì mà nói ý có phẩm. Sở dĩ lại nói việc có phẩm trước là muốn khiến văn sau nối tiếp theo không rối loạn. Văn có hai: gần thì đối phẩm Thăm Bệnh mà thành nghĩa quả cao tột, tức là thành hai chỗ quả dụng xa gần. Gần để làm lời cho văn sau. Tiêm sư nói: Chỉ là duyên với thắng dụng khó nghĩ bàn, thì biết là quả chứng rất sâu xa, cho nên nói thành nghĩa quả ở trên. Bệnh nhân duyên lợi vật bất tư nghì, nhân duyên chỉ là cảm ứng, hoặc nhân Thánh mà duyên phàm, hoặc nhân phàm mà duyên Thánh. Nhân thân thiết, duyên sơ sài, nghĩa như thường luận. Hoặc nói cảm ứng, thì cảm nhất định là ở phàm, ứng nhất định là ở Thánh. Cho nên biết chỉ ước tám đôi mà nói dụng bất tư nghì tất cả đều là bệnh lợi vật. Xa là đối phẩm Phật Quốc. “Căn cứ...” bốn phẩm là nói ý đến, lược bày, ngài Kinh Khê nói: “Gồm thành bốn phẩm ngoài thất, lý cần gồm nửa phẩm Phật Quốc. Tổng luận chung nên nói là bốn. Cho nên phương tiện ba thứ dưới chính là ba quán. Phẩm Phương Tiện căn cứ pháp được dùng phần lớn là thuộc không. Các đệ tử và Bồ-tát ước pháp hay chê trách, mà đệ tử phần nhiều đều thuộc giả, vì Bồ-tát phần nhiều đều thuộc trung. Phật quốc thì đủ ba. Ba quán đã thế thì bốn giáo chuẩn đó mà biết. “Phần này...” là giải thích rộng, gần là thành việc thăm bệnh để điều phục và ủy dụ, gồm nêu bày và giải thích, phẩm này thành việc từ giả vào không ở trên. Ngài Kinh Khê nói: Mà nói là thành, tức là giải thích thành. Trên nói về không, đã không tất cả, tức là đều không. Cần phải đủ cả giả trung mà chỉ nói không, thì đây có hai ý: 1, Là khai thông đường chiếu rỗng suốt ba đế, tuy ba mà không. 2. Là do ở giáo Phương đẳng tuy ba mà thông, cho nên khiến thông tướng lại khác thứ lớp, chưa phải là hiển riêng một mình, chỉ là biết chung. Nếu thế thì thông còn chưa rõ ràng, huống là nay ở không mà thêm bốn vô lượng và rộng như trên... nên nói là có khác một ít. Thế nên nay dùng phẩm thứ ba giải thích phẩm Quán Chúng Sinh trên. Trung có giả trung, nên nói dựa theo không mà khởi bốn vô lượng, có nghĩa phải giả quán gồm cả không trung, nên nó là ước không. Nếu chuẩn theo văn này thì cùng tột được nguồn gốc chúng sinh, nghĩa ở trung mà ý ở không trung. Ngài Tịnh Danh đáp... nguồn tức là nguồn gốc vô trụ, còn đến vô trụ há chỉ là không ư? Phẩm Phật đạo thành việc từ không vào giả ở trên.
Ngài Kinh Khê nói: Kế phẩm Phật đạo đã luận giả trung, mặc tình biến thành giả trung bất tư nghì. Trong văn tuy không nói rõ ràng nhưng đạo lý là thế. Tuy nhiên ở đây là từ ý chỉ của giáo. Vì nói hiển cơ nên cần phải nương nhờ Phương đẳng. Cho nên phân ba phẩm để thuộc ba quán. Hai phẩm Bất Nhị và Hương Tích thành trung đạo trên. Ngài Kinh Khê nói: Như bệnh ta... là thường thấy bệnh này đồng thể với không. Cho nên trung song phi, bệnh cũng song phi. Vì phi tục nên phi hữu, vì phi chân nên phi vô. Đây chính là nghĩa trung đạo vậy. Xa thành bốn phẩm ngoài thất, chánh thành ba phẩm, phẩm này thành phẩm Phương Tiện trên. Phẩm Phật đạo thành phẩm Đệ Tử trên. Phẩm Bất Nhị và Hương Tích thành phẩm Bồ-tát trên. “ Nay được...” là giúp thành Phật quốc. “Bốn thứ này...” là nêu phẩm phân chương.
Lược giải thích tên phẩm này, gồm sinh khởi giải thích chung. Ngài Kinh Khê nói: Tự cùng tha... trước phải hiểu rõ tâm thì mới biết được chúng sinh và Phật. Trước đã hiểu rõ như thế, thì sau này khi chiếu chỉ chiếu một bên, nhưng đều đầy đủ cả ba. Nên nay chỉ nói quán chúng sinh mà thôi. Ý này chính là hiển bày không và trung. Cho nên trước dẫn kinh Hoa Nghiêm tự tha cùng hiển. Rồi y Phương đẳng mà lại theo thông cho nên giải thích quán, hiểu rõ quán, xuyên suốt văn, đều không cả ba đế. Từ bi tiếp vật, vật tức chúng sinh, vì từ vị tha nên quán tha. Pháp lợi tha chỉ bốn vô lượng tâm.
“Quán dĩ...” là phân chữ giải thích riêng, cùng nêu. Ngài Kinh Khê nói: Nói quán xuyên suốt, là không nương chỉ quán mà xuyên suốt. Chữ quán (rất cùng nghĩa với chữ quán), họ dùng chữ để giải thích chữ. Cùng giải thích, chúng sinh và Phật luận chung. “Tục đế...” là căn cứ ba đế mà giải thích riêng. Bồ-tát chiếu liễu, ngài Kinh Khê nói: Ước người lợi căn từ đây được nhập. “Cho nên Đại kinh...” là búa bén chặt bỏ.
Đá tảng, cát, sỏi đối dụ ba hoặc như trong quán xuyên suốt.
Hỏi: Quán đạt, quán xuyên đồng dùng dụ này, vì sao lại luận khác?
Đáp: Hiểu rõ ba hoặc một tâm, đó là nghĩa quán đạt, mà phá hoặc trước sau là nghĩa quán xuyên, đều là lý quán trung, như đến lớp kim cang. Thế thì quán đạt căn cứ ngang, quán xuyên căn cứ dọc, ngang dọc tuy khác nhưng ba hoặc không khác. Cho nên Đại kinh một dụ hai chỗ đều thông dụng. Quán xuyên, Dựa vào phá hoặc hiển bày nghĩa. Dẫn kinh Pháp Hoa để chứng thành. Ngài Kinh Khê nói: Cho nên Pháp Hoa... là tuy dùng ba Không nhưng chỉ là mượn thí dụ của kinh Pháp Hoa ấy. Dụ người ba căn quán chúng sinh, nhập ba đế không. Song nay thấy lý trung cùng Pháp Hoa... là gồm căn cứ bộ Tiểu thừa làm không bằng nhau. “Cho nên nhập...” là cùng kết. Chúng sinh ba thứ dựa vào ngang. Kiểm xét tận nguồn cội là dựa theo dọc. Giải thích chúng sinh, nêu tên lược bày. Ngài Kinh Khê nói: Nói chúng sinh..., chữ quán có hai hướng. Giải thích chữ quán tuy gồm chúng sinh, nhưng chỉ là năng quán tổng quát mà nói. Nay giải thích riêng hai chữ chúng sinh. Chúng sinh tức là cảnh sở quán. “ Tỳ-đàm...” là nêu tông giải nghĩa, nêu chấp tông. Ngài Kinh Khê nói: Hai chữ chúng sinh đều ước vào các bộ Tiểu thừa để giải thích. Bộ thuộc Phương đẳng phải ở từ tiểu tông. Nếu ở Đại thừa thì chỉ luận về quán riêng, giải thích tên nào khác. Trong văn nêu ra bốn nhà:
1. Tỳ-đàm.
2. Độc Tử.
3. Thành Thật luận.
4. Phương Quảng Đạo nhân.
Trong đó Độc Tử và Phương Quảng là ngoại đạo dựa vào Phật pháp. Tự cho mình thông minh đọc kinh sách Phật mà sinh kiến giải. Độc Tử đọc Xá-lợi-phất, Tỳ-đàm tự chế nghĩa riêng mà nói: Ta ở ngoài bốn câu, cú thứ năm không thể nói trong tạng. Phương quảng đạo nhân đọc mười dụ của Phật tự làm nghĩa nói rằng: Bất sinh bất diệt như huyễn như hóa, không huyễn làm tông. Tỳđàm nói chỗ tạo thành chúng sinh là vì nắm giữ năm ấm mà thành chúng sinh, cho nên chúng sinh do giả danh tạo thành, năm ấm thật pháp là có thể thành cái thứ năm không thể nói trong tạng, tức ba đời và pháp vô vi là bốn câu. Ngã lìa bốn câu này nên nói là thứ năm. Ngã tức chúng sinh giả hợp gọi là chúng sinh. Chủ tể nên gọi là ngã. Do chủ tể nên giả hợp, do giả hợp nên chủ tể, kỳ thật là một. Đại luận phá đây, tức là phá Phương quảng. Lỗi ý Đại thừa (diễn), ngài Kinh Khê nói: Không có ba giả. Đó là Tiểu thừa lạm dụng tên Đại thừa mà không có ý chỉ đại nên có lỗi. “ Nay kinh...” là nói giải thích nay. Ngài Kinh Khê nói: Huống nay dựa theo diễn huyễn hóa vốn thông, thông ở Phật tánh trung đạo. Liệu giản, chọn lựa tà chánh. Ngài Kinh Khê nói: Chấp không hý luận... là họ chấp huyễn hóa phá tích pháp của người khác mà toàn là chẳng nhập không môn, huống lại nhập lý trung bất tư nghì ư? “Kinh này...” là hiển bày chánh. Đại kinh đến Niết-bàn là dẫn Đại kinh Đại luận để chứng trung đạo cũng gọi là chúng sinh. Sáu pháp, tức là năm ấm và chúng sinh. Nay nắm pháp tánh trung đạo để lập giả danh là Phật tánh không lìa sáu pháp. Đây cùng Đại kinh văn nghĩa có khác chút ít. Kinh ấy nói Phật tánh chân lý cùng sáu pháp là vọng sự, chẳng tức chẳng ly, cho nên nói sáu pháp chẳng tức, sáu pháp chẳng ly. Nay văn chỉ nắm năm ấm pháp tánh, chúng sinh giả danh gọi là chẳng ly sáu pháp. Dẫn Đại luận thì, pháp tức năm ấm, năm ấm thường gọi là năm Niết-bàn. Ở tột đỉnh mười giới nên không còn ai trên. Ngài Kinh Khê nói: Chúng sinh Phật tánh không lìa... không thông với trung mà làm thuyết này. Giải thích trong đây khác với các văn khác. Đây chứng ba đế đều ước chúng sinh, mỗi thứ đều không lìa trung đạo Phật tánh, vì Phật tánh cũng gọi là chúng sinh. Nếu đối cách chung chẳng tức mà nói, vì giả chẳng tức, cho nên tức là chân tục hai thứ chúng sinh. Nói chẳng lìa là không giả chúng sinh thể tức trung. Lại chẳng tức là ba thứ đều không phải “phi). Lại chẳng lìa ba thứ đều phải. Cho nên quán chúng sinh nghĩa thông tất cả. Đây tức ngài Kinh Khê lấy chung ba đế để giải thích sáu pháp. Đối văn có giống và khác, nhưng ở nghĩa vẫn thông.
Chọn lựa đại tiểu.
Hỏi: Như đại thứ năm... pháp có số nhất định, về đại thì chỉ có bốn trọn không có đại thứ năm. Nay quán chúng sinh vốn “không” có như đại thứ năm. Đã chỉ là không tịch vì sao lại hướng văn ước chân trung mà giải thích chúng sinh? Ngài Kinh Khê nói: Hỏi... là chánh ý muốn định ba đế tức không, cho nên lấy các cõi mà hỏi về quán. Ước quán không phải chỉ là đản không. Ở hữu cũng có không, giả, trung. Tuy chẳng có không ở văn biến dịch, nhưng nghĩa phải ở không của hoặc hai độ. Cho nên trong đáp thì dẫn Bồ-tát quán không mà lệ vào. Trong đáp thì trước chỉ dựa vào không phần đoạn mà đáp, sau dựa vào khắp không ba đế mà đáp. Đây tức hai phen nói thông ý kinh. Trước đã chỉ không phần đoạn, ngại gì lại ước chân đế mà luận chúng sinh biến dịch. Kế nói Bồ-tát ba đế đều không, thì kinh nói đại thứ năm... há chỉ dụ ở phần đoạn mà cũng dụ ở biến dịch vốn “không”. Cho nên được ước ba đế để giải nghĩa chúng sinh. Trước trong đáp có nói y chân đều bằng “đồng nhau). Phần đoạn tuy không nhưng biến dịch chưa không. Kế văn phân hai. Trước chọn bỏ Tiểu thừa còn chẳng quán. Niết-bàn không, Niết-bàn chẳng Không nên chịu biến dịch. “Nay nói...” là hiển Đại thừa, nói ba đế đều không. Ngài Kinh Khê nói: Lại nói đến cũng không là tin ba đế là không. Đã là dối giải tuy chưa thể thấy hoặc giả hoặc trung, nhưng thường phá bệnh chấp giả chấp trung. “Sở dĩ...” là chỉ rõ trung không. Do đó nói phá chấp dụng không. Ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ có lúc... không phải chỉ dối giải phá chấp mà thôi, cũng thường thật phá hoặc nhị biên. Không đồng với dối giải nên nói có lúc. Nếu không nhị biên tức là hiển bày trung đạo, cho nên nói không ở nhị biên. Nếu chấp... là phá người chấp hai quán, chấp trung đạo mà nói. “Một mực...” là hiển bày không tức ba đế, nói không là không phải đoạn diệt. Một tâm đầy đủ muôn hạnh, ngài Kinh Khê nói: Đây là nhân người nhập viên trung mà nói. Đã không giả đều không mà nhập trung không, trung không mặc tình đầy đủ muôn hạnh. “Cho nên...” ở cõi Vô sắc thì sắc chính dụ cho không trung đạo. Thế nên vừa giải thích chúng sinh được ước ba đế. “Phải biết...” là ở không mà đủ cả ba thứ, chánh giải thích đủ ba. Tuy đồng nhập không đến ba trí vậy. Ngài Kinh Khê nói: Nếu căn cứ vào tên thì khi chuẩn nhập không, chỉ có thể được tên Nhất thiết trí. Nhất thiết trí này lý nó đã thông, tức Nhất thiết trí này cũng thông ba đế. Như thế nhập không...” là kết thành thông tướng. Như phẩm này đã nói, không trung đã đầy đủ từ... ba nghĩa thì nghĩa phải ở giả. Xả bỏ đi thì nghĩa phải ở trung. Đây tức trong phẩm đã nói. “ Nếu không...” là kết quy về hai nghĩa. Đạt ngang xuyên dọc đều dựa theo ba đế. Chọn bỏ trung không, ngài Kinh Khê nói: ý hỏi thể trung cần lập sao lại cần không, lấy trung phá chân, vì thể trung lý cùng cực, lại đem pháp nào mà không trung ư? Đáp. Ngài Kinh Khê nói: Trong ý đáp thì thể trung tánh không, sao cần dùng không. Chẳng đồng không giả nên sự còn có trệ ngại, đầy đủ như văn trước nói. “Vọng chấp...” là nói cho nên biết không trung cũng là chấp kể. Phá kẻ chấp hai lý đều không. “Lại nữa...” lại giải thích nêu bày. Nếu lại... giải thích trung đạo trước không cần nguyên do lại không. Chỉ nói tánh tự nó là không không lỗi vô cùng cho nên lại nói.
Vào văn nêu giải thích, phẩm Quán Chúng Sinh nói từ giả vào không quán, phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Văn có bốn: Lại gia thêm vô lượng và cùng tột cội nguồn việc Thiên nữ tán hoa mà nói biệt hoặc, bèn biểu thị ba đế đều không. Hoa dính là lỗi không Tiểu thừa. sơ sở...” là tùy giải thích, chánh quán chúng sinh từ giả vào không, Văn-thù hỏi. Tịnh Danh đáp, có phân khoa. Tùy giải thích, ước như huyễn... mười dụ quán chúng sinh thế đế, có hai: a+, đoán bày phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Tự có thể tánh... tức tánh chấp kể. Cho nên nói tánh không..., nếu thể nhập giả tức thật, thể giả giả danh cũng có thật pháp, cho nên không có giả thật mới thấy được thật thể đều là huyễn có. Vì giả thật đều huyễn. Nói tùy lý, là pháp tánh lý tức là không, vì giả tức không, nên nói tùy lý. Lại quán giả này là giả lập tên chúng sinh xem là quán cảnh, nên nói là quán chúng sinh. “Đây...” mười ví dụ, chính là quán thật pháp khiến thành pháp Không, nên nói là quán chúng sinh. “Đây...” là giải thích trung muốn dung bốn thứ sau đồng như huyễn. Nên trước phải giải thích rõ về huyễn. Kế dùng bốn thứ này y cứ vào năm thứ sau mà dụ năm thứ sau. Tùy tình, là hỏi phẩm này tùy lý thông không, sao cần phải lập tùy tình năm dụ?
Đáp: Đã chấp ấm là thật, tuy cũng biết giả, nhưng giả chưa tức chân. Cho nên lập tùy tình để giúp tùy lý. Đối huyễn mà phán quyết nên thuộc tích pháp. “Sơ ngôn...” là tùy văn giải nghĩa, trong văn dụ như huyễn trước nêu dụ mà không biết... nghĩa là người bàng quan, kế do có hợp dụ pháp ở dưới. Bồ-tát dụ cho huyễn sư, vô minh dụ cho huyễn pháp, tự tha chúng sinh dụ cho huyễn vật làm người. Hoặc tức là phàm phu. Đây là dụ cho người bàng quan. Nay quán... là dụ tự biết là huyễn pháp “pháp huyễn hóa). Thế đế chúng sinh, là tuy biết vốn “không” mà không hoại bỏ thế đế. Ba giả rõ ràng như trước đã ghi.
Chín dụ khác, “như nước...” là giải thích, tùy lý. Bồtát tự biết..., ngài Kinh Khê nói: Thông tướng này không, chẳng quan hệ đến Nhị thừa. Tất cả đều phải nói Bồ-tát ấy chẳng phải trung này. Trung này lại lấy thể khác làm dụ. Cho nên lấy mặt trăng trên trời mà dụ cho vô minh. Nếu luận chánh ý là chính lấy lúc quán, đối với chỗ pháp tánh mà quán chúng sinh, tức thấy chúng sinh. Khắp ở pháp tánh cũng thấy pháp tánh toàn là chúng sinh. Cho nên trăng trong nước vốn tự không trăng. Nay với ý không trừ khiến tức ở chúng sinh mà thấy pháp tánh. Đây trở đi là ba dụ ý cũng chẳng đồng chỉ hơi nóng và ánh lóa hai thứ cũng hình như chẳng tức. Nay cũng ở hơi nóng mà quán ánh lóa, toàn hơi nóng là ánh lóa. Tám dụ của nhiếp Đại thừa cũng nương vào Lê-gia. Luận đã dụ khác, ý đồng với Phương đẳng, nhưng muốn thông viên thì đâu có cách ngại gì. Về danh nghĩa tám dụ như trước đã ghi. Giải thích tùy tình. Căn cứ đại thứ năm... năm dụ quán chúng sinh chân đế không có tánh nhất định. Ngài Kinh Khê nói: Tùy các dụ ấy nếu không, giả, trung giả danh rõ ràng, nên nói là không ngại. Như lông rùa... là tuy dụ lông sừng nhưng không đồng tam tạng, chỉ phá ngã nhân. Vả lại dụ về lông sừng, thật ra lông sừng cần đối huyễn để thấy không. “Vì không...” nên trung không cũng không phải cảnh khác. Nếu không liễu là theo lời trôi đi. Mất ba đế không thì lấy gì mà hợp dụ. Không có đạo lý này là kinh có số nhất định. Đại thì chỉ có bốn, cho đến giới chỉ có mười tám. Nếu nói đại thứ năm, giới thứ mười chín thì như nói rùa có lông, thỏ có sừng. Đây nhất định là không. Căn cứ như cõi Vô sắc... mà dụ chúng sinh trung đế, có hai: a, nêu chọn phi hữu phi vô. Phàm phu và Tiểu thừa cho là vô sắc, vô sắc nên phi hữu, Phật Bồ-tát thấy vô sắc là có sắc nên phi vô. Do đó sắc ở cõi Vô sắc có thể dụ cho trung đạo song phi hai biên. Mười bốn thí dụ sau lệ theo nói trên, có thể thấy. Không bằng như huyễn... là người huyễn và mặt trăng trong nước, tuy là giả dối nhưng không ngại có sắc, có thể nhìn thấy được. Cho nên không giống với đại thứ năm... là rốt ráo không. Do đó phân cụ có chân tục. Nay mười lăm dụ đều khác hai thứ trước, nên thuộc trung đạo. “ Như vô...” là chánh giải thích, dụ Sắc ở cõi Vô sắc, chánh giải thích Xá-lợi Tỳ-đàm, đây cũng là tiểu tông, tự nói có sắc. Song ở tiểu tông trọn dùng vô sắc, vô sắc là đó. Mà để nói có sắc là chẳng hiểu nghĩa. Cho nên trong Bà-sa, thì Tỳ-bàxà-bà-đề nói vô sắc có sắc. Như Dục-đa-đề-bà nói. Cõi Vô sắc không sắc nào là phải? Trong kinh Phật đáp có nói: Danh sắc duyên thức cũng phải có sắc. Lại các kinh khác nói: Tuổi thọ, sức ấm, thức ba thứ thường đuổi theo vô sắc. Đã có tuổi thọ và thức sao lại chẳng có sức ấm. Lại các Tỳ-kheo khác nói: Bốn ấm kia nói là thức có tới lui sinh tử, là không phải thế. Như từ Dục giới sinh Vô sắc giới, phải trải qua hai, bốn, sáu, tám vạn kiếp đoạn bỏ sắc, sau sinh Dục giới lại sinh sắc, khi nhập vô dư giới lại phải cùng hành tiếp nối. Muốn khiến không lỗi này nên nói cõi Vô sắc có sắc. Nói vô sắc đây là nương vào kinh nào.
Đáp: Kinh nói giải thoát vắng lặng hơn sắc nhập vô sắc, cho nên biết vô sắc. Lại nói: Sắc lìa dục, vô sắc thì lìa tất cả để nhập Niết-bàn, cho nên biết vô sắc hai thứ này vì sao thông, cái nào hơn? Nói không là hơn, nói có làm sao thông?
Đáp: Vì chưa liễu nghĩa.
Hỏi: Dẫn kinh vì sao thông?
Đáp: Cõi Dục thì có tên sắc, vô sắc thì không. Dục có ba pháp đuổi nhau, còn vô sắc thì không. Sắc tục luận, là bốn câu phân biệt là vô sắc nối sắc. Sắc nối vô sắc. Sắc nối sắc. Vô sắc nối vô sắc. Cho nên biết không lỗi. Nay do Tiểu thừa tự nói nghĩa có sắc để phù hợp với dụ nay, do đó mà dẫn. “Cho nên biết...” là kết hiển khác, kết nghĩa khác trước. Trí giả thấy không... đây là người lợi căn ở không mà thấy trung, chẳng Không tức trung đạo. “Đại phẩm...”, câu đầu là song phi hai biên. Có như thế tức trung đạo. Sự ấy không biết..., sự ấy tức là trung đạo. Không thấu đạt trung đạo nên gọi vô minh. Cho nên vô minh hoặc làm chướng trung đạo. “Lại trên...” là kết văn khác trước. Văn trước đã kết, đây lại lập chương. Biết là khác trước, cần dụ trung đạo. “ Đây đều...” là kết hiển thành trên. “ Như tiêu...” là giải thích mười bốn dụ kia, có hai: a, chánh giải thích các dụ như bẹ cây chuối, ngài Kinh Khê nói: Nếu dẫn Pháp Hoa không phải ý chuyên nay, chỉ căn cứ lúc Bồ-tát thông phương thuật ở tiểu tông, chưa có kiến này. Kế dẫn Đại kinh ý cũng đồng thế. Dùng ngầm ý mà chê bác, khiến phát thứ lớp ba quả. Dụ về đại ý cũng thế. Tiểu thừa cũng không có sinh tử ngoại giới. Tuy ở trong hội Đại thừa mà nghe thì cũng chưa thể tin do hiểu rõ. Bồ-tát Tạng, Thông còn chưa biết hết, vì giáo ấy ý nhập vô dư. Cho nên Bồ-tát được nhẫn, đây căn cứ Thông giáo mà nhập vô sinh. Như phiền não tập của Phật, chỉ là do ứng hóa Phật thị hiện có phiền não. Trong giáo Tiểu thừa cũng đã chỉ rõ. Cho nên chê Điều-đạt, trách Thân Tử. Chê Điều-đạt như trước đã ghi rõ. Đại luận nói: La-vân theo Phật đi kinh hành, Phật hỏi La-vân cái gì làm ốm gầy? La-vân đọc kệ đáp Phật rằng: Nếu người ăn dầu mỡ ắt được sức mạnh. Nếu người ăn tô lạc ắt được sắc đẹp. Nếu như ăn rau mè, tất không được mạnh đẹp. Bạch Đại đức Thế tôn ắt ngài đã tự biết. Phật hỏi ai là thượng tọa? La-vân đáp Hòa thượng Xá-lợi-phất. Phật nói Xá-lợi-phất ăn bất tịnh thực. Lúc đó Xá-lợi-phất nghe lời nói ấy liền nôn ra. Và thề rằng từ nay ta không nhận lời mời thọ trai nửa. Nay vì Phật chê nên có tướng sân. Ngài Kinh Khê nói: “Từ mù, là thấy sắc trở đi sự dụ có thể thông ở Tiểu thừa. Diệt độ thọ thân nghĩa cũng còn cách tiểu. Do đó mà hiện xuất không đồng. Dùng các dụ này phần nhiều ở Bồ-tát, nhưng cũng gồm Tiểu thừa mơ hồ muốn thấy. Võng tượng cũng gọi là du tượng tức hình dáng không rõ ràng. Diệt định đến nhập xuất, là do tâm bay nhảy giao động ở bên trong mà bên ngoài dứt xuất nhập. Vì tâm tưởng đã diệt mất nên dứt mất không còn xuất nhập. Như ngài Thân Tử bị nữ... tức bị Thiên nữ biến hóa. Như người diệt độ thọ thân, ngài Kinh Khê nói: Đây đã là diễn môn lại ở Bồ-tát, nhưng vẫn gồm chê tiểu mà có lời này. Lửa vô nhân, tức từ nhân duyên không thể được, nên nói là không nhân. Lại từ nhân sinh ra nên nói là lửa. Nay lời chú của bổn kinh nói là lửa không khói do dần dần đối đặt ra vì lửa từ nhân lầm ra chữ khói. Nên Triệu sư chú rằng: lửa tất phải có chất, nên biết chữ khói do người sau dối đổi. Ngài Kinh Khê nói: Từ trước nay các dụ hoặc nhân diễn môn hoặc dựa vào tiểu giáo. Vì dùng chung cả đại tiểu, bởi là do Phương đẳng các cơ xen tạp. Song các dụ này kinh văn một mực đều giống dụ không như sắc cõi Vô sắc, mầm thóc cháy cho đến lửa không nhân. Vì vô sắc nhất định là không sắc, thóc cháy nhất định là không nảy mầm. Văn sớ luôn hiển bày ý cũng có. Như dẫn Đại kinh nói Vô sắc giới có sắc và chế sữa vào lúa tiêu thì có thể mọc mầm. Cho đến gặp được củi tô dây dùi duyên nhau thì lửa sẽ có. Mới bày các dụ cũng có cũng không, xét kỹ văn sớ mỗi mỗi đều thấy rõ như thế. Dụ chúng sinh trung đế rõ như chỉ trong bàn tay. “Đây......” là kết bày giải thích nghi. Nói khởi vô lượng tâm mà lợi vật, gồm nêu ý phân khoa. Và tùy văn giải nghĩa, hỏi: Thì hữu vi... hữu vi là phần đoạn, vô vi là phương tiện tự thể quả báo, tức chúng sinh ba cõi, nên nói là ba thứ chúng sinh. Đáp, nêu ý phân khoa. Ngài Kinh Khê nói: Đáp về từ, tức là lợi vật ban vui xem là gốc. Nên biết vì nói pháp tức là lợi tha, tức nói lý ba đế đều không, ban niềm vui rốt ráo, cứu hết khổ tột cùng. Trong từ có đầy đủ các tướng trí đoạn Thánh đức. Cho nên nói hành tướng giúp bốn đoạn minh ích. Tùy văn giải nghĩa, căn cứ vì nói pháp này tức chân trí đức từ tức Như Lai... do vô duyên từ, mà thừa đạo như thật, lai thành chánh giác, nên nói từ tức là Như Lai. Vô duyên từ không bị hai biên buộc trói, nên nói là từ tức giải thoát. Đã không bị hai biên trói buộc nên gọi là trung đạo. Cho nên Như Lai... là tên khác của từ. Bách cú giải thoát. Bách cú tuy nhiều nhưng không ngoài ba đế. Như văn Niết-bàn sớ của ngài Chương An lấy ba đế phân làm bách cú. Tức là ba đức. Ngài Kinh Khê nói: Vô duyên pháp thân, pháp duyên Bát-nhã, sinh duyên giải thoát, và ba đế đối ba đức như thường nghe nói. Pháp Hoa nói tuy chưa được... tuy dẫn chung nó chính là chưa được chứng vô lậu trung đạo. Thất tức giải thoát, y tức pháp thân, tòa ngồi tức Bát-nhã. Đại kinh nói trước nương... là trước nương, tức trước nương thập tín, hai là nương vào Trụ, Hạnh, ba là nương vào Thập hướng, bốn là nương vào Thập địa. Nương tức là bằng vào. Sau khi Phật diệt độ thì có thể nương vào bốn hạng người này mà được giải thoát, nên nói người ấy thuyết pháp cũng có thể tin nhận. Nay dẫn nương đầu chưa phá vô minh vì chứng có bệnh. Hay biết bí mật tạng của Như Lai. Bí tạng tức ba đức. Đây tức quán hành tương tợ quán ba đức. Cho nên nói là thường biết. Đây cùng việc vào thất, hoa dính y... nghĩa đồng cho nên việc vào, dính, ngồi, biết... đều ước năng quán ba quán. Thất, y, tòa ngồi, tạng... tức sở quán ba đức bí tàng. Từ chung tức thất..., từ riêng tức riêng. Mà thất chung... tức tàng, tức chung mà riêng, tạng tức thất.... “Đây là...” là nêu kém để so với hơn. Tương tợ phần chân đồng gọi là có bệnh. Kém là tương tợ lợi sinh còn thế, hơn là phần chân hóa tha khá biết. Căn cứ đoạn đức. Ao thanh lương, thanh lương dụ này trích từ Đại kinh. Không cùng nội ngoại giới đến hợp, vì phiền não sinh tử tức Bồ-đề Niết-bàn. Cho nên tức sự là lý. Không sự có thể hợp “dụ” như tức sóng là nước không có sóng để hợp dụ nước. Nội ngoại tám gió, ngài Kinh Khê nói: Ngoại không có tám tướng, chỉ có trái và thuận chân trung không đồng. Cho nên cùng nội khác nhau. Ước Thánh đức, ngài Kinh Khê nói: “A-la-hán...” sáu câu bèn mượn đại tiểu nhân quả... các tên, tức viên từ thì đại tiểu nhân quả... tên nó có khác nhưng đồng nhập vào nghĩa từ vô duyên nhất thật. Cho nên cùng dùng giải thích vô duyên từ. Một tướng một vị, là mười giới chúng sinh đồng một tướng chân như. Bốn giáo khai hiển đồng nói pháp nhất thừa. Cho nên một tướng một vị tức là một địa sinh ra, một trận mưa mà thấm khắp. Đại phẩm... là dẫn bốn pháp kia đồng sáu câu nay.
