TẠNG LUẬN
SỐ 1784 - KINH KIM QUANG MINH HUYỀN NGHĨA THẬP DI KÝ
Sa-môn Tri Lễ ở núi Tứ minh, đời Tống, soạn
1. Hỏi đáp về mục đích soạn sách:
Hỏi: Xưa, Pháp sư Bảo Vân có soạn bộ Tán Thích Huyền Biện. Gần đây, A-xà-lê Cô Sơn lại dùng chương ký để nói về ý chỉ sâu kín. Nay lại soạn sách kia để làm? Đáp: Pháp sư Bảo Vân giảng dạy, học trò chép lại nghĩa, ý nghĩa có lẽ thiếu sót chưa kịp sửa lại, không may Sư tịch. Tác phẩm của Cô Sơn vì nhiều việc nên mất văn; lại trong đó phá bỏ "Quán tâm", việc này thật sự không chịu được. Vì thế nay tôi đảm nhiệm việc biên tập, lượm lấy các nghĩa của Tiên sư để lại, và nhặt lấy văn mà người đời sau bỏ sót để giúp cho hai đường Giáo, Hành không đến nỗi bị che lấp, chỉ giúp cho người mới học thông hiểu, mong không chê cười tôi nhiều lời.
Ngày rằm tháng tư, năm Quý Hợi, niên hiệu Thiên Thanh năm thứ nhất, kính ghi lời tựa.
2. Giải thích đề kinh:
A. Đề: Đề có sáu chữ, bốn chữ trên (Kinh Kim
Quang Minh) là Sở thích, hai chữ dưới (Huyền Nghĩa) là Năng thích. Năng thích là chung, bắt nguồn từ Đại sư Trí Giả khi giải thích các kinh đều lập năm nghĩa. Cho nên chọn lấy lối giải thích này, để phân biệt với các bộ khác. Vào văn sẽ giải thích rộng rãi bốn chữ đề kinh, do đó không nói trước. Về hai chữ năng thích, huyền là sâu xa mầu nhiệm khó thấy, nghĩa là lý thú sâu xa có nguyên nhân. Nghĩa sâu xa mầu nhiệm kia có năm lớp, vì một bộ kinh từ đầu đến cuối có danh năng thuyên, có Thể sở triệu, tức là Tông của thể; tông thành "lực dụng". Đây là tướng trạng mở rộng và hạn cuộc của bốn thứ ngôn giáo. Đại sư tìm ra năm nghĩa như vậy, giải thích một đề, muốn giúp người học biết trước ý chỉ của kinh, sau mới tìm văn, giúp cho đối với từng câu văn có được sự hiểu biết để tu hành, đây là Đạo tràng giúp cho nhân thanh tịnh phát khởi, xứng hợp tâm Phật, giảng nói ý chỉ sâu mầu, vì thế không thể nói cho người ám chứng và người tìm văn, đâu thể để cho u vi trở thành hư danh ư? Về danh hiệu của vị sư năng thuyết: Núi Thiên Thai là chỗ dừng ở, Trí giả là gọi theo chủ, Đại sư là bậc khuôn mẫu của chúng sinh. Thuyết giả chỉ cho vị Sư cầm bút soạn thuật, khác với các vị sư khác. Như sự tích đầy đủ của Sư, có nói trong một truyện khác. Nay, ở đây không chép ra.
B. Giải thích Văn: Có hai.
I. Giải thích lời tựa: có hai.
3. Nói chung về pháp thể:
Một là Chỉ bày chung pháp thể: Đây là lời chỉ định. Kim Quang Minh là pháp thể được chỉ bày. Sâu xa vô lượng là nói về thể đức. Nên biết, tên kinh ba chữ này là tựa đề riêng, là pháp chẳng phải dụ. Làm sao biết được như vậy? Vì Kinh nói Như lai dạo chơi nơi hành xứ của các Đức Phật trong pháp tánh Vô lượng sâu xa, Ngài trụ trong định này mà tuyên bố rằng, Kim Quang Minh đứng đầu các kinh, đâu không chỉ thẳng pháp tánh là chỗ dạo chơi, gọi là Kim Quang Minh, không nói pháp tánh như Kim Quang Minh, nhưng văn dưới đây có lập thí dụ giải thích.
Bởi các Đại sư hiểu Kim Quang Minh là hiện tượng sự vật ở thế gian, dùng để ví dụ cho pháp sâu xa mà Như lai đã đắc. Các Sư dù mới dùng dụ để nói lên pháp, nhưng thật sự chẳng biết pháp tướng viên dung, tùy theo theo tên mà sự giải thích có hạn cục, cho nên không thể dụ khắp các pháp. Đại sư muốn chỉ bày biển Kim Quang Minh, chẳng pháp nào không đầy đủ, chẳng pháp nào không tròn chứa, vì thế thuận theo các Đại sư lấy ba chữ Kim Quang Minh làm dụ, đủ để so với chỗ dạo chơi của Đức Phật. Lược thì có mười thứ ba pháp, rộng thì tất cả pháp môn, mỗi pháp dung nhiếp lẫn nhau đều không thể suy nghĩ bàn luận, việc này mới xét các Đại sư dụ pháp không khắp, do đây hiển bày rộng pháp tánh tròn đầy.
4. Cho rằng đề kinh dụ không đúng pháp nên có lập văn phụ:
Nhưng, dù thuận theo các Đại sư dùng dụ để hiển bày pháp, nhưng đề kinh kia là dụ không đúng pháp, cho nên sau tự lập văn phụ, hai thứ đương thể để giải thích, bỏ kia tìm nghĩa thí dụ xa xôi, nương vào kinh pháp mới là gần gũi. Nhờ đó Đại sư hiểu rõ pháp tánh đáng tôn đáng quý đương thể gọi là Kim, vắng lặng mà thường chiếu soi, đương thể gọi là Quang, đại Bi lợi ích chúng sinh đương thể gọi là Minh. Đó là biết pháp tánh đầy đủ Kim Quang Minh, danh nghĩa chân thật, thành tựu hoàn toàn. Ngoài pháp tánh, thì tất cả danh ngôn đều là nghĩa không thật, do đó Kim Quang Minh ba thứ pháp môn, nêu một tức ba, toàn ba là một, chẳng phải ba chẳng phải một, mà là ba là một, không dọc không ngang, dứt bặt nghĩ bàn, đó là kho Bí mật, chỗ Đức Phật dạo chơi.
Lại, nên biết dùng Kim Quang Minh chỉ bày pháp thể, tức là thể của năm chương, bởi kinh này tên là Kim Quang Minh thể là Kim Quang Minh tông là Kim Quang Minh dụng là Kim Quang Minh giáo tướng là Kim Quang Minh, cũng có thể ba chữ đối riêng với năm chương, là Thể Kim, tông Dụng là Quang là Minh, hợp chung ba thứ làm danh, chia riêng ba tên để làm giáo tướng, pháp thể đã như thế, thể đức cũng như vậy. Sâu xa là đức của Quang cùng tận pháp tánh, đức của Minh là Vô lượng, thông suốt bờ mé pháp tánh, đức của Kim là hai thứ này không hai, nghĩa pháp tánh rốt ráo tôn quý. Cũng có thể ba nghĩa đều sâu xa, đều vô lượng, đều không hai; đức của năm chương đều như vậy.
5. Nêu riêng ý nghĩa khởi giáo:
Hai là Nói riêng về ý giáo: Như trên là nêu chung pháp thể của năm chương, ở đây là nêu riêng ý nghĩa khởi giáo.
a) Nói về ý kinh: Tức Như lai nói về năm chương.
Nêu ý chung: Tức ngài Trí Giả lưu hành năm chương.
a) Tự có hai
Y lý dứt lời, vì "lý" tột cùng chỉ có thể khéo chứng, khó dùng lời để gọi tên.
Phó duyên đáng nói: Đây là y theo Đại Bi, không nói mà nói, nói thì làm lợi ích cho người.
-Phần (a.1) Lại có hai: a.1.1) Nói về ta (ngã) phân biệt: trên đến quả cùng tột, dưới đến phàm thường, đều không thể dùng lý mầu mà nói được, phần này lại có ba: a.1.2) Nói người ở quả không thể dụ hết, bốn Đức Phật nói kệ cân núi, giọt nước biển, đất bụi, cõi hư không đều không thể so sánh với tuổi thọ của Thế Tôn, trong bốn dụ này hư không rất lớn; ba thứ cân núi,... đều nương vào hư không mà lập, hư không tuy rộng lớn nhưng là cảnh do vọng tâm biến khởi, mê chân cho nên sinh, ngộ tánh thì mất, do mắt tác đối tâm duyên mà có, không thể dụ hết, không thể suy nghĩ bàn luận Kim Quang Minh. Vì thế kinh nói: "hư không" sinh trong Đại giác, như hòn bọt nước nổi lên giữa biển cả, đâu thể dùng một hòn nước mà suy ra được sự rộng lớn của biển, hư không xưa nay không ai ví dụ, được ba thứ kia có thể bàn luận.
6. Hỏi đáp về dùng hư không để so sánh:
Hỏi: Kinh nói hư không... chẳng thể sánh với tuổi thọ mà Đức Thích Tôn đã được, nay vì sao nói hư không chẳng giống đại giác và Kim Quang Minh?
Đáp: Nếu tánh Giác nếu thiếu ba nghĩa Kim Quang Minh thì không gọi là "đại" (lớn). Nghĩa tuổi thọ của Đức Thế Tôn là ở "Minh", không có đủ Kim Quang thì chẳng phải là thọ mãi. Một pháp cũng không ít, ba pháp cũng không nhiều, Chúng sinh và Phật không khác nhau, thể dụng không hai, nếu không như thế thì không phải nghĩa phương đẳng, bốn Đức Phật Thế Tôn dụ không thể kịp, rõ lý thì dứt lời.
- Nói nhân vị chưa thể tận nguồn: trên đây là nêu quả Phật chứng tuy rất rốt ráo nhưng pháp vốn vắng lặng, cho nên nói dụ không rõ ràng. Nay phân biệt người ở nhân chưa đạt đến nguồn tánh, cho nên suy nghĩ tính toán không đến được. Phần này có hai:
- Nói về dụ dùng trí để bác bỏ: Mặt trời chói lọi dụ cho trí đức Bát-nhã, mắt trẻ con dụ cho trí tuệ quán sát không, giả, đã trái với bản trí thì chẳng phải Mắt Phật, vì thế đối với trí đức thì mặt trời chói lọi không phải là vật chiêm ngưỡng. Thuyền lớn Cột nhà dụ cho đoạn-đức giải thoát, phụ nữ mới sinh dụ cho duyên từ sinh pháp, đã khác vô duyên thì không có năng lực mầu nhiệm, cho nên đối với đức dứt thì cột nhà chẳng phải vật giữ gìn, đây là nói về quả vị tròn đầy, ba trí ba giải thoát, bác bỏ Bồ-tát Bi trí ba giáo trước.
Nếu Bồ-tát viên giáo tu đầy đủ đã tức tánh thì từ đầu sẽ không trái với hai đức; nhưng tuy hiểu ngay mà nếu từ nhân hướng về quả trí thì có sáng suốt có mê mờ, năng lực phân chia mạnh, yếu, cho nên người ở nhân đối với Quả đoạn trí, cũng không chiêm ngưỡng và giữ gìn được. Phải rõ trí, đoạn gọi là Quang, Minh, hai đức không hai tức là pháp thân còn gọi là Kim, tuy dùng hai để bác bỏ, vẫn chưa nói lên cùng tận nguồn gốc ba pháp.-Nói về pháp, dùng nhân quả xác định, Bồ-tát Thiên Viên đều có khả năng hàng phục "dứt". Hễ Bồ-tát làm việc gì đều gọi là thanh tịnh, nay quả tròn đầy cùng cực, pháp tánh thực hành đã vượt ngoài tất cả, cho nên nói là trải qua. Đối với người chứng Kim Quang Minh cùng tột còn không thể dụ, người chưa cùng tận nguồn gốc thì đâu thể nói được? Ba là nói về phàm phu, Tiểu thừa hoàn toàn mê mờ, có hai lý do.
7. Phàm phu, Tiểu thừa không thể suy nghĩ, bàn luận biển Kim Quang Minh:
- Tiểu thừa: Bồ-tát Thiên Viên phát tâm rộng lớn, có phần chứng trí đối với lý dứt bặt mầu nhiệm của Kim Quang Minh, còn không thể nhanh chóng lập lời, huống là hàng Nhị thừa diệt tâm tự độ, như người điếc lắng nghe, người ngọng ham nói, đâu thể suy nghĩ nói năng những điều thực hành của các Đức Phật.
- Phàm phu: Thánh Hiền Ba thừa tuy Tiểu khác Đại, nhân không bằng quả nhưng có thể tu chứng lý trí ba đế, còn không nói năng suy nghĩ được biển Kim Quang Minh, huống chi phàm phu ngoại đạo vốn không có phần ấy, thuận theo lời nói sinh hiểu biết.
Vì thế lời nói làm tổn hại sự thật, đã giữ không nói do đó im lặng thì có lỗi. Nếu bàn luận đầy đủ trong lời nói có đơn, phức và đầy đủ câu, nói đầy đủ về sự im lặng, thì ngoài ba lớp bốn trường hợp, mỗi mỗi đều không nói, giống với Độc Tử Bộ. Ta ở lần thứ năm không thể nói Tàng, đây đều do tà ma ngoại đạo phát ra, im lặng mà thấy. Nếu người lo nghĩ xa xôi, và người học Phật với tâm duy lý, chẳng nói thì im lặng. Đối hai chỗ này làm lớn thêm kiến chấp sai lầm, tuy chẳng phải thần ngã mà hoàn toàn do người chấp, cho nên bốn giáo bốn môn đều sinh kiến chấp về lời nói, lìa bốn liền khởi kiến chấp vô ngôn (không nói).
Vì thế luận Khởi Tín chép: Năm người chấp, đều là chấp Như lai tạng khởi. Nay sự bác bỏ chính là do người này, cho nên nói năng im lặng đều cho là không thể. Như vậy đủ bình luận về sự nói nín sinh kiến chấp của phàm phu, Nhị thừa thì thiên chứng suy nghĩ nói năng, Bồ-tát trí biện chưa cùng tột, đều không thể bàn về tánh chí Viên. Trên đến quả Phật, tâm miệng hoàn toàn thanh tịnh, nói chứng rốt ráo, cũng không thể thí dụ, vì hiểu rõ Kim Quang Minh xưa nay bí mật, lìa tướng nói năng, lìa sự tâm duyên, khiến cho hành giả không còn nói năng, quên bặt suy nghĩ.
8. Dẫn các kinh chứng minh:
1) Dẫn văn chứng minh:
2) Đại phẩm: Kinh và luận ấy chép, Phạm chí Tiên ni, tuy là ngoại đạo tà giáo nhưng căn cơ đã thuần thục, đến chỗ Đức Phật bạch rằng:
Xin hãy giúp con ngồi tại đây, không khởi mà vẫn đắc nhãn. Đức Phật vì người kia, chỉ bày chỗ quyết định, giúp cho chứng quả Tu-đà-hoàn. Đức Phật lại hỏi về trí ngộ lý của người ấy, do quán bên trong nên được trí ấy phải chăng? Đáp rằng, không phải. (Phật hỏi) Quán ngoài và trong ngoài bằng nhau được trí ấy phải chăng? Đều đáp: Không phải. Đây là bốn trường hợp ngôn tưởng đều dứt bặt mới đắc quả "Dự lưu". Trí nhỏ còn như vậy, huống chi là Kim Quang Minh!
-Đại kinh: Văn đầu làm tan hết tất cả suy nghĩ, nói năng, lại từ Sinh sinh trở xuống là riêng mất bốn thuyết. Các nhà sớ kinh dựa vào đây mà tiêu quên đường bốn giáo ngôn tư, pháp thật do nhân duyên sinh thành sinh ra nên gọi là sinh sinh ba tạng giáo. Cái Sinh huyễn có tức là bất sinh, gọi sinh bất sinh là Thông giáo. Bất trụ bất sinh lập mười cõi sinh, gọi là bất sinh sinh, là Biệt giáo. Viên giáo gọi là bất sinh bất sinh, lý vốn bất sinh, sự tức là lý nên sự cũng bất sinh, gọi là bất sinh bất sinh, tánh vốn bất sinh, thuận tu tức là tánh, tu cũng bất sinh, cho nên hai thứ bất sinh, mê hoặc thể không, cho nên bất sinh. Trí dụng quên cho nên bất sinh, cho nên hai thứ bất sinh, không có nhân để tu vì thế bất sinh, không có quả để thành cho nên bất sinh, do hai thứ bất sinh nên mình, người cảm ứng các pháp tánh đối nhau đều không hai, vốn vắng lặng vì thế lại nói là bất sinh. Bốn lần đều nói "không thể nói": Ở đây có hai ý.
Nếu là đương phần: Lý bốn giáo chỉ có thể trí chứng, chứ không thể nói được. Thân Tử nói: Trong giải thoát không có nói năng, là ba tạng. Ba người đồng cho rằng vô ngôn nói đạo dứt các phiền não; là Thông. Đồng tử chẳng nói, chẳng phải phàm chẳng phải Thánh, chẳng phải có chẳng phải không, cho nên không nói; là Biệt. Các pháp vắng lặng, không thể nói bày là Viên.
9. Pháp Kim Quang Minh không thể suy nghĩ, bàn luận: Nếu vượt thứ lớp: Lý Viên Diệu đều không thể dùng bốn thứ lời chỉ bày, cũng không thể nói trọn vẹn, huống chi là ba giáo! Như vậy là nói pháp Kim Quang Minh là kho Bí mật không thể suy nghĩ bàn luận.
- Phó duyên có thể nói: Lý Kim Quang Minh tuy lìa tướng vắng lặng, nếu quên tình mà chứng, dùng bốn Tấtđàn không nói mà nói thì giúp cho chúng sinh được vô lượng lợi ích. Văn chia làm bốn:
- Nói về có duyên phải nói: Sau bốn thứ Đại kinh không thể nói, tức cho rằng có nhân duyên cho nên cũng được nói, chẳng lẽ không phải phó duyên có thể làm ra bốn thuyết. Nói có nhân duyên là mười nhân duyên. Trong mười hai chi chỉ trừ hai chi "sinh, tử" ở tương lai, đây là quả do nhân duyên thành; "Vô minh" quá khứ cho đến "hữu" của thời hiện tại, mười chi này đều có công năng thành nhân duyên, có khả năng thành quả sở đắc của bốn giáo. Vì sao? Vì chi "Vô minh" chính là tâm "ái, thủ" ở quá khứ, vì có tâm này nên Phật, Bồ-tát chỉ bày sử dụng các thứ danh nghĩa trong bốn giáo, đã "ái" lại còn "thủ" chính là nương vào bốn giáo, khởi bốn hạnh nghiệp tức là Vô minh duyên hành, nghiệp này có công năng hướng dẫn thức người đến gá vào thai mẹ, tức hành duyên thức; thức này theo nghiệp duyên của bốn giáo, thành quả của bốn thứ như danh sắc... tức là thức duyên danh sắc, cho đến xúc duyên thọ. Nghiệp tứ giáo chiêu cảm năm quả này, vì thế tâm thọ trở lại "ái" bốn giáo, tức là thọ duyên ái, ái sẽ chấp lấy pháp của bốn giáo, tức là ái duyên thủ. Nếu ái, thủ sâu thì có công năng siêng tu, hành hữu của bốn giáo, tức là thủ duyên hữu. Hữu sẽ vời lấy quả, hiện tại thành tựu quả Hiền Thánh, đây là chúng sinh có mười nhân duyên, bấy giờ các Đức Phật nói pháp bốn giáo, chưa gieo giống cho gieo giống, lại dùng bốn pháp giúp người đã gieo giống được thuần thục, lại dùng bốn pháp giúp cho người đã thuần thục được giải thoát, nói có lợi ích như vậy, vì thế đối duyên chẳng thể không nói.
- Nói thuyết này đáng tôn trọng: Nói chung phó duyên là bốn giáo trong một thời hạn, nay đặc biệt hợp với căn cơ chỉ bày năm nghĩa của kinh này, và năm nghĩa kia mỗi nghĩa đều đáng tôn trọng, lại có hai:
10. Năm nghĩa của kinh này:
-Sắp bày năm nghĩa của kinh, Kim là tên v.v... tên có ba chữ, một phải có đủ hai. "Kim": là trên hết, Quang Minh cũng thế, pháp tánh làm thể, tuy có ở tất cả, chỗ Như lai đi qua chỉ hạn cuộc quả chứng, rất thông suốt, cực kỳ hạn chế. Đặc biệt nêu nghĩa, ba chữ được nêu, tức là Đệ-nhất-nghĩa rốt ráo. Trang nghiêm Bồ-tát... Văn dưới định Tông chỉ chấp lấy quả, nay nói Bồ-tát hẹn lúc chứng quả đã có thể trang nghiêm công đức sâu mầu, tức là quả cùng tột sâu mầu của bốn đức, lời nói tuy dính mắc ở nhân, ý chính là ở quả. Soi sáng các vị trời... các vị trời, quỉ thần đều là Đại Bồ-tát, pháp tánh sáng suốt chiếu soi sẽ tăng thêm đạo, cho nên "đại quyền tâm sinh pháp hỉ", là nói kinh có năng lực công dụng rộng lớn mà lại sâu.
Văn hiệu Kinh Vương... Bộ này nhiều văn gọi Kim Quang Minh là đứng đầu các kinh, vua có khả năng thống lãnh cho nên Giáo thu nhiếp các kinh. Nhưng Sớ thích kinh vương, dùng Văn hợp lý mà làm Trung đạo, kinh này lại là vương, đối với chín thứ kinh được tự tại. Văn là năng thuyên, lý là sở thuyên, Văn lý hợp nhau do đó năng, sở dung nhau, hoặc giáo hoặc lý đều gọi là Trung Đạo, đều là Kinh Vương. Sớ dùng Kinh Vương để nói về Thể, tức Sở thuyên là trung đạo. Nay dùng
Kinh Vương để nói Giáo, tức năng thuyên là Trung đạo, nếu chẳng phải Trung Đạo thì giáo không nói lý Trung đạo, cẩn thận chớ hiểu sai, cho nên tên được gọi là giáo pháp Trung đạo.
11. Kinh này đáng tôn kính:
- Kết thúc chỉ bày đáng tôn kính: Kim là tên gọi cho nên cao quý, quả lý là thể cho nên Cực, rốt ráo ba thân cho nên Tông sâu, chẳng có vật nào không được lợi ích cho nên dụng lớn. Văn tự tức trung cho nên giáo gọi là Vương, vì thế năm chương mỗi chương đều cao rộng, ba Minh tôn quý cho nên các bậc Thánh che chở. Có hai.
- Hộ trì quả cùng tột: Trong sở thuyên mầu nhiệm, tất cả các pháp thú, danh không hai thể, tất cả Như lai chứng đắc thể này, nương vào trụ trì, thường thường nhớ nghĩ, khiến chúng sinh không khởi "tám đảo". Kinh nêu bốn trí cho nên nêu bốn Đức Phật, thật sự thể này chẳng có Phật nào không che chở, vì thế nói: mười phương ba đời cũng giống như thế. Do đó Kinh nói: Chư Phật mười phương thường nhớ nghĩ kinh này.
12. Các Bồ-tát kính lạy kinh này:
-Đại quyền kính thờ: Tất cả Bồ-tát... phẩm Tán Phật ở dưới chép: Bấy giờ vô lượng trăm ngàn muôn ức các chúng Bồ-tát, từ thế giới này đến cõi nước của Kim Bảo Cái Sơn Vương Như lai. Đến cõi nước ấy rồi, năm thể gieo sát đất đảnh lễ Đức Phật, hướng về phía Phật chắp tay, miệng đồng lời khen ngợi Đức Phật. Sớ chép: Trình bày về, chúng khen ngợi đến cõi nước ấy, vì thế khắp các phương khác từ xa lễ lạy.
"Thiện nữ Thọ Thần...": Cũng là văn phẩm này, trong bài kệ khen ngợi thần cây Bồ-đề chép: Ta thường tu hạnh đại bi trên hết, buồn khóc như mưa muốn thấy Đức Phật. "Các vị trời che lấp...": phẩm Tứ Thiên Vương và phẩm Tán Chỉ Cập Quỷ thần đều nói: Thường dùng thần lực che chở người nói người nghe: vua nước kia và thổ cảnh, phẩm Kiên Lao Địa Thần, phẩm Đại Biện Thiên, phẩm Công Đức Thiên, trong mỗi phẩm đều nói sự lợi ích của người trì kinh. Các vị Bồ-tát và các Thiên thần này đa số đều là Phật xưa, hoặc phân thân ứng hiện, người từ xa lễ bái, khen ngợi công đức Như lai, che chở lợi ích cho người nói, người nghe, đều kính thờ Kinh Vương truyền bá phương đẳng. Nếu chẳng phải pháp môn chí diệu thì làm sao có khả năng khen ngợi hết lòng, vì thuyết bốn minh, cho nên sự lợi ấy bao gồm rộng lớn.
13. Các cõi lìa khổ được vui:
"Các cõi thảy đều khô cạn": Phẩm Sám Hối chép: Trong ba cõi sinh tử, biển lớn nổi sóng lay động, não loạn tâm ta, vị đắng cay rất thô rít, lưới sáng của Như lai làm cho khô cạn, các cõi là không ngoài ba cõi Dục, Sắc, và Vô sắc. "Ba đường dứt nóng bức...": Phẩm Tứ Vương chép: Kinh này có công năng làm cho các sông địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, đều khô cạn. "Nêu những điều quan trọng...": Phẩm Tuổi thọ chép: Bấy giờ, tất cả chúng sinh trong Tam thiên Đại thiên thế giới nhờ thần lực Phật mà hưởng sự vui sướng cõi trời. Các căn không đủ liền được đầy đủ, nói tóm lại, tất cả lợi ích chưa hề có trong tất cả thế giới, đều xuất hiện đầy đủ, nói sự lợi ích của kinh, chẳng những trừ được quả báo khổ trong ba đường các cõi mà thôi, phải nói mười loài trong hai mươi lăm cõi, lìa khổ được mười điều vui, có công năng giúp Kim Quang Minh được hiển bày rốt ráo, mới đủ để nói về tướng xuất hiện các việc chưa hề có.
14. Nói lên ý chung của kinh:
-Nêu bày ý chung: Trên đã nói lý từ xưa vắng lặng, tùy duyên mà lập thuyết, đều nói ý Như lai nói kinh. Nay thì Đại sư Trí Giả tự nói trí lực, dùng nghĩa giải thích đề, nương văn nói nghĩa, là ý chung của kinh. Tự chia làm bốn:
"Bậc Thánh khen ngợi giữ gìn": người muốn bắt đều bàn luận thì trước phải nhớ nghĩ đến các bậc Thánh, khen ngợi không thôi, hộ pháp quên mệt nhọc, vì thế mong tâm Thánh tự đến. "Kim Long ba đời khen ngợi...": Bồtát Tín Tướng ở quá khứ làm vua, hiệu là Kim Long Tôn, nói chương cú khen ngợi chư Phật, nguyện đến đời tương lai gặp Đức Phật Thích-ca, nay đã toại nguyện, lần ở trong hội này dùng kệ khen Phật, Kim Long Tôn vương ở quá khứ khen Phật, Bồ-tát Tín tướng là hiện tại khen Phật, lại có thệ nguyện trong vô lượng A-tăng-kỳ kiếp đời vị lai, sinh ở chỗ nào, đêm mộng thấy trống vàng, ngày nói đúng như thật, tức đời vị lai khen Phật. Như thế kia đã một thân ba đời khen ngợi.
15. Hỏi đáp về khen kinh tức là khen Phật:
Hỏi: Kim Long ba đời đều khen ngợi Phật, đâu được giống như giảng nói kinh Kim Quang Minh, người và pháp khác nhau làm sao hiểu được?
Đáp: Nắm giữ thật pháp vô thượng Kim Quang Minh thành quả Phật vô thượng. Người Giả lìa pháp, không có người lìa người không có pháp. Lời khen ngợi Phật chính là khen ngợi sắc tâm mầu nhiệm; sắc tâm này tức là Kim Quang Minh; Như Đại Sĩ Mã Minh quy y ba ngôi báu để cứu giúp người đời, lòng đại bi ấy là Phật, dùng thể tướng thân kia làm pháp, y theo Phật khen tức là dùng thể khen ngợi Kim Quang Minh.
16. Địa thần phát nguyện che chở người giảng nói kinh này:
"Địa Thần...": trong Phẩm Kiên Lao Địa thần, Địa thần Kiên Lao bạch Đức Phật rằng: Bất cứ chỗ nào có kinh này truyền bá, con đều trải tòa sư tử, giúp người nói pháp ngồi trên tòa ấy, giảng nói kinh này và ở trong đó, con thường che chở giữ gìn, che giấu hình hài, ở dưới pháp tòa, đầu đội chân vị kia, về trên Thánh trọng pháp cho nên tôn kính người.
- "Phàm sư khuôn phép, hai Thánh sâu chứng, còn nhiều kiếp khen ngợi, cúi mình tôn kính ủng hộ, là so sánh vị ngoại đạo phàm phu thấp hèn lãnh pháp cố gắng thực hành, chẳng lẽ không giảng nói rộng rãi hay sao?
- "Nương vào nghĩa, mà phát ra lời nói": Nhờ nghĩa của các vị Thánh hộ pháp ở trên mà nay phát ra lời của năm chương thông kinh.
17. Cầu mong được lợi ích:
-"Xứng pháp cầu lợi ích": giọt nước chim muông dụ cho điều lành của thông kinh, xuống biển lên núi khuyên dụ điều lành này thuận tánh thật nhờ chút duyên, tức điều lành dụ ở trên; đều được nhuộm sắc, tức là sự lợi ích hôm nay trông mong. Vì nói một giọt sương nhỏ khéo nguyện thì đồng một vị mặn của tánh biển, chim muông chút duyên nguyện cùng một sắc mầu nhiệm của núi
Phật. "Núi: là núi Diệu cao bằng bốn thứ báu, phía Đông bằng vàng ròng, phía Tây bằng bạc trắng, phía Nam bằng lưu ly, phía Bắc bằng thủy tinh. Hễ chim ở gần chỗ nào thì có cùng màu sắc với núi. Một niệm vui theo công đức còn bằng với hư không, năm phẩm lưu thông chẳng lẽ điều lành nhỏ bằng giọt sương. Đặc biệt Đại sư so sánh phàm với Thánh, nhún nhường mình tôn kỉnh kinh, người học sau hiểu biết không tự khoe khoang.
II. Giải thích huyền nghĩa: có hai 1) Nêu chương chia khoa: chia hai.
a) Giải thích Đề, tức là huyền nghĩa.
b) Giải thích văn, tức là câu văn.
Quyển này nêu tên chỉ nói huyền nghĩa, khoa văn thuận theo đây, vì thế không xếp vào khoa mục hai đoạn giải thích để văn. Nay nêu chương chia khoa đâu ngại hợp với câu văn dưới để giải thích văn.
Nay chia huyền nghĩa để giải thích tựa đề. Trong giải thích đề trước nêu năm chương để giải thích điều ấy, y theo năm chương này có hai để giải thích, cái gọi là "chung, riêng"; vì hai giải thích này đều giải thích năm chương.
2) Nương khoa giải thích: có hai a) Giải thích chung: chia hai a.1) Sinh khởi a.2) Phân biệt
Nếu quảng luận giải thích chung như trong Pháp Hoa Huyền Nghĩa, giải thích chung năm chương mà chia ra bảy phần:
1. Nêu chương: giúp cho dễ nhớ giữ, sinh khởi niệm tâm.
2. Dẫn chứng: y theo lời Phật dạy để khởi tín tâm.
3. Sinh khởi: giúp cho không tán loạn, sinh khởi tâm định.
4. Khai hợp.
5. Phân biệt.
6. Khác hội, khởi tâm tuệ.
7. Quán tâm: ngay khi nghe liền tu, khởi tâm tinh tấn.
Nay, văn sơ lược, chỉ có hai phần, chỉ khởi hai tâm, sinh khởi để khởi Định, phân biệt để khởi Tuệ. Nếu Định, Tuệ được lập thì các hạnh đều thành. Trong hai thứ ấy thì đầu tiên là:
18. Nói về danh, thể, tông, dụng, giáo:
1) Sinh khởi: Danh ở trước, đó là năng thuyên. Mà danh là giả, phải nương vào pháp thật, vì thế nói cõi này dùng âm thanh làm Phật sự. Nhưng, nếu từ Phật và thiện tri thức, thì danh nhân ở tiếng, nếu từ trong kinh điển danh tuy do sắc, mà sắc kinh ấy vốn là sự nhóm họp của kinh giáo, do đó từ Kinh điển cũng nói nghe danh, đây là tự mình thực hành ban đầu theo danh ngôn. Thể ở sau, Danh là năng thuyên, như ngón tay chỉ mặt trăng. Thể là sở thuyên, như mặt trăng bị chỉ. Nếu quên đi ý ấy, chấp ngón tay là mặt trăng, thì chẳng những quên trăng mà cũng quên ngón tay. Nếu được ý ấy thì quên danh được thể, chẳng những biết được thể mà cũng chẳng quên danh. Nay nói về "đắc ý" cho nên nói cho nghe danh, sau biết pháp thể.
Tông xếp vào thứ ba, Tông tức là hành, hành có thể tiến lên từ nhân đến quả, nếu không biết thể thì không thành hành, thuyết này còn có thể hiểu như ba giáo ở trước, biết lý trong chân, duyên lý tu quán, cũng được gọi là hiển thể kế mới là hành. Nay nói viên tông toàn tánh khởi tu, nếu không hiểu tánh thì lấy gì để tu. Tánh là bản giác, tu là thỉ giác, cho nên không thể suy nghĩ bàn luận, bàn cảnh tức là quán, quán hành này mới là Viên Tông. Cho nên biết thể hiển kế mới hành, văn rộng nghĩa khẩn thiết, phải khéo hiểu đó.
"Dụng xếp vào thứ tư": Vì Tông thành cho nên có lực dụng. Nói Tông thành là hiển thể xong. Toàn thể khởi Tông, tông lại hiển thể.
Toàn gương phát ra ánh sáng, ánh sáng lại hiển bày gương, gương đã hiển bày thì muôn hình hiện ra không sót, cho nên Tông thành có công năng làm lợi ích khắp chúng sinh.
"Giáo ở sau cùng": Dụng có công năng làm lợi ích chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh mới để tâm lập giáo, do đó giáo phải xếp vào thứ năm sau nghe danh... Nhưng danh và giáo đều là lý năng thuyên. Do y theo tự tha (mình, người) mà có hai chương; mình thực hành mới được theo danh mà đặt chương, giáo hóa người khác mới cho theo giáo mà đặt chương, có đầu có cuối,... tức là hai đầu cuối. Từ tên được thể, Tông thành phát dụng, tự hành đầu cuối. Thiết giáo lợi ích người, người cũng tìm danh cho đến phát dụng, vẫn thành đầu cuối; Vì thế biết năm chương có hai đầu cuối. Văn nêu hai đầu, hình xuất ra hai cuối.
2) Phân biệt: có hai:
a) Phân khoa. Có ba:
Bắt đầu hỏi: y theo rất lược, rất rộng để làm đầu mối thưa hỏi, trong chỗ dẫn đã trả lời.
a.1) Đáp chung: Nếu danh số rộng lớn đã khó ghi nhớ giữ gìn, người tu quán trí nhìn bờ bến mà lùi sụt. Nếu chương đoạn tóm tắt sơ lược, là nói lên nghĩa không đầy đủ, thì học lời dạy của bậc Thánh hiền không thể sinh hiểu biết, do đó lập ra năm chương, nếu rộng lớn vừa chừng thì giúp hành giả nghĩa quán đều thành, đối với nghĩa đế bậc nhất dễ hiểu rõ.
a.2) Kết thúc bằng cách chỉ dạy.
b) Phân biệt: có hai-Chánh phân biệt: Có hai
19. Nói về sáu cặp:
-Nói về sáu thứ: tức là sáu cặp: chung riêng, lý sự, nhân quả, giáo hạnh, tự tha, nói nín, chia làm năm chương.
a. Chung riêng: một chương trước tức là giải thích tên gọi, chung ba chữ Kim Quang Minh làm danh-năng-thuyên. Ba chương kế là Thể, Tông và Dụng. "Chia ba chữ làm riêng": Do Kim thích hợp với Thể, Quang thích hợp với Tông, Minh thích hợp với Dụng, nên gọi là "Riêng". Một chương sau tức là giáo tướng, "gồm cả chung riêng": Chính là phân biệt tướng giáo vị của bốn chương chung riêng.
b. Lý Sự: Thể là Lý của bốn chương đã nói. Bốn chương là Sự của Thể đã sinh khởi.
c. Nhân quả: Ba chương trước là nhân, hai chương sau là quả, y theo dưới đây nói Tông chắc chắn ở trong quả, hợp lại để nói thì hai chương trước là nhân, ba chương sau là quả, sợ văn sai lầm, nhưng thể chẳng phải nhân quả, mà là lý do nhân quả hiển bày nhờ danh được thể, vẫn là tin hiểu trong nhân hiển lý, chưa phải lý do Tông thành quả hiển, do đó xếp vào nhân.
d. Giáo hạnh: Bốn chương trước đều là hạnh, đối với sau lập giáo cho nên bốn chương trước đều là hạnh. Vì sao? Vì danh là hạnh pháp, thể là hành bổn, Tông là hành quả, dụng là hành đức.
Tự tha: Lại vì năm chương đều gọi là hạnh, mà xếp bốn chương trước vào hạnh tự lợi; dụng thuộc về tự lợi tự tại ứng dụng duyên nhân hiển bày, nên vẫn thuộc tự lợi. Chỉ một chương sau lập giáo mới thuộc về lợi tha, nên gọi hạnh, vì hai lợi đều làm. g. Nói nín: Vì từ bốn chương đã phải tự hành đều phải quên lời, do đó đều thuộc về nín. Một chương sau vì giáo hóa người, ứng cơ, lập giáo, cho nên phải nói, đồng thời nói Thánh là lìa kiến chấp nói nín, là pháp của bậc Thánh.
- So sánh các nghĩa khác: ngoài sáu cặp đó, các nghĩa còn lại như: giải hành, tu chứng, phược thoát, thể dụng, cảm ứng... đều có công năng phân biệt tướng của năm chương, vì để khỏi rườm rà nên lược bỏ.
- Y theo dụ để nói: Có hai.
20. Nói về thí dụ để làm rõ:
- Lập dụ: Hiển, tức là chỉ bày. Trung đương tức là năm chương. Rõ ràng bao gồm là đức của pháp dụ. Bao gồm như trong đãy có vật báu. Rõ ràng như chỉ cho người thấy. Vì thế Đại Luận chép: Giải thích Kinh Phật như trong đãy có vật báu, buộc miệng đãy thì người không biết, phải mở đãy Kinh Phật, giải thích đạo lý. Ở đây cũng vậy, dùng ví dụ này nói về sáu cặp, cho nên nói đều là phân biệt ví dụ.
- Hợp sáu thứ: Tổng tổng đối với biệt biệt, biệt đối với tổng, đối chiếu với thí dụ rất dễ hiểu. Lý đủ bốn chương như đãy có vật báu, toàn lý lập bốn như đem chỉ cho người. Nhân đủ quả đức như đãy có vật báu, từ nhân hiển bày quả như chỉ cho người thấy. Hành uẩn ở trong giáo như đãy có vật báu, giáo thuyên đối với hành như chỉ cho người thấy. Pháp làm lợi ích cho người tự mình phải tu như đãy có vật báu, lại tự tu để lợi ích người, như đem chỉ cho người, im lặng chứng như đãy có vật báu, nếu chứng mà nói thì như chỉ cho người thấy, không chỉ sáu cặp mà rất nhiều nghĩa (hạnh giải, tu chứng v.v...) đều có thể ví dụ.
21. Giải thích riêng:
-Giải thích riêng: Mỗi thí dụ trên đều chung cho năm chương, vì thế nói là giải thích chung. Ở đây thì năm chương, giải thích từng chương một; Như khi giải thích tên gọi không nói bốn chương khác. Giải thích bốn chương khác cũng vậy, do đó sẽ giải thích riêng. Đại khái chia làm năm.
a) Giải thích tên gọi: Danh là một phần được xếp vào danh ngôn. Nay chỉ bày toàn phần lấy đề làm danh. Phần này tự có hai. Ngay hai danh chung riêng; Một chữ Kinh tức là tên chung, chỉ chung các bộ. Ba chữ Kim... tức là tên riêng, chỉ riêng đề kinh này. Nay các nhà giải thích đề mục các kinh, chỉ chia ra hai tên gọi chung và riêng, không nói kinh là năng thuyên, ngoài ra là sở thuyên. Theo Sơn giáo thì gần với hiểu biết.
b) Giải thích tên riêng: Có hai.
b.1) Quyết định ba, năm, rõ ràng, sơ lược đều không ngại. Vì bốn quyển này do ngài Đàm Vô Sấm dịch, chỉ nêu ba chữ Kim Quang Minh làm tên riêng, không có hai chữ Đế Vương. Nếu dùng Đề của bộ bảy quyển, do Chân-đế dịch thì ở sau Kim Quang Minh có hai chữ Đế Vương. Trong đề của bản này tuy không nói Đế Vương, nhưng trong Văn kinh có nghĩa Kinh Vương, vì thế người giải thích đề đối với hai chữ ấy, nói hay không nói hai đường đều không ngại. Lại theo Đại sư nhiều lần giảng nói kinh này thì khi giải thích đề, danh từ đế vương có hay không là để thích hợp với thời thế, do đó khiến cho bản văn sâu kín này có rộng, có lược.
Nói về văn nghĩa trước sau mà giải thích: Có hai b.2.1) Dựa vào văn trước để giải thích ba chữ: Có hai:
-Nói về Giáo nghĩa giải thích: Nghĩa là Giáo giải thích nghĩa lý.
22. Giải thích theo quán hạnh:
- Y theo quán hạnh để giải thích: nghĩa là tu quán thành hạnh; đây là giáo hạnh đều nói, nghĩa quán đều nêu. Muốn giúp người công phu giải và hạnh đều thành. Nêu bày: Trong năm thứ, hai thứ trước gồm tên chung, ba thứ sau chỉ có tên riêng. Trong ba thứ, một thứ đầu lập theo xưa, hai thứ sau chỉ là nghĩa ngày nay.
Theo trong Văn có sự lý, đương thể riêng ở lý. Chính giải thích: Chia làm năm:
- Chung riêng: có hai.
24. Nói về chung riêng:
Phân biệt bày chung riêng. Có bốn.
Nói rõ về ba chung riêng: Ở đây, vì Đại sư giải thích sâu xa hai tên gọi, không chỉ dùng hai giáo Thông Biệt, mà còn dùng hai hạnh chung riêng và hai Lý chung riêng. Vì thế nói nương giáo nói về hạnh, hạnh có chung riêng, từ hạnh nói về lý, lý có chung riêng, do đó ba chung riêng đều vời lấy hai tên gọi, cho nên các Bộ chỉ có y theo lý để đặt hai tên, tức là Như lai tạng kinh... Tạng chính là lý riêng trong diệu tục, kinh là lý chung.
Có trường hợp chỉ y theo hạnh mà lập hai tên gọi: Tức là kinh Lăng-nghiêm, Tam-muội... Lăng-nghiêm đã khác với Tam-muội của Thiên tiểu, tức là hạnh riêng; kinh là hạnh chung. Có trường hợp chỉ dùng Giáo để đặt hai tên gọi ấy: tức kinh Di Giáo...
25. Dẫn các kinh để làm rõ:
a) Kinh Di Giáo đã khác với các giáo, đó là Biệt giáo, Kinh là Thông giáo. Hoặc lấy Giáo làm tên riêng, hạnh lý làm tên chung, như kinh Duy-ma-cật nói... Nói chính là Giáo sở thuyết, kinh là lý hạnh; hoặc dùng lý làm tên riêng, Giáo làm tên chung, như kinh Bảo Khiếp... tướng Thật như vật báu, kinh này như cái tráp. Giáo chứa đựng lý, huống chi trong các bộ lấy lý làm kinh, loại ấy chẳng phải ít. Bộ này nói: Chư Phật trong mười phương thường nhớ nghĩ là kinh. Kinh Hoa Nghiêm chép: Đập vỡ một hạt bụi lấy ra quyển kinh lớn.
b) Kinh Pháp Hoa chép: Tạng kinh Pháp Hoa này xa thẳm, không người đến được. Lại nói: được chư Phật nhớ nghĩ sinh các nguồn đức, vào các chánh định, phát tâm cứu tất cả chúng sinh, thành tựu bốn pháp mới gọi là kinh. Sớ chép: Bốn câu là khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật, tri kiến là kinh không phải lý mầu hay sao? Lấy hạnh làm kinh, như kinh Tiểu Di-đà chép: Chư Phật le ra chiếc lưỡi rộng dài nói lời thành thật, chúng sinh các người nên kính tin, kinh Xưng Tán Bất Khả Tư Nghị Công Đức Nhất Thiết Chư Phật Chi Sở Hộ Niệm này, đã chỉ công đức là chỗ hộ niệm, không phải hạnh hay sao? Đức Phật tự nêu lên hỏi: Thế nào gọi là Kinh chư Phật sở hộ niệm? Đức Phật tự giải thích rằng, nếu thiện nam, tín nữ nghe kinh ấy mà thọ trì và nghe danh hiệu Phật, thì người đó được Đức Phật hộ niệm, không còn lui sụt đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lấy từ kinh Hộ niệm để hỏi, lấy người có thể tu hành để trả lời, không phải lấy hạnh làm kinh hay sao?
c) Kinh Đại Di-đà: Lại, trong Kinh Đại Di đà Đức Phật kia nói hạnh, đều nói thuyết kinh, cho nên biết hạnh lý là kinh có rất nhiều chỗ nói, không thể chỉ lấy Giáo gọi là kinh. Thông kinh đã đầy đủ ba thứ Giáo, hạnh, lý; tên riêng đủ cả ba, rõ ràng rất dễ hiểu.
Phân biệt hai thứ dụng, giáo, ba chung ba riêng: Là của người giải thích đề này. Các Bộ đã theo cho nên đặt hai thứ ấy, hơn nữa y theo giáo để nói tướng chung riêng, chỉ có giải thích này được các nhà giải thích khác chọn. Vì sao? Vì các sư chỉ lấy chữ kinh làm lý năng thuyên, các chữ còn lại là lý sở thuyên, đâu biết hai tên gọi đều ở trong giáo.
Nói công năng của giáo: Hai giáo Thông Biệt nương nhau mà lập, vì có công năng giải thích lý.
25. Hỏi đáp về có danh không danh:
Hỏi: Đây nói lý không danh tự, danh tự gọi là lý, và Chương Đương Thể chép: Chân-đế có danh, tục đế không danh, tự nhiên nói trái nhau như thế, làm sao hiểu được?
Đáp: Kia phân biệt chân tục, ở đây nói lý giáo, kia lấy Viên giáo sở thuyên làm chân, và lấy sự hiểu biết của người phàm làm tục, Chân vốn đầy đủ rốt ráo danh nghĩa, do đó nói có danh; tục không có nghĩa chân thật vì thế nói không có danh. Giáo lý này đều sẽ nói đầy đủ. Lý không danh tự, là nói lên vốn vắng lặng lìa tướng danh tự. Danh tự gọi là lý: Chẳng phải nói phàm tục chấp tướng danh tự, mà là viên giáo xứng với thật danh, do lý đủ đức có thể ứng với các danh, cho nên mỗi danh đều là danh lý. Lấy dụ hư không không dài không ngắn, có thể ứng với số dài ngắn, do đó mỗi trượng và mỗi thước đều là hư không. Chương Đương Thể chép: Chân-đế có danh, thì đã nói đầy đủ; không chắc chắn có, có danh chính là không danh.
Vì thế, có danh của kia và vô danh ở đây tất cả nghĩa ấy so sánh thì đồng nhau. Luận Khởi Tín chép: Nghĩa chân như, trước nói lìa ngôn ngữ, sau nói nương ngôn ngữ, tuy chia ra hai nghĩa, nhưng chỉ có một "Chân Như". Vì thế ngài Kinh Khê nói: Tánh vốn không tên gọi, mà đầy đủ các tên gọi. Phải biết văn này và chương
Đương Thể đại khái không nhầm lẫn. Lại dẫn Bát-nhã, nghĩa Tổng trì tuy không văn tự mà nói là tổng trì, nếu không đầy đủ danh nghĩa chân thật thì đâu gọi là Tổng trì, hiểu sâu sắc thì nghĩa có, không, chẳng trái nhau.
26. Nói về giáo Thông. Biệt: Nói giáo Chung, riêng: Tuy trên đã nói công năng của Giáo, nhưng chưa nói về thể của chung, riêng. Nay lấy Văn tự làm thể Thông giáo, mới có thể lấy lý do làm thể biệt Giáo. Vì sao? Vì nói thiện nói ác, chỉ bày thiên, chỉ bày viên, đều dùng văn tự, Giáo ấy là thông, vì lẽ đó, có thể giải thích ý thú. Văn tự tùy theo ý thú mà chuyển đổi, ý thú khác nhau vì thế Giáo thành riêng khác. Phải biết toàn Thông là Biệt, lại dùng văn tự để nói. Vì sao? Vì biệt không lìa thông, vì ý thú kia dùng văn tự. Nay Chung, riêng đều ở trong Giáo, vì thế cả hai đều có thể nói.
Đề kinh chung riêng. Có hai.
Khắp chỉ bày các bộ. Có hai.
27. Dùng chung, riêng để giải thích đề:
Dùng chung riêng giải thích đề. Có hai.
Về chung: Thánh giáo gồm nhiếp tất cả thanh giáo một đời của Phật đều là văn tự. Từ kinh đến lời đều nói "một" là nêu lên một; tức là trong các kinh nêu lên một kinh, cho đến trong các lời nêu lên ý vị một lời, xếp thì hẹp mà tự rộng, đếm thì trước ít sau nhiều, nghĩa là kinh ít thời nhiều, cho đến câu ít lời nhiều, những thứ này đều là Phật nói, nói phải dùng văn tự, do đó biết văn tự là thể của thông giáo. Văn tự là thông nên gọi chung là kinh.
Về riêng Biệt: Có hai.
Nói về tướng riêng: Tức là lý do có thể hiển bày. Lời Phật nói, ý thú tuy nhiều nhưng bốn Tất-đàn gồm nhiếp tất cả. Tất-đàn Thế giới, khiến cho thế đế không hổn loạn, như Hoa Nghiêm khác với A-hàm, Phương đẳng khác với Bát-nhã khiến cho sanh ưa thích. Vị nhân Tất-đàn, tiện nghi khác nhau, khiến phát khởi điều lành. Đối trị Tất-đàn, dứt bỏ duyên ác, khiến diệt trừ tội lỗi. Đệnhất-nghĩa Tất-đàn, cơ nhập lý khác nhau, khiến được diệu ngộ, nên nói danh tướng các kinh có khác nhau.
Kết bốn Tất-đàn: Nên đối với ngộ phối hợp với bốn rất dễ hiểu. Nếu nói một bộ kinh đều do bốn Tất-đàn, thì ý của bốn này bốn kia đã khác nhau, vì thế các kinh gọi là biệt.
Thí dụ hiển bày chung, riêng thành Giáo: Muối mặn, mơ chua, kiết hợp sợi dọc sợi ngang, đều dụ cho thông của văn tự cho nên khác nhau. Vị ngon, văn hay đều dụ cho danh tướng các kinh khác nhau.
28. Xếp kinh này vào giáo nào:
Về sắp xếp giải thích kinh này: Có hai.
Giải thích những lý do theo Biệt: Nói riêng ý nghĩa bốn Tất-đàn trong kinh này: Có căn cơ thế giới, nghe ba thân là thường thì vui mừng, khen ngợi. Có Vị nhân cơ: nghe khen ngợi ba thân, thì sinh điều lành. Có căn cơ Đối trị: kham tu sám hối, phá ba ác chướng. Có Đệ-nhấtnghĩa cơ: hợp ngộ với lý hành xử của chư Phật, do ý riêng này nên nói kinh này. Bộ tuy là bốn tất đàn nhưng đều từ pháp môn Kim Quang Minh được lợi ích, vì thế nêu ba chữ để nói về "Giáo Biệt".
"Từ lời nói chung...": bốn Tất đàn tuy khác với các kinh, nhưng mỗi tất đàn đều cần văn tự. Thể văn tự là ở khắp các kinh, cho nên nêu chữ kinh để nói lên "Giáo thông".
Kết lại: Trong hai nhà phiên dịch, đề mục ở đây tuy là bản của ngài Đàm Vô Sấm, nhưng tên đề Kinh Kim Quang Minh do ngài Chân-đế dịch rất xác thật, do đó Sư quyết định dùng chung Hoa Phạm. Vì thế trong văn trước bàn luận đề kinh kỹ càng hay tóm lược, hai chữ "Đế Vương" hoặc nói hoặc không nói đều không ngại gì.
29. Dùng thí dụ giải thích:
Thí dụ giải thích: Nếu y theo Văn phụ giải thích trong quyển bốn chép: Nói nghĩa thí dụ, suy lời Phật xa gần, đúng sai. Suy nghiệm biết văn phụ và đương thể giải thích là chánh ý ở đây. Thuận theo ví dụ giải thích Văn tuy rộng, vì thấy các bậc Thầy xưa tuy dùng thí dụ giải thích, nhưng pháp dụ không khắp, phiên dịch nghĩa sở thuyên của kinh này. Do đây Đại sư dùng thí dụ giống như vị khác cả pháp môn viên dung, pháp môn này tuy từ Dụ hiển bày, nhưng là chỉ bày trước đương thể giải thích trong pháp Kim Quang Minh, chỉ khác tên gọi mà thôi. Vì pháp tánh có vô lượng đức, có vô lượng danh, tên là Kim Quang Minh, cũng gọi là pháp thân, Bát-nhã, giải thoát, cũng gọi là Pháp thân, Báo thân, Ứng thân, cũng gọi là Chánh duyên Liễu, cho đến tên Khổ, Hoặc, Nghiệp, một nhiếp tất cả, tất cả vào một, đã y theo thí dụ để nói về nghĩa này rồi, cho đến trong đương thể, chỉ định ba chữ, chẳng phải thí dụ là pháp, pháp thì dung nhiếp cùng khắp, thì đối với tất cả không hai không khác. Nhưng nếu biết được pháp Kim Quang Minh, là một thứ danh (tên) trong các thứ ba pháp này, thì hiểu ý chỉ lập đề của kinh này. Ở đây tự có hai.
30. Sự giải thích của các sư xưa:
Các sư xưa giải thích: Có ba.
1) Số Sư: Có hai.
Bình xét: Các kinh sư xưa: Tức là các vị xưa nay giảng kinh này, vốn giảng nói số luận gồm cả giảng kinh này, dùng thí dụ giải thích đề kinh đối với ba đức, hai phá. Ngài Chương An ghi chép nghĩa của ngài "Trí giả", cho nên nói như Đại sư nói, có khi cũng nói sư Thiên Thai nói. Trước phá những gì trái Tông: Luận này chỉ lập hai thân, vì sao giải thích kinh lại dùng ba đức. Nếu chia ba thân giải thích ba đức, thì Tông mình sẽ mất, cho nên nói đối với luận không tiện. Kế là phá những gì trái với kinh: Nếu nói Luận này, tuy chỉ có hai thân, nhưng vì thuận theo văn kinh nên phải dùng ba đức, văn kinh chỗ nào nói rõ ba đức? Nếu nói kinh tuy không văn nhưng tìm nghĩa hợp có thì chỗ nào không thông, hợp đủ tất cả ba pháp đâu phải chỉ riêng ba đức hay sao? Đã trái với Luận này lại trái với kinh này, cho nên không theo.
2) Địa nhân: Có hai.
Địa nhân vốn mở rộng kinh Hoa Nghiêm, luận Thập Địa, và giảng kinh này. các Sư này giải thích đề rút gọn ba thành hai. Trên chất Kim có Quang có Minh, nhưng xét theo Thể kim thì đồng gọi là dụng, lại chắc chắn dụng này không từ ngoài đến, nên nói: là tự có. Vì như Giải thoát, Bát-nhã tuy là hai đức, nhưng coi Pháp thân đồng gọi là dụng, hai đức này không nhờ tu mà thành, cho nên nói tự có. Ở đây Sư chỉ dùng hai nghĩa thể dụng để giải thích ba chữ này.
3) Phá: Luận nói ba Phật, luận giải thích kinh xưa có ba Phật:
a) Tỳ-lô-giá-na là pháp thân;
b) Lô-xá-na là Báo thân;
c) Thích-ca Mâu-ni là Ứng thân chính là hợp với nghĩa pháp thân, ứng thân, hóa thân của kinh này. Nếu dùng ba thân và ba chữ sở của đề kinh này thì đối với nghĩa kinh Luận không trái nhau, cho nên nói tự thuận tiện; Thế thì bỏ ba thân tự lập thể dụng, riêng trái với luận thuyết của mình.
Hoặc nói: Luận này tuy nói ba Phật là thuận theo kinh này nên nói thể dụng, bản dịch mới của kinh này, rõ ràng dùng ba thân để lập phẩm mục. Trong phẩm, ba thân sáng rực đáng nêu. Như bản nay, bản xưa tuy lược bỏ phẩm này nhưng danh nghĩa ba thân trong kinh rất nhiều, như phẩm Tứ Vương chép: pháp thân Chân thật của Phật giống như hư không, ứng vật hiện hình như trăng đáy nước, trăng nước đã ứng, chẳng lẽ giữa hư không chẳng có trăng ư? Trăng, hư không tức là báo thân. Tự nhiên khéo phân biệt cho nên dùng hai hiển bày ba. Lại như trong bài tựa riêng, Như lai sống trong vô lượng pháp tánh sâu xa, Thích-ca Như lai chính là Ứng thân, sống trong là trí mầu Báo thân, pháp tánh sâu xa là pháp thân. Lại phẩm sám hối chép: Dùng dùi đánh trống phát ra âm thanh lớn. Trống tức là pháp thân, dùi đánh tức là báo thân, phát ra tiếng là ứng thân. Do đó biết danh nghĩa ba thân không ít, đâu phải chỉ có một chỗ nói thể dụng. Tiến thì không hiểu kinh, lùi thì trái với luận thuyết của mình, vì thế cũng phân biệt.
Chính Ngài Chân-đế dịch ra kinh này, tên là kinh Kim Quang Minh Đế Vương, lại tự tóm tắt thí dụ giải thích đề mục. Văn có hai.
1. Giải thích: Trình bày. Có ba.
1) Nêu lên: Trong các sư ngài Chân-đế có hơn đôi chút, có thể dùng một thí dụ để dụ cho ba pháp môn, ba pháp mỗi pháp đều có ba. 2) Giải thích: ba pháp.
a) Giải thích ba thân: Ba thân trong kinh này cũng là Pháp thân, Báo thân và Ứng thân, hai và ba tuy tên gọi khác nhau nhưng nghĩa thì đồng. Thân thứ hai là Ứng thân, đây là trí mầu tương ứng với pháp, cùng nghĩa với báo thân; thân thứ ba là Hóa thân ứng theo căn cơ mà giáo hóa, đồng nghĩa với ứng thân.
b) Giải thích ba đức: Kim có bốn nghĩa, dụ cho Pháp thân có đủ bốn đức, mỗi pháp dụ cho tương của nói rõ ràng. Quang và Minh mỗi thứ đều có hai nghĩa, dụ cho Bát-nhã và giải thoát, mỗi thứ đều có hai đức. Quang là xua tan tối tăm, Minh là không tối tăm, nghĩa có gì khác nhau? Quang có công năng xua tan tối tăm nên gọi là "trừ", tối tăm không còn sinh, nên gọi là "không", chính là dùng trừ tối dụ cho Bát-nhã dứt hoặc, không tối dụ cho giải thoát, các khổ lụy hết sạch. Việc này tuy Sư không nói nhưng ba đức đầy đủ lẫn nhau, lấy Dụ đối pháp, đều có lý do.
c) Giải thích ba vị: Lại dùng ba chữ dụ cho Chánh duyên liễu, là dùng Ba tánh đối với ba vị, văn nghĩa cũng rõ ràng.
3) Chọn lựa: Phân biệt ba thân: Pháp thân là tánh cho nên thuộc về thật, hai thân kia do tu tập mà thành nên không thật. Phân biệt ba đức: Pháp thân là thể chung nên có bốn đức, hai thân là tướng riêng, cho nên mỗi thân đều có hai đức.
Phân biệt ba vị: Chánh nhân là ở tánh cho nên vốn có, liễu nhân ở tu chứng cho nên hiện có, duyên nhân ở quả cho nên sẽ có.
Bác bỏ: Vì Chân-đế giải thích nghĩa khác với các Sư, lời nói quá lạm so với ở đây mức, lo cho người học sau không thấy lỗi mình, chấp trái là phải. Lại, muốn dùng nghĩa không dung thông ấy để nói lên sự luận bàn tròn mầu ở đây, cho nên bác bỏ.
Văn: tương đối rộng, có hai phần:
Một là bác bỏ chung: Kia dùng ba thứ ba pháp để giải thích đề mục này cho nên nói ba ba. Đại sư xét định ba nghĩa bất liễu: 1. Nghĩa nhân quả; 2. Nghĩa viên biệt; 3. Nghĩa ba pháp tánh. Đã không thông suốt, lại trái ngược không xứng, nên nói bất liễu.
Hai là bác bỏ riêng: Có ba.
1. Nêu ba sai lầm.
2. Giải thích ba sai lầm. Có ba.
3. Hỏi đáp về ba nhân, ba đức: Không thông hiểu Nhân quả:
Hỏi: Ngài Chân-đế chỉ dùng ba nhân chia ra đối với ba vị, vì sao lại bác bỏ nói rằng, phân chia sắp xếp ba đức thiếu sót không đủ.
Đáp: Tất cả ba pháp chỉ có một ba pháp, vì đầy đủ các đức nên có nhiều tên gọi; thường lạc, ngã, tịnh do đó gọi là ba đức; đáng tôn đáng trọng nên gọi là ba ngôi báu; bất sinh bất diệt nên gọi là ba Niết-bàn, các pháp nhóm họp nên gọi ba thân; là hạt giống Như lai nên gọi ba nhân, ngay nơi sự hiểu lý cho nên gọi là ba đạo, pháp môn kia Thể vốn không riêng khác, nên chia ra ba nhân, tức là phân ra ba thân, ba đức. Hai tiết chú thích... Nay y theo Đại Kinh nói tướng Ba đức tồn tại lẫn nhau. Với Pháp thân thì nói, chính là pháp thân, chẳng phải pháp thân; pháp thân chắc chắn đầy đủ Bát-nhã, Giải thoát. Với Bát-nhã thì nói, chính là Bát nhã, chẳng phải Bátnhã; Bát-nhã chắc chắn đầy đủ Giải thoát, pháp thân. Xét rằng Giải thoát hợp với Chú thích... so sánh với ở trên cho nên lược bỏ. Vì là giải thoát chẳng phải giải thoát, giải thoát chắc chắn đầy đủ Pháp thân, Bát-nhã. Kia đã phân chia đặt ra chính là khiến cho ba vị mỗi vị chỉ một đức, thì nhân không bao gồm quả, quả không bao gồm nhân, nên nói là không hiểu.
Trước nêu sau bác bỏ:
Trái với Viên, Biệt: Trước là nêu tướng bốn đức của Viên biệt, sau mới bác bỏ lỗi trái ngược. "Viên bốn đức":
Pháp thân chính là ba đức trong tánh, pháp thân là Thường, Ngã, vì là Bát-nhã cho nên Tịnh; Giải thoát cho nên Lạc, bốn đức này ở trong tánh nên chỉ gọi pháp thân. Toàn tánh phát tu chắc chắn thành ba trí, trí thầm khế hợp với tánh và cũng giống như tánh có đủ bốn đức. Theo nghĩa soi sáng chỉ gọi Bát-nhã, trí hợp với tánh cho nên giải thoát ứng với căn cơ, đã toàn tánh khởi thì chắc chắn thành ba giải thoát, cho nên đồng với tánh có đủ bốn đức. Theo nghĩa khởi dụng chỉ gọi giải thoát, Bátnhã khế hợp với tánh, giống như tánh có đủ bốn. Tướng ấy dễ biết cho nên không trình bày riêng.
Giải thoát ứng theo căn cơ khởi thành dụng bên ngoài, giống như tánh có đức, tướng kia khó hiểu, vì thế nay nêu riêng. Quả tức là hai tử, thoát được khổ này gọi là đức Lạc. Nhân tức là năm trụ, thoát khỏi nhiễm này gọi là Đức Tịnh. Không bao giờ còn hai tánh trói buộc liền được tự tại, nên gọi là ngã đức. Nhân hoặc quả chết là pháp sinh diệt, xưa nay giải thoát chẳng do nhân quả này, nên gọi là đức Thường. Tuy là lìa trói buộc nói bốn đức này, nhưng trói buộc vốn không, nên bốn đức hoàn toàn giống với tánh. Phân biệt bốn đức, nói theo ba thân thì pháp thân đầy đủ hai đức, Thường tức là đức Thường, Thật: tức là ngã, pháp chắc thật, mới có nghĩa chủ tể và tự tại, đó là chân ngã đức... Ứng thân có trí tuệ chiếu phá các hoặc nhiễm nên có Đức Tịnh; Hóa thân Tam-muội tức là Thủ-lăng-nghiêm, hiện đủ các sắc thân trừ khổ ban vui gọi là Đức Lạc. "Biệt" là giáo đạo cho nên dùng ba thân đối với bốn đức.
Ở đây nói Viên, Biệt mỗi giáo có bốn đức, do hai Giáo này, nên thường không khác với bộ, nghe nói ba thân có có đủ bốn đức, là ý sai lầm vậy. Chia cách ra mà hiểu thì tức là Biệt giáo hiểu được ý kia là hiểu có đủ lẫn nhau gọi là Viên giáo. Biết mỗi thân đều tức là ba thân, vì thế mỗi thân đều có bốn đức. Nếu ba thân không chứa bốn đức thì đó là "Biệt", do đó khéo nói Biệt giáo tức gồm có bốn đức. Khéo nói Viên giáo tức là mỗi giáo có bốn đức. Dung thông Biệt tức là Viên, chia Viên tức là Biệt. Nói về hai giáo tức là bác bỏ sự trái nghịch, điều mà ba tạng nói gồm bốn không thành cho nên "trái với biệt", mỗi giáo đều có bốn không thành cho nên "trái Viên".
Nói về tánh và tu:
Không xứng với pháp tánh: ba pháp vốn không thay đổi gọi là Tánh, tất cả ba pháp đều có hai thuộc tu. Một là ở tánh, hai tu nghịch và thuận đều ở trong tánh. Một tánh toàn ở hai tu mê ngộ, do đó khiến cho ba pháp theo chiều ngang thì bao gồm sắc, tâm, y, chánh trong mười pháp giới, theo chiều dọc thì suốt tận ba vị, nhân quả mê ngộ. Vì thế Kinh xứng hợp với pháp tánh sâu xa vô lượng, Nếu vị kia xứng với pháp tánh này, thì đối với ba vị, mỗi vị có ba, mỗi vị phải có đủ ngôn cú, chính là bác bỏ kia. Phần này tự chia làm bốn:
a. Một là dẫn Kinh Tịnh Danh bác bỏ Đạo Tiền: Theo ba văn này, xét biết đạo tiền không có một pháp riêng, nhưng phải hiểu rõ, Bồ-đề là đức trí, đến quả chí cực mới chứng được, Niết-bàn là đức đoạn, đến quả chí cực mới dứt hết "hoặc lậu". Kinh có nói: Không thể đắc nữa, không thể diệt nữa. Là trong tánh này đã có quả đức, chẳng lẽ không phải đạo tiền có Kim Quang Minh? Kia nói: một Kim làm sao xứng với pháp Tánh.
b. Hai là Dẫn kinh Hoa Nghiêm bác bỏ Đạo Trung: "Người mới phát tâm là Phát tâm trụ. Liền thành Chánh giác, có khả năng hiện tám tướng. Đây là vị thứ nhất trong vị Thập trụ của Viên giáo, trụ trong viên tu trước lên trụ Viên phát, phát ở tánh có ba, tức là tuệ thân,... ba thân, ba đức, tất cả ba pháp, dùng một, ba để phá vị Đạo trung do Chân-đế lập, chỉ một liễu nhân, sau sơ trụ cho đến Đẳng giác, đều gọi là đạo trung, mỗi vị có ba pháp dẫn dần lớn lên như trăng; dần đầy Viên thuyết Hoa nghiêm của xứng với pháp tánh vô lượng sâu xa, chứng thì đều chứng, xét kia phân cắt thật là không xứng.
c. Ba là chỉ cho nghĩa trước bác bỏ đạo hậu: Có đủ ba thứ như trên đã nói: trước phá nhân quả không hiểu. Văn chép: ba thân ba đức vốn là tên gọi tròn đầy về mặt quả, mà nay phân chia sắp đặt ba đức thiếu sót không đủ. Lại chép: Đạo hậu các điều lành ít nhóm tụ làm sao được giải thoát riêng, nghĩa kia tự hoại cho nên không dẫn kinh riêng.
d. Bốn là Y theo Viên bác bỏ chung: Theo kinh đã dẫn ở trước thì mỗi vị đều tròn đầy, chẳng lẽ đều là một sao? Ba y theo dụ mà bác bỏ. Kinh nói pháp tánh xứng với vô lượng sâu xa, nếu Kim Quang Minh ngang khắp dọc bày thì chẳng có đức nào không đủ, chẳng có vị nào không thông, kia giống như oai linh của phụng, thần lạ của Rồng, sự giải thích của ngài Chân-đế thì đức đã không đủ vị cũng không thông, như gấp rút trong tổ tu hú, hoặc quay trở lại hang thỏ, chẳng lẽ không xấu hổ khi người có văn chương đạo đức bị đem vùi chôn trong vây cánh của Vũ Môn, đều không có sức mạnh của tráng sĩ hay sao? Ba câu trên đều là dụ, một câu sau hợp với pháp, cho nên nói chẳng phải nói tròn đủ về pháp tánh.
Sự giải thích của các Sư nay: Sư Hiện nay giải thích: Có sáu.
Nêu nay khác xưa: Các sư đều có chỗ đồng, chỗ khác nên đều nói rằng nghĩa thì không đúng.
a. Y theo kinh bác bỏ, nếu nói về vô lượng, không ít đối với sư, vì theo pháp tánh cho nên càng thêm thù thắng nói rằng: Lý chẳng có gì không thống nhiếp. Trung Đạo Kinh Vương đâu khác với lý. Nay lại theo sự vì thế nói chỗ nào mà không thu nhiếp, ở đây giống như chiều ngang của pháp giới, dọc của ba đế, không phân mà phân, đâu chỉ ba lần ba là chín pháp mà chỉ bác bỏ ngài Chân-đế.
b. Xứng pháp giải thích đề: Kinh nói: ý vô lượng hiển bày theo chiều ngang thì bao gồm, lại nói ý sâu xa nêu rõ theo chiều dọc thì thông suốt. Nay dùng ba chữ dụ khắp ngang dọc tất cả pháp môn, mới xứng với ý "Kinh" và không trái nghĩa "Vương".
c. Bỏ rộng lớn theo chính yếu: Dựa vào Kim Quang Minh đã dụ pháp môn rộng lớn không bờ mé, danh tướng của giáo nào mà không thâu nhiếp hết, đã sâu lại rộng, tâm vừa nghĩ đến nó thì lời nói và suy nghĩ không theo kịp, vì thế lấy mười điểm chính yếu trong tất cả làm cửa đầu tiên ngộ nhập cho hành giả, nếu vào cửa này thì pháp nào mà không thấy biết.
Sắp xếp chương: g. Chính giải thích: Có ba. g1. Nêu mười số Có hai. g1a. Chính là nêu danh số. g1b. Nói về lược công năng: Có hai g1b1. Ước về nghịch thuận sinh khởi nói về mười pháp, bao gồm đầu, cuối, có hai: g1b1a. Gạn lại. g1b1b. Giải thích: Có ba: g1b1ba. Lược chỉ bày: Bỏ vô lượng lấy mười thứ: vì mười thứ này bao gồm nghịch thuận và bao gồm cả đầu cuối, nhưng hai lần kia đều thành thứ lớp so sánh. g1b1bb. Chính sinh khởi: Có hai g1b1bb1. Nói về lập giáo nghịch suy, lý hiển bày do sự. g1b1bb2. Nói về lập hạnh thuận tu thì vọng trở về
Chân, hai thứ sinh khởi là:
- Từ gốc pháp tánh vô trụ, lập tất cả giáo pháp.
- Từ gốc vô minh vô trụ lập tất cả hành pháp.
Hỏi đáp về pháp tánh:
Hỏi: Pháp tánh vô trụ lập nên giáo pháp, nương vào văn nào mà nói?
Đáp: Văn của chương Đương thể này, nói các bậc Thánh nương vào Chân để đặt tên, và dẫn kinh Tịnh danh nói rằng, từ gốc Vô trụ lập tất cả pháp, đã dẫn chứng minh này nương vào chân đặt tên, chẳng lẽ không phải từ pháp tánh Vô trụ mà lập tất cả các giáo hay sao? Nhưng nếu có nói từ gốc Vô trụ lập tất cả pháp, thì không ngoài bốn lớp, như ngài Diệu Lạc nói: Lý thì tánh đức duyên liễu, Sự thì tu đức ba nhân, mê thì trôi lăn ba đường, ngộ thì trong quả thắng dụng. Bốn lớp như vậy đều do mê trong tướng thật mà lập. Nay lần thứ nhất là thắng dụng trong quả thứ tư kia, lần cuối cùng này là tu đức ba nhân của quả thứ hai kia.
Hỏi đáp trong mê làm sao lập ra giáo pháp:
Hỏi: Sinh khởi lần đầu, bắt đầu từ bí tạng cuối cùng đến ba đường hợp nhau, vì mê nên trôi lăn trong ba đường lấy gì chống lại thắng dụng trong quả để lập ra giáo pháp?
Đáp: Ở đây nói: Bí mật được hiển bày từ ba ngôi báu, đâu thể mê lý từ ba ngôi báu và các thứ ba pháp? Cho nên biết phải dựa vào lý khởi giáo giải thích mới đúng mực, huống chi nay hai thứ nghịch thuận sinh khởi, cùng Pháp Hoa Văn Cú giải thích khai, thị, ngộ, nhập. Y theo vị trí môn mà quán bốn nghĩa, sinh khởi nghịch thuận ý đồng, vì thế văn cú kia nói, thấy lý từ vị, vị lập từ trí, trí phát do môn, môn thông do quán, nhờ quán cho nên môn thông, môn thông nên trí thành, trí thành nên vị lập, vị lập nên thấy lý.
Ký Thích chép: Sinh khởi nghịch thuận này, ban đầu nói nguyên nhân từ "năng", sau nói năng hiển bày từ nơi sở. Văn này đầu tiên chẳng lẽ không phải sở từ nơi năng, lần sau chẳng lẽ không phải năng hiển bày từ sở hay sao? Hiểu được ý này mới bỏ văn. Sơ văn, Lý ba đức là chỗ chứng cùng cực của Phật, dứt bặt danh tướng gọi là kho Bí mật. Tạng này được hiển bày cũng do lý giác trí và bất giác hòa hợp, vì thế Như lai thị hiện ba ngôi báu, nhưng ba ngôi báu ấy lập là do đức dứt, do đó nói là ba Niết-bàn.
Giải thích văn:
Niết-bàn được thành lại do trí đức, vì thế nói ba Thân. Thân do Thừa đến cho nên nói là ba Đại thừa.
Thừa do hạnh thông suốt, do đó nói ba Bồ-đề.
Bồ-đề do Trí chiếu, vì thế nói ba Bát-nhã. Bát-nhã do tánh phát sinh, cho nên nói ba Phật tánh.
Tánh chủng bắt nguồn từ hiểu rõ danh nghĩa, do đó nói ba Thức. Thức biết nguồn gốc ba chướng tức lý, vì thế nói ba Đạo.
Tất cả đều do ba đức pháp tánh bí mật, không có tánh chất an trụ vững chắc, cho nên bậc Đại Thánh lấy pháp tánh vô trụ này làm gốc, lập chín danh tướng và tất cả giáo pháp. Sự sinh khởi này là sáu giải thích lập mười pháp. Lập các giáo pháp đến chỗ cùng cực ba đạo. Nay nói về chúng sinh ở trong ba đường, do vô trụ cho nên thành các hành pháp, đến chỗ cuối cùng của ba đức, ba đạo lại lấy vô minh làm đầu, vô minh sáng tỏ cho nên nghiệp khổ đều chuyển, chuyển mê thành hiểu biết, rõ được lời Thánh, cho nên thành ba Thức, hiểu được "thừa chủng" thì gọi là nhân Phật, do đó thành ba Phật tánh. Hạt giống huân tập bản giác cho nên phát sinh trí tuệ gọi là ba Bát-nhã. Trí có công năng hành đạo, thực hành thẳng đến Đạo, thành ba Bồ-đề. Trí hành khế hợp tánh, thảy đều gánh vác, thành ba Đại thừa. Thừa phân biệt Báo trí, trên thầm hợp dưới ứng cơ, liền thành ba thân. Thân lìa hẳn "hoặc" bất sinh bất diệt, gọi là ba Niết-bàn. Đức dứt tự tại, thi ân lợi vật, cho nên hiện ba ngôi báu. Công đức lợi vật thành tựu, tự tha dứt bặt, đồng trở về ba Đức. Lần sinh khởi này lập sau mười thứ quán tâm.
Tổng kiết chỉ bày: g1b1c. Tổng kiết chỉ bày: Tìm xét ngược lại giáo do thuận tu quán hạnh đều thành thứ lớp. g1b2. Y theo vô lượng sâu xa nói mười pháp thảy đều cao rộng. Có ba g1b2a. Khởi bày. g1b2b. Giải thích: Có hai. g1b2b1. Y theo nhiếp khắp mà nói vô lượng. Có ba. g1b2b1a. Nói mỗi thứ có mười pháp: Ba đức pháp giới đã vô biên vô lượng, có pháp môn nào lại không bao gồm. Hơn nữa, theo chỗ quan trọng là có đủ chín thứ, tự thể vốn là thường, lạc, ngã, tịnh, nên gọi là ba đức, đủ năng đủ sở tức là mười pháp, ba đức đã như thế, chín đức kia đầy đủ lẫn nhau có thể dùng ý mà được, cho nên không nói đầy đủ. g1b2b1b. Nói mỗi thứ đều có tất cả, một có chín, có ba: Đã nói theo quan trọng, phải biết mỗi thứ đều có tất cả ba pháp môn. Pháp tánh không ngăn ngại có khả năng ứng với các số, cho nên một pháp môn có khả năng đầy đủ tất cá một số pháp môn, lại đủ tất cả hai số pháp môn, cho đến nhiều như số cát sông Hằng danh số pháp môn, chẳng có pháp môn nào không đầy đủ, nếu hiểu nghĩa pháp tánh vô lượng, thì đối với điều này không bị mê muội, cho nên nói rất dễ hiểu. Dẫn kinh chứng minh kiết luận: g1b2b1c. Dẫn kinh để chứng minh kiết luận: Kinh là kinh Hoa Nghiêm, nêu lên một pháp làm pháp môn đứng đầu, tất cả các thứ khác đều làm quyến thuộc, một pháp đã như vậy, các pháp đều như vậy, mới ở trong một có thể hiểu vô lượng, giải thích như thế mới xứng với nghĩa pháp tánh vô lượng. g1b2b2. Y theo dọc mà nói cùng tận sự sâu xa: Trên là y theo vô lượng, bắt đầu từ một pháp đến hằng sa pháp, chẳng lẽ không cao dọc. Nhưng không y theo nghĩa vị thuộc về chiều ngang, chính là ngang của dọc. Ở đây nói về sâu xa, mỗi pháp môn đều nói về ba vị và sáu tức, tức là pháp ngang kia mỗi pháp đều chỉ bày dọc sâu.
Phân tích văn: Văn có ba.
Trước là nói theo mười pháp. Ba đạo ba thức khi mê thì là pháp, cho nên thuộc về đã có, ba đức ba ngôi báu thì quả sau pháp do đó thuộc về sẽ có. Từ ba Phật pháp đến ba Niết-bàn, bắt đầu từ nhân nhỏ cuối cùng có quả lớn đều là "đạo trung" cho nên thuộc về đang có. Nếu mê mờ nghĩa cao rộng của ba pháp, thấy ở đây phối hợp so sánh, gọi là phần cắt. Phải biết mười thứ ba pháp chỉ là một thứ ba pháp, vì một pháp tánh vô lượng sâu xa có mười đức, đặt ra mười tên, một thứ ba không riêng, mười thứ ba không phân chia. Nếu ba đạo kia ở giai vị đã có thì đã thu nhiếp chín thứ ba pháp khác. Nếu nói ba đức ở giai vị sẽ có thì cũng thuộc về chín thứ ba pháp khác, tám thứ ba pháp ở giữa đều giống như thế. Nhất đẳng: một pháp có chín, năng sở có mười; cũng có thể dùng mười pháp này chia hợp với ba vị, mười thứ này đã có đủ trong một pháp cũng chính là một pháp có đủ ba vị.
Nói lên sự phân đối ở trước cho nên chẳng phải cách vượt. g1b2c. Ba vị mỗi vị đều có sáu tức: Chỉ bày mỗi pháp môn: là mỗi pháp môn trong mười pháp môn, trong một pháp môn có đủ chín pháp môn, mỗi pháp môn trong chín pháp môn, từ một pháp cho đến vô lượng pháp pháp nhiều như số cát sông Hằng. Mỗi pháp môn, về chiều dọc, chẳng có pháp môn nào không thông suốt giai vị sáu tức. Vì sao? Vì mỗi pháp thể là pháp tánh vô lượng sâu xa, kẻ "bạc địa" hoàn toàn mê mờ, chỉ có lý là đúng. Như vâng lãnh sự chỉ dạy, đối với danh tự mỗi pháp biết là pháp tánh sâu rộng, người ở giai vị năm phẩm quán hạnh biết đúng, giai vị sáu căn thanh tịnh dường như biết đúng, bốn mươi mốt giai vị phần chân biết đúng, chỉ có giai vị Diệu Giác đối với mỗi pháp biết đúng rốt ráo pháp tánh sâu rộng, cho nên thành nghĩa dọc. Lại dùng sáu tức đối với ba vị, thì đều từ rộng ngang mà nói về dọc sâu, do đó kiết lại thành nghĩa sâu xa. Ba là. Kết quy: chỉ dùng ba chữ dụ khắp dọc ngang, cùng bờ tận đáy pháp tánh Kinh Vương, ý chỉ văn đều nhận được.
-Giải thích mười phương: g2. Giải thích mười tướng: Có bốn. g2a. Nêu bày. g2b. Kết trước sinh sau. g2c. Khuyến tu tin hiểu: Nắm được ý Đại kinh, dùng mắt thường của người đối với mắt trí của Phật, mà phân biệt hơn kém, mắt người thường chỉ có thể phân biệt được sắc tướng đồng khác. Năm phẩm quán hạnh tuy là mắt thường, cũng gọi là mắt Phật, thấy được kho Phật tánh bí mật. Nay giải thích mười thứ ba pháp, mỗi thứ đều bí mật, chẳng phải ba trí Mắt Phật thì làm sao phân biệt được sâu cạn đồng khác. Sâu cạn ứng với "thiên", ba giáo là Cạn, chỉ có Viên. Từ sâu xa, giống khác nói rõ về Viên. Mười tức một là đồng, một tức mười là khác, đồng khác cùng lúc, sâu cạn rõ ràng. Đại sư đã được mắt trí này, nay nói mười pháp Thiên Viên để răn bảo người tu hành chưa mở mắt này, vì thế khuyến tin sâu, sinh sự hiểu biết về "Viên", nương vào danh tự chia ra mười môn. g2d. Chính là giải thích mười tướng: có hai. g2d1. Chính là giải thích: Có mười. g2d1a. Ba đức: có bốn. g2d1a1. Nêu danh lược chỉ bày. Ba là pháp thể, bốn là đức tướng. g2da2. Nói về "Viên" rộng giải thích: Có hai.
10. Giải thích bốn đức: g2da2a. Giải thích có ba. Dùng khuôn phép giải thích pháp. Pháp tánh sâu rộng ai không noi theo, nhưng do chín cõi tuy là noi theo mà trái nghịch, cho nên đối với pháp thân mà thành đường khổ, chư Phật thuận theo có thể ở đường khổ mà thành tựu pháp thân. "Dùng sự nhóm họp mà giải thích thân": Một sắc một hương đều là trung đạo, tất cả hướng về một, tất cả đều như thế, đó gọi là nhóm. "Tất cả chúng sinh...": vì thân Phật đầy đủ tất cả pháp, tất cả chúng sinh đối với một pháp đều hiểu biết chân thật, là chân tri Phật, là chân thức Phật, do đó Phật là thiện tri thức chân thật. Kinh Hoa Nghiêm cũng chép: Tất cả pháp bất sinh, tất cả pháp bất diệt, nếu hiểu được như vậy, thường thấy Lô-xá-na. Trong Bát-nhã giải thích nhóm họp là tục đế, giả trí chiếu soi cho nên các pháp nhóm họp mà thành, tán tức là Chân-đế, "Không trí" chiếu soi nên các pháp tan hoại, cả hai đều không tức là trung đế, Trung trí chiếu soi cho nên các pháp dứt bặt đối đãi, ba trí một tâm gọi là Bát-nhã. Trong Giải thích giải thoát các pháp không ngoài ba đế là chân, tục và trung. Không nhiễm bất trụ ba thứ này thì gọi là ba giải thoát, tức ba hoặc lụy không bao giờ tương ứng. g2da2b. Giải thích đức: Có ba.
1) Nói bốn đức của pháp thân: Mỗi pháp chúng sinh và Phật y báo, chánh báo cho đến một lân hư, một niệm sát-na đều viên đủ bốn đức mầu nhiệm, y theo ba nghiệp nói về đức Tịnh, mười cõi, ba nghiệp đều xa lìa sáu nhiễm xưa nay, gọi là pháp thân tịnh. Bốn đức pháp thân mầu nhiệm không gì so sánh, gượng dùng bốn nghĩa của vàng ở đời làm ví dụ.
2) Nói về bốn đức Bát-nhã, tức trí của thể trở về thầm hợp với thể, đã không hai thì chẳng lẽ trí công đức ít hơn pháp thân, cho nên Bát-nhã cũng có bốn đức. Trong kinh đại Phẩm thật có nghĩa này. Nói sắc tịnh, âm sắc tức là tánh cho nên là pháp thân, gồm có bốn đức, làm thành tướng rộng lớn, lại nêu một tịnh, đức Tịnh chẳng cô lập, phải có ba thứ còn lại. Nói chung, vì sắc thường cho nên Bát-nhã thường, lạc và ngã cũng vậy. Nói các nghĩa đều thành, tức là thể đầy đủ nghĩa mát mẻ bất biến, nghĩa chân thật hiểu biết, nghĩa ánh sáng chiếu khắp, cho đến nghĩa các công đức nhiều hơn cát sông. Biết đã thầm hợp với thể, cho nên Bát-nhã đều thành nghĩa này. Vì thế lại dẫn kinh sắc đại sắc vô biên, lập nghĩa rộng lớn. Ví dụ nói sự sâu kín để lập nghĩa dọc cao. Bát-nhã đều đầy đủ. Cảnh chỉ là sắc, sắc ở ấm ban đầu, là pháp giới thủ cho nên kinh nêu ở trước, sắc đã có bốn đức, thọ, tưởng, hành, thức giới, nhập, đế, duyên, lục độ, đạo phẩm cho đến chủng trí đều thường lạc, ngã, tịnh. Ấy nên Bát-nhã có đủ bốn đức.
3) Nói về bốn đức giải thoát, trước phá văn xưa đã nêu riêng có bốn, cho nên ở đây y theo nghĩa mà nói chung có hai nghĩa:
Một là y theo các điều ác hết hẳn, các điều ác chẳng qua vô thường... có bốn, đã lìa bốn lỗi, thì có đủ bốn đức. Hoặc nói riêng về các chấp vô thường... chỉ ở Nhị thừa, hoặc nói chung lìa các chướng như vô thường... Chỉ Phật mới hết sạch, ở đây là nói chung; hai là y theo các điều lành mỏng manh mà hiểu: Pháp lành tuy nhiều nhưng chẳng gì hơn bốn đức, nhóm họp đã nhiều thì đức sẽ không thiếu, cho nên giải thoát có đủ bốn đức. Ba dẫn chứng thể viên, dẫn ba văn, ý văn ban đầu là nói giải thoát đồng với pháp thân. Đầy đủ bốn đức. Văn kế là nói chung ý ba đức ở tại pháp thân. Pháp thân chiếu thì sẽ có ba đức, kinh tuy thiếu văn Bát-nhã mà nói nhiều về ba nhân. Nhân là trí tánh, ba nhân viên, tức là ba trí đều có đủ bốn đức.
Nói về ba điểm đầy đủ:
Nói ba điểm đầy đủ... phẩm Ai Thán chép: Thế nào gọi là kho
Bí mật? Giống như ba điểm của chữ Y, nếu ngang thì không thành, dọc cũng không thành, như ba mắt trên mặt của trời Ma-hê-thủ-la mới được thành Y. Ta cũng như vậy, pháp giải thoát cũng chẳng phải Niết-bàn, thân Như lai cũng chẳng phải Niết-bàn, Ma ha Bát-nhã cũng chẳng phải Niết-bàn. Ba pháp đều khác cũng chẳng phải Niết-bàn, cho nên ba pháp lìa các tướng ngang dọc, một khác. Mới được gọi là Đại Niết-bàn. Điểm là văn tự: Bởi Thiên Trúc tân y ba điểm. Như Trung quốc viết chữ thảo. Lại có vẽ ba điểm tròn nhỏ liên tiếp, cho nên biết mỗi điểm đều là văn tự. Lấy ví dụ ba pháp, các pháp xen nhau đầy đủ, đều là đại Niết-bàn. Ba điểm đều có đủ bốn đức, nếu quên ba điểm thì đều thành văn tự. Để khiến cho ba điểm đều đủ bốn đức nên dùng pháp thân thường, ngã, Bát-nhã là tịnh, giải thoát là lạc, mỗi điểm thâu hai thì mỗi điểm thành bốn, cho nên biết pháp thân ba điểm mới có đủ bốn đức. Bát-nhã ba điểm, giải thoát ba điểm mới có đủ bốn đức cho nên nói đều có và đầy đủ. Có chỗ nói ba trí đều đủ bốn đức, trí là Bát-nhã, vì thâu hai cho nên hai đều gọi là trí, mới thành ba trí, là lấy ba đức làm ba trí, cho nên khiến cho ba trí có đủ bốn đức, nếu ba đức như thế thì làm sao suy nghĩ biết được, nên gọi là kho Bí mật.
Bốn là kiết trước sinh sau, do ba đức và chín pháp môn không hai không khác. Một chương được giải, chín chương khác rất dễ hiểu. Giống như nghe luống chưa cùng tận chỉ thú cho nên nạn cũ giảm yên, lại làm truyền bá thông suốt.
Nói về ba ngôi báu: Hai là ba ngôi báu có hai:
Một là y theo viên giải thích nghĩa. Vì Phật, Pháp, Tăng đều đầy đủ bốn đức, đáng tôn trọng, cho nên gọi là Báu. Đây và ba đức thể ấy chẳng khác, vì có giác và bất giác hòa hợp và ý nghĩa đáng tôn kính cho nên y nghĩa lập ra ba ngôi báu. Nay nói nghĩa ba ngôi báu là nghĩa một thể, nhưng văn lược khó thấy. Trong Quán Âm huyền thì tướng ấy ít nói đến, ở đây chép đủ để hiển rõ nghĩa này.
Văn ấy chép: do tuệ tướng thật hiểu rõ các pháp chẳng phải không, chẳng phải hữu, nên gọi là ngôi báu Phật. Lý pháp tánh sở giác ba đế đầy đủ, tức là ngôi báu Pháp. Giác tuệ ấy và lý sự hòa hợp gọi là ngôi báu Tăng. Cùng sự hòa thì có Hiền Thánh tăng, của tiền tam giáo, hòa với lý thì có bốn mươi hai Hiền Thánh tăng của viên giáo. Nay giải thích rằng Phật có ba trí, lược nói hai thứ chẳng phải. ngôi báu Pháp là nói ba đế đầy đủ. Ba đế này tức khác mà không khác, lý trong tánh, không sai mà sai, sự trong tánh, tuệ hợp không sai ba đế, tức có tăng viên giáo, tuệ hợp mà sai ba đế thì có tam giáo tăng. Nay Phật pháp hai văn và kia chẳng khác nhưng hơi sơ lược.
Tướng của ngôi báu Tăng ấy thì lời khác mà nghĩa đồng, phải hiểu lời nói ấy. Nay nói Tỳ-lô-giá-na tức là lý mà kia đã hòa. Biến nhất thiết xứ tức là sự mà kia đã hòa. Văn ấy lý sự đều nói về hòa, thể ấy chẳng hai, cho nên ở đây nói tức mà lý. Sự lý này đều là ngôi báu Pháp, hòa được giác tuệ là ngôi báu Phật, văn ở đây lược. Chỉ nêu sở hòa để hiển rõ năng hòa, cho nên kiết thúc rằng hòa này đáng tôn quý, phải biết chỉ có một thứ ba đế mà phân ra sự lý. Viên dung tam đế gọi là lý, tức dung mà cách, đế lý của tam giáo gọi là sự. ngôi báu Phật quyền trí và ngôi báu Pháp sự hòa, ứng hiện Hiền Thánh ngôi báu Tăng của tam giáo. ngôi báu Phật thật trí và ngôi báu Pháp lý hòa, ứng hiện ngôi báu Tăng Hiền Thánh viên giáo. Kia nói bốn mươi hai Hiền Thánh là ngôi báu Tăng viên giáo, cho nên biết ứng là diệu giác cũng gọi là ngôi báu Tăng.
Vì ngôi báu Pháp kia thuộc về ngôi báu Phật và ngôi báu Pháp, cho nên Thích Ma-ha-diễn luận chép: Đẳng giác trở lên có Chân ngôi báu Tăng. Lại trong Pháp Hoa dùng thống lý đại chúng làm ngôi báu Tăng, đâu chẳng phải ứng Phật. Ứng Phật đối cơ quản lý đại chúng cùng cực. ba ngôi báu này một người một niệm đều đầy đủ gọi là nhất thể. Thật ra có ở cả sáu tức. Văn từ chân chứng cũng nên nói, cho nên nói bốn mươi hai.
Hai là chẳng hạn như đối dụ khác, ba đức đồng. Thật thể tánh ấy không hai không khác cho nên dùng ba chữ lại dụ cho ba ngôi báu. Nhưng đồng khác này sở tri kiến của Tam-muội mắt trí, chẳng phải tìm tên ấy y giáo để sắp bày, nên sinh tín hiểu tức nghe mà quán, chứng ngộ còn xa.
Nói về ba thứ Niết-bàn:
Ba là ba thứ Niết-bàn có hai, thứ nhất là y theo Viên để giải thích nghĩa. Danh từ Niết-bàn, trong sớ của Chương An có nhiều phiên dịch, nay dùng cách dịch bất sinh bất diệt để nói về ba thứ tướng, nghĩa rất rõ ràng. Ba thứ tên riêng, tánh thì chẳng đổi, tịnh thì vốn không. Viên thì trí mãn tịnh thì hoặc hết. Phương tiện thì phó cơ, tịnh thì không lụy. Ba thứ tên chung. Tên chung nghĩa riêng, tùy văn tự thấy. Trong tánh tịnh các pháp tướng thật, làm thiện làm ác gồm thâu tất cả, gọi là các pháp. Toàn Tu là tánh, các tướng đều thật, cho nên nói là tướng thật. Chẳng phải nói trong các pháp có tướng thật, cũng chẳng phải tu luống dối tánh vốn thật ấy.
Các pháp đương xứ đã là chân thật cho nên không có pháp để nhiễm, cũng không có pháp để tịnh, đã không có hoặc nhiễm huống chi là có pháp sinh, đã chẳng có trí thanh tịnh thì đâu có pháp diệt, cho nên gọi là bất sinh bất diệt. Viên tịnh là căn cứ vào tánh, tuy không nhiễm tịnh nhưng y theo tu, hoặc và trí rõ ràng. Hoặc vốn trái lý, nếu trí khế lý thì hoặc không bao giờ sinh, trí đã thuận lý, nếu lý toàn hiển thì trí chẳng bao giờ diệt, cho nên hoặc hết trí tròn cũng được gọi là bất sinh bất diệt. Phương tiện thanh tịnh, trí thầm hợp với tịch lý tức soi rõ các căn cơ, cho nên nói tịch mà thường chiếu. Chiếu phải thùy ứng, cơ cảm tức sinh tâm thường vắng lặng, cho nên ở đây sinh chẳng phải sinh, duyên hết liền diệt, ứng dụng thường hưng khởi, cho nên diệt này chẳng phải diệt, ứng cơ xuất một chẳng còn chẳng mất.
Cũng gọi là bất sinh bất diệt. Ba thứ Niết-bàn này, y theo khế lý ứng cơ, nghĩa của hai thứ tu. Nói theo bản tịnh một tánh thì phải biết một tánh đối tu cho nên hợp, y theo tánh thường khai. Toàn tu ở tánh, cho nên tánh có ba, nếu toàn tánh có ba, khởi khế lý tu mới thành ba trí.
Nếu toàn tánh có ba, khởi ứng cơ tu mới thành ba thoát. Đã ứng cơ có ba thì phương tiện tịnh, đủ ba thứ Niết-bàn. Đã khế lý có ba, tức là viên tịnh đầy đủ ba thứ Niết-bàn, đã nhất tánh đầy đủ ba tức là nhất tánh thanh tịnh đủ ba thứ Niết-bàn, chẳng như vậy thì đâu thể ba điểm đầy đủ, bốn đức không giảm. Đâu phải ba thứ Niếtbàn chỉ nói về ly hợp, phải biết ba thứ còn lại cũng vậy, hai là so sánh với ví dụ đối lại khác. Ba thứ Niết-bàn thể bình đẳng với ba đức, không hai không khác, đâu phải chỉ có thể một mà nghĩa cũng tùy theo, cho nên dùng nghĩa Niết-bàn thành bốn đức, lại do đủ đức nên thành nghĩa báu. Nay ba thứ Niết-bàn nghĩa thể đã đồng ba đức ba ngôi báu, đâu phải kinh Kim Quang Minh không thể so sánh, huống chi ba thứ Niết-bàn ư?
Nói về ba thân:
Bốn là ba thân có hai:
1) Y theo viên để giải thích nghĩa, thân có ba nghĩa, đó là thể y và tụ, muốn cho dễ hiểu nên chỉ lấy nghĩa tụ. Giải thích khắp ba thân tụ pháp nào? Có chỗ nói nhất thật, hai đế, ba đức, bốn tín, năm căn, sáu thông, bảy giác, tám chánh, chín thiền, mười độ, trăm môn, ngàn pháp, tám mươi bốn ngàn pháp môn, Tam-muội tổng trì các Ba-la-mật, cho đến vô lượng các công đức thanh tịnh nhiều hơn cát bụi. Các pháp như vậy tánh đầy đủ nên gọi là lý tụ, pháp thân. Trí chứng thì gọi là trí tụ, báo thân.
2) Hành thành thì gọi là công đức tụ, ứng thân. Nhưng lý không bình đẳng, song trí hành thuộc tu, tu thành thì tụ chẳng thành gọi là tán. Lý chẳng thành nên không có tụ, tán. Nay y theo hiển bao trùm nghĩa nói là tụ tán. Lý tuy có pháp nhưng bị che đậy cho nên chẳng thấy, đồng với nghĩa tán, ví dụ rõ rất dễ hiểu. Ba cái này đều nói từ sơ tâm, tuy chung cho quán hạnh nay y cứ mà hiển xuất ra văn chính lý. Phải từ Sơ trụ cuối cùng đến
Diệu giác, do thùy ứng thân chẳng phải hai phàm. Ba thân này, một niệm đều hiển bày cho nên không có chiều dọc, ba nghĩa do nhau cho nên không có ngang. Vì sao nói do nhau? Do hành tụ nên nuôi dưỡng trí, trí tụ nên hiển lý, cũng là lý tụ cho nên phát trí, trí tụ cho nên dẫn dắt hành, hành tụ cho nên chứng lý, lại phải biết rõ. Trí hành ở lý, lý mới gọi là tụ. Nghĩa khai hợp ở trong ấy.
So sánh với đối dụ khác:
Năm là nói ba Đại thừa, có hai:
1) Y theo viên để giải thích nghĩa. Đại thừa là xe lớn, lấy nghĩa chuyên chở. Vận chuyển mà chẳng gánh vác, gánh vác mà chẳng vận chuyển, đều chẳng phải nghĩa thừa. Không pháp nào chẳng đầy đủ nên nói gánh vác, có công năng hướng đến cực quả nên gọi là vận chuyển. Ba thứ này đều như vậy nên gọi là Đại thừa, ban đầu lý tánh hư thông, một tánh hư cho nên muôn pháp đều bao trùm, nhậm vận gánh vác. Các pháp tự nhiên, tánh thông Bí tạng. Nhậm vận vận chuyển. Nhậm vận thiếu một chữ vận. Tùy thừa, trí chiếu các pháp cuối cùng trở về kho bí mật, mà nói tùy cảnh là do các cảnh bản tánh hướng tới cùng cực. Trí tùy tánh cho nên cũng hướng tới cùng cực, cho nên lý nương bổn vận, tùy nương năng vận, tùy theo lý bất cứ pháp nào nghĩa ấy cũng thành. Đắc thừa, thể là các hành, tùy thừa dẫn dắt cho nên trang nghiêm cực lý, nên gọi là đắc quả. Tự đã giải thoát giúp cho tha thoát, nên gọi là đắc cơ. Tu tánh ly hợp cũng đồng với trước nói.
2) Lệ với đối dụ khác.
Nói về ba Bồ-đề:
Sáu là ba Bồ-đề có hai:
1) Y theo viên để giải thích nghĩa. Bồ-đề dịch là Đạo, Đạo là năng thông, tức ba thừa trước đều có một nghĩa vận. Hoặc ba tướng riêng, đồng ở trước sau cho nên không đặc biệt giải thích. Chỉ nêu tên khác bao gồm mà hiển bày rõ, cho nên nói chân tánh cũng gọi Vô thượng. Thể chân tánh là Đệ-nhất-nghĩa, cho nên không còn có lỗi trên.
2) Thật trí, ngay nơi hoặc thành trí, thể của nhiễm vốn là không nên gọi là thanh tịnh. Ba phương tiện, trí chỉ tự thanh tịnh, chưa mãn đại tâm. Nay dùng hợp cơ khéo léo, giúp cho mình người hội cực, cho nên phương tiện còn gọi là rốt ráo. Khai hợp như trước.
- So sánh với đối dụ khác.
Nói về ba Bát-nhã:
Bảy là Bát-nhã có hai:
- Y theo Viên để giải thích nghĩa, tức là tướng thật, quán chiếu, phương tiện. Ba Bát-nhã này thể là viên thường một đại giác, tức một giác này có ba thứ đức, chính đức của phi tịch phi chiếu gọi là Bát-nhã tướng thật, đức của phi chiếu mà chiếu gọi là Bát-nhã quán chiếu, đức của phi tịch mà Tịch gọi là Bát-nhã phương tiện.
Đây là tịch giác chiếu giác, chẳng phải tịch chiếu giác cả. Ba đều giác nên gọi là ba Bát-nhã. Tịch chiếu ở trên đều nói là phi, do nương song già khởi hai dụng. Nhưng các nghĩa tịch chiếu. Người mới học khó hiểu, nay nói lược chiếu nghĩa là chiếu sáng, vì sáng cho nên rõ pháp, rõ pháp vô tướng gọi là trí Nhất thiết, rốt ráo không. Tịch là vắng lặng, vì vắng lặng cho nên thuộc về đế pháp, đế pháp duyên sinh gọi là trí đạo chủng, là cái giả khó suy nghĩ. Phi nghĩa là chẳng phải vắng lặng, trí của vô duyên gọi là trí nhất thiết chủng, ở trong sự dứt bặt đối đãi. Nhưng Bát-nhã tướng thật, tông kia chấp tướng thật vô tri gọi là Bát-nhã, do cảnh sở chiếu từ trí năng chiếu mà được tên, giải thích tên gọi như thế chẳng phải nghĩa của tánh tông.
So sánh với đối dụ khác: về so sánh với đối dụ khác. Ở trên giải thích ba đức do trí Bát-nhã chiếu soi cảnh pháp thân, cảnh trí đã hợp mới sanh khởi giải thoát. Nếu cho rằng ba trí chắc chắn là một đức, thì hiểu một ít phần, mê ý chỉ kinh chẳng tiêu được văn này. Nếu chắc chắn là nhiều thì có hai có khác, nên biết Bát-nhã đầy đủ đối với pháp thân và giải thoát, cho nên mới thọ ba tên. Ba đức đã là tu hai tánh một, Bát-nhã chẳng lẽ như vậy ư? Ba đức lìa chín, ba trí cũng như vậy, cho nên ba đức, ba Bát-nhã và các ba pháp đều đồng một thể mà đặt tên khác. Đều là toàn phần của pháp giới, cho nên nay ba chữ cũng dụ cho ba trí.
Nói về ba Phật tánh:
Tám là ba Phật tánh có hai:
1) Y theo viên để giải thích nghĩa, gọi chung là Phật tánh, là nêu cả Hoa Phạm. Phật Hán dịch là Giác, tức ba trí dung thông sáng suốt, trùm khắp tất cả mọi nơi, đều sáng tỏ gọi là Đại viên giác, về tánh thì nghĩa là chẳng dời đổi, nghĩa là tánh đại giác chẳng thêm chẳng bớt, chẳng đổi chẳng dời. Đâu phải riêng như vậy. Duyên liễu vốn có cũng không thay đổi. Tên khác là chánh nhân, duyên nhân, liễu nhân.
Chánh là trung chánh, liễu nghĩa là chiếu liễu, duyên là trợ duyên, duyên trợ đối với liễu, liễu hiển bày ở chánh. Chánh khởi duyên tốt cũng là chánh phát đối với liễu. Liễu dẫn dắt duyên, duyên trang nghiêm cho chánh, chánh khởi duyên tốt. Bởi như vậy nên chẳng phải nghĩa theo chiều ngang. Nhất tâm đốn đầy đủ nên chẳng phải nghĩa dọc. Văn giải thích ba tướng đều gọi là song phi, vì chánh nhân ấy trong đây là thật, cho nên có tám điên đảo thường, vô thường, khổ lạc, cấu tịnh, ngã vô ngã... Vốn chẳng tương ưng.
2) Văn còn lược nêu phi thường... toàn là chánh nhân này phát chiếu rõ trí, trí chẳng lẽ là tà đảo. Liễu này dẫn dắt duyên các hành đều trung. Do từ thắng thuyết nên nêu cả hai điều phi. Trung phải song chiếu, nghĩa ba đế đầy đủ, cho nên dùng chánh tánh tức không, giả, trung, phát liễu trí tức không giả trung. Dẫn dắt tức trợ duyên cho không giả trung. Nghiêm tức chánh thể của không giả trung, khởi là duyên tốt của không giả trung, như vậy mới gọi giải thích ba nhân theo nghĩa viên. Văn nêu việc đào kho vàng là dụ. Nói về ba tướng này, dụ cho Thông giáo, biệt giáo phải nương tức giải thích nghĩa khiến quy về viên, thiên ma ngoại đạo chẳng thể phá hoại. Ma... đương thể tự là ba nhân, lẽ nào Phật tánh lại hoại Phật tánh, hai là so sánh với đối dụ khác.
Nói về ba thức:
Chín là thức, có hai:
1) Y theo viên để giải thích nghĩa. Giải thích tên chung gọi là thức, là tên khác của giác liễu trí tuệ.
Hỏi: Tên ba thức ở giai đoạn bản hữu, lại A-lê-da thể là vô minh, A-đà-na tánh là nhiễm hoặc, sao được gọi thức là tên khác của trí?
Đáp: Tất-đàn của Đại Thánh nêu bày các chúng sinh hiển lý gọi là giáo, hoặc còn hoặc bỏ, nghĩa có nhiều đường. Như đại kinh dạy nương trí không nương thức và trong các giáo khuyến tu trí quán, dứt bỏ các phiền não. Ở đây dùng danh từ ác nghịch để giải thích dứt bỏ phiền não mà thành lý quán. Như kinh Lăng-già nói giết cha vô minh, hai mẹ tham ái. Ở đây dùng danh từ ác nghịch. Nói dứt bỏ phiền não mà làm sáng tỏ lý quán. Như kinh Vô Hành chép: Tham dục tức là Đạo, nhuế si cũng như vậy. Trong ba pháp này đầy đủ tất cả Phật pháp. Ở đây nhà chú thích giải thích rằng chính ba pháp môn đại tham, đại sân, đại si là không hai không khác với ba quán. Ở đây dùng danh từ ác độc. để giải thích chẳng dứt hoặc mà làm sáng tỏ lý quán. Nay dùng ba thức trở xuống ba đường, là pháp sở dụ của Kim Quang Minh đồng với kinh Vô Hành dùng danh từ ác, giải thích chẳng dứt hoặc mà hiển bày lý mầu.
Nói thêm về thức:
Do viên giáo chỉ ra, đương thể của điều ác tức là pháp giới, các pháp hướng về ác mười hai nhân duyên chẳng do tạo tác tức là Phật tánh, cho nên đà-na hoặc tánh A-lại-da vô minh, các tướng đều viên dung, với không hai không khác kho Bí mật. Ấy cho nên được gọi là thức, là giác liễu, tên khác của trí tuệ. Nhưng nếu không dùng chẳng dứt bỏ phiền não thì hoặc thành trí tiêu. Văn này, viên ý mất hẳn. Trong giải thích tên khác còn ba tiếng Phạm. Theo một mà giải thích nghĩa tức là dịch tên. Nói hạng thứ chín xuất xứ từ Nhiếp luận do Chân-đế dịch vào đời lương, cho nên Phụ Hành chép: Chân-đế nói thức A-đà-na thứ bảy, Hán dịch là thức Chấp ngã, ở đây thể của hoặc tánh là duyên nhân. Thức A-lại-da thứ tám, Hán dịch là Tàng thức, vì có khả năng giữ gìn trí chủng chẳng mất, thể là không mất vô minh, tánh của vô minh là tánh liễu nhân. Thức Am-ma-la thứ chín gọi là thức thanh tịnh, tức là chánh nhân.
Ba tạng đời Đường chẳng chấp nhận thức này, nói thức thứ chín chính là tên khác của thức thứ tám, cho nên Nhiếp luận tân dịch chẳng có thức thứ chín. Trong văn Địa luận cũng không có thức thứ chín, chỉ lấy thức thứ tám đối với chánh nhân, thứ bảy đối với liễu nhân, thứ sáu đối với duyên nhân. Nay Chân-đế vẫn hợp sáu và bảy làm duyên nhân. Vì trong thức thứ sáu có việc thiện ác cũng là tánh hoặc, nếu phân biệt thì dễ giải thích. Vì pháp sẵn có trong một niệm là giáo đạo quyền nói. Phần đối các vị còn lập gần xa. Do thức thứ chín vô nhiễm, bất động, cho nên đối với Phật, thức thứ tám thuộc về Bồ-tát vì giai vị Thập địa thì hai thức sáu và bảy đã chuyển thành trí, chính là lấy ba phần của A-lại-da làm cảnh, tuy là cảnh giới mà tức dụng này là quán trí. Như người sơ tâm cũng dùng tâm vương tâm sở thứ sáu hiện tiền làm cảnh quán, cho nên dẫn Đại luận ở tâm Bồ-tát, gọi là Bát-nhã.
Thức A-đà-na thứ bảy:
Thứ bảy gọi là A-đà-na, theo Chân-đế dịch, hoặc các kinh luận tân dịch đều nói thức thứ bảy gọi là Mạt-na. Ở đây theo xưa dịch, ý nói quở trách sinh tử ác. do Nhị thừa người người chấp đã quên. Thức thứ sáu do Kiến tư huân chuyển thành vô lậu, trần sa chưa phá, chính trụ trong pháp chấp thứ bảy, chẳng rõ pháp sinh tử không, cho nên có quở ác, chẳng rõ pháp Niết-bàn không cho nên có ưa thích ham muốn. Thức này nếu ở trong giai vị quả Phật thì lại dùng làm quyền trí. Vì pháp Nhị thừa dắt dẫn tiểu căn, mặc y dơ bẩn, cầm đồ hốt phân, cho nên biết sau khi các thức được phá thì tự tại, vì cơ tải dụng. Sóng mòi v.v... là thức thứ sáu.
Kinh Lăng-nghiêm chép: Thức Đà-na nhỏ nhiệm, thói quen thành dòng thác, mà thành sóng mồi chính là pháp tâm, tâm sở của phàm phu. Đây là y theo bốn người mỗi người đều đối với một thức. Nếu y theo tiệm đoạn phân biệt bốn tướng thìn thô sẽ bao gồm tế. Phàm phu có bốn, Nhị thừa có ba, đã phá bỏ thức thứ sáu. Bồ-tát đầy đủ hai, sáu và bảy đã chuyển. Phật chỉ có một, thức thứ tám đến quả đã chuyển. Nhưng thức thứ sáu là thức của ý gia, chính là cành nhánh của A-đà-na. Nếu nói thứ bảy tự mình thâu nhiếp cho nên nay không nói. Trên nói ba thức chia ra ba vị, chính thuộc giáo đạo. Nếu gọi là thật luận. Ba thứ thức này tức là ba đức. Người nào mà không có, vật nào mà tạm thiếu, hoặc thức hoặc sắc chỉ là một thức. Hoặc thức hoặc sắc chỉ là một sắc, đâu thể hữu vô, thêm bớt mà nói. Vả lại y theo một tâm niệm của hữu tình, có tất cả nhiễm tịnh. Phật rốt ráo đầy đủ dung chứa riêng một. Nếu không như vậy thì đâu phải pháp mà ba chữ ví dụ.
So sánh với đối dụ khác:
Về so sánh so sánh với đối dụ khác, lệ với đức là hỏi ba đức và ba thức không hai không khác, ba đức tu tánh có lìa có hợp. Nay nói ba thức có lìa có hợp ư?
Đáp: Có.
Lại hỏi: Môn không hai chép: Thuận tu đối tánh, có lìa có hợp, trong ba thức, hai thức bảy và tám do mê thức thứ chín mà khởi, là nghĩa nghịch tu, đâu được đối tánh mà nói hợp ly?
Đáp: Ly này nghịch tu lập thuận tu, thì có hoặc để dứt, có trí năng quán. Năng sở đã có thì tu này gọi là nghịch, làm sao có thuận? Nếu thức bảy, và tám làm thuận tu thì không có sở phá cũng không năng quán, hoặc trí đã quên, tánh tu cũng mất. Mà ba thức ấy một khác đồng thời, không đối với nghịch thuận gượng gọi là thuận, cho nên được gọi thức là giác liễu, là tên khác của trí tuệ. Nay văn ba thức nói về thuận tu này. Tu này đối tánh nói về ly hợp, chín có tám và bảy gọi là tánh ba. Tám có bảy, chín và bảy có tám, chín gọi là tu ba, nghĩa của ba chính là ly. Nay hợp tánh ba chỉ nói thứ chín đều hợp tu ba chỉ nói bảy, tám đó là hợp. Hợp ly đã như vậy cho nên không hai không khác với ba đức và các thứ ba pháp. Là dùng ba chữ dụ cho ba thức này.
Nói về mười ba đạo: Mười ba đạo chia có ba:
a) Ban đầu cột mười hai chi thành ba đường, có hai: trước chính là cột, mười hai chi này số môn bất định, có khi có ở khắp ba đời, có khi ở khắp hai đời, có khi chỉ một đời, có khi chỉ một niệm, thời tuy dài ngắn nhưng đều nói mười hai. Nay chính ba đời rút gọn thành ba đường. Giáo môn nhiều cho nên hiển bày lẫn nhau, hai giải thích, tên gọi ở trên cột mười hai là giải thích ba tên gọi. Ở đây nói nghĩa đạo là giải thích tên chung, gọi chung là Đạo, nghĩa là Hoặc, nghiệp, khổ thông suốt lẫn nhau, cho nên nay đời đời nối nhau vô cùng. Nhưng nay ý văn này tức là dùng sự hiển lý không trệ ngại.
b) Kế là y theo Viên để giải thích, ngay nơi sự là lý, kinh chỉ ra si, ái, trung gian năm quả là Phật tánh, bởi đối với báo pháp dễ hiển bày chánh nhân, cho nên dùng năm quả này tuy có xúc, thọ, nhưng chưa sinh ái, thủ.
Chính sắc tâm này hiển bày thể của chánh nhân, dễ thành diệu quán. Như Ma-ha chỉ quán, ban đầu quán ấm cảnh, ý kia cũng vậy. Hễ nói quán pháp thì ban đầu thường y theo dễ, chỗ dễ thì quán thành, không điều khó nào chẳng hiểu. Đại sư đắc ý, cho nên so sánh với hoặc nghiệp đều là Phật tánh, tức duyên liễu hai nhân tánh. Nêu lên ba dụ, vật tượng thế gian sánh với diệu lý đều là phần thí dụ, phải dùng pháp định mới nói lên Thiên Viên. Như kinh Như Lai tạng chín dụ, chỉ quán dụ Biệt, văn khác dụ Viên. Nay sông băng... cũng gồm viên biệt. Vì sao? Vì nếu nói kiết nước cõi Phật, tức là băng chín cõi, dung thông với băng chín cõi quy về nước cõi Phật, ở đây vẫn thuộc về biệt. Nếu biết mười cõi đầy đủ lẫn nhau như nước, tình chấp mười giới hạn cuộc như băng, dung tình chấp băng thành đầy đủ nước lẫn nhau.
Đây là lý viên. Củi lửa, buộc mở các trường hợp ấy rất dễ hiểu, cho nên pháp mười hai duyên luân hồi nghĩa là thật thì ba chướng xác thật như vậy. Tình hư thì ba đức viên dung. Đối với mười hai duyên chẳng tổn hao một chút nhỏ. Toàn là cảnh mầu tức hoặc nghiệp khổ, mỗi pháp thông suốt mé pháp giới rốt ráo, đó gọi ba đạo. Muốn hiển nghĩa ba viên dung này cho nên gọi là từ thắng lập, nên nói pháp thân Bát-nhã giải thoát, chỉ đổi tên, không đổi pháp thể, thật ra chỉ là đương thể thông suốt, ba là y theo thể đạt mà nêu đức đối dụ.
Hỏi đáp về ba thức:
Hỏi: Trước nói ba thức, thức thứ chín một tánh đối hai tu tám, bảy. Vì nói ly hợp cho nên giống như ba đức. Nay nói ba đạo, ba đều nghịch tu, làm sao nói đối với tu hai tánh một. Nghĩa này chẳng thành thì khác với các thứ ba hữu, hai hữu đâu phải pháp mà ba chữ ví dụ.
Đáp: Ngay sự là lý. Sự lý không khác, lại như trong sự hoặc khởi ra nghiệp, nghiệp hoặc đối với khổ, khổ lại khởi hoặc. Ba tu ác này tức là tánh ác, mới gọi tánh ba, cũng tức nhân pháp chuyển tên ba thức, ba Phật tánh, ba Bát-nhã, ba Bồ-đề, ba Đại thừa. Cũng tức quả pháp chuyển tên ba thân, ba Niết-bàn, cũng quả dụng chuyển gọi là ba ngôi báu, cũng bí tạng chuyển tên ba đức, cho nên biết mỗi mỗi chỉ chuyển tên không đổi pháp, cho nên môn không hai nói tánh chỉ ba chướng là có đủ ba, tu từ tánh thành ba pháp. Nghĩa ấy đã như vậy, đâu nói ba đạo không có ly hợp.
Vì Kim Quang Minh thí dụ ở ba đạo, ý ấy sơ lược.
Kế là nêu lên dung thông, có ba, ban đầu khuyến giải thích pháp viên dung. Trên đến ba đức, dưới đến ba đạo, chẳng thêm chẳng bớt, không hai không khác ngay nơi khác là đồng. Mê giải trí hành nhân quả tự tha, cho đến đồng quy một chỗ, danh nghĩa chẳng xen lạm, người đồng là khác. Suốt ngày đồng, suốt ngày khác, dùng mười đồng dị để làm sơ môn. Từ môn nhập, thì đối với tất cả đồng khác vô ngại. Như gió bay đi giữa hư không, có khả năng đối với một pháp hiểu rõ tất cả pháp. Hoặc đồng hoặc khác hay đối với trăm pháp hiểu tất cả pháp, ngàn pháp, muôn pháp số nhiều như cát sông, đều hiểu tất cả. Hoặc đồng hoặc khác nên nói cũng vậy. Hai, dẫn các kinh viên chứng, một pháp môn, nêu một pháp nhiếp vô lượng pháp, cho nên nói quyến thuộc. Kia đây nhiếp pháp cũng giống như vậy. Kinh này nói: Đối với tất cả pháp bao gồm dung chứa tất cả pháp lấy đây ví dụ, tất cả các pháp đều ví dụ cho hoàn hương, như hạt châu tùy mầu sắc. Đất có bốn vị, biểu dung chứa các sông. Hoặc đồng hoặc khác hợp pháp rất dễ hiểu. c) Ba là lập ra hỏi đáp nói về lợi ích.
Hỏi: Ý ấy như ba đức trước, tôn trọng gọi là ba ngôi báu, bất sinh bất diệt gọi là ba Niết-bàn, cho đến thông đạt gọi là ba đạo. Đây đối với một pháp nói về tất cả pháp, đã tự đầy đủ, cần gì lại nói ba ngôi báu... chín pháp và tất cả pháp đều có công năng thu nhiếp tất cả pháp ư? Đáp: Ý ấy thật ra một pháp đã đủ tất cả, không hề giảm thiếu, chỉ vì căn cơ người xưa huân tập khác nhau khiến cho đoạn chứng gá duyên khác nhau. Có nghe nói ba đức nhiếp tất cả pháp được bốn lợi ích, cho đến có nghe ba đạo thu nhiếp tất cả pháp được bốn lợi ích, cho nên phải nói khắp, làm lợi ích cho nhiều căn cơ. Một thuyết dưới đây nói về thuyết khắp, khiến cho một người kia sinh tất cả giải, căn tánh viên đốn nghe nói một pháp còn hiểu tất cả. Nếu nghe các pháp khéo hiểu càng sáng tỏ, rất dễ hiểu ý Phật. Phật là bậc Nhất thế trí, cho nên nói trí giả. Lời thô lời tế, Đại kinh nói chư Phật thường nói lời mềm mỏng vì chúng sinh cho nên nói thô. Nói thô và nói mềm mỏng đều quy về Đệ-nhất-nghĩa. Nhưng thời nói thô, nói mềm mỏng bao gồm tất cả. Nay y theo mười pháp luân thì ba đường rất thô, trong tám tướng vọng ba đức rất mềm mỏng, đã y theo viên, mỗi pháp dung thông lẫn nhau, pháp pháp cao rộng, cho nên khiến người nghe nhập Đệ-nhất-nghĩa và không chống trái.
1. Phân biệt ba đức:
Phần trước pháp được chia ra làm mười, ban đầu phân biệt ba đức có ba:
Nêu: hai chính là phân biệt có hai, ban đầu bác bỏ thiên, có ba, đầu là ba tạng thái tử năm ấm, lâu tu năm phần, tuy chưa đắc vô lậu nhưng gọi là pháp thân, ở hai đức trước, dưới cây Bồ-đề thật sáng suốt mới có Bátnhã, ba mươi bốn tâm: Mười sáu tâm phá kiến, mười tám tâm dứt ái. Như đốn chứng La-hán và Bích-chi-Phật. Hai người này đắc ba mươi bốn tâm cùng lúc, La-hán chỉ dứt chánh sử, Bích-chi-Phật phần xâm tập khí.
Như thọ vương trở xuống v.v... là dùng ba mươi bốn, đốn dứt chánh tập đều sạch cùng lúc. Cho nên tâm này chỉ Bồ-tát có. Giải thoát ở sau, tướng ấy rất dễ hiểu. Ba pháp này do lậu vô lậu còn mất mà khác nhau, cho nên khác mà lại dọc. Bộ kinh giáo này gọi là A-hàm. Giải thích, luận nói minh văn, dùng Ma-ha-diễn đối ba tạng là tiểu. Bà-sa dịch là Số, luận này nói rộng bốn giai thành Phật. A-hàm duy kinh, Bà-sa duy luận. Danh từ ba tạng đầy đủ kinh luật luận. Ba pháp này nói chỉ có ba nghĩa, hoàn toàn không có nghĩa đức. Vì sao? Vì cuối cùng dứt mất như tro nguội cho nên chẳng có đức Thường, chẳng phải đại Niết-bàn cho nên không có đức lạc.
Không có tám tự tại cho nên không có đức ngã, chẳng dứt năm nhiễm cho nên không có đức tịnh.
a. Thông giáo, thông giải thích thể quán, pháp vốn bất sinh, chẳng phải chứng sau không, đây là pháp thân, cho nên vốn có, cảnh tuy vốn có, phải nương cảnh này, thể phá kiến tư. Chánh tập tận xứ, chính là Bát-nhã, cho nên thuộc về hiện hữu. Khi quả ràng buộc sạch hết mới là giải thoát, nên thuộc về đương hữu. Ba pháp này không cảnh vô tri, Bát-nhã có chiếu soi. Như sắc tâm hư huyễn hết sạch mới gọi là thoát, cho nên khác mà lại dọc. Các sư Thành luận đời trước thấy hai thừa trong mười địa như Càn Tuệ v.v... chứng quả, cho rằng người pháp mà tiểu giáo nói đều không, bèn dùng nghĩa này giải thích luận đã hoằng dương. Ý cho là Tiểu giáo tìm tòi làm sáng tỏ Đại thừa, cho nên Diệu Huyền nói: Thành Luận tìm tòi làm sáng tỏ Đại thừa, lại nói: Sư Thành luận chỉ thấy cộng ý Bát-nhã, chẳng thấy bất cộng ý, tức là nghĩa này, cho nên biết các Đại sư ấy chẳng biết tạng thật là ba tạng Không môn và Diễn môn khác hẳn nhau. Lại, chẳng biết Diễn môn Chân-đế bao gồm đãn trung và bất đãn trung. Nay y theo kẻ bất tri và Bồ-tát độn kia, nên không có bốn đức.
b. Biệt giáo trước phá Chân-đế, trái với viên biệt ấy, bởi trái với kinh này, riêng phân bốn đức, đối với ba thân, cho nên nói trái khác. Hoặc lấy kia nói bốn giáo để thâu nhiếp, đã nói bốn đức chẳng phải trước tạng thông đức, đã chẳng dung chẳng phải sau viên giáo, tuy thâu gồm mà thuộc biệt. Nhưng chẳng phải thuyết biệt giáo thông phương, cho nên nói một đường.
2. Hỏi đáp về đức của Bát-nhã, giải thoát:
Hỏi: Chân-đế lập rằng: Bát-nhã, giải thoát mỗi thứ đều có hai đức, nay vì sao bác bỏ rằng không có đức để nói.
Đáp: Nếu y theo biệt thì hai thứ đều có một, cũng được gọi là đức. Nay dùng viên bác bỏ, hễ thiếu chỗ nào thì nghĩa đức không thành. Vì sao? Vì như Bát-nhã chiếu cảnh cho nên thường, vì phá tối cho nên tịnh. Như vô lạc ngã, là có thường tịnh của khổ, không có thường tịnh của tự tại, há thành đức ư? Như giải thoát không đen tối cho nên lạc, rộng xa cho nên ngã, mà vô thường tịnh, đây lạc ngã của vô thường, lạc ngã của cấu nhiễm, chẳng lẽ thành đức ư? Đức có thêm bớt nên pháp chẳng cao rộng, gọi là kinh vương vô lượng sâu xa ư!
Về hiển bày Viên, đầy đủ như ở trước nói. Ba là khuyên sinh viên giải, bốn đức tàn thiếu chẳng phải đứng đầu các kinh. Ngang dọc có thể suy nghĩ chẳng phải Phật che chở. Có nhớ nghĩ tâm mắt đều là trâu dê, tri kiến Vô duyên mới có thể luận đạo.
3. Phân biệt ba ngôi báu: Về phân biệt ba ngôi báu. Theo nhau: Từ Phật nói Pháp, từ pháp có Tăng, từ ba ngôi báu này đến nay chẳng bặt dứt đều do quy Phật, bẩm pháp thành Tăng, cho nên nói là từ. Lại gọi là thầm bậc, vì dụ đẳng cấp chẳng rối loạn. Đây là nói biệt thể của tăng bốn quả, chắc chắn không thành Phật, giống như bậc dưới không thành bậc trên.
Lại, thọ vương trở xuống là quên chân kinh, thấy như huyễn Phật nói pháp vô sinh, tam thừa nhân địa đều có khả năng dứt bỏ kiết sử. Có Bồ-tát ba tạng khác trong nhân, hoàn toàn không dứt hoặc. Chúng tức không nên gọi là lý hòa tăng, tuy khác ba tạng mà lý tam thừa cộng chứng đã là thiên không, cũng không có bốn đức. Như hoa vương thế giới thành Lô-xá-na, tuy thông viên biệt, nay y theo độn căn ở trong mê sâu nặng, không biết tức tánh, thực hành tu thành giải, cho nên ngôi báu Phật từ báo mà rõ bày tên gọi, ngôi báu Pháp chỉ gọi là tứ đế vô lượng, chẳng phải vô tác, cho nên từ nhiều số nên có nhiều tên như số cát sông Hằng.
Tăng bẩm pháp tuy thuần là Bồ-tát, lại chẳng phải phát tâm liền thành Chánh giác, cho nên bốn mươi mốt vị chia ra Hiền Thánh, ba ngôi báu này, Phật là Tăng quả, Tăng là Phật nhân, pháp là nhân quả. Sở tu sở chứng thật Tăng thành Phật. Phật hiện quyền Tăng, khác hẳn giai cấp cao thấp không thay đổi. Nhưng từ tướng riêng chẳng phải là đồng thể. Nói đồng thể là ba ngôi báu một thể. Thể này giác liễu gọi là Phật. thể này bất giác gọi là Pháp, thể này hòa hợp gọi là Tăng. Mê ngộ nhân quả thể ấy chẳng phân. Một người một niệm đều đầy đủ, cho nên tam quy của Hoa Nghiêm cho rằng nhận hiểu đại đạo là Phật, vào sâu kinh tạng là Pháp, quản lý đại chúng là Tăng. Ba tuy ở quả mà là một thể.
4. Kết luận:
Ba ngôi báu như thế không hai không khác với ba đức ở Trung quốc, là ba ngôi báu mà kinh Kim Quang
Minh thí dụ. Tam giản, ba Niết-bàn: Niết-bàn Bàn-na, Hán dịch là An-lạc, cho nên phàm Thánh đại tiểu đều có Niết-bàn, hoặc người đời thích ý cũng là Niết-bàn, hoặc ngoại đạo chẳng biết định Phi tưởng Phi phi tưởng có mười tư tưởng nhỏ nhiệm và trời Vô tưởng, pháp tâm, tâm sở thứ sáu. Tạm như vậy chẳng hành, cho nên đều chấp là Niết-bàn vắng lặng hoàn toàn. Hoặc nhiễm tâm dục phục gọi là Niết-bàn phương tiện. Hoặc Nhị thừa Bồ-tát luận đắc, chưa đắc, là Niết-bàn Ba tạng.
Nếu ba thừa đều hết hai thứ phược về quả là thông giáo đãn không cộng tiểu Niết-bàn, phân biệt với bất đãn không, không chung với Nhị thừa. Nay y theo cộng luận cho nên không có bốn đức, hoặc trung đạo lý trí và đồng duyên thị hiện diệt độ ba thứ Niết-bàn. Đây có đắc ý và không đắc ý. Đắc ý thì một sẽ gồm thâu hai ba, đều viên đầy đủ, tức thành Đại Bát-niết-bàn của viên giáo, là ở đây ví dụ. Nay y theo thất ý chẳng tương quan nhau, cho nên thuộc về biệt. Hoặc nói đẳng tức địa luận sư chỉ cho tướng thật gọi là tánh tịnh. Pháp do Tu nhân sở thành làm phương tiện tịnh. chẳng nói duyên nhân, củi hết lửa tắt, tùy cơ Niết-bàn, đã chỉ hai thứ nhiếp nghĩa chẳng khắp, tức chẳng phải ba đức viên dung Niết-bàn, cho nên chẳng phải pháp ở đây kinh thí dụ.
5. Phân biệt ba thân: Về phân biệt ba thân có hai, ban đầu phân biệt thiên, chia hai:
Ban đầu nói tạng thông chỉ có hai không có ba, có hai:
- Ba tạng, thọ vương trở xuống Phật là chân thân, chẳng phải ngay nơi sự là chân, là chứng thân chân cho nên gọi là chân thân. Thần biến là ứng cũng chẳng phải không mưu cầu, hoàn toàn là tác ý. Trong ba tạng chỉ nói hai thứ này, không có pháp báo ứng nói ba thân, chứng chân hiện biến đều từ phán tích pháp quán trí mà thành, hai là thông giáo, có hai:
- Ban đầu chánh nói chỉ có hai. Giáo này tuy nói ngay nơi sự là chân nhưng tức thiên không chẳng phải Phật tánh chân.
Chân không thật thể chẳng phải nhậm vận ứng. Giáo và tạng này chỉ giải thích nhị đế, chưa nói tam đế, cho nên nói về thân chỉ có hai không ba.
6. Nêu lên và giải thích chân thận:
Nêu lên giải thích chân thân, muốn nói tức chân nên trước hỏi sắc tướng. Nếu như thế thì lĩnh trước. Sự tức chân không mới là thể của Phật, cho nên trượng sáu chẳng phải chân Phật, lại, làm thân người như chẳng phải nai, ngựa. Cứu luận trượng sáu là thân gì? Đáp: trong hai ý ban đầu ý là ứng, ý tiếp theo là chân. Ban đầu nói nên đồng với nhân tượng, vì trượng sáu này chẳng phải ái nghiệp cảm, từ Dĩ biện địa thệ giúp đỡ thói quen khác, thấm nhuần thần thông sinh, kiết duyên với chúng sanh thanh tịnh cõi nước Phật.
Các căn cơ đã thuần thục, xuất hiện trong cung vua cho nên biết trượng sáu là thân thần thông. Nên là đồng nhân tượng, nhưng chưa tận lý cho nên nói là một lần, vì thế lại một trở xuống chính là nói về chân thân, khác phân đại tiểu lý ở trong không. Nay lấy tức không làm chân thân, vẫn thuộc về tiểu cho nên lệ với Đại thừa. Chỉ lấy lý mà trung trí hợp để làm pháp thân. Đâu lìa sắc tâm nói riêng về Trung đạo. Nay chỉ không chân cũng tức nhân tượng toàn thể là không. Sắc tâm chẳng sinh, sắc tâm chẳng diệt là chân thân.
Y thân khởi biến gọi là ứng thân, nên giáo này chỉ có hai thân. Hai là nói biệt giáo tuy ba mà khác. Nếu dung thông nhau nhưng đâu phân hư thật. Nghiệm kia đã lập, thể đều khác nhau. Tam thân chẳng viên cho nên nay chẳng dùng.
Về hiển bày viên có ba:
7. Ba thân đều là thật:
Ban đầu nói ba thân đều thật, có ba:
Một là nói thể thật, lý thể đã thật, lý trí đâu dối, thật lý thật trí thầm hợp cho nên khởi dụng. Dụng đâu chẳng thật. Do ba đã tương tức nên hai mới chẳng phải dối.
Hai dẫn kinh loại hiển, cảnh dục tịnh diệu thực hành hoại quán, tuy là giả tưởng nhưng trị được tâm tham, hư có thật ích. Chẳng hạn như ứng thân chẳng phải sinh hiện sinh, nên chẳng phải bổn thể, lợi ích chúng sanh chẳng phải luống dối nên gọi là thật.
Ba là thủ ý kiết thành.
Hai là nói bốn trường hợp đều dung thông. Viên nói ba thân, nêu một tức ba đều có bốn trường hợp. Vì sao? Vì nếu phân riêng thì báo thân chân chứng cho nên thật, ứng thân giả nói cho nên luống dối, pháp thân bình đẳng, ngăn và chiếu đều có cả hai. Song chiếu cho nên vừa thật vừa hư. Song già cho nên chẳng phải thật chẳng phải hư. Ba thân đầy đủ lẫn nhau bốn trường hợp đều dung, phải phân biệt kỹ.
Ba là nói thêm bớt tự tại, có hai:
Ban đầu y theo nghĩa lập thân, có hai:
8. Hỏi đáp về ba thân:
Một là hỏi ý, do Kim Quang Minh thí dụ ba thân, thân đã ví dụ có thể thêm bớt hay không?
Hai là đáp, chia hai:
- Nói nghĩa lập không lỗi, y theo đề có ba dụ, cho nên lập ba thân để làm sở dụ. Đối dụ tuy như vậy nhưng nếu kia đắc ý thì nhiều ít chẳng câu nệ, hoặc tăng đến bốn thân, hoặc giảm còn một hai, hoặc mênh mông danh số cũng có thể nói không.
- Nói ý kinh vốn thông. Hoặc thêm hoặc bớt thảy ở văn kinh, Thích-ca Mâu-ni là thân thứ ba. Thị hiện mọi cách, nghĩa đương thứ tư, khai ứng xuất hóa là bốn nghĩa của thân. Chữ xuất trong văn nên nằm ở dưới, Phật chân... văn nghĩa tuy có ba, như nay y theo hiện văn được gọi hai thân. Chư Phật tuy có hai, ba, bốn thân, vì pháp nhất chân thâu tóm tất cả, cho nên chỉ một thân, thành lớn vắng lặng, vắng lặng cũng không.
Đã không có các số thì nghĩa là vô thân, hai là dùng thân thí dụ, có hai:
9. Hỏi đáp về thí dụ thêm bớt:
- Hỏi ý, thí dụ có ba chữ để nói về ba thân. Y theo lý nào khiến thí dụ thêm bớt đối bao nhiêu thân?
- Đáp, thí dụ tuy ba chữ nghĩa có thừa thiếu, hoặc thí dụ bốn thân văn nghĩa rõ ràng. Hoặc là hai thì hợp với ánh sáng mà thành một dụng. Đối với thể vàng là hai thí dụ. Hiển ở hai thân hoặc là một, thì giữ chánh, xả phụ, từ gốc trừ ngọn. Chỉ lấy một vàng đối với một thân.
Không thí dụ vô thân, dùng không tham làm vàng, vàng này vô chất là vật rất báu báu người đời. Có thể ví dụ vô thân, số lượng đều quên, là báu Đệ-nhất-nghĩa của xuất thế gian. Dương chấn v.v... Đông quán hán ký, Dương chấn là đông lai thủ. Nói ấp Kinh vương ấp Xương, khiến Vương thầm là Tú tài do Chấn tiến cử. Ban đêm ôm vàng dâng lên Chấn, nói: Không ai biết. Chấn nói: "Trời biết, đất biết, ta biết, ông biết, đã có bốn biết sao nói không ai biết?" Bèn không nhận. Đây do quý ở không tham, tức cho rằng không tham làm vàng, cho nên biết vàng ở đời có tên mà không thật.
10. Phân biệt ba Đại thừa:
Về phân biệt ba Đại thừa, nhân duyên lục Độ, trong ba tạng giáo có lập Đại thừa, mười hai nhân duyên là cành lá Phật thừa, đối Thanh văn là đại, Bồ-tát lục Độ đối Nhị thừa làm đại. Đây là ba hạng đều có sở thừa, tức dê, nai, trâu. Tuy đặt tên Đại thừa mà dụng khác với tiểu mà kia đồng thú hướng đến quả thiên chân, cho nên gọi là biệt. Nghĩa ấy đồng. Bồ-tát Thông giáo và Nhị thừa nhân đồng vô sinh quán, đồng đoạn đồng chứng khác hẳn ba tạng, ba nhân khác xa, cho nên nói tam thừa đồng nương nhất thừa. Một này đã cộng thì Nhị thừa sở chứng, xét. Chẳng phải Trung đạo, Biệt giáo giải thích trung, riêng vì Bồ-tát nói lý tùy đắc, mà lý thừa chỉ là cảnh sở khế, tùy thừa chỉ là trí năng khế. Đắc thừa chỉ là hạnh tự tha. Tam thừa ngăn cách khác nhau, không dung thông nhau, chẳng phải nghĩa viên thừa, ba thứ tức tạng, thông biệt. Đã nói tướng thừa đều là trong, nghĩa đắc cơ viên giáo đắc thừa, cho nên nói thuộc về đắc thừa phương tiện. Như kinh chánh Pháp Hoa nói dê, nai, trâu, ngoài ba xe còn có xe voi, tức là xe trâu trắng lớn ngoài ba xe trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Tên trâu là đồng cho nên Nhất thừa khó hiển, khiến cho tông khác đối với Bồtát thừa chẳng phân quyền thật. Ở đây y theo chánh kinh, tên voi không xen lạm, mới rõ viên giáo là nhất Phật thừa, hoặc dê, nai, trâu, thuộc về đắc thừa đắc cơ tượng thừa kia nay đã thí dụ. Tam thừa viên giáo chỉ nói lý thừa, muốn hiển tùy đắc đều tức là lý. Viên giáo trí hành, là tánh sẵn đủ, tu mà không tu, cho nên trong văn y theo lý mà đặt tên. Hoa nghiêm tứ thừa, bộ ấy tuy không có tiểu cơ bẩm giảo nhưng đâu ngại nói đối với tam thừa thô cạn mà hiển bày viên Phật thừa.
11. Phân biệt Tam-Bồ-đề:
Thỉnh Quán Âm v.v... về phân biệt Tam-bồ-đề thỉnh Quán Âm...: Tam-bồ-đề Hán dịch là Chánh đạo. Kinh luận kia lợi ích chung cho Tam thừa, cho nên phát tâm có ba thứ, tức Thanh văn, Duyên giác, và Bồ-tát. Cả Ba đều dứt hoặc nên gọi là thanh tịnh, đều lìa tà đảo nên gọi là Chánh đạo. Đã cộng với Nhị thừa chẳng phải trí viên thật, thuộc về phương tiện Bồ-đề.
Hoặc duyên chân như Phật trí thần thông, phát tâm làm chẳng phải nương tựa. Kinh Văn-thù Vấn chép: Phát tâm là đó. Là nói ba tâm cách biệt, viên dung là đúng sai. Vì sao? Vì nếu duyên lý chân như thì phát tâm chân tánh Bồ-đề, nếu duyên trí Phật thì phát tâm thật trí Bồ-đề tâm, nếu duyên thần thông thì phát tâm phương tiện Bồđề. Ba đã chẳng dung thông cho nên thuộc về hóa tha phương tiện Bồ-đề.
12. Mười duyên phát tâm Bồ-đề:
Nghĩa chẳng cao rộng chẳng phải như ở đây đã thí dụ. Nếu không phát, phát tức là trí của lý, là viên thật trí. Một phát tất cả phát, bất tư nghì giả, là viên phương tiện, chẳng phải một, chẳng phải tất cả, mà là một mà là tất cả, tức trung của biên, là chân tánh viên mãn ngay nơi một nói ba, ngay nơi ba nói một. Đây không hai không khác với ba đức, là thí dụ ở đây. Phải biết ba thứ viên phát trong kinh Văn-thù vấn. Chẳng phải lìa chân như Phật trí thần thông, chỉ chẳng phải ba xứ đều phát một tâm, hoặc đối với một xứ phát ba tâm, cho nên gọi là thị. Như trong Ma-ha Chỉ Quán phát đại tâm chép: các kinh nói nhiều thứ phát tâm Bồ-đề, xếp vào mười thứ nghĩa là suy lý phát tâm Bồ-đề, thấy tướng Phật phát tâm. Thấy thần thông nghe nói pháp, dạo chơi cõi nước thấy đại chúng, thấy tu hành, thấy pháp diệt, thấy khởi lỗi, thấy chịu khổ. Đối với mười duyên phát tâm Bồ-đề này mà đối với mười xứ đều sinh bốn giải. Do viên đối với ba mà chia ra đúng sai. Do đây mà so sánh với kia. Đâu chẳng phải đúng hay sao? Cho nên duyên với ba chỗ đều phát chẳng dung, thuộc về biệt giáo cho nên là đối tượng để phân biệt.
Ba và một, phát sinh đầy đủ lẫn nhau thuộc viên, cho nên là dụng ở đây nói.
13. Phân biệt ba Bát-nhã:
Về phân biệt ba Bát-nhã, ban đầu vì người đời không biết Bát-nhã là rốt ráo không, ba trí đầy đủ, nghĩa là quên tịch, chẳng soi chiếu các pháp, cho nên thuận theo thế tình, dùng đoạn diệt mà hỏi, nêu lời đáp ở sau giúp cho người học biết thể của Bát-nhã, là ba mắt trí. Nhưng nhãn trí này có thứ lớp, không thứ lớp, cho nên trước nêu thứ lớp, sau nêu chẳng thứ lớp. Thứ lớp tức là trước không, kế giả, sau trung, đều một nhãn, một trí. Trí thì quán ba cảnh rõ ràng. Nhãn thì thấy ở ba đế xét thật, rõ ràng cho nên xét thật, xét thật cho nên rõ ràng, nhân tu chỉ quán quả phát nhãn trí, thứ lớp ba thứ mỗi thứ đều như vậy.
Hai nhãn hai trí, thiên không thiên giả, trong nhãn trong trí ngăn cả không và giả, song chiếu không giả. Hoặc ba chỉ ba quán, nhất tâm viên tu, ắt tam trí ba nhãn nhất tâm viên chứng. Quán tất cả pháp là một tướng, là tướng vắng lặng, là trung trí. Hành loại tướng mạo đều biết, hai trí vậy, Tam trí đã viên, ngũ nhãn đầy đủ. Do pháp nhãn thuộc về mắt thường và Mắt trời cho nên ngũ nhãn và tam trí bình đẳng. Bát-nhã biết như thế, thấy được bờ mé các pháp, sao nói quên tịch chẳng phân biệt các pháp, hoặc đối với quên tịch bất sinh tà mạn. Thì là cái thấy không ngay thẳng giống như Thanh văn. Các ông, hoặc dùng tâm này làm hoại nhân quả sinh ra tà mạn, thì phải đoạt, là kiến chấp đoạn diệt của Ni-kiềntử, Ni-kiền Hán dịch là Ly hệ, vì ngoại đạo này chỉ chấp không, hoặc lõa hình, tự nhịn đói cho là lìa trói buộc.
14. Phân biệt ba Phật tánh:
Về phân biệt ba Phật tánh, trước bác bỏ ba tánh đều ở một vị, thể chẳng không dung, chẳng phải viên ba tánh, kế là dẫn các kinh nói ba tánh viên đầy đủ. Kinh Hoa nghiêm đã chép, một đầy đủ vô lượng, đâu phải duyên liễu chánh có thiếu sót ư? Đại phẩm một niệm muôn hạnh, cho đến kho báu Niết-bàn không thiếu sót, đều là ba tánh đầy đủ. Lý tánh danh tự quán hạnh tương tợ phần chân rốt ráo, mỗi vị đều tức là tam Phật tánh, sâu cạn sáng tối rõ ràng, mỗi pháp tức ba không thiếu.
15. Phân biệt ba thức:
Về phân biệt ba thức: Nếu chia ba thức, Đà-na thuộc về Thanh văn, Lê-da thuộc Bồ-tát, yêm-ma thuộc về Phật. Đây là giáo đạo phân trương, thứ lớp dứt tướng. Như yêm-ma là bản tánh. Vô minh mê cho nên sinh nghiệp chuyển hiện, gọi là A-lê-da. Đây là ba thức thứ lớp khởi tướng đều là giáo đạo, chẳng phải ví dụ ở đây nói. Nếu muốn nói cho tròn đầy thì phải y theo nhiếp luận, vàng, đất và nhiễm ba thứ chẳng lìa nhau.
Cho nên đối với ba bậc Thanh văn, Bồ-tát và Phật trong tâm đều có ba thức. Đại sư còn sợ tìm ví dụ này, gây ra hai pháp chân vọng hợp nhau mà giải, nghĩa là trừ đất còn vàng. Cho đến Phật chỉ có thức yêm-la, cho nên y theo đại kinh, y trí chẳng y thức mà làm đầu mối để hỏi. Vì muốn đáp ra ba thức, là tên khác của ba trí thì đất dụ cho đà-na, là phương tiện Bát-nhã, nhiễm dụ cho lêda, là quán chiếu Bát-nhã. Vàng dụ cho yêm-ma, là Bátnhã tướng thật, cho đến Phật rốt ráo ba thứ tịnh thức, đâu chỉ có một ư? Nhưng nếu không biết tánh có đủ nhiễm ác thì đâu thể khiến cho bảy mươi tám độ cùng nhiễm đến quả bất diệt.
16. Nói về Đạo tiền:
Lại, đạo tiền v.v..., địa tiền gọi là đạo tiền, đều nương phiền não và dùng sinh tử, cho nên tám tâm vương gọi chung là thức. Quả Phật là đạo hậu, chuyển nương hạt giống Bồ-đề của bốn trí, cho nên tám thức chuyển gọi là bốn trí, chuyển thức thứ tám thành trí Đại viên cảnh, chuyển thức thứ bảy thành trí Bình đẳng tánh, chuyển thức thứ sáu thành trí Diệu quan sát, chuyển năm thức trước thành trí Thành sở tác, nên nói chuyển y tức là trí tuệ. Chú thích chưa rõ ràng là ngầm ý bác bỏ. Do kia nói đạo hậu chuyển y, huân thành hạt giống chuyển thành trí tuệ, chẳng nói tánh tám thức là trí mầu. Đây là một đường giáo đạo của duy thức. Chẳng phải thí dụ ở đây, nhưng là luận do Bồ-tát soạn ra, chẳng muốn hiển nói, cho nên chú thích chưa rõ ràng. Như trong các văn, bác bỏ xưa thường nói lời nói này khó hiểu, cho nên biết chưa rõ ràng chẳng khác với khó hiểu.
17. Phân biệt ba đạo:
Về phân biệt ba đạo, trong giải thích trước tuy nói ba đường và ba đức bình đẳng, không hai không khác, nhưng chưa phân biệt tướng của giới bên trong, giới bên ngoài, ba chướng tức lý. Bày chướng đã cạn thì lý sâu khó hiển. Nay phân biệt khiến cho đều rốt ráo, nên nếu hỏi rằng giới bên ngoài như thế nào. Trong đáp có dẫn luận bảo tánh, giới bên ngoài bốn chướng đối mười mười hai duyên. Thể trạng rõ ràng. Ba đường này chẳng y theo cách sinh, chỉ nói về đương niệm, cho nên luận Khởi Tín nói: Bất giác tức tâm động, nói tên là nghiệp, động thì có khổ, quả chẳng lìa nhân, bất giác tức phiền não, động tức là nghiệp, động này tức là khổ, cho nên kết luận rằng quả chẳng lìa nhân. Đây là tướng sinh tử biến dịch. Giới bên ngoài tam thừa đều có chướng này. Nay nói tức chướng toàn thể là đức. Ba chướng là tên khác của ba đức, tức là pháp mà kinh Kim Quang Minh đã dụ.
Phụ văn giải thích có hai:
18. Nêu hai giải thích:
-Đầu tiên, nêu hai giải thích có ba ban đầu đối tiền hiển thắng, có hai, ban đầu tổng đối nghĩa trên phân biệt. Trước lập thí dụ giải thích vì các Sư xưa không biết ba chữ từ pháp mà được tên gọi, cho là thí dụ và sự giải thích ấy chẳng thể thấu suốt pháp môn được thí dụ. Chân-đế tối ưu còn nương Viên biệt. Nhân quả chẳng thông, chẳng xứng pháp tánh huống chi là các Đại sư ư! Đại sư thấy xưa thí dụ pháp chẳng khắp, cho nên đều dùng thí dụ để mô phỏng theo pháp. Lượt thí dụ mười thứ ba pháp, rộng thí dụ tất cả pháp môn. Ngang dọc gồm thâu chẳng pháp nào không đầy đủ, nói lên pháp tánh vô lượng sâu xa. Nếu lập thí dụ giải thích hợp nên như thế. Nhưng Đại sư rất biết ba chữ là pháp, chẳng phải thí dụ. Từ đây tự lập văn phụ đương thể hai thứ giải thích. Trong đây văn phụ bao gồm hai nghĩa. Một gọi thẳng là lý, hai là từ sự dụng.
Hoặc đương thể giải thích, chỉ từ lý lập. Nay muốn y văn trước chê thí dụ, giải thích phần nhiều là nghĩa suy, chẳng bằng y theo văn rõ ràng rất dễ hiểu.
19. Y theo bốn sự để giải thích:
-Hai là y theo riêng bốn sự để giải thích. Hai câu đầu nêu chung bốn việc, từ kỷ tình trở xuống giải thích bốn việc, ban đầu có ba hai câu y theo tình trí mà nói thân sơ. Trụ quán trí trước đều gọi là tình, huống chi là thầy người suy lường, nên nói sơ. Sơ trụ trở lên chứng lý gọi là trí. Huống chi nay cực quả ba nghiệp tùy trí, cho nên nói dùng Phật miệng nói, vì thế nói là thân, hai là bốn thứ hai câu y theo kia đây giải thích xa gần. Vì kia gồm ý nghĩa Kim Quang Minh của thế gian, lệ cho ba thứ pháp môn xuất thế này, cho nên nói viễn, tức văn kinh này bậc Thánh nói là thuyên triệu, lý tánh sự dụng chẳng nhờ người khác cầu, là như nói gần. Đâu thể dưới đây kiết trách bốn việc.
Nói về phụ văn, có hai, ban đầu nói tướng của phụ văn có hai, ban đầu luận chung các phẩm gọi là sự danh, là lý danh, sự là sự dụng.
20. Nói về Kim Quang Minh:
Trong các phẩm hoặc đơn hoặc phức, danh sự rõ ràng, cho nên chẳng phải lờ mờ, chỉ có một văn mà thôi. Hai đích thị một bộ văn tướng có ba, ban đầu là nêu các văn. Lời tựa riêng chép: Lúc bấy giờ, Như lai đi trong vô lượng sâu xa pháp tánh chư Phật hành xứ, vượt hơn sở hành thanh tịnh của các Bồ-tát, là vua của các kinh thuộc về Kim Quang Minh, đã ở trong định pháp tánh mà tuyên bố rằng Kim Quang Minh đứng đầu trong các kinh, một chữ thị là từ ngữ chỉ cho pháp, chẳng phải chỉ cho pháp tánh, lại chỉ vật nào là Kinh Quang Minh ư? Cho nên biết ba chữ gọi thẳng pháp tánh sâu rộng chẳng từ ví dụ. Văn này hiển rõ nhất cho nên nói đầu tiên nêu tên càng được đáng dùng. Phẩm Tuổi thọ phát ra ánh sáng rực rỡ, tuy không có chữ kim, chính là Phật Quang, sắc vàng của thân Phật. Ánh sáng của thân vàng này hoàn toàn từ pháp tánh kinh quang minh sinh khởi, tức là sự dụng.
21. Điềm mộng thấy trống vàng của Tín Tướng:
Trong phẩm Sám Hối, mộng thấy trống vàng ánh sáng chiếu khắp, tức là quang. Phẩm Tán Thán nói tên vua Kim Long Tôn, phụng hiến trống vàng khen ngợi Phật. Những việc này đều từ lý Kim Quang Minh, khởi ở các sự dụng Kim Quang Minh. Hoặc trong phẩm không nói tôn kinh, kim nghĩa là đáng tôn đáng trọng. Quang Minh đã là dụng của thể đâu chẳng phải tôn? Đây là tên đối với Kim Quang Minh lý làm tôn kinh. Trong phẩm Tứ Vương có sáu phen hỏi đáp, lớp lớp gọi là sự, chép đủ văn ấy. Lại, lúc thần vương đốt hương cúng dường kinh, ánh sáng lọng hương chiếu khắp cõi nước của các Đức Phật ở mười phương. Văn nói, đều là do năng lực oai thần của kinh này.
Nói chung ba đời, điềm mộng của Tín Tướng, đã là Phật ra đời tức hiện tại, long tôn thuộc quá khứ, có thể thấy lọng hương khắp đầy. Là sau khi Phật diệt độ cúng dường kinh, thuộc vị lai, vì Kim Quang Minh pháp tánh sâu rộng cho nên được sự dụng ba đời khắp thông.
Kiết khắp một kinh, hai kiết nêu bày vô lượng sâu xa, có hai, ban đầu chánh kiết nêu bày, tay cầm lò hương một chỗ sinh khói, cõi Phật mười phương đều có mây che, đều phát ra ánh sáng. Lại kim long kiếp xưa phát nguyện Kim Quang Minh, Tín Tướng hiện tại chiêu cảm tướng Kim Quang Minh. Nhân vương vị lai làm Phật sự Kim Quang Minh, hoặc là danh, hoặc là sự hằng ba đời là dọc, khắp mười phương là hoành. Những thứ này đã là sự của tức lý, cho nên gọi là pháp tánh Kim Quang Minh lý vô lượng sâu xa.
22. Y theo kinh đặt tên này:
Là khuyên xét nghĩ, lý danh sự dụng nhiều lớp nêu bày, ý Phật khiến người hiểu Kim Quang Minh lý sự chẳng hai. Vì sao người dịch chẳng phụ thêm văn kinh giải thích đề mục ấy. Thuận tình tìm dụ bỏ thân tìm sơ, cho nên khuyên người hiểu biết hãy xét ý y theo kinh đặt tên này.
-Ba là so sánh đồng với các kinh, có hai, ban đầu nêu chỉ sự lập danh, đạo cán sự, Phật thấy thân cây lúa khô liền nói mười hai nhân duyên sinh diệt. Nhân đó gọi kinh Đạo cán. Tượng bộ sự, tức là kinh Vô Sở Hy Vọng, một tên là kinh Tượng Bộ, các kinh đã nói là chỉ cho việc ấy, để đặt tên kinh. Kinh này nói rõ việc Kim Quang Minh, sao chẳng tức lấy việc này làm tên. Lại cho rằng kim là thế bảo, thể có ánh sáng, dụ cho ba đức, đâu chẳng phải rõ ràng trái với ý chỉ của Phật? Hai là so sánh với việc của văn kinh, lại như các kinh nói đạo cán... tức gọi là việc của kinh Đạo cán. Kinh này nói rõ ánh sáng sắc vàng, đâu chẳng được gọi là việc Kim Quang Minh ư? Đây là dùng kinh gọi sự, ý khiến dùng sự gọi kinh, hiện hành tức là kinh Tượng Bộ, trở xuống là lầm chữ. Các sách cũ đều là chữ sự, mới là dùng kinh gọi sự.
23. Giải thích đương thể:
Đương thể giải thích, có hai:
-Nêu nói về đương thể, đương là chủ đương, thể tức là pháp tánh, nghĩa là tánh chủ thể gọi là Kim Quang Minh. Ở đây đối với thí dụ dùng kia hiển bày đây, thì tên ba chữ từ người khác mà lập, chẳng phải tên tự thể của pháp tánh, nay y theo văn kinh thấy tên ba chữ, gọi thẳng là pháp tánh, tức là Phật đi trong pháp tánh mà ở trước đã dẫn, bèn tuyên bố là Kim Quang Minh. Kinh đã chẳng nói như Kim Quang Minh, xét chẳng thí dụ, là ý sâu xa của các Đại sư kinh gia cho nên lập ba chữ là tên đương thể. Lại thầm khế hợp với các văn trong kinh.
24. Hỏi đáp về chia văn giải thích:
Hỏi: Ở đây đương thể giải thích cũng là y theo kinh, hoàn toàn đồng phụ văn ấy sao lại chia hai giải thích?
Đáp: Trước bác bỏ thí dụ giải thích chỉ là nghĩa suy ra không có một văn, không mà gượng dùng có mà chẳng vâng theo. Nay đương thể giải thích nếu chẳng y theo văn thì thành tự bác bỏ, cho nên biết đây giải thích chẳng phải không y kinh. Được làm lưỡng thích, bởi vì có gồm riêng. Vì sao? Vì trong bộ này lớp lớp nêu tên lớp lớp nói sự, chính phụ văn giải thích đề, phải danh sự cả hai đều phụ. Sự tức sự dụng, nghĩa là sáng sáng màu vàng, danh tức là lý danh, gọi thẳng pháp tánh. Như đầu tiên nêu danh xét là vời lý. Đây là giải thích ở trước gồm cả danh và sự, tuy là bao gồm cả hai, nhưng lý danh ấy chưa hề bày nói. Nhượng nay đương thể trình bày tướng kia, cho nên hai giải thích tuy thông suốt y kinh mà đương thể giải thích riêng ở lý danh.
25. Giải thích: Hai là giải thích, có hai:
Đầu tiên là trái với thường tình lập ra chánh nghĩa có hai, ban đầu tựa xưa, dựa vào tục gọi là chân. Đại sư muốn đặt ba chữ đề kinh là tên Pháp tánh, còn là thường tình, chấp chặt Chân-đế vốn không danh tự. Tất cả danh ngôn đều là thế đế. Bậc Thánh nói chân. Bởi nương thế danh, danh thật vô danh, cho nên dẫn Thành luận chứng vô danh chân thật. Nếu nghĩa này thành thì Kim Quang Minh phải từ thí dụ lập, cho nên nay thuận theo lý ngược với thường tình này, Chân-đế vô danh, tục đế hữu danh. Nay đặc biệt giải thích rằng: Tục vốn không có tên tùy chân đặt tên, tức là nương vào chân danh, danh tục vô danh.
26. Hỏi đáp về tướng giáo:
Hỏi: Nay phá lập, hoặc chân hoặc tục, hữu danh vô danh, đó là tướng Nhị đế của giáo nào?
Đáp: Hễ nói về Nhị đế thì phải biện luận ba phen, một là nhị đế tùy tình, hai là nhị đế tùy trí, ba là tùy tình trí nhị đế, tức tình trí cùng đối hợp nói nhị đế, ba phen này có chung có riêng. Riêng thì mỗi giáo đều nói ba phen. Tùy tình thì phàm vị tự nói nhị đế, tùy trí thì Thánh tự nói nhị đế, tùy tình trí thì Thánh vị nhị đế. Do tùy trí cho nên hợp thành Chân-đế. Phàm vị nhị đế do tuy tình cho nên hợp thành tục đế. đây chính bốn giáo đều luận ba phen. Nói về chung là dùng ba giáo trước và các phàm phu là pháp có thể suy nghĩ bàn luận, cho nên đều xếp vào nhị đế tùy tình, viên giáo trước sau là pháp không thể suy nghĩ bàn luận, cho nên đều xếp vào nhị đế tùy trí, nhị đế tùy tình gộp lại gọi là tục, nhị đế tùy trí gộp lại gọi là chân, cho nên tên nhị đế tùy tình nay nói Chân-đế hữu danh, tức và viên giáo trước sau nhị đế. Vì không thể suy nghĩ, bàn luận cho nên chỉ gọi Chân-đế. Chânđế này đầy đủ tất cả đức, vốn có tất cả danh nghĩa chân thật, cho nên nói Chân-đế hữu danh. Nói tục đế vô danh, tức giáo trước và các phàm phu đã có nhị đế. Do có thể suy nghĩ bàn luận cho nên chỉ gọi là tục. Tục này hư giả cạn hẹp, cho nên là danh nghĩa không chân thật, vì vậy gọi là tục đế vô danh. Điều ở đây nói là bậc Thánh này đáng kính mến thì viên giáo tùy trí chân danh, cúi lập phàm phu tùy tình tục hiệu.
27. Xứng lý nêu lên:
Kế là xứng lý ủy nêu lên, có hai: Một là y theo nghĩa ủy thí. Hoặc luận đại Thánh thì chân danh tục có thời tiết gì? Nay nêu kiếp sơ lập danh sự hiển thành là mở đầu kiếp còn tựa như kiếp không, cho nên nói rỗng thênh. Muôn vật tuy lập đều chưa có tên gọi, các bậc Đại Thánh đã chứng chân pháp. Đầy đủ tất cả rốt ráo danh nghĩa mới ứng sinh trong ấy cúi thuận phàm tình. Thấy đối với muôn vật có nghĩa cạn thấp. Cho nên chân pháp sâu xa gọi là nghĩa. Lập ở thế đế tên gọi cạn thấp như con đường ở đời ít có năng thông, cho nên con đường như lý rốt ráo. Gọi là đối với đạo cạn thấp ở thế gian, như vàng bạc ở thế gian phàm tình rất quý, của báu như lý rốt ráo đáng quý, gọi tên vật báu mà phàm tình quý trọng, cương và hưởng thảy đều như vậy.
28. Hỏi đáp về chân tục:
Hỏi: Như núi Linh Thứu kiếp kiếp đều có, chính là bậc Thánh xưa gọi tên nay xét biết muôn vật đều là dùng xưa mà đặt tên cho nay. Nay kia bỗng nói thì gọi chân là tục phải không?
Đáp: Bậc Đại Thánh thường dùng năm thứ mắt chiếu soi bình đẳng, bốn tất-đàn trùm khắp các căn cơ. Nếu chỉ duyên quá khứ hiện tại, không thì chân pháp, bậc Thánh chỉ có mắt thường và mắt trời, không có ba thứ mắt còn lại. Chỉ dùng Thế-giới-tất-đàn không dùng ba tất-đàn còn lại. Thật ra chẳng đúng. Chẳng phải dùng hai tướng mà thấy được cõi chư Phật. Xét cơ tức chiếu lý. Chiếu lý tức xét cơ, đâu có một việc không y theo chân pháp mà thi vi ư? Cho nên biết chẳng bắt chước đem xưa gọi nay, mà hoặc xưa hoặc nay đã có danh tự đều là chân lập. Như Trung quốc gọi bậc Thánh lập pháp.
29. Dẫn giáo thành chứng:
Dẫn giáo thành chứng, có năm:
Ban đầu dẫn Hoa Nghiêm thì chân lập tục. Bậc Thánh thấy xuất thế chân như trong lý, vốn đầy đủ cày ruộng đào giếng nghĩa chân thật. Chính dạy chúng sinh cày ruộng thế gian làm giếng thế gian.
Hai là dẫn Đại kinh có đầy đủ tên thật. Chư Phật, Bồ-tát đầy đủ chân pháp lập ra tên gọi thế tục nhưng thuận theo tâm cạn cợt hạn cuộc của chúng sinh. Đặt tên gọi vật, hay vời lấy danh tùy pháp chân lập, mà kia đã vời lấy nghĩa không chân thật. Vì sao? Vì như y chân gọi đạo kỳ thật chẳng thể, thông hiểu hết các pháp, cho nên nói thế đế có danh không thật. Chỉ có như lý rốt ráo chẳng che lấp, thông đạt tất cả, cho nên nói Đệ-nhấtnghĩa đế có danh có thật. Như y chân gọi báu không thể trọng nghĩa. Vả lại, bảy báu thế gian chỉ được uế tục tâm sinh ái trọng, kẻ sĩ liêm khiết thấy như phân đất, huống là hàng tam thừa ư? Duy có như lý các Đức Phật tôn trọng. Như nương chân gọi vọng, há có nghĩa bao gồm muôn hữu. Chỉ có lý chân như khắp gồm chúng sinh và Phật. Lưới kinh mười phương, như y chân gọi hưởng, đâu thể nhất thời khắp ứng các duyên, chỉ có như lý không suy nghĩ, không tạo tác, mười cõi cơ khấu nhất thời khắp ứng, cho nên gọi thế đế có tên không nghĩa.
Đệ-nhất-nghĩa đế có tên có nghĩa.
Ba là dẫn đại luận tùy lý đặt tên. Như Đệ-nhất-nghĩa lý chẳng có danh nghĩa, làm sao lập ra tên gọi, danh tục ý ấy sáng tỏ.
Bốn là dẫn tịnh danh sự do lý tạo ra. Đã dẫn văn kinh đại ý nói về từ ý tạo sự, mà đã tạo sự có tu tánh mê ngộ, cho nên diệu lạc nói pháp tánh vô trụ vốn lập tất cả pháp. Có đủ bốn trọng, nghĩa là lý thì tánh tức duyên liễu, sự thì tu đức ba nhân, mê thì ba đường trôi lăn. Ngộ thì trong quả thắng dụng. Nay nói bậc Thánh kính thì chân pháp cúi lập hiệu tục. Bởi chứng lý chân như, lý đầy đủ các pháp, chẳng chấp một tánh, cho nên thì lý này đặt tên thế tục, cho nên chẳng thể lấy ba đường trôi lăn làm pháp được lập.
Chính phải từ trong bốn quả thắng dụng làm pháp sở lập.
30. Nêu Thánh giáo khuyên chúng sanh kính tin:
Năm là nêu thành giáo khuyên chúng sanh, sinh tín, hai dụng nghĩa này lập danh đương thể. Trước bác bỏ Chân-đế vô danh xưa lập, hiển ở chân có danh nghĩa nay lập. Rộng dẫn kinh luận chứng chân có tên, nghĩa này đã thành, mới biết kinh đề chữ Kim Quang Minh từ đương thể mà lập, là pháp chẳng phải dụ, cho nên y theo đương thể giải thích đề ba chữ, văn có ba:
Ban đầu nói kinh từ đương thể đặt tên. Đề gọi là Kim, có thể trọng làm nghĩa. Rõ ràng đối với pháp tánh nhiệm mầu khó nghĩ, các Đức Phật đã là thầy tối tôn tối trọng. Quang nghĩa là chiếu sáng rõ ràng. Rõ ràng ở pháp tánh đương thể giác chiếu, khắp tất cả mọi nơi đều rõ ràng. Minh, nghĩa là ứng ích, rõ ràng ở pháp tánh đương thể tức là từ bi vô duyên. Hễ đối liền ứng, nhổ khổ cho vui. Nên biết pháp tánh Kim Quang Minh các nghĩa mới rốt ráo. Như lai nhập định dạo khắp pháp tánh biết pháp tánh rốt ráo này đáng trọng, rốt ráo chiếu soi rõ ràng, rốt ráo năng làm lợi ích, tức nương vào ba nghĩa, xướng tên ba chữ, dùng thẳng tên gọi này đối với pháp tánh.
31. Nói về Kim Quang Minh thế gian:
Cho nên chẳng nương dựa Kim Quang Minh thế gian để làm dụ. Đã biết ba chữ là pháp chẳng phải thí dụ. Đó là tên một thứ ba pháp. Đương thể pháp tánh tên Kim Quang Minh. Đương thể pháp tánh tên pháp thân Bátnhã giải thoát, cho đến đương thể pháp tánh gọi là khổ hoặc nghiệp. Mười ba pháp đều thường, lạc, ngã tịnh. Kim Quang Minh này nhất nhất đều có đủ thường, lạc ngã, tịnh. Ba pháp ấy chẳng dọc chẳng ngang, Kim Quang Minh này cũng chẳng dọc chẳng ngang, cho nên không hai không khác với tất cả ba pháp nhiệm mầu. Trước thuận các sư, dùng ba nghĩa của vàng ở thế gian. Thí như đối với pháp tánh mười thứ ba pháp và tất cả pháp. Nay ngay nơi giải thích thể, dùng Kim Quang Minh gọi thẳng pháp tánh, cho nên mười thứ trước và tất cả pháp đều là Kim Quang Minh quyến thuộc của ba thứ pháp môn. Hai hạng người từ sở chứng đặt tên. Kinh đề ba chữ chính là ba thứ pháp môn của pháp tánh, cho nên Bồ-tát phần chứng ba pháp môn này, từ pháp đặt tên gọi. Phật bèn rốt ráo ba pháp môn này, từ pháp đặt tên. Lấy đây nghiệm biết, tên gọi ba chữ đương thể rõ ràng. Ba, hai hỏi đáp phân biệt người và pháp, có hai, ban đầu xét về người có hai, trước bắt chước theo bậc Năng nhân, hai y theo Thông Biệt làm đáp, có hai ban đầu nói biệt xưng thành thực đồng với chư Phật.
32. Giải thích tên gọi:
Thích-ca Mâu-ni tuy là tên gọi riêng, riêng này có đủ chung, chẳng lẽ Đức Thích-ca không chứng ba pháp. Từ thông chứng cho nên thực đồng với chư Phật. Từ nhân duyên riêng gọi là Thích-ca.
Hai là nói về tên chung, đều đầy đủ ba pháp, có ba, ban đầu dẫn một văn nói đồng có ba nghĩa của Kim.
Vô lượng Bồ-tát chỉ khen ngợi Thích-ca, đức được khen ngợi đồng với chư Phật tức sắc vàng sáng chói là thể của Phật pháp, đầy đủ ba thứ diệu đức Kim Quang Minh thì không hai không khác với chư Phật, chẳng phải đời xưa vàng ở thế gian có dụng quang minh, so với Phật, ở trước hỏi rằng pháp tánh có đủ ba nghĩa là đáng trọng, chiếu soi, ứng ích, cho nên gọi là Kim Quang Minh, cho nên tên này còn gọi là Pháp tánh. Sắc vàng sáng chói trong đây nói chính là sắc pháp, đâu phải nghĩa ba thứ pháp tánh. Trước y theo nghĩa, nay y theo sắc. Vì sao đồng là ba thứ pháp môn?
33. Hỏi đáp lý do đồng là ba thứ pháp môn:
Đáp: Ba nghĩa trước đều dứt bặt suy nghĩ bàn luận gọi là Đệ-nhất-nghĩa. Nay văn khen ngợi sắc chẳng dọc chẳng ngang gọi là sắc mầu nhiệm. Sắc này nghĩa này cách nhau bao nhiêu? Sắc mầu Chân thiện và Đệ-nhấtnghĩa không, từ khác mà thể đồng. Kinh Lăng-nghiêm chép tánh hỏa chân không, tánh không chân hỏa. Luận Khởi Tín nói trí tánh tức tánh sắc, tánh sắc tức trí tánh. Lại, nên biết, nay khen ngợi sắc thân màu vàng kim, nói diệu là đức giải thoát, giải thoát đều có đủ pháp thân Bátnhã. Phải rõ hai đức chẳng lìa sắc thân, tức sắc phi sắc, phi sắc chẳng phải chẳng phải sắc, sắc vàng mầu nhiệm, ngay nơi chẳng phải sắc chẳng phải chẳng phải sắc gọi là sắc trung đạo, là Pháp thân. Diệu là phi sắc Bát-nhã. Nói là ứng sắc giải thoát. Chẳng được ý này, thì đối với sắc thân khen ngợi thể ba pháp đồng với chư Phật ư?
34. Dẫn hai văn nói về đồng chứng ba pháp của tánh:
Dẫn hai văn nói về đồng chứng ba pháp của tánh: Đức Thích-ca Mâu-ni thật đồng với chư Phật, tất cả ba pháp đều đồng nhau. Vả lại, nêu kinh này và kinh Hoa Nghiêm hai xứ ba pháp, nói về đồng tướng. Nếu hai, ba này đồng thì tất cả chẳng khác, thể tức pháp thân đồng. Ý đã là trí, trí năng hợp thể, tức ứng thân đồng. Sự là sự dụng, tức hóa thân đồng, chung một pháp thân. Lại nói một thân, là nhắc lại pháp thân và trí ở trên đều là một. Mười Lực, bốn Vô úy và sáu Thông ba đạt, tất cả pháp môn thể có cả ba đức. Nếu từ sở chứng tức đức pháp thân, nếu từ năng chứng tức là đức Bát-nhã, hoặc dùng hóa vật tức là đức giải thoát.
Nay văn này đã lấy một thân một trí để nói về hai đức, cho nên lực vô sở úy ở hóa dụng phải thuộc về giải thoát. Hai, ba pháp này đối với Kim Quang Minh, dường như dùng pháp mà đối với dụ. thật ra chẳng đúng. Do trước dẫn giáo đặt ra ba chữ này là chẳng phải pháp dụ, cho nên nay dùng ba thân ba đức, so sánh với ba thứ pháp môn Kim Quang Minh, rõ ràng đối với chư Phật đều đồng chứng đắc, sợ cho là thí dụ, cho nên văn kiết nói về vàng ở thế gian chẳng phải giả còn nương tựa, huống chi là Phật pháp.
35. Nói về của báu nhiệm mầu:
Ba là Dẫn văn đặt đề kinh này chẳng phải từ thí dụ lập. Nói về của báu nhiệm mầu, tên Kim là báu, đều là đáng trọng nghĩa. Đều là ngay nơi thể mà được tên. Báu Pháp tánh này đầy đủ ánh sáng, tức là nghĩa chiếu liền thích ứng làm lợi ích chẳng mượn báu đời xưa làm ví dụ.-Nghiên cứu pháp, có hai:
Lập chấp, thí dụ để hỏi. Dùng phụ văn giải thích và đương thể giải thích, đều y theo kinh nói. Cả hai phụ lý danh và sự dụng, được gọi là phụ văn, riêng phụ lý danh là gọi đương thể, cho nên hai giải thích đều y theo văn kinh. Nên ở đây đặt câu hỏi. Xưa chỉ từ ví dụ, đâu được đổi khác mà y theo văn. Sửa đổi là gượng, cũng giả dối, nghĩa là gượng y văn kinh giả hiển nghĩa khác.
36. Y theo cả hai để đáp:
-Y theo để đáp, có hai:
Một là đáp song tồn. Nay giải thích đề kinh có hai ý: Một là thuận theo lời Phật cho nên y theo văn giải thích. Hai, là đối với các Đại sư xưa cho nên làm thí dụ giải thích. Nói đối với các Đại sư xưa là do thấy ba thầy chẳng khéo dùng thí dụ, thí dụ chẳng khắp, trái với pháp tánh, cho nên nêu thí dụ giải thích. Nói đầy đủ nghĩa pháp tánh sâu rộng mà đối hình. Như thế dùng thí dụ tuy không kinh y cứ nhưng vẫn có lợi ích. Cho nên hai đường chẳng nghiêng bỏ một bên nào. Ông chuyên chấp thí dụ thì bỏ thân tìm sơ, nay ta cả hai đều còn thì thân sơ đều đắc. Hai bị hai căn tức giải thích hàng phục nghi ngờ. Sợ người nghi rằng y theo văn chia hai giải thích, đã rất thân thiết, sao phải còn một thí dụ để giải thích, cho nên dùng trùm căn lợi độn để đáp... còn thí dụ giải thích, là nghĩa độn căn, do độn căn cho nên không thể hiểu thẳng. Chữ Kim Quang Minh là tên pháp tánh. Muốn trùm khắp căn cơ này, thì phải dùng ba chữ làm vàng ở thế gian có dụng quang minh.
37. So sánh tất cả ba pháp viên dung:
Về chẳng lìa nhau. So sánh tất cả ba pháp viên dung. Nếu y theo văn chia hai giải thích là người lợi căn, do lợi căn cho nên giải tánh đầy đủ tất cả danh nghĩa. Biết kia có khả năng thí dụ vàng ở thế gian, quang minh vốn sáng không có danh nghĩa. Thánh thì chân pháp là danh, cho nên nói lợi người tức pháp làm thí dụ. Còn biết tức pháp làm dụ, thì đâu cần dùng thí dụ để suy nghĩ pháp, cho nên dẫn hai văn của kinh này làm chứng. Trú pháp tánh cho nên tức Kim Quang Minh mà được thấy Phật, cho nên biết pháp và Kim Quang Minh Thích-ca Mâuni, tên khác mà thể đồng, thấy thì đều thấy. Đây là chứng lợi người, giải thích ba chữ là tên pháp tánh. Nhưng kinh đã bị chẳng phải độn căn lợi căn, cho nên phẩm Không chép vì độn căn cho nên khởi tâm đại Bi. Phật nói kinh này là trùm khắp hai căn, cho nên thông kinh là giải thích đề ba chữ, cũng phải hai lần nói, hướng về lợi độn, lại chê theo thí dụ như giữ gốc cây. Khen y văn, huyền giải thỏ mặt trăng chẳng phải ngón tay giữ gốc cây.
38. Quán hạnh giải thích:
Hai là Quán hạnh giải thích, văn này và ở trước một phen hỏi đáp và sau nói lại nghĩa đế vương. Xưa hai Sư
Thanh và Mẫn nói rằng được bản cũ không các văn này, đó là do người sau chế thêm. Nay vốn là bản lược. Hẳn là người xưa không thể hiểu sâu thuyết cảnh quán, cho nên dứt bỏ. Dùng nay nghiệm xưa, người mê muội có thể biết. Lại, e đại sư thường giảng kinh này. Môn quán hạnh kia có khi chẳng nói, nghĩa Đế vương tiến không vậy, cho nên văn trước nói; hoặc nói không nói đều cũng không ngại. Ghi chép tùy lúc, hoặc đầy đủ, hoặc thiếu sót. Để có một chỗ còn ở văn lược.
Vì quán kia nói đối cảnh dụng tâm, ý thú khó thấy, và nói về giáo nghĩa, hoặc ít chẳng đồng, dòng hiểu biết cạn cợt đã làm mờ tối văn rộng. Tình cờ gặp được bản lược gốc bèn sinh trệ ngại, hình ở chương cú bỏ quán tâm này, tôi sớm đưa ra giải thích, khó vực dậy tông ký, gi-úp nghĩa chánh này. Bọn ấy chống đối luận nhân số cùng bên, bấy giờ nghĩa vọng phá đều sạch hết. Gần đây có ngài Cô Sơn Đại viên, đã xét chỗ gánh vác có công năng bác bỏ nghĩa đọa, trải qua hơn mười năm riêng cấu thành bốn ý bác bỏ văn này.
39. Bác bỏ từ ngữ cục mịch:
Một nói là từ ngữ cục mịch, hai là nghĩa hời hợt, ba là trái lý, bốn là việc lầm. Nay nghĩ hậu học gặp huyễn loạn kia, cho nên không đạt được đã dẫn mà giải thích. Kia bác bỏ từ ngữ cục mịch rằng: ta xem từ ấy rườm rà mà ít quan trọng, chất thì thiếu văn. Nếu lưu tâm giúp người ngu đọc, thì biết lời nói kia chẳng phải lời nói vừa rồi, biết lời ấy chẳng phải lời của người vừa rồi, thì chân ngụy sẽ phân biệt được, đâu đợi chuyên tâm, Phật học có công năng dứt bỏ, phải quấy, giải thích rằng khéo léo vụng về của từ làm sao làm phép tắc để y cứ. Tình như cho là quấy đẹp cũng thành xấu.
40. Nói về quán hạnh:
Bởi mê mờ nghĩa sâu xa của quán tâm này trở thành phân biệt vô ngại, cho là bàn luận khinh bỉ. Lại, văn này nói về quán hạnh, kinh điển nói về tâm yếu, cho nên từ ấy chuộng thật, không chuộng bóng bẩy. Huống chi trong các bộ văn chất xen nhau, trường hợp ấy rất nhiều, Chẳng muốn y cứ. Nếu chấp một lời nói mà hại cho chánh nghĩa thì ở đây chỉ vì việc nhỏ mà chẳng rõ dụng lớn. Như nghĩa sơ đẳng có ba, đã đều có chỗ bác bỏ, đợi đến chỗ ấy mỗi việc đối luận. Văn có hai, ban đầu là nêu, đối với giáo nghĩa ở trước tức ngay nơi nghĩa của hai môn giải hạnh. Trước y theo thí dụ nói về mười thứ ba pháp.
Phụ văn cả hai phụ, lý sự hai văn, ngay nơi thể riêng rõ ràng, sáng tỏ lý tánh, tuy đều sâu rộng mầu nhiệm viên dung. Nhưng y theo giáo mà luận về Phật pháp. Làm cho người tin hiểu, nên Đại sư nói: hành nhân thời nay đã không có mắt trí, nên dùng tín giải phân biệt đồng khác. Như trước sinh khởi mười thứ ba pháp mà có hai phen. Phen trước y theo giáo, sau y theo Quán. Y theo giáo thì nói lên ba đức, thứ lớp sinh khởi chín thứ giáo pháp, cuối cùng đến ba đường. Y theo quán thì bắt đầu đổi ba đường, thứ lớp sinh chín thứ pháp quán. Cuối cùng gom về ba đức, cho nên giải thích mười pháp và phân biệt mười pháp đã là sinh giải, đồng thời y theo thứ lớp mà giáo sinh khởi. Kim luận quán pháp là thành hành.
41. Nói về mười pháp:
Mười pháp được nói là y theo thứ lớp mà quán sinh khởi, cho nên biết vị trước phen sau sinh khởi. Ý ở mười pháp nay thành quán. Lại nay quán giải mười thứ ba pháp, chẳng riêng thành hạnh thảy đều hiểu sâu. Vì sao? Vì y theo quán môn nghiên cứu tâm có đầy đủ pháp, cho nên giúp cho nghĩa viên dung của mười pháp, càng thêm sáng tỏ, vì thế Đại sư vì thành mắt trí, nên lập quán giải thích. Ấy cho nên nêu lên rằng quán tâm giải thích tên. Lại nữa nên biết trước ngay nơi thể giải thích. Tên của định ba chữ Kim Quang Minh chẳng phải dụ cho pháp này. Nay phụ quán mười thứ ba pháp đều nghiên cứu pháp tánh Kim Quang Minh. Cho nên mười xứ đều nêu ba chữ, đều chẳng phải được cho ý này, đã tìm thêm văn ấy, mới lược thấy được chỉ thú quán tâm.
Trong giải thích có ba:
1. Nói về lý do quán tâm:
Ban đầu nêu hai câu hỏi đáp nói về lý do quán tâm, có hai:
Một là nói giải phải do hành thành cho nên đối với tâm tác quán có hai, đầu tiên nêu câu hỏi, trước đã rộng y theo thí dụ phụ văn đương thể, giải thích Kim Quang Minh là nói lên pháp tánh sâu rộng viên dung. Ở đây sao lại lập quán tâm giải thích ư?
Hai là giải thích nêu ra hai, ban đầu giải thích, đoạn văn này phải hiểu được ý cao thấp tâm Phật, mới khỏi nghi tình. Diệu huyền nói Phật pháp rất cao, pháp chúng sinh rất rộng. Tâm ban đầu là khó, tâm Phật và chúng sinh ba pháp này không khác nhau. Quán tâm thì dễ. Nay trên đây chẳng thể khai phát kho báu của tu thân, là nói pháp Phật rất cao. Từ nay muốn trở xuống nói quán tâm thì dễ. Trên đến đây,... tức trước thí dụ... giải thích Kim Quang Minh, mỗi mỗi đều dọc suốt ba vị, bao trùm khắp các pháp. Nói chúng sinh đều như Bồ-đề Niết-bàn, bản tánh đầy đủ. Đây là nói pháp tánh vô lượng sâu xa, mà chỉ là pháp của Phật đã dạo qua. Phật là bậc Thánh.
2. Kim Quang Minh là của báu của bậc Thánh:
Kim Quang Minh là của báu của bậc Thánh. Còn hơn sở hành thanh tịnh của Bồ-tát, đâu phải là trí phần của phàm phu. Nếu chỉ nói về danh cú trên thì không thể quán sát tâm tánh của mình, cho nên đối với bậc Thánh và của báu của bậc Thánh, có lợi ích gì ư? Cho nên dẫn hai dụ, bác bỏ phần nhiều người nghe không quán trí. Chim Anh võ học nói, Điển Lễ chép: Anh võ nói được nhưng chẳng lìa loài chim bay. Tinh tinh nói được nhưng chẳng lìa loài cầm thú. Người mà vô lễ chẳng phải cũng là tâm cầm thú ư? Nay chỉ xưa dụ về không quán, luống học lời Thánh chẳng lìa tâm phàm phu, làm người đếm tiền, kinh Hoa Nghiêm chép thí như người nghèo cùng, đêm ngày đếm tiền cho người mà tự mình không có nửa đồng.
Nghe nhiều cũng như vậy, nay muốn bình đẳng, nhiếp Phật pháp ở trước vào tâm thành quán, tâm là tâm tánh, hoặc ấm, hoặc nghiệp, hoặc phiền não... Tức tâm địa phàm phu, chính đương thể ba chướng là Kim Quang Minh, cho nên nói châu báu, đây là lập tâm làm cảnh nói về lý. Muốn cho hành giả ngay nơi nghe mà tu, khai phát vật báu Kim Quang Minh tự mình, để tránh khỏi việc học nói đếm tiền.
3. Dẫn chứng Kinh: về dẫn chứng:
Ban đầu dẫn kinh Tịnh Danh: Chư Phật giải thoát là ba giải thoát, cùng mười thứ ba pháp chẳng nhiều chẳng ít. Đây là pháp Phật. nếu duyên Phật tu thì thêm niệm lự, lý khó hiển được, cho nên Phật nói yếu môn giúp các chúng sinh quán tâm hạnh mình là không, giả, trung, thì ba giải thoát đương xứ sẽ phát hiện. Đây là tâm và Phật không khác, quán tâm thì dễ. Lại dẫn giải thích luận. Luận ấy quyển chín mươi ba nói rằng có tuệ không học rộng, cũng không biết tướng thật.
Thí như trong chỗ tối, có mắt mà không thấy, học rộng không trí tuệ cũng không thấy tướng thật, thí như trong chỗ sáng, có đèn mà không soi chiếu, không nghe, không trí tuệ, thí như trâu mình người. Cho nên đại luận chép như người sinh ở biên địa nước An Tức, tuy sinh ở cùng có văn hóa lưu hành cũng không thể giáo hóa, căn chẳng đầy đủ chi chẳng hoàn toàn chẳng biết nghĩa lý, mê đắm tà kiến... đều gọi là trâu mình người. Có nghe có trí tuệ là lời nói nên thọ, như người có mắt mặt trời chiếu sáng thấy các thứ hình sắc. Ở đây cũng như vậy, hoặc nghe trên đây các thứ giải thích Kim Quang Minh, không quán tâm mình, tức là câu học rộng không trí tuệ. Nếu chỉ quán tâm, chẳng nghe thuyết viên dung tức là câu có tuệ, không học rộng, thuộc về mười thứ ba pháp vô lượng sâu xa trên đây. Quán sát tâm tánh hiển bày Kim Quang Minh tức là câu có học rộng có trí tuệ.
Có mắt ba quán thì mắt viên giáo chiếu soi, cho nên thấy tam đế các thứ sắc, hai là nói tâm là hành yếu: Quán phải nghiên cứu tâm, có hai:
Ban đầu hỏi theo tâm sở quán tâm vương nếu y theo ba khoa mà nói đến đi, thì bỏ giới nhập chỉ quán năm ấm. Lại đối với năm ấm mà phân biệt bốn quán thức. Đại sư nói về quán thường luận về phân biệt cảnh, bỏ trượng lấy thước, bỏ thước lấy tấc. Nghĩa đã rất dễ hiểu, cho nên nay chỉ y theo quán tâm làm câu hỏi. Đã nói rằng quán tâm năm ấm trừ sắc cả bốn đều thuộc về tâm. Vì sao bỏ ba mà riêng quán thức nhưng đặt ra câu hỏi này khiến biết quán cảnh chỉ ở thức ấm. nghĩa thứ hai trong bốn ý của Ngài Cô Sơn đầu tiên là bác bỏ văn này rằng: Nay các nhà y theo hành phụ pháp gá việc trong ba thứ quán. Chỉ y theo hành quán để phân biệt ấm cảnh, hai thứ còn lại hoàn toàn chẳng phải quán ấm. Chỉ gá việc nhiếp pháp, nói về lý quán. Nay phụ thêm pháp quán, chỉ nêu nhiếp thẳng ba pháp để quy về ba đế mà phát bỏ câu hỏi về một trong ba quán.
Xét có lẽ là do người sau thêm vào giải thích rằng: nghĩa so sánh lập phụ pháp, quán rằng: Nhiếp tướng các pháp vào một niệm tâm, để làm viên quán. Vả lại một niệm tâm đâu chẳng phải ấm ư? Đã quán sát ấm thì phân biệt có lỗi gì? Pháp Hoa văn cú gá vào núi Linh thứu quán sát năm ấm. Ký nói: các cảnh quán khác chẳng ra khỏi năm ấm. Nay núi này... y theo ấm tiện, cho nên trong các văn nói thẳng cảnh trí. Lại nói: cũng nên ở đây nói về phương tiện chính tu để phân biệt cảnh và tâm. Các quán cảnh đã chẳng ngoài năm ấm, thì biết gá việc và phụ pháp quán, đều là quán ấm. Nói thẳng cảnh trí tức các văn nói quán một niệm tức không, giả, trung. Một niệm là ấm cảnh, tam quán là trí, lại khiến nói ở phương tiện chánh tu phân biệt cảnh và tâm. Phải bỏ suy nghĩ bàn luận mới gọi là phân biệt tâm. Chẳng thể đối với ba khoa mà nói về lấy bỏ, đâu gọi là phân biệt cảnh. Lại Vương Thành Quán chép: nên như chỉ quán mười thừa mười cảnh trở xuống đều như vậy. Ký chủ ý khiến khi giảng pháp quán này, người muốn tu, phải có ký riêng. Văn phân biệt ấm cảnh và mười thừa... đều có chỉ bày, khiến sơn thành quán, hành pháp đầy đủ, chẳng phế bỏ sự, khiến tự giảng nói toàn bộ chỉ quán. Trí ý của người khác muốn thẳng như thế. Đã noi trở xuống đều như vậy. Tin tưởng các việc gá và phụ pháp quán đều phải phân biệt ấm và nói về mười thừa. Văn kia chẳng phân biệt còn khiến phân biệt. Nay có văn phân biệt thì đâu thành phi nghĩa. Y theo đây mà bỏ câu hỏi về một trong ba quán. Nói về nghĩa sơ thì nghĩa thật chẳng sơ. Vì ông hiểu sơ. Lại nếu nhiếp thẳng ba pháp để quy về tam đế, chẳng cho phân biệt ấm liền là quán tâm, thì thành thiên quán thanh tịnh chân như. Sao lại rất trái tông ư? Cho nên biết người kia đều mê mờ ba thứ pháp quán của một nhà. Như giải thích mười sáu pháp quán của quán kinh, là phi nghĩa của một tâm ba quán, thuộc về ba thứ quán.
4. Nói về ba quán:
Vả lại nghĩa ví dụ rằng: nói về tam quán, nghĩa chỉ có ba thứ, chẳng lẽ quán mầu lại có đường khác. Huống các văn quán tâm đều là chỗ quan trọng của một nhà, nếu hiểu sai thì luống thành bóng bẩy. Đã mất gốc thì còn lại đều là cành nhánh. Kia lại đối với trong Kim Tỳ Ký nói nếu dùng chỉ quán để tiêu sự văn pháp quán, là dùng chỉ quán tùy cơ mà trao, rất trái với di chúc của Đại sư. Di Chúc chép: Chỉ quán không nên truyền trao, ghi riêng, thường nói cho người nghe. Phụ Hành giải thích chúc ý chính là nói tùy cơ tận mặt trao, ý thường chẳng khắp, đời sau chẳng thể làm được. Người ấy hiểu rõ văn phụ hành, thành cái thấy của mình. Vả lại, Phụ Hành giải thích ý tận mặt trao,... đây vì tùy theo Đại sư mà tu tâm, hoặc quán đạo chẳng tiến, hoặc chướng trong ngoài khởi, tất cả lời thưa hỏi. Sư bèn tùy cơ mà trao khẩu quyết, nhất thời được lợi ích ý nhiều chẳng khắp.
5. Người đời sau chẳng thể làm được:
Hoặc người đời sau tâm bệnh đã khác nhau, cho nên chẳng thể làm được. Vì không cần dùng tạm mặt trao chỉ quán mà truyền trao cho người sau. Chẳng phải nói không được. Tựa trong mười quyển có mười cảnh mười thừa tiêu sự pháp quán. Do cảnh quán này chép ở tư ký. Hoặc bài tựa ấy, Chính là dùng tư ký thường nói cho người nghe. Đại sư Nhã Hợp lúc lâm chung có di chúc, nếu hoàn toàn chẳng cho phép tựa chỉ quán thì sắp qua đời vì sao Kinh khê ở Sơn thành quán khiến thực hành phương tiện chánh tu phân biệt cảnh và tâm mười cảnh mười thừa ư?
Lời tựa này có dạy tu Sơn thành quán hay không? Lại nếu cho rằng đây là khai mở tâm giải ấy, chẳng nói khiến người tu tập, vì sao trong văn Diệu Huyền Minh Quán Tâm lại bảo ngay khi nghe liền tu? Thích Tiêm chép hễ nghe một câu thì nhiếp sự thành lý, chẳng đợi quán cảnh mới gọi tu quán. Sao ông lại quay lưng với lời dạy của Ngũ Tổ ư? Cho nên biết nay ý thứ nhất nói bỏ ba quán một, là phù hợp với ý
Kinh khê đối với Sơn Thành quán tận tay trao.
6. Trước quán nội tâm:
Hai là y theo tâm tịnh pháp dung hòa mà đáp, có hai, ban đầu y theo lý tánh, trước quán nội tâm.
Ba chữ của định trên chẳng phải dụ cho pháp này. Pháp tánh đáng quý gọi là kim. Pháp tánh năng chiếu gọi là Quang, pháp tánh năng ích gọi là minh. Nay dùng nghĩa này quán ở thức tâm. Nếu tâm chẳng đầy đủ, nghĩa Kim Quang Minh ấy làm sao đối với tâm ma quán pháp tánh. Văn này có ba, một là y theo quý để nói về kim, muốn nói lên tâm quý, thì trước đối với muôn vật suy tôn người làm quý, từ kém đến hơn. Thấy tâm chẳng mê mờ gọi là linh trí. Linh trí tuy quý mà có ở cả bốn ấm, phân ra khắp tâm vương tâm sở.
Hỏi: Đã bỏ ba tâm sở, nay chỉ suy tôn tâm vương là quý nhất. Thức tâm đã quý, cho nên quán tâm vương tức pháp tánh kim.
7. Y theo chiếu mà nói quang:
Y theo chiếu mà nói về quang, quang có hơn kém, cho nên trước nêu kém so sánh với tâm thức, được tên gọi là quang, vì thế quán tâm tức là ánh sáng pháp tánh.
Một là y theo lợi ích để nói về minh, tức có công năng lợi ích cho bốn ấm như sắc ấm... lợi ích sắc ấm là bởi tánh sắc và tâm chẳng hai. Sắc tùy tâm chuyển. Đại phẩm nói Phật hiện sắc tượng vô biên, đều do tánh Bátnhã trùm khắp. Sắc tịnh cũng vậy, cũng có công năng bình đẳng, nếu tâm vương chánh thì tâm sở cũng chánh, hóa chuyển trần lao, tâm sở chúng sinh, cho nên tâm năng ích. Dùng quán tâm thì pháp tánh sáng tỏ. Ở đây y theo tâm có ba nghĩa như quý... cho nên quán tâm hiển Kim Quang Minh của pháp tánh ba pháp.
Văn này tức là lìa tánh có ba:
Một là Tánh sở quán đã lìa có ba thì trí năng chiếu nhậm vận thành ba. Dụng sở khởi cũng hợp có ba. Văn tuy chẳng nói nhưng hai tu đều có ba. Vì tánh hiển thì nghĩa hợp.
8. Dung chứa khắp chỉ có Quang Minh:
Hai là y theo hợp tu tự dụng thông các pháp. Ở trên nói tâm cảnh tức Kim Quang Minh, nghĩa nên tu tánh ba, mỗi thứ đều có ba. Nay nói dung chứa khắp những chỉ có Kim Quang Minh. Đến sau kiết văn có nói ba chữ. Xét biết đây là tu hai tánh một, văn có lìa hợp, vừa xem thì khó biết. Đây tự có hai, một là dung thông khắp các pháp, lần lượt hiển bày quang minh. Văn này nêu bày, quán thành lý hiển, khắp dung các pháp. Dùng giải thích phục nghi, nghi rằng: nếu chỉ quán thức ấm mà nói về Kim Quang Minh thì đối với tất cả các pháp làm sao có thể dung chứa thanh tịnh.
Cho nên giải thích rằng: Nếu biết tâm vô tâm là quang biết tưởng. Hành vô tưởng, hành là minh... Ý nói thức ấm Kim Quang Minh hiển bày, thì tất cả pháp đều là Kim Quang Minh, cho nên dùng tâm vương, tâm sở, sắc thật giả chánh y và tất cả pháp. Từ hẹp đến rộng lần lượt hiển bày đức của hai tu quang minh. Đối với một tánh để thành ba pháp, biết tâm, vô tâm là quang, tức dùng ba trí quán sát tâm thức. Thấy Kim Quang Minh thể của pháp tánh thì tướng thức tâm là vắng lặng cho nên biết tâm vô tâm. Người biết được thật ba trí này. Nay chỉ hợp thành một quán chiếu trí, cho nên chỉ gọi là quang, biết tưởng hành vô tưởng hành là minh đã dùng hợp một trí quán chiếu. Biết tâm vương này tức là tướng thật, cho nên không có tướng tâm vương là quang.
9. Biết bốn ấm tức là tướng thật:
Nhậm vận có hợp một trí phương tiện. Biết tướng thật tâm sở, không có tướng tâm sở là minh. Đây vì biết tâm sở, tâm vương là quang minh. Lại, dùng trí của quán chiếu biết bốn ấm tâm tức tướng thật, cho nên không tướng bốn ấm là quang, thời nhậm vận có trí phương tiện. Biết tướng thật sắc ấm, không có tướng sắc ấm là minh. Ở đây do biết tâm, biết sắc mà thành quang minh. Lại năm ấm thật pháp đối với người giả... nói về quán chiếu hai trí phương tiện, mà làm quang minh. Lại do chánh báo đối ước y báo, nói về quang minh.
Lại y theo chánh đối với tất cả pháp, nói về ánh sáng. Nghĩa đều như thế. Nói tất cả pháp, tức người giả pháp thật và dùng y báo, đều có tướng, tánh, thể, lực, tác, nhân duyên, quả báo, bổn mạt rốt ráo đẳng. Đây là do quán thức Kim Quang Minh mà hiển bày, cho nên đối với các pháp nhậm vận quán thành, muốn rõ các pháp mỗi mỗi là kim, mỗi pháp là quang, mỗi pháp là minh, cho nên trải qua các pháp lần lượt nói về hai trí. Nên nghĩa ví dụ nói tu quán thứ lớp phải trước nội tâm. Nếu nội tâm thanh tịnh thì do tịnh này tâm trải qua khắp các pháp, nhậm vận lẫn lộn hòa hợp, đã nói nhậm vận thì biết chẳng gia công.
10. Một tánh kết thành ba pháp:
Ba là y theo hiển, một tánh kiết thành ba pháp. Trên đối với các pháp từ hẹp đến rộng, y theo hai trí lần lượt nêu bày ánh sáng. Mà hai trí sở hiện đều một tánh, tức đương ở kim. Cho nên kiết luận là Kim Quang Minh. Nói quán tâm, nói từ gốc thì hai thứ chánh phụ, mười pháp quán tâm thành hạnh có hai. Ban đầu nêu lên giáo nghĩa làm pháp nương tựa. Ở trên y theo mười thứ ba pháp nói về Kim Quang Minh. Có hai ý, ban đầu thì đồng với các thí dụ giải thích khác. Kim Quang Minh dụ cho mười thứ ba pháp. Kế là phụ văn và dùng đương thể.
Giải thích Kim Quang Minh chẳng phải thí dụ pháp, cho nên mười thứ ba pháp đương thể gọi là Kim Quang Minh. Nay quán giải thích thuận ý trên dưới, cho nên: một là y theo thượng chủng ba pháp luận về Kim Quang Minh, cho nên dùng nghĩa mười thứ Kim Quang Minh, làm pháp sở phụ, bốn pháp nhiếp này nhập tâm thành quán.
Nói quán môn này là hạnh năng hiển. Mười sơ ba đạo, có hai: a) Một là quán có hai, ban đầu giải thích, có hai, ban đầu y cứ chung vào ba đường nói về viên chánh quán, có hai. Ban đầu gồm thông số chỉ đối với nghĩa báo chướng lật cảnh ba đường. Nói thông số, là tưởng, dục, xúc, tuệ, niệm, tư, thoát, ức, định, thọ. Mười tùy vương này làm ra tất cả việc thiện ác, cho nên gọi là Thông đại địa số.
11. Hỏi đáp về mười pháp quán:
Hỏi: Trước phân biệt cảnh quán bỏ ba quán một, nay sao lại dùng tuệ và các số làm nghiệp phiền não?
Đáp: Nay nói về pháp quán có mười thứ. Chín thứ sau đều từ đức hiền bày. Thể kia vốn dung. Có thể y theo một niệm thức tâm làm cảnh mà tu ba quán. Hiển ba pháp, chỉ có ba đường này từ chướng bị phá, lập ở cảnh quán. Làm mê hoặc sự, thể vốn chẳng dung. Như đối với một thức nói về ba cảnh. Cảnh đã chẳng phân, quán khó thành tựu, cho nên đặc biệt gồm có Thông số làm cảnh của ba đường.
12. Hỏi đáp về đường ba đường:
Hỏi: Nếu muốn nói rõ cảnh ba đường sao không chấp khắp năm ấm là khổ, ba độc là phiền não, bảy chi là nghiệp. Sao chỉ tâm vương, tâm sở đối với ba đường như vậy?
Đáp: Nay chỉ đối với ấm cảnh nói về tướng ba đường. Thức thân thì riêng là chủ chung của khổ báo. Cho nên tâm vương thuộc về khổ đạo. Tuệ chia ra thuận nghịch cho nên khởi tham sân, chính là do tuệ số đối với phiền não đạo, các tâm sở tùy theo tuệ gây ra thiện ác, cho nên đem các tâm sở đối với nghiệp đạo. Tuy chẳng phải nghiệp hoặc đương thể mà làm nghiệp hoặc thân y. Thường đi chung với tâm vương, đều có ba nghĩa đạo. Có thể dùng chánh quán để nói về Kim Quang Minh. Hoặc hiện khởi nghiệp phiền não động tác, vì giúp đạo ở dưới là sở quán của năng quán. b. Hai là y theo viên thừa tức làm chướng hiển bày đức. Vì nói về công phu của diệu quán. Văn này tuy lược nhưng pháp quán đúng nói, trước phải biết ba chữ kim... là pháp, chẳng phải ví dụ. Tức đối với tâm vương, tâm sở cảnh của ba đường, thể Kim Quang Minh ba thứ pháp môn, tức thể tâm vương đáng tôn đáng trọng, là pháp tánh của kim. Thể của tuệ sở tức tịch mà chiếu. Pháp tánh này thầm hợp với lý trí. Thể ở các tâm sở có nhiều lợi ích. Pháp tánh này sáng tỏ tức là dụng của thể. Đây là hai tu quang minh. Đối với kim nhất tánh là ba pháp.
Nói đủ về tam pháp thì chẳng phải cô lập. Kim không có quang minh thì chẳng phải nhân viên chứng. Quang mà không có kim minh thì chẳng phải nhân viên liễu. Nói không kim quang chẳng phải viên duyên nhân, chỉ là văn trước số từng hiển bày, cho nên ba đường này lược đối với ba chữ, là hợp ba tướng. Nên phải biết rõ, lấy lìa làm hợp, hợp thể thường lìa. Nói ba chẳng ít, nói chín chẳng nhiều.
13. Hỏi đáp về quán ba đạo:
Hỏi: Ba đạo quán này vì sao chẳng dùng không, giả, trung ư!
Đáp: Tâm vương là kim, ba đế một cảnh. Tuệ số là quang ba trí một tâm, Dư số là minh thời có hai ý. Đối với quả thì ba thoát ứng cơ, đối với nhân thì ba hành bốn trí. Chánh quán này văn rất dón gọn. Vì trong văn này có quán giúp đạo, biệt đối với thân... nói thô về ba đường nói rộng về quán, cho nên một là chánh quán chưa rảnh để trình bày đầy đủ. Từ ba thức trở đi, mỗi thức nói về một tâm ba quán, cho nên nay ba đường lược đối với ba pháp như Kim...
Hai là y cứ riêng ba đường dùng Không để giúp đạo. Nay đối với ba quán lập quán giải thích. Ý ở hành nhân nghe liền tu. Nhưng người mới học thấy ái khắp đầy. Đối với thân, đối với tâm khởi trọng hoặc nghiệp nặng. Hoặc chỉ khiến quán ba chướng, tức đức chẳng phá thì chẳng hiển, tức sinh kiến mạn càng thêm sinh tử. Cho nên Đại Sư đối với cảnh ba đường lược bàn chánh quán, nói rộng giúp đạo.
14. Nói về hai không:
Y theo cảnh giả thật, nói về hai không. Đối với hoặc nghiệp rộng suy ra bốn tánh, khiến kiến tư điều phục, nghiệp lụy chẳng sinh, mới ở chính khoa nói về ba quán diệu. Tâm thô dã dứt, diệu quán có thể tu. Chế lập hữu do không thể nói sai lầm. Đây đối với ba ngôi báu đều nói về quán không. Có ba, một là nói về giả, thật quán khổ đạo có hai. Ban đầu y theo sáu phần quán người giả có ba, ban đầu nêu văn kinh, nêu chung pháp quán. Kia vì quán Phật trước tìm cầu thân mình, vì tướng thật của mình không hai với Phật, cho nên nói cũng như vậy, nay văn lại y theo quán thân, tu pháp quán không. Nếu kiến tư dứt thì ba pháp hiện ra, thân cùng Phật đều là Kim Quang Minh, đâu có gì khác nhau.
15. Sáu phần hợp xứ chấp thành thân kiến:
Kế là đối với hiện cảnh tận cùng theo người gia. Sáu phần: là thân và đầu là hai, bốn chi là sáu. Sáu phần này hợp xứ chấp thành thân kiến. Ngang dọc như vậy, sáu phần là ngang ba đời gọi là dọc quán trí tìm cầu rốt cuộc chẳng thật có. Chấp có tuy dứt, truyền nhập không, trung và song cũng đều song phi. Ba trường hợp này đều y thân khởi đều là thân kiến. Tìm cầu khiến vô lý nên đều chẳng thật có. Có chỗ thân chấp tuy dường như mất, mà vẫn như còn, vời lấy tên gọi. Hoặc chẳng tìm cầu, trở lại sinh kiến hoặc, cho nên dùng tâm sắc trong ngoài trung gian và thường tự có, lấy làm bốn trường hợp. Tuy vời lấy tên gọi đều không thật có, cho nên dẫn Ngài Tăng Triệu tên và vật đều không. Chứng nay chỗ suy cầu thân và tên gọi xưa nay vắng lặng. Nói giả thật đã không, chẳng phải chỉ cho người giả và năm ấm thật pháp, mà chỉ cho thân vời lấy là thật, vời lấy tên gọi là giả, cho nên câu dưới nói danh vật yên ở.
16. Trị đạo giúp mở ra Viên lý:
Kế là nói trị đạo giúp mở ra viên lý. Quán thân là tướng thật, là kim đẳng... vì hành giả này nghe giáo nghĩa ở trước. Nói ba thức, ba đường, ba một viên dung, ba đức bình đẳng, không hai không khác. Là có khả năng tin hiểu thân phần đoạn và kiến tư hoặc đương thể hoàn toàn là pháp môn tánh ác. Chỉ vì chấp tình mà thành chướng nặng. Thật giống như người mù, thân ở trong kho báu, bị vật báu làm bị thương.
Nay tu quán không, giúp đạo công thành, kiến chấp đã luống dối, tức đối với cảnh quán đều thấy tướng thật. Tướng thật của thân là pháp môn Kim, tức thể của tướng thật này có công năng quán chiếu, là pháp môn quang. Duyên theo tâm sở của thân vốn cũng là tướng thật. Nay một là chẳng tùy tình, gọi là tịch chẳng hành, thảy đều chuyển thành hạnh của tướng thật. Là pháp môn sáng tỏ.
17. Y theo năm ấm mà quán pháp thật:
Kế là y theo năm ấm mà quán thật pháp, có hai:
Ban đầu kiết là người không. Quán pháp trên tuy nói sáu phần và dùng năm ấm, nhưng suy thân kiến, ý nói về sinh không, cho nên phẩm Không chép: thân này luống dối, Đại sư chỉ đây là cảnh sinh không, cho nên câu văn nói do ấm thành thân, chấp có ngã nhân, chúng sinh, tuổi thọ, cho nên y theo thân giả làm cảnh sinh không, cho nên nay kiết trước quán thân, quán pháp là quán giả danh. Nếu nay các bộ diễn môn không quán, nhân pháp song quán vì tánh sắc như tánh ngã, tánh ngã như tánh sắc.
Chỉ có phẩm Không của kinh này nói về viên không, tức trước quán sinh không, kế quán pháp không. Văn này thuận kinh trước sinh kế pháp. Do người sơ tâm chấp chướng đạo, cho nên nay đối trị trước rộng tìm cầu phép tắc, cho nên quán thật pháp so sánh mà thôi.
18. Ví dụ quán pháp thật:
Một là ví dụ quán thật pháp. Ví dụ thượng nhân là không, dịch vật chẳng thật có. Trong đây cũng hợp lấy sở không ấm là kim, năng không quán là quang, duyên pháp tâm sở là minh. Tất ứng ví dụ trên.
Hai là y theo ái kiến quán phiền não đạo, có hai, phân biệt chỉ bày cảnh của thân nhân. Giả thật ở trên là quả của thân. Nay tìm cầu thân nhân, nhân có hoặc nghiệp, nghiệp thuộc nghiệp đạo.
Kế đến nói về quán. Nay quán thân nhân còn ở phiền não. Hai là chánh nói về thể của pháp quán, có ba:
Ban đầu nêu văn kinh, y theo câu phân biệt, có hai:
Ban đầu nêu thẳng văn kinh phân biệt với quán phân tích, nên nói là bất hoại, trong thể quán thông gọi là tùy một tướng. Cái gọi là ai là lời xem xét người, tìm cầu bốn hạng người đương ở bốn trường hợp. Nay chính là nói về hoặc. Nghiệp ở quán sau, cho nên nói hãy đặt.
19. Y theo trường hợp nhân đôi để xem xét người:
Kế là y theo nhân đối, tức chữ ai ở trước để xem xét người.
Tứ quả là quả thứ tư. Giải thoát hữu dư có khả năng phá hoại thân nhân, giải thoát vô dư có khả năng hoại quả của thân, đều là câu hoại. Dòng của phàm tục đều là câu bất hoại. Vương hiến hại, oán đối hoại, tự hại thể, ba hạng người này gọi là hoại quả của thân. Khắp tăng phiền não gọi là bất hoại thân nhân. Câu thứ ba. Hạng người ở ba quả khác người dứt được năm hạ phần, Sơ quả đoạn ba phần, nghĩa là Thân kiến, Giới thủ và Nghi. Nhị quả, tam quả dứt được hai phần. Cõi Dục tham sân, gọi là hoại thân nhân, nhưng quả thân do năm phần này chiêu cảm thì giống như ở cõi Dục, gọi là bất hoại quả của thân. Đây vì chưa hoại nên còn gọi bất hoại. Hoại chẳng lâu nên gọi là trường hợp thứ tư.
Kế là nói chẳng theo một tướng, trước gọi là hoại đều là quán phân tích. Trường hợp bất hoại ấy tự chỉ cho điều ác của phàm phu.
Cho nên bốn trường hợp đều chẳng thể nhận pháp, vốn bất sinh diệt nên đều chẳng theo tướng một thật. Đó là một.
20. Đối với cảnh hoặc thuận kinh tu quán:
Kế là đối với hoặc cảnh thuận kinh tu quán, có hai: ban đầu suy tìm vốn bất sinh, đây là Đại thừa thể pháp khéo độ, cũng luận ngang dọc. Ngang phá nhân thành, dọc phá nối tiếp, trong phá nhân thành chẳng phải tự bình đẳng. Long Thọ nói: Pháp không tự sinh, phải đợi duyên cho nên pháp chẳng tha sinh, nhân vốn đầy đủ, cho nên pháp chẳng cộng sinh, không có hai phần. Pháp chẳng phải vô nhân sinh, có nhân duyên sinh còn không thật có, huống chi là vô nhân! Kế là phá nối tiếp đầy đủ nên nói chẳng phải niệm trước diệt cho nên khởi.
Chẳng phải niệm trước bất diệt cho nên khởi. Chẳng phải niệm trước vừa diệt vừa bất diệt cho nên khởi. Chẳng phải niệm trước phi diệt phi bất diệt cho nên khởi. Nay nói chẳng phải sinh v.v... Sinh tức bất diệt mà còn chẳng phải song, phi song. Cũng chỉ thiếu trường hợp thứ hai. ngang dọc như thế... một là Kết nêu bày nhân thành nối nhau, cầu tướng bất đắc sinh của tâm. Đã vốn bất sinh nay cũng chẳng diệt, cho nên nói là bất hoại.
Kế là kiết tùy một tướng, người viên giải tu không để giúp đạo đã rõ nhân của thân bất sinh bất diệt thì có khả năng thuận theo tướng thật trung đạo.
21. Nói về trị đạo giúp khai mở Viên lý:
Kế là nói về trị đạo giúp khai mở viên lý, có hai:
Một là nói thể pháp công thành. Vốn vì viên tâm tu không phá chướng. Chánh giúp hợp vận tức đối với phiền não tùy tướng một thật. Sở tùy là là kim, năng tùy là quang, các tâm sở là minh, ba chẳng ngang dọc gọi là khai mở viên lý.
Hai lại nói các quán giúp đạo khác. Hoại thân nhân ấy là tích quán dứt tập. Hoại quả của thân ấy là câu thứ nhất ở trước. Bất hoại quả của thân là câu bốn ở trước. Thể pháp không quán đã rất trợ viên, tích pháp không quán cũng có khả năng trị hoặc. Nếu dùng viên giải hợp mà tu, hoại và bất hoại đều theo một tướng.
Y theo động tác quán nghiệp đạo, có ba, một là nêu văn kinh, nêu chung pháp quán. Ở đây y theo sáu tác quán nghiệp đạo, vì tất cả thiện ác do đây mà phân biệt. Giở chân lên, đặt chân xuống trong sáu thứ thuộc về hành. Tịnh danh chỉ đây là đạo tràng. Chung cho sáu tức, nay là quán hạnh chỗ Phật thành đạo.
Chẳng quán giở chân lên tức không, giả, trung thì làm sao khiến chỗ này là đạo tràng vắng lặng? Làm sao có thể đầy đủ tất cả Phật pháp. Quán nghiệp như thế thì thấy được bờ mé của nghiệp, mới gọi là thuyết đạo tràng của văn kinh. Chỉ vì người sơ học tuy hiểu như thế nhưng ưa chuộng sáu duyên, chấp ngã, ngã sở. Hoặc chỉ chánh quán lại thêm tình chấp, cho nên lập giúp đạo. Vả lại khiến quán không, đối trị hoặc này.
22. Đối với sáu tác thể vốn vô vi:
Kế là đối với lục tác thể vốn vô vi, có hai:
Một là y theo hành duyên mà nói về quán, nghiệp là thân nghiệp, nghiệp là tâm, lấy tâm làm nhân, lấy thân làm duyên. Đơn nhân đơn duyên hoặc cọng hoặc ly, tìm cầu ở giở chân lên, chẳng có tướng giở. Để chân xuống cũng vậy.
Khi quán như vậy thì tướng ngã, ngã sở vắng lặng chẳng khởi. Tất cả nghiệp lụy từ đây thanh tịnh. Ban đầu tâm hành giả được vô giới ý!
Hai là ví dụ dư tác cũng vậy. Vì đứng, ngồi, nằm thì đặt chân ở hành duyên, tức là bốn oai nghi. Lại thêm ngôn ngữ và làm việc, mới thành sáu tác. Chỉ quán xưng là nói, nín, làm việc. Nay nói ngôn ngữ chính là nói về tướng, thật ra im lặng cũng thành nghiệp. Văn tuy thiếu nêu bày nghĩa hợp đều quán.
23. Trị đạo giúp khai mở viên lý:
Kế là nói trị giúp trợ khai mở viên lý. Do giải viên tâm tìm cầu bốn tánh của nghiệp, bốn tánh không xứ, chánh quán hiện ra. Cảnh quán các tâm sở thành Kim Quang Minh. Có ba pháp môn. Hai kiết này là tổng kiết chánh quán của văn trước và để giúp đạo, đều nói lên pháp tánh Kim Quang Minh rồi.
Kế là kiết vị, nếu y theo giáo để nói sáu tức thì thường nói lên pháp tánh cao sâu.
Nếu nay nói sáu tức thì chính là nói về hành nhân toàn tánh khởi tu, quán có thành không? Nhập vị cạn sâu vẫn bày nhân quả, đều là Kim Quang Minh, cho nên sáu đều gọi là tức. Quán thân sơ cho nên tức phải nói sáu. Y theo tức luận sáu thì khỏi sinh thượng mạn, y theo sáu luận thì khỏi sinh lui sụt, không mạn, không lui sụt thì diệu vị sẽ bước lên. Ban đầu lý tức vị nói có tâm, Đại kinh nói: Hễ có tâm thì đều sẽ thành Phật. Nếu kia không có tánh Kim Quang Minh thì làm sao thành Phật. Nói pháp giới, pháp tánh không khác mà khác.
Pháp giới là nói theo chiều ngang, pháp tánh là nói theo chiều dọc. Ý nói lý đủ ngang khắp dọc, nói Kim Quang Minh. Chính là kia chưa có sáu việc như tín hiểu... chỉ có lý tánh Kim Quang Minh đức, cho nên gọi là lý tức. Danh tự nghe kim... gọi là giải liễu sẵn có. Quán hạnh vị tu thành viên quán trần duyên chẳng ngăn cách, cho nên được nối nhau. Ở giai vị Tương tự, nhắm mắt thì thấy, mở mắt thì mất. Giai vị này chưa nhập đạo vô công dụng. Trong ba thứ không lui sụt thì niệm giống như lui sụt, cho nên dùng mở mắt để nói về được mất.
24. Hỏi về quán hạnh còn mất:
Hỏi: Quán hạnh còn thì được, niệm niệm chẳng dừng, tâm tâm nối nhau. Tự vị trị sinh, chẳng trái tướng thật. Kia đối với kim quang mở mắt thì mất phải không? Đáp: Quán hạnh tương tự tuy đều là viên quán. Thân sơ chẳng giống, được mất khác xa. Quán hạnh vị kia ba hoặc hoàn toàn có mặt. Đối với kia thì sơ quán có công năng làm an nhẫn cho nên nói về nối nhau. Đối với người không có tài năng thì có lui sụt, hoặc tương tự vị kiến tư đã mất. Đối với thân quán mà nói về được mất, hoặc có khả năng phòng hộ thì mau phát chân. Nói nhắm mắt thì thấy, hoặc khởi pháp ái thì có đỉnh đọa, gọi mở mắt thì mất. Chẳng tiến là mất, chẳng phải lùi mới mất. Phản lập ý căn, dường như giải đã lập, cho nên nói trị sinh, chẳng trái tướng thật. Xét kỹ giai vị này chưa phá vô minh, nếu gió vô trụ ngừng gọi là mở mắt thì mất. Phần chân vị khéo nhập xuất trụ Tam-muội Lăng-nghiêm, cho nên mở nhắm đều thấy, rốt ráo rất dễ hiểu. Lý thứ ba của Cô Sơn trái với hữu, có ba:
Một là bác bỏ ở đây.
25. Kim Quang Minh vốn dụ cho ba đức:
Kia nói: Vả lại Kim Quang Minh vốn dụ cho ba đức, văn trước còn tác đương thể để giải thích, mà văn tương tự dịch là mắt thấy tượng vàng để giải thích. Ta biết vãng là, trộm lấy sáu tức của quán kinh, ở đây nói lầm. Kia nói quán sắc thân Phật vẫn ở vị quán hạnh, cho nên nói mở mắt, nhắm mắt nhìn khắp đều là cõi Phật. Ôi đáng lấy làm lạ. Nhậm tác kim tượng dùng nghĩa. Vả lại sớ văn kia là Đại sư đích thân nói. Quán hạnh vị ấy nhắm mắt, mở mắt cảnh giới thường hiện. Sao nay đối với tương tự chứng vị mà nói mở mắt thì mất, nói điên loạn mê hoặc người đời sau. Giải thích rằng hoặc trộm lấy Quán Kinh Sớ thì sẽ không có văn tướng, trở thành trái nghịch. Ở đây thì rõ ràng, văn trái lý thuận, người mê mờ không biết. Sao nay đối với ba đường quán thẳng lý tánh Kim Quang Minh.
26. Tuy đều là Viên quán nhưng gá cảnh khác nhau: Hoặc Quán kinh sớ gá vào thân Phật kia mà nói về lý tam đế, tuy đều viên quán nhưng gá cảnh khác nhau. Kia tưởng sắc thân để làm sự cảnh, tức đối với cảnh này tu không, giả, trung để làm lý quán. Cảnh quán tuy đối với một niệm đồng tu, mà sự cảnh ấy là ứng với tướng chúng sanh. Quán trung trước phát cho nên quán hạnh vị nhắm mắt mở mắt thường được thấy Phật. Đây nói lên ba đường, lý Kim Quang Minh bước lên trụ mới phát, cho nên ở giai vị tương tự nhắm thì thấy mở thì mất. Vì dùng mở nhắm để nói lên giai vị này là tương tự chẳng phải chân, vì vị này còn phải tác ý, bước lên trụ mới nhập vô công dụng đạo. Sớ kia tự trái, đối với diệu tam đế, chẳng lẽ như vậy? Lại nữa tự vị nói về mở nhắm, bởi y theo năm thứ mắt chẳng phải chỉ có mắt thường, tức là trong thể có hai hoặc nhậm vận trước trừ, thì hai đế bốn nhãn ở giai vị này trước phát.
27. Lại nói về còn mất:
Nếu sách bốn tức Phật thì hơi giống với chân kiến, cũng mau nhập chân. Gọi nhắm mắt thì thấy, hoặc nhậm vận theo bốn thứ mắt thì khởi pháp ái, gọi là đỉnh đọa, nên nói mở mắt thì mất. Nếu không như thế thì lìa pháp ái là ai? Cho nên phụ hành nói sữa tam đế là diệu sắc chân thiện. Năm thứ mắt mở rộng mới thấy cảnh đế. Ấy là tương tự vẫn thuộc về tối, trong chướng thì vô minh chưa phá. Người kia hoàn toàn mê mờ pháp quán banchu. Thân Phật lấy cảnh không... làm quán.
Trong một niệm khó dễ sâu cạn, mà bỏ vọng bác bỏ đây, làm mắt thấy tượng vàng giải thích. Tương tu mở mắt, thì mất quán hạnh đều thấy, gọi là điên loạn. Nếu nói chẳng hiểu sự lý sâu cạn, thì trách điên loạn phải quy về mình. Lại nữa, thấy và chẳng thấy ý chỉ mầu khó biết, như đệ tử bốn tín trong kinh Pháp Hoa nghe kinh tín hiểu, tức hay thấy Phật thường ở Linh sơn. Văn-thù Đẳng Giác chẳng tu Tam-muội, chẳng thấy diệu âm. Kinh này thọ thần gặp Phật lễ tháp làm chúng thắc mắc, cho đến khen Phật, khóc lóc rơi lệ thỉnh Phật hiện thân.
Nghĩa kinh này có một bản không có văn như vậy, người khác cho rằng do người sau thêm vào. Hai quán ba thích có ba:
28. Nêu quán bày lý:
Ban đầu nêu quán bày lý, do người thứ ba pháp đương thể đều có thể gọi là Kim Quang Minh. Do mười thứ ba pháp đều có các nghĩa quý... cho nên nay nói: quán tâm ba thức luận về Kim Quang Minh.
Hai là phụ pháp tác quán, có ba:
-Lược nêu cảnh quán, một niệm tâm cảnh, tức quán không, giả, trung, tức là quán tâm thức đối với ba thức ấy, ba thức xưa nay là ba quán mầu nhiệm. Chín cõi mất gốc, thức theo vọng chuyển chẳng biết bổn tánh.
Nay thuận tánh tu quán. Quán không có tự thể riêng, tức dùng bổn thức để biết bổn thức.
29. Nêu rộng về tướng quán:
-Nêu rộng bày tướng quán, có hai:
Một là nói nhất tâm tam quán, có ba, ban đầu không, ba thức trầm, ẩn tướng nói khó biết, mà chẳng tạm lìa ý thức thứ sáu. Thức này duyên ngoài, cho nên lấy ý căn đối trần làm duyên, tìm cầu ở bốn tánh chẳng ở một chỗ, tức lấy bốn tánh mà làm các duyên. Từ duyên này sinh sinh tức vô sinh, cho nên nói "ta nói tức là không". Không cô phân biệt tức là thức A-lại-da.
Hai là giả. Các duyên sinh cho nên không vô tánh tướng. Các duyên sinh cho nên thiện ác lừng lẫy, ác là bốn đường. Thiện là trời, người. Chẳng phải thức thiện ác thì có cả bốn Thánh. Bốn Thánh này đều chẳng có thiện ác hữu lậu. Đối với không kia thuận duyên khởi tánh các thứ quán sát.
Nói phi, tức là thuốc và bệnh, đối với không giả lập nên gọi là gượng. Quán này lập pháp tức là thức A-đàna. Thức này gọi là ý. Dùng thức thức sáu làm thức của ý, gọi là ý căn. Cho nên căn lập thức cũng lập. Trong ba thức thì tâm tánh bất động, xưa nay trung thật, chẳng thể suy nghĩ bàn luận. Mà thể đầy đủ hai thứ công đức không và bất không, cho nên thể và đức thành viên ba thức, cho nên tuy quán không mà bất định không. Tuy quán giả mà bất định giả. Tức thức hiện tiền bặt dứt tướng hai bên, năng sở chẳng đắc, quán này tức là thức Yêm-ma-la.
30. Nói về vọng cả hai chiếu cả hai:
Kế là nói về vong cả hai chiếu cả hai, có hai. Ban đầu nói tức chiếu mà vong, có hai:
Một là y theo nghĩa mà lập. Thức đối với ba thức chiếu ba thức cũng chẳng được ba thức, quán mất ba thức.
31. Dẫn kinh làm chứng:
Hai là dẫn kinh làm chứng. Quán năm thứ như Sắc... tức là quán tục. Quán năm đều như, tức là quán không, quán năm tức tánh, đó là trung quán. Nay đều nói bất quán, tức đối với ba này vô quán vô đắc gọi là y theo ba quán tức chiếu mà vong. Kinh nói năm ấm nay chỉ ở thức vong ba quán.
Hai là nói tức vong mà chiếu, tuy đối với thức tâm quên mất năng sở, mà ba cảnh quán rõ ràng phân minh cho nên nói chẳng lạm. Còn nói song chiếu, vì thức thức như, đó là hai bên. Thức tánh là trung, nay đốn quán tam đế tức trung biên song chiếu. Xét chẳng được ba là song vong.
32. Kết thành phụ giúp:
Kế là kiết thành phụ pháp, quán sát ý thức, tức như tức tánh, là biết ba thức. Nói vừa chiếu vừa diệt là A-đàna, văn kinh Tịnh Danh chính lấy quán thức làm quán giả. Cho nên văn này thuận theo nghĩa của thức này. Do kiết phụ pháp. Vì sao? Vì thức thứ bảy năng sinh thức thứ sáu nên gọi là vừa chiếu. Thường duyên thức thứ tám cho nên nói vừa diệt, cho nên dùng hai thứ vừa, để kiết quán này, ba kiết pháp phân chia giai vị, so sánh với ba đường ở trên.
Có thể dùng ý biết, tướng một ấy đã rõ, cho nên chẳng nêu bày.
33. Dẫn kinh chứng thành:
Kế là dẫn kinh chứng thành, có ba, ban đầu dẫn việc Tịnh Danh bị bệnh, vốn nói về tâm tức ba đế. Cư sĩ quyền bệnh để thị hiện cho chúng sinh biết ba chướng thật bệnh, gốc thật bệnh chẳng ngoài thông biệt hai thứ kiến tư. Hai thứ kiến tư này đều duyên ba cõi, tức là gốc của hai thứ bệnh phần đoạn và biến dịch. Bệnh thì cần thuốc, tức quán giả. Đối với Không, rất dễ hiểu.
Kế là Dẫn kinh Hoa Nghiêm không sai nói tâm tức Phật tánh. Ban đầu lập ba quán quán một niệm tâm, nói lên ba Phật tánh. Ba quán tức tâm, nghĩa ấy tuy lập, vì sao đối với tâm mà nói ba Phật tánh, cho nên dẫn văn này nói ba thứ không khác nhau, để xét ngã tâm tức là Phật tánh. Tha sinh tha Phật còn đồng với tâm, chẳng lẽ tâm Phật tánh của mình tâm chẳng đúng ư? Đây chứng quán tâm hiển ba Phật tánh. Nghĩa ấy rõ ràng.
Kế là dẫn Ban-chu niệm Phật, nói Phật tức ba đế, có hai:
Ban đầu dẫn pháp dụ, có hai văn. Như văn, hai là giải thích đều thành ba đế, có bốn:
Ban đầu giải thích văn pháp, làm hai phen tiêu, văn để nói lên không giả. Ban đầu đối với một văn mà nói về hai quán. Dùng các chữ như trong câu làm không, tức dùng ngã Phật tâm trong các câu khác nhau, bèn gọi là giả. Kế là dùng hai văn mà nêu bày hai quán. Trong các câu tuy có chữ như, vì ngã, Phật, như khác nhau, nên quán giả, là do không thấy ngã, Phật, như khác nhau, mới gọi không quán. Hai phen thấy Phật đều là trung quán, cho nên biết Phật kia là giác thể của ta, vì có hai đức không giả, nên dùng hai quán, quán hai đức, giúp phát trung quán, Phật liền hiện ra.
34. Hỏi đáp về thấy sắc tướng:
Hỏi: Thể của giác là tâm. Nay thấy sắc tướng đâu chẳng trái nhau?
Đáp: Phải biết bản giác đầy đủ tất cả pháp lìa tướng giới hạn phạm vi, tánh sắc tức trí, trí tánh tức sắc. Duy tâm duy sắc mới gọi là thấy Trung, cho nên thấy Di-đà để làm trung quán.
35. Giải thích dụ văn:
Kế là Giải thích dụ văn. Đối với các dụ chỉ giải thích mộng thấy thức ăn, ngoài ra đều bắt chước theo đây. Song chẳng ngoài pháp tánh tương tự pháp chẳng phải dụ. Đây do tác mộng và để thành quán, đều là năng lực của pháp tánh. Nay dùng làm mộng pháp tánh mà dụ thành quán pháp tánh. Như Thích Tiêm chép: Việc mộng rõ ràng như vậy tức giả, cầu mộng chẳng được tức không, tâm tánh của mộng tức trung.
Ba pháp này chẳng trước sau, chẳng hợp tan, cho nên biết các nhà chú thích ngày nay giải thích ví dụ như thế.
Rất có khả năng, huống chi hiển bày nhất tâm tam quán. 36. Nói về chiếu cả hai:
Kế là nói về chiếu cả hai, ban đầu ngã tâm trở xuống lập giả, kế là ngã tâm như hạ lập không, không giả đã lập nếu không quên, thì trung quán chẳng hiển, cho nên trước dùng hai câu bất đắc để quên quán giả, kế là dùng hai câu bất đắc để quên không quán. Hai quán đã vắng lặng, tâm bặt dứt sở duyên, tức thấy Phật Di-đà, trung đạo. Nhậm vận song chiếu, diệu giả diệu không.
37. Nói về Nhất tâm:
Kế là nói về nhất tâm: văn kinh đã nói thường được thấy Phật, Phật là thể của Đại giác trung đạo, chẳng lẽ thấy thể mà chẳng thấy dụng, dụng tức không giả, tức câu thấy Phật vẫn là văn của ba quán một niệm.
Kế là kiết pháp phân biệt vị, tánh đức ba nhân mà làm ba đế. Toàn tánh khởi tu tức dùng ba nhân mà làm ba quán. Đế quán gọi là biệt thể chẳng khác nhau. Cho nên ba quán tức ba Phật tánh, ba tánh đương thể gọi là Kim Quang Minh, Lục vị đều tức, hai là y theo sáu pháp cảnh trí nói Phật tánh, có hai, ban đầu y theo cảnh trí nói Phật tánh. Phụ pháp tác quán chẳng phải hạn cuộc một đường.
38. Nói về Ba quán:
Trước nói ba quán, quán một niệm tâm, hiển bày Phật tánh, cho nên hai chữ Phật tánh đều là pháp được hiển bày. Nay nói chữ Phật dịch là Giác, tức trí năng hiển. Chữ tánh chính là lấy bất biến làm nghĩa, tức lý sở hiển. Đây mới tức chính là hai chữ Phật tánh. Luận về quán cảnh, hành giả nên biết. Một ở đây giải thích nghĩa năng hiển ở trước. Vì sao? Vì văn trước tuy lập năng quán ba quán, nhưng thật chẳng phải tu riêng, thể là giác trí. Nay chữ Phật là năng quán, nêu bày ba quán trước vốn từ tánh khởi. Tánh của giác này tức là sở quán, khiến tu tánh nghĩa ấy hợp một, cho nên sau kiết nói rằng được điều này rất tốt. Tánh gọi là lý cực, tánh của quả Phật là diệu cảnh, lý này chí cực. Như thế tánh đức gọi là vô thượng.
Kế là y theo sáu pháp nói ba nhân, có hai, ban đầu đối hiển ba nhân, nay dùng chữ Phật làm trí năng giác, tức lấy chữ tánh làm lý sở giác. Vì giác pháp nào mà làm lý tánh? Tức chỉ cho sáu pháp, là đối với pháp này dùng giác trí mà nghiên cứu, khiến lý tánh hiển bày. Sáu pháp gồm năm ấm và người giả, dùng sáu pháp này làm ba cảnh.
39. Hỏi đáp về tâm sở:
Hỏi: Trong năm ấm, ba tức là tâm sở. Nay ngoài ấm kia chỉ riêng cho các tâm sở?
Đáp: Tâm vương, tâm sở có cả ba tánh. Nay lấy vô ký, tâm vương, tâm sở và sắc làm cảnh chánh nhân, người giả danh làm cảnh liễn nhân, lấy tâm sở thiện ác làm cảnh duyên nhân như gá vào vương xá lập nghĩa cảnh quán, lấy năm ấm làm xá, tâm vương ở trong đó. Ngài Kinh Khê nói: Lấy tâm vương thiện ác ở trong nhà vô ký. Nay ngoài vô ký ấm, chỉ cho tâm sở thiện ác đối với nghĩa nào mất? Vì trước giải thích cảnh duy nhất tâm, y theo năng quán lập không giả trung, cho nên được đầy đủ ba Phật tánh sở hiện. Nay đối vơi thật pháp lập ký, vô ký và người giả mà thành ba cảnh, đều hiển bày tướng thật tức ba Phật tánh. Vì sở hiện có công năng khiến cho một giác trí thành tựu ba quán, Cảnh quán soi chiếu lẫn nhau, một ba vô ngại, khéo lập nghĩa để thêm vào.
40. Hỏi đáp về tướng thật:
Hỏi: Đối với vô ký ấm hiển bày tướng thật, còn gọi là chánh nhân, nghĩa ấy có thể như vậy. Giả danh các tâm sở kia tên tướng thật. Đối với hai tướng thật kia làm sao gọi là duyên liễu?
Đáp: Phật trí nghiên cứu cùng tận tướng thật các pháp, cho nên cõi nước giả thật, các pháp đều thật. Nay tu Phật trí chẳng lẽ quán hai thứ này mà không gọi tướng thật.
Giả gọi tướng thật đối liễu nhân. Đại luận chép: Bậc
Vô thượng trong chúng sinh là Phật. Phật, Hán dịch là Giác, đâu chẳng phải tức là bậc đạt được tục giả danh mà thành Vô thượng, giả danh của Phật, Phật đã là giác. Nay đối với liễu nhân đâu có gì trái. Luận lại nói: Pháp vô thượng là Niết-bàn. Niết-bàn đức dứt chánh thuộc duyên nhân, tâm sở là pháp ấm. Nếu chẳng thể đạt các pháp tâm sở thiện ác thì làm sao hiển được duyên nhân. Nhân quả Đại thừa đều là tướng thật, đâu phải chỉ có tánh chánh nhân là nhân quả ư?
41. Dẫn chứng sáu pháp:
Dẫn chứng sáu pháp, tuy các tâm sở thiện ác chỉ đối với duyên nhân, mà thể chẳng ngoài thật pháp năm ấm. Năm và giả danh mà thành sáu pháp. Vì sáu pháp này đối với ba Phật tánh là chẳng tức chẳng lìa, vì chẳng lìa cho nên sáu pháp hoàn toàn là ba thứ Phật tánh, vì chẳng tức cho nên phải quán sáu pháp phá hai thứ chấp, vì chẳng lìa cho nên phá vô sở phá, vì chẳng tức cho nên không phá mà phá. Vì chẳng lìa cho nên hiển vô sở hiển, vì chẳng tức cho nên vô hiển mà hiển. Lại chẳng lìa cho nên sáu không thể dời đổi, vì chẳng tức cho nên sáu không thể lập, bất khiển bất lập diệu tánh tồn tại. Hai nêu bày ý, trong văn trước còn kiết danh biện vị. Từ tư đắc trở xuống mới chính là nêu bày ý, chỉ dùng hai chữ nêu bày cảnh quán mầu nhiệm, dùng cảnh này quán thể đối với sáu pháp.
Mỗi pháp xứng thật, thấy ở ba tánh, cho nên nói là rất tốt. Ý thứ ba của Cô Sơn có ba.
42. Giải thích Phật tánh:
Bác bỏ phá văn này, lại giải thích Phật tánh rằng Phật là giác trí, tánh là lý cực, dùng giác trí chiếu lý cực. Cảnh trí xứng nhau hợp mà nói gọi là Phật tánh. Vả lại danh từ Phật tánh xuất xứ tự kinh Niết-bàn, do Phật nói ra. Ngài Chương An soạn sớ, Hình Khê bình luận đều nói về tánh nhân người nên có quả người, cho nên gọi Phật tánh. Đại sư đối với điều này lại lập riêng. Chương An, Kinh Khê cũng hợp ý chỉ dùng sự bày nói, đã chẳng như vậy, thì người sau lầm lập, còn nghi ngờ gì? Giải thích rằng trong thí dụ giải thích ở trước thì nghĩa ba Phật tánh, đâu chẳng phải do người nhân có tánh người quả, mà chẳng ngại làm tánh một tu hai tương, khế hợp giải thích.
43. Nói về chấp sai:
Lại, nếu chấp rằng trong đãn tánh có ba, là tánh người quả, bèn thành duyên liễu, tự ngoài riêng tu, đâu được gọi là toàn tu tại tánh, toàn tánh khởi tu. Huống chi Đại sư chẳng nói do người có tánh quả người. Chỉ nói Phật gọi là Giác, tánh gọi là không thay đổi, không thay đổi là chánh, giác trí là liễu, và nay phân đối cảnh trí giải thích. Trái nhau không ít, sao chỉ cho rằng nay trái với kinh riêng lập. Lại, kim Tỳ nói: Nhân chẳng gọi là Phật, quả chẳng gọi là tánh. Kia dùng hai chữ phân đối nhân quả. Vì nêu bày nhân quả, hai mà chẳng hai, nay dùng hai chữ phân đối cảnh trí. Muốn làm sáng tỏ cảnh trí hai mà chẳng hai, hễ luận quán pháp, nếu kia chẳng dùng quả giác làm quán thì chẳng phải viên hành. Nếu kia không dùng tánh của tức giác làm cảnh sở chiếu thì chẳng phải cảnh mầu nhiệm, chẳng phải cực lý. Nên biết nay lập cảnh trí chẳng hai, gọi là Phật tánh, chính là đồng với nghĩa Phật tánh nhân quả chẳng hai, Kim Tỳ đồng.
Nghĩa ấy đã đồng, thì đâu được gọi là trái kinh lập riêng ư? Đã chẳng lập riêng thì đâu cần chỉ ra để nói ư? Phổ Môn huyền nói tánh đủ ba quán, đã dùng quán này chiếu soi tánh làm cảnh.
44. Tánh đủ quả giác thì cảnh là tánh chiếu:
Nay tánh có đủ quả giác thì chẳng lẽ không dùng tánh chiếu làm cảnh. Nay phụ pháp quán chỉ phụ pháp của hai chữ Phật tánh, lập quán lập cảnh, cho nên năng sở hai mà chẳng phải hai, chẳng biết sự nhiệm mầu này, bác bỏ là dịch lầm. Buồn thay! Buồn thay! Người kia tuy dẫn nhân có tánh quả, mà chẳng thể tin quả giác là quán. Quán đối với sáu pháp hiển bày tánh của giác, luống nghe người ở nhân có tánh quả người. Hoàn toàn không thể dùng có ích gì ư? Diệu Lạc nói: Quả lý ở hành, mới gọi đẳng tứ. Lại, ý của quán ý này hoàn toàn đồng với phổ môn Huyền Nghĩa đã nói. Kia nói: quán người không là liễu nhân chủng.
Thích luận chép: Bậc Vô thượng trong chúng sinh là Phật. Phật là Giác. Thỉ giác người không, chung giác pháp không, kia chỉ cho quả giác là liễu người phải chăng? Tức dùng quả giác làm quán trí phải chăng? Sở giác nhân pháp là sáu pháp phải chăng? Nhị không sở hiển là tánh của giác phải chăng? Văn kia cũng là người sau thêm vào ư? Nên biết hai chữ phân đối cảnh trí là diệu vô tận. Vì sao? Tức lấy quả Phật làm sơ tâm quán trí, là hạnh Như lai. Dụng tức là giác của tánh, chẳng phải tu riêng duyên liễu, chiếu tức là tánh của giác chẳng phải cảnh ngoài tâm. Như thế mới gọi là Phụ Phật tánh pháp tu viên quán, nhưng nhờ diệu thú kia mà tìm tên gọi, làm sao chẳng quái lạ cho được.
1. Quán ba Bát-nhã:
Quán ba Bát-nhã, có ba, ban đầu là nêu, hai là giải thích, có ba, ban đầu y theo viên mà nêu chung, nêu chung nhất tâm không, giả, trung có ba, là ba Bát-nhã. Vì sao trở xuống là lược nêu ba tướng, dùng tức một mà nêu nhiều tướng giả, tức nhiều mà một là nêu tướng không, chẳng phải một chẳng phải nhiều là nêu bày tướng trung. Đối với một niệm tâm mà nói về ba tướng, chẳng trước chẳng sau, cũng chẳng cùng lúc.
Kế là giải thích riêng, có ba:
Ban đầu giả, kế là không, sau là trung.
2. Nêu riêng về giả:
Một tâm tất cả tâm, nêu riêng về giả. Giả ở ban đầu, giả có hai thứ, nếu ở sau không thì kiến lập giả. Nếu ở trước không thì sinh tử giả, muốn nói phàm phu từ tâm sinh lỗi, răn chắc người mới học. Tâm hữu lậu niệm niệm thường tạo sáu đường ba chướng, khiến cho biết lỗi kia, trong siêng tu không, để cầu xuất ly, cho nên đối với ba quán nêu giả ở trước, ngày đêm thường sinh vô lượng chúng sinh, nghĩa là một nghiệp thành trăm ngàn muôn, chúng sinh thọ báo không cùng, mỗi một quả báo đều có giả danh. Như các kinh luật đã nói lai báo, kia chẳng tự tỉnh liền nói vô sinh. Mười hai nhân duyên dụ như xiềng xích nối nhau không ngằn mé, cho nên nói một tâm, tất cả tâm. Sinh tử giả này tức kiến lập trung, dùng để trị bệnh. Nêu bệnh bày thuốc, quán giả thành lập, tất cả tâm, một tâm, nêu riêng về không.
3. Muốn vắng lặng các tâm thì nên quán tâm không: Đã biết tâm có thì sinh các tâm. Muốn vắng lặng các tâm thì nên quán tâm không, cần y theo bốn tánh xem xét một niệm tâm sinh diệt không thật có. Một tâm đã không thì tất cả tâm đâu có, cho nên nêu tiểu hỏa, tiểu châu. Dụ cho nhất tâm không. Đốt củi, lắng biển dụ cho tất cả không, cho nên nói năng quán tâm không, tất cả các tâm đều từ tâm sinh ra không, muốn nói quán không thì tướng kia hiển bày, cho nên dựa vào bờ mé Nhị thừa mà nói là quên cả hai bên, phiền não chẳng phải một, chẳng phải tất cả. Nêu riêng về trung. Hiện tiền một niệm như định không, dưới đây là mở ra tất cả hữu tâm. Như định hữu ấy, đâu thể quyển quy về một tâm không ư? Bất không bất hữu, vô trạng vô danh, gượng gọi là trung đạo. Lại dùng thức trí nêu bày bên và trung.
Kinh nói: chẳng y thức, vì chẳng phải thức chân thật, là thức luống dối. Phàm mê đắm tiểu y có vui của hai thứ trầm không. Kinh nói y trí là chẳng phải nhất thế trí của Nhị thừa và đạo chủng trí của Bồ-tát, đó là trí nhất thiết chủng, cho nên thuộc về viên giáo. Phật và Bồ-tát đạt đến trung của hai bên, nên gọi là cầu lý. Vì muốn nêu lên tướng trung đạo quán rõ ràng, cho nên bác bỏ hai quán, kỳ thật ba đế nhất tâm viên chiếu.
4. Y viên đối trí:
Kế là y viên đối trí có hai:
Một là đối trí nói như thị quán tức là một tâm ba quán, nêu lên tướng ba quán phải dựa vào thứ lớp.
Vì nói đối phá ba thứ hoặc nên nói lên ba đế. Hoặc năng nhất tâm tu ba thứ này, tự thành viên quán, làm sao đốn phá ba hoặc thì một không tất cả không. Đốn hiển bày ba đế thì một giả tất cả giả. Cả ba đều nhiệm mầu cho nên một trung tất cả trung. Ba cái này mới là viên ba Bát-nhã.
5. Nói về Viên:
Hai là nói về viên, y theo văn đại luận, ba thứ quán trí thật ở một niệm, thể là bí tạng, lìa trước sau và đều phân biệt. Đại luận ý trí thể như thế. Sơ tâm y chỉ thì gọi là Phật hạnh.
Ba là kiết ví dụ như trước nói. Năm quán, ba Bồ-đề, có ba: Ban đầu là nêu, hai là giải thích, có ba:
Một là y theo viên nêu chung. Như ba Bát-nhã.
6. Dựa vào thứ lớp giải thích siêng:
Hai là dựa vào thứ lớp giải thích riêng, nhờ thứ lớp ba quán hiển ý viên đốn, cũng đồng với ba Bát-nhã ở trước nói. Nhưng nay quán giả xếp ở sau không. Lại nói thuốc bệnh là kiến lập giả. Lại, Bát-nhã trước thể là ba trí, nhưng đối với một niệm nói lược tướng tu, chẳng phải nghĩa xưa nêu ở quán pháp.
Nay Bồ-đề, Hán dịch là Đạo, là nghĩa năng thông. Lại thể của tâm Bồ-đề là bốn hoằng. Kinh Đại Tập nói người chưa được độ thì độ họ, chưa giải thoát thì giải thoát, cho họ chưa an thì an cho họ, chưa diệt thì diệt cho họ, bốn đều độ sinh. Nay trong ba quán đều gọi là độ tâm sở của chúng sinh đó là mượn xưa để độ tha sinh nghĩa, thành ba quán này độ chúng sinh của mình, cho nên biết phụ pháp gồm cả nghĩa nương gá. Văn tự có ba, ban đầu phá giả nhập không, trước nêu sinh tử là giả sở phá, tức tất cả tâm. Khởi chẳng thứ lớp cho nên giao nhau lầm loạn, là bốn vật, dụ cho tướng rối loạn, như sự rối loạn của tơ, nhiều như cát, như tằm tự buộc, và như con ngài tự đốt. Bốn ví dụ này là nhân quả thế gian cho nên nói chung, là khổ là não. Kế là nếu biết dưới đây chính là nói tức không, Bồ-đề tâm quán. Nếu trong ba thức trước thuộc quán tướng không đã có nêu lược. Ấy cho nên văn nay chỉ nói biết không, tâm Bồ-đề này nghĩa độ nghĩa thông, đều y theo kiến tư tức không mà nói.
7. Phá không, ra khỏi giả:
Ba là phá không xuất giả, trước nêu lỗi không. Kinh nói không loạn ý bình đẳng, kinh tức Niết-bàn bác bỏ văn tiều. Tiểu thừa giải thích không là lý vắng lặng, do hữu thành vọng loạn. Đại thừa giải thích trung là tánh vắng lặng, là cho rằng không, hữu đều là ý loạn, tuy lìa hữu loạn vẫn bị không loạn. Nay khi tu quán thì tâm như mê đắm, không tức chỉ cho tâm sở này là chúng sinh không loạn ý. Không tâm sở này vọng kiến tư kia mà được gọi là trí. Nay luận quán giả, trí này là loạn, cho nên nói trí loạn rất mù mờ tối tăm. Tiểu thừa chứng không, được ba vô vi, nghĩa là trạch diệt vô vi, phi trạch diệt vô vi, hư không vô vi. Xứ này diệt tâm. Gốc lành Bồ-đề chẳng được lớn lên cho nên bác bỏ là hầm hố.
8. Nêu thí dụ để làm sáng tỏ:
Chim oán của Đại thừa, Đại luận quyển ba mươi chép: Thí như cái đầm không có cây gọi là Xa-ma-lê, cành gốc rộng lớn, các chim tập hợp lúc ban đêm. Một chim cáp đến sau ở trên một cành, cành gốc rộng lớn tức liền gãy. Thần Đầm hỏi rằng chim Điêu, chim Thứu điều có thể giữ được, sao con chim nhỏ mà không làm gì được. Thần cây đáp: Chim này từ cây oan gia của ta tự đến, ăn hạt cây kia, ở trên thân ta, hoặc phóng uế, con rớt xuống đất, ác thọ lại sinh làm hại rất lớn, cho nên lo lắng, đâu thể bỏ. Một cành, phải giữ cây lớn. Bồ-tát Ma-ha-tát cũng giống như vậy. Đối với thiên ma ngoại đạo... không sợ như thế mà sợ Nhị thừa. Nhị thừa đối với Bồtát biên cũng như chim kia, hoại tâm Đại thừa kia, diệt hẳn tâm Phật thừa. Nay lấy nghĩa này nơi phá công xuất giả thành quán Bồ-đề. Kế là như chân trở xuống là nói quán giả tướng tâm Bồ-đề. Chân tức giả cho nên nương không mà kiến lập.
9. Quán giả chẳng ngoài ba nghĩa:
Tâm Bồ-đề này nghĩa độ nghĩa thông, đều y theo Trần sa tức giả mà nói. Hễ nói về quán giả chẳng ngoài ba nghĩa. Nghĩa là biết bệnh, biết thuốc, nên cho thuốc nào để được lành bệnh. Nay từ phân biệt trở xuống, dùng bốn phân biệt để nói bốn Tất-đàn. Nương bốn Tất-đàn này mà nói chung ba nghĩa, có thể đồng tức là thế giới. Thì nên sinh thiện đó chính là người. Dùng thuốc trị bệnh tức là đối trị. Hợp cơ hiểu lý nghĩa bậc nhất. Bốn thứ này nói tức quán giả thành.
10. Bác bỏ biên nhập trung:
Phá biên nhập trung, trước nêu hai quán chưa khỏi sinh lỗi. Nay vì chỗ xả mà dùng kiến tư và hoặc trần sa, là phù trần bệnh, không và giả mới là thuốc của hai bệnh. Vì bệnh khắp tăng cho nên thuốc khắp dùng. Thuốc còn thành bệnh, nếu rơi vào hai bên thì thêm bệnh vô minh, cho nên phải bỏ hai. Kế là chẳng phải không trở xuống, chính là nói quán tâm Bồ-đề trung đạo. Trong đây nghĩa độ, nghĩa thông, đều y theo vô minh tức trung mà nói. Tâm không năng sở, gọi là pháp bất trụ.
Pháp này mới trụ được ở Trung đạo, ba là nương vào pháp viên đối, có hai:
Một là nói viên, nói muốn tướng hiển bày phải nhờ thứ lớp. Quán căn cứ lý, dung thời không trước sau, ba Bát-nhã trước đã nói ý kia, hai là đối pháp, nay ba Bồđề y cứ tên khác mà nói. Chân tánh Bồ-đề cả ba thứ diệu tuyệt, cũng gọi là Vô thượng. Thật trí Bồ-đề cả ba đều có tướng rộng lớn. Cũng gọi thanh tịnh. Phương tiện Bồđề cả ba đều tự tại dừng hội vô biên, cũng gọi rốt ráo.
Hai là ở một tâm cho nên cả ba đều có ba, vì thể dung thông cho nên phát thì đều phát, ấy cho nên đương thể gọi là Kim Quang Minh.
11. Kết luận:
Kết luận: như trước, sáu quán, ba đại thừa có ba, ban đầu nêu, hai là giải thích, có ba:
Một là lập chung pháp quán. Hai là y theo cảnh nói về quán. Phụ ba Đại thừa tu viên ba quán, phải tu cảnh quán nghĩa phù hợp đối với thừa. Vì thừa là nghĩa vận, ba thứ Đại thừa không pháp nào chẳng vận. Tánh đã đầy đủ vận, cho nên nghịch thuận tu pháp như vậy mà vận, nay thể nghịch tu. Niệm niệm bốn vận, vận vận tức là tánh, tánh là ba đế mới thành ba quán. Thuận tu diệu vận, văn này có ba, ban đầu nói bốn vận làm cảnh quán một niệm, hướng đến nêu một niệm vậy. Tâm dời đổi theo cảnh, sinh diệt lại vận cho nên mỗi niệm đều bốn vận.
12. Nhắm mắt dụ cho phàm phu không giác ngộ:
Từ chưa đến rồi, cuối cùng thì trở lại đầu. Phàm ngu không giác ngộ bị sự chuyển vận làm biến đổi, cho nên lấy nhắm mắt dụ cho phàm phu bất giác. Thuyền đi dụ cho bốn vận tâm mau chóng.
13. Nói ba vận là quán:
Kế là nói ba vận là quán. Hành giả viên giáo biết sátna tâm, tánh là bí tạng. Bí tạng chứa đựng cùng khắp, không hề tạm thiếu, cho nên không một vận chẳng có không giả trung.
Được ý này, bốn vận dụ cho dời đổi, ba quán càng tiến, cho nên Chỉ quán nói: củi nhiều lửa mạnh gió ích tìm rộng. Vì thế Đại sư thường dạy chúng rằng tâm thật buộc cảnh thật, duyên thật thứ lớp sinh, thật thật thay rót nhau, tự nhiên nhập lý thật. Thật tâm buộc cảnh thật là ba quán buộc ba đế. Duyên Thật thứ lớp sinh là bốn vận thay đổi biến chuyển. Bốn vận là cảnh, cảnh là quán duyên. Như củi giúp lửa.
14. Nói về thật tâm, thật cảnh:
Thật thật thay rót nhau là ba quán thật tâm rót vào thật cảnh ba đế. Thật cảnh này lại rót vào thật tâm. Rót vào không thôi tự nhiên từ quán hạnh tương tự được nhập sơ trụ ở trong thật lý. Đây chính dùng ba quán vận vận đối với bốn vận, cũng là vận vận đối với bốn vận ba quán vận đều được gọi là dùng vận để vận vận.
Kế là nói đối mất hiển được, như mê ba đế nhưng tùy theo bốn vận, thì sinh tử vô cùng. Như quán bốn vận tức là ba đế, thì Niết-bàn tại tức.
Kế là dùng quán đối thừa, có hai:
Một là y theo pháp đối, ba thừa là xe lớn, ba đế là đạo tràng, bất động mà chuyển vận, không đến mà đến.
Hai là y theo người khen, ba thừa tức là nhất thừa đẳng, lý thừa là thể của xe, cho nên cao rộng không gì hơn. Tùy thừa là trâu trắng, cho nên đi mau như gió, đắc thừa là đầy đủ độ, cho nên trang nghiêm, bặt dứt so sánh, tuy ba mà một, tuy một mà ba. Thừa mầu nhiệm này mới là quán hạnh. Quán âm, Phổ hiền đại nhân đều nương, cho nên gọi là đại.
15. Kết luận:
Kế là kiết, như trên. Bảy là quán ba thân, có ba:
Ban đầu nêu, hai là giải thích, ba là so lập quán hiển bày pháp.
Hai là y theo tâm mà nói quán, trong một niệm tâm tu quán ba thân, phải tu cảnh quán đều có nghĩa thân, cho nên trước nói một tâm có công năng khởi mười cõi, tức nói lên một niệm đầy đủ thân mười cõi.
Kế là trong mười cõi tức khởi ba quán, thì rõ mười cõi đều có ba thân, ban đầu văn có ba:
16. Khéo giải thích lý tâm tạo của Hoa nghiêm:
Một là nói mười tướng, nay các nhà chú thích khéo giải thích lý tâm tạo của Hoa Nghiêm, có hai nghĩa: Một lý tạo, tạo tức là đầy đủ.
Hai là sự tạo, không có ba đời. Tạo đối với mười cõi nghĩa là quá tạo ở hiện, quá hiện tạo đương, hiện tạo ở hiện, đều do lý đầy đủ mới có sự tạo, cho nên mười cõi thân mỗi thân đều là toàn tánh khởi tu, tuy toàn là tánh mà nhân thành cảm quá không chút sai lầm. Như tâm phá giới thành, thì năng tạo địa ngục, các khổ đầy đủ, cho nên thân mười cõi đều có giả thật và y báo. Không có một vật từ ngoài mà khởi
Ba là phân biệt khó dễ, do chúng sinh từ vô thỉ huân tập, ác nhiều thiện ít, khiến tâm niệm thường duyên theo thân. Chưa bước lên năm thừa, trước đã vào bốn đường, lên khó xuống dễ, ai nói không đúng. Hành nhân tu quán ở mười cõi tâm, thường phải thức tỉnh.
Kế là kiết thúc duy tâm. Pháp thí dụ rất dễ thấy.
17. Tu ba quán hiển bày ba thân:
Văn kế, ở tâm cảnh này mà tu ba quán, hiển bày ba thân, chi làm ba, là không, năm thọ ấm rỗng vắng, hoàn toàn không có gì. Lời nói rút ra ở kinh Tịnh Danh, thọ ấm là tâm. Năm là năm chỗ sinh thọ, đó là thọ hữu thọ, vô thọ, vừa hữu vừa vô thọ, phi hữu phi vô, và thọ bất thọ, cũng gọi là năm thủ ấm. Quán một ấm này là không, không thật có, thì khiến mười cõi đều không thật có. Phiên địa dụ cho tâm, không cây cỏ đều tiêu hết, tất cả thân không.
Hai là giả, hoặc căn cứ một niệm quán mười cõi không, đã đầy đủ ba đế, nay bác bỏ không, muốn hiển bày quán giả lập pháp công, cho nên lại lo lắng người viên giáo bỏ đại theo tiểu, cho nên nương Nhị thừa bác không, khôi tịch. Không tâm chẳng thể khởi mười cõi ứng, chính rõ quán giả không thân nào chẳng hiện. Nói đồng sáu đường, hẳn là văn lầm lẫn. Văn này tự nói: Vì hiện thân Phật và ba thừa cho nên trong ba có hai:
Ban đầu đắm hai, bác bỏ thiên. Bác bỏ ý cũng đồng quán giả thì bác không.
Hai là vong, trong ba hiển trung.
18. Hỏi đáp về Trung đạo:
Hỏi: Chính là nói trong trung đâu cần phải vong.
Đáp: Kinh Mạt-đà-ma Tự Chú thích rằng: Mạt, là chớ. Đà-ma nghĩa là Trung, chớ chấp Trung đạo. Thích Tiêm y theo đây lập nghĩa Trung đạo, cho nên biết vong Trung mới là Trung quán. Trong văn ban đầu nêu ba mươi bất đắc vong đối với thân giả, cũng không được thân như ở dưới. Vong ở thân không, nghĩa không như thế. Trong không mỗi thứ đều hợp đầy đủ vong mười ba. Lược nêu ban đầu, sau cho nên nói cho đến. Nói khiến tình thì ba đế đều vong. Luận hiển lý thì ba đế đều chiếu. Thân tám thước, tánh năm bào tướng tánh, cho đến tu tánh và người tu tánh. Thân mười ba pháp đã đều gọi là tánh, đầy đủ nghĩa khéo thành. Vả lại, nêu thân người làm đầu mối để nói, lý hợp mười thân, mỗi thân có mười ba, mỗi thân đều là tánh. Chính luận này vọng cho nên rốt ráo thanh tịnh.
Mới hiển bày mười thân đều tức Trung đạo.
19. Tâm quán ba Niết-bàn:
Dùng quán đối thân, ba kiết sẽ giải. Tám quán ba Niết-bàn có ba, ban đầu là nêu, hai là giải thích, ba các Niết-bàn đều có đủ bốn đức mới gọi viên cực, cho nên nay quán ba, mỗi pháp đều thành thường lạc ngã tịnh. Quán pháp đã đồng là y theo ba cảnh nói về ba tướng. Tuy đối với một cảnh hiển bày một Niết-bàn, phải biết mỗi mỗi đều có ba. Nếu không như vậy thì đâu thể khiến ba đều đầy đủ bốn đức. Nghĩa này văn trước đã có nói. Văn chia làm ba, ban đầu y theo báo tâm quán tánh tịnh. Báo tâm vô kí vốn tịnh dễ rõ. Tâm tánh đã tịch đâu chỉ có tịch nhiễm. Tịnh cũng vốn tịch, cho nên bản tánh chẳng nhiễm chẳng tịnh. Nếu có thể nhiễm tịnh tánh thì sinh diệt, cho nên nói: nhiễm cho nên gọi là sinh tịnh, cho nên gọi là diệt. Vì bất sinh diệt nghĩa bốn đức thành.
20. Đầy đủ bốn đức nên gọi là Tánh:
Đã nói sinh diệt chẳng thể hủy cho nên thường, nghĩa đối với ba câu bất nhiễm, bất ngại, bất thọ, đều phải nói sinh diệt tránh rườm rà cho nên sơ lược. Đầy đủ bốn đức cho nên gọi là tánh. Lìa sinh diệt cho nên gọi là tịnh, cho nên nói tánh tịnh Niết-bàn. Hai y theo khởi tâm quán viên tịnh. Vọng niệm phiền não cần quán viên tịnh. Viên tịnh là trí phải nói về phá hoặc. Dùng ba chánh quán phá ba vọng niệm, ứng theo tánh ba đế khiến cho ba vọng niệm chẳng nhiễm cho nên tịnh, chẳng hủy cho nên thường, chẳng ngại cho nên ngã, chẳng thọ cho nên lạc. Tứ đức hiển bày cho nên viên. Ba vọng mất cho nên tịnh, tịnh cho nên bất sinh, viên cho nên bất diệt, cho nên gọi viên tịnh Niết-bàn.
Kế là y theo các tâm sở quán phương tiện tịnh, các tâm sở tạo tác cho nên gá vào.
21. Quán phương tiện tịnh:
Quán phương tiện tịnh, các tâm sở chẳng hiện hành, chẳng theo vọng niệm gây ra nghiệp sinh tử, mà theo chánh quán tác nghiệp không thể suy nghĩ bàn luận, chính là chuyển đối với tám muôn trần lao, là tám muôn Tam-muội và Tổng trì, các tâm sở đã chuyển cho nên bất hủy phương tiện, bất nhiễm phương tiện, bất ngại phương tiện, bất thọ phương tiện. Khiến phương tiện thanh tịnh thành bốn đức. Bốn đức ích tha nên gọi là phương tiện. Các số bất hành nên gọi là tịnh, tịnh cho nên bất sinh, phương tiện cho nên bất diệt. Đây là các số đương thể thành phương tiện tịnh Niết-bàn.
22. Quán ba ngôi báu:
Kế là kiết, rất dễ hiểu. Chín là quán ba ngôi báu, có ba:
Một là y theo đế trí và hòa, y theo danh cùng luận ba ngôi báu. Hai là y theo tu tánh và hòa, khắc thể đều lập ba ngôi báu.
Ba là giải thích ý, vì ba ngôi báu tu tánh tương đối, có khai có hợp. Ban đầu y theo khai để luận về hợp, cho nên dùng chín nghĩa lập một ba ngôi báu. Kế là y theo hợp để luận về khai, cho nên căn cứ ba danh mà lập ba ba ngôi báu. Ban đầu văn có ba:
Ban đầu ý kinh lập danh, nhất thể ba ngôi báu, Phật gọi là Giác, Pháp gọi là Bất giác, Tăng gọi là Hòa hợp.
23. Y theo nghĩa giải thích tướng:
Hai là y theo nghĩa giải thích tướng, ba ngôi báu này đã cùng ba đức đồng xuất ra tên khác. Ba đức đầy đủ lẫn nhau, mỗi mỗi luận ba, cho nên ba ngôi báu, ba chẳng cô lập. Bất giác là tánh, hai thứ còn lại là tu, hai tu đều có ba, một tánh cũng có ba. Ba trong tánh đã chưa giác ngộ, đồng gọi là bất giác. Tuy chưa giác ngộ nhưng lý vốn xét kỹ, cho nên gọi ba đế là ngôi báu Pháp. Toàn tánh khởi tu thành tam đế trí, đã có thể giác ngộ nên gọi là ngôi báu Phật.
Ba giác trí này cùng tánh ba đế tương ưng hòa hợp, nên gọi ngôi báu Tăng. Chẳng phải pháp ba đế không có tam trí Phật, chẳng phải đế trí hòa không có tam thoát tăng, ba là kiết quy nghĩa báu. Phật, Pháp, Tăng này đế trí viên cực. Diệu dụng rộng lớn thật đáng tôn trọng. Nghĩa bảo thành tựu. Chẳng phải chỉ có cực quả, năm tức đều như vậy. Kế là văn, chia làm ba:
24. Ba đế đều gọi là bất giác:
Một là y theo tánh đức, cả ba đều bất giác. tam đế ở tánh chưa khởi tu đức giác liễu trí vậy. Cho nên ba đế đều gọi là bất giác, mà ba đế này tánh là ba đức. Trung là pháp thân cho nên tương đương ngôi báu Pháp. Chân là Bát-nhã cho nên tương đương ngôi báu Phật. Tục là giải thoát cho nên tương đương ngôi báu Tăng. Nếu kia chẳng chỉ cho ba đế trong mê làm ba ngôi báu thì sao có thể rõ đối với tánh nhiếp hai tu, chẳng do bất giác thì không có Phật, Tăng.
25. Y theo tu đức cả ba đều gọi là giác:
Hai là y theo tu đức cả ba đều là giác. Ba trí ở tu đều được giác liễu. Ấy cho nên ba ngôi báu đều có tên là Tri. Vì ba trí này cũng là ba đức. Biết trí thể của trung là pháp thân, cho nên tương đương ngôi báu Pháp, biết trí thể của không là Bát-nhã cho nên tương đương ngôi báu
Phật. Biết trí thể của giả là giải thoát cho nên tương đương ngôi báu Tăng. Chẳng phải chỉ có ba trí là ba ngôi báu đâu biết giác trí nhiếp được lý tánh và hóa dụng ư?
26. Y theo tương ưng cả ba điều hòa hợp:
Kế là y theo tương ưng, cả ba đều hòa hợp. Tam trí tại tu cho nên thuộc sự. Ba đế tại tánh cho nên đều thuộc lý. Ba đế ba trí đã đều tương ưng. Cho nên y theo hòa nói ở ba ngôi báu. Vì ba này cũng là ba đức cho nên đối ba ngôi báu, không sự lý hòa, thể là Bát-nhã, cho nên tương đương ngôi báu Phật. Giả sử lý hòa thể là giải thoát, cho nên tương đương ngôi báu Tăng. Chỉ là ba đức vì căn cứ đế trí nghĩa tương ưng, cả ba đều giải thoát. Nếu ba nghĩa này chẳng phải ba ngôi báu thì đâu hiển bày ba thoát hợp ba đế trí. Còn như các nhà giải thích hiện nay đối với đế, đối với trí, thì dùng giải thoát.
27. Ý nghĩa mỗi thứ đều có ba:
Mỗi thứ phải có ba, là ý thú như thế nào? Như đọc văn nay quán tâm ba ngôi báu khai hợp giải thích sinh ra kinh nghi, nên biết chưa giải một nhà giáo quán ý tam tam. Luống nói luống hành khế chứng vô phần, lại sự lý hòa, một niệm mười cõi, có thể phân sự lý, nếu ba trí này khế hợp chín cõi ba đế thì gọi là hòa với lý. Sự hòa thì có tam giáo ba ngôi báu. Lý hào thì có viên giáo ba ngôi báu. Một niệm sự lý chẳng phân mà phân, nghĩa ấy rõ ràng. Ý thứ ba của ngài Cô Sơn có ba, ba. Phá nghĩa này rằng: Lại nói trung đế bất giác gọi là Pháp. Ngài Chân-đế bất giác gọi là Phật. Tục đế bất giác gọi là Tăng. Phật là tiếng Phạm, Hán dịch là Giác Giả, gá sự thành quán đâu được trái nghĩa, Phật-đà dịch Bất giác ư? Đây đều là những lời luận bàn tối tăm mê mờ, đối với lý đâu có lợi ích? Giải thích rằng Phật dịch là Giác, ai mà chẳng biết. 28. Nói về ba ngôi báu:
Khoa trước lập danh. Bất giác gọi là ngôi báu Pháp, Giác gọi là ngôi báu Phật. Hòa hợp là ngôi báu Tăng. Danh nghĩa này rõ ràng như mặt trời, nay lại giải thích tiếp văn ngôi báu Phật, ba đều gọi là tri, há chẳng phải nghĩa giác, vì trái với Phật. Nay nói Chân-đế bất giác gọi là ngôi báu Phật, tục đế bất giác gọi là ngôi báu Tăng là vì muốn khiến người hiểu đối với ngôi báu Pháp, tức là đủ Phật tăng. Ba ngôi báu này lấy pháp làm chính, cho nên ba ngôi báu đều nói bất giác, do vì Chân-đế là tánh đức Bát-nhã, nghĩa tương đương với Phật. Tục đế là giải thoát cho nên được gọi là Tăng, mà đều chưa có trí giác, bất giác.
29. Ba ngôi báu gọi chung là bất giác:
Cho nên ba ngôi báu gọi chung là Bất giác. Người kia chẳng hiểu ngôi báu Pháp Chân-đế là tánh Bát-nhã, cho nên vọng phá rằng bất giác trái với Phật, kế là ngôi báu Phật có ba, đều từ trí lập, ngôi báu Tăng có ba đều từ hòa lập, cho nên kinh Tư Ích chép: Tri giác gọi là Phật, biết ly gọi là Pháp, biết vô gọi là Tăng, cả ba đều gọi là biết, là đối với nghĩa giác khai mở ba ngôi báu. Nghĩa giác như vậy, lý hợp bất giác và dùng nghĩa hòa, đều khai ra ba. Phật xuất thế, căn cơ lợi ích chẳng cần nói khắp. Như thế mới gọi là Nhất thể ba ngôi báu, đó là không hai không khác với ba đức, nếu chẳng như vậy thì đâu thể một niệm dung diệu mà quán.
Các nghĩa như thế nếu chẳng phải chính Phật nói bốn biện thì ai đến chỗ cùng cực của ba ngôi báu, cho nên biết chánh nói tự phản, người kia chẳng tín, lừa dối mê mờ, vời lấy sự than thở. Mười quán ba đức, có ba:
Một là nêu, hai là giải thích, có ba:
30. Nêu thẳng ba quán:
Ban đầu nêu thẳng ba quán, hai là y theo quán nói về đức, có hai:
Ban đầu chính là quán đức, có hai:
Ban đầu y theo viên nêu bày quán, có hai là trước nói về quán, viên diệu có ba, đức thể lẫn nhau có đủ, mỗi mỗi đều có ba, chẳng ngang chẳng dọc mới gọi là bí tạng. Đại sư nêu bày vị tuy ở năm phẩm, biết được kho bí tạng sâu xa của Như lai, tức dùng kho bí tạng làm đế làm quán, dung hợp tất cả cảnh. Nay thể của một niệm, tánh là ba đức, tức dùng ba đức làm ba quán, cho nên nói ba quán mỗi quán dung nhiếp.
Đầu của ba quán đều nói là tức, chỉ cho một niệm tâm đức là ba đế. Ban đầu nói tức không chẳng phải tức thiên không, là quán một niệm tức viên không, không này phá được tướng chấp đắm của ba đế, cho nên nói một không tất cả không. Nói vô giả vô trung mà bất không, chẳng phải chỉ quán không đối với pháp phá tướng. Giả trung cũng có thể đối với pháp phá tướng. Vì sao? Vì không phá tướng tức chân phá tục, vì giả phá tướng tức tục phá chân, vì trung phá tướng cả hai ngăn hai bên. Ba đốn phá này gọi là rốt ráo không. Không đã phá tướng thì có chứa nhóm gì? Nhưng đầy đủ ba đế chẳng ngang chẳng dọc, tức kho Bí mật. Tạng này có đủ thường lạc ngã tịnh, gọi là đức Bát-nhã. Kế đến là tức giả chẳng phải tức thiên giả, là quán một niệm tức diệu giả.
31. Công năng của giả:
Giả này có công năng lập ra pháp ba đế, cho nên nói một giả tất cả giả. Nói vô không, vô trung, mà bất giả, chẳng phải riêng quán giả mà lập được pháp, không quán trung quán cũng có công năng lập pháp. Vì sao? Vì Không lập pháp tức tục lập chân, vì giả lập pháp tức chân lập tục, vì trung lập pháp song chiếu hai đế. Ba đốn này lập, gọi là khéo hiểu, đã thuộc về ba đế, chẳng dọc chẳng ngang. Gọi là kho Bí mật. Tạng này đầy đủ thường lạc ngã tịnh gọi là đức giải thoát. Kế là nói tức trung, chẳng phải tức đãn trung. Vì chỉ một niệm tức là có đủ đức. Trong đây có khả năng làm cho pháp mầu ba đế, cho nên nói là một trung tất cả trung. Nói vô không, vô giả, mà bất trung, chẳng phải chỉ có trung quán đối với pháp bặt dứt, vì giả trung cho nên tục đế bặt dứt, vì trung trung cho nên song già song chiếu đều bặt dứt đối đãi, ba đốn này bặt danh gọi là viên trung.
32. Nói về kho bí mật:
Đã thuộc về ba đế chẳng ngang chẳng dọc, gọi là kho
Bí mật. Tạng này đầy đủ thường lạc ngã tịnh, gọi là đức Pháp thân, ba đức này quán sát sắp xếp các trường hợp. Nhưng tại lìa đối với thiên phá, thiên lập và trong biệt quán, đắc ý này năng sở đã vắng lặng nói năng lo lắng đều quên, cho nên được gọi là quán bất tư nghì. Như thế mới nói lên ba đức bí tạng. Hai nói viên, từ nhất trung cho đến vô sở úy đều là văn Hoa Nghiêm. Có chỗ nói một, nêu lên một pháp. Vô lượng là tất cả pháp. Nếu dùng ba đế thâu nhiếp tất cả pháp thì không còn dư thừa, lại đối với ba đế hễ dùng bất cứ một đế nào đều gọi là một. Như vậy một, ba xoay vần sinh khởi.
Như nêu văn quán nói, có quán giải này, nghe một chẳng sợ giảm ba đức, nghe ba chẳng sợ thêm đối với một thật. Nên biết ở dưới lại dùng một nhiều mà làm bốn trường hợp, nói lên không thể suy nghĩ bàn luận, lìa ngang dọc... thành bí tạng quán.
33. Nương Phật nói về đức:
Kế là nương Phật nói về đức, có hai:
Một là nói đức từ quán lập, mạng lực của thể Phật từ ba quán thành, huống chi thể... là không, giả, trung. Chẳng thể phân ra năng thành, sở thành.
Hai là nói đức được gọi là kho. Khen ngợi tâm cảnh, có hai:
Một là y theo kinh khen ngợi điểm cốt yếu, chư Phật đều có ba thứ giải thoát là chân tánh, thật tuệ, về phương tiện.
Nay chỉ nói giải thoát cũng là một ý trong giải nhiều ý. Ba thoát này không hai không khác với ba đức kia, chỉ Phật pháp cao rộng, sơ tâm là khó. Tâm không khác với Phật, quán tâm thì dễ. Cho nên khiến ở tìm trong tâm hành. Vì tâm chúng sinh tức không, giả trung. Trung là chân tánh, Không là thật tuệ, giả là phương tiện. Cao thấp tuy khác nhau tánh kia không hai, cho nên khiến quán tâm được giải thoát của Phật. Nay quán mười pháp ý kia đều như vậy.
Hai là so sánh với ba vô sai khác. Tha sinh tha Phật ba đức ba thoát, tâm ba đức của mình đâu khác với quán.
34. Kết pháp quy đề:
Kiết pháp quy đề. Đề nêu ba chữ, là tên đương thể của ba đức, cho nên dùng ba quán đối với kim... Nghĩa tương đương ba quán, nói lên ba đức.
Kết Luận, lệ với trước.
Bác bỏ tà không, nói lên công đức quán tâm, có ba:
Một là nêu tà không kia, nay lập quán pháp, đều nương lời Phật, Phật dạy y kinh tu quán khế lý. Lại dạy lập tượng, nương gá quán chân. Kinh giải thích Phật tâm. Tượng đúc chất Phật, hai thứ này không cung kính làm sao quán thành.
35. Nay thực hành lý quán để làm chánh tu, cung kính sự nghi để làm giúp đạo. Người ngu thế gian chẳng nghe biết ý này vọng chấp si không, thấy quán tâm này lại kính kinh tượng, nghĩa nương bình đẳng, nay khó tu quán, ba thân chẳng thành, bèn chấp kinh Phật cho rằng tượng Phật. Đồng với gỗ giấy. Ta đối với kinh tượng chẳng sinh tâm cung kính, đối với gỗ giấy khác chẳng sinh tâm kiêu mạn, tự hành hóa tha, ba thân nghĩa đủ.
Dùng si không này hủy hoại chánh trợ này, hợp lại tu hành.
36. Dùng sự đối phá:
Hai là dùng sự đối phá, kia chấp si không, lời đã luống dối cho nên chỉ dùng ba sự nghiệp để xét nhuế mạn kia. Ba thân chẳng thành, ban đầu phá nghĩa bình đẳng chẳng thành. Người đối với miếu sắc phải kỉnh sợ. Đối với kinh Phật, tượng Phật sao lại khinh mạn, sợ mạn đã khởi các kiết sử lừng lẫy. Bình đẳng chẳng thành, pháp thân ở đâu.
Hai là phá trí tuệ chẳng thành. Sư học chia hai tắng ái đều lập, chính sinh tắng ái nghiệm là ngu si. Ngu si chẳng phải trí thì báo thân mất.
37. Hóa tha bất thành:
Ba là bác bỏ hóa tha bất thành. Si không chẳng phải trí thì phương tiện ràng buộc. Chấp sự thấy biết của phàm ngu, sinh tâm tăng thượng, ngã mạn truyền nhau, thầy trò đều đọa. Tà khí ba độc chuyển vào tâm người, hóa ích hoàn toàn không. Ứng thân ở đâu?
Nói về quán đức này, bọn người chấp tà không vọng huỷ quán tâm, dùng sự xét thì, lỗi kia sơ lược. Nay lập quán tâm, lại kính kinh tượng có công đức gì? Lược luận có hai: Cái gọi là có phương tiện tuệ, có tuệ phương tiện. Hai thứ này đều giải thích là nhân của ba thân, tức nói lên si không hai thứ đều trói buộc.
38. Chẳng phải gốc ba thân:
Chẳng phải gốc ba thân.
Về công đức, đối với giai đoạn phàm phu vị tu tuệ viên thật. Vì cung kính kinh tượng phương tiện giúp cho nên khiến tuệ chẳng ràng buộc. Vì chẳng ràng buộc tuệ dẫn đến cung kính thiện giới, răn khuyên chúng sinh, cho nên lại khiến cho phương tiện chẳng ràng buộc. Nhân của ba thân, có phương tiện tuệ thì thành ứng thân, có phương tiện tuệ thì thành báo thân. Tướng thật được hiển bày tức là pháp thân, đâu đồng với si không lập ba thân ư? Hai là y theo nghĩa trung nói hai chữ, là tên khác của bản bảy quyển do Chân-đế dịch. Kim Quang Minh trở xuống lại đặt Đế vương, nay sấm kinh chỉ nêu ba chữ, cho nên văn trước chép: Nếu chỉ y quyển bốn, chỉ làm ba chữ, không có hai chữ Đế vương, hoặc nương văn kinh có nghĩa kinh vương, nếu nói chẳng nói đều cũng không ngại.
39. Y theo nghĩa lại nói Đế vương:
Đại sư giải thích đề trước tuy căn cứ văn mà nói ba chữ. Nay lại y theo nghĩa trùng nói Đế vương, cho nên phiên dịch chương đầy đủ, nêu hai văn Hoa Phạm của Chân-đế mà nói. Đại sư này dịch đề rất rõ ràng, đó là thực hành trùng giải thích trang bổn. Trong giải thích, một là y theo thích giải của Chân-đế. Sau khi Chân-đế dịch kinh này và thống nhiếp nghĩa giải thích chữ Đế vương, là phần đối ba thân với ba kinh, ý nói các kinh đều nói một thân. Kinh này có danh nghĩa ba thân, cho nên có khả năng thống nhiếp được các kinh như kinh Hoa Nghiêm...
Cho nên được gọi là Đế vương, phân cắt ba thân, Đại giáo hơn lém. Đầy đủ như sớ bác bỏ. Hẳn là phó cơ mà giải thích như thế.
40. Nay các Sư giải thích:
Hai là nói các sư nay giải thích, có hai:
Một là nói nên có đủ ba nghĩa, có ba, ban đầu nêu danh lược trình bày, muốn y theo giáo quán viên đối ba pháp, cho nên nêu bày đế vương hẳn có nghĩa tuệ, tức là dùng mưu thần sách Thánh, đồng thời Đế là tôn quý cùng cực, vương là triêu hội, hợp thành ba nghĩa, là Đế tuệ vương.
Hai là giải thích nghĩa xuất ra, có ba nghĩa. Nghĩa này đối với tha vẫn là thí dụ. Nếu y theo các sư nay thì đều là đương thể.
41. Dẫn kinh chứng minh:
Dẫn kinh chứng thành, ban đầu lấy chỗ đạo pháp tánh sâu rộng, chứng nghĩa quý cực. Nếu từ năng du là thuộc về nghĩa tuệ. Kế là người nghe suy nghĩ, tuy ở nhân nhưng sơ tâm ấy tức dụng quả trí. Ở đây nói lên viên tông nhân quả chẳng hai.
Cam lộ tuy lý từ năng khai mà nhập, và năng xử mà thực, đều là nghĩa của Thánh trí hùng lược. Chư Phật, Bồ-tát vì triều hội cho nên Phật được thường trụ, Bồ-tát trang nghiêm cho đến các sông cạn khô, việc ít có hiện ra là nghĩa lợi ích, việc thứ tư của ngài Cô Sơn là phá lầm văn này. Mà nói sự lầm lẫn có bốn:
42. Nói về phụ pháp thành quán:
Một là nói luận phụ pháp thành quán. Văn chỉ quán trước đã dịch pháp tướng. Vả lại văn này chỉ giải thích thức bổn đề ba chữ và dùng quán tâm trở lại dùng Chânđế lập đề hai chữ đế vương.
Hai là nói quyết hoặc dùng thẳng vẫn có thể ung dung, huống chi có thêm chữ tuệ.
Ba là nói: Lại nghe thêm hai chữ Đế vương, mà nói Đế tuệ vương. Như hiệu của chí tôn có thể dùng chữ văn võ Thánh thần... đối với hai chữ Hoàng đế, trung gian mê đắm tà.
Bốn là lại nói tuệ ấy là thần mưu sách Thánh. Đế là quý cực chí tôn, vương là muôn nước về chầu. Cách giải thích này xuất xứ từ ở kinh, đầy đủ ở sử, chép ở tử, thấy ở tập. Nếu bốn sách ấy chẳng có nói thì tức là nói tuồng bụng, trí ấy Thánh sư đâu có như vậy? Nay giải thích cách thứ nhất, Đại sư lại nói nghĩa Đế vương, rất chẳng phải kinh đình. Trước nêu Chân-đế hạn cuộc giải, kế là trình bày chánh nghĩa này. Nay nghĩa lại có hai, ban đầu nói nên có đủ ba nghĩa, kế là nương ba nghĩa giải thích. Trong giải thích tự có hai ý. Ban đầu y theo giáo nghĩa, giải thích chia hai, y theo quán hạnh giải thích. Giáo quán hiển nhiên như chỉ tay trông lòng bàn tay.
43. Dùng giáo quán giải thích:
Là văn trước đã dùng giáo quán. Giải thích ba chữ sấm, dịch đề xong. Nay lại dùng giáo quán để hiểu bản dịch của Chân-đế. Hai chữ Đế vương làm sao có thể chỉ phụ pháp ba chữ của sấm dịch. Còn y theo hai chữ minh quán của Chân-đế. Nếu quán phá này còn độc văn chẳng bỏ. Huống quán đạo sâu đâu nhọc nghĩ bàn? Giải thích hai thứ ấy, nay Đại sư giải thích kinh cốt yếu ở hiển nghĩa, dùng bản dịch của Chân-đế. Văn tuy nêu hai nghĩa nhưng hợp có đủ ba, Đế vương thế gian đến chẳng có tuệ, cho nên nói: Nay nói Đế vương nên có đủ ba nghĩa. Lập ba nghĩa này là năng thuyên danh. Vì gọi sở thuyên có mười thứ ba pháp.
44. Giúp cho biết lý:
Vì ba vời ba giúp cho biết lý. Đến ngài Nghĩa Tịnh đời Đường dịch lại kinh này, tên là Tối Thắng Vương. Ba nghĩa do Đại sư Quả Phù lập ra. Rất tôn quý giải thích đế và tối đồng nghĩa. Thánh thần của tuệ hợp với thắng nghĩa. Dùng bản tân dịch xét ba nghĩa rõ ràng. Huống chi y theo nghĩa thêm văn, hiển bày có ví dụ kia. Như văn cú này giải thích năm giới trong kinh, muốn cho nghĩa hiển thì đều phẫn tránh trở xuống Thêm vào câu người người không tin. Tài vật hao tổn trở xuống lại thêm văn tổn mất lễ độ. Sao không phá thêm hai câu, khiến văn cú thành thuyết sai lầm ư?
45. Giải thích ba thứ ấy:
Giải thích ba thứ ấy, nay nói Đế vương đầy đủ nghĩa tuệ, ý dùng ba danh giải thích ba pháp. Vì mười ba pháp chỉ có ba ngôi báu. Phật ở đầu, tám thứ đều đồng, ba đức thứ lớp. Nay muốn y theo đây, đế nói Pháp thân, tuệ nói về Bát-nhã, vương nói về giải thoát, thuận với sở thuyên, cho nên đặt chữ tuệ ở giữa hai. Đại sư tuyên đương thường từ nghĩa tiện. Giải thích diệu pháp thì trước pháp, kế là diệu, giải thích quán thế thì trước thế, sau là quán. Vì nay trùng nói ba nghĩa đế... đó là tên đương thể của pháp tánh? Còn chẳng phải thí dụ, đâu được hoàn toàn đồng với tôn hiệu Hoàng đế tôn quý. Huống chi tự nói Đế vương có nghĩa tuệ. Sao lại che lấp nghĩa kia mà trách chữ kia, thấy rõ được nhân tình.
46. Giải thích bốn:
Giải thích bốn, nếu nói giải thích ba nghĩa như đến thì chẳng phải kinh sử tử tập, do người sau thêm vào, vả lại như tiếng Phạm là sám-ma, Hán dịch là Hối quá. Nay văn kinh câu chẳng phân Hoa, Phạm, dùng thẳng đầu để giải thích sám, lại giải thích hối, và năm nghĩa đen trắng để giải thích. Lại dùng nghĩa Giám để huấn âm Phạm, trường hợp này xuất xứ từ kinh luận sách vở nào? Sao không trách văn ấy không có xuất xứ. Nay đều thành sai lầm, chẳng chẳng phải Đại sư khéo léo nói pháp, mục đích là hiển lý để khai mở tâm người. Lại đã nói bậc Trí là Thánh sư. Cái gọi là danh giáo cố nhiên phàm tình tục học chẳng thể thấy biết được. Đâu thể xếp ngang bằng với sự thấy biết của ta, bác bỏ biện tài của bậc Thánh, lời nói đồng cốt mê hoặc ai mà tin nhận.
Y theo ba nghĩa giải thích có hai:
Một là nói mười thứ ba pháp đều có đủ ba nghĩa.
47. Hỏi đáp về vì sao giải thích lại:
Hỏi: Trước dùng mười thứ ba pháp dịch Kim Quang Minh nghĩa ấy đã rõ, nay sao lại dùng mười thứ ba pháp giải thích Đế tuệ vương. Vả lại tôn trọng gọi là Kim, chiếu liễu gọi là Quang, ứng ích gọi là Minh và nay nghĩa quý, nghĩa tuệ và nghĩa triều hội, đạo lý chẳng khác nhau, sao phải dùng trùng này đối với mười pháp. Đâu chẳng phải phiền toái khiến người đều cho là các... văn này là người lầm soạn. Có lý do gì mà phải giải thích lại ư!
Đáp: Thô tâm đọc văn nghĩa là làm nhiều lớp, nghĩa ấy tinh tường đều có chỗ quay về. Vì sao? Vì thí dụ ở trước có giải thích, cho rằng Kim Quang Minh là vật tượng thế gian, có thể dùng so sánh, huống chi mười thứ ba pháp, chí đương thể giải thích tuy bỏ dụ theo pháp. Chỉ nói pháp tánh có thể còn gọi là Kim, Tịch chiếu gọi là quang, ứng ích gọi Minh. Quán tâm mười pháp tuy theo đương thể, mà chẳng phải y theo giáo, cho nên nay giải thích hiển từ giáo nêu bày.
48. Giải thích Đế tuệ vương:
Mỗi ba pháp tức nghĩa quý, nghĩa tuệ và nghĩa chầu về, đều là đương thể, gọi Đế tuệ vương. Tuy đế tuệ vương và ba nghĩa Kim Quang Minh, hơi giống mà trước theo thí dụ, nay theo đương thể. nghĩa thế sai khác, dầu khiến trước sau đều theo đương thể mà văn trước tự giải thích ba nghĩa kim... Nay giải thích đế... đâu có nói lại, nếu các ba pháp cũng đều có nghĩa Đế tuệ vương, thì khiến người tin sâu, mỗi ba pháp đều là Kinh vương. Vì ngay ở trong đề, chẳng phải xa lấy nghĩa.
49. Nói mười thứ Kinh vương:
Hai là nói mười thứ kinh vương đều có công năng nhiếp pháp có ba:
Một là nêu bày, hai là giải thích tướng có hai: Một là nói nhiếp, chia làm ba:
Ban đầu nhiếp pháp môn, ba đường ở trong mê cho nên thuộc về hoặc, thức phân biệt danh nghĩa cho nên thuộc về giải, Tam-bồ-đề thuộc về phát tâm hành giả, trấn nguyện hạnh, ba Đại thừa thuộc về phát thú vị, phát chân thú quả vị. Nương dạo bốn phương thẳng đến đạo tràng. Ba đức nhiếp lý, quả sau bí tạng rốt ráo lý. Văn trước đã nói các thứ ba pháp không hai, không khác. Xét biết mỗi pháp thảy đều dung nhiếp lẫn nhau, văn trước đã hội, ủy luận xen nghĩa, cho nên nay chỉ nêu đều nhiếp tướng hai nhiếp chúng giáo, có hai:
Một là nhiếp các bộ, ba đường nhiếp tịnh danh, chẳng tức ba chướng, hiển bày ba giải thoát. Đâu được gọi là không thể suy nghĩ, bàn luận. Tam thức nhiếp Lăng-già, Địa trì... vì kinh luận này phần nhiều dùng ba thức hiển bày sự lý.
50. Hỏi đáp về có thuộc về luận hay không?
Hỏi: Đề kinh vốn là pháp môn Phật ra đời, đâu thể lại thuộc về luận khi Phật diệt độ ư?
Đáp: Nay dùng đề kinh để cảm vời pháp môn, tức là nghĩa mà các luận giải thích, là dùng sở thuyên thu nhiếp năng thuyên, cho nên nói ba thức nhiếp địa trì... Huống chi các Bồ-tát vì hiển bày nghĩa mầu Đại thừa tôn kinh, cho nên soạn các luận, các luận giải thích trái kinh này ư? Nếu kia chẳng trái lý thì đáng lẽ thuộc về Niết-bàn. Nói rõ tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều sẽ thành Phật. Năm thời giáo nói trong Đại phẩm, Nhân vương Bát-nhã chép: Đại giác Thế Tôn trước đã vì chúng ta nói các bộ Bát nhã như Ma-ha Bát-nhã, Kim Cang Bát-nhã, Thiên vương vấn Đại phẩm... Ngày nay Như lai phát ra ánh sáng rực rỡ, để làm việc gì cho đến Phật định khởi, Vô Vấn Tự Thuyết Nhân Vương Bát-nhã. Nhân vương đối bốn thứ Bát-nhã trước, tức tương đương với thứ năm. Năm thứ Bát-nhã này đều nói cùng lúc nên được gọi là ngũ thời giáo. Bồ-đề Bát-nhã phần nhiều rút ra từ các bộ kinh Phương đẳng, lý tùy được ba thành một Đại thừa, Pháp Hoa khai hội cho nên kinh Hoa Nghiêm tân dịch hợp ở lý trí, chỉ gọi là Pháp thân, đồng thời đối với trái nên dùng làm hai thân, kinh xưa nói nghĩa tức một mà ba, cho nên thuộc về ba thân của kinh này, Niết-bàn ba ngôi báu và ba đức đại kinh hiển bày rõ nhất.
51. Hỏi đáp về Chân đế:
Hỏi: Chân-đế nói ba đức nhiếp ba Niết-bàn chính là dứt bỏ chấp đoạn của Nhị thừa. Bát-nhã khiến cho phàm phu có chấp đắm, Hoa Nghiêm chính hóa mới hành Bồtát. Nay kinh thông làm tám vị nhân, nên gọi là vương. Văn cú bác bỏ rằng: Người soạn thiên này nói, người vô trí đối với các kinh sanh tâm khinh mạn, nghĩa này chẳng thể được.
Nay đâu được dùng mười thứ ba pháp phân đối các kinh, lại đồng nghĩa bị phá của Chân-đế.
Đáp: Chân-đế giải thích có ba đức ở tại ba kinh, là nghĩa riêng khác cho nên là sở phá. Nay dùng ba pháp chẳng phải nghĩa ngang dọc, nhiếp ở một kinh, nhiếp nhiều thứ kinh cũng giống như vậy. Vả lại, như đề của đại phẩm gọi là Bát-nhã. Nghĩa đến ba cho nên các pháp dung thông với tịnh. Duy-ma đã nói cũng gọi giải thoát. Vì đủ ba thoát nên không thể suy nghĩ bàn luận. Phải biết nay lập mười thứ ba pháp, mỗi thứ ba pháp chẳng phải ngang, chẳng phải dọc mà cao mà rộng. Thông suốt cực quả thâu khắp các pháp cho nên dùng mười ba phần đối các bộ. Như Chân-đế trước phân chia thành ba đức, đối với ba thứ vị như Đạo tiền v.v...
52. Đại sư bác bỏ rộng:
Đại sư bác bỏ rộng, cho đến nay tự lập pháp tánh sâu xa mới dùng nghĩa mười thứ ba pháp, đối ba thứ vị bổn hữu... cho nên biết kia dùng một pháp để nhiếp một kinh. Giống như ba pháp này mà nhiếp một kinh. Tướng sơn hào dứt bặt, người học nên xét nghĩ. Hoặc cho rằng chẳng khác, rõ ràng không mi mắt. Hai là nhiếp tất cả. Các kinh luận trên đều là Đại thừa. Vả lại, tất cả người đời cùng thấy nghe, cho nên nói đương đạo. Quải là do dự. Nhưng dụ tám mươi bốn ngàn kho pháp đều là sở nhiếp, phải biết tám mươi ngàn bao trùm một đời, không một danh nghĩa tạm lìa mười thứ ba pháp kinh vương, cho nên văn cú nói đối với chín thứ kinh mà được tự tại, ba nhiếp sáu vị có hai:
Một là nói mười pháp bổn vị. Khổ đạo có phân đoạn biến dịch, rằng tất cả năm ấm, phiền não có hoặc chung, hoặc riêng, cho nên nói năm trụ, nghiệp có hữu lậu, vô lậu... cho nên nói tất cả hợp, rằng ba thức có tất cả tâm vương, tâm sở. Hai thứ này là vị bản hữu.
53. Ba nhân đến ba Niết-bàn:
Ba nhân đến ba Niết-bàn. Sáu thứ này là vị hiện hữu. Ba ngôi báu, ba đức là đương hữu vị. Vị này văn trước đã nói cho nên chỉ nêu ba đường, ngoài ra đều so sánh mà biết. Đây là nói mười thứ ba pháp vị bản phần. Văn lược chín thứ bổn vị nhiếp pháp, cho nên nói cho đến và chú... Hiện hành ấn bản lầm đem các sách... mà làm chữ.
1. Nói về mười pháp nhiếp vị:
Kế là nói về mười pháp nhiếp vị, nghĩa là dưới nhiếp ở trên, trên nhiếp ở dưới, trung nhiếp trên dưới, cho nên mỗi thứ ba pháp đều thuộc sáu vị. Ba chướng che khắp sáu vị. Đây là do ba chướng từ mê mà nói, sáu tức từ giải thoát mà nói. Nếu tức phi đạo ba chướng, thông đạt Phật đạo ba chướng, thì Phật đạo này phải luận sáu vị. Sáu vị này nhiếp tất cả vị, lý tức nhiếp bạc địa vị, danh tự nhiếp tất cả học tập vị, quán hạnh nhiếp vị năm phẩm. Tương tự nhiếp Thập Tín vị, phần chân nhiếp bốn mươi mốt vị, rốt ráo nhiếp diệu giác vị, cho đến ba đức đẳng, giải ở ba chướng có sáu tức vị, giải chín thứ ba pháp đều luận về sáu tức, nhưng trong tánh đức mười thứ ba pháp đều phải tức chướng chiếu soi khiến cho hiển bày.
2. Nói về mười phen giai vị sáu tức:
Chỉ y theo sở hiển mà nói mười phen giai vị sáu tức. Nói ba đức đã đủ nhiếp v.v... là so sánh với ba đường mà luận về loại nhiếp, nói pháp thân có ba thân và tất cả cảnh mầu. Bát-nhã có ba trí và tất cả biện tuệ, giải thoát có ba thoát và tất cả thần biến. Đã y theo ba đức nói ở sáu vị phải luận sáu vị đều tức là pháp thuộc về ba đức, cho nên nói sáu vị, thà không đủ thâu. Tám thứ trong ấy đều có ba, mỗi thứ đều được nhiếp đầy đủ và tám, sáu vị mỗi vị đều đầy đủ thâu. Y theo ví dụ rất dễ hiểu.
Kế là nói về nhiếp ba ý, dùng ba phen nhiếp pháp, hợp Đế Tuệ Vương, ba phen trước tức ba mươi lớp nói về Đế Tuệ Vương. Nay là gồm nhiếp pháp môn mười trọng. Phật đã là thầy cho nên kiết quy về đế, hợp với nghĩa quý cực. Nhiếp giáo mười lớp, xem xét căn cơ mà nói cho nên kiết quy về tuệ hợp nghĩa với hùng lược. Nhiếp vị mười lớp đều hướng về quả. Kết quy ở vương, hợp triều hội nghĩa.
3. Mười thứ pháp môn:
Lại mười thứ pháp môn, mỗi pháp môn cao rộng, không luận về hơn kém, chính là hoành nhiếp, sáu vị đều tức từ dưới lên cao, cho nên phải thuộc về chiều dọc, giáo thuyên pháp môn lại nói về sáu vị cho nên tương đương với nghĩa ngang dọc song nhiếp. Thống nhiếp như thấy. Đề xưng đế vương lượng không có đức hổ thẹn.
Kế là y theo quán hạnh giải thích, có hai:
Một là chánh giải thích, có hai, một chính là y theo Đế tuệ vương mà nói về quán. Vì trung không quán giả, một niệm tâm tức Đế tuệ vương. Nghĩa quán thầm, phù hợp, năng sở thể là một, kinh vương của mình ở đây sẽ hiển bày.
4. Hội đồng Kim Quang Minh bày vị:
Hai là hội đồng Kim Quang Minh bày vị. Vì Đế Tuệ Vương và Kim Quang Minh đều là tên pháp tánh đương thể, muốn cho kinh vương thống nhiếp nghĩa hiển, cho nên trùng với cái thấy của An Đế Vương. Nay muốn hành giả biết hai tên này đồng nói pháp tánh, cho nên đặc biệt hội đồng với các minh vị như kim... văn nghĩa năm vị như trước rất dễ hiểu, chỉ có danh tự tức, nói hơi khó hiểu. Tâm chỉ có danh, Kim Quang Minh là danh. Người mới học đối với một niệm tâm chỉ có tên này, chưa có tên quán, cho nên nói tức danh tự Kim Quang Minh.
Về kết ý, ý ở quán tâm, khai tuệ đầy đủ, nói như vậy thì núi báu thật tánh chẳng bước mà đến.
Nhưng quán hạnh này các văn nói ý chỉ rất sâu xa, chẳng phải tạo tâm sơn gia khuôn phép sâu kín thì chẳng thể xem thường mà bàn luận. Tôi nghiên cứu tinh tường nghĩa này chứa nhóm qua năm tháng, đâu dám ức chế lý thuận tình là đây chẳng phải kia. Vì sao đạo cảnh quán rõ ràng có chỗ trở về. Huống phù hợp với các bộ, xét văn này chưa tán. Than ôi! Các tổ đã qua, đời có bậc minh hiền biết ta dùng quán tâm, tội ta dùng quán tâm, nguyện không được mà ẩn.
5. Giải thích tên chung:
Giải thích tên chung. Pháp hoa giải đề giải thích rộng đề mục chung, là thẳng dùng kinh dịch Tu-đa-la, tuy có dịch không dịch đều có mười lăm nghĩa. Chỉ có chữ kinh nghĩa giải không sót. Người học phải sưu tầm nghiên cứu văn ấy, giải thích tên xong, đại chương thứ hai là biện thể, chương trước giải thích tên gồm có ba pháp, bao hàm thể tông dụng. Người lợi căn, thì đạt năng thuyên vọng tình đắc thể, tự thành tông dụng. Người độn căn, dùng tên có ba thể hỗn độn ở trong. Tâm lự khó dứt bỏ, diệu thể chẳng hiển bày, cho nên kế là giải thích tên gọi bàn riêng về thể... khiến cho pháp tánh bặt niệm mà dạo chơi, tức đối với kinh Kim Quang Minh này mà được thấy Thích-ca Mâu-ni ta. Văn trước chia làm hai, ban đầu nêu bày, nêu bày ở biện thể ba chương môn.
6. Hỏi đáp vì sao ý chẳng lập biện thể chương môn:
Hỏi: Vốn là quên tên cho nên nêu thể riêng. Nay lại giải thích tên gọi có khác gì với trước? lại chỉ giải thích tên dẫn chứng phân biệt. Tại sao ý chẳng lập biện thể chương môn?
Đáp: Quên tên chẳng phải là im lặng. Nếu khéo giải thích tên thì tên ấy tự mất, không lìa văn tự nói tướng giải thoát. Văn tự tánh lìa tức là giải thoát. Nay đã giải thích, chỉ giải thích tên của thể. Chương trước gồm có ba khác hẳn với ở đây. Lại thể vốn vắng lặng. Mượn tên mà giải thích. Cho nên chỉ giải thích tên tức ngay đó nói về thể. tổng trì không chữ, chữ hiển tổng trì, nghĩa như thế. Đã giải thích tên của thể lại dẫn kinh luận chứng thành nghĩa thể. Lại y theo về thuyết chứng phân biệt đối với thể, nói ý chỉ của thể, kinh điển tận cùng sự nhiệm mầu đâu nói chẳng lập biện thể chương môn.
Giải thích chia làm ba:
7. Giải thích danh:
Giải thích danh, có hai:
Một là y theo chữ lược nêu. Chương trước giải thích danh là thật hay giả, chương này nói thể là chủ là chất.
Kế là y theo nghĩa rộng mà giải thích, có hai:
Một là y theo hai danh, giải thích chung có ba, một là nêu, nêu khởi hai thứ là giải thích sở y.
Hai là giải thích: trước là một thể hai danh. Hoặc nương nghĩa, tức nghĩa của ba chương thể, tông, dụng. Pháp thân là thể, báo thân là tông, ứng thân là dụng. Nghĩa được nói ở đây tương đương với pháp thân. Hoặc kinh loại bảy quyển có phẩm ba Thân, đây cũng là văn.
Nay giải thích bốn quyển mà danh làm nghĩa. Hoặc nương văn, sáng thủ là nói dạo chơi trong pháp tánh, văn dưới đây mỗi mỗi văn kia chẳng thiếu. Phải biết một thể đặt hai tên này.
8. Phân biệt chung từ riêng:
Kế là phân biệt chung từ riêng, có ba. Ban đầu y theo nghĩa mà phân biệt. Trong chân hai lý đều gọi là pháp tánh, cho nên ngài Thân Tử nói đồng nhập pháp tánh thiên chân pháp tánh. Y theo trung mà nói có đãn bất đãn, trong bất đãn có hữu phần hữu mãn. Nay vì Như lai dạo chơi trong pháp tánh, đó là bất đãn, dĩ mãn, trung đạo, mà làm thể của kinh, hai là dẫn văn nêu lên, còn qua Bồ-tát phần chứng viên trung, đâu phải đãn trung và không pháp tánh.
Y theo văn kiết. Kinh này phán giáo nên đối với thông giáo phân biệt lấy viên cực, mà làm thể kinh, chẳng chấp Nhị thừa và pháp tánh mà Bồ-tát độn căn chứng đắc và trùm khắp biệt tiếp, đãn trung pháp tánh.
9. Đốn chướng đứng đầu:
Về bốn chướng chủ, có hai:
Ban đầu là pháp, Phật lấy chủng trí làm năng du nhập, tông của kinh này, pháp tánh sâu rộng là sở du, và làm gốc trí, tức là thể kinh. Nếu thiên về pháp tánh chân thật thì thể giống với hư không.
Chẳng phải gốc của trí. Pháp tánh Trung đạo thể là bản giác. Năng là gốc của thỉ giác chủng trí. Nay kinh lấy quả làm tông yếu. Quả trí là thỉ giác rốt ráo. Thỉ và bổn chẳng hai, chẳng hai mà hai. Thể là tông bổn. Nếu chẳng như vậy thì làm sao gọi đãn là Phật du nhập? Công đức các hạnh là dụng của kinh. sở nghiêm sở thú tức là thể. Dứt ác là công, sinh thiện là đức, công đức là tên khác của lực dụng. Vì lực dụng này trang nghiêm pháp thân. Sám hối khen ngợi, không trí dẫn dắt thành. Đây là dùng hành làm lực dụng.
10. Hỏi đáp về công dụng:
Hỏi: Tông thủ Phật quả phải dùng năng lực Phật, Công đức thuộc Phật, làm dụng phải như vậy. Hành ở chúng sinh, sao nói là dụng của kinh.
Đáp: Tâm chúng sinh chẳng phải oai lực Phật. Đâu thể lập hạnh, nên luận Ban-chu Kiến Phật nói có ba năng lực:
Một là oai lực Phật.
Hai là năng lực Tam-muội.
Ba là năng lực công đức căn bản của hành giả. Nếu chẳng cảm ứng thì không một điều thiện sinh, cho nên luận Khởi Tín chép có chỗ nói dụng đại, nghĩa là có công năng sinh ra tất cả nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian. Hành là dụng kinh, nghĩa ấy rõ ràng, đều khắp mười cõi cho nên nói vô lượng và các thứ. Ngôn thuyết hỏi đáp năng thuyên biện biên, tức là tên kinh và giáo tướng. Sở thuyên biện đâu chẳng phải thể của kinh. Hai thứ Danh và giáo đều là năng thuyên. Tự hành bẩm đắc nên gọi là tên kinh, vì người mà thuyên biện mới gọi là giáo tướng. Tự tha tuy khác nhưng đều giải thích pháp tánh.
11. Vì sao có hỏi đáp giải thích:
Hỏi: Danh là đề kinh, thì sao có hỏi đáp thuyên biện... ư?
Đáp: Một kinh đầu cuối đều năng giải thích tên, bao gồm nhiêu câu hỏi đáp, chỉ lấy đề mục là tên chung của kinh, cho nên giải đề mục xưng là giải thích tên, sao nói là tên kinh chẳng hề hỏi đáp.
Hai là dụ các sao muôn dòng vì y theo bốn chương, Bắc thần, Đông hải mới có thể chất.
Ba là kiết, có thể thấy.
12. Y theo ba nghĩa giải thích riêng:
Y theo ba nghĩa giải thích riêng vì Kim Quang Minh là tên năng thuyên.
Pháp tánh đã là thể sở thuyên, cho nên nay đối với thể mà lập ba nghĩa nên ba tên kia lấy đây mà hướng về trước, trước chẳng chia ba, gọi là giải thích chung, nay giải thích chia làm ba:
Ban đầu ứng kim danh, dùng thể nghĩa thể giải thích, có hai:
Một là nói thẳng chữ huấn. Thể là giải thích tên gọi là thể vậy. Nói thể của đắc sự. Nay nói thể có quý tiện, ý ở lựa chọn quan con mà lấy quân phụ.
13. Hội đồng nghĩa thể:
Hai là hội đồng nghĩa thể. Nay thể kinh đã là rốt ráo pháp thân sở chứng.
Chính là nghĩa quân phụ thể lễ. Phân biệt với chẳng phải phần chứng pháp thân, đã trở lại thể của quân con, hai là ứng quang danh, lấy nghĩa để giải thích, có ba:
Một là y theo chữ huấn lập, nghĩa là thật thể này là đáy các pháp, cho nên được thể mới gọi là tận cùng cội nguồn. Mé thật của vực phủ đều là chỗ cùng cực của lý thú.
Hai là dẫn văn chứng thành, ba thứ Bát-nhã viên dung sâu rộng, gọi là biển trí độ. Tướng thật Bát-nhã là thể, là đáy. Để thông với phần chứng chỉ Phật mới cùng tận.
Ba là dùng nghĩa này mà kiết. Chỉ một pháp tánh đương thể quý cực, đương thể sâu xa, đương thể vô lượng, dùng đáy để giải thích thể bao hàm nghĩa sâu xa, ý nói pháp tánh cao sâu, dọc cùng biển Phật, đối với ý luận ở trước, lẫn nhau hiển bày khiến sâu. Luận nói biển pháp sâu chỉ Phật mới cùng đáy. Nay nói biển Phật sâu, pháp này có công năng làm đáy. Người mà pháp thay nhau hiển bày thể, nghĩa đáy mới thành.
Nên nói danh để đạt nghĩa giải thích có ba:
Một là y theo tự huấn lập, Thể nghĩa là đạt, hiển bày thể pháp tánh vốn đầy đủ các pháp, các pháp ngay đó là thể trung đạo, Phật dùng thể này đạt tất cả pháp. Người biết thể này cũng đạt tất cả. Cho nên người trí quán hạnh được thể, đạt được các pháp tự tại vô ngại. Tất cả tên khác không thể bít lấp. Đầy đủ như văn trước, ba chữ thí dụ pháp, như từ một pháp đến hằng sa pháp. Đồng khác vô ngại. Chính là văn nay nghĩa là thể đạt. Chẳng hạn như thể tôn ở trước và nghĩa đáy của thể đều là pháp môn sở chứng của quán hạnh, cho nên chương An Tự Chỉ Quán chép: Đại sư nói pháp sở chứng trong tâm mình.
Hai là dẫn văn chứng thành, Bát-nhã thật tướng tuy là một pháp mà thể vốn đầy đủ tất cả các pháp. Phật phó chúng sinh các thuyết khác nhau. Dị là một khác, dị đâu khác một, cho nên được một là năng đạt thuyết khác nhau. Phật đẳng ba tên tức một tướng thật. Quán một đạt ba, đồng khác tự tại, ba là dùng nghĩa nay kiết. Chỉ một pháp tánh đương thể vô lượng, cho nên phù hợp với đạt nghĩa thích thể.
Ba là dẫn chứng có hai:
14. Ban đầu dẫn đủ bốn văn: a. Dẫn đủ bốn văn. Phẩm tựa ở đầu cho nên nói về pháp tánh, nghĩa thể đầy đủ. Nơi Như lai dạo chơi thì hàng Tam thừa không thể biết được. Vô lượng sâu xa ba đế tròn mầu. Phẩm quỉ thần hai lần nói về pháp tánh, mà nói ngữ cú hai văn liền nhau cùng hiển một nghĩa. Văn nói: Nếu nương vào kinh này tức là nhập vào pháp tánh, như pháp tánh sâu xa, tức là đối với kinh Kim Quang Minh này mà được thấy ta Thích-ca Mâu-ni. Nay y theo chữ thâm, phân biệt chẳng phải Nhị thừa và phần chứng. Phẩm Không nói không, chẳng những chẳng có mà cũng là chẳng không, đã là trung không, chẳng hai bên khác nhau, cho nên nói không tức như. Phẩm Tán Phật đã khen quả Phật. Một chữ tri tức chủng trí tri. Trí Tri này trở xuống là lý tam đế, hữu tức tục đế, phi hữu tức Chân-đế, bổn tánh tức trung đế. Hai chữ vắng lặng, là vắng lặng ba đế, đối tục lập chân, đối biên lập trung. Biết dứt bặt đối đãi cho nên ba đều vắng lặng. Chẳng hiểu như thế thì chẳng phải khen Phật tri. Ba văn trên, nghĩa ấy chẳng khác. Thể kinh này lý hợp như vậy.
15. Giải thích pháp tánh:
Kế là kiết thành một thể, bốn phẩm khác tên đều giải thích pháp tánh, cho nên pháp dưới đây giải tên pháp tánh, thành nghĩa thể của kinh. Pháp tánh thường nhất, người có khả năng làm khuôn phép thì đó là Phật. pháp là thường nhất cho nên chư Phật thường nhất, vì thế Phật đều lấy pháp tánh làm thể.
Thể Phật tức là thể kinh này. Về phân biệt, có hai:
Một là hỏi, lược nêu hai câu, ý bao gồm bốn, vì trong đáp tự tha hoặc mất hoặc dùng đều nói bốn.
Hai là đáp, có hai:
Ban đầu là chính đáp, có hai:
Nói về lý, chẳng phải bốn trường hợp. Nên biết đẳng giác tu thiền lìa kiến. Vì dục tịnh đối với bốn trường hợp nhỏ nhiệm. Nay nói pháp tánh mà diệu giác dạo chơi, ra ngoài bốn câu Đẳng giác, cho nên nói hơn sở hành thanh tịnh của các Bồ-tát. Đâu dùng tam giáo và phàm ngoại bốn trường hợp mà cầu được! Hai là phó cơ phải có bốn thuyết. Thứ ba là pháp thân. Hai thứ trước là hóa thân và ứng thân. Ở đây lấy tánh một phân biệt với tu hai, cho nên chia ra chân giả. Văn nêu ba câu kiết nói, bốn trường hợp bốn môn, đã có song phi chẳng lẽ có song thị, tức hai cái trước song thủ làm câu thứ ba. Đây đều là bốn môn giải thích lý của viên giáo. Hoặc luận phó cơ cũng có thể nói trước ba giáo bốn môn.
16 Kết thúc nêu lên:
Kế là kiết thúc nêu lên, do chúng sinh đối bốn thứ môn có bốn tất cơ. Cho nên Đại Thánh tạo ra các thuyết không... Hoặc kia xuất nhập lý còn chẳng phải một, huống chi định có bốn, bốn không, bốn tướng, cho nên nói đều là pháp vô tránh. Hai văn tân cựu, "không" hữu khác nhau. Nếu được ý thể đạt của các sư nầy thì trăm năm vẫn một, huống chi hai văn ư! Thứ ba là nói tông. Đây cũng gọi là một trong ba pháp trung. vì căn độn đối với tổng chẳng rõ, cho nên riêng ba, đó là thể, tông, dụng. Nay nói riêng về tông, tức tương đương quả trí, hiển tông của thể.
Trước chia làm hai, ban đầu nêu, hai là giải thích, có hai: Ban đầu y theo nghĩa, lược nói, có ba:
17. Nêu nghĩa chữ nghĩa tông:
Nêu nghĩa chữ, nghĩa tông, vì ở đây thường lấy nghĩa cốt yếu.
Muốn nói quả trí là thường, vô thường. Cốt yếu của các đức.
Kế là định nhân quả, có hai:
Ban đầu nêu rộng tha giải thích. Hai tìm tòi nghiên cứu hai kinh, hai bản dịch mới và cũ tuy đều nêu nhân, đều là y cứ nhân, nghi vấn đối với quả, cho nên biết ý kinh dùng quả làm tông. Ba chính là nói tông, có hai:
Ban đầu y theo quả đức, lược nêu ý nay.
Hai là giải thích lý do xuất xứ, cho nên nhân của muôn hạnh tuy cũng hiển thể, nhưng chẳng bằng quả đức rốt ráo tương ưng.
18 Hỏi đáp về Nhân và quả làm tông:
Hỏi: Nếu nói là hiển pháp tánh thể cho nên chỉ lấy quả Phật làm tông của kinh thì Pháp Hoa đâu chẳng hiển bày thể tướng thật. Vì sao dùng cả nhân quả làm tông?
Đáp: Pháp Hoa chính là khai mở thật thể của ngàn như. Ấy cho nên nhân quả đều có công năng hiển bày. Kinh này chính là nói thể của pháp tánh mà Như lai dạo chơi. Thể này chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, năng thường, năng vô thường là chỉ nói về ba thân cực vị. Chẳng phải quả là tông. Các nghĩa này không do đâu mà lập, cho nên nói quả là then chốt để hiển bày thể...
Kế phụ kinh giải thích, có hai:
19. Chính giải thích:
Ban đầu nói nay sư chính giải thích, có hai: Ban đầu giải thích, có hai:
Ban đầu y cứ văn kinh lập nghĩa giải thích, có hai, trước y theo Phật thọ đối pháp tánh nói tông, có ba:
Một là nói đắc quả ngầm thể hội, biệt hiệu Thích-ca thông hiệu Như lai, vì biệt giản thông hiển, giáo chủ là người đã chứng được cực quả. Tuổi thọ chính là người đã chứng quả sở khắc. Dụng khó nghĩ nghì, chẳng thầm hợp pháp tánh. Tha khắc dụng này.
Kế là xưng thể lập năng, có hai:
Một là lập nghĩa, trong pháp tánh thật lìa các bên điên đảo, cho nên phi hữu vô và thường, vô thường, quả nhân, quả pháp, đã thầm hợp với tánh. Cũng chính tánh pháp song phi song phi, như thế song chiếu, hai nêu bày văn.
20 Hỏi đáp về năng thường:
Hỏi: Văn dưới đây câu giải thích tựa đề phẩm Tuổi thọ rằng núi... không thể tính toán được cùng với A-diđà đồng là vô lượng trong hữu lượng tuy rất dài xa nhưng rốt cuộc cũng vô thường, nay vì sao ở đây nói về năng thường?
Đáp: Chúng là hữu lượng vì trời, người... chẳng biết chừng hạn. Nếu chẳng phải dụng năng thường của pháp tánh thì đâu được hiện thọ dài lâu như thế, cho nên bốn Phật nêu sống lâu này, nói lên thường của Phật. Nay tám mươi tuổi Phật diệt độ tức dụng vô thường. Thường, vô thường này tức là pháp tánh song chiếu đại dụng.
Y theo giải thích, nghi nói về tông, có hai một là y theo nghi nói về mất. Tín tướng chỉ lấy tám mươi diệt độ vô thường làm nghi. Chẳng biết Như lai có khả năng hiện thường thọ, còn chẳng thể hiểu cái dài của tức ngắn. Làm sao rõ diệu chứng chẳng dài chẳng ngắn, đây nêu chỗ mất của mê tông.
21. Y theo tông nói về đắc:
Kế là y theo tông nói về đắc. Pháp tánh thể dụng hiển bày do cực chứng. Cho nên nói nếu chẳng y theo quả thì nghĩa này khó nói. Nay dùng quả Phật làm tông để hiển bày thể, thì chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, năng thường, năng vô thường. Các nghĩa đều lập, trừ nghi cho tín tướng giúp các cơ ngộ. Đây là chỗ được của giải tông.
Y theo báo hóa đối pháp tánh nói tông, có ba: Ban đầu nói quả, có chung riêng, chia làm hai:
Một là nói các kinh khác nêu riêng trí đoạn. Kinh khác nói quả hoặc trí hoặc đoạn. Như chỉ bên trái thì đủ bên phải, chỉ bên phải cũng giống như vậy. Trí khế lý cho nên các điều thiện khắp hội. Chẳng lẽ khế lý mà chẳng dứt hoặc cho nên nhậm vận đầy đủ đức dứt. Đức dứt điều cơ, chẳng phải trí năng, các ác dứt hẳn, cho nên nhậm vận đầy đủ đức trí. Các kinh xen nhau nêu nghĩa tùy thời.
Kế nói kinh này gồm có hai, ba tuổi thọ chính là sở đắc của tu đạo, cho nên gọi quả báo. Cảm quả hoạch báo trí dứt được hoàn toàn, là tổng trí đoạn, hợp có ba thân. Vì sao? Vì trí là báo thân, đoạn là ứng thân. Hai thân này hoàn toàn lấy pháp thân làm thể, cho nên biết nay kinh nói quả tuổi thọ, hai đức năng tổng và ba thân.
Kế là nói tông thể dung diệu, có hai:
Một là y theo ba thân xứng tánh cho nên dung nhiếp lẫn nhau.
22. Hỏi đáp về lý do:
Hỏi: Vì sao Pháp thân lại thầm hợp với pháp tánh?
Đáp: Văn này nói ba thân trong quả thầm hợp với pháp tánh. Đây là tu ba thầm hợp với tánh ba, cho nên nói pháp tánh phi thường phi vô thường, năng thường, năng vô thường. Há chẳng phải tánh ba, tu cực ba thân thầm hợp với tánh, cho nên khiến ba thân đều có ba nghĩa, đây là do tánh ba, xen nhau thành chín, khiến tu ba cũng thành nghĩa chín, nói lên không có tu riêng cho nên nói hai, chín. Hai chẳng có hai thể, chỉ là một, chín. Chín chỉ là ba, ba chẳng nhất định ba ba chỉ là một. Nêu một chẳng ít, nói chín chẳng phải nhiều. Tu tánh tròn mầu nghĩa ấy như vậy.
Hai y theo hai thân tức pháp cho nên khó suy nghĩ. Trên y theo nghĩa ly, tu tánh đều có ba. Nay y cứ vào nghĩa hợp nên cho rằng báo hóa thầm hợp với pháp tánh. Hai đã là tức tánh thì đâu thể đếm biết. Đó là thân lượng tám mươi thân ứng hóa không thể tính toán. Ấy cho nên bốn bài kệ đều nói Thích Tôn. Ý này đều do quả tông hiển tánh, cho nên khiến hai thân đồng pháp tánh thọ.
Ba gá nghi rõ mất, nếu Tín Tướng biết quả có công năng hiển bày thể, phi thường phi vô thường, năng thường năng vô thương. Rốt cuộc chẳng thấy đoản định, cho là đoản.
23. Y theo hóa sự so sánh:
Y theo hóa sự so sánh, huống chi là giải thích có hai, ban đầu lập huống, hai kiết thúc giải thích. Cái gọi là trường đoản phải pháp tánh, thật ta trường đoản chẳng hoàn toàn là pháp tánh. Vì mê nên chấp nhất định là trường đoản. Chẳng biết pháp tánh, cho nên đối với trường đoản chỉ cho là chẳng phải trường đoản mà là pháp tánh. Nếu thấy pháp tánh thì năng trường đoản.
Về hiển đắc, nếu thấy ý này thì chỉ cho nay lập quả làm ý của tông. Ý này nếu lập thì các nghĩa đều thành. Vì sao? Vì tu hai tánh một mà nói về ba thân, hiển quả của thể chính là báo thân, nghĩa thường liền thành. Thể của sở hiển đâu chẳng phải pháp thân, nghĩa phi thường phi vô thường liền thành. Pháp báo đã hợp, ứng thân phó cơ, đó là nghĩa vô thường. Nghĩa đẳng này lập, công do quả chứng, quả là tông yếu nghĩa ấy khéo thành. Quả là then chốt hiển bày thể, như nêu mắt lưới thì chánh tín chẳng xằng bậy.
24. Hỏi đáp về thường và vô thường:
Hỏi: Câu văn nói ứng Phật có thể là thường, vô thường, cho nên năng thường cũng là ứng thân. Tại sao Văn này nói thường thuộc về báo thân, ứng thân chỉ vô thường?
Đáp: Báo ứng chính là Pháp thân thường và vô thường, dụng của hai thứ. Pháp thân là thể tánh chẳng khắp thuộc, cho nên pháp thân nói phi thường, phi vô thường. Báo thân thuộc thường, ứng thân thuộc vô thường, mà câu văn nói ứng thân năng thường, vì năng hiện trời, người lâu dài, chẳng thể đếm, năng rõ pháp tanh dụng thường trụ, cho nên nói là thường. Hoặc vọng báo thân, trường đoản hai ứng đều gọi là vô thường, cho nên cùng dưới đây giải thích nghĩa chẳng trái nhau.
25. Phân biệt với phi nghĩa:
Phân biệt với phi nghĩa của các Đại sư ngày xưa, có hai, ban đầu tựa, hai là bác bỏ sư xưa đây giải lược có hai mất, một chẳng thể phân biệt pháp thể lớn nhỏ, cho nên lấy ba tạng ba thứ vô vi, khó hiểu quả bốn đức của phương đẳng.
Kế là chẳng biết kinh nay quả tông hiển bày thể, quả nhân, quả thọ thầm hợp với pháp tánh. Pháp tánh đã phi thường, phi vô thường, quả nhân, quả pháp cũng phi thường phi vô thường, pháp tánh đã năng thường năng vô thường, quả nhân quả pháp cũng năng thường, năng vô thường. Vì ba thân của quả đều tức tánh. Cho nên ba thân mỗi thân đều đầy đủ lẫn nhau. Người xưa mê lầm điều đó cho nên ngang bằng biển, giọt nước phân làm vô thường. Đã mất nghĩa tánh tu đều dung thông, chỉ lập kinh tông, hoàn toàn không có nghĩa cốt yếu.
26. Nói về dụng:
Luận dụng, quả tông thầm hợp với thể, cho nên có đại dụng, giống như xem trống, vì gõ vì đánh hiện tượng phát tiếng. Giải thích danh gồm có hai. Nay nêu riêng một. Giải thích đây thành ba, ban đầu nêu bày tên chung, dùng năng lực. Giải thích dụng danh nghĩa thành, chẳng kham năng lực vô tác làm dụng.
Hai nghĩa hiển bày nhau để nêu bày tên chung. Hai chính giải thích điển này, có hai:
Ban đầu nêu bốn danh, trước là nêu chung diệt ác sinh thiện. Tông đã thầm hợp với thể, lực dụng của thể nhậm vận phát sinh, có công năng làm cho các căn cơ dứt ác sinh thiện. Nếu riêng đối thì lực có công năng dứt ác dụng có công năng sinh thiện, vì diệt ác cho nên lực dụng thành công. Vì sinh thiện cho nên dụng mới thành đức, vì thế nêu công đức hiển lực dụng, muốn cho dễ hiểu nên lại nói nghiêng về: hoặc tận lý ấy, lực dụng công đức mỗi pháp đều có công năng dứt ác sinh thiện.
Hai nói ý kinh, có hai:
Một là nói quả trí thành do công đức. Phẩm tựa chép: Nhất thế chủng trí làm cội gốc, vô lượng công đức làm được trang nghiêm, diệt trừ các khổ ban cho vô lượng an vui. Nay dùng văn này nói lực dụng của kinh. Vì quả thượng trí là các hạnh bổn ấy. Đây nói sơ tâm biết rõ bổn tánh đầy đủ ở quả đức, tuy dùng vô lượng đức tu để trang nghiêm. Vì Tu tức tánh cho nên nghiêm vô sở nghiêm, rõ khổ tức tánh không có khổ để dứt, là năng trừ diệt tất cả khổ. Biết lạc tức tánh, nên không có lạc để ban cho, là cho khắp cùng cái vui rốt ráo.
27. Hỏi đáp về lực dụng của kinh:
Hỏi: Nay nói công đức trang nghiêm quả trí, đây là hành nhân tu sám khen ngợi... Diệt ác sinh thiện, thú hướng Bồ-đề, đâu được lấy đây làm lực dụng của kinh?
Đáp: Phật đắc thể của kinh, thể phát ra lực dụng, lực dụng vì sao cho rằng thuyết sám tán và dùng không tuệ, hành giả tu thành năng lực dứt ác và công dụng sinh thiện, trang nghiêm bản trí mà thành trí Phật, lực dụng của kinh đâu chẳng phải do tu mà thành ư? Như thế gian thuốc tốt không uống thì không có công dụng.
Kế là nêu bày văn, chỉ lực dụng cân nhắc kế đó, có hai:
28. Nói về sám hối và khen ngợi:
Ban đầu nói về hai phẩm Sám Tán, có hai:
Ban đầu nói hai hành thành quả ba, ban đầu nói hai phẩm trước sau. Sám có ba thứ đó là tác pháp, thủ tướng và vô sinh. Vô sinh lấy hai làm trợ, cho nên khiến cho tham, sân, si trừ diệt. Ba phiền não này có chung, có riêng. Nay rõ chung riêng, đồng ở nhất niệm. Đốn chiếu vô sinh. Gồm sự sám trợ, điều ác nào cũng diệt. Tán có ba thứ, đó là tán trượng sáu, tôn đặc, pháp tánh. Nay chính là tán tôn đặc. Trên thầm hợp với pháp tánh, dưới hiện trượng sáu, ba này đây tức một, một này tức ba chẳng ngang chẳng dọc, không thể suy nghĩ, bàn luận. Tán Phật như thế nhiếp tất cả thiện, gồm trước sám hối là nhân thường lạc. Y theo phẩm kia thứ lớp trước dùng sám tẩy thanh tịnh ba nghiệp lễ tán ba thân. Hoặc nhờ thiện lực tán Phật giúp sám khiến ba chướng diệt, vì đây là thứ, nghĩa kia cũng thành, cho nên nói cũng là nêu lên lẫn nhau.
29. Có công năng thành tông thể:
Kế là nói năng thành tông thể, quả thể của Phật là thể sinh tâm, Phật nêu bày sám tán hai thứ thắng dụng, chúng sinh tu đó được thành dụng diệt ác sinh thiện. Dụng này trang nghiêm đồng với Phật quả trí, hiển bày thể của pháp tánh.
30. Nói năm nghĩa đều đầy đủ:
Kế là nói năm nghĩa đều đầy đủ. văn này nương trên tức là hành nhân trí đầy đủ thì thể hiển bày. Thể hiển bày gọi là Kim, Tánh thể đã hiển, quả trí gọi là thể. Trí này gọi là quang. Lực của nghiêm quả công phu tự hành thành tựu thì có, nhiều lợi ích, gọi là minh. Sự lợi ích không gì hơn lập giáo, ba chữ như chữ kim... là chỉ đối với thể... Hoặc chung ba thứ này tức là danh. Chiêu cảm năm thứ, đã thế thì ứng với năm cũng vậy. Nay nói một năm, đã bao gồm hai, năm nói hai phẩm đầy đủ lẫn nhau, như nói về tội chẳng tu gốc lành, tức trong sám sinh thiện. Hoặc khen đức lìa được nhiễm đắm, tức trong tán diệt ác. Nay từ hai bên phải gượng nói.
31. Nói về văn phẩm không:
Nói văn phẩm Không. Phẩm này viên bày về tức không giả trung, đủ ba hoặc đắm, gọi là rốt ráo không. Dẫn dắt thành dụng của hai thứ sám tán, nếu kia chẳng chiếu, thì ba hoặc vô sinh, nếu sám chẳng trừ được cội gốc tội ác, thì tạm dừng lại khởi, nên nói ác chẳng dứt trừ. Nếu kia chẳng chiếu, thì ba đế vô đắc, dầu tán chẳng hiển công đức tánh tịnh, lại thành nhân hữu lậu, cho nên thiện chẳng thanh tịnh, nay dùng không tuệ vô sinh vô đắc cho nên sám tán làm trang nghiêm quả trí dẫn văn phẩm tựa. Trí trung không là gốc sám tán bổn. Nhưng lợi căn kia đối với hai phẩm trước tu sám vô sinh y theo sám tôn đặc. Đâu nương không tuệ, người độn căn còn mê mờ cho nên đặc biệt nói, vì thế phẩm này nói vì người độn căn khởi tâm đại Bi.
32. Nói về các văn:
Nói các văn trở xuống. Phẩm Quỷ Thần nói tất cả đều là Đại Bồ-tát... cho nên biết năng lực hộ kinh và cúng tế trừ tiêu tai họa đều là phần đắc tông Kim Quang
Minh hiển dụng Kim Quang Minh, khởi dụng Kim Quang Minh, cho nên biết chư Thiên được, lực dụng của kinh lại hộ các kinh. Đến văn dưới, chính luận trị bệnh cứu cá, cho cọp ăn, đều là công đức lực dụng sinh thiện dứt ác của kinh này, cho nên bốn vị Thiên vương nói: Chúng ta nghe kinh tăng ích thân lực, tâm tấn mạnh mẽ đầy đủ các oai đức. Lại vua cõi người khi đốt hương cúng dường kinh, biến thành lọng hương, màu vàng chiếu khắp cõi này cõi khác, đều là năng lực oai thần của kinh này.
33. Nhắc lại văn kết nhiếp:
Điệp văn kết nhiếp. Ý này rất dễ thấy. Năm là sắp xếp giáo tướng, hoặc nói về sinh khởi thì tìm danh được thể, y thể lập tôn, tôn thành hữu dụng. Dụng thì lập giáo, đây là chế lập thứ lớp năm chương. Hoặc nghiên cứu năm nghĩa phải nói chung, riêng. Tên chung ba pháp, thể tông dụng, ba riêng nêu ba pháp. Giáo tướng này phân trước chung sau riêng, thuộc về thời vị. Văn có hai:
Một là nêu, bốn chương trước đều là lời nói của bậc Thánh, đều gọi là giáo. Nay lấy năm vị bốn tạng, bốn giáo nói về tướng trạng, để người xem phân biệt.
Hai là giải thích, có hai:
34. Bác bỏ sự hiểu biết khác của người:
Ban đầu bác bỏ sự hiểu biết khác lạ của người, có ba: trước phá cựu sư xếp vào bất định, có hai:
Ban đầu là tựa, hội ba tức Pháp Hoa, khen chê tức Phương Đẳng, vô tướng tức Bát-nhã. Tức chẳng phải ba thứ này, không xếp vào chúng đồng nghe. Vì xét chẳng ở thứ lớp năm thời, chưa đến Niết-bàn mà bỗng nhiên nói về thường, cho nên xếp vào giáo thiên phương bất định. Thiên là thiên lệch, phương là nơi chốn, chỉ cho ngôi thất của Tín Tướng là chỗ thiên tịch. Người xưa phán giáo, lập ra năm thời với nay có khác. Kia cho rằng tên riêng Hoa nghiêm là đốn, lập ra năm thời đều gọi là tiệm. Một là hữu tướng giáo, gồm bốn bộ A-hàm, hai là vô tướng giáo, gồm các Bát-nhã.
Kế là bao biếm giáo, gồm kinh Tịnh Danh và các kinh Phương đẳng.
Kế là vạn thiện đồng quy giáo, gồm Pháp hoa. Năm là thường trú giáo nghĩa, gồm Niết-bàn. Nếu là thiên phương bất định giáo thì chẳng thuộc về tiệm đốn.
35. Nói về bác bỏ:
Kế là phá, có hai:
Ban đầu bác bỏ chẳng phải năm thời, thứ lớp có ba:
Một là nêu nghĩa định kia; Hai là dẫn Ương-quật và lời tựa chung của kinh ấy đều không xếp vào chúng. Ương-quật-ma-la bác bỏ Thanh văn thừa, nói Ma-hadiễn đồng với Duy-ma, luận sư luận thành thật xếp đồng với kinh này, thuộc về thiên phương bất định giáo.
Ba là khiếu thành thứ lớp. Luận gia đã xếp Ươngquật không nằm trong thứ lớp, xét biết chẳng nhân, chẳng xếp vào đồng văn mà là không thứ lớp. Như vậy đâu ngại kinh nay chẳng xếp vào đồng văn là thứ lớp ư? Kế là phá phi thiên phương bất định, có ba:
Một là nêu cố nghĩa định kia. Xưa phán năm thời, thời Niết-bàn thứ năm mới nói về thường trú. Bốn thời trước đều là vô thường. Kinh này vượt thứ lớp nói về thường thọ. Gọi là thiên phương. Trước đây đã định, hai là dẫn Phương Đẳng để bác bỏ, Đà-la-ni, tức là kinh Phương đẳng Đà-la-ni, là lấy hội ba của Pháp hoa thứ tư, ví dụ thứ năm Niết-bàn nói về thường. Phương đẳng hội ba, dã ở vào thứ lớp. Nay kinh nói về thường vì sao bất định? Đây là phương đẳng, sau phân văn kinh, nên được chỉ cho ba nơi Pháp hoa thọ ký cho Thanh văn.
36. Dẫn các kinh để bác bỏ:
Kế là dẫn các kinh để phá. Người xưa phán giáo, không rõ là tên khác nhưng nói về một lý. Hoa nghiêm Pháp giới, Phương đẳng thật tướng, Phật mẫu Bát-nhã, nhất thừa Pháp hoa, các kinh này nếu cùng Niết-bàn thường thân kim cang bất biến, thể bất đồng, há dùng pháp sinh diệt vô thường làm tướng thật và nhất thừa ư! Lại Duy-ma nói Pháp thân vô vi, chẳng rơi vào các số. Pháp hoa chép: Thường ở Linh sơn. Lại nói thường trú bất diệt. Các kinh này đã xếp vào thứ lớp. Vì sao chỉ có kinh này thuộc về thiên phương? Đây mới chính là nói kinh nay nói về thường, chẳng phải bất định giáo. Các kinh nói phụ đều giải thích thường trú.
37. Bác bỏ xếp vào Pháp Hoa của một Sư:
Bác bỏ xếp vào Pháp Hoa của một, sư, có hai, một là tựa, nghĩa là dụ tuổi thọ trong Pháp hoa lấy giới trần ngang bằng với kinh này. Ý nói hai kinh chưa ra khỏi số lượng đều là vô thường. Hai bác bỏ. Sư này chưa rõ hai kinh bàn về thường, chỉ chấp số lượng, một chẳng rõ kinh này, trong kinh Đế vương, nhân Bà-la-môn muốn sinh lên cõi trời cho nên xin xá-lợi Phất, vương tử Lê-xa nói rộng Thân Phật là thường trụ, thể không có xá-lợi. Đây là ứng sắc tức nói Pháp thân chẳng phải dài, chẳng phải ngắn, để xét phẩm này, ngắn tiêu biểu cho ứng thân, dài tiêu biểu cho báo trí. Người xưa chẳng thấy bản mới dịch nói pháp thân thường trụ là kim sở chứng. Báo thân thường trí là quang năng chứng. Chỉ ngang bằng ứng thân núi cân giọt nước biển tiêu biểu cho số, xếp vào vô thường. Che lấp kim quang pháp báo được tiêu biểu.
Kế là chẳng hiểu rõ Pháp hoa, bộ kia nói hai môn bổn tích đều nói về thân thường. Vì sao? Vì trong Tích môn nói: tướng thế gian thường trú ở đạo tràng biết rồi. Trong bổn môn nói Như lai thấy tướng ba cõi chẳng phải như, chẳng phải khác. Đây đều là thể trung đạo của pháp thân thường trú, sở chứng là lấy đảo châu báu, hạt ngọc châu trên búi tóc mà làm thí dụ. Pháp thân Sở chứng là thường trú, báo trí năng chứng sở nương ứng dụng, đâu thể vô thường. Kinh nói bụi cõi chính là quá khứ vốn thành kiếp số, hoặc nói về vị lai, văn kinh nói rằng thường trụ bất diệt, đâu chẳng phải các Sư này dùng lâu xa thành Phật số kiếp nhiều như bụi cõi số để che lấp đảo châu báu, thí dụ ba thân ư?
38. Bác bỏ Chân-đế xếp vào ba tháng:
Phá Chân-đế phán ở ba tháng, có hai, ban đầu là nói, hai là phá, có hai:
Ban đầu là đoạt phá, lời tuyên bố diệt ở các kinh, đâu thể riêng chỉ cho ba tháng thông báo trước với Ba-tuần, Tín Tướng hoài nghi ư. Văn này có ba:
Một là đoạt chung, hai là dẫn kinh, ba là kiết luận bỏ bỏ, hai là bác bỏ theo chiều dọc, có hai:
Ban đầu dọc, mà nghiệm xét. Sở dĩ dọc là do các kinh xướng diệt lời ấy giống như chung, hoặc trước ba tháng, biết ngang tám mươi, cho nên phải hứa dọc ở ba tháng. Tuy dọc năm tháng phải nghiệm xét về bộ vị. Vì hễ phán giáo thì có chia ra trước sau. Trước có chia thứ lớp, sau chia ra bất định. Như nay phẩm Không ở sau Bát-nhã, hoặc Đà-la-ni ở sau Pháp Hoa. Sau tuy bất định phải nhiếp quy trước. Dù khiến kinh này nói trước ba tháng là thuộc Pháp Hoa, hay thuộc Niết-bàn. Đây là thuận theo người xưa, vì hai kinh Pháp Hoa và Niết-bàn phân đối hai thời thứ tư, thứ năm.
39. Nghiệm kia không y theo ba thừa:
Hai là nghiệm kia không y theo ba thừa đồng văn sám xuất xứ từ kinh bản tâm dịch. Hành nhân ba thừa đều cầu chứng quả. Đồng nương kinh này tu sám hối. Pháp Hoa phế quyền còn bỏ biệt giáo, bất cộng phương tiện, chẳng lẽ còn ba thừa đồng sám phương tiện. Thối chẳng phải Pháp Hoa, kinh này đã ở nói trước ba tháng, tiến phi Niết-bàn, lưỡng doanh chẳng nhiếp không theo khuôn phép.
Nay chính là sắp xếp, có hai:
Ban đầu dùng văn nghĩa định có hai:
40. Phân biệt với thời khác:
Phân biệt với thời khác, nếu xếp vào vô tướng mà thời khác thì phân biệt với chẳng phải Bát-nhã. Khi nói bộ kia, thì xứ hội tuy nhiều mà đồng tên Bát-nhã. Đây đã lập riêng tên gọi Kim Quang Minh, cho nên cùng thời kia có sở thuyết khác. Hội ba tức Pháp Hoa, kinh ấy bỏ quyền, đồng trở về nhất thừa, thuần một đề hồ. Nay còn khác hướng thì thuộc về bơ sống, cho nên nói vị khác.
Kế là định thuộc Phương đẳng, có hai, ban đầu dùng nghĩa văn để định có hai, trước dẫn văn Phương đẳng.
Kế là dẫn văn ba thừa. Tên gọi phương đẳng lập có hai ý. Hoặc đại kinh nói từ lạc có ra bơ sống, dụ cho Tuđa-la có ra phương đẳng. Đây là y theo thời giáo thứ ba. Gọi là phương đẳng tức bao trùm các cơ tam thừa tứ giáo. Hoặc Phổ Hiền quán gọi Phương đẳng là gọi thẳng viên lý. Chẳng phải thời thứ ba trùm khắp các căn cơ giáo bộ. Nay ban đầu dẫn văn Phương đẳng, sợ người cho rằng đồng Phổ Hiền quán... từ lý tập tên gọi, cho nên dẫn văn sám hối ba thừa. Vì đặt tên này là từ giáo bộ, cho nên kiết thúc rằng nghĩa ấy không nghi ngờ.
41. Y theo nghĩa nhất định:
Y theo nghĩa định. Một là nói về bộ Phương Đẳng, vốn chẳng hạn cuộc. Nhân nay lập nói: Giáo pháp phương đẳng không ở ba thừa, bèn dẫn bản tân dịch không khác văn thừa. Khó nay đã lập chung với ba chẳng thành, cho nên nói hại đối với nghĩa chung. Nhưng Phương đẳng trở xuống giải thích khó. Cái gọi là pháp giới không khác thừa, biệt giáo, viên giáo đều lấy pháp giới làm chỗ quay về. Cho nên tự được gọi không có thừa khác. Phương đẳng mãn tự đã có cả hai giáo, có gì chướng ngại.
42. Nói về xếp vào chúng:
Kế là nói về xếp vào chúng, văn hoặc vị lai, kinh ban đầu chẳng xếp chúng đồng nghe. Người khác nghi, nay sư xếp vào Phương Đẳng không thứ ba là ổn đáng, cho nên đại sư chỉ Thiên trúc kia văn ấy còn nhiều. Chẳng phải chỉ sấm dịch văn bốn quyển và bảy quyển của Chân-đế. Mà đến Ngài Nghĩa Tịnh đời Đường, dịch lại kinh này, tên là kinh Tối Thắng Vương Kim Quang Minh, quả có xếp chúng, vì xét Đại sư đã chỉ bản phạm rõ ràng bốn quyển thầm phù hợp. Lại xét sư khác xếp vào Thiên phương, rõ ràng là sai. Hai, dùng giáo vị để xếp, đối tha nghiên cứu nghiệm xét. Lại y theo văn nghĩa cho nên châm chước như thế, là dùng năm vị, bốn tạng, bốn giáo mà phán nhiếp. Ban đầu năm vị, văn kinh Niếtbàn tức dùng bơ sống dụ cho Phương đẳng, nay kinh có nói văn Phương đẳng. Lại có nghĩa ấy cho nên phải ở vị nhiếp thứ ba. Kế là bốn tạng, đó là Thanh văn tạng, Bồtát tạng, Tạp tạng và Phật tạng. Đây lấy người mà gọi pháp tụ. Thanh văn gọi là tạng ý rõ ràng thuần tiểu. Bồtát Phật tạng chỉ giải thích đại. Tạp tạng bao gồm vừa đại vừa tiểu. Nay kinh đã cho phép ba thừa đồng sám thì năng uẩn nhiếp Thanh văn, Bồ-tát và dùng Phật pháp, cho nên thuộc về tạp tạng. Bốn giáo Sau, năm vị bốn tạng tên vẫn đồng người khác. Bốn giáo phán kinh chỉ có ở đây dùng, kinh này thể huyễn tức là không trong hiển. Hoàn toàn chẳng phải ba tạng tích pháp vụng độ, ba thừa đồng sám lại chẳng phải pháp biệt viên Bất cộng. Chánh là pháp bất sinh diệt ba thừa cùng bẩm thừa của Thông giáo. Bồ-tát lợi căn biết thường đạt tánh, cho nên gọi Thông giáo mang biệt nói viên.
43. Hỏi đáp về Bồ-tát Thông giáo:
Hỏi: Bồ-tát Thông giáo lanh lợi, được tiếp độ, ở Thánh vị mới biết bất không. Sao giải thích đề và giải văn kinh, chỉ y theo đầu cuối đều viên, cho nên giải thích và xếp vào giáo tướng, đốn thành luống vượt?
Đáp: Thông giáo cơ xen tạp chẳng được tiếp độ riêng, mới biết bất không, vì luận thông giáo phải có ba nghĩa: Một nhân quả đều thông, hai nhân thông quả bất thông, ba thông biệt thông viên. Nghĩa đầu tiên là Bồ-tát độn căn chỉ thấy không. Đầu cuối chẳng biết, nhị giáo biệt lý, cho nên nói nhân quả đều thông. Nghĩa kế kiến địa trở lên mới thấy sâu về không, thấy được bất không, vì Bồ-tát này ban đầu nương thông lý được thành chân nhân, sau nương lý riêng mà hướng về quả Phật, nên gọi là nhân thông quả bất thông. Nghĩa thứ ba, tức là càn tuệ và trong tánh địa. Nghe thể pháp không, bất đãn không, đối với hai mươi lăm hữu, cũng là không của Niết-bàn, Người này tuy nương thông giáo bàn về không, khai mở dẫn dắt tâm, mà rõ không này thể là Trung đạo, chính dùng biệt viên trong ngoài phàm quán. Đồng ở Nhị thừa trải qua Càn tuệ... và các địa sau. Đến Địa thứ mười thì thành Phật biệt viên, Sơ địa, sơ trú, tám tướng. Đây là nghĩa Thông giáo, thông biệt, thông viên, đã lên Sơ địa thì biết bất không, cho nên chẳng gọi là Bị tiếp. Vì nghĩa ấy cho nên kinh này tuy y theo ba thừa đồng sám, xếp vào Thông giáo, nhưng chẳng ngại giải thích đề và giải thích văn. Tự nói ba pháp đầu cuối viên diệu. Chính là nghĩa thứ ba của thông giáo. Lại nên biết, kinh này đã cho phép ba thừa đồng sám, chỗ sám hối ấy tùy kia tin hiểu, hoặc không bất không, nay hành giả viên giải hạnh, bỏ kém theo hơn hoàn toàn nói viên bàn, luống Thấy nghe từ ý này, mà suy nghĩ tu hành.