TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG LUẬN

BỘ KINH SỚ

SỐ 1785 - KINH KIM QUANG MINH VĂN CÚ

Đại sư Trí Giả, ở núi Thiên thai Đời Tùy giảng Môn nhân là Quán Đảnh ghi chép

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

Giải Thích Phẩm TUỔI THỌ

QUYỂN 3

Giải Thích Phẩm SÁM HỐI

Giải Thích Phẩm TÁN THÁN

QUYỂN 4

QUYỂN 5

Giải Thích Phẩm BỐN VỊ VUA TRỜI

Giải Thích Phẩm ĐẠI BIỆN

Giải Thích Phẩm TRỜI CÔNG ĐỨC

Giải Thích Phẩm KIÊN LAO THẦN ĐẤT

Giải Thích Phẩm TÁN CHI QUỶ THẦN

QUYỂN 6

Giải Thích Phẩm CHÁNH LUẬN

Giải Thích Phẩm THIỆN TẬP

Giải Thích Phẩm QUỶ THẦN

Giải Thích Phẩm THỌ KÝ

Giải Thích Phẩm TRỪ BỆNH

Giải Thích Phẩm LƯU NƯỚC TRƯỞNG GIẢ TỬ

Giải Thích Phẩm XẢ THÂN

Giải Thích Phẩm TÁN PHẬT

 


QUYỂN 1

Bốn quyển, gồm mười tám phẩm, xưa nay phân cắt dài ngắn khác nhau. Các Sư ở Giang Bắc lấy phẩm đầu tiên làm Tựa, lấy phẩm Tuổi thọ về sau hết phẩm Xả Thân làm Chánh Tông, phẩm Tán Phật làm lưu thông. Phần Chánh văn lại chia làm ba: Phẩm Tuổi thọ trở xuống là Chánh Thuyết, phẩm Tứ Vương trở xuống là Đại Thệ che chở kinh, phẩm Trừ Bệnh trở xuống là Đại bi tiếp độ chúng sinh.

Các Sư ở Giang Nam lấy phẩm đầu tiên làm Tựa, phẩm Tuổi thọ về sau làm Chánh văn, mười ba phẩm từ phẩm Tứ Vương về sau làm Lưu thông. Tam Tạng Chânđế chia văn mới thành hai mươi hai phẩm, phẩm đầu là Tựa, phẩm Tuổi thọ trở xuống đến phẩm Xả Thân gồm mười chín phẩm là Chánh văn, hai phẩm sau cùng là Lưu thông. Chân-đế giải thích rằng: Phẩm Tuổi thọ nói về quả của thầy, hai phẩm Sám và Thán nói về nhân của Đệ tử, phẩm Thọ Ký nói về quả của đệ tử, phẩm Trừ Bệnh nói về nhân của Thầy, phẩm Tứ Vương xuống đến phẩm Chánh Luận là lực dụng. Quả của thầy, nhân của đệ tử ở trước là Chánh, nhân quả của thầy và trò ở sau đâu được làm phần Lưu thông? Nay Sư cho rằng "Tựa không hành đạo, Lưu thông ngừng dứt không được luận về nhân quả thầy trò". Nghĩa này không đúng. Hễ là ba đoạn ấy thì không thể nào cách tuyệt triệt để, Tựa vốn là Tựa của Chánh và Lưu thông. Tựa thì có ba nghĩa. Chánh vốn là Chánh của Tựa và Lưu thông, Chánh cũng có ba nghĩa. Lưu thông cũng có ba nghĩa. Lưu thông vốn là Lưu thông của Chánh và Tựa. Lưu thông cũng có ba nghĩa, lời của thượng trung hạ đều tốt đẹp. Lại nữa, chúng sinh đạt đạo căn tánh không cố định, làm sao dung nạp Tựa không có mùi vị, Lưu thông ngừng nghỉ được ư? Đã không ngừng nghỉ thì nói nhân quả thầy trò cũng có ngại gì? Như trong Tựa nói Chánh cũng có vô ngại, trong Lưu thông có Chánh ý, thì càng đốc thúc khích lệ nên thực hành không trái với ý kinh.

Vả lại trong kinh Pháp Hoa nói "Tiên A-tư-đà là nhân của thầy, phẩm trì là thọ ký cho quả của đệ tử", các Sư đều phán là Lưu thông. Ở đây có thí dụ điều đó, đối với nghĩa không có gì ngăn ngại, cho đi và lấy lại do người không cần phải nhọc nhằn chấp trước. Nay bắt đầu từ "tôi nghe như vầy" cho đến phẩm Tuổi thọ, kết thúc trời rồng tập trung ở thất của Bồ-tát là đoạn tựa, từ "Bấy giờ bốn Đức Phật... "trở xuống đến hết phẩm Không là đoạn chánh thuyết, từ "phẩm Tứ Vương..." trở xuống đến hết kinh là đoạn lưu thông. Tự là lời tựa mong muốn có lợi ích, chánh là đương cơ hành đạo, lưu thông, lưu là chảy xuống, thông là không tắc nghẽn, muốn làm cho nước chánh pháp từ nay về sau sẽ chảy mãi, cái nơm của Thánh giáo không tắc nghẽn ở đời sau. Kinh nói "Lời thượng, trung, hạ đều tốt đẹp", tức là nghĩa này vậy. Người nghi ngờ nói: Phần tựa đâu được đưa vào trong phần chánh thuyết?

Các kinh đều lệ theo đó, như kinh Duy-ma không có phẩm Tựa, Tựa ở trong phần chánh thuyết, kinh Đại Phẩm phần Chánh Thuyết ở trong phẩm Tựa, kinh Niếtbàn phần Tựa dựa vào trong phẩm Chánh Thuyết, các kinh đều như thế, không thể vì thế mà nghi ngờ, sau lại nghi ngờ ở đây? Đó chính là đưa ra ý kinh, là bốn Đức Phật dứt nghi, chỉ vì thế mà khởi văn, đó hoàn toàn tuyệt diệu phần Tựa lẽ nào ở trong phẩm Tuổi thọ? Nay từ nghĩa thì không thể hợp lại thành một phẩm mà phải phân cắt. Tựa có ba nghĩa:

1. Nói về phần tựa:

1. Thứ lớp.

2. Tự thuật.

3. Phát khởi.

Thứ lớp ở đầu một bộ-đứng đầu các thuyết, cho nên nói là Thứ lớp. Tự thuật sẽ nói về lợi ích ấy, nên nói là Tự thuật. Phát khởi là phát tín tâm từ nơi giáo.

Một đoạn văn kinh gồm ở ba nghĩa này, cho nên đề là phẩm tựa. Phẩm là tiếng Phạm là Bạt-cừ, ở đây gọi là Phẩm. Phẩm là nghĩa loại trong đây văn cú khí loại thuận theo nhau, tiết gọi là Bạt-cừ, chẳng hạn như trong luật có Thiên tụ, trong Tỳ-đàm có Kiền-độ. Từ "như vầy..." trở xuống là Thứ lớp, từ "bấy giờ Như lai..." trở xuống là Tự thuật, từ "Thất ấy tự nhiên có nhiều việc trang nghiêm rộng lớn..." trở xuống là phát khởi. Tựa trong thứ lớp xưa nói có năm việc, thêm địa Nhân khai Phật thành sáu việc. Kinh này các trời rồng nhóm họp trong thất của Bồ-tát Tín Tướng, không nghe lời tựa trước, không nghe giấc mộng sau, cũng có thể là cùng nghe, cũng có thể là chẳng phải. Chúng cùng nghe ít không theo thứ lớp.

2. Sáu thứ thành tựu:

Năm sáu việc này, cũng gọi là tựa Ấn Định vì các Đức Phật ba ở đầu một kinh đều đặt chữ như vầy trước hết, cũng gọi là tựa chung vì giống với các kinh, cũng là tên chung làm gốc, cũng gọi là lời bạt của kinh vì người kiết tập đã sắp xếp, cũng gọi là lời tựa trước của kinh vì di chúc bảo xếp vào, cũng gọi là tựa Phá tà, vì đối phá ngoại đạo a ẩu, cũng gọi là tựa Chứng Tín vì làm cho người nghe không nghi ngờ. Đại sư Thiên Thai nói: "Tóm lại sáu thuyết này đều là ý của bốn Tất-đàn. Các kinh của các Đức Phật đều là Thế giới tất-đàn. Trước Kinh sau Kinh vì lợi ích cho đời sau là Vị nhân tất-đàn. Đối phá ngoại đạo là Đối trị tất-đàn. Trước Kinh sau Kinh vì lợi ích cho đời sau là Vị nhân tất-đàn". Xưa giải thích: "Như là không khác, Thị là không sai lầm.

Văn cú do A-nan thuật lại tựa như nước chảy vào bình, so không khác với Phật, cho nên không khác nhau gọi là Như, lý của văn đưa ra thực đáng không sai lầm, cho nên chẳng sai lầm gọi là Thị. Tóm lại là Văn Như Lý Thị". Đại sư Tăng Triệu nói: "Như Thị là từ ngữ tin thuận, Tin thì lãnh hội lý đã nghe, Thuận thì thành tựu đạo thầy trò". Tam tạng Chân-đế nói: "Như thị là quyết định, số quyết định lý quyết định, Phật nói kinh này có bao nhiêu câu chữ, nếu nhiều thì thành thêm chê bai, nếu ít thì thành bớt chê bai, A-nan thuật lại như nước chảy vào bình không nhiều không ít, nên gọi là số quyết định, Đức Phật nói lý vô tướng chẳng phải có chẳng phải không, nếu có thì rơi vào thêm, nếu không thì rơi vào bớt. A-nan thuật lại không thêm không bớt, nên gọi là lý quyết định". Long Thọ giải thích: "Như thị là từ ngữ tin thuận.

Người tin thì nói là sự như thị, người không tin thì nói là sự bất như thị". Bốn giải thích này đều dựa theo một ý Tất-đàn. Xưa lời giải thích là chung, không hiển bày văn thuyên thì lý nào là Như. Lý như thế là nào là văn, sở thuyên là Thị? Đã không hiển bày rõ ràng thì chỉ là ý của thế giới tất-đàn. Đại sư Tăng Triệu y theo sự tín thuận là vị nhân, Tam tạng Chân-đế dựa theo văn lý quyết định là đối trị, Long Thọ dựa theo sự tín thuận như thị là nghĩa bậc nhất... Ở đây giải thích theo hai cách là chung, riêng. Phật nói đúng như pháp tướng, A-nan đúng như sự nghe mà thuật lại, cho nên nói là Như. Phật giải thích đúng như pháp tướng, A-nan đúng như lượng của biển mà thọ nhận, cho nên nói là Thị...

Giải thích riêng là: Ngoại đạo nói A-ẩu là tốt lành, văn trái với lý nên chẳng phải Như, lý khác với văn nên nói là phi Thị-không thể thấy A-ẩu ở trước tiên, mà giữa-sau đều tốt lành. Văn đúng như lý nên nói là Như, Lý như văn nên nói là Thị. Nay cho rằng: Ba tạng kinh điển đầu tiên nói Như Thị. Hai Đế đều khác nhau cho nên chẳng phải Như, lý nông cạn cho nên nói là phi Thị, Ma-ha diễn nhị đế tức nhau nên nói là Như, lý sâu xa nên nói là Thị. Ở đây cho rằng: ba người cùng nghe mà đều hiểu nên chẳng phải Như, chứng nhập hơn kém cho nên phi Thị, chỉ có đều nghe mà Bồ-tát là Như, cái chỗ Bồ-tát đạt đến là Thị.

Nay cho rằng nghe lìa hai bên mà nói Trung đạo thì chẳng phải Như, ra ngoài hai đế có trung đạo thì phi thị, tánh của văn tự là lìa, tức là ở nơi Như, nên nói là Như, tất cả các pháp tức là Phật pháp nên gọi là Thị. Đầu tiên Phá tà nói Chánh tức là ba tạng kinh Như thị, kế là Phá dị nói Đồng, tức là kinh Thông Giáo Như thị, kế là bác bỏ cạn nói sâu tức là kinh Biệt Giáo Như Thị, kế là phá lìa nói Trung tức là kinh Viên Giáo như thị.

Kinh này đã là Phương Đẳng, căn tánh có thông suốt ngăn che khác nhau, tạo thành nhiều thuyết không có lỗi. "Quán tâm giải thích, quán và cảnh thầm hợp cho nên là Như, Cảnh là chánh quán cho nên là Thị". Kinh nói: "Như quán này là chánh quán, nếu quán khác tức là tà quán", tức là nghĩa đó. Tôi nghe: xưa nói "A-nan không có tâm làm thầy, tự mình kế thừa ý chỉ của Phật cho nên nói tôi nghe".

Chân-đế nói: "Ngã nghĩa là pháp khí.

Một là Tán tâm gọi là Phú khí, vì không có văn tuệ.

Hai là vong tâm, gọi là lậu khí, tuy được mà mất, vì không có tư tuệ.

Ba là Đảo tâm, gọi là uế khí, sai mà cho là đúng, vì không có tu tuệ. A-nan không có ba lỗi ấy, chỉ là pháp khí tốt đẹp, tự mình kế thừa cái đang có cho nên nói là tôi nghe".

Thích Luận chép: Nhĩ căn không mất tác dụng, âm thanh ở chỗ nghe, chú ý lắng nghe, nhân duyên hòa hợp nên gọi là nghe, A-nan thuật lại di chỉ của Phật cho thính chúng nghe, tự mình kế thừa không sai lầm nên nói là tôi nghe. "Sư giải thích Ngã có bốn nghĩa, đó là Ngã Ngã, Ngã Vô Ngã, Vô Ngã Ngã và Ngã Vô Ngã mà chân Ngã không hai, nghĩa phối hợp với bốn thứ căn tánh của con người...

Văn cũng có bốn nghĩa, đó là Nghe nghe, Nghe mà không nghe, không nghe nghe và không nghe, không nghe, phối hợp với người của bốn giáo pháp... có bốn thứ A-nan: đó là Hoan hỷ A-nan, Hiền A-nan, Điển tạng A-nan và Hải A-nan là bốn thứ duyên lập nên bốn thứ tên gọi. Hoan hỷ A-nan là Ngã Ngã dùng Nghe nghe. Hiền A-nan là Ngã Vô Ngã dùng Nghe mà không nghe, tự mình kế thừa Thân Phật hòa hợp giữa thân trượng sáu và thân tôn đặc mà gìn giữ Thông pháp, nên nói là Ngã Vô Ngã Nghe mà không nghe. Điển tạng A-nan là Vô ngã dùng không nghe nghe, tự mình kế thừa thân Phật tôn đặc mà giữ gìn Biệt pháp, nên gọi là Vô Ngã Ngã không nghe nghe.

Hải A-nan là Ngã Vô Ngã mà không hai mà dùng không nghe, không nghe, tự mình kế thừa pháp thân Phật gìn giữ Viên pháp, nên gọi là Ngã Vô Ngã mà không hai dùng không nghe, không nghe. Kinh này xuyên suốt ba thừa, nói nghe một âm đều hiểu được, vì thế phải phân biệt... Quán giải, nếu thực hành pháp quán lấy trên bỏ dưới đó là Ngã Ngã Nghe nghe. Nếu thực hành quán hai thứ phân tích và tự thể từ giả vào không đều là Ngã Vô Ngã Nghe mà không nghe. Nếu thực hành quán từ Không Ra Giả, đó là Vô Ngã không nghe nghe. Nếu thực hành Trung đạo quán đó là chân Ngã không nghe, không nghe". Một thuở nọ, Đại sư Tăng Triệu nói: "Lúc Pháp Vương mở đầu hội tốt đẹp" Tam tạng nói: "Lúc cao lúc hạ đều là đúng hoặc quá hoặc không kịp không có khả năng nghe pháp, chỉ có lúc bình thường tức là một thời nọ".

Riêng cho rằng: "Lúc cao thì tâm ngã mạn không hiện hành, lúc thấp thì đắm mê năm dục, không đắm say không ngã mạn là lúc bình thường". Sư giải thích: "Chúng sinh cảm pháp, Phật từ phó giáo, là lúc cơ ứng, cũng là lúc phát chân thấy đế, cũng là lúc mắt pháp trong sáng, soi chiếu thế gian, cũng là lúc Mắt nhãn soi chiếu Trung đạo... mà nói là Nhất, nếu trước tư (suy nghĩ) sau giác hai thứ đó chẳng phải một, lúc tư giác vọng dứt hoát ngộ, cho nên nói là một thuở nọ.

Quán giải, từ giả vào không là cùng lúc với chân, từ không vào giả là nhất thời cùng lúc với cơ, Trung đạo chánh quán là nhất thời cùng với pháp tánh... Phật, Chân-đế nói: "Phật có ba nghĩa, trí nhất thiết khác với ngoại đạo, từ bi khác với Nhị thừa, bình đẳng khác với Tiểu Bồ-tát, người khác không có những điểm này". Thích Luận nói Phật là danh hiệu thứ chín, Phật gọi là Giác, Giác ngộ rõ thế gian-xuất thế gian-thường-vô thường-số-phi số... hoát nhiên đại ngộ cho nên gọi là Phật. Đại sư Thiên Thai nói: "Phật nương vào trí Nhất thiết có Thân Phật trượng sáu, nương vào trí Đạo Chủng có Phật tôn đặc thân cao trượng sáu, nương vào trí Nhất thiết chủng có pháp thân Phật, ba Phật không thể một, khác, chẳng phải một khác mà một khác vậy". Quán giải, Không quán hiểu rõ các pháp là một tướng, quán Giả hiểu rõ các pháp là nhiều loại tướng, Trung quán hiểu rõ các pháp là không có tướng một khác mà cũng có tướng một khác... Trụ-Phật là năng trụ, thành Vương xá là sở chỗ ở.

Chân-đế nói về pháp trụ có tám thứ:

1. Trụ trong thế giới Đại Thiên.

2. Trụ nơi y chỉ là thành Vương xá.

3. Trụ nơi năm phần pháp thân, là tuổi thọ hiện tại.

4. Trụ nơi oai nghi lợi ích chúng sinh.

5. Thiên trụ trụ trong thiền định.

6. Phạm trụ trụ trong bốn tâm vô lượng.

7. Bậc Thánh trụ trụ trong ba Tam-muội.

8. Đại xứ trụ trụ nơi nghĩa bậc nhất...

Trong Thích Luận thì bốn trụ thâu nhiếp cả tám thứ, thiên trụ phạm trụ thâu nhiếp cả thiên trụ, định trụ, thánh trú thâu nhiếp năm phần mạng trụ, Phật trú thâu nhiếp đại trụ. Lại có tích trụ thành Vương Xá, thâu nhiếp cả ba trụ: giới nội, y chì và oai nghi. Đại sư Thiên Thai nói: "Thân Phật trượng sáu trú trong Chân-đế, tôn trọng trượng sáu hợp với thân Phật, cùng trú trong Chân-đế và Trung đạo, Thân Phật tôn đặc cùng trú ở tục đế và trung đạo, pháp thân Phật trụ trong Trung đạo. Quán giải, Không quán trụ ở chân đế, giả quán trụ ở tục đế, Đệnhất-nghĩa quán trụ ở Trung đạo".

Thành Vương Xá, Thích Luận nêu ra nhiều nhân duyên, đầu tiên xây dựng trong năm núi trải qua bảy lần thiêu đốt bảy lần tu tạo, nhà vua đến ở đây nên nói là Vương xá. Lại chép: Nhà của người khác bị cháy nhưng nhà của vua không cháy. Sau đều quy định hễ nói là Vương xá thì tránh được lửa hoạn, từ đó đến nay gọi là Vương xá. Quán giải, "Năm ấm là nhà, tâm vua ở trong đó, cho nên gọi là Vương xá".

"Núi Kỳ-xà-quật trong Thích Luận dịch là Thứu đầu". Chân-đế nói: "Núi Khúc Điểu ở phía Đông Nam thành Vương xá, núi Tỳ-phú-la ở phía Tây Nam, núi Tiên Nhân ở phía Tây Bắc, núi Hắc Sĩ ở phía Đông Bắc, núi Bạch Sĩ ở Trung Ương, phần trung ương bằng phẳng ba do tuần chính là thành Vương xá". Núi Quán Tâm thì "Linh tức là thần, Trí là Bát-nhã, Thứu tức là muôn đức là Giải thoát, Sơn tức là bất động, là pháp thân, thường là sở quán của tâm vương, tức là trú xứ của quán, khiến cho tất cả tâm sở đều nhập vào trong đó".

Kinh này thiếu chúng cùng nghe, nghĩa là Thời có năm, Xứ có bốn chúng ở núi Kỳ-xà-quật không nghe nói đến ngôi thất của Tín Tướng, chúng ở thất của Tín Tướng không nghe thuyết trong mộng, chúng trong mộng không nghe việc ngủ mộng đã thức, chúng chẳng phải cùng một chỗ nên không xếp vào chúng cùng nghe. Nếu vậy thì A-nan không nên xưng là tôi nghe, nhưng tuy không nghe mà Phật lại nói cho nghe. Lại, A-nan được Tam-muội Phật giác có thể năng tự mình thông đạt, được xưng là tôi nghe. Từ "bấy giờ Như lai..." trở xuống là tựa Tự Thuật.

3. Khác có bảy phần:

Tự về sau mươi bảy phẩm, cũng gọi là tựa riêng, phân biệt khác với kinh khác cũng là tên khác làm gốc nên nói là khác. Nghĩa của khác chia làm bảy phần:

1) Từ "bấy giờ Như lai..." trở xuống một bài rưỡi là khác về nhập định.

2) Từ "Kim Quang Minh này" trở xuống hai mươi bảy bài kệ là khác về tự thuật.

3) Từ "phẩm Tuổi thọ..." trở xuống là khác về Hoài Nghi.

4) Từ "Đại sĩ như thị..." trở xuống là khác về Thụy Ưng.

5) Từ "Tín Tướng thấy Phật..." trở xuống là khác về Đằng Nghi Niệm Biệt.

6) Từ "Bốn Đức Phật bảo..." trở xuống là khác về dứt nghi.

7) Từ "Các tầng trời cõi dục cõi sắc" trở xuống là khác về Tập Chúng.

Sinh khởi, Phật thường ở trong định, nhưng mọi căn cơ nương Phật nên Phật muốn ứng hiện, cho nên thị hiện oai nghi phép tắc, Như lai thường vắng lặng, ưa thích đi vào pháp tánh nói ra Kinh Vương, Tín Tướng nghe pháp sau xa, nghi ngờ pháp đã là thường sao tuổi thọ con người ngắn ngủi, vì thế hoài nghi nhờ phước lực của Bồtát, nên nghi ngờ được cảm ứng, ứng cho nên bốn Đức Phật thị hiện, Phật thị hiện tức càng thêm nghi, càng nghi nên Phật liền dứt nghi bằng cách rưới mưa pháp khiến cho đại chúng nhóm họp, bảy việc khác với kinh khác, cho nên nói là Biệt. Đã nói bảy khác rồi. Hoặc có khi chia thành ba khác

4. Khác lại có ba phần:

1. Từ "bấy giờ" trở xuống gọi là tựa Tự thuật.

2. Từ "Tuổi thọ phẩm..." trở xuống gọi là tựa Hiện thụy.

3. Từ "bấy giờ, bốn Đức Như lai..." trở xuống là tựa Chúng Tập...

Nói tựa Tự thuật, nói về mười bảy phẩm sau, năm hàng đầu nói về phẩm Tuổi thọ chia làm ba: Hai bài đầu nói về quả đức, một bài kệ tiếp theo nói về hoài nghi, hai bài kế nói về dứt nghi, có thể tìm hiểu tường tận, tiếp đến một bài rưỡi nói về phẩm Sám hối, ý là bỏ ác sinh thiện... tiếp đến một bài rưỡi nói về phẩm Tán Thán để sinh thiện dứt ác... kế đến sáu hàng nói về phẩm không là bác bỏ ba chướng ác trong phần dứt ác...; từ "Hộ thế Tứ vương..." trở xuống là nói về phẩm đó rất dễ hiểu; Đại Biện là nói về phẩm đó, Quỷ mẹ Ni Liên là nói về phẩm Trời Công đức, đều là thiên nữ, Thần đất là người nói phẩm ấy, Đại Phạm ở tầng trời Ba mươi ba là người nói phẩm Tán Chi, Tán Chi là tướng, Phạm Thích là chủ, nói về chủ tức là có cả quân tướng, Khẩn-na-la v.v... là người thống lĩnh, nói về sự chiếm lĩnh thì được sự trông coi nơi đó.

5. Nói về chỗ bí mật của các đức Phật:

Nay tôi nói về sự bí mật của các Đức Phật là nói về hai phẩm Chánh Luận và Thiện Tập, nói về bí mật có thể dùng để trị quốc ở thế gian và bí mật có thể dùng để hướng đến đạo xuất thế gian, cho nên biết là nói về hai phẩm ấy. Từ "Nếu được nghe kinh..." trở xuống là nói về phẩm Quỷ Thần, trong phẩm Quỷ Thần hoàn toàn nói về công đức nghe pháp, được tám bộ che chở giữ gìn... Từ "Mặc y phục thanh tịnh..." trở xuống hai bài kệ là nói về phẩm Thọ Ký, ba vị Đại sĩ và mười ngàn vị Thiên tử tâm thanh tịnh sâu xa, thanh tịnh như hư không, cho nên được thọ ký. Từ "Nếu được nghe..." trở xuống là nói về các phẩm Trừ Bệnh

-Lưu Nước... nghe danh uống thuốc chắc chắn được hết bệnh, cho nên khéo được thân người, lại tu hành phước nghiệp bố thí nên khéo được làm người.

Cá nghe danh hiệu Phật khéo được sinh làm trời ở cõi trời, chính là ý này vậy. Chánh mạng là nói về phẩm Xả Thân, hổ dữ ăn máu thịt liền được giải thoát, lẽ nào chẳng phải là chánh mạng ư? Từ "Nếu nghe Sám hối..." trở xuống một bài kệ là nói về phẩm Tán Phật, Phật có ba đời, các vị Bồ-tát phần nhiều là Phật đời trước, tức là Phật quá khứ, lại là Phật vị lai, được các Bồ-tát này khen ngợi, tức được Phật khen ngợi. Ý tự thuật là dứt sự lờ mờ, không được tự rõ ràng...

6. Hỏi đáp về ai tạo ra tự thuật:

Hỏi: Ai tạo ra Tự thuật? Xưa nói là người kiết tập kinh giáo, nếu thế là luận chẳng phải kinh, lại trái với văn kinh, văn chép: "Nay ta sẽ nói" hoặc nói Tín Tướng này, nếu vậy thì Tín Tướng đã có thể nói rõ sự sâu xa, vì sao sinh ra nghi ngờ? Lại nếu chẳng phải do người kiết tập kinh giáo làm thì sao bỗng nhiên làm thành tựa?

Sư nói: Là Phật tự soạn ra.

Người vạn hỏi rằng: Nếu vậy thì chính là chánh kinh, đâu được gọi là Tựa? Điều này không có gì, Bồ-tát còn có thể nhập định chắp tay nói ngàn muôn bài kệ, huống chi Như lai với thần lực bí mật, miệng vàng phó cơ, thì có điều gì không làm được? Văn nói: "Nay ta sẽ nói về các pháp như Sám hối". Đây là chứng cứ rõ ràng. Trong kinh Đại Phẩm, Hóa Phật nói về sáu Ba-la-mật cũng được gọi là tựa, đây là thí dụ về điều đó. Giải thích về nhập định chia làm ba phần:

7. Giải thích về nhập định:

- Một câu một chữ đầu tiên là nói về người dạo chơi.

- Hai câu ba chữ là nói về pháp dạo chơi.

- Hai câu còn lại là kết luận.

Bấy giờ: Ngài Chân-đế nói: có năm thứ ba thời:

1) Sắp nói đang nói, nói xong.

2) Bác bỏ thời quá khứ-vị lại của ngoại đạo, lập ra thời hiện tại có nói có nghe.

3) Thời gieo giống thành thục giải thoát.

4) Thời Chánh sư chánh giáo chánh học.

5) Phật muốn nói thính chúng muốn nghe, không cao không thấp bình bình thời.

8. Nói về Như lai:

Nay chỉ nói Như lai biết rõ căn cơ có thể là lúc đắc đạo, hoặc là mắt tuệ được đạo thầm hợp với chân hoặc mắt pháp được đạo lúc thầm hợp với tục, hoặc Mắt nhãn được đạo thầm hợp với Trung đạo. Phật muốn đi khắp pháp tánh quán biết chúng sinh lúc nào đạt được đạo nên nói là lúc bấy giờ Như lai là danh hiệu đầu trong mười danh hiệu Phật. Tam tạng giải thích về Như lai, vì văn nhiều nên không chép ra. Ở đây nói: Trí soi chiếu lý đồng với các Đức Phật nên nói là Như, từ bi đồng với các Đức Phật nên nói là Lai.

Các Đức Phật phải an trú trong kho bí mật, vì sao lại ra đời? Chỉ vì từ bi cho nên đến (lai). Thành Luận chép: "Nương đạo như thuật, lai thành Chánh giác". Đại kinh chép: "Từ mười một Không lai nương Trí luận mà lai. Từ sáu Ba-la-mật lai, nương hành luận mà lai". Thích luận chép "như pháp cùng hiểu là Như, như pháp cùng nói là Lai".

Ở đây nói: Đúng như pháp ba đế cùng hiểu là Như, đúng như pháp ba đế cùng nói là Lai, nên nói là Như lai. Du là du nhập tiến vào. Nói pháp tánh chẳng phải đi vào, an trú, đi ra vì thế trong Tiểu Bát-nhã chép: "Như lai là không từ nơi nào đến cũng chẳng đi về đâu, nên gọi là Như lai". "Đâu thể nói là đi lại? Vì từ bi dẫn dắt mọi loài, giác ngộ cho ta mà đi vào (nhập) cho nên nói là Du, khiến chúng sinh được vị cam lộ, cũng nên nói là an trụ (trụ); vì chúng sinh nên nói cũng phải nói là thoát ra. Vì thế kinh Pháp Hoa chép: "Khéo đi vào-thoát ra-an trú trong trăm ngàn Tam-muội", tức là nghĩa này.

9. Thể cao rộng của Như lai:

Vô lượng sâu xa, dùng sự đi vào để phân biệt nói lên Thể cao rộng đó, Thể bao trùm pháp giới nên nói là vô lượng, thông suốt đến ba đế cho nên nói là sâu xa. Nhị thừa Bồ-tát hạ địa Không thể đạt đến, nên nói là vô lượng sâu xa. Pháp tánh là pháp dạo chơi, là phép tắc của các Đức Phật gọi là pháp, thường lạc ngã tịnh không dời đổi, không chuyển biến gọi là Tánh, chẳng phải là pháp tánh của hàng Nhị thừa dùng tất cả trí vô sinh để soi chiếu lý. Pháp tánh của hàng Nhị thừa nông cạn nên chẳng sâu xa, có giới hạn nên chẳng vô lượng. Lý được soi chiếu bởi lý như thật thì ở đây ngang thì bao trùm pháp giới-dọc thì thông suốt ba đế, cho nên nói vô lượng sâu xa.

10. Nói về Vô lượng:

Lại nữa, vô lượng chẳng có một pháp nào riêng gọi là vô lượng. Tỳ-lô-giá-na bao trùm tất cả mọi nơi, tất cả các pháp đều là Phật pháp, vì đều là Phật pháp cho nên đều là pháp tánh, Phật đều đi lại trong đó cho nên nói là vô lượng. Lại nữa, chẳng phải có một pháp riêng nên gọi là sâu xa, ngay nơi sự mà chân thì đều là tướng thật, một sắc một hương không pháp nào chẳng phải Trung đạo vì đều là Trung đạo cho nên tức là sâu xa.

Chẳng hạn như Thích Luận giải thích về bốn tâm vô lượng rằng: "Duyên với chúng sinh ở phương Đông gọi là Quảng, duyên với chúng sinh ở bốn phương gọi gọi là Đại, Duyên với bốn duy trên dưới gọi là vô lượng". Nói theo đây thì: Duyên Chân-đế pháp tánh gọi là quảng, duyên với Tục đế pháp tánh gọi là Đại, duyên với trung đạo pháp tánh gọi là Vô lượng. Nếu duyên với Trung đạo, tức là trong ba trí duyên một tâm với ba đế một đế, cảnh giới vô lượng này, chỉ có vô lượng trí của Phật mới có thể duyên được, như nắp và hộp khớp nhau, hàng Nhị thừa hạ địa chẳng thể suy lường mà đạt đến bờ kia.

11. Chỗ thực hành của các đức Phật:

Hành xứ của các Đức Phật chính là hiển bày trí Phật vô lượng sâu xa vì trí Phật vô lượng sâu xa nên hành xứ cũng vô lượng sâu xa vì hành xứ vô lượng sâu xa nên trí Phật cũng vô lượng sâu xa nêu hộp là nói về nắp, nêu nắp để nói về hộp, chính là ở đây. Hơn sở hành thanh tịnh của các Bồ-tát chính phân biệt, Bồ-tát ở giai đoạn chưa đạt đến, sở hành của trí chưa thể sâu rộng. Kinh Địa Trì chép: "Bồ-tát được chín thứ thiền, đầu tiên gọi là Tự tánh thiền, nếu nhập vào thiền này tức là đi vào cảnh thanh tịnh của tướng thật thanh tịnh hàng Nhị thừa còn không nghe danh từ đó, huống chi là thực hành. Nếu đi vào thanh tịnh thiền thứ chín, thì tất cả hoặc nghiệp chung riêng, hoặc chính thức hoặc huân tập đều dứt sạch không còn, nên nói là tịnh thiền thanh tịnh. Từ hạ địa trở đi đều có thói quen còn sót lại, Phật an trú ở trên đảnh Thập Địa, nếu nhập vào thiền này thì vượt hơn các vị Bồ-tát".

Kinh Tịnh Danh chép: "Tâm tịnh rồi thì vượt qua các thiền định, tức là nghĩa này, cũng là nêu ra địa vị cao tột đó để phân biệt pháp tánh sâu xa. Từ "Kim Quang Minh này trở xuống là tựa Tự Thuật, nếu nói về ý chánh thuyết lưu thông với mười bảy phẩm thì đã nói như trên. Ở đây lại nói về Tự Thuật năm lớp huyền nghĩa. Mười hai bài kệ rưỡi đầu nói về Danh-Thể-Tông-Dụng.

12. Nói về truyền bá mở rộng kinh này:

Mười bốn bài rưỡi kế là nói về truyền bá mở mang kinh này, tức là nói về giáo tướng. Y theo một câu đầu nói về Danh, kế một câu nói về Thể, kế ba bài nói về Tông, kế chín bài nói về Dụng. Từ "hộ thế..." trở xuống là nói về giáo tướng. Về giải, có chỗ nói: Một câu Kim Quang Minh còn nói về thể, như vàng trong đá quặng, thể của vàng chẳng phải sáng chẳng phải chói, không ngại y theo vàng để luận về Dụng trong ngoài, Pháp tánh chẳng phải Tông, chẳng phải Lực cũng nương theo pháp tánh để sinh khơi tông lực. Nên biết câu này chính là nói về Thể, ở đây nói về lý là đương nhiên, chia văn thì thuộc nói về Danh, Kinh Vương đã nói ở trên, ở đây lại về điều đó. Tam tạng nói: "Ba đức thâu nhiếp cả ba, Niết-bàn chính là dứt bỏ chấp đoạn của Nhị thừa, Bát-nhã chính là xóa bỏ tâm chấp chặt của phàm phu. Hoa Nghiêm chính là hóa độ Bồ-tát mới tu hành kinh này chung cho cả người của tám vị, nên gọi là Vương.

13 Nói về kinh vương:

Lời này khó hiểu, "Niết-bàn là nói cho Bồ-tát về hành xứ nhiệm mầu sâu xa, đâu dừng ở Nhị thừa? Bátnhã chép: "Phật pháp thân nói pháp cho Bồ-tát pháp thân nghe, chúng nghe pháp đó chẳng phải là người sinh tử, đây phải nói cho người phàm phu còn chấp hữu nghe? Hoa Nghiêm nói cho người sơ địa đến thập địa nghe, đâu phải chỉ vì Bồ-tát mới tu hành? Nói như vậy là nghiêng lệch, khiến cho người vô trí khởi tâm khinh mạn đối với các kinh, nghĩa này không thể được. Ở đây nói Kinh Vương nếu lấy văn làm kinh, tức là ba thứ Tục Đế, nếu lấy lý làm kinh tức là ba thứ Chân-đế, nếu hợp văn-lý làm kinh, tức là ba thứ Trung đạo.

Nếu nói các đế khác, thì Kinh chẳng phải Vương. Nếu nói Trung đạo, thì kinh này lại là Vương, đối với chín thứ kinh được tự tại, nhưng Kinh Vương là một, tùy duyên lập giáo, tên gọi khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm chép: Pháp thân, Phương Đẳng là Tướng thật, Bát-nhã gọi là Phật mẫu, Pháp Hoa là hạt châu trên búi tóc, Niếtbàn là thầy của Phật, đều là tên khác của Pháp tánh, chung cho làm thể tất cả các kinh, thí như các tánh phải vận dụng lần lượt mà khởi lên, long Sư điểu quan tùy thời mà bày lập, trăm đời tuy khác nhưng Vương thống lãnh chỉ là một, pháp tánh cũng giống như vậy, nên nghe Phật mẫu của Đại phẩm làm vua, các tên gọi khác đều dứt bỏ nên nghe Pháp Hoa bảo Sở làm Vua thì các tên gọi khác không còn, pháp tánh là vua của Kim Quang Minh cũng giống như vậy. Nếu hiểu như vậy thì trên không trái với tôn chỉ Kinh Vương của Phật, dưới không làm cho tâm ngã mạn của chúng sinh thêm lớn.

14. Nói về giải thích của người:

Vi diệu, người ta giải thích rằng, nhân nhiệm quả mầu, đây là không đúng, mà nhân quả đều nhiệm mầu, tánh đức trong nhân thì sâu xa lại khó thấy nên gọi là vi, không dọc không ngang nên gọi là Diệu, trong quả tu đức cũng giống như vậy. Bốn Phật ở bốn phương che chở giữ gìn bốn phương là bốn cửa, bốn Phật là quả giác trí của bốn cửa. Giác trí của Đức Thích-ca giống như bốn Đức Phật, quả trí của các Đức Phật thầm hợp với pháp tánh, pháp tánh được hiển bày gọi là Pháp thân, pháp thân bất động gọi là Trì, Pháp tánh thường trụ cho nên các Đức Phật cũng thường trụ, pháp thường trụ Phật thường trụ thì tuổi thọ cũng thường trụ, vì thường trụ cho nên vô lượng.

Tín Tướng suy tìm Tích hoặc Bổn, bốn Đức Phật giúp cho hiểu Bổn ngộ tích, gọi là Hộ. Một câu này có bao nhiêu nghĩa. Bốn môn của pháp tánh, bốn đức của pháp tánh tức là nghĩa của Thể, quả trí hiển bày Thể tức là nghĩa Tông, hộ niệm cho Tín Tướng dứt bỏ nghi ngờ lại là nghĩa của Dụng, nói rõ Tông là ý chính. Theo quán tâm giải thích thì bốn phương là bốn đế, bốn Phật là trí bốn đế, Đông là phương đứng đầu, như Tập là nhân của khổ. Lại, phương Đông thuộc Giáp Ất là mùa xuân sinh khởi, sinh tức là Tập đế. Từ Đông kế đến Nam, cũng còn sinh nhưng có lớn lên, trước là mùa Xuân tiếp theo là mùa Hạ, cho nên phương Nam là khổ đế.

Sau khi lớn lên thì đến mùa Thu gặt hái, vả lại Bạch đế thuộc về Kim, Kim có công năng quyết đoán, phương Tây là Đạo đế. Từ mùa Thu gặt hái đến mùa Đông thì chứa vào kho, mọi việc đều chấm dứt, phương Bắc như Diệt đế, nhân quả khổ tập đều tạ từ không còn tác dụng. Quán bốn đế này sinh ra mắt tri minh giác, nắm giữ lý không mất, giữ gìn không cho khởi, nên gọi là Che chở". 15. Nói về bốn đức:

Lại nữa, quán bốn phương là bốn đức, quán phương Đông thường còn là bác bỏ vô thường, quán vô thường là bác bỏ thường, quán chẳng phải thường chẳng phải vô thường là phá thường, vô thường cho đến quán phương Bắc vô ngã là phá trừ ngã cũng giống như vậy. Quán này nắm giữ đức không mất, giữ gìn không cho khởi, nên nói là Che chở. Quán phương Đông Tập Đế là thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường mà là bất động nên gọi là A-úc. Quán phương Nam khổ đế lạc không đi không đến mà là pháp tánh Tướng thật, tướng thật tôn quý cho nên gọi là Bảo tướng.

Quán phương Tây Đạo đế rốt ráo thanh tịnh, pháp tánh tuổi thọ sánh bằng hư không. Cho nên gọi là Vô lượng thọ. Quán phương Bắc Diệt đế mãi mãi vắng lặng, vô ngã đi vào kho bí mật vì là kho bí mật nên gọi là âm thanh Vi Diệu... Từ "Nay ta sẽ nói" trở xuống chín bài kệ là nói về Dụng, văn chia làm bốn: Ba bài kệ đầu nói về thắng pháp năng phá, ba bài rưỡi kế là nói về thắng pháp năng phá, ba bài rưỡi kế là nói tội ác bị dứt bỏ, một bài rưỡi tiếp theo nêu hành pháp khuyến tu, một bài tiếp đó kết thúc thành tựu.

16. Nói về thắng pháp năng phá:

Ba bài đầu nói về thắng pháp năng phá-nghĩa là pháp tánh của cảnh pháp, hành pháp Sám hối khen ngợi, pháp dắt dẫn trí nhất thiết chủng, cho nên nói các pháp như Sám hối... biết chẳng phải một loại. Nếu giúp nhau để nói thì hành giúp trí, trí hiển bày lý vì lý hiển bày cho nên sạch hết các khổ, các khổ không còn cho nên Pháp thân hiển hiện, trí tròn đầy cho nên Báo thân hiện ra, vì là công đức vô thượng cho nên Pháp thân hiển hiện, trí tròn đầy cho nên Báo thân hiển bày, vì là công đức vô thượng cho nên Ứng thân hiện ra.

Nếu nói đầy đủ thì ba pháp không dọc không ngang mà tu, ba thân cũng không dọc không ngang mà hiển, tuy khác nhau về Viên và Biệt, nhưng đều là thắng pháp năng phá. Quán xưa lời văn tóm lược, bản mới dịch có đủ ba châu thuyết pháp, bốn Đức Phật nói về thường quả thì người thượng căn được lợi ích, Phật chia ba thân thì người hạ căn được lợi ích. Nay trong lời Tựa nói rằng "nay ta sẽ nói các pháp như pháp Sám hối... tức là nói rõ các pháp của ba châu thường phá trừ mọi điều ác.

17. Nói về phẩm không:

Kế là từ các căn không đủ..." trở xuống là tựa nói về phẩm không, văn chia làm hai: ba bài rưỡi đầu nói về điều ác bị dứt, hai bài rưỡi, tiếp theo nói về cách năng phá. Phần đầu lại chia làm: Từ "các căn không đủ" trở xuống là phá báo chướng, một câu "sầu ưu..." là phiền não chướng, từ "ác tinh tai dị..." trở xuống là phá nghiệp chướng. Kinh khác đối với duyên nói rằng báo chướng khó chuyển, lúc là nhân thì có thể cứu những khi quả đã thành thì chẳng biết làm sao.

Ba chướng ở kinh này đều có thể chuyển, đều giải thích rằng ba chướng lớn mạnh vì phá năm giới, phiền não là căn bản, là phiền não chướng. Nay y theo loài người nó về quả báo phạm năm giới, các căn bên ngoài thiếu khuyết tuổi thọ bên trong non kém, hai câu này là báo ứng sát sinh. Ngày xưa tổn hại thân phận của người, ngày nay các căn bị thiếu khuyết xấu xí, ngày xưa cắt đứt mạng sống của người, ngày nay tuổi thọ bị giảm bớt, kinh nói "Nhân duyên sát sinh phải chịu hai thứ quả báo, thường hay bị bệnh tật, tuổi thọ ngắn ngủi", tức là việc ấy. Hoặc nghèo nàn khốn khổ là bên ngoài không có y báo, các vị trời xa lánh là bên trong không có phước đức, hai câu này là báo ứng phạm giới trộm cắp, kinh chép: "Có đồng sinh đồng danh, được trời rồng giúp đỡ, trời trời công đức phát nguyện làm lợi ích".

18. Nói về các hạng người:

Người trộm cắp không bao giờ có việc ấy. Lại, người trước giàu sang sau nghèo khổ, chắc chắn bị trời rồng xa lánh. Hoặc bên trong thân thuộc tranh chấp, bên ngoài pháp vua trừng trị, hai câu này là phạm giới dâm, kinh nói: "Người bao che thì người căm tức, pháp bao che thì pháp tàn hoại", xưa xâm phạm người đó thì nay ruột thịt đấu tranh, xưa chê bai pháp của người thì nay pháp vua trừng trị, tức là việc ấy. Tất cả đều căm giận tranh chấp, ở đây lẽ ra có hai câu, có lẽ là người phiên dịch sơ sót, hoặc là lược bỏ. Trong thì mọi người đều tức giận tranh chấp, ngoài thì ai cũng không tin, câu này là phạm vào lỗi nói dối, xưa không chân thật và lừa dối người khác thì nay thường bị khinh khi giận ghét, xưa nói không thật thì nay người không tin.

Ngoài hao tốn tiền của trong thiếu sót lễ phép, đây là báo ứng của việc uống rượu, xưa coi thường tiền của lãng phí thời gian thì nay chịu nhiều mất mát hao tổn, xưa không chịu tiết kiệm thì nay rơi vào nghễnh ngãng lẩn thẩn. Kinh chép: "Gió mạnh của sự ganh ghét oán hận thổi lửa của tâm tội ác thường làm cháy dữ dội", tức là việc ấy. Hỏi: "Giải thích kinh Đại thừa, đâu thể so sánh năm giới với nghĩa? Đáp: Khai-hợp năm giới có mối quan hệ, kinh Đề Vị chép: "Năm giới là điều kỵ lớn của trời đất, trên sánh với năm ngôi sao, dưới phối với năm ngọn núi giữa thành tựu năm kho tàng, người phạm thì xúc phạm với trời đất, tự đâm chém thân mình". Lại phối với năm thường, không giết hại hợp với nhân, không trộm cắp hợp với nghĩa, không tà dâm hợp với lễ, không uống rượu hợp với trí, không nói dối hợp với tín. Lại sánh với năm kinh không giết hại hợp với Thượng Thư, không trộm cắp hợp với Xuân Thu, không tà dâm hợp với Kinh Lễ, không nói dối hợp với Kinh Thi, không uống rượu hợp với kinh Dịch.

19. Nói về mười điều lành:

Lại đối với mười điều lành, sát sinh trộm cắp và tà dâm là ba nghiệp của thân, nói dối có bốn thuộc về bốn nghiệp của miệng, uống rượu thuộc về ba nghiệp của ý. Thế tục không thể giữ được nghiệp của miệng, lược bỏ một giới không nói dối. Thích Luận chép: "Nói nặng là nói dối, tức thuộc về ba nghiệp, uống rượu là tà mạn, tự sống, tăng thêm sân giận, ngu si, xuất thế lấy trí tuệ làm đầu, sinh tử do ba độc là gốc. Nếu dứt được uống rượu thì đó là phòng ngừa ba độc của ý, nuôi lớn trí tuệ xuất thế. Đó là khai triển năm giới thành mười điều lành. Mười điều lành được của Pháp Luân Vương thuở xưa, sử dụng cũng gọi là tánh tội tánh thiện, đều là gốc lành của tất cả tội lỗi".

20. Nói về năm giới và năm ấm:

Lại, năm giới đối với năm ấm, không giết hại là Sắc ấm, không trộm cắp là Thọ ấm không dâm dục là Tưởng ấm, không nói dối tức là Hành ấm, không uống rượu là Thức ấm. Năm ấm mở rộng ra thành bốn niệm xứ, niệm xứ mở rộng ra thành ba mươi bảy phẩm, ba mươi bảy phẩm mở rộng ra thành ba môn giải thoát, ba môn giải thoát mở rộng ra thành Niết-bàn. Cho nên nói Sắc có công năng phát ra giới, Thọ có công năng lãnh thọ thiền định, Tưởng tuệ ngộ hư thông, Hành phát khởi giải thoát, Thức tức là tri kiến. Nên biết rằng năm giới có công năng thành tựu năm phần pháp thân, là pháp thành tựu Nhị thừa.

Lại, năm giới cũng là pháp môn Đại thừa, kinh Đề Vị chép: "Năm giới là đeo bùa sống lâu, ấn bất tử, tức là Thường đức, ra vào không loạn, tới lui không ngăn cách tức là Tịnh đức, thống lãnh một thân tức là Ngã đức, vì thiết lập đạo căn tức là Lạc đức". Đây là năm giới so sánh với bốn đức, tóm gọn năm giới làm ba nghiệp, tức là đối với vô lượng ba pháp môn như ba không lỗi, ba bất hộ, ba luận bất tư nghị hóa, ba Mật, ba quỹ, ba thân, ba thành Phật tánh, ba Bát-nhã, ba Niết-bàn, ba trí, ba đức... dọc ngang không giới hạn sánh cùng với hư không pháp giới, cũng là pháp môn vô tận tạng, cũng là Tammuội Vô Lượng Nghĩa, tóm lại tức là tất cả Phật pháp (cuối quyển 1).

21. Sự sát và sự bất sát:

(Đầu quyển 2). Lại, tổn hại mạng sống gọi là sự sát, không tổn hại mạng sống gọi là sự bất sát. Pháp môn giải thích: Tích pháp gọi là Lý sát, thể của pháp gọi là lý bất sát, nên biết rằng giới bất sát có nhiều thứ khác nhau, nói về quả báo cũng lại không giống nhau. Nếu giữ ý phòng hộ như ngựa buộc dây cương, như chăn trâu cầm gậy, quả báo ở loài người là một trăm hai mươi tuổi, chỉ được mắt thường mà không có bốn thứ mắt khác. Những người có tánh nhâm vận thì trở thành như sông đổ ra biển, quả báo ở sáu tầng trời, người sống lâu nhất là chín trăm hai mươi sáu ức bảy ngàn muôn tuổi, chỉ được mắt trời mà chưa được ba thứ mắt còn lại. Nếu cộng thêm sự tu tập về tuệ của giới, vô thường, khổ, vô ngã thì quả báo ở cõi biến dịch, thọ bảy trăm A-tăng-kỳ tuổi chỉ được mắt tuệ nhưng chưa được hai thứ mắt còn lại.