Kia nói Bát-nhã, đây nói hành từ. Từ cùng Bát-nhã thể đồng mà tên khác. Tiêm sư nói: Đại phẩm quyển mười bốn nói: Này Tu-Bồ-đề! Thế nào là Bát-nhã Ba-lamật, là sự bất tư nghì cho nên khởi. Phật nói: nói về Phật pháp thì có Như Lai pháp tự nhiên nhân pháp và Nhất thiết trí nhân pháp. Này Tu-bồ-đề Bát-nhã của chư Phật là sự bất tư nghì khởi lên. Ngài Kinh Khê nói: Người trí tức là Tu-bồ-đề và các Bồ-tát, La-hán, ba tên đồng nhau. Cho nên dẫn Đại phẩm bốn sự để chứng sáu câu. Căn cứ các hạnh. “Có sư nói...”, ngài Kinh Khê nói: Là bác phá giải thích khác, đủ như văn trước. Nghĩa Bồ-đề đạo tràng pháp thí..., mỗi mỗi đều là độc đầu pháp môn. Chỉ mong muốn nương pháp tướng thứ lớp, vì trong một pháp mà gồm thâu tất cả. Cho nên tuy nhiếp tất cả, nhưng cần biến hành. Vì biến hành, cho nên lý cần khắp nêu. Nếu như thế, là có thể chỉ Đức Thích-ca một đời Phật pháp, và mười phương Phật pháp, hoặc y hoặc chánh ở trong tâm nhất niệm từ.... Nay thí đến phương tiện là lược nêu bảy tên, há dùng thầy xưa việc chuyên đối địa vị. Không trái tiếc, là không trái chúng sinh, không tiếc tiền của vậy. Sớ giải thích pháp thí đến con trí tuệ, nói không xan tiếc không xả, cho đến không trí không ngu, vì xan xả ngu trí đều từ tâm khởi. Đâu chỉ ở khởi pháp mà toàn hay khởi tâm, tâm tánh bất động, trung đạo sáng tỏ.
Bi, Văn-thù hỏi. Tịnh Danh đáp. Ngài Kinh Khê nói: Công đức lớn lao nhất há vượt qua khỏi Từ, lại đem Từ này mà khiến đoạn phiền não, nên nói là cùng chung. Phải biết rằng ở từ trước đã đủ cả bạt khổ (cứu khổ), mà lại nói Bi, là khiến biết tướng riêng, tức là đại Bi của nhà đại Từ. Sau là tâm Hỷ, Xả, đồng khác cũng thế. Hỷ, có hai: a, ngài Văn-thù hỏi. b, ngài Tịnh Danh đáp. Sau thì có hối tiếc, là quyền dùng tiểu pháp mà tế độ, không phải là bổn hoài của Phật. Sau phải bỏ quyền, nghĩa phải có hối tiếc. Cho nên dẫn Pháp Hoa để chứng thành nghĩa hối tiếc. Tâm hoài bảo... là hối tiếc ngày xưa không ân cần dạy dỗ, cho đến không dạy dỗ kẻ bỏ trốn. Giận con không biết ân nghĩa mà còn xa ta và theo kẻ khác. Trong hợp dụ Như Lai hối tiếc không còn ân cần khiến nhập tợ vị Viên giáo. Bèn khiến lui mất sự liễu giải. Giận kẻ vô tâm không hay siêng năng bền chí, luôn chạy theo mê mờ không phản tỉnh. Nên nói là hối hận “tiếc giận). Khi thời hạn giáo hóa sắp hết, không có người để truyền đại pháp. Khác nào người già không con nối dõi. Pháp bảo Đại thừa như người có nhiều tiền của.
Xả, có hai: a, Văn-thù hỏi. b, Tịnh Danh đáp. Tánh tướng thường trụ, tức có Phật khai ngộ cũng chẳng tăng, không Phật ở mê cũng không giảm. Không tăng không giảm, do đó mà thường trụ.
Hỏi: Tánh tướng có gì khác nhau. Vì xem tánh cũng như tướng. Như nước là tánh của sóng mà cũng là tướng sóng. Tất cả..., Đại kinh nói trong tất cả pháp trung đều có tánh an lạc, vì y chánh mười giới đều chỉ do tâm, vì đều là bổn cụ, đều là không trung, đều là khắp biến, chỉ là lý một không có đầu mối nào khác, đâu chỉ biết không cứu khổ không ban vui. Cũng có thể hiểu rõ loài vô tình thành Phật. Đại kinh nói thường hành Xả. Phải viết là tâm, chữ ấy là lầm. Kinh nói: phước hộ. Hộ là giúp. Chu dịch nói do trời giúp.
Lần ba phen lại tìm hiểu tận nguồn cội chúng sinh, là tùy giải thích, có hai: a”, bốn hoằng nguyện thành bốn Vô lượng tâm, nêu ý phân khoa: sáu phen tức là bốn hoằng thành bốn vô lượng vậy. Ngài Kinh Khê nói: Văn này cùng các văn kia có khác. Nếu chuẩn theo chỗ khác thì trong bốn vô lượng có thêm Hỷ Xả, nhưng chỉ cốt yếu nói từ bi mà thôi. Nếu không có Hỷ tâm thì ba đế không đầy đủ, còn nếu không có xả tâm thì bỏ các đế dễ sinh nhiễm. Cho nên biết tên nó tuy bốn nhưng chỉ thành hai thứ. Hai thứ này tức là bốn hoằng sử dụng. Tuy có pháp này nhưng nếu không thêm thệ nguyện thì từ bi không bền chắc, thì sao khiến tự tha đến được chỗ đó. Cho nên cần phải lập thệ, để chế phục Từ bi. Nay từ nghĩa này mà dùng bốn Vô lượng để đối với bốn hoằng. Pháp môn ly hợp không thể có một chuẩn nhất định. Tùy văn giải thích, hai phen thành Từ, thành tâm Từ ở trên. a, Hỏi: Ác duyên phá hoại ngăn trở.
Đáp: Hoặc như sáu niệm, tức niệm Phật, pháp, tăng, giới, thí, thiên. Niệm đầu đến trừ lo sợ. Tiêm sư nói đây là văn Đại luận, văn đó nói tu mười tưởng. Người sợ sệt nên khiến niệm Phật để trị lo sợ. Văn nay không chuyên dùng về niệm Phật, nên nói “hoặc như”. Ngài Kinh Khê nói: Hoặc như là không nhất định chuyên chỉ, nên nghĩa không phải nhất định. Tất cả cần phải tu niệm Phật Tammuội, chánh duyên với ba thân công đức của Như Lai. Như sáu niệm, là lập pháp đối trị để tu sự quán. “Chưa xưng văn nay...” là chánh giải thích. Từ đồng nữ, Tiêm sư nói: Như tâm luận có bảo rằng: Từ đồng nữ trưởng giả muốn theo bạn ra biển tìm châu báu. Đến xin mẹ đi. Mẹ bảo ta chỉ có mình con, sao lại bỏ ta mà đi. Mẹ sợ ra đi bèn ôm chân lại. Đồng nữ nắm tóc mẹ nhổ lấy một nắm. Mẹ bèn buông ra cho đi. Khi đến châu thì thấy có vành sắt nóng từ trên không trung rơi xuống đầu, bèn phát thệ rằng nguyện các khổ của pháp giới đều tập họp ở thân tôi. Do nguyện lực nên vành lửa rơi xuống. Do lòng từ nên khi chết rồi bèn sinh lên cõi trời thứ sáu. Do trái lời mẹ nhổ tóc mà thành tâm địa ngục. Phát thệ chịu khổ thay tức thuộc Phật giới. Song do biết khổ nên không khổ. Thấy chân tánh khổ mà thề chịu thay khổ, mới là Phật giới. Lại phán quyết công đức, có hai: a, hỏi. b, đáp. Đại kinh có nói... phát tâm là nhân, rốt ráo là quả. Nhân quả lý đồng, nên hai thứ không khác. Quả do nhân quyết định, cho nên tâm trước rất khó. Các văn dẫn đều dùng chữ phát tâm coi là sơ trụ. Nay chung cho trụ tiền. Mình chưa được độ, trước độ người, tức nay ở chỗ độ thoát tất cả chúng sinh. Một phen thành Bi, có hai: có hỏi và đáp. Ngài Kinh Khê nói: Khiến diệt trừ phiền não, là nếu tự có trói buộc thì hay cởi mở trói buộc của người khác, tức không có việc này. Nên trước phải khiến diệt trừ hết khổ nhân. Một phen thành Hỷ, hỏi và đáp. Ngài Kinh Khê nói: Phải hành chánh niệm... nếu không vô tác tứ niệm xứ quán thấy pháp tánh ấm giới của người khác, thì đâu thể khiến người khác lìa khổ được vui, mà sinh trung đạo Đệ nhất nghĩa Hỷ. Cho nên đạo đế vô thượng tức là pháp Hỷ trung đạo. Hai phen thành Xả, phân khoa. Và tùy giải thích, nêu chung chánh niệm, có hỏi và đáp. Ngài Kinh Khê nói: “Xả tâm tức chỉ cho lý quả. Lý quả nhất định khắp hai pháp Từ bi. Bất sinh bất diệt là đại Xả. Như hai đế là có sinh diệt ba tâm: Xả, yêu, ghét chỉ là trong ba tâm từ... mà lìa trung đạo có trái thuận... các cảnh. Dùng vô duyên tâm hạnh đối với các từ... là chẳng bị cảnh chuyển, nên nói là Xả. Phân biệt chánh niệm,
Hỏi và Đáp: Ác pháp Không sinh là đoạn đức đã thành. Ác pháp tức là hai biên, hai biên ngăn trung tức là vô minh. Vô minh không sinh, nên thuộc đoạn đức. Thiện pháp Không diệt là trí đức hành. Thiện pháp Không diệt tức là trung trí phát sinh, nên nói là trí đức thành. “Nhị thừa... công đức Như Lai”, là đại tiểu đối luận. Một là Thế đế, hai là chân đế. Phàm nói diệu lý là rỗng sáng không sinh Không diệt, tức là căn cứ chân đế. Nếu dựa vào sự mà luận ác không sinh, thiện không diệt, tức căn cứ theo Thế đế. Nay vẫn dựa Chánh cần để nói: Chính là căn cứ sự nên thuộc thế đế. Nên nói đây là căn cứ Thế đế...
Hỏi: ngài Kinh Khê xưa giải thích có nói: Thế đế không sinh Không diệt, để đối hiển trung hai đế, tức là thiện ác hai cảnh. Thế đế tức là bất sinh bất diệt trong Chân đế mà thôi. Cùng giải thích nay không đồng.
Đáp: Lời khác mà nghĩa đồng. Nói hiển trung hai đế, tức là hai đế thuộc Viên giáo. Trung lý được quán vốn “không” sinh diệt. Tức là Chân đế thường khế hợp với trí đoạn. Trí cho nên thiện không diệt, đoạn nên ác chẳng sinh. Đây tức dựa vào sự mà gọi là Thế đế. Nên nói thiện ác hai cảnh. Lại nói Thế đế tức là không sinh Không diệt trong Chân đế. Vì dùng lý trung quán mà được trí đoạn, cho nên nói lời khác mà nghĩa đồng, là ở đây vậy. Chánh nói về nguồn cội tận cùng. Thành quán chúng sinh trước nhập không đến trung đạo, nói thấy một chỗ trụ địa, Vănthù hỏi văn đầu đến thấu hiểu nguồn gốc thông suốt lời tựa ý sáu phen là chỗ giá trì của bốn chánh cần là ngăn hai ác không sinh, giữ hai thiện không diệt. Không thấy hoặc đầu..., hoặc đầu tức là nguyên phẩm vô minh. Tức kinh nói vô trụ thì vô bổn. Cho nên nay nói không thấy chỗ sở y. Ngài Tịnh Danh đáp. Tiếp hỏi dục ái trụ địa, có hai: a, ngài Văn-thù hỏi. b, ngài Tịnh Danh đáp. Sắc ái trụ địa, có hai: Văn-thù hỏi. Và Tịnh Danh đáp. Ngài Kinh Khê nói: Hoặc nói lìa tâm hiện sắc... chuẩn theo Bà sa nói ở Sắc giới sinh Vô sắc giới là lìa sắc hiện tâm, từ Vô sắc giới sinh Sắc giới là lìa tâm hiện sắc. Nay chính nói sắc là vô sắc là theo nhau mà đến. Cho nên hai giới qua lại đều do vọng chấp hai chỗ nhất định là thật. Nếu trụ ở Dục giới thì đều chấp sắc tâm. Không như hai giới chỗ chấp mạnh nhất. Như tham thông cả từ thượng giới đến hạ giới mà được tên. Vô sắc ái trụ địa, có hai: a, ngài Văn-thù hỏi. b, ngài Tịnh Danh đáp. Vô minh trụ địa, có hai: a, Văn-thù hỏi. b, Tịnh Danh đáp. A-lê-da, Hán dịch là Vô một (không mất). Vô minh từ vô thỉ đến nay chưa từng ẩn mất, cho nên Nhiếp Đại thừa... ngài Kinh Khê nói: Luận nói thức này từ vô thỉ tất cả pháp đều nương vào đó. Nguồn cội chân vọng, có hai: hỏi và đáp, chánh giải thích, hiện văn, giải thích vô trụ vô bổn, nói chân vọng thể đồng. Ngài Kinh Khê nói: “Thập trụ thấy có chung... là chỉ vì rốt sau nên được gọi là chung “cuối cùng). Do đoạn một phần nên thấy có một phần chung. Thật ra vô minh không thể nói là chung. Phật đoạn rốt sau tướng sau như tướng ban đầu, cho nên nói thấy có thủy. Thật ra vô minh không thể nói là thủy. Nếu nhất định có chung thủy thì sao gọi là vô trụ. Nếu chấp vô minh có thỉ chung, tức là cho pháp tánh có thỉ chung, vì toàn pháp tánh là vô minh, cho nên cũng toàn thể vô minh là pháp tánh.
Hỏi: Nếu thế thì lỗi ở Đại kinh?
Đáp: Không phải thế, vì có sự có lý. Nếu từ sự mà nói như thấy pháp tánh có thủy tức là thấy vô minh có chung. Phật thấy pháp tánh có chung nên gọi vô minh có thủy. Không thủy mà thủy nên gọi vô minh thủy, không chung mà chung, nên gọi pháp tánh chung. Nếu từ lý thì phải biết hai pháp đều thủy đều chung. Huống hai pháp này tự không, hai pháp đều không chung thủy. Nếu từ sự lý đối nhau mà nói thì từ lý nên tức, từ sự nên ly. Thỉ chung cũng thế. Dựa vào không phải sự lý mà luận sự lý, nên đối không có thỉ chung mà nói thỉ chung. Văn Đại kinh là kèm biệt mà luận Viên, theo sự đối nhau nên nói như thế. Kế là trong tận cùng nguồn cội chỉ ước năm trụ mà không nói là trần sa. Vì trần sa hoặc không chướng lý, bốn trụ thì chướng chân, vô minh chướng trung. Thế nên lại từ hai chướng biên mà nói. Huống là vô minh vô tri chỉ thành ly hợp. Đầy đủ như các văn khác đã rộng chọn dị đồng. Thế nên không thể lại dùng bốn trụ nương vào vô tri. Vô tri không phải chỗ nương nên không lập. Nếu nói vô tri nương vô minh, thì năng y lại mất. Nay muốn khiến ở bốn trụ mà thấy trung, cho nên nói vô minh toàn là bốn trụ. Pháp tánh ấy lại chỉ vô minh làm tâm. Cùng tận cội nguồn đã thế, thì tu quán chuẩn theo đó mà nói. Chỉ quán hiện trụ một niệm kiến tư dứt hết gốc vô minh. Rốt cùng pháp tánh, pháp tánh tức vô trụ, vô trụ tức vô minh, vô minh cũng vô trụ. Hoặc đoạn hoặc cùng tuy phân trước sau, song chỗ trụ vẫn không hợp không ly. “Nếu quán...” là kết thành thông tướng. Giải thích vô trụ mà lập pháp, ước bốn lại nêu chung. Thế gian là hữu vi, xuất thế là vô vi. “Vì sao...” là căn cứ mười giới nêu riêng. Nếu giải vô trụ... là đối sáu mê giới nên bốn giới kia gọi là giải. Song Nhị thừa giải không, Bồ-tát giải giả, Phật giới giải trung. Thuận ý bộ nên đều là xuất thế. Cho nên bốn giới Thánh pháp đều được tên giải. Rốt ráo mà luận thì giải chỉ có Phật giới, còn chín giới kia đều mê. “Nay dùng...” là thông trước kết bày. Liệu giản, chọn lọc nghĩa chân vọng vô thỉ, Dựa thẳng vô minh mà chọn lọc vô thỉ, có hỏi và đáp. Đây có hai giải thì chỉ là bốn trụ đối vô minh. Đối nhau mà luận bốn trụ, thì có trụ có bổn, vô minh thì không trụ không bổn, tìm đọc văn tất hiểu. Lại đối pháp tánh mà chọn lọc vô thỉ, có hỏi và đáp, thông dung mà giải thích, nghĩa là căn cứ tức ly hai nghĩa mà giải thích. Văn dựa vào chân vọng hai thứ khác nhau, tánh vốn “không” phải hoặc, không thể nói pháp tánh là gốc phiền não. Pháp tánh là tịnh, phiền não động; pháp tánh chân, phiền não vọng, tánh chất khác nhau như nước với lửa, đâu lại nói nước là gốc lửa ư? Đây là căn cứ nghĩa ly mà nói. Đã có sự chân vọng trái nhau, cho nên pháp tánh không phải là gốc vô minh. “ Nếu y...” tức vọng là chân, tánh là gốc hoặc, vô minh không ngoài pháp tánh... vì vọng thể toàn chân, pháp động nguyên là tịnh, chân là gốc chân, tịnh là gốc tịnh. Tính chất vốn đồng mà nói pháp tánh tức là gốc vô minh, có gì là quái lạ ư? Đây là nói theo nghĩa tức. Đã sự lý thể một, nên được nói pháp tánh là gốc vô minh. Đời có giếng lửa, đã ở trong giếng thì lửa sinh. Thế thì nước là gốc lửa vẫn phù hợp với dụ trước. “ Nay kinh...” là kết hiển ý kinh, căn cứ kinh hiển ý. Ý kinh lại từ nghĩa ly mà nói, nên vô minh không có gốc. Cho nên nói pháp tánh không phải phiền não.... “ Nếu nói...” là căn cứ nghĩa phán quyết giáo mà nói. Tự trụ tức là ý Biệt giáo. Ngài Kinh Khê nói: Phiền não ấy nói pháp tánh thể khác, thế thì phiền não, pháp tánh là tự trụ đều gọi là tự. Cũng có thể nói lìa ngoài phiền não riêng có pháp tánh, thì pháp tánh là tha, cũng có thể pháp tánh là tự, vì lìa ngoài pháp tánh riêng có phiền não, thì phiền não là tha. Cho nên hai tự tha đều không phải nghĩa viên. Vì tánh của hoặc ấy nhất định là hay chướng. Phá chướng thì mới nhất định hay hiển lý. Nương tha tức viên, lại cùng nhau mà nương, cùng nhau mà tức vì thể đồng, nên nương mà lại tức. Nên giáo Biệt Viên đều nói tự tha, do có thể dị đồng mà phán quyết thành hai giáo. Nay từ mỗi thứ mà nói biệt tự, viên tha.
Hỏi: Trước theo nghĩa ly thì phải là Biệt giáo?
Đáp: Biệt giáo một mực nói ly, cho nên sự lý rất khác. Trước nói tức ly thì đều là ở viên. Đã sự lý nhất như cho nên tức ly không hai. Chọn bỏ ba thứ nghĩa năm trụ, chọn biệt tiếp thông, gồm hỏi. và đáp. Nếu nói đến ngoại giới, thì nội ngoại sự riêng khác, hai thứ không tương quan, không đồng Biệt giáo. Cành lá phải nương cây cho nên là biệt tiếp thông. Vì sao? Vì Thông giáo hẹn tâm chỉ đoạn nội giới. Sau sinh hiểu biệt mới biết có vô minh. Cho nên lại tiến đoạn đến nỗi thành nội ngoại hai thứ khác nhau. Người sơ tâm Biệt giáo tức biết ba hoặc hẹn thứ lớp mà đoạn. Cho nên cho nhận và tiếp người khác nhau. Do ngoại giới lưu nhập nội giới, nghĩa là khởi hoặc thì từ tế đến thô vậy. Nay phải nêu trái ngược... nghĩa là đoạn hoặc thì phải từ thô đến tế. Đây đều là lúc tiếp mà giải thích. Chọn lọc Biệt giáo, chánh chọn lọc hoặc tướng năm trụ, có hỏi và đáp, nội giới kiến tư là trụ mà không phải địa. Như cành lá nương vào cây. Cây dụ cho vô minh ngoại giới. “Đoạn cành...” là nói ngoại giới Biệt hoặc là Trụ, là Địa, giải thích bốn trụ địa. Đây nói bốn trụ không phải là bao nhiêu ngoại giới, chỉ ở vô minh trụ Địa thứ năm, lại tế phân biệt mà thôi. Vô minh đã được gọi là đồng thể với kiến tư, đâu ngại gì luận là đồng thể với bốn trụ. Vì bốn trụ tức là tên khác của kiến tư. Đây là kiến nhân vô minh... Ngài Kinh Khê nói: “Kiến là năng trụ, vô minh là địa. Đây là y theo Biệt giáo nên nói như thế. Nội giới bốn trụ như thường được nghe nói. “Bốn thứ này...” là hiển vô minh trụ địa. Gồm chọn có trụ không, có hai: a, hỏi. b, đáp. Trong đây khai. Hợp cần đối nghĩa viên mà giải thích. Nghĩa hợp chỉ có Viên, nghĩa khai chỉ có Biệt. Song Viên cũng đủ cả khai Không phải hoàn toàn khác, cho nên cùng biệt khác nhau. Biệt chỉ đủ nghĩa khai, trọn không có nghĩa hợp. Các văn nói biệt hoặc nói pháp tánh cùng vô minh hợp nhau. Hợp này lại khai. Nay văn nói hợp tức là tên khác mà thôi. “Nếu khai...” là chánh bày nghĩa Biệt. Pháp tánh là sở che, vô minh là năng che, hay và bị “năng sở) hai thứ khác nhau nên nói là khai xuất. Mà căn cứ vô minh... tức là căn cứ vô minh mà triển khai. Chọn lọc Viên giáo, chánh nói năm trụ. Vì năm trụ của viên chỉ mê pháp tánh mà khởi. Nhập Niết-bàn sinh ra bốn trụ. Tức là bốn trụ đồng thể ngoại giới. “ Nay viên...” là kết bày thành hai dụ trên, dụ thế gian nội ngoại. Khói bụi nhẹ như năm trụ ngoại giới, mây sương nặng năm trụ nội giới. Cũng có thể một mực dùng khói... mà đối bốn thứ khổ tập. Song không phải là ý văn. Nay chánh là dụ hoặc nặng nhẹ mà thôi. Lại có thể nội ngoại giới mỗi thứ đều phân nặng nhẹ. Vì bốn giáo nói hoặc thì có tức và không tức, thế nên khói nhẹ mà bụi nặng là Biệt Viên. Sương mù nhẹ, mây nặng là Thông Tạng. Dụ xuất thế nội ngoại, tức lửa... các dụ trí bốn giáo, cũng có thể một mực dụ cho bốn thứ đạo diệt. Ý văn lại dụ cho trí mà thôi. Nên nói...” là kết chung. Vì bốn thứ trí hoặc đều nương pháp tánh. Mà có mê pháp tánh nên có hoặc nội ngoại, còn ngộ pháp tánh thì có trí bốn giáo. Nói gốc không trụ, tức là pháp tánh vậy. Lập tất cả pháp tức là bốn thứ hoặc trí, cũng là bốn thứ tứ đế. Vô trụ tức bổn danh của vô trụ bổn. Chọn hiểu ý dụ, chọn dụ hư không, hỏi: Đã lấy hư không dụ cho pháp tánh. Mà pháp tánh sở dụ có hai thứ khác nhau, thì hư không năng dụ cũng phải như thế chăng?
Đáp: Trước đã chê chung không còn chẳng hai, thái hư không hình trạng còn không phải là một pháp, há được phân hai. “Nếu ước...” là một mực thuận đáp không của năng dụ cũng phân hai. Biệt duyên dứt hết... nghĩa là duyên mờ tối của mây sương dứt hết, khi tướng hư không hiển rõ thì hoặc thấy muôn vật hoặc chỉ thấy không. Có thể dụ đản và không đản hai thứ chân lý. Phá nghĩa hư không. Như trong Đại kinh ở phẩm Ca-diếp, mười phen phá ngoại đạo chấp nghĩa hư không. Ngoại chấp có thể phá có thể dụ đản không, hiển bày chánh nghĩa hư không của Phật nói. Có thể dụ không chẳng thể được, tức là bất đản không. Lại nữa...” là tuy vừa phân phối nay lại chê bác. Vì phàm lập dụ đều một mực lấy cùng loại không nên cầu hoàn bị. Cũng như ở Tuyết sơn dụ voi không thể tìm có cả đuôi và ngà. Trăng tròn dụ cho mặt ai lại trách về mày mắt. Vì không dụ tánh thì sự cũng thế. Đâu được hỏi đản và bất đản khác nhau ư? Chọn khói... các dụ, có hỏi và đáp. Thiên nữ rải hoa, “văn...” là tùy văn giải nghĩa, Nói hai giải thoát hoặc hết không đồng, có bốn: a, Thiên nữ nghe pháp hiện thân Quan Hà giải thích, tức là các sư ở Quan trung Hà tây, nghĩa là các ngài La-thập, Triệu sư.... Nói trạch thần, thì ngài La-thập nói: Không phải trên không chẳng có thần, nhưng tùy chủ nhà hơn kém nên thần có tinh hay thô. Chưa từng có thất nên dùng Đại sĩ làm thần. Đạo Sinh nói: Ngoại quốc cũng dùng thần làm trời. Phàm nhà có phước thì có phước thần phù trợ. Cho nên Bồ-tát gá làm, ấy là việc nhập sinh tử. Ngài Tăng Triệu nói Thiên nữ tức là pháp thân của Đại sĩ, thường cùng ngài Tịnh Danh hoằng truyền đạo Đại thừa bất tư nghì, cho nên hiện làm trạch thần, đồng ở một thất thấy Đại sĩ tập hội được nghe thuyết pháp nên hiện thân tán hoa để luận bàn. Cho nên giải thích của Quan Hà sư nay cũng lấy, vì có quan hệ chỗ biểu hiện và nghĩa thị hiện của ngài Tịnh Danh nên chỉ dẫn phần giải về trạch thần mà thôi. Ẩn danh Như Lai tàng... ngài Kinh Khê nói: Nay đã hiện thân không gọi là ẩn. Song khi chưa hiện thì lý cũng không phải ẩn. Nay từ sự mà giải thích lập tên ẩn hiển cho nên biết sự là hiển. Từ trước nay tùy cơ mà nói lý vốn vô sinh, không phải nay mới hiển. Lại lời vừa giải là dựa vào sự không phải không có nghĩa này. Nếu muốn nói lại lấy sự biểu thị lý, tức là nghĩa lý sự cùng nói. Nếu đơn cử sự lý thì hóa tích không thành. Ở chân không tánh tịnh mà hiện hình Thiên nữ. Đây là nói ngài Tịnh Danh hóa làm Thiên nữ. Tán hoa cúng dường, không phải là hoa do cây sinh... Tiêm sư nói: Kinh Đại phẩm Tán Hoa thứ tám nói: Lúc bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân... các trời nghĩ rằng: Ngài Tuệ mạng Tu-bồ-đề đã mưa pháp vũ. Bọn chúng ta cũng nên hóa ra hoa để tán Phật Bồ-tát, các Tỳ-kheo tăng, ngài Tu-bồ-đề và hội Bát-nhã. Lúc đó cả đại thiên thế giới hoa đều đầy khắp hư không, hóa thành đài hoa trang nghiêm rực rỡ khác thường. Ngài Tu-bồ-đề nghĩ rằng đây là các Thiên tử tán hoa từ trên trời cao, các hoa ấy chưa từng thấy. Hoa ấy là do hóa ra không phải cây sinh. Các hoa chư Thiên rải cúng dường là do cây tâm sinh ra, không phải do cây sinh. Đại luận quyển năm mươi lăm giải thích rằng: Thích Đề-hoàn Nhân biết ngài Tu-bồ-đề biết đó là hóa hoa, nên nói: Bạch Đại đức, hoa ấy không phải là sinh hoa. Không phải sinh hoa tức nói hoa ấy do trời sinh, ở trên không chẳng có chỗ sinh. Bạch ngài Tubồ-đề, đó là Bát-nhã Ba-la-mật, các pháp vô sinh Không tịch, nên lấy hoa vô sinh mà cúng dường. Lại cây ý “tâm) là tùy ý muốn nghĩ đến liền đến, nên nói là cây ý. Thích Đề-hoàn Nhân hỏi ngài Tu-bồ-đề rằng hoa ấy không sinh vì sao lại nói hoa không từ cây sinh? Ngài Tu-bồ-đề hỏi lại: Nếu không sinh, vì sao lại không có tên hoa. Trong pháp chẳng sinh, không có phân biệt. Do đó mà gọi hoa ấy không phải hoa. Thích Đề-hoàn Nhân tâm phục mà hỏi: Chỉ là hoa vô sinh, nên các pháp cũng vô sinh? Ngài Tu-bồ-đề đáp: Không phải chỉ hoa ấy chẳng sinh mà sắc cũng chẳng sinh. Bởi vì sao, nếu một pháp Không thì tất cả pháp đều không. Nay văn giữ ý lược dẫn mà thôi. Ngài Kinh Khê nói: Các Thiên tử nói từ cây tâm sinh. Ngài Tu-bồ-đề nói không từ cây tâm sinh, tức là biểu thị không phải thế tục sinh, mà đều từ tâm sinh. Nhưng chỗ chấp có khác, đều nương vào lý sinh mà không phải sinh. Hoa đến Bồ-tát đều rơi. Hoa đến các đại đệ tử đều dính, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, hoa đến liền dính. Như trong Đại luận... tức văn Đại luận quyển mười chín. Tức nói rằng... tức lời ngài Ca-diếp đáp lời Thiên Man. Nên luận nói Bồ-tát Thiên Man hỏi ngài Ca-diếp: Ngài tuổi rất cao tu hạnh Đầu-đà bậc nhất, nay vì sao không thể chế tâm để tự an? Đáp rằng: Ta ở giữa nhân thiên có dục tâm không còn khuấy động nửa, Bồ-tát ấy có báo thinh vô lượng công đức, lại dùng trí tuệ biến hóa tạo ra tiếng, nên không thể nhịn được. Như gió tám phương không thể lay động núi Tu-di, nhưng gió Lam đến thì nghiền nát như cỏ mục. Đây là Bồ-tát Tinh Diệu Ngũ Dục... Ngài Kinh Khê nói: “Đây là nói ngài Ca-diếp từng nghe Phương đẳng sự bất tư nghì. Sự này luôn luôn cùng hợp với lý. Dùng Thần lực không thể phủi rớt hoa, chỉ hoặc nêu ý, chánh nêu. Liệu giản, chọn biệt hoặc gọi là tập khí. Nói là tập khí, song tập khí có hai: Thông hoặc tập khí, như ngài Thân Tử có nhiều sân..., Biệt hoặc tập khí, tức là vô minh. Cho nên nay nói đối Ma-ha-diễn nói là chánh sử. Nay ở Phương đẳng cũng gồm lấy hai tập này. Trở đi là liệu giản.
Chọn Biệt hoặc gọi là bốn trụ, có hai: hỏi và đáp, nói Thông hoặc có bốn trụ. Nói Biệt hoặc hữu vô, nói Biệt tiếp Thông chỉ gọi vô minh. b, nói Biệt giáo vô minh gọi là bốn trụ, cũng được phân làm ba trụ, là ở biến dịch mà y chánh năm trần, sinh ở dục tham tức dục ái trụ địa biến dịch sắc tâm là hư vọng phân biệt, tức sắc ái trụ địa. Quên sắc quán tâm cũng còn thấy có tâm, tức điên đảo tưởng là hữu ái trụ địa. “Nay nói...” là nêu văn chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Dùng biết thần lực... là không được thần lực ngoại giới giải thoát. Ngoại giới chứng lý khó nghĩ bàn mới có thần thông cao quý. Trời hỏi ý phủi hoa. Thân Tử đáp ý. Thiên nữ chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh chê trách. Ngài Kinh Khê nói: Không phải là hoa thế gian có thể nghĩ bàn, tức là dùng nội giới làm khó thể nghĩ bàn. Người Tiểu thừa há biết ngoại giới lại có diệu dục. Lại dùng tâm như pháp... sự thì đại Tiểu thừa đều tán hoa, lý thì khắp cả pháp giới. Đó gọi là như pháp, gọi là đại bình đẳng. Giải thích nêu đắc thất. Tâm không phân biệt mà cảm. Quán sinh tử Niết-bàn không hai, không khác gọi là tâm không phân biệt. Do quán tâm được nhập phần chân mà cảm được hoa này. Phân biệt tức là kiến hoặc Biệt giáo. Vì không đoạn biệt hoặc nên hoa dính thân. Ngài tự có nhiễm đâu phải lỗi ta. Thế nên chê trách rằng: Nhân giả tự sinh tưởng phân biệt. Phân biệt tức là nhiễm trước. Kinh Thí Dụ: Ví như lúc người sợ thì hàng phi nhân được dịp. Ngài La-thập nói: Như một La-sát biến hình làm ngựa, có một sĩ phu cỡi lên không nghi ngờ gì. Giữa đường ngựa hỏi sĩ phu ngựa có tốt chăng? Sĩ phu rút đao đưa ra hỏi: Đao này có tốt chăng? La-sát biết lòng ông ta nghiêm chánh không sợ nên cuối cùng chẳng dám hại. Nếu không được thế thì phi nhân sẽ được dịp phá hoại. Đạo Sinh nói lúc sợ sệt thì tình ý yếu đuối cho nên được dịp.
Tà kết. Cũng nói có riêng đến tập khí. Nội giới tập khí là nương vào biệt kiến tư, như cành lá nương vào cây. Như trước dẫn trí luận, tức trước nói ở kinh Thanh
Văn gọi là tập khí... nếu ước Thông giáo đến tập khí, đây là nói nội giới tập khí. Như ngài Ca-diếp, nghĩa là nghe đàn liền đứng dậy múa. Như ngài Thân Tử nổi sân tất lăng khinh mạn... cho nên có người nói: Ngài Ca-diếp xưa là tập khí người nhạc sĩ nên đứng lên múa. Chưa thể mất hết bởi có ý này. Cho nên biết ngài Thiên Man chê trách ngài Ca-diếp phải gồm hai ý. Nếu lấy Thông mà chê tạng thì chỉ lấy nội giới để nêu việc đứng dậy múa. Nếu lấy Biệt Viên mà trách Tạng, Thông, thì cần lấy vô minh làm tập khí. Vì chưa phá vô minh nên bị thinh trần ngoại giới khuấy động, không liên quan gì đến người nhạc sĩ. Vì Đại luận đã dẫn đến Đại Thọ Khẩn-na Vương kinh thuộc Phương đẳng. Cho nên kết sử có hai thứ, nghĩa là kết tập chánh sử nội giới ngoại giới đều có. Cùng đoạn là nội giới. Song có Thanh văn chỉ đoạn chánh sử khác với Duyên giác diệt tập. Không cùng đoạn, tức là vô minh biệt hoặc gọi là kiết sử. Cùng là Cadiếp đã đoạn... đây là lấy Biệt Viên mà trách tiểu, để giải thích ngài Ca-diếp do chưa đoạn vô minh nên đứng lên múa. “Nay kinh này...” là tán hoa và nghe tiếng đàn cùng loại, kia là thinh trần, đây là xúc trần, chỉ do kinh không dựa vào văn, là nói không nhất định kết tập là cùng hay chẳng cùng “cộng, bất cộng). “Nay Phương đẳng...” là Đại sư chuẩn theo bộ kinh nay, ý muốn gồm cả thông tập. Nên nói cũng đới phương tiện.... Nói hai giải thoát khác thể, có hai: phân khoa và tùy giải thích, Thân Tử dựa vào sự mà hỏi, Thiên nữ dùng lý đáp, có năm: a, Thân Tử dựa vào sự hỏi. Ngài Kinh Khê nói: Thân Tử là đầu mối khởi giáo. Giáo do đây mà rộng mở nên gọi là đầu mối. Vì các Thanh văn làm đầu sinh tô. Văn dưới Thiên nữ trách là đó. b. Thiên nữ dùng lý đáp. Tuổi già, Nhĩ Nhã nói kỳ, điệt, ngãi đều là già cả. Thiên nữ cho ngài Thân Tử là người già nên gọi là trưởng lão. Thân Tử tâm mê hỏi lại. Thiên nữ lại dùng lý mà đáp. Thân Tử ngộ mà ngầm hiểu. Thiên nữ dùng sự để hỏi. Thân Tử dùng lý đáp, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, có năm: a, Thiên nữ dùng sự hỏi. Thân Tử dùng lý đáp A Thuyết Thị là Át-bệ. Nói ba đến như trước đã ghi. Thiên nữ luận giải thoát bất tư nghì. Triệu sư nói ngài Thân Tử dùng lời nói lâu là lỗi nên lặng yên không nói. Nghĩa là thuận chân giải chưa hay nói năng và im lặng ngang nhau cho đến gặp vật vô ngại. Cho nên Thiên nữ nói... mà giải thích cho hiểu ý mình. Nhị thừa đến bỏ Niết-bàn, ngài Kinh Khê nói: Nói văn tự chưa ắt hoàn toàn là chỉ giáo pháp văn tự. Nói chung ở thế gian, tất cả danh ngôn đều gọi là văn tự. Tiểu thừa thì chỉ pháp nội giới. Dẫu có chỉ giáo tướng thì cũng không phải là chỗ chứng. Nếu không phải chỗ chứng, thì còn thuộc sinh tử. Cho nên ở trong đó không được tự tại. Giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ đến lưỡng gian... là văn còn hai giải thích: trước nêu giải thoát văn tự, đều không có nội ngoại, chánh chỉ văn tự và giải thoát. b, đều không được. Do đó trước phá giải thoát là sợ người không hiểu mà chấp tướng giải thoát. Kế giải thích, e người cho là ở ngoài văn tự, nên chỉ văn tự là giải thoát. Nói tức khác nghĩ bàn, tức hình trước vẫn giải thích chung với Thông giáo. Cho nên trong giải thích lại nói biệt. Kết hiểu. Ngài Kinh Khê nói: Sao chỉ văn tự là giải thoát, là vẫn e chỉ nói giáo pháp văn tự, cho nên chỉ hai mươi lăm hữu tất cả nhân quả đều là văn tự. Những văn tự này đều là giải thoát. Thân Tử lại phán quyết. Thiên nữ chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Thân Tử lại phán quyết. Thiên nữ chê trách, nêu căn lược giải thích. Hai thứ căn duyên. Nếu ước lấy Viên mà chê Tạng, thì lợi căn tức người Viên, độn căn tức người Tạng. Nếu dựa theo đại mà chê tiểu sát tức người Thông. Nếu bốn giáo cách biệt thì ba giáo trước đều độn, đều nói lìa dâm nộ si là giải thoát. Nếu như thế sao được lấy thông mà chê Tạng. Vì Thông giáo thể của hoặc tức không, nên cũng được gọi là tánh dâm nộ si tức là giải thoát. Tánh pháp Không đủ, trọn trở về hôi đoạn. So với Viên mà thành ly nên khiến ba giáo gọi chung là độn căn. Lập câu hỏi nói rộng, có hai: a, căn cứ Tiểu thừa lập nghĩa mà hỏi. Chưa được bốn quả cho là được bốn quả, chưa chứng Niết-bàn cho là đã chứng Niết-bàn, tức lấy bốn thiền làm bốn quả Niết-bàn. Được sơ thiền gọi là sơ quả, cho đến được bốn thiền gọi là bốn quả. Đây là trong Tiểu thừa nói là tăng thượng mạn. Căn cứ đại tiểu phân biệt mà đáp, có hai: trước nói Nhị thừa là thượng mạn, nói tiểu không phải thượng mạn. Chưa vào đạo phương tiện..., tức là được bốn thiền, nhầm chấp là bốn quả. “Nay chấp...” ở đại là thượng mạn, nói kinh nay dùng tiểu lạm đại, nên bị chê trách. Ngài Kinh Khê nói: Hai giải thích trong đây: Là chấp tình lạm đại đều là chưa được mà gọi được. “ Viên giáo...” lại từ lý mà nói. Lý vốn “không” đoạn, xứng cơ gọi là thoát. Thế thì viên thừa mà làm bất đoạn. Bỏ từ chấp thì Tiểu thừa kia sẽ hợp đoạn. Do đây mà tự bảo thành tăng thượng mạn. Giải thích trước là đại tiểu đối nhau, giải thích sau là thiên viên đối nhau. Văn có hai: lấy tiểu lạm bàn đại, nói lạm đại thành mạn. Ngài Kinh Khê nói: Hai chỗ có khác. Pháp Hoa chọn chúng và trong Tiểu thừa lạm gọi là đồng chỗ được của chư Phật. Như Pháp Hoa nói chúng ta đồng nhập pháp tánh. Cho đến sáu vị đại La-hán ở thế gian, ba người đồng ngồi dáng giải thoát, ba người đồng nhập đạo không nói năng. Cho nên khi chưa chuyển thì đều cho rằng Phật và mình đồng nhau... “ Tựu kỳ...” là nói ở tiểu thì sai. Giải thoát tri kiến, là ở trong năm phần mà được giải thoát tri kiến, thì năng chiếu liễu chỗ chứng cạn sâu. Cho nên biết Tiểu Thánh đối với đương giáo ắt không có thượng mạn. “ Viên giáo...” là lấy thiên mà lạm bàn viên. Tám tà, trái ngược với tám chánh nên gọi là tà. Nói đối Pháp Hoa biết là tiểu khác đại, nên không phải thượng mạn. Ngài Kinh Khê nói: Đối Pháp Hoa... là giải thích nêu mạn có khác. Chuẩn theo ý của Thiên nữ vừa nói để trong vào Pháp Hoa. Sao chỉ đối tiểu không phải là tăng thượng mạn, mà đối đại cũng là không phải. Nếu đến Pháp Hoa cùng Thiên nữ ngang nhau. Phải biết ở Pháp Hoa người mới bắt đầu đi thì đối Tiểu thừa đều thành thượng mạn. Phật tuy khiến ý phủi phải đợi lúc sau. Nói Bồ-tát không phải thượng mạn. Không có các lỗi này, là không phải lỗi Nhị thừa chấp quả trụ chân mà làm được. Đây tức là Bồ-tát Viên giáo mà thôi. Bồ-tát thiên giáo chưa tránh khỏi các lỗi. Vì đều cho là thật, cho nên lìa cùng chẳng lìa đến đều đồng nhau, vì Tiểu thừa chấp ly “lìa) nên lấy nghĩa tức mà chê trách. Nên nói ba cõi tức là giải thoát. Thật ra pháp viên chẳng tức cũng chẳng ly. Vì chẳng tức nên dâm nộ cần phải lìa “ly). Vì không ly nên nói là giải thoát. Vì lý phải nên tức sự quấy, cho nên ly “lìa). Cho nên ly và bất ly đều quấy, hàng Nhị thừa Không thể biết được. Trước nói văn tự giải thoát ý cũng thế. Không phải chỉ nội giới đến tướng giải thoát, là vì ba thứ dâm nộ si và văn tự giải thoát vừa nói đều chung cả ngoại giới, vì người viên hiểu rõ ba hoặc bốn giáo vốn là một tâm. Cho nên đoạn cùng chẳng đoạn, thì ước sự là có đoạn, ước lý là chẳng đoạn. Cho nên nay nói tánh dâm nộ si mà không nói là sự. Vì sự tức lý, cho nên đoạn tức chẳng đoạn, lý tức sự nên chẳng đoạn mà đoạn. Việc lỗi ý là lầm chấp kinh văn, bèn lấy dâm dục làm đạo, không làm theo ý kinh, sự lý cũng thế. Ngài Thân Tử khen ngợi, có hai: phân khoa. Và tùy giải thích, Thân Tử khen ngợi. Thiên nữ đáp, có hai: phân khoa. Và tùy giải thích, Là nói hai giải thoát sức không giống nhau. Tùy văn giải thích, có hai: a+, hỏi: Ngài Kinh Khê nói: Hoặc căn cứ tam tạng đến Thông giáo, vì hai giáo đều có ba thừa. Nói phần nhiều căn cứ Thông giáo. Vì người Thanh văn ở trong Phương đẳng nghe thông mà chấp pháp ba thừa, cho nên hỏi. Đáp, có hai: phân khoa nêu ý. và giải thích, Hóa tha. Tiêm sư nói: Nay thì Biệt Viên tiếp Thông. Đây là nói Thiên nữ từ địa pháp thân của Biệt Viên mà khởi ứng tiếp dẫn người căn tánh ba thừa của Thông giáo. Tự hành, có hai: nêu ý phân khoa. Và tùy văn giải nghĩa, chánh hiển Phật thừa, chánh giải thích Chiêm-bặc-nhã. Chánh nói là Chiêm-bạc-ca, Đại luận dịch là cây hoa vàng, cây ấy rất cao lớn hoa có mùi thơm bay xa. Tự hành học đạo, ngài Kinh Khê nói: Tự hành không thể lại học quyền thừa, từng phần được pháp thân vẫn cần phải tiến đạo. Cho nên Pháp Hoa... là lấy người nhập viên mà hiển thành nghĩa này. Liệu giản, nói Bồ-tát Tạng, Thông nhiếp thuộc Đại thừa, có hai: a, hỏi. b, đáp. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ vì đại Bi... người khác giải thích cây Đại thừa chỉ ngang đây. Nói tam thừa, nhất thừa đều có tự tha, có hai: hỏi và đáp. Nói tự tha của nhất thừa khác hẳn tam thừa, Dẫn việc Thích Phạm làm chứng. Nói ở trong thất lâu mau, gồm nêu bày. “có nói...” là chê xưa. Ngài Kinh Khê nói: Gởi mình mười hai năm tại thất... là chỉ chê lúc đó, đối nay nào có hiềm gì. Chỉ e người nay nghe mà không nhận, huống là ngày xưa ở trước Phương đẳng. Trước đấy, tức trước thời Phương đẳng. Cho nên biết chê trách cũng ở trước mười hai năm, thế nên được đồng nghĩa với Phương đẳng. Trong đây chính là phá giải thích của sư xưa. “ Nay nói...” là giải thích nay, có hai: dẫn trước nêu chung. Và nói mười...” là nêu văn rộng giải thích, chánh giải thích đó là biểu thị cho mười hai nhân duyên. Nhân duyên bất tư nghì tức chỗ chứng của Thiên nữ. Không lâu mau mà lâu mau, ngài Kinh Khê nói: Từ vô thỉ đã lâu, đến nay là mau (mới). Giải thoát cũng thế. Pháp tánh vốn có tên là lâu. Mới bắt đầu tu được gọi là mau (mới). Cho nên biết ba đạo ba giải thoát đều không phải lâu mau (mới cũ) mà luận lâu mau. Cho nên lấy việc ở tại thất mà biểu thị. Trong đây dựa theo sự mà luận tu tánh. Liệu giản. Há biết căn bản vô minh. Nếu quán ba đạo tức là ba giải thoát. Cho nên biết ba giải thoát cũng là chướng vô minh. Vì chướng ba giải thoát tức là căn bản vô minh vậy. Tức tất cả văn tự, là thông cả nội ngoại giới. Trước không nghe nói tức xưa cũng đều thế. Nghĩa là từ xưa đến sau này không nghe nói tiểu pháp. Ngài Kinh Khê nói: Ý từ xưa đều nương vào Đốn giáo mà phát tâm nên nói xưa không nghe.... Nói thất có việc chưa từng có, có hai: phân khoa và tùy giải thích, Nêu bày. Luận tướng, Tùy văn chánh giải thích:
1. Ánh sáng luôn chiếu.
2. Vào đó không dơ bẩn “vô cấu). Ngài Kinh Khê nói: Như nội ngoại giới nếu phạm trọng tội... nặng thì hay chướng xa. Lý nội ngoại giới.
3. Phàm Thánh cùng đến hội. Ngài Kinh Khê nói: Đại kinh nói: Người đến hội không dứt nghĩa giống sâu dần.
4. Thường nói lục độ. Bốn thứ không lui sụt, nghĩa là bốn giáo đều có vị, hạnh, niệm ba thứ không lui sụt. Nếu niệm...” là ước biệt mà nói niệm bất thoái, tức là phần chân của Viên giáo.
5. Đàn ca nói pháp.
6. Bốn tạng đều khắp cứu. Tức là nói ra bốn giáo, ước lý là tạng. Bốn giáo nói dị đồng ở một niệm, cũng là quán mười hai nhân duyên... là ước hạnh làm tạng.
7. Nghĩ Phật thì Phật đến.
8. Các tịnh độ đều hiện. Đại kinh nói không tăng giảm, nghĩa là nước biển không tăng giảm.
“Đây chưa...” là kết dị hiển đồng. Kết chê. Nói pháp môn bất tư nghì chuyển hóa tự tại, nêu ý phân khoa. Abệ-bạt-trí, Hán dịch là bất thoái (không lui sụt). Nghĩa chuyển, bất chuyển tức là thoái chuyển và bất thoái chuyển. “Phật nói...”, ngài Kinh Khê nói: “Ý Phật đáp: Hai giáo trước không chuyển thì mới được gọi là bất thoái. Hai giáo sau vì được lý nên từ lý làm tên. Lý tánh vốn “không” chuyển cùng chẳng chuyển. Chuyển là nghĩa thoái, nên bất thoái. Cho nên nói đều gọi là Bạttrí. Tùy văn giải thích, hỏi. Đầy đủ có năm việc, trích ở Đại luận. Nghĩa là tăng kỳ thứ hai lìa năm sự, được năm công đức, được túc mạng lìa hỷ quên được các căn đầy đủ, lìa thân hèn được sinh vào nhà giàu sang, lìa bỏ hạ tiện bần cùng được thân nhân thiên, lìa bỏ ba ác đạo được thân nam, lìa thân nữ. Trong đây nêu ba điều được, hai điều lìa, thành năm sự. Đáp, nghĩa hội đồng trên, nêu chương bày chung. “một chẳng...” là đối hội thượng mà giải thích. “chỉ cùng...” là kết khác hiển giống. Ngài Kinh Khê nói, chỉ cùng văn trên có ít điều không thứ lớp, tức điều một ở hai, điều hai ở một. Vì không có thứ lớp nên không tương ưng nhau. Tuy nghĩa có thứ lớp và chẳng thứ lớp, song lý tất đồng nhau. Chánh giải thích văn kinh: Nói bất chuyển, có hai: phân khoa và tùy giải thích, Thiên nữ hỏi, giải thích pháp, có hai: a, căn cứ chân đế, ngài Kinh Khê nói: Thiên nữ dùng chánh quán dụ làm sáng. Trước nói chánh quán, nên nói mười hai năm nay cầu tướng nữ nhân mà cuối cùng chẳng được. Đối trong ba đức không có tướng nam nữ. Dụ sáng cần nương vào ba đức. Ví như...” là dụ làm sáng. Thiên là dương, địa là âm... cũng có thể nói ngày dương, đêm âm... không thể nói hết, tất cả đều ở âm dương.
Căn cứ Thế đế, ngài Kinh Khê nói: Nghiệp nếu không hết thì quyết chẳng thể chuyển. Vì chưa đền trả, cho nên chưa đáp sinh tất không thể chuyển đổi. Song chưa đền trả thì cũng có thể chuyển, nhưng không phải chỗ dẫn này. “ Ví như...” là giải thích dụ. Ngài Thân Tử đáp. Chê trách, ngài Kinh Khê nói: Tất cả các pháp đều hư vọng..., là không phải chỉ thế pháp là có nghĩa chuyển đổi, mà pháp xuất thế cũng vậy. Nếu cho là có nhất định thì là vọng chấp. Nói chuyển, gồm nêu ý phân khoa. Và tùy văn giải thích, Thiên nữ tự biến làm Thân Tử mà hỏi. Thân Tử với nữ thân mà đáp. Giải thích như gương... gương dụ cho pháp thân, mặt dụ cho cơ duyên, hình ảnh dụ cho hiện ứng. Gương có lý hiện hình bóng, mặt có tánh sinh hình bóng, cho nên mặt đối trước gương thì hình bóng sinh ra. Tiếp, dẫn lời Phật. Không phải nam không phải nữ, vì tất cả pháp do tâm biến ra, mà tâm không thể được, thì nam nữ sao còn. Nói chẳng phải chuyển chẳng phải không chuyển, có hai: nêu ý phân khoa. Và tùy văn giải thích. Bốn đoạn như văn. Nói giải thoát bất tư nghì hiện ra mất đi rất tự tại, chân ứng, bổn tích khó lường, nêu ý phân khoa. Tư nghì thì không, nghĩa là giải thoát tư nghì của Tiểu thừa thì không có chân ứng bổn tích. Mất “một) là đến thùy tích, là pháp thân không có hình tượng nên nói mất, ứng hóa tùy cơ nên nói là sinh. Tùy văn giải nghĩa, ngài Thân Tử hỏi. Thiên nữ đáp. Thân Tử lại hỏi. Trên Thiên nữ dùng ứng hóa của Biệt giáo mà đáp. Vì ứng hóa của Biệt Viên, không cùng chung với Nhị thừa, nên nói Biệt giáo không phải mục đích chỉ thứ lớp. Hoặc có thể chỉ cho chứng đạo của Biệt giáo. Thiên nữ giải nghi đều như huyễn hóa.
Vì năm đạo tới lui, đều là hư huyễn. Thiên nữ cũng là hóa. Năm đạo đã như hóa, thì Thiên nữ đâu không lại thế, là để nói thân nữ không mất không sinh. Nói pháp thân và sinh thân thành đạo không giống nhau, nêu ý phân khoa. Tùy văn giải thích, Thân Tử hỏi. Thiên nữ hỏi lại. Ngài Kinh Khê nói: Ta vào chân bất tư nghì đến ta há có, đây là ước giáo môn đương phần để giải thích Biệt Viên. Vô sinh sao được làm tám tướng Tạng, Thông. Chiếu xem trên dưới đều cần giải thích này. Thân Tử đáp. Thiên nữ lại nói đều cùng, đều chẳng thấy. Mới đầu là nguyên phẩm vô minh chỉ có Phật đoạn mà thôi. Giải thích. Kế văn nêu bày, “Thân Tử...” là chánh giải thích, có hai: a, Thân Tử hỏi, ngài Kinh Khê nói: Có ý này... là Tiểu thừa nói không có mười phương chư Phật, nhưng ý nêu không rõ, vì trong Tiểu thừa cũng chấp nhận có Phật mười phương, tuy cho là có nhưng đâu bằng Hoa Nghiêm Niết-bàn... Hoa Nghiêm thì mười phương cùng là chủ bạn. Một Phật còn thế, huống các Phật khác. Cho nên trong đây không nghĩa nào chẳng rõ ràng. Thiên nữ đáp. Ngài Tịnh Danh kết thành việc Thiên nữ nói, có hai: phân khoa nêu ý. Và tùy văn giải thích, gặp chư Phật, là thuận Phật giáo, là do cúng dường cho nên được nghe pháp viên đốn. Nương giáo tu quán, thấy rõ nhân duyên ba đạo tức là ba đế. Phần hiển ở Thường Tịch quang, nên nói là được ở nhờ thất trống. Đây là nói tự hành. Vì Từ bi..., đây là nói hóa tha. Du hí thần thông. Được Vô sinh nhẫn, nguyện tùy ý hiện, gồm Chánh giải thích và liệu giản.
(Từ đây trở về sau đều cùng Chương An soạn riêng)
Nói từ không nhập giả quán, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, nói ý có phẩm này. Ngài Kinh Khê nói: “Chánh thành phẩm Thăm Bệnh mà nói Biệt giáo... hỏi:
Tướng chung ba quán nghĩa ở viên, nay sao nói ở Biệt?
Đáp: Đối xuất giả biên, nghĩa nói là biệt mà thôi. Trong văn ủy dụ của ba giáo trước tướng chung “thông tướng) vẫn còn ý thứ lớp, chính là do đây.
Giải thích tên phẩm, nêu tên. Lược nói từ nhân mà đạt được quả, nhân quả tuy khác mà lý thể Không hai. Mới quán gọi là nhân, quán sau rốt gọi là quả. Nhân quả trước sau, đều không lìa lý, hay thông suốt đến hai nghĩa đều thành.
Thử dĩ...” là tổng kết. Phật tức là trí, đạo tức là lý, cũng có thể nói năng sở mà nêu tên. Phật là năng giác, đạo là sở giác. Cũng có thể nói nhân pháp mà nêu tên. Phật tức là nhân, đạo tức là pháp. Tuy đây chẳng đồng nhưng không ngoài lý trí. Vì người có trí hay giác về lý, và lý là pháp được giác. “Chánh như...” là dẫn văn rộng giải thích, có hai: dẫn văn và “nói chẳng phải...” là giải nghĩa. Có ba thứ đạo. Đạo này cũng do thông suốt làm nghĩa. Phiền não thông suốt nghiệp, nghiệp thông suốt khổ, khổ thông suốt hoặc, hoặc lại thông suốt nghiệp, lần lược lần lượt thông nhau nên gọi ba đạo.
Lý chẳng phải đạo... ngài Kinh Khê nói: văn tuy nói giả, nhưng ý lại thông ở trung, nên nói là lý. Cho đến công đức trí tuệ của Phật đạo đều là giả nhiếp lý mà nói, tức chỉ ba đạo vốn là thể ba đức, lại toàn là pháp tánh trung đạo. Xuất một mà giải thích thì là thông là cực, vì giáo nghĩa Phương đẳng nên khiến như thế. Thật tướng trí tuệ của chư Phật, thì khổ tức là thật tướng, hoặc tức là trí tuệ, nghiệp tức là công đức. Ba thứ này đều lý, nên nói là lý. Liệu giản, nói phi đạo Phật đạo tức là nhân duyên Phật tánh, nói phi đạo tức nhân duyên, hỏi, ngài Kinh Khê nói: Phẩm này không ước nhân duyên... trong tám đoạn sau không có mười hai tên. Đáp, nói chín giới mỗi giới đều có đủ ba đạo, ngài Kinh Khê nói: Ý đáp là tuy không nói riêng mà thành chung cả, đâu chẳng phải tám đoạn mười hai nhân duyên ư? Nói tất cả phi đạo... như đây đã nêu, đâu vượt ngoài ba đạo. Đối văn mà điểm thì nghĩa tự bày rõ, huống lại chín đạo gồm thâu tất cả ba đạo nội ngoại giới, để khiến phi đạo tức Phật đạo. Cho nên nói chín giới đầy đủ, như nêu dưới đây. “Chỉ đây...” là nói nguyên nhân chẳng chọn Bồ-tát, dựa vào văn chẳng chọn, tên Bồ-tát thông cả Biệt Viên. Cho nên Ngài Kinh Khê nói: “Vì có đạo Bồ-tát bốn giáo nên đồng. Hai Bồ-tát trước chỉ là đạo Bồ-tát Nhị thừa nên không nói. Biệt giáo chính là đạo Bồ-tát. Còn Viên giáo thì hoặc là
Phật hoặc là Bồ-tát. Nay nói Biệt Viên nhập trung, vì sơ tâm của biệt cũng tu trung, nên lại được nói là tu Phật đạo. Tạng, Thông có bi nguyện giúp viên đốn. Nên ngài Kinh Khê nói: “Phương tiện...” là chỉ cho Tạng, Thông tiến đến tạm kết trọn về lỗi ấy. “Lại nữa...” là ước nghĩa cần chọn. Ngài Kinh Khê nói. “Lại nữa phẩm này...” là nêu cạn theo sâu, tất cả đạo đều thuộc phương tiện. Phương tiện đã khắp, há ngăn cách Tạng, Thông. Khắp nhập lại đoạn, nên viên là chánh. Song đạo đối phi đạo, phi đạo đủ cả mười. Cho nên biết mười giới, hoặc từ tên nhiếp, hoặc từ thể phân ra, hoặc nhân quả tướng hình, hoặc ban cướp tạm lập. Cho nên Phật giới hoặc chỉ ở viên, hoặc lui về lấy biệt, hoặc đều lấy địa trụ, hoặc mất địa chỉ có trụ, hoặc thông nhân, hoặc chỉ ở tại quả. Rốt ráo mà luận thì viên quả là chánh. Nghĩa thông từ thể nhiếp sơ tâm của viên. Nói Phật đạo tức là Phật tánh, có hai: a, hỏi. b, đáp. Nói phi đạo là ba nhân, có hai: hỏi và đáp. Ngài Kinh Khê nói. Đại kinh nói mười hai nhân duyên là Phật tánh... hỏi tên Phật tánh há riêng duyên liễu. Dẫu thông nghĩa duyên liễu mà dự vào sinh tử, thì vì sao sinh tử lại gọi là nhân duyên liễu. Nếu nói chỉ chánh không phải duyên liễu, thì sinh tử ba đạo sao gọi là chánh? Ba thứ đều không thành, thì ý kinh ở đâu? Thế nên cần phải nương vào ba đạo, ba đức, ba thứ chánh chủng Phật tánh này vậy. Cho nên lại dẫn Đại kinh để lập trung đạo. Trung đạo nếu lập thì duyên liễu có thể thành. Huống là mười giới một tâm, đủ cả mười hai. Trăm giới mỗi mỗi không đâu không phải là đạo tràng. Cho nên biết trong đây đều là chánh nhân của hai thân. Duyên liễu của pháp thân, ba tánh của sát-na, ba đức của sinh tử, luôn hiểu rõ như thế thì mới giải thích được kinh nay. Nói Phật tánh được nói cùng Đại kinh không khác, nói Phương đẳng cũng nói Phật tánh, dẫn xưa để nói lỗi mà hỏi. b, chuẩn theo kinh bày hủy báng mà đáp. Ngài Kinh Khê nói: Nay Phương đẳng này... là gồm chê xưa. Nay trong kinh này bộ không có mười hai, đâu không có Phật tánh. Ý nói Đại thừa Không có chẳng đủ, rộng hỏi mà ghi. Ý này chính nói có ba thứ nhất định đại mà không có ba thứ nhất định tiểu. Bất tất phải mười hai mới gọi là đại. Chỉ có Niết-bàn, Pháp Hoa đủ mà lại đại, còn các bộ khác đầy vơi bất thường hỏi: Kinh này văn nào chánh đáng là ba bộ? Đáp: Đều là bất tư nghì cả, há không phải là Phương quảng, tuy không có biệt ký mà có thông ký. Tất cả chúng sinh tức là ba đạo, cho nên không có thứ nào mà chẳng đủ, lý đáng được thành, ký há ở ngoài đây mà nói là không có ư? Phẩm Phương Tiện trước là vô vấn tự ký. Lúc đầu tuy là cư sĩ nhưng ấn cuối nào khác. Huống lại Niết-bàn chỉ cho mười hai bộ, trông mười hai bộ để định Đại Tiểu. Cho nên chỉ có Phương quảng mười hai thứ khéo thành. Vô vấn và ký cũng thông cả đại tiểu. Cho nên không có hai nghĩa này cũng khéo thành. Nói hai kinh tên khác mà nghĩa đồng, có hai: hỏi và đáp, chánh bày tên khác thể đồng. Ngài Kinh Khê nói: Chủng tánh tức là tên khác của mắt mày. Tuy là tên khác nhưng đều là nghĩa Biệt. Nếu nói thường sinh thì phải từ chủng mà lập. Nếu nói không đổi, thì phải lấy tánh làm tên. Chỉ tùy tiện lợi mà nêu nghĩa lý đều gồm đủ. Kinh nay vả lại từ thường sinh làm tên. Thế nên trong văn phần nhiều đều từ chủng mà lập. Phải biết chủng là chủng tánh gia, tánh là tánh chủng gia. Không biến nên hay sinh, hay sinh nên không biến đổi. Hai thứ này tất cả đều vô thỉ vô chung, lâu xa thường còn hãy tin chắc như thế. “ Nếu bảo...” là dẫn luôn nương hai đế mà hỏi lại. Nói chủng tánh mỗi thứ đều có ba nghĩa họp nhau, có hai: hỏi, ngài Kinh Khê nói: Nếu Phật tánh có ba... là ý muốn nói đồng trước từ hơi khác. Văn trước tuy nói đạo tức là tánh, đây chỉ là thông tên đường mà nêu tên phẩm. Nay hỏi trong phẩm có ba chủng chăng? Đáp, hiểu đồng Niết-bàn. Chủng chi...” là kết bày dẫn chứng. Ngài Kinh Khê nói: Chủng tướng thể tánh. Ý trong đây dẫn bốn tên, tên khác mà nghĩa đồng. Nay chủng tánh này khiến khác hẳn, hình tướng bày bên ngoài, còn tánh thì đồng, chủng từ trong sinh ra thì lý phù hợp với tánh. Nói chủng tánh đều là lý thường..., ngài Kinh Khê nói:
Hỏi: Chủng lấy thường sinh (năng sinh) làm nghĩa... tất cả chư Phật hai nghĩa là gốc. Cho nên biết chân như, pháp giới, pháp tánh bí tạng đều phải đối với chủng mà hỏi. Đáp, ngài Kinh Khê nói: “Trung, tức lấy duyên liễu làm chủng, nghĩa từ trong mà tìm. Phương tiện so sánh mà nói mới bày được chánh tánh cũng gọi là chủng. Cho nên biết ba đạo thường sinh ba tánh, hà tất phải chấp chặt là do bên ngoài sinh. Huống lại cũng phải chọn loại mà giải thích chủng, đầy đủ như phẩm Dược Thảo Dụ của Pháp Hoa mà sớ đã nói. Cho nên không phải chỉ chánh chủng, không phải nhân mà nhân. Nghiệp hoặc duyên liễu cũng như thế. Thế thì...” là hiển nghĩa có chủng. Cho nên đối nghịch mà nói duyên liễu cũng được gọi là tánh. Thế thì ba tên đều chủng đều tánh, nghĩa đồng. Cần nên khéo nghĩ. Tâm cảnh chẳng khác, nghĩa lý tự hợp. Nói hai kinh hiển và mật lợi ích đồng, chấp Niết-bàn hiển ích nói khác mà hỏi. Dựa vào kinh nay mật tích bày đồng mà đáp. Ý đáp: Bồ-tát thì hiển nhập, Nhị thừa thì mật nhập. Thấy lý Phật tánh ích đồng Niết-bàn. Nhờ đây mà khiến Nhị thừa và độn căn Bồ-tát chưa được liền ngộ. Cũng nhân trách tích để thành đề hồ. Cho nên hai kinh nói lý thường không khác dấu. Chỉ khai và chưa khai nên có phân cao thấp. Nói nhân duyên đối tánh chung riêng, Hỏi: Sao lấy thiên mà phán quyết... nghĩa là lấy ba đạo mỗi thứ đối một tánh gọi là thiên phán quyết. b, Đáp, ngài Kinh Khê nói: Nếu như chỗ hỏi thì là nghĩa chung. Chung riêng chỉ có nghĩa là ly hợp. Đủ như trong Pháp Hoa sớ và Bất Nhị Môn. Pháp tánh năm ấm có vô minh ác nghiệp... vô minh là hoặc, ác nghiệp là nghiệp. Năm ấm vô ký vốn tên là pháp tánh. Do có thêm hoặc nghiệp nên chấp ấm thành mê. Cũng là pháp tánh xưa nay thanh tịnh, cho nên sử ba thứ mê thì đều mê. Mê lý bổn tịnh, nhân quả đối nhau mà nói. Cho nên nói có vô minh ác nghiệp liền thành sinh tử, chuyển đổi liền gọi là tịnh. Nói vô minh tức liễu nhân, có hỏi và đáp. Bảy thức là chấp kiến. Tiêm sư nói: Luận ấy quyển năm nói: Hai thứ có ý nhiễm ô cùng bốn thứ phiền não tương ưng:
1. Thân kiến.
2. Ngã mạn.
3. Ngã ái.
4. Vô minh.
Ngài Kinh Khê nói: Bảy thức là một do chấp mà thành khác. Do kiến thức này là chứng liễu nhân. Từ liễu gọi là trí, từ mê gọi là kiến. Người xưa không cùng chấp chung nên có tranh cãi. Sáu thức làm duyên thì cũng thế. Nói Bát-nhã, Pháp Hoa luận tánh không khác, có hỏi và đáp, nói năm tên Phật tánh Bát-nhã. Đã gọi là Bát-nhã nên biết Bát-nhã là tên khác của Phật tánh. b, nói Pháp Hoa giải hai quán. Quán tức năng quán, tâm tức sở quán. Năng quán là Phật, sở quán là đạo, nên gọi Phật đạo. Vì nhân duyên ba đạo vốn một tâm, nên tức ba đức. Cho nên đủ như chỉ quán thiền cảnh dùng mười thừa quán nhân duyên vậy. Ngài Kinh Khê nói: quán tâm, là trước tuy đã ước mười hai nhân duyên, mười giới ba đạo, nhưng chưa nói các thứ này là quán cảnh. Nay nói mười giới, mười hai nhân duyên chỉ là một niệm, cùng trước nào khác, e người không hiểu nên phải riêng nói. Ở việc vừa rồi không có gì khác. Một tâm một sắc đều là mười giới tức không, giả, trung. Huống lại nêu tâm và hoặc đã thành trí. Nghiệp tùy quán chuyển, tự được tên giải tho-át. Rốt ráo mà luận thì khổ là chánh cảnh. Khổ trên nghiệp hoặc cũng rất rõ ràng. Cho nên khổ, sắc, tâm ba nghĩa đầy đủ. Thế thì đến không chướng ba đức, là hay thông đến tột cùng, nên gọi không chướng. Như chữ y là nhân quả sự lý đều được dụ như chữ y. Chuẩn theo chỗ khác nói thì lý một tu hai nhân cùng quả đều không thành chữ y. Thường, vô thường... lý cần nói rõ. Vào văn giải thích, phân khoa nêu ý, ngài Kinh Khê nói: Nếu căn cứ gọi Như Lai chủng, thì ba đạo này đều có nghĩa thường sinh và duyên liễu. Hay sinh duyên liễu đã như trước lập. Lại phải hỏi rằng: Chánh há chẳng phải chủng. Tự hành đến công đức là từ tự hành mà nói, chỉ do hai trí hay hiển pháp thân và giải thoát. Dùng hai trí quyền thật Bát-nhã khế hợp với cảnh, không gọi là công đức. Hóa tha hai trí cùng gọi là quyền. “ Văn đầu...” là tùy văn giải nghĩa, có ba: a, nói Phật đạo, có hai: a, phân khoa. Tùy giải thích, ngài Văn-thù lược hỏi. Ngài Tịnh Danh lược đáp. Ngài Kinh Khê nói: phải biết ý đáp đầy đủ hai nghĩa:
1. Xuất giả.
2. Tức lý.
Nếu không xuất giả thì không do đâu mà hiển rõ thông tướng thứ lớp. Nếu không tức lý thì không do đâu mà hiển lý giả thông nhân. Bảy đoạn dưới trở đi là hiểu sâu ý này, thì mới gọi là đại chỉ của văn phẩm này. “Lại nữa...” là lại phân biệt xuất giả. Phi đạo căn cứ sự Phật đạo đầy đủ chỉ nói giả trí là phi đạo... kiến tức là nhập ngoại đạo. Nhập phải viết là (thị) vì nhầm. Ngài Văn-thù lại hỏi. Ngài Tịnh Danh rộng đáp, có hai phân khoa. và tùy giải thích:
Dựa nhân quả vô gián, lược nêu. Ngài Kinh Khê nói: Thị hiện chịu quả ở tam đồ.
Hỏi: Quả vô gián sao gồm cả quỉ súc mà gọi chung là tam đồ ư?
Đáp: Hai thứ kia tức là quyến thuộc với vô gián “địa ngục), vì khi có nghiệp nhân thì sẽ theo nhau. Hai nghiệp ác thú cũng có thể là dư báo thông với hai cái kia. Đây là nói môn Bồ-tát lợi vật cũng do quán xưa có nguyện lực nghịch tâm. Cho nên thành quán nhân mặc tình khế hợp.
“Dị nhị hà giả...” là rộng giải thích, giải thích nhân ngũ nghịch, nói tự hành, nói thông đạt Phật đạo, có hai: a], căn cứ nhân chánh bày thông đạt. Ngài Kinh Khê nói: “Hà giả...” là nêu quán xưa để làm nhân giả, há đợi khi nhập mới gọi là thuận. “Huống có...” là lấy nhân so quả. Tức chữ A... đã là thông tướng của quán nhập giả. Cho nên được dùng chung quán môn vô sinh và vô cấu... để làm hạnh ấy. Nếu thế thì cũng được gọi là giả bất tư nghì. Nhưng đối với Biệt giáo cũng gọi là thứ lớp. Và độn Bồtát vẫn gọi là sinh tô. Đối với người lợi căn liền gọi nhập trung. Hội này được nhập đã gọi là thượng thượng. Ở trong thượng thượng đều có trước sau. Mọi chỗ đều kết tướng đắc đạo. Từ “Nếu biết” đến “thông đạt Phật đạo” tức là văn ấy. “Nghịch tâm...” là dùng quán tâm. Chủng tánh không đồng khắp ở các giáo các vị, các hạnh, các đạo. Nói đốn tiệm... là đủ vượt đầu cuối khiến một đời hóa độ không đâu không phải là Phật đạo, giả bất tư nghì. Cho nên biết thông tướng gồm đủ giả ba thứ Bồ-tát và giả của địa trụ bất tư nghì. Chuẩn nghĩa cũng gồm giả của ba kỳ. Nhưng chỉ ước hiển giáo không phải từ không mà xuất. Thế nên trong đây không được luận. “Đây tức...” là đối quả kết thành ba đạo, chánh bày ba đạo. “nay lấy...” là nêu nặng so nhẹ. Ngài Kinh Khê nói: Nay lấy ác nhất... nó là ác bậc nhất trong các ác. “Vốn “không...” là đối thăm bệnh mà kết bày. Bồ-tát...” là nói hóa tha, có hai: kết trước sinh sau. Thị hữu...” là chánh nói hóa tha. Ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ bày đủ hai chủng tướng. Nếu chỉ bày có thể sám hối thì sợ người bảo rằng nói nghịch tội không có quả. Nếu chỉ không sám hối thì e người cho rằng nói tội không thể diệt mất. Để trừ tà chấp và sinh hai thiện, nên tùy căn cơ mà lập hai thứ này.
Ta chịu... đây có hai nghĩa. Nay từ nội thật rõ ràng mà không mất vui lăng nghiêm. Há chỉ riêng nói ba thiền mà thôi. Nếu từ tích mà luận bèn thị hiện kháng cự tột cùng không xấu hỗ. Cho nên nay từ bên xuất giả đó mà nói ba thiền. Bèn là lời khai tích. Do đó mà được làm bổn tích để giải thích. Các kinh Đại thừa chỉ trừ bí mật cửu bổn của Như Lai và lời ký Tiểu thừa thành Phật. Ông Điềuđạt mở văn kinh luận cùng có. Phương đẳng Bà-tẩu tức là lệ ấy. “ Đến như...” là giải thích quả tam đồ. Nhập vô cấu Tam-muội, ngài Kinh Khê nói: Các văn trong đây đều dùng các Tam-muội trong hai mươi lăm Tam-muội. Vì vương Tam-muội chỉ là tam đế Tam-muội mà thôi. Vì nương thứ lớp nên chỉ dùng tục. Các câu tiếp theo mỗi mỗi đều như thế. Bà-tẩu như trước đã ghi. Tượng... đủ như trong Chỉ quán ký. Độc điểu, Nhĩ Nhã, Quách Phác chú rằng: Lớn như con bồ câu, giống con trĩ mái. Căn cứ sắc ở Vô sắc giới. Mười một Tam-muội. Là hai mươi lăm Tam-muội đối phá hai mươi lăm hữu, đủ như trước đã ghi. Nay nói mười một, tức là bốn Thiền, bốn Không, Phạm vương, Vô tưởng, Na-hàm vậy. Căn cứ ba cõi. Căn cứ mười tế. Ngài Kinh Khê nói: mười thứ này phần nhiều là đẳng. Đã không phân biệt phần nhiều là nói chung. Song chuẩn về phá giới thì nhất định là thuộc nghiệp đạo. Các thứ kia phần nhiều đều là phiền não nên nói nhiều. Cho nên biết nếu bên trong khởi tức thuộc phiền não. Không thể chế phục, là phần nhiều thuộc nghiệp đạo. Vì không chỗ thọ mà thọ mười tế. Tuy dịch mười tế thành độ, nhưng đối các tế đều thấu đạt trung. Căn cứ Nhị thừa, ngài Kinh Khê nói: Như các ngài Thân Tử, Thiện Cát... phải biết là bị chê trách và được gia bị, chỉ là từ tích mà thị hiện hạnh thứ lớp. Nay căn cứ vào bổn thuyết mà nói không thọ....
Căn cứ ác báo nhân gian, ngài Kinh Khê nói: Thị nhập đến nhận bốn châu thiên hạ... kinh không có bốn tên phải từ nghĩa mà lập. Vì sao, nếu chuẩn về hạ tiện xấu xí mà nói thì phần nhiều là ở Nam bộ châu. Còn việc giả bệnh và thê thiếp thì chung cả tám châu kia. Bắc châu lại lánh được không có bệnh hoạn. Độn căn thì có thể chung cả bốn châu, nên được gọi chung là bốn thiên hạ. Kinh không có nói Tu-la và trời Lục dục. Tu-la ly hợp có không có thể biết. Lục dục hoặc là lệ là lệ theo trên nên lược bỏ. Trong văn thứ lớp, lược nêu lục dục. Đoạn dứt nhân duyên ước bốn giáo. Nhân vị Biệt Viên cũng thuộc các đạo vì chưa thuần tịnh, cho nên đoạn chung các thứ.
Căn cứ nhập vô dư, trừ bậc Diệu giác của Viên. Ngài Kinh Khê nói: “Họ nói phi đạo việc ấy rất gần. Nay nói chỉ còn một phẩm vô minh kia. Vì còn là phi đạo, nên chỉ trừ có Phật là Phật đạo tột cùng. Song ngài La-thập giải thích phi đạo có ba thứ:
a. Quả báo ác thú.
b. Hạnh nghiệp ác thú.
Thế tục thiện nghiệp và thiện quả báo. So trong lời giải nay rõ ràng là rất gần.
Tổng kết. Nói Như Lai chủng, có hai: a, nêu ý phân khoa, ngài Kinh Khê nói: “Hai Đại sĩ này... là họ cùng vấn đáp nhau cũng như hai chày giả đập nhau. b, tùy văn giải thích, ngài Tịnh Danh hỏi. Ngài Văn-thù đáp, huyền nói nghĩa chỉ, lược nêu. Nói như...” là rộng giải thích, chánh giải thích Như Lai chủng, có hai: a+, dẫn luận nói chung. Ngài Kinh Khê nói: Như hiểu về pháp tướng... như phi đạo ấy tức là Phật đạo pháp tướng. Sinh hiểu biết lại y đó mà nói mới xứng Như Lai, hay nương quán này tức là Như Lai hạnh. Thế nên dẫn mà nói chung là hạnh. “ Ba thứ...” là dựa vào nghĩa riêng mà giải thích, giải theo ly, ước chủng mà nói, “nói như...” là căn cứ Như Lai mà nói. Dùng ba chủng trước mà sinh ba Như Lai. Chánh nhân thì sinh pháp thân, liễu nhân thì sinh báo thân, duyên nhân thì sinh ứng thân. “ Như pháp...” là giải thích theo hợp, dẫn văn tóm lập. b, “chủng dĩ...” là ước nghĩa giải thích thành. Ngài Kinh Khê nói: Chủng lấy năng sinh, tánh, loại ba nghĩa, trước đã cùng hội, nay cần đối luận, cho nên lại luận. Thật ra năng sinh sinh chủng loại. Sinh loại này dứt khoát không biến đổi. Nếu không có khổ đạo sao có tướng một, nếu không có nghiệp đạo sao có đờn chỉ. Nếu không có phiền não sao có trí tuệ. Thuận giáo phương tiện cũng gọi là chẳng cùng loại. Cho nên các kinh khác đều lập riêng. Nay nói có nghĩa loại sinh có thể thành. Sinh tất không từng đoạn mà thẳng đến quả. Cho nên nay lập cùng thành hóa tướng. Cho nên giải thích chủng loại bèn phụ thêm cận tình. Do ước loại mà nói, e người không hiểu mà cho là diệt mất chủng không phải loại cho nên khi phụ thêm tình thời mà phân biệt các giáo khác. Biết giáo phương tiện không nói chân chủng, tức phụ thêm tình mà nói nghĩa, là văn đó. “ Nay ước...” là căn cứ chúng sinh mà giải thích thành, có kết trước nêu chung. Ba cái không có trước sau, vì hoặc nghiệp cùng thân đồng thời mà có. Trọn không có một người trước có hoặc nghiệp, sau mới có thân. Nếu hoặc nghiệp có trước đâu khác gì mờ mịt lúc xưa. Do đó suy ra biết là không có trước sau. Nếu nói đồng thời, sao nói rằng hoặc nghiệp làm nhân cho thân. Cho nên biết tuy không trước sau, nhưng cần nhân phiền não thì mới có thân. Ví như đèn và sáng đồng thời mà có. Cần nói nhân đèn mà có sáng, không thấy mà nói, thì nhân sáng mà có đèn. Cho nên nói cũng không phải cùng một lúc. Cho nên biết mê vọng ba đạo còn chẳng dọc ngang thấu suốt vọng ba đạo là chân ba đế, há là dọc ngang ư? “ Nếu phụ...” là dựa vào nghĩa giải thích riêng, có hai: a, phụ tình căn cứ nghĩa tư nghì mà giải thích, ước chướng chánh nói, phá chướng thành chủng. “ Đây nhiều...” là kết bày phán quyết mà giải thích, kết nêu không phải Viên. “Nếu trừ...” là ước người phán quyết giải thích, nói Nhị thừa Không có chủng. “Cho nên đại...” là chứng phàm phu cùng có. Ngài Kinh Khê nói: Cho nên Đại kinh đến người thiện căn không có, là hiển bày phi đạo có thể diệt, thiện đạo có thể thành. Lại đem không này nhập vào câu sau có người thiện là đó. Lại người thiện là chỉ cho có thiện hữu lậu. Đến lúc nghe sau thì kham thành nhân duyên. Thế nên duyên này từ xưa đã gọi là chủng. Nói đều không, tức chỉ cho liễu nhân, ngại gì một câu vô thỉ toàn không. Cho nên nay từ ở toàn không mà nói. Hoặc là liễu từ hiển liễu mà nói. Nếu thế thì duyên liễu cũng là không.
Đâu chỉ riêng ở liễu, làm thành bốn câu. Cho nên duyên từ có mà nói. Liễu nhân lại từ tướng che mà nói.
Căn cứ thức gồm giải thích, căn cứ thức chánh nói. Ngài Kinh Khê nói. Không có tám thức thì không có sinh tử Niết-bàn. Thức thứ tám là dị thục nên nói là sinh tử, tức thể sinh tử này là Niết-bàn. Lại tánh thể của thức này gồm hai thứ này. Nếu thế thì thức thứ sáu thứ bảy cũng là sinh tử, sao không được gọi tức Niết-bàn?
Đáp: Nếu đối chung thì nghĩa cũng có thể như thế. “Chân đế...” là hai sư chấp khác, kể giải thích của hai sư. Ngài Kinh Khê nói: Như Địa luận chấp nhận thức thứ bảy để đoạn, thức thứ sáu để diệt trí chướng, là nói thức thứ bảy thường lấy tướng thanh tịnh của tám thức, chân tu chưa hiển đều thuộc sáu thức. Nên nay trong sáu thức thì trí chướng diệt. Tức hiển bày thanh tịnh chân tu trong tám thức. Dựa theo trung luận mà phá. Ngài Kinh Khê nói: Các sư Địa luận lấy tám thức làm tự, các sư Nhiếp luận thì lấy tám thức làm tha, cho nên bị Trung luận kiểm phá. “Kinh nay...” là phụ căn cứ lý bất tư nghì để giải thích, nói tức chướng thành đức, pháp, ngài Kinh Khê nói: Kinh này thức, phiền não, bất thiện... dùng Trung luận phá rồi, thì mới hiển ba chủng đạo kinh này. Nói thân... là thức thứ sáu thứ bảy trong thân tự có báo pháp đều thuộc khổ đạo. Khởi phiền não, tức thuộc phiền não, kết nghiệp thành tựu liền thuộc bất thiện. Ba tức ba nhân, sao luống tranh cãi. Dụ. Hợp dụ. “ Nếu bồ...” là căn cứ chứng ngộ để hiển dung nạp, có hai: a, dựa vào sáu phen nói chứng ngộ, tức Trụ Hạnh Hướng Địa Đẳng giác Diệu giác. Nhờ sáu chủng tánh của Anh lạc mà nói ba thứ đẳng tu, trước đều là đẳng, nhưng chỉ thứ lân quả này riêng được tên đẳng. “ Ba thứ này...” là kết ba tánh hiển bày cùng dung nạp. Ngài Kinh Khê nói: Không phải đẳng trước sau. Chỉ khi ba đạo tự không phải dọc ngang, há được chí quả mới như chữ nhất. Chủng nếu dọc ngang thì quả không phải vốn có lý tánh của y. Quán sâu ba đạo là ở chỗ nào, đã ở tại một niệm thì không thể dọc ngang. Cho nên biết nhân quả đều như chữ nhất. “Đến văn...” là phân khoa nêu chung, phân khoa sáu đoạn. Kết thành ba chủng, nêu ba chủng chung riêng. Ngài Kinh Khê nói: phàm ba môn không đồng khổ môn, thông môn, biệt môn, văn sau mỗi mỗi đều thứ lớp nêu rõ. Nếu ở khổ môn mà nói nghĩa, thì ba đạo theo nhau đều là thuộc khổ. Thông tướng đã nói mỗi mỗi đều ba, đối bổn khổ môn nên có ly hợp. Ba đạo lại biệt nên không thể chuyên thông. “Nhưng chúng...” là hiển bày công năng liễu nhân. Do tuệ thấu suốt phiền não, trái hoặc thành trí, cho nên ở mê do hoặc nhuận sánh, ở ngộ thì do trí hiển lý. Mê ngộ tuy khác nhưng công năng thật đồng. Nếu căn cứ vị, thì liễu nhân tức là vị danh tự.
Nghe viên mà khởi tin, trái hoặc thành trí, đạt bổn thì có lý. Lý tức chánh nhân, dùng trí dắt hạnh, hạnh tức duyên nhân gọi là quán hành tương tợ. Ba nhân thành tựu, đây bèn là một tánh hai tu cùng thành ba nhân. Lý tức chánh nhân danh tự..., ba tức duyên liễu vậy. Như vừa phân biệt lấy trí dắt hạnh, hạnh và trí khế lý, ba pháp phù hợp nhau không khác mà khác. Đến thập tín thì gọi là thành tựu. Vào vị sơ trụ phá hoặc vô minh, thấy bổn có lý, nên nói là pháp thân hiển hiện. Song đến sơ trụ tu tánh nhất hợp, lại không có phân bày, ba pháp đều hiển. Nay từ hơn mà nói, lại nói là pháp thân. Cho nên văn...” là dẫn chứng công năng của liễu nhân. Thế nên biết tất cả những vốn có xưa nay là do vô trí, nên dùng hàng ngày mà không biết. Do có trí nên dắt hạnh đến quả có hạnh. Vô trí là nhân sinh tử mà thôi. “ Có thân...”, là tùy văn giải nghĩa, Dựa vào khổ đạo xưa có thân... ngài Kinh Khê nói: Văn trước đã đem thân làm khổ đạo, tức là chánh nhân. Tiếp duyên nhân, và liễu nhân. Nay hợp lại làm chánh nhân. Lại thân làm chủng, thường sinh phước tuệ, là đối ba thứ có thể biết. Đây là văn kinh nói ba chủng. E cũng chấp quyền mà siêng năng thị hiện. Như người mắt có màng... chánh là căn cứ Phương đẳng, hình ở Nhị thừa mà dụ. Trước dụ Nhị thừa, kế dụ phàm phu. Đều là tánh không thấy mà dụ cho mắt có màng. Nhị thừa chán ghét sinh tử lại đem khổ thấy mà dụ; phàm phu không chán nên chỉ nói là mắt bệnh. Nếu đến thầy thuốc vụng, tức cơ phát dụ đến, giáo chủ tam tạng gọi là thầy thuốc vụng, tích pháp quán trí như châm cứu. Trợ đạo của Tiểu thừa như thuốc thoa. Ra khỏi khổ ba cõi như hết đau. Không được Phật trí Phật nhãn như mắt hư. Mê lý trung đạo như không thấy sắc. Bốn chữ không chủng Như Lai tức hợp dụ. Nếu người...” là dụ phàm phu. Phiền não còn nguyên thì chủng Như Lai còn, nên dụ nhãn căn không hư. Sau nếu gặp thầy. Đây tức thầy thuốc khéo chỉ dùng bùa chú. Như giáo chủ Viên chỉ nói viên đốn hiểu rõ chướng tức đức, dụ cho bệnh lành. Năm mắt đầy đủ, thấy lý ba đế, nên dụ nhãn căn thanh tịnh. Rộng căn cứ đạo phiền não, ngài Kinh Khê nói: Cũng là ba chủng Phật Như Lai. Ý cũng như khổ đạo trước nói: Tham ái tuy tức đã thuộc phiền não, nương thân nhờ nghiệp cũng có đủ ba, há cũng còn quán hoặc và hay phá hoặc ư? Tất quán hoặc đủ và hoặc do nghiệp khổ. Phiền não đã thế. Đối hai cái thùy miên trạo cử của năm cái, cũng là báo pháp. Vì tương đới “đeo nhau) nên cũng đồng khổ. Do đó đều nói là ba. Nếu lìa chấp ngã thì riêng lệ ở ba. Chung riêng có ngã nên chỉ thành ba. Nếu lìa khỏi ngã, ngã khắp có ba bèn thành đẳng phần. Biệt môn mà nói nghĩa, là chấp đảo ở ấm nên chung thuộc thân vì thường đẳng biệt cho nên ở khổ môn. Trong khổ đạo mà lìa khỏi bốn đảo. Biệt môn tức là biệt tướng niệm xứ thêm hay quán niệm nên xứ gọi là sinh. Nếu từ tướng sinh thân... lại nhận chánh cần, như ý cho đến giác đạo... các tên. Cho nên biết có thân... các văn cũng chuyển nhập vào sáu môn dưới. Đây... đều phải vô tác mà giải thích. Phải biết bốn đảo phi đạo sinh ra ba mươi bảy phẩm Phật đạo. Hay sinh căn bản....
Hỏi: Cái hay che thiền trái nhau với thiền tướng. Cái đi, thiền phát hay sinh ở đâu?
Đáp: Nếu căn cứ Tiểu thừa thì cái là trái nhau. Nếu từ đại giáo thì trái với cái thành định, nên dựa đại giáo mà gọi tương sinh.
Nếu thế vì sao sinh ở căn bản thiền?
Đáp: Sự lý đều nói cho nên gồm phát sự. Hoặc là nguyên lấy tiểu giúp đại. Đây ở Biệt Thông không ngại. Vì do trong cái cũng đủ ba đạo, cho nên ước đạo mà nói ba. Lại ước khổ đạo. Hoa Nghiêm nói mười thứ sáu căn..., Tiêm sư nói: Cựu kinh quyển ba mươi lăm nói Phật tử Bồ-tát Ma-ha-tát có mười thứ nhãn: Đó là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ minh pháp nhãn, Phật nhãn, Trí nhãn, Minh nhãn, Xuất sinh tử nhãn, Vô ngại nhãn, Phổ nhãn. Phật tử là Bồ-tát mười thứ nhãn căn. Nếu Bồ-tát thành tựu nhãn này thì được nhất thiết chư Phật vô thượng đại trí tuệ nhãn. Nhĩ... bốn căn còn lại mỗi thứ đều có mười loại, danh tướng đều khác, tất cả đều kết rằng được chư Phật vô thượng nhĩ cho đến vô thượng ý. Cho nên nay nói nhân là được nhập sáu căn Như Lai. Bởi vì sao...” là nên biết. Nói thức trụ là thức được an trụ. Thức nghĩ nhớ rõ ràng không có não loạn. Vô hoại, tên ấy là trụ. Ác thú thì khổ đau làm hư hoại, tứ thiền thì vô tưởng phá hoại, phi tưởng thì diệt định phá hoại. Cũng địa ấy tâm tưởng đều vi tế mịt mờ, vì niệm không rõ ràng, nên thức không an trụ.
Hỏi: Dục giới cũng có ác thú phá hoại, sao lại lập thức trụ?
Đáp: Lấy địa hoại mà không lấy giới hoại. Ở Dục giới ác thú thiện thú, các thú trái địa khác khổ lạc. Nghĩa rất khác không dính líu gì nên không phá hoại nhau, ngài Kinh Khê nói: Bảy thức trụ, thì xứ là sở trụ, trụ là năng trụ. Nếu theo ngài La-thập thì ở khổ tùy chỗ trụ xứ. Ba đạo đầy đủ cũng thành thông nhau. Tướng ba thông ước với lạc trụ của Tiểu thừa dồn thành vô chủng. Tuy nói lý bất lạc nhưng không phải toàn không.
Lại lược căn cứ tạo phiền não. Ngài Kinh Khê nói: “Là sinh thiện duyên. Lại từ đối trị chung làm quán cảnh, chủng nào mà chẳng thành. Căn cứ nghiệp đạo, ngài Kinh Khê nói: Nhân ác sinh thiện... đây là dẫn có thể chuyển đổi để làm chuẩn. Tất cả đại ác đều là lý không chuyển, đã chuyển là thiện sinh. Ba thứ bất hộ cần phải biết. Ác thể là thể bất hộ. Ví như đất ẩm hay sinh đất khô, khi thành đất khô rồi thì liền thành gạch ngói. Cho nên biết đất ẩm là thể của gạch ngói.
Căn cứ phiền não kết chung.
Ngài Tịnh Danh lại hỏi. Kinh nói “viết” là nói gì. Viết là đầu mối phát ra lời. Hứa Thận trong Thuyết Văn nói: Mở miệng thấy lưỡi gọi là viết. Ngài Tịnh Danh đã nghe ngài Văn-thù nói rộng ba đạo làm chủng. E người khác không hiểu nên có lời hỏi này. Để sinh việc nói ngài Văn-thù chê trách Tiểu thừa.
Ngài Văn-thù giải thích, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, chánh đáp, thí dụ làm sáng tỏ, nêu bày phân khoa. “ví như...” là tùy văn giải nghĩa, có bốn:
1. Dụ liễu nhân chủng.
2. Dụ nhân duyên chủng. Ngài Kinh Khê nói: Kinh nói trồng trọt ở trên không, không có phân đất gọi là không, chẳng phải là hư không. Phân hoại mục là nói trừ bỏ đồ dơ. Chu Lễ nói đồ rã mục cũng là đất.
3. Dụ chánh nhân chủng.
4. Dụ chung về sinh ba chủng.
Ngài Đại Ca-diếp nhận khen thành, có hai: phân khoa. Và tùy giải thích, khen sự trù liệu của kinh. Khổng An Quốc nói: Trù là phân loại, thí dụ làm sáng tỏ, giải thích ý, nói quyến thuộc, nêu ý phân khoa, từ khoa trước bắt đầu thành đạo trước và nghĩa chủng. Ngài Tịnh Danh nói phi đạo là đạo. Ngài Văn-thù nói phi chủng là chủng. “Lại nữa...” là y theo phẩm trước hiển bày thành. “ Văn có...” là phân khoa. “Sơ vấn...” là tùy văn giải nghĩa. Hỏi nói người hay hỏi. Chánh nêu lời hỏi, hỏi quyến thuộc. hỏi tư sinh.
Đáp, gồm phân khoa, “đáp...” là tùy giải thích, chánh đáp pháp thân quyến thuộc tư sinh tức là tự hành, nói quyến thuộc, nêu y nói chung, có hai: a, nêu lời đáp nói ý. b, quan...” là phụ việc thành lý đại thần, tá, lại, thứ dân là mười Địa giúp Phật. Hành hóa hàng ma trừ địch như đại thần. Thập hướng sự lý sâu dần, chức gần bên vua như tá. Thập hạnh, sức tu các pháp các việc đuổi bắt như lại. Thập trụ như dân. Trước nhập cảnh giới Phật là khách mở đất đều là dân của vua. Nhiều lúa gạo phải làm kho chứa là dụ thiền định sinh một trăm lẻ tám Tam-muội. Nhiều vật phải làm kho, kho là dụ thật tướng hay phát mười tám trí tuệ không.
“Trí độ...” là tùy văn giải thích riêng, rộng giải thích các hạnh, giải thích sự, giải thích cha mẹ quyền thật, ước nghĩa lược giải thích. “Nếu đến...” là y kinh giải thích rộng, đối phẩm trước luận nghĩa, ước phẩm chánh nêu. “Cố kim...” là dẫn chứng giải thích thành hai. “Lại hành...” là trưng khoa trước luận nghĩa. An trụ thế đế là khi mới xuất thai. Vô minh cùng pháp sinh ra tất cả cách ngăn và trải phân biệt nên gọi là thế đế. An trụ là dùng chỉ quán mà an ở thế đế, tức là quán cảnh bất tư nghì, thành vị quán hành nên gọi là an trụ. Vì an trụ nên gọi là gá Thánh thai. Sơ trụ phá vô minh, khai Phật tri kiến nên gọi là mới xuất thai. Dùng quyền đến nhập giả là thật trí thì nhập không, quyền trí thì nhập giả.
Giải thích Đạo sư. Do sinh hai khí trời đất, trời là khí dương, đất là khí âm. Dương Tử trong pháp ngôn nói:
Cha mẹ con là trời đất. Quán giải. Cúi đầu lễ Phật, trí độ không con, là văn đầu kệ quy kỉnh của Đại luận mà ba bổn luận xưa không đồng, hoặc viết chữ đẳng hoặc viết chữ (tử), hoặc viết chữ (tử) vì thể chữ dễ lầm nên lại viết chữ. Nói hoặc bảo tử là chủng tử, hoặc bảo tử là con cháu. Mỗi thứ đều có nghĩa, nên xưa nay chưa ai dám nhất định, nên nêu chung bốn nghĩa mà giải thích. Cho nên Cổ Luận Âm Nghĩa nói:
1. Không đồng “đẳng”, tất cả chúng sinh cùng Phật không đồng (không bằng Phật).
2. Vô ngại, Phật là pháp vương đối với pháp rất tự tại.
3. Không con. Lại có hai nghĩa: 1. Ở lý, Phật hay thể ngộ mà không sinh ra chân lý, nên nói là không con. b. Ở sự, Như Lai thì chủng tử sinh tử đã hết, nên gọi là không con.
Không con cũng có hai nghĩa: a. Bát-nhã gọi là Phật mẫu. Mẹ có bảy con, tức là Phật, Bồ-tát, Bích-chi và bốn quả, tức trong bảy vị này Phật là lớn nhất, nên nói không con. b. Trong vô minh tế không có con trí tuệ. Thích thiêm có dẫn đủ văn này. Chỉ vì cách viết đổi chữ nên người học lắm mù mờ. Nay văn dẫn trong bốn nghĩa thì dùng nghĩa con cháu. Chỉ vì ở nhân nên gọi là con. Cho nên ngài Phổ Hiền gọi chân Phật tử. Cực quả siêu nhân nên nói là không con. Đây cùng với giải thích xưa hình như khác. Nếu lấy người lớn của bảy con thì cũng hơi thông.
“Pháp hỷ...” là lược giải các câu. Tướng Từ và Bi phù hợp đồng nhau, phù là hợp, cho nên ngài Kinh Khê nói: Tánh nữ thì nhu hòa, không cùng người khác tranh nhau. Như Từ và Bi dễ tập họp nhau, hoặc viết chữ phù trì là do người sau dối đổi. Hoặc giống hoặc thật, ngài Kinh Khê nói: “Giống là hiền, thật là Thánh. Pháp môn bỉ ngạn, Ba-la-mật, Hán dịch là Đáo bỉ ngạn. Hai luân, tức là phước và tuệ. Nghiêm tề... cũng như đẳng lữ. Đẳng là bằng, ngang nhau, cùng loại. Hán Thư nói: Đều đồng là rợ của bệ hạ. Kỹ nữ, nữ nhạc gọi là kỹ. Duyệt lự tức tâm lo lắng. Nói tư sinh. Như thế căn cứ giáo Biệt Viên... ngài Kinh Khê nói: Chỉ cần trước ước với hai giáo trước, rồi dần dần giải thích hết, kế ước hai giáo sau. Song hai giáo trước chỉ đoạn nội giới. Nếu dựa vào Biệt giáo mà trừ bỏ kiến tư nội giới ngoại giới, thì đều có trước sau, có thể dễ lệ nhau. Đăng địa đồng thể, lý không phải trước sau. Đối với Biệt giáo tuy lại nhập địa nhưng vẫn phân kiến tu trước sau khác nhau. Viên giáo một mực, trước sau không hai. Thế thì không thể phân kiến tu khác nhau đủ ước nội giới ở vị kiến tận, gọi là kiến tịnh và độ nghi tịnh. Nếu ước tư tận thì gọi là phân biệt tịnh và hạnh tịnh. Niết-bàn chỉ cho Phật quả rốt ráo, nếu ở chân vị thì lập ra bảy tịnh, không phân mà phân coi là bảy tịnh. Chuẩn vị bốn y mà nêu có thể thấy. Bồ-tát ở nhân..., vì trong bảy tịnh có đạo vô học, không phải là quả rốt ráo. Tức là Bồ-tát tu nhân vô học, cũng được gọi là Niết-bàn. Lại tu tám giải thoát trừ cấu, tức là đoạn. Riêng chương thông với vô tri và tu chín thứ đại thiền. Cũng có thể nói rằng ở trong các thiền đều trừ vô tri. Hoa man, tiếng Phạm nói đủ là Tô-ma, Hán dịch là Hoa. Tiếng Phạm nói Ma-la,
Hán dịch là Man (tóc). Ở Tây Vức thợ kết tóc thường dùng hoa Tô-ma-na kết hoa thành xâu dài lớn. Bất luận nam nữ quý tiện đều dùng tràng hoa này để trang nghiêm. Hoặc treo trên đầu, trên thân để làm đẹp. Tư tức, tức là dứt sinh, tránh các loài sâu độc. Thì rơi vào Nhị địa, tức là đất Nhị thừa. Ngoại quốc dùng âm nhạc... Triệu sư nói: Ở ngoại quốc các vua chúa khi nằm ngủ muốn thức dậy thì tấu đờn sáo để đánh thức. Cam lộ, Sinh Công nói: Thức ăn của trời là vị cam lồ. Ngài Lathập nói: Các trời lấy cây thuốc nổi tiếng ở biển, dùng núi báu mài thành cam lồ, ăn vào thì thành tiên. Bạch Hổ Thông nói là rượu trời. Quán lý sám hối, là bậc Đẳng giác ở nhất phẩm cũng phải sám hối. Làm vô tác thiện, là dựa vào nghĩa Tiểu thừa như đã thường nói. Nay giữ giới trung đạo không làm hai biên gọi là làm vô tác. Kết công đức tự hành đầy đủ, tràng phan đẹp kiến tạo đạo tràng. Ngài La-thập nói: Ở ngoại quốc hễ phá địch được thắng thì dựng thắng phan đạo tràng. Hàng phục ma cũng biểu hiện tướng thắng ấy. Nói đại dụng nhập giả, thành phi đạo trước và chủng đều là hóa tha, có phân khoa. Và tùy giải thích, nhập giả cúng dường chư Phật. Nhập giả tịnh Phật quốc độ. nhập giả thành tựu chúng sinh:
1. Nhập giả để giác ngộ chúng sinh.
2. Nói dạy chúng sinh thế pháp. Kinh nói: Đều ở trong xuất gia đến tà kiến là chín mươi sáu thứ đều là ngoại đạo xuất gia. Tùy chỗ xuất gia muốn cởi bỏ hoặc, không đồng với sự thấy của họ.
3. Nhập giả cứu tai nạn chúng sinh. Kinh nói hoặc làm nhật nguyệt thiên. Ngài La-thập nói: Ở kiếp sơ chưa có mặt trăng mặt trời, nên làm mặt trăng mặt trời để chiếu sáng. Làm các đại địa thủy phong, là ở sơ kiếp đất chưa có, dùng thần lực khiến sáu phương gió thổi, nước kết lại thành đất. Hoặc thấy người ra biển khơi thuyền sắp đắm bèn hóa làm đất khiến được an ổn. Cho đến chỗ nước lửa gió tùy chỗ cầu đều ứng hiện đủ, hoặc biến hóa ra hoặc lấy thân làm thức ăn và cây thuốc, đều như thế. Kiếp trung có đao binh... ngài La-thập nói: Khi đời kiếp tận thì đao binh khởi lên, tuổi thọ con người còn mười tuổi, thì Bà-tu-mật từ cung trời Đao-lợi hạ sinh xuống vương cung làm Thái tử. Ông dạy dỗ mọi người bảo rằng: Tổ phụ ta thọ mạng rất dài, do vì giận dữ không có từ tâm nên khiến thọ mạng ngắn như thế này. Thế nên các ngươi cần tu từ tâm. Mọi người tuân lệnh, tâm ác giảm dần. Sau sinh con cái có tuổi thọ đến hai mươi. Như thế chuyển đổi dần đến khi ngài Di-lặc ra đời, thì thọ mạng lên đến tám vạn bốn ngàn tuổi. Nhập giả cứu khổ địa ngục, súc sinh. Nhập giả đồng sự lợi vật. Kinh nói: Khiến tâm ma bấn loạn. Muốn nói hành thiền lại nhận năm dục. Muốn nói nhận năm dục lại hiện hành thiền, khó lường việc biến hóa, do đó mà bấn loạn. Làm chủ một ấp, Tả truyện nói: phàm ấp có tông miếu của tiên quân thì gọi là kinh đô, nếu không có thì gọi là ấp. Để phù hộ, Thi tiêm nói hỗ là phước. Nhĩ Nhã nói hỗ là dày. Khiến trụ giới nhẫn từ. Ngài La-thập nói: Đời không có Thánh hiền thì chúng sinh thấp kém không vào được thâm pháp, nên dạy họ giới nhẫn. Kết khen tự tha. Kinh nói đạo vô lượng, vì ứng địch đều là đạo của Phật. Chê phá Nhị thừa, “trải bất tiếu”, Quảng Nhã nói tiếu giống như loại. Lễ ký nói: Con bất tiếu là nói con không giống cha tức thuộc loại ác.
---------------------------------
Hai phẩm Bất Nhị và Hương Tích nói trung đạo song lưu, có hai: Phẩm BẤT NHỊ PHÁP MÔN, có hai: a, nêu chương. b, tùy giải thích, giải thích ý có phẩm. Chánh giải thích phẩm, rộng lập tứ cú rộng giải thích ước câu chánh chọn, nêu bày. Chánh giải thích:
Lý thiên viên môn, ngài Kinh Khê nói: Dùng câu thứ ba mà chọn Nhị thừa. Ý này chính là ý Phương đẳng. Cũng có thể nói Nhị thừa Thông giáo nghĩa đồng tam tạng. Địa tiền của Biệt giáo gọi là thiên môn. Nếu Sơ địa gọi là nhập Viên lý. Nhưng trước khác sau không đồng Viên giáo. Hoặc nói rằng giáo đạo địa tiền không phải nhập viên. Từ chứng mà nói mới gọi là viên lý.
Lý Biệt Viên môn: Một câu là người nhận tiếp, một câu là người hiểu viên mà làm tiệm. Sơ địa tức là sơ trụ, vì đối nhau mà thành câu. Đã tu hạnh tiệm nên nhận tên địa.
Lý viên dung giáo. Lý bốn giáo tức ly, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ tư là phân biệt bốn câu thứ ba trước. Trước tuy là lý giáo đối nhau làm môn, nhưng chưa biết đó là giáo lý của giáo nào. Cần phân biệt tức ly năng sở. Biệt Viên lại đối tạng mà chọn hiển lý giáo trước.
Đại tiểu nói và im lặng, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ năm tức là đối bốn tứ cú kia mà phân biệt. Trước đều từ pháp tuy đối lý mà biện. Chưa luận nhập là im lặng và không im lặng. Nay lại từ hạnh lập môn này lại phân biệt bốn thứ trước.
Giáo hạnh xa gần, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ sáu, người nhân người quả xưa nay đối nhau hiển bày Viên giáo trước cũng lại phải ước ba giáo trước mà phân biệt.
Giáo môn đắc thất, ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ bảy là căn cứ đắc thất mà luận. Đắc thất là do hạnh, hiển bày trước đều đắc, nay lại mang thêm thất.
Xuất nhập phàm Thánh. Câu đầu là ba thừa, câu hai là năm đạo, câu ba chỉ có biệt, câu bốn chỉ có viên. Ngài Kinh Khê nói: Bốn câu thứ tám, là căn cứ một đời thuyết giáo để luận các tướng xưa nay đối nhau, xuất nhập được không. Nói xưa nay trong bảy tứ cú trước để luận đắc thất. Cũng là thiên viên đối nhau để luận. Chỉ có bốn môn thứ tư là viên là đắc.
Đại quán tiểu quả. Ngài Kinh Khê nói: Câu chín là ước đại quán tiểu quả đối nhau mà luận. Câu đầu là tiểu quả, ba câu sau là đại quán. Cũng gọi là đại nhân. Đây như Pháp Hoa đối nhau mà luận diệu.
Quán môn suy nghĩa thiên viên. Ba quán, vì lìa đoạn thường nên gọi là trung đạo. Cho nên câu bốn tức người tu bất định chỉ quán. Ngài Kinh Khê nói: Tứ cú thứ mười là thuần ước quán môn, tuy lại nhiều môn mà ý ở tại quán. Cho nên khiến phải nói quán môn sau chót.
“Thế thì...” là kết bày giải thích thành, kết bày. Đây căn cứ tình ngộ, vì tùy cơ tình nên môn hay nhập không đồng, mà lý được nhập là một. Đây ở lý mà giải thích. Lý được nhập chỉ là một im lặng, song luận về hay nhập đều khác. Cho nên ngài Tịnh Danh im lặng, các Thánh đều nói bèn cùng biểu hiện bên trong.
Bất nhị, ngài Kinh Khê nói: Như hướng về mười môn mà chọn nhập và không nhập. Nhập là thiên viên, viên là không hai, thiên thì có hai. Không hai mới là chỗ nhập môn của nay. Hai thì không nhất định, hoặc tà hoặc chánh, hoặc tiểu hoặc đại, chỉ sự chỉ lý. Nhưng chỉ riêng một nghĩa hoặc còn hoặc mất, như đều chọn lựa sau. Phải biết là chọn nhập và chẳng nhập hai thứ. Nếu được nhập thì không hướng về các thất.
“Nếu ở...” là giải thích thành, căn cứ ngộ lý tịch chiếu mà giải thích, chánh giải thích, giải thích nhập và không nhập hai thứ. Chiếu mà song tịch, rất tịch mà song chiếu, là căn cứ ba đế cùng dung nhau, bèn tịch chiếu tương tức. Vì tương tức nên xuất nhập đều ngộ. Giải thích pháp môn. Pháp nhị và bất nhị, nhị tức hai biên, bất nhị tức trung. Cho nên biết chỗ chiếu chỉ là pháp bổn cụ nhất tâm tam thiên ba đế mà thôi. Môn, lại là đẳng. Lại là sở chiếu gọi là môn. Lý thông tất cả gọi là môn. Thế thì...” là kết bày. Ngài Kinh Khê nói: Thế thì một pháp đẳng. Bất nhị và môn chỉ là một pháp. Nhưng pháp là từ chỗ mà lập, còn môn là di dụng sinh. Lập tên tuy khác như thể của pháp Không khác. Nên nói bất nhị. Căn cứ các môn này có hai và không hai.
“Lại hai...” là căn cứ mê ngộ đối nhau mà giải thích, chọn mê bày hai. “nay nói...” là ước ngộ mà giải thích không hai, căn cứ pháp chánh bày. Không nương vào hai đến bỏ hai biên cũng chẳng đến bất nhị, không đắm trước trung đạo. “Cũng chẳng...” là chữ ly phải viết là y, vì lầm, “đều xả...” là giải thích hai câu trên. Và không hai biên, ngài Kinh Khê nói: Bỏ đắm trước trung đạo. Tức trên nói cũng không nương không hai của sinh tử Niếtbàn. Lý trung đạo này gọi là môn. Hiển giáo tức lý được nhập. Nói nhập bất nhị pháp môn, nhập tức năng quán, ba quán bất nhị pháp môn tức là sở quán. Ngoài tâm ba đế không có cảnh, nên gọi là bất nhị. Có thể làm phép tắc thì gọi là pháp, thông suốt thì gọi là môn. Dùng đây mà tóm kết bao quát các thứ khác. “Pháp Hoa...” là dẫn chứng chọn người, dẫn kinh chứng môn. Ngài Kinh Khê bảo: Pháp Hoa nói môn trí tuệ ấy... lý tức là môn. Vì trí trong môn này xứng lý nên hỏi. Mượn khai văn để hiển bày vấn nạn, cũng nghĩa là cảnh trí tương xứng.
“Không phải chỉ...” là chọn người năng nhập, chọn bỏ thiên hiển viên. “Chỉ trừ...” là thừa mấy chữ. “Lại viên...” là chọn bỏ phàm hiển Thánh. Ý chung có thể như thế. Nếu luận ý chung thì chỉ tương tợ gọi là nhập. Quán hành, danh tự cũng gọi là nhập. Như người biết nhà ấy..., ngài Kinh Khê nói: Đây là ước trụ tiền biết viên là dụ hiển bày trụ. Phần chân gọi là nhập. Như khai thị ngộ nhập... tên chứng nhập này là do ở phần chân. Nghĩa biệt nếu thế, há chỉ tên nhập từ biệt. Cả ba thứ khai, thị, ngộ cũng không chung cho phàm phu.
Hỏi: Sư nay dùng khai... bốn thứ để đối bốn mươi vị thì nhập phải ở mười Địa. Trong đây vì sao lại nói trong sơ trụ mà luận?
Đáp: Pháp Hoa sớ giải thích khai thị ngộ nhập gồm có bốn nghĩa: a, là ước bốn vị, hai là ước bốn trí. Đó là đạo tuệ đạo chủng tuệ Nhất thiết trí, Nhất thiết chủng trí. Hai thứ này đều căn cứ dọc đối bốn mươi vị.
Căn cứ bốn môn, thì không môn tức khai, hữu môn tức thị, hai cũng môn tức ngộ, song phi môn tức nhập.
Căn cứ quán tâm, tâm tánh ba đế là bất khả tư nghì. Quán này nói Tịnh Danh khai, tuy bất khả tư nghì mà hay phân biệt ba đế không lạm nên gọi là thị. Ba và một tương tức nên gọi là ngộ, không phải ba mà chiếu ba nên gọi là nhập. Hai thứ này đều ước ngang mà luận vị, vị đều đủ bốn. Nếu ước ngang, là thật trụ tiền của thông. Nhưng văn kinh đã nói bốn hoa biểu thị chính là ở Thánh vị. Cho nên nay lấy ngang trải dọc sơ trụ đủ bốn. Phẩm này...” là theo phẩm trước mà hiển ý, thành phẩm Bồ-tát trước được nhập vào môn này. Vị Vô sinh nhẫn, là nhân chê trách mà đổi quán, nên nhập vào vô sinh. Cũng không thông trung mà trụ, là cũng chẳng trụ trước vào trung đạo hay thông. Thành phẩm Thăm Bệnh trước. Ngài Kinh Khê nói: Tiến luận, tức là luận về quả dụng, nên nói tiến luận. Thành hai phẩm Quán Chúng Sinh và Phật đạo ở trước. Loại như trời đất đến chẳng sinh. Kinh Dịch nói trời đất giao nhau mà vạn vật thông. Nêu tên nghĩa cùng thông, có hai: a, nói tên môn thông cả xuất nhập, nêu lập. “ Thông giáo...” là giải thích, “Lại nữa...” là hiển nghĩa pháp thông cả xuất nhập, nêu lập. Bất nhị là pháp. Phẩm của kinh chỉ nói nhập bất nhị. Nay dùng nghĩa thông cũng phải nói là nhập nhị. Trong đây lại phải nêu rằng không phải chỉ nhị gọi là xuất, bất nhị cũng gọi là xuất, vì văn lược bỏ mà thôi. Vì pháp môn vô lượng nghĩa nó đều thông.
“Như pháp...” là giải thích, chánh giải thích, gồm dẫn trong nhà trưởng giả mà hiển nhị gọi là nhập. Tạo lập phòng nhà tức hữu dư Niết-bàn trong cõi nước hữu dư. Lập nhà từ bi nương tánh nhà trống. Vàng bạc dụ cho ba mươi bảy đạo phẩm Đại thừa. Kho lẫm là định môn tức một trăm lẻ tám Tam-muội. Kho là tuệ môn tức mười tám không. Không hai mà hai gọi là xuất, phải nói là nhập, nay nói xuất là lầm. Tức nêu rằng hai cũng gọi là nhập là đó. Song tục bất tư nghì này nhìn sang chân bất tư nghì kia, tuy gọi là xuất. Nếu nhìn nội giới tư nghì thì chân tục đều gọi là nhập cả. Vì nhập vào trong nhà vậy. “Tự ư...” là chánh bày ý này. “ Như xá...” là dẫn gia bị Tiểu thừa để hiển bất nhị gọi là xuất. Chuẩn văn này thì biết hợp trước nêu rằng không phải chỉ nhị gọi là xuất, mà bất nhị cũng gọi là xuất. Vì đối nhau dễ bày tỏ nên lược bỏ trước. Đây cũng từ nhị mà nhập vào bất nhị. Vì chỗ chứng của Tiểu thừa là tục ngoại giới nên gọi là nhị. Để gia bị nên nói không cùng chung Bát-nhã, tức chân ngoại giới nên gọi là bất nhị. Nhưng chỉ biết trở đi trên tạm ban gia bị để nhập. Đã đều không mong lấy nên đây lại cướp đi, nên nói không phải là chân ngộ nhập. Nếu biết rõ dưới đã gia bị mà không phải là chân ngộ nhập, do đó mà ra chứng tiểu quả nên nói lại xuất thảo am. Thảo am là chân nội giới gọi là bất nhị. Đã ra trụ tiểu quả, há không phải bất nhị lại gọi là xuất ư? Lúc đó...” là kết bày. Nhưng đây hai phen nói nghĩa xuất nhập đã thông. Nếu muốn dễ hiểu phải nói dùng hai đế nội giới nhìn sang hai đế ngoại giới, đều cần phải phá nội nhập ngoại. Cho nên khiến tục đế ngoại giới cũng được tên nhập, tức nhị cũng gọi là nhập. Đây tức ý của phen đầu. Nếu từ gia bị ra chứng tiểu quả tức từ quả ngoại tục ra chân nội giới, tức bất nhị cũng gọi là xuất.
“Nay nói...” là chọn hiển bày, tức từ tục ngoại giới mà nhập chân ngoại giới nên nói nhập bất nhị. Phải biết hai đế nội giới đã thuộc tục ngoại giới vậy.
Vào văn, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải, ngài Tịnh Danh hỏi nguyên do hỏi. Từ đầu hội đến nay chỉ có hai người đối đáp nhau, các người khác đều im lặng. Nay muốn đều hiển các công đức, nên hỏi để khiến đều nói. các Bồ-tát đều nói, huyền nói nghĩa chỉ:
Biểu thị Viên vị, nêu ba nghĩa: 1) nương Đại kinh. 2) nương Nhân vương. 3) nương Đại phẩm.
Giải thích, có ba: a, biểu thị vị khai trước hợp sau. Tức Đại kinh nói thuốc bất tử của trời Tam thập tam, các quan văn võ cùng uống, tức là cam lồ bất tử. Vì Niết-bàn như cam lồ khiến sinh tử dứt hẳn, là thuốc chân bất tử. Biểu thị vị hợp trước khai sau. Mười bốn cõi cũng gọi là mười bốn nhẫn, tức khai năm nhẫn thành mười bốn nhẫn.
1. Phục nhẫn có ba phẩm, tức ba mươi tâm.
2. Tín nhẫn.
3. Thuận nhẫn.
4. Vô sinh nhẫn, mỗi thứ đều có ba phẩm đối địch chín Địa.
5. Tịch diệt nhẫn có hai phẩm: Hạ phẩm đối với Địa thứ mười, thượng phẩm đối với Diệu giác. Vì nó hợp với Đẳng giác ở mười Địa.
Biểu thị trước sau đều khai. Đại phẩm dùng bốn mươi hai chữ biểu thị cho viên vị. Trước là A, sau là Trà A nói là không. Tức sơ trụ vô minh phá trước không sinh. Trà, nói đủ là Ba-trà, Hán dịch là hết, ngoài chữ Trà không có chữ nào nữa. Tức diệu giác rốt ráo. Trung luận có tám bất, Tiêm sư nói đó là bất sinh, bất diệt, bất đoạn, bất thường, bất nhất, bất dị, bất lai, bất khứ. Nên nói là tám. Nếu không đến bốn mươi hai địa, tức tiểu Bát-nhã nói: Tất cả Hiền Thánh đều dùng pháp vô vi mà có sai khác. Nếu phân biệt đến đều đủ các chữ. Tức kinh Lăng-già nói một Địa mà đầy đủ tất cả Địa.
“Phải biết...” là kết ba nghĩa, chỉ có nghĩa đầu cùng Bồ-tát nay vị số tương đương. Đã khai hợp gồm thâu nhau cho nên đồng hai thứ sau. Cho nên nói tức biểu thị ba nghĩa này. Căn cứ tự hành. Năm trăm thân nhân như trước đã nói. Nay lấy tiểu mà làm chuẩn cho đại, nên dẫn ra. Căn cứ hóa tha, ngã, vô ngã đến như thế, lấy tám đảo làm chuẩn vào sinh diệt mà nói. Sinh là bốn vinh, diệt là bốn khô. Cho nên căn cứ bốn Biệt Viên, có chánh giải thích. Tiêm sư nói: Ngài Văn-thù không nói năng. Nói và không nói như kinh nói rằng: Như ý ta thì đối tất cả pháp Không dùng lời lẽ nói năng gọi là nhập bất nhị. Liệu giản, hai giáo cách biệt nhau. Ngài Kinh Khê nói: Nếu làm ba môn... đây là duyên với văn trước đối các ngài Văn-thù và Tịnh Danh, phán quyết ba mươi hai người lệ ở cảnh riêng. Nay lại hỏi đáp hiển bày Biệt Viên. Không thể chuyên phán quyết lấy làm Biệt giáo. Nếu đối một môn mà nhiếp bốn mươi hai, các môn cũng thế. Bốn môn gồm thâu. “ Pháp tự...” là tùy văn giải nghĩa riêng, nói ba mươi mốt Bồ-tát đều nói ba mươi mốt. Pháp tự tại chánh giải thích, giải thích tên. Ngài Kinh Khê nói: Thì quyền thật đến vô phược. Như trong phẩm Thăm Bệnh tuệ cùng phương tiện đối luận về phược và giải. Nay nói tự tại tức có hai dụng. Tuệ tức thật tuệ, nên nói hai tuệ. Quyền tuệ thì tự tại, thật tuệ thì không phược. “ Sinh diệt...” là giải thích môn. Đều là tùy tình... chưa nhập sơ trụ kiến lý, trụ tiền, tương tợ... các giải thoát đều là tùy tình. Chọn quyết, ngài Kinh Khê nói: Sở dĩ đối pháp tự tại mà văn đã rộng phân biệt là đứng đầu các Bồ-tát nên phải thế....” là đại chỉ cần chuẩn theo đây. Cho nên các văn giải thích dưới cùng tóm lược. Văn có ba: a, chọn chẳng phải ngoại chấp. b, chọn chẳng phải tam tạng. c, chọn chẳng phải Thông giáo. Mỗi thứ đều có hỏi đáp đều như văn. “ Nay...” là kết bày. Phần trung đã thoát, là phần kiến trung đạo vậy.
Đức Thủ, có hai: a, giải thích tên. b, “ngã...” là giải thích môn, chánh giải thích. Hoặc tùy tánh dục... tức tự hành vậy. Hoặc vì phó cơ tức là hóa tha vậy. 2. Nếu hai...” là chọn chẳng phải chưa không ở sở, tức lấy Niếtbàn làm ngã sở. Bất Thuấn, có hai: Giải thích tên. Đảnh sinh trên Đao-lợi, duyên như phẩm Thánh Hạnh của Niết-bàn. b, giải thích môn. Không chịu có năm thứ, như phẩm Hành Tướng của Đại phẩm nói: Khi Bồ-tát hành Bát-nhã, hành cũng không thọ, không hành cũng không thọ, cũng hành cũng không hành cũng không thọ, chẳng phải hành chẳng phải không hành cũng không thọ, chẳng thọ cũng chẳng thọ. Năm thứ này tức không thọ hai biên.
Đức Đảnh, có hai: a, giải thích tên: Đảnh thiền như trước đã ghi. b, giải thích môn.
Thiện Tú, có hai: giải thích tên. Đó là hai mươi tám sao, là giác, cang... năm sao, thì Sử ký nói là thủy, hỏa, kim, mộc, thổ. Năm sao này làm phò tá cho trời, là kinh vĩ của trời lúc hiện lúc ẩn. Cho đến năm ấm, tóm tắt các ấm giữa nên nói cho đến. Quảng sớ nói cho đến năm ấm, thì hiểu rõ năm ấm tức năm Niết-bàn gọi là Thiện tú “sao lành). Đây là ước chỗ phối hợp. Nhật tinh tú Tam-muội, tức trung trí như mặt trời, không trí như năm sao, giả trí như hai mươi tám sao vừa kể. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Là động niệm... vì động niệm do đó cảnh động. Nay chỉ chung lấy tâm bất động mà đối với cảnh động. Cho nên cảnh trí của ba giáo gọi là hai, chỉ có cảnh trí của viên mới gọi là bất nhị, gọi là không động niệm.
Thiện Nhãn, có hai: a, giải thích tên, ngài Kinh Khê nói: Thiện nhãn tức tuệ nhãn, tức là từng phần được tuệ nhãn như Thế Tôn. b, giải thích môn, có hai: a, nêu các giải thích khác. Ngài Kinh Khê nói: Ba giải thích của Đại thừa, một giải thích của Tiểu thừa đều không phân biệt, cạn sâu một tướng. Văn có hai: a, Nhân sư. b, Tỳđàm. Hoặc chẳng phải tâm pháp, tức là sắc. Hoặc Đại hoặc Tiểu, là sinh trụ dị diệt mỗi mỗi đều có Đại tiểu, nghĩa là Tiểu sinh sinh Đại sinh... như trước đã ghi. Tám tướng đều ước một pháp... nghĩa là đại tiểu bốn tướng thành tám tướng. Nên gọi là hai tướng, chẳng đồng nói hai, nên tám cũng gọi là hai. Nếu không được một pháp này, nếu tâm pháp đã không thì tám tướng sao còn, sắc pháp cũng thế. Nay đều không dùng, ngài Kinh Khê nói:
Lại nếu đối đãi mà nói một không thì không dùng. “ Nay lấy...” là giải thích nay, y Đại luận, tướng và pháp..., tướng tức là tám tướng, pháp là bổn pháp. Ngài Kinh Khê nói: Nay lấy thích luận... không phải khác tức là một, không phải một tức là không. Lại không phải một và không này mới gọi là bất nhị. Kế, cũng như...” là trước đem một để phá số, kế một tướng, không tướng...” là cùng phá một và không, mới gọi là bất nhị. Căn cứ vào A-hàm, ngài Kinh Khê nói: Lại có ba pháp khai tâm làm bốn, lời văn hơi tóm gọn. Nói rộng thì lại có ba pháp sắc và tâm số. Lại có bốn pháp khai tâm làm ba. Vương, số, đồng thời và sắc là bốn. Lại có năm pháp khai tâm là bốn. Đối sắc là năm. Nhưng đây chỉ là Tiểu thừa A-hàm khai hợp sắc tâm để giải thích một và nhiều. Chỉ tạm nhờ hiển tướng mà không phải dùng hẳn. “Nếu chẳng...” là chánh nói quán tướng. Căn cứ ba thoát.
Diệu Tý, gồm giải thích tên, hoặc dùng sự diệu nên được tên là cánh tay đẹp mầu. Ngài La-thập nói: Vì quả báo bố thí nên tay hay sinh ra vô lượng báu vật năm giòng sông, nên gọi là tay mầu. Hoặc quyền thật...” là ước chỗ biểu thị. Ngài Kinh Khê nói: Bất tư nghì thật cùng quyền lý đồng. b, giải thích môn. Tâm Bồ-tát, tâm Thanh văn, ngài Kinh Khê nói: Đây là Bồ-tát hai giáo đối Nhị thừa hai giáo. Tự thiện và vị tha tức Thanh văn là tự thiện, Bồ-tát là vị tha.
-Phất-sa, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Trước nêu giải thích xưa. “Dẫu thử...” là chê xưa. “Nay lấy...” là chánh giải thích.
Sư Tử, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn.
Ngài Kinh Khê nói: Trước căn cứ ở thế gian hai tên, kế luận dị đồng. “Nếu lấy...” là chê xưa. Nay lấy...” là chánh giải thích. Ma-ha Na-già, Hán dịch là Đại long, tức gọi Phật là rồng lớn trong loài người.
Ý Sư Tử, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn.
Tịnh Giải. Hữu vi..., ngài Kinh Khê nói: Trước phân danh và thể. Ý nói văn trước đã nêu tên lậu và vô lậu xong rồi. Nay lại lập tên hữu vi và vô vi. Vì khác môn, nên lại lấy hữu vi đối ba vô vi. Như được vô lậu cũng là hữu vi, Tiêm sư nói, ở phẩm Hương Tích sau, sớ nói: Lại từ Tu-đà-hoàn đến La-hán, các trí tuệ có được gọi là hữu vi, còn đoạn có được gọi là vô vi. Vô vi tức là hữu dư Niết-bàn, nay có thể y theo đó. Số duyên và phi số duyên, tức bản dịch mới gọi là trạch diệt và phi trạch diệt. Câu-xá tụng nói: Trung không này vô ngại. Trạch diệt gọi ly hệ. Rốt ráo ngại đời sau. Riêng được phi trạch diệt. Giải thích rằng: Không vô ngại tức là hư không lấy vô ngại làm tánh. Phi nghĩa là chỗ thấy không một hiển bày sắc và các lỗ trống..., trạch diệt lìa trói buộc, là tùy các trói buộc đều khác. Tùy trói buộc ba cõi mà các kiến phẩm đều gọi là hệ (trói buộc). Các trói buộc không đồng nên gọi là tùy sự. Lìa một hệ “trói buộc) nên được một trạch diệt, sức trạch khiến diệt nên gọi là trạch diệt. Nghĩa là đoạn trí suy lường khiến diệt, nên gọi trạch diệt. Ngại ở đời sau. Đây là phi trạch hai loại không đồng nghĩa là căn trần thiếu duyên và ngôi vị chứng được các hoặc vô tri không tiếp tục khởi gọi là ngại đương sinh. Như khi duyên một sắc thì ở sắc khác và bốn trần khác được phi trạch diệt. Vì sắc chánh duyên làm trở ngại bốn trần kia, sắc... phải không sinh, cho nên một là Niết-bàn. Tiêm sư nói là trạch diệt vô vi vậy. Hai thứ phi Niết-bàn là hư không và phi trạch diệt. Nay sắp lìa tất cả số... ngài Kinh Khê nói: Vì trong hữu vi thì số đối ba, còn trong vô vi thì số duyên với diệt, nên gọi là hai. Nếu không có số ấy và số diệt thì bất nhị.
Na-la-diên, có hai: a, giải thích tên: Na-la-diên, Niếtbàn sớ dịch là kim cang. b, giải thích môn. Không ra không đến, tức không ra khỏi sinh tử thì không đến được Niết-bàn, vì đều không. Ngài Kinh Khê nói: Chánh đáng ý thông. Nay cần ở viên.
-Thiện Ý.
Hiện Kiến. Ngài Kinh Khê nói: Trong văn hiện kiến không giải thích tên. Đã thấy trung đạo nên gọi hiện kiến. Si là vô minh cho đến lão tử, trong đây chỉ đủ mười hai duyên. Đây dùng ý kinh thành quán nay. Nay quán bất tận là không, là không trung đạo từ phi tận. Giải thích sau nêu trung không gọi là bất tận. Tận và bất tận này tức phi tận và phi bất tận.
Phổ Thủ, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Vì nói nên đối với ngã không... và dẫn nhập ngã tự tại. Tên đều ở trung đạo pháp tánh. Cho nên cần dẫn để phòng bị cái lỗi tên đồng nghĩa đồng. Cho nên tên đồng nghĩa khác mà giải thích.
Điện Thiên, có hai: a, giải thích tên. b. Giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: minh và vô minh là hai thứ. Đây là nội giới không tức vô minh, cho nên cùng minh ngoại giới là hai. Vô minh tức minh...” là chánh giải thích tướng của nó. Tức là vô minh tương tức. Vô minh tức minh. Thể của vô minh còn tự không hai, huống là đối với minh. Nên nói Phật tánh tức là minh. Minh có ba thứ, phiếm nêu ra mà thôi.
Hỷ Kiến, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Ngài Kinh Khê nói: Trước bài xích thứ lớp vụng về, “nay tức...” là chánh giải thích. Như huyễn có tức không. Tất cả pháp thú không và chẳng Không là chân không.
Minh Tướng, ngài Kinh Khê nói: Bốn thứ không chủng... cũng lập trước. Kế bốn chủng cho đến bất nhị mà chánh giải thích. Nói nội ngoại đều không tức là thể Không, tức là trung đạo không vậy. Đầy đủ như đã giải thích trước.
-Diệu Ý.
Vô Tận Ý. Nay nói bố thí... là thấu rõ hai thứ Tạng, Thông, thành bất nhị nay. Lục độ chung riêng. Lục độ là riêng, hồi hướng là chung, vì sáu đều hồi hướng.
Thâm Tuệ, ngài Kinh Khê nói: Tên thâm tuệ trong văn không giải thích. Tuệ thấy đến đáy nên gọi là thâm. Đáy tức thật tướng.
Tịch Căn, có hai: a, giải thích tên. Ba căn vô lậu, như trước đã ghi. Ngài Kinh Khê nói: Đây là ba căn vô lậu của Đại thừa, từ tịch diệt thật tướng mà sinh. Căn được thanh tịnh, là phần chân thanh tịnh. b, giải thích môn, có hai: a', rộng giải thích nghĩa Tam bảo, có hai: a”, nói hai tướng. Trong văn trước hỏi nêu Tam bảo, là ba mà không phải hai. Đã nói...” là nêu hai ý đáp mà giải thích: Căn cứ khác nên gọi hai. Thế thì bốn pháp cho đến vô lượng, đối lý nhất như đều được tên hai, há chỉ ba pháp. Lại giải...” là kế thâu gọn Tam bảo để làm nhân pháp, cho nên biết Tam bảo chỉ là hai. Nói Phật cùng chúng sinh đều là người, chữ sinh dưới chữ chúng phần nhiều do người sau dối thêm vào. Chúng tức là tăng vậy. Vì Tăng-già, Hán dịch là Chúng. Cho nên Phật tăng hai bảo đều là người. Phật là người quả, tăng là người nhân. Cho nên nói...” là dẫn Đại luận chứng Phật gọi là người. Vì người cùng chúng sinh đều là giả danh. Người không hiểu điều này nên dưới chữ chúng liền thêm chữ sinh. “Nay quán...” là nêu bất nhị, có hai: a, chánh căn cứ Tam bảo nêu bất nhị. “ Vì sao...”, lại trải ba thân mà nêu bất nhị, có hai: a, căn cứ ở thân nói rộng, có hai: a, bắt đầu nói chung. b, người...” là ước thân riêng nói, có hai: a, thân đối địch. b, ba thân đều nói, có ba: a', pháp thân Tam bảo là thầy Phật pháp. Chữ pháp là lầm. Phải nói thầy của chư Phật. Đây tức Đại kinh nói: Thầy của chư Phật tức là pháp. Vì pháp thường nên chư Phật cũng thường. Chư Phật tức báo trí. pháp thân này chính là pháp, Phật há được lại là thầy pháp Phật ư? Pháp có thể làm khuôn phép, vì báo trí làm quy tắc pháp tánh mà thành. Tức vì pháp thường nên chư Phật cũng thường. Pháp có nghĩa là quy tắc “khuôn phép). Cảnh trí tương xứng. Ngài Kinh Khê nói: Không xứng thì không hòa hợp. Đã ước cảnh trí để nói Tam bảo mà nói là cảnh. Phật pháp cơ trí xứng nhau. Cảnh cũng xứng trí, nên gọi là tương xứng. Báo Phật Tam bảo. Ngài Kinh Khê nói: Cùng lý tương ưng, trí ứng với lý như trước. Dựa vào lý tức là lý ứng ở trí. Ứng thân Tam bảo. “Tuy lại...” là kết bày bất nhị. Song ba thân này mỗi thứ đều nói Tam bảo. Phàm có hai khác. Như hai thân pháp báo chỉ là cảnh trí chiếu nhau, phát... cùng thành ba nghĩa. pháp thân lấy trí được phát làm Phật, báo thân lấy cảnh được chiếu làm pháp. pháp thân lấy cảnh đồng với trí làm tăng. Báo thân lấy trí đồng với cảnh làm tăng. Chỉ vì do báo và pháp ngầm tương ưng phù trợ nhau. Được trông vào nhau đều làm Tam bảo. Chỉ ứng thân Tam bảo một mực ở ứng mà nói, xét kỹ văn trước nghĩa có thể thấy. Phàm mười hai bảo vì nguồn gốc là ba nên đều lưu xuất thành chín, nguồn gốc và số thì có mười hai. Chưa từng có khác, vì ba thân một thể, người pháp Không hai. Nhập vào một thật tướng, ba và chín tuy khác, nhưng một tâm không khác. “Tam bảo...” là tóm lược y theo tất cả pháp. Ngài Kinh Khê nói: Các pháp cũng thế. Các pháp đều là một thể thật tướng Tam bảo.
Tâm Vô Ngại, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Trước chê tiểu quả. Diệt tức Niết-bàn diệt. Chỗ nhân quả diệt hết tức là lý tịch diệt của Niết-bàn. “Nay quán...” là chánh giải thích. Nói Niết-bàn tức là sắc. Không tức là sắc. Không này cũng là không trung đạo. Trong trung đạo đầy đủ tất cả sắc không.
Thượng Thiện, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn, có hai: a', chánh giải thích hiện văn. Văn này cũng có hai nghĩa: a, vì khác nên gọi là hai. Giải thích trước, tức giải thích trong tịch căn. “Lại thân...” là nghĩa kế, tóm thâu ba thành hai. Chỉ là sắc tâm, sắc tâm là hai. Ngài Kinh Khê nói: Tiểu thừa nhập không cũng còn thấy có hai. Ở trong thật tướng thấy tất cả pháp Không thể được một pháp, há lại phân sắc tâm, nên nói là không hai
(bất nhị). Từ trên đến dưới đối trên kết thành. Thiện căn tức người thứ sáu. Bốn thứ không chủng tức là nói tướng thuyết môn thứ mười tám. Nay lấy thượng thiện đối hai người trên, cùng thành ba thoát đều từ một ngộ.
Phước Điền. Ngài Kinh Khê nói: Kinh động, là giải thích có tấn thoái. Trước lấy bốn thiền đều gọi không động. Kế thiền thứ bốn đến bốn không bèn gọi không động. Đây chỉ là giải thích của người khác. Nay nói như trên nói vô động chỉ thuộc ở phước, đều là hữu lậu, cho nên thuộc động. Đối lý vô lậu mới gọi không động.
Hoa Nghiêm, ngài Kinh Khê nói: Từ ngã khởi hai thứ, là ý nói phá ngã kiến đối vô ngã nên nói là khởi hai. Chưa thông suốt tánh ngã nên khởi hai thứ.
Đức Tạng, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn. Như ngài Thân Tử, là văn đầu ở phẩm Bất Tư Nghì. Nên kinh nói: Phàm người cầu pháp Không thấy khổ, cầu không đoạn tập, cầu không tạo tác, cầu tu đạo tận chứng. Cho đến thế là hý luận, không phải cầu pháp.
Nguyệt Thượng, có hai: a, giải thích tên: Trăng tròn sáng..., tức Hoa Nghiêm nói: Ví như mặt trăng tròn sáng khắp hiện trên các mặt nước, hình ảnh tuy vô lượng nhưng trăng chưa hề có hai. b, giải thích môn. Hiển hối cũng là sáng tối. Kinh nói: Như nhập định diệt thọ tướng, lấy tiểu định để dụ sáng vậy. Vì trí chiếu diệt mất nên vô minh. Kiết hoặc đã hết nên không tối.
Bảo Thủ Ấn, có hai: a, giải thích tên. b, giải thích môn.
Châu Đảnh Vương. Ngài Kinh Khê nói: Tên Châu đảnh vương trong văn không có giải thích, ví như viên minh châu trên đảnh của luân vương, là châu ở trên đảnh, nên nói là châu đảnh.
Lạc Thật, có hai: a, chánh giải thích lạc thật, b, giải thích môn, giải thích thật không thật. Giải thích nhục tuệ nhãn, chánh giải thích, gồm nêu văn dẫn kinh. “ Nhị thừa...” là y kinh bày nghĩa. “ Chỉ đại...” là kết bày. Ngài Kinh Khê nói: Nếu ước Biệt giáo để nói thì chánh quán trung đạo là tuệ nhãn, ở trong mười trụ mà quán xa hơn chỗ mong cầu. Từ Thập hạnh...” là từ không xuất giả, nên nói là chiếu hai đế, nên từ giả mà gọi là pháp nhãn. Ba đế đồng quán tức nhập Sơ địa. “ Trong ấy...” là giải thích-các Bồ-tát, có hai: a, chánh bày hai giải thích nghi. b, Văn-thù Bồ-tát nói, có hai: a, phân khoa. “nhất chư...” là tùy giải thích. Các Bồ-tát hỏi, Văn-thù nói, lược giải thích. Cho nên nói khởi tưởng liền si... là văn Ban-chu nói. “ nếu làm...” là rộng giải thích, căn cứ môn nêu nghĩa, có hai: a', căn cứ năm môn chánh giải thích, có hai: a”, chánh giải thích, Bồ-tát...” là giải thích, căn cứ trước làm bốn môn, chánh nêu. “các Bồ-tát...” là kết lợi ích. Nhưng bốn môn này chỉ là ba đế, không môn là chân đế, hữu môn là tục đế, hai thứ cũng song phi tức là trung đạo giá chiếu. căn cứ ba đế tương tức, cho nên bốn môn cùng dung nhau. Ba đế bốn môn một tâm bổn cụ. Đã biết tương tức nên đều nói nào có ngại gì. Đều thấu suốt tâm nguyên, đều xưng bất nhị. Chuyên dùng ý này mà bao quát tất cả, mới biết đại chỉ của kinh này là bất nhị. Tùy bốn Tất-đàn mà hợp cơ. Đã tự hành thì nhân đây mà khai ngộ. Do đó lại nói pháp mình để chỉ bày người khác. “Ư kỳ...” là hiển bày, nay là thời thứ năm. Môn thứ năm này há lìa bốn môn trước, bốn thứ bất khả thuyết nên gọi là thứ năm. Lại nếu ước quán để nói, thì ba đế đều chiếu thành bốn môn trước. Ba đế đều mất mà thành môn thứ năm này. Mất và chiếu một thể, rộng như thế mà không nương nhờ. Tịnh Danh ngậm miệng há lìa đây ư? Tổn và không tổn có thể được ý. “Cho nên đây...” là kết. Liệu giản, hỏi và đáp, Nói năm môn đều là giáo. Căn cứ bốn Tất-đàn kết thành, có hai: a' dựa theo ba trước một sau mà giải thích. Chú rằng, là bốn Tất-đàn này đều ước lý mà nói, tùy cơ mà tạm khác, nhất định không sâu cạn. “ Cũng vì...” là ước trước sau đều bốn mà giải thích. Đã là cùng thành nên trước sau đều bốn, không nói có nói bốn lợi ích nào khác. Quan trọng là ở chỗ quy về, nó đồng quy ở đạo. Dẫn hai luận mà chứng thành: a, chứng thành bốn môn, dẫn luận. “nếu thật...” là giải thích nghĩa, có hai: a, giải thích nghĩa môn. b, như thế...” là nêu đắc thất. Vì tà kiến bị lửa đốt. Phàm lửa không chấp thì công năng giúp thân ấm, chín thức ăn. Nếu có chấp thì có họa đốt thịt phỏng tay. Hợp dụ pháp khác biết. “Nếu nhân...” là kết bày môn thứ năm, Trước sinh sau hai thứ. “Đây không...” là so với trên bày ý. Ngài Kinh Khê nói: Cũng là biệt muốn đến Viên giáo. Trên đã phán quyết các Bồtát thuộc Biệt giáo rồi, cho nên không thể nói thuộc Viên giáo mà giải thích. Đây cũng là hoàn toàn tùy văn mà phán quyết thôi. Nếu ba mươi hai người từ ý xa mà nói. Chỗ nhập cũng là bất khả thuyết. Người được ý viên, từ trước cũng đã phán quyết ba mươi hai người mỗi mỗi thông nhau, tức thành nghĩa viên. Cho nên nay trong đây được giải thích như thế. Môn bất khả thuyết cũng như thế. Biệt Viên bốn môn mỗi thứ đều có môn thứ năm bất khả thuyết, cho nên bất khả thuyết. Môn ấy cũng thông. Khắp nhiếp tất cả mới thuộc viên môn. “Vô ngôn...” là riêng bày vô ngôn, có hai: a, chung bày sáu thứ, có hai: a, căn cứ nội ngoại nói chung, có năm:
Trường Trảo, tức là Ma-ha Câu-hy-la, Hán dịch là Đại Tất, là cậu của ngài Xá-lợi-phất, từ xưa nay luận thắng chị mình. Nhưng khi chị có thai Xá-lợi-phất thì luận không thắng nữa. Nên biết là mang thai người trí, luận giùm còn thế, huống là khi xuất thai. Ông cậu bỏ nhà đến ở Nam Thiên Trúc đọc mười tám kinh, thề đọc mãi không nghỉ, không rảnh để cắt móng tay. Người lúc đó gọi là Phạm chí Trường trảo (móng tay dài). Ông trở về nhà hỏi cháu đang ở đâu. Người nói làm đệ tử Phật. Ông nổi kiêu mạn lớn nói cháu ta tám tuổi tiếng tăm chấn động cả năm cõi Thiên Trúc. Ông Sa-môn kia có đạo thuật gì dụ dỗ con chị ta. Bèn đi thẳng đến chỗ Phật, suy nghĩ rất lâu mà chẳng được một pháp nào nhập tâm, liền hỏi Phật rằng: Tất cả pháp Không thọ, thọ thì có nghĩa an. Đây nói tất cả pháp ta đều có thể phá khiến không an, nên nói tất cả pháp Không thọ. Khí độc tức trong tâm ba cõi mà vọng chấp. Phải nói là đều ba cõi. Trong văn viết chữ đọc là lầm. “Tâm Phật...” là hiển bày Phật phá. Tâm Phật không có ba cõi, hiển bày tâm Phật từ bi mà phá tà chấp kia. “Nhử chi...” là chánh nêu Phật phá. Trước nêu chấp của ông ta rồi hỏi lại mà phán định. Ông không thọ, là nêu chấp của ông ta. Ông thấy là thọ chăng, là hỏi lại. Nghĩa là ông khởi cái thấy không thọ. Trong tâm ông là an khi thọ cái thấy này hay chẳng an mà thọ cái thấy này. “Nếu thấy...” là nêu ý vấn nạn của Phật để song phá chấp của ông ấy. Trước phá thọ, kế phá không thọ. Ý đầu, nếu cái thấy này của ông an thọ ở tâm, sao được tất cả là không thọ. Vì tâm thấy của ông cũng ở trong tất cả pháp. Kế phá chẳng thọ, phải nói là nếu thấy chẳng thọ. Nay nói không thấy là nói ngược. Ông thấy nếu cũng không thọ, sao được thấy người khác có thọ, liền muốn phá cái mình chấp mà đem phá người khác. Nghiệm thì biết tâm ông có thọ. Ông thọ ở thọ là tâm ông, lại thọ cái thấy chẳng thọ, cái thấy này tức là thọ. Nên nói ông thọ ở thọ. Thọ tức là khổ đế. Thọ có ba thọ. Khen mừng tức lạc thọ, chê giận tức khổ thọ, không khen không chê mà khởi si tức xả thọ. Lạc thọ có hoại khổ, khổ thọ có khổ khổ, xả thọ có hành khổ. Nếu nói thọ tức khổ đế. Lưu chuyển sinh tử, là do tập cảm khổ thọ mà sinh năm đạo, nên nói thọ đủ các thọ. “Vì sao...” là Phật kết trách. “ Cho nên biết...” là chọn không phải. Độc tử. Tam tạng. Thông giáo. Biệt Viên. Căn cứ chánh giáo mà điểm bày. “Nay đây...” là riêng hiển nghĩa nay, dựa vào văn bày nghĩa, Biệt Viên đối luận. Đây vì các Thánh đều nhập thì thành nghĩa biệt. Cho nên khiến Văn-thù tức cũng thành biệt. Nếu dựa vào mỗi mỗi thông nhau liền thành nghĩa Viên. Nay tức cũng Viên. Một mực tạm phân Viên trước biệt. Hai lượt nói nghĩa trước sau gồm thông. Tuy nói biệt mà giải thích nhưng lấy viên làm chính. “ Thủ văn...” là dẫn văn hiển thị bao gồm, dẫn văn lập chung. Ngài Văn-thù đã nói tất cả pháp bất khả thuyết..., cho nên biết tất cả bao gồm bốn giáo và pháp của ngoại đạo đều bất khả thuyết. Nếu thế sao bảo rằng ngài Văn-thù nói Viên không hai ư? Chính do bao gồm phàm tiểu mới hiển bày viên môn, tức là một tâm bổn cụ, mười giới sáu phàm bốn Thánh. Phàm đối ngoại đạo, Thánh gồm bốn giáo, chín giới tức Phật, bao gồm tức không trung, cho nên đủ bất khả thuyết. Ý chỉ viên dung ở đây mà hiện rõ. “ Niết-bàn...” là dẫn kinh giải thích thành, có hai: a, dẫn Niết-bàn chánh nói. Nay lấy sinh sinh cú thuộc phàm phu, tức là thâu Trường Trảo và Độc Tử. Sinh bất sinh tức thâu Tạng, Thông. Khi thế đế chết, tức kiến tư đã phá. Bất sinh sinh tức thập hạnh Biệt giáo cũng gồm thông tám Địa. Khi mới xuất thai. Đây vì trần sa hoặc bị phá mà đạo chủng trí sinh, nên gọi xuất thai. “Cho nên biết...” là kết bày. Thế gian tức tà ngoại, xuất thế tức bốn giáo, trăm giới một tâm chỗ nào lại chẳng nhiếp. Dẫn Pháp Hoa giúp hiển bày, chánh căn cứ Viên mà giải thích. Các pháp khác tức ba giáo trước và tà ngoại... quyền này tức thật, danh thể trong quyền đều là Phật pháp. Cho nên khiến người bảy phương tiện không thể suy lường, ngôn từ đều vắng lặng. Mười giới quyền thật đều tịch diệt. “ Giản...” là giản lược hai giáo như trên. “ lại nữa...” là kết trước khởi sau. Duy-ma im lặng, có ba:
1. Văn-thù hỏi.
2. Tịnh Danh im lặng.
3. Văn-thù khen.
Cuối cùng những người nghe phẩm được lợi ích.
--------------------------------------
GIẢI THÍCH ĐỀ MỤC:
-Chánh giải thích đề. Nay nương chánh báo hơn người, là nay y chánh báo để đặt tên phẩm. Nêu chánh báo để gồm y quả. Phật vượt hơn tất cả nên gọi hơn người. Nói ý có phẩm này. Giải văn, có hai: a, phân khoa. b, “Thứ hai...” là tùy giải thích, Thân Tử nghĩ đến ăn, có hai: a, chánh giải thích nghĩ đến ăn. Chư Phật... bất xan. Vì Phật nội chứng trung đạo nên không thiên trung để biểu thị vậy. Trong Tỳ-la Tam-muội kinh, Bình Sa vương hỏi Phật: vì sao Phật ăn giữa ngày. Phật đáp sáng sớm chư thiên ăn, giữa ngày ba đời chư Phật ăn, quá ngọ súc sinh ăn, chiều tối quỉ thần ăn. Phật dạy đoạn đứt nhân của sáu thú, nên khiến đồng chư Phật ba đời mà ăn. Ngầm bày chê trách. Đây Đại sĩ chê trách, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, Chê. Kinh nói: Tám giải thoát... Sinh công (đạo sinh) nói: Tám giải thoát lấy bất tịnh quán đứng đầu, mà ăn là vật bất tịnh. Đã giữ thể tám giải thoát, đâu lại có tình muốn ăn. Tiếp cho ăn. Sai hóa nhân xin cơm, có hai: a, phân khoa. b, “nay nói...” là tùy giải thích, nhập Tam-muội, hiện ra nước để xin cơm, lấy hương nói lý, hiểu rõ hương là do tâm tạo. Tức hương là tâm, hương đủ ba ngàn, tức không, giả, trung, cho nên nói thuyên lý, cũng có hóa độ nhất thừa. Đại luận quyển ba mươi tám nói: Có quốc độ Phật nói pháp cho nhất thừa, lấy thuần Bồ-tát làm tăng. Có cõi Phật do Thanh văn và Bồ-tát cùng làm tăng. Như cõi nước Phật A-diđà, tăng Bồ-tát nhiều, tăng Thanh văn ít, ba mươi chúng đều thấy. Sai xin cơm, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích, năm đoạn như văn. Cũng có người được diệu nghĩa, diệu lý phải hiển thì đại dụng liền bày. Đến cõi ấy thăm hỏi, có hai: a, phân khoa. b, tùy giải thích. Các đoạn đều như văn. Được cơm mà trở về, có hai: a, phân khoa. b, “tâm thành...” là tùy giải thích, đều như văn. Mời các đại đệ tử cùng ăn, có hai: a, phân khoa. b tùy giải thích, đều như văn. Kinh nói: Hạn ý, là bỏ sự tìm lý gọi là hạn ý. Không có lòng bi tự độ cũng là hạn ý. Kinh nói kinh bất khả tận. Vì tâm vô tận nên cơm cũng vô tận. Tâm tánh rốt hiển nên có đại dụng này. Hạt cải chứa núi Tudi là loại này. Kinh nói cũng là cớ bất tứ. Phương ngôn có nói tích tứ tận, mà chữ thông cả ba thể đều dạy cả. Kinh viết chữ tứ không cần đổi liền. 4. Hai cõi Phật hành hóa, ngầm nói nghĩa chỉ, nêu chung lý do. “Nhưng cơ...” là riêng nói khởi giáo, nói hai độ khởi giáo, nói riêng đối hai độ. “nay chỉ...”, là khởi giáo cùng thông nhau, có ba: Kế riêng lược chê. Chưa hẳn hoàn toàn như thế. Chưa hẳn uế độ nhất định dùng âm thinh, tịnh độ nhất định dùng hương vị. “ Vì sao...” là dẫn giải thích thông nhau, nói thinh giáo thông tịnh độ. “ Nếu thế...” là nói hương vị thông cả uế độ, chánh nói thông uế độ. b, “Ví như...” là dẫn ví dụ chung giải thích thành. “Nay chánh...” là kết bày ý riêng mà phán quyết tịnh uế. Đã hiện cõi nước là tịnh, lại lấy hương vị làm giáo để phán quyết hai cõi khác nhau. Căn cứ thân cơm giải thích nghi. Liệu giản chánh phụ, có hai: a, nói cõi ấy hương chánh vị phụ. b, “nay ta...” là giáo hóa ở phương này hai trần đều đến, nói nguyên do đều đến. Chánh trợ hai môn. Hương là chánh, vị là trợ. Dẫn ví dụ giải thích nghĩa, dụ thuốc. Có chung riêng, chung tức ăn uống, riêng tức vị đại hoàng. Chuẩn theo luật gồm có bốn thuốc. Cho nên luật sao nói giữ gìn mạng sống không gì hơn thuốc. Tên thuốc mới thông. Cần phân làm bốn: Nói thời dược “thuốc ăn đúng thời) là từ sáng đến trưa, Thánh giáo cho ăn, thuận chánh pháp Không sinh tội lụy. Nói phi thời được “thuốc ăn phi thời) là uống các thứ nước. Vì bệnh mà lập việc ăn phi thời có hạn định thì không phạm. Thất nhật dược, là ước pháp năng tựu, dùng hết mức này thì tùy hạn từng ngày mà trị liệu lợi nhiều. Tận hình dược là sức đã suy yếu lắm, nên cho uống lâu dài mới lành bệnh. Hình có ba thứ:
1. Tận dược hình.
2. Tận bệnh hình.
3. Tận báo hình.
Nay nói thông dược (thuốc chung) tức ba thứ trước. Biệt dược (thuốc riêng) tức là tận hình. Ngoài đến trong phát, tức lửa, nước sôi, dao, gậy, gọi là bệnh bên ngoài đến, còn bốn đại tăng động gọi là bệnh trong phát. Càng thêm vị khác... luật Tứ Phần nói: Tất cả các chất mặn đắng cay ngọt không phải là thức ăn nên gọi là thể tận hình dược. Luật Thiện Kiến nói: Tất cả cỏ cây và củ rễ cành lá không chánh thức làm thức ăn thì là tận hình phục, tức nay nói là vị đại hoàng, bả đậu.... “Nay chánh...” là hợp dụ, chánh hợp dụ trước, dùng dụ chung là chánh, dụ riêng là phụ. Nếu lợi trở đi, lại thí dụ mà giải thích, có hai: a, chánh thí dụ. b, đồng là...” là kết bày. “Cõi này...” là nói ở cõi này thanh sắc chánh phụ. “Trong đây...” là tùy văn chánh giải thích, có hai: a, nêu bày. b, chánh giải thích, đây hỏi kia đáp, đây Tịnh Danh hỏi. kia Bồ-tát đáp. Tức Đại thừa Mộc-xoa, nhất cử nhất động đều tức tâm tánh. Kinh Pháp Cổ nói: Tâm vô tận, nên giới cũng vô tận. Kia hỏi đây đáp, có hai: a, phân khoa. b, “nay nói...” là tùy giải thích, hỏi. b, đáp, có hai: mở năm thừa giáo hóa chúng sinh cang cường, đáp chung. đáp riêng, huyền nêu Bồ-tát chỉ là người ở trong đó. Nghĩa là nêu người ở sau trời người và trước Thanh văn, Duyên giác. Ứng cúng, là kiến tu vô học. Phật tử, là bốn quả và Bích-chi-phật. “Căn cứ nhân...” là chánh giải thích năm thừa, nhân thừa. Ý làm một là uống rượu. Vì nhân say mà động tâm phạm tội nặng ba cõi, nên ý khẩu không khai đến làm ba, vì ý và khẩu tế mà hợp với thân nghiệp thô nên khai. 2. Thiên thừa. Ba nghiệp khai tường tận thành pháp thập thiện, giữ gìn vi tế nên cảm được thiên báo. Đây gọi là nhân chung. Lại thêm các hạnh khác và thiền định để làm nhân riêng, nên có các quả báo trời không đồng. Như kinh Chánh Pháp niệm nói: Là sát sinh là báo sát sinh, tức kinh Hoa Nghiêm nói: Tội sát sinh thường khiến chúng sinh đọa ba ác đạo. Sau sinh làm người bị hai quả báo: Một là thân nhiều bệnh, hai là chết yểu. Còn chín nhân quả kia đều như kinh Hoa Nghiêm nói: lời nói vô nghĩa là lời trau chuốt đẹp đẽ, dầu vui lòng người nhưng là lời vô nghĩa. Bồ-tát thừa. Thanh văn và Bích chi Phật hai thừa, căn cứ ba học chánh giải thích, giới học. Kinh nói đáng làm hay không đáng làm. Sớ giải đã nói rõ. Nay lại giải thích phụ thêm. Đáng làm tức là tác trì giới, nếu ngăn lại thì phạm. Không đáng làm, là chỉ trì, nếu làm thì phạm Ba-dật-đề, ngài Nam Sơn nói: Nghĩa trái nói là đọa. Thập Tụng nói:
Đọa địa ngục thiêu nấu che chướng. Bảy tụ:
1. Ba-la-di.
2. Tăng-tàn.
3. Thâu-lan-giá.
4. Ba-dật-đề.
5. Đề-xá-ni.
6. Đột-kiết-la.
7. Ác thuyết.
-Ba thứ Yết-ma sám là:
1. Tâm niệm pháp.
2. Đối thú pháp.
3. Chúng tăng pháp.
Tâm niệm là phát tâm niệm cảnh. Miệng tự bày tỏ chẳng phải bảo là không nói mà luận việc trước. Đối thú, là mỗi người cùng đối mặt nhau mà noi theo pháp. Chúng pháp, bốn người trở lên là tác pháp Yết-ma. Ba thứ này chỉ lược nói. Nếu nói tường tận hơn thì có tám thứ. Tâm niệm có ba:
- Chỉ tâm niệm, chỉ được tự nói. Có người cũng thành số đông mà nêu ba thứ sám hối. Nhẹ như Kiết-la thì khi nói giới ở trước tòa mà phát lồ và sáu niệm Diđà.
- Đối thú tâm niệm, vốn là pháp đối thú. Do giới không có người, Phật mở phép tâm niệm, lại dẫn bảy thứ. Trong Tứ Phần có an cư. Thập tụng có nói tịnh thọ dược thọ nhất nhật. Ngũ Phần có thọ trì ba y và xả ba y, Thiện Kiến nói thọ trì bát.
- Chúng pháp tâm niệm, vốn là tăng cho, cũng giới không người nên khai phép tâm niệm. Tứ Phần nói giới tự tứ. Ngoại bộ cho phép tăng được thí y của người chết. Đối thú pháp có hai: một là chỉ đối thú, vì là pháp riêng không có khai tăng, dùng giới tuy thành chúng cũng được tự thành. Dựa chung vào các bộ có hai mươi chín phép thọ xả ba y bát, ni-sư-đàn và một trăm lẻ một cung thân cụ “vật nuôi thân), xả và thỉnh xả giới, thọ pháp y chỉ, y bát, thuốc, nói tịnh giới, nhận thuốc, thọ thất nhật, an cư, dữ dục, sám tội Ba-dật-đề, sám tội nhẹ Thâu-lan, sám tội Đề-xá-ni, sám tội nặng Kiết-la. Phát lồ các trọng tội với người khác và tự phát lồ. Trong sáu tụ Tăng-tàn, bạch xin bỏ hành pháp, tự hành hành pháp, tự tăng tàn... các hành pháp. Bạch xin vào xóm, ni bạch vào chùa tăng, ni thỉnh giáo thọ, làm pháp Dư thực, lại lược luận như thế. Chúng pháp đối thú giống như chúng pháp tâm niệm ở trước. Chúng pháp có ba:
1. Đơn bạch, là những việc nhỏ hoặc thường làm, hoặc luật nghiêm khắc: Nói bảo chư Tăng khiến thành Pháp sự.
2. Bạch nhị. Do việc làm cần tham khảo ý nhiều người để được thông hòa: Một là nêu việc bảo cho biết; một, làm phép Yết-ma lượng và chỗ có nên chăng, hai là luận trước sự việc mà thông bạch và làm phép Yết-ma, nên gọi là bạch nhị.
3. Bạch tứ, như thọ giới, sám hối trọng tội, trị cử, chê trách can ngăn, việc chung lớn nhỏ, xử phân việc sai trái, không phải thuộc loại nhất bạch bảo cho biết. 3. Pháp lượng có thể làm thì luận bàn. Được dùng ba phép Yết-ma để thông qua cùng đơn bạch trước nên gọi là bạch tứ.
Lại tác pháp... như ở chương Ưu-ba-ly.
Định học. Tuệ học, có hai: a, giải thích hữu lậu, vô lậu, “từ đây...” là căn cứ ba thừa giải thích riêng, “Đây...” là giải thích, Bồ-tát như trong giới Bồ-tát nói tức Bồ-tát trong Thiện Giới kinh đã nói về hạnh lục độ của Bồ-tát, phá sáu tế, đối với mỗi mỗi độ đều đủ bốn sự:
1. Tu đạo.
2. Trang nghiêm Bồ-đề.
3. Lợi ích tự tha.
4. Được thiện quả lớn ở đời sau.
Nhân luận về phá tế bèn chỉ văn ấy. Như Phạm Võng giới chính là Bồ-tát của Biệt Viên, không phải là Tạng, Thông. Phải biết Tạng, Thông chỉ học về thiện trụ. Nên Đại luận nói: Trong pháp của Thích-ca không có tăng Bồ-tát. Văn-thù, Di-lặc đều là trong chúng Thanh văn theo thứ lớp mà ngồi, bởi vậy nên nói thế. Văn nay đối trong Nhị thừa, giới định đều nói chung, tuệ học phân ba, chính là ý này. Cho nên biết không phải chỉ giới chỉ đồng chỗ tu, mà thiền định cũng đồng Nhị thừa. Nhưng chỉ có tuệ hơn, nên gọi Đại thừa. Người mê muội bèn chỉ Phạm Võng cho là giới pháp của Bồ-tát bốn giáo. Pháp Hoa huyền nghĩa là đầu các diệu hạnh, điểm bày rất rõ. Tiếp, Thanh văn. Bích chi-phật. Tuy căn cứ trở đi là kết. “Là chánh...” là giải Thích-các câu sau. “Hỏi...” là chọn giới tuệ để thông hạn cục. Ngài Kinh Khê nói: Bồ-tát ở tục không thuộc tăng số, như Tạng, Thông ba thừa Không riêng lập giới, đầy đủ như trong Pháp Hoa huyền nghĩa đã chọn lọc phân biệt. Ngài Kinh Khê đã nói ba thừa Tạng, Thông không riêng lập giới, cho nên biết sớ văn vừa thông. Nói chung thì gồm cả Bồ-tát Biệt Viên. Vì Tịnh Danh đáp Bồ-tát ấy mà nói Thích-ca mở năm thừa, tức gồm cả một đời. Thế thì Nhị thừa thông cả hai, Bồ-tát gồm ba. Sớ văn theo tỉnh lược lại theo tam tạng. Ý đáp trong đây lại gồm cả Biệt Viên. Thế nên ngài Kinh Khê lại chỉ tướng liệu giản của Pháp Hoa huyền văn. Nên văn ấy nói: Họ nói Phạm Võng là giới Bồ-tát. Nay hỏi những gì là Bồ-tát thì họ đáp hoặc là giới Bồ-tát của Tạng, Thông. Phải có riêng chúng Bồ-tát. Chúng đã không riêng thì giới làm sao lại khác. Lại nếu riêng nói giới Bồ-tát, thì những giới riêng nào là giới của Duyên giác. Nay nói tam tạng tam thừa Không có chúng riêng thì không được có riêng giới của Bồ-tát, Duyên giác. Nếu theo Bồ-tát Biệt Viên mà giải thì có thể là thế. Vì sao, vì ngoài chúng chung ba thừa còn có Bồ-tát nên có giới riêng hỏi: Ngoài chúng ba thừa riêng có giới Bồ-tát, vì Duyên giác giới nói: Sao đáp ngoài chúng ba thừa Không có riêng Duyên giác. Phần kết đáp. Trong hai thí dụ kinh nói lung lệ là loại cang cường, hung dữ.
Ngài Tịnh Danh kể thành, phân khoa huyền bày. Lao Khiêm, Kinh Dịch nói: Lao Khiêm quân tử vạn dân phục dã. Vương Bậc nói: Nối trên vỗ yên dưới cực nhọc không khuây. “Nói đây...” là tùy văn giải nghĩa, khen chung, có hai: a, lược giải thích. b, “như...” là rộng giải thích, tịnh uế đối luận, dẫn luận bày nghĩa. “Cõi này...” là bày nghĩa. “Căn cứ...” là dựa theo dụ hiển bày hơn, lập dụ chánh nói, dụ lui địch trị bệnh, có hai: a, dụ. b, hợp. b, dụ tiếp người hèn cứu nghèo thiếu, có hai: a, dụ, quyên thí không bao nhiêu. Quyên góp còn bỏ, biết bao nhiêu là nhiều. Vị làm phương bá. Vua ra lệnh rằng: Trăm dặm trở vào cùng làm quan với Thiên tử, ngàn dặm trở vào hãy xem là ngự “nghĩa là thuế ruộng đất này phải cung cấp cho vua. Quan nghĩa là văn thơ là của dùng ngự nghĩa là cơm áo). Ngoài ngàn dặm thì tự đặt làm phương bá. Năm nước coi là một thuộc, thuộc có trưởng. Mười nước coi là một liên, liên có sư. Ba mươi nước coi là một tốt, tốt có chánh. Hai trăm mười nước coi là một châu, châu có bá “thuộc liên tốt châu cũng như tụ, bá, sự, chánh cũng là trưởng. Phàm trưởng đều là chư hầu hiền, nhà Ân gọi châu trưởng là bá. Đời Ngu Hạ và Chu đều gọi là mục). Tám châu tám trăm năm mươi sáu chánh, mười tám sư, ba trăm ba mươi sáu trưởng, tám bá đều là thuộc. Thuộc đối với Thiên tử là bậc Lão thượng, nên hai người chia hai thiên hạ là tả hữu, gọi là hai bá (lão nghĩa là bậc trên. Chu lễ nói cửu trùng sai làm bá. Xuân Thu truyện nói: Từ đất Thiểm sang Đông thì Chu Công làm chủ, từ đất Thiểm sang Tây thì Triệu công làm chủ).
Hợp dụ, bèn được phát chân đoạn kết. Đây là nhập Thánh vị như làm phương bá. Nếu ở hiền vị thì như dời lên cao. “ Dụng...” là kết bày ý kinh. “ Nếu làm...” là bốn cõi truyền nhìn, truyền bày khinh trọng. “ Nay lấy...” là kết bày ý kinh. Trải riêng mười việc. Lại hỏi hạnh Bồ-tát cõi này, nêu văn kinh giải chung. Vưu là cái bướu thịt. Căn cứ thừa giới phán quyết giải thích, có hai: a, nêu bày. b, “Đại thừa...” là chánh giải thích. Ngài Kinh Khê nói: Chỉ có giới gấp mà không có thừa, là nói không có Đại thừa. Tịnh Danh đáp: Kinh tâm bình đẳng chúng sinh, tâm bình đẳng tôn quý ấy không phân ra thân và oán.
----------------------------------
Trước lại phân đại khoa, có hai. “Hai thứ này...” là nói chung về ý có phẩm này. “Bồ-tát...” là riêng giải thích hai phẩm, ngài Tịnh Danh tay nâng đại chúng đồng vào Am viên về chỗ Phật, có hai: a) giải thích đề. b) “tựu thử...” là giải thích, hai ý phân kinh. Bởi Đại sư đã phân văn khác lúc, nên ngài Chương An phải sao lục đủ. “ Xưa là...” là tùy văn giải nghĩa. Tiếp theo thì kinh khoa đã ở văn sớ không cần chép kỹ. Dùng thất nhật trước làm phương tiện, tức là bảy phương tiện của Tiểu thừa. Ngũ đình họp một, chung riêng niệm làm hai, cùng bốn thiện căn nữa thành bảy. Bốn xứ luận nêu là Thánh ba phàm một vậy. Cho nên nói thất nhật là nêu. Ngài Kinh Khê nói: Dùng sự trước mà giải văn thất nhật, đó là phương tiện trước trong lý giải. Nếu nhập phát tâm, chính là chỉ Phương đẳng khởi mộ đại tâm, làm phương tiện đến Pháp Hoa thì nhập vị. Trở về tông nói nhân quả Phật quốc, có hai: a, huyền đàm nghĩa chỉ, có hai: a, chung nêu hai chương đối trên năm ý. Hai ý trong năm lớp, đối trước giải thích đề trong năm ý, đây là hai ý một và hai: ý một nói Đại sĩ giúp Phật mở mang việc hóa độ đã xong, cần phải trở về chỗ Phật, ý hai nói Phật khi xưa nói nhân quả Phật quốc. Đại sĩ giúp tuyên dương nghĩa này, thì cần phải trở về chỗ Phật để phục tông mà nói nghĩa. “Thượng khai...” là khoa đối Phật quốc để hiển bày phục tông. Trên khai tông tức là phẩm Phật Quốc. Thuyết văn nói: Khai là mở lớn. Quảng Nhã nói: Tông là gốc. Phẩm đầu mở tông gốc Phật quốc, nói nghĩa chỉ tịnh độ, nên nói là khai tông. Phục tông ở đây là trong các phẩm luận riêng các pháp khác để hiển bày Phật quốc coi là đã xong liền trở về chỗ Phật. Phục là trở về gốc đã nói nghĩa Phật quốc. Cho nên khiến văn khúc chiết phù hợp với trên. “ Thượng quả...” là tùy văn giải nghĩa, nói cõi Phật không đồng khởi căn mỗi thứ đều khác, có hai: a, phối trên nói chung, có hai: a', nêu trước nói đồng, nói bốn nghĩa phù hợp đồng. “lương do...” là nêu ý không thứ lớp. Trong văn trước nêu ý kế so sánh loại mà hiển bày. Tên khác nghĩa đồng là ba đời Chu có tên khác. Khai quyền nghĩa đồng giống như bốn đoạn nay tên khác mà cùng nghĩa Phật quốc. Ba mươi sáu câu hỏi, tức trong phẩm Trường Thọ xưa ngài Ca-diếp và đồng tử hỏi nhau. Xưa nay phân hỏi khai hợp không đồng, hoặc ba mươi, ba mươi hai, ba mươi bốn, ba mươi sáu... không đồng. Tức hỏi rằng: Làm sao được trường thọ... nghĩa cần ở chỗ đối ứng, danh tự không đồng. Phật dùng mười hai phẩm để đáp ba mươi sáu câu hỏi, có danh nghĩa chủ đối nhau, thì dùng phẩm Trường Thọ mà đáp lời hỏi làm sao được trường thọ. Phẩm Kim Cang Thân mà đáp lời hỏi về thân kim cang bất hoại... lại có một phẩm mà đáp nhiều câu hỏi đó là do danh tự không đồng. Ý nghĩa nếu đúng... chỉ lấy cho ý hỏi mà hợp, không trách tên khác. Trong đây...” là kết nêu lệ lấy bốn đoạn nay đối khai tông trên, tuy không thứ lớp mà đồng hiển nghĩa Phật quốc. “Kim đệ...” là ước nay chánh đối. “Thử trung...” là tùy văn giải thích riêng, có bốn: a, giải thích phần thứ bốn thân pháp nào khởi căn, chánh giải thích, có ba: a”, nêu ý giải thích chung, nói đủ pháp sáu trần đều có thể khởi căn, chung nêu căn trần. “Nếu tỳ...” là đối tiểu hiển đại, Tiểu thừa nói nhãn sắc dụng kém. b, Đại thừa nói nhãn sắc gồm chung. Ngài Kinh Khê nói: Há có thể đem Tỳ-đàm này để vấn nạn Pháp Hoa. Tin biết chỉ là giáo bất liễu nhất định không thể nương. Lại sư Tỳ-đàm nay nếu nghe lời nói này há không vỗ tay ư? “Cố đại...” là dẫn chứng kết thành, dẫn chứng sáu căn. Phải biết...” là kết thành cụ pháp. “ Nay sắp...” là các quốc độ từ hơn đều dùng một trần, có hai: a) chánh nói từ hơn. b) “Như đây...” là nêu lệ khác. “Quang minh...” là nêu văn giải thích riêng. Sao chỉ cõi nước khác... ngài Kinh Khê nói: Cõi này còn có ánh sáng là sự, huống là các cõi khác chánh dùng ánh sáng. Như kinh Tư Ích. Kinh ấy nói: Lại Như Lai phóng ánh sáng tên năng xả. Phật dùng ánh sáng này hay phá tâm xan tham của chúng sinh, hay khiến họ bố thí. Lại ánh sáng tên vô nhiệt hay gia bị tâm phá giới, khiến họ trì giữ cấm giới. Lại ánh sáng tên an hòa phá tâm giận dữ, khiến họ tu nhẫn nhục. Lại ánh sáng tên cần tu, hay phá tâm lười biếng khiến họ tinh tấn. Lại ánh sáng tên nhất tâm, hay phá tâm vọng niệm, khiến tu thiền định. Lại ánh sáng tên năng giải, hay phá tâm ngu si, khiến hành trí tuệ rộng lớn. Như câu đầu. Lại phóng bốn oai nghi, tất cả pháp quang cũng như thế. Trong Tiểu thừa hoặc nói ánh sáng đến chạm vào. Ngài Kinh Khê nói: phóng đến rồi mới chạm. Không đến chạm, nghĩa là không đến không chạm. Dẫu có đến “mà không chạm” cũng không có lợi gì. Như Phật Tu-phiến-đa... Đại luận nói: Đức Phật này sáng thành đạo chiều nhập diệt, nên phải để lại hóa Phật để độ chúng sinh. Bốn đại Bồ-tát đến công đức, là Bồ-tát Pháp Tuệ ở trời Đao-lợi nói thập trụ, Bồ-tát Công Đức Lâm ở cung trời Dạ-ma nói thập hạnh, ngài Kim Cang Tràng ở trời Đâu-suất nói thập hướng, ngài Kim Cang Tạng ở trời Tha-hóa nói Thập địa. Không thể phán quyết nhất định sao ở hóa nhân? Nghĩa là nói Bồ-tát làm Phật sự không thể nhất định làm hóa Bồ-tát nêu giải thích. Vì bốn vị Bồ-tát trong Hoa Nghiêm là thật, không phải hóa, cũng là dùng Bồ-tát để làm Phật sự. Cho nên thuộc trở đi, tuy hóa thật không đồng nhưng đều thuộc khởi căn. Ở cõi này cũng ngồi cội Bồ-đề mà đắc đạo. Đây vốn là dưới cội cây Ni-câu-luậtđà mà được Bồ-đề, nên nhân lấy đó làm tên. Trí luận nói dưới cội cây suy nghĩ như Phật sinh dưới cây vô ưu, thành đạo dưới cội cây Bồ-đề, chuyển pháp luân ở cây kiết tường, nhập diệt dưới cây ta-la. Hành giả tùy pháp chư Phật thường ở dưới cội cây. Hoặc hiện thân thường, tức là thân trượng sáu, là thân thường hiện. Cho nên Đại luận quyển bốn mươi bốn có nói: Đức Thích-ca Văn Phật thường có ánh sáng dài một trượng... mộng huyễn mười dụ..., kinh văn chỉ có bảy mà không có ba thứ thành, hóa, không. Ngài Kinh Khê nói: Huống lại mười dụ, vốn dụ về không. Đây cũng không là Phật sự mà thôi. Bồ-tát được hữu, là đối không thì thấy chẳng Không. Lấy mười dụ làm tướng lừa dối. Tiêm sư nói quang thống lấy bốn tông mà phán giáo:
1. Nhân duyên tông chỉ sáu nhân bốn duyên của Tỳđàm.
2. Giả danh tông nói ba giả của Thành luận.
3. Cuống tướng tông nói ba luận Đại phẩm.
4. Thường tông nói về thường trụ Phật tánh, vốn là rỗng sáng của Niết-bàn Hoa Nghiêm... nếu Phật không thị hiện đến năng tri, là văn của Đại luận. Côn trùng, Lễ ký nói côn trùng chưa thành sâu không dùng ruộng lửa. Trịnh Huyền nói: Côn là sáng. Trùng sáng được khí dương thì sinh, được khí âm thì ẩn nấp, nên nói côn trùng. “ Nói rộng...” là chỉ rộng mà kết tóm. Ngang đây là kết chung. Giải thích thứ ba trên nói nhập Phật tuệ, có hai: a, phân khoa nêu chung. b, “chỉ các...” là tùy văn chánh giải thích, thiện môn. Và ác môn. Nữ nhân hiện bày tham dục, cựu kinh quyển bốn mươi hai có nói: Ngài Thiện Tài Đồng tử đến nước Hiểm nạn, tại thành Đại trang nghiêm, nơi ở của Bà-tu-mật có nhiều người nữ, bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề chưa biết như thế nào để học hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát? Đáp rằng: Ta đã hoàn thành được pháp môn ly tham dục thật tế. Cho nên trời thấy ta là Thiên nữ, người thấy ta là người nữ, cho đến phi nhân thấy ta là phi nhân nữ. Nếu bị tham dục trói buộc mà đến tận chỗ ta, thì ta vì họ mà nói pháp, khiến họ đều lìa dục mà được vô trước cảnh giới Tam-muội. Ai nhìn thấy ta thì được hoan hỷ Tam-muội, ai cùng nói chuyện với ta thì được vô ngại diệu âm Tam-muội, ai nắm tay ta thì được Nghệ nhất thiết Phật sát Tammuội.... Phàm phu bị đây mà đọa lạc, ngài Kinh Khê nói: Nói chung phần nhiều là tướng người đời, há cùng với Tu-mật mà khiến người phải đọa ư? Rất hiếm được lợi ích này. Vua Mãn Túc, kinh mới gọi là vua Vô Yểm Túc. Cựu kinh quyển bốn mươi mốt nói: Ngài Thiện Tài đến thành Mãn tràng, chỗ vua Mãn Túc, thấy có vô lượng chúng sinh phạm luật vua, bị trói chặt năm phần thân thể, hoặc bị chặt tay chân, thẻo tai mũi cho đến dùng lửa đốt. Ngài Thiện Tài hoài nghi. Trên hư không có tiếng chư Thiên bảo chớ nghi. Ngài liền đến chỗ vua bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề chưa biết làm sao để học hạnh Bồ-tát tu đạo Bồ-tát? Vua đáp: Ta đã thành tựu được Bồtát huyễn hóa Tam-muội pháp môn. Chúng sinh mười ác rất khó giáo hóa, nên ta điều phục, khiến họ giải thoát. Cho nên hóa làm nhiều người và các thứ khổ trị, khiến họ bỏ mười ác mà phát tâm Bồ-đề. Nên biết thân, khẩu, ý của ta, cho đến loại kiến con mà còn chẳng có tâm hại huống là loài người? Thấy Bà-la-môn, cựu kinh quyển bốn mươi nói: Ngài thiện tài đến nước Tiên cầu, chỗ của Phương Tiện Mạng Bà-la-môn. Lúc đó Bà-la-môn tu các khổ hạnh để cầu Nhất thiết trí. Bốn mặt có đống lửa to cao như núi lớn, trong có núi cao dao nhọn khôn cùng. Bà-la-môn đứng trên núi ấy tự gieo mình vào lửa. Thiện tài đến bạch rằng: Tôi đã phát tâm Bồ-đề, chưa biết làm sao để tu hạnh Bồ-tát, tu đạo Bồ-tát? Bà-la-môn đáp: Nếu ông có thể lên núi dao này mà gieo mình vào đống lửa, thì các hạnh Bồ-tát đều thanh tịnh. Ngài Thiện Tài nghi ngờ, thì mười vạn Pháp vương ở trên không trung bảo chớ nghi! Lúc đó Thiện Tài liền lên núi dao tự gieo mình vào đống lửa. Chưa đến nửa chừng, liền được Bồtát an trụ Tam-muội. Khi đến ngọn lửa lại được Bồ-tát Tịch tịnh an lạc chiếu minh Tam-muội. Tức kinh mới quyển sáu mươi bốn nói là Bà-la-môn Thắng Nhiệt ở xóm Y-sa-na vậy. “ Đã thiện...” là kết bày hiển ý. “Giải thích thành...” là kết hiển ý kinh. Kết tóm tắt trước sau. Phẩm đầu mới nói tịnh quốc. Giải thích ý ấy, nêu ý phân khoa. Phương tiện đến chi độ, là phương tiện khúc xảo. Khúc xảo tùy duyên thị hiện ba cõi. Tùy duyên bất biến đồng một tịch quang, gương ảnh đồ đựng và cơm, ý dụ khá biết. Nay ở...” là tùy văn giải nghĩa, có bốn: ở hư không kết giải thích, ước Phật quốc. Văn dụ cùng đây đối giải thích, có hai: a, nêu dụ. b, đây nói...” là hợp pháp. “ Nay đây...” là ước Phật quốc. Văn pháp cùng đây đối giải thích, nêu bốn phen trên. “tuy...” là ước độ chánh giải thích, ước sự lý nêu kinh. Nay bốn...” là nói tịch quang thể khắp. “ Thị cố...” là kết thành ý nay. Lược nói thân trí. Vạn diên lượng, diên là do diên, cũng là do-tuần. Nói rộng thân trí, đối trước luận bày, căn cứ rộng hẹp đối nhau. b, căn cứ tư nghì và bất tư nghì đối nhau, nói hai đế đều khác. b, “hà dĩ...” là dẫn giải thích tướng trạng: giải thích tướng hai đế của tam tạng. “cực trí...” là giải thích tướng hai đế của Viên giáo. “Nay mười...” là chánh giải thích văn kinh, căn cứ bất tư nghì mà nói đều đẳng. Trong văn nêu kinh nói giải thích tiểu không có thứ lớp. Đối kinh có thể thấy.
Nên dùng hai chữ đồng đẳng nghịch thông các câu. Trong văn đều dựa hai thân mà giải thích đẳng, vì chư Phật đều có hai thân. Do đó các câu đồng tánh đẳng, tức giải thích chữ “chủng tánh” của văn kinh. Sát-lợi, Bà-lamôn, là chư Phật hiện ra đời không ngoài hai tánh (dòng, giai cấp). Vì đời chuộng quyền thế nên phải sinh vào giòng Sát-đế-lợi. Như quả Đức Thích-ca. Nếu đời chuộng đức hạnh thì sinh vào dòng Bà-la-môn, như ngài Di-lặc.... Tánh pháp thân... Vì tánh thích có nghĩa chủng tánh, cũng là lấy sự biểu thị cho lý. Tập chủng đến diệu giác là quả do nhân quyết định, cho nên khắp nêu các tánh thắng ứng thân hiện đến các chúng sinh. Thắng ứng thân này tức báo tha thọ dụng vậy. “ thử chi...” là ước giải thích hỗ tương để kết nghĩa dụng. Ngài Kinh Khê nói: Thân trí này... có thể dùng độ để giải thích thân, có thể dùng thân để giải thích độ. Ước ba hiệu, phân khoa. b, tùy giải thích, có hai: a, chánh giải thích ba hiệu, Tam-miệu Tam-phật-đà, có hai: a”, căn cứ tư nghì, kế là bất tư nghì. Giải thích Đa-đà A-già-độ, cũng trước là tư nghì sau là bất tư nghì, đối lý chân như tức là thiên chân của tam tạng. Giải thích Phật-đà dựa vào hai giải thích trước. Sớ văn từ tóm lược, ở trong bất tư nghì của khoa trước mà nói thôi. Giải thích trong việc xin pháp thì tùy việc tịnh loạn. Tịnh thì dùng văn như cõi nước ấy. Loạn thì dùng võ như cõi nước này. Quyền đạo có oai nghi, Đại luận quyển bốn mươi ba nói: Bồ-tát có hai thứ:
1. Bồ-tát có Từ bi thích nhiều vì chúng sinh.
2. Bồ-tát thích nhiều tập họp các công đức.
Người thích nhiều tập họp công đức thì đến nhất thừa thanh tịnh ở quốc độ của Vô Lượng Thọ. Người thích nhiều vì chúng sinh thì đến chỗ không có Phật pháp tăng. Tiếng tán thán Tam bảo khiến thành Bồ-tát ở cõi nước ấy tức là loại người thứ hai. Cho nên ở quyền đạo có nghi vậy.
Hỏi: Há có người không Từ bi mà gọi là Bồ-tát ư?
Đáp: Từ bi không khác đều là hóa độ chúng sinh, tâm mong cầu sớm tối có khác mà thôi. Cho nên Đại luận quyển bốn mươi lăm lại nói: Có người trước thành tựu công đức rồi sau mới hóa độ chúng sinh, có người trước thành tựu chúng sinh rồi sau mới tự thành công đức. Nay Bồ-tát ấy tức là người trước tự thành rồi sau mới độ sinh. Chỉ riêng đối cõi này thì Bồ-tát phải là người trước thành tựu chúng sinh vậy. Riêng ở cõi này có đủ hai hạng người, tức ba căn xuất giả là đó. Nay Bồ-tát ở cõi nước ấy thì phải là người chân xuất giả. Phật vì nói, có hai: a, đối trên phân khoa, có hai: a, đối Phật quốc trên. b, “Nay...” là chánh phân văn nay. “trung...” là tùy giải thích, có ba: a, nêu chung khuyến học. b, giải thích, có hai: a, lược giải thích. b, rộng giải thích, có ba: a, nói không hết hữu vi, có hai: a, nêu, có hai. b, giải thích, có ba: a', Dựa theo câu nêu chung. “Nay nói...” là nêu trước bày nghĩa, có hai: a, Đại sư chánh giải thích, có hai: a, chánh nói hai nghĩa, có hai: a) ước trung đạo bày nghĩa. b) tục đế...” là ước hai đế giải thích tên hai. “Cho nên...” là đối trên giải thích thành, có hai: a, đối Phật quốc giải thích thành. b, “riêng hỏi...” là ngài Chương An giải thích riêng. Ý hỏi: Có chín trăm vạn Bồ-tát đã đến cõi này dùng hương để lợi vật, thì đã hay song lưu, vì sao mới hỏi. Ý đáp: Trong số các Bồ-tát đến cõi này có quyền có thật. Cho nên dùng quyền dẫn thật. Vì dẫn lợi tâm thật hạnh nên bày ra nghi ích vật. Cho nên khiến bậc Đại sĩ vô sinh quyền lập ra câu hỏi này. Vì thật tùy quyền, nên bậc sơ tâm thật hạnh kia chưa có dụng song lưu, mà do quyền thần thông nhiếp thuộc, nên vẫn hay tùy đến. “ Trong văn...” là tùy vấn nạn mà lược giải thích. Con đang mắc nạn là dụ cho chúng sinh đang ở trong sinh tử. Cha mẹ ở nhà như Bồ-tát ở trong thiền định, từ bi nghĩ nhớ chúng sinh, không lấy tịch tịnh làm vui, nên nói như trong địa ngục... là các điều khác có thể thấy. Kinh nói không khinh kẻ chưa học. Kính người học như Phật. Là chưa học thì sẽ học, do đó không khinh, kẻ đã học thì sẽ thành nên kính như Phật. Kinh nói: Thấy người đến tìm cầu thì nghĩ mình là thầy tốt. Vốn “không” có ý bố thí, nhân họ đến cầu xin, mới phát tâm bố thí, nên đối với mình là thầy, nên có ý nghĩa là thầy. Không trụ trong vô vi, kinh nói: Tu học không khởi, chẳng dùng không khởi mà làm chứng. Các pháp duyên nhau mà có, duyên tan thì không, thì có pháp nào sinh ra đợi duyên mà khởi đâu. Đây là biệt môn để quán không quán.
Giải thích lại, có hai: a, lìa văn tự mà thông tông, có hai: a, đối Phật quốc mà hiển phục tông, có hai: a, đối trên giải thích thành, có hai: a) kể Phật quốc trước. b) nay...” là giải thích thành, có hai: a', nói ba đoạn do nhau, lấy trước chưa hết hữu vi mà thành Phật quốc ngang, không trụ vô vi mà thành Phật quốc dọc. Lại hai đoạn nay mỗi thứ đều gồm ngang dọc, cho nên sớ không đối. Nay lại giải thích thành Phật quốc, kết giải thích ngang dọc. Nêu trước sau cùng luận. Đây nêu đoạn nay cùng hai khoa hồi hỗ. “Nay nói...” là dẫn văn giải thích tóm lược, có hai: a) căn cứ song chiếu chánh giải thích. b) “nếu ba...” là căn cứ thân trí giải thích thành. “Căn cứ đây...” là ước quyền thật chỉ bày mà giải thích lại, có ba: a, ước bốn song mà chia văn. Biết bệnh hiểu bệnh. Biết chung gọi là biết “tri), luận tường tận gọi là hiểu (thức). “Theo đây...” là ước quyền thật mà rộng giải thích, có hai: a, chánh luận ba thứ quyền thật. Hoặc nói quyền là thật, ngài Kinh Khê nói: Tức là ba thứ chân của Tạng, Thông. Hoặc nói thật là quyền, tức gồm trung nhập chân vậy. Các thứ này đối viên đều gọi là hóa tha. Cho nên văn sau nói: Theo đây mà phán quyết tư nghì và bất tư nghì. Đây là Thông giáo và chân tục trong hai mươi tám. Hoặc ở trong quyền mà luận quyền thật. Vì nói quyền là thật, nên trong quyền có thật. Hoặc ở trong thật..., vì nói thật là quyền, nên trong thật có quyền. Hợp cơ cạn sâu, là hai giáo thì cạn, gồm trung thì sâu. “Căn cứ đây...” là rộng trải các đế giáo giải thích nghĩa, có hai: a, trải hai đế, có ba: a, nêu. b, “nếu là...” là giải thích, có ba: a, tự hành quyền thật. b, tự hành hóa tha, có ba: a', cùng nêu. b', hà cố trở đi cùng giải thích, có hai: a, pháp cho nên nói ba người..., là văn của Đại phẩm. Vì trong ba thừa thì kẻ lợi căn thấy trung đạo, cho nên biết gồm trung ở chân. Nghĩa là nói chân đế, Di-lặc đã dùng kiến trung làm chân, thế thì luận thiên không chính là tục đế tức lập lại tục trong huyễn có mà tức không. Cho nên khiến năm trăm vị nghe tục gọi là chân. Tuy không bày đến nghĩa ấy, nghĩa là Đại phẩm chỉ nói ba người đồng đoạn. Đại kinh chỉ nói gọi tục là chân mà rõ ràng có nghĩa trung đạo, đã như vừa giải thích. Nếu thông Biệt giáo, Viên giáo... ngài Kinh Khê nói: Biệt giáo có lúc thuộc hóa tha, có lúc cũng được xem là tự hành, có lúc cũng được gọi là tự tha. “ Thấy không...” là dụ. “Nhật nguyệt...” là hợp dụ. “ Nếu Bồ-tát...” là song kết.
Hóa tha quyền thật, có hai: a, nêu. b, “hà dĩ...” là giải thích, có hai: a, dựa vào dụ đá không mà giải thích tướng. b, “chỉ đây...” là đối bất tư nghì mà luận khác. Do đó lại đối bất tư nghì mà luận tướng, vì hóa tha thuần dùng Tạng, Thông thì chỉ là tư nghì. Người lợi căn ở chân thông mà thấy lý trung, thì thành bất tư nghì. Nếu căn cứ lợi căn lại đồng tự hành, hóa tha quyền thật nghĩa đã cùng liên hệ nhau, nên cần luận tướng. Văn có hai: a, chánh nói tư nghì, có hai: a, lại nêu dụ trước, dần dần tiêu ma dụ cho tiệm, quặng hết vàng hiện dụ cho đốn. Tức là đoạn hết kiến tư thì nhận tiếp trung đạo, nên được tên đốn. “ Tư nghì...” là hợp dụ giải thích tướng. Trước chánh hợp dụ trước. Như tất cả...” là lại lấy dụ mà làm sáng tỏ. Đây lấy hành nhân thể vật cạn sâu để dụ thì chỉ là một tư nghì. Người lợi căn thì đốn thấy trung đạo. Trong văn nói: Nói sinh diệt vô sinh thì đều lấy lời giải thể vật để dụ ngộ lý cạn sâu mà thôi, không phải là ước pháp. Người hạ trí thấy sum la là bốn đại, nếu tạng giáo chỉ thấy vô thường. Người trung trí thấy sum la là sinh diệt, nếu Nhị thừa của Thông giáo và đốn Bồ-tát chỉ thấy tức không. Nếu sinh diệt đến chân đế. Đây là bậc thượng trí, thấy sum la là không, dụ cho người lợi căn, tức thấy trung đạo. Đã đối trung và hạ trí, tự động là thượng, nên không cần nói thượng. Đây há không phải là tiệm đốn, lấy dụ mà nói. Rõ ràng thấy trong tư nghì có nghĩa đốn. Đã có đốn thì cũng thuộc bất tư nghì. Nhưng chỉ ước Bồtát, đầu tiên hóa tha mà nói hai giáo, chỉ là do căn tư nghì mà đốn thấy. Cho nên khiến hai giáo chỉ là hóa tha quyền thật. “Mà giáo...” là đã có lý thọ tiếp không được chẳng luận nên đây phải nói.
Đối luận bất tư nghì, ước dụ chánh nói. Như châu như ý. Châu dụ cho nhất tâm hay mưa các báu. Dụ nhất tâm tùy duyên khắp tạo mười giới. Châu tuy không báu nhưng đầy đủ tánh báu để dụ cho tâm tánh bổn cụ tánh trăm giới ba ngàn y chánh gọi là lý tạo không giả tùy duyên, vì lý thường tạo. Nên biết tạo này tức là tên khác của cụ. Rốt ráo đều không chỗ có. Tuy không chỗ có, mà có tánh báu. Nếu không tánh khác phải mưa báu đâu cần Ma-ni. Bất tư nghì...” là hợp dụ. Mà hay chân tục đầy đủ, là không đáng hữu vô, hữu vô tự như thế. Vì sao, vì đều là thật tướng, pháp thật tướng nó như thế. Các pháp đầy đủ, pháp các pháp như thế. Tánh vốn vô sinh. Tất cả chân tục tức hai đế của ba giáo trước. Vì tất cả đều do mười giới gồm thâu. “ Nếu căn cứ...” là gửi nhờ “từ đây lạc mất mấy tờ, từ cuối phẩm Bồ-tát Hạnh đến giữa phẩm A-súc): Đáp chung, có hai: a, giải thích văn chung riêng, b, quán riêng. Tâm tánh mình đã là thật tướng. Thật tướng ắt là các pháp, các pháp tất mười như, mười như tất mười giới, mười giới tất là thân và độ. Thân phân giả thật nên có ba ngàn. Thế nên ba ngàn đồng ở tâm địa, cùng tâm địa của Phật ba ngàn không khác, bèn gọi là ba Không sai khác. Mới hiểu kinh nay quán thân thật tướng, cho nên nói tức là đó là đúng nghĩa vậy. Vả lại lý mê trung còn bằng diệu giác huống là lý ngô trung của Đẳng giác mà so với diệu giác Phật thì bằng Phật đạo. Nếu hiểu quán tâm hai thứ trước có thể được. Ví như người học bắn tên. Người mới học tức phải mong trúng đích. Từ thân sơ mới quán tâm tánh, tức cùng với Phật ngang nhau. Ngộ từ cạn sâu đây dùng Thủ-lăng Tam-muội mà dụ. Quyển thượng kinh ấy Phật bảo ý dọc. Ví như người học bắn, trước bắn đích lớn, kế mới bắn đích nhỏ, sau học bắn đích mới học bắn đầu gậy, cho đến học bắn một sợi lông, bắn lông rồi mới học bắn một phần trăm sợi lông. Bắn được như thế rồi mới gọi là thiện xạ. Văn kinh nói đầy đủ về việc muốn học Thủ-lăng-nghiêm, trước phải học ham thích đồng một pháp. Phải thứ lớp như mới học bắn đích. Nay ước không thứ lớp, tức từ mới bắn đích mà có gần xa. Trước gần sau xa để dụ cho viên quán. “ Nếu chánh...” là kết bày quán pháp. “ Sở dĩ...” là đối câu hỏi mà hiển ý, nói nhân thân mà hiển bày độ. “ Tha...” là chỉ bày quốc độ chân thật mình ở, giải thích khác. Giải thích nay, nói pháp thân có độ. b, “cố kim...” là dẫn kinh chứng thành. Đáp riêng, có hai: a, giải thích quán ba đời, chánh giải thích văn kinh. Như thấy có pháp vị lai... lời nói nay đã qua đi, pháp vị lai chưa đến, còn hiện tại đang có. Cho nên nói pháp vị lai có thể được... là hữu biên hay vô biên. Nêu phàm phu vọng chấp có quá khứ, đây tức là ngoại đạo vọng chấp cho rằng: Quá khứ có hữu biên vô biên, hiện tại có thường và vô thường. Vị lai như đi và chẳng như đi. Cho đến mỗi thứ đều thêm hai cũng và song phi. Ước ba đời năm ấm chung tạo thành sáu mươi, không lìa đoạn thường tức là sáu mươi hai kiến. Đại luận, Đại kinh, sớ và phụ hành... các chỗ đều nói thế. Ý nay nói quá khứ thật có thì có thể đồng chấp với ngoại đạo. Nay đã vốn “không” thì chấp ấy sao phải. Dưới nói đời sau không đi, hiện tại không trụ, lệ thì có thể biết. “ Giải thích khác...” là đối xưa nêu nghĩa, có hai: a, căn cứ ở vị luận thường, có hai: a, kể xưa. b, nói nay. Nếu hiểu được ý nay thì mới thấu suốt ý chỉ hai chim cùng bay của Đại kinh. Văn có hai: a, nói kim cang trước tự hành nên thường. Kim là mới nay. Phàm phu đều thường huống gì phần Thánh. Kim cang sau căn cứ hóa tha nên vô thường, nhưng căn cứ tự hành cũng có vô thường, vì nguyên phẩm vô minh chưa đoạn hết. Nay lại ở hóa tha mà nói. Bậc Diệu giác cực quả còn bày việc tám mươi vô thường, huống phần thường mà không thị hiện ư? Bày ứng hóa khác nhau, có hai: a, xưa nói ứng hóa nghĩa đồng. b, nay nói ứng hóa khác thể. Giải thích chẳng quán sắc... như vừa chê trách Tu-bồ-đề. Phẩm Đệ Tử nói: Người thí cho ông không gọi là phước điền, người cúng dường cho ông phải đọa ba ác đạo. Như lời ủy dụ, tức kinh nói: Tu-bồ-đề lấy bát chớ sợ... trách thì cho rằng đại Thánh là tiểu, cho nên không phải phước điền. An ủi thì Thánh nhân Tiểu thừa là nội giới phước điền. Giải thích kệ ba đời rằng: Xưa không nay có, xưa có nay không. Ba đời có pháp Không có chỗ đó. Người xưa có nhiều giải thích, người nay chính nghĩa chỉ ước ba đế, tức chân mà tục là xưa không nay có. Tức tục mà chân là xưa có nay không. Tức biên mà trung là ba đời có pháp, không có chỗ đó. Lại tức một mà ba, tức ba mà một, ba một tức không phải ba một. Vì nêu bốn câu đại quan rõ ràng. Phật đối Đại kinh bốn lần tuyên nói. Cho nên khiến người xưa gọi bốn lần nói kệ. Nếu biết ba đế một tâm thì gom thành một kinh sao chỉ bốn lần nói mà xuyên suốt cả một đời, sao chỉ một kinh mà bao gồm cả mười phương, sao chỉ một đời giáo hóa mà gồm cả ba đời. Sao chỉ ở hiện tại nhiều quyển mà quy về một, chỉ nói tự tâm. Tự tâm vốn “không”, thì các nghĩa làm sao có. Không chẳng lìa có các thuyết rất rõ ràng. Cho nên biết bốn phen nói kệ cũng lại tùy cơ chứng nghĩa làm phương tiện mà thôi.
Ngài Thân Tử hỏi ứng thân, có hai: a, nêu ý phân khoa. b, “Phân ngôn...” là tùy văn giải nghĩa, như văn. Nói chỗ ở tại tịnh quốc, nêu ý phân khoa. Kinh A-ca-nitra hoặc nói Nị-tra, hoặc nói Ni-sa-tra, hoặc Ni-sư-tra đều là tiếng Phạm đọc nặng nhẹ mà thôi. Chính nói là Aca-ni-sắc-sai, dịch là chất ngại, là Sắc cứu cánh.
Ngài Thân Tử khen ngợi, có hai: a, chánh giải thích văn kinh. b, “nếu y...” là suy tìm nêu ý. Nếu dựa vào lời nói này, là sáu phen khen phước sâu sắc như phần lưu thông.
----------------------------------
Phần lưu thông, nêu chung phân chương, “căn cứ trước...” là y văn giải thích riêng, phẩm phân hai: phân khoa đoán bày, chung riêng phân khoa. “nay nói...” là đoán bày ý phẩm, chánh giải thích tên phẩm, chánh giải thích. b, “như...” là dẫn chứng mà luận. Quyển bốn nói: Phật ở nước Ma-già-đà, bên bờ sông Ni-liên, ở xóm Ưulâu-tần-loa mà được đạo Bồ-đề, thành tựu pháp thân. Cho nên phần nhiều đều ở tại Vương xá. Vì báo ân sinh địa nên phần nhiều thường ở tại nước Xá-vệ. “Trong hai nước...” là hiển bày pháp thân là hơn. Kinh này đã nói thật tướng, tức là các pháp thân của Phật. Nên các Đế Thích hộ trì. “ Hộ trì...” là kết lệ. “Lại nữa...” là nguyên do hộ trì, nói nay nói đáp thỉnh. “ Nhược tác...” là y giáo mà phán quyết người. Nếu dựa vào Hoa Nghiêm lấy Thập địa đối lục dục bốn thiền. Đế Thích là Bồ-tát nhị địa dẫn dạy đám người dưới trần. Nghi lễ nói dạy cho phép cung kính. Trịnh Huyền nói: Suất là dẫn dắt. “Tựu thán...” là tùy văn giải nghĩa. khen pháp, phân khoa hiển bày thật, không có pháp Không có gì để thành người. Do ngộ thật mà thành Thánh. Cho nên không có người thì không thể hiển bày pháp. Cho nên người có thần dụng thì mới hiển bày pháp ưu thắng. “Trăm ngàn...” là tùy văn chánh giải thích. Giác tâm hộ trì, tức là Phật hộ trì. Tám ma mười ma như trước đã ghi. Ta giúp ông, hãy mừng. Nhĩ là ông, là ngươi. Kể về người khen, phân khoa đoán bày, có hai: a, chung riêng phân khoa. b, “sở dĩ...” là đoán bày nghĩa chỉ, lập nghi dẫn ra. “chánh nói...” là y nghĩa đáp giải thích, nói phước tuệ hơn kém, lược bày hơn kém phước sinh thân không động không xuất. Đại luận quyển năm mươi tám nói y chỉ là thân mình, tiền của, người nhận là trong pháp chấp tướng tâm đắm trước, nên sinh kiêu mạn... các phiền não, là bất động bất xuất của thế gian. Hay động hay xuất. Luận nói: Động là nhu thuận nhẫn, xuất là Vô sinh nhẫn. Trong pháp Thanh văn thì động là người học, còn xuất là người Vô học. “ Cho nên nói...” là dẫn luận nói rành về phước chẳng thú... tức ngài Di-lặc trong Kim Cang Bát-nhã luận vậy. Phước chẳng đến Bồ-đề, là bố thí bảy báu phước như núi Tu-di. Phước thường đến Bồ-đề là thọ trì và đọc tụng. Hai thứ này đến Bồ-đề. Thế nên hai thứ này gọi là liễu nhân. Ở thật... là nói độc tụng Bát-nhã là giúp thật tướng. Thế nên trì tụng gọi là liễu nhân, nên nói là thật. Ngoài đây ra, gọi là sinh nhân. Sinh nhân là nhân hữu lậu. Cho nên nói ngoài ra. Ngài Kinh Khê nói: Ở thật...” là hai nhân sinh liễu, cùng so sánh mà phán quyết. Đây ước duyên không liễu, liễu không duyên, đáng phân mỗi thứ mà nói, há có người phát tâm Bồ-đề, chỉ có nhân duyên mà không có liễu ư? Chỉ có liễu mà không có duyên ư? Nếu chỉ có thì kia đây không thành. Đối duyên mà liễu, liễu rồi mới thành. Liễu duyên cũng như thế. “ Cúng dường...” là nêu nghĩa đáp hỏi, ngài Kinh Khê nói: Cúng dường sinh thân gọi là sinh nhân. Đây chỉ ước cúng Phật sắc thân mà không nghe pháp, hoặc thấy sinh thân chỉ nói tiểu pháp đều gọi là phước không đến Bồđề. “ Kim cang...” là dẫn hai kinh chứng thành. Ngài Kinh Khê nói: Lại nữa đạo phẩm đến chư Phật là oán, vì trong tiểu giáo không nói đến, cho nên không có duyên tội phước. “Đệ tử...” là tùy văn giải nghĩa. Tu hành phước nhiều là tùy tiện nêu văn mà thôi. Nên biết chỉ nói hai chữ tu hành là kể pháp hành. Kinh nói: Phước nhiều với người ấy là hiển bày chung về hàng tín pháp hơn việc xây tháp cúng dường ở trước mà thôi. Kinh nói Như Lai... mười hiệu, tất cả chư Phật đều có chung riêng hai hiệu. Di-đà, Thích-ca... là hiệu riêng, còn Như Lai... mười thứ là hiệu chung. Hóa tướng cần phân chia nên cần lập tên riêng. Thật đức đều đồng nên lập tên chung. Không hư vọng nên gọi là Như Lai. Thật là phước điền nên gọi Ứng Cúng. Biết pháp giới nên gọi Chánh Biến Tri. Đầy đủ ba minh nên gọi Minh Hạnh Túc. Không trở lại nên gọi Thiện Thệ. Biết cõi nước chúng sinh nên gọi Thế Gian Giải. Không ai sánh bằng nên gọi Vô Thượng Sĩ. Điều phục tâm người khác nên gọi Điều Ngự Trượng Phu. Làm mắt cho chúng sinh nên gọi Thiên Nhân Sư. Biết rõ ba nhóm nên gọi là Phật. Chư Thiên và người đời không hơn được nên gọi Thế Tôn. Như một vi trần... cựu Hoa Nghiêm quyển ba mươi sáu có dụ: Như có một quyển kinh thì cả đại thiên giới đều có tất cả, không gì là không ghi chép. Các quyển kinh khắp các đại thiên ấy ở trong một hạt vi trần. Lúc đó có một người xuất hiện ra đời, có đầy đủ Thiên nhãn thấy các kinh này ở trong hạt vi trần, bèn nghĩ rằng: vì sao kinh quyển ở trong hạt vi trần mà không lấy làm nhiêu ích chúng sinh. Bèn dùng phương tiện phá hạt vi trần để lấy kinh ra. Như Lai trí tuệ đầy đủ ở trong thân chúng sinh, nhưng vì chúng sinh nghĩ tưởng điên đảo bị che lấp nên không biết không thấy. Như Lai dùng Thiên nhãn nhìn thấy bèn nói: Lạ thay! Lạ thay! Vì sao trí Như Lai ở trong thân mà không thấy biết. Ta ở giáo đó mà giác ngộ Thánh đạo, khiến lìa điên đảo, thấy trí Như Lai ở trong thân cùng Phật không khác. Tức thời giáo ấy tu tám Thánh đạo thấy trí Như Lai. Tin nhận thật tướng..., tin nhận tức là danh tự, tu hành thông cả quán hành và tương tợ. Tức là đến tên khác, là ba giải thoát không dọc không ngang, nên gọi là vi diệu. Pháp ba giải thoát không phải sức phàm tiểu nghĩ bàn được, nên gọi là bất tư nghì. Nên nói là tên khác. Nghe trì hạnh trước, ngài Kinh Khê nói: Trụ tiền tu công đức quả địa, đầy đủ như chỉ quán đã ghi. Chú nói rằng:
Đầy đủ như trong phần giải thích khen đức của sớ thứ nhất nói về lục độ. Ba thứ thọ, là tư hoặc của ba cõi. Nhập Niết-bàn Bát-nhã, ngài Kinh Khê nói: Niết-bàn là giải thoát vậy. Tức đối Bát-nhã phân làm hai, mà lấy thật tướng trung đạo. Nay cho rằng viên quán thật tướng, tức trụ tiền tu hành nhập Niết-bàn Bát-nhã, là do tợ nhập chân, được đoạn quả Niết-bàn và trí quả Bát-nhã, tức là các pháp chẳng sinh, mà Bát-nhã sinh cũng là nhập lý Bát-nhã gọi là trụ vậy. Đó là viên, đốn, tiệm ba giáo. Ngài Kinh Khê nói: Viên đốn là viên, tiệm là ba giáo, nên nói tiệm ba giáo. Hai mươi bảy Thánh hiền, Trung A-hàm quyển ba mươi Phước Điền Kinh nói: Người học có mười tám, gọi là tín hành, pháp hành, tín giải, kiến đắc, thân chứng, gia gia, nhất chủng tử, hướng sơ quả, đắc sơ quả, nhị hướng, nhị quả, tam hướng, tam quả và năm na-hàm. Đó là trung, sinh, hạnh, bất hạnh, thượng lưu. Người Vô học thì có chín, đó là tư, tấn, thoái, bất thoái, bất động, trụ, hộ, tuệ, câu. Năm bố như trước đã ghi. Ba thứ sinh tử. Ngài Kinh Khê nói: Ở trong biến dịch có phân ra nhân duyên chỉ cho bách cú giải thoát đến cực quả mới đầy đủ bách cú. Nếu đầy đủ bách cú há chỉ là trăm ư? Nếu đầy đủ tất cả sao chỉ riêng có quả. Nếu nghe không nghe, thì nghe là nương nghe mà hiểu. Không nghe nghĩa là tự suy nghĩ mà hiểu. Nay dựa vào nội tu thì đồng gọi là pháp hành. Kinh nói được năm thần thông. Nếu căn cứ vào được nhẫn trước thì cũng là người vị tương tợ. Chưa được trung đạo vô lậu, nên chỉ có năm thông. Nếu đã nhập vào phần chân, thì nhường cực quả mà không có vô lậu. Kinh nói Ca-la Cưu-tôn-đà, cũng gọi là Câu-lưu-tôn, Hán dịch là Sở Ưng Đoạn tức là Phật thứ một ở hiền kiếp. Ở thời giảm thứ chín tuổi thọ của người còn sáu vạn tuổi thì ngài ra đời. Lâu-chí tức là Phật sau cùng, ở kiếp tăng thứ hai mươi thì ngài ra đời.
-------------------------------
1. Đối trước luận bày. 2. “Chúc...” là chánh giải thích văn kinh, giải thích đề. “căn cứ văn...” là giải thích văn. Ưu-ba-cúc-đa, Phó Pháp Tạng truyện và kinh A-dục vương đều nói: Ngài Cúc-đa thuyết pháp ở nước Mađột-la. Ma vương ở chỗ nói pháp đã mưa hoa chân châu, hoa anh lạc... và hóa làm bạch tượng, bảy báu trang nghiêm, hóa làm bảy người, cực kỳ đẹp đẽ. Lên hội quán sát không có người nghe pháp. Suốt trong ba ngày thuyết pháp Không có một người đắc đạo. Ma vương rất vui mừng. Ngài Cúc-đa liền nhập Tam-muội quán sát thì biết là ma làm. Ma lại dùng chuỗi anh lạc đeo trên đảnh của tôn giả. Ngài biết mà nghĩ rằng: Ma phá hoại chánh pháp, vì sao Như Lai chẳng điều phục. Liền quán tâm Phật thì biết Phật muốn mình điều phục. Ngài liền dùng ba thây chết của rắn, người và chó, biến thành chuỗi anh lạc. Chiêu cảm ma vương đến, ngài gọi bảo rằng: Ông cho tràng hoa, ta rất cảm kích sự bố thí trọng hậu của ông. Nay xin dùng vật này tặng lại. Ma rất vui mừng bèn đeo ngay vào cổ. Vừa đến cổ thì thấy là thây chết đầy dòi tửa hôi hám, muốn cởi bỏ ra. Ma rất ghê tởm bảo ngài Cúc-đa rằng: vì sao ông lấy thây chết mà đeo vào cổ ta. Ma dùng thần lực cởi bỏ đi mà không được. Liền kêu cứu với chư Thiên, cho đến Phạm vương xin cởi thây chết ra giùm. Phạm vương nói: Do sức Thập lực của đệ tử Phật hóa ra, tôi không thể lấy ra được. Nếu ông quy y ngài Cúc-đa may mà thoát được. Ma nghe lời Phạm vương, liền đến chỗ ngài Cúc-đa, năm thể sát đất xin mở ra ba thây chết. Tôn giả nói: Ông không phá hoại chánh pháp nữa, thì ta mới cởi thây chết ra cho ông. Ma xin tuân lời. Ngài liền cởi thây chết ra. Là Phật Vô Tướng, nghĩa là đức ngang bằng Phật chỉ không có tướng hảo mà thôi, đây là lời khen kính. “Nếu là...” là ước người mà giải thích, có hai: a, lược nêu. b, ngôn thâm...” là giải thích rộng, nêu giải thích hạnh xưa, dẫn kinh Vô Hạnh giải thích thêm, dẫn kinh ấy chánh nói, +, nêu hiểu kinh sâu, dẫn kinh nêu văn. Ngài Kinh Khê nói: Thâm kinh là kinh Vô Hạnh. Tham dục là đạo, giả là đó. Chúng sinh từ vô thỉ cùng ba thứ này đều siêng theo. Quán chúng sinh do đây mà ngộ, nên nói tức thị. Tất cả các kinh, đại chỉ đều thế. Chẳng đắc ý, là vì ba thứ đó. “Chỉ đây...” là y kinh nêu nghĩa. “Kinh ấy...” là lại dẫn khuyên răn, lại dẫn kinh, ngài Kinh Khê nói: e người hiểu lầm cho nên lại dẫn kinh ấy. Thấu suốt pháp này cũng chẳng phá giới.... “Hành nhân...” là nói khuyên răn. “Thật tướng...” là căn cứ nhân quả kết giải thích. “Nếu hay...” là đối văn nay kết bày. “Nếu ưa thích...” là truy giải thích tân học, chánh giải Thích-căn. Thêm nước vào sữa, Đại kinh phẩm Bồ-tát nói: Như cô gái chăn bò vì muốn bán sữa được nhiều tiền nên thêm vào hai phần nước, đem bán cho các cô gái chăn bò khác. Các cô gái này được sữa lại thêm hai phần nước, rồi đem bán cho cô gái ở gần thành. Cô này lại thêm hai phần nước bán cho cô gái trong thành. Cô gái này lại thêm hai phần nước rồi đem ra chợ bán. Thầy xưa giải thích hai cô gái chăn bò là dụ cho việc hoằng kinh. Tánh cô gái không ngay thẳng là dụ cho người hoằng pháp, không thể quên rằng vì pháp mà dối lừa để có nhiều lợi. Cho nên dùng cô gái chăn bò để dụ.
-Thêm hai phần:
1. Sao lược kinh này.
2. Phân làm nhiều phần.
-Thêm hai phần lần hai:
1. Trừ bỏ lời thâm diệu.
2. Đặt nói thế đế.
-Thêm hai phần lần ba:
1. Đem trước để sau.
2. Đem sau để trước.
-Thêm hai phần lần bốn:
1. Trước sau đem để ở giữa.
2. Giữa đem ra trước sau.
“Như tức...” là dẫn sự để chứng, có hai: a, dẫn sự hiện tại. b, “Trong đây...” là dẫn sự xưa, chánh dẫn duyên xưa, ngài Kinh Khê nói: Đây là lúc xưa còn làm Sa-di, Phật là Hòa thượng, A-nan là Xà-lê. “Cho nên biết...” là kết cạn bày sâu. “Dựa theo đây...” là tổng kết. Ba giáo đi vòng xa gọi là sức từ “nói trau chuốt), còn viên đốn tột gọn là trực ngữ (nói thẳng). Như hỷ căn... như trước đã ghi. Tẩn pháp cũng thành. Cũng là vừa. Lại Đại luận quyển tám nói: Khổ hạnh đầu-đà, đầu giữa sau đêm tâm luôn siêng tịnh thiền quán khổ mà được giáo đạo Thanh văn. Quán các pháp thật tướng không phược, không thoát, không giải. Tâm được giáo thanh tịnh của Bồ-tát. Song đây vì đem tiểu sánh với đại nên nói thế. Đối với Bồ-tát viên thừa thì cũng chưa từng bỏ các việc thiền quán... kế văn phân làm hai: a, giải thích khinh mạn. b, lại...” là giải thích thủ tướng. Nói thủ tướng thành lỗi để giải thích văn kinh, có hai: a, căn cứ văn kinh hiển bày lỗi. b, như tam trở đi nêu nhân sư chỉ lỗi, nói thủ tướng của các sư, ba thời... xưa nay Nam Bắc thông dụng ba thứ để phán quyết giáo:
1. Đốn, tức là Hoa Nghiêm.
2. Tiệm, tức mười hai năm trước giáo có tướng là kinh A-hàm. Mười hai năm sau, giáo không tướng là từ Bát-nhã đến Niết-bàn.
3. Bất định giáo tức là kinh Thắng Man, Quang Minh... không phải đốn tiệm mà nói Phật tánh thường trụ, nên gọi là thiên phương bất định giáo. Cấp sư ở Hổ khâu lại ở tiệm giáo mà phân làm ba thời, nghĩa là có tướng, không tướng và thường trụ, tức chỉ Niết-bàn là thường trụ giáo. Bốn thời, là ở chùa Bạch Mã, sư Tông Ái phán quyết tiệm có bốn thời, ba thời không khác trước, còn ở trước thường trụ và sau vô tướng thì chỉ cho kinh Pháp Hoa gọi là đồng quy giáo. Năm thời là đạo tràng quán... tiệm lại có năm, bốn thời không khác trước. Còn ở sau vô tướng và trước đồng quy thì chỉ kinh Tịnh Danh này và kinh Tư Ích... là bao biếm ức dương giáo. Bán mãn, ngài Bồ-đề Lưu-chi lấy mười hai năm trước làm chữ bán, mười hai năm sau làm chữ mãn. Bốn tông là ngài Quang Thống phán quyết giáo có bốn:
1. Nhân duyên tông, nói Tỳ-đàm sáu nhân bốn duyên.
2. Giả danh tông, chỉ cho thành luận ba giả.
3. Tướng tông, chỉ cho Đại phẩm ba luận.
4. Thường trụ tông, chỉ cho Niết-bàn, Hoa Nghiêm.
Sáu tông, ngài Quang Thống lại chia bốn thành sáu, bốn như trước nói, lại chỉ Pháp Hoa là Chân tông, Đại Tập là Viên tông. Có chép đầy đủ trong Pháp Hoa huyền nghĩa quyển mười.
Nói Sư nay Vô Trước, chánh nói Vô Trước. Ba giáo, hai giáo, một giáo... ngài Kinh Khê nói: ba cũng chỉ là tiệm... ba giáo. Tức là đốn tiệm. Một, nghĩa là một âm. Vô giáo là vô ngôn thuyết “không nói năng). Cho đến tám giáo tùy nghi mà dùng một thứ, mà lấy các giáo gồm chung cho quán, lại ý chung dung nhau khiến không trệ ngại về phương tiện nhập đạo. Nếu không thế thì cùng ngoại đạo nào khác. Cho nên khiến đối giáo để khởi hạnh, hạnh giáo trông nhau lấy ngộ làm gốc giới nhĩ hữu trước. Chu Dịch nói ưu hối lập là còn nuối tiếc. Hàn Khang Bá chú rằng giới là nhỏ nhặt. “ Tự chấp...” là chê các sư, có hai: a, là Đại sư chê trách. b, ngài Nam Nhạc chê trách. Nói tịch chiếu nhập đạo để hiển bày ý kinh, nêu bày. Doanh đạo cũng nói là tu đạo. “Chỉ...” là chánh giải thích, nói im lặng và nói năng cùng giúp nhau thành lợi ích, chánh nói cùng giúp nhau, chỉ rõ nói và im lặng gồm thâu. b, “cần biết...” là nói cùng giúp nhau thành lợi, có ba: a', pháp, có hai: a”, nói đối bệnh bày thuốc. “nói im...” là chỉ cái dụng trị đúng lúc. Dụ và Hợp dụ. “ Cho nên đại...” là nêu đắc hiển bày thất, nêu đắc giúp nhau. Ngũ cốc, Trịnh Tư Nông nói: Đó là mè, lúa mùa, lúa tắc, lúa mạch (mì) và đậu. “Nếu thiên...” là hiển bày lỗi của thủ tướng. Tuy cho rằng mang thai con tầm thường..., tuy tự cho là con thường trụ gá vào Thánh thai. Đã sinh chấp trước thiên lệch là bị đọa lâu trong sinh tử, chỗ có Phật tánh nhất định không hiển phát, nó cũng như gái đá không sinh sản. “ Nếu đối với...” là nói im lặng và nói năng đều có tín và pháp, nghe và suy nghĩ hồi chuyển mà giải thích, có hai: nói Thánh nói đầy đủ tín pháp. nói Thánh im lặng cũng đầy đủ tín pháp. Gia công luận đến mức.... Gia công không ngộ do đó tâm tự hận sinh ra. Lễ Ký nói: Người sinh Không hận dân. Trịnh Chú rằng: là dáng oán hận không vừa ý (bất mãn). Mạnh tử nói: Hạnh có lòng không oán hận, chú rằng: Khiểm là khoái vậy, nghĩa đó cũng thông. Lâu lâu, hoặc viết, đều là kính cẩn, tuy không phải biếng nhác khinh nhờn mà không được ngộ. Cho nên cần phải nghe pháp nhận hiểu. Căn cứ đây mà nói người tín pháp hồi chuyển, nói rộng tín pháp cùng giúp nhau hồi chuyển..., đầy đủ như trong an tâm của chỉ quán. “ Lại từ...” là trong ngoài giúp nhau mà giải thích. Như nghe mà làm là pháp giúp tín. Tuy chính từ ngoài nghe mà lại nhờ bên trong suy nghĩ giúp nhau được ngộ. Như làm mà nghe là tín giúp pháp. Tuy chính phải bên trong suy nghĩ mà tất nhờ bên ngoài nghe nói pháp giúp cho được ngộ. Phó chúc A-nan, nêu ý phân văn, nêu ý, tích. bổn. “Dựa vào đây...” là phân khoa. “Chủ yếu là...” là tùy văn giải nghĩa. Được yếu, tức là được các pháp. Vì thật tướng tức là các pháp, các pháp tức là thật tướng, cho nên được châu như ý thì có đầy đủ các báu.
---------------------------
Bộ sách này chỉ dùng chung với bộ sớ của ngài Kinh Khê mà thôi.
Bộ sớ này là lời giảng được ghi lại; việc phân chia quá chi li. Cứ mỗi điều lại có hai, ba phần. Nhưng phần hai ở rất xa, có khi không nói, hoặc lạc mất hoặc chính thức không có.
Tóm lại bộ sách này dùng một mình không tiện lợi.