Nếu tu tập thêm nữa về các tuệ về thường, vô thường... thì quả báo ở biển cõi Liên Hoa Tạng, thọ thân pháp tánh, được đầy đủ năm thứ mắt, và tuổi thọ thường trú, so với Phật vẫn còn thiếu sót các căn, tuổi thọ còn tổn giảm, huống chi các căn, các tuổi thọ trước đó ư? Hoặc là người Viên giáo, giữ giới sự bất sát, lại giữ giới Lý bất sát không tổn hoại đến thân mà tùy theo một tướng, không dứt bỏ si ái mà khởi lên sự minh thoát, thể của ấm, nhập, giới không hề bị hủy diệt thương tổn, hoặc hạt giống, hoặc là kết quả bất sinh bất diệt, thành tựu trí tuệ an trú nơi cõi Thường tịch quang, tuổi thọ thường trụ lâu dài và đầy đủ năm thứ mặt, được căn tự tại, tai thấy mắt nghe, được mạng tự tại, dài ngắn tùy ý, thế mới gọi là rốt ráo giữ giới, các căn đầy đủ, mạng sống không giảm bớt. Lại người Viên giáo đâu chỉ giữ năm giới này, chỉ là sát, chỉ là từ, vừa thực hành sự sát vừa thực hành lý sát, như Đại vương Tiên Dự giết năm trăm vị Bà-lamôn, ban cho họ con mắt Phật, giúp cho họ tuổi thọ mười kiếp. Lại, thực hành pháp môn sát ấy là gột rửa chấp chặt, làm thanh tịnh tất cả phiền não, như thần cây bẻ cành không bị chim chóc oán trách, như kiếp nạn lửa thiêu đốt cây cối tro than đều mất, do đó Ương Quật nói: "Ta thề dứt bỏ ấm, giới, nhập, chứ không thể giữ giới bất sát". Tất cả trần lao là hạt giống Như lai, dứt bỏ hết hạt giống này mới gọi là Phật, thành tựu pháp thân kim cương nhiệm mầu, vắng lặng ứng hợp với tất cả, chỉ là sát, chỉ là từ, hóa hiện thân hình trong chín đường, tùy từng loài thích hợp mà thị hiện thọ ngắn dài, thuận theo sự thấy biết của từng loài mà dùng căn thiếu đủ để hóa độ tất cả.

22. Giữ giới bất sát:

Các giới hành trước đây cạn cợt hẹp hòi, không phải lối đi chung. Viên giới rộng lớn thẳng tắp sẽ là lối đi cho tất cả, cho nên gọi là rốt ráo giữ giới bất sát. Giới bất sát, từ trời, người trở lên đến các Đức Phật trở xuống, nghĩa đó ngang dọc bao la như vậy, vì sao lại nói là số Tiểu thừa? Vả lại, không cho mà lấy gọi là sự đạo, cho mà lấy gọi là sự bất đạo, pháp môn giải thích: như Đức Phật nói rằng: "Vật của người khác chớ lấy, gọi là pháp môn bất đạo, Bồ-đề không cho mà lấy Bồ-đề gọi là pháp môn đạo". Giới bất đạo có nhiều thứ khác nhau, nếu giữ giới tác nghiệp cầu được quả như ý, quả như ý đó vô thường và mau chóng suy tàn đều là vật của người khác, hôi thối như quả hư và độc hại như thức ăn có chất độc, người có trí không nên mong cầu. Dù đạt được thì tâm cũng không mừng vui, tại sao thiết tha uống đắng ăn độc mà tự thương tổn? Bốn tánh nghèo cùng tức là dòng nước xoáy khốn khổ trong ba cõi này, đâu có dòng nào vượt qua? Ba chướng làm ngại sự lìa bỏ nhất nghĩa thiên của Phật, đó gọi là đạo, chẳng phải bất đạo. Lại nữa, hàng Nhị thừa dùng trí bốn đế để quán thân thọ tâm pháp, nhàm chán sinh tử, ưa cầu Niết-bàn, tâm Niết-bàn khởi lên là tự, là tha, là chung, hay là vô nhân? Một tâm sinh liền lấy vật của người khác, tức thủ chứng phi thời, tức không cần nói sở nhân, hạt giống bị cháy không nẩy mầm được nữa, thấy khổ dứt tập tu đạo, làm những việc không nên mong cầu, nghĩa là có Niết-bàn mà thành chấp Niết-bàn. Nếu có người chấp không, thì các Đức Phật không thể hóa độ, thân dài ba trăm do tuần mà không có hai cánh, rơi vào trong ba hố vô vi, chịu các khổ như chết... kinh Pháp Hoa chép: "Thân thể đói khát ốm yếu sinh ra bệnh tật ghẻ lở", đâu chẳng phải là nghèo cùng khốn khổ ư?

23. Dẫn kinh Tịnh Danh để nói về giới trộm cắp:

Kinh Tịnh Danh chép: Không thấy Phật không nghe pháp, không vào trong số chúng", đâu chẳng phải xa lìa Đệ-nhất-nghĩa Thiên ư? Điều này cũng gọi là đạo (trộm) chứ chẳng phải bất đạo (không trộm). Nếu Bồ-tát Biệt giáo hành theo thứ lớp, học theo thứ lớp, tiến đạo theo thứ lớp, từ đơn giản đến sâu xa, xả bỏ một giữ lấy một, đến rồi lại đến, đi rồi lại đi, đều là làm nhục đối với tướng đến-đi, cũng là không cho mà lấy, lấy rồi lại xả bỏ, cũng là nghèo cùng, xả bỏ rồi lại lấy, nhiều lần đã lấy tức là khốn khổ, không thể tương ứng với nghĩa bậc nhất, tức là xa lìa. Điều này vẫn gọi là đạo, (trộm) chẳng phải bất đạo. Người tu Viên giáo quán tướng thật các pháp, thọ cũng không thọ, không thọ cũng không thọ, vừa thọ vừa không thọ, không thọ chẳng phải không thọ, chẳng thọ cũng chẳng thọ, chẳng giữ lấy Bồ-đề này. Vì chướng ngại các nguyện, pháp bình đẳng này không có cao thấp, không cao cho nên không giữ lấy, không thấp cho nên không xả bỏ, người quán như vậy là quán Như lai tạng đầy đủ không thiếu sót, là ngọc châu như ý, tùy ý sinh ra tài bảo, là đàn của Tu-la, tùy ý phát ra âm thanh, tức là giàu có vô cùng, rất giàu có cho nên không giữ lấy, không giữ lấy cho nên chính là nghĩa bậc nhất, vì là nghĩa bậc nhất cho nên các vị trời không xa lìa, đó gọi là rốt ráo giữ giới bất đạo.

24. Pháp môn trộm cắp của Viên giáo:

Người tu Viên giáo lại có pháp môn đạo (pháp môn trộm cắp), Bồ-đề không cho mà lấy Bồ-đề, như biển cả thu nạp các dòng chảy mà không cách muôn nhánh sông, như mặt đất gánh vác đảm đương bốn gánh nặng, chúng sinh đều hóa độ, phiền não đều dứt bỏ, pháp môn đều biết-Phật đạo chắc chắn thành tựu, nghĩa này có thể biết không thể nói nhiều. Các giới hành trước đây cạn cợt mà lại lấp bít, chẳng phải con đường thông suốt, Viên giới rộng lớn thắng tắt sẽ là lối đi cho tất cả, cho nên gọi là rốt ráo giữ giới bất đạo. Lại kế, thân nam nữ giao hợp gọi là sự dâm, không giao hợp gọi là sự bất dâm, Pháp môn giải thích: Nếu tâm ô nhiễm thì pháp thì gọi là dâm, pháp không ô nhiễm thì pháp gọi là bất dâm. Giới bất dâm có nhiều thứ khác nhau, hoặc ngăn cấm bảy chi, như vượn mang xiềng, bưng một bát dầu đi qua trước mặt đại chúng, xả mọi xúc lạc, mong cầu sự năm dục tịnh khiết ở đời vị lai, như cách thức trao đổi ở chợ búa dùng tiền đồng thu được tiền vàng, đây chính là thêm lớn sự dục chứ chẳng phải bất dục, hoặc vì sinh lên cõi trời cho nên giữ giới, như hai con dê đực, húc nhau, sắp tiến lên nhưng lại lùi. Đế Thích cùng tám mươi ức na-do-tha Thiên nữ mặc sức vui đùa hưởng lạc vui, nhìn phía Đông quên phía Tây mà dục vẫn còn chưa đủ, hóa hiện thành lão già Tu-ca hưởng lạc (nạp) với Xá chi, khiến cho các vị trời vong thân mất đầu. Lại thấy vị Tiên nhập định nên làm nhục con gái ông ta, khi tiên xuất định Đế Thích xấu hổ hóa thành dê đực. Vị Tiên nguyền rủa, ngàn rễ cây bám vào thân không cách nào gỡ ra được, sau đến ăn năn tạ tội, hóa thành ngàn mắt, đó cũng là thêm lớn dục chứ chẳng phải bất dục. Hoặc dứt bỏ các dục thô lậu của cõi Dục, đắm say các vui thiền định cõi sắc, cõi vô sắc, như cá ướp lạnh, đọa vào tầng trời Trường thọ, đó là một nạn.

Tham đắm thiền vị gọi là sự trói buộc to lớn là pháp nhiễm dục chứ chẳng phải bất dục.

25. Nói về tức không, tức giả, tức trung:

Hoặc chán ghét sinh tử như kẻ thù, như rắn rít, ưa thích Niết-bàn như người thân, như vật báu, vất bỏ dứt khoát, dấn bước vượt lên, không quay đầu lại, các pháp sắc thanh không thể làm ô nhiễm khuất phục, như gió tám phương không thể lay động núi Tu-di. Hoặc nghe công đức tốt đẹp của Bồ-tát, tiếng đàn của Chân-ca-la làm cho Ca-diếp đứng dậy nhảy múa không thể tự kìm chế, theo gió bay đến đập vỡ núi Tu-di, giống như cỏ mục, là pháp nhiễm dục, chẳng phải bất nhiễm, hoặc Bồtát nhàm chán sinh tử giống như phẩn tiểu hôi thối, nhàm chán Niết-bàn như giận ghét chim chóc, xả bỏ hai bên, chí nguyện sống trong Trung đạo, khởi pháp thuận đạo, sinh ra pháp ái, gọi là đảnh đọa, Bồ-tát Chiên-đà-la này đã không có phương tiện, thì bị tuệ này trói buộc không thể chiến thắng kẻ thù, sự tu sửa đã không có tuệ sắc bén, thì là pháp nhiễm dục chứ chẳng phải bất dục. Người tu Viên giáo quán một tâm ba đế, tức Không tức Giả tức Trung, tức Không thì nhiễm ở đâu, tức Giả thì tịnh ở đâu, tức Trung thì hai bên ở đâu, tức Không tức Giả thì Trung ở đâu, tức Không cho nên không tham ái các thứ ngã, nhân, mười sáu tri kiến, y chánh... tức Giả cho nên không tham ái các thứ Không, vô tướng, vô nguyện... tức Trung cho nên không tham ái Phật, Bồ-đề, quay bánh xe pháp, độ chúng sinh...

26. Phật là tịnh giới, người khác là ô giới:

Ba đế thanh tịnh gọi là rốt ráo thanh tịnh, tịnh này cũng tịnh. Kinh nói: Chỉ có Phật là đầy đủ tịnh giới, những người khác đều gọi là ô giới (giới nhiễm ô). Người tu Viên giáo thực hành Phật pháp, tức là rốt ráo giữ giới bất dâm, người tu theo Viên giáo lại có pháp môn nhiễm ái, như cô Hòa-tu-mật-đa, người thấy là người nữ, trời thấy là Thiên nữ, người thấy thì được thấy Tam-muội của Chư Phật, người cầm tay thì được đến Tam-muội của cõi Phật, người khen ngợi thì rất ưa thích Tam-muội, người ấp ủ âm thầm như Tam-muội, tất cả đều đạt được pháp môn, cũng như loài ma thực hành giới Bồ-tát không nhiễm ô, biến thành vô lượng thân, hành dâm với vô lượng Thiên nữ, đều khiến cho phát tâm Bồđề, như Duy-ma-cật, hoặc đi vào hậu cung, trong hậu cung tôn trọng hóa thành chánh cung nữ, trước tiên dùng dục lạc lôi kéo, sau mới khiến cho đi vào Phật đạo, đó mới là cái dục của phi dục, dùng dục ngăn dứt dục, như dùng mạt vụn sản sinh mạt vụn dùng âm thanh ngăn dứt âm thanh. Các giới hành hẹp hòi nông cạn trước đây, chẳng phải con đường thông suốt, Viên giới rộng rãi thẳng tắp sẽ là lối đi cho tất cả, đó gọi là rốt ráo giữ giới bất dâm.

27. Nói về nói dối:

Lại nữa, không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, gọi là nói dối. Pháp môn giải thích: chưa đạt được cho là đạt được, chưa chứng đắc cho rằng chứng đắc, gọi là nói dối. Nói dối có nhiều loại, mong cầu nhiều thì khổ, lúc đạt được thì thường sợ hãi, lúc mất đi thì ôm lòng buồn phiền, nhiều dục vọng thì không yên vui. Phàm phu ngu si sống trong các khổ nối nhau xuất hiện ý nghĩ cho là yên vui, dựng lên cột cờ ngã mạn, đánh vào chiếc trống tự đại, cho rằng sắc tức là ngã, ngã chính là sắc, trong sắc có ngã, trong ngã có sắc, chấp có đối chọi với không, chấp không tranh cãi với có, nương vào đoạn thường sinh khởi sáu mươi hai thứ nói suông bác bỏ mắt tuệ không nhìn thấy chân thật, tăng thêm kiến chấp, nuôi lớn các điều sai. Sự độc hại của cái tôi, cái ta rất lớn, đủ bốn lỗi của miệng, nêu ra sơ lược nói dối như vậy. Tầng tức ba mươi ba lá vàng sinh tử cho là vàng ròng. Phi tưởng tự địa đầy đủ phiền não nhỏ nhiệm, lầm cho là Niết-bàn, đây chẳng phải là nói dối thì thế nào mới là nói dối?

28. Nói về giải thoát:

Hàng Nhị thừa tranh nhau chấp đắm gạch đá, vui mừng mang ra, sinh ý tưởng diệt độ mà sự sinh tử thật ra chưa hết, lẽ nào được diệt độ, nghĩ là yên ổn nhưng những việc phải làm chưa làm xong, lẽ nào được yên ổn, kinh Tịnh Danh chép: "Phật vì hạng người tăng thượng mạn, nói lìa bỏ dâm, nộ, si gọi là giải thoát", thật ra chưa được giải thoát tất cả, chưa được giải thoát cho rằng được giải thoát, đâu chẳng phải là nói dối ư? Phật vì hạng người Biệt giáo đem bốn môn để nói về tướng thật, chấp lấy một thì có ba môn ngăn cách, cho đến chấp chẳng phải có chẳng phải không mà ngăn cách hữu vô. Tướng thật ấy là đường ngôn ngữ bặt chỗ tâm hành diệt, tại sao dùng văn tự, văn tự đối với không văn tự, tại sao dùng số đối với vô số, há chẳng phải là nó dối ư? Người tu Viên giáo như thật mà quán, như thật mà nói. Như thật mà quán là chẳng phải quán bên trong đạt được giải thoát này, chẳng phải quán bên ngoài chẳng phải nội-quán bên ngoài, chẳng phải lìa bỏ nội-quán bên ngoài, cũng không vì vô quán mà đạt được giải thoát này.

29. Nói về tướng thật các pháp:

Như thật mà nói là tất cả thật tất cả không thật, tất cả vừa thật vừa không thật, tất cả chẳng phải thật chẳng phải không thật, đó đều gọi là Tướng thật các pháp. Kinh nói: Lời của các Đức Phật đều là lời thật, lời Phật chân thật không luống dối, thường dùng một âm mầu vang vọng cùng khắp cõi Tam thiên, hễ vang đến nơi nào thì tùy theo các loài chúng sinh tất cả đều hiểu được, tức là dùng âm thanh Phật đạo giúp cho tất cả đều nghe. Người Viên giáo cũng có pháp môn nói dối, không có xe nói có xe để khuyến dụ trẻ nhỏ. Không phải nhạc nói là nhạc để ngăn tiếng khóc của trẻ thơ. Nếu có chúng sinh nào, nhờ nói dối mà được lợi ích thì Phật cũng nói dối. Kinh chép: "Ngã là thây chết tham dục, ngã là thây chết sân nhuế nhưng thật ra chẳng phải. Ngã là trời là người, thật chẳng phải là trời, là người. Ngã là rồng-quỉ, thật chẳng phải rồng-quỉ. Đem luống dối để nêu ra luống dối, khiến cho có sự không luống dối như vậy". Các hành trước cạn thấp bít lấp, Viên hạnh sâu xa, khoáng đạt vô ngại, sẽ là lối đi cho tất cả, cho nên được như thế, đó gọi là rốt ráo giữ giới không nói dối.

30. Nói về uống rượu:

Lại, hoặc ngũ cốc hoặc thảo mộc làm cho tâm trí tối tăm mê loạn gọi là sự tửu. Pháp môn giải thích: cái thấy mê lầm điên đảo gọi là rượu, cái thấy điên đảo có nhiều thứ rượu là cội gốc của các điều ác, bất thiện, có công năng phát sinh ba mươi sáu lỗi, vời lấy năm trăm đời không có tay, ngạo mạn thất lễ, phát xuất che giấu, nằm ngủ nơi phẩn uế, chống chọi với nước lửa, tai họa như vậy, người vẫn ưa thích. Đời Tấn, Dẫn Mãn xưng là người có nhiều tài năng, đời Ngụy gạn đục khơi trong thành Hiền Thánh, Tất Trác tự thấy mình là kẻ nát rượu. Trịnh Tuyền tự mình thề làm bình rượu, tre lụa ghi đầy xưa nay ca tụng; không nên làm mà làm, không nên ca tụng mà ca tụng, chẳng phải say rượu thì là gì?

31. Dẫn các kinh sách đã nói rộng về năm giới:

Thích Luận nói: "Có một vị Pháp sư, nói cho vua nghe về tội phước của năm giới. Nhà vua hỏi rằng: uống rượu gây ra cuồng loạn, người uống thì rất nhiều nhưng người cuồng loạn sao ít vậy? Pháp sư đưa tay chỉ vào các ngoại đạo mà thôi, lại nói sang chuyện khác. Ngoại đạo Châu Trương nói: Nhà vua hỏi thật sâu sắc, kẻ trọc đầu ở tòa cao kia không thể trả lời. Nhà vua nói: Pháp sư trả lời rồi, kẻ cuồng loạn cũng không ít, là chỉ cho các ông". Được bảo vệ mà không rõ ràng như thế, đó tức là cái say của người đời. Lại nữa, tham giống như biển cả dung nạp các dòng chảy mà không có lúc nào đầy, sân giống như ngọn lửa thêm củi vào lại càng bùng lên mạnh mẽ, si giống như chất keo dính chặt lại như băng thêm nước, tám muôn trần lao làm não loạn tâm, không lúc nào tạm dùng, điện chớp lưỡi rắn, dương diệm như khỉ, năm dục khuấy động chẳng lúc nào không say.

Đại kinh nói: "Từ xưa đến nay thường bị thanh sắc làm cho say khướt, xoay vần trong sinh tử, trời người khắp ba cõi đều có cái say này". Nếu hàng Nhị thừa tuy dứt bỏ chín mươi tám sử và bốn trụ phiền não, nhưng vô minh chưa dứt thì như người sốt rét nửa chừng. Đại Kinh dẫn dắt người say trở về, thế gian không có thường lạc mà nói ngã tịnh, Như lai thật sự ngã tịnh mà nói không có thường lạc, như người say kia thấy trời trăng xoay vòng, đây là cái say của hàng Nhị thừa. Hàng Bồ-tát chưa sạch hết vô minh không thể nhìn thấy rõ ràng, Bồtát hành cho nên thấy không rõ ràng, như từ xa nhìn về thuyền lớn trông giống như thiên nga chim nhạn, đêm tối nhìn bức họa ngỡ như thuyền chở đầy người; cũng như người say nhìn thấy đường đi mờ ảo, rất nhiều những ví dụ như vậy để nói lên Bồ-tát chưa đạt được rõ ràng. Vì thế Ca-diếp nói: "Trước đây chúng ta đều bị gọi là người tà kiến". Đây là còn đủ tánh phiền não nhưng có khả năng biết được kho bí mật của Như lai, dù hàng Bồ-tát, người Viên giáo thực hành hạnh Như lai, tuy chỉ có chục nhãn nhưng được gọi là Mắt nhãn, cái đáng thấy thì lại không thấy, do đó văn nói: "Đi sâu vào pháp tánh, tức là đối với kinh Kim Quang Minh này, mà thấy được ta Thích-ca Mâu-ni".

Đại kinh chép: "Thấy rõ ràng Phật tánh giống như diệu đức, cho nên năm trụ chánh tập cùng lúc không sót, pháp rượu chè đã dứt, thì cái gì có thể say". Đó là rốt ráo giữ giới không uống rượu. Hàng Viên giáo cũng có pháp môn uống rượu. Ương-quật nói: "Nắm bình chân không đựng đầy rượu tướng thật, biến hóa năm đường tuyên dương tiếng rống, Ba-tư-nặc say rượu lại càng nhiều ân, phu nhân Mạt-lợi uống rượu, Phật nói giữ giới, vào trong quán rượu tự lập nên chí khí của mình, cũng lập nên chí hướng cho người, hễ đạt được môn đó thì nghịch thuận đều thích hợp, đánh mất cái chuôi thì cầm dao làm hại tay". Các hành trước cạn cợt bít lấp, hành nhân Viên giáo rộng rãi phóng khoáng là đường tắt cho tất cả, cho nên như thế, đó gọi là rốt ráo say tỉnh không hai. Trên đây quán trí bốn đế gọi là bốn Phật, quán năm Phật là quán thế nào? Là quán tướng thật giác trí thanh tịnh của năm giới, tức là quán trong tâm nhìn thấy năm vị Phật, kế là phá trừ phiền não chướng, là chỉ ra một câu "buồn rầu sợ hãi". Các sự việc trên hoặc y theo nội thân hoặc y cứ theo quả báo bên ngoài nghĩa của Báo chướng, một câu này chỉ nói tâm là phiền não chướng.

QUYỂN 2

1. Nói về ba chướng:

Báo chướng như trên rất dễ hiểu, còn phiền não và nghiệp thì thế nào? Có vài người nói: "Thường khởi mà nhẹ thì gọi là phiền não, thường khởi mà nặng gọi là nghiệp". Đại sư Thiên Thai nói: "Nhậm Vận thường có là phiền não, cuối cùng khởi tâm quyết định phát động đến thân miệng, chắc chắn dẫn đến báo ứng là nghiệp". Nếu thế thì sao xấu, tai họa khác thường đều không liên quan đến tâm, thế nào là nghiệp chướng? Đây là tướng bên ngoài biểu lộ nghiệp sắp phát khởi, tướng của nghiệp phải trả báo thì bị nghiệp chướng này. Nếu nghiệp phiền não chuyển đổi thì báo chưa chắc đã chuyển, còn báo chuyển thì nghiệp phiền não chắc chắn chuyển. Nói chung thì phiền não kiến tư đều có lo buồn sợ hãi. Theo luận riêng thì lo buồn thuộc về kiến phiền não, sợ hãi thuộc về ái phiền não. Ở đây không ghi đủ...

2. Phá nghiệp chướng:

Kế là phá nghiệp chướng, đó là từ "sao xấu tai họa khác thường" trở xuống. Nghiệp sắp cảm lấy quả báo cho nên tướng hiện ra trước, tướng gọi là biểu đạt phát ý ở đây vậy. Sao xấu là riêng có khách tinh (sao mới xuất hiện và sao chổi), cũng là năm sao và hai mươi tám sao, mỗi phương có bảy ngôi, bốn lần bảy thành hai mươi tám ngôi, trái với số độ thì mất đi giới hạn. Hoặc sao Huỳnh làm hoặc loạn hành Ma tuệ (sao chổi) xuất hiện, đó là khách tinh. Tai họa khác thường là gió mưa sương tuyết... trái với thời tiết. Các tà có ba loại, đó là nhân tà, quỉ tà và pháp tà; trùng đạo có quỉ độc, lại nói ba độc là trùng (sâu bọ). Biến quái là những loài quái dị, đó là thân hình và tiếng kêu ghê rợn của các loài cầm thú. Ác mộng tức là tâm linh sâu kín mà nghiệp hiện bày trong đó, chính là mộng thấy những điều không vừa ý.

3. Các nghiệp không ngoài năm tội:

Các nghiệp tiêu biểu cho quả báo không ngoài năm tội, hoặc sao xấu tiêu biểu cho điều vong thân mất mạng, đó là tướng của nghiệp sát sinh; sao xấu tiêu biểu cho thần khí nghèo khó bần cùng, đó là tướng nghiệp trộm cướp; sao xấu trên biểu cho thân thuộc chia lìa, đó là tướng của nghiệp dâm dục; sao xấu tiêu biểu cho vu cáo chê bai, đó là tướng của nghiệp nói dối; sao xấu tiêu biểu cho tan mất tài sản, đó là tướng của nghiệp rượu chè. Ngoài ra tai họa khác thường cầm thú quái lạ ác mộng v.v.., tùy theo từng lúc mà có những sự tiêu biểu khác nhau, để tâm chú ý suy nghĩ tường tận thì không ngoài quả báo của năm tội, hành giả hiểu biết nên suy ngẫm, đâu cần phải chẻ cật tre, đâm rùa để hỏi thần thành mới rõ ràng hay sao? Từ "nên tắm gội sạch sẽ..." trở xuống là đưa ra hai phương pháp có thể làm cho không còn các điều ác. Tướng nghiệp trước bên ngoài bày rõ quả báo không lâu, bên trong không có cách nào cúng tế. Dựa theo ba nghiệp đó tạo thành phương hướng cho ba đức, dùng sự tiêu biểu cho lý.

4. Nói về ba đức Niết-bàn:

Tắm gội thân thể hôi hám là bắt trước theo Pháp thân, bịt miệng thu tai là bắt trước theo Bát-nhã, lắng lòng thanh tịnh là bắt trước theo giải thoát. Trước khiến tắm gội nội thân sau lại khuyên làm sạch sẽ áo quần bên ngoài, như thế trong ngoài đều thành tựu. Trước chỉ bảo nghe, sau lại răn nhắc khiến chuyên chú lắng nghe, là trịnh trọng ngậm miệng. Trước khiến dốc lòng, sau nêu rõ cảnh dốc lòng, là thành tựu phương pháp. Thân người vốn ở nơi bất tịnh, hoa sen vốn ở nơi bùn lầy, thì như chiên-đàn mọc lên từ y lan, thế gian hiện thấy. Nay gần thì nhờ vào khuôn phép của ba nghiệp, xa thì thành tựu nghĩa mầu của ba đức, có thể không tin hay sao? Tắm gội pháp thân có thể tránh khỏi báo chướng, bịt tai ngậm miệng có thể tránh khỏi phiền não chướng, dốc lòng có thể tránh khỏi nghiệp chướng...

5. Kết thúc thành tựu:

Từ "oai đức kinh này" trở xuống là phần thứ tư kết thúc thành tựu. Có công năng tiêu trừ hết là nói về chuyển đổi ba chướng. Nay được vắng lặng là thành tựu ba đức. Vắng lặng chỉ là Niết-bàn, Niết-bàn chỉ là ba đức, phương pháp của ba nghiệp trước đã thành tựu, lý số của ba chướng sẽ đổi thay, ba chướng chuyển đổi như thế rồi, thì lý số sẽ thành tựu ba đức, báo chướng chuyển thành Pháp thân đức, phiền não chướng chuyển thành Bát-nhã đức, nghiệp chướng chuyển thành Giải thoát đức. Trước nhờ vào sự tướng dùng cạn cợt tiêu biểu cho sự sâu xa, sau nói vắng lặng là dùng sâu xa để kết luận cho sự cạn cợt. Văn kinh dày chắc, ít người thấy được nghĩa lý... Từ bốn vị thiên vương hộ thế v.v... trở xuống là nói về phần lưu thông, đều như trên đã nói.

Giải Thích Phẩm TUỔI THỌ

1. Nói về tuổi thọ của Phật:

Phật vốn chẳng có thân chẳng có thọ, cũng chẳng có hạn lượng, thuận theo thế gian mà nói về ba thân, cũng thuận theo thế gian mà nói về tuổi thọ. Pháp thân là phép tắc pháp tánh, trở lại lấy pháp tánh làm thân. Thân này chẳng phải sắc chất cũng chẳng phải tâm trí, chẳng được sự thâu nhiếp giữ gìn của ấm giới nhập, gượng lấy pháp tánh làm pháp thân. Pháp tánh thọ, chẳng phải là báo ứng đạt được mạng căn, cũng không giữ gìn nối nhau, gượng nhắm vào sự chẳng dời chẳng đổi gọi đó là thọ. Thọ này chẳng phải là hạn lượng dài dâu, cũng chẳng phải là hạn lượng ngắn ngủi, không kéo dài ra không rút ngắn lại, gượng cho pháp giới đồng với lượng của hư không. Đây chính là thân của chẳng phải thân-thọ của vô thọ-lượng của bất lượng. Báo thân là những cảm ứng của sự tu hành. Kinh Pháp Hoa chép: "Do nghiệp tu lâu mà có được". Kinh Niết bàn chép: "Đại bát Niết-bàn do tu đạo đạt được nên trí Như như chiếu soi cảnh như như, Bồ-đề trí tuệ tương ưng thầm hợp với pháp tánh". Tương ưng là giống như nắp và hộp khớp nhau. thầm hợp là như nước và sữa hòa hợp nhau.

2. Nói về pháp thân Phật:

Pháp thân chẳng phải thân, chẳng phải chẳng phải thân, trí đã thầm hợp cũng chẳng phải thân chẳng phải không thân, gượng gọi trí này là Báo thân. Pháp thọ chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, trí đã thầm hợp cũng chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, gượng gọi thường là Thường là Thọ. Pháp đã chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng, gượng gọi là vô lượng này là lượng. Ứng thân là ứng hóa thân hình giống như chúng sinh là thân. Ứng hiện cùng giữ gìn nối nhau là thọ, ứng là đồng dài ngắn làm lượng. Ứng thân là ứng hóa đồng với thân chúng sinh làm Thân.

Trí và thể thầm hợp khởi ra công dụng to lớn, như nước ngân và vàng ròng có thể dát các sắc tượng, công đức và pháp thân ứng hiện đến mọi nơi, có khả năng làm thân, làm chẳng phải thân, có khả năng là Thường Thọ, là chẳng phải thường thọ, là vô lượng, là hữu lượng. Hữu lượng có hai nghĩa: một là lượng của Vô lượng, hai là lượng của hữu lượng, như bảy trăm A-tăng-kỳ và tám mươi đại kiếp... là lượng của hữu lượng; như cân núi, giọt nước biển thật giới hạn, phàm phu không thể biết được, Phật A-di-đà thật có kỳ hạn, nhưng trời người chẳng thể tính được, đây là vô lượng của hữu lượng. Ứng Phật đều là hai lượng, tùy vật tùy duyên ngắn dài khác nhau. Nhưng ba thân, ba thọ, ba lượng này không thể có một khác riêng, cho nên trái với pháp thể, tức một mà ba, tức ba mà một, chính là khế hợp huyền văn. Vì thế văn dưới nói: "Nếu đi sâu vào pháp tánh, tức là đối với kinh Kim Quang Minh này mà thấy được ta Thích-ca

Mâu-ni chính là nghĩa đó. Nhưng Tín Tướng chỉ nghi ngờ về hữu lượng của ứng thân, bốn Đức Phật chỉ nêu ra vô lượng của ứng thân, dứt bỏ hữu lượng, dấu tích nghi ngờ đã hết thì thông suốt sâu xa Báo thân và Pháp thân.

3. Lại nói về tuổi thọ của Phật:

Hoặc từ điều nghi của Tín Tướng nên nói Thọ là hữu lượng, hoặc từ bốn Đức Phật cởi mở điều nghi nên nói là Thọ vô lượng, nhưng nay không nói Thọ hữu lượng, không nói Thọ vô lượng, mà nói thẳng Tuổi thọ, ý là muốn nói đầy đủ về tuổi thọ của ba Phật, do đó không thiên về đề mục mà giữ lấy ý để giải thích. Nếu là từ nghĩa thì chính là Tuổi thọ của Báo thân, vì sao chọn lấy ý này? Báo thân thì trên thầm hợp dưới tương ưng, trên thầm hợp với pháp tánh tức là chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng, dưới ứng hợp cơ duyên là năng lượng, năng vô lượng, lượng nghi ngờ dẫn đến vô lượng. Đáp rằng tức là thấu đạt đến viên, các nhà chú thích kinh điển từ đó phát sinh kiến giải trọn vẹn mà đề tên phẩm. Nêu một mà che lấp nhiều, từ nghĩa này cho nên đề là phẩm Tuổi thọ.

4. Nói về ba lớp của phẩm Tuổi thọ:

Lại nữa, cùng lúc mà trùng giải, phẩm Tuổi thọ cũng thực hành ba lớp:

1. Huyền nghĩa.

2. Dẫn chứng.

3. Hoàn nguyên.

Huyền nghĩa là Thọ là mạng, nghĩa là báo được mạng căn gìn giữ nối nhau không dứt gọi là Thọ, số hạn dài ngắn gọi là lượng, cho nên nói là tuổi thọ. Ở đây giải thích về nhân duyên tuổi thọ của ứng thân Phật. Lại, Thọ là thọ lãnh, cảnh và trí hòa hợp cùng nhau thọ lãnh đầy đủ, nghĩa là trí vô phân biệt thọ lãnh đầy đủ cảnh vô phân biệt, cảnh vô phân biệt thọ lãnh đầy đủ trí vô phân biệt, như hộp lớn nắp lớn, cho nên Thọ nghĩa là thọ lãnh. Lượng là tương ứng, cảnh và trí tương ứng cho nên nói là Lượng, đây là giải thích về tuổi thọ của Báo Phật. Lại nữa, Thọ là lâu dài, thường còn không thay đổi gọi là lâu dài, Lượng là chọn lượng, Thọ của thường còn lâu dài chẳng phải số nhiều chẳng phải số ít, chẳng phải tương ứng mà biết hết, chẳng phải tương ứng, không thể biết hết, chẳng phải nói được, chẳng phải không thể nói được, không thể đặt tên, gượng dùng chọn lượng để nói về sự lâu dài đó; đây là giải thích về tuổi thọ của Pháp thân.

5. Nói về lượng:

Lần đầu chia làm hai:

1) Lượng hữu lượng: như tuổi thọ của Phật Thích-ca là tám mươi năm.

2) Lương vô lượng: như tuổi thọ của Phật Di-đà, thật sự là có hạn lượng, nhưng trời người vốn không thể suy lường được, cho nên nói là lượng vô lượng. Lượng vô lượng này đều là việc làm của ứng Phật. Lần thứ hai cũng có hai nghĩa. Phật dùng trí như như để xứng hợp với cảnh như như, cảnh vô phân biệt, trí cũng vô phân biệt, nếu cảnh xứng hợp với trí thì trí có phân biệt, cảnh cũng có phân biệt. Biết và không biết này đều được Báo Phật nói rõ. Lần thứ ba cũng có hai nghĩa:

1. Sâu xa vắng lặng không thể nói.

2. Dùng phương tiện từ bi cũng có thể nói.

Có thể nói và không thể nói ở đây là pháp của pháp thân Phật. Thứ hai là Dẫn chứng: tám mươi năm là chứng minh về hữu lượng, chúng tám bộ các vị trời, người không thể nào suy nghĩ dự đoán, không thể nào đếm biết được cân núi, giọt nước biển, đây là chứng minh về lượng vô lượng. Ranh giới phân cách hư không không thể có phần hạn, chứng minh cho cảnh vô phân biệt.

6. Nói về tuổi thọ của Như lai:

Lại nữa, văn ở dưới nói: "Trí sâu thẳm vô biên, nước pháp đầy đủ", cũng là chứng trí. Thọ không thể tính đếm, đây là chứng minh cho không thể nói. Muốn nói về tuổi thọ mà Đức Thích-ca Như lai, đạt được đây là chứng minh cho từ bi có thể nói. Lại nghe bốn Đức Phật này giảng nói về tuổi thọ vô lượng của Như lai, là chứng minh cho đại bi có thể nói. Bản dịch mới nói Bà-la-môn mong cầu xá-lợi Phật giống như Túc Đại cầu được quả báo trên sáu tầng trời, cõi Dục tức là chứng minh cho hữu lượng. Vương Tử nói: Phước báo vô biên của Kim Quang Minh khó suy nghĩ khó hiểu thấu; phước bảo vô biên tức là chứng minh cho lượng vô lượng, khó suy nghĩ, khó hiểu thấu tức là chứng minh chung cho trí và cảnh không thể nói... Thứ ba là Hoàn Nguyên: cũng gọi là Phục tông. Giải thích về tuổi thọ này, tuy cũng có ba thân sáu nghĩa, nhưng chớ hiểu sai khác, chỉ là nghĩa Kim Quang Minh của đề kinh.

7. Nói về chữ Minh:

Đầu tiên là Lượng Vô Lượng, chỉ là nghĩa của chữ Minh; y theo chứ Minh đó cho nên các số lượng lớn nhỏ, dài ngắn, lâu mau đều hiện bày đầy đủ tất cả trong Minh, vẫn là nghĩa chữ Minh ấy. Lần thứ hai là trí cảnh, hộp nắp, thể giải tương ưng, vì sắc lớn cho nên Bát-nhã cũng lớn, vì pháp thường cho nên các Đức Phật cũng thường, lại là nghĩa Quang. Lần thứ ba là nói được, không thể nói được, thường lạc ngã tịnh nói đầy khắp pháp giới, pháp tánh không có lợi ích, đều không nói một lời, pháp tánh không hề giảm bớt, lại là nghĩa kim. Hiểu một thì ngàn thuận theo, mê một thì muôn điều mê hoặc, tức là nghĩa này.

Đã là cái nghe của hai lần gom góp ghi lại... phẩm này là chánh thuyết mà văn tựa chưa hết, phân biệt như trên, từ "thành Vương xá..." trở xuống là phần thứ ba ý niệm nghi ngờ, tựa văn chia làm hai:

1. Nêu người.

2. Nói về nghi ngờ.

-Phần nêu ra người chia có bốn: a) Nêu rõ nơi chốn.

b) Nói về địa vị.

c) Nêu ra tên gọi.

d) Khen ngợi công đức.

Nơi chốn như trong văn. Bồ-tát: Bồ, Hán dịch là đạo, Tát là tâm, tự thực hành đạo lý này có khả năng hóa độ mọi người, cho nên nói là Ma-ha-tát, y theo hạnh cao siêu mà lập nên địa vị cao siêu. Tín Tướng: tướng của người kính tin dường như trong đạo, Biệt giáo chia ra ba mươi tâm, Viên giáo chia ra là Thiết luân vị. Văn dưới nói: "Thấy có một người tựa như Bà-la-môn, dùng dùi đánh trống".

8. Nói về trống:

Trống là pháp thân, đánh trống là căn cớ chuyển động, dường như vị trí căn cơ dấy lên biết là chẳng phải đánh thật sự. Lại, địa vị dường như thật nên mỗi địa theo nhau, chẳng địa nào không có. Như Bồ-tát Phổ Hiền tu hạnh Phổ hiền tròn đầy địa vị gần đến nơi tôn quý nhất, dường như ở đây thì cao, Tín Tướng xưng là tựa như đạo, chưa dám phân ra cao thấp có. Người vấn hỏi rằng: Nếu giống như Phổ Hiền nói là dường như thì vì sao có nghi ngờ? Điều này cũng chẳng ngại gì, Bồ-tát vì người nghi ngờ không có gì đáng chê, trong kinh Pháp Hoa, Bổ xứ Di Lặc cũng lại hoài nghi, trong Đại Tập có Bồ-tát Sinh nghi, đối với Bồ-đề chưa hiểu rõ, Bồ-đề là mình đặt tên gọi là Sinh nghi. Người hỏi vặn rằng: Thấy đế rồi thì dứt nghi, thập địa vì sao nghi ngờ?

Đáp rằng: Thấy Đế rồi dứt nghi, thập địa có cái nghi riêng. Quán giải, tâm vương gọi là vương, năm ấm gọi là xá, quán năm ấm này vắng lặng, vắng lặng tức là Niếtbàn, Niết-bàn có công năng ngăn ngừa lỗi lầm chống lại quân địch gọi là ngôi thành. Sơ tâm hậu tâm thường quán xét Niết-bàn hành đạo, vì đó là trú xứ. Khen ngợi công đức văn chia làm hai, bên ngoài cúng dường các Đức Phật, bên trong gieo trồng gốc lành. Bồ-tát này gieo trồng gốc lành đã sâu, được gặp nhiều Đức Phật, ở địa vị cao giải thích lẽ ra cũng không có sắc hổ thẹn... cúng dường có hai nghĩa: Một là tài cúng dường, có thể hiểu.

9. Nói về pháp cúng dường:

Kế là pháp cúng dường. Phật nói trăm ngàn pháp môn, thuận theo đó mà tu học gọi là pháp cúng dường. Quán tâm giải, một niệm biết rõ tâm gọi là tâm Phật vô lượng công đức giúp cho tâm biết rõ này khiến chuyển thành trong sáng thanh tịnh, đó gọi là cúng dường Phật, như dầu mỡ thắp sáng đèn, như thức ăn nuôi thân thể, như thiền định phát sinh trí tuệ, đều là nghĩa của cúng dường, gieo trồng gốc lành: Pháp tánh gọi là địa (đất đại), trí quán sát pháp tánh gọi là hạt giống, thường dùng quán để quán sát pháp tánh gọi là gieo giống, huân tập lâu ngày không lui sụt gọi là gieo giống đã lâu năm gốc lành phát sinh gọi là thêm lớn, thêm lớn nhờ gió xúc chạm mặt trời soi chiếu mưa móc tưới thấm, dần dần lớn mạnh tốt tươi.

10. Ba luân của Phật:

Gió dụ cho Phật luân của Thân, mặt trời dụ cho ý luân của Phật, mưa móc dụ cho khẩu luân của Phật. Gặp được Phật thì ba việc này có thể lợi ích to lớn, kinh Lăngnghiêm, Bát-nhã nếu thêm lớn thì pháp tánh hiển hiện, nếu pháp tánh càng hiển hiện thì định-tuệ sáng suốt bội phần, hai nghĩa gieo trồng và gặp Phật cùng thành tựu, nêu ra một cặp này để khen ngợi công đức của Bồ-tát. Từ "Tín Tướng này..." trở xuống chính là nói về ý niệm nghi ngờ, lại chia làm hai: Trước hết là lý do nghi ngờ, kế đó là đích thực phát sinh nghi ngờ. Lý do có xa gần, xa là ba tháng tuyên bố nhập Niết-bàn, gần là trình bày, nếu có người nghe thì có thể suy nghĩ về nghĩa lý vô thượng. Lại nói: có lẽ do bổn thệ kích động sinh nghi. Vì sao: là nói chung ba loại đều gọi là nhân, nhưng văn này đã lược bỏ, duyên liễu giúp nhau cùng hiển bày chánh nhân, chánh là ở nhân, duyên liễu ở duyên, chánh nhân thường hằng tuổi thọ vô lượng, duyên hiển bày lý, cảnh thường thì trí cũng thường, nhân này duyên này đều chẳng phải nhân duyên của tám mươi năm.

11. Nói về nhân duyên:

Nhân gì duyên gì đều chẳng phải nhân duyên tám mươi năm, nay mới tám mươi là nhân gì duyên gì, vì thế cho nên sinh ra nghi ngờ. Nói tám mươi là tuổi thọ ở thế gian có ba hạng: hạng thấp là bốn mươi, hạng trung bình là tám mươi, hạng cao nhất là một trăm hai mươi tuổi. Hạng thấp còn quá non trẻ, hạng cao đã quá già, hạng trung bình không trẻ không già, biểu hiện cho Thường. Lại, mười hai nhân duyên-chi thứ tám gọi là ái. Tám mươi tuổi diệt độ đó là biểu hiện cho ái đã hết, đi vào Niết-bàn hữu dư, vô dư. Ái đã hết không còn trói buộc biểu thị cho Ngã, Niết-bàn biểu thị cho Lạc. Lại, hạng trung bình còn biểu thị cho Trung đạo.

12. Trung đạo của Phật:

Phật vui với Trung đạo, Trung đạo biểu thị cho Tịnh, vì nghĩa này cho nên nói tám mươi tuổi. Tín Tướng không lý giải như vậy, do đó sinh ra nghi ngờ do nhân gì duyên gì. Từ "lại nghĩ rằng..." trở xuống chính là thức phát sinh nghi ngờ. Như lời Phật nói? Đây là chấp vào giáo mà nghi ngờ lý, giáo giải thích về hai thiện: chỉ thiện và hành thiện, cảm ứng tuổi thọ thì lâu dài, ngày xưa Phật thực hành rất nhiều nhân, mà nay quả của tuổi thọ rất ít, lý và giáo trái nhau, chẳng thể không thắc mắc. Nếu không có lý này thì giáo lập bày luống uổng, nếu đều là tất nhiên thì tuổi thọ lâu dài ở đâu? Đó là chấp lý mà nghi ngờ đối với Giáo.

Có hai nhân duyên so với trước có khác nhau, trước kết hợp chỉ-hành cùng là duyên liễu, nay y theo chỉ về hành để tự làm nhân duyên. Trong mười điều lành mỗi điều lành có đủ chỉ-hành, bất sát là chỉ thiện

-phóng sinh là hành thiện, bất đạo chỉ thiện-thí thực là hành thiện. Nay kinh nêu ra chỉ thiện của người bất sát-hành thiện của người bất đạo, lẫn nhau nêu ra một bên, cùng làm sáng tỏ chỉ-hành. Nếu luận đầy đủ thì mỗi điều lành có chỉ-hành, chỉ và hành phải hiểu rõ. Nay y theo mỗi pháp đều có nhân duyên, mạng là cái gì mà chúng sinh đều luyến tiếc, giành lấy mà làm hại, sống trong sự khổ đau, tha thứ mà thả đi thì vô cùng vui sướng, từ tâm là nhân-không cất giữ dụng cụ giết chóc là duyên, đây là nhân duyên chỉ thiện.

13. Chỉ thiện và hành hiện của Phật:

Thức ăn là y báo, có được thì mạng còn, mất đi thì tuổi thọ giảm bớt, tâm bố thí là nhân-đồ vật bố thí là duyên, đây là nhân duyên hành thiện. Giới bất sát đã như vậy, cho đến bất tà kiến cũng thế, tổng cộng có hai mươi điều lành và bốn mươi nhân duyên, các nhân duyên này đều cảm ứng quả báo sống lâu. Chỉ thiện và hành thiện của Đức Phật chứa nhóm cao hơn núi, dồn lại dày hơn đất, tại sao hôm nay mới tám mươi tuổi mà đã kết thúc?

Đây là y theo phạm vi nhân quả nói về chỉ thiện và hành thiện, thiện nhưng giải thích như vậy, về nghĩa chưa thỏa đáng. Nay sẽ tiếp tục nói, nhân của trời, người gọi năm giới, mười điều lành là mạng, hành nhân ba thừa lấy trí tuệ làm mạng, Ma gọi là kẻ giết hại. Nếu ngăn dứt đoạt lấy điều này tức là cắt đứt mạng của trời, người; nếu không ngăn trở giành lấy gọi là chỉ thiện, phương tiện khuyến khích tu tập gọi là hành thiện. Nếu phá hoại ba tạng kinh pháp, gọi là giết chết mạng sống của hàng Nhị thừa, nếu phá hủy thương tổn gọi là chỉ thiện, phương tiện khuyến khích tu tập gọi là hành thiện. Nếu chê bai chỉ trích xuất gia, tại gia (sư đàn) cho đến chê bai trí thế gian, gọi là cắt đứt mạng sống của Bồ-tát sáu độ.

14. Giải thích chỉ thiện và hành thiện:

Nếu không chướng ngại gọi là chỉ thiện, phương tiện khuyến khích tu tập gọi là hành thiện. Nếu tu tập pháp thể, dứt bỏ mạng sống của Nhị thừa, nếu người không ngăn trở gọi là chỉ thiện, phương tiện khuyến khích tu tập gọi là hành thiện. Chẳng bác tự thể là không thì cắt đứt mạng sống của Bồ-tát Thông giáo, nếu không chướng ngại tức là chỉ thiện, phương tiện khuyến tu là hành thiện. Nếu chê bai lần lượt thứ lớp là cắt đứt mạng sống của Bồ-tát Biệt giáo, không làm chướng ngại tức là chỉ thiện, phương tiện khuyến tu thì vừa hành thiện. Nếu chê bai sự viên dung tức là cắt đứt mạng sống của Bồtát Viên giáo, vừa cắt đứt mạng sống của Phật, nếu không làm khó dễ tức là chỉ thiện, phương tiện khuyến tu tức là hành thiện. Người Viên giáo chẳng những không phá hoại các pháp mà còn tùy theo nhất tướng, tức là giết các pháp nhưng thuận theo nhất tướng, như Đại vương Tiên Dự giết hại năm trăm người mà ban cho tuổi thọ dài mười kiếp, như Phật dứt bỏ tất cả các phiền não và thói quen hết thảy không có gì sót lại, đây đều là lời nghịch nhưng lý thuận, người tu theo Tiểu thừa không làm được. Như trên đã nói, mỗi pháp đều có hai thiện: chỉ tiện và hành thiện, mỗi thiện đều có nhân duyên, nếu đạt được ý này thì trải qua các pháp môn rộng lớn như biển cả. Do đó đại kinh nói: "Hành đàn Ba-lamật đạt được tuổi thọ dài lâu, Bồ-tát hành đàn tức là ban cho chúng sinh tuổi thọ vô lượng, cho đến thực hành Bát-nhã đạt được tuổi thọ dài lâu, Bồ-tát hành Bát-nhã thì ban cho chúng sinh tuổi thọ vô lượng".

15. Nói về thí thực:

Tức là nghĩa ấy. Nhưng đức Thế Tôn không hành nào không trọn vẹn, không quả nào không đầy đủ, tại sao ngày nay chỉ có tám mươi tuổi? Kế là nói về Thí Thực-trăm thứ ngon ngọt đều là lương thực của y báo, thân thịt xương tủy là lương thực của chánh báo, đây đều là thí thực ở trong sự. Kinh nói pháp thực, pháp thực là pháp vị thế gian, pháp vị xuất thế gian, pháp vị xuất thế gian thượng thượng. Bồ-tát có khả năng vì tất cả chúng sinh mà làm vị đại thí chủ, khiến cho người chưa phát tâm bỏ tà vào chánh, người đã đi vào chánh thì thêm lớn mầm mống, như âm dương nuôi dưỡng cây cỏ, như cha mẹ nuôi con, quấn nhiều vải lụa khiến cho rơi xuống đất không đau; truyền trao năm giới, mười điều lành, người đã thọ trì năm giới, nói cho biết phần nhiều bị thiêu đốt tàn hại là do lửa dữ của ba cõi, khen ngợi ba thừa giải thoát không gì trói buộc. Người đã đi vào chứng đạt, chê bai chỉ trích giống xấu hạt hư của hàng Tiểu thừa, khen ngợi đạo lý sở hành của hàng Bồ-tát, thết đãi cơm của đại vương cho dân chúng trong nước đang đói khát, phiền não là củi, trí tuệ là ngọn lửa, nhờ nhân duyên này thành tựu lương thực của Niết-bàn, khiến cho các đệ tử điều ưa thích mong muốn... Tất cả các pháp môn như vậy đều gọi là pháp thực.

16. Mỗi pháp đều có đủ chỉ thiện và hành thiện:

Mỗi pháp đều có đủ: chỉ thiện và hành thiện, mỗi thiện đều có đủ nhân, có đủ duyên, các nhân duyên này chiêu cảm quả sống lâu, mà Đức Thế Tôn chẳng có hành nào không trọn vẹn, chẳng có quả nào không đầy đủ, tại sao ngày nay chỉ có tám mươi năm? Về quán tâm bất sát, vô minh là cha, tham ái là mẹ. Nếu dứt bỏ điều này thì trở thành nghịch hại, chỉ quán sát vô minh tức là minh, ái tức là tịnh, thể đạt năng sở đều như hư không, đó là chỉ thiện, quán các tâm sở cũng giống như vậy, đó gọi là hành thiện. Quán như vậy thì đạt được tuổi thọ kim cương thường trụ. Thân thể xương tủy máu thịt của mình là bên này bên kia hướng về nhau và lấy bên này làm thân mình, như Vương Tử thế thân cho cọp ăn, Thy-tỳ đổi chim bồ câu, đều xả bỏ di thể của cha mẹ chứ chẳng phải của bản thân mình, bản thân mình là tướng thật của pháp tánh.

17. Dẫn chứng kinh sách:

Thích Luận nói: "Giữ giới là da, thiền định là máu, trí tuệ là xương, thiện tâm nhiệm mầu là xương tủy, nói giới cho người nghe, giới có công năng ngăn ngừa tội lỗi, tu phước vô tướng tối thượng, người chẳng trì chẳng phạm Thi-la Ba-la-mật đó là bố thí da thịt của mình. Nói các thiền định thần thông biến hóa, không khởi diệt định, hiện bày các oai nghi, đó là bố thí máu của mình. Nói diệu tuệ không mê đắm, chẳng phải trí, chẳng phải ngu, tiêu tan thanh tịnh, suốt ngày nói, suốt ngày không nói, các pháp đã nói tất cả đều đạt đến trí nhất thiết, ấy là bố thí xương của mình. Đàn nhẫn... lẽ ra là thịt của mình. Nói pháp tánh sâu thẳm và hành xứ của Đức Phật không phải một không phải hai, đường ngôn ngữ dứt chỗ tâm hành diệt, trung đạo nhiệm mầu đó là bố thí tủy não của mình. Đem thân đầy đủ này bố thí cho chúng sinh đói khát, huống chi các thức ăn uống khác; các thức ăn uống khác tức là da giới-máu định-xương tuệ-tủy kiến đế của hàng Nhị thừa và trời người.

Kinh Pháp Hoa chép: "Đối với trong các pháp sâu xa khác mà chỉ dạy lợi ích vui mừng" tức là nghĩa ấy. Xưa kia, Như lai thuận theo ý người mà nói vô lượng vô biên, tùy theo ý của mình cũng nói vô lượng vô biên, đều là nhân duyên sống lâu, tại sao ngày nay chỉ có tám mươi tuổi? "Từ lúc Đại sĩ dốc lòng niệm Phật suy nghĩ về nghĩa lý như thế" câu này kết thúc phần trước mở ra phần sau. Dốc lòng là thấu suốt đến tận cùng nguồn gốc của tâm và mé thật của tâm, nên nói là dốc lòng. Quán tâm đã thế, quán Phật cũng giống như vậy, cho nên nói là niệm Phật. Nghĩ đến Phật thì không giết hại, ban cho thức ăn bằng với hư không pháp tánh, như vậy thì tuổi thọ lẽ ra không ngắn ngủi. Đó là kết thúc phần trước, mở bày phần sau nhờ thực hành quán này căn cơ phát động, điềm lành khơi dậy cho nên nói là mở bày phần sau.

Từ "thất ấy tự nhiên..." trở xuống là phần thứ tư bài tựa về hiện điềm lành. Điềm lành là mật báo, tướng là biểu thị cho sự phát khởi, mật báo rằng bốn Đức Phật sẽ đến thất này để dứt trừ nghi ngờ cho ông, biểu thị cho sự phát khởi, tăng tiến thường nhân cảm được thường quả.

Hỏi: Phật tạo ra điềm lành này hay là phước của Tín Tướng tạo ra?

Đáp: Tín Tướng không có căn cơ thì Phật không thể ứng, nếu không có các Đức Phật thì căn cơ không có chỗ để gá, căn cơ ứng thì tướng cần phải có điềm lành để phát khởi.

18. Hỏi đáp về chiêu cảm:

Hỏi: Nhiều duyên chiêu cảm điềm lành hay chỉ có mình Tín Tướng chiêu cảm?

Đáp: Chung thì từ nhiều duyên, riêng thì từ Tín Tướng. Nếu điềm lành ở Linh Sơn thì có thể chẳng có năng lực đó, cái thấy ở trong thất lẽ nào không do điều ấy sao? Thí dụ như nhà họ Trương có điềm lành, lẽ nào nhà họ Vương được phước? Tuy nhiên, Tín Tướng là người phát khởi không thể nhận lãnh điều tốt lành một mình, như kinh Pháp Hoa chép: "Như vì một người nhiều người khác cũng vậy". Văn chia làm hai: một là lý do hiện tướng, hai là chính hiện tướng. Lấy văn kết thúc phần trước mở bày phần sau để làm lý do hiện điềm lành, từ "thất ấy tự nhiên..." trở xuống chính là hiện tướng.

Chính thức hiện thức lại có hai: một là hiện tướng riêng, hai là hiện tướng chung, từ "thất ấy tự nhiên..." trở xuống là hiện tướng riêng, từ "nói tóm lại..." trở xuống là hiện tướng chung. Tướng riêng là mười, biểu thị cho nhân thập địa thành tựu. Tướng chung là một, biểu thị cho nhân thành tựu một quả. Lại nữa, tướng riêng biểu thị cho từng địa đều được lợi ích nhiều thêm, tướng chung biểu thị cho một địa có đầy đủ công đức của các địa.

19. Hỏi đáp về nhân quả:

Hỏi: Kinh này lấy quả thường làm tông, làm sao có thể tạo tướng biểu thị cho nhân?

Đáp: Nhân này là nhân của quả gia, nhân chắc chắn thành quả thì không trái với tông.

20. Hỏi đáp về điềm lành:

Hỏi: Trước đây xếp Tín Tướng vào địa vị tương tự (tự vị), tướng về sau thì chẳng phải hiện tượng đó, nếu tương tự đồng như Phổ Hiền thì tướng trước đây cũng chẳng phải điềm lành kia có đúng không?

Đáp: Giống như nói thập địa, trong mỗi địa đều có công đức của các địa, biểu thị cho lợi ích của báo ứng, trước sau đều được thấm nhuần. Các nhà sớ kinh không phân định địa vị, chỉ nên thuận theo, không được chia đoạn. Tướng riêng có mười loại:

21. Nói về mười hai tướng:

1. Thất đó rộng rãi.

2. Nơi đó trang nghiêm tốt đẹp.

3. Hương thơm sực nức khác thường.

4. Tòa cao đột nhiên xuất hiện.

5. Đức Phật ngồi trên đài hoa.

6. Phát ra ánh sáng rực rỡ.

7. Các thứ hoa trời trên rải như mưa.

8. Nhạc trời trỗi lên;

9. Đến được niềm vui cõi trời.

10. Người thiếu căn được đầy đủ các căn.

Mười tướng này biểu thị cho công đức quả báo của Thập Địa, chỉ có thể vui mừng khen ngợi, không nên trách cứ sự hoàn bị đó. Thất đó tự nhiên rộng lớn biểu thị cho Sơ Địa hoan hỷ, Địa này lần đầu khai mở vượt qua phàm Thánh, cho nên lấy biểu thị bằng rộng rãi khoáng đãng Lưu ly đan xen lẫn nhau trang nghiêm thanh tịnh biểu thị cho Nhị Địa Ly Cấu, Địa này đối với giới, giới là nền tảng của các hạnh, các hạnh trang nghiêm giới, cho nên dùng sự đan xen để biểu thị.

22. Nói về mười địa:

Hương thơm biểu thị cho Minh Địa địa đó đối với nhẫn, chỉ có nhẫn nhục thì nhẫn mới thêm lớn, như khói nhiều thì hương đượm, cho nên dùng hương để biểu thị. Tòa cao biểu thị cho Viêm Địa, Địa ấy đối với tinh tiến, tinh tiến thúc đẩy phát sinh các hành, cho nên dùng tòa cao để biểu thị. Đức Phật ngồi trên tòa đó biểu thị cho Địa Nan Thắng, Địa này đối với thiền, thiền có thần thông và đại lực chuyển biến, cho nên dùng Phật để biểu thị. Ánh sáng biểu thị cho Hiện Tiền Địa, Địa này đối với Bát-nhã, Bát-nhã soi chiếu cùng tận, cho nên dùng ánh sáng để biểu thị. Hoa cõi trời biểu thị cho Viễn Hành Địa, Địa này đối với phương tiện, phương tiện khéo léo hễ gặp mọi việc đều trang nghiêm thanh tịnh, cho nên dùng hoa cõi trời để biểu thị. Nhạc trời trỗi lên biểu thị cho Bất Động Địa, Địa này đối với lực, lực có công năng thể lợi ích an vui cho tất cả, giống như kỷ nữ làm vui lòng chúng sinh, cho nên dùng nhạc trời để biểu thị. Thọ nhận vui sướng biểu thị cho Thiện Tuệ Địa, Địa này đối với nguyện, nguyện thỏa mãn thì tâm vui sướng, cho nên dùng thọ nhận vui sướng để biểu thị.

Các căn đầy đủ biểu thị cho Pháp Vân Địa, Địa này đối với trí, trong nhân rất nhiều hạnh do đó lấy trí tuệ làm đầu, trí dẫn dắt các hành tùy tầng bậc mà tròn đầy, cho nên dùng căn đầy đủ để biểu thị... Lại nữa, mười tướng biểu thị trong mỗi Địa có đầy đủ các công đức, tạm thời y cứ theo Sơ Địa để giải thích: Thất đó tự nhiên rộng lớn mọi việc đều trang nghiêm, tướng này biểu thị cho trí của Sơ Địa. Thất dùng năm ấm làm thất, ấm này chẳng phải ấm mà cũng không phải chẳng là ấm, không phải tạo tác từ ấm hay chẳng phải ấm, cũng không tạo tác thành ấm hay chẳng phải ấm, cho nên nói là Tự nhiên. Không thể là ấm, không thể chẳng phải ấm, hai bên rỗng suốt cho nên nói là rộng lớn.

23. Nói về cảnh giới Phật:

Chẳng phải như hư không, không có hai mươi lăm hữu và hai thứ Niết-bàn, cũng có mười lực vô úy và các thứ công đức trong nhân để tô điểm nên nói là mọi việc trang nghiêm, mọi việc trang nghiêm tức là giả trí, rộng lớn là không trí, tự nhiên tức là trung trí, ba trí đầy đủ trong một tâm, cho nên vui mừng lưu ly màu xanh cõi trời đan xen hòa lẫn với nhau để trở thành mặt đất tướng này biểu thị cho cảnh sở chiếu của Sơ Địa, lưu ly mầu xanh các trời sáng rõ trong suốt đến cùng tận, biểu thị cho cảnh Chân-đế, giống như tịnh độ nơi cư trú của Như lai, cho đến nơi tôn quý cùng cực mà bậc thánh cư trú, biểu thị cho cảnh trung đạo nghĩa đế bậc nhất.

Một Địa mà ba tướng, ba tướng mà là một Địa, biểu thị cho một Đế mà ba đế, ba Đế mà một đế. Có hương thơm nhiệm mầu hơn hẳn mùi thơm cõi trời, tướng này biểu thị cho công đức từ bi của Sơ Địa. Từ luôn ban cho niềm vui giống như hương thơm ngào ngạt, Bi luôn nhổ gốc đau khổ, giống như mùi hương xua tan hôi hám. Từ bi này cao vời thẳng dọc cho nên nói là vượt hơn mùi thơm các tầng trời, từ bi này rộng khắp thời gian nên nói là đầy đủ khắp nơi, đầy đủ khắp nơi trong tất cả ấm, giới, nhập, chẳng có nơi nào không che phủ cùng khắp. Bốn phía của thất đó có bốn tòa cao; tướng này biểu thị cho bốn đức của Sơ Địa, bốn đức là kho Bí mật, Đức Phật ngụ trong đó, như tòa cao để ngồi, để các Đức Phật ngồi.

24. Nói về sơ địa:

Có bốn Đức Như lai, tướng này biểu thị cho sự giác ngộ bốn đức của Sơ Địa, trí và đức thầm hợp như Đức Phật ngồi trên tòa phát ra ánh sáng rực rỡ, tướng này biểu thị cho hạnh tự hành hóa tha của Sơ Địa, soi chiếu cõi này biểu thị cho tự hành soi chiếu cõi khác biểu thị cho hóa tha. Các hoa cõi trời tuôn rãi như mưa, tướng này biểu thị cho bốn biện tài của Sơ Địa, hoa tuy rãi giữa hư không như mưa, như biện luận giải thích nghĩa lý. Nhạc trời trỗi lên; tướng này biểu thị cho bốn nhiếp pháp của Sơ Địa, bốn nhiếp pháp thâu nhiếp mọi vật giống như niềm vui làm vui lòng người khác, được sự vui sướng cõi trời; tướng này biểu thị cho pháp hỷ của Sơ Địa, pháp hỷ lắng đọng thần thái giống như thọ nhận niềm vui cõi trời.

Người thiếu căn được đầy đủ các căn; tướng này biểu thị cho các căn sử dụng lẫn nhau của Sơ Địa, tai thấy mắt nghe, trong một căn đầy đủ công dụng của các căn. Công đức của Sơ Địa mà Đức Phật đã biện giải không thể nào nói hết. Sơ Địa đã vậy, trong mỗi Địa lại cũng giống như thế.

25. Mỗi địa kế sau cũng giống như Sơ địa:

Lại nữa, mười tướng biểu thị cho công đức tự hành hóa tha của Sơ Địa, năm tướng trước biểu thị cho công đức tự hành, năm tướng sau biểu thị cho công đức hóa tha. Thất đó rộng lớn biểu thị cho Bát-nhã của tự hành, lưu ly màu xanh cõi trời biểu thị cho pháp thân tự hành, có hương thơm nhiệm mầu biểu thị cho giải thoát tự hành, tòa cao áo đẹp biểu thị cho nhân thành của tự hành, Đức Phật ngồi trên tòa biểu thị cho quả được thọ ký thành Phật. Năm tướng sau biểu thị cho công đức hóa tha. Phát ra ánh sáng biểu thị cho ý luân lợi ích chúng sinh, hoa trời tuôn như mưa biểu thị cho khẩu luân lợi ích chúng sanh, trỗi lên nhạc trời biểu thị cho thân luân lợi ích chúng sanh, lại biểu thị cho khả năng giúp cho chúng sinh chuyển đổi phiền não chướng mà thọ nhận niềm vui pháp hỷ, các căn đầy đủ biểu thị cho khả năng giúp chúng sinh chuyển đổi báo chướng. Sơ Địa đã vậy, mỗi Địa kế sau cũng giống như vậy. Từ "tất cả thế gian..." trở xuống là hiện tướng chung.

Về tướng riêng thì văn nhiều mà ý sơ lược, còn tướng chung thì văn lược mà ý rộng, đây là biểu thị cho nhân của Thập Địa thành tựu một quả rốt ráo tròn đầy. Tất trong nhân vốn là không, đều hiện bày đầy đủ là nhân trọn vẹn thì lý hiển bày. Cõi nước thế gian chưa từng có tức là tướng thật đầy đủ, chúng sinh thế gian không thật có tức là Bát-nhã đầy đủ, năm ấm thế gian chưa từng có tức là giải thoát tròn đầy. Tóm lại: Tướng thật là cốt lõi, Tướng thật đã trọn vẹn, thì pháp nào không đầy đủ? (Cuối quyển hai-đầu quyển ba).

26. Nói về nghi ngờ:

Từ "Tín Tướng vui mừng..." trở xuống là bài tựa của Mặc Niệm Đằng Nghi thứ năm, văn chia làm hai: đầu tiên thấy tướng vui mừng, thứ hai mặc niệm trình bày nghi ngờ. Vui mừng: đã nhân nơi tâm nghi ngờ mà thấy điềm lành và thấy Phật, chắc chắn biết nghe pháp, cho nên vui mừng. Từ "dốc lòng niệm Phật..." trở xuống là mặc niệm cầu mong giải quyết nghi ngờ. Tình ý nghi ngờ thì không thể ở lâu trong lòng. Cho nên nghi ngờ dâng tràn, nghĩ rằng Đức Thích-ca Như lai có vô lượng công đức tướng tốt ánh sáng thần thông nói pháp, đều không thể sinh khởi nghi ngờ, chỉ có điều là tâm sinh nghi ngờ đối với tuổi thọ, vì sao Đức Phật chỉ thọ tám mươi tuổi?

Ý niệm này che lấp tâm trí cho nên im lặng cầu xin giải quyết nghi ngờ mà không dám nói ra, bốn Đức Phật vừa hiện, oai nghi tôn kính nên không dám nói nghi ngờ đã bao trùm tâm trí không thể nào không nghĩ đến. Lại, trước sự lặng yên suy nghĩ mà cảm được điềm lành, nay nhờ sự lặng yên suy nghĩ trước đó để cầu mong giải quyết điều ấy. Từ "bấy giờ bốn Đức Phật dùng chánh biến tri..." trở xuống là phần thứ sáu là bài tựa dứt nghi, văn chia làm hai: một chính là dứt nghi, hai là giải thích để dứt nghi. Nghi ngờ bao trùm tâm trí nên nghe pháp không hiểu, do đó trước phải dứt nghi, chẳng hạn như kiến đế trước phải dứt nghi, tinh tiến tu đạo. Nếu Tín Tướng thật sự nghi ngờ thì cần phải chia chẻ để dứt, nếu là khởi giáo thì do đó mà chỉ dạy cho người. Từ "nay ông không nên..." trở xuống chính là dứt nghi.

27. Có ba thứ không nên:

Vì sao không nên? Có ba thứ không nên:

1) Đại dụng không nên, tám mươi tuổi là đại dụng của Phật, vì thế không nên.

2) Biển pháp tánh sâu thẳm chẳng thể nói năng suy nghĩ mà so lượng được.

3) Có lòng tin thì vào được, có trí thì so lường được. Tín và trí của ông chưa có, lẽ nào suy nghĩ được hạn lượng đó hay sao? Thích Luận chép: "Muốn suy lường pháp vô lượng, thì người này bị chìm đắm". Vì thế dùng không nên để dứt nghi. Từ "vì sao..." trở xuống là giải thích ý của ba không nên. Nêu tám bộ chúng đều không thể lượng được là giải thích về pháp tánh không nên. Bồtát pháp thân tịnh độ pháp tánh cho nên không ở lời nói. Bồ-tát sinh thân nếu là tại gia thì thuộc về các chúng trời rồng; nếu là xuất gia thì thuộc về bốn chúng; nếu thân pháp tánh lập bày phương tiện, cũng là thuộc về tám bộ chúng, hoặc là phàm, hoặc là thánh tất cả đều không thể suy nghĩ tính toán được. Chỉ trừ Như lai là giải thích về trí độ không nên.

28. Chỉ có Như lai là biết:

Nếu là Như lai thì có thể biết, đã chưa phải Như lai thì làm sao bỗng nhiên biết được? Xưa dùng lời này làm trí sở tri, tri là pháp vô thường có thể suy lượng. Đại sư

Thiên Thai nói: không đúng, Như lai có vô lượng thường trí, có thể biết rõ vô lượng thường pháp, lẽ nào có thể đem thường trí sở tri mà xếp vào vô thường hay sao? Trí tánh đã sâu xa thì đại dụng hết là chừng nào, đó là giải thích về không nên thứ ba. Từ "bấy giờ, bốn Đức Như lai..." về sau là bài tựa nhóm chúng thứ bảy; các kinh khác hoặc là trước tiên nhóm chúng rồi mới hiện điềm lành, kinh này thì đầu tiên hiện điềm lành sau đó nhóm chúng, trước sau nêu ra lẫn nhau. Bấy giờ là lúc sắp giảng nói, chúng là các vị trời cõi Dục và cõi Sắc.

29. Các loại chúng:

Chỉ lợi ích cho Tín Tướng là ít, có duyên nếu nhóm hợp lại thì lợi ích càng nhiều, cho nên nhóm chúng.

Chúng có bốn thứ:

1. Chúng phát khởi, là Tín Tướng, Thọ thần...

2. Chúng đương cơ là người nghe liền đắc đạo.

3. Chúng ảnh hưởng là các vị đến từ mười phương xa xôi.

4. Chúng kết duyên là chỗ này chưa đắc đạo thì làm nhân duyên cho đời sau như Trưởng giả Lưu Nước nói pháp cho loài cá nghe, xưa kia làm việc lành ngày nay ngộ được nhân duyên, tức là việc ấy.

Kinh này nhóm chúng trời rồng, ý đồng với kinh Hoa Nghiêm, cũng nhóm chúng loài người nhưng văn lược bớt. Trong bản dịch mới có vô lượng trăm ngàn chúng Bà-la-môn, phẩm Sám hối đầu tiên là Tín Tướng và quyến thuộc đi đến núi Kỳ-xà-quật, tức là chúng loài người. Nghe nói kinh điển này tương quan thầm hợp với đạo chính là nhóm hợp trời rồng mà lược qua không nói đến loài người. Trong Tổng Thụy chép: "tất cả những việc chưa từng có ở thế gian đều xuất hiện đầy đủ, không thấy thọ kỳ cho Nhị thừa, chỉ nói về Thường và về tánh, ý đồng với Bát-nhã và Phương Đẳng, do đó xếp vào Phương Đẳng giáo. Ở đây phải luận về bốn câu Thừa-Giới-Hoãn-Cấp, nêu ra chỗ sinh của trời rồng, đạt đạo hay không đạt đạo, các việc quyền-thật như Biệt ký... ngang đây xếp vào đoạn Tựa, văn chép: "Sắp giảng nói đại chúng nhóm họp", lẽ nào không phải là minh chứng của Tựa hay sao, phần Tựa xong.

30. Phần chánh thuyết:

Từ "bấy giờ bốn Đức Phật..." trở xuống là văn của ba phẩm rưỡi thuộc đoạn hai-chánh thuyết. Gồm ba thuyết khác nhau: một thuyết nói: Tuổi thọ nói về Thường quả làm Tông, Thường quả khế hợp với tánh, tánh tức là thể, hai nghĩa rõ ràng như vậy không cần phải thắc mắc nhiều, phẩm Sám hối về sau là diệt ác, phẩm Tán Thán là sinh thiện, phẩm không dẫn dắt thành tựu, tức là Dụng của kinh. Thuyết thứ hai nói: Tuổi thọ nói về Tông, phần Sám hối, Tán Thán nói về Dụng, phẩm không nói về Thể. Đây chính là lấy Tánh sở dụng trong nhân làm Thể sở hiển của quả trước đó, đối với nghĩa không phù hợp lắm, vì thế không sử dụng. Thuyết thứ ba, Tam tạng nói: Chánh thuyết có hai đoạn, Tuổi thọ là đoạn nói về Quả, Tam Thân là đoạn nói về Nhân, hai đoạn văn đều có tựa, Hư Không Tạng hỏi là tựa của đoạn nói về Nhân, ngay đó liền nêu câu hỏi về sự yếu kém của nghĩa tựa.

31. Thuyết của Sư Tam tạng:

Sư nói: Ba thân thành quả, nghĩa trên chẳng phải là nghĩa của Nhân; cho nên không dùng. Thuyết đầu tiên rất hay, ý giống với ở đây. Hai văn bản dịch cũ và mới gồm có hai lần trình bày về Tông, đầu tiên là bốn Đức Phật dứt sạch nghi ngờ, nói về tuổi thọ của Ứng-Hóa, suy nghĩ tính toán chẳng thể biết được, Tích đã lâu xa thì Bổn khó mà cùng cực. Hàng thượng căn nghe Tích mà rõ Bổn. Nếu người chưa hiểu thì Vương Tử trình bày: chân ruồi muỗi có thể dùng làm thành quách lầu quán, chuột leo lên bậc thang của thỏ ăn mặt trăng, trừ Tu-la, nói pháp thân không có xá lợi, thân chân thật của Như lai là nơi không có xá-lợi. Hàng trung căn không có lý Bổn mà ngộ Tích.

32. Sinh thiện cũng là dứt ác:

Nếu người chưa hiểu được thì Đức Thích-ca nói về ba thân cùng nói để phân biệt rộng. Bổn-Tích đều hiểu thì đó là ba lần nói về Tông để nói lên thể. Phẩm Sám hối nói riêng về dứt ác mà cũng sinh thiện. Phẩm Tán Thán luận bàn riêng về sinh thiện nhưng cũng là dứt ác. Phẩm không dẫn dắt thành tựu, đều là Dụng của kinh. Bốn quyển này chỉ có một lần nói về Tông, văn chia làm bốn:

1) Bốn Đức Phật nói kệ; 2) Tín Tướng vui mừng.

3) Đương cơ đắc đạo.

4) Bốn Đức Phật trở về bổn xứ.

-Nói kệ lại có hai:

1) Lời tựa của người sớ kinh;

2) Bốn Đức Phật thí dụ giảng nói.

33. Hỏi đáp về chung riêng:

Hỏi: Bốn Đức Phật nói kệ là chung hay là riêng?

Đáp: Kinh đã không có văn thì không thể phán định, hoặc nên nghe cùng nói khác miệng mà đồng lời, hoặc nên nghe nói riêng mỗi vị đều dẫn một thí dụ, thấy cũng như vậy, nếu thấy bốn Đức Phật cùng một thân tôn đặc, một thân một trí tuệ tức là Thường thân, vì chúng đệ tử là một, nếu thấy bốn Đức Phật có thân khác nhau, tức là Ứng Hóa thân, vì có nhiều chúng đệ tử. Chia thành tám bài kệ là có hai ý: thứ nhất nói: Bốn bài kệ trước là lập thí dụ, một bài kệ kế là kết hợp thí dụ, tiếp hai bài kệ là dứt trừ nghi ngờ, kế một bài kệ là kết thúc giải thích; kế là nói: bốn bài kệ trước là thí dụ về Bổn, bốn bài kệ sau là hợp chung giải thích. Hai ý đều có thể sử dụng. Bản dịch xưa nói: Bốn bài kệ chỉ là thí dụ cho sự sống lâu đó, lại không có ý riêng; nghĩa này không đúng, bởi vì giáo nghĩa của các Đức Phật có đầy đủ thượng-trung-hạ thiện, lời đó nhiệm mầu, nghĩa đó sâu xa, trong đây chính là Thường Tông dứt Nghi.

Chỗ quan trọng của một bộ kinh đâu chấp nhận vô nghĩa lý, hơn nữa nêu ra ba ý để nêu văn:

1) Đối với bốn đế,

2) Đối với bốn niệm xứ.

3) Đối với bốn đức.

34. Nói về nhân quả:

Lý bốn đế có ở cả nhân quả, bốn niệm xứ nói về nhân, bốn đức nói về quả. Nếu nói về quả Thọ thì nên đối với bốn đức, quả không sinh khởi đơn độc cho nên niệm xứ nói về nhân, nhân quả có gốc cho nên đối với bốn đế. Ở trên bốn Đức Phật đối với trí bốn đế, ở đây là sở thuyết của bốn Đức Phật đối với lý bốn đế. Xưa đọc văn bốn đế nói: biết khổ đúng như tướng khổ, biết tập đúng như tướng tập, tướng là việc đó, y theo sự mà biết, không hiểu rõ lý, ở đây nói: Biết khổ đúng như tướng khổ, lý đó như vậy, tướng là việc ấy, ngay nơi sự mà chân sự lý cùng thấu đạt, ba đế còn lại cũng giống như thế.

Giải thích như vậy thì lý bốn đế sẽ có nghĩa tốt hơn. Lại giải Thích-cách khác: biết khổ là biết của Tục Đế, biết chơn như vậy, tướng là biết của Trung đạo, trung là tướng thật, do đó ở đây lấy tướng làm Trung. Như thế thì ba đế có đủ trong một văn, biết khổ đã vậy thì về sau tập-diệt-đạo cũng giống như vậy... Hiểu rõ về bốn đế là tu cảnh sống lâu, cho nên căn cứ theo bốn đế đối với kệ. Tất cả các dòng nước đây là đối với Tập đế, Đại kinh nói: "Có dòng sông nước xoáy cuồn cuộn nhận chìm chúng sinh", tức là nghĩa ấy. Thể của nước tưới thấm sự sống như Tập có công năng giúp cho sự lớn lên, cổ vũ phẫn nộ cuồn cuộn mênh mông chẳng nơi nào không có, Tập cũng giống như vậy, nhận chìm phàm thánh khắp cõi trong ngoài.

35. Nói về bốn đế:

Các núi Tu-di đây là đối với khổ đế, Tiểu Bát-nhã lấy thân làm Tu-di, tức là nghĩa ấy. Thể của núi kết cấu bằng những tảng đá lớn đứng trơ trọi trên mặt nước, như khổ báo nhóm hợp vì tập tạo thành quả trói buộc sắc tâm của giới bên ngoài. Mặt đất vị trần, đây là đối với Đạo đế, kinh Pháp Hoa chép: "Pháp đã nói đó tất cả đều đạt đến địa vị nhất thiết trí", tức là nghĩa ấy. Thể của đất thường chứa đựng chuyên chở hai thứ nước và đất đai, như con đường đi chung riêng đến được bờ kia. Hư không phần giới, đây là đối với Diệt đế, kinh Pháp Hoa chép: "Tướng thường vắng lặng rốt cuộc về không", tức là nghĩa ấy.

Thể của hư không hoàn toàn trong sạch, năm thứ ế (khói, mây, bụi, sương, tay A-tu-la) đều không thể làm nhuốm bẩn, ba Quang (trời Thiểu quang, trời Vô lượng Quang, Quang âm thiên) đều không thể nào làm sạch, như Diệt đế diệt hết không có hai mươi lăm hữu và dứt trừ hóa thành của Niết-bàn. Lý bốn đế cùng khắp tất cả mọi nơi tức là Pháp Thân, trí bốn đế xứng với cảnh mà biết tức là Báo thân, từ thể khởi Dụng đồng với tuổi thọ ngắn dài đó tức là Ứng thân. Tín Tướng chỉ thấy ứng thân tuổi thọ ngắn ngủi mà không thấy ứng thân tuổi thọ dài lâu, ứng thân còn không thể thấu đạt, lẽ nào biết được Báo thân và Pháp thân ư?

36. Bốn Đức Phật nêu ra bốn thí dụ:

Bốn Đức Phật nêu ra bốn thí dụ để dụ cho Ứng thân lâu dài đó, giọt nước-cân núi-bụi đất-hư không còn không thể nào suy nghĩ tính toán được sự giới hạn biểu thị đó, huống chi trí sâu thẳm đối với pháp, sâu xa thay, huyền diệu thay! Tín không có cùng tận giới hạn, mênh mông quá, rộng lớn quá! Lẽ nào có ngăn mé bờ bến hay sao? Nêu lên ứng tích để giải thích về Báo thân, và Pháp thân, hoát nhiên tỏ ngộ, cái khéo của việc dứt nghi là như thế, giải thích kệ này nhiệm mầu là như vậy, hành giả hãy suy nghĩ tường tận! Bốn bài kệ đối với bốn niệm xứ ấy là quán sát niệm xứ vốn ở tại Khổ đế, chỉ nên y cứ theo bài kệ nói về núi Tu-di mà luận, ở đây thì đối chung. Tất cả các dòng nước đối với thọ niệm xứ, Thọ có công năng thu nạp như biển thu nạp nhiều dòng nước.

37. Nói về bốn niệm xứ:

Núi Tu-di đối với Thân niệm xứ, bởi vì sắc tướng và chất ngại giống nhau. Mặt đất đối với Tưởng-Hành niệm xứ, bởi vì Tưởng chọn lấy Hành và Hành giống như mặt đất chứa đựng và chuyên chở. Hư không đối với tâm niệm xứ, tâm chỉ có tên gọi vì giống như Hư không vô tướng. Nếu quán bốn niệm xứ là tu nhân sống lâu, nếu niệm xứ đạt được đạo tức là quả sống lâu, cho nên dùng niệm xứ đối với bốn bài kệ. Nếu quán bốn niệm xứ khô thì dứt trừ bốn điên đảo của phàm phu. Nếu quán bốn niệm xứ tươi thì dứt trừ bốn điên Đảo của Nhị thừa, nếu quán trung đạo niệm xứ chẳng phải tươi chẳng phải khô thì ở trung gian mà nhập Niết-bàn, thành tựu năm thứ giải thoát, đó là sắc giải thoát cho đến thức giải thoát. Thoát khỏi sự ràng buộc của năm ấm gọi là năm thứ giải thoát. Thấu suốt cùng tận năm ấm là chẳng thật có gọi là năm Bát-nhã. Ngầm hiện bày năm ấm gọi là năm Pháp thân. Tuy phân biệt là ba nhưng không phải một không phải khác, không dọc không ngang, gọi là kho Bí mật, hiệu là Đại Niết-bàn. Nhân Vương gọi là Pháp tánh sắc, Pháp tánh thọ tưởng hành thức. Pháp tánh của ấm tức là pháp thân, trí ngầm hợp thành tánh tức là Báo thân, pháp thân và báo thân đều chẳng phải thường chẳng phải vô thường, nhưng luôn khởi dụng là thường là vô thường, dụng thường thì dài lâu-dụng vô thường thì ngắn ngủi. Tín Tướng chỉ thấy vô thường mà không thể thấy thường, đối với Dụng còn chưa thấu đạt, huống chi là hiểu rõ Bổn.

38. Nói về dụng của thường:

Kế, Đức Phật nêu thí dụ thuyết minh về cái dụng của thường, Tích thường vô biên không phải suy tư tính toán mà đạt được, huống chi là Lý thể lẽ nào tâm biết được ư? Tín Tướng dứt trừ mê hoặc sáng tỏ như mây cuộn, cái khéo léo của việc dứt nghi là như thế. Bốn bài kệ đối với bốn đức là nước tưới nhuần thêm lớn tốt tươi đối với Thường đức, núi có công năng vượt cao hơn đối với Ngã đức, đất vụn thành bụi là đối với tịnh đức, không có khổ thọ đối với Lạc đức. Bốn đức thành tựu là sự hạn định về mặt quả, quả và lý thầm hợp, thầm hợp ở nơi chẳng phải thường chẳng phải vô thường, có thể khởi dụng của thường, vô thường. Thầm hợp ở nơi chẳng phải ngã chẳng phải vô ngã, khởi dụng của ngã

-vô ngã, thầm hợp ở nơi chẳng phải tịnh chẳng phải bất tịnh, khởi dụng của tịnh, bất tịnh; thầm hợp ở nơi chẳng phải lạc chẳng phải bất lạc, đối với ứng thân hãy còn mê mờ thì làm sao hiểu rõ được Bổn?

39. Nêu lên dụng của bốn đức:

Bốn đức, Phật nêu lên dụng của bốn đức không phải suy tư tính toán mà biết được. Thể gốc của Báo thân, Pháp thân vắng lặng mênh mông vượt ngoài sự suy nghĩ, Tín Tướng nghe nói chẳng những dứt hết nghi ngờ, mà còn thêm lớn niềm tin, phát sinh kiến giải, cho nên vui vẻ hớn hở đạt được ý niệm trong lòng... Từ "Ức trăm ngàn muôn" trở xuống là bài kệ kết hợp thí dụ. Xưa giải thích có hai lỗi:

1) Chấp hẹp về văn.

2) Chấp nghiêng về nghĩa.

Xưa nói: Bốn thí dụ đều có đủ các vật có thể tận cùng, trăm ngàn là số pháp, số thì chắc chắn có tận cùng, y cứ theo đây là vô thường. Ở đây giải thích không phải như vậy: Bốn Đức Phật dẫn ra bốn thí dụ ấy chính là nêu rõ lượng để so sánh với vô lượng, vật có hạn lượng còn không thể suy nghĩ tính toán mà biết được, thì pháp vô lượng lẽ nào so tính đo lường được ư? Ức trăm ngàn muôn đây là nêu ra số pháp để nói về vô số pháp, ông đã không thể nào kể ra số đó thì làm sao có thể biết được vô số? Mặc dù khiến biết được số, biết được vô số, biết rõ lượng, biết rõ vô lượng, cũng chỉ là hóa dụng, hoàn toàn không liên quan gì đến Thể gốc. Lỗi chấp hẹp giữ chẳng những tự hủy hoại mà còn là vu oan cho kinh điển.

40. Chấp nghiêng về nghĩa:

Chấp nghiêng nghĩa phẩm Tam Thân chép: "Hóa thân cũng là thường còn, nói pháp khắp mọi nơi, cho nên là thường còn". Nên biết rằng Hóa thân có đủ nghĩa thường và vô thường, sao người xưa một bề cho là vô thường... Từ "Do nhân duyên ấy..." trở xuống là hai bài kệ dứt nghi. Nếu làm thành nhân duyên ấy thì nhân gần mà duyên xa mạng là chánh báo, bất sát là nhân, thực ăn là y báo, bố thí là duyên. Nhờ nhân duyên này mà đạt được tuổi thọ dài lâu. Nếu gây ra hai duyên thì bất sát là chỉ thiện của người giữ giới bất sát, thí thực là hành thiện của người giữ giới bất đạo, cùng nêu ra chỉ và hành đều là hai duyên. Pháp tánh Bồ-đề tâm đó gọi là Nhân, chỉhành, phước tuệ... những thứ ấy đều là Duyên, duyên có công năng hiển bày tánh, dung hội chẳng phải thường, chẳng phải vô thường duyên có thể là Thường có thể là vô thường. Pháp thực, bất sát... đều như trên đã nói. Tu nhân đã lâu thì đạt được quả càng lâu xa, hiển bày Thể lại lâu xa, phát khởi Dụng lại sâu xa, dứt bỏ các nghi về tuổi thọ ngắn ngủi ấy.

41. Nghe kệ dứt nghi sinh tín:

Từ "cho nên nay ông..." trở xuống là một bài kệ kết thúc sự thành tựu. Từ "bấy giờ Tín Tướng..." trở xuống là nghe kệ dứt nghi sinh tín. Nghe tuổi thọ vô lượng là hiểu rõ cái năng thường trong tích, là tuổi thọ vô lượng. Nghi ngờ không còn ấy là hiểu được cái năng đoản trong tích, là tuổi thọ tám mươi năm. thân tâm tin hiểu là ngộ được bổn thức chẳng phải lượng chẳng phải vô lượng. Hớn hở là bước lên giai vị, vui mừng là niềm tin phát sinh. Biệt giáo giải thích rằng: Tín Tướng dứt hết nghi ngờ trong địa vị tương tự, bước lên địa vị Hoan Hỷ niềm tin phát sinh. Viên giáo giải thích: Tín Tướng dứt sạch nghi ngờ trong địa vị Thiết Luân đi vào an trú nơi địa vị Đồng Luân với sự vui mừng. Nếu giải thích theo địa vị tương tợ Phổ Hiền thì dứt sạch nghi ngờ trong Hạ Địa, đến Thập Địa đảnh thì tin sâu vững chắc giống như Kim Cương, gần với chân thật, sát với cùng cực nên sinh vui mừng.

Từ "nói Như lai này..." trở xuống là thứ ba-chúng đương cơ thuộc hàng thượng căn sơ ngộ. Từ "bấy giờ bốn đức Như lai..." trở xuống là thứ tư-bốn Đức Phật dừng sự hóa hiện. Phật vốn vì duyên mà hưng khởi, duyên đã lợi ích thì thâu nhiếp hóa hiện trở về bổn xứ, cho nên nói: bỗng nhiên biến mất. Quán giải: Đế cảnh phát khởi trí tương ưng với giác tuệ, quán xét sâu xa tuệ này cũng không thể đạt được tuệ, cũng không nhìn thấy cảnh, cảnh và trí đều vắng lặng tức là nghĩa bất cảnh...

QUYỂN 3

Giải Thích Phẩm SÁM HỐI

1. Giải thích về Sám hối:

Các kinh Đại thừa thường nói rãi rác về Sám hối, kinh này chỉ lấy Sám hối làm phẩm. Ở đây trước là giải thích về tên gọi: Sám là đầu (thủ), Hối là cúi xuống, như người thế gian có tội với vua, cong lưng cúi đầu vâng mệnh không dám trái nghịch, không nghịch là khép nép, vâng mệnh là đầu, hành nhân cũng vậy, khép nép dưới chân Tam Bảo chính là thuận theo đạo lý. Lại Sám là pháp trắng, Hối là pháp, đem pháp đều cần phải ăn năn mà đừng tạo tác, bạch pháp cần phải mong chờ mà phát khởi thêm, lấy bỏ hợp lại nói chung nên nói là Sám hối.

Lại nữa Sám là tu tập từ đây, Hối gọi là thay đổi ngày trước, thay đổi điều ác đã làm, điềm lành ngày xưa đã vứt bỏ thì ngày nay trở đi thệ nguyện siêng năng tu tập, nên gọi là sám, xả bỏ xưa kia cầu cho mai sau, vì thế gọi là Sám hối.

Lại, Sám gọi là phơi bày các sai lầm, nói ra mọi tội lỗi không dám che đậy giấu giếm, Hối là dứt trừ tâm nối nhau nhàm chán lìa bỏ, năng gọi là hổ thẹn, hổ thẹn là thẹn với trời, hổ thẹn là hổ thẹn với người, người nhìn thấy sự việc hiển lộ đó, trờ nhìn thấy sự việc ngầm kín đó, ngầm kín là nhỏ nhiệm-Hiển lộ là thô trược, thô tế đều là ác cho nên nói là Sám hối.

Lại, người là bật Hiền-Trời là bậc Thánh, không bằng các bậc Hiền Thánh, cho nên Sám hối.

Lại, Hiền Thánh cũng là người và trời, là nghĩa thiên bậc nhất, nghĩa thiên bậc nhất là lý, Hiền Thánh là Sự, không đạt đến Sự Lý, tất cả đều Sám hối.

Lại, xấu hổ với bậc Thánh thiên ba thừa, hổ thẹn, với bậc Hiền ba thừa, không sánh bằng trời người này cho nên gọi là hổ thẹn, hổ thẹn gọi là Sám hối.

Lại nữa, Hiền Thánh ba thừa đều là người, nghĩa lý bậc nhất là trời; dựa theo sự hổ thẹn đối với hàng trời người như vậy nên gọi là Sám hối.

Lại nữa, Hiền Thánh ba thừa còn chẳng phải bậc hiền của hàng Bồ-tát, huống chi là bậc Thánh của hàng Bồ-tát ư? Nay hổ thẹn với bậc Hiền của ba mươi tâm và bậc Thánh của hàng Thập Địa, nên gọi là thẹn Sám hối.

Tóm lại, hiền thánh này đều là người, nghĩa lý bậc nhất là trời, dựa theo hàng trời người này luận bàn về hổ thẹn cho nên gọi là Sám hối.

Lại nữa, trong ba mươi tâm không còn tự mình phân biệt bậc Thánh, Thập Tín là bậc Hiền, căn cứ theo bậc Hiền Thánh này nói về hổ thẹn Sám hối.

Tóm lại, bậc Hiền Thánh này đều gọi là người, nghĩa lý bậc nhất gọi là trời, y theo trời người này nói về hổ thẹn Sám hối.

2. Nói về nơi Sám hối:

Tất cả là mười lần giải thích về tên gọi. Kế là nói về nơi Sám hối trong Đại kinh vua A-xà-thế nói kệ rằng: "Lời nói thô và mềm mỏng, đều quy về nghĩa bậc nhất, vì thế nên hôm nay con, quy y với Đức Thế Tôn". Còn trong phẩm Phạm Hạnh nói: "Ngày xưa ta và các người không nhìn thấy bốn Chân-đế, nên xoay vần không dứt, trong biển sinh tử khổ đau, nếu thường luôn Sám hối, được nhìn thấy bốn Chân-đế, thì dứt trừ đoạn sinh tử, sinh tử đã hết rồi, thì không còn sanh các cõi".

Kinh Pháp Hoa chép: "Hành xứ, cận xứ trú nhẫn nhục địa, cũng bất hành bất phân biệt". Lại nói: "Đảo châu báu rất gần đến, ông thầy nên tiến lên trước, tức lìa bỏ Hóa thành, sẽ đến đảo châu báu" Văn kinh này nói "Ta sẽ vì người này mà làm nên quy y". Nơi quy y tức là pháp cánh sâu xa vô lượng. Pháp tánh chỉ cho đế lý, đế lý chỉ cho diệu cảnh thầy của các Đức Phật là kho bí mật chân như vắng lặng, các bậc Thánh khắp mười phương an trú trong đó. Nếu đạt được nguồn cội, nguồn cội đã thiết lập thì đạo phát sinh, không đạt được nơi đó thì đất bằng nghiêng ngã, như người mù đi vào rừng gai, nhúc nhích vướng vít trở ngại; vì nghĩa này cho nên cần phải nhận biết chỗ Sám hối.

Do đó, trong Phổ Hiền Quán nói: "Ngồi thẳng niệm tướng thật, các tội lỗi như sương móc, mặt trời trí tuệ làm tiêu tan tâm ta tự vắng lặng, tội phước không có chủ, đó gọi là Đại Sám hối, đó gọi là Trang nghiêm Sám hối, đó gọi là Vô tội tướng Sám hối". Vô tội tướng, ở đây là dựa theo hư không làm nơi chốn. Trang nghiêm Sám hối là dựa theo tục đế làm nơi chốn. Đại trang nghiêm Sám hối là dựa theo trung đạo làm nơi chốn. Hoặc là ba thứ khác nhau, đây là trải qua chỗ nói riêng mà thôi. Ngay nơi một mà ba, ngay nơi ba mà một, đây là Viên diệu Sám hối, là các bậc Đại Bồ-tát tu học Phật pháp mà Sám hối. Nếu biết pháp này mà Sám hối là nơi Sám hối nhiệm mầu cao thượng diệu nhất.

Đại kinh chép: "Giống như có người tắm dưới biển lớn, nên biết rằng người này đã dùng nước của tất cả các sông". Đại phẩm chép: "Giống như người mắc nợ đến đó tìm lại vật của mình". Sách nói: "Như cỏ đầu tường chẳng phải cành lá của nó vừa cao vừa dài mà có được nơi nương tựa. Nếu Hành nhân nương vào pháp tánh làm nơi Sám hối ấy là cao vượt lên trên tất cả mọi nơi chốn, nếu hành nhân nhận biết ý này, thì trước hết nên cầu tìm ý lý pháp tánh làm nơi Sám hối". Kế là nói về Pháp Sám hối.

3. Nói về pháp sám hối: Pháp có hai thứ:

1. Chánh pháp.

2. Trợ pháp.

Chánh pháp tức là tuệ quán sát pháp tánh, pháp tánh thường còn cho nên quán này cũng thường còn, pháp tánh là lạc, ngã, tịnh, cho nên quán tuệ cũng vậy pháp tánh không thể suy nghĩ bàn luận, rất sâu xa, rất mầu nhiệm, vô thượng vô đẳng đẳng: quán tuệ cũng thế, cảnh và trí thầm hợp nhau, là pháp không hai. Như như không khác là cảnh như trí, trí như cảnh, cho nên nói là như như không khác. Vì thế trong kinh nói: "Nói trí và trí xứ, đều gọi là Bát-nhã".

Nói trí và trí xứ, đều gọi là Tướng thật. nói như không nói, không nói như nói, nói và không nói không hai không khác, dùng quán tuệ này trải qua tất cả các pháp cũng giống như vậy, cho nên nói là Tỳ-lô-giá-na trùm khắp mọi nơi. Hoặc đi hoặc đứng hoặc sáng hoặc tối đều thấy được các Đức Phật, Thế Tôn không hề lìa xa, sáu căn dẫn dắt không nơi nào chẳng phải là Phật pháp, Kỳ-bà lấy cỏ không thứ gì chẳng phải là cỏ thuốc, tất cả đều công năng chữa lành bệnh, cái chấp của Thích-na-nam là tất cả các đá đều trở thành châu báu, đồ đựng rỗng của của A-na-luật đều chứa đầy Cam lộ. Nếu được như thế thì tội sở quán chẳng còn là tội, tội tức là Tướng thật, phước sở quán là phước tức chẳng phải phước, phước tức là tướng thật. Thuần là tướng thật, đó gọi là Đại Sám hối. Giúp đạo Sám hối, nếu hoàn toàn dùng chánh pháp Sám hối thì cũng không cần đến trợ pháp, nếu chánh pháp mông muội không rõ rằng thì tu trợ pháp để trợ giúp, đó gọi là tro, nhựa cây, rong biển, xà phòng, các loại đậu, than củi để trợ giúp làm sạch nước vậy. Nói sơ lược thì thường xuyên dụng thân, miệng ý để làm trợ giúp, thân thì lễ bái, miệng thì đọc tụng tâm thì quán sát, để giúp khai nở pháp môn, như thuận dòng thuận gió trợ giúp để chống thuyền đi thì nhanh đến nơi. Nói sơ lược về chánh-trợ như thế.

4. Nói về giai vị Sám hối:

Kế là nói về giai vị Sám hối, hiểu theo thông thường thì hạng phàm phu thấp hèn thô trược ban đầu cần phải Sám hối, bậc ly cấu thanh tịnh cần gì Sám hối? Điều này không đúng, như trong phẩm Diệt Nghiệp Chướng của bản dịch mới chép: "Con người thọ nhận thân hình từ cha mẹ, mười tháng mang thai, ba năm bú mớm, vỗ về nhớ nghĩ không lúc nào quên mới được ngẩng đầu đội tóc, chỉ bày phương hướng dạy dỗ nhiều phen mới hiểu biết mọi chuyện làm người, nếu không sẽ vong ân bội nghĩa mà làm điều sát nghịch. Trời tuy rộng lớn nhưng không che được người này, đất tuy cũng dày nhưng không mang nổi người như vậy, người này qua đời thì đọa thẳng vào địa ngục".

5. Lý do phải sám hối:

Tội nghịch như thế cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Đức Phật là bậc thầy của trời người, thầy nghiêm túc đạo tôn quý, thể nói ra điều gì nếu có trái phạm thì tội lỗi ấy không gì lớn hơn. Thiên trước, nhóm sau đâu được trái phạm cho nên xem thường Phật, phụ bạc mình, lại lừa dối tam sư thất chứng. Vậy thì chỉ là xác chết trong biển Phật pháp thịt nát giữa vườn hoa mà thôi. Bốn hạng người này cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Năng về tức giận đọa vào làm rắn hổ mang, nhiều dục vọng đọa làm loài tu hú bồ câu, nặng về ngu si đọa làm loài chí rận mối kiến, nặng về cao mạn đọa làm loài chim bay, nặng về siểm trá dọa vào loài Tu-la, nặng về bỏn xẻn đọa làm loài ngạ quỉ, ngạ quỉ thường đói khác, súc sinh tàn hại lẫn nhau, Tu-la nhiều nỗi sợ hãi. Bốn đường ác này nghe danh hãy còn không nên, huống chi phải nhận chịu, vì thế cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng.

6. Nói về tám điều khổ:

Tám điều khổ trong loài người mà một điều khổ còn không thể nhẫn chịu, huống chi tám điều khổ đan xen chồng chất, vì thế cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Cõi trời có cái khổ của năm tướng suy địa ngục hiện ra, các tầng trời cõi sắc không? Mau chóng nhập định là khổ cầu không được, các tầng trời cõi vô sắc có cái khổ của bổn tâm. Ba cõi là lồng chậu, sinh tử là hố chôn, vì thế cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Nếu người xuất gia tuy muốn tu đạo nhưng bị năm trụ phiền não làm chướng ngại nên tâm không thể nào ngừng dứt, tâm bị bốn điên đảo làm mê hoặc, không thể nào đi vào bốn niệm xứ cũng cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Niệm xứ chữa trị bốn điên đảo kia, hai điều ác không siêng dứt trừ-hai điều lành không siêng phát sinh, không thể nào đi vào như ý túc, noãn pháp không phát sinh cũng cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng.

Năm căn không sinh ra, hỷ pháp có sụt giảm, căn sinh không có lực, tuy có lực mà không gần chân như; đối với bốn gốc lành này cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Khổ nhẫn rõ ràng phát sinh tuy không đọa vào ba đường, nhưng bảy lần sinh ở cõi dục lần lượt phải nhận chịu, một lần sinh hãy còn khổ huống chi bảy lần sinh? Cho dù dứt trừ sáu phẩm, cũng phải Sám hối. Tuy dứt trừ tám phẩm của năm thứ phiền não nhưng rốt cuộc còn lại một phẩm, cũng cần phải Sám hối.

7. Lại nói về lý do sám hối:

Tuy dứt hết phiền não cõi sắc nhưng còn lại phiền não của cõi vô sắc, cũng phải Sám hối. Tuy nhập Niếtbàn Hữu dư nhưng hãy còn thêm quả báo thân, gió nóng của Thân tử làm cho mắt của Tất-lăng-già đau đớn, muốn xả bỏ Hữu dư nhập vào Vô dư, cũng cần phải Sám hối. Tuy dứt trừ phiền não trong ba cõi đã hết nhưng thói quen vẫn còn, cũng cần phải Sám hối. Bích chi Phật cũng vậy, cũng cần phải Sám hối. Nếu Càn Tuệ Địa chưa được nước lý thấm tâm, cho nên nói là Càn Tuệ, tánh địa chưa thể thấy lý, tám người thấy địa còn có sự mê hoặc của Ái, Bạc Thần đất thông chưa thể sinh lại cõi dục giới, ly dục địa còn có sự mê hoặc của cõi trên, Dĩ hiện địa không thể dứt bỏ thói quen, Bích chi Phật địa chỉ hiện bày thần thông, không thể thấu đạt văn tự, Bồ-tát địa chưa đến chỗ thí cực. Các giai vị như thế đều cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Thập Tín chỉ tin chứ chưa thể xứng hợp với lý, Thập trụ chỉ nhập vào thiên lý, Thập hạnh chỉ là sự chưa thể chứng Trung đạo, Thập địa tuy chứng Trung đạo nhưng mỗi địa đều có ngăn ngại, chưa rốt ráo đối với Hữu học, chưa đạt được vô học, cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng.

8. Phương tiện Đà-la-ni:

Lại nữa, Thập Tín tuy ba trí viên tu nhưng chỉ là phương tiện Đà-la-ni. Thập Trụ trở lên cho đến Đẳng giác trở xuống, chỉ giống như trăng đêm mười bốn, chứ chẳng phải trăng đêm rằm, khuôn thước chưa tròn, ánh sáng chưa đủ, lòng tối chưa hết sạch, vì thế cần phải Sám hối để dứt trừ nghiệp chướng. Từ đây trở về sau nên biết rằng giai vị Sám hối dài lâu, nghĩa đó rộng lớn cùng cực, tại sao lại nói chỉ có phàm phu mới Sám hối? Vì thế cho nên kinh Ngũ Thập Hiệu Kế chép: Đều đến Đẳng Giác đều dạy cho Sám hối", tức là nghĩa ấy. Nếu người được nghe Sám hối như vậy thì công đức không phải ít, do đó văn nói: chẳng phải đối với một đức, hai Đức Phật, năm Đức Phật, mười Đức Phật tu các công đức nghe Sám hối này, cho đến vô lượng trăm ngàn Đức Phật đã tu các công đức nghe Sám hối này. Nói về Hoa báo thì ở bất cứ nơi nào cũng thường được các vua chúa, phụ tướng, đại thần cung kính. Nói về Quả báo thì thường được các Đức Phật mười phương cung kính.

9. Lợi ích của sám hối:

Được nghe pháp Sám hối này sẽ đạt được công đức như vậy, hướng gì lại đúng như pháp tu hành ư? Đã nghe về nghĩa Sám hối, pháp này xuất xứ từ kinh, kinh này do Phật nói ra, thế nên phải báo ân quy mạng lễ các Đức Phật... phẩm Sám hối dựa theo văn tự để chỉ dạy giải Thích-Sám là xem xét, phơi bày bộc bạch ba nghiệp của mình không dám che giấu khiến cho người khác dòm ngó dò xét ba nghiệp. Ngoan cố xấu ác mà miệng lanh lợi, tâm phá hoại mà ý giấu kín, thân bị dòm ngó cho nên lại ngoan cố xấu ác, miệng bị dòm ngó nên môi lắp bắp, tâm bị soi xét cho nên ý giấu kín, do đó sám bị xem xét. Hối là phế bỏ, bên trong có tâm thấp hèn xấu xa, gây ra tội lỗi, gây ra các tội. Vì phế bỏ sắc tức là phế bỏ ba thứ, vì phế bỏ thanh tức là phế bỏ bốn thứ, phế bỏ tâm tức là phế bỏ cả mười thứ, cho nên hối gọi là phế bỏ.

10. Sám hối có ba thứ:

Lại nữa, dựa theo pháp môn để giải thích, Sám hối gọi là hổ thẹn, hổ thẹn là pháp trắng, lại tự mình không làm điều ác, không xúi giục người làm điều ác, nói các thứ như vậy... Sám hối có ba thứ:

1. Tác pháp.

2. Thủ tướng.

3. Vô sinh.

Ba thứ này có cả Tiểu thừa và Đại thừa. Tác pháp của Tiểu thừa như trong Tỳ-ni nói phát lộ và học hai mươi vị Tăng thực hành Ma-na-đỏa, hoặc nửa tháng tác pháp, đối thủ tác pháp, hoặc trách tâm chỉ là giúp cho tác pháp thành tựu, không chướng ngại Tăng sự, thì đó là thanh tịnh. Trong A-hàm cũng có thực hành tướng sám, người phạm dục khởi ý tưởng là miệng rắn độc, quán này thành tựu thì tội dâm dục liền trừ diệt. Cũng có quán không sám, chỉ là chân không. Trong Đại thừa cũng có tác pháp, hoặc tám trăm ngày là Hư Không Tạng đồ xí hoặc chín mươi ngày là Bát-chu, hoặc bốn mươi chín ngày là Đại bi sám, hoặc hai mươi mốt ngày là Pháp Hoa, hoặc bảy ngày là Phương Đẳng, tắm gội thân thể bằng nước tro nóng cho sạch sẽ, rượu đắng cay ngậm vào miệng hổ thẹn, tâm thường xuyên xoay vần đọc tụng đều có số khắp... đều thuộc về tác pháp Sám hối. Về Thủ tướng Sám hối.

11. Sám hối theo Phương Đẳng:

Như Phương Đẳng cầu mười hai mộng vương, giới Bồ-tát thấy hoa, thấy ánh sáng xoa trên đỉnh đầu, trong hư không có tiếng nói để lại dấu vết trên cánh tay, tướng sinh khởi thì tội tiêu diệt, tuy không nói rõ về tác pháp nhưng bao gồm được sự dụng về vô sinh Sám hối, như Phổ Hiền Quán chép: "ngồi thẳng nghĩ tướng thật, như mặt trời soi chiếu sương mù". Quán không duyên lý vô tướng tối thượng, tuy không phải chính là thực hành tướng nhưng gồm đủ cả hai Sám hối trên.

Tác pháp Sám hối trái với vô tác thì tội diệt nhưng tánh tội không dứt, như phạm tội sát sinh. Tác pháp Sám hối là trái với vô tác, tội trừ nhưng vẫn phải thường mạng, tức là nghĩa ấy. Về Thủ tướng Sám hối thì có công năng dứt được tánh tội, tánh tội mất đi, thì trái với vô tác, tội cũng không còn, như chặt cây thì cành lá khô héo, gốc rễ chưa mất đi thì tiếp tục lớn lên như cũ. Quán vô sinh sám có công năng dứt trừ vô minh, như che phủ mặt đất, gốc rễ cành nhánh hoa lá... đều bị tận diệt không sót.

Lại nữa, tác pháp sám dứt trừ tội trái giới, thủ tướng Sám hối dứt trừ tội phạm vào Định, vô sinh dứt trừ tội phạm vào Tuệ.

Lại nữa, tác pháp dứt trừ báo chướng trong ba đường ác, thủ tướng dứt trừ báo chướng cõi người, vô sinh dứt trừ báo chướng hữu lậu trong ba cõi.

Lại nữa, tác pháp dứt trừ nghiệp chướng trong ba đường ác, thủ tướng dứt trừ nghiệp chướng trong cõi người, vô sinh dứt trừ nghiệp chướng hữu lậu trong ba cõi.

Lại nữa, tác pháp dứt trừ các phiền não lo sợ đau buồn, cũng là phá trừ phiền não. Thủ tướng sám dứt trừ phiền não của tứ trụ, vô sinh dứt trừ phiền não vô minh. Lại nữa, ba cách sám đều trừ diệt báo chướng, thủ tướng sám trừ diệt nghiệp chướng, vô sinh sám trừ diệt phiền não chướng.

Lại nữa, tác pháp sám giống như uống gừng quế, chỉ khỏi bệnh mà thôi chứ không thể làm cho thân thể mập mạp, giống như tội tiêu diệt nhưng điều lành không thể phát sinh; thủ tướng sám giống như uống năm thứ đá, bệnh hết thân khẻo mạnh nhưng không thể được đạo, vô sinh sám giống như uống năm thứ như thế hành giả phải biết. Nay còn có ba pháp sám Đại thừa, hãy mặc y phục mới giặt sạch chuyên chú lắng nghe kinh này.

Lại nữa, trong bảy ngày bảy đêm sớm tối tịnh tâm... tức là tác pháp; ở nơi chỗ ngồi đó được thấy Di-lặc, Vănthù, Phổ Hiền, tức là Thủ tướng; nhà cửa năm ấm đều quán xét thấy vắng lặng, vốn không có sinh ra cũng không hòa hợp, tức là vô sinh.

12. Nói về lực dụng của kinh:

Ba ý rõ ràng cho nên có công năng dứt trừ mọi điều ác, quét sạch ba chướng, nói lên lực dụng của kinh này. Từ phẩm này trở đi là nói về lực dụng của kinh. Phẩm này chính thức nói về "đêm mộng ngày nói Sám hối dứt điều ác, nhổ gốc khổ", phẩm sau là nói về "khen ngợi phát thệ sinh thiện cho vui", cạnh đó là nêu lẫn nhau. Văn phẩm này chia làm hai phần:

1. Những điều thấy nghe trong mộng.

2. Tỉnh mộng rồi nói về những điều đã thấy nghe.

-Trong mộng lại có hai:

a) Mộng thấy trống vàng.

b) Mộng nghe tiếng trống vàng đánh vang.

-Thấy trống vàng lại có ba đoạn: a.1) Chính là nhìn thấy trống. a.2) Thấy ánh sáng của trống. a.3) Thấy Phật trong ánh sáng của trống.

13. Nói về mộng:

Mộng là đi vào Tam-muội Như mộng, lại nhập vào Quán như mộng ra khỏi quán như giác. Tâm thanh tịnh đi vào quán có công năng quán xét pháp tánh, pháp tánh tức là trống vàng, thể của trống vàng tròn địa rỗng rang sáng ngời (viên-không-minh), tròn trịa tức là pháp thân, rỗng rang tức là Bát nhã, sáng ngời tức là giải thoát. Châu là nghĩa là hơn nghĩa là sâu, đại là nghĩa rộng, nghĩa vô lượng, như "dạo chơi trong pháp tánh sâu xa vô lượng" ở văn trên là ý này. Châu đại là nói lược về thể của trống, luận đầy đủ nên nói là viên châu đại-không châu đại-Minh châu Đại.

14. Nói về Trống:

Thể của trống có đủ ba loại, ba loại đều sâu xa vô lượng. Đây tức là trong mộng nhìn thấy pháp thân, quán xét một mà thấy ba Đức Phật. Từ "Kỳ minh phổ ánh sáng ấy chiếu khắp... trở xuống là phần hai thấy ánh sáng của trống. Ánh sáng là trí tuệ, hợp với tánh này có thể thành tựu Đại quả. Trí và thể thầm hợp, Thể Viên Châu đại thì vừa Quang Viên vừa châu đại, Thể không châu đại thì vừa Quang không vừa châu đại, Thể minh châu đại thì vừa Quang minh vừa châu đại, vì sao? Vì thân này đồng thể với các Đức Phật, đây tức là trong mộng nhìn thấy Báo thân Phật, một Đức Phật mà ba. Từ "Lại trong ánh sáng thấy các Đức Phật trong mười phương..." trở xuống là thứ ba thấy các Đức Phật trong ánh sáng.

Ánh sáng phát ra từ trống, chiếu soi khắp cả mười phương, dụng khởi lên từ thể ứng hiện tất cả pháp giới, đồng sự cùng với cơ duyên. Tòa lưu ly là lý được an đặt

Đức Phật ngồi trên đó xứng hợp với pháp tánh. Đại chúng vây quanh là cơ được ứng, đây là trong mộng nhìn thấy ứng thân, tức là một mà nói ba, đây tức là người ở trong mộng nhìn thấy ứng thân Phật, nhìn thấy ba thân Phật này tức là ba thân ba đức và các thứ ba pháp môn, từ đây lập ra giáo nghĩa gọi là Kim Quang Minh. Từ "Thấy có một người..." trở xuống là thứ hai, mộng thấy đánh trống vàng, văn chia làm ba đoạn:

1. Thấy đánh trống.

2. Phát ra âm thanh lớn.

3. Sự giải thích của âm thanh.

Trống là pháp thân, đánh trống là cơ trí, Bà-la-môn là tịch hạnh, dường như là gần chân.

Người gần với chân dùng tịnh trí dường như hiểu để hòa hợp với pháp thân, tương ưng với cam lộ, diệt khổ sinh vui. Trống là pháp thân, hòa hợp với trống là Báo thân, đánh trống phát ra âm thanh là Ứng thân, sự giải thích của âm thanh là đại dụng của pháp giới khởi giáo làm lợi ích chúng sinh. Từ "bấy giờ Bồ-tát Tín Tướng..." trở xuống là phần thứ hai thức giấc rồi theo đó nói về những điều thấy nghe, văn chia làm bốn:

1. Đến chỗ Đức Phật.

2. Hợp với duyên.

3. Cung kính trình bày.

4. Kể lại giấc mộng.

Mộng là đi vào pháp môn là ban đêm nằm mộng, ra khỏi pháp môn như qua đêm rồi đến sáng. Lại nữa, ba mươi tâm hoặc chướng chưa dứt sạch cho nên giống như mộng, bước lên địa vị dứt trừ hoặc chướng giống như đêm qua rồi đến sáng. Quán giải: Ba thân sở quán trong quán hành vị giống như mộng, ba thân sở quán trong phần chân vị giống như sáng sớm. Ra khỏi thành Vương xá là ý nói lên rời khỏi nhân vị.

Hướng đến núi Kỳ-xà-quật là nói lên hướng về quả địa. Cung kính trình bày có ba: Đảnh lễ là thân cung kính, chiêm ngưỡng là ý cung kính, trình bày giấc mộng là miệng cung kính. Đảnh lễ là Bồ-tát ở nơi nhân vị trước dùng tín làm trọng, các Đức Phật ở nơi quả lấy từ bi làm nhẹ, lấy quý kính làm nhẹ. Từ "vì trong mộng ấy..." trở xuống là phần bốn, kể lại giấc mộng. Từ đây một trăm sáu mươi hai bài kệ, chia làm hai đoạn: bốn bài rưỡi đầu tiên nói chung về giấc mộng, một trăm năm mươi bảy bài rưỡi tiếp theo nói riêng về giấc mộng. Phần chung lại chia hai:

1. Ba bài rưỡi nói về thấy trống vàng.

2. Một bài nói về nghe trống đánh vang.

Thấy trống vàng lại có ba: một bài đầu là thấy hình dáng của chiếc trống, một bài kế là thấy ánh sáng của trống, tiếp một bài rưỡi là thấy các Đức Phật trong ánh sáng, tức là ý của ba thân đi vào quán cảnh sở quán trong văn xuôi. Một bài tiếp theo là thấy đánh trống, đó là tự mình nhìn thấy cơ của quán trí đó đánh vào cảnh của pháp thân. Vang ra âm thanh lớn là như trên đã nói, tự thấy cảnh trí hòa hợp được rất nhiều lợi ích. Từ "trống vàng lớn này..." trở xuống là bài kệ một trăm năm mươi bảy bài rưỡi nói riêng về sự việc trong giấc mộng, văn chia làm hai:

Từ "trống vàng lớn này xuống đến... đều được dứt trừ" có hai mươi mốt hàng ba câu nói về trống vàng có năng lực dứt ác sinh thiện.

1. Từ "tất cả các khổ không chỗ bám víu, không chỗ theo về..." trở xuống một trăm ba mươi lăm hàng ba câu chính thức nói về chỉ dạy phương pháp Sám hối.

-Y cứ văn có thể diệt ác sinh thiện, chia làm sáu đoạn:

1. Có ba bài, dứt trừ nhân quả khổ của thế gian.

2. Có ba bài, sinh ra nhân quả vui của xuất thế gian.

3. Có bốn bài, có thể làm cho chúng sinh đều đầy đủ tự hành hóa tha.

4. Có bốn bài, có thể dứt trừ báo chướng của chúng sinh, còn phát khởi túc mạng thông.

5. Có bốn bài, có thể khiến cho chúng sinh đạt được các pháp môn, trước đạt được ít sau đạt được nhiều...

6. Có ba bài ba câu, có công năng phá tám nạn trôi lăn của chúng sanh.

Giải thích sáu nghĩa này đều thuận theo ba đường, dần dần đến địa vị của người, trời, Nhị thừa, Bồ-tát... mỗi hạng đều có khả năng dứt ác sinh thiện. Từ "tất cả các khổ không có chỗ nương tựa, không có chỗ theo về..." trở xuống có một trăm ba mươi lăm bài ba câu, là phần thứ hai nói về chỉ dạy cách Sám hối, văn chia làm năm đoạn:

1. Từ "tất cả các khổ..." về sau có mười chín bài một câu là tự nói về tội lỗi để Sám hối.

2. Từ "Nay tôi sẽ cúng dường..." trở xuống là nói về cúng dương các Đức Phật, tự hành hóa tha, tu Sám hối.

3. Từ "các Đức Phật Thế Tôn ngã sở y chánh..." trở xuống có hai mươi mốt bài, nói về khen ngợi tu pháp Sám hối.

4. Từ "ta vì các nhân duyên nghiệp lành cho nên..." trở xuống có năm mươi mốt bài rưỡi, nói về phát nguyện tu Sám hối.

5. Từ "Nếu có người kính lễ, khen ngợi mười phương..." trở xuống có chín bài là, kết thúc thành tựu Sám hối. Sinh khởi năm ý đó, nhưng chúng sinh tà đảo chướng lý không nhận biết được pháp tánh, ngu si chướng giải không hiểu biết về nhân quả, nghiệp ác làm chướng ngại hạnh, không biết pháp lành. Bậc Thánh từ bi dựa vào giấc mộng của Đại sĩ, nói về pháp Sám hối và nói rõ nghĩa lý đó, chỉ bày nhân quả và pháp lành, cho nên nói về tự Sám hối nhờ ân sâu của Phật cho nên cung kính cúng dường, cúng dường không sót, tâm đó chân thành cho nên ca ngâm khen ngợi cúng dường. Cúng dường khen ngợi là hạnh cần phải phát nguyện, chỉ quy hạnh nguyện đã trọn vẹn kết thúc thành tựu khen ngợi xưng tán. Văn tự sám chia làm ba đoạn:

15. Nói về văn tự sám:

1. Một bài đầu một câu nói về pháp thân là nơi nương tựa.

2. Hai bài là thỉnh Phật che chở.

3. Mười sáu bài chính thức nó về Sám hối.

Pháp thân đầy đủ ba đức, tức là Nhất thể Tam bảo, pháp thể là pháp bảo, tịch lặng thường chiếu soi là pháp bảo, cùng khắp tất cả mọi nơi là Tăng bảo. Tự phàm phu Nhị thừa tuy không biết, nhưng cũng không ra ngoài pháp tánh. Nói tóm lại, tất cả Bồ-tát không phải là không lấy pháp tánh này làm nơi quy y, y theo đây thì gốc rễ tồn tại nên đạo phát sinh. Gốc rễ bên trong tuy tồn tại nhưng bên ngoài không có Phật che chở thì không thể thành tựu. Hoặc được cảm ứng che chở mà dứt ác sinh thiện, đầy đủ nơi tụng này, như mầm mới nảy sinh được mưa nên cỏ cây tươi tốt đẹp, vì thế mà thỉnh Phật. Nhân duyên trong ngoài đã đầy đủ thì phải Sám hối.

16. Nói về văn chánh sám:

Văn chánh sám chia làm hai: Đoạn đầu là ba câu nói chung về Sám hối, đoạn sau là mười lăm bài một câu nói riêng biệt về Sám hối, Sám hối chung là bao gồm Sám hối về ba chướng. Bổn là phiền não, là gốc của hai chướng, ác là báo chướng, bất thiện là nghiệp chướng. Ba chướng làm chướng ngại ba thân, ba Phật, ba ngôi báu, nếu ba chướng chuyển đổi thì các thứ ba pháp môn đều sáng tỏ, cho nên gọi là Sám hối chung. Sám hối riêng là Sám hối riêng biệt về ba chướng, một bài kế là Sám hối báo chướng, mười ba bài kế là Sám hối nghiệp chướng.

17. Sám hối phiền não chướng:

Từ "trước các mười lực" trở đi chính là Sám hối phiền não chướng. Độc đầu vô minh và ngu si điên đảo rất khác, không nhận biết pháp thân Phật. Pháp thân Phật cùng khắp tất cả mọi nơi, về ngu si ám chướng nên không thể biết, mọi người ở trước Phật mà gây ra nhiều tội lỗi, như trâu dê không nhận biết thiên tử, như con chim sẻ không biết tôn trọng loài voi, ở trước mặt tạo ra lỗi lầm, kẻ ngu si không nhận biết pháp thân cũng giống như thế. Về ân cha mẹ, phương tiện là cha, trí độ là mẹ, hai pháp môn này có thể công năng sinh ra pháp thân, người không nhận biết, đó là không biết Báo thân Phật. Không hiểu rõ pháp lành, pháp lành là hạnh giúp đạo, có thể giúp cho trí hiển bày lý, mà người không hiểu rõ là không biết ứng thân Phật. Ba thân Phật đều không thể biết, đâu chẳng phải là vô minh sai lầm hay sao? Đây là Sám hối riêng về báo chướng. Nói sơ lược có ba thứ:

18. Sám hối riêng về báo chướng:

1) Ỷ dòng họ mà xấc láo với người.

2) Ỷ có tài vật để xem thường mọi người.

3) Lấy sự khỏe mạnh mà lấn hiếp kẻ khác.

Tuy báo chướng có ba thứ này nhưng không nên tự mình buông lung. Nếu người tự buông lung thì báo này trở thành chướng sự. Ở đây, lại dựa theo pháp môn để giải thích: Người xuất gia lấy trí tuệ làm tánh, định làm tài vật, giới làm tuổi tác. Người nhiễm ba pháp này tự tôn trọng mình xem thường người khác, đó gọi là nhiễm pháp, chẳng phải là cầu pháp. Kinh Pháp Hoa chép: "Người tuổi trẻ khỏe mạnh ta tuổi già sức yếu". Người phàm phu lấy năm ấm sung mãn làm sức mạnh, ba thừa thông giáo lấy không sinh ra Hữu làm sức mạnh. Người chấp chặt các phước, đều là dựa thể mạnh lấn hiếp kẻ yếu, nên trở thành báo chướng, tất cả cần phải Sám hối. Từ "tâm niệm bất thiện..." trở xuống mười ba bài là Sám hối riêng về nghiệp chướng, văn chia làm mười hai đoạn: 19. Sám hối riêng về nghiệp chướng:

1) Một bài Sám hối về nghiệp ác đã do tâm và miệng gây ra, cũng là xúi giục người khác làm điều ác, từ thân miệng ý là tự mình làm ác.

2) Một bài Sám hối về nghiệp ác do nhân duyên trong ngoài gây ra.

3) Một bài Sám hối về nghiệp ác do nhân duyên năm dục gây ra.

4) Một bài là tôn thờ tà sư mà gây nghiệp ác.

5) Một bài là thuận theo người đứng đầu làm ác mà gây ra nghiệp ác.

6) Một bài là tâm sở ái khiến gây nghiệp ác.

7) Hai bài vì cơm áo gạo tiền và nữ sắc mà gây ra nghiệp ác.

8) Một bài là ở đời có Phật là ruộng cung kính mà gây ra nghiệp ác.

9) Một bài là ở đời không có Phật là ruộng cung kính mà gây ra các nghiệp ác.

10) Hai câu là đối với chánh pháp mà gây ra nghiệp ác.

11) Một bài là đối với ruộng phước ân đức mà gây ra nghiệp ác.

12) Một bài rưỡi là bao gồm tất cả mọi nơi mà gây ra nghiệp ác cũng là xúi giục người khác làm ác, từ thân, miệng, ý là tự mình làm ác.

20. Phát khởi cúng dường:

Nhân duyên gây ra nghiệp ác nhiều vô cùng, không thể nào nêu ra đầy đủ cho nên Sám hối chung. Hoặc muốn giải thích tường tận thì từ loài người làm nơi khởi đầu, các hàng Nhị thừa, Bồ-tát Thông, Biệt đều lần lượt thực hành thì sẽ có thể hiểu được. Do đó trong kinh Ngũ Thập Hiệu kế chép: "Trên đến Đẳng Giác đều cần phải Sám hối", tức là nghĩa ấy (cuối quyển ba đầu quyển 4). Từ "nay tôi cúng dường..." Trở xuống ba mươi lăm hàng nói về sự cúng dường các Đức Phật. Nguyên nhân cúng dường ấy là mình vốn ngu si ám độn nhờ được chỉ bày Sám hối, ân này sâu nặng cho nên phát khởi cúng dường. Văn chia làm hai:

1. Một bài nói về tài vật cúng dường.

2. Ba mươi bốn bài nói về pháp cúng dường.-Pháp cúng dường chia làm hai đoạn:

1. Tám bài rưỡi đầu nói về pháp cúng dường hóa độ người khác, pháp cúng dường thuận theo pháp môn từ bi của Như lai, ấy là lợi ích cho chúng sinh, đó là hóa độ người khác tu pháp cúng dường.

2. Hai mươi lăm bài rưỡi sau là nói về pháp cúng dường, tự mình thực hành, pháp cúng dường thuận theo pháp môn trí tuệ của Như lai, tu công đức Thập Địa, đó là tự mình thực hiện pháp tu cúng dường. Trong các cách cúng dường thì pháp cúng dường là cách cao tột bậc nhất, tài cúng, pháp cúng, sự lý, tự tha thảy đều đầy đủ. Về pháp cúng dường hóa độ người khác, văn chia làm hai:

21. Nói về hóa độ người:

1) Bốn bài đầu là hóa độ người khác, giúp họ tu hạnh đó.

2) Bốn bài rưỡi sau là hóa độ người khác, giúp họ tu pháp Sám hối. Đầu tiên là người tu hành, mình tự đạt được Thập Địa nhờ pháp cúng dường, nay lại hóa độ người khác, dạy họ tu pháp cúng dường, giống như từ một ngọn đèn thắp lên trăm ngàn ngọn đèn, nơi tối tăm đều sáng tỏ mãi mãi không hết. đó có bốn nghĩa:

1. Nói bắt đầu hóa độ dùng tâm đại bi nhổ sạch cội gốc đau khổ.

2. Khuyến khích tu nhân chân thật là hạnh Thập Địa.

3. Khuyến khích tu quả chân thật là Đại Giác Bồ-đề.

4. Khuyến khích tinh tiến thúc đẩy để mau chóng thành tựu. Vì đều là chúng sinh cho nên tánh ham muốn đều như nhau, khéo léo độ một người thì nhiều người cũng vậy, không tính toán công lao, chứa nhóm công hạnh phước đức, công đức thành tựu quả Đại giác là trí đức tròn đầy, hết tất cả khổ tức là đức dứt tròn đầy. Văn hiển bày rõ ràng không cần phải giải thích nhiều. Quán tâm là điều hòa một niệm tâm, khiến cho châu minh phát khởi, nhậm vận thành tựu chân quả; điều hòa tất cả các tâm sở cũng giống như vậy. Bao nhiêu trần lao của chúng đệ tử tùy ý mà chuyển đổi, chính là nghĩa này. Bốn bài rưỡi sau là hóa độ người khác giúp họ tu pháp Sám hối.

22. Hóa độ mãi không dứt:

Mình được Đức Phật chỉ dạy Sám hối, liền đem pháp Sám hối chỉ bày cho người khác, lớp lớp thắp sáng vô lượng ngọn đèn, hóa độ mãi mãi không dứt. Văn có ba ý:

1) Muốn nói pháp Sám hối cho người khác nghe.

2) Chính là nói pháp Sám hối cho người nghe.

3) Nói pháp Sám hối xong lại giải thích.

Ngàn kiếp là giả dùng số nhiều để nói lên năng lực rộng lớn của Sám hối, giống như người ác gây ra tội lỗi chồng chất như núi có thể thoát khỏi tai họa bị nhà vua xử phạt, lại còn chia đôi lãnh thổ để ban thưởng, lẽ nào lại hỏi tội lỗi trước đó của họ hay sao?

23. Tự mình tu pháp cúng dường:

Nếu ngàn kiếp gây ra các tội nghịch, tuy là sâu dày nhưng vị vua pháp tánh có khả năng làm cho trừ sạch, từ trong kho Như lai hiển bày thành tựu Pháp thân, Đại giác sáng rực tự tại vượt lên, lẽ nào sau đó bị ràng buộc bởi năm nghiệp Vô gián hay sao? Từ "ta sẽ an chỉ..." trở xuống hai mươi lăm bài rưỡi là tự mình tu pháp cúng dường, văn chia làm hai đoạn:

1. Năm bài đầu là tự mình tu hành.

2. Hai mươi bài rưỡi tiếp sau là tự mình tu Sám hối. Phần tự sám trước đây đã xong. Nay sao lại tiếp tục Sám hối? Giống như người thợ bạc, từ lúc mới học nghề cho nên khi đầu bạc, vừa thiêu đốt, rèn đập thành đồ vật mới nghỉ ngơi, tu hành giống như trí thiêu đốt, tu sám giống như đoạn chế tạo trí đoạn đến đỉnh điểm mới dừng lại. Nói lại không hề sai lầm, trước đây là tu hành môn, nay là pháp cúng dường môn, là khác nhau. Tự tu hành lại chia làm ba:

1. Một câu là nêu chương, tức là: "ta sẽ an chỉ".

2. Tu nhân, tức là Thập địa.

3. Thành quả tức là quả Phật Bồ-đề.

Châu báu tức là nhân Thập địa đáng quý vô cùng, các địa chính là châu báu. Nói về chân đứng. Thập địa là nền tảng vững chắc của quả vị, cho nên gọi là chân đứng. Lại nữa, mười độ là chân đứng của Thập địa, đối với các công đức khác không vì thế mà không tu, tùy theo khả năng mà dùng đàn làm chân cho Sơ Địa, đàn và chân nếu đầy đủ thì được nhập vào Sơ Địa, cho đến trí độ mà chân đầy đủ thì được đi vào Thập địa, vì thế mười độ là chân đứng của Thập địa. Trong quả có luận chung về quả mãn và nói riêng về quả mãn, y cứ theo văn rất dễ hiểu.

24. Nói về tự tu sám Phật:

Công đức, ánh sáng là hai thứ trang nghiêm về mặt quả. Giúp cho chúng sinh vượt qua biển tức là xoay bánh xe pháp trong quả. Từ "các Đức Phật Thế Tôn..." trở xuống hai mươi bài là nói về tự tu sám Phật. Văn chia làm hai:

1. Một bài đầu là thỉnh.

2. Mười chín bài rưỡi về Sám hối. Sám hối chia làm năm đoạn: đầu tiên bốn bài rưỡi là phần Sám hối về nói báo chướng, tiếp theo một bài rưỡi nói về Sám hối phiền não chướng, kế là sáu hàng nói về Sám hối nghiệp chướng, kế là hai bài nói về hồi hướng, kế là năm bài rưỡi Sám hối hai nạn thiện ác. Ngay nơi báo chướng, văn lại chia hai:

1. Hai bài rưỡi nêu ra tướng của báo chướng.

2. Hai bài thỉnh dứt trừ.

Trăm kiếp tức là thời gian thọ báo; trong thời gian thọ thân, thân chính là Báo, bảo có sở tác, tạo tác tức là chướng, nghèo cùng khốn khổ là y báo không đầy đủ, cũng là báo chướng. Buồn rầu sợ hãi bởi vì bên ngoài đầy dẫy sự nghèo cùng cho nên bên trong khổ não kinh sợ trăm kiếp gây ra các điều ác, tức là tưởng hành ấm khổ. Nghèo cùng khốn khổ tức là sắc ấm khổ. Buồn rầu sợ hãi tâm thường yếu hèn tức là thức ấm khổ. Không lúc nào an vui tức là thọ ấm khổ. Đây đều là ý của báo chướng.

25. Nói về chướng phiền não:

Kế là phiền não chướng, văn chia làm hai:

1. Hai câu nêu ra tướng.

2. Một bài là khất cầu sự thanh tịnh.

-Kế là nghiệp chướng, văn chia làm ba:

1) Hai bài nói về ba đời tạo nghiệp.

2) Hai bài nói rộng về hiện tại phát khởi mười điều ác.

3) Hai bài cầu xin Sám hối ba nghiệp quá khứ.

Nay đang thọ nhận gọi là báo chướng, chưa thọ nhận là thuộc về hành nhân, nếu tu tập thiện đạo thì làm cho chướng ngại.

26. Hỏi đáp về vì sao phải sám hối vị lai:

Hỏi: Quá khứ, hiện tại cần phải Sám hối, còn vị lai chưa có thì tại sao nói Sám hối?

Đáp: Bên số gia gọi là vị lai có, bên Luận gia nói là sẽ có. Đại kinh nói: "Ngăn dứt vị lai cho nên gọi đó là sát, hiện tại niệm niệm diệt thì nơi nào có thể sát, chẳng chỉ có ngăn dứt vị lai mới gọi là Sát". Kinh luận đều cho vị lai là có, cho nên cần phải Sám hối. Nay lại nêu ra sự việc hiện tại để thí dụ, như người thế gian hết cách sinh sống mới khởi lên vô lượng niệm ác, sự việc tuy chưa có nhưng thứ lớp chắc chắn trải qua, bỗng nhiên phát tâm lìa bỏ gia đình để tu đạo, ý niệm trước đây hoàn toàn khác so với duyên; nghiệp của vị lai cũng sẽ như thế, tuy chẳng phải là hiện có nhưng khi cơ hội đến chắc chắn sẽ như vậy, nay nếu như Sám hối thì vốn là thanh tịnh. Mở bày rộng về ba nghiệp hiện tại gây ra mười điều ác có thể hiểu. Xa lìa là dứt bỏ điều ác, tu hành tức là nuôi lớn điều lành, Thập Trụ là nhân vị của sơ tâm, đãi thập lực là về sau quả tròn đầy.

27. Nói về hồi hướng:

Tiếp theo nói về hồi hướng-chúng sinh ngang bướng cho nên yêu đắm đối với hữu mà không thể thoát ra, dạy Sám hối tội lỗi này nên gọi là hồi hướng. Nơi khác dùng "hoặc cõi nước này và thế giới khác" là văn nói về vui theo, ý này không đúng. Cõi này và phương khác hễ làm được điều lành nào đều bố thí cho chúng sinh cùng hướng về Phật đạo, như âm thanh thổi vào rừng thì có thể nghe xa hơn, lực phương tiện to lớn sánh bằng hư không. Lại nữa, văn kết thức nói: "Đều là hồi hướng không được vui theo". Ở văn sau sẽ giải thích về vui theo.

28. Giải thích tám nạn:

Giải thích về tám nạn, đây là luận về tám nạn trong thiện và ác, không phải là tám nạn như trước Phật sau Phật. Văn chia làm hai: bốn bài đều chỉ ra ác là nạn, một bài rưỡi kế là chỉ ra ác che lấp thiện là nạn, hoặc chỉ ra thiện che lấp đạo là nạn. Một bài đầu là nạn của báo chướng. Các Hữu tức là hai mươi lăm Hữu, Thân báo đắc gây ra nhiều điều ác, đâu chẳng phải là nạn của báo chướng hay sao? Sinh tử hiểm nạn có hai cách giải thích, nếu giữ lấy nhân tức là nghiệp chướng, hoặc giữ lấy quả tức là báo chướng, các loại dâm dục tức là phiền não chướng.

29. Nói về ba chướng:

Tâm hấp tấp vội vàng là báo chướng, hấp tấp vội vàng là giác quán, giác quán thuộc về pháp báo, như Lahán dứt sạch phiền não, ra khỏi quán còn có gián quán tám tâm, nên biết rằng hấp tấp vội vàng là báo chướng chứ chẳng phải là phiền não. Lại nữa, nêu ra sự học vấn của người thế gian hồi chuyển dễ sai lầm, không thành nghiệp chướng đều do lỗi của sự hấp tấp vội vàng, đâu chẳng phải là chướng hay sao? Nạn gần bạn xấu là bạn bè xấu ác làm ô nhiễm ba nghiệp của người, đây thuộc về nghiệp chướng, như di chuyển chuồng ngựa đến cạnh lò mổ, như Mạnh Mẫu ở gần nơi buôn bán, son đỏ mực đen tức là nghĩa ấy. Ba độc là phiền não chướng. Từ "cái khó về gặp việc vô nạn..." trở xuống có hai nghĩa:

1. Nếu không tu điều lành thì chướng nạn không dấy lên, nếu muốn tu điều lành thì ác nạn liền sinh ra, điều lành chẳng phải là chướng điều ác lại đến ngăn trở điều lành gọi điều lành là nạn, nghĩa này dễ hiểu nên người bình thường đều hiểu theo cách này.

2. Chỉ các điều lành là nạn, điều lành làm chướng đạo, lẽ nào chẳng phải là nạn hay sao? Nghĩa này nay sẽ nói. Tai nạn về gặp việc vô nạn là tự cho rằng mình không có điều ác nên không chịu tu tập điều lành, như hàng Nhị thừa đi vào không nên phát sinh ý tưởng diệt độ, phát sinh ý tưởng an ổn mà không quay lại tiến cầu

Bồ-đề, tức là nghĩa ấy tai nạn về tu công đức là thường thực hành pháp hữu vi để cầu kết quả như ý, như có một vị Tỷ-kheo chuyên chú làm điều phước đức mà không tu tập giới cấm, đọa trong loài voi trắng, thân đeo ngọc bảy báu, chén vàng đựng phân, lại như bổn sự vua Diệu Trang Nghiêm Vương... đâu chẳng phải là nạn của sự tu tập công đức hay sao? Cái khó về gặp được lúc tốt là như lúc kiếp ở Uất-đan-việt thì luôn luôn thọ nhận vui sướng hoàn toàn không hề tu đạo, há chẳng phải là nạn của sự gặp thời thế tốt đẹp hay sao? Gặp Phật ra đời cũng là nạn nữ.

30. Nói về sự khen ngợi:

Bà-la-môn tên Chiên-già, Thiện Tinh, Điều Đạt... đều là gặp Phật nhưng lại là tai họa. Những ví dụ này nên nói: gặp pháp khởi tâm chê bai, gặp tăng khởi tâm phá hoại đều là nạn cả. Nếu đọc là Nan của nan dị (khó dễ) thì đây là nghĩa điều ác đến ngăn trở điều lành, khiến cho điều lành khó thành tựu, nếu đọc là Nạn của chướng nạn thì đây là điều lành tự nó là tai họa, bởi vì làm cho chướng ngại đạo. Còn theo văn kinh chép: "Các nạn này đều Sám hối", nên biết rằng kinh lấy nghĩa Nạn của chướng nạn. Từ "các Đức Phật Thế Tôn là chỗ y chỉ của ta" trở xuống là bài hai mươi mốt bài là phần thứ ba nói về sự khen ngợi, đó là nói về thứ lớp. Pháp tài cúng dường trước đây là thân và ý, thân và ý không hoặc lậu, không đầy đủ, nay lại dùng miệng để ca ngợi. Nếu nói về pháp môn, văn chia làm ba phần:

1. Một bài là nêu thứ lớp khen ngợi.

2. Mười chín bài chính là khen ngợi.

3. Một bài là kết thúc sự khen ngợi.

31. Nói về ba thân:

Nêu các Đức Phật, chiều ngang là mười phương, chiều dọc là ba đời, sự tức là Báo thân và Ứng thân, Lý là pháp thân. Lời sơ lược mà ý bao la, là sự tuyệt diệu của nêu chương. Chỗ y chỉ của ta là nương vào một thể ba Phật của pháp tánh. Biển Phật là bốn nhãn hòa vào Mắt nhãn, mười trí hòa vào trí như thật, đều mất đi tên gọi vốn có mà chỉ gọi là Mắt nhãn Phật trí; như vật ném vào đường phèn, như sông hòa vào biển. Đều vừa ngọt vừa mặn là pháp tánh ba Phật thâu nhiếp tất cả các pháp nên gọi là biển Phật. Ngay nơi phần chính là khen ngợi chia làm hai đoạn:

1. Mười lăm bài rưỡi là khen ngợi nhờ vào lời nói.

2. Ba bài rưỡi là bặt dứt lời nói khen ngợi.-Nhờ vào lời nói lại có hai:

1. Một bài sơ lược khen ngợi, sơ lược so sánh.

2. Mười bốn bài nói rộng về khen ngợi và so sánh.

32. Khen ngợi màu vàng ròng của thân Phật:

Lược khen ngợi là sơ lược khen ngợi màu vàng trong các tướng tốt, Thích Luận dùng sắt tức thời để so sánh tức thời vàng, vàng tức thời so sánh với vàng biển, vàng biển so sánh vàng rồng, vàng rồng so sánh Diêm-phù-đề châu Kim, Diêm-phù-đề châu sáng với vàng của bốn vị, xoay vần như thế cho đến so sánh tầng Trời thứ sáu Kim, tầng Trời thứ sáu Kim so sánh với thân màu vàng của Phật, thì vàng của tầng Trời thứ sáu như là sắc thép, còn ánh sáng màu vàng nơi thân Phật soi chiếu cùng tận tường vách thành lũy không hề chướng ngại, lúc Đức Phật đi vào thành phát ra ánh sáng soi chiếu mặt đất, một người nữ cúi đầu lễ lạy, chiếc trâm vàng rơi xuống đất, chỉ thấy chói chang, không biết đâu là đất, đâu là trâm vàng. Nhưng thân màu vàng là nơi các tướng y cứ, chỉ nêu ra màu vàng, do đó biết là khen ngợi tất cả các tướng tốt. Vàng có bốn nghĩa: bền chắc không thể phá hủy thí dụ cho Thường, ai có được vàng thì giàu có dụ cho là Lạc, Thể của vàng không dấu vết dơ bẩn dụ cho tịnh, sắc màu đẹp đẽ chói chang dụ cho ngã. Bốn đức này đứng đầu trong các đức. Dụ như núi Tu-di, núi Tu-di tạo thành từ bốn thứ báu, ví như thân Phật đầy đủ bốn đức, cho nên biết là trạng huống chung. Phần khen ngợi rộng ra và so sánh rộng ra, văn chia làm hai đoạn:

1) Mười hai bài rưỡi là khen ngợi rộng.

2) Hai bài rưỡi là so sánh rộng.

33. Khen ngợi rộng về màu vàng vô thượng:

Khen ngợi rộng lại có bốn. Từ "màu ấy vô thượng..." trở xuống hai bài là khen ngợi rộng ra về màu vàng vô thượng, vô thượng là ngã đức; Từ "thanh tịnh vô cấu..." trở xuống ba bài là khen ngợi rộng rãi về màu vàng nơi thân Phật là vô cấu, vô cấu tức là tịnh đức. Từ "công đức vòi vọi..." trở xuống bốn bài là khen ngợi rộng rãi về màu vàng nơi thân Phật có công năng trừ mọi sự khổ đau, tức là Lạc đức. Từ "như nước biển lớn..." trở xuống là thường đức. Từ "trong ba cõi..." trở xuống là so sánh rộng ra. Biển công đức của Phật có suy nghĩ cũng không thể nào biết, mọi ngôn từ không thể nào nói hết; chỗ tâm hành diệt đường ngôn ngữ bặt tức là nghĩa ấy.

Nước trong biển khó biết được so sánh với Thường đức, bụi đất khó biết được so sánh với Tịnh đức, cân núi khó biết được so sánh với Ngã đức, giới hạn hư không khó biết được so sánh với Lạc đức. Từ "các Đức Phật cũng vậy..." trở xuống là hợp dụ. Từ "tất cả có tâm..." trở xuống ba bài là bặt dứt ngôn từ khen ngợi, một bài rưỡi là Điệp văn thí dụ cho thuận theo kết hợp. Tất cả có tâm không thể biết được, tức là bặt dứt suy nghĩ. Suy tư đã bặt dứt thì miệng giảng nói điều gì, tức là dứt bặt ngôn từ. Hơn lại nhắc lại ví dụ cho thuận theo kết hợp, y theo văn rất dễ thấy.

34. Tổng kết Sám hối tội lui sụt:

Từ "tướng tốt trang nghiêm..." trở xuống một bài là phần tổng kết. Tướng là kết tóm tất cả các tướng, tốt là kết tóm tất cả các vẻ đẹp, trang nghiêm là trong mỗi tướng mỗi vẻ đẹp đều đầy đủ các đức để làm trang nghiêm. Từ "ta vì các nhân duyên nghiệp lành..." trở xuống là bài kệ có năm mươi mốt bài rưỡi, là phần phát nguyện thứ tư-Hạnh nếu không có nguyện thì như trâu không người dắt, không thể nào có chỗ đến, như vẽ tranh không có keo, như gạch không nung lửa, như mặt nước không có ánh trăng, vì thế dùng nguyện để giữ hạnh, cũng là Sám hối cái lỗi lui sụt. Văn chia làm hai:

1. Có bốn mươi bảy bài rưỡi nói về phát nguyện.

2. Có bốn bài dựa vào nguyện mà vui theo. Phần phát nguyện lại có hai:

1. Có chín bài là tự mình phát nguyện.

2. Có ba mươi tám bài rưỡi là phát nguyện vì người.-Phần tự mình phát nguyện lại chia hai:

a. Bốn bài nguyện đạt quả rốt ráo;

b. Năm hàng nguyện cho nhân trọn vẹn. Phần nguyện đạt được quả rốt ráo lại có bốn:

1. Một bài thành tựu Phật đạo là nguyện thỏa mãn ý luận.

2. Một bài nói pháp là nguyện thỏa mãn khẩu luân.

3. Một bài tồi ma là nguyện thỏa mãn thân luân.

4. Một bài trụ thọ được ích là nguyện thỏa mãn tâm từ bi.

-Phần nguyện cho nhân trọn vẹn lại có bốn:

Một bài đầy đủ sáu độ nguyện trọn vẹn công đức hữu vi.

a. Một bài nguyện công đức vô vi trọn vẹn.

b. Một bài túc mạng niệm Phật trọn vẹn.

c. Hai bài được gặp Phật trọn vẹn.

-Phần phát nguyện vì người, chia làm hai đoạn:

1. Tám bài rưỡi trước là nguyện làm thân Dược Thọ Vương để đại bi cứu khổ.

2. Ba mươi bài sau là nguyện làm thân Bảo Châu Vương để đại từ ban vui.

-Phần đại bi cứu khổ lại có bốn:

a. Một bài nhổ sạch chung gốc các khổ.

b. Một bài nhổ sạch gốc khổ các căn không đầy đủ.

c. Hai bài nhổ sạch gốc khổ bệnh tật.

d. Bốn bài rưỡi nhổ sạch gốc khổ tai họa luật pháp.-Phần đại từ ban vui chia làm ba:

1. Mười sáu bài rưỡi là ban an vui cho thế gian.

2. Chín bài rưỡi là ban nhân an vui cho xuất thế gian.

3. Bốn bài là kết thúc thành tựu.

35. Tu đủ duyên bên ngoài, nhân bên trong:

Đại bi cứu khổ ở văn trên là khiến cho người không đầy đủ các căn được đầy đủ, nay đại từ ban vui là khiến cho thấy nghe thông minh sung sướng vui vẻ, các căn thì ngữ giống nhau mà ban vui cứu khổ thì hơi khác. Từ "nguyện các chúng sinh thường được cúng dường..." trở xuống là khiến cho tu hành đầy đủ duyên bên ngoài, kế sáu bài là khiến cho tu hành đầy đủ nhân trong. Duyên ngoại lại có hai:

1. Hai bài là được gặp Tam Bảo.

2. Một bài rưỡi là xa lìa tám nạn.

Nhân duyên không giống nhau, hoặc được gặp Phật mà hoạn nạn không dứt trừ, hoặc hoạn nạn dứt trừ mà không được gặp Phật, nay nguyện cho họ vừa dứt trừ vừa được gặp Phật. Nhân trong lại có hai:

36. Nói về nhân bên trong:

1. Nửa hàng là sinh vào gia đình cao quý.

2. Năm bài rưỡi là tài bảo dồi dào đầy đủ.

Nhân của con người không như nhau, hoặc tài vật sung túc mà dòng dõi thấp hèn, hoặc dòng dõi cao quý mà nghèo cùng khốn khó; nhân không đầy đủ, nay khiến cho họ vừa cao quý vừa giàu có, người nữ có năm việc trở ngại, nguyện cho họ không còn các khổ của năm việc trở ngại. Từ "như ta hiện tại..." trở xuống bốn bài là kết thúc thành tựu tự thệ nguyện, tha thệ nguyện. Từ "như cõi Diêm-phù-đề này..." trở xuống bốn bài là tùy hỷ theo nguyện. Tùy hỷ là chúc mừng sự tu hành của người, cũng là Sám hối tội lỗi về sự ganh ghét.

37. Kết thúc thành tựu tự tại thệ nguyện: Văn chia làm hai:

1) Hai bài đầu là tùy hỷ theo người.

2) Hai bài sau là tùy hỷ với mình. Từ "Nếu có kính lễ..." trở xuống là bài kệ có chín bài, là phần thứ năm kết thúc thành tựu, văn chia làm ba:

1. Hai bài đầu là kết thúc thành tựu dứt bỏ điều ác, nên nói là vượt ra khỏi tội lỗi trong sáu mươi kiếp.

2. Tiếp theo bốn bài là kết thúc thành tựu sinh khởi điều lành, nên nói là được vua chúa, đại thần, cung kính.

3. Hai bài rưỡi là kết thúc về được gặp nhiều Đức Phật, tuy không nói riêng về Phật là bậc thiện tri thức, nhưng tự đã bao gồm.

-----------------------------

Giải Thích Phẩm TÁN THÁN

1. Nói về khen ngợi:

-Tán thán gồm có bốn ý:

1) Từ người năng tán.

2) Từ sinh điều lành.

3) Từ dứt ác.

4) Từ người sở tán.

1. Từ người năng tán: Phẩm trước nói về Tín Tướng suy nghĩ nghi ngờ đối với tuổi thọ của Phật, bốn Đức Phật đều giảng đến thất, nhất tâm tin hiểu, đêm mộng thấy trống vàng phát ra âm thanh, sáng sớm hướng về núi Kỳ-xà-quật nói về giấc mộng. Phẩm này Đức Phật thuật lại xưa kia nhờ khen ngợi Pháp Vương trước Phật Long Tôn, nguyện con vào thời tương lai đêm nằm mộng ngày kể lại, nói về bổn sự của người ấy cho nên gọi là phẩm Tán Thán.

2. Từ sinh điều lành mà được tên gọi: Điều lành không chuyển vận đơn độc, phát sinh chắc chắn nhờ vào duyên, trong duyên cao đẹp ấy không thể hơn Phật. Long Tôn khen ngợi Phật có khả năng phát sinh điều lành tuyệt vời, từ duyên phát sinh điều lành mà đặt tên, cho nên gọi là phẩm Tán Thán.

3. Từ dứt ác mà được tên gọi: Tội lỗi lớn nhất không gì hơn chê bai Phật, nếu trở lại dứt trừ tội lỗi ấy thì cần phải khen ngợi, khen ngợi chữa trị sự chê bai, từ khả năng chữa trị mà được tên gọi cho nên nói là phẩm Tán Thán.

4. Từ người sở tán mà được tên gọi: Tức là các Đức Phật trong ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, các Đức Phật rất tôn quý sâu xa, vô lượng xưng dương, hiển bày giảng nói, cho nên gọi là phẩm Tán Thán. Nếu muốn phân biệt nào thuật rõ công đức gọi là Tán, nêu thí dụ gọi là Thán, cũng thay đổi phân biệt lẫn nhau. Thích Luận quyển ba mươi chép: "Ngợi khen công đức gọi là Tán, Tán chưa đủ lại tiếp tục xưng dương gọi là Thán". Phẩm này sự cung kính thuộc về thân nghiệp, tôn trọng thuộc về ý nghiệp, khen ngợi thuộc về khẩu nghiệp. Khẩu nghiệp không phát khởi thì thân và ý không thỏa mãn, vì thân ý thỏa mãn nên lấy âm thanh làm Phật sự, cho nên xưng dương hiển bày giảng nói khen ngợi công đức chân thật của Như lai, vì thế nói là phẩm Tán Thán.

2. Về việc đặt tên phẩm này:

Kết luận về bốn nghĩa này, đều là nhân duyên bốn tất-đàn nên lập tên gọi phẩm này, do đó gọi là phẩm Tán Thán. Phẩm này tuy từ bốn tất-đàn mà đặt tên, nhưng chính xác là cái dụng của sinh điều lành, văn chia làm hai phần: một là văn xuôi, hai là kệ tụng. Đối với Thần đất mà nói, Thần đất là người đứng đầu quả đất, mỗi công hạnh của Bồ-tát đều nương nhờ trước tiên là mặt đất, tuổi thọ lâu dài, thấy rõ mọi sự việc ở quá khứ vị lai và hiện tại, việc chứng nghĩa nhớ lại, như kinh Thụy Ứng chép: "chứa nhóm công đức ai làm chứng? Đức Phật liền chỉ vào đất", cho nên nay ta nói sự việc xa xưa của Phật Kim Long Tôn. Cho nên nói với Thần đất. Còn đối với Thiện Nữ Thiên thì Nam Thiên là dương, biểu thị cho quyền, Nữ Thiên là âm, biểu thị cho Thật. Thật trí luôn luôn phát sinh những điều lành, vì điều lành phát sinh nên nói với Thiện Nữ, vì chứng minh việc xưa nên nói với Kiên lao...

3. Đặt tên theo hạnh:

Nay nói về công dụng của việc sinh thiện, cho nên nói với Thiện Nữ. Kim Long Tôn vị vua này xưa kia tu tập pháp môn Kim Quang Minh nương theo lý pháp tánh cho nên nói là Kim, thường dùng trí tuệ để khen ngợi các Đức Phật ba đời, biện luận như mây giăng mưa đổ nên gọi là Long, thường làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh, được mọi loài kính ngưỡng nên gọi là Tôn, theo hạnh mà đặt tên nên gọi là Kim Long. Kệ có sáu mươi hai bài rưỡi chia làm ba đoạn:

1. Có ba mươi ba bài khen ngợi các Đức Phật ba đời. 2. Có hai mươi bảy bài rưỡi phát nguyện ở đời vị lai.

3. Có hai bài kết hợp sự việc ở hai đời.

-Trong phần khen ngợi các Đức Phật, văn chia làm năm:

1. Một bài rưỡi là khen ngợi chung.

2. Hai mươi ba bài kế hàng là khen ngợi riêng.

3. Ba bài kế là khen ngợi khắp mọi loài.

4. Năm bài rưỡi là dứt bặt ngôn ngữ khen ngợi.

5. Tiếp theo hai bài là hối hướng, khen ngợi chung.

4. Khen ngợi riêng các tướng:

Dọc tóm thâu ba đời, ngang bao trùm mười phương. Thế giới là tóm thâu về Sự, nhiệm mầu vắng lặng là bao trùm về Lý. Bao trùm về Lý là toàn bộ pháp thân, tóm thâu về sự là toàn bộ hai thân Báo-Ứng. Khen ngợi chung về ba thân, cũng là khen ngợi chung về các loại ba pháp môn như ba đức, ba ngôi báu...Như vậy tất cả các Đức Phật đều thanh tịnh. Thanh tịnh tức là lời khen ngợi chung, chẳng những thanh tịnh mà cũng là Thường, Lạc, Ngã... Từ "thượng sắc trong các Sắc..." trở xuống có hai mươi ba bài là khen ngợi riêng trải qua các tướng, xem trong văn đó chia là sáu ý: đầu tiên là sáu bài rưỡi khen ngợi biển có bảy tướng lớn, khen ngợi vẻ đẹp màu xanh của mái tóc, kế là hai bài khen ngợi biển có tướng nhỏ, tiếp theo hai câu khen ngợi cùng khắp biển có các tướng lớn; tiếp theo mười ba bài khen ngợi cùng khắp biển có các tướng lớn, tiếp theo hai câu khen ngợi về biển có một tướng nhỏ, tiếp theo hai câu khen ngợi tay chân mềm mại lại là một tướng biển lớn. Vì sao? Vì tướng nhỏ, tướng lớn lại cùng nhau trang nghiêm thân Phật, Long Tôn với trí tuệ tuyệt vời đúng như pháp hiểu rõ tướng, đúng như pháp khen ngợi các tướng cho nên tướng lớn, tướng nhỏ đan xen lẫn nhau mà khen ngợi như thế. Tướng tốt vốn là trang nghiêm thân Phật, thân Phật có nhiều loại: thân cha mẹ sinh ra, thân tôn đặc, thân pháp tánh, thân đã khác nhau thì tướng tốt cũng khác nhau, mỗi tướng khác nhau thì tướng dụng cũng khác nhau, tướng dụng khác nhau thì tướng nghiệp cũng khác nhau. Ba thân khác nhau như ở vườn Lâm-vi-ni đưa tay vịn cành, hóa sinh từ hông phải, trời đất rung chuyển dữ dội A-di rất kinh hãi, mở ra thu lại mà là tướng, mỗi tướng sáng sủa rõ ràng, chắc chắn thành Phật, buồn đau không thể lên tiếng, đây là tướng của sinh thân Phật.

5. Dẫn thích luận chứng minh:

Như Thích Luận nói: Thân tôn đặc của Phật uy nghi lồng lộng, giống như bóng núi Tu-di đứng trên biển lớn, tướng lớn tướng nhỏ vốn có cũng uy nghi lồng lộng, không giống thân bình thường-ánh sáng bình thường và tướng ánh sáng bình thường; đây tức là thân tướng tôn đặc của Phật. Pháp tánh thân Phật là thân mà hàng phàm phu, Nhị thừa hạ địa không thể nhìn thấy, chỉ có người cần phải độ thì được nhìn thấy, đây tức là thân của vô thân-tướng của vô tướng, trí nhất thiết đứng đầu, nghĩa đế bậc nhất làm búi tóc, tám mươi bốn ngàn pháp môn làm tóc, đại bi nhãn trung đạo là lông trắng, vô lậu là mũi, mười tám không là lưỡi, bốn mươi bất cộng là răng, bốn thệ nguyện rộng lớn là vai, ba Tam-muội là lưng, Như lai tạng là bụng, trí quyền thật là tay, định huệ là chân, các tướng như vậy trang nghiêm thân pháp tánh của Phật.

6. Lại dẫn thích luận:

Về Chủng tướng nghiệp, như Thích Luận nói: Tu trăm phước đức thì thành một tướng, ba ngàn hai trăm phước đức thì thành ba mươi hai tướng đây chính là nghĩa chủng tướng của sinh thân Phật. Nếu dùng không tuệ dẫn dắt các tướng nghiệp thì mỗi nghiệp đều tương ưng với không. Trong các tương ưng thì tương ưng không là bậc nhất; đây là nghĩa chủng tướng thân tôn đặc của Phật. Nếu dùng Tướng thật tuệ dẫn dắt thành tựu các nghiệp thì mỗi nghiệp không nghiệp nào chẳng phải là Tướng thật pháp giới, đây là nghĩa chủng tướng thân pháp tánh của Phật. Ba thân ba chủng tướng, ba chủng tướng nghiệp không được ngang dọc khác nhau, nếu là một-khác thì ngôn ngữ, ngôn từ khen ngợi không hề sánh được... Kinh này đích thực ngợi khen tướng của thân tôn đặc, trên bao gồm pháp tánh, dưới thâu nhiếp sinh thân, ở trong sự tuyệt vời đó mà nói về thật khen ngợi...

7. Mỗi tướng đều nói về dụng:

Mỗi tướng đều nói về dụng ấy, như tướng bằng phẳng đầy đặn dưới lòng bàn chân, khiến cho tất cả ma tà không thể làm nghiêng động, tất cả hữu vô không thể nào lay chuyển, tất cả các bên không thể nào lung lạc, như tướng nhục kế trên đỉnh, pháp không lễ người thường, cũng không lễ bậc Thánh, cũng không lễ lạy phần trung gian, có nơi phát xuất riêng... Từ "các Đức Phật quá khứ, vị lai" trở xuống là phần ba khen ngợi khắp các loài. Pháp thân các Đức Phật bình đẳng cùng một tâm một tuệ. Ứng Hóa cũng giống như vậy, đặc biệt nêu ra mỗi Đức Phật một tướng để làm đầu mối khen ngợi, các Đức Phật khắp mọi chủng loại cũng giống như vậy. Văn kinh-thù Vấn Bát-nhã chép: "Niệm công đức của một vị Phật bằng với niệm công đức của Đức Phật mười phương", tức là nghĩa ấy. Thân, miệng thanh tịnh có hai cách giải thích: Một nói rằng-Sở tán là ba nghiệp thanh tịnh, nay ta kính lễ tất cả, hai nói rằng-Năng tán là thanh tịnh, dùng hương hoa tươi đẹp là thân thanh tịnh, cung kính cúng dường ý thanh tịnh, ca tụng khen ngợi là miệng thanh tịnh...

8. Dứt bặt ngôn từ khen:

Từ "Dù dùng trăm lưỡi..." trở xuống là phần thứ tư, dứt bặt ngôn từ khen ngợi: ba bài rưỡi đầu là bặt dứt ngôn từ khen ngợi; hai bài tiếp theo là bặt dứt tâm tư khen ngợi. Có ba lần là hoặc nên giống như ba thân bặt dứt ngôn từ. Một người trăm đầu, mỗi đầu có trăm miệng, mỗi miệng có trăm lưỡi, tuổi thọ trụ trong ngàn kiếp khen ngợi công đức tướng tốt của sinh thân Phật cũng không thể nào hết được. Một người ngàn đầu, mỗi đầu có ngàn miệng, mỗi miệng có trăm lưỡi, tuổi thọ sống lâu muôn kiếp khen ngợi công đức tướng tốt của thân Phật tôn đặc cũng không thể nào cùng tận được. Mặt đất và cõi trời dùng mảy lông chấp lấy nước trong biển lớn, tất cả loài có tâm không thể nào biết được công đức tướng tốt nơi thân pháp tánh của Phật. Vì thế cho nên dứt bặt ngôn từ dứt bặt tâm tự ngợi khen.

9. Rộng phát nguyện vị lai:

Từ "Nay tôi..." trở xuống có hai mươi bảy bài rưỡi là phần hai, rộng phát nguyện vị lai, văn chia làm hai: một là hai bài nguyện chung, hai là hai mươi lăm bài rưỡi phát nguyện riêng. Phát nguyện lại có hai: a. Một bài là Đức Phật thuật rõ; b. Hai mươi bốn bài rưỡi là Long Tôn phát nguyện. Văn chia ra năm nguyện riêng: năm hàng đầu là nguyện đêm mộng ngày kể lại, hai bài kế là nguyện vì người nhiếp lấy Tịnh độ, kế là hai bài rưỡi là nguyện đắc quả. Trong đó giải thích tỉ mỉ có thể tìm thấy.

Hỏi: Các nguyện đều sâu sắc, trong đây sao không thọ ký?

Đáp: Pháp kết bạn với vị lai, ở nơi vị lai không lâu... Từ "Tín Tướng nên biết..." trở xuống hai bài là phần ba kết hợp xưa nay, như trong văn.

QUYỂN 4

Giải Thích Phẩm KHÔNG

1. Nói về bốn thứ không:

Nói về Không đáng lẽ có bốn thứ, đó là Diệt Sắc Nhập Không, ngay nơi sắc là không, Diệt Biên nhập không, và ngay nơi Biên là không. Kinh này có cả sự Sám hối của các thừa, nên phải có bốn thứ Không; nhưng phẩm này chỉ nêu Không là chú trọng đến ngay nơi biên là không. Vì sao? Vì kinh nói: "Vô lượng các kinh khác đã nói nhiều về không, vì thế cho nên trong đây giải thích lược". Lại nữa, không là không hữu không vô. Không hữu là không có hai mươi lăm hữu, không vô là không có cái vô tro than của Nhị thừa, hai bên đều thanh tịnh đó gọi là không. Thẳng thắn mà nói lời này, nếu nghi ngờ thì mê muội tên gọi, lạm dụng lý lẽ, không thể nào hiểu rõ được. Nay chia thành sáu câu: Không này bác bỏ chẳng phải hữu chẳng phải vô, chẳng phải hữu chẳng phải vô phá Không, Không tu chẳng phải hữu chẳng phải vô chẳng phải hữu chẳng phải vô tu không. Không tức chẳng phải hữu, chẳng phải vô chẳng phải hữu chẳng phải vô tức không, Không bác bỏ chẳng phải hữu chẳng phải vô. Cái gọi là phàm phu ngoại đạo chấp chẳng phải hữu chẳng phải vô, Nhị thừa nghiêng trụ trong cái chứng đắc chẳng phải hữu chẳng phải vô. Biệt giáo giáo đạo chấp vào pháp môn chẳng phải hữu chẳng phải vô, đều là cái không mà phẩm không phá trừ. Kiến chấp của phàm phu ngoại đạo có nhiều thứ:

2. Các chấp của phàm phu, ngoại đạo:

- Bốn cái thấy đơn độc.

- Bốn cái thấy phức tạp.

- Bốn cái thấy đầy đủ.

Bốn cái thấy đơn độc rất dễ hiểu. Bốn cái thấy phức tạp nghĩa là có cái có hữu vô, chẳng có cái vô vô, vừa có vừa vô cái hữu, vừa có vừa vô cái vô, chẳng phải có chẳng phải vô cái hữu, chẳng phải có chẳng phải vô cái vô. Cái thấy phức tạp này ẩn chứa loại thứ năm không thể nói. Đầy đủ bốn câu ấy là ở trong một câu có đủ bốn câu, bốn bốn thành mười sáu câu, cho nên gọi là đầy đủ. Tuy đơn độc-phức tạp-đầy đủ đều là khổ-tập mênh mông, tuy cho rằng là chẳng phải hữu chẳng phải vô, nhưng thật sự chỉ là cái thấy luống dối, cho nên là cái bi không bị của phẩm phá trừ Không. Nhị thừa nghiêng trụ trong cái chứng đắc chẳng phải hữu chẳng phải vô. Vì dứt bỏ chấp thường cho nên nói chẳng phải hữu, vì dứt bỏ Chấp đoạn cho nên nói chẳng phải vô, hai chấp hữu vô dứt hết không còn sót.

3. Nói vì A-la-hán:

Kiến, tư ba cõi hết hẳn không còn, sinh ra ý tưởng diệt độ, sinh ra ý tưởng an ổn, phạm hạnh đã lập, việc phải làm đã làm xong, không chịu thân hậu hữu, chỉ giữ lấy cái hiện tại mà thôi, không còn tiến lên cầu Tam-miệu Bồ-đề, nhưng hàng Nhị thừa phát chân, dứt bỏ Chấp thường, dứt bỏ chấp đoạn, pháp môn khác nhau, hoặc từ Hữu môn đi vào như A-tỳ-đàm, hoặc từ vô môn đi vào như luận Thành thật, hoặc từ diệc hữu diệc vô môn đi vào như luận Côn-lặc, hoặc từ phi hữu phi vô môn đi vào như kinh Na-đà-ca-chiên-diên. Lìa đoạn, lìa thường gọi là trung đạo của bậc Thánh, bổn môn đều dứt chấp đoạn. Thường gọi là đồng trung đạo, thật ra là giữ gìn thiên lệch chấp lấy chứng đắc, cho nên là cái bị không của phẩm phá trừ không. Biệt giáo giáo đạo chấp vào pháp môn chẳng phải hữu chẳng phải vô: Phật vì hàng Bồ-tát độn căn, phương tiện khéo léo mở bày bổn môn giảng nói trung đạo, như các thí dụ kia, người không được vừa ý với bốn môn nên trở thành tranh cãi, vì thế kinh Niết-bàn chép "Chân thiện diệu hữu, đại bát Niết-bàn không". Phật tánh cũng là sắc, chẳng phải là sắc, chẳng phải sắc chẳng phải chẳng phải sắc, nếu đều chấp lấy một môn thì đối với Như lai có tâm tranh luận, không thấy trung đạo, chấp vào pháp môn này, vẫn cái không của phẩm không phá trừ. Bảo mới dịch chép: Bồtát Sơ địa muốn hành đạo hữu tướng, đó chính là ý của một môn". Trong văn đều có nói về bốn môn, Đại kinh chép: "Trước đây ta đều gọi là người tà kiến".

4. Phàm phu ngoại đạo chấp không:

Chẳng phải hữu chẳng phải vô phá không: Lại là cái chấp không của phàm phu ngoại đạo, chứng đắc về không của Nhị thừa, pháp môn về không của giáo đạo, rơi vào hai bên, cho nên bị Trung đạo chẳng phải hữu chẳng phải vô phá trừ. Tương tu là thấy không, chứng không, giáo đạo không, cần phải tu trung đạo chẳng phải hữu chẳng phải vô, thấy chẳng phải hữu chẳng phải vô, chứng chẳng phải hữu chẳng phải vô. Tương tức là phá trừ cái không của hai bên, tức là trung đạo chẳng phải hữu chẳng phải vô. Trung đạo chẳng phải hữu chẳng phải vô tức là phá cái không hai bên, không hai không khác, Bát-nhã là một pháp, Phật nói các thứ gọi là không tức là chẳng phải hữu chẳng phải vô, những không dùng Phi hữu phi vô làm tên gọi, ấy là vì lược nói, do đó nói phẩm Không. Ý của phẩm này là phá trừ điều ác của phẩm Sám hối, phát sinh điều lành khen ngợi của phẩm, phẩm không dẫn dắt thành tựu sự diệt ác sinh thiện, cũng là dẫn dắt thành tựu các Dụng – Tông-Thể... Do đó Thích Luận chép: "Nếu vì chẳng có cái không này thì tất cả đều không cần làm" dẫn dắt thành tựu phẩm trên cho nên nói phẩm không. Lại nữa, quả Thường nói lên thể, diệt ác sinh thiện đều nói về không, người căn cơ bén nhạy đã hiểu, vì hàng căn cơ chậm chạp cho nên khởi tâm đại bi, tiếp tục nói về "năm ấm sinh pháp, bổn tánh vắng lặng" (Cuối quyển bốn-đầu quyển năm). Phẩm này có bài kệ bốn mươi lăm, chia làm hai đoạn: bốn bài rưỡi đầu tiên là sắp nói về không, bốn mươi bài rưỡi tiếp theo chính là nói về không.

5. Nói về kinh khác:

Vô lượng các kinh khác ấy chỉ cho rộng mà nói hẹp, cũng là nêu lược để hiển bày cái rộng lớn. Nếu nhằm vào Bát-nhã thì kinh này không thuộc về Phương đẳng, nếu không nhằm vào Bát-nhã thì các kinh không nói rộng về nghĩa của không, điều này thế nào?

Đáp: Vì phần trước của các kinh người kiết tập phải thực hiện theo thứ lớp, nhưng phần sau đó đều xếp vào những trường hợp trước, tạm thời nêu ra một để so sánh nhiều, như kinh A-hàm chép: "Phật sắp Niết-bàn, Xá-lợi Phất không đành lòng nhìn thấy Phật diệt độ, nên nhập diệt trước Phật, cùng dẫn đầu mang y bát đi đến chỗ Đức Phật": Đây là sự cuối cùng, nhưng kiết tập trong A-hàm vào hai mươi năm trước, nên biết rằng phần sau A-hàm là đến Niết-bàn. Còn thứ lớp của Phương Đẳng là ở trước Pháp Hoa, nhưng nói "Đầu tiên tại Linh Sơn đã thọ ký cho hàng Thanh văn", há chẳng phải Phương Đẳng rồi đến Niết-bàn hay sao? Lại nữa, thứ lớp của Đại phẩm ở trước Pháp Hoa nhưng Thích Luận nói: "Tu Bồ-đề được thọ ký trong Pháp Hoa, mà các vị Bồ-tát là hoàn toàn chắc chắn hay là không hoàn toàn chắc chắn? "Nên biết rằng Bát-nhã cùng đến Niết-bàn. Căn cứ theo đây mà suy ra thì nói thứ lớp là phần trước, nêu ra lẫn nhau là phần sau.

6. Sự sắp xếp của người kiết tập:

Người kiết tập dùng phần sau để trình bày nghĩa lý, nếu quan điểm (khí loại) giống nhau thì kiết tập nhằm về phần trước, hoặc giả không biết rõ mà nói sai thứ lớp thì thật ra cũng không trái ngược. Kinh này thuộc về phần sau của Phương Đẳng, nhằm vào Bát-nhã để nói rộng, đối với nghĩa không ngăn ngại. Về sơ lược giải thích thì Đức Phật có hai môn Lược và rộng lẽ ra chia thành bốn câu, hoặc danh nghĩa đều là quảng, như mười tám không-hai mươi không-hai mươi bốn không, hoặc gọi quảng mà nghĩa lược như pháp tánh, tướng thật, thật tế, như như, pháp giới... rất nhiều tên gọi, cùng chung tên gọi mà nghĩa chỉ một, hoặc danh lược nghĩa rộng, như danh từ sinh không, Pháp không mà nghĩa thì rộng lớn. Kể từ phàm phu hạ địa cho đến quả Phật cùng cực đều gọi là chúng sinh, Thích Luận chép: "chúng sinh vô thượng ấy là Phật". Từ năm ấm phàm phu cho đến cùng cực Phật địa, cũng gọi là sắc giải thoát, thọ tưởng hành thức giải thoát. Thích luận chép: "Pháp vô thượng ấy là Niết-bàn". Ở đây nói "Lược nói sinh không và pháp không", văn dưới chép: "Quán ngôi nhà năm ấm đều vắng lặng. Thiện Nữ nên quán sát, nơi nào có người và chúng sinh" chính là nghĩa ấy.

7. Căn cơ của chúng sanh:

Chúng sinh căn cơ chậm lụt ấy là khác nhau về cơ duyên, hoặc nói rộng thì được giác ngộ gọi là Lợi căn, hoặc nói lược thì giác ngộ gọi là độn căn. Nói như vậy tưởng chừng trái ngược. Thân tử vừa nghe liền ngộ, là lược, là lợi căn. Mục Liên nghe lại được ngộ, là rộng, là độn. Ý kinh này không nhắm vào bên ngộ để nói về lợi-độn mà chính là nhắm vào bên nghe giữ để nói về lợi-độn. Người bèn nhạy nghe rộng thì có thể nắm giữ, người chậm lụt nghe lược có thể giữ gìn, nay căn cơ chỉ có căn cơ được ngộ, không có căn cơ nắm giữ quảng, cho nên nói là không thể biết quảng. Vô lượng nghĩa không: Chân-đế của hàng Nhị thừa là nghĩa không có giới hạn (hữu lượng), trung đạo của hàng Bồ-tát là nghĩa không vô lượng; kinh này nói về Tướng thật pháp tánh, tức là nghĩa không vô lượng.

8. Nói về phương tiện:

Phương tiện nhiệm mầu khác lạ tức là Tất-đàn phương tiện, khéo léo thực hiện các thứ phân biệt như biện minh nhân quả dứt ác sinh thiện... trên. Khởi tâm đại bi một loại chúng sinh nặng về bệnh chấp có (hữu), cho nên đại bi cũng nặng. Nay ta giảng nói, giảng gọi là nói rộng, trái với lược, trước nói về sinh không và pháp không, đó gọi là lược, nay nói về hai nghĩa sinh và pháp nên nói là giảng. Biết ý chúng sinh: biết căn cơ này thích lược nên lược, đối với lược mà ngộ lược, cho nên nói rõ là biết rõ ý. Nay tôi giảng nói: giảng là nói rộng ra, trái ngược so với tóm lược, trước đây nói về sinh không, pháp không gọi là tóm lược, nay về hai nghĩa của sinh và pháp cho nên nói là giảng phần sắp nói về không đã xong.

9. Nói về không:

Từ "Thân là luống dối" về sau bài kệ bốn mươi bài rưỡi là thứ hai chính thức nói về không, chia làm hai phần:

1. Từ "Thôn là luống dối..." trở xuống mười chín bài rưỡi nói về cảnh của sinh không, pháp không.

2. Từ "Thiện Nữ nên quán..."trở xuống là hai mươi bài rưỡi nói về quán sinh không, pháp không. Chẳng có cảnh thì quán sát không chính xác, chẳng quán sát thì cảnh không hiển bày, cần phải dẫn ra mười lần kiểm nghiệm cảnh trí trong chỉ quán để nói về không thể suy nghĩ bàn luận, văn dưới nói "Trí cảnh không thể suy nghĩ bàn luận, trí chiếu không thể suy nghĩ bàn luận". Bản dịch mới chép "Như như pháp, như như trí" tức là nghĩa ấy. Nói về cảnh không lại chia hai:

1. Từ "Thân là luống dối" trở xuống mười bảy bài rưỡi là nói về cảnh của thật pháp.

2. Từ "Nước lửa gió động bất tịnh chảy tràn" trở xuống hai bài là nói về cảnh giả tưởng. Thật pháp là quán năm ấn không có pháp, quán mười sáu tri không có người, quán không cho đến lý nên gọi là Thập pháp. Thân tuy chưa chết nhưng hư giả hôi thối nên nói là giả tưởng, cũng gọi là tuệ hành, hạnh hành. Duyên theo không đi thẳng vào gọi là Tuệ hành, dẫn dắt sự gồm tu gọi là Hạnh hành, cũng gọi là chánh đạo giúp đạo. Quán sát không thuận theo lý gọi là chánh đạo, bất tịnh phá tham gọi là giúp đạo. Tiểu thừa tu chánh đạo, dứt bỏ kiết sử gọi là người có Tuệ giải thoát, tu giúp đạo dứt trừ kiết sử gọi là người có Câu giải thoát.

10. Dẫn kinh Đại Phẩm chứng minh:

Đại phẩm nói về Bồ-tát phát tâm tương ưng với Tát-bà-nhã là tu chánh đạo, du hý thần thông làm thanh tịnh cõi nước Phật là tu giúp đạo; kinh Pháp Hoa gọi là xe lớn theo về, tức là ý này. Niết-bàn nói về chánh tuệ xa lìa. Xa lìa mười tướng, trụ trong đại Niết-bàn, lại quán sát tường tận xương trắng nói bàn về hai nghĩa này, nhưng có rộng lược lẫn nhau.

11. Nói về cảnh:

Kinh này tóm lược về ý của chánh đạo và giúp đạo. Cảnh của Thật pháp lại có hai: a. Từ "Thân này luống dối..." trở xuống mười bài rưỡi là dựa theo khổ quả để nói về cảnh; b. Từ "Từ các nhân duyên..." trở xuống là bảy bài kệ dựa vào tập nhân để nói về cảnh. Quán sát khổ, tập này mà sinh khởi đạo-diệt, nếu thấy được bốn đế thì dứt được sinh tử, sinh hữu đã hết, không còn thọ sinh trong ba cỏi... cảnh của khổ lại có ba: a. Từ "thân này luống dối" trở xuống hai câu là nói về cảnh của sinh không; b. Từ "xóm làng sáu nhập..." trở xuống bài kệ chín bài là nói về cảnh của pháp không; c. Từ "thân không, luống dối..." trở xuống một bài kệ là kết luận về cảnh của sinh không pháp không trước đây. Này luống dối là sinh không cảnh: Các ấm thành thân, cho rằng có nhân, ngã, chúng sinh, tuổi thọ, chấp thân sinh ra, nếu thể của sinh đó gọi là luống dối thì tìm cầu thân không thật có, chấp thân không sinh khởi, các tri kiến khác cũng vắng lặng, do đó dựa theo thân giả để làm cảnh của sinh không. Lại kiểm chứng lý do của thân này, vì một niệm vọng tưởng nương nhờ di thể của cha mẹ, giả danh mới bắt đầu, hai giọt tinh huyết này là sắc ấm, cảm giác khổ vui là thọ ấm, nghĩ đến sự khổ vui này là tưởng ấm, có đủ ba tánh là hành ấm, biết an trụ trong đó là thức ấm. Lại nữa, tinh huyết là Địa đại, sự ẩm ướt là Nước đại, hơi ấm là Lửa đại, khí mạng là Gió đại, hư không vây quanh bốn đại là Không chủng, tâm nương vào đây mà trụ là Thức chủng, đây là sự khởi đầu của Thật pháp. Quán sát thân và tên gọi này nương vào pháp luống dối. Nhóm Không: thân là sự chứa nhóm, như bong bóng trên mặt nước, vây quanh hư không mà khởi thì tên gọi bọt nước cũng sinh khởi, khởi lên liền có diệt đi thì tên gọi bọt nước cũng diệt, vô minh nghiệp lực nương gá vào cơ thể của cha mẹ thì bọt nước ấm liền phát khởi, bọt nước của ấm phát khởi thì tên gọi của thân sinh khởi, bọt nước diệt đi thì tên gọi của thân cũng diệt, cho nên nói là nhóm không. Từ "Xóm làng sáu nhập..." trở xuống là nói về cảnh của pháp không. Vì sao biết được? Vì văn này chỉ kiểm xét rõ về căn trần mà không nói về nhân ngã, do đó biết là cảnh của pháp không. Văn chia làm ba:

1. Một bài nói về sáu căn.

2. Ba bài nói về mười hai nhập.

3. Năm bài kệ nói về mười tám giới. Sáu nhập là sáu căn, có công năng sinh ra thức nên gọi là căn, nơi trần hướng đến gọi là Nhập, cũng là nơi hội nhập của thức nên gọi là sáu nhập. Kiếm chứng nguồn gốc ban đầu đó chỉ có ba điều, đó là mạng noãn thức, như váng sữa đông lại thành bơ, bảy ngày một lần thay đổi, đúng lúc gió thổi vào bắt đầu trở thành năm bào, thu nhận tịnh sắc của bốn đại, kết thành các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nếu các căn tồn tại thì sinh ra của Thức, đó là chia sắc thành năm, mà tâm chỉ là một. Thức nương vào căn mà trụ cho nên gọi là xóm làng, trần từ đây mà hội nhập cho nên nói là nơi bọn cướp ở. Mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, ý duyên đều có tác dụng riêng không thể xâm lạm nhau được, cho nên nói là không thể biết lẫn nhau.

12. Nói về mười hai nhập:

Từ "Nhãn căn thọ sắc..." trở xuống là nói về mười hai nhập, lại khai sắc thành mười, đồng thời một đi vào ít phần, chia tâm thành hai, thành ra mười hai nhập. Trần nhập vào căn, căn cũng nhập vào trần, cùng nhập vào trong nhau gọi chung là nhập, căn sinh ra thức gượng gọi riêng là Căn, trần có nghĩa là nhiễm ô, gượng gọi riêng là Trần, nên một căn một trần đi vào trong nhau, cho nên nói là các căn đều tự an trụ. Căn khác không nhập vào trần này, trần này không nhập vào căn khác, cho nên nói là không đi theo duyên khác. Từ "tâm như huyễn hóa..." trở xuống là nói về mười tám giới, lại khai tâm thành tám và sắc thành mười. Cõi là cách biệt không xâm lạm, đó gọi là cõi. Văn chia làm ba: a) Từ "tâm như huyễn hóa..." trở xuống là nói về thức ở khắp trong các căn, giả sử làm cho tai mắt không đối với trần, tâm cũng theo duyên nghĩ niệm nên nói là rong ruổi, như người ngồi rong ruổi thiên hạ, vì ngu si cho nên không biết căn trần bị khống chế nguy hiểm, do đó bị bọn cướp làm hại như Đại kinh...

13. Thức thường ở căn:

b) Từ "tâm thường nương gá..." trở xuống là nói về thức thường ở nơi căn nên nói là sáu căn, Thức thường ở nơi trần nên nói là cảnh giới. Nếu cho rằng Thức không ở căn trần, thì sao vừa đối diện thì biết ngay? Vì biết được ngay nên nói là thường ở căn trần. Thích Luận chép: "Căn không mất tác dụng nên tâm muốn nghe liền có âm thanh, các duyên hòa hợp cho nên nghe, thấy được", tức là nghĩa này;

c) Từ "tâm ở trong sáu căn..." trở xuống là nói về thức ở nơi thoắt ra thoắt vào, như chim mắc lưới ra vào trong đó, mổ một bỏ một, hết một vòng rồi lại bắt đầu, không lúc nào dừng nghỉ. Thức ở lưới căn cũng giống như vậy. Hoặc ở nơi tai hay ở nơi mắt, đi rồi trở lại không nhất định, tuy không nhất định nhưng có thể nói là thường có một... Từ "thân là không, luống dối" trở xuống một bài là phần từ "tâm ở trong sáu căn...". Kết luận về cảnh của sinh không, pháp không trước đây. Thân là không, không thể nuôi lớn, kết luận về cảnh sinh không trước đây. Nuôi lớn là một trong mười sáu thứ, nuôi lớn đã là không thì mười lăm thứ còn lại cũng không, tức là kết thành cảnh của sinh không. Không có tranh tụng, cũng không chánh chủ đó là kết luận về cảnh của Thật pháp trước đây. Kinh Di giáo chép: "Năm căn này, tâm là chính". Đây là nói về sự bắt đầu gá thai, tâm ở đầu các căn, gọi là chủ, thật ra tâm không thể khống chế được các căn, căn và đại trái ngược nhau làm cho tâm chịu sự phiền phức, lúc thân bị bệnh thì tâm cũng bệnh theo, lẽ nào có thể là chủ hay sao? Hoặc lúc luận về chủ lẫn nhau, như đất có bốn vi cho nên chậm chạp bị nước khống chế, nước chỉ có ba vi, bị lửa khống chế, lửa chỉ có hai vi, bị gió khống chế, gió có một vi bị Tâm khống chế, tâm chẳng có vi nào nên được làm chủ. Lại bị bốn đại làm cho phiền phức nên nghĩa chủ không thành tựu, vì thế nói là cũng không có chánh chủ. Không có tranh tụng: nếu chấp có bốn đại thì có sự trái nhau, như bốn con rắn lấn hiếp nhau, như bốn nước chiến tranh nhau, sẽ có sự tranh tụng. Ở đây quán bốn đại là không, vì bốn đại lại không nên không thể tùy tiện khống chế được, cho nên nói là không có tranh tụng. Đây là ý kết luận về Pháp không ở trước.

14. Dựa theo tập nhân để nói cảnh:

Từ "các nhân duyên hòa hợp mà có..." trở xuống là bảy bài kệ là dựa vào theo nhân để nói về cảnh, tức là Tập đế, văn chia làm ba đoạn:

1. Hai bài kệ nói về Tướng phát khởi của Tập.

2. Hai bài rưỡi nói về tướng tập chiếm đoạt.

3. Hai bài rưỡi nói về cảnh thiện ác của Tập. Ba thứ trước là Tuệ hành, một loại sau là Hạnh hành, ba thứ trước là cảnh chánh quán, một loại sau là cảnh giúp đạo quán, một loại trước từ vô minh sinh ra, một loại sau từ vô minh diệt đi. Nếu nói thẳng về sinh diệt thì không khác với Tiểu thừa, vô minh vốn không sinh mà sinh, không diệt mà diệt, sinh diệt không hai mà hai. Từ các nhân duyên: Khổ tập đều từ nhân duyên, muốn hiểu nghĩa của Tập, phải giải thích về nhân duyên của Tập. Ba câu trước là nhân duyên phát khởi của Giả danh, năm câu sau là nhân duyên phát khởi của Thật pháp, Tiểu thừa phá bốn đại đến hạt bụi nhỏ gần với hư không, từ cái trần, nhỏ nhiệm thì sẽ có các trần thô bẩn, dùng đó làm nhân duyên phát khởi của Giả thật.

15. Nói về nhân duyên:

Ở đây nói về cái thô bẩn có thể phân chia đến tận cùng, cái trần nhỏ nhiệm không còn, thô tế đều hết sạch thì lấy vật gì làm nhân duyên? Nói đến nhân duyên thì Vô minh nội hoặc làm nhân, không rõ sinh không pháp không cho nên nhiễm ái ở bên ngoài làm duyên, vì hễ đối diện với cảnh trần thì sinh đắm nhiễm nên vô minh càng thấm đượm, Tập nghiệp khơi dây, vì thế nói là từ các nhân duyên hòa hợp mà phát khởi. Vì nghiệp phát khởi cho nên có một niệm gá thai dẫn đến quả khổ. Một niệm gá thai này do vô minh ái, tâm năng sinh đã là luống dối thì tâm sở sinh cũng là luống dối. Tâm sở sinh là luống dối thì mọi suy nghĩa về bổn mạt, năng sở đều luống dối, cho nên nói không có chắc thật. Vọng tưởng cho nên khởi lên năm câu nói về nhân duyên phát khởi của Thật pháp, do vọng tướng không hiểu rõ một niệm gá thai nên năm ấm được sinh khởi. Nghiệp lực cơ quan: nghiệp thiện ác là chủ cơ quan, sắc ấm là dụng cụ trong cơ quan, thọ tưởng hành ấm là động tác trong đó, đến đi, tiến lùi để tự vui chơi, thức ấm nương vào sáu nhập mà an trụ, nên nói là nhóm không.

16. Nói về thêm bớt:

Là cái được tạo ra do bốn đại nên nói là thành lập, tùy lúc thêm bớt mà tàn hại lẫn nhau, nói thêm bớt theo thời gian: như mười thời khác nhau của Niết-bàn, từ CA-la-la thời gọi là thêm, lúc trẻ gọi là thạnh, lúc già gọi là bớt. Nói về thêm bớt không gian (hoành): Lửa thêm thì Nước bớt, Nước thêm thì Lửa bớt, gió, Địa cũng giống như vậy. Lại nữa, niệm niệm sinh diệt, sinh là thêm, diệt là bớt. Lại nữa các căn mới sinh ra cho nên thêm, các căn cũ diệt đi cho nên bớt. Còn văn dưới nói: "Tùy theo thời tiết mà tàn hại lẫn nhau, mùa Xuân thì gió, mùa Hạ thì lửa, mùa Thu thì đất, mùa Đông là nước, theo đó thêm bớt... giống như bốn con rắn lúc đầu tiên ở trong hộp nhỏ thì gọi là sinh, bốn con rắn sức lực ngang nhau gọi là tráng, cùng có lúc mạnh yếu gọi là điều thích, nghỉ ngơi rồi lại cắn nhau, rắn yếu đuối như lão, rắn không còn là tử. Thêm bớt như vậy, đây là quả thân. Như vậy là do tập nghiệp, bốn phần bình đẳng như Địa, nóng nảy như Lửa, ham muốn như Nước, si mê như Gió; bốn phần này trái ngược nhau.

17. Dẫn sách chứng minh:

Thụy Ứng nói: "Tham dục gây ra già, tức giận gây nên bệnh, ngu si dẫn đến chết". Ví dụ rằng: "Bốn phần dẫn đến sinh, tập nghiệp cắn xé nhau khiến cho bốn đại tăng thêm hay giảm bớt..." Cùng ở trong một cái hộp: Đây là nói về nơi chốn thì đồng mà tánh khác nhau, rắn có nọc độc, bốn đại có tám mươi bốn ngàn phiền não làm hại cho nên nghĩa đồng như rắn. Đại kinh cho giả thân như cái hộp, thân giữ gìn bốn đại giống như cái hộp chứa rắn, cái hộp rách nát thì rắn bỏ đi, thân diệt thì đại không còn. Như chim ở trong lồng... lại cho nghiệp lực là cái hộp, nghiệp giữ gìn bốn đại, nghiệp đi rồi thì đại tan rã, như chim trong lồng thường muốn thoát ra, chim trong tâm cũng vậy, không hề một niệm gắn bó đối với lồng của thân, thường rong ruổi theo bên ngoài. Đây là niệm niệm tìm cái chết, chẳng phải là con đường an thân. Tánh chất mỗi thứ đều khác nhau: Hai thứ bay lên là dương, hai thứ chìm xuống là âm, vì sao trái ngược nhau? Vì các tánh đó sai khác, tánh sai khác thì làm sao hòa hợp thành thân? Các phương cũng hai; bốn đại bốn phương, gió phương Đông, lửa Nam, đất phương Tây, nước phương Bắc, lại đối với bốn thời, Gió mùa Xuân, lửa mùa Hạ, đất Thu, nước mùa Đông, Đông và Nam thuộc về dương nên bốc lên, Tây và Bắc thuộc về âm nên chìm xuống, cho nên nói hai lên hai xuống, các phương cũng hai.

18. Các pháp trong không gian tác động lẫn nhau:

Nếu nói về tương đối thì Đông thượng, Tây trầm, Nam thăng, Bắc giáng, nếu nói về bốn duy thì phương Đông có hai duy, một duy là dương ở trên, một duy là âm ở dưới, ba phương còn lại cũng giống như vậy. Hoặc nói trong một căn có đủ bốn đại, hai ở trên, hai ở dưới... đều diệt hết không còn, là đầu tiên thấy tan diệt, nghĩa là nói Gió và Lửa hướng lên trên, Địa và Nước hướng hướng dưới, đến đây thì trên tìm không được Gió và Lửa, dưới kiếm không thấy Nước và đất, cho nên nói là tất cả diệt hết không còn. Quả khổ lên xuống rất khác nhau, bởi vì tập nghiệp thiện ác khác nhau như trời vực... hai tánh tâm, thức lăng xăng không dừng. Thích Luận chép: "Tâm, ý, thức là một pháp mà khác tên, đối số gọi là tâm, năng sinh gọi là ý, phân biệt gọi là thức". Lại nói có khác, phát khởi trước tiên là tâm, kế khởi là ý, sau biết rõ là thức, chẳng hạn như ý và thức không phải là một, nếu là hai: Tâm có tánh thiện ác khác nhau, ý và thức cũng có tánh thiện ác khác nhau, cho nên nói là hai tánh. Lăng xăng: lúc tâm phát khởi trước tiên cũng cùng một lượt với số, ý thức phát khởi sau cũng cùng một lượt với số, nên nói là lăng xăng. Lại như lúc bốn đại tan rã, nghiệp thiện ác tranh nhau dắt dẫn không biết theo ai, cho nên nói là lăng xăng. Nhưng nghiệp này chưa đi mà tâm thường giác quán, huống chi lại bị dắt dẫn, làm sao không lăng xăng. Có sự dẫn dắt chín muồi. Dẫn dắt chín muồi và dẫn dắt gượng ép đó là người tuy gây ra điều ác, nhưng lúc qua đời tâm lành bùng phát mạnh mẽ, liền theo tâm lành bay lên. Dẫn dắt chín muồi và dẫn dắt gượng ép càng hiển rõ sự lăng xăng, cũng là theo nghiệp đã gây ra mà đọa.

19. Khổ nghiệp lìa khỏi thân:

Các hữu... Từ: Khi nước lửa gió động, tan rã hoại diệt..." trở xuống hai bài là nói về nghiệp lìa khỏi thân khổ. Khí mạng hết thì gió bay đi nên nói là Tán, hơi ấm không còn là lửa ra đi nên nói là Diệt, nước cạn kiệt thì thân rửa nát nên nói là Hoại. Chất đại tiểu tiện bất tịnh chảy tràn ra ngoài, địa tán diệt là xương thịt rời rã cho nên nói như cây mục nát. Đại tiểu bất tịnh: Thân là đại, tay chân là tiểu, phần chân là đại, phần tay là tiểu, tay là đại, ngón tay là tiểu, như thế lần lượt đến hành đến tiểu, tất cả điều ô uế bất tịnh chảy tràn ra, đó không gọi là giúp đạo. Nếu chánh quán hàng phục phiền não, phiền não không hàng phục thì nên tu bất tịnh để giúp bác bỏ tâm tham dục. Thích Luận chép: "Ba giải thoát là cửa vào Niết-bàn, đạo phẩm là cách mở cửa, chín ý tưởng về bất tịnh đều là cách phụ giúp để mở cửa. Bất tịnh là cách phá trừ cửa đầu tiên của tham dục, nếu tiến lên tu tập bội xả và đại bất tịnh thì thân mình hay thân người, một thân hay nhiều thân, một đất nước hay nhiều đất nước, rừng núi đất đá, tất cả y chánh đều là bất tịnh. Tức là cho dù không như vậy, nhưng nếu năng lực tưởng tượng thành tựu thì tâm kinh sợ sanh khởi, có khả năng giúp đạo rộng lớn khai phát chánh huệ". Đại kinh nói: "Pháp quán bất tịnh vừa thật vừa hư, vì có công năng dứt bỏ phiền não nên gọi là thật, tịnh nói là bất tịnh nên là hư". Quán bất tịnh này cũng đầy đủ sinh không và pháp không. Đại kinh chép: "Quán sát tường tận xương trắng, mỗi chi tiết có gì là ngã, tám sắc lưu quang cũng là vô ngã, ngã không thật có tức là sinh không, người luyện cốt tám màu chẳng thấy bốn đại không có thật, tức là pháp không".

20. Quán sinh không pháp không:

Đây là y theo giúp đạo, nói về sinh-pháp, cuối cùng thành chánh đạo. Từ "Thiện Nữ nên quán..." trở xuống hai mươi mốt bài rưỡi là phần thứ hai, nói về quán sinh không, pháp không, văn chia làm hai:

1) Tám hành rưỡi đầu tiên nói về tu quán sinh không, pháp không.

2) Mười hai bài rưỡi kế là nói về quả thành tựu, phát khởi dụng.

-Trong tu nhân lại có hai:

Ba bài rưỡi đầu dựa vào khổ tập để nói về quán sinh không, pháp không.

Tiếp theo từ "thể tướng vô minh..." trở xuống năm hàng là dựa vào mười hai nhân duyên để nói về quán sinh không, pháp không. Dựa vào khổ tập lại chia hai: đầu từ "Thiện Nữ..." trở xuống một bài rưỡi nói về chúng sinh không; tiếp theo theo từ "các đại như thế..." trở xuống một bài, nói về pháp không. Hỏi: Bốn đế-mười hai nhân duyên đều là cảnh quán của ba thừa, giống như con đường rộng lớn thì người sang, kẻ hèn cùng đi trên đó, không thể nào vì đám người nhỏ đi lại mà xếp con đường đó dành riêng cho hạng thứ dân. Ý chung là như thế nào?

21. Dẫn kinh Niết-bàn chứng minh:

Kinh Niết-bàn chép: "Xưa ta và các thầy không nhận biết bốn Chân-đế..." Lại nói: "phàm phu có khổ mà không đế, Thanh văn có khổ, có khổ đế, Bồ-tát lìa khổ không còn khổ mà có Chân-đế, các Đức Phật, Như lai có chân có thật". Vì sao? Vì hàng Nhị thừa quán bốn đế hữu lượng. Bồ-tát quán bốn đế hữu lượng vô lượng. Đại kinh nói: "Mười hai nhân duyên gồm có bốn thứ, hạng hạ trí quán cho nên đạt quả Thanh văn, hạng trung trí quán cho nên đạt quả Bích chi Phật, hàng thượng trí quán cho nên đạt đến quả Bồ-tát, bậc thượng thượng trí quán cho nên đạt đến quả Phật Bồ-đề".

22. Dẫn kinh Đại phẩm:

Lại có ý khác kinh Đại Phẩm chép: "Mười hai nhân duyên là pháp riêng của Bồ-tát. Như xưa kia, Đức Phật làm cho đồng, tuy thực hành các hạnh chẳng phải Ba-lamật nhưng thấy Phật Nhiên Đăng mà đạt được Vô sinh pháp nhẫn cho nên Phật liền thọ ký cho". Nên biết đâu phải Bồ-tát không quán sát bốn đế và mười hai nhân duyên. Ba thừa tuy là cùng quán, nhưng cách quán có khác nhau. Hàng Thanh văn quán sát các quả, quán tất cả thành một Khổ đế, quán sát các phiền não và nghiệp, quán tất cả thành một Tập đế. Lại nữa, khổ và tập đều là hiện tại, cho nên gọi là tổng tướng quán. Hàng Duyên Giác quán sát khổ làm bảy, hiện tại có năm và vị lai có hai, quán sát Tập là năm, quá khứ có hai và hiện tại có ba, quán sát ba đời riêng biệt và chia ra khổ tập khác nhau, nên gọi là Duyên giác biệt tướng quán. Tuy có chung riêng khác nhau, nhưng đều là tự mình điều phục, tự mình hóa độ, cùng là chia chẻ quán sát sinh không, pháp không mà thôi. So với Bồ-tát có khác nhau, Bồ-tát vì chúng sinh mà tu bốn đăng sáu độ, quán sát bốn đế và mười hai nhân duyên, thực hành sinh không pháp không. 23. Nêu thí dụ làm sáng tỏ:

Ở đây có nêu thí dụ, như nắm chặt năm ngón tay thành nắm tay, nếu một ngón là một nắm tay thì lẽ ra có năm đắm tay, nếu một ngón không có nắm tay, thì năm ngón tay làm sao có được nắm tay. Ngã, nhân cũng giống như vậy, gom góp năm ấm thành chúng sinh, một ấm mà có chúng sinh thì sẽ có năm chúng sinh, một ấm không có chúng sinh thì cho dù năm ấm cũng không có chúng sinh, ngay nơi ấm tìm chúng sinh không thật có, lìa ấm cầu chúng sinh cũng không thể được. Tuy tìm nắm tay không được nắm tay nhưng không ngại có ngón tay bằng da thịt, tuy tìm con người không đạt được con người nhưng chẳng ngại gì khi có pháp năm ấm.

24. Hai thừa được sinh không chưa được pháp không:

Lúc hàng Nhị thừa đạt được sinh không, chưa thể biết được pháp không, thì cần phải phân tích da thịt xương tủy của ngón tay ra từng phần, suy tìm cũng không thể có ngón tay thật mới biết rằng không có ngón tay, cầu tím pháp không đạt được pháp mới biết là pháp luống dối. Đã không đạt được cảnh sinh không, pháp không, cũng không đạt được trí của sinh không, pháp không, Quán chung của Bồ-tát cũng vậy, đó là tướng chia chẻ sinh không, pháp không của Bồ-tát và Nhị thừa, như vậy chỉ có sự khác nhau giữa Tự hành và Vị tha... Nếu nói về Biệt Bồ-tát thể không, thì khác hẳn với điều đó, như nhìn thấy nắm tay trong gương, thể của nó đã không thì nhọc công tìm kiếm, làm gì, nắm tay trong gương đã luống dối thì ngón tay trong gương cũng chẳng phải chân thật, nắm tay và ngón tay trong gương đã là luống dối thì nắm tay và ngón tay bên ngoài gương cũng chẳng phải chân thật, chúng sinh cũng giống như vậy, chỉ có tên gọi là chúng sinh, tên gọi này xưa nay tự nó đã là không, chẳng sau khi tìm kiếm mới là không.

25. Dẫn kinh Đại phẩm:

Danh đã là giả danh thì pháp cũng là hư pháp, Thể của Danh tức là Thể của pháp, như Đại phẩm chép: "Tánh của ngã như tánh của sắc, tánh của sắc như tánh của ngã, sinh và pháp ở đời này do vô minh hành, năm quả đã luống dối thì hai nhân đâu phải chân thật?" Văn dưới nói: "Bổn tánh vắng lặng do vô minh mà có, vô minh đã vắng lặng, từ vô minh mà sinh thì lẽ nào không vắng lặng do vô minh mà có, vô minh đã vắng lặng, từ vô minh mà sinh thì lẽ nào không vắng lặng?" Tuy không đạt được cảnh của sinh không, pháp không nhưng lại thấu suốt rõ ràng hai cảnh, không bị cảnh làm cho ô nhiễm. Tuy không đạt được trí của sinh không, pháp không, nhưng có thể thấu suốt rõ ràng trí của hai không, chẳng cần trí làm cho thanh tịnh. Chẳng phải nhiễm, chẳng phải tịnh, cả hai đều mất, chính là đi vào trung đạo nghĩa đế bậc nhất, nhưng có thể cùng soi chiếu hai đế, ba đế sáng ngời, chẳng phải trước, chẳng phải sau, trong một lúc giác ngộ tất cả, tương ưng với pháp tánh sâu xa này đã đạt được đầy đủ kho báu Kim cương, đó là Bồtát quán thể của sinh không, pháp không.

26. Cái không của các Sư Tiểu thừa:

Các sư Tiểu thừa tuy nói chia chẻ không nhưng nghĩa lý đồng với ngoại đạo, tại sao chia chẻ sắc tận cùng đến gần hư không, hoặc còn lại trần không phá, hoặc bác bỏ trần cho hết sạch sẽ. Nếu còn lại không phá thì chỉ là Chấp thường, nếu bác bỏ trần hết sạch thì chỉ là Chấp đoạn, Đoạn-Thường rõ ràng như vậy chẳng phải tà kiến thì là gì? Các sư Đại Thừa tuy nói Thể không mà đồng với lý lẽ Tiểu thừa.

Vì sao? Vì chỉ dùng thể Tuệ, không thể nhất niệm tâm không mà "du hý thần thông tịnh cõi nước Phật giải thích đầy đủ về tri kiến Phật, làm sao có thể trong một tâm ba trí có đủ được năm thứ mắt mà thành tựu Bồ-đề? Dường như hàng Tiểu thừa hoại pháp không có ba minh sáu thông nguyện trí đảnh... mà chỉ là hàng Tuệ giải thoát mà thôi, chẳng phải Tiểu thừa thì là gì? Cốt lõi của kinh này sâu rộng cùng cực, phẩm Tựa chép: "Dạo chơi trong pháp tánh sâu xa vô lượng", phẩm Không nói: "Cầu tìm pháp thân chân thật của Như lai", phẩm Xả thân chép: "Cầu nơi Niết-bàn vô thượng vắng lặng, đâu thể đồng với tà kiến của người thế gian.

27. Nói về quán Sinh không:

Đâu thể đồng với sự chia chẻ của Tiểu thừa, đâu thể đồng với thể giải nghĩa không này của các sư Đại thừa? Từ "Thiện Nữ nên quán..." trở xuống một bài rưỡi là nói về quán Sinh không: một câu đầu là đối cáo khuyến phát; một câu kế là chỉ rõ cảnh trước đã nói: bốn câu chính là thực hành. Thiện Nữ là thần cây Bồ-đề. Các Đức Phật nói pháp chắc chắn có đối cơ tán dương, nhờ vào một người để chỉ dạy cho nhiều người nên nói với người đó. Vả lại, cơ duyên của chúng lúc này thích hợp với Thiện Nữ nếu nghe nói với đối cơ (đối cáo) thì điều lành đời trước được phát sinh. Lại, Nam Thiên biểu thị cho phương tiện, Nữ Thiên biểu thị cho trí độ, muốn nói trí độ để phá trừ ngu si mê đắm, cho nên nói với đối cơ là thần cây. Đây là biểu thị cho bốn đàn, vì nói với đối cơ chẳng phải không có nhân duyên. Nên quán nghĩa là khuyến khích một người để dẫn dắt nhiều người, tất cả Bồ-tát chắc chắn phải tu tập trí độ, không có Bồ-tát nào không căn cứ vào điều này, vì thế nói là nên quán. Các pháp là chỉ cho bốn đế, mười hai nhân duyên, cảnh của hai không, hoặc là giả, hoặc là thật trước đây. Danh mục tuy tóm lược nhưng thâu nhiếp các pháp thì cùng khắp cho nên nói là các pháp.

28. Nói về Như thị:

Như thị chính là nói về quán chung. Như thị có ba nghĩa, đó là như sự, như lý, như phi sự phi lý. Như sự, như là giúp đạo, giả tưởng bất tịnh chảy tràn như lý, như là sinh không pháp không vô pháp, như phi sự phi lý, như là pháp tánh pháp thân. Lại nữa, sự tức là như lý như phi sự phi lý, phi sự phi lý cũng tức là như lý, cũng tức là như sự, lý tức như sự, cũng tức như phi sự phi lý, ba pháp không phải một khác nên nói là Như thị, ba pháp vừa một vừa khác nên nói là các pháp. Nơi nào có người là chỉ ra lý quán. Nơi nào: Nếu sắc xứ có người thì không cần đến bốn ấm kia, nếu sắc xứ không có người thì bốn xứ kia cũng không người, năm xứ đều không có người nên nói là nơi nào có người. Lại nữa, nơi quả đã không có người, không có vô minh, hành thì nơi nhân cũng không có người, nhân quả hợp cũng không có người, lìa nhân lìa quả cũng không có người, nên nói là nơi nào có người. Người đã không có thì mười sáu tri kiến của chúng sinh đều không có, nên nói và chúng sinh. Bổn tánh vắng lặng là gợi ý nêu ra pháp quán phi sự phi lý.

Bổn tánh vô sự cũng lại vô không, không bổn không sự, đã là vô sự thì không chỗ nào là không? Không có sự cho nên sự vắng lặng, không có không cho nên vắng lặng. Bổn tánh như vậy, chẳng nay mới bắt đầu, cho nên nói là bổn tánh vắng lặng vì vô minh cho nên có chỉ ra sự quán. Nếu cái không đó lại là không thì sự này làm sao có, đã có sự tức là có không, đã có không tức là có phi sự phi lý. Ba thứ này đều do vô minh mà có, vì có vô minh si cho nên có hành, có hành tức là có sinh và pháp, đã có sinh và pháp tức là có quán giúp sự, trợ giúp là giúp chánh tức là có quán về lý không, chánh giúp hiển bày bổn, tức là có quán phi sự phi lý, sự này không biết gọi là vô minh.

29. Dẫn kinh Tịnh danh:

Kinh Tịnh Danh chép: "Từ si có ái thì Ngã sinh bệnh, bệnh sinh cho nên có thuốc trị", tức là nghĩa này. Nếu biết bổn tánh của vô minh là vắng lặng, thì vô minh còn không có, luống gì là có sự lý, phi sự phi lý? Hoàn toàn thanh tịnh cho nên gọi là không Tuệ, nhưng chấp ngã sâu nặng làm chướng ngại rất lớn cho giác đạo, việc làm của phàm phu thường có đầy đủ Ngã, Ngã đi, Ngã đứng, nằm ngồi nói năng không hề lìa xa Ngã, Ngã thực hành bố thí giữ giới cho đến Ngã thực hành trí tuệ. Nếu nhận lấy di thể của người khác mà cho rằng là Ngã thì Ngã này nhạt nhẽo đần độn, nếu chấp pháp trần mà cho là Ngã thì Ngã này tinh tế sắc bén; nếu chấp vào một pháp, cho rằng Ngã biết, Ngã hiểu, đối với pháp khởi lên Ngã. Tùy theo đó chấp một câu là thật, những câu khác đều là nói dối, tức là chấp một bên. Chẳng phải đạo mà cho là đạo tức là Giới thủ. Chẳng phải lý mà cho là lý tức là Kiến thủ. Không thích đáng cho là thích đáng tức là Tà kiến. Tự cho là đúng mà lấn hiếp người khác tức là Mạn. Bài bác tức là sân, đề cao tức là Ái, bác bỏ tức là Nghi-không hiểu tức là si. Mười sử phiền não lấy Ngã làm cội gốc, không tự mình hiểu biết mà đêm ngày Ngã càng thêm lớn, dù cho thế trí biện thông như Trường Trảo, Điệp Phúc, gặp đá đá vỡ, gặp cây cây gãy, gặp nước nước cạn, gặp lửa lửa tắt, nhưng cách đạo càng xa. Dù cho thuận theo thiền Phạm, đời cuối cùng đạt đến cõi Phi Tưởng, Ngã tâm vẫn còn nên sẽ phát sinh trở lại.

30. Nói về ngã:

Lại như phàm phu này còn chưa có noãn pháp làm sao có thể phá trừ Ngã? Nói rộng về Ngã này tức là hai mươi thứ chấp thân, đó là ngay nơi ấm chấp năm thứ, lìa ấm chấp năm thứ, trong Ngã có năm ấm, trong ấm có năm Ngã, đó là hai mươi thứ. Nếu một ấm là Ngã thì các ấm khác không có tác dụng, nếu đều là Ngã tức là có năm Ngã, như vậy nghĩa này không đúng. Nếu lìa ấm mà có Ngã thì lìa ấm, ngã là Ngã của ai? Như đồ vật chứa đựng hoa quả, như nhà cửa bảo vệ con người; nghĩa này không đúng. Nếu trong Ngã có ấm thì ấm ở trong Ngã, nghĩa này không đúng. Đây là phá trừ hai mươi lăm thứ chấp thân. Ở đây dựa theo ngoại cảnh để nói như vậy, nhưng ở nội tâm vẫn chấp có Ngã. Sau đó nên quán trở lại, ngay nơi trí có ngã, lìa trí có Ngã, trong Ngã có trí

-trong trí có ngã, các nghĩa này đều không đúng. Sau khi phá trừ hai mươi thứ chấp thân, trong ngoài kết hợp lại thì thành bốn mươi thứ chấp thân, đó gọi là sinh không.

31. Dẫn các luận:

Tỳ-đàm chép: "Chấp ngã là cùng chung một nhân, lúc chấp ngã phát khởi thì thân, miệng chưa động chuyển, do chấp ngã sau đó sinh ra suy nghĩ thì thân miệng mới động chuyển, dứt bỏ chấp ngã rồi thì ngộ chúng sinh là không. "Thành luận cho rằng: "Tâm chấp ngã liền tư duy, làm động chuyển thân miệng, dứt bỏ chấp ngã rồi liền giác ngộ chúng sinh là không, cũng ngộ pháp là không". Đại thừa cho rằng "chấp Ngã tức là có các pháp, nhưng không có tư duy, ngộ chúng sinh là không tức ngộ thật pháp là không".

32. Nơi nào có người là gì?

Một khi phá trừ hai mươi thứ chấp thân thì cả ba câu trên đều có thể sử dụng. Nếu ngay nơi sự là lý thì nơi nào có người, ngay nơi ấm lìa ấm, trong ấm không người, trong người không ấm, hai mươi thứ kiến chấp bị dứt bỏ, cho nên nói "nơi nào có người". Trí năng quán trí chính là người, lìa trí có người, trong người có trí, trong trí có người, suy nghĩ này cũng bác bỏ, cho nên nói "nơi nào có người". Nếu thực hành quán sát phi sự phi lý, bổn tánh vắng lặng thì bổn tánh vắng lặng vốn không, ngay nơi ấm mà lìa ấm, ấm-người, người-ấm đã không có, vì chấp như vậy bị phá cho nên nói là "nơi nào có người". Bổn tánh của trí năng quán cũng vắng lặng, cho nên nói "nơi nào có người". Nếu lúc thực hành quán giúp đạo bất tịnh, hoặc quán sát ác tâm thủ cảnh, thì tức là năm ấm bị ô uế; hoặc thiện tâm hổ thẹn, tức là phương tiện che giấu năm ấm, cái thấy này đều nương vào sắc, sắc tức là bất tịnh, vì bất tịnh cho nên vô nhân, vô ngã, do đó nói là "nơi nào có người". Quán sát trí năng quán cũng giống như thế, cho nên nói là "nơi nào có người". Nếu ngộ được để luận phá hai mươi thứ chấp thân, là đạt được chúng sinh không, không còn kiến hoặc. Thực hành hai mươi thứ quán ấy là dứt bỏ, thật hoặc, nếu thật hoặc dứt bỏ tức là vào tu đạo, tức nên nói rằng "nơi nào có pháp". Nếu chưa ngộ mà nói thì tuy thực hành hai mươi thứ quán, nhưng kiến hoặc chưa dứt bỏ thì trên giả danh tiếp tục bị Ái khuất phục, đi vào thật pháp chấp là Ngã. Vì thế kinh Pháp Hoa nói: "Chúng sinh đắm trước khắp nơi, bỏ một lấy một, như con sâu gập mình nhích bước, cần phải tiến tới thật pháp, tiếp tục thực hành hai mươi thứ quán, khiến cho không tuệ sáng tỏ khắp nơi thực hành không lỗi.

33. Nói về pháp quán pháp thật:

Từ "các đại như thế..." trở xuống hai bài nói về pháp quán thật pháp. Sinh không trên đây có thể hiểu rõ tức là hiểu rõ đối với pháp, vì chưa hiểu rõ điều đó nên tiếp tục nói. Văn cũng chia làm: hai câu đầu là ngay nơi pháp là không, một bài một câu kế là ngay nơi pháp bổn tánh chẳng phải không chẳng phải giả, tiếp theo hai câu tức là ngay nơi pháp là Giả chẳng hạn như ba ý của sinh không. Các đại như thế là nêu ra pháp bốn đại. Mỗi pháp đều bất thật: chính là nói về không quán. Như bốn đại mỗi đại đều giữ tánh của nó: tức là đất giữ lấy tánh vững chắc, không thể chuyển động, không thể nóng lên, nước giữ lấy tánh ướt, không thể đông cứng không thể nổi sóng, Lửa giữ lấy tánh nóng ấm, không thể lay động không thể có lửa ngọn, gió giữ lấy tánh chuyển động, không thể giữ gìn không thể tiếp xúc, gặp tường vách nên dừng lại. Một đại đã có ba tánh, chẳng phải đều vững chắc, chẳng phải đều ướt, chẳng phải đều nóng ấm, chẳng phải đều chuyển động, vì mất đi bổn tánh tức là không thật, không thật cho nên là không, kinh Thỉnh Quán Âm nói: "Đất không có tánh vững chắc, tánh của nước không an trụ, Lửa trừ duyên sinh ra, tánh của gió không chướng ngại, mỗi đại đều hòa nhập vào địa vị như thật, tức là nghĩa ấy. Xem xét sinh không ở trên nên nói là "nơi nào có người".

34. Nói về pháp không:

Nay xét về pháp không, cho nên nói "mỗi pháp đều không thật". Không chân thật tức là không. Bổn tánh bất sinh tức là bổn tánh của pháp không sinh không diệt, quán chẳng phải không, chẳng phải giả. Thể của nó bắt đầu từ không sinh ra, khoảng giữ không hòa hợp-cuối cùng cũng bất không. Ban đầu không có bốn đại, bốn đại từ đâu sinh ra? Ban đầu không sinh ra, khoảng giữa sao hòa hợp được? Bổn đại đã không hòa hợp, lẽ nào năm ấm làm hòa hợp? Đại và ấm đã không hòa hợp, làm sao đạt được pháp không? Vốn tự không sinh không diệt chẳng phải là quán trí khiến cho nó không sinh không diệt, ngay nơi sự là lý là nghĩa này. Do nhân duyên ấy là quán sát hiểu rõ nhân duyên, Quán sát nhằm hợp với lý, thấu suốt Tức không-Tức giả-tức trung.

35. Dẫn Đại kinh chứng minh:

Đại kinh nói: "Cũng có nhân duyên, vì dứt trừ vô minh thì sẽ thắp sáng ngọn đèn Tam-miệu Bồ-đề" tức là nghĩa của nhân duyên. Hòa hợp mà có: ngay nơi pháp là giả, bổn thể đã không thật, sao có được đại

-ấm? Đại-ấm này là nghiệp nhân của vô minh, gá vào quả di thể ở đời này, cho nên có bốn đại năm ấm, tức là nhân quả mê hoặc hòa hợp mà có. Pháp này có cho nên thể có-cũng chẳng phải có, chẳng phải chẳng có, tức là không, tức là giả, tức chẳng phải không, chẳng phải giả. Văn nói về ba quán ở kinh này, chẳng lẽ không tin? Lại vì hạng độn căn có sự nghi ngờ đối với thật pháp, hoặc cho rằng bốn đại, năm ấm là có-là không, là vừa có vừa không, là chẳng phải có chẳng phải không. Bốn chấp đã phát sinh-sinh gọi là có, là thấy y theo nơi sắc, y theo nơi sắc khơi dậy ngã, ngã phát sinh năm lợi sử, là pháp nhuế nộ, lại khởi lên năm độn sử. Mười sử này là tập, mới dẫn đến khổ về sau, đời sau không rõ, xoay vần nối nhau không hề cùng tận, biển cả sinh tử nổi sóng, đời đời kiếp kiếp thường bị đại ấm làm cho mê hoặc. mê hoặc sắc pháp này tức là sắc ấm, vui buồn là thọ ấm, chấp tướng là tưởng ấm, khởi lên thiện ác là hành ấm, phân biệt là thức ấm, ấm tâm phát khởi nên gọi là hữu pháp, chẳng phải pháp không. Tâm chẳng nương vào sắc, cũng lại không nương vào thọ, tưởng, hành, thức, vắng lặng diệt hết các điều ác, dứt bỏ vô lượng lỗi lầm, người tuyệt vời tôn quý như vậy thì thấy được Bát-nhã, cũng là pháp tánh sâu xa, trong Kim Quang Minh thấy được Đức Phật Thích-ca Mâu Ni. Hành nhân nếu có thể quán sinh không, pháp không như vậy, tức là phá đổ tường vách hướng về nguồn cội, trong một đời hai đời có thể có những việc làm bảo đảm không cô phụ công lao.

36. Nói về pháp quán mười hai nhân duyên:

Từ "Thể vô minh tướng..." trở xuống năm hàng nói về pháp quán mười hai quán mười hai nhân duyên sinh không pháp không, văn chia làm hai: Ba bài đầu nêu ra tướng của cảnh, hai bài sau nêu ra tướng quán cảnh. Cảnh lại có hai: hai bài đầu trước tiên nói về cảnh của sinh không, cho nên văn nói "gọi là vô minh", Thích Luận nói không, một bài sau nêu ra cảnh của pháp không, văn nói "già chết sầu não", Thích Luận nói "là già chết", do đó biết là cảnh của pháp không. Nhưng mười hai nhân duyên trong kinh luận không giống nhau, hoặc là ba đời, hoặc là quả báo, hoặc là một niệm, hoặc là mười loại. Ba đời là hai nhân quá khứ bác bỏ kiến chấp thần thức là thường, năm quả hiện tại bác bỏ kiến chấp phá thần thức là ngã, ba nhân hiện tại và hai quả vị lai bác bỏ kiến chấp thần thức là đoạn diệt, đây là cách sử dụng thông thường. Quả báo ấy là lúc đầu tiên Ca-lA-la gá thai vì vô minh, trước sau một hạn kỳ, luận mười hai chi.

37. Nói về Nhất niệm:

Nhất niệm, trong kinh Hoa Nghiêm chép: "mười hai nhân duyên ở trong một niệm tâm", kinh Đại tập chép: "mười hai nhân duyên, mỗi người một niệm, thảy đều đầy đủ, như mắt thấy sắc, không hiểu rõ gọi là Vô minh, sinh ra yêu ghét gọi là hành, tâm ý trong này gọi là Thức, Sắc và Thức hành gọi là Danh sắc, sáu căn phát sinh tham đắm gọi là sáu nhập. Cắc và mắt đối diện nhau gọi là xúc, lãnh nạp gọi là Thọ, triền miên đối với sắc gọi là Ái, tưởng sắc tướng gọi là Thủ, khởi tâm nghĩ về sắc gọi là Hữu, tâm sinh gọi là Sinh, tâm diệt gọi là chết, cho đến ý tư duy và pháp cũng giống như vậy. Một ngày một đêm tất cả biết bao nhiêu mười hai nhân duyên lần lượt bao trùm để tự ràng buộc. Nay lại nói về tướng của nhân phát khởi. Nếu quán danh sắc do tu hành, hành do Vô minh, không hiểu rõ vô minh, hoặc cho là có, cho là không, vừa có, vừa không, chẳng phải có chẳng phải không.

38. Giữ lấy bốn câu:

Giữ lấy bốn câu ấy đều là vô minh, sự thật này là hành, tâm ý trong đây gọi là thức, thức cùng sắc hành gọi là Danh sắc, mỗi mỗi đều như trước nói. Lại quán một niệm gá thai là Danh sắc, năm bộ phân bắt đầu phát triển gọi là sáu nhập. Sáu nhập đối với Trần gọi là xúc, lãnh nạp gọi là Thọ. Đối với thọ này chia ra bốn trường hợp, hoặc Thọ có Thọ không Thọ, vừa có vừa không Thọ, chẳng phải có chẳng phải không Thọ. Như mắt thọ nhận Sắc, đối với Sắc không hiểu rõ là Vô minh, tâm yêu ghét gọi là Hành, Thức và sắc hành gọi là Danh sắc, sáu căn phát sinh tham đắm gọi là sáu nhập, còn lại như trên đã nói. Cho đến ý suy nghĩ về pháp không hiểu rõ là Vô minh, tâm yêu ghét là các Hành, còn lại như trên đã nói. Như vậy suy ra cành nhánh của cây đại thụ mười hai nhân duyên che chắn giăng phủ đầy khắp ba cõi, ai nhận biết được? Ai chặt đứt được ư?

39. Vòng tròn lửa là giả:

Nay kinh đã là nói lược, không luận bàn đến ba đời, một niệm... chỉ nêu sinh pháp là cảnh của hai quán, nên dùng thí dụ để hiển bày, như múa tàn lửa trong bóng tối, xoay vòng nối nhau không hề dùng lại thì thấy một vòng tròn lửa không dừng. Lửa là thật pháp, vòng tròn là giả danh. Chúng sinh mãi mê đắm trước vòng tròn lửa không dừng của giả danh, không phân biệt được sự xoay vòng nối nhau của lửa ấm nhập, thì mười hai nhân duyên làm sao diệt tận được? Nếu biết rằng vòng tròn nương vào lửa, ngừng tay thì không có vòng tròn, lửa nương vào củi, bỏ củi đi thì không có lửa, vòng tròn và lửa đều không có tức là sinh không, pháp không. Văn ví dụ cho cảnh sinh không chia làm ba: "thể tướng Vô minh..." là hai câu nói về bổn tánh bất hữu, bất vô, là cảnh Trung quán; "Vọng tưởng nhân duyên hòa hợp mà sinh", hai câu này là cảnh Giả quán, "về Vô sở hữu..." là hai câu nói về cảnh không quán; "Cho nên ta nói..." là hai câu kết thực thành tựu. Từ "Hành thức danh sắc..." trở xuống một bài là nói về cảnh của pháp không, lẽ ra phải có ba, thí dụ nhưng đặc biệt là văn lược, có thể biết được ý.

40. Nói về quán giả:

Các khổ hành nghiệp v.v... trở xuống là nói về quán sinh không, pháp không, văn cũng có ba ý: "Các hạnh nghiệp khổ không thể suy nghĩ bàn luận" là một bài nói về quán chẳng phải không chẳng phải hữu; "Vốn không có sinh cũng không hòa hợp" là hai câu nói về quán Không, câu "vốn không có sinh" là sinh không, câu "cũng không hòa hợp là pháp không; "không khéo suy nghĩ..." là hai câu nói về Giả quán, suy nghĩ bất thiện trước đây dẫn đến danh sắc này, suy nghĩ bất thiện hôm nay lại tiếp tục có già chết ở vị lai... Tuy gọi là quán sinh không pháp không, nhưng mà Tức Không-tức Giả-tức Trung, văn đó rõ ràng, hợp với nghĩa lý, có chỗ nào nghi ngờ ư? Lại tiếp tục vì hàng độn căn nói về tướng của quán Không-nếu Giả danh tự phát sinh thì không cần Thật pháp, nếu từ pháp sinh ra thì chẳng phải từ giả danh sinh ra, nếu Giả-Thật hòa hợp mà sinh thì lẽ ra phải có hai Giả, nếu lìa Giả, Thật thì không có việc ấy. Giả danh này chỉ có tên gọi, tên gọi không ở giữa, hai ở trong, ở ngoài, cũng không thường tự có, bởi vì không thể đạt được cho nên gọi là quán giả danh không. Về quán thật pháp không, nếu danh sắc tự sinh thì lẽ ra không đợi nghiệp; nếu nghiệp có thể sinh thì La-hán có nghiệp, vì sao không sinh; nếu nghiệp quả cùng sinh thi các pháp đều có tên chung, các pháp không, chung, nếu không có nhân duyên sinh thì không có việc ấy. Đã không thể sinh, cũng không được không sinh, cũng không được vừa sinh vừa không sinh, cũng không được chẳng phải sinh chẳng phải bất sinh, cũng không được diệt, cũng không được không diệt, cũng không được vừa diệt cũng không diệt, cũng không được chẳng phải diệt, chẳng phải bất diệt, vô diệt vô sinh, gọi là vô sinh, vì vô sinh cho nên giả danh hoại, vì giả danh hoại cho nên sáu mươi hai kiến chấp hoại và kiến chấp hoại cho nên Thật cũng hoại. Đã không đốt lửa thì không có khói, quay qua lửa giữa ban ngày thì cũng không có vòng tròn, đây là sơ lược nêu ra tướng của Không quán, Trung quán và Giả quán ở nơi khác có ghi đầy đủ... Từ "Ta dứt bỏ tất cả các kiến chấp, trói buộc... trở xuống mười hai bài rưỡi kệ là phần thứ hai.

41. Nói về công dụng của sinh không pháp không:

Công dụng của sinh không, pháp không về mặt quả, nói về thành tựu nên chứng quả, văn chia làm hai: Ba bài rưỡi đầu tiên từ Tự hành thành tựu, chín bài sau là Hóa tha thành tựu. Văn tự hành lại có hai: hai bài đầu là đầy đủ Trí đức, một bài rưỡi tiếp theo là đầy đủ đức dứt. Tất cả các kiến chấp là sáu mươi hai kiến, tám mươi tám sử... vì thế nên nói là tất cả. Đây là quán thành tựu về sinh không. Dùng năng lực trí tuệ là thí dụ cho sắc bén của trí tuệ, trên thí dụ cho chấp đoạn, dưới thí dụ cho dứt bỏ phiền não. Triền là trình bày riêng về mười triền. Lưới phiền não là trình bày tất cả mười sử, lưới võng có cái sai lầm che chắn của mạng lưới, nhà cửa có cái thiếu sót tối tăm của bao phủ, thấu suốt sự vắng lặng của ấm thì ám chướng không thể che đậy được, xé rách màng lưới nhưng giềng lưới không xé rách được. Đây là quán thành tựu về pháp không.

42. Dẫn kinh Tịnh Danh để nói rõ:

Hàng Nhị thừa cởi bỏ sự ràng buộc của Thông kiến, hàng Bồ-tát cởi bỏ sự ràng buộc của chấp Biệt, kinh Tịnh Danh chép: "Kiết tập chưa sạch hết nên hoa báu vào thân, chưa dứt hết biệt kiến nên hoa còn bám. Nhưng nói Phật đã dứt bỏ kiến triền, hoặc là Thông hay Biệt rốt ráo đều hết ở Phật. Thích Luận chép: "Chúng sinh vô thượng chính là Phật, pháp vô thượng là Niết-bàn, vô thượng giả thật không thể mê hoặc đối với địa vị Phật, cho nên nói là Phật dứt trừ". Kinh luận khác nhau, hoặc nói trí thượng thượng của Phật dứt bỏ các hoặc hạ hạ, vô minh sức mạnh nhưng trí của Phật có khả năng dứt bỏ, một niệm tương ưng với tuệ chính là mọi nghiệp tập đều dứt sạch không còn sót, hoặc nói Hữu thượng sĩ gọi đó là đoạn, vô thượng sĩ gọi là vô sở đoạn, đó chính là tùy theo cõi nước tùy theo thời gian, tùy theo hạng người, tùy theo sự hiểu biết đều có lợi ích... chứng Vô thượng đạo: Chánh đạo về sinh không, pháp không đã đầy đủ. Công đức nhiệm mầu: Trí đạo về sinh không, pháp không đã đầy đủ.

43. Nói về cam lộ:

Từ "Mở cửa cam lộ" trở xuống một bài rưỡi là nói về đức dứt tròn đầy. Cam lộ là thuốc thần không chết của các vị trời, người được ăn thì mạng sống dài lâu, thân an vui, khí lực mạnh mẽ, thể chất sáng suốt, giống như Đức dứt của các Đức Phật an trụ trong dụng Thường, lạc, Ngã, tịnh chân thật của Đại Niết-bàn, nên biết là đức dứt đã tròn đầy. Nhưng ý của nghĩa này lại muốn đối diện với các địa vị của Hoa Nghiêm, mở cửa cam lộ là đối với địa vị Thập Trụ, đầu tiên khai bày Thánh đạo để ngăn dứt hai bên, cho nên nói là mở, nêu rõ là đối với Thập hạnh hiển bày riêng biệt từng hạnh một, hòa nhập là đối với Thập Hồi hướng hồi sự nhập lý: cư trú là đối với Thập địa cư trú trong nhà pháp tánh, ăn món ăn đó là đối với Diệu giác tự mình ăn được món ăn ấy, lại đem cho mọi người cùng hưởng. Các địa vị dưới chẳng phải không hóa tha, tự hành chưa trọn, hóa tha cũng không rộng, quả Phật địa trọn vẹn, đức dứt đã đầy đủ, lực từ bi rộng lớn nên có thể vì chúng sinh khai mở Thập trụ, nên rõ Thập Hạnh, đi vào Thập Hồi hướng-ở trong Thập địa, ăn món ăn cam lộ nên công dụng đầy đủ đức dứt hóa tha, hai nghĩa đều thành tựu. Lại nữa, Thông đối với bốn trí Bát-nhã, khai đối với đạo tuệ, Thị đối với đạo chủng tuệ, Nhập đối với trí nhất thiết, xử đối với trí Nhất thiết chủng, thực vị đối với Phật trú đại Niết-bàn, dùng đại bi khiến cho chúng sinh đạt được bốn trí này, đối với quả địa nghĩa đức dứt cũng không ngăn ngại... Lại đối với Pháp Hoa khai thị ngộ nhập tri kiến Phật, bởi lẽ đức của Phật là tròn đầy, vì việc nhân duyên lớn mà xuất hiện ở thế gian, khai mở chỉ bày tri kiến Phật cho chúng sinh, đối với nghĩa đức dứt cũng hiển bày rõ ràng.

44. Dẫn kinh Niết-bàn làm sáng tỏ:

Lại nữa, kinh Niết-bàn chép: "Thường Lạc Ngã Tịnh là phương tiện bậc nhất đối với quả đoạn", như đã giải thích ở trước... Từ "Thổi loa pháp lớn..." trở xuống bài kệ chín bài là nói về quả địa hóa tha tròn đầy, văn chia làm hai: Hai bài đầu là xoay bánh xe, pháp hóa tha, bảy bài kế là bốn thệ nguyện rộng lớn hóa tha. Trong nói pháp lại có hai: Một bài đầu là nói pháp, một bài tiếp theo là thần thông. Các kinh khác thì trước là thần thông làm cho mọi vật khiếp sợ, sau đó mới nói pháp, kinh này hiện thần thông ở sau nên nói pháp ở trước. Lúc tu nhân chánh tuệ về sinh không pháp không, khi đạt được quả thì trí đức tròn đầy, nên có khả năng nói pháp hóa tha; khi tu nhân là giúp đạo của sinh không, pháp không, khi đạt được quả thì đức dứt tròn đầy, cho nên có khả năng hiển bày thần thông hóa tha.

45. Nêu bốn thí dụ:

Nói pháp nêu bốn thí dụ là lợi ích nghe pháp thật sự vô lượng. Lược nêu bốn thí dụ là có là sắp xếp riêng, thổi kèo là thay đổi tên gọi, thí như Đức Phật nói pháp Tiểu thừa sửa đổi tánh phàm chịu khổ của phàm phu, đi vào tánh chân chính của bậc thánh, nói pháp Đại thừa thay đổi tánh nghiêng lệch của phàm Thánh, đi vào tánh tròn đầy của trung đạo, Thất địa của Thông giáo, Sơ địa của Biệt giáo, Sơ Trụ của Viên giáo đều là các giai cần thay đổi tên gọi, từ nghiêng về nhập vào trung đạo. Đánh trống đại pháp ấy là đánh trống nhắc nhở tiến lên quét sạch mọi sự ràng buộc trước đây, ở đây thí dụ như Đức Phật nói pháp đốc thúc tiến lên thực hành các hạnh sâu xa hơn; địa vị Tiểu thừa ở nơi tu đạo, Thông giáo ở Bát địa, Biệt giáo ở Thập hành, Viên giáo ở Sơ Trụ. Các giai vị này nhờ vào năng lực nghe pháp đều tiến vào tu đạo chân thật. Thắp ngọn đèn đại pháp là tự chiếu sáng mình, cũng chiếu soi người khác, thí dụ như Đức Phật nói pháp khiến cho mình và người đều được lợi ích, như căn nhà bao năm tăm tối chỉ cần một ngọn đèn thì có thể sáng sủa, lại như một ngọn đèn thắp lên trăm ngàn ngọn đèn, năng lực nghe pháp đều lợi ích cho mình và người cũng giống như vậy, Bát địa của Thông giáo, Thập hồi hướng của Biệt giáo, Viên giáo cũng ở tại Sơ Trụ, đều là các giai vị đạo quán cùng lưu thông, mình và người đều lợi ích.

46. Nói về mưa pháp:

Mưa xuống cơn mưa pháp cao quý là mưa giúp cho lúa má của người nông phu được thành tựu, cành lá tốt tươi càng thêm đều đặn, khi cơn mưa trút xuống thấm nhuần thì hoa quả nở rộ sum suê, dụ cho các hạnh tuy chăm chỉ tu tập nhưng việc thú hướng lại yếu kém, nghe Đức Phật nói pháp liền tăng thêm đạo, giảm bớt chúng sinh, nhậm vận thành thục, tự nhiên tuôn chảy vào biển Tát-bà-nhã, như thuyền dưới sông Hằng rộng lớn không cần nhọc công gắng sức mà mau chóng cập bến, ở đây hoàn toàn là giai vị đang cùng lưu chuyển, nghĩa như trên đã nói. Nếu hiểu được ý này, thì thí dụ như bốn giai vị của Hoa Nghiêm, bốn trí của Bát-nhã, bốn tri kiến của Pháp Hoa, bốn đức của Niết-bàn, đều có thể hiểu rõ. Một pháp này phân định xuyên suốt giai vị của kinh, luận bán rộng rãi về tất cả các giai vị, một khi nghe pháp âm tùy loài đều được hiểu v.v... Bốn thí dụ trong đây đều nói về Đại, Đại ấy là giảng nói Đại pháp, là con đường lớn giải thích rằng Niết-bàn là Đại thừa chứ chẳng phải là giai vị Tiểu thừa.

47. Nói về thần thông hóa tha:

Từ "nay ta hàng phục..." trở xuống là nói về thần thông hóa tha. Oán kết: Bốn trụ là oán kết của Nhị thừa, năm trụ là oán kết của Bồ-tát, ma là kẻ cầm đầu phiền não, chặt cây thì phải nhổ bỏ gốc rễ, hóa độ mọi vật thì phải hàng phục kẻ đứng đầu, nếu không hàng phục được ma thì sự hóa đạo không thông suốt, cách hàng phục ma cần phải sử dụng thần thông, giống như đánh bại oán kết, mới đáng là dũng cảm chẳng phải Pháp vương thì không thể đánh bại. Pháp vương thắng là lúc hóa đạo mà được lập, nên tên gọi như thế. Dựng ngọn cờ pháp, cờ là pháp Tam-muội, cao vượt lên trên các hạnh, là nơi hướng về cho các hạnh, như binh sĩ hướng về người chỉ huy. Ba đức không dọc không ngang, cho nên nói là nhiệm mầu.

48. Nói về bốn thệ nguyện rộng lớn:

Từ "Độ các chúng sinh..." trở xuống bảy bài kệ là bốn thệ nguyện rộng lớn lợi ích mọi loài, cũng gọi là bốn đế lợi ích chúng sinh, bốn hoằng là tâm thệ nguyện, bốn đế là cảnh sở duyên, cứu độ các chúng sinh là hoằng thệ đầu tiên, cũng là vì chưa dứt khổ đế nên khiến dứt khổ đế. Từ "Phiền não lẫy lừng" trở xuống một bài là hoằng thệ thứ hai, cũng vì chưa dứt Tập đế nên khiến dứt bỏ Tập đế. Từ "ta dùng cam lộ..." trở xuống một bài là hoằng thệ thứ ba, cũng là vì chưa chứng đạt Diệt đế nên khiến chứng đạt Diệt đế. Từ "trong vô lượng kiếp..." trở xuống bốn bài là thệ nguyện thứ tư, cũng là vì chưa an trụ Đạo đế nên khiến an trụ Đạo đế. Trong đây nhắm vào đàn làm bốn đế, năm đàn đối với san tham, san tham tự nó dối trá là Tập, Tập nghiệp vời lấy quả là khổ, đàn có công năng dứt bỏ san tham là đạo, san tham bị dứt bỏ là diệt đế. Vô lượng kiếp là chứa nhóm công đức cao dày, vâng tu các hạnh là thâu nhiếp các pháp rộng lớn. Luận nói: Nghĩa của đàn thâu nhiếp cả sáu độ... xả bỏ thân mạng tài sản cùng với đời sau... được thường trụ bất hoại gọi là Ba-la-mật, dọc cao vô tận, ngang rộng vô cùng, nên nói là vâng tu các hạnh.

QUYỂN 5

Giải Thích Phẩm BỐN VỊ VUA TRỜI

1. Nói về bốn vị vua trời:

Vua trời: là người đứng đầu các cõi trên, sơ thiên của cõi dưới, an trụ ở lưng chừng núi Tu-di, phía Đông là Hoàng Kim Đỏa Vương tên là Đề Đầu-lại-tra, Hán dịch là Trì Quốc, thống lĩnh Càn-thát-bà-phú-đơn-ca, phía nam là Lưu ly Đỏa Vương tên là Tỳ-lưu-lặc-xoa, Hán dịch là Tăng Trưởng, thống lĩnh Cưu-bàn-trà bệ-lệ-đa, phía Tây Bạch Ngân Đỏa Vương gọi là Tỳ-lưu-bác-xoa, Hán dịch là Tạp Ngữ, thống lĩnh rồng dữ Tỳ-xá-xà, phía Bắc là Nước Tinh Đỏa Vương tên là Tỳ-sa-môn, Hán dịch là Đa văn, thống lĩnh Dạ-xoa la-sát. Bốn vị vương này nghe kinh vui mừng, cùng dẫn dắt năm trăm quyến thuộc, phát thệ nguyện che chở, giữ gìn. Từ tiêu đề rõ ràng này nên gọi là phẩm Bốn vị vua trời. Quán Tâm giải thích: Đông là Tập-Nam là khổ-Tây là Đạo

-Bắc là Diệt-bốn đế lý là bốn cõi trời, quán bốn đế trí là bốn vị vương, bảo vệ bốn đế cảnh gọi là Hộ quốc, bảo vệ tâm sở là Hộ chúng sinh. Thế là khác, vì người khác nói về tâm sở gọi là Hộ chúng sinh khác.

2. Nói về tám bộ:

Tám bộ: là trong khổ đế có kiến tu lợi độn, kinh Pháp Hoa nêu rõ đây là quỉ thần, cho nên trong Diệt đế cũng có kiến-tư, đó là Tám bộ. Nếu không soi chiếu bốn đế lý thì kiến hoặc và tư hoặc xâm hại tâm vương, phá hủy làm tổn hại cảnh giới, tâm vương mất cảnh thì mất nước, tâm sở là người dân bỏ chạy tán loạn, cảnh và trí đều bị quỉ thần làm cho khổ sở. Quán sát Khổ-Tập, khống chế kiến tư thì đất nước yên ổn, người dân bình yên. Có thể nói về bốn đế cho người khác nghe, là bảo vệ cõi nước cho người, ngăn dứt kiến tư nơi khác xâm nhập khiến cho được bình yên, đó là quán tâm bốn vị trời che chở thế gian. Từ đây về sau mười ba phẩm là phần lưu thông, Phật từ bi đến tận cùng, khiến cho tà ác không che lấp chân chánh, kinh vương không bị lấp bít ở đường cuối cùng, người có duyên tùy theo đó được nghe biết chân thật, nên gọi là Lưu thông. Tất cả gồm có sáu ý:

3. Nội dung các phẩm kinh:

Từ "Bốn vị vua trời... đến Tán Chi" là nói về Thiên Vương phát thệ nguyện khuyến khích khen ngợi vua cõi nước mở mang rộng khắp kinh này. Chánh luận khéo tập, là nói vua cõi người mở mang kinh điển, được vua cõi trời bảo vệ giúp đỡ, cũng là chỉ bày cách thức mở rộng kinh điển trong thời gian cư trú, phẩm Quỷ Thần nói về công đức nghe kinh được các Thiên thần địa tướng hoặc thần sông thần biển cùng các vị Bồ-tát thảy đều bảo vệ che chở, phẩm Thọ Ký chứng minh công đức nghe kinh không luống uổng, phẩm Trừ Bịnh nói về công đức nghe kinh thuở xưa, của Lưu Nước, chứng minh ngày nay được che chở chẳng phải sai lầm; phẩm Xả Thân dẫn ra xưa kia thực hành tu tập theo kinh xả bỏ thân mạng không hề nuối tiếc, chân thành khuyên nhắc thầy trò chớ tiếc lẫn phát tài, phẩm Tán Phật nói về các vị Bồ-tát khen ngợi Phật pháp, lợi ích năng tuyên sở tuyên đều rất sâu dày... Thiên vương phát thệ lại chia làm năm bốn vị vua trời dùng năng lực trời ủng hộ người thỉnh cầu, phẩm Đại Biện dùng biện tài sung mãn lợi ích cho người giảng nói, phẩm Trời Công đức thệ nguyện dùng tài vật giúp đỡ đầy đủ chẳng phải chỉ có người thỉnh cầu và người giảng nói, phẩm Tán Chi thệ nguyện dùng uy vũ để phá dẹp kẻ địch bên ngoài, dứt trừ tai nạn bên trong, để cho người thỉnh cầu, người giảng nói người nghe đều được yên ổn. Lại nữa, Thiên Vương bảo vệ cõi nước đó, Đại Biện bảo vệ vị sư đó, công đức che chở đại chúng ở đó, Thần đất che chở chỗ ấy, Tán Chi dẹp yên tai họa xảy ra nơi đó, giúp cho kinh pháp được mở mang rộng lớn...

4. Nói về phẩm Bốn vị vua trời:

Trong phẩm Bốn vị vua trời có sáu lần hỏi-đáp, tức là sáu đoạn:

1) Thỉnh Phật nói về công năng của người Hộ quốc.

2) Thỉnh Phật nói về sự việc đó.

3) Thỉnh Phật chỉ bày phương pháp.

4) Thỉnh cầu Đức Phật nêu rõ điểm quan trọng của pháp lợi đó.

5) Thỉnh Phật nói về sự hưng suy.

6) Thỉnh Phật nói kệ ngợi khen công đức.

-Lần thứ nhất chia làm hai:

a. Thưa hỏi Đức Phật.

b. Đức Phật nói rõ thành quả.

-Thưa hỏi Đức Phật lại có hai:

1. Lời tựa của người kiết tập.

2. Chính thức thưa hỏi Đức Phật. Lời tựa cung kính như trong văn. Chính thức thưa hỏi Đức Phật. Văn chia làm hai: a. Khen ngợi kinh; b. Nói về công năng che chở. Các vị trời tin pháp có năng lực, cho nên khen ngợi kinh, muốn kinh được truyền bá rộng vì thế nói về công năng che chở đó. khen ngợi kinh chia làm ba:

5. Khen ngợi kinh:

Từ "Kim Quang Minh này..." trở xuống là khen ngợi Thế của kinh; Từ "Trang nghiêm Bồ-tát..." trở xuống khen ngợi Tông chỉ của kinh; từ "Kinh này năng chiếu..." trở xuống là khen ngợi về Dụng của kinh, chánh thuyết thì nhiều nhưng khen ngợi chỉ có ba, cho nên lược thâu nhiếp quảng. Lý pháp tánh được Phật bảo vệ giữ gìn, văn giải thích lý này nên nói là Kinh vương. Đã nói là kinh vương thì biết là khen ngợi thể, y vào thể để tu hành, công năng giúp cho Bồ-tát đầy đủ hai trang nghiêm, thành tựu quả vị cao tột. Đã nói là Trang nghiêm thì biết là khen ngợi tông chỉ, Thế thiên, Tịch thiên, Nghĩa thiên đều kính mến vô cùng, thực hành ba nghiệp cúng dường, cung kính là thân, vui mừng là ý, khen ngợi là miệng. Lại nữa, dưới từ địa ngục trên đến Bồ-tát, vô minh chưa sạch thì đều bị phiền não ép ngặt, kinh này có công năng dứt trừ sự ép ngặt đó, như vầng trăng mát mẻ sáng ngời, nên biết là khen ngợi dụng... Từ

6. Nói về khả năng Hộ quốc:

"Thế Tôn! Kim Quang Minh này" trở xuống là phần b, thuật rõ về khả năng hộ quốc, văn chia làm hai: a. Bên trong dùng pháp để hộ quốc; b. Bên ngoài dùng sách lược để hộ quốc. Dùng pháp hộ quốc lại có bốn:

1. Lý do hộ quốc.

2. Dùng pháp để hộ quốc.

3. Nhờ quyến thuộc là các vị trời để hộ quốc.

4. Dùng mắt trời để hộ quốc.

-Lý do hộ quốc: vì nhờ kinh này mà được bốn lợi ích, thân thể càng sáng ngời, sức lực thêm mạnh mẽ, tâm thức càng tăng tiến, phước đức càng trang nghiêm. Về lý thì được hai ích lợi, đó là pháp thân tuệ mạng đều được thêm lớn. Nhờ cõi nước mở rộng kinh điển khiến cho pháp ấy tốt tươi, lẽ nào không che chở? Nói về lý do ấy, nghĩa này chính là tương ứng với Quán tâm, dùng bốn đế trí che chở bốn đế cảnh, tức là tu hành chánh pháp, dùng bốn đế trí dẫn dắt các tâm sở, giúp cho tâm sở không hiện hành, nên gọi là Hành Bát-nhã Ba-la-mật, tức là năng thuyết chánh pháp. Bên trong có lý do hộ quốc như vậy, gọi là Hộ Thế Vương cai trị cõi nước bằng chánh pháp, Sư đảng hộ quốc: ở đây cũng tương ưng với Quán tâm, Tâm Vương là thầy, Tâm Sở là môn hạ, hàng phục các sử kiến tư lợi độn, như các Thiên Vương cùng quyến thuộc ngăn dứt các ác quỉ, như vua chuyển Luân cùng bảy thứ báu, ngàn người con hễ có đi đến nơi nào thì bốn phương đều quy ngưỡng phước đức của họ, bốn vị vua trời cùng với năm trăm quyến thuộc đến nơi chốn nào thì điều ác gì mà không trừ diệt? Dùng mắt trời hộ quốc: nhờ phước báo đạt được mắt trời nhìn thấy mọi nơi, không có tối tăm nào không chiếu sáng, phòng ngừa mầm mống ngăn dứt dần dần thì điều ác nào mà không trừ diệt?

7. Chính sách hộ quốc:

Từ "nếu cõi nước này có những điều suy hao..." trở xuống là trí sách hộ quốc, giúp cho nhân duyên trong ngoài hòa hợp, văn chia làm ba:

1) Nếu trong nước có nhiều tai họa, các thứ hoạn nạn khốn đốn như chiến tranh, đói kém, dịch bệnh, ta dùng trí sách khuyến khích Pháp sư đến đó. Hoặc dùng uy thần khuyên đến, hoặc hiện bày hình tướng để khuyên đến, hoặc giáng mộng để khuyên đến, nếu Pháp sư đến đó giảng rộng kinh này, thì giống như mặt trời xuất hiện, mù sương sáng sớm tự nhiên tiêu tan. Đây là khuyến khích duyên bên ngoài. Kế là vị vua tâm không có trí soi chiếu thì tai họa thừa cơ ngấm ngầm xâm nhập, sư đã nắm giữ pháp theo nghi thức, nhà vua cần phải chuyên tâm lắng nghe lãnh thọ, nếu nhà vua chăm chỉ lắng nghe thì các vị trời cũng thường che chở, cho nên che chở nơi đáng che chở bảo vệ nơi đang bảo vệ, một người có niềm vui thì khắp nơi đều được nhờ cậy, bản thân nhà vua và đất nước yên ổn không còn những tai họa. Đây là nhân bên trong, nếu bên ngoài tuy có người mở mang kinh pháp nhưng bên trong nhà vua không thiết tha tôn trọng, thì không hòa hợp, không thể đẩy lùi mọi tai họa.

2) Nhà vua không ban phát ân huệ thì phước lộc không đầy khắp, như không siêng năng cày cấy thì kho lẫm không nhiều thóc lúc, khuyến khích nhà vua dốc hết tài vật cung cấp cho bốn chúng, bốn chúng được yên lành thì phước đức giúp đỡ nhà vua, khắp đất nước và toàn quyến thuộc tất cả đều không có họa hoạn. Đây là nhân duyên trong ngoài hòa hợp, sẽ khiến cho mùa màng bội thu, khắp nơi no ấm...

3) Bản thân nhà vua không có đức hạnh của vị vua trước đây thì thần dân không phục tùng, miệng nhà vua không có đức hạnh của vị vua trước đây thì các nước gần bên cạnh không khen ngợi. Nay khuyến khích nhà vua thể hiện ba nghiệp, cúng dường cung kính là thân nghiệp, trân trọng là ý nghiệp, ca ngợi tán thán là khẩu nghiệp. Bởi lẽ, cao lấy thấp làm nền móng, biện giải lấy nói chậm rãi làm thầy, kính trên nhường dưới công đức cũng lớn lao. Dùng uy lực của các vị trời khiến cho các nước ở gần đều xa tôn sùng, bày tỏ sự khen ngợi kính mến và vô cùng khâm phục. Ba nghiệp trang nghiêm, trên hóa độ, dưới như gió thổi giạt cỏ cây. Người đứng đầu đất nước đã như vậy, thì người dân trâu ngựa cỏ cây trong đất nước không loài nào không cúi đầu hướng về trong đó. Đây tức là nhân duyên năng tán và sở tán hòa hợp nhau, tiếng ca tụng vang khắp các nước ở gần... văn kinh rõ ràng suy tìm sẽ thấy.

8. Phật nói về sự thành tựu:

Kế là Đức Phật nói về sự thành tựu ấy, văn chia làm hai:

1) Kết hợp thuật rõ sự khen ngợi kinh.

2) Nói về khả năng che chở cõi nước. Bốn vị vua trời trước tiên nói lời khen ngợi kinh đã hợp lý, Đức Phật lại nói rõ sự thành tựu đó, quả thật khen ngợi về ba thứ thể, tông, dụng ở trên, cho nên nói là Đức Phật kết hợp thuật rõ, khéo thay, tuyệt vời thay! Trên đây là khen ngợi chung về giáo pháp, Đức Phật nói rõ sự thành tựu đó là khen ngợi mà thành tựu nơi một pháp. Từ "ở chỗ các Đức Phật" trở xuống là nói rõ sự thành tựu khả năng hộ quốc, lại chia làm hai:

1. Nói về dùng pháp để che chở giữ gìn đất nước.

2. Nói dùng trí nhãn để hộ quốc. Cách hộ quốc có bốn, Đức Phật đều nói rõ tất cả, trên đã nói về lý do hộ quốc là nhờ nghe kinh được lợi ích, Đức Phật nói rõ nay được lợi ích vì phước đức gieo trồng từ trước, phát tâm cuối cùng cả hai không trái nhau, hai tâm như vậy thì tâm trước rất khó, cho nên kính lễ đối với sơ phát tâm. Đây là nói phần trước để thành tựu phần sau, nói phần sau để hiển bày phần trước. Từ "giảng nói chánh pháp..." trở xuống là nói về việc dùng pháp để hộ quốc. Trên nói năng thuyết năng hành cho nên gọi là Hộ thế, Đức Phật cũng nói rõ sự thành tựu của năng thuyết năng hành, được gọi là Hộ Thế... Từ "Hôm nay các vị..." trở xuống là nói rõ dùng mắt trời để hộ quốc, không trái với thứ lớp, không lỗi đối với nghĩa lý, trên nói dùng mắt trời thanh tịnh hơn hẳn mắt thịt, Đức Phật nói rõ về lợi ích lâu dài. Bởi lẽ mắt trời chiếu sáng trong đêm tối không nhờ vào ánh sáng mặt trời, cho nên nói là đêm dài.

9. Nói về thân thuộc của các vị trời ấy hộ quốc:

Từ "Bốn vị vua trời các vị và các quyến thuộc..." trở xuống là nói rõ thân thuộc của các vị trời ấy hộ quốc, trước đây nói là hộ quốc, nay Đức Phật khen ngợi thêm là che chở chánh pháp của các Đức Phật ba đời. Từ "Tứ vương các vị và các thiên chúng..." trở xuống là nói rõ trí nhân hòa hợp để hộ quốc, trên nói thỉnh cầu Pháp sư đi vào cảnh giới để đầy lùi ác nạn, trình bày về công lao này do bản thân mình có khả năng đẩy lùi loài Tu-la, các vị hãy khuyến khích nhà vua nghe kinh, cung cấp vật dụng cho bốn chúng; Đức Phật nói rõ về trí bên trong, và phước bên ngoài thật sự tiêu trừ hàng phục các khổ đưa đến an vui, như văn... Lần thứ hai thỉnh cầu Đức Phật nói về việc hộ quốc, văn chia làm hai:

1. Bạch Đức Phật.

2. Đức Phật nó rõ thành tựu. Bạch Đức Phật lại có hai:

a) Nơi lưu hành kinh điển, vị vua đó tự mình có thể lãnh thọ, lại cung cấp các thứ cầu dùng cho bốn chúng, tôi và quyến thuộc nguyện sẽ âm thầm ẩn hình để làm cho lợi ích đó hiển hiện.

b) Các nước ở gần xấu ác khởi binh xâm chiếm đất nước tốt lành, tôi sẽ ẩn hình dấy lên các điều kinh dị hãi hùng, bao nhiêu tai họa phát khởi, khiến cho quân binh đó nhìn thấy rõ ràng mà tự rút lui, không dám quấy nhiễu, huống chi là tàn hại trong cõi nước...

10. Phận giải thích rõ:

Tiếp theo Đức Phật nói rõ, văn chia làm hai: Từ "Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi..." trở xuống đến "... không có việc tranh chấp kiện tụng" là nói rõ ý đầu tiên, ẩn hình là che chở Tam bảo, ngã là Phật bảo, tu tập Bồ-đề là Pháp bảo, các vị vua không đấu tranh kiện tụng là Tăng bảo. Nói rõ che chở một nhưng có thể thành tựu ba. Từ "Tứ Vương nên biết cõi Diêm-phù-đề này..." trở xuống là nói về thành tựu ý sau, trên đây dùng uy lực của các vị trời làm mê hoặc khiến cho sáu thế lực phải rút lui, dường như ghét điều xấu ác, ưa tự buồn lo, để người lành tự vui vẻ, không phải tệ bạc với kẻ ác mà trọng hậu với người lành, thành ra lo sợ, mà rút lui. Lại khuyến khích các nước đều giữ gìn sự nghiệp của chính mình, trụ cảnh tự vui, chớ khởi lòng tham để chiếm đoạt, các vị vua hòa hợp thì dân chúng không có tai vạ, pháp hưng thịnh thì các vị trời vui vẻ. Đức Phật nói với Đế Thích: "Đấu tranh là nhân duyên làm cho trời người bị hao tổn, khéo có thể yêu mến hòa hợp thiên hạ, thì đó chẳng những là cúng dường đối với ta, mà còn là cúng dường các đức Như lai trong ba đời, đối với một đất nước, mà còn yên ổn cho tất cả mọi đất nước", vì thế dùng sự yêu mến hòa hợp nói rõ sự việc thứ hai... Lần thứ ba thỉnh Phật nói rõ nghi quỹ của Nhân vương, văn chia làm hai:

1) Đưa ra ước nguyện.

2) Nêu rõ nghi quỹ đó.

-Ước nguyện có sáu:

1. Mong muốn bản thân mình yên ổn.

2. Mong muốn vợ con mình yên ổn.

3. Mong muốn cung điện yên ổn.

4. Mong muốn có vị vua tài đức dẫn dắt.

5. Mong muốn thâu nhiếp mọi phước đức.

6. Mong muốn đất nước không có lo âu đau khổ. Sáu ước nguyện như văn.

11. Nêu lên nghi quỹ:

Từ "Thế Tôn! Vua cõi người như thế" trở xuống là phần hai, nêu rõ nghi quỹ đó. Tuy thứ lớp sáu số đó đã đầy đủ, nhưng trước mong muốn bản thân yên ổn, nay chỉ rõ đừng nên buông lung, chế ngự tâm thì bản thân yên ổn; trước mong muốn cung điện yên ổn, nay chỉ rõ nên trang nghiêm pháp đường, lọng tàn cờ xí rực rỡ phía trên-hương trầm hoa quả ngon ngọt phía dưới, Tam Bảo thọ dụng thì phước đức không còn có tai họa, trước mong muốn có vị vua tài đức dẫn dắt, nay chỉ bày tắm gội sạch sẽ xông ướp hương thơm, chân thành cung kính, dứt bỏ cao ngạo, như vậy bằng tám dải mũ trên thân người kia. Trên muốn thâu nhiếp nhóm phước đức, nay chỉ rõ chánh niệm nghe kinh, chánh niệm nghe kinh công năng sinh ra vô lượng công đức, thần trời dốc hết sức che chở, Thần đất dốc hết lòng gánh vác, quỉ thần dốc hết lòng giữ gìn, thần dân dốc hết lòng yêu mến, trước mong muốn vợ con yên ổn, nay chỉ rõ nét mặt và lời nói hòa nhã, khuyến khích họ làm mọi điều phước lành, trong ngoài tu các điều lành cảm ứng nhiều sự che chở, trước mong muốn đất nước không có lo âu sầu khổ, nay nêu rõ nên tự mình vui mừng tự mình động viên, quên đi mệt mỏi, làm thêm nhiều điều lợi ích, một người đã vui sướng thì bốn biển yên ổn, nghĩa là như thế.

12. Phật nói về thành văn:

Kế là Đức Phật nói về thành văn, chia làm hai: trước nói thành sáu phương pháp, kế là nói thành sáu ước nguyện. Bốn vị vua trời y theo sáu việc, vả lại những điều đã nói có chút dừng ở hiện tại, Đức Phật căn cứ vào một sự việc mà có nhiều ích lợi, vượt qua vô lượng kiếp, thuật rõ sự thành tựu gấp bội. Từ "Phật bảo bốn vị vua trời..." trở xuống là chỉ mở mang kinh pháp và lắng nghe kinh pháp, tức là nói về sự thành tựu phương pháp an thân, trên chỉ thẳng tâm không buông lung, nay lại nêu lên đón rước khách bạn, từng bước gặp được Na-do-tha Phật, phương pháp đã tăng thêm thì thể cũng càng yên ổn.

13. Nói về thành tựu phương pháp an quốc:

Từ "lại được vượt qua từng ấy kiếp nạn..." là nói về thành tựu phương pháp an quốc, trước chỉ có một đời không còn lo âu đau khổ, nay thì trải qua nhiều đời các hoạn nạn sinh tử như vậy. Từ "Lại ở đời sau đối thọ Luân Vương..." là nói rõ phương pháp an ổn cho vợ con, Luân Vương có Ngọc Nữ, Thiên Tử chắc chắn không có kẻ thù, trong nhiều kiếp như vậy vợ con thường yên ổn. Từ "Cũng được năng lực tự tại trong hiện đời như thế" là nói về thành tựu phương pháp lãnh đạo an ổn đối với nhà vua trước đây. Từ "Thường được cung điện bảy báu tốt đẹp nhất" là nói về thành tựu phương pháp an ổn đối với cung điện trước đây. Từ "hễ sinh ra bất cứ nơi nào đều đầy đủ vô lượng nhóm phước..." là nói về thành tựu phương pháp thâu nhiếp phước đức ở trước. Từ "bốn vị vua trời các vị" trở xuống là nói về thành tựu sáu điều nguyện ước đó. Từ "Tứ vương..." trở xuống đến "... không lui sụt" là nói về thành tựu nguyện an thân ở trên. Từ "chính mình được gặp..." đến "hết khổ ba đường ác" là nói về thành tựu an quốc ở trên. Từ "nay con đã gieo trồng nhân Luân Vương Thích Phạm" là nói về thành tựu nguyện an ổn cho vợ con ở trên. Từ "Đã gieo trồng vô biên gốc lành..." trở xuống là nói về thành tựu mong muốn thâu nhiếp nhóm phước ở trên. Từ "hậu cung cung điện không có các hung suy" là nói về thành tựu nguyện an ổn cho cung điện ở trên.

14. Tổng kết thành tựu sáu nguyện sáu pháp:

Từ "cõi nước không có những kẻ thù ở phương khác" là nói về thành tựu vị vua lãnh đạo bậc nhất ở trên. Từ "Tứ vương các vị..." trở xuống là tổng kết thành tựu sáu nguyện sáu pháp, đều khiến cho đầy đủ, nếu có thể tự hạ mình đón rước khách bạn, dốc lòng nghe pháp, tức là sáu nguyện sáu pháp. Lại nữa, hồi hướng lợi ích giúp cho các vị trời cũng chính là có thể làm cho sáu nguyện sáu pháp thành tựu trọn vẹn. Lần thứ tư thỉnh Phật nói về việc thực hiện điều lành của vua cõi người, đây là căn cứ theo phần cuối của đoạn thứ ba, văn chia làm hai:

1. Bạch Phật.

2. Đức Phật nói rõ sự thành tựu.

Bạch Phật lại có hai: a. Vua cõi người vận tâm; b. Tướng cung trời hiện bày. Tâm của vua cõi người còn rất chí thành đối với kinh điển, cho nên hương phát ra ánh sáng vàng rực, sự hồi hướng chắc chắn thành tựu, do đó tướng trạng của cung trời hiện bày. Làn hương bay đến cung trời, cung rồng, cung quỉ thần... đều bay đến ba pháp giới. Quán tâm giải thích: Dùng lửa trí tuệ thắp hương Tướng thật, khói giới định tuệ bốc lên, Tướng thật là pháp chân thật, cho nên nói là ánh sáng vàng rực (Kim Quang), giới tuệ thầm hợp với lý, cho nên chiếu soi thấu suốt không ngăn ngại...

15. Đức Phật nói về thành tựu:

Kế là Đức Phật nói rõ thành văn, chia làm hai: Trước hết nói rõ về ánh sáng của hương chẳng những tỏa đến các cung trời trong ba pháp giới, mà còn tỏa đến khắp trăm ức cung điện khác, còn tỏa đến hằng sa cõi Phật, nói tóm lại là soi chiếu cùng khắp trong mười pháp giới. Từ "các Đức Phật, Thế Tôn nghe thấy mùi hương này" trở xuống là nói rõ vua cõi người vận chung tâm lành phụng hiến cho các vị trời nên được các Đức Phật khen ngợi, trước là khen ngợi thành tựu nhân, tiếp theo là khen ngợi tròn đầy quả, như trong văn. Lần thứ năm bạch Phật nói rõ sự hưng suy, văn chia làm hai:

1. Bạch Phật.

2. Đức Phật nói về sự thành tựu. Bạch Phật lại chia làm ba: đầu tiên từ "Bạch Phật..." cho đến "... các tai họa hung ác thảy đều dứt trừ" là thứ nhất, nêu ra sự hưng thịnh để khuyến khích.

16. nêu ra sự hưng thịnh để khuyến phát:

Từ "nếu có vua cõi người tâm sinh lìa bỏ" đến "thiện thần xa lìa sinh ra vô lượng việc ác như thế" là phần hai, nêu ra sự suy vong để khuyến khích; Từ "Thế Tôn! Vua cõi người muốn tự hộ mình và cõi nước của vua..." là thứ ba, chính thức khuyến khích. Nêu ra sự hưng thịnh để khuyến khích chia làm bốn đoạn:

1. Nhân Vương mở mang kinh điển thì bốn Thiên Vương ẩn hình lắng nghe và lãnh thọ.

2. Chẳng những bốn vị vua trời lắng nghe lãnh thọ mà Phạm Thích và tám bộ trời rồng cũng đều tập trung lắng nghe và lãnh thọ.

3. Tôn vị vua cõi người này làm tri thức về pháp lành.

4. Đã được pháp lợi thì càng gắng sức che chở đất nước... đều như trong văn.

17. Nêu ra sự suy vong để khuyến khích:

Kế là nêu ra sự suy vong để khuyến khích, cũng có bốn đoạn:

1) Vị vua không mở mang kinh điển nên các vị trời mất mùi vị cam lộ nên uy lực bị giảm bớt.

2) Phạm-Thích và các vị thần đều xa lìa.

3) Ác quỉ hoành hành quấy nhiễu, tai họa dịch bệnh tranh nhau khởi lên.

4) Xoay vần kết thành tai họa, tai họa khởi lên do đâu? Ác quỉ hoành hành quấy nhiễu, ác quỉ hoành hành do đâu thiên thần lìa bỏ, vì sao lìa bỏ? Vì không nghe được pháp thực. Vì sao không có pháp thực? Vì nhà vua không mở mang kinh điển... như trong văn.

-Kế là chính là khuyến khích chia làm sáu đoạn:

1. Muốn đạt được lợi ích hiện tại cho nên nhất định phải lắng nghe.

2. Các vị trời ưa thích pháp thực cho nên nhất định phải lắng nghe.

3. Vượt ngoài ba bộ luận cho nên nhất định phải lắng nghe-ba bộ luận đó là bốn Vi-đà luận nói về phạm sự, Tỳ-già-la luận nói về Thập Thiện sự, Tăng-khư-vệ-thếsự Lặc-sa-bà luận nói về học thông sự...

4. Từ đầu đến cuối được lợi ích, thành tựu Bồ-đề, cho nên nhất định lắng nghe.

5. Vị giáo chủ hơn hẳn Phạm vương, Đế Thích, cho nên nhất định phải lắng nghe.

6. Vì là cội gốc của các pháp cho nên nhất định lắng nghe, đều như trong văn.

18. Phật nói về sự thành tựu:

Kế là Đức Phật nói về sự thành tựu, văn chia làm hai: Lần thứ nhất nói về thành tựu nêu lên sự hưng thịnh để khuyến khích, không mở mang kinh điển thì sẽ suy vong nên không thể nói về sự thành tựu. Lại giải thích rằng: Lần trước thì cả hai đều nói rõ sự thành tựu nên ban cho niềm an vui, đâu là nói về sự thành tựu, nêu ra sự hưng thịnh để khuyến khích dứt trừ sự suy vong tai họa đây là nói về sự thành tựu nêu ra sự suy vong mà khuyên nhủ. Từ "nếu có người nào có khả năng làm Phật sự lớn trong cõi trời cõi người là nói về sự thành tựu để chính thức khuyến khích... Lần thứ sáu bạch Phật, văn chia làm ba:

1. Nói kệ khen ngợi.

2. Đức Phật dùng kệ trả lời.

3. Vui mừng phát thệ nguyện. Kệ khen ngợi có tám bài rưỡi, văn chia làm ba: một bài đầu khen ngợi ba thân, năm bài rưỡi kế là khen ngợi thân tướng, hai bài kế là kết thúc khen ngợi. Nói về ba thân thí có chung riêng. Căn cứ theo văn là biệt, hư không là pháp thân, mặt trời là báo thân, mặt trăng là ứng thân. Ý về thông: Hư không là pháp thân, mặt trời là báo thân, mặt trời hiện trên mặt nước là ứng thân; hư không là pháp thân, mặt trăng là báo thân, mặt trăng hiện trên nước là ứng thân, hư không là pháp thân, mặt trời giữa hư không là báo thân, hư không trên mặt nước là ứng thân, mặt trăng cũng giống như thế. Y theo văn kết thúc khen ngợi: hư không là pháp thân, mặt trăng là báo thân, mặt trăng trên nước là ứng thân, hư không là pháp thân, mặt trời là báo thân, ánh lửa là ứng thân, hóa pháp là Pháp thân, hóa chủ là Báo thân, hóa sư là Ứng thân. Tuy nói riêng nghĩa mà dung thông, cho nên văn nói: "không có chướng ngại", tức là ý của thông.

19. Khen ngợi thân tướng:

Vẫn khen ngợi về thân tướng, chia làm năm: một bài đầu khen ngợi về hai tướng phần trên, đó là mắt và răng, một bài rưỡi kế là khen ngợi về trí đức-đức dứt, đó là trí và tam muội, hai bài kế là khen ngợi hai tướng ở dưới, đó là bằng phẳng và màng lưới, hai câu kế là khen ngợi về dứt bặt ngôn ngữ, đó là không thể suy nghĩ bàn luận, hai câu kế là kết thúc khen ngợi. Nói đến tướng tốt thì không chỉ có nơi ứng thân, mà báo thân, pháp thân cũng cùng có. Trang nghiêm sinh thân do cha mẹ sinh ra là tướng tốt của ứng thân, trang nghiêm thân tôn đặc là tướng tốt của báo thân, pháp môn trang nghiêm là tướng tốt của pháp thân. nay nói khen ngợi đức trí-đức dứt, tức là tướng tốt của pháp thân. Văn nói "không có chướng ngại" ấy là không chỉ khen ngợi tướng tốt của một thân. Bài kệ đầu tiên là nêu lên Phật nguyệt, ở đây trước kết luận Phật nguyệt là ba thân, kế là kết luận ba thân dung thông, cho nên nói "không có chướng ngại"; kế là kết luận Phật Nhật nên nói là "như ánh lửa"; kế là kết luận hóa thân Phật tức là nghĩa của bốn thân, cho nên nói "như hóa" đều có đủ ba thân, bốn thân, cho nên không chướng ngại.

20. Sự khen ngợi ở đầu phẩm cuối phẩm:

Kết luận xong liền đảnh lễ, đảnh lễ đối với Phật nguyệt, cũng là đảnh lễ Phật nhật, Phật hóa. Đầu phẩm khen ngợi kinh pháp, khen ngợi Thể, Tông, Dụng. Cuối phẩm xưng tụng Đức Phật, từ ngữ thì khác nhưng nghĩa như nhau. Pháp thân chân thật của Phật tức là thể, Phật nguyệt thanh tịnh tức là Tông, trăng đáy nước ứng hiện tức là dụng. Trời Thiên Vương biện giải sự nhiệm mầu đó như vậy.

21. Hỏi đáp về hư không có tạo ra mặt trăng hay không?

Hỏi: hư không dụ cho pháp thân, mặt trăng dụ cho báo thân, hư không tạo mặt trăng hay không? Nếu hư không tạo ra mặt trăng thì mặt trăng chẳng phải hư không tạo ra, nếu hư không không tạo ra mặt trăng thì sao mặt trăng nương vào hư không? Đáp: hư không chẳng tạo ra mặt trăng, cũng không phải tạo ra cái chẳng phải mặt trăng, mặt trăng chẳng phải mặt trăng, chắc chắn nương vào hư không, pháp thân chẳng tạo ra báo thân, cũng không tạo ra cái chẳng phải báo thân, báo thân chẳng phải báo thân, chắc chắn nương vào Pháp thân. Lại hỏi: Pháp thân không tạo ra Báo thân chẳng phải Báo thân, Báo thân chẳng phải Báo thân, chắc chắn nương vào Pháp thân, thì lẽ ra mặt trăng cũng sẽ không tạo ra hình ảnh, cũng không tạo ra cái chẳng phải hình ảnh, hình ảnh chẳng phải hình ảnh chắc chắn nương vào mặt trăng. Vậy Mặt trăng cũng là pháp thân hay sao? Đáp: Trí và pháp thầm hợp nhau, pháp là pháp giới, trí cũng như pháp giới... Vả lại hình ảnh hoàn toàn không tạo ra động và bất động, động và bất động chắc chắn nương theo làn nước, làn nước cũng là pháp giới ư? Đáp: Động và bất động thí dụ cho căn cơ, trong tất cả các pháp đều có tánh an vui, dụ như pháp giới cũng không ngại.

22. Dẫn các kinh để nói rõ:

Lại nữa, Tịnh Độ Tam-muội nói: "Chúng sinh cũng độ Phật, nếu không có cơ cảm thì Phật không xuất hiện ở thế gian, cũng không thể thành tựu được tam-miệu Bồđề, xuất hiện ở thế gian và chứng quả Bồ-đề đều nhờ chúng sinh, cơ là pháp giới". Nghĩa này thành tựu. Đức Phật trả lời bằng bài kệ hai mươi bốn bài rưỡi là lý do bốn vị vua trời khen ngợi Đức Phật, vì Đức Phật là người nói pháp, lý do Pháp Vương khen ngợi giáo pháp, bởi vì giáo pháp đưa đến sự thành tựu quả Phật. Kinh Bát-nhã chép: "Lúc ta mới thành đạo quán sát người nào đáng cung kính, đáng khen ngợi không gì hơn pháp", pháp có công năng thành lập tất cả phàm thánh, cho nên Đức Phật khen ngợi pháp để trả lời Bốn vị vua trời. Văn chia làm ba: Một bài đầu khen ngợi thể của kinh để trả lời về pháp thân đó; một bài kế là khen ngợi Tông chỉ của kinh để trả lời về Báo thân đó; hai mươi hai bài rưỡi kế là khen ngợi Dụng của kinh để trả lời về ứng thân đó; tất cả đều như trong văn. Phần ba trong lần thứ sáu bạch Phật là Bốn vị vua trời vui mừng phát khởi thệ nguyện, như trong văn.

------------------------

Giải Thích Phẩm ĐẠI BIỆN

1. Nói về các thứ biện:

Biện có bốn thứ: Tiểu biện, Vô lượng biện, Song biện và Đại biện. Pháp vô lậu gọi là Tiểu biện, pháp giới hàng sa gọi là Vô lượng biện, đầy đủ hai loại đó gọi là Song biện, song phi song chiếu gọi là Đại biện. Vị trời này an trú trong "pháp môn trí tuệ trang nghiêm "tự trú đại biện, dùng năng lực tự tại làm vui lòng chúng sinh cho nên tùy nói một biện hoặc hai, ba, hay bốn biện, do đó gọi là Đại biện. Vì thích hợp mà lập nên gọi là Đại Biện. Vì đối với chúng sinh đối với hoặc đối với một Biện, hoặc hai, ba, hay bốn biện, đối với mà điều trị cho nên gọi là Đại Biện. Vì hiểu rõ chúng sinh do đó hoặc hiểu rõ một Biện, hoặc hai, ba, hay bốn Biện, một hiểu rõ thì hiểu rõ tất cả mà khai phát, cho nên gọi là Đại Biện.

2. Giải thích văn kinh:

Hướng về Đức Phật mà phát nguyện, dùng Đại Biện để giảng nói, gọi là phẩm Đại Biện, Văn chia làm ba:

1) Từ "Bạch Phật..." trở xuống là dùng năng lực Đại Biện để làm lợi ích cho Pháp sư.

2) Từ "nếu có chúng sinh đối với trăm ngàn..." trở xuống là dùng năng lực cảm ứng để tăng thêm sự hóa đạo.

3) Từ "Lại khiến cho vô lượng..." trở xuống là dùng năng thực hành giúp đỡ người nghe. Đầu tiên giúp cho Pháp sư là dùng Lạc thuyết biện tài, trang nghiêm thứ lớp là từ ngữ biện thuyết, đại trí là nghĩa lý biện thuyết, tổng trì là giáo pháp biện thuyết. "Nếu có chúng sinh..." trở xuống là giúp cho sự hóa đạo truyền bá khắp nơi không dứt, giúp cho đạo pháp năng hóa, không có người nào không phải là sở hóa, không đạo nào chẳng phải là năng hóa, nhân duyên hòa hợp cho nên sự hóa đạo không dứt. Từ "lại khiến vô lượng..." trở xuống là giúp cho thính chúng được hai sự lợi ích, nghe kinh đến chỗ không lui sụt là giúp thêm ích lợi về Nhân, chắc chắn đạt được Bồ-đề là giúp thêm ích lợi về Quả. Văn tuy nói sơ lược nhưng sự thệ nguyện rất sâu xa, là lợi ích to lớn.--------------------------

Giải Thích Phẩm TRỜI CÔNG ĐỨC

1. Nói về vị trời tên là công đức:

Vị trời này an trú trong "phước đức trang nghiêm pháp môn thâu nhiếp tất cả các pháp", nên công đức đứng đầu, cho nên nói là trời Công Đức. Lại có khả năng giúp cho người nói những vật cầm dùng không thể thiếu thốn, cho nên gọi là Trời Công đức, lại khiến cho người nói ngày đêm suy nghĩ về nghĩa lý sâu xa của kinh này, cho nên gọi là Trời Công đức, lại khiến cho người nghe mau chóng thành tựu Bồ-đề, đầy đủ các nghĩa này nên gọi là phẩm Trời Công đức. Đây là ý thứ ba trong kinh Thiên Vương Hộ.

2. Giải thích văn kinh:

Phước giúp cho người cầu thỉnh, giảng nói và người nghe. Văn chia làm sáu:

1) Từ "Bạch Phật..." trở xuống là phát thệ nguyện cung cấp bốn thứ cần dùng cho Pháp sư.

2) Từ "Ta vào thời quá khứ..." trở xuống là nói về lý do đạt được phước đức.

3) Từ "Nếu có người..." trở xuống là khuyến khích nêu rõ pháp hành, trong văn có nêu lược và nêu bày rộng...

4) Từ "Lúc ấy, ta trong khoảng một niệm..." trở xuống là thệ nguyện đi đến làm cho lợi ích.

5) Từ "Nếu hồi hướng bố thí việc mình đã làm" trở xuống là yêu cầu sự đồng hành.

6) Từ "phải nên lễ..." trở xuống là chỉ bày riêng về sự quy kính, đều như trong văn.

---------------------------

Giải Thích Phẩm KIÊN LAO THẦN ĐẤT

1. Giải thích tên phẩm:

Các vị trời trên đây hoặc an trụ trong đạo thiện quyền phương tiện, làm cha pháp của chúng sinh, vị trời này an trụ trong đạo thiện thật trí độ, làm mẹ pháp của chúng sinh, là nghĩa thứ nhất. Giống như âm dương che chở gánh vác cỏ cây, trí độ nuôi dưỡng sinh ra các mầm lành, là nghĩa thứ hai. Các độ khác đều có sinh ra không tan mất không mất, thật trí soi chiếu rõ ràng không có tướng, không có danh, là nghĩa thứ ba. Các độ khác có bằng, có trên, trí độ không ngang bằng, không trên, là cứu cánh độ, là nghĩa thứ tư. Pháp môn Trí độ thường trụ không hề thay đổi, nghĩa chép Kiên Lao là Thường, có khả năng vui vẻ gánh vác, có khả năng phát sinh thanh tịnh, gọi là Địa, đức lực tự tại ngã, gọi là Thần. Từ những pháp môn này nên gọi là phẩm Kiên Lao Thần đất. Phẩm này là ý thứ tư trong phần Thiên Vương Hộ pháp, dịch là "Dũng địa vị tư ích thỉnh thuyết thính đẳng địa (đất tuôn món ăn giúp ích cho tất cả những người thỉnh cầu-giảng nói-nghe nhận...).

2. Giải thích văn kinh:

Văn chia làm ba:

1. Từ "Bạch Phật..." trở xuống là thệ nguyện từ đất tuôn tràn món ăn ích lợi cho hành giả.

2. Từ "bấy giờ, Phật bảo..." trở xuống là Như lai nói rõ sự thành tựu.

3. Từ "bấy giờ Thần đất..." trở xuống là phát thệ nguyện mở mang kinh pháp.

-Phần Đất tuôn món ăn, văn chia làm ba:

1. Từ "Bạch Phật..." trở xuống là nói về lợi ích của bản thân, tất cả y theo tám việc xoay vần thêm lớn, nhờ nghe pháp cho nên pháp vị thêm lớn, pháp vị thêm lớn cho nên sức khỏe thêm lớn, sức khỏe thêm lớn cho nên mặt đất tuôn món ăn thêm lớn, món ăn từ đất thêm lớn cho nên tất mọi vật thêm lớn, tất cả mọi vật thêm lớn cho nên năm thứ quả của chúng sinh thêm lớn, năm thứ quả thêm lớn cho nên tu hành thêm lớn, tu hành thêm lớn cho nên cúng dường thêm lớn, cúng dường thêm lớn cho nên mở mang truyền bá thêm lớn... tất cả như trong văn.

2. Từ "Vì sao Đức Thế Tôn..." trở xuống là nói về lợi ích của quyến thuộc, là năng lực kinh pháp thêm lớn, tất cả dựa theo năm việc xoay vần thêm lớn, nhờ năng lực kinh pháp cho nên quyến thuộc của mình thêm lớn, quyến thuộc thêm lớn cho nên món ăn của đất thêm lớn, món ăn của đất thêm lớn cho nên mọi vật thêm lớn, mọi vật thêm lớn cho nên sự vui sướng chúng sinh thêm lớn, sự vui sướng thêm lớn cho nên y báo đều đầy đủ, đầy đủ cũng gọi là thêm lớn.

3. Từ "cho nên Thế Tôn, các chúng sinh này" trở xuống gọi là Báo ân thêm lớn, tất cả dựa theo sáu việc xoay vần thêm lớn, vì biết ân của mình cho nên chuyên tâm lắng nghe thêm lớn, chuyên tâm lắng nghe thêm lớn cho nên công đức thêm lớn, công đức thêm lớn cho nên giáo hóa người khác thêm lớn, giáo hóa người khác thêm lớn cho nên món ăn từ đất thêm lớn, món ăn từ đất thêm lớn cho nên lãnh thọ vui sướng thêm lớn, vì lãnh thọ vui sướng thêm lớn cho nên tin tưởng hồi thí thêm lớn... đều như trong văn.

3. Nghe kinh công đức thêm lớn:

-Phần hai: Đức Phật nói rõ sự thành tựu, văn chia làm hai:

1. Y theo sự nghe kinh mà xoay vần thêm lớn, từ cõi người đến cõi trời, từ cõi trời đến xuất thế, ngày đêm được hưởng sự vui sướng không thể suy nghĩ bàn luận, tức là sự an vui xuất thế. Những gì Thần đất đã nói chỉ là sự thêm lớn ở đời hiện tại, Như lai nói về sự thành tựu, văn từ tuy sơ lược nhưng ý rất sâu xa.

2. Nói về sự thành tựu cúng dường thêm lớn, từ cõi người đến cõi trời, từ cõi trời đến xuất thế, nghĩa lý sâu xa dựa theo trước có thể biết...

-Phần ba: Phát thệ nguyện che chở kinh, văn chia làm ba:

1. Thệ nguyện che chở người nói pháp.

2. Thệ nguyện che chở sự hóa đạo thông suốt.

3. Thệ nguyện che chở người nghe pháp... như văn

----------------------------

Giải Thích Phẩm TÁN CHI QUỶ THẦN

1. Giải thích tên phẩm:

Vốn là âm Phạn, lẽ ra nên dịch là Tán Chi Tu-ma, Hán dịch là Mật. Mật có bốn nghĩa, đó là Danh mật-Hạnh mật-Trí mật và Lý mật. Bởi Bắc phương Thiên Vương Đại tướng, ba phương còn lại đều có, Đông phương gọi là Lạc Dục, Nam phương gọi là Đàn Đế, Tây phương gọi là Thiện Hiện, đều có năm trăm quyến thuộc, cai quản lãnh đạo hai mươi tám bộ. Kinh Khổng Tước Vương chép: "Một phương có bốn bộ, sáu phương có hai mươi bốn bộ, bốn duy mỗi duy đều có một bộ, hợp thành hai mươi tám bộ". Người giảng nói cho rằng: "Một phương có năm bộ, đó là Địa Nước Lửa Gió Không, bốn phương có hai mươi bộ, tất cả bốn vị vua trời thống lãnh tám bộ, đó là hai mươi tám bộ".

2. Giải thích chánh văn:

Tuần hành khắp thế gian thưởng thiện phạt ác, đều do Tán Chi cai quản, nghe kinh vui mừng phát thệ nguyện che chở cho người nói người nghe, từ người che chở mà được tên gọi, nên gọi là phẩm Tán Chi... Văn chia làm bốn đoạn:

1. Từ "Bạch Phật..." trở xuống là phát thệ nguyện che chở.

2. Từ "Nhân duyên gì..." trở xuống là nói rõ có đức năng hộ.

3. Từ "Đại tướng Tán Chi..." trở xuống là thệ nguyện dùng trí lực để làm lợi ích cho người nói.

4. Quy kính bổn sư: Đoạn một có bài tựa của người kiết tập, chính thức phát thệ nguyện, đều như trong văn.

Đoạn nói về công đức lại chia làm ba:

a) Nêu ra.

b) Nói rõ.

c) Kết luận. Phần nêu ra như văn. Phần nói rõ lại chia làm ba: năm câu đầu nói rõ Trí, năm câu kế là nói rõ Cảnh, năm câu tiếp nói rõ Chánh. Ba lần xưng Thế Tôn, biết là ba thứ ý.

3. Thế nào là mật, chẳng phải mật:

Thần đã gọi là Mật, nói tên gọi hiển bày đức, nên bàn về ý nghĩa của Mật, nếu trí cạn sâu có tầng bậc thứ lớp thì không gọi là Mật, ngay nơi một trí là tất cả trí, tất cả các trí là một trí, chẳng phải một chẳng phải tất cả, mà là một mà là tất cả, đó là Trí Mật. Nếu đạt được ý này thì năm câu là một câu, một câu thành năm câu, chẳng phải một chẳng phải năm, mà là một mà là năm. Chỉ có số-chỉ có mật. Nếu cảnh dùng trí biết, được dùng miệng để nói, thì cảnh ấy chẳng phải Mật; không thể dùng trí biết được, không thể dùng thức hiểu được, không thể dùng tên gọi để gọi, không thể dùng lời để nói, đó gọi là Cảnh Mật không thể suy nghĩ bàn luận. Nhưng dựa theo năm số để nói về Mật thì trường hợp trước rất dễ hiểu. Nếu đối với tà đạo nói về chánh đạo, đối đãi hai bên mà nói về trung đạo, thì chánh đạo này chẳng phải chánh, Trung đạo này chẳng phải trung, đầu chẳng phải Mật, ngay nơi tà là chánh, ở ngay nơi biên là trung, tà chánh, trung biên không hai không khác, ấy mới gọi là Mật.

4. Dẫn kinh làm sáng tỏ:

Kinh Tư Ích chép: "Nếu dùng tâm phân biệt tất cả các pháp thì tất cả các pháp là tà, nếu không dùng tâm phân biệt tất cả các pháp thì tất cả các pháp là chánh". Tức là nghĩa ấy. Bản thân thực hành chánh đạo, hoặc là cảnh, hoặc là trí từ đây được tên gọi, chỉ có một mình đức Thế Tôn tự chứng biết... Lại nữa, ba lần này đều là thân khẩu ý mật, năm câu trước nói là biết, biết tức là ý mật; năm câu kế nói về hiện thấy, hiện thấy thuộc về mắt, mắt thuộc về thân, tức là thân mật, năm câu sau nói về chánh giải, cho chánh giải nên nói là chánh phân biệt, phân biệt tức là khẩu mật. Vì thế nói là không hiển bày là nghĩa của Mật. Nói tên gọi như thế thì nghĩa của mật đã hiển bày, thưởng thức ý vị không gì hơn lược nói.

5. Giải thích nghĩa lý của ba quán:

Từ "Thế Tôn còn biết tất cả pháp..." trở xuống là giải thích về nghĩa lý của ba quán. Hai câu "biết tất cả pháp, tất cả duyên pháp" đều là pháp cảnh do nhân duyên sinh ra, vì sao? Vì năng sinh làm nhân là câu đầu, sở sinh làm duyên là câu thứ hai, năng sở hòa hợp cho nên các pháp sinh khởi. Trung Luận chép: "Pháp do nhân duyên sinh, tức là nghĩa này. Rõ tất cả là hiểu rõ thấu suốt các pháp đều không thật; có Trung Luận chép: Pháp do nhân duyên sinh, ta nói tức là không" đó là từ giả quán đi vào không quán. "Tri bờ mé của pháp là biết rằng không chẳng phải là không, dùng trí đạo chủng để phân biệt giả danh và pháp của phàm thánh không có khác nhau; Trung Luận nói: "Cũng gọi là Giả danh" đó là từ không quán đi vào Giả quán. "Như pháp an trụ tánh như của tất cả pháp" là dùng hai quán làm phương tiện để được đi vào Trung đạo nghĩa đế bậc nhất. Trung Luận nói: "Cũng gọi nghĩa Trung đạo" tức là quán trung đạo nghĩa đế bậc nhất. "Gồm thọ tất cả pháp" tức là chánh quán trung đạo, có thể đồng thời soi chiếu hai đế, cho nên nói là Gồm thọ. Nếu ba quán là "một khác, ngang dọc, chung riêng" thì điều đó không gọi là Mật quán, ngay nơi một là ba, ngay nơi ba là một, gọi là Mật. Muốn biết trí ở lời nói, nói tức là Khẩu mật.

6. Giải thích nghĩa ba đế ba giải thoát:

"Thế Tôn con hiện thấy..." trở xuống năm câu là giải thích về nghĩa của ba đế, ba giải thoát. "Hiện thấy ánh sáng trí tuệ không thể suy nghĩ bàn luận, quang là thật trí, như ánh sáng mặt trời thường soi sáng không dứt, thật trí này soi chiếu cảnh Chân-đế không thể suy nghĩ bàn luận, thành tựu viên tịnh giải thoát. Đuốc trí, hạnh trí, nhóm trí không thể suy nghĩ bàn luận đều là quyền trí, như người đốt đuốc co tay lại soi các đồ vật, thoắt ẩn thoắt hiện tùy theo cơ duyên, hoặc đây hoặc kia, hành là nghĩa của nhân, nhóm là nghĩa của quả, từ nhân hướng về quả, quả hưng khởi nên nhân tàn lụi, đây đều là quyền trí soi chiếu cảnh tục đế không thể suy nghĩ bàn luận, thành tựu phương tiện giải thoát. Trí cảnh không thể suy nghĩ bàn luận là pháp như trí, trí này thầm hợp với pháp như như, cho nên nói là trí cảnh không thể suy nghĩ bàn luận, trí này soi chiếu Trung đạo nghĩa đế bậc nhất không thể suy nghĩ bàn luận, thành tựu Tánh tịnh giải thoát. Nếu ba quán ba giải thoát là "một khác, ngang dọc, chung riêng" thì điều đó chẳng phải không thể suy nghĩ bàn luận.

7. Giải thích ba thân:

Vì không "một khác" không "chung riêng" nên gọi là không thể suy nghĩ bàn luận, vì không thể suy nghĩ bàn luận cho nên gọi là Mật. Từ "Thế Tôn con đối với các pháp..." trở xuống năm câu là giải thích về ba thân. chánh giải chánh quán, chánh giải có công năng hiển bày thể, hiển bày thể gọi là chánh quán, chánh quán là Báo thân. Chánh phân biệt chánh giải đối với duyên là phân biệt cơ duyên, không đợi thời, không vượt quá thời, ứng khắp tất cả, tức là ứng thân. Chánh năng giác liễu nghĩa là chẳng giác, chẳng phải không giác gọi là Giác, chẳng phải liễu chẳng phải bất liễu gọi là liễu, giác liễu rốt ráo thanh tịnh tức là pháp thân. Nếu ba thân này là ngang dọc, một khác thì không gọi là chánh, chẳng phải một chẳng phải khác, không có trước không có sau, nên gọi là chánh, chánh tức là Mật. Dựa theo chánh để trình bày về Pháp thân, tức là nghĩa Kim. Y theo quán để nói về trí Bát-nhã, tức là nghĩa Quang. Y cứ theo giải thoát không thể suy nghĩ bàn luận tức là nghĩa Minh. Ba đức là kho tàng bí mật sinh ra kiến giải bí mật, an trú trong nghĩa bí mật của sự nhiệm mầu. Từ giáo nghĩa bí mật sinh ra kiến giải bí mật, an trú trong nghĩa bí mật, thực hành hạnh nguyện bí mật, vì bí mật lợi tha cho nên Ngã gọi là Mật, chỉ mong đức Thế Tôn tự sẽ chứng biết.

8. Giải thích thành tựu lẫn nhau:

Mười lăm câu này là giải thích sự thành tựu lẫn nhau, hoặc chánh giải chánh quán mười lăm câu đều là chánh giải chánh quán. Nếu mười lăm câu ánh sáng trí tuệ không thể suy nghĩ bàn luận đều là ánh sáng trí tuệ không thể suy nghĩa bàn luận, hoặc ta biết mười lăm câu đều là Tri... lại dùng năm thứ Phật tánh giải thích ấy là chánh tánh, duyên tánh, liễu tánh, ba tên gọi không khác, lại có một nhà dùng quả tánh, cảnh giới tánh là năm loại, lại có một nhà dùng quả tánh, quả quả tánh làm năm loại. Nếu chọn quả quả tánh thì không có cảnh giới tánh, vì thuộc về quả tánh. Bởi vì khai hợp khác nhau cho nên cuối cùng thành năm loại. Nay dùng năm trí đối với năm Phật tánh. "Con biết tất cả pháp" biết trong tất cả pháp đều có tánh an vui, tánh an vui đó là Phật tánh chánh nhân. "Tất cả duyên pháp" là vô lượng công đức của hạnh lành như cúi đầu, giơ tay là Phật tánh Duyên nhân. "Rõ tất cả pháp" tức là Bát-nhã không tuệ, là Phật tánh liễu nhân. "Biết bờ mé của pháp" tức là không lạm dụng nhân quả thế gian và xuất thế gian, là cảnh giới nhân Phật tánh. "Như pháp an trú như tánh", tức là quả tánh rốt ráo an trú trong chân như. "Gồm thọ tất cả pháp "tức là quả tánh này có công năng đồng thời soi chiếu gồm thọ. Nếu chọn quả quả tánh thì lấy "biết bờ mé của pháp làm quả tánh, khắc quả trí chiếu rõ ràng làm bờ mé, an trú như tánh gồm thọ làm quả quả tánh... Nếu như vậy thì năm câu của hai loại sau lẽ ra cũng nên đối với năm loại Phật tánh, Tuy sự không giải thích nhưng nghĩa lệ theo đây nên như thế, chỉ cần lược bỏ văn để giải thích rõ nghĩa đó giúp cho lãnh hội được tất cả. Từ "Thế Tôn vì nghĩa này cho nên..." trở xuống là văn kết luận.

9. Văn kết luận:

Từ "Thế Tôn, Đại tướng Tán Chi..." trở xuống là phần ba phát thệ nguyện, dùng trí biện tài để làm lợi ích cho người giảng nói văn chia làm hai: Đầu tiên lợi ích cho người hóa độ (năng hóa); kế là lợi ích cho người được hóa độ (sở hóa). Lợi ích cho người hóa độ chia làm ba: Từ trang nghiêm ngôn từ..." trở xuống là lợi ích cho khẩu nghiệp; từ "các vị tinh khí..." trở xuống là lợi ích cho thân nghiệp; từ "Tâm tinh tiến mạnh mẽ..." trở xuống là lợi ích cho ý nghiệp. Từ "Vì lý do ấy..." về sau là lợi ích cho người hóa độ, phần này cũng chia làm ba: "Vì lý do đó cho nên nói rộng kinh này, đây là người chưa gieo trồng gốc lành khiến cho họ gieo trồng; từ "Nếu các chúng sinh..." trở xuống là người đã gieo trồng thì được thành thục; từ "Vô lượng chúng sinh..." trở xuống là người đã thành thục khiến cho giải thoát, tất cả như trong văn, phần tiêu văn (văn giản lược) này rất hay. Từ "Nam-mô Bảo Hoa..." trở xuống là phần bốn-văn quy kính bổn sư. Đức Phật nói tất cả các kinh, đầu tiên đều là quy kính, nhưng người dịch bỏ bớt; các luận trước hết cũng lấy quy kính làm đầu. Văn này nói xong mới quy y Tam Bảo, có thể tìm thấy trong văn.

QUYỂN 6

Giải Thích Phẩm CHÁNH LUẬN

1. Giải thích tên phẩm Chánh luận:

Chánh Luận: Chánh gọi là Thánh, Thánh có hai loại:

1) Thánh thế gian.

2) Thánh xuất thế gian.

Luận gọi là chân thật, một là suy xét đúng đắn về sự, hai là suy xét đúng đắn về lý. Phẩm này là những pháp luật lâu đời của Tiên vương truyền trao đời này sang đời khác, Tiên vương truyền cho Lực Tôn Tướng, Lực Tôn Tướng truyền cho Tín Tướng, Tín Tướng truyền cho con mình, con mình truyền cho đời sau, đời đời chánh Thánh, đời đời thiện thật, tức là pháp ngôn của Tiên Vương, cũng là thế giới tất-đàn mà đặt tên, nên gọi là phẩm Chánh Luận. Vua thực hành pháp này tương ứng với pháp luật thì âm dương nhờ đó được điều hòa, mặt trời mặt trăng nhờ đó được thuận chiều, hoa màu lúc thóc nhờ đó được dồi dào, muôn dân nhờ đó được yên vui, xã tắc nhờ đó được thanh bình, sự cai trị chăn dắt nhờ đó được tốt đẹp, tức là dân chúng được hòa thuận, trên dưới không còn oán thù, cũng là vị nhân tất-đàn mà đặt tên, nên gọi là phẩm Chánh Luận.

2. Lợi ích khi sử dụng pháp này:

Vua sử dụng pháp này thì kẻ địch bên ngoài không dám mưu toan, kẻ gian bên trong không dám kinh động, các sao yêu quái không dám xuất hiện, thú dữ sâu bọ không dám hoành hành, gió bão lũ lụt không xảy ra, dịch bệnh băng tuyết không dám lấn hiếp, cho nên họa hoạn không xảy ra, tai nạn không sinh khởi, cũng là Đối-trịtất-đàn mà đặt tên, nên gọi là phẩm Chánh Luận. Điều lành trên cuộc đời này vốn có từ Kim Quang Minh, từ Kim Quang Minh sinh ra Chánh Luận này. Nêu sử dụng Chánh Luận này thì cung điện thân thể của các vị trời nhờ đó được sáng ngời, sinh lực uy thế của các vị trời nhờ đó được tăng thêm, tâm của các vị trời nhờ đó được vui sướng gấp bội, pháp vị của các vị trời nhờ đó được tăng thêm vô cùng sâu xa, tức là chí đức yếu đạo của tiên vương, cũng là Đệ-nhất-nghĩa tất-đàn mà đặt tên, nên gọi là phẩm Chánh Luận. Văn này là ý thứ hai trong phần Lưu thông, nói về vua cõi người mở mang kinh pháp cảm thông thầm hợp với Thánh, Thiên Vương giúp đỡ, giúp cho hưng thịnh. Văn chia làm hai:

1. Văn xuôi nói về Sự Bổn.

2. Kệ tụng nói về chánh luận. Trong văn xuôi, đối với Thần đất nói về tôn tướng xưa kia, như văn. Kệ tụng có tám mươi hai bài, chia làm bốn đoạn: đầu tiên hai bài rưỡi là nhóm hợp đại chúng, tiếp theo ba bài rưỡi là nêu lên câu hỏi, tiếp theo một bài là kết thúc câu hỏi bắt đầu trả lời; sau cùng bảy mươi lăm hàng là Phạm Thiên trả lời, tức nói về Chánh Luận. Phần nhóm họp đại chúng, văn chia làm ba: một bài đầu là Đức Phật nói vế Tôn tướng sắp làm Thiên tử, nói bổn pháp của Tiên Vương, một bài kế là Đức Phật nói về Tôn Tướng, khuyên nhủ lắng nghe; nửa hàng tiếp theo là nói về nơi chốn nói luận.

3. Bốn vị vua trời nêu bốn câu hỏi:

Tiếp đến bốn vị vua trời nêu bốn câu hỏi:

1) Hỏi rằng vì sao gọi người là trời.

2) Hỏi rằng chẳng phải trời sinh ra sao lại gọi là con trời.

3) Hỏi rằng ở cung điện của vua vì sao gọi là trời.

4) Hỏi rằng dùng pháp của người cai trị người thế gian sao lại gọi là trời? Kế đến một bài là thành tựu phần trước phát khởi phần sau, có thể thấy...

Hỏi đã có bốn thì đáp cũng có bốn:

Đáp rằng: các vị trời giúp đỡ nhập vào thai mẹ nên tuy là con của loài người nhưng xưng là Thiên tử, ba mươi ba cõi trời đều là phân rõ đức của mình, tuy là ở loài người nhưng gọi là Trời, tuy ở cung điện loài người mà dùng luật trời để cai trị thế gian, nên tuy là chúa tể loài người mà xưng là Trời, tuy dùng pháp của loài người cai trị thế gian mà lại khiến cho chúng sinh làm việc lành, phần nhiều sinh lên cõi trời, vì trong nhân nói về quả cho nên xưng là Trời. Từ "Nay ông tuy dùng" trở xuống là Phạm Thiên trả lời, văn chia làm hai: Mười bài rưỡi đầu là trả lời sơ lược; sáu mươi bốn bài rưỡi sau là trả lời rộng ra. Trong phần trả lời sơ lược có bốn: Một bài rưỡi đầu tiên là đồng ý trả lời, tiếp từ "vì tập nghiệp cho nên..." trở xuống một bài là nêu ra sơ lược nhân xưa quả nay để trả lời nghĩa câu hỏi về nghĩa vua.

4. Nêu ba nghĩa để trả lời câu hỏi về nghĩa trời:

Kế là năm hàng là nêu ra ba nghĩa để trả lời câu hỏi về nghĩa Trời, kế là ba bài là nêu ra ba nghĩa lần lượt trả lời câu hỏi về nghĩa vua. Trả lời về Trời, nêu ra ba nghĩa là chưa vào thai mẹ, đã vào thai mẹ, đức lực tăng thêm. Vì bảo vệ thai nên gọi là Thiên tử, là trả lời câu hỏi thứ hai. Vì có phần đức cho nên có đức của trời, do vậy gọi là Trời, là trả lời câu hỏi thứ nhất. Thần lực gia hộ tu thiện ngăn ác, về sau chắc chắn sinh lên cõi trời, trong nhân nói về quả cho nên gọi là Trời, là trả lời câu hỏi thứ ba, thứ tư về chánh pháp cai trị thế gian là câu hỏi về Trời. Trả lời ba nghĩa về một nửa gọi là trời đã xong. Từ một nửa tên gọi là vua cõi người về sau là trả lời có ba nghĩa nên gọi một nửa là vua.

1) Gọi là chấp lạc (giữ gìn an vui)-an vui nhờ nơi nhà vua, nhà vua giữ gìn sự an vui này giúp cho khắp thiên hạ được hòa bình, ba ngày một làn gió, mười ngày một cơn mưa, người già được nhường kính, trẻ nhỏ cưỡi ngựa tre, ai không quy kính đức độ, vì thế người giữ gìn sự an vui gọi là vua.

2) Là ngăn dứt điều ác, trừ hại cho dân, trời không hạn hán, đất chẳng lũ lụt, người nào không quy kính đức độ, cho nên người ngăn dứt điều ác gọi là vua.

3) Là cha mẹ, chỉ dạy họa phước, dẫn dắt thiện ác, đặt ra lễ nghĩa, làm điều yên vui cho nên dân chúng biết mà phòng tránh, người nào không quy kính đức độ, cho nên cha mẹ gọi là vua. Có khả năng cha mẹ cho dân chúng thấp kém, cho nên các vị trời bảo vệ gọi là Thiên tử. Vì ngăn dứt điều ác không phát khởi cho nên các vị trời phân đức gọi là Trời. Vì giữ gìn sự an vui cho nên trong nhân nói về quả lại gọi là Trời. Không phải chỉ phân nửa hai nghĩa tên gọi vua cõi người.

5. Nói rộng về phi pháp:

"Nếu có việc ác..." trở xuống là ba mươi chín bài ba câu nói rộng về phi pháp, không thể gọi là Trời, không thể gọi là vua, sáu nghĩa đều mất, ba mươi ba cõi trời đều sinh tâm tức giận các vị vua trời này nói với nhau: vị trời này không phân đức vì không phân đức cho nên không được gọi là Trời. Xa lìa pháp lành nuôi lớn pháp ác, thì không có nhân cõi trời, lẽ nào có thể trong nhân nói về quả khen ngợi người là Trời hay sao? Sinh tâm rất buồn khổ nghĩa là không giữ gìn sự an vui, dịch bệnh tràn lan khắp nơi nghĩa là không ngăn dứt điều ác; dù cho xấu ác cũng không đoái hoài là nghĩa không phải cha mẹ...

6. Tiếp tục nói rộng về sáu nghĩa:

Từ "phải nên trị tội..." trở xuống hai mươi bốn bài ba câu là tiếp tục nói rộng về sáu nghĩa. Phải nên trị tội tức là nghĩa cha mẹ, các vị trời che chở tức nghĩa là Thiên tử, vì dứt trừ pháp ác tức là nghĩa người đứng đầu, người đứng đầu gọi là cai quản quân lính, ngăn dứt chế ngự ác quỉ, quỉ sợ người chỉ huy quân binh cho nên không dám lộng hành, tu tập tăng tiến pháp lành tức nghĩa là giữ gìn sự an vui, nên đều nói cho nghe, tức nói về nghĩa nhân quả, các vị trời nghĩa là phân đức. Còn muốn dùng sáu nghĩa lượt bỏ văn, đều có thể tìm hiểu... Trong đây sẽ nói về nghĩa của quán, tự tư duy điều đó...

Hỏi: Kim Quang Minh là cội gốc của chánh luận, ý đó như thế nào? Thiên là pháp tánh, là Kim, pháp tánh là nơi nương tựa cho nên nói là Trời che chở. Phân đức tức là Quang, báo thân thầm hợp với pháp tánh, tức là phân đức. Thần lực được tăng thêm tức là Minh... Lại nữa, cha mẹ tức là Kim, vì pháp tánh là cha mẹ. Ngăn dứt điều ác tức là Quang, giữ gìn sự an vui là Minh. Lấy điều này làm cội gốc cho nên có khả năng chánh luận. Như một nửa tên gọi vua cõi người, một nửa tên gọi là Trời, vì một nửa gọi là chánh luận của thế gian, một nửa gọi là chánh luận xuất thế gian, gốc ngọn liên quan nhau, tức là ý này.

--------------------------------

Giải Thích Phẩm THIỆN TẬP

1. Giải thích tên phẩm Thiện Tập:

Vị vua chuyển luân này nhóm họp các pháp lành như người thuyền trưởng, biển cả pháp lành không có bờ bến nhưng sáu độ thâu nhiếp tất cả, sáu độ lại rộng lớn, sơ lược thâu nhiếp vào hai độ, đó là đàn và trí. Cầm viên ngọc như ý, xả bỏ bốn mặt đất cùng châu báu trong biển khơi để dùng bố thí, tức là tu hội về Đàn hạnh. Đứng chấp tay thỉnh cầu tôn giả Bảo Minh, tuyên dương giảng nói kinh Kim Quang Minh này, tức là tụ hội về Trí hạn, Đàn-Trí đã như vậy thì các pháp khác cũng giống như thế, từ hạnh mà đặt tên nên gọi là phẩm Thiện Tập. Sáu độ này không đồng là thế giới tất-đàn tập thiện; tu tập năm độ là vị nhân tập thiện; tu tập trí độ là Đối trị tập thiện; đều là Ba-la-mật, là Đệ-nhất-nghĩa tập thiện.

2. Phần nói chung có hai:

Từ bốn tập này mà đặt tên cho nên nói là phẩm Thiện Tập. Phẩm này là vua cõi người mở mang kinh điển thứ hai, trên nói về chánh kiến thế gian, cảm động đến trời đất, ở đây là nói về chánh kiến xuất thế gian cảm động đến hiền thánh...

Văn chia làm hai:

1) Nói với Thần đất.

2) Dùng kệ để nói. Phần kệ có năm mươi bốn bài rưỡi, chia làm hai đoạn: Ba bài đầu nói về nhân địa hành đàn, năm mươi mốt bài rưỡi kế là nói riêng về thiện tập, thí tài, thí pháp.

3. Phần nói riêng có sáu: Phần trình bày riêng có sáu: 1) Sáu bài rưỡi nói về Sự bổn.

2) Mười một bài rưỡi nói về Thánh Vương thỉnh pháp.

3) Mười chín bài rưỡi nói về Tôn giả tuyên dương.

4) Mười bài rưỡi nói về Luân Vương thực hành bố thí.

5) Hai bài kết luận nhóm họp xưa nay.

6) Mười bài rưỡi trích dẫn nhân quả để chứng minh, khuyến khích. Tất cả như trong văn. Y theo phẩm này nói về Kim Quang Minh, khéo tập Ba-la-mật là Kim, tập Bát-nhã là Quang, tập năm độ là Minh. Y theo luận giả Bảo Minh, ở trong một hang là Kim, khuôn mặt như trăng rằm là Quang, đọc tụng kinh điển như vậy là Minh. Kế là y theo người thực hành-ở trong động là Kim, đồng ý giảng nói cho nhà vua nghe là Quang, nhà vua cầm ngọc châu như ý tuôn ra châu báu khắp bốn châu thiên hạ là Minh.

Giải Thích Phẩm QUỶ THẦN

1. Giải thích tên phẩm Quỷ Thần:

Chữ Quỷ theo Huấn Quy còn gọi là úy. Quả báo thường sợ hãi như A-tu-la... Lại nói là uy, có khả năng làm cho người khác sợ hãi uy lực của mình. Thần là khả năng, khả năng to lớn ấy có thể dời núi lấp biển, khả năng nhỏ bé hơn thì có thể biến hóa khi ẩn khi hiện. Phẩm này cũng nêu ra tất cả trời rồng các thần sông biển, mặt trăng, mặt trời... Phẩm trên đã nói về Trời rồi nên ở đây không nhắc lại, tuy có các đường chung riêng, nhưng văn thường nói về Quỷ Thần, thuận theo phần nhiều cho nên lấy đầu đề của phẩm. Phẩm này là phần thứ ba, tất cả trời rồng thần quỉ, thiên linh, địa kỳ thảy đều phát thệ giảng nói, mở mang khắp mọi nơi để khuyến khích truyền bá. Văn chia làm hai: Một là văn xuôi, hai là kệ tụng.

2. Nói về ba thân Phật:

Trong phần Văn xuôi đầu tiên nêu ra sự riêng biệt, kế là cúng dường đầy đủ. Sự việc riêng biệt nghĩa là Đức Phật từ trong từ bi khởi tâm thọ nhận sự cúng dường, đó là Ứng Phật, Đức Phật từ trong chân như phát khởi giác tri, trí hợp với như, đó là Báo Phật, tất cả các pháp đều là hành xứ của các Đức Phật, đó là pháp Phật. Giải thích như vậy là ba thân Phật trải qua cách biệt. Nếu tu cúng dường về sự thì cúng dường về pháp, là cách cúng dường bậc nhất trong mọi cách cúng dường. Cúng dường bậc nhất là cúng dường tất cả các Đức Phật, năng thuyết văn tự là ứng Phật, năng thuyên là báo Phật, sở thuyên là pháp Phật, kính trọng văn tự tức là tôn kính ba thân Phật, cũng là tôn kính các Đức Phật ba đời. Các Đức Phật sinh ra từ đây, cho nên cúng dường văn tự tức là cúng dường tất cả các Đức Phật... Lại nữa, thời gian khác nhau nghe được nhiều lần càng thêm nhớ kỹ. Trong Văn xuôi nêu ra bốn nguyện muốn từ đó có một lời khuyên. Nếu muốn biết hành xứ của Phật, thì hành xứ ấy chính là cảnh như như của pháp Phật. Muốn biết, biết là trí như như của Báo Phật. Có thể nghe kinh này, kinh này tức là văn tự, văn tự tức là Ứng Phật. Nghe là thuận theo lời Phật chỉ dạy, tức là pháp cúng dường, pháp cúng dường tức là cách cúng dường bậc nhất.

3. Nêu ra sự đầy đủ tốt đẹp để khuyến khích tu tập:

Nghe kinh làm phát sinh giác trí, giác trí phát sinh tức là Phật thọ nhận cúng dường. Việc nghe kinh có đầy đủ các nguyện ước, chỉ đầy đủ một việc thì đầy đủ các việc khác. Phần kệ có một trăm lẻ hai bài rưỡi, chia làm sáu: 1. Từ "nếu muốn cúng dường..." trở xuống bài tụng mười một bài, Văn xuôi ở trước, chỉ có thể nghe kinh tức là nêu ra sự đầy đủ tốt đẹp để khuyến khích tu tập; 2. Từ "Hễ đến chỗ nào..." trở xuống ba bài rưỡi nêu ra việc nghe kinh thì tránh khỏi tai họa để khuyến khích tu tập; 3. Từ "Chỗ nói pháp..." trở xuống sáu hàng nêu ra sự nghe kinh dẫn đến linh nghiệm báo điềm lành để khuyến khích tu tập; 4. Từ "Uy đức tướng mạo..." trở xuống năm bài rưỡi nêu ra chỉ cần nghe kinh sẽ có uy lực để khuyến khích tu tập; 5. Từ "Đại phạm Thiên vương..." trở xuống ba mươi tám bài rưỡi nêu ra sự nghe kinh có thể tập trung được trời rồng, quỉ thần để khuyến khích tu tập; 6. Từ "Đối với các chúng sinh..." trở xuống hai mươi tám nêu ra chỉ cần nghe kinh thì có thể làm cho đất nước được yên vui để khuyến khích tu tập...

4. Giải thích danh từ:

Cổ đạo: Bốn vị vua trời điều khiển vị thần tên là Dilật-hiển-kiền-già-đà, Hán dịch là Thiện phẩm, là chúa tể của loài cổ độc. Ma-hê-thủ-la, ở các kinh khác dịch là đại tự tại, kinh Quán Đảnh dịch là Uy Linh Đế, Ma-nibạt-đà Hán dịch là Uy Phục Hành, Phú-na-bạt-đà Hán dịch là Tập Chí Thành, Kim-tỳ-la Hán dịch là Uy Như Vương, Tân-đầu-lô-già Hán dịch là Học Đế Vương, Ma-kiệt-bà-la Hán dịch là Trừ Khúc Tâm, Tú-lợi-mậtđa Hán dịch là Hữu Thiết Huân, Lặc-na-sí-xa Hán dịch là Điều Hòa Bình, Kiếm-ma-xá-đế Hán dịch là Phục Chúng Căn, Xa-la-mật-đế Hán dịch là Độc Xứ Khoái, Hê-ma-bạt-đà Hán dịch là Ưng Xá Chủ, Tát-đa-kỳ-lê Hán dịch là Đại Lực Thiên, Ba-lợi-la-hầu Hán dịch là Dũng Mãnh Tiến, Tỳ-ma-chất-đa Hán dịch là Cao Viễn, Thiểm-ma-lợi-tử Hán dịch là Anh Hùng Đức, Ba-ha-lêtử Hán dịch là Uy Vũ Thạnh, Khư-la-khiển-đà Hán dịch là Hống Như Lôi, Cưu-la-thiện-đề Hán dịch là Chiến Vô Địch. Nhân giải thoát là giải thoát nghiệp chướng, quả giải thoát là giải thoát báo chướng, độ các hữu là giải thoát phiền não chướng.

---------------------------

Giải Thích Phẩm THỌ KÝ

1. Giải thích tên phẩm:

Thọ ký có bốn thứ, ở đây là hai loại... Thọ là trao cho, ký là ghi nhận sự thành tựu đạo quả. Ở đây trao việc ba vị đại sĩ và một muôn vị trời đời tương lai sẽ thành Phật. Cho nên nói là thọ ký, cũng gọi là Thọ Biệt, cũng gọi là Thọ Quyết. Trao truyền số lượng thời kiếp, cõi nước gọi là Biệt, suy xét chân thật không luống dối gọi là Quyết, từ Đức Phật truyền nên gọi là Trao, từ sở đắc gọi là Thọ (nhận lãnh). Ở đây, từ Đức Phật truyền trao nên nói là Thọ Ký. Đây là ý thứ tư trong phần Lưu thông, nêu ra nhân xưa kia thực hành kinh pháp, mới thành tựu quả tròn đầy cùng cực, chứng minh sự mở mang giữ gìn không luống dối để khuyến khích truyền bá. Văn chia làm hai:

1. Trao truyền thọ ký.

2. Nghi ngờ sự thọ ký.

1) Phần trao truyền thọ ký chia làm hai: a) Trao truyền thọ ký cho ba vị Đại sĩ. b) Trao truyền thọ ký cho mười ngàn vị trời.

* Trao truyền thọ ký cho ba vị Đại sĩ chia hai:

- Người có chung duyên thì gom thành một loại.

- Chính là trao truyền thọ ký, thế giới đổi tên gọi là Tịnh Tràng, lẽ ra nói bốn câu, ở đây là một trong bốn câu đó.

* Trao truyền thọ ký cho mười ngàn vị trời lại chia làm hai:

- Nghe kinh sinh kiến giải;

- Chính là thọ ký...

2) Nghi ngờ:

Từ "Bấy giờ đạo tràng..." trở xuống là phần hai, nghi ngờ sự thọ ký, lại chia làm hai:

a) Nghi ngờ nên hỏi.

b) Đức Phật trả lời.

Nghi ngờ rằng dời núi lấp biển không phải công lao trong một ngày, cực quả Bồ-đề chứa nhóm nhiều công hạnh mới hy vọng đạt được, từ cõi Đạo-lợi xuống trong khoảnh khắc công lao nghe kinh không bao lâu, không nghe xưa kia có công hạnh khó suy nghĩ bàn luận, công hạnh đơn sơ mà được thọ ký sâu xa, cho nên nghi ngờ. Như các vị Bồ-tát khác, Bồ-tát thực hành sáu độ, ghim cây tăm xuống đất không chỗ nào chẳng phải là nơi Bồtát xả bỏ thân mạng, giới nhẫn, thiền trí đầy đủ trong ba tăng kỳ kiếp; nếu là Bồ-tát Thông giáo thì từ Giả nhập vào không, chẳng phải dừng lại nơi một đời tu hành, từ không nhập vào Giả thường vượt qua trần sa kiếp, nếu là Bồ-tát Biệt giáo thực hành tất cả các hạnh. Số lượng không thể tính đếm còn không ghi nhớ được, trong giây lát nghe kinh mà được thọ ký bấy giờ đại chúng hoàn toàn nghi ngờ, cho nên Thần cây thưa hỏi.

3. Đức Phật trả lời:

Đức Phật trả lời có hai:

1) Nêu công hạnh hiện tại. 2) Nêu nhân duyên xa xôi.

Công hạnh hiện tại là xả bỏ sự vui sướng nơi cung trời để đến đây nghe kinh, nghe ba vị Đại sĩ được thọ ký Bồ-đề, bổn thệ xưa kia của mình cùng với pháp thực đó, cả ba việc hòa hợp cho nên trao cho sự thọ ký. Ý này chứng minh phẩm Quỷ Thần thành tựu đầu tiên là dùng cách cúng dường bậc nhất để cúng dường các Đức Phật ba đời, và muốn biết được hành xứ của các Đức Phật, nên quyết định dốc lòng lắng nghe kinh điển nhiệm mầu này, tuy có ý chỉ này mà chưa thấy người đó, mười ngàn Thiên tử lúc bấy giờ chính là các vị ấy. Nghe thọ ký sẽ đắc quả chắc chắn có nhân. Do đối với Kim Quang Minh sinh tâm ân trọng, khởi thân công đức, tâm không cấu lụy, khởi thân Bát-nhã, giống như hư không sinh khởi pháp thân, lắng nghe trong sự nhất tâm thì thành tựu trọn vẹn ba đức. Lại có vô lượng công đức, nói không thể hết được. Người này không được thọ ký, vậy thì thọ ký cho ai? Chứng minh công đức nghe kinh, ý là ở đó. Bởi vì tùy theo tướng tu chỉ ra công hạnh hiện tại, hạnh tùy theo tướng thật mà tu, có gốc lành tốt đẹp nhờ vào nhân duyên xa xưa, tướng thật trái với duyên xa xưa nên gieo trồng gốc lành.

4. Nêu nhân duyên xa xưa để trả lời:

Từ "cũng vào thời quá khứ..." trở xuống là nêu nhân duyên xa xưa để trả lời, văn chia làm hai:

1. Sơ lược.

2. Mở rộng. Trong đây một ít văn được lược bỏ, hai phẩm trừ bệnh và Lưu Thủy là trả lời rộng.---------------------------

Giải Thích Phẩm TRỪ BỆNH

1. Giải thích tên phẩm:

Trả lời rộng về nhân duyên xa xưa, vì Y Vương chữa bệnh nên nói là phẩm Trừ Bệnh, cùng phân biệt với phẩm Lưu Nước ở sau. Văn chia làm năm:

1) Nguồn gốc của duyên.

2) Duyên xa xưa.

3) Duyên gần đây.

4) Kết thành duyên.

5) Hội tụ duyên. Từ "Phật bảo Thần cây..." trở xuống là nói về duyên xa xưa.

2. Nói về duyên xa xưa có sáu: Duyên xa xưa chia làm sáu:

1) Nói về người cha.

2) Sinh ra con.

3) Dân chúng trong nước bị dịch bệnh.

4) Người con thưa thỉnh.

5) Người cha nói cho nghe.

6) Biết rồi liền chữa trị khắp nơi.

Người con thưa hỏi chia làm ba: a. Thấy người bị bệnh tật; b. Suy tư ngẫm nghĩ; c. Chính thức thưa hỏi.

3. Câu hỏi có bốn:

Thưa hỏi chia làm bốn:

1) Một bài kệ thưa hỏi về sự thêm bớt của bốn đại.

2) Thưa hỏi về việc phạm phải sai lầm trong ăn uống. 3) Thưa hỏi về cách chữa trị bệnh tình.

4) Thưa hỏi về thời gian căn bệnh phát động về thân lửa bất diệt, ăn no bệnh nóng dần dần hết, thức ăn tiêu hóa thì cơn sốt lại phát sinh, cho nên nói là thân lửa bất diệt. Bịnh phổi có nước: nước nhiều thì tổn hại đến phổi, tức là bệnh đàm.

4. Trả lời có bốn:

Người cha thầy thuốc lại trả lời bốn câu hỏi:

1) Sáu hàng là trả lời về sự thêm bớt của bốn đại

2) Một bài rưỡi là trả lời về phạm phải sai lầm trong ăn uống.

3) Hai bài là trả lời về thời gian căn bệnh phát động. 4) Tám bài kệ là trả lời về cách chữa trị căn bệnh.

Ngay trong sáu bài chia làm hai: Một bài đầu là Đức Phật kể lại người cha thầy thuốc định trả lời, năm bài kế là trả lời về thời tiết. Thời tiết có hai:

5. Nói về thời tiết:

Pháp thế gian có bốn mùa là: Xuân-Hạ-Thu-Đông, mùa Đông là cuối năm, mùa Xuân là đầu năm. Nhưng đầu tiên nói về là mùa Hạ, hoặc có thể phát khởi từ đây mà nói, hoặc có thể trả lời câu hỏi đúng vào thời gian mùa Hạ. Ba ba mà nói: một mùa có ba tháng, gọi là Mạnh-Trọng và Quý, bốn mùa có mười hai tháng. Dựa theo pháp Đức Phật nói thì một năm có ba mùa, đó là Đông, Xuân, Hạ, mùa Hạ ở cuối năm, mùa Đông ở đầu năm, vì sao? Vì phá chấp thường của các đệ tử, vì đó mở ra việc an cư tháng Ca-đề, cho nên không có mùa Thu. Ba mùa trong pháp của Đức Phật cũng là "Ba ba mà nói". Nếu nói "nhị nhị" đầy đủ sáu thời ấy là dựa theo bốn mùa của pháp thế gian. Mùa (thời) vốn có hai tháng Thổ Ký, bốn quý mỗi quý đều có một tháng. Hai tháng căn bản chỉ là hai tháng âm dương. Một thời chỉ có hai tháng âm dương, hợp lại thành sáu thời. Tháng giêng tháng hai là thời Mộc Vương, tháng tư tháng năm là thời Lửa Vương, tháng bảy tháng tám là thời Kim Vương, tháng mười, tháng mười một là thời Nước Vương, tháng chạp, tháng ba là dương Thổ Ký Vương, tháng sáu và tháng chín, hai tháng này là âm Thổ Ký Vương. Muốn nói về tháng gốc thì cũng nói là "nhị nhị". Nếu luận về Thổ Ký Vương thì cũng nói "nhị nhị" cho nên nói đầy đủ sáu thời. Nếu dựa theo pháp của Đức Phật giải thích về thuyết "nhị nhị" thì pháp của Đức Phật có ba thời, một thời có bốn tháng, đều có sơ phần, hậu phần. Từ ngày mười sáu tháng chạp đến ngày mười lăm tháng hai, hai tháng này là sơ phần Mùa xuân. Từ ngày mười sáu tháng hai đến ngày mười lăm tháng tư, hai tháng này là hậu phần Mùa xuân. Từ ngày mười sáu tháng tư đến ngày mười lăm tháng sáu, hai tháng này là sơ phần Hạ thời. Từ ngày mười sáu tháng sáu đến ngày mười lăm tháng tám, hai tháng này là hậu phần Hạ thời. Từ ngày mười sáu tháng tám đến ngày mười lăm tháng mười, hai tháng này là sơ phần Mùa Đông. Vì thế nói là nếu luận về "nhị nhị" thì đầy đủ sáu thời. Lại nói: Tháng giêng tháng ba là tháng dương, tháng hai tháng tư là tháng âm, tháng năm tháng bảy là tháng dương, tháng sáu tháng tám là tháng âm, tháng chín tháng mười một là tháng dương, tháng mười tháng chạp là tháng âm, cho nên nói là nếu luận về "nhị nhị" thì đầy đủ sáu thời. "Ba ba bổn nhiếp" là dựa theo pháp thế trụ, tháng giêng là tháng chính của mùa Xuân, bao gồm hai tháng sau đều thuộc về mùa Xuân. Tháng tư là tháng chính của mùa Hạ, bao gồm hai tháng sau đều thuộc về mùa Hạ. Tháng bảy là tháng chính của mùa Thu, bao gồm hai tháng sau đều thuộc về mùa Thu. Tháng mười là tháng chính của mùa Đông, bao gồm hai tháng sau đều thuộc về mùa Đông-là "ba ba bổn nhiếp". Lại nói: tháng giêng, tháng hai chính thức là mùa Xuân thì Mộc thuộc Trung Vương, Thổ Ký bao gồm tháng ba thuộc về mùa Xuân. Tháng tư, tháng năm đang là mùa Hạ thì Lửa thuộc Trung Vương, Thổ Ký bao gồm tháng sáu thuộc về mùa Hạ. Tháng bảy, tháng tám đang là mùa Thu thì Kim thuộc Trung Vương, Thổ Ký bao gồm tháng chín thuộc về mùa Thu. Tháng mười, tháng mười một đang là mùa Đông thì Nước thuộc Trung Vương, Thổ Ký bao gồm tháng chạp thuộc về mùa Đông. Thổ ký bốn mùa tháng giêng là gốc, mỗi mùa đều có ba tháng thuộc về Thổ, cho nên nói là "Ba ba bổn nhiếp, chủ thuộc về khách, khách là Thổ. Theo Phật pháp nói thì "Ba ba bổn nhiếp" ấy là ban đầu của mỗi mùa đều có ba tháng, đã bỏ đi mùa Thu, vì ba tháng của mùa Thu đều phối hợp vào ba mùa nên mỗi mùa trở thành bốn tháng. Nói về bổn thì ba, nói về nhiếp thì một, cho nên nói là "Ba ba bổn nhiếp".

6. Nói theo Phật pháp:

Hỏi: Bốn mùa đều có ba tháng, như vậy là "tứ tam bổn nhiếp", tại sao nói "ba ba bổn nhiếp"?

Đáp: Ba là số một, dùng ba mà đếm cho nên nói "ba ba" là gốc. Tùy theo thời tiết tiêu tức lúc ấy: Thời đã nói như trên, hoặc bốn, hoặc ba, hoặc hai, hoặc thâu nhiếp, nhiều loại khác nhau, tùy thời là lấy ý tiêu trừ để cân nhắc kỹ càng sự chọn lấy hay bỏ đi. Nếu theo Phật pháp, không có mùa Thu mà nói mùa Thu phát bệnh, điều này giải thích thế nào? Từ nửa tháng tám về trước tùy theo thế tục gọi là mùa Thu, nhưng lại thuộc về mùa Hạ, nửa tháng tám trở đi thuận theo thế tục gọi là mùa Thu, nhưng thuộc về mùa Đông. Tùy thời tiêu tức là trong pháp thế tục mà cân nhắc kỹ càng. Đại tạ tăng tổn là mùa Xuân bị bệnh gan thì bệnh này có thể chữa trị, mùa Hạ bị bệnh phổi thì bệnh này khó chữa khỏi, cuối mùa Hạ đầu mùa Đông ở trong tiết Thu bị bệnh phổi thì bệnh này có thể chữa trị, nếu bị bệnh gan thì trong giai đoạn này khó chữa khỏi, mùa Đông bị bệnh thận thì bệnh này có thể chữa khỏi, nếu bị bệnh tim thì trong thời gian này khó chữa khỏi. Nói về bốn mùa thêm bớt đại khái như vậy.

7. Hỏi đáp về bốn mùa:

Hỏi: Bốn mùa đều bị bệnh, vì sao bỏ mùa Thu? Giải thích điều này có hai cách: một là phá trừ chấp thường, mùa Thu là mùa muôn vật kết trái, vì phá chấp này cho nên bỏ mùa Thu, Đức Phật vì các đệ từ còn nhiều tâm chấp thường, vì thế bỏ đi mùa Thu.

Kế là vì mở ra tháng Ca-đề sau thời gian an cư, an cư vốn gọi là Hạ tọa, trong nửa tháng tám về trước, nếu là mùa Thu, thì đó là thu tọa, vì nghĩa này cho nên bỏ mùa Thu. Từ "có thầy thuốc giỏi..." trở xuống một bài rưỡi là trả lời về sự xúc phạm, xúc phạm có sáu:

1) Ngồi nhiều.

2) Ngủ nhiều, hai thứ này thường gây ra đàm nên thường đi lại để làm tan đàm.

3) Đi nhiều.

4) Đứng nhiều.

5) Nói nhiều thì sinh bệnh gió, nên ngủ nhiều để trị.

6) Dâm dục nhiều sinh ra tất cả các bệnh, tức là bệnh quanh năm. Nếu lửa ít thì đàm nhiều, nếu lửa nhiều thì tức là độ nóng tăng lên, nếu gió nhiều thổi bùng lửa thì thành bệnh sốt cao, nếu gió nhiều thổi bùng đàm thì trở thành bệnh sốt rét.

8. Sau nguyên nhân do ăn uống bị bịnh:

Cả ba điều này nếu đồng đều thì không sinh ra bệnh. Ăn uống bị bệnh cũng có sáu:

1) Ăn quá nhiều.

2) Ăn quá ít.

3) Đói quá mới ăn.

4) Ăn không đúng bữa; chưa đói nhưng gắng ăn.

5) Ăn những thứ gây trở ngại, như ăn thịt mà lại uống sữa sống khiến cho thân sinh ghẻ lở.

6) Không đáng ăn mà lại cố gắng ăn, như người miền Nam uống tương, người miền Bắc uống mật. Nếu thức ăn hòa với mật thì khiến cho không thể sinh con trai, mỡ heo nấu với thịt cò trắng thì ăn vào khiến cho người bị bệnh ghẻ; nếu mắc bệnh sốt mà uống rượu, ăn lúa mạch và thịt trâu sống, khiến cho người bị mù, thổ huyết, đại tiện ra máu, nếu mắc bệnh đàm mà uống những thứ ngọt béo, mặn chua thì khiến cho người sẽ bị chảy mũi liên tục, lại bị táo bón kiết lỵ. Sáu đại là sáu phủ, là ruột non, ruột già, mật, dạ dày, mạng mỡ, bàng quang.

9. Nói về thời gian bịnh phát khởi:

Từ "thường bị bịnh gió..." trở xuống hai bài là trả lời về thời gian bệnh phát khởi, tháng tư, tháng năm là thời gian gió sinh ra, tháng sáu, tháng bảy là thời gian gió khởi lên, tháng tám, tháng chín là thời gian nhiệt khởi lên, tháng mười đến tháng giêng là thời gian nhiệt diệt đi; tháng tám, tháng chín là thời gian các phần sinh ra, tháng mười, tháng mười một là thời gian các phần khởi lên, tháng mười hai, tháng giêng là thời gian các phần diệt đi, tháng mười đến tháng giêng là thời gian đàm sinh ra, tháng hai, tháng ba là thời gian đàm khởi lên, tháng tư đến tháng bảy là thời gian đàm diệt đi, đàm là nước thuộc về bệnh phổi. Mùa Hạ động gió: mùa Hạ các lỗ chân lông mở rộng ra, gió bên ngoài vào được nên gió bên trong bị chuyển đổi. Bệnh nóng thụ động: lỗ chân lông bít lại, nhiệt độ ở lại bên trong không lưu hành được nên trở thành bệnh. Đẳng phần đông động, mùa Xuân thì nước phát động nên bệnh phổi là đúng, đến mùa Hạ thì gió phát động nên bệnh về gió là đúng, đến mùa Thu lại phát động nhiệt nên bệnh về nhiệt là đúng, đến mùa Đông đều phát động cho nên tất cả đều là bệnh. Tháng hai, tháng ba là thời gian đàm sinh ra nên tổn hại đến phổi, do đó bệnh phổi phát động.

10. Cách chữa trị bịnh:

Từ "Người bị bệnh gió..." trở xuống tám bài rưỡi là trả lời về cách chữa trị bệnh, văn chia làm ba: Hai bài rưỡi đầu tiên là trước khi chưa mắc bệnh nên dùng thuốc để phòng ngừa; hai bài tiếp theo là nói về dùng thuốc để chữa trị; bốn bài sau là bệnh đã hết nên dùng thuốc để tẩm bổ. Mùa Hạ bệnh về gió nên uống các thứ béo mặn, chua nóng vì những tháng mùa Hạ các lỗ chân lông mở rộng ra, nên dùng các thứ chất béo để làm cho kín lại, khiến gió không thể vào được, mặn chua tánh nóng có công năng tiêu trừ Nước, khiến cho thể chất khỏe mạnh để chữa trị chứng gió hư, thức ăn nóng làm chảy mồ hôi, dẫn gió trở ra, còn chữa trị chứng lãnh hư nên gió không thể tiến vào, ngọt và mát là các loại bơ sữa có thể chữa trị chứng nhiệt, các tháng mùa Đông uống các loại đồ ngọt trừ được chứng gió. Bệnh về phổi uống các thứ chất béo để bịt kín lỗ chân lông, khiến cho nước không thể xâm nhập, nhiệt có công năng tiêu nước làm cho thông nên chữa trị được bệnh phổi. Ăn no phát sinh chứng bệnh về phổi là ăn nhiều thì ruột và dạ dày đầy ứ, cho nên phát bệnh về phổi. Thức ăn tiêu hóa phát sinh nhiệt là như thức ăn tươi nhuận thì bệnh nhiệt bị trừ, khi thức ăn tiêu hóa không trơn ruột thì bệnh nhiệt phát sinh. Tiêu hóa xong không còn gì thì gió khí xâm nhập cơ thể, do đó phát sinh gió. Gió tản mạn thì bổ sung các chất béo, chất mặn trừ gió, chất ngọt trừ khử nhiệt, phổi có gió-nước nên nôn ra vậy. Trong đây văn nêu ra từ sớ của Tam Tạng Chân-đế.

11. Biết bịnh thì liền chữa khắp:

Từ "Thiện Nữ Thiên..." trở xuống là thứ sáu biết rồi liền chữa trị khắp nơi, văn chia làm hai:

1. Bệnh nhẹ nghe nói liền khỏi.

2. Bệnh nặng uống thuốc mới khỏi... Quán tâm: các loại như ba độc là bệnh bên trong, sổ tức, bất tịnh, từ tâm, nhân duyên là các thuốc pháp. Nên nghe thuốc pháp mà được ngộ là người tin tưởng, thực hành thì khỏi bệnh. Thực hành quán sát nghiên cứu tâm được ngộ là người thực hành theo giáo pháp thì khỏi bệnh. Mắt là mùa Xuân, lưỡi là mùa Hạ, mũi là mùa Thu, tai là mùa Đông, thân là bốn mùa, thuộc về các mùa, năm dục tốt đẹp tăng thêm bệnh tham, năm dục xấu ác giảm bớt bệnh tham, năm dục tốt đẹp giảm bớt bệnh sân, năm dục bình thường tăng thêm bệnh si, năm dục nghịch thuận thì giảm bớt bệnh si. Gom chung ba thứ năm dục làm tăng thêm sự giác quán về bệnh, cố ý lay động ba thứ năm dục thì bớt bịnh giác quán, đó là tướng của sự thêm bớt. Xúc phạm là trái với tình ý thì phạm vào sân-thuận theo tình ý thì phạm vào tham-không trái không thuận là phạm vào si, tất cả ba thứ đều phạm vào giác quán. Lúc ngạo mạn là lúc phát sinh tức giận, lúc cầu mong chờ đợi tức là phát sinh tham lam, lúc hiểu biết hẹp hòi tức là phát sinh ngu si, lúc buông lung tức là phát sinh giác quán, từ tâm trị tức giận, bất tịnh trị tham lam, nhân duyên trị ngu si, sổ tức chữa trị giác quán...

----------------------------

Giải Thích Phẩm LƯU NƯỚC TRƯỞNG GIẢ TỬ

1. Giải thích tên phẩm:

Văn nói: Một là cho nước chảy hai là cho nước. Cho nước là ban cho nước an vui. Một là an vui thế gian, hai là an vui xuất thế gian. An vui thế gian: giống như voi mang nước đến cứu giúp đàn cá đang bị cạn nước. Sự an vui xuất thế gian: Như phát thệ nguyện rằng ở đời vị lai sẽ ban cho pháp thực và thọ ký Bồ-đề. Nước chảy là dòng nước trôi đi trừ sạch khổ não, một là quả báo khổ não, hai là nghiệp nhân khổ não. Trôi chảy trừ sạch quả báo khổ não như chữa trị các bệnh tật cho người, cứu đàn cá đang cạn nước. Trôi chảy trừ sạch nghiệp nhân khổ não là truyền trao ba quy y, giảng nói mười hai nhân duyên, giảng nói khen ngợi mười danh hiệu của Phật. Thỉnh cầu người cha chỉ bày phương pháp là mong muốn thành tựu ý nghĩa dòng nước chảy, mượn đàn voi của nhà vua là mong thành tựu ý nghĩa cho nước. Đã có hai khả năng, sao chỉ dùng nước chảy để làm đầu đề phẩm? Trong văn nước đã rõ nghĩa cho, đầu đề của phẩm đâu cần đặt tên gọi là Lưu thủy? Không dài dòng rắc rối mà hai nghĩa cùng hiển bày trong văn, kinh nêu ra điều thích hợp đó là điểm này. Trưởng giả: ý nghĩa như mười loại Trưởng giả trong Pháp Hoa Chú Giải. Tử là người con trai của Trì Nước, nên gọi là Tử. Văn này là lý do gần gũi của đoạn thứ ba kết duyên trong phần dứt nghi.

2. Về lý do gần gũi:

Lý do gần gũi lại có hai:

1) Dẫn dắt đưa ra.

2) Lý do gần gũi.

-Dẫn dắt nêu ra lại có hai:

a) Thực hành bố thí ân đức.

b) Dân chúng trong nước khen ngợi, đều như văn.

-Lý do gần gũi lại có ba: a) Nói về quyến thuộc.

b) Nhân duyên gặp đàn cá.

c) Chính thức cứu giúp đàn cá, như trong văn. Từ "đời vị lai nên thí pháp thực..." trở xuống là thứ tư chính là kết duyên, văn lại chia làm bốn:

1) Phát thệ nguyện.

2) Suy nghĩ nói pháp.

3) Chính là nói pháp.

4) Đàn cá chuyển báo sinh lên cõi trời, báo đáp ân đức cung kính cúng dường.

-Trong phần đàn cá báo ân, văn chia làm bốn:

1) Đàn cá chuyển báo sinh lên cõi trời.

2) Các vị trời báo ân đức nên hiện xuống trần gian.

3) Nhà vua thấy ánh sáng nên hỏi về điềm báo.

4) Trưởng giả dẫn chứng giáo pháp để trả lời dứt khoát, như trong văn. Báo ân có hai nghĩa, một là sự, hai là lý. Về sự là châu báu khắp nơi bốn phía để báo đền ân đức của bốn thứ như nguồn nước, thức ăn, mười hai nhân duyên và mười danh hiệu Phật...

3. Dẫn văn kinh Niết-bàn:

Về lý là dựa theo văn trong kinh Niết-bàn chép: "Ban cho thức ăn khiến người giữ được sinh mạng là thường, khiến cho người được an vui cho nên đạt được Niết-bàn, khiến cho người được giác ngộ cho nên thành tựu tại ngã, như pháp cầu mong tài vật cho nên được thanh tịnh". Bốn mươi ngàn vị trời dùng bốn ân Thường-lạc-ngã-tịnh để báo đáp. Thứ năm là kết hợp xưa nay: xưa kia Đức Phật không xác định số lượng của đàn cá nhưng Thần cây xác định là mười ngàn; nay Thần cây thắc mắc về công hạnh đơn sơ mà sự thọ ký sâu xa, Đức Phật liền nói cho nghe về nhân duyên nhiệm mầu, nay và xưa liên quan với nhau cho nên kết hợp.

--------------------------------

Giải Thích Phẩm XẢ THÂN

Xả có rất nhiều nghĩa tài vật, địa vị tuổi thọ, nhưng chỉ lấy thân để gọi mà thôi, từ cái chính yếu mà đặt tên. Người thọ nhận chỉ cần thân còn những thứ khác thì không cần đến, con người bố thí đích thực xả thân ngoài ra không có gì để xả, cho nên gọi là phẩm thân. Văn thân chia làm bốn:

1. Hỏi.

2. Đáp.

3. Chúng được lợi ích.

4. Kết thúc thành tựu.

Hỏi là trên đây nghe đại sĩ trị bệnh cứu cá thật là sự cứu giúp rộng rãi, người bình thường và côn trùng bé nhỏ được lợi ích trong hai đời, lúc ấy đại chúng nguyện được nghe việc tan thân mất mạng vô cùng cảm động xốn xang, hạnh khổ mà quả vui rất đáng được nghe, cho nên cung kính thưa hỏi. Đức Phật trả lời chia làm hai:

1. Nói về duyên khởi.

2. Chính là nói về việc xả thân.-Duyên khởi chia làm mười:

1) Pháp từ dưới đất vọt lên.

2) Đại chúng sinh nghi ngờ.

3) Đức Phật liền đảnh lễ.

4) Thần cây thưa hỏi vì sao Phật đảnh lễ.

5) Đức Phật trả lời lý do đảnh lễ.

6) Phật bảo A-nan mở tháp lấy xương.

7) A-nan kể lại dáng hình của xương.

8) Phật bảo đưa ra trước đại chúng.

9) Vâng lời dạy lấy đem ra.

10) Phật khuyên đại chúng lễ lạy. Tất cả đều như trong văn.

-Từ "đời quá khứ có vị vua..." trở xuống chính là xả thân, văn chia làm hai: Một là văn xuôi; Hai là phần kệ tụng. Văn xuôi chia làm bốn đoạn:

1) Nói về quyến thuộc.

2) Phương tiện xả thân.

3) Chính là xả thân.

4) Sự thương xót đau đớn sau tin xả thân.

-Trong đoạn quyến thuộc chia làm năm:

1. Nói về quyến thuộc.

2. Đi xa ngắm cảnh.

3. Đều kể lại với nhau.

4. Nhìn thấy hổ mẹ sinh con.

5. Kể lại mọi việc nhìn thấy.

Ma-ha-la-đà, Hán dịch là Đại vô tội, trong văn kinhthù Vấn chép: "La-đà, Hán dịch là Trung", Ma-ha-bana-la có chỗ nói Hán dịch là Đại Độ (chưa rõ ràng), Ma-ha-đề-bà Hán dịch là Đại Thiên, Ma-ha-tát-đỏa Hán dịch là Đại Tâm. Từ "bèn nghĩ rằng nay tôi ngã xả thân thời đã đến..." trở xuống là phương tiện xả thân. Phương tiện chia làm hai: một là nói về quán giải.

Kế là phát khởi thệ nguyện, nguyện và hạnh giúp nhau. Vừa sinh được bảy ngày, thấy hổ con trên đầu có bảy chấm, biết là bảy ngày, xuất xứ từ kinh Sơn Hải. Lại nói: "Bảy ngày thì mở mắt". Lại bảy ngày không ăn thì chắc chắn sẽ chết, hổ con sắp chết nên biết đã bảy ngày. Có chỗ nói quỉ thần chỉ rõ nên biết được, giống như thần cây đếm cá. Chính là xả thân chia làm hai: 1. Xả thân; 2. Cảm động trời đất.

Sau khi xả thân thì quyến thuộc thương xót đau đớn, đầu tiên là hai người anh thương xót đau đớn đều nói kệ và hướng về nơi xả thân, tiếp đó là cha mẹ đớn đau bi thảm. Kệ có chín mươi ba hàng chia làm ba đoạn: Hai bài đầu nói về hạnh nguyện xưa kia; kế là từng bài tụng riêng biệt về văn xuôi; cuối cùng là kết hợp. Đoạn đầu tiên như trong văn. Từ "tôi nhờ túc mạng..." trở xuống là từng bài tụng riêng biệt và văn xuôi, bốn bài tụng trên là trình bày về quyến thuộc, trước đó có nói lại tướng trạng và kể rõ những điều nhìn thấy, ở đây không có tụng, các đoạn khác đều có tụng. Từ "bấy giờ thắng Đại sĩ..." trở xuống hai bài tụng là phương tiện xả thân ở trên, đoạn phát thệ nguyện không có tụng. Từ "Liền lên núi cao..." trở xuống là bài tụng chính về xả thân cảm động trời đất ở trên. Từ "bấy giờ hai người anh..."trở xuống là bài tụng về sau khi xả thân quyến thuộc thương xót buồn thảm. Từ "bấy giờ Vương Tử..." trở xuống là bài tụng về cha mẹ đau đớn buồn thảm. Từ "Phật bảo Thần cây..." trở xuống là phần ba kết hợp. Kết hợp chia làm ba:

1. Kết hợp con người.

2. Kết hợp tháp thờ.

3. Kết hợp thệ nguyện.

- Từ "Lúc nói kinh ấy..." trở xuống là đại chúng được lợi ích. Từ "Thần cây, đó gọi là lễ pháp..." trở xuống là phần bốn kết thúc thưa hỏi xong.

Giải Thích Phẩm TÁN PHẬT

Phẩm này từ năng-sở mà đặt tên, năng tán là ba lượt Bồ-tát, sở tán là Đức Phật Thế Tôn, năng sở kết hợp nêu lên cho nên nói là phẩm Tán Phật. Riêng tôi cho rằng ba lượt Bồ-tát là năng tán, một Đức Phật là sở tán, một Đức Phật là năng tán, ba lượt Bồ-tát là sở tán, ba lượt Bồ-tát là Phật tướng lai, một Đức Phật là Phật hiện tại, tóm lại đều là năng tán, đều là Phật, cho nên gọi là phẩm Tán Phật. Về thứ lớp: do mười bảy phẩm trước cho nên có phẩm này, vì sao? Vì phẩm Tựa nói về Đại Thể, Như lai đến khắp cùng tận biên giới của pháp tánh sâu xa vô lượng. Phẩm tuổi thọ nói về cực quả sâu xa thầm hòa hợp rộng lớn, có công năng phát khởi Đại Dụng. Phẩm Sám hối khuyên nhắc Bồ-tát nếu muốn tu học nên như phẩm Sám hối để dứt ác, như phẩm Tán Thán để sinh thiên, như phẩm Không để dẫn dắt thành tựu. Phẩm Bốn vị vua trời đến phẩm Tán Chi là thệ nguyện lưu thông, nói về công đức của người thỉnh. Phẩm Đại biện đến phẩm Thiện tập là nói về công đức của người nói. Phẩm Quỷ Thần đến phẩm Lưu Nước là nói về công đức của người nghe. Phẩm Xả Thân nói về công đức của người thực hành. Những lợi ích như vậy xuất xứ từ hiện tại đều do năng lực từ Đại Thể-Đại Trí

- Đại Dụng. Kim Quang Minh của Như lai, đã khởi đầu tốt đẹp và kết thúc mỹ mãn; đầu, giữa, sau hoàn tất cho nên các vị Bồ-tát đều phát tâm khen ngợi Phật. Khen ngợi Đức Phật xưng dương giáo pháp và Đức Giáo chủ, cho nên nói là phẩm Tán Phật.

Văn phẩm này chia làm hai đoạn:

1. Lời trình bày của người kiết tập, nêu ra chúng khen ngợi. Từ đây đến cõi Kim bảo cái thực hành ba nghiệp cúng dường, cúi lạy sát đất là thân nghiệp, cùng nhau khen ngợi là khẩu nghiệp, thân và khẩu cùng thông suốt là ý nghiệp.

2. Chính thức nói kệ, tất cả có sáu mươi lăm bài rưỡi,-Văn chia làm ba đoạn:

1. Hai mươi hàng là các vị Bồ-tát nói.

2. Mười bảy hàng là Tín Tướng nói.

3. Hai mươi tám bài rưỡi là Thần cây nói... Riêng tôi cho rằng văn đó có bốn đoạn: Ba đoạn trước là năng tán, một đoạn sau là sở tán; sở tán lại là năng tán, năng tán lại là sở tán, vì vậy văn nói: Đức Phật xuất định dùng âm thanh nhiệm mầu mà nói lời khen ngợi: lành thay! Lành thay! Thần cây Thiện Nữ, hôm nay ngươi vui sướng nói lời như vậy. Đâu không phải sở tán khen ngợi năng tán? Văn đó đã rõ ràng không nên nghi ngờ. Vả lại, đây là sự ấn chứng thành tựu cho ba lượt Bồ-tát khen ngợi giáo pháp. Từ phẩm tựa đến đây vui sướng nói về Đại Thể-Đại Trí-Đại Dụng trong quả địa của Như lai và sự tu nhân của Bồ-tát. Văn trên có Đức Phật đảnh lễ xá lợi, tức là quả thân đảnh lễ nhân thân; văn ở đây có Đức Phật khen ngợi về đại sám, đại tán, năng thỉnh, năng thuyết, năng thính, năng hành, đều là vui sướng mà nói. Nên biết rằng vui sướng mà nói là quả khen ngợi nhân, là Bồ-tát vậy, tức là quả của khẩu nghiệp khen ngợi nhân của khẩu nghiệp, nghĩa đó rõ ràng. Quả của ý nghiệp khen ngợi nhân của ý nghiệp, tùy đó ví dụ để thành tựu... Hỏi: Đức Phật nhập định ở đâu, mà ở đây nói xuất định? Đáp: Đầu tiên sắp nói kinh, Đức Phật an trụ trong pháp tánh sâu xa, nay nói sắp xong cho nên Ngài xuất định. Đầu đuôi kinh này đều nói trong pháp tánh, văn đó rất rõ ràng. Nếu đi vào pháp tánh ấy thì pháp tánh tự tại, bốn Đức Phật, năm Đức Phật, cùng một nơi chốn-nhiều nơi chốn, thấy giống nhau, thấy khác nhau, từ bốn chỗ đến, đi về bốn chỗ, một thường trụ, một là tùy theo cái thấy của mỗi người, đều không chướng ngại. Quán tâm: Các vị Bồ-tát dùng Ba nghiệp khen ngợi Đức Phật, ba nghiệp về sự có thể hiểu được. Ba quán tâm là quán thân không được thân, thân là không chỉ có tên gọi, mà tên gọi thì vô lượng, hoặc xả thân gọi là Đàn, cho đến thân là không gọi là Trí tuệ, Sáu độ, mười độ, tám muôn trần sa pháp môn, tên gọi đều tức không, nói không chưa chắc là không, Giả nhất định chẳng phải là Giả, chẳng phải không chẳng phải hữu tức Trung đạo. Ba quán rõ ràng, sự-lý sáu pháp thảy đều đầy đủ, nếu không có quán tuệ thì sự cũng không thể thành tựu; ví dụ như ba chiếc áo sáu vật dụng, nếu giải thích theo ý đó thì ba quán, sáu pháp đều thành tựu, nếu không hiểu rõ điều ấy thì chẳng những không có sáu pháp mà ba quán cũng không thể thành tựu. Quán tâm cũng vậy, nếu đạt được lý quán thì sáu quán cũng thành tựu, nếu không đạt được ý này thì lý quán đã không có mà sự quán cũng không thể thành tựu. Không có sáu pháp cũng không có ba quán, ý nghĩa như thế. Điều này rất hay và tất rộng lớn v.v...

 


[Đầu trang][Mục lục bộ Kinh Sớ][Mục lục tổng quát